Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Cây Thập Tự Ven Đường

Cây Thập Tự Ven Đường
Tác giả: Jeffery Deaver
Tình trạng: Đã hoàn thành




Những cây thập tự ven đường xuất hiện dọc theo các xa lộ ở Bán đảo Montery, không phải để tưởng niệm những người đã thiệt mạng trong các vụ tai nạn giao thông, mà là để thông báo thời gian sắp diễn ra các vụ ám sát. Nạn nhân chính là những người đã đăng bài viết thiếu cẩn trọng hay để lộ quá nhiều thông tin cá nhân trên các trang mạng xã hội.

Đặc vụ Kathryn Dance cùng các đồng sự tại CBI được giao phó tiếp nhận vụ án. Là một chuyên gia về ngôn ngữ cơ thể, cô đã nhanh chóng lần ra các manh mối và phát hiện ra trung tâm của mọi nghi vấn là cậu thiếu niên Travis Brigham. Động cơ giết người của Travis là để trả thù những ai đã từng nhục mạ mình trên mạng. Nhưng sự thật đằng sau lại không hề đơn giản như vậy, khi chính Travis cũng chỉ là nạn nhân trong kế hoạch giết người của hung thủ thật sự...
 
Sửa lần cuối:

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1


KHÔNG ĐÚNG CHỖ

Viên cảnh sát đội tuần tra Xa lộ California, một anh chàng trẻ tuổi với mái tóc vàng rễ tre dựng đứng nằm dưới cái mũ cứng, đưa mắt nhìn qua kính chắn gió của chiếc xe công vụ Crown Victoria trong lúc lái xe về phía nam dọc Xa lộ 1 ở Monterey. Bên phải là những cồn cát, bên trái là khu thương mại khiêm tốn trải dài.

Có cái gì đó khác lạ. Cái gì kìa?

Viên cảnh sát đưa mắt quan sát con đường lúc quay về nhà vào tầm năm giờ chiều sau khi kết thúc cuộc tuần tra. Anh ít khi viết biên lai phạt ở đoạn đường này mà nhường lại việc ấy cho các đổng nghiệp địa phương - một phép lịch sự nghề nghiệp - nhưng thỉnh thoảng anh cũng tuýt còi ai đó đang vi vu trong một chiếc xe của Đức hay Italia, nếu tâm trạng không được tốt, và anh thường băng qua tuyến đường này để về nhà vào tầm này nên biết khá rõ nơi đây.

Kia… Nó kia rồi. Thứ gì đó khá sặc sỡ bên vệ đường, cách phía trước chừng một phần tư dặm, nằm dưới chân một trong những cồn cát nhô lên che khuất tầm nhìn ra vịnh Monterey.

Nó có thể là cái gì nhỉ?

Viên cảnh sát bật đèn nháy trên nóc xe - theo đúng quy định - và tấp vào bên phải. Anh đỗ chiếc Ford lại, để mui xe chếch sang trái hướng ra đường, như thế trong trường hợp bị tông vào từ phía sau, chiếc xe sẽ bị đẩy ra xa chứ không lao về phía anh, rồi bước khỏi xe. Một cây thập tự - vật tưởng niệm bên đường - được cắm vào cát, ở vị trí cao hơn vai anh đôi chút. Nó cao chừng nửa mét và là sản phẩm tự chế, được ghép lại từ những nhành cây gãy sẫm màu, buộc quanh bằng loại dây mà những người bán hoa vẫn dùng. Một bó hoa hồng đỏ sẫm lấm tấm vết bẩn đặt dưới chân thập tự. Ở giữa cây thập tự là một phiến tròn bằng bìa các tông, nơi ghi giữ ngày tháng diễn ra vụ tai nạn bằng nét mực xanh. Không có cái tên nào khắc ở đằng trước hay đằng sau.

Chính ra những vật tưởng niệm các nạn nhân của tai nạn giao thông không được khuyến khích, vì đôi lúc sẽ có người bị thương, thậm chí tử vong khi đang cố trồng một cây thập tự hoặc để lại hoa hay thú nhồi bông.

Những vật như thế thường rất trang nhã và gây xúc động. Nhưng cây thập tự này lại có gì đó ma quái.

Mà kể cũng lạ, người cảnh sát không thể nhớ nổi bất cứ vụ tai nạn nào. Trên thực tế, đây là một trong những đoạn an toàn nhất của tuyến Xa lộ 1 ở California. Tuyến đường này thực sự trở thành một nơi tách biệt hẳn với khu phía nam Carmel, chẳng hạn như vụ tai nạn thương tâm vài tuần trước: Hai cô gái chết thảm khi đang trở về sau bữa tiệc tốt nghiệp. Nhưng ở đây thì khác, xa lộ có ba làn xe chạy và phần lớn đều là đường thẳng, thỉnh thoảng xuất hiện một quãng đường vòng hạn chế tốc độ qua khu vực từng là căn cứ Fort Ord, giờ trở thành khuôn viên một trường học và các khu mua sắm.

Viên cảnh sát nghĩ đến việc nhổ cây thập tự đi, nhưng rất có thể những người tưởng niệm kia sẽ quay lại cắm một cây khác và mạo hiểm tính mạng của họ thêm lần nữa. Tốt nhất cứ để yên nó ở đó. Để thỏa mãn cơn hiếu kỳ, anh sẽ hỏi viên trung sĩ phụ trách lúc sáng để biết rõ nơi này đã xảy ra chuyện gì. Anh quay trở lại xe, ném mũ xuống ghế và vuôt mái tóc húi cua, rồi lái xe trở lại đường, không còn đặt tâm trí vào những vụ tai nạn nữa. Anh nghĩ về chuyện vợ mình sẽ nấu gì cho bữa tối, về chuyện sẽ đưa các con đi bể bơi sau đó.

Và khi nào em trai anh sẽ tới thị trấn nhỉ? Viên cảnh sát nhìn vào ô chỉ ngày tháng trên mặt đồng hồ đeo tay của mình. Anh cau mày. Phải vậy không? Một cái liếc nhìn qua điện thoại di động nhằm củng cố thông tin, đúng rồi, hôm nay là Hai mươi lăm tháng Sáu.

Thật kỳ lạ. Ai đó để lại cây thập tự bên đường đã nhầm lẫn. Anh nhớ rất rõ ngày tháng được viết nguệch ngoạc trên đó là ngày mai, thứ Ba, ngày Hai mươi sáu tháng Sáu.

Có thể những con người đau khổ tội nghiệp để lại vật tưởng niệm đã xúc động đến mức ghi nhầm ngày.

Hình ảnh cây thập tự kỳ quái mờ dần đi, dù không hoàn toàn biến mất, và khi người cảnh sát tiếp tục cuộc hành trình theo xa lộ quay về nhà, anh lái xe có phần thận trọng hơn đôi chút.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2


Quầng sáng mờ mờ le lói - thứ ánh sáng mang màu xanh lục nhợt nhạt ma quái - nhảy múa ngoài tầm với cô gái.

Giá như cô có thể với tới nó.

Chỉ cần cô với được tới nó, cô sẽ an toàn.

Quầng sáng mờ mờ, ẩn hiện trong bóng tối của cốp xe, đong đưa đầy cay độc ngay trên hai chân cô gái lúc này đang bị trói chặt vào nhau bằng băng dính, hai cánh tay cô cũng vậy.

Một bóng sáng...

Thêm mảnh băng dính nữa bịt kín miệng và cô đang thở bằng mũi, cẩn thận hít vào từng chút một, như thể không gian bên trong cốp chiếc Camry chỉ chứa đựng có ngần ấy không khí. Người cô xóc nảy lên đau điếng khi chiếc xe vấp phải ổ gà. Cô nấc lên một tiếng kêu tắc nghẹn.

Thỉnh thoảng lại có chút ánh sáng từ các nguồn khác thâm nhập được vào: Một quầng sáng nhờ nhờ đỏ quạch khi hắn đạp phanh, đèn xi nhan khi xe rẽ. Không còn thêm nguồn sáng từ bên ngoài vì lúc này đã khoảng gần một giờ đêm.

Một đốm sáng dập dờn lắc tới lắc lui. Đó là cần mở cốp khẩn cấp. Qua khe hở tay cầm, hình dáng một người đàn ông nhảy ra khỏi xe rọi đèn vào bóng tối.

Nhưng cần mở vẫn nằm ngoài tầm với của chân cô.

Tammy Foster đã ngừng khóc. Những tiếng nức nở bắt đầu sau khi kẻ tấn công ập tới từ sau lưng cô trong bãi để xe tối tăm của câu lạc bộ, dán băng dính bịt lên miệng cô, vặn trói hai tay ra sau lưng và ném cô vào cốp xe. Hắn cũng buộc luôn chân cô lại.

Cô gái mười bảy tuổi cứng đờ trong cơn hoảng loạn khi nghĩ rằng: Hắn không muốn bị nhìn tháy mặt. Thế là tốt. Hắn không muốn giết mình.

Hắn chỉ muốn làm mình sợ.

Tammy đưa mắt nhìn quanh cốp xe, đốm sáng đang đung đưa. Cô gái cố gắng dùng đôi bàn chân với lấy nó, song nó lại trượt đi giữa hai chiếc giày. Tammy khá khoẻ mạnh vì cô chơi bóng đá và còn tham gia đội hoạt náo viên. Nhưng vì góc độ không thuận lợi, cô chỉ có thể giữ hai chân giơ lên được trong vài giây.

Bóng sáng vẫn tuột khỏi tầm với của cô.

Chiếc xe tiếp tục phóng đi. Từng chặng đường trôi qua, cô càng cảm thấy tuyệt vọng hơn. Tammy Foster lại bắt đầu khóc.

Đừng! Đừng! Mũi mình sẽ nghẹt và mình sẽ bị ngạt thở.

Cô gái ép bản thân phải ngừng khóc.

Đáng lý Tammy phải có mặt ở nhà trước nửa đêm. Mẹ cô bé có lẽ sẽ nhớ ra con mình về muộn nếu bà không đang say mèm trên trường kỷ, than thân trách phận về mọi rắc rối nào đó với ông bạn trai mới nhất.

Hoặc có thể em gái sẽ nhớ tới cô, nếu con bé không phải đang vùi đầu vào mạng Internet hay gọi điện thoại - một trong hai việc Tammy chắc chắn nó đang làm.

Choang.

Vẫn là âm thanh như lúc trước - tiếng kim loại va đập vào nhau khi hắn ném thứ gì đó lên băng ghế sau.

Tammy nghĩ tới những bộ phim kinh dị từng xem Những bộ phim quái đản, ghê tởm. Tra tấn, giết chóc. Với đủ thứ dụng cụ.

Đừng có nghĩ về chuyện đó. Cô gái tập trung chú ý vào thứ ánh sáng màu xanh lục đang đung đưa của cái cần mở cốp.

Và nghe thấy một âm thanh mới. Biển.

Cuối cùng xe dừng lại, và hắn tắt máy.

Ánh đèn vụt tắt.

Chiếc xe đung đưa khi người đàn ông cựa quậy trên ghế dành cho tài xế. Hắn đang làm gì vậy? Lúc này cô có thể nghe thấy cả tiếng kêu ồm ồm trong cổ họng của những con hải cẩu gần đó. Họ đang ở một bãi biển, và quanh nơi đây, vào giữa đêm tối, hẳn là hoàn toàn vắng lặng.

Một cánh cửa xe mở ra rổi đóng lại. Và một cánh cửa thứ hai mở ra. Thêm tiếng kim loại va vào nhau loảng xoảng vang lên trên băng ghế sau.

Các dụng cụ... tra tấn.

Cánh cửa đóng sầm thật manh.

Và Tammy Foster phát hoảng. Cô bé chìm vào trong tiếng nức nở, vùng vẫy cố hít vào nhiều hơn thứ không khí tệ hại. "Không, làm ơn, làm ơn!", cô kêu lên, dẫu cho những lời đó qua tấm băng dính trên miệng cô chỉ còn là thứ âm thanh ư ử.

Tammy bắt đầu đọc lướt qua mọi lời cầu nguyện mà mình còn nhớ trong khi chờ nắp cốp xe bật mở.

Tiếng sóng biển rì rào. Lũ hải cẩu kêu ầm ừ.

Cô sắp chết.

“Mẹ ơi.”

Nhưng sau đó... chẳng có gì xảy ra.

Nắp cốp xe không nhấc lên, cửa xe không bật mở, cũng không thấy tiếng bước chân lại gần. Sau ba phút, cô đã kiểm soát được bản thân. Cơn hoảng loạn dịu dần.

Năm phút đã trôi qua, và hắn vẫn chưa mở nắp cốp.

Mười.

Tammy khẽ bật cười man dại.

Chỉ là một màn dọa dẫm hãi hùng. Hắn sẽ không giết hay hiếp cô. Một trò đùa tai ác.

Cô đang thực sự mỉm cười dưới lớp băng dính thì chiếc xe đung đưa, cho dù rất nhẹ. Nụ cười của cô tắt ngấm. Chiếc Camry lại rung lên lần nữa, kiểu dao động như bị xô đẩy nhẹ, dù rằng mạnh hơn lần trước. Tammy nghe thấy tiếng nước bì bõm và rùng mình. Cô gái chợt nhận ra một con sóng vừa đập vào đầu xe.

Ôi, Chúa ơi, không! Hắn đã bỏ lại chiếc xe trên bãi biển, trong khi thủy triều sắp lên!

Chiếc xe lún xuống cát khi nước dâng lên ngập quanh bốn bánh. Không! Một trong những điều cô sợ nhất là bị chết đuối. Và bị mắc kẹt tại một không gian chật chội khép kín như nơi này... thật không tưởng tượng nổi. Tammy bắt đầu đạp lên nắp cốp.

Nhưng tất nhiên, ngoài đó chẳng có ai nghe thấy, ngoài lũ hải cẩu.

Nước biển lúc này đang vỗ ì oạp vào hai bên thành chiếc xe của hãng Toyota.

Ánh sáng...

Bằng cách nào đó, cô phải giật cần mở nắp cốp xe. Cô hất tung đôi giày đang đi ra và thử lần nữa, đầu gí mạnh xuống tấm thảm, tuyệt vọng giơ hai bàn chân hướng về phía cái cần sáng mờ mờ. Cô kẹp hai bàn chân vào hai bên cần, ấn mạnh, các cơ bụng thắt lại.

Ngay bây giờ!

Hai chân cô bị chuột rút đau buốt, cô kéo cái cần xuống.

Một tiếng tách.

Phải! Nó đã mở!

Nhưng rồi Tammy rên lên kinh hoàng. Cần gạt đã hạ xuống theo bàn chân, nhưng cốp xe vẫn không mở. Cô trợn mắt nhìn bóng đèn màu xanh lục nằm ngay cạnh mình. Hẳn là hắn đã cắt dây! Sau khi ném cô gái vào cốp, hắn đã cắt nó. Cần mở chỉ còn nằm đung đưa ở đó, không còn nối với dây cáp nâng nắp cốp xe.

Cô đã mắc kẹt.

Ai đó, làm ơn đi, Tammy lại cầu nguyện... tới Chúa, tới một người tình cờ đi ngang qua, thậm chí cả tới kẻ bắt cóc cô, có thể hắn sẽ ban cho cô chút lòng thương hại.

Nhưng câu trả lời duy nhất là tiếng òng ọc dửng dưng của nước biển bắt đầu tràn vào trong cốp.

~*~

Khách sạn Peninsula Garden nằm lẩn khuất trong khu dân cư gần Xa lộ 68 - tuyến đường dài hai mươi dặm nổi trội với hầu hết những đặc trưng vốn tồn tại ở nơi này - Chốn muôn hình muôn vẻ của hạt Monterey.

Con đường quanh co uốn lượn về phía tây bắt đầu từ Salinas - nơi được mệnh danh là “Vườn rau quả của cả nước”. Lướt ngang qua Đồng cỏ nhà trời[1] xanh bạt ngàn là đường đua Laguna Seca[2] đầy náo nhiệt, hay những khu văn phòng phức hợp, rồi đến Monterey bụi bặm và Pacific Grove[3] với những rặng thông trải dài vô tận. Cuối cùng, để kết thúc chuyến hành trình, tuyến đường sẽ đưa các tay lái, hay chí ít những người đã chịu khó băng qua toàn bộ khung cảnh kể trên từ đầu đến cuối, tới khu Seventeen Mile Drive[4] trứ danh - nơi cư ngụ của một loại người hay gặp quanh nơi này: Những kẻ lắm tiền.

[1. Pastures of Heaven: cách gọi khác của cùng thung lũng Monterey theo nhan đề truyện ngắn cùng tên của John Steinbeck.

2. Trường đua ô tô và mô tô ở California, nằm gần cả Salinas và Monterey.

3. Một thành phố ven biển thuộc hạt Monterey, California.

4. Đoạn đường có phong cảnh rất đẹp chạy qua Pacific Grove và bãi biển Pebble ở bán đảo Monterey, California.]

“Không tồi,” Michael O’Neil nói với Kathryn Dance trong khi cả hai cùng chui ra khỏi chiếc xe của anh.

Dance quan sát khu nhà chính trang trí theo phong cách Tây Ban Nha và sáu tòa nhà nằm gần kề qua cặp kính hẹp gọng xám. Khu nhà nghỉ trông khá tiện nghi, cho dù ở vài ngóc ngách đã hơi cũ và bụi bặm. “Đẹp quá. Tôi thích nó.”

Trong lúc cả hai người đứng quan sát khu khách sạn, phía xa là bờ biển Thái Bình Dương lờ mờ trong sương sớm, Dance - một chuyên gia về phân tích cử chỉ và ngôn ngữ cơ thể - đang cố gắng dò xét O’Neil. Một chánh thanh tra của Ban Điều tra Sở Cảnh sát hạt Monterey, là người thật khó đánh giá. Người đàn ông có thân hình vạm vỡ ngoài bốn mươi tuổi với mái tóc muối tiêu này tương đối dễ tính, nhưng khá kiệm lời trừ khi anh biết rõ đối phương. Thậm chí cả khi đó anh cũng rất dè xẻn trong cử chỉ và thái độ của mình. Người đàn ông này không bộc lộ nhiều qua điệu bộ, cử chỉ.

Tuy vậy, vào thời điểm hiện tại cô có thể nhận thấy rằng anh chẳng chút mảy may bồn chồn, bất chấp tính chất chuyến đi của họ tới đây.

Cô thì... hoàn toàn trái ngược.

Kathryn Dance - một phụ nữ gọn gàng ở độ tuổi ngoài ba mươi - hôm nay để mái tóc màu vàng sẫm của mình theo cách cô vẫn thường làm - bện thành bím theo kiểu Pháp - phần cuối đuôi tóc là một dải ruy băng màu xanh nhạt do chính con gái cô đã chọn sáng hôm đó và buộc cẩn thận thành một cái nơ. Dance mặc một chiếc váy dài xếp ly màu đen và khoác áo vest đồng màu bên ngoài chiếc sơ mi trắng. Đôi bốt đen cổ thấp cao năm phân - món hàng khiến người phụ nữ này mê mẩn từ nhiều tháng trời nhưng cô đã cố kiềm chế chờ đến khi chúng được bán hạ giá.

O’Neil đang mặc trên người một trong số ba hay bốn bộ trang phục thường ngày của mình: quần vải bông ống hẹp và áo sơ mi xanh, không cà vạt. Áo khoác ngoài của anh có màu xanh sẫm kẻ ca rô mờ.

Người gác cửa, một anh chàng người La Tinh vui vẻ, nhìn hai người từ đầu đến chân với nét mặt như muốn nói: Có vẻ rất đẹp đôi đây. “Hân hạnh chào đón ông bà. Hy vọng ông bà vui vẻ trong thời gian lưu lại đây”, anh ta mở cửa cho họ.

Dance gượng cười nhìn O’Neil, rồi cả hai băng qua tiền sảnh hây hẩy gió để tiến đến quầy lễ tân.

~*~

Từ khu nhà chính, họ đi xuyên qua khuôn viên khách sạn, tìm kiếm phòng đã được hẹn trước.

“Tôi chẳng bao giờ nghĩ chuyện này sẽ diễn ra”, O’Neil nói với Dance.

Nữ đặc vụ khẽ cười. Cô thích thú khi nhận ra đôi mắt mình thỉnh thoảng lại bất giác hướng về phía các cửa ra vào và cửa sổ. Đây là một dạng phản ứng mang tính phi ngôn ngữ, điều đó chứng tỏ chủ thể đang vô thức tìm kiếm lối thoát - một biểu hiện thường thấy ở những người đang trong trạng thái căng thẳng.

“Nhìn kìa”, cô nói, chỉ tay về phía bể bơi. Nơi này dường như phải có đến bốn cái.

“Giống như Disneyland[5] cho người lớn vậy. Nghe nói có rất nhiều nghệ sĩ nhạc rock từng ở đây.”

[5. Disneyland: là một phần của phức hợp khổng lồ của Disneyworld - tập đoàn số 1 thế giới về các dịch vụ đa năng được sáng lập bởi Water Elias Disney (1901-1966).]

“Thật sao?”, cô cau mày.

“Có gì không ổn à?”

“Chỉ là tôi đang nghĩ bị ném đá và quẳng tivi cùng đồ đạc qua cửa sổ thực sự chẳng vui vẻ gì.”

“Nơi này là Carmel, thưa quý cô”, O’Neil nhắc nhở. “Trò điên rồ nhất người ta từng bắt gặp ở đây là ném đồ có thể tái chế vào thùng rác.”

Dance nghĩ tới đường lui song vẫn giữ im lặng. Những lời đùa cợt chỉ càng làm cô thêm bồn chồn.

Cô dừng lại bên một cây cọ có lá trông như những món vũ khí sắc lẹm. “Chúng ta đang ở đâu đây?”

Người chánh thanh tra nhìn vào một mảnh giấy, định hướng cho bản thân rồi chỉ vào một trong các ngôi nhà nằm phía sau. “Kia.”

Họ dừng lại ngoài cửa. O’Neil thở ra và nhướng một bên mày. “Tôi đoán là nó đây.”

Dance bật cười. “Tôi có cảm giác như mình là một cô gái vị thành niên vậy.”

O’Neil gõ cửa.

Sau một khoảnh khắc im ắng, cánh cửa mở ra, để lộ một người đàn ông gầy gò, có lẽ đã gần năm mươi tuổi, mặc quần đen, áo sơ mi trắng và đeo một cái cà vạt kẻ sọc. “Michael, Kathryn. Thật đúng giờ. Mời vào.”

Ernest Seybold, công tố viên lâu năm của hạt Los Angeles, gật đầu mời họ vào phòng. Bên trong, một nhân viên lưu trữ của tòa án đang ngồi bên cạnh chiếc máy ghi âm được lắp trên một cái giá ba chân. Một phụ nữ trẻ khác đứng dậy chào hai người mới đến. Cô ta được Seybold giới thiệu là trợ lý của ông tới từ L.A[6].

[6. Viết tắt của Los Angeles.]

Đầu tháng này, Dance và O’Neil đã thực hiện một vụ điều tra ở Monterey: Daniel Pell - kẻ lãnh đạo giáo phái và cũng là một tên sát nhân đang bị kết án - đã vượt ngục và ẩn náu tại vùng bán đảo, lăm le xử thêm vài nạn nhân. Không may rằng một trong số những đối tượng hóa ra lại là người hoàn toàn khác với dự đoán của Dance cùng các đồng nghiệp của cô. Hậu quả của sai lầm đáng tiếc trên đã dẫn đến một vụ án mạng nữa.

Dance kiên quyết muốn truy bắt hung thủ. Nhưng có rất nhiều áp lực nảy sinh từ một số tổ chức rất có máu mặt khiến cuộc điều tra phải khép lại. Đương nhiên, Dance không muốn chấp nhận bỏ cuộc, và trong khi công tố viên Monterey từ chối thụ lý vụ án, cô cùng O’Neil được biết thủ phạm lại gây thêm một vụ giết người nữa tại Los Angeles. Công tố viên Seybold, người vẫn thường xuyên làm việc cùng cơ quan của Dance - Cục Điều tra California, đồng thời cũng là bạn của cô, đồng ý tiến hành chuyển hồ sơ khởi tố đến L.A.

Tuy vậy, vẫn có một số nhân chứng lại sống ở khu vực Monterey, bao gồm cả Dance và O’Neil, do đó ngày hôm nay Seybold đã tới đây để thu thập lời khai. Tính chất bí mật của cuộc gặp gỡ này là hệ quả từ tiếng tăm và các mối quan hệ của thủ phạm. Thực tế, thời gian này họ thậm chí không gọi ra tên thật của kẻ sát nhân. Trong nội bộ, nó được ước định bằng cụm từ “Dân chúng chống lại J.Doe”.

Khi họ ngồi xuống, Seybold nói, “Cô cần phải biết rằng, rất có thể chúng ta sẽ gặp rắc rối.”

Cảm giác bất an của Dance từ khi mới bước vào - rằng sẽ có gì đó trục trặc và mọi thứ không như mong đợi đã quay trở lại.

Người công tố viên nói tiếp, “Bên bào chữa đang vận động miễn truy tố dựa trên luật miễn truy tố trách nhiệm hình sự. Thành thực mà nói, tôi không thể cam đoan với cô có bao nhiêu khả năng thành công. Phiên tòa xét xử đã được lên lịch và sẽ diễn ra vào ngày kia.”

Dance nhắm mắt lại. “Ôi không.”

Bên cạnh cô, O’Neil thở hắt ra đầy phẫn nộ.

Tất cả công sức bỏ ra...

Nếu hắn thoát khỏi tay công lý, Dance thầm nghĩ... nhưng rồi chợt nhận ra mình chẳng biết gì hơn ngoài việc: Nếu hắn thoát khỏi tay công lý thì coi như mình thất bại.

Cô cảm thấy quai hàm mình đang run lên.

Seybold tiếp lời, “Tôi đang có một đội chuyên thu thập chứng cứ. Họ rất khá. Là nhóm ưu tú nhất tại văn phòng công tố.”

“Bằng bất cứ giá nào, Ernie,” Dance nói, “Tôi muốn tóm hắn. Tôi muốn hắn phải bị trừng phạt thích đáng.”

“Rất nhiều người muốn thế, Kathryn. Chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể.”

Nếu hắn thoát được...

“Hãy bắt tay vào việc ngay nếu chúng ta muốn thắng,” ông nói một cách tự tin, và phần nào làm Dance thấy an tâm. Họ bắt đầu làm việc, Seybold đưa ra vô số câu hỏi liên quan tới tội ác mà Dance và O’Neil đã chứng kiến, những bằng chứng trong vụ án.

Seybold là một công tố viên dày dạn kinh nghiệm và ông biết mình đang làm gì. Sau một giờ trao đổi với cả hai, người đàn ông gầy gò nhưng rắn rỏi ngồi xuống trở lại và tuyên bố hiện thời như thế là tạm đủ. Ông đang chờ đợi một nhân chứng nữa - một cảnh sát tiểu bang người địa phương - anh ta cũng đã đồng ý ra làm chứng.

Dance và O’Neil cảm ơn Seybold khi ông đồng ý sẽ gọi điện cho họ ngay khi thẩm phán yêu cầu bên bị giải trình trong phiên điều trần miễn truy cứu trách nhiệm hình sự.

Khi cả hai quay ra tiền sảnh, O’Neil bước chậm lại, nét mặt tỏ vẻ nghĩ ngợi.

“Gì vậy?” Dance hỏi.

“Chúng ta chơi trò bùng học đi.”

“Ý anh là sao?”

Người đàn ông hất hàm về phía nhà hàng sân vườn tuyệt đẹp, nhìn ra một vách đá với mặt biển trải rộng ngay bên dưới.

“Vẫn còn sớm. Lần cuối cùng ai đó mặc đồng phục trắng muốt mang món trứng Benedict[7] đến cho cô là khi nào vậy?”

[7. Có nguồn gốc từ nước Mỹ, vào những năm 1890. Thành phần gồm bánh mì với thịt xông khói, trứng trần nước sôi và sốt Hollandaise (sốt làm từ lòng đỏ trứng và bơ). Đây là một món ăn quen thuộc trên thế giới.]

Dance nghĩ ngợi. “Giờ là mấy giờ rồi?”

Anh mỉm cười. “Đi nào. Chúng ta sẽ không bị muộn đâu.”

Cô đưa mắt nhìn đồng hồ. “Tôi không biết nữa.”

Kathryn Dance chưa bao giờ nghỉ không phép khi còn đi học, huống chi là lúc này, khi cô đang nắm giữ cương vị đặc vụ cao cấp của Cục Điều tra California.

Nhưng rồi cô tự hỏi: Sao mình lại do dự chứ? Mình thích ở bên Michael, hầu như mình vẫn luôn tìm đến anh ấy những lúc gặp khó khăn.

“Yên tâm đi”, cảm giác hứng khởi lại ùa về trong cô, nhưng lần này là một sự dễ chịu nhè nhàng.

Họ ngồi cạnh nhau tại một băng ghế bên rìa khu nhà hàng, nhìn xuống các ngọn đồi. Bình minh đã lên cao, đó là một buổi sáng tháng Sáu trong trẻo, nóng bức.

Người nhân viên phục vụ trong bộ đồng phục chỉn chu, cùng một chiếc sơ mi trắng cổ cồn[8] mang thực đơn đến và rót cà phê cho họ. Ánh mắt Dance rơi ngay xuống trang bìa, nơi nhà hàng đang trưng bày hình ảnh về loại đồ uống Mimosas[9] nổi tiếng. Ôi không, cô nghĩ, và liếc lên nhìn O’Neil và bắt gặp anh cũng đang nhìn vào đó.

[8. Cổ áo sơmi cứng, phẳng do được dựng bằng một lớp vải dính.

9. Một loại thức uống hỗn hợp có chứa rượu sâm banh và nước cam.]

Họ bật cười.

“Khi nào chúng ta xong việc tại L.A. trước bồi thẩm đoàn hay ra trước toà,” anh nói, “... sâm banh nhé.”

“Nhất trí.”

Đúng lúc ấy điện thoại của O’Neil đổ chuông. Anh lướt nhìn qua danh tính người gọi. Dance lập tức nhận ra ngay những thay đổi trong cử chỉ của anh - vai hơi nhô cao, hai cánh tay co sát hơn vào người, ánh mắt nhìn vào màn hình đầy tập trung.

Cô biết người gọi là ai, thậm chí trước cả khi anh vui vẻ trả lời máy, “Chào, em yêu”.

Từ cuộc trò chuyện qua điện thoại, Dance phỏng đoán vợ anh, Anne, một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp, vừa có một chuyến công tác phát sinh ngoài dự kiến, và cô đang hỏi chồng về lịch làm việc của anh.

Cuối cùng, O’Neil ngắt liên lạc, lặng im chờ cho bầu không khí tĩnh lặng lại trong giây lát và bắt đầu xem thực đơn.

“Được rồi,” anh lên tiếng, “trứng Benedict.”

Khi Dance ngước tìm người phục vụ định gọi món tương tự thì đến lượt chính điện thoại của cô rung lên. Cô đưa mắt đọc tin nhắn, cau mày, sau đó đọc lại lần nữa, ý thức được cử chỉ bên ngoài của cơ thể mình đang thay đổi nhanh chóng. Tim đập nhanh hơn, vai nhô cao, chân gõ liên tục trên mặt đất.

Dance thở dài, động thái vẫy tay gọi món nhanh chóng chuyển sang dấu hiệu ngỏ ý muốn thanh toán tiền.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3


Trụ sở khu vực trung tâm phía tây của Cục Điều tra California tọa lạc trong một tòa nhà hiện đại không hề có bất kỳ một biển hiệu nào, hoàn toàn tương tự như những trụ sở của các công ty bảo hiểm và tư vấn phần mềm nằm kế bên, tất cả cùng nằm gọn gàng sau các ngọn đồi và được tô điểm chỉn chu bởi những loại thực vật phong phú vùng Duyên hải miền Trung California.

Cơ sở này nằm gần Peninsula Garden nên Dance cùng O’Neil mất chưa đầy mười phút để đi từ khách sạn tới đó, nếu không tính đến thời gian dừng lại ở các chốt giao thông hay tín hiệu đèn đỏ.

Dance xuống xe, đeo túi xách và chiếc túi đựng máy tính to kềnh càng lên vai, chiếc túi mà con gái cô thường gọi là “Phụ lục xách tay của mẹ”, sau khi cô bé biết được phụ lục là gì, rồi cô cùng O’Neil bước vào tòa nhà.

Vào bên trong, họ lập tức đến ngay nơi mà Dance luôn biết đội của mình sẽ tập hợp đông đủ: Văn phòng làm việc của cô, một phần trong trụ sở của CBI[1] được biết đến với mỹ từ “Cánh nhà của các quý cô”, hay GW[2]. Trên thực tế, các nhân vật làm việc ở khu này gồm có Dance, đồng cộng sự Connie Ramirez, trợ lý Maryellene Kresbach, và Grace Yuan, chánh văn phòng CBI, người duy trì tòa nhà hoạt động đều đặn chính xác như một cỗ máy tính giờ. Nguồn gốc danh xưng ấy xuất phát từ một lời nhận xét chẳng mấy hay ho do một nhân viên, mà giờ đã là cựu nhân viên, một anh chàng cũng chẳng hay ho gì cho lắm, gán cho nó trong khi anh ta cố gây ấn tượng về trí thông minh của mình với cô bạn gái trong lúc hướng dẫn cô nàng làm một tua tham quan quanh trụ sở.

[1. Viết tắt của California Bureau of Investigation: Cục Điều tra California.

2. Viết tắt của Gals’ Wing.]

Tất cả mọi người tại GW vẫn còn đang tranh luận với nhau liệu anh ta, hay một trong những cô nàng anh ta từng hẹn hò, đã bao giờ tìm thấy sản phẩm vệ sinh của phụ nữ mà Dance và Ramirez đã tống vào phòng làm việc, túi xách hoặc xe hơi của anh ta hay chưa.

Lúc này, Dance và O’Neil lên tiếng chào Maryellen. Người phụ nữ vui vẻ và không thể thiếu được này có thể dễ dàng quán xuyến cả một gia đình lẫn công việc trợ lý mà chẳng phải nhấp nháy đến một bên mi mắt kẻ mascara rất sẫm của mình. Bà cũng là một chuyên gia làm bánh tuyệt vời nhất Dance từng biết. “Xin chào, Maryellen. Mọi việc tới đâu rồi?”

“Chào, Kathryn. Tự chọn một cái đi nào.”

Dance đưa mắt nhìn, cố không bị khuất phục trước những chiếc bánh sô-cô-la giòn tan đựng trong chiếc lọ trên bàn làm việc của nữ trợ lý. Chúng quả xứng đáng với một tội lỗi trong Kinh Thánh. O’Neil, trái lại, chẳng hề cố gắng kháng cự. “Quả là bữa sáng ngon nhất tôi từng thưởng thức từ nhiều tuần nay.”

Trứng Benedict…

Maryellen bật cười thích thú. “Được rồi, tôi mới gọi cho Charles lần nữa và để lại thêm một tin nhắn khác. Thật đấy,” bà thở dài. “Ông ta không hề nghe máy. TJ và Rey đang ở trong kia. À, chánh thanh tra O’Neil, một người của anh từ bên MCSO[3] đang ở đây đấy.”

[3. Monterey County’s Sheriff Office: Sở Cảnh sát hạt Monterey.]

“Cảm ơn. Bà thật đáng mến.”

Trong phòng làm việc của Dance, anh chàng TJ Scanlon - tóc đỏ trẻ tuổi và rắn rỏi đang ngồi ngất ngưởng trên ghế - liền đứng dậy. “Chào sếp. Cuộc thử giọng thế nào?”

Anh chàng muốn ám chỉ đến buổi lấy lời khai.

“Tôi là ngôi sao,” Dance bắt đầu thông báo tin xấu về phiên điều trần miễn truy tố trách nhiệm hình sự sẽ diễn ra.

Chàng đặc vụ nổi cáu. Cả anh ta cũng biết rõ thủ phạm, và kiên quyết không kém Dance trong việc cáo buộc tội danh của hắn.

TJ làm việc rất cừ trên cương vị của mình, dù anh chàng là đặc vụ có phong cách khác người nhất trong một cơ quan thực thi pháp luật vốn nổi tiếng là chuẩn tắc trong phương thức tiếp cận và tác phong. Hôm nay, anh ta mặc quần jean, áo sơ mi hiệu polo và áo khoác thể thao kẻ sọc theo phong cách madras[4] - kiểu kẻ sọc chỉ có thể tìm thấy trên một vài chiếc sơ mi bạc màu trong kho chứa đồ của bố anh ta. TJ sở hữu một chiếc cà vạt, theo những gì Dance thường nhận xét, là một chiếc Jerry Garcia có mẫu mã kỳ cục đến khó ưa. TJ mắc chứng hoài cổ cấp tính với những thứ đồ thuộc thập niên 1960. Trong phòng làm việc của anh ta có hai cây đèn trang trí kiểu “Dung nham phun trào[5]”, không ngừng đua nhau thổi bong bóng lên.

[4. Vải kẻ ca rô to nhiều màu sắc.

5. Lava lamp: Loại đèn trang trí do Edward Craven-Walker sáng chế lần đầu năm 1963, gồm một đèn halogen làm nguồn phát sáng và phát nhiệt và một bình thủy tinh trong suốt hàn kín có đựng hỗn hợp nước và một dung môi hữu cơ không tan trong nước. Khi đèn halogen làm nóng, phần dung môi đang nặng hơn nước trở nên nhẹ hơn và nổi lên thành từng mảng, trông giống như dung nham núi lửa.]

Dance và anh ta chỉ cách nhau vài tuổi, nhưng giữa họ là khoảng cách của cả một thế hệ. Tuy thế, cả hai phối hợp khá ăn ý về mặt chuyên môn, pha lẫn một chút âm hưởng của thầy và trò. Cho dù TJ có thiên hướng hoạt động độc lập, một phương pháp làm việc trái ngược với nguyên tắc tại CBI, anh ta vẫn được tạm thời bổ sung để thế chân viên trợ thủ thường trực của Dance - người hiện vẫn đang mắc kẹt ở Mexico trong một vụ dẫn độ khá phức tạp.

Anh chàng Rey Carraneo kiệm lời, một lính mới tại CBI, lại là hình ảnh đối lập hoàn hảo nhất với TJ Scanlon mà người ta có thể hình dung ra. Anh ta gần ba mươi tuổi, khuôn mặt rám nắng dù có phần đầy đặn. Hôm nay anh ta mặc một bộ vest xám và áo sơ mi trắng trên thân hình dong dỏng. Anh ta có suy nghĩ từng trải hơn so với tuổi, có lẽ vì đã từng là một cảnh sát nhiều kinh nghiệm tại thành phố Reno đầy những tên cao bồi ở Nevada, trước khi cùng vợ chuyển tới đây để tiện chăm sóc người mẹ đau yếu. Carraneo cầm cốc cà phê bằng bàn tay có mang một vết sẹo ở kẽ giữa ngón cái và ngón trỏ mà mới chỉ vài năm trước, chỗ đó từng xăm một biểu tượng của băng nhóm. Dance cho rằng anh ta là người bình tĩnh và tập trung nhất trong số các đặc vụ trẻ của Cục, đôi lúc cô cũng tự hỏi, tất nhiên là chỉ với bản thân, phải chăng những tháng ngày anh ta tham gia vào băng nhóm đã phần nào tạo nên tính cách đó hay không.

Người nhân viên điều tra của Sở Cảnh sát hạt Monterey, với mái tóc húi cua điển hình và phong cách nhà binh, tự giới thiệu về mình và giải thích những gì xảy ra. Một cô gái vị thành niên người địa phương đã bị bắt cóc tại bãi đỗ xe ở trung tâm Monterey, mạn trên vùng Alvarado, lúc sáng sớm hôm đó. Tammy Foster bị trói và ném vào cốp xe của chính mình. Kẻ tấn công đã lái xe đưa cô tới bãi biển bên ngoài thành phố và bỏ mặc cô chết đuối khi thủy triều lên.

Dance rùng mình ớn lạnh khi nghĩ tới cảm giác mà nạn nhân đã phải trải qua khi nằm co quắp, lạnh cóng trong lúc nước tràn vào khoảng không gian chật hẹp.

“Đó là xe của cô gái đó sao?” O’Neil hỏi khi ngồi xuống một trong những chiếc ghế của Dance và ngả người đu đưa trên hai chân sau, đó chính xác là những gì cô thường răn đe con trai mình không được làm. Và cô chắc mẩm Wes đã học được thói này từ anh. Chân ghế kêu cót két dưới sức nặng của anh.

“Đúng vậy, thưa ngài.”

“Bãi biển nào vậy?”

“Xuôi theo bờ biển, ở phía nam Highlands.”

“Vắng vẻ?”

“Vâng, xung quanh chẳng có ma nào. Không ai nhìn thấy cả.”

“Có nhân chứng tại hộp đêm nơi cô ấy bị bắt cóc không?” Dance hỏi.

“Không. Và bãi để xe cũng không có camera an ninh.”

Dance và O’Neil ghi lại các thông tin này. Nữ đặc vụ nói, “Vậy là thủ phạm cần chuẩn bị trước một chiếc xe khác gần chỗ hắn bỏ cô gái lại. Hoặc có thể có một đồng phạm đang chờ sẵn.”

“Đội khám nghiệm hiện trường tìm thấy một số dấu chân trên cát, hướng về phía xa lộ. Ở cao hơn mực thủy triều. Nhưng cát quá rời rạc nên không thể xác định được loại hay cỡ giày. Tuy nhiên chắc chắn chỉ có một người.”

O’Neil hỏi, “Không có dấu vết nào cho thấy một chiếc xe rẽ khỏi đường để đón hắn lên sao? Hay một chiếc xe giấu trong các bụi cây gần đó chẳng hạn?”

“Không, thưa ngài. Chúng tôi đúng là có tìm thấy vài vệt bánh xe đạp, nhưng đều chỉ ở bên rìa đường. Có thể được tạo ra tối hôm đó, mà cũng có thể từ tuần trước. Không vệt lốp nào trùng khớp. Chúng tôi không có cơ sở dữ liệu về xe đạp,” anh này nói thêm.

Có hàng trăm người đạp xe trên bãi biển qua lại khu vực đó mỗi ngày.

“Động cơ gây án?”

“Không cướp tài sản, không xâm hại tình dục. Có vẻ như thủ phạm chỉ muốn giết cô bé. Một cách từ từ.”

Dance thở hắt ra.

“Có đối tượng tình nghi nào không?”

“Không.”

Dance quay sang nhìn TJ. “Và cậu đã nói thế nào với tôi lúc trước nhỉ, khi tôi gọi điện ấy? Phần kỳ quái. Còn gì thêm về phần đó không?”

“Ồ,” anh chàng đặc vụ trẻ bồn chồn, “hẳn ý sếp muốn nhắc tới vụ Cây thập tự ven đường.”

Cục Điều tra California có phạm vi hành pháp rất rộng, nhưng thường chỉ tham gia vào điều tra các loại tội phạm nghiêm trọng điển hình như hoạt động của các băng đảng, các mối đe dọa khủng bố hay những vụ án tham nhũng và kinh tế lớn. Một án mạng riêng lẻ đột nhiên xuất hiện tại khu vực mà các vụ giết người do thanh toán băng đảng xảy ra như cơm bữa, ít nhất mỗi tuần một lần đáng ra không gây sự chú ý đặc biệt.

Song vụ tấn công Tammy Foster lại khác.

Trước hôm cô bị bắt cóc, một nhân viên tuần cảnh trên xa lộ đã tìm thấy một cây thập tự, giống như một vật tưởng niệm bên đường, ghi ngày tháng của ngày hôm sau trên đó, cắm trên cát ven đường Xa lộ 1.

Khi người cảnh sát biết được vụ cô gái bị tấn công, xảy ra cách tuyến đường này không xa, anh ta liền tự hỏi liệu cây thập tự có phải là thông điệp của thủ phạm hay không. Anh ta quay lại lấy cây thập tự về. Đội khám nghiệm hiện trường Sở Cảnh sát Monterey tìm thấy một cánh hoa hồng nhỏ xíu trong cốp xe nơi Tammy bị bỏ mặc lại cho chết dần - cánh hoa hoàn toàn tương ứng với những bông hoa trong bó hoa được bỏ lại chỗ cây thập tự.

Nhìn bề nổi vụ tấn công có vẻ ngẫu nhiên và không có động cơ rõ ràng nào, vậy nên Dance buộc phải cân nhắc tới khả năng thủ phạm đang hướng đến những nạn nhân khác nữa.

Lúc này O’Neil hỏi, “Có bằng chứng gì trên cây thập tự không?”

Viên sĩ quan cấp dưới của anh nhăn mặt. “Thật ra, thưa chánh thanh tra O’Neil, người nhân viên tuần cảnh chỉ nhổ cây thập tự lên rồi ném vào cốp xe của anh ta cùng với bó hoa nữa.”

“Vậy là đã bị tạp nhiễm?”

“Tôi e là vậy. Thanh tra Bennington nói ông ấy đã cố gắng hết sức để kiểm tra chúng.”

Peter Bennington là người phụ trách cần mẫn có năng lực của phòng Thí nghiệm Hiện trường hạt Monterey.

“Nhưng không tìm thấy gì. Theo như kết quả sơ bộ thì không. Không có vân tay, ngoại trừ của người cảnh sát. Không có vết gì khác ngoài cát và bụi đất. Cây thập tự được làm từ ba cành cây và dây buộc hoa. Phiến tròn hình đĩa với ngày tháng viết trên đó có vẻ được cắt ra từ bìa các tông. Ông ấy cho biết loại bút được dùng là loại thông dụng. Và được viết theo kiểu chữ in hoa. Chỉ hữu ích nếu chúng ta tìm được mẫu chữ từ một kẻ tình nghi. Và còn có một bức ảnh trên cây thập tự. Trông rất quái gở. Giống kiểu trong phim Dự án Phù thủy Blair vậy, ngài biết đấy.”

“Một bộ phim hay,” TJ nói, và Dance không rõ có phải anh ta đang bỡn cợt hay không.

Họ cùng nhìn vào bức ảnh. Nó thực sự quái gở. Các cành cây trông như những khúc xương đen thui bị vặn xoắn lại.

Bên khoa học hình sự không thể cho họ biết gì sao? Dance có một người bạn từng làm việc cùng cách đây không lâu, Lincoln Rhyme, một chuyên gia tư vấn về tội phạm học ở thành phố New York. Bất chấp việc bị liệt cả tứ chi, anh là một trong những chuyên gia phân tích hiện trường vụ án xuất sắc nhất trong nước. Cô tự hỏi, nếu để Rhyme xem xét hiện trường thì liệu anh có thể tìm ra điều gì đó hữu ích không? Cô đồ rằng anh sẽ tìm được. Nhưng có lẽ quy luật phổ biến nhất trong công việc của một cảnh sát là: Hãy hành động bằng những gì bạn có.

Cô để ý thấy một thứ trong bức ảnh “Những bông hồng”.

O’Neil hiểu ngay ý cô. “Các cuống hoa được cắt dài bằng nhau.”

“Đúng thế. Như vậy nhiều khả năng chúng có nguồn gốc từ một cửa hàng hoa, chứ không phải bị cắt đi từ vườn nhà ai đó.”

TJ nói, “Nhưng thưa sếp, sếp có thể mua được những bông hồng từ cả nghìn chỗ tại Peninsula.”

“Tôi đâu có hô lên rằng điều này sẽ giúp ta lần được tới tận cửa nhà hắn,” Dance nói. “Tôi muốn nói đây là một chi tiết chúng ta có thể sử dụng. Và đừng có vội lao ngay tới kết luận. Có thể những bông hoa ấy đã bị ăn cắp,” cô cảm thấy cáu bẳn, hy vọng sự thể không diễn biến theo hướng ấy.

“Tôi hiểu, thưa sếp.”

“Chính xác thì cây thập tự nằm ở chỗ nào?”

“Xa lộ 1. Ngay phía nam Marina,” anh ta chỉ vào một chỗ trên bản đồ treo tường của Dance.

“Có nhân chứng nào biết thời điểm cây thập tự được cắm ở đó không?” Dance quay sang hỏi người nhân viên điều tra.

“Không, theo bên Tuần cảnh Xa lộ California thì không. Và cũng chẳng có camera theo dõi nào trên đoạn đó. Chúng tôi vẫn đang tìm kiếm.”

“Có kho hàng nào không?” O’Neil hỏi, đúng lúc Dance định hỏi đúng câu tương tự.

“Kho hàng?”

O’Neil quan sát bản đồ. “Ở bên phía đông tuyến xa lộ. Trong các khu mua bán cho người đi đường. Một trong số chúng hẳn phải được trang bị camera an ninh. Có thể có một cái hướng về địa điểm chúng ta quan tâm. Ít nhất chúng ta cũng biết được đặc điểm và kiểu xe nếu thủ phạm đi xe.”

“TJ,” Dance nói, “hãy kiểm tra việc đó.”

“Vâng, thưa sếp. Có một Java House[6] khá tốt ở đó. Một trong những nơi ưa thích của tôi.”

[6. Tên của một chuỗi nhà hàng.]

“Tôi rất mừng khi biết điều này.”

Một bóng đen xuất hiện trên ngưỡng cửa phòng Dance. “À, tôi không hề biết mọi người đang tụ tập ở đây.”

Charles Overby, đặc vụ mới được bổ nhiệm phụ trách chi nhánh Trung Tây của CBI, bước vào phòng làm việc của cô. Ông ta ở giữa tuổi ngũ tuần, làn da rám nắng. Người đàn ông có thân hình quả lê này vẫn tràn đầy tinh thần thể thao cho việc tới sân golf hay sân tennis vài lần mỗi tuần nhưng không đủ hoạt bát để đánh một loạt bóng dài mà không phải thở lấy hơi.

“Tôi đã ở trong phòng làm việc của tôi… à, cũng được một lúc rồi.”

Dance tảng lờ khi TJ kín đáo liếc xem đồng hồ đeo tay của anh ta. Nữ đặc vụ nghi ngờ việc Overby đã bước vào từ vài phút trước.

“Charles,” cô nói. “Xin chào ông. Có lẽ tôi đã quên báo cáo chúng tôi sẽ họp ở đâu. Xin lỗi.”

“Xin chào, Michael,” thêm một cái gật đầu chào về phía TJ – người mà Overby đôi khi vẫn đưa mắt nhìn chằm chằm đầy tò mò – như thể ông ta chưa bao giờ gặp qua chàng đặc vụ cấp thấp này, dẫu có thể đó chỉ đơn thuần là để bày tỏ vẻ không hài lòng với gu thời trang của TJ.

Thực ra, Dance đã thông báo cho Overby về cuộc họp. Trên đường lái xe từ khách sạn Peninsula Garden về, cô đã để lại lời nhắn vào hộp thư thoại của ông ta, cho hay những tin tức đáng lo ngại về phiên tòa điều trần đề nghị miễn truy tố ở L.A. cũng như thông báo về kế hoạch họp mặt của họ ở đây, trong phòng làm việc này. Maryellen cũng đã báo cho ông ta biết chuyện đấy. Nhưng người phụ trách của CBI đã không trả lời. Dance cũng chẳng bận tâm gọi lại, vì Overby thường không mấy khi bận tâm đến khía cạnh vạch rõ sách lược từng bước tiến hành trong các cuộc điều tra. Cô hẳn sẽ không hề ngạc nhiên nếu ông ta từ chối cùng tham gia vào cuộc gặp này. Ông ta muốn biết Bức tranh tổng quan - cách diễn đạt gần đây mới trở thành thời thượng. TJ từng có lần gọi ông ta là Charles Tóm Lược[7], chuyện ấy đã làm Dance cười vỡ bụng.

[7. Nguyên văn: Charles Overview, TJ chơi chữ theo họ của Overby.]

“Được rồi, vụ cô gái trong cốp xe… hiện giờ đám phóng viên vẫn đang liên tục gọi điện chất vấn. Tôi đã phải trì hoãn. Bọn họ không khoái trò này lắm. Hãy tóm lược tình hình đi.”

À, đám phóng viên. Điều này giải thích rõ ràng cho mối quan tâm của ông ta.

Dance bắt đầu tường thuật lại những gì họ biết đến thời điểm này, cũng như những kế hoạch về sau.

“Các vị cho rằng hắn sẽ tiếp tục gây án nữa? Như những gì mấy gã dẫn chương trình đang nói.”

“Đó là điều họ đang phỏng đoán,” Dance nhẹ nhàng chỉnh lại.

“Vì chúng tôi không rõ nguyên nhân nào thúc đẩy thủ phạm tấn công nạn nhân đầu tiên, Tammy Foster, nên chúng tôi chưa thể chắc chắn điều gì,” O’Neil nói.

“Và cây thập tự có mối liên quan? Nó được để lại như một thông điệp phải không?”

“Giám định pháp y cho thấy những bông hoa trùng khớp, đúng thế.”

“Ái chà. Tôi chỉ hy vọng chuyện này biến thành một kiểu Mùa hè của Sam.”

“À… đó là câu chuyện gì thế, Charles?” Dance hỏi.

“Cái gã ở New York đó. Bắn người rồi để lại những lời nhắn.”

“Ồ, đó là một bộ phim,” TJ là thư viện tham khảo về văn hóa đại chúng của họ. “Spike Lee. Kẻ sát nhân là con trai của Sam.”

“Tôi biết,” Overby vội nói. “Chỉ chơi chữ một chút thôi. Con trai và Mùa hè.”

“Chúng tôi không có bất cứ bằng chứng nào theo hướng này hay hướng khác. Kỳ thực, chúng tôi vẫn chưa biết gì cả.”

Overby gật đầu. Ông ta chẳng bao giờ thích thú với việc không có câu trả lời… cho cánh báo chí, cho các sếp của ông ta ở Sacramento[8]. Điều đó khiến ông ta thấy bực bội, và đến lượt mình làm tất cả những người khác bực bội. Khi người tiền nhiệm của ông ta, Stan Fishburne, nghỉ hưu đột ngột vì lý do sức khỏe và Overby kế nhiệm, choáng váng là tâm trạng chung của mọi người. Fishburne là người luôn ủng hộ các đặc vụ. Ông sẵn sàng ủng hộ bất cứ ai cần thiết để hỗ trợ họ. Còn Overby có một phong cách khác. Rất khác.

[8. Thủ phủ tiểu bang California.]

“Tôi đã nhận được một cuộc gọi từ Tổng Chưởng lý tiểu bang[9].” Sếp cao cấp nhất của họ. “Vụ này đã trở thành tin sốt dẻo ở Sacramento rồi. Cả trên CNN nữa. Tôi sẽ phải gọi lại cho ông ấy. Tôi muốn chúng ta có được vài điều cụ thể.”

[9. AG (viết tắt của Attorney General): Bộ trưởng Tư pháp hay Tổng Chưởng lý – người lãnh đạo Bộ Tư pháp của Hoa Kỳ.]

“Chúng tôi sẽ sớm biết nhiều hơn.”

“Liệu có khả năng đó chỉ là một trò đùa tinh nghịch dẫn đến hậu quả nghiêm trọng? Như thử thách những kẻ mới nhập môn chẳng hạn. Kiểu như các hội nam sinh hay nữ sinh. Tất cả chúng ta đều làm thế ở trường, phải không?”

Dance và O’Neil chưa bao giờ từng là kẻ thích bày trò tai quái. Nữ đặc vụ cho rằng TJ cũng không, còn Rey Carraneo đã lấy bằng cử nhân điều tra tội phạm bằng cách học ban đêm trong khi làm cùng lúc hai công việc.

“Quá kinh khủng cho một trò đùa,” O’Neil nói.

“Được rồi, hãy cứ bảo lưu nó lại như một giả thiết. Tôi chỉ muốn đảm bảo chắc chắn chúng ta miễn nhiễm với sự hoảng loạn. Điều đó sẽ chẳng giúp ích được gì. Nên giảm nhẹ bất cứ giả thiết nào gợi ý tới một kẻ giết người hàng loạt. Và đừng có nhắc gì tới cây thập tự. Chúng ta vẫn còn đang quay cuồng với vụ trước cũng trong tháng này, vụ Pell đó!” ông ta chớp mắt. “Nhân đây tôi muốn biết luôn, việc lấy lời khai làm chứng diễn ra thế nào?”

“Đang chậm trễ,” chẳng lẽ ông ta không hề nghe lời nhắn của cô sao?

“Tốt quá.”

“Tốt ư?” Dance vẫn còn đang rất bực với vụ vận động miễn truy tố kia.

Overby chớp mắt. “Ý tôi là nó cho phép cô được tự do điều tra vụ Cây thập tự ven đường này.”

Dance chợt nhớ về sếp cũ của cô. Hoài cổ đôi khi có thể là một nỗi đau thật ngọt ngào.

“Bước tiếp theo là gì?” Overby hỏi.

“TJ đang kiểm tra camera an ninh tại các khu mua sắm và cửa hàng mua bán xe hơi gần nơi cây thập tự được để lại.”

Cô quay sang Carraneo. “Và Rey, cậu có thể kiểm tra khu vực quanh bãi để xe nơi Tammy bị bắt cóc chứ?”

“Rõ, thưa sếp.”

“Anh đang làm gì lúc này ở MCSO, Michael?” Overby hỏi.

“Điều tra một vụ án mạng băng đảng, sau đó là vụ Container.”

“Ồ, là vụ đó sao?”

Khu vực Bán đảo Monterey gần như miễn nhiễm với những mối đe dọa khủng bố. Tại đây không có cảng biển lớn, chỉ có các bến tàu đánh cá, sân bay có quy mô nhỏ và có hệ thống an ninh tốt. Nhưng chừng một tháng trước, một container đã bị lén lút bốc dỡ xuống khỏi một tàu chở hàng tới từ Indonesia đang cập cảng Oakland và được đưa lên xe tải đưa hàng về phía nam, hướng tới L.A. Một báo cáo cho rằng chiếc xe đã chạy tới tận Salinas, tại đây, nhiều khả năng hàng hóa bên trong container đã được dỡ xuống, sau đó chuyển sang những xe tải khác để tiếp tục vận chuyển.

Những thứ để trong đó có thể là hàng buôn lậu, ma túy, vũ khí hoặc, như một nguồn tin trinh sát đáng tin cậy khác báo cáo, là những người nhập cư bất hợp pháp. Indonesia có cộng đồng Hồi giáo đông đảo nhất thế giới và một số nhóm cực đoan nguy hiểm. Bên An ninh Nội địa đã tỏ ra quan tâm một cách hoàn toàn có lý.

“Nhưng,” O’Neil nói, “tôi có thể tạm dừng vụ đó lại một hay hai ngày.”

“Tốt,” Overby nói, cảm thấy nhẹ nhõm vì vụ Cây thập tự ven đường sẽ được cả một nhóm đặc vụ điều tra. Ông ta lúc nào cũng cố tìm cách phân tán rủi ro cho càng nhiều người càng tốt phòng trường hợp một khi cuộc điều tra gặp thất bại, cho dù như thế cũng đồng nghĩa với việc phải chia sẻ vinh quang.

Dance chỉ cảm thấy hài lòng vì cô và O’Neil sẽ được làm việc cùng nhau.

O’Neil nói, “Tôi sẽ đi lấy báo cáo điều tra hiện trường cuối cùng từ Peter Bennington.”

Xuất thân của O’Neil không chuyên về khoa học hình sự, nhưng người cảnh sát rắn rỏi, kiên trì đó trông cậy vào các biện pháp truyền thống để giải quyết những vụ phạm tội: điều tra, tìm hiểu và phân tích hiện trường vụ án. Thi thoảng gồm cả những đòn đánh đầu đầy ngoạn mục. Song cho dù anh có đưa ra kỹ thuật nào đi nữa, người thám tử cao cấp này cũng đang giữ một trong những kỷ lục cao nhất về số vụ bắt giữ, và còn quan trọng hơn thế là số tội phạm bị kết án trong lịch sử của Cục.

Dance đưa mắt xem đồng hồ của cô. “Và tôi sẽ đi thẩm vấn nhân chứng.”

Overby lặng đi trong khoảnh khắc. “Nhân chứng ư? Tôi không hề biết có một nhân chứng.”

Dance chẳng buồn nhắc rằng ngay cả thông tin này cũng đã xuất hiện trong lời nhắn cô cố gửi cho sếp của mình. “Đúng vậy, có đấy,” cô nói rồi khoác túi xách lên vai, bước ra phía cửa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4


“Ôi, thật buồn,” người phụ nữ nói.

Chồng bà, ngồi sau tay lái chiếc Ford thể thao đa dụng, chiếc xe mà ông ta vừa phải chi ra bảy mươi đô la để đổ xăng, liếc mắt nhìn người phụ nữ. Tâm trạng ông đang không được tốt. Vì giá xăng, đồng thời cũng vì ông ta vừa được chiêm ngưỡng dáng vẻ đầy trêu ngươi của sân golf Pebble Beach, nơi ông ta không đủ rủng rỉnh để cho phép mình đến chơi, cho dù có được vợ đồng ý đi nữa.

Một điều gì đó buồn chán chắc chắn là thứ ông ta không muốn nghe.

Dẫu vậy, là một người đàn ông đã kết hôn hai mươi năm, ông đủ hiểu cần phải lên tiếng, “Chuyện gì?” câu hỏi có hơi cộc lốc so với dự định của ông ta.

Người phụ nữ không nhận ra, hay để tâm đến giọng điệu của chồng. “Kìa.”

Ông chồng nhìn về phía trước, nhưng bà vợ chỉ đăm đăm nhòm qua kính chắn gió về phía xa lộ vắng tanh, chạy ngoằn ngoèo qua khu rừng. Bà ta không chỉ vào thứ gì cụ thể. Điều đó càng khiến ông bứt rứt khó chịu hơn.

“Thử nghĩ xem chuyện gì đã xảy ra?”

Ông chồng chuẩn bị gắt lên “Chuyện gì chứ?” thì nhìn thấy thứ bà vợ đang nói tới.

Và ngay lập tức cảm thấy có lỗi.

Một trong những vật tưởng niệm tại nơi xảy ra tai nạn xe hơi được cắm trên cát trước khoảng ba mươi mét. Một cây thập tự thô kệch nhô lên sau một bó hoa. Những bông hồng màu đỏ sẫm.

“Thật buồn,” ông ta lặp lại, nghĩ tới các con – hai đứa trẻ vị thành niên vẫn làm ông lo sợ chết khiếp mỗi lần chúng ngồi sau tay lái. Ông ta biết rõ mình sẽ cảm thấy thế nào nếu có chuyện gì xảy ra với chúng trong một vụ tai nạn. Ông chồng bắt đầu thấy hối tiếc thái độ khó chịu ban nãy của mình.

Ông chồng lắc đầu, liếc mắt nhìn khuôn mặt không mấy thoải mái của bà vợ. Hai người lái xe đi quá chỗ cây thập tự được làm thủ công. Bà vợ thì thầm, “Chúa ơi. Nó vừa mới xảy ra.”

“Thật sao?”

“Phải. Trên đó ghi đúng ngày hôm nay.”

Ông ta thoáng rùng mình, rồi họ tiếp tục lái xe hướng về một bãi biển cách đấy không xa, nơi có người đã giới thiệu cho đôi vợ chồng vì những tuyến đường dạo bộ tại đó. Người đàn ông ngẫm nghĩ, “Lạ thật.”

“Anh nói cái gì lạ cơ?”

“Giới hạn tốc độ ở đoạn này là ba mươi lăm dặm một giờ. Em không thể cho rằng có ai bị tai nạn nặng đến nỗi chết được chứ.”

Bà vợ nhún vai. “Đám trẻ, chắc thế. Uống say rồi lái xe.”

Cây thập tự rõ ràng hướng mọi thứ theo góc nhìn nhận đó. Thôi nào, anh bạn, lẽ ra anh đang phải ngồi ở tận Portland khổ sở đánh vật với đám số má và băn khoăn tự hỏi rồi đây Leo còn bày ra trò điên rồ nào nữa tại cuộc họp toàn thể tiếp theo của nhóm làm việc. Nhưng giờ, anh đang ở khu vực đẹp nhất Tiểu bang California, và còn thêm năm ngày nghỉ nữa.

Và trong cả triệu năm sau này anh cũng không có cơ hội được tới chỗ nào gần sánh được với Pebble Beach đâu. Hãy thôi rên rỉ đi, người đàn ông tự bảo mình.

Ông chồng đặt bàn tay lên đầu gối vợ và lái xe về phía bãi biển, thậm chí chẳng buồn để ý đến màn sương mù buổi sớm vừa đột nhiên ngả sang màu xám.

~*~

Trong lúc lái xe chạy dọc tuyến đường 68, Xa lộ Holman, Kathryn Dance gọi điện cho các con, lúc này đang được ông Stuart, bố cô, lái xe đưa từng đứa tới trại hè ban ngày của chúng. Do cuộc hẹn lúc sáng sớm tại khách sạn, Dance đã thu xếp để Wes – mười hai tuổi và Maggie – mười tuổi ngủ đêm ở chỗ ông bà ngoại hai đứa.

“Con chào mẹ!” Maggie nói, “Bọn con có thể tới chỗ Rosie ăn tối được không?”

“Để tính sau con nhé. Mẹ đang có một vụ điều tra rất quan trọng.”

“Tối qua bà và con đã tự vắt mì để nấu Spaghetti. Trộn bột, trứng và nước với nhau. Ông nói bà và con làm mì từ nguyên gốc. Như thế có nghĩa là gì hả mẹ?”

“Từ các nguyên liệu cơ bản ban đầu. Không phải mua mì nấu sẵn đựng trong hộp.”

“Hừm, cái đó thì con hiểu rồi. Ý con muốn biết “gốc” là sao cơ?”

“Không được nói ‘hừm’. Và mẹ cũng không biết. Chúng ta sẽ tìm hiểu sau.”

“Vâng.”

“Mẹ sẽ gặp lại con sớm, cục cưng. Mẹ yêu con. Đưa máy cho anh con đi.”

“Chào mẹ,” Wes bắt đầu bài độc thoại về trận tennis được lên kế hoạch hôm nay. Dance nghĩ rằng Wes vừa bắt đầu chặng đổ dốc hướng tới tuổi vị thành niên. Đôi khi Wes là cậu con trai bé bỏng của cô, đôi khi lại là một thiếu niên đầy xa cách. Bố thằng bé đã mất hai năm trước và chỉ đến lúc này nỗi buồn đè nặng trong tâm hồn nó mới dần nguôi ngoai. Maggie, có lẽ do ít tuổi hơn, nên lấy lại thăng bằng dễ dàng hơn.

“Bác Michael vẫn sẽ đi chơi thuyền vào cuối tuần này chứ ạ?”

“Mẹ chắc là thế.”

“Tuyệt quá!” O’Neil đã rủ thằng bé đi câu cá vào thứ Bảy tuần này, cùng với Tyler, cậu con trai nhỏ của Michael. Vợ anh, Anne, hiếm khi ra ngoài cùng, và cho dù Dance thỉnh thoảng có đi, thì chứng say sóng cũng khiến cô trở thành một thủy thủ bất đắc dĩ.

Sau đó Dance nói chuyện với bố mình một lúc, cảm ơn ông vì đã giúp trông bọn trẻ, đồng thời cũng cho ông hay vụ điều tra mới có thể làm cô mất khá nhiều thời gian. Stuart Dance là người ông hoàn hảo – nhà sinh học biển sắp về hưu – có thể tự chủ được giờ giấc của mình và thực sự thích việc dành thời gian bên lũ trẻ. Ông cũng không ngại đóng vai tài xế. Tuy nhiên, hôm nay ông có một cuộc họp tại thủy cung vịnh Monterey nhưng vẫn cam đoan với con gái là sẽ đưa lũ trẻ về chỗ bà ngoại hai đứa sau khi chúng kết thúc trại hè ban ngày. Dance có thể đón các con cô ở đó.

Mỗi ngày trôi qua Dance đều cảm ơn số phận hay Chúa rằng cô có gia đình yêu dấu của mình ở bên. Trái tim cô se lại mỗi khi nghĩ tới những người mẹ đơn thân không có người giúp đỡ.

Cô chạy chậm dần, rẽ ở chỗ đèn giao thông và đưa xe vào bãi đỗ của bệnh viện vịnh Monterey, quan sát đám đông đứng sau hàng rào chắn bằng gỗ màu xanh.

Có nhiều người biểu tình phản đối hơn ngày hôm qua.

Và ngày hôm qua lại nhiều hơn hôm trước đó.

Bệnh viện vịnh Monterey là một cơ sở danh tiếng, một trong những trung tâm y tế tốt nhất vùng, và cũng là một trong những nơi bình dị nhất, lọt thỏm giữa khu rừng thông. Dance biết rõ nơi này, cô đã sinh con tại đây, bên cạnh bố mình khi ông hồi phục sau ca đại phẫu. Cô cũng từng tới nhận diện thi thể chồng mình tại nhà xác của bệnh viện.

Và ngay bản thân cô mới đây đã bị tấn công tại chính nơi này – một biến cố có liên quan tới cuộc phản đối mà hiện tại Dance đang chứng kiến.

Trong quá trình điều tra vụ án Daniel Pell, Dance đã cử một cảnh sát trẻ của hạt Monterey tới canh gác tù nhân ở phòng xử án của tòa án hạt tại Salinas. Bị cáo đã trốn thoát, trong lúc đào tẩu, y đã tấn công và làm bỏng nặng viên cảnh sát, Juan Millar, sau đó anh ta được đưa tới khu Điều trị tích cực ở đây. Đó quả là một quãng thời gian nặng nề đối với gia đình Juan, là nỗi hoang mang của chính anh ta, Michael O’Neil và các đồng nghiệp của anh tại MCSO. Và với cả Dance nữa.

Chính vào lúc cô tới thăm Juan thì người anh trai đang đau khổ tột bậc của anh ta, Julio, đã tấn công cô, nổi xung khi thấy cô cố lấy lời khai giữa lúc Juan đang nửa tỉnh nửa mê. Dance đã bị giật mình nhiều hơn là đau trong vụ tấn công, cô quyết định không đâm đơn kiện người anh đang ở trạng thái mất bình tĩnh kia.

Vài ngày sau khi nhập viện, Juan qua đời. Thoạt đầu, dường như nguyên nhân cái chết là kết quả do bỏng nặng. Nhưng sau đó người ta khám phá ra rằng có ai đó đã lấy đi mạng sống người bệnh – một vụ giết người vì thương cảm.

Dance rất buồn khi nghe tin, song các vết thương của Juan nặng đến mức tương lai của anh ta sẽ chẳng có gì khác hơn ngoài đau đớn và các quá trình can thiệp y tế. Tình cảnh của Juan cũng làm mẹ Dance, Edie, một y tá công tác tại bệnh viện này, rất áy náy. Dance nhớ lúc ấy cô đang đứng trong bếp, mẹ cô đứng ngay gần bên, đôi mắt bà nhìn chằm chằm vô định. Có điều gì đó đang làm bà vô cùng lo lắng, và ngay sau đó đã nói cho Dance biết lý do: Trong lúc bà đang kiểm tra cho Juan, người bệnh tỉnh lại và nhìn bà với ánh mắt cầu xin.

Anh ta thì thầm, “Hãy giết tôi đi.”

Có thể đoán anh ta đã từng đưa ra lời cầu xin với ai đó tới thăm hay chăm sóc cho mình.

Và không bao lâu sau, người nọ đã hoàn thành ước nguyện cho anh.

Không ai rõ danh tính của kẻ đã trộn thuốc vào dịch truyền tĩnh mạch để kết thúc cuộc sống của Juan. Cái chết này chính thức trở thành một cuộc điều tra tội phạm do Sở Cảnh sát hạt Monterey phụ trách. Song vụ án đã không được điều tra quá ráo riết: Các bác sĩ báo cáo rằng viên cảnh sát khó có khả năng sống thêm được hơn một hay hai tháng. Cái chết của anh ta rõ ràng là một hành động nhân đạo, cho dù là phạm tội.

Song vụ việc đã trở thành một cái cớ lý tưởng cho những người ủng hộ quan điểm duy trì sự sống đến cùng cho bệnh nhân. Những người phản đối mà Dance quan sát từ trong bãi để xe giờ đây đang giơ cao các biểu ngữ mang hình thập tự và hình ảnh Jesus cũng như Terry Schiavo, người phụ nữ bị hôn mê sâu ở Florida, quyền được chết của cô này đã khiến cả Quốc hội Mỹ cũng phải vào cuộc.

Những tấm biểu ngữ được giơ lên trước bệnh viện vịnh Monterey chỉ trích một cách ghê tởm hành động giết người nhân đạo và cả việc phá thai, rõ ràng vì tất cả những người có mặt đều từng được tập hợp từ trước và đã sẵn có tâm trạng phản đối. Họ phần lớn là thành viên của nhóm Ưu tiên sự sống, có trụ sở tại Phoenix. Họ đã tới chỉ vài ngày sau cái chết của viên sĩ quan cảnh sát trẻ.

Dance tự hỏi liệu có ai trong bọn họ nhận ra sự mỉa mai khi không phản đối cái chết bên ngoài một bệnh viện hay không. Nhiều khả năng là không. Họ dường như không phải là một nhóm người có khả năng cảm nhận sự hài hước.

Dance chào vị phụ trách an ninh, một người gốc Phi cao lớn, lúc ấy đang đứng bên lối vào chính. “Xin chào, Henry. Có vẻ như họ vẫn tiếp tục đến.”

“Xin chào, đặc vụ Dance.” Henry Bascomb – một cựu cảnh sát thích dùng các danh xưng trong ngành. Anh ta cười ngơ ngẩn, hất hàm về phía đám người. “Như bầy thỏ vậy.”

“Ai là người cầm đầu vậy?”

Ở trung tâm đám người là một gã đàn ông gầy gò hói đầu với các ngấn thịt dưới cái cằm nhọn. Ông ta mặc đồ mục sư.

“Ông mục sư đó là thủ lĩnh.” Bascomb cho cô biết. “Mục sư Samuel Fisk. Ông ta khá nổi tiếng đấy. Từ tận Arizona tới đây.”

“Mục sư Samuel Fisk. Một cái tên rất giàu chất mục sư,” cô bình luận.

Bên cạnh vị mục sư là một người đàn ông lực lưỡng với mái tóc quăn đỏ mặc bộ vest sẫm màu cài hết khuy. Dance đoán là một tay vệ sĩ.

“Cuộc sống là thiêng liêng!” một người nào đó hô lớn, hướng về phía mấy chiếc xe của các kênh tin tức đậu gần đấy.

“Cuộc sống thiêng liêng!” cả đám đông reo lên.

“Quân sát nhân,” Fisk hô lớn, giọng vang vọng đáng kinh ngạc với một người xương xẩu chẳng khác gì một con bù nhìn.

Cho dù mấy lời đó không hướng vào mình nhưng Dance vẫn thấy ớn lạnh và trong đầu lại lóe lên ký ức về sự việc diễn ra tại khoa Điều trị tích cực, khi Julio Millar trong tình trạng như hóa điên đã chộp lấy cô từ phía sau trước khi Michael O’Neil và một đồng nghiệp khác kịp can thiệp.

“Quân sát nhân!”

Những người phản đối đồng thanh lặp lại thành nhịp. “Quân… sát nhân. Quân… sát nhân!”

Dance đoán đến cuối ngày hẳn giọng bọn họ sẽ khản đặc.

“Chúc may mắn,” cô nói với người phụ trách an ninh, anh ta chỉ đảo mắt tỏ vẻ không mấy chắc chắn.

Dance vào bên trong, đưa mắt nhìn quanh, phần nào mong chờ được gặp mẹ mình. Sau đó, cô được chỉ dẫn tại bộ phận tiếp tân và hối hả bước xuống hành lang tới căn phòng nơi cô sẽ gặp nhân chứng của vụ án Cây thập tự ven đường.

Khi Dance bước qua cửa phòng để mở, cô gái vị thành niên tóc vàng bên trong, đang nằm trên chiếc giường bệnh thiết kế chuyên biệt, liền ngước mắt nhìn lên.

“Chào Tammy. Chị là Kathryn Dance,” cô mỉm cười với Tammy. “Chị vào được chứ?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5


Dù Tammy Foster đã bị bỏ mặc cho chết đuối trong cốp xe, kẻ thủ ác đã có một tính toán sai.

Nếu hắn đỗ lại xa bờ hơn, thủy triều đã đủ cao để nhấn chìm toàn bộ chiếc xe, đẩy cô bé tội nghiệp vào một cái chết khủng khiếp. Nhưng trên thực tế, chiếc xe đã bị cát làm kẹt lại cách bờ không xa mấy, và khi thủy triều lên, nước tràn vào trong cốp chiếc Camry chỉ dâng lên khoảng mười lăm phân.

Đến khoảng bốn giờ sáng, một nhân viên hãng hàng không trên đường đi làm đã nhìn thấy tia sáng lấp lóe từ chiếc xe. Đội cứu hộ đã giải thoát cho cô bé, trong trạng thái gần như bất tỉnh vì những điều kiện phải chịu đựng, đang sắp lâm vào tình trạng sụt thân nhiệt nặng, và cấp tốc đưa cô bé vào bệnh viện.

“Bây giờ em cảm thấy thế nào?” Dance hỏi.

“Ổn, em đoán vậy.”

Tammy khoẻ khoắn và xinh đẹp, nhưng rất nhợt nhạt. Cô bé có khuôn mặt dài, mái tóc suôn mượt màu vàng được nhuộm hoàn hảo, và một sống mũi dọc dừa theo Dance đoán đã từng có một hình dạng ít nhiều khác khi cô bé mới chào đời. Một cái liếc nhanh về phía túi mỹ phẩm nhỏ giúp Dance biết rõ cô bé hiếm khi ra ngoài mà không trang điểm.

Tấm phù hiệu được Dance trình ra.

Tammy đưa mắt nhìn qua nó.

“Trông em khá ổn.”

“Nước lạnh lắm,” Tammy nói. “Em chưa bao giờ thấy lạnh đến thế trong đời mình. Em vẫn còn chết khiếp.”

“Hẳn là thế rồi.”

Cô chuyển sự chú ý sang màn hình tivi. Trên đó đang phát một bộ phim truyện nhiều tập. Dance và Maggie đôi khi cũng xem bộ phim này, thường là lúc con bé bị ốm phải nghỉ học. Bạn không nhất thiết theo dõi hàng tháng trời vì khi tiếp tục xem trở lại, bạn vẫn có thể hiểu nội dung một cách hoàn hảo.

Dance ngồi xuống, nhìn qua những quả bóng bay và vô số bông hoa để trên một cái bàn gần đó, theo bản năng cố tìm kiếm những bông hồng đỏ, những món quà tôn giáo hay những tấm thiếp có hình cây thập tự. Không có gì hết.

“Em phải ở lại bệnh viện trong bao lâu?”

“Có lẽ hôm nay em sẽ xuất viện. Cũng có thể là mai, người ta nói thế.”

“Các bác sĩ thế nào? Dễ mến chứ?”

Đáp lại là một tiếng cười.

“Em học trường nào?”

“Robert Louis Stevenson.”

“Sắp lên năm cuối?”

“Vâng, vào mùa thu.”

Để không khí thoải mái, Dance tâm sự với Tammy: Hỏi cô bé có theo học các lớp hè không, đã nghĩ mình muốn vào trường đại học nào chưa, về gia đình cô bé, về thể thao. “Em có kế hoạch đi nghỉ ở đâu không?”

“Bây giờ thì gia đình em có rồi,” cô bé nói. “Sau chuyện vừa xảy ra. Mẹ, em gái và em sẽ đến Florida thăm bà vào tuần sau.” Có âm hưởng ngán ngẩm trong giọng nói của cô bé, và Dance thấy rõ ràng việc tới Florida cùng gia đình là điều cuối cùng cô bé muốn làm.

“Tammy, em biết đấy, bọn chị rất muốn tìm ra kẻ đã làm chuyện này với em.”

“Thằng khốn.”

Dance nhướng một bên lông mày với vẻ tán đồng. “Hãy kể cho chị nghe những gì đã xảy ra.”

Tammy giải thích bản thân đã đến hộp đêm và ra về sau nửa đêm. Cô bé đang ở trong bãi để xe thì có kẻ nào đó ập tới từ phía sau, dùng băng dính bịt miệng, trói chân tay cô bé lại, ném vào cốp xe rồi lái tới bãi biển.

“Hắn bỏ mặc em lại đó để, thế đấy, chết đuối.” Đôi mắt cô bé trống rỗng. Dance, về bản chất vốn là người biết cảm thông – một nét tính cách cô thừa hưởng từ mẹ mình – có thể tự thân cảm nhận được nỗi kinh hoàng, một cảm giác đau nhoi nhói chạy dọc theo sống lưng cô.

“Em có biết kẻ tấn công mình không?”

Cô bé lắc đầu. “Nhưng em biết chuyện gì đã xảy ra.”

“Là gì vậy?”

“Các băng nhóm.”

“Hắn ở trong một băng nhóm sao?”

“Vâng, tất cả mọi người đều biết. Để được gia nhập, chị cần phải giết ai đó. Và nếu muốn vào một băng La Tinh, chị cần giết một cô gái da trắng. Đó là luật lệ.”

“Em nghĩ thủ phạm là người gốc La Tinh?”

“Vâng, em chắc chắn là thế. Em không trông thấy mặt hắn nhưng đã thấy bàn tay. Nước da sẫm hơn, chị biết đấy. Không đen. Nhưng hắn chắc chắn không phải người da trắng.”

“Vóc người hắn thế nào?”

“Không cao lắm. Khoảng một mét sáu mươi tám, nhưng quả thực hắn rất, rất khoẻ. À, còn một chuyện nữa. Em nghĩ tối hôm qua em đã nói chỉ có một gã. Nhưng sáng nay em đã nhớ lại. Bọn chúng có hai người.”

“Em nhìn thấy hai tên?”

“Hơn thế, em cảm thấy có thêm một người nữa ở ngay gần, chị cũng biết cảm giác đó thế nào đúng không?”

“Liệu đó có thể là một phụ nữ không?”

“Ồ, có lẽ. Em không biết nữa. Như em vừa nói đấy, lúc đó em rất hoảng sợ.”

“Có kẻ nào động chạm vào em không?”

“Không, theo kiểu đó thì không. Chúng chỉ dán băng dính lên người em rồi ném vào cốp xe thôi,” đôi mắt cô bé loé lên những tia căm giận.

“Em còn nhớ gì lúc xe chạy không?”

“Không, lúc ấy em quá sợ. Em nghĩ mình nghe thấy tiếng loảng xoảng gì đó, một tiếng va đập vọng ra từ trong xe.”

“Không phải trong cốp?”

“Không. Nghe như tiếng kim loại va đập hay kiểu như thế, em nghĩ vậy. Hắn cho thứ đó vào trong xe sau khi đã ném em vào cốp. Em đã xem phim đó, một tập trong loạt phim Saw[1]. Và lúc ấy em nghĩ có thể hắn sẽ dùng thứ đó để tra tấn em.”

[1. Bộ phim kinh dị công chiếu năm 2004, xoay quanh cuộc chạy trốn gần như vô vọng của những nạn nhân vô tội trước những chiếc bẫy được giăng rất tinh vi của tên giết người hàng loạt. Bộ phim bao gồm 7 phần này đã thu về 733 triệu USD cho các nhà sản xuất.]

Chiếc xe đạp, Dance thầm nghĩ, nhớ lại những vệt bánh xe ngoài bãi biển. Hắn đã mang theo một chiếc xe đạp để rời khỏi hiện trường. Cô đưa ra giả thiết này, song Tammy lại nói là không phải vì không thể nhét một chiếc xe đạp lên băng ghế sau. Cô bé nghiêm chỉnh thêm vào, “và tiếng động đó nghe cũng không giống một chiếc xe đạp.”

“Được rồi, Tammy,” Dance chỉnh lại kính và không ngừng quan sát cô bé, lúc này đang đưa mắt nhìn những bông hoa, tấm thiếp và thú nhồi bông. Cô bé nói thêm, “Chị nhìn những thứ mọi người mang đến tặng em xem. Con gấu đằng kia là đẹp nhất phải không chị?”

“Phải, trông nó dễ thương đấy… Vậy là em nghĩ đó là mấy thanh niên gốc La Tinh trong một băng nhóm?”

“Vâng. Nhưng… nói chung, chị biết đấy, giờ thì, có vẻ đã qua rồi.”

“Đã qua rồi?”

“Ý là em đã không bị giết. Chỉ bị ướt một chút thôi,” cô bé bật cười trong khi tránh ánh mắt Dance. “Bọn chúng chắc chắn đang rất hoảng. Câu chuyện được nhắc đến khắp nơi trên các bản tin. Em cá là chúng đã đi rồi. Em nghĩ có khi chúng đã rời khỏi thành phố.”

Hiển nhiên là các băng nhóm luôn có những nghi thức gia nhập. Và một số trong đó có dính dáng tới giết người. Những chuyện giết chóc hiếm khi nằm ngoài vấn đề chủng tộc hoặc nhóm sắc tộc, và thông thường nhất là nhằm vào thành viên của băng nhóm đối thủ hoặc những kẻ bán tin. Bên cạnh đó, chuyện xảy đến với Tammy được bố trí quá công phu. Dance đã học được một điều từ việc điều tra các tội ác liên quan đến băng đảng, đó là chúng trước hết liên quan tới chuyện làm ăn. Thời gian là tiền bạc và càng tốn ít thời gian vào những hoạt động ngoài lề càng tốt.

Dance vốn đã đi đến kết luận Tammy không hề nghĩ kẻ tấn công cô bé là một thành viên trong băng đảng gốc La Tinh. Và cô bé cũng chẳng hề tin chuyện có hai kẻ tấn công mình.

Trên thực tế, Tammy biết nhiều về thủ phạm hơn những gì cô bé thể hiện ra ngoài.

Đã đến lúc cần tìm ra sự thật.

Quá trình phân tích ngôn ngữ hành vi trong thẩm vấn và hỏi cung trước hết bắt đầu bằng việc xác lập một vạch ranh giới – một tập hợp những hành vi đối tượng thể hiện khi nói thật: Họ đặt bàn tay vào đâu, họ nhìn vào đâu, thường xuyên tới mức nào, trong khi nói họ có chen vào “ừm”, “à” hay không, họ có gõ bàn chân không, ngồi thõng vai hay nhô người ra trước, họ có do dự trước khi trả lời không?

Sau khi vạch ranh giới trung thực này đã được xác định, chuyên gia ngôn ngữ cơ thể sẽ ghi nhận bất cứ biểu hiện nào đi chệch khỏi nó khi đối tượng bị hỏi một câu hỏi mà anh ta hay cô ta có thể có lý do để trả lời sai sự thật. Khi nói dối, phần lớn mọi người đều cảm thấy căng thẳng, lo lắng và cố gắng giải tỏa những cảm giác khó chịu đó bằng những cử chỉ và cách diễn đạt ngôn ngữ khác biệt với bình thường. Một trong những câu viện dẫn ưa thích của Dance đến từ một người đã từng sống trước khi khái niệm “ngôn ngữ cơ thể” được hình thành cả thế kỷ: Charles Darwin, người đã nói, “Những cảm xúc bị kìm nén hầu như luôn thể hiện ra ngoài dưới dạng một cử động nào đó của cơ thể.”

Khi chủ đề danh tính kẻ tấn công được đề cập đến, Dance nhận thấy ngôn ngữ cơ thể của cô bé đã dao động khỏi vạch ranh giới đó: Cô bé vặn vẹo hông một cách không thoải mái, một bàn chân liên tục lắc lư. Những kẻ nói dối thường có thể kiểm soát các cánh tay và bàn tay một cách khá dễ dàng, song lại ít để ý tới phần còn lại của cơ thể mình hơn nhiều, đặc biệt là các ngón chân và bàn chân.

Dance cũng nhận thấy những thay đổi khác: Trong cao độ giọng nói của cô bé, ngón tay liên tục gãi lên tóc, những “cử chỉ ngăn chặn” khi đưa tay lên chạm vào miệng và mũi. Tammy cũng có những hành vi ngôn ngữ lạc đề không cần thiết. Cô bé nói lan man, đưa ra những câu chung chung vô nghĩa như “Tất cả mọi người đều biết điều đó” – những biểu hiện điển hình của một người đang nói dối.

Kanthryn Dance tin chắc cô bé đang giấu giếm thông tin nên lúc này cô chuyển sang chế độ phân tích. Cách tiếp cận của cô để làm cho một đối tượng nói thật bao gồm bốn phần. Thứ nhất, cô đặt câu hỏi: Đối tượng có vai trò gì trong biến cố? Ở đây, Tammy chỉ là nạn nhân và nhân chứng, Dance kết luận. Cô bé không phải là một kẻ can dự, không liên quan tới một hành vi tội phạm khác hay ngụy tạo nên vụ bắt cóc mình.

Thứ hai, động cơ của việc nói dối là gì? Câu trả lời đã quá rõ ràng, cô bé tội nghiệp sợ bị trả thù. Trường hợp này cũng thường thấy, nó giúp công việc của Dance trở nên đơn giản hơn nếu so với việc động cơ của Tammy là che giấu hành vi phạm tội của bản thân.

Câu hỏi thứ ba: Cá tính chung của đối tượng thuộc loại nào? Hiểu rõ điều này sẽ giúp Dance biết cô nên áp dụng phương cách tiếp cận nào để tiếp tục cuộc thẩm vấn. Chẳng hạn, cô nên tỏ ra nghiêm khắc hay hiền hòa, xúc tiến theo hướng giải quyết vấn đề hay động viên tình cảm, cư xử một cách thân thiện hay xa cách? Dance phân loại đối tượng của cô theo các đặc tính trong Chỉ số phân loại Myers - Briggs[2] cho phép đánh giá liệu một người hướng ngoại hay hướng nội, lý trí hay tình cảm, giác quan hay trực giác.

[2. Bộ câu hỏi nhằm đánh giá xu hướng tâm lý của con người dựa trên các lý thuyết do Carl Gustav Jung đề xuất, bản thân chỉ thị Myers - Briggs do Katharine Cook Briggs và con gái bà, Isabel Briggs Myers, phát triển.]

Điều khác biệt giữa mẫu người hướng ngoại và hướng nội nằm ở thái độ. Liệu đối tượng hành động trước rồi sau đó đánh giá kết quả - hướng ngoại hay cân nhắc trước khi hành động - hướng nội? Quá trình thu thập thông tin được tiến hành hoặc bằng cách đặt niềm tin vào nhìn nhận - giác quan, hoặc bằng trông cậy vào các linh cảm - trực giác. Việc đưa ra quyết định xảy ra hoặc thông qua phân tích khách quan - lý trí, hoặc là sự lựa chọn cảm tính - tình cảm. Cho dù Tammy khá xinh, khỏe khoắn và có vẻ là một cô gái được mọi người yêu mến, thì khi rơi vào tình cảnh mất an toàn, và cả một cuộc sống gia đình bất ổn – như những gì Dance tìm hiểu được – cũng biến cô bé thành một người hướng nội, con người của trực giác và tình cảm. Có nghĩa là Dance không thể dùng cách tiếp cận thẳng thừng với cô bé. Tammy đơn giản sẽ biến thành một bức tường đá, và bị tổn thương tâm lý nặng nề bởi quá trình thẩm vấn gay gắt.

Cuối cùng, câu hỏi thứ tư người thẩm vấn nhất thiết phải đặt ra là: Đối tượng có đặc tính của loại người nói dối nào?

Có tất cả vài loại. Những kẻ thủ đoạn, hay kiểu Machiavelli điển hình[3] – những kẻ không thấy có gì sai trong việc nói dối vì bọn họ sử dụng dối trá như một công cụ để đạt được mục tiêu cho bản thân trong tình yêu, làm ăn, chính trị và rất, rất giỏi gạt lừa. Những loại khác bao gồm kiểu xã giao – lấy nói dối để giải trí, kiểu thích nghi – những người thiếu tự tin mượn dối trá hòng tạo ấn tượng tích cực, kiểu diễn viên – những người nói dối để kiểm soát bản thân.

[3. Được đặt tên theo nhà triết học chính trị người Italia, người đã viết một cuốn sách về sự thủ đoạn.]

Dance đi đến kết luận Tammy là một sự kết hợp giữa kiểu thích nghi và kiểu diễn viên. Tình cảnh mất an toàn khiến cô bé nói dối để hỗ trợ cho cái tôi mong manh của mình, và cô bé sẽ sẵn sàng nói dối để đạt mục đích.

Một khi người chuyên gia phân tích ngôn ngữ cơ thể trả lời xong bốn câu hỏi này, phần còn lại của quá trình rất đơn giản: Cô tiếp tục đặt câu hỏi với đối tượng, ghi nhận cẩn thận những hành vi thể hiện phản ứng căng thẳng – các biểu hiện của lời nói dối. Sau đó liên tục trở lại với những câu hỏi, những điều có liên quan, thăm dò tỉ mỉ hơn, tập trung xoáy sâu vào phần nói dối, ghi nhận và xem xét đối tượng đối phó với mức độ căng thẳng ngày càng cao như thế nào. Liệu cô bé sẽ nổi giận, phủ nhận, suy sụp hay cố gắng xoay xở để thoát ra khỏi tình thế của mình? Từng trạng thái trong số này đòi hỏi những cách ứng phó khác nhau để thúc ép, dụ dỗ hay động viên đối tượng nói ra sự thật.

Đây chính là điều Dance đang làm lúc này, ngồi hơi nhô người ra trước một chút để đưa mình vào một vị trí gần gũi nhưng không xâm phạm “ranh giới” - cách Tammy chừng gần một mét. Làm thế sẽ khiến cô bé cảm thấy bồn chồn, nhưng không bị đe dọa quá đáng. Dance luôn giữ một nụ cười phảng phất trên khuôn mặt, và quyết định không đổi kính gọng xám lấy cặp kính gọng đen – “Cặp kính săn mồi” cô vẫn đeo để áp chế những đối tượng kiểu Machiavelli điển hình.

“Những gì em nói rất hữu ích, Tammy. Chị đánh giá rất cao sự hợp tác của em.”

Cô bé mỉm cười, nhưng cũng liếc nhìn ra cửa. Dance kết luận: Nói dối.

“Nhưng có một thứ,” cô nói thêm, “bọn chị đã có được một số báo cáo về hiện trường vụ án. Giống như trong phim CSI[4], em biết chứ?”

[4. Một sêri truyền hình nổi tiếng của Mỹ về đề tài điều tra hiện trường các vụ án.]

“Có chứ. Em xem nó mà.”

“Em thích phần nào?”

“Phần đầu. Chị biết đấy, Las Vegas.”

“Chị nghe nói đó là bản hay nhất,” Dance chưa bao giờ xem qua phần này. “Nhưng từ các bằng chứng, có vẻ không hề có hai kẻ tấn công. Cho dù là ở bãi gửi xe hay ngoài bãi biển.”

“Ồ. Vậy đấy, như em đã nói, tất cả chỉ là, ừm, một cảm giác thôi.”

“Và chị có một câu hỏi. Tiếng loảng xoảng em nghe thấy đó? Em biết đấy, bọn chị cũng không tìm thấy bất cứ vệt bánh xe hơi nào khác. Vì thế bọn chị rất băn khoăn về việc hắn đã làm thế nào để chạy khỏi hiện trường. Chúng ta hãy cùng quay lại chiếc xe đạp. Chị biết em không nghĩ đó là âm thanh đã vang lên trong xe, tiếng loảng xoảng, nhưng nói cho cùng cũng vẫn có thể có khả năng là nó chứ, em có nghĩ thế không?”

“Một chiếc xe đạp ư?”

Nhắc lại một câu hỏi thường là dấu hiệu của lừa dối. Đối tượng đang cố kéo dài thời gian để nghĩ tới những hệ quả của một câu trả lời và để bịa ra điều gì đó có vẻ đáng tin.

“Không, không thể nào. Làm sao một chiếc xe đạp có thể ở trong xe được?” lời phủ nhận của Tammy đến quá nhanh và quá quả quyết. Cô bé cũng đã cân nhắc tới khả năng một cái xe đạp song vì một lý do nào đó lại không muốn thừa nhận nó.

Dance nhướng một bên mày lên. “Ồ, chị cũng không biết nữa. Một người hàng xóm của chị cũng có một chiếc Camry. Đó là một chiếc xe khá lớn.”

Cô bé chớp mắt, dường như ngạc nhiên khi Dance biết kiểu xe của mình. Việc người đặc vụ đã tìm hiểu cặn kẽ mọi chi tiết khiến Tammy cảm thấy bất an. Nhìn ra cửa sổ. Cô bé đang hành động một cách vô thức để cố thoát khỏi tâm trạng lo lắng không chút thú vị này. Dance đã tiến sát tới một điều gì đó. Cô cảm thấy mạch của chính mình đập mạnh hơn.

“Có thể lắm. Em không rõ nữa,” Tammy nói.

“Vậy là hắn có thể có một chiếc xe đạp. Như thế có nghĩa hắn cũng trạc tuổi em, hay trẻ hơn một chút. Tất nhiên người lớn cũng đi xe đạp, nhưng những bạn trẻ như em sẽ sử dụng nhiều hơn. À này, em nghĩ sao về khả năng kẻ tấn công là ai đó học cùng trường với em?”

“Ở trường ư? Không đời nào. Không ai em biết lại có thể làm một việc như thế.”

“Đã từng có ai đe dọa em bao giờ chưa? Hay em có ẩu đả với ai ở trường Stevenson không?”

“Em nghĩ Brianna Crenshaw cay lắm khi em đánh bại nó để vào đội hoạt náo viên. Nhưng nó lại bắt đầu hẹn hò với Davey Wilcox, người em có cảm tình. Vậy là nghe có vẻ như hòa,” cô bé cười nghèn nghẹn.

Dance cũng mỉm cười.

“Không, đó chính là tay thành viên trong băng nhóm. Em chắc chắn thế,” đôi mắt cô bé mở to. “Đợi đã, bây giờ em nhớ ra rồi. Hắn có gọi một cuộc điện thoại. Có thể là cho kẻ cầm đầu băng nhóm. Em có thể nghe hắn mở điện thoại ra và nói, ‘Ella esta en el coche’.”

Con bé ở trong cốp xe, Dance tự dịch cho mình. Cô hỏi Tammy, “Em biết câu đó có nghĩa là gì chứ?”

“Đại loại là ‘Tôi có cô ta trong xe rồi’.”

“Em đang học tiếng Tây Ban Nha?”

“Vâng.”

Tất cả đều được nói ra nhanh đến không kịp thở với âm vực cao hơn bình thường. Đôi mắt cô bé nhìn chăm chú vào mắt Dance song bàn tay lại đưa lên vuốt tóc ra sau và dừng lại để gãi môi.

Câu tiếng Tây Ban Nha vừa được dẫn ra hoàn toàn là bịa đặt.

“Chị nghĩ,” Dance từ tốn bắt đầu, “hắn chỉ giả vờ là một thành viên băng nhóm. Nhằm che giấu danh tính. Điều đó có nghĩa hắn còn lý do khác để tấn công em.”

“Ừm, tại sao?”

“Đó chính là điều chị đang hy vọng em sẽ giúp chị làm sáng tỏ. Em trông thấy hắn lần nào không?”

“Cũng không hẳn. Suốt từ đầu đến cuối hắn đều ở sau lưng em. Và trong bãi để xe lúc ấy thực sự, thực sự rất tối. Đáng ra họ phải mắc đèn ngoài đó. Em nghĩ em sẽ kiện câu lạc bộ. Bố em là luật sư ở San Mateo.”

Thái độ tức giận này được tung ra để đánh lạc hướng thẩm vấn của Dance… Tammy đã thấy gì đó.

“Có thể trong lúc hắn lại gần, em đã thấy hình ảnh phản chiếu trên cửa kính xe chăng?”

Cô bé đang lắc đầu trả lời không. Nhưng Dance vẫn kiên quyết.

“Chỉ một cái nhìn thoáng qua thôi. Thử nghĩ lại xem. Ở đây ban đêm bao giờ cũng lạnh. Hắn không thể chỉ mặc áo sơ mi. Có phải hắn mặc áo vest không? Hay một cái áo khoác da? Hay áo len? Hoặc sơ mi vải len. Hay một cái áo có mũ trùm đầu?”

Tammy trả lời không với tất cả, nhưng có một câu “không” khác hẳn những câu khác.

Sau đó Dance để ý thấy đôi mắt cô bé chuyển sang hướng về phía một bó hoa trên bàn. Bên cạnh là tấm thiếp chúc bình phục viết: Nào, cô, hãy sớm thoát khỏi chuyện này! Yêu cậu J, P, và Beasty Girl.

Kathryn Dance nhìn nhận về bản thân mình như một nhân viên thực thi pháp luật thạo việc thành công phần lớn vì hiểu thấu đáo công việc phải làm và không chấp nhận câu trả lời “không”. Tuy vậy, thỉnh thoảng bộ óc của cô lại nhanh nhạy đến kỳ lạ. Cô tổng hợp các sự kiện và cảm nhận, thế rồi đột nhiên một cú nhảy vọt thật dài không trông đợi lù lù xuất hiện – một suy đoán hay kết luận hiện ra cứ như thể nhờ vào phép màu.

Từ A tới B tới X…

Điều đó đang diễn ra ngay lúc này, khi cô thoáng thấy Tammy nhìn những bông hoa với đôi mắt đượm vẻ bồn chồn.

Cô nắm lấy cơ hội.

“Em biết đấy, Tammy, bọn chị biết kẻ tấn công em cũng đã để lại một cây thập tự ven đường – như kiểu một thông điệp nào đó.”

Đôi mắt cô bé mở to.

Trúng đích rồi, Dance thầm nghĩ. Cô bé có biết về cây thập tự.

Cô tiếp tục mạch suy đoán vừa phát sinh, “Và những thông điệp như vậy thường xuất phát từ những người quen biết nạn nhân.”

“Em… em nghe thấy hắn nói tiếng Tây Ban Nha.”

Dance biết đó là một lời nói dối, nhưng cô đã học được rằng với những đối tượng có kiểu tính cách như Tammy, cần chừa cho họ một đường lui, nếu không họ sẽ đóng sập bản thân lại hoàn toàn. Cô nói bằng giọng tán đồng, “Ồ, chị tin chắc em đã nghe thấy. Nhưng chị nghĩ hắn đang cố che giấu danh tính. Hắn tìm cách đánh lừa em.”

Tammy đang sợ rúm ró, cô bé tội nghiệp.

Kẻ nào làm cô bé kinh hoàng đến thế?

“Trước hết, Tammy, chị cam đoan là bọn chị sẽ bảo vệ em. Cho dù kẻ tấn công em là ai, hắn sẽ không thể đến gần em được nữa. Chị sẽ điều một cảnh sát đứng gác ngoài cửa phòng em tại đây. Và bọn chị cũng sẽ cho một người tới trực tại nhà em cho đến khi bọn chị bắt được thủ phạm gây ra chuyện này.”

Vẻ nhẹ nhõm hiện rõ trong đôi mắt cô bé.

“Chị có một ý nghĩ thế này: Em nghĩ sao về một kẻ quấy rối? Em rất đẹp. Chị dám cược là em sẽ phải rất cẩn thận.”

Cô bé nở một nụ cười rất thận trọng, nhưng dẫu sao vẫn thích thú trước lời khen.

“Gần đây có ai làm phiền gì em không?”

Cô bệnh nhân trẻ do dự.

Chúng ta đã tới gần sự thật. Thực sự rất gần rồi.

Nhưng Tammy lại lùi xa, né tránh. “Không.”

Dance cũng làm tương tự. “Em có vấn đề nào với mọi người trong gia đình không?” cô đã kiểm tra vì đó cũng có thể là một khả năng. Bố mẹ cô bé đã ly dị sau một cuộc chiến pháp lý dữ dội trước tòa, và anh trai cô cũng sống xa nhà. Một ông chú của cô bé cũng từng bị buộc tội bạo hành.

Nhưng đôi mắt Tammy cho thấy rõ ràng người thân của cô không can dự gì đến vụ tấn công.

Dance tiếp tục thả câu. “Em có khúc mắc nào với bất cứ ai em từng trao đổi email không? Có thể là ai đó em quen trên mạng, qua Facebook hay MySpace chẳng hạn? Ngày nay chuyện như thế vẫn thường xuyên xảy ra.”

“Không đâu, thật đấy. Em không lên mạng nhiều thế đâu,” cô bé gại gại móng tay vào nhau, cử chỉ tương đương với vặn vẹo hai bàn tay.

“Chị xin lỗi đã gặng hỏi em, Tammy. Song để đảm bảo chuyện này không lặp lại nữa là hết sức quan trọng.”

Thế rồi Dance nhìn thấy một điều đập thẳng vào cô như một cú trời giáng. Trong đôi mắt cô bé đang hiện lên một câu trả lời thừa nhận – một thoáng nhướng lên rất nhanh của lông mày và lông mi. Như thế nghĩa là Tammy có sợ hãi chuyện này sẽ lặp lại, nhưng vì cô bé sẽ được cảnh sát bảo vệ nên phản ứng này cho thấy kẻ tấn công còn là mối đe dọa cho cả những người khác.

Tammy nuốt nước bọt. Rõ ràng cô bé đang ở trong giai đoạn từ chối hợp tác cùng phản ứng căng thẳng, cũng có nghĩa là Tammy đang thu mình lại, hệ thống phòng vệ được đẩy lên mức cảnh giác cao.

“Đó là một kẻ em không biết. Em xin thề có Chúa.”

Một biểu hiện dối trá điển hình: “Tôi xin thề”. Cả chuyện nhắc đến Chúa cũng vậy. Chẳng khác gì cô bé lớn tiếng hét thật to: “Em đang nói dối! Em muốn nói ra sự thật nhưng em sợ.”

Dance nói, “Được rồi, Tammy. Chị tin em.”

“Chị thấy đấy, em thực sự, thực sự rất mệt. Em nghĩ có lẽ mình không muốn nói thêm gì nữa cho đến khi mẹ vào đây.”

Dance mỉm cười. “Tất nhiên rồi, Tammy.”

Cô đứng dậy, đưa cho cô bé một tấm danh thiếp của mình. “Nếu em có thể nhớ ra thêm bất kỳ điều gì mới, hãy cho bọn chị hay nhé.”

“Em rất xin lỗi vì em, ừm, không giúp được nhiều,” cô bé cụp mắt xuống. Dance có thể thấy cô bé đã từng dùng đến chiêu trò hờn dỗi và tự vờ trách bản thân này trong quá khứ. Kỹ thuật ấy, cộng với một chút tán tụng, hẳn sẽ có hiệu quả với các cậu con trai và bố cô bé, nhưng với phụ nữ thì không.

Dẫu vậy, Dance vẫn diễn kịch cùng cô bé. “Không, không, em đã giúp được rất nhiều. Thật kinh khủng, cô bé, thử nhìn lại những gì em phải trải qua mà xem. Hãy nghỉ ngơi một chút đi. Và bật một bộ phim truyền hình nào đó lên.” Cô hất hàm về phía tivi. “Nó rất tốt cho đầu óc.”

Bước ra khỏi phòng, Dance nghĩ lại: Thêm vài giờ nữa rất có thể cô đã buộc được con bé phải nói ra sự thật, dẫu không hoàn toàn chắc chắn vì Tammy rõ ràng đang hoảng sợ. Bên cạnh đó, cho dù người thẩm vấn có tài năng đến đâu, đôi khi các đối tượng chỉ đơn giản sẽ không nói ra những gì họ biết.

Cũng chẳng quan trọng. Kathryn Dance tin bản thân đã thu được mọi thông tin mình cần. A tới B tới X…
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6


Ngoài tiền sảnh bệnh viện, Dance dùng điện thoại công cộng vì ở đây không được phép sử dụng di động, gọi một nhân viên cảnh sát tới gác phòng của Tammy Foster. Sau đó, cô đến quầy tiếp tân và nhắn tin cho mẹ mình.

Ba phút sau, Edie Dance làm con gái bà ngạc nhiên khi xuất hiện không phải từ chỗ của bà ở khoa Tim mạch mà lại từ phía khu Điều trị tích cực.

“Chào mẹ.”

“Katie,” người phụ nữ thân hình bè bè chắc nịch với mái tóc xám cắt ngắn và cặp kính tròn lên tiếng chào con gái. Bà đeo trên cổ một mặt dây chuyền bằng vỏ bào ngư và ngọc thạch tự làm. “Mẹ đã nghe nói đến vụ tấn công một cô gái trong cốp xe đó. Con bé đang ở tầng trên.”

“Con biết. Con vừa từ đấy ra.”

“Rồi cũng sẽ ổn thôi. Như người ta vẫn nói. Cuộc gặp của con sáng nay thế nào?”

Dance nhăn mặt. “Có vẻ là một bước thụt lùi. Bên bào chữa đang cố dẹp vụ án sang một bên bằng cách vận động miễn truy tố.”

Câu trả lời “Điều đó chẳng làm mẹ ngạc nhiên” cất lên lạnh lùng. Edie Dance không bao giờ do dự nói ra quan điểm của mình. Bà từng gặp qua kẻ tình nghi, và khi biết được những gì hắn làm, bà đã rất phẫn nộ – một cảm xúc hoàn toàn rõ ràng với Dance khi cô quan sát khuôn mặt bình thản và nụ cười thoáng qua. Mẹ cô không bao giờ cao giọng. Song ánh mắt lại lạnh như thép.

Cái nhìn chết người, Dance vẫn nhớ từng nghĩ về mẹ mình như thế khi cô còn bé.

“Nhưng Ernie Seybold là một người kiên cường.”

“Michael thế nào?” Edie Dance vẫn luôn có cảm tình với O’Neil.

“Vẫn khỏe. Con và anh ấy đang cùng điều tra vụ này,” cô giải thích về cây thập tự tìm thấy ven đường.

“Không thể nào, Katie! Để lại một cây thập tự trước khi ai đó chết ư? Như một thông điệp?”

Dance gật đầu. Nhưng cô nhận thấy sự chú ý của mẹ mình vẫn tiếp tục hướng ra ngoài. Khuôn mặt bà đầy ưu tư.

“Con thấy đấy, đáng ra họ còn những chuyện quan trọng hơn để làm. Ông mục sư kia mới hôm nọ vừa đọc một bài diễn thuyết Lửa và lưu huỳnh[1]. Và vẻ căm ghét hằn học trên khuôn mặt họ kìa. Thật xấu xa.”

[1. Cách diễn đạt theo Kinh Thánh để ám chỉ cơn giận dữ của Chúa trút xuống đầu những kẻ tội lỗi.]

“Mẹ đã gặp bố mẹ Juan chưa?”

Edie Dance đã dành ra khá nhiều thời gian để an ủi gia quyến người nhân viên cảnh sát bị bỏng nặng, nhất là mẹ anh. Bà biết Juan Millar gần như chắc chắn sẽ không thể qua khỏi, nhưng đã làm tất cả để giúp đôi vợ chồng trong cơn choáng váng và hoang mang hiểu con họ đang được hưởng sự chăm sóc tốt nhất có thể. Edie từng nói với Kathryn rằng nỗi đau tinh thần của người mẹ cũng giày vò khủng khiếp không kém gì nỗi đau thể xác của cậu con trai.

“Không, họ chưa quay lại. Julio thì có. Sáng nay cậu ta đã ở đây.”

“Thật thế ư? Để làm gì ạ?”

“Có lẽ để lấy tư trang của cậu em trai. Mẹ cũng không biết nữa…” giọng bà lắng xuống. “Cậu ta chỉ đứng nhìn chằm chằm vào căn phòng nơi Juan chết.”

“Việc này đã được điều tra chưa?”

“Hội đồng Đạo đức nghề nghiệp của bệnh viện đang tìm hiểu. Và có vài cảnh sát ghé qua đây. Người của hạt. Nhưng khi họ xem qua báo cáo và thấy ảnh chụp các vết thương của Juan, thì không ai thực sự phẫn nộ vì chuyện cậu ấy chết. Đó đúng nghĩa là sự giải thoát.”

“Julio có nói gì với mẹ khi anh ta đến đây hôm nay không?”

“Không, cậu ta chẳng nói gì với ai cả. Nếu con muốn biết, mẹ thấy cậu ta có vẻ hơi đáng sợ. Và mẹ không khỏi nhớ tới những gì cậu ta đã làm với con.”

“Lúc đó anh ta nhất thời bị mất đi lý trí,” Dance nói.

“À, không gì có thể biện hộ được cho hành động tấn công con gái mẹ,” Edie nói với một nụ cười kiên định. Một lần nữa đôi mắt bà hướng ra ngoài cửa kính quan sát nhóm người đang phản đối. Một cái nhìn tối sầm. Bà nói, “Tốt hơn mẹ nên quay về vị trí của mình.”

“Nếu được, chốc nữa bố có thể đưa Wes và Maggie qua đây không mẹ? Bố có cuộc họp ở khu thủy cung. Con sẽ ghé qua đón hai đứa sau.”

“Tất nhiên là được, con gái yêu. Mẹ sẽ đưa chúng đến khu vui chơi trẻ em.”

Edie Dance lại ngoái đầu thêm lần nữa, liếc mắt nhìn ra phía ngoài. Khuôn mặt bà đầy phẫn nộ và bất bình. Như thể đang nói: “Các người không có quyền vác mặt đến đây quấy rầy chúng tôi thế này”.

Dance rời khỏi bệnh viện với cái liếc mắt về phía mục sư R.Samuel Fisk và người đàn ông đô con có thể là vệ sĩ của ông ta. Bọn họ cùng một vài người phản đối khác đang siết chặt tay và cúi đầu cầu nguyện.

~*~

“Máy tính của Tammy,” Dance nói với Michael O’Neil.

Anh nhướng một bên mày lên.

“Nó chứa đựng câu trả lời. Tuy không hẳn rõ mười mươi. Nhưng sẽ có một vài thông tin nào đó. Liên quan tới danh tính kẻ tấn công.”

Hai người đang ngồi nhấm nháp tách cà phê bên ngoài Whole Foods[2] trực thuộc Trung tâm Del Monte, một khu mua bán ngoài trời tọa lạc ngay cạnh Macy’s[3]. Dance từng có lần nhẩm tính rằng mình đã mua ít nhất năm mươi đôi giày tại đây vì giày dép vốn là thứ thuốc an thần đối với cô. Tuy vậy, nói cho công bằng, số lần mua có phần thái quá kia đã diễn ra trong vòng vài năm. Và thường xuyên, nhưng không phải luôn luôn, vào các dịp hạ giá.

[2. Whole Foods Market: Một chuỗi siêu thị chuyên bán thực phẩm ở Mỹ.

3. Tên một hệ thống siêu thị tại Mỹ.]

“Một kẻ quấy rối qua mạng ư?” O’Neil hỏi. Món ăn họ vừa thưởng thức không phải là trứng chần với nước sốt Hà Lan thanh đạm kèm mùi tây, mà là một chiếc bánh sừng bò nho khô kèm kem pho mát ít béo đựng trong vỏ bao hình lá.

“Có thể lắm. Hoặc một cậu bạn trai cũ đã đe dọa con bé, hoặc người nào đó nó gặp trên mạng. Nhưng tôi chắc chắn con bé biết danh tính của hắn, nếu không phải từng gặp tận mặt. Tôi nghiêng về khả năng ai đó học cùng với Tammy. Tại trường Stevenson.”

“Nhưng dù vậy cô bé vẫn không muốn nói ra?”

“Không, nó một mực khẳng định đó là một thành viên trong băng nhóm gốc La Tinh.”

O’Neil bật cười. Có rất nhiều lời khai bịp đòi chi trả bảo hiểm vẫn bắt đầu bằng, “Một người gốc Tây Ban Nha đeo mặt nạ xông vào cửa hiệu đồ trang sức của tôi”. Hay “Hai gã gốc Phi mang mặt nạ chĩa súng ra và cướp chiếc đồng hồ Rolex của tôi”.

“Không có chi tiết mô tả nào, nhưng tôi nghĩ kẻ tấn công mặc áo sơ mi vải len và áo khoác có mũ trùm đầu. Phản ứng phủ định của con bé khác hẳn khi tôi nhắc tới chúng.”

“Máy tính của cô bé,” O’Neil trầm ngâm, cầm cặp hồ sơ nặng trịch của mình để lên mặt bàn rồi mở nó ra. Anh xem qua một bản in báo cáo. “Tin tốt là chúng ta có nó trong các vật chứng thu được. Một máy tính xách tay. Ngay trên băng ghế sau chiếc xe của cô bé.”

“Và tin xấu là nó đã từng lềnh bềnh trong biển nước Thái Bình Dương rồi đúng không?”

“Hư hại đáng kể vì nước biển,” anh dẫn lời trong báo cáo.

Dance cụt hứng. “Chúng ta sẽ phải gửi nó đến Sacramento hay tới chỗ FBI[4] ở tận San Jose. Phải mất hàng tuần để có phản hồi.”

[4. Viết tắt của Federal Bureau of Investigation: Cục Điều tra Liên bang Hoa Kỳ.]

Hai người quan sát một con chim ruồi bạo dạn bất chấp đám đông bay sà xuống thưởng thức bữa sáng ở một giỏ cây treo có hoa đỏ. O’Neil nói, “Tôi có ý này. Tôi mới nói chuyện cùng một người bạn làm tại Cục ở trên đó. Anh ta vừa tham dự một buổi diễn thuyết về tội phạm máy tính. Một trong các diễn giả là người ở đây – một giáo sư tại Santa Cruz.”

“Ở UC[5] à?”

[5. Viết tắt của University of California: Đại học California.]

“Đúng thế.”

Một trong những ngôi trường Dance từng theo học.

“Anh bạn tôi nói tay giáo sư này rất khá. Và anh ta tình nguyện giúp đỡ nếu có lúc nào đó họ cần đến.”

“Xuất thân thế nào?”

“Tất cả những gì tôi biết là anh ta từ Thung lũng Silicon[6] tới và bắt đầu dạy học.”

[6. Silicon Valley: Tên một khu vực ở vùng nam Vịnh San Francisco, phía bắc California, có trung tâm là thung lũng Santa Clara, nơi tập trung nhiều tập đoàn lớn của Mỹ về công nghệ cao.]

“Ít ra ngành giáo dục cũng không có cái bong bóng nào bị vỡ.”

“Cô có muốn tôi thử liên lạc với anh chàng giáo sư đó không?”

“Tất nhiên rồi.”

O’Neil lấy từ trong ca táp một xấp danh thiếp được sắp xếp ngăn nắp gọn gàng hệt như đồ đạc trên chiếc thuyền của anh, rồi tìm được một tấm thiếp và bấm số gọi đi. Trong ba phút, anh đã liên lạc được với người bạn của mình và có một cuộc trao đổi ngắn. Vụ tấn công đã kịp thu hút sự chú ý của FBI, Dance có thể suy đoán là vậy. O’Neil nguệch ngoạc ghi lại một cái tên và cảm ơn người đặc vụ nọ. Anh ngắt liên lạc rồi đưa mảnh giấy cho Dance. Tiến sĩ Jonathan Boling. Phía dưới tên là một số điện thoại.

“Có mất gì đâu, đúng không?… Bây giờ ai đang giữ chiếc máy tính nhỉ?”

“Nằm trong két bằng chứng của chúng ta. Tôi sẽ gọi điện bảo họ lấy nó ra.”

Dance rút điện thoại di động của cô khỏi bao đựng và gọi cho Boling, ấn vào hộp thư thoại của anh ta và để lại một lời nhắn.

Cô tiếp tục cho O’Neil biết thêm về Tammy, đề cập tới việc phần lớn phản ứng về cảm xúc của cô bé đều xuất phát từ nỗi sợ hãi kẻ tấn công sẽ lại ra tay nữa, và có thể nhằm vào những người khác.

“Đúng điều chúng ta đang lo ngại,” O’Neil nói, đưa bàn tay chai sạn lên lùa qua mái tóc muối tiêu.

“Cô bé cũng biểu hiện ra ngoài những tín hiệu của cảm giác tội lỗi,” Dance nói.

“Bởi vì rất có thể cô bé có một phần trách nhiệm trong chuyện đã xảy ra?”

“Đó chính là điều tôi đang nghĩ. Dù thế nào đi nữa, tôi thực sự muốn tìm hiểu xem bên trong chiếc máy tính đó có gì.” Dance liếc mắt xem đồng hồ đeo tay, và vô cớ cảm thấy bực bội vì anh chàng Jonathan Boling này vẫn chưa hồi đáp cuộc gọi của cô ba phút trước.

Cô hỏi O’Neil, “Có thêm đầu mối nào từ bằng chứng chưa?”

“Không hề,” anh cho cô hay Peter Bennington đã làm báo cáo về hiện trường vụ án: Cây thập tự được làm từ những cành sồi, loài cây vốn có số lượng khoảng một hay hai triệu ở vùng Bán đảo Monterey. Sợi dây ren màu xanh lục dùng để buộc hai cành cây lại là loại thông dụng, không thể truy ra nguồn gốc. Tấm bìa các tông được cắt ra từ bìa sau của một cuốn sổ ghi chép loại rẻ tiền có bán ở cả nghìn cửa hàng. Chất mực cũng không thể xác định được. Và không rõ những bông hồng có nguồn gốc cụ thể từ cửa hàng hay địa điểm nào.

Dance nói với anh giả thiết về chiếc xe đạp. Song O’Neil đã đi trước cô một bước. Anh cho biết người của mình đã kiểm tra lại bãi để xe nơi Tammy bị bắt cóc cũng như bãi biển nơi chiếc xe hơi bị bỏ lại, và tìm thấy nhiều vết bánh xe đạp hơn, không có vết nào nhận dạng được, song chúng còn mới, cho phép suy đoán nhiều khả năng đây là phương tiện đào tẩu của thủ phạm. Nhưng các vệt lốp lại không đủ đặc điểm khác biệt để có thể truy ra vết tích.

Điện thoại của Dance đổ chuông – nhạc hiệu Looney Tunes[7] của Warner Brothers – do các con cô cài như một trò đùa. O’Neil mỉm cười.

[7. Chùm phim hoạt hình ngắn nổi tiếng của hãng Warner Brothers, được sản xuất từ năm 1930 đến 1969.]

Dance nhìn màn hình để xem danh tính người gọi. Trên màn hình đang hiện lên J.Boling. Cô nhướng một bên mày lên, một lần nữa thầm nghĩ thật vô lý rằng cũng đã đến lúc rồi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7


Một tiếng động bên ngoài - tiếng răng rắc vọng lại từ sau nhà - mang nỗi sợ xưa cũ quay về.

Cảm giác đang bị theo dõi.

Không giống như ở siêu thị hay trên bãi biển. Cô không sợ những cậu nhóc ma mãnh hay những kẻ ỡm ờ thích trêu ghẹo. Bởi chuyện đó hoặc làm cô khó chịu, hoặc làm cô thấy được tán tụng, tất nhiên phụ thuộc vào đối tượng là một cậu nhóc hay một gã lăng nhăng. Nhưng không, điều làm Kelley Morgan phát khiếp là thứ gì đó đang nhìn chằm chằm vào mình từ bên ngoài cửa sổ phòng ngủ.

Rắc rắc…

Lại một âm thanh nữa. Kelley ngồi bên bàn viết trong phòng, cảm thấy một cái rùng mình đột ngột và dữ dội đến mức da cô nhói lên như bị chích. Các ngón tay cứng đờ như bị đóng băng, dừng lại ngay trên bàn phím. Nhìn đi, cô tự nhủ. Sau đó: Không, đừng.

Cuối cùng: Chúa ơi, mi đã mười bảy tuổi rồi. Vượt qua nó đi!

Kelley ép mình quay người lại, đánh bạo đưa mắt nhòm qua khung cửa. Một nền trời xám bên trên mảng màu xanh lục và nâu của cây cối, đá và cát. Chẳng có ai.

Và chẳng có thứ gì hết.

Quên nó đi.

Cô có thân hình mảnh mai cùng mái tóc dày sẫm màu, và sẽ trở thành học sinh năm cuối trường trung học vào mùa thu tới. Cô đã có giấy phép lái xe. Cô từng lướt ván ở bãi biển Maverick. Và cô sẽ đi nhảy dù vào dịp sinh nhật thứ mười tám cùng bạn trai.

Không, Kelley Morgan không dễ bị dọa nạt.

Nhưng cô có một nỗi sợ hãi khủng khiếp.

Những khung cửa sổ.

Nỗi sợ bắt nguồn từ khi cô còn là một đứa trẻ, có lẽ mới chín hay mười tuổi và sống trong chính ngôi nhà này. Mẹ cô chăm chỉ đọc tất cả những tạp chí về thiết kế nội thất với giá cắt cổ, vì bà nghĩ những tấm rèm cửa hoàn toàn lạc lõng sẽ phá hỏng những đường nét gọn ghẽ tạo nên ngôi nhà hiện đại của họ. Kỳ thực cũng chẳng phải điều gì ghê gớm, ngoại trừ việc Kelley đã xem vài chương trình truyền hình ngu ngốc về Người tuyết khủng khiếp hay một con quái vật đại loại như thế. Trong đó thể hiện hình ảnh con quái thú đi tới một căn nhà gỗ, ngó qua cửa sổ, làm những người đang nằm trên giường sợ hết hồn.

Dẫu cho đó chỉ là những hình ảnh đồ họa vi tính chất lượng thảm hại cũng như chuyện cô biết rõ chẳng có thứ gì như thế trong đời thực, nhưng chúng hoàn toàn không giúp được gì. Một chương trình truyền hình, tất cả chỉ cần có thế. Suốt nhiều năm sau, Kelley tiếp tục nằm trên giường, mồ hôi vã ra đầm đìa, trùm chăn kín đầu vì sợ phải nhìn thấy những thứ sẽ làm mình chết khiếp. Nhưng không nhìn cũng làm cô sợ, sợ không được cảnh báo trước khi nó leo vào qua cửa sổ cho dù nó có là gì đi nữa.

Bóng ma, thây ma, ma cà rồng và người sói không tồn tại, cô tự nhắc bản thân. Song chỉ cần đọc một tập Chạng vạng[1] của Stephenie Meyer, thế là bùm, nỗi sợ hãi lập tức quay trở lại.

[1. Bộ tiểu thuyết bốn tập của nhà văn Mỹ Stephenie Meyer, xoay quanh cuộc sống của Isabella “Bella” Swan, một thiếu nữ vừa chuyển tới Forks từ Washington và tình yêu với Edward Cullen – một ma cà rồng.]

Còn Stephen King[2] thì sao? Quên đi nhé.

[2. Sinh ngày 21 tháng 9 năm 1947, là nhà văn người Mỹ thiên về thể loại kinh dị giả tưởng nổi tiếng khắp thế giới.]

Giờ đây, khi đã lớn hơn và không còn chấp nhận cam chịu những sở thích kỳ cục của bố mẹ mình như trước, cô đã tới Home Depot mua rèm cửa cho phòng mình và tự tay mắc chúng lên, mặc kệ gu thẩm mỹ nội thất của mẹ cô. Kelley luôn kéo kín rèm vào buổi tối. Song lúc này chúng đang được mở ra, vì giờ đang là ban ngày, với thứ ánh sáng nhàn nhạt và một cơn gió nhẹ mùa hè mát mẻ hây hẩy thổi vào.

Thêm một tiếng răng rắc nữa bên ngoài. Có phải nó vang lên gần hơn không?

Hình ảnh con quái vật quái gở phát trên chương trình truyền hình chưa bao giờ biến mất hẳn, cũng như nỗi sợ hãi ăn sâu trong mạch máu cô. Gã Người tuyết khủng khiếp đang ở bên bậu cửa sổ, trợn mắt nhìn cô chằm chằm. Một cơn quặn thắt lúc này siết chặt lấy bụng Kelly, như lần cô bé thử uống thứ nước giảm cân nhanh rồi quay lại với thức ăn đặc.

Rắc rắc…

Cô đánh bạo đưa mắt nhìn lần nữa.

Khung cửa sổ trống hoác mở toang đe dọa cô.

Đủ rổi đấy!

Kelley quay lại bên máy tính của mình, đọc mấy lời bình luận trên mạng xã hội OurWorld nói về Tammy, đứa con gái tội nghiệp ở trường trung học Stevenson vừa bị tấn công tối hôm qua, và lạy Chúa, bị ném vào trong cốp xe rồi bỏ mặc cho chết đuối. Bị cưỡng bức hay ít nhất cũng bạo hành, mọi người đều đang nói vậy.

Phần lớn bình luận đều bày tỏ sự thông cảm. Nhưng có một số bình luận cũng thật tàn nhẫn và khiến Kelley phát khiếp. Lúc này cô đang nhìn trừng trừng vào một bình luận như thế.

Được rồi, Tammy sẽ ổn, ơn Chúa. Nhưng tôi cần phải nói một điều. IMHO[3], cô ta đã tự chuốc lấy điều đó. Đáng ra ả PHẢI biết rằng đừng có lượn lờ khắp nơi như một con mèo cái động đực với kiểu kẻ mắt và những cái váy không hiểu moi từ đâu ra đó? Cô ả BIẾT đám đàn ông đang nghĩ gì, vậy cô ta trông đợi thế nào nữa chứ???

- AnonGurl[4]

[3. Viết tắt của In my humble (honest) opinion: Theo quan điểm khiêm tốn (chân thành) của tôi.

4. Cách nói lóng, chính xác là A non girl – ám chỉ đây là biệt danh của một cậu con trai.]

Kelley lập tức phản ứng bằng một đoạn trả lời.

OMG[5], sao cậu có thể nói thế? Thiếu chút nữa cô ấy đã bị giết. Và bất cứ kẻ nào nói một phụ nữ MỜI GỌI để được cưỡng bức là một kẻ không có não. Cậu nên thấy xấu hổ!!!

- Bella Kelley

[5. Viết tắt của Oh my God: Ôi Chúa ơi.]

Cô tự hỏi liệu kẻ đăng bình luật ban đầu có đáp lại không.

Kelley cúi người về phía màn hình máy tính, lại nghe thấy một tiếng động nữa bên ngoài.

“Là nó,” cô bật lên thành tiếng, đứng dậy, nhưng không đi ra cửa sổ. Thay vì thế, cô bước ra khỏi phòng mình và vào trong bếp, rụt rè liếc vội ra ngoài. Không thấy gì hết… hay là nó quá nhỏ? Liệu có đúng là một bóng đen đang lẩn khuất trong khe núi, đằng sau mấy bụi cây phía sau khu nhà hay không?

Nhà cô chẳng có ai, bố mẹ đã đi làm, em trai đi tập thể thao.

Cô bé tự bật cười một mình đầy bồn chồn: Với cô, bước ra bên ngoài và mặt đối mặt với một gã biến thái to xác còn đỡ đáng sợ hơn thấy hắn nhìn vào trong qua cửa sổ phòng mình. Kelley liếc nhìn giá cắm dao từ tính. Những lưỡi dao đều cực kỳ sắc bén. Cô bé do dự một lát. Nhưng rồi để những món vũ khí này ở yên chỗ của chúng. Thay vào đó, cô cầm chiếc Iphone lên áp vào tai và bước ra ngoài.

“Chào, Ginny, phải, mình nghe thấy có tiếng động bên ngoài. Mình chỉ ra xem một chút thôi.”

Cuộc nói chuyện chỉ là giả bộ, nhưng hắn hay nó sẽ không biết được điều đó.

“Không, mình vẫn nói chuyện tiếp mà. Chỉ để xem nhỡ có tên khốn nào ở ngoài đó không,” cô bé nói thật lớn tiếng.

Cánh cửa mở ra khoảnh sân bên hông nhà. Kelley hướng ra phía sau, rồi sau đó, khi bước đi gần tới góc ngôi nhà, cô đi chậm lại. Cuối cùng cô rụt rè bước ra sân sau. Vắng tanh. Ở cuối khu đất, sau một hàng rào cây dày, mặt đất đổ dốc thẳng xuống khu đất của hạt – một khoảng đất nông phủ đầy cây bụi và vài con đường mòn cho những người tập chạy.

“Vậy chuyện đó thế nào rồi? À… thế sao? Tuyệt quá. Rất tuyệt.”

Vẫn ổn. Đừng có làm bộ quá đà, cô nghĩ. Điệu bộ của mình thật đáng thất vọng.

Kelley rón rén bước tới bờ cây, ngó qua nó xuống dưới lòng khe. Cô nghĩ mình đã thấy ai đó rời xa khỏi ngôi nhà.

Rồi cách chỗ đang đứng không xa, cô thấy một cậu nhóc mặc đồ nỉ ngồi trên xe đạp đang men theo một trong những con đường mòn vốn là lối đi tắt giữa Pacific Grove và Monterey. Cậu ta rẽ trái và biến mất sau một quả đồi.

Kelley bỏ điện thoại xuống. Cô bắt đầu quay vào khi nhận thấy thứ gì đó là lạ trên những luống đất trồng cây sau nhà. Một chấm nhỏ. Cô bước tới chỗ đó và nhặt lên một cánh hoa. Cánh hoa hồng. Kelley thả cánh hoa hình lưỡi liềm đong đưa rơi trở lại xuống đất.

Cô quay vào nhà.

Rồi dừng bước, ngoái lại nhìn phía sau. Không có người nào, không có con vật nào. Chẳng có bóng dáng nào của một Người Tuyết Khủng Khiếp hay Người Sói.

Cô bước vào trong nhà. Và cứng đờ người, miệng há hốc.

Trước mặt cô, chỉ cách khoảng ba mươi mét, một bóng người đang lại gần, khuôn mặt không thể thấy rõ vì luồng sáng chiếu ngược ra từ phòng khách.

“Ai…?”

Bóng người dừng lại. Một tiếng cười vang lên. “Chúa ơi, Kel. Chị cứ như đang chết khiếp ấy. Trông chị… đưa em điện thoại của chị. Em muốn chụp một kiểu ảnh.”

Ricky, em trai cô, với lấy cái Iphone.

“Biến ngay!” Kelley nói, nhăn mặt và rụt lại khỏi bàn tay đang chìa ra của cậu em. “Chị nghĩ em đi tập cơ đấy.”

“Em cần bộ đồ nỉ của em. Mà này, chị nghe nói gì về cô gái trong cốp xe chưa? Cô ấy cũng học Stevenson.”

“Có, chị thấy cô ấy rồi. Tammy Foster.”

“Cô ta nóng bỏng chứ?” cậu nhóc mười sáu tuổi cao lênh khênh, với mớ tóc nâu hoàn toàn giống cô, bước tới tủ lạnh và lấy ra một lon nước tăng lực.

“Ricky, em ăn nói bỗ bã quá.”

“Ừ hừm. Thế nào? Có đúng thế không?”

Ôi, cô căm ghét những đứa em trai biết chừng nào. “Khi em đi, nhớ khóa cửa lại đấy.”

Mặt Ricky cau lại. “Tại sao? Có ai muốn quấy rầy chị ư?”

“Khóa cửa vào!”

“Ừm, được thôi.”

Cô ném về phía cậu em một ánh nhìn tối sầm, song hoàn toàn bị cậu tảng lờ.

Kelley tiếp tục đi về phòng mình và lại ngồi xuống trước máy tính. Ái chà, AnonGurl vừa đăng một bình luận tấn công Kelley vì đã bênh vực Tammy Foster.

“Được, đồ chó cái, tao nhớ mày rồi. Tao sẽ xử mày chu đáo.”

Kelley bắt đầu gõ lên bàn phím.

~*~

Giáo sư Jonathan Boling có lẽ đã ngoài bốn mươi tuổi, Dance ước tính. Không cao lắm, chỉ hơn cô vài phân, với một thân hình cho phép suy đoán chủ nhân của nó hoặc chịu khó tập luyện, hoặc khinh thường các loại thực phẩm tạp nham. Mái tóc nâu thẳng giống Dance, cho dù cô cho rằng anh ta không hề bỏ một hộp Clairol[6] vào xe đẩy mua hàng của mình khi tới Safeway vài tuần một lần.

[6. Tên một loại thuốc nhuộm tóc.]

“Chà,” Boling nói trong lúc đưa mắt nhìn quanh các gian sảnh trong khi cô dẫn anh ta từ tiền sảnh vào phòng làm việc của mình tại Cục Điều tra California. “Nơi này quả thực không hẳn giống những gì tôi đã hình dung. Không giống trong CSI[7].”

[7. Crime Scene Investigation (Điều tra hiện trường): Seri phim truyền hình Mỹ của kênh CBS, bắt đầu phát sóng từ năm 2000, về chủ đề điều tra hiện trường các vụ trọng án hình sự của một đội điều tra tại Las Vegas.]

Chẳng lẽ tất cả mọi người trong vũ trụ này đều xem bộ phim đó sao?

Một bên cổ tay của Boling đeo đồng hồ điện tử Timex, bên còn lại là một vòng tay tết dây – có lẽ để thể hiện sự ủng hộ với thứ gì đó hay ai đó. Dance nghĩ tới các con cô, hai đứa luôn đeo vô số dải băng màu trên cổ tay đến mức cô chẳng bao giờ dám chắc nguyên do mới nhất là gì. Anh ta mặc quần jean và áo sơ mi kiểu đấu thủ polo màu đen, có vẻ đẹp nhẹ nhàng, thu hút người đối diện giống như National Public Radio[8]. Đôi mắt nâu ánh lên vẻ kiên định, và rất dễ mỉm cười.

[8. Một đài phát thanh từ thiện ở Mỹ.]

Dance đi đến kết luận vị giáo sư này có thể chinh phục được bất cứ cô sinh viên nào anh ta để mắt đến. Cô hỏi, “Anh đã bao giờ vào văn phòng một cơ quan thực thi pháp luật trước đây chưa?”

“À, tất nhiên là có,” vị khách nói, hắng giọng và đưa ra những tín hiệu kỳ cục về ngôn ngữ cơ thể. Tiếp theo là một nụ cười. “Nhưng họ đã bãi bỏ lời buộc tội. Ý tôi là họ liệu có thể làm gì khác đây khi thi thể của Jimmy Hoffa chẳng bao giờ được tìm thấy?”

Cô không thể ngừng cười. Ôi, những cô sinh viên tội nghiệp của anh ta. Cẩn thận đấy. “Tôi cứ nghĩ anh từng làm tư vấn cho cảnh sát.”

“Tôi đã đề xuất điều đó, vào cuối bài giảng dành cho các cơ quan thực thi pháp luật và các công ty an ninh. Nhưng vẫn chưa có ai nhờ… cho tới lúc này. Làm việc cùng cô chính là lần thử sức đầu tiên của tôi. Tôi sẽ cố không làm cô thất vọng.”

Hai người vào phòng làm việc của Dance, ngồi đối diện nhau bên cái bàn cà phê cũ.

Boling nói, “Tôi rất vui lòng giúp đỡ bằng bất cứ cách nào có thể, nhưng tôi không chắc mình phải làm gì.” Một vạt nắng mặt trời chiếu qua đôi giày lười của anh ta, và vị khách liếc mắt nhìn xuống, nhận ra một chiếc tất mình đang đi có màu đen, còn chiếc kia lại màu xanh hải quân. Anh ta bật cười bối rối. Vào một thời điểm khác, Dance hẳn đã đoán anh ta là người còn độc thân. Nhưng thời buổi này, cả hai vợ chồng cùng bận rộn với công việc, thì trang phục có chút luộm thuộm như vậy là bằng chứng chưa đủ thuyết phục. Tuy nhiên, anh ta cũng không đeo nhẫn cưới.

“Tôi có hiểu biết về phần cứng và phần mềm, nhưng để đưa ra những tư vấn kỹ thuật nghiêm túc, tôi e mình đã qua cái tuổi cập nhật công nghệ tiên tiến rồi, và tôi lại không nói tiếng Hindi.”

Boling cho cô biết anh ta có hai bằng văn học và kỹ sư tại Stanford, thừa nhận rằng đó là một kiểu kết hợp kỳ lạ, và sau một thời gian “tha thẩn vòng quanh thế giới” cuối cùng đã hạ cánh xuống thung lũng Silicon, làm công việc thiết kế hệ thống cho một số công ty máy tính lớn.

“Quãng thời gian đó thật thú vị,” Boling nói. Nhưng, vị khách phân trần thêm, cuối cùng anh đã mất hết hứng thú vì thói tham lam ngu ngốc của họ. “Nó cũng giống một cuộc đổ xô vào dầu mỏ vậy. Tất thảy đều đặt câu hỏi làm thế nào để giàu sụ bằng cách thuyết phục dân tình rằng họ cần đến những nhu cầu được tạo ra từ phía nhà cung cấp. Tôi thì nghĩ, có lẽ chúng ta nên nhìn nhận nó theo cách khác: Tìm hiểu chính xác những gì mọi người thực sự cần và sau đó đặt câu hỏi máy tính có thể giúp họ ra sao.”

Một cái gật đầu. “Thế là xung đột quan điểm nảy sinh. Mất thời gian vô ích. Vì vậy tôi nhặt nhạnh ít tiền từ mớ cổ phiếu được bán ra, rồi bỏ đi chu du khắp nơi. Cuối cùng tôi dừng chân ở Santa Cruz, gặp một người, quyết định ở lại và thử dạy học. Rồi yêu thích công việc này. Và giờ tôi vẫn đang ở đó.”

Dance kể với anh ta rằng mình đã quay lại trường đại học – cũng chính là trường anh ta đang dạy – sau một thời gian ngắn thử làm phóng viên. Cô tham gia lớp truyền thông và tâm lý học. Thời gian cô ở trường tình cờ trùng hợp một quãng ngắn với thời gian anh ta có mặt tại đó, song cả hai không có chung người quen nào.

Boling giảng dạy một số môn, trong đó có mảng Văn học khoa học viễn tưởng, cũng như một lớp học mang tên Máy tính và Xã hội. Ở trường đại học Boling dạy vài thứ mà theo như anh ta mô tả là những môn kỹ thuật chán ngắt. “Nửa toán, nửa công nghệ”. Vị giáo sư cũng làm tư vấn cho các tập đoàn.

Dance từng thẩm vấn những đối tượng thuộc nhiều ngành nghề khác nhau. Đa số thường biểu hiện rõ những dấu hiệu căng thẳng khi đề cập đến công việc của họ, biểu hiện phản ứng hoặc tâm trạng lo lắng trước đòi hỏi của công việc, hay thường gặp hơn là nỗi thất vọng về nó như lúc Boling nói về thung lũng Silicon. Nhưng lúc này biểu hiện ngôn ngữ cơ thể của anh ta, khi nói về nghề nghiệp hiện tại, hoàn toàn không có dấu hiệu căng thẳng.

Tuy vậy, Boling tiếp tục đánh giá thấp khả năng công nghệ của mình, khiến Dance cảm thấy thất vọng. Anh ta dường như có vẻ thông minh và rất sẵn sàng giúp đỡ khi đã lái xe tới đây gần như lập tức. Bản thân cô rất muốn tận dụng sự hợp tác của anh ta, song để xâm nhập vào máy tính của Tammy Foster dường như họ sẽ cần đến nhiều hơn là chỉ duy nhất một người với hiểu biết kỹ thuật cơ bản. Ít ra, cô hy vọng anh ta có thể giới thiệu ai đó.

Maryellen Kresbach bước vào, bê một khay đựng cà phê và bánh giòn. Với ngoại hình hấp dẫn, cùng mái tóc nâu được búi lại và các móng tay sơn Kevlar đỏ chót, trông bà giống như một ca sĩ nhạc đồng quê trong một bộ phim Viễn Tây[9]. “Bảo vệ ngoài cổng vừa gọi. Có người vừa mang chiếc máy tính từ bên văn phòng của Michael sang.”

[9. Tên gọi khác của phim Cao bồi, một thể loại phim kể về những câu chuyện tại miền Viễn Tây Hoa Kỳ trong khoảng thời gian nửa cuối thế kỷ XIX. Thể loại này thường mô tả sự xung đột giữa người da đỏ bản xứ và người định cư Mỹ.]

“Tốt. Chị có thể đưa nó vào đây.”

Maryellen dừng lại trong khoảnh khắc, và Dance chợt nảy ra ý nghĩ đầy thú vị rằng bà ta đang xem Boling như một đối tượng hẹn hò lãng mạn. Maryellen đã xúc tiến một chiến dịch không mấy âm thầm tế nhị nhằm tìm cho Dance một tấm chồng. Khi bà để mắt tới ngón đeo nhẫn bên tay trái vẫn trống không của vị khách và nhướng mày lên với cô, Dance dành cho bà ta một cái liếc mắt đầy ngao ngán, hành động đó được tiếp nhận và hoàn toàn bị phớt lờ tức thì.

Boling lên tiếng cảm ơn, sau khi thả ba viên đường vào tách cà phê của mình, anh quay sang đĩa bánh giòn và ăn hai cái. “Ngon. Không, hơn cả ngon nữa.”

“Chị ấy tự làm đấy.”

“Thật sao? Người ta vẫn làm vậy ư? Hóa ra không phải tất cả chúng đều chui ra từ một gói Keebler[10] sao?”

[10. Tên một loại bánh]

Dance ăn nửa mẩu bánh giòn và khoan khoái nhấp một ngụm cà phê, cho dù cô đã được cung cấp đủ lượng caffeine từ cuộc gặp trước với Michael O’Neil.

“Hãy để tôi cho anh biết chuyện gì đang xảy ra,” cô giải thích với Boling vụ tấn công nhằm vào Tammy Foster. Sau đó nói, “Chúng ta cần thâm nhập vào máy tính xách tay của cô bé.”

Boling gật đầu ra bộ hiểu. “À, cái máy tính đã bơi dưới Thái Bình Dương…”

“Nó đã bị nướng…”

Vị khách chữa lại, “Với nước sẽ giống món cháo yến mạch hơn nếu chúng ta lấy các món ăn sáng để ví von”.

Đúng lúc đó, một nhân viên điều tra trẻ tuổi của MCSO bước vào phòng làm việc của Dance, mang theo một túi giấy lớn. Anh ta có đôi mắt xanh sáng, trông khá bắt mắt và hào hứng, cho dù dễ mến hơn là đẹp trai, và trong một khoảnh khắc anh ta dường như định giơ tay chào. “Đặc vụ Dance?”

“Tôi đây.”

“Tôi là David Reinhold. Thuộc đội Điều tra Hiện trường của Sở Cảnh sát.”

Cô gật đầu. “Rất vui được gặp cậu. Cảm ơn cậu đã mang nó qua.”

“Có gì đâu. Tôi sẵn sàng làm bất cứ điều gì có thể.”

David và Boling bắt tay nhau. Sau đó anh chàng cảnh sát trẻ, mặc bộ đồng phục là phẳng phiu hoàn hảo, đưa túi giấy cho Dance. “Tôi không cho nó vào túi nilon. Để được thoáng gió một chút. Chúng tôi muốn hơi ẩm thoát ra ngoài càng nhiều càng tốt.”

“Cảm ơn,” Boling nói.

“Và tôi đã mạo muội tự tháo pin ra,” người cảnh sát trẻ nói. Anh ta giơ lên một ống kim loại được đậy kín. “Nó là một tấm pin lithium-ion. Tôi nghĩ nếu bị nước ngấm vào sẽ có nguy cơ gây cháy.”

Boling gật đầu, rất ấn tượng. “Suy nghĩ chu đáo lắm.”

Dance không rõ về điều vị khách đang nói đến. Boling nhận thấy cô cau mày và giải thích một số loại pin lithium, dưới các điều kiện nhất định, có thể bốc cháy lên khi tiếp xúc với nước.

“Cậu là dân mê máy tính?” Boling hỏi viên cảnh sát.

Anh ta đáp, “Cũng không hẳn. Chỉ là những thứ nhặt nhạnh học được, anh biết đấy.” Anh ta đưa một tờ biên nhận để Dance ký, sau đó chỉ vào tấm thẻ đăng ký bằng chứng được gắn vào túi. “Nếu có bất cứ điều gì khác tôi có thể làm, hãy gọi cho tôi,” David đưa cho cô danh thiếp của mình.

Cô cảm ơn người cảnh sát, và chàng trai trẻ ra về.

Dance lấy chiếc máy tính xách tay của Tammy ra khỏi túi. Vỏ máy có màu hồng.

“Màu mè thật đấy,” Boling vừa nói vừa lắc đầu. Anh ta lật ngược cái máy lên và xem phần đáy máy.

Dance hỏi anh ta, “Vậy anh biết ai đó có thể làm thứ này hoạt động và xem qua các tệp dữ liệu của cô bé chứ?”

“Tất nhiên. Tôi.”

“Ồ, tôi nghĩ anh vừa nói mình không còn cập nhật về công nghệ kịp thời nữa kia mà.”

“Cái này không phải là công nghệ, theo tiêu chuẩn ngày nay thì không,” Boling lại mỉm cười. “Nó cũng giống như thay lốp cho xe của cô thôi mà. Chỉ có điều tôi cần vài món dụng cụ.”

“Ở đây chúng tôi không có phòng thí nghiệm. Không có thứ gì phức tạp như mức độ có thể anh sẽ cần đến.”

“À, cái đó còn tùy. Tôi thấy cô sưu tập giày.”

Cửa tủ đồ của cô để mở, và hẳn Boling đã liếc mắt nhìn vào trong đó, nơi có cả tá giày được xếp tương đối thứ tự dưới sàn, dành cho những tối la cà đâu đó sau giờ làm mà không phải rẽ về qua nhà. Dance bật cười. Và đỏ mặt.

Boling tiếp tục, “Cô có dụng cụ chăm sóc cá nhân nào không?”

“Chăm sóc cá nhân?”

“Tôi cần một máy sấy tóc.”

Cô tặc lưỡi. “Buồn thật, mọi dụng cụ chăm sóc sắc đẹp của tôi đều đang ở nhà.”

“Vậy thì tốt hơn chúng ta nên đi mua sắm.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8


Trên thực tế, những thứ Jon Boling cần không chỉ có vậy. Cho dù không nhiều lắm.

Họ đã mang về sau chuyến mua sắm một chiếc máy sấy hiệu Conair, một bộ công cụ nhỏ và một hộp kim loại được gọi là hộp ổ cứng, chiều ngang khoảng bảy phân rưỡi, chiều dài khoảng mười ba phân, gắn với một đoạn dây kết nối dữ liệu.

Những thứ này đang nằm cả trên mặt bàn cà phê trong phòng làm việc của Dance tại CBI.

Boling khảo sát cấu trúc bên ngoài chiếc máy tính xách tay của Tammy Foster. “Tôi có thể tháo nó ra được không? Sẽ không làm hỏng bằng chứng nào đấy chứ?”

“Cái máy đã được phủ bụi để lấy dấu tay rồi. Tất cả dấu vân chúng tôi tìm thấy đều là của Tammy. Cứ thoải mái làm những gì anh muốn vì cô bé không phải là đối tượng tình nghi. Bên cạnh đó, nó đã nói dối tôi, thế nên không có lý do nào để phàn nàn được.”

“Màu hồng,” vị giáo sư lại thốt lên, như thể đó là một hành vi phá hoại tài sản nghiêm trọng.

Anh ta lật chiếc máy lại, dùng một chiếc tua vít đầu nhỏ kiểu Phillips, rồi tháo lớp vỏ ra khỏi đáy máy chỉ trong vài phút. Sau đó, anh ta lấy ra một vật be bé hình chữ nhật bằng kim loại và nhựa.

“Ổ cứng,” Boling giải thích. “Vào năm tới, cái này sẽ bị coi là quá to. Chúng ta sẽ dùng thẻ nhớ flash cho bộ xử lý trung tâm. Không cần ổ đĩa cứng vì không còn bộ phận chuyển động nào nữa.”

Chủ đề dường như làm Boling phấn khích song anh ta thấy ngay một bài lên lớp quả thực không hợp với tình cảnh lúc này, nên liền im lặng và tiếp tục xem xét ổ cứng kỹ lưỡng hơn. Không có vẻ gì cho thấy anh ta đeo kính áp tròng, vậy nên Dance, vốn phải đeo kính từ nhỏ, luôn cảm thấy có chút ghen tỵ trong lòng khi nhắc tới chủ đề đôi mắt.

Sau đó, vị giáo sư nhẹ nhàng lắc lắc ổ đĩa cạnh tai mình. “Ổn rồi.” Anh ta để nó xuống bàn.

“Ổn?”

Anh ta nở nụ cười toe toét khi lấy máy sấy tóc ra, cắm điện và phả một luồng hơi ấm nóng lên phía trên ổ đĩa. “Sẽ không mất nhiều thời gian đâu. Tôi nghĩ nó chưa bị ướt nhưng chúng ta không thể mạo hiểm. Điện và nước gặp nhau sẽ là thảm họa.” Boling dùng bàn tay rảnh rỗi còn lại cầm cốc cà phê lên nhấp một ngụm, rồi trầm ngâm, “Những người làm việc giảng dạy chúng tôi rất ghen tỵ với lĩnh vực tư nhân, cô biết đấy.”

Lĩnh vực tư nhân - đó là cách diễn đạt thời thượng của khái niệm thực sự kiếm ra tiền. Anh ta hất hàm về phía cốc cà phê.

“Starbuck chẳng hạn... Cà phê là một ý tưởng khá hay cho một cuộc đầu tư. Tôi đang tìm kiếm cơ hội lớn tiếp theo. Nhưng tất cả những gì tôi có thể nghĩ đến là mấy thứ đại loại như House O’Pickles và Jerky World. Các thương hiệu đồ uống là tuyệt nhất, song tất cả những thương hiệu tốt đều đã bị mua cả rồi.”

“Có thể là một cửa hàng bán sữa,” Dance gợi ý. “Anh sẽ gọi nó là Elsie’s.”

Mắt anh ta sáng lên. “Nếu gọi nó với cái tên Chỉ Là Nơi Dưới Vú thì sao nhỉ?”

“Như thế thì kinh quá,” cô nói trong khi hai người cũng bật cười trong chốc lát.

Khi đã hoàn tất việc sấy khô ổ đĩa, anh ta cho nó vào hộp ổ cứng, sau đó cắm dây USB vào máy tính xách tay của chính mình, một chiếc máy có màu xám nghiêm chỉnh hơn, hẳn nhiên là sắc màu những chiếc máy tính nên có.

“Tôi rất tò mò muốn biết anh đang làm gì,” cô dõi theo những ngón tay tự tin của Boling gõ lên bàn phím. Rất nhiều chữ cái trên ấy đã mòn gần hết. Anh ta gõ mà không cần phải nhìn vào chúng.

“Nước hẳn đã làm máy tính bị đoản mạch, nhưng ổ cứng ở bên trong thì chắc vẫn ổn. Tôi sẽ biến nó thành một ổ đĩa di động.”

Sau vài phút, anh ta ngước lên và mỉm cười.

“Không sao cả, nó vẫn ngon lành như mới.”

Dance kéo ghế lại gần hơn.

Cô đưa mắt nhìn lên màn hình và thấy Window Explorer đã nhận được ổ cứng của Tammy dưới tên Local Disk (G).

“Nó sẽ chứa đựng bên trong tất cả mọi dữ liệu - thư tín điện tử của Tammy, những trang web cô bé từng xem qua, những địa chỉ ưa thích, bản sao lưu các bình luận trên mạng, thậm chí những dữ liệu đã bị xóa. Ổ cứng không hề bị mã hóa hay đặt mật khẩu, điều này cho tôi biết bố mẹ cô bé rất ít can thiệp vào cuộc sống của con gái họ. Những cô cậu bị bố mẹ để mắt sát sao đều học cách sử dụng đủ loại mánh khóe để bảo vệ không gian riêng tư. Mà nhân thể nói luôn, bẻ khóa cũng là nghề của tôi.”

Anh ta tháo ổ đĩa ra khỏi máy tính của mình, rồi đưa nó và cả dây cáp cho Dance.

“Tất cả là của cô. Chỉ cần cắm vào máy tính và thoải mái đọc tâm tình từ trái tim cô bé.” Boling nhún vai. “Lần đầu cộng tác của tôi với cảnh sát... ngắn ngủi nhưng ngọt ngào.”

Kathryn Dance cùng một người bạn sở hữu và điều hành một trang web âm nhạc tự chế tác và truyền thống. Cấu trúc của trang này khá phức tạp về mặt kỹ thuật, song Dance biết rất ít về phần cứng và phần mềm, vậy nên họ để chồng của bạn cô phụ trách phần công việc đó. Lúc này cô nói với Boling, “Anh biết đấy, nếu không quá bận rộn thì liệu anh có thể nán lại chút nữa được không? Giúp tôi tìm kiếm chúng?”

Boling do dự.

“Thôi được, nếu anh đã có kế hoạch...”

“Chúng ta đang bàn tới thời gian bao lâu đây nhỉ? Tôi cần phải có mặt ở Napa tối thứ Sáu. Một kiểu họp mặt gia đình.”

Dance nói, “Ồ, không lâu đến thế đâu. Chỉ vài giờ thôi. Cùng lắm là một ngày.”

Mắt anh ta lại sáng lên. “Rất sẵn lòng. Với tôi mỗi câu đố luôn là một liều thuốc kích thích... Nào, bây giờ tôi cần tìm thứ gì?”

“Bất cứ manh mối nào về danh tính kẻ tấn công Tammy.”

“Ồ, Mật mã Da Vinci[1].”

[1. Tên cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Dan Brown, tập thứ 2 trong loạt tiểu thuyết về nhân vật Robert Langdon.]

“Hãy hy vọng là nó không hóc búa đến thế, và cho dù có tìm thấy được gì, thứ đó cũng sẽ không khiến chúng ta bị đình trệ đâu... Tôi quan tâm tới bất cứ mối liên hệ nào có vẻ đe dọa. Tranh luận, cãi cọ, bình luận về những kẻ quấy rối. Liệu những lời trao đổi trên mạng có được lưu lại trong đó không?”

“Chỉ những mảnh rời rạc. Chúng ta có thể hệ thống lại phần lớn chúng,” Boling cắm ổ cứng trở lại vào máy tính của mình và bắt đầu vươn người ra trước.

“Sau đó đến các trang mạng xã hội,” Dance nói. “Bất cứ điều gì liên quan tới các vật tưởng niệm ven đường hay những cây thập tự.”

“Vật tưởng niệm?”

Cô giải thích, “Chúng tôi nghĩ thủ phạm để lại một cây thập tự ở ven đường nhằm báo trước vụ tấn công.”

“Quả là bệnh hoạn,” Boling bắt đầu gõ những ngón tay trên bàn phím. Trong lúc gõ, anh hỏi, “Sao cô lại nghĩ máy tính của cô bé chính là câu trả lời?”

Dance giải thích về cuộc thẩm vấn Tammy Foster.

“Cô tìm hiểu được tất cả những điều đó chỉ từ ngôn ngữ cơ thể của cô bé?”

“Đúng thế.”

Cô giải thích cho Boling biết về ba phương cách giao tiếp của con người. “Thứ nhất, qua nội dung lời nói - những gì chúng ta nói. Đó là ý nghĩa của bản thân các từ. Song nội dung lại là thứ ít tin cậy và dễ dàng bị giả mạo nhất, trên thực tế nó chỉ góp một phần rất nhỏ vào phương thức chúng ta gửi thông điệp cho nhau. Phương thức thứ hai và thứ ba quan trọng hơn nhiều: Chất lượng lời nói - cách thức chúng ta nói ra những từ đó. Đó có thể là cao độ của giọng nói, tốc độ nói nhanh hay chậm, chúng ta có dừng lại giữa chừng và dùng đến “ừm” thường xuyên không. Và sau đó, phương thức thứ ba, đó là ngôn ngữ cơ thể - hành vi của cơ thể chúng ta. Cử động, liếc mắt, hít thở, tư thế, kiểu cách. Hai phương thức sau là những gì người thẩm vấn quan tâm hơn cả, vì chúng biểu lộ nhiều thông tin hơn hẳn so với nội dung lời nói.”

Boling đang mỉm cười. Dance nhướng một bên mày lên.

Vị giáo sư giải thích. “Cô có vẻ cũng đầy phấn khích với công việc của mình không kém gì...”

“Anh và bộ nhớ flash của anh.”

Anh ta gật đầu. “Phải. Chúng là những gã bé nhỏ thật đáng kinh ngạc... ngay cả khi chúng có màu hồng.”

Boling tiếp tục gõ bàn phím và lướt qua hết trang này tới trang khác nội dung trong ổ cứng máy tính của Tammy, nhẹ nhàng nói, “Hoàn toàn điển hình cho một cô bé vị thành niên. Các cậu con trai, quần áo, trang điểm, tiệc tùng, một ít về trường học, phim ảnh và âm nhạc... không có chút đe dọa nào.”

Anh ta hối hả lướt qua vài màn hình nữa.

“Cho đến giờ, hoàn toàn không có gì với các thư điện tử, ít nhất là những thư trao đổi trong vòng hai tuần vừa qua. Tôi có thể lùi lại kiểm tra những thư có từ trước nữa nếu cần. Bây giờ, có vẻ Tammy góp mặt trên mọi trang mạng xã hội lớn - Facebook, MySpace, OurWorld, Second Life.”

Cho dù Boling hiện không kết nối Internet, anh ta vẫn có thể lấy ra và đọc lại những trang web gần đây Tammy đã đọc.

“Đợi đã. Đợi đã... Được rồi,” anh ta đang chồm người về phía trước, cứng nhắc.

“Cái gì vậy?”

“Cô bé suýt nữa bị chết đuối đúng không?”

“Đúng thế.”

“Vài tuần trước, cô bé và vài người bạn đã bắt đầu một cuộc bàn luận trên OurWorld về việc điều gì làm họ thấy sợ nhất. Một trong những nỗi sợ hãi lớn nhất của Tammy là bị chết đuối.”

Khuôn miệng Dance đanh lại. “Có thể hắn đã cố ý lựa chọn cái chết đó cho cô bé.”

Bằng giọng bất bình đến mức đáng ngạc nhiên, Boling nói, “Chúng ta để lộ ra quá nhiều thông tin về bản thân trên mạng. Quá quá nhiều. Cô biết khái niệm “escribitionist[2]” không?”

[2. Một từ mới hình thành năm 1999 để nói về những người thích viết nhật ký trên mạng.]

“Không hề.”

“Những người hay viết blog về chính bản thân mình,” một nụ cười chua chát xuất hiện. “Có thể nói là không tồi, phải không nào? Và rồi còn cả ‘dooce’ nữa.”

“Cái đó cũng mới.”

“Một động từ. Chẳng hạn ‘Tôi đã bị dooce’. Có nghĩa là bị đuổi việc vì những gì cô đã đăng lên blog của mình, cho dù đó là những chuyện về bản thân cô, sếp hay công việc của cô. Một phụ nữ ở Utah đã nghĩ ra từ này. Cô ta đã đăng chuyện gì đó liên quan tới chủ của mình và bị cho thôi việc. Nhân tiện nói luôn, “dooce” xuất phát từ phát âm sai “dude[3]”. À, và còn có cả “pre-dooce” nữa chứ.”

[3. Anh chàng (tiếng long Mỹ).]

“Là gì vậy?”

“Cô nộp đơn xin việc và người phỏng vấn hỏi cô, ‘Cô đã bao giờ viết gì về sếp cũ của cô trên một blog chưa?’. Tất nhiên, họ đã biết trước câu trả lời. Họ muốn chờ xem cô có thành thật hay không. Và nếu cô có đăng gì không mấy hay ho thì sao? Cô đã bị loại khỏi danh sách ứng viên được cân nhắc ngay từ trước buổi đánh răng sáng hôm đó.”

Quá nhiều thông tin. Quá quá nhiều…

Boling tiếp tục gõ nhanh như chớp. Cuối cùng anh ta nói, “À, tôi nghĩ vừa tìm thấy gì đó.”

“Gì vậy?”

“Tammy đăng một bình luận trên một blog vài ngày trước. Biệt danh trên mạng của cô bé là TamF1339,” Boling xoay máy tính lại để Dance đọc.



Trả lời Chilton, do TamF1339 đăng.

[Người lái xe] thật kỳ quái, ý tôi là nguy hiểm. Một lần sau khi đội hoạt náo viên luyện tập, hắn nấn ná bên ngoài phòng thay đồ của bọn tôi, cứ như thể định ngó vào trong và cố gắng chụp ảnh bằng điện thoại của mình. Tôi đi tới chỗ hắn và hỏi đại loại, anh đang làm gì ở đây, hắn trừng mắt như thể sắp giết tôi vậy. Thật đúng là một tên đáng tởm. Tôi biết một cô gái đã từng [bị xóa] cùng bọn tôi, và cô ấy kể với tôi [người lái xe] đã chộp lấy ngực mình, chỉ có điều cô ấy sợ không dám nói gì vì lo hắn sẽ tìm ra cô hay bắt đầu nã đạn vào những người khác, giống như vụ thảm sát ở Đại học Bách khoa Virginia.



Boling nói thêm, “Điều đáng quan tâm là cô bé đăng đoạn này trong một blog mang tên Những cây thập tự ven đường.”

Nhịp tim của Dance tăng lên chút ít. Cô hỏi, “[Người lái xe] là ai vậy?”

“Không rõ. Cái tên này bị xóa đi khỏi mọi bình luận.”

“Một blog à?”

“Đúng thế,” Boling bật cười khẽ và nói, ”Những cây nấm.”

“Các blog chính là những cây nấm của Internet. Chúng mọc lên khắp nơi. Vài năm trước, tất cả mọi người ở Thung lũng Silicon còn tự hỏi phát kiến lớn tiếp theo trong thế giới mạng là gì. Vậy đấy, hóa ra đó lại chẳng phải một loại phần cứng hay phần mềm mang tính cách mạng, mà là những nội dung xuất hiện trên mạng: trò chơi, các trang mạng xã hội... và các blog. Bây giờ cô không thể viết gì về máy tính mà không nghiên cứu chúng. Nơi Tammy đăng bình luận là website Bản tin Chilton[4].”

[4. The Chilton Report: trang web do James Chilton lập ra để trao đổi với mọi người quan điểm của ông ta với những vấn đề chính trị, xã hội.]

Dance nhún vai. “Tôi chưa bao giờ nghe nói đến nó.”

“Tôi thì có. Chỉ mang tính địa phương song rất nổi tiếng trong giới viết blog. Nó cũng giống như một Matt Drudge[5] đóng đô tại California vậy, chỉ có điều cực đoan hơn. Jim Chilton đúng là một nhân vật có tính cách khác người.” Anh ta tiếp tục, “Chúng ta hãy thử lên mạng và tìm hiểu xem.”

[5. Matthew Nathan “Matt” Drudge: Người sáng lập và biên tập Drudge Report, một trang web tin tức.]

Dance lấy máy tính xách tay của mình từ bàn làm việc. “Địa chỉ là gì vậy?” cô hỏi.

Boling cung cấp địa chỉ cho cô.

http://www.thechiltonreport.com

Anh ta kéo ghế của mình lại gần và hai người cùng nhau đọc qua trang chủ.



BẢN TIN CHILTONTM

Tiếng nói đạo đức của nước Mỹ. Một nơi tập hợp những suy ngẫm về những gì bất ổn tại đất nước này... và những gì vẫn ổn.



Dance tặc lưỡi. “‘Những gì đang yên ổn.’ Thông minh đấy. Chắc ông ta theo phái Moral Majority[6], bảo thủ, tôi đoán vậy.”

[6. Một tổ chức chính trị tại Mỹ thành lập năm 1979 ủng hộ các giá trị đạo Ki tô giáo bảo thủ, chỉ trích suy đồi đạo đức trong xã hội Mỹ.]

Boling lắc đầu. “Từ những gì tôi biết, ông ta có vẻ khá hơn là cắt và dán[7].”

[7. Nghĩa là chỉ biết sao chép lại ý tưởng của người khác.]

Dance nhướng một bên mày lên.

“Ý tôi là ông ta biết chọn lọc và lựa chọn quan điểm cho mình. Ông ta thiên hữu hơn thiên tả, song sẵn sàng tấn công bất cứ ai không đáp ứng được những tiêu chuẩn của mình về đạo đức, nguyên tắc hay trí tuệ. Đó là một trong những mục đích của các blog, tất nhiên rồi: Làm khuấy động mọi thứ. Những gì gây tranh cãi đều được mổ xẻ.”

Phía dưới là lời chào dành cho người đọc.



Độc giả thân mến...

Cho dù bạn ghé vào đây vì bạn là một thành viên đã đăng ký, một người hâm mộ hay chỉ đơn giản tình cờ đang lướt web và bắt gặp từ Bản tin, thì cũng xin chào mừng bạn.

Cho dù bạn có quan điểm ra sao trong các vấn đề chính trị và xã hội, tôi hy vọng bạn sẽ tìm thấy điều gì đó từ những suy ngẫm của tôi tại đây, những điều ít nhất cũng sẽ khiến bạn đặt câu hỏi, làm bạn ngờ vực, làm bạn muốn biết nhiều hơn.

Vì đó là tất cả những gì nghề báo chí được sinh ra để thực hiện.

- James Chilton



Phía dưới nữa là: “Công bố sứ mệnh”.



CÔNG BỐ SỨ MỆNH CỦA CHÚNG TÔI

Chúng ta không thể đưa ra phán quyết một cách vô căn cứ. Liệu giới kinh doanh, chính phủ và các chính trị gia tham nhũng cũng như những kẻ tội phạm, những kẻ đồi bại có thành thật về những gì bọn họ đang nhắm đến không? Tất nhiên là không. Công việc của chúng tôi tại Bản tin là soi ánh sáng sự thật vào bóng tối của lừa dối và tham lam, đem đến cho các bạn những tham chiếu để đưa ra những quyết định về những vấn đề cấp bách trong ngày.



Dance cũng tìm thấy một bản tiểu sử tóm tắt của Chilton, rồi sau đó là một mục về tin cá nhân. Cô đưa mắt xem qua danh mục.



TRÊN SN NHÀ

ĐỘI NHÀ TIẾN LÊN!

Tôi rất hạnh phúc được nói rằng sau trận đấu cuối tuần này, đội Chàng Trai Lớn đã thắng 4-0! Tiến lên, Jayhawks[8]! Bây giờ, các bậc phụ huynh: Hãy nghe tôi. Con cái các vị nên từ bỏ bóng chày và bóng đá để chơi túc cầu, môn thể thao đồng đội an toàn và có lợi cho sức khỏe nhất. (Hãy xem Bản tin Chilton ngày Mười hai, tháng Tư để biết các bình luận của tôi về chấn thương thể thao trong giới trẻ.) Và nhân tiện đây, hãy đảm bảo các vị gọi nó là “túc cầu”[9], chứ không phải là “bóng đá” như những người ngoại quốc vẫn gọi. Khi ta ở Mỹ, hãy làm như người Mỹ!

[8. Tên gọi những người Mỹ đầu tiên di cư đến California nửa đầu thế kỷ 19.

9. Người Mỹ gọi bóng đá là “soccer”, còn “football” là bóng bầu dục kiễu Mỹ.]



MỘT NGƯỜI ÁI QUỐC

Hôm qua, Chàng Trai Nhỏ đã làm khán giả có mặt trong cuộc biểu diễn tại trại hè ban ngày của mình phải ngỡ ngàng khi hát “Nước Mỹ tươi đẹp”. Hoàn toàn một mình! Làm một ông bố tràn ngập tự hào.



AI CÓ ĐỀ XUẤT GÌ KHÔNG?

Chúng tôi sắp đến dịp kỷ niệm mười chín năm ngày cưới, Pat và tôi. Và tôi cần các ý tưởng cho chuyện mua quà! (Xuất phát từ lợi ích bản thân, tôi đã quyết định không dành cho cô ấy việc nâng cấp cáp quang truyền dẫn tốc độ cao cho máy tính!) Các quý bà ở ngoài kia, hãy gửi cho tôi ý tưởng của các vị. Và, không, dứt khoát không có chuyện nhắc tới Tiffany’s[10].

[10. Một thương hiệu đố nũ trang cao cấp.]



CHÚNG TA ĐANG BƯỚC RA TOÀN CẦU!

Tôi rất vui được thông báo Bản tin đã nhận được sự tán thưởng từ khắp nơi trên thế giới. Nó đã được lựa chọn làm một trong những blog ưu tiên đầu bảng trên một trang web chuyên cung cấp chức năng RSS mới (được viết tắt từ cụm từ “Really Simple Syndication”[11]) sẽ kết nối tới hàng nghìn blog, trang web và bảng tin trên khắp thế giới. Vinh quang thuộc về các bạn, những độc giả của tôi, vì đã giúp Bản tin trở nên được ưa thích như vậy.

[11. Really Simple Syndication (RSS). Dịch vụ cung cấp thông tin dựa theo chuẩn XML. Mỗi tin RSS sẽ hiện thị tiêu đề và đường dẫn nối đến trang web chứa nội dung đầy đủ của tin tức.]

...

CHÀO MỪNG VỀ NHÀ

Tôi vừa nghe được một tin vui. Những ai trong các bạn theo dõi sát Bản tin có lẽ còn nhớ loạt bài bình luận sinh động trong suốt những năm qua từ người bạn thân làm báo khiêm nhường Donald Hawken. Chúng tôi đã cùng đi tiên phong trong thế giới máy tính điên rồ này rất nhiều năm, đến mức tôi không thích nghĩ đến chuyện đó nữa. Donald đã từng đào tẩu khỏi khu Bán đảo Monterey để tìm đến những đồng cỏ xanh tươi hơn tại San Diego. Nhưng tôi rất vui mừng được nói rằng anh đã thức tỉnh và quay trở lại, cùng cô dâu Lily, và hai đứa con tuyệt vời. Chào mừng về nhà, Donald!



NHỮNG ANH HÙNG

Xin ngả mũ cúi chào trước những người lính cứu hỏa quả cảm của hạt Monterey... Pat và tôi tình cờ có mặt ở trung tâm thành phố Alvarado hôm thứ Ba tuần trước khi những lời kêu cứu vọng đến và khói bốc lên ngùn ngụt từ một công trường xây dựng. Lửa chặn mất lối ra... trong khi còn hai công nhân xây dựng mắc kẹt tại các tầng trên. Chỉ trong vòng vài phút, hơn hai mươi lính cứu hỏa, cả nam và nữ, đã có mặt tại hiện trường và một chiếc xe cứu hỏa đã đưa thang lên tận nóc nhà. Những người công nhân được cứu thoát khỏi vòng nguy hiểm, đám cháy được dập tắt. Không ai bị thương, thiệt hại ở mức tối thiểu.

Trong phần lớn cuộc đời của chúng ta, lòng can đảm thường không mấy khi đi xa hơn những bàn luận các vấn đề chính trị, hay ở mức độ thể chất cao hơn, lặn với ống thở ở các khu nghỉ dưỡng cao cấp hay đi xe đạp địa hình trên núi.

Thật hiếm khi chúng ta bị đòi hỏi phải thể hiện lòng can đảm thực thụ, như cách những người đàn ông và phụ nữ ở đội cứu hỏa và cứu hộ hạt Monterey vẫn làm hàng ngày mà không một giây do dự hay phàn nàn.

Hoan hô các bạn!



Kèm theo bài bình luận này là tấm ảnh thật ấn tượng chụp một chiếc xe cứu hỏa giữa trung tâm Monterey.

“Điển hình của các blog,” Boling nói. “Thông tin cá nhân, những chuyện đồn thổi. Người ta thích đọc những thứ này.”

Dance bấm chuột vào một đường dẫn đến tiêu đề “Monterey.”

Cô được đưa tới một trang tán dương. “Nhà của chúng ta - Bán đảo Monterey xinh đẹp và giàu truyền thống lịch sử”, có đăng những bức ảnh nghệ thuật chụp bờ biển cùng những con thuyền gần Cannery Row[12] và Fisherman’s Wharf[13]. Vài liên kết đến một số trang về những thắng cảnh địa phương.

[12. Đường phố chạy men theo bờ biển ở Monterey.

13. Từng là khu chợ cá nhộn nhịp ở Monterey những năm 1960, hiện nay trở thành điểm du lịch.]

Một đường dẫn khác đưa họ tới các bản đồ khu vực, trong đó có bản đồ thành phố nơi cô đang sống: Pacific Grove.

Boling nói, “Đây toàn là những thứ hào nhoáng vô dụng. Hãy tìm hiểu nội dung blog... đó là nơi chúng ta sẽ tìm thấy được các manh mối.” Anh ta cau mày. “Cô có gọi chúng là ‘manh mối’ không? Hay ‘bằng chứng’?”

“Anh có thể gọi là ‘bông cải xanh’ cũng được nếu nó giúp chúng tôi tóm được thủ phạm.”

“Hãy cùng xem các loại rau củ hé lộ điều gì.” Anh cung cấp cho cô một đường dẫn nữa.

http://www.thechiltonreport.com/html/june26.html

Đây chính là phần trung tâm của blog: Những bài tiểu luận do Chilton chắp bút.

Boling giải thích, “Bài viết của Chilton chính là OP[14], bài mở màn. Cách gọi này, nếu cô quan tâm, có nguồn gốc từ OG[15] - gangster cựu trào - cách gọi dành cho những tay trùm băng nhóm, giống như Bloods và Crips[16] vậy. Có nghĩa là ông ta mở đầu chủ đề bằng các bình luận của mình và để cho mọi người chia sẻ. Họ có thể tán thành hay phản đối. Đôi lúc họ còn đi hoàn toàn lạc đề.”

[14. Viết tắt của Orignial Poster.

15. Viết tắt của Orignial Gangsta.

16. Những băng nhóm gangster nổi tiếng của Los Angeles.]

Dance nhận thấy bài bình luận của Chilton nằm ở trên cùng, và phía dưới là những phần trả lời. Hầu hết mọi người đều hồi đáp thẳng vào bình luận của chủ blog, nhưng đôi lúc họ lại trả lời nhận xét của những người đăng khác.

“Mỗi bài viết riêng biệt cùng những phần đăng liên quan đến nó được gọi là một chủ đề,” Boling giải thích. “Đôi khi các chủ đề có thể tiếp diễn trong hàng tháng trời, thậm chí là hàng năm.”

Dance bắt đầu tìm lướt. Dưới tiêu đề HypoCHRISTcy[17], Chilton đã tấn công đúng nhân vật Dance vừa thấy ở bệnh viện, ông mục sư Fisk, cùng phong trào Ưu tiên Sự sống. Dường như Fisk từng có lần nói việc xử tử những bác sĩ hành nghề phá thai là hành động hoàn toàn chính đáng. Chilton viết ông ta cực lực phản đối phá thai, nhưng chỉ trích Fisk vì lời phát ngôn đó. Hai người bênh vực Fisk, CrimsoninChrist và LukeB1734, tấn công Chilton cực kỳ cay nghiệt. Người thứ nhất nói vị chủ blog đáng phải bị đóng đinh lên thập tự. Màu đỏ thẫm được nhắc tới trong biệt danh của nhân vật này khiến Dance tự hỏi: Liệu CrimsoninChrist có phải là tay vệ sĩ to con tóc đỏ của ông mục sư cô đã trông thấy lúc trước trong cuộc biểu tình phản đối ở bệnh viện không.

[17. Chilton chơi chữ bằng cách ghép Christ (Chúa) và Hypocrisie (đạo đức giả).]

Chủ đề Năng lượng cho nhân dân là bài chỉ trích một hạ nghị sĩ của Tiểu bang California - Brandon Klevinger, chủ tịch Ủy ban các nhà máy điện Hạt nhân. Chilton phát hiện được rằng Klevinger đã đi đánh golf với gã chủ dự án đang đề nghị xây dựng một nhà máy điện hạt nhân gần Mendocino, trong khi đáng lẽ chi phí sẽ rẻ và hiệu quả hơn nếu xây nó gần Sacramento.

Trong Khử mặn... và tàn phá, chủ blog đề cập đến kế hoạch xây dựng một nhà máy khử mặn nước biển gần sông Carmel. Bài bình luận chứa đựng cả những lời chỉ trích cá nhân người đứng đằng sau dự án, Arnold Brubaker, được Chilton mô tả như một kẻ không mời mà đến từ Scottsdale, Arizona, một nhân vật có quá khứ bất hảo và nhiều khả năng dính dáng tới cả thế giới ngầm.

Hai trong số các bài bình luận được đăng thể hiện hai quan điểm của các công dân về vấn đề khử mặn nước biển.



Trả lời Chilton, do Lyndon Strickland đăng.

Phải nói rằng ông đã giúp tôi mở mắt trước vấn đề này. Tôi không hề biết có người đang mưu toan thực hiện trò nguy hiểm đó. Tôi đã xem lại hồ sơ đề xuất tại Phòng Kế hoạch của hạt, và dù là một luật sư quen thuộc với các vấn đề môi trường thì đây cũng là một trong những mớ hồ sơ mơ hồ khó hiểu nhất tôi từng đọc qua. Tôi nghĩ chúng ta cần nhiều chứng cứ minh bạch hơn nữa để có thể tranh luận một cách có ý nghĩa về vấn đề này.



Trả lời Chilton, do Howard Skelton đăng.

Ông có biết nước Mỹ sẽ hết nước ngọt vào năm 2023 không? Và 97% nước trên trái đất là nước nhiễm mặn. Chỉ có kẻ ngốc mới không tận dụng nó. Chúng ta cần khử mặn nước biển vì sự sống còn của chính chúng ta, nếu muốn tiếp tục duy trì vị thế của mình là đất nước năng suất và hiệu quả nhất thế giới.



Trong bài Con đường lát gạch vàng[18], Chilton nói về một dự án của Sở Giao thông tiểu bang - Caltrans. Một tuyến xa lộ mới đã được khởi công từ Xa lộ 1 qua Salinas và chạy tiếp tới Hollister, đi qua khu trang trại. Chilton đang đặt nghi vấn về việc dự án được phê chuẩn với tốc độ chóng vánh, cũng như tuyến đường ngoằn ngoèo hứa hẹn sẽ đem đến cho một số chủ trại lợi ích lớn hơn hẳn so với những người khác. Ông ta ám chỉ đến chuyện hối lộ.

[18. Nhắc đến con đường trong truyện Phù thuỷ xứ Oz của L.Frank Baum.]

Quan điểm xã hội bảo thủ của Chilton thể hiện rõ ràng trong Hãy chỉ nói Không, một bài chỉ trích đề xuất tăng cường giáo dục giới tính ở trường Trung học cơ sở - Chilton kêu gọi nên tránh quan hệ tình dục ở lứa tuổi này. Một thông điệp tương tự có thể thấy tại Bị bắt quả tang... KHÔNG, bình luận về một thẩm phán tòa án tiểu bang đã có gia đình bị bắt quả tang rời khỏi nhà nghỉ cùng một nhân viên trẻ chỉ bằng nửa tuổi ông ta. Chilton bực bội trước diễn biến gần đây khi ông thẩm phán chỉ bị Hội đồng đạo đức tư pháp nhắc nhở qua loa. Tác giả cảm thấy ông này nên bị bãi chức và tước giấy phép hành nghề luật sư.

Kathryn Dance sau đó bắt gặp chuỗi bài cô quan tâm, nằm dưới một bức ảnh buồn chụp hai cây thập tự, những bông hoa và một con thú nhồi bông.



NHỮNG CY THẬP TỰ VEN ĐƯỜNG

Đăng bởi Chilton.

Mới đây tôi vừa lái xe qua địa điểm trên Xa lộ 1 nơi có hai cây thập tự ở ven đường cùng mấy bó hoa tươi thắm. Chúng đánh dấu nơi xảy ra vụ tai nạn khủng khiếp hôm mùng Chín, tháng Sáu, nơi hai cô gái bị chết sau một bữa tiệc mừng tốt nghiệp. Những cuộc đời kết thúc... kéo theo cuộc đời những người thân yêu và bè bạn thay đổi mãi mãi.

Tôi nhận ra mình không nghe thấy gì nhiều về bất cứ cuộc điều tra nào của cảnh sát đối với vụ tai nạn. Tôi đã gọi vài cuộc điện thoại và biết được không ai bị bắt giữ. Thậm chí chẳng có lấy mẫu giấy triệu tập điều trần trước tòa nào được gửi đi.

Tôi thấy thật lạ. Đến lúc này, không lệnh bắt có nghĩa là đã khẳng định được người lái xe là một sinh viên - không tên - không có lỗi. Thế thì đâu là nguyên nhân của tai nạn? Trong khi tôi lái xe qua đoạn đường này, tôi thấy nó khá lộng gió, đầy cát và không hề có đèn chiếu sáng hay rào chắn an toàn hai bên đường. Một biển báo nguy hiểm đã bị thời tiết bào mòn và khó lòng thấy rõ trong bóng tối (tai nạn xảy ra lúc nửa đêm). Không hề có hệ thống thoát nước vì tôi có thể thấy từng vũng nước đọng bên vệ đường và ngay cả trên xa lộ.

Tại sao cảnh sát không dựng lại hiện trường tai nạn thật tỉ mỉ (tôi đã tìm hiểu và biết được là họ có người để làm việc này)? Tại sao Caltrans không ngay lập tức cử một đội đến kiểm tra mặt đường, rào chắn an toàn, biển báo? Tôi không tìm thấy bất cứ báo cáo nào về một cuộc kiểm tra như thế.

Có thể con đường vẫn an toàn ở mức có thể trông đợi.

Nhưng liệu có công bằng với chúng ta hay không - những người có con cái thường xuyên lái xe qua đó - khi các nhà chức trách lãng quên bi kịch xảy ra nhanh đến thế? Với tôi, dường như sự chú ý của họ đã phai nhạt còn nhanh hơn những bông hoa buồn bã nằm dưới những cây thập tự ven đường đó.



Trả lời Chilton, do Ronald Kestler đăng.

Nếu ông nhìn vào tình trạng ngân sách ở hạt Monterey và trong tiểu bang nói chung, ông sẽ thấy một lĩnh vực phải chịu hậu quả từ tình trạng kinh tế tồi tệ của chúng ta là việc cung cấp đủ các biện pháp cảnh báo theo các tuyến xa lộ có nguy cơ cao. Con trai tôi đã chết trong một vụ tai nạn trên Xa lộ 1 vì biển báo cua gấp đã bị bùn phủ lên che kín. Hẳn những người làm việc bảo dưỡng đường cho tiểu bang có thể dễ dàng phát hiện ra và lau sạch cái biển báo, nhưng họ có làm vậy không? Không. Sự tắc trách của họ là không thể tha thứ. Cảm ơn ông, ông Chilton, vì đã kêu gọi sự chú ý tới vấn đề này.



Trả lời Chilton, do một công dân quan ngại đăng.

Công nhân làm việc bảo dưỡng xa lộ kiếm được những khoản tiền phi lý và ngồi ỳ ra trên những cái [đã xóa] béo phị của bọn họ cả ngày. Ông đã thấy, mọi người cũng đã thấy, họ đứng bên đường chẳng chịu làm gì trong khi cần phải sửa chữa những đoạn xa lộ nguy hiểm và đảm bảo chúng ta được an toàn. Thêm một ví dụ nữa về những đồng tiền thuế của chúng ta KHÔNG được sử dụng hữu ích.



Trả lời Chilton, do Robert Garfield, Sở Giao thông của California, đăng.

Tôi muốn cam đoan với ông và các độc giả của ông rằng sự an toàn cho các công dân nước ta chính là ưu tiên hàng đầu của Caltrans. Chúng tôi đã nỗ lực hết mức để duy trì các tuyến xa lộ tiểu bang chúng ta trong tình trạng tốt. Đoạn đường nơi xảy ra vụ tai nạn mà ông nhắc đến, cũng giống như tất cả các tuyến xa lộ nằm dưới quyền quản lý của tiểu bang, vẫn thường xuyên được kiểm tra. Không có vi phạm hay tình trạng mất an toàn nào được phát hiện. Chúng tôi khẩn thiết kêu gọi các lái xe hãy nhớ an toàn xa lộ ở California là trách nhiệm của tất cả mọi người.



Trả lời Chilton, do Tim Concord đăng.

Bài viết của ông là THẮNG LỢI LỚN LAO, Chilton! Cảnh sát sẽ lờ đi cả án mạng nếu chúng ta để mặc họ! Tôi bị buộc táp vào lề trên đường 68 vì là người gốc Phi. Cảnh sát bắt tôi ngồi trên mặt đất nửa giờ trước khi họ cho tôi đi và không thèm nói cho tôi biết tôi đã làm gì sai, ngoại trừ một cái đèn bị hỏng. Chính quyền cần bảo vệ tính mạng con người chứ không phải quấy quả những công dân lương thiện.

Cảm ơn.



Trả lời Chilton, do Ariel đăng.

Hôm thứ Sáu, tôi và bạn tôi tới xem nơi tai nạn xảy ra, và chúng tôi đã khóc khi trông thấy những cây thập tự và hoa ở đó. Chúng tôi ngồi đấy, đưa mắt nhìn quanh khắp xa lộ và thấy rằng không hề có cảnh sát, ý tôi là không một ai! Ngay sau khi vụ tai nạn thương tâm xảy ra! Cảnh sát đã ở đâu? Và có thể đã không hề có biển báo nguy hiểm hay mặt đường trơn trượt, nhưng nhìn qua trông nó có vẻ khá an toàn với tôi, cho dù đúng là có nhiều cát.



Trả lời Chilton, do SimStud đăng.

Tôi lái xe qua đoạn đường đó thường xuyên, và chỗ đó không phải là địa điểm nguy hiểm nhất trên thế giới, vì thế điều tôi băn khoăn là liệu cảnh sát có thực sự điều tra về kẻ ngồi sau tay lái hay không, tôi biết [người lái xe] từ khi còn đi học, và tôi không nghĩ anh ta là tay lái cừ nhất thế giới.



Trả lời SimStud, do Footballrulz đăng.

Anh bạn, không phải tay lái CỪ NHẤT thế giới ư???? Ghét phải thông não cho anh bạn nhưng [người lái xe] là một gã hoàn toàn điên và thảm hại, hắn KHÔNG BIẾT lái xe. Tôi thậm chí còn không cho rằng hắn có bằng lái. Tại sao đám cớm không phát hiện ra điều đó nhỉ? Chắc là quá bận nhai bánh ngọt và uống cà phê. LOL[19].

[19. Laughing Out Loud (Cười thật to): Cách diễn đạt bày tỏ thái độ trên Internet.]



Trả lời Chilton, do MitchT đăng.

Chilton, ông vẫn luôn chỉ trích chính phủ, một chuyện khá thành công song lần này hãy quên con đường đi. Nó rất ổn. Anh chàng từ Caltrans kia đã nói thế. Tôi đã lái xe qua đó cả trăm lần, và nếu ông không nhận ra khúc cua nơi ấy thì nguyên nhân là do ông say khướt hay phê thuốc. Nếu cảnh sát [đã xóa] nó là vì họ không điều tra về [người lái xe] đủ kỹ lưỡng. Hắn là một kẻ kỳ cục và cũng đáng sợ nữa. SimStud là người ĐÚNG NHẤT trong vấn đề này.



Trả lời Chilton, do Amydancer44 đăng.

Thật lạ vì bố mẹ tôi đọc Bản tin nhưng tôi thì không thường thế, vì vậy thật bất ngờ khi tôi vào đây. Nhưng tôi có nghe nói ở trường là ông có bình luận về vụ tai nạn, thế là tôi đăng nhập vào. Tôi đã đọc mọi thứ và tôi nghĩ ông đúng một trăm phần trăm, những gì người khác nói cũng thế. Mọi người đều vô tội cho tới khi bị chứng minh là có tội, nhưng tôi không hiểu tại sao cảnh sát lại chỉ đơn giản bỏ dở cuộc điều tra.

Một người biết [người lái xe] nói với tôi anh ta đã thức suốt cả đêm trước hôm diễn ra bữa tiệc, ý tôi là liền 24 giờ để chơi game trên máy tính. IMHO[20], anh ta đã ngủ gật trong khi lái xe. Và còn một chuyện nữa là mấy tay nghiện game đó nghĩ bọn họ [đã xóa] rất cừ sau tay lái, vì đã chơi nát các trò lái xe trên máy tính, nhưng lái xe thật không giống thế.

[20. Viết tắt của In my humble (honest) opinion: Theo quan điểm khiêm tốn (chân thành) của tôi.]



Trả lời Chilton, do Arthur Standish đăng.

Chi phí liên bang dành cho bảo dưỡng đường bộ đã giảm đáng kể hằng năm, trong khi ngân sách dành cho các chiến dịch quân sự và viện trợ nước ngoài của Mỹ đã tăng gấp bốn. Có lẽ chúng ta nên quan tâm nhiều tới tính mạng của công dân nước mình hơn là của cư dân tại các quốc gia khác.



Trả lời Chilton, do TamF1399 đăng.

[Người lái xe] thật kỳ quái, ý tôi là nguy hiểm. Một lần sau khi đội hoạt náo viên luyện tập, hắn nấn ná bên ngoài phòng thay đồ của bọn tôi, cứ như thể định ngó vào trong và cố gắng chụp ảnh bằng điện thoại của mình. Tôi đi tới chỗ hắn và hỏi đại loại, anh đang làm gì ở đây, và hắn nhìn tôi như thể sắp giết tôi vậy. Hắn đúng là một tên đáng ghê tởm. Tôi biết một cô gái đi [bị xóa] cùng bọn tôi, và cô ấy nói với tôi [người lái xe] đã chộp lấy ngực mình, chỉ có điều cô ấy sợ không dám nói gì vì nghĩ hắn sẽ tìm ra cô hay bắt đầu nã đạn vào những người khác, giống như vụ thảm sát ở Đại học Bách khoa Virginia.



Trả lời Chilton, do BroadtoDeath đăng.

Tôi nghe từ một người có quen một anh chàng tham dự bữa tiệc tối đó và anh ta thấy [người lái xe] trước khi chui vào trong xe và tay này lúc ấy đang đi lượn lờ xung quanh hoàn toàn [đã xóa]. Và đó là lý do tại sao họ bị tai nạn. Chính CẢNH SÁT đã đánh mất kết quả phân tích hơi thở của tay này và mọi chuyện sau đó thật lằng nhằng, vậy là họ đành thả hắn. Đó là SỰ THẬT.



Trả lời Chilton, do SarafromCarmel đăng.

Tôi không nghĩ những gì mọi người trong chủ đề này đang nói là công bằng. Chúng ta không biết rõ sự thật. Vụ tai nạn là một bi kịch khủng khiếp và cảnh sát không khởi tố ai, vậy hãy chấp nhận chuyện đó. Thử nghĩ về những gì [người lái xe] đang trải qua. Cậu ấy ở cùng lớp Hóa học với tôi và chưa bao giờ làm phiền ai. Cậu ấy rất thông minh và giúp nhóm cùng bàn chúng tôi rất nhiều. Tôi cá là cậu ấy rất khổ sở vì chuyện xảy ra với những cô đó. Cậu ấy sẽ phải sống với nó suốt quãng đời còn lại. Tôi thấy ái ngại cho cậu ấy.



Trả lời SarafromCarmel, người đăng ẩn danh.

Sara cô là một kẻ [đã xóa] què quặt, nếu hắn lái chiếc xe, vậy thì hắn đã LÀM gì đó khiến mấy cô kia chết. Làm sao cô có thể nói không được? Chúa ơi, chính những kẻ như cô đã cho phép Hitler giết người Do thái bằng hơi độc và để Bush xông vào Iraq. Sao cô không gọi điện đánh thức [người lái xe] dậy và bảo hắn chở cô đi chơi đêm một chuyến? Tôi sẽ đến cắm một cây thập tự ở chỗ ngôi mộ [đã xóa] của cô, đồ [đã xóa].



Trả lời Chilton, do Legend666 đăng.

Em trai [người lái xe] bị thiểu năng, và có thể cảnh sát thấy không được hay lắm nếu họ bắt [người lái xe], nguyên nhân của tất cả những trò đúng đắn về chính trị khiến tôi thấy buồn nôn. Mà đáng ra họ cũng nên kiểm tra ví mấy cô, ý tôi là mấy cô gái bị tai nạn, vì tôi nghe nói hắn đã vơ sạch đồ của họ trước khi xe cứu thương tới nơi. Gia đình hắn nghèo đến nỗi bọn họ không thể mua máy giặt và máy sấy đồ. Tôi vẫn thấy hắn cùng mẹ hắn và đứa em trai [đã xóa] của hắn tại tiệm giặt tự phục vụ ở Billings suốt. Ai đến tiệm giặt tự phục vụ? Là những kẻ thua cuộc thảm hại.



Trả lời Chilton, do SexyGurl362 đăng.

Bạn thân nhất của tôi là một học sinh ở [đã xóa] cùng [người lái xe] và cô ấy nói chuyện với một người có mặt tại buổi tiệc có sự tham gia mấy cô bị chết. [Người lái xe] lúc đó ngồi một xó, kéo mũ trùm áo khoác lên che kín đầu và nhìn chằm chằm vào mọi người trong khi nói chuyện một mình, và một người khác bắt gặp hắn ở trong bếp đang ngắm nghía những con dao. Tất cả đều như kiểu, hắn đang làm cái chết tiệt gì ở đây? Tại sao hắn lại đến?



Trả lời Chilton, do Jake42 đăng.

Ông hoàn toàn đúng, Chilton!! Phải [người lái xe] hoàn toàn [đã xóa]. Hãy nhìn vào kẻ thất bại thảm hại kia, cuộc đời hắn là một THẤT BẠI to tướng!!! Hắn luôn giả vờ bị ốm vào giờ thể dục để khỏi phải tập. Hắn chỉ ra khỏi phòng tập để lượn lờ trong phòng thay đồ và trợn mắt ra nhìn chằm chằm vào [đã xóa] của mọi người. Hắn là một tay đồng tính chính hiệu, có người nói với tôi thế.



Trả lời Chilton, do CurlyJen đăng.

Tôi cùng các bạn tôi vừa nói chuyện và tuần trước có người thấy [người lái xe] đánh võng ngoằn ngoèo trên chiếc xe hắn lấy trộm của bà hắn khi không được phép ở chỗ Hải Đăng. Hắn đang cố làm [đã xóa] lộ quần lót của cô nàng ra. (Cứ như thể cô ta sẽ để ý vậy, LOL!!!). Và khi cô tảng lờ hắn, hắn bắt đầu thủ dâm ngay trước mặt cô ta, ngay ở đó, ngay tại chỗ Hải Đăng trong lúc hắn đang lái xe, hắn chắc chắn đang làm trò tương tự buổi tối xảy ra tai nạn.



Trả lời Chilton, người đăng ẩn danh.

Tôi tới [đã xóa], tôi là một sinh viên năm thứ hai, và tôi biết cậu ta cũng như tất cả mọi người biết về cậu ta. IMHO, ý tôi là cậu ta bình thường thôi mà. Cậu ta chơi game rất nhiều, nhưng vậy thì sao? Tôi chơi túc cầu rất nhiều, và điều đó đâu có biến tôi thành một tên sát nhân.



Trả lời Anonymous, do BillVan đăng.

[Đã xóa] mày, [đã xóa]. Nếu mày biết nhiều đến thế thì “thái độ tinh tướng” của mày là vì cái gì hả thiên tài? Mày thậm chí chẳng đủ can đảm đăng bài dưới tên thật. Sợ thằng đó đến và [đã xóa] mày lên [đã xóa] hả?



Trả lời Chilton, do BellaKelley đăng.

Ông nói rất đúng!!! Tôi và bạn tôi có mặt ở bữa tiệc hôm mùng Chín khi chuyện đó xảy ra và [người lái xe] đã tới để [đã xóa] và hai cô gái như thế, chỉ bỏ đi thôi. Nhưng anh ta thì không, anh ta đi theo họ ra ngoài cửa khi họ về. Nhưng bản thân chúng tôi cũng đáng trách vì đã không làm gì, tất cả những người có mặt ở đó. Tất cả chúng tôi đều biết [người lái xe] là một kẻ thảm hại và bệnh hoạn và đáng ra chúng tôi phải gọi cảnh sát hay ai đó khi họ ra về. Lúc ấy tôi đã có linh cảm xấu hệt như trong phim Ghost Whisperer[21]. Và thử nhìn xem chuyện gì đã xảy ra.

[21. Một bộ phim kể về một cô gái có khả năng trò truyện với những hồn ma chưa thể siêu thoát và giúp họ giải quyết những uẩn khúc. Phim có tên tiếng Việt là ‘Người thông dịch linh hồn.]



Trả lời Chilton, người đăng ẩn danh.

Ai đó bước vào khuôn viên Columbine hay Đại học Bách khoa Virginia với một khẩu súng và họ trở thành tội phạm nhưng khi [người lái xe] giết người với một chiếc xe hơi thì lại chẳng ai làm gì. Có gì đó thật lộn xộn ở đây.



Trả lời Chilton, do WizardOne đăng.

Tôi nghĩ chúng ta cần một cái nhìn xa hơn. Một số người đăng bài ác cảm với [người lái xe] vì cậu ta không thích thể thao, mà chỉ chơi game. Nhưng thế thì sao? Có hàng triệu người không chơi thể thao nhưng lại thích game. Tôi thực sự không biết rõ về [người lái xe] nhưng chúng tôi học cùng lớp ở [đã xóa]. Cậu ta không phải người xấu. Ai cũng nói xấu cậu ta song liệu có ai ở đây thực sự BIẾT cậu ta không? Dù chuyện gì đã xảy ra đi nữa, cậu ta cũng không cố tình hại ai và tất cả chúng ta đều biết có những người làm thế hàng ngày. IMHO, cậu ta rất khổ tâm vì những gì đã xảy ra. Cảnh sát không bắt cậu ta vì, thế đấy, cậu ta không làm gì phạm pháp.



Trả lời WizardOne, do Halfpipe22 đăng.

Lại thêm một gã nghiện game nữa. Nhìn xem biệt danh kìa. ĐỒ CHẾT TIỆT!!! Phù thủy[22] mắc dịch, FOAD[23]!

[22. Wizard có nghĩa là phù thủy, ở đây nhắc tới biệt danh WizardOne.

23. Fuck off and die: Đi chết đi.]



Trả lời Chilton, do Archenemy đăng.

[Người lái xe] là một kẻ vô cùng bệnh hoạn. Trong tủ đựng đồ của hắn ở trường, hắn dán hình những nạn nhân ở Columbine và Đại học Bách khoa Virginia, và cả những xác chết trong các trại tập trung. Hắn lang thang vật vờ trong một cái áo có mũ trùm rẻ tiền mắc dịch, cố làm ra vẻ sành điệu nhưng hắn là một kẻ nghiện ngập chết tiệt, và mãi chỉ như thế mà thôi.

[Người lái xe] nếu mày đang đọc những dòng này, nhãi, và không phải đang bận rộn với thần tiên phép thuật, hãy nhớ: Chúng tao BIẾT RÕ VỀ MÀY. Sao mày không cho mọi người chút ơn huệ và bắn vỡ bộ óc [đã xóa] của mày ra. Cái chết của mày = THẮNG LỢI VĨ ĐẠI!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9


Kathryn Dance ngồi xuống, lắc đầu. “Có quá nhiều lời lẽ nóng nảy ở trong đó,” cô nói với Jon Boling.

Cô không khỏi quan ngại trước những bài bình luận đầy ác ý đăng trên blog, và phần lớn lại do những thanh thiếu niên còn trẻ viết lên mạng.

Boling rê chuột trở lại bài bình luận đầu tiên. “Hãy xem chuyện gì đã xảy ra. Chilton chỉ đưa ra nhận xét về một tai nạn chết người. Ông ta chỉ đặt câu hỏi liệu con đường có được bảo trì an toàn hay không. Nhưng hãy nhìn xem những bài trả lời đã chệch xa chủ đề tới mức nào. Chúng đi từ chỗ thảo luận về vấn đề Chilton đưa ra - an toàn trên xa lộ - sau đó chuyển sang vấn đề tài chính của chính phủ, rồi tới cậu thiếu niên đang lái xe, cho dù có vẻ cậu ta chẳng làm gì sai. Những người thảo luận càng ngày càng trở nên kích động hơn và cuối cùng blog biến thành một cuộc ẩu đả về lời lẽ giữa chính những người tham gia với nhau.”

“Giống như trò lan truyền tin tức qua điện thoại. Khi thông điệp đến nơi, nó đã bị bóp méo đi. “Tôi nghe nói...”. “Có người biết một người...”, “Một người bạn của tôi nói với tôi...”.”

Dance liếc qua các trang lần nữa. “Tôi thấy một điều, Chilton không hề đáp trả. Hãy nhìn bài bình luận về mục sư Fisk và nhóm Quyền-được-sống của ông ta.



Trả lời Chilton, do CrimsoninChrist đăng.

Ông là một kẻ tội lỗi không thể hiểu được sự nhân hậu trong trái tim mục sư R. Samuel Fisk. Ông ấy đã hiến dâng cả đời mình cho Chúa và những tạo vật của Người, trong khi ông chẳng hề làm gì ngoài chiều theo đám đông để mua vui và thủ lợi cho chính mình. Cách ông bóp méo quan điểm của mục sư thật bệnh hoạn và báng bổ. Chính ông đáng bị đóng đinh lên thập tự.



Boling nói với cô, “Không, những người viết blog nghiêm túc không đôi co tranh luận trở lại. Chilton sẽ đưa ra một câu trả lời hợp lý, song ngọn lửa chiến tranh - các đòn tấn công giữa những người đăng bình luận - vượt ra khỏi vòng kiểm soát và trở thành chuyện cá nhân. Những bài đáp trả quay sang hướng vào chuyện tấn công, chứ không còn dính dáng gì đến chủ đề nữa. Đó là một trong những vấn đề với các blog. Khi đối diện với nhau, người ta sẽ không gây thù chuốc oán kiểu này. Sự vô danh trên blog đồng nghĩa với việc cuộc xung đột kéo dài nhiều ngày, đôi lúc hàng tuần.”

Dance xem qua các bài bình luận. “Vậy ra cậu ta vẫn chỉ là một học sinh.”

Nữ đặc vụ nhớ lại suy đoán của mình từ cuộc thẩm vấn Tammy Foster. “Chilton đã xóa tên cậu ta và tên trường học đi, nhưng chắc hẳn là trường Robert Louis Stevenson. Nơi Tammy đang học. ”

Boling gõ lên màn hình. “Và đây là bài viết của Tammy. Cô bé là một trong những người đầu tiên nói đến cậu nhóc kia. Và sau đó tất cả những người khác ào ào nhảy vào cuộc.”

Có thể bài viết chính là nguồn gốc tạo nên dáng vẻ tội lỗi mà Dance phát hiện ra trong buổi thẩm vấn. Nếu cậu con trai này đứng đằng sau vụ tấn công, khi đó Tammy, như cô và O’Neil đã suy đoán, hẳn sẽ cảm thấy phần nào phải chịu trách nhiệm về vụ tấn công nhằm vào mình, bởi cô bé đã tự chuốc lấy nó. Và có thể cô bé cũng sẽ thấy có lỗi nếu thủ phạm tiếp tục làm ai khác bị tổn thương. Nó lý giải tại sao Tammy không thích lời gợi ý rằng kẻ bắt cóc cô bé có một chiếc xe đạp để trong ô tô, bởi điều đó sẽ dẫn Dance tới chỗ nghi ngờ một kẻ trẻ tuổi hơn - một học sinh mà cô bé không muốn tiết lộ danh tính vì cô bé vẫn coi hắn là một mối đe dọa.

“Tất cả thật xấu xa,” Dance nói, hất hàm về phía màn hình.

“Cô đã bao giờ nghe nói về cậu bé Vứt rác chưa?”

“Ai cơ?”

“Chuyện xảy ra ở Kyoto vài năm trước. Tại Nhật Bản. Một cậu bé vị thành niên ném vỏ bọc đồ ăn nhanh và cốc giấy đựng soda xuống nền đất trong một công viên. Có người chụp lại được thời điểm cậu ta đang làm việc đó bằng điện thoại di động của mình rồi chia sẻ lên mạng cho bạn bè. Thế là sau đó, bức ảnh bắt đầu xuất hiện trên các blog và các trang mạng xã hội trong khắp cả nước. Những người thích tự thực thi công lý trên thế giới ảo bắt đầu săn tìm cậu ta. Bọn họ xác định được tên, địa chỉ nhà cậu ta và tung ngược lên mạng. Thông tin này lan ra hàng nghìn blog. Toàn bộ câu chuyện trở thành một cuộc săn phù thủy. Người ta bắt đầu xuất hiện trước nhà cậu bé kia và ném rác vào sân. Cậu ta thiếu chút nữa đã tự tử vì việc bị lăng nhục như thế là rất nghiêm trọng tại Nhật Bản,” âm điệu trong giọng nói và ngôn ngữ cơ thể của Boling đều lộ rõ vẻ tức giận.

“Những nhà phê bình thì nói, ồ, đó chẳng qua chỉ là câu chữ và vài bức ảnh. Nhưng chúng cũng có thể trở thành thứ vũ khí gây ra tổn thương nghiêm trọng không thua kém gì những nắm đấm. Và, thẳng thắn mà nói, tôi nghĩ những vết sẹo sẽ lâu mờ hơn.”

Dance thắc mắc, “Tôi không hiểu được một số từ ngữ trong các bài bình luận.”

Boling bật cười. “Ồ, trên các blog, bản tin và mạng xã hội, người ta ưa thích các cách phát âm bóp méo, viết tắt hay tự chế ra từ mới. ‘Sauce’ thay vì ‘source[1]’. ‘Moar’ thay vì ‘more[2]’. ‘IMHO’ là ‘theo thiển ý của tôi’.”

[1. Nguồn (thông tin, nước…).

2. Nhiều hơn.]

“Tôi có thể hỏi được không? ‘FOAD’.”

“Ồ,” anh ta nói, “một lời chào tạm biệt lịch sự dành cho bài bình luận của cô. Có nghĩa là ‘Đi chết đi’. Tất cả những từ viết hoa, tất nhiên rồi, đều có nghĩa là gào lớn”.

“Và ‘p-h-r-3-3-k’ nghĩa là gì?”

“À, đó là ‘ngôn ngữ teen’ của từ ‘freak[3]’.”

[3. Kỳ quái.]

“Ngôn ngữ teen?”

“Một kiểu ngôn ngữ được đám trẻ vị thành niên tạo ra trong vài năm vừa qua. Cô chỉ thấy nó trên những đoạn văn được gõ trực tiếp từ bàn phím thôi. Các chữ số và biểu tượng thay thế chỗ của chữ cái. Và cách phát âm bị thay đổi. ‘Ngôn ngữ teen’ xuất phát từ ‘một nhóm người rất đỉnh’, có nghĩa là những kẻ cừ khôi và sành điệu nhất. Với những thế hệ già hơn như chúng ta, nó có thể khó hiểu. Nhưng khi đã biết rõ rồi, chúng ta có thể viết và đọc nó nhanh không kém gì ngôn ngữ chính thống.”

“Sao bọn trẻ lại dùng chúng nhỉ?”

“Bởi nó sáng tạo và không chuẩn tắc... Và cool[4]. Mà về từ cuối cùng này, nhân đây xin nói luôn, cô cần phát âm là K-E-W-L.”

[4. Thú vị.]

“Kiểu phát âm và ngữ pháp này quả là kinh khủng.”

“Đúng thế, nhưng không có nghĩa những người viết ra nó nhất thiết phải ngu ngốc hay thất học. Chỉ đơn giản là trào lưu thông dụng hiện nay. Và tốc độ là điều quan trọng. Chừng nào người đọc có thể hiểu được cô đang nói gì, cô có thể cẩu thả thoải mái theo ý mà mình muốn.”

Dance nói, “Tôi rất muốn biết cậu nhóc là ai. Có lẽ tôi nên gọi CHP[5] để hỏi về vụ tai nạn Chilton đã nhắc tới.”

[5. Viết tắt của California Highway Patrol: Cơ quan tuần tra xa lộ California.]

“Ồ, tôi sẽ tìm được. Thế giới trên mạng tuy có rộng lớn đấy nhưng cũng thật bé nhỏ. Tôi đã có trang mạng xã hội của Tammy ở đây. Cô bé dành phần lớn thời gian của mình trên OurWorld. Nó còn lớn hơn Facebook và MySpace. Trang mạng này có đến một trăm ba mươi triệu thành viên.”

“Một trăm ba mươi triệu?”

“Phải. Lớn hơn cả dân số nhiều quốc gia,” Boling nghiêng đầu nhìn trong lúc gõ bàn phím. “Tôi đã vào tài khoản của cô bé, chỉ cần làm vài kiểm tra chéo... Kia rồi. Tìm được anh chàng rồi.”

“Nhanh vậy sao?”

“Phải. Tên cậu ta là Travis Brigham. Cô có lý. Cậu ta là học sinh năm ba tại trường Trung học Robert Louis Stevenson ở Monterey. Sẽ lên năm cuối vào mùa thu này. Sống tại Pacific Grove.”

Đó cũng là nơi Dance và các con cô đang sống.

“Tôi đang tìm trong một số bài viết đăng trên OurWorld về vụ tai nạn. Có vẻ như cậu nhóc này trong lúc lái xe từ một buổi tiệc trở về đã bị mất kiểm soát. Hai cô gái bị chết, một người nữa phải nằm viện. Cậu ta không bị thương tích gì nghiêm trọng. Không có bất kì lời buộc tội nào ngoài vài câu hỏi được đặt ra về điều kiện đường xá. Lúc ấy trời đang mưa.”

“Vụ đó ư! Chắc rồi. Tôi vẫn còn nhớ.”

Các phụ huynh luôn nhớ rõ những vụ tai nạn chết người liên quan tới thanh thiếu niên. Và tất nhiên, cô vẫn còn cảm thấy một ký ức đau nhói từ vài năm trước: Người nhân viên tuần cảnh xa lộ gọi điện về nhà cho cô, hỏi cô có phải là vợ của đặc vụ FBI Bill Swenson không. Sao anh ta lại hỏi thế? Cô băn khoăn.

“Tôi rất tiếc phải thông báo với cô, đặc vụ Dance… Tôi e là đã có một tai nạn xảy ra.”

Cô gạt ký ức sang một bên rồi nói, “Dù vô tội nhưng cậu bé vẫn bị nói xấu.”

“Nhưng vô tội thật tẻ nhạt,” Boling cười tinh quái. “Đăng bài về điều đó thì chẳng có gì vui vẻ cả.”

Vị giáo sư chỉ vào blog và nói. “Thứ cô có ở đây là các Thiên Thần Thù Hận.”

“Là gì vậy?”

“Một loại đầu gấu chuyên bắt nạt người khác trên mạng. Các Thiên Thần Thù Hận rất nhanh nhạy trong việc soi mói. Bọn họ tấn công Travis vì nghĩ cậu nhóc đã thoát khỏi điều gì đó do cậu ta không bị bắt sau vụ tai nạn. Họ không tin, hay không đặt niềm tin, vào cảnh sát. Một thể loại nữa là Thèm Khát Quyền Lực - đám này gần giống với những tay chuyên gia gây gổ điển hình ở trường học. Bọn họ muốn kiểm soát người khác bằng cách thúc ép những người này. Rồi còn cả những Cô Nàng Bẩn Tính - đám trẻ thô lỗ thích bắt nạt các đối tượng xung quanh, vậy đấy, dù bản thân bọn chúng chỉ là đồ rác rưởi. Phần lớn là con gái, những cô nàng luôn cảm thấy buồn chán và đăng lên những lời lẽ tàn nhẫn để mua vui cho mình. Nó cận kề với bạo hành vì khoái cảm.”

Âm hưởng giận dữ lại rung lên trong giọng nói của Boling. “Bạo hành... đó là một vấn nạn thực sự. Và đang trở nên tồi tệ hơn. Những con số thống kê gần đây nhất cho thấy ba mươi lăm phần trăm trẻ em đã bị bắt nạt hay đe dọa trên mạng, đa số là nhiều lần,” Boling im lặng, đôi mắt nheo lại.

“Gì thế, Jon?”

“Thú vị thay có một thứ chúng ta không thấy.”

“Là gì?”

“Travis phản công lại trên blog, tranh luận với những người công kích cậu ta.”

“Có thể cậu ấy không biết về chuyện này.”

Boling cười. “Ồ, tin tôi đi, cậu nhóc sẽ biết tất cả chỉ năm phút sau khi bài phản hồi đầu tiên được đăng lên chủ đề của Chilton.”

“Sao chuyện cậu ta không đăng bài lại quan trọng vậy?”

“Một trong những loại tấn công người khác dai dẳng kiên quyết nhất trên mạng được gọi là Phi Vụ Báo Thù Của Những Người Bị Nhục Mạ, hay Nạn Nhân Của Những Kẻ Trả Đũa. Đây là những người từng bị công kích và đang phản công lại. Cảm giác phẫn nộ với xã hội khi bị ruồng bỏ, bị bắt nạt hay nhục mạ vào độ tuổi đó là rất dữ dội. Tôi cam đoan cậu ta đang tức điên, đang tổn thương ghê gớm và muốn trả miếng. Những cảm xúc ấy cần được phát tiết ra theo cách nào đó. Cô hiểu ngụ ý rồi chứ?”

Dance hiểu. “Đồng nghĩa với nó là cậu nhóc chính là người tấn công Tammy.”

“Nếu Travis không công kích trên mạng, càng có nhiều khả năng cậu ấy sẽ tìm đến họ trong đời thực hơn,” Boling liếc mắt đầy quan ngại lên màn hình. “Ariel, BellaKelley, SexyGurl362, Legend666, Archenemy - tất cả đều chĩa mũi dùi vào cậu ấy. Có nghĩa là bọn họ đều đang gặp nguy hiểm nếu cậu ta chính là thủ phạm.”

“Liệu tìm kiếm danh tính thật và địa chỉ của những người này với cậu ta có khó không?”

“Chắc rồi, một số người sẽ cần phải xâm nhập vào đường truyền tín hiệu và máy chủ, tất nhiên. Nhưng phần lớn, việc tìm kiếm cũng dễ dàng như cách tôi tìm được tên của cậu ta vậy. Tất cả những gì cậu ấy cần là vài cuốn niên giám trường hay sổ danh sách lớp, rồi tiếp cận vào OurWorld, Facebook hay MySpace. Ồ, và cả lựa chọn ưa thích của tất cả mọi người... Google.”

Dance nhận ra một cái bóng dần bao trùm lên họ và Jonathan Boling đang nhìn ra phía sau cô.

Michael O’Neil bước vào phòng làm việc. Dance nhẹ nhõm khi thấy anh. Đôi bên trao nhau nụ cười. Boling đứng dậy. Dance giới thiệu hai người với nhau. Hai người đàn ông bắt tay nhau.

Boling nói, “Vậy là, tôi cần cảm ơn anh vì lần đầu được thử làm cảnh sát.”

“Nếu ‘cảm ơn’ là từ đúng,” O’Neil nói, kèm theo một nụ cười tinh quái.

Họ cùng ngồi xuống bên bàn cà phê, và Dance thuật lại với anh những điều cô và Boling đã tìm thấy... cùng những gì họ nghi ngờ: Có thể Tammy bị tấn công vì đã đăng bình luận lên một blog về cậu học sinh tại trường, con bé cho rằng thằng nhóc phải chịu trách nhiệm về một vụ tai nạn xe hơi.

“Có phải là vụ tai nạn trên Xa lộ 1 hai tuần trước không? Cách Carmel chừng năm dặm về phía nam?”

“Đúng thế.”

Boling nói, “Tên cậu thiếu niên này là Travis Brigham, cậu ta học tại Robert Louis Stevenson, cùng trường với nạn nhân.”

“Vậy thì ít nhất cậu ta cũng có động cơ. Và rất có thể là hung thủ, và chúng ta đang e ngại điều gì nhỉ?” O’Neil hỏi Dance. “Hung thủ muốn tiếp tục chăng?”

“Nhiều khả năng là thế. Những trò bắt nạt nhục mạ trên mạng dồn đẩy người ta tới quá ngưỡng chịu đựng. Tôi đã thấy chuyện đó diễn ra hàng chục lần rồi.”

O’Neil gác hai chân lên bàn cà phê và lắc lư trên ghế. Hai năm trước, cô từng cược mười đô la với anh là đến một ngày nào đó anh sẽ lộn nhào. Cho đến nay cô vẫn chưa nhận được món tiền đó. Anh hỏi Dance, “Có gì thêm về các nhân chứng không?”

Dance cho hay TJ vẫn chưa quay về sau chuyến đi tìm hiểu về camera an ninh gần xa lộ nơi cây thập tự thứ nhất được để lại, và Rey cũng chưa hồi đáp gì về các nhân chứng gần câu lạc bộ nơi Tammy bị bắt cóc.

O’Neil nói vẫn chưa có đột phá nào với những bằng chứng vật chất. “Chỉ có một thứ - bên Điều tra Hiện trường tìm thấy một sợi vải bông màu xám trên cây thập tự.”

Anh nói thêm rằng phòng thí nghiệm ở Salinas không thể khớp được nó vào một cơ sở dữ liệu cụ thể nào, ngoài việc báo cáo sợi vải bông nhiều khả năng có nguồn gốc từ quần áo chứ không phải thảm hay đồ đạc.

“Tất cả chỉ có thế thôi, không còn gì nữa sao? Không vân tay, không vết bánh xe?”

O’Neil nhún vai. “Thủ phạm hoặc là rất khôn ngoan, hoặc là cực kỳ may mắn.”

Dance bước tới bàn làm việc và truy cập vào cơ sở dữ liệu của tiểu bang về hồ sơ và nhân dạng. Cô nheo mắt nhìn lên màn hình và đọc, “Travis Alan Brigham, mười bảy tuổi. Theo thông tin từ bằng lái xe, cậu ta sống ở số 408, đường Henderson.” Cô đẩy kính lên sống mũi trong lúc đọc tiếp. “Đáng quan tâm đây. Cậu ta đã có tiền sự,” sau đó lại lắc đầu. “Không, xin lỗi. Tôi nhầm. Không phải cậu ta. Đó là Samuel Brigham, sống ở cùng địa chỉ. Cậu ta mười lăm tuổi. Tiền sự phạm pháp vị thành niên. Bị bắt hai lần vì nhìn trộm, một lần vì gây gổ hành hung. Cả hai lần đều được miễn truy tố, song phải theo trị liệu tâm lý. Có vẻ như là một đứa em trai. Nhưng còn Travis? Không, lai lịch của cậu ta hoàn toàn sạch sẽ.”

Cô kéo bức ảnh trong hồ sơ của cơ quan Quản lý Phương tiện cơ giới[6] lên màn hình. Một cậu nhóc tóc đen với đôi mắt nằm sát nhau, dưới đôi lông mày nâu dày, đang nhìn thẳng vào ống kính. Cậu ta không hề mỉm cười.

[6. Department of Motor Vehicle (DMV).]

“Tôi muốn tìm hiểu nhiều hơn nữa về vụ tai nạn,” O’Neil nói.

Dance gọi điện thoại tới văn phòng sở tại của Đội Tuần cảnh Xa lộ, tên gọi chính thức của cảnh sát Tiểu bang California. Sau vài phút chuyển máy lòng vòng từ đầu dây bên kia, cuối cùng cô kết thúc với trung sĩ Brodsky, Dance bật loa ngoài điện thoại lên và hỏi về vụ tai nạn.

Brodsky lập tức chuyển ngay sang giọng điệu thường thấy khi cảnh sát ra làm chứng trước tòa. Chính xác, không chút cảm xúc. “Hôm đó, ngay trước nửa đêm ngày thứ Bảy, mồng Chín tháng Sáu. Bốn người ở tuổi vị thành niên, ba nữ, một nam đang trên xe xuôi theo hướng bắc nơi Xa lộ 1, đoạn cách khoảng ba dặm về phía nam Carmen Highlands, gần khu Bảo tồn bãi biển Garrapata State. Thiếu niên nam cầm tay lái. Chiếc xe mang kiểu dáng Nissan Altima đời mới. Có vẻ chiếc xe lúc đó đang chạy ở tốc độ bốn mươi lăm dặm một giờ. Người lái xe không nhận thấy một khúc cua, làm xe bị trượt và lao xuống một vách núi. Hai cô gái ngồi băng ghế sau không đeo đai an toàn. Cả hai chết ngay lập tức. Cô gái ngồi trên ghế trước bị va đập mạnh. Cô này phải nằm viện vài ngày. Người lái xe bị giữ lại, kiểm tra và cho về.”

“Travis nói chuyện gì đã xảy ra?” Dance hỏi.

“Chỉ là mất kiểm soát tay lái. Trước đó trời đã mưa nên có nước trên mặt xa lộ. Cậu ta đổi làn đường thế là bị trượt. Chiếc xe của một trong ba cô gái, và các lốp xe không phải ở tình trạng tốt nhất. Cậu ấy không chạy quá tốc độ. Kết quả kiểm tra đều âm tính với cồn và các chất kích thích khác. Cô gái còn sống sót cũng khẳng định những gì cậu ấy kể.” Đâu đó trong giọng nói của anh ta tồn tại chút âm hưởng tự vệ. “Có lý do khiến chúng tôi đã không buộc tội cậu ấy, cô biết đấy. Cho dù người ta có nói gì về cuộc điều tra đi chăng nữa.”

Vậy là viên trung sĩ cũng đã đọc blog nọ, Dance suy đoán.

“Cô sẽ mở lại cuộc điều tra chứ?” Brodsky hỏi đầy cảnh giác.

“Không, cuộc điều tra này liên quan tới vụ tấn công tối thứ Hai. Cô gái trong cốp xe.”

“À, ra là vụ đó. Cô có nghĩ chính cậu ấy làm chuyện đó không?”

“Có thể lắm.”

“Chẳng làm tôi ngạc nhiên. Không hề.”

“Sao anh lại nói vậy?”

“Đôi khi cô có một cảm giác rằng Travis là người nguy hiểm. Cậu ta có đôi mắt hệt như mấy đứa nhóc ở Columbine.”

Làm cách nào anh ta có thể biết được khuôn mặt những kẻ sát nhân trong ‘vụ tàn sát kinh hoàng năm 1999[7]’?

[7. Vụ thảm sát xảy ra ngày 20/4/1999 tại trường Trung học Columbine, hạt Jefferson, tiều bang Colorado, khi hai học sinh năm cuối xả sung bắn chết 12 học sinh và 1 giáo viên.]

Brodsky nói thêm, “Cậu nhóc này hâm mộ mấy tên đó, cô biết đấy, những kẻ nã súng. Thậm chí cậu ta có cả ảnh của chúng trong tủ đựng đồ cá nhân tại trường.”

Anh ta biết được chuyện đó một cách độc lập, hay là từ blog? Dance nhớ ai đó đã nhắc tới chi tiết này trong bài viết Những cây thập tự ven đường.

“Anh có nghĩ cậu ta là một mối đe dọa không?” O’Neil hỏi Brodsky. “Anh đã thẩm vấn cậu ta lúc nào vậy?”

“Có, thưa ngài. Tôi luôn chuẩn bị còng tay của mình sẵn sàng suốt thời gian đó. Cậu ta là một thanh niên to con và mặc chiếc áo khoác vải len có mũ trùm đầu. Chỉ nhìn chằm chằm vào tôi. Thật kỳ quái vô cùng.”

Lời miêu tả về trang phục của viên cảnh sát làm Dance nhớ lại những gì Tammy đã để lộ ra về việc kẻ tấn công cô bé mặc áo khoác có mũ trùm đầu.

Cô cảm ơn người nhân viên tuần cảnh rồi ngắt máy. Sau một khoảnh khắc, cô ngước mắt lên nhìn Boling. “Jon, anh có thêm nhận xét nào về Travis không? Từ những bài bình luận đó?”

Boling ngẫm nghĩ giây lát. “Đúng là tôi có một suy nghĩ. Nếu cậu nhóc là người nghiện chơi game như họ nói thì điều đó có thể rất quan trọng.”

O’Neil hỏi, “Ý anh là thông qua chơi những trò chơi kia, cậu ta đã được lập trình để trở nên bạo lực? Chúng ta có thể thấy một chương trình về chủ đề đó trên Discovery Channel[8] mấy tối trước.”

[8. Một kênh truyền hình cáp chuyên về các chương trình tìm hiểu, khám phá thực tế.]

Nhưng Jon Boling lắc đầu. “Một chủ đề thời thượng trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhưng nếu cậu nhóc này đã trải qua những giai đoạn phát triển tương đối bình thường trong thời thơ ấu, tôi sẽ không mấy lo lắng về chuyện đó. Phải, một số đứa trẻ có thể trở nên vô cảm với những hệ lụy của bạo lực nếu chúng thường xuyên tiếp xúc với nó theo một số phương thức - thường là thông qua thị giác - quá sớm. Nhưng tệ nhất thì điều đó cũng chỉ làm cô trở nên chai lỳ hơn chứ không thể khiến cô trở nên nguy hiểm. Xu hướng bạo lực trong giới trẻ gần như luôn xuất phát từ phẫn nộ chứ không phải vì phim ảnh hay truyền hình. Không, tôi muốn đề cập tới một chuyện khác khi nói việc chơi game có thể ảnh hưởng sâu sắc đến Travis. Đó là những thay đổi ở giới trẻ mà chúng ta đang thấy khắp nơi trong xã hội. Cậu ta có thể mất đi khả năng phân biệt giữa thế giới ảo và thế giới thực.”

“Thế giới ảo?”

“Đó là một khái niệm tôi mượn từ cuốn sách của Edward Castronova viết về chủ đề này. Thế giới ảo là cuộc sống trong các trò chơi trực tuyến và các trang web về thực tế giả, như Cuộc sống thứ hai. Chúng là những thế giới tưởng tượng huyền ảo cô bước vào thông qua máy tính của mình, PDA[9] hay một thiết bị kỹ thuật số khác. Những người thuộc thế hệ chúng ta luôn ý thức được sự phân biệt rõ ràng giữa thế giới ảo và thế giới thực. Thế giới thực là nơi cô ăn tối với gia đình cô, chơi bóng mềm[10] hoặc đi hẹn hò sau khi thoát ra khỏi thế giới ảo hoặc tắt máy tính. Nhưng những thế hệ trẻ hơn, và hôm nay tôi muốn nói đến những người đang ở tuổi hai mươi hay thậm chí ở đầu độ tuổi ba mươi, lại không nhìn ra sự khác biệt đó. Thế giới ảo ngày càng trở nên thực hơn với họ. Trong thực tế, có một nghiên cứu gần đây cho thấy gần một phần năm số người chơi trò chơi trực tuyến cảm thấy thế giới thực chỉ là chỗ để ăn và ngủ, còn thế giới ảo mới là nơi cư trú thực sự của họ.”

[9. Personal Digital Assistance: Máy hỗ trợ cá nhân kỹ thuật số.

10. Trò chơi tương tự bóng chày, chơi trên sân nhỏ hơn với quả bóng mềm, to hơn.]

Điều này khiến Dance ngạc nhiên.

Boling mỉm cười trước biểu hiện bên ngoài có phần ngỡ ngàng của nữ đặc vụ. “Ồ, trung bình một người chơi game có thể dễ dàng dành ra ba mươi giờ mỗi tuần trong thế giới ảo, và những trường hợp dành ra gấp đôi thời gian trên cũng không phải là hiếm. Có hàng trăm triệu người ít nhiều liên quan tới thế giới ảo, và hàng chục triệu người dành phần lớn thời gian trong ngày của họ cho nó. Chúng ta không phải đang nói về Pac-Mac hay Pong[11]. Mức độ sống động trong thế giới ảo thực sự đáng kinh ngạc. Cô thông qua avatar - một nhân vật đại diện cho cô, cư ngụ trong một thế giới cũng phức tạp như thế giới ta đang sống ngay lúc này. Các chuyên gia tâm lý tuổi thiếu niên đã nghiên cứu phương thức người ta tạo nên các avatar. Trên thực tế, người chơi đã sử dụng những kỹ năng nuôi dạy con cái tồn tại trong tiềm thức để hình thành nên các nhân vật của họ. Các nhà kinh tế cũng đã lao vào nghiên cứu trò chơi mạng. Cô cần học hỏi các kỹ năng để nuôi sống chính mình nếu không sẽ bị chết đói. Trong phần lớn các trò chơi cô sẽ phải kiếm tiền, một loại đơn vị tiền tệ riêng. Nhưng hiện tại thứ bảo ngân ảo đó đang được đem trao đổi lấy đô la, bảng Anh hay Euro trên eBay trong mục trò chơi của họ. Cô có thể mua hay bán các món đồ ảo, như các phép thuật, vũ khí, y phục, nhà cửa, hay thậm chí cả chính các nhân vật bằng tiền của thế giới thực. Ở Nhật Bản, cách đây chưa lâu, một số game thủ đã kiện các hacker đánh cắp những món đồ ảo từ nhà của họ trong thế giới ảo. Họ đã thắng kiện.”

[11. Tên của những trò chơi điện tử thế hệ đầu.]

Boling cúi người ra trước, và Dance một lần nữa nhìn thấy những tia sáng lóe lên trong đôi mắt và vẻ hăng hái ẩn sau giọng nói của vị giáo sư.

“Một trong những ví dụ rõ rệt nhất về sự tồn tại song song của thế giới ảo và thực là trò chơi trực tuyến nổi tiếng, World of Warcraft. Các nhà thiết kế đã tạo ra một dịch bệnh như một thứ ‘tác hại’, nghĩa là tình trạng giảm sức khỏe hay sức mạnh của nhân vật. Được gọi là ‘Máu bẩn’. Nó sẽ làm những nhân vật mạnh bị suy yếu và giết chết những nhân vật không đủ mạnh. Nhưng có một chuyện kỳ lạ xảy ra. Không ai hoàn toàn biết rõ tại sao dịch bệnh đó đã vượt ra ngoài vòng kiểm soát và tự lan rộng. Nó trở thành một cơn dịch đen ảo[12]. Các nhà thiết kế chưa bao giờ trù tính tạo ra tình trạng này. Dịch bệnh chỉ có thể được ngăn lại khi các nhân vật nhiễm phải nó chết hết hoặc thích nghi với nó. Trung tâm Kiểm soát Bệnh dịch ở Atlanta đã nghe nói đến điều này và lập hẳn một nhóm nghiên cứu sự lây lan của loại virus trên. Họ sử dụng nó như mô hình cho dịch tễ học trong thế giới thực.”

[12. Dịch bệnh khủng khiếp bùng nổ từ cuối nửa đầu thế kỷ 14, riêng ở châu Âu, ước tính cho biết dịch bệnh này đã giết chết khoảng một phần tư đến một phần ba tổng dân số.]

Boling ngả người lại sau.

“Tôi có thể kể vô số chuyện nữa về thế giới ảo. Đó là một chủ đề rất cuốn hút, nhưng chung quy cho dù Travis có bị chai lỳ trước bạo lực hay không, câu hỏi thực sự ở đây là cậu ta sống chủ yếu trong thế giới nào, ảo hay thực? Nếu là ảo, khi đó cậu ta sẽ sống cuộc sống của mình tuân theo những quy tắc hoàn toàn khác. Và chúng ta không biết chúng là gì. Báo thù những kẻ bắt nạt trên mạng, hay bất cứ ai nhục mạ cậu ta, là việc hoàn toàn có thể chấp nhận được. Thậm chí đó còn là điều chính đáng. Có thể so sánh với một kẻ tâm thần phân liệt hoang tưởng giết ai đó vì hắn thật sự tin nạn nhân là một mối đe dọa cho thế giới. Hắn không làm gì sai trái cả. Thực ra với hắn, giết người còn là hành động anh hùng. Còn Travis? Ai biết cậu ấy đang nghĩ gì? Có điều hãy nhớ cho rất có thể với cậu ta tấn công một kẻ kích bác trên mạng như Tammy Foster cũng chẳng khác gì đập một con ruồi.”

Dance ngẫm nghĩ về ý tưởng này rồi nói với O’Neil, “Chúng ta có nên tới gặp cậu ấy để nói chuyện không?”

Quyết định xem nên khởi đầu thẩm vấn một đối tượng tình nghi vào thời điểm nào luôn chứa đựng nhiều nguy cơ. Travis rất có thể chưa nghĩ bản thân là đối tượng bị tình nghi. Bắt chuyện trong lúc này sẽ làm cậu ta mất cảnh giác, và may ra khiến cậu ta buột miệng nói những điều có thể chống lại chính mình, thậm chí thú tội cũng nên. Ngược lại, cậu ta cũng có thể hủy mọi bằng chứng hoặc lẩn trốn.

Quả là nan giải.

Điều giúp cô đưa ra quyết định cuối cùng là một ký ức duy nhất. Cái nhìn trong đôi mắt Tammy Foster - nỗi sợ hãi bị trả thù. Và nỗi sợ hãi thủ phạm sẽ tấn công thêm ai khác.

Cô hiểu họ cần hành động thật khẩn trương.

“Phải. Chúng ta hãy cùng đến gặp cậu ta.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10


Gia đình Brigham sống trong ngôi nhà một tầng, ngoài sân chất đầy linh kiện xe hơi và đồ đạc cũ, phần lớn đều bị tháo tung rồi bỏ dở dang. Những túi nilon màu xanh lá cây đựng rác rưởi và lá mục đầy đến tràn cả ra ngoài nằm ngổn ngang giữa các món đồ chơi và dụng cụ hỏng hóc. Một con mèo người ngợm bong tróc thận trọng ngó ra từ cái ổ bên gốc nho của nó dưới một bờ rào cây cao quá khổ. Ả mèo quá lười biếng hoặc quá no bụng để bận tâm tới một con chuột màu xám mập tròn chạy ngang qua. O’Neil đậu xe trên con đường rải sỏi, cách ngôi nhà chừng mười hai mét, rồi cùng Dance bước xuống khỏi chiếc xe mà không mang theo phù hiệu của MCSO.

Hai người quan sát khu vực xung quanh.

Nơi này giống như một khung cảnh của vùng nông thôn miền Nam, cây cối rậm rạp khắp nơi, không có ngôi nhà nào khác trong tầm mắt, hoàn toàn hoang vắng. Trạng thái xập xệ của ngôi nhà và mùi hôi nồng nặc cho biết sự tồn tại của một đường cống nước thải hoạt động không mấy hiệu quả ở ngay gần đó hoặc một đầm lầy, nó giải thích tại sao gia đình Brigham có thể sở hữu một mảnh đất riêng cho mình ở khu vực đắt đỏ như thế này của tiểu bang.

Khi họ bắt đầu tiến về phía ngôi nhà, Dance nhận ra bàn tay cô đang đặt gần báng khẩu súng ngắn, còn áo vest của cô đã mở khuy.

Cô đang dè chừng, cảnh giác cao độ.

Dù vậy, nếu cậu nhóc tấn công thì hành động đó vẫn làm cô bị sốc.

Khi cả hai vừa đi qua một vạt cỏ lơ thơ xơ xác cạnh nhà để xe nằm tách biệt lệch góc với gian chính, Dance quay sang O’Neil và thấy anh cứng đờ khi nhìn qua sau lưng cô. Người thanh tra giơ cánh tay lên nắm lấy áo vest của cô, kéo cô đổ ập xuống phía trước.

“Michael!” cô kêu lên.

Hòn đá bay vèo qua đầu Dance, chỉ chệch vài phân, rồi đập vỡ tan một khung cửa sổ nhà để xe. Hòn đá thứ hai nối tiếp theo sau. O’Neil đã phải nhào vội người xuống để tránh bị ném trúng. Người anh va vào một thân cây gầy guộc.

“Cô không sao chứ?” anh vội hỏi.

Cô gật đầu. “Anh thấy chúng từ đâu tới không?”

“Không.”

Đôi bên đưa mắt nhìn về phía những bụi cây rậm rạp bao quanh khu nhà.

“Đằng kia!” cô kêu lên, chỉ tay về phía cậu thiếu niên mặc đồ nỉ và đội mũ len ôm sát đầu. Cậu ta quay người bỏ chạy.

Dance do dự trong khoảnh khắc. Không ai trong hai người mang theo bộ đàm vì cuộc viếng thăm đã không được lên kế hoạch như một chuyến công tác nghiệp vụ. Quay lại xe O’Neil để gọi điện yêu cầu phát lệnh truy nã sẽ mất quá nhiều thời gian. Họ vẫn còn một cơ hội để bắt giữ Travis lúc này. Cả hai theo bản năng đuổi theo cậu nhóc với tốc độ nước rút.

Các nhân viên của CBI đều được học về kỹ năng chiến đấu giáp lá cà cơ bản - cho dù phần lớn trong số họ, kể cả Dance, chưa bao giờ phải thực sự lâm trận. Họ cũng được yêu cầu kiểm tra tổng quát về thể chất theo định kỳ. Dance có thể lực khá ổn, không phải nhờ vào chế độ của CBI mà do những chuyến điền dã tới những vùng hoang vu để tìm nhạc cho trang web của cô. Bất chấp trang phục đang mặc lúc này không hợp chút nào cho việc chạy bộ - váy đen và áo sơ mi - cô vẫn dễ dàng vượt lên trước O’Neil khi hai người lao vụt vào vạt rừng để đuổi theo cậu nhóc.

Cậu thiếu niên vẫn chạy nhanh hơn họ một chút.

O’Neil lấy điện thoại di động của mình ra, vừa hổn hển không ra hơi vừa gọi điện yêu cầu hỗ trợ.

Cả hai người họ đều đang thở dốc, Dance tự hỏi làm cách nào văn phòng Điều động lực lượng có thể hiểu được những gì anh nói.

Cậu nhóc biến mất trong thoáng chốc buộc hai cảnh sát chạy chậm lại. Rồi Dance hô lớn, “Bên kia,” khi nhận ra cậu ta xuất hiện từ sau mấy bụi cây cách họ chừng mười lăm mét. “Vũ khí ư?” cô thốt lên thất thanh. Cậu thiếu niên cầm vật gì đó sẫm màu trong tay.

“Tôi không rõ nữa.”

Có thể là một khẩu súng, cho dù rất có khả năng là một ống tuýp hay một con dao.

Dù là gì đi nữa...

Cậu ta biến mất vào vạt rừng rậm rạp, xa hơn nữa Dance chỉ có thể thấy loáng thoáng một ao nước màu xanh lục. Có lẽ là nguồn gốc gây ra mùi khó ngửi.

O’Neil đưa mắt nhìn Dance.

Cô thở dài và gật đầu. Cả hai đồng loạt rút khẩu Glock ra.

Họ lại tiếp tục bước tới.

Dance cùng O’Neil đã từng cùng nhau điều tra nhiều vụ án và theo bản năng họ luôn có thể phối hợp với đối phương một cách ăn ý. Tuy nhiên mặt mạnh nhất của cả hai là giải quyết những câu đố hóc búa về mặt trí tuệ chứ không phải chơi trò lính chiến.

Cô phải tự nhắc nhở mình: Ngón trỏ để cách xa khỏi cò súng, không bao giờ di chuyển ra trước vũ khí của đồng nghiệp và nâng nòng súng lên cao nếu đồng nghiệp ngang qua phía trước, chỉ bắn khi bị đe dọa, kiểm tra sau lưng, bắn thành loạt ba phát liền, luôn đếm từng viên đạn.

Dance ghét chuyện này.

Thế nhưng đây lại là cơ hội để ngăn chặn kẻ tấn công trong vụ Cây thập tự ven đường. Nhớ tới đôi mắt kinh hoàng của Tammy Foster, Dance hối hả băng qua vạt rừng.

Cậu nhóc lại biến mất thêm lần nữa. Cô cùng O’Neil dừng lại ở nơi hai con đường mòn tách ra. Travis nhiều khả năng đã chọn một vì ở đây cây cối mọc rất dày, nhiều chỗ không thể đi qua nổi. O’Neil im lặng chỉ về phía trái, sau đó về phía phải và nhướng một bên mày lên.

Chẳng khác gì trò tung đồng xu, cô thầm nghĩ, bực bội và cảm thấy bất an vì phải tách khỏi O’Neil. Cô hất hàm về phía trái.

Họ bắt đầu thận trọng tiến bước theo con đường đã định của mỗi người.

Dance đang di chuyển qua giữa các bụi cây, thầm nghĩ mình không thích hợp để sắm vai này đến mức nào. Thế giới của cô là thế giới của từ ngữ, biểu cảm và những sắc thái trong cử chỉ. Không phải là nghiệp vụ thực địa như lúc này.

Cô biết người ta có thể bị thương, bị chết như thế nào khi bước chân ra khỏi môi trường quen thuộc. Một linh cảm chẳng lành lan khắp cơ thể cô.

Dừng lại, cô tự nhủ. Tìm Michael, quay lại xe và đợi tăng viện.

Quá muộn.

Ngay lúc đó Dance nghe thấy tiếng loạt soạt ở dưới chân, cô đưa mắt nhìn xuống vừa kịp để thấy cậu thiếu niên, nấp trong bụi cây ngay bên cạnh, vừa phi một cành cây to về phía cô. Cành cây đập thẳng vào bàn chân trong khi cô cố gắng nhảy qua nó. Dance nặng nề nhào xuống, xoay người, cố lấy thăng bằng để khỏi ngã.

Hành động đó làm cổ tay cô mất kiểm soát.

Và gây ra một hậu quả nữa: Khẩu Glock màu đen vuông thành sắc cạnh tuột khỏi bàn tay Dance và biến mất trong bụi rậm.

Chỉ mấy giây sau, Dance nghe thấy tiếng loạt soạt vang lên lần nữa trong các bụi cây khi cậu nhóc, hiển nhiên đã đợi để chắc chắn cô chỉ có một mình để xông ra.

~*~

Thật bất cẩn, Michael O’Neil bực bội nghĩ.

Anh đang chạy theo hướng vang lên tiếng kêu của Dance, nhưng rồi nhận ra mình không hề biết cô đang ở đâu.

Đáng lẽ họ phải ở cạnh nhau. Thật bất cẩn khi tách lẻ ra. Phải, quyết định đó hoàn toàn có lý để có thể lùng soát được tối đa diện tích xung quanh, nhưng đó là khi anh đã trải qua vài cuộc đấu súng và đôi lần rượt đuổi trên đường phố, còn Kathryn Dance không hề có chút kinh nghiệm nào.

Nếu có chuyện gì xảy đến với cô...

Phía xa, tiếng còi hú vang lên mỗi lúc một to. Tăng viện đang tới gần. O’Neil bước chậm lại, cẩn thận lắng nghe. Dường như vừa có tiếng loạt soạt trong mấy bụi cây kế bên. Cũng có thể là không.

Càng bất cẩn hơn nữa khi Travis hẳn biết rõ khu vực này như trong lòng bàn tay. Đây là sân sau nhà cậu ta, theo đúng nghĩa đen. Cậu nhóc biết có thể trốn ở đâu, cần tẩu thoát theo con đường nào.

Khẩu súng, nhẹ như không trong bàn tay to lớn, chĩa ra phía trước mũi O’Neil trong lúc anh tìm kiếm kẻ tấn công.

Thật điên rồ.

Người thanh tra tiến lên phía trước thêm sáu mét nữa. Cuối cùng đánh bạo lên tiếng. “Kathryn?” anh khẽ gọi.

Không có câu trả lời.

Anh gọi lớn hơn, “Kathryn?”

Gió thổi lào xào qua các thân cây và bụi cây.

“Michael, ở đây!” một âm thanh tắc nghẹn. Từ gần đó, O’Neil hối hả chạy về phía phát ra tiếng gọi của Dance cho đến khi thấy cô phía trước, nơi lối mòn, đang quỳ trên đầu gối và chống hai tay. Đầu cô cúi gằm xuống. Anh nghe thấy tiếng thở dốc. Dance có bị thương không? Liệu có phải Travis đã dùng một ống tuýp đánh cô không? Hay đâm cô bằng dao?

O’Neil phải kìm nén thôi thúc muốn lao ngay đến chỗ Dance để xem cô bị thương nghiêm trọng đến mức nào. Bản thân hiểu rõ cần phải làm gì, anh chạy lại gần hơn, đứng cạnh cô, mắt không ngừng quan sát, quay người tìm kiếm một mục tiêu.

Cuối cùng, ở cách đó một quãng, anh nhìn thấy bóng lưng Travis đang khuất dần.

“Nó chạy rồi,” Dance nói, nhặt súng từ trong một bụi rậm ra và đứng dậy. “Theo hướng đó.”

“Cô có bị thương không?”

“Chỉ bị đau thôi.”

Quả thực trông Dance có vẻ không bị tổn thương gì, nhưng cô đang phủi bụi đất bám trên trang phục theo một cách không khỏi làm anh áy náy. Cô đang có vẻ bị chấn động, mất phương hướng đến mức bất thường. Anh cũng khó lòng trách được cô. Song Kathryn Dance vẫn luôn là một chỗ dựa vững chắc anh có thể trông cậy, là thước đo để anh đánh giá cách ứng xử của chính mình. Hành động của cô nhắc anh nhớ rằng ở đây họ đang vượt ra ngoài lĩnh vực quen thuộc của mình, rằng vụ án này không phải là một vụ thanh toán băng đảng điển hình hay một nhóm buôn lậu vũ khí dọc tuyến Xa lộ Liên bang 101.

“Chuyện gì xảy ra vậy?” O’Neil hỏi.

“Cậu ta đánh tôi, rồi bỏ chạy. Michael, cậu nhóc này không phải là Travis.”

“Cái gì?”

“Tôi đã thoáng nhìn thấy cậu ta. Cậu ta tóc vàng.” Dance nhăn mặt nhìn một vết rách trên váy, dừng việc chỉnh đốn trang phục. Cô bắt đầu quan sát mặt đất. “Cậu nhóc đã đánh rơi thứ gì đó... Ồ, kia rồi.” Cô nhặt vật đó lên. Một hộp sơn xịt.

“Tất cả chuyện này là cái quái gì vậy?” O’Neil lên tiếng.

Dance đút súng vào bao đựng bên hông và quay trở lại phía ngôi nhà. “Chúng ta hãy đi tìm hiểu xem.”

Cả hai quay lại căn hộ của gia đình Brigham cùng lúc với đội tăng viện - hai xe tuần cảnh của cảnh sát thành phố Pacific Grove. Là cư dân lâu năm, Dance biết rõ các nhân viên cảnh sát ở đây và vẫy tay chào.

Bọn họ tiến đến bên cô và O’Neil.

“Không sao chứ, Kathryn?” một người cảnh sát hỏi khi trông thấy mái tóc rối tung và bộ váy dính đầy bụi đất của cô.

“Ổn cả.”

Nữ đặc vụ tường thuật cho họ biết về vụ tấn công và cuộc truy đuổi. Một người cảnh sát dùng chiếc bộ đàm hiệu Motorola đang đeo trên vai để báo cáo lại sự việc.

Dance và O’Neil vừa tới trước nhà thì giọng một phụ nữ vang lên từ bên trong, “Các vị có bắt được nó không?” Cánh cửa mở toang, người nói bước ra đứng trên ngưỡng cửa. Bà ta có thân hình đầy đặn và khuôn mặt tròn vành vạnh, Dance đoán bà ta chừng ngoài bốn mươi. Bà ta mặc một chiếc quần jean rách tả tơi và một cái áo sơ mi xám nhàu nhĩ với vết ố màu tam giác ở bụng. Kathryn Dance nhận thấy đôi giày đế mềm màu kem của người phụ nữ đã trở nên méo mó tróc sờn thảm hại vì phải chịu đựng sức nặng của chủ nhân. Và cả sự thờ ơ nữa.

Dance và O’Neil lần lượt tự giới thiệu. Người phụ nữ tên là Sonia Brigham, là mẹ Travis.

“Các vị có bắt được nó không?” bà ta khăng khăng hỏi.

“Bà có biết cậu thiếu niên đó là ai không, tại sao cậu ta lại tấn công chúng tôi?”

“Không phải nó tấn công các người,” Sonia nói. “Có khi thằng nhóc đó còn chẳng thấy các người nữa. Nó đang nhằm vào các cửa sổ. Bọn chúng đã ném vỡ ba miếng kính rồi.”

Một người cảnh sát Pacific Grove giải thích, “Gia đình Brigham gần đây đã trở thành mục tiêu tấn công phá hoại.”

“Bà nói là ‘thằng nhóc’,” Dance hỏi. “Bà biết cậu ta là ai chứ?”

“Thằng đó thì không. Chúng có cả một đám.”

“Một đám ư?” O’Neil ngạc nhiên.

“Chúng liên tục mò đến. Ném đá, ném gạch, sơn vẽ linh tinh lên tường và nhà để xe. Đó là tình cảnh chúng tôi phải chịu đựng.” Một cái phẩy tay khinh bỉ, có vẻ là về phía kẻ phá hoại đã biến mất. “Sau khi thiên hạ bắt đầu nói những lời xấu xa về Travis. Hôm trước, có đứa ném cả hòn gạch qua cửa sổ phòng khách, thiếu chút nữa trúng con trai út của tôi. Và nhìn xem.” Bà ta chỉ vào một từ viết nguệch ngoạc bằng sơn xịt màu xanh lục trên vách một nhà kho lớn xiêu vẹo nằm ở góc sân bên cạnh gian chính, cách đó chừng mười lăm mét.

KILL3R[1]!

[1. Killer: Kẻ sát nhân.]

Ngôn từ teen, Dance thầm ghi nhận.

Dance đưa hộp sơn xịt cho một nhân viên cảnh sát Pacific Grove, anh này nói họ sẽ điều tra thêm về nó. Cô mô tả lại cậu thiếu niên trông có vẻ là một trong số năm trăm học sinh trung học của khu vực này. Hai người cảnh sát lập một bản lấy lời khai từ cả Dance và O’Neil, cũng như từ mẹ Travis, sau đó quay lại xe của họ và ra về.

“Chúng đang săn lùng con trai tôi. Còn thằng bé chẳng hề làm gì cả! Chuyện này cũng giống như đám Ku Klux Klan[2] chết tiệt vậy! Hòn gạch đó thiếu chút nữa đã trúng Sammy. Thằng bé có chút rắc rối. Nó nổi điên. Từng có tiền án.”

[2. Khởi đầu là tên gọi một tổ chức cực hữu phân biệt chủng tộc phát triển mạnh ở miền nam Hoa Kỳ vào thời kỳ sau nội chiến. Phong trào này lắng xuống vào cuối những năm 1871, sau đó có hai trào lưu cực hữu cũng sử dụng danh xưng này, hình thành vào những năm 1920 và sau thế chiến thứ ha.]

Các Thiên Thần Báo Thù, Dance nhớ lại. Hành động bắt nạt không còn diễn ra trên mạng nữa mà đã chuyển từ thế giới ảo sang thế giới thực.

Một cậu nhóc tuổi vị thành niên có khuôn mặt tròn trịa xuất hiện trên ngưỡng cửa. Nụ cười cảnh giác làm cậu ta trông có vẻ chậm chạp, song đôi mắt dường như hiểu rõ mọi chuyện khi cậu nhìn thấy hai người. “Có chuyện gì thế, có chuyện gì thế?” giọng của cậu bé rất gấp gáp.

“Không sao cả, Sammy. Quay vào trong đi. Về phòng của con ngay đi.”

“Họ là ai vậy?”

“Quay lại phòng của con đi. Ở yên trong đó. Đừng có ra chỗ cái ao nữa.”

“Con muốn đến chỗ cái ao.”

“Không phải bây giờ. Đang có ai đó ở ngoài đấy.”

Cậu thiếu niên thong thả trở vào trong nhà.

Michael O’Neil lên tiếng, “Bà Brigham, tối qua vừa có một tội ác xảy ra, một vụ mưu sát. Nạn nhân là người từng đăng bài bình luận chống lại Travis trên một blog.”

“À, mớ rác rưởi của lão Chilton đó!” Sonia nhổ nước bọt qua hai hàm răng vàng xỉn đã bị lão hóa còn nhanh hơn cả khuôn mặt của bà ta. “Chính đống rác ấy đã khơi mào tất cả. Đáng ra ai đó nên ném gạch vào cửa sổ nhà lão ta. Bây giờ thì dân tình xúm lại hành con trai tôi. Và thằng bé chẳng làm gì hết. Tại sao ai cũng nghĩ nó đã làm chuyện xấu? Bọn họ nói thằng bé lấy trộm xe của mẹ tôi và lái đến chỗ ngọn Hải Đăng, như những gì các người nghe thấy, vạch của quý ra. Thế đấy, mẹ tôi đã bán xe của bà ấy bốn năm trước rồi. Toàn bộ mọi thứ bọn họ biết là thế đấy.”

Sau một hơi dài, Sonia chợt nghĩ ngợi gì đó và liền chuyển sang cảnh giác. “Ồ, đợi đã, có phải là cô gái trong cốp xe, suýt nữa bị chết đuối không?”

“Đúng thế.”

“Được lắm, tôi sẽ nói cho các người biết ngay bây giờ, con trai tôi không bao giờ làm chuyện gì như thế. Tôi thề với Chúa! Các người không định bắt nó đấy chứ?” bà ta có vẻ hoảng hốt.

Dance tự nhủ: Có phải quá hoảng hốt không? Có phải bà ta thực sự đang nghi ngờ con trai mình?

“Chúng tôi chỉ muốn nói chuyện với cậu ấy thôi.”

Bà ta đột nhiên trở nên bối rối. “Chồng tôi không có nhà.”

“Chỉ mình bà cũng được rồi. Không cần thiết phải đủ mặt cả bố lẫn mẹ,” nhưng Dance có thể thấy vấn đề là người phụ nữ này không muốn gánh trách nhiệm.

“À, vả lại Travis cũng không có đây.”

“Con trai bà sẽ sớm quay về chứ?”

“Nó làm việc bán thời gian ở Bagel Express[3] để kiếm tiền tiêu vặt. Cũng sắp đến ca làm của nó rồi. Thằng bé sẽ phải quay về đây để thay đồng phục.”

[3. Tên một hệ thống nhà hàng bán đồ ăn nhanh.]

“Hiện tại cậu ấy đang ở đâu?”

Sonia nhún vai. “Đôi khi nó đến trung tâm trò chơi điện tử.” Bà ta chợt im bặt, có lẽ đang nghĩ tốt hơn không nên nói gì cả. “Chồng tôi sắp quay về rồi.”

Dance chú ý đến âm sắc mà Sonia sử dụng để nói ra hai từ “Chồng tôi”.

“Tối qua Travis có ra khỏi nhà không? Vào khoảng nửa đêm?”

“Không,” câu trả lời được đưa ra quá nhanh.

“Bà chắc chứ?” Dance hỏi với giọng kiên quyết. Sonia thể hiện vẻ khó chịu khi đảo mắt nhìn đi hướng khác và không ngừng đưa tay lên, chạm vào mũi, một cử chỉ Dance không hề thấy trước đó.

Sonia nuốt khan. “Có lẽ nó đã ở đây. Tôi không biết chính xác. Tối qua tôi ngủ sớm. Travis thức đến tận gần sáng. Cũng có thể nó đã ra ngoài. Nhưng tôi không nghe thấy gì hết.”

“Thế còn chồng bà?”

Cô đã nhận thấy âm sắc khác lạ trong câu nói của bà ta khi nhắc đến giờ đi ngủ của mình. “Ông ấy có nhà vào khoảng thời gian đó không?”

“Thỉnh thoảng chồng tôi có chơi poker. Tôi nghĩ lúc đó ông ấy đang ngồi sòng.”

O’Neil lên tiếng, “Chúng tôi thực sự cần phải… ”

Câu nói của anh ngừng lại giữa chừng vì một cậu con trai tuổi vị thành niên cao lênh khênh gầy gò, vai rộng, hai chân dang ra, xuất hiện phía ngoài sân cạnh nhà. Chiếc quần jean đen của cậu ta đã bạc phếch, để lộ những vệt màu xám, và một chiếc áo khoác quân dụng màu ô liu được khoác bên ngoài chiếc áo nỉ màu đen. Dance thấy nó không có mũ trùm đầu. Cậu thiếu niên đột ngột dừng lại, ngạc nhiên chớp mắt nhìn các vị khách. Thêm một cái liếc mắt về chiếc xe không số hiệu của CBI, một vật thể bất kỳ ai đã từng xem qua một bộ phim truyền hình nào về cảnh sát được chiếu trên tivi trong mười năm qua đều có thể biết.

Dance nhận ra trong cử chỉ và thái độ của cậu ta, thứ phản xạ điển hình của một người vừa nhìn thấy lực lượng thực thi pháp luật, cho dù mình có tội hay không: Thận trọng... và vội vàng cân nhắc.

“Travis, con yêu, lại đây nào.”

Cậu thiếu niên vẫn đứng nguyên ở chỗ của mình, Dance cảm thấy O’Neil đang căng người lên.

Song họ không cần đến một cuộc đuổi bắt thứ hai. Không để lộ bất cứ cảm xúc nào, cậu thiếu niên buông thõng hai vai xuống và bước tới chỗ họ.

“Hai người này là cảnh sát,” Sonia nói, “Họ có chuyện muốn nói với con.”

“Con cũng đoán thế. Về chuyện gì vậy?” giọng nói đầy vẻ hững hờ, bình thản. Cậu ta buông thõng hai cánh tay lơ lửng bên sườn. Hai bàn tay cậu ta đều bẩn, các móng tay cáu ghét. Dẫu vậy, mái tóc cậu ta dường như lại vừa được gội. Dance đoán cậu ta làm chuyện này thường xuyên để chiến đấu với đám mụn trứng cá lan đầy trên khuôn mặt.

Dance và O’Neil lên tiếng chào Travis và đưa thẻ công vụ của họ ra. Cậu ta chăm chú nhìn chúng hồi lâu. Để câu giờ chăng? Dance tự hỏi.

“Đã có một thằng đến đây,” Sonia nói với con trai bà, hất hàm về phía chữ viết bằng sơn xịt. “Và ném vỡ thêm mấy khung kính cửa sổ nữa.”

Travis không thể hiện cảm xúc nào trước tin tức vừa nhận được từ mẹ. Cậu ta hỏi, “Sammy thế nào?”

”Nó không thấy gì.”

O’Neil lên tiếng, “Cậu không phiền nếu chúng ta vào trong nhà chứ?”

Cậu thiếu niên nhún vai, và họ bước vào một gian phòng nồng mùi ẩm mốc và khói thuốc lá. Trong nhà ngăn nắp nhưng đầy bụi bẩn. Các món nội thất chẳng có gì tương đồng dường như đều là đồ cũ, tấm vải bọc đệm ghế đã mòn và những chân bàn đã tróc véc ni. Những bức ảnh tối mờ treo đầy trên các bức tường, phần lớn là ảnh trang trí. Dance có thể thấy một phần biểu tượng của tạp chí National Geographic[4] ngay dưới khung một bức ảnh Venice. Có vài bức chụp gia đình. Hai cậu con trai, và một hai bức của Sonia khi bà ta còn trẻ.

[4. Tạp chí của Hội địa lý Quốc gia Mỹ.]

Sammy xuất hiện, hệt như lúc trước, tròn trịa, bước đi thật nhanh, cười hết cỡ.

“Travis!” cậu ta chạy vụt tới chỗ anh mình. “Anh mang kẹo về cho em chứ?”

“Của mày đây.” Travis thò tay vào túi lấy một gói M&M[5] đưa cho đứa em.

[5. Một loại kẹo sô cô la]

“Hoan hô!” Sammy cẩn thận mở gói kẹo ra, nhìn vào trong. Sau đó đưa mắt nhìn anh trai. “Ao hôm nay rất tuyệt.”

“Thật thế à?”

“Vâng,” Sammy quay lại phòng, cầm chặt gói kẹo trong tay.

Travis nói, “Trông nó không ổn lắm. Nó đã uống thuốc chưa?”

Mẹ cậu ta đưa mắt nhìn đi chỗ khác. “Thuốc...”

“Bố không mua tiếp vì giá thuốc tăng. Đúng thế không?”

“Bố con không nghĩ những viên thuốc đó giúp được gì nhiều.”

“Chúng rất có ích, mẹ. Mẹ biết em con trở thành thế nào khi nó không uống thuốc còn gì.”

Dance liếc mắt nhìn vào phòng Sammy và thấy trên bàn của cậu nhóc bày đầy những linh kiện điện tử phức tạp, các cấu kiện máy tính và dụng cụ, cùng với những món đồ chơi dành cho những đứa trẻ nhỏ tuổi hơn nhiều. Cậu ta ngồi thõng vai trên chiếc ghế và đọc một cuốn truyện tranh Nhật Bản. Sammy ngước mắt lên nhìn chăm chú về phía Dance như muốn tìm hiểu cô. Cậu ta hơi mỉm cười và hất hàm về phía quyển truyện. Dance mỉm cười đáp lại cử chỉ bí ẩn đó. Cậu ta quay lại đọc truyện. Đôi môi mấp máy.

Cô còn để ý thấy trên một cái bàn dài có một giỏ đựng đồ giặt chất đầy quần áo. Cô gõ nhẹ lên cánh tay O’Neil và đưa mắt về phía một chiếc áo nỉ màu xám để trên cùng. Đó là một chiếc áo có mũ trùm đầu.

O’Neil gật đầu.

“Em cảm thấy thế nào?” Dance hỏi. “Sau vụ tai nạn ấy?”

“Ổn thôi, em đoán là vậy.”

“Hẳn phải khủng khiếp lắm.”

“Vâng.”

“Nhưng em không bị thương nặng?”

“Không thực sự. Nhờ túi khí, chị biết đấy. Và em cũng đâu có đi quá nhanh… Trish và Van,” cậu thiếu niên cau mặt. “Nếu hai bạn ấy thắt dây an toàn, chắc cũng không sao.”

Sonia nhắc lại, “Bố thằng bé có thể về bất cứ lúc nào.”

O’Neil tiếp tục nói với giọng đều đều, “Chỉ vài câu hỏi thôi.” Sau đó anh lùi trở ra góc phòng khách, nhường việc đặt câu hỏi lại cho Dance.

Nữ đặc vụ bắt đầu, “Em đang học lớp mấy?”

“Em vừa học xong năm đầu trung học.”

“Trường Robert Louis Stevenson, đúng không?”

“Vâng.”

“Em đang học gì?”

“Em không biết nữa, nhiều thứ. Em thích Công nghệ máy tính và Toán, tiếng Tây Ban Nha. Chị biết đấy, chỉ là những môn mọi người đều học. ”

“Trường Stevenson thế nào?”

“Cũng ổn. Tốt hơn Monterey Public hay Junipero,” cậu ta đang trả lời chân thành, mắt nhìn thẳng vào mắt cô.

Ở trường Junipera Serra, học sinh bị buộc phải mặc đồng phục. Dance đoán quy định về trang phục, còn hơn cả nội quy trên mức nghiêm khắc kiểu Jesuit[6] và những giờ làm bài tập về nhà dài dằng dặc, là thứ bị ghét nhất về ngôi trường này.

[6. Người theo đạo Thiên Chúa.]

“Thế còn các băng nhóm thì sao?”

“Nó không tham gia băng nhóm nào cả,” bà mẹ ngắt lời. Với giọng gần như thể ước gì con trai bà làm điều đó.

Tuy nhiên tất cả đều tảng lờ bà.

“Không đến nỗi tệ,” Travis đáp. “Họ để bọn em yên. Không giống ở Salinas.”

Mục đích của những câu hỏi đó không phải là xã giao. Dance đang đưa ra chúng để xác định vạch ranh giới phản ứng của cậu ta. Sau vài phút với những câu hỏi vô thưởng vô phạt, Dance đã có cảm nhận rõ rệt về cách xử sự của cậu ta ở trạng thái không nói dối. Bây giờ cô đã sẵn sàng để hỏi về vụ tấn công.

“Travis, em biết Tammy Foster đúng không?”

“Cô gái trong cốp xe. Chuyện đó xuất hiện suốt trên các bản tin. Bạn ấy cũng học ở Stevenson. Bọn em chưa từng nói chuyện hay có gì khác. Có thể cả hai đã cùng học chung lớp năm đầu vào trường,” Travis nhìn thẳng vào mắt Dance. Bàn tay thỉnh thoảng lại vuốt qua trên mặt nhưng cô không dám chắc đó có phải là một cử chỉ che chắn, đồng nghĩa với nói dối hay không, hoặc đó chỉ là do cậu ta xấu hổ vì trứng cá. “Bạn ấy có viết vài thứ về em trên Bản tin Chilton. Những điều đó không đúng.”

“Cô bé đã nói gì?” Dance hỏi, cho dù cô vẫn còn nhớ bài bình luận kể lại chuyện cậu nhóc định chụp ảnh phòng thay đồ của đám con gái sau khi đội hoạt náo viên luyện tập.

Travis ngần ngừ, như thể tự hỏi liệu có phải người cảnh sát đang cố giăng bẫy mình hay không. “Bạn ấy nói em đã chụp ảnh. Chị biết đấy, đám con gái.” Khuôn mặt cậu ta tối sầm lại. “Nhưng lúc đó em chỉ đang dùng điện thoại, để nói chuyện.”

“Thật đấy,” bà mẹ chen ngang. “Bob sắp về nhà bất cứ lúc nào. Tôi nghĩ nên đợi thì hơn.”

Nhưng Dance cảm thấy một cơn thôi thúc giục cô tiếp tục. Cô biết chắc nếu Sonia muốn đợi chồng bà về, chắc chắn ông chồng sẽ làm cuộc thẩm vấn chấm hết một cách nhanh chóng.

Travis hỏi, “Bạn ấy sẽ ổn chứ? Tammy ấy?”

“Có vẻ là thế.”

Cậu ta liếc mắt nhìn chiếc bàn cà phê sứt sẹo, nơi có để một cái gạt tàn trống rỗng nhưng ố bẩn. Dance không nghĩ cô từng nhìn thấy cái gạt tàn nào trong một phòng khách từ nhiều năm qua. “Chị cho rằng em đã làm chuyện đó? Tìm cách săn lùng bạn ấy?”

Đôi mắt đen của cậu ta nằm thật sâu dưới đôi lông mày, đón nhận cái nhìn của cô thật dễ dàng làm sao.

“Không, bọn chị chỉ đang hỏi chuyện tất cả những người có thể biết thông tin về tình hình.”

“Tình hình?” cậu ta hỏi.

“Tối qua em đã ở đâu? Vào lúc giữa mười một giờ và một giờ?”

Thêm một cái vuốt tóc nữa. “Em đến chỗ Game Shed khoảng mười giờ ba mươi.”

“Đó là nơi nào vậy?”

“Là chỗ chị có thể chơi điện tử. Giống như nơi đặt máy chơi xèng ấy. Thỉnh thoảng em cũng hay tới đó chơi. Chị biết nó ở đâu không? Ở cạnh Kinko’s. Chỗ ấy ngày trước là một rạp chiếu phim cũ nhưng đã bị phá đi, và người ta dựng thứ này lên. Chỗ ấy cũng không phải hạng nhất, đường truyền không tốt lắm, nhưng lại là chỗ duy nhất mở cửa muộn.”

Dance nhận thấy dấu hiệu nói lan man dài dòng. Cô hỏi, “Em chỉ có một mình à?”

“À, ừm, ở đó còn những đứa khác nữa. Nhưng em đã chơi một mình.”

“Mẹ cứ nghĩ con đã ở nhà,” Sonia nói.

Travis nhún vai. “Lúc trước thì có. Sau đó con ra ngoài. Con không ngủ được.”

“Ở Game Shed em có vào mạng không?” Dance hỏi.

“Ừm, không. Em chơi pinball[7], không phải RPG[8].”

[7. Trò chơi dùng cần gạt bắn bóng vào địch để ghi điểm.]

[8. Viết tắt của role-playing game: Trò chơi nhập vai.]

“Không phải gì cơ?”

“Trò chơi nhập vai. Để chơi bắn súng, pinball và lái xe, chị không cần phải vào mạng,” Travis giải thích một cách kiên nhẫn, cho dù dường như cậu ta rất ngạc nhiên về chuyện cô không biết sự khác biệt.

“Vậy là em không vào mạng?”

“Thì đó là những gì em đang nói mà.”

“Con đã ở đó bao lâu?” bà mẹ tham gia vào.

“Con không biết, một hoặc hai giờ.”

“Mấy thứ trò chơi đó tốn bao nhiêu? Năm mươi cent[9] hay một đô la cho vài ba phút hả?”

[9. 1cent = 1/100 đô la]

Vậy ra đó là mối bận tâm của Sonia. Tiền.

“Nếu mẹ chơi giỏi, nó sẽ cho mẹ tiếp tục chơi. Cả tối con mất ba đô la. Con dùng tiền con kiếm được. Con cũng mua ít đồ ăn và hai lon Red Bull[10].”

[10. Tên một loại nước uống tăng lực.]

“Travis, em có thể nhớ ra ai đó nhìn thấy em tại chỗ ấy không?”

“Em không biết. Có thể. Em cần phải nghĩ về chuyện đó.” Đôi mắt cậu ta nhìn chằm chằm xuống sàn.

“Tốt. Và em về nhà lúc nào?”

“Một giờ ba mươi. Có thể là hai giờ. Em không biết.”

Cô hỏi thêm nhiều câu hỏi về tối thứ Hai, sau đó về trường học và bạn học của Travis. Cô vẫn chưa thể đi đến kết luận liệu có phải cậu ta đang nói thật hay không, vì Travis vẫn chưa dao động nhiều khỏi vạch ranh giới của cậu ta. Cô lại nghĩ tới những gì Jon Boling đã nói với cô về thế giới ảo. Nếu tâm trí Travis vẫn để cả trong đó, chứ không phải ở thế giới thực, việc phân tích vạch ranh giới có thể sẽ là vô ích. Có lẽ những người như Travis Brigham tương ứng với một tập hợp những quy tắc hoàn toàn khác.

Rồi đột nhiên, đôi mắt bà mẹ liếc về phía cửa ra vào. Cả cậu con trai cũng vậy.

Dance và O’Neil quay lại, nhìn thấy một người đàn ông to con bước vào, cao lớn, vạm vỡ. Ông ta mặc áo liền quần của công nhân dính đầy vết bẩn, trên ngực áo thêu dòng chữ “Thắng cảnh bờ biển Trung tâm”. Người đàn ông chậm rãi quan sát tất cả mọi người có mặt trong phòng. Đôi mắt tối sầm, bất động, thù địch dưới mái tóc dày màu nâu.

“Bob, đây là cảnh sát...”

“Bọn họ không phải đến đây mang theo thông cáo dành cho bảo hiểm đấy chứ?”

“Không, họ...”

“Các người có lệnh khám nhà không?”

“Họ đến đây để...”

“Tôi đang nói chuyện với cô ta,” ông ta hất hàm về phía Dance.

“Tôi là đặc vụ Dance tại Cục Điều tra California,” cô đưa ra tấm thẻ công vụ ông ta chẳng buồn nhìn đến. “Và đây là thanh tra O’Neil, Sở Cảnh sát hạt Monterey. Chúng tôi đang hỏi con trai ông vài câu hỏi về một tội ác.”

“Chẳng có tội ác nào hết. Đó là một vụ tai nạn. Tất cả những gì đã xảy ra chỉ có thế.”

“Chúng tôi đến đây vì một vụ việc khác. Một người từng đăng bài bình luận về Travis đã bị tấn công.”

“À, cái blog thối tha đó,” người đàn ông gầm lên. “Gã Chilton đó là một mối nguy cho xã hội. Hắn như một con rắn độc chết tiệt.”

Ông ta quay sang bà vợ. “Joey, ở dưới bến tàu, tôi thiếu chút nữa đã vả vào mồm hắn vì những gì hắn nói về tôi. Xúi giục những đứa nhóc khác. Chỉ vì tôi là bố thằng bé. Chúng không chịu đọc báo, chúng không đọc Newsweek. Nhưng chúng lại đọc thứ rác rưởi của Chilton. Ai đó cần phải...” giọng ông ta hạ xuống. Ông ta quay về phía cậu con trai. “Tao đã nói với mày đừng có nói lời nào với bất cứ ai nếu chúng ta không có một luật sư. Có đúng tao đã bảo mày thế không nào? Mày nói một điều ngu ngốc với đối tượng không nên nói, và chúng ta bị kiện cáo. Bọn chúng cướp đi ngôi nhà và nửa tấm séc trả lương của tao trong suốt phần đời còn lại.” Ông ta hạ giọng. “Và em trai mày chui vào một ngôi nhà.”

“Ông Brigham, chúng tôi không đến đây vì vụ tai nạn,” O’Neil nhắc nhở ông ta. “Chúng tôi đang điều tra vụ tấn công tối hôm qua.”

“Đâu có khác gì, phải không nào? Mọi thứ vẫn bị ghi lại và đưa vào hồ sơ.”

Ông ta có vẻ quan ngại về trách nhiệm với vụ tai nạn hơn khả năng cậu con trai có thể bị bắt vì mưu toan giết người.

Hoàn toàn tảng lờ hai người cảnh sát, ông chủ nhà nói với bà vợ, “Sao cô lại cho bọn họ vào? Đây đâu phải là nước Đức thời Quốc xã, vẫn chưa đâu. Cô có thể bảo bọn họ cuốn xéo đi.”

“Em nghĩ...”

“Không, cô không hề. Cô chẳng nghĩ gì hết,” ông ta quay sang O’Neil, “Bây giờ, tôi sẽ yêu cầu các người rời khỏi đây. Và nếu các người quay lại, tốt hơn nên cầm theo lệnh khám xét.”

“Bố!” Sammy reo lên, lao từ trong phòng của cậu bé ra, làm Dance giật mình. “Nó chạy rồi! Con muốn cho bố xem!” cậu bé đang cầm trên tay một bảng mạch với dây nối tua tủa ra ngoài.

Vẻ cộc cằn của Brigham biến mất ngay lập tức. Ông ta ôm lấy đứa con trai út và dịu dàng nói, “Chúng ta sẽ xem nó sau nhé, sau khi ăn tối.”

Dance quan sát đôi mắt Travis, lúc này đang sững lại trước cử chỉ thể hiện tình cảm dành cho em trai cậu ta.

“Tốt thôi,” Sammy do dự, sau đó ra ngoài qua cửa sau và nặng nề giậm chân bước theo lối đi hướng về phía nhà kho.

“Đừng đi xa đấy con,” Sonia gọi với theo.

Dance nhận thấy bà ta vẫn chưa nói gì với ông chồng về những hành động phá hoại vừa mới xảy ra. Sonia sợ phải nói ra tin xấu. Tuy thế, bà ta vẫn nói về Sammy, “Có lẽ nó nên tiếp tục uống thuốc.” Đôi mắt nhìn về mọi hướng trừ ông chồng.

“Mấy viên thuốc đó chỉ là một trò đốt tiền, với giá của chúng. Mà chẳng lẽ cô không buồn nghe tôi nói sao? Mà để làm gì chứ, nếu nó ở nhà suốt ngày?”

“Nhưng nó đâu có ở nhà suốt ngày. Đó...”

“Vì Travis không chịu trông coi thằng bé như nó cần.”

Travis dửng dưng lắng nghe, không chút cảm xúc trước lời trách móc.

O’Neil nói với Bob Brigham, “Một tội ác nghiêm trọng đã diễn ra. Chúng tôi cần nói chuyện với tất cả những ai có khả năng liên quan. Và con trai ông có liên quan. Ông có thể xác nhận cậu ấy đã ở Game Shed tối qua không?”

“Tôi ra ngoài. Nhưng đó không phải chuyện của các người. Và hãy nghe đây, con trai tôi không dính dáng gì đến bất cứ vụ tấn công nào hết. Việc các người nấn ná ở đây là xâm nhập tư gia, phải không nào?” Ông ta nhướng một bên lông mày rậm lên trong lúc châm một điếu thuốc lá, vẩy tắt que diêm và ném nó rơi chính xác vào gạt tàn. “Còn mày,” ông ta gắt lên với Travis. “Mày sắp muộn làm rồi đấy.”

Cậu ta đi vào phòng của mình.

Dance ngao ngán thất vọng. Cậu ta chính là đối tượng nghi vấn hàng đầu của họ, nhưng cô chỉ đơn giản là không thể đoán biết được những gì đang diễn ra trong đầu Travis.

Travis quay trở ra, cầm theo một chiếc áo khoác đồng phục kẻ sọc màu nâu và be đang treo vào mắc áo. Cậu ta cuộn nó lại và nhét vào trong ba lô.

“Không,” Brigham gắt lên. “Mẹ mày đã là nó tử tế. Mặc nó vào người. Đừng có vo viên nó lại như thế.”

“Con không muốn mặc nó bây giờ.”

“Hãy thể hiện chút tôn trọng với mẹ mày, sau tất cả những gì bà ấy đã làm.”

“Đó là một tiệm bánh. Ai bận tâm chứ?”

“Vấn đề không phải ở đó. Mặc cái áo vào. Làm như tao bảo.”

Cậu con trai cứng người lại. Dance gấp gáp trong từng hơi thở khi nhìn thấy khuôn mặt Travis. Mắt mở to, vai gồng lên. Đôi môi cậu ta co lại như một con vật đang nhe răng. Travis gầm lên với ông bố, “Đó là một cái áo đồng phục ngu ngốc mắc dịch. Con mặc nó trên phố và bọn chúng cười vào mặt con!”

Ông bố cúi người ra trước. “Đừng giở giọng đó ra với tao, và tuyệt đối không làm thế trước mặt người khác!”

“Con đã bị chế nhạo thế là đủ rồi. Con sẽ không mặc nó! Bố không có chút thấu hiểu chết tiệt nào hết!”

Dance thấy đôi mắt cuồng loạn của Travis đảo quanh phòng và dừng lại ở cái gạt tàn, một thứ có thể dùng làm vũ khí. O’Neil cũng nhận ra điều đó và căng người lên, sẵn sàng cho trường hợp một cuộc ẩu đả nổ ra.

Cậu ta đã trở thành một con người hoàn toàn khác, bị cơn phẫn nộ điều khiển.

Xu hướng bạo lực ở giới trẻ hầu như luôn xuất phát từ phẫn nộ, không phải từ phim ảnh hay truyền hình...

“Con chẳng làm gì sai hết!” Travis gầm lên, quay ngoắt lại và lao qua cửa trước, đóng sầm lại thật mạnh. Cậu ta hối hả bước ra khoảnh sân bên hông nhà, vồ lấy chiếc xe đạp đang dựa vào một hàng rào đổ, dắt xuống con đường mòn đi xuyên qua vạt rừng mọc ôm lấy sân sau.

“Còn quý vị, xin cảm ơn vì đã làm hỏng cả ngày của chúng tôi. Giờ các người hãy xéo đi.”

Với những lời chào tạm biệt được nói ra bằng giọng đều đều, Dance và O’Neil quay ra phía cửa, Sonia hướng ánh nhìn xin lỗi dè dặt về phía họ. Bố Travis sải chân bước vào trong bếp. Dance nghe thấy tiếng cửa tủ lạnh mở rồi một nắp chai được bật ra.

Ra đến bên ngoài, cô hỏi, “Anh thế nào?”

“Không đến nỗi tệ, tôi nghĩ vậy,” O’Neil nói và giơ lên một mảnh nhỏ xíu màu xám. Anh đã lấy nó từ chiếc áo nỉ trong giỏ đồ giặt khi quay đi để Dance thực hiện thẩm vấn.

Họ ngồi xuống băng ghế trước chiếc xe địa hình của O’Neil. Hai cánh cửa cùng đồng thời đóng sập lại. “Tôi sẽ đưa mẫu sợi vải cho Peter Bennington.”

Việc đó không được phép vì họ không có lệnh khám nhà, nhưng ít nhất nó cũng có thể cho họ hay Travis là đối tượng nghi vấn nhiều hay ít.

“Nếu trùng khớp, sẽ cho theo dõi cậu ta chứ?” cô hỏi.

O’Neil gật đầu. “Tôi sẽ dừng lại ở chỗ tiệm bánh. Nếu xe đạp của cậu ta dựng bên ngoài, tôi có thể lấy một mẫu đất từ bánh xe. Tôi nghĩ quan tòa sẽ cho lệnh khám xét nếu mẫu đất khớp với hiện trường trên bãi biển.”

Anh quay sang nhìn Dance. “Linh cảm à? Cô nghĩ cậu ta làm chuyện đó không?”

Dance băn khoăn. “Tất cả những gì tôi có thể nói là tôi đã nhận rõ hai lần tín hiệu không thành thật.”

“Lúc nào vậy?”

“Lần đầu khi cậu ta nói cậu ta có mặt ở Game Shed tối qua.”

“Còn lần thứ hai?”

“Khi cậu ta nói không làm gì sai cả.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11


Dance quay về văn phòng của mình tại CBI. Cô mỉm cười với Jon Boling. Anh ta cười chào lại, nhưng sau đó khuôn mặt trở nên nghiêm nghị. Anh ta hất hàm về phía màn hình máy tính của mình. “Có thêm bài bình luận nữa về Travis trên Bản tin Chilton. Công kích cậu ta. Và sau đó là những bài khác, chỉ trích những kẻ tấn công. Đó thực sự là một cuộc chiến tranh nảy lửa. Và tôi biết cô muốn giữ bí mật mối liên hệ giữa vụ Cây thập tự ven đường và vụ tấn công, nhưng có ai đó đã bới ra được.”

“Làm sao có thể chứ?” Dance bực bội hỏi.

Boling nhún vai. Anh ta hất hàm vào một bài viết mới được đăng.



Trả lời Chilton, do BrittanyM đăng.

Đã có ai theo dõi bản tin chưa??? Kẻ nào đó đã để lại một cây thập tự rồi xông đi tấn công cô kia. Tất cả chuyện này là gì vậy? OMG, tôi dám cược đó là [người lái xe]!



Những bài viết tiếp theo suy đoán Tammy đã bị Travis tấn công vì cô bé đã đăng một bài chỉ trích cậu ta trên Bản tin Chilton. Và cậu thiếu niên đã trở thành “Kẻ Sát nhân với Cây thập tự ven đường,” cho dù Tammy vẫn còn sống sót.

“Tuyệt vời. Chúng ta cố giữ bí mật về nó nhưng rồi lại bị một cô nhóc vị thành niên tên là Brittany qua mặt.”

“Cô đã gặp cậu ta chưa?” Boling hỏi.

“Rồi.”

“Cô có nghĩ cậu ta là thủ phạm không?”

“Tôi ước gì có thể nói vậy. Tôi đang nghiêng về giả thiết này,” cô giải thích rằng bản thân mình rất khó nắm bắt được Travis do cậu ta dường như sống trong thế giới ảo nhiều hơn trong thực tế, cậu ta đang che giấu chúng bằng ngôn ngữ cơ thể của mình. “Tôi cho rằng có khá nhiều phẫn nộ ẩn chứa ở đây. Anh nghĩ sao về một chuyến tản bộ, Jon? Tôi muốn anh gặp một người.”

Vài phút sau, họ có mặt trước cửa văn phòng của Charles Overby. Lại đang nói chuyện điện thoại, thứ trạng thái thường nhật của ông ta. Charles ra hiệu mời Dance và Boling vào, với một cái liếc mắt tò mò dành cho vị giáo sư.

Cô phụ trách trung tâm gác máy. “Bọn họ đã đưa ra mối liên hệ, đám báo chí. Bây giờ cậu ta đã trở thành ‘Kẻ Sát Nhân với Cây thập tự ven đường.’”

BrittanyM…

Dance nói, “Charles, đây là giáo sư Jonathan Boling. Anh ấy đang giúp đỡ chúng ta”.

Họ bắt tay đầy nhiệt tình. “Hiện tại cậu đang giảng dạy sao? Về lĩnh vực nào vậy?”

“Máy tính.”

“Đó là chuyên ngành của cậu à? Cậu có tham gia tư vấn chứ?” Overby để những câu hỏi lơ lửng như một cái tàu lượn bằng gỗ balsa[1] trên đầu ba người trong khoảnh khắc. Dance nhận ra lời gợi ý bóng gió dành cho cô và định nói Boling đang tình nguyện dành thời gian của mình để giúp đỡ, thì anh nói, “Chủ yếu tôi giảng dạy, nhưng, đúng thế, tôi có làm chút ít công việc tư vấn, đặc vụ Overby. Thực tế đó là cách tôi kiếm phần lớn thu nhập của mình. Anh biết đấy, lương giảng dạy gần như chẳng đáng bao nhiêu. Nhưng với tư cách chuyên gia tư vấn tôi có thể tính phí ba trăm một giờ.”

[1. Tên của một loại cây thuộc họ Cẩm quý có nguồn gốc ở Brazil. Bolivia và Mexico. Gỗ của loại cây này là loại nhẹ nhất, được dùng nhiều trong công nghiệp.]

“Ái chà,” Overby có vẻ sững sờ. “Theo giờ. Thật thế sao?”

Boling giữ nguyên khuôn mặt nghiêm nghị trong suốt khoảng thời gian trước khi nói thêm, “Nhưng tôi thực sự thấy hứng thú khi tình nguyện giúp đỡ những cơ quan như cơ quan của các vị. Vì thế, sẽ chẳng có bất kỳ hóa đơn nào được gửi đến đâu.”

Dance gần như phải cắn răng cắn lợi để khỏi bật cười. Cô tin chắc Boling có thể trở thành một nhà tâm lý học cừ khôi, bởi anh ta đã đọc được tính tình bủn xỉn khó chịu của Overby chỉ trong có mười giây, xoa dịu nó rồi thêm vào một câu pha trò để dành cho cô. Dance biết thế vì cô là khán giả duy nhất.

“Chuyện này bắt đầu trở nên điên rồ rồi đấy, Kathryn. Chúng ta đã nhận được vô số thông báo về những tên sát nhân lảng vảng sau sân nhà. Vài người thậm chí đã nổ súng về phía kẻ xâm nhập, nghĩ rằng đó là cậu ta. À, lại có thêm mấy báo cáo nữa về những cây thập tự.”

Dance giật mình. “Lại nữa sao?”

Overby giơ một bàn tay lên. “Trông như tất cả chúng đều là những vật tưởng niệm thật sự. Đã có những vụ tai nạn xảy ra trong vài tuần qua. Không có cây thập tự nào có ngày tháng trong tương lai ghi trên chúng. Nhưng báo chí đang làm rùm beng cả lên. Ngay cả cánh nhà báo ở Sacramento cũng đã nghe được.”

Ông ta hất hàm về phía điện thoại, có vẻ để ám chỉ một cuộc gọi từ sếp lớn của họ - giám đốc CBI. Thậm chí có thể là sếp của ông ta, Chưởng lý tiểu bang.

“Vậy, chúng ta biết được những gì rồi?”

Dance kể cho người cấp trên nghe về Travis, những biến cố xảy ra tại nhà bố mẹ cậu ta, cảm nhận của cô về cậu ta. “Chắc chắn là một đối tượng đáng quan tâm.”

“Nhưng cô đã không giải cậu ta về?”, Overby hỏi.

“Không có lý do chính đáng. Michael hiện đang kiểm tra một số bằng chứng hiện vật cho thấy mối liên hệ giữa cậu ta với hiện trường.”

“Và không có đối tượng nghi vấn nào khác?”

“Không.”

“Làm thế quái nào kẻ gây ra chuyện này lại có thể là một đứa nhóc, một thằng nhãi lượn lờ loanh quanh trên chiếc xe đạp chứ?”

Dance buộc phải chỉ ra cho ông ta thấy rằng các băng nhóm địa phương, tập trung chủ yếu ở nội thị Salinas và khu vực xung quanh, đã làm cư dân trong vùng kinh hoàng từ nhiều năm nay, không ít băng nhóm trong số này có những thành viên trẻ hơn Travis nhiều.

Boling nói thêm, “Có một chi tiết chúng tôi đã tìm hiểu được về cậu thiếu niên này. Cậu ta rất thích các trò chơi điện tử. Những thanh niên chơi giỏi những trò này học được những kỹ năng chiến đấu và bỏ trốn rất phức tạp. Một tố chất những nhà tuyển mộ của quân đội luôn đòi hỏi ở các ứng viên. Nếu mọi tiêu chuẩn khác đều ngang bằng, họ sẽ chọn ngay tay này thay vì đứa còn lại trong bất cứ trường hợp nào.”

Overby hỏi, “Động cơ là gì?”

Dance sau đó giải thích với ông rằng nếu Travis là kẻ sát nhân, lý do rất có thể là để báo thù việc bị công kích, bắt nạt trên mạng.

“Bắt nạt trên mạng,” Overby nói với vẻ nghiêm túc. “Tôi vừa đọc qua về chủ đề này.”

“Thật vậy sao?” Dance hỏi.

“Phải. Có một bài viết rất hay trên tờ USA Today số cuối tuần trước.”

“Nó đã trở thành một chủ đề thời thượng,” Boling nói. Liệu có phải Dance vừa nhận thấy chút lo lắng về những nguồn cung cấp thông tin cho người phụ trách văn phòng khu vực của CBI không?

“Như vậy là đủ để cậu ta trở nên bạo lực sao?” Overby hỏi.

Boling gật đầu nói tiếp, “Cậu ta đã bị dồn ép quá giới hạn chịu đựng. Các bài bình luận và tin đồn lan quá nhanh. Có người đã đăng cả một đoạn video về cậu ta trên YouTube[2]. Bọn họ quay trong lúc ra sức chế nhạo và tấn công cậu ta.”

[2. Trang web chuyên chia sẻ video trực tuyến.]

“Cái gì cơ?”

“Đó là một hình thức bắt nạt trên mạng. Ai đó tới cạnh Travis tại cửa hàng Burger King và đẩy cậu ta. Cậu ta ngã - một cảnh thật mất mặt - và một cậu nhóc khác đợi sẵn để quay lại tất cả vào điện thoại di động. Sau đó đám nhóc tải đoạn phim lên mạng. Cho tới lúc này, đoạn clip đã thu hút hai trăm nghìn lượt xem.”

Đúng lúc đó một người đàn ông vóc người gầy gò có khuôn mặt nghiêm nghị bước ra khỏi phòng họp bên kia sảnh và đi vào văn phòng của Overby. Ông này nhìn thấy hai vị khách nhưng rồi tảng lờ họ.

“Charles,” người đàn ông lạ nói bằng giọng oang oang.

“Ồ... Kathryn, đây là Robert Harper,” Overby giới thiệu. “Từ văn phòng Chưởng lý tiểu bang ở San Francisco. Đặc vụ Dance.”

Người đàn ông bước vào trong và bắt tay cô thật chặt, nhưng giữ một khoảng cách nhất định, như thể lo sợ đối phương nghĩ ông ta đang cố nhảy bổ vào tất cả đối tượng, và rồi bọn họ sẽ chẳng ngại ngùng gì khi tỏ ra thân thiết với ông.

“Và Jon...” Overby cố nhớ.

“Boling.”

Harper dành cho vị giáo sư một cái liếc mắt hờ hững. Và không nói gì thêm.

Nhân vật tới từ San Francisco có một khuôn mặt khá lạnh lùng cùng mái tóc đen được cắt tỉa hoàn hảo. Ông ta mặc một bộ vest phong cách bảo thủ màu xanh hải quân và áo sơ mi trắng, đeo một chiếc cà vạt kẻ sọc xanh đỏ. Trên be áo có một cây trâm cài hình quốc kỳ Mỹ. Hai cổ tay áo sơ mi phẳng phiu không chê vào đâu được, cho dù cô để ý thấy vài sợi chỉ xám thòi ra ở các đầu vải. Một trợ lý tiểu bang chuyên nghiệp, trung thành với công việc rất lâu sau khi các đồng nghiệp của ông ta đã ra hành nghề tư và kiếm bộn tiền. Cô đoán ông ta khoảng chừng ngoài năm mươi tuổi.

“Chuyện gì đưa ông tới Monterey vậy?” cô hỏi.

“Đánh giá các vụ việc đang điều tra.” Và không hé lộ gì thêm.

Robert Harper dường như là một trong những người, nếu không có gì để nói, luôn thoải mái với vẻ im lặng. Dance tin cô cũng đã nhận thấy trên khuôn mặt người đàn ông này sự tập trung cao độ, một ý thức tận tụy với công việc, giống như thứ cô đã thấy trên khuôn mặt mục sư Fisk tại cuộc biểu tình ở bệnh viện. Cho dù một đợt phân tích các vụ việc đang được điều tra như thế này sẽ đem lại những điều hoàn toàn bí ẩn với cô.

Ông ta chuyển sự chú ý sang cô một lát. Dance đã quen với việc bị nhìn chằm chằm, nhưng thường là bởi các đối tượng tình nghi, song kiểu xăm xoi của Harper thật đáng lo ngại. Cứ như thể cô đang nắm trong tay chìa khóa dẫn tới một bí mật quan trọng với ông ta.

Song, ông ta nói với Overby, “Tôi sẽ ra ngoài vài phút, Charles. Tôi sẽ rất biết ơn nếu ông có thể khóa cửa phòng họp giúp tôi”.

“Tất nhiên rồi. Nếu ông còn cần tới điều gì khác thì hãy cho tôi biết nhé.”

Harper gật đầu lạnh lùng sau đó bước ra ngoài, vừa đi vừa lấy điện thoại từ trong túi ra.

“Có chuyện gì với ông ta vậy?” Dance hỏi.

“Công tố viên đặc biệt từ Sacramento. Đã nhận được một cuộc gọi từ cấp trên, từ ngài Chưởng lý tiểu bang, đề nghị hợp tác. Ông ta muốn biết về các vụ chúng ta đang điều tra. Có lẽ có chuyện gì lớn đang từ trên dồn xuống và ông ta cần xem chúng ta đang bận bịu đến mức nào. Ông ta cũng dành một chút thời gian tại văn phòng Sở Cảnh sát. Ước gì ông ta quay lại đó quấy phá bọn họ. Tay này quả là một kẻ lạnh lùng khó gần. Chẳng biết phải nói gì với ông ta nữa. Tôi đã thử pha trò vài lần. Vô ích.”

Nhưng Dance đang nghĩ về vụ Tammy Foster, vậy nên Robert Harper đã biến mất khỏi tâm trí cô.

Cô và Boling quay lại phòng làm việc của mình và vừa kịp ngồi xuống bàn khi O’Neil gọi điện tới. Cô thấy vui. Dance đoán anh đã có kết quả phân tích mẫu đất bám trên lốp xe đạp và mẫu sợi màu xám từ chiếc áo nỉ của Travis.

“Kathryn, chúng ta có một rắc rối đây.” Giọng anh có vẻ lo lắng.

“Nói tiếp đi.”

“Thế này nhé, thứ nhất, Peter nói người ta tìm thấy sợi vải màu xám trên cây thập tự phải không? Nó khớp với thứ chúng ta tìm thấy trên áo Travis.”

“Vậy thì cậu ta chính là kẻ tấn công. Thẩm phán nói sao về lệnh khám nhà?”

“Đừng đi nhanh thế. Travis trốn mất rồi.”

“Cái gì?”

“Cậu ta không tới chỗ làm việc. Hay là đã đến... Có vết bánh xe đạp còn mới ở đằng sau nhà hàng, chỉ để chui vào buồng sau, ăn trộm một ít bánh và tiền mặt trong ví của một nhân viên... cùng một con dao thái thịt. Sau đó cậu ta biến mất. Tôi đã gọi điện cho bố mẹ thằng nhóc, song họ vẫn chưa hề liên lạc với nó và tuyên bố họ không biết những nơi cậu ta có thể đến.”

“Anh đang ở đâu?”

“Trong phòng làm việc của tôi. Tôi chuẩn bị phát một lệnh truy nã chi tiết để tìm cậu thiếu niên này. Ở chỗ chúng ta, Salinas, San Benito, và các hạt xung quanh.”

Dance ngả người ra sau, thấy bực bội với bản thân. Tại sao cô lại không lên kế hoạch chu đáo hơn và cử ai đó bám theo Travis sau khi cậu ta rời khỏi nhà? Cô đã cố gắng xác lập tội trạng của cậu ta, và đồng thời lại để cậu ta tuột khỏi tay mình.

À, quỷ tha ma bắt, giờ cô sẽ phải báo cáo với Overby chuyện vừa xảy ra.

Rằng cô đã không giải cậu ta về?

“Còn một việc nữa. Khi đang ở chỗ tiệm bánh, tôi có kiểm tra con hẻm. Ở đó có lối giao hàng gần cửa thoát hiểm.”

“Đúng rồi, tôi biết chỗ ấy.”

“Có một hàng bán hoa ở phía bên hông tòa nhà.”

“Những bông hồng!” cô nói.

“Chính xác. Tôi đã hỏi chuyện với người chủ cửa hàng,” giọng O’Neil trở nên hối hả. “Hôm qua, có người nào đó đã đột nhập vào cửa hàng và ăn cắp sạch những bó hoa hồng đỏ.”

Giờ thì cô đã hiểu tại sao giọng anh lại có vẻ nghiêm trọng như vậy. “Tất cả?... Hắn đã lấy đi bao nhiêu?”

Một quãng ngừng ngắn. “Mười hai bó. Có vẻ như hắn mới chỉ vừa bắt đầu.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12


Điện thoại của Dance đổ chuông. Cô liếc nhìn vào danh tính người gọi.

“TJ. Tôi đang định gọi cậu.”

“Không có chút may mắn nào với những cái camera an ninh nhưng có một buổi khuyến mãi tại hàng cà phê Blue Mountain Jamaica ở Java House. Mua một cân rưỡi với giá một cân. Dù vẫn khiến cô tốn gần năm mươi đô nhưng thứ cà phê đó là hạng nhất.”

Cô không hề đáp lại câu pha trò của anh ta. Anh chàng nhận ra ngay. “Có chuyện gì vậy, sếp?”

“Thay đổi kế hoạch, TJ.”

Cô kể cho anh biết về Travis Brigham, những bằng chứng pháp y tương thích và một tá bó hoa bị đánh cắp.

“Cậu nhóc đang chạy trốn sao, sếp? Cậu ta đang lên kế hoạch thêm nhiều vụ nữa à?”

“Phải. Tôi muốn cậu tới nhà hàng Bagel Express, hỏi chuyện bạn bè hay bất cứ ai quen biết cậu ta, tìm xem cậu ta có thể đi đâu. Những người cậu ta có thể ở cùng. Những chỗ lui tới ưa thích.”

“Hiểu rồi, tôi sẽ vào việc ngay.”

Dance gọi tiếp cho Rey Carraneo, người cũng không gặp chút may mắn nào trong cuộc tìm kiếm nhân chứng ở bãi để xe nơi Tammy Foster đã bị bắt cóc. Cô thông báo vắn tắt tình hình với Rey và yêu cầu anh tới Game Shed để tìm kiếm bất cứ đầu mối nào về địa điểm Travis có thể tìm đến.

Sau khi ngắt liên lạc, Dance ngồi xuống tựa người ra thành ghế. Một cảm giác bất lực tuyệt vọng xâm chiếm khắp người. Cô cần các nhân chứng, cần ai đó để thẩm vấn. Đó là kỹ năng cô được sinh ra để làm, là công việc cô yêu thích và có năng lực. Nhưng giờ đây cuộc điều tra đã rẽ sang lãnh địa của bằng chứng và suy đoán.

Cô đưa mắt nhìn những bản in các bài đăng trên Bản tin Chilton.

“Tôi nghĩ tốt hơn chúng ta nên bắt đầu liên lạc với những nạn nhân tiềm tàng và cảnh báo họ. Người ta có công kích cậu ta trên các mạng xã hội không, trên MySpace, Facebook hay OurWorld ấy?” cô hỏi Boling.

“Tại những nơi đó việc này rất cỏn con bởi chúng là các trang mạng quốc tế. Bản tin Chilton mang tính địa phương hơn, vì thế chín mươi phần trăm trường hợp công kích Travis xuất hiện trên đó. Tôi sẽ cho cô hay một điều có thể hữu ích: Thu thập địa chỉ Internet của những người đăng bài. Nếu có được chúng, chúng ta sẽ liên hệ với các nhà cung cấp dịch vụ và tìm ra địa chỉ thực của họ. Điều này sẽ giúp tiết kiệm rất nhiều thời gian.”

“Bằng cách nào?”

“Phải từ chính Chilton hay từ người quản lý trang web của ông ta.”

“Jon, anh có thể cho tôi biết điều gì đó về ông ta không, những thứ sẽ giúp tôi thuyết phục được Chilton hợp tác, nếu ông ấy từ chối?”

“Tôi biết về blog của ông ta,” Boling trả lời, “nhưng biết không nhiều lắm về con người ông ta. Ngoài bản tiểu sử trên chính Bản tin. Nhưng tôi sẽ rất thích được làm một chút công việc của thám tử.” Đôi mắt giáo sư lại lóe lên tia sáng cô thấy lúc trước. Anh ta quay lại với cái máy tính của mình.

Những câu đố...

Trong khi Boling bận rộn đắm chìm trong lãnh địa quen thuộc của mình, Dance nhận được cuộc gọi của O’Neil. Một đội điều tra hiện trường đã kiểm tra con hẻm đằng sau Bagel Express và tìm thấy vết cát cùng bụi đất tại nơi Travis từng dựng chiếc xe đạp ở đó. Họ đối chiếu với vết đất pha cát nơi con xế của Tammy bị bỏ lại trên bãi biển. Người thanh tra còn cho biết thêm rằng một đội của MCSO đã điều tra cả khu vực nhưng không ai nhìn thấy cậu thiếu niên.

O’Neil nói với cô rằng anh đã huy động thêm sáu nhân viên nữa ở đội Tuần cảnh Xa lộ tham gia cuộc truy lùng. Họ đang từ Watsonville tới.

Hai người ngừng liên lạc và Dance lại ngả người xuống ghế.

Sau vài phút, Boling thông báo anh ta đã tìm được một số thông tin về Chilton từ chính blog cũng như từ các kết quả tìm kiếm khác. Vị giáo sư quay trở lại trang chủ, nơi có đăng bản tiểu sử do chính Chilton viết.

http://www.thechiltonreport.com

Dance di chuột xuống, bắt đầu lướt qua nội dung blog trong khi Boling cung cấp thông tin, “James David Chilton, bốn mươi ba tuổi. Kết hôn với Patrizia Brisbane, có hai con trai, mười và mười hai tuổi. Sống ở Carmel. Nhưng ông ta cũng có bất động sản ở Hollister, có vẻ là nhà nghỉ, và vài bất động sản cho thuê quanh vùng San Jose. Gia đình họ được thừa kế lại sau khi ông bố vợ qua đời vài năm trước. Còn bây giờ, điều thú vị nhất tôi tìm thấy về Chilton là ông ta luôn có một thói quen kỳ quặc. Ông ta viết thư.”

“Thư?”

“Thư cho biên tập, thư cho dân biểu của ông ta, những thư bày tỏ quan điểm độc lập. Ông ta bắt đầu bằng thư tín thông thường, trước khi Internet thực sự bùng nổ, sau đó đến lượt email. Ông ta viết đến hàng nghìn thư. Nhục mạ, chỉ trích, tán dương, bình phẩm, những bình luận chính trị. Cô biết đấy. Người ta viện dẫn ra ông ta từng nói một trong những quyển sách ưa thích của mình là Herzog, tiểu thuyết của Saul Bellow[1] về một người đàn ông bị ám ảnh với chuyện viết thư. Về cơ bản, thông điệp của Chilton nhắc đến củng cố các giá trị đạo đức, vạch trần tham nhũng, tán dương các chính trị gia làm tốt, chỉ trích những người không làm được - chính xác với những gì đăng trên blog của ông ta. Tôi tìm thấy một số lượng lớn chúng trên mạng. Sau đó, dường như ông ta khám phá ra thế giới của blog. Ông ta bắt đầu Bản tin Chilton từ khoảng năm năm trước. Bây giờ, trước khi tôi tiếp tục, có lẽ sẽ hữu ích nếu cô được biết một chút về lịch sử các blog.”

[2. Một nhà văn Mỹ nổi tiếng g61c Canada.]

“Tất nhiên rồi.”

“Tên gọi này xuất phát từ ‘weblog’, khái niệm do một nhân vật có uy tín trong làng máy tính, Jorn Barger, đưa ra năm 1997. Ông ta viết một nhật ký trực tuyến về những chuyến đi của mình và những gì ông ta đang thấy lên web. Cho đến lúc ấy, người ta ghi lại suy nghĩ của họ trên mạng từ nhiều năm rồi, song điều khiến các blog trở nên nổi bật là khái niệm ‘đường dẫn’. Nó là chìa khóa của một blog. Cô đang đọc thứ gì đó và cô bắt gặp phần có gạch chân hay để chữ đậm làm tham chiếu trong phần văn bản, bấm vào đấy và nó dẫn cô tới một nơi khác.”

“Kiểu kết nối này được gọi là ‘siêu văn bản’[2]. Bốn ký tự H-T-T-P trên một địa chỉ trang web nghĩa là gì? Chúng là viết tắt của ‘Giao thức truyền siêu văn bản’[3], một phần mềm cho phép cô thiết lập các đường dẫn. Theo quan điểm của tôi, điều này là một trong những khía cạnh quan trọng nhất của Internet. Có khi là quan trọng nhất. Vậy đấy, sau khi siêu văn bản đã trở nên phổ biến, các blog bắt đầu phát triển mạnh. Những ai có khả năng viết mã bằng HTML[4] - ngôn ngữ tạo siêu văn bản, một dạng ngôn ngữ của máy tính để tạo các đường dẫn - sẽ tạo nên các blog của riêng họ rất dễ dàng. Nhưng ngày càng có nhiều người muốn nhập cuộc và không phải ai cũng đủ hiểu biết về công nghệ. Vậy là các công ty đưa ra những chương trình mà bất cứ ai, à phải, hầu hết mọi người, có thể sử dụng để tạo nên các blog kèm đường dẫn - Pitas, Blogger và Groksoup là những gã tiên phong. Rồi vô số kẻ khác theo đuôi. Giờ đây tất cả những gì cô phải làm là có một tài khoản Google hay Yahoo, và cô có thể tạo cho mình một blog. Kết hợp với giá lưu trữ dữ liệu phải chăng thời này - và ngày càng hạ xuống từng phút - kết quả là cô có cả một thế giới blog trong tầm tay.”

[2. Hypertext.]

[3. Hyper Tex Transfer Protocol.]

[4. Hyper Tex Markup Languege.]

Bài thuyết trình của Boling thật sinh động và tuần tự. Hẳn anh phải là một giáo sư rất xuất sắc, Dance thầm nghĩ.

“Trước vụ Mười một tháng Chín[5],” Boling giải thích, “các blog phần lớn liên quan tới máy tính. Chúng được dân công nghệ viết ra dành cho dân công nghệ. Tuy thế, sau thảm họa đó, một loại blog mới xuất hiện. Chúng được gọi là blog chiến tranh, sau vụ khủng bố cùng cuộc chiến ở Afghanistan và Iraq. Những người viết blog đó không quan tâm đến công nghệ. Bọn họ quan tâm đến chính trị, kinh tế, xã hội, thế giới. Tôi mô tả sự khác biệt như thế này: Trong khi các blog trước Mười một tháng Chín đều hướng nội - hướng về chính bản thân Internet - thì các blog chiến tranh lại hướng ngoại. Những người viết nên nó nhìn nhận bản thân họ như các nhà báo, một phần của thứ được biết tới như Truyền Thông Mới. Họ muốn được thừa nhận là dân làm báo, cũng giống như các phóng viên CNN và Washington Post vậy, và họ muốn được nhìn nhận thật nghiêm túc. Jim Chilton là một nhân vật viết blog chiến tranh thuộc hàng tinh túy. Ông ta không hề bận tâm tới bản thân Internet hay thế giới công nghệ, ngoại trừ việc nó cho phép ông ta truyền bá thông điệp của mình. Ông ta viết về thế giới thực. Hiện tại, cả hai bên - những người viết blog truyền thống và những người viết blog chiến tranh - liên tục chiến đấu để giành ngôi vị số một trong thế giới của blog.”

[5. Vụ khủng bố tấn công hai toà tháp Trung tâm thương mại Thế giới ở New York ngày 11/9/2001.]

“Đó là một cuộc tranh đua sao?” cô hỏi, không khỏi cảm thấy thú vị.

“Với họ thì đúng là thế.”

“Họ không thể cùng tồn tại sao?”

“Có chứ, nhưng đó là cả một thế giới được thúc đẩy bởi cái tôi và họ sẽ làm bất cứ điều gì có thể để leo lên đỉnh cao. Và điều ấy đồng nghĩa với hai thứ. Thứ nhất, có càng nhiều người đăng ký tham gia càng tốt. Thứ hai, quan trọng hơn - có càng nhiều blog khác đặt đường dẫn tới blog của cô càng tốt.”

“Loạn quá nhỉ.”

“Rất rất loạn. Còn bây giờ, cô đã hỏi tôi có thể cho cô biết điều gì khiến Chilton hợp tác hay không. Được thôi, cô cần nhớ Bản tin Chilton là một thứ có thật. Nó quan trọng và có tầm ảnh hưởng. Cô cũng để ý thấy một trong những bài đăng sớm nhất vào chủ đề Cây thập tự ven đường là từ một nhân sự quản lý của Caltrans chứ? Ông ta muốn biện hộ cho công tác kiểm tra chất lượng trên xa lộ của họ. Điều đó cho tôi biết các quan chức chính quyền và các CEO[6] thường xuyên đọc blog này. Những gã này sẽ cảm thấy cực kỳ bực bội nếu Chilton nói gì không hay về họ. Bản tin nghiêng về các vấn đề mang tính địa phương, nhưng vì địa phương ở đây là California, điều đó cũng đồng nghĩa những vấn đề đó thực ra chẳng hề địa phương chút nào. Mọi người trên toàn cầu đều để mắt tới chúng ta. Tất cả đều tìm đọc về tiểu bang này dẫu cho họ có yêu hay ghét nó. Vậy là bản thân Chilton nổi lên như một nhà báo nghiêm túc. Ông ta chịu khó tìm hiểu nguồn thông tin của mình, ông ta viết tốt. Ông ta luôn xử sự chừng mực và lựa chọn những vấn đề thực sự - ông ta không phải là kẻ thích buôn chuyện giật gân. Tôi đã tìm kiếm về Britney Spears và Paris Hilton[7] trên blog của ông ta, tìm lùi lại bốn năm, và không cái tên nào trong hai cái tên kể trên xuất hiện.”

[6. Chief Executive Officer.]

[7. B. Spears và P. Hilton là hai nhân vật nổ tiếng có nhiều vụ tai tiếng trong giới nghệ sĩ ở Mỹ.]

Dance không khỏi bị ấn tượng với điều này.

“Ông ta cũng chẳng phải là người làm bán thời gian. Từ ba năm trước ông ta đã dành toàn thời gian cho việc viết bản tin rồi. Và ông ta vận động ráo riết cho nó.”

“‘Vận động’ có nghĩa là gì?”

Boling cuộn màn hình xuống dưới chủ đề Trên sân nhà trong trang chủ.

http://www.thechiltonreport.com.

CHÚNG TA ĐANG TRỞ NÊN TOÀN CẦU!

Tôi rất vui được thông báo Bản tin đã nhận được sự tán thưởng từ khắp nơi trên thế giới. Nó đã được lựa chọn làm một trong những blog ưu tiên số một trên một trang web chuyên cung cấp chức năng RSS mới (được viết tắt từ cụm từ “Really Simple Syndication”) sẽ kết nối tới hàng nghìn blog, trang web và bản tin trên khắp thế giới. Vinh quang thuộc về các bạn, những độc giả của tôi, vì đã giúp Bản tin trở nên được ưa thích như vậy.



“RSS là một thứ lớn lao tiếp theo nữa. Kỳ thực nó có nghĩa là ‘Cung cấp địa chỉ RDF[8]’, ‘RDF[9]’ là ‘Khung mô tả nguồn tài nguyên’, nếu cô quan tâm, mà thực ra thì chẳng có lý do gì để cô quan tâm cả. RSS là một phương thức để làm tùy biến và đồng nhất nguồn tài nguyên được cập nhật từ các blog, trang web và podcast[10]. Hãy nhìn vào trình duyệt của cô. Ở trên đỉnh là một hình vuông nhỏ màu cam với một chấm ở góc và hai đường cong.”

[8. RDF Site Syndica tion.]

[9. Resource Description Frameword.]

[10. Hệ thống tải nội dung từ nhiều nguồn truyền thông khác nhau, có thể là tệp âm thanh, video… về máy tính cá nhân, sau đó có thể nghe, xem trên máy tính hoặc thiết bị kỹ thuật số cầm tay (khái niệm này khởi nguồn từ ghép giữa Ipod và Broadcast).]

“Tôi thấy nó rồi.”

“Đó là đường dẫn RSS cho cô. Chilton đã rất nỗ lực để được những người viết blog và trang web khác viện dẫn đến. Điều đó rất quan trọng với ông ta. Và cũng quan trọng với cô nữa. Vì nó cho chúng ta biết một điều về ông ta.”

“Cái tôi tinh tướng có thể tâng bốc chăng?”

“Đúng thế. Đó là một điểm cần ghi nhớ. Tôi cũng đang nghĩ tới thứ khác cô có thể thử với ông ta, một thứ tai quái hơn.”

“Tôi thích sự tai quái.”

“Cô, bằng cách nào đó ám chỉ việc ông ta đồng ý giúp đỡ là một phương thức quảng bá rất tốt cho blog. Nó sẽ khiến tên tuổi của Bản tin được nhắc đến rộng khắp trong giới truyền thông chính thống. Ngoài ra, cô có thể bóng gió rằng cô hoặc ai đó tại CBI rất có khả năng trở thành nguồn cung cấp thông tin trong tương lai.” Boling hất hàm về phía màn hình, nơi đang hiện lên nội dung blog. “Ý tôi muốn nói, đầu tiên và trên hết, với vai trò một phóng viên điều tra. Ông ta hiểu rõ giá trị các nguồn thông tin.”

“Được thôi. Ý tưởng hay đấy. Tôi sẽ thử.”

Boling nở một nụ cười. “Tất nhiên, khả năng khác là ông ta sẽ coi đề nghị của cô như một sự xâm phạm đến đạo đức nghề báo. Trong trường hợp đó, ông ta sẽ đóng sầm cửa lại trước mũi cô.”

Dance nhìn lên màn hình. “Những blog này... Chúng là một thế giới hoàn toàn khác.”

“Ồ, thế đấy. Và chúng ta mới chỉ bắt đầu hiểu được sức mạnh chúng sở hữu - mức độ làm thay đổi phương thức tiếp nhận thông tin và hình thành quan điểm do chúng gây ra. Hiện tại đang có chừng sáu mươi triệu blog.”

“Nhiều đến thế sao?”

“Phải. Chúng làm được những điều thật lớn lao: Lọc trước thông tin để cô không phải dùng Google dò tìm qua hàng triệu địa chỉ, là nơi giao lưu của những người có cùng quan điểm, một chốn khá vui vẻ, sáng tạo. Hay như trường hợp Bản tin Chilton, là nơi giám sát xã hội và khiến chúng ta trung thực hơn. Nhưng cũng tồn tại cả những mặt tối nữa.”

“Lan truyền tin đồn thất thiệt,” Dance nói.

“Một trường hợp điển hình, đúng thế. Nhưng còn thứ khác đáng quan tâm hơn chính là điều tôi đã nói lúc trước về Tammy: Nó cổ vũ mọi người hành xử bất cẩn. Chúng ta cảm thấy được bảo vệ trên mạng và trong thế giới ảo. Cuộc sống dường như vô danh, bài đăng dưới một biệt hiệu hay tên đăng nhập, và đó là tất cả những gì cô phơi bày về mình. Nhưng hãy nhớ: Bất cứ sự thật nhỏ nhặt nào về bản thân, hay lời nói dối mà cô, hay ai đó đưa lên mạng nói về cô, sẽ lưu lại trên đó mãi mãi, không bao giờ biến mất.”

Boling nói tiếp, “Nhưng tôi thấy vấn đề lớn nhất là người ta có xu hướng không đặt nghi vấn về mức độ chính xác của những gì được đăng. Blog đem lại ấn tượng về sự chân thực, thông tin dân chủ và thật hơn vì nó đến từ dân chúng chứ không phải các hãng truyền thông lớn. Nhưng quan điểm cá nhân tôi là những suy nghĩ đó chỉ toàn rác rưởi, và cách nhìn nhận này đã làm tôi bị nhiều người khó chịu trong cả giới học thuật lẫn cộng đồng viết blog. New York Times là một tập đoàn hoạt động vì lợi nhuận thật đấy, nhưng nó vẫn khách quan hơn gấp nghìn lần so với phần lớn blog. Có rất ít ý thức trách nhiệm trên mạng. Những lời phủ nhận cuộc tàn sát người Do Thái, những giả thiết trời ơi đất hỡi về vụ Mười một tháng Chín, những bài viết phân biệt chủng tộc, tất cả đều tưng bừng nở rộ nhờ vào các blog. Tính chân thực toát ra từ một gã lập dị tại một bữa tiệc cocktail sẽ là điều không tưởng khi gã ta tiết lộ Israel và CIA[11] đứng đằng sau vụ tấn công vào tòa tháp đôi Trung tâm Thương mại Thế giới.”

[11. Central Intelligent Agency: Cục tình báo trung ương Mỹ.]

Dance quay lại bàn làm việc của cô và nhấc ống điện thoại lên. “Tôi nghĩ tôi sẽ mang tất cả kết quả tìm kiếm của anh ra sử dụng, Jon. Chúng ta hãy thử xem chuyện gì sẽ xảy ra.”

~*~

Nhà James Chilton tọa lạc tại một khu vực khá giả của Carmel, khoảnh sân bao quanh ngôi biệt thự rộng tới gần một mẫu, toàn bộ xung quanh là những khoảnh vườn đủ kiểu được chăm sóc xén tỉa, bằng chứng cho thấy người chồng, người vợ hoặc cả hai đã dành rất nhiều thời gian vào dịp cuối tuần cho công tác nhổ cỏ dại và trồng cây thay vì bỏ tiền ra thuê thợ làm vườn chuyên nghiệp làm mấy việc đó.

Dance ngơ ngẩn nhìn quang cảnh bên ngoài đầy ghen tỵ. Làm vườn, cho dù đó là công việc cô ưa thích, nhưng vẫn không phải là một kỹ năng cô làm chủ được. Maggie từng nói giá như những cái cây không có rễ, hẳn chúng đã chạy trốn khi cô bước vào vườn.

Ngôi nhà là một dinh thự kiểu trang trại trải rộng, có tuổi đời chừng bốn mươi năm, và nằm chễm chệ ở phía cuối khu đất. Dance ước tính nó có sáu phòng ngủ. Xe hơi của gia đình này gồm một chiếc Sedan Lexus và một chiếc Nissan Quest, đỗ trong gian ga ra lớn chất đầy dụng cụ thể thao, không giống như những món đồ tương tự để trong ga ra của Dance, trông chúng có vẻ thực sự đã được dùng nhiều.

Cô không nén nổi tiếng cười khi trông thấy những khẩu hiệu dán trên thanh chống va đập mấy chiếc xe nhà Chilton. Chúng lặp lại y nguyên các hàng tiêu đề trên blog của ông ta, nào là: chống lại nhà máy khử mặn nước biển, chống lại dự luật giáo dục giới tính. Tả và Hữu, Dân chủ và Cộng hòa.

Ông ta có vẻ nhiều hơn là cắt và dán…

Trong khuôn viên còn có một chiếc xe nữa, đậu trên đường dẫn vào nhà, có lẽ là của một vị khách, vì chiếc Taurus mang một tấm đề can tế nhị của một công ty cho thuê xe. Dance đỗ lại và tiến tới phía cửa, bấm chuông.

Tiếng bước chân vang lên to dần, một phụ nữ tóc sẫm xuất hiện, người này khoảng ngoài bốn mươi tuổi, mảnh dẻ, mặc quần jean hàng hiệu và một chiếc áo sơ mi trắng, cổ áo dựng lên. Trên cổ bà ta là một sợi dây chuyền bạc hiệu Daniel Yurman có mắt to.

Đôi giày, Dance không thể dừng săm soi, là hàng nhập khẩu từ Ý và cực kỳ kiểu cách.

Cô xưng danh, xuất trình thẻ công vụ. “Tôi đã gọi điện trước. Để gặp ông Chilton.”

Khuôn mặt người phụ nữ lập tức chuyển thành nét cau mày điển hình khi ai đó gặp phải các nhân viên thực thi pháp luật. Tên bà ta là Patrizia hay Pa-treet-sia theo như phát âm của bà ta.

“Jim vừa mới kết thúc một cuộc gặp. Tôi sẽ báo cho anh ấy biết cô đang ở đây.”

“Cảm ơn bà.”

“Mời cô vào.”

Người phụ nữ dẫn Dance vào một căn phòng đậm chất tư gia, các bức tường phủ đầy ảnh gia đình, sau đó biến mất trong giây lát. Rồi Patrizia quay lại. “Chồng tôi sẽ ra ngay.”

“Cảm ơn. Đây là các con trai bà phải không?” Dance chỉ tay vào một bức ảnh chụp Patrizia, một người đàn ông hói đầu cao lênh khênh gầy gò mà cô đoán là Chilton, và hai cậu bé tóc đen làm cô nhớ tới Wes. Tất cả họ đều đang tươi cười nhìn vào ống kính.

Người phụ nữ tự hào nói, “Jim và Chet.”

Vợ Chilton tiếp tục lướt qua các bức ảnh. Từ những tấm bà chụp hồi trẻ ở bãi biển Carmel, Point Lobos, Mission, Dance đoán bà là dân địa phương. Patrizia xác nhận, phải, đúng là thế, và trên thực tế, bà đã lớn lên trong chính ngôi nhà này. “Bố tôi từng sống một mình ở đây nhiều năm. Khi ông mất, khoảng ba năm trước, Jim và tôi đã dọn về.”

Dance thích ý tưởng về một ngôi nhà gia đình, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cô nhớ tới việc bố mẹ Michael O’Neil vẫn đang sống trong ngôi nhà nằm kề đại dương nơi anh cùng các anh em từng lớn lên. Khi người bố suy yếu vì tuổi tác, mẹ anh đã nghĩ tới chuyện bán nó đi và chuyển đến sống ở một trung tâm dưỡng lão. Nhưng O’Neil đã kiên quyết giữ lại.

Khi Patrizia say mê chỉ vào những bức ảnh chụp lại mọi thành tích thể thao của gia đình - golf, túc cầu, tennis, ba môn phối hợp, Dance nghe thấy có tiếng nói vang lên ngoài tiền sảnh.

Cô quay lại và trông thấy hai người đàn ông. Chilton - cô nhận ra ngay nhờ bức ảnh - đội một chiếc mũ bóng chày, mặc áo sơ mi kiểu đấu thủ polo màu xanh lục và quần kaki ống bó sát. Những lọn tóc màu vàng thò ra từ dưới mũ. Ông ta rất cao và trông gọn ghẽ, chỉ một chút phần bụng hơi đẫy ra phía trên thắt lưng. Chilton đang nói chuyện với một người đàn ông khác tóc muối tiêu mặc quần jean, áo sơ mi trắng và khoác chiếc áo thể thao màu nâu. Dance chăm chú nhìn về phía họ, song Chilton đã hối hả đưa người đàn ông kia ra khỏi cửa. Ngôn ngữ cơ thể cho cô thấy ông ta không muốn vị khách, cho dù người này có là ai đi nữa, biết một nhân viên thực thi pháp luật đã tới gặp ông ta.

Patrizia lặp lại, “Chồng tôi sẽ ra ngay”.

Nhưng Dance đã bước qua bên cạnh bà và tiếp tục đi ra tiền sảnh, cô cảm thấy bà đang cứng người lại, muốn bảo vệ cho ông chồng. Song một người thẩm vấn cần ngay lập tức giành quyền làm chủ tình hình, bởi các đối tượng không thể được phép đưa ra luật chơi. Tuy nhiên khi Dance tới được cửa trước, Chilton đã quay trở lại và chiếc xe nọ rồ máy rời đi, mặt đường rải sỏi kêu lạo xạo dưới bốn bánh.

Đôi mắt màu xanh lục của ông ta - tương tự với màu mắt Dance - hướng sự chú ý về phía cô. Hai người bắt tay. Cô nhận thấy trên khuôn mặt người viết blog, một gương mặt rám nắng lấm chấm tàn nhang, sự tò mò và một chút thách thức hơn là vẻ cảnh giác dè chừng.

Thêm một lần trình thẻ công vụ chớp nhoáng nữa. “Chúng ta có thể ngồi đâu đó nói chuyện vài phút được chứ, ông Chilton?”

“Tất nhiên, trong phòng làm việc của tôi.”

Chilton dẫn cô băng qua tiền sảnh. Căn phòng họ đi vào có kích thước khá khiêm tốn và rất bừa bộn, hàng đống tạp chí, bài cắt ra từ báo và bản in từ máy tính chất cao như núi. Dance nhớ tới những gì cô biết được từ Jon Boling, và nhận thấy quả thực trò chơi làm phóng viên đang thay đổi: Những căn phòng nhỏ tại gia và các căn hộ giống như nơi này đã dần thay thế những tòa soạn báo trong thành phố. Dance không khỏi thú vị khi thấy một cốc trà bên cạnh máy tính của ông ta - mùi chamomile[12] tràn ngập trong phòng. Không thuốc lá, cà phê hay whisky cho những nhà báo mạng nghiêm túc thời nay, có vẻ là vậy.

[12. Một loại cây thuộc họ Cúc được dùng làm trà thảo mộc.]

Họ cùng ngồi xuống và ông chủ nhà mở đầu bằng cái nhướng mày. “Vậy ra ông ta đã phàn nàn, phải không nào? Nhưng tôi thấy tò mò đấy. Sao lại là cảnh sát, thay vì một vụ kiện dân sự?”

“Sao lại thế?” Dance không khỏi thấy lúng túng khó hiểu.

Chilton ngả người ra sau ghế, bỏ mũ xuống, đưa tay lên xoa cái đầu hói của mình rồi lại đội mũ vào. Ông ta đang bực bội. “Ôi, hắn chỉ trích chuyện bị phỉ báng. Nhưng chuyện đó đâu phải nhục mạ ai nếu nó đúng sự thật. Bên cạnh đó, thậm chí dù những gì tôi đã viết là sai, mà kỳ thực không phải thế, phỉ báng cũng chẳng phải là tội trạng tại đất nước này. Ở Nga thời Stalin[13] thì có thể đấy, nhưng ở đây thì chưa. Vậy vì sao cô lại can dự vào?”

[13. Lãnh đạo tối cao của Liên bang Xô viết từ giữa thập niên 1920. Ông có công lãnh đạo Liên Xô giành thắng lợi trong cuộc Chiến tranh Liên Xô - Đức.]

Đôi mắt ông chủ blog rất sắc bén và soi mói, thái độ thật quyết liệt; Dance có thể hình dung tại sao người ta lại có thể nhanh chóng cảm thấy ngán ngẩm khi trải qua nhiều giờ liền với sự hiện diện của ông ta.

“Tôi không rõ ý ông là gì.”

“Không phải cô đến đây vì Arnie Brubaker đấy chứ?”

“Không. Đó là ai vậy?”

“Ông ta là kẻ muốn hủy diệt bờ biển của chúng ta bằng cách dựng lên cái nhà máy khử mặn nước biển đó.”

Dance nhớ lại blog đăng trên Bản tin Chilton chỉ trích nhà máy nọ. Và dòng khẩu hiệu dán trên thanh chống va đập.

“Không, việc này không có liên quan gì tới chuyện đó hết.”

Trán Chilton cau lại. “Ông ta thích việc ngăn chặn được tôi lại lắm. Tôi đã nghĩ có thể ông ta đã nặn ra một lời cáo buộc hình sự nào đó. Nhưng xin lỗi nhé. Tôi đang đưa ra những suy đoán.”

Vẻ thủ thế trên khuôn mặt ông ta dãn ra. “Chỉ là, vậy đấy, Brubaker thực sự là một... cái gai.”

Dance tự hỏi không rõ hình ảnh dự định được dùng ban đầu để mô tả người chủ dự án vốn là gì.

“Thứ lỗi cho tôi”, Patrizia xuất hiện trên ngưỡng cửa và mang tới cho chồng bà một cốc trà mới pha. Bà chủ nhà hỏi Dance có muốn uống gì không. Lúc này bà ta đang mỉm cười nhưng vẫn nhìn cô đầy nghi ngờ.

“Cảm ơn bà, không cần đâu.”

Chilton gật đầu nhận cốc trà kèm cái nháy mắt trìu mến cảm ơn vợ mình. Bà vợ quay ra và đóng cửa lại.

“Vậy tôi có thể giúp gì được cô?”

“Blog ông lập ra về những cây thập tự ven đường.”

“Ồ, vụ tai nạn xe hơi ư?”, chủ nhà nhìn Dance chăm chú. Một phần vẻ thủ thế đã quay trở lại; cô có thể đọc được nét căng thẳng trong tư thế của ông ta.

“Tôi đã theo dõi tin tức. Cô gái đó bị tấn công, báo chí đang nói thế, vì cô bé đã đăng bình luận gì đó trên blog. Những người đăng bài cũng bắt đầu nói chuyện tương tự. Chắc cô muốn biết tên cậu bé kia.”

“Không. Cái đó chúng tôi biết rồi.”

“Có phải cậu ta chính là kẻ định dìm chết cô gái không?”

“Dường như là thế.”

Chilton hối hả nói, “Tôi không công kích cậu ta. Câu hỏi tôi đặt ra là liệu cảnh sát đã thực sự nghiêm túc trong cuộc điều tra và liệu Caltrans đã bảo dưỡng con đường đúng yêu cầu chưa? Tôi đã nói ngay từ đầu cậu ta không đáng trách. Và tôi đã ẩn tên cậu ta đi.”

“Không mất nhiều thời gian để đám đông tìm kiếm và phát giác ra cậu ta là ai.”

Miệng Chilton méo đi. Ông ta đã đón nhận lời nhận xét như một chỉ trích nhằm vào bản thân mình hay blog, dù kỳ thực không phải thế. Nhưng ông ta nhượng bộ. “Điều đó đúng là đã xảy ra. Được rồi, tôi có thể làm gì giúp cô?”

“Chúng tôi có lý do để tin Travis Brigham nhiều khả năng đang âm mưu tấn công những người khác đã đăng bài chỉ trích.”

“Cô chắc vậy không?”

“Không, nhưng chúng tôi buộc phải coi đó là một khả năng.”

Chilton nhăn mặt. “Ý tôi là cô không thể bắt giữ cậu ta sao?”

“Hiện tại chúng tôi đang tìm kiếm. Chúng tôi không biết chắc cậu ta đang ở đâu.”

“Tôi hiểu rồi”, Chilton nói chậm rãi, và Dance có thể nhận thấy từ đôi vai nhích lên và cần cổ căng cứng của ông ta là Chilton đang băn khoăn xem thực sự cô muốn gì.

Cô nghĩ tới lời khuyên của Boling và nói, “Thế này nhé, blog của ông được biết đến trên toàn thế giới. Nó rất được tôn trọng. Đây là một trong những lý do có nhiều người đăng bài trên đó đến thế.”

Tia sáng khoan khoái lóe lên trong đôi mắt ông ta rất mờ nhạt nhưng thật rõ ràng với Dance. Nó cho cô biết thậm chí cả những lời phỉnh nịnh thẳng thừng cũng được James Chilton đón nhận rất hào hứng.

“Nhưng vấn đề là tất cả những người đăng bài công kích Travis đều là mục tiêu tiềm tàng. Và con số này đang tăng lên từng giờ.”

“Bản tin là một trong những địa chỉ có tỷ lệ bình chọn cao nhất trong nước. Nó là blog được đọc nhiều nhất ở California.”

“Tôi không hề ngạc nhiên. Tôi thực sự thích nó.”

Dance luôn để ý đến thái độ bên ngoài của chính cô để không làm lộ ra sự phỉnh nịnh.

“Cảm ơn cô,” một nụ cười tươi hết cỡ làm khóe mắt ông chủ blog híp lại.

“Nhưng hãy nhìn vào điều chúng ta phải đối mặt: Mỗi khi ai đó đăng bài lên chủ đề Những cây thập tự ven đường, họ sẽ trở thành một mục tiêu tiềm tàng. Một số trong những người này hoàn toàn ẩn danh, một số sống ở nơi khác. Nhưng có những người sống gần quanh đây và chúng tôi e rằng Travis sẽ tìm ra danh tính của họ. Và khi đó cậu ta cũng sẽ đi tìm họ.”

“Ồ,” Chilton thốt lên, nụ cười biến mất. Bộ óc nhanh nhạy của ông ta lập tức đưa ra suy đoán. “Và cô đến đây vì địa chỉ Internet của họ.”

“Để bảo vệ họ.”

“Tôi không thể cung cấp chúng.”

“Nhưng những người đó đang gặp nguy hiểm.”

“Đất nước này hoạt động trên nguyên tắc tách riêng truyền thông và nhà nước.” Cứ như thể lời giảng đạo này có thể hạ gục lý lẽ của cô.

“Cô bé đó đã bị ném vào cốp xe và bỏ mặc cho chết đuối. Có thể ngay lúc này Travis đang lên kế hoạch cho một vụ tấn công nữa.”

Chilton giơ một ngón tay lên, ra hiệu bảo cô im lặng như một thầy giáo. “Đó là một con dốc rất nguy hiểm. Đặc vụ Dance, cô làm việc cho ai? Sếp cao nhất của cô là ai?”

“Chưởng lý tiểu bang.”

“Ừ, được lắm, cứ giả sử tôi đưa cho cô địa chỉ những người đăng bài lên chủ đề Những cây thập tự ven đường. Thế rồi tháng sau cô quay lại và yêu cầu địa chỉ của một anh chàng chỉ trích sai trái vừa bị chưởng lý tiểu bang sa thải vì, ồ, quấy rối chẳng hạn. Hay có thể cô lại muốn địa chỉ ai đó đăng bài phê phán thống đốc. Hay tổng thống. Hay chuyện này thì sao nhỉ - ai đó nói vài câu có thiện cảm về al-Qaeda[14]? Cô sẽ nói với tôi: “Lần trước ông đã cung cấp thông tin cho tôi. Sao lần này lại không?”.

[14. Mạng lưới khủng bố Hồi giáo cực đoan chịu trách nhiệm về vụ 11/9.]

“Sẽ không có lần nào nữa.”

“Cô nói thế nhưng...”

Như thể các nhân viên chính phủ lúc nào cũng chỉ thở ra điều dối trá vậy. “Cậu nhóc có biết cô đang truy tìm mình không?”

“Có.”

“Vậy thì cậu ta sẽ chuồn đến đâu đó để trốn, cô không nghĩ vậy sao? Cậu ta sẽ không lộ diện bằng cách đi tấn công ai khác. Không đâu, nếu cảnh sát đang truy nã ráo riết,” giọng ông ta thật quả quyết.

Dance tiếp tục với ngữ điệu chậm rãi một cách chừng mực, “Dẫu vậy. Ông biết đấy, ông Chilton, đôi khi cuộc đời là những vụ thỏa hiệp.”

Cô để lời nhận xét treo lơ lửng.

Ông ta nhướng một bên mày lên, chờ đợi.

“Nếu ông cung cấp cho chúng tôi các địa chỉ của những người sống trong vùng đã viết những bài chỉ trích nghiệt ngã nhất về Travis - chúng tôi thực sự đánh giá rất cao cử chỉ này. Có thể... vậy đấy, có thể chúng tôi sẽ làm được gì đó để giúp ông, nếu ông cần giúp một tay.”

“Chẳng hạn như?”

Dance lại nghĩ về những lời khuyên của Boling rồi nói, “Chúng tôi sẽ rất vui lòng đưa ra một thông báo về sự hợp tác của ông. Một quảng bá rất tốt.”

Chilton ngẫm nghĩ. Nhưng rồi cau mày. “Không. Nếu tôi giúp cô, có lẽ tốt nhất không nên nhắc tới chuyện đó.”

Cô cảm thấy hài lòng vì ông ta đang thương lượng. “Thôi được, tôi có thể hiểu. Nhưng có lẽ còn những thứ khác chúng tôi có thể làm.”

“Thật ư? Cái gì vậy?”

Nghĩ tới một đề xuất khác của vị giáo sư, cô nói, “Có thể, thế này nhé, nếu ông cần một đầu mối liên hệ nào trong các cơ quan thực thi pháp luật California... Nguồn thông tin. Những nguồn cao cấp.”

Vị chủ nhà nhoài người ra trước, mắt lóe sáng. “Vậy ra cô đang cố gắng mua chuộc tôi. Tôi đã nghĩ vậy. Chỉ muốn để cô bộc lộ ra ít nhiều thôi. Bắt thóp cô rồi nhé, đặc vụ Dance.”

Cô ngả người ra sau như vừa bị tát.

Chilton nói tiếp, “Kêu gọi đến tinh thần vì cộng đồng của tôi là một chuyện. Còn chuyện này...” ông ta phẩy tay về phía cô, “thật lợm giọng. Và đồi bại nữa, nếu cô muốn biết cảm nghĩ của tôi. Đó là kiểu mánh khóe tôi vẫn tố cáo trên blog của mình hàng ngày.”

Tất nhiên, triển vọng khác là ông ta có thể coi đề nghị của cô như một sự xâm phạm đến đạo đức nghề báo. Trong trường hợp đó, ông ta sẽ đóng sầm cửa lại trước mũi cô.

“Tammy Foster thiếu chút nữa đã bị giết. Rất có thể sẽ có những người khác nữa.”

“Tôi lấy làm tiếc về chuyện đó. Nhưng Bản tin Chilton là thứ quá quan trọng để tôi có thể đánh liều. Và nếu người ta nghĩ họ không thể ẩn danh đăng bài, điều đó sẽ làm thay đổi tính toàn vẹn của toàn bộ blog.”

“Tôi muốn ông cân nhắc lại.”

Vẻ bề ngoài nghiêm khắc của Chilton mờ dần. “Cô còn nhớ người đàn ông tôi đang tiếp chuyện khi cô tới đây chứ?”

Dance gật đầu.

“Gregory Ashton,” ông ta nói với chút nhấn mạnh, đúng cách người ta vẫn hay dùng khi nói về ai đó quan trọng với họ, nhưng lại chẳng có chút ý nghĩa nào với bạn. Chilton nhận thấy thái độ đón nhận không chút ấn tượng của Dance. Ông ta nói tiếp, “Ông ấy đang khởi lập một hệ thống blog và trang web mới, một trong những hệ thống lớn nhất trên thế giới. Tôi sẽ ở cấp cao nhất. Ông ấy chi ra hàng triệu để quảng bá nó.”

Đây chính là vấn đề Boling đã giải thích với cô. Ashton chắc hẳn chính là người đứng đằng sau nguồn dẫn RSS mà Chilton đã nhắc tới trong bài viết “Chúng ta đang trở nên toàn cầu”.

“Điều đó sẽ nhân rộng phạm vi của Bản tin ra gấp bội. Tôi có thể đề cập tới các vấn đề trên toàn thế giới. AIDS ở châu Phi, vi phạm nhân quyền ở Indonesia, những hành vi bạo lực ở Kashmir, các thảm họa môi trường tại Brazil. Nhưng nếu có tin đồn lọt ra cho hay tôi tiết lộ địa chỉ Internet những người đăng bài lên blog của mình, điều đó có thể gây tổn hại đến danh tiếng của Bản tin Chilton.”

Dance cảm thấy thất vọng, cho dù một phần trong cô, trên tư cách một người từng làm báo, đành miễn cưỡng thấu hiểu. Chilton không từ chối xuất phát từ tham lam hay tự cao tự đại, mà vì một đam mê chân thực dành cho độc giả của ông ta.

“Có những người có thể sẽ chết,” cô nài nỉ.

“Câu này đã được đưa ra trước đấy rồi, đặc vụ Dance. Trách nhiệm của những người viết blog,” ông ta hơi cứng người lại.

“Vài năm trước, tôi dành một bài riêng để nói về một nhà văn tên tuổi tôi phát hiện đã đạo một số đoạn văn từ một tiểu thuyết gia khác. Ông ta tuyên bố đó là chuyện tình cờ ngẫu nhiên, và nài nỉ tôi đừng công bố sự việc. Nhưng tôi vẫn đăng bài lên. Ông ta lại bắt đầu uống trở lại, và cuộc đời ông ta suy sụp. Đó có phải là mục đích của tôi không? Chúa ơi, không. Nhưng hoặc là các nguyên tắc tồn tại, hoặc là không. Tại sao ông ta lại được dễ dàng cho qua, trong khi tôi và cô thì không? Tôi từng đăng trên blog về một người trợ tế ở San Francisco, cũng là thủ lĩnh một phong trào tẩy chay đồng tính nam, và hóa ra nhân vật này cũng là một gã đồng tính ngầm. Tôi cần vạch trần trò đạo đức giả.”

Chilton nhìn thẳng vào mắt Dance.

“Và hắn tự tử. Vì những gì tôi viết. Tự tử. Tôi phải sống với điều đó mỗi ngày. Nhưng có phải tôi đã làm đúng không? Có. Nếu Travis tấn công một người nào nữa, khi đó tôi sẽ cảm thấy rất kinh khủng về chuyện ấy. Nhưng chúng ta đang phải đương đầu với những vấn đề lớn lao hơn ở đây, đặc vụ Dance.”

“Tôi cũng từng là phóng viên,” cô nói.

“Thật thế sao?”

“Phóng viên về tội phạm. Tôi hoàn toàn chống lại kiểm duyệt. Chúng ta đang không nói về điều tương tự. Tôi không hề thuyết phục ông thay đổi các bài ông đã đăng. Tôi chỉ muốn biết danh tính những người đã đăng bài để chúng tôi có thể bảo vệ họ.”

“Tôi không thể làm thế,” âm hưởng cứng rắn đã trở lại trong giọng nói của ông ta. Vị chủ nhà nhìn đồng hồ đeo tay. Cô hiểu cuộc nói chuyện đã kết thúc. Chilton đứng dậy.

Dẫu vậy, cô vẫn muốn thử một cú cuối cùng. “Sẽ không bao giờ có ai biết. Chúng tôi sẽ không tiết lộ tìm ra họ bằng cách khác.”

Đưa cô ra cửa, Chilton bật cười chân thành. “Bí mật trong thế giới của blog ư, đặc vụ Dance? Cô có biết lời lẽ lan nhanh thế nào trong thế giới ngày nay không?... Bằng tốc độ ánh sáng.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13


Trong khi lái xe lao đi trên xa lộ, Kathryn Dance gọi điện cho Jon Boling.

“Cuộc gặp thế nào?” vị giáo sư vui vẻ hỏi.

“Câu được viết trên blog về Travis chính xác là thế nào nhỉ? Một trong số mấy đứa trẻ đã đăng lên. ‘Thảm hại’ gì đó...”

“À,” giọng nói đã bớt hào hứng hơn. “Thất bại thảm hại.”

“À phải, một cách mô tả khá chính xác. Tôi đã thử cách tiếp cận về viễn cảnh quảng bá tích cực, nhưng ông ta lại chọn cửa số hai: Chế độ phát xít đè nát tự do báo chí. Kèm theo chút chấm phá ‘thế giới cần tôi’.”

“Ái chà. Tôi rất xin lỗi về chuyện đó. Quả là một thử nghiệm tệ hại.”

“Nó cũng đáng để thử. Nhưng tôi nghĩ tốt hơn anh nên cố tự mình tìm ra nhiều cái tên nhất có thể.”

“Tôi đã làm rồi. Đề phòng trường hợp Chilton muốn kết thúc mọi chuyện với cô. Chắc không lâu nữa tôi sẽ có được vài cái tên. À, ông ta có nói sẽ trả đũa bằng một blog đăng lên nói về cô vì đã dám đưa đề xuất đó ra không?”

Dance tặc lưỡi. “Cũng gần sát sàn sạt. Tiêu đề hẳn sẽ là Nhân viên CBI thử giở trò mua chuộc.”

“Tôi không nghĩ ông ta sẽ làm thế vì cô chỉ là một nhân vật quá nhỏ. Tôi không có ý gì cá nhân đâu nhé. Nhưng với hàng trăm nghìn người đọc những gì ông ta viết, chắc chắn ông ta có trong tay sức mạnh khiến cô phải e ngại.”

Sau đó, giọng Boling trở nên nghiêm túc hơn.

“Tôi cần báo để cô hay các bài bình luận đang trở nên ngày càng tệ hại hơn. Một số người đăng bài nói bọn họ đã tận mắt thấy Travis thực hiện những nghi lễ sùng bái quỷ dữ, hiến sinh động vật. Và có cả những câu chuyện về việc cậu ta sờ soạng các học sinh khác, cả nam lẫn nữ. Tuy vậy, như tôi thấy, tất cả đều sặc mùi giả tạo. Có vẻ như bọn họ đang thi vượt mặt lẫn nhau. Những câu chuyện được đưa ra ngày càng trở nên quái đản.”

Những tin đồn…

“Có một thứ luôn được nhắc đi nhắc lại để so sánh, một điều làm tôi nghĩ có chút ít sự thật trong đó, đó là các trò chơi nhập vai trực tuyến. Bọn họ bàn về việc cậu nhóc bị ám ảnh với đánh đấm và chết chóc. Nhất là với kiếm, dao và cắt xẻo nạn nhân của cậu ta.”

“Cậu nhóc đang chìm dần vào thế giới ảo.”

“Dường như là vậy.”

Sau khi hai người ngắt liên lạc, Dance vặn tiếng chiếc iPod Touch của mình lên. Cô đang nghe Badi Assad, nữ nghệ sĩ guitar kiêm ca sĩ xinh đẹp người Brazil. Nghe nhạc qua tai nghe trong lúc lái xe là bất hợp pháp, nhưng nghe nhạc qua loa trong một chiếc xe cảnh sát không thể đem đến chất lượng âm thanh trung thực nhất.

Cô đang cần một liều âm nhạc thật mạnh để an ủi tâm hồn.

Dance cảm nhận được tính khẩn cấp của vụ này, nhưng cô cũng là một người mẹ, cô luôn phải cân bằng giữa hai thế giới của mình. Bây giờ cô phải tới đón các con đang được mẹ cô trông nom ở bệnh viện, dành một chút thời gian bên hai đứa trẻ và đưa chúng về nhà bố mẹ cô, tại đây Stuart Dance sẽ nhận lại vai trông trẻ sau khi ông kết thúc cuộc họp ở thủy cung. Và cô sẽ quay trở lại CBI để tiếp tục cuộc truy tìm Travis Brigham.

Cô vẫn tiếp tục lái chiếc xe CVPI[1] to bự không phù hiệu - chiếc xe cảnh sát Ford. Điều khiển nó giống như việc kết hợp giữa xe đua và xe tăng. Nói vậy không có nghĩa là Dance từng có lúc lên ga chiếc xe tới tận cùng giới hạn của nó. Về bản chất cô không phải là người đam mê lái xe, và cho dù đã tham gia khóa huấn luyện truy đuổi tốc độ cao ở Sacramento, Dance vẫn không thể hình dung ra việc mình thực sự đuổi theo một người lái xe khác trên những con đường lộng gió của vùng trung tâm California. Với ý nghĩ đó, một hình ảnh từ blog lại hiện lên trong tâm trí cô - bức ảnh chụp những cây thập tự ven đường ở nơi đã xảy ra vụ tai nạn khủng khiếp trên Xa lộ 1 hôm mùng Chín tháng Sáu, bi kịch đã khởi đầu cho toàn bộ hệ lụy kinh hoàng này.

[1. Crown Victoria Police Interceptor: Một loại xe tuần tra cảnh được hang Ford sản xuất riêng cho lực lượng cảnh sát.]

Giờ đây cô đã về tới bãi đỗ của bệnh viện và trông thấy mấy chiếc xe của đội Tuần cảnh Xa lộ California, cùng hai chiếc không mang phù hiệu, tất cả đều đậu trước bệnh viện. Cô không nhớ có báo cáo nào nói đến một hoạt động của cảnh sát dẫn tới thương vong. Ra khỏi xe, cô nhận thấy đã có sự thay đổi ở phía những người phản đối. Trước hết, số lượng của họ đã tăng lên. Chừng khoảng hơn ba mươi người. Và có thêm hai nhóm phóng viên nữa đến đưa tin.

Ngoài ra, Dance cũng cảm thấy đám đông này thật huyên náo, vung vẩy các biểu ngữ và những cây thập tự của họ như những cổ động viên thể thao. Mỉm cười, ca hát. Dance cũng để ý rằng có vài người đến gần mục sư Fisk, lần lượt bắt tay ông ta. Tay bảo vệ tóc đỏ của ông ta cẩn thận đưa mắt quan sát bãi xe.

Thế rồi Dance lạnh ngắt người, miệng há hốc.

Wes và Maggie - mặt mũi ủ dột - bước ra khỏi cửa trước bệnh viện, đi cùng một phụ nữ da đen mặc bộ đồ vest màu xanh hải quân. Người phụ nữ đang dẫn hai đứa trẻ về phía mấy chiếc xe loại sedan không mang phù hiệu.

Robert Harper, người công tố viên đặc biệt cô đã gặp ngoài văn phòng của Charles Overby, xuất hiện ngay sau đó.

Sau lưng ông ta là mẹ Dance. Kèm hai bên sườn Edie Dance là hai nhân viên to con mặc đồng phục của CHP[2] và bà đang bị còng tay.

[2. California Highway Patrol: Tuần cảnh Xa lộ California.]

Dance hối hả tới trước.

“Mẹ!”, cậu bé Wes mười hai tuổi gọi lớn tiếng và chạy băng qua bãi để xe, kéo cô em gái theo sau.

“Đợi đã, các cháu không thể làm thế!”, người phụ nữ tháp tùng hai đứa trẻ la lên. Cô ta vội vàng bám theo thật nhanh.

Dance quỳ xuống, ôm lấy con trai và con gái cô.

Giọng nói nghiêm khắc của người phụ nữ vang lên từ phía bên kia bãi gửi. “Chúng tôi đang đưa bọn trẻ đi...”

“Cô sẽ không đưa ai đi hết”, Dance gằn giọng, sau đó quay lại với các con cô: “Các con không sao chứ?”.

“Họ bắt bà ngoại rồi!”, Maggie nói, nước mắt ròng ròng. Bím tóc màu hạt dẻ của cô bé nằm vắt qua vai, nơi nó đã văng lên khi con bé chạy.

“Mẹ sẽ nói chuyện với họ ngay.” Dance đứng lên. “Các con không bị đau chứ?”

“Không”, cậu bé Wes lênh khênh, đã cao gần bằng mẹ, trả lời với giọng run rẩy, “Bọn họ, cô kia và cảnh sát, họ đến đưa chúng con đi, nói sẽ đưa con và em tới chỗ nào ấy, con không biết là ở đâu”.

“Mẹ, con không muốn xa mẹ!” Maggie ôm chặt lấy cô.

Dance trấn an con gái mình. “Sẽ không ai đưa con đi đâu hết. Ổn rồi, con vào xe đi.”

Người phụ nữ trong bộ đồ xanh lại gần, hạ giọng nói, “Thưa cô, tôi e rằng...” Rồi cô ta nhận ra mình đang nói chuyện với thẻ nhân viên CBI và phù hiệu của Dance khi chúng chĩa sát mặt mình.

“Bọn trẻ sẽ đi cùng với tôi,” Dance nói.

Người phụ nữ xem qua thẻ đặc vụ, không có vẻ gì bị ấn tượng. “Đây là quy trình. Cô hiểu cho. Việc này là vì lợi ích của chính bọn trẻ. Chúng tôi sẽ tiến hành mọi việc và nếu mọi thứ được kiểm tra xong...”

“Bọn trẻ sẽ đi cùng với tôi.”

“Tôi là nhân viên xã hội của Trung tâm Bảo trợ Trẻ em hạt Monterey.” Thẻ công vụ của người phụ nữ xuất hiện.

Dance đang nghĩ có thể nên thương lượng vào lúc này, song cô vẫn lấy còng tay ở sau thắt lưng ra bằng một cử chỉ gọn ghẽ và xòe mở nó ra như một cái càng cua khổng lồ.

“Nghe tôi nói đây. Tôi là mẹ chúng. Cô biết danh tính tôi rồi. Cô cũng biết tên họ lũ trẻ. Bây giờ hãy lùi lại, nếu không tôi sẽ bắt giữ cô theo điều 207, Bộ Luật Hình sự California.”

Trông thấy cử chỉ này, đám phóng viên truyền hình dường như đồng loạt cứng người lại, hệt như một con thằn lằn cảm thấy có bọ rùa đang mò lại gần. Các ống kính camera lập tức quay cả về phía họ.

Cô ta quay về phía Robert Harper, người có vẻ đang do dự. Ông ta liếc mắt về phía đám phóng viên và có vẻ đi đến quyết định rằng trong tình huống này, một hình ảnh quảng bá tồi còn tệ hại hơn là không chút hình ảnh nào. Ông ta gật đầu.

Dance mỉm cười với hai con, cất còng tay về chỗ cũ, rồi đưa hai đứa trẻ tới xe của cô. “Sẽ ổn cả thôi. Các con đừng lo. Đây chỉ là một nhầm lẫn tệ hại thôi.”

Cô đóng cửa xe, khóa lại bằng điều khiển từ xa. Dance đùng đùng bước qua trước mặt người nhân viên xã hội, cô này cũng nhìn lại với ánh mắt thách thức sắc lẻm, tới bên cạnh mẹ cô, người đang bị đưa vào sau một chiếc xe tuần cảnh.

“Con yêu quý!” Edie Dance thốt lên.

“Mẹ, chuyện gì...”

“Cô không thể nói chuyện với nghi phạm,” Harper nói.

Dance quay ngoắt lại đối diện với Harper, cao vừa đúng bằng cô. “Đừng bày trò với tôi. Tất cả chuyện này có nghĩa là sao?”

Ông ta bình thản. “Bà ấy đang được đưa tới chỗ tạm giam của hạt để thực hiện thủ tục tố tụng và ra trước tòa để xem xét xem có được phép tại ngoại hay không. Bà ấy đã bị bắt và được thông báo về các quyền của mình. Tôi không có trách nhiệm nói bất cứ điều gì với cô.”

Các ống kính máy quay tiếp tục thu lấy từng giây của diễn biến đầy kịch tính.

Edie Dance nói với ra, “Họ nói mẹ giết Juan Millar!”

“Làm ơn hãy im lặng, bà Dance.”

Dance phẫn nộ lớn tiếng với Harper, “Đây là ‘đánh giá các cuộc điều tra’ ư? Chỉ toàn là trò rác rưởi, đúng không nào?”.

Harper thoải mái tảng lờ nữ đặc vụ.

Điện thoại di động của Dance đổ chuông, và cô bước ra bên cạnh để nghe máy. “Bố.”

“Katie, bố vừa về đến nhà và thấy cảnh sát ở đây. Cảnh sát tiểu bang. Họ đang lục soát mọi thứ. Bà Kensington bên hàng xóm nói họ mang đi mấy thùng đầy đựng đủ thứ.”

“Bố, mẹ vừa bị bắt...”

“Cái gì?”

“Vụ giết người vì nhân đạo đó. Juan Millar.”

“Ôi, Katie.”

“Con sẽ đưa bọn trẻ tới chỗ Martine, sau đó bố hãy đến gặp con tại tòa án ở Salinas. Mẹ sẽ bị khởi tố và sẽ có một phiên tòa xem xét tại ngoại.”

“Tất nhiên rồi. Bố... Bố không biết phải làm gì nữa, con gái,” giọng ông vỡ ra.

Dance cảm thấy đau nhói khi phải nghe chính bố cô - bình thường vốn luôn điềm tĩnh và biết làm chủ bản thân - trở nên tuyệt vọng đến thế.

“Chúng ta sẽ thu xếp ổn thỏa việc này,” cô nói, cố tỏ ra tự tin song trong lòng thực sự cảm thấy lo lắng và bối rối không kém gì bố mình. “Con sẽ gọi lại sau.”

Hai người ngừng liên lạc.

“Mẹ,” cô gọi qua cửa xe, cúi xuống nhìn khuôn mặt ủ rũ của mẹ mình. “Sẽ ổn cả thôi. Con sẽ gặp lại mẹ ở tòa.”

Công tố viên nghiêm giọng nói, “Đặc vụ Dance, tôi không muốn phải nhắc lại với cô lần nữa. Cô không được nói chuyện với phạm nhân.”

Cô tảng lờ Harper. “Và đừng nói lời nào với bất cứ ai,” cô dặn dò mẹ mình.

“Tôi hy vọng chúng ta sẽ không phải có thêm một rắc rối về an ninh ở đây,” người công tố viên nghiêm giọng nói.

Dance liếc mắt nhìn lại, im lặng thách thức ông ta thực hiện lời đe dọa của mình, cho dù nó có là gì đi nữa. Sau đó cô nhìn về phía đám nhân viên CHP gần đó, trong số này có một người cô từng làm việc cùng. Đôi mắt anh ta né tránh cái nhìn của cô. Lúc này tất cả mọi người ở đây đều đang nằm trong tay Harper.

Cô quay lại đi về phía xe của mình, nhưng rồi lại chuyển hướng về phía người phụ nữ tự xưng là nhân viên xã hội.

Dance đứng gần cạnh cô ta. “Mấy đứa trẻ kia đều có điện thoại di động. Tôi là số hai trong danh sách bấm số nhanh, ngay sau 911. Và tôi dám chắc chúng đã nói với cô tôi là một nhân viên thực thi pháp luật. Vậy thì vì lý do quái quỷ nào cô lại không gọi cho tôi?”

Người phụ nữ chớp mắt và lùi lại. “Cô không thể nói với tôi bằng giọng đó.”

“Vì lý do quái quỷ nào cô lại không gọi điện?”

“Tôi đang làm đúng theo quy trình.”

“Các quy trình đều đặt lợi ích của lũ trẻ lên trên hết. Cô phải liên lạc với bố mẹ hay người giám hộ của chúng trong những trường hợp như thế này.”

“Được rồi, tôi chỉ làm những gì được yêu cầu.”

“Cô đã làm việc này được bao lâu rồi?”

“Đó không phải chuyện của cô.”

“Được thôi, tôi sẽ nói cho cô hay, thưa quý cô. Có hai câu trả lời: Hoặc là chưa đủ lâu, hoặc là đã quá lâu.”

“Cô không thể...”

Nhưng Dance đã bỏ đi và đang chui trở lại vào trong xe của mình, gạt cần số. Cô vẫn để nguyên máy nổ từ lúc đến.

“Mẹ,” Maggie lên tiếng hỏi, vừa khóc vừa nấc lên thật nhói lòng. “Chuyện gì sẽ xảy ra với bà ạ?”

Dance không định sẽ nói dối các con mình. Cô đã học được rằng suy cho cùng, làm một người mẹ thì tốt hơn nên đối diện với nỗi đau và sợ hãi hơn là chối bỏ hay né tránh chúng. Nhưng cô đã phải cố hết sức để giữ cho giọng nói của mình không mang vẻ hoảng loạn.

“Bà ngoại các con sẽ phải gặp một thẩm phán, và mẹ hy vọng bà sớm quay về nhà. Sau đó người ta sẽ tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra. Chỉ có điều chúng ta vẫn chưa biết được.”

Cô đưa các con đến nhà bạn thân nhất của mình, Martine Christensen, người cùng điều hành trang web âm nhạc với cô.

“Con không thích ông ta,” Wes nói.

“Ai cơ?”

“Ông Harper.”

“Mẹ cũng không thích ông ta,” Dance nói.

“Con muốn đến tòa án cùng với mẹ,” Maggie nói.

“Không, Mag. Mẹ không biết mẹ sẽ phải ở đó bao lâu.”

Dance ngoái lại nhìn và dành một nụ cười để trấn an lũ trẻ.

Nhìn khuôn mặt thất thần hoảng hốt của các con, cô càng cảm thấy bực Robert Harper hơn.

Dance cắm chiếc micro dùng cho chế độ đàm thoại rảnh tay vào điện thoại di động của cô, nghĩ ngợi trong khoảnh khắc rồi gọi cho luật sư bào chữa tốt nhất cô có thể nhớ đến lúc này. George Sheedy từng dành bốn tiếng đồng hồ cố gắng tìm cách làm mất hiệu lực lời nói của Dance trên bục nhân chứng. Ông ta đã tiến sát tới việc giành được phán quyết không có tội cho một trùm băng đảng ở Salinas, một gã hiển nhiên tội lỗi đầy mình. Nhưng những người tốt đã thắng cuộc và tên này lĩnh án chung thân. Sau phiên tòa, Sheedy đã tới gặp Dance và bắt tay cô, khen ngợi cô vì công việc xuất sắc cô đã làm trên bục nhân chứng. Cô cũng thừa nhận năng lực của ông làm cô rất ấn tượng.

Trong khi cuộc gọi đang được chuyển đến cho Sheedy, cô nhận thấy đám quay phim tiếp tục ghi lại cảnh tượng đầy kích động, tất cả đều tập trung vào chiếc xe có mẹ cô ngồi trong với đôi tay bị còng. Trông bọn họ như một đám phiến quân đang dùng súng phóng lựu tấn công vào những người lính đã bị choáng váng vì trái phá.

~*~

Kelley Morgan đã bình tĩnh lại sau khi kẻ xâm nhập từ sân sau hóa ra không phải là Người Tuyết Khủng Khiếp, nên quay sang chải chuốt mái tóc.

Cô gái tuổi vị thành niên này chưa bao giờ rời xa các dụng cụ cuốn tóc của mình.

Mái tóc của cô là thứ đáng thất vọng nhất trên thế giới. Chỉ cần một chút độ ẩm, vậy là nó xoăn tít lên và làm cô phát điên đến mức không thể chịu nổi.

Cô cần phải đi gặp Juanita, Trey và Toni ở Alvarado sau bốn mươi phút nữa, và họ là những người bạn tuyệt vời đến mức nếu cô đến trễ hơn mười phút, họ sẽ cho cô leo cây. Cô đã quên khuấy thời gian trong khi viết một bài trên mục Bri’s Town Hall ở OurWorld về Tammy Foster.

Khi Kelley ngước mắt lên nhìn vào gương, cô nhận ra không khí ẩm ướt đã biến các lọn tóc thành thứ tạo vật này. Vậy là cô đăng xuất và quay sang tấn công những lọn tóc nâu xoăn tít.

Có người từng đăng lên một blog địa phương - ẩn danh, tất nhiên rồi:

Kelley Morgan... có chuyện gì với tóc của cô ta thế nhỉ????? Trông cứ như cô ta là một cây nấm vậy. Tôi không thích những cô gái với cái đầu cạo trọc, nhưng cô ta nên chọn kiểu đầu ĐÓ. LOL. Kỳ thật, sao cô nàng không hiểu ra nhỉ.

Kelley đã khóc nức nở, sững sờ trước những lời lẽ tàn nhẫn cứa vào cô như một lưỡi dao cạo.

Bài bình luận đó chính là lý do khiến cô bênh vực Tammy trên OurWorld và đấu lý với AnonGurl - kẻ cuối cùng cô cũng đánh bại được, đó là một thời khắc thật vĩ đại.

Ngay cả lúc này, nghĩ lại bài viết tàn nhẫn về mái tóc của mình, cô gái vẫn thấy rùng mình ê chề. Và phẫn nộ. Bất chấp việc Jamie nói cậu yêu mọi thứ ở cô. Bài viết đó đã giày vò nặng nề Kelley, làm cô bé trở nên cực kỳ nhạy cảm về chủ đề tóc tai. Và khiến cô mất không biết bao nhiêu giờ. Kể từ hôm mùng Bốn tháng Tư đó, cô bé chưa từng ra ngoài lấy một lần mà không phải khổ sở vật lộn buộc mái tóc của mình vào khuôn phép.

Tốt rồi, vào việc thôi, cô gái.

Kelley rời khỏi máy tính, tới trước bàn phấn của mình và cắm điện làm nóng máy cuốn nhiệt. Chúng làm tóc cô bé chẻ ngọn, nhưng ít nhất hơi nóng cũng thuần phục được những lọn tóc phản phúc ương bướng nhất.

Cô bé bật đèn bàn phấn lên, ngồi xuống, cởi áo sơ mi ra và ném nó xuống sàn, sau đó mặc chiếc áo hai dây ra ngoài áo ngực, thích thú trước hình ảnh của ba cặp dây áo: Đỏ, hồng và đen. Cô thử máy uốn tóc. Cần vài phút nữa. Sắp được rồi. Cô bắt đầu chải. Thật là bất công hết chỗ nói. Khuôn mặt xinh xắn, ngực ngon lành, mông hết sảy. Và cái mái tóc quái gở này.

Kelley tình cờ liếc mắt nhìn về phía máy tính của mình và thấy một tin nhắn nhanh từ một người bạn.

Vào xem BC, NGAY LẬP TỨC!!!!!!!

Kelley bật cười. Tris thật hào phóng với những dấu chấm cảm.

Thông thường, cô không mấy khi đọc Bản tin Chilton - nó thường dính dáng đến chính trị nhiều hơn mức bản thân cô quan tâm - nhưng cô đã đưa nó vào đường dẫn RSS của mình sau khi Chilton bắt đầu đăng bài về vụ tai nạn hôm mùng Chín tháng Sáu với tựa đề Những cây thập tự ven đường. Kelley đã có mặt ở bữa tiệc đêm đó và, ngay trước khi Caitlin cùng những cô gái khác ra về, cô đã thấy Travis Brigham cãi cọ với Caitlin.

Cô nàng chạy tới bàn phím và gõ: Không đùa chứ?

Tris trả lời, Chilton đã bỏ hết những cái tên đi, nhưng người ta đang nói Travis đã tấn công Tammy!!

Kelley gõ: Chắc chắn hay cậu đang đoán thế?

Câu trả lời: CHẮC, CHẮC!!!! Travis nổi điên vì cô ấy chỉ trích hắn trên blog, ĐỌC ĐI!!!! NGƯỜI LÁI XE = TRAVIS và NẠN NHN = TAMMY.

Choáng váng buồn nôn, Kelley bắt đầu hối hả gõ bàn phím, mở Bản tin Chilton ra và tìm kiếm trong bài viết Những cây thập tự ven đường. Đến gần cuối, cô đọc thấy:



Trả lời Chilton, do BrittanyM đăng.

Có ai xem bản tin chưa???? Kẻ nào đó để lại một cây thập tự sau đó xông đến tấn công cô gái kia. Tất cả chuyện đó có nghĩa là gì? OMG, tôi dám cược đó là [người lái xe]!



Trả lời Chilton, do CT093 đăng.

Cảnh sát ở chỗ [xóa] nào rồi? Tôi nghe nói cô gái trong cốp xe đã bị hiếp và có những hình thập tự rạch trên người, sau đó hắn BỎ MẶC cô ấy trong cốp xe cho chết đuối. Chỉ vì cô ấy đã vạch mặt hắn - [người lái xe], ý tôi là tôi vừa xem bản tin và hắn vẫn chưa bị bắt. TẠI SAO LẠI THẾ?????



Trả lời Chilton, người đăng ẩn danh.

Tôi và các bạn tôi ở gần chỗ bãi biển nơi [nạn nhân] được tìm thấy và họ nghe thấy cảnh sát nói về cây thập tự này. Có vẻ như hắn để nó lại như lời cảnh cáo mọi người hãy ngậm miệng. [Nạn nhân] bị tấn công và cưỡng bức vì cô ấy đã vạch mặt [người lái xe] Ở ĐY, ý tôi là những gì cô ấy đã viết trên blog!!! Hãy chú ý nếu bạn từng chỉ trích hắn trong này và không dùng proxy hay chức năng đăng bài ẩn danh, các bạn đang hoàn toàn [xóa], hắn sẽ tìm đến các bạn!!



Trả lời Chilton, người đăng ẩn danh.

Tôi biết một cậu ở chỗ [người lái xe] tới chơi game và cậu ta nói [người lái xe] đã nói hắn sẽ tìm đến tất cả những ai đã đăng bài nói xấu mình, cậu ta định sẽ cắt cổ họ giống bọn khủng bố trên truyền hình Ả Rập, này, cớm [người lái xe] chính là tên sát thủ để lại cây thập tự ven đường!!! Và CHẮC CHẮN đúng thế!!!



Không... Chúa ơi, không! Kelley nhớ lại những gì cô đã đăng về Travis. Cô đã viết những gì nhỉ? Liệu cậu ta có nổi điên với cô không? Cô cuống cuồng cuộn màn hình và tìm thấy bài viết của mình.



Trả lời Chilton, do BellaKelley đăng.

Ông rất đúng!!! Tôi và bạn tôi có mặt ở bữa tiệc hôm mùng Chín khi chuyện đó xảy ra và [người lái xe] đã tới để [đã xóa] và hai cô gái như thế, chỉ bỏ đi thôi. Nhưng anh ta thì không, anh ta đi theo họ ra ngoài cửa khi họ về. Nhưng bản thân chúng tôi cũng đáng trách vì đã không làm gì, tất cả những người có mặt ở đó. Tất cả chúng tôi đều biết [người lái xe] là một kẻ thảm hại và bệnh hoạn và đáng ra chúng tôi phải gọi cảnh sát hay ai đó khi họ ra về. Lúc ấy tôi đã có linh cảm xấu hệt như trong phim Ghost Whisperer. Và thử nhìn xem chuyện gì đã xảy ra.



Tại sao? Tại sao mình lại nói thế?

Mình chẳng từng nói, “Hãy để Tammy được yên. Đừng có công kích người khác trên mạng”. Thế mà mình lại đi nói lăng nhăng về Travis.

Chết tiệt. Bây giờ cậu ta sẽ tìm đến cả mình nữa! Có phải đó chính là tiếng động mình nghe thấy bên ngoài lúc nãy không? Có khi cậu ta thực sự đang ở ngoài kia và việc em trai mình xuất hiện đã làm cậu ta sợ lánh đi.

Kelley nghĩ tới người đi xe đạp cô đã trông thấy. Khỉ thật, Travis lúc nào cũng đi xe đạp, và rất nhiều học sinh ở trường đã lôi cậu ta ra chế giễu vì cậu ta không có nổi xe hơi.

Cô cảm thấy lo sợ, bực bội, khiếp đảm...

Kelley đang nhìn chằm chằm vào những bài bình luận trên màn hình máy tính khi cô nghe thấy một tiếng động vang lên sau lưng mình.

Một tiếng răng rắc, như lúc trước.

Thêm một tiếng động nữa.

Cô gái quay lại.

Một tiếng hét chói tai kinh hoàng bật ra từ miệng Kelley.

Một khuôn mặt - khuôn mặt kinh hoàng nhất cô từng nhìn thấy - đang gườm gườm nhìn cô chằm chằm qua cửa sổ. Dòng suy nghĩ tỉnh táo của Kelley lập tức chết cứng. Cô quỳ sụp xuống, cảm thấy thứ chất lỏng nóng hổi tràn ra giữa hai chân mình khi cô mất hoàn toàn khả năng kiểm soát bàng quang. Một cơn đau nhói lên trong lồng ngực, lan lên tận hàm, rồi lên mũi, lên mắt. Kelley gần như ngừng thở.

Khuôn mặt nọ, bất động, nhìn chằm chằm vào cô với đôi mắt đen ngòm to tướng, làn da bị xé rách, mũi chỉ còn là những khe hõm, mồm bị khâu kín, đỏ lòm máu.

Cảm giác kinh hoàng tột độ từ thời thơ ấu lan đi tràn ngập khắp trong cơ thể cô.

“Không, không, không!”, Kelley khóc nấc lên như một đứa trẻ, lồm cồm bò đi nhanh và xa hết sức có thể. Cô bé đâm sầm vào tường và choáng váng nằm vật ra thảm.

Đôi mắt mở to gườm gườm, đen ngòm.

Chằm chằm nhìn thẳng vào cô.

“Không...”

Kelley cuống cuồng tuyệt vọng bò ra phía cửa, cái quần jean cô đang mặc đã ướt sũng nước tiểu, bụng cô quặn thắt.

Đôi mắt đó, cái miệng bị khâu lại đỏ lòm máu đó. Chính là người tuyết, Người Tuyết Khủng Khiếp. Tận sâu trong phần tâm trí vẫn còn hoạt động của mình, cô biết đó chỉ là một chiếc mặt nạ, được buộc lên cây bằng lăng bên ngoài cửa sổ.

Nhưng điều đó cũng không thể làm dịu bớt cơn hoảng loạn đã bùng lên trong cô - nỗi sợ hãi kinh khủng nhất từ thời thơ ấu.

Và cô cũng hiểu điều đó có nghĩa là gì.

Travis Brigham đang ở đây. Cậu ta đã tới để giết cô, giống như cậu ta đã tìm cách giết Tammy Foster.

Kelley cuối cùng cũng cố gắng đứng dậy được và loạng choạng đến bên cửa. Chạy thôi. Cuốn xéo khỏi nơi này.

Ra ngoài hành lang, cô quay về phía cửa trước.

Chết tiệt! Nó đang mở toang! Em trai cô đã không thèm khóa cửa.

Travis đang ở đây, trong nhà!

Cô có nên chạy sang phòng khách không?

Trong lúc cô gái đứng đó như đóng băng lại vì sợ hãi, kẻ tấn công ập đến Kelley từ phía sau, cánh tay hắn choàng lấy quanh cổ cô bé như một con rắn.

Kelley vùng vẫy cho tới khi kẻ tấn công gí một khẩu súng vào thái dương cô.

Cô gái nấc lên nức nở. “Làm ơn, đừng, Travis.”

“Bệnh hoạn hả?” kẻ tấn công thì thầm. “Thảm hại hả?”

“Mình xin lỗi, mình xin lỗi, mình không có ý đó!”

Trong khi kẻ tấn công lôi cô lùi ra phía sau, về phía cửa xuống tầng hầm, cô cảm thấy cánh tay hắn siết chặt hơn cho tới khi những lời van xin và tiếng nức nở của cô trở nên nhỏ lại, khẽ dần và vầng sáng từ khung cửa kính phòng khách sạch bong không vết bụi chuyển thành màu xám rồi đen kịt.

~*~

Kathryn Dance không lạ gì hệ thống tư pháp Mỹ. Cô đã từng có mặt tại các văn phòng thẩm phán và phòng xử án với tư cách phóng viên viết bài về chủ đề tội phạm, chuyên gia tư vấn cho bồi thẩm đoàn và một sĩ quan của lực lượng thực thi pháp luật.

Nhưng cô chưa bao giờ là thân nhân của bị cáo.

Sau khi rời khỏi bệnh viện, cô để các con ở lại nhà Martine và gọi điện cho Betsey, em gái cô, hiện đang chung sống với chồng ở Santa Barbara.

“Bet, mẹ gặp rắc rối rồi.”

“Cái gì? Kể cho em biết có chuyện gì đã xảy ra,” có chút quan tâm thực sự nghiêm chỉnh hiếm hoi trong giọng nói của cô em gái trẻ hơn Dance vài tuổi, thông thường khá vô lo vô nghĩ. Betsey có mái tóc lượn sóng đẹp thiên thần và không ngừng nhảy từ công việc này sang công việc khác chẳng khác gì một con bướm dạo chơi giữa những bông hoa.

Dance kể lại những chi tiết cô đã biết.

“Em sẽ gọi cho mẹ ngay bây giờ,” Betsey tuyên bố.

“Mẹ đang bị tạm giam. Họ đã tịch thu điện thoại của mẹ rồi. Sắp có một phiên xem xét khả năng cho tại ngoại. Đến lúc đó chúng ta sẽ biết nhiều hơn.”

“Em sẽ tới.”

“Có lẽ để sau thì tốt hơn.”

“Được thôi, tất nhiên rồi. Ôi, Katie, chuyện này nghiêm trọng đến mức nào?”

Dance do dự. Cô nhớ lại đôi mắt lạnh lùng, kiên quyết của Harper, đôi mắt của một nhà truyền giáo. Cô kết luận, “Có thể nghiêm trọng đấy.”

Sau khi hai chị em ngắt liên lạc, Dance đã ngay lập tức lái xe tới nơi đây, văn phòng thẩm phán sơ thẩm tại tòa án, nơi lúc này cô đang ngồi cùng bố. Người đàn ông có vóc người xương xương và mái tóc bạc trắng trông còn nhợt nhạt hơn thường lệ. Ông đã học được qua thực tế khắc nghiệt về những mối nguy hiểm mà một nhà sinh vật học biển phải đối diện với ánh mặt trời gay gắt trên đại dương. Giờ đây ông trở thành một người không thể sống thiếu kem chống nắng và mũ.

Ông khoác một cánh tay lên vai Dance.

Edie đã trải qua một giờ đồng hồ trong phòng tạm giam - nơi rất nhiều tên tội phạm bị Dance bắt giữ từng tạm trú. Nữ đặc vụ biết rõ quy trình: Mọi tư trang cá nhân đều bị tịch thu. Bạn trải qua bước kiểm tra lệnh bắt và thẩm vấn lấy thông tin ban đầu, và rồi bạn ngồi trong một phòng giam, xung quanh là những kẻ bị bắt khác. Việc duy nhất có thể làm là đợi và đợi.

Cuối cùng, bạn bị đưa đến đây, tới văn phòng lạnh lẽo không chút tình người của thẩm phán sơ thẩm để tham dự buổi xem xét tại ngoại. Quanh Dance và bố cô là thành viên của hàng chục gia đình những người bị bắt khác. Phần lớn các bị cáo có mặt tại đây, một số mặc thường phục, một số mặc bộ đồ phạm nhân liền quần màu đỏ của hạt Monterey, là những thanh niên gốc La Tinh. Dance nhận ra rất nhiều thành viên của các băng nhóm với bộ dạng nhếch nhác. Một số là người da trắng với khuôn mặt rầu rĩ, trông còn tàn tạ thảm hại hơn cả đám người La Tinh, với bộ răng và mái tóc ở tình trạng khá thê thảm. Ngồi phía cuối phòng là đội ngũ những luật sư được chỉ định cho các bị cáo. Cả những người ứng tiền bảo lãnh cũng có mặt, chờ đợi đút túi khoản mười phần trăm từ đám phạm nhân xơ xác của mình.

Dance ngước mắt lên nhìn mẹ cô khi bà bị giải vào. Tim cô đau nhói khi phải chứng kiến bà bị còng tay. Bà không mặc bộ đồ liền quần của phạm nhân. Nhưng mái tóc của mẹ cô, bình thường luôn được chải chỉn chu, bây giờ rối bù. Chiếc vòng cổ bà tự làm đã bị tịch thu trong quy trình bắt giữ. Cả nhẫn đính hôn và nhẫn cưới cũng vậy. Đôi mắt bà đỏ hoe.

Đám luật sư đi lại tha thẩn trong phòng, một số nhìn chẳng khá hơn thân chủ của họ là mấy. Chỉ có luật sư của Edie Dance đang mặc trên người một bộ vest đã được thợ may chỉnh sửa lại sau khi mua. George Sheedy hành nghề trong lĩnh vực luật hình sự ở vùng duyên hải miền Trung California từ hai thập kỷ nay. Ông ta có mái tóc rậm ngả xám, thân người hình thang ngược với đôi vai rộng và giọng trầm có thể tạo ra một phiên bản đáng kinh ngạc của “Old Man River”.

Sau cuộc nói chuyện điện thoại ngắn trên xe với Sheedy, Dance đã ngay lập tức gọi cho Michael O’Neil, anh thực sự ngỡ ngàng khi biết tin này. Sau đó cô còn gọi điện cho công tố viên hạt Monterey, Alonzo Sandy Sandoval.

“Tôi vừa biết chuyện đó, Kathryn,” Sandoval bực bội càu nhàu. “Tôi sẽ nói thẳng với cô: Chúng tôi đã cho MCSO điều tra về cái chết của Millar, chắc chắn rồi, nhưng tôi không hề biết Harper có mặt trong thành phố để làm gì. Và một cuộc bắt giữ công khai,” giọng ông lộ rõ vẻ cay đắng. “Điều đó thật không thể tha thứ được. Nếu Chưởng lý tiểu bang một mực muốn khởi tố, đáng lẽ tôi đã đề nghị cô đưa bà ấy tới.”

Dance tin ông ta. Cô và Sandy đã làm việc cùng nhau nhiều năm và tống không ít kẻ xấu vào tù, nhờ một phần vào sự tin tưởng lẫn nhau.

“Nhưng tôi rất tiếc, Kathryn. Monterey không có liên quan gì đến vụ này. Bây giờ nó nằm trong tay Harper và Sacramento.”

Cô cảm ơn vị công tố viên và ngắt liên lạc. Song ít nhất cô đã có thể thu xếp để việc xem xét cho phép tại ngoại của mẹ mình được thực hiện nhanh chóng. Theo luật pháp California, thời gian xem xét là do thẩm phán sơ thẩm quyết định. Ở một số nơi, như bên khu River và Los Angeles, phạm nhân thường ngồi trong phòng tạm giam mười hai giờ trước khi họ xuất hiện trước thẩm phán sơ thẩm. Vì đây là một vụ án mạng, rất có thể thẩm phán sơ thẩm sẽ không cho phép xem xét tại ngoại, để lại trách nhiệm này cho thẩm phán tại phiên tòa tố tụng, và ở California việc này thường diễn ra trong vòng vài ngày.

Cửa dẫn ra hành lang bên ngoài vẫn để mở, và Dance nhận thấy rất nhiều người mới đến đeo thẻ tác nghiệp truyền thông trên cổ. Không máy quay nào được phép hiện diện, nhưng vẫn có vô số tập sổ ghi chép.

Đúng là một gánh xiếc...

Một nhân viên hành chính gọi lớn, “Edith Barbara Dance”, và mẹ cô đứng dậy, ủ rũ, mắt đỏ hoe, tay vẫn bị còng. Sheedy đến bên cạnh bà. Một nhân viên áp giải đứng bên cạnh họ. Buổi làm việc này chỉ dành riêng cho xem xét chấp nhận tại ngoại, còn những trường hợp kháng cáo sẽ được xét đến sau, tại phiên tố tụng.

Harper đã yêu cầu không cho Edie được phép tại ngoại, một việc không hề làm Dance ngạc nhiên. Bố cô cứng người lại trước những lời lẽ tàn nhẫn của vị công tố viên, người đã biến Edie thành một Jack Kevorkian[3] vô cùng nguy hiểm, một người nếu được thả cho tại ngoại sẽ nhắm tới giết hại các bệnh nhân khác trước khi bỏ trốn sang Canada.

[3. Một nhà nghiên cứu bệnh học người Mỹ, thường được gọi là “Bác sĩ tử thần”. Ông đã chiến đấu không mệt mỏi trong cuộc tranh cãi về “cái chết êm ái”, giúp đưa những bệnh nhân mắc bệnh nan y, vô phương cứu chữa được kết thúc nỗi đau sớm hơn.]

Stuart sững sờ khi nghe vợ ông bị người khác gọi bằng những từ ngữ như thế.

“Không sao đâu, bố,” con gái ông thì thầm, “Đó chỉ là cách họ nói thôi.” Cho dù những lời nói ấy cũng làm tim cô đau nhói.

George Sheedy tranh luận rành mạch đề nghị thả người dưới cam kết - của chính Edie, chỉ ra việc bà không hề có tiền sử tư pháp và nguồn gốc xuất thân của bà trong cộng đồng.

Thẩm phán sơ thẩm, một người gốc La Tinh có đôi mắt nhanh nhẹn đã từng gặp qua Kathryn Dance, thể hiện rõ ông ta đang phải chịu đựng sức ép đáng kể, điều cô có thể dễ dàng nhận ra từ những biểu hiện về cử chỉ và khuôn mặt của người thẩm phán. Người thẩm phán sơ thẩm không hề muốn phải xử lý vụ này chút nào. Ông ta chỉ muốn cư xử đàng hoàng với Dance vì cô là một nhân viên công lực chừng mực, có tinh thần hợp tác. Song ông cũng ý thức được Harper là một tên tuổi lớn đến từ một thành phố lớn. Và ông thẩm phán cũng phải rất để ý tới giới truyền thông nữa.

Cuộc tranh luận tiếp tục.

Dance, một nhân viên công lực, nhận ra cô đang hồi tưởng lại giai đoạn trước trong tháng, nhớ lại hoàn cảnh diễn ra cái chết của người nhân viên cảnh sát. Cố gắng khớp các sự kiện với nhau. Cô đã nhìn thấy ai ở bệnh viện vào khoảng thời gian Juan Millar chết? Nguyên nhân chính xác gây nên cái chết đó là gì? Lúc đó mẹ cô đã ở đâu?

Lúc này, cô ngước mắt lên và thấy mẹ đang nhìn mình chăm chú. Dance mỉm cười buồn với bà. Khuôn mặt Edie không biểu lộ bất cứ cảm xúc nào. Bà quay lại phía Sheedy.

Cuối cùng, người thẩm phán thỏa hiệp. Ông ta đưa ra mức bảo lãnh tại ngoại ở nửa triệu đô la, một khoản tiền không phải quá hiếm gặp với một vụ án mạng, nhưng đồng thời cũng không quá nặng nề. Edie và Stuart không giàu có nhưng họ sở hữu vô thời hạn ngôi nhà của mình, vì ngôi nhà đó nằm ở Carmel, không xa bờ biển là mấy, hẳn nó phải trị giá tới hai triệu. Họ có thể lấy ngôi nhà làm bảo đảm để thế chấp.

Harper đón nhận tin này một cách khắc kỷ - khuôn mặt ông ta không chút tươi cười, người vươn thẳng nhưng thoải mái. Kết luận của Dance là ông ta hoàn toàn không hề bị áp lực, bất chấp kết quả bất lợi. Ông ta làm cô nhớ tới J.Doe, tên sát nhân ở Los Angeles. Một trong những lý do cô đã gặp nhiều khó khăn trong việc nhận ra màn dối trá của kẻ tình nghi là những lời tiết lộ và cảm nhận được đẩy đi rất xa, tập trung vào bản thân cũng như không mấy bối rối khi hắn nói dối nhân danh lý lẽ của mình. Điều này chắc chắn cũng có thể áp dụng cho Robert Harper.

Edie bị đưa trở lại phòng tạm giam, còn Stuart đứng dậy đi gặp nhân viên hành chính để thu xếp đóng bảo lãnh.

Trong khi Harper cài khuy áo vest và bước ra cửa, khuôn mặt vô cảm như một tấm mặt nạ, Dance chặn đường ông ta. “Tại sao ông lại làm chuyện này?”

Ông ta bình thản nhìn cô, không nói một lời.

Dance nói tiếp, “Ông có thể để hạt Monterey phụ trách vụ này. Tại sao ông lại từ tận San Francisco xuống đây? Ông đang toan tính gì vậy?” Cô đang nói đủ to để đám phóng viên gần đó nghe thấy.

Harper nói dửng dưng đều đều, “Tôi không thể thảo luận chuyện này với cô.”

“Tại sao lại là mẹ tôi?”

“Tôi không có gì để nói,” ông đẩy cửa đi ra ngoài, bước xuống các bậc thềm tòa án, dừng lại ở đó để trả lời báo chí - với những người này có vẻ ngài công tố viên có rất nhiều điều để nói.

Dance quay lại ngồi xuống một băng ghế cứng, chờ đợi bố mẹ.

Mười phút sau, George Sheedy và Stuart Dance tới chỗ cô.

Cô hỏi bố, “Việc đó ổn cả chứ bố?”

“Phải,” ông bố đáp với giọng trống rỗng.

“Chừng nào mẹ sẽ được thả?”

Stuart đưa mắt nhìn Sheedy rồi nói, “Mười phút, có khi còn sớm hơn.”

“Cảm ơn ông,” Stuart bắt tay người luật sư.

Dance gật đầu bày tỏ sự biết ơn với Sheedy, vị luật sư nói với hai bố con cô rằng ông sẽ quay lại văn phòng và sẽ bắt đầu chuẩn bị việc bào chữa ngay lập tức.

Sau khi ông ta đi khỏi, Dance hỏi bố, “Họ đã lấy gì khỏi nhà hả bố?”

“Bố không biết. Hàng xóm nói họ có vẻ quan tâm đến ga ra. Chúng ta đi khỏi đây thôi. Bố căm ghét nơi này.”

Hai người bước ra ngoài sảnh. Một vài phóng viên nhìn thấy Dance và lại gần. “Đặc vụ Dance,” một phụ nữ hỏi, “cô có thấy bối rối không khi biết mẹ mình bị bắt vì tội giết người?”

Vậy đấy, có những câu phỏng vấn chẳng khác gì dao cạo. Dance muốn đáp trả bằng lời lẽ nào đó thật sắc bén, nhưng lại nhớ tới nguyên tắc số một trong mối quan hệ với giới truyền thông: Luôn hiểu rằng mọi thứ bạn nói khi có sự hiện diện của một phóng viên sẽ xuất hiện trên bản tin lúc sáu giờ hay trên trang nhất các báo số ra hôm sau.

Nữ đặc vụ mỉm cười. “Tôi không có chút nghi ngờ nào về việc đây chỉ là một hiểu nhầm tai hại. Mẹ tôi giữ cương vị y tá đã nhiều năm nay. Bà tận tụy làm việc để cứu sống sinh mạng con người, chứ không phải để tước đoạt nó.”

“Cô có biết mẹ mình đã ký vào một đơn vận động ủng hộ Jack Kevorkian và trợ giúp việc tự sát hay không?”

Không, Dance không biết chuyện đó. Và, cô thầm tự hỏi, làm sao giới báo chí có thể biết được thông tin này nhanh đến thế? Cô trả lời, “Cô sẽ phải hỏi mẹ tôi về chuyện đó. Nhưng vận động để thay đổi pháp luật không đồng nghĩa với vi phạm pháp luật.”

Đúng lúc điện thoại di động của cô đổ chuông. Là O’Neil. Cô bước ra xa vài bước để nghe máy. “Michael, mẹ tôi sẽ được bảo lãnh tại ngoại,” cô nói.

Có một thoáng lặng im. “Tốt quá. Ơn Chúa.”

Dance nhận ra anh gọi cô vì chuyện khác, một việc nghiêm trọng. “Có chuyện gì vậy, Michael?”

“Người ta đã tìm thấy một cây thập tự nữa.”

“Một vật tưởng niệm thực sự, hay có ngày tháng tương lai được ghi trên đó không?”

“Là ngày hôm nay. Và giống hệt cây thứ nhất. Với cành cây và dây bó hoa.”

Cô tuyệt vọng nhắm mắt lại. Đừng nữa chứ.

O’Neil tiếp tục. “Nhưng nghe đã. Chúng ta có một nhân chứng. Một người đàn ông đã thấy Travis để lại cây thập tự. Có thể người này cũng đã thấy thằng bé đi hướng nào hoặc điều gì đó về cậu ta cho phép chúng ta biết nó trốn ở đâu. Cô muốn thẩm vấn nhân chứng này chứ?”

Thêm một thoáng im lặng, “Tôi sẽ đến chỗ đó sau mười phút nữa.”

O’Neil cho cô địa chỉ. Hai người ngắt liên lạc.

Dance quay sang bố mình. “Bố, con không ở lại được. Con rất xin lỗi.”

Ông quay khuôn mặt điển trai nhưng đầy phiền muộn sang phía con gái. “Sao cơ?”

“Người ta tìm thấy một cây thập tự nữa. Cậu thiếu niên có vẻ lại định tấn công một người khác. Trong ngày hôm nay. Nhưng có một nhân chứng. Con cần thẩm vấn người này.”

“Tất nhiên rồi,” nhưng giọng nói của ông không hề có chút chắc chắn nào. Vào khoảnh khắc này ông đang trải qua một cơn ác mộng - cũng gần tồi tệ bằng những gì mẹ cô phải chịu đựng - ông muốn con gái mình ở bên, với tất cả hiểu biết chuyên môn và những mối quan hệ mà cô có.

Nhưng Dance không thể xua tan khỏi tâm trí hình ảnh Tammy Foster đang mất trí vì kinh hoàng, bị trói chặt trong cốp xe, khi nước dâng lên cao dần.

Và cả hình ảnh đôi mắt Travis Brigham nữa, lạnh lẽo, đen ngòm dưới cặp lông mày rậm khi cậu ta gườm gườm nhìn ông bố, như nhân vật của cậu ta trong một trò chơi, được trang bị bằng dao hay kiếm, đang phân vân muốn bước từ thế giới ảo ra thế giới thực để giết chết ông ta.

Cô cần phải đi. Và ngay bây giờ. “Con xin lỗi,” cô ôm lấy bố.

“Mẹ con sẽ hiểu.”

Dance chạy tới xe của cô và nổ máy. Trong khi đang lái xe ra khỏi bãi để, cô liếc mắt nhìn vào gương chiếu hậu và thấy mẹ mình xuất hiện trên khung cửa dẫn vào khu tạm giam. Edie đăm đăm nhìn theo con gái bà đang rời đi. Đôi mắt hoàn toàn bình thản, khuôn mặt bà không để lộ cảm xúc nào.

Bàn chân Dance đã nhích sang cần đạp phanh. Nhưng sau đó cô nhấn ga lần nữa và bật thanh đèn nháy lên. Cô nhớ lại lời của bố mình.

Mẹ con sẽ hiểu.

Không, mẹ sẽ không hiểu, Dance thầm nghĩ. Chắc chắn bà không thể hiểu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14


Sau từng ấy năm sống tại khu vực này, Kathryn Dance vẫn chưa bao giờ thực sự làm quen được với sương mù ở Bán đảo Monterey. Nó giống như kẻ biến hình - một nhân vật bước ra từ những cuốn sách giả tưởng Wes ưa thích. Có lúc nó là những dải mỏng ôm sát mặt đất và lướt qua bên bạn như những bóng ma. Lúc khác nó lại trở thành một làn khói trùm lên xa lộ và vùng đất hai bên đường, che mờ mọi thứ.

Thứ sương mù thường gặp nhất tựa một tấm ga trải giường bằng vải bông dày bồng bềnh, cách mặt đất vài chục mét, giống những đám mây làm mọi vật bên dưới nó tối đen - như một điềm gở.

Đó chính là thứ sương mù xuất hiện ngày hôm nay.

Bóng tối sẫm dần lại trong khi Dance, đang vừa nghe Raquy và nhóm Cavemen - một ban nhạc Bắc Phi nổi tiếng với phong cách nhạc gõ, vừa lái xe qua một đoạn đường vắng vẻ xuyên ngang khu đất do tiểu bang quản lý nằm giữa Carmel và Pacific Grove. Hai bên đường chủ yếu là rừng cây mọc hoang, đầy thông, sồi, bạch đàn và thích, thân cây lớn đan xen với những đám cây bụi. Cô lái xe qua hàng rào bảo vệ hiện trường của cảnh sát, tảng lờ đám phóng viên và đội quay phim. Bọn họ có mặt ở nơi này vì vụ tấn công hay vì mẹ cô đây? Dance cay đắng tự hỏi.

Cô đỗ xe, chào mấy nhân viên cảnh sát đứng gần đó và đến chỗ Michael O’Neil. Họ bắt đầu đi về phía sườn dốc đã bị phong tỏa, nơi cây thập tự thứ hai được tìm thấy.

“Mẹ cô thế nào rồi?” O’Neil hỏi.

“Không được tốt lắm.”

Dance rất mừng vì anh có mặt ở đây. Cảm xúc trong cô đang căng phồng lên như một quả bóng, và cô không thể nói được gì, khi mà hình ảnh mẹ cô bị còng tay và cuộc đôi co với người nhân viên xã hội vì các con lại hiện lên rõ mồn một.

Anh không nén được mỉm cười nói. “Tôi có thấy cô trên tivi.”

“Trên tivi?”

“Người phụ nữ trông giống Oprah[1] đó là ai thế? Lúc ấy trông có vẻ như cô sắp còng tay cô ta lại vậy.”

[1. Oprah Gail Winfrey (sinh ngày 29 tháng 01 năm 1954) là người dẫn chương trình đối thoại trên truyền hình và là nhà xuất bản tạp chí tại Mỹ. Winfrey là phụ nữ Mỹ gốc Phi đầu tiên có tên trong danh sách các tỉ phú và được xem là một trong những nhân vật có nhiều ảnh hưởng nhất trên thế giới.]

Dance thở dài. “Bọn họ thu được cảnh đó vào máy quay rồi sao?”

“Trông cô,” anh ngừng lại tìm từ, “rất oai.”

“Cô ta định đưa các con tôi tới chỗ Tổ chức Xã hội.”

O’Neil có vẻ sốc. “Đó là Harper. Toan tính chiến thuật. Thiếu chút nữa ông ta đã giúp kẻ xu nịnh mình được đeo còng. Ôi, đáng ra tôi phải bấm còng vào tay cô ta.”

Cô nói thêm, “Tôi đã nhờ được Sheedy lo vụ của mẹ mình.”

“George à? Tốt đấy, ông ta rất cứng rắn. Cô cũng không được phép nhượng bộ.”

“À, và sau đó Overby cho phép Harper tới CBI. Để kiểm tra các hồ sơ của tôi.”

“Không thể nào!”

“Tôi nghĩ ông ta đang tìm xem tôi có xóa bỏ bằng chứng hay sửa chữa các hồ sơ liên quan tới vụ Juan Millar hay không. Overby nói ông ta kiểm tra cả các hồ sơ tại phòng làm việc của anh nữa.”

“Ở MCSO à?” O’Neil hỏi. Dance có thể thấy cơn giận của anh đang bùng lên như cột đèn đỏ báo hiệu trên xa lộ. “Overby có biết Harper đang thu thập một hồ sơ buộc tội mẹ cô không?”

“Tôi không biết. Ít nhất ông ta cũng phải nghĩ: Vì chuyện quái quỷ gì mà gã này lại từ San Francisco tới lảng vảng đánh hơi quanh các hồ sơ của chúng ta? ‘Đánh giá các vụ điều tra’ ư. Thật lố bịch,” cơn phẫn nộ của chính cô lại bùng lên, và sau một hồi nỗ lực, cuối cùng cô cũng kiểm soát được nó.

Hai người tới chỗ cây thập tự được cắm xuống - một sườn dốc bên đường. Vật tưởng niệm cũng giống như cây thập tự trước đó: Những cành cây bị bẻ ra được đan lại bằng dây buộc hoa, và một tấm bìa các tông có ghi ngày tháng của hôm nay trên đó.

Dưới chân cây thập tự là một bó hoa hồng đỏ nữa.

Nữ đặc vụ không khỏi suy nghĩ: Nó tượng trưng cho vụ ám hại người nào đây?

Còn mười bó nữa đang đợi lượt.

Cây thập tự này được để lại ở một đoạn đường vắng vẻ hầu như chỉ được trải lớp nhựa mỏng qua loa nằm cách bờ biển chừng một dặm. Không có nhiều xe cộ qua lại, đoạn này là con đường tắt ít người biết dẫn tới Xa lộ 68. Trớ trêu thay, đây cũng là một trong những con đường dẫn tới tuyến xa lộ mới mà Chilton đã viết trong blog của ông ta.

Đứng bên một con đường phụ gần cây thập tự chính là nhân chứng, một thương gia ngoài bốn mươi tuổi. Dance thầm đoán: Nếu dựa vào ngoại hình thì có thể nghĩ ngay ông ta làm ăn trong lĩnh vực bất động sản hoặc bảo hiểm. Người đàn ông này có vóc người tròn trịa, phần bụng đẩy chiếc áo sơ mi màu xanh nhô hẳn ra ngoài làm đai thắt lưng trễ xuống. Mái tóc ông đang thưa dần, cô có thể thấy những nốt cháy nắng trên vầng trán cao và đỉnh đầu hói nhẵn của ông ta. Ông ta đứng bên một chiếc Honda Accord đã từng có thời trông khá hợp mốt.

Cả hai đến bên người đàn ông. O’Neil giới thiệu với cô, “Đây là Ken Pfister.”

Dance bắt tay nhân chứng. O’Neil nói sẽ đi giám sát việc kiểm tra hiện trường và bắt đầu bước ra phía ngoài đường.

“Ông Pfister, hãy kể cho tôi biết những gì ông nhìn thấy.”

“Travis. Travis Brigham.”

“Ông có chắc là cậu ta không?”

Nhân chứng gật đầu. “Tôi thấy ảnh anh chàng này trên mạng khi tôi ăn trưa chừng nửa giờ trước. Chính vì thế tôi nhận ra cậu ta.”

“Ông có thể cho tôi biết chính xác những gì ông đã thấy không?” cô hỏi. “Và khi nào?”

“Được thôi. Lúc ấy vào khoảng mười một giờ sáng nay. Tôi có một cuộc họp ở Carmel. Tôi quản lý một văn phòng ở Allstate,” nhân chứng nói ra điều này đầy tự hào.

Mình đã đoán đúng, Dance nghĩ.

“Tôi ra về lúc khoảng mười giờ bốn mươi và đang lái xe trở lại Monterey. Theo con đường tắt này. Nó sẽ rất tuyệt khi tuyến xa lộ mới đó được khánh thành, phải không nào?”

Dance mỉm cười lấp lửng, không phải một nụ cười thực sự.

“Và tôi tạt vào đường này,” vị nhân chứng vung tay chỉ, “để gọi vài cuộc điện thoại.” Ông ta cười hết cỡ. “Không bao giờ vừa lái xe vừa nói chuyện. Đó là nguyên tắc của tôi.”

Dance nhướng một bên mày lên ra hiệu cho ông ta tiếp tục.

“Tôi nhìn qua kính chắn gió và thấy Travis cuốc bộ theo sườn đất. Từ phía kia lại. Cậu ta không thấy tôi. Trông cậu ta có vẻ như lê đi từng bước. Dường như lúc ấy cậu ta đang tự nói chuyện với chính mình.”

“Cậu ta mặc gì trên người?”

“Một cái áo nỉ có mũ trùm đầu, kiểu đám nhóc vẫn hay mặc.”

À, áo có mũ trùm đầu.

“Cái áo đó màu gì?”

“Tôi không nhớ?”

“Cậu ta có mặc áo khoác, quần thụng không?”

“Xin lỗi. Tôi không để ý cho lắm. Lúc ấy tôi vẫn chưa biết anh chàng đang định làm trò gì - tôi vẫn chưa nghe về vụ Những cây thập tự ven đường. Tất cả những gì tôi biết là cậu nhóc trông có vẻ kỳ cục và đáng sợ. Cậu ta cầm theo cây thập tự đó, và cả một con vật đã chết.”

“Một con vật?”

Pfister gật đầu. “Phải, một con sóc hay một con chuột chũi hoặc thứ gì đại loại như thế. Cổ họng con vật bị cắt đứt,” vị nhân chứng đưa ngón tay lướt ngang qua cổ mình làm điệu bộ.

Dance ghét cay ghét đắng những hành động tàn bạo với động vật. Dẫu vậy, cô vẫn giữ giọng bình thản khi hỏi, “Có phải cậu ta vừa mới giết con vật không?”

“Tôi không nghĩ thế. Không có nhiều máu lắm.”

“Được rồi, sau đó chuyện gì xảy ra?”

“Sau đó cậu ta ngó tới ngó lui tứ phía, và khi không thấy ai nên anh chàng mở ba lô ra và...”

“Ồ, cậu ta có một cái ba lô sao?”

“Đúng thế.”

“Màu gì vậy?”

“Ừm, đen, tôi tin chắc là thế. Cậu ta lấy ra một cái xẻng, một cái xẻng nhỏ xíu. Loại cô hay dùng khi đi cắm trại. Và đào một cái hố, rồi cắm cây thập tự xuống đất. Sau đó... chuyện này thật quái lạ. Cậu ta thực hiện nghi thức của mình. Cậu ta đi vòng quanh cây thập tự ba lần, và có vẻ như vừa đi vừa cầu khấn.”

“Cầu khấn?”

“Đúng thế đấy. Lẩm nhẩm gì đó. Tôi không nghe được là gì.”

“Còn sau đó?”

“Cậu ta cầm con sóc lên và lại đi vòng quanh cây thập tự năm vòng - tôi đã đếm từng lần một. Ba và năm... Có thể đó là một thông điệp, một manh mối, nếu ai đó có thể suy đoán ra được.”

Dance nhận thấy từ sau khi Mật mã Da Vinci xuất hiện, rất nhiều nhân chứng có xu hướng thích giải mã những quan sát của họ hơn là chỉ đơn giản nói ra những gì đã nhìn thấy.

“Rồi cậu ta lại mở ba lô ra lần nữa và lấy ra hòn đá này cùng một con dao. Cậu ta dùng nó mài sắc lưỡi dao, sau đó kề dao lên con sóc. Tôi nghĩ cậu ta định cắt nó ra, song không phải thế. Tôi thấy môi cậu ta lại mấp máy, rồi cậu ta gói cái xác lại trong một thứ giấy có màu vàng kỳ quái, trông như giấy bản thảo vậy, và nhét vào ba lô. Sau đó, có vẻ cậu ta nói nốt vài câu cuối cùng song đi trở lên con đường, quay lại hướng đã đi tới. Vừa đi vừa nhảy cẫng lên, cô biết đấy. Như một con vật vậy.”

“Sau đó ông làm gì?”

“Tôi rời khỏi đây, thực hiện vài cuộc gặp nữa. Tôi quay trở lại văn phòng. Chính lúc tôi vào mạng và đọc được tin về cậu nhóc. Tôi trông thấy ảnh cậu ta. Và giật mình. Tôi gọi 911 ngay lập tức.”

Dance ra hiệu gọi Michael O’Neil tới chỗ cô.

“Michael, chuyện này đáng quan tâm đây. Ông Pfister thực sự rất có ích.”

O’Neil gật đầu cảm ơn vị thương gia.

“Bây giờ ông có thể kể cho thanh tra O’Neil đây những gì ông đã trông thấy chứ?”

“Tất nhiên.”

Pfister lại giải thích về chuyện tạt vào con đường phụ để gọi điện thoại. “Cậu nhóc mang theo một con vật gì đó đã chết. Tôi nghĩ là một con sóc. Cậu ta đi vòng quanh ba vòng không cầm theo cái xác. Sau đó cậu ta trồng cây thập tự và đi vòng quanh năm lần. Cậu ta đã lẩm bẩm nói một mình. Chuyện đó thật kỳ quái. Giống như một ngôn ngữ khác vậy.”

“Và sau đó?”

“Cậu ta gói con sóc vào mảnh giấy bản thảo này và gí con dao lên trên. Cậu ta nói thêm gì khác nữa bằng thứ ngôn ngữ quái đản kia, rồi bỏ đi.”

“Rất đáng quan tâm,” O’Neil nói. “Cô nói đúng, Kathryn.”

Chính vào lúc đó, Dance tháo cặp kính có gọng màu hồng nhạt của cô ra lau chùi. Rồi nhẹ nhàng thay nó bằng cặp kính có gọng đen nghiêm khắc.

O’Neil hiểu ra ngay khi bắt gặp cô đang đeo cặp kính kẻ săn mồi của mình vào và lùi lại. Dance bước lại gần Pfister hơn, vào sâu vùng không gian riêng tư của ông ta. Ngay lập tức cô nhận ra ông ta đang cảm thấy bị đe dọa.

Tốt.

“Bây giờ, Ken, tôi biết ông đang nói dối. Và tôi cần ông nói cho tôi biết sự thật.”

“Nói dối?” vị nhân chứng chớp mắt choáng váng.

“Đúng thế.”

Pfister đã khá xuất sắc trong màn dựng chuyện của ông ta, song vài lời bình phẩm và cử chỉ đã đánh động Dance. Nghi ngờ của cô nảy sinh ngay từ đầu khi phân tích nội dung: Xét về những điều ông ta nói thay vì cách ông diễn đạt chúng. Vài lời giải thích của vị thương gia tỏ ra quá khó để tin là thật. Ông ta thừa nhận không hề biết cậu nhóc là ai và chưa bao giờ nghe nói đến vụ tấn công liên quan tới Cây thập tự ven đường - trong khi dường như bản thân vẫn thường xuyên lên mạng cập nhật tin tức. Tuyên bố Travis mặc áo nỉ có mũ trùm đầu, điều vài người đăng bài trong Bản tin Chilton đã nhắc đến, song lại không nhớ màu áo - người ta thường có xu hướng nhớ màu sắc trang phục tốt hơn nhiều so với bản thân chất liệu, kiểu dáng của những món đồ đó.

Pfister cũng ngừng lại giữa chừng rất thường xuyên - những kẻ nói dối hay làm thế trong khi cố nghĩ ra những lời tỏ ra đáng tin cậy. Và ông ta cũng viện đến ít nhất một cử chỉ “minh họa” - đưa ngón tay lướt ngang qua cổ. Người ta thường viện đến chúng một cách vô thức để tăng sức thuyết phục cho những lời bịa đặt.

Vậy là một khi đã ngờ vực, Dance bắt đầu sử dụng một kỹ thuật cơ bản để kiểm tra: Để xác định xem liệu có phải ai đó đang nói dối không, người thẩm vấn sẽ yêu cầu nghe đi nghe lại câu chuyện của họ vài lần. Người nói thật có xu hướng thay đổi cách diễn đạt ở đôi chỗ và nhớ ra những điều quên chưa nhắc đến trong lần kể đầu, nhưng trình tự các sự kiện luôn giống nhau. Ngược lại, kẻ nói dối thường quên mất trình tự các biến cố trong câu chuyện hư cấu của anh ta. Điều này đã xảy ra với Pfister khi ông ta kể lại tình tiết với O’Neil rồi bị lẫn lộn về thời điểm cậu nhóc cắm cây thập tự.

Tương tự, trong khi nhân chứng trung thực có thể nhớ ra những chi tiết mới trong lần kể thứ hai, hiếm khi mâu thuẫn với lời kể trước. Ban đầu Pfister nói Travis thì thầm điều gì đó ông không nghe rõ. Lần hai lại bao gồm chi tiết ông ta không thể hiểu được thứ ngôn ngữ “kỳ quái”, điều đồng nghĩa với việc thừa nhận bản thân có nghe thấy chúng.

Dance đi đến kết luận không một chút ngờ vực là Pfister đang bịa chuyện.

Trong hoàn cảnh khác, hẳn Dance sẽ thực hiện cuộc thẩm vấn một cách tinh tế hơn, dùng thủ thuật để dẫn dụ đối tượng lòi đuôi. Nhưng đây lại là một người mà tính cách nói dối, mà theo như cô đánh giá, thì mang đậm “kiểu xã hội”. Đối với thể loại không đáng tin cậy trên, cô sẽ mất một quãng thời gian dài thẩm vấn vất vả để tới được sự thật. Cô không có thời giờ, cây thập tự thứ hai, cùng ngày tháng hôm nay trên đó, nghĩa là Travis rất có thể đã lên kế hoạch thực hiện cuộc tấn công ngay vào lúc này.

“Vậy nên, Ken, ông thực sự đang rất gần với việc ngồi tù đấy.”

“Cái gì? Không!”

Dance không hề băn khoăn chút nào về việc tìm kiếm thêm bạn diễn cho mình. Cô đưa mắt nhìn O’Neil, anh nói, “Đúng thế. Chúng tôi cần biết sự thật.”

“Ôi, làm ơn. Xem nào...”

Nhưng Pfister không đưa ra được gì để họ đánh giá. “Tôi không nói dối! Thật đấy. Mọi thứ tôi kể với các vị đều đúng.”

Điều này hoàn toàn khác với việc ông ta cam đoan đã thực sự trông thấy những gì như đã nói. Tại sao kẻ dối trá luôn nghĩ bọn họ thông minh đến thế nhỉ? Cô hỏi, “Ông có thực sự chứng kiến những việc như đã khai không?”

Dưới cái nhìn sắc như laser của Dance, Pfister ngoảnh mặt tránh đi. Hai vai ông ta buông thõng xuống. “Không. Nhưng tất cả đều đúng. Tôi biết thế!”

“Làm thế nào ông biết được?” cô hỏi.

“Vì tôi đã đọc thấy có người chứng kiến cậu ta làm những điều tôi nói với cô. Trên cái blog đó. Bản tin Chilton.”

Đôi mắt cô quay sang O’Neil. Vẻ mặt của anh cũng tương tự như cô. Dance hỏi, “Tại sao ông nói dối?”

Vị thương gia giơ hai bàn tay lên. “Tôi muốn mọi người ý thức được mối nguy hiểm. Tôi nghĩ người ta cần cẩn thận hơn khi gã tâm thần này đang lảng vảng ngoài kia. Họ nên đề phòng thận trọng, nhất là với con cái của mình. Chúng ta cần phải cẩn thận với con cái chúng ta, cô biết thế mà.”

Dance nhận thấy cử chỉ của bàn tay, lắng nghe tiếng nghèn nghẹt khe khẽ trong cổ họng ông ta. Bây giờ cô đã nắm rõ những dấu hiệu cử chỉ của nhân vật này khi nói dối. “Ken? Chúng tôi không có thời gian cho việc này đâu.”

O’Neil tung còng tay ra.

“Không, không. Tôi...” đầu ông ta cúi gằm xuống, đầu hàng hoàn toàn. “Tôi đã có vài vụ làm ăn không ra gì. Các khoản vay bị đòi thanh toán và tôi không thể hoàn trả được. Vậy nên tôi...” ông ta thở dài.

“Vậy là ông nói dối để trở thành một anh hùng? Có được chút quảng cáo bản thân?” khuôn mặt O’Neil hiện rõ vẻ ghê tởm khi đưa mắt nhìn về phía các nhóm săn tin đang bị ngăn lại ngoài vành đai phong tỏa, cách chỗ họ bốn mươi lăm mét.

Pfister bắt đầu định phản đối. Rồi bàn tay ông ta buông xuống. “Phải. Tôi xin lỗi.”

O’Neil ghi gì đó vào sổ ghi chú của mình. “Tôi sẽ phải nói với công tố viên về chuyện này.”

“Ôi, làm ơn... tôi xin lỗi.”

“Vậy là ông không hề thấy cậu ta, nhưng biết ai đó vừa để lại cây thập tự và ông biết người này là ai.”

“Được rồi, tôi có một ý tưởng. Ý tôi là, phải, tôi biết.”

“Tại sao ông lại đợi tới giờ này mới nói với chúng tôi?” Dance gắt lên.

“Tôi... tôi sợ. Có thể hắn vẫn còn đang nấp quanh đây.”

O’Neil hỏi bằng giọng khe khẽ đầy đe dọa, “Ông không nghĩ rằng ba hoa tất cả những chuyện rác rưởi về nghi thức hiến sinh đó có thể khiến chúng tôi điều tra sai hướng à?”

“Tôi nghĩ kiểu gì các vị cũng đã biết hết mọi chuyện rồi. Tất cả đều ở trên blog đó. Chúng phải là sự thật chứ, đúng không nào?”

Dance kiên nhẫn nói, “Được rồi, Ken. Hãy bắt đầu lại.”

“Tất nhiên. Bất cứ điều gì.”

“Ông có thực sự tham gia cuộc họp đó không?”

“Có, thưa cô.”

Pfister đang chìm sâu vào trạng thái cuối cùng của cảm xúc khi bị thẩm vấn - chấp nhận và thú nhận - đến mức Dance gần như bật cười. Nhân chứng lúc này đã trở thành kiểu mẫu của tinh thần hợp tác.

“Và sau đó chuyện gì đã xảy ra?”

“Tôi lái xe qua chỗ này và rẽ vào khúc cua ở đây,” ông ta dứt khoát chỉ xuống dưới chân mình. “Khi tôi rẽ vào vẫn chưa có cây thập tự nào hết. Tôi gọi vài cuộc điện thoại, sau đó vòng xe quay trở ra giao lộ. Tôi đợi chiếc xe trước mặt chạy đi rồi quan sát đoạn đường phía trước. Và nó đã ở kia,” ông ta lại chỉ tay. Lần này ông nhìn về phía cây thập tự. “Tôi không hề thấy cậu ta. Còn về cái áo có mũ trùm đầu và những chuyện khác ư? Tôi kiếm được từ trên blog. Tất cả những gì tôi có thể nói là mình không bắt gặp ai ở chỗ vệ đường, vì thế cậu ta hẳn phải từ trong rừng đi ra. Và, phải, tôi biết nó có nghĩa là gì. Cây thập tự. Và nó làm tôi sợ chết khiếp. Tên sát nhân mới vừa ở đó, ngay trước mặt tôi!”

Một tiếng cười chua chát vang lên.

“Tôi khóa cửa lại thật nhanh... Tôi chưa bao giờ làm gì can đảm trong đời mình. Không giống bố tôi. Ông ấy là lính cứu hỏa, tình nguyện.”

Chuyện này vẫn thường xảy đến với Kathryn Dance. Khía cạnh quan trọng nhất trong hỏi cung và thẩm vấn là cần biết lắng nghe, không phán xét và tỉnh táo. Vì cô luôn cải thiện kỹ năng này hàng ngày, các nhân chứng - cả các đối tượng nghi vấn - thường có xu hướng xem cô như một chuyên gia về trị liệu tâm lý.

Quý ông Ken Pfister tội nghiệp đang xưng tội.

Nhưng ông ta sẽ phải tìm đến một chuyên gia tâm lý khác. Công việc của cô không bao gồm việc chẩn trị những con quỷ ám ảnh tâm trí ông.

O’Neil đang nhìn về phía vạt rừng. Dựa vào những gì Pfister cung cấp ban đầu, các nhân viên cảnh sát đang tìm kiếm ở khu vực gò đất. “Tốt hơn chúng ta nên kiểm tra trong vạt rừng.” Anh ném một cái nhìn lạnh lẽo về phía Pfister. “Ít nhất điều đó có thể sẽ hữu ích,” anh gọi vài nhân viên điều tra đi theo mình và họ băng qua đường tới tìm kiếm trong vạt rừng.

“Thế còn chiếc xe ông đã đợi cho chạy qua?” Dance hỏi Pfister. “Liệu người lái xe có thể trông thấy gì đó không?”

“Tôi không biết. Có thể, nếu Travis vẫn còn ở đó. Họ có tầm nhìn tốt hơn tôi.”

“Ông có nhìn thấy biển đăng ký xe không?”

“Không, có lẽ nó có màu tối, nó là một chiếc bán tải hoặc xe tải. Nhưng tôi nhớ là xe công.”

“Xe công ư?”

“Phải, đằng sau nó có từ ‘tiểu bang’.”

“Tổ chức nào vậy?”

“Tôi không thấy. Thật đấy.”

Điều đó có thể có ích. Họ cần liên lạc với tất cả các cơ quan công quyền California có khả năng có phương tiện qua lại trong khu vực. “Tốt.”

Ông ta dường như phấn khích với lời khen ngợi thoáng qua.

“Được rồi. Bây giờ ông được tự do ra về, Ken. Nhưng hãy nhớ vẫn còn một đơn khiếu nại để ngỏ chống lại ông.”

“Vâng, chắc rồi, chắc rồi. Thế này nhé, tôi rất xin lỗi. Tôi không có ý gì xấu,” ông ta hối hả rời đi.

Trong khi băng qua đường tới chỗ O’Neil và nhóm điều tra viên đang lùng sục trong vạt rừng, Dance dõi theo vị thương gia đang kích động chui vào chiếc xe méo mó của ông ta.

Tất cả các câu chuyện đều ở trên blog đó. Chúng phải đúng sự thật chứ, phải không nào?

~*~

Cô muốn chết.

Kelley Morgan đang thầm lặng mong mỏi lời cầu nguyện của cô được đáp trả. Hơi hóa chất bốc lên đang làm cô ngạt thở. Cô không còn nhìn thấy gì nữa. Phổi cô đau rát, mắt và mũi cô như đang bốc cháy.

Cảm giác đau đớn...

Nhưng còn ghê rợn hơn nó là ý nghĩ về những gì đang xảy đến, những thay đổi khủng khiếp nơi làn da và khuôn mặt do chất hóa học gây ra.

Dòng suy nghĩ của cô gái trẻ rối như mớ bòng bong. Cô không còn nhớ gì kể từ lúc bị Travis lôi xuống cầu thang. Khi tỉnh lại cô đã ở đây, trong kho rượu tối tăm của bố mình dưới tầng hầm, bị xích vào một đường ống. Miệng bị dán chặt băng dính, vùng cổ bị kẻ tấn công siết chặt đến suýt chết đang đau rát.

Và cô gái bị ngạt dữ dội bởi thứ gì đó hắn đã đổ xuống sàn, thứ hóa chất lúc này đang thiêu cháy mắt, mũi, họng cô.

Ngạt, ngạt...

Kelley cố kêu lên. Thật vô ích với dải băng dính che kín miệng. Bên cạnh đó, chẳng ai nghe được. Gia đình cô đã ra ngoài hết và sẽ phải rất lâu nữa mới có người quay về.

Cảm giác đau đớn...

Cô gái trẻ điên cuồng, cố đạp đường ống bằng đồng bật ra khỏi tường. Nhưng đường ống kim loại không chịu bung ra.

Giết tôi đi!

Kelley hiểu Travis Brigham đang làm gì. Hắn đã có thể siết cổ cô đến chết - chỉ cần tiếp tục giữ thêm vài phút nữa. Hay bắn cô. Nhưng với hắn như thế vẫn chưa đủ thỏa mãn. Không, kẻ thảm hại và bệnh hoạn đang báo thù bằng cách hủy hoại vẻ bề ngoài của cô.

Hơi hóa chất sẽ gặm nhấm đi lông mi và lông mày cô gái, hủy hoại làn da mịn màng, thậm chí có thể còn làm tóc cô rụng hết. Hắn không muốn cô chết mà muốn biến cô thành một con quái vật.

Con nhóc quái gở với khuôn mặt lở loét nham nhở, kẻ thảm hại, bệnh hoạn... Hắn muốn biến cô thành đúng như thứ hắn từng bị bêu xấu.

Giết tôi đi, Travis. Tại sao cậu không chỉ đơn giản giết tôi đi?

Cô nghĩ tới cái mặt nạ. Đó là lý do tại sao hắn để nó lại. Nó là một thông điệp về diện mạo của cô sau khi các hóa chất đã hoàn tất công cuộc hủy hoại của chúng.

Cô gục đầu lên hai cánh tay khi ngồi phủ phục xuống, áp người vào tường. Tôi muốn chết.

Cô bắt đầu hít vào thật sâu, qua phần mũi đang đau như bị kim châm. Mọi thứ bắt đầu mờ nhạt dần. Cảm giác đau đớn biến mất, rồi mọi suy nghĩ của cô, cảm giác ngạt thở, cảm giác đau rát trên đôi mắt, những giọt nước mắt.

Tất cả đều trôi đi. Ánh sáng trở thành bóng tối.

Sâu hơn, hãy hít sâu hơn nữa.

Hít chất độc vào.

Và, phải rồi, nó đang có tác dụng!

Xin cảm ơn.

Cảm giác đau đớn dịu dần, cả nỗi lo lắng cũng thế.

Cảm giác nhẹ nhõm ấm áp thay thế sự tỉnh táo đang tan biến dần. Ý nghĩ cuối cùng của cô trước khi màu đen buông xuống trọn vẹn đơn giản chỉ là cô sẽ được giải thoát khỏi nỗi sợ hãi của mình mãi mãi.

~*~

Trong lúc đứng cạnh cây thập tự ven đường, nhìn chăm chăm xuống những bông hoa, Dance bỗng giật mình vì tiếng chuông điện thoại của cô - không còn là nhạc phim hoạt hình nữa, vì cô đã chỉnh về giai điệu mặc định. Thêm một cái liếc mắt kiểm tra danh tính người gọi.

“TJ.”

“Sếp. Thêm một cây thập tự nữa à? Tôi vừa được biết.”

“Phải, và với ngày tháng của hôm nay.”

“Trời ạ. Hôm nay?”

“Phải. Cậu tìm được gì rồi?”

“Tôi đang ở Bagel Express. Kể cũng lạ, nhưng ở đây không ai thực sự biết rõ điều gì về Travis. Họ nói cậu ta tới làm việc, nhưng luôn khép kín một mình. Không giao du, không nói nhiều, chỉ lẳng lặng ra về. Có vài lần cậu ta trò chuyện với một cậu bé về các trò chơi trực tuyến. Nhưng tất cả chỉ có vậy. Và không ai biết cậu ta có thể đi đâu. À, ông chủ tiệm nói kiểu gì ông ta cũng sẽ đuổi việc Travis. Kể từ khi xuất hiện những bài viết trên blog, bản thân ông cũng đã bị đe dọa. Công việc làm ăn sút kém. Khách hàng sợ ghé vào.”

“Được rồi, hãy quay lại văn phòng. Tôi cần cậu gọi tới tất cả các cơ quan của tiểu bang, tìm xem nơi nào có phương tiện hoạt động trong khu vực sáng nay. Không rõ nhãn hiệu hay biển kiểm soát. Nhiều khả năng là xe màu sẫm, nhưng hãy tìm kiếm bất cứ loại phương tiện nào”, cô kể lại cho TJ biết những gì Pfister đã nhìn thấy. “Kiểm tra Cơ quan Quản lý Công viên, Sở Giao thông, Sở Ngư nghiệp, Môi trường, tất cả những chỗ cậu có thể nghĩ tới. Và tìm hiểu xem liệu Travis có điện thoại di động không, nhà cung cấp dịch vụ là ai. Hỏi xem họ có thể lần ra vị trí của nó được không. Ý tôi là hãy làm việc này trước.”

Hai người ngắt liên lạc. Dance gọi cho mẹ cô. Không có trả lời. Cô thử gọi cho bố và ông trả lời ngay khi chuông đổ lần thứ hai.

“Katie.”

“Mẹ ổn chứ ạ?”

“Ổn. Bố mẹ đang ở nhà, nhưng chúng ta đang bị bao vây.”

“Cái gì?”

Stuart nói, “Những người phản đối ở bệnh viện thì phải? Họ tìm ra bố mẹ sống ở đâu. Họ đang vây kín bên ngoài”.

“Không!” Dance giận sôi lên.

Bố cô ngao ngán nói, “Thật thú vị khi quan sát hàng xóm của con rời nhà đi làm và bắt gặp rất nhiều người với những biểu ngữ gọi con là đồ sát nhân. Một trong số chúng nghe có vẻ cũng khá thông minh. Nó viết, “Dance Chết Chóc”. Con cần phải đánh giá cao bọn họ.”

“Ôi, bố.”

“Và ai đó đã dùng băng dính dán một bức hình Jesus lên cửa trước. Hình Chúa đang bị đóng đinh lên thập tự. Bố nghĩ bọn họ đang kết án mẹ con phải chịu hình phạt tương tự.”

“Con có thể thu xếp một phòng ẩn danh cho bố mẹ tại nhà trọ bọn con vẫn dùng cho nhân chứng.”

“George Sheedy đã đăng ký cho bố mẹ một căn phòng dưới tên giả rồi,” Stuart nói. “Bố không biết con cảm thấy thế nào về điều này, con gái yêu quý, nhưng bố nghĩ mẹ con sẽ rất vui được gặp các cháu. Bà ấy rất lo lắng không biết bọn trẻ hoảng sợ đến thế nào khi cảnh sát xông vào bệnh viện.”

“Ý tưởng tuyệt vời. Con sẽ đến nhà Martine đón các cháu và đưa chúng đến chỗ bố mẹ. Khi nào bố mẹ lấy phòng?”

“Hai mươi phút nữa.”

Ông cho cô địa chỉ.

“Con có thể nói chuyện với mẹ không?”

“Bà ấy đang nói chuyện điện thoại với Betsey. Con có thể gặp mẹ khi con đưa các cháu đến. Sheedy cũng sẽ ghé qua để thảo luận về vụ án.”

Hai người ngắt liên lạc. O’Neil từ trong vạt rừng quay trở ra.

Cô hỏi, “Anh có tìm thấy gì không?”

“Vài dấu chân không có gì hữu ích, một dấu vết nhỏ - một sợi vải màu xám, giống thứ chúng ta tìm thấy lúc trước, và một mảnh giấy màu nâu. Một hạt yến mạch hay thứ ngũ cốc gì đó. Có thể từ một cái bánh, tôi đang nghĩ vậy. Peter đang đợi để nhận nó. Ông ấy sẽ cho chúng ta kết quả phân tích ngay khi có thể.”

“Mấy thứ đó rất có ích khi dùng làm bằng chứng buộc tội cậu ấy. Nhưng điều chúng ta cần lúc này là một dấu hiệu cụ thể cho biết cậu ta đang trốn ở đâu.”

Và còn một câu hỏi nữa: Ai sẽ là nạn nhân tiếp theo sắp bị cậu ta tấn công?

Trong khi Dance lấy điện thoại ra để gọi cho Jon Boling, nhạc chuông lại vang lên. Cô thoáng mỉm cười trước sự trùng hợp. Tên anh hiện lên ở mục danh tính người gọi.

“Jon,” cô trả lời máy.

Khi nghe những điều giáo sư nói, nụ cười của Dance nhanh chóng tan biến.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15


Kathryn Dance ra khỏi chiếc Crown Vic của cô trước nhà Kelley Morgan.

Các nhân viên đội Điều tra Hiện trường hạt Monterey đã có mặt, cùng với mười hai nhân viên công lực khác của tiểu bang và thành phố.

Cả đám phóng viên nữa, đông nghịt, hầu hết hỏi về nơi Travis Brigham đang lẩn trốn. Chính xác thì tại sao cho đến giờ vẫn chưa có ai, dù là CBI, MCSO hay cảnh sát thành phố Monterey hoặc bất cứ ai khác, bắt giữ cậu ta? Liệu việc tìm ra một đứa trẻ vị thành niên mười bảy tuổi lang thang quanh vùng ăn mặc hệt như những gã sát nhân ở Columbine và Đại học Bách khoa Virginia khó khăn đến vậy sao? Một kẻ mang trong người dao găm và dao phay, hiến sinh động vật trong những nghi lễ kỳ quái và để những cây thập tự lại ven các đường xa lộ.

Cậu ta rất thích chơi trò chơi điện tử. Những thanh niên chơi giỏi các trò chơi này học được khá nhiều các kỹ năng chiến đấu và bỏ trốn rất tinh vi...

Dance tảng lờ tất cả bọn họ và tiếp tục bước đi, vào trong vành đai phong tỏa của cảnh sát. Cô tới bên một xe cứu thương, chiếc đậu gần ngôi nhà nhất. Một nhân viên y tế trẻ tuổi, vẻ mặt căng thẳng cao độ với mái tóc đen chải ngược bước xuống qua cửa sau. Anh ta đóng cửa lại rồi đấm mạnh vào thành xe.

Chiếc xe kín mít, chở bên trong Kelley cùng mẹ và em trai cô bé, hối hả lao đi tới phòng cấp cứu.

Dance tới bên O’Neil và người nhân viên y tế. “Cô bé thế nào?”

“Vẫn bất tỉnh. Chúng tôi đã cho cô bé thở bằng máy thở xách tay,” vị bác sĩ nhún vai. “Cô ấy vẫn chưa có phản ứng. Chúng ta đành phải chờ xem sao.”

Việc họ có thể cứu sống được Kelley đã có thể được xem như một phép màu.

Và đó là nhờ vào Jonathan Boling. Khi biết tin cây thập tự thứ hai được tìm thấy, giáo sư đã hối hả lao vào tìm kiếm để xác định danh tính những người đăng bài chỉ trích Travis trên Bản tin Chilton bằng cách kết hợp biệt danh với thông tin có được từ các trang mạng xã hội và những nguồn khác. Thậm chí anh còn so sánh cả ngữ pháp, lựa chọn từ ngữ và phong cách đánh vần ở các ý kiến đăng trên Bản tin với vô số bài viết trên hàng loạt trang mạng xã hội cùng những bình luận trong niên giám tại trường trung học để xác định những người đăng bài ẩn danh. Anh cũng đã huy động cả các sinh viên của mình vào cuộc. Cuối cùng, họ tìm ra được mười hai cái tên của những người sống trong vùng từng đăng bài lên blog công kích Travis kịch liệt nhất.

Nửa giờ trước, Boling dùng di động để báo cho Dance biết danh tính những người này. Cô lập tức lệnh cho TJ, Rey Carraneo và anh chàng Al Stemple to con bắt tay vào gọi điện cảnh báo cho những người trong danh sách biết có thể họ đang gặp nguy hiểm. Một trong những người đăng bài, BellaKelley, tên trực tuyến của Kelley Morgan, đã không liên lạc được. Mẹ cô nói con bà đã hẹn gặp bạn nhưng lại không xuất hiện.

Stemple liền dẫn một toán can thiệp đến nhà cô bé.

Dance nhìn anh ta, lúc này đang ngồi trên bậc thềm trước nhà. Người đàn ông to con vạm vỡ, cạo trọc đầu, chừng ngoài bốn mươi tuổi, là nhân vật gần giống một chàng cao bồi nhất mà CBI sở hữu trong đội ngũ. Anh ta hiểu rõ về các loại vũ khí có trong tay, yêu thích các tình huống can thiệp chiến thuật và im lặng đến mức khó tin, ngoại trừ những khi bàn đến câu cá và săn bắn, cũng có nghĩa anh ta và Dance có rất ít dịp trò chuyện xã giao. Thân hình vạm vỡ của Stemple đang tựa vào thành lan can của bậc thềm trước nhà trong khi hít thở qua mặt nạ oxy được gắn vào một bình chứa màu xanh lục.

Người nhân viên y tế hất hàm về phía Stemple. “Anh ấy sẽ ổn thôi. Vừa thực hiện việc tốt trong năm cho mình. Travis đã xích cô bé vào một ống dẫn nước. Al đã dùng tay không giật tung chúng ra. Vấn đề là anh ấy đã mất mười phút cho chuyện đó. Và hít phải không ít hơi hóa chất.”

“Anh không sao chứ, Al?”, Dance gọi.

Stemple nói gì đó dưới mặt nạ. Nhìn tổng thể trông anh ta có vẻ buồn chán. Dance cũng đọc được tâm trạng bực bội trong mắt anh ta, có lẽ vì chưa thể xử đẹp tên thủ phạm ngay lúc ấy.

Người nhân viên y tế tiếp lời. “Có một điều hai người cần biết. Kelley vẫn còn tỉnh trong một hay hai phút khi chúng tôi đưa cô bé ra ngoài. Cô ấy nói Travis có súng.”

“Súng ư? Cậu ta có vũ khí sao?” Dance và O’Neil nhìn nhau đầy lo ngại.

“Từ chính miệng cô bé trước khi bất tỉnh. Không nói thêm được gì nữa.”

Ôi, không. Một cậu con trai vị thành niên tâm lý không ổn định với một khẩu súng trong tay. Theo quan điểm của Dance, chẳng gì có thể nguy hiểm hơn thế.

O’Neil gọi điện cho MCSO thông báo về việc thủ phạm có vũ khí, và Sở Cảnh sát sẽ lần lượt truyền đạt lại cho tất cả các nhân viên tham gia truy nã Travis.

“Loại khí được dùng là thứ gì vậy?”, Dance hỏi cậu nhân viên y tế trong khi họ bước tới chỗ một xe cứu thương khác.

“Chúng tôi không chắc. Nhưng có thể khẳng định là chất độc.”

Đơn vị Điều tra Hiện trường đang cẩn thận dò tìm bằng chứng trong khi một toán cảnh sát khác ráo riết điều tra khu vực xung quanh để kiếm nhân chứng. Tất cả mọi người trong khu vực đều bày tỏ sự quan tâm, ai cũng thể hiện niềm cảm thông. Nhưng họ cũng khiếp sợ bởi không có manh mối nào được tìm ra.

Nhưng có lẽ đơn giản là không hề có nhân chứng. Những vệt lốp xe đạp dưới khe núi sau nhà cho phép suy đoán cách thức Travis đã sử dụng để tiếp cận mà không thể bị phát hiện và rồi tấn công Kelley Morgan.

Một cán bộ Điều tra Hiện trường bước lại, cầm theo một vật hóa ra là chiếc mặt nạ quái đản, bọc trong túi đựng bằng chứng trong suốt.

“Cái gì thế này?” O’Neil hỏi.

“Nó được buộc vào một nhánh cây bên ngoài cửa sổ phòng ngủ của cô bé, quay mặt vào trong phòng.”

Chiếc mặt nạ làm bằng giấy bồi, sơn màu trắng và xám. Hai cái que nhọn xương xẩu, trông giống như những chiếc sừng, nhô lên khỏi xương sọ. Đôi mắt to tướng, đen ngòm. Đôi môi hẹp bị khâu kín, đỏ lòm.

“Để làm con bé chết khiếp, cô gái tội nghiệp. Thử hình dung xem anh nhìn qua cửa sổ phòng và thấy thứ này,” Dance rùng mình.

Trong lúc O’Neil nhận điện thoại, Dance gọi cho Boling. “Jon.”

“Cô bé thế nào?” Boling hối hả hỏi.

“Đang hôn mê. Chúng tôi không rõ cô ấy sẽ ra sao. Nhưng ít nhất chúng ta đã cứu được tính mạng cô bé... Anh đã cứu sống được cô bé. Cảm ơn anh.”

“Cũng nhờ Rey nữa. Và các sinh viên của tôi.”

“Dẫu vậy, vẫn cảm ơn anh. Chúng tôi vô cùng cảm kích.”

“Có manh mối nào về Travis không?”

“Một thứ,” nữ đặc vụ quyết định không cho anh biết về chiếc mặt nạ. Điện thoại của cô lại rung, đang có cuộc gọi chờ. “Tôi phải ngắt máy đây. Tiếp tục tìm kiếm những cái tên nhé, Jon.”

“Tôi đang làm đây,” anh nói.

Dance mỉm cười, ngắt liên lạc với Boling và trả lời cuộc gọi mới, “TJ.”

“Cô bé thế nào?”

“Chúng tôi không rõ. Không được tốt lắm. Cậu có tìm thấy được gì không?”

“Chẳng có chút may mắn nào, thưa sếp. Có khoảng mười tám xe bán tải, xe tải, SUV[1] hay xe con mang biển đăng ký công của tiểu bang có mặt trong khu vực này sáng nay. Song những chiếc tôi liên lạc được đều không có mặt gần nơi cây thập tự được để lại. Còn về điện thoại của Travis ư? Nhà cung cấp dịch vụ cho biết cậu ta đã lấy pin ra khỏi máy. Hoặc phá hủy nó. Họ không định vị được vị trí.”

[1. Sport Utility Vehicle: Xe thể thao đa dụng.]

“Cảm ơn. Tôi có thêm vài việc nữa đây. Có một chiếc mặt nạ thủ phạm bỏ lại đây.”

“Mặt nạ à? Phải loại trượt tuyết không?”

“Không. Có vẻ là để thực hiện nghi thức, trông giống vậy. Tôi sẽ cho bên Điều tra Hiện trường tải lên một ảnh chụp trước khi họ mang nó tới Salinas. Hãy thử tìm xem cậu có thể lần ra được nguồn gốc của nó không. Và thông báo cho tất cả mọi người: Thủ phạm có vũ khí.”

“Ôi trời, sếp. Có vẻ càng ngày càng gay cấn đây.”

“Tôi muốn biết liệu có trường hợp nào báo mất cắp vũ khí trong phạm vi hạt không. Và tìm xem liệu ông bố hay người thân của thủ phạm có ai đăng ký sở hữu súng không. Kiểm tra cơ sở dữ liệu. Có thể chúng ta sẽ nhận diện được khẩu súng.”

“Vâng... À, tôi đã nghe được chuyện của mẹ cô,” giọng chàng trai trẻ đã trở nên nghiêm túc hơn. “Tôi có thể giúp được gì không?”

“Cảm ơn cậu, TJ. Hãy cứ tìm hiểu về cái mặt nạ và khẩu súng đi nhé.”

Sau khi ngắt liên lạc, Dance vừa xem xét chiếc mặt nạ vừa thầm nghĩ: Lẽ nào những tin đồn lại đúng? Liệu có phải Travis đang thực hiện một thứ nghi thức nào đó? Cho tới lúc này cô vẫn hoài nghi về những gì được đăng trên blog, song rất có thể cô đã sai lầm khi không chú ý đến chúng.

TJ gọi lại chỉ sau vài phút. Trong vòng hai tuần vừa qua không có vụ trình báo vũ khí bị mất cắp nào. Anh ta cũng đã kiểm tra trong cơ sở dữ liệu quản lý vũ khí của tiểu bang. Luật pháp California cho phép mua súng ngắn, nhưng mọi vụ giao dịch cần phải thực hiện qua người bán được cấp giấy phép và lưu hồ sơ lại. Robert Brigham, bố Travis, sở hữu một khẩu Colt ổ quay, cỡ nòng 0.38.

Sau khi ngắt máy, Dance chợt nhận thấy O’Neil, khuôn mặt nặng trĩu, đang nhìn chăm chú về phía xa.

Cô bước tới cạnh người thanh tra. “Michael, có chuyện gì vậy?”

“Tôi cần quay về văn phòng. Có chuyện khẩn cấp khác.”

“Vụ An ninh Nội địa phải không?” cô hỏi, ám chỉ tới vụ chiếc container đến từ Indonesia.

Anh gật đầu. “Tôi cần phải vào việc ngay. Tôi sẽ gọi ngay cho cô khi biết được nhiều hơn,” gương mặt anh rất nghiêm trọng.

“Được rồi. Chúc may mắn.”

O’Neil nhăn mặt, rồi hối hả quay lại, bước về phía xe.

Dance cảm thấy băn khoăn và trống trải khi nhìn anh đi. Chuyện gì có thể khẩn cấp đến thế? Và tại sao, cô cay đắng thầm nghĩ, nó lại đến đúng vào lúc này, khi cô cần anh bên cạnh?

Cô tiếp tục gọi Rey Carraneo. “Cảm ơn cậu về việc đã làm cùng Jon Boling. Cậu tìm thấy gì ở chỗ Game Shed?”

“À, cậu ta không có mặt ở đó tối qua. Cậu nhóc đã nói dối về việc này, đúng như cô cho hay. Còn chuyện bạn bè... cậu ta thực sự không kết thân với ai ở đó. Chỉ đến, chơi game rồi ra về.”

“Có ai che giấu cho cậu ta không?”

“Tôi không cảm thấy vậy.”

Sau đó Dance bảo Rey tới gặp cô ở nhà Kelley Morgan.

“Được rồi.”

“À này, Rey, còn một việc nữa?”

“Vâng, thưa sếp?”

“Tôi cần cậu tới trụ sở lấy một thứ ở phòng hậu cần.”

“Được thôi. Thứ gì vậy?”

“Áo giáp chống đạn. Cho cả cậu và tôi.”

~*~

Kathryn Dance áp lòng bàn tay lên ống quần đen của cô trong khi tới gần ngôi nhà của gia đình Brigham, với Carraneo bên cạnh. Tay người đặc vụ chạm vào báng khẩu Glock.

Mình không muốn sử dụng nó, cô thầm nghĩ. Không phải với một cậu bé.

Khó có khả năng Travis đang ở đây bởi MCSO đã giám sát nơi này suốt từ khi cậu nhóc biến mất khỏi tiệm bánh. Tuy thế, cậu ta vẫn có thể bí mật quay về. Và, như Dance đang suy nghĩ, nếu xảy ra đấu súng, cô sẽ bắn nếu buộc phải làm thế. Lý do thật đơn giản. Cô phải giết một mạng nữa vì chính các con mình. Cô không thể để bọn trẻ lớn lên không có cả bố lẫn mẹ.

Chiếc áo giáp chống đạn cọ lên người thật khó chịu nhưng lại giúp cô có thêm tự tin. Cô buộc mình thôi không vỗ lên mấy tấm khóa dán nữa.

Cùng hai nhân viên cảnh sát hạt đi sau, họ bước tới phía cánh cửa trước đã mục rỗng, cố gắng tránh xa cửa sổ hết mức có thể. Chiếc xe của gia đình đang đậu ngoài lối đi. Cả chiếc xe của dịch vụ Ngắm cảnh cũng vậy, một chiếc tải nhỏ với những hình vòng lá trang trí Giáng sinh và những bụi hồng trồng thành luống.

Dance khẽ thì thầm báo cho Carraneo và các sĩ quan khác biết về cậu em trai, Sammy. “Cậu ta to con và thần kinh không được ổn định, nhưng có lẽ không nguy hiểm. Hãy sử dụng biện pháp không sát thương nếu cần thiết.”

“Rõ, thưa sếp.”

Carraneo đầy cảnh giác nhưng vẫn bình tĩnh.

Cô cử hai cảnh sát của hạt vòng ra sau nhà, còn hai đặc vụ CBI áp sát hai bên cửa trước. “Bắt đầu thôi.”

Nữ đặc vụ gõ mạnh lên cánh cửa mọt. “Cục Điều tra đây. Chúng tôi có lệnh khám nhà. Làm ơn mở cửa.” Thêm một lần đấm cửa nữa. “Cục Điều tra đây. Mở cửa!”

Hai người áp bàn tay lên sát vũ khí của họ.

Sau một khoảnh khắc nặng nề căng thẳng, khi Dance định gõ lần nữa, cánh cửa mở ra và Sonia Brigham đứng đó, mắt mở to nhìn chằm chằm. Bà ta vừa khóc.

“Bà Brigham, Travis có ở đây không?”

“Tôi...”

“Làm ơn cho chúng tôi biết. Travis có nhà không? Bà cần cho chúng tôi biết, điều đó rất quan trọng.”

“Không. Thật đấy.”

“Chúng tôi có lệnh khám để thu thập đồ đạc của con trai bà,” Dance giơ tờ lệnh có mặt sau màu xanh lên rồi bước vào nhà, Carraneo theo sau cô.

Trong phòng khách không có ai. Cô để ý cửa phòng của cả hai cậu con trai đều mở. Không thấy bóng dáng Sammy đâu, và khi đưa mắt nhìn vào phòng cậu bé, cô trông thấy những bản dàn trang công phu phủ đầy những bức tranh vẽ tay. Cô tự hỏi liệu có phải cậu bé đang thử tự sáng tác tập truyện tranh hay manga Nhật Bản của chính mình.

“Con trai út của ông bà có nhà không? Sammy đâu?”

“Nó ra ngoài chơi. Ở chỗ cái ao. Làm ơn cho tôi biết, cô có biết gì về Travis không? Đã có ai trông thấy thằng bé chưa?”

Có tiếng răng rắc trong bếp. Bàn tay Dance hạ xuống đặt lên khẩu súng của cô.

Bon Brigham xuất hiện trên ngưỡng cửa dẫn vào bếp. Ông ta cầm trong tay một lon bia. “Lại quay lại,” ông chủ nhà lẩm bẩm. “Với...” giọng ông ta im bặt khi giật lấy tờ lệnh từ tay bà vợ và làm bộ đọc nó.

Gã đàn ông nhìn Rey Carraneo như thể anh này là người hầu bàn vậy.

Dance hỏi, “Ông có nghe được gì từ Travis không?” Đôi mắt cô đảo quanh ngôi nhà.

“Không. Nhưng các người không thể trách cứ chúng tôi vì những gì nó đang làm.”

Sonia hét lên, “Thằng bé chẳng làm gì hết!”

Dance nói, “Tôi e là cô gái bị tấn công hôm nay đã nhận ra con trai ông bà.”

Sonia định phản đối nhưng rồi im lặng và cố gắng trong vô vọng để kìm nước mắt lại.

Dance và Carraneo cẩn thận lục soát ngôi nhà. Cũng không mất nhiều thời gian. Không có dấu hiệu nào chứng tỏ cậu bé mới ghé qua.

“Chúng tôi biết ông sở hữu một khẩu súng ngắn, ông Brigham. Ông có thể kiểm tra xem nó có bị mất không?”

Người đàn ông nheo mắt lại như thể đang cân nhắc những hệ lụy của việc này. “Nó ở trong ngăn để găng tay của tôi. Trong hộp có khóa.”

Điều luật pháp California quy định trong hộ gia đình có trẻ em dưới mười tám tuổi.

“Đã nạp đạn?”

“Phải,” ông ta có vẻ thủ thế. “Chúng tôi đã làm tại nhiều vườn hoa và công viên ở Salinas. Có các băng nhóm ở đó, các người biết rồi đấy.”

“Ông có thể kiểm tra xem khẩu súng có còn ở đó hay không được chứ?”

“Nó không lấy súng của tôi đâu. Nó không đời nào dám. Nó sẽ bị no đòn đến mức không tin nổi.”

“Ông có thể làm ơn kiểm tra được chứ?”

Gã chủ nhà nhìn cô với vẻ đầy hoài nghi. Sau đó bước ra ngoài.

Dance ra hiệu cho Carraneo đi theo.

Dance nhìn lên tường và thấy vài bức ảnh gia đình ít ỏi. Cô ngỡ ngàng trước tấm hình chụp một Sonia Brigham trẻ trung hơn nhiều, với vẻ mặt hạnh phúc hơn nhiều, đang đứng sau quầy một gian hàng ở hội chợ hạt Monterey. Trông bà ta lúc đó thật mảnh mai, xinh đẹp. Có thể bà ta từng quản lý quầy hàng ấy trước khi lấy chồng và đã gặp Brigham tại đó.

Bà chủ nhà hỏi, “Cô bé đó không sao chứ? Cô bé vừa bị tấn công ấy?”

“Chúng tôi không biết.”

Những giọt nước mắt ứa ra trên đôi mắt người mẹ. “Nó gặp rắc rối. Thỉnh thoảng nó lại nổi khùng lên. Nhưng... đây chắc chắn là một nhầm lẫn khủng khiếp. Tôi biết thế!”

Chối bỏ là thứ phản ứng khó sửa chữa nhất trong những cách phản ứng cảm tính trước khó khăn. Cứng như vỏ hạt óc chó vậy.

Bố Travis, được người đặc vụ trẻ tháp tùng, quay trở lại phòng khách. Khuôn mặt đỏ lựng của ông ta đượm vẻ lo ngại. “Nó biến mất rồi.”

Dance thở dài. “Và ông không cất nó ở đâu khác chứ?”

Ông bố lắc đầu, tránh nhìn thẳng vào Sonia.

Bà mẹ dè dặt lên tiếng, “Có gì tốt đẹp đến từ một khẩu súng như thế chứ?”

Gã chồng tảng lờ bà ta.

Dance hỏi, “Khi còn bé, Travis thường đến chỗ nào?”

“Không,” ông bố nói. “Nó luôn biến mất. Nhưng ai mà biết nó đi đâu cơ chứ?”

“Thế còn bạn bè của thằng bé?”

Brigham gắt gỏng, “Chẳng có đứa nào cả. Nó lúc nào cũng lên mạng. Với cái máy tính của nó...”

Bà vợ khẽ nói theo. “Suốt ngày suốt đêm.”

“Hãy gọi cho chúng tôi nếu cậu ấy liên lạc với ông bà. Đừng cố tìm cách thuyết phục cậu ta đầu thú, đừng tìm cách đoạt lại khẩu súng. Hãy chỉ gọi cho chúng tôi. Vì chính lợi ích của con trai ông bà.”

“Tất nhiên rồi,” bà mẹ nói. “Chúng tôi sẽ làm thế.”

“Nó sẽ làm những gì tôi bảo. Chính xác những gì tôi bảo.”

“Bob...”

“Suỵt.”

“Bây giờ chúng tôi sẽ lục soát phòng của cậu ấy,” Dance nói.

“Có được không?” Sonia hất hàm về phía tờ lệnh.

“Bọn họ có thể mang đi bất cứ thứ chết tiệt nào bọn họ muốn. Bất cứ thứ gì có thể giúp tìm thấy thằng bé trước khi nó làm chúng ta gặp thêm rắc rối nữa.”

Brigham châm một điếu thuốc lá và ném que diêm vào gạt tàn, tạo thành một vệt khói hình vòng cung. Khuôn mặt Sonia ỉu xìu khi bà ta nhận ra mình đã trở thành người duy nhất bênh vực cho con trai.

Dance lấy bộ đàm của cô từ bên hông ra, gọi hai người cảnh sát đang ở phía ngoài. Một người dùng bộ đàm báo lại anh ta đã tìm thấy gì đó.

Viên cảnh sát trẻ bước vào trong nhà. Anh ta giơ lên một cái hộp có khóa được cầm trên bàn tay đi găng cao su. Cái hộp đã bị phá tung. “Nó nằm trong mấy bụi cây sau nhà. Và cả thứ này nữa.” Một cái hộp đạn Remington cho cỡ nòng 0.38 loại đặc biệt đã rỗng không.

“Là nó,” ông bố lẩm bẩm. “Của tôi.”

Cả ngôi nhà chìm trong sự im lặng kỳ quái.

Hai đặc vụ bước sang phòng Travis. Đeo găng tay vào, Dance nói với Carraneo, “Tôi muốn kiểm tra xem chúng ta có thể tìm thấy thứ gì liên quan tới bạn bè, địa chỉ, nơi chốn cậu ta có thể thích tìm đến hay không.”

Họ lục khắp căn phòng bừa bộn của Travis - quần áo, truyện tranh Mỹ, đĩa DVD, truyện tranh Nhật, phim hoạt hình Nhật, trò chơi điện tử, linh kiện máy tính, vở ghi chép, sổ ký họa. Cô nhận thấy có rất ít thứ liên quan tới âm nhạc và không hề có gì dính dáng đến thể thao.

Dance chớp mắt khi cô xem qua một cuốn vở. Cậu nhóc đã vẽ hình một cái mặt nạ giống hệt thứ ở ngoài cửa sổ phòng Kelley Morgan.

Thậm chí cả bức hình phác thảo nhỏ cũng làm cô lạnh người.

Được cất giấu trong một ngăn kéo là những tuýp Clearasil và những quyển sách viết về các phương thuốc điều trị trứng cá, chế độ ăn kiêng và chữa bệnh, thậm chí cả phương pháp cào da để xóa sẹo. Cho dù rắc rối Travis gặp phải ít nghiêm trọng hơn nhiều so với vô số những trẻ vị thành niên khác, song nhiều khả năng cậu ta đã cho đó là nguyên nhân quan trọng biến mình thành kẻ bị xua đuổi.

Dance tiếp tục tìm kiếm. Dưới gầm giường, có một két an toàn nhỏ. Nó bị khóa, song cô đã thấy một chiếc chìa trong ngăn kéo trên cùng của bàn viết. Chính xác là cái này. Chờ đợi sẽ tìm thấy ma túy hay tạp chí khiêu dâm, cô rất ngạc nhiên về thứ nằm trong đó: Từng xấp tiền mặt.

Carraneo đang ngó qua vai cô. “Hừm.”

Chừng bốn nghìn đô la. Các tờ giấy bạc đều mới tinh và thứ tự, như thể Travis đã lấy chúng ra từ ngân hàng hay rút từ máy ATM chứ không phải thu về từ những kẻ mua ma túy. Dance thêm cái két vào chỗ bằng chứng họ mang về. Không những cô không muốn để lại kinh phí cho cuộc đào tẩu của Travis nếu cậu ta quay lại tìm nó, cô còn chắc mẩm ông bố sẽ khoắng sạch chỗ tiền ngay lập tức khi ông ta phát hiện ra.

“Có cái này nữa,” Carraneo nói. Anh ta đưa ra một tập giấy in từ những bức ảnh chụp, phần lớn được bấm máy trong lúc đối tượng không hề hay biết, là các cô gái xinh xắn độ tuổi vị thành niên, xoay quanh quang cảnh trường trung học Robert Louis Stevenson. Tuy vậy, không hề có bức hình nào tục tĩu, chụp ngược lên từ dưới váy hay chụp lén ở phòng thay đồ.

Bước ra ngoài phòng, Dance hỏi Sonia, “Bà có biết những cô bé này là ai không?”

Cả ông bố lẫn bà mẹ đều không biết.

Dance quay lại với những bức ảnh và nhận ra cô từng thấy một trong các cô gái này trước đây - trong một bản tin về vụ tai nạn hôm mùng Chín tháng Sáu. Caitlin Gardner, cô gái sống sót. Bức ảnh này trông nghiêm chỉnh hơn những bức khác - cô bé xinh xắn đang quay mặt nhìn về một bên, dịu dàng mỉm cười. Cô lật ngược tờ giấy mỏng hình chữ nhật lại và bắt gặp một phần bức ảnh chụp một đội thể thao. Travis đã cắt nó ra từ một cuốn niên giám.

Liệu có phải cậu ta đã hỏi xin Caitlin một bức ảnh và bị từ chối? Hay thậm chí cậu ta quá dè dặt để hỏi?

Hai đặc vụ tìm kiếm trong nửa giờ đồng hồ nhưng không thấy bất cứ manh mối nào về nơi có thể Travis đang ẩn náu, không số điện thoại, không địa chỉ email hay tên người bạn nào. Cậu ta cũng không có sổ địa chỉ hay lịch ghi chú.

Dance muốn tìm hiểu xem trong laptop của cậu thiếu niên có gì. Cô nâng màn hình lên. Chiếc máy tính đang ở chế độ tạm ngủ nên khởi động ngay lập tức. Dance không hề ngạc nhiên khi bị đòi mật mã. Cô hỏi ông bố, “Ông có biết mật mã là gì không?”

“Cứ làm như nó chịu nói cho chúng tôi vậy.” Ông ta chỉ về phía cái máy tính. “Giờ thì, cô biết đấy, vấn đề nằm ngay kia kìa. Đó là thứ không ổn, việc chơi mấy trò chơi đó. Chỉ toàn là bạo lực. Chúng nó bắn người và chặt họ ra từng khúc, làm đủ trò thối tha.”

Sonia dường như đã đến giới hạn chịu đựng. “Được rồi, ông đã chơi đánh trận khi bước vào tuổi vị thành niên. Tôi biết là vậy. Và mọi cậu nhóc đều chơi những trò như thế. Như vậy không có nghĩa chúng sẽ biến thành bọn sát nhân!”

“Đó là một thời kỳ khác,” ông ta lẩm bẩm. “Thời đó tử tế, lành mạnh hơn. Chúng tôi chỉ chơi trò giết dân da đỏ và quân đội. Không phải những người bình thường.”

Dance cùng Carraneo mang theo máy tính xách tay, chiếc hộp và hàng trăm trang in cũng như ghi chú và ảnh chụp, bước ra cửa.

“Cô đã bao giờ nghĩ tới điều này chưa?” Sonia hỏi.

Dance dừng bước, quay lại.

“Rằng cho dù đúng là con trai tôi đã làm thế, đã tấn công mấy cô gái đó, có thể lỗi không phải là của thằng bé. Tất cả những điều ghê tởm người ta nói về nó đã đẩy nó đến tình thế không thể chịu đựng thêm được nữa. Bọn họ đã tấn công con trai tôi với những lời lẽ đó, những ngôn từ đáng căm ghét đó. Và Travis của tôi chưa bao giờ nói một lời chống lại bất cứ ai trong bọn họ.”

Bà mẹ cố kìm lại dòng nước mắt.

“Trong vụ này Travis mới là nạn nhân.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16


Trên đường xa lộ tới Salinas, cách đường đua tuyệt đẹp Laguna Seca không xa lắm, Kathryn Dance đạp phanh dừng chiếc Ford không mang phù hiệu của cô lại trước một công nhân xây dựng đang giơ biển báo dừng. Hai chiếc xe ủi lớn chậm chạp chạy qua trước mặt cô, làm cuộn một đám bụi đỏ quạch lên không trung.

Nữ đặc vụ đang nói chuyện điện thoại với điều tra viên David Reinhold, chàng cảnh sát trẻ đã mang máy tính của Tammy Foster đến cho cô và Boling. Rey Carraneo đã phóng xe tới chỗ đơn vị Điều tra Hiện trường của MCSO ở Salinas đưa chiếc máy tính Dell của Travis cho họ để đăng ký vào danh sách bằng chứng.

“Tôi đã cho nó vào danh mục rồi,” Reinhold nói với cô. “Và kiểm tra vân tay cũng như các dấu vết khác. À, chuyện này nhiều khả năng không cần thiết, đặc vụ Dance, nhưng tôi cũng đã thử dò tìm nitrat để kiểm tra chất nổ nữa.”

Máy tính vẫn thỉnh thoảng bị cài chất nổ - không phải để làm vũ khí sát thương, mà để phi tang những dữ liệu có thể gây rắc rối chứa trong đó.

“Làm tốt lắm, điều tra viên.”

Chàng trai này hiển nhiên là người có óc sáng tạo. Cô nhớ lại đôi mắt xanh nhanh nhẹn của anh ta, cũng như quyết định thông minh khi tháo pin khỏi máy tính của Tammy lúc trước.

“Một số vân tay thuộc về Travis,” người điều tra viên trẻ nói. “Nhưng còn có dấu vân của người khác nữa. Tôi đã kiểm tra. Có sáu vết của Samuel Brigham.”

“Em trai cậu ấy.”

“Đúng thế. Và vài kẻ khác. Không phù hợp với bất kỳ ai trong cơ sở dữ liệu. Nhưng chúng lớn hơn, nhiều khả năng là vân tay đàn ông.”

Dance tự hỏi liệu có phải ông bố cậu ta đã tìm cách truy nhập vào.

Reinhold nói, “Tôi rất sẵn lòng bẻ khóa máy tính của cậu ta, nếu cô muốn. Tôi đã tham gia vài khóa đào tạo rồi.”

“Tôi đánh giá rất cao đề xuất của anh, nhưng tôi đã có Jonathan Boling để giải quyết chuyện đó - người anh đã gặp tại phòng làm việc của tôi.”

“Chắc chắn rồi, đặc vụ Dance. Như cô muốn. Cô đang ở đâu vậy?”

“Tôi hiện đang ở ngoài, nhưng anh có thể đưa máy tính đến chỗ CBI. Hãy để đặc vụ Scanlon tiếp nhận. Ông ấy sẽ ký lên thẻ và biên bản giao nhận.”

“Tôi sẽ làm ngay, Kathryn.”

Hai người ngừng liên lạc, và cô sốt ruột nhìn quanh, chờ đợi người công nhân xây dựng cho phép đi qua. Dance ngạc nhiên khi thấy cả khu vực bị xới tung hết lên như thế - rất nhiều xe tải và thiết bị bạt đường đang xé toang mặt đất ra. Cô từng lái xe qua đoạn này tuần trước, lúc đó việc này thậm chí còn chưa bắt đầu.

Đây chính là dự án xa lộ lớn Chilton đã nhắc tới trên blog, con đường tắt dẫn sang Xa lộ 101, trong chủ đề Con Đường Lát Gạch Vàng, ám chỉ bóng gió tới vàng, và cô tự hỏi liệu có phải ai đó đang thủ lợi bất chính trong dự án này hay không.

Dance để ý thấy máy móc thiết bị thuộc về công ty xây dựng Clint Avery Construction, một trong những công ty lớn nhất khu vực Bán đảo Monterey. Các công nhân ở đây là những người to con, làm việc cần mẫn, mồ hôi nhễ nhại. Họ chủ yếu là người da trắng - một điều bất thường. Bởi phần lớn công việc lao động chân tay tại khu vực Bán đảo Monterey là do các công nhân gốc La Tinh thực hiện.

Một trong số công nhân nghiêm nghị nhìn cô - rõ ràng anh ta nhận ra xe cô là một chiếc thuộc về lực lượng thực thi pháp luật không mang phù hiệu - nhưng không hề thể hiện nỗ lực đặc biệt nào để cô có thể nhanh chóng đi qua.

Cuối cùng, anh ta không chút vội vã vẫy tay ra hiệu cho xe tiếp tục đi, nhìn Dance chăm chú, cô cảm thấy hình như là vậy.

Cô bỏ đoạn đường đang thi công ngổn ngang lại sau lưng, lao đi trên xa lộ rồi rẽ vào các dãy phố cho đến khi tới Central Coast College, nơi đang có các lớp học hè. Một học sinh chỉ cho cô thấy Caitlin Gardner đang ngồi tại một băng ghế với mấy cô gái khác xúm quanh ra vẻ chở che. Caitlin khá xinh, tóc vàng buộc thành đuôi ngựa. Hai bên tai đeo hoa tai và khuyên rất cá tính. Cô bé trông chẳng khác gì hàng trăm học viên ở đây.

Sau khi rời khỏi nhà Brigham, Dance đã gọi điện tới gia đình Gardner và được mẹ Caitlin cho biết cô bé đang theo học vài môn tại đây để lấy tín chỉ nộp cho trường trung học Robert Louis Stevenson, nơi cô bé sẽ bắt đầu vào năm cuối sau mấy tháng nữa.

Dance để ý thấy đôi mắt Caitlin đang chăm chú nhìn ra xa, sau đó di chuyển về phía cô. Không biết cô là ai - nhiều khả năng là một phóng viên nữa - cô bé bắt đầu xếp sách vở của mình lại. Hai cô gái khác nhìn theo hướng ánh mắt đầy lo lắng của bạn họ và đứng dậy làm rào chắn để Caitlin có thể thoát đi.

Nhưng khi mấy đứa trông thấy áo giáp chống đạn và vũ khí của Dance. Cả ba trở nên dè chừng.

“Caitlin,” Dance gọi.

Cô bé dừng lại.

Dance đến gần, chìa thẻ công vụ của cô ra và giới thiệu bản thân. “Chị muốn nói chuyện với em.”

“Bạn ấy đang rất mệt,” một cô gái lên tiếng.

“Và bực bội.”

Dance mỉm cười. Cô nói với Caitlin, “Chị biết chắc là thế. Nhưng chị cần nói chuyện với em, việc này rất quan trọng. Nếu em không thấy phiền.”

“Đáng lẽ bạn ấy thậm chí không nên đến trường,” một cô gái khác nói. “Nhưng bạn ấy vẫn tham dự vì tôn trọng Trish và Vanessa.”

“Thật tốt vì em làm vậy.”

Dance tự hỏi từ bao giờ có mặt trong lớp học hè lại là hành động tưởng niệm người đã khuất.

Những biểu đạt kỳ lạ của giới trẻ...

Cô bạn thứ nhất kiên quyết nói, “Caitlin thực sự, thực sự...”.

Dance quay sang cô bé có mái tóc đen uốn quăn, thái độ thay đổi hẳn, thu lại nụ cười và thẳng thừng nghiêm giọng, “Chị đang nói chuyện với Caitlin.”

Cô bé im bặt.

Caitlin lí nhí, “Em đoán thế.”

“Lại đây nào,” Dance nói bằng giọng vui vẻ. Caitlin đi theo cô qua bãi cỏ, hai người ngồi xuống bên một cái bàn dã ngoại khác. Cô bé ôm chặt túi đựng sách vở vào ngực và nhìn quanh khuôn viên trường với vẻ bồn chồn. Giậm giậm chân, cô bé đưa tay giật khẽ dái tai.

Cô bé có vẻ khiếp sợ, thậm chí còn hơn cả Tammy.

Dance cố gắng trấn an Caitlin. “Vậy là em đang tham gia học hè.”

“Vâng. Các bạn em và em. Còn hơn đi làm thêm hay ngồi ở nhà.”

Những từ cuối cùng được nói ra với giọng điệu cho phép Dance suy đoán về mối quan hệ không ít sóng gió với bố mẹ.

“Em đang học gì vậy?”

“Hóa học và Sinh học.”

“Một cách rất hay để làm hỏng kỳ nghỉ hè của em.”

Cô bé bật cười. “Không kinh khủng đến mức ấy đâu. Em có vẻ cũng khá về khoa học.”

“Định nhằm tới trường y chắc?”

“Em hy vọng là thế.”

“Ở đâu?”

“Ồ, em cũng chưa biết. Có thể là Berkeley. Sau đó em sẽ nghĩ tiếp.”

“Chị từng có thời gian ở đó. Thành phố tuyệt vời.”

“Thật thế ạ? Chị học ngành gì?”

Dance mỉm cười và nói. “m nhạc.”

Kỳ thực cô chưa từng học một lớp nào tại phân hiệu đó của Đại học California. Hồi ấy cô là một người hát rong - một nghệ sĩ chơi guitar và hát để kiếm tiền trên các con phố của Berkeley - thường kiếm được rất ít tiền, trong trường hợp của cô.

“Vậy, em trải qua tất cả những chuyện vừa rồi thế nào?”

Đôi mắt Caitlin trở nên ủ dột. Cô bé lúng búng, “Cũng không tốt lắm. Ý em là chuyện đó thật khủng khiếp. Vụ tai nạn đã đành. Nhưng sau đó lại còn những việc xảy đến với Tammy và Kelley... thật kinh khủng. Bạn ấy thế nào rồi ạ?”

“Về Kelley à? Bọn chị vẫn chưa biết. Vẫn đang hôn mê.”

Một trong những người bạn cô bé đã nghe thấy và nói với đến, “Travis mua thứ khí độc đó trên mạng. Có vẻ là từ bọn Quốc xã mới.”

Sự thật? Hay tin đồn?

Dance nói, “Caitlin, cậu ấy biến mất rồi. Travis đang ẩn nấp đâu đó và bọn chị cần tìm cho ra trước khi cậu ấy lại gây thêm nhiều chuyện xấu nữa. Em biết cậu ấy rõ đến mức nào?”

“Không nhiều. Bọn em học chung một hay hai lớp. Thỉnh thoảng em lại bắt gặp bạn ấy ngoài sảnh. Chỉ có thế thôi.”

Đột nhiên cô bé giật mình hoảng hốt và đưa mắt nhìn vào mấy bụi cây gần đó. Một cậu con trai đang luồn lách trong bụi. Cậu ta nhìn quanh, cầm một quả bóng lên rồi lách qua các tán lá trở về lại sân bóng nằm phía bên kia.

“Travis thích em, đúng vậy không?” Dance tiếp tục hỏi.

“Không!” cô bé nói. Và Dance cho rằng con bé thực sự nghĩ vậy. Vì cô có thể đọc được từ cao độ giọng nói của đối phương, một trong số ít ỏi chỉ thị phát hiện nói dối có thể phân tích mà không cần đánh giá vạch ranh giới trước.

“Chỉ một chút thôi cũng không à?”

“Có thể là có. Nhưng rất nhiều cậu con trai... Chị cũng biết chuyện đó thế nào mà.”

Đôi mắt Caitlin liếc qua Dance một lượt - có nghĩa là: Bọn con trai có thể đã có cảm tình cả với chị nữa. Cho dù từ rất, rất lâu rồi.

“Em và cậu ấy có nói chuyện không?”

“Thỉnh thoảng về bài tập. Chỉ vậy thôi.”

“Có bao giờ cậu ấy đề cập đến bất cứ chỗ nào cậu ấy thích tới không?”

“Thực sự thì không. Không có gì cụ thể. Bạn ấy nói rất muốn đến vài chỗ. Hầu hết là ở gần bờ biển. Bờ biển gợi cho cậu ấy nhớ về một nơi nào đó trong trò chơi đã từng chơi qua.”

Việc Travis thích đại dương cũng là một điều đáng lưu tâm. Cậu ta có thể trốn tại một trong những khu công viên bên bờ biển. Point Lobos chẳng hạn. Trong điều kiện khí hậu dễ chịu của vùng này, thằng bé sẽ dễ dàng sống sót với một cái túi ngủ không thấm nước.

“Travis có thể đang ở cùng người bạn nào không?”

“Thực sự thì em cũng không biết rõ lắm về bạn ấy. Nhưng bạn ấy không có người bạn nào em từng nhìn thấy, không có ai giống như các bạn nữ của em và em. Có vẻ Travis hầu như thường xuyên ở trên mạng. Bạn ấy rất thông minh và biết nhiều thứ. Nhưng không giao lưu rộng rãi ở trường. Thậm chí cả vào giờ ăn trưa và kỳ tự học, Travis cũng chỉ ngồi bên ngoài với máy tính của mình. Nếu bắt được tín hiệu bạn ấy sẽ vào mạng ngay.”

“Em có sợ cậu ấy không, Caitlin?”

“À, có,” như thể đó là chuyện hiển nhiên vậy.

“Nhưng em đã không nói gì xấu về cậu ấy trên Bản tin Chilton hay các mạng xã hội khác, đúng không?”

“Không.”

Cái gì làm cô bé kích động đến thế? Dance không thể nắm bắt được cảm xúc của cô bé, có vẻ lúc này đang bị đẩy đến cực độ. Không chỉ đơn thuần là sợ hãi mà còn hơn thế. “Tại sao em không đăng bài viết nào về cậu ấy?”

“Em không đăng nhập vào đó. Chỗ đó chỉ toàn rác rưởi.”

“Vì em thấy ái ngại cho cậu ấy.”

“Vâng,” Caitlin bồn chồn mân mê một trong bốn cái hoa tai bên tai trái. “Bởi vì...”

“Sao cơ?”

Lúc này cô bé đang rất kích động. Vẻ căng thẳng bùng nổ. Hai mắt cô bé ướt nhòe. Caitlin thì thầm, “Bởi vì những gì đã xảy ra là lỗi của em.”

“Ý em là sao?”

“Vụ tai nạn. Đó là lỗi của em.”

“Kể tiếp đi, Caitlin.”

“Chị biết có một cậu con trai ở bữa tiệc không? Một anh chàng em có cảm tình. Mike D’Angelo.”

“Ở bữa tiệc?”

“Phải. Và anh ta hoàn toàn tảng lờ em. Luôn quấn lấy cô nàng đó, Brianna, xoa lưng cô ta, chị biết đấy. Ngay trước mặt em. Em muốn làm anh ta ghen, vậy là em tới bên Travis và nấn ná cạnh bạn ấy. Em đưa chìa khóa xe của em cho bạn ấy và nhờ đưa em về nhà ngay trước mặt Mike. Lúc đó em nói, à, hãy chở Trish và Vanessa về, sau đó cậu và mình có thể lang thang đi chơi.”

“Và em nghĩ làm thế sẽ khiến Mike ghen?”

Cô bé gật đầu, nước mắt giàn giụa. “Thật ngốc nghếch! Nhưng anh ta cư xử như đồ rác rưởi vậy, cợt nhả với Brianna,” hai vai cô bé gồng lên căng thẳng. “Đáng ra không nên thế. Nhưng em thấy bị tổn thương nặng nề. Nếu em không làm vậy, hẳn đã chẳng có gì xảy ra.”

Lời thú nhận này cho phép giải thích tại sao Travis lại lái xe tối hôm đó.

Tất cả chỉ để làm một cậu con trai khác ghen.

Những lời giải thích của cô bé cũng gợi ý tới một kịch bản hoàn toàn mới. Nhiều khả năng trên đường lái xe về Travis đã nhận ra cậu ta đang bị Caitlin lợi dụng, có thể cậu ta đã nổi giận vì cô bé có cảm tình với Mike. Liệu cậu ta có cố tình làm chiếc xe bị tai nạn? Giết người hay tự sát - một hành động bồng bột nhất thời - không phải chuyện chưa từng nghe tới trong tình yêu của giới trẻ.

“Vậy là bạn ấy nổi điên lên với em. Điều chị sẽ làm là cử một nhân viên cảnh sát tới bên ngoài nhà em.”

“Thật sao?”

“Đúng thế. Bây giờ các lớp học hè mới chỉ bắt đầu thôi, đúng không? Em vẫn chưa có bài thi nào sắp đến chứ?”

“Chưa. Bọn em mới bắt đầu thôi.”

“Vậy thì sao em không về nhà ngay bây giờ đi?”

“Chị nghĩ nên thế ạ?”

“Phải. Và ở yên trong nhà cho tới khi bọn chị tìm ra cậu ấy.” Dance ghi lại địa chỉ nhà cô bé. “Nếu em nhớ ra thêm điều gì - về nơi cậu ấy có thể đến - làm ơn hãy cho chị biết.”

“Tất nhiên rồi ạ,” cô bé cầm lấy danh thiếp của Dance. Cả hai cùng quay lại chỗ mấy người bạn của cô bé.

~*~

Tiếng sáo quena[1] buồn man mác của Jorge Cumbo, cùng nhóm nhạc Nam Phi Urubamba du dương bên tai Dance. âm nhạc giúp cô nhẹ nhõm. Cô cảm thấy chút tiếc rẻ khi lái vào trong bãi đỗ bệnh viện vịnh Monterey, đậu xe lại và dừng nhạc.

[1. Một loại sáo truyền thống của vùng Andes (Nam Mỹ).]

Chỉ chừng một nửa số người tham gia phản đối còn nán lại. Mục sư Fisk và tay vệ sĩ tóc đỏ của ông ta đều vắng bóng.

Rất có thể họ đang cố gắng lần tìm dấu vết của mẹ cô.

Dance bước vào trong bệnh viện.

Vài người y tá và bác sĩ đến bên tỏ vẻ thông cảm - có hai y tá đã khóc khi nhìn thấy con gái đồng nghiệp của họ.

Cô đi xuống cầu thang tới phòng người phụ trách an ninh. Trong phòng không có ai. Cô liếc mắt nhìn lên sảnh về phía khu Điều trị tích cực. Dance đi theo hướng đó và đẩy cửa bước qua.

Dance chớp mắt khi rẽ vào căn phòng nơi Juan Millar đã qua đời. Nó đã bị niêm phong bằng băng dính vàng của cảnh sát. Biển báo ghi “Cấm vào. Hiện trường tội ác”. Đây là tác phẩm của Harper, cô phẫn nộ thầm nghĩ. Một trò ngu ngốc. Tại đây chỉ có năm phòng Điều trị tích cực - ba phòng đang có bệnh nhân điều trị - và ông ta đã niêm phong một phòng lại? Sẽ thế nào nếu hai bệnh nhân nữa nhập viện? Rồi cô thầm nghĩ, hành động phạm tội diễn ra từ gần một tháng trước, và kể từ lúc đó có lẽ căn phòng đã tiếp nhận thêm một tá bệnh nhân khác, chưa kể đến việc được đội ngũ nhân viên nghiêm túc liên tục làm vệ sinh. Không thể còn bất cứ bằng chứng nào để thu thập.

Tất cả chỉ để tạo ấn tượng và quan hệ công chúng.

Cô quay đi.

Và gần như đâm sầm vào anh trai Juan Millar, Julio, người đã tấn công cô trước đó trong tháng.

Người đàn ông nước da ngăm ngăm, chắc nịch, mặc bộ vest sẫm màu đột ngột dừng lại, mắt hướng thẳng vào cô. Anh ta đang cầm một tập giấy tờ nằm xộc xệch trong tay trong khi nhìn Dance chằm chằm, chỉ cách cô hơn một mét.

Dance căng người cảnh giác, hơi lùi lại để dành cho mình thời gian lấy bình xịt hơi cay hoặc còng tay. Nếu anh ta xông tới cô lần nữa, cô đã sẵn sàng để tự vệ, cho dù cô có thể hình dung những gì giới truyền thông sẽ chế biến ra từ câu chuyện con gái của nghi phạm giết người vì lý do nhân đạo hành hung anh trai nạn nhân.

Nhưng Julio nhìn cô chằm chằm với ánh mắt kỳ cục đó - không hề có vẻ phẫn nộ hay căm ghét, mà gần như thú vị với sự ngẫu nhiên tình cờ khiến anh gặp cô. Anh ta thì thầm, “Mẹ cô... làm sao bà ta có thể làm vậy chứ?”

Những lời nói nghe có vẻ đã được tập dượt trước, như thể anh ta đã chờ đợi cơ hội để được nói ra chúng.

Dance định lên tiếng, song rõ ràng Julio không hề trông đợi một câu trả lời. Anh chậm rãi bước qua cánh cửa dẫn tới lối ra phía sau.

Và chỉ có vậy.

Không lời lẽ nghiệt ngã, không đe dọa, không bạo lực.

Làm sao mẹ cô có thể làm vậy?

Tim cô đập dữ dội sau cuộc đối đầu khó hiểu, Dance nhớ có lần mẹ cô từng nói Julio lúc trước đã ghé qua đây. Dance tự hỏi tại sao giờ này anh ta lại quay trở lại. Đưa mắt nhìn lần cuối cùng về dải băng dính của cảnh sát, Dance rời khỏi khu Điều trị tích cực và đi tới phòng của người phụ trách an ninh.

“Ồ, đặc vụ Dance,” Henry Bascomb vừa nói vừa chớp mắt.

Cô mỉm cười chào ông. “Họ đã cho dán băng dính căn phòng rồi à?”

“Cô đã quay lại chỗ đó?” Bascomb hỏi.

Dance lập tức nhận ra vẻ căng thẳng trong giọng nói và tư thế của ông. Người đàn ông đang suy nghĩ rất nhanh và trông không được thoải mái. Vì cái gì đây? Dance băn khoăn tự hỏi.

“Ý ông muốn nói là niêm phong?” cô lặp lại.

“Phải rồi, đúng thế, thưa quý cô.”

Quý cô? Dance thiếu chút nữa đã bật cười trước cách xưng hô khách sáo đột ngột. Cô, O’Neil, Bascomb và vài người bạn từng làm cảnh sát của ông ta mới cùng nhau uống bia và quesadilas dưới quán Fisher’s Wharf chỉ mấy tháng trước. Cô quyết định đi thẳng vào việc, “Tôi chỉ có một hay hai phút thôi, Henry. Tôi muốn tìm hiểu về vụ của mẹ tôi.”

“Bà ấy thế nào rồi?”

Dance đang nghĩ: Tôi cũng chẳng biết rõ hơn ông đâu, Henry. Cô nói, “Không tốt lắm.”

“Cho tôi gửi lời hỏi thăm bà.”

“Tôi sẽ chuyển lời. Còn bây giờ, tôi muốn xem danh sách nhân viên và sổ đăng ký ra vào để biết những ai có mặt tại bệnh viện khi Juan chết.”

“Hiểu rồi,” ông nói tiếp, “Nhưng vấn đề là tôi không thể.”

“Sao vậy, Henry?”

“Tôi được chỉ thị không để cô xem bất cứ thứ gì. Không giấy tờ nào. Thậm chí chúng tôi còn không được phép nói chuyện với cô.”

“Lệnh của ai vậy?”

“Ban quản lý,” Bascomb dè dặt nói.

“Và?” Dance tiếp tục gặng hỏi.

“Được rồi, là ông Harper, cái ông công tố viên đó. Ông ta nói chuyện với ban quản lý, và người quản lý nhân viên.”

“Nhưng đó là thông tin được phép tìm hiểu. Luật sư bào chữa cho bị can có quyền làm điều đó.”

“Ồ, tôi biết thế. Nhưng ông ấy nói để lấy được chúng cô cần thực hiện theo cách này.”

“Tôi không muốn lấy chúng. Chỉ xem qua thôi, Henry.”

Hoàn toàn không có gì bất hợp pháp với việc cô xem qua các giấy tờ, và hành động này xét cho cùng sẽ không ảnh hưởng gì đến vụ án vì nội dung của các sổ đăng ký và bản ký tên điểm danh cuối cùng kiểu gì cũng sẽ được công bố.

Khuôn mặt Bascomb cho thấy ông ta đang bị lâm vào thế khó xử ra sao. “Tôi hiểu. Nhưng tôi không thể. Trừ khi có trát đòi hầu tòa.”

Harper đã nói chuyện với người phụ trách an ninh nhằm một mục đích duy nhất: Để gây khó khăn cho Dance và gia đình cô.

“Tôi xin lỗi,” ông ngượng ngập nói.

“Không sao đâu, Henry. Ông ta có nói cho ông một lý do nào không?”

“Không,” ông nói ra câu trả lời quá nhanh, và Dance có thể dễ dàng thấy vẻ căm ghét trong mắt Bascomb, khác hẳn những gì cô biết về chuẩn mực trong ứng xử của ông.

“Ông ta nói gì, Henry?”

Một khoảng im lặng.

Dance cúi người về phía Bascomb.

Người phụ trách an ninh cúi mặt xuống. “Ông ta nói... ông ta nói không tin cô. Và ông ta không thích cô.”

Dance cố đưa ra nụ cười khá nhất cô có thể. “À, đó quả là một tin tốt, tôi cho là thế. Ông ta là người cuối cùng trên thế giới này tôi muốn nhận được sự tán thưởng.”

~*~

Lúc này đã năm giờ chiều.

Dance gọi về văn phòng khi ở bãi để xe của bệnh viện, và biết được quá trình truy lùng Travis Brigham chưa có tiến triển đáng kể nào. Lực lượng Tuần cảnh Xa lộ và văn phòng Sở Cảnh sát đang chỉ đạo cuộc tìm kiếm, tập trung vào những địa điểm quen thuộc trong vùng, các nguồn thông tin về những cuộc đào tẩu và những đối tượng vị thành niên đang lẩn trốn: trường học của cậu ta, đám bạn học và các khu mua sắm. Về mặt lý thuyết, việc phương tiện di chuyển của cậu thiếu niên bị giới hạn ở một chiếc xe đạp là một điều hữu ích, song vẫn chưa dẫn tới bất cứ manh mối nào.

Rey Carraneo đã tìm hiểu được rất ít từ những ghi chú và hình vẽ nguệch ngoạc của Travis, nhưng vẫn đang tiếp tục lần tìm trong đó những manh mối về nơi ẩn náu của cậu ta. TJ đang cố lần tìm nguồn gốc của chiếc mặt nạ, đồng thời gọi điện cho những người tham gia blog có nguy cơ trở thành nạn nhân. Kể từ lúc Dance biết được từ Caitlin chuyện Travis thích bờ biển, cô đã giao cho anh thêm nhiệm vụ liên lạc với ban quản lý các công viên, cảnh báo cho họ cậu ta có thể đang lẩn trốn đâu đó tại một trong hàng nghìn mẫu đất thuộc sở hữu của tiểu bang khu vực này.

“Vâng, thưa sếp,” Rey uể oải nói, không phải vì mệt mỏi mà đang ở tâm trạng vô vọng giống Dance.

Tiếp sau đó là cuộc trò chuyện với Jon Boling.

“Tôi đã nhận được máy tính của Travis. Vẫn người điều tra viên lúc trước, Reinhold, mang nó đến. Chắc anh ta biết phải làm gì khi nói về máy tính.”

“Cậu ta có vẻ sáng tạo đấy. Sẽ tiến xa. Anh đã có chút may mắn nào chưa?”

“Chưa. Travis rất thông minh. Cậu ấy không chỉ trông cậy đơn thuần vào việc bảo vệ nhờ mật khẩu. Một chương trình mã hóa có bản quyền nào đó đã khóa ổ cứng lại. Chúng ta có thể không bẻ khóa được nó, nhưng tôi đã gọi cho một đồng nghiệp ở trường. Nếu có ai đó có khả năng xâm nhập được vào trong, thì đó chính là người này.”

Hừm, Dance thầm nghĩ, thật là trung lập về giới: “đồng nghiệp” và “người này”. Dance dịch hai từ này thành “nữ nghiên cứu sinh trẻ trung, lộng lẫy, nhiều khả năng tóc vàng và rất hấp dẫn”. Boling nói thêm bằng thứ ngôn ngữ sặc mùi chuyên môn rằng một cuộc tấn công theo kiểu dùng sức mạnh thuần túy đang được triển khai thông qua đường truyền tín hiệu tới một siêu máy tính ở Đại học California - Santa Cruz. “Hệ thống có thể bẻ được mật mã trong vòng một giờ tới...”

“Thật sao?” cô hỏi đầy hy vọng.

“Hoặc, tôi đang định nói tiếp, trong vòng hai giờ hay ba trăm năm nữa. Còn tùy.”

Dance cảm ơn và bảo anh hãy quay về nhà nghỉ ngơi. Anh ta có vẻ thất vọng. Sau khi giải thích rằng bản thân không có kế hoạch nào cho tối hôm đó, anh nói sẽ tiếp tục tìm kiếm tên những người đăng bài có thể đang gặp nguy hiểm.

Việc tiếp theo của cô là tới nhà Martine đón các con mình rồi cả ba sẽ cùng đến nhà trọ nơi bố mẹ cô đang ẩn náu.

Trong lúc lái xe, cô hồi tưởng lại những biến cố xảy ra quanh cái chết của người cảnh sát trẻ Juan Millar, nhưng thực sự vào thời điểm đó, cô đã không chú ý mấy đến việc này. Cuộc truy lùng đòi hỏi mọi sự tập trung của cô: Daniel Pell - thủ lĩnh giáo phái, tên sát nhân và là kẻ lôi kéo kích động đầy nguy hiểm - cùng đối tác của gã - một người đàn bà cũng nguy hiểm không kém - đã lẩn trốn tại Bán đảo Monterey sau khi tay này trốn thoát, đồng thời tiếp tục săn đuổi, giết hại những nạn nhân mới. Dance và O’Neil đã nỗ lực không ngơi nghỉ để truy nã chúng. Chính vậy mà cái chết của Juan Millar đã không xuất hiện nhiều trong tâm trí cô, ngoài cảm giác ân hận nhói buốt về phần trách nhiệm, dù rất nhỏ, của bản thân trong bi kịch đó.

Nếu Dance đoán được mẹ mình có khả năng bị cuốn vào vụ việc, hẳn cô đã để tâm chú ý hơn.

Mười phút sau, Dance đậu xe trong bãi đỗ rải sỏi của nhà trọ. Maggie thốt lên, “Ái chà” rồi nhảy bật lên trên ghế ngồi trong lúc ngắm nghía xung quanh.

“Phải, tuyệt”, Wes reo lên dù có phần chừng mực hơn.

Căn phòng mang phong cách đồng quê kiểu cổ - một phần của Carmel Inn sang trọng - là một trong mười hai căn nằm tách biệt khỏi tòa nhà chính.

“Có một bể bơi!” Maggie reo lên. “Con muốn đi bơi.”

“Xin lỗi, nhưng mẹ quên mất đồ bơi của con rồi”, Dance thiếu chút nữa đã buột miệng nói bố mẹ cô có thể đưa hai đứa đi mua đồ bơi, nhưng rồi chợt nhớ họ không được lộ diện chỗ đông người - chừng nào mục sư Fisk và đám kền kền của ông ta còn đang lượn lờ khắp nơi. “Mai mẹ sẽ mang đến. Và, này, Wes, có một sân tennis. Con có thể chơi với ông ngoại.”

“Vâng.”

Ba mẹ con ra khỏi xe, Dance lấy va li của lũ trẻ mà cô đã chuẩn bị trước đó. Các con cô sẽ ở lại đây tối nay với ông bà ngoại của chúng.

Họ rảo bước theo lối đi hai bên có viền cây leo và những cây xương rồng họ Cảnh thiên thân lùn màu xanh lục.

“Ông bà ở phòng nào ạ?” Maggie hỏi, nhảy chân sáo theo lối đi.

Dance chỉ và cô bé lập tức chạy vụt lên trước thật nhanh. Con bé đến bên cửa phòng bấm chuông, rồi cánh cửa mở ra vừa đúng lúc Dance và Wes tới nơi. Edie mỉm cười với bọn trẻ rồi dẫn chúng vào trong.

“Bà ơi”, Maggie gọi, “Ở đây tuyệt quá!”

“Chỗ này rất đẹp. Vào đi cháu.”

Edie mỉm cười với Dance, trong khi cô cố đoán ý nghĩa của nó. Nhưng nụ cười đó chẳng chứa đựng lượng thông tin nhiều nhặn gì hơn so với một tờ giấy trắng.

Stuart ôm chầm lấy các cháu.

Wes hỏi, “Bà khỏe chứ ạ?”.

“Bà rất khỏe. Thế Martine và Steve thế nào?”

“Ổn cả ạ”, cậu bé đáp.

“Hai anh em sinh đôi và cháu đã dùng gối xây một ngọn núi”, Maggie nói. “Có cả hang động nữa.”

“Cháu phải kể cho bà nghe đấy nhé.”

Dance nhận ra bố mẹ cô đang có một vị khách. Vị luật sư bào chữa danh tiếng George Sheedy đứng dậy bước tới bắt tay Dance và chào hỏi bằng chất giọng nam trầm. Một chiếc cặp đang để mở trên mặt bàn cà phê kê ở khu vực tiếp khách của căn nhà, cạnh đó là những tờ giấy ghi chú màu vàng và tờ bản in được xếp thành chồng. Người luật sư chào hai đứa trẻ. Ông rất lịch sự, song từ cử chỉ và thái độ của ông, Dance có thể lập tức nhận ra cuộc trao đổi cô vừa làm gián đoạn rất nặng nề căng thẳng. Wes nhìn Sheedy ngờ vực.

Sau khi Edie đã lấy bánh kẹo ra thết đãi bọn trẻ, chúng đi tới một sân chơi.

“Ở bên cạnh em gái con đấy”, Dance ra lệnh.

“Vâng. Đi nào”, cậu bé nói với Maggie, hai đứa vừa tung hứng những hộp nước ép trai cây cùng bánh kẹo vừa rời đi. Dance liếc nhìn qua cửa sổ và nhận ra cô có thể nhìn thấy sân chơi từ đây. Bể bơi nằm sau một cánh cổng được khóa. Với lũ trẻ, cảnh giác bao nhiêu cũng không thừa.

Edie và Stuart quay lại ngồi xuống xa lông. Ba tách cà phê, hầu như chưa được đụng đến, nằm trên chiếc bàn gỗ thấp. Bà hẳn đã chuẩn bị chúng theo bản năng ngay khi Sheedy đến.

Sheedy hỏi về vụ án và cuộc truy lùng Travis Brigham.

Dance cung cấp những câu trả lời khá sơ sài, mà trên thực tế cũng là những gì tốt nhất cô có thể cung cấp.

“Còn cô đó, Kelley Morgan?”

“Có vẻ vẫn đang bất tỉnh.”

Stuart lắc đầu.

Chủ đề những vụ tấn công liên quan tới Cây thập tự ven đường được dẹp sang bên, rồi Sheedy đưa mắt nhìn Edie và Stuart, lông mày nhướng lên. Bố Dance nói, “Ông có thể nói cho con gái tôi. Bắt đầu đi. Tất cả.”

Sheedy giải thích, “Chúng tôi đang bàn xem kế hoạch trò chơi của Harper có vẻ sẽ như thế nào. Ông ta là một nhân vật rất bảo thủ, sùng đạo và được biết là người chống đối đạo luật Chết trong Nhân phẩm.”

Dự luật này liên tục gây ra sóng gió ở California. Giống như đạo luật ở Oregon, nó cho phép các bác sĩ được trợ giúp những người mong muốn kết thúc cuộc sống của họ. Tương tự phá thai, đây là một chủ đề gây nhiều tranh cãi, và có sự phân hóa cao độ giữa phía ủng hộ và bên phản đối. Hiện tại ở California, nếu ai đó giúp một người tự sát, hành động đó bị coi là tội nghiêm trọng.

“Thế nên ông ta muốn dùng Edie làm gương. Vụ án không phải về việc trợ giúp tự sát - mẹ cô cho tôi biết Juan bị thương quá nặng để có thể tự đưa thuốc vào người mình. Nhưng Harper muốn gửi đi một thông điệp rằng tiểu bang sẽ đưa ra những hình phạt nghiêm khắc dành cho bất cứ ai giúp thực hiện một vụ tự sát. Ý của ông ta là: Đừng có ủng hộ đạo luật đó vì các công tố viên sẽ để mắt thực sự sát sao tới từng trường hợp. Chỉ cần đi một bước khỏi giới hạn và các bác sĩ hay bất cứ ai giúp người khác chết sẽ bị truy tố. Một cách nghiêm khắc.”

Giọng nói quen thuộc tiếp tục một cách nặng nề, hướng về phía Dance.

“Có nghĩa là ông ta sẽ không quan tâm tới việc thương lượng về lời biện hộ của bị cáo. Ông ta muốn có một phiên tòa và thực hiện một màn trình diễn lớn, hấp dẫn nhằm thu hút công chúng. Trong trường hợp cụ thể này, vì ai đó đã giết Juan, hành động trên là tội giết người.”

“Cấp độ một”, Dance nói. Cô biết rõ luật hình sự tới mức chẳng khác gì một số người thuộc lòng cuốn Niềm vui trong nấu ăn.

Sheedy gật đầu. “Vì hành động là có chủ đích và Millar là một nhân viên công lực.”

“Nhưng không phải trong hoàn cảnh đặc biệt,” Dance nói, nhìn vào khuôn mặt nhợt nhạt của mẹ cô. Hoàn cảnh đặc biệt sẽ cho phép tuyên án tử hình. Nhưng để áp dụng hình phạt đó, Millar cần phải đang thi hành công vụ vào thời điểm anh ta bị giết.

Sheedy nói vào đầy mỉa mai, “Cô có thể tin hay không cũng được, nhưng ông ta đang cân nhắc tới khả năng đó.”

“Bằng cách nào? Làm thế nào ông ta có thể?” Dance nóng nảy hỏi.

“Vì chính thức thì Millar chưa bao giờ báo cáo kết thúc nhiệm vụ.”

“Ông ta đang giở trò tiểu xảo như thế sao?” Dance gằn giọng, không giấu nổi vẻ ghê tởm.

“Harper có điên không vậy?” Stuart lẩm bẩm.

“Không, ông ta được thúc đẩy và tự cho mình là đúng. Một thứ còn kinh khủng hơn cả sự điên rồ. Ông ta sẽ có được màn quảng cáo tốt hơn với một án tử hình. Và đó là thứ ông ta muốn. Đừng lo, không thể có chuyện bà bị kết án giết người trong hoàn cảnh đặc biệt,” vị luật sư nói, quay sang phía Edie. “Song tôi nghĩ ông ấy sẽ bắt đầu với tội trạng này.”

Dẫu thế, giết người cấp độ một cũng đã đủ khủng khiếp. Như vậy có thể đồng nghĩa là hai mươi lăm năm tù cho Edie.

Ông nói tiếp, “Bây giờ, cho phần bào chữa của chúng ta, không thể biện minh hành động này có lý do chính đáng, nhầm lẫn hay tự vệ. Kết thúc nỗi đau đớn và thống khổ của nạn nhân sẽ là yếu tố được cân nhắc tới khi kết án. Nhưng nếu bồi thẩm đoàn tin bà cố ý kết thúc cuộc sống của anh ta, cho dù lý do của bà có nhân đạo đến đâu đi chăng nữa, họ cũng sẽ phải đưa ra phán quyết bà phạm tội giết người cấp độ một.”

“Vậy là việc biện hộ,” Dance nói, “sẽ dựa vào các dữ kiện thực tế”.

“Chính xác. Thứ nhất, chúng ta tấn công vào kết quả giải phẫu tử thi và kết luận về nguyên nhân tử vong. Kết luận của người phụ trách điều tra là Millar chết do van ống truyền morphin bị mở quá rộng và thuốc kháng histamin[2] đã bị cho thêm vào dịch truyền. Điều đó đã dẫn tới tình trạng suy hô hấp, và sau đó là trụy tim. Chúng ta sẽ tìm kiếm chuyên gia để nói rằng điều đó không đúng. Nạn nhân đã chết vì các nguyên nhân tự nhiên do bị bỏng nặng. Các loại thuốc không có liên quan gì.”

[2. Là một loại thuốc dùng để ngăn chặn tác dụng của một chất hoá học tự nhiên được sản xuất bởi hệ thống miễn dịch có tên là histamine. Loại thuốc này được dùng nhiều nhất trong việc điều trị những triệu chứng dị ứng, đặc biệt là sốt cỏ khô, và những phản ứng do bị cắn hay bị đốt.]

“Thứ hai, chúng ta khẳng định Edie không hề làm việc đó. Người nào khác đã đưa thuốc vào người nạn nhân, có thể với ý định để nạn nhân chết, có thể do nhầm lẫn. Chúng ta mong muốn tìm ra những người có thể đã hiện diện quanh nơi xảy ra vụ án - một người nào đó có khả năng đã trông thấy hung thủ. Hoặc ai khác rất có thể chính là thủ phạm. Về chuyện này thì thế nào, Edie? Có bất cứ ai ở gần khu Điều trị tích cực vào khoảng thời gian Juan chết hay không?”

Bà trả lời, “Có một số y tá ở đó. Ngoài ra không còn ai khác. Gia đình cậu ta đã về. Và không có người nào tới thăm.”

“Được rồi, tôi sẽ tiếp tục tìm hiểu việc này,” gương mặt Sheedy trở nên nghiêm trọng. “Còn bây giờ, chúng ta bàn tới rắc rối lớn nhất. Thứ thuốc được thêm vào dịch truyền tĩnh mạch là diphenhydramin.”

“Loại thuốc kháng histamine,” Edie nói.

“Khi cảnh sát tới khám nhà bà, họ tìm thấy một lọ biệt dược của diphenhydramin. Lọ thuốc đã rỗng không.”

“Cái gì?” Stuart sững sờ.

“Cái lọ được tìm thấy trong gara, giấu dưới mấy tấm giẻ lau.”

“Không thể nào.”

“Và một xi lanh có vết morphin đã khô trên đó. Cùng loại morphin có trong ống truyền tĩnh mạch của Juan Millar.”

Edie lắp bắp, “Tôi không để nó ở đó. Tất nhiên tôi không làm thế.”

“Chúng ta đều biết vậy mà mẹ.”

Ông nói thêm, “Có vẻ không hề có dấu vân tay hay dấu vết đáng kể nào.”

Dance nói, “Thủ phạm đã sắp đặt chúng.”

“Đó là điều chúng ta sẽ cố gắng chứng minh. Hoặc người đó đã cố ý giết Millar, hoặc gây ra chuyện này do nhầm lẫn. Dù là trường hợp nào đi nữa, thủ phạm đã giấu lọ thuốc và xi lanh vào ga ra của ông bà để tránh tội.”

Edie cau mày. Bà nhìn sang con gái. “Chắc con còn nhớ hồi đầu tháng, ngay sau khi Juan chết, mẹ có nói với con mẹ nghe thấy tiếng động bên ngoài. Tiếng động đó vọng lại từ ga ra. Mẹ dám cược có người đã vào trong.”

“Đúng thế,” Dance đồng ý, cho dù cô không thực sự nhớ nổi chuyện này - khi ấy cuộc truy lùng Daniel Pell đã chiếm hết tâm trí cô.

“Tất nhiên...” Dance đột nhiên im lặng.

“Cái gì?”

“Thế này nhé, có một việc chúng ta cần thực hiện. Con đã cử một cảnh sát tới thăm dò bên ngoài ngôi nhà của gia đình họ để đảm bảo an ninh. Harper sẽ muốn biết tại sao anh ta không nhìn thấy bất cứ điều gì.”

“Hoặc,” Edie chen vào, “chúng ta cần tìm ra xem anh ta có thấy kẻ xâm nhập hay không.”

“Đúng thế”, Dance hối hả nói. Cô cho Sheedy biết tên người cảnh sát.

“Tôi cũng sẽ kiểm tra chuyện đó”, ông ta nói thêm, “Điều duy nhất còn lại chúng ta có là một báo cáo rằng bệnh nhân đã nói với bà, ‘Hãy giết tôi đi’. Và bà đã kể lại cho vài người. Có nhân chứng về việc này.”

“Đúng thế”, Edie nói, nghe có vẻ thủ thế, đôi mắt bà đưa sang nhìn Dance.

Đột nhiên cô có một ý nghĩ khủng khiếp: Liệu cô có bị gọi ra làm chứng chống lại mẹ mình không? Cô cảm thấy thực sự buồn nôn trước ý nghĩ đó. Dance lạc giọng, “Nhưng mẹ tôi không hề nói với ai về việc bà thực sự có ý định giết một người nào đó.”

“Phải. Nhưng hãy nhớ, Harper đang tìm cách làm to chuyện, chứ không cần sự hợp lý. Một lời viện dẫn như thế... Thôi được, hãy hy vọng Harper không tìm ra chi tiết này.”

Ông đứng dậy. “Khi tôi có được hồi đáp từ các chuyên gia và những chi tiết trong báo cáo khám nghiệm tử thi, tôi sẽ cho gia đình cô biết. Còn câu hỏi nào nữa không?”

Khuôn mặt Edie cho thấy rõ ràng, có, bà đang có cả nghìn câu hỏi. Nhưng rồi bà chỉ lắc đầu.

“Tình hình không phải là vô vọng, Edie. Bằng chứng tìm thấy trong ga ra quả thực đáng lo ngại, nhưng chúng ta sẽ làm tốt nhất có thể với điều đó”, Sheedy thu dọn giấy tờ của ông, sắp xếp lại rồi cho vào cặp. Ông bắt tay từng người và dành cho tất cả họ những nụ cười động viên. Stuart tiễn ông ta ra cửa, sàn nhà kêu cót két dưới sức nặng của ông.

Dance cũng đứng dậy. Cô nói với mẹ, “Mẹ có chắc bọn trẻ sẽ không làm mẹ mệt quá không? Con có thể đưa hai đứa quay lại chỗ Martine.”

“Không, không. Mẹ đã rất mong được gặp các cháu.” Bà mặc vào người một chiếc áo nỉ. “Mà thực ra, mẹ nghĩ mẹ sẽ ra thăm thú bên ngoài một chút.”

Dance ôm lấy mẹ cô trong giây lát, cảm thấy đôi vai bà căng cứng. Trong một khoảnh khắc lúng túng, hai người phụ nữ nhìn thẳng vào mắt nhau. Sau đó Edie bước ra ngoài.

Dance cũng ôm hôn bố cô. “Mai bố mẹ đến ăn tối cùng con nhé?” cô hỏi ông.

“Để chúng ta xem sao đã.”

“Thật đấy. Sẽ rất tốt. Cho mẹ, cho bố, cho mọi người.”

“Bố sẽ nói chuyện với mẹ con.”

Dance quay trở lại văn phòng, tại đây cô dành vài giờ đồng hồ tiếp theo điều phối lực lượng giám sát tại nhà những người có thể trở thành nạn nhân và nơi ở của gia đình Brigham, triển khai nhân lực tốt nhất có thể. Và chỉ huy cuộc săn lùng vô vọng nhằm tìm ra Travis, một đối tượng đã chứng tỏ cậu ta cũng vô hình chẳng kém gì khối chuỗi điện tử đã tạo nên những thông điệp đầy ác ý, đẩy bản thân vào cuộc hành trình chết chóc của chính mình.

~*~

Thư giãn.

Dance dừng xe trước nhà mình ở Pacific Grove lúc mười một giờ đêm, cảm thấy tâm trạng khá nhẹ nhõm. Sau ngày dài, thật dài, vừa trải qua, cô thực sự mừng khi được trở về nhà.

Ngôi nhà theo phong cách Victoria cổ điển có màu lục sẫm với những lan can xám, những cánh cửa chớp và bờ rào cây xén tỉa gọn ghẽ - nằm ở khu tây bắc Pacific Grove; nếu đúng thời điểm trong năm, gió và suy nghĩ của bạn về việc tựa người trên một hàng rào lung lay trùng hợp với nhau, bạn có thể nhìn thấy đại dương.

Cô bước vào trong lối đi nhỏ, bật đèn lên và khóa cửa lại. Hai con chó lao ra chào đón cô. Dylan, giống chăn cừu Đức có bộ lông đen pha nâu vàng, và Patsy, một cô ả kiêu kỳ thuộc giống chó săn có bộ lông mượt mà. Chúng được đặt lần lượt theo tên người sáng tác nhạc rock vĩ đại nhất và ca sĩ nhạc đồng quê xuất sắc nhất trong một trăm năm qua.

Dance kiểm tra email, không có tiến triển mới nào trong cuộc điều tra. Cô vào bếp - một nơi rộng rãi nhưng được trang bị những dụng cụ từ một thập kỷ khác - rót một ly rượu vang và bắt tay vào tìm kiếm chút đồ ăn còn lại, lựa chọn nửa chiếc sandwich kẹp gà tây chưa nằm trong tủ lạnh quá lâu.

Cô cho hai con chó ăn, rồi thả chúng ra phía sau. Nhưng đúng lúc định quay lại chỗ máy tính, cô giật mình trước những âm thanh ồn ào giận dữ của chúng, vừa sủa váng lên vừa lao xuống cầu thang. Lũ chó vẫn thỉnh thoảng có phản ứng này khi một con sóc hay một chú mèo vô tình muốn ghé thăm ngôi nhà. Song chuyện đó hiếm khi xảy đến vào thời gian này trong đêm. Dance để ly rượu vang xuống, nắm lấy báng khẩu Glock của cô, và bước ra ngoài hiên.

Cô há hốc miệng sững sờ.

Một cây thập tự nằm trên mặt đất cách ngôi nhà chừng mười hai mét.

Không!

Dance rút súng ra, vớ lấy một cây đèn pin, gọi hai con chó lại bên mình và chiếu luồng sáng xuống sân sau. Đó là một không gian hẹp, nhưng dài tới mười lăm mét với chi chít hoa mặt khỉ, thích và những cây sồi nhỏ, rồi cả cúc tây, đậu lupine, khoai lang cảnh, cỏ ba lá và cả những mầm cỏ hoang nổi loạn. Những loài thực vật duy nhất có thể sinh sôi phát triển trên đất cát và bóng râm.

Cô không thấy ai, cho dù vẫn còn những nơi kẻ xâm nhập có thể náu mình để không bị trông thấy từ trên hiên.

Dance hối hả bước xuống cầu thang, tiến vào màn đêm lờ mờ tối, nhìn quanh về phía cả chục chiếc bóng của những cành cây đang ngả nghiêng không ngừng lay động trong gió.

Cô dừng lại, sau đó chậm rãi bước đi, mắt dõi theo các lối mòn và hai con chó, lúc này đang lần quanh sân, tỉnh táo, cảnh giác.

Bộ dạng bồn chồn, căng thẳng của chúng và những túm lông cổ dựng đứng lên của Dylan trông thật bất an.

Cô từ từ tiến lại chỗ góc sân. Vừa đi vừa tìm kiếm chuyển động, lắng nghe tiếng bước chân. Đến khi không nghe hay nhìn thấy bất cứ dấu hiệu nào của kẻ xâm nhập, Dance chiếu đèn pin xuống đất.

Vật đó dường như là một cây thập tự, nhưng khi lại gần, Dance không thể đoán chắc nó đã được để lại có chủ ý hay do những cành cây rơi xuống tạo thành. Nó không được buộc lại bằng dây và cũng chẳng có bông hoa nào ở cạnh. Nhưng cổng sau chỉ cách chỗ này vài mét, dẫu cho đã được khóa thì một cậu nhóc mười bảy tuổi vẫn dễ dàng trèo qua.

Cô nhớ là Travis Brigham biết tên cô. Và có thể dễ dàng tìm ra nơi cô sống.

Dance chậm rãi bước một vòng quanh cây thập tự. Có phải bên cạnh là những dấu chân lưu lại sau khi giẫm lên cỏ không? Cô không thể chắc chắn.

Việc không chắc chắn thậm chí còn bất an gấp bội nếu cây thập tự bị bỏ lại đó là một lời đe dọa. Dance trở lại nhà, nhét súng vào bao đựng.

Cô khóa cửa rồi đi vào phòng khách, nơi đầy ắp những món đồ cũng lộn xộn chẳng kém gì nhà Travis Brigham, nhưng đẹp đẽ và mang lại cảm giác ấm cúng hơn. Không có sự hiện diện của da hay chrom, phần lớn chúng được bọc vải có màu nâu đỏ nhạt hay màu đất. Tất cả đều được gom từ những lần đi mua sắm cùng người chồng quá cố của cô. Dance gieo mình xuống sô-pha và nhận thấy mình có một cuộc gọi nhỡ. Cô hối hả đăng nhập nhật ký cuộc gọi. Đó là Jon Boling, không phải mẹ cô. Boling thông báo “đồng nghiệp” của anh vẫn chưa gặp may trong việc bẻ mật mã. Chiếc siêu máy tính sẽ chạy cả đêm, và anh sẽ cho Dance biết tiến triển vào buổi sáng. Hoặc cô có thể gọi lại nếu muốn. Anh sẽ thức đến tận khuya.

Dance do dự - cảm thấy bị thôi thúc cần gọi lại - nhưng sau đó quyết định để đường dây được rảnh phòng trường hợp mẹ cô liên lạc. Một lát sau, cô gọi tới MCSO, gặp được người thanh tra trực ban và đề nghị đội Điều tra Hiện trường tới lấy cây thập tự. Cô nói cho người thanh tra biết vị trí của nó. Ông này cho biết sẽ cử người tới vào buổi sáng.

Gọi điện xong, Dance bật vòi hoa sen lên tắm. Bất chấp làn nước nóng nghi ngút hơi, cô vẫn thấy ớn lạnh, vì một hình ảnh thật không may cứ nhất định lởn vởn bám rễ lại trong tâm trí cô: Chiếc mặt nạ tìm thấy tại nhà Kelley Morgan, đôi mắt đen ngòm, cái miệng bị khâu kín mít.

Khi Dance lên giường, khẩu Glock được để cách cô gần một mét, trên mặt bàn đầu giường, tháo sẵn ra khỏi bao và được lắp một băng đạn và một viên “trong buồng ngủ” - nghĩa là đã lên nòng.

Cô nhắm mắt lại, nhưng cho dù mệt rã rời, cô vẫn không tài nào ngủ được.

Không phải cuộc truy đuổi Travis Brigham khiến cô trằn trọc, cũng chẳng phải lần kinh hoàng trước đó hay chiếc mặt nạ đáng nguyền rủa kia.

Không, những từ ngữ đơn giản của Edie cứ không ngừng quay cuồng trong đầu cô mới chính là nguyên nhân chủ yếu.

Chính câu trả lời của mẹ cô khi Sheedy hỏi về nhân chứng ở khu Điều trị tích cực vào buổi tối Juan Millar bị giết.

Có một số y tá ở đó. Ngoài ra không còn ai khác. Gia đình cậu ta đã về. Và không có ai tới thăm.

Dance không nhớ chắc chắn, nhưng gần như có thể khẳng định khi cô kể về cái chết của người cảnh sát trẻ với mẹ cô ngay sau khi chuyện này xảy ra, Edie đã vô cùng ngạc nhiên trước tin đó. Bà nói với cô rằng tối hôm đó bà rất bận tại khoa điều trị của mình nên đã không xuống khu Điều trị tích cực.

Nếu mẹ cô không có mặt ở khu Điều trị tích cực tối đó như đã nói, vậy thì làm sao bà có thể chắc chắn về việc nó hoàn toàn vắng vẻ đến thế?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17


Đúng tám giờ sáng, Kathryn Dance bước vào văn phòng và mỉm cười khi thấy Jon Boling, trong đôi găng tay cao su quá khổ, đang gõ lên bàn phím chiếc máy tính của Travis. “Tôi biết mình đang làm gì. Tôi đã xem NCIS[1],” anh cười thoải mái. “Tôi thích nó hơn CSI.”

[1. Naval Criminal Investigative Service (Cơ quan điều tra tội phạm Hải quân): Tên của cơ quan chuyên điều tra các vụ trọng án xảy ra trong lực lượng Hải quân và Thuỷ quân lục chiến Mỹ, đồng thời là tên một sêri phim truyền hình điều tra hình sự nổi tiếng của kênh CBS, bắt đầu phát sóng từ 2003.]

“Này, sếp. Chúng ta cần một bộ phim truyền hình về chúng ta,” TJ nói với ra từ phía sau chiếc bàn được kéo vào một góc, chỗ ngồi nơi anh đang tìm kiếm nguồn gốc cái mặt nạ quái gở thu được tại hiện trường vụ tấn công Kelley Morgan.

“Tôi thích ý tưởng đó,” Boling hưởng ứng trò đùa, “Một bộ phim về ngôn ngữ cơ thể, tất nhiên rồi. Các vị có thể đặt tên cho nó là Người Giải Mã Cơ Thể. Tôi sẽ là ngôi sao khách mời đặc biệt chứ?”

Cho dù tâm trạng của Dance lúc này chẳng chút vui vẻ, cô cũng phải bật cười.

TJ tiếp tục, “Tôi sẽ là anh chàng cộng tác trẻ tuổi đẹp trai luôn theo tán tỉnh các nữ đặc vụ lộng lẫy hấp dẫn. Chúng ta có thể thuê vài cô nóng bỏng được không, sếp? Không phải vì sếp không hấp dẫn. Sếp biết ý tôi muốn nói gì mà.”

“Chúng ta đang làm được những gì rồi?”

Boling bắt đầu giải thích rằng chiếc siêu máy tính kết nối với máy của Travis vẫn chưa gặp may mắn trong việc bẻ mật mã của cậu thiếu niên.

Một giờ, hoặc ba trăm năm.

“Chẳng thể làm gì ngoài tiếp tục đợi,” Boling tháo găng tay ra và quay lại tìm kiếm danh tính của những người đăng bài có thể gặp nguy hiểm.

“Còn Rey?” Dance đưa mắt về phía Rey Carraneo kiệm lời, người vẫn đang miệt mài xem xét đống ghi chú và phác họa họ tìm thấy trong phòng ngủ của Travis.

“Cả đống từ ngữ loằng ngoằng, thưa sếp,” Carraneo nói, tính từ tiếng Anh cuối cùng được phát âm ra cứng đơ từ một cái miệng gốc La Tinh. “Thứ ngôn ngữ tôi không nhận ra nổi, với các con số, hình vẽ nguệch ngoạc, tàu vũ trụ, những cái cây treo vô số khuôn mặt trên đó, người ngoài hành tinh. Và những bức vẽ thi thể bị mổ phanh ra, những quả tim và nội tạng. Cậu nhóc này lộn xộn kinh khủng.”

“Cậu ta có nhắc tới địa điểm nào không?”

“Có chứ,” Rey đáp. “Chỉ có điều chúng dường như không ở trên trái đất.”

“Đây, thêm vài danh tính nữa,” Boling đưa cho Dance một tờ giấy chứa sáu cái tên cùng địa chỉ của họ.

Dance tìm các số điện thoại trong cơ sở dữ liệu của tiểu bang và gọi điện cho những người này, cảnh báo để họ biết mối đe dọa từ Travis.

Đúng lúc đó máy tính của cô báo hiệu có một email được gửi tới. Cô đọc thư, rất ngạc nhiên về tên người gửi. Michael O’Neil. Hẳn là phải đang thực sự rất bận bởi anh hiếm khi gửi tin nhắn cho cô, mà thích nói chuyện trực tiếp hơn.



K-

Ghét phải nói ra, nhưng vụ container đang thực sự nóng lên ghê gớm. TSA[2] và An ninh Nội địa đang lo lắng.

[2. Transportation Security Administrantion (Cục An ninh Vận tải), trực thuộc Bộ An ninh Nội địa Mỹ.]

Tôi vẫn sẽ giúp cô trong vụ Travis Brigham, thúc giục bên pháp y và tham gia khi tôi có thể, nhưng vụ này sẽ lấy mất hầu hết thời gian của tôi. Rất xin lỗi.

-M



Cuộc điều tra liên quan tới container được chuyển bằng đường biển từ Indonesia tới. Có vẻ anh không thể trì hoãn nó lâu hơn nữa. Dance vô cùng thất vọng. Tại sao lại là lúc này? Cô thở dài ngao ngán. Cảm thấy thật cô đơn. Dance nhận ra trong vụ án mạng ở Los Angeles chống lại J.Doe và cuộc điều tra liên quan tới những cây thập tự ven đường, cô và O’Neil đã gặp nhau gần như hằng ngày trong tuần vừa qua. Mức độ thường xuyên đó còn cao hơn mức trung bình giữa cô và chồng cô trước đây.

Cô thực sự mong muốn học hỏi thêm kinh nghiệm từ anh trong cuộc truy lùng Travis Brigham. Và Dance không hề cảm thấy ngượng ngùng thừa nhận rằng đơn giản chỉ là cô muốn có anh bên cạnh. Thật buồn cười khi chỉ những câu trò chuyện, những suy nghĩ và phán đoán được chia sẻ cũng có thể làm người ta phấn chấn đến thế. Nhưng cuộc điều tra anh phải phụ trách rõ ràng rất quan trọng, với cô thế là đủ. Cô hối hả gõ một câu trả lời nhanh.

“Chúc may mắn. Nhớ anh.”

Cô dùng phím xóa để xóa đi hai từ cuối cùng và dấu chấm. Rồi gõ lại: “Chúc may mắn. Nhớ giữ liên lạc.”

O’Neil biến mất khỏi tâm trí cô ngay sau đó.

Dance có một chiếc tivi nhỏ đặt trong phòng làm việc. Lúc này cô tình cờ liếc nhìn lên màn hình, và chớp mắt vì choáng váng. Một cây thập tự gỗ.

Liệu nó có liên quan gì tới cuộc điều tra không? Chẳng lẽ người ta đã tìm ra một cây nữa?

Thế rồi ống kính máy quay di chuyển và chĩa vào mục sư R. Samuel Fisk. Đó là một phóng sự về cuộc phản đối chết không đau đớn - sự việc đến lúc này, Dance nhận ra với trái tim trĩu nặng - đã chuyển sang tập trung vào mẹ cô. Cây thập tự đang nằm trong tay một người phản đối.

Cô bật âm thanh lên. Một phóng viên đang hỏi Fisk liệu có phải ông ta đã thực sự kêu gọi cần giết các bác sĩ thực hiện phá thai như Bản tin Chilton đã nói không. Với một cặp mắt đầy toan tính lạnh lùng đập vào mắt cô, người đàn ông mặc đồ mục sư nhìn chằm chằm vào máy quay và nói rằng lời nói của ông ta đã bị giới truyền thông tự do bóp méo.

Dance nhớ tới lời viện dẫn đến Fisk trên Bản tin. Cô không thể nghĩ ra một lời kêu gọi giết người nào thẳng thừng hơn thế. Cô rất tò mò muốn biết liệu Chilton có đăng thêm một bài kế tiếp không.

Cô tắt tiếng tivi. Dance và CBI cũng có những rắc rối riêng của họ với giới truyền thông. Thông qua rò rỉ thông tin, máy quét văn kiện hình ảnh và những cách thức chỉ có thể gọi là thần kỳ, báo chí biết được chi tiết các cuộc điều tra, câu chuyện về những cây thập tự xuất hiện báo trước án mạng cũng như một học sinh vị thành niên đang là đối tượng tình nghi, tất cả đều bị công khai. Những cuộc gọi hỏi về “Kẻ Sát Nhân Mặt Nạ”, “Kẻ Sát Nhân Mạng Xã Hội”, “Kẻ Sát Nhân với Cây thập tự ven đường” lúc này đang tràn ngập các đường dây liên lạc của CBI, bất chấp thực tế Travis đã không thực sự sát hại được hai nạn nhân đầu tiên nhắm tới, và cũng không có mạng xã hội nào trực tiếp can hệ vào vụ này.

Những cú điện thoại tiếp tục dội đến. Thậm chí cả người phụ trách khu vực vốn háo hức được có mặt trên truyền thông của CBI, theo như cách diễn đạt thông minh và bất cẩn của TJ, cũng bị “nhấn chìm”[3].

[3. Nguyên văn: Overbywhelmed. Cách chơi chữ không diễn đạt tương đương sang tiếng Việt được. TJ kết hợp giữa họ của Overby và overwhelmed – bị chìm ngập, áp đảo.]

Kathryn Dance xoay ghế của mình, nhìn chăm chăm ra cửa sổ về phía một thân cây xoắn xuýt vốn khởi đầu là hai cây riêng biệt rồi phát triển, dưới sức ép và thích nghi sinh tồn, thành một thân cây, mạnh mẽ hơn bất cứ thân cây riêng lẻ ban đầu nào. Một nút thắt đầy ấn tượng có thể thấy rõ nằm ngay bên ngoài cửa sổ, nơi cô vẫn thường tập trung ánh mắt vào như một hình thức thiền.

Lúc này cô không còn thời gian để suy ngẫm. Dance gọi cho Peter Bennington, tại phòng thí nghiệm pháp y của MCSO, hỏi về hiện trường tại nơi tìm thấy cây thập tự thứ hai và nhà Kelley Morgan.

Những bông hồng để lại được buộc bằng cùng một loại với thứ dây cao su sử dụng tại cửa hàng giao thức ăn tận nhà gần nơi Travis từng làm việc, song chúng không tiết lộ dấu vết nào hữu ích. Mẫu sợi Michael O’Neil lấy từ chiếc áo nỉ có mũ trùm màu xám trong giỏ đựng đồ giặt ở nhà Brigham quả thực gần như tương tự với mẫu sợi tìm thấy gần cây thập tự thứ hai, và mẩu giấy màu nâu tí xíu tìm thấy trong vạt rừng Ken Pfister đã chỉ cũng gần giống mẫu bao bì của một gói sô cô la M&M - loại kẹo cô biết Travis đã mua. Dấu vết ngũ cốc tại hiện trường có liên quan tới loại được dùng làm bánh vòng yến mạch tại Bagel Express. Tại nhà Kelley Morgan, cậu ta không để lại dấu vết hay bằng chứng vật chất nào ngoài một mảnh cánh hoa hồng đỏ trùng khớp với bó hoa để dưới chân cây thập tự thứ hai.

Chiếc mặt nạ được làm tại nhà, nhưng keo dán, giấy và mực để chế tạo ra nó đều là loại phổ thông, không thể lần ra nguồn gốc.

Loại khí dùng để sát hại Kelley Morgan là Chlorine - cũng chính là loại đã được sử dụng trong Thế chiến thứ nhất với hiệu quả cực kỳ tàn khốc. Dance nói với Bennington, “Có nguồn tin cho rằng cậu ta kiếm được nó từ một trang mạng Quốc xã mới.” Cô kể lại những gì được biết từ các bạn của Caitlin.

Trưởng phòng thí nghiệm pháp y tặc lưỡi. “Tôi lấy làm nghi ngờ đấy. Nhiều khả năng từ bếp nhà ai đó thì đúng hơn.”

“Cái gì?”

“Cậu ta sử dụng các sản phẩm tẩy rửa gia dụng,” ông ta giải thích rằng vài hợp chất đơn giản có thể tạo ra loại khí độc. Chúng đều có sẵn trong bất cứ cửa hàng tạp hóa hay bách hóa nào. “Nhưng chúng tôi không tìm thấy vỏ đồ đựng hay bất cứ thứ gì khác cho phép xác định được nguồn gốc.”

Không có thứ gì tại hiện trường hay khu vực lân cận cung cấp cho họ đầu mối về nơi cậu thiếu niên có thể tìm tới để lẩn trốn.

“Và David cũng mới vừa ghé qua nhà cô lúc trước.”

Dance do dự, không dám chắc ông ta đang nói đến ai. “David nào nhỉ?”

“Reinhold. Cậu ta làm bên đội Điều tra Hiện trường.”

À, cậu điều tra viên trẻ tuổi đầy nhiệt huyết đó.

“Cậu ta đã thu thập những cành cây bị bỏ lại sân sau nhà cô. Nhưng chúng tôi vẫn không thể chắc mấy cành cây đó do cố ý bỏ lại hay chỉ là tình cờ ngẫu nhiên. Không có dấu vết nào khác, cậu ta nói thế.”

“Cậu ta dậy sớm đấy. Tôi rời nhà lúc bảy giờ.”

Bennington bật cười. “Mới chỉ hai tháng trước thôi, cậu ta còn đang viết biên lai phạt chạy quá tốc độ với đội Tuần cảnh Xa lộ, và bây giờ tôi nghĩ cậu ta đang để mắt đến chỗ của tôi đấy. ”

Dance cảm ơn người phụ trách Điều tra Hiện trường và ngắt máy.

Đầy thất vọng, Dance chợt nhận ra cô đang nhìn vào bức ảnh chụp chiếc mặt nạ. Trông nó thật ghê sợ, tàn bạo và điên rồ. Cô nhấc điện thoại gọi đến bệnh viện hỏi thăm tình hình Kelley Morgan. Chưa có gì thay đổi, một y tá cho cô hay. Vẫn trong tình trạng hôn mê. Có thể cô bé sẽ sống sót, nhưng không ai trong số các nhân viên y tế sẵn sàng đưa ra dự đoán liệu cô bé có tỉnh lại hay không, hay nếu có thì liệu cô bé có thể trở lại cuộc sống bình thường như trước không.

Kathryn Dance thở dài ngắt máy.

Và vô cùng giận.

Cô lại vớ lấy điện thoại, tìm trong danh bạ và bấm thật mạnh vào các phím số.

TJ, ở ngay gần đó, trông thấy cử chỉ của Dance. Anh ta vỗ lên cánh tay Jon Boling và thì thào, “Trông kìa.”

James Chilton trả lời máy sau lần đổ chuông thứ ba.

“Tôi là Kathryn Dance, Cục Điều tra.”

Một quãng im lặng ngắn. Chilton hẳn đang nhớ lại đã từng gặp cô... và tự hỏi tại sao cô lại gọi cho ông ta. “Đặc vụ Dance. Vâng. Tôi nghe nói vừa có một vụ nữa.”

“Đúng. Chính vì thế tôi gọi cho ông, ông Chilton. Cách duy nhất cho phép chúng tôi cứu được nạn nhân - một nữ sinh trung học - là lần theo biệt danh trên mạng của cô bé. Đã phải mất rất nhiều thời gian và cần huy động nhiều người để tìm ra danh tính và địa chỉ nhà cô bé. Chúng tôi tới được nhà cô bé chừng nửa giờ trước khi cô bé chết hẳn. Mặc dù đã được cứu, song cô bé đang hôn mê và có thể sẽ không hồi phục được.”

“Tôi lấy làm tiếc.”

“Và có vẻ các cuộc tấn công sẽ còn tiếp tục,” cô cho ông ta biết về những bó hoa bị đánh cắp.

“Mười hai bó tất cả?” giọng người đàn ông lộ rõ vẻ lo ngại.

“Cậu ta sẽ không dừng lại cho tới khi đã giết hết những ai từng công kích cậu ta trên blog của ông. Tôi hỏi lại ông lần nữa, ông có đồng ý cho chúng tôi biết địa chỉ Internet của những người đã đăng bài không?”

“Không.”

Đồ mắc dịch. Dance gai người lên vì phẫn nộ.

“Vì nếu tôi làm thế, nó sẽ phá vỡ niềm tin trong khối óc mọi người. Tôi không thể phản bội độc giả của mình.”

Lại mấy lời đó. Cô lẩm bẩm, “Nghe tôi nói đây...”

“Làm ơn, đặc vụ Dance, hãy nghe tôi nói hết đã. Điều tôi có thể làm... hãy viết lại những thông tin này. Máy chủ của tôi đặt tại trung tâm Dịch vụ Internet California. Trụ sở nằm ở San Jose,” ông ta cho cô địa chỉ và số điện thoại, cũng như một đầu mối liên lạc cá nhân.

“Tôi sẽ gọi và cho họ biết ngay bây giờ rằng tôi không phản đối việc họ cung cấp cho cô địa chỉ của tất cả những người đăng bài. Nếu họ muốn một lệnh yêu cầu chính thức, đó là chuyện của họ, nhưng tôi sẽ không can thiệp.”

Dance im lặng. Cô không hoàn toàn chắc chắn về những ngụ ý liên quan tới kỹ thuật, song cô nghĩ ông ta vừa đồng ý với điều cô yêu cầu, trong khi cố giữ chút thể diện nhà báo cho mình.

“À... cảm ơn ông.”

Hai người ngắt liên lạc, và Dance quay sang gọi Boling, “Tôi nghĩ chúng ta có thể có các địa chỉ IP[4] rồi.”

[4. IP (Internet Protocol) address: Địa chỉ số cấp cho mỗi thiết bị kết nối vào mạng Internet.]

“Cái gì?”

“Chilton vừa đổi ý.”

“Tuyệt quá,” Boling nói, mỉm cười như một cậu nhóc vừa hay tin bố cậu ta đã mua được vé trong một trận đấu loại trực tiếp.

Dance đợi vài phút, sau đó gọi cho công ty cung cấp máy chủ. Cô vẫn nghi ngờ về cả khả năng Chilton đã gọi điện lẫn việc bản thân công ty dịch vụ chịu cung cấp thông tin mà không viện đến một cuộc giao tranh pháp lý. Nhưng thật ngạc nhiên, người đại diện mà cô liên lạc đã nói, “À, ông Chilton vừa gọi điện tới. Tôi có địa chỉ IP của những người đăng bài. Tôi được phép chuyển chúng tới một địa chỉ chấm gov[5]”.

[5. Đuôi tên miền của các cơ quan chính phủ (.gov).]

Cô mỉm cười hết cỡ và đọc cho người nhân viên công ty cung cấp máy chủ địa chỉ email của mình.

“Chúng được gửi đi rồi. Tôi sẽ quay lại blog vài giờ một lần để lấy địa chỉ những người đăng bài mới.”

“Anh là một vị cứu tinh... theo đúng nghĩa đen đấy.”

Người đàn ông nghiêm nghị nói, “Chuyện này liên quan tới cậu nhóc đang tìm cách trả thù những người khác, đúng không nào? Kẻ sùng bái Satan đó? Có đúng là người ta tìm thấy vũ khí sinh học trong tủ của cậu ta không?”

Cậu em ơi, Dance thầm nghĩ. Tin đồn đang lan đi còn nhanh hơn đám cháy ở Mission Hills mấy năm trước.

“Vào lúc này chúng tôi chưa rõ chuyện gì đang xảy ra.”

Luôn đưa ra những câu trả lời chung chung là nguyên tắc cốt lõi.

Họ ngắt liên lạc. Vài phút sau, máy tính của cô báo hiệu có email vừa gửi tới.

“Nhận được rồi,” Dance nói với Boling. Anh đứng dậy bước tới sau lưng cô, đặt một bàn tay lên lưng ghế, cúi người ra trước. Cô thoáng ngửi thấy mùi thơm dịu nhẹ của kem cạo râu. Thật dễ chịu.

“Tốt rồi. Tất nhiên chúng chỉ là địa chỉ điện tử thôi. Chúng ta sẽ phải liên lạc tới tất cả các nhà cung cấp dịch vụ để có được danh tính và địa chỉ thực tế. Tôi sẽ bắt tay ngay vào việc này.”

Cô in bản danh sách ra - nó bao gồm chừng ba mươi người - và đưa cho Boling. Anh lại quay về góc riêng của mình và ngồi xuống cắm cúi trước máy tính.

“Có thể có gì đó đây, sếp,” TJ đã đăng những bức ảnh chụp cái mặt nạ lên các trang web và blog để hỏi xem có ai biết gì về nguồn gốc của nó không. Anh ta đang đưa bàn tay luồn qua mái tóc đỏ lượn sóng của mình. “Vỗ vai tôi đi nào.”

“Có chuyện gì vậy?”

“Chiếc mặt nạ là của một nhân vật trong một trò chơi điện tử,” anh ta liếc mắt về phía nó. “Qetzal.”

“Cái gì?”

“Đó là tên của nhân vật đó. Hay thứ đó. Một con quái vật giết người bằng những tia chiếu từ đôi mắt của nó. Và nó chỉ có thể rên rỉ vì có người đã khâu miệng nó lại.”

Dance hỏi, “Vậy là nó báo thù những người có khả năng giao tiếp?”

“Tôi không thực sự làm một chương trình kiểu Bác sĩ Phil[6] về nó, sếp,” TJ nói.

[6. Dr. Phill, một chương trình truyền hình do Phil McGraw dẫn, cung cấp thông tin hữu ích về chăm sóc sức khoẻ.]

“Được lắm,” cô mỉm cười.

“Tên trò chơi,” TJ nói tiếp, “là DimensionQuest.”

“Nó là một Morpeg,” Boling lên tiếng, không buồn ngẩng đầu lên khỏi máy tính của anh.

“Nó là gì thế?”

“DimensionQuest là một M-M-O-R-P-G - trò chơi nhập vai trực tuyến có lượng người tham gia lớn. Tôi gọi chúng là các “Morpeg”. Và DQ[7] là một trong những trò phổ cập nhất.”

[7. Viết tắt của DimensionQuest.]

“Có hữu ích cho chúng ta không?”

“Tôi vẫn chưa biết. Chúng ta sẽ rõ khi xâm nhập được vào máy tính của Travis.”

Dance thích sự tự tin của vị giáo sư. “Khi”, chứ không phải là “Nếu”. Cô ngồi lại xuống ghế, lấy điện thoại di động ra và gọi cho mẹ. Không ai bắt máy.

Cuối cùng, cô thử gọi cho bố mình.

“Chào Katie.”

“Bố. Mẹ thế nào rồi ạ? Mẹ không hề gọi cho con.”

“À,” ông có chút do dự. “Bà ấy đang bực, tất nhiên rồi. Bố nghĩ chỉ đơn giản là mẹ con không có tâm trạng để trò chuyện với bất cứ ai.”

Dance tự hỏi mẹ cô đã nói chuyện với Bet, em gái cô, trong bao lâu tối qua.

“Sheedy có cho biết thêm điều gì khác không bố?”

“Chưa. Ông ấy nói đang thực hiện vài cuộc tìm kiếm.”

“Bố, mẹ có nói gì không? Lúc mẹ bị bắt ấy?”

“Với cảnh sát à?”

“Hoặc với Harper, người công tố viên?”

“Không.”

“Tốt.”

Cô cảm thấy bị thôi thúc muốn đề nghị ông chuyển máy cho mẹ cô. Nhưng cô không muốn bị từ chối nếu bà trả lời không. Dance vui vẻ nói, “Bố mẹ sẽ tới ăn tối cùng con chứ? Đúng không ạ?”

Bố cô cam đoan cả hai sẽ đến, dù ngữ điệu của ông thực sự chỉ có nghĩa là họ sẽ cố gắng.

“Con yêu bố. Nói với mẹ con cũng yêu mẹ nữa.”

“Tạm biệt, Katie.”

Hai người ngắt máy. Dance chăm chăm nhìn vào chiếc điện thoại trong vài phút. Sau đó cô đi qua sảnh tới văn phòng của sếp mình, bước vào không buồn gõ cửa.

Overby vừa gác điện thoại xuống. Ông ta hất hàm về phía nó. “Kathryn, có manh mối nào về vụ tấn công cô bé Morgan đó chưa? Hay về vũ khí sinh hóa chẳng hạn? Kênh tin tức Chín vừa gọi.”

Dance đóng cửa lại. Overby nhìn cô có vẻ không được thoải mái.

“Không có vũ khí sinh học nào hết, Charles. Chỉ có những tin đồn thôi.”

Dance lướt qua các đầu mối: chiếc mặt nạ, chiếc xe công tiểu bang, việc Caitlin Gardner cho biết Travis thích khu vực bờ biển, các hóa chất tẩy rửa gia dụng. “Và Chilton đã hợp tác. Ông ấy đồng ý cung cấp địa chỉ Internet của những người đăng bài.”

“Tốt đấy.”

Điện thoại của Overby lại đổ chuông. Ông ta đưa mắt về phía nó nhưng để người trợ lý nhấc máy.

“Charles, ông có biết mẹ tôi sẽ bị bắt giữ không?”

Ông ta chớp mắt. “Tôi... không, tất nhiên là không.”

“Harper đã nói những gì với ông?”

“Ông ta bảo đang rà soát lại các vụ điều tra,” những lời nói đầy vẻ gượng gạo, thủ thế. “Những gì tôi đã nói hôm qua.”

Nữ đặc vụ không dám chắc có phải ông ta đang nói dối hay không. Và hiểu lý do tại sao: Dance đang vi phạm nguyên tắc cơ bản nhất trong thẩm vấn hành vi ứng xử. Cô đang xúc động. Khi tình trạng này xảy ra, mọi kỹ năng của cô đều bất hoạt. Cô không còn biết liệu sếp của mình có đang lừa đảo hay không nữa.

“Ông ấy tìm kiếm trong các hồ sơ của chúng ta xem liệu tôi có thay đổi gì về tình trạng của Millar không.”

“Ồ, tôi không nghĩ vậy đâu.”

Căn phòng chìm trong căng thẳng.

Rồi sự căng thẳng cũng tan biến khi Overby chưng ra một nụ cười trấn an. “À, cô lo lắng thái quá rồi, Kathryn. Sẽ có một cuộc điều tra, và vụ này rồi sẽ được xếp lại. Không có gì phải lo ngại cả.”

Có phải ông ta biết gì đó không? Cô hối hả hỏi, “Sao ông lại nói vậy, Charles?”

Trông ông ta có vẻ ngạc nhiên. “Vì bà ấy vô tội, tất nhiên rồi. Mẹ cô chưa bao giờ làm ai tổn thương cả. Cô biết thế mà.”

~*~

Dance quay trở lại “Cánh nhà của các quý cô”, tới phòng làm việc cô bạn đồng nghiệp, đặc vụ Connie Ramirez. Người phụ nữ gốc La Tinh thấp người, gợi cảm với mái tóc đen nhánh luôn được chăm sóc tỉ mỉ đúng kiểu cách bằng keo xịt, là đặc vụ chăm chút nhất đến ngoại hình tại Tổng hành dinh khu vực và cũng là một trong những nhân viên nổi bật nhất trong toàn CBI. Cô bốn mươi tuổi đã được đề bạt vào những vị trí quản lý tại trụ sở CBI ở Sacramento, và cả FBI cũng mời cô, song cuộc sống gia đình Connie vốn gắn liền với những cánh đồng trồng rau diếp và atisô của vùng này từ lâu đời, không gì có thể khiến cô rời xa nguồn cội. Bàn làm việc của Connie hoàn toàn tương phản với góc bàn của Dance - gọn ghẽ, ngăn nắp. Những câu trích dẫn đóng khung được treo trên các bức tường, song những bức ảnh lớn nhất là hình chụp các con cô - ba cậu trai khỏe mạnh - cũng như Ramirez và chồng cô.

“Chào, Connie.”

“Mẹ em thế nào rồi?”

“Chị biết đấy.”

“Chuyện này thật lố bịch,” nữ đặc vụ nói với một chút khẩu âm đầy nhạc điệu.

“Thực ra chính vì chuyện đó mà em đến đây. Cần chị giúp một việc. Một việc rất quan trọng.”

“Bất cứ điều gì chị có thể làm, em biết mà.”

“Em đang nhờ Sheedy giúp.”

“À, tay chuyên gia hạ cớm.”

“Em cần tìm hiểu ngay một số chi tiết. Em đã hỏi Henry về danh sách người vào thăm ở bệnh viện hôm Juan chết nhưng ông ấy ngậm tăm.”

“Cái gì? Henry mà thế sao? Em là bạn ông ta cơ mà.”

“Harper làm ông ấy phát hoảng.”

Ramirez gật đầu ra vẻ hiểu chuyện. “Em muốn chị thử?”

“Nếu chị có thể.”

“Tất nhiên rồi, chị sẽ tới đó ngay khi hoàn tất xong buổi thẩm vấn nhân chứng này.”

Dance gõ lên tập hồ sơ của một vụ ma túy lớn cô đang phụ trách điều tra. “Chị là người bạn tốt nhất.”

Cô gái gốc La Tinh trở nên nghiêm chỉnh. “Chị biết bản thân sẽ cảm thấy thế nào nếu chuyện này xảy ra với mẹ mình. Chị sẽ tới đó và cắt cổ Harper.”

Dance khẽ mỉm cười trước lời tuyên bố của người phụ nữ nhỏ nhắn. Trong lúc quay lại phòng làm việc của mình, điện thoại Dance đổ chuông. Cô nhìn vào dòng chữ “Văn phòng Sở cảnh sát” trên danh tính cuộc gọi, hy vọng đó là O’Neil.

Nhưng không phải anh.

“Đặc vụ Dance,” người thanh tra xưng tên. “Tôi cần cho cô biết. Bên Tuần cảnh Xa lộ California vừa gọi tới. Tôi có một tin xấu.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18


James Chilton tạm cho phép mình có một quãng thời gian ngơi tay tránh xa sự nghiệp rũ bỏ tham nhũng và đồi bại khỏi thế giới.

Ông chủ Bản tin Chilton đang giúp một người bạn chuyển nhà.

Sau khi nhận được cuộc điện thoại từ MCSO, Kathryn Dance đã gọi tới tư gia cho Chilton, để rồi được Patrizia chỉ đường đến ngôi nhà kiểu trang trại California sơn màu be khiêm tốn này, tọa lạc ở ngoại ô Monterey. Dance đỗ lại gần một chiếc xe tải lớn của U-Haul[1], tháo tai nghe chiếc IPod ra rồi rời khỏi xe.

[1. Một hang cho thuê phương tiện chuyên chở và kho bãi có trụ sở ở Phoenix, Arizonz, Mỹ.]

Chilton mặc quần jean, áo phông và áo khoác nỉ, đang đánh vật với một chiếc ghế bành to tướng để bê nó lên các bậc cầu thang rồi vào trong ngôi nhà. Một người đàn ông với mái tóc cắt ngắn, mặc quần soóc và áo kiểu đấu thủ polo đang bê một chồng hộp và bước đi ngay sau lưng ông ta. Một tấm biển báo của Realtor[2] cắm ngoài sân trước quay chéo đi với dòng chữ thông báo “ĐÃ BÁN”.

[2. Tên đầy đủ là National Association of Realtors (NAR), hiệp hội thương mại lớn nhất và cũng là một trong những tổ chức vận động hành lang có quyền lực nhất Bắc Mỹ.]

Chilton quay ra từ cửa chính, bước theo hai bậc cấp xuống con đường rải sỏi, hai bên là những tảng đá và chậu cây nhỏ viền dọc lối đi. Ông bước tới chỗ Dance, đưa tay lên lau trán. Vì người đang đẫm mồ hôi và dính đầy bụi bặm nên Chilton chỉ gật đầu thay cho cái bắt tay. “Pat đã gọi cho tôi. Cô muốn gặp tôi đúng không, đặc vụ Dance? Lần này lại là về các địa chỉ Internet sao?”

“Không. Chúng tôi đã nhận được chúng rồi. Cảm ơn ông. Lần này là một việc khác.”

Người đàn ông còn lại đến bên họ, chăm chú nhìn Dance với ánh mắt vui vẻ và tò mò.

Chilton giới thiệu hai người với nhau. Ông ta là Donald Hawken.

Cái tên nghe thật quen. Rồi Dance nhớ ra: Ông này đã xuất hiện trên blog của Chilton trong chủ đề Trên sân nhà, ở phần cá nhân, cô tin là vậy. Không phải là một trong những bài viết gây nhiều tranh cãi. Hawken đang từ San Diego chuyển về sống ở Monterey.

“Có vẻ hôm nay là ngày của những cuộc di chuyển,” cô nói.

Chilton giải thích, “Đặc vụ Dance đang điều tra vụ án liên quan tới các bài đăng trên Bản tin.”

Hawken, một người rám nắng khỏe khoắn, cau trán đầy thông cảm. “Và theo tôi được biết lại có thêm một cô gái nữa bị tấn công. Chúng tôi đang nghe tin tức.”

Dance vẫn kín tiếng như thường lệ về khía cạnh tiết lộ thông tin, thậm chí cả với các đối tượng có liên quan. Cô vào thẳng vấn đề, “Tôi muốn ông tạm thời đóng cửa Bản tin lại.”

“Cái gì?”

“Cho tới khi chúng tôi bắt được cậu ta.”

Chilton bật cười. “Thật lố bịch.”

“Ông đã đọc các bài bình luận chưa?”

“Đó là blog của tôi. Tất nhiên tôi đã đọc qua chúng.”

“Những bài viết được đăng lên đang trở nên thậm chí còn hằn học hơn. Đừng cung cấp cho Travis thêm mục tiêu nữa.”

“Nhất định không được. Tôi sẽ không để mình bị bịt miệng.”

“Nhưng Travis lấy tên các nạn nhân từ blog. Cậu ta đọc bài viết của họ, truy tìm nỗi sợ hãi, điểm dễ bị tổn thương nhất của những người đó. Lần mò ra nơi họ sinh sống.”

“Người ta không nên viết về bản thân mình trên những trang dành cho cộng đồng trên Internet. Tôi từng dành riêng cả một bài dài nói về vấn đề này rồi.”

“Có thể đúng là thế, song sự thật là họ vẫn đã và đang làm thế,” Dance cố kiểm soát tâm trạng tuyệt vọng của mình. “Làm ơn hãy hợp tác cùng chúng tôi.”

“Tôi đã hợp tác với các vị rồi. Đó là mức xa nhất tôi sẵn lòng thực hiện.”

“Liệu tạm dừng blog của ông trong vài ngày có thể gây tổn hại gì được chứ?”

“Và nếu sau vài ngày đó các vị vẫn chưa tìm ra Travis?”

“Cho nó hoạt đồng trở lại như cũ.”

“Hoặc cô sẽ quay lại đây và nói hãy chờ thêm vài ngày nữa, rồi sau đó lại thêm vài ngày nữa.”

“Ít nhất hãy thôi không cho bình luận vào chủ đề đó nữa. Cậu ta sẽ không có thêm cái tên nào để nhắm tới nữa. Điều này sẽ giúp công việc của chúng tôi được dễ dàng hơn.”

“Trấn áp chẳng bao giờ dẫn tới thứ gì tốt đẹp,” Chilton lẩm bẩm, chăm chú nhìn thẳng vào mắt cô. Kẻ rao giảng đạo lý đã quay trở lại.

Kathryn Dance vứt bỏ chiến thuật ve vãn cái tôi của Chilton như Jon Boling gợi ý. Cô phẫn nộ gằn giọng, “Ông đang trưng ra những câu khẩu hiệu phô trương mắc dịch. ‘Tự do’. ‘Sự thật’. ‘Trấn áp’. Travis đang tìm cách giết người. Lạy Chúa, hãy nhìn thẳng vào sự thật như nó vốn có. Vứt hết mấy thứ chính trị chết tiệt ấy đi.”

Chilton bình thản trả lời, “Công việc của tôi là duy trì một diễn đàn mở cho công chúng bày tỏ quan điểm. Đó là nội dung Tu chính án số Một[3]... Tôi biết, cô sắp sửa nhắc nhở tôi rằng cô cũng từng là phóng viên và sẵn sàng hợp tác nếu cảnh sát cần trợ giúp. Nhưng cô thấy đấy, đó là sự khác biệt. Cô gắn với lợi ích của kẻ giàu có, với các nhà quảng cáo, với túi tiền mà bất cứ vị lãnh đạo nào của cô đang nhắm đến. Còn tôi không lệ thuộc vào ai cả.”

[3. Tu chính án bảo vệ quyền Tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do họp hội, và kiến nghị.]

“Không phải tôi đang yêu cầu ông thôi không đưa tin về các tội ác nữa. Hãy viết ra những gì làm trái tim ông hài lòng. Có điều đừng cho phép thêm bất cứ bình luận nào nữa. Vì dù sao cũng chẳng ai cung cấp được thêm chút thực tế nào. Những kẻ này chỉ đang viết những gì họ thích. Và một nửa trong số đó chỉ đơn thuần là sai sự thật rành rành. Chúng toàn là những tin đồn, những suy đoán, những lời huênh hoang rỗng tuếch.”

“Và những suy nghĩ của họ không hợp pháp chăng?” ông ta hỏi, nhưng không hề tức giận.

Trên thực tế, dường như cuộc tranh luận đang làm ông ta thích thú.

“Quan điểm của họ không đáng tính đến chăng? Chỉ những người biết viết lách lưu loát và có giáo dục, hay những nhân vật ôn hòa mới được phép bình luận thôi phải không? Ồ, vậy thì, chào mừng cô đến với thế giới mới của nghề báo, đặc vụ Dance. Sự trao đổi tự do các ý tưởng. Cô thấy đấy, nó không còn liên quan tới những tờ báo lớn của cô, tới những Bill O’Reilly[4] hay Keith Olbermann[5] của cô nữa. Nó nói về công chúng. Không, tôi sẽ không tạm dừng hoạt động của blog và cũng không khóa bất cứ chủ đề nào lại hết,” ông ta liếc mắt về phía Hawken, người đang đánh vật để bê một chiếc ghế bành nữa ra từ sau xe tải. Chilton nói với Dance, “Bây giờ, mong cô thứ lỗi.”

[4. Phóng viên, nhà báo của tạp chí FoxNews.]

[5. Phóng viên, nhà báo của truyền hình MSNBC – Kênh vệ tinh cung cấp tin tức chính trị.]

Ông ta bước về phía xe tải với bộ dạng, theo kết luận của cô, trông giống như một người tử vì đạo trên đường đến pháp trường, sau khi vừa thở ra những lời huênh hoang rỗng tuếch về một sự nghiệp mà ông ta, dẫu chẳng còn ai khác, nhiệt thành tin tưởng.

~*~

Giống những người khác sống tại khu vực Bán đảo Monterey - nghĩa là tất cả ai khác trên sáu tuổi và có khả năng tiếp cận với các phương tiện truyền thông - Lyndon Strickland biết rất rõ về vụ Cây thập tự ven đường.

Và cũng giống như rất nhiều người đọc Bản tin Chilton, ông ta thấy phẫn nộ.

Người luật sư bốn mươi mốt tuổi chui ra khỏi xe và khóa cửa lại. Ông chuẩn bị thực hiện cữ tập chạy hằng ngày vào buổi trưa dọc theo một con đường ở gần Seventeen Mile Drive, tuyến đường đẹp đẽ xuyên suốt từ Pacific Grove tới Carmel, đi ngang qua khu nhà của các ngôi sao điện ảnh và giám đốc điều hành các công ty, cũng như sân golf Pebble Beach.

Ông nghe thấy những tiếng động phát ra từ quá trình thi công tuyến xa lộ mới chạy về phía đông tới Salinas và khu vực các trang trại. Tuyến đường được xây dựng rất nhanh. Strickland đại diện cho vài chủ nhà có tài sản bị giải tỏa. Ông đã chống lại chính quyền tiểu bang bao gồm Công ty Avery Construction khổng lồ, cùng cả đội quân chuyên gia tư pháp đao to búa lớn của họ. Và chẳng mấy ngạc nhiên, vị luật sư đơn độc đã thua kiện, chỉ mới tuần trước. Song thẩm phán vẫn bảo lưu vấn đề phá hủy nhà các thân chủ của ông lại chờ ngày phán quyết của phiên xử kháng cáo. Tay luật sư đứng đầu bào chữa cho bên bị, tới từ San Francisco, đã tái mặt.

Lyndon Strickland, về phần mình, đã phấn khích đến ngất ngây.

Màn sương mù đang tới gần, thời tiết se lạnh, chỉ có mình ông trên con đường, và bắt đầu chạy bộ.

Phẫn nộ. Strickland có đọc qua những gì người ta đang nói trên blog của James Chilton. Travis Brigham là một cậu nhóc tâm thần tôn thờ những kẻ sát nhân tại Columbine và Đại học Bách khoa Virginia, từng quấy rối các cô gái vào ban đêm, từng có lần suýt làm chính Sammy, em trai cậu ta, chết ngạt và khiến cậu bé này bị chậm phát triển, cũng chính cậu thiếu niên đó đã cố ý lái xe lao xuống vách núi vài tuần trước trong một nghi lễ tự sát - giết người kỳ quái, làm hai cô gái bị chết.

Thế quái nào tất cả mọi người lại không để ý thấy những dấu hiệu nguy hiểm dứt khoát phải bộc lộ ra nơi cậu ta chứ? Bố mẹ cậu ta, thầy cô giáo... Bạn bè.

Hình ảnh chiếc mặt nạ trên mạng sáng hôm đó vẫn làm ông cảm thấy rùng mình sởn gai ốc. Một cơn ớn lạnh chạy khắp người ông, không khí lạnh lẽo ẩm thấp cũng chỉ là một phần nguyên nhân.

Kẻ Sát Nhân Mặt Nạ...

Và bây giờ cậu ta đang tự do ngoài kia, ẩn nấp trên những ngọn đồi của hạt Monterey, lần lượt tấn công từng người một trong vô số kẻ đã đăng bài viết tiêu cực về cậu ta.

Strickland thường xuyên đọc Bản tin Chilton. Nó được đưa vào đường dẫn RSS của ông, ở ngay gần trên cùng. Ông không nhất trí với tác giả trong một số vấn đề, song ông chủ blog luôn tỏ ra chừng mực và luôn đưa ra những lý lẽ vững chắc, có học thức để biện minh cho quan điểm của mình. Chẳng hạn, cho dù Chilton thẳng thừng phản đối phá thai bằng bài bình luận chỉ trích tay mục sư Fisk lập dị, người đã kêu gọi giết chết các bác sĩ thực hiện việc này. Thì Strickland, người thường xuyên đại diện cho Hội Làm Cha Mẹ Có Kế Hoạch và các tổ chức ủng hộ sinh sản có lựa chọn khác, vẫn rất ấn tượng với bài bình luận hài hòa của Chilton.

Hay như chuyện Chilton phản đối kế hoạch xây dựng nhà máy khử mặn nước biển, giống với Strickland, từng gặp gỡ một khách hàng tiềm năng mới - một nhóm hoạt động vì môi trường muốn thuê ông đâm đơn kiện đòi chấm dứt việc thực hiện kế hoạch đó. Strickland vừa mới đăng bình luận ủng hộ chủ nhân Bản tin Chilton.

Lúc này, Strickland đang chạy về phía ngọn đồi nhỏ, chính là đoạn khó nhằn nhất trong cữ chạy của ông. Từ đó trở lên, con đường chỉ toàn chạy xuôi xuống đồi. Vã mồ hôi, nghe tim đập... và cảm thấy sự hồ hởi do bài tập đem lại.

Khi ông tiến bước, có một vật chợt lọt vào mắt ông. Một đốm đỏ lóe lên cạnh con đường và hàng loạt chuyển động nhốn nháo gần sát mặt đất. Cái gì thế nhỉ? Ông tự hỏi. Ông vòng lại, dừng đồng hồ bấm giây của mình rồi từ tốn bước qua các tảng đá tới chỗ đã nhìn thấy đốm màu đỏ thẫm, nổi bật trên nền đất cát xen kẽ những thân cây màu nâu và xanh lục mọc lưa thưa.

Tim ông tiếp tục đập thình thịch trong lồng ngực, bây giờ là vì sợ chứ không phải do dốc sức. Ông lập tức nghĩ ngay đến Travis Brigham. Nhưng cậu ta chỉ nhắm tới những kẻ đã công kích mình trên mạng. Ông chẳng hề viết gì liên quan cả... Thật nhẹ nhõm.

Dẫu vậy, lúc ông lần theo lối mòn tới chỗ các chuyển động và những chấm đỏ, Strickland vẫn lấy điện thoại di động ra khỏi túi, sẵn sàng bấm 911 nếu có bất cứ mối đe dọa nào.

Vị luật sư nheo mắt nhìn xuống trong lúc lại gần khoảng trống. Ông đã trông thấy cái gì vậy?

“Mẹ kiếp,” ông lẩm bẩm, cứng đờ như bị đóng băng.

Trên mặt đất là những miếng thịt đặt giữa vô số cánh hoa hồng được rắc ra rải rác. Ba con chim to xấu xí - kền kền, ông đoán vậy - đang hối hả xé toang các miếng thịt một cách đầy đói khát. Ngay cạnh đó là một khúc xương đỏ lòm máu. Vài con quạ đang thận trọng mon men lại gần, chộp lấy một miếng rồi hối hả rút lui.

Strickland nheo mắt, nhô người ra trước khi ông nhận thấy một vật khác nằm chính giữa khung cảnh hỗn loạn.

Không!... Một cây thập tự đã được vạch xuống nền đất cát.

Ông hiểu ngay Travis Brigham đang ở đâu đó quanh đây. Tim đập loạn nhịp, ông đảo mắt quan sát các bụi cây, gốc cây và ụ đất. Cậu ta có thể ẩn nấp ở bất cứ chỗ nào. Và đột nhiên việc Lyndon Strickland chưa bao giờ bình luận bất cứ điều gì về cậu ta chẳng còn đem đến chút khác biệt nào nữa.

Và khi hình ảnh chiếc mặt nạ quái gở được để lại như một biểu tượng cho cuộc tấn công hiện lên rõ mồn một nơi tâm trí, Strickland quay người, bắt đầu bỏ chạy trở lại con đường ông vẫn thường tập luyện.

Ông mới chỉ chạy được ba mươi mét trước khi nghe thấy tiếng ai đó lao ra khỏi các bụi cây và bắt đầu tiến thật nhanh về phía mình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19


Jon Boling ngồi trong phòng làm việc của Dance, trên chiếc ghế dài lún võng xuống. Hai ống tay áo chiếc sơ mi màu xanh sẫm kẻ sọc được xắn cao lên. Giáo sư có hai điện thoại đồng thời hoạt động trong lúc nhìn chăm chăm vào những tờ giấy với nội dung được in ra từ blog của Chilton. Anh đang nỗ lực tìm kiếm địa chỉ thực tế từ những dữ liệu Internet được công ty dịch vụ máy chủ cung cấp.

Anh kẹp một chiếc điện thoại Samsung giữa tai và vai, vừa ghi thông tin vừa gọi lớn, “Tìm thêm được một địa chỉ nữa. SexyGurl là Kimberly Rankin, số 128 Forest, Pacific Grove.”

Dance ghi lại các thông tin rồi gọi điện tới cảnh báo cho cô bé - cũng như bố mẹ cô - về mối nguy hiểm và thẳng thừng yêu cầu cô bé ngừng ngay đăng bài lên Bản tin, cả các bạn cô cũng nên làm thế.

Cách này thì sao đây, Chilton?

Boling chăm chú nhòm vào màn hình máy tính phía trước mặt. Dance nhìn sang và nhận ra anh đang cau mày.

“Có chuyện gì vậy?” cô hỏi.

“Các bình luận trả lời đầu tiên trên chủ đề Cây thập tự ven đường hầu hết là của những người ở địa phương, bạn học và cư dân quanh khu vực Bán đảo Monterey. Còn bây giờ dân tình từ khắp nơi trong nước, quỷ tha ma bắt, từ khắp nơi trên thế giới, đang đổ xô vào. Bọn họ thực sự đang vồ vập cậu ta, và cả Tuần cảnh Xa lộ hay bên cảnh sát vì không tiến hành điều tra sau vụ tai nạn. Bọn họ cũng đang bới móc cả CBI nữa.”

“Chúng tôi?”

“Phải. Có người nói một đặc vụ CBI tới nhà thẩm vấn Travis nhưng lại không bắt giữ cậu ta.”

“Làm thế nào bọn họ biết Michael và tôi đã ở đó?”

Anh chỉ tay về phía máy tính. “Bản chất của con quái vật là thế. Thông tin lan rộng. Có những người ở Warsaw, Buenos Aires, New Zealand.”

Dance quay lại với báo cáo điều tra hiện trường về cây thập tự mới nhất tìm thấy bên một con đường vắng vẻ nằm ở khu vực thưa thớt dân cư ở phía bắc Monterey. Không có nhân chứng. Và không có nhiều thứ được tìm thấy tại đây, ngoại trừ dấu vết cùng loại với những gì được tìm thấy tại hiện trường những lần trước, cho thấy mối liên hệ của Travis với hành vi tội ác. Nhưng có một khám phá có xem chừng sẽ hữu ích. Mẫu đất có lẫn một ít cát không thể tìm thấy ở khu vực gần quanh cây thập tự. Tuy vậy, không thể lần ngược nguồn gốc thứ cát này tới một địa điểm cụ thể.

Trong lúc ngồi soát lại những chi tiết, cô không khỏi băn khoăn suy nghĩ, ai sẽ là nạn nhân tiếp theo của trò dọa dẫm này?

Liệu Travis đã tiếp cận người đó chưa?

Và lần này cậu ta sẽ sử dụng cách thức khủng khiếp nào để hù dọa và giết nạn nhân đây? Dường như cậu ta ưa thích tạo ra những cái chết từ từ, như thể để bù lại cả quá trình lâu dài bị hành hạ mà cậu ta đã phải trải qua dưới tay những kẻ bắt nạt trên mạng.

Boling nói, “Tôi có thêm một cái tên nữa.” Anh đọc to lên cho Dance. Cô hối hả ghi lại.

“Cảm ơn,” cô mỉm cười nói.

“Cô nợ tôi một phù hiệu Junior G-Man[6] đấy.”

[6. Một phong trào hoạt động xã hội cho thiếu niên phát triển mạnh vào những năm 1930 và 1940, do Melvin Purvis, một cựu đặc vụ FBI khởi xướng.]

Trong khi Boling gật đầu và cúi người về phía những ghi chú của mình thêm lần nữa, anh khẽ nói thêm vài từ. Có thể chỉ do cô tưởng tượng ra, nhưng mấy lời này nghe như thể anh bắt đầu nói, “Hoặc một bữa tối”, nhưng nhanh chóng nuốt lại trước khi chúng kịp thoát ra khỏi miệng.

Do trí tưởng tượng mà thôi, cô kết luận. Và quay lại với điện thoại của mình.

Boling ngồi xuống. “Về danh tính, đó là tất cả cho tới lúc này. Những người đăng bài còn lại không sống trong khu vực, hoặc có địa chỉ không thể lần ra được. Nhưng nếu chúng ta không thể tìm được họ, Travis cũng không thể.”

Anh vươn vai và ngả người ra sau.

“Không giống một ngày làm việc bình thường tại trường của ông, phải không nào?” Dance hỏi.

“Chính xác thì không,” anh ném về phía cô một cái nhìn bỡn cợt. “Đây có phải là một ngày đặc trưng trong thế giới của lực lượng thực thi luật pháp không?”

“Ừm, không, không phải.”

“Tôi đoán đó là tin tốt.”

Điện thoại của Dance rung lên. Cô nhìn thấy số máy lẻ nội bộ của CBI.

“TJ.”

“Sếp...”

Như đã từng xảy ra hơn một lần vào thời gian gần đây, thái độ bằng vai phải lứa đặc trưng của đặc vụ trẻ hoàn toàn vắng bóng. “Sếp đã biết chưa?”

~*~

Tim Dance thoáng đập rộn lên giây lát khi cô thấy Michael O’Neil tại hiện trường.

“Chào,” cô nói, “Tôi cứ nghĩ mình mất anh rồi cơ.”

Người thanh tra thoáng sững sờ trước câu chào hỏi. Sau đó anh trả lời, “Đang xoay xở cả hai vụ. Nhưng một hiện trường vụ án,” anh hất hàm về phía một dải băng phong tỏa của cảnh sát đang lật phật, “luôn là ưu tiên.”

“Cảm ơn.”

Jon Boling tới cạnh họ. Dance đã đề nghị anh đi cùng. Cô nghĩ anh có thể giúp ích theo nhiều cách. Gợi ra các ý tưởng chẳng hạn, vì cô tin Michael O’Neil hẳn sẽ vắng mặt.

“Chuyện gì đã xảy ra vậy?” cô hỏi anh.

“Để lại một chút dàn cảnh để làm nạn nhân chết khiếp,” anh đưa mắt nhìn lên phía trên con đường mòn, “sau đó truy đuổi theo ông ta xuống dưới này. Và bắn nạn nhân.” Dance cảm thấy O’Neil đang định cung cấp thêm chi tiết nhưng rồi dừng lại, có lẽ vì sự có mặt của Boling.

“Ở đâu?”

O’Neil chỉ tay. Không nhìn thấy được thi thể từ chỗ họ đứng.

“Tôi sẽ chỉ cho cô quan cảnh hiện trường ban đầu,” anh dẫn cô và Boling dọc theo con đường chạy bộ. Sau khi đi lên sườn một quả đồi thấp chừng hai trăm mét, ba người bắt gặp một lối mòn ngắn dẫn tới một khoảng trống. Họ chui qua dải băng phong tỏa màu vàng và thấy những cánh hoa hồng rải trên mặt đất cùng một cây thập tự được vạch xuống nền cát. Xung quanh có những mảnh thịt vứt vương vãi và cả vết máu. Một khúc xương. Có vết móng chân trên nền đất, dường như là của kền kền và quạ.

O’Neil nói, “Là xương thịt động vật, bên Kiểm tra Hiện trường nói vậy. Nhiều khả năng là bò, mua từ cửa hàng. Tôi phỏng đoán rằng nạn nhân đang chạy theo con đường ngoài kia, nhìn thấy cảnh tượng này và sau đó rẽ vào xem. Ông ta phát hoảng và bỏ chạy. Travis bắt kịp ông ta ở quãng nửa đường xuống đồi.”

“Tên nạn nhân là gì?”

“Lyndon Strickland. Ông ta là luật sư. Sống ngay gần đây.”

Dance nheo mắt. “Đợi đã. Strickland? Tôi nghĩ ông ta đã đăng gì đó lên blog.”

Boling mở ba lô lấy ra chừng một tá giấy tờ, bản in nội dung từ các trang blog. “Đúng thế. Nhưng không phải trong Những Cây thập tự ven đường. Ông ta viết một bài trả lời về dự án nhà máy khử mặn nước biển. Ông ta ủng hộ Chilton.”

Anh đưa cô tờ giấy:



Trả lời Chilton, do Lyndon Strickland đăng.

Phải nói rằng ông đã giúp tôi mở mắt trước vấn đề này. Tôi không hề biết có người đang mưu toan thực hiện trò nguy hiểm đó. Tôi đã xem lại hồ sơ đề xuất tại Phòng Kế hoạch của hạt, và dù là một luật sư quen thuộc với các vấn đề môi trường thì đây cũng là một trong những mớ hồ sơ mơ hồ khó hiểu nhất tôi từng đọc qua. Tôi nghĩ chúng ta cần nhiều chứng cứ minh bạch hơn nữa để có thể tranh luận một cách có ý nghĩa về vấn đề này.



Dance thắc mắc, “Làm thế nào Travis biết được ông ta ở đây? Nơi này rất vắng vẻ.”

Boling nói, “Đây là những tuyến đường để chạy bộ. Tôi cá là Strickland đã đăng bài trên một diễn đàn hay blog đề cập đến việc ông hay tập chạy ở đây.”

Chúng ta để lộ ra quá nhiều thông tin về bản thân trên mạng. Quá quá nhiều.

O’Neil bày tỏ nghi vấn, “Tại sao cậu nhóc lại giết ông ta?”

Boling dường như đang cân nhắc điều gì đó.

“Có gì vậy, Jon?”, Dance hỏi.

“Chỉ là một suy nghĩ thôi, nhưng cô nhớ là Travis tham gia những trò chơi điện tử đó chứ?”

Dance giải thích với O’Neil về trò chơi nhập vai trực tuyến có lượng thành viên rất lớn mà Travis tham gia.

Vị giáo sư tiếp tục, “Một đặc trưng của trò chơi là sự trưởng thành. Nhân vật của bạn sẽ phát triển và lớn lên, những cuộc chinh phục ngày càng mở rộng. Bạn cần phải làm thế, nếu không sẽ không thể thành công được. Theo phương thức cổ điển đó, tôi nghĩ Travis rất có thể đã mở rộng mục tiêu. Đầu tiên, đó là những người trực tiếp công kích cậu ta. Còn bây giờ, cậu ta thêm vào cả một người từng ủng hộ Chilton, cho dù ông này chẳng liên quan gì tới chủ đề Những Cây thập tự ven đường.”

Boling cúi xuống, nhìn những mẩu thịt và dấu chân chim trên cát.

“Điều đó làm lượng đối tượng có thể trở thành nạn nhân tăng vọt theo hàm số mũ. Nghĩa là sẽ có thêm hàng chục người nữa đang gặp nguy hiểm lúc này. Tôi sẽ bắt đầu kiểm tra địa chỉ IP của tất cả những ai từng đăng gì đó có vẻ ủng hộ Chilton dù chỉ thoáng qua.”

Thêm một tin không phấn khởi chút nào.

“Bây giờ chúng tôi sẽ kiểm tra thi thể, Jon,” Dance nói. “Anh nên quay lại xe đi.”

“Hẳn là vậy rồi,” Boling trông có vẻ nhẹ nhõm khi không phải tham gia vào phần này của cuộc điều tra.

Dance và O’Neil đi bộ qua các đụn cát tới nơi thi thể được tìm thấy. “Vụ điều tra khủng bố tiến triển thế nào rồi? Vụ án Container ấy?”

O’Neil mệt mỏi bật cười. “Tiếp tục được tiến hành. Với sự góp mặt của An ninh Nội địa, rồi FBI, Hải quan, một vũng lầy. Câu đó là gì nhỉ, vươn lên càng cao áp lực càng lớn phải không? Đôi khi tôi muốn quay lại ngồi vào một chiếc xe tuần cảnh đi chìa biên lai phạt.”

“Người ta gọi đó là ‘mức độ bất tài’. Và không, anh căm ghét phải quay lại với chiếc xe tuần cảnh.”

“Đúng vậy,” anh ngừng lời. “Mẹ cô thế nào rồi?”

Lại là câu hỏi đó. Dance định đưa ra một khuôn mặt rạng rỡ như mặt trời mùa hạ, nhưng rồi nhớ ra cô đang nói chuyện với ai. Cô hạ giọng. “Michael, bà không hề gọi cho tôi. Khi người ta tìm thấy Pfister và cây thập tự thứ hai, tôi mới rời khỏi tòa án. Thậm chí tôi còn chẳng kịp nói gì với bà. Mẹ tôi bị tổn thương. Tôi biết thế.”

“Cô đã tìm cho bà một luật sư - một trong những người giỏi nhất ở khu vực Bán đảo Monterey. Và ông ấy đã giúp mẹ cô được thả, phải không nào?”

“Phải.”

“Cô đã làm mọi thứ có thể. Đừng lo lắng về chuyện đó. Chắc bà đang lánh xa cô. Vì lợi ích của cuộc điều tra này.”

“Có thể.”

Anh nhìn cô rồi bật cười. “Nhưng cô đâu có tin là thế. Cô đang bị thuyết phục rằng bà giận cô. Rằng bà nghĩ cô bỏ rơi bà.”

Dance nhớ tới khi mình còn nhỏ, vào một vài dịp đối đầu trực diện hay trong tư tưởng, người phụ nữ kiên cường ấy lại trở nên lạnh lùng xa cách. Khi ấy bố Dance thỉnh thoảng thường bông đùa gọi bà là “thượng sĩ”.

“Các bà mẹ và những cô con gái,” O’Neil tư lự thành tiếng, như thể biết chính xác cô đang nghĩ gì.

Khi hai người tới chỗ thi thể, Dance gật đầu với những nhân viên từ văn phòng điều tra các trường hợp tử vong bất thường, họ đang để một cái túi đựng xác màu xanh lục xuống bên cạnh nạn nhân. Người chụp ảnh hiện trường vừa mới xong việc. Strickland nằm sấp, mặc bộ đồ tập chạy lúc này đã sũng máu. Ông ta bị bắn từ đằng sau. Một phát vào lưng, một phát vào đầu.

“Và còn có cái này nữa,” một trong các nhân viên pháp y vén chiếc áo nỉ lên, để lộ một hình vẽ được xăm vào lưng nạn nhân: Nét phác thảo thô kệch một khuôn mặt, rất có thể là chiếc mặt nạ. Qetzal, con quỷ trong trò chơi DimensionQuest. Nhiều khả năng O’Neil không muốn nhắc tới chi tiết này trước mặt Boling.

Dance lắc đầu. “Xăm sau khi nạn nhân chết phải không?”

“Đúng thế.”

“Có nhân chứng nào không?”

“Không,” một nhân viên MCSO nói. “Có công trường thi công xa lộ cách đây nửa dặm. Họ nghe thấy tiếng súng nổ và gọi điện báo. Không ai trông thấy gì.”

Một nhân viên đội Điều tra Hiện trường gọi lại, “Không tìm thấy bằng chứng vật chất đáng kể nào, thưa chánh thanh tra.”

O’Neil gật đầu và cùng Dance quay trở ra chỗ xe của họ.

Dance để ý thấy Boling đang đứng cạnh chiếc Audi của anh, siết chặt hai bàn tay phía trước và hai vai dường như hơi nhô lên. Những dấu hiệu rõ ràng của sự căng thẳng. Những cảnh án mạng luôn gây cho bạn phản ứng đó.

Cô nói, “Cảm ơn anh vì đã tới đây, Jon. Điều đó cao hơn và vượt quá đòi hỏi của nghĩa vụ. Nhưng có được suy nghĩ của anh là rất hữu ích.”

“Tất nhiên rồi,” nghe như anh đang cố tỏ ra cứng cỏi. Cô thầm hỏi đã bao giờ anh đến hiện trường một vụ án chưa.

Điện thoại của cô đổ chuông. Dance trông thấy tên và số điện thoại của Charles Overby trên mục danh tính người gọi. Lúc trước cô đã gọi cho ông ta thông báo về vụ án mạng này. Giờ đây, nữ đặc vụ sẽ phải báo cho sếp của mình là nạn nhân không hề công kích ai trên mạng, một nạn nhân vô tội thực sự đứng bên ngoài. Điều này sẽ làm cả khu vực trở nên hoảng loạn hơn nữa.

“Charles.”

“Kathryn, cô đang ở hiện trường vụ mới nhất phải không?”

“Đúng thế. Có vẻ như...”

“Cô có bắt được thằng nhóc không?”

“Không. Nhưng...”

“Được rồi, chi tiết để sau. Có chuyện vừa xảy ra. Cô hãy quay về đây càng sớm càng tốt.”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom