Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
622,673
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


"Vậy ra đây là cô Kathryn Dance,” một bàn tay to lớn hồng hào nắm trọn lấy tay cô, giữ chặt lấy nó cho đến khi hoàn thành thủ tục xã giao, rồi sau đó buông ra.

Thật lạ, cô thầm ghi nhận. Ông ta không nhấn mạnh nhiều vào mạo từ như trông đợi. Không phải là cô Kathryn Dance. Mà giống như: Vậy ra đây là nữ đặc vụ đó.

Hay, đây là cái ghế.

Nhưng Dance bỏ qua biểu hiện kỳ lạ đó vì phân tích ngôn ngữ cơ thể lúc này không phải là ưu tiên: Người đàn ông trước mặt cô không phải đối tượng tình nghi, mà trên thực tế lại có quan hệ với sếp cao cấp nhất của CBI. Trông bề ngoài của Hamilton Royce - một người đàn ông ngoài năm mươi tuổi, đang làm việc tại văn phòng Chưởng lý tiểu bang ở Sacramento - như một hậu vệ của đội bóng trường đại học bước vào chính trị hay kinh doanh. Ông ta trở lại chiếc ghế của mình trong phòng làm việc của Overby, Dance cũng ngồi xuống. Royce giải thích ông ta là một thanh tra.

Dance liếc nhìn Overby. Ông ta bối rối ghé mắt về phía Royce, có thể vì e dè hoặc tò mò hay cả hai, chẳng cung cấp thêm bất cứ điều gì khác cho phép làm rõ hơn bản mô tả công việc hay nhiệm vụ của vị khách.

Dance vẫn còn bực về sự bất cẩn, nếu không muốn nói là bất lương của sếp mình khi tiếp tay cho Robert Harper vụng trộm lục soát kho lưu trữ hồ sơ của CBI.

Vì bà ấy vô tội, tất nhiên rồi. Mẹ cô chưa bao giờ làm ai bị tổn thương. Cô biết mà…

Dance tập trung sự chú ý vào Royce.

“Ở Sacramento, chúng tôi đã được nghe nhiều điều rất tốt về cô. Tôi hiểu chuyên môn của cô là ngôn ngữ cơ thể.”

Người đàn ông vai rộng, với mái tóc đen chải ngược ra sau, đang mặc một bộ vest bóng mượt, có màu xanh biển tựa màu áo hải quân, và do đó gợi cho người ta nghĩ tới một bộ đồng phục.

“Tôi chỉ là một nhân viên điều tra. Tôi có xu hướng sử dụng việc phân tích ngôn ngữ cơ thể nhiều hơn phần lớn người khác.”

“À, cô ấy đã trả lời rồi, Charles, bộc lộ mình thật nhanh chóng. Ông đã nói cô ấy sẽ làm vậy.”

Dance nở một nụ cười thận trọng, tự hỏi chính xác thì Overby đã nói gì và ông ta đã thận trọng đến mức nào trong việc đưa ra hay giữ lại lời khen dành cho một thuộc cấp. Dấu hiệu của các cuộc phỏng vấn công việc và thăng cấp, tất nhiên rồi. Khuôn mặt sếp của cô vẫn không để lộ gì. Cuộc sống đôi lúc trở nên nặng nề biết chừng nào khi bạn cảm thấy không chắc chắn.

Royce tiếp tục vui vẻ nói, “Vậy cô có thể quan sát tôi và nói cho tôi biết tôi đang nghĩ gì. Chỉ từ cách tôi khoanh tay, việc tôi nhìn vào đâu, có đỏ mặt hay không. Hãy tìm tới những bí mật của tôi.”

“Chuyện đó lại phức tạp hơn một chút,” cô vui vẻ nói.

“À.”

Trên thực tế, cô đã đi đến một bản tóm lược sơ bộ về tính cách. Ông ta là một người suy nghĩ, cảm nhận hướng ngoại. Và nhiều khả năng có một tính cách nói dối “Kiểu Machiavelli điển hình”. Và do đó Dance trở nên cảnh giác.

“Được rồi, thực sự chúng tôi đã nghe được những điều tốt đẹp về cô. Vụ điều tra hồi đầu tháng, với kẻ điên khùng đó tại khu Bán đảo Monterey ở đây phải không nào? Đó là một vụ khó khăn. Song cô vẫn tóm được hắn.”

“Chúng tôi đã gặp vài tình cờ may mắn khi phá án.”

“Không, không,” Overby hối hả xen vào, “không hề có tình cờ hay may mắn. Cô ấy đã thắng trong cuộc đấu trí với hắn.”

Và Dance nhận ra khi nói tới “may mắn”, cô đã gợi ý tới một sự phê phán nhằm vào chính mình, văn phòng CBI ở Monterey và Overby.

“Chính xác thì ông đang làm gì, Hamilton?”

Cô sẽ không dùng đến cách xưng hô khẳng định rõ địa vị “Ngài Hamilton”, không phải trong một tình huống như lúc này.

“Ồ, một anh chàng đa năng. Một người chuyên khắc phục rắc rối. Nếu có rắc rối liên quan tới các cơ quan công quyền của tiểu bang, văn phòng thống đốc, nghị viện, hay thậm chí tòa án, tôi sẽ để mắt xem xét, viết một bản báo cáo,” một nụ cười xuất hiện. “Rất nhiều báo cáo. Tôi hy vọng chúng được đọc. Ta chẳng bao giờ biết được.”

Dường như câu nói này không phải để trả lời câu hỏi của cô. Dance nhìn đồng hồ, một cử chỉ Royce trông thấy nhưng Overby thì không. Đúng như cô dự kiến.

“Hamilton có mặt ở đây vì vụ Chilton,” Overby nói, sau đó nhìn người đàn ông từ Sacramento tới để xem liệu có phải mọi thứ vẫn ổn hay không, rồi quay trở lại Dance. “Hãy báo cáo tình hình cho chúng tôi,” ông ta nói như một thuyền trưởng.

“Tất nhiên rồi, Charles,” Dance thận trọng trả lời, để ý cả giọng điệu sếp mình lẫn điều ông nói “trường hợp của Chilton”. Cô cứ tưởng họ sẽ đề cập đến vụ Cây thập tự ven đường. Hay vụ Travis Brigham. Giờ đây cô đã mơ hồ hiểu ra tại sao Royce có mặt ở đây.

Dance thuật lại vụ sát hại Lyndon Strickland - cách thức thực hiện vụ án và sự hiện diện của nạn nhân trên blog của Chilton.

Royce cau mày. “Vậy là cậu ta đã mở rộng đối tượng mục tiêu?”

“Phải, chúng tôi nghĩ vậy.”

“Có bằng chứng không?”

“Tất nhiên, có vài bằng chứng. Nhưng không có gì cụ thể dẫn tới nơi ẩn náu của Travis. Chúng tôi đang có một lực lượng nghiệp vụ hỗn hợp từ Tuần cảnh Xa lộ và Sở Cảnh sát hạt tiến hành truy lùng thủ phạm,” nữ đặc vụ lắc đầu. “Họ vẫn chưa có nhiều tiến triển. Thủ phạm không lái xe mà đi xe đạp, và cậu ta luôn khép kín,” cô nhìn sang Royce. “Chuyên gia tư vấn của chúng tôi nghĩ rằng cậu ta đã sử dụng những kỹ năng đào tẩu học được trong các trò chơi trực tuyến để tránh khỏi truy bắt.”

“Ai vậy?”

“Jon Boling, một giáo sư từ Đại học California - Santa Cruz. Anh ấy đã rất có ích.”

“Và anh ta tình nguyện giúp đỡ, không tính phí chúng tôi,” Overby chen vào thật trơn tru, như thể từng từ đều được tra dầu.

“Còn về cái blog này,” Royce chậm rãi nói. “Chính xác thì nó có liên quan như thế nào?”

Dance giải thích, “Một số bài viết đã làm cậu thiếu niên nổi khùng. Cậu ấy bị công kích trên mạng.”

“Vậy là cậu ta cắn trả.”

“Chúng tôi đang làm tất cả những gì có thể để tìm ra Travis,” Overby nói. “Cậu ta không thể ở đâu xa được. Khu vực này là một bán đảo nhỏ.”

Royce không bộc lộ gì nhiều. Song Dance có thể thấy từ đôi mắt đầy tập trung của ông ta, rõ ràng vị khách không chỉ đang tìm hiểu về tình hình của Travis Brigham mà còn gọn gàng nhét nó vào mục đích chính của ông ta khi hiện diện tại đây.

Điều cuối cùng ông ta cũng nhắc tới.

“Kathryn, ở Sacramento mọi người đang rất quan ngại về vụ này, tôi cần phải cho cô biết thế. Tất cả bọn họ đều đang sôi lên. Vụ này động chạm tới giới trẻ vị thành niên, máy tính, các mạng xã hội. Bây giờ lại thêm cả vũ khí nữa. Không thể không khiến người ta liên tưởng tới Đại học Bách Khoa Virginia và Columbine. Có vẻ như đám thanh niên ở Colorado đó là thần tượng của cậu ta.”

“Tin đồn. Tôi không biết chuyện đó đúng hay sai. Nó được một người, có thể quen biết Travis mà cũng có thể không, đăng lên blog.”

Từ cái nhướng mày và đôi môi co lại của ông ta, Dance nhận ra vừa vô tình giúp Royce một tay. Với những người như Hamilton Royce, bạn không bao giờ có thể biết chắc liệu mọi thứ đang diễn ra thẳng thắn, hay bạn luôn phải dè chừng.

“Cái blog này... Tôi đã trao đổi với Chưởng lý tiểu bang về nó. Chúng tôi lo rằng chừng nào mọi người còn đăng bài trên đó, chuyện này sẽ giống như đổ thêm dầu vào lửa. Cô hiểu ý tôi muốn nói gì chứ? Giống như một trận lở tuyết vậy. Được rồi, hãy pha trộn hai cách ví von của tôi, nhưng cô hiểu ý tôi rồi đấy. Điều chúng tôi đang nghĩ là: Liệu tốt hơn blog này có nên tạm ngừng hoạt động không?”

“Thực ra tôi đã đề nghị Chilton làm thế.”

“Ồ, thật vậy sao?” Overby hỏi. “Và ông ta đã nói gì?”

“Dứt khoát từ chối. Tự do báo chí.”

Royce mỉa mai, “Chỉ là một blog thôi mà. Đâu phải Chronicle hay Wall Street Journal.”

“Ông chủ Bản tin không cảm thấy thế,” Dance hỏi, “Có ai tại Văn phòng Chưởng lý tiểu bang liên lạc,với ông ta chưa?”

“Chưa. Nếu yêu cầu từ Sacramento tới, chúng tôi lo ngại Chilton sẽ viết gì đó về chủ đề này. Và việc đó sẽ lan tràn trên báo chí và truyền hình. Trấn áp. Kiểm duyệt. Những dư luận kiểu đó rất có thể sẽ đến tai thống đốc hay vài nghị sĩ. Không, chúng tôi không thể làm vậy.”

“Thế đấy, ông ta đã từ chối,” Dance nhắc lại.

“Tôi chỉ đang băn khoăn,” Royce chậm rãi bắt đầu, ánh mắt ông ta chăm chú soi mói Dance, “liệu cô đã tìm ra điều gì đó có liên quan tới ông ta, một thứ giúp thuyết phục ông ta hay chưa?”

“Cây gậy và củ cà rốt[7]?” cô nhanh chóng hỏi lại.

[7. Một loại chính sách ngoại giao trong quan hệ quốc tế, thường được dùng bởi các nước lớn mạnh nhằm thay đổi hành vi của các nước nhỏ hơn. “Cây gậy” tượng trưng cho sự đe doạ trừng phạt, “củ cà rốt” tượng trưng cho quyền lợi hay phần thưởng.]

Royce không nén được cười. Những người hiểu biết nhanh nhạy khiến ông ta ấn tượng. “Chilton có vẻ không phải loại người ưa cà rốt, theo những gì cô vừa kể với tôi.”

Nghĩa là chuyện mua chuộc sẽ không ăn thua. Điều Dance biết chắc là đúng sau khi đã thử qua. Nhưng Chilton cũng chẳng phải loại dễ dọa. Trên thực tế, ông ta dường như thuộc dạng người hứng thú với chúng hơn. Một bài viết sẽ xuất hiện ngay trên blog của ông ta, thuật lại bất cứ đe dọa nào được tung ra.

Bên cạnh đó, dù cô không ưa Chilton và cho rằng ông ta là kẻ kiêu ngạo luôn tự cho mình là đúng, thì việc sử dụng điều cô biết được từ một cuộc điều tra để áp chế người khác phải im lặng cũng không hay ho gì. Trong mọi trường hợp, Dance cũng có thể thành thật trả lời, “Tôi chẳng tìm thấy gì hết. Bản thân James Chilton là một phần rất nhỏ trong vụ án. Thậm chí ông ta còn chẳng viết gì liên quan tới Travis, và đã xóa tên cậu ta đi. Mục đích của chủ đề Những Cây thập tự ven đường là chỉ trích cảnh sát và sở giao thông. Chính những người đọc sau đó đã bắt đầu công kích cậu ta.”

“Vậy là không có gì phạm pháp, không có gì chúng ta có thể sử dụng.”

Sử dụng. Một lựa chọn động từ thật kỳ lạ.

“Không.”

“Chà, tiếc thật,” Royce có vẻ thực sự thất vọng. Overby cũng nhận thấy điều này và bản thân ông ta trông cũng đầy thất vọng.

Overby nói, “Hãy tiếp tục chú ý tới việc này, Kathryn.”

Giọng Dance đầy ngao ngán. “Chúng tôi đang dốc hết sức để tìm ra kẻ tình nghi, Charles.”

“Tất nhiên. Chắc vậy rồi. Nhưng theo khía cạnh tổng thể vụ án…” Phần cuối câu nói của ông ta chìm nghỉm.

“Thì sao?” Dance sắc giọng hỏi. Cơn giận về chuyện Robert Harper lại nổi lên.

Cẩn thận đấy, cô tự căn dặn bản thân.

Overby mỉm cười theo một cách chỉ đem đến chút âm hưởng nhạt nhòa. “Theo khía cạnh tổng thể của vụ án, sẽ hữu ích cho tất cả mọi người nếu có thể thuyết phục được Chilton ngừng blog của ông ta lại. Hữu ích cho chúng ta và cả Sacramento nữa. Chưa nói tới việc giữ an toàn tính mạng cho những người đăng bài.”

“Chính xác,” Royce nói. “Chúng tôi lo ngại sẽ có thêm nạn nhân.”

Tất nhiên Chưởng lý tiểu bang và Royce phải lo lắng về chuyện đó. Nhưng bọn họ cũng đang lo tới việc báo chí chỉ trích tiểu bang vì đã không làm mọi thứ cần thiết để ngăn chặn kẻ sát nhân.

Để kết thúc cuộc gặp và quay lại làm việc, Dance chỉ đơn thuần tán thành. “Nếu tôi thấy thứ gì ông có thể sử dụng, Charles, tôi sẽ báo cho ông biết.”

Royce chớp mắt. Overby hoàn toàn không nhận ra cử chỉ đầy mỉa mai ấy và mỉm cười. “Tốt.”

Đúng lúc điện thoại của cô rung lên với một tin nhắn vừa tới. Dance xem màn hình, khẽ kêu lên và đưa mắt nhìn Overby.

Royce hỏi, “Có chuyện gì vậy?”

Dance nói, “James Chilton vừa bị tấn công. Tôi phải đi đây.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
622,673
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Dance hối hả bước vào khu vực nhận bệnh nhân cấp cứu tại bệnh viện vịnh Monterey.

Cô bắt gặp TJ đứng giữa tiền sảnh, bộ dạng hết sức bối rối. “Sếp,” anh ta vừa nói vừa nặng nhọc thở hắt ra, nhẹ nhõm khi thấy cô.

“Ông ấy thế nào?”

“Sẽ ổn cả thôi.”

“Có bắt được Travis không?”

“Không phải cậu ta gây ra vụ này,” TJ nói.

Vào đúng lúc ấy, hai cánh cửa phòng cấp cứu bật mở và James Chilton, má băng bó, bước nhanh ra. “Hắn tấn công tôi!” Chilton chỉ tay về phía một người đàn ông mặc vest có khuôn mặt hồng hào, thân hình vạm vỡ. Ông ta đang ngồi cạnh cửa sổ. Đứng cạnh người đàn ông là một nhân viên cảnh sát hạt đô con. Không bận tâm chào đón, Chilton chỉ vào người đàn ông nọ và gắt lên với Dance, “Bắt hắn đi.”

Trong lúc đó, người đàn ông kia bật dậy. “Hắn. Tôi muốn hắn phải vào tù!”

Viên cảnh sát lẩm bẩm, “Ông Brubaker, làm ơn ngồi xuống.” Anh ta nói đủ nghiêm khắc để người đàn ông do dự, ném một cái nhìn đe dọa về phía Chilton rồi ngồi phịch xuống cái ghế làm bằng sợi thủy tinh.

Anh ta bước tới cạnh Dance, thuật lại cho cô hay những gì đã xảy ra. Nửa giờ trước, Arnold Brubaker đang có mặt ở địa điểm dự kiến xây dựng nhà máy khử mặn nước biển cùng một nhóm khảo sát. Ông ta bắt gặp Chilton đang chụp ảnh các loài động vật sinh sống tại đó. Brubaker tìm cách giật máy ảnh của Chilton và hất ông ta ngã xuống đất. Các thành viên nhóm khảo sát đã gọi cảnh sát.

Vết thương, theo Dance đánh giá, có vẻ không mấy nghiêm trọng.

Song Chilton có vẻ như đang lên cơn. “Gã đó đang hủy hoại bán đảo Monterey. Hắn đang hủy hoại tài nguyên thiên nhiên của chúng ta. Hệ động vật và thực vật của chúng ta. Chưa kể tới phá hoại một khu nghĩa địa của người Ohlone.”

Các thổ dân Ohlone là những cư dân đầu tiên tại khu vực này của California.

“Chúng tôi không hề định xây cất gì ở gần khu đất của bộ lạc đó cả!” Brubaker hét lên. “Đó là một tin đồn. Và hoàn toàn không đúng!”

“Nhưng mật độ giao thông ra vào khu vực sẽ...”

“Và chúng tôi đang chi ra hàng triệu để di dời các quần thể động vật cũng như...”

“Cả hai người,” Dance quát lên, “Im lặng.”

Tuy vậy, Chilton tiếp tục lao theo quán tính của ông ta. “Hắn còn đập vỡ máy ảnh của tôi nữa. Giống như bọn Quốc xã vậy.”

Brubaker đáp lại bằng một nụ cười lạnh lùng, “James, tôi tin ông là người đã vi phạm pháp luật trước khi cố tình xâm phạm vào lãnh địa tư. Chẳng phải bọn Quốc xã cũng làm thế sao?”

“Tôi có quyền đưa tin về việc hủy hoại nguồn tài nguyên của chúng ta.”

“Và tôi...”

“Được rồi,” Dance gằn giọng, “Thôi ngay!”

Cả hai cùng im lặng trong khi cô được cập nhật những chi tiết của các hành động phạm pháp khác nhau từ viên cảnh sát. Cuối cùng, cô tới cạnh Chilton. “Ông xâm phạm vào lãnh địa tư. Đó là hành vi phạm pháp.”

“Tôi...”

“Im lặng. Còn ông, ông Brubaker, đã tấn công ông Chilton, một hành vi trái pháp luật trừ khi ông ở trong tình trạng có nguy cơ bị nguy hiểm từ một kẻ xâm nhập. Giải pháp là phải gọi cảnh sát.”

Brubaker tức muốn bốc hỏa, nhưng ông ta vẫn gật đầu. Có lẽ do bực bội vì tất cả những gì đã làm chỉ là thụi vào má Chilton. Miếng băng trên mặt có vẻ quá nhỏ.

“Tình trạng hiện tại là cả hai vị đều có những hành vi phạm pháp nhỏ. Nếu các vị muốn thưa kiện, tôi sẽ ra lệnh bắt. Nhưng sẽ là cả hai người. Một vì xâm nhập bất hợp pháp, một vì tấn công hành hung người khác. Thế nào?”

Đỏ mặt tía tai, Brubaker bắt đầu phàn nàn, “Nhưng ông ta...”

“Các vị trả lời thế nào?” Dance hỏi với vẻ bình thản đáng e ngại khiến ông ta im bặt ngay lập tức.

Chilton cau có gật đầu. “Được thôi.”

Cuối cùng, với vẻ thất vọng rõ mồn một trên khuôn mặt, Brubaker lẩm bẩm với Dance, “Được. Nhất trí thôi. Nhưng thế thật không công bằng! Làm việc cả bảy ngày một tuần suốt năm vừa qua, cố gắng để giúp loại trừ hạn hán. Cuộc sống của tôi là thế đấy. Còn ông ta, ngồi ì trong phòng làm việc và chỉ trích tôi, trong khi chẳng thèm nhìn vào thực tế. Mọi người đọc những gì ông ta viết trên blog và nghĩ chúng đúng sự thật. Làm cách nào tôi có thể đối phó với chuyện đó được? Viết một blog cho chính mình ư? Ai có thời gian chứ?” Brubaker buông một tiếng thở dài rồi quay ra phía cửa chính.

Sau khi ông ta đi khỏi, Chilton nói với Dance, “Hắn xây nhà máy đó không phải xuất phát từ một trái tim nhân ái. Vụ làm ăn đó cho phép kiếm bộn tiền, và đó là mối bận tâm duy nhất của hắn. Tôi đã nghiên cứu kỹ lưỡng về câu chuyện này.”

Ông ta im bặt khi Dance quay sang nhìn mình, và nhận ra vẻ mặt tối sầm của cô. “James, chắc ông vẫn chưa biết tin. Lyndon Strickland vừa bị Travis Brigham sát hại.”

Chilton sững người trong giây lát. “Lyndon Strickland, người luật sư hả? Cô chắc chứ?”

“Tôi e là vậy.”

Đôi mắt chủ blog đang nhìn quanh sàn nhà khu cấp cứu, được lát gạch men màu xanh lục và trắng, lau chùi sạch bóng nhưng đã bị mài mòn sau bao năm dưới những bàn chân luôn hối hả. “Nhưng Lyndon đăng bài về mối đe dọa của nhà máy khử mặn nước biển, không phải về Những cây thập tự ven đường. Không, Travis không thể có gì bất bình với ông ấy. Phải là một người khác. Lyndon đã làm rất nhiều người khó chịu. Ông ấy là một luật sư chuyên đại diện cho bên nguyên đơn và luôn tham gia vào những vụ việc gây nhiều tranh cãi.”

“Bằng chứng không cho phép còn chút nghi vấn nào nữa. Chính là Travis.”

“Nhưng tại sao?”

“Chúng tôi nghĩ vì ông ấy đăng bài ủng hộ ông. Việc ở một chủ đề khác không còn quan trọng nữa. Chúng tôi nghĩ Travis đang mở rộng mục tiêu.”

Chilton đón nhận tin này với vẻ im lặng nặng nề, sau đó hỏi, “Chỉ vì ông ấy đã đăng bài đồng ý với tôi về chuyện gì đó?”

Cô gật đầu. “Và việc đó dẫn tôi tới một khả năng mà tôi vẫn lo lắng từ trước. Có thể Travis đang rình rập ông.”

“Nhưng cậu ta có lý do gì để nhằm vào tôi? Tôi chẳng nói lời nào về cậu ta cả.”

Dance nói tiếp. “Cậu ta đã nhắm vào người từng ủng hộ ông. Và lý do của việc mở rộng diện tấn công đó là cậu ta căm giận cả ông nữa.”

“Cô thực sự nghĩ vậy sao?”

“Tôi nghĩ chúng tôi không thể cho phép mình bỏ qua khả năng đó.”

“Nhưng gia đình tôi...”

“Tôi đã ra lệnh cho một xe công vụ trực bên ngoài nhà ông. Một nhân viên từ Sở Cảnh sát hạt.”

“Cảm ơn cô... cảm ơn. Tôi sẽ gọi điện bảo Pat và lũ trẻ cẩn thận để ý tới mọi thứ bất thường.”

“Ông không sao chứ?” cô hất hàm về phía miếng băng bó.

“Chả là gì cả.”

“Ông cần đưa về nhà không?”

“Pat sắp tới đón tôi.”

Dance đưa mắt nhìn ra ngoài. “À, vì Chúa, hãy để Brubaker yên.”

Đôi mắt Chilton nheo lại. “Nhưng cô có biết những hậu quả kế hoạch đó sẽ gây ra...” Ông ta im bặt và giơ hai tay lên ra dấu chịu thua. “Được rồi, được rồi. Tôi sẽ tránh xa đất của ông ta.”

“Cảm ơn.”

Dance bước ra ngoài và mở điện thoại. Nó đổ chuông ba mươi giây sau đó. Michael O’Neil. Cô thấy phấn chấn khi nhìn số của anh hiện lên.

“Chào.”

“Tôi vừa nghe báo cáo. Về Chilton. Ông ta bị tấn công hả?”

“Ông ta không sao,” cô thuật lại những gì đã xảy ra.

“Xâm nhập bất hợp pháp. Hợp với ông ta đấy. Tôi đã gọi về văn phòng Sở. Họ đang tập hợp báo cáo điều tra hiện trường từ chỗ Strickland bị bắn. Tôi đã giục họ làm nhanh. Nhưng không tìm được gì hữu ích cả.”

“Cảm ơn,” Dance hạ giọng xuống, và tự thấy thú vị vì điều đó, rồi kể cho O’Neil cuộc gặp kỳ cục với Hamilton Royce.

“Tuyệt. Càng lắm đầu bếp càng hỏng súp.”

“Tôi đang muốn quẳng hết bọn họ vào nồi súp,” Dance thì thầm. “Và bật lửa thật to.”

“Tay Royce này muốn đóng cửa blog?”

“Phải. Tôi đoán là lo lắng về quan hệ với công chúng.”

O’Neil nói, “Tôi gần như thấy ái ngại cho Chilton.”

“Thử dành mười phút với ông ta xem, anh sẽ cảm thấy khác liền.” O’Neil tặc lưỡi. “Kiểu gì tôi cũng đang định gọi cho anh, Michael. Tối nay tôi đã bảo bố mẹ tôi tới cùng ăn tối. Mẹ tôi cần được động viên. Tôi rất vui nếu anh có thể đến,” cô nói thêm. “Anh cùng Anne và các cháu.”

Một thoáng im lặng. “Tôi sẽ cố. Tôi thực sự đang ngập đầu trong vụ Container này. Còn Anne đã đi San Francisco. Một phòng trưng bày sắp tổ chức buổi triển lãm những bức ảnh chụp gần đây của cô ấy.”

“Thật thế sao? Ấn tượng quá.”

Dance nhớ lại cuộc nói chuyện chiều hôm trước về chuyến đi sắp diễn ra của Anne O’Neil lúc hai người định cùng ăn sáng sau cuộc gặp với Ernie Seybold. Dance có vài quan điểm khác nhau về người phụ nữ này, trong đó tích cực nhất là về tài năng của cô ấy với tư cách nhiếp ảnh gia.

Hai người ngắt liên lạc, Dance tiếp tục đi tới chỗ chiếc xe của cô, vừa đi vừa lấy tai nghe iPod ra. Cô cần một chút âm nhạc. Cô lướt qua danh sách bài hát, cố gắng cân nhắc giữa nhạc La Tinh hay Celtic thì điện thoại di động của cô lại rung. Người gọi là Jonathan Boling.

“Chào,” cô nói.

“Chilton bị tấn công, chuyện này đang làm xôn xao cả CBI ở đây. Việc gì xảy ra vậy? Ông ta không sao chứ?”

Nữ đặc vụ thuật lại cho anh các tình tiết. Jon lấy làm nhẹ nhõm khi không có ai bị thương tích nghiêm trọng, song từ giọng nói, cô có thể đoán chắc anh có tin gì đó muốn báo.

Cô liền im lặng, và Boling hỏi, “Kathryn, cô đang ở gần văn phòng chứ?”

“Tôi không định quay lại đó. Tôi sẽ đi đón các con và quay về làm việc tại nhà,” cô không nói với anh chuyện muốn tránh mặt Hamilton Royce và Overby. “Sao vậy?”

“Có mấy việc. Tôi có danh sách những người đã đăng bài ủng hộ Chilton. Tin tốt, tôi đoán thế, là không có nhiều người lắm. Chuyện này cũng điển hình thôi. Trên các blog luôn có nhiều người phản đối hơn ủng hộ.”

“Hãy gửi email danh sách đó cho tôi, và tôi sẽ gọi điện thoại cho họ từ nhà mình. Còn gì không?”

“Trong khoảng một giờ nữa chúng ta sẽ xâm nhập được vào máy tính của Travis.”

“Thật sao? Ồ, thế thì hay quá,” Tiffany hay Bambi[1] có vẻ là một hacker rất cừ.

[1. Dance ám chỉ mối quan hệ của Boling với các sinh viên.]

“Tôi sẽ sao ổ cứng của cậu ta sang một ổ đĩa riêng. Tôi nghĩ cô sẽ muốn xem qua.”

“Tất nhiên rồi.” Dance chợt nảy ra một ý nghĩ. “Anh có kế hoạch nào tối nay chưa?”

“Chưa, tôi đã tạm hoãn những kế hoạch đạo chích của mình lại trong lúc giúp các vị.”

“Vậy hãy mang máy tính tới nhà tôi. Tôi có mời bố mẹ và mấy người bạn tới ăn tối.”

“À được, tất nhiên rồi.”

Cô cho anh địa chỉ và hẹn thời gian.

Hai người ngừng liên lạc.

Lúc Dance đứng cạnh xe của mình trong bãi đỗ của bệnh viện, cô trông thấy vài điều dưỡng viên và y tá đi làm về. Họ chăm chú nhìn cô.

Dance quen biết một ít trong số họ và mỉm cười. Một hai người gật đầu chào lại, song với thái độ hờ hững, nếu không nói là lạnh lùng. Tất nhiên rồi, cô thầm nhận ra, họ hẳn đang nghĩ: Mình đang nhìn con gái một người phụ nữ có thể đã giết người.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
622,673
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


"Con sẽ mang đồ,” Maggie tuyên bố trong khi chiếc Pathfinder của Dance dừng bánh trước cửa nhà.

Cô bé gần đây đã bắt đầu suy nghĩ một cách độc lập. Cô bé cầm lấy túi lớn nhất trong bốn cái. Sau khi Dance qua nhà Martine đón hai đứa trẻ, họ đã ghé vào Safeway để thực hiện một chiến dịch mua sắm cấp tốc. Nếu tất cả những người cô mời đều có mặt thì bữa tối sẽ có hơn mười người tham dự, trong đó gồm cả những cô cậu thiếu niên với sức ăn đáng nể.

Nghiêng người sang bên dưới sức nặng của hai cái túi cầm trên cùng một tay - một hành động thể hiện đúng kiểu ông anh - Wes hỏi mẹ cậu, “Khi nào bà đến ạ?”

“Lát nữa, mẹ hy vọng là thế... Cũng có khả năng bà không đến được.”

“Không, bà đã nói sẽ đến.”

Dance mỉm cười bối rối. “Con đã nói chuyện với bà?”

“Vâng, bà gọi điện đến trại cho con.”

“Cả cho con nữa,” Maggie chen vào.

Vậy là mẹ cô đã gọi điện cho các cháu để trấn an chúng rằng bà vẫn ổn. Nhưng khuôn mặt Dance chợt đỏ bừng. Sao mẹ không gọi điện cho cô?

“À, thật tuyệt vì bà có thể đến được.”

Họ mang các túi đồ vào trong nhà.

Dance đi vào phòng ngủ của cô, có Patsy đi theo tháp tùng.

Cô liếc mắt về phía hộp đựng súng có khóa. Travis đang mở rộng diện đối tượng tấn công của cậu ta. Cậu thiếu niên còn biết cô là một trong những nhân viên cảnh sát truy lùng mình. Và cô cũng không quên cây thập tự - rất có thể là một lời đe dọa - ở sân sau nhà tối hôm trước. Dance quyết định giữ vũ khí bên mình. Cô luôn rất khó tính về chuyện để vũ khí trong nhà có trẻ con, nên để nó vào một chiếc hộp rồi khóa lại trong vài phút để đi tắm. Dance hối hả cởi đồ ra thật nhanh và bước vào dưới dòng nước nóng, cố gắng một cách vô vọng để gột rửa đi những dư vị còn lại của ngày hôm nay.

Dance mặc quần jean cùng một chiếc áo sơ mi quá cỡ, không cho vào trong quần để che lấp khẩu súng đeo áp sau lưng. Cảm giác đó không mấy thoải mái, song lại đem tới cảm giác yên tâm. Sau đó cô hối hả vào bếp.

Cô cho lũ chó ăn và dàn xếp ổn thỏa một cuộc xung đột nhỏ giữa hai đứa trẻ, lúc đó đang chành chọe nhau về việc thực hiện những việc vặt chuẩn bị cho bữa tối. Dance cố gắng kiên nhẫn vì cô biết các con mình đã bị chấn động đến mức nào vì biến cố xảy ra ở bệnh viện hôm qua. Việc của Maggie là bỏ các thứ mua về từ trong túi đựng ra, trong khi Wes thu dọn nhà cửa chuẩn bị đón khách. Dance tiếp tục phải kinh ngạc trước việc một ngôi nhà có thể trở nên chật chội đến mức nào, thậm chí dù chỉ có ba người sống tại đây.

Lúc này, như vẫn thường xuyên làm, Dance lại nhớ về quãng thời gian khi ngôi nhà vẫn còn bốn thành viên, rồi đưa mắt nhìn lên bức ảnh cưới của cô. Bill Swenson, với mái tóc sớm ngả xám, xương xương cùng nụ cười thoải mái, đang nhìn thẳng vào ống kính máy ảnh trong khi quàng một cánh tay ôm lấy cô.

Sau đó, cô vào phòng riêng, bật máy tính lên và gửi mail cho Overby về vụ tấn công Chilton và cuộc đối đầu với Brubaker.

Cô không có tâm trạng để nói chuyện với ông ta.

Tiếp theo, Dance mở mail của Jon Boling với tên những người từng đăng bài ủng hộ Chilton trong những tháng vừa qua.

Mười bảy cái tên.

Có thể còn tệ hơn thế nhiều, cô thầm đoán.

Nữ đặc vụ dành ra một giờ tiếp theo để tìm số điện thoại những người sống trong vòng bán kính một trăm dặm rồi gọi điện để cảnh báo rất có thể họ đang gặp nguy hiểm. Cô cố gắng làm dịu những lời chỉ trích, một số khá gay gắt, về chuyện CBI và cảnh sát không thể ngăn chặn được Travis Brigham.

Dance đăng nhập vào nội dung hôm đó của Bản tin Chilton.

Http://www.thechiltonreport.com/html/june27.html

Cô lướt qua tất cả các chủ đề, nhận thấy hầu như toàn bộ đều có bình luận mới. Những người cuối cùng đăng bài lên các chủ đề nói về mục sư Fisk và dự án khử mặn nước biển đều tỏ ra rất nghiêm túc trong phát ngôn của họ, với giọng điệu ngày một gay gắt vì giận dữ. Nhưng không bài nào trong số những bài này có thể so sánh được với vô vàn lời bình luận hằn học trong chủ đề Những Cây thập tự ven đường, phần lớn đều chĩa cơn bực bội không chút kiềm chế vào nhau, cũng như vào Travis.

Một số lời bình luận được viết với lời lẽ thật kỳ cục, một số dường như để thả mồi moi thông tin, số khác có vẻ là những lời hăm dọa thẳng thừng. Dance có cảm giác trong đó ẩn chứa những manh mối về nơi Travis đang ẩn náu, thậm chí cả những mảnh vụn thực tế có thể cho biết tiếp theo cậu ta sắp sửa tấn công ai. Liệu có phải Travis chính là một trong những người đăng bài, náu mình dưới một biệt danh giả hay với vai trò “người đăng ẩn danh”? Cô đọc cẩn thận những bài viết qua lại và đi đến kết luận, trong đó có thể chứa các manh mối, song câu trả lời đã lẩn tránh cô. Kathryn Dance, rất thoải mái trong việc phân tích lời nói, đã không thể đi tới kết luận vững chắc nào khi đọc những câu hò hét và thì thầm câm lặng đến chán chường.

Cuối cùng, cô đành đăng xuất.

Thêm một email tới từ Michael O’Neil. Người thanh tra đem đến cho cô tin đáng thất vọng rằng phiên tòa điều trần đề nghị miễn truy tố trong vụ J.Doe đã bị hoãn lại tới thứ Sáu. Công tố viên Ernie Seybold cảm thấy việc thẩm phán sẵn lòng chấp nhận đề nghị đẩy lùi phiên tòa do bên bị đưa ra là một dấu hiệu xấu. Cô nhăn mặt trước tin mới này, và lấy làm thất vọng vì O’Neil không hề gọi để báo tin cho cô qua điện thoại và cũng chẳng đả động gì tới việc liệu bản thân và bọn trẻ có tới được vào tối nay không.

Dance bắt đầu chuẩn bị cho bữa tối. Cô không khéo léo lắm trong việc bếp núc, và là người đầu tiên thừa nhận điều đó. Nhưng cô biết siêu thị nào có gian hàng thực phẩm nấu sẵn ngon nhất, do đó bữa ăn rồi sẽ đâu vào đấy.

Trong khi lắng nghe âm thanh khe khẽ của một trò chơi điện tử vang lên từ phòng Wes cùng tiếng đàn organ điện tử của Maggie, Dance chợt nhận ra cô đang nhìn chằm chằm xuống sân sau, nhớ lại hình ảnh khuôn mặt của mẹ cô chiều hôm qua, khi con gái bà bỏ rơi bà để tới chỗ cây thập tự ven đường thứ hai.

Mẹ con sẽ hiểu.

Không, mẹ sẽ không...

Cúi xuống những chiếc hộp đựng thịt ức, đậu xanh, sa lát Caesar[1], cá hồi và khoai tây nướng hai lần, Dance chợt nhớ lại một dịp chừng ba tuần trước, khi mẹ cô đứng trong chính căn bếp này thuật lại tình hình của Juan Millar tại khoa Điều trị tích cực. Edie thể hiện rõ sự đồng cảm với nỗi đau đớn của người bệnh trong lúc kể với con gái những lời anh ta đã thì thầm với bà.

[1. Một loại sa lát được làm từ rau diếp là dài, bánh mì nướng, trộn cùng pho mát parmesan, nước chanh, dầu ô liu, trứng, nước sốt cá lên men Worchester, tỏi và hạt tiêu đen, được đặt theo Caesar Cerdini, người được coi là đã tạo ra món này.]

Giết tôi đi...

Tiếng chuông cửa vang lên kéo cô ra khỏi ý nghĩ bất an đó.

Dance đoán ra người đến là ai - phần lớn bạn bè và người nhà chỉ leo lên cầu thang đằng sau và đi vào bếp mà không hề bấm chuông hay gõ cửa. Cô ra mở và thấy Jon Boling đang đứng trên ngưỡng cửa. Anh nở nụ cười thoải mái giờ đây đã trở nên quen thuộc trong lúc đang đánh vật với một túi đồ nhỏ và một cái cặp lớn đựng máy tính xách tay. Anh đã thay một chiếc quần jean đen và áo sơ mi kẻ sọc sẫm màu cổ cứng.

“Chào.”

Vị khách gật đầu rồi đi theo cô vào bếp.

Hai con chó nhảy lên. Boling quỳ xuống ôm lấy chúng trong khi chúng níu lấy anh từ hai bên.

“Được rồi, các anh bạn, ra ngoài!” Dance ra lệnh. Cô ném mấy chiếc bánh Milk Bone[2] ra ngoài cửa sau, lũ chó hối hả lao theo cầu thang xuống sân sau.

[2. Loại bánh quy dành cho chó có hình khúc xương.]

Boling đứng lên, lau những vết liếm khỏi mặt và bật cười. Anh thò tay vào túi đựng đồ. “Tôi quyết định mang đường tới làm quà.”

“Đường?”

“Hai phiên bản: Một được lên men,” anh lấy ra một chai vang trắng Caymus Conundrum.

“Tuyệt quá.”

“Và một đã được nướng,” một túi bánh giòn xuất hiện. “Tôi vẫn nhớ cô nhìn chúng thế nào ở phòng làm việc khi bà trợ lý của cô cố gắng làm tôi phát phì.”

“Anh phát hiện ra ư?” Dance bật cười. “Anh có thể trở thành một chuyên gia đánh giá ngôn ngữ cơ thể tốt đấy. Chúng tôi cần cẩn thận hơn.”

Đôi mắt vị khách đang rất phấn khích, cô thấy rõ điều đó. “Có một thứ cho cô xem đây. Chúng ta có thể ngồi xuống chỗ nào đó được không?”

Cô dẫn anh vào phòng khách, tại đây Boling lấy ra một chiếc máy tính xách tay nữa, rất to, một dòng máy cô không nhận ra. “Irv đã làm được việc này,” anh nói.

“Irv?”

“Irving Wepler, người trợ thủ tôi đã kể với cô. Một trong những nghiên cứu sinh của tôi.”

Vậy là không phải Bambi hay Tiff.

“Tất cả mọi thứ trong máy tính của Travis hiện đang ở đây.”

Boling bắt đầu gõ bàn phím. Trong tích tắc, màn hình vụt sáng lên. Dance không hề biết máy tính có thể đáp ứng nhanh đến vậy.

Từ phòng bên, Maggie gõ một nốt nhạc chói tai trên phím đàn.

“Xin lỗi,” Dance nhăn mặt.

“Đô thăng,” Boling nói, không rời mắt khỏi màn hình.

Dance lấy làm ngạc nhiên. “Anh chơi nhạc sao?”

“Không, không. Nhưng tôi có thể nhận ra chính xác các nốt. Chỉ là do may mắn. Và tôi chẳng biết làm gì với nó nữa. Tôi chẳng có chút năng khiếu nào với âm nhạc cả. Không giống cô.”

“Tôi ư?” cô chưa hề kể cho anh biết sở thích của mình.

Boling nhún vai. “Tôi nghĩ tìm hiểu về cô một chút cũng không phải là ý tưởng tồi. Tôi không trông đợi việc cô được Google nhắc đến với tư cách người sưu tầm ca khúc nhiều hơn là cớm... Ồ, tôi có thể gọi là cớm được không?”

“Cho đến giờ, về mặt chính trị, đó vẫn không phải là từ không đúng đắn,” Dance tiếp tục giải thích cô là một ca sĩ hát nhạc dân gian thất bại thảm hại song lại được âm nhạc bù đắp trong dự án thực hiện cùng Martine Christensen - một trang web có tên Những giai điệu nước Mỹ cái tên gợi nhớ tới bài hát của Paul Simon dành cho đất nước này từ những năm 1970. Trang web đó là phao cứu sinh cho cuộc sống của Dance, thường xuyên hiện diện ở những nơi chốn thật tối tăm u ám vì công việc của cô. Không gì sánh bằng âm nhạc để giúp cô an tâm gạt ra khỏi đầu óc những tên tội phạm đã truy đuổi.

Dance nói với Boling rằng mặc dù thuật ngữ phổ biến là “người sưu tầm ca khúc”, mô tả tính chất của công việc là “nghiên cứu âm nhạc dân gian”. Alan Lomax là người nổi tiếng nhất từng ngang dọc khắp vùng nội địa nước Mỹ, thu thập các bản nhạc truyền thống cho Thư viện Quốc hội vào khoảng giữa thế kỷ hai mươi. Cả Dance cũng đi quanh vùng những khi cô rảnh rỗi để sưu tập nhạc, cho dù không phải là các loại nhạc miền núi, blues và bluegrass[3] của Lomax. Ngày nay, những bài hát được sáng tác tại nhà ở Mỹ là nhạc gốc Phi, Afro-pop, Cajun, Latino, Carribbean, Nova Scotia, Đông Ấn và châu Á.

[3. Các thể loại nhạc dân gian của Mỹ.]

Trang Những giai điệu nước Mỹ giúp những nhạc sĩ đăng ký bản quyền cho sáng tác nguyên bản của họ, cho phép bán các bản nhạc qua việc tải về và chia cho họ lợi tức trong khoản tiền những người nghe trả.

Boling có vẻ quan tâm. Dường như anh cũng làm những cuộc hành trình vào chốn hoang vu một hai lần mỗi tháng. Đã từng có thời anh là một vận động viên leo núi đá hăng hái, vị khách giải thích, nhưng sau đó đã từ bỏ môn này.

“Trọng lực,” anh nói, “là thứ không cho phép thương lượng.”

Sau đó anh hất đầu về phía căn phòng ngủ nơi phát ra tiếng nhạc. “Là con trai hay con gái vậy?”

“Con gái. Thứ dây duy nhất con trai tôi quen thuộc nằm trên một cây vợt tennis.”

“Cô bé khá đấy.”

“Cảm ơn anh,” Dance nói với niềm tự hào. Cô đã nỗ lực rất nhiều để cổ vũ Maggie. Cùng tập đàn với con gái mình - một việc khá tốn thời gian, lái xe đưa đón cô bé tới lớp học piano và các buổi tập.

Boling gõ bàn phím, một trang đầy màu sắc hiện ra trên màn hình máy tính. Nhưng rồi sau đó ngôn ngữ cơ thể của anh đột ngột thay đổi. Cô nhận ra anh đang nhìn qua vai cô, ra phía cửa.

Đáng ra Dance phải đoán được. Cô đã nghe thấy tiếng đàn organ điện tử im bặt từ ba mươi giây trước.

Sau đó Boling mỉm cười. “Xin chào, Bác là Jon. Bác làm việc với mẹ cháu.”

Maggie đội một chiếc mũ cầu thủ bóng chày quay ngược lưỡi trai ra sau, đang đứng trên ngưỡng cửa. “Chào bác.”

“Con đội mũ trong nhà ư,” Dance nhắc nhở.

Maggie bỏ mũ ra, rồi đi thẳng tới chỗ Boling. “Cháu là Maggie,” chẳng có chút e dè nào từ phía con gái mình, Dance thầm nghĩ, trong khi cô bé mười tuổi bắt tay vị khách rồi lắc lắc.

“Nắm chắc lắm,” Boling nói với cô bé. “Và chơi đàn cũng hay.”

Khuôn mặt Maggie sáng bừng. “Bác có chơi thứ gì không.”

“Đĩa CD và tải về. Chỉ vậy thôi.”

Dance ngước lên và không hề ngạc nhiên khi thấy cả cậu con trai Wes mười hai tuổi của cô cũng xuất hiện, đang nhìn về phía họ. Cậu bé lùi lại sau khung cửa. Và không hề mỉm cười.

Cô chột dạ. Sau cái chết của bố thằng bé, hoàn toàn dễ hiểu khi Wes không có thiện cảm với những người đàn ông mẹ cậu có quan hệ xã giao. Thằng bé cảm thấy họ - theo chuyên gia trị liệu của cô đã nói - như một mối đe dọa với gia đình cô và ký ức về người bố. Người đàn ông duy nhất cậu bé thực sự thích là Michael O’Neil, một phần do - theo một bác sĩ giả thiết - anh đã có gia đình và vì thế không gây ra nguy cơ nào.

Thái độ của thằng bé với Dance thật nặng nề, cô đã góa chồng hai năm, và đôi lúc thèm muốn khủng khiếp được có một người bạn đồng hành lãng mạn. Cô muốn hẹn hò, muốn gặp ai đó và biết như thế sẽ tốt cho hai đứa trẻ. Song cứ mỗi khi cô ra ngoài, Wes lại trở nên lầm lì cau có. Cô đã dành ra hàng giờ cam đoan với thằng bé rằng nó và em gái nó luôn là trên hết. Dance nghĩ ra những chiến thuật để dần giúp con trai cô thoải mái hơn chấp nhận gặp những người cô hẹn hò. Và đôi khi chỉ đơn thuần gạt các nguyên tắc sang bên và nói thẳng với thằng bé cô không chấp nhận bất cứ thái độ làm mình làm mẩy nào. Chẳng cách nào tỏ ra đặc biệt hiệu quả, và càng khó thuyết phục thằng bé hơn khi sự thù địch mà nó dành cho những đối tượng tiềm năng gần đây nhất của cô hóa ra lại sáng suốt hơn chính phán xét của cô. Sau cùng, cô đi đến quyết định cần lắng nghe những gì các con cô muốn nói và theo dõi phản ứng của bọn trẻ.

Dance vẫy tay ra hiệu bảo cậu bé lại gần. Wes tới cạnh họ. “Đây là bác Boling.”

“Chào cháu, Wes.”

“Chào bác,” hai người bắt tay, Wes vẫn hơi rụt rè như thường lệ.

Dance đang định nhanh chóng bổ sung thêm rằng cô quen Boling qua công việc để trấn an Wes, đồng thời xóa bỏ mọi nguy cơ gây khó chịu. Nhưng trước khi cô kịp nói gì, đôi mắt Wes đã sáng lên trong khi cậu bé nhìn chăm chăm vào màn hình máy tính. “Tuyệt quá. DQ!”

Cô nhìn vào những hình đồ họa nhấp nháy trên màn hình trang chủ của trò chơi DimensionQuest, có vẻ đã được Boling lấy ra từ máy tính của Travis.

“Hai người đang chơi ạ?” thằng bé có vẻ ngạc nhiên.

“Không, không. Bác chỉ muốn cho mẹ cháu xem một thứ. Cháu biết về các Morpeg chứ, Wes?”

“Ừm, có chứ.”

“Wes,” Dance thì thầm.

“Ý cháu là tất nhiên rồi. Mẹ không thích cháu nói ‘ừm’.”

Boling mỉm cười hỏi, “Cháu cũng chơi DQ à? Bác không hiểu lắm về nó.”

“Không ạ, nó là một trò với các phép thuật, bác biết đấy. Cháu hay chơi Trinity hơn.”

“Ái chà,” Boling thốt lên. “Phần đồ họa thật sống động,” anh quay sang Dance và nói, “Đó là một trò S-F.”

Nhưng từng đó khó có thể coi là một lời giải thích. “Cái gì cơ?”

“Mẹ, khoa học viễn tưởng.”

“Sci-fi.”

“Không, không, cô không thể nói vậy được. Là S-F,” đôi mắt đảo rộng nhìn lên trần nhà.

“Tôi vẫn giữ nguyên quan điểm.”

Wes nhăn mặt lại. “Nhưng với Trinity, dứt khoát bác cần đến hai gig[4] RAM[5] và ít nhất hai nữa cho video card. Nếu không thì...” thằng bé nhăn nhó. “Nếu không nó sẽ quá chậm. Ý cháu là, bác giơ vũ khí lên sẵn sàng bắn… và màn hình treo. Đó là điều tệ nhất.”

[4. Viết tắt của Gigabyte.]

[5. Viết tắt của Random Memory: Bộ nhớ đệm.]

“RAM trong cái máy tính để bàn bác ghép lại ở chỗ làm à?” Boling hỏi với vẻ rụt rè.

“Ba ư?” Wes hỏi.

“Năm. Và bốn cho video card.”

Wes làm bộ như sắp xỉu. “Khônggg! Thế thì tuyệttt quá. Bao nhiêu bộ nhớ hả bác?”

“Hai T[6].”

[6. Viết tắt của Terabyte.]

“Không thể nào! Hai terabyte?”

Dance bật cười, cảm thấy nhẹ nhõm vì không có gì căng thẳng giữa hai người. Nhưng cô nói, “Wes, mẹ chưa bao giờ thấy con chơi Trinity. Chúng ta không cài nó trên máy tính ở đây chứ?”

Cô rất nghiêm khắc về những trò chơi các con mình chơi trên máy tính và những trang web chúng truy cập vào. Nhưng cô không thể giám sát một trăm phần trăm thời gian.

“Không, mẹ không cho phép con,” thằng bé nói mà không hề có thêm ngụ ý hay bực bội nào. “Con chơi ở nhà cô Martine.”

“Với hai anh em sinh đôi nhà cô ấy sao?” Dance choáng váng. Các con của Martine - Christensen và Steven Cahill - còn nhỏ hơn cả Wes và Maggie.

Wes bật cười. “Mẹ!” thằng bé thốt lên ngao ngán. “Không, với Steve. Chú ấy biết mọi thủ thuật và mã.”

Nghe rất có lý vì Steve, người mô tả bản thân như một anh chàng trẻ trung nghiện máy tính, là người phụ trách phần kỹ thuật của trang Những giai điệu nước Mỹ.

“Nó có bạo lực không?” Dance hỏi Boling, không phải Wes.

Anh và cậu bé nhìn nhau với vẻ đồng mưu.

“Thế nào?” Dance gặng hỏi.

“Cũng không hẳn thế,” Wes nói.

“Chính xác thì thế là thế nào?” cô hỏi.

“Thôi được, cô có thể bắn nổ tung các tàu vũ trụ và hành tinh, đại khái là vậy,” Boling nói.

Wes xen vào, “Nhưng không giống bạo lực thực sự, mẹ biết mà.”

“Phải,” Boling cam đoan với cô. “Không giống như Resident Evil hay Manhunt[7].”

[7. Tên những dòng video game kinh dị.]

“Hay Gear of War,” Wes nói thêm. “Ý con là, trong trò đó mẹ có thể dùng cưa máy chặt người ta ra.”

“Cái gì?” Dance sững người. “Con đã chơi trò đó bao giờ chưa?”

“Chưa!” thằng bé phản đối, ngay khi có vẻ bị nghi ngờ. “Billy Sojack ở trường có trò đó. Cậu ấy kể với bọn con về nó.”

“Hãy đảm bảo là con không chơi nó đấy.”

“Được rồi. Con sẽ không chơi. Dù bất cứ lý do gì,” thằng bé nói thêm, và một lần nữa liếc mắt về phía Boling, “mẹ cũng không phải dùng một cái cưa máy.”

“Mẹ không bao giờ muốn con chơi trò chơi đó. Hay mấy trò chơi khác bác Boling vừa nhắc đến,” cô nói bằng giọng nghiêm túc nhất của một bà mẹ.

“Vâng. Được rồi mẹ.”

“Hứa chứ?”

“Vâng,” thằng bé nhìn về phía Boling nói - đôi khi Dance vẫn thành công theo cách này.

Sau đó Boling và Wes quay sang bàn tán về các trò chơi khác và những vấn đề công nghệ - lĩnh vực mà Dance thậm chí không thể đoán nổi ý nghĩa của nó. Nhưng cô rất vui được chứng kiến cảnh này. Boling, tất nhiên, không phải là một mối bận tâm theo kiểu lãng mạn, song quả có nhẹ nhõm khi cô không phải lo lắng về các hành động xung đột, nhất là vào tối nay - buổi tối không cần thế cũng đã đủ căng thẳng rồi. Boling không nói chuyện với cậu bé một cách kẻ cả, và cũng không tìm cách gây ấn tượng với nó. Hai người trông như đôi bạn bình đẳng thuộc hai lứa tuổi khác nhau đang trò chuyện vui vẻ.

Cảm thấy bị bỏ rơi, Maggie chen vào, “Bác Boling, bác có con không?”

“Mags,” Dance ngắt lời cô bé, “không được hỏi những câu hỏi riêng tư khi con vừa mới gặp ai đó.”

“Không sao đâu. Không, bác không có con, Maggie.”

Cô bé gật đầu, ghi nhận thông tin vào bộ nhớ. Vấn đề ở đây, Dance hiểu, không phải về triển vọng sẽ có bạn cùng chơi. Con gái cô đang thực sự tìm hiểu về tình trạng hôn nhân của vị khách. Maggie nóng lòng muốn gả chồng cho mẹ còn hơn cả Maryellen Kresbach ở văn phòng, với điều kiện cô bé phải là “Người tháp tùng cô dâu”, dứt khoát không có vai “Phù dâu” đầy chất hoài cổ.

Đúng lúc đó có tiếng nói vang lên từ trong bếp. Edie và Stuart đã tới. Hai ông bà bước vào, tới bên Dance và các con cô.

“Ông bà!” Maggie reo lên rồi lao về phía Edie. “Bà có khỏe không?”

Khuôn mặt Edie rạng rỡ một nụ cười thực thụ, hay gần như thế, Dance đánh giá. Wes, khuôn mặt sáng ngời nhẹ nhõm, cũng chạy tới bên bà. Cho dù gần đây Wes rất tiết kiệm những cái ôm hôn với mẹ, thằng bé vẫn dang hai cánh tay ôm bà ngoại và siết chặt. Trong hai đứa trẻ, thằng bé là đứa bận tâm lo lắng hơn về việc bà ngoại bị bắt giữ ở bệnh viện.

“Katie,” Stuart nói, “con bận rộn truy đuổi những tên tội phạm điên khùng như vậy mà vẫn còn thời gian để nấu ăn sao?”

“À, vẫn có ai đó có thời gian nấu ăn,” cô trả lời với một nụ cười và liếc mắt về những túi mua hàng từ Safeway, để gần thùng rác.

Dance vui mừng khi nhìn thấy mẹ mình và ôm lấy bà. “Mẹ khỏe không?”

“Vẫn ổn cả, con gái yêu quý.”

Yêu quý... Không phải là một dấu hiệu tốt. Nhưng ít nhất bà đang ở đây. Đó là điều đáng kể.

Edie quay lại với hai đứa cháu và hồ hởi kể cho chúng nghe về một chương trình truyền hình bà vừa xem nói đến những phong cách trang trí nhà cửa cực đoan. Mẹ Dance rất giỏi trong việc làm cho mọi người xung quanh cảm thấy thoải mái. Thay vì nói thẳng tới những gì xảy ra ở bệnh viện - việc chỉ làm mọi người thêm lo lắng - bà trấn an bọn trẻ bằng cách không đả động gì tới vấn đề đó và tán gẫu về những chuyện vô thưởng vô phạt.

Dance giới thiệu bố mẹ cô với Jon Boling.

“Cháu là một lính đánh thuê,” anh nói. “Kathryn đã phạm sai lầm khi đề nghị cháu giúp một tay, vậy là giờ đây cô ấy bị mắc kẹt với cháu.”

Họ cùng trò chuyện về Santa Cruz nơi Boling sống, về việc anh đã ở trong vùng được bao lâu và ngôi trường nơi anh đang dạy. Boling rất thú vị khi biết Stuart vẫn còn làm việc bán thời gian tại thủy cung nổi tiếng của vịnh Monterey. Anh vẫn hay tới đó và cũng vừa mới đưa cháu mình đến thủy cung chơi.

“Tôi cũng giảng dạy ít nhiều,” Stuart Dance nói, khi ông được biết về sự nghiệp của Boling. “Tôi cảm thấy rất thoải mái với học thuật. Tôi đã thực hiện nhiều nghiên cứu về cá mập.”

Boling bật cười vui vẻ.

Rượu vang được rót ra, đầu tiên là vang trắng Conundrum của Boling.

Nhưng sau đó, Boling hẳn chợt nhớ ra gì đó và xin cáo lỗi để quay lại máy tính. “Cháu không được phép ăn khi chưa làm xong bài tập về nhà. Hẹn gặp lại mọi người lát nữa.”

“Sao anh không ra ngoài kia nhỉ,” Dance nói với anh, chỉ tay ra phía hiên sau. “Tôi sẽ ra ngay.”

Khi Boling đã cầm máy tính và đi ra ngoài, Edie nói, “Một anh chàng dễ mến đấy.”

“Rất hữu ích. Nhờ có anh ta bọn con đã cứu được một trong các nạn nhân,” Dance đi tới tủ lạnh để cất rượu vang vào. Trong lúc cô làm việc này, cảm xúc chợt bùng dậy và cô khẽ lúng búng nói với mẹ, “Mẹ, con rất xin lỗi đã phải rời khỏi tòa án gấp gáp như thế. Người ta tìm thấy thêm một cây thập tự nữa ở bên đường. Có một nhân chứng con cần thẩm vấn.”

Giọng của mẹ cô không để lộ chút cay đắng nào khi bà nói, “Không sao đâu, Katie. Mẹ biết chắc chuyện đó quan trọng. Và cả người đàn ông tội nghiệp đó nữa chứ. Lyndon Strickland, ông luật sư. Ông ấy được nhiều người biết đến.”

“Vâng, đúng thế,” Dance nhận thấy sự thay đổi chủ đề.

“Đâm đơn kiện tiểu bang, mẹ nhớ là thế. Luật sư đại diện cho người tiêu dùng.”

“Mẹ, đã có tin gì từ Sheedy chưa?”

Edie Dance chớp mắt. “Không phải lúc này, Katie. Tối nay chúng ta không nói về chuyện đó.”

“Tất nhiên rồi,” Dance cảm thấy như một đứa trẻ bị phạt. “Như mẹ muốn.”

“Michael sẽ đến chứ?”

“Anh ấy sẽ cố gắng. Anne đang ở San Francisco, vậy nên anh ấy đang phải trông bọn trẻ. Và điều tra một vụ lớn nữa.”

“Ồ. Được thôi, hy vọng cậu ta có thể đến được. Còn Anne thế nào?” Edie dửng dưng hỏi. Bà tin rằng kỹ năng làm mẹ của vợ O’Neil còn rất nhiều điều cần phải học hỏi. Và bất cứ khiếm khuyết nào về mặt này với Edie Dance đều là một thiếu sót nghiêm trọng, cận kề với tội ác.

“Ổn cả, con đoán thế. Lâu rồi con không gặp chị ấy.”

Dance lại thầm tự hỏi liệu Michael có thể đến được không.

“Mẹ đã nói chuyện với Betsey?” cô hỏi mẹ mình.

“Phải, em con sẽ đến vào cuối tuần này.”

“Nó có thể ở chỗ con.”

“Nếu không có gì bất tiện,” Edie ngỏ lời.

“Sao lại có gì bất tiện?”

Mẹ cô đáp, “Có thể con bận việc quá. Với những vụ án con đang phải điều tra. Đó là ưu tiên của con. Bây giờ, Katie, con hãy tới nói chuyện với bạn của con đi. Maggie và mẹ sẽ sửa soạn mọi thứ sẵn sàng. Mags, lại đây, vào bếp giúp bà nào”.

“Vâng ạ, bà ngoại!”

“Và Stu mang một đĩa DVD ông nghĩ Wes sẽ thích. Một bộ phim về thể thao. Các quý ông hãy bật nó lên.”

Stu cầm lấy cái đĩa và đi tới chỗ chiếc tivi màn hình phẳng, gọi Wes cùng đi.

Dance đứng ngây ra trong chốc lát, hai tay buông thõng khi quan sát mẹ cô rút lui trong khi vẫn vui vẻ trò chuyện cùng Maggie. Sau đó Dance bước ra ngoài.

Cô tìm thấy Boling ngồi bên một cái bàn cập kênh ngoài hiên, gần chỗ cửa sau, dưới một ngọn đèn vàng. Anh đưa mắt nhìn quanh. “Chỗ này đẹp lắm.”

“Tôi gọi nó là Hiên,” cô bật cười. “Với một chữ H viết hoa.”

Đây là chỗ Kathryn Dance trải qua nhiều thời gian của cô nhất - một mình hay cùng các con cô, lũ chó và những người có quan hệ thân thiết với cô qua huyết thống hay tình bạn.

Kiến trúc màu xám vững chãi, rộng sáu mét và dài chín mét, nằm cao hơn khoảnh sân hai mét rưỡi, nhô dài ra dọc phía sau ngôi nhà. Bên trên xếp đầy những chiếc ghế căng vải gai, ghế dựa lưng và bàn cập kênh. Ánh sáng được cung cấp từ những cây đèn trang trí Giáng sinh tí xíu, đèn gắn trên tường, vài bóng đèn vàng hình cầu. Một bồn rửa, những chiếc bàn và một tủ lạnh lớn được kê trên những tấm ván không bằng phẳng. Những cái cây còi cọc được trồng trong các chậu sứt mẻ, máng cho chim ăn, những món đồ treo trang trí bằng kim loại và gốm đã mang màu thời gian được mua về từ gian hàng bán đồ làm vườn tại siêu thị tạo thành tổng thể trang trí theo phong cách chiết trung[8].

[8. Phong cách trang trí nội thất hiện đại, là sự kết hợp hài hoà của nhiều phong cách khác nhau.]

Dance thường về nhà và bắt gặp đồng nghiệp ở CBI hay MSCO hoặc Tuần cảnh Xa lộ ngồi ngoài Hiên, khoan khoái nhâm nhi đồ uống lấy ra từ cái tủ lạnh cà tàng. Việc cô có nhà hay không không quan trọng, miễn là các quy định được tuân thủ: Không bao giờ được quấy rầy buổi học của bọn trẻ hay giấc ngủ của gia đình, kiềm chế cách cư xử thô lỗ và tránh xa ngôi nhà, trừ khi được mời.

Dance rất yêu thích Hiên, nơi dành cho bữa sáng, tiệc tối và cả những dịp long trọng hơn. Cô đã làm đám cưới tại đây.

Và từng chủ trì một buổi lễ tưởng niệm chồng cô trên những tấm ván gỗ màu xám cũ kỹ này.

Giờ đây, Dance ngồi xuống chiếc ghế ưa thích đan bằng liễu gai cạnh Boling, người đang cúi xuống chiếc máy tính xách tay to tướng. Anh quay sang và nói, “Tôi cũng có một cái hiên. Nhưng nếu chúng ta đang nói tới các chòm sao, thì chỗ của cô là Hiên lớn. Còn của tôi là Hiên nhỏ.”

Cô bật cười.

Boling gật đầu về phía máy tính. “Có rất ít thứ tôi tìm được về khu vực quanh đây cũng như bạn bè của Travis. Ít hơn nhiều so với những gì thông thường người ta tìm thấy trong máy tính của một cậu nhóc vị thành niên. Thế giới thực không hiện diện nhiều lắm trong cuộc sống của cậu trai trẻ. Cậu ta trải qua phần lớn thời gian trong thế giới ảo, trong các trang web, các blog và bản tin, và tất nhiên rồi, chơi các trò chơi của mình.”

Dance thấy thất vọng. Mọi nỗ lực để xâm nhập vào máy tính cho kết quả lại không được hữu ích như cô đã hy vọng.

“Còn về thời gian cậu ta sống trong thế giới ảo, phần lớn được dành cho DimensionQuest,” anh hất đầu về phía màn hình. “Tôi đã thực hiện vài tìm kiếm. Đây là trò chơi nhập vai trực tuyến có nhiều người tham gia nhất trên thế giới. Có khoảng mười hai triệu người đăng ký tham gia chơi trò này.”

“Lớn hơn cả dân số thành phố New York.”

Boling mô tả nó như sự kết hợp của Chúa tể những chiếc nhẫn, Chiến tranh giữa các vì sao và Đời sống thứ hai[9] - trang tương tác xã hội nơi bạn tạo ra cuộc sống tưởng tượng cho chính mình. “Theo ước lượng sát nhất tôi có thể đưa ra, cậu ta ở trong DQ từ bốn đến mười giờ đồng hồ mỗi ngày.”

[9. Tên các game dựa trên nội dung những bộ phim ăn khách.]

“Mỗi ngày?”

“Ồ, chuyện đó là thường với một người chơi trò nhập vai,” anh tặc luỡi. “Một số thậm chí còn kinh khủng hơn. Có một chương trình DimensionQuest mười hai bước trong thế giới thực để giúp người ta thoát khỏi chứng nghiện trò này.”

“Nghiêm chỉnh đấy chứ?”

“Ồ, đúng thế đấy,” anh cúi người ra trước. “Còn bây giờ, không có gì trong máy tính của cậu ta liên quan tới nơi cậu ta hay lui tới hoặc bạn bè, song tôi đã tìm thấy một thứ có thể sẽ hữu ích.”

“Cái gì vậy?”

“Cậu ta.”

“Ai cơ?”

“À, chính Travis.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
622,673
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Dance chớp mắt, chờ đợi một câu bông đùa.

Nhưng Jon Boling đang hoàn toàn nghiêm túc.

“Anh đã tìm ra cậu ta? Ở đâu?”

“Ở Aetheria, vùng đất tưởng tượng của DimensionQuest.”

“Cậu ta đang lên mạng?”

“Lúc này thì không, nhưng đã từng lên. Gần đây.”

“Từ đó anh có thể tìm ra cậu ta đang ở đâu trong thế giới thực?”

“Không có cách nào để biết. Chúng ta không thể lần theo dấu cậu ta. Tôi đã gọi cho công ty cung cấp trò chơi có trụ sở tại Anh, và nói chuyện với vài nhân sự quản lý. Các máy chủ của DimensionQuest được đặt ở Ấn Độ và vào bất cứ thời điểm nào cũng có một triệu người tham gia trên mạng.”

“Và vì chúng ta đang có trong tay máy tính của cậu ấy, như thế có nghĩa là cậu ta sử dụng máy tính của một người bạn,” Dance nói.

“Hoặc cậu ta đã tới một nơi cung cấp dịch vụ mạng công cộng, hay đã mượn hoặc ăn cắp một cái máy tính rồi kết nối qua mạng không dây.”

“Nhưng bất cứ lúc nào cậu ta lên mạng, chúng ta sẽ biết cậu ta đang ở yên một chỗ, và có cơ hội tìm ra cậu ta.”

“Về mặt lý thuyết thì đúng thế,” Boling đồng ý.

“Sao cậu ta vẫn tiếp tục chơi? Cậu ta chắc chắn phải biết chúng ta đang truy nã mình.”

“Như tôi đã nói, cậu ta đã bị nghiện.”

Dance hướng về phía máy tính, “Anh chắc đó là Travis chứ?”

“Chắc chắn. Tôi đã vào các thư mục của cậu ta trong trò chơi và tìm thấy một danh sách các biểu tượng cậu ta đã tạo ra để đại diện cho mình. Sau đó, tôi nhờ vài sinh viên của tôi lên mạng tìm kiếm những cái tên đó. Cậu ta đã đăng nhập và đăng xuất trong ngày hôm nay. Tên của nhân vật là Stryker, với một chữ y. Nhân vật này thuộc loại Thunderer, có nghĩa là một chiến binh. Về cơ bản là một sát thủ. Một nữ sinh viên của tôi đã chơi DimensionQuest vài năm và tìm ra nhân vật này chừng một giờ trước. Cậu ta lùng sục quanh vùng nông thôn chỉ để giết người. Cô gái này đã chứng kiến nhân vật kia giết sạch cả một gia đình - đàn ông, phụ nữ và trẻ con. Sau đó nhân vật của cậu ta dừng lại.”

“Thế nghĩa là sao?”

“Trong những trò chơi này, khi cô giết một nhân vật khác, nhân vật đó sẽ mất đi sức mạnh, điểm số và tất cả những gì mang theo. Nhưng nhân vật này sẽ không chết vĩnh viễn. Các nhân vật trong trò chơi sống lại sau vài phút. Nhưng chúng ở trong một trạng thái rất yếu cho đến khi có thể bắt đầu lấy lại sức mạnh. Dừng nhân vật là khi cô giết một nạn nhân và đợi gần đó cho tới khi họ sống lại. Sau đó cô có thể giết họ lần nữa, khi họ không thể tự vệ. Đây là một cách rất tệ, và phần lớn người chơi không làm điều đó. Nó giống sát hại một người lính đã bị thương trên chiến trường vậy. Nhưng có vẻ như Travis thường xuyên làm thế.”

Dance nhìn chằm chằm vào trang chủ của DimensionQuest, một giao diện đồ họa sống động với những thung lũng đầy sương mù, những ngọn núi cao lừng lững, những thành phố tưởng tượng, đại dương đầy sóng gió. Và những sinh vật thần thoại, các chiến binh, anh hùng, phù thủy. Và cả những kẻ xấu xa, trong đó có Qetzal - con quỷ mũi nhọn hoắt có miệng bị khâu lại cùng đôi mắt lạnh lẽo - đang nhìn cô chằm chằm.

Một mảnh nhỏ của cái thế giới ác mộng ấy đã giáng xuống trái đất này, nằm trong phạm vi thực thi luật pháp của cô.

Boling vỗ vào chiếc điện thoại di động đeo ở thắt lưng. “Irv đang giám sát trò chơi. Cậu ta đã viết một con rệp - chương trình máy tính tự động - sẽ thông báo cho cậu ta biết ngay khi Stryker đăng nhập. Cậu ta sẽ gọi hay gửi mail cho tôi ngay khi Travis xuất hiện.”

Dance đưa mắt nhìn vào bếp và thấy mẹ cô đang nhìn chăm chăm qua cửa sổ. Hai bàn tay bà đang nắm chặt lại.

“Còn bây giờ là điều tôi nghĩ,” Boling nói tiếp, “không thể lần được dấu vết, nhưng nếu chúng ta tìm thấy cậu ta trên mạng và quan sát cậu ta, rất có thể chúng ta sẽ biết được gì đó về cậu thiếu niên này. Cậu ta đang ở đâu, biết những ai.”

“Bằng cách nào?”

“Theo dõi những tin nhắn tức thời của cậu ta. Đó là cách những người chơi liên lạc với nhau trong DQ. Nhưng chúng ta chẳng thể làm gì cho tới khi cậu ta đăng nhập trở lại.”

Boling ngồi xuống. Hai người cùng im lặng nhấp rượu vang.

Không khí đột ngột bị phá vỡ khi Wes gọi, “Mẹ!” từ ngưỡng cửa.

Dance bật dậy và tách ra xa Boling trong khi quay người về phía con trai.

“Khi nào chúng ta ăn?”

“Ngay khi Martine và Steve tới?”

Cậu bé quay lại với chiếc tivi. Còn Dance và Boling quay vào nhà, mang theo rượu vang và chiếc máy tính. Anh cất cái máy vào trong túi đồ của mình rồi bê một cái bát đựng bánh quy mặn để trong bàn bếp lên.

Anh đi ra ngoài phòng khách, chìa bát ra mời Wes và Stu. “Khẩu phần khẩn cấp để giúp chúng ta duy trì sức lực.”

“Hay quá!” thằng bé reo lên, bốc lấy một nắm, rồi nói, “Ông ơi, quay lại cái đoạn lóng ngóng vụng về đó để bác Boling có thể xem đi.”

Dance giúp mẹ và con gái cô hoàn tất việc bày đồ ăn ra theo kiểu tự phục vụ trên bàn trong bếp.

Cô cùng Edie trò chuyện về thời tiết, về mấy con chó, về bọn trẻ, về Stuart. Chủ để này dẫn tới thủy cung, từ đây chuyển sang một cuộc trưng cầu về nước, và loanh quanh tới mấy chủ đề vặt vãnh khác, tất cả cùng có một điểm chung: Chúng đều tránh xa chuyện Edie bị bắt nhất.

Dance quan sát Wes, Jon Boling và bố mình ngồi cùng nhau ngoài phòng khách xem chương trình thể thao phát trên màn hình. Tất cả cùng bật cười khi một người bắt bóng đổ ập vào thùng Gatorade[1] làm người quay phim ướt sũng, đồng thời thi nhau vốc tay vào cái bát đựng bánh quy mặn như thể bữa tối chỉ là một lời hứa trống rỗng. Dance không ngăn được mỉm cười trước cảnh gia đình đầm ấm đó.

[1. Một thương hiệu nước uống dùng trong thể thao.]

Rồi cô liếc nhìn điện thoại di động của mình, thất vọng vì Michael O’Neil vẫn chưa gọi đến.

Trong khi cô sắp xếp bàn ngoài Hiên, những vị khách mời khác xuất hiện: Martine Christensen và chồng, Steven Cahill, leo lên cầu thang, theo sau là hai cậu con trai sinh đôi chín tuổi của họ. Wes và Maggie rất hân hoan khi thấy cả con chó nhỏ lông dài màu vàng nâu, Raye.

Hai vợ chồng họ vồn vã chào Edie Dance, tránh không nhắc tới bất cứ vụ điều tra nào, cho dù đó là những vụ tấn công liên quan tới cây thập tự ven đường hay vụ có can dự đến Edie.

“Chào em,” vị khách Martine tóc dài lên tiếng chào Dance, nháy mắt và đưa cho cô một chiếc bánh sô-cô-la tự làm có hình thù trông thật nguy hiểm.

Dance và Martine đã là bạn tốt nhất của nhau kể từ khi cô ấy quyết tâm một tay lôi Dance ra khỏi tâm trạng thờ ơ có thể dễ dàng làm người ta mắc nghiện của tình cảnh ở góa, buộc cô phải quay lại với cuộc sống.

Như thể từ thế giới ảo quay trở về thế giới thật, Dance lúc này thầm hồi tưởng lại.

Cô ôm hôn Steven, rồi anh lập tức biến mất vào phòng khách, gia nhập vào đám đàn ông, đôi giày hiệu Birkenstock thật hợp mái tóc dài buộc túm đuôi ngựa của anh ta.

Trong khi người lớn uống rượu vang thì mấy đứa trẻ tổ chức một cuộc trình diễn chó đột xuất ngoài sân sau. Raye có vẻ đã học thuộc tất cả bài tập về nhà, theo đúng nghĩa đen, chạy vòng vòng xung quanh Patsy và Dylan, làm đủ trò nghịch ngợm và nhảy qua các băng ghế. Martine nói anh chàng là một ngôi sao trong các lớp học về khả năng vâng lời và sự khéo léo.

Maggie xuất hiện và nói cô bé cũng muốn mang hai con chó của nhà họ đến trường.

“Chúng ta sẽ xem xét chuyện này,” Dance nói với con gái.

Không lâu sau nến được thắp lên, khăn ăn được phân phát và mọi người đã ngồi yên vị quanh bàn, đồ ăn bốc hơi nóng hổi trong bầu không khí giống như mùa thu của một buổi tối vùng Monterey. Những câu chuyện nhanh chóng rôm rả trong khi rượu vang được rót ra đều đặn. Wes thì thầm những câu pha trò với hai anh em sinh đôi, hai cậu nhóc cười rúc rích, không phải vì những câu tếu táo, mà vì một cậu bé lớn tuổi hơn đang dành thời gian thì thầm kể chuyện cười cho chúng.

Edie đang phá lên cười vì điều gì đó Martine vừa nói.

Và lần đầu tiên trong hai ngày vừa qua, Kathryn Dance cảm thấy tâm trạng u ám tan đi ít nhiều.

Travis Brigham, Hamilton Royce, James Chilton... và tay Hiệp sĩ Đen - Robert Harper - trôi ra khỏi tâm trí Dance. Cô bắt đầu nghĩ cuộc sống có thể cuối cùng sẽ tự nó ổn thỏa trở lại.

Jon Boling hóa ra là người khéo xã giao và dễ hòa đồng, cho dù anh chẳng hề biết ai ở đây trước ngày hôm nay. Anh và Steven, người lập trình viên, có nhiều điều để nói với nhau, dẫu cho Wes liên tục chen vào cuộc trò chuyện.

Tất cả đều cẩn thận tránh nhắc đến rắc rối Edie đang gặp phải, cũng đồng nghĩa với việc chủ đề chính quanh bàn ăn là tình hình kinh tế chính trị hiện tại. Dance không khỏi thú vị nhận thấy những vấn đề đầu tiên được đề cập đến cũng là những gì Chilton đã viết: Dự án nhà máy khử mặn nước biển và tuyến đường xa lộ mới đến Salinas.

Steve, Martine và Edie đều kịch liệt phản đối dự án nhà máy.

“Tôi chắc là vậy,” Dance nói. “Nhưng tất cả chúng ta đều đã sống ở đây một thời gian dài.” Cô đưa mắt về phía bố mẹ. “Chẳng lẽ bố mẹ chưa thấy mệt mỏi với hạn hán sao?”

Martine nói cô rất nghi ngờ việc nguồn nước do nhà máy khử mặn tạo ra có thể đem đến lợi ích cho họ. “Nó sẽ được bán cho các thành phố giàu có ở Arizona và Nevada. Ai đó sẽ kiếm được bạc tỷ, còn chúng ta sẽ chẳng thấy giọt nước nào.”

Sau đó, họ chuyển sang bàn luận về tuyến xa lộ. Những người tham gia bữa tối cũng bị chia rẽ trong chủ đề này. Dance nói, “Nó sẽ rất có lợi cho CBI và Sở Cảnh sát nếu chúng tôi phải điều tra các vụ án ở khu vực bắc Salinas. Nhưng vấn đề đội giá thành ở đây lại là một rắc rối?”

“Cái gì đội giá cơ?” Stuart hỏi.

Dance rất ngạc nhiên khi thấy tất cả mọi người nhìn cô với vẻ không hiểu gì. Cô giải thích việc đã biết được chuyện này do đọc trên Bản tin Chilton: Người viết blog đã khám phá ra khả năng có những hành vi gian lận.

“Chị chưa nghe thấy ai nói gì về chuyện đó,” Martine phát biểu. “Chị quá bận bịu với việc theo dõi tin về Những Cây thập tự ven đường nên không để ý lắm... Nhưng bây giờ thì chắc chắn chị sẽ để tâm tới nó, chắc đấy.”

Cô là người quan tâm tới chính trị nhất trong số bạn bè của Dance. “Chị sẽ vào xem blog đó.”

Sau bữa tối, Dance bảo Maggie mang cây đàn organ điện tử của cô bé ra làm một cuộc trình diễn nhỏ.

Cả nhóm cùng quay vào phòng khách, thêm nhiều rượu vang nữa được rót xoay vòng. Boling ngồi ngả lưng ra sau trên một chiếc ghế bành trũng, làm bạn cùng anh là chú chó Raye giống briard. Martine bật cười khi Raye chỉ to hơn một con chó cưng tí hon có chút xíu, nhưng anh vẫn một mực đề nghị giữ nó ở lại.

Maggie cắm điện cho cây đàn, rồi với vẻ nghiêm trang của một nghệ sĩ piano trong buổi trình diễn, ngồi xuống và chơi bốn bản nhạc từ cây đàn Book Three hiệu Suzuki của cô bé, những bản nhạc đơn giản soạn lại từ tác phẩm của Mozart, Beethoven và Clementi. Cô bé hầu như đánh không sai nốt nào.

Mọi người cùng vỗ tay tán thưởng, sau đó chuyển sang thưởng thức bánh ngọt, cà phê và lại thêm rượu vang nữa.

Cuối cùng, đến khoảng chín rưỡi, Steve và Martine nói họ muốn cho hai cậu con trai sinh đôi đi ngủ nên ra về. Maggie đã lên xong kế hoạch cho Dylan và Patsy tham gia vào lớp dạy chó của Raye.

Edie nở một nụ cười xa xăm. “Bố mẹ cũng phải về thôi. Hôm nay quả là một ngày dài.”

“Mẹ, ở lại thêm chút nữa đã. Uống thêm một ly vang đã.”

“Không, không, mẹ mệt lắm rồi, Katie. Đi nào, Stu. Em muốn về nhà.”

Dance đón nhận một cái ôm hôn hờ hững từ mẹ cô, và cảm giác nhẹ nhõm lúc trước tan đi khá nhiều. “Hãy gọi cho con sau.”

Thất vọng khi thấy bố mẹ mình ra về vội vã, cô nhìn theo ánh đèn hậu biến mất đầu đường. Sau đó, cô bảo lũ trẻ chào tạm biệt Boling. Anh mỉm cười bắt tay hai đứa nhỏ, rồi để các con cô đi rửa bát đĩa.

Wes xuất hiện vài phút sau, cầm theo một dĩa DVD. Ma trong vỏ sò[2], một bộ phim hoạt hình khoa học viễn tưởng Nhật Bản có liên quan tới những chiếc máy tính.

[2. Ghost in the Shell, một bộ phim hoạt hình nổi tiếng của Nhật Bản.]

“Nó đây, bác Boling. Bộ phim này hay lắm. Bác có thể mượn nếu muốn.”

Dance lấy làm ngạc nhiên khi thấy Wes cư xử thân thiện đến thế với một người đàn ông. Có thể thằng bé đã nhận ra Boling là một đối tác trong công việc của mẹ mình, chứ không phải đối tượng hò hẹn. Thế nhưng trước đây thằng bé thậm chí luôn tỏ ra thủ thế với cả các đồng nghiệp của cô.

“À, cảm ơn cháu, Wes. Bác đã từng viết bài về hoạt hình Nhật Bản. Song chưa bao giờ xem bộ phim này.”

“Thật thế sao?”

“Chưa từng. Bác sẽ mang trả lại nguyên vẹn.”

“Bất cứ lúc nào. Chào bác.”

Cậu bé hối hả quay về phòng mình, để lại hai người với nhau.

Nhưng cũng chỉ trong khoảnh khắc. Một giây sau, Maggie lại xuất hiện với một món quà của riêng mình. “Đây là những bản thu âm buổi biểu diễn của cháu,” cô bé đưa cho Boling một đĩa CD được để trong hộp gói quà.

“Là buổi biểu diễn cháu đã kể trong lúc ăn tối phải không?” Boling hỏi. “Buổi biểu diễn mà ông Stone ợ trong lúc đang chơi nhạc Mozart ấy?”

“Vâng!”

“Bác mượn được không?”

“Bác có thể lấy nó. Cháu có đến cả triệu chiếc đĩa. Bà ngoại đã ghi chúng.”

“Tuyệt quá, cảm ơn cháu, Maggie. Bác sẽ ghi ra máy iPod.”

Cô bé thực sự đỏ mặt - chuyện hiếm gặp ở Maggie, rồi chạy vụt đi.

“Anh không cần phải làm thế đâu,” Dance thì thầm.

“Ồ không. Có chứ. Một cô bé thật tuyệt vời.”

Boling cho cái đĩa vào túi đựng máy tính của mình và nhìn sang đĩa phim hoạt hình Wes đã cho mình mượn.

Dance lại hạ giọng lần nữa. “Anh đã xem bộ phim đó bao nhiêu lần rồi?”

Vị khách tặc lưỡi. “Ma trong vỏ sò ư? Hai mươi, ba mươi lần... cùng với hai phần tiếp theo nữa. Khỉ thật, cô thậm chí có thể phát hiện ra cả những câu nói dối chẳng hại gì đến ai nữa.”

“Rất cảm ơn anh vì đã làm thế. Điều đó rất có ý nghĩa với thằng bé.”

“Tôi có thể nói thằng bé rất phấn khởi.”

“Tôi thực sự ngạc nhiên vì anh không có con. Dường như anh rất hiểu bọn trẻ.”

“Không, chuyện đó chẳng bao giờ đi đến đâu cả. Nếu muốn có con, chắc chắn người ta cần có một người phụ nữ trong cuộc đời mình. Tôi là một trong số đàn ông cô cần phải cảnh giác. Không phải phụ nữ các cô vẫn luôn nói thế sao?”

“Cảnh giác ư? Nhưng vì sao chứ?”

“Đừng bao giờ hẹn hò với một anh chàng ngoài bốn mươi chưa từng kết hôn.”

“Tôi nghĩ ngày nay bất cứ chuyện gì có kết quả đều ổn hết.”

“Chỉ đơn giản là tôi chưa bao giờ gặp được người thích hợp để muốn cùng họ ổn định cuộc sống.”

Dance nhận thấy một bên lông mày thoáng nhướng lên cùng chút dao động trong cao độ của giọng nói.

Cô để những quan sát đó trôi đi.

Boling bắt đầu, “Cô...?” Đôi mắt anh nhìn xuống bàn tay trái của cô, nơi một chiếc nhẫn mặt ngọc trai màu xám được đeo trên ngón đeo nhẫn.

“Tôi góa chồng,” Dance nói.

“Ôi, trời ơi. Tôi xin lỗi.”

“Tai nạn xe hơi,” cô giải thích, chỉ cảm thấy một chút thoáng qua của nỗi buồn quen thuộc.

“Khủng khiếp quá.”

Và Kathryn Dance không nói gì thêm về chồng cô và vụ tai nạn, không vì lý do nào khác ngoài việc cô không muốn nhắc đến chúng nữa. “Vậy anh là một anh chàng độc thân thực thụ?”

“Tôi đoán là thế. Ngày nay đó là một từ người ta không còn nghe thấy nữa... từ cả thế kỷ nay rồi.”

Dance quay vào bếp lấy thêm rượu, cô chọn chai vang đỏ một cách vô thức - vì đó là loại Michael O’Neil ưa thích - rồi nhớ ra Boling thích vang trắng. Cô rót đầy nửa ly của hai người.

Họ trò chuyện về cuộc sống ở khu Bán đảo Monterey, cũng như những chuyến đạp xe trên núi và đi bộ dã ngoại của Boling. Công việc đang làm quá tĩnh tại với anh, vì thế anh thường leo lên chiếc bán tải cũ của mình và phóng lên núi hoặc tới một công viên tiểu bang.

“Cuối tuần này tôi sẽ làm một chuyến đạp xe. Sẽ là một chút tỉnh táo giữa một hòn đảo điên rồ.”

Sau đó, anh kể cho cô nghe nhiều hơn về cuộc hội họp gia đình đã nhắc tới lúc trước.

“Napa?”

“Đúng thế,” lông mày Boling cong lên một cách thật dễ mến và cuốn hút. “Gia đình tôi là... tôi đã nói thế nào nhỉ?”

“Một gia đình.”

“Trúng phóc,” anh bật cười nói. “Bố mẹ khỏe mạnh. Hai người anh em và tôi quan hệ hòa thuận trong phần lớn thời gian, cho dù tôi thích các con họ hơn. Mấy ông chú bà cô. Sẽ rất tuyệt. Thật nhiều rượu vang, thật nhiều đồ ăn. Những buổi hoàng hôn nhưng không nhiều, may mắn thay. Tối đa là hai. Như thế là vừa với các kỳ nghỉ cuối tuần.”

Một lần nữa, im lặng lại buông xuống giữa hai người. Thật dễ chịu. Dance không hề cảm thấy vội vã trong việc lấp đầy nó.

Nhưng không khí bình yên bị phá vỡ ngay khi điện thoại của Boling đổ chuông. Anh nhìn màn hình. Ngay lập tức, ngôn ngữ cơ thể chuyển sang trạng thái sẵn sàng cao độ.

“Travis đang lên mạng. Vào việc thôi.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
622,673
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Dưới những cú gõ bàn phím của Boling, trang chủ DimensionQuest được tải lên gần như tức thì.

Màn hình nhấp nháy và một hộp thoại chào mừng xuất hiện. Phía dưới có vẻ là kết quả xếp hạng của trò chơi bởi một tổ chức được gọi là ERSB.



Vị thành niên

Máu

Đề xuất chủ đề

Rượu

Bạo lực



Sau đó, Jon Boling tiếp tục gõ phím một cách đầy tự tin, đưa họ tới Aetheria.

Đó là một trải nghiệm thật lạ lùng. Các nhân vật - một số là những sinh vật tưởng tượng, một số là con người - lang thang trong một khoảng trống nằm giữa một khu rừng đầy những thân cây khổng lồ. Tên của chúng được hiển thị phía trên từng nhân vật. Phần lớn đang giao chiến, nhưng có một số chỉ đang đi bộ, chạy hay cưỡi ngựa hoặc các vật cưỡi khác. Một số tự bay được. Dance kinh ngạc khi thấy tất cả các nhân vật đều di chuyển rất mềm mại và biểu cảm trên khuôn mặt rất sống động như thật. Hình ảnh đồ họa quả là đáng kinh ngạc, với chất lượng gần như của phim ảnh.

Điều đó làm cho những trận giao chiến và những cảnh đổ máu tàn khốc thái quá càng thêm kinh khủng.

Dance chợt thấy mình đang cúi người ra trước, đầu gối nhấp nhổm - biểu hiện đặc thù của căng thẳng. Cô khẽ kêu lên khi một chiến binh chém đầu một người khác ngay trước mặt họ.

“Là những người thật đang điều khiển chúng sao?”

“Một hay hai là nhân vật nội tại - chúng được lập trình sẵn. Nhưng phần lớn tất cả chỗ còn lại là các nhân vật do người chơi ở bất cứ nơi nào điều khiển. Cape Town, Mexico, New York, Nga. Đa số người chơi là nam giới, nhưng cũng có không ít phụ nữ. Và tuổi trung bình cũng không quá trẻ như cô nghĩ đâu. Chủ yếu ở độ tuổi vị thành niên cho tới gần ba mươi nhưng cũng vẫn có rất nhiều người chơi lớn tuổi hơn. Họ có thể là những cậu bé, cô bé hay những người đàn ông trung niên, da đen, da trắng, tàn tật, vận động viên, luật sư, người rửa bát… Trong thế giới ảo, cô có thể là bất cứ ai mà mình muốn.”

Trước mặt họ, lại thêm một chiến binh nữa dễ dàng giết đối thủ của mình. Máu phun lên thành vòi như một nguồn nước nóng.

Boling hầm hừ. “Song tất cả họ không phải đều ngang hàng. Khả năng sống sót phụ thuộc vào việc ai thực hành nhiều nhất và ai có nhiều sức mạnh nhất - sức mạnh cô có được thông qua giao chiến và giết. Một thứ vòng tròn tàn khốc, theo đúng nghĩa đen.”

Dance gõ lên màn hình và chỉ vào sau lưng một nhân vật nữ đang ở ngoài tiền sảnh. “Đó là anh phải không?”

“Một nhân vật mà sinh viên của tôi đang chơi. Tôi đăng nhập qua tài khoản của cô ấy.”

Cái tên phía trên là Greenleaf.

“Cậu ta kia rồi!” Boling nói, họ va vai vào nhau khi anh rướn người ra trước. Anh chỉ tay vào nhân vật của Travis, Stryker, lúc này đang ở cách Greenleaf chừng một trăm foot[1].

[1. Foot: Đơn vị đo độ dài của Anh, 1 foot tương đương 0.31mét]

Stryker là một gã đàn ông mạnh mẽ, cơ bắp. Dance dễ dàng nhận thấy trong khi rất nhiều nhân vật khác có râu hay làn da xù xì thô ráp, nhân vật của Travis lại mày râu nhẵn nhụi và có làn da trơn mượt như da trẻ nhỏ. Cô chợt nghĩ tới mối bận tâm của cậu ta với căn bệnh trứng cá.

Cô có thể là bất cứ ai mình muốn…

Stryker - một “Chiến Binh Sấm Sét”, cô nhớ lại - rõ ràng là chiến binh chiếm ưu thế ở đây. Các nhân vật khác để ý tới hướng đi của cậu ta rồi quay người rời khỏi. Vài nhân vật tiến tới giao chiến - có lần hai người xông vào cùng lúc. Cậu ta dễ dàng giết cả hai. Lần khác cậu ta đánh gục một nhân vật to kềnh càng, một gã khổng lồ hay một con quái vật gì đó tương tự, bằng một tia sét. Tiếp theo, trong lúc đối thủ nằm giật giật trên mặt đất, Travis hướng nhân vật của cậu ta vung dao đâm thẳng vào ngực con quái vật.

Dance há hốc miệng.

Stryker cúi xuống và dường như lục lọi bên trong thi thể.

“Cậu ta đang làm gì vậy?”

“Lột đồ của xác chết,” Boling nhìn thấy đôi lông mày đang cau lại của Dance và nói thêm, “Mọi người đều làm thế. Cô cần phải làm vậy. Các thi thể có thể chứa thứ gì đó có giá trị. Và nếu cô đánh bại đối thủ, cô đương nhiên có quyền đó.”

Nếu đây là những giá trị Travis học được trong thế giới ảo, quả là kỳ diệu khi cậu ta đã không bùng phát sớm hơn.

Người đặc vụ không khỏi băn khoăn: Hiện giờ cậu ta đang ở đâu trong thế giới thực? Ở một cửa hàng Starbucks có kết nối Wifi, đội mũ trùm kín đầu và đeo kính mát để không bị nhận ra? Cách nơi này mười dặm? Hay chỉ một?

Cậu ta không có mặt ở Game Shed. Cô biết thế. Sau khi hay tin cậu thiếu niên từng dành thời gian tại đó, Dance đã cho theo dõi địa điểm này.

Trong lúc cô quan sát, nhân vật của Travis giao chiến và dễ dàng giết chết rất nhiều đối thủ nữa - phụ nữ, đàn ông và động vật - Dance nhận ra cô đang vô thức khởi động các kỹ năng của mình với tư cách chuyên gia ngôn ngữ cơ thể.

Tất nhiên, cô biết phần mềm đang kiểm soát cử động và tư thế của nhân vật. Dẫu vậy, cô vẫn thấy nhân vật của cậu ta di chuyển một cách uyển chuyển và kiêu hãnh hơn phần lớn các nhân vật khác. Khi chiến đấu, cậu ta không ra đòn một cách ngẫu nhiên như một số người. Cậu ta dành thời gian rình rập, lui lại một chút rồi sau đó tấn công khi đối thủ bị mất phương hướng. Thêm vài nhát chém hay nhát đâm nữa – và đối thủ chết hẳn. Cậu ta luôn cảnh giác, luôn quan sát xung quanh.

Có thể đây là một dấu hiệu về chiến lược trong cuộc sống của cậu thiếu niên. Lên kế hoạch tấn công thật cẩn thận, tìm hiểu tất cả những gì có thể về nạn nhân, và tấn công thật chớp nhoáng.

Phân tích ngôn ngữ cơ thể của một nhân vật trong trò chơi điện tử, quả là một cuộc điều tra kỳ lạ.

“Tôi muốn nói chuyện với cậu ta.”

“Với Travis ư? Ý tôi là với Stryker?”

“Phải. Hãy lại gần hơn.”

Boling do dự. “Tôi không biết rõ lắm các lệnh điều khiển. Nhưng tôi nghĩ tôi có thể di chuyển được.”

“Bắt đầu đi.”

Dùng các phím tắt, Boling hướng Greenleaf lại gần hơn chỗ Stryker đang cúi xuống thi thể sinh vật vừa bị cậu ta giết để thu chiến lợi phẩm.

Ngay khi cô vào gần tới cự ly tấn công, Stryker cảm thấy nhân vật của Dance tiếp cận mình và đứng dậy, một tay cầm kiếm, trên tay kia là một tấm khiên cầu kỳ. Đôi mắt Stryker đang nhìn chằm chằm ra ngoài màn hình.

Đôi mắt cũng tối đen như của con quỷ Qetzal.

“Tôi cần làm thế nào để gửi tin nhắn đi?”

Boling bấm vào một nút phía dưới cùng màn hình, và một hộp thoại mở ra. “Bây giờ cũng giống như bất kỳ tin nhắn tức thời nào khác. Gõ lời nhắn của cô rồi bấm ‘Enter’. Hãy nhớ sử dụng chữ viết tắt và ngôn ngữ teen nếu cô có thể. Cách dễ nhất để làm là thay số 3 cho chữ e và 4 cho a.”

Dance hít một hơi thật sâu. Hai bàn tay cô run run trong khi nhìn vào khuôn mặt đồ họa của kẻ sát nhân.

“Stryker, c4u gj0j qu4”, những từ này hiện lên trong một ô thoại hình quả bóng lơ lửng trên đầu Greenleaf trong khi nhân vật này lại gần.

“M4y l4 4i?” Stryker đứng lại, nắm lấy một thanh kiếm.

“Tuj chj l4 m0t t4y k3m c0i thoy”.

Boling nói với cô, “Không tệ, nhưng hãy quên ngữ pháp và dấu đi. Không viết hoa đúng quy tắc, không chấm phẩy. Các dấu chấm hỏi thì được.”

Dance tiếp tục, “th4y u đ4nh roy, u gjoj l3m.”

“Hoàn hảo,” Boling thì thầm.

“may thu0c vu0ng qu0k n4o?”

“Ý cậu ta là gì vậy?” Dance hỏi, không khỏi cảm thấy hơi hốt hoảng.

“Tôi nghĩ cậu ta đang hỏi cô đến từ vương quốc hay lãnh địa nào. Có đến hàng trăm. Tôi không biết bất cứ vương quốc hay lãnh địa nào trong trò chơi này. Hãy bảo cậu ta cô là một newbie”, anh đánh vần từ này. “Nghĩa là một người mới tập chơi nhưng muốn học hỏi.”

“chj l4 newbie, ch0j ch0 vuj thoy, nghj l4j u c0 th3 d4y.”

Tiếp theo là một khoảng ngừng.

“y m4y n0j m4y l4 m0t đu4 th4m h4j”

“Thế có nghĩa là gì?” Dance hỏi.

“Newbie chỉ đơn giản là người mới chơi. Một tay ‘thảm hại’ là một kẻ thất bại, một người tự cao tự đại và kém cỏi. Đó là một lời sỉ nhục. Travis đã bị gọi là đồ thảm hại rất nhiều lần trên mạng. LOL với cậu ta nhưng nói rằng cô không phải vậy. Cô thực sự muốn học hỏi từ cậu ấy.”

“lol, but 0 ph4j, t0j mun h0k.”

“M4y c0 ng0n 0?”

Dance hỏi Boling, “Có phải cậu ta đang tới chỗ tôi không?”

“Tôi không biết. Đây là một câu hỏi thật lạ trong hoàn cảnh này.”

“c0 v4j nguj n0j v0j t0j th3”

“m4y g0 bun cuj th4t”

“Chết tiệt, cậu ta nhận ra có chút thời gian ngừng khi cô gõ bàn phím. Cậu ta đang nghi ngờ. Hãy chuyển chủ đề trở lại về cậu ta.”

“tuj thuk su mun h0k, c4u c0 th3 d4y j cho tuj?”

Lại một khoảng lặng. Sau đó: “1 thu”.

Dance gõ, “j v4y?”

Thêm một lần do dự nữa.

Rồi câu trả lời xuất hiện trong quả bóng lơ lửng trên đầu nhân vật của Travis. “Ch3t.”

Và cho dù Dance theo linh tính muốn bấm vào một phím mũi tên hay lướt bàn di chuột để giơ một cánh tay lên hộ thân, cô cũng không còn thời gian nữa.

Nhân vật của Travis lao tới thật nhanh. Cậu ta vung kiếm lên chém liên hồi, tấn công nhân vật của cô. Ở góc trên bên trái màn hình mở ra một hộp thể hiện hai cột màu trắng: Phía trên cột bên trái là từ “Stryker”, và bên phải là “Greenleaf”.

“Không!” cô kêu thầm trong lúc Travis chém tới lia lịa.

Cột trắng của Greenleaf bắt đầu cạn dần. Boling nói, “Đó là nguồn sống của cô đang bị mất đi. Hãy đánh trả đi. Cô có một thanh kiếm. Kia kìa!” anh chỉ lên màn hình. “Di con trỏ vào đó và bấm chuột trái.”

Chìm ngập trong cơn hoảng loạn hoàn toàn vô lý và hối hả, cô bắt đầu bấm chuột.

Stryker dễ dàng đỡ được những cú đánh lộn xộn từ nhân vật của cô tung ra.

Trong khi năng lượng của Greenleaf cạn dần nhanh chóng trên cột đo, nhân vật này quỵ gối xuống. Thanh kiếm lập tức rơi xuống đất. Nhân vật của cô đã nằm vật ngửa ra, chân tay dang rộng. Bất lực.

Dance có cảm tưởng vô vọng mà cô chưa bao giờ từng cảm thấy ngoài đời thực.

“Cô không còn mấy năng lượng đâu”, Boling nói. “Cô không thể làm gì nữa.”

Khi cột năng lượng đã gần cạn sạch, Stryker thôi không tấn công vào Greenleaf nữa. Cậu ta bước lại gần hơn và nhìn thẳng vào màn hình máy tính.

“m4y l4 aj?” dòng chữ hiện lên trong hộp thoại tin nhắn tức thời.

“t0j l4 greenleaf. S4o c4u gi3t t0j?”

“M4Y L4 AJ?”

Boling nói, “Toàn là chữ viết hoa. Cậu ta đang gào lên. Cậu ta phát điên rồi.”

“t4j s40?” hai bàn tay Dance đang run rẩy, ngực cô nhói thắt. Như thể đây không phải là một chút dữ liệu điện tử mà là những con người thật. Cô đã hoàn toàn đắm mình vào trong thế giới ảo.

Travis sau đó điều khiển Stryker bước tới đâm thẳng thanh kiếm vào bụng Greenleaf. Máu phun ra, và cột năng lượng trong cửa sổ góc trái phía trên màn hình được thay thế bằng thông báo: “BẠN ĐÃ CHẾT”.

“Ôi”, Dance kêu lên. Hai bàn tay đẫm mồ hôi của cô run lẩy bẩy, hơi thở hổn hển ngắt quãng, lướt qua trên đôi môi khô khốc. Nhân vật của Travis trừng mắt nhìn vào màn hình một cách lạnh lùng, sau đó quay đi và bắt đầu chạy vào rừng. Không hề dừng lại, cậu ta vung kiếm lên chém ngang qua cổ một nhân vật khác đang quay lưng lại và chặt phăng đầu nhân vật này.

Sau đó, hoàn toàn biến mất.

“Cậu ta không nán lại để tước đồ xác chết. Cậu ta đang đào tẩu. Travis muốn trốn chạy thật nhanh. Cậu ta nghĩ có chuyện gì đó đang tới,” Boling dịch lại gần Dance hơn - lần này đến lượt chân họ cọ vào nhau. “Tôi muốn xem một thứ,” anh bắt đầu gõ bàn phím. Một hộp thoại nữa xuất hiện. Nó thông báo: “Stryker không có trên mạng”.

Dance cảm thấy một cơn ớn lạnh đau buốt lan toàn thân, dọc sống lưng cô như bị chà lên nước đá.

Ngồi xuống trở lại, vai chạm vào vai Jon Boling, cô thầm nghĩ: Nếu Travis đăng xuất, có thể cậu ta đã rời khỏi nơi vừa vào mạng.

Và cậu ta đang đi đâu?

Lẩn trốn?

Hay cậu ta dự định tiếp tục cuộc đi săn của mình trong thế giới thực?

~*~

Cô đang nằm trên giường, lúc này đã gần nửa đêm.

Hai âm thanh lẫn lộn vào nhau: Gió thổi qua các ngọn cây bên ngoài phòng ngủ của cô, sóng đập lên những bờ đá cách đó một dặm ở Asilomar và dọc theo con đường tới Lovers Point.

Ngay bên cạnh, cô cảm thấy hơi ấm tỷ lên chân, và những hơi thở ra, thật nhẹ nhàng trong giấc ngủ, phả lên cổ cô.

Tuy thế, cô không tài nào chìm được vào giấc ngủ nhẹ nhõm. Kathryn Dance tỉnh táo như thể lúc này đang là giữa trưa vậy.

Trong tâm trí cô, một luồng suy nghĩ không ngừng trôi qua. Một ý nghĩ có thể vụt nổi bật hẳn lên trong một thời gian, rồi lao đi, giống như trong Vòng quay của Vận may[2] vậy. Chủ đề xuất hiện với tần suất cao nhất tất nhiên là Travis Brigham. Trong những năm làm phóng viên đưa tin tội phạm, rồi chuyên gia tư vấn cho bồi thẩm đoàn và nhân viên công lực, Dance đã đi tới kết luận xu hướng ngả về cái ác có thể tìm thấy chứa sẵn trong gene di truyền - như Daniel Pell, tay thủ lĩnh giáo phái và kẻ sát nhân cô vừa truy bắt gần đây - hoặc có thể do tiêm nhiễm từ bên ngoài: J.Doe ở Los Angeles chẳng hạn, với y, xu hướng sát nhân xuất hiện muộn hơn trong cuộc đời.

[2. Weel of Fortune, một chương trình trò chơi truyền hình phổ biến ở nhiều nước. Ở Việt Nam được lấy tên là “Chiếc nón kỳ diệu”.]

Dance tự hỏi Travis rơi vào vị trí nào trong bảng phân loại.

Cậu ta là một thiếu niên bất ổn, nguy hiểm, nhưng đồng thời cũng là một con người khác, một cậu nhóc vị thành niên khao khát được bình thường - có làn da sạch trứng cá, được một cô gái nhiều người hâm mộ ưa thích. Liệu có phải từ khi mới chào đời, bản chất cậu ta đã gắn liền với cuộc sống đầy căm hận này không? Hay cậu ta đã bắt đầu chẳng khác gì bất cứ cậu con trai nào khác, song đã bị hoàn cảnh xô đẩy - ông bố bạo lực, cậu em có vấn đề tâm thần, vẻ ngoài rụt rè, cá tính cô độc, nước da xấu - đến mức tâm trạng tức giận của cậu không thể tự tan biến đi như ở phần lớn chúng ta, như màn sương mù vào giữa buổi sáng vậy?

Trong một khoảnh khắc dài, nặng trĩu, thương hại và căm ghét giằng co bên trong cô.

Thế rồi cô nhìn thấy nhân vật của Travis trừng trừng nhìn mình quỵ xuống và vung thanh kiếm của cậu ta lên.

tuj thuk su mun h0k, c4u c0 th3 d4y j cho tuj?

ch3t…

Bên cạnh, thân hình ấm áp hơi nhúc nhích, cô tự hỏi có phải mình vừa truyền sang bên ấy chút căng thẳng nho nhỏ làm giấc ngủ đó bị quấy rầy hay không. Cô cố nằm bất động, nhưng là một chuyên gia về ngôn ngữ cơ thể, cô biết điều đó là không thể. Dù ngủ hay thức, nếu bộ óc chúng ta hoạt động, cơ thể chúng ta luôn vận động.

Và vòng quay lại tiếp tục.

Mẹ cô, và vụ điều tra giết người nhân đạo, đến lượt nó nổi lên. Cho dù đã đề nghị Edie gọi điện khi bố mẹ cô về đến nhà trọ, mẹ cô đã không gọi. Cô thấy tổn thương, song không hề ngạc nhiên.

Rồi bánh xe lại quay vòng lần nữa và dừng lại ở vụ J.Doe tại Los Angeles. Phiên tòa điều trần đề nghị miễn truy tố sẽ diễn ra thế nào? Liệu nó có lại bị hoãn nữa không? Và kết quả cuối cùng ra sao? Ernie Seybold rất có năng lực. Nhưng như thế đã đủ chưa?

Thành thật mà nói, Dance không biết.

Dòng suy tưởng sau đó chuyển sang những ý nghĩ về Michael O’Neil. Cô hiểu có những lý do khiến anh không thể đến được tối nay. Nhưng còn việc không gọi điện? Thật bất bình thường.

Vụ điều tra kia...

Dance bật cười trước ý nghĩ đượm mùi ghen tuông.

Thỉnh thoảng cô vẫn thử hình dung ra mình và O’Neil bên nhau, nếu không phải anh đã kết hôn với Anne, một phụ nữ hấp dẫn và kỳ lạ. Mặt khác, chuyện đó quá dễ dàng. Họ đã trải qua nhiều ngày cùng nhau trong các cuộc điều tra, và nhiều giờ trôi qua liền mạch. Những cuộc trò chuyện, những câu pha trò. Dẫu vậy họ cũng đã từng bất đồng, có lúc tới độ nổi nóng. Nhưng cô tin những bất đồng gay gắt đó chỉ làm phong phú thêm những gì hai người có cùng nhau.

Mọi thứ.

Dance tiếp tục suy nghĩ, không tài nào dừng lại được.

Cạch, cạch, cạch...

Ít nhất cho tới khi chúng dừng lại ở giáo sư Jonathan Boling.

Và bên cạnh cô hơi thở nhè nhẹ biến thành tiếng ư ử khe khẽ.

“Được rồi,” Dance nói, lật mình sang phía bên kia. “Patsy!”

Con chó tha mồi[3] lông phẳng ngừng ngáy khi nó tỉnh dậy và ngỏng đầu lên khỏi gối.

[3. Chó tha mồi: một loại chó săn được huấn luyện để tìm và mang những con mồi đã bị bắn hạ về.]

“Xuống sàn,” Dance ra lệnh.

Con chó đứng dậy, nhận ra không có chuyện thức ăn hay chơi bóng ở đây, và nhảy xuống khỏi giường đến bên bạn của nó, Dylan, trên tấm thảm sờn chúng vẫn dùng làm đệm, để Dance một lần nữa đơn độc trên giường.

Jon Boling, cô thì thầm. Rồi sau đó đi đến quyết định tốt hơn hết không nên dành nhiều thời gian nghĩ ngợi về vị giáo sư.

Ít nhất là chưa nên.

Dù sao đi nữa, vào khoảnh khắc ấy dòng suy tưởng của cô tan biến khi chiếc điện thoại di động để trên bàn cạnh giường, kề bên khẩu súng, rung lên.

Cô lập tức bật đèn, đeo kính vào và cười thành tiếng khi nhìn thấy tên người gọi.

“Jon,” cô trả lời.

“Kathryn,” Boling nói. “Tôi rất xin lỗi vì đã gọi muộn thế này.”

“Không sao đâu. Tôi vẫn chưa ngủ. Có chuyện gì vậy? Stryker à?”

“Không. Nhưng có một thứ cô cần xem. Trên blog - Bản tin Chilton. Tốt hơn cô nên vào mạng ngay.”

Mặc bộ đồ nỉ, với hai con chó ở ngay gần, Dance đang ngồi trong phòng khách, tất cả đèn đều tắt, chỉ còn ánh trăng và một luồng sáng từ đèn đường vẽ nên những dải sáng đủ tông màu xanh - trắng lên sàn nhà ván gỗ thông. Khẩu Glock ép sát vào cột sống, khẩu súng nặng nề kéo trễ dải băng chun giãn quanh hông chiếc áo nỉ của cô xuống.

Chiếc máy tính cuối cùng cũng kết thúc quá trình khởi động dài lê thê của nó.

“Được rồi.”

Anh nói, “Hãy xem bài cuối cùng được đăng lên blog”. Boling gửi cho cô đường dẫn URL.

Http://www.thechiltonreport.com/html/june27update.html

Nữ đặc vụ chớp mắt ngạc nhiên. “Cái gì...?”

“Travis đã xâm nhập vào Bản tin,” Boling cho cô hay.

“Bằng cách nào?”

“Bằng cách nào?”

Anh lạnh lùng bật cười. “Cậu ta mới tuổi teen, điều đó giải thích cho câu hỏi của cô.”

Dance lạnh người khi đọc. Travis đã đăng một tin nhắn ngay phần mở đầu blog ngày Hai mươi bảy tháng Sáu. Bên trái là một hình vẽ nguệch ngoạc nhân vật Qetzal trong DimensionQuest. Xung quanh khuôn mặt quái gở, khuôn miệng bị khâu kín đẫm máu là những con số và từ ngữ khó hiểu. Cạnh đó là một tin nhắn bằng chữ cái cỡ to, in đậm. Nó còn đáng ngại hơn bức hình. Nửa tiếng Anh, nửa tiếng Teen.



Ta sẽ TÓM t4t c4 c4c ngu0j!

ta = thắng, c4c ngu0j = thua!!

c4c ngu0j s3 ch3t

t4t c4 c4c ngu0j

- d0 TravisDQ đ4ng



Cô không cần đến người phiên dịch để hiểu thông điệp này.

Phía dưới lời nhắn là một bức hình nữa. Bức hình màu vụng về thể hiện một cô gái vị thành niên hay một phụ nữ nằm ngửa, miệng há hốc ra kêu gào, trong khi một bàn tay đâm thanh kiếm xuyên qua ngực cô ta. Máu phun vọt lên trời.

“Bức hình đó... Thật ghê tởm, Jon.”

Sau một lát im lặng. “Kathryn,” anh dịu giọng nói, “Cô có nhận ra điều gì ở nó không?”

Trong lúc chăm chú ngắm nghía bức hình vụng về, Dance bất giác khẽ kêu lên thảng thốt. Nạn nhân có mái tóc nâu, buộc đằng sau gáy thành đuôi ngựa, mặc áo sơ mi trắng và váy đen. Trên thắt lưng cô ta có một vùng màu đen ở bên hông, có thể là bao đựng súng. Hình dáng bên ngoài rất giống với trang phục của Dance khi cô gặp Travis hôm qua.

“Là tôi sao?” cô thì thầm với Boling.

Anh không nói gì.

Liệu có phải là một bức hình cũ, có thể là một hình ảnh tưởng tượng về cái chết của một cô hay một phụ nữ từng xúc phạm Travis theo cách nào đó trong quá khứ?

Hay cậu ta vừa vẽ ra nó hôm nay, bất chấp đang phải chạy trốn cảnh sát?

Dance chợt thấy một hình ảnh khiến cô lạnh người về cậu thiếu niên, cắm cúi trước một tờ giấy với bút chì và sáp màu, tạo ra hình ảnh thô kệch này về một cái chết trong thế giới ảo mà cậu ta hy vọng có thể biến thành thật.

~*~

Gió là một đặc điểm không thể tách rời của Bán đảo Monterey. Thường thổi mạnh lồng lộng, đôi lúc hây hây hoặc phe phẩy, song không bao giờ vắng bóng. Ngày và đêm, gió làm mặt đại dương xanh xám gợn sóng, một đại dương chẳng bao giờ phẳng lặng bất chấp tên gọi của nó[4].

[4. Ý nói tới Thái Bình Dương.]

Một trong những nơi lộng gió nhất trong nhiều dặm xung quanh là China Cove, nằm ở tận đầu phía nam của Công viên Tiểu bang Point Lobos. Những luồng gió se lạnh liên tục thổi vào từ đại dương làm tê buốt làn da của những người chạy bộ. Đi picnic là một đề xuất nhiều nguy cơ nếu sử dụng đến đĩa và cốc giấy. Lũ chim biển ở đây phải khó nhọc, vất vả thậm chí chỉ để giữ mình đứng yên trong không khí nếu chúng ở đúng vào luồng gió.

Lúc này đã gần nửa đêm, gió vẫn thổi nhưng thật thất thường, thoắt đến thoắt đi, và khi mạnh nhất, nó làm hất lên từng cột nước biển xám xịt đầy bọt cao như tòa tháp.

Gió xào xạc qua những cây sồi. Gió làm uốn cong những cây thông.

Gió thổi thảm cỏ rạp xuống.

Song có một thứ hoàn toàn vô cảm với những cơn gió tối nay, một vật nhỏ nằm bên khúc quanh giáp biển của Xa lộ 1.

Đó là một cây thập tự, cao chừng sáu tấc, được buộc lại từ những cành cây đen xì. Ở giữa là một miếng bìa các-tông đã sờn với ngày tháng của hôm sau được ghi bằng mực xanh. Cây thập tự được ghim chắc xuống bằng những hòn đá, đặt dưới chân thập tự là một bó hoa hồng đỏ. Thỉnh thoảng lại có những cánh hoa bay lên và bị thổi lướt đi qua bên kia xa lộ. Nhưng bản thân cây thập tự không hề lay động hay bị nghiêng ngả. Rõ ràng nó đã được cắm sâu xuống nền đất cát bên vệ đường bằng những cú đóng mạnh, tác giả của cây thập tự muốn đảm bảo chắc chắn rằng nó sẽ đứng vững để ai cũng thấy rõ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
622,673
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


Kathryn Dance, TJ Scanlon và Jon Boling đang ở trong phòng làm việc của cô. Lúc này là chín giờ sáng, và họ đã có mặt ở đây được gần hai giờ đồng hồ.

Chilton đã xóa lời đe dọa của Travis và hai bức hình khỏi chủ đề. Song Boling đã tải chúng về và sao ra.

c4c ngu0j s3 ch3t

t4t c4 c4c ngu0j

Và cả hai bức hình nữa.

Jon Boling nói, “Có thể lần theo dấu vết đăng bài,” anh nhăn mặt. “Nhưng chỉ khi Chilton hợp tác.”

“Những thứ trong bức hình vẽ Qetzal - các con số, mã số và chữ cái đó? Liệu có gì hữu ích không?”

Boling nói phần lớn chúng liên quan tới trò chơi và nhiều khả năng đã được tạo ra từ lâu. Dù thế nào đi nữa, thậm chí cả các chuyên gia giải mã cũng không thể tìm ra được bất cứ manh mối nào từ những ghi chú kỳ quái đó.

Những người còn lại trong phòng đều cẩn thận né tránh nhắc tới bức hình thứ hai, hay hình ảnh người phụ nữ bị đâm với bộ dạng rất giống bản thân Dance.

Cô đang định gọi Chilton thì nhận được một cuộc điện thoại. Vừa bật cười khi nhìn vào danh tính người gọi, cô vừa nhấc máy. “Vâng, ông Chilton?”

Boling nhìn cô với một cái nhìn giễu cợt.

“Tôi không rõ liệu cô đã thấy…?”

“Chúng tôi thấy rồi. Blog của ông đã bị xâm nhập.”

“Nhà cung cấp máy chủ có hệ thống an ninh rất tốt. Thằng nhóc đó hẳn rất thông minh,” một quãng ngừng. Sau đó, ông ta tiếp tục, “Tôi muốn báo để cô biết, chúng tôi đã cố gắng lần theo dấu vết vụ xâm nhập. Cậu ta đã dùng một trang máy chủ ủy nhiệm đâu đó ở Scandinavia. Tôi đã gọi điện cho vài người bạn tại đó, và họ tin chắc họ biết công ty này. Tôi có tên và địa chỉ. Cả số điện thoại nữa. Công ty đó nằm ở ngoại ô Stockholm.”

“Họ sẽ hợp tác chứ?”

Chilton nói, “Các nhà cung cấp máy chủ ủy nhiệm hiếm khi làm thế trừ trường hợp có lệnh của tòa. Chính vì thế mà người ta tin tưởng chọn họ, tất nhiên rồi.”

Một lệnh yêu cầu hợp tác tư pháp quốc tế sẽ là một cơn ác mộng về quy trình thủ tục và Dance chưa từng biết một lệnh nào loại này được phê chuẩn sau hai hay ba tuần từ khi được yêu cầu. Đôi khi các nhà chức trách nước ngoài hoàn toàn lờ tịt chúng đi. Nhưng cũng là một thứ để nghĩ đến. “Hãy gửi cho tôi thông tin. Tôi sẽ thử.”

Chilton làm theo.

“Tôi đánh giá cao việc ông làm thế này.”

“Và còn một việc nữa.”

“Gì vậy?”

“Bây giờ cô có đang truy cập vào blog không?”

“Tôi có thể.”

“Hãy đọc những gì tôi mới đăng vài phút trước.”

Nữ đặc vụ đăng nhập vào blog.

http://www.thechiltonreport.com/html/june28.html

Đầu tiên là một lời xin lỗi gửi tới độc giả, làm Dance ngạc nhiên vì sự nhún nhường của nó. Sau đó là:

Một bức thư ngỏ gửi Travis Brigham.

Đây là một lời kêu gọi cá nhân, Travis. Bây giờ, khi tên cậu đã được công bố rộng rãi, hy vọng cậu không phiền khi tôi gọi thế.

Công việc của tôi là thông báo tin tức, đưa ra những câu hỏi, không can dự vào những câu chuyện tôi đưa tin. Song giờ đây tôi buộc phải can dự vào.

Làm ơn, Travis, đã có đủ rắc rối rồi. Đừng làm tình hình trở nên tồi tệ hơn cho chính mình. Vẫn chưa quá muộn để đặt dấu chấm hết cho tình trạng tồi tệ này. Hãy nghĩ tới gia đình và tương lai của cậu. Làm ơn… Hãy gọi cho cảnh sát, hãy ra đầu thú. Có rất nhiều người muốn giúp đỡ cậu.

Dance nói, “Hay lắm, James. Rất có thể Travis sẽ liên lạc với ông về chuyện đầu thú.”

“Và tôi đã khóa chủ đề đó lại rồi. Không ai khác còn có thể đăng bài lên đó nữa,” ông ta im lặng trong khoảnh khắc. “Bức hình đó… Nó thật kinh khủng.”

“Chào mừng đến với thế giới thực, Chilton.”

Cô cảm ơn ông ta và hai người ngắt liên lạc. Cô dùng chuột tìm tới tận cuối bài viết Những Cây thập tự ven đường và đọc những bài bình luận mới nhất – cũng có vẻ là cuối cùng. Cho dù một số người dường như đã đăng bài từ nước ngoài, thêm một lần nữa cô không khỏi băn khoăn liệu chúng có chứa đựng đầu mối nào đó hữu ích để có thể tìm ra Travis hay dự đoán trước động thái tiếp theo của cậu ta không. Nhưng cô chẳng thể rút ra được kết luận nào từ những bài viết bằng thứ ngôn ngữ lủng củng khó hiểu đó.

Dance đăng xuất rồi nói với TJ và Boling về những gì Chilton đã viết.

Boling không chắc bức thư ngỏ sẽ có nhiều hiệu quả - theo đánh giá của anh, cậu thiếu niên đã vượt qua ngưỡng có thể dùng lý lẽ thuyết phục. “Nhưng chúng ta sẽ hy vọng.”

Dance phân công nhiệm vụ; TJ rút lui về ghế của anh ta cạnh bàn cà phê để liên lạc với công ty cung cấp máy chủ ủy nhiệm ở Scandinavia, còn Boling về lại góc của anh để tìm kiếm tên những người có thể trở thành nạn nhân tiếp theo từ một loạt địa chỉ Internet mới - trong đó có cả những người đăng bài trên các chủ đề khác ngoài Những Cây thập tự ven đường. Anh nhận diện được thêm mười ba cái tên nữa.

Charles Overby, trong bộ vest xanh đúng điệu một chính trị gia và một chiếc áo sơ mi trắng bóc, từ tốn bước vào phòng làm việc của Dance. Câu chào của ông ta là: “Kathryn... vậy là thế nào, Kathryn, chuyện thằng nhóc đó đăng lời đe dọa là sao?”

“Đúng thế đấy, Charles. Chúng tôi đang cố tìm hiểu xem cậu ta xâm nhập vào từ đâu.”

“Đã có sáu phóng viên gọi điện cho tôi rồi. Và một hai người đã mò ra số điện thoại nhà riêng. Tôi đã tống khứ bọn họ đi nhưng chắc không thể trì hoãn thêm được. Tôi sẽ phải tổ chức một cuộc họp báo sau hai mươi phút nữa. Tôi có thể nói gì với bọn họ đây?”

“Hãy nói cuộc điều tra đang tiếp tục. Chúng ta đã có thêm trợ giúp nhân lực từ San Benito cho cuộc truy lùng. Có vài trường hợp báo cáo nhìn thấy đối tượng nhưng chưa tìm được gì.”

“Hamilton đã gọi điện cho tôi. Ông ta rất bực.”

Quý ông Hamilton Royce tới từ Sacramento, với bộ vest quá xanh, đôi mắt nhanh như điện và nước da hồng hào.

Có vẻ Charles Overby vừa trải qua một buổi sáng đầy sự kiện.

“Còn gì nữa không?”

“Chilton đã cho ngừng cho đăng bình luận lên chủ đề đó và đề nghị Travis ra đầu thú.”

“Ý tôi là có gì về kỹ thuật không?”

“À, ông ấy giúp chúng ta lần theo dấu vết đăng bài của cậu ta.”

“Tốt. Vậy là chúng ta sẽ làm gì đó.”

Ý ông ta muốn nói: Thứ gì đó mà các khán giả của chương trình truyền hình vào giờ cao điểm sẽ tán thưởng. Trái ngược với thứ công việc không hào nhoáng mà cảnh sát đã cực nhọc, cần cù thực hiện trong bốn mươi tám giờ vừa qua. Dance bắt gặp ánh mắt Boling, cô biết anh cũng rất sững sờ trước lời bình phẩm vừa rồi. Hai người rời mắt khỏi nhau ngay lập tức trước khi một cái nhìn chung đầy bất bình của họ bùng lên.

Overby liếc đồng hồ. “Được rồi. Đến lượt tôi lên nòng,” ông quay ra, bước về phía phòng họp báo.

“Liệu ông ta có biết cách nói đó nghĩa là gì không?” Boling hỏi cô.

“Về cái nòng ư? Bản thân tôi cũng không biết.”

TJ cười khùng khục song không nói gì. Anh ta mỉm cười với Boling, nói, “Đó là một câu pha trò tôi sẽ không nhắc lại đâu. Nó ám chỉ những anh chàng thủy thủ hám của ngọt phải lênh đênh trên biển quá lâu ngày.”

“Cảm ơn vì đã không chia sẻ,” Dance gieo mình xuống ghế sau bàn làm việc, nhấp cốc cà phê đã tự dưng xuất hiện và, khỉ thật, tấn công vào nửa chiếc bánh vòng cũng từ đâu hiện ra như một món quà từ các vị thần. “Travis - à phải, Stryker - đã đăng nhập trở lại chưa?” cô hỏi Boling.

“Chưa. Vẫn chưa nghe được gì từ Irv. Nhưng chắc chắn cậu ta sẽ báo cho chúng ta biết. Tôi không nghĩ cậu ấy có thời gian để ngủ. Cậu ta lúc nào cũng có Red Bull trong mạch máu.”

Dance nhấc điện thoại lên và gọi cho Peter Bennington tại phòng thí nghiệm pháp y của MCSO để hỏi về những thông tin mới nhất liên quan tới bằng chứng. Vấn đề nằm ở chỗ cho tới lúc này đã thừa đủ bằng chứng để kết Travis tội giết người, song lại không hề có manh mối nào về địa điểm cậu ta có thể đang lẩn trốn, ngoại trừ những vết đất họ đã tìm thấy lúc trước - một địa điểm khác với nơi cây thập tự bị bỏ lại. David Reinhold, chàng nhân viên điều tra trẻ đầy nhiệt huyết từ Sở Cảnh sát đã tự mình đi lấy mẫu từ quanh nhà Travis. Mẫu đất không hề tương hợp.

Đất cát mới thật hữu ích làm sao! Dance bực bội hồi tưởng lại, ở một khu vực vẫn luôn tự hào với hơn mười lăm dặm bờ biển cùng những bãi biển và cồn cát đẹp nhất tiểu bang.

Bất chấp việc có thể thông báo rằng CBI đang “làm gì đó về mặt kỹ thuật”, Charles Overby đã bị một vố ra trò tại cuộc họp báo.

Chiếc tivi trong phòng làm việc của Dance đang bật, họ có thể xem cú trúng đòn đó được tường thuật trực tiếp.

Những gì Dance báo cáo với Overby về tình hình đều chính xác, ngoại trừ một chi tiết nhỏ, cho dù đó là một chi tiết cô không hề biết.

“Đặc vụ Overby,” một phóng viên hỏi, “các ông đang làm gì để bảo vệ cộng đồng trước việc một cây thập tự mới xuất hiện?”

Chẳng khác gì hươu bắt phải đèn pha.

“Ái chà chà,” TJ lẩm bẩm.

Choáng váng, Dance đưa mắt từ cậu ta sang Boling. Rồi quay trở lại màn hình.

Người phóng viên tiếp tục nói rằng cô này đã nghe được một thông báo trước đó nửa giờ trên máy dò sóng radio. Cảnh sát Carmel đã tìm thấy một cây thập tự nữa với ngày tháng của hôm nay, Hai mươi tám tháng Sáu, ở gần China Cove trên Xa lộ 1.

Overby lúng búng trả lời, “Trước khi tới đây, tôi vừa được nghe báo cáo từ đặc vụ phụ trách cuộc điều tra, và có vẻ cô ấy hoàn toàn chưa biết chuyện này.”

Có hai nữ đặc vụ cao cấp tại văn phòng Monterey của CBI. Sẽ chẳng khó để tìm ra ai là “cô ấy” vừa được nhắc đến.

Ôi, ông là đồ mắc dịch, Charles.

Cô nghe thấy một phóng viên khác hỏi, “Đặc vụ Overby, ông nói thế nào về sự thật là cả thành phố này, cả khu Bán đảo Monterey đều đang hoảng hốt? Đã có những tin cho hay nhiều chủ nhà bắn vào người vô tội khi vô tình đi qua sân nhà họ.”

Một quãng im lặng. “À, điều đó không hay chút nào.”

Ôi, trời đất quỷ thần ơi…

Dance tắt tivi. Cô gọi điện tới MCSO và được biết, đúng vậy, một cây thập tự nữa, mang ngày tháng của hôm nay, đã được tìm thấy gần China Cove. Cùng một bó hoa hồng đỏ. Bên Điều tra Hiện trường đang thu thập bằng chứng và tìm kiếm quanh khu vực.

“Không có nhân chứng nào, đặc vụ Dance,” người cảnh sát nói thêm.

Sau khi cô gác máy, Dance quay sang TJ. “Những người Thụy Điển trả lời chúng ta thế nào?”

TJ đã gọi điện cho công ty cung cấp máy chủ ủy nhiệm và để lại hai lời nhắn khẩn. Bọn họ vẫn chưa trả lời cuộc gọi của cậu ta, bất chấp việc hôm nay là ngày làm việc ở Stockholm và lúc này ở đó mới qua giờ ăn trưa.

Năm phút sau, Overby đùng đùng lao vào phòng. “Một cây thập tự nữa? Một cây thập tự nữa sao? Chuyện quái quỷ gì đang diễn ra vậy hả?”

“Tôi cũng vừa mới biết xong, Charles.”

“Vậy thì làm thế quái nào bọn họ biết được?”

“Báo chí ư? Máy dò sóng, nguồn tin nội bộ. Bọn họ luôn có cách tìm ra xem chúng ta đang làm gì.”

Overby xoa xoa vầng trán rám nắng của mình. Những vảy da chết rơi xuống lả tả. “Được rồi, chúng ta đang tới đâu với nó rồi nhỉ?”

“Người của Michael đang kiểm tra hiện trường. Nếu có bằng chứng họ sẽ cho chúng ta biết.”

“Nếu có bằng chứng.”

“Cậu ta là một thằng nhóc vị thành niên, Charles, không phải dân chuyên nghiệp. Nó sẽ để lại một vài dấu vết nào đó dẫn chúng ta tới chỗ ẩn náu. Không sớm thì muộn.”

“Nhưng đã có thêm một cây thập tự được để lại đồng nghĩa là cậu ta cũng sắp sửa giết ai đó hôm nay.”

“Chúng tôi đang cố gắng liên hệ với tất cả những người mà Boling tìm ra được có thể đang gặp nguy hiểm.”

“Còn việc lần theo dấu vết trên máy tính? Việc đó diễn ra đến đâu rồi?”

TJ nói, “Công ty này vẫn chưa trả lời lại chúng tôi. Chúng tôi đã đề nghị bên Tư pháp chuẩn bị một biên bản yêu cầu hợp tác tư pháp quốc tế.”

Người phụ trách văn phòng nhăn mặt. “Được lắm. Máy chủ ủy quyền đặt ở đâu?”

“Thụy Điển.”

“Họ còn khá hơn người Bulgaria,” Overby nói, “nhưng sẽ phải mất cả tháng trước khi họ vòng vèo rồi mới trả lời lại. Hãy gửi yêu cầu để giữ mặt mũi cho chúng ta, nhưng đừng phí thời gian vào nó.”

“Vâng, thưa sếp.”

Overby đùng đùng lao ra ngoài, thò tay moi điện thoại từ trong túi ra.

Dance cũng hối hả lấy điện thoại của cô gọi cho Rey Carraneo và Albert Stemple, bảo họ tới phòng cô ngay. Khi hai người có mặt, cô tuyên bố, “Tôi đã phát chán với việc luôn phải ở vào thế bị động rồi. Tôi muốn chọn ra năm hay sáu người có nhiều khả năng trở thành nạn nhân nhất - những người đã viết bài công kích Travis cay nghiệt nhất và những người ủng hộ Chilton nhiệt thành nhất. Chúng ta sẽ đưa họ rời khỏi khu vực, sau đó thiết lập giám sát tại nơi ở của những người này. Travis đã có một nạn nhân mới trong đầu, và khi cậu ta chường mặt ra, tôi muốn cậu ta được một bất ngờ thật thú vị. Hãy bắt đầu vào việc này đi.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
622,673
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


“Anh ấy phản ứng thế nào?” Lily Hawken hỏi chồng cô, Donald.

“James à? Anh ấy không nói gì nhiều, nhưng hẳn việc này phải rất nặng nề với anh ấy. Cả với Patrizia nữa, anh tin chắc vậy.”

Cả hai đang trong căn phòng riêng của ngôi nhà mới họ vừa sở hữu ở Monterey.

Dỡ đồ, dỡ đồ, rồi lại dỡ đồ...

Người phụ nữ tóc vàng nhỏ nhắn đứng giữa phòng, hai chân hơi dạng ra, nhìn xuống hai túi nilon đựng rèm cửa. “Anh nghĩ thế nào?”

Hawken lúc này đã có phần kiệt sức và không còn tâm trí đâu để bận tâm tới việc chăm lo cho các cửa sổ, song người vợ từ chín tháng và ba ngày nay của ông đã đảm nhận một phần quan trọng gánh nặng của việc chuyển nhà từ San Diego về đây, vậy là ông đặt mấy món dụng cụ đang dùng để lắp bàn cà phê xuống, nhìn từ tấm rèm màu đỏ sang tấm màu nâu sắt rồi ngược lại.

“Tấm bên trái,” ông chuẩn bị sẵn sàng để rút lui ngay nếu đó là câu trả lời sai.

Nhưng có vẻ đáp án là chính xác. “Em cũng đang nghiêng về lựa chọn này,” người vợ nói. “Cảnh sát đã cho người tới cảnh giới ở nhà anh ấy phải không? Họ nghĩ cậu thiếu niên sắp sửa tấn công anh ấy à?”

Hawken quay lại với việc lắp bàn. Ikea[1]. Khỉ thật, bọn họ có những nhà thiết kế thật thông minh. “Anh ấy không nghĩ thế. Nhưng em biết Jim rồi đấy. Dù có nghĩ vậy, anh ấy cũng không phải loại người cắm đầu chạy trốn.”

[1. Ingvar Kamprad Elmtaryd Agunnaryd: Tập đoàn Thụy Điển chuyên sản xuất đồ nội thất.]

Sau đó ông chợt nhớ Lily không thực sự biết gì nhiều về James Chilton. Cô vẫn chưa bao giờ gặp người đàn ông này. Cô chỉ có khái niệm về Chilton qua những gì chồng kể cho mình.

Cũng giống như việc ông biết rất nhiều khía cạnh về cuộc đời cô từ các buổi trò chuyện, những dấu hiệu và suy đoán. Cuộc đời là vậy trong những hoàn cảnh như thế này - cuộc hôn nhân thứ hai cho cả hai người; nó giúp ông thoát ra khỏi một thời kỳ tang tóc, còn với Lily là hồi phục sau một cuộc ly hôn đầy gian truân. Rất cảnh giác lúc khởi đầu, nhưng rồi họ đã nhận ra hầu như đồng thời rằng cả hai thiếu thốn sự gần gũi và tình cảm đến mức nào. Hawken, một người đàn ông từng không tin lúc nào đó sẽ có thể tái hôn, đã cầu hôn sau sáu tháng - tại quầy bar bãi biển lạo xạo cát nằm trên tầng áp mái khách sạn W[2] ở trung tâm San Diego, vì ông không thể đợi để tìm ra một khung cảnh thích hợp hơn.

[2. Chuỗi khách sạn hạng sang thuộc sỡ hữu của Starwood Hotels & Resorts Worldwide.]

Dẫu vậy, Lily đã mô tả sự kiện này như điều lãng mạn nhất cô có thể nghĩ đến. Chiếc nhẫn kim cương lớn buộc vào một dải ruy băng trắng quàng trên cổ chai Anchor Steam[3] đã tỏ ra rất hữu ích.

[3. Một loại bia của công ty Anchor Brewing.]

Và giờ đây cả hai đang bắt đầu một cuộc sống mới khi trở lại Monterey.

Donald Hawken ngẫm nghĩ về cuộc sống hiện tại của mình và đi đến kết luận ông đang hạnh phúc. Hạnh phúc như một chàng trai trẻ. Bạn bè đã nói với ông rằng một cuộc hôn nhân thứ hai sẽ rất khác biệt. Là một người góa vợ, ông hẳn đã thay đổi một cách căn bản. Ông sẽ không còn có thể cảm nhận thứ cảm xúc tươi trẻ như thời sung sức thấm vào từng tế bào trong cơ thể mình, sẽ có tâm tình gần gũi, có những khoảnh khắc đầy đam mê. Nhưng mối quan hệ về cơ bản sẽ là tình bạn.

Sai bét.

Nó vượt lên trên cả mọi khát khao và cuồng nhiệt.

Ông đã có một cuộc hôn nhân nồng nàn, đam mê với nàng Sarah đầy gợi cảm và xinh đẹp, một phụ nữ người ta có thể yêu say đắm như Hawken đã từng yêu.

Song tình yêu ông dành cho Lily cũng mạnh mẽ như thế.

Và, phải, cuối cùng ông cũng đi tới chỗ thừa nhận rằng chuyện ái ân có phần tốt hơn với Lily – theo nghĩa thoải mái hơn. Trên giường trước đây Sarah quả là, phải, đáng gờm, nếu nói một cách giảm nhẹ. Lúc này Hawken gần như mỉm cười trước những hồi ức đó.

Ông tự hỏi Lily cảm thấy thế nào về Jim và Pat Chilton. Hawken đã kể cho cô biết họ và ông từng là bạn thân thiết đến mức nào, hai cặp vợ chồng lúc trước thường xuyên tụ họp với nhau. Cùng tham dự các sự kiện tại trường học và những trận đấu thể thao của bọn trẻ, ăn tối, tiệc dã ngoại… Ông để ý thấy nụ cười của Lily trở nên hơi khang khác khi nghe kể về quá khứ này. Ông đã trấn an cô rằng, trong một khía cạnh nào đó, Jim Chilton cũng là người xa lạ với cả ông nữa. Hawken đã đau khổ đến tuyệt vọng sau cái chết của Sarah tới mức ông đã ngừng liên lạc với hầu hết tất cả bạn bè.

Nhưng giờ ông đang trở lại với cuộc sống. Ông và Lily sẽ kết thúc việc chỉnh trang cho ngôi nhà trong tình trạng hoàn toàn sẵn sàng, sau đó đi đón bọn trẻ, hiện đang ở tạm với ông bà chúng tại Encinitas. Rồi đây cuộc đời ông sẽ êm đềm trở lại theo nhịp sống vui tươi của khu Bán đảo Monterey, nơi ông vẫn còn nhớ từ những năm trước. Ông đã nối lại liên hệ với người bạn thân nhất, Jim Chilton, quay về câu lạc bộ đồng quê, gặp gỡ các bạn cũ.

Phải, đây là một bước đi đúng đắn. Nhưng một đám mây đen đã xuất hiện. Nhỏ thôi, và tạm thời, ông chắc vậy, song dẫu sao vẫn là một bóng đen.

Khi quay lại nơi từng là ngôi nhà của mình và Sarah, dường như ông đã làm sống lại một phần của cô ấy. Những ký ức bùng lên như một màn pháo hoa:

Tại đây, ở Monterey, Sarah từng là một bà chủ nhà chu đáo, nhà sưu tập mỹ thuật đầy đam mê, nữ doanh nhân khôn ngoan.

Tại đây, Sarah từng là người tình nóng bỏng, nhiệt tình và đầy khao khát.

Tại đây, Sarah từng táo bạo diện bộ đồ ướt đẫm và bơi dưới đại dương cồn sóng, bước lên bờ, lạnh cóng nhưng hồ hởi - không giống như lần bơi cuối cùng của cô gần La Jolla, không còn bước lên khỏi mặt nước nữa, mà dạt vào bờ, bất động, mắt mở to và không nhìn thấy được gì, làn da có nhiệt độ bằng đúng nhiệt độ của nước.

Nghĩ tới đây, trái tim Hawken đập rộn thêm một hai nhịp nữa.

Ông hít sâu thêm vài lần và gạt ký ức sang bên. “Muốn giúp một tay chứ?” ông đưa mắt về phía Lily và mấy cái rèm cửa.

Vợ ông dừng lại, sau đó để những thứ đang làm dở xuống. Cô bước lại gần, nắm lấy bàn tay ông và áp nó lên mảng da thịt hình chữ V dưới cổ. Cô hôn ông thật mạnh.

Hai người mỉm cười với nhau, rồi vợ ông quay trở lại phía mấy khung cửa sổ.

Hawken lắp xong xuôi chiếc bàn mặt kính khung mạ crôm và kéo nó ra trước sô pha.

“Anh yêu?” cuộn thước dây bị buông rơi xuống trong bàn tay Lily và cô đang nhìn ra ngoài cửa sổ đằng sau.

“Gì cơ?”

“Em nghĩ có ai đó ngoài kia.”

“Ở đâu cơ, ngoài sân sau à?”

“Em không biết liệu chỗ đó có thuộc sở hữu của chúng ta hay không. Ở bên kia hàng rào.”

“Thế thì chắc chắn đó là sân nhà người khác rồi.”

Những đồng đô la cũng không mua được cho bạn nhiều đất ở vùng bờ biển Trung California này.

“Người đó chỉ đứng ngoài kia, nhìn chằm chằm vào nhà mình.”

“Có lẽ họ đang băn khoăn tự hỏi xem có phải một ban nhạc rock-and-roll hay mấy tay nghiện đang chuyển tới hay không.”

Lily bước xuống một bậc thang. “Chỉ đứng đó thôi,” cô lặp lại. “Em không biết nữa, anh yêu, chuyện này có vẻ kỳ lạ.”

Hawken bước tới bên cửa sổ và nhìn ra ngoài. Từ góc nhìn của mình, ông không thấy được gì nhiều, song rõ ràng có một bóng người đang ngó sang qua những bụi cây. Người này mặc một chiếc áo nỉ màu xám có mũ trùm đầu được kéo lên.

“Có thể là con cái nhà hàng xóm. Bọn trẻ luôn tò mò về những người mới chuyển đến. Có lẽ nó muốn biết liệu chúng mình có con cùng độ tuổi hay không. Anh cũng từng như thế.”

Lily không nói gì. Ông có thể cảm nhận được tâm trạng bất an ấy, trong khi cô đứng đó với phần eo thon thả hếch lên, đôi mắt nheo lại, viền quanh là mái tóc vàng lấm tấm bụi từ việc di chuyển những thùng các tông.

Đã đến lúc vào vai hiệp sĩ.

Hawken bước vào bếp và mở cửa sau ra. Vị khách nọ đã biến mất.

Ông di chuyển ra xa hơn, rồi nghe thấy tiếng vợ gọi. “Anh yêu!”

Giật mình, Hawken quay lại và bước vào trong nhà.

Lily, vẫn đứng trên thang, đang chỉ tay qua một ô cửa sổ khác. Vị khách đã di chuyển sang phía sân bên hông nhà - bây giờ thì rõ ràng là trên phần đất của họ, cho dù vẫn bị lấp sau những lùm cây.

“Khỉ thật. Ai vậy mới được chứ?”

Hawken liếc mắt về phía điện thoại song quyết định không gọi 911. Sẽ thế nào nếu đó là hàng xóm hay con trai ông ta? Làm thế nhiều khả năng sẽ hủy hoại hết mọi cơ hội gây dựng một tình bạn.

Khi ông liếc mắt nhìn lại, bóng người đã biến mất.

Lily xuống khỏi thang. “Anh ta đi đâu rồi? Cứ như biến mất vậy. Thật nhanh.”

“Không biết nữa.”

Hai người cùng nhìn qua cửa sổ, tìm kiếm.

Không thấy bóng dáng kẻ lạ mặt đâu.

Tình trạng này còn đáng ngại hơn, khi không nhìn thấy đối tượng.

“Anh nghĩ chúng ta nên…”

Giọng nói của Hawken bị cắt ngang với một tiếng kêu thảng thốt trong lúc Lily thét lên, “Một khẩu súng - hắn có một khẩu súng, Don!” Cô đang nhìn chằm chằm qua một ô cửa sổ đằng trước.

Chồng cô chộp lấy điện thoại của ông, đồng thời gọi vợ, “Cái cửa! Khóa cửa vào.”

Lily lao đi.

Nhưng không còn kịp nữa.

Cánh cửa đã mở tung ra thật rộng.

Lily kêu thét lên và Don Hawken nhanh tay kéo cô xuống sàn bên dưới ông, một cử chỉ cao cả nhưng, ông hiểu rõ, vô ích để cứu tính mạng người vợ của mình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
622,673
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


ours of opera...

Ngồi trong phòng làm việc của Kathryn Dance, và lúc này chỉ còn Jonathan Boling đang lục lọi trong chiếc máy tính của Travis Brigham, hối hả truy tìm ý nghĩa của mật mã ours of opera.

Anh đang cúi người ra phía trước, gõ bàn phím liên hồi, nghĩ thầm nếu Dance có mặt ở đây, người chuyên gia về ngôn ngữ cơ thể trong cô hẳn đã rút ra được vài kết luận nhanh chóng từ tư thế cũng như vẻ tập trung của đôi mắt của mình: Anh như một chú chó đang đánh hơi con mồi.

Jon Boling đang lần ra một điều gì đó.

Hiện tại Dance và những người khác đã ra ngoài, thiết lập việc giám sát. Boling ở lại phòng làm việc của cô để lùng sục trong máy tính của cậu thiếu niên. Anh đã tìm ra một manh mối và bây giờ đang cố định vị thêm những dữ liệu cho phép mình lý giải ý nghĩa mật mã.

ours of opera...

Nó có nghĩa là gì?

Theo một khía cạnh lạ lùng thì máy tính là những cái hộp điên rồ bằng chất dẻo và kim loại, chứa đựng bên trong chúng các vết tích của dữ liệu đã bị xóa hoặc di dời. Một ổ đĩa cứng máy tính cũng giống như một mạng lưới những lối đi và hành lang bí mật, dẫn bạn ngày càng xa hơn vào trong cấu trúc bộ nhớ của máy tính. Hoàn toàn có thể - tuy rất khó khăn - xua tan những khoảng trống đó, loại bỏ chúng khỏi dấu tích của các dữ liệu trong quá khứ, song vì thông thường phần lớn các thông tin chúng ta đã tạo nên hay thu thập đã được vĩnh viễn lưu lại, vô hình và bị chia thành từng mảnh.

Boling lúc này đang lang thang trong một mê cung như thế, sử dụng một số chương trình từ đám sinh viên anh dạy để đọc những mảnh vụn dữ liệu bị kẹt lại trong những nơi tối tăm, tựa như những mảnh linh hồn vật vờ ám ảnh một ngôi nhà vậy.

Nghĩ về các bóng ma làm anh chợt nhớ tới đĩa DVD cậu con trai Kathryn Dance đã cho mình mượn tối qua. Bóng ma trong vỏ sò. Anh hồi tưởng lại quãng thời gian vui vẻ đã trải qua tại nhà cô, cũng như mình đã thích thú đến mức nào khi gặp bạn bè và gia đình Dance. Nhất là bọn trẻ. Maggie thật đáng yêu và vui vẻ, và nhiều khả năng, anh dám chắc không chút nghi ngờ rằng cô bé sẽ trở thành một phụ nữ cũng xuất sắc không kém gì mẹ mình. Wes có phần dễ tính hơn. Cậu bé thật dễ bắt chuyện và thông minh. Boling vẫn thường hình dung xem các con mình có thể sẽ thế nào nếu anh lập gia đình cùng Cassie.

Lúc này anh lại nghĩ đến cô, hy vọng cô đang hạnh phúc với cuộc sống mới của mình tại Trung Quốc.

Gạt những suy nghĩ về Cassandra sang một bên và tập trung vào cuộc săn ma trong chiếc máy tính. Anh đang tiến gần tới điều gì đó quan trọng trong chuỗi mã nhị phân được dịch sang các chữ cái tiếng Anh thành ours of opera.

Bộ óc thích giải quyết các câu đố hóc búa của Boling, thường đáng tin cậy trong việc đi tới những bước tiến kỳ lạ về suy luận và phỏng đoán, tự động kết luận rằng những từ đó là một phần của “hours of operation[1]”. Travis đã nhìn thấy những từ đó trên mạng ngay trước khi cậu ta biến mất. Ý nghĩa của phát hiện này có thể, chỉ là có thể, những từ đó liên quan tới một nơi cậu thiếu niên quan tâm đến.

[1. Thời gian hoạt động.]

Ngặt nỗi máy tính không lưu trữ các dữ liệu có liên quan với nhau ở cùng một chỗ. Phần mã của ours of opera có thể tìm thấy trong một ngăn tủ chật chội dưới tầng hầm, trong khi tên của nơi liên quan tới chúng đôi khi nằm đâu đó trên tầng áp mái. Một phần địa chỉ thực tế ở nơi này, phần còn lại ở nơi khác. Bộ óc của một máy tính liên tục đưa ra các quyết định về phân mảnh dữ liệu và lưu trữ các phân mảnh đó vào những chỗ hợp lý với nó song lại không thể hiểu nổi với người thường.

Và vậy là Boling lần theo dấu vết, mò mẫm qua những hành lang tối om đầy những hồn ma bóng quế.

Anh không nghĩ mình lại nhiệt tình tận tâm cho một dự án đến mức này từ nhiều tháng, thậm chí nhiều năm qua. Jonathan Boling ưa thích công việc ở trường đại học. Về bản chất anh là người tò mò và thích sự thách thức của nghiên cứu và viết lách, những cuộc trao đổi đầy phấn khích với các đồng nghiệp cùng trường và sinh viên, làm những con người trẻ tuổi đó có hứng thú để học hỏi. Nhìn thấy đôi mắt của một sinh viên đột nhiên sáng lên khi những chi tiết ngẫu nhiên ghép lại trong sự ngỡ ngàng thấu đáo với anh quả là một niềm vui khó tả.

Nhưng giờ đây, những thỏa mãn và thắng lợi đó dường như trở nên nhỏ bé. Hiện tại, anh đang tham gia vào một nhiệm vụ để cứu sống tính mạng con người. Không còn thứ gì khác quan trọng hơn ngoài giải mã bí ẩn này.

ours of opera...

Anh nhìn vào thêm một gian kho nữa trong căn nhà ma ám. Chẳng có gì ngoài những đống dữ liệu chồng lên nhau. Thêm một đầu mối sai nữa.

Thêm vài lần gõ phím.

Chẳng có gì.

Boling vươn vai, một khớp xương kêu răng rắc thật to. Thôi nào, Travis, tại sao cậu lại quan tâm đến nơi đó? Có gì ở nó thu hút cậu hả?

Và anh bạn vẫn còn mò đến đó chứ? Liệu có phải bạn cậu làm ở đó không? Hay anh bạn mua gì đó từ các giá hàng, tủ trưng bày của nó?

Thêm mười phút nữa.

Bỏ cuộc chăng?

Không đời nào.

Sau đó, anh lang thang vào một phần mới trong vùng phân mảng. Chớp mắt và bật cười. Cũng giống như ghép các mảnh của một bức tranh rời rạc lại với nhau, câu trả lời cho ours of opera dần định hình.

Trong khi nhìn chăm chăm vào tên của địa điểm, mối quan hệ của nó với Travis Brigham trở nên hiển nhiên tới mức lố bịch. Anh bực bội với chính mình vì đã không thể suy đoán ra nó cho dù không có đầu mối dữ liệu kỹ thuật số. Nhìn vào địa chỉ, anh lấy điện thoại ra và gọi cho Kathryn Dance. Chuông reo bốn lần rồi chuyển sang hộp thư thoại.

Boling định gửi tin nhắn, nhưng rồi nhìn lại ghi chú của mình. Địa điểm đó cũng không xa nơi anh đang ngồi là mấy. Không quá mười lăm phút.

Anh dập điện thoại với một tiếng động khẽ rồi đứng dậy, khoác áo khoác lên người.

Đưa mắt nhìn một cách vô thức về phía bức ảnh chụp Dance và các con cô cùng lũ chó thẳng góc ở giữa trung tâm khung hình, anh bước khỏi phòng làm việc và hướng ra cửa trước tòa nhà của CBI.

Ý thức được điều mình sắp làm có thể là một ý tưởng rất tệ hại, Jon Boling bỏ thế giới ảo lại sau lưng để tiếp tục cuộc tìm kiếm của anh trong thế giới thực.

~*~

“Rõ ràng,” Rey Carraneo nói với Kathryn Dance khi anh này quay lại phòng khách, nơi cô đang ngồi cùng Donald và Lily Hawken. Khẩu súng ngắn của Dance đang nằm trong tay khi cô cảnh giác nhìn qua các khung cửa sổ và vào những căn phòng của ngôi nhà nhỏ.

Hai vợ chồng chủ nhà, choáng váng và không mỉm cười nổi, ngồi trên một chiếc ghế sô pha mới, vẫn còn được bọc trong lớp vỏ nilon của nhà sản xuất.

Dance cất khẩu Glock của mình đi. Cô không mong đợi cậu thiếu niên có mặt nơi đây - cậu ta nấp ngoài sân bên hông nhà và có vẻ đã kịp thời chạy trốn khi cảnh sát tới - song trình độ thành thạo của Travis trong trò chơi DimensionQuest cũng như kỹ năng chiến đấu của thằng nhóc khiến cô phải băn khoăn liệu có thể bằng cách nào đó nó đã làm ra vẻ bỏ chạy song kỳ thực lại lẩn vào trong.

Cửa mở, và Albert Stemple lực lưỡng ngó đầu vào. “Không thấy. Cậu ta biến rồi,” anh ta thở hổn hển, cả vì cuộc truy đuổi lẫn hậu quả còn lại từ loại hơi hít phải ở nhà Kelley Morgan. “Tôi đã cho người kiểm tra đầu phố và cuối phố. Chúng ta có thêm sáu xe nữa đang trên đường tới. Có người đã nhìn thấy một kẻ mặc áo nỉ có mũ trùm kín đầu đạp xe đạp lao qua các con hẻm về phía trung tâm. Tôi đã báo cáo. Nhưng...” Albert nhún vai. Sau đó, thám tử to con biến mất, đôi bốt nặng nề của anh ta nện xuống các bậc cầu thang trong lúc anh ta đi ra để gia nhập vào cuộc săn lùng.

Dance, Carraneo Stample và nhân viên của MCSO đã tới trước đó mười phút. Trong khi gặp gỡ với những người rất có thể đã là mục tiêu, Dance chợt nảy ra một suy nghĩ. Cô nhớ tới giả thiết của Jon Boling: Nghĩa là khi mở rộng diện mục tiêu của mình, rất có thể Travis sẽ nhắm tới cả những người đã được nhắc đến một cách tích cực trên blog, thậm chí dù những người này không hề viết gì.

Dance đã đăng nhập vào đó lần nữa và đọc qua trang chủ của blog.

Http://www.thechiltonreport.com

Một cái tên xuất hiện là Donald Hawken, người bạn cũ của James Chilton, được nhắc tới trong mục Trên sân nhà. Hawken có thể là nạn nhân Travis nhắm đến khi để lại cây thập tự trên đoạn đường lộng gió của Xa lộ 1.

Vậy là họ lái xe tới nhà Hawken với mục đích đưa ông và vợ tránh khỏi nguy hiểm, đồng thời thiết lập giám sát theo dõi tại ngôi nhà.

Nhưng khi tới nơi, Dance đã trông thấy một người đội mũ trùm đầu, có vẻ như cầm một khẩu súng, lần mò giữa các bụi cây bên hông ngôi nhà. Cô đã cử Albert Stemple cùng người nhân viên của MCSO đuổi theo kẻ xâm nhập, còn Rey Carraneo, với Dance bám theo sau, lao vào trong nhà, súng chĩa ra sẵn sàng, để bảo vệ Hawken và vợ ông ta.

Hai người họ vẫn còn run rẩy vì chấn động; họ đã tưởng Carraneo là tên sát nhân khi anh mặc thường phục xông vào qua cửa, súng giơ cao.

Chiếc Motorola của Dance rung lên, cô trả lời. Lại là Stemple. “Tôi đang ở ngoài sân sau. Tìm thấy một cây thập tự cắm vào vạt đất này, với những cánh hoa hồng rải xung quanh.”

“Đã nhận rõ, Al.”

Lily nhắm mắt lại, gục đầu tựa lên vai chồng cô.

Bốn hay năm phút, Dance thầm nghĩ. Nếu họ đến đây muộn thêm chừng ấy thời gian, cặp vợ chồng này hẳn đã chết.

“Sao lại là chúng tôi?” Hawken hỏi. “Chúng tôi chẳng làm gì cậu ta cả. Chúng tôi không hề đăng bài. Thậm chí chúng tôi còn chẳng biết cậu ta.”

Dance giải thích về chuyện cậu thiếu niên đang mở rộng đối tượng mục tiêu.

“Ý cô là bất cứ ai từng được nhắc đến trên blog đều đang gặp nguy hiểm?”

“Có vẻ là vậy.”

Rất nhiều cảnh sát đã đổ về khu vực này chỉ trong vòng vài phút, song những cuộc gọi báo cáo về đều nói rõ không thấy Travis đâu.

Bằng cách quái quỷ nào một cậu nhóc đi xe đạp có thể chuồn được chứ? Dance thầm nghĩ đầy thất vọng. Chỉ đơn giản là cậu ta biến mất. Nhưng đến đâu chứ? Tầng hầm nhà ai đó chăng? Hay một công trường xây dựng bỏ hoang?

Bên ngoài, những chiếc xe đầu tiên của giới báo chí bắt đầu mò đến nơi, những chiếc bán tải với chảo vệ tinh gắn trên nóc, các tay máy quay bắt đầu khởi động thiết bị của bọn họ. Chuẩn bị để hâm nóng hơn nữa cơn hoảng loạn trong thành phố.

Và cũng có thêm cảnh sát xuất hiện, trong đó có vài nhân viên tuần cảnh đi xe đạp.

Lúc này Dance hỏi Hawken, “Ông vẫn còn giữ ngôi nhà của mình ở vùng San Diego chứ?”

Lily đáp, “Nó đang được rao bán. Vẫn chưa ai mua.”

“Tôi muốn hai người quay trở lại đó.”

“À,” người chồng nói, “ở đó không còn đồ đạc gì nữa. Nó đã được niêm phong.”

“Ông bà quen ai có thể ở nhờ không?”

“Bố mẹ chồng tôi. Các con của Donald hiện vẫn đang sống cùng họ.”

“Vậy hãy quay lại đó cho tới khi chúng tôi tìm thấy Travis.”

“Tôi đoán là chúng tôi có thể,” Lily nói.

“Em hãy đến đó,” Hawken nói với vợ. “Anh không thể bỏ rơi Jim.”

“Ông không thể làm gì để giúp Jim được đâu,” Dance nói.

“Chắc chắn là có đấy. Tôi có thể động viên tinh thần cho anh ấy. Hiện tại là một thời điểm kinh khủng. Anh ấy cần những người bạn.”

Dance nói tiếp. “Tôi tin chắc ông ấy đánh giá cao tình bạn chân thành này, nhưng hãy nhìn vào những gì vừa xảy ra. Cậu thiếu niên đó biết ông sống ở đâu và rõ ràng muốn làm tổn thương các vị.”

“Cô có thể bắt được cậu ta sau nửa giờ nữa.”

“Cũng có thể là không. Tôi thực sự cần yêu cầu ông, Hawken.”

Người đàn ông thể hiện ra một chút chất thép của một doanh nhân. “Tôi sẽ không bỏ mặc anh ấy,” vẻ gay gắt biến mất khỏi giọng của Hawken khi ông ta nói thêm, “Tôi cần phải giải thích một chuyện.” Một cái liếc mắt thật nhanh về phía người vợ. Một chút ngập ngừng, “Người vợ đầu của tôi, Sarah, qua đời hai năm trước.”

“Tôi rất tiếc.”

Một cái nhún vai cho qua mà Dance hiểu quá rõ.

“Jim bỏ hết mọi thứ; chỉ trong vòng một giờ anh ấy đã có mặt trước cửa nhà tôi. Anh ấy ở bên tôi và bọn trẻ suốt một tuần. Giúp chúng tôi và gia đình Sarah trong mọi việc. Đồ ăn, thu xếp tang lễ. Thậm chí còn làm việc nhà và giặt đồ. Lúc ấy tôi hoàn toàn bị tê liệt. Tôi không thể làm được gì. Tôi nghĩ hồi ấy có lẽ anh ấy đã cứu cả tính mạng mình. Và chắc chắn anh ấy đã cứu vớt sự tỉnh táo của tôi.”

Thêm một lần nữa, Dance không thể dẹp sang bên hồi ức về những tháng đầu tiên sau cái chết của chính chồng cô - khi Martine Christensen, cũng giống như Chilton, đã có mặt bên cô. Dance sẽ không bao giờ làm hại chính mình, cô không thể khi vẫn còn các con, nhưng đã có rất nhiều lúc, phải, cô đã nghĩ có thể mình sắp hóa điên.

Nữ đặc vụ hiểu rõ sự trung thành của Donald Hawken.

“Tôi sẽ không rời đi,” người đàn ông kiên quyết nhắc lại. “Có đòi hỏi thêm cũng vô ích.” Sau đó ông ôm lấy vợ. “Nhưng em hãy quay lại đó. Anh muốn em đi.”

Không một chút chần chừ, Lily nói, “Không, em ở lại với anh.”

Dance để ý thấy cái nhìn đó. Tôn thờ, hài lòng, quyết tâm... Chính tim cô đập rộn lên trong lúc thầm nghĩ, ông ta đã mất người vợ đầu tiên, đã hồi phục lại được và thêm lần nữa tìm thấy tình yêu.

Chuyện đó có thể xảy ra, Dance nghĩ. Thấy chưa?

Rồi cô tạm đóng cánh cửa cuộc sống riêng tư lại.

“Được thôi,” cô miễn cưỡng đồng ý. “Nhưng hai người cần rời khỏi đây ngay bây giờ. Tìm lấy một khách sạn và ở yên đó, tránh lộ mặt. Chúng tôi sẽ cử một người đến bảo vệ hai ông bà.”

“Được đấy.”

Đúng lúc ấy một chiếc xe phanh kít dừng lại trước ngôi nhà, một giọng nói lớn tiếng vang lên hoảng hốt. Dance và Carraneo bước vội ra cửa.

“Không sao đâu,” Albert Stemple nói, giọng uể oải kéo dài ra, chỉ thiếu mỗi khẩu âm miền Nam. “Chỉ là Chilton thôi.”

Ông chủ Bản tin có vẻ vừa biết tin và đã hối hả tìm đến. Ông ta vội vã bước lên các bậc cấp. “Có chuyện gì xảy ra vậy?” Dance ngạc nhiên khi nghe thấy vẻ hốt hoảng trong giọng nói của ông. Trước đây cô từng phát hiện thấy sự tức giận, nhỏ nhen và cả ngạo mạn, song âm thanh này thì chưa bao giờ. “Họ ổn cả chứ?”

“Ổn cả,” cô nói. “Travis đã ở đây, song Donald vẫn ổn. Cả vợ ông ấy cũng vậy.”

“Chuyện gì đã xảy ra?” cổ áo khoác của ông ta xộc xệch lệch hẳn sang một bên.

Hawken và Lily bước ra ngoài. “Jim!”

Chilton chạy tới ôm lấy người bạn của ông. “Anh không sao chứ?”

“Không sao. Cảnh sát đã đến kịp lúc.”

“Các vị đã bắt được cậu ta chưa?” Chilton hỏi.

“Chưa,” Dance nói, trông đợi Chilton tuôn ra một tràng chỉ trích họ vì không bắt được cậu thiếu niên. Nhưng ông ta chỉ cầm lấy tay cô và nắm chặt. “Cảm ơn, cảm ơn mọi người. Các vị đã cứu sống họ. Cảm ơn.”

Cô lúng túng gật đầu và buông tay ông ta ra. Sau đó Chilton quay sang Lily với một nụ cười tò mò.

Dance đoán hai người chưa bao giờ gặp nhau trực tiếp trước đây. Hawken lúc này giới thiệu họ với nhau, và Chilton vồn vã ôm hôn Lily. “Tôi rất xin lỗi về chuyện này. Tôi không bao giờ nghĩ nó lại có thể ảnh hưởng đến hai người.”

“Ai có thể lường được chứ?” Hawken hỏi.

Vừa cười buồn, Chilton vừa nói với bạn mình, “Bằng một màn chào đón tới Bán đảo Monterey như thế này, hẳn vợ anh chẳng muốn ở lại. Chắc cô ấy sẽ chuyển đi ngay ngày mai mất thôi.”

Cuối cùng Lily cũng dè dặt mỉm cười. “Tôi cũng muốn lắm. Có điều chúng tôi đã mua rèm cửa rồi,” cô hướng đầu về phía ngôi nhà.

Chilton bật cười. “Bà nhà thật vui tính đấy, Don. Sao cô ấy không ở lại còn anh quay về San Diego nhỉ?”

“E là anh bị mắc kẹt với cả hai chúng tôi rồi.”

Sau đó Chilton trở nên nghiêm túc. “Hai người cần rời khỏi đây cho tới khi chuyện này kết thúc.”

Dance giải thích. “Tôi cũng đã cố thuyết phục họ làm vậy.”

“Chúng tôi sẽ không đi.”

“Don...” Chilton bắt đầu nói.

Nhưng Hawken bật cười, gật đầu về phía Dance. “Tôi được cảnh sát cho phép rồi. Cô này đã đồng ý. Chúng tôi sẽ đến ẩn náu ở một khách sạn. Giống như Bonnie và Clyde vậy.”

“Nhưng...”

“Không nhưng gì hết, ông bạn. Chúng tôi ở đây rồi. Anh không thể tống khứ chúng tôi đi được đâu.”

Chilton định mở miệng phản đối, nhưng rồi nhận thấy nụ cười gượng gạo của Lily. Cô nhẹ nhàng, “Tôi e anh sẽ không thể khuyên bảo cô gái này những gì nên làm đâu, Jim.”

Ông ta lại bật cười. “Quả vậy. Cảm ơn các bạn. Hãy chuyển tới một khách sạn. Ở yên tại đó. Sau một hay hai ngày nữa tất cả chuyện này sẽ kết thúc. Mọi thứ sẽ trở lại bình thường.”

Hawken nói, “Tôi vẫn chưa gặp lại Pat và các cậu bé kể từ khi chuyển đi. Cũng đã hơn ba năm rồi.”

Dance đưa mắt nhìn Chilton. Còn một điều nữa ở ông ta cũng khác hẳn. Cô có ấn tượng mình đang nhìn thấy mặt nhân bản của con người này lần đầu tiên, như thể biến cố thiếu chút nữa đã trở thành bi kịch vừa ban nãy đã đẩy ông ta rời xa hơn khỏi thế giới ảo để trở về với thực tại.

Cuộc thánh chiến lúc này hoàn toàn vắng bóng, cho dù là tạm thời.

Cô để những người bạn cũ ở lại hàn huyên cùng nhau và đi vòng ra đằng sau. Một giọng nói vang lên từ trong bụi cây làm cô giật mình. “Xin chào.”

Cô ngoái lại đằng sau và thấy người cảnh sát trẻ đã giúp đỡ họ, David Reinhold.

“Chào cậu.”

Anh ta mỉm cười. “Cứ gọi tôi là David. Tôi nghe nói Travis đã ở đây. Thiếu chút nữa mọi người đã tóm được.”

“Chúng tôi đã ở rất gần. Nhưng vẫn chưa đủ.”

Người nhân viên điều tra mang theo mấy cái va li kim loại đã cũ và trầy xước, bên cạnh có ghi MCSO - CSU[2]. “Xin lỗi vì tôi không thể nói được gì chắc chắn về mấy cành cây ở sân sau nhà bà, cây thập tự đó.”

[2. Sở Cảnh sát Monterey – Đội điều tra hiện trường.]

“Cả tôi cũng vậy. Có thể chỉ là tình cờ thôi. Nếu tôi cắt tỉa cây cối đúng như đáng ra phải làm, chuyện đó hẳn đã chẳng bao giờ xảy ra.”

Đôi mắt cậu cảnh sát trẻ sáng lên nhìn về phía cô. “Bà có ngôi nhà đẹp lắm.”

“Cảm ơn cậu. Bất chấp phần sân sau luộm thuộm.”

“Không. Trông nó thực sự rất dễ chịu.”

Cô hỏi người nhân viên điều tra, “Còn cậu thì sao, David? Cậu sống ở Monterey à?”

“Trước đây thì đúng thế. Tôi có bạn cùng phòng, nhưng cậu ấy rời đi, vậy là tôi buộc phải chuyển tới Marina.”

“À, rất cảm ơn nỗ lực của cậu. Tôi sẽ nói vài lời với Michael O’Neil.”

“Thật chứ, Kathryn? Thế thì hay quá,” cả khuôn mặt cậu ta sáng bừng.

Reinhold quay đi và bắt đầu phong tỏa khu sân sau lại. Dance nhìn chằm chằm vào thứ nằm ở giữa một khoảng hình thang được quây lại bằng dải băng vàng: Cây thập tự cắm sâu xuống đất với những cánh hoa nằm rải rác.

Từ chỗ đó, đôi mắt cô ngước lên nhìn theo sườn dốc thoai thoải của những ngọn đồi tại Monterey xuống dưới vịnh, nơi có thể nhìn thấy một mảng mặt nước.

Một tầm nhìn bao quát thật đẹp.

Song hôm nay dường như trông nó cũng đầy đe dọa chẳng kém gì cái mặt nạ khủng khiếp của Qetzal, con quỷ trong DimensionQuest.

Cậu đang ở đâu đó ngoài kia, Travis.

Nhưng ở đâu, ở đâu?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
622,673
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


Chơi trò cảnh sát.

Lần theo dấu vết Travis giống như cách Jack Bauer[1] săn lùng bọn khủng bố.

[1. Nhân vật đặc vụ trong seri phim truyền hình ăn khách 24.]

Jon Boling có một đầu mối: Địa điểm nhiều khả năng Travis đã gửi bài đăng lên blog có hình vẽ cái mặt nạ và cảnh ghê rợn đâm người phụ nữ có vẻ hơi giống Kathryn Dance. Nơi có thể cậu ta đã chơi trò DimensionQuest quý hóa của mình.

Cụm từ “hours of operation”, anh tìm thấy từ những khoảng trống phân mảng trong chiếc máy tính xách tay của Travis liên quan tới Lighthouse Arcade, một trung tâm trò chơi điện tử và máy tính ở New Monterey.

Thằng ranh con hẳn đã mạo hiểm khi mò đến nơi công cộng, tất nhiên rồi, nếu xét tới cuộc săn lùng đang diễn ra. Nhưng một khi cậu nhóc chọn lộ trình cho mình một cách cẩn thận, đeo kính râm, đội mũ hay thứ gì khác hơn cái mũ trùm đầu mà các thông báo trên tivi vẫn mô tả, thì hẳn nhiên, Travis vẫn có thể lượn lờ chỗ này chỗ kia với mức độ tự do nhất định.

Bên cạnh đó, nếu nói đến chơi trò chơi trực tuyến đặc biệt là thể loại nhập vai thì một kẻ đã nghiện chúng sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài mạo hiểm với nguy cơ bị phát giác.

Boling lái chiếc Audi của mình rời khỏi xa lộ, tới Del Monte, rồi sau đó là Lighthouse, tiến vào khu vực nơi Lighthouse Arcade tọa lạc.

Vị giáo sư cảm thấy ít nhiều phấn khích. Anh đang ở đây, một ông thầy bốn mươi mốt tuổi sống chủ yếu nhờ vào bộ óc của mình. Anh chưa bao giờ nghĩ về bản thân như người thiếu lòng can đảm. Anh từng leo vách núi đá, lặn bằng bình ôxy, trượt tuyết đổ dốc. Hơn nữa, thế giới của những ý tưởng cũng mang trong nó nguy cơ gây ra tác hại - tới sự nghiệp, danh tiếng và cả sự hài lòng. Anh đã tranh đấu với chuyện này cùng các đồng nghiệp. Anh cũng từng là mục tiêu của những cuộc công kích đầy ác ý trên mạng, giống như những gì xảy đến với Travis, cho dù được viết khá hơn về chính tả, ngữ pháp và dấu chấm câu. Gần đây nhất, anh còn bị công kích vì bày tỏ quan điểm chống lại việc chia sẻ tài nguyên đã đăng ký bản quyền.

Không hề ngờ tới sự khốc liệt của những đòn múa lưỡi. Anh đã bị nhục mạ… bị gọi là một “gã tư sản chết tiệt”, một “ả điếm của đám doanh nghiệp lớn”, Boling đặc biệt thích cách gọi “giáo sư hủy diệt hàng loạt”.

Một số đồng nghiệp trên thực tế đã không thèm chuyện trò với anh nữa.

Nhưng tất nhiên những vấn đề tệ hại anh từng trải qua chẳng là gì hết nếu so sánh với nguy hiểm Kathryn Dance và các đồng nghiệp của cô phải đối mặt hằng ngày.

Và cũng là nguy hiểm mà hiện nay anh đang lâm vào, anh thầm nghĩ.

Chơi trò cảnh sát…

Boling hiểu mình hữu ích cho Kathryn và những người khác. Anh rất vui vì điều đó, và vui vì họ thừa nhận những đóng góp của mình. Song, sau một thời gian cận kề quá trình điều tra, lắng nghe những cuộc điện thoại, quan sát khuôn mặt Kathryn khi cô đón nhận thông tin về các tội ác, bắt gặp bàn tay cô tìm tới khẩu súng bên hông một cách vô thức… Anh cảm thấy bị thôi thúc được nhập cuộc.

Và còn gì nữa không, Jon? Anh giễu cợt hỏi chính mình.

À, phải, có thể anh đang cố gây ấn tượng với nữ đặc vụ kia.

Thật ngớ ngẩn, anh cảm thấy ghen tỵ chút ít khi chứng kiến cô và Michael O’Neil gặp gỡ nhau.

Anh bạn đang hành động hệt một cậu nhóc choai choai.

Dẫu vậy, có điều gì đó ở Dance làm anh cảm thấy rất hào hứng. Boling chưa bao giờ đủ khả năng giải thích điều đó - mà thực ra ai có thể chứ? - khi mối liên hệ đó xảy ra. Và nó luôn xuất hiện rất nhanh hoặc chẳng bao giờ xuất hiện. Dance đang độc thân, anh cũng vậy. Bản thân đã vượt qua chuyện về Cassie (được rồi, gần như có thể coi là hoàn toàn); liệu Kathryn đã tiến gần tới chỗ có thể hẹn hò trở lại chưa? Boling tin mình đã nhận được vài tín hiệu nơi cô. Song, làm sao chắc chắn được đây? Anh không hề sở hữu kỹ năng của cô - về ngôn ngữ cơ thể.

Nói chính xác hơn, Boling là một người đàn ông, một giống loài được trang bị vật liệu di truyền thích hợp cho việc lãng quên.

Boling đỗ chiếc A4 màu xám của mình gần Lighthouse Arcade, một con phố nằm kế bên hang ổ thế giới ảo ở phía bắc Pacific Grove. Anh nhớ về thời khu này còn những cơ sở kinh doanh nhỏ và những căn hộ bé hơn bây giờ, mang cái tên New Monterey, từng là một Haight Ashbury[2] thu nhỏ, nằm kẹt giữa một thành phố quân sự ầm ĩ và một khu cầu nguyện tôn giáo (khu Lovers Point của Pacific Grove được đặt tên theo những người yêu quý Jesus chứ không phải những người yêu nhau). Ngày nay, nơi này trở nên nhạt nhẽo như bất cứ con phố thương mại nào ở Omaha hay Seattle.

[2. Một quận ở San Francisco.]

Lighthouse Arcade là một nơi tối tăm, tồi tàn và phải rồi, sặc mùi game - à, quả là một cách chơi chữ anh nóng lòng được chia sẻ với Dance.

Boling đưa mắt đảo một vòng quanh chốn siêu thực bốn phía nơi đây. Các game thủ - phần lớn là những cậu bé - ngồi tại các máy, nhìn chăm chú lên màn hình, thao tác cần điều khiển và gõ ào ào trên bàn phím. Các phòng chơi có tường cao uốn vòm được phủ vật liệu cách âm màu đen, ghế ngồi đều rất thoải mái, có lưng tựa cao và bọc da.

Tất cả những gì một cậu thiếu niên cần cho trải nghiệm kỹ thuật số đều có ở đây. Bên cạnh máy tính và bàn phím còn có cả những bộ chụp tai đeo trên đầu để ngăn tiếng ồn, microphone, bàn di, các thiết bị điều khiển như vô lăng xe hơi và cần lái máy bay, kính 3D, cùng cả một kho các loại ổ cắm nguồn, USB, Firewire, cáp nghe nhìn và những kiểu kết nối lạ lùng hơn. Một số chỗ có cả các thiết bị Wii[3].

[3. Máy chơi game thế hệ 7 của hang Nintendo.]

Boling đã từng viết bài về xu hướng mới nhất trong thế giới trò chơi: Những buồng chơi hoàn toàn khép kín, bắt đầu khởi xướng từ Nhật Bản, nơi lũ trẻ có thể ngồi hết giờ này sang giờ khác trong một không gian riêng tư tối tăm, hoàn toàn tách biệt khỏi thế giới thực để chơi các trò chơi điện tử. Đây là một bước phát triển tất yếu ở một quốc gia có tiếng về hikikomori, hay “khép mình”, một lối sống ngày càng phổ biến hơn, trong đó những người trẻ tuổi, phần lớn là nam thanh niên, thiếu niên và đàn ông trưởng thành, trở nên tách biệt, không bao giờ rời khỏi phòng của họ trong hàng tháng, thậm chí hàng năm trời, hoàn toàn chỉ giao tiếp thông qua máy tính.

Tiếng ồn ở đây có thể làm người ta quay cuồng: Vô vàn âm thanh được tạo ra từ công nghệ kỹ thuật số - tiếng nổ, tiếng súng bắn, tiếng kêu của đủ loại động vật, những tiếng rít, tiếng cười kỳ quái - và vô số giọng nói không thể phân biệt được của quá nhiều người đang nói vào microphone, trò chuyện cùng các game thủ khác đang ở đâu đó trên thế giới. Những câu trả lời vang lên trong loa. Thỉnh thoảng, những tiếng kêu và những thán từ phụ họa lại vọng ra thất thanh từ trong cổ họng những người chơi đang thất vọng khi bị chết hay nhận ra một sai lầm chiến thuật của bản thân.

Lighthouse Arcade, một ví dụ điển hình cho hàng nghìn địa điểm tương tự khắp toàn cầu, đại diện cho biên giới cuối cùng của thế giới thực trước khi bạn gieo mình vào thế giới ảo.

Boling cảm thấy rung động theo nhịp bên hông mình. Anh cúi xuống nhìn điện thoại di động. Tin nhắn từ Irv, nghiên cứu sinh của anh, viết: Stryker vừa đăng nhập vào DQ năm phút trước!!

Như thể bị bợp tai, Boling bất giác nhìn quanh. Liệu có phải Travis đang ở đây? Vì các vách ngăn, chỉ có thể nhìn thấy đồng thời một hay hai chỗ chơi.

Ở quầy, một nhân viên tóc dài đang ngồi, hoàn toàn dửng dưng với tiếng ồn; anh ta đang đọc một tiểu thuyết khoa học viễn tưởng. Boling lại gần. “Tôi đang tìm một đứa trẻ, một cậu nhóc vị thành niên.”

Anh chàng nhân viên nhướng một bên mày lên giễu cợt.

“Tôi đang tìm một cái cây trong rừng.”

“Vâng?”

“Cậu ta chơi DimensionQuest. Anh có để ý thấy ai trong khoảng năm phút vừa qua không?”

“Không có thủ tục đăng ký. Ông chỉ cần xèng. Ông có thể mua chúng ở đây hay đến chỗ máy bán,” anh chàng nhân viên thận trọng nhìn Boling. “Ông là bố cậu ta à?”

“Không. Chỉ muốn tìm cậu ta thôi.”

“Tôi có thể xem qua các máy chủ. Tìm xem có ai đang đăng nhập vào DQ lúc này hay không.”

“Anh có thể chứ?”

“Vâng.”

“Hay quá.”

Nhưng anh chàng nhân viên vẫn chẳng hề cựa quậy gì để đi kiểm tra các máy chủ; cậu ta chỉ nhìn Boling chằm chằm qua một mảng tóc cáu bẩn xõa xuống.

À. Hiểu rồi. Chúng ta đang thương lượng. Một cách rất-riêng-tư, Boling thầm nghĩ. Chỉ nháy mắt sau, hai tờ hai mươi đô la đã biến mất trong túi quần jean nhem nhuốc của cậu nhân viên.

“Tên nhân vật của cậu ta là Stryker, nếu điều đó có thể giúp ích.”

Một tiếng cười gằn. “Tôi quay lại ngay,” chàng nhân viên nhảy khỏi ghế xuống sàn. Boling thấy anh ta xuất hiện ở phía xa của căn phòng và bước về phía văn phòng.

Anh ta quay lại năm phút sau đó.

“Phải, có một người tên là Stryker, cậu ta chơi DQ. Vừa đăng nhập vào. Máy bốn mươi ba. Ở đằng kia.”

“Cảm ơn.”

“Ừ.” Chàng trai trở lại với cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng của mình.

Boling hối hả suy nghĩ: Mình nên làm gì đây? Yêu cầu nhân viên cho sơ tán nơi này chăng? Không, nếu thế Travis sẽ biết chuyện. Chỉ cần gọi 911. Nhưng tốt hơn nên tìm hiểu xem cậu ta có một mình hay không. Liệu cậu nhóc có mang theo súng không?

Anh mường tượng mình bình thản đi qua bên cạnh, giật súng khỏi thắt lưng Travis và chĩa vào cậu cho tới khi cảnh sát đến.

Không. Đừng làm vậy. Trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Hai lòng bàn tay ướt mồ hôi, Boling từ tốn đi về phía máy 43. Anh đưa mắt nhìn nhanh về phía góc đó. Trên màn hình máy tính là khung cảnh của Aetheria, song ghế trống không.

Cũng chẳng có ai ở các lối đi. Máy số 44 không có người chơi, nhưng ở số 42 có một cô bé tóc ngắn màu xanh lục đang chơi một trò võ thuật.

Boling bước đến bên cô bé. “Tôi xin lỗi.”

Cô bé đang tung ra những cú đòn búa bổ vào một đối thủ. Cuối cùng, sinh vật kia ngã lăn ra chết và nhân vật của cô bé leo lên cái xác chặt đầu nó ra. “Ừm, vâng?” cô bé chẳng buồn ngước mắt nhìn.

“Cậu thiếu niên vừa mới ở đây chơi DQ. Cậu ấy đâu rồi?”

“Ừm, tôi không biết. Jimmy đi ngang qua, nói gì đó, vậy là cậu ấy bỏ đi. Một phút trước đây.”

“Jimmy là ai vậy?”

“Ông biết đấy, anh chàng nhân viên.”

Khỉ thật! Mình vừa trả bốn mươi đô để gã nhóc chết tiệt đó xua Travis đi. Mình quả là một tay cớm cừ.

Boling liếc nhìn về anh chàng nhân viên, lúc này vẫn điềm nhiên mê mẩn với cuốn tiểu thuyết của cậu ta.

Anh đẩy mạnh cửa lối ra, lao ra ngoài. Đôi mắt anh, đã quen với bóng tối, cảm thấy bị chói. Anh dừng lại trong đường hẻm, nhìn hết sang trái rồi sang phải. Và thoáng thấy một thanh niên đang hối hả bước đi, đầu cúi gằm.

Đừng làm gì ngu ngốc, anh dặn bản thân, lấy chiếc BlackBerry từ trong bao đựng ra.

Phía trước, cậu thiếu niên vùng chạy. Boling cũng lao theo.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
622,673
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Hamilton Royce, tới từ văn phòng Chưởng lý tiểu bang ở Sacramento, ngắt liên lạc điện thoại. Nó nằm ủ rũ trên tay trong lúc ông ta nghĩ lại về cuộc đối thoại vừa diễn ra của mình - một cuộc đối thoại được thực hiện bằng thứ ngôn ngữ có tên Lối Nói Lái của Chính Trị và Tổ Chức.

Ông ta nán lại trong sảnh tòa nhà CBI, cân nhắc các lựa chọn.

Cuối cùng, ông quay lại văn phòng của Charles Overby.

Viên phụ trách khu vực đang ngồi trên ghế, đọc một bài tường thuật đang lướt đi trên màn hình máy tính trước mặt của giới báo chí về cuộc điều tra. Bài tường thuật kể lại tường tận cảnh sát đã cận kề với việc bắt được kẻ sát nhân tại nhà một người bạn của chủ blog song lại để sổng mất cậu thiếu niên, và cậu ta đã tẩu thoát để rồi có khả năng tiếp tục khủng bố thêm nhiều người ở khu vực Bán đảo Monterey.

Royce thầm nghĩ chỉ đơn thuần đăng tin cảnh sát đã cứu sống một người dân vô tội sẽ không có được sức thu hút như cách tiếp cận mà hãng tin đã lựa chọn.

Overby gõ phím, một trang tin khác xuất hiện. Tay phóng viên chuyên trách theo dõi cuộc điều tra có vẻ thích gọi Travis là “Sát thủ trò chơi điện tử” hơn là mô tả cậu thiếu niên với cái mặt nạ hay những cây thập tự ven đường. Tay phóng viên này còn mô tả cả cách thức thủ phạm hành hạ các nạn nhân trước khi giết họ.

Và chẳng hề bận tâm tới sự thật chỉ có một người bị chết và anh chàng khốn khổ đã bị bắn vào đầu trong lúc cố bỏ chạy. Những chi tiết hẳn sẽ làm giảm thiểu ấn tượng về hành hạ.

Cuối cùng, viên thanh tra nói, “Vậy đấy, Charles, họ đang ngày càng quan tâm hơn. Ở chỗ Chưởng lý tiểu bang.” Ông ta nhấc điện thoại của mình lên như giơ phù hiệu ra trong một cuộc bắt giữ vậy.

“Tất cả chúng ta đều rất quan ngại,” Overby nói theo. “Cả khu vực bán đảo đều quan ngại. Cuộc điều tra này hiện tại thực sự là ưu tiên hàng đầu của chúng ta. Như tôi đã nói,” khuôn mặt ông tối sầm. “Nhưng liệu Sacramento có gì không hài lòng với cách thức chúng tôi xử trí vụ án không?”

“Về bản thân việc đó thì không,” Royce để câu trả lời có như không ấy lởn vởn quanh đầu Overby như một con ong bắp cày.

“Chúng tôi đang làm mọi thứ có thể.”

“Tôi rất ấn tượng với cô nhân viên của ông. Dance.”

“À, Dance là một nhân viên hàng đầu. Không gì lọt khỏi mắt cô ấy.”

Một cái gật đầu hờ hững, trầm ngâm. “Ông Chưởng lý cảm thấy rất buồn cho các nạn nhân. Tôi cũng thế,” Royce trút thật đẫm hương vị cảm thông vào giọng nói của mình, và cố nhớ lại xem lần cuối cùng ông ta thực sự thấy buồn phiền là khi nào. Có lẽ là lúc ông ta vắng mặt khi con gái phải mổ cấp cứu ruột thừa vì đang ở trên giường với nhân tình.

“Một bi kịch.”

“Tôi biết mình đang có vẻ nói đi nói lại mãi một việc. Nhưng tôi thực sự cảm thấy cái blog đó là một rắc rối.”

“Đúng thế,” Overby tán thành. “Nó chính là mắt bão.”

Một nơi yên tĩnh và tạo thành một khoảnh trời xanh trong đẹp đẽ, Royce thầm đính chính trong đầu.

Người phụ trách khu vực của CBI gợi ý, “À, Kathryn đã khiến Chilton đăng một thư ngỏ kêu gọi cậu thiếu niên ra đầu thú. Và ông ta đã cung cấp cho chúng ta vài thông tin chi tiết về máy chủ - một máy chủ ủy nhiệm ở Scandinavia.”

“Tôi hiểu. Chỉ là… Chừng nào blog đó còn tồn tại, nó vẫn sẽ là lời nhắc nhở cho biết chuyện này chưa được giải quyết xong xuôi,” hàm ý: “Bởi các vị. Tôi sẽ tiếp tục trở lại với câu hỏi về một điều gì đó hữu ích cho chúng ta, một thứ về Chilton.”

“Kathryn nói cô ấy luôn để mắt tới điều đó.”

“Cô ấy quá bận. Tôi tự hỏi liệu có phải cô ấy đã tìm ra điều gì đó rồi hay không. Tôi thực sự không muốn đặc vụ Dance bị phân tâm khỏi cuộc điều tra. Tôi nghĩ mình có thể tìm hiểu ít nhiều.”

“Ông ư?”

“Ông không phản đối chứ, đúng không nào, Charles? Nếu tôi xem qua các hồ sơ một chút. Tôi có để đem lại một góc nhìn mới. Thực ra tôi có ấn tượng là Kathryn có thể quá tử tế.”

“Quá tử tế?”

“Ông rất sắc sảo, Charles, khi tuyển dụng cô ấy,” người phụ trách đón nhận lời khen ngợi này, cho dù Royce thừa biết Kathryn Dance đã hiện diện sớm hơn sự có mặt của Overby tại văn phòng khu vực này của CBI đến bốn năm. Ông ta nói tiếp, “Rất thông minh. Ông nhận thấy cô ấy là một liều thuốc giải độc cho sự hoài nghi của những kẻ già nua như ông và tôi. Song cái giá phải trả là một chút… nông nổi.”

“Ông nghĩ cô ấy đã tìm được gì đó về Chilton mà không hề biết sao?”

“Có thể lắm.”

Overby trông có vẻ căng thẳng. “Nếu vậy, tôi sẽ thay mặt cô ấy xin lỗi. Hãy coi đó là một chút sao nhãng, sao lại không thể chứ? Vì cuộc điều tra liên quan đến người mẹ, cô ấy không thể tập trung trăm phần trăm vào vụ án này. Cô ấy đang làm tốt nhất có thể rồi.”

Hamilton Royce là một người có tiếng tàn nhẫn. Song ông ta hẳn sẽ không bao giờ bán đứng một thành viên tận tụy, trung thành trong đội của mình bằng một lời bình luận như vừa rồi. Royce thầm nghĩ quả thực gần như có thể coi là ấn tượng khi chứng kiến ba phẩm chất đen tối nhất của bản chất con người được phô bày ra ngang nhiên đến thế: hèn nhát, đê tiện, phản trắc. “Dance có ở phòng làm việc không?”

“Để tôi tìm xem,” Overby nhấc điện thoại gọi một cuộc, nói chuyện với ai đó mà Royce đoán là trợ lý của Dance. Ông ta gác máy.

“Cô ấy vẫn còn ở hiện trường, tại nhà Hawken.”

“Nếu đã vậy, tôi sẽ chỉ nhìn qua một chút cho biết thôi,” nhưng sau đó dường như Royce lại nảy ra một ý nghĩ. “Tất nhiên, sẽ tốt hơn nếu tôi không bị quấy rầy.”

“Tôi có ý này. Tôi sẽ gọi lại cho trợ lý của Dance, bảo cô ta làm việc gì đó. Một việc loanh quanh, lặt vặt. Vẫn luôn có các báo cáo cần sao chụp. Hay là, tôi biết rồi: Đề nghị cô ta bày tỏ cảm nghĩ về cường độ và giờ giấc làm việc. Nghe sẽ hợp lý khi tôi muốn biết mức độ hài lòng của cô ta. Tôi đúng là loại cấp trên đó. Cô ta sẽ không nghi ngờ có gì bất thường.”

Royce rời khỏi phòng làm việc của Overby, bước xuống theo hành lang, những ngã rẽ của nó ông đều đã nhớ như in, và dừng lại gần phòng làm việc của Dance. Ông ta đợi ngoài sảnh cho tới khi thấy người phụ nữ - một trợ lý nhìn rất có năng lực tên là Maryellen – nhận được một cuộc điện thoại. Thế rồi, với một cái cau mày đầy băn khoăn, bà ta đứng dậy đi ngược lên hành lang, cho phép Hamilton Royce được tự do lục lọi.

~*~

Khi Jon Boling chạy tới cuối con hẻm, anh dừng lại nhìn sang bên phải, xuống cuối một con phố nhỏ, theo hướng Travis đã biến mất. Từ chỗ này, mặt đất dốc thoai thoải xuôi về phía vịnh Monterey, và san sát những ngôi nhà be bé một tầng dành cho một gia đình, những tòa chung cư màu be và nâu vàng rất nhiều mảng cây xanh. Cho dù đại lộ Lighthouse đằng sau lưng đông nghịt xe cộ qua lại, con phố nhỏ hoàn toàn vắng vẻ. Một màn sương mù dày đã lan tới và cảnh quan xung quanh chìm trong màu xám.

Được rồi, giờ thì cậu nhóc đã chuồn mất, anh thầm nghĩ, Kathryn Dance xem chừng sẽ không mấy ấn tượng với năng lực thám tử của anh. Boling gọi 911 và cho biết mình đã nhìn thấy Travis Brigham, đồng thời báo địa điểm của mình. Người nhận tin cho hay một xe cảnh sát sẽ tới trung tâm trò chơi sau năm phút nữa.

Được rồi, thế là quá đủ cho việc cư xử như một cậu bé vị thành niên, Boling tự nhủ. Kỹ năng của anh là học thuật, giảng dạy, phân tích kiến thức.

Thế giới của ý tưởng, chứ không phải của hành động.

Anh quay người trở lại khu trung tâm trò chơi để gặp chiếc xe cảnh sát. Nhưng rồi một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu anh: Cuộc truy đuổi này rất có thể, nói cho cùng, cũng không quá xa lạ với tính cách của anh. Có thể thay vì là một cơn bồng bột đàn ông ngớ ngẩn, nó gần hơn với sự thừa nhận một khía cạnh chính đáng trong bản chất: Trả lời câu hỏi, vén màn bí mật, giải quyết câu đố. Chính xác những gì Jonathan Boling vẫn luôn làm: Thấu hiểu xã hội, trái tim và khối óc con người.

Thêm một dãy nhà nữa. Liệu có gì không được chứ? Cảnh sát đang trên đường tới. Có khi anh sẽ tìm được ai đó trên đường trông thấy cậu nhóc chui vào một chiếc xe hơi hay leo qua cửa sổ một căn nhà gần đó.

Anh quay lại và bắt đầu lao xuống con hẻm xám xịt, lạo xạo cát sỏi chạy về phía mặt nước. Anh tự hỏi khi nào mình sẽ gặp lại Kathryn. Sớm thôi, Boling hy vọng.

Quả thực, đôi mắt màu xanh lục của Dance đang là hình ảnh nổi bật trong tâm trí anh khi cậu thanh nhiên chui ra từ phía sau một thùng rác cách đó ba foot và xông tới chẹt lấy cổ Boling. Ngửi thấy mùi quần áo đã lâu chưa giặt và mồ hôi vị thành niên, Boling ngột thở trong khi lưỡi dao màu trắng bạc bắt đầu từ tốn di chuyển lại gần cổ họng mình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
622,673
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


Vừa trò chuyện qua điện thoại, Kathryn Dance vừa phóng nhanh tới trước ngôi nhà của James Chilton ở Carmel. Trong lúc đỗ xe, cô nói với người gọi rồi ngắt máy. “Một lần nữa, xin cảm ơn.”

Nữ đặc vụ xuống xe, bước tới chiếc công vụ của Sở Cảnh sát hạt Monterey, trong đó có một nhân viên đang ngồi cảnh giới.

Cô lại gần anh ta. “Chào, Miguel.”

“Đặc vụ Dance, cô thế nào? Mọi thứ vẫn yên tĩnh ở đây.”

“Tốt. Ông Chilton quay về rồi phải không?”

“Vâng.”

“Anh có thể giúp tôi một việc không?”

“Tất nhiên.”

“Hãy ra khỏi xe và đứng đây, có thể tựa người vào cửa, để mọi người trông thấy rõ anh.”

“Có chuyện gì sao?”

“Tôi không rõ. Hãy cứ đứng đây một lát. Cho dù chuyện gì xảy ra đi nữa, đừng đi đâu.”

Người cảnh sát có vẻ không chắc chắn lắm song vẫn ra khỏi xe.

Dance bước tới trước và bấm chuông. Con người sành nhạc trong cô nhận ra một nốt hơi sai tông trong âm thanh cuối cùng.

Chilton mở cửa, chớp mắt khi nhìn thấy Dance. “Mọi thứ vẫn ổn cả chứ?”

Sau đó, khi đưa mắt ngoái nhìn ra sau, Dance lấy còng tay của cô ra khỏi bao đựng.

Chilton nhìn xuống. “Cái gì…?” ông ta thảng thốt.

“Quay người lại và đưa hai tay ra sau lưng.”

“Chuyện gì thế này?”

“Ngay lập tức! Làm đi.”

“Đây là…”

Cô nắm lấy vai ông ta và xoay lại. Chilton bắt đầu lên tiếng, song cô chỉ nói, “Suỵt,” và tra còng vào. “Ông bị bắt vì xâm nhập bất hợp pháp bất động sản tư nhân.”

“Cái gì? Của ai?”

“Đất của Arnold Brubaker – địa điểm xây nhà máy khử mặn.”

“Đợi đã, ý cô muốn nói tới chuyện hôm qua?”

“Phải.”

“Cô đã cho tôi về!”

“Khi đó ông chưa bị bắt. Còn bây giờ thì có đấy,” cô nhắc lại những lời cảnh báo với nghi phạm.

Một chiếc Sedan màu sẫm lao nhanh tới trên đường, rẽ vào, chạy theo lối đi rải sỏi dẫn đến ngôi nhà. Dance nhận ra đó là một đội thuộc Tuần cảnh Xa lộ. Hai sĩ quan ngồi trên băng ghế trước - hai người đàn ông lực lưỡng - đưa mắt nhìn Dance với vẻ tò mò và bước ra khỏi xe. Họ nhìn về phía chiếc công vụ của Sở Cảnh sát hạt và cảnh sát viên Miguel Herrera, người đang áp tay lên máy bộ đàm đeo bên hông như thể muốn gọi cho ai đó xem tình hình ra sao.

Hai người mới đến cùng bước về phía Dance và người cô vừa bắt giữ. Họ nhìn thấy còng tay.

Bằng giọng lúng túng, Dance hỏi, “Các anh là ai?”

“À,” người lớn tuổi hơn trong hai sĩ quan cảnh sát nói, “Tuần cảnh Xa lộ California. Bà là ai, thưa bà?”

Cô lục tìm ví trong túi xách tay và đưa thẻ công vụ ra. “Tôi là Kathryn Dance, CBI. Các ông muốn gì ở đây?”

“Chúng tôi tới đây để bắt giữ James Chilton.”

“Can phạm của tôi?”

“Của bà?”

“Đúng thế. Chúng tôi vừa bắt giữ ông ta,” cô đưa mắt về phía Herrera.

“Này, đợi một phút đã,” Chilton gắt lên.

“Im lặng,” Dance ra lệnh.

Người cảnh sát cao cấp hơn nói, “Chúng tôi có lệnh bắt giam James Chilton. Và lệnh tịch thu các máy tính, tài liệu, hồ sơ công việc của ông ta. Bất cứ thứ gì liên quan tới Bản tin Chilton.”

Hai người cảnh sát đưa các tờ lệnh ra.

“Thật lố bịch,” Chilton nói. “Chuyện quái quỷ gì đang diễn ra ở đây vậy?”

Dance gằn giọng, “Im lặng,” rồi quay sang hai viên cảnh sát. “Vì tội gì vậy?”

“Xâm nhập bất hợp pháp.”

“Vào đất riêng của Arnold Brubaker phải không?”

“Đúng thế.”

Cô bật cười. “Cũng chính vì lý do ấy mà tôi vừa bắt giữ ông ta.”

Cả hai người cảnh sát đều tròn mắt nhìn cô, rồi ngó sang Chilton, có vẻ như để câu giờ, rồi từng người một đều gật đầu. Hiển nhiên là cả hai người họ đều chưa bao giờ trải qua tiền lệ nào tương tự.

“À,” một trong hai cảnh sát nói, “chúng tôi có một lệnh bắt.”

“Tôi hiểu. Nhưng ông ta đã bị bắt rồi và CBI cũng đã kiểm soát về mặt pháp lý các tài liệu và máy tính của ông ta. Chúng tôi chuẩn bị tịch thu chúng sau vài phút nữa.”

“Đây đúng là một trò ngu ngốc mắc dịch,” Chilton buột miệng.

“Thưa ông, tôi sẽ để tâm đến lời lẽ của ông đấy,” người trẻ hơn, và cũng to con hơn, trong hai nhân viên cảnh sát, nói.

Tất cả cùng im bặt.

Rồi Kathryn Dance vẽ ra một nụ cười trên khuôn mặt. “Đợi đã. Ai đã yêu cầu phát lệnh bắt vậy? Có phải Hamilton Royce không?”

“Đúng thế. Từ văn phòng Chưởng lý tiểu bang ở Sacramento.”

“Ồ, đúng rồi,” Dance cảm thấy nhẹ nhõm. “Tôi xin lỗi, đây là một hiểu nhầm. Tôi là đặc vụ phụ trách điều tra vụ xâm nhập trái phép này, song chúng tôi vướng phải một bản khai có tuyên thệ, và tôi buộc phải trì hoãn việc bắt giữ ông ta. Tôi đã nói chuyện này với Hamilton rồi. Có lẽ ông ấy nghĩ tôi đang quá bận rộn với vụ Cây thập tự ven đường…”

“Hóa ra là tay Sát Thủ Mặt Nạ. Vậy ra bà đang phụ trách vụ đó?”

“Đúng thế.”

“Một vụ thật kỳ quái.”

“Phải, đúng thế,” Dance tán thành. Rồi nói tiếp, “Nhiều khả năng Hamilton cho rằng tôi quá bận rộn với vụ đó nên ông ấy đã quyết định tự xử lý vụ xâm nhập bất hợp pháp.” Đáp lại là một cái gật đầu không mấy tán thưởng. “Nhưng thẳng thắn mà nói, ông Chilton khiến tôi bực đến mức tôi rất muốn tự tay được bấm còng.”

Cô nở một nụ cười với âm mưu làm hai cảnh sát kia xao lãng nhanh chóng.

Rồi Dance nói tiếp, “Đây là lỗi của tôi. Đáng ra tôi phải cho ông ấy biết. Để tôi gọi điện một lát,” cô lấy điện thoại đeo bên thắt lưng ra và bấm số, rồi gật đầu. “Tôi là đặc vụ Dance,” cô nói và giải thích về việc mình đang bắt giữ James Chilton. Sau một chút im lặng. “Tôi đã còng tay ông ta rồi… Chúng tôi để giấy tờ lại chỗ trụ sở… Chắc rồi,” cô gật đầu. “Tốt,” Dance nói với giọng kết luận, rồi ngắt máy trong khi giọng phụ nữ ở đầu dây bên kia cho hay nhiệt độ hiện tại là mười ba độ và dự kiến ngày mai sẽ có mưa tại Bán đảo Monterey. “Tất cả đã được dàn xếp, tôi sẽ bắt giữ ông ta,” Dance mỉm cười. “Trừ khi các anh thực sự muốn mất công đứng đợi bốn giờ ở khu tạm giam tại Salinas.”

“Không hề, như bà muốn thôi, đặc vụ Dance. Bà cần giúp giải ông ta ra xe không?” người cảnh sát to con đang nhìn James Chilton như thể ông ta nặng hơn thể trọng thực sự đến cả trăm cân và chỉ cần gồng cơ tay lên là có thể bẻ gãy còng.

“Không cần đâu. Chúng tôi xoay xở được.”

Sau một cái gật đầu chào, hai người cảnh sát quay ra, leo lên xe của họ và rời đi.

“Nghe tôi nói đây,” Chilton gằn giọng, mặt đỏ bầm. “Chuyện này thật ngớ ngẩn, và cô biết thế.”

“Chỉ cần ông thả lỏng người ra, được chứ?” Dance xoay ông ta lại và tháo còng ra.

“Tất cả chuyện này là gì vậy?” Chilton xoa xoa hai cổ tay. “Tôi nghĩ cô đang bắt giữ tôi cơ mà.”

“Đúng thế. Song tôi đã quyết định thả ông ra.”

“Cô đang chơi trò chết tiệt gì vậy?”

“Không, tôi đang cứu ông đấy,” Dance cất còng vào trong bao đựng. Vừa mỉm cười, cô vừa vẫy tay với anh chàng Herrera đang băn khoăn không hiểu chuyện gì. Anh ta gật đầu đáp lại.

“Ông đang bị đe dọa, James.”

Trước đó không lâu, Dance nhận được một cuộc điện thoại từ trợ lý của mình. Maryellen đã nghi ngờ khi Charles Overby gọi đến một lần hỏi xem Dance có ở trụ sở hay không, rồi sau đó gọi lại đề nghị tới phòng làm việc của ông ta để thảo luận về mức độ thỏa mãn của bà ta với công việc, một điều chưa bao giờ xảy ra trước đây.

Trên đường đến phòng làm việc của Overby, người phụ nữ đã dừng chân, nán lại “Cánh nhà của các quý cô”, nấp sau một hành lang nhỏ. Hamilton Royce lẻn vào phòng làm việc của Dance. Sau chừng năm phút, ông ta quay ra, lấy điện thoại di động thực hiện một cuộc gọi. Maryellen đã tiếp cận đủ gần để nghe được một phần của nó – Royce đang gọi tới một thẩm phán tại Sacramento, có vẻ là một người bạn, yêu cầu phát lệnh bắt Chilton. Vì chuyện gì đó liên quan tới xâm nhập bất hợp pháp.

Maryellen không hiểu được nội tình của những gì đã diễn ra, song vẫn gọi ngay cho Dance để báo tin, rồi tiếp tục đi tới phòng Overby.

Dance kể lại tóm tắt câu chuyện cho Chilton nghe, song bỏ qua cái tên của Royce.

“Kẻ nào đứng đằng sau chuyện đó?” ông ta nổi xung.

Dance hiểu rõ Chilton, bằng một bài bình luận, thể nào cũng sẽ tấn công bất cứ ai đứng đằng sau việc ra lệnh bắt ông ta. Cô không thể chấp nhận được thứ ác mộng truyền thông do việc đó gây ra. “Tôi sẽ không tiết lộ. Tất cả những gì tôi có thể nói là có người muốn blog của ông bị ngừng hoạt động cho đến khi chúng tôi bắt được Travis.”

“Tại sao?”

Nữ đặc vụ nghiêm giọng nói, “Cùng một lý do khi tôi muốn nó bị đình chỉ hoạt động. Để ngăn mọi người đăng bài và cung cấp thêm mục tiêu cho Travis.” Một nụ cười thoáng qua. “Và vì có vẻ không được hay lắm cho tiểu bang nếu chúng tôi không làm tất cả những gì có thể để bảo vệ công chúng - đồng nghĩa với việc đóng cửa blog của ông lại.”

“Đóng cửa blog là tốt cho công chúng sao? Tôi vạch trần những hành động tham nhũng và các vấn nạn; tôi đâu có cổ vũ chúng,” ông ta hạ giọng. “Và cô bắt tôi để bọn họ không thể thực thi lệnh đó?”

“Phải.”

“Tiếp theo sẽ là gì đây?”

“Một hay hai điều. Mấy nhân viên cảnh sát sẽ quay về đồn, báo cho cấp trên họ không thể thực thi lệnh bắt vì ông vốn đã bị bắt rồi. Và chuyện đó sẽ trôi qua.”

“Thế còn điều thứ hai?”

Một cuộc va chạm giữa phân và quạt[1], Dance thầm hình dung. Cô không nói gì, chỉ nhún vai.

[1. Dance ám chỉ tới câu “the shit hits the fan”, nghĩa là một chuyện rất khó chịu xảy ra.]

Nhưng Chilton đã đoán ra. “Cô tự mình can thiệp vì tôi? Tại sao?”

“Tôi nợ ông. Ông đã hợp tác với chúng tôi. Và nếu ông muốn biết một lý do khác: Tôi không tán thành với tất cả quan điểm của ông, nhưng tôi nhất trí rằng ông có quyền được nói ra những gì mình muốn. Nếu ông sai, ông có thể bị kiện và tòa án sẽ phán xử. Nhưng tôi sẽ không trở thành một phần trong một phong trào cảnh giác nào đó để khóa miệng ông lại chỉ vì người ta không thích cách tiếp cận của ông.”

“Cảm ơn,” ông ta nói, và sự biết ơn hiện lên rõ mồn một trong đôi mắt Chilton.

Hai người bắt tay. Chilton lên tiếng, “Tốt hơn tôi nên quay lại vào mạng.”

Dance trở ra ngoài đường và cảm ơn Miguel Herrera, người cảnh sát vẫn đang băn khoăn, rồi quay lại xe của mình. Cô gọi TJ, để lại tin nhắn yêu cầu anh ta tìm hiểu triệt để về thân thế của Hamilton Royce. Cô muốn biết mình vừa chuốc thêm loại kẻ thù nào.

Có vẻ như một phần câu hỏi đó sắp được trả lời; điện thoại của cô rung, và danh tính người gọi hiện lên số của Overby.

À, tốt thôi, cô vẫn đoán từ đầu đây sẽ là điều thứ hai.

Phân và quạt…

“Charles.”

“Kathryn, tôi nghĩ chúng ta có chút vấn đề. Hamilton Royce đang ở đây với tôi qua loa ngoài.”

Cô chợt muốn đưa điện thoại ra xa khỏi tai mình.

“Đặc vụ Dance, chuyện Chilton bị cô bắt giữ này là thế nào vậy? Và cả chuyện bên CHP[2] không thể thực hiện lệnh bắt của họ nữa?”

[2. Californian Highway Patrol: Tuần cảnh Xa lộ California.]

“Tôi không còn lựa chọn nào khác.”

“Không có lựa chọn? Ý cô là sao?”

Cố gắng giữ cho giọng bình tĩnh, cô nói, “Tôi đã đi đến quyết định là không muốn đóng cửa blog. Chúng ta biết Travis đọc nó. Chilton đã gửi thư ngỏ cho cậu ta. Rất có thể cậu ta sẽ đọc nó và cố gắng liên lạc trên blog. Để thương lượng điều kiện đầu thú.”

“Được rồi, Kathryn,” Overby nghe có vẻ tuyệt vọng. “Xét một cách tổng thể, Sacramento cho rằng tốt hơn cả nên đóng cửa nó. Cô có đồng ý như vậy không?”

“Không thật sự, Charles. Còn bây giờ, Hamilton, ông đã xem qua hồ sơ giấy tờ của tôi, đúng không?”

Một khoảng ngừng đầy đe dọa tựa như một bãi mìn. “Tôi không tìm hiểu bất cứ điều gì nằm ngoài thông tin công chúng đã biết.”

“Không quan trọng. Đây là một hành vi xâm phạm trách nhiệm nghề nghiệp. Thậm chí còn có thể là một hành động phạm pháp.”

“Kathryn, quả thật,” Overby phản đối.

“Đặc vụ Dance,” Royce lúc này vẫn giữ vẻ bình thản, ông ta tảng lờ Overby cũng ngon lành chẳng kém gì cô. Dance nhớ lại một quan sát mang tính quy luật chung trong những lần thẩm vấn của mình: Một người biết kiểm soát bản thân là một người nguy hiểm. “Có người chết, và Chilton không hề bận tâm. Dù gì đi nữa, phải, chuyện đó làm tất cả chúng ta trông thật tệ, từ cô tới Charles, cho đến CBI và cả Sacramento. Tất cả chúng ta. Tôi không ngại khi phải thừa nhận điều đó.”

Dance chẳng hề quan tâm tới thứ lý lẽ của ông ta. “Hamilton, nếu ông thử làm chuyện gì tương tự một lần nữa, cho dù có lệnh bắt hay không, tất cả sẽ đến tai Chưởng lý tiểu bang và Thống đốc. Và cả báo giới nữa.”

Overby đang nói, “Hamilton, ý cô ấy là…”

“Tôi nghĩ ông ấy biết quá rõ ý đó là gì, Charles.”

Sau đó, điện thoại của cô reo tít tít với một tin nhắn từ Michael O’Neil. “Tôi cần đọc tin nhắn,” cô ngắt cuộc gọi, bỏ rơi cả sếp của mình lẫn Royce.

K-

Travis bị phát hiện ở New Monterey. Cảnh sát mất dấu cậu ta. Nhưng có báo cáo về một nạn nhân nữa. Đã chết. Ở Carmel, gần cuối Cypress Hills Road, phía tây. Tôi đang trên đường đến. Gặp cô tại đó nhé?

-M

Cô nhắn tin trả lời, Vâng. Và chạy tới xe.

Bật đèn nháy công vụ, thứ cô thường xuyên quên mất rằng chiếc xe được trang bị sẵn - những điều tra viên như Dance hiếm khi phải chơi những màn đuổi bắt nóng bỏng... Cô hối hả lái xe lao đi trong ráng chiều ảm đạm.

Một nạn nhân nữa…

Vụ tấn công hẳn đã xảy ra không lâu sau khi họ ngăn chặn được toan tính nhằm vào Donald Hawken và vợ ông này. Cô đã đúng. Cậu thiếu niên, nhiều khả năng do bực dọc vì không thành công, đã lập tức đi tìm một nạn nhân khác.

Cô tìm thấy ngã rẽ, phanh gấp rồi từ tốn lái chiếc xe dài xuống con đường đồng quê lộng gió. Cây cối xanh tươi, song bầu trời ảm đạm đã làm mất hết màu sắc của thực vật, đem đến cho Dance ấn tượng cô đang lạc vào một thế giới khác.

Giống như Aetheria, miền đất trong DimensionQuest.

Cô mường tượng ra hình ảnh Stryker trước mắt mình, thoải mái cầm thanh kiếm của hắn ta.

tuj thuk su mun h0k, c4u c0 th3 d4y j cho tuj? Ch3t…

Và cả bức hình nguệch ngoạc cậu ta vẽ lưỡi kiếm đâm xuyên qua ngực cô.

Một chớp sáng thu hút đôi mắt Dance: Những chớp sáng trắng và màu.

Cô lái xe tới và đỗ lại bên cạnh những chiếc xe khác - của Sở Cảnh sát hạt Monterey - và một xe bán tải của đội Điều tra Hiện trường. Dance ra khỏi xe, hướng tới đám hỗn độn. “Chào,” cô gật đầu với Michael O’Neil, cảm thấy thật nhẹ nhõm khi gặp anh, cho dù đây chỉ là một thoáng tạm thời tách ra khỏi vụ án còn lại.

“Anh kiểm tra hiện trường chưa?” cô hỏi.

“Tôi cũng vừa mới đến,” người thanh tra giải thích.

Hai người cùng đi tới vị trí thi thể nằm, được phủ một tấm vải nhựa màu lục sẫm. Những dải băng phong tỏa hiện trường màu vàng ảm đạm của cảnh sát đánh dấu địa điểm.

“Ai đó đã phát hiện ra nạn nhân đúng không?” cô hỏi một nhân viên cảnh sát của MCSO.

“Đúng vậy, đặc vụ Dance. Một cuộc gọi tới 911 ở New Monterey. Nhưng khi người của chúng tôi tới đây nạn nhân đã chết. Và cả vị công dân gương mẫu kia cũng đi rồi.”

“Nạn nhân là ai vậy?” O’Neil hỏi.

Người cảnh sát đáp, “Tôi vẫn chưa rõ. Tình cảnh nạn nhân có vẻ rất kinh khủng. Travis lần này dùng dao chứ không phải súng. Và dường như thủ phạm đã bỏ ra kha khá thời gian.”

Anh ta chỉ vào một bãi cỏ cách đường chừng năm mươi foot.

Dance và O’Neil bước đi trên nền đất cát. Sau một hay hai phút, họ tới khu vực được phong tỏa bằng băng dây, tại đây sáu cảnh sát, mặc cảnh phục lẫn thường phục đang đứng. Một nhân viên đội Điều tra Hiện trường đang cúi rạp người bên cạnh thi thể được phủ một tấm vải nhựa màu lục.

Cả hai gật đầu chào nhân viên điều tra của MCSO, một người gốc La Tinh đẫy đà, Dance từng cộng tác nhiều năm qua.

“Có gì về danh tính nạn nhân chưa?” cô hỏi.

“Một điều tra viên đã tìm được ví của nạn nhân,” người cảnh sát ra dấu về phía thi thể. “Hiện họ đang tiến hành kiểm tra. Tất cả những gì chúng ta biết cho tới giờ là đàn ông, khoảng bốn mươi tuổi.”

Dance nhìn quanh, “Tôi đoán không phải bị giết ở đây, đúng vậy không?” Không hề có tư gia hay nhà cửa nào gần bên. Và cũng không thể có chuyện nạn nhân đi bộ hay tập chạy ở chỗ này - vì không có con đường mòn nào.

“Đúng thế,” người cảnh sát nói tiếp, “Không có nhiều máu lắm. Có vẻ như thủ phạm đã đưa thi thể đến đây và bỏ lại. Tìm thấy vài vết lốp xe trên cát. Chúng tôi đoán Travis đã dùng chính xe của nạn nhân sau khi ném anh ta vào cốp. Giống như cô bé đầu tiên đó. Tammy. Chỉ có điều lần này thủ phạm đã không đợi thủy triều lên. Hắn đã đâm anh ta đến chết. Ngay sau khi biết được danh tính người đã khuất, chúng ta có thể thông báo truy tìm chiếc xe.”

“Ông chắc Travis đã làm chuyện này chứ?” Dance hỏi.

Người cảnh sát mở lời, “Rồi cô sẽ thấy.”

“Và nạn nhân bị tra tấn?”

“Có vẻ là vậy.”

Họ dừng lại cạnh dải băng phong tỏa của đội Điều tra Hiện trường, cách thi thể chừng mười foot. Người nhân viên thuộc nhóm ấy trong bộ trang phục áo liền quần như một nhà du hành vũ trụ, đang tiến hành đo đạc. Anh ta ngước nhìn lên và thấy hai sĩ quan. Anh gật đầu chào, nhướng một bên mày lên sau cặp kính bảo hộ. “Cô muốn nhìn à?” anh ta hỏi.

“Phải,” Dance trả lời, thầm nghĩ liệu có phải anh ta hỏi vậy vì nghĩ một phụ nữ sẽ không thoải mái khi nhìn thấy cảnh tàn sát hay không. Vậy đấy, chuyện đó vẫn xảy ra, cho dù vào thời đại này và ngày hôm nay.

Dẫu trên thực tế cô đang cố lấy hết can đảm. Bản chất công việc của cô liên quan chủ yếu tới người sống. Dance chưa bao giờ đạt được sự miễn dịch hoàn toàn trước hình ảnh người chết.

Anh ta bắt đầu nhấc tấm vải che ra thì một giọng nói vang lên từ sau lưng cô. “Đặc vụ Dance?”

Cô ngoái lại nhìn và thấy một người cảnh sát mặc cảnh phục khác đang bước về phía mình. Anh ta cầm thứ gì đó trong tay.

“Vâng?”

“Cô có quen ai tên là Jonathan Boling không?”

“Jon ư? Có,” cô đang nhìn chằm chằm vào tấm danh thiếp nằm trên tay người cảnh sát. Và nhớ lại một người nào đó đã lấy ví của nạn nhân đi để xác minh danh tính.

Một ý nghĩ khủng khiếp lóe lên: Không lẽ nạn nhân là Jon?

Tâm trí cô thực hiện một bước nhảy của nó – A tới B tới X. Liệu có phải Boling đã tìm hiểu được gì đó từ máy tính của Travis, hay trong quá trình tìm kiếm các nạn nhân, vì Dance không có nhà nên Boling đã quyết định tự mình điều tra?

Ôi, không!

Cô liếc nhìn O’Neil trong khoảnh khắc, đôi mắt hiện rõ kinh hoàng và lao về phía thi thể.

“Này!” người nhân viên điều tra hiện trường hét lên. “Cô làm hỏng hiện trường bây giờ!”

Dance tảng lờ anh ta và lật phăng tấm vải nhựa ra.

Và kêu lên thảng thốt.

Dance chằm chằm nhìn xuống, trong tâm trạng nhẹ nhõm pha lẫn kinh hoàng.

Không phải là Boling.

Người đàn ông gầy gò, để râu, mặc quần vải và áo sơ mi trắng đã bị đâm liên tiếp nhiều lần. Một bên mắt đờ dại hé mở. Một cây thập tự được rạch lên trán nạn nhân. Những cánh hoa hồng, màu đỏ, được rải lên khắp người ông ta.

“Nhưng cái này từ đâu tới vậy?” cô hỏi viên cảnh sát lúc trước, gật đầu về phía danh thiếp của Boling, giọng vẫn còn run rẩy.

“Tôi đang cố nói với cô - anh ấy đang ở chỗ rào chắn đường, đằng kia. Vừa lái xe đến. Anh ấy muốn gặp cô. Khẩn cấp.”

“Tôi sẽ nói chuyện với ông ấy sau một phút nữa,” Dance hít vào thật sâu, run rẩy.

Một cảnh sát khác tới, cầm theo ví của nạn nhân đựng trong túi nilon. “Đã xác định được danh tính. Tên ông ta là Mark Watson. Một kỹ sư đã nghỉ hưu. Rời khỏi nhà đi mua đồ mấy giờ trước. Không thấy quay về.”

“Nạn nhân là ai vậy?” O’Neil hỏi, “Tại sao ông ta lại bị chọn?”

Dance thò tay vào túi áo khoác của mình, lấy ra danh sách tất cả những người được nhắc tới trong blog và có khả năng trở thành mục tiêu bị tấn công.

“Ông ấy đã viết trên blog - một bài trả lời trong chủ đề Năng lượng cho nhân dân. Về nhà máy điện hạt nhân. Không hề đồng ý hay bất đồng với Chilton về vị trí đặt nhà máy. Một bài viết trung lập.”

“Vậy là bất cứ ai có liên quan tới blog giờ đây đều có thể gặp nguy hiểm.”

“Tôi nghĩ vậy.”

O’Neil nhìn kỹ hơn, đặt bàn tay mình lên cánh tay cô. “Cô không sao chứ?”

“Chỉ… hơi sợ một chút.”

Dance chợt nhận ra mình đang mân mê danh thiếp của Jon Boling. Cô nói với O’Neil sẽ tìm hiểu xem vị giáo sư muốn gì và bắt đầu đi xuống theo con đường, nhịp tim đến lúc này mới bắt đầu bình thường trở lại sau cơn lo sợ.

Bên kia đường, cô bắt gặp anh đang đứng cạnh xe của mình, cửa để mở. Cô cau mày. Trên ghế hành khách là một cậu con trai vị thành niên tóc vuốt dựng đứng. Cậu ta mặc một chiếc áo phông Aerosmith bên trong chiếc áo khoác màu nâu sẫm.

Boling vẫy tay ra hiệu cho cô. Cô nhận ra ngay vẻ khẩn cấp trên khuôn mặt anh, một biểu hiện thật bất thường nơi anh.

Và trong tâm trạng nhẹ nhõm tột độ, cô cảm thấy anh hoàn toàn ổn cả.

Cảm nhận này nhường chỗ cho tò mò khi cô nhìn thấy thứ mắc vào đai lưng quần của anh; Dance không thể đoán chắc, song dường như đó là cán của một con dao to.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
622,673
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


Dance, Boling và chàng trai vị thành niên đang ngồi trong phòng làm việc của cô tại trụ sở CBI. Jason Kepler mười bảy tuổi, là học sinh trường trung học Nam Carmel. Chính cậu ta mới là Stryker, chứ không phải Travis.

Travis đã tạo ra nhân vật nọ nhiều năm trước, song đã bán lại trên mạng cho Jason, cùng với “ừm, một đống Danh Vọng, điểm Sinh Mạng và Tài Nguyên đi kèm”.

Cho dù những thứ đó có là gì đi nữa.

Dance nhớ Boling từng nói với cô các game thủ có thể bán đi những nhân vật của họ cũng như các món đồ khác trong trò chơi.

Anh kể lại việc mình đã tìm thấy trong dữ liệu của Travis có liên quan tới giờ giấc hoạt động của Lighthouse Arcade.

Dance rất biết ơn với việc truy tìm và khám phá xuất sắc này của anh (Dù chắc chắn một lát nữa đây cô sẽ phải chỉnh anh một trận vì không lập tức gọi cho 911 sau khi đoán ra Travis đang ở trung tâm giải trí điện tử và đã tự ý một mình bám theo đối tượng). Trên bàn làm việc của cô, phía sau lưng họ, nằm trong một phong bì đựng bằng chứng, là con dao Jason đã dùng để đe dọa Boling. Đó là một vũ khí nguy hiểm, và cậu thiếu niên về mặt lý thuyết đã phạm tội tấn công cũng như hành hung người khác. Dẫu vậy, vì thực ra Boling cũng không hề bị thương, còn cậu ta đã tình nguyện giao nộp con dao, Dance sẽ rất vui lòng dành cho cậu một màn cảnh cáo nghiêm khắc.

Boling lúc này đang thuật lại những gì đã xảy ra: Bản thân anh là nạn nhân của một cuộc giăng bẫy, bị lùa vào tròng bởi cậu nhóc vị thành niên hiện đang ngồi trước mặt họ. “Hãy kể cho cô ấy nghe những gì cậu đã nói với tôi.”

“Chuyện là thế này, em lo cho Travis,” Jason nói với họ, mắt mở to. “Hai người không biết cảm giác phải chứng kiến một ai đó là người thân trong gia đình bị tấn công như cậu ấy trên blog đâu.”

“Gia đình của em?”

“Vâng. Trong trò chơi, ở DQ, hai đứa là anh em. Ý là em và cậu ấy chưa bao giờ gặp hay làm quen ngoài đời, song em biết cậu ấy rất rõ.”

“Chưa bao giờ gặp sao?”

“À, có chứ, nhưng không phải ngoài thế giới thực, chỉ trong Aetheria thôi. Em muốn giúp cậu ấy. Nhưng trước hết em cần tìm ra cậu ấy đã. Em đã cố gọi, gửi lời nhắn, nhưng vẫn không liên lạc được. Tất cả những gì em có thể nghĩ ra là nấn ná lại ở khu trung tâm trò chơi. Nếu may mắn em sẽ thuyết phục được cậu ấy ra đầu thú.”

“Với một con dao hay sao?” Dance hỏi.

Hai vai cậu ta nhô lên, rồi lại thả lỏng xuống. “Em nghĩ nó cũng chẳng hại gì ai.”

Cậu ta gầy đến khẳng khiu và xanh xao một cách ốm yếu. Hiện tại đang là kỳ nghỉ hè, và thật mỉa mai làm sao, nhiều khả năng thời gian này cậu thiếu niên còn ra khỏi nhà ít hơn nhiều so với mùa thu và mùa đông, khi cậu ta buộc phải đến trường.

Boling tiếp tục màn thuật chuyện. “Jason đang ở Lighthouse Arcade khi tôi đến nơi. Người nhân viên quản lý là bạn cậu ta, vậy nên khi tôi hỏi về Stryker, anh chàng nọ làm bộ đi kiểm tra thứ gì đó, song kỳ thực anh ta đang nói cho Jason biết về tôi.”

“Này, cho em xin lỗi đi. Em không định đâm anh hay làm trò gì tệ hại. Em chỉ muốn tìm hiểu xem anh là ai, và liệu anh có biết Travis đang ở đâu không thôi. Em nào có hay anh lại là người của Cục Điều tra.”

Boling ngượng ngùng mỉm cười về màn hóa thân vào vai đặc vụ của mình. Vị giáo sư nói thêm rằng mình biết Dance muốn trao đổi với Jason, song bản thân nghĩ tốt nhất là đưa cậu ta đến thẳng chỗ cô thay vì đợi cảnh sát thành phố xuất hiện.

“Chúng tôi cùng chui vào xe và gọi cho TJ. Cậu ta cho chúng tôi biết nơi cô đang ở.”

Một quyết định sáng suốt, và mới chỉ tiệm cận phạm pháp.

Giờ đến lượt Dance nói, “Jason, chúng tôi cũng không muốn Travis bị tổn thương. Và chúng tôi không muốn cậu ấy làm tổn thương bất cứ ai khác. Em có thể cho chúng tôi biết liệu cậu ta có thể đi đâu không?”

“Cậu ấy có thể ở bất cứ đâu. Cậu ấy thực sự rất thông minh, chị biết đấy. Cậu ấy biết làm thế nào để sống sót trong rừng giữa thanh thiên bạch nhật. Travis là một chuyên gia.” Cậu thiếu niên nhìn thấy vẻ khó hiểu của hai người và nói, “Anh chị biết đấy, DQ là một trò chơi, song nó cũng là thực tế. Ý em là, nếu bạn ở Rặng Núi Phía Nam, nhiệt độ sẽ tụt xuống tới âm năm mươi độ, bạn buộc phải học cách giữ ấm, nếu không sẽ bị chết cóng. Và bạn cũng cần tìm cho mình thức ăn, nước uống, mọi thứ. Bạn phải tìm hiểu xem những loài cây nào an toàn và những loại động vật nào có thể ăn. Cách thức để nấu và dự trữ lương thực. Ý em là trong trò chơi họ có những công thức chế biến thực sự. Người chơi buộc phải nấu đúng cách, nếu không những món đó sẽ không thành được.” Cậu ta bật cười. “Có những anh chàng newbie cố thử chơi, và bọn họ luôn tỏ vẻ ‘Tất cả những gì chúng tôi muốn là đánh nhau với bọn khổng lồ và quỷ’ nhưng rồi kết cục bọn họ bị chết đói vì không lo được cho chính thân mình.”

“Em cùng chơi với những người khác, đúng vậy không? Liệu có thể có ai trong số họ biết Travis nhiều khả năng đang ở đâu không?”

“Chắc là không, em đã hỏi tất cả mọi người trong gia đình và chẳng ai biết cậu ấy ở chốn nào.”

“Có bao nhiêu người trong gia đình của em?”

“Khoảng mười hai người. Nhưng chỉ có cậu ấy và em sống ở California.”

Dance không khỏi kinh ngạc, “Và tất cả bọn em sống cùng nhau? Ở Aetheria?”

“Vâng. Em biết về họ còn rõ hơn các anh em trai thực sự của mình,” cậu thiếu niên bật cười u ám. “Và ở Aetheria, họ không đánh đập hay ăn cắp tiền của em.”

Dance tò mò. “Em có bố mẹ chứ?”

“Ở thế giới thực ấy à?” cậu thiếu niên nhún vai, một cử chỉ được Dance dịch ra thành “Ít nhiều là thế”.

Cô nói, “Không, ở trong trò chơi kìa.”

“Một số gia đình có đấy. Bọn em thì không,” đôi mắt cậu ta hiện rõ vẻ buồn bã. “Như thế bọn em sẽ cảm thấy thoải mái hơn.”

Cô mỉm cười. “Em biết không, chị và em đã gặp nhau rồi đấy, Jason.”

Jason cúi mặt xuống. “Vâng, em biết. Ngài Boling đã nói với em. Em đã giết nhân vật của chị. Em xin lỗi. Em nghĩ chị chỉ là một tay mới chơi đang tìm cách chọc phá bọn em vì Travis. Ý em muốn nói là gia đình em - à phải, toàn bộ hội của bọn em - đã bị nhục mạ đủ đường vì cậu ấy cũng như những bài viết trên cái blog đó. Chuyện này xảy ra nhiều lần. Một đám người mở chiến dịch tấn công từ tận phía bắc tới Đảo Thạch Anh để xóa sổ bọn em. Cả nhóm đã trung thành với nhau và ngăn họ lại. Nhưng Morina bị giết. Cô ấy là em gái. Cô ấy đã sống lại nhưng bị mất hết Tài Nguyên.” Cậu thiếu niên gầy guộc nhún vai. “Em đã bị gây hấn rất nhiều, chị biết đấy. Ở trường. Chính vì thế em chọn một nhân vật là chiến binh. Có lẽ để giúp mình cảm thấy dễ chịu hơn. Trong trò chơi đó không ai dám coi thường em.”

“Jason, có một điều có thể sẽ hữu ích: Nếu em cho chúng tôi biết những chiến thuật Travis có thể dùng để tấn công người khác. Cậu ta thường ra đòn với họ thế nào. Các loại vũ khí. Bất cứ điều gì có thể giúp chúng tôi tìm ra cách đoán trước cậu ta.”

Nhưng cậu thiếu niên có vẻ băn khoăn. “Các chị thực sự không biết nhiều về Travis, phải không nào?”

Dance vốn định nói họ đã biết thậm chí quá nhiều. Song những người thẩm vấn biết khi nào nên để đối tượng nắm quyền chủ đạo. Vừa đưa mắt nhìn Boling, cô vừa nói, “Không, chị đoán là không.”

“Em muốn cho hai người xem một thứ,” Jason nói và đứng dậy.

“Ở đâu?”

“Ở Aetheria.”

Kathryn Dance lại một lần nữa dùng nhân vật Greenleaf, lúc này đã hoàn toàn sống lại.

Trong khi Jason gõ bàn phím, nhân vật của cậu ta xuất hiện trên màn hình, tại một khoảng rừng thưa. Giống như lần trước, bối cảnh thật đẹp, những hình ảnh đồ họa rõ nét tới mức đáng kinh ngạc. Hàng chục nhân vật khác đang đi lại xung quanh, một số mang vũ khí, một số mang vác túi hay bao, số khác dắt súc vật.

“Đây là Otovius, nơi Travis và em thường xuyên tới. Một nơi rất hay... Chị không phiền chứ ạ?”

Cậu ta cúi người ra trước, về phía bàn phím.

“Không,” Dance nói với cậu thiếu niên. “Cứ tiếp tục đi.”

Cậu ta gõ tiếp, rồi nhận được một tin nhắn: “Kiaruya không đăng nhập”.

“Chán quá.”

“Ai vậy?” Boling hỏi.

“Vợ em.”

“Cái gì cơ?” Dance hỏi cậu nhóc mười bảy tuổi.

Cậu ta đỏ bừng mặt. “Bọn em cưới nhau mấy tháng trước.”

Cô bật cười kinh ngạc.

“Năm ngoái, em gặp cô bé này trong trò chơi. Cô ấy rất thú vị. Cô ấy đã vượt qua cả Rặng Núi Phía Nam. Một mình! Chưa bị chết lần nào. Và em với cô ấy thích nhau. Bọn em cùng thực hiện vài cuộc phiêu lưu. Em cầu hôn. À phải, đúng hơn thì là cô ấy. Nhưng em cũng muốn thế. Vậy là bọn em cưới nhau.”

“Nhưng thực ra cô ấy là ai?”

“Một cô nàng nào đó ở Hàn Quốc. Nhưng cô ấy bị kết quả xấu ở vài môn học...”

“Trong thế giới thực à?” Boling hỏi.

“Vâng. Vậy là bố mẹ cô ấy cắt tài khoản của cô ấy.”

“Vậy là các em ly hôn?”

“Đâu có, chỉ là tạm dừng một thời gian thôi. Cho đến khi điểm toán của cô ấy đạt điểm B trở lại,” Jason nói thêm, “Vui lắm. Phần lớn những cặp cưới nhau trong DQ giữ nguyên quan hệ hôn nhân. Trong thế giới thực, rất nhiều bố mẹ của bọn em bỏ nhau. Em hy vọng cô ấy sẽ sớm trở lại. Em nhớ cô ấy.” Cậu ta chỉ một ngón tay lên màn hình. “Được rồi, giờ chúng ta vào trong nhà đã.”

Theo chỉ dẫn của Jason, nhân vật Dance sắm vai đi vòng quanh bối cảnh, lướt qua bên cạnh hàng chục người và sinh vật.

Jason dẫn họ tới một vách đá. “Chúng ta có thể đi bộ tới đó, nhưng chị biết đấy, làm thế sẽ mất thời gian. Chị không thể trả tiền thuê một chuyến Pegasus vì chị chưa kiếm được tí vàng nào. Nhưng em có thể cho chị điểm di chuyển,” cậu ta bắt đầu gõ phím. “Nó trông giống như thứ bố em vẫn bay.”

Cậu ta gõ vào một mật khẩu nào đó, rồi cho nhân vật leo lên một con ngựa có cánh, và họ bay vút lên. Chuyến bay quả là nín thở. Họ ào ào lướt đi trên cảnh vật, lượn vòng qua những đám mây dày. Hai mặt trời cháy rực trên bầu trời xanh ngắt, và thỉnh thoảng những sinh vật bay khác lại lao vụt qua, cũng như những chiếc khí cầu có điều khiển và những cỗ máy bay kỳ lạ khác. Bên dưới, Dance nhìn thấy các thành phố, làng mạc. Và ở vài chỗ, những đám cháy.

“Những chỗ ấy là các trận chiến,” Jason nói, “Trông hào hùng lắm.” Nghe giọng nói của cậu ta có vẻ như nuối tiếc vì đã bỏ lỡ cơ hội chém bay vài cái đầu.

Một phút sau, họ tới bờ biển - đại dương nhuộm một màu xanh lục long lanh - và từ tốn hạ cánh xuống một sườn đồi thoai thoải nhìn xuống mặt nước cuộn sóng.

Dance nhớ Caitlin từng nói Travis thích bờ biển vì nó gợi cậu ta nhớ tới nơi nào đó trong trò chơi cậu ta vẫn chơi. Jason dạy cô cách xuống ngựa. Và tự Dance điều khiển Greenleaf tới chỗ Jason chỉ đến, một ngôi nhà kiểu thôn quê.

“Đó là ngôi nhà. Bọn em đã cùng nhau xây nó.”

Giống một trang trại xây dựng hồi thế kỷ mười chín vậy, Dance thầm nghĩ.

“Nhưng Travis kiếm toàn bộ tiền và cung cấp đồ đạc. Cậu ấy trả tiền ngôi nhà. Bọn em thuê đám khổng lồ làm những việc nặng,” Jason nói thêm với chút mỉa mai.

Khi nhân vật của Dance đến bên cửa, Jason đọc cho cô câu mật khẩu. Cô đọc lại vào microphone của máy tính và cánh cửa mở ra. Họ cùng bước vào trong.

Dance thấy choáng váng thực sự. Đó là một ngôi nhà tuyệt đẹp, rộng rãi, kê đầy những món đồ đạc lạ lùng nhưng bắt mắt, như thể trong một cuốn sách của tiến sĩ Seuss[1]. Có các lối đi và cầu thang dẫn lên nhiều căn phòng khác nhau, những khung cửa sổ hình thù kỳ dị, một lò sưởi lớn đang cháy rực, một đài phun nước và một bể bơi.

[1. Theodor Seuss Geisel, nhà văn thiếu nhi Mỹ.]

Vài con vật cưng - một giống vật lai xuẩn ngốc nào đó giữa dê và kỳ nhông - đang vừa đi quanh quẩn vừa kêu oàm oạp.

“Đẹp lắm, Jason. Rất đẹp.”

“Vâng, phải, bọn em tạo ra một ngôi nhà thật tuyệt ở Aetheria vì nơi bọn em sống, ý em là trong thế giới thực, không được đẹp cho lắm, chị biết đấy. Đi tới đây nào,” cậu ta dẫn cô đi qua một cái ao nhỏ đầy những con cá màu xanh lục lấp lánh. Nhân vật của cô dừng lại trước một cánh cửa kim loại lớn được khóa bằng vài ổ khóa. Jason cung cấp cho cô một mật khẩu nữa, và cánh cửa từ tốn mở ra - kèm theo hiệu ứng âm thanh bắt chước tiếng kêu cọt kẹt. Cô đưa Greenleaf qua cửa, bước xuống một dãy bậc thang vào một nơi có dáng vẻ của hiệu thuốc kết hợp với phòng cấp cứu.

Jason nhìn Dance và thấy cô đang cau mày.

Cậu ta nói, “Chị hiểu chứ?”

“Chính xác thì không.”

“Đây chính là những gì em muốn cho chị thấy khi nói mình biết rõ về Travis. Cậu ấy không quan tâm tới vũ khí, chiến thuật chiến đấu hay những thứ tương tự. Đây mới là những thứ cậu ấy quan tâm. Phòng chữa trị của riêng cậu ấy.”

“Phòng chữa trị?” Dance hỏi.

Cậu thiếu niên giải thích. “Travis ghét đánh nhau. Cậu ấy tạo ra Stryker là một chiến binh khi bắt đầu chơi, nhưng không hề thích điều đó. Chính vì thế mới bán lại nó cho em. Cậu ấy là một người chữa trị, không phải chiến binh. Và ý em là nguời chữa trị ở cấp bậc bốn muơi chín. Chị có biết như thế là cừ đến mức nào không? Cậu ấy là người giỏi nhất. Cậu ấy rất cừ khôi.”

“Một người chữa trị?”

“Thể hiện ở ngay tên nhân vật của cậu ấy. Medicus - có nghĩa là ‘bác sĩ’ trong một thứ tiếng nước ngoài nào đó.”

“Tiếng La Tinh,” Boling nói.

“Rome cổ đại ạ?” Jason hỏi.

“Phải.”

“Tuyệt. Nhân tiện, những nghề nghiệp khác của Travis là trồng thảo dược và chế thuốc. Đây là nơi người ta tìm đến để được chữa trị. Nó giống như phòng khám của một bác sĩ vậy.”

“Bác sĩ?” Dance trầm ngâm. Cô đứng dậy khỏi bàn làm việc, tìm tập giấy họ đã lấy về từ phòng riêng của Travis và lật giở qua các trang. Rey Carraneo đã đúng - những bức hình vẽ các cơ thể bị cắt ra. Nhưng đó không phải là các nạn nhân của tội ác; đó là các bệnh nhân trong lúc được phẫu thuật. Những bức hình được vẽ rất cẩn thận, chính xác về mặt giải phẫu.

Jason nói tiếp, “Các nhân vật từ khắp nơi ở Aetheria sẽ tới gặp cậu ấy. Thậm chí cả những người thiết kế trò chơi cũng biết về cậu ấy. Họ tìm kiếm lời khuyên của cậu ấy để tạo ra các NPC[2]. Cậu ấy thực sự là một huyền thoại. Travis đã kiếm được hàng nghìn đô la bằng cách bán các phương thuốc phục hồi, các tài nguyên tái tạo sinh mạng và phép thuật nâng cao sức mạnh.”

[2. NPC: Viết tắt của Non-player character, tức là nhân vật có sẵn trong trò chơi.]

“Tiền thật sao?”

“Ồ, vâng. Cậu ấy bán chúng trên eBay. Giống như cách em mua lại Stryker.”

Dance nhớ lại cái két họ tìm thấy dưới gầm giường cậu thiếu niên. Vậy ra đây là cách cậu ta kiếm tiền.

Jason gõ lên màn hình. “Ồ, thế còn kia?” cậu ta đang chỉ vào một cái hộp thủy tinh, trong đó đựng một quả cầu pha lê gắn trên đầu một cây trượng vàng. “Đó là cây trượng chữa trị. Cậu ấy phải thực hiện năm mươi nhiệm vụ để giành được nó đấy. Trước đây chưa bao giờ có ai làm được, trong toàn bộ lịch sử của DQ,” Jason cau mày. “Có một lần thiếu chút nữa cậu ấy để mất nó…” vẻ xúc động mãnh liệt thoáng hiện lên trên khuôn mặt cậu ta. “Đó là một buổi tối khủng khiếp.”

Giọng nói của Jason nghe như thể biến cố ấy là một bi kịch trong đời thực.

“Ý em là gì?”

“À, Medicus cùng em và mấy người nữa trong gia đình đang tìm đến Rặng Núi Phía Nam, một nơi cao phải đến ba dặm và thực sự nguy hiểm. Bọn em lúc ấy đang tìm kiếm thứ kỳ diệu này. Cây Thần Nhãn, nó được gọi như thế. Và thật tuyệt, chúng em tìm thấy nhà của Ianna, nữ hoàng Tiên, người mà bất kỳ ai cũng đã từng nghe qua nhưng chưa một lần trông thấy. Cô ấy rất nổi tiếng.”

“Cô ấy là một NPC, đúng không?” Boling hỏi.

“Phải.”

Boling nhắc lại với Dance, “Một nhân vật không do người chơi tạo ra. Nhân vật do chính trò chơi tạo nên.”

Jason dường như có vẻ phật ý vì cách mô tả đó. “Nhưng thuật toán rất tuyệt vời! Cô ấy vượt xa mọi nhân vật kỹ thuật số mọi người từng thấy.”

Anh gật đầu xin lỗi để xoa dịu.

“Vậy là bọn em ở đó, nán lại nói chuyện. Trong lúc cô ấy kể về Cây Thần Nhãn và cách để tìm thấy nó thì bất thình lình bọn em bị toán tập kích từ Lực Lượng Phương Bắc tấn công. Tất cả mọi người cùng chiến đấu, rồi gã khốn đó bắn nữ hoàng bằng một mũi tên đặc biệt. Cô ấy sắp chết. Trav ra sức cứu cô ấy, nhưng mọi năng lực chữa trị đều bị vô hiệu. Vậy là cậu ấy quyết định Đánh Đổi. Tất cả bọn em đều can, ông bạn, đừng có làm thế! Nhưng cậu ấy vẫn làm.”

Cậu thiếu niên nói với giọng thành kính đến mức Dance nhận ra chính cô cũng đang cúi mình ra trước, hai chân run lên căng thẳng. Cả Boling cũng đang nhìn chằm chằm vào cậu ta.

“Cái đó là gì vậy, Jason? Kể tiếp đi.”

“Vâng, cái đó nghĩa là, đôi khi ai đó sắp chết, chị có thể trao tính mạng của chị cho các Thực Thể Tối Cao. Hành động ấy gọi là Đánh Đổi. Các Thực Thể bắt đầu lấy đi nguồn sống của chị và chuyển nó sang cho người sắp chết. Có thể người đó sẽ hồi lại trước khi nguồn sống của người cho cạn hết. Nhưng cũng rất có thể quá trình chuyển đổi sẽ lấy hết nguồn sống của chị, vậy là chị sẽ chết, và người kia cũng chẳng khá hơn. Có điều, khi chết, vì người cho đã Đánh Đổi, nên sẽ mất hết mọi thứ, ý em là mọi thứ chị đã làm được và kiếm được, tất cả điểm số, Tài Nguyên, Danh Vọng kể từ lúc bắt đầu chơi. Tất cả chúng sẽ biến mất sạch. Nếu Travis chết, cậu ấy sẽ mất cây trượng, ngôi nhà, vàng, những con ngựa biết bay... Cậu ấy sẽ phải bắt đầu lại như một newbie.”

“Travis đã làm thế sao?”

Jason gật đầu. “Thực sự là thế. Nhưng khi Trav đã gần cạn hết nguồn sinh lực cũng là lúc nữ hoàng sống lại. Cô ấy đã hôn cậu ta. Một thời khắc, ừm, quả là huy hoàng! Tiếp đến, các tiên và bọn em hợp lại đá đít mấy gã Phương Bắc chết tiệt. Trời ạ, tối đó đúng là chấn động. Một chiến thắng huy hoàng. Tất cả những ai chơi trò này đến giờ vẫn còn nhắc tới biến cố đấy.”

Dance đang gật đầu. “Được rồi, Jason, cảm ơn em. Em có thể đăng xuất rồi.”

“Ừm, chị không muốn chơi tiếp ạ? Có vẻ như chị bắt đầu cảm nhận được cách di chuyển rồi đấy.”

“Có lẽ để sau.”

Cậu thiếu niên gõ lên màn hình và trò chơi được tắt đi.

Dance liếc nhìn đồng hồ của cô. “Jon, anh có thể đưa Jason về nhà được chứ? Tôi cần nói chuyện với một người.”

A tới B tới X...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
622,673
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


“Làm ơn cho tôi gặp Caitlin.”

“Cô là…” Virginia Gardner, mẹ người nạn nhân đã sống sót sau vụ tai nạn xe hơi hôm mùng Chín tháng Sáu, hỏi.

Dance xưng danh. “Tôi đã nói chuyện với con gái bà hôm trước tại trường học hè.”

“À, cô là người cảnh sát đó. Cô đã thu xếp người đến canh gác cho Cait ở bệnh viện hôm trước, rồi ở ngoài trước nhà chúng tôi.”

“Đúng thế.”

“Các vị đã tìm thấy Travis chưa?”

“Chưa, tôi…”

“Cậu ta đang ở gần đây sao?” người phụ nữ nín thở hỏi, đưa mắt nhìn xung quanh.

“Không, không đâu. Tôi chỉ muốn hỏi thêm con gái bà vài câu thôi.”

Người phụ nữ mời Dance vào trong tiền sảnh một ngôi nhà lớn theo phong cách đương đại ở Carmel. Dance nhớ Caitlin đang nhắm tới một số lớp dự bị của trường có tiếng và trường y. Cho dù bố mẹ muốn cô bé theo học gì, dường như họ hoàn toàn có khả năng đáp ứng chi phí.

Dance nhìn quanh căn phòng khách rộng thênh thang. Trên tường có mấy bức tranh trừu tượng ảm đạm khó hiểu - hai bức lớn trắng - đen với các đường nét sắc nhọn và một bức đầy những vết đỏ bầm như máu. Cô thấy chúng thật ám ảnh khi nhìn vào. Và chợt nhận ra cảm giác này thật khác biết bao so với lúc thoải mái khi được ở bên trong ngôi nhà của Travis và Jason trong DimensionQuest.

Vâng, phải, bọn em tạo ra một ngôi nhà thật tuyệt ở Aetheria vì nơi bọn em sống, ý em là trong thế giới thực, không được đẹp cho lắm, chị biết đấy…

Mẹ cô bé biến mất. Một lúc sau trở lại cùng Caitlin, mặc quần jean và một cái áo màu vỏ chanh dưới chiếc áo len màu trắng bó sát người.

“Chào chị,” cô nói không mấy thoải mái.

“Chào em, Caitlin. Em cảm thấy thế nào?”

“Ổn thôi ạ.”

“Hy vọng em có thể dành cho chị một vài phút. Chị có thêm vài câu nữa muốn hỏi.”

“Em đoán là được ạ.”

“Chúng ta có thể ngồi xuống chỗ nào nói chuyện chứ?”

“Hãy vào phòng tắm nắng,” bà Gardner nói.

Họ đi qua bên một phòng làm việc. Dance thấy một tấm bằng của Đại học California treo trên tường. Bằng y khoa. Của bố Caitlin.

Bà chủ nhà và cô con gái ngồi xuống trường kỷ, còn Dance chọn một chiếc ghế lưng thẳng. Cô nhích ghế lại gần hơn và nói, “Chị muốn cập nhật tình hình cho em biết. Lại có thêm một người nữa bị giết hôm nay. Em đã nghe tin chưa?”

“Ôi không,” mẹ Caitlin lẩm bẩm.

Caitlin không nói gì. Chỉ nhắm mắt lại. Khuôn mặt cô, viền quanh là những lọn tóc vàng mềm mại, dường như có vẻ tái đi.

“Quả thực,” bà mẹ thì thầm đầy tức giận, “mẹ chẳng bao giờ hiểu nổi làm thế nào con lại có thể đi chơi cùng một đứa như thế.”

“Mẹ,” Caitlin than vãn, “ý mẹ nói ‘đi chơi’ là thế nào? Chúa ơi, con chưa bao giờ đi chơi với Travis. Và không bao giờ có thể. Với một anh chàng như cậu ta ư?”

“Mẹ chỉ muốn nói cậu ta rõ ràng rất nguy hiểm.”

“Caitlin,” Dance chen vào. “Bọn chị thực sự rất muốn tìm ra cậu ấy. Song đến bây giờ vẫn chưa gặp chút may mắn nào. Chị muốn biết rõ hơn về cậu ấy từ bạn bè, nhưng…”

Bà mẹ lại lên tiếng: “Những đứa thanh niên ở Columbine đó.”

“Bà Gardner, làm ơn.”

Bà chủ nhà ném ra một cái nhìn bực bội, song vẫn chịu im lặng.

“Em đã kể với chị tất cả những gì có thể nghĩ được hôm trước rồi.”

“Chỉ thêm vài câu hỏi nữa thôi. Sẽ không lâu đâu,” cô kéo ghế lại gần hơn nữa và lấy ra một cuốn sổ ghi chép. Dance mở sổ, cẩn thận lật giở qua từng trang, dừng lại một hay hai lần.

Caitlin ngồi im không nhúc nhích trong lúc chăm chăm vào cuốn sổ.

Dance mỉm cười, nhìn thẳng vào đôi mắt cô bé. “Bây giờ, Caitlin, hãy nhớ lại buổi tối diễn ra bữa tiệc.”

“Vâng ạ.”

“Có một chuyện rất đáng quan tâm. Chị đã thẩm vấn Travis trước khi cậu ấy bỏ trốn. Chị đã ghi lại một số chi tiết,” cô ra dấu về phía cuốn sổ đặt trong lòng mình.

“Thật vậy sao? Chị đã nói chuyện với cậu ấy?”

“Đúng thế. Chị cũng không để ý lắm tới việc đó cho tới khi đã trao đổi với em và một số người khác. Nhưng bây giờ chị muốn ghép nối lại một số manh mối liên quan tới nơi ẩn náu của cậu ta.”

“Liệu việc đó có thể khó khăn tới mức nào…” mẹ Caitlin lại lên tiếng, như thể không tài nào dừng được. Nhưng bà ta lập tức im bặt trước ánh mắt nghiêm khắc của Dance.

Nữ đặc vụ tiếp tục, “Nào, em và Travis đã nói chuyện ít nhiều, phải vậy không? Vào tối hôm đó.”

“Cũng không hẳn.”

Dance hơi cau mày và lật giở qua các trang ghi chép của cô.

Cô bé nói tiếp, “À, ngoại trừ khi bọn em chuẩn bị ra về. Ý em là trong suốt buổi tiệc cậu ấy chỉ đứng một mình.”

Dance nói và gõ lên cuốn sổ. “Nhưng bọn em đã nói chuyện trên đường về.”

“À vâng, cũng có nói chuyện ít nhiều. Em cũng không nhớ lắm. Tất cả đều trở nên lờ mờ với vụ tai nạn và những gì xảy ra sau đó.”

“Chị tin chắc là vậy. Nhưng chị sẽ đọc cho em nghe vài câu và muốn em cung cấp thêm các chi tiết. Hãy nói cho chị biết nếu có điều gì làm em nhớ ra, những lời Travis từng nói trong lúc lái xe về nhà, trước khi xảy ra tai nạn.”

“Em đoán là được.”

Dance nhìn vào cuốn sổ ghi chép của cô. “Được rồi, đây là câu đầu tiên: ‘Ngôi nhà rất tuyệt nhưng đoạn đường chạy xe làm tôi thấy sợ’.” Cô ngước mắt lên. “Chị từng nghĩ có thể câu này có nghĩa là Travis sợ độ cao.”

“Vâng, đó là những gì cậu ấy đã nói. Con đường chạy xe nằm trên triền đồi này. Tất cả bọn em đều nói về nó. Travis bảo cậu ấy luôn có cảm giác sợ bị rơi. Cậu ấy nhìn xuống và nói tại sao người ta không dựng thanh chắn bên rìa đường.”

“Tốt. Rất hữu ích,” thêm một nụ cười nữa. Caitlin cười đáp lại. Dance quay về với các ghi chép. “Thế còn câu này? ‘Tôi nghĩ những chiếc thuyền tuyệt nhất. Tôi vẫn luôn muốn có một cái’.”

“Câu đó ư? Vâng. Bọn em đã nói về Fisherman’s Wharf. Travis thực sự cho rằng sẽ rất tuyệt nếu đi thuyền tới Santa Cruz,” cô hướng mắt nhìn đi nơi khác. “Em nghĩ cậu ấy muốn rủ em đi cùng mình, nhưng lại quá rụt rè.”

Dance mỉm cười. “Vậy rất có thể cậu ấy đang lẩn trốn trên một con thuyền ở đâu đó.”

“Vâng, có thể lắm. Em nhớ cậu ấy từng nói gì đó về chuyện cuộc sống sẽ thật êm đềm khi nhổ neo ra khơi trên một con thuyền.”

“Tốt… Đây là một câu khác nữa. ‘Bạn có nhiều bạn hơn tôi. Tôi chỉ có một hay hai người bạn có thể chơi cùng’.”

“Vâng, em nhớ cậu ấy đã nói thế. Em cảm thấy ái ngại cho cậu ấy vì không có nhiều bạn bè. Travis đã nói về chuyện này một hồi khá lâu.”

“Cậu ấy có nhắc tới cái tên nào không? Ai đó cậu ấy có thể ở cùng? Hãy nghĩ xem. Việc này rất quan trọng.”

Cô gái vị thành niên liếc mắt nhìn sang hướng khác, hai bàn tay nắm lên đầu gối. Rồi thở dài. “Không ạ.”

“Được rồi, Caitlin.”

“Em xin lỗi,” một cái bĩu môi thoáng qua.

Dance tiếp tục duy trì nụ cười trên khuôn mặt. Cô đang tập trung sự cứng rắn cho bản thân để chuẩn bị cho những điều sắp đến. Việc này sẽ khó khăn - cho Caitlin, cho bà mẹ, và cho cả Dance. Song không còn lựa chọn nào khác.

Dance cúi người ra trước. “Caitlin, em đang không thành thật với chị.”

Cô bé chớp mắt. “Cái gì?”

Virginia Gardner lẩm bẩm, “Cô không thể nói thế với con gái tôi.”

“Travis không hề nói với tôi những câu vừa rồi,” Dance nói, giọng hoàn toàn bình thản. “Tôi đã bịa ra chúng.”

“Cô nói dối!”

Không, cô không hề nói dối, về mặt lý thuyết. Cô đã cân nhắc rất cẩn thận từng từ trong câu chữ của mình, cô chưa hề bảo những lời đó thực sự là của Travis Brigham.

Cô bé trở nên nhợt nhạt.

Bà mẹ cằn nhằn, “Vậy nó là cái gì, một thứ bẫy chăng?”

Phải, chính xác là thế đấy. Dance có một giả thiết và cần xác minh xem nó đúng hay sai. Đây là chuyện can hệ tới tính mạng con người.

Cô tảng lờ bà mẹ và tiếp tục đối thoại với Caitlin, “Nhưng em làm bộ như thể Travis thực sự đã nói những điều đó trên xe.”

“Em… em chỉ đang cố gắng giúp đỡ. Em cảm thấy thật tệ khi không biết gì hơn.”

“Không, Caitlin. Em nghĩ rất có thể mình đã thực sự nói chuyện với cậu ấy về những điều đó trên xe. Nhưng em không nhớ được vì lúc ấy bản thân không còn tỉnh táo nữa.”

“Không!”

“Tôi sắp phải yêu cầu cô phải rời khỏi đây ngay lập tức,” bà mẹ buột miệng.

“Tôi vẫn chưa xong đâu,” Dance gằn giọng, làm Virginia Gardner im bặt.

Cô đánh giá: Là một người theo học các môn khoa học - cộng thêm những kỹ năng để sống còn trong ngôi nhà này - Caitlin thuộc tuýp suy nghĩ và nhận thức; theo chỉ số Myers-Briggs. Dance nhận thấy cô bé có nhiều khả năng là người hướng nội hơn hướng ngoại. Và, lúc này cô bé đang là một kẻ nói dối theo “kiểu thích nghi” cho dù đặc tính đó sẽ có những dao động.

Nói dối vì sinh tồn của bản thân.

Nếu còn nhiều thời gian hơn, có lẽ Dance đã tìm cách khai thác sự thật từ tốn và triệt để hơn. Nhưng với kết quả phân loại theo Myers-Briggs cùng tính cách nói dối “kiểu thích nghi” của Caitlin, Dance nghĩ cô nên thúc ép thay vì mềm mỏng như cách đã sử dụng với Tammy Foster.

“Em đã uống say tại bữa tiệc.”

“Em…”

“Caitlin, nhiều người đã thấy em.”

“Em có uống chút ít, tất nhiên rồi.”

“Trước khi tới đây, chị đã nói chuyện với vài học sinh cũng tham gia bữa tiệc. Các bạn đó nói em, Vanessa và Trish đã uống gần hết cả chai[1] tequila sau khi em nhìn thấy Mike cặp kè với Brianna.”

[1. Nguyên văn là “a fifth”, thể tích tương đương 750 ml.]

“À... Được rồi, thế thì sao?”

“Con mới mười bảy tuổi,” bà mẹ gắt lên, “là thế đấy!”

Dance bình tĩnh nói, “Chị đã gọi điện tới cơ quan thực hiện việc tái hiện vụ tai nạn. Họ sẽ kiểm tra xe của em trong bãi tạm giữ của cảnh sát. Họ sẽ tiến hành đo đạc những thông số như vị trí điều chỉnh ghế ngồi và gương chiếu hậu. Sẽ biết ngay chiều cao của người lái xe.”

Cô bé hoàn toàn bất động, cho dù quai hàm run lẩy bẩy.

“Caitlin, đã đến lúc cần nói sự thật. Rất nhiều thứ phụ thuộc vào điều đó. Đang có mạng sống của nhiều người khác bị đe dọa.”

“Sự thật nào kia?” bà mẹ thì thầm.

Dance tiếp tục nhìn thẳng vào cô. “Caitlin đã lái xe tối hôm đó. Không phải Travis.”

“Không!” Virginia Gardner rên lên.

“Không phải thế chứ, Caitlin?”

Cô bé vị thành niên không nói lời nào trong cả một phút rồi gục đầu xuống, ngực phập phồng. Dance đọc được nỗi đau và cảm giác thất bại trên từng cử chỉ cô bé. Thông điệp bằng ngôn ngữ cơ thể của Caitlin là: Đúng thế.

Giọng vỡ ra ngắt quãng, Caitlin nói, “Mike ra về với con nhỏ lẳng lơ đó bám dính lấy, một bàn tay nó đặt lên đằng sau quần jean của cậu ấy! Em thừa hiểu bọn họ quay về nhà cậu ta để làm tình với nhau. Em định sẽ lái xe tới đó… Em định sẽ…”

“Được rồi,” bà mẹ ra lệnh, “đủ rồi đấy.”

“Mẹ im đi!” cô con gái gắt lên với bà rồi bắt đầu òa khóc. Cô bé quay sang Dance. “Vâng, em đã lái xe!” cảm giác tội lỗi cuối cùng cũng bùng nổ bên trong cô.

Dance tiếp tục, “Sau khi tai nạn xảy ra, Travis đã chuyển em sang ghế bên, còn cậu ấy ngồi vào ghế lái xe. Cậu ấy làm ra vẻ chính mình đã điều khiển. Travis làm thế để cứu em.”

Cô nhớ lại lần thẩm vấn Travis.

Em chẳng làm gì sai cả!

Câu ấy đã được Dance ghi nhận là nói dối. Song cô đã liên kết điều đó với vụ tấn công Tammy; thực ra, cậu thiếu niên đã sai khi nói dối về việc ai đã lái xe đêm hôm đó.

Dance nghĩ tới điều này khi cô quan sát ngôi nhà của Travis - Medicus - và gia đình của cậu tại Aetheria. Việc cậu ta dành gần như toàn bộ quỹ thời gian có thể để vào DimensionQuest trong vai trò một bác sĩ chữa trị cứu sống người khác, chứ không phải một sát thủ như Stryker, làm cô bắt đầu nghi ngờ về xu hướng bạo lực của cậu thiếu niên. Và khi cô biết nhân vật của cậu ta đã sẵn sàng hy sinh tính mạng vì nữ hoàng Tiên, cô chợt hiểu ra rất có thể Travis đã làm điều tương tự trong thế giới thực - gánh lấy trách nhiệm về vụ tai nạn để người cậu ta ngưỡng mộ từ xa không phải vào tù.

Caitlin, trong lúc nước mắt ứa ra thành dòng từ đôi mắt nhắm nghiền, đổ gục người xuống trường kỷ, toàn cơ thể toát ra vẻ căng thẳng. “Em đã mất tự chủ. Bọn em uống say, và em muốn đi tìm Mike, nói vào mặt cậu ta rằng cậu ta là đồ tồi. Tris và Vanessa còn say hơn cả em, vậy là em phải lái xe, nhưng Travis đã theo ra ngoài và cố gắng ngăn em lại. Cậu ấy cố giành lấy chìa khóa. Nhưng em không chịu. Lúc đó em như hóa điên vậy. Tris và Vanessa ngồi ở băng ghế sau, còn Travis lao vào ngồi xuống ghế đằng trước và cậu ấy cứ nói mãi, kiểu như, ‘Dừng lại đi, Caitlin, thôi nào, cậu không thể lái được’. Nhưng em đã hành động như một kẻ tồi tệ ngu ngốc. Em cứ thế lái xe lao đi, mặc kệ cậu ấy. Thế rồi, em không biết chuyện gì xảy đến nữa, bọn em lao ra khỏi đường,” giọng nói lặng dần, thái độ của cô bé là một trong những tâm trạng đau khổ và tuyệt vọng nhất Kathryn Dance từng tận mắt chứng kiến, trong khi cô bé thì thầm. “Và em đã giết chết các bạn của mình.”

Mẹ Caitlin, khuôn mặt trắng bệch kinh hoàng, rụt rè nhích người tới trước. Bà đưa cánh tay ôm quanh vai con gái. Cô bé cứng người lại trong giây lát rồi buông xuôi, nức nở úp mặt lên ngực mẹ mình.

Sau vài phút, bà mẹ, lúc này cũng đang khóc, đưa mắt nhìn Dance.

“Chuyện gì sẽ xảy ra.”

“Ông bà nên tìm một luật sư cho Caitlin. Sau đó gọi điện ngay cho cảnh sát. Con bé nên tự mình đầu thú. Càng sớm càng tốt.”

Caitlin gạt nước mắt. “Em cảm thấy thật kinh khủng khi phải nói dối. Em đã định sẽ nói gì đó. Thực sự là thế. Nhưng rồi người ta bắt đầu tấn công Travis - với tất cả những thứ họ đã viết - và em biết nếu mình nói ra sự thật họ sẽ công kích em,” cô bé cúi mặt xuống. “Em không thể làm được điều đó. Tất cả những gì người ta nói về em... Chúng sẽ mãi mãi nằm trên trang của họ.”

Lo lắng về hình ảnh của bản thân còn hơn cả ăn năn về cái chết của bạn bè.

Nhưng Dance không có mặt ở đây để xưng tội cho cô bé vị thành niên. Tất cả những gì cô cần là bằng chứng xác nhận cho giả thiết của mình về việc Travis đã nhận tội thay Caitlin. Cô đứng dậy rời khỏi hai mẹ con họ, sau khi nói xong lời chào ngắn gọn nhất.

Ra tới bên ngoài, vừa chạy về phía xe, cô vừa bấm nút quay số nhanh gọi Michael O’Neil.

Anh trả lời sau lần đổ chuông thứ hai. Ơn Chúa vì vụ án kia vẫn không khiến anh nằm hoàn toàn khỏi vòng liên lạc.

“Chào,” người thanh tra có vẻ mệt mỏi.

“Michael.”

“Có gì không ổn vậy?” anh lập tức trở nên cảnh giác; có vẻ như chỉ riêng giọng nói của cô cũng đã bộc lộ khá nhiều.

“Tôi biết anh rất bận, nhưng liệu tôi có thể ghé qua một lát được không? Tôi cần thảo luận. Tôi vừa phát hiện ra một điều.”

“Tất nhiên. Gì vậy?”

“Travis Brigham không phải là Tên sát nhân với cây thập tự ven đường.”

~*~

Dance và O’Neil đang ngồi trong phòng làm việc của anh tại Sở Cảnh sát hạt Monterey, tọa lạc ở Salinas.

Các khung cửa sổ nhìn sang phía tòa án, trước cửa tòa nhà là hai tá người biểu tình của Ưu tiên cuộc sống, cùng ông mục sư Fisk với vùng da cổ nhăn nheo. Họ dường như phát chán với việc đứng phản đối trước ngôi nhà trống rỗng của Stuart và Edie Dance nên giờ đây đã chuyển sang nơi cho phép họ có nhiều cơ hội được quảng bá hơn. Fisk đang nói gì đó với người đồng sự cô đã trông thấy lúc trước: Tay vệ sĩ tóc đỏ vạm vỡ.

Dance rời mắt khỏi cửa sổ, tới bên O’Neil ở chỗ cái bàn họp cập kênh của anh. Trên bàn chất đầy những chồng tài liệu ngăn nắp. Cô thầm tự hỏi những tài liệu nào trong số đó liên quan tới vụ chiếc container từ Indonesia tới. O’Neil đu đưa tới lui trên hai chân sau của cái ghế gỗ. “Nào, hãy kể cho tôi biết đi.”

Dance hối hả kể lại những tình huống đã dẫn cuộc điều tra tới Jason, rồi sau đó tới trò chơi DimensionQuest và cuối cùng là Caitlin Gardner cùng lời thú nhận rằng Travis đã gánh trách nhiệm thay cho cô bé.

“Vì si tình chắc?” người thanh tra hỏi.

Nhưng Dance nói, “Một phần chắc là vì thế. Nhưng còn một nguyên nhân nữa. Cô bé muốn vào học trường y. Điều đó quan trọng với Travis.”

“Trường y?”

“Y học, chữa trị. Trong trò cậu ta chơi, DimensionQuest, Travis là một người chữa trị nổi tiếng. Tôi nghĩ một lý do để cậu ta che chở cho cô bé là vì thế. Nhân vật của cậu ta là Medicus. Một bác sĩ. Cậu ta cảm thấy một mối liên hệ với Caitlin. ”

“Cô không nghĩ suy luận như thế có phần quá xa hay sao? Nói cho cùng, đó chỉ là một trò chơi.”

“Không, Michael, nó còn hơn cả một trò chơi. Thế giới thực và thế giới ảo đang ngày càng xích lại gần nhau hơn, và những người như Travis sống trong cả hai thế giới này. Nếu cậu ấy là một người chữa trị được kính trọng trong DimensionQuest, cậu ta sẽ không trở thành một tên sát nhân điên cuồng trong thế giới thực.”

“Vậy cậu ta nhận trách nhiệm thay Caitlin trong vụ tai nạn, và bất chấp những thị phi người ta bịa đặt trên blog. Điều cuối cùng cậu ta muốn trên đời là thu hút sự chú ý dành cho mình bằng cách tấn công ai đó.”

“Chính xác.”

“Nhưng Kelley… trước khi ngất đi, đã nói với nhân viên y tế chính Travis là kẻ đã tấn công cô ấy.”

Dance lắc đầu. “Tôi không chắc con bé thực sự nhìn thấy cậu ta. Nó chỉ suy đoán rằng đó là Travis, có thể vì mình đã đăng bài về cậu ta và chiếc mặt nạ ở bên ngoài cửa sổ phòng xuất phát từ trò chơi DimensionQuest. Cả những tin đồn rằng cậu ta là kẻ đứng sau các cuộc tấn công. Song tôi nghĩ tên sát nhân thực sự có đeo mặt nạ hoặc tấn công cô ta từ phía sau.”

“Thế cô nghĩ sao về những bằng chứng vật chất? Là sắp đặt chăng?”

“Đúng vậy. Rất dễ đọc được trên mạng về Travis, theo dõi cậu ta, tìm hiểu về công việc của cậu ta tại cửa hàng bánh, chiếc xe đạp, cũng như việc cậu thiếu niên thường xuyên chơi DQ. Tên sát nhân có lẽ đã chế tạo ra một cái mặt nạ, ăn cắp súng từ mớ đồ của Bob Brigham, bỏ lại bằng chứng để dàn cảnh tại cửa hàng bánh và đánh cắp con dao khi các nhân viên khác không để ý. À, và còn một chuyện nữa: Về món kẹo M&M? Những mảnh giấy gói tại hiện trường?”

“Phải.”

“Chắc chắn là dàn dựng. Travis không ăn sô cô la. Cậu ấy mua gói kẹo cho em trai, lo lắng về bệnh trứng cá của bản thân. Và có cả những cuốn sách viết về các thực phẩm cần tránh trong phòng mình. Tên sát nhân thực sự không biết những điều trên. Chắc chắn hắn từng thấy Travis mua M&M ở nơi nào đó, và cho rằng thứ ấy là món ưa thích của cậu thiếu niên, vậy là hắn bỏ lại ít giấy gói kẹo tại hiện trường.”

“Thế còn những mẫu sợi trong áo nỉ?”

“Có một bài đăng trên Bản tin Chilton về việc gia đình Brigham quá nghèo nên không có tiền mua máy giặt và máy sấy khô. Trong đó nhắc tới tiệm giặt tự phục vụ nơi gia đình này lui tới. Tôi dám chắc thủ phạm đã đọc được và tìm ra vị trí tiệm.”

O’Neil gật đầu. “Và đánh cắp một chiếc áo nỉ có mũ trùm đầu khi mẹ cậu ta không có nhà hay không để ý.”

“Phải. Và còn có vài bức hình được đăng trên blog dưới tên Travis”

O’Neil chưa có dịp nhìn thấy và cô mô tả lại ngắn gọn về chúng, bỏ qua chi tiết bức vẽ cuối cùng có phần giống với cô.

Dance nói tiếp, “Chúng rất thô kệch, điều sẽ làm một người trưởng thành nghĩ đó là một hình do trẻ vị thành niên vẽ ra. Nhưng tôi đã nhìn qua vài bức chính tay Travis đã vẽ - về giải phẫu. Cậu ấy là một họa sĩ thực thụ. Ai đó khác đã tạo nên mấy bức hình nọ.”

“Điều đó giải thích tại sao không ai có thể tìm ra được kẻ sát nhân thực sự, bất chấp cuộc truy lùng. Hắn mặc áo có mũ trùm đầu để thực hiện các vụ tấn công, sau đó quăng cả áo lẫn xe đạp vào cốp xe hơi và lái rời khỏi đó như bất cứ ai khác. Chết tiệt, hắn hoàn toàn có thể đã ngoài năm mươi. Hoặc là phụ nữ, khi bây giờ suy nghĩ lại tất cả.”

“Chính xác.”

Người thanh tra im lặng một lúc. Những suy nghĩ của anh có vẻ đã tìm đến đúng đích nơi Dance chờ đợi. “Cậu ấy đã chết rồi, đúng không?” anh hỏi. “Travis ấy?”

Dance thở dài trước lời suy đoán nặng nề trùng khớp với giả thiết của mình. “Có thể lắm. Nhưng tôi hy vọng là chưa. Tôi muốn nghĩ cậu ấy chỉ đang bị giam giữ đâu đó.”

“Cậu thiếu niên tội nghiệp đã có mặt không đúng chỗ vào không đúng thời điểm,” O’Neil tiếp tục lắc lư hết ra trước lại ra sau. “Vậy thì để tìm ra thủ phạm thực sự, chúng ta cần hình dung ra đâu là nạn nhân được nhắm tới. Đó không phải là vài kẻ đã đăng bài công kích Travis; những trường hợp này chỉ là dàn dựng để đánh lạc hướng chúng ta.”

“Muốn biết giả thiết của tôi không?” Dance đề xuất.

O’Neil nhìn cô với một nụ cười dè dặt. “Cho dù thủ phạm là ai, thực tế hắn đang nhằm tới Chilton, đúng không?”

“Phải. Thủ phạm đang dàn dựng màn kịch của hắn, trước hết tìm tới những người chỉ trích Travis, sau đó là những đối tượng thân thiện với Chilton, và cuối cùng là chính ông chủ blog.”

“Ai đó không muốn bị điều tra.”

Dance trả lời, “Hoặc ai đó muốn trả thù vì một việc ông ta đã đăng lên trong quá khứ.”

“Được rồi, tất cả những gì chúng ta cần là tìm ra ai muốn giết James Chilton,” Michael O’Neil nói.

Dance bật cười chua chát. “Câu hỏi dễ dàng hơn là: Ai không muốn giết lão?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
622,673
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33


“James?”

Có một khoảng im lặng ở đầu dây bên kia. Chilton nói, “Đặc vụ Dance,” giọng ông có vẻ mệt mỏi. “Lại có thêm tin xấu sao?”

“Tôi đã tìm ra một số bằng chứng cho thấy Travis không phải là người đã để lại những cây thập tự.”

“Cái gì?”

“Tôi không hoàn toàn chắc chắn, nhưng theo tình hình hiện tại, cậu ta có thể chỉ là kẻ thế mạng. Có ai đó đang dàn dựng để làm như cậu ta chính là tên sát nhân.”

Chilton thì thầm, “Và cậu bé thực ra vô tội từ đầu?”

“Tôi e là vậy,” Dance giải thích những gì cô đã phát hiện được - về người thực sự ngồi sau tay lái chiếc xe hôm mùng Chín tháng Sáu - cũng như khả năng các bằng chứng đã bị sắp đặt.

“Tôi nghĩ ông chính là đích ngắm cuối cùng,” cô nói thêm.

“Tôi ư?”

“Ông đã đăng nhiều câu chuyện khá bỏng tay trong suốt sự nghiệp của mình. Và hiện ông đang viết về nhiều chủ đề gây tranh cãi. Tôi nghĩ có những người sẽ rất vui được thấy ông bị chặn lại. Tôi đoán trước đây ông cũng đã từng bị đe dọa.”

“Vô số lần rồi.”

“Hãy quay lại tìm trong blog của ông, tìm lại tên của tất cả những người từng đe dọa ông, những kẻ có thể sẽ muốn thanh toán nợ nần vì điều gì đó ông từng nói, hoặc lo lắng ông đang điều tra một chuyện mà họ không muốn bị công bố. Hãy chọn ra những đối tượng nghi vấn tiềm tàng nhất. Và hãy tìm lùi trở lại một vài năm.”

“Tất nhiên. Tôi sẽ lập ra một danh sách. Nhưng cô nghĩ tôi thực sự đang bị đe dọa sao?”

“Đúng thế.”

Ông ta im lặng. “Tôi lo lắng cho Pat và bọn trẻ. Chúng tôi có nên rời khỏi khu vực này không? Có thể tới chỗ nhà nghỉ của chúng tôi. Nó nằm ở Hollister. Hay tới một khách sạn.”

“Nhiều khả năng một khách sạn sẽ an toàn hơn. Trong hồ sơ đã ghi rõ việc ông sở hữu ngôi nhà kia. Tôi có thể thu xếp để gia đình ông tới thuê phòng tại một trong các nhà nghỉ dùng cho nhân chứng. Dưới danh tính giả.”

“Cảm ơn cô. Cho chúng tôi vài giờ. Pat sẽ chuẩn bị đồ đạc, và chúng tôi sẽ rời đi ngay sau một cuộc gặp tôi đã lên lịch.”

“Tốt.”

Cô đang định gác máy thì Chilton nói, “Đợi đã. Đặc vụ Dance, có một chuyện.”

“Gì vậy?”

“Tôi có một ý tưởng... về chuyện ai có thể là số một trong danh sách.”

“Tôi sẵn sàng ghi lại đây.”

“Cô không cần đến giấy bút đâu,” Chilton đáp.

~*~

Dance và Ray Carraneo chậm rãi tiếp cận ngôi nhà sang trọng của Arnold Brubaker, người đứng đằng sau dự án nhà máy khử mặn nước biển, nếu hoạt động, theo quan điểm của Chilton, sẽ hủy hoại Bán đảo Monterey.

Chính Brubaker là người Chilton đã coi là lựa chọn số một trong diện tình nghi. Hoặc đích thị ông hoàng của kế hoạch khử mặn nước biển này, hoặc kẻ nào đó được ông ta thuê. Và Dance nghĩ điều này rất có khả năng là đúng. Cô đang vào mạng bằng máy tính trên xe, đọc chuỗi “Khử mặn... và tàn phá” trong những bài đăng hôm Hai mươi tám tháng Sáu.

Http://www.thechiltonreport.com/june28.html

Từ bài phóng sự và những bình luận, Dance suy đoán chủ nhân blog đã tìm ra những mối liên hệ với Las Vegas của ông chủ dự án, những điều khiến người ta nghi ngờ đến tội phạm có tổ chức, cũng như những hoạt động mua bán bất động sản tư nhân của ông ta, rất có thể động chạm tới các bí mật Brubaker không muốn để lộ ra.

“Sẵn sàng chưa?” Dance hỏi Carraneo trong khi đăng xuất.

Anh ta gật đầu, và hai người cùng chui ra khỏi xe.

Dance gõ cửa.

Cuối cùng thì vị doanh nhân với khuôn mặt đỏ lựng - vì ánh nắng chứ không phải bực dọc, Dance suy đoán - bước ra mở cửa. Ông ta có vẻ ngạc nhiên khi thấy các vị khách. Vị chủ nhà chớp mắt và không nói gì trong khoảnh khắc. “Tôi đã gặp cô ở bệnh viện. Cô là…?”

“Đặc vụ Dance. Đây là đặc vụ Carraneo.”

Đôi mắt ông nheo lại nhìn ra phía sau cô.

Tìm xem lực lượng hỗ trợ ở đâu chăng? Cô tự hỏi.

Và nếu đúng thế, thì là lực lượng hỗ trợ của cô? Hay của chính Brubaker?

Cô thoáng cảm thấy ớn lạnh sợ hãi. Những kẻ giết người vì tiền là những kẻ tàn bạo nhất, theo đánh giá của cô.

“Chúng tôi đang tiếp tục điều tra vụ việc có liên quan tới ông Chilton đó. Ông vui lòng cho phép tôi đưa ra vài câu hỏi chứ?”

“Cái gì? Cuối cùng gã khùng hay châm chích vẫn kiện cáo hay sao? Tôi cứ nghĩ chúng tôi đã…”

“Không, không có kiện tụng nào hết. Chúng tôi vào được chứ?”

Người đàn ông vẫn giữ nguyên vẻ ngờ vực. Đôi mắt vị chủ nhà lẩn tránh cái nhìn của Dance, ông ta gật đầu mời họ vào rồi buột miệng, “Gã ta là một kẻ điên, các vị biết đấy. Ý tôi là, tôi nghĩ có thể chứng nhận được điều đó.”

Dance nở một nụ cười vô thưởng vô phạt.

Liếc nhìn thêm lần nữa ra ngoài, Brubaker đóng cửa lại, rồi khóa trái.

Ba người đi qua căn nhà, một nơi trống trải, nhiều căn phòng không hề có đồ đạc gì. Dance tin cô vừa nghe thấy tiếng răng rắc vang lên gần đó. Rồi một âm thanh tương tự vọng lại từ một căn phòng khác.

Ngôi nhà đang được sắp xếp, hay Brubaker có các trợ lý ở đây?

Trợ lý, hay những trợ thủ cơ bắp?

Họ cùng bước vào một phòng làm việc ngồn ngộn giấy tờ, bản in, tranh ảnh, tài liệu pháp lý. Một mô hình thu nhỏ của nhà máy khử mặn nước biển được công phu dựng lên trên một trong các mặt bàn.

Brubaker nhấc vài tập báo cáo dày cộp được buộc vào nhau lên khỏi mấy cái ghế rồi ra dấu mời hai đặc vụ ngồi. Ông ta cũng ngồi xuống đằng sau một bàn làm việc lớn.

Dance nhìn thấy các bằng chứng nhận treo trên tường. Còn có cả các bức ảnh chụp chung Brubaker cùng những người trông khá quyền thế mặc đồ vest - có thể là chính trị gia hay các doanh nhân khác. Thông thường, mọi chuyên gia thẩm vấn đều ưa thích các bức tường phòng làm việc; chúng hé lộ rất nhiều về đối tượng.

Từ những bức hình này, cô đi đến suy đoán Brubaker là một người thông minh (các bằng cấp, khóa đào tạo chuyên ngành), hiểu biết về mặt xã giao (nhiều danh hiệu, giải thưởng danh dự từ các thành phố và hạt). Và cứng rắn; dường như công ty của ông ta đã xây dựng nhà máy khử mặn nước biển ở Mexico và Colombia. Nhiều bức ảnh cho thấy ông xuất hiện giữa một đám người đeo kính mát, bộ dạng đầy cảnh giác - các vệ sĩ. Những gã đó đều giống nhau trong tất cả các bức hình, có nghĩa bọn họ là vệ sĩ cá nhân của Brubaker, chứ không phải người do chính quyền sở tại cung cấp. Một trong số này có mang súng máy.

Liệu có phải bọn họ là nguyên nhân gây ra những tiếng răng rắc gần đó - mà cô lại vừa nghe thấy, có vẻ còn đang lại gần hơn?

Dance hỏi về dự án nhà máy khử mặn, thế là ông ta tuôn ra một tràng dài bất tận đầy chất thương mại về công nghệ hiện đại nhất mà nhà máy đó sẽ sử dụng. Cô nghe thấy những từ như “quá trình lọc”, “màng”, “thùng chứa nước ngọt”. Brubaker dành cho hai nhân viên điều tra một bài lên lớp ngắn về chi phí rất thấp của những hệ thống mới cho phép hiện thực hóa việc tạo ra nước ngọt bằng khử mặn một cách kinh tế.

Cô tiếp nhận chút ít thông tin, thay vào đó vờ tỏ vẻ quan tâm và tập trung vào nghiên cứu hành vi cơ bản của vị chủ nhà.

Ấn tượng đầu tiên của Dance là Brubaker dường như không hề bối rối trước sự có mặt của họ, mặc dầu những nhân vật thuộc kiểu “Machiavelli điển hình” hiếm khi bị chao đảo bởi những mối liên hệ với con người - dẫu là quan hệ lãng mạn, xã hội hay nghề nghiệp. Thậm chí những nhân vật này còn đón nhận tình thế đối đầu một cách bình thản. Đó là một khía cạnh làm bọn họ trở nên rất tài năng. Và nguy hiểm một cách tiềm tàng.

Dance những muốn có nhiều thời gian hơn để thu thập thông tin cơ bản, song cô cảm nhận được tình thế khẩn cấp, vì vậy cô chấm dứt màn thao thao bất tuyệt của ông ta lại và hỏi, “Ông Brubaker, ông đã ở đâu vào lúc một giờ chiều hôm qua và mười một giờ sáng nay?”

Thời điểm diễn ra hai cái chết của Lyndon Strickland và Mark Watson.

“À, tại sao?” một nụ cười. Nhưng Dance không rõ đằng sau nó là cái gì.

“Chúng tôi đang tìm hiểu về một vài mối đe dọa nhằm vào ông Chilton.”

Đúng, cho dù, tất nhiên rồi, chưa phải toàn bộ sự thật.

“Ồ, ông ta phỉ báng tôi, và bây giờ tôi lại bị buộc tội?”

“Không phải chúng tôi đang buộc tội ông, ông Brubaker. Nhưng ông có thể làm ơn trả lời câu hỏi của tôi được không?”

“Tôi không buộc phải trả lời. Tôi có thể yêu cầu các vị rời khỏi đây ngay lập tức.”

“Đúng thế. Ông có thể từ chối hợp tác. Nhưng chúng tôi hy vọng ông không làm vậy.”

“Các vị có thể hy vọng gì tùy thích,” ông ta gằn giọng. Nụ cười trở nên đắc thắng. “Tôi hiểu chuyện gì đang diễn ra rồi. Xem ra cô đã bị nhầm lẫn suốt từ đầu đến giờ, đặc vụ Dance? Rất có thể không phải một cậu nhóc vị thành niên bị tâm thần nào đó đã đe dọa mọi người như trong một bộ phim kinh dị tồi. Mà trên thực tế ai đó đã lợi dụng cậu nhóc, biến cậu ta thành vật thế thân để nhận tội giết James Chilton, phải vậy không?”

Cừ đấy, Dance thầm nghĩ. Nhưng như thế liệu có nghĩa là ông ta đang đe dọa họ không? Nếu ông ta chính là “ai đó” như bản thân vừa nhắc đến, thì phải, đúng là vậy.

Carraneo liếc nhanh về phía cô.

“Nghĩa là các vị đã bị xỏ mũi.”

Có rất nhiều nguyên tắc quan trọng trong thẩm vấn và hỏi cung được coi như nguyên tắc số một, song quan trọng bậc nhất là: Không bao giờ được để những lời công kích cá nhân ảnh hưởng đến bạn.

Dance nói bằng giọng vừa phải, “Đã có một loạt tội ác rất nghiêm trọng xảy ra, ông Brubaker. Chúng tôi đang điều tra mọi khả năng. Ông từng có xung đột với James Chilton, và đã một lần tấn công ông ấy.”

“À,” vị chủ nhà nói bằng giọng phản bác, “và cô thực sự nghĩ rằng gây gổ một cách công khai với kẻ tôi đang ngấm ngầm muốn giết là hành động khôn ngoan nhất trên đời chăng?”

Hoặc cực kỳ ngu ngốc, hoặc quá khôn ngoan, Dance thầm trả lời. Sau đó cô hỏi, “Ông đã ở đâu vào những thời điểm tôi đề cập đến? Ông có thể cho chúng tôi biết, cũng có thể từ chối nhưng chúng tôi sẽ vẫn tiếp tục điều tra.”

“Cô cũng là một kẻ quấy rầy khó chịu chẳng kém gì Chilton. Thực lòng mà nói, đặc vụ Dance, cô còn tệ hơn. Cô nấp sau tấm phù hiệu của mình.”

Carraneo cựa quậy song không nói gì.

Cả Dance cũng im lặng. Hoặc là vị chủ nhà sẽ cung cấp thông tin cho họ, hoặc ông ta sẽ tống khứ hai người ra khỏi cửa.

Sai bét, Dance chợt nhận ra. Vẫn còn một lựa chọn thứ ba, lựa chọn vẫn ngấm ngầm ám ảnh từ lúc cô nghe thấy những tiếng răng rắc kỳ lạ trong ngôi nhà dường như vắng vẻ này.

Brubaker đang tìm một món vũ khí.

“Tôi đã chịu quá đủ với chuyện này rồi,” ông ta thì thầm, đôi mắt mở to tức giận, mở toang ngăn kéo bàn trên cùng ra. Bàn tay ông ta thò vào trong.

Trong đầu Dance chợt lóe lên hình ảnh các con cô, rồi đến chồng cô và Michael O’Neil.

Làm ơn, cô thầm nghĩ, cầu mong mình đủ nhanh…

“Rey, đằng sau chúng ta! Ẩn nấp ngay!”

Và khi Brubaker ngước mắt lên, ông thấy mình đang nhìn chằm chằm vào nòng khẩu súng ngắn Glock của Dance trong khi Carraneo đang chĩa súng về phía đối diện, hướng ra cửa phòng làm việc.

Cả hai đặc vụ đều đang quỳ xuống.

“Chúa ơi, bình tĩnh nào!” ông ta kêu lên.

“Đến giờ vẫn an toàn,” Carraneo nói.

“Kiểm tra bên ngoài,” cô ra lệnh.

Chàng trai trẻ nhẹ nhàng di chuyển tới bên cửa, đứng nép vào một bên, rồi dùng bàn chân đá cửa mở ra. “An toàn.”

Anh ta quay lại chĩa súng khống chế Brubaker.

“Từ từ giơ hai tay của ông lên.” Dance nói, khẩu Glock vẫn chĩa ra khá vững vàng. “Nếu ông đang có vũ khí trong tay, thả nó xuống ngay lập tức. Không được giơ lên hay hạ xuống. Hãy thả nó xuống. Nếu không - ngay bây giờ - chúng tôi sẽ bắn. Hiểu chứ?”

Arnold Brubaker thở hắt ra. “Tôi không có súng.”

Cô không nghe thấy tiếng một khẩu súng rơi xuống mặt sàn đắt tiền, nhưng ông ta đang đưa hai bàn tay lên rất chậm rãi.

Không giống hai bàn tay Dance, chúng không hề run rẩy chút nào.

Trong những ngón tay hồng hào của nhà phát triển dự án là một tấm danh thiếp, được ông ném về phía cô một cách khinh khỉnh. Hai đặc vụ cho lại vũ khí vào bao. Và ngồi xuống.

Dance nhìn vào tấm danh thiếp, nghĩ lại tình huống không thể vụng về hơn. Trên đó có biểu tượng mạ vàng của Bộ Tư pháp - con đại bàng và dòng chữ in rất nét. Cô biết rất rõ về những tấm thẻ của nhân viên FBI. Vẫn còn cả một hộp đầy ở nhà: Danh thiếp của chồng cô.

“Hôm qua, vào thời điểm cô nói đến, tôi đang gặp Amy Grabe, đặc vụ phụ trách văn phòng San Francisco của Cục Điều tra Liên bang. Chúng tôi đã gặp nhau tại đây và tại khu vực dự án. Từ khoảng mười một giờ đến ba giờ chiều.”

Ồ.

Brubaker nói, “Quá trình khử mặn nước biển cùng các cơ sở hạ tầng về nước khác là những mục tiêu của bọn khủng bố. Tôi đã làm việc với An ninh Nội địa và FBI để đảm bảo nếu dự án được tiến hành, sẽ có những biện pháp an ninh thích đáng.” Ông ta bình thản nhìn Dance đầy coi thường. Đầu lưỡi chạm lên một phía môi. “Tôi hy vọng sẽ có các nhân viên liên bang tham gia. Tôi đã mất hết niềm tin vào lực lượng cảnh sát địa phương.”

Kathryn Dance không định xin lỗi. Cô sẽ liên lạc để kiểm tra lại với đặc vụ Amy Grabe, người cô biết rõ và tôn trọng, bất chấp những khác biệt về quan điểm. Và cho dù có bằng chứng ngoại phạm cũng không thể loại trừ khả năng ông ta thuê sát thủ thực hiện những vụ giết người trên, Dance cũng khó lòng tin được một kẻ có quan hệ chặt chẽ đến thế với FBI và DHS[1] lại mạo hiểm tự mình đi gây án. Bên cạnh đó, mọi biểu hiện của Brubaker đều gợi ý rằng ông ta đang nói thật.

[1. Department of Homeland Security: Bộ An ninh Nội địa.]

“Được rồi, ông Brubaker. Chúng tôi sẽ xác minh những gì ông vừa nói.”

“Tôi hy vọng cô sẽ làm thế.”

“Tôi rất cảm ơn ông đã dành thời gian.”

Carraneo đưa mắt e dè nhìn về phía cô. Dance đảo mắt đi hướng khác.

Khi họ ra đến cửa, Brubaker nói, “Đợi chút đã.” Hai đặc vụ quay lại. “À, tôi nói có đúng không?”

“Đúng không?”

“Về chuyện cô nghĩ ai đó đã giết cậu nhóc và biến cậu ta thành kẻ thế mạng trong một âm mưu nhằm khử Chilton ấy?”

Một thoáng im lặng. Rồi cô nghĩ: Sao lại không nhỉ? Và Dance trả lời, “Phải, chúng tôi nghĩ có khả năng là vậy.”

“Đây,” Brubaker viết nguệch ngoạc gì đó lên một tờ giấy rồi đưa nó cho cô. “Tay này là một nhân vật cô nên để mắt đến. Ông ta sẽ rất vui được làm cho cái blog đó... và cả chủ nhân của nó... biến mất.”

Dance nhìn xuống dòng ghi chú.

Rồi tự hỏi tại sao chính cô lại không nghi ngờ tới nhân vật này trước đó.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
622,673
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34


Đỗ xe trên một con phố bụi bặm tại thị trấn nhỏ Marina, nằm cách Monterey năm dặm về phía bắc, Dance chỉ có một mình trong chiếc Crown Vic của cô và đang nói chuyện điện thoại cùng TJ.

“Về Brubaker?” cô hỏi.

“Không có tiền sử tội phạm,” anh ta thông báo. Và buổi làm việc - cũng như bằng chứng ngoại phạm - của ông ta với FBI đã được xác minh.

Ông ta vẫn có thể thuê ai đó làm việc cho mình, song thông tin vừa rồi quả thực đã đưa vị doanh nhân rời khỏi ghế nóng.

Sự chú ý giờ đây được tập trung vào nhân vật Brubaker đã cung cấp tên cho cô. Cái tên trên tờ giấy là Clint Avery, và ngay lúc này đây, cô đang tận mắt nhìn vào ông ta từ khoảng cách chừng một trăm yard[1], xuyên qua một hàng rào lưới mắt cáo trên đỉnh có chăng dây thép gai bao quanh khu vực công ty xây dựng quy mô của ông ta tọa lạc.

[1. Yard: Đơn vị đo chiều dài, tương đương 0.915m.]

Cái tên Avery chưa bao giờ xuất hiện như một nhân vật có liên quan tới cuộc điều tra. Vì một lý do rất hợp lẽ: Ông chủ xây dựng chưa bao giờ đăng bài trên blog và Chilton cũng chưa bao giờ viết về ông ta trên Bản tin.

Nghĩa là chưa viết thẳng tận tên. Chủ đề Con đường lát gạch vàng đã không nói ra cụ thể tên Avery. Song lại đặt câu hỏi về quyết định của chính quyền cho xây tuyến xa lộ cũng như quá trình đấu thầu, và một cách bóng gió cũng chỉ trích nhà thầu - mà đáng ra Dance phải biết đó là Avery Construction, vì cô đã bị một toán công nhân của công ty này chặn lại cạnh công trường xây dựng tuyến xa lộ khi đang trên đường tới trường học hè của Caitlin Gardner hai hôm trước. Cô đã không hề liên hệ hai việc này với nhau.

Lúc này, TJ Scanlon đang nói với cô, “Có vẻ Clint Avery có liên quan tới một công ty từng bị điều tra vì sử dụng vật liệu kém chất lượng năm năm trước. Cuộc điều tra bị đóng lại thực sự quá nhanh. Nhiều khả năng bài phóng sự của Chilton sẽ khiến nó được mở lại.”

Một động cơ rất tốt để giết ông ta, Dance tán thành. “Cảm ơn, TJ. Tốt lắm… Và Chilton đã đưa cho cậu danh sách các đối tượng nghi vấn khác?”

“Phải.”

“Có ai đó nổi bật không?”

“Đến giờ thì chưa, thưa sếp. Nhưng tôi rất mừng vì mình không có lắm kẻ thù như ông ấy.”

Cô bật cười trong chốc lát, và hai người ngắt liên lạc.

Từ xa, Dance tiếp tục quan sát Clint Avery. Cô đã xem các bức ảnh của ông ta cả chục lần - trên bản tin và trên báo. Thật khó bỏ qua người đàn ông này. Cho dù chắc chắn đã từng vượt qua ngưỡng triệu phú nhiều lần, ông ta vẫn ăn mặc hệt như bất cứ công nhân nào khác: áo sơ mi xanh cài đầy bút trên túi ngực, quần bảo hộ màu nâu vàng, đi ủng. Hai tay áo sơ mi được xắn lên và cô nhìn thấy một hình xăm trên cẳng tay rám nắng. Bàn tay ông ta cầm một cái mũ bảo hộ màu vàng. Bên hông đeo một chiếc bộ đàm to. Cô sẽ không ngạc nhiên nếu thấy một khẩu súng lục; khuôn mặt to bè kèm bộ ria rậm làm ông ta trông khá giống với một tay xạ thủ. Cô nổ máy và lái qua cổng. Avery để ý thấy chiếc xe của cô. Ông ta hơi nheo mắt lại và dường như nhận ra ngay lập tức đây là một chiếc xe công vụ. Ông chủ thầu xây dựng kết thúc cuộc trao đổi với một người đàn ông mặc áo khoác da, người kia quay đi. Rất hối hả.

Cô dừng xe. Avery Construction là một công ty nghiêm túc, tận tụy cho một mục đích: Xây dựng các công trình. Những khu nhà kho lớn tích trữ vật liệu xây dựng, xe ủi, máy xúc, xe tải và xe jeep. Có cả một nhà máy bê tông ngay tại chỗ những công trình trông như nhà xưởng với khung kim loại và gỗ, những bồn diesel lớn sẵn sàng tiếp nhiên liệu cho các loại xe, những căn nhà tiền chế hình vòm bán nguyệt và các kho hàng. Khu văn phòng chính được tạo thành từ một số tòa nhà chức năng lớn, tất cả đều thấp. Chưa có nhà thiết kế đồ họa hay phong cảnh nào được tham dự vào việc kiến tạo nên Avery Construction.

Dance xưng danh. Ông chủ công ty tỏ thái độ niềm nở và bắt tay cô, những nếp nhăn hằn sâu vào khuôn mặt rám nắng quanh đôi mắt trong khi ông ta nhìn vào thẻ công vụ của đối phương.

“Ông Avery, chúng tôi hy vọng ông có thể giúp. Hẳn ông cũng đã biết về các vụ tội ác xảy ra mới đây quanh khu vực Bán đảo Monterey?”

“Tên Sát Nhân Đeo Mặt Nạ, cậu nhóc đó, tôi biết chứ. Nghe nói hôm nay vừa có người bị giết. Thật kinh khủng. Tôi có thể giúp gì được cho cô?”

“Kẻ sát nhân để lại những cây thập tự ở ven đường như lời cảnh cáo rằng hắn sẽ còn gây ra thêm tội ác nữa.”

Avery gật đầu. “Tôi đã xem qua chuyện đó trên bản tin.”

“Vậy đấy, chúng tôi đã nhận ra một điều kỳ lạ. Có một số trong những cây thập tự này được để lại gần địa điểm các dự án xây dựng của ông.”

“Thật vậy sao?” một cái cau mày, lông mày ông ta co lại đáng kể. Xuất phát từ phản ứng với tin tức chăng? Dance không rõ nữa. Avery định quay đầu, song lại thôi. Có phải ông ta vừa định nhìn về phía người cộng tác mặc áo khoác da của mình một cách vô thức?

“Tôi có thể giúp bằng cách nào đây?”

“Chúng tôi muốn nói chuyện với một số nhân viên của ông để xem họ có phát hiện ra điều gì bất thường hay không.”

“Chẳng hạn?”

“Người qua đường có thái độ cư xử khác lạ, những đồ vật không bình thường, có thể là vết lốp xe đạp hay vết chân ở khu vực đã được phong tỏa để xây dựng. Đây là một danh sách các địa điểm,” cô đã viết ra vài nơi trước đó khi ngồi trong xe.

Với vẻ quan ngại lộ rõ trên khuôn mặt, ông ta nhìn qua bản danh sách, sau đó nhét tờ giấy vào túi áo sơ mi và khoanh hai tay lại. Bản thân cử chỉ này không có nhiều ý nghĩa lắm trong ngôn ngữ cơ thể, vì cô không kịp có thời gian để ghi nhận một vạch ranh giới. Nhưng khoanh tay và gác chéo chân là những cử chỉ phòng vệ và có thể thể hiện tâm trạng không thoải mái. “Cô muốn tôi cung cấp một danh sách các nhân viên từng làm việc gần những nơi đó? Kể từ khi các vụ giết chóc bắt đầu, tôi đoán là vậy.”

“Chính xác. Đó sẽ là một sự giúp đỡ lớn lao.”

“Tôi chắc cô muốn có nó sớm chừng nào hay chừng ấy.”

“Càng sớm càng tốt.”

“Tôi sẽ làm những gì có thể.”

Cô cảm ơn ông chủ thầu và quay trở lại xe, sau đó lái xe rời khỏi bãi để ra ngoài đường. Dance dừng lại cạnh một chiếc Honda Accord màu xanh sẫm đậu gần đó. Cô đang đi xe theo chiều ngược lại, vậy nên cửa sổ xe để mở của cô cách cửa xe Rey Carraneo hai foot. Anh ta ngồi sau tay lái chiếc Honda, tay áo sơ mi xắn cao, không đeo cà vạt. Trước đây cô mới chỉ trông thấy anh ta ăn mặc thoải mái thế này hai lần: Trong một buổi picnic của văn phòng và một buổi tiệc barbecue rất kỳ cục tại nhà Charles Overby.

“Ông ta ngậm mồi rồi,” Dance nói. “Tôi không rõ ông ta có mắc câu không.”

“Ông ta phản ứng thế nào?”

“Khó lòng đánh giá được. Tôi không có thời gian ghi nhận vạch ranh giới. Nhưng cảm nhận của tôi là ông ta đã cố gắng để tỏ vẻ bình tĩnh và hợp tác. Ông ta lo lắng hơn nhiều so với vẻ bề ngoài. Tôi không được chắc chắn đến thế về một trong những trợ thủ của ông ta,” cô mô tả lại người đàn ông mặc áo khoác da. “Nếu có ai trong hai người rời khỏi công ty, hãy bám sát.”

“Rõ, thưa sếp.”

~*~

Patrizia Chilton mở cửa và gật đầu với Greg Ashton, người được chồng bà gọi là “Blogger Số Một” - theo phong cách đáng mến nhưng có pha chút khó chịu của Jim.

“Chào Pat,” Ashton nói. Cả hai bắt tay. Người đàn ông mảnh khảnh, mặc chiếc quần vải màu nâu vàng đắt tiền và một cái áo khoác thể thao rất diện, hất hàm về phía chiếc xe tuần cảnh đỗ ngoài đường. “Anh chàng cảnh sát đó? Anh ta chẳng chịu hé răng nói gì cả. Anh ta có mặt ở đây vì mấy vụ giết người phải không?”

“Họ chỉ đang đề phòng.”

“Tôi có theo dõi vụ việc. Chắc hẳn hai anh chị phải rất khó chịu.”

Người phụ nữ mỉm cười kiên cường, “Nói thế còn là nhẹ. Đó quả là một cơn ác mộng.” Bà thích có thể bày tỏ cảm giác của mình vì không phải lúc nào cũng làm được điều đó với Jim. Người vợ được tin là cần động viên và ủng hộ chồng. Kỳ thực, nhiều khi bà cũng nổi cáu với vai trò một phóng viên điều tra không biết ngừng nghỉ của ông. Công việc đó quan trọng, bà hiểu, nhưng đôi lúc chỉ đơn giản là bà ghét cái blog đó.

Còn bây giờ… Điều đó gây nguy hiểm cho cả gia đình và buộc họ phải chuyển tới một khách sạn! Sáng nay bà đã phải nhờ ông anh trai, một người vạm vỡ từng là nhân viên bảo vệ ở trường đại học, tháp tùng mấy cậu con tới trại hè ban ngày của chúng, rồi ở đó và đưa bọn trẻ về.

Bà chốt cửa lại sau lưng họ. “Tôi có thể mời anh thứ gì đó chứ?” Patrizia hỏi Ashton.

“Không, không, cảm ơn chị, tôi ổn cả.”

Patrizia dẫn vị khách tới trước cửa phòng làm việc của chồng, đôi mắt bà nhìn ra sân sau qua một khung cửa sổ lớn ngoài sảnh.

Một chút lo lắng nhói lên trong lồng ngực.

Có phải bà đã thấy thứ gì đó trong bụi cây sau nhà không? Có phải đó là một dáng người không?

Người phụ nữ dừng bước.

“Có gì không ổn sao?” Ashton hỏi.

Tim bà đang đập dữ dội. “Tôi… Không gì cả. Có lẽ chỉ là một con hươu thôi. Tôi phải nói rằng tất cả vụ việc này đã làm thần kinh tôi chấn động mạnh.”

“Tôi không thấy gì cả.”

“Nó đi rồi,” người phụ nữ nói. Nhưng có thật thế không? Bà không thể đoán chắc. Dẫu vậy, bà vẫn không muốn làm vị khách bị hoang mang. Hơn nữa, tất cả cửa sổ và cửa ra vào đều đã được khóa.

Hai người đến phòng làm việc của chồng Patrizia và bước vào trong.

“Anh yêu,” bà nói, “Greg đến này.”

“A, vừa đúng giờ.”

Hai người đàn ông bắt tay nhau.

Patrizia ngỏ lời, “Greg nói anh ấy không muốn dùng gì. Còn anh thì sao, anh yêu?”

“Không cần đâu, anh ổn cả. Thêm trà nữa là anh sẽ vô phòng vệ sinh trong suốt cuộc gặp mất.”

“Được rồi, tôi sẽ để cho hai anh đàn ông các vị làm việc của mình và quay lại với việc đóng gói đồ.”

Tim bà lại chùng xuống khi nghĩ đến chuyện phải chuyển tới một khách sạn. Bà ghét bị đẩy ra khỏi ngôi nhà của chính mình. Ít nhất các con trai bà sẽ coi đó là một chuyến phiêu lưu.

“Thực ra,” Ashton nói, “nán lại một phút đã, Pat. Tôi sẽ quay một video về hoạt động của Jim để đưa lên trang của mình. Tôi muốn có cả chị vào nữa.” Ông ta đặt chiếc cặp của mình lên bàn rồi mở ra.

“Tôi ư?” Patrizia ngỡ ngàng. “Ồ, không. Tôi còn chưa làm tóc. Thậm chí còn chưa trang điểm.”

Ashton nói, “Trước hết, trông chị rất tuyệt. Nhưng điều quan trọng hơn cả, viết blog không liên quan gì đến kiểu tóc hay trang điểm. Nó liên quan tới sự chân thực. Tôi đã quay rất nhiều video như thế này và chưa bao giờ để ai đó thoa son môi.”

“À, nếu vậy thì tôi đoán là được,” Patrizia đáp lơ đãng, vẫn tiếp tục nghĩ ngợi về chuyển động khi nãy nhìn thấy sau nhà. Bà đáng ra nên báo lại chuyện đó với người cảnh sát gác trước cửa.

Ashton bật cười. “Dù sao cũng chỉ là quay bằng webcam thôi, với độ phân giải trung bình,” ông ta giơ lên một máy quay nhỏ.

“Anh sẽ không đưa ra câu hỏi với tôi chứ?” người phụ nữ chợt trở nên hốt hoảng trước ý nghĩ này. Chỉ riêng blog của Jim đã có hàng trăm nghìn người đọc. Blog của Greg Ashton rất có khả năng còn nhiều hơn nữa. “Tôi sẽ chẳng biết phải nói gì đâu.”

“Như thế nghe sẽ gượng gạo quá. Hãy chỉ cần nói về cảm tưởng khi kết hôn với một người viết blog thôi.”

Ông chồng bật cười. “Tôi dám cược là cô ấy sẽ có rất nhiều điều để nói đấy.”

“Chúng ta có thể quay bao lâu tùy ý anh.”

Ashton dựng lên một cái giá ba chân ở góc phòng rồi lắp máy quay trên đó.

Jim thu dọn bàn làm việc của ông ta, sắp xếp lại hàng chục chồng báo và giấy tờ. Ashton bật cười và xua xua một ngón tay. “Chúng ta muốn nó chân thực, Jim.”

Thêm một tiếng cười nữa. “Được thôi. Cũng công bằng lắm,” Jim để nguyên báo và tạp chí lại như cũ.

Patrizia ngắm nhìn chính mình trong một tấm gương trang trí nhỏ treo trên tường, dùng các ngón tay lướt vội qua mái tóc. Không, bà quyết định đầy thách thức. Kiểu chi bà cũng sẽ chỉnh trang lại mình một chút, cho dù vị khách có nói gì đi nữa. Người phụ nữ quay lại để nói với Ashton điều đó.

Bà chỉ có một khoảnh khắc để chớp mắt, và không có thời gian để bảo vệ bản thân khi Ashton đấm thẳng vào má bà, va chạm dữ dội với phần xương, làm rách toạc da và hất Patrizia xuống sàn.

Mắt mở to kinh hoàng và sững sờ, Jim bật dậy về phía vị khách.

Và đứng im như hóa đá khi Ashton gí một họng súng vào mặt ông ta.

“Không!” Patrizia kêu lên, cố loạng choạng đứng dậy. “Đừng làm hại anh ấy!”

Ashton đưa cho Patrizia một cuộn băng dính và ra lệnh cho bà trói hai tay ông chồng ra sau lưng.

Người phụ nữ do dự.

“Làm ngay!”

Hai bàn tay run lẩy bẩy, nước mắt giàn giụa, trong tâm trạng rối bời, Patrizia làm theo những gì bà được ra lệnh.

“Anh yêu,” bà thì thầm trong lúc trói đôi tay ông chồng vào sau ghế. “Em sợ lắm.”

“Hãy làm những gì anh ta bảo,” người chồng nói rồi liếc mắt nhìn Ashton. “Chuyện quái quỷ gì thế này?”

Ashton tảng lờ ông ta và túm tóc Patrizia lôi tới góc phòng. Người phụ nữ kêu thét lên, nước mắt ròng ròng. “Không... không. Đau quá. Không!”

Ashton cũng dùng băng dính trói tay bà lại.

“Ông là ai?” Jim thì thầm.

Nhưng Patrizia Chilton có thể tự trả lời câu hỏi đó. Greg Ashton chính là Kẻ Sát Nhân với cây thập tự ven đường.

Ashton để ý thấy Jim nhìn ra ngoài. Hắn lẩm bẩm, “Gã cảnh sát ư? Hắn chết rồi. Sẽ không có kẻ nào giúp các người đâu.”

Ashton chĩa máy quay vào khuôn mặt kinh hoàng tái nhợt với đôi mắt đầm đìa của Jim. “Mày muốn có thêm người theo dõi Bản tin quý hóa của mình đúng không, Chilton? Được, mày sẽ có. Tao cược lần này sẽ là một kỷ lục. Tao không nghĩ trước đây chúng ta từng có dịp nhìn thấy một người viết blog bị giết trước webcam.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
622,673
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35


Kathryn Dance đã quay lại trụ sở của CBI. Cô thất vọng khi được biết Jonathan Boling đã về Santa Cruz. Nhưng vì anh đã tìm ra khám phá quan trọng nhất của mình - Stryker, à phải, Jason - nên lúc này cũng không có gì nhiều nữa để anh làm.

Rey Carraneo gọi về với vài tin đáng quan tâm. Anh chàng cho hay Clint Avery đã rời khỏi công ty của ông ta trước đó mười phút. Đặc vụ đã bám theo ông ta dọc các con đường lộng gió của những Đồng cỏ Nhà trời, cái tên huyền thoại đậm chất văn học mà John Steinbeck đã đặt cho vùng đất nông nghiệp tươi tốt phì nhiêu này. Trên chuyến hành trình ông ta dừng lại hai lần bên vệ đường. Cả hai lần, ông chủ thầu xây dựng đều gặp ai đó. Lần thứ nhất, hai người đàn ông bộ dạng lầm lì - ăn mặc như cao bồi - đi một chiếc bán tải kỳ cục. Lần thứ hai, một người đàn ông tóc bạc mặc một bộ vest kiểu cách, ngồi sau tay lái chiếc Cadillac. Những cuộc gặp gỡ dường như có vẻ đáng ngờ khiến Avery tỏ ra bồn chồn thấy rõ. Carraneo đã ghi lại biển số xe và cho tìm kiếm thông tin liên quan.

Lúc này Avery đang đi về phía Carmel, Carraneo đang bám ngay sau ông ta.

Dance cảm thấy nản. Cô đã hy vọng cuộc gặp của mình với Avery sẽ đánh động ông chủ thầu xây dựng - ép ông ta vội vàng lao tới một ngôi nhà an toàn nào đó, nơi cất giấu bằng chứng - và có thể cả Travis nữa.

Nhưng thực tế đã không diễn ra như thế.

Dẫu vậy, những người Avery đã gặp hoàn toàn có thể là những tay đâm thuê chém mướn đứng đằng sau mấy vụ giết người. Các thông tin về đăng ký xe sẽ có thể cung cấp cho cô vài manh mối, nếu không phải câu trả lời.

TJ tựa đầu vào khung cửa phòng cô. “Này, sếp, sếp vẫn quan tâm đến Hamilton Royce chứ?”

Người nhiều khả năng trong lúc này cũng đang ngẫm nghĩ xem nên làm thế nào để hủy hoại tan tành sự nghiệp của cô. “Cho tôi précis[1] một phút nhé.”

[1. Chính xác (tiếng Pháp).]

“Cái gì?” TJ hỏi.

“Khái quát. Tóm tắt. Tiêu hóa.”

“‘Précis’ là một từ à? Quả là ngày nào cũng học được điều mới… Được rồi. Royce là một cựu luật sư. Rời bỏ công việc hành nghề một cách bí ẩn và nhanh chóng. Ông ta là một tay rất cứng cựa. Làm việc chủ yếu với sáu hay bảy cơ quan khác nhau của tiểu bang. Danh nghĩa chính thức của ông ấy là thanh tra. Một cách không chính thức ông ta là chuyên gia chỉnh đốn. Cô xem phim Michael Clayton rồi chứ?”

“Có Geogre Clooney đóng, có chứ. Hai lần.”

“Hai lần?”

“George Clooney.”

“À. Thế này nhé, đó chính là việc Royce làm. Gần đây ông ta đã làm rất nhiều việc cho các nhân vật cao cấp tại văn phòng phó thống đốc, Ủy ban Năng lượng tiểu bang, EPA[2] và Ủy ban Tài chính Quốc hội. Nếu nơi nào có vấn đề, ông ta sẽ xuất hiện ở đó.”

[2. Enviromental Protection Agency: Cục Bảo vệ Môi trường Liên bang Mỹ.]

“Kiểu vấn đề gì vậy?”

“Những bất đồng giữa các ủy ban, những vụ bê bối, quan hệ công chúng, tham nhũng, tranh chấp về hợp đồng. Tôi vẫn đang chờ để được hồi đáp thêm chi tiết.”

“Hãy cho tôi biết nếu có thứ gì có thể sử dụng,” cô lựa chọn một trong những động từ ưa thích của ông ta.

“Sử dụng? Để làm gì?”

“Giữa Royce và tôi, chúng tôi có chút xung đột.”

“Vậy là sếp muốn đe dọa ông ta?”

“Nói thế to tát quá. Hãy nói đơn giản là tôi muốn giữ chỗ làm của mình.”

“Tôi cũng muốn cô giữ được chỗ làm, thưa sếp. Sếp giúp tôi thoát tội giết người. À, còn với Avery thì sao rồi?”

“Rey đang làm cái đuôi của ông ta.”

“Cách nói hay đấy. Nghe cũng ngang với ‘làm cái bóng’.”

“Thế còn tiến trình điều tra theo danh sách đối tượng tình nghi của Chilton đến đâu rồi?”

TJ cho biết việc lần theo dấu vết những người này đang diễn ra rất chậm chạp. Nhiều người đã chuyển nhà, không có địa chỉ, hoặc không có nhà, rồi nhiều cái tên đã thay đổi.

“Hãy chuyển cho tôi một nửa,” cô yêu cầu. “Tôi cũng sẽ tham gia tìm kiếm.”

Người đặc vụ trẻ đưa cho cô một tờ giấy. “Tôi sẽ cho sếp bản danh sách ngắn,” anh ta nói, “vì cô là sếp ưa thích của tôi.”

Dance nhìn qua những cái tên, tự hỏi tốt nhất nên tiến hành điều tra như thế nào. Trong tâm trí cô chợt vang lên những lời nói của Jon Boling. Chúng ta để lộ ra quá nhiều thông tin về bản thân trên mạng. Quá quá nhiều.

Kathryn Dance quyết định sẽ tìm hiểu sau từ các cơ sở dữ liệu chính thống - Trung tâm Thông tin Tội phạm Quốc gia, Chương trình Theo dõi Tội phạm Bạo lực, Cơ sở dữ liệu mở về các lệnh bắt giam ở California cũng như cơ sở dữ liệu được cập nhật rất đầy đủ về hồ sơ đăng ký phương tiện giao thông.

Trong lúc này, cô sẽ bám lấy Google đã.

~*~

Greg Schaeffer quan sát James Chilton, người đang ngồi trước mặt y, vô cùng sợ hãi và bê bết máu.

Schaeffer đã dùng cái tên giả Greg Ashton để tiếp cận Chilton mà không gây ra sự nghi ngờ.

Vì cái tên “Schaeffer” rất có thể sẽ khiến ông chủ blog cảnh giác. Nhưng cũng hoàn toàn có thể là không; Schaeffer sẽ không thấy ngạc nhiên chút nào nếu Chilton thường xuyên quên đi những nạn nhân đã phải chịu khổ sở vì blog của ông ta.

Ý nghĩ này càng làm Schaeffer nổi điên hơn, và khi Chilton bắt đầu lúng búng, “Tại sao…?” y lại nện ông ta lần nữa.

Đầu bị hất ngược ra sau, đập vào phần trên lưng ghế làm ông ta rên lên. Rất tuyệt, nhưng vẫn còn chưa có vẻ kinh hoàng đến mức khiến Schaeffer thấy thỏa mãn.

“Ashton! Sao ông lại làm chuyện này?”

Schaeffer cúi người ra trước, túm chặt lấy cổ áo Chilton. Y thì thào, “Mày sẽ đọc một bản tuyên bố. Nếu những điều mày nói nghe không có vẻ chân thành, không có vẻ hối hận, vợ mày sẽ chết. Các con mày cũng thế. Tao biết chúng nó sắp từ trại hè quay về nhà. Tao đã theo dõi chúng. Tao biết rất rõ thời gian biểu.”

Y quay sang vợ Chilton. “Và tao biết ông anh mày đang đi cùng chúng nó. Hắn là một gã đô con đấy, nhưng cũng không phải là áo chống đạn.”

“Ôi Chúa ơi, không!” Patrizia kêu lên thảng thốt, rồi òa khóc. “Làm ơn đừng!”

Và đến lúc này, cuối cùng nỗi sợ hãi thực sự cũng hiện lên trên mặt Chilton. “Không, đừng làm hại gia đình tôi! Làm ơn, làm ơn… Tôi sẽ làm bất cứ điều gì ông muốn. Chỉ cần đừng làm hại họ.”

“Hãy đọc bản tuyên bố và làm sao để có vẻ thực sự mày có ý đó,” Schaeffer cảnh cáo, “Rồi tao sẽ để bọn họ được yên. Tao sẽ cho mày hay, Chilton, với họ tao chỉ có sự thông cảm. Họ xứng đáng có một cuộc sống tốt hơn so với việc phải dính dáng với một bãi phân thối tha như mày.”

“Tôi sẽ đọc,” Chilton nói. “Nhưng ông là ai? Sao ông lại làm việc này? Ông nợ tôi một câu trả lời.”

Schaeffer lập tức nổi khùng. “Nợ mày?” y gầm lên, “Nợ mày ư? Đồ đê tiện ngạo mạn!” Y nện thẳng nắm đấm vào má Chilton một lần nữa, làm ông ta choáng váng. “Tao chẳng nợ mày gì hết,” kẻ tấn công cúi người ra và gằn giọng. “Tao là ai, tao là ai ư? Mày có biết ai đã bị mày hủy hoại cuộc đời không hả? Không, tất nhiên là không rồi. Vì mày ngồi trong cái ghế mắc dịch đó, cách cuộc sống thực cả một triệu dặm, và ba hoa bất cứ cái gì mày muốn nói. Mày gõ mấy chữ thối tha trên bàn phím của mày, gửi vung vãi đi khắp thế giới và rồi mày lại nhắm vào thứ khác. Liệu khái niệm hậu quả có ý nghĩa gì với mày không hả? Hay trách nhiệm?”

“Tôi cố gắng tỏ ra chính xác. Nếu tôi làm sai gì đó...”

Schaeffer nổi xung. “Mày là đồ mù quáng chết tiệt. Mày không hiểu rằng mình có vẻ đúng nhưng lại vẫn sai. Liệu mày có nhất thiết phải phanh phui hết mọi bí mật trên thế giới này ra không hả? Hay mày nhất thiết phải hủy hoại cuộc đời người khác chẳng vì lý do nào - ngoại trừ kết quả bình chọn xếp hạng cho mày?”

“Làm ơn!”

“Liệu cái tên Anthony Schaeffer có ý nghĩa gì với mày không hả?”

Đôi mắt Chilton nhắm lại trong khoảnh khắc. “Ôi!”

Khi ông ta mở mắt ra, trong đó tràn ngập sáng tỏ, và có lẽ cả ân hận. Song điều đó chẳng hề làm Schaeffer mảy may xúc động.

Ít nhất Chilton còn nhớ người ông ta đã hủy hoại.

Patrizia hỏi, “Ai vậy? Ông ta muốn nhắc đến ai vậy, Jim?”

“Hãy nói cho vợ mày biết đi, Chilton.”

Ông ta thở dài. “Đó là một người đồng tính đã tự sát sau khi bị anh vạch trần mấy năm trước. Và ông ấy là…?”

“Anh trai tao,” giọng của kẻ tấn công lạc đi.

“Tôi xin lỗi.”

“Xin lỗi,” Schaeffer mỉa mai.

“Tôi xin lỗi vì những gì đã xảy ra. Tôi không bao giờ muốn ông ấy phải chết! Ông cần phải biết thế. Tôi đã cảm thấy thật kinh khủng.”

Schaeffer quay sang Patrizia, “Chồng bà, tiếng nói của đạo đức và công lý toàn cầu, không muốn một mục sư trong nhà thờ lại đồng thời là một người đồng tính.”

Chilton phản đối, “Đó không phải là lý do. Hắn dẫn đầu một chiến dịch phản đối hôn nhân đồng tính nam rất rầm rộ ở California. Tôi tấn công vào sự đạo đức giả của hắn chứ không phải xu hướng tình dục. Và cả thói vô đạo đức của hắn nữa. Mặc dù đã kết hôn, có con… nhưng khi đi công chuyện, hắn lại gọi trai bao tới phục vụ mình. Hắn lừa dối vợ mình, đôi lúc với ba người đàn ông khác trong một đêm!”

Vẻ thách thức của Jim đã quay trở lại, và Schaeffer muốn nện ông ta lần nữa, rồi là y lại làm thế, thật nặng tay và nhanh chóng.

“Tony đã tranh đấu để tìm ra con đường của Chúa. Anh ấy đã trượt ngã vài lần. Và mày viết về chuyện đó như thể anh ấy là một con quái vật vậy! Mày thậm chí chưa bao giờ cho anh ấy một cơ hội để giải thích. Chúa đã giúp anh ấy tìm ra con đường.”

“À, Chúa đã không làm được tốt cho lắm. Không phải là…”

Nắm đấm lại nện xuống.

“Jim, đừng đôi co với gã nữa. Làm ơn!”

Chilton cúi đầu xuống. Cuối cùng trông ông ta có vẻ tuyệt vọng và tràn ngập phiền muộn, sợ hãi.

Schaeffer khoan khoái cảm nhận nỗi tuyệt vọng của ông ta.

“Hãy đọc bản tuyên bố đi.”

“Được thôi. Tôi sẽ làm bất cứ điều gì ông muốn. Tôi sẽ đọc. Nhưng gia đình tôi… làm ơn,” vẻ thống khổ tột cùng trên khuôn mặt Chilton chẳng khác gì hương vị của rượu vang hảo hạng với Schaeffer.

“Tao hứa với mày điều đó,” y nói ra câu này một cách chân thành, cho dù đang nghĩ Patrizia chắc sẽ không sống lâu hơn chồng bà quá hai giây - mà nói cho cùng đây cũng là một hành động nhân đạo. Bà sẽ không muốn tiếp tục sống một mình. Hơn nữa, người phụ nữ này còn là nhân chứng.

Về phần lũ trẻ, y sẽ không giết chúng. Thứ nhất, theo dự kiến phải gần một giờ đồng hồ nữa chúng mới về đến nhà, lúc ấy y đã chuồn từ lâu. Bên cạnh đó, y muốn có sự đồng cảm của thế giới. Giết tay chủ blog và vợ hắn là một chuyện, lũ trẻ lại là chuyện khác.

Phía dưới máy quay, Schaeffer dã dán một mảnh giấy có ghi bản tuyên bố y đã viết sáng hôm đó. Một lời tuyên bố đầy xúc động - được soạn thảo theo cách như để đảm bảo sẽ không ai có thể liên hệ giữa tội ác và y.

Chilton hắng giọng rồi nhìn xuống. Ông bắt đầu đọc. “Đây là một lời tuyên bố…” giọng ông ta đứt quãng.

“Tuyệt vời!” Schaeffer tiếp tục cho máy quay hoạt động.

Chilton bắt đầu lại, “Đây là một lời tuyên bố gửi tới những ai từng đọc blog của tôi, Bản tin Chilton, trong những năm qua. Không có gì trên thế gian này quý giá hơn danh tiếng của một con người, còn tôi đã dành cuộc đời mình để hủy hoại một cách vô ích và ngẫu nhiên danh tiếng của nhiều công dân đàng hoàng, chính trực.”

Ông ta đã làm thực sự tốt.

“Thật dễ để mua một cái máy tính rẻ tiền, một trang web và một phần mềm tạo blog nào đó, vậy là chỉ trong năm phút bạn đã có một không gian để bày tỏ quan điểm cá nhân của mình - một nơi sẽ được hàng triệu người trên khắp thế giới biết đến. Điều này dẫn tới một cảm giác thật mê người về quyền lực. Nhưng đó không phải là một quyền lực có được một cách chính đáng. Đó là một thứ quyền lực bị đánh cắp.”

“Tôi đã viết nhiều điều về người khác mà thực ra những lời lẽ đó chỉ đơn thuần là những tin đồn. Những tin đồn này lan rộng, và rồi chúng được thừa nhận như sự thật, cho dù đó chỉ là những lời dối trá không hơn không kém. Vì blog của tôi mà cuộc sống của một thiếu niên... Travis Brigham... đã bị hủy hoại. Cậu thiếu niên đó chẳng còn gì để làm mục đích sống nữa. Và tôi cũng thế. Cậu ấy đã tìm kiếm công bằng với việc chống lại những ai đã công kích mình, những người đồng thời cũng là bạn tôi. Và giờ đây chàng trai trẻ tới tìm tôi để đòi lại công lý. Tôi là người phải chịu trách nhiệm tối hậu về cuộc đời bị hủy hoại của cậu ấy.”

Những giọt nước mắt lộng lẫy đang lăn xuống trên mặt Chilton. Schaeffer như bay bổng trên tận thiên đường.

“Giờ đây, tôi thừa nhận trách nhiệm về việc hủy hoại danh tiếng của Travis cũng như của những người đã bị tôi viết bài công kích một cách bất cẩn. Bản án lúc này Travis dành cho tôi sẽ là lời cảnh tỉnh cho những kẻ khác: Sự thật là thiêng liêng. Tin đồn không phải là sự thật… Và bây giờ, tạm biệt.”

Chilton hít thật sâu và đưa mắt nhìn người vợ.

Schaeffer thấy thỏa mãn. Người đàn ông kia đã làm rất tốt. Y dừng webcam lại và kiểm tra màn hình. Chỉ có hình ảnh của Chilton. Còn vợ ông ta thì không. Y không muốn hình ảnh cái chết của người phụ nữ, chỉ tay chủ blog là đủ. Y kéo lùi máy quay lại chút ít để toàn bộ cơ thể người đàn ông đều nằm trong khuôn hình.

Y sẽ bắn tay này một phát, vào đúng tim, và để hắn chết trước máy quay, sau đó tải đoạn phim đăng lên một số trang mạng xã hội và những blog khác. Schaeffer ước tính sẽ mất hai phút để đoạn video xuất hiện trên YouTube, và sẽ có vài triệu người xem qua nó trước khi công ty chủ quản gỡ đoạn phim xuống. Nhưng đến lúc ấy, những phần mềm lậu cho phép tải các đoạn video về máy hẳn đã tìm thấy nó, và đoạn phim hẳn đã lan rộng khắp thế giới như những tế bào ung thư.

“Người ta sẽ tìm thấy ông,” Chilton lẩm nhẩm. “Cảnh sát.”

“Nhưng chúng sẽ không tìm tao. Chúng sẽ tìm Travis Brigham. Và thành thực mà nói, tao không nghĩ lại có ai sẽ tìm kiếm quá ráo riết. Mày có vô khối kẻ thù, Chilton.”

Y chĩa súng ra.

“Không!” Patrizia cuống cuồng khóc lóc tuyệt vọng. Schaeffer cố cưỡng sự thôi thúc muốn bắn bà ta trước.

Y hiên ngang giơ súng nhằm vào mục tiêu của mình, nhận thấy vẻ cam chịu và dường như cả một nụ cười mỉa mai vừa thoáng lướt qua trên khuôn mặt Chilton.

Schaeffer bấm nút “Ghi” trên máy quay lần nữa và bắt đầu siết cò.

Đúng lúc đó y nghe thấy. “Đứng im!”

Giọng nói vọng vào từ khung cửa đang mở của phòng làm việc. “Ném vũ khí xuống. Ngay lập tức!”

Giật mình, Schaeffer liếc nhìn lại. Một người đàn ông La Tinh trẻ cao gầy mặc sơ mi trắng, hai tay áo xắn lên. Đang chĩa súng về phía y. Bên hông anh ta đeo phù hiệu cảnh sát.

Không! Làm thế nào bọn họ tìm ra y được?

Schaeffer giữ khẩu súng chĩa thẳng vào ngực ông ta và lên giọng quát người cảnh sát, “Mày bỏ súng xuống!”

“Hạ súng xuống,” người cảnh sát bình tĩnh đáp lại. “Đây là lần cảnh cáo duy nhất dành cho ông.”

Schaeffer gầm lên, “Nếu mày bắn tao, tao sẽ...”

Y nhìn thấy một chớp sáng vàng lóe lên, cảm thấy một cú va đập vào đầu mình, rồi sau đó tất cả trở nên tối đen.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
622,673
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36


Người chết được khiêng, người sống bước đi.

Thi thể của Greg Ashton - thực ra là Greg Schaeffer, như Dance đã được biết - được đưa xuống cầu thang trên chiếc băng ca ọp ẹp để ra xe của cơ quan chứng tử những trường hợp chết bất thường, trong lúc James và Patrizia Chilton từ tốn bước đi tới một xe cứu thương.

Còn một nạn nhân nữa, tất cả đều kinh hoàng khi biết được, chính là nhân viên cảnh sát của MCSO đã canh chừng ngôi nhà của gia đình Chilton, Miguel Herrera.

Schaeffer, dưới danh tính giả Ashton, đã dừng lại cạnh xe của Herrera. Người cảnh sát gọi cho Patrizia và được cho biết gã đàn ông này đã hẹn trước. Thế rồi dường như Schaeffer đã gí súng kề sát vào áo khoác Herrera và bắn hai phát, khoảng cách gần với cơ thể đã triệt tiêu tiếng súng nổ.

Cấp trên của người cảnh sát này tại MCSO đang có mặt, cùng với một tá nhân viên khác, tất cả đều chấn động, phẫn nộ trước vụ giết người.

Còn về phần những người bị thương vẫn sống sót, hai vợ chồng Chilton dường như không bị tổn hại nghiêm trọng về cơ thể.

Tuy nhiên, Dance đang để mắt tới Rey Carraneo - chính là người đầu tiên tới nơi, phát hiện ra viên cảnh sát đã chết, rồi vội vã lao vào trong nhà sau khi gọi tăng viện. Anh ta đã nhìn thấy Schaeffer sắp sửa bắn Chilton. Carraneo dành cho kẻ sát nhân lời cảnh cáo đúng theo quy định, nhưng khi tay này định mặc cả, anh ta chỉ đơn giản bắn hai phát rất chính xác vào đầu y. Đàm phán với những kẻ tình nghi đang lăm lăm cầm súng trong tay chỉ xuất hiện trong điện ảnh và các bộ phim truyền hình - và nếu có thì chỉ ở những bộ phim tồi. Cảnh sát không bao giờ hạ thấp hay bỏ vũ khí xuống. Và họ chẳng bao giờ do dự ngắm bắn nếu có đích ngắm lộ ra.

Nguyên tắc số một, số hai và số ba là: Bắn.

Và anh ta đã làm thế. Nhìn bề ngoài, người đặc vụ trẻ có vẻ vẫn ổn, ngôn ngữ cơ thể của anh ta vẫn không thay đổi khỏi tư thế thẳng người rất chuyên nghiệp, Rey chẳng khác gì đang khoác lên mình một bộ đồ dạ tiệc đi thuê. Song đôi mắt anh ta lại kể một câu chuyện hoàn toàn khác, hé lộ những lời đang quay cuồng trong đầu Carraneo lúc ấy: Mình vừa giết một người. Mình vừa giết một người.

Vừa giết một người.

Cô sẽ thu xếp để đảm bảo cậu ta nhận được một kỳ nghỉ hưởng đủ lương.

Một chiếc xe dừng lại, Michael O’Neil chui ra khỏi xe. Anh nhìn thấy Dance và bước lại bên cô. Người thanh tra trầm tính không hề mỉm cười.

“Tôi rất tiếc, Michael,” cô nắm lấy tay anh. O’Neil đã biết Miguel Herrera từ vài năm nay.

“Hắn cứ thế bắn anh ấy?”

“Phải.”

Người thanh tra nhắm mắt lại trong khoảnh khắc. “Chúa ơi.”

“Anh ấy có vợ không?”

“Không. Đã ly dị. Nhưng anh ấy có một cậu con trai đã lớn. Cậu ta đã được báo tin rồi.”

Ở O’Neil, mọi biểu hiện khác đều rất bình thản, với một vẻ ngoài để lộ rất ít nội tâm, ném một cái nhìn lạnh lùng đầy căm thù về phía chiếc bao màu lục đựng xác của Greg Schaeffer.

Một giọng nói khác xen vào, yếu ớt, ngập ngừng. “Cảm ơn.”

Hai người quay lại đối diện với người vừa lên tiếng: James Chilton. Mặc quần sẫm màu, một cái áo phông trắng và chiếc áo len màu xanh hải quân cổ chữ V, ông ta dường như trông giống với một vị giáo sĩ tuyên úy bị choáng váng trước cảnh tàn sát ngoài chiến trường. Bà vợ đang đứng cạnh ông ta.

“Các vị ổn cả chứ?” Dance hỏi họ.

“Vâng, tôi không sao. Cảm ơn cô. Chỉ bị đánh đập một chút. Vài vết xây xước và bầm tím,” Patrizia Chilton nói cả bà ta cũng không bị thương tích gì nghiêm trọng.

O’Neil gật đầu chào hai vợ chồng rồi hỏi Chilton. “Hắn là ai vậy?”

Dance trả lời, “Em trai của Anthony Schaeffer.”

Chilton chớp mắt ngạc nhiên. “Cô đã tìm ra?”

Dance giải thích cho O’Neil về tên thật của Ashton. “Đó là khía cạnh thú vị của Internet - những trò chơi nhập vai và các trang chủ đó. Như Cuộc sống Thứ hai chẳng hạn. Anh có thể tạo nên những danh tính mới cho bản thân. Schaeffer đã dành ra vài tháng qua để lan truyền cái tên ‘Greg Ashton’ trên mạng như một chuyên gia về blog và RSS. Hắn làm vậy để tạo nên sự thu hút nhằm xâm nhập vào cuộc sống của Chilton.”

“Tôi đã tố giác anh trai Anthony của hắn trên một blog mấy năm trước,” Chilton giải thích. “Ông ta chính là người tôi đã kể với đặc vụ Dance khi lần đầu tiên gặp mặt... Đây cũng là một trong những điều tôi ân hận về blog... việc ông ta đã tự sát.”

O’Neil hỏi Dance, “Làm cách nào cô tìm ra hắn được?”

“TJ và tôi lúc đó đang kiểm tra các đối tượng tình nghi. Khó có khả năng Arnold Brubaker là tên sát nhân. Tôi vẫn còn nghi ngờ về Clint Avery... quý ông đứng đằng sau dự án đường cao tốc nhưng chúng tôi vẫn chưa tìm được gì cụ thể. Vậy là tôi điều tra về danh sách những người từng đe dọa James.”

Bản danh sách ngắn…

Chilton nói, “Vợ Anthony Schaeffer có trên danh sách. Đương nhiên rồi. Bà ta đã đe dọa tôi mấy năm trước.”

Dance nói tiếp, “Tôi lên mạng tìm tất cả những thông tin liên quan đến người phụ nữ này rồi tìm thấy vài bức ảnh cưới của bà ta. Người phù rể cho hai vợ chồng bà trong đám cưới là Greg, em trai Anthony. Tôi nhận ra ngay vì đã từng gặp qua khi đến nhà ông hôm trước. Tôi tìm hiểu về hắn. Người đàn ông này đã tới đây bằng vé hai chiều chừng hai tuần trước.”

Ngay khi biết được chi tiết này, cô đã gọi cho Miguel Herrera song không liên lạc được, vậy là Dance cử Rey Carraneo tới đây. Lúc đó anh ta đang theo dõi Clint Avery, ở vị trí cách nhà Chilton không xa mấy.

O’Neil hỏi, “Schaeffer có nói gì về Travis không?”

Dance đưa cho anh xem chiếc túi nilon đựng tờ giấy ghi bản tuyên bố viết tay, trong đó có nhắc tới Travis để tạo ra ấn tượng cậu ta chính là người chuẩn bị bắn Chilton.

“Cô nghĩ là cậu ấy đã chết?”

Mắt O’Neil và Dance gặp nhau. Cô nói, “Tôi sẽ không bám vào suy đoán đó. Tất nhiên, theo đúng kế hoạch cuối cùng Schaeffer sẽ phải giết cậu ấy. Nhưng nhiều khả năng hắn vẫn chưa hành động. Có thể hắn muốn làm ra vẻ Travis tự sát sau khi đã kết liễu Chilton. Như thế toàn bộ màn dàn cảnh sẽ chặt chẽ hơn. Cũng có nghĩa là cậu ấy nhiều khả năng vẫn còn sống.”

Người chánh thanh tra nhận một cuộc gọi. Anh bước ra xa, mắt nhìn về phía chiếc xe của MCSO, nơi Herrera đã bị hạ sát một cách tàn nhẫn. Sau một lát, anh ngắt liên lạc. “Tôi phải đi đây. Cần thẩm vấn một nhân chứng.”

“Anh? Thẩm vấn ư?” cô kêu lên. Kỹ năng thẩm vấn của Michael O’Neil bao gồm nhìn chằm chằm vào đối tượng, không mỉm cười, rồi yêu cầu đi yêu cầu lại đối tượng hãy nói cho mình những gì người đó biết. Cách này có thể có kết quả, song lại không mấy hiệu quả. Và O’Neil thực sự cũng chẳng khoái gì nó.

Anh nhìn đồng hồ. “Liệu cô có thể giúp tôi một việc được không?”

“Cứ nói đi.”

“Chuyến bay của Anne từ San Francisco về đã bị chậm. Tôi không thể bỏ qua cuộc thẩm vấn này được. Cô có thể đón giúp bọn trẻ từ trại hè ban ngày không?”

“Đương nhiên rồi. Kiểu gì tôi cũng phải đi đón Wes và Maggie trở về từ trại hè của chúng.”

“Đến gặp tôi ở Fisherman’s Wharf lúc năm giờ được không?”

“Tất nhiên.”

O’Neil ra về, sau khi đánh một ánh nhìn tối sầm nữa về phía chiếc xe của Herrera.

Chilton nắm lấy tay vợ ông ta. Dance nhận ra những cử chỉ đặc trưng của những người vừa giáp mặt tử thần. Cô nghĩ tới phong thái ngạo mạn, tự cho mình là đúng như một chiến binh thập tự chinh của Chilton khi lần đầu tiên gặp ông ta. Giờ thì rất khác. Nữ đặc vụ nhớ lại lúc trước từng có điều gì đó ở ông ta dường như trở nên mềm yếu hơn - khi hay tin người bạn thân Don Hawken cùng vợ thiếu chút nữa đã bị sát hại. Lúc này đây, vừa có thêm một bước chuyển nữa, rời xa khỏi khuôn mặt sắt đá của một đức ngài truyền giáo.

Ông ta mỉm cười cay đắng.

“Ôi, hắn đã xỏ mũi anh… Hắn đã đánh trúng vào cái tôi mắc dịch của anh.”

“Jim…”

“Không, em yêu. Đúng thế đấy. Em biết mà, tất cả chuyện này là lỗi của anh. Schaeffer đã chọn Travis. Hắn đọc qua blog, tìm ra một ứng cử viên lý tưởng làm vật thế thân và dàn dựng để biến một cậu thiếu niên mười bảy tuổi thành kẻ sát hại anh. Nếu anh không bắt đầu chủ đề ‘Những Cây thập tự ven đường’ và nhắc đến vụ tai nạn, Schaeffer hẳn sẽ chẳng có động cơ nào để bám theo cậu ta.”

Ông ta nói đúng. Nhưng Kathryn Dance có xu hướng tránh xa khỏi trò chơi ‘nếu - thì’. Một trò chơi quá phi thực tế. “Hắn có thể lựa chọn ai khác,” cô chỉ ra. “Hắn đã quyết tâm trả thù ông.”

Nhưng dường như Chilton không hề nghe. “Đáng ra anh nên chấm dứt hoàn toàn cái blog khốn kiếp đó.”

Dance nhìn thấy vẻ quyết tâm trong đôi mắt ông ta, sự thất vọng, sự phẫn nộ. Và cả sợ hãi nữa, cô tin vậy.

Nói với cả hai người phụ nữ, ông ta quả quyết, “Tôi sẽ làm thế.”

“Làm gì?” vợ ông hỏi.

“Đóng cửa nó. Bản tin kết thúc rồi. Anh sẽ không hủy hoại thêm cuộc đời ai nữa.”

“Jim,” Patrizia dịu dàng nói. Bà phủi vài vết bẩn khỏi tay áo. “Khi con trai chúng ta bị viêm phổi, anh đã ngồi cạnh giường nó hai ngày liền và không ngủ lấy một giây. Khi vợ Don mất, anh đã rời ngay khỏi cuộc họp đó tại trụ sở Microsoft để có mặt bên anh ấy - đã từ bỏ một hợp đồng trị giá một trăm nghìn đô la. Khi bố em sắp mất, anh ở bên ông còn nhiều hơn nhân viên trung tâm y tế. Anh đã làm những việc tốt, Jim. Đó chính là con người anh. Và blog của anh cũng đã làm được nhiều việc tốt.”

“Anh...”

“Suỵt. Để em nói hết đã. Donald Hawken cần và anh có mặt. Các con chúng ta cần là anh có mặt. Vậy đấy, thế giới cũng cần anh, anh yêu. Anh không thể quay lưng lại với điều đó.”

“Patty, đã có người phải chết.”

“Chỉ cần hứa với em anh sẽ không quyết định điều gì quá hấp tấp. Thời gian vừa qua đúng là những ngày khủng khiếp. Không ai có thể suy nghĩ tỉnh táo được.”

Sau một khoảng im lặng dài. “Anh sẽ suy nghĩ. Anh sẽ suy nghĩ.” Rồi ông ta ôm chầm lấy bà vợ. “Nhưng có một điều anh biết chắc, đó là anh có thể tiếp tục ngừng lại trong vài ngày. Và chúng ta sẽ rời khỏi đây,” Chilton nói với vợ, “Ngày mai chúng ta hãy tới Hollister. Chúng ta sẽ trải qua kỳ nghỉ cuối tuần thật dài cùng Donald và Lily. Em vẫn chưa gặp cô ấy. Chúng ta sẽ mang bọn trẻ theo, nấu nướng... và đi dã ngoại chút ít.”

Khuôn mặt Patrizia bừng nở nụ cười. Bà tựa đầu lên vai chồng. “Em thích thế.”

Ông chồng chuyển sự chú ý sang Dance. “Có một điều tôi đã nghĩ đến suốt.”

Dance nhướng một bên mày lên.

“Với đa số người khác chắc họ đã ném tôi cho sói. Và có lẽ tôi xứng đáng bị đối xử như thế. Nhưng cô đã không làm vậy. Cô không thích tôi, không tán thành với tôi, nhưng vẫn đứng lên vì tôi. Đó là sự trung thực chân chính. Cô không thường xuyên gặp được nó đâu. Cảm ơn.”

Dance khẽ bật cười bối rối, đón nhận lời khen ngợi - cho dù cô vừa mới chợt nghĩ có những lúc đúng là bản thân mình từng muốn ném ông ta cho sói.

Hai vợ chồng Chilton quay vào trong nhà để hoàn tất việc đóng gói đồ đạc và thu xếp một nhà nghỉ cho đêm hôm đó - Patrizia không muốn ở lại trong ngôi nhà cho tới khi phòng làm việc đã được cọ rửa sạch hết vết máu của Schaeffer. Dance cũng khó lòng có thể trách được bà ta.

Dance đến bên nhân viên phụ trách Điều tra Hiện trường của MCSO, một sĩ quan cảnh sát trung niên dễ tính cô từng cộng tác từ vài năm qua. Dance giải thích rằng có khả năng Travis vẫn còn sống, bị nhốt tại một nơi kín đáo nào đó. Nghĩa là cậu ta sắp cạn kiệt nguồn thức ăn và nước uống. Cô cần tìm ra cậu thiếu niên. Và thật nhanh.

“Ông tìm thấy một chìa khóa phòng trên thi thể?”

“Phải. Nhà nghỉ Cyprus Grove.”

“Tôi muốn căn phòng đó, cùng với quần áo và xe hơi của Schaeffer, tất cả phải được kiểm tra thật kỹ lưỡng. Tìm kiếm bất cứ thứ gì có thể cho chúng ta một manh mối về địa điểm hắn đang nhốt cậu bé.”

“Đương nhiên rồi, Kathryn.”

Cô quay lại xe mình, gọi điện cho TJ. “Sếp, nghe nói cô hạ được hắn rồi.”

“Phải. Nhưng bây giờ tôi muốn tìm ra cậu nhóc. Nếu cậu ta còn sống, có lẽ chúng ta chỉ còn một ngày hay hai trước khi cậu ấy chết đói hay chết khát. Huy động tất cả tham gia tìm kiếm. MCSO đang kiểm tra hiện trường tại nhà Chilton và nhà nghỉ Cyprus Grove nơi Schaeffer đặt phòng. Hãy gọi cho Peter Bennington và thu thập các báo cáo. Gọi Michael nếu cần. À, tìm cho tôi nhân chứng từ các phòng bên cạnh ở Cyprus Grove nhé.”

“Được thôi, sếp.”

“Còn nữa, liên lạc với CHP cùng cảnh sát hạt và thành phố. Tôi muốn tìm ra cây thập tự cuối cùng ven đường - cây thập tự Schaeffer để lại nhằm thông báo cái chết của Chilton. Peter cần kiểm tra nó với tất cả trang bị bên họ có.” Thêm một ý nghĩ nữa lóe lên trong đầu cô. “Cậu đã bao giờ nghe nói lại về chiếc xe công tiểu bang đó chưa?”

“À, cái xe Pfister đã nhìn thấy đúng không?”

“Phải.”

“Chẳng có ai gọi đến hết. Tôi không nghĩ chúng ta được ưu tiên.”

“Thử lại xem. Và hãy đưa nó thành một ưu tiên.”

“Cô sẽ quay về chứ, sếp? Overbearing[3] muốn gặp sếp đấy.”

[3. Độc đoán – TJ ám chỉ Overby.]

“TJ.”

“Xin lỗi.”

“Tôi sẽ trở lại sau. Bây giờ tôi phải lần theo một thứ đã.”

“Sếp cần trợ giúp không?”

Dance nói không, dù trên thực tế cô biết chắc mình không muốn làm việc này đơn độc chút nào.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
622,673
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37


Ngồi trong xe của mình, lúc này đang đỗ trên lối đi, Dance nhìn chăm chú về phía ngôi nhà nhỏ của gia đình Brigham: Hình dạng còm cõi buồn rầu của các máng nước và những tấm ván ốp tường cong queo, những món đồ chơi và dụng cụ gãy hỏng nằm ngoài sân phía trước, bên hông căn nhà. Ga ra chất đầy đồ bỏ đi đến mức không thể chui được quá nửa mui một chiếc xe vào bên trong nó.

Dance đang ngồi sau tay lái chiếc Crown Vic, cửa xe đóng kín, lắng nghe một đĩa CD được một nhóm ở Los Angeles gửi tới cho cô và Martine. Các nhạc công là người Costa Rica. Cô thấy thứ âm nhạc này vừa vui vẻ vừa bí hiểm, cô muốn biết thêm về họ. Dance hy vọng khi cô và Michael tới L.A. vì vụ án giết người của J.Doe, cô sẽ có cơ hội gặp họ và thực hiện thêm vài bản ghi âm nữa.

Nhưng lúc này Dance không thể nghĩ gì tới chuyện đó.

Cô nghe thấy tiếng lốp cao su nghiến trên sỏi, nhìn vào gương chiếu hậu và bắt gặp chiếc xe của Sonia Brigham dừng lại sau khi rẽ ngoặt vào ở cuối bờ rào cây.

Người phụ nữ chỉ có một mình bên tay lái. Sammy ngồi trên băng ghế sau.

Chiếc xe không chạy tiếp trong một lúc lâu và Dance có thể thấy bà mẹ tuyệt vọng như thế nào khi nhìn chằm chằm vào chiếc xe cảnh sát. Cuối cùng Sonia lại nhấn ga cho chiếc xe cũ kỹ của bà lăn bánh tiến lên, chạy qua bên cạnh Dance tới trước ngôi nhà, đạp phanh dừng lại rồi tắt máy.

Liếc mắt nhìn nhanh về phía Dance, người phụ nữ chui ra khỏi xe, bước lại phía sau đuôi để lấy ra các giỏ đồ đã được giặt sạch cùng một chai nước giặt Tide lớn.

Gia đình hắn nghèo đến nỗi bọn họ không thể mua máy giặt và máy sấy đồ... Ai đến tiệm giặt tự phục vụ nào? Là những kẻ thua cuộc thảm hại…

Bài đăng trên blog đó đã cho Schaeffer biết cần tìm đến đâu để đánh cắp một chiếc áo nỉ cho phép y đóng vai Travis.

Dance ra khỏi xe của cô.

Sammy nhìn cô với vẻ dò hỏi. Thái độ tò mò trong lần đầu hai người gặp nhau đã biến mất, giờ đây cậu bé có vẻ bất an. Đôi mắt cậu thiếu niên trông chững chạc lạ lùng.

“Chị biết gì đó về Travis phải không?”, cậu bé hỏi, giọng nghe không kỳ quặc như lần đầu tiên.

Nhưng trước khi Dance kịp nói gì, bà mẹ đã xua cậu con trai ra phía sân sau chơi.

Cậu bé do dự, mắt vẫn nhìn Dance chằm chằm, rồi thơ thẩn bước đi không mấy thoải mái, cho tay vào lục lọi trong các túi.

“Đừng đi xa quá, Sammy.”

Dance đỡ lấy chai nước giặt đang kẹp dưới cánh tay xanh xao của Sonia và đi theo bà ta về phía ngôi nhà. Quai hàm Sonia nghiến chặt, mắt nhìn thẳng ra trước.

“Bà...”

“Tôi cần phải cất đống đồ này đã,” Sonia Brigham nói với giọng hối hả.

Dance mở cánh cửa không khóa ra giúp bà mẹ. Cô đi theo Sonia vào trong nhà. Người phụ nữ đi thẳng vào bếp và để riêng các giỏ quần áo ra.

“Nếu cô để chúng lộn xộn… Những vết nhăn, chắc cô cũng biết thế nào mà,” bà vuốt phẳng một chiếc áo phông ra.

Như một lời tâm sự của một phụ nữ dành cho một phụ nữ.

“Khi giặt cái áo tôi cứ nghĩ giá mà có thể đưa nó cho thằng bé.”

“Bà Brigham, có một số việc bà nên biết. Travis không hề lái xe hôm mùng Chín tháng Sáu. Cậu ấy đã gánh tội hộ người khác.”

“Cái gì?” bà mẹ ngừng ngay việc gấp quần áo lại.

“Cậu ấy có cảm tình với cô bé cầm lái chiếc xe. Cô ta đã uống say. Con trai bà đã cố gắng thuyết phục để cậu ấy lái. Cô ta đã gây ra tai nạn trước khi chuyện đó xảy ra.”

“Ôi, Chúa ơi!” Sonia giơ chiếc áo sơ mi lên mặt, như thể nó sẽ giúp lau đi những giọt nước mắt đang trào ra.

“Và cậu ấy cũng không phải là kẻ giết người đã để lại những cây thập tự. Có một gã khác đã dàn dựng tất cả để trông giống như con trai bà tạo nên chúng trước khi gây ra những vụ án mạng. Một gã có thù oán với James Chilton. Chúng tôi đã chặn được hắn lại.”

“Còn Travis?” Sonia tuyệt vọng hỏi, những ngón tay trắng bệch nắm chặt lấy cái áo sơ mi.

“Chúng tôi không biết hiện cậu ấy đang ở đâu, lực lượng cảnh sát đang tìm kiếm khắp nơi, nhưng vẫn chưa lần ra bất cứ manh mối nào,” Dance giải thích ngắn gọn về Greg Schaeffer cũng như kế hoạch báo thù của y.

Sonia chùi nước mắt trên hai gò má bầu bầu của bà. Vẫn còn lại vài nét đẹp trên khuôn mặt người phụ nữ, dù rất khó nhận ra. Những tàn tích còn lại từ một vẻ đẹp tự nhiên hiển hiện trong bức ảnh chụp bà tại hội trợ tiểu bang nhiều năm về trước. Sonia thì thầm, “Tôi biết Travis không đời nào làm hại những người đó. Tôi đã nói với cô rồi còn gì.”

Phải, bà đã nói, Dance thầm nghĩ. Ngôn ngữ cơ thể lúc ấy cho tôi biết bà đang nói thật. Nhưng tôi đã không lắng nghe mà ngược lại, cố gò ép suy luận vào thứ lý lẽ logic khô khan trong khi đáng ra phải lắng nghe trực giác mách bảo. Trước đây rất lâu, Dance từng làm một phân tích đánh giá theo chỉ số phân loại Myers-Briggs về bản thân. Cô luôn gặp rắc rối khi rời quá xa bản chất con người mình.

Bà mẹ để chiếc áo sơ mi xuống, một lần nữa vuốt phẳng phiu chất vải bông. “Nó chết rồi, phải vậy không?”

“Chúng tôi không có bằng chứng nào chứng tỏ điều đó. Hoàn toàn không.”

“Nhưng cô nghĩ vậy.”

“Sẽ là hợp lý với Schaeffer nếu hắn để cậu ấy sống. Chúng tôi đang làm tất cả những gì mình có thể để cứu con trai bà. Đó là một trong những lý do tôi tới đây.” Cô đưa ra một bức ảnh Greg Schaeffer, chụp lại từ bằng lái xe của y. “Bà đã bao giờ trông thấy hắn chưa? Có thể hắn đã đi theo bà? Hay nói chuyện với láng giềng?”

Sonia đeo một cặp kính xộc xệch và nhìn vào khuôn mặt trong ảnh hồi lâu. “Không. Tôi không thể nói là từng thấy hắn. Vậy ra đây là hắn. Kẻ đã làm việc đó, đã bắt cóc con trai tôi?”

“Phải.”

“Tôi đã nói với cô là sẽ chẳng có gì tốt đẹp đến từ cái blog đó.”

Đôi mắt bà mẹ hướng ra ngoài khoảnh sân bên hông nhà, nơi Sammy đang chui vào trong gian nhà kho xiêu vẹo. Bà thở dài. “Nếu quả thực Travis không còn nữa, phải nói với Sammy… Ôi, điều đó sẽ hủy hoại nó. Tôi sẽ mất cùng lúc cả hai đứa con trai. Bây giờ tôi phải cất đống đồ đã giặt đi. Cô làm ơn về cho.”

~*~

Dance và O’Neil đứng cạnh nhau trên cầu tàu, tựa người vào lan can. Màn sương mù đã tan, nhưng gió đang thổi đều. Quanh vịnh Monterey bạn luôn có hoặc thứ này, hoặc thứ kia.

“Nói chuyện với mẹ Travis,” O’Neil nói lớn tiếng. “Tôi dám cược đó là việc thật khó khăn.”

“Khó nhất từ đầu đến giờ,” Dance nói trong lúc mái tóc cô bay tung. Rồi cô chợt hỏi, “Cuộc thẩm vấn thế nào?” Trong đầu Dance thầm nghĩ đến cuộc điều tra dính dáng tới chiếc container từ Indonesia.

Vụ án kia.

“Tốt.”

Cô thấy mừng vì O’Neil đang phụ trách cuộc điều tra, đồng thời thấy ân hận vì cảm giác ghen tỵ của mình. Chủ nghĩa khủng bố làm tất cả lực lượng thực thi pháp luật mất ngủ. “Nếu anh cần bất cứ điều gì từ tôi, hãy cho tôi biết.”

Đôi mắt hướng ra vịnh, anh nói, “Tôi nghĩ chúng tôi sẽ hoàn tất vụ đó trong hai mươi bốn giờ tới.”

Phía dưới hai người là các con họ, cả bốn đứa, trên cát gần mép nước. Maggie và West dẫn đầu cuộc thám hiểm; là cháu của một nhà sinh vật hải dương học, hai đứa có trong tay ít nhiều quyền lực.

Những con bồ nông trang nghiêm bay lượn gần đó, lũ mòng biển hiện diện khắp nơi. Không xa bờ mấy là một mảng màu nâu cong cong của con rái cá biển đang thoải mái nằm ngửa nổi dập dềnh, tạo thành một đường cong võng xuống thật duyên dáng. Con vật khoan khoái đập các động vật thân mềm vào một hòn đá để cân bằng trên ngực mình cho mở vỏ ra. Nó đang ăn tối. Amanda, con gái O’Neil, và Maggie thích thú nhìn chằm chằm, như thể đang cố nghĩ cách kéo bằng được con vật về nhà làm thú cưng.

Dance áp bàn tay lên cánh tay O’Neil và chỉ về phía cậu bé mười tuổi Tyler, lúc đó đang bò rạp xuống bên cạnh một cây tảo bẹ dài, thận trọng đụng vào nó, sẵn sàng chạy trốn nếu sinh vật lạ lẫm đó bừng sống dậy. Wes đứng ngay gần với bộ dạng một người bảo vệ một khi chuyện ấy xảy ra.

O’Neil mỉm cười, nhưng cô cảm thấy, từ dáng bộ cũng như sự căng thẳng nơi cánh tay kia, chắc chắn có điều gì đó đang làm anh bận tâm.

Chỉ một khoảnh khắc sau anh lên tiếng giải thích, cố át đi tiếng gió thổi. “Tôi nhận được tin từ Los Angeles. Bên bị đang cố gắng kéo phiên tòa điều trần đề nghị miễn truy tố trở lại. Trong hai tuần nữa.”

“Ôi, không,” Dance thì thầm. “Hai tuần nữa? Ban hội thẩm cũng đã được lên lịch vào thời gian đó.”

“Seybold đang tranh đấu quyết liệt để phản đối chuyện đó. Nghe ông ấy có vẻ không được lạc quan cho lắm.”

“Quỷ tha ma bắt,” Dance nhăn mặt. “Chiến tranh tiêu hao chắc? Tiếp tục chịu đựng cảnh chết gí này và hy vọng mọi thứ sẽ ổn cả sao?”

“Có lẽ vậy.”

“Chúng ta sẽ không làm thế,” cô cương quyết nói. “Anh và tôi, chúng ta sẽ không chịu bỏ cuộc. Nhưng liệu Seybold và những người khác có vậy không?”

O’Neil ngẫm nghĩ khả năng này. “Nếu điều đó tốn thêm quá nhiều thời gian, có thể lắm. Đây là một vụ quan trọng. Nhưng họ còn rất nhiều vụ quan trọng khác nữa.”

Dance thở dài. Cô rùng mình.

“Cô lạnh à?”

Cẳng tay cô đang đặt lên tay anh.

Dance lắc đầu. Phản xạ vô thức đó xuất phát từ ý nghĩ về Travis. Trong lúc nhìn xuống nước, cô tự hỏi liệu có phải mình cũng đang nhìn xuống nấm mồ của cậu thiếu niên hay không.

Một con mòng biển bay lượn ngay trước mắt họ. Góc mở đôi cánh của nó được điều chỉnh hoàn toàn phù hợp với vận tốc gió. Con chim đứng im trên không, phía trên bãi biển hai mươi foot.

Dance nói, “Suốt từ đầu, anh biết đấy, kể cả khi chúng ta nghĩ cậu ấy là tên sát nhân, tôi vẫn thấy tội cho Travis. Cuộc sống gia đình cũng như khó khăn của cậu ấy trong việc hòa nhập. Rồi lại bị công kích trên mạng như thế. Jon đã nói với tôi blog chỉ như bề nổi của tảng băng. Người ta đã công kích thằng bé bằng tin nhắn, email, trên các bản tin. Thật đáng buồn khi mọi chuyện đi đến nước này. Travis vô tội. Hoàn toàn vô tội.”

O’Neil im lặng suốt hồi lâu. Sau đó anh nói: “Anh ta có vẻ sắc sảo đấy. Ý tôi muốn nói tới Boling.”

“Đúng thế. Tìm ra tên các nạn nhân. Và lần ra dấu vết nhân vật của Travis.”

O’Neil bật cười. “Xin lỗi, nhưng tôi không thể nào xua đi được cảnh cô tới gặp Overby yêu cầu ký lệnh bắt giam một nhân vật trong trò chơi điện tử.”

“Ồ, mớ giấy tờ sẽ được thu xếp xong trong chỉ vỏn vẹn một phút nếu ông ta nghĩ một cuộc họp báo đang chực chờ cùng những bức ảnh bắt mắt đi kèm với chuyện đó. Song đáng lẽ tôi phải chỉnh Jon một trận vì tội đi tới trung tâm trò chơi ấy một mình.”

“Vào vai anh hùng chăng?”

“Phải. Giải cứu chúng ta khỏi những kẻ nghiệp dư.”

“Anh ta có gia đình rồi chứ?”

“Jon ư? Chưa,” cô bật cười. “Anh ta độc thân.”

Bây giờ, có một từ cô chưa từng nghe qua từ... chừng một thế kỷ nay.

Họ cùng im lặng, quan sát lũ trẻ, khi chúng đang đắm chìm vào cuộc thám hiểm ven biển của mình. Maggie đang giơ tay chỉ vào thứ gì đó, có lẽ để giải thích cho các con O’Neil tên một con sò cô bé tìm thấy.

Wes, Dance để ý, đang ở một mình, đứng trên một khoảng cát ẩm phẳng, nước biển dâng lên tới sát chân cậu bé thành từng đường sủi bọt.

Và như mọi khi, Dance tự hỏi liệu các con cô có cảm thấy tốt hơn không nếu mẹ chúng có một người chồng, và chia sẻ mái ấm của chúng với một người bố. Tất nhiên, chắc chắn là tốt hơn rồi.

Điều đó còn phụ thuộc vào người đàn ông kia nữa, đương nhiên.

Vẫn luôn là như thế.

Một giọng phụ nữ vang lên sau lưng họ. “Thứ lỗi cho tôi. Kia có phải là các con của hai vị không?”

Cả hai ngoảnh lại và nhìn thấy một khách du lịch, nếu phỏng đoán từ chiếc túi người phụ nữ mới mua từ một tiệm đồ lưu niệm gần đó.

“Đúng thế,” Dance lên tiếng.

“Tôi chỉ muốn nói thật tuyệt khi được nhìn thấy một cặp vợ chồng có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc, với những đứa con đáng yêu như thế. Hai vị đã kết hôn bao lâu rồi?”

Sau một phần nghìn giây do dự, Dance trả lời, “À, cũng được một thời gian rồi.”

“Thế ư, chúc mừng hai vị. Chúc hai người tiếp tục hạnh phúc.”

Người phụ nữ tới bên một ông già vừa rời khỏi tiệm bán quà tặng. Bà ta khoác tay người đàn ông. Cả hai cùng đi về phía chiếc xe buýt du lịch lớn đậu gần đó.

Dance và O’Neil phá lên cười. Rồi trong phút chốc, cô nhìn thấy một chiếc Lexus màu bạc dừng lại ở bãi đỗ xe gần đó. Khi cửa xe mở ra, cô cảm giác O’Neil đã hơi tách ra xa cô, để cánh tay họ không còn tiếp xúc nhau.

Người thanh tra mỉm cười, vẫy vẫy vợ anh khi cô này bước khỏi chiếc Lexus.

Anne O’Neil, cao ráo, tóc vàng, mặc một chiếc áo khoác da, áo sơ mi thụng, váy dài và đeo thắt lưng bằng kim loại, mỉm cười bước lại. “Chào anh, anh yêu,” cô nói và ôm lấy O’Neil, hôn lên má anh. Đôi mắt người vợ chuyển sang Dance. “Kathryn.”

“Xin chào, Anne. Chào mừng chị trở về nhà.”

“Chuyến bay thật kinh khủng. Em bị mắc kẹt lại ở phòng trưng bày đó và không thể tới kịp lúc để gửi hành lý. Thiếu chút nữa em không kịp bay về.”

“Anh bận tiến hành một cuộc thẩm vấn,” O’Neil nói với vợ. “Kathryn đã đón Tyler và Ammie.”

“Ồ, cảm ơn cô. Mike nói cô đã kết thúc được vụ án. Vụ có liên quan tới những cây thập tự ven đường.”

“Vài giờ trước. Vẫn còn không ít việc giấy tờ nữa, nhưng đúng thế, vụ án đã khép lại.” Không muốn bàn thêm về nó, Dance hỏi, “Cuộc triển lãm ảnh tiến triển thế nào?”

“Đã sẵn sang,” Anne O’Neil nói, người phụ nữ này sở hữu mái tóc không khỏi khiến người ta liên tưởng tới ba từ “sư tử cái”. “Chuẩn bị trưng bày còn mất nhiều công sức hơn việc chụp các bức ảnh.”

“Ở phòng trưng bày nào vậy?”

“À, chỉ là phòng của Gerry Mitchell thôi. Phía nam của khu thương mại,” giọng nói có vẻ tùy tiện, song Dance đoán đó là một nơi trưng bày danh tiếng. Dù những mặt tính cách khác có thế nào, Anne chưa bao giờ sở hữu cái tôi thích khoe khoang.

“Chúc mừng chị.”

“Chúng ta sẽ biết chuyện gì diễn ra vào lễ khai mạc. Sau đó sẽ đến lượt các bài điểm tin.” Khuôn mặt tươi tắn chợt trở nên nghiêm túc, rồi Anne hạ giọng: “Tôi rất tiếc về chuyện của mẹ cô, Kathryn. Tất cả những gì về nó thật điên rồ. Bà ấy cảm thấy thế nào?”

“Rất phẫn nộ.”

“Vụ đó cứ như một trò xiếc vậy. Những câu chuyện trên báo chí. Thậm chí đã lên cả bản tin ở trên đó.”

Cách nơi này một trăm ba mươi dặm ư? À, thực ra Dance cũng chẳng nên ngạc nhiên. Một khi công tố viên Robert Harper đang chơi trò truyền thông.

“Chúng tôi có một luật sư giỏi.”

“Nếu có điều gì tôi có thể làm…” đoạn cuối thắt lưng kim loại của Anne khẽ kêu leng keng như một bộ chuông trong làn gió nhẹ.

O’Neil gọi với xuống dưới bãi biển, “Này, các con, mẹ về rồi. Lên đây nào!”

“Bọn con ở lại chút được không, bố?” Tyler nài nỉ.

“Không. Đến lúc về nhà rồi. Lên đi.”

Mấy đứa trẻ miễn cưỡng đi lên phía ba người lớn. Maggie đang phân phát các vỏ sò. Dance biết chắc cô bé đang đưa những cái vỏ đẹp cho các con O’Neil và anh trai mình.

Wes và Maggie chui vào trong chiếc Pathfinder của Dance để thực hiện chuyến đi ngắn tới nhà nghỉ nơi ông bà chúng đang ở. Thêm một lần nữa, hai đứa sẽ qua đêm cùng Edie và Stuart. Thủ phạm đã chết, vì thế mối đe dọa với bản thân cô cũng không còn tồn tại, song Dance quyết tâm phải tìm bằng được Travis còn sống. Nhiều khả năng cô sẽ làm việc muộn đêm nay.

Khi ba mẹ con đã đi được nửa đường tới nhà nghỉ, Dance nhận thấy Wes trở nên rất lặng lẽ.

“Này, chàng trai, có chuyện gì thế?”

“Con chỉ đang suy nghĩ thôi.”

Dance biết cách tìm hiểu thông tin thật chi tiết từ những đứa trẻ miễn cưỡng không muốn chia sẻ. Bí quyết là sự kiên nhẫn. “Về điều gì vậy?”

Cô tin chắc chuyện này có liên quan tới bố mẹ mình.

Song không phải vậy.

“Bác Boling có đến nữa không ạ?”

“Jon à? Tại sao?”

“Chỉ là mai kênh TNT sẽ chiếu Ma trận. Có thể bác ấy chưa xem phim này.”

“Mẹ sẽ cược là bác ấy có xem rồi,” Dance luôn cảm thấy thú vị với cách lũ trẻ tự cho rằng chúng là người đầu tiên từng trải nghiệm qua điều gì đó và những thế hệ đi trước phải sống trong sự thiếu thốn thật đáng phiền muộn. Cho dù lần này chủ yếu cô cảm thấy ngạc nhiên vì cậu bé lại đưa ra câu hỏi đó. “Con thích bác Boling à?” cô dò hỏi.

“Không… ý con là, bác ấy cũng được.”

Maggie phản bác, “Anh đã nói mình thích bác ấy! Anh nói bác ấy rất tuyệt. Cũng tuyệt không kém gì Michael.”

“Tao không nói thế.”

“Có, có nói!”

“Maggie, mày chẳng hiểu gì cả!”

“Được rồi,” Dance ra lệnh. Nhưng giọng cô đượm vẻ thú vị. Kỳ thực, có điều gì đó trong những câu cự nự giữa hai anh em làm cô cảm thấy thật thư thái, một chút bình thường trong quãng thời gian sóng gió hiện tại.

Họ đến nhà nghỉ, và Dance nhẹ nhõm khi thấy đám người phản đối vẫn chưa tìm ra địa điểm bố mẹ cô đang ẩn tránh. Cô dẫn Wes và Maggie tới cửa trước. Ông bố ra mở cửa đón mấy mẹ con. Cô ôm hôn ông thật chặt rồi nhìn vào trong. Mẹ cô đang nói chuyện điện thoại, tập trung vào một cuộc trao đổi có vẻ rất nghiêm túc.

Dance tự hỏi liệu có phải bà đang nói chuyện với Betsey, em gái cô, hay không.

“Có tin gì từ Sheedy chưa bố?”

“Chưa, chưa có gì thêm. Phiên nghe cáo trạng sẽ diễn ra chiều mai,” ông lơ đãng vuốt mái tóc dày của mình. “Bố nghe nói con đã tìm ra gã đó rồi, tên sát nhân ấy. Và cậu bé hóa ra vô tội?”

“Bây giờ bọn con đang tìm cậu ấy,” giọng cô hạ xuống để hai đứa trẻ không nghe thấy. “Thực ra, nhiều khả năng cậu ấy đã chết, nhưng con vẫn hy vọng vào điều tốt đẹp nhất,” cô ôm hôn ông lần nữa. “Bây giờ con cần quay lại với cuộc tìm kiếm.”

“Chúc may mắn, con gái yêu quý.”

Trong khi quay trở ra, cô lại một lần nữa vẫy tay chào mẹ. Edie đáp lại bằng nụ cười xa cách rồi gật đầu, sau đó, vẫn tiếp tục nói chuyện điện thoại, vẫy tay ra hiệu gọi các cháu đến với bà và ôm lấy chúng.

Mười phút sau, Dance bước vào phòng làm việc của cô, nơi có một tin nhắn đang chờ.

Một lời nhắn cộc lốc từ Charles Overby:

Muốn cô gửi báo cáo cho tôi về việc xử trí vụ blog của Chilton. Tất cả chi tiết, đủ để đưa ra một thông báo có ý nghĩa với báo giới. Sẽ cần đến trong vòng một giờ nữa. Cảm ơn.

Và tôi rất sẵn lòng vì một vụ án đã giải quyết xong, một thủ phạm đã chết và không còn thêm nạn nhân nào nữa.

Cô đoán Overby đang nổi xung vì cô từ chối không chịu khom mình trước Hamilton Royce, vị ‘chuyên gia chỉnh đốn’.

Một nhân vật khác xa George Clooney nhất có thể hình dung ra được.

Thông báo có ý nghĩa…

Dance ngồi viết một bản tường trình dài, cung cấp các chi tiết về kế hoạch của Greg Schaeffer, cũng như bằng cách nào họ khám phá ra danh tính của y, và cả cái chết của y. Cô thêm vào thông tin về việc Miguel Herrera, người cảnh sát của MCSO canh gác ngôi nhà của gia đình Chilton, đã bị sát hại, đồng thời cập nhật tình hình cuộc tìm kiếm Travis.

Cô gửi bản tường trình qua email, bấm chuột mạnh hơn thường lệ khi gửi nó đi.

TJ ló đầu vào cửa phòng làm việc. “Cô biết tin chưa, sếp?”

“Cụ thể là về cái gì?”

“Kelley Morgan đã tỉnh lại. Cô bé sẽ sống.”

“Ồ, thật mừng được nghe tin đó.”

“Sẽ phải điều trị thêm khoảng một tuần, người cảnh sát trực tại đó cho biết. Thứ chất độc ấy đã làm phổi cô bé bị tổn hại khá nặng, nhưng rồi sẽ ổn cả. Có vẻ như không có tổn thương gì ở não.”

“Cô bé có nói gì về kẻ mạo danh Travis không?”

“Hắn đã tấn công cô bé từ sau lưng, thiếu chút nữa đã làm Kelley chết ngạt. Hắn thì thào gì đó về chuyện tại sao lại đăng bài nói xấu hắn? Sau đó, cô bé ngất đi, rồi tỉnh lại dưới tầng hầm. Và đoán kẻ đó là Travis.”

“Vậy là Schaeffer không muốn cô bé chết. Hắn dàn cảnh để cô bé nghĩ đấy chính là Travis, song không bao giờ để mình bị phát hiện.”

“Nghe có lý đấy, sếp.”

“Còn việc kiểm tra hiện trường... tại nơi ở của Schaeffer và nhà Chilton thì sao? Có đầu mối nào về nơi cậu thiếu niên có thể đang bị nhốt không?”

“Vẫn chưa có gì. Và không có nhân chứng nào quanh khu vực Cyprus Grove.”

Cô thở dài. “Tiếp tục tìm kiếm.”

Lúc này đã sáu giờ tối. Dance nhận ra cô vẫn chưa có gì trong dạ dày từ bữa sáng. Cô đứng dậy, đi tới nhà ăn. Dance cần cà phê và thứ gì đó dễ ăn: Bánh quy giòn tự làm hay bánh vòng. Kho dự trữ của Maryellen tại “Cánh nhà của các quý cô” đã cạn kiệt. Trong trường hợp bần cùng, cô có thể cố gắng thương lượng với máy bán hàng tự động: Một tờ đô la nhàu nhĩ để đổi lấy một túi bánh mì nướng phết bơ lạc hay bánh quy Oreo.

Khi bước vào nhà ăn tự phục vụ, cô chớp mắt. À, thật may.

Trên một khay giấy đầy mảnh vụn vẫn còn ngự trị hai chiếc bánh yến mạch giòn với nho khô.

Và kỳ diệu hơn thế, cà phê có vẻ còn tương đối mới.

Dance rót ra một cốc, thêm hai phần trăm sữa và vớ lấy một cái bánh. Mệt rũ, cô buông mình ngồi phịch xuống cạnh một cái bàn. Cô vươn vai, lấy chiếc iPod ra khỏi túi quần, đeo tai nghe vào rồi lướt trên màn hình để tìm kiếm khuây khỏa trong một giai điệu ghi ta Brazil cuốn hút của Badi Assad.

Cô bấm nút “Chạy”, cắn một miếng bánh và đang đưa tay về phía cốc cà phê khi một cái bóng cúi xuống.

Hamilton Royce đang nhìn xuống cô. Thẻ ra vào tạm thời của ông ta được gài trên ngực áo sơ mi. Hai cánh tay người đàn ông cao lớn buông xuống hai bên sườn.

Đúng thứ mình cần. Nếu những ý nghĩ có thể thở dài âm thanh do suy nghĩ của cô phát ra thì có lẽ nó phải lớn đến mức nghe thấy được.

“Đặc vụ Dance. Tôi có thể nói chuyện với cô chứ?”

Cô ra dấu về phía một chiếc ghế trống, cố không tỏ vẻ quá hoan nghênh.

Nhưng ít nhất cô cũng tháo tai nghe ra.

Ông ta ngồi xuống, chiếc ghế kêu cót két, cả nhựa lẫn kim loại cùng oằn xuống dưới thân hình nặng nề của viên thanh tra. Rồi ông ta cúi người ra trước, hai khuỷu tay chống trên mặt bàn, hai bàn tay nắm lấy nhau phía trước mặt. Tư thế này nói chung có nghĩa là sự thẳng thắn. Cô thì để ý tới bộ vest của ông ta. Màu xanh không phù hợp. Chưa đủ tối tăm. Hay ngược lại, cô thầm nghĩ không mấy thiện cảm, ông ấy nên đội một cái mũ thủy thủ với vành sáng bóng.

“Tôi có nghe được tin. Vụ án đã kết thúc, đúng vậy không?”

“Chúng tôi đã hạ được thủ phạm. Song vẫn đang tìm kiếm cậu thiếu niên.”

“Tìm Travis?” Royce ngạc nhiên hỏi.

“Đúng thế.”

“Nhưng cô không nghĩ cậu ta đã chết rồi hay sao?”

“Không.”

“Ồ,” một khoảng im lặng. “Đó là điều tôi rất hối tiếc,” Royce nói, “Đó là điều tồi tệ nhất trong tất cả. Cậu thiếu niên vô tội đó.”

Dance ghi nhận ít nhất phản ứng này của ông ta cũng xuất phát từ sự chân thành.

Cô không nói gì thêm.

Royce ướm lời, “Tôi sẽ quay về Sacramento trong một hay hai ngày nữa. Thế này nhé, tôi biết trước đây chúng ta đã có vài vấn đề… À phải, bất đồng. Tôi muốn xin lỗi.”

Rất đàng hoàng với cách ông ta cư xử, song cô vẫn cảm thấy ngờ vực. Dance nói, “Chúng ta nhìn nhận sự việc khác nhau. Tôi không thấy có chút xúc phạm nào cả. Về mặt cá nhân thì không.”

Nhưng về mặt chuyên môn, cô thầm nghĩ, tôi cực kỳ bực bội với chuyện ông tìm cách chọc gậy bánh xe.

“Có rất nhiều áp lực từ Sacramento. Ý tôi là thực sự rất nhiều. Tôi đã để bị cuốn đi trong tình thế căng thẳng.”

Ông ta quay mặt nhìn đi nơi khác, có phần bối rối. Và một phần cũng để lừa gạt nữa. Ông ta không hề cảm thấy ân hận đến thế, Dance đánh giá. Nhưng cô vẫn ghi nhận cố gắng muốn chuộc lỗi của ông ta.

Royce nói tiếp, “Hẳn cô cũng không thường xuyên ở vào một tình huống như thế này, đúng không nào? Khi cô phải bảo vệ ai đó vốn không được ưa chuộng cho lắm như Chilton.” Royce dường như không trông đợi một câu trả lời, và bật cười trống rỗng. “Cô biết không? Thật nực cười làm sao, tôi dần dần đã ngưỡng mộ ông ta.”

“Chilton ư?”

Một cái gật đầu. “Tôi không tán đồng phần lớn những gì ông ấy nói. Nhưng đó là người có tư cách đạo đức. Và ngày nay không mấy người có được điều đó. Thậm chí ngay cả khi đối diện với mối đe dọa bị sát hại, ông ấy vẫn giữ vững con đường của mình. Và rất có thể ông ấy sẽ lại tiếp tục. Cô có nghĩ vậy không?”

“Tôi đoán là thế,” cô không nói gì về khả năng Bản tin Chilton sẽ bị chấm dứt.

Mà đó cũng không phải việc của cô hay Royce.

“Cô biết tôi định làm gì không? Xin lỗi cả ông ấy nữa.”

“Ông sẽ làm thế?”

“Tôi đã thử gọi đến nhà riêng. Không ai trả lời. Cô có biết ông ấy đang ở đâu không?”

“Ông ta và gia đình sẽ tới nhà nghỉ của họ tại Hollister vào ngày mai. Họ đang trải qua buổi tối tại một khách sạn. Tôi không rõ ở đâu. Nhà ông ta đang là hiện trường vụ án.”

“Vậy chắc tôi nên gửi email tới blog cho ông ta.”

Cô đang thầm tự hỏi liệu việc đó có bao giờ diễn ra hay không.

Thế rồi sau đó là im lặng. Đã đến lúc để mình rút lui, Dance nghĩ. Cô cầm lấy cái bánh cuối cùng, gói nó vào trong một tờ khăn giấy và đứng dậy hướng ra phía cửa nhà ăn. “Chúc ông trở về bình an, ông Royce.”

“Một lần nữa, tôi thực sự xin lỗi, đặc vụ Dance. Tôi rất mong đợi lại có dịp làm việc cùng cô trong tương lai.”

Các kỹ năng về ngôn ngữ cơ thể của cô dễ dàng phát hiện ra trong câu giãi bày của ông ta chứa đựng hai điều dối trá.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
622,673
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38


Jonathan Boling, trông có vẻ rất hào hứng, đang bước về phía Dance trong gian tiền sảnh trụ sở của CBI. Cô đưa cho anh một thẻ ra vào tạm thời.

“Cảm ơn anh đã đến.”

“Tôi bắt đầu thấy nhớ nơi này rồi đấy. Tôi cứ nghĩ mình đã bị đuổi việc.”

Dance mỉm cười. Khi cô gọi tới Santa Cruz cho vị giáo sư, nữ đặc vụ đã làm gián đoạn việc chấm bài cho một lớp học hè của anh (cô tự hỏi liệu mình có thể làm gián đoạn trong lúc anh đang thu xếp một cuộc hẹn hò hay không) và Boling đã vui vẻ bỏ ngang việc đang làm, lái xe trở lại Monterey.

Trong văn phòng của mình, Dance đưa cho anh nhiệm vụ mới nhất: Máy tính xách tay của Greg Schaeffer. “Tôi thực sự rất mong mỏi tìm ra Travis, hay thi thể của cậu ấy. Anh có thể xem qua trong đó, tìm kiếm bất cứ thông tin nào liên hệ tới các địa danh trong vùng, hướng lái xe, bản đồ… Bất cứ điều gì đại loại như thế được không?”

“Tất nhiên là được,” anh chỉ về phía chiếc máy tính hiệu Toshiba. “Có mật khẩu không?”

“Lần này thì không.”

“Tốt.”

Anh nhấc nắp máy lên và bắt đầu gõ bàn phím. “Tôi sẽ tìm kiếm mọi thứ có thời điểm thiết lập hoặc từng được truy cập trong hai tuần vừa qua. Như vậy nghe có ổn không?”

“Chắc rồi.”

Dance cố không mỉm cười thêm lần nữa khi quan sát anh cúi người ra trước đầy hào hứng. Các ngón tay anh lướt trên bàn phím như một nghệ sĩ piano. Sau một lúc, anh ngồi thẳng người trở lại. “À, có vẻ hắn không dùng nó nhiều lắm cho những gì hắn định làm ở đây, ngoài tìm kiếm các blog và đường dẫn RSS, cũng như để gửi email cho bạn bè và đối tác làm việc - và không ai trong số họ có liên quan gì tới kế hoạch giết Chilton của hắn. Song đó chỉ là những tập tin chưa bị xóa. Hắn đã thường xuyên xóa các tập tin và trang web truy cập trong tuần vừa qua. Tôi đoán đó sẽ là những thứ cô quan tâm nhiều hơn.”

“Phải. Anh có thể tái tạo lại chúng không?”

“Tôi sẽ lên mạng tải về một trong những phần mềm của Irv. Chương trình đó sẽ tìm kiếm trong không gian trống trên ổ C và tập hợp lại tất cả những gì hắn mới xóa đi gần đây. Một phần không còn nguyên vẹn và một phần chắc sẽ bị biến dạng. Nhưng đa số các tập dữ liệu sẽ có thể đọc được đến chín mươi phần trăm.”

“Thế thì tuyệt quá, Jon.”

Năm phút sau, phần mềm của Irv lặng lẽ mò mẫm trong máy tính của Schaeffer, tìm kiếm các phần của những tệp dữ liệu đã bị xóa, lắp ráp chúng lại và chuyển vào một thư mục mới Boling đã thiết lập.

“Sẽ mất bao lâu?” Dance hỏi.

“Sẽ mất vài giờ, tôi đoán vậy,” Boling nhìn đồng hồ đeo tay của mình rồi gợi ý họ nên đi ăn tối một chút. Hai người chui vào chiếc Audi của anh và tới một nhà hàng nằm cách trụ sở CBI cũng không mấy xa, tọa lạc trên một triền đồi nhìn xuống sân bay, xa xa hơn nữa là thành phố Monterey và khu vịnh. Họ chọn một bàn ngoài hiên, được làm ấm bởi những chiếc lò sưởi đốt bằng propane[1] từ trước, và ngồi thưởng thức một chai vang trắng Viognier. Lúc này mặt trời đã lặn xuống chạm mặt biển.

[1. Propane: Một loại khí không màu có trong tự nhiên, dùng làm nhiên liệu để đốt hay sưởi.]

Thái Bình Dương, loang rộng ra tận chân trời và nhuốm một màu đỏ cam chói lóa. Cả hai im lặng quan sát trong lúc vài vị khách du lịch gần đó hăng hái chụp lại những khuôn hình rồi đây sẽ cần phải được xử lý bằng Photoshop để có thể bắt kịp vẻ lộng lẫy của cảnh thực.

Hai người trò chuyện về các con Dance, về chính tuổi thơ của họ, về quê hương bản quán của mỗi người. Boling bình luận rằng anh tin chỉ hai mươi phần trăm cư dân vùng bờ biển miền Trung là người California chính gốc.

Lặng yên lại lần nữa xen vào giữa họ. Dance cảm nhận thấy đôi vai người đối thoại với cô đang nhô lên và chờ đợi những gì chuẩn bị xảy đến tiếp theo.

“Tôi có thể hỏi cô một chuyện được không?”

“Tất nhiên,” cô thực sự có ý đó, không hề giữ kẽ.

“Chồng cô mất khi nào vậy?”

“Chừng hai năm trước.”

Hai năm, hai tháng, ba tuần. Cô có thể cho anh biết cả số ngày và số giờ nữa.

“Tôi chưa bao giờ bị mất đi ai đó. Không phải theo cách đó,” có chút buồn bã trong giọng nói của anh, và hai bên mi chớp chớp giống như những khung cửa chớp lật dao động theo gió. “Chuyện gì đã xảy ra vậy, cô không ngại kể cho tôi chứ?”

“Không hề. Bill là một nhân viên FBI, làm việc tại văn phòng địa phương. Song chuyện đó không có gì liên quan tới công việc cả. Một vụ tai nạn trên Xa lộ 1. Một chiếc xe tải. Người lái xe ngủ gật,” giọng cô cười chua chát. “Anh biết đấy, tôi chưa bao giờ nghĩ tới chuyện đó cho tới tận lúc này. Các đồng nghiệp và bạn bè của anh ấy vẫn tiếp tục đặt hoa bên đường trong chừng một năm sau khi vụ tai nạn xảy ra.”

“Một cây thập tự?”

“Không, chỉ hoa thôi,” cô lắc đầu. “Chúa ơi, tôi ghét điều đó. Những thứ nhắc người ta nhớ lại. Tôi đã lái xe vòng xa khỏi lộ trình bình thường của mình hàng dặm để tránh nơi ấy.”

“Chắc phải kinh khủng lắm.”

Dance cố gắng không thực hành các kỹ năng ngôn ngữ cơ thể của mình trong những dịp ra ngoài xã giao. Đôi khi cô quan sát bọn trẻ, đôi lúc lại đánh giá người có hẹn với mình. Song cô nhớ lúc bắt quả tang Wes nói dối về một chuyện nhỏ nhặt và cậu bé cằn nhằn, “Mẹ, mẹ cứ như Superman ấy. Mẹ đúng là có tia X để chiếu lời nói vậy.”

Lúc này, cô biết rõ mặc dù Boling vẫn giữ một nụ cười thông cảm trên khuôn mặt, ngôn ngữ cơ thể của anh đã có sự thay đổi kín đáo. Bàn tay đang cầm ly rượu của anh dường như siết chặt hơn. Bên tay còn lại, các ngón cọ vào nhau một cách bồn chồn. Những hành vi cô biết thậm chí anh còn không ý thức được.

Dance chỉ việc mồi bơm. “Thôi nào, Jon. Đến lượt anh kể chuyện rồi. Câu chuyện của anh là thế nào? Anh luôn rất mơ hồ về chủ đề độc thân.”

“Ồ, chẳng có gì giống với tình hình của cô đâu,” anh đang cố giảm nhẹ điều gì đó rất đau khổ, cô có thể thấy rõ là vậy. Cô không phải là chuyên gia trị liệu tâm lý, đừng nói gì tới chuyện là chuyên gia của Jon. Song hai người họ đã kề vai sát cánh một thời gian, và cô muốn biết cái gì đang khiến anh bất an.

Cô áp bàn tay lên cánh tay anh trong giây lát. “Thôi nào. Hãy nhớ tôi kiếm sống bằng việc thẩm vấn người khác. Sớm muộn gì tôi cũng sẽ tìm hiểu được nó từ anh.”

“Tôi không bao giờ đi ăn với ai đó muốn dồn tôi vào thế bí ngay từ lần hẹn hò đầu tiên. À phải, cũng còn tùy.”

Dance đã đi tới chỗ nhận ra Jon Boling là một người sử dụng những câu châm biếm thông minh làm áo giáp hộ thân.

Anh nói tiếp, “Đây có lẽ là vở kịch tồi tệ nhất cô từng được nghe qua... Người con gái tôi gặp sau khi rời Thung lũng Silicon. Cô ấy có một hiệu sách ở Santa Cruz. Cô biết Bay Beach Books không?”

“Tôi nghĩ mình đã từng tới đó.”

“Chúng tôi rất hợp nhau, Cassie và tôi. Cùng nhau ra ngoài rất nhiều. Có vài chuyến đi thực sự tuyệt vời. Thậm chí cô ấy còn sống sót qua được vài buổi họp mặt cùng gia đình tôi - à, thực ra chỉ có mình tôi gặp vấn đề với những dịp như thế.” Anh nghĩ ngợi trong một phút. “Cái chính là chúng tôi cười rất nhiều. Tôi nghĩ điều đó mới quan trọng. Cô thích nhất loại phim nào? Chúng tôi chủ yếu xem phim hài. Tốt thôi, cô ấy đã ly thân, nhưng chưa ly hôn. Ly thân về pháp lý. Cassie hoàn toàn trung thực về chuyện đó. Cô ấy tự kể cho tôi tất cả. Lúc đó cô ấy đang thu xếp các thủ tục giấy tờ.”

“Cô ấy có con?”

“Phải, hai đứa. Một trai một gái, cũng như cô. Những đứa trẻ tuyệt vời. Phân chia thời gian sống bên cạnh cô ấy và người chồng cũ.”

“Ý anh là người-chưa-hoàn-toàn-là-chồng-cũ của cô ấy,” Dance im lặng đính chính, và tất nhiên đoán ra phần còn lại của câu chuyện.

Anh nhấp thêm một ngụm vang mát lạnh. Một cơn gió vừa thổi đến, mặt trời lặn dần, và nhiệt độ hạ xuống. “Chồng cũ của cô ấy là một kẻ bạo hành. Không phải về thể xác; hắn ta không bao giờ hành hung vợ hay bọn trẻ, nhưng luôn sỉ nhục, hành hạ vợ mình.” Anh buông ra một tiếng cười ngạc nhiên. “Cái này không đúng, cái kia không đúng. Cô ấy rất thông minh, tử tế, chu đáo. Nhưng luôn bị hắn ta miệt thị. Tối qua tôi đã nghĩ đến chuyện đó,” nói tới đây, giọng anh trầm xuống, sau khi vừa để lộ một chút thông tin mà anh ước gì không lỡ miệng nhắc đến. “Anh ta là một tên sát nhân hàng loạt về tình cảm.”

“Một cách diễn đạt rất hay để nói về chuyện đó.”

“Và thật tự nhiên, cô ấy quay lại với anh ta,” khuôn mặt Boling lặng thinh trong khoảnh khắc hồi tưởng lại một biến cố cụ thể, Dance thầm đoán. Trái tim chúng ta hiếm khi đáp lại điều gì đó trừu tượng; chính những phần hồi ức bé nhỏ sắc nét làm bùng lên cảm xúc. Rồi vẻ bề ngoài của anh trở lại dưới dạng một nụ cười với đôi môi mím chặt. “Hắn ta được thuyên chuyển đến Trung Quốc, và họ phải đi theo, Cassie và bọn trẻ. Cô ấy nói rất xin lỗi, cô ấy luôn yêu tôi, nhưng cô ấy phải quay lại với chồng... Tôi chưa bao giờ thực sự hiểu được phần bắt buộc trong các mối quan hệ. Chẳng hạn, cô cần phải thở, cô cần phải ăn... Nhưng ở lại với một gã khốn ư? Tôi chẳng thể thấy được sự cần thiết. Nhưng giờ tôi lại đang nói về... à, hay chúng ta sẽ gọi câu chuyện là một tiếng gọi tồi tệ ‘khổng lồ’ về phần của tôi, còn cô có một bi kịch thực sự.”

Dance nhún vai. “Trong công việc của tôi, cho dù đó là một vụ giết người có chủ ý, truy sát hay làm chết người không định trước trong quá trình gây án, một cái chết vẫn là một cái chết. Cũng giống như tình yêu vậy; khi nó tan vỡ, cho dù lý do là gì, nỗi đau vẫn luôn hiện hữu.”

“Tôi đoán thế. Nhưng yêu một người đã kết hôn quả là một ý tưởng tồi, đó là tất cả những gì tôi muốn nói.”

Amen, Kathryn Dance lại thầm nghĩ, và thiếu chút nữa bật cười thành tiếng. Cô rót thêm một chút vang vào ly của mình.

“Cô thấy chuyện đó thế nào?” anh hỏi.

“Chuyện gì cơ?”

“Chúng ta đã thành công trong việc đề cập tới hai câu chuyện cực kỳ riêng tư và buồn phiền trong một khoảng thời gian rất ngắn. Thật hay vì không phải chúng ta đang hẹn hò,” anh nói thêm với một nụ cười toe toét.

Dance mở thực đơn ra. “Hãy cùng gọi chút đồ ăn nào. Ở đây họ có...”

“...Những chiếc calamari burger ngon nhất thành phố,” Boling nói.

Dance bật cười. Cô đang định nói ra đúng những lời này.

~*~

Cuộc tìm kiếm trong máy tính tỏ ra vô ích.

Dance trở lại phòng làm việc của cô với giáo sư sau khi thưởng thức món mực ống và salad, cả hai đều nóng lòng muốn biết những gì phần mềm của Irv đã tìm thấy. Boling ngồi xuống, lướt qua các tệp dữ liệu và tuyên bố kèm theo một tiếng thở dài, “Số không.”

“Không có gì cả sao?”

“Hắn xóa các email, tệp dữ liệu và truy vấn đó đi chỉ nhằm tiết kiệm bộ nhớ. Không có gì bí mật, cũng không có gì liên quan tới vấn đề chúng ta tìm kiếm.”

Cảm giác thất vọng thật khó chịu, nhưng không còn gì hơn để làm.

“Cảm ơn anh, Jon. Ít nhất nhờ nó tôi cũng có được một bữa tối rất tuyệt.”

“Xin lỗi,” Boling có vẻ thực sự thất vọng khi không thể giúp được nhiều hơn. “Tôi đoán mình nên quay về chấm nốt chỗ bài kiểm tra. Và sắp đồ.”

“À phải, cuộc gặp gia đình cuối tuần của anh.”

Boling gật đầu. Nở nụ cười căng thẳng và nói, “Woooo - hoooo” với vẻ hăng hái gượng gạo.

Dance bật cười.

Anh đưa người ra trước lại gần cô. “Tôi sẽ gọi cho cô khi trở về. Tôi muốn biết mọi việc kết thúc ra sao. Và chúc cô gặp may với Travis. Hy vọng cậu ấy sẽ không sao.”

“Cảm ơn anh, Jon. Vì tất cả.” Cô bắt tay Jon thật chặt. “Và tôi đặc biệt mừng vì anh đã không bị đâm chết.”

Một nụ cười. Vị giáo sư nắm chặt tay cô rồi quay đi.

Trong lúc Dance nhìn theo anh bước đi dọc hành lang, một giọng phụ nữ vang lên làm gián đoạn dòng suy nghĩ của cô. “Này, K.”

Dance quay lại và trông thấy Connie Ramirez đang bước qua sảnh về phía cô.

“Con.”

Đặc vụ cao cấp kia đưa mắt nhìn quanh rồi gật đầu về phía phòng làm việc của Dance. Cả hai cùng bước vào, đóng cửa lại. “Chị tìm thấy vài thứ và nghĩ em sẽ muốn biết. Từ bệnh viện.”

“Ồ, cảm ơn chị, Con. Chị làm được bằng cách nào vậy?”

Ramirez ngẫm nghĩ. “Chị đã trung thực một cách trí trá.”

“Em thích chuyện đó.”

“Chị giơ phù hiệu ra và tung cho họ vài chi tiết về một vụ khác mà mình đang điều tra. Vụ gian lận chi phí y tế.”

CBI cũng điều tra các loại tội phạm tài chính. Trường hợp Ramirez vừa nhắc đến là một vụ gian lận bảo hiểm nghiêm trọng - các đối tượng sử dụng danh tính những bác sĩ đã qua đời để dựng lên các hồ sơ y khoa giả dưới tên của họ.

Dance thầm nghĩ, đây là kiểu vụ việc mà Chilton rất có thể sẽ viết đến trên blog của ông ta. Và đó lại là một lựa chọn thật thông minh của Connie; nhiều nhân viên của bệnh viện có mặt trong danh sách nạn nhân, và lợi ích của họ gắn liền với việc giúp đỡ nhân viên điều tra.

“Chị yêu cầu họ cho xem sổ đăng ký vào viện. Trong cả tháng, như thế Henry sẽ không nghi ngờ. Họ rất nhiệt tình hợp tác. Và đây là thứ tìm được: Vào ngày Juan Millar qua đời có một bác sĩ khách mời - bệnh viện đang tổ chức hàng loạt khóa giảng chuyên ngành diễn ra liên tục, và có lẽ vị bác sĩ tới vì việc này. Có sáu người đến xin việc - hai người cho các vị trí bảo trì, một người tại nhà ăn tự phục vụ và ba y tá. Chị đã sao lại lý lịch của họ. Theo như chị thấy, không ai có vẻ đáng ngờ. Còn bây giờ là điều thú vị đây: Có sáu mươi tư người vào bệnh viện hôm đó. Chị đã kiểm tra tên những người này với bệnh nhân được thăm viếng, và tất cả đều đăng ký ra về. Trừ một người.”

“Ai vậy?”

“Thật khó đọc được cái tên này, cho dù là bản in ra hay chữ ký. Nhưng chị nghĩ đó là Jose Lopez.”

“Anh ta vào thăm ai vậy?”

“Người này chỉ ghi ‘bệnh nhân’.”

“Quả là dễ tìm trong một bệnh viện,” Dance mỉa mai nói. “Sao chuyện này lại đáng ngờ?”

“À, chị nghĩ nếu ai đó có mặt tại bệnh viện để giết Juan Millar, anh ta hay cô ta hẳn trước đó từng phải đến bệnh viện - hoặc vào thăm, hoặc để kiểm tra bố trí an ninh và những thứ khác. Vậy là chị tìm hiểu tất cả những người trước đó từng đăng ký vào thăm cậu cảnh sát.”

“Hay lắm. Và chị kiểm tra chữ viết tay của họ.”

“Chính xác. Chị không phải là chuyên gia giám định giấy tờ, nhưng chị đã tìm ra một người khách từng vào gặp chàng cảnh sát nhiều lần, và gần như có thể cam đoan rằng chữ viết của y cũng chính là của Jose Lopez.”

Dance ngồi nhổm người ra trước.

“Ai vậy?”

“Julio Millar.”

“Anh trai cậu ấy!”

“Chị chắc đến chín mươi phần trăm. Chị đã sao lại mọi thứ,” Ramirez đưa cho Dance một tập giấy.

“Ôi, Connie, tuyệt quá.”

“Chúc may mắn. Nếu em cần gì thêm, cứ cho chị biết.”

Dance ngồi một mình trong phòng làm việc, ngẫm nghĩ về thông tin vừa nhận được. Có lẽ nào Julio thực sự giết em trai mình?

Thoạt đầu, việc này có vẻ không có khả năng, nếu căn cứ vào sự tận tâm và tình yêu Julio dành cho người em trai. Thế nhưng, không nghi ngờ gì nữa, vụ giết người là một hành động nhân đạo, và Dance có thể hình dung ra một cuộc trò chuyện giữa hai anh em - Julio cúi người xuống trong lúc Juan thì thào cầu xin anh trai hãy giải thoát cậu ta khỏi nỗi thống khổ.

Giết em đi...

Ngoài ra, tại sao Julio lại mạo danh trong tờ đăng ký vào thăm?

Tại sao Harper và các nhân viên điều tra tiểu bang lại bỏ sót mối liên hệ này? Cô giận sôi lên, thầm nghi ngờ rằng họ biết về nó, nhưng đã dìm vụ việc này xuống vì truy cứu mẹ đẻ một nhân viên thực thi luật pháp của tiểu bang sẽ là một màn quảng cáo ấn tượng hơn cho Robert Harper để chống lại dự luật chết-trong-phẩm-giá. Những suy nghĩ về cách hành xử thiếu trung thực của vị công tố viên cứ ong lên trong đầu cô.

Dance gọi cho George Sheedy và để lại lời nhắn về khám phá của Connie Ramirez. Sau đó cô gọi cho mẹ để trực tiếp báo cho bà biết. Không ai trả lời máy.

Khỉ thật. Chẳng lẽ mẹ cô không nhận cuộc gọi? Cô ngắt liên lạc rồi ngồi xuống, ngẫm nghĩ về Travis. Liệu cậu ta còn sống không và sẽ cầm cự được trong bao lâu? Vài ngày, nếu không có nước. Sẽ là một cái chết khủng khiếp biết chừng nào.

Một cái bóng nữa hiện lên trên khung cửa phòng. TJ Scanlon xuất hiện, “Này, sếp.” Cô cảm thấy có điều gì đó khẩn cấp.

“Kết quả điều tra hiện trường à?”

“Vẫn chưa, song tôi đang theo sát vụ đó. Rawhide, sếp nhớ chứ? Chuyện này là việc khác. Tôi vừa nhận được tin từ MCSO. Họ nhận được một cuộc điện thoại nặc danh... liên quan tới vụ Cây thập tự ven đường.”

Dance hơi nhổm người lên. “Là chuyện gì vậy?”

“Người gọi điện cho hay anh ta nhìn thấy, xin trích nguyên lời, ‘thứ gì đó gần đường Harrison và đường Pine Grove’. Ở ngay phía nam Carmel.”

“Không có gì thêm sao?”

“Không. Chỉ là ‘thứ gì đó’, tôi đã tìm hiểu vị trí nơi ấy. Nó nằm gần khu công trường xây dựng bỏ hoang. Và cuộc gọi được thực hiện từ điện thoại công cộng.”

Dance do dự trong khoảnh khắc. Đôi mắt nhìn chăm chăm vào một tờ giấy, mẫu in những bài viết trên Bản tin Chilton. Cô đứng dậy, vớ lấy áo khoác.

“Sếp định tới đó để kiểm tra?” TJ hỏi với vẻ không mấy chắc chắn.

“Phải. Tôi thực sự muốn tìm ra cậu ấy nếu có bất kỳ cách nào.”

“Chỗ đó có vẻ là một khu vực không an toàn lắm đâu, sếp. Muốn hỗ trợ không?”

Dance mỉm cười. “Tôi không nghĩ mình sẽ gặp nhiều nguy hiểm.”

Khó có chuyện đó, khi thủ phạm giờ đây đang nằm trong nhà xác của hạt Monterey.

~*~

Trần tầng hầm được sơn đen kịt. Bên trên có mười tám thanh xà, tất cả cũng đều màu đen. Các bức tường tuyền một màu trắng bẩn thỉu, được phết qua quýt bằng loại sơn rẻ tiền, được tạo nên từ tám trăm chín mươi hai khối gạch xỉ. Có hai cái tủ kê sát tường, một tủ kim loại màu xám, một tủ gỗ có màu trắng không đồng màu. Bên trong đó chứa một lượng lớn thực phẩm đóng hộp, những hộp đựng pasta, soda và rượu vang, dụng cụ, đinh, đồ dùng cá nhân như kem đánh răng, nước khử mùi.

Bốn trụ bằng kim loại chĩa lên trần, chống đỡ tầng một. Ba cây nằm khá sát nhau, một trụ nằm cách xa hơn. Chúng được sơn màu nâu sẫm, nhưng đã bị hoen gỉ và thật khó lòng phân biệt được đâu là sơn, đâu là kết quả của quá trình ôxy hóa.

Sàn tầng hầm láng bê tông, các vết nứt trên sàn tạo ra những hình thù quen thuộc nếu bạn nhìn thật chăm chú vào chúng đủ lâu: Một con gấu trúc đang ngồi, bang Texas, chiếc xe tải.

Một cái lò sưởi cũ, bụi bặm méo mó, nằm trong góc. Nó chạy bằng ga và hiếm khi được bật lên. Song ngay cả khi được khởi động, nó cũng chẳng làm khu tầng hầm ấm lên là mấy.

Kích thước gian tầng hầm một chiều ba mươi bảy foot, một chiều hai mươi tám foot, điều này có thể tính toán được dễ dàng từ các khối gạch xỉ, vốn có kích thước chính xác rộng mười hai inch[2] và cao chín inch, cho dù bạn còn phải cộng thêm một phần tám inch cho mỗi mạch vữa gắn kết chúng với nhau.

[2. Inch: Đơn vị đo độ dài của Anh, bằng 2.54 cm.]

Cũng có kha khá sinh vật sống ở nơi này. Phần lớn là nhện. Bạn có thể đếm được bảy gia đình, nếu quả thực lũ nhện có sống thành gia đình, và dường như chúng phân định lãnh thổ rất rõ ràng để tránh xâm phạm lẫn nhau và bị các gia đình khác chén thịt. Lũ bọ rùa và rết cũng có mặt. Thỉnh thoảng có cả muỗi và ruồi.

Có một sinh vật nào đó lớn hơn đã bày tỏ sự quan tâm tới việc dự trữ thức ăn và đồ uống ở góc xa của tầng hầm, một con chuột nhắt hay chuột cống. Nhưng sau đó nó dần trở nên dè dặt và rời đi không quay lại.

Hay đã bị đánh bả và chết.

Một ô cửa sổ, ở cao tít trên tường, cho phép chút ánh sáng lờ mờ chiếu qua, song không đủ để nhìn thấy gì; nó đã bị sơn lại bằng màu trăng trắng. Bây giờ chắc đã tám hay chín giờ tối, và khung cửa gần như tối đen.

Bầu không khí im lặng đột nhiên bị phá vỡ khi tiếng bước chân vang lên ở tầng một, phía trên đầu. Một khoảng ngừng. Rồi cửa trước mở, sau đó lại bị đóng sập lại.

Cuối cùng, khi kẻ bắt cóc cậu ta đã rời đi, Travis Brigham có thể thả lỏng. Theo lịch trình mọi thứ diễn ra trong mấy ngày vừa qua, sau khi kẻ bắt cóc đi khỏi vào buổi tối, hắn sẽ chỉ quay lại vào sáng hôm sau. Lúc này Travis nằm co ro trên giường, kéo cái chăn gamy sát quanh người. Đây là thời điểm nhẹ nhõm nhất trong ngày của cậu: Ngủ.

Travis đã học được rằng, ít nhất trong giấc ngủ, cậu cũng có được một quãng thời gian thoát ra khỏi cảm giác tuyệt vọng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
622,673
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39


Màn sương dày đặc quánh bồng bềnh lơ lửng trên đầu trong lúc Dance rời khỏi xa lộ và bắt đầu lái xe theo tuyến đường Harrison lộng gió. Khu vực này nằm ở phía nam nội đô Carmel - trên đường tới Point Lobos và xa hơn nữa là Big Sur - rất vắng vẻ, hầu như chỉ toàn những quả đồi phủ kín rừng; trong vùng chỉ còn lại một diện tích nhỏ đất trang trại.

Thật trùng hợp, nơi này khá gần lãnh địa cũ của người da đỏ Ohlone, cạnh địa điểm Arnold Brubaker hy vọng xây nhà máy khử mặn nước biển của ông ta.

Ngửi thấy mùi thông và bạch đàn, Dance từ tốn lái xe dọc theo con đường với ánh đèn pha - cô dùng đèn chiếu gần vì lớp sương mù. Thỉnh thoảng lại có những lối rẽ sâu hun hút vào bóng tối đen kịt chỉ bị phá vỡ bởi vài chấm sáng lác đác. Cô đi ngang qua vài chiếc xe, cũng chạy từ tốn giống cô, đi theo hướng ngược lại, và thầm tự hỏi liệu có phải một người lái xe đã thực hiện cuộc gọi nặc danh khiến cô tìm đến đây, hay người gọi là một cư dân sở tại.

Thứ gì đó...

Đó hiển nhiên là một khả năng, nhưng đường Harrison cũng là một lối tắt từ Xa lộ 1 tới đường Carmel Valley. Cuộc gọi có thể đến từ bất cứ ai.

Không lâu sau, cô tới đường Pine Grove và dừng xe lại.

Công trường xây dựng mà người gọi điện nặc danh đã nhắc tới là một tổ hợp khách sạn mới hoàn thiện nửa chừng - và chắc chắn sẽ không bao giờ được hoàn thành nữa, sau khi tòa nhà chính bị cháy trong những hoàn cảnh đáng ngờ. Ban đầu, người ta nghi đây là một vụ cố ý gây hỏa hoạn để lừa tiền bảo hiểm, song hóa ra thủ phạm lại là những người bảo vệ môi trường không muốn phong cảnh bị phá hỏng bởi việc phát triển xây dựng. (Thật mỉa mai, các vị khủng bố vì môi trường đã tính toán sai lầm; đám cháy lan rộng và phá hủy hàng trăm mẫu rừng thông nguyên sinh.)

Phần lớn rừng đã phục hồi trở lại, song vì nhiều lý do khác nhau, dự án khách sạn đã chẳng bao giờ được tái khởi động, và khu tổ hợp vẫn giữ nguyên tình trạng như hiện tại: Vài héc ta công trường với những tòa nhà hoang phế và những hố móng đào sâu xuống nền đất sét. Cả khu vực được bao quanh bằng hàng rào dây xích đã xiêu vẹo gắn kèm các biển báo Nguy hiểm và Cấm vào, nhưng cứ mỗi năm vài bận nhà chức trách lại tiến hành các ca cứu hộ một hai cô cậu vị thành niên bị rơi xuống hố hay mắc kẹt giữa đống đổ nát khi mò vào trong để hút thuốc, uống rượu, hay từng có một trường hợp, để làm tình tại một địa điểm kém thoải mái và ít lãng mạn nhất có thể hình dung ra được.

Nơi này cũng ma quái như địa ngục vậy.

Dance lấy đèn pin để trong ngăn đựng găng tay, chui ra khỏi chiếc Crown Vic.

Luồng gió ẩm ướt phả vào cô, và Dance chợt rùng mình khi cảm giác lo sợ bùng lên.

Thả lỏng nào.

Cô bật cười châm chọc chính mình, ấn công tắc đèn pin lên, lia luồng sáng của cây đèn Magna-Lite lướt qua lướt lại trên mặt đất đầy cây bụi và bắt đầu tiến bước.

Một chiếc xe vụt qua trên xa lộ, lốp rin rít trên mặt nhựa đường ẩm ướt, rẽ vào khúc ngoặt rồi lập tức im bặt, như thể nó đã biến mất sang một không gian khác.

Trong lúc nhìn quanh mình, Dance đoán ‘thứ gì đó’ người gọi điện nặc danh nhắc đến là cây thập tự ven đường cuối cùng, được dự định dùng để thông báo về cái chết của James Chilton.

Tuy nhiên, cô không hề thấy cây thập tự nào ở khu vực lân cận. Liệu người gọi điện đó còn có thể có ý gì? Không lẽ họ đã nhìn thấy hay nghe thấy Travis?

Đây quả là một nơi lý tưởng để giấu cậu thiếu niên.

Cô dừng lại, lắng nghe xem có tiếng kêu cứu nào hay không.

Không có gì ngoài tiếng gió thổi qua giữa những cây sồi và cây thông.

Những cây sồi... Dance chợt hình dung ra một cây thập tự cắm ven đường. Hình ảnh cây thập tự ở sân sau nhà cô từ đó cũng ùa về.

Liệu có nên gọi về yêu cầu lùng soát không? Chưa phải lúc. Tìm kiếm đi đã.

Cô ước gì có được người gọi điện nặc danh ở đây. Thậm chí cả một nhân chứng bất đắc dĩ nhất cũng có thể là nguồn cung cấp mọi thông tin cô cần; như Tammy Foster chẳng hạn, việc thiếu hợp tác của cô bé chẳng hề làm cuộc điều tra bị chậm lại.

Máy tính của Tammy. Nó có lời giải đáp. À, có thể chưa phải tất cả các câu trả lời. Nhưng một câu trả lời...

Nhưng bên cạnh cô không có gì ngoài cây đèn pin trong tay tại công trường xây dựng bỏ hoang quái gở này.

Tìm kiếm ‘thứ gì đó’.

Dance lách qua một trong những cánh cổng kim loại nằm dọc theo hàng rào, đã bị không biết bao nhiêu kẻ xâm nhập từ nhiều năm qua bẻ cong, hạ thấp người xuống, từ tốn bước đi. Tòa nhà chính đã sụp đổ hoàn toàn trong vụ cháy. Các khu khác như nhà kho, ga ra và các khu phòng khách sạn - đều bị bịt lại. Có sáu hố móng vẫn nằm phơi ra đó. Chúng được đánh dấu bằng những biển báo nguy hiểm màu cam, nhưng làn sương mù rất dày và phản chiếu phần lớn luồng sáng đèn pin trở lại mắt Dance; cô bước đi rất cẩn thận vì sợ hụt chân xuống một trong những cái hố móng đó.

Cô từ tốn dò dẫm trong khu công trường, cứ sau mỗi bước lại dừng và tìm kiếm các dấu chân.

Người gọi điện đã nhìn thấy thứ quái quỷ gì mới được chứ?

Thế rồi Dance nghe thấy tiếng động ở phía xa, song cũng không xa lắm. Một tiếng gãy răng rắc thật to. Rồi một tiếng khác.

Dance chết lặng.

Hươu, cô đoán thầm. Chúng có rất nhiều ở khu vực này. Nhưng cũng có cả các loài vật khác sống tại đây. Năm ngoái, một con sư tử núi đã giết chết một du khách chạy bộ cách nơi này không xa. Con dã thú đã xé toang người phụ nữ xấu số ra rồi biến mất. Dance cởi khuy áo khoác, đưa bàn tay áp lên báng khẩu Glock của mình để lấy lại bình tĩnh.

Thêm một tiếng gãy nữa, rồi đến tiếng cọt kẹt.

Giống như bản lề của một cánh cửa cũ đang mở.

Dance gai người vì sợ, chợt nghĩ cho dù “Tên sát nhân với cây thập tự ven đường” chẳng còn là mối đe dọa, điều đó không có nghĩa là đám nghiện ma túy hay những băng đảng tội phạm sẽ vắng mặt quanh đây.

Nhưng cô không hề nghĩ tới chuyện thoái lui. Travis có thể đang ở đây. Tiếp tục tiến lên.

Đi thêm chừng bốn mươi foot nữa vào trong khu công trường, lúc này Dance đang tìm kiếm những công trình có thể dùng làm chỗ giấu một nạn nhân bị bắt cóc, tìm kiếm những tòa nhà bị khóa cửa, tìm kiếm các vết chân.

Cô nghĩ mình vừa nghe thấy một âm thanh nữa - gần như một tiếng rên. Dance đã định gọi to tên cậu thiếu niên. Nhưng bản năng nhắc nhở cô không nên làm thế.

Và rồi cô dừng phắt lại.

Một bóng người hiện ra trong màn sương mù chỉ cách chỗ cô chừng mười yard. Nằm xuống, cô thầm nghĩ.

Dance thở hổn hển, tắt đèn pin và rút súng ra.

Rồi nhìn lại lần nữa. Cho dù đó là ai - hay là thứ gì, cái bóng đã biến mất.

Nhưng hình ảnh đó không phải là tưởng tượng. Cô chắc chắn đã nhìn thấy ai đó, đàn ông, cô tin là vậy từ ngôn ngữ cơ thể.

Lúc này, tiếng bước chân vang lên thật rõ ràng. Tiếng cành cây gãy, tiếng lá bị giẫm lạo xạo. Kẻ kia đang đi bên sườn cô, từ bên phải. Hắn di chuyển, rồi lại dừng lại.

Dance đưa tay sờ vào chiếc điện thoại di động trong túi. Nhưng nếu thực hiện một cuộc gọi, giọng nói sẽ để lộ vị trí của cô. Và cô cần giả thiết rằng bất cứ kẻ nào có mặt tại đây trong bóng tối của buổi đêm ẩm thấp, mù sương này không thể hiện diện vì những mục đích vô hại.

Lần ngược lại những bước chân đi cô bạn, Dance tự nhủ. Quay trở lại chiếc xe. Ngay bây giờ. Dance nghĩ tới khẩu súng trường để trong cốp của mình, món vũ khí cô từng bắn thử một lần, trong khi luyện tập.

Dance quay trở lại và di chuyển thật nhanh, mỗi bước chân đều làm vang lên tiếng lào xào thật to từ lớp lá cây rụng tựa như đang kêu lên: Tôi ở đây, tôi ở đây.

Cô dừng lại. Kẻ xâm nhập thì không. Tiếng bước chân y đang di chuyển trên nền lá rụng và qua các lùm cây bụi, trong màn sương tối đen, đâu đó bên phải cô.

Rồi chúng chợt im bặt.

Có phải y cũng đã dừng lại? Hay đã di chuyển tới chỗ không có lá rụng, chuẩn bị tiếp cận để tấn công?

Hãy quay lại xe, ẩn vào nơi an toàn, lấy bộ đàm ra và gọi tăng viện.

Từ đây tới chỗ hàng rào vẫn còn năm mươi hay sáu mươi foot nữa. Trong thứ ánh sáng trăng lờ mờ - bị khuếch tán qua màn sương mù - cô quan sát xung quanh. Một số nơi có vẻ ít lá khô hơn các chỗ khác, song khó cho phép di chuyển mà không gây ra tiếng động. Dance tự nhủ cô không thể đợi lâu hơn nữa.

Nhưng kẻ bám đuôi kia vẫn im lặng.

Liệu có phải y đang ẩn nấp?

Hay y đã bỏ đi rồi?

Hoặc kẻ đó đang tiếp cận dưới sự che chở của những tán lá dày?

Gần phát hoảng, Dance quay ngoắt lại song không nhìn thấy gì ngoài bóng ma của các tòa nhà, những thân cây và vài bồn chứa lớn đã rỉ sét bị vùi lấp một phần.

Dance phủ phục xuống, nhăn mặt vì cảm giác đau ở các khớp xương - từ cuộc đuổi bắt và cú ngã ở nhà Travis hôm trước. Sau đó, cô di chuyển về phía hàng rào nhanh hết mức có thể. Cưỡng lại sự thôi thúc gấp gáp muốn vùng chạy băng qua địa hình mấp mô dày đặc đủ thứ cạm bẫy đặc trưng của một công trường xây dựng.

Còn hai mươi lăm foot nữa là đến hàng rào.

Một tiếng gãy răng rắc gần đó.

Nữ đặc vụ dừng phắt lại, quỳ một bên gối xuống, giơ súng ngang tầm mắt tìm kiếm mục tiêu. Cô đang cầm đèn pin trong bàn tay trái và thiếu chút nữa đã bật nó lên. Nhưng một lần nữa, bản năng lại nhắc nhở cô không được làm thế. Trong màn sương mù, tia sáng gần như sẽ khiến cô bị lòa và cung cấp cho kẻ xâm nhập kia một đích ngắm hoàn hảo.

Cách đó không xa, một con gấu trúc Bắc Mỹ tuột xuống khỏi nơi ẩn náu của nó và quả quyết rời đi, điệu bộ rõ ràng tỏ vẻ bực bội khi bị quấy rầy.

Dance nhổm dậy, quay trở ra phía hàng rào và di chuyển thật nhanh trên lớp lá rụng, thường xuyên ngoái nhìn lại phía sau. Cô không thể trông thấy ai đang bám theo mình. Cuối cùng, Dance đẩy cánh cổng lách qua và bắt đầu rảo bước về phía chiếc xe, điện thoại di động mở ra cầm trên tay trái trong lúc cô tìm qua danh sách các số đã gọi.

Đúng lúc ấy, một giọng nói vang lên rất gần sau lưng cô, âm thanh vang vọng ra trong màn đêm. “Không được động đậy,” người đàn ông nói. “Tôi có súng.”

Tim đập thình thịch, Dance thấy cả người lạnh toát. Hắn đã ở bên sườn của cô, lách qua một cổng khác hay im lặng leo qua hàng rào.

Cô cân nhắc: Nếu y thực sự có súng và muốn giết cô, lúc này chắc cô đã chết. Với màn sương mù và bóng tối, rất có thể y chưa phát hiện ra khẩu súng trên tay cô.

“Tôi muốn cô quỳ xuống đất. Lập tức.”

Dance bắt đầu quay người.

“Không! Quỳ xuống!”

Nhưng cô tiếp tục quay người lại cho tới khi đối diện với kẻ xâm nhập và cánh tay đang giơ thẳng ra của y.

Chết tiệt. Y có súng, và khẩu súng đang chĩa thẳng vào cô.

Nhưng rồi sau đó cô nhìn vào khuôn mặt người đàn ông và chớp mắt. Anh ta mặc bộ cảnh phục của Sở Cảnh sát hạt Monterey. Cô đã nhận ra. Đó là anh chàng điều tra viên trẻ tuổi mắt xanh trước đây đã giúp đỡ cô vài lần. David Reinhold.

“Kathryn?”

“Cậu làm gì ở đây vậy?”

Reinhold lắc đầu, một nụ cười thoáng hiện trên khuôn mặt. Anh ta không trả lời, chỉ đưa mắt nhìn quanh. Người cảnh sát hạ súng xuống, nhưng vẫn chưa nhét trở lại vào bao đựng. “Người ở trong kia có phải cô không?” cuối cùng anh ta hỏi, đưa mắt về phía công trường xây dựng.

Cô gật đầu.

Reinhold tiếp tục nhìn quanh, căng thẳng, ngôn ngữ cơ thể của người cảnh sát trẻ phát đi tín hiệu cho thấy anh ta vẫn sẵn sàng để chiến đấu.

Sau đó một giọng hơi rè vang lên từ bên sườn, “Sếp, có phải cô đấy không? Sếp gọi tôi à?”

Reinhold chớp mắt khi âm thanh vang lên.

Dance cầm điện thoại của cô lên và nói, “TJ, cậu vẫn ở đó chứ?” Khi Dance nghe thấy kẻ xâm nhập tiến lại sau lưng mình, cô đã bấm nút quay số.

“Vâng, sếp. Có chuyện gì vậy?”

“Tôi đang ở chỗ công trường xây dựng gần đường Harrison. Tôi đang có mặt cùng điều tra viên Reinhold từ Sở Cảnh sát.”

“Sếp có tìm thấy gì không?” người đặc vụ hỏi.

Dance cảm thấy hai chân cô đang thả lỏng dần, tim đập thình thịch, khi cơn hoảng loạn ban đầu giờ đây dần tan biến. “Chưa có gì. Tôi sẽ gọi lại cho cậu.”

“Hiểu rồi, sếp.”

Hai người ngắt liên lạc.

Cuối cùng Reinhold cũng cho súng vào bao. Người cảnh sát trẻ hít vào thật chậm và phồng hai gò má nhẵn nhụi thở không khí ra. “Thiếu chút nữa chuyện này làm tôi sợ đến mất cả... thứ cô biết đấy...”

Dance hỏi anh ta, “Cậu đang làm gì ở đây vậy?”

Anh ta giải thích rằng cách đây chừng một giờ MCSO đã nhận được một cuộc điện thoại về ‘thứ gì đó’ có liên quan tới cuộc điều tra ở gần giao lộ giữa Pine Grove và Harrison.

Chính cuộc gọi đã thôi thúc Dance tới đây.

Vì Reinhold từng tham gia vào cuộc điều tra, anh ta giải thích, chàng cảnh sát trẻ đã tình nguyện tới tìm hiểu. Anh đang tìm kiếm trong khu công trường xây dựng thì nhìn thấy ánh đèn pin nên lại gần xem xét. Reinhold không nhận ra Dance trong màn sương mù và nghĩ cô có thể là một con nghiện hay một tay buôn bán ma túy.

“Cậu có tìm thấy gì cho thấy rằng Travis đang ở đây không?”

“Travis ư?” anh ta chậm rãi hỏi lại. “Không. Sao vậy, Kathryn?”

“Vì dường như nơi này là một địa điểm rất phù hợp để giấu nạn nhân bị bắt cóc.”

“À, tôi đã tìm rất cẩn thận,” người cảnh sát trẻ cho cô hay. “Không thấy gì cả.”

“Dẫu vậy,” Dance nói, “tôi vẫn muốn đảm bảo chắc chắn.”

Và cô gọi lại cho TJ để điều động một đội rà soát.

~*~

Cuối cùng họ cũng khám phá ra thứ người gọi điện nặc danh đã nhìn thấy. Phát hiện này không nhờ vào Dance hay Reinhold, mà do Rey Carraneo, người đã đến nơi cùng sáu nhân viên khác từ CHP, MCSO và CBI.

‘Thứ gì đó’ là một cây thập tự ven đường. Nó được cắm phía bên lộ giới Pine Grove chứ không phải Harrison, cách điểm giao nhau chừng một trăm foot.

Song vật kỷ niệm này chẳng có gì liên quan tới Greg Schaeffer, Travis Brigham hay các bài bình luận trên blog.

Dance thở dài phẫn nộ.

Cây thập tự này trông bắt mắt hơn những cái khác, được làm cẩn thận, và những bông hoa đặt dưới chân nó là cúc và tuy líp chứ không phải hoa hồng.

Một điểm khác biệt nữa là cây thập tự này mang trên nó một cái tên. Thực ra là hai.

Juan Millar, hãy bình an yên nghỉ

Bị sát hại bởi Edie Dance

Được ai đó trong nhóm Ưu tiên sự sống để lại - người gọi điện nặc danh, đương nhiên rồi.

Phẫn nộ, cô nhổ bật cây thập tự lên khỏi mặt đất và ném nó vào mớ hỗn độn.

Chẳng còn gì để tìm kiếm, không còn bằng chứng để xem xét, không có nhân chứng nào để thẩm vấn, Kathryn Dance quay trở lại xe và lái về nhà, thầm tự hỏi liệu giấc ngủ của cô sẽ trằn trọc đến mức nào.

Nếu quả thực cô có thể ngờ được.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom