Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


Giờ thứ 23 của 45

"Chó chết.Chó chết!”, Rhyme gầm lên, nước bọt vãi tung tóe trên cằm anh.

Thom bước lại bên chiếc ghế định lau cằm cho anh, nhưng Rhyme giận dữ lắc đầu xua anh ta đi.

“Bo?”, anh gọi to vào mic của mình.

“Nói đi”, Haumann trả lời từ chiếc xe thùng chỉ huy.

“Tôi nghĩ bằng cách nào đó hắn đã phát hiện ra chúng ta và đang tìm cách thoát ra ngoài. Ra lệnh cho các nhân viên của anh tổ thức thành những nhóm phòng ngự. Tôi không muốn bất kỳ ai đi riêng lẻ. Đưa tất cả mọi người vào tòa nhà. Tôi nghĩ…”

“Chờ máy đã… Chờ máy đã. Ôi, không…”

“Bo? Sachs?… Có ai không?”

Nhưng không có ai trả lời.

Rhyme nghe thấy những tiếng quát tháo trên sóng radio. Sóng liên lạc bị cắt đứt. Và rồi lệnh cấp báo dồn dập vang lên: “… yểm trợ. Chúng tôi phát hiện có vết máu. Trong tòa nhà văn phòng. Vâng, vâng… không… dưới tầng… Trong tầng hầm. Không thấy Innelman báo cáo gì. Anh ấy… ở dưới tầng hầm. Tất cả các đơn vị cơ động, cơ động. Khẩn trương lên, cơ động!…”.

Rhyme hét lên, “Bell, anh có nghe tôi nói không? Tăng gấp đôi số người bảo vệ bên cạnh nhân chứng. Không được, tôi xin nhắc lại, tuyệt đối không được để họ trong tình trạng không có người bên cạnh. Tên Vũ công đã thoát và chúng tôi không biết hắn đang ở đâu”.

Giọng nói bình tĩnh của Roland Bell vang len trên đường dây. “Vẫn đang che chắn họ rất chu đáo. Không có ai lọt vào đây được đâu.”

Một khoảng chờ đợi thật căng thẳng. Không thể nào chụi nổi. Rhyme chỉ muốn gào lên vì phẩn uất.

Hắn đang ở đâu chứ?

Con rắn độc trong một căn phòng tối…

Rồi lần lượt từng cảnh sát vũ trang và đặc vụ liên bang lên tiếng, báo cáo với Haumann và Dellray rằng họ đã phong tỏa từng tầng, từng tầng một.

Cuối cùng, Rhyme nghe thấy: “Tầng hầm đã được phong tỏa. Nhưng lạy Chúa, dưới này có rất nhiều máu. Và Innelman đã mất tích. Chúng tôi không tìm thấy anh ấy! Lạy Chúa, không biết bao nhiêu là máu!”.

“Rhyme, anh có nghe thấy tôi nói không?”

“Được rồi.”

“Tôi đang ở dưới tầng hầm tòa nhà văn phòng”, Amelia Sachs nói vào cần mic máy bộ đàm của mình, không ngừng quan sát xung quanh.

Những bức tường bê tông màu vàng ệch bẩn thỉu, sàn nhà phủ một màu xám xịt như vỏ tàu chiến. Nhưng có lẽ không một ai để tâm đến kiểu bài trí của cái nơi u ám này; máu chảy lênh láng khắp nơi, như một bức tranh kinh dị của Jackson Pollock[83].

Người đặc vụ đáng thương, cô thầm nghĩ. Innelman. Tốt nhất là phải tìm thấy anh ta thật nhanh. Bất kỳ ai mất nhiều máu đến mức này cũng không thể chịu đựng được quá mười lăm phút.

“Cô cầm sẵn hộp dụng cụ đấy chứ?”, Rhyem hỏi cô.

“Chúng ta không có thời gian đâu! Cơ man nào là máu, chúng ta phải tìm thấy anh ấy đã!”

“Bình tĩnh đi, Sachs. Hộp dụng cụ. Mở hộp dụng cụ ra.”

Cô thở dài. “Được rồi! Tôi làm đây.”

Hộp dụng cụ phát hiện dấu máu tại hiện trường vụ án gồm một chiếc thước kẻ, thước đo góc gắn kèm một sợi dây, thước dây, bộ test Kastle-Meyer Reagent dùng để kiểm tra nhanh tại hiện trường. Cả chất Luminol – có tác dụng phát hiện dư chất sắt oxide có trong máu ngay cả khi hung thủ đã chùi rửa sạch tất cả những dấu vết khác.

“Tất cả là một mớ hỗn độn, Rhyme ạ”, cô thì thào. “Chắc tôi sẽ không thể phát hiện được gì đâu.”

“Ôi, hiện trường sẽ cho chúng ta biết nhiều hơn những gì cô tưởng đấy, Sachs. Nó sẽ cho chúng ta biết rất nhiều.”

Hừm, nếu như có người có thể giải mã được khung cảnh kinh hoàng này thì đó hẳn phải là Rhyme; Sachs biết rằng Rhyme và Cooper là thành viên kỳ cựu của Hiệp hội Quốc tế những nhà phân tích vết máu. (Cô cũng không biết điều gì là khó chịu hơn nữa – những vết máu lênh láng tại hiện trường các vụ án hay thực tế là có một nhóm chuyên nghiên cứu về chủ đề này.) Nhưng lần này dường như không có cơ sở gì để hy vọng cả.

“Chúng ta phải tìm được anh ấy đã…”

“Sachs, bình tĩnh đi… Cô vẫn nghe tôi nói đấy chứ?”

Sau một hồi im lặng kéo dài cô nói, “Được rồi”.

“Tất cả những gì cô cần lúc này là cái thước kẻ”, anh nói. “Bắt đầu nhé, hãy tả cho tôi nghe những gì cô thấy.”

“Có vết máu loang lổ khắp nơi dưới này.”

“Vết máu bắn ra nói lên rất nhiều điều. Nhưng nó cũng trở nên vô nghĩa trừ phi bề mặt máu dây vào đồng nhất và bằng phẳng. Sàn nhà ở đó thế nào?”

“Xi măng láng mịn.”

“Tốt rồi. Những vết máu có to không? Hãy đo đi.”

“Anh ấy sắp chết rồi. Rhyme.”

“To đến mức nào?” Anh gắt lên.

“Tất cả đều có kích thước khác nhau. Có đến hàng trăm vết với kích cỡ 3/4 inch. Một số vết lớn hơn. Khoảng hơn một inch gì đó. Hàng nghìn vết rất nhỏ. Như dấu máu phun ra.”

“Hãy quên những vết nhỏ đi. Chúng là những giọt rơi văng ra, kiểu như vệ tinh của các dấu máu khác. Hãy miêu tả những vết máu lớn nhất đi. Hình dáng?”

“Chủ yếu là hình tròn.”

“Có viền kiểu vỏ sò, đúng không?”

“Đúng”, cô lầm bầm. “Nhưng cũng có những vết máu có viền trơn đều. Ngay trước mặt tôi cũng có mấy vết. Tuy nhiên chúng nhỏ hơn một chút.”

Anh ấy ở đâu nhỉ? Cô tự hỏi. Innelman. Người đàn ông cô chưa bao giờ gặp mặt. Mất tích và máu trào ra như một đài phun nước.

“Sachs?”

“Cái gì?” cô gắt.

“Thế còn những giọt nhỏ hơn thì sao? Hãy miêu tả cho tôi biết đi.”

“Chúng ta không có thời gian cho việc này đâu!”

“Chúng ta không có thời gian để không làm việc này”, anh lạnh lùng nói.

Quỷ tha ma bắt anh đi, Rhyme, cô thầm rủa, rồi nói. “Được rồi”. Cô lúi húi đo. “Mỗi vết có đường kính khoảng nửa inch. Tròn xoe. Không hề có viền răng cưa kiểu vỏ sò...”

“Những vết đó ở đâu?” Anh hỏi dồn dập. “Ở một đầu hành lang, hay ở đầu kia?”

“Chủ yếu là ở giữa. Có một phòng kho ở cuối sảnh lớn. Bên trong đó và gần đó những vết máu lớn hơn và có viền răng cưa hoặc viền vỏ sò. Ở đầu kia của hành lang, vết máu nhỏ hơn.”

“Được rồi, được rồi”, Rhyme lơ đãng đáp lại, rồi anh chợt tuyên bố, “Câu chuyện là như thế này… Tên người đặc vụ đó là gì nhỉ?”.

“Innelman. John Innelman. Anh ấy là một người bạn của Dellray.”

“Tên Vũ công tấn công Innelman trong nhà kho, hắn đâm anh ta một nhát, ở trên cao. Làm anh ta bị tê liệt, có lẽ là vào cổ hoặc cánh tay. Đó là những giọt to, không đều nhau. Sau đó hắn lôi anh ta ra ngoài hành lang rồi đâm nhát nữa, lần này thì thấp hơn. Đó là những vết máu nhỏ và tròn trịa hơn. Khoảng cách mà máu rơi từ vết đâm xuống đất càng ngắn thì viền vết máu càng đều hơn.”

“Tại sao hắn lại làm thế?”

“Để ngăn bước truy lùng của chúng ta. Hắn biết chúng ta sẽ đi tìm một đặc vụ bị thương trước khi bắt đầu săn lùng hắn.”

Anh ấy nói đúng, cô thầm nghĩ, nhưng chúng ta đang tìm kiếm quá chậm chạp!

“Hành lang dài bao nhiêu?”

Cô thở dài, rồi cúi xuống ước lượng. “Khoảng 50 feet. Tầm đó, và toàn bộ hành làng đều lênh láng vết máu.”

“Trong các vũng máu có dấu chân không?”

“Rất nhiều. Chúng tản về đủ các hướng. Đợi chút... Có một hành lang dịch vụ. Lúc đầu tôi không để ý. Vết máu dẫn về phía đó! Chắc chắn anh ấy đang ở trong đó. Chúng ta phải...”

“Không, Sachs, chờ đã. Như thế quá lộ liễu.”

“Chúng ta phải cho phá cửa thang máy ngay. Tôi sẽ gọi cho Sở Cứu hỏa để họ cử người mang dụng cụ phá cửa đến hoặc tốt nhất là chìa khóa thang máy. Họ có thể...”

Rhyme bình tĩnh nói, “Nghe tôi đã. Những vết máu dẫn đến thang máy trông có giống những giọt nước mắt không? Với phần đuôi chỉ về các hướng khác nhau ấy?”.

“Chắc chắn anh ấy phải ở trong thang máy! Có vết máu loang lổ trên cánh cửa. Anh ấy sắp chết rồi, Rhyme! Sao anh không chịu nghe tôi chứ?”

“Những giọt nước mắt, Sachs?” Anh hỏi thật vỗ về. “Trông chúng có giống những con nòng nọc không?”

Cô nhìn xuống. Quả là thế thật. Giống hệt những con nòng nọc với những cái đuôi ngoe nguẩy về nhiều hướng khác nhau.

“Đúng vậy, Rhyme. Giống thật.”

“Lùi lại đến khi những vết máu đó kết thúc.”

Thật điên rồ. Innelman đang mất máu sắp chết trong cầu thang máy. Cô trừng trừng nhìn cách cửa sắt hồi lâu, đã nghĩ đến chuyện mặc xác Rhyme, nhưng rồi cuối cùng cô cũng lùi về phía đầu hành lang.

Tới chỗ những dấu máu dừng hẳn lại.

Chú thích

[83]Jackson Pollock (1912-1954): Họa sĩ nổi tiếng người Mỹ, theo trường phái trừu tượng.

“Đây rồi, Rhyme. Chúng dừng lại ở đây.”

“Ngay cần một chiếc tủ hoặc một cánh cửa, đúng không?”

“Vâng, nhưng làm sao anh lại biết?”

“Và cửa được chốt từ bên ngoài?”

“Chính xác.”

“Hắn làm thế bằng cách quái gì nhỉ?”

“Vậy là đội kiểm tra đã nhìn thấy cái chốt cửa và bỏ qua nó – vì họ nghĩ không đời nào tên Vũ công lại tự nhốt mình bên trong đó. Hừ, Innelman đang ở trong đó đấy. Mở cánh cửa ra, Sachs. Dùng kìm cặp vào tay nắm cửa, đừng chạm vào tay nắm. Vẫn có khả năng chúng ta sẽ lấy được dấu vân tay. Mà này, Sachs?”

“Vâng?”

“Tôi không nghĩ hắn có gài lại bom. Hắn không có đủ thời gian đâu. Nhưng cho dù người đặc vụ có đang bị làm sao chăng nữa, mà tôi tin là sẽ không tốt đâu, hãy tạm thời bỏ qua anh ta trong một phút và trước tiên phải kiểm tra xem có cái bẫy nào không.”

“Được rồi.”

“Cô hứa chứ?”

“Vâng.”

Kìm rút ra trên tay... rút thanh chốt... vặn tay nắm.

Khẩu Glock lăm lăm trên tay. Cảnh giác nghe ngóng. Nào!

Cánh cửa mở toang.

Nhưng không có bom hay bấy kỳ chiếc bẫy nào. Chỉ có thân thể tái nhợt, bê bết máu của John Innelman, bất tỉnh, đổ sụp xuống chân cô.

Sachs hét ầm lên. “Anh ấy đây rồi. Gọi nhân viên cấp cứu ngay! Anh ấy bị thương rất nặng.”

Sachs cúi xuống kiểm tra cho anh ta. Hai nhân viên cấp cứu cùng một số đặc vụ chạy tới. Dellray cũng có trong số đó, khuôn mặt đầy vẻ căm hận.

“Hắn đã làm gì cậu thế này, John? Ôi, trời ơi.” Người đặc vụ cao lòng khòng đứng lùi lại trong khi hai nhân viên cấp cứu bắt tay vào việc. Họ cắt bỏ phần lớn quần áo của nạn nhân và kiểm tra những vết dao đâm. Đôi mắt Innelman vẫn mở hé, đờ đẫn.

“Cậu ấy còn...?” Dellray hỏi.

“Sống, nhưng chỉ là thoi thóp thôi.”

Hai nhân viên cấp cứu áp vội mấy miếng gạc vào những vết dao rạch, buộc garô lên chân và cánh tay của người đặc vụ xấu số, rồi cắm chai truyền nước. “Đưa anh ấy lên xe cấp cứu. Chúng ta phải khẩn trương. Nhanh tay nữa lên!”

Họ đặt người đặc vụ lên một chiếc cáng rồi vội vàng khiêng anh ra hành lang. Dellray cũng ra cùng, đầu cúi gục xuống, miệng lẩm bẩm một mình và vò chặt mẩu thuốc lá tắt ngúm giữa những ngón tay của mình.

“Anh ta có nói được không?” Rhyme hỏi. “Có manh mối cho thấy tên Vũ công thoát theo đường nào không?”

“Không, anh ấy mê man rồi. Tôi không biết họ có cứu được anh ấy không nữa. Lạy Chúa.”

“Đừng bấn loạn thế, Sachs. Chúng ta vẫn còn một hiện trường phải phân tích. Bằng mọi giá chúng ta phải tìm ra tên Vũ công đang ở đâu, liệu hắn còn ẩn nấp quanh đó không. Quay lại phòng kho đi. Kiểm tra xem ở đó có cửa chính hay cửa sổ nào dẫn ra ngoài không?”

Cô vừa rảo bước vừa đặt câu hỏi, “Làm thế nào mà anh biết về cái tủ?”

“Căn cứ vào hướng của những giọt máu. Hắn đẩy Innelman vào bên trong và nhúng một chiếc giẻ vào máu anh ấy. Hắn bước tới chiếc thang máy và vung mạnh chiếc giẻ. Những vết máu văng ra theo các hướng khác nhau khi chúng rơi xuống. Đó là lý do chúng có hình dáng như những giọt nước mắt. Và một khi hắn đã tìm cách dụ chúng ta về phía chiếc thang máy, chúng ta phải truy lùng theo hướng ngược lại để tìm con đường hắn tẩu thoát. Căn phòng để đồ. Cô đến nơi chưa?”

“Đây rồi.”

“Miêu tả nó đi.”

“Có một ô cửa sổ trổ ra con hẻm. Trông có vẻ như hắn đã định mở nó ra. Nhưng nó vẫn được trét kín bằng mát tít. Không có cửa lớn.” Cô nhìn ra ngoài cửa sổ. “Tuy nhiên, tôi không hề nhìn thấy bất kỳ dấu hiệu vị trí nào của lực lượng mai phục. Không biết điều gì đã đánh động hắn.”

“Cô không nhìn thấy cảnh sát mai phục nào”, Rhyme nói với vẻ chua chát. “Nhưng hắn thì có đấy. Nào, giờ thì bước tọa độ và hãy xem chúng ta tìm được những gì.”

Cô kiểm tra hiện trường thật kỹ lưỡng, bước đầy đủ các tọa độ kẻ ô, rồi dùng máy hút bụi thu thập bằng chứng vi lượng và thận trọng cho những thứ tìm được vào túi.

“Cô thấy những gì? Có gì không?”

Cô rọi đèn pin lên những bức tường và rồi cô nhận ra hai tảng gạch lớn bị xê dịch khỏi vị trí. Một cái khe hở rất chật chội, nhưng một người mềm dẻo vẫn có thể luồn qua đây được.

“Phát hiện được đường tẩu thoát của hắn rồi, Rhyme. Hắn đi xuyên qua tường. Có một vài tảng gạch bê tông bị bong ra.”

“Đừng tự mở nó ra. Cho gọi đội SWAT vào đã.”

Cô gọi một số đặc vụ tới căn phòng và họ tập trung rút những khối gạch ra, dùng đèn pin gắn trên nòng những khẩu tiểu liên H&K của mình lia thật kỹ khoảng trống đằng sau bức tường.

“An toàn”, một đặc vụ hô to. Sachs rút súng của mình và lách người vào trong khoảng không tối om, lạnh lẽo.

Đó là một bờ dốc thoai thoải hẹp phủ đầy gạch đá vụn, dẫn xuyên qua một lỗ hổng trong nền móng. Nước nhỏ xuống lõng bõng. Cô thận trọng đặt chân lên những tảng bê tông lớn và tránh không chạm đến những khoảng đất ẩm ướt.

“Cô nhìn thấy những gì vậy, Sachs? Hãy cho tôi biết đi!”

Cô lia chiếc đèn PoliLight qua những nơi mà theo logic thông thường kiểu gì tên Vũ công cũng phải bước chân qua hoặc bám tay vào. “Oa, Rhyme.”

“Sao vậy?”

“Dấu tay. Còn mới tinh đây này... Khoan đã. Nhưng ở đây lại có cả dấu găng tay nữa. Nhòe vết máu. Chắc chắn là do hắn cầm chiếc giẻ nhúng máu. Tôi thật không hiểu nổi. Trông như một cái hang... Có lẽ hắn bỏ găng tay ra vì lý do nào đó. Có lẽ hắn nghĩ ở trong đường hầm này hắn đã được an toàn.”

Rồi cô nhìn xuống và rọi ánh đèn màu vàng-xanh kỳ quái xuống chân mình. “Ôi.”

“Gì thế?”

“Đó không phải là dấu vân tay của hắn. Hắn đi cùng một người nào đó.”

“Một người nào đó là sao? Làm sao cô biết được?”

“Có cả một bộ dấu chân khác. Tất cả đều còn mới nguyên. Một dấu lớn hơn dấu kia. Cả hai đều di chuyển về cùng một hướng, chúng chạy rất nhanh. Lạy Chúa, Rhyme.”

“Có chuyện gì thế?”

“Có nghĩa là hắn có đồng bọn.”

“Thôi nào, Sachs. Đằng nào thì cốc cũng đầy rồi.” Rhyme thích thú nói thêm, “Như thế có nghĩa là chúng ta sẽ có lượng bằng chứng nhiều gấp đôi để có thể lùng ra hắn”.

“Tôi chỉ đang nghĩ”, cô trầm giọng nói, “như thế có nghĩa là hắn sẽ trở nên nguy hiểm gấp đôi thôi”.

“Cô tìm được những gì rồi?”, Lincoln Rhyme hỏi.

Sachs vừa về đến nhà Rhyme. Cô và Mel Cooper đang bắt đầu xem xét những bằng chứng thu thập được tại hiện trường. Sachs và đội SWAT đã lần theo những dấu chân vào trong một đường hầm dẫn hệ thống cáp điện ngầm của hãng Con Ed, đến đây thì họ mất dấu tên Vũ công và đồng bọn của hắn. Trông có vẻ như cả hai tên đã trèo lên mặt phố và tẩu thoát qua một miệng lỗ cống.

Sachs đưa cho Cooper dấu vân tay mà cô tìm thấy ở ngay lối vào đường hầm. Người kỹ thuật viên cho quét mẫu vân tay vào máy tính và gửi nó tới cơ sở dữ liệu của liên bang để đối chiếu qua hệ thống AFIS.

Rồi cô giơ cao hai bản in tĩnh điện lên cho Rhyme kiểm tra. “Đây là những dấu chân trong đường cống. Đây là dấu chân của tên Vũ công.” Cô cầm một tấm phim lên – trong suốt, như một bức chụp X-quang. “Nó ăn khớp với dấu chân trong văn phòng người bác sĩ tâm thần trên tầng một mà hắn đã đột nhập.”

“Hắn đi đôi giày loại của các công nhân nhà máy cỡ trung bình”, Rhyme nói.

“Chẳng lẽ anh hy vọng hắn lại đi ủng lính nữa sao”, Sellitto làu bàu.

“Không, nếu thế thì lại lộ liễu quá. Giày công nhân có đế cao su để tăng ma sát và có cả mũi bọc thép ở đầu ngón chân. Chúng cũng tốt chẳng kém gì ủng lính trong trường hợp người dùng không cần đỡ thêm cho mắt cá. Giữ tấm kia lại gần đây, Sachs.”

Dấu giày nhỏ hơn mòn vẹt hẳn đi ở gót và lòng dưới bàn chân. Có một vết thủng khá to ở chiếc giày bên phải và thậm chí qua cái lỗ này còn thấy nguyên cả một mảng da với những nếp nhăn chạy chằng chịt.

“Không đi tất. Có lẽ bạn hắn là người vô gia cư.”

“Tại sao hắn phải cần có người đi cùng làm gì?” Cooper hỏi.

“Không biết”, Sellitto nói. “Nghe nói hắn toàn hành sự đơn độc. Hắn sử dụng người khác nhưng hắn không bao giờ tin họ.”

Người ta cũng buộc tội mình hệt như vậy, Rhyme tự nhủ. Anh nói, “Và để lại dấu vân tay ở hiện trường ư? Tên này không phải dân chuyên nghiệp. Chắc chắn hắn phải có điều gì đó mà tên Vũ công cần đến.”

“Con đường thoát ra khỏi tòa nhà, như thế chẳng hạn”, Sachs phỏng đoán.

“Cũng có thể là một khả năng.”

“Và có lẽ lúc này anh ta cũng chết rồi”, Sachs nói thêm.

Có lẽ, Rhyme thầm đồng ý.

“Những dấu giày”, Cooper nói. “Trông chúng khá nhỏ. Theo tôi thì chỉ khoảng cỡ tám của nam giới.”

Kích thước của gót chân chưa chắc đã tỷ lệ thuận với cỡ giày vả lại càng không nói lên điều gì về vóc dáng của người đi đôi giày đó, nhưng dù sao cũng có thể phỏng đoán rằng đồng bọn của tên Vũ công không lấy gì làm cao lớn cho lắm.

Quay sang với những bằng chứng vi lượng, Cooper cho các mẫu vật lên một tấm kính và đặt nó dưới ống kính hiển vi điện tử. Anh chuyển hình ảnh từ kính hiển vi qua màn hình máy tính của Rhyme.

“Chế độ chỉ huy, kéo con trỏ sang trái”, Rhyme ra lệnh vào mic của mình. “Dừng lại. Nháy đúp chuột.” Anh căng mắt nhìn trên màn hình máy tính. “Thêm những mẩu vữa vụn từ khối tường bê tông. Bụi bẩn và đất… Cô lấy những cái này ở đâu vậy, Sachs?”

“Tôi cạo nó ra từ xung quanh những khối gạch bê tông và hút bụi trên sàn đường cống ngầm. Tôi cũng tìm thấy một cái tổ đằng sau mấy cái hộp carton mà có vẻ như đã có người ẩn nấp ở đó một thời gian.”

“Tốt lắm. Được rồi, Mel cho phân tích bằng sắc ký khí. Có rất nhiều chất ở đây mà tôi không nhận ra.”

Máy phổ kế khối lượng rùng rùng khởi động, phân tích thành phần các hợp chất rồi gửi kết quả là những quầng khí sang máy sắc ký khí để xác định thành phần hóa học. Cooper chăm chú theo dõi màn hình.

Anh thở phù một hơi dài với vẻ ngỡ ngàng. “Kể cũng thật ngạc nhiên là bạn của hắn vẫn còn bước được.”

“Nói cụ thể một chút đi, Mel.”

“Hắn là cả một hiệu thuốc, Lincoln. Ở đây chúng ta có secobarbital, phenobarbital, dexedrine, amobarbital, meprobamate, chlordiazepoxide, diazepam.”

“Lạy Chúa”, Sellitto thốt lên. “Hồng phiến, ma túy tổng hợp, thuốc lắc...”

Cooper nói tiếp, “Cả hai loại đường lactose và sucrose nữa. Calcium, vitamin, các loại enzyme thường thấy ở sản phẩm sữa”.

“Sữa bột cho trẻ em”, Rhyme thốt lên. “Dân buôn dùng nó để trộn lẫn với ma túy.”

“Có nghĩa là đồng bọn của Vũ công là một thằng nghiện. Sao lại thế nhỉ?”

Sachs nói, “Ở đó có không biết bao nhiêu văn phòng của các bác sĩ... Chắc chắn tên này đã mò vào để ăn cắp thuốc.”

“Truy cập vào chương trình FINEST ngay”, Rhyme ra lệnh. “Lập danh sách tất cả những tên nghiện và buôn thuốc mà họ có.”

Sellitto bật cười, “Như thế có mà bằng cả một tập dày như quyển Danh bạ điện thoại, Lincoln”.

“Có ai bảo đây là việc dễ dàng đâu, Lon.”

Nhưng trước khi viên cảnh sát kịp gọi điện thì Cooper nhận được một email.

“Đừng mất công làm gì.”

“Sao thế?”

“Muốn nghe kết quả báo cáo AFIS về dấu vân tay không?” Người kỹ thuật viên gõ gõ lên màn hình. “Cho dù tên này có là ai chăng nữa, hắn cũng không hề có trong hồ sơ lưu ở thành phố New York hay của bang và tại NCIC[84]”

Chú thích

[84]NCIC (viết tắt của National Crime Information Center): Trung tâm Thông tin Tội phạm Quốc gia.

“Chết tiệt!”, Rhyme lầm bầm chửi. Anh cảm thấy như bị nguyền rủa. Chẳng lẽ mọi việc không thể dễ dàng hơn chút nào hay sao? Anh càu nhàu, “Còn dấu vết nào nữa không?”.

“Còn một chút đây”, Cooper nói. “Một mẩu gạch men màu xanh, phía sau có trát vữa, hình như là để gắn vào bề mặt tường bê tông.”

“Hãy kiểm tra thử xem.”

Cooper đặt mẫu vật vào vị trí quan sát của ống kính hiển vi.

Cổ anh giật giật, gần như rơi hẳn vào một cơn co thắt ngoài tầm kiểm soát, nhưng Rhyme vẫn cố chúi về phía trước và chăm chú nhìn lên màn hình. “Được rồi, gạch men ốp trên tấm khảm lâu năm. Bằng gốm, men rạn, lớp men có gốc chì. Theo tôi thì tuổi đời của nó ít nhất cũng phải sáu hay bảy chục năm gì đó.” Nhưng anh không thể đưa ra suy đoán liều lĩnh nào từ mẫu vật này. “Còn gì nữa không”, anh cáu kỉnh.

“Mấy sợi lông.” Cooper đặt chúng lên tấm kính để quan sát. Anh cúi đầu xuống ghé mắt vào ống kính.

Rhyme cũng kiểm tra những sợi lông mảnh hiện ra trên màn hình máy tính.

“Lông động vật”, anh nhận định.

“Lại là lông mèo à?” Sachs hỏi.

“Để xem nào”, Cooper nói, đầu vẫn cúi gằm xuống.

Nhưng mấy sợi lông này không phải lông động vật họ mèo. Mà là lông của loài thú gặm nhấm. “Chuột”, Rhyme kết luận. “Rattus norvegicus. Loài chuột cống thường thấy.”

“Tiếp tục đi. Có gì trong cái túi kia vậy, Sachs?” Rhyme hỏi không khác gì một cậu bé đang đói bụng lùng sục tìm kẹo sôcôla trên giá bày hàng của một cửa hàng bánh kẹo. “Không, không. Kia cơ. Đúng rồi, cái đó.”

Bên trong túi đựng bằng chứng là một tờ khăn giấy hình vuông với vết bẩn lem nhem màu nâu nhạt.

“Tôi tìm thấy nó trên tảng bê tông, đúng tảng mà hắn đã di chuyển. Tôi nghĩ có thể nó đã dính trên tay hắn. Không có dấu vân tay nhưng những vết này có thể đã do một bàn tay tạo ra.”

“Tại sao cô lại nghĩ vậy?”

“Vì tôi đã xoa tay bàn tay mình lên một ít đất rồi ấn vào một tảng gạch bê tông khác. Dấu vết để lại cũng giống hệt luôn.”

Đó mới đúng là Amelia của mình, anh thầm nghĩ. Trong thoáng chốc, tâm trí anh chợt quay lại với đêm hôm trước – hai người nằm bên nhau. Anh cố xua ý nghĩ đó ra khỏi đầu.

“Cái gì vậy, Mel?”

“Hình như là mỡ. Dính đầy cả bụi, đất bẩn, những mẩu gỗ vụn và những vật chất hữu cơ. Thịt động vật, tôi nghĩ vậy. Tất cả đều rất lâu rồi. Hãy nhìn kỹ phía góc bên trên kìa.”

Rhyme chăm chú nhìn những đốm màu bạc trên màn hình máy tính của mình. “Kim loại. Được giũa hoặc mài ra từ cái gì đó. Cho phân tích sắc ký khí đi. Cứ kiểm tra cho thật chắc chắn.”

Cooper làm theo.

“Chất hóa dầu”, anh trả lời. “Được lọc qua loa, không có phụ gia... Đó là mạt sắt cùng với những vi lượng manganese, silicon và carbon.”

“Chờ chút”, Rhyme nói to. “Còn nguyên tố nào khác không – chromium, cobalt, đồng, nickel, tungsten?”

“Không.”

Rhyme đăm đăm nhìn lên trần nhà. “Kim loại à? Đó là thép cũ, được luyện từ gang ở một lò luyện Bessemer. Nếu là thép mới thì kiểu gì trong đó cũng phải có những nguyên tố như tôi vừa nói.”

“Còn cả cái này nữa đây. Nhựa than đá.”

“Creosote!” Rhyme reo lên. “Tôi hiểu rồi. Sai lầm nghiêm trọng đầu tiên của tên Vũ công. Đồng bọn của hắn là một tấm bản đồ di động.”

“Dẫn tới đâu?” Sachs hỏi.

“Tới tàu điện ngầm. Vết mỡ đó đã lâu năm, vụn thép cũng từ những thanh tà vẹt và đinh đóng đường ray cũ, chất creosote là từ những thanh tà vẹt. À, còn những mẩu gạch men là từ một tấm tranh khảm. Rất nhiều những nhà ga tàu điện ngầm cũ được ốp gạch men – trong đó có những bức tranh miêu tả khung cảnh gì đó liên quan đến từng khu vực.”

Sachs nói, “Đúng rồi – như ở ga Astor Place vẫn còn những bức khảm hình các loại động vật mà Jonh Jacob Astor đã từng mua bán”.

“Gạch gốm tráng men ốp tường. Vậy ra đó chính là lý do tên Vũ công cần đến gã này. Một nơi để lẩn trốn. Đồng bọn của tên Vũ công có thể là một gã vô gia cư nghiện ma túy sống ở đoạn đường tránh tàu, hay hầm ngầm, hoặc thậm chí là nhà ga cũ bỏ không ở đâu đó.”

Rhyme chợt nhận ra mọi người trong phòng đều đang quay ra nhìn bóng một người đàn ông hiện ra ở ngưỡng cửa. Anh cũng im bặt.

“Dellray?” Sellitto lúng túng lên tiếng.

Khuôn mặt tối sầm, u ám của Fred Dellray đang trân trân nhìn ra ngoài cửa sổ.

“Có chuyện gì thế?” Rhyme hỏi.

“Chuyện về Innelman. Họ đã khâu cho cậu ấy. Tất cả là hơn ba trăm mũi. Nhưng cũng đã quá muộn. Mất quá nhiều máu. Cậu ấy vừa mới qua đời.”

“Tôi rất tiếc”, Sachs nói.

Viên đặc vụ giơ hai cánh tay lên đầu chán nản, những ngón tay dài lòng khòng trông như những cái que nhọn hoắt.

Mọi người trong phòng đều biết về người cộng sự lâu năm của Dellray – người bị giết trong vụ đánh bom Tòa nhà Liên bang ở thành phố Oklahoma. Và Rhyme còn nghĩ đến Tony Panelli – bị bắt cóc ngay giữa trung tâm thành phố cách đây vài ngày. Có lẽ lúc này anh ta cũng đã chết, đầu mối duy nhất liên quan đến số phận tay đặc vụ xấu số là những hạt cát bí ẩn.

Và giờ đây lại một người bạn khác của Dellray đã ra đi.

Viên đặc vụ lồng lên đi đi lại lại trong phòng một cách đầy đe dọa.

“Mọi người có biết tại sao cậu ấy bị rạch khủng khiếp đến thế không – Innelman ấy?”

Tất cả đều biết; nhưng không ai trả lời.

“Một cách đánh lạc hướng. Đó là lý do duy nhất trên đời này. Để ngăn chúng ta bám theo hắn. Mọi người có tin được không? Một thủ đoạn đánh lạc hướng khốn kiếp.” Đột nhiên anh đứng sững lại. Anh chằm chằm nhìn Rhyme với đôi mắt đen ngòm đáng sợ của mình. “Tóm lại là anh đã có đầu mối nào chưa, Lincoln?”

“Không nhiều lắm.” Rhyme bắt đầu giải thích về người bạn vô gia cư của tên Vũ công, về các loại ma túy, cái xó xỉnh mà hắn đang náu mình trong đường tàu điện ngầm. Ở đâu đó.

“Thế thôi sao?”

“Tôi e là thế. Nhưng chúng ta vẫn còn một số bằng chứng cần xem xét tiếp.”

“Bằng chứng”, Dellray khẽ lầm bầm với vẻ khinh bỉ. Anh rảo bước ra cửa, rồi dừng lại. “Một thủ đoạn đánh lạc hướng. Đó đếch phải là lý do chó chết khiến một người tốt phải chết. Đếch phải là lý do gì hết.”

“Fred, khoan đã... chúng tôi cần anh.”

Nhưng viên đặc vụ không nghe thấy, hoặc có nghe thấy thì anh cũng phớt lờ lời gọi của Rhyme. Anh hầm hầm lao ra khỏi phòng.

Một lát sau cánh cửa dưới nhà đóng sập lại với một tiếng cạch lạnh lùng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Giờ thứ 24 của 45

Nhà, cuối cùng cũng về tới nhà rồi”, Jodie nói.

Một cái đệm và hai thùng quần áo cũ, đồ hộp. Tạp chí Playboy và Penhouse cùng mấy tờ khiêu dâm hạng nặng, rẻ tiền mà Stephen ghê tởm nhìn liếc qua. Một vài quyển sách. Ga tàu điện ngầm hôi hám nơi Jodie trú ngụ, ở đâu đó trong khu trung tâm, đã bị đóng cửa từ cách đây nhiều thập kỷ và được thay thế bởi một nhà ga khác trên mặt phố.

Một chỗ lý tưởng cho lũ giòi, Stephen quả quyết, rồi cố xua đuổi ý nghĩ đó ra khỏi đầu.

Chúng đã chui vào nhà ga nhỏ này từ sân ga bên dưới. Chúng đã xoay xở để đến được đây – có lẽ phải đến hai hay ba dặm gì đó, tính từ ngôi nhà an toàn – hoàn toàn đi dưới lòng đất, luồn lách qua tầng hầm của những toà nhà, đường hầm, những ống cống thoát nước khổng lồ và cả những ống cống chật chội. Để lại đằng sau một dấu vết ngụy tạo – một nắp miệng cống để ngỏ. Cuối cùng chúng đã đi vào đường hầm tàu điện ngầm và đến đây trong khoảng thời gian không lâu lắm, mặc dù Jodie mệt đến bã người và thở không ra hơi vì phải cố bám cho kịp tốc độ điên rồ của Stephen.

Có một cánh cửa dẫn thẳng ra phố, được chắn lại bằng những thanh giằng từ bên trong. Những vệt ánh sáng bụi bặm chiếu xiên lọt xuống qua những khe hở trên nóc ga. Stephen thò mặt nhìn ra ngoài bầu trời mùa xuân u ám. Đây là khu vực nghèo khổ của thành phố. Những đồ đạc vô thừa nhận nằm lăn lóc trên các góc phố, những chai rượu rẻ tiền Thunderbird vàColt 44 nằm chỏng chơ trên hè phố, và rải rác khắp nơi là những chấm lỗ chỗ được tạo nên bởi nắp lọ thuốc vứt đi. Một con chuột cống khổng lồ đang gặm cái gì đó trong con hẻm.

Stephen nghe thấy tiếng lách cách phía sau mình, hắn quay người lại và nhìn thấy Jodie đang dốc một nắm những viên thuốc ăn trộm được vào những lọ đựng cà phê. Gã đang cúi gập cả người xuống, cẩn thận sắp xếp từng viên thuốc. Stephen thọc tay vào chiếc cặp sách và tìm chiếc điện thoại di động của mình. Hắn bấm số gọi về căn hộ của Sheila. Hắn vẫn đinh ninh là sẽ nghe thấy chiếc máy trả lời tự động của cô ta nhưng tín hiệu tút tút vang lên trong máy nói lên rằng đường dây của cô ta đã không còn hoạt động.

Ôi, không …

Hắn quá đỗi bàng hoàng.

Điều đó có nghĩa là quả bom sát thương, hắn gài lại đã phát nổ trong căn hộ của Sheila. Và điều đó có nghĩa là bọn chúng đã phát hiện ra hắn từng ở đó. Làm thế quái nào mà bọn chúng lại biết được?

“Anh không sao chứ?”, Jodie hỏi hắn.

Làm thế nào?

Lincoln, Vua của lũ giòi. Đó chính là lý do!

Lincoln, khuôn mặt giòi bọ trắng bệch đang nhìn ra ngoài cửa sổ …

Hai lòng bàn tay của Stephen bắt đầu đổ mồ hôi.

“Này?”

Stephen ngẩng đầu lên.

“Hình như anh …”

“Tôi không sao”, Stephen trả lời cộc lốc.

Đừng lo lắng nữa, hắn tự trấn an. Nếu phát nổ, quả bom cũng thừa sức thổi bay cả căn hộ và phá hủy bất kỳ dấu vết nào hắn để lại. Không sao đâu. Mày an toàn rồi. Chúng sẽ không bao giờ tìm được mày, không bao giờ hạ được mày đâu. Lũ giòi sẽ không tóm được mày…

Hắn chăm chú nhìn nụ cười ngơ ngẩn đầy vẻ tò mò của Jodie. Cảm giác ghê sợ chợt biến đâu mất. “Không sao”, hắn nói. “Chỉ thay đổi kế hoạch một chút thôi.” Hắn tắt máy.

Stephen lại mở cặp sách, đếm đủ năm nghìn đô la. “Tiền của anh đây.”

Jodie cứng đờ người khi nhìn thấy số tiền. Đôi mắt của gã hấp háy hết nhìn những tờ giấy bạc rồi lại nhìn mặt Stephen. Bàn tay xương xẩu của hắn vươn ra, run rẩy và khẽ khàng cầm lý năm nghìn đô la, như thể số tiền sẽ tan thành tro bụi nếu gã cầm chúng quá chặt.

Khi cầm lấy nắm tiền, tay Jodie vô tình chạm vào tay Stephen. Mặc dù đã đeo găng nhưng tên sát thủ vẫn cảm thấy như có một luồng điện chạy qua khiến hắn giật bắn mình – giống như lần hắn bị một con dao cạo sắc lẻm đâm vào bụng – choáng váng nhưng không hề thấy đau đớn. Stephen thả nắm tiền ra, hắn nhìn lảng ra hướng khác rồi nói, “Nếu anh chịu giúp tôi lần nữa, tôi sẽ trả thêm cho anh hẳn mười nghìn”.

Khuôn mặt sưng húp và đỏ gay của người đàn ông nhăn nhúm lại thành một nụ cười e dè. Gã há miệng hít một hơi dài, rồi lục lọi trong một lọ đựng cà phê. “Tôi bị… tôi cũng không biết nữa… hồi hộp, đại loại như vậy.” Hắn tìm thấy một viên thuốc, rồi thả vào miệng, nuốt ực. “Đó là loại quỷ dữ màu xanh. Nó làm người ta cảm thấy cực phê luôn. Khiến cho tất cả trở nên dễ chịu làm sao. Anh có muốn thử một viên không?”

“À, ừm…”

Quân nhân, đàn ông có ai không thỉnh thoảng làm vài ly?

Thưa ngài, tôi không biết, thưa ngài.

Hừm, ai cũng uống đấy. Nào, làm một viên đi.

“Tôi không nghĩ tôi lại…”

Làm một ly đi, quân nhân. Đó là mệnh lệnh đấy.

Dạ, thưa ngài…

Anh có phải là một con ranh nữ sinh không đấy, quân nhân? Anh mặc váy à?

Tôi… thưa ngài, tôi không mặc váy ạ, thưa ngài.

Nếu thế thì uống đi, quân nhân.

Vâng, thưa ngài.

Jodie đang nhắc lại, “Anh có muốn thử một viên không?”

“Không”, Stephen nặng nhọc thốt lên, gần như thì thầm.

Jodie nhắm nghiền mắt và nằm ngả người ra phía sau. “Mười… nghìn đôla…” Một lát sau gã hỏi, “Anh đã giết hắn, đúng không?”

“Ai cơ?” Stephen hỏi.

“Ở chỗ vừa nãy ấy, tên cớm chứ còn ai nữa? Này, anh có muốn uống một ít nước cam không?”

“Tên đặc vụ trong tầng hầm à? Có lẽ tôi đã giết hắn. Tôi không biết.Chuyện đó không quan trọng.”

“Việc đó có khó khăn lắm không? Xin thề là tôi không hề có ý gì cả. Tôi chỉ tò mò thế thôi. Nước cam không? Bao giờ tôi cũng uống rất nhiều. Xài thuốc làm con người ta rất khát nước. Có cảm giác như miệng lúc nào cũng khô khốc.”

“Không”, hộp nước cam nhìn có vẻ bẩn thỉu. Biết đâu lũ giòi đã bò lổm ngổm trên đó rồi cũng nên. Thậm chí là còn bò vào bên trong. Biết đâu lại uống phải một con giòi mà không biết ấy chứ… Hắn rùng mình. “Ở đây anh không có nước máy à?”

“Không. Nhưng tôi có mấy chai. Nước khoáng Ba Lan hẳn hoi nhé. Tôi ăn trộm được một thùng của bọn siêu thị A&P[85].”

Nhớp nhúa.

“Tôi cần phải rửa tay.”

“Anh rửa tay ấy à?”

“Để gột rửa vết máu. Máu thấm hết vào găng tay.”

“Ồ vâng. Nước đằng kia kìa. Mà tại sao lúc nào anh cũng phải đeo găng tay vậy? Để tránh lưu lại dấu vân tay à?”

“Đúng thế.”

“Anh đã từng ở trong quân đội phải không? Tôi biết mà.”

Stephen đã định nói dối, nhưng rồi đột nhiên hắn lại đổi ý. Hắn nói, “Không, suýt nữa tôi đã vào quân đội. Hừm, thực ra là vào lính thủy đánh bộ. Tôi đang định đăng ký. Bố dượng tôi cũng từng là một lính thuỷ đánh bộ và hồi ấy tôi định noi gương ông”.

“Semper fidelis[86].”

“Chính xác.”

Tiếp sau đó là một khoảng im lặng và Jodie nhìn hắn với ánh mắt chờ đợi. “Chuyện gì đã xảy ra?”

“Tôi đã cố nộp đơn gia nhập, nhưng họ nhất định không chấp nhận.”

“Thật là ngu xuẩn! Không chấp nhận anh ư? Chắc chắn anh đã có thể trở thành một quân nhân vĩ đại.” Jodie chăm chú nhìn Stephen suốt từ đầu đến chân, rồi gật gù thán phục. “Anh khỏe thật đấy. Cơ bắp rắn chắc. Tôi thì…” – gã bật cười – “tôi hầu như chẳng bao giờ tập thể dục, ngoài việc chạy trốn khỏi mấy thằng da đen và bọn nhóc con muốn bắt nạt tôi thôi. Vả lại lần nào chúng cũng tóm được tôi mà. Anh còn đẹp trai nữa. Đúng kiểu thường thấy ở các quân nhân. Giống như các quân nhân trong phim ấy.”

Stephen chợt thấy cảm giác nhớp nhúa, giòi bọ biến mất dần và lạy Chúa tôi, hắn bắt đầu nóng ran mặt. Hắn cúi gằm mặt xuống đất. “À ừ, điều đó thì tôi không biết.”

“Thôi đi. Tôi dám cá là bạn gái anh thể nào cũng nghĩ rằng anh rất đẹp trai cho mà xem.”

Lại thấy ghê sợ. Lũ giòi bắt đầu bò lên.

“Hừm, tôi…”

“Anh không có bạn gái sao?”

Stephen không trả lời mà hỏi, “Anh bảo có nước gì đấy phải không?”

Jodie chỉ tay về phía hộp nước khoáng Ba Lan. Stephen mở hai chai và bắt đầu rửa tay. Bình thường hắn vẫn ghét người khác nhìn thấy hắn làm việc này. Khi có người khác nhìn hắn rửa tay, bao giờ Stephen cũng cảm thấy nhớp nhúa và lũ giòi cứ bám mãi trong đầu hắn không thôi. Nhưng không hiểu vì lý do gì mà lần này hắn không hề thấy khó chịu khi Jodie đứng nhìn.

“Không có bạn gái, đúng không?”

“Lúc này thì không”, Stephen thận trọng giải thích. “Cũng không phải vì tôi là dân đồng tính hay đại loại thế, trong trường hợp anh đang thắc mắc.”

“Ồ không, tôi không có ý đó đâu.”

“Tôi không tôn sùng giáo phái đó. Bây giờ thì tôi không còn tin là hồi đó bố dượng tôi nói đúng - rằng AIDS là cách trừng phạt của Chúa Trời nhằm quét sạch những kẻ đồng tính. Bởi vì nếu như đó là ý chí của Chúa thì hẳn ông ấy đã làm cái việc khôn ngoan là chỉ cần cho chúng biến mất tiêu, ý tôi là lũ bệnh hoạn kia ấy. Chứ không tội gì phải tạo ra mối nguy hiểm là ngay cả những người bình thường cũng có thể mắc bệnh.”

“Như thế cũng có lý”, Jodie nhận xét với vẻ đờ đẫn của một kẻ đang phê thuốc. “Tôi cũng không có ai, ý tôi là bạn gái ấy.” Gã bật cười cay đắng. “Chậc, mà làm sao tôi có thể có bạn gái được chứ? Đúng không? Tôi có gì nào? Tôi không đẹp trai như anh, tôi cũng không có đồng nào… xét cho cùng tôi chỉ là một tên khốn kiếp vứt đi.”

Stephen cảm thấy mặt hắn nóng ran như lửa đốt và hắn kỳ tay mạnh hơn.

Chà mạnh lên da di, đúng rồi, đúng rồi, thế, thế…

Lũ giòi, lũ giòi, biến đi …

Mắt vẫn dán chặt vào hai bàn tay, Stephen nói tiếp. “Thực ra là thời gian gần đây tôi đang ở trong một hoàn cảnh mà thực sự tôi không… tôi không mấy quan tâm đến phụ nữ như bọn đàn ông. Nhưng cũng chỉ là hoàn cảnh tạm thời thôi.”

“Tạm thời”, Jodie nhắc lại.

Hắn nhìn không chớp mắt vào miếng xà phòng, như thể nó là một tù nhân đang tìm cách tẩu thoát.

“Tạm thời thôi. Chỉ vì lúc nào tôi cũng phải hết sức cảnh giác. Ý tôi là trong công việc của mình.”

“Đúng rồi. Phải đề phòng chứ.”

Chà mạnh, kỳ cọ, xà phòng sủi bọt như những đám mây chứa sét.

“Anh đã bao giờ giết một thằng đĩ đực chưa?” Jodie hỏi, với vẻ tò mò.

“Tôi không biết nữa. Để tôi cho anh biết nhé, tôi chưa bao giờ giết ai chỉ vì hắn là một kẻ đồng tính. Điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả.” Hai bàn tay của Stephen ngứa ran và đỏ bừng lên. Hắn kỳ cọ mạnh hơn, không nhìn Jodie nữa. Bất thình lình một cảm giác thật kỳ quặc xâm chiếm lấy hắn – cảm giác nói chuyện với một người có thể hiểu được hắn. “Anh hiểu chứ, tôi không bao giờ giết người mà không có lý do chính đáng.”

“Hiểu rồi”, Jodie nói. “Nhưng bây giờ giả sử có một thằng say rượu chặn anh lại trên đường phố rồi xô đẩy anh và gọi anh, tôi không biết nữa, là một thằng đĩ đực đ… mẹ thì sao? Anh sẽ giết hắn, đúng không? Đừng có nói là anh sẽ bỏ qua một sự xúc phạm như thế.”

“Nhưng… hừm, nhưng nếu đã là một tên đĩ đực thì hắn sẽ không bao giờ ngủ với mẹ hắn cả, đúng không?”

Jodie hấp háy mắt rồi phá lên cười. “Quả đúng thế thật.”

Mình vừa mới nói đùa à? Stephen tự hỏi. Hắn mỉm cười, hài lòng khi thấy Jodie tỏ ra khoái trá.

Jodie nói tiếp, “Được rồi, thế chẳng hạn hắn lại gọi anh là một thằng đ… mẹ thì sao”.

“Tất nhiên là tôi sẽ không giết hắn làm gì. Mà để tôi nói cho anh thế này nhé, nếu như anh đã nói về bọn đĩ đực thì tại sao chúng ta không nói đến lũ mọi đen[87] và dân Do Thái nhỉ. Tôi sẽ không bao giờ đi giết một tên mọi nếu như tôi không được thuê để giết một người tình cờ lại đúng là dân mọi. Có thể có những lý do tại sao bọn mọi đen lại không nên sống trên đời, hay ít nhất cũng là không nên sống ở đất nước này. Bố dượng tôi có rất nhiều lý do cho điều đó. Bản thân tôi cũng hoàn toàn đồng ý với ông ấy. Ông ấy cũng không coi dân Do Thái ra gì, nhưng điểm này thì tôi không đồng ý. Người Do Thái là những quân nhân vô cùng xuất sắc. Tôi tôn trọng họ.”

Hắn nói tiếp. “Anh thấy đấy, giết người cũng là một nghề, đơn giản là vậy. Hãy nhìn vụ Kent State[88] mà xem. Hồi ấy tôi vẫn còn bé, nhưng bố dượng tôi đã kể lại cho tôi nghe về vụ đó. Anh có biết vụ Kent State không? Mấy tên sinh viên bị Vệ binh Quốc gia bắn chết ấy?”

“Tất nhiên rồi, tôi biết mà.”

“Anh đồng ý chứ, thực sự thì cũng chẳng có ai quan tâm đến việc những sinh viên đó bị bắn chết cả, đúng không? Nhưng đối với tôi thì việc bắn họ là cực kỳ ngu xuẩn. Bởi vì điều đó phục vụ cho mục đích gì chứ? Chẳng vì gì cả. Nếu như anh muốn ngăn chặn một phong trào, hay anh thích gọi là gì cũng được, lẽ ra anh chỉ cần tìm ra bọn cầm đầu, rồi khử chúng đi là xong. Làm cách đó dễ dàng hơn bao nhiêu. Xâm nhập, đánh giá, đánh lạc hướng, cô lập và tiêu diệt.”

“Đó là cách anh vẫn giết người à?”

“Anh xâm nhập vào khu vực hành động. Đánh giá thuận lợi cũng như khó khăn của nhiệm vụ, biện pháp phòng thủ của mục tiêu. Anh đánh lạc hướng bằng cách khiến mọi người không chú ý gì đến nạn nhân nữa – làm cho mọi việc trông như thể anh đang tiếp cận chúng bằng cách này nhưng cuối cũng hóa ra đó chỉ là một thằng nhóc đưa hàng hoặc một thằng đánh giày nào đó, đại loại như thế, và trong khi đó anh đã vòng ra phía sau nạn nhân. Rồi anh cô lập và tiêu diệt hắn.”

Jodie nhấp một ngụm nước cam ép. Có đến hàng chục hộp nước cam rỗng xếp la liệt trong góc. Dường như gã sống hoàn toàn bằng thứ đồ uống này. “Anh biết đấy”, gã vừa nói vừa lấy ống tay áo quệt ngang miệng. “Ai cũng nghĩ sát thủ chuyên nghiệp đều là những kẻ điên rồ. Nhưng anh không hề có vẻ gì là điên rồ cả.”

Chú thích

[85]A&P: Một chuỗi siêu thị nổi tiếng ở Mỹ.

[86]Semper fidelis: Mãi mãi trung thành (tiếng Latin) - Khẩu hiệu của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ.

[87]Negro: Từ lóng chỉ người da đen ở Mỹ, với nghĩa miệt thị.

[88]Ken State: Vụ thảm sát xảy ra ngày 4 tháng 5 năm 1970 tại trường Đại học Kent, bang Ohio. Lực lượng Vệ binh quốc gia Mỹ đã nổ sung vào các sinh viên đang biểu tình việc Mỹ xâm lược Campuchia. Vụ thảm sát đã làm bốn sinh viên thiệt mạng, chín người khác bị thương nặng.

“Tôi không nghĩ là tôi bị điên”, Stephen bình thản nói như thể đó là điều đương nhiên.

“Những người mà anh giết, chúng đều là người xấu phải không? Kiểu như bọn lừa đảo và dân mafia hay đại loại như thế?”

“Hừm, chúng đã làm vài chuyện không tốt đối với những người đã thuê tôi giết chúng.”

“Có nghĩa chúng là người xấu?”

“Tất nhiên rồi.”

Jodie bật cười với vẻ mặt trì độn, mơ màng, hai mí mắt của gã gần như nhắm tịt lại. “Chậc, nhiều người nói đó không hẳn là cách để, anh biết đấy, xác định cái gì là tốt, cái gì là xấu.”

“Được rồi, vậy thế nào là tốt, thế nào là xấu?” Stephen bật lại. “Tôi cũng chẳng làm điều gì khác với những điều Chúa làm. Người tốt chết và người xấu cũng chết trong một vụ lật tàu và không ai trách móc Chúa vì điều đó cả. Một số sát thủ chuyên nghiệp gọi nạn nhân của chúng là mục tiêu hoặc đối tượng. Tôi còn nghe nói có kẻ gọi các nạn nhân là xác chết. Ngay cả trước khi hắn giết được họ. Kiểu như Xác chết đang rời xe. Tôi đang bám theo hắn. Theo tôi nghĩ, có lẽ hắn cảm thấy dễ dàng hơn khi nghĩ về những nạn nhân theo cách đó. Còn tôi ư, tôi không quan tâm. Tôi gọi họ đúng như con người họ thôi. Những kẻ mà tôi đang bám theo lúc này là Người vợ và Người bạn. Tôi đã giết được Người chồng. Tôi nghĩ về họ như thế đấy. Họ là những người tôi giết. Chẳng có gì to tát cả.”

Jodie suy nghĩ về những gì gã vừa được nghe rồi nói, “Anh có biết điều này không? Tôi không hề nghĩ rằng anh là người xấu xa. Anh biết tại sao không?”

“Tại sao vậy?”

“Bởi vì xấu xa phải là kẻ lúc nào cũng tỏ ra vô tội nhưng thực ra lại rất tồi tệ. Trong khi đó anh hoàn toàn đúng như con người thực của anh. Tôi thấy như thế là rất tốt.”

Stephen búng những ngón tay được kỳ cọ sạch bóng của hắn kêu đánh tách một cái. Hắn lại cảm thấy mặt mình bắt đầu nóng ran. Suốt bao nhiêu năm nay mới lại có cảm giác đó. Cuối cùng, hắn hỏi, “Tôi làm anh sợ, đúng không?”

“Không”, Jodie nói. “Tôi chỉ không muốn làm kẻ thù của một người như anh. Không, tôi không bao giờ muốn như thế cả. Nhưng tôi có cảm giác như thể chúng ta là bạn bè vậy. Tôi không nghĩ là anh sẽ hại tôi.”

“Không”, Stephen nói. “Chúng ta là cộng sự mà.”

“Anh vừa kể về bố dượng của anh. Ông ấy còn sống chứ?”

“Không, ông ấy chết rồi.”

“Tôi rất tiếc. Lúc anh nhắc đến ông ấy tôi lại chợt nghĩ đến bố tôi – ông ấy cũng chết rồi. Bố tôi từng nói rằng điều ông ấy ngưỡng mộ nhất trên đời này chính là tinh thầnnhất nghệ tinh, nhất thân vinh. Ông ấy thích được chứng kiến một con người giỏi giang làm đúng sở trường của mình. Cũng giống hệt như anh bây giờ.”

“Nhất nghệ tinh”, Stephen lặp lại, cảm thấy trong lòng ngập tràn những cảm xúc không sao diễn tả được bằng lời. Hắn nhìn Jodie giấu tập tiền vào một khe hở trong tấm đệm hôi hám của gã, “Anh định làm gì với số tiền đó?”

Jodie ngồi dậy và nhìn Stephen với đôi mắt lờ đờ nhưng cũng đầy quả quyết. “Tôi cho anh xem cái này nhé?” Ma túy làm giọng gã lạc hẳn đi.

Được thôi.”

Gã rút trong túi áo ra một cuốn sách. Nhan đề cuốn sách là Dependent No More[89].

“Tôi ăn trộm nó ở một cửa hàng sách trên phố Saint Marks Place. Chắc anh cũng biết, đây là quyển sách dành cho những người không muốn là nghiện rượu hoặc ma túy cả đời. Sách hay lắm. Trong đó giới thiệu cả những trung tâm cai nghiện có uy tín. Tôi đã tìm thấy một nơi ởNew Jersey. Anh chỉ cần tới đó và ở lại một tháng – trọn một tháng – thế rồi anh bước ra và hoàn toàn sạch sẽ. Thấy họ bảo là có tác dụng thực sự đấy.”

“Như thế thì tốt cho anh”, Stephen nói. “Tôi ủng hộ điều đó.”

“À, vâng, nhưng”, Jodie vừa nói vừa nhăn mặt. “Phải mất đến mười bốn nghìn đô la cơ.”

“Không đùa chứ.”

“Cho một tháng. Anh có tin được không?”

“Có vẻ như ở đó ăn nên làm ra đấy nhỉ.” Mỗi phi vụ Stephen kiếm được một trăm năm mươi nghìn đô la, nhưng hắn không chia sẻ thông tin này với Jodie, người bạn và là cộng sự mới của hắn.

Jodie thở dài, giơ ống tay lau mắt. Tác dụng của ma túy đã làm nước mắt hắn giàn giụa, hình như là thế. Cũng giống bố dượng của Stephen, mỗi khi ông ta uống rượu. “Cả đời tôi là cả một mớ bung bét”, gã kể lể. “Tôi có học đại học. Vâng, thật thế mà. Mà học không tệ chút nào chứ. Tôi đi dạy một thời gian. Rồi làm việc cho một công ty. Rồi tôi thất nghiệp. Mọi chuyện bắt đầu trở nên tồi tệ. Rồi tôi mất căn hộ của mình… Suốt từ hồi đây tôi đã gặp vấn đề với thuốc. Tôi bắt đầu ăn trộm… Ôi, chó chết thật…”

Stephen ngồi xuống bên cạnh gã. “Anh sẽ nhận được tiền của mình và sẽ vào trung tâm cai nghiện kia. Rồi làm lại cuộc đời.”

Jodie nở một nụ cười ngây ngô với hắn. “Anh biết không? Bố tôi thường nói một câu thế này chứ. Đó là khi con người ta phải làm một điều gì đó khó khăn. Bố tôi bảo hãy đừng nghĩ đến phần khó khăn như là một vấn đề, hãy chỉ coi đó là một nhân tố. Kiểu như là một điều phải cân nhắc thêm. Ông thường nhìn thẳng vào mắt tôi và bảo, “Đó không phải là một vấn đề, mà chỉ là một nhân tố”. Tôi vẫn luôn tự nhủ phải ghi nhớ điều đó.”

“Không phải là một vấn đề, mà chỉ là một nhân tố”, Stephen nhắc lại. “Tôi thích câu nói đó.”

Stephen đặt tay mình lên chân Jodie để chứng minh rằng hắn thực sự thích câu nói đó.

Quân nhân, anh đang làm cái trò quái quỷ gì vậy?

Thưa ngài, lúc này toi đang bận, thưa ngài. Sẽ báo cáo lại sau ít phút.

Quân nhân…

Để sau, thưa ngài!

“Uống mừng anh nào”, Jodie nói.

“Không, mừng anh chứ”, Stephen nói.

Và chúng nâng cốc, nước khoáng và nước cam ép, uống mừng sự liên minh kỳ lạ của chúng.

Chú thích

[89]Dependent No More: Không còn lệ thuộc.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


Giờ thứ 24 của 45

Một mê cung.

Hệ thống tàu điện ngầm của thành phố New York trải dài hơn 250 dặm và bao hàm trong đó hơn một tá những đường hầm riêng lẻ chạy ngang dọc qua bốn trong tổng số năm quận của thành phố (chỉ trừ có quận Staten Island, mặc dù tất nhiên là người dân quận đảo này cũng có mạng lưới phà trứ danh của riêng mình).

Một vệ tinh có thể xác định được một chiếc thuyền buồm lênh đênh trên Bắc Đại Tây Dương trong khoảng thời gian còn nhanh hơn đội điều tra của Lincoln có thể lần ra hai người đàn ông ẩn náu trong hệ thống tàu điện ngầm của New York.

Nhà hình sự học, Sellito, Sachs và Cooper đang chúi mũi vào tấm bản đồ của hệ thống tàu điện ngầm được dán vội vàng trên tường trong phòng Lincoln Rhyme. Đôi mắt của Rhyme liếc nhanh qua những đường vẽ màu khác nhau tượng trưng cho vô số tuyến tàu điện ngầm, màu xanh lam cho khu Đại Lộ Tám, màu xanh lục cho khu Lextington, màu đỏ cho khu Broadway.

Rhyme có một mối quan hệ đặc biệt với hệ thống loằng ngoằng này. Chính trong hầm móng sâu của một công trường xây dựng đường tàu điện ngầm, một thanh rầm bằng gỗ sồi đã rơi xuống và đập nát cột sống của Rhyme – đúng lúc anh vừa kịp “À” một tiếng và nhoài người về phía trước để nhặt lên một sợi tơ, vàng óng như tóc một thiên thần, khỏi xác của một nạn nhân bị sát hại.

Nhưng thậm chí ngay từ trước khi xảy ra vụ tai nạn, những đường tàu điện ngầm vẫn luôn đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vựa khoa học hình sự của NYPD. Rhyme đã cần mẫn nghiên cứu chúng khi anh còn chỉ huy IRD: bởi vì chúng trải rộng qua rất nhiều địa hình và liên quan đến cơ man nào là các loại vật liệu xây dựng khác nhau suốt bao nhiêu năm, hầu như bao giờ cũng có thể tìm được mối liên hệ giữa một hung thủ với một tuyến tàu điện ngầm nhất định, nếu không phải khu vực hoặc nhà ga gần nơi hắn sống, chỉ cần căn cứ vào những bằng chứng vi lượng. Suốt bao năm ròng Rhyme đã thu thập rất nhiều mẫu vật trong các đường tàu điện ngầm – một số mẫu thậm chí còn có nguồn gốc từ nửa cuối thể kỷ XIX. (Vì chính giai đoạn những năm 1860 là thời điểm Alfred Beach, ông chủ bút của hai tờ New York Sun và Scientific American, quyết định áp dụng ý tưởng của mình về việc chuyển thư báo qua những đường ống khí nén vào việc vận chuyển người trong những đường hầm lớn hơn.)

Lúc này Rhyme ra lệnh cho máy tính của mình gọi tới một số điện thoại và giây lát sau anh đã được nối máy với Sam Hoddleston, chỉ huy bộ phận Cảnh sát giao thông. Cũng giống như Cảnh sát Khu vực dân cư, họ thuộc biên chế thường trực của cảnh sát thành phố New York, không khác gì NYPD, chỉ có điều lĩnh vực công tác và quản lý của họ là hệ thống giao thông trong thành phố. Hoddleston biết Rhyme từ ngày xưa, và trong khoảng im lặng đi kèm sau khi tự giới thiệu tên mình, Rhyme hình dung ra người ở đầu dây kia đang cố kiềm chế không tỏ ra sững sờ; Hoddleston, giống như phần lớn đồng nghiệp cũ của Rhyme, không hề biết rằng anh đã quay lại sau lần giáp mặt với tử thần.

“Chúng tôi có cần cho cắt điện ở một số tuyến đường không?”, Hoddleston hỏi sau khi Rhyme thông báo qua cho anh ta về tên Vũ công và đồng bọn của hắn. “Tiến hành một cuộc càn quét?”

Sellitto nghe thấy câu hỏi qua loa và quả quyết lắc đầu.

Rhyme cũng đồng tình. “Không, chúng tôi không muốn tự làm khó mình. Vả lại, tôi nghĩ hắn đang ẩn náu ở một khu vực bỏ hoang.”

“Cũng chẳng có nhiều nhà ga bỏ không đâu”, Hoddleston nói. “Nhưng có đến cả trăm đường rẽ, xưởng sửa chữa và khu vực làm việc cũ không còn dùng đến nữa. Mà này, Lincoln, anh thế nào rồi? Tôi…”

“Tốt, Sam ạ. Tôi ổn mà”, Rhyme nói dứt khoát, lảng tránh sự quan tâm của người khác như mọi khi. Rồi nói thêm, “Chúng tôi đang bàn – chúng tôi cho rằng có lẽ bọn chúng chỉ đi bộ thôi. Tránh xa những đoàn tàu. Vì vậy chúng tôi đoán bọn chúng vẫn đang trong khu Manhattan. Ở đây chúng tôi cũng đã có bản đồ rồi và chúng tôi sẽ cần đến sự giúp đỡ của anh để thu hẹp phạm vi tìm kiếm.”

“Bất kỳ điều gì tôi có thể làm”, người chỉ huy nói. Rhyme thậm chí còn không nhớ anh ta trông như thế nào. Căn cứ vào giọng nói thì có vẻ anh ta là một người khỏe mạnh và lực lưỡng, nhưng rồi Rhyme chợt nhớ ra ngay chính bản thân anh cũng có thể là một vận động viên Olympic đối với bất kỳ ai chỉ nghe tiếng chứ không nhìn thấy cơ thể tàn phế của anh.

Lúc này Rhyme xem xét nốt số bằng chứng còn lại mà Sachs đã tìm thấy trong tòa nhà ngay sát ngôi nhà an toàn – những bằng chứng do tên đồng bọn của tên Vũ công bỏ lại.

Anh nói với Hoddleston, “Chất đất này có thành phần ẩm rất cao và dính đầy những hạt cát thạch anh và khoáng chất fenspat”.

“Tôi nhớ rồi, lúc nào anh cũng mê mẩn với các loại đất của mình, Lincoln.”

“Đất cũng hữu ích lắm đấy”, anh nói rồi tiếp tục. “Có rất ít hạt đá và trong số đó không hạt nào nứt gãy hoặc sắc cạnh, không có đá vôi hoặc đá phiến mica Manhattan. Do đó chúng tôi sẽ tập trung vào khu Hạ. Và căn cứ vào những mẩu gỗ mục lâu đời, có lẽ là trong phạm vi gần với phố Canal.”

Ở phía bắc của phố Hai mươi bảy là nền đá cứng nằm sát với bề mặt khu Manhattan. Ở phía nam con phố này, bề mặt toàn là đất, cát, đất sét và đặc biệt là rất ẩm ướt. Nhiều năm trước khi các công nhân đào khoét khu này để làm đường hầm cho tàu điện ngầm, nền đất lõng bõng nước xung quanh phố Canal lần nào cũng làm cho hầm của họ bị ngập chìm trong nước. Cứ hai ngày một lần, toàn bộ công trình phải dừng lại để chờ bơm nước ra khỏi đường hầm và dùng gỗ gia cố cho các vách hầm, sau nhiều năm những cây gỗ ngày nào đã mục nát và tan vào đất.

Hoddleston không lấy gì làm lạc quan. Anh giải thích rằng mặc dù thông tin của Rhyme đã thu hẹp được diện tích địa lý, nhưng vẫn còn đến hàng chục đường hầm chạy chằng chịt, những sân ga chuyển tiếp đi kèm và ngay nhiều khu vực của chính các nhà ga cũng đã bị đóng cửa sau ngần ấy năm hoạt động. Một số nhà ga đã bị niêm phong và quên lãng không khác gì những ngôi mộ thời Ai Cập cổ đại. Nhiều năm sau khi Alfred Beach qua đời, trong khi xây dựng một tuyến tàu điện ngầm mới, các công nhân đã đục xuyên qua một vách tường và phát hiện ra đường hầm cũ của ông trước kia, đã bị bỏ đi từ lâu, nhưng vẫn còn nguyên nhà chờ sang trọng, trong đó còn có cả những bức bích hoạ, một cây dương cầm lớn, thậm chí còn nguyên cả một bể cá vàng.

“Liệu có khả năng hắn chỉ ngủ tạm trong các nhà ga đang hoạt động hoặc trong một đoạn hầm nào đó giữa các nhà ga không?” Hoddleston hỏi.

Sellitto lắc đầu. “Như vậy không ăn khớp với chân dung của hắn. Tên này nghiện ma túy. Chắc chắn hắn sẽ phải có một nơi giấu thuốc cố định.”

Rồi Rhyme kể cho Hoddleston về tấm khảm màu ngọc lam.

“Không thể biết được cái đó ở đâu ra, Lincoln. Chúng tôi đã cho ốp lại không biết bao nhiêu gỗ, bụi gạch men cũ và vữa rải ra khắp mọi nơi. Ai mà biết được hắn dính phải những thứ đó ở đâu chứ.”

“Vậy cứ cho tôi một con số đi, ông bạn”, Rhyme nói. “Tóm lại là chúng tôi sẽ phải tìm kiếm ở bao nhiêu điểm đây?”

“Theo tôi tính thì phải đến hai mươi địa điểm”, giọng nói ồm ồm của Hoddleston đáp lại. “Có thể là ít hơn một chút.”

“Ôi chao ôi”, Rhyme lầm bầm. “Thôi được, hãy fax cho chúng tôi danh sách những điểm có khả năng cao nhất vậy.”

“Được rồi. Khi nào anh cần nó đấy?” Nhưng trước khi Rhyme kịp trả lời, Hoddleston đã nói, “Thôi, tôi biết rồi. Tôi nhớ chắc anh vẫn như ngày trước thôi, Lincoln. Anh muốn có nó từ hôm qua kia.”

“Tuần trước chứ”, Rhyme nói đùa, sốt ruột khi thấy tay chỉ huy vẫn đang cợt nhả chứ chưa bắt tay vào viết lách gì cả.

Năm phút sau tín hiệu tít tít vang lên từ máy fax. Thom đặt tờ giấy ngay trước mặt Rhyme. Trong đó liệt kê mười lăm địa điểm trong hệ thống tàu điện ngầm. “Được rồi, Sachs, bắt đầu thôi.”

Cô gật đầu trong khi Sellitto gọi điện yêu cầu Haumann và Dellray triển khai các đội S&S sẵn sàng. Rhyme nói thêm với vẻ dứt khoát, “Amelia, cô phải ở nguyên phía sau đấy, hiểu chứ? Cô là chuyên viên khám nghiệm hiện trường, nhớ chưa? Chỉ khám nghiệm hiện trường thôi đấy”.

Trên một góc hè phố mạn Hạ Manhattan, Leon Cò Mồi đang ngồi ngáp vặt. Bên cạnh hắn là Người Gấu – hắn mang cái biệt danh như vậy vì hắn chuyên đẩy một chiếc xe mua hàng chất đủ các loại thú nhồi bông, có lẽ là để bán, mặc dù chỉ có những ông bố bà mẹ thần kinh mới đi mua một trong những thứ đồ chơi bé tí, bẩn thỉu và nát bươm này cho con mình.

Leon và Người Gấu sống chung với nhau – có nghĩa là chúng cùng chia sẻ một con hẻm gần khu China town[90]– và vất vưởng qua ngày nhờ những chai bia thừa, của bố thí và thỉnh thoảng giở thêm vài ngón trộm cắp vặt vô hại.

“Ê, mày ơi, nó chết đến nơi rồi kìa”, Leon nói.

“Trời ơi, nếu thế thì thật là ác mộng”, Người Gấu đáp, tay vẫn không quên lắc lư chiếc xe đẩy mua hàng của hắn như thể đang cố dỗ dành cho lũ gấu của mình ngủ ngoan.

“Bọn mình đành tốn vài xu, gọi cho xe cấp cứu tới đây thôi.”

Leon và Người Gấu đang nhìn sang bên kia đường, trong một con hẻm khác. Nằm co quắp trong đó là một người đàn ông vô gia cư khác, người da đen và trông có vẻ bệnh hoạn, bộ mặt méo mó và tiều tụy – mặc dù ngay lúc này có vẻ gã đang bất tỉnh. Quần áo của gã rách bươm như xơ mướp.

“Phải gọi cho ai đó.”

“Mình sang xem thế nào.”

Chúng băng qua phố, rón rén như những con chuột.

Người đàn ông gầy trơ xương – có lẽ là bị bệnh AIDS, điều đó mách bảo chúng rằng có thể gã này chích hàng trắng – và hôi thối. Ngay cả Leon và Người Gấu thỉnh thoảng cũng còn tắm rửa ở đài phun nước trong Công viên Quảng trường Washington hoặc trong cái hồ nhỏ trong Công viên Trung tâm, bất chấp lũ rùa. Gã này mặc cái quần jean rách tả tơi, đi tất bẩn, không có giày, chiếc áo khoác rách nát, hôi hám có in dòng chữ, Cats… The Musical.

Chú thích

[90]China Town: Khu phố của người Trung Quốc ở New York.

Chúng chăm chú nhìn gã hồi lâu. Khi Leon ngập ngừng chạm thửvào chân Cats, gã này mở choàng mắt và ngồi bật dậy, làm hai tên sợcứng người bằng một ánh mắt quái đản. “Chúng mày là lũ chó chết nào hả? Chúng mày là lũ chó chết nào hả?”

“Ê, anh bạn, có sao không?” Chúng thận trọng lùi lại một chút.

Cats run lẩy bẩy, hai tay ôm chặt lấy bụng. Gã ho một tràng dài và Leon thì thầm, “Trông nó tởm bỏ mẹ, như thằng sắp chết ấy chứ còn ốm đau gì nữa, mày có nghĩ thế không?”.

“Nó ghê quá. Bọn mình đi đi.” Người Gấu chỉ muốn quay lại với chiếc xe đẩy mua hàng A&P của mình.

“Cứu tôi với”, Cats rên rỉ. “Tôi đau lắm, ối làng nước ơi.”

“Có một bệnh viện ở bên kia…”

“Tao đếch vào bệnh viện được”, Cats gầm lên, như thể bọn chúng vừa xúc phạm gã vậy.

Vậy là gã này từng có tiền án, mà trên đường phố thì từ chối không vào bệnh viện khi bị ốmđến mức này có nghĩa là anh phải có tiền án nghiêm trọng. Có lẽ là lệnh truy nã tội phạm đặc biệt cũng nên. Hẳn thế, dính phải thằng này là rắc rối to rồi.

“Tao cần có thuốc. Bọn mày có không? Tao sẽ trả tiền. Tao có xèng đây.”

Điều đó thì đừng hòng bắt chúng tin thực tế rằng Cats là một thằng bới rác. Mà chúng cũng có thể thấy rằng gã lại còn bới rác thành thần ấy chứ. Bên cạnh gã là một túi to bự chảng những vỏ lon bia và soda mà gã đã moi móc được từ những thùng rác. Leon thèm thuồng nhìn chiếc túi. Chắc phải mất đến hai ngày mới tích cóp được ngần ấy vỏ lon. Đáng giá khoảng ba mươi đô la, có khi là bốn mươi ấy chứ.

“Bọn này không có gì cả. Bọn này không chuyên hàng đó. Ý tôi là hàng trắng ấy.”

“Chắc ý nó là thuốc chữa bệnh cơ mà.”

“Anh có muốn vài chai không? T-bird nhé. Tôi có mấy chai Thunderbird ra tròđây này, thưa quý anh. Sẵn sàng đổi cho anh lấy đống vỏ lon…”

Cats run rẩy cố chống tay để nhổm người lên. “Tao đếch cần mấy cái chai chết tiệt của mày. Tao bị chúng nó đánh. Mấy thằng ranh con, bọn nó nện tao. Bọn nó làm dập cái gì đó bên trong hay sao ấy. Tao thấy khác thường lắm. Tao cần thuốc. Không phải tài mà, hàng trắng hay cái thứ T-bird khốn nạn của mày. Tao cần thứ gì đó làm tao hết đau. Tao cần thuốc!” Gã lồm cồm đứng dậy và loạng choạng như chực đổ nhào về phía Người Gấu.

“Không có gì đâu, anh bạn. Bọn này chẳng có gì đâu.”

“Tao đang hỏi chúng mày lần cuối cùng đấy, bọn mày có định cho tao thứ gì đó không thì bảo?” Gã rên rỉ ôm lấy một bên sườn. Hai gã vô gia cư biết là có những thằng nghiện nhiều khi khỏe như ma điên. Mà thằng cha này lại còn to xác nữa chứ. Hắn có thể bẻ chúng ra làm đôi, dễ như ăn kẹo.

Leon thì thào với Người Gấu, “Này, cái thằng hôm trước ấy?”.

Người Gấu gật đầu lia lịa, mặc dù hắn đang sợ đến vãi linh hồn và chẳng nhớ quái gì cả. Hắn không hề biết Leon đang nói đến thằng cha chết dẫm nào nữa.

Leon nói tiếp, “Có một thằng hôm trước còn gì? Mới hôm qua thôi chứ đâu, nó còn định bán cho tao với mày mấy cái thứ cứt đái. Thuốc ấy. Rất nhiệt tình mời mọc”.

“Đúng rồi, rất nhiệt tình mời mọc”, Người Gấu vội vàng phụ họa, như thể việc hắn chứng thực câu chuyện sẽ làm cho Cats bình tĩnh lại.

“Hắn đếch quan tâm khách hàng là ai. Chỉ bán thuốc thôi. Không phải tài mà, không phải hàng trắng, không phải bồ đà. Chỉ là thuốc an thần, giảm đau tổng hợp, đủ các loại.”

“Đúng, đủ các loại.”

“Tao có tiền.” Cats lục lọi trong túi áo bẩn thỉu của gã rồi rút hai, ba tờ hai mươi đô nhàu nát. “Bọn mày thấy chưa? Thế cái thằng chó chết ấy rúc ở xó nào?”

“Ở đằng mạn gần Tọa thị chính thành phố. Ga tàu điện ngầm cũ…”

“Tao bị ốm, lũ khốn kia. Tao bị chúng nó nện nhừ tử. Tại sao bọn nó lại đánh tao? Tao có làm gì đâu? Tao chỉ nhặt nhạnh mấy cái vỏ lon. Thế mà, chúng mày nhìn xem. Chó chết. Tên nó là gì?”

“Tôi không biết”, Người Gấu lắp bắp, trán hắn nhăn nhúm như thể đang suy nghĩ dữ dội lắm. “Không, chờ chút. Hôm đấy nó có nói cái tên gì đấy.”

“Tao không nhớ.”

“Mày có nhớ… Nó còn xem mấy con gấu của mày mà.”

“À, nó có nói gì đấy. Đúng rồi, nhớ rồi. Nó bảo tên nó là Joe hay đại loại thế. Có lẽ là Jodie.”

“Ừ, đúng rồi đấy. Tao nhớ rồi.”

“Jodie”, Cats nhắc lại, rồi giống tay lên quệt trán. “Tao sẽ đi tìm nó. Lũ khốn nạn. Tao cần thứ gìđó. Tao ốm lắm rồi. Lũ chó. Đ… mẹ chúng nó. Tao đau lắm. Đ… mẹ bọn mày nữa.”

Khi Cats đã lảo đảo bỏ đi, hết rên rỉ lại lẩm bẩm chửi rủa một mình, không quên kéo lê túi vỏlon phía sau lưng, Leon và Người Gấu quay lại góc phố của mình và ngồi phịch xuống. Leon mở một chai bia Voodoo và cả hai cùng uống.

“Lẽ ra bọn mình không nên làm khó thằng kia như thế”, hắn nói.

“Thằng nào?”

“Jodie ấy, mà tên nó là gì cũng mặc mẹ.”

“Thế mày muốn thằng mọi chó chết lởn vởn ở đây à?”, Người Gấu hỏi. “Nó nguy hiểm lắm. Nó làm tao sợ phát khiếp. Mày muốn nó cứ lởn vởn ở đây chắc?”

“Tất nhiên là không. Nhưng mà, mày biết đấy.”

“Ừ, nhưng…”

“Mày biết mà, bồ tèo.”

“Ừ, tao biết. Đưa tao cái chai.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Giờ thứ 25 của 45

Ngồi bên cạnh Jodie trên tấmđệm, Stephen đang chăm chú nghe hộp ghi âm nghe trộm đường dây của Hudson Air.

Hắnđang nghe trộm điện thoại của Ron. Talbot là họ của ông ta, giờ thì hắn đã biết điều đó. Hắn cũng không biết đích xác công việc của Ron là gì nhưng có vẻ như ông ta là người quản lý trong công ty bay dịch vụ và Stephen tin chắc rằng hắn sẽ nhận được hầu hết những thông tin về Người vợ và Người bạn bằng cách tiếp tục nghe trộm đường điện thoại này.

Hắn nghe tiếng người đàn ông đang cao giọng quát tháo với ai đó ở công ty phân phối Garret phụ trách việc cung cấp phụ tùng cho những động cơ tua pin. Vì hôm nay là Chủ nhật nên họ gặp khó khăn trong việc cung cấp những món phụ tùng cần thiết cho việc sửa chữa–một chiếc bình cứu hỏa và cái gì đó được gọi là buồng đốt vòng xuyến annular.

“Các ông đã hứa là hàng sẽ đến lúc ba giờ”, Ron gầm lên. “Tôi muốn có chúng lúc ba giờ.”

Sau một hồi mặc cả – và cãi vã – công ty kia đồng ý dùng máy bay chuyển số phụ tùng kia từ Boston đến văn phòng của họ ở Connecticut. Sau đó những phụ tùng này sẽ được chở bằng xe tải đến văn phòng của Hudson Air khoảng ba, bốn giờ chiều. Hai bên cùng gác máy.

Stephen tiếp tục nghe ngóng vài phút nữa nhưng không có thêm cuộc gọi nào.

Hắn tắt điện thoại, cáu kỉnh.

Hắn hoàn toàn không có manh mối gì về nơi ẩn náu của Người vợ và Người bạn lúc này. Vẫn ở trong ngôi nhà an toàn? Hay họ đã được chuyển đi chỗ khác?

Tên Lincoln Con Giòi đó đang âm mưu điều gì nhỉ? Hắn thông minh đến mức nào?

Và hắn là ai? Stephen cố hình dung ra hắn, cố gắng tưởng tượng ra hắn như một mục tiêu qua ống kính ngắm Redfield. Nhưng bất lực. Tất cả những gì hắn có thể thấy chỉ là một đàn giòi nhung nhúc và khuôn mặt đang lạnh lùng theo dõi hắn từ khung cửa sổ tối tăm.

Hắn chợt nhận ra Jodie vừa nói gì đó với mình.

“Cái gì cơ?”

“Ông ấy làm nghề gì? Bố dượng của anh ấy?”

“Chủ yếu là những việc linh tinh thôi. Phần lớn thời gian là câu cá và đi săn. Ông ấy là một anh hùng trong chiến tranh ở Việt Nam. Thấy bảo ông ấy từng xâm nhập vào hậu phương của đối phương và giết được năm mươi tư người liền. Toàn cán bộ và những người có chức vụ, chứ không chỉ là binh lính quèn.”

“Ông ấy đã dạy cho anh tất cả những, những gì… mà anh đang làm bây giờ à?” Ma túy đã bắt đầu hết tác dụng và đôi mắt xanh của Jodie trông long lanh hơn bao giờ hết.

“Tôi học nghề chủ yếu ở châu Phi và Nam Mỹ, nhưng chính ông ấy đã dạy tôi từ đầu. Tôi gọi ông ấy là “WGS”. The World’s Greatest Soldier – Người lính vĩ đại nhất thế giới. Ông ấy vẫn cười nhạo tôi vì chuyện đó.”

Hồi mới độ tám, chín và mười tuổi Stephen đã suốt ngày lẽo đẽo bám theo Lou khi hai bố con hành quân qua những dãy đồi của vùng West Virginia, những giọt mồ hôi nóng hổi nhỏ ròng ròng trên mũi họ rồi dính vào những ngón tay trỏ uốn cong của hai bố con đang đặt trên vành cò của những khẩu súng săn Winchester hoặc Ruger. Họ thường nằm phục trong bụi cỏ hàng giờ liền và im phăng phắc, bất động như hóa đá. Mồ hôi sáng lấp lánh trên trán Lou ngay phía dưới mái tóc cắt cua tua tủa, đôi mắt mở to trừng trừng dán chặt vào con mồi phía trước.

Anh vừa nheo mắt đúng không, quân nhân?

Thưa ngài, không bao giờ có chuyện đó, thưa ngài.

Sóc, gà tây hoang, hươu trong mùa săn hoặc không phải trong mùa săn, gấu bất kì lúc nào họ phát hiện được, thậm chí cả chó trong những ngày vô công rồi nghề.

“Cho chúng tiêu đi, quân nhân. Nhìn tôi làm đây.”

Đoàng! Tiếng huỵch của đôi vai đổ xuống đất, đôi mắt thảng thốt của con vật đang hấp hối.

Hoặc vào những ngày Chủ nhật oi nóng đến phát sốt, hai bố con lại nạp những viên đạn khí CO2vào hai khẩu súng hơi bắn đạn sơn rồi cởi bỏ quần áo dài, chỉ mặc độc những chiếc quần đùi, chơi trò rình bắn và tặng nhau những cục u sưng vù ở ngực và hông, dấu ấn của những viên đạn to cỡ viên bi ve rít veo véo trong không khí với tốc độ lên đến 300 feet một giây. Cậu bé Stephen hồi đó phải cố cắn chặt răng để không òa lên khóc nức nở sau mỗi phát đạn đau khủng khiếp. Những viên đạn sơn đủ màu, nhưng Lou nhất định bắt phải chọn những viên màu đỏ. Như màu máu.

Và khi đêm xuống, ngồi trước đống lửa chất trong vườn sau nhà nhìn làn khói lơ lửng bay lên trời và lan cả đến khung cửa sổ để ngỏ, nơi mẹ hắn đang đứng rửa đống bát đĩa của bữa tối với một chiếc bàn chải đánh răng, người đàn ông bé choắt nhưng chắc nịch kia – khi mới mười lăm tuổi Stephen đã cao không kém gì Lou – lại nhâm nhi một chai Jack Daniel vừa mở và nói, rồi nói, rồi nói, thao thao bất tuyệt, không thèm để ý đến việc Stephen có nghe hay không, khi hai bố con cùng chăm chú ngắm nhìn những tàn lửa bắn tung lên trời như những con cánh cam sáng rực.

“Ngày mai tôi muốn anh hạ gục một con hươu chỉ bằng một con dao găm thôi.”

“Dạ, ừm…”

“Anh có làm được không, quân nhân?”

“Thưa ngài, tôi làm được.”

“Nào, hãy nghe cho rõ.”Ông ta lại tu ừng ực một hơi nữa. “Theo anh nghĩ thì động mạch cổ nằm ở đâu?”

“Tôi…”

“Đừng có sợ nói ra những gì anh không biết. Một người lính giỏi phải dám thừa nhận sự dốt nát của mình. Nhưng sau đó anh ta sẽ hành động để sửa chữa.”

“Tôi không biết động mạch cổ nằm ở đâu, thưa ngài.”

“Để ta cho anh biết nhé. Nó nằm đúng chỗ này. Thấy không? Đúng chỗ đó đấy. Thấy chưa?”

“Thưa ngài, tôi thấy rồi.”

“Nào, nhiệm vụ của anh lúc này là tìm được một gia đình hươu – hươu mẹ và hươu con. Anh bí mật áp sát. Tiếp cận mục tiêu bao giờ cũng là phần khó nhất. Để giết con hươu mẹ, anh phải đe dọa con hươu con. Anh bám theo con của nó. Anh đe dọa con hươu con và như thế con hươu mẹ sẽ không bao giờ dám bỏ đi. Nó sẽ phải lẽo đẽo bám theo anh. Sau thì, xoẹt! Hãy cắt xuyên qua cổ nó. Đừng cắt ngang, mà phải nghiêng đi một góc. Hiểu chưa? Một vết cắt hình chữ V. Anh cảm thấy không? Tốt lắm, tốt lắm. Ê, cậu nhóc, nghĩ lại những ngày xưa kể cũng thú phải không?”

Rồi Lou sẽ vào trong nhà để kiểm tra những chồng bát đĩa mới rửa xong và bảo đảm rằng chúng đã được xếp ngay ngắn trên tấm khăn trải bàn kẻ ca rô, cách mép bàn đúng bốn ô vuông, và thỉnh thoảng chỉ cần chúng nằm cách mép bàn có ba ô rưỡi thôi chẳng hạn hay là khi vẫn còn một vết bẩn nhỏ xíu dính lại trên vành chiếc đĩa sứ là Stephen lại nghe thấy những tiếng tát bốp bốp và sau đó là tiếng thút thít van vỉ từ trong nhà vẳng ra, trong khi hắn vẫn nằm bên đống lửa, ngửa mặt lên nhìn những tàn lửa bốc cao tít về phía mặt trăng lạnh lẽo.

“Con người ta phải giỏi một cái gì đó”, sau đó bao giờ ông ta cũng nói câu này, khi vợ ông ta đã vào giường còn ông ta ra ngoài với cái chai của mình. “Nếu không thế thì đừng nên sống trên đời này làm gì.”

Nhất nghệ tinh. Ông ta đang nói đến chuyện nhất nghệ tinh.

Jodie đang hỏi hắn, “Vậy tại sao anh lại không thể gia nhập lính thủy đánh bộ? Anh chưa kể cho tôi biết”.

“À, chuyện ngớ ngẩn ấy mà”, Stephen nói, rồi im bặt, rồi lại nói tiếp, “Tôi dính vào một vài chuyện rắc rối khi tôi còn bé. Ai mà chẳng thế, đúng không?”.

“Gặp rắc rối ấy à? Tôi thì không nhiều. Tôi nhút nhát lắm. Tôi không bao giờ muốn làm điều gì khiến mẹ tôi buồn lòng, ăn trộm hay những chuyện linh tinh. Thế anh đã gây chuyện gì vậy?”

“Một chuyện thực ra cũng không có gì là vẻ vang cho lắm. Có một thằng cha sống ở cuối con đường chạy qua thị trấn của chúng tôi. Anh biết đấy, hắn là một thằng vũ phu. Tôi nhìn thấy hắn vặn tay một phụ nữ. Bà ta bị ốm, vậy mà hắn còn hành hạ bà ta chứ? Thế là tôi bước tới, trước mặt hắn và bảo nếu hắn không dừng lại tôi sẽ giết hắn.”

“Anh nói thế thật sao?”

“Ồ, và còn điều này nữa mà ông bố dượng đã dạy tôi. Đừng bao giờ hăm dọa. Hoặc là anh giết kẻ nào đó hoặc là cứ mặc xác hắn, chứ đừng bao giờ mất công hăm dọa làm gì. Hừ, hắn vẫn tiếp tục hành hạ người phụ nữ và tôi phải dạy cho hắn một bài học. Tôi bắt đầu đánh hắn. Mọi chuyện vượt khỏi tầm kiểm soát. Tôi vớ được một hòn đá và nện hắn. Lúc đó tôi không kịp suy nghĩ gì cả. Tôi phải ngồi tù vài năm vì tội ngộ sát. Hồi đó tôi vẫn còn là trẻ vị thành niên. Mười lăm tuổi. Nhưng dù sao như thế cũng là tiền án. Và ngần ấy đã quá đủ để ngăn tôi không thể gia nhập lính thủy đánh bộ.”

“Tôi nghĩ tôi đã đọc ở đâu đó là ngay cả khi có tiền án chăng nữa anh vẫn có thể gia nhập quân đội cơ mà. Nếu anh chỉ phải vào cái trại cải tạo đặc biệt nào đó.”

“Theo tôi nghĩ thì có lẽ vì cái tội ngộ sát ghi trong hồ sơ.”

Bàn tay của Jodie bóp chặt trên vai Stephen. “Thật không công bằng. Không công bằng chút nào.”

“Tôi không nghĩ thế.”

“Tôi thực sự lấy làm tiếc”, Jodie nói.

Stephen, kẻ chưa bao giờ gặp bất kỳ khó khăn nào khi nhìn thẳng vào mắt người khác, vụt liếc nhìn Jodie rồi vội vàng cụp mắt xuống. Và sâu thẳm từ đâu đó, thật lạ lùng, một hình ảnh thoáng hiện ra trong đầu hắn. Jodie và Stephen sống cùng nhau trong một ngôi nhà gỗ, cùng đi săn và câu cá. Nấu bữa tối trên một đống lửa trại.

“Chuyện gì đã xảy ra với ông ta? Bố dượng của anh ấy?”

“Chết trong một vụ tai nạn. Ông ấy đang đi săn và bị ngã từ trên vực xuống.”

Jodie nói, “Nghe có vẻ như đó đúng là cách mà ông ấy sẽ chọn để ra đi”.

Sau một thoáng im lặng Stephen mới khẽ khàng nói, “Có lẽ thế”.

Hắn cảm thấy chân Jodie cọ vào chân mình. Lại một luồng điện giật chạy khắp người. Stephen vội đứng bật dậy và lại nhìn ra ngoài cửa sổ. Một chiếc xe tuần tra của cảnh sát chạy vụt qua nhưng hai tên cớm bên trong đang uống soda và cười nói gì đó.

Đường phố vắng tanh ngoài một nhúm vô gia cư, bốn, năm người da trắng và một tên mọi.

Stephen nheo mắt. Tên mọi, kéo lê sau lưng một túi rác to đùng chất đầy những vỏ lon bia và soda, đang quát tháo gì đó, mắt nhìn láo liên xung quanh, hai tay huơ lia lịa, gã đang cố giúi chiếc túi vào tay một trong mấy tên da trắng nhưng tên này lắc đầu quầy quậy. Đôi mắt đờ đẫn của gã toát lên một vẻ điên rồ và mấy tên da trắng có vẻ sợ hãi. Stephen đứng nhìn chúng cãi lộn nhau một lúc, rồi hắn quay lại chiếc đệm, ngồi xuống bên cạnh Jodie.

Stephen đặt tay hắn lên vai Jodie.

“Tôi muốn nói chuyện với anh về những gì chúng ra chuẩn bị làm.”

“Được rồi, rất sẵn lòng. Tôi đang nghe anh nói đây, cộng sự.”

“Ngoài kia có một kẻ đang truy lùng tôi.”

Jodie bật cười. Gã nói, “Theo như tôi thấy sau những gì xảy ra ở tòa nhà thì phải có cả đống người đang truy lùng anh mới phải.”

Stephen không hề mỉm cười. “Nhưng có một tên rất đáng gờm. Tên hắn là Lincoln.”

Jodie gật đầu. “Đó là tên của hắn à?”

Stephen nhún vai. “Tôi không biết…Tôi chưa bao giờ gặp bất kỳ ai như hắn cả.”

“Hắn là ai?”

Một con giòi…

“Có lẽ là một tên cớm. FBI. Một tên cố vấn hay đại loại thế. Tôi không biết đích xác.” Stephen nhớ lại những gì Người vợ miêu tả với Ron – đúng cách mà người ta thường nói về một chuyên gia bậc thầy, hoặc một hồn ma. Hắn lại cảm thấy nhớp nháp. Hắn vuốt bàn tay mình xuống dọc lưng Jodie. Bàn tay dừng lại ở cuối sống lưng người đàn ông. Cảm giác tồi tệ kia vụt biến mất.

“Đây là lần thứ hai hắn ngáng đường tôi. Và suýt chút nữa hắn đã tóm được tôi. Tôi đang cố tìm hiểu hắn nhưng không thể.”

“Anh phải tìm hiểu điều gì vậy?”

“Về những gì hắn chuẩn bị làm tiếp theo. Như thế tôi mới có thể ra tay trước hắn được.”

Lại một cái bóp chặt lên sống lưng.

Jodie không có vẻ gì là phản đối. Gã cũng không hề ngoảnh mặt nhìn ra chỗ khác. Vẻ nhút nhát của gã vụt biến đâu mất. Và ánh mắt gã nhìn Stephen mới lạ lùng làm sao. Chẳng lẽ đó là ánh mắt của…? Khỉ thật, hắn cũng không biết nữa. Có lẽ là ngưỡng mộ…

Stephen nhận ra đó chính là ánh mắt mà Sheila đã nhìn hắn trong quán cà phê Starbucks khi hắn đang bịa ra toàn những điều hươu vượn ngọt như mía lùi. Trừ một điều là, khi ở bên cô ta, hắn không còn là Stephen, mà là một con người hoàn toàn khác. Một con người không hề tồn tại. Lúc này đây Jodie đang nhìn hắn bằng đúng ánh mắtđó, ngay cả khi gã biết chính xác Stephen là ai, hắn là một sát thủ.

Vẫn để nguyên tay mình trên lưng người đàn ông, Stephen nói tiếp, “Điều tôi không thể đoán ra được là liệu hắn có định đưa họ ra khỏi nhà an toàn đó hay không. Ngôi nhà bên cạnh tòa nhà nơi tôi đã gặp anh”.

“Đưa ai cơ? Những người anh đang tìm cách giết ấy à?”

“Ừ. Hắn đang cố tỏ ra khôn ngoan hơn tôi. Hắn đang nghĩ…” Giọng nói của Stephen bỗng nhòe dần.

Suy nghĩ…

Và Lincoln Con Giòi đang nghĩ gì nhỉ? Liệu hắn có di chuyển Người vợ và Người bạn không, nếu hắn đang đoán rằng mình sẽ thử đột nhập vào ngôi nhà an toàn lần nữa? Hay hắn vẫn để họ ở đó, nghĩ rằng mình sẽ chờ đợi cơ hội tiêu diệt chúng ở một địa điểm mới? Và thậm chí cứ giả sử hắn cho rằng mình thử liều vào ngôi nhà an toàn lần nữa, liệu hắn có dám để họ ở đó làm mồi nhử, tìm cách nhử mình quay lại để chui đầu vào một cuộc phục kích lần thứ hai không? Hay hắn sẽ di chuyển hai con mồi đó tới một ngôi nhà an toàn mới? Và tìm cách đưa mình vào bẫy khi mình bám theo chúng?

Người đàn ông gầy gò nói, gần như thì thầm, “Tôi không biết nữa, nhưng hình như anh hơi mất bình tĩnh thì phải”.

“Tôi không thể nhìn thấy hắn… Tôi không biết hắn chuẩn bị hành động như thế nào. Tất cả những kẻ từng bám theo tôi thì tôi đều nhìn thấy hết. Tôi đọc được ý đồ của chúng. Với hắn, tôi bất lực.”

“Thế anh muốn tôi phải làm gì bây giờ?”, Jodie hỏi, lắc người về phía Stephen. Vai của chúng cọ sát vào nhau.

Stephen Kall, kẻ giết người lão luyện đến mức tinh diệu, đứa con riêng của một người đàn ông không bao giờ có thoáng chút lưỡng lự trong bất kì điều gì ông ta từng làm–dù là săn hươu cho đến kiểm tra những chiếc đĩa đã được cọ rửa bằng bàn chải đánh răng – giờ đây lại đang rối bời như người mất hồn, cúi gằm mặt nhìn xuống sàn, rồi ngẩng lên nhìn vào mắt Jodie.

Tay hắn đặt trên lưng người đàn ông. Vai kề vai nữa chứ.

Stephen đưa ra quyết định.

Hắn cúi người về phía trước và lục lọi một hồi trong ba lô của mình. Vài giây sau hắn tìm được một chiếc điện thoại di động màu đen, tần ngần nhìn nó một lúc, rồi đưa cho Jodie.

“Cái gì vậy?”, gã hỏi.

“Một chiếc điện thoại. Cho anh dùng.”

“Một chiếc điện thoại di động! Tuyệt quá.” Gã chăm chú kiểm tra nó như thể gã chưa bao giờ nhìn thấy chiếc điện thoại di động nào vậy, mở nó ra, săm soi từng phím bấm.

Stephen hỏi, “Anh biết thế nào là người phát hiện mục tiêu không?”.

“Không.”

“Những xạ thủ bắn tỉa cừ khôi nhất không hành động đơn độc. Bao giờ họ cũng có một trợ thủ bên mình. Nhiệm vụ của người này là xác định mục tiêu và khoảng cách, cảnh giới binh lính đối phương, tất cả những việc liên quan như vậy.”

“Anh muốn tôi làm như vậy cho anh à?”

“Chính xác. Anh biết đấy, tôi nghĩ Lincoln chuẩn bị di chuyển họ.”

“Tại sao, anh phát hiện ra à?” Jodie hỏi.

“Tôi không biết giải thích thế nào. Tôi chỉ linh cảm như vậy thôi.” Hắn nhìn đồng hồ của mình. “Được rồi, kế hoạch là thế này nhé. Đúng mười hai rưỡi trưa nay, điều tôi muốn anh làm là đi ra ngoài phố như kiểu một… một người vô gia cư ấy.”

“Anh cứ việc nói là một thằng ma cà bông nếu anh muốn.”

“Và theo dõi ngôi nhà an toàn đó. Có thể là anh cứ làm ra vẻ đang lục lọi thùng rác hay gì đó.”

“Tìm vỏ chai. Tôi biết rồi. Ngày nào tôi chả làm thế.”

“Anh sẽ tìm hiểu xem họ được đưa lên loại xe nào, rồi gọi điện và thông báo cho tôi biết. Tôi cũng sẽ ở ngoài phố ngay sau góc đường thôi, trong một chiếc xe, và chờ đợi. Nhưng anh sẽ phải cẩn thận không lại vớ phải bọn chim mồi.”

Hình ảnh người nữ cảnh sát tóc đỏ rực hiện lên trong đầu hắn. Cô ta khó có thể là một con chim mồi thay cho Người vợ. Quá cao, quá xinh đẹp. Hắn tự hỏi tại sao hắn lại căm ghét cô ta đến thế… Hắn bắt đầu tiếc vì phát súng nhằm vào cô ta đã không được ngắm cẩn thận hơn.

“Được rồi, việc đó thì tôi làm được. Anh sẽ bắn họ ngay trên phố à?”

“Cũng còn tùy. Có thể tôi sẽ bám theo tới ngôi nhà an toàn mới và ra tay ở đó. Tôi sẽ tùy cơ ứng biến theo tình hình cụ thể.”

Jodie săm soi, mân mê chiếc điện thoại như một đứa trẻ với món quà Giáng sinh. “Tôi không biết dùng nó như thế nào.”

Stephen hướng dẫn cho gã.“Anh lấy máy này gọi cho tôi khi anh đã vào vị trí.”

“Vào vị trí. Nghe có vẻ chuyên nghiệp nhỉ?” Rồi Jodie ngẩng lên, rời mắt khỏi chiếc điện thoại. “Anh biết không, sau khi chuyện này kết thúc và tôi đã trải qua thời gian cai nghiện, tại sao thỉnh thoảng chúng ta không ở bên nhau nhỉ? Chúng ta có thể ngồi uống nước hoa quả, hay cà phê, hay thứ gì đó. Đúng không? Anh có muốn thế không?”

“Nhất định rồi”, Stephen nói. “Chúng ta có thể…”

Nhưng bất thình lình tiếng đập ầm ầm làm cánh cửa rung chuyển. Quay ngoắt người lại nhanh như chớp, rút phắt khẩu súng trong túi áo ra, Stephen đổ phục người xuống trong tư thế bắn hai tay.

“Mở cái cửa chó chết này ra”, một giọng nói từ ngoài của gào lên. “Mở ngay!”

“Im lặng”, Stephen thì thào với Jodie. Trống ngực đập thình thịch.

“Mày có trong đó không, đồ cặn bã?” Giọng nói kia vẫn gào lên dai dẳng. “Jo-die. Mày đang ở chỗ chó chết nào vậy?”

Stephen bước lại gần ô cửa sổ được che chắn kín mít và nhòm ra ngoài. Hóa ra là tên mọi vô gia cư ở bên kia phố lúc này. Gã mặc một chiếc áo khoác tả tơi có dòng chữ Cats… The Musical. Tên mọi đen không nhìn thấy hắn.

“Thằng oắt con ấy đâu rồi?”, tên mọi lải nhải. “Tao phải tìm thằng oắt con. Tao phải kiếm mấy viên thuốc! Jodie Joe? Mày ở đâu?”

Stephen hỏi, “Anh biết hắn không?”.

Jodie nhòm ra ngoài, rồi nhún vai và thì thào, “Tôi không biết. Có lẽ có. Trông giống cái lũ tôi vẫn gặp trên phố”.

Stephen chăm chú quan sát tên mọi hồi lâu, tay vẫn nắm chặt phần báng ốp nhựa cứng của khẩu súng ngắn.

Gã vô gia cư lại gào ông ổng, “Tao biết mày ở trong đấy, thằng đểu”. Giọng gã lạcđi thành một tràng ho khạc nghe thật kinh tởm. “Jo-die. Jo-die! Tao mất bao nhiêu tiền, thằng chó. Mất cơ man nào là tiền. Mất cả một tuần khốn nạn mò mẫm nhặt vỏ lon. Bọn nó bẩu tao là mày ở đây. Thằng nào cũng bẩu tao thế. Jodie, Jodie!”

“Chỉ lát nữa là hắn tự bỏ đi thôi”, Jodie nói.

Stephen nói, “Chờ đã. Biết đâu chúng ta có thể sử dụng hắn”.

“Như thế nào?”

“Còn nhớ những gì tôi đã bảo anh chứ?Đánh lạc hướng. Đây là dịp tốt…” Stephen gật gù thích thú. “Trông hắn thật đáng sợ. Bọn chúng sẽ chú ý đến hắn và bỏ qua anh.”

“Ý anh là để hắn đi cùng tôi sao? Tới chỗ có ngôi nhà an toàn kia ấy à?”

“Đúng vậy”, Stephen nói.

“Tôi cần một ít thuốc, anh bạn ơi”, tên mọi rên rỉ. “Xin anh, tôi chết mất thôi, anh bạn ơi. Xin anh. Tôi xây xẩm mặt mày rồi đây này. Đồ chó chết!” Gã lại đạp cửa thình thịch. “Cầu xin anh đấy. Anh có trong đây không, Jodie? Đồ khốn nạn kia? Mày là đồ gỉ mũi cặn bã! Cứu tôi với.” Nghe như gã đang khóc nức nở.

“Ra ngoài đi”, Stephen nói. “Cứ bảo hắn là anh sẽ cho hắn chút gì đó nếu hắn chịu đi cùng anh. Cứ để mặc hắn lục lọi trong đống rác hay gần đấy bên này phố đối diện với ngôi nhà an toàn, trong khi anh theo dõi người ra vào. Như thế sẽ thật hoàn hảo.”

Jodie nhìn hắn. “Ý anh là ra luôn bây giờ. Cứ ra nói chuyện với hắn sao?”

“Ừ. Ngay bây giờ. Cứ bảo hắn thế.”

“Anh có muốn hắn vào trong này không.”

“Không, tôi không muốn hắn nhìn thấy tôi. Cứ ra nói chuyện với hắn đi.”

“Hừm…Được rồi.” Jodie kéo chốt, đẩy cửa trước mở hé ra. “Thế nhỡ hắn đâm tôi hay gì đó thì sao?”

“Nhìn hắn kìa. Hắn sắp chết đến nơi rồi. Chỉ cần một tay anh cũng có thể nện cho hắn thừa sống thiếu chết ấy chứ.”

“Trông như hắn bị AIDS ấy.”

“Đi đi.”

“Nhỡ hắn lại chạm…”

“Đi!”

Jodie hít một hơi thật sâu rồi bước ra ngoài. “Ê, bé cái mồm chứ”, gã bảo tên mọi. “Mày muốn cái quái gì hả?”

Stephen thấy gã mọi đang há hốc mồm nhìn Jodie với đôi mắt đờ đẫn của mình. “Thấy chúng nó bảo là mày bán thuốc, thằng đểu. Tao có tiền đây. Tao có sáu mươi đô la. Tao cần thuốc. Mày nhìn đi, tao bị ốm.”

“Thế mày muốn gì?"

“Mày có cái gì, thằng khốn?”

“Hồng phiến, bennie, dexie, ong vàng, demmie.”[91]

“Ừ, demmie là hàng tốt đấy, anh bạn. Tao sẽ trả tiền cho mày. Mẹ kiếp. Tao có tiền đây. Tao bị đau bên trong. Bị chúng nó nện. Tiền của tao đâu rồi?” Gã cuống cuồng vỗ hết các túi áo mấy lần liền rồi mới chợt nhận ra chính mình đang nắm chặt những đồng hai mươi đô la quý giá đó trong bàn tay trái.

“Nhưng”, Jodie nói, “trước hết mày phải làm việc này cho tao đã”.

“Chẳng sao hết, tao phải làm gìđây? Mày muốn tao thổi kèn[92] cho mày à?”

“Không”, Jodie gắt, không giấu được vẻ ghê tởm. “Tao muốn mày giúp tao bới qua mấy đống rác.”

“Tại sao tao phải làm công việc chó chết ấy?”

“Thì nhặt vài vỏ lon thôi.”

“Vỏ lon?” Gã mọi gào rống lên, giơ tay lên gãi mũi soàn soạt. “Mày cần mấy cái vỏ lon chó chết ấy làm gì? Tao vừa mới cho đi cả trăm cái vỏ lon mới biết mày trốn trong xó này. Mấy cái vỏ lon chết dẫm. Tao trả tiền cho mày cơ mà, thằng ngu.”

“Tao sẽ cho không mày thuốc, chỉ cần mày giúp tao bới một ít chai lọ thôi.”

“Cho không?” Gã mọi có vẻ không sao hiểu nổi chuyện này. “Ý mày cho không nghĩa là tao đếch phải trả tiền à?”

“Chính xác.”

Gã da đen ngơ ngác nhìn quanh như thể gã đang cố tìm ai đó giải thích chuyện này cho mình.

“Chờ ở đây”, Jodie bảo gã.

“Thế tao phải đi bới chai ở đâu bây giờ?”

“Cứ chờ đã…”

“Ở đâu”, gã da đen gặng hỏi.

Jodie bước vào trong nhà. Gã bảo với Stephen, “Nó đồng ý làm rồi”.

“Giỏi lắm”, Stephen mỉm cười.

Jodie toét miệng cười đáp lại. Gã bắt đầu quay người bước ra của thì Stephen gọi giật lại, “Này”.

Người đàn ông bé choắt dừng lại.

Bất thình lình Stephen buột miệng, “Tôi rất vui khi được gặp anh”.

“Tôi cũng rất vui khi được gặp anh”, Jodie tần ngần trong giây lát. “Cộng sự.” Gã chìa tay ra.

“Cộng sự”, Stephen phụ họa. Trong thâm tâm hắn chỉ muốn tháo bỏ găng tay của mình ra, để có thể cảm nhận làn da của Jodie chạm vào da hắn. Nhưng rồi hắn cũng kìm lại được.

Ưu tiên hàng đầu vẫn là nhất nghệ tinh.

Chú thích

[91]Demmie: Từ lóng chỉ một loại thuốc an thần thường bị lạm dụng thành ma túy tổng hợp như ampetamine, meperidine, hydrochloride, dexamphetamine…

[92]Thổi kèn: Từ lóng (rất tục tĩu) để chỉ hành động kích thích dương v*t bằng miệng, khẩu dâm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Giờ thứ 25 của 45

Cuộc tranh cãi diễn ra nảy lửa.

“Tôi nghĩ là anh nhầm rồi, Lincoln”, Lon Sellitto nói. "Chúng ta phải cho di chuyển họ. Kiểu gì hắn cũng sẽ tấn công vào ngôi nhà an toàn lần nữa, nếu chúng ta cứ để họ ở đó.”

Họ không phải là hai người duy nhất đang tính toán tình thế tiến thoái lưỡng nan này. Công tố viên Reg Eliopolos không có mặt – chỉ là chưa thôi – nhưng đích thân Thomas Perkins, đặc vụ FBI phụ trách Văn phòng Địa bàn Manhattan, đang ở đây, đại diện cho phía chính quyền liên bang trong vụ tranh cãi này. Rhyme ước giá như Dellray đang ở đây – và cả Sachs nữa, mặc dù lúc này cô đang cùng với lực lượng chiến thuật hỗn hợp của thành phố và liên bang lùng sục trong những điểm đường tàu điện ngầm bỏ không. Cho tới thời điểm này họ chưa tìm thấy dấu vết gì của tên Vũ công hoặc đồng bọn của hắn.

“Trong tình hình như hiện nay, quan điểm của tôi là chúng ta phải hoàn toàn nắm quyền chủ động”, Perskin nói chắc như đinh đóng cột. “Chúng tôi vẫn còn những cơ sở bảo vệ khác." Anh ta bàng hoàng khi biết rằng tên Vũ công chỉ mất có đúng tám tiếng đồng hồ để phát hiện ra các nhân chứng đang được giấu ở đâu và tiếp cận cửa thoát cháy đã được ngụy trang của ngôi nhà an toàn chưa đầy năm mét. “Những cơ sở bảo vệ tốt hơn”, anh ta vội vàng bổ sung. “Tôi nghĩ chúng ta phải tiến hành di chuyển họ ngay lập tức. Tôi vừa nhận được chỉ thị từ cấp trên. Từ chính Washington. Họ yêu cầu các nhân chứng phải được bảo đảm an toàn tuyệt đối.”

Có nghĩa là, Rhyme thầm nghĩ, di chuyển họ và di chuyển họ ngay lập tức.

“Không”, anh nói một cách dứt khoát. “Chúng ta phải để họ ở đúng nơi họ đang ở lúc này.”

“Trên cơ sở phân tích tình hình”, Perkins nói, “tôi nghĩ câu trả lời đã quá rõ ràng. Chuyển họ đi”.

Nhưng Rhyme nói, “Hắn sẽ bám theo họ cho dù họ có ở đâu chăng nữa, một ngôi nhà an toàn khác hay ngôi nhà an toàn hiện tại cũng vậy thôi. Nếu ở nguyên chỗ cũ chúng ta còn biết rõ địa bàn, chúng ta cũng biết đôi chút về phương thức ra tay của hắn. Chúng ta còn có địa hình tốt để che chắn lực lượng mai phuc".

“Đó là một điểm quan trọng thật”, Sellitto thừa nhận.

“Và làm như thế lại còn khiến hắn bất ngờ và bị động.”

“Tại sao lại thế?” Perkins hỏi.

“Ngay lúc này hắn cũng đang phải căng đầu suy đoán, anh biết đấy.”

“Thật thế sao?”

“Ôi, chắc chắn rồi”, Rhyme nói. “Hắn đang phải cố tìm hiểu xem chúng ta chuẩn bị hành động như thế nào. Nếu chúng ta quyết định giữ họ ở nguyên chỗ họ đang ở hiện nay, hắn sẽ hành động theo một kiểu. Nếu chúng ta di chuyển họ – mà đây là điều tôi nghĩ hắn đoán chúng ta sẽ làm – hắn sẽ cố thực hiện một vụ tấn công ngay trên đường. Và cho dù công tác bảo đảm an ninh trên đường có tốt đến đâu chăng nữa, bao giờ nó cũng tệ hơn là bảo vệ một mục tiêu cố đỉnh. Không, chúng ta phải giữ họ ở chỗ hiện tại và chuẩn bị sẵn sàng cho cú tấn công tiếp theo. Lường trước các tình huống và sẵn sàng buông lưới. Lần cuối cùng...”

“Lần cuối cùng một đặc vụ đã bị giết đấy thôi.”

Rhyme quát thẳng vào mặt tay đặc vụ chỉ huy Văn phòng Địa bàn, “Nếu như Innelman có người yểm trợ, mọi chuyện đã hoàn toàn khác”.

Perkins với bộ com lê bảnh chọe là một tay quan liêu lúc nào cũng lo giữ ghế, nhưng dù sao cũng là một người biết điều. Anh ta gật đầu thừa nhận.

Nhưng liệu mình có đúng không? Rhyme tự hỏi.

Tên Vũ công đang nghĩ gì lúc này? Mình có thực sự biết không nhỉ?

Ôi, mình có thể liếc qua một phòng ngủ yên tĩnh hoặc một con hẻm hôi hám và kể lại hoàn toàn chính xác câu chuyện đã biến chúng thành những hiện trường vụ án như thế nào. Chỉ cần nhìn qua vết máu bết lại trên mặt thảm hoặc chảy ra trên nền gạch là mình có thể thấy nạn nhân suýt nữa đã thoát chết như thế nào hoặc anh ta đã có một cơ hội mong manh ra sao, ngay cả việc anh ta phải chịu đựng một cái chết như thế nào. Mình chỉ cần nhìn qua những hạt bụi tên sát nhân bỏ lại trên hiện trường và ngay lập tức biết hắn từ đâu đến.

Mình có thể trả lời là ai, mình có thể trả lời là tại sao.

Nhưng tên Vũ công đang chuẩn bị làm gì?

Đó là điều mình chỉ có thể đoán nhưng không thể nào nói chắc chắn được.

Một bóng người hiện ra ở ngưỡng cửa, một trong những nhân viên cảnh sát bảo vệ cửa trước. Anh ta chìa cho Thom một chiếc phong bì rồi trở lại vị trí đứng gác của mình.

“Cái gì vậy?”, Rhyme nhìn chằm chằm chiếc phong bì với vẻ cảnh giác. Lúc này anh không chờ đợi một báo cáo từ phòng thí nghiệm nào và lại càng có lý do phải đề phòng trước sở thích đánh bom của tên Vũ công. Tuy vậy, chiếc phong bì chỉ mỏng đúng bằng một tờ giấy, và là do FBI gửi đến.

Thom mở phong bì ra và đọc.

“Thư của PERT gửi tới. Họ tìm được một chuyên gia về cát.”

Rhyme giải thích cho Perkins hiểu, “Nó không liên quan gì đến vụ này. Đây là người đặc vụ đã mất tích đêm hôm trước.”

“Tony ư?” Viên chỉ huy Văn phòng địa bàn hỏi. “Từ đó đến giờ chúng tôi cũng chưa có thêm manh mối nào.”

Rhyme liếc qua bản báo cáo.

Về mặt kĩ thuật thì mẫu vật được gửi tới phân tích cũng không hẳn là cát. Nó là một mẩu vụn sau hô từ những rạn sau hô ngầm dưới biển và có chứa những gai nhỏ, cả dấu cắt ngang xúc tu của những con giun biển, vỏ các loại chân bụng và trùng có lỗ. Nhiều khả năng là những mẩu vụn san hô này có nguồn gốc từ phía bắc khu vực Caribbe: Cuba hoặc Bahamas.

Caribbe à... Thú vị thật. Hừ, trước mắt chắc anh sẽ phải để bằng chứng này lại. Sau khi tên Vũ công đã bị tóm cổ và bị tống vào tù, anh và Sachs sẽ quay lại...

Tai nghe của anh bỗng rung lên.

“Rhyme, anh có đấy không?”, giọng Sachs vang lên.

“Có! Cô đang ở đâu vậy, Sachs? Cô tìm thấy những gì rồi?”

“Chúng tôi đang ở bên ngoài một ga tàu điện ngầm cũ gần Tòa thị chính. Tất cả đã được niêm phong kín. S&S cho biết bên trong có người. Ít nhất là một người, có thể là hai.”

“Được rồi, Sachs”, anh nói, tim đập dồn dập với ý nghĩ rất có thể họ đang ở rất gần tên Vũ công. “Nhớ báo cáo lại.” Rồi anh ngước lên nhìn Sellitto và Perkins. “Có vẻ như rốt cuộc chúng ta sẽ không phải phân vân về việc có di chuyển họ ra khỏi ngôi nhà an toàn nữa hay không.”

“Họ tìm được hắn rồi à?” Viên thám tử hỏi.

Nhưng nhà hình sự học – và trên hết là một nhà khoa học – nhất định không muốn tỏ ra lạc quan. Anh chỉ sợ mình sẽ mang lại xúi quẩy cho cả chiến dịch – hừm, mà chính xác là xúi quẩy cho Sachs, người anh đang nghĩ đến lúc này. Thay vào đó anh chỉ làu bàu, “Cũng chỉ còn biết hy vọng thế thôi”.

Những cảnh sát vũ trang thuộc ESU lặng lẽ bao vây ga tàu điện ngầm.

Có lẽ đây chính là nơi tên đồng bọn mới của Vũ công đang sống, Amelia Sachs kết luận. S&S đã tìm thấy vài người dân địa phương và họ cho biết có một tên nghiện chuyên bán thuốc quanh khu này. Hắn có vóc người nhỏ bé – rất khớp với một đôi giày cỡ tám.

Nhà ga là một cái lỗ khoét sâu vào vách đường hầm, gần như đúng theo nghĩa đen. Cách đây nhiều năm nó đã được thay thế bằng một điểm đỗ khác sang trọng hơn nằm cách đó vài khối nhà phục vụ những hành khách cần xuống Tòa thị chính.

Người chỉ huy kéo Sachs ra khỏi lối vào chính, tránh xa làn hỏa lực. Họ giao cho cô nhiệm vụ đáng hổ thẹn là cảnh giới một lối vào ga tàu điện ngầm đã được niêm phong kín bằng những thanh giằng sắt và khóa móc từ bao năm nay. Cô không thể không tự hỏi phải chăng Rhyme đã có thỏa thuận trước với Haumann về việc bảo đảm cho cô được an toàn. Nỗi giận dữ của cô từ đêm hôm trước, vốn tạm chìm đi trong lúc truy lùng tên Vũ công, giờ đây lại bùng lên.

Sachs hất đầu về phía ổ khóa hoen gỉ. “Hừm. Có lẽ hắn sẽ không trốn ra ngoài theo đường này đâu”, trước đó cô đã sốt sắng nhận xét.

“Phải cảnh giới tất cả đường ra vào”, tay sĩ quan chỉ huy ESU mang mặt nạ kín mít càu nhàu, không nhận ra hoặc cố tình phớt lờ sự châm biếm của cô, rồi quay lại với những đồng đội của mình.

Mưa đổ xuống quanh cô, một trận mưa lạnh buốt, trút thẳng xuống từ bầu trời xám xịt, bẩn thỉu, quất rát rạt vào kẻ bị ruồng bỏ đang đứng chết lặng trước những thanh giằng sắt.

Tên Vũ công có ở bên trong không? Nếu có, hẳn sẽ xảy ra một trận đọ súng. Chắc chắn rồi. Cô không thể nào hình dung ra cảnh hắn lại chịu đầu hàng mà không chống cự quyết liệt.

Và điều khiến cô căm tức nhất là cô sẽ không được tham dự vào chuyện này.

Mày là một con rắn độc nguy hiểm khi mày có khẩu súng trường trên tay và khoảng cách 1/4 dặm để che chắn, cô thầm nói với tên sát thủ. Nhưng thử nói cho tao nghe xem, đồ chó chết. mày ngon đến cỡ nào khi chỉ có một khẩu súng ngắn ở cự li gần? Khi ấy mày có dám đối đầu với tao không? Trên bệ lò sưởi ở nhà cô là cả chục chiếc cúp mạ vàng hình những xạ thủ đang giương súng bắn. (Tất cả người mẫu của những chiếc cúp đều là đàn ông, điều này lại càng khiến Sachs thêm khoái trá.)

Cô bước tiếp xuống bậc thang, tới những thanh sắt giằng, rồi đứng nép sát người vào tường.

Sachs, nhà hình sự học bẩm sinh, chăm chú kiểm tra cái chỗ bẩn thỉu đó một cách thật kỹ càng, gí mũi ngửi mùi rác rưởi, mùi mục nát, nước đái, mùi mằn mặn của đường hầm. Cô kiểm tra những thanh giằng, sợi dây xích và ổ khóa móc. Cô nhòm vào trong đường hầm tối om nhưng không nhìn thấy gì, không nghe thấy gì.

Hắn đang ở đâu?

Và những cảnh sát và đặc vụ kia đang làm gì vậy nhỉ? Tại sao họ lại chùng chình thế?

Vài giây sau cô nghe thấy câu trả lời qua tai nghe của mình: họ đang chờ lực lượng yểm trợ. Haumann đã quyết định huy động thêm hai mươi nhân viên ESU và đội 32-E thứ hai.

Không, không, không, cô nghĩ. Tất cả chuyện này là một sai lầm! Tất cả những gì tên Vũ công phải làm là nhòm ra đường và sẽ thấy ngay rằng không một chiếc xe hay một chiếc taxi hoặc một khách bộ hành nào đi qua và trong nháy mắt hắn sẽ biết là có một cuộc tấn công chiến thuật đang được thực hiện. Sẽ có một cuộc tắm máu... Chẳng lẽ họ không hiểu điểu đó sao?

Sachs đặt hộp dụng cụ khám nghiệm hiện trường ở chân cầu thang và trèo ngược lại lên mặt phố. Cách đó vài cánh cửa là một hiệu thuốc. Cô vào trong. Cô mua hai bình butane to rồi mượn luôn chiếc sào chống mái hiên bằng vải bạt của người bán hàng – một thanh thép dài đến năm feet.

Quay lại lối ra của ga tàu điện ngầm vẫn được khóa kín, Sachs luồn thanh sào đấy vào qua một mắt xích căng hết cỡ. Cô xỏ một chiếc găng Nomex rồi dốc hết những gì có trong hai chiếc bình butane lên sợi xích sắt, chăm chú nhìn nó sùi lên như được phủ một lớp sương giá dưới tác dụng của loại khí gas lạnh buốt. (Amelia Sachs đã không làm cảnh sát tuần tra đến mòn cả lốp xe ở phố Decue trong Quảng trường Thời đại – tên cũ của phố Bốn mươi hai – một cách hoài công vô ích; cô biết quá rõ về những trò phá khóa và đột nhập, thừa đủ để lấy đó làm cái nghề thứ hai cho mình.)

Sau khi bình butane thứ hai đã được đổ hết ra ngoài, cô nắm chặt thanh sắt bằng cả hai tay và bắt đầu xoắn mạnh. Khí gas lạnh buốt đã khiến mắt xích sắt trở nên rất giòn. Với một tiếng cách rất khẽ, mắt xích đã vỡ ra làm hai mảnh. Cô bắt lấy lấy sợi xích trước khi nó kịp rơi xuống chạm mặt đất, rồi nhẹ nhàng đặt nó xuống một đống lá khô.

Những tấm bản lề còn ướt sũng nước mưa nhưng cô vẫn thận trọng nhổ thêm nước bọt vào đó để chúng không rít lên ken két. Cô đẩy cửa vào trong, rút phắt khẩu Glock của mình ra khỏi bao, lúc này trong đầu chỉ còn ý nghĩ: tao bắn trượt mày ở khoảng cách gần 100 thước. 30 thước thì đừng hòng nhé.

Rhyme sẽ không đời nào ủng hộ chuyện này, tất nhiên rồi, nhưng Rhyme làm sao mà biết được. Cô thoáng nghĩ đến anh, đến đêm hôm qua, lúc nằm trên giường anh. Nhưng hình ảnh khuôn mặt anh vụt biến mất rất nhạnh. Cũng giống như lái xe với vận tốc 150 dặm một giờ, nhiệm vụ của Sachs lúc này không còn thời gian để khóc lóc thở than cho cuộc sống riêng tư đầy bất hạnh của mình.

Sachs biến mất vào trong hành lang nhập nhoạng tối, nhảy qua cánh cửa quay bằng gỗ cổ kính, rồi bắt đầu đi dọc theo sân chờ về phía nhà ga.

Cô nghe thấy những giọng nói vang lên khi cô mới đi được chưa đến 20 feet.

“Tao phải đi rồi... mày có hiểu... tao nói gì không hả? Biến đi.”

Da trắng, đàn ông.

Liệu có phải là tên Vũ công không?

Tim cô đập thình thịch trong lồng ngực.

Thở thật chậm, cô tự trấn an mình. Thở bình tĩnh thì bắn mới chuẩn xác.

(Nhưng cô đã không thể thở chậm lúc ở sân bay. Cô đã thở hổn hển vì sợ hãi.)

“Mày, mày nói cái quái gì hả?” Một giọng khác vang lên. Da đen, đàn ông. Có gì đó trong giọng nói làm cô sởn da gà. Điều gì đó thật nguy hiểm. “Tao có thể kiếm thêm tiền. Tao có thể. Tao có thể kiếm thêm được hàng đống tiền. Tao có sáu mươi đô la, tao bảo mày thế rồi cơ mà? Nhưng tao vẫn còn kiếm được nhiều hơn thế. Mày muốn bao nhiêu tao trả bấy nhiêu. Tao từng có một công việc tử tế. Lũ chó má đã cướp của tao. Chỉ vì tao biết quá nhiều.”

Vũ khí đơn giản chỉ là sự nối dài của cánh tay. Hãy ngắm bằng toàn bộ con người cô, đừng có ngắm bằng khẩu súng không thôi.

(Nhưng lúc cô ở sân bay cô đã không hề ngắm nghía chút nào. Cô đã nằm bẹp xuống đất như một con thỏ đang khiếp đảm, bắn loạn xạ như một người mù – những hành động vô ích và nguy hiểm nhất với một khẩu súng trên tay.)

“Mày có hiểu tao nói gì không? Tao đổi ý rồi, được chưa? Cứ để mặc tao... mày chỉ cần biến đi. Tao sẽ cho mày... deie.”

“Mày nhất định không chịu nói chúng ta sẽ đi đâu phải không. Chỗ mà mày bảo chúng ta sẽ tới là chỗ nào? Mày phải cho tao biết trước đã. Ở đâu? Nói ngay không thì bảo.”

“Mày sẽ không phải tới đâu hết. Tao chỉ muốn mày biến đi.”

Sachs bắt đầu chậm rãi bước lên cầu thang.

Suy nghĩ: Ngắm bắn, kiểm tra phía sau mình, bắn nhanh ba phát. Quay về nơi ẩn nấp. Ngắm bắn, bắn thêm ba phát nữa nếu cần thiết. Lại nấp. Đừng có sợ hãi.

(Nhưng lúc ở sân bay cô đã sợ hãi. Phát súng khủng khiếp đó bay sượt qua mặt cô...)

Quên nó đi. Tập trung vào.

Bước thêm vài bậc nữa.

“Và bây giờ thì mày định bảo tao là tao sẽ không được cho không nữa phỏng? Giờ mày định bảo là tao sẽ phải trả tiền đúng không? Thằng chó chết này!”

Cầu thang là những nơi tồi tệ nhất. Đầu gối, điểm yếu của cô. Căn bệnh thấp khớp chết tiệt.

“Đây. Cả một tá deie đây nhé. Cầm lấy và biến đi!”

“Một tá. Và tao không phải trả tiền cho mày sao?” Hắn cười the thé. “Một tá à?”

Tiến sát đến đỉnh cầu thang.

Cô gần như đã có thể nhòm thẳng vào nhà ga. Cô đã sẵn sàng nổ súng. Chỉ cần hắn nhúc nhích về bất kỳ phía nào quá sáu inch, cô gái, hãy hạ hắn ngay. Quên hết những quy định kia đi. Ba phát vào đầu. Pọp, pọp, pọp. Quên chuyện bắn vào ngực đi. Quên...

Bất thình lình những bậc thang biến mất.

“Ợ ợ...” Một tiếng rên khản đục trong cổ họng Sachs bật ra khi cô ngã xuống.

Bậc thang mà cô đã đặt chân lên hóa ra là một cái bẫy. Ván đứng giữa hai bậc thang đã được bỏ đi và mặt bậc thang trên cùng được đỡ hoàn toàn trên hai cái hộp giày. Chúng đổ sụp xuống dưới sức nặng của cô và tấm bê tông trượt thẳng xuống khiến cô mất đà ngã ngửa xuống cầu thang. Khẩu Glock bay ra khỏi tay Sachs khi cô cố hét lên “Cấp cứu!”, cô chợt nhận ra sợi dây nối tai nghe của cô với chiếc Motorola đã bị giật đứt tung ra khỏi máy bộ đàm.

Sachs ngã đánh huỵch một cái xuống thẳng chiếu nghỉ cầu thang bằng thép và bê tông. Đầu cô đập vào một cây cột đỡ hàng tay vịn. Cô lăn người, nằm sấp bụng, choáng váng.

“Ôi, tuyệt chưa này”, giọng người đàn ông da trắng vọng từ trên đầu bậc thang xuống.

“Cái chết mẹ gì thế?” Giọng gã da đen hỏi.

Cô cố ngóc đầu lên và mờ mờ nhận ra hai người đàn ông đứng trên đỉnh bậc thang, đang chăm chú nhìn cô.

“Mẹ kiếp”, gã da đen chửi rủa. “Mẹ kiếp. Chuyện quái quỷ gì đang xảy ra ở đây vậy?”

Gã da trắng chộp lấy một cây gậy bóng chày và bắt đầu đi xuống cầu thang.

Mình chết rồi, cô thầm nghĩ. Mình chết rồi.

Con dao bấm nằm trong túi áo cô. Phải dồn hết chút năng lượng còn lại trong người cô mới rút được cánh tay phải đang bị đè bên dưới ra. Cô lăn người nằm ngửa lại, thò tay xuống lấy con dao. Nhưng đã quá muộn. Gã đã đứng đè lên cánh tay cô, chặn nó dính chặt xuống đất, gã gườm gườm nhìn cô.

Ôi, trời ơi, Rhyme, em làm hỏng việc mất rồi. Giá kể chúng ta đã có một đêm vĩnh biệt tuyệt vời hơn… em xin lỗi… em xin lỗi…

Cô cố giơ hai tay lên phòng thủ để đỡ cú đá vào đầu mình, rồi liếc tìm khẩu Glock. Nó nằm cách đó quá xa.

Với một bàn tay gầy nhằng nhưng lại cứng như vuốt chim, người đàn ông bé choắt giằng lấy con dao ra khỏi túi cô. Hắn lẳng nó ra xa.

Rồi hắn đứng thẳng lên và nắm chặt cây gậy.

Bố, cô nói với người cha đã qua đời của mình, tại sao lần này con lại làm hỏng việc đến thế nhỉ? Con đã phá bỏ bao nhiêu quy định vậy? Cô chợt nhớ ông đã từng bảo cô rằng trên đường phố chỉ cần sơ sểnh một giây thôi là coi như xong đời.

“Nào, mày sẽ phải nói cho tao biết mày đang làm gì ở đây”, hắn gầm ghè, tay vung vẩy chiếc gậy một cách lơ đễnh, như thể hắn chưa quyết định được là phải đập vỡ cái gì trước. “Mày là đứa chó chết nào?”

“Tên cô ấy là Cô Amelia Sachs”, gã da đen vô gia cư lên tiếng, nhưng lần này giọng gã bỗng nhiên nghe không còn chút gì là vô gia cư. Gã bước xuống khỏi cầu thang và áp sát người đàn ông da trắng trong tích tắc, hất tung cây gậy bóng chày ra xa. “Và nếu như tao không nhầm thì cô ấy tới đây để tóm cổ mày đấy, anh bạn của tao ạ. Cũng giống tao thôi.” Sachs hấp háy mắt để rồi nhận ra gã vô gia cư đã đứng thẳng dậy và biến thành Fred Dellray. Anh đang chĩa một khẩu súng ngắn Sig-Sauer tự động to bự vào người đàn ông đang bàng hoàng không nói lên lời.

“Mày là cớm à?”, gã lắp bắp.

“FBI.”

“Chó chết!”, gã gầm lên, nhắm nghiền mắt lại vì kinh hoàng. “Thật đúng là vận may khốn khiếp của tao.”

“Không”, Dellray. “May mắn chẳng liên quan đếch gì dến chuyện này cả. Nào, giờ thì tao sẽ phải còng tay mày lại và mày sẽ phải để yên cho tao làm. Nếu mày chống cự, mày sẽ bị đau nhiều tháng và rất nhiều tháng đấy. Chúng ta thỏa thuận như thế chứ?”

“Làm sao anh làm được như thế, Fred?”

“Dễ ợt mà”, tay đặc vụ FBI cao lòng khòng nói với Sachs khi hai người cùng đứng trước nhà ga tàu điện ngầm bỏ hoang. Anh vẫn mặc quần áo của gã vô gia cư và bốc mùi hôi hám với bùn đất bẩn mà anh đã trát lên mặt, tay chân để cho giống với một kẻ đã sống lê la trên phố suốt nhiều tuần. “Rhyme có nói cho tôi biết việc đồng bọn của Vũ công là một tên nghiện ma túy và sống đâu đó trong đường tàu điện ngầm mạn trung tâm. Nghe thế là tôi biết phải tìm ở đâu. Mua một túi vỏ lon và nói chuyện với những kẻ mà tôi biết là tôi cần phải nói chuyện. Dò hỏi mãi mới tìm được đường mò tới cái phòng khách này.” Anh hất đầu về phía ga tàu điện ngầm. Họ liếc nhìn về phía một chiếc xe tuần tra của cảnh sát, Jodie đang ngồi ở băng ghế sau, tay bị còng trông rất thảm hại.

“Tại sao anh không cho chúng tôi biết anh định làm gì?”

Câu trả lời của Dellray là một tràng cười và Sachs biết câu hỏi của cô thật vô ích; những cảnh sát ngầm hiếm khi kể cho bất kỳ ai – kể cả những đồng nghiệp, và nhất là cấp trên của mình – những gì họ đang làm. Nick, bạn trai cũ của cô, cũng là một cảnh sát ngầm và có không biết bao nhiêu chuyện chết tiệt mà anh đã giấu cô.

Sachs xoa xoa bên sườn, nơi bị đập xuống đất khi cô ngã. Vết dập đau điếng, và tay nhân viên y tế đã bảo cô nên đi chụp X-quang. Sachs vươn tay lên và bóp chặt vào bắp tay Dellray. Xưa nay bao giờ cô cũng cảm thấy khó chịu khi nhận lòng biết ơn của người khác – ở điểm này thì cô thực sự là học trò của Lincoln Rhyme – nhưng lúc này đây cô thốt lên rất tự nhiên, “Anh đã cứu mạng tôi. Nếu không có anh chắc chắn tôi đã tiêu rồi. Tôi còn biết nói gì bây giờ ?”.

Dellray nhún vai, lảng tránh những lời cảm ơn, rồi hỏi xin một điếu thuốc lá từ mấy cảnh sát mặc thường phục đang đứng trước nhà ga. Anh hít hít điếu Marlboro và cài nó lên sau vành tai. Anh ngước nhìn về phía ô cửa sổ tối om trong nhà ga. “Lạy trời”, anh nói bâng quơ, rồi thở dài. “Đến lúc chúng ta phải gặp chút may mắn rồi chứ.”

Khi họ tóm được Joe D’Oforio và tống hắn vào băng ghế sau của chiếc xe, gã đã cho họ biết là tên Vũ công vừa mới chỉ rời khỏi đó được khoảng mười phút. Theo lời khai của Joe thì gã chỉ biết hắn đã đi xuống cầu thang và biến mất trong một đường tàu nhánh. Jodie – biệt hiệu của gã đần này – không biết hắn đi theo hướng nào, chỉ biết là hắn bỏ đi rất đột ngột cùng khẩu súng và chiếc ba lô. Haumann và Dellray cử lực lượng vũ trang của mình sục sạo quanh nhà ga, trên các đường tàu và khu nhà ga Tòa Thị chính gần đó. Lúc này họ đang chờ kết quả cuộc càn quét.

“Nhanh lên nào…”

Mười phút sau một nhân viên SWAT đẩy cửa bước vào. Sachs và Dellray cùng quay ra nhìn anh ta với ánh mắt hy vọng. Nhưng viên đặc vụ lắc đầu. “mất dấu chân của hắn ở cuối đường tàu khoảng 100 feet. Hoàn toàn không biết hắn đã đi theo hướng nào.”

Sachs thở dài và chán nản thông báo lại tin đó cho Rhyme rồi hỏi bây giờ cô có nên tiến hành kiểm tra trên đường tàu và nhà ga gần đó không.

Anh không giấu được vẻ chua chát khi nhận cái tin đó, đúng như cô đoán. “Chó chết thật”, nhà hình sự học rủa ầm lên. “Không, chỉ kiểm tra cái nhà ga thôi. Kiểm tra những nơi khác cũng vô ích. Mẹ kiếp, là sao hắn có thể làm như thế nhỉ ? Cứ như kiểu hắn may mắn có con mắt thứ ba khốn khiếp vậy.”

“Chậc”, cô chép miệng an ủi, “ít nhất lần này chúng ta cũng có nhân chứng.”

Và ngay lập tức cô thấy tiếc vì đã nói câu đó ra.

“Nhân chứng?”, Rhyme gầm lên. “Một nhân chứng à? Tôi cần quái gì nhân chứng. Tôi cần bằng chứng kia! Chết tiệt, nhưng thôi, cứ đưa hắn đến đây. Để xem hắn có thể cho chúng ta biết những gì. Nhưng này, Sachs, tôi muốn cô kiểm tra cái nhà ga đó như thể cô chưa kiểm tra một hiện trường vụ án nào. Cô có nghe tôi nói không? Cô còn ở đó không, Sachs? Cô có nghe tôi nói không đấy ?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


Giờ thứ 25 của 45

Để xem chúng ta có gì ở đây nào?”, Rhyme hỏi và khẽ hút nhẹ vào chiếc ống hút điều khiển của chiếc xe Storm Arrow để bánh xe lăn về phía trước.

“Một mẩu rác bẩn thỉu”, Fred Dellray nói, rồi loay hoay phủi bộ đồng phục của mình – ấy là nếu người ta có thể gọi bộ com lê màu xanh nhạt là đồng phục. “Hừm, hừm, hừm. Đừng có mở miệng đấy! Chỉ khi nào bọn tao hỏi đã nhé!” Anh nhìn Jodie với đôi mắt gườm gườm hăm dọa.

“Mày đã lừa tao!”

“Yên lặng, đồ xương khô quắt queo kia.”

Rhyme không thích thú gì khi biết Dellray đã ra ngoài và hành động một mình, nhưng công việc của những đặc vụ ngầm là như vậy, và cho dù anh không hiểu lắm về công việc này, anh cũng không thể phủ nhận một điều – đúng những gì viên đặc vụ đã chứng tỏ – là phương pháp này cũng có thể mang lại những kết quả.

Hơn nữa, chính anh ta đã cứu mạng Amelia Sachs.

Chỉ lát nữa cô sẽ quay về đây. Các nhân viên y tế đã đưa cô đến phòng cấp cứu để chụp X-quang xương sườn. Cô bị va đập mạnh sau cú ngã từ trên bậc thang xuống, nhưng không có gì bị rạn gãy. Anh rất bực mình và thất vọng vì cuộc nói chuyện của anh với cô đêm trước đã không có tác dụng gì; cô đã một mình xuống đường tàu điện ngầm tìm kiếm tên Vũ công.

Mẹ kiếp, anh thầm rủa, cô ấy cũng ương bướng không khác gì mình.

“Tôi không định hại ai cả”, Jodie phản đối.

“Mày có bị điếc không đấy? Tao đã bảo là đừng có mở miệng cơ mà.”

“Lúc đấy tôi không biết cô ấy là ai!”

“Không ư?”, Dellray nói, “Chẳng lẽ cái phù hiệu cảnh sát sáng loáng của cô ấy không cho mày biết điều gì à?”. Rồi anh chợt nhớ ra là anh không muốn nghe gã này nói.

Sellitto bước lại gần và cúi xuống nhìn Jodie. “Hãy cho chúng tôi biết thêm về bạn anh.”

“Tôi không phải là bạn hắn. Hắn bắt cóc tôi. Khi đó tôi đang ở trong tòa nhà trên phố Ba mươi lăm bởi vì…”

“Bởi vì lúc đó anh đang ăn trộm thuốc. Chúng tôi biết, chúng tôi biết.”

Jodie hấp háy mắt. “Làm thế nào mà các ông…?”

“Nhưng chúng tôi không quan tâm đến chuyện đó. Ít nhất thì cũng là chưa. Nói tiếp đi.”

“Tôi cứ tưởng hắn là cảnh sát nhưng rồi hắn nói hắn đến đó để giết một vài người. Tôi đã sợ hắn sẽ giết luôn cả tôi nữa. Hắn cần trốn thoát khỏi đó nên hắn bắt tôi đứng im và tôi phải làm theo, rồi một người cảnh sát hay ai đó đẩy cửa bước vào và hắn đâm anh ta…”

“Và giết chết cậu ấy”, Dellray gầm lên.

Jodie thở dài, trông hắn ủ rũ đến thảm hại. “Tôi không hề biết là hắn chuẩn bị giết anh ta. Tôi cứ tưởng hắn sẽ chỉ đánh anh ta ngất đi thôi hay đại loại thế.”

“Hừm, đồ chó chết”, Dellray lại gầm lên, “hắn đã giết cậu ấy. Giết cậu ấy chết cứng như một hòn đá.”

Sellitto nhìn qua những túi bằng chứng được lấy về từ tàu điện ngầm, trong đó đựng những tờ tạp chí khiêu dâm tởm lợm, hàng trăm viên thuốc, quần áo. Một chiếc điện thoại di động mới. Một xấp tiền. Anh lại hướng sự chú ý của mình về phía Jodie. “Nói tiếp đi.”

“Hắn nói hắn sẽ trả tiền cho tôi nếu tôi giúp hắn thoát khỏi đó và tôi đã dẫn hắn đi qua đường hầm tới ga tàu điện ngầm. Làm thế nào mà ông lại tìm ra tôi?” Hắn tròn mắt nhìn Dellray.

“Bởi vì lúc nào mày cũng lê la trên phố chào bán những thứ hàng chết tiệt của mày cho tất cả những người mày gặp. Thậm chí tao còn biết cả tên mày. Lạy Chúa, mày thật là một thằng ngu độn khốn khiếp. Lẽ ra tao phải bóp cổ mày cho đến khi nào mày xanh lè đi mới đúng.”

“Các ông không được tra tấn tôi”, hắn nói, cố làm ra vẻ cứng cỏi. “Tôi có quyền của mình.”

“Ai đã thuê hắn?”, Sellitto hỏi Jodie. “Hắn có nhắc gì đến cái tên Hansen không?”

“Hắn không nói”, giọng Jodie bắt đầu run rẩy. “Nghe này, tôi chỉ đồng ý giúp hắn vì tôi biết hắn sẽ giết tôi nếu tôi từ chối. Chứ kiểu gì tôi cũng sẽ không làm.” Gã quay sang nhìn Dellray. “Hắn muốn tôi lôi kéo ông cùng giúp hắn. Nhưng ngay khi hắn bỏ đi, tôi cũng đã muốn để ông đi luôn. Tôi đang định đến gặp cảnh sát và khai toàn bộ sự việc. Tôi đang chuẩn bị mà. Hắn là một kẻ đáng sợ. Tôi sợ hắn khủng khiếp!”

“Thế nào, Fred?”, Rhyme hỏi

“Ừ, ừ”, viên đặc vụ thừa nhận, “quả thật là hắn đã thay đổi thỏa thuận. Hắn muốn đuổi tôi đi. Mặc dù vậy hắn không hề nói gì về việc sẽ đi gặp cảnh sát”.

“Hắn bỏ đi đâu? Theo kế hoạch thì anh phải làm gì?”

“Hắn bảo tôi phải làm ra vẻ đang lục bới trong những thùng rác phía trước ngôi nhà đó và theo dõi xe ra vào. Hắn bảo tôi để ý tới một người đàn ông và một phụ nữ được đưa lên xe và được chở đi. Tôi sẽ phải cho hắn biết đó là chiếc xe như thế nào. Tôi sẽ dùng chiếc điện thoại kia. Sau đó hắn sẽ bám theo.”

“Anh nói đúng, Lincoln”, Sellitto nói. “Về việc giữ nguyên họ trong ngôi nhà an toàn ấy. Hắn đang lên kế hoạch cho một cuộc tấn công trên đường.”

Jodie nói tiếp, “Tôi đang định đến khai báo với các ông…”.

“Thằng khốn, mày không có ích gì đâu nếu mày cứ dối trá thế này. Chẳng lẽ mày không có chút gì là liêm sỉ à?”

“Nghe này, tôi đang định đi thật mà”, gã nói, giọng đã có vẻ bình tĩnh hơn. Thậm chí gã còn mỉm cười. “Vì tôi nghĩ là kiểu gì cũng có phần thưởng.”

Rhyme liếc nhìn đôi mắt tham lam và làm ra vẻ anh đang tin hắn. Anh ngẩng lên nhìn Sellitto, viên cảnh sát cũng gật đầu đồng ý.

“Giờ thì anh hãy hợp tác đi”, Sellitto lầm bầm, “và rất có thể chúng tôi sẽ giúp anh không phải ngồi tù đến mốc đít. Tôi không biết gì đến chuyện tiền nong. Cũng có thể.”

“Tôi chưa bao giờ hại bất kì ai. Tôi sẽ không bao giờ làm như thế. Tôi…”

“Bé cái mồm đi nào”, Dellray nói. “Chúng ta thỏa thuận như thế chứ?”

Jodie cụp mắt xuống.

“Thỏa thuận chứ?”, viên đặc vụ thì thầm với giọng hăm dọa độc địa của mình.

“Vâng, vâng, vâng.”

Sellitto nói, “Chúng ta phải hành động thật khẩn trương. Mấy giờ thì anh phải có mặt ở trước ngôi nhà đó?”.

“Lúc mười hai rưỡi.”

Vậy là họ còn năm mươi phút nữa.

“Hắn lái loại xe gì?”

“Tôi không biết.”

“Trông hắn ta như thế nào?”

“Khoảng ngoài ba mươi tuổi một chút, tôi đoán thế. Không cao lắm. Nhưng hắn rất khỏe. Người hắn toàn cơ bắp. Tóc màu đen húi cua. Khuôn mặt tròn. Mà này, tôi có thể giúp các ông vẽ lại khuôn mặt hắn… Tôi biết là cảnh sát vẫn vẽ phác họa nghi phạm cơ mà.”

“Hắn nói tên cho anh biết không? Bất kỳ thông tin gì? Hắn là người ở đâu?”

“Tôi không biết. Hắn nói giọng lơ lớ kiểu miền Nam. Ồ, có chi tiết này – lúc nào hắn cũng mang găng tay vì hắn từng có tiền án.”

Rhyme hỏi, “Ở đâu và vì tội gì?”.

“Tôi không biết là ở đâu. Nhưng là vì tội ngộ sát. Hắn nói hắn giết một người trong thị trấn của mình. Hồi đó hắn còn ở tuổi vị thành niên.”

“Còn gì nữa?”, Dellray sốt ruột quát.

“Nghe này”, Jodie khoanh tay trước ngực và ngước lên nhìn viên đặc vụ rồi rành rọt nói, “tôi đã làm những chuyện tồi tệ nhưng cả đời tôi chưa bao giờ hại bất kỳ ai. Tên này bắt cóc tôi và hắn lại có súng, hơn nữa hắn là một tên điên rồ bệnh hoạn và tôi sợ đến chết khiếp. Tôi nghĩ ở vào hoàn cảnh đó chắc các ông cũng phải làm như tôi thôi. Vì vậy tôi sẽ không chịu đựng những thứ rác rưởi này thêm một chút nào nữa. Các ông muốn bắt tôi, xin cứ việc và tống giam tôi nếu các ông muốn. Nhưng tôi sẽ không nói thêm bất kỳ điều gì nữa đâu. Được chứ?”.

Khuôn mặt bặm trợn của Dellray bỗng ngoác ra thành một nụ cười nhăn nhở. “Ôi chào, núi sắp lở rồi này.”

Amelia Sachs xuất hiện trên ngưỡng cửa và cô bước vào, liếc mắt nhìn Jodie với ánh mắt tóe lửa.

“Cô nói cho họ biết đi!”, gã nói. “Tôi không hề hại cô. Cô nói đi.”

Cô nhìn hắn với ánh mắt mà người ta vẫn nhìn một cái bã kẹo cao su dính trên đường. “Hắn đã định đập vỡ sọ tôi bằng một cây gậy bóng chày Louisville Slugger.”

“Không phải thế, không phải thế!”

“Cô không sao chứ, Sachs?”

“Chỉ thêm một vết bầm thôi. Trên lưng. Do ngã đập lưng xuống.”

Sellitto, Sachs và Dellray cùng tập trung trao đổi với Rhyme, anh cho Sachs biết những gì Jodie vừa khai báo.

Viên thám tử hỏi Rhyme bằng một giọng thì thầm. “Chúng ta có nên tin hắn không?”

“Bộ xương khô khốn khiếp”, Dellray càu nhàu. “Nhưng tôi phải nói rằng tôi nghĩ tên bẩn thỉu đó đang nói thật.”

Sachs cũng gật đầu. “Tôi đoán thế. Nhưng tôi nghĩ chúng ta cũng cần phải để mắt tới hắn, dù chúng ta có làm gì đi nữa.”

Sachs đồng ý. “Được rồi, chúng ta sẽ giám sát hắn thật sát sao.”

Rhyme cũng đành miễn cưỡng đồng ý với mọi người. Có vẻ như họ sẽ không thể nào đón đầu được tên Vũ công nếu không có sự giúp đỡ của gã này. Anh đã rất kiên quyết bảo vệ quan điểm giữ nguyên Percey và Hale trong ngôi nhà an toàn nhưng thực tế anh không hề biết chắc rằng tên Vũ công đang chuẩn bị cho một cuộc tấn công trên đường di chuyển. Anh mới chỉ hơi nghiêng về kết luận đó. Rất có thể anh đã dễ dàng đồng ý với quyết định đưa Percey và Hale đi để rồi rất có thể họ đã bị giết trên đường lái xe đến ngôi nhà an toàn mới.

Nỗi căng thẳng làm cằm anh cứng đờ.

“Theo anh bây giờ chúng ta nên đối phó như thế nào, Lincoln?” Sellitto hỏi.

Đây là vấn đề chiến thuật, không liên quan gì đến bằng chứng. Rhyme ngước nhìn Dellray, anh này rút điếu thuốc lá còn chưa châm sau vành tai ra trầm ngâm hít hà một lúc. Cuối cùng anh lên tiếng, “Bắt thằng thộn này gọi điện để xem hắn có moi thêm được bất kỳ thông tin gì từ tên Vũ công không. Chúng ta sẽ bố trí một chiếc xe giả, để nhử tên Vũ công bám theo. Trên đó chở rất nhiều người của chúng ta. Rồi dừng xe bất thình lình, kẹp hắn như kẹp chả giữa mấy chiếc xe cảnh sát không có dấu hiệu riêng khác, và hạ hắn luôn.”

Rhyme miễn cưỡng gật đầu. Anh biết là một hành động chiến thuật vũ trang trên đường phố sẽ nguy hiểm đến mức nào. “Chúng ta có thể nhử hắn ra khỏi khu trung tâm được không?”

“Chúng ta có thể kéo hắn tới tận mạn sông Đông”, Sellitto gợi ý. “Ở đó địa hình rất trống trải, lý tưởng cho một cuộc triệt hạ. Tại một trong những bãi xe cũ quanh đó. Chúng ta có thể làm ra vẻ chúng ta chuẩn bị chuyển họ sang một chiếc xe thùng khác. Rồi đưa hắn vào bẫy.”

Tất cả đều thống nhất rằng đây sẽ là cách ít nguy hiểm nhất.

Sellitto hất đầu về phía Jodie và thì thầm, “Hắn đang sẵn sàng bán đứng tên Vũ công Quan tài… chúng ta sẽ cho hắn cái gì bây giờ? Phải thật hấp dẫn để hắn thấy đáng để liều mạng”.

“Miễn cho hắn tội âm mưu đánh cảnh sát, hỗ trợ và tiếp tay cho hung thủ giết người”, Rhyme nói. “Rồi cho hắn ít tiền.”

“Khốn nạn thật”, Dellray rủa, mặc dù xưa nay anh vẫn được tôn trọng vì sự hào phóng đối với những cơ sở mật làm việc cho mình. Nhưng cuối cùng anh cũng gật đầu. “Được rồi, được rồi. Chúng ta sẽ chia sẻ trách nhiệm thanh toán vậy. Tùy thuộc vào mức độ tham lam của đồ gặm nhấm bẩn thỉu này.”

Sellitto gọi gã lại.

“Được rồi, thỏa thuận thế này nhé. Anh giúp chúng tôi, anh gọi điện đúng như hắn yêu cầu và chúng tôi, tóm hắn, rồi chúng tôi sẽ rút lại tất cả những lời buộc tội và thưởng cho anh một khoản tiền.”

“Là bao nhiêu?”, Jodie hỏi.

“Mày, đồ chó chết, mày không có một tí tư cách, vị thế hay quyền lợi nào để mặc cả ở đây đâu.”

“Tôi cần tiền để trang trải cho một chương trình cai nghiện. Tôi cần thêm mười nghìn đô la nữa. Chẳng lẽ như thế mà không được sao?”

Sellitto quay sang nhìn Dellray. “Ngân sách dành cho bọn chỉ điểm ở bên anh thế nào đây?”

“Nói chung ngần đó thì vẫn còn trong khả năng”, viên đặc vụ nói, “nếu bên cảnh sát các anh chịu một nửa. Thỏa thuận xong.”

“Thật nhé?”, Jodie cố kiềm chế một nụ cười khoái chí. “Nếu vậy tôi sẵn sàng làm bất kỳ điều gì các ông muốn.”

Rhyme, Sellitto và Dellray nhanh chóng vạch ra một kế hoạch. Họ sẽ thiết lập một cơ sở chỉ huy ở tầng trên cùng của ngôi nhà an toàn, Jodie sẽ được bố trí ở đây cùng với chiếc điện thoại. Percey và Brit sẽ ở dưới tầng chính của ngôi nhà, với lực lượng cảnh sát vũ trang bảo vệ họ. Jodie sẽ gọi cho Vũ công và nói với hắn rằng hai nhân chứng vừa mới được đưa lên một chiếc xe thùng đang chuẩn bị lăn bánh. Chiếc xe thùng sẽ chầm chậm chạy qua dòng giao thông đông đúc tới một bãi đỗ xe bỏ không ở mạn East Side. Tên Vũ công sẽ bám theo. Họ sẽ hạ hắn ngay tại bãi đỗ xe.

“Được rồi, chúng ta hãy bắt tay vào hành động thôi”, Sellitto nói.

“Khoan đã”, Rhyme ra lệnh. Mọi người dừng lại và nhìn anh chờ đợi. “Chúng ta đang bỏ điều quan trọng nhất trong chuyện này.”

“Điều gì?”

“Amelia đã kiểm tra hiện trường ở ga tàu điện ngầm. Tôi muốn phân tích những gì cô ấy tìm được. Chúng có thể cho chúng ta biết cách thức hắn sẽ tấn công chúng ta.”

“Chúng ta đã biết hắn chuẩn bị tấn công như thế nào rồi còn gì, Linc”, Sellitto nói, và hất đầu về phía Jodie.

“Phiền các vị chiều lòng một người tàn tật vậy nhé! Nào, Sachs, để xem chúng ta có gì nào.”

Con Giòi.

Stephen đang len lỏi đi xuyên qua những con hẻm, nhảy lên những tuyến xe bus, lảng tránh những tên cớm hắn nhìn thấy trên đường và cả Con Giòi mà hắn không nhìn thấy.

Con Giòi, theo dõi hắn qua mọi ô cửa sổ trên mọi con phố. Con Giòi, mỗi lúc một bò đến gần hơn, gần hơn.

Hắn nghĩ về Người vợ và Người bạn, hắn nghĩ về phi vụ của mình, về số đạn mà hắn còn, về việc liệu những mục tiêu có mang áo giáp chống đạn hay không, về khoảng cách mà hắn sẽ nổ súng, về việc lần này liệu hắn có nên dùng đến ống giảm thanh hay không.

Nhưng đó đơn thuần là những ý nghĩ rất tự nhiên. Hắn không hề mất công kiểm soát những ý nghĩ đó hơn việc hắn kiểm soát hơi thở, nhịp tim của mình hay áp lực của dòng máu đang chảy trong cơ thể hắn.

Điều khiến hắn suy nghĩ đến một cách có chủ ý lúc này là Jodie.

Ở gã đó có điều gì thú vị và dễ chịu đến thế ?

Stephen không thể nào gọi chính xác điều gì làm nên sức hấp dẫn này. Có lẽ là ở cách người đàn ông bé nhỏ sống một mình mà không hề tỏ ra cô đơn chút nào. Có lẽ đó là cách lúc nào gã cũng khư khư giữ quyển sách bên mình và thực sự muốn leo ra khỏi cái hố sâu mà gã đang sa vào. Hoặc là cách gã không hề tỏ thái độ ương bướng khi Stephen ra lệnh cho gã đứng trước ngưỡng cửa với nguy cơ có thể bị bắn bất kỳ lúc nào.

Stephen cảm thấy tất cả những điều đó thật ngồ ngộ. Hắn…

Anh cảm thấy thế nào hả, quân nhân?

Thưa ngài, tôi…

Ngồ ngộ à, quân nhân? “Ngồ ngộ” nghĩa là cái quái gì? Anh định giở trò trẻ con ra với tôi đấy à?

Không, thưa ngài. Tôi không có ý đó.

Đã quá muộn để thay đổi kế hoạch. Nhưng vẫn còn những phương án dự phòng. Rất nhiều phương án dự phòng.

Lại nghĩ về Jodie. Về những gì gã đã nói với Stephen. Chết tiệt, có lẽ chúng có thể cùng ngồi uống cà phê sau khi chuyện này kết thúc.

Chúng có thể tới một quán cà phê Starbucks. Trông sẽ giống như lần hắn nói chuyện với Sheila, chỉ có điều lần này là thật. Và hắn sẽ không phải uống cái thứ trà ghê tởm kia mà sẽ được uống cà phê thực sự, loại đậm đặc gấp đôi bình thường, giống hệt như thứ cà phê mà mẹ Stephen vẫn pha mỗi sáng cho bố dượng của hắn, nước sôi sùng sục sau đúng sáu mươi giây, chính xác là bai thìa ba phần tư mỗi cốc, không một hạt bột cà phê xay nhuyễn nào rớt ra ngoài.

Và chẳng lẽ không bao giờ có chuyện đi câu cá hay đi săn cùng nhau sao?

Lại còn đốt lửa trại…

Hắn có thể bảo Jodie hủy bỏ nhiệm vụ. Hắn có thể tự mình thủ tiêu Người vợ và Người bạn.

Hủy bỏ ư, quân nhân? Anh đang nói cái quái gì vậy?

Thưa ngài, không có gì ạ, thưa ngài. Tôi chỉ đang xem xét các yếu tố liên quan đến cuộc tấn công, theo đúng tinh thần của mệnh lệnh, thưa ngài.

Stephen bước xuống khỏi xe bus và biến vào trong con hẻm phía sau trạm cứu hỏa trên phố Lexington. Hắn đặt chiếc cặp sách xuống phía sau một thùng rác, nhét con dao găm vào chiếc bao cài bên dưới áo khoác của mình.

Jodie. Joe D…

Hắn lại hình dung ra hai cánh tay gầy gò và ánh mắt mà gã đã nhìn hắn.

Tôi cũng rất vui được gặp anh, cộng sự.

Và đột nhiên Stephen nhận ra người hắn đang run lên bần bật. Giống như lần ở Bosnia hắn phải nhảy xuống một dòng suối để không bị quân du kích bắt sống. Lần đó đang là tháng Ba và nước lạnh buốt gần như đóng băng.

Hắn nhắm mắt lại và đứng nép sát vào bức tường gạch, hít ngửi mùi đá ẩm ướt.

Jodie đang…

Quân nhân, chuyện quái gì đang diễn ra ở đó thế?

Thưa ngài, tôi…

Chuyện gì?

Thưa ngài, dạ, tôi…

Nói ngay đi. Ngay lập tức, quân nhân!

Thưa ngài, tôi có thể khẳng định là đối phương đang thực hiện chiến dịch tâm lý. Nhưng ý đồ của chúng đã thất bại, thưa ngài. Tôi đã sẵn sàng tiếp tục kế hoạch.

Tốt lắm, quân nhân. Nhưng nhớ là phải hết sức thận trọng đấy.

Và khi hắn mở cánh cửa phía sau của trạm cứu hỏa và lẻn vào trong, Stephen nhận ra rằng lúc này không thể nào có chuyện thay đổi kế hoạch được nữa. Mọi việc đã được bố trí rất hoàn hảo và hắn không thể nào bỏ phí thời cơ này, nhất là khi đây là cơ hội không chỉ giết được Người vợ và Người bạn mà còn giết luôn được cả Lincoln Con Giòi, cũng như con bé cảnh sát tóc đỏ kia.

Stephen liếc nhìn đồng hồ. Chỉ còn mười lăm phút nữa Jodie sẽ vào vị trí. Gã sẽ gọi vào điện thoại của Stephen. Stephen sẽ trả lời và lắng nghe giọng nói the thé của gã lần cuối cùng.

Rồi hắn sẽ bấm vào nút bấm truyền tín hiệu để kích nổ khối thuốc RDX nặng 12 ounce trong điện thoại di động của Jodie.

Đánh lạc hướng… cô lập… tiêu diệt.

Hắn thực sự không còn lựa chọn nào khác.

Vả lại, hắn thầm nghĩ, liệu chúng ta còn có chuyện gì để nói với nhau nữa chứ? Chúng ta còn có thể làm gì được sau khi cùng ngồi uống cà phê?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


Giờ thứ 26 của 45

Chờ đợi.

Lúc này chỉ còn Rhyme một mình trên giường ở tầng trên, chăm chú lắng nghe những thông tin được truyền đi qua tần số Tác chiến Đặc Biệt. Anh cảm thấy mệt mỏi như sắp chết. Bây giờ đã là trưa Chủ nhật và anh gần như chưa được chợp mắt chút nào. Anh kiệt sức vì nỗ lực khó khăn nhất trong tất thảy – vì phải cố chiến thắng trong cuộc đấu trí với tên Vũ công. Cơ thể anh đang bắt đầu chịu hậu quả của trận chiến này.

Cooper vẫn đang lọ mọ trong phòng thí nghiệm dưới nhà, thực hiện các xét nghiệm để khẳng định những kết luận của Rhyme về chiến thuật mới nhất của tên Vũ công. Tất cả những người khác, cả Amelia Sachs, đang ở trong ngôi nhà an toàn. Sau khi Rhyme, Sellitto và Dellray đã quyết định xong cách thức đối phó với những gì họ cho rằng có thể là ý đồ tiếp theo của tên Vũ công nhằm thủ tiêu Percey Clay và Brit Hale, Thom bèn kiểm tra huyết áp của Rhyme và khẳng định quyền lực gần như cha mẹ của mình bằng cách ra lệnh cho anh phải đi ngủ, và dứt khoát không chấp nhận bất kỳ lý do trì hoãn nào, dù có chính đáng đến đâu chăng nữa. Hai thầy trò đã lên nhà bằng thang máy, suốt thời gian đó Rhyme im lặng một cách bất thường, bứt rứt tự hỏi liệu lần này anh có đoán đúng hay không.

“Có chuyện gì vậy?”, Thom hỏi.

“Không có gì. Sao cậu hỏi thế?”

“Không thấy anh kêu ca gì cả. Mà anh không kêu ca càu nhàu thì có nghĩa là có chuyện gì đó không ổn.”

“A ha. Buồn cười thật đấy”, Rhyme làu bàu.

Sau khi được đưa từ xe lăn lên giường, một số chức năng của cơ thể cũng đã được chăm sóc đâu vào đấy, lúc này Rhyme đang ngồi dựa hẳn người lên đống gối sang trọng và xa xỉ của mình. Thom đã đeo chiếc tai nghe có chức năng nhận biết giọng nói lên đầu ông chủ mình, và dù đang kiệt sức, Rhyme vẫn tự mình thực hiện đầy đủ các bước ra lệnh cho máy tính để bắt nó kết nối mình với tần số Tác chiến Đặc Biệt.

Hệ thống này quả là một phát minh kỳ diệu. Đành rằng trước mặt Sellitto và Banks anh đã coi nó chẳng ra gì. Đành rằng anh đã càu nhàu. Nhưng hơn tất cả những trợ lý và người giúp việc mà anh có, thiết bị này giúp Rhyme cảm nhận hoàn toàn khác về bản thân mình. Từ nhiều năm nay anh đã chấp nhận rằng mình sẽ không bao giờ được sống một cuộc sống có thể tạm gọi là bình thường. Mặc dù vậy với chiếc máy này và phần mềm đi kèm của nó anh thực sự cảm thấy bình thường.

Anh xoay đầu thành vòng tròn và để nó thả lỏng, ngửa ra nghỉ ngơi trên gối.

Chờ đợi. Cố không nghĩ đến cuộc cãi vã giữa anh và Sachs đêm qua.

Ngoài cửa có gì đó chuyển động. Con chim ưng oai vệ hiện ra trước mắt anh. Rhyme nhìn thấy một vệt trắng trên ức nó, rồi con chim quay phần lưng màu xanh xám của nó về phía Rhyme rồi nhìn ra phía Công viên Trung tâm. Đó là con chim ưng đực. Con tiercel mà anh nhớ là Percey Clay đã nói với anh. Nhỏ hơn và cũng không tàn nhẫn bằng con chim ưng cái. Anh lại nhớ thêm một vài điều về loài chim ưng này. Chúng đã hồi sinh từ cõi chết. Mới cách đây chưa lâu toàn bộ quần thể chim ưng trong tự nhiên ở phía đông của Bắc Mỹ trở lên vô sinh vì nhiễm các loại hóa chất từ thuốc trừ sâu và chúng gần bị tuyệt chủng. Chỉ nhờ vào các lỗ lực nhân giống trong môi trường nuôi nhốt cộng với việc kiểm soát chặt chẽ thuốc trừ sâu mới giúp loài chim này hồi sinh trở lại.

Hồi sinh từ cõi chết…

Tín hiệu radio chợt vang lên loẹt xoẹt. Đó là Amelia Sachs đang gọi về. Giọng cô không giấu được vẻ căng thẳng khi cô thông báo cho anh biết rằng tất cả đã được bố trí xong xuôi tại ngôi nhà an toàn.

“Tất cả chúng tôi đều ở tầng trên cùng của ngôi nhà cùng với Jodie”, cô nói. “Chờ chút… Xe đến kia rồi.”

Một chiếc xe thùng hai cầu có vỏ thép chống đạn và cửa sổ lắp kính phản quang một chiều, bên trong có bốn nhân viên cảnh sát thuộc đội chiến thuật, đang được sử dụng làm mồi nhử. Bám sau nó sẽ là một chiếc xe khác không có dấu hiệu của cảnh sát, ngồi bên trong cabin trong như là hai người thợ sửa ống nước. Nhưng thực chất họ là những cảnh sát vũ trang, thành viên đội 32-E mặc thường phục. Đằng sau của chiếc xe thùng này cũng có bốn đội viên vũ trang khác.

“Những người đóng giả đang ở dưới nhà. Được rồi… Được rồi.”

Họ đang sử dụng hai sĩ quan cảnh sát thuộc đội của Haumann làm mồi nhử.

Sachs nói, “Họ bắt đầu ra đây.”

Rhyme gần như chắc chắn hoàn toàn rằng căn cứ vào những kế hoạch mới của Vũ công, hắn sẽ không giở trò bắn tỉa ngay trên đường phố. Mặc dù vậy anh vẫn nhận ra mình đang nín thở.

“Bắt đầu đi ra…”

Một tiếng tách vang lên và tín hiệu radio tắt.

Một tiếng tách khác. Tiếng lạo xạo. Rồi giọng Sellitto vang lên, “Họ làm được rồi. Trông có vẻ ổn. Xe bắt đầu lăn bánh. Những chiếc xe bám theo đều sẵn sàng.”

“Được rồi”, Rhyme nói. “Jodie có ở đó chứ?”

“Đang ở đây. Trong ngôi nhà an toàn cùng với chúng tôi.”

“Bảo hắn gọi điện đi.”

“Được rồi, Linc. Chúng tôi tiến hành đây.”

Tín hiệu radio lại tắt.

Chờ đợi.

Để xem lần này liệu tên Vũ công có phải chùn bước không. Để xem lần này Rhyme có thể thắng được bộ óc quỷ quyệt đến tàn nhẫn của hắn không.

Chờ đợi.

Điện thoại di động của Stephen rung lên.Hắn mở nó ra.

“A lô.”

“Xin chào. Tôi đây mà. Tôi…”

“Tôi biết rồi”, Stephen nói. “Đừng có dùng tên.”

“Vâng, đúng rồi.” Giọng Jodie nghe căng thẳng như một con chồn bị dồn vào góc tường.

Một thoáng im lặng, rồi người đàn ông bé choắt nói. “Vâng, tôi ở đây rồi.”

“Tốt lắm. Anh vẫn để tên mọi đấy giúp anh chứ?”

“À, vâng. Hắn đang ở đây.”

“Thế anh đang ở đâu? Chính xác vào?”

“Bên kia phố đối diện với ngôi nhà đó. Lạy trời, quanh đây có rất nhiều cớm. Nhưng không ai để ý đến tôi cả. Có một chiếc xe thùng vừa mới trờ tới cách đây một phút. Một chiếc xe loại hai cầu. Xe to lắm. Một chiếc Yukon. Xe sơn màu xanh, trông rất dễ nhận ra.” Trong cơn bối rối gã nói liến thoắng. “Trông nó rất, rất vững chắc. Nó có cửa gương phản quang.”

“Có nghĩa là cửa sổ xe lắp kính chống đạn.”

“Ôi. Thật thế à. Cũng may là anh biết tất cả những chuyện này.”

Mày sắp chết rồi, Stephen tự nhủ thầm.

“Có một người đàn ông và một người phụ nữ vừa mới chạy ra khỏi con hẻm cùng với, khoảng mười tên cớm. Tôi không chắc đó có phải họ không.”

“Không phải bọn chim mồi chứ?”

“Ừm, trông họ không có vẻ gì là cớm cả và cả hai đề tỏ ra rất sợ hãi. Anh có còn ở phố Lexington không?”

“Còn.”

“Ngồi trong xe ô tô à?” Jodie hỏi.

“Tất nhiên là phải ngồi trong xe”, Stephen nói. “Tôi xoáy được một chếc xe Nhật Bản bé tí, bẩn thỉu. Tôi sẽ bám theo bọn chúng. Rồi đợi đến chỗ nào vắng vẻ một chút và hành động.”

“Như thế nào?”

“Như thế nào cái gì?”

“Anh sẽ hành động như thế nào ấy? Kiểu như anh sẽ dùng lựu đạn hay súng máy?”

Stephen tự hỏi, Mày muốn biết thế cơ à?

Hắn nói, “Tôi cũng chưa chắc. Còn tùy tình hình”.

“Anh thấy họ chưa?”, Jodie hỏi, nghe có vẻ mất bình tĩnh.

“Tôi thấy chúng rồi”, Stephen nói. “Tôi đang ở phía sau chúng. Tôi đang hòa vào dòng xe rồi.”

“Một chiếc xe của Nhật à?”, Jodie hỏi. “Kiểu như xe Toyota hay giống thế chứ gì?”

Tại sao, đồ oắt con phản phúc khốn khiếp, Stephen cay đắng nghĩ, sự phản bội làm hắn đau đớn thực sự mặc dù hắn đã biết đó là đều gần như không thể nào khác được.

Trên thực tế Stephen đang quan sát chiếc Yukon và những chiếc xe thùng yểm trợ lao qua chỗ hắn đứng. Tuy nhiên, hắn không hề ngồi trong chiếc xe nào của Nhật Bản, dù là xe thối tha hay không đi nữa. Nói cho đúng, hắn không hề ngồi trong bất kỳ chiếc xe nào. Mang trên người bộ đồng phục của lính cứu hỏa vừa ăn trộm được, hắn đang đứng trên góc phố cách ngôi nhà an toàn đúng 100 feet, tận mắt theo dõi phiên bản thực tế của những sự kiện mà Jodie đang bịa ra. Hắn biết chắc những người ngồi trong chiếc Yukon kia chỉ là mồi nhử. Hắn biết Người vợ và Người bạn vẫn còn ở trong ngôi nhà an toàn.

Stephen cầm trên tay chiếc máy truyền phát tín hiệu điểu khiển từ xa màu xám. Trông nó chẳng khác gì một chiếc bộ đàm chỉ có điều là không có mic hay loa ngoài. Hắn chỉnh tần số trùng khớp với quả bom trong điện thoại của Jodie và cài đặt thiết bị.

“Giữ máy nhé”, hắn nói với Jodie.

“Hê hê”, Jodie cười sung sướng. “Xin tuân lệnh, thưa ngài.”

Lincoln Rhyme lúc này chỉ còn là một khán giả, một kẻ thị dâm.

Căng tai theo dõi diễn biến qua tai nghe. Cầu nguyện là anh đã phán đoán đúng.

“Chiếc xe đến đâu rồi?” Rhyme nghe thấy Sellitto đang hỏi.

“Đi được hai khối nhà rồi. Chúng tôi vẫn đang theo dõi sát. Nó đang chầm chậm di chuyển dọc phố Lexington. Đang hòa giữa dòng xe cộ rồi. Hắn… chờ chút.” Một khoảng im lặng kéo dài.

“Sao thế?”

“Chúng tôi nhìn thấy mấy chiếc xe liền, một chiếc Nissan, một chiếc Subaru. Cả một chiếc Honda Accord, nhưng chiếc này chở tới ba người bên trong. Chiếc Nissan đang tiến lại gần chiếc xe thùng. Rất có thể đó là hắn. Không thế nhìn thấy bên trong.”

Lincoln Rhyme nhắm nghiền mắt. Anh cảm thấy ngón đeo nhẫn bên trái của mình, ngón duy nhất còn cử động được, đang hồi hộp gõ nhè nhẹ lên lớp chăn lông phủ trên giường.

“A lô?” Stephen nói vào điện thoại.

“Vâng”, Jodie trả lời. “Tôi vẫn đang ở đây.”

“Đối diện với ngôi nhà an toàn chứ?”

“Đúng.”

Stephen đang nhìn thẳng vào ngôi nhà an toàn từ bên kia đường đối diện. Chẳng thấy Jodie, cũng không có tên mọi đen nào.

“Tôi có điều này muốn nói với anh.”

“Chuyện gì thế?” Người đàn ông gầy gò hỏi.

Stephen nhớ lại cảm giác như điện giật khi đầu gối hắn chạm vào đầu gối gã kia.

Mình không thể nào làm được…

Quân nhân…

Bàn tay phải của Stephen nắm chặt lấy thiết bị điều khiển từ xa. Hắn nói, “Hãy nghe cho kĩ này”.

“Tôi đang nghe đây. Tôi…”

Stephen nhấn nút truyền tín hiệu.

Tiếng nổ to khủng khiếp. Thậm chí còn to hơn cả những gì Stephen đã chờ đợi. Nó làm rung chuyển những khung cửa và khiến cả triệu con chim bồ câu tán loạn vỗ cánh bay lên trời. Stephen đứng nhìn những mảnh kính và gỗ từ tầng trên cùng của ngôi nhà an toàn văng lả tả xuống con hẻm bên cạnh tòa nhà.

Thậm chí như thế còn tuyệt vời hơn cả những gì hắn kỳ vọng. Hắn đinh ninh Jodie sẽ ở gần ngôi nhà an toàn. Có thể là trong một chiếc xe cảnh sát đỗ phía trước nhà. Có thể là ở trong con hẻm. Nhưng hắn không thể tin là mình gặp may đến nỗi hóa ra Jodie lại ở bên trong. Tất cả thật hoàn hảo!

Hắn tự hỏi không biết còn những kẻ nào khác cũng bỏ mạng trong vụ nổ.

Hắn cầu mong trong đó có cả Lincoln Con Giòi.

Con bé cảnh sát tóc đỏ?

Hắn quan sát ngôi nhà an toàn và nhìn thấy khói đen ngòm đùn ra từ cửa sổ tầng trên cùng.

Nào, chỉ có vài phút ngắn ngủi thôi, trước khi những người còn lại trong đội của hắn cũng xuất hiện.

Chuông điện thoại vang lên và Rhyme ra lệnh cho máy tính tắt tín hiệu radio để anh trả lời điện thoại.

“Tôi nghe”, anh nói.

“Lincoln.” Hóa ra là Lon Sellitto gọi tới. “Tôi dùng đường dây cố định”, giọng viên thám tử vang lên, ý muốn nhắc đến việc mình gọi bằng điện thoại. “Tôi muốn tập trung tần số Tác chiến Đặc biệt cho cuộc truy đuổi.”

“Được rồi. Anh nói tiếp đi.”

“Hắn cho nổ bom rồi.”

“Tôi biết”. Rhyme cũng đã nghe thấy; thực ra ngôi nhà an toàn chỉ cách phòng ngủ của anh một, hai dặm, vậy mà những khung cửa sổ phòng anh cũng rung chuyển dữ dội và lũ chim ưng bên ngoài cửa sổ vụt bay lên rồi lượn những vòng chậm rãi trên trời, giận dữ vì bị quấy rầy.

“Mọi người không sao chứ?”

“Tên khốn kia đang sợ xanh mặt, tên Jodie ấy. Ngoài chuyện đó ra thì mọi người đều ổn cả. Mà có vẻ như mấy cha đặc vụ liên bang đang cho là ngôi nhà an toàn bị hư hại nghiêm trọng hơn dự đoán của họ. Mấy cha đó bắt đầu kêu ca rồi đấy.”

“Bảo họ là năm nay chúng ta sẽ đóng thuế sớm hơn mọi năm vậy.”

Điều khiến Rhyme phát hiện quả bom gài trong chiếc điện thoại di động chính là những vết nhựa polystyrene nhỏ li ti mà Sachs đã tìm thấy trong các bằng chứng tại nhà ga tàu điện ngầm. Điều đó cùng với những dư chất của thuốc nổ dẻo, có công thức hơi khác một chút so với quả bom sát thương đã phát nổ trong căn hộ của Sheila Horowitz. Rhyme chỉ cần đối chiếu những mẩu nhựa polystyrene với chiếc điện thoại mà Vũ công đã đưa cho Jodie và phát hiện ra rằng có người đã mở lớp vỏ ra.

Tại sao? Rhyme đã tự hỏi câu này. Và anh chỉ nhận thấy có đúng một lý do duy nhất hợp logic, và thế là anh gọi cho đội rà phá bom mìn ở Đồn Cảnh sát Sáu. Hai viên thám tử đã vô hiệu hóa quả bom, tháo bỏ miếng thuốc nổ dẻo khá lớn cùng thiết bị kích nổ ra khỏi điện thoại, sau đó họ gắn một lượng nhỏ thuốc nổ cùng chính thiết bị kích nổ đó vào một thùng đựng dầu gần một ô cửa sổ ở tầng trên cùng, miệng thùng chĩa thẳng xuống con hẻm như một khẩu súng cối. Họ đã phủ một lớp đệm chống bom dày kín trong phòng, rồi bước ra ngoài hành lang và trả chiếc điện thoại vô hại lại cho Jodie, gã này cầm lấy nó bằng hai bàn tay run lẩy bẩy và khăng khăng đòi họ phải chứng minh cho gã thấy là toàn bộ thuốc nổ trong đó đã được tháo ra.

Rhyem đã phỏng đoán rằng chiến thuật của tên Vũ công là lợi dụng vụ nổ bom làm thủ đoạn đánh lạc hướng sự chú ý của mọi người vào chiếc xe thùng, giúp hắn có cơ hội ra tay thuận lợi hơn. Rất có thể tên sát thủ cũng đã tính toán rằng kiểu gì Jodie cũng ra đầu thú cảnh sát và, khi gọi điện, người đàn ông bé choắt này sẽ ở gần những tên cớm đang dàn xếp chiến dịch. Nếu loại bỏ được những người chỉ huy thì khả năng thành công trong phi vụ này của tên Vũ công sẽ cao hơn rất nhiều.

Đánh lạc hướng…

Không có tên tội phạm nào mà Rhyme lại căm thù hơn tên Vũ công Quan tài, không kẻ nào mà anh khát khao hơn là được quật ngã xuống đất và đâm xuyên thẳng vào tim hắn. Mặc dù vậy, hơn tất thảy Rhyme vẫn là một nhà hình sự học và anh không khỏi thầm khâm phục sự tinh quái của tên sát thủ.

Sellitto giải thích, “Chúng ta có hai chiếc xe bám theo sau chiếc Nissan. Chúng ta chuẩn bị…”

Một khoảng im lặng kéo dài.

“Ngu ngốc thật”, Sellitto lẩm bẩm.

“Sao vậy?”

“Ồ không có gì. Chỉ là không ai nhớ đến việc thông báo cho Trung tâm. Đang có mấy chiếc xe cứu hỏa ập tới đây. Quên không có ai báo trước với họ là cứ bỏ qua báo cáo về việc có vụ nổ.”

Ngay cả Rhyme cũng đã quên phắt điều đó.

Sellitto nói tiếp. “Giờ chỉ còn thông báo bằng radio thôi. Chiếc xe thùng mồi nhử đã rẽ về phía đông, Linc ạ. Chiếc Nissan vẫn bám theo. Có lẽ là cách chiếc xe thùng khoảng gần 40 thước. Từ đó đến bãi đỗ xe bên cạnh đường Franklin Delano Roosevelt còn khoảng bốn khối nhà nữa.”

“Được rồi, Lon. Amelia có ở đấy không? Tôi muốn nói chuyện với cô ấy.”

“Lạy Chúa”, anh thoáng nghe thấy tiếng ai đó đang gọi tới trong điện thoại. Bo Haumann, Rhyme thầm nghĩ. “Cơ man nào là xe cứu hỏa đang vây kín chỗ chúng tôi đây này.”

“Thế không có ai…?” Một giọng khác bắt đầu định hỏi, nhưng rồi lại loãng dần.

Không, rõ ràng là không có ai, Rhyme tự nhủ. Con người không thể nào nghĩ hết…

“Tôi phải gọi lại cho anh, Lincoln”, Sellitto nói. “Chúng ta phải làm gì đó. Xe cứu hỏa đang đỗ chật cứng mấy cái vỉa hè khốn kiếp rồi.”

“Để tôi tự gọi cho Amelia”, Rhyme nói.

Sellitto gác máy.

Căn phòng tối om, những tấm rèm đều được đóng kín.

Percey Clay thấy sợ.

Nghĩ đến con chim ưng của cô, con chim đã trưởng thành, bị mắc vào bẫy lưỡi, đôi cánh lực lưỡng của nó đập loạn xạ. Những móng vuốt và chiếc mỏ của nó cào rách toang không khí như những lưỡi dao cạo sắc lẹm, tiếng kêu rít điên cuồng. Nhưng đối với Percey thì điều khủng khiếp nhất là ánh mắt hoảng loạn của con chim. Khi bị tước khỏi bầu trời của nó, con chim hoàn toàn lạc lối trong nỗi kinh hoàng. Mong manh.

Đó cũng là cảm giác của Percey lúc này. Cô căm thù cảm giác bị giam hãm ở đây trong ngôi nhà an toàn. Tù túng. Nhìn mãi – với ánh mắt căm thù – những bức tranh ngu xuẩn treo trên tường. Những thứ mạt hạng được tha về từ các siêu thị của Woolworth và J.C. Penney.

Tấm thảm trải sàn nhợt nhạt. Chiếc chậu rửa mặt và bình đựng nước rẻ tiền. Một tấm ga trải giường có viền may màu hồng nhăn nhúm và diêm dúa, với cả chục đầu chỉ dài lòng thòng thò ra ở một góc vải; có lẽ một tên chỉ điểm nào đó đã từng ngồi ở đây, bứt rứt giật mép vải màu hồng gớm ghiếc.

Lại tu thêm một hớp từ cái chai bẹt. Rhyme đã cho cô biết về chiếc bẫy. Về việc tên Vũ công sẽ bám theo chiếc xe thùng mà hắn tưởng Percey và Hale đang ở bên trong. Họ sẽ đột ngột chặn xe hắn lại để bắt giữ hoặc tiêu diệt hắn. Sự hy sinh của cô sắp được đền đáp. Chỉ mười phút nữa thôi là họ sẽ tóm được hắn, kẻ đã giết Ed của cô. Kẻ đã khiến cuộc đời cô thay đổi mãi mãi.

Cô tin tưởng vào khả năng của Lincoln Rhyme, cũng như tin vào con người anh. Nhưng cô cũng chỉ tin anh giống hệt như cô vẫn tin lời Đài Kiểm soát Không lưu khi họ thông báo là không có những tầng gió chênh lệch và bất thình lình cô chợt nhận ra máy bay của mình đang rơi với vận tốc 3000 feet một phút trong khi độ cao trong không trung lúc này của máy bay chỉ còn là 2000 feet.

Percey liệng chiếc chai bẹt của cô lên giường, đứng bật dậy và đi đi lại lại trong phòng. Cô muốn lúc này mình đang được bay, chỉ khi đó cô mới cảm thấy an toàn, khi cô được nắm quyền chỉ động. Roland Bell đã ra lệnh cho cô tắt đèn, đã ra lệnh cho cô khóa chặt cửa và ở trong phòng. Tất cả mọi người đều tập trung ở tầng trên cùng. Cô đã nghe thấy âm thanh đinh tai nhức óc của vụ nổ. Cô đã được biết trước về vụ nổ. Nhưng cô không thể ngờ nỗi sợ hãi mà nó mang đến lại khủng khiếp đến thế. Không thể nào chịu đựng nổi. Cô sẵn sàng đánh đổi bất kỳ điều gì để được nhìn ra ngoài cửa sổ.

Cô bước tới cửa trước, mở khóa, bước ra ngoài hành lang.

Bên ngoài tối đen. Đặc quánh như màn đêm…Tất cả những vì sao đêm.

Cô ngửi thấy một mùi hóa chất nồng nặc. Có lẽ là do vụ nổ gây ra, cô thầm nghĩ. Gian sảnh chính vắng hoe. Thoáng có gì đó chuyển động ở đàu kia của gian sảnh chính. Một bóng người vừa chạy vụt từ ô cầu thang ra. Cô căng mắt nhìn. Nhưng không thấy có gì thêm.

Phòng của Brit Hale chỉ cách đó 10 feet. Cô rất muốn vào nói chuyện với anh, nhưng cô cũng không muốn anh nhìn thấy cô như thế này, mặt mũi tái nhợt, chân tay run lẩy bẩy. Mắt ầng ậc nước vì sợ hãi… Lạy Chúa tôi, cô đã từng điều khiển một chiếc Boeing 737 ra khỏi cú rơi bổ nhào trong tíc tắc mà còn bình tĩnh hơn lúc này; trân trân nhìn ra hành lang tối om của ngôi nhà.

Cô bước lùi vào trong phòng mình.

Hình như cô vừa nghe thấy tiếng bước chân?

Cô đóng cửa lại, quay về giường ngồi.

Vẫn là những tiếng bước chân.

“Chế độ chỉ huy”, Lincoln Rhyme ra lệnh. Hình ảnh chiếc hộp tự động hiện lên trên màn hình.

Anh nghe thấy tiếng còi hụ từ đằng xa vẳng lại.

Và đúng lúc này Rhyme mới chợt nhận ra sai lầm của mình.

Những chiếc xe cứu hỏa…

Không! Tại sao mình lại không nghĩ đến chuyện đó.

Nhưng tên Vũ công thì có. Tất nhiên! Chắc chắn hắn đã ăn trộm bộ đồng phục của một nhân viên cứu hỏa hoặc cứu thương nào đó rồi và ngay lúc này đang lẻn vào ngôi nhà an toàn.

“Ôi không!” Anh rên lên. “Không, tại sao mình lại có thể sai lầm đến thế được?”

Máy tính chỉ nhận biết được từ cuối cùng[93] trong câu nói của Rhyme và thế là nó ngoan ngoãn đóng phần mềm liên lạc của anh lại.

“Không!” Rhyme gào lên. “Không!”

Nhưng hệ thống không thể hiểu được giọng quát to ầm ĩ đến cuống cuồng của anh, và sau khi đèn hiệu lóe sáng một dòng thông báo hiện lên trên màn hình, Bạn có thực sự muốn tắt máy tính của mình không?

“Không”, anh tuyệt vọng thì thầm.

Một thoáng trôi qua không có gì xảy ra, nhưng hệ thống cũng không tắt đi. Một dòng thông báo khác lại hiện lên. Bạn muốn làm gì bây giờ?

“Thom!” Anh quát to. “Ai đó… làm ơn đi. Mell!”

Nhưng cánh cửa đang đóng kín; không có ai ở dưới nhà đáp lời anh.

Ngón đeo nhẫn bên tay trái của Rhyme giật giật một cách điên cuồng. Từng có thời gian anh sử dụng một thiết bị điều khiển ECU cơ khí và anh có thể dùng ngón tay duy nhất còn cử động được của mình để bấm số điện thoại. Giờ thì hệ thống máy tính này đã thay thế thiết bị kia và điều đó có nghĩa là anh phải sử dụng chương trình ra lệnh bằng giọng nói để gọi điện đến ngôi nhà an toàn, thông báo cho mọi người rằng tên Vũ công đang trên đường tới đó, hắn sẽ đóng giả là một nhân viên cứu hỏa hoặc một nhân viên cứu hộ.

“Chế độ chỉ huy”, anh nói vào mic của mình. Cố gắng đọc mệnh lệnh thật rành rọt.

Tôi không hiểu bạn vừa nói gì. Xin vui lòng thử lại.

Lúc này tên Vũ công đang ở đâu? Liệu hắn đã vào được bên trong chưa? Có lẽ nào hắn đang chuẩn bị nổ súng vào Percey Clay hoặc Brit Hale?

Hoặc Amelia Sachs?

“Thom! Mell!”

Tôi không hiểu…

Tại sao mình lại không thể suy nghĩ khôn ngoan hơn?

“Chế độ chỉ huy”, anh nói như người hụt hơi, cố gắng làm chủ cơn hoảng loạn.

Chú thích

[93]Trong câu nói của mình, Rhyme sử dụng cấu trúc “be far off” có nghĩa là “phạm sai lầm” hoặc “đi chệch hướng. Nhưng “off” cũng có nghĩa là “tắt”, “khóa” nên máy tính đã hiểu sai.

Hộp ra mệnh lệnh của chế độ chỉ huy vụt hiện lên. Con trỏ hình mũi tên xuất hiện ở góc trên cùng của màn hình và cách đó cả một lục địa mênh mông, ở góc dưới màn hình, là biểu tượng của phần mềm liên lạc.

“Kéo con trỏ xuống”, anh hổn hển thốt lên.

Không có gì xảy ra.

“Kéo con trỏ xuống”, anh quát, lần này còn to hơn.

Vẫn là dòng thông báo cũ hiện lên: Tôi không hiểu bạn vừa nói gì. Xin vui lòng thử lại.

“Ôi, mẹ kiếp… ”

Tôi không hiểu…

Nhẹ nhàng hơn, cố bắt mình phải phát âm rành rọt bằng giọng bình thường nhất, anh nói, “Kéo con trỏ xuống dưới.”

Và mũi tên màu trắng nhấp nháy bắt đàu lười nhác lê xuống phía dưới màn hình.

Chúng ta vẫn còn đủ thời gian, anh cố tự trấn an. Với lại đâu phải những người ở trong ngôi nhà an toàn không hề được bảo vệ hoặc vũ trang đầy đủ.

“Kéo con trỏ sang trái”, anh gần như hụt hơi.

Tôi không hiểu…

“Ôi, khốn khiếp thật!”

Tôi không hiểu…

“Kéo con trỏ lên… rê con trỏ sang trái.”

Mũi tên màu trắng dịch chuyển ì ạch trên màn hình như một con sên cho đến khi cuối cùng nó cũng tới được biểu tượng đó.

Bình tĩnh nào, bình tĩnh nào…

“Dừng con chuột lại. Nháy đúp.”

Rất ngoan ngoãn, biểu tượng một chiếc bộ đàm vụt hiện lên trên màn hình.

Anh hình dung ra tên Vũ công vô hình đang trườn tới từ phía sau Percey với một con dao sắc hoặc một sợi dây thít cổ.

Bằng một giọng nói cố gắng hết sức để tỏ ra bình tĩnh anh ra lệnh cho con trỏ điều chỉnh hộp tần số liên lạc.

Nó di chuyển tới đúng vị trí một cách hoàn hảo.

“Bốn”, Rhyme nói, rành rọt phát âm từ này cực kỳ thận trọng.

Một số 4 hiện ra trong ô. Và anh đọc tiếp, “Tám”

Một chữ A hiện lên trong ô thứ hai[94].

Lạy Chúa trên thiên đường!

“Xóa ô bên trái.”

Tôi không hiểu…

Không, không!

Anh có cảm giác như vừa nghe thấy tiếng bước chân. “Ai đấy?” Anh gào toáng lên. “Có ai ngoài đó không? Thom? Mell?”

Không có tiếng trả lời trừ người bạn máy tính kiên nhẫn của anh, một lần nữa nó vẫn điềm nhiên đưa ra trên màn hình câu trả lời như trêu ngươi.

“Tám”, anh chậm rãi đọc.

Con số hiện lên. Cố gắng tiếp theo của anh, “Ba”, hiện lên trong ô mà không hề gặp chút khó khăn nào.

“Phẩy.”

Từ phẩy hiện ra trong ô.

Chó chết!

“Xóa ô bên trái. ” Và đọc tiếp. “Thập phân.”

Ký tự đó hiện lên.

“Bốn”

Còn một ô trống. Nhớ kỹ nào, phải đọc là zero chứ không phải là không. Mồ hôi túa ra dầm dề trên mặt Rhyme, cuối cùng anh cũng điền nốt con số cuối cùng của tần số Tác chiến Đặc biệt một cách xuôi chèo mát mái.

Tín hiệu radio bật lên.

Được rồi!

Nhưng trước khi anh kịp truyền tin đi, tiếng tín hiệu loẹt xoẹt vang lên muốn ù cả tai và Rhyme lạnh cứng người khi nghe thấy giọng một người đàn ông đang cuống cuồng thét to, “Cấp cứu, cần yểm trợ, cơ sở bảo vệ nhân chứng liên bang số sáu.”

Chính là ngôi nhà an toàn.

Anh nhận ra đó là giọng của Roland Bell. “Hai người bị bắn và… Ôi, Chúa ơi, hắn vẫn còn ở đây. Hắn đã phát hiện ra chúng tôi, hắn đã tấn công chúng tôi! Chúng tôi cần…”

Tiếp theo đó là hai phát súng nổ đinh tai. Rồi lại những phát súng khác. Phải hơn chục phát. Một cuộc đọ súng dữ dội. Nghe không khác gì màn trình diễn pháo hoa bên bờ sông Đông đêm Quốc khánh 4 tháng 7.

“Chúng tôi cần…”

Tín hiệu kết nối tắt phụt.

“Percey!” Rhyme gào lên. “Percey…”

Trên màn hình vẫn là dòng thông báo lạnh lùng, vô cảm: Tôi không hiểu những gì bạn vừa nói. Xin vui lòng thử lại.

Một cơn ác mộng.

Chú thích

[94]Số 8 trong tiếng Anh được phát âm hơi giống với khi đánh vần nguyên âm “A”. Vì Rhyme đọc khi hồi hộp nên máy tính nhận biết nhầm giọng nói anh.

Stephen Kall, đầu trùm kín bằng mặt nạ trượt tuyết và mặc chiếc áo khoác rộng thùng thình của lính cứu hỏa, nằm nép chặt người trên sàn hành lang của ngôi nhà an toàn, đằng sau xác của một trong hai nhân viên cảnh sát tư pháp Mỹ mà hắn vừa sát hại.

Một phát súng nữa, gần hơn, cày vỡ tung một mẩu đá lát sàn nhà gần đầu hắn. Phát súng được bắn ra từ người cảnh sát với mái tóc màu nâu đang mỏng dần – chính kẻ mà hắn đã nhìn thấy trong cửa sổ ngôi nhà an toàn sáng hôm đó. Tay cảnh sát đang nép sau ngưỡng cửa, một mục tiêu khá ngon ăn nhưng Stephen cũng không thể thảnh thơi mà ngắm bắn. Gã cảnh sát sử dụng những khẩu súng ngắn tự động bằng cả hai tay mà lại còn bắn cực kỳ chính xác.

Stephen trườn về phía trước thêm một đoạn, về phía một trong những ngưỡng cửa đang để ngỏ…

Hoảng sợ, nhớp nháp, ngập ngụa trong đống giòi…

Hắn bắn thêm phát nữa và tay cảnh sát tóc nâu nằm bẹp xuống, bò giật trở lại vào trong phòng, thét gọi gì đó vào bộ đàm, nhưng rồi lại thò ra ngay lập tức, bắn trả rất lạnh lùng.

Khoác trên người chiếc áo khoác dài màu đen của lính cứu hỏa – giống hệt như ba, bốn chục lính cứu hỏa khác đang ở phía trước ngôi nhà – Stephen đã phá tung cánh cửa trổ ra con hẻm bằng một khối thuốc nổ xuyên phá và lao vào trong. Hắn đã đinh ninh sẽ trông thấy phần nội thất của ngôi nhà chỉ còn là một đống đổ nát đầy khói lửa, còn Người vợ cùng với Người bạn – cũng như cả nửa số người có mặt trong ngôi nhà – đã bị nổ tan xác hoặc không, ít nhất cũng bị thương rất nặng. Nhưng một lần nữa Lincoln Con Giòi đã lại đánh lừa hắn. Đồ con giòi kia đã đoán ra rằng chiếc điện thoại là một cái bẫy giết người. Điều duy nhất bọn chúng không ngờ tới chính là việc hắn sẽ lại tấn công vào ngôi nhà an toàn lần nữa; chúng cứ đinh ninh rằng hắn sẽ tấn công trên đường. Vậy mà, khi lao vào trong hắn được chào đón bằng những loạt đạn bắn ra xối xả từ hai nhân viên cảnh sát tư pháp. Nhưng họ đã bị khối thuốc nổ xuyên phá làm cho choáng váng và hắn nhanh chóng hạ gục hai người.

Thế rồi đến lượt tay cảnh sát tóc nâu lao ra từ trong góc phòng, nổ súng bằng cả hai tay, nã hai viên găm sượt qua áo giáp chống đạn của Stephen, trong khi chính Stephen cũng kịp bắn một phát vào người gã cảnh sát và cả hai đồng thời ngã ngửa ra phía sau. Lại bò dậy bắn nhau túi bụi và lại những phát đạn gần trúng. Tay cảnh sát cũng là một thiện xạ hầu như không kém hắn chút nào.

Cùng lắm là một phút nữa. Đó là khoảng thời gian tối đa mà hắn có.

Stephen cảm thấy nhớp nhúa đến nỗi hắn chỉ muốn gào lên… Hắn đã dồn hết tâm sức vào việc vạch ra kế hoạch này. Hắn đã làm tất cả những gì hắn cho là khôn ngoan nhất, vậy mà tên Lincoln Con Giòi vẫn nghĩ xa hơn hắn. Liệu đây có phải là Con Giòi đó không? Tên cảnh sát đang sắp hói với hai khẩu súng ngắn?

Thêm một loạt đạn khác từ súng của Stephen. Và… thật khốn kiếp… gã cảnh sát tóc nâu vẫn nhảy xổ vào giữa làn đạn đó, vẫn lao mình về phía trước. Tất cả những tên cớm khác trên đời hẳn đã phải nhào vào đâu đó tìm nơi ẩn nấp. Nhưng không phải tên này. Anh ta cố tiến thêm được hai feet về phía trước, rồi thành ba. Stephen nạp đạn, lại nổ súng, và cũng bò thêm được một khoảng cách dài tương đương về phía cánh cửa phòng mà mục tiêu của hắn đang ở trong.

Anh hãy biến mất vào trong đất, cậu nhóc ạ. Anh có thể tự biến mình thành người vô hình, nếu anh muốn.

Tôi có muốn, thưa ngài. Tôi muốn trở thành vô hình…

Lại thêm một thước nữa, gần như chạm vào ngưỡng cửa.

“Vẫn là tôi, Roland Bell đây!” Viên cảnh sát hét vào bộ đàm của mình.“Chúng tôi cần được yểm trợ ngay lập tức!”

Bell, Stephen thầm nhớ cái tên này. Hóa ra gã này không phải là Lincoln Con Giòi.

Viên cảnh sát nạp đạn và tiếp tục bắn. Mười hai phát, rồi lại mười hai phát nữa… Stephen không thể không khâm phục chiến thuật của viên cảnh sát. Thằng cha Bell này theo dõi sát sao số phát đạn mà gã bắn ra từ mỗi khẩu súng của mình rồi luân phiên nạp đạn lại cho từng khẩu, như thế lúc nào gã cũng có trên tay một khẩu súng đã nạp đạn sẵn sàng.

Viên cảnh sát găm một viên đạn đúng vào tường chỉ cách mặt Stephen có một inch, và Stephen bắn trả lại phát súng sát sạt không kém.

Bò thêm về phía trước được hai feet nữa.

Bell liếc nhìn lên và nhận thấy cuối cùng Stephen cũng tiến tới sát ngưỡng cửa của căn phòng ngủ tối om. Mắt hai người khóa chặt vào nhau và mặc dù là một quân nhân giả hiệu trong tưởng tượng của chính mình, Stephen Kall cũng đã chứng kiến quá đủ cảnh giao tranh ác liệt để biết rằng những sợi thần kinh lý trí có trong tay cảnh sát này đã đứt phựt và anh ta đã trở thành thứ đáng sợ nhất trên đời – một chiến binh thiện chiến không hề màng đến sự an nguy của bản thân. Bell đứng bật dậy và lao mình về phía trước, cả hai khẩu súng cùng khạc đạn.

Đó là lý do tại sao người ta phải dùng đến đạn cỡ .45[95] hồi Chiến tranh thế giới thứ hai ở Thái Bình Dương, nhóc ạ. Đạn thật bự để chặn đứng bọn Nhật lùn cuồng tín. Khi chúng lao vào anh, chúng không bao giờ quan tâm đến việc bị giết; đơn giản chỉ là chúng không muốn bị chặn lại.

Stephen cúi thấp đầu xuống, tung quả lựu đạn choáng[96] có thời gian chờ nổ một giây về phía Bell và nhắm mắt lại. Quả lựu đạn phát hỏa với một tiếng nổ to khủng khiếp. Hắn nghe thấy viên cảnh sát rú lên rồi trông thấy anh ta khuỵu xuống trên hai đầu gối, hai tay đưa lên ôm lấy mặt.

Sở dĩ Stephen đoán ra được là bởi vì hắn thấy hai người cảnh sát bảo vệ cùng với Bell đều liều chết ngăn chặn hắn, chắc chắn hoặc Người vợ hoặc là Người bạn đang ở trong căn phòng đó. Stephen cũng đoán rằng cho dù trong phòng đó có là ai thì người đó cũng sẽ nằm trốn trong tủ hoặc dưới gầm giường.

Hắn đã nhầm.

Khi vụt liếc vào trong ngưỡng cửa hắn thoáng thấy một bóng người đang lao về phía mình, tay giương cao chiếc đèn bàn làm vũ khí, miệng buột ra một tiếng thét pha trộn giữa căm giận và sợ hãi.

Năm phát súng nổ đanh từ khẩu súng của Stephen. Tất cả đều găm vào đầu và ngực, rất chụm. Cơ thể người kia khựng giật lại, lảo đảo xoay một vòng rồi đổ ngửa xuống sàn nhà.

Làm tốt lắm, quân nhân.

Và rồi thêm nhiều tiếng bước chân nện trên sàn nhà, chạy xuống cầu thang. Giọng của một phụ nữ. Và nhiều giọng khác nữa. Không còn thời gian để kết liễu Bell, không còn thời gian để truy tìm nốt mục tiêu còn lại.

Rút lui…

Hắn chạy tới cửa sau và thò đầu ra bên ngoài, lớn tiếng gọi thêm lính cứu hỏa đồng nghiệp.

Gần mười người vội vàng chạy tới.

Stephen hất đầu ra hiệu cho họ khẩn trương vào trong. “Đường dây ống dẫn ga bị nổ. Tôi sẽ cho mọi người di tản. Khẩn trương lên.”

Và hắn biến mất vào trong con hẻm, rồi bước ra phố, chạy luồn lách giữa những chiếc xe cứu hỏa hiệu Mack và Seagrave, xe cứu thương, xe tuần tra.

Run bắn, đúng thế.

Nhưng phấn khích. Công việc của hắn đã hoàn thành được hai phần ba.

Amelia Sachs là người đầu tiên kịp phản ứng với tiếng nổ của khối thuốc xuyên phá cùng tiếng la hét.

Rồi giọng của Roland Bell từ dưới tầng một thét vọng lên : “Yểm trợ! Yểm trợ! Có cảnh sát bị bắn!”.

Rồi tiếng súng nổ. Một loạt đạn nổ đinh tai, rồi một loạt nữa.

Chú thích

[95]Đạn .45: Một loại đạn cỡ lớn, tương đương đạn 11 milimét, có khả năng sát thương cực mạnh.

[96]Lựu đạn choáng: Loại lựu đạn không sát thương nhưng gây tiếng nổ lớn và lóe sáng, làm đối phương bị ù tai và hoa mắt.

Cô không biết tên Vũ công đã lọt vào như thế nào và cô cũng không kịp quan tâm. Lúc này cô chỉ muốn thoáng phát hiện được mục tiêu cùng khoảng thời gian hai giây cần thiết để trút cả nửa băng đạn chín ly đầu khoét lõm[97] vào hắn.

Với khẩu Glock nhẹ bẫng trên tay, cô lao vụt ra hành lang tầng hai. Chạy sau cô là Sellitto và Dellray cùng một tay cảnh sát trẻ mặc sắc phục, với anh chàng này cô chỉ kịp ước, giá kể mình có thời gian để tìm hiểu phẩm chất của anh ta khi lâm trận. Jodie nằm chết gí trên sàn, kinh hoàng nhận ra rằng gã đã phản bội một kẻ cực kỳ đáng sợ đang có vũ khí và chỉ cách đó chưa đầy 30 feet.

Hai đầu gối Sachs như đang muốn kêu gào phản đối khi cô lao phăm phăm xuống cầu thang, vẫn là căn bệnh viêm khớp và cô không khỏi nhăn mặt đau đớn khi nhảy thẳng từ ba bậc thang cuối cùng xuống sàn tầng một.

Qua tai nghe của mình cô nghe rõ yêu cầu lặp đi lặp lại của Bell về việc cần yểm trợ khẩn cấp.

Chạy dọc hành lang tối om, khẩu súng ép sát vào người, đây là tư thế an toàn nhất để kẻ thù không thể bất ngờ đánh văng súng của cô (chỉ những cảnh sát trên ti vi và nhưng tên găngxtơ trên phim mới lăm lăm chĩa thẳng súng về phía trước đầy vênh váo trước khi rẽ vào các góc, hoặc ghếch mũi súng chĩa lên trên). Liếc thật nhanh vào những căn phòng cô bước qua, khom thấp người xuống, dưới tầm cao ngang ngực, nơi một nòng súng thường đang phục sẵn để chĩa vào.

“Để tôi lo phía trước”, Dellray ra lệnh và biến mất vào cuối gian sảnh phía sau cô, khẩu Sig-Sauer to bự lăm lăm trên tay anh.

“Hãy cảnh giới phía sau”, Sachs ra lệnh cho Sellitto và người thanh niên mặc sắc phục, không thèm đếm xỉa đến cấp bậc lúc này.

“Rõ”, anh ta tuân lệnh.“Tôi sẽ cảnh giới. Phía sau lưng chúng ta.”

Sellitto cũng đang thở hổn hển, đầu anh ta hết cúi phía trước lại ngả về ra sau.

Tín hiệu loẹt xoẹt trong tai cô nhưng Sachs không nghe thấy giọng nói nào. Cô giật chiếc tai nghe xuống khỏi đầu – để không bị phân tâm – và thận trọng đi tiếp dọc hành lang.

Dưới chân cô là xác của hai cảnh sát tư pháp Mỹ nằm trên mặt sàn.

Mùi hóa chất thuốc nổ cháy khét lẹt và cô liếc nhanh về phía cửa sau của ngôi nhà an toàn. Cánh cửa bằng thép tấm nhưng hắn đã cho nó nổ tung bằng một khối thuốc nổ xuyên phá cực mạnh như thể cánh cửa được làm bằng giấy bồi.

“Chúa ơi”, Sellitto thốt lên, anh thừa đủ chuyên nghiệp nên không cúi xuống kiểm tra hai cảnh sát tư pháp chết trên sàn nhưng cũng quá con người nên không thể không kinh hoàng liếc mắt nhìn hai thi thể bị đạn bằm nát.

Sachs bước tới một căn phòng, dừng lại bên cánh cửa. Hai trong số những cảnh sát đặc nhiệm của Haumann cũng vừa bước vào từ ngưỡng cửa bị thuốc nổ phá tung.

“Yểm trợ”, cô thét to và trước khi bất kỳ ai kịp có cơ hội ngăn cô lại, Sachs đã nhảy vọt qua ngưỡng cửa.

Khẩu Glock giương lên, lia nhanh qua căn phòng.

Không có gì.

Cũng không có mùi cordite. Tức là ở đây không có nổ súng.

Lại quay ra hành lang. Tiến về phía ngưỡng cửa tiếp theo.

Cô chỉ tay vào người mình rồi chỉ vào căn phòng. Hai cảnh sát đặc nhiệm 32-E gật đầu.

Sachs lao vụt vào rồi quay ngoắt người quanh ngưỡng cửa, sẵn sàng nổ súng, hai cảnh sát đặc nhiệm sát phía sau. Cô cứng đờ người khi nhận ra một họng súng đang chĩa thẳng vào ngực mình.

“Chúa ơi”, Roland Bell rên lên và hạ thấp họng súng xuống. Tóc viên cảnh sát lật rối tung, mặt anh thì nhem nhuốc khói súng. Hai viên đạn đã xé rách áo sơ mi và hằn dấu trên chiếc áo giáp chống đạn của anh.

Rồi mắt Sachs chợt nhìn tới khung cảnh khủng khiếp trên sàn nhà.

“Ôi, không…”

“Tòa nhà đã an toàn”, một cảnh sát đặc nhiệm từ ngoài hành lang nói vọng vào. “Họ nhìn thấy hắn đã bỏ đi. Hắn mặc đồng phục của lính cứu hỏa. Hắn trốn thoát rồi. Hòa lẫn vào đám đông tụ lại trước ngôi nhà.”

Amelia Sachs, lúc này lại trở thành nhà hình sự học chứ không còn là một sĩ quan hành động, bắt đầu quan sát các vết máu, hít ngửi mùi thuốc súng cháy khét lẹt, nhìn chiếc ghế đổ nhào, đây có thể là dấu hiệu cho thấy đã có một cuộc vật lộn xảy ra và theo logic thông thường thì đó sẽ là điểm chuyển tiếp dấu vết và bằng chứng quý giá. Những vỏ đạn rải rác trên sàn, chỉ cần liếc qua cô cũng kịp nhận thấy ngay rằng chúng được bắn ra từ một khẩu tự động cỡ 7,62 milimét.

Cô cũng quan sát cả tư thế của nạn nhân khi ngã xuống, điều đó nói lên rằng nạn nhân đã chết khi đang tấn công hung thủ, rõ ràng là với một chiếc đèn bàn. Còn rất nhiều câu chuyện khác mà hiện trường vụ án sẽ tiết lộ và, vì lý do đó, Sachs biết rằng cô nên giúp Percey Clay gượng đứng dậy và dẫn người nữ phi công rời xa khỏi thi thể người bạn thân xấu số của mình. Nhưng Sachs không thể nào làm được điều đó. Tất cả những gì cô có thể làm là đứng chết lặng nhìn người phụ nữ nhỏ bé với khuôn mặt ngắn bè bè xấu xí đang ôm cái đầu bê bết máu của Brit Hale vào lòng, miệng không ngớt lảm nhảm, “Ôi, không, ôi không…”

Khuôn mặt người phụ nữ chỉ còn là một chiếc mặt nạ, như hóa đá, không một giọt nước mặt trào ra.

Cuối cùng Sachs gật đầu ra hiệu cho Roland Bell. Viên cảnh sát quàng tay ôm lấy Percey và dìu cô bước ra ngoài hành lang, mặc dù vậy anh vẫn không quên cảnh giác, tay nắm chặt khẩu súng ngắn.

Cách ngôi nhà an toàn 230 thước.

Đủ các loại đèn xanh và đỏ của hàng chục xe cứu thương, và xe cảnh sát đang loạn xạ nhấp nháy loang loáng khắp nơi như thể cố làm cho hắn bị lóa mắt. Mặc dù vậy Stephen vẫn tập trung quan sát qua chiếc kính ngắm Redfield và hoàn toàn không để ý tới bất kỳ điều gì ngoài dấu chữ thập quang học. Hắn chậm rãi lia qua lia lại khắp khu vực tiêu diệt.

Lúc này Stephen đã trút bỏ bộ đồng phục của lính cứu hỏa và lại ăn mặc như một sinh viên đại học quá tuổi. Hắn đã lấy lại khẩu Model 40 giấu bên dưới tháp chứa nước, nơi hắn ẩn náu sáng hôm đó. Khẩu súng đã được nạp đạn và lên khóa nòng sẵn sàng. Dây đeo súng được quấn cẩn thận quanh cánh tay và hắn đã sẵn sàng cho việc tiêu diệt con mồi.

Ngay lúc này đây kẻ mà hắn săn lùng không phải là Người vợ.

Và đó cũng không phải là Jodie, đồ đĩ đực Judas phản bội.

Hắn đang săn lùng Lincoln Con Giòi. Kẻ vừa một lần nữa đã chiến thắng hắn trong cuộc đấu trí này.

Kẻ đó là ai? Tên nào trong số bọn chúng?

Nhớp nhúa.

Lincoln… Ông hoàng của lũ giòi.

Mày đang ở đâu? Có phải mày đang đứng trước mặt tao ngay lúc này không? Trong đám đông đang tụ tập quanh tòa nhà nghi ngút khói?

Có lẽ nào đó là tên cớm béo ị kia, mồ hôi nhễ nhại như một con lợn thiến?

Hay là gã mọi mặc bộ com lê màu xanh? Trông mặt gã quen quen. Stephen đã nhìn thấy gã này ở đâu nhỉ?

Một chiếc xe không có dấu hiệu riêng vừa xịch tới và có mấy người mặc com lê nhảy xuống.

Có thể Lincoln là một trong số chúng.

Cô ả cảnh sát tóc đỏ bước từ trong xe ra. Cô ta đang mang găng tay cao su. Hóa ra cô em ở bộ phận CS? Hừm, ta đã xử lý kỹ vỏ và đạn của mình rồi, cưng ạ, hắn thầm nói với cô ta trong khi thước ngắm hình chữ thập của ống kính quang học đã chọn được một điểm ngắm rất tuyệt vời trên cổ cô nàng. Và cô em sẽ phải bay tới tận Singapore thì may ra mới lần được manh mối liên quan đến khẩu súng của ta.

Hắn nhẩm tính hắn chỉ có đủ thời gian để bắn đúng một phát súng trước khi bị dồn bật trở lại vào con hẻm bằng loạt đạn bắn trả xối xả chắc chắn sẽ bung ra sau đó.

Mày là ai?

Lincoln? Lincoln?

Nhưng hắn không có chút manh mối nào.

Chú thích

[97]Đạn đầu khoét lõm: Loại đầu đạn không nhọn hoắt như thông thường, mà hơi lõm xuống, tăng khả năng sát thương.

Đúng lúc đó cánh cửa trước bật mở và Jodie xuất hiện, gã e dè bước ra khỏi ngưỡng cửa. Gã nhớn nhác nhìn quanh, hấp háy mắt, rồi co rúm người dựa hẳn vào tường nhà.

Mày…

Lại là cảm giác râm ran như điện giật. Dù là ở khoảng cách xa ngần này.

Stephen dễ dàng chỉnh thước ngắm vào giữa ngực gã.

Hành động đi, quân nhân, hãy nổ súng đi. Hắn là một mục tiêu tất yếu; hắn có thể khai ra anh.

Thưa ngài, tôi đang tính toán khoảng cách và vận tốc gió.

Stephen bắt đầu chầm chậm tăng lực vào ngón tay đặt trên vành cò.

Jodie…

Hắn đã phản bội anh, quân nhân. Khử… hắn… đi.

Rõ, thưa ngài. Hắn lạnh như đá rồi. Coi như hắn chỉ còn là xác thối. Thưa ngài, lũ kền kền bắt đầu lượn lờ trên kia rồi.

Quân nhân, điều lệnh huấn luyện xạ thủ bắn tỉa của lính thủy đánh bộ Hoa Kỳ chỉ rõ rằng người bắn phải từ từ tăng lực trên ngón tay bóp cò khẩu Model 40 thật tự nhiên sao cho anh ta không thể biết được thời điểm chính xác khẩu súng của mình sẽ khai hỏa. Có đúng thế không, quân nhân?

Đúng, thưa ngài.

Nếu đúng thì thế quái nào anh lại không làm theo hả?

Hắn xiết mạnh tay cò hơn nữa.

Thật chậm rãi, thật từ từ…

Nhưng khẩu súng vẫn chưa nổ. Hắn nâng kính ngắm lên nhằm vào đầu Jodie. Và đúng lúc đó, đôi mắt của Jodie, từ đầu đến giờ vẫn lia khắp các mái nhà xung quanh, nhìn thấy hắn.

Hắn đã chần chừ quá lâu.

Bắn đi, quân nhân. Bắn!

Một tiếng thì thầm do dự…

Rồi hắn kéo mạnh tay cò như một thằng nhóc đang tập bắn với khẩu súng trường .22 ở một trại hè chết tiệt.

Đúng lúc Jodie lao người ra khỏi đường đạn, xô cả những cảnh sát đứng cạnh gã ngã sang một bên.

Quỷ tha ma bắt thế quái nào mà anh lại bắn trượt phát đó hả, quân nhân? Bắn lại ngay!

Rõ, thưa ngài.

Hắn nổ thêm hai phát súng nữa nhưng Jodie và tất cả mọi người xung quanh đều đã tìm được chỗ nấp hoặc thụp người xuống chạy tránh đạn dọc đường phố và vỉa hè.

Và rồi loạt đạn bắn trả bắt đầu. Đầu tiên là hơn chục khẩu súng khạc đạn, tiếp theo là hơn chục khẩu súng nữa phụ họa. Chủ yếu là súng ngắn, nhưng cũng có cả mấy khẩu tiểu liên H&K, xối xả vãi đạn nghe chiu chíu như những động cơ ô tô hỏng ống xả.

Đạn đang nối tiếp nhau dội vào tháp thang máy phía sau lưng Stephen, trút xuống đầu hắn một cơn mưa những mẩu gạch và bê tông vỡ, cùng với những mảnh đồng và chì sắc nhọn từ đầu đạn bắn ra, cắt sâu vào cả hai cánh tay và mu bàn tay của hắn.

Stephen ngã nhào về phía sau, hai tay buông súng giơ lên che lấy mặt. Hắn cảm thấy những vết rách và nhìn thấy những giọt máu nhỏ li ti của mình đang rỏ xuống mái nhà phủ giấy tráng nhựa đường.

Tại sao mình lại chần chừ? Tại sao? Mình đã có thể bắn hắn và cao chạy xa bay.

Tại sao?

Âm thanh phành phạch của một chiếc trực thăng đang tăng tốc về phía tòa nhà. Thêm những tiếng còi hụ đang ập tới.

Rút lui ngay, quân nhân! Rút lui!

Hắn liếc nhanh xuống và nhìn thấy Jodie đang nhoài người bò tìm chỗ nấp sau một chiếc xe. Stephen ném khẩu Model 40 vào hộp, khoác vội chiếc ba lô lên vai và trèo nhanh theo cầu thang thoát cháy dẫn xuống con hẻm.

Bi kịch thứ hai.

Percey Clay đã thay quần áo và bước ra ngoài hành lang, người cô mềm oặt như tàu lá và phải dựa vào thân hình chắc nịch của Roland Bell. Anh quàng tay ôm quanh người cô.

Bi kịch thứ hai trong ba. Không phải việc tay thợ kỹ thuật chính bỏ việc hoặc những vấn đề đang xảy ra với công ty. Mà là về cái chết của người bạn thân thiết của cô.

Ôi, Brit…

Cô hình dung ra anh, hai mắt trợn trừng, miệng há hốc trong một tiếng thét uất nghẹn, lao thẳng về phía tên giết người khủng khiếp. Cố chặn bước hắn lại, kinh hoàng trước việc có kẻ đang thực sự tìm cách giết mình và Percey. Cảm thấy căm hặn và bị phản bội hơn là sợ hãi. Cuộc đời anh mới thật rạch ròi làm sao, cô thầm nghĩ về Brit. Ngay cả những rủi ro của anh cũng được tính toán cẩn thận. Cú bay lật bụng ở độ cao 50 feet, nhưng cú bổ nhào xoắn ốc, nhảy tự do không dù. Những trò biểu diễn mà người xem tưởng chừng như là không thể. Nhưng anh biết rõ những gì mình làm và nếu như có lúc nào đó anh nghĩ về khả năng đột tử, thì anh cũng tin rằng đó sẽ là do một mối hàn nào đó phía sau máy bay bị bung ra, rồi thì đường dẫn nhiên liệu bị tắc hoặc do một tay phi công tập sự cẩu thả nào gây tai nạn.

Nhà văn nổi tiếng chuyên viết về ngành hàng không Ernest K.Gann từng viết rằng số phận là một kẻ đi săn. Từ trước tới nay Percey vẫn đinh ninh ông muốn nói đến thiên nhiên hoặc hoàn cảnh khách quan – nhưng yếu tố hay thay đổi, những cơ chế hoạt động đầy khiếm khuyết cùng về hùa với nhau để đẩy máy bay bổ nhào xuống đất. Nhưng số phận còn phức tạp hơn thế rất nhiều. Số phận phức tạp không khác gì suy nghĩ của con người. Phức tạp như bản thân cái ác.

Không bao giờ hai mà không ba… Và điều gì sẽ là bi kịch cuối cùng? Chẳng lẽ là cái chết của cô? Của Công ty? Hay của một người khác?

Gục hẳn vào Roland Bell, người cô run lẩy bẩy vì căm giận trước sự ngẫu nhiên đến tàn nhẫn của số phận. Nhớ lại tất cả: cô cùng với Ed và Hale, mắt nhắm mắt mở vì thiếu ngủ, đứng trong quầng sáng của ánh đèn pha trong hangar xung quanh chiếc Learjet Charlie Juliet, khắc khoải hy vọng họ sẽ giành được hợp đồng của Tập đoàn U.S. Medial, vừa rét run cầm cập trong cái lạnh ẩm ướt của màn đêm vừa phải cố tính toán sửa sang lại chiếc máy bay phản lực như thế nào để phục vụ cho công việc tốt nhất.

Rất khuya, một đêm lạnh đầy sương. Sân bay vắng tanh và tối om. Giống như cảnh cuối cùng trong phim Casablanca.

Ba người nghe thấy tiếng phanh nghiến ken két và cùng liếc ra ngoài.

Người đàn ông đang lôi những chiếc túi bạt lớn ra khỏi chiếc xe trên đường băng, lẳng chúng vào khoang lái và khởi động chiếc Beachcraft. Tiếng nổ nghèn nghẹt rất đặc trưng của loại động cơ van pít tông bắt đầu vang lên.

Cô còn nhớ lúc đó Ed đã nói với vẻ nghi ngờ, “Hắn đang làm gì thế? Sân bay đóng cửa rồi mà.”

Đó là số phận.

Khi họ tình cờ có mặt ở sân bay đêm hôm đó.

Khi Phillip Hansen đã chọn đúng thời điểm đó để thủ tiêu những bằng chứng giết người của hắn.

Khi Hansen lại là kẻ sẵn sàng giết bất kỳ ai để giữ cho chuyến bay giữa đêm khuya hôm ấy mãi mãi là một bí mật.

Số phận…

Bỗng cô giật nẩy mình – vì một tiếng gõ vang lên trên cánh cửa của ngôi nhà an toàn.

Hai người đàn ông xuất hiện trên ngưỡng cửa. Bell nhận ra họ ngay lập tức. Họ thuộc Đội Bảo vệ Nhân chứng của NYPD. “Chúng tôi tới đây để đưa bà tới cơ sở bảo vệ Shoreham trên đảo Long Island, thưa bà Clay.”

“Không, không”, cô nói. “Chắc có nhầm lẫn rồi. Tôi phải tới sân bay Mamaroneck.”

“Percey”, Roland Bell lên tiếng.

“Tôi phải tới đó.”

“Tôi không biết gì về chuyện đó, thưa bà”, một trong hai người sĩ quan nói. “Chúng tôi nhận được mệnh lệnh là phải đưa bà tới Shoreham và tiến hành các biện pháp cần thiết để bảo vệ bà tại đó, cho tới khi một bồi thẩm đoàn được triệu tập vào thứ Hai tới.”

“Không, không, không. Hãy gọi cho Lincoln Rhyme. Anh ta biết chuyện này.”

“À ừm…” Hai nhân viên cảnh sát bối rối nhìn nhau.

“Làm ơn đi”, cô nói, “hãy gọi cho anh ta. Anh ta sẽ cho các anh biết chuyện đó.”

“Thật ra, thưa bà Clay, chính ông Lincoln Rhyme là người ra lệnh di chuyển bà khỏi đây. Xin bà hãy vui lòng đi cùng chúng tôi. Bà đừng lo gì cả. Chúng tôi sẽ chăm sóc bà thật chu đáo, thưa bà.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


Giờ thứ 28 của 45

Không dễ chịu chút nào”, Thom nói với Amelia Sachs.

Cô nghe thấy tiếng quát vọng ra từ sau cánh cửa phòng ngủ, “Tôi muốn cái chai đó và tôi muốn có nó ngay bây giờ!”

“Có chuyện gì thế?”

Chàng thanh niên đẹp trai nhăn mặt. “Ôi trời, thỉnh thoảng anh ấy vẫn oái ăm như thế đấy. Anh ấy bảo một trong mấy tay cảnh sát tuần tra rót cho mình ít rượu whiskey. Để giảm đau, anh ấy giải thích với anh ta thế. Anh ấy bảo đã được bác sĩ kê cho dùng loại whiskey mạch nha thượng hạng. Cô có tin được không chứ? Ôi trời, mà lúc rượu vào thì không thể nào chịu đựng nổi anh ấy nữa.”

Một tiếng rống giận dữ từ trong phòng anh vọng ra.

Sachs biết lý do duy nhất khiến anh không đập phá và quăng ném đồ đạc chính là vì anh không thể.

Cô vươn tay nắm lấy tay nắm cửa.

“Có lẽ cô nên đợi thêm một chút”, Thom cảnh báo.

“Chúng tôi không thể đợi được.”

“Mẹ kiếp!”,Rhyme lại gầm lên. “Tôi muốn có cái chai chết tiệt đó!”

Cô mở cửa ra. Thom thì thào, “Đừng có bảo là tôi chưa cảnh báo cô đấy nhé”.

Vào trong, Sachs đứng sững lại trước ngưỡng cửa. Trông Rhyme thật thê thảm. Tóc anh rối bù, cằm anh bê bết nước dãi, đôi mắt thì đục ngầu vằn đỏ.

Chai Macallan nằm lăn lóc trên sàn. Chắc chắn anh đã cố dùng răng tu cái chai và làm nó bị rơi xuống.

Anh nhìn thấy Sachs nhưng tất cả những gì anh thốt lên là một câu cộc lốc, “Nhặt nó lên”.

“Chúng ta còn nhiều việc phải làm, Rhyme.”

“Nhặt. Cái. Chai. Đó. Lên.”

Cô làm theo. Và đặt nó trở lại lên mặt giá tủ rượu.

Anh gầm lên, “Cô biết tôi định nói gì mà. Tôi muốn uống.”

“Nghe giọng thì có vẻ như anh đã uống quá đủ rồi đấy.”

“Rót whiskey vào cái cốc khốn kiếp kia của tôi ngay. Thom! Có vác mặt vào đây không hả… Đồ hèn nhát.”

“Rhyme”, cô quát, “chúng ta còn những bằng chứng phải phân tích”.

“Kệ mẹ những bằng chứng của cô.”

“Anh uống bao nhiêu rồi hả?”

“Tên Vũ công lọt vào được bên trong, đúng không? Con cáo trong chuồng gà. Con cáo trong chuồng gà.”

“Tôi đã dùng máy hút bụi để thu nhập được rất nhiều bằng chứng, tôi còn tìm thấy cả một đầu đạn, tôi có cả mẫu máu của hắn nữa…”

“Máu à? Hừ, như thế mới công bằng chứ. Hắn lấy quá nhiều máu của chúng ta rồi.”

Cô quát lại, “Lẽ ra anh phải mừng như một đứa trẻ trong ngày sinh nhật chứ, sau ngần ấy bằng chứng tôi mang về được. Thôi cái trò tự thương hại bản thân đi, và hãy bắt đầu làm việc”.

Anh không phản ứng gì. Và khi nhìn anh, Sachs chợt nhận ra ánh mắt đờ đẫn của anh đang nhìn lướt qua cô, hướng ra phía ngưỡng cửa. Cô quay người lại. Percey Clay đang đứng đó.

Ngay lập tức, Rhyme cụp mắt nhìn xuống sàn nhà. Bỗng chốc anh hoàn toàn im lặng.

Chứ còn gì nữa, Sachs thầm nghĩ. Không muốn tự bêu xấu trước mặt tình yêu mới của anh ta đây mà.

Percey bước hẳn vào trong phòng, cô đăm đăm nhìn cái đống thảm hại có tên là Lincoln Rhyme.

“Lincoln, có chuyện gì thế này?” Sellitto đã đi cùng Percey về đây, Sachs thầm nghĩ. Viên cảnh sát cũng bước vào phòng.

“Ba người chết, Lon ạ. Hắn giết thêm được ba người nữa. Con cáo trong chuồng gà.”

“Lincoln”, Sachs thốt lên. “Thôi đi. Anh đang tự làm mình phải xấu hổ đấy.”

Nói xong mới thấy thật không nên chút nào. Ánh mắt Rhyme vụt long lên hoang dại. “Tôi không thấy xấu hổ đấy. Trông tôi như đang xấu hổ không? Xin hỏi mọi người? Trông tôi có như vậy không? Trông tôi có xấu hổ mẹ gì không?”

“Chúng ta phải…”

“Không, chúng ta phải chấm dứt thôi! Tất cả thế là hết rồi. Hết thật rồi. Đã kết thúc. Giờ thì chỉ còn cách lặn thật sâu. Chúng ta sẽ trốn vào trong núi. Cô sẽ tham gia cùng chúng tôi chứ, Amelia? Tôi khuyên cô nên đi cùng.”

Cuối cùng anh quay sang nhìn Percey. “Còn cô đang làm gì ở đây vậy? Lẽ ra giờ này cô phải ở Long Island rồi chứ.”

“Tôi muốn nói chuyện với anh.”

Thoạt đầu anh không nói gì, một lát sau anh mới lên tiếng, “Ít nhất thì cũng cho tôi uống chút gì đã.”

Percy liếc nhìn Sachs rồi bước về phía tủ rượu, cô rót đầy cả hai cốc cho mình và cho Rhyme. Sachs đang gườm gườm nhìn Percy, nhưng cô không để ý và cũng không phản ứng gì.

“Đây mới là một quý bà cừ khôi”, Rhyme nói. “Tôi giết cộng sự của cô ấy vậy mà cô ấy vẫn sẵn lòng ngồi uống cùng tôi. Còn cô không làm thế, Sachs.”

“Ôi, Rhyme, không thể tin là có lúc anh lại khốn khiếp thế”, Sachs gầm lên. “Mel đâu rồi?”

“Cho anh ta về nhà rồi. Chẳng còn việc quái gì mà làm cả… Chúng ta sẽ để cô ấy gói gém đồ đạc rồi chuyển một mạch sang Long Island, ở đó cô ấy sẽ được an toàn.”

“Cái gì cơ?”, Sachs hỏi.

“Chỉ là làm những gì lẽ ra chúng ta phải làm ngay từ đầu. Cho tôi cốc nữa.”

Percy định làm theo. Sachs nói, “Anh ấy uống đủ rồi”.

“Đừng có nghe cô ấy”, Rhyme gắt gỏng. “Cô ấy đang căm thù tôi. Tôi không làm theo những gì cô ấy muốn và thế là cô ấy căm thù tôi.”

Ôi, cảm ơn anh, Rhyme. Tại sao chúng ta không vạch áo cho người xem lưng luôn cả thể? Đôi mắt tuyệt đẹp nhưng lạnh giá của cô nhìn xoáy vào anh.

Nhưng thậm chí anh còn không thèm để ý; anh đang mải chăm chú nhìn Percey Clay.

Người nữ phi công nói, “Anh đã thỏa thuận với tôi rồi. Vậy mà bây giờ tôi lại thấy hai cảnh sát chuẩn bị đưa tôi sang Long Island. Tôi đã tưởng tôi có thể tin tưởng anh”.

“Nhưng nếu cô tin tôi, cô sẽ chết.”

“Đó là một rủi ro”, Percey nói. “Anh cũng đã nói trước cho chúng tôi biết là có khả năng hắn vẫn lọt được vào trong ngôi nhà an toàn.”

“Đành là thế, nhưng cô không hề biết tôi đã đoán ra điều gì.”

“Anh… gì cơ?”

Sachs cau mày, chăm chú nghe.

Rhyme nói tiếp, “Tôi đã đoán được hắn chuẩn bị tấn công vào ngôi nhà an toàn. Tôi còn đoán hắn đang đóng giả làm một nhân viên cứu hỏa. Thật chó chết, tôi còn đoán hắn đang đóng giả làm một nhân viên cứu hỏa. Thật chó chết, tôi còn đoán được cả việc hắn sẽ dùng thuốc nổ xuyên phá ốp vào cửa sau. Tôi cá đó phải là loại bộc phá kiểu Hệ thống định hướng 521 hoặc 522 với hệ thống kích nổ Instadet. Tôi đoán đúng không?”.

“Tôi…”

“Tôi nói thế có đúng không?”

“Một loại thuốc nổ định hướng 521”, Sachs thừa nhận.

“Thấy chưa? Tôi đã đoán được tất cả những điều đó. Tôi đã biết từ năm phút trước khi hắn lọt vào trong. Vấn đề chỉ là tôi không thể gọi được cho bất kỳ ai và cảnh cáo họ! Tôi chỉ không thể nào… nhấc được… cái điện thoại chó chết kia lên và báo cho ai đó biết những gì sắp xảy ra. Và bạn cô đã chết. Chỉ vì tôi.”

Sachs cảm thấy thương hại thay cho anh và cảm giác đó thật khó chịu. Cô như đứt từng khúc ruột trước nỗi đau của anh vậy mà cô không thể biết phải nói gì để có thể an ủi anh trong lúc này.

Cằm anh ướt nhoét nước dãi. Thom bước lại với một chiếc khăn giấy, nhưng Rhyme đã xua người trợ lý của mình đi bằng cách giận dữ hất mạnh cái cằm thanh tú của mình. Anh hất cằm về phía chiếc máy tính. “Ôi, trước đây tôi mới vênh váo làm sao. Tôi đã bắt đầu tưởng rằng tôi hoàn toàn bình thường. Nào là lái chiếc Storm Arrow đi khắp nơi như một tay đua ô tô, nào là tắt bật đèn và còn thay đĩa CD nữa chứ… Tất cả chỉ là vớ vẩn hết!” Anh nhắm nghiền mắt lại và ngả hẳn đầu xuống gối.

Một tràng cười chói tai vang vọng khắp căn phòng, khiến mọi người giật mình.

Percey Clay rót thêm rượu vào cốc của mình. Rồi rót thêm một chút nữa cho Rhyme. “Đúng là vớ vẩn thật, không phải bàn cãi nữa. Chỉ có điều đó là những gì tôi đang nghe từ miệng anh.”

Rhyme mở trừng mắt, gườm gườm nhìn cô.

Percey lại phá lên cười.

“Đừng”, Rhyme lầm bầm cảnh cáo.

“Ôi, xin anh”, cô khinh thường thốt lên.

“Đừng cái gì chứ?”

Sachs nhận thấy đôi mắt của Percey đang nheo lại thách thức. “Anh vừa nói gì đấy nhỉ?”, Percey bắt đầu. “Rằng có người bị giết chỉ vì… trục trặc kỹ thuật sao?”

Sachs nhận ra là Rhyme đã tưởng người nữ phi công sẽ nói điều gì đó hoàn toàn khác, Anh không giấu nổi vẻ lúng túng vì bị bất ngờ. Một lát sau anh khẽ nói, “Đúng. Chính xác đó là những gì tôi muốn nói. Giá kể như tôi có thể nhấc được điện thoại lên…”.

Cô vụt cắt ngang lời anh. “Và thế thì sao nào? Chẳng lẽ vì thế mà anh có quyền giở cái trò hờn giận chết tiệt này à? Để nuốt lời hứa ư?” Cô ngửa cổ tu ực một hơi hết chỗ rượu của mình và buông ra một tiếng thở dài chán nản.

L“Ôi, vì Chúa… Anh có hiểu gì về công việc của tôi không chứ?”

Sachs ngỡ ngàng khi nhận ra lúc này Rhyme đã bình tĩnh trở lại. Anh định nói gì đó nhưng Percey đã kịp cắt ngang lời anh. “Cứ thử nghĩ xem.” Giọng nói lè nhè của cô đã quay lại. “Tôi ngồi trong một cái ống hình trụ bằng nhôm chật chội đang bay với vận tốc 400 knot một giờ, cách mặt đất khoảng sáu dặm. Nhiệt độ bên ngoài là -60C và tốc độ gió là 100 dặm một giờ. Đấy là tôi còn chưa kể đến sấm sét, gió và mưa đá. Lạy Chúa, sở dĩ tôi còn sống được là nhờ vào máy móc.” Một tiếng cười khan nữa bật ra. “Như thế thì khác gì anh nào?”

“Cô không hiểu rồi”, anh xẵng giọng.

“Anh chưa trả lời câu hỏi của tôi. Như thế nào?”, cô gặng hỏi, không một chút thương xót. “Khác như thế nào?”

“Cô còn có thể đi lại, cô còn có thể nhấc điện thoại lên…”

“Tôi có thể đi lại ư? Tôi đang ở độ cao 50000 feet. Chỉ cần mở cánh cửa đó ra là máu trong người tôi sẽ sôi lên sau vài giây.”

Lần đầu tiên kể từ khi cô biết anh, Sachs thầm nghĩ, Rhyme đã gặp đối thủ của mình. Anh cứng họng không nói được gì.

Percey tiếp tục, “Tôi xin lỗi, thám tử ạ, nhưng tôi không hề có tí gì là khác nhau giữa hai chúng ta. Chúng ta đều là sản phẩm của nền khoa học thế kỷ XX. Mẹ kiếp, giá kể như tôi có cánh tôi sẽ tự bay cho mà xem, nhưng tôi không có và sẽ không bao giờ có. Để làm được những gì mà chúng ta đang phải làm, cả hai chúng ta… chúng ta phải phụ thuộc.”

“Được rồi…”, anh nhếch mép cười độc địa.

Cố lên nào, Rhyme, Sachs thầm nghĩ. Cho cô ả biết tay đi! Trong thâm tâm Sachs không mong muốn gì hơn được thấy anh chiến thắng, được tống cổ người phụ nữ này sang Long Island, chấm dứt mãi mãi mọi chuyện có dính dáng tới cô ta.

Rhyme đang nói, “ Nhưng nếu tôi phạm sai lầm, sẽ có người phải chết”.

“Ôi trời! Vậy chuyện gì sẽ xảy ra nếu thiết bị chống đóng băng trên máy bay của tôi gặp trục trặc? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu bộ giảm tốc điều chỉnh hướng bay của tôi bị rơi mất? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu một con chim bồ câu bay lạc vào ống đo áp suất của tôi khi máy bay đang hạ cánh bằng hệ thống hạ cánh tự động? Tôi… sẽ… là… người… chết. Chập điện, ống thủy lực gặp trục trặc, thợ kỹ thuật quên thay thế những rơ le ngắt mạch cũ hỏng… Cơ man nào là những trục trặc kỹ thuật có thể xảy ra. Trong trường hợp của anh các nạn nhân dù sao cũng có cơ hội sống sót nếu chỉ bị bắn bằng súng. Nhưng nếu máy bay của tôi mà rơi xuống đất với vận tốc 300 dặm một giờ, sẽ chẳng có gì còn sót lại.”

Dường như đến lúc này Rhyme đã hoàn toàn tỉnh rượu. Mắt anh đang đảo lia lịa quanh phòng như thể đang tìm kiếm một mẩu bằng chứng xác thực nào đó có thể phủ nhận quan điểm của Percey.

“Còn bây giờ”, Percey bình thản nói, “tôi thấy là cô Amelia đây đang có một số bằng chứng mà cô ấy tìm được tại ngôi nhà an toàn. Theo quan điểm của tôi thì anh nên bắt tay vào xem xét chúng và đừng bao giờ giở cái trò khỉ nàu ra làm gì nữa. Bởi vì ngay sau đây tôi sẽ lên đường tới sân bay Mamaroneck để hoàn thành nốt việc sửa chữa cho chiếc máy bay, và đêm nay tôi sẽ thực hiện chuyến bay đó. Nào, bây giờ tôi hỏi thẳng anh một câu thế này nhé: Anh có định để tôi tới sân bay, như anh đã đồng ý không? Hay tôi sẽ phải gọi cho luật sư của mình đây?”.

Anh vẫn cứng họng không nói được gì.

Một thoáng im lặng trôi qua.

Sachs giật bắn mình khi Rhyme gào rống lên bằng cái giọng nam trung oang oang của mình, “Thom! Thom! Vào đây ngay”.

Người trợ lý đứng ở ngưỡng cửa nhòm vào với ánh mắt ngờ vực.

“Tôi làm lộn tung hết trong phòng rồi đây này. Nhìn đi, tôi đánh đổ cốc thì phải. Tóc tai thì bù xù làm sao chứ. Phiền cậu chải chuốt lại cho tôi một chút nhỉ? Được không?”

“Anh đang đùa chúng tôi đấy à, Lincoln?”, chàng thanh niên nghi ngờ.

“Và còn Mel Cooper nữa chứ? Anh gọi cho anh ta được không, Lon? Chắc chắn anh ta đã tưởng tôi nói thật. Lúc ấy tôi chỉ đùa thôi mà. Anh ta thật là một nhà khoa học khốn kiếp. Chẳng có khiếu hài hước gì cả. Chúng ta sẽ cần anh ta quay lại đây ngay.”

Amelia Sachs chỉ muốn vùng chạy ra khỏi phòng. Lao ra khỏi đây, biến vào trong xe của mình, phóng đi như muốn xé toang những con đường ở New Jersey hoặc ở hạt Nassau với vận tốc 120 dặm một giờ. Cô không thể nào chịu đựng được việc phải ở trong phòng cùng với người phụ nữ này thêm một giây nào nữa.

“Được rồi, Percey”, Rhyme nói, “hãy để thám tử Bell đi cùng cô và chúng tôi sẽ đảm bảo sao cho có đông đảo cảnh sát vũ trang của Bo cũng đi cùng hai người. Đưa hai người tới sân bay. Làm tất cả những gì cô phải làm”.

“Cảm ơn anh, Lincoln.” Cô gật đầu và tặng cho anh một nụ cười.

Chỉ là một nụ cười vừa đủ để khiến Amelia Sachs phải tự hỏi không biết bài diễn văn vừa rồi của Percey có ý cạnh khóe gì đến cô không nữa, dù chỉ là để khẳng định rõ ràng ai là kẻ chiến thắng trong cuộc đua này. Chết tiệt, có lẽ đây là cuộc đua mà Sachs tin rằng số phận của cô là chịu thua ngay từ đầu. Dù có là một xạ thủ vô địch, một cảnh sát đầy thành tích, một tay lái cừ khôi, một chuyên gia tội phạm học xuất sắc đến đâu chăng nữa, Sachs vẫn sở hữu một trái tim mong manh dễ bị tổn thương. Hồi còn sống cha cô đã cảm nhận được điều này ở con gái mình; bản thân ông cũng là một người lãng mạn. Cách đây đã nhiều năm, sau khi cô vừa trải qua một chuyện tình tồi tệ, ông đã bảo cô, “Lẽ ra họ phải chế tạo áo giáp cho tâm hồn chứ, Amie ạ. Họ nên làm thế mới phải”.

Vĩnh biệt, Rhyme, cô thầm nghĩ. Vĩnh biệt.

Và phản ứng của anh trước màn chia tay ý nhị này ư? Một cái liếc thoáng qua và vài từ cộc cằn. “Chúng ta cùng xem mấy cái bằng chứng đó đi, Sachs. Đừng phí thời gian nữa.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


Giờ thứ 29 của 45

Mục tiêu mà nhà hình sự học của chúng ta hướng đến lúc này là sự đặc tính hóa.

Tức là quá trình truy nguyên ra nguồn gốc duy nhất của một bằng chứng cụ thể, loại bỏ hoàn toàn tất cả những nguồn gốc phái sinh khác.

Lúc này đây Lincoln Rhyme đang chăm chú theo dõi bằng chứng cá biệt nhất mà anh có: vết máu từ cơ thể của tên Vũ công. Một xét nghiệm ADN đối với tế bào bạch cầu đa hình thể có thể giúp anh hầu như loại bỏ hoàn toàn khả năng vết máu này là của bất kỳ ai khác.

Mặc dù vậy bằng chứng này cũng không giúp anh biết thêm được gì nhiều. CODIS – Hệ thống thông tin ADN lưu giữ trên máy tính – có chứa thông tin về mẫu máu của những đối tượng từng có tiền án, tiền sự, nhưng dù sao nó cũng chỉ là một cơ sở dữ liệu còn rất hạn chế, chủ yếu lưu giữ mẫu máu của những tên tội phạm tình dục và một số ít những tội phạm hình sự nghiêm trọng. Rhyme không hề ngạc nhiên khi việc đối chiếu mẫu máu của tên Vũ công với cơ sở dữ liệu này không mang lại kết quả gì.

Tuy nhiên Rhyme vẫn ít nhiều hài lòng vì giờ đây họ đã có một phần nhỏ của cơ thể tên giết người, bị thấm vào gạc và nhét vào trong ống nghiệm. Đối với hầu hết các chuyên gia hình sự học, thường thì lúc nào hung thủ cũng đang “ở ngoài kia”; anh hiếm khi nhìn thấy chúng bằng xương bằng thịt, thậm chí có khi còn không bao giờ gặp chúng trừ khi là phải ra tòa làm chứng. Đó là lý do tại sao lúc này đây Rhyme đang cảm thấy nỗi phấn khích thầm kín trước sự hiện diện của kẻ đã gây ra cho rất nhiều người, trong đó có cả anh, biết bao nhiêu là khó khăn, đau khổ.

“Cô còn tìm thấy những gì nữa?”, anh hỏi Sachs.

Cô đã dùng máy hút bụi trong phòng của Brit Hale để tìm kiếm bằng chứng, nhưng đến lúc này cả cô và Cooper đều đã dùng kính lúp và kính hiển vi kiểm tra qua tất cả nhưng không tìm thấy gì ngoài dư chất thuốc súng cùng những mảnh vỡ li ti của đầu đạn cùng những mẩu gạch và sơn tường rơi ra do bị đạn bắn trúng.

Cô cũng tìm thấy vỏ đạn của khẩu súng ngắn bán tự động mà hắn đã sử dụng. Vũ khí của hắn là một khẩu Beretta 7,62 milimét. Có lẽ đó là một khẩu súng đã cũ; vỏ đạn có những vết xước đặc trưng. Những vỏ đạn này, được Sachs thu thập không thiếu cái nào, đều đã bị nhúng vào dung dịch tẩy rửa cực mạnh để loại bỏ ngay cả dấu vân tay của công nhân nhà máy sản xuất đạn – hắn làm vậy để không ai có thể lần ra số đạn này được sản xuất trong một ca làm việc cụ thể tại một trong những nhà máy của hãng Remington trước khi được vận chuyển tới một cơ sở phân phối nào đó. Và có vẻ như tên Vũ công còn gắp từng viên một bằng các khớp đốt ngón tay để nạp vào súng nhằm tránh lưu lại dấu vân tay. Một trò cũ rích.

“Tiếp tục đi”, Rhyme bảo Sachs.

“Đầu đạn súng ngắn.”

Cooper xem xét đến những đầu đạn này. Ba viên đầu bẹt. Và một viên còn giữ được hình dạng khá nguyên vẹn. Hai viên kia còn dính nguyên vết máu của Brit Hale đã bị đốt nóng thành màu đen sì.

“Quét đầu đạn tìm dấu vân tay”, Rhyme ra lệnh.

“Tôi làm rồi”, cô nói, giọng nhát gừng.

“Thử bằng tia laser.”

Cooper làm theo.

“Không có gì, Lincoln.” Người kỹ thuật viên quay sang nhìn một mẩu vải cotton đựng trong túi nhựa. Anh hỏi, “Cái gì đấy?”

Sachs trả lời, “À, tôi tìm được cả một đầu đạn súng trường của hắn nữa.”

“Sao cơ?”

“Hắn bắn mấy phát vào gã Jodie. Hai viên trong số đó xuyên vào tường và nổ tung. Viên này xuyên vào đất mềm – một luống hoa – và không nổ. Tôi tìm thấy một cái lỗ nhỏ giữa luống hoa phong lữ và…”

“Chờ đã.” Cooper trợn tròn mắt. “Đó là một viên đạn chạm nổ, đúng không?”

Sachs nói, “Đúng, nhưng nó đã không nổ”.

Người kỹ thuật viên khẽ khàng đặt chiếc túi lên bàn và bước lùi lại, không quên kéo Sachs – cô cao hơn anh ta đến cả hai inch – lùi lại với mình.

“Có chuyện gì thế?”

“Đạn chạm nổ thường rất thiếu ổn định. Có thể ngay lúc này những hạt thuốc nổ bên trong đang âm ỉ cháy…Viên đạn có thể phát nổ bất kỳ lúc nào. Chỉ một mảnh đạn văng ra cũng có thể sát thương rất ghê gớm.”

“Anh đã xem qua mảnh vỡ của những đầu đạn khác chưa, Mel?” Rhyme hỏi. “Chúng được cấu tạo như thế nào?”

“Tinh vi lắm, Lincoln ạ”, người kỹ thuật viên bực bội nói, vầng trán hói sớm của anh rịn những giọt mồ hôi bóng loáng.

“Bên trong đổ đầy PETN, cũng là một loại thuốc nổ không khói như trong vỏ đạn. Đây chính là điều khiến viên đạn trở nên không ổn định.”

Sachs hỏi, “Vậy tại sao nó lại không nổ?”.

“Có thể do bề mặt đất mềm đã làm giảm độ va đập. Vả lại đây là đạn do hắn tự làm. Có lẽ việc kiểm soát chất lượng của hắn đối với viên này không được tốt như những viên khác.”

“Hắn tự chế những đầu đạn này sao?”, Rhyme hỏi. “Như thế nào?”

Mắt vẫn dán chặt vào chiếc túi nhựa. người kỹ thuật viên trả lời, “À thì cách thông thường nhất là khoan một lỗ từ đầu đạn xuống gần đến cuối đuôi đạn. Thả vào đó một viên lõi đạn cùng chút thuốc nổ đen hoặc thuốc nổ không khói. Anh chỉ việc cuốn tròn một mảnh plastic mỏng rồi luồn nó vào trong. Rồi phong kín lại – trong trường hợp này hắn dùng chóp đạn bằng gốm. Khi chạm vào mục tiêu, viên lõi đạn sẽ đập vào thuốc nổ. Sự tương tác này sẽ kích nổ lượng PETN kia”.

“Cuộn tròn những mảnh plastic ư?”, Rhyme hỏi. “Kẹp giữa các ngón tay mà nhét vào à?”

“Thường thì thế.”

Rhyme ngẩng lên nhìn Sachs và trong khoảng khắc đó sự rạn nứt giữa hai người dường như biến mất. Họ mỉm cười và đồng thanh thốt lên, “Dấu vân tay!”.

Mel Cooper nói, “Có thể. Nhưng hai người định tìm ra bằng cách nào đây? Trước hết phải tháo rời nó ra đã”.

Sachs nói ngay không một chút do dự, “Nếu vậy chúng ta hãy tháo nó ra đi”.

“Không, không, không, Sachs”, Rhyme xẵng giọng. “Không phải cô. Chúng ta sẽ đợi đội rà phá bom đến.”

“Chúng ta không còn thời gian.”

Cô cúi người xuống cẩm lấy chiếc túi, bắt đầu mở nó ra.

“Sachs, cô đang định cố chứng minh cái chết tiệt gì vậy?”

“Chẳng cố chứng minh cái gì hết”, cô lạnh lùng trả lời. “Tôi đang cố gắng tóm cổ tên giết người thôi.”

Cooper bất lực đứng như trời trồng.

“Có phải cô đang cố cứu Jerry Banks không? Hừm, bây giờ thì điều đó cũng quá muộn rồi. Kệ cậu ta đi. Hãy tiếp tục công việc của cô.”

“Đây là công việc của tôi.”

“Sachs, đó không phải lỗi của cô!”, Rhyme gầm lên. “Quên nó đi. Hãy để người chết được ngủ yên. Tôi nói với cô điều đó không biết bao nhiêu lần rồi.”

Cô bình thản trả lời, “Tôi sẽ phủ áo giáp chống đạn của mình lên trên nó, rồi tiến hành công việc từ phía sau”. Cô cởi bỏ chiếc áo sơ mi màu xanh của mình rồi kéo soạt những sợi đai của chiếc áo chống đạn American Body Armor. Cô dựng chiếc áo chống đạn lên như một cái lều phủ bên chiếc túi plastic đang đựng đầu đạn.

Cooper nói, “Cô có thể ở phía sau chiếc áo giáp nhưng hai tay cô thì không đâu”.

“Đằng nào thì những bộ áo giáp chống bom cũng không có phần bảo vệ tay”, cô nói thẳng toẹt, rồi rút đôi nút bịt tai vẫn dùng khi tập bắn súng từ trong túi áo ra, nhét chúng vào lỗ tai mình. “Anh sẽ phải hét to đấy”, cô nói với Cooper “Tôi phải làm gì bây giờ?”

Không, Sachs, không, Rhyme thầm nghĩ.

“Anh mà không chịu nói cho tôi biết là tôi cứ thế cắt nó ra đấy.” Vừa nói dứt lời cô đã cầm một lưỡi cưa pháp y chuyên dụng lên tay. Lưỡi cưa huơ huơ trên chiếc túi. Cô dừng lại chờ đợi.

Rhyme thở dài, gật đầu với Cooper. “Bảo cô ấy phải làm gì đi.”

Người kỹ thuật viên khó nhọc nuốt khan. “Được rồi. Lấy nó ra khỏi bọc đi. Nhưng thật cẩn thận đấy. Được rồi, đặt nó lên chiếc khăn này. Đừng có mạnh tay. Đó sẽ là điều tồi tệ nhất cô có thể làm.”

Cô lấy chiếc đầu đạn ra khỏi túi, một mẩu kim loại bé xíu đến ngỡ ngàng với một chóp màu trắng nhợt.

“Thấy cái chóp đó không?”, Cooper nói tiếp. “Khi viên đạn phát nổ cái chóp đó sẽ xuyên thủng qua áo giáp chống đạn và ít nhất là một hoặc hai bức tường. Đó là chóp bọc gốm Teflon.”

“Được rồi.” Cô nói và đặt viên đạn nằm xuống, chóp của nó quay vào trong tường.

“Sachs”, Rhyme nhẹ nhàng nói. “Dùng kẹp forceps, đừng dùng ngón tay.”

“Nó mà nổ thì cũng chẳng khác gì nhau đâu, Rhyme. Với lại tôi cần dùng tay để kiểm soát cho chính xác.”

“Làm ơn đi.”

Cô lưỡng lự cầm lấy chiếc kẹp mà Cooper đang chìa ra cho cô. Cô kẹp chặt lấy phần đuôi của đầu đạn.

“Tôi phải làm gì để mở nó ra bây giờ? Cắt à?”

“Cô không được cắt qua lớp chì”, Cooper vội vàng nói. “Nhiệt độ do ma sát gây ra sẽ làm khiến khối thuốc nổ đen bên trong phát hỏa. Trước hết cô phải tách phần chóp gốm rồi kéo phần lõi nhựa bên trong ra.”

Mồ hôi bắt đầu lăn trên mặt cô. “Được rồi. Dùng kìm à?”

Cooper lục lọi trên bàn làm việc rồi lấy ra một cặp kìm mũi kim và bước lại bên cạnh cô. Anh đặt chiếc kìm lên bàn tay phải của cô, rồi bước lùi lại.

“Cô phải cặp mũi kìm lên chóp gốm và xoắn mạnh. Hắn gắn chóp vào đầu đạn bằng keo epoxy. Loại keo này không ăn lắm khi kết hợp với chì, nên có lẽ nó sẽ bong ra. Nhưng đừng bóp chặt quá. Phần chóp đó mà bị vỡ thì chỉ có cách là phải dùng khoan để lấy nó ra. Mà có khi nó còn phát nổ cũng nên.”

“Chặt nhưng không được quá chặt”, cô lầm bầm.

“Hãy nghĩ tới tất cả những chiếc xe mà cô từng sửa, Sachs”, Rhyme nói.

“Gì cơ?”

“Khi cô cố tìm cách tháo những chiếc bugi cũ ra ấy. Đủ mạnh để tháo chúng ra, nhưng không quá mạnh để có thể làm vỡ lớp vỏ gốm.”

Cô lơ đễnh gật đầu và anh cũng không biết liệu cô có nghe thấy những gì anh vừa nói không nữa. Sachs cúi thấp đầu xuống sau chiếc lều được cô dựng lên bằng áo giáp chống đạn.

Rhyme nhìn thấy mắt cô đang nhắm chặt lại.

Ôi, Sachs…

Anh không nhìn thấy bất kỳ chuyển động nào. Anh chỉ nghe thấy một tiếng tách rất khẽ. Cô cứng đờ người trong giây lát, rồi hé mắt nhìn qua tấm áo giáp. “Chóp gốm rời ra rồi. Đầu đạn đã mở.”

Cooper nói, “Cô có thấy thuốc nổ bên trong không?”.

Cô hé mắt nhìn vào trong. “Có.”

Anh đưa cho cô một vịt dầu máy nhẹ. “Nhỏ vài giọt dầu này vào trong rồi dốc ngược nó xuống. Phần lõi nhựa sẽ tự rơi ra ngoài. Chúng ta không thể kéo nó ra vì như thế sẽ làm hỏng mất dấu vân tay.”

Cô tra dầu vào trong, rồi nghiêng đầu đạn đi, đầu mở chúc xuống dưới, về phía chiếc khăn bông.

Không có gì xảy ra.

“Mẹ kiếp”, cô lầm bầm.

“Đừng…”

Cô lắc đầu đạn. Lắc mạnh.

“… có lắc!” Cooper hét lên.

“Sachs!” Rhyme há hốc miệng.

Cô càng lắc mạnh hơn. “Khốn khiếp thật!”

“Không!”

Một cuộn màu trắng bé xíu rơi ra, sau đó là vài hạt thuốc nổ màu đen.

“Được rồi”, Cooper thốt lên, thở phào nhẹ nhõm. “An toàn rồi."

Anh bước lại gần và dùng một que thăm là mũi kim dài lật đẩy cuộn plastic lên một tấm kính mỏng. Xong xuôi anh bắt đầu bước với dáng đi khẽ khàng đặc trưng của các nhà hình sự học ở khắp nơi trên thế giới – lưng thẳng đứng, tay thả lỏng nhưng giữ cho mẫu vật bên trên cố định không một chút suy chuyển – và quay về chỗ đặt kính hiển vi. Anh đặt khối thuốc nổ lên vị trí quan sát.

“Dùng Magna- Brush nhé?”. Cooper hỏi, muốn nói đến một loại bột phát hiện dấu vân tay màu xám cực mịn.

“Không”, Rhyme trả lời. “Dùng thuốc nhuộm màu tím đi. Đây là dấu vân tay in trên nhựa plastic. Chúng ta cần làm thế nào để tăng thêm độ tương phản một chút.”

Cooper xịt dung dịch thuốc, rồi đặt tấm kính dưới ống kính quan sát của kính hiển vi.

Hình ảnh đồng thời vụt hiện lên trên màn hình máy tính của Rhyme.

“Có thế chứ!” Anh thốt lên. “Nó kia kìa!”

Những đường xoắn và rẽ nhánh hiện lên rõ mồn một.

“Cô túm đúng tổ chuồn chuồn rồi, Sachs. Làm tốt lắm.”

Trong khi Cooper chậm rãi xoay đầu cuộn thuốc nổ, Rhyme thực hiện việc chụp ảnh liên tiếp hình ảnh trên màn hình – định dạng ảnh kiểu bitmap – rồi lưu chúng lại trên ổ cứng máy tính. Sau đó anh lắp ghép chúng lại và in ra thành một bản phim bạc hai chiều duy nhất.

Nhưng người kỹ thuật viên thở dài khi anh kiểm tra bức ảnh.

“Sao thế?” Rhyme hỏi.

“Vẫn chưa đủ để đối chiếu. Một chiều là 1/4 inch, chiều kia là 5/8 inch. Không AFIS nào trên thế giới có thể đưa ra được kết quả từ mẫu vân tay này.”

“Lạy Chúa”, Rhyme gầm lên. “Tất cả những cố gắng… và nguy hiểm… thành công cốc.”

Một tràng cười vang bỗng vang lên.

Từ Amelia Sachs. Cô đang đăm đăm nhìn lên tường, lên những bảng sơ đồ bằng chứng. HT- Một, HT-Hai…

“Ghép chúng lại với nhau”, cô thốt lên.

“Sao cơ?”

“Chúng ta đã có ba dấu vân tay không hoàn chỉnh”, cô giải thích. “Có lẽ tất cả đều là dấu vân tay trên ngón trỏ của hắn. Các anh không thể ghép chúng lại với nhau được à?”

Cooper băn khoăn nhìn Rhyme. “Tôi chưa bao giờ nghe nói đến cách làm này.”

Cả Rhyme cũng chưa. Nhiệm vụ cốt yếu của ngành khoa học hình sự là phân tích bằng chứng để đưa ra trước tòa – bản thân từ “pháp y” cũng đã có hàm nghĩa là “liên quan đến tòa án, thủ tục tố tụng” – và một tay luật sư biện hộ sừng sỏ sẽ không đời nào chịu để yên chuyện nếu biết cảnh sát dùng trò lắp ghép các dấu vân tay rời rạc của hung thủ lại với nhau.

Nhưng ưu tiên của họ là tìm ra tên Vũ công, chứ có phải tìm bằng chứng để kiện hắn ra tòa đâu cơ chứ.

“Nhất định là được”, Rhyme nói. “Hãy làm đi.”

Cooper với lấy những tấm ảnh chụp dấu vân tay khác của tên Vũ công đang đính trên tường và đặt chúng lên bàn làm việc trước mặt mình.

Họ bắt tay vào làm việc, Sachs và người kỹ thuật viên. Cooper chụp lại những tấm ảnh, giảm bớt kích cỡ của chúng xuống cho thống nhất với nhau. Sau đó anh và Sachs bắt đầu ghép chúng lại như người đang chơi trò ghép hình. Họ chẳng khác gì những đứa trẻ đang phấn khích thử nghiệm các phương án khác nhau, sắp xếp, thử đi thử lại và say sưa cãi vã. Sachs còn hăng hái đến nỗi lấy ra một cây bút và vẽ thêm vài đường nối liền khoảng trống trên tấm ảnh.

“Ăn gian nhé”, Cooper đùa.

“Nhưng cứ khớp là được còn gì”, cô thốt lên với vẻ đắc thắng.

Cuối cùng họ cũng cắt và dán xong một bức ảnh trọn vẹn. Thực ra nó cũng chỉ bằng 3/4 kích thước của một dấu vân tay bình thường, có lẽ là ngón trỏ bên tay phải.

Cooper giơ tấm ảnh lên. “Tôi không dám tin vào vụ này cho lắm, Lincoln ạ.”

Nhưng Rhyme nói, “Đó là nghệ thuật mà, Mel. Đẹp thật đấy!”.

“Cho kiểm tra qua AFIS đi. Đặt lệnh kiểm tra với mức ưu tiên cao nhất. Tất cả các bang,”

“Ôi trời”, Cooper thốt lên. “Thế thì coi như đi tong khoản lương cả năm của tôi rồi.”

Anh quét tấm ảnh vào máy tính.

“Có lẽ sẽ phải mất đến nửa tiếng đồng hồ”, Cooper nói, hoàn toàn thực tế chứ không phải bi quan.

Nhưng hóa ra cũng không lâu đến mức đó. Đúng năm phút sau – chỉ vừa đủ thời gian để Rhyme bắt đầu tự hỏi ai sẽ là người có thiện chí rót cho anh chút rượu, Sachs hay Cooper – màn hình máy tính đã nhấp nháy và một hình ảnh mới vụt hiện lên.

Yêu cầu của bạn đã nhận được… một kết quả khớp. Tỷ lệ đối chiếu là 14%. Xác suất nhận diện thống kê: 97%.

“Ôi lạy Chúa”, Sachs thốt lên. “Chúng ta tóm được hắn rồi.”

“Hắn là ai, Mel?” Rhyme khẽ khàng hỏi, như thể anh sợ là nếu nói to những từ đó có thể thổi bay các electron mong manh trên màn hình máy tính.

“Hắn không còn là tên Vũ công nữa”, Cooper nói. “Hắn là Stephen Robert Kall. Ba mươi sáu tuổi. Chỗ ở hiện tại: Không xác định. Lần cuối cùng được trông thấy, cách đây đã mười lăm năm, một số hiệu trong giấy gọi nhập ngũ tại Cumberland, West Virginia.”

Một cái tên quá phổ biến. Rhyme chợt nhận ra một cảm giác thất vọng rất vô lý đang len lỏi trong lòng mình. Kall.

“Tại sao hắn lại có trong hồ sơ?”

Cooper đọc to. “Câu chuyện mà hắn đã kể cho gã Jodie… Hắn phải vào trại cải tạo hai mươi tháng vì tội ngộ sát khi mới mười lăm tuổi.” Một tiếng cười khẩy. “Hình như tên Vũ công không phí công kể cho gã kia rằng nạn nhân trong câu chuyện chính là người bố dượng của hắn.”

“Bố dượng à, hừm.”

“Chỗ này khó đọc quá”, Cooper phàn nàn, mắt gí sát vào màn hình. “Trời ơi.”

“Sao vậy?”, Sachs sốt ruột hỏi.

“Những dòng ghi chú trong báo cáo của cảnh sát. Chuyện xảy ra như thế này. Có vẻ như đã từng có tiền sử xung đột gia đình. Mẹ của hắn đang chết dần vì bệnh ung thư và chồng bà ta – tức là bố dượng của Kall – đã đánh bà ta vì lỗi vớ vẩn nào đó. Bà ta ngã và bị gãy một cánh tay. Vài tháng sau bà ta qua đời và Kall nung nấu trong đầu cái suy nghĩ rằng cái chết của mẹ hắn là lỗi của Lou.”

Cooper tiếp tục đọc và người anh thực sự bắt đầu run bắn lên. “Có muốn nghe chuyện gì đã xảy ra không?”

“Cứ đọc đi.”

“Một vài tháng sau khi bà mẹ qua đời Stephen và bố dượng hắn cùng vào rừng đi săn. Thằng nhóc đã bất ngờ đánh ngất ông bố dượng, lột trần truồng ông ta ra, rồi trói vào một gốc cây trong rừng. Hắn đã để mặc ông ta như vậy nhiều ngày liền. Theo lời luật sư bào chữa thì hắn làm vậy chỉ để dọa ông bố dượng. Nhưng lúc cảnh sát đến nơi, hừm, các vị cứ hình dung là vết thương đã bị nhiễm trùng khủng khiếp. Giòi, chủ yếu là giòi. Nạn nhân chết sau đó hai ngày. Thật dã man.”

“Chúa ơi”, Sachs thì thầm.

“Khi họ tìm thấy ông ta, thằng bé cũng ở đó, hắn ngồi ngay cạnh bố dượng mình, trơ mắt nhìn.” Cooper đọc tiếp, “Kẻ tình nghi đầu hàng ngay lập tức không hề chống cự. Dường như hắn đang ở trong trạng thái hoàn toàn không bình thường. Cứ lải nhải lặp đi lặp lại, “Cái gì cũng có thể giết, cái gì cũng có thể giết”… Hắn được đưa tới Trung tâm Sức khỏe Tâm thần khu vực Cumberland để đánh giá tình trạng bệnh lý.”

Các yếu tố thuộc về tiểu sử tâm lý không khiến Rhyme thấy mặn mà cho lắm. Anh tin tưởng vào những kỹ thuật xây dựng chân dung tội phạm dựa trên bằng chứng khoa học hình sự nhiều hơn vào những chuyên gia nghiên cứu hành vi. Anh biết tên Vũ công là một kẻ biến thái – tất cả những tên giết người chuyên nghiệp đều như thế – nhưng ngay lúc này những mất mát cũng như tổn thương đã biến hắn thành con người như hiện nay cũng không giúp được gì nhiều. Anh hỏi, “Có ảnh không?”

“Không bức ảnh nào trong thời gian ở trại cải tạo vị thành niên.”

“Đúng rồi. Chó chết thật. Thế còn hồi nhập ngũ?”

“Không. Nhưng ở đây còn một tiền sự nữa.”, Cooper nói. “Hắn cố tìm cách đăng ký gia nhập lính thủy đánh bộ nhưng hồ sơ tâm lý không ổn định đã khiến hắn bị từ chối. Hắn đã săn lùng những sĩ quan tuyển quân khu vực Washington D.C. suốt mấy tháng liền và cuối cùng hắn hành hung một trung sĩ. Nhưng được hưởng án treo.”

Sellitto nói, “Chúng ta sẽ cho kiểm tra cái tên này qua chương trình FINEST, danh sách tên lỏng, và của NCIC”.

“Bảo Dellray cử ngay vài người tới Cumberland và bắt đầu theo dấu hắn”, Rhyme ra lệnh.

“Sẽ làm ngay đây.”

Stephen Kall…

Sau suốt ngần ấy năm. Cảm giác thật giống như cuối cùng cũng được tới thăm một ngôi đền linh thiêng ta đã đọc đến suốt đời nhưng chưa bao giờ có dịp tận mắt nhìn thấy.

Có tiếng gõ cửa dồn dập trên cửa làm mọi người giật mình. Theo bản năng cả Sachs và Sellitto đều vụt đưa tay xuống nắm lấy báng súng của mình.

Nhưng vị khách hóa ra chỉ là một trong những cảnh sát bảo vệ dưới nhà. Anh ta xách theo một chiếc túi to bự. “Tôi chuyển đồ lên."

“Cái gì đấy?” Rhyme hỏi.

“Một viên cảnh sát từ Illinois đến. Anh ta nói chiếc túi này được gửi đến từ Phòng Cứu hỏa và Cứu hộ hạt Du Page.”

“Là cái gì?”

Viên cảnh sát nhún vai. “Anh ta bảo là những thứ linh tinh từ lốp ô tô gì đấy. Nhưng lấy những cái đó làm gì chứ. Chắc anh ta nói đùa.”

“Không”, Rhyme nói, “đó chính xác là sự thật 100% đấy.” Anh liếc nhìn Cooper. “Những thứ được cạo ra từ lốp xe có mặt tại hiện trường vụ nổ.”

Viên cảnh sát trợn tròn mắt. “Các ông muốn cái này thật sao? Được mang tận từ Chicago đến?”

“Chúng tôi đã nín thở chờ nó lâu lắm rồi đấy.”

“Hừm. Đời nhiều lúc cũng buồn cười thật, tôi nói vậy có đúng không?”

Và tất nhiên là Lincoln Rhyme chỉ có thể gật đầu đồng ý.

Bay cũng chỉ là một phần của nghề bay chuyên nghiệp.

Nghề bay chuyên nghiệp cũng còn là công việc giấy tờ.

Nằm lăn lóc ở phía sau chiếc xe thùng đang đưa Percey Clay tới sân bay Mamaroneck là một chồng to đùng những cuốn sách cùng với biểu đồ và tài liệu:Danh bạ cơ sở/ Sân bay, Cẩm nang Thông tin Phi công, những “Thông báo gửi phi công” do FAA phát hành – cùng những thông tư hướng dẫn, vàDanh bạ Thông tin Sân bay Jeppesen. Tất cả phải đến hàng nghìn trang. Hàng núi thông tin. Như hầu hết các phi công khác, Percey thuộc lòng tất cả những thông tin đó. Và cô không bao giờ nghĩ đến việc lái một chiếc máy bay mà không quay lại với những tài liệu gốc để nghiên cứu chúng từ đầu đến cuối, đúng theo nghĩa đen.

Với những thông tin này và chiếc máy tính của mình, cô đang bận bịu điền vào hai tài liệu cơ bản trước khi cất cánh: nhật ký bay và lịch trình bay không lưu. Trong nhật ký bay cô sẽ phải đánh dấu độ cao của họ, tính toán độ sai lệch đường bay do gió cản và biên độ dao động giữa đường bay chuẩn và đường bay từ trường, xác định ETE – tức là tổng thời gian bay dự tính trên không – để từ đó tính toán thông số thần thánh: lượng nhiên liệu họ sẽ cần cho chuyến bay. Sáu thành phố, sáu nhật ký bay khác nhau, hàng chục điểm kiểm tra giữa các chặng bay…

Rồi lại còn lịch trình bay không lưu theo quy định của FAA, đặt cạnh nhật ký bay. Một khi họ đã cất cánh, người phi công phụ sẽ kích hoạt lịch trình này bằng cách gọi cho Đài Kiểm soát Không lưu ở Mamaroneck, sau đó đến lượt này gọi tiếp đến Chicago để thông báo về thời điểm dự tính đến nơi của chiếc Foxtrot Bravo. Nếu chiếc máy bay không đến nơi trong vòng nửa tiếng sau thời điểm dự kiến, nó sẽ được thông báo là đến chậm và các thủ tục tìm kiếm-cứu hộ sẽ bắt đầu được triển khai.

Đây là những tài liệu rất phức tạp và buộc phải được tính toán một cách hoàn hảo. Nếu như máy có nguồn cung cấp nhiên liệu không hạn chế họ hoàn toàn có thể trông cậy vào việc định hướng bay qua radio và có thể dành bao nhiêu thời gian tùy thích cho việc lượn lờ bay từ điểm này tới điểm khác ở bất kỳ độ cao nào họ muốn. Nhưng thực tế thì không chỉ nhiên liệu đã cực đắt tiền (mà tệ nhất là hai động cơ tua bin phản lực Garrett tiêu tốn lượng nhiên liệu thật kinh hoàng); mà nó còn rất nặng và riêng chi phí cho việc mang theo chúng – trong những bình nhiên liệu phụ - cũng đã ngốn mất rất nhiều tiền. Trong những chuyến bay dài, nhất là với việc nhiều lần phải cất cánh tiêu tốn nhiên liệu, việc chở theo quá nhiều xăng có thể làm giảm đáng kể khoản lợi nhuận mà Công ty đang kiếm được từ chuyến bay. Theo quy điịnh của FAA mỗi chuyến bay phải có đủ nhiên liệu để đưa máy bay đến được đích, cộng với một lượng dự trữ, trong trường hợp phải bay đêm, tương đương với bốn mươi lăm phút bay.

Vừa lướt ngón tay nhoay nhoáy trên bàn phím máy tính, Percey Clay vừa cẩn thận điền hết các mục trong hai mẫu tài liệu bằng kiểu chữ viết tay rất rõ ràng của mình. Cẩu thả trong tất cả những thứ khác trong đời mình, nhưng riêng với việc bay thì cô lại cực kỳ tỉ mỉ. Chỉ riêng việc điền thông tin về các tần số của ATIS[98] và biên độ dao động do từ trường cũng làm cô thích thú. Cô không bao giờ quá bủn xỉn, cũng không bao giờ quá phóng tay nếu như công việc yêu cầu sự tính toán chính xác. Tối hôm nay, cô lại càng đắm chìm trong công việc.

Roland Bell ngồi bên cạnh cô. Trông anh thật phờ phạc và ủ rũ. Không còn thấy bóng dáng của người đàn ông vui tính và dí dỏm lúc đầu. Cô thấy buồn cho anh, cũng giống như cô thấy buồn cho bản thân mình; có vẻ như Brit Hale là nhân chứng đầu tiên anh không bảo vệ được. Cô cảm thấy một sự thôi thúc thật khó hiểu muốn được chạm vào cánh tay anh, được an ủi anh, giống như anh đã làm với cô. Nhưng dường như anh thuộc mẫu người muốn thích khép mình lại mỗi khi gặp mất mát; bất kỳ sự cảm thông nào cũng chỉ khiến mọi việc thêm tồi tệ. Anh cũng giống hệt cô, Percey tự nhủ. Bell chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ của chiếc xe thùng, bàn tay chốc chốc lại nắm lấy phần báng nhựa màu đen kẻ chéo của khẩu súng đeo trong bao dưới nách.

Đúng lúc cô vừa điền xong tờ khai lịch trình bay không lưu cuối cùng, chiếc xe thùng rẽ vào góc đường dẫn vào sân bay, dừng lại theo hiệu lệnh của những người bảo vệ có vũ trang, những người này kiểm tra giấy tờ của mọi người trong xe rồi vẫy tay cho họ vào.

Percey chỉ cho xe chạy tới chiếc hangar nhưng cô để ý thấy là đèn trong khu văn phòng vẫn sáng. Cô yêu cầu những chiếc xe dừng lại và cô trèo ra ngoài, trong khi Bell và những cảnh sát bảo vệ khác bước hai bên cô, cảnh giác và căng thẳng, cùng đi vào trong khu chính của văn phòng.

Chú thích

[98]ATIS (viết tắt của Automatic Terminal Information Service): Dịch vụ Thông tin Tự động khu vực sân bay.

Ron Talbot với bộ dạng thật nhàu nhĩ và kiệt sức, đang ngồi trong văn phòng, tay không ngừng lau vầng trán hói đẫm mồ hôi. Mặt ông ta đỏ bầm trông thật đáng ngại.

“Ron...” Cô hớt hải bước lên phía trước. “Anh không sao đấy chứ?”

Họ ôm chầm lấy nhau

“Brit”, ông ta thốt lên, lắc đầu bàng hoàng, hổn hển. “Hắn đã hại cả Brit nữa. Percey lẽ ra cô không nên tới đây. Hãy tới chỗ nào đó an toàn. Quên chuyện chuyến bay đi. Không đáng để mạo hiểm vậy đâu.”

Cô bước lùi lại. “Có chuyện gì thế? Anh ốm à?”

“Chỉ là mệt mỏi thôi.”

Cô giật điếc thuốc lá ra khỏi tay ông ta và dụi tắt nó đi. “Anh tự mình thực hiện những công việc đó à? Trên chiếc Foxtrot Bravo ấy?”

“Tôi…”

“Ron?”

“Cũng chỉ là hầu hết thôi. Nó gần xong xuôi rồi. Thằng cha ở Northeast đã mang đến đây bình cứu hoả thay thế và động cơ vòng xuyến annular cách đây khoảng một giờ. Tôi đã bắt đầu lắp chúng rồi đấy chứ. Chỉ là hơi mệt một chút thôi.”

“Lại những cơn đau ngực à?”

“Không, cũng không hẳn thế.”

“Ron, anh về nhà đi.”

“Tôi có thể…”

“Ron”, cô xẵng giọng. “Tôi vừa mất hai người thân yêu trong vòng có hai ngày qua. Tôi sẽ không chịu mất thêm người thứ ba đâu… Tôi có thể lắp động cơ annular mà. Dễ như ăn bánh thôi, có gì đâu.”

Trông Talbot như thể ông ta thậm chí còn không đủ sức cầm một chiếc cờ lê, chứ đừng nói đến chuyện khiêng một buồng đốt động cơ nặng trịch.

Percey hỏi, “Brad đâu rồi?”. Người phi công phụ cho chuyến bay.

“Đang trên đường tới. Sẽ có mặt ở đây trong vòng một giờ nữa.”

Cô hôn lên vầng trán bết mồ hôi của ông ta. “Anh về nhà đi. Và đừng có đốt thuốc nữa, vì Chúa. Anh có bị điên không?”

Ông ta ôm lấy cô. “Percey, về chuyện của Brit…”

Cô giơ một ngón tay lên môi và suỵt khẽ để ngăn ông ta lại. “Về nhà ngay. Cố chợp mắt lấy một chút. Khi anh tỉnh giấc thì tôi đã ở Erie rồi và chúng ta sẽ giành lại được bản hợp đồng đó. Đã ký, đóng dấu và trao tận tay.”

Ông ta loạng choạng gượng dậy, đứng sững một chút chăm chú nhìn chiếc Foxtrot Bravo bên ngoài cửa sổ. Khuôn mặt lộ rõ một vẻ cay đắng và chua chát. Cô còn nhớ cũng chính là vẻ mặt đó khi ông ta cho cô biết việc ông ta không qua được bài kiểm tra thể lực và không bao giờ còn có thể kiếm sống bằng nghề bay được nữa. Talbot đi thẳng ra cửa.

Đã đến lúc bắt tay vào công việc. Cô xắn hai ống tay áo lên, ra hiệu cho Bell bước lại gần mình. Anh cúi thấp đầu xuống phía cô theo cách mà cô thấy thật quyến rũ làm sao. Giống hệt như tư thế của Ed mỗi lần anh cúi xuống nghe cô thì thầm gì đó. Cô nói, “Tôi sẽ cần khoảng vài giờ trong hangar. Anh có thể giữ tên chó đẻ đó tránh xa tôi cho đến lúc đó không?”.

Không còn những câu văn hoa trịnh trọng, không còn kiểu thoả thuận chắc nịch ban đầu. Roland Bell, người đàn ông với hai khẩu súng, gật đầu với vẻ nghiêm túc, ánh mắt tinh nhanh như điện xẹt đảo hết chỗ này sang chỗ khác.

Trong tay họ lúc này là một điều bí hiểm.

Cooper và Sachs đã kiểm tra tất cả những dấu vết tìm được trong lốp của những chiếc xe cứu hoả ở Chicago cùng xe cảnh sát có mặt tại hiện trường vụ nổ đã giết chết Ed Carney. Đó là một mớ hỗn độn toàn đất bẩn vô tích sự, phân chó, cỏ, dầu và rác rưởi linh tinh mà Rhyme biết chắc là kiểu gì cũng có. Nhưng họ đã có một phát hiện mà anh linh cảm thấy là rất quan trọng.

Chỉ có điều anh hoàn toàn không biết ý nghĩa của nó là gì.

Chút bằng chứng duy nhất cho thấy dấu hiệu của dư chất thuốc nổ từ quả bom là những mẩu vụn ti li của một chất rất dẻo màu be. Mấy phân tích vật chất bằng sắc ký khí/phổ kế khối lượng cho thấy đó là chất C5H8.

“Isoprene”, Cooper thông báo.

“Là chất gì vậy?”, Sachs đã hỏi ngay.

“Cao su”, Rhyme trả lời.

Cooper nói tiếp. “Tôi cũng nhận thấy có một số acid béo. Thuốc nhuộm, bột tan.”

“Có chất làm cứng nào không?”, Rhyme hỏi. “Đất sét? Magnesium carbonate? Oxide kẽm?”

“Chẳng có gì.”

“Có nghĩa đây là cao su mềm. Như latex.”

“Và cả những mẩu vụn nhỏ của keo gắn cao su nữa”, Cooper bổ sung; căng mắt quan sát một mẫu hợp chất qua ống kính hiển vi điện tử. “Bingo[99]!” Anh thốt lên.

“Đừng có đùa bỡn nữa, Mel”, Rhyme làu bàu.

“Có mấy mẩu chất hàn và những vụn li ti bằng nhựa nằm lẫn trong cao su. Bảng mạch điện.”

“Nằm trong thiết bị hẹn giờ chăng?”, Sachs nói ra mối băn khoăn của mình.

“Không, thiết bị hẹn giờ còn nguyên vẹn kia mà”, Rhyme nhắc cô.

Anh có cảm giác họ đang chuẩn bị phát hiện được điều gì đó rất quan trọng. Nếu như đây là một phần của quả bom, rất có thể nó sẽ cho họ biết thêm một đầu mối về nguồn gốc của loại thuốc nổ được sử dụng hoặc một thành phần nào đó.

“Chúng ta phải xác định chắc chắn liệu những cái này là từ quả bom hay từ chính chiếc máy bay. Sachs, tôi muốn cô chịu khó tới sân bay một chuyến.”

“Sân bay…”

“Mararoneck. Hãy tìm Percey và yêu cầu cô ấy cung cấp cho cô mẫu của tất cả những thứ có thành phần chứa latex, cao su, hoặc những mạch điện được gắn ở bụng của chiếc máy bay giống như chiếc mà Carney đã lái ấy. Gần vị trí quả bom phát nổ. Còn anh, Mel, hãy gửi những thông tin này tới ERC, rồi kiểm tra luôn cả ở Cục Điều tra Hình sự Quân đội – biết đâu bên quân đội lại sử dụng thiết bị nổ nào đó có bọc lớp vỏ latex chống thấm nước thì sao. Có thể từ đó chúng ta sẽ lần ra nguồn gốc của quả bom.”

Cooper bắt đầu gõ lệnh kiểm tra trên máy tính, nhưng Rhyme để ý thấy Sachs có vẻ không được hài lòng cho lắm với nhiệm vụ của mình.

“Anh muốn tôi đến gặp và nói chuyện với chị ta sao?”, cô hỏi. “Với Percey ấy?”

“Đúng. Đó chính là những gì tôi đang nói đấy thôi.”

“Được rồi.” Cô thở dài. “Chẳng sao cả.”

“Và đừng có gây khó dễ gì cho cô ấy như cô vẫn làm từ đầu đến giờ. Chúng ta cần sự hợp tác của cô ấy.”

Rhyme hoàn toàn không hiểu tại sao cô lại giật lấy chiếc áo giáp chống đạn của mình một cách cực kỳ giận dữ và hầm hầm bước thẳng ra khỏi phòng mà không thèm nói cả lời tạm biệt.

Chú thích

[99]Bingo: Một trò xổ số rất phổ biến ở Mỹ, được chơi với những tấm các có đánh số. Người chơi thường hô “Bingo” để báo mình là người trúng giải.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Giờ thứ 31 của 45

Đến sân bay Mamaroneck, Amelia Sachs nhận ra Roland Bell đang lởn vởn bên ngoài hangar. Thêm sáu nhân viên cảnh sát nữa đang đứng gác quanh toà nhà rộng thênh thang. Sachs đoán kiểu gì xung quanh đó cũng bố trí các tay súng bắn tỉa.

Mắt cô nhận ra ngay mô đất nhỏ nơi cô đã nằm thụp xuống để tránh đạn. Cảm giác buồn nôn đến ghê tởm lại trào lên trong bụng Sachs khi cô nhớ đến mùi đất ẩm trộn lẫn với mùi thuốc nổ cordite ngòn ngọt tỏa từ những phát đạn súng ngắn bất lực của mình.

Cô quay lại và lên tiếng chào Bell. “Thám tử.”

Ánh mắt anh liếc về phía cô ngay lập tức. “Ê.” Rồi anh lại tiếp tục lia mắt khắp sân bay. Phong cách miền Nam vui nhộn và dễ gần của anh đã biến đâu mất. Anh đã thay đổi thành con người khác. Sachs nhận ra rằng giờ đây anh và cô cùng chia sẻ một điều không vẻ vang gì. Cả hai đều nổ súng vào tên Vũ công Quan tài và đều bắn trượt.

Cả hai cũng đều từng ở trong khu vực tiêu diệt của hắn và đều sống sót. Mặc dù vậy, Bell vẫn có thể ngẩng cao đầu hơn cô nhiều. Sachs có thể thấy là tấm áo giáp chống đạn của anh còn lưu giữ nguyên những dấu hiệu vẻ vang đó: những vết hằn từ hai đầu đạn bắn sượt qua người anh trong cuộc đọ súng ở ngôi nhà an toàn. Anh đã đứng vững ở vị trí của mình.

“Percey đâu rồi?”, Sachs hỏi.

“Trong kia. Đang hoàn thành công việc sửa chữa.”

“Chị ấy tự làm à?”

“Có lẽ thế. Cô ấy thật đáng nể, thật sự đấy. Không ai có thể tin là một phụ nữ không được…, hừm, nói thế nào nhỉ, không được quyến rũ cho lắm như cô ấy lại có sức hút mạnh mẽ đến thế. Cô thấy chứ?”

Ừ hứ. Đừng có khiến tôi phải gây chuyện thêm.

“Còn ai khác ở đây không? Người của Công ty ấy?” Cô hất đầu về phía khu văn phòng của Hudson Air. “Bên trong vẫn còn ánh đèn.”

“Percey đã cho hầu hết mọi người về nhà rồi. Tay phi công phụ bay cùng cô ấy sẽ tới đây bất kỳ lúc nào. Và có ai đó thuộc Bộ phận Điều hành đang ở bên trong. Đại loại là lúc nào cũng phải có người trực khi đang có chuyến bay, tôi đoán thế. Tôi kiểm tra anh ta rồi. Không vấn đề gì.”

“Vậy là chị ấy định tự bay thật à?”, Sachs hỏi.

“Có vẻ thế.”

“Máy bay vẫn được canh gác thường xuyên chứ?”

“Ừ, suốt từ hôm qua đến giờ. Mà cô đang làm gì ở đây vậy?”

“Cần thêm một số mẫu để phân tích.”

“Cái tay Rhyme đó, anh ta cũng thật đáng nể.”

“Ừ hứ.”

“Hai người làm việc cùng nhau ngay từ hồi đầu à?”

“Chúng tôi mới làm chung một vài vụ thôi”, cô nói lảng. “Anh ấy lôi tôi ra khỏi phòng Quan hệ Công chúng.”

“Đấy chắc hẳn là một việc tốt rồi còn gì. Này, tôi nghe nói là cô thực sự có thể đóng đinh bằng đạn à?”

“Tôi có thể gì cơ?”

“Bắn ấy. Bằng súng ngắn. Cô còn là thành viên đội tuyển bắn súng nữa mà.”

Và lúc này đây tôi đang ở nơi vừa diễn ra cuộc thi mới nhất của mình, cô cay đắng nghĩ thầm. “Chỉ là trò thể thao cuối tuần thôi mà”, cô lầm bầm.

“Bản thân tôi cũng là người thường tập luyện và thi bắn súng ngắn, nhưng nói thật với cô, ngay cả trong một ngày đẹp trời, với một khẩu nòng dài đẹp đẽ nhất và bắn ở chế độ từng phát một, khoảng cách xa nhất mà tôi có thể bắn trúng cũng chỉ là 50 hoặc cùng lắm là 60 thước.”

Cô thầm biết ơn những tâm sự của anh nhưng rồi chợt nhận ra anh cũng chỉ đang cố gắng tìm cách an ủi cô về sự thất bại của ngày hôm qua; những lời đó với cô chỉ là vô nghĩa.

“Có lẽ tôi phải vào nói chuyện với Percey thôi.”

“Ngay bên kia kìa, sĩ quan.”

Sachs đẩy cửa bước vào khoang hangar rộng mênh mông. Cô chậm rãi từng bước, quan sát kỹ càng tất cả những nơi tên Vũ công có thể ẩn náu. Sachs dừng lại sau một dãy hòm chất cao ngất; Percey vẫn chưa nhìn thấy cô.

Người phụ nữ đang đứng trên một giàn giáo nhỏ, hai tay chống bên hông, mắt đăm đăm nghiên cứu mạng lưới chằng chịt đến hoa cả mắt gồm đủ các loại đường ống và dây dẫn của buồng động cơ đang mở nắp. Cô đã xắn cao cả hai ông tay áo, hai bàn tay cũng nhem nhuốc đầy dầu mỡ. Cô tự gật đầu như đang động viên mình rồi chúi đầu hẳn vào trong buồng động cơ.

Sachs đứng như trời trồng tại chỗ, tròn mắt nhìn hai bàn tay của người nữ phi công đang lướt như bay trên cỗ máy, chỉnh lại chỗ này, thăm dò chỗ kia, hàn kim loại vào với kim loại, và siết chặt lại những con ốc bằng các động tác chính xác và dứt khoát từ hai cánh tay gầy gò. Cô vừa lắp xong một ống hình trụ lớn màu đỏ, mà theo Sachs đoán thì là bình cứu hoả dự phòng, trong vòng chưa đến mười giây.

Nhưng có một bộ phận – trông giống như một ống dẫn lớn bên trong bằng kim loại – mãi không chịu vào đúng vị trí.

Percey trèo xuống khỏi giàn giáo, chọn lấy một chiếc cờ lê có hốc xoắn và lại trèo lên. Cô nới lỏng những con ốc, tháo bỏ một bộ phận khác để lấy thêm chỗ cho việc thao tác, rồi lại thử ấn chiếc vòng xuyến lớn vào vị trí.

Không suy suyển chút nào.

Cô ghé vai vào đấy. Cũng không nhúc nhích lấy một inch. Cô lại tháo thêm một bộ phận khác, cẩn thận đặt từng chiếc ốc và đinh vít vào một chiếc khay nhựa đặt dưới chân. Mặt Percey đỏ bừng khi cô loay hoay cố nâng chiếc vòng xuyến bằng kim loại lên. Ngực cô phập phồng vì gắng sức vật lộn với thứ phụ tùng đó. Bất thình lình nó trượt xuống, rơi hẳn ra khỏi vị trí, và đẩy cô ngã ngửa về sau từ trên giàn giáo. Cô chống hai tay và đầu gối để lồm cồm bò dậy. Những dụng cụ và ốc vít được cô cẩn thận xếp trong khay rơi vung vãi trên sàn phía dưới phần đuôi máy bay.

“Không!”, Percey gào lên. “Không!”

Sachs vội bước lên phía trước để kiểm tra xem cô có bị thương không, nhưng cô nhận thấy ngay lập tức cơn xúc động kia chẳng liên quan gì đến việc đau hay không đau cả – Percey chộp lấy chiếc cờ lê to đùng và điên cuồng đập thẳng tay xuống sàn hangar. Sachs dừng lại, khẽ bước nhích vào trong bóng tối cạnh một chiếc thùng carton lớn.

“Không, không, không…” Percey gào lên, đập chan chát xuống mặt sàn láng mi măng rất mịn.

Sachs vẫn đứng nguyên.

“Ôi, Ed…” Cô buông chiếc cờ lê xuống. “Em không thể làm một mình được.” Cô nằm cuộn tròn như quả bóng trên sàn, thở hổn hển như đứt hơi. “Ed… ôi, Ed… Em rất nhớ anh!” Cô nằm yên, cuộn người như một chiếc lá héo, trên sàn nhà sáng bóng và thổn thức khóc.

Rồi, cũng thật bất ngờ, cơn xúc động vụt qua đi. Percey nghiêng người ngồi thẳng dậy, hít một hơi thật dài và gượng đứng lên, lau nước mắt đang giàn giụa trên mặt. Bản năng của người phụ nữ phi công trong cô quay trở lại và cô lúi húi nhặt mớ dụng cụ cùng với những chiếc ốc lên rồi trèo lên giàn giáo. Cô chăm chú nhìn chiếc vòng xuyến tai quái một lúc lâu. Cô kiểm tra các khớp nối rất cẩn thận nhưng vẫn không thể nhận ra những chi tiết máy bằng kim loại bị kẹt ở chỗ nào.

Sachs lùi dần ra cửa chính, đóng cửa đánh rầm một cái, rồi bắt đầu đi thẳng trở lại vào trong hangar, với những tiếng bước chân nghe rất rõ.

Percey quay ngoắt ra, nhìn thấy cô, rồi quay lại với động cơ. Cô giơ ống tay áo lên quệt ngang mặt mấy cái rồi tiếp tục công việc.

Sachs bước thẳng tới dưới chân giàn giáo và đứng nhìn Percey đang vật lộn với chiếc vòng xuyến.

Cả hai người phụ nữ đều không nói gì một lúc khá lâu.

Cuối cùng Sachs lên tiếng, “Thử một cái kích nâng xem.”

Percey quay lại nhìn cô, nhưng không nói gì.

“Chẳng qua là vì độ dung sai của thiết bị quá nhỏ”, Sachs nói tiếp. “Tất cả những gì chị cần là thêm một chút lực. Kỹ thuật nhồi nhét cũ rích ấy mà. Nhưng ở trong trường kỹ thuật họ không dạy cái này đâu.”

Percey cẩn thận săm soi những ngoàm lắp ghép trên các chi tiết kim loại. “Tôi không biết.”

“Tôi thì biết. Chị đang nói chuyện với một chuyên gia đấy.”

Người nữ phi công ngờ vực, “Cô đã từng lắp buồng đốt cho một chiếc Lear sao?”.

“Không. Chỉ lắp bugi của một chiếc Chevy Monza. Chị sẽ phải kích nâng toàn bộ động cơ lên nếu muốn với tới chiếc bugi. Thật ra cũng chỉ là với những xe có động cơ V8 thôi. Nhưng bây giờ làm gì còn ai mua một chiếc bốn xi lanh chứ? Ý tôi là mua thế để làm gì?”

Percey quay lại nhìn chiếc động cơ.

“Thế nào?”, Sachs kiên trì. “Một chiếc kích chứ?”

“Nó sẽ làm vênh lớp vỏ ngoài của động cơ mất.”

“Sẽ không vênh nếu chị đặt nó vào chỗ kia.” Sachs chỉ vào một chi tiết kết cấu liên kết động cơ với phần khung đỡ dẫn thẳng tới thân máy bay.

Percey nghiên cứu khớp nối. “Nhưng tôi không có kích. Đúng ra là không có cái nào vừa nhỏ để cho vào đây.”

“Tôi có. Để tôi đi lấy.”

Sachs quay ra ngoài tới chỗ đậu chiếc RRV rồi trở vào cùng với chiếc kích kiểu xếp. Cô trèo lên giàn giáo, hai đầu gối kịch liệt phản đối cố gắng này.

“Đặt đúng vào đây.” Cô chạm vào phần đế động cơ. “Đúng kiểu rầm thép chữ I nhé.”

Trong khi Percey điều chỉnh chiếc kích, Sachs chiêm ngưỡng sự tinh vi của phần động cơ. “Bao nhiêu sức ngựa đây?”

Percey bật cười. “Chúng tôi không tinh bằng sức ngựa. Chúng tôi chỉ tính bằng đơn vị lực đẩy. Đây là động cơ Garrett TFE 731. Công suất hoạt động mỗi động cơ tương đương với 3500 đơn vị lực đẩy.”

“Không thể tin được”, Sachs bật cười. “Chúa ơi.” Cô móc phần tay quay vào trong chiếc kích, vào bắt đầu cảm nhận lực đẩy ngược lại quen thuộc khi cô bắt đầu vặn tay quay. “Tôi chưa bao giờ đứng gần một động cơ tua bin như thế này”, cô nói. “Hồi trước giấc mơ lớn nhất của tôi là được chạy thử một chiếc ô tô lắp động cơ phản lực trên những cánh đồng muối.”

“Đây cũng không phải động cơ tua bin thuần tuý. Hiện tại cũng không còn lại nhiều động cơ tua bin như trước kia nữa. Cũng như những chiếc Concorde vậy. Tất nhiên là những chiếc phản lực quân sự thì vẫn dùng. Còn đây là động cơ phản lực cánh quạt đẩy. Giống như những chiếc máy bay chở khách ấy. Cô nhìn phía trước kia kìa – có thấy những cánh quạt không? Không gì có thể sánh được với những cánh quạt đẩy có tốc độ cố định kia. Động cơ tua bin phản lực thuần tuý hoạt động không hiệu quả ở những độ cao hạn chế. Còn những động cơ này tiết kiệm hơn đến 40% nhiên liệu.”

Sachs thở hổn hển vì gắng sức vặn tay quay của chiếc kích. Percey lại ghé vai dựa vào vòng xuyến và đẩy mạnh. Thiết bị này trông thì không lớn lắm nhưng thực tế thì nặng khủng khiếp.

“Cô biết về xe cộ chứ?”, Percey hỏi, cũng hổn hển không ra hơi.

“Bố tôi. Ông yêu thích xe cộ. Có khi cả buổi chiều hai bố con cũng loay hoay tháo xe ra rồi lại lắp vào. Ấy là những hôm ông không phải đi tuần tra.”

“Đi tuần tra là sao?”

“Bố tôi cũng là cảnh sát mà.”

“Và cô bị lây tình yêu đối với máy móc?”, Percey hỏi.

“Không, tôi chỉ lây phần say mê tốc độ. Và một khi đã nhiễm cái đó thì tối thiểu cũng phải biết thế nào là bộ giảm xóc, thế nào là bộ truyền lực và hiểu biết nhất định về động cơ nếu không thì sẽ chẳng thể nào mà phóng nhanh được.”

Percey hỏi, “Cô đã bao giờ lái máy bay chưa?”.

“Lái ư?”, Sachs mỉm cười vì cách Percey dùng từ đó. “Chưa. Nhưng có lẽ tôi sẽ suy nghĩ về chuyện đó, nhất là khi đã biết dưới cái nắp capô lại là một động cơ hấp dẫn khủng khiếp như thế này.”

Cô vặn thêm một chút nữa, những cơ bắp của cô đau nhức. Chiếc vòng xuyến khẽ rít lên ken két khi nó được đặt vào những vị trí khớp nối.

“Tôi không biết”, Percey ngập ngừng nói.

“Gần được rồi kìa!”

Với một tiếng keng lanh lảnh rất to của kim loại, chiếc vòng xuyến thụt hẳn vào khung đỡ của nó một cách hoàn hảo. Khuôn mặt ngắn ngủn của Percey thoáng nở một nụ cười hài lòng.

“Chỉ cần xoáy chúng vào thôi chứ gì?” Sachs hỏi, cô bắt đầu lắp những chiếc bu lông vào các khe của chúng trên vòng xuyến và quay ra tìm một chiếc cờ lê.

“Ừ”, Percey nói. “Phương châm của tôi là: Vặn đến khi chúng không còn có thể long ra được nữa thì thôi.”

Sachs siết chặt những bu lông vào khe bằng một chiếc cờ lê vặn có lắp thêm bánh cóc. Tiếng dụng cụ lách cách đưa cô quay lại thời trung học, những buổi chiều thứ Bảy mát mẻ cùng với bố mình. Mùi xăng dầu ngai ngái, mùi không khí mùa thu, mùi của món thịt hầm thơm phức toản ra từ căn bếp trong ngôi nhà liền kề của họ ở khu Brooklyn.

Percey kiểm tra phần công việc của Sachs rồi nói, “Tôi sẽ làm phần còn lại”. Cô bắt đầu nối lại những đường dây điện và các thiết bị điện tử. Sachs không hiểu gì nhưng vẫn nhìn cô làm như bị thôi miên. Chợt Percey dừng lại. Cô khẽ buông thêm một tiếng “Cảm ơn”. Và một lát sau là: “Mà cô đang làm gì ở đây vậy?”.

“Chúng tôi tìm thấy một số vật liệu mà chúng tôi nghĩ có thể là của quả bom, nhưng Lincoln chưa dám chắc liệu có thể nó là một phần của chiếc máy bay hay không. Những mẩu cao su mềm màu be, bảng mạch điện? Chị thấy có quen không?”

Percey nhún vai. “Có đến hàng nghìn miếng đệm trong một chiếc Lear như thế này. Có thể chúng được làm bằng latex, tôi cũng không biết nữa. Còn những tấm bảng mạch điện ư? Cả chúng cũng có đến hàng nghìn ấy chứ.” Cô hất đầu về một góc hangar, nơi có đặt một chiếc tủ đồ và bàn làm việc dài. “Những bảng mạch này là phụ tùng đặt hàng đặc biệt, tuỳ thuộc vào từng thiết bị. Nhưng đằng kia kiểu gì cũng có vô số miếng điệm dự phòng. Cứ việc tha hồ chọn loại mẫu nào mà cô cần.”

Sachs bước tới chỗ kê chiếc bàn, bắt đầu chọn lựa tất cả những mẫu cao su màu be nào mà cô tìm thấy vào trong một chiếc túi đựng bằng chứng.

Không liếc nhìn về phía Sachs, Percey lên tiếng, “Tôi cứ tưởng cô tới đây để bắt tôi cơ. Để áp giải tôi quay lại nhà giam”.

Lẽ ra tôi phải làm thế, người nữ cảnh sát thầm nghĩ. Nhưng cuối cùng cô nói, “Chỉ đến kiểm tra mẫu vật thôi”. Rồi nói thêm, sau một lát im lặng: “Còn công việc nào phải làm không? Với chiếc máy bay ấy?”.

“Chỉ là hiệu chỉnh lại các chi tiết thôi. Sau đó khởi động động cơ để kiểm tra hệ thống điện. Tôi cũng phải xem qua lại cửa sổ nữa, cái cửa sổ mà Ron đã thay ấy. Cô sẽ không bao giờ muốn có một cái cửa sổ bị long ra khi đang bay với vận tốc 400 dặm một giờ đâu. Cô có thể đưa giúp tôi bộ thanh vặn sáu cạnh kia không? Không, bộ hệ mét ấy.”

“Tôi cũng từng mất một cái ở tốc độ 100 dặm một giờ”, Sachs nói và chuyển thứ dụng cụ kia cho Percey.

“Một cái gì cơ?”

“Cửa sổ ấy. Tên tội phạm mà tôi đuổi theo hôm đó có một khẩu súng săn. Loại hai nòng bắn đạn săn thú lớn. Tôi kịp hụp đầu xuống. Nhưng viên đạn phá nát hoàn toàn kính chắn gió phía trước… Nói thật với chị, đến khi tóm được hắn thì răng tôi dính không biết bao nhiêu là những con bọ đủ loại.”

“Vậy mà tôi cứ tưởng mỗi tôi là sống cuộc đời phiêu lưu”, Percey nói.

“Phần lớn thời gian làm việc là nhàm chán. Nhưng họ trả tiền cho tôi vì 5% căng thẳng kia.”

“Tôi cũng nghe nói thế”, Percey nói. Cô nối thẳng một chiếc máy tính xách tay vào những thiết bị điện tử trong động cơ. Cô gõ trên bàn phím rồi chăm chú nhìn màn hình. Không hề liếc nhìn xuống dưới, cô hỏi, “Vậy, tóm lại chuyện đó là thế nào?”.

Mắt cũng nhìn vào màn hình máy tính, những con số lướt qua loang loáng, Sachs hỏi, “Ý chị là sao?”.

“Thì, hừm, sự đối đầu. Giữa chúng ta. Cô và tôi ấy.”

“Suýt nữa chị làm một người bạn của tôi mất mạng.”

Percey lắc đầu. Cô khẽ khàng nói, “Không phải thế. Trong công việc như của cô làm sao tránh được rủi ro. Bao giờ cô cũng phải quyết định cô có muốn chấp nhận những rủi ro đó hay không. Jerry Banks đâu phải lính mới. Khi tôi nhìn thấy cô lần đầu tiên, trong phòng của Lincoln Rhyme.”

Sachs không nói gì. Cô nâng chiếc kích ra khỏi khoang động cơ và đặt nó lên một chiếc bàn, lơ đễnh quay cho nó xếp gọn lại như cũ.

Ba phụ tùng kim loại ăn khớp gọn gàng vào vị trí quanh động cơ và Percey múa chiếc tuốc nơ vít trên tay mình như một nhạc trưởng huơ cây đũa chỉ huy. Hai bàn tay cô thật sự kỳ diệu. Cuối cùng cô nói, “Chuyện là về anh ấy, đúng không?”.

“Ai cơ?”

“Cô biết ý tôi nói đến ai mà. Lincoln Rhyme.”

“Chị nghĩ là tôi đang ghen à?”, Sachs phá lên cười.

“Đúng, tôi nghĩ thế đấy.”

“Thật lố bịch.”

“Giữa hai người không chỉ là công việc đơn thuần. Tôi nghĩ cô đang yêu anh ấy.”

“Tất nhiên là không có chuyện đó rồi. Thật điên rồ.”

Percey khẽ liếc nhìn cô với vẻ đầy hiểu biết rồi thận trọng bện những đoạn dây điện thừa lại thành một bó rồi cuộn chúng vào hốc trống trong buồng động cơ. “Tất cả những gì cô thấy chẳng qua chỉ là sự ngưỡng mộ tài năng của anh ấy thôi, đơn giản chỉ có vậy.” Cô trỏ một bàn tay lấm lem dầu mỡ vào chính mình. “Thôi nào, Amelia, hãy nhìn tôi đi. Tôi sẽ chỉ là một người tình tệ hại thôi. Tôi lùn tịt, tôi lại còn kiêu ngạo, tôi không hề ưa nhìn chút nào.”

“Nhưng chị…”, Sachs định nói.

Nhưng Percey đã cắt ngang lời cô. “Câu chuyện vịt con xấu xí? Cô biết chứ, về một con vịt mà ai cũng cho là xấu cho đến khi hóa ra nó là một con thiên nga? Tôi đọc câu chuyện đó cả triệu lần hồi tôi còn bé. Nhưng tôi không bao giờ trở thành một con thiên nga. Có chăng là tôi học được cách bay như nó”, cô nói với một nụ cười lạnh lùng, “nhưng dù sao thì vẫn khác”. “Vả lại”, Percey nói tiếp, “tôi là một bà góa rồi. Tôi vừa mới mất chồng. Tôi hoàn toàn không quan tâm tới bất kỳ ai khác”.

“Tôi xin lỗi”, Sachs khẽ khàng nói, cảm thấy bất đắc dĩ bị cuốn vào cuộc trò chuyện này, “nhưng dù sao tôi cũng phải nói rằng… chậc, trông chị không thực sự có vẻ gì là đang thương tiếc anh ấy cả.”

“Tại sao thế? Bởi vì tôi đang cố hết sức để duy trì hoạt động cho Công ty của mình sao?”

“Không, còn hơn thế nữa”, Sachs thận trọng trả lời. “Đúng không?”

Percey chăm chú nhìn vẻ mặt Sachs. “Ed và tôi gắn bó với nhau đến mức thật khó mà tin nổi. Chúng tôi không chỉ là vợ chồng mà còn là bạn bè và đối tác kinh doanh… Vậy mà đúng là anh ấy đã đi lại với người khác.”

Ánh mắt Sachs khẽ đảo rất nhanh về phía khu văn phòng của Hudson Air.

“Đúng thế thật”, Percey nói. “Đó là Lauren. Hôm qua cô cũng gặp cô ấy rồi đấy.”

Cô nàng tóc đen đã khóc đến sưng húp cả mắt.

“Chuyện đó làm tôi tan nát cõi lòng. Mẹ kiếp, cả Ed cũng đau khổ không kém. Anh ấy yêu tôi nhưng anh ấy cũng cần cô người tình xinh đẹp của mình. Bao giờ cũng cần. Và, cô biết đấy, nhiều khi tôi nghĩ họ còn đau khổ hơn tôi. Vì sau đó bao giờ anh ấy cũng quay về nhà với tôi”. Cô ngừng lại một lát và cố ngăn những dòng nước mắt trào ra. “Đó mới là tình yêu, tôi nghĩ thế. Quan trọng là anh ấy về nhà với ai.”

“Còn chị thì sao?”

“Tôi có chung thủy không ấy à?”, Percey hỏi. Cô lại bật lên một tiếng cười khan cay đắng – tiếng cười của một người ý thức sâu sắc về bản thân mình nhưng không phải lúc nào cũng thích thú với những gì trong đó. “Tôi cũng không có nhiều cơ hội. Tôi hoàn toàn không phải mẫu phụ nữ vẫn bị trêu chọc khi đi trên phố.” Cô lơ đãng kiểm tra một chiếc cờ lê ống. “Nhưng rồi, đúng thật, sau khi tôi phát hiện ra chuyện về Ed và những cô bồ của anh ấy, cách đây một vài năm, tôi tưởng mình phát điên. Thật là đau đớn khủng khiếp. Tôi cũng đi lại với một vài người đàn ông khác. Ron và tôi – Ron Talbot – cũng có thời gian đi lại với nhau, vài tháng gì đó.” Cô mỉm cười. “Thậm chí anh ấy còn cầu hôn tôi nữa chứ. Và bảo rằng tôi xứng đáng có một người chồng tốt hơn Ed. Tôi cũng nghĩ là đúng thế thật. Nhưng cho dù cho nhiều người phụ nữ khác trong đời đi nữa, Ed vẫn là người đàn ông mà tôi cần ở bên cạnh. Điều đó không bao giờ thay đổi.”

Trong giây lát ánh mắt của Percey như đang dõi về hướng xa xăm nào đó. “Chúng tôi gặp nhau hồi còn trong Hải quân, Ed và tôi. Cả hai cùng là phi công chiến đấu. Khi anh ấy cầu hôn tôi… Cô biết không, cách cầu hôn theo truyền thống trong quân đội là khi cô nói, “Em có muốn trở thành người phụ thuộc vào anh không?” Một kiểu nói đùa ấy. Nhưng cả hai chúng tôi khi ấy đều đang mang quân hàm thiếu úy, nên Ed nói, “Em và anh, chúng ta hãy cùng trở thành những người phụ thuộc vào nhau”. Anh ấy muốn kiếm cho tôi một chiếc nhẫn nhưng cha tôi đã tuyên bố từ tôi...”

“Từ thật sao?”

“Ừ, thật như phim ấy chứ, nhưng lúc này tôi không muốn đi sâu vào chuyện đó làm gì. Lại nói, Ed và tôi đang dành dụm từng xu một để mở công ty bay dịch vụ của riêng mình sau khi chúng tôi cùng quyết định giải ngũ và chúng tôi hoàn toàn không có đồng nào trong túi. Nhưng một đêm anh ấy bảo, “Hãy bay lên trên kia một lát”. Thế là chúng tôi mượn một chiếc Norseman cổ lỗ sĩ mà họ vứt lăn vứt lăn lóc trên sân bay. Một loại máy bay rất khó nhằn. Động cơ xoay vòng to đùng được làm mát bằng không khí… Cô có thể làm bất kỳ điều gì với chiếc máy bay đó. Hừm, lần ấy tôi ngồi ghế chính bên tay trái. Tôi đã cất cánh xong và đưa máy bay lên cao khoảng 6000 feet gì đó. Đột nhiên anh ấy hôn tôi và giằng lấy cần lái, có nghĩa là anh ấy giành quyền chỉ huy. Tôi để mặc anh ấy làm. Rồi anh ấy nói, “Cuối cùng anh cũng kiếm cho em một viên kim cương, Perce”.”

“Anh ấy mua được thật sao?”, Sachs hỏi.

Percey mỉm cười. “Anh ấy tăng tốc, thẳng một mạch đến hết cỡ thì thôi, rồi kéo giật cần lái lại. Mũi máy bay chúc thẳng lên trên trời.” Lúc này nước mắt đã giàn giụa lăn trên má Percey. “Trong một khoảng thời gian ngắn, trước khi anh ấy đạp bánh lại và chúng tôi bắt đầu chúc mũi xuống và ra khỏi trạng thái bay tròng trành, chúng tôi đã nhìn thẳng lên bầu trời đêm. Anh ấy ghé sát vào tôi và nói, “Em cứ việc chọn đi. Tất cả những vì sao đêm – em có thể chọn bất cứ ngôi sao nào em muốn”.” Percey cúi đầu xuống, hơi thở của cô như ngừng lại. Tất cả những vì sao đêm…

Một lát sau cô giơ ống tay áo lên lau mắt, rồi quay lại với động cơ. “Tin tôi đi, cô chẳng có điều gì để lo lắng cả. Lincoln là một người đàn ông thật quyến rũ, nhưng Ed là tất cả những gì tôi từng muốn.”

“Còn nhiều chuyện mà chị không biết đâu.” Sachs thở dài. “Chị làm anh ấy nhớ đến một người khác. Một người anh ấy đã từng yêu. Chị xuất hiện trong chốc lát và bỗng nhiên anh ấy có cảm giác lại được ở bên người cũ.”

Percey nhún vai. “Chúng tôi có một số điểm chung. Chúng tôi hiểu và thông cảm cho nhau. Nhưng thế thì sao chứ? Điều đó cũng chẳng có ý nghĩa gì hết. Mở mắt ra đi, Amelia. Rhyme yêu cô.”

Sachs phá lên cười. “Ồ, tôi không nghĩ thế đâu.”

Percey lại chăm chú nhìn cô hồi lâu như muốn nói, Kệ cô có nói gì đi nữa... rồi bắt đầu đặt lại những thiết bị vào trong hộp, cẩn thận và tỉ mẩn sau khi cô đã dùng xong những dụng cụ và chiếc máy tính.

Roland Bell thong thả bước vào trong, kiểm tra các ô cửa sổ và lia mắt khắp những khu vực khuất bóng.

“Tất cả vẫn bình thường chứ?”, anh hỏi.

“Không thấy động tĩnh gì.”

“Tôi có thông báo này cần chuyển lại cho cô đây. Tay chuyển hàng của Tập đoàn U.S. Medical vừa rời khỏi Bệnh viện Westchester. Chuyến hàng sẽ tới đây trong vòng một giờ nữa. Tôi đã bố trí một chiếc xe chở người của mình đi sau họ để đề phòng cho chắc ăn. Nhưng đừng lo là việc đó sẽ khiến họ lo lắng và ảnh hưởng xấu đến công việc làm ăn – người của tôi bám theo rất kín đáo. Tay lái xe sẽ không bao giờ biết là anh ta được theo dõi đâu.”

Percey xem đồng hồ. “Được rồi.” Cô liếc nhìn Bell, anh này đang há hốc miệng nhìn khoang động cơ mở toang với ánh mắt bối rối, như một con rắn nhìn con chồn. Cô hỏi, “Hình như chúng ta sẽ không cần người trông trẻ trong chuyến bay, đúng không nhỉ?”.

Bell thở dài nghe đánh thượt một cái. “Sau những gì xảy ra ở ngôi nhà an toàn”, anh nói bằng một giọng trầm trầm, nghiêm trọng, “tôi sẽ không bao giờ để cô rời khỏi mắt mình”. Anh lắc đầu và, với bộ dạng như người đã say máy bay sẵn, bước ra phía cửa trước rồi biến mất vào trong bầu trời chiều lạnh lẽo đang nhập nhoạng tối.

Percey thò đầu vào hẳn bên trong khoang động cơ, cẩn thận kiểm tra công việc của mình, giọng cô vọng ra nghe oang oang, “Cứ nhìn Rhyme rồi lại nhìn cô, tôi phải công nhận là khả năng của những gì tôi vừa nói cũng chỉ là 50:50”. Cô quay đầu ra và liếc xuống nhìn Sachs. “Nhưng cô biết đấy, cách đây lâu lắm rồi tôi biết một huấn luyện viên dạy bay.”

“Và?”

“Mỗi lần chúng tôi tập với loại máy bay nhiều động cơ ông ấy lại chơi cái trò giảm dần một động cơ cho đến khi nó gần như tắt hẳn, những cánh quạt chỉ còn quay theo quán tính, sau đó ra lệnh cho chúng tôi hạ cánh. Rất nhiều huấn luyện viên vẫn tắt động cơ trong vài phút, khi máy bay đã ở độ cao nhất định, chỉ để kiểm tra xem học viên sẽ xử lý như thế nào. Nhưng bao giờ họ cũng cho tăng tốc trở lại trước khi hạ cánh. Nhưng ông huấn luyện viên này, thì ừ hứ. Ông ấy bắt chúng tôi phải hạ cánh với một động cơ thôi. Các học viên bao giờ cũng băn khoăn, “Chẳng phải như thế sẽ rất rủi ro sao?”. Câu trả lời của ông ấy là, “Chúa không tạo ra điều gì chắc chắn cả. Nhiều khi chúng ta phải chấp nhận chơi trò năm ăn năm thua”.”

Percey đóng nắp buồng động cơ lại và cài chốt vào vị trí thật chắc chắn. “Đươc rồi, tất cả đã xong xuôi. Giờ thì chiếc máy bay chết tiệt này có thể bay thực sự.” Cô vỗ mạnh lên lớp thép bóng loáng giống hệt một cô nàng cao bồi đang vỗ lên lưng con bò trong trò rodeo[100].

Chú thích

[100]Trò chơi phổ biến ở Mỹ, thường là dưới hình thức thi thố những kỹ năng chăn bò như cưỡi bò dữ, quăng thòng lọng...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


Giờ thứ 32 của 45

Đúng sáu giờ chiều ngày Chủ nhật, họ đưa Jodie từ một trong những phòng ngủ của Rhyme ở dưới nhà lên, nơi gã đã bị giam khóa rất chắc chắn.

Gã miễn cưỡng lê bước lên cầu thang, hai tay vẫn ôm chặt lấy quyển sách ngớ ngẩn của mình, Dependent No More, như một cuốn Kinh Thánh. Rhyme nhớ rõ tên cuốn sách. Nó đã từng có mặt trong danh sách ấn phẩm bán chạy nhất của tờ New York Times suốt mấy tháng liền. Một lần đang ở trong tâm trạng chán nản nhất, anh đã để ý đến cuốn sách này và cay đắng nghĩ về bản thân mình, lệ thuộc mãi mãi.

Một đội đặc vụ liên bang đang từ Quantico bay thẳng tới Cumberland ở West Virginia, nơi cư trú trước đây của Stephen Kall, để tìm kiếm tất cả những đầu mối có thể, với hy vọng từ đó có thể lần ra chỗ ẩn náu hiện tại của hắn. Nhưng Rhyme đã thấy tên này cẩn thận đến mức nào trong việc xóa dấu vết tại các hiện trường của hắn và anh chẳng thấy có lý do nào để nghĩ rằng hắn sẽ lại kém thận trọng hơn trong việc xóa sạch các dấu vết liên quan khác.

“Anh có kể cho chúng tôi biết đôi điều về hắn”, Rhyme nói với Jodie. “Một số sự thật, một số thông tin rất bổ ích. Tôi muốn biết thêm đôi chút...”

“Tôi...”

“Cố nghĩ đi.”

Jodie hấp háy mắt. Rhyme tự nhủ có lẽ gã đang cân nhắc xem mình có thể biến báo như thế nào để xoa dịu họ, tạo ra những ấn tượng giả dối. Nhưng anh ngạc nhiên khi Jodie buột miệng, “À, có một chuyện này, đấy là hắn rất sợ ông.”

“Chúng tôi à?”, Rhyme hỏi.

“Không. Chỉ ông thôi.”

“Tôi à?”, anh hỏi, không giấu được vẻ ngỡ ngàng. “Hắn biết về tôi sao?”

“Hắn biết tên của ông là Lincoln. Và hắn biết ông đang lần theo hắn.”

“Bằng cách nào?”

“Tôi không biết”, gã nói, rồi bổ sung. “Ông biết đấy, hắn đã gọi vài cuộc điện thoại bằng chiếc điện thoại di động đó. Và hắn lắng nghe rất lâu. Lúc đó tôi đã nghĩ...”

“Ôi, chó chết thật”, Dellray buột miệng hét lên. “Hắn đang nghe trộm điện thoại của ai đó.”

“Tất nhiên rồi!”, Rhyme thốt lên. “Có lẽ là văn phòng ở Hudson Air. Đó là lý do tại sao hắn biết về ngôi nhà an toàn. Tại sao chúng ta lại không nghĩ đến chuyện đó nhỉ?”

Dellray nói, “Chúng ta phải cho rà soát toàn bộ khu văn phòng. Nhưng cũng có thể con bọ nghe lén được lắp ở một chiếc hộp tiếp âm ở đâu đó. Chúng tôi sẽ tìm ra nó”. Anh gọi một cú tới bộ phận kỹ thuật của FBI.

Quay sang Jodie, Rhyme nói, “Tiếp tục đi. Hắn còn biết những gì về tôi nữa?”.

“Hắn biết ông là một thám tử. Tôi không nghĩ là hắn biết ông sống ở đâu, hay họ của ông là gì. Nhưng ông làm hắn sợ khủng khiếp.”

Giá kể như bụng của Rhyme vẫn còn khả năng ghi nhận cảm giác rộn ràng vì phấn khích – và tự hào – thì chắc hẳn anh đã cảm thấy nó ngay lúc này.

“Anh đã giúp chúng tôi một lần rồi, Jodie. Tôi cần anh giúp chúng tôi lần nữa.”

“Ông bị điên sao?”

“Câm cái mõm chết tiệt của mày lại đi”, Dellray gầm lên. “Và hãy nghe những gì anh ấy nói, được chứ? Được chứ hả?”

“Tôi đã là đúng những gì tôi nói là tôi sẽ làm. Tôi sẽ không làm thêm bất kỳ điều gì nữa.” Giọng lải nhải của gã thật là không sao chịu nổi. Rhyme liếc mắt nhìn Sellitto. Chuyện này cần đến những kỹ năng liên quan đến con người.

“Giúp đỡ chúng tôi cũng nằm trong lợi ích của anh thôi”, Sellitto mềm mỏng nói.

“Bị bắn vào lưng là nằm trong lợi ích của tôi sao? Bị bắn vào đâu là nằm trong lợi ích của tôi sao? Ừ hứ. Tôi hiểu. Các ông có muốn giải thích chuyện đó không?”

“Chắc chắn rồi. Tôi sẽ giải thích cái chuyện chết tiệt ấy thế này nhé”, Sellitto gầm gừ. “Tên Vũ công biết anh đã bán đứng hắn. Lúc ở ngôi nhà an toàn chẳng phải là hắn đã nhắm vào anh còn gì? Tôi nói vậy có đúng không?”

Bao giờ cũng phải tìm mọi cách để những tên khốn này chịu mở mồm. Chịu tham gia. Sellitto đã có lần giải thích những phương pháp thẩm vấn cho Lincoln Rhyme hiểu.

“Vâng, tôi nghĩ thế.”

Sellitto ngoắc một ngón tay ra hiệu cho Jodie bước lại gần. “Lẽ ra điều khôn ngoan nhất mà hắn nên làm khi ấy là lặn thật xa. Vậy mà hắn vẫn liều lĩnh tìm kiếm một vị trí bắn tỉa và cố bắn tung đít anh. Thế nào, chuyện đó nói cho chúng ta biết điều gì nhỉ?”

“Tôi...”

“Nó cho chúng ta biết là hắn sẽ không bao giờ ngừng tay chừng nào hắn còn chưa giết được anh.”

Dellray, thích thú lại được diễn vai trò một người nhắc vở, lên tiếng, “Và hắn là loại người mà tao không nghĩ mày sẽ thích nhìn thấy khi hắn đến gõ cửa nhà mày lúc ba giờ sáng đâu – tuần này, tháng sau, hoặc sang năm. Chúng ta thống nhất với nhau về điều đó chứ hả?”.

“Vậy”, Sellitto lại nhanh nhảu tiếp tục, “anh đồng ý là việc giúp đỡ chúng tôi cũng nằm trong lợi ích của anh chứ?”.

“Nhưng các người có cho tôi vào, kiểu như, chương trình bảo vệ nhân chứng không?”

Sellitto nhún vai, “Có và không.”

“Hơ?”

“Nếu anh giúp chúng tôi, có. Còn nếu anh không giúp, không.”

Hai mắt của Jodie đỏ hoe và ầng ậc nước. Có vẻ như gã đang rất sợ hãi.

Trong những năm sau khi xảy ra vụ tại nạn Rhyme đã rất lo sợ cho những người khác – Amelia cùng với Thom và Lon Sellitto. Nhưng bản thân anh lại không tin rằng mình đã từng thấy sợ chết, kể từ sau vụ tai nạn thì tất nhiên là càng không. Anh tự hỏi cảm giác sống trong sợ hãi như vậy sẽ như thế nào. Cuộc sống của một con chuột.

Quá nhiều cách để chết...

Sellitto, lúc này đã lại khoác lên mình dáng vẻ của một cảnh sát tốt bụng, hơi thoáng mỉm cười với Jodie. “Anh cũng có mặt khi hắn giết người đặc vụ, ở trong tầng hầm, đúng vậy không?”

“Tôi có ở đó, vâng.”

“Lẽ ra giờ đây người đàn ông đó vẫn còn sống. Có thể cả Brit Hale có thể vẫn còn sống. Rất nhiều người khác cũng vậy… giá như có ai đó giúp chúng tôi ngăn chặn tên khốn khiếp này từ mấy năm trước. Hừ, còn bây giờ anh có thể giúp chúng tôi ngăn chặn hắn. Anh có thể giữ cho Percey được sống, và có lẽ là hàng chục người nữa. Anh có thể làm điều đó.”

Đây là lúc thiên tài của Sellitto được phát huy. Nếu là Rhyme chắc anh đã hết dọa dẫm rồi cưỡng ép và đến khi không còn cách nào khác, sẽ hối lộ người đàn ông bé choắt này. Nhưng anh chưa bao giờ nghĩ đến việc lôi kéo chút hướng thiện còn sót lại mà, ít nhất là, viên thám tử có thể nhìn thấy trong con người gã.

Jodie lơ đãng lần giở những trang trong quyển sách của gã bằng một ngón tay bẩn thỉu. Cuối cùng gã ngước lên và – với sự điềm tĩnh đáng ngạc nhiên – nói, “Khi tôi đang dẫn hắn tới chỗ của mình, trong đường tàu điện ngầm, đã mấy lần liền tôi nghĩ hay là tôi xô hắn xuống một miệng đường ống thoát nước. Nước ở những chỗ đó chảy rất xiết. Kiểu gì hắn cũng sẽ bị cuốn một mạch ra sông Hudson. Hoặc không thì tôi biết trong đường tàu điện ngầm có những chỗ họ còn để lại mấy đống đinh đường ray. Tôi có thể chộp lấy một cái và đánh vào đầu hắn lúc hắn không cảnh giác. Tôi thực sự, thực sự đã nghĩ đến chuyện làm như vậy. Nhưng tôi sợ”. Gã giơ cuốn sách lên. “Chương Ba. Đối mặt với những con quỷ của bạn. Các ông biết đấy, lần nào tôi cũng chạy trốn. Tôi chưa bao giờ dám đứng lên chống lại bất kỳ điều gì. Tôi đã nghĩ mình có thể đứng lên chống lại hắn, nhưng tôi không làm được.”

“Ê, thì bây giờ anh có cơ hội rồi’, Sellitto nói.

Lại lật giở qua những trang sách nát bươm. Thở dài. “Tôi phải làm gì đây?”

Dellray trỏ ngón tay cái dài quá khổ của anh lên phía trần nhà. Đó là cách anh thể hiện sự hài lòng.

“Chúng ta sẽ bàn kỹ về chuyện đó sau một phút nữa”, Rhyme nói, đưa mắt nhìn quanh phòng. Đột nhiên anh gào lên, “Thom! Thom! Vào đây. Tôi cần cậu”.

Khuôn mặt đẹp trai, cáu kính của cậu trợ lý thò vào quanh góc phòng. “Vâ… â… âng?”

“Tôi đang cảm thấy phơi phới làm sao”, Rhyme tuyên bố rất kịch.

“Gì cơ?”

“Tôi đang cảm thấy thật phơi phới. Tôi cần một cái gương.”

“Anh muốn một cái gương ư?”

“Một cái gương thật to vào. Và phiền cậu chải tóc giúp tôi với. Tôi nhắc cậu mãi mà lần nào cậu cũng quên.”

Chiếc xe thùng của U.S. Medical rẽ ra mặt sân bay trải nhựa tarmac. Giả sử như hai nhân viên mặc áo choàng trắng, mang theo số nội tạng người trị giá một phần tư triệu đô la, có lo lắng trước sự hiện diện của những cảnh sát được vũ trang bằng súng tiểu liên vây quanh đường băng, họ cũng không hề thể hiện bất kỳ dấu hiệu gì.

Lần duy nhất họ chùn bước là khi King, con béc giê Đức của đội phát hiện bom, đánh hơi những thùng đựng hàng để tìm kiếm thuốc nổ.

“Hừm, tôi nghĩ là nên cẩn thận với con chó kia”, một trong hai nhân viên vận chuyển nói với vẻ căng thẳng. “Cứ thử hình dung trong đây toàn là gan của gan, tim của tim.”

Nhưng King hành xử hoàn toàn như một tay chuyên nghiệp và bỏ qua khối hàng không một chút miễn cưỡng. Hai người đàn ông khiêng những thùng chứa lên máy bay, xếp chúng vào những tủ làm lạnh. Percey quay về buồng lái, tại đây Brad Torgeson, một tay phi công trẻ có mái tóc màu hung thỉnh thoảng vẫn đảm nhiệm những chuyến bay tự do cho Hudson Air, đang thực hiện công đoạn kiểm tra trước khi bay.

Cả hai đều đã hoàn thành khâu kiểm tra quanh máy bay một vòng, đi cùng họ là Bell, ba cảnh sát vũ trang và con King. Tuyệt đối không thể có khả năng tên Vũ công đã tiếp cận được chiếc máy bay ngay từ đầu, nhưng giờ đây tên sát thủ đó đã trở nên khét tiếng với khả năng biến cái không thể thành có thể; do vậy đây là lần kiểm tra bằng mắt trước chuyến bay được thực hiện tỉ mỉ và thận trọng nhất trong lịch sử ngành hàng không.

Quay lại nhìn vào khoang hành khách, Percey có thể nhìn thấy ánh đèn của những tủ làm lạnh. Trong cô lại thoáng hiện lên cảm giác hài lòng cô vẫn thường cảm thấy khi cỗ máy vô tri vô giác, vốn do con người tạo ra và điều khiển, rùng rùng chuyển động. Đối với Percey, bằng chứng về Chúa Trời có thể được tìm thấy trong tiếng ầm ầm của những mô tơ phụ, và khi cả chiếc máy bay như một khối kim loại thon dài được nâng bổng lên trời vào thời điểm hai cánh của nó tạo ra được áp lực không khí âm phía trên khiến chiếc máy bay trở nên không trọng lượng.

Đang tiếp tục với danh sách công việc cần kiểm tra trước chuyến bay, Percey bỗng giật mình vì tiếng hít thở nặng nhọc ngay cạnh cô.

“Họ, họ nào”, Brad thốt lên trong khi con King quyết định rằng giữa đũng quần anh ta không có thuốc nổ, rồi nó tiếp tục phần kiểm tra an toàn bên trong máy bay.

Mới ngay trước đó Rhyme vừa cho Percey biết rằng anh và Amelia Sachs đã kiểm tra những miếng đệm cao su và vỏ dây điện kia nhưng không thấy mẫu nào trùng khớp với chất cao su latex tìm thấy ở hiện trường vụ nổ ở Chicago. Rhyme chợt nghĩ ra khả năng tên sát thủ đã dùng cao su để bọc bên ngoài thuốc nổ để ngăn chó nghiệp vụ phát hiện ra. Vì vậy anh yêu cầu Percey và Brad ra khỏi máy bay vài phút để Bộ phận Kỹ thuật kiểm tra qua toàn bộ máy bay, cả trong lẫn ngoài, bằng những chiếc mic siêu nhạy cảm, có khả năng phát hiện ra thiết bị hẹn giờ nổ.

Sạch sẽ.

Khi chiếc máy bay lăn bánh ra ngoài, đường băng sẽ được những cảnh sát tuần tra mặc sắc phục canh gác cẩn thận. Fred Dellray đã liên lạc với FAA để bố trí lịch trình chuyến bay được bảo mật tuyệt đối sao cho tên Vũ công không thể biết được máy bay sẽ tới những đâu – thậm chí ngay cả khi hắn biết Percey đang có mặt trong buồng lái. Viên đặc vụ cũng đã liên lạc với những văn phòng địa bàn của FBI tại mỗi thành phố là điểm đến để bố trí các đặc vụ chiến thuật trên đường băng khi chuyến hàng được đưa tới.

Nào, giờ là lúc động cơ đã khởi động, Brad ngồi ghế bên phải còn Roland Bell liên tục bồn chồn thay đổi giữa một trong hai chiếc ghế hành khách còn lại, Percey nói với Đài Kiểm soát Không lưu, “Lear 695 Foxtrot Bravo ở Hudson Air. Sẵn sàng ra đường băng.”

“Nghe rõ. 695 Foxtrot Bravo. Được phép lăn bánh ra đường băng 09 bên phải.”

Một cái chạm khẽ lên cần ga êm như ru và chiếc máy bay tuyệt đẹp rẽ ra đường dẫn và dần dần tăng tốc xuyên qua màn trời đêm đầu xuân nhập nhoạng. Percey đang cầm lái. Các phi công phụ cũng có đủ thầm quyền bay nhưng chỉ có phi công chính mới được phép điều khiển chiếc máy bay trên mặt đất.

“Anh thích chứ, sĩ quan?”, cô ngoái lại nói to với Bell.

“Phải nói là rất thích”, anh nói và ngao ngán nhìn ra ngoài những ô cửa sổ lớn hình tròn. “Cô biết đấy, đằng nào cô cũng nhìn thẳng tuột một mạch xuống dưới. Ý tôi là những cửa sổ này vừa tròn vừa lớn. Tại sao họ lại làm cửa sổ kiểu này nhỉ?”

Percey bật cười. Cô nói to trả lời anh, “Thì trên các máy bay chở khách, họ cố ngăn không cho anh nhận ra rằng anh đang bay. Nào là phim ảnh, thức ăn, lại còn cửa sổ bé tí. Thế thì vui quái gì? Như thế thì ích lợi gì chứ?”.

“Cá nhân tôi thì thấy một vài ích lợi đấy”, anh nói và ngấu nghiến nhai chiếc kẹo cao su Wrigley của mình. Anh kéo rèm cửa sổ lại.

Mắt Percey dán chặt trên đường băng, liên tục kiểm tra bên phải và bên trái, không một giây lơ là. Quay sang Brad cô nói, “Bây giờ tôi sẽ nói qua về phần giao nhiệm vụ cụ thể. Được chứ?”.

“Rõ, thưa cơ trưởng.”

“Chúng ta sẽ cất cánh thẳng một mạch[101], cánh đuôi cố định ở 15 độ”, Percey nói. “Tôi sẽ điều chỉnh cần tăng ga. Cậu thông báo tốc độ bay, 80 knot, kiểm tra chéo, Tốc độ 1, hoán đổi, Tốc độ 2, tốc độ hữu dụng. Tôi sẽ chỉ huy việc tăng số và cậu sẽ thực hiện. Rõ chứ?”

“Tốc độ bay, 80, Tốc độ 1, hoán đổi, Tốc độ 2, tốc độ hữu dụng. Chuyển số.”

“Tốt. Cậu sẽ theo dõi tất cả các đồng hồ thiết bị và bảng tín hiệu. Nghe rõ nhé, nếu thấy đèn ở bảng tín hiệu chuyển màu đỏ và một động cơ bị trục trặc trước Tốc độ 1, hãy thông báo lệnh “Huỷ” thật to và rõ ràng để tôi đưa ra quyết định đi/ không đi. Nếu có trục trặc ở đúng hoặc sau khi chuyển sang Tốc độ 1, chúng ta vẫn tiếp tục cất cánh và sau đó sẽ giải quyết tình huống như một trường hợp khẩn cấp xảy ra trong quá trình bay trên không. Chúng ta vẫn sẽ tiếp tục bay lên và sau đó anh sẽ đề nghị được chuyển sang chế độ bay VFR để quay về sân bay ngay lập tức. Hiểu chứ?”

“Đã rõ!”

“Tốt. Chúng ta hãy bay nào… Anh sẵn sàng rồi chứ, Roland?”

“Tôi đã sẵn sàng. Hy vọng hai người cũng thế. Đừng có làm rơi kẹo đấy.”

Percey lại bật cười. Người quản gia của gia đình cô ở Richmond cũng nói giống hệt như vây. Nó có nghĩa là “Đừng có làm hỏng việc”.

Cô đẩy cần tăng tốc về phía giới hạn cho phép thêm một chút nữa. Những động cơ gầm lên ầm ầm và chiếc Learjet từ từ lăn bánh về phía trước. Họ tiếp tục đi qua vị trí chờ mọi khi, đúng nơi tên giết người đã đặt quả bom lên máy bay của Ed. Cô nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy hai cảnh sát đang đứng gác.

“Lear 95 Foxtrot Bravo”, Bộ phận Kiểm soát Mặt đất gọi tới qua radio, “đi thẳng tới đầu đường băng cất cánh 05 bên trái”.

“Foxtrot Bravo. Hướng tới đầu đường băng 05 bên trái”.

Cô tiếp tục lái chiếc máy bay lăn bánh trên đường dẫn ra.

Learjet là một loại máy bay thấp, gần như ôm sát mặt đất, mặc dù vậy mỗi lần ngồi trên chiếc ghế bên trái trong buồng lái, cho dù đang bay hay ở trên mặt đấy, Percey đều cảm thấy như cô đang ở trên cao cả dặm. Đó thực sự là một vị trí đầy quyền lực. Tất cả mọi quyết định đều là của cô, và phải được tuân theo không điều kiện. Tất cả những trách nhiệm cũng được đặt trên vai cô. Vì cô là cơ trưởng.

Chú thích

[101] Rolling take off: Có nghĩa là máy bay cất cánh thẳng sau khi rời khỏi hangar và lăn bánh trên đường băng, không phải dừng ở vị trí xuất phát và chờ lệnh của trạm Kiểm soát không lưu sân bay.

Mắt chăm chú theo dõi những đồng hồ thiết bị.

“Cánh đuôi 15 độ, 15, đèn xanh”, cô nói, nhắc lại thông số để đặt góc cánh đuôi.

Theo đúng quy định phải nhắc lại mọi mệnh lệnh, Brad nói “Cánh đuôi 15 độ, 15, đèn xanh”.

Kiểm soát Không lưu gọi tới, “Learjet 95 Foxtrot Bravo, rẽ vào vị trí. Đủ điều kiện cất cánh, đường băng 05 trái”.

“Đường băng 05 trái, Foxtrot Bravo. Đủ điều kiện cất cánh.”

Brad hoàn tất danh sách kiểm tra cất cánh. “Áp suất, bình thường. Chế độ lựa chọn nhiệt độ tự động. Đèn tiếp sóng và bên ngoài đều bật sáng. Đèn khởi động, đèn báo nhiệt độ và áp suất, đèn nhấp nháy đều bật sáng, đến lượt chị.”

Percey kiểm tra những đèn điều khiển đó và khẳng định, “Đèn khởi động, đèn áp suất, đèn nhấp nháy đều bật.”

Cô rẽ chiếc Lear vào đường băng cất cánh, chỉnh thẳng bánh xe dưới mũi máy bay, căn thẳng với đường kẻ chính giữa đường băng. Cô liếc nhìn la bàn. “Tất cả kim báo đều hiển thị hướng 05. Đường băng 05 bên trái. Tôi đang đặt mức năng lượng.”

Cô đẩy mạnh cần tăng ga về phía trước. Chiếc máy bay bắt đầu lao nhanh trên dải đường băng bê tông. Cô cảm thấy tay mình đang nắm chặt lấy cần tăng ga ngay dưới ghế.

“Mức năng lượng đã đặt xong.” Rồi Brad lại hô to, “Đã có tộc độ bay”, lúc này những chiếc kim chỉ tốc độ bay bắt đầu bật lên và tăng dần, 20 knot, 40 knot…

Cần tăng tốc đã gần chạm ngưỡng, chiếc máy bay lao vun vút về phía trước. Cô nghe thấy một tiếng “ối chà…” từ Roland Bell và cố nín cười.

50 knot, 60 knot, 70…

“80 knot”, Brad hô to, “kiểm tra chéo”.

“Đã kiểm tra”, cô trả lời sau khi đã liếc qua đồng hồ hiển thị tốc độ bay.

“Tốc độ 1”, Brad lại hô to. “Hoán đổi.”

Percey bỏ bàn tay phải ra khỏi cần tăng tốc và nắm lấy cần lái. Cho đến lúc đó vẫn còn đang rung bần bật, chiếc cần lái bằng nhựa cứng đột nhiên dừng phắt lại vì sức ép của không khí. Cô từ từ kéo cần lái về sau, nâng mũi chiếc Lear chếch lên trên tới độ nghiêng tiêu chuẩn 7,5 độ. Những động cơ vẫn tiếp tục gầm lên rất êm và cô lại kéo nhẹ cần lái thêm chút nữa, tăng độ chếch của mũi máy bay lên thành 10 độ.

“Tốc độ hữu dụng”, Brad thông báo.

“Tăng số. Nâng cánh đuôi. Dựng đuôi giữ thẳng hướng.”

Giọng của nhân viên Kiểm soát Không lưu vang lên qua tai nghe. “Lear 95 Foxtrot Bravo, rẽ trái theo hướng 280. Liên lạc với bộ phận Kiểm soát Máy bay đi.”

“280, Lear 95 Foxtrot Bravo. Xin cảm ơn.”

“Chúc buổi tối may mắn.”

Kéo cần lái thêm chút nữa, 11 độ, 12, 14… Để mức năng lượng ở điều kiện cất cánh, cao hơn mức bình thường, thêm vài phút. Nghe rõ âm thanh xoáy tít thật vui tai của những cánh quạt tua bin phía sau, luồng khí phản lực đẩy vùn vụt.

Và ở trong chiếc kim bạc thon thả này, Percey Clay cảm thấy mình đang lao vút lên giữa không trung, bỏ lại đằng sau tất cả những phiền muộn, nặng nề và đau đớn. Bỏ lại đằng sau cái chết của Ed và Brit, và thậm chí bỏ lại đằng sau kẻ khủng khiếp đó, con quỷ, tên Vũ công quan tài. Tất cả những nỗi đau, tất cả những gì mong manh, tất cả những gì xấu xa nhất đều bị quẳng lại tít dưới kia, và cô hoàn toàn tự do. Kể ra cũng không công bằng lắm khi cô có thể trốn thoát khỏi những gánh nặng nặng nề đó một cách dễ dàng như thế này, nhưng đó là sự thật. Vì người phi công Percey Clay đang ngồi trên ghế bên trái trong buống lái chiếc Lear N695FB không còn là Percey Clay – người phụ nữ lùn tịt với khuôn mặt ngắn bè bè, hay Percey Clay – cô gái chỉ có một điểm duy nhất hấp dẫn đàn ông là món tiền kếch sù từ kinh doanh thuốc lá của ông bố. Không còn Per-ceee Mặt chó pug, Percey Xấu xí, Percey Quỷ lùn, con bé tóc đen khốn khổ vật lộn với đôi găng tay điệu đàng trong buổi khiêu vũ mừng tuổi thiếu nữ của chính mình, trên cánh tay của người anh họ như chết rồi vì xấu hổ, xung quanh là những cô nàng tóc vàng yểu điệu đang hất đầu về phía cô với nụ cười thích thú và thi nhau chỉ trỏ chuẩn bị cho một bữa tiệc đàm tiếu sau này.

Đó không phải là Percey Clay thực sự.

Đây mới đúng là cô.

Lại một tiếng thở khó nhọc của Roland Bell. Chắc chắn anh đã nhòm trộm ra ngoài ra rèm cửa sổ trong lúc họ thực hiện cú nghiêng cánh đáng sợ.

“Đài Kiểm soát Rời đi[102] của Sân bay Mamaroneck, Lear 95 Foxtrot Bravo đang gọi từ độ cao ngoài 2000 feet.”

“Xin chào, 95 Foxtrot Bravo. Tiếp tục bay lên và duy trì ở độ cao 6000 feet.”

Và sau đó họ bắt đầu công việc rất nhàm chán là thiết lập đường liên lạc hoa tiêu bằng sóng VOR[103] cao tần để được hướng dẫn đường bay tới Chicago thẳng tắp như đường tên bay của một võ sĩ samurai.

Ở độ cao 6000 feet họ bay xuyên qua lớp mây bao phủ để hoà vào cảnh bầu trời kỳ vĩ như bất kỳ cảnh mặt trời lặn nào mà Percey từng chứng kiến. Mặc dù không hẳn là người yêu thích cuộc sống ngoài trời, cô vẫn chưa bao giờ thấy chán khi nhắm nhìn những khung cảnh bầu trời tuyệt đẹp. Percey tự cho phép mình chỉ nghĩ đến một cảm xúc ủy mị duy nhất – kể sẽ rất tốt nếu như khung cảnh cuối cùng mà Ed nhìn thấy cũng ngoạn mục như lúc này.

Chú thích

[102] Đài Kiểm soát Rời đi: Đài Kiểm soát không lưu ở sân bay vừa cất cánh.

[103] VOR: Tức sóng radio cao tần có tác dụng theo mọi hướng.

Ở độ cao 21000 feet cô nói, “Máy bay của cậu đấy”.

Brad trả lời, “Rất sẵn sàng”.

“Cà phê nhé?”

“Có một chút thì tốt.”

Cô bước về phía sau của chiếc máy bay, rót lấy ba cốc cà phê, chuyển một cốc cho Brad, rồi ngồi xuống bên cạnh Roland Bell, viên cảnh sát cầm lấy cốc cà phê trong hai bàn tay run rẩy.

“Anh cảm thấy thế nào?”, cô nói.

“Cũng không hẳn là tôi bị say máy bay. Chẳng qua là tôi thấy” – anh nhăn mặt khổ sở – “hừm, hồi hộp như thể…”. Có lẽ phải có đến cả nghìn cách so sánh sinh động kiểu Tarheel để lựa chọn, nhưng không hiểu sao lần này cái cách nói miền Nam dí dỏm cũng bỏ anh đi mất. “Chỉ là hồi hộp”, anh kết luận.

“Hãy nhìn kìa”, cô nói, và chỉ ra ngoài cửa sổ buồng lái.

Anh rướn người về phía trước trong ghế của mình và nhìn ra ngoài cửa kính. Cô thích thú nhìn khuôn mặt nhăn nhó của anh bỗng dãn ra sáng bừng vì kinh ngạc khi họ đang bay vào giữa khung cảnh hoàng hôn vô tận.

Bell trầm trồ. “Chà, tuyệt thật. Hãy nhìn mà xem… Nhưng cũng phải nói thật, hình như đó là một cú cất cánh hơi gấp gáp quá thì phải.”

“Nó là một con chim hết sảy đấy chứ. Anh có bao giờ nghe nói đến Brooke Knapp không?”

“Tôi không nghĩ là mình đã nghe rồi.”

“Một nữ doanh nhân ở California. Người lập kỷ lục về bay vòng quanh thế giới trong thời gian ngắn nhất bằng một chiếc Lear 35A – cũng là loại máy bay mà chúng ta đang bay lúc này. Bà ấy bay mất tất cả hơn 50 giờ một chút. Sẽ có ngày tôi phá kỷ lục đó.”

“Điều đó thì tôi không nghi ngờ.” Lúc này anh đã bình tĩnh hơn. Mắt hướng vào những thiết bị điều khiển. “Trông có vẻ phức tạp kinh khủng nhỉ?”

Cô nhấp một ngụm cà phê. “Có một mẹo nhỏ trong khi bay mà chúng tôi không nói cho ai biết. Có thể coi đó là một bí quyết nhà nghề. Nó đơn giản hơn rất nhiều so với những gì anh nghĩ đấy.”

“Như thế nào?”, anh sốt sắng hỏi. “Bí quyết đó là gì?”

“À, hãy nhìn ra ngoài nhé. Anh có nhìn thấy những ánh đèn màu ở hai đầu cánh máy bay không?”

Anh không muốn nhìn lắm, nhưng rồi cũng tò mò làm theo. “OK, tôi thấy rồi.”

“Có cả một cái đèn ở phần đuôi nữa.”

“Ừ hứ. Nhớ là tôi đã nhìn thấy nó rồi thì phải, tôi nghĩ thế.”

“Tất cả những gì chúng tôi phải làm là luôn đảm bảo làm sao chúng tôi có thể giữ cho máy bay ở giữa những chiếc đèn kia và mọi chuyện sẽ đâu vào đấy.”

“Ở giữa…” Phải mất vài giây anh mới chợt hiểu đó là một câu nói đùa. Anh chằm chằm nhìn bộ mặt tỉnh bơ của cô hồi lâu rồi mỉm cười. “Cô đánh lừa được khối người bằng trò này, đúng không?”

“Cũng kha khá.”

Nhưng trò đùa đó cũng không thực sự làm anh thấy thích thú hơn. Mắt anh vẫn dán chặt xuống lớp thảm trải sàn. Sau một hồi in lặng kéo dài cô khẽ nói, “Brit Hale hoàn toàn có thể từ chối ngay từ đầu, Roland ạ. Anh ấy hiểu rõ những nguy hiểm mà”.

“Không, anh ấy không biết”, Bell trả lời. “Hoàn toàn không. Anh ấy đồng ý làm theo những gì chúng tôi toan tính trong đầu mà không hoàn toàn hiểu rõ chuyện gì đang xảy ra. Lẽ ra tôi đã phải suy nghĩ khôn ngoan hơn. Lẽ ra tôi đã phải đoán ra chuyện liên quan đến những chiếc xe cứu hoả. Lẽ ra tôi đã phải đoán được rằng tên giết người sẽ biết phòng của hai người ở đâu. Lẽ ra tôi đã có thể đưa hai người xuống tầng hầm, hoặc nơi nào đó. Và lẽ ra tôi phải bắn chính xác hơn.”

Bell có vẻ tuyệt vọng đến nỗi Percey không nghĩ ra được điều gì để an ủi anh. Cô đặt bàn tay đầy gân của mình lên cánh tay anh. Trông anh có vẻ gầy, nhưng thực tế thì anh rất khoẻ mạnh.

Đột nhiên anh khẽ bật cười. “Cô có biết chuyện này không?”

“Chuyện gì?”

“Đây là lần đầu tiên tôi thấy cô tạm gọi là thoải mái nhất kể từ khi tôi gặp cô đến giờ.”

“Đây là nơi duy nhất tôi cảm thấy thực sự thoải mái như ở nhà”, cô nói.

“Chúng ta đang bay với vận tốc 200 dặm một giờ và cách mặt đất cả dặm vậy mà cô lại cảm thấy an toàn”, Bell thở dài.

“Không, chúng ta đang bay với vận tốc 400 dặm một giờ, ở độ cao bốn dặm.”

“Ra thế. Cảm ơn vì đã chia sẻ điều đó.”

“Có một câu mà cánh phi công vẫn nói”, Percey nói. ‘“Thánh Peter[104] không bao giờ đếm quãng thời gian cho việc bay, nhưng ông tính gấp đôi số giờ bạn dành ở trên mặt đất.”’

“Buồn cười đấy”, Bell nói. “Chú tôi cũng nói một câu tương tự như thế. Chỉ có điều ông dùng câu này khi nói về thú đi câu của mình thôi. Dù thế nào tôi cũng bỏ phiếu ủng hộ phiên bản của ông ấy hơn là cô. Đừng có tự ái đấy.”

Chú thích

[104] Thánh Peter: Được coi là người gác cổng vào thiên đường, và sẽ căn cứ vào những việc tốt hoặc tội lỗi của các linh hồn rồi đưa ra quyết định liệu họ có xứng đáng được sống ở thiên đường hay không.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


Giờ thứ 33 của 45

Lũ giòi…

Stephen Kall, mồ hôi đầm đìa, đứng trong một nhà vệ sinh hôi hám phía sau một nhà hàng bán đồ ăn Cuba và Trung Quốc.

Kỳ cọ để cứu rỗi linh hồn hắn.

Lũ giòi đang gặm nhấm, lũ giòi đang ăn rào rào, lũ giòi đang nhung nhúc bò đi…

Rửa sạch chúng đi… Rửa sạch chúng đi!!!

Quân nhân…

Thưa ngài, tôi đang bận, thưa ngài.

Quân…

Kỳ cọ, kỳ cọ, kỳ cọ, kỳ cọ.

Lincoln Con Giòi đang săn lùng tôi.

Chỉ cần Lincoln Con Giòi nhìn đến bất kỳ chỗ nào, là ở đó lũ giòi xuất hiện.

Cút đi!!!

Chiếc bàn chải cọ xoèn xoẹt, xoèn xoẹt, cần mẫn lên xuống cho đến khi da tay hắn chảy máu.

Quân nhân, vết máu kia sẽ là bằng chứng. Anh không thể…

Cút đi!!!

Hắn lau khô tay rồi chộp lấy chiếc hộp đàn guitar hiệu Fender cùng chiếc túi đựng sách, đẩy cửa quay trở vào nhà hàng.

Quân nhân, găng tay của anh…

Đám khách quen đang ăn giật mình nhìn hai bàn tay đầy máu cùng vẻ mặt như phát cuồng của hắn. “Giòi”, hắn làu bàu giải thích với cả nhà hàng, “lũ giòi khốn kiếp”, rồi đẩy tung cửa, lao ra ngoài đường phố.

Hối hả bước trên vỉa hè, dần bình tĩnh lại. Hắn đang nghĩ đến những điều hắn sẽ phải làm. Hắn phải giết Jodie, tất nhiên rồi. Phải giết gã, phải giết gã, phải giết gã, phải giết… Không phải bởi vì gã là một tên phản phúc, mà bởi vì hắn, Stephen Kall, đã để lộ quá nhiều thông tin…

Và tại thế quái nào mà anh lại làm như vậy hả, quân nhân?

… về chính mình cho gã đó. Và hắn cũng phải giết Lincoln Con Giòi vì… vì lũ giòi sẽ tóm được hắn nếu hắn không làm thế.

Phải giết phải giết phải giết phải giết phải…

Anh có nghe tôi nói không đấy, quân nhân? Có nghe không?

Đó là tất cả những gì còn lại mà hắn phải làm.

Sau đó hắn sẽ rời bỏ thành phố này. Quay về với vùng West Virginia. Về với những ngọn đồi.

Lincoln, chết.

Jodie, chết.

Phải giết phải giết phải giết phải giết phải…

Chẳng còn gì giữ hắn ở lại đây nữa cả.

Còn về Người vợ – hắn nhìn đồng hồ của mình. Vừa đúng bảy giờ tối. Hừ, có lẽ cô ta chết rồi cũng nên.

“Chống đạn đặc biệt đấy nhé.”

“Chống những viên đạn kia ấy à?”, Jodie hỏi. “Các ông chẳng bảo chúng nổ tung còn gì!”

Dellray bảo đảm với gã rằng chiếc áo sẽ chống được. Tấm áo giáp là một chiếc áo chống đạn Kevlar dày phủ bên ngoài một tấm thép khác. Nó nặng tới 42 pound và Rhyme không biết từng có cảnh sát nào trong cái thành phố này đã phải mặc một chiếc áo giáp chống đạn như thế hay chưa, hoặc liệu có bao giờ sẽ phải mặc.

“Nhưng nếu hắn bắn vào đầu tôi thì sao?”

“Hắn còn muốn giết tôi nhiều hơn là muốn giết anh ấy chứ”, Rhyme nói.

“Hơn nữa làm thế nào hắn có thể biết là tôi đang ở đây?”

“Theo mày thì làm cách nào hả, đồ ngốc?”, Dellray quát. “Tao sẽ nói cho hắn biết.”

Viên đặc vụ cột chặt chiếc áo giáp chống đạn quanh người gã đàn ông nhỏ bé và liệng cho gã một chiếc áo gió. Hắn đã tắm rửa – sau khi phản đối dữ dội – và được đưa cho thay một bộ quần áo sạch sẽ. Chiếc áo khoác màu xanh hải quân rộng thùng thình, phủ bên ngoài chiếc áo chống đạn, trông có vẻ thiếu cân xứng nhưng lại giúp gã có được dáng vẻ vạm vỡ và cơ bắp. Gã thoáng ngắm nhìn chính mình trong gương – chính con người gã sau khi đã tắm rửa sạch sẽ và diện quần áo mới – rồi mỉm cười lần đầu tiên kể từ khi gã tới đây.

“Được rồi”, Sellitto nói với hai nhân viên cảnh sát mật, “đưa hắn vào khu trung tâm”.

Hai người cảnh sát mật đẩy gã ra cửa.

Sau khi gã đã đi khỏi, Dellray đưa mắt nhìn Rhyme, anh gật đầu. Viên đặc vụ thở dài rồi mở điện thoại di động của mình ra, bấm số và gọi tới Hudson Air Charters, nơi đã có sẵn một đặc vụ khác chờ để nhấc điện thoại lên. Nhóm nhân viên kỹ thuật của FBI đã tìm thấy thiết bị nghe trộm điều khiển từ xa gắn trên hộp tiếp âm gần sân bay, được nối vào đường dây điện thoại của Hudson Air. Mặc dù vậy các đặc vụ này không tháo nó đi; trên thực tế, theo đề nghị rất kiên quyết của Rhyme, họ còn kiểm tra thật kỹ để bảo đảm rằng nó vẫn còn hoạt động tốt, và thậm chí đã thay mới những viên pin sắp hết. Nhà hình sự học đang trông cậy vào thiết bị này để chuẩn bị cho cái bẫy mới của mình.

Vọng ra từ loa ngoài là một vài hồi chuông, và rồi một tiếng cạch nhẹ nhàng.

“Đặc vụ Mondale xin nghe”, một giọng trầm trầm vâng lên. Mondale không phải là Mondale và anh ta đang nói theo một kịch bản được chuẩn bị sẵn.

“Mondale”, Dellray nói, giọng giả bộ giống một người da trắng như hoa bách hợp[105], thậm chí còn là người sinh trưởng từ một điền trang ở Connecticut hẳn hoi. “Đặc vụ Wilson đây, chúng tôi đang ở chỗ Lincoln.” (Không phải là “chỗ Rhyme”; vì tên Vũ công chỉ biết tên anh là “Lincoln”.)

“Tình hình ở sân bay thế nào rồi?”

“Vẫn ổn cả.”

“Tốt. Nghe cho rõ này, tôi có một câu hỏi. Chúng tôi có một cơ sở mật đang làm việc cho chúng ta, Joe D’Oforio.”

“Hắn chính là kẻ…”

“Đúng rồi.”

“… đã ra đầu thú. Các anh đang làm việc với hắn ta à?”

“Ừ”, Wilson, đúng ra là Fred Dellray, nói. “Kể ra cũng là một tên khốn khiếp, nhưng giờ thì hắn đang chịu hợp tác rồi. Chúng tôi đang định đưa hắn đến nơi trú ẩn cũ của hắn rồi quay lại đây.”

“Đây là chỗ nào chứ? Ý anh là quay lại chỗ Lincoln à?”

“Đúng thế. Hắn muốn lấy ít đồ của mình.”

“Các anh việc quái gì phải chiều ý hắn?”

“Hắn đã có thoả thuận hợp tác với chúng ta. Hắn chịu khai ra tên giết người này và Lincoln đã đồng ý để đưa hắn về chỗ cũ lấy một số đồ đạc. Ở cái ga tàu điện ngầm cũ ấy… Vả lại chúng tôi không định bố trí cả đoàn xe. Chỉ đúng một chiếc xe thôi. Lý do tôi gọi cho anh là chúng tôi cần một tài xế giỏi. Anh từng làm việc với một vài người mà anh thích, đúng không?”

“Tài xế à?”

“Trong vụ Gambino ấy?”

“À, được rồi… Để tôi nghĩ xem nào.”

Họ nhẩn nha kéo dài thời gian chờ đợi. Rhyme, như mọi khi, rất lấy làm ấn tượng với màn sắm vai của Dellray. Một khi đã muốn trở thành bất kỳ ai, viên đặc vụ đều làm được.

Tay đặc vụ Mondale dởm – bản thân anh chàng này cũng xứng đáng với giải diễn viên phụ xuất sắc nhất – nói,” Tôi nhớ ra rồi. Tony Glidden. Không, Tommy chứ. Một gã tóc vàng, phải không?”.

“Chính là anh ta đấy. Tôi muốn sử dụng anh ta. Anh ta có ở gần đây không?”

“Không. Anh ta đang ở Phillie[106] rồi. Tình hình trộm cướp xe ở đó đang rất bung bét.”

“Phillie à. Tệ thật. Chúng tôi sẽ khởi hành sau hai mươi phút nữa. Không thể đợi thêm nữa. Hừm, nếu vậy tôi đành phải tự lái xe thôi. Nhưng cái gã Tommy đó. Anh ta…”

“Lái xe cứ gọi là chết thôi! Anh ta có thể cắt đuôi chỉ sau hai khối nhà. Một anh chàng đáng sợ.”

“Thế mà lần này không dùng anh ta được. Dù sao cũng cảm ơn nhé, Mondale.”

“Không sao.”

Rhyme nháy mắt, đối với một người liệt tứ chi bất toại thì đó là cử chỉ tương đương với hành động vỗ tay khen ngợi. Dellray tắt máy và từ từ thở ra một hơi rất dài. “Chúng ta sẽ biết. Chúng ta sẽ biết thôi.”

Sellitto thốt lên đầy lạc quan, “Đây là lần thứ ba chúng ta nhử mồi hắn. Lần này chắc chắn sẽ được thôi”.

Lincoln Rhyme không hề tin rằng đây là một quy luật tất yếu trong ngành thực thi luật pháp, nhưng anh cũng nói, “Hãy hy vọng đi”.

Chú thích

[105] Nguyên văn là “lily-white”: Chỉ một người da trắng chủ trương phân biệt chủng tộc, loại người da đen ra khỏi đời sống chính trị.

[106] Phillie: Cách gọi khác của thành phố Philadelphia, bang Pennsylvania (Mỹ).

Ngồi trong một chiếc xe ăn trộm cách không xa nhà ga tàu điện ngầm của Jodie, Stephen Kall chăm chú theo dõi một chiếc xe bốn chỗ ngồi mang biển số chính phủ vừa trờ tới.

Jodie và hai cảnh sát mặc sắc phục bước xuống, cảnh giác lia mắt qua các mái nhà xung quanh. Jodie chạy vào trong và năm phút sau, thoát trở lại ra xe cùng với hai gói đồ được cắp dưới nách.

Stephen có thể thấy là không có lực lượng yểm trợ, không có xe bám đuôi. Nghĩa là những gì hắn nghe được qua máy nghe trộm là chính xác. Họ đã hoà vào dòng xe trên đường và hắn bắt đầu bám theo, trong đầu tự nhủ trên thế giới này không có nơi nào giống như Manhattan để có thể bám theo mà không bị phát hiện. Giá kể như ở Iowa hay Virginia chắc chắn hắn sẽ không thể làm được như thế này.

Chiếc xe không mang dấu hiệu của cảnh sát lao đi rất nhanh, nhưng Stephen cũng là một lái xe rất cứng và hắn bám theo rất sát trong khi chiếc xe kia chạy một mạch về phía khu Hạ Manhattan. Chiếc sedan bốn chỗ chạy chậm lại khi họ tới cổng phía tây của Công viên Trung tâm và lái qua một ngôi nhà trên phố Bảy mươi. Có hai người đàn ông đứng gác trước cửa nhà, rõ ràng cả hai đều là cảnh sát cho dù bọn họ đang mặc thường phục. Một dấu hiệu – có lẽ là “Tất cả vẫn an toàn” – được trao đổi rất nhanh giữa họ và tay lái xe của chiếc sedan không dấu hiệu.

Ra là thế. Đó là nhà của Lincoln Con Giòi.

Chiếc xe chạy tiếp về phía bắc. Stephen cũng chạy lòng vòng thêm một chút, rồi đột ngột dừng xe và bước xuống, lao nhanh vào giữa những rặng cây với chiếc hộp đàn guitar. Hắn biết chắc chắn xung quanh ngôi nhà sẽ có người theo dõi cẩn mật nên hắn di chuyển rất khẽ khàng.

Giống như một con hươu, quân nhân.

Vâng, thưa ngài.

Hắn biến mất vào trong một bụi cây rậm rạp rồi bò quay trở lại phía ngôi nhà, hắn tìm được một cái tổ rất lý tưởng trên một gờ tường đá bên dưới một cây tử đinh hương đang bắt đầu đâm chồi. Hắn mở hộp đàn ra. Chiếc xe chở Jodie, lúc này đang quay lại phía nam, dừng kít lại ngay trước ngôi nhà. Quy trình lái xe cắt đuôi tiêu chuẩn, Stephen nhận ra ngay – chiếc xe đã quay ngoắt 360 độ giữa dòng xe đông đúc và lao nhanh về đây.

Hắn đang theo dõi hai cảnh sát bước ra khỏi chiếc sedan, quan sát xung quanh, rồi kẹp hai bên gã Jodie đang có vẻ rất sợ hãi bước dọc trên vỉa hè.

Stephen bật mở nắp của chiếc kính ngắm và thận trọng ngắm rất chuẩn vào giữa lưng tên phản bội.

Bất thình lình một chiếc xe màu đen lao vụt qua và Jodie giật bắn mình. Mắt gã mở trợn trừng và gã giật ra khỏi những người cảnh sát, chạy tọt vào con hẻm ngay bên cạnh ngôi nhà.

Những người đi hộ tống gã quay ngoắt lại, tay lăm lăm trên báng súng, mắt dán chặt vào chiếc xe đã làm hắn hoảng hốt. Họ nhìn thấy bốn cô gái Latin ngồi trong xe và nhận ra đó chỉ là một lần báo động giả. Hai tay cảnh sát phá lên cười. Một trong hai người hắng giọng gọi Jodie chui ra.

Nhưng thật ra ngay lúc này đây Stephen không mấy quan tâm đến người đàn ông nhỏ bé. Hắn không thể nào giết được Con Giòi và Jodie cùng một lúc, và Lincoln là kẻ hắn phải giết ngay lúc này. Hắn có thể cảm thấy điều đó. Đó là một cơn đói cồn cào, một nhu cầu thôi thúc và giục giã như mỗi khi hắn thấy cần phải kỳ cọ hai bàn tay.

Phải bắn vào khuôn mặt trên khung cửa sổ, giết chết con giòi.

Phải giết phải giết phải giết phải giết…

Hắn đang nhìn qua kính ngắm, lia qua những ô cửa sổ của ngôi nhà. Và nó kia rồi. Lincoln Con Giòi.

Một cơn run rẩy chạy khắp cơ thể Stephen.

Giống như luồng điện hắn cảm thấy khi chân hắn cọ vào chân của Jodie… chỉ có điều mạnh hơn cả nghìn lần. Hắn thực sự há hốc mồm, không thở nổi vì phấn khích.

Vì lý do nào đó Stephen không hề thấy mảy may ngạc nhiên khi nhận ra Con Giòi là một kẻ tàn phế. Thực tế, đó chính là nguyên nhân tại sao hắn biết ngay người đàn ông đẹp trai ngồi trong chiếc xe lăn hiện đại kia chính là Lincoln. Bởi vì Stephen tin rằng phải cần đến một người phi thường mới có thể bắt được hắn. Một kẻ nào đó không bị sao nhãng bởi đời sống thường nhật. Một kẻ nào đó mà ý nghĩ là tất cả những gì tinh tuý nhất còn lại của hắn.

Lũ giòi có thể nhung nhúc bò khắp người Lincoln nhưng nó thậm chí không bao giờ có thể cảm thấy chúng. Chúng có thể bò lồm ngồm trên da thịt nó và nó sẽ không bao giờ biết. Nó hoàn toàn miễn nhiễm. Và Stephen càng căm thù Lincoln Con Giòi hơn bao giờ hết chỉ vì sự miễn nhiễm đó.

Vậy là khuôn mặt trên khung cửa sổ trong cái lần hắn thực hiện phi vụ ở Washington D.C.,… đó không phải là Lincoln.

Hay đúng là nó?

Hãy thôi nghĩ về điều đó! Chấm dứt ngay! Lũ giòi sẽ thịt mày nếu mày không thôi nghĩ đi.

Những viên đạn xuyên nổ đang ở trong băng. Hắn kéo chốt khoá đẩy cho một viên lên nòng và lại rà qua căn phòng.

Lincoln Con Giòi đang nói với ai đó mà Stephen không nhìn thấy mặt. Căn phòng, ở dưới tầng một, có vẻ như là một phòng thí nghiệm. Hắn nhìn thấy một màn hình máy tính và một số thiết bị khác.

Stephen quấn dây đeo súng quanh cánh tay, áp chặt như hàn cố định báng khẩu súng trường vào má. Đó là một buổi tối ẩm ướt và se lạnh. Không khí đặc quánh; sẽ gây cản trở rất nhiều đến đường đi của viên đạn. Nhưng cũng không cần thiết phải tính toán lại; mục tiêu chỉ cách hắn có 80 thước. Bật khoá an toàn xuống, hít, thở, hít, thở…

Nhắm bắn vào đầu. Bắn từ đây sẽ cực kỳ dễ dàng.

Hít…

Vào, thở ra, hít vào, thở ra.

Hắn nhìn qua dấu chữ thập trong kính ngắm, tập trung nó vào vành tai Lincoln Con Giòi khi mục tiêu đang chăm chú quan sát trên màn hình máy tính.

Áp lực trên tay cò bắt đầu tăng dần.

Hít, thở. Như tình dục, như lúc sắp lên đến đỉnh, như khi chạm vào làn da căng mịn…

Mạnh hơn.

Mạnh hơn…

Đột nhiên Stephen nhìn thấy nó.

Rất khó nhận ra – một nét không bằng phẳng trên ống tay áo của Lincoln Con Giòi. Nhưng không phải một vết nhăn. Đó là một hình ảnh bị biến dạng.

Hắn thả lỏng tay cò và chăm chú nhìn hình ảnh đó qua kính ngắm một lúc khá lâu. Stephen vặn núm điều chỉnh độ phân giải của chiếc kính ngắm Redfield thêm chút nữa. Hắn nhìn những dòng hiển thị trên màn hình máy tính. Những con chữ bị đảo ngược.

Một tấm gương! Hắn đang ngắm vào một tấm gương.

Lại một cái bẫy khác!

Stephen nhắm mắt lại. Suýt chút nữa hắn đã để lộ vị trí. Lại thấy rùng mình. Ngập ngụa giữa lũ giòi, chết nghẹt giữa lũ giòi. Hắn nhìn xung quanh. Hắn biết chắc chắn phải có đến cả tá cảnh sát vũ trang kiểm tra và trinh sát được bố trí trong công viên với những chiếc mic Big Ears tự động đang chờ đợi định vị phát súng được bắn ra. Chúng sẽ ngắm vào hắn bằng những khẩu M-16 lắp kính ngắm Starlight và đóng đinh hắn xuống đắt bằng lưới đạn bắn chéo cánh sẻ.

Được bật đèn xanh để giết. Không chấp nhận sự đầu hàng.

Rất khẩn trương nhưng với sự im lặng tuyệt đối, hắn tháo chiếc kính ngắm ra bằng hai bàn tay run lẩy bẩy rồi cất cả nó và khẩu súng trường vào hộp đàn guitar. Cố kiềm chế cảm giác buồn nôn chếnh choáng, nỗi kinh hoàng nhớp nháp.

Quân nhân…

Thưa ngài, hãy cút đi, thưa ngài.

Quân nhân, anh đang làm…

Thưa ngài, biến mẹ ngài đi cho, thưa ngài!

Stephen len lỏi giữa những gốc cây tới một lối đi và lững thững rảo bước vòng quanh bãi cỏ, hướng về phía đông.

Ồ, chắc chắn rồi, lúc này hắn lại càng tin tưởng hơn bất kỳ lúc nào khác rằng hắn phải giết Lincoln. Một kế hoạch mới. Hắn cần một hay hai tiếng đồng hồ, để suy nghĩ, để cân nhắc những gì hắn sẽ phải làm.

Đột nhiên hắn bước khỏi lối đi, dừng lại trong những bụi cây rậm rạp hồi lâu, nghe ngóng, quan sát xung quanh. Bọn chúng đã lo lắng sợ hắn sẽ nghi ngờ nếu thấy công viên vắng tanh, vì thế chúng đã không cho đóng những cổng ra vào.

Đó chính là sai lầm của chúng.

Stephen nhìn thấy một nhóm đàn ông tầm tuổi hắn – toàn dân trí thức thời thượng[107], căn cứ theo vẻ bề ngoài của họ, tất cả đều mặc quần áo thể thao hoặc đồ chạy bộ. Họ đang xách theo những chiếc túi đựng vợt cùng với ba lô và hướng về phía khu Upper East Side, vừa đi vừa cười nói rôm rả. Tóc của cả nhóm đều còn lấp lánh ướt sau khi tắm gội ở một câu lạc bộ thể thao gần đó.

Stephen chờ đến đúng khi họ vừa mới đi qua chỗ hắn nấp, rồi vội bám luôn phía sau họ, như thể hắn là một thành viên trong nhóm. Không quên toét miệng mỉm cười với một người trong bọn. Rảo bước rất mạnh mẽ và tự tin, tay vung vẩy chiếc hộp đàn guitar đầy vui vẻ, hắn đi theo mọi người tới đường hầm dẫn sang khu East Side.

Chú thích

[107] Nguyên văn là “yuppie”: Từ lóng chỉ những thanh niên thành phố được học hành chu đáo, thu nhập cao, tính cách thực dụng và hợm hĩnh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


Giờ thứ 34 của 45

Ánh hoàng hôn chạng vạng phủ quanh họ.

Percey Clay, một lần nữa lại ngồi trong ghế bên trái của chiếc Learjet, nhận ra quầng sáng phía trước họ chính là Chicago.

Trung tâm Chicago yêu cầu họ hạ dần xuống độ cao 12000 feet.

“Đang bắt đầu hạ độ cao”, cô thông báo, từ từ kéo lùi cần tăng ga xuống. “ATIS”

Brad chuyển radio của mình sang chế độ ATIS và đọc to thành lời những gì anh đang nghe thấy từ giọng nói được ghi ân lại. “Thông tin Chicago, Whiskey[108]. Rõ ràng và ổn định. Tốc độ gió 25 dặm hướng ba. Nhiệt độ 95 độ F. Cao kế chỉ 37,1.”

Brad đặt mức cao kế đúng như Percey nói trong mic của cô, “Đài Kiểm soát Tiếp cận[109] Chicago, đây là Learjet 95 Foxtrot Bravo. Đang tiến về phía sân bay từ độ cao 12000 feet. Hướng 280.”

“Xin chào, Foxtrot Bravo. Hạ thấp xuống và duy trì ở độ cao 10000 feet. Chuẩn bị cho hướng đường băng 27 bên phải.”

“Nghe rõ. Hạ thấp và duy trì độ cao 10000. Hướng đường băng 27 bên phải. 695 Foxtrot Bravo.”

Percey cố tình không liếc nhìn xuống dưới. Đâu đó bên dưới và phía trước họ lúc này là nấm mồ của chồng cô cùng chiếc máy bay của anh. Cô không biết liệu hôm đó anh có được chỉ thị hạ cánh xuống đường băng 27 bên phải của sân bay O’Hare không, nhưng nhiều khả năng là có và, nếu vậy thì, có lẽ Đài Kiểm soát Không lưu sân bay chắc hẳn đã hướng dẫn cho Ed đi qua đúng phần không phận mà lúc này cô đang bay xuyên qua.

Có lẽ khi đó anh đã bắt đầu gọi điện cho cô, ngay ở chỗ này đây…

Không! Không được nghĩ đến chuyện đó, cô ra lệnh cho chính mình. Hãy tập trung vào chiếc máy bay.

Bằng một giọng trầm trầm và bình tĩnh, cô nói, “Brad, sau đây chúng ta sẽ tiếp cận hạ cánh bằng mắt[110] xuống đường băng 27 bên phải. Hãy theo dõi quá trình tiếp cận và thông báo tất cả các độ cao theo phân công. Khi chúng ta đến giai đoạn tiếp cận chót xin hãy giám sát tốc độ bay, độ cao, và tốc độ rơi của máy bay. Hãy cảnh báo cho tôi ngay nếu tốc độ rơi của máy bay lớn hơn 1000 feet một phút. Vòng lượn trước khi hạ cánh xuống sân bay ở mức 92%.”

“Đã rõ.”

“Nâng cánh tà lên 10 độ.”

“Nâng cánh tà, 10 độ, 10, đèn xanh.”

Tín hiệu radio vang lên, “Lear 695 Foxtrot Bravo, rẽ trái hướng 240, hạ thấp, và duy trì ở độ cao 4000 feet”.

“695 Foxtrot Bravo, đang rời khỏi độ cao 10000 xuống 4000. Giữ hướng 240.”

Cô nhẹ nhàng kéo ga về thêm chút nữa và chiếc máy bay khẽ rùng rùng rồi êm dần, âm thanh điếc tai của những động cơ cũng dịu đi, và cô có thể nghe thấy tiếng không khí rít ù ù như một lời thì thầm của gió lướt qua mặt tấm khăn trải giường kê cạnh một cửa sổ để ngỏ giữa trời đêm.

Percey hét to để nói với Bell, “Anh sắp sửa có chuyến hạ cánh đầu tiên của mình trong một chiếc Lear. Chúng ta hãy xem liệu tôi có thể cho nó hạ xuống đường băng mà không làm sánh cà phê của anh hay không nhé!”.

“Tất cả những gì tôi yêu cầu lúc này là được lành lặn thôi”, Bell nói và cột chặt thắt lưng an toàn của mình như thể đang thắt một bộ dây đai bungee[111].

“Chẳng thấy gì, Rhyme ạ.”

Nhà hình sự học nhắm chặt mắt lại vì căm giận. “Tôi không thể nào tin nổi. Thật không thể nào tin nổi.”

“Hắn biến mất rồi. Hắn đã ở đó, họ chắc chắn thế mà. Vậy mà những chiếc mic kia không hề phát hiện được tiếng động nào.”

Rhyme ngẩng lên nhìn tấm gương lớn mà anh đã ra lệnh cho Thom dựng lên phía bên kia phòng. Họ đã chờ đợi những viên đạn nổ sẽ xuyên thẳng vào đó. Công viên Trung tâm đông đặc những đội viên chiến thuật của Haumann và Dellray, tất cả chỉ chờ đợi một phát súng.

“Jodie đâu rồi?”, Rhyme hỏi.

Dellray cười khẩy. “Đang trốn trong hẻm. Hắn nhìn thấy một chiếc xe chạy qua và thế là thần hồn nát thần tính.”

“Chiếc xe nào?”

Viên đặc vụ phá lên cười. “Nếu như đó đúng là tên Vũ công, thì hắn đã úm ba la biến thành bốn cô nàng Puerto Rico béo ục ịch. Tên khốn kiếp đó nói hắn sẽ không chịu ra ngoài chừng nào chưa có người tắt chiếc đèn đường lắp trước cửa nhà anh.”

“Kệ xác hắn. Hắn sẽ tự mò về khi hắn sắp chết rét cho mà xem.”

“Hoặc là để lấy tiền của mình”, Sachs nhắc nhở.

Rhyme chau mày. Anh thấy thất vọng đến cay đắng vì cái bẫy lần này cũng không ăn thua.

Chẳng lẽ là do anh có gì đó sơ suất? Hay là do tên Vũ công kia có bản năng siêu nhiên của ma quỷ? Một kiểu giác quan thứ sáu? Ý nghĩ đó nghe thật vô lý đối với Lincoln Rhyme, nhà khoa học, nhưng anh không sao rũ sạch được nó ra khỏi đầu mình. Xét cho cùng, nhiều khi chính NYPD cũng phải nhờ đến sự giúp đỡ của các nhà ngoại cảm.

Chú thích

[108] Whiskey: Mật ngữ chỉ chữ “W” trong quy ước vô tuyến điện quốc tế, trong trường hợp này có nghĩa là “hướng tây”.

[109] Đài Kiểm soát Tiếp cận: Trung tâm Kiểm soát Không lưu ở sân bay nơi máy bay đến.

[110] Hạ cánh bằng mắt: Tức là máy bay hạ cánh dưới sự điều khiển bằng mắt thường của phi công do điều kiện thời tiết cho phép, không dùng chế độ hạ cánh tự động.

[111] Dây đai Bungee: Một loại dây thừng đàn hồi, dùng trong môn nhảy bungee, một trò thể thao mạo hiểm - nhảy từ trên cao xuống với một sợi dây đàn hồi buộc vào người.

Sachs dợm bước về phía cửa sổ.

“Không”, Rhyme vội nhắc cô. “Chúng ra vẫn không biết chắc là hắn đã đi thật hay chưa.” Sellitto cũng đứng tránh ra khỏi ô cửa kính sau khi đã kéo kín rèm lại.

Thật trớ trêu, ý nghĩ không biết chính xác lúc này tên Vũ công đang ở đâu còn đáng sợ gấp bội phần ý nghĩ hắn đang chĩa một khẩu súng bắn tỉa to đùng qua ô cửa sổ cách đó có 20 feet.

Đúng lúc đó điện thoại của Cooper chợt đổ chuông. Anh nghe máy.

“Lincoln, đó là điện thoại của mấy tay chuyên gia bom mìn ở FBI. Họ đã kiểm tra ERC. Họ cho biết có thể họ đang có một mẫu trùng khớp với những mẩu cao su latex kia.”

“Họ bảo thế nào?”

Cooper chăm chú lắng nghe người đặc vụ ở đầu dây bên kia một lúc.

“Không có đầu mối nào về tên và nguồn gốc của loại cao su kia, nhưng họ cho biết nó không có gì là mâu thuẫn với một loại vật liệu được sử dụng trong những kíp nổ theo độ cao. Có một quả bóng bay cao su được bơm đầy không khí. Nó phình căng ra khi máy bay lên cao vì càng lên cao thì áp suất càng giảm, và đến một độ cao nhất định quả bóng bay sẽ ấn vào một công tắc ở bên thành ngoài của quả bom. Sự tiếp xúc được hoàn tất. Quả bom sẽ phát nổ.”

“Nhưng quả bom này được kích nổ bằng đồng hồ hẹn giờ mà.”

“Họ chỉ đang cho tôi biết những gì liên quan đến chất cao su kia thôi.”

Rhyme chằm chằm nhìn những túi nhựa đựng các thành phần của quả bom. Mắt anh dán chặt vào thiết bị hẹn giờ và tự hỏi: Tại sao nó vẫn còn giữ được hình dáng gần như nguyên vẹn thế kia nhỉ?

Bởi vì nó đã được gắn ở phía sau mảnh thép nhô ra ngoài.

Nhưng tên Vũ công hoàn toàn có thể gắn nó ở bất kỳ đâu, ví dụ như ấn thẳng nó vào giữa khối thuốc nổ dẻo chẳng hạn, như thế sẽ khiến chiếc đồng hồ nổ tan tành thành những mảnh vụn li ti. Lúc đầu anh chỉ nghĩ hắn đã cẩu thả khi để chiếc đồng hồ còn nguyên vẹn như thế này. Nhưng giờ thì anh bắt đầu băn khoăn.

“Cho họ biết là máy bay phát nổ khi nó đang hạ thấp”, Sachs vội nói.

Cooper nói lại lời nhận xét đó, rồi lắng nghe. Sau đó anh báo cáo lại, “Anh ta cho biết đây cũng chỉ là một biến thể về thời điểm kết nối mạch thôi. Khi máy bay lên cao, quả bóng bay căng hơi sẽ đẩy công tắc đặt quả bom vào trạng thái sẵn sàng; khi máy bay hạ thấp độ cao, quả bóng bay sẽ bị xẹp lại và đóng mạch. Và thế là quả bom bị kích nổ.”

Rhyme thì thào, “Đồng hồ hẹn giờ là đồ giả! Hắn cố tình gắn nó đằng sau mảnh thép để nó không bị phá huỷ sau vụ nổ. Để chúng ta sẽ tưởng rằng đó là một quả bom hẹn giờ, không phải bom độ cao. Máy bay của Carney ở độ cao bao nhiêu thì có thể phát nổ?”.

Sellitto lục lọi rất khẩn trương qua báo cáo của NTSB. “Khi nó vừa mới xuống đến độ cao 5000 feet.”

“Vậy là nó được kích hoạt khi họ lên quá độ cao 5000 feet lúc vừa ra khỏi sân bay Mamaroneck và phát nổ khi máy bay bắt đầu xuống thấp gần Chicago”, Rhyme nói.

“Tại sao lại khi hạ cánh?” Viên thám tử hỏi.

“Để khi đó máy bay sẽ ở rất xa rồi chăng?” Sachs đề xuất.

“Chính xác”, Rhyme đồng tình. “Như thế tên Vũ công sẽ có nhiều cơ hội hơn để tẩu thoát khỏi sân bay trước khi chiếc máy bay phát nổ.”

“Nhưng”, Cooper nói, “tại sao hắn lại phải mất công đánh lừa để chúng ta tin rằng đó là loại bom này thay vì một loại bom khác?”.

Rhyme nhận thấy Sachs cũng vừa đoán ra toàn bộ sự thật nhanh không kém gì anh. “Ôi, không!” Cô thốt lên.

Sellitto vẫn chưa hiểu có chuyện gì. “Sao thế?”

“Bởi vì”, cô giải thích, “tối nay khi kiểm tra máy bay của Percey, đội rà phá bom mìn chỉ tập trung tìm kiếm một quả bom hẹn giờ. Họ sử dụng thiết bị phát hiện âm thanh của đồng hồ hẹn giờ.”

“Điều đó có nghĩa là”, Rhyme choáng váng, “trên máy bay của Percey và Bell cũng đang có một quả bom độ cao nữa!”.

“Tốc độ rơi 1200 feet một phút”, Brad báo cáo.

Percey khẽ kéo nhẹ cần lái của chiếc Lear về phía sau một chút, điều chỉnh cho tốc độ rơi của máy bay chậm lại. Họ đi qua độ cao 5500 feet.

Rồi bất thình lình cô nghe thấy nó!

Một tiếng tít tít khe khẽ rất lạ tai. Cô chưa bao giờ nghe thấy bất kỳ âm thanh nào giống thế, ít nhất thì cũng không phải trong một chiếc Lear 35A. Nghe giống như tiếng chuông cảnh báo nào đó, nhưng vẳng đến từ rất xa. Percey lia mắt qua bảng điều khiển nhưng không thấy đèn đỏ nào hiển thị. Lại có tiếng tít tít rít lên.

“Độ cao 5500 feet”, Brad hô to. “Tiếng động gì vậy nhỉ?”

Bỗng nhiên nó im bặt.

Percey nhún vai.

Một giây sau, cô nghe thấy một giọng nói đang quát lên sau lưng mình, “Bay lên ngay! Lên cao hơn! Ngay lập tức!”

Hơi thở nóng rực của Roland Bell phả vào mặt cô. Anh đang đứng ngay cạnh Percey, người cúi lom khom, tay huơ huơ chiếc điện thoại di động của mình.

“Sao cơ?”

“Có bom trên máy bay! Một quả bom độ cao. Nó phát nổ khi chúng ta chạm mức 5000 feet”.

“Nhưng chúng ra đang ở trên…”

“Tôi biết! Bay lên! Lên cao!”

Percey hét to, “Tăng mức năng lượng, 98%. Thông báo độ cao”.

Không chần chừ lấy một giây, Brad đẩy mạnh cần ga về phía trước. Percey kéo chiếc Lear chếch mũi lên một góc mười độ. Bell loạng choạng đổ người về phía sau và ngã xuống sàn máy bay.

Brad thông báo, “5200, 5150… 5200, 5300, 5400… 5800, 6000 feet”.

Suốt bao năm trong sự nghiệp bay của mình, Percey chưa bao giờ phải phát đi tín hiệu cấp cứu. Có đúng một lần cô phải phát thông báo “pan-pan” – tức là một tình huống khá căng thẳng – khi một đàn bồ nông xấu số quyết định tự sát bằng cách lao vào động cơ số hai của cô và chẹn mất ống dẫn áp suất khởi động. Nhưng giờ đây, lần đầu tiên trong sự nghiệp của mình, cô phải thốt lên, “May-day[112], may-day, Lear 695 Foxtrot Bravo.”

“Thông báo đi, Foxtrot Bravo.”

“Chúng tôi cần trợ giúp, Trung tâm Kiểm soát Tiếp cận Chicago. Chúng tôi nhận được thông báo có bom trên máy bay. Cần được lên độ cao 10000 feet ngay lập tức và chỉ dẫn sang chế độ bay chờ trên một khu vực không có dân cư.”

“Đã nghe rõ, 695 Foxtrot Bravo”, nhân viên Kiểm soát Không lưu bình tĩnh nói. “Hừm, duy trì nguyên hướng 240 hiện tại. Được phép lên độ cao 10000 feet. Chúng tôi đang tiến hành cho sơ tán tất cả những máy bay quanh các bạn… Chuyển mã tách sóng radio riêng sang tần số 7700 và quác quác.”

Brad căng thẳng liếc nhìn Percey rồi bắt tay vào chuyển thông số tách sóng vô tuyến – chuyển sang mã tự động phát tín hiệu cảnh báo đến tất cả các trạm radar trong khu vực rằng Foxtrot Bravo đang gặp nguy hiểm. Quác quác là một thuật ngữ lóng chỉ việc phát ra tín hiệu từ bộ tách sóng để tất cả mọi người ở Đài Kiểm soát Không lưu và các máy bay khác biết chính xác đâu là thông báo của riêng chiếc Lear phát ra.

Cô nghe thấy Bell đang nói vào điện thoại, “Người duy nhất đến gần máy bay, trừ tôi và Percey ra, là tay giám đốc điều hành, Ron Talbot – và dù không có gì là ác cảm với ông ta nhưng chính tôi và những cậu bé của mình đã theo dõi ông ta như một con cú rình mồi trong khi ông ta làm việc, lúc nào chúng tôi cũng đứng ngay sau lưng ông ta. À, còn một tay cung cấp phụ tùng hàng không vùng Đông Bắc ở Grenwich. Nhưng tôi cũng đã kiểm tra anh ta rất kỹ càng. Thậm chí tôi còn lấy số điện thoại nhà của anh ta và gọi cho vợ anh ta, nghe họ nói chuyện với nhau – để bảo đảm anh ta đúng là người của công ty cử đến”. Bell chăm chú nghe một lúc rồi tắt máy. “Họ sẽ gọi lại cho chúng ta.”

Percey liếc sang nhìn Brad rồi lại nhìn Bell, và quay lại với nhiệm vụ điều khiển chiếc máy bay của mình.

“Nhiên liệu thế nào?”, cô hỏi người phi công phụ. “Còn được bao lâu nữa?”

“Chúng ta còn ít hơn mức dự tính. Hôm nay gió ngược hơi mạnh”. Anh lúi húi tính toán. “Còn được 105 phút nữa.”

Cô thầm tạ ơn Chúa, hay số phận, hay bản năng của chính mình, khi quyết định không nạp nhiên liệu lại ở Chicago, mà đã nạp đủ nhiêu liệu đưa họ bay một mạch đến Saint Louis, cộng với khoản dự phòng tương đương thời gian 45 phút bay theo yêu cầu của FAA.

Điện thoại của Bell lại đổ chuông.

Anh lắng nghe, thở dài, rồi hỏi Percey. “Có phải cái công ty Đông Bắc gì gì đó đã chuyển đến một bình cứu hỏa đúng không?”

“Chết tiệt, chẳng lẽ hắn lại nhét quả bom vào đó?”, cô cay đắng hỏi.

“Có vẻ như thế thật. Chiếc xe chở hàng đã bị xịt lốp ngay sau khi rời khỏi nhà kho lúc trên đường chuyển phụ tùng đến cho cô. Tay lái xe bận rộn thay lốp mất khoảng hai mươi phút. Cảnh sát tuần tra ở Connecticut vừa tìm thấy một đống hổ lốn trông như là bọt khí carbon dioxide trong bụi cây ngay phía sau chỗ chiếc xe bị xịt lốp.”

“Chó chết!” Percey bất giác liếc nhìn về phía động cơ. “Và chính tôi đã tự tay lắp cái đồ khốn nạn đó.”.

Bell hỏi, “Rhyme muốn hỏi về nhiệt độ. Liệu nó có thể làm quả bom phát nổ không?”

“Một số chỗ rất nóng, nhưng những chỗ khác thì không. Xung quanh bình cứu hỏa cũng không có gì nóng cả.”

Bell nói lại thông tin này cho Rhyme, sau đó anh nói, “Anh ấy sẽ gọi trực tiếp cho cô”.

Một lát sau, qua tai nghe radio, Percey nghe thấy tín hiệu chuyển của một cuộc gọi trên tần số riêng.

Đó là Lincoln Rhyme.

“Percey, cô nghe thấy tôi nói không?”

“Rất to và rõ ràng. Hừ, tên khốn đó lại nhanh tay hơn rồi phải không?”

“Có vẻ thế. Cô còn được bao nhiêu thời gian bay nữa?”

“Một giờ bốn mươi nhăm phút. Khoảng đó.”

“Được rồi, được rồi”, nhà hình sự học nói. Một thoáng ngập ngừng. “Thế này nhé… Cô có thể tiếp cận được động cơ từ bên trong không?”

“Không.”

Một thoáng im lặng tiếp theo. “Vậy cô có thể làm cách nào để cắt bỏ toàn bộ động cơ không? Ví dụ như tháo ốc hay gì đó? Để nó rơi xuống?”

“Từ bên trong thì không thể”.

“Vậy có cách nào để cô có thể tiếp nhiên liệu ngay trên không trung không?”

“Tiếp nhiên liệu ư? Không phải là với chiếc máy bay này.”

Rhyme hỏi, “Vậy cô có thể bay thật cao đủ để đóng băng cơ chế hoạt động của quả bom không?”

Cô ngỡ ngàng trước khả năng suy nghĩ cực nhanh của anh. Có nhiều thứ mà bình thường cô chưa bao giờ nghĩ tới. “Có thể. Nhưng ngay cả với tốc độ rơi khẩn cấp – tôi đang nói đến một cú rơi chúc thẳng mũi xuống đấy – thì cũng phải mất khoảng tám, chín phút mới xuống tới nơi. Tôi không nghĩ có quả bom nào lại giữ nguyên trạng thái đóng băng trong khoảng thời gian lâu đến thế. Và có lẽ hiệu ứng Mach buffet cũng sẽ xé chúng tôi ra thành từng mảnh.”

Rhyme nói tiếp, “Thôi được, vậy nếu bố trí một máy bay khác đến ngay trước máy bay của cô và chuyển dù cho mọi người thì sao?”

Ý nghĩ đầu tiên trong đầu cô là cô sẽ không bao giờ từ bỏ máy bay của mình. Nhưng câu trả lời thực tế – câu trả lời mà cô nói với anh – là căn cứ vào tốc độ tròng trành của một chiếc Lear 35A và kết cấu bố trí của cửa chính, hai cánh, động cơ, khả năng một người nhảy từ trong máy bay ra ngoài mà không bị va đập và thiệt mạng ngay lập tức là cực thấp.

Rhyme lại im lặng một lúc khá lâu. Brad nuốt khan nghe đánh ực một cái và lau hai bàn tay lên ống quần là thẳng như lưỡi dao cạo của mình. “Lạy Chúa!”

Roland Bell thì bồn chồn lắc lư người trên ghế.

Tuyệt vọng, cô thầm nghĩ, mắt trân trối nhìn ra ngoài bầu trời nhập nhoạng tối âm u xanh thẫm.

“Lincoln?” Percey hỏi. “Anh còn đấy không?”

Cô nghe thấy giọng anh. Anh đang gọi cho ai đó trong phòng thí nghiệm của mình – hay phòng ngủ gì đó. Bằng một giọng gắt gỏng anh đang quát, “Không phải cái bản đồ đó. Anh biết ý tôi muốn cái nào rồi mà. Hừm, tôi muốn cái đó làm gì chứ hả? Không, không…”.

Im lặng.

Ôi, Ed, Percey nghĩ. Cuộc sống của chúng ta từ trước đến giờ lúc nào cũng đi theo những đường song song. Có lẽ cả cái chết của chúng ta cũng thế nốt. Mặc dù vậy, Roland Bell mới làm cô thấy nặng lòng nhất. Ý nghĩ về việc hai đứa con của anh sẽ mồ côi cả cha lẫn mẹ thật không sao chịu nổi.

Và rồi cô nghe thấy Rhyme đang hỏi, “Căn cứ vào số nhiên liệu còn lại, cô có thể bay được bao xa nữa?”

“Với những thông số tiết kiệm năng lượng nhất…” Cô quay sang nhìn Brad, chàng phi công trẻ đang nhoay nhoáy bấm số.

Anh trả lời, “Nếu bay ở độ cao thích hợp, nhiều khả năng chúng ta sẽ bay được khoảng 800 dặm nữa”.

“Tôi có ý này”, Rhyme nói. “Cô có thể bay thẳng tới Denver được không?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33


Giờ thứ 37 của 45

Độ cao của sân bay này so với mực nước biển là 5180 feet”, Brad nói, anh chàng đang đọc từ quyển Cẩm nang cho phi công về Sân bay quốc tế Denver[113]. “Chúng ta đã ở độ cao đó khi đến gần Chicago và cái thứ chết tiệt này vẫn không nổ,”

“Còn bao xa nữa?” Percey hỏi.

“Từ vị trí hiện tại thì còn 902 dặm nữa.”

Percey tính toán rất nhanh trong vòng chỉ vài giây, rồi gật đầu. “Chúng ta sẽ tới đó. Dẫn đường cho tôi bằng phương pháp ước lượng hành trình[114], cứ tạm thời thế đã, cho tới khi chúng ta bắt được tín hiệu sóng VOR.” Sau đó cô nói vào radio, “Chúng tôi sẽ cố thử xem, Lincoln. Lượng nhiên liệu không còn dôi nhiều lắm. Chúng tôi sẽ có rất nhiều việc phải làm đấy. Tôi sẽ liên lạc với anh sau”.

“Chúng tôi sẽ chờ ở đây”.

Brad chăm chú nhìn bản đồ rồi lại so sánh với lịch trình bay không lưu. “Rẽ trái hướng 266”.

“266”, cô nhắc lại, rồi gọi cho Đài Kiểm soát Không lưu. “Trung tâm Chicago, đây là 695 Foxtrot Bravo. Chúng tôi đang hướng tới Sân bay Quốc tế Denver. Hình như đó là… chúng tôi có một quả bom nhạy với độ cao đang cài trên máy bay. Chúng tôi cần hạ xuống mặt đất chỗ nào có độ cao tương đương 5000 feet hoặc hơn. Cần có sóng VOR khẩn cấp để hướng dẫn bay tới Denver”.

“Đã nghe rõ, Foxtrot Bravo. Chúng tôi sẽ đáp ứng yêu cầu của các bạn sau một phút nữa.”

Brad hỏi, “Xin hãy tư vấn thông tin thời tiết trên đường bay, Trung tâm Chicago”.

“Ngay lúc này đang có front[115] áp cao quét qua Denver. Gió ngược có tốc độ dao động từ 15 đến 40 hướng 10, tăng dần lên 60, 70 knot hướng 25.”

Bell hỏi, “Cô có thể hạ cánh xuống đường cao tốc được không?”.

“Chỉ có điều nếu thế chúng ta sẽ hạ cánh trong một quả cầu lửa khổng lồ thôi”, Percey nói.

Đài Kiểm soát Không lưu hỏi, “Foxtrot Bravo, đã sẵn sàng ghi lại tần số VOR chưa?”

Trong khi Brad ghi lại các thông tin, Percey tranh thủ thả lỏng người, ngã hẳn đầu ra phía sau lưng ghế. Động tác này có vẻ rất quen thuộc và cô chợt nhớ ra đã trông thấy Lincoln Rhyme làm giống hệt trong chiếc ghế tinh ti của anh. Cô nghĩ tới bài thuyết giáo nhỏ của mình trước mặt anh. Tất nhiên là cô nói hoàn toàn nghiêm túc, nhưng lúc đó cô cũng chưa thực sự nhận ra những lời đó của mình có thể đúng đến mức này. Cả anh cũng như cô đều phụ thuộc hoàn toàn vào những mẩu nhựa và kim loại mỏng manh này.

Và có lẽ sắp chết đến nơi vì chúng.

Số phận là một kẻ đi săn…

Còn cách những 55 dặm. Họ có thể làm gì bây giờ

Tại sao suy nghĩ của cô lại không được nhạy bén và sâu xa như của Rhyme? Chẳng lẽ cô không thể nghĩ ra cách gì đó để tiết kiệm nhiên liệu hay sao?

Bay cao hơn có nghĩa là sẽ tiết kiệm nhiên liệu hơn.

Bay với trọng lượng nhẹ hơn cũng thế. Liệu họ có thể ném bớt thứ gì ra khỏi máy bay không?

Ném hàng ư? Lượng hàng của Tập đoàn U.S. Medical nặng đúng 478 pound. Vứt bỏ ngần ấy sẽ giúp họ bay thêm được vài dặm.

Nhưng ngay cả khi đã cân nhắc đến tình huống này, cô cũng biết chắc cô sẽ không bao giờ làm như vậy. Nếu như có bất kỳ cơ hội nào để cứu chuyến bay, cứu Công ty, cô cũng sẽ cố hết sức.

Cố lên nào, Lincoln Rhyme, cô nghĩ, hãy cho tôi một ý tưởng đi. Hãy cho tôi… Hình dung ra căn phòng của anh, hình dung ra mình đang ngồi bên cạnh anh, cô nhớ đến con tiercel – con chim ưng đực – đang oai vệ đi lại ngoài bậu cửa sổ.

“Brad”, cô hỏi giật giọng, “hệ số lượn[116] của chúng ta là bao nhiêu?”

“Của một chiếc Lear 35A ư? Tôi không biết.”

Percey đã từng bay trên một chiếc tàu lượn Schweizer 2-32. Mẫu đầu tiên của loại này được chế tạo năm 1962 và từ đó đến nay đã trở thành tiêu chuẩn đánh giá hiệu suất hoạt động của các loại tàu lượn sau này. Tốc độ rơi như có phép màu của nó chỉ là 120 feet một phút. Chiếc tàu lượn có trọng lượng khoảng 1300 pound. Trong khi chiếc Lear mà cô đang lái lúc này nặng tới 14000 pound. Mặc dù vậy, đã là máy bay thì đều lượn được, dù có là máy bay gì đi nữa. Cô nhớ lại vụ việc liên quan đến chiếc 767 của hãng Hàng không Canada cách đây vài năm – đến tận bây giờ cánh phi công vẫn bàn tán về chuyện này. Chiếc máy bay phản lực siêu khổng lồ đã cạn sạch nhiên liệu do lỗi kết hợp của máy tính và con người. Cả hai động cơ đều ngừng hoạt động ở độ cao 41000 feet và chiếc máy bay bỗng trở thành một chiếc tàu lượn nặng 143 tấn. Vậy mà nó đã hạ cánh bằng cách trượt thẳng xuống sân bay (không kịp mở bánh xe dưới bụng) mà không một ai thiệt mạng.

Chú thích

[113]Denver: Thủ phủ tiểu bang Colarado của Mỹ, và nằm trên dải đồng bằng phía đông dãy núi Rocky, nên có độ cao tương đối so với mực nước biển. Đây là lý do tại sao Rhyme đã khuyên Percey lái máy bay đến Denver.

[114]Phương pháp ước lượng hành trình: Phương pháp ước tính vị trí của máy bay hoặc tàu biển căn cứ vào tốc độ di chuyển sau khi xuất phát từ một vị trí đã xác định tọa độ.

[115]Front: Thuật giọng điệu tượng chỉ đường biển giữa các khối không khí có mật độ hoặc nhiệt độ khác nhau.

[116]Hệ số lượn: Thông số chỉ mối quan hệ giữa độ cao của máy bay và quãng đường máy bay lượn xa theo quán tính và sức nâng của không khí – tốc độ rơi càng thấp thì máy bay càng lượn được xa.

“Hừm, chúng ta hãy nghĩ xem. Tốc độ rơi sẽ là bao nhiêu khi động cơ ngừng hoạt động?”

“Tôi nghĩ chúng ta có thể giữ ở mức 2300 feet một phút.”

Điều đó có nghĩa là tốc độ rơi theo chiều thẳng đứng sẽ tương đương với khoảng 30 dặm một giờ.

“Nào. Hãy tính xem giả sử chúng ta đốt thật nhiều nhiên liệu để đưa máy bay lên độ cao 55000 feet, khi nào thì nhiên liệu cạn sạch?”

“55000 feet ư?” Brad hỏi, không giấu được vẻ ngạc nhiên.

“Chính xác”.

Anh thoăn thoắt bấm số. “Nếu tăng độ cao với vận tốc 4300 feet một phút, chúng ta sẽ đốt hết rất nhiều nhiên liệu, nhưng sau khi đạt đến độ cao 55000 feet, mức tiết kiệm nhiên liệu sẽ tăng vọt. Chúng ta có thể giảm bớt năng lượng xuống…”

“Chỉ cần một động cơ?”

“Chắc chắn rồi. Chúng ta có thể làm như vậy.”

Anh gõ thêm vài con số. “Với kịch bản như vậy, chúng ta sẽ hết nhiên liệu khi còn cách sân bay 83 dặm. Nhưng, tất nhiên, khi đó chúng ta sẽ có độ cao cần thiết”.

Percey Clay, người vẫn luôn giành được những điểm A trong môn toán và vật lý và có thể tính nhẩm không cần dùng máy tính, như nhìn thấy những con số đang trôi qua trước mắt mình. Động cơ ngừng hoạt động ở độ cao 55000 feet, tốc độ rơi là 2300… Họ có thể hoàn thành chặng đường hơn 20 dặm một chút trước khi chạm mặt đất. Thậm chí còn có thể bay xa hơn thế nếu gió ngược chiều không quá dữ dội.

Brad, với sự giúp sức của một chiếc máy tính và những ngón tay nhanh thoăn thoắt, cũng cho cùng kết quả. “Dù sao cũng chỉ tương đối thôi.”

Chúa không tạo ra điều gì chắc chắn cả.

Cô nói, “Trung tâm Chicago, Lear Foxtrot Bravo đề nghị được phép bay lên độ cao 55000 feet ngay lập tức”.

Nhiều khi chúng ta phải chấp nhận năm ăn năm thua.

“Hả, xin nhắc lại, Foxtrot Bravo.”

“Chúng tôi cần tăng độ cao 55000 feet.”

Giọng của nhân viên Kiểm soát Không lưu ngập ngừng: “Foxtrot Bravo, máy bay của các bạn là một chiếc Lear 35A, đúng không?”.

“Xác nhận.”

“Trần bay tối đa của các bạn là 45000 feet.”

“Xác nhận thông tin đó, nhưng chúng tôi cần lên cao hơn.”

“Các mối hàn của máy bay gần đây đã được kiểm tra chưa?”

Các mối hàn chịu áp suất. Ở cửa chính và cửa sổ. Như những thanh giằng giữ cho máy bay không nổ tung.

“Tất cả đều ổn”, cô nói, lờ đi thực tế là chiếc Foxtrot Bravo mới bị bắn thủng lỗ chỗ và cũng chỉ được vá víu tạm thời lại ngay buổi chiều hôm đó.

Đài Kiểm soát Không lưu trả lời, “Đã nghe rồi, các bạn được phép lên độ cao 55000 feet, Foxtrot Bravo”.

Và Percey nhắc lại một câu xác nhận mà rất ít, ấy là nếu có, phi công lái những chiếc Lear từng nói, “Đã nghe rõ, đang chuyển từ độ cao 10000 lên 55000 feet”.

Percey ra lệnh, “Tăng mức nhiên liệu lên 88%. Thông báo thường xuyên tốc độ lên cao và độ cao ở các mốc 40000, 50000 và 55000”.

“Rõ”, Brad điềm tĩnh nói.

Cô kéo ngược cần lái lại và chiếc máy bay bắt đầu chúc mũi lên trên.

Họ lướt thẳng lên trên.

Tất cả những vì sao đêm…

Mười phút sau Brad hô to, “55000 feet”.

Mũi máy bay được hạ thấp xuống mức thăng bằng. Percey có cảm giác như thể cô thực sự nghe thấy những mối ghép của chiếc máy bay đang rên xiết. Cô nhớ lại bài học về cơ chế sinh học của cơ thể trong điều kiện độ cao như thế này. Nếu như cánh cửa sổ mà Ron mới thay thế bị bung ra hoặc bất kỳ mối hàn chịu áp suất nào bị nứt – ngay cả khi chiếc máy bay không bị xé toang ra thành từng mảnh thì hiện tượng giảm oxy đột ngột trong máu cũng khiến họ bất tỉnh chỉ sau năm giây. Ngay cả khi có mang mặt nạ dưỡng khí, áp suất chênh lệch cũng đủ làm máu trong người họ sôi lên.

“Tăng áp suất trong buồng lái lên mức tương đương với độ cao 10000 feet”.

“Áp suất lên mức độ cao 10000 feet”, anh thông báo. “Ít nhất như thế này cũng giảm bớt đôi chút áp suất khủng khiếp đang đè lên khung máy bay”.

“Sáng kiến hay lắm”, Brad nói. “Làm sao chị lại nghĩ ra ý tưởng này vậy?”

Những kỹ năng của loài khỉ…

“Chẳng biết nữa”, cô trả lời. “Hãy cắt năng lượng ở động cơ số hai. Đóng van dẫn lưu lại, ngắt van dẫn lưu tự động.”

“Đã đóng, đã ngắt”, Brad xác nhận.

“Tắt bơm nhiên liệu, tắt bugi đánh điện”.

“Tắt bơm, tắt bugi”.

Cô cảm thấy máy bay hơi lệch chao đi khi phần động cơ bên phải tắt hẳn. Percey bù lại phần nghiêng lệch bằng cách điều chỉnh một chút ở đuôi bánh lái. Cũng không có gì khó khăn lắm. Vì hai động cơ phản lực đều được bố trí ở phần đuôi của thân máy bay chứ không phải ở trên hai cánh, nên tắt bớt một động cơ cũng không ảnh hưởng nhiều đến sự ổn định của máy bay.

Brad hỏi, “Bây giờ chúng ta làm gì đây?”

“Tôi sẽ uống một cốc cà phê”, Percey nói rồi trèo phắt khỏi ghế lái của mình chẳng khác gì một cậu nhóc vừa nhảy ta khỏi ngôi nhà trên cây. “Ê, Roland, lần này anh muốn uống cà phê kiểu gì ấy nhỉ?”

Im lặng bao trùm trong phòng Rhyme suốt bốn mươi phút dài dằng dặc như tra tấn. Không chiếc điện thoại nào đổ chuông. Không một bản fax nào được chuyển đến. Không cả giọng nói vang ra từ máy tính, “Bạn vừa có thư!”.

Và rồi, cuối cùng, chuông điện thoại của Dellray vang lên. Anh vừa chăm chú nghe vừa gật đầu, nhưng Rhyme có thể nhận thấy ngay rằng đó không phải là một tin tốt lành gì. Viên đặc vụ tắt điện thoại.

“Cumberland à?”

Dellray gật đầu. “Nhưng là công cốc. Kall đã không còn ở đó từ nhiều năm nay. À, người dân trong vùng vẫn còn bàn tán về cái lần thằng nhóc đó trói ông bố dượng của nó vào gốc cây và để mặc cho lũ giòi xơi tái ông ta. Kiểu như một truyền thuyết vậy. Nhưng không còn họ hàng, người thân nào trong vùng cả. Và không một ai biết gì hơn. Hoặc biết nhưng không muốn nói.”

Lần này lại đến điện thoại của Sellitto rung lên. Viên thám tử mở máy và nói, “A lô?”.

Một đầu mối, Rhyme thầm cầu nguyện, lạy trời hãy để đó là một manh mối mới. Anh chăm chú theo dõi khuôn mặt bì bì, nghiêm nghị của viên cảnh sát. Anh này gập điện thoại lại.

“Đó là điện thoại của Roland Bell”, Sellitto thông báo. “Anh ấy chỉ muốn nói cho chúng ta biết. Họ hết sạch xăng rồi.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34


Giờ thứ 38 của 45

Ba đèn tín hiệu cảnh báo bật lên cùng một lúc. Nhiên liệu thấp, áp suất dầu thấp, nhiệt độ động cơ thấp. Percey thử điều chỉnh độ cao của máy bay một chút để xem cô có thể lắc cho chút nhiên liệu còn sót lại chảy vào đường ống được không, nhưng rõ ràng là các bình chứa nhiên liệu đã cạn khô.

Với một tiếng lạch xạch rất khẽ, động cơ số một ngừng khục khặc và im bặt.

Và đèn trong buồng lái vụt tắt hoàn toàn. Tối như hũ nút.

Ôi, không…

Cô không thể nhìn thấy bất kỳ thiết bị nào, dù chỉ là một nút vặn hay cần điều khiển. Điều duy nhất giúp cô không bị rơi vào trạng thái chóng mặt khi bay mò trong đêm đen là quầng sáng yếu ớt của thành phố Denver hắt lên – từ xa tít tắp phía trước họ.

“Chuyện gì thế này?”, Brad hỏi.

“Lạy Chúa. Tôi quên mất là còn máy phát điện”.

Máy phát điện chạy bằng năng lượng của động cơ. Không còn động cơ, cũng không còn điện.

“Thả cánh quạt không khí thủy lực xuống”, cô ra lệnh.

Brad mò mẩm trong bóng tối để tìm công tắc điều khiển và rồi cũng tìm thấy. Anh đẩy công tắc lên và chiếc cánh quạt không khí thủy lực thò ra dưới bụng máy bay. Đó là một chiếc chong chóng nhỏ được nối với một máy phát điện. Dòng không khí làm xoay cánh quạt, khiến cho máy phát điện bắt đầu hoạt động. Nó chỉ giúp cung cấp nguồn điện tối thiểu cho các thiết bị điều khiển và bóng điện trong buồng lái. Không giúp được gì cho cánh tà, số và phanh giảm tốc.

Một lát sau mấy bóng điện bật sáng trở lại.

Percey chăm chú nhìn đồng hồ hiển thị tốc độ rơi thẳng đứng. Kim đồng hồ chỉ rõ mức rơi là 3500 feet một phút. Nhanh hơn nhiều so với con số mà họ dự tính. Họ đang rơi xuống với tốc độ xấp xỉ 50 dặm một giờ.

Sao lại thế? Cô băn khoăn. Tại sao những phép tính lại cho kết quả với sai số lớn đến thế được?

Là do không khí loãng ở trên này! Cô đã tính toán tốc độ rơi dựa trên mật độ không khí đậm đặc hơn. Và giờ đây khi cân nhắc đến yếu tố này cô lại chợt nhớ ra rằng bầu không khí xung quanh Denver cũng sẽ rất loãng. Cô chưa bao giờ lái một chiếc tàu lượn lên cao quá một dặm.

Cô kéo mạnh cần lái về phía sau để giảm tốc độ rơi. Nó giảm xuống còn 2100 feet một phút. Nhưng tốc độ bay vì thế cũng giảm đi rất nhiều. Trong bầu không khí loãng như thế này tốc độ tròng trành chỉ còn khoảng 300 knot một giờ. Cần đo rung động trên máy bay bắt đầu rung lên bần bật và những thiết bị điều khiển cũng không còn tác dụng. Với một chiếc máy bay không còn nhiêu liệu như trong trường hợp này thì đừng hy vọng gì đến việc thoát ra khỏi tốc độ tròng trành và khôi phục tốc độ cũ.

Góc quan tài…

Đẩy cần lái về phía trước. Họ lại rơi nhanh hơn, nhưng tốc độ bay cũng tăng lên. Cô chơi trò này suốt gần 50 dặm. Đài Kiểm soát Không lưu cho họ biết những vị trí mà gió ngược chiều đang thổi mạnh nhất, căn cứ vào đó Percey cố tìm ra sự kết hợp hoàn hảo giữa độ cao và luồng gió – những luồng gió đủ mạnh để nâng chiếc Lear lên mức cao nhất nhưng cũng không có vận tốc quá lớn có thể làm giảm tốc độ bay của họ.

Cuối cùng, Percey – toàn thân đau nhức vì phải gồng người điều khiển chiếc máy bay bằng thuần túy sức mạnh cơ bắp của mình – giơ tay lên quệt mồ hôi trên trán và nói, “Gọi cho họ đi, Brad”.

“Trung tâm Denver, đây là Lear 695 Foxtrot Bravo, đang bay về phía các bạn từ độ cao 19000 feet. Chúng tôi còn cách sân bay 21 dặm. Tốc độ bay là 220 knot một giờ. Máy bay của chúng tôi đang ở trong tình trạng cạn sạch nhiêu liệu và yêu cầu được điều khiển đến đường băng dài nhất thích hợp với hướng bay hiện tại của chúng tôi là 250.”

“Đã nghe rõ, Foxtrot Bravo. Chúng tôi vẫn đang chờ các bạn. Cao kế chỉ 30,95. Rẽ trái hướng 240. Chúng tôi đang hướng các bạn tới đường băng 28 bên trái. Các bạn sẽ có đường băng dài 11000 feet[117].”

“Đã nghe rõ, Trung tâm Denver.”

Điều gì đó đang giày vò trong cô. Lại là cơn đau buốt trong bụng. Như cảm giác của cô khi nhớ lại chiếc xe thùng màu đen đó.

Điều gì chứ? Chẳng lẽ chỉ là mê tín?

Không bao giờ hai mà không ba…

Brad nói, “Cách điểm hạ cánh 19 dặm. Độ cao 16000 feet”.

“Foxtrot Bravo, liên lạc với Trung tâm Kiểm soát Tiếp cận Denver.” Anh ta cung cấp cho họ tần số liên lạc, rồi nói thêm, “Họ đã được thông báo đầy đủ về tình hình của các bạn. Chúc may mắn. Tất cả chúng tôi đều đang nghĩ tới các bạn”.

“Chúc vui vẻ, Denver. Cám ơn nhé!”

Brad chuyển máy radio sang tần số liên lạc mới.

Có chuyện gì vậy? Cô lại băn khoăn. Chẳng lẽ còn điều gì đó mình chưa nghĩ tới.

“Trung tâm Tiếp cận Denver, đây là Lear 695 Foxtrot Bravo. Đang bay về phía các bạn từ độ cao 13000 feet, cách đường băng hạ cánh 13 dặm.”

“Chúng tôi thấy các bạn rồi, Foxtrot Bravo. Chếch về bên phải theo hướng 250. Chúng tôi được biết là các bạn đã cạn nhiên liệu, đúng vậy không?”

“Chúng tôi là chiếc tàu lượn khốn khiếp lớn nhất mà các anh từng nhìn thấy, Denver.”

“Cánh tà và hệ thống bánh xe hạ cánh của các bạn còn hoạt động không?”

“Không còn cánh tà. Chúng tôi sẽ hạ bánh xe xuống bằng tay.”

“Đã nghe rõ. Các bạn có cần xe không?”

Nghĩa là xe cứu hỏa, xe cấp cứu.

“Chúng tôi nghĩ trên máy bay có bom. Chúng tôi muốn tất cả những gì các anh có.”

“Đã nghe rõ.”

Đột nhiên, giật nẩy mình vì kinh hoàng, cô chợt nhận ra: Áp suất không khí!

“Trung tâm Tiếp cận Denver”, cô hỏi, “cao kế chỉ bao nhiêu?”.

“Ừm, chỗ chúng tôi là 30,96, Foxtrot Bravo.”

Vậy là cột thủy ngân đã tăng 1% của một inch trong vòng một phút vừa qua.

“Nó đang tăng dần?”

“Chính xác là như vậy, Foxtrot Bravo. Một front áp cao khá lớn đang quét qua.”

Không! Điều đó sẽ càng làm tăng áp suất xung quanh quả bom, làm cho quả bóng bay bị xẹp xuống, như thể họ đang ở độ cao thấp hơn so với thực tế.

“Đúng là chó cắn áo rách”, cô lẩm bẩm.

Chú thích

[117]Feet: Khoảng hơn ba kilômét.

Brad quay sang nhìn cô.

Cô bảo anh ta, “Mức thủy ngân lúc ở Mamaroneck là bao nhiêu nhỉ?”.

Anh chàng kiểm tra lại trong sổ nhật trình. “20,6.”

“Hãy tính toán độ cao 5000 feet ở mức áp suất đó so với mức 31,0.”

“31? Thế thì cao khủng khiếp.”

“Thì đó là trạng thái áp suất chúng ta đang bay vào.”

Anh ta tròn mắt nhìn cô. “Nhưng quả bom…”

Percey gật đầu. “Tính đi.”

Chàng thanh niên bấm những con số đó bằng một bàn tay rất vững vàng.

Anh thở dài, đây là lần đầu tiên anh để lộ cảm xúc của mình trong suốt chuyến bay. “5000 feet ở Mamaroneck sẽ tương đương với 8500 feet ở đây”.

Cô lại gọi cho Bell bước lên phía trước. “Tình hình là thế này. Có một front áp cao đang quét qua. Cho đến khi chúng ta chạm đến đường băng, rất có thể quả bom sẽ tự động hiểu mức áp suất không khí xung quanh là tương ứng với độ cao dưới 5000 feet. Có thể nó sẽ phát nổ ngay khi chúng ta còn cách mặt đất khoảng 50 đến 100 feet cũng nên.”

“Được rồi”. Anh bình tĩnh gật đầu. “Được rồi.”

“Chúng ta không còn cánh tà, do đó chúng ta sắp sửa hạ cánh với vận tốc cực lớn, xấp xỉ 200 dặm một giờ. Nếu nó phát nổ chúng ta sẽ mất kiểm soát và đâm thẳng xuống đất. Chắc sẽ không có nhiều khói lửa vì các bình chứa nhiên liệu đều đã cạn. Và tùy thuộc vào những gì đang chờ đợi phía trước, nếu xuống đủ thấp có thể chúng ta sẽ bị trượt đi một đoạn trước khi bắt đầu va đập. Cũng không thể làm gì được nữa ngoài việc thắt chặt dây an toàn và cúi thấp đầu xuống.”

“Được rồi”, anh nói, gật đầu bình thản, mắt nhìn ra ngoài cửa sổ.

Cô liếc nhìn vẻ mặt anh. “Tôi hỏi anh câu này được không, Roland?”

“Tất nhiên là được.”

“Đây không phải chuyến bay đầu tiên của anh đấy chứ?”

Anh thở dài. “Cô biết đấy, khi cô sống gần như cả thời thanh niên ở một nơi như North Carolina, đơn giản là cô sẽ không có nhiều cơ hội đi đây đi đó. Còn khi chuyển đến New York, hừm, chúng tôi lại có những chuyến tàu hỏa của Amtrak rất lịch sự và tiện lợi”. Anh ngừng lại. “Thực tế là tôi chưa bao giờ ở cao hơn so với nơi một chiếc thang máy đưa tôi lên.”

“Không phải chuyến bay nào cũng thế này đâu”, cô nói.

Anh bóp chặt vai cô, rồi thì thầm, “Đừng có làm rơi kẹo đấy”. Nói xong, anh quay về ghế của mình.

“Được rồi”, Percey nói, xem lướt qua những thông tin trong Cẩm nang cho phi công về Sân bay quốc tế Denver. “Brad, chúng ta sẽ tiếp cận hạ cánh bằng mắt trong điều kiện ban đêm xuống đường băng 28 bên phải. Tôi sẽ chỉ huy điều khiển chiếc máy bay. Anh sẽ hạ bánh xe xuống bằng tay và thông báo tốc độ rơi, khoảng cách tới đường băng, và độ cao – cho tôi biết độ cao thực sự phía trên mặt đất, không phải là so với mực nước biển – cùng tốc độ bay”. Cô cố nghĩ xem còn điều gì nữa. Không còn nhiên liệu, không còn cánh tà, không còn phanh giảm tốc. Chẳng còn gì để mà nói nữa, đây là lệnh phân công nhiệm vụ trước khi hạ cánh ngắn nhất trong sự nghiệp bay của cô. Cô nói thêm, “Điều cuối cùng này nữa. Khi chúng ta dừng lại, hãy thoát ra ngoài càng nhanh càng tốt”.

“Cách đường băng 10 dặm”, anh nói to. “Tốc độ bay 200 knot. Độ cao 9000 feet. Chúng ta cần làm chậm tốc độ rơi.”

Cô kéo nhẹ cần lái lên trên một chút và tốc độ chậm đi rất đột ngột. Cần đo rung động lại rung lên. Lúc này mà máy bay rơi vào trạng thái tròng trành thì coi như họ cầm chắc cái chết.

Lại đẩy về phía trước.

Chín dặm… Tám…

Mồ hôi đầm đìa như một trận mưa dông. Cô đưa tay lên lau mặt. Những vết rộp trên phần da mềm giữa ngón cái và ngón trỏ.

Bảy… Sáu…

“Cách điểm chạm đất năm dặm nữa, độ cao 4500 feet. Tốc độ bay 210 knot.”

“Hạ bánh xe”, Percey ra lệnh.

Brad vặn chiếc vòng nhỏ có chức năng thả bộ bánh xe nặng nề xuống bằng phương pháp cơ học. Anh cũng được trọng lực giúp sức, mặc dù vậy đây vẫn là một công việc cực kỳ nặng nhọc. Tuy nhiên, anh vẫn không quên dán chặt mắt vào bảng thiết bị điều khiển và đọc to, bình tĩnh như một nhân viên kiểm toán đang đọc bảng cân đối tài chính, “Cách điểm chạm đất bốn dặm, độ cao 3900 feet…”.

Cô vật lộn với sự lắc lư do hiện tượng giảm độ cao gây ra cùng những đợt gió đang thổi mạnh.

“Đã thả xong bánh xe”, Brad thông báo giữa hơi thở hổn hển. “Ba đèn xanh.”

Tốc độ bay giảm xuống còn 180 knot – tương đương với khoảng 200 dặm một giờ. Như thế là quá nhanh. Cực nhanh là khác. Một khi không có những bộ tên lửa hãm dự phòng, chiếc máy bay sẽ mài hết cả đường băng dài nhất chỉ trong tích tắc.

“Trung tâm Kiểm soát Tiếp cận Denver, cao kế chỉ bao nhiêu?”

“30,98”, người nhân viên Kiểm soát Không lưu trả lời không một chút bối rối.

Đang tăng. Mỗi lúc một cao hơn.

Cô hít một hơi thật sâu. Theo như quả bom “hiểu” căn cứ vào mức áp suất thực tế, đường băng nằm ở độ cao chưa đến 5000 feet so với mực nước biển. Nhưng không hiểu tên Vũ công đã chính xác và tỉ mỉ đến mức độ nào khi hắn chế tạo chiếc kíp nổ?

“Bánh xe hạ cánh đã hạ xuống hoàn toàn. Tốc độ rơi là 2600 feet một phút.”

Có nghĩa là tương đương với tốc độ rơi theo phương thẳng đứng 38 dặm một giờ. “Chúng ta đang rơi quá nhanh, Percey”, Brad thông báo. “Nếu thế này chúng ta sẽ tiếp đất ngay phía trước đèn báo vào sân bay. Còn cách đường băng khoảng 100 thước. Có thể là 200 cũng nên.”

Giọng nói của nhân viên Kiểm soát Không lưu cho thấy họ cũng đã nhận ra điều này: “Foxtrot Bravo, các bạn cần duy trì độ cao. Máy bay đang rơi xuống thấp quá nhanh”.

Lại kéo cần lái. Tốc độ giảm ngay lập tức. Lại cảnh báo tròng trành. Lại đẩy cần về phía trước.

“Cách điểm tiếp đất hai dặm rưỡi, độ cao 1900 feet”.

“Quá thấp, Foxtrot Bravo!”, nhân viên Kiểm soát Không lưu lại cảnh báo.

Cô nhìn ra ngoài qua phần mũi màu bạc của chiếc máy bay. Cơ man nào là các loại đèn – ánh sáng nhấp nháy của các loại đèn tiếp cận báo hiệu cho họ tiến về phía trước, những chấm màu xanh của đường dẫn máy bay ra đường băng, và đèn màu đỏ cam của đường băng. Và cả những ánh đèn mà Percey chưa bao giờ nhìn thấy trong tất cả các lần hạ cánh. Hàng trăm ánh đèn đang nháy loang loáng. Trắng và đỏ. Toàn bộ các phương tiện khẩn cấp đều được huy động.

Ánh đèn ở khắp nơi.

Tất cả những vì sao đêm…

“Vẫn thấp”, Brad hô to. “Chúng ta sẽ lao xuống còn cách đường băng 200 thước.”

Tay ướt đẫm mồ hôi, căng người về phía trước, Percey lại hình dung ra cảnh Lincoln Rhyme, đang bị cột chặt vào chiếc xe lăn, bản thân anh cũng rướn về phía trước, chăm chú kiểm tra thứ gì đó trên màn hình máy tính.

“Quá thấp, Foxtrot Bravo”, Kiểm soát Không lưu nhắc lại. “Chúng tôi sẽ cho phương tiện khẩn cấp cơ động tới khoảng trống ngay trước đường băng.”

“Bác bỏ đề xuất đó”, Percey kiên quyết nói.

Brad lại hô to, “Độ cao 1300 feet. Còn cách điểm tiếp đất một dặm rưỡi”.

Chúng ta còn có ba mươi giây nữa! Mình phải làm gì bây giờ?

Ed? Cho em biết đi! Brit? Có ai đó…

Cố lên nào, những kỹ năng của loài khỉ… Mình phải làm cái chết tiệt gì bây giờ?

Cô nhìn ra ngoài cửa sổ buồng lái. Dưới ánh trăng chiếu sáng cô có thể nhìn thấy những khu ngoại ô và thị trấn cùng những cánh đồng và trang trại, nhưng đồng thời, phía bên trái, là những dải sa mạc rộng mênh mông.

Colorado là một bang có diện tích chủ yếu là sa mạc… Tất nhiên rồi!

Bất thình lình cô bẻ ngoặt cho máy bay rẽ nghiêng sang bên trái.

Brad, hoàn toàn không hiểu cô đang định làm gì, vẫn hô to, “Tốc độ rơi 3200 feet một phút, độ cao còn 1000 feet, 900 feet, 850…”.

Nghiêng cánh cho một chiếc máy bay không còn hoạt động sẽ làm giảm rất nhiều độ cao chỉ trong tích tắc.

Kiểm soát Không lưu vội hét lên, “Foxtrot Bravo, không được rẽ. Xin nhắc lại, không được rẽ ! Các bạn không còn đủ độ cao cần thiết”.

Cô chỉnh cho máy bay thăng bằng trở lại khi bay trên dải sa mạc.

Brad bật ra một tiếng cười sung sướng. “Độ cao ổn định… Độ cao đang tăng dần, chúng ta đang ở 900 feet, 1000 feet, 1200 feet, 1300 feet… Tôi không thể nào tin nổi.”

“Một luồng nhiệt lưu[118]”, cô giải thích. “Sa mạc hấp thụ nhiệt vào ban ngày và giải phóng chúng ra suốt thời gian ban đêm.”

Kiểm soát Không lưu cũng đã đoán ra. “Tuyệt lắm, Foxtrot Bravo! Tuyệt lắm. Các bạn vừa giúp mình tự tiến thêm được khoảng 300 thước nữa. Chếch phải theo hướng 290… tốt lắm, giờ thì chếch trái 280. Tốt rồi. Giữ nguyên hướng. Nghe này, Foxtrot Bravo, nếu các bạn muốn xóa sổ dãy đèn hiệu tiếp cận kia, xin cứ tự cho.”

“Cảm ơn vì đề nghị đó, Denver, nhưng tôi nghĩ tôi sẽ cho máy bay hạ cánh quá vạch số đường băng đúng 1000 nhiên feet.”

“Thế thì lại càng tốt”.

Chú thích

[118]Nhiệt lưu: Luồng không khí nóng từ dưới mặt đất bốc lên, các tàu lượn thường lợi dụng luồng khí này để tăng độ cao (giống như cơ chế hoạt động của khinh khí cầu).

Giờ thì họ lại gặp một vấn đề khác. Họ có thể chạm tới đường băng, nhưng tốc độ bay vẫn còn vô cùng lớn. Cánh tà chính là thiết bị có tác dụng làm giảm tốc độ tròng trành của một chiếc máy bay giúp cho nó có thể hạ cánh xuống mặt đất một cách chậm hơn. Bình thường thì tốc độ tròng trành của một chiếc Lear 35A vào khoảng 110 dặm một giờ. Nhưng khi không còn cánh tà tốc độ này sẽ xấp xỉ 180 dặm một giờ. Với tốc độ lớn như vậy thì ngay cả một đường băng dài hai dặm cũng biến mất chỉ trong tích tắc.

Thế là Percey cho máy bay lượn nghiêng sang một bên.

Đây là một thủ thuật rất đơn giản đối với những chiếc máy bay tư nhân cỡ nhỏ, thường áp dụng khi hạ cánh trong điều kiện có gió thổi tạt ngang. Bạn nghiêng cánh máy bay sang bên trái và đạp pedal bánh lái bên phải. Cách này sẽ làm giảm đáng kể tốc độ của máy bay. Percey không biết đã có ai từng sử dụng kỹ thuật này với một chiếc phản lực nặng bảy tấn chưa, nhưng cô cũng không thể nghĩ ra cách nào khác được nữa. “Cần anh giúp một tay”, cô hô to lên với Brad, thở hổn hển vì gắng sức trong khi cơn đau nhói chạy xuyên qua hai bàn tay để trần của cô. Brad nắm chặt lấy cần lái và cũng đạp chân lên pedal. Kỹ thuật này có tác dụng làm giảm tốc độ của máy bay, mặc dù nó làm xệ thẳng cánh bên trái xuống gần như dựng đứng.

Cô sẽ nghiêng nó trở lại vị trí thăng bằng như cũ trước khi tiếp xúc với đường băng.

Cô hy vọng thế.

“Tốc độ?”, cô gọi to.

“150 knot.”

“Có vẻ tốt đấy, Foxtrot Bravo.”

“Cách đường băng 200 thước, độ cao 280 feet”, Brad hô lên. “Đèn hiệu báo tiếp cận, hướng thẳng”.

“Tốc độ rơi?”, cô hỏi.

“2600 feet một phút.”

Nhanh quá. Hạ cánh với tốc độ rơi lớn như thế này có thể phá hủy hệ thống bánh xe. Và cũng có thể kích hoạt cho quả bom phát nổ.

Ngay trước mặt cô lúc này là những ánh đèn tín hiệu đang nhấp nháy – hướng dẫn cho hạ cánh…

Xuống, xuống, xuống…

Đúng khi họ ầm ầm lao về phía giàn đèn tín hiệu cao vút, Percey bỗng hét to, “Để đấy cho tôi!”.

Brad rời tay khỏi cần lái.

Percey trả máy bay về tư thế cân bằng như trước khi nghiêng cánh và cho chếch mũi lên trên. Chiếc máy bay vụt vổng đầu lên tuyệt đẹp và như vừa níu được vào không khí, đã rơi xuống thẳng đứng bị chặn lại ngay phía trên vạch số màu trắng sơn ở đầu đường băng.

Trên thực tế, chiếc máy bay bám chắc vào không khí đến nỗi nó nhất định không chịu đáp xuống.

Trong điều kiện không khí đậm đặc hơn của mức áp suất tương đối thấp hơn, chiếc máy bay đang lao đi với vận tốc khá lớn – nhất là lại nhẹ đi rất nhiều vì không còn nhiên liệu – nhất định không chịu chạm xuống mặt đất.

Cô thoáng nhìn thấy ánh đèn màu xanh-vàng của những chiếc xe cấp cứu nằm rải rác dọc bên cạnh đường băng.

Đã vượt quá vạch số đúng 1000 feet, vậy mà họ vẫn còn lơ lửng cách mặt bê tông 30 feet.

Rồi đến lượt 2000 feet lướt qua. Rồi đến 3000 feet.

Chó chết thật, cho nó hạ xuống thôi.

Percey đẩy nhẹ cần lái về phía trước. Chiếc máy bay đột ngột chúi mũi xuống và Percey lại kéo mạnh cần lái về phía sau hết cỡ. Con chim bạc rùng mình rồi nhẹ nhàng chạm xuống bề mặt bê tông. Đây là lần tiếp đất êm ái nhất mà cô từng thực hiện.

“Kéo phanh hết cỡ!”

Cô và Brad cùng đạp mạnh chân lên pedal điều khiển bánh lái và họ nghe rõ tiếng những mảng kim loại phía sau rít lên ken két, toàn thân máy bay rung chuyển dữ dội. Khói bốc đầy trong buồng lái.

Họ đã bay lướt qua hơn một nửa chiều dài đường băng và vẫn còn đang lao đi với vận tốc 100 dặm một giờ.

Mặt cỏ, cô nghĩ, mình sẽ ngoặt cho máy bay chạy trên đó nếu cần thiết. Có thể làm hỏng hệ thống bánh xe lăn nhưng mình sẽ cứu được kho hàng…

70, 60…

“Đèn báo cháy, bánh xe bên phải”, Brad hô lớn. Và rồi: “Đèn báo cháy, bánh xe dưới mũi”.

Khốn nạn thật, cô thầm rủa, rồi dồn toàn bộ trọng lượng cơ thể mình lên bàn đạp phanh.

Chiếc Lear bắt đầu trượt và rung lên bần bật. Cô cố bù bớt lực cho bánh xe dưới mũi. Khói trong buồng lái càng đặc kín.

60 dặm một giờ, 50, 40…

“Cánh cửa”, cô ngoái lại gọi Bell.

Trong nháy mắt viên thám tử đã đứng bật dậy, đẩy tung cửa ra ngoài; nó bỗng trở thành một chiếc cầu thang.

Những chiếc xe cứu hỏa đang cùng lao về phía chiếc máy bay.

Với một tiếng rít dài đến chói tai của những bộ phanh đang bốc khói, chiếc Lear N695FB trượt rê trên mặt bê tông thêm một đoạn rồi dừng lại cách cuối đường băng đúng 10 feet.

Giọng nói đầu tiên vang lên trong buồng lái là của Bell. “Được rồi, Percey, ra ngay! Chạy ra!”

“Tôi còn phải…”

“Bây giờ tôi mới là người chỉ huy!”, viên thám tử gầm lên. “Tôi phải lôi cô ra khỏi đây, tôi sẽ làm thế đấy. Giờ thì ra ngay không!”

Bell lùa cả cô và Brad ra ngoài, rồi đến lượt anh nhảy xuống mặt đường bê tông, dẫn họ chạy xa khỏi chiếc máy bay. Anh hét lên với những nhân viên cứu hộ đang bắt đầu phun bọt cứu hỏa vào các bánh xe bốc khói. “Trên máy bay có bom đấy, có thể nổ bất kỳ lúc nào. Trong buồng động cơ. Đừng lại gần!”. Một trong hai khẩu súng của Bell đã lăm lăm trên tay từ lúc nào và anh căng mắt lia qua đám đông nhân viên cứu hộ đang vây quanh chiếc máy bay. Như trước kia chắc hẳn Percey đã nghĩ anh đang bị hoang tưởng. Nhưng bây giờ thì không.

Cách chiếc máy bay khoảng hơn 100 feet họ dừng lại. Chiếc xe chuyên dụng của Đội rà phá bom mìn thuộc Sở Cảnh sát Denver vừa trờ tới. Bell vẫy nó rẽ về phía mình.

Một viên cảnh sát cao lòng khòng trong trang phục cao bồi bước từ trong xe bước ra. Hai người chìa phù hiệu ra cho nhau kiểm tra và Bell giải thích cho anh ta về quả bom, về vị trí của nó trên máy bay theo họ nghĩ.

“Vậy là”, tay cảnh sát Denver nói, “các vị không chắc chắn là nó có trên máy bay”.

“Không. Không phải 100%”

Thế nhưng đúng lúc Percey vô tình liếc nhìn chiếc Foxtrot Bravo – lớp vỏ bạc lộng lẫy của nó bị phủ lỗ chỗ những màng bọt cứu hỏa, loang loáng phản chiếu ánh đèn pha gay gắt – một tiếng nổ dữ dội đến đinh tai bỗng cất lên. Tất cả mọi người trừ Percey và Bell đều vụt nằm thụp xuống đất trong khi toàn bộ nửa phía sau của chiếc máy bay nổ tan tành trong một quầng lửa màu cam khổng lồ, bắn tung tóe những mẩu kim loại vào không trung.

“Ôi”, Percey chết lặng người, theo bản năng cô đưa tay lên bụm miệng lại.

Tất nhiên trong các bình chứa không còn chút nhiên liệu nào, nhưng phần nội thất của chiếc máy bay – ghế ngồi, dây điện, thảm lót sàn, những chi tiết nhựa, và cả lượng hàng quý giá – bốc cháy dữ dội trong khi mấy chiếc xe cứu hỏa khôn ngoan chờ đợi trong giây lát rồi mới ùa lên phía trước, vô ích đua nhau phun thêm bọt trắng xóa lên cái xác chết bằng kim loại đã bị phá hủy hoàn toàn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35


Giờ thứ 42 của 45

Đã hơn ba giờ sáng, Rhyme tự nhủ. Percey Clay đang bay trở về East Side trên một chiếc phản lực của FBI và chỉ vài tiếng nữa thôi cô sẽ trên đường tới tòa án để chuẩn bị sẵn sàng cho việc trình diện trước bồi thẩm đoàn.

Vậy mà anh vẫn chưa có manh mối nào về việc tên Vũ công Quan tài đang ở đâu, hắn đang âm mưu điều gì, và về vỏ bọc của hắn lúc này.

Điện thoại của Sellitto đổ chuông. Anh nghe máy. Mặt anh nhăn nhúm lại. “Lạy chúa. Tên Vũ công vừa giết thêm một người nào đó. Họ mới tìm thấy một xác chết – đã bị xóa đặc điểm nhận dạng – trong đường hầm đi bộ ở Công viên Trung tâm. Gần Đại lộ Năm.”

“Các đặc điểm nhận dạng bị xóa bỏ hoàn toàn à?”

“Có vẻ hắn làm bài bản lắm. Cắt mất hai bàn tay, bẻ răng, rạch cằm, và lột bỏ quần áo nạn nhân. Nam giới, da trắng. Còn khá trẻ. Khoảng ba mươi gì đó.” Viên thám tử lại chăm chú nghe máy. “Không phải người vô gia cư”, anh thông báo lại. “Anh ta rất sạch sẽ, thân hình khỏe mạnh. Lực lưỡng. Haumann cho rằng đó là một tay trí thức thời thượng bên khu Upper East Side.”

“Được rồi”, Rhyme nói. “Đưa anh ta tới đây. Tôi muốn đích thân kiểm tra nó.”

“Cái xác ư?”

“Chính xác.”

“Chậc, được thôi.”

“Vậy là giờ đây tên Vũ công lại có một vỏ bọc mới”, Rhyme giận dữ lẩm bẩm. “Là cái chết tiệt gì mới được chứ? Tiếp sau đây hắn sẽ tấn công chúng ta như thế nào?”

Rhyme thở dài, ngước lên nhìn ra phía cửa sổ. Anh nói với Dellray, “Các anh định đưa họ tới ngôi nhà an toàn nào bây giờ?”.

“Tôi cũng đang nghĩ về điều đó”, viên đặc vụ cao lêu nghêu nói. “Theo như tôi nghĩ thì...”

“Của chúng tôi”, một giọng nói khác vang lên.

Mọi người quay ra nhìn người đàn ông béo ú đứng trên ngưỡng cửa.

“Nhà an toàn của chúng tôi”, Reggie Eliopolos nói. “Chúng tôi sẽ phụ trách việc bảo vệ họ.”

“Không bao giờ, trừ phi anh có...” Rhyme bắt đầu.

Tay công tố viên tự đắc vẫy vẫy tờ giấy trước mặt Rhyme, anh ta vẫy quá nhanh nên không ai kịp đọc gì, nhưng tất cả đều biết chắc chắn lệnh tiếp quản bảo vệ nhân chứng lần này là hợp pháp.

“Đó không phải là một ý hay đâu”, Rhyme nói.

“Dù sao cũng còn hay hơn ý tưởng của anh về việc cố làm cho nhân chứng cuối cùng của chúng tôi bị giết bằng bất kỳ cách nào có thể.”

Sachs giận dữ sấn bước lên phía trước, nhưng Rhyme đã lặng lẽ lắc đầu.

“Hãy tin tôi”, Rhyme nói, “tên Vũ công sẽ phát hiện ra việc chúng ta chuẩn bị đưa cô ấy vào chế độ bảo vệ đặc biệt. Có khi hắn còn phát hiện ra rồi cũng nên. Trên thực tế”, anh nói thêm với vẻ hăm dọa, “có thể hắn đang trông đợi điều đó sớm xảy ra.”

“Như thế hắn phải là kẻ có khả năng đọc suy nghĩ của người khác.”

Rhyme khẽ nghiêng đầu. “Anh bắt đầu hiểu vấn đề rồi đấy.”

Eliopolos cười khẩy. Anh ta nhìn quanh vòng và thấy Jodie. “Anh là Joseph D’Oforio?”

Người đàn ông bé choắt cũng nhìn lại. “Tôi – vâng ạ.”

“Cả anh cũng sẽ đi.”

“Không được, chờ một phút đã, họ bảo tôi có thể nhận được tiền của mình và tôi có thể…”

“Chuyện này chẳng liên quan quái gì đến tiền thưởng hết. Nếu anh xứng đáng, anh sẽ nhận được thôi. Chúng tôi chỉ đang cố bảo đảm anh được an toàn cho đến khi bồi thẩm đoàn triệu tập.”

“Bồi thẩm đoàn! Chẳng ai nói với tôi về việc phải ra làm chứng cả!”

“À”, Eliopolos nói. “Anh cũng là một nhân chứng quan trọng.” Một cái đầu hất đầu về phía Rhyme. “Anh ta đang nung nấu ý đồ trừ khử một tên sát thủ. Còn chúng tôi đang cố thu thập bằng chứng truy tố kẻ đã thuê hắn. Đó mới đúng là công việc của đa số những người bảo vệ pháp luật.”

“Tôi sẽ không ra làm chứng đâu.”

“Nếu vậy anh sẽ bị tạm giam vì tội chống lệnh triệu tập của tòa. Ở khu giam chung nhé. Và tôi cá là anh biết mức độ an toàn ở đó thế nào rồi đấy.”

Người đàn ông bé nhỏ cố tỏ ra giận giữ nhưng không được, đơn giản là vì gã quá sợ hãi. Khuôn mặt của gã co rúm lại. “Ôi, lạy Chúa!”

“Các anh không thể có đủ sự bảo vệ cần thiết đâu”, Rhyme cố thuyết phục Eliopolos. “Chúng tôi hiểu rõ hắn. Hãy để chúng tôi bảo vệ họ.”

“Ồ, còn anh Rhyme đây ư?” Eliopolos quay lại nhìn anh. “Vì việc liên quan đến chiếc máy bay, tôi sẽ truy tố anh vì tội can thiệp vào quá trình điều tra hình sự.”

“Tôi thách anh đấy”, Sellitto nói.

“Tôi sợ đếch gì mà không dám”, người đàn ông béo ị bật lại. “Anh ta hoàn toàn có thể làm hỏng cuộc điều tra khi để cô ấy thực hiện chuyến bay kia. Thứ Hai tới tôi sẽ có lệnh bắt anh ta. Và đích thân tôi sẽ phụ trách quá trình truy tố. Anh ta…”

Rhyme nhẹ nhàng nói, “Hắn đã mò tới đây, anh biết đấy.”

Tay Trợ lý Chưởng lý Hoa Kỳ bỗng im bặt. Sau một thoáng im lặng anh ta hỏi, “Ai cơ?”

Mặc dù anh ta biết là ai.

“Hắn đã ở ngay bên ngoài cửa sổ kia, cách đây chưa đến một giờ, chĩa một khẩu súng trường bắn tỉa, nạp đạn chạm nổ cực mạnh, vào căn phòng này.” Ánh mắt của Rhyme hướng xuống sàn nhà. “Có lẽ đúng vị trí mà anh đang đứng lúc này.”

Tất nhiên không đời nào Eliopolos có chuyện tỏ ra nhát gan đến mức bước lùi lại. Nhưng mắt anh ta vẫn nhớn nhác đảo về phía cửa sổ để chắc chắn là những tấm rèm cửa đã được kéo xuống.

“Tại sao…?”

Rhyme nói nốt câu của anh ta. “Hắn không bắn ư? Bởi vì hắn chợt nảy ra ý khác hay hơn.”

“Là thế nào?”

“À”, Rhyme thốt lên. “Đó thật là câu hỏi đáng giá cả triệu đô đấy. Tất cả những gì chúng tôi biết là hắn vừa giết một người khác – một thanh niên nào đó trong Công viên Trung tâm – và lột sạch quần áo của anh ta. Hắn đã xóa các đặc điểm nhận dạng của cái xác và đóng giả là chính nạn nhân. Tôi không nghi ngờ một phút nào rằng hắn đã biết quả bom không giết được Percey và vì thế hắn đang trên đường hoàn thành nốt công việc. Và hắn sẽ biến anh thành một kẻ đồng mưu.”

“Hắn thậm chí còn không biết là tôi tồn tại.”

“Nếu như đó là điều anh muốn tin.”

“Lạy Chúa, anh bạn Reggie ơi”, Dellray chen vào. “Hãy mở to mắt ra!”

“Đừng có gọi tôi như thế.”

Sachs cũng hùa theo. “Chẳng lẽ anh vẫn không nhận ra sao? Anh chưa bao giờ phải đối đầu với bất kỳ ai như hắn cả.”

Mắt trừng trừng nhìn cô, Eliopolos nói với Sellitto. “Có lẽ ở cấp thành phố các anh người ta làm việc hơi khác thì phải. Ở cấp liên bang, người của chúng tôi luôn biết rõ vị trí của mình.”

Rhyme gắt lên, “Anh là một thằng ngốc nếu chỉ coi hắn như một tên găngxtơ hoặc một tên mafia nửa mùa nào đó. Không ai có thể trốn khỏi tay hắn cả. Cách duy nhất là phải chặn hắn lại”.

“Ừ, đúng rồi, Rhyme, từ đầu đến giờ toàn thấy mình anh hô hào xung trận thôi. Hừ, chúng tôi sẽ không hy sinh thêm bất kỳ cảnh sát nào nữa chỉ vì anh thấy n*ng với kẻ đã giết hai nhân viên kĩ thuật dưới quyền mình cách đây đã năm năm. Đấy là giả sử anh vẫn còn khả năng thấy n*ng…”

Eliopolos cũng là một người đàn ông to lớn vì vậy anh ta không khỏi choáng váng khi thấy mình bị xô ngã lăn ra sàn nhà quá dễ dàng, miệng há hốc đớp đớp trong không khí, mắt trợn trừng nhìn khuôn mặt căm giận đến bầm tím của Sellitto, nắm đấm của viên thám tử đang vung lên.

“Xin cứ việc, sĩ quan”, tay công tố viên thở khò khè, “và chỉ nửa tiếng nữa anh cũng sẽ bị truy tố ngay thôi”.

“Lon”, Rhyme nói, “cho qua đi, cho qua đi…”

Viên thám tử bình tĩnh lại, mắt tóe lửa nhìn người đàn ông, rồi bỏ ra chỗ khác. Eliopolos lồm cồm bò dậy.

Thực ra, với Rhyme, câu xúc phạm đó không có ý nghĩa gì. Thậm chí anh còn không hề nghĩ đến Eliopolos. Và kể cả tên Vũ công cũng không nốt. Vì anh vừa vô tình quay sang nhìn Amelia Sachs và nhận ra vẻ trống rỗng trong ánh mắt cô, trong đó chỉ còn là nỗi tuyệt vọng. Và anh hiểu cảm giác của cô lúc này: nỗi tuyệt vọng vì để sổng mất con mồi. Eliopolos đang đánh cắp đi của cô cơ hội được tóm tên Vũ công. Cũng như với chính Lincoln Rhyme, tên giết người đã trở thành nỗi ám ảnh đeo bám cuộc sống của cô.

Tất cả chỉ vì một bước sai lầm duy nhất – vụ việc ở sân bay, khi cô nhào xuống đất tìm chỗ nấp. Một việc nhỏ, một chi tiết không đáng kể đối với tất cả mọi người, trừ cô. Nhưng người ta vẫn nói thế nào nhỉ? Chỉ cần một thằng ngốc ném đá xuống hồ cả chục người khôn ngoan cũng không mò lại được. Nhưng cuộc sống của Rhyme giờ đây là cái gì nếu không phải là hậu quả của việc một mẩu gỗ đập vỡ một mẩu xương? Cuộc đời Sachs cũng sụp đổ trong khoảnh khắc duy nhất của hành động mà cô xem là hèn nhát đó. Nhưng không giống như trường hợp của Rhyme, vẫn còn – anh tin là thế – cơ hội cho cô sửa chữa hành động đó.

Ôi, Sachs, thật đau đớn khi phải làm thế này, nhưng anh cũng không còn lựa chọn nào khác. Anh nói với Eliopolos, “Thôi được rồi, nhưng đổi lại anh cũng phải làm một việc cho chúng tôi.”

“Nếu không các anh sẽ làm gì chứ?”, Eliopolos cười khẩy.

“Nếu không tôi sẽ không cho anh biết Percey đang ở đâu”, Rhyme nói thẳng. “Chúng tôi là những người duy nhất biết điều này.”

Bộ mặt của Eliopolos, đã không còn vẻ dương dương tự đắc đầy khiêu khích như tay một đấu sĩ của giải Vô địch Wrestling Thế giới[119]như lúc đầu, lạnh lùng nhìn thẳng vào mặt Rhyme. “Anh muốn gì?”

Rhyme hít một hơi rất sâu rồi trả lời. “Tên Vũ công có vẻ quan tâm đặc biệt đến việc truy sát những người đang săn lùng hắn. Nếu các anh muốn tiếp quản việc bảo vệ Percey, tôi muốn các anh cũng phải bảo vệ cả điều tra viên pháp y chủ chốt trong vụ án này.”

“Là anh ư?” Tay luật sư hỏi.

“Không, là Amelia Sachs”, Rhyme trả lời.

“Rhyme, không”, cô nói và giận dữ cau mày.

Amelis Sachs khinh suất và liều lĩnh… Vậy mà mình đang đặt cô ấy vào chính giữa khu vực tiêu diệt của hắn.

Anh ra hiệu cho cô lại gần mình.

“Tôi muốn ở lại đây”, cô nói. “Tôi muốn tìm hắn.”

Anh thì thào, “Ôi, đừng lo về chuyện đó, Sachs. Hắn sẽ đi tìm cô. Chúng tôi sẽ cố tìm ra vỏ bọc mới của hắn, Mel và tôi. Nhưng nếu hắn đang chuẩn bị ra tay ở Long Island, tôi muốn cô ở đó. Tôi muốn cô ở bên cạnh Percey. Cô là người duy nhất hiểu rõ hắn. Hừm, tất nhiên là cả tôi và cô. Nhưng trong tương lai gần chắc tôi không bắn bùng gì được cả.”

“Có thể hắn sẽ quay lại đây...”

“Tôi không nghĩ thế. Nhiều khả năng đây là con cá đầu tiên của hắn thoát khỏi lưới và hắn không hề thích điều đó chút nào. Kiểu gì hắn cũng sẽ săn lùng Percey. Hắn dám làm thế lắm, tôi biết mà.”

Cô tự đấu tranh với mình trong giây lát, rồi gật đầu.

“Được rồi”, Eliopolos nói, “cô sẽ đi cùng chúng tôi. Chúng tôi có một chiếc xe thùng đang chờ ngoài kia.”

Rhyme nói, “Sachs?”.

Cô dừng lại.

Eliopolos nói, “Chúng tôi thực sự cần lên đường thôi”.

“Một phút nữa tôi sẽ có mặt dưới đó.”

“Chúng ta đang chịu ít nhiều áp lực về mặt thời gian đấy, sĩ quan.”

“Tôi đã bảo, một phút nữa.” Cô dễ dàng giành chiến thắng trong trận đấu bằng ánh mặt và thế là Eliopolos cùng với tay cảnh sát tùy tùng của anh ta dẫn Jodie xuống cầu thang. “Khoan đã”, người đàn ông nhỏ bé gọi vọng từ hành lang vào phòng. Gã quay lại, chộp lấy quyển sách của mình, rồi lon ton chạy xuống cầu thang.

“Sachs...”

Anh đã định nói điều gì đó về việc phải tránh tỏ ra anh hùng rơm, về Jerry Banks, về việc cô không nên tự trách móc bản thân mình quá.

Về việc để cho những người chết được ngủ yên...

Nhưng anh biết bất kỳ lời khuyên can hay khích lệ nào trong lúc này cũng đều là sáo rỗng[120].

Và thế là anh nhỏ nhẹ, “Hãy bắn trước.”

Cô đặt bàn tay phải của mình lên bàn tay trái của anh. Anh nhắm mắt lại và cố hết sức để có thể cảm thấy da cô đang áp trên da anh. Anh tin là mình đã cảm thấy, cho dù chỉ là ở ngón tay đeo nhẫn.

Anh ngẩng lên nhìn cô. Cô nói, “Và anh nhớ lúc nào cũng phải có người bên cạnh trông nom đấy, được chứ?”. Cô gật nhẹ đầu về phía Sellitto và Dellray.

Một nhân viên pháp y của Sở Cảnh sát xuất hiện trên ngưỡng cửa, ngơ ngác nhìn quanh căn phòng, hết nhìn Rhyme lại nhìn mớ thiết bị hiện đại, nhìn cô nàng cảnh sát xinh đẹp, vẫn băn khoăn cố hiểu vì lí do quái quỷ gì mà anh ta lại đang làm cái việc mà người đã ra lệnh cho anh ta phải làm. “Có ai ở đây muốn có một cái xác phải không?” Anh ta rụt rè hỏi.

“Trong này!”, Rhyme gào lên. “Vào luôn đi! Chúng tôi cần nó ngay lập tức!”

Chiếc xe chạy qua một cánh cổng lớn và tiếp sau đó là một con đường hẹp. Con đường một làn xe tưởng chừng như trải dài không biết bao nhiêu dặm.

“Nếu đây mới chỉ là đường lái xe vào trong”, Roland Bell lẩm bẩm, “thì không hiểu ngôi nhà còn đến mức nào.”

Anh và Amelia Sachs ngồi hai bên Jodie, gã này làm tất cả mọi người trên xe bực mình không biết để đâu cho hết do gã liên tục ngọ nguậy trên ghế một cách bồn chồn, chiếc áo giáp chống đạn cồng kềnh của gã va vào mọi người mỗi lần gã kiểm tra các góc tối, những ô cửa khuất nẻo hoặc những chiếc xe chạy ngang qua suốt trên đường cao tốc Long Island. Ngồi sau là hai sĩ quan 32-E được trang bị súng máy. Percey Clay ngồi ở hàng ghế trên cùng cạnh người lái. Khi họ qua đón cô cùng với Bell tại nhà ga hàng không lính thủy đánh bộ tại LaGuardia trên đường tới hạtSuffolk, Sachs đã phải bàng hoàng khi nhìn thấy người nữ phi công.

Không phải do kiệt sức – mặc dù rõ ràng là cô đang rất mệt. Cũng không phải là sự sợ hãi. Không, chính vẻ buông xuôi hoàn toàn của Percey mới là điều khiến Sachs thấy đau lòng. Hồi còn là sĩ quan tuần tra, cô đã phải chứng kiến không biết bao nhiêu bi kịch trên đường phố. Cô đã quá nhiều lần phải đảm đương trách nhiệm thông báo những tin tồi tệ nhất cho người thân của các nạn nhân, nhưng cô chưa bao giờ trông thấy ai đầu hàng hoàn toàn như Percey Clay lúc này.

Chú thích

[119]Giải Vô địch Wrestling Thế giới: Một giải đấu vật mang tính biểu diễn và giải trí rất phổ biến trên truyền hình Mỹ.

[120]Nguyên văn là “ring like lead”: Ngân vang như chì.

Percey đang nói chuyện qua điện thoại với Ron Talbot. Qua câu chuyện của họ Sachs cũng có thể đoán được rằng Tập đoàn U.S. Medical thậm chí còn không đợi đến lúc đống tro tàn từ chiếc máy bay nguội hẳn trước khi tuyên bố hủy bỏ hợp đồng. Percey tắt máy và trân trân hồi lâu nhìn cảnh vật đang lướt qua ngoài cửa sổ. Cô lơ đãng nói với Bell. “Thậm chí công ty bảo hiểm còn từ chối thanh toán cho số hàng bị phá hủy. Họ cho rằng tôi đã bất chấp mối nguy hiểm được báo trước. Thế đấy.” Cô chua chát thốt lên, “Chúng tôi phá sản rồi.”

Những hàng thông lùi lại phía sau, rồi đến những rặng sồi, những cồn cát. Sachs, vốn là một cô gái thành phố, khi còn ở tuổi thanh niên đã từng tới hạt Nassau và Suffolk này không phải vì những bãi biển hay trung tâm mua sắm của chúng mà là để đẩy cần số chiếc Charger màu nâu sẫm của cô và thúc cho chiếc xe vọt lên tốc độ 60 dặm một giờ chỉ sau 5,9 giây trong những cuộc đua ô tô trái phép từng một thời khiến cho Long Island trở nên nổi tiếng. Cô cũng biết rung động trước khung cảnh rừng cây, đồng cỏ và những con bò, nhưng, đối với cô, thiên nhiên chỉ trở nên lung linh nhất khi cô lướt vù qua tất cả với vận tốc 110 dặm một giờ.

Jodie hết khoanh tay rồi lại duỗi tay, hết loay hoay trên chiếc ghế giữa lại quay ra nghịch với dây an toàn, và lại va vào người Sachs.

“Xin lỗi cô”, gã lí nhí.

Cô chỉ muốn vặn cổ gã.

Hóa ra ngôi nhà không hề tương xứng với con đường dẫn vào.

Đó là một ngôi nhà bố trí kiểu lệch tầng trải rộng, một sự kết hợp hổ lốn giữa gỗ nguyên súc và ván xẻ. Một công trình vô cảm xiêu vẹo, đổ nát theo thời gian bất chấp cơ man nào là tiền của liên bang rót vào.

Bầu trời đêm thật u ám, những mảng sương ẩm ướt giăng phủ khắp nơi, nhưng Sachs vẫn có thể quan sát đủ rõ để nhận thấy rằng ngôi nhà được bố trí giữa một khoảnh rừng cây rất rậm rạp. Mặt đất trong khoảng bán kính 200 thước xung quanh ngôi nhà đều đã được dọn sạch cây cối. Một tấm bình phong lý tưởng cho những người sống bên trong, nhưng ngược lại là những khoảng trống rất thoáng xung quanh giúp phát hiện bất kỳ kẻ nào có ý định đột nhập vào. Một dải màu xám mờ xa trong bóng tối nhập nhoạng đánh dấu bìa rừng. Một hồ nước rộng và tĩnh lặng nằm phía sau ngôi nhà.

Reggie Eliopolos trèo ra khỏi chiếc xe thùng và ra hiệu cho mọi người bước xuống. Anh ta dẫn họ vào trong sảnh chính của ngôi nhà rồi bàn giao họ cho một người đàn ông béo ú, trông anh ta có vẻ vui tính mặc dù anh ta không hề nhếch miệng mỉm cười một lần nào.

“Xin chào mừng quý vị”, anh ta nói. “Tôi là sĩ quan Cảnh Sát Tư Pháp Mỹ David Franks. Tôi muốn chia sẻ một chút với quý vị về tổ ấm xa nhà này của mình – cơ sở bảo vệ nhân chứng có chế độ an ninh chặt chẽ nhất nước Mỹ. Chúng tôi có các thiết bị cảm ứng nhạy cảm với trọng lượng và chuyển động được lắp ở khắp mọi nơi xung quanh khu vực này. Không ai có thể lọt vào trong mà không bị phát hiện bởi một thiết bị báo động nào đó. Máy tính đã được lập trình để cảm nhận những đặc tính chuyển động của con người, tương quan với trọng lượng, do đó các thiết bị báo động sẽ không phát tín hiệu cảnh báo nếu một con hưu hoặc một con chó nào đó tình cờ đi lạc vào vành đai bảo vệ. Chỉ cần kẻ đó – đúng hơn là người nào đó – bước chân vào những nơi không nên bước vào, toàn bộ nơi này sẽ bật sáng lòa như Quảng trường Thời đại vào đêm Giáng sinh. Thế còn nếu có kẻ tìm cách cưỡi trên lưng ngựa để xuyên qua vành đai bảo vệ thì sao? Chúng tôi đã nghĩ đến tình huống đó. Chỉ cần máy tính phát hiện được một trọng lượng bất thường có liên quan đến khoảng cách giữa các móng ngựa, thiết bị báo động sẽ bật lên ngay. Và bất kỳ chuyển động nào – dù là của chồn hay sóc – cũng sẽ kích hoạt các camera theo dõi bằng hồng ngoại.

À, mà chúng ta còn được bảo vệ bằng các trạm radar của sân bay khu vực Hampton, nên bất kỳ cuộc tấn công nào từ trên công cũng đều bị phát hiện tương đối sớm. Trong trường hợp có chuyện xảy ra, quý vị sẽ nghe thấy còi báo động và có thể nhìn thấy đèn pha rọi sáng. Xin hãy cứ ở nguyên chỗ của mình. Không được bước ra ngoài.”

“Ở đây các anh có lực lượng bảo vệ như thế nào?”, Sachs hỏi.

“Chúng tôi bố trí bốn cảnh sát trong nhà. Hai người ở trạm gác phía trước bên ngoài nhà, hai người ở trạm gác phía sau trông ra hồ. Và chỉ cần nhấn cái nút báo động kia là sẽ có một chiếc trực thăng Huey chở đầy những chàng trai SWAT có mặt tại đây trong vòng hai mươi phút.”

Vẻ mặt Jodie như muốn nói rằng hai mươi phút có vẻ là một quãng thời gian quá dài. Sachs cũng phải đồng ý với gã.

Eliopolos nhìn đồng hồ của mình. Anh ta nói, “Chúng tôi sẽ bố trí một chiếc xe bọc thép có mặt tại đây lúc sáu giờ sáng để đưa cô tới nơi bồi thẩm đoàn triệu tập. Xin lỗi vì cô không ngủ được nhiều cho lắm.” Anh ta liếc nhìn Percey, “Nhưng giá kể như tôi được làm theo cách của mình ngay từ đầu thì cô đã ở đây suốt cả đêm rồi, an toàn và lành lặn.”

Không ai nói lấy một lời tạm biệt khi anh ta bước ra khỏi cửa.

Franks nói tiếp, “Cũng cần nhắc thêm một vài việc nữa. Không được nhìn ra ngoài cửa sổ. Không được ra ngoài nếu không có người đi cùng. Chiếc điện thoại ở đằng kia” – anh ta chỉ vào một chiếc điện thoại màu be trong góc phòng khách – “rất an toàn. Đó là chiếc điện thoại duy nhất mà các vị nên sử dụng. Xin vui lòng tắt điện thoại di động của mình đi và không được sử dụng chúng trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Vậy đấy. Tất cả chỉ có thế. Có ai hỏi gì không?”.

Percey hỏi, “Có đấy, chỗ các anh có rượu không?”.

Franks quay sang chiếc tủ kính ngay cạnh mình và lôi ra một chai vodka cùng một chai whiskey. “Chúng tôi luôn muốn làm hài lòng những vị khách của mình.”

Anh ta đặt chai rượu trên bàn, rồi bước ra cửa trước, vừa đi vừa khoác áo gió lên người. “Tôi về nhà đây, chúc một đêm vui vẻ nhé, Tom”, anh ta nói với người cảnh sát đứng ở cửa và gật đầu với bốn người “được” bảo vệ đang đứng rải rác trong ngôi nhà đi săn bằng gỗ đánh véc ni bóng loáng, trước mặt họ là chai rượu đặt trên bàn và xung quanh là hơn chục chiếc đầu hưu và nai sừng tấm gắn trên tường đang trừng trừng nhìn xuống.

Chuông điện thoại bỗng đổ dồn, làm mọi người giật mình. Một cảnh sát bảo vệ nhấc ống nghe lên sau hồi chuông thứ ba. “A lô?”

Anh ta liếc về phía hai người phụ nữ. “Amelia Sachs?”

Cô gật đầu và cầm lấy ống nghe.

Đó là Rhyme gọi tới. “Sachs, chỗ đó có an toàn không?”

“Tốt lắm”, cô nói. “Công nghệ tối tân. Có manh mối gì với cái xác không?”

“Đến lúc này thì chưa có gì cả. Đã có bốn người đàn ông được thông báo là mất tích ở khu Manhattan trong vòng bốn giờ qua. Chúng tôi đang cho kiểm tra từng người một. Jodie có ở đó không?”

“Có.”

“Hãy hỏi anh ta xem tên Vũ công có bao giờ đề cập đến việc sử dụng một vỏ bọc cụ thể nào đó không?”

Cô truyền đạt lại câu hỏi.

Jodie cố nhớ lại. “Ừm, tôi nhớ là có lần hắn đã nói gì đó… Ý tôi là, cũng không có gì cụ thế. Hắn nói nếu đang chuẩn bị giết ai đó, ta phải xâm nhập, đánh giá, đánh lạc hướng, cô lập và tiêu diệt. Hay đại loại như thế. Tôi không nhớ chính xác. Ý hắn là đánh lạc hướng bằng cách sử dụng một người khác để làm gì đó, và khi mọi người đã lơ là mất cảnh giác, hắn sẽ ra tay. Tôi nghĩ hắn nhắc đến kiểu như một người đưa hàng hoặc một thẳng nhóc đánh giày chẳng hạn.”

Vũ khí đáng sợ nhất của anh ta là đánh lạc hướng...

Sau khi chuyển những thông tin này lại cho Rhyme, anh nói, “Theo chúng tôi thì cái xác là của một doanh nhân trẻ. Cũng có thể là một luật sư. Hỏi Jodie xem liệu có lần nào hắn nhắc đến việc tìm cách đột nhập vào tòa án trong phiên triệu tập của bồi thẩm đoàn không”.

Jodie trả lời là gã không nghĩ thế.

Sachs nói lại cho Rhyme biết.

“Được rồi. Cảm ơn.” Cô nghe thấy anh trao đổi gì đó với Mel Cooper. “Tôi sẽ gọi lại sau, Sachs.”

Sau khi họ gác máy, Percey hỏi mọi người xung quanh, “Có ai muốn làm một chút trước khi đi ngủ không?”.

Sachs không thể dứt khoát quyết định là cô muốn hay không nữa. Ký ức về cốc rượu whiskey trước khi diễn ra màn thất bại của cô trên giường Rhyme làm cô rùng mình. Nhưng trong một giây bốc đồng cô vụt trả lời, “Có chứ”.

Roland Bell cũng tự nhủ anh có thể cho mình tạm nghỉ ngơi khoảng nửa giờ.

Jodie quyết định chỉ tợp nhanh một ngụm nhỏ whiskey cho ấm người, rồi quay về giường mình, kẹp khư khư quyển sách về nghệ thuật sống dưới nách rồi tròn mắt nhìn những chiếc đầu hươu gắn trên tường với vẻ mặt tò mò của một cậu nhóc thành phố.

Ngoài trời, trong bầu không khí mùa xuân đặc quánh, tiếng ve sầu râm ran và lũ ễnh ương bắt đầu ộp oạp gọi bạn tình bằng tiếng kêu da diết đặc trưng của mình.

Khi hắn nhìn vào trong bóng tối nhập nhoạng của buổi sáng sớm mờ sương ngoài cửa sổ, Jodie có thể thấy những quầng sáng của đèn pha chiếu ra xuyên qua màn sương mù. Hai bên là những bóng đen đang nhảy múa – khi sương mù giăng lướt qua những thân cây.

Hắn rời khỏi cửa sổ và bước thẳng về phía cửa phòng mình, nhòm ra ngoài.

Hai cảnh sát bảo vệ hành lang này đang ngồi trong một phòng an ninh nhỏ cách đó khoảng 20 feet. Cả hai đều có vẻ buồn chán và cũng chỉ cảnh giác gọi là.

Hắn chăm chú nghe ngóng nhưng cũng không nghe thấy gì ngoài những âm thanh cọt kẹt và tí tách của một ngôi nhà gỗ lâu năm trong đêm tĩnh lặng.

Jodie quay về giường và ngồi trên tấm đệm võng lún. Hắn cầm trên tay cuốn sách Dependent No More nhàu nhĩ và bẩn thỉu của mình.

Đến lúc ra tay rồi, hắn tự nhủ.

Hắn mở phanh cuốn sách ra, phần gáy sách phết hồ nứt gãy, rồi lột bỏ một dải băng dính nhỏ dán dọc theo gáy sách. Một lưỡi dao dài trượt xuống giường. Trông lưỡi dao giống như kim loại đen nhưng trong thực tế nó được làm từ vật liệu polymer độn bột gốm mà không một máy phát hiện kim loại nào có thể tìm ra được. Lưỡi dao có màu mờ mờ, xỉn đục, một bên sắc như dao cạo, còn bên kia có răng nhọn như một lưỡi cưa phẫu thuật. Phần tay cầm được quấn bằng băng dính. Hắn đã tự mình thiết kế và chế tạo lưỡi dao này. Giống như hầu hết các loại vũ trang nguy hiểm khác, trông nó không hề hào nhoáng hay bắt mắt gì cho lắm và chỉ có đúng một chức năng: giết người. Và nó thực hiện đúng chức năng này rất, rất gọn gàng.

Hắn không hề e dè khi cầm lưỡi dao lên – kể cả khi hắn chạm vào tay nắm cửa chính hoặc cửa sổ – bởi vì hắn là chủ sở hữu những dấu vân tay hoàn toàn mới. Tháng trước, lớp da trên mười đầu ngón tay của hắn đã được một bác sĩ phẫu thuật ở Bern, Thụy Sĩ đốt đi bằng hóa chất, sau đó một bộ vân tay mới được khắc vào lớp mô sẹo bằng kĩ thuật laser dùng trong ngành vi phẫu. Tất nhiên những vân tay thật sự của hắn sẽ tự tái tạo trở lại, nhưng ít nhất cũng phải mất vài tháng nữa.

Ngồi trên mép giường, mắt nhắm nghiền, hắn hình dung ra căn phòng khách và bắt đầu bước xuyên qua nó trong ý nghĩ, nhớ lại vị trí của cánh cửa lớn, từng khung cửa sổ, từng món đồ trang trí, những bức tranh phong cảnh xấu tệ trên tường, những bộ sừng hươu trưng phía trên lò sưởi, gạt tàn, vũ khí và những vũ khí tiềm năng. Jodie có trí nhớ tốt đến nỗi hắn hoàn toàn có thể bước qua căn phòng cho dù bị bịt kín mắt mà vẫn không va phải bất kỳ một chiếc bàn hay một chiếc ghế nào.

Chìm đắm trong dòng suy nghĩ, hắn đưa cái tôi tưởng tượng của mình tới chỗ chiếc điện thoại trong góc phòng và dành một khoảng thời gian cân nhắc đến hệ thống liên lạc của ngôi nhà an toàn. Hắn đã quá quen với cơ chế hoạt động của hệ thống này (phần lớn thời gian rảnh rỗi của hắn được dành vào việc đọc sách hướng dẫn vận hành các hệ thống an ninh và liên lạc) và hắn biết rằng nếu cắt đường dây điện thoại này, sự sụt giảm về điện áp sẽ gửi tín hiệu báo động tới bảng điều khiển của các cảnh sát tư pháp trong ngôi nhà và có lẽ còn tới cả một văn phòng địa bàn gần đó. Vì vậy hắn sẽ phải để nó y nguyên như vậy.

Đó không phải là một vấn đề, mà là một nhân tố.

Tiếp tục hành trình tưởng tượng. Hắn kiểm tra những chiếc camera an ninh trong phòng khách chung – mà tay cảnh sát phụ trách đã “quên” thông báo cho họ biết. Chúng được bố trí theo kiểu chữ Y mà những tay chuyên viên thiết kế an ninh thường áp dụng cho một ngôi nhà an toàn của chính phủ trong điều kiện ngân sách có hạn. Hắn cũng biết rõ hệ thống này và cả việc nó có một khiếm khuyết nghiêm trọng về thiết kế – tất cả những gì hắn phải làm là gõ thật mạnh phần giữa của các ống kính. Hành động này làm trật vị trí của các thiết bị quang học bên trong; hình ảnh trên màn hình an ninh sẽ trở nên đen ngòm nhưng vẫn không có chuông báo động, mà đây là điều chắc chắn sẽ xảy ra nếu kẻ đột nhập dại dột nào đó cắt những đường cáp truyền tín hiệu.

Lại nghĩ đến những chiếc đèn… Hắn có thể vô hiệu hóa sáu – không, năm – trong tổng số tám chiếc đèn hắn đã nhìn thấy trong ngôi nhà an toàn nhưng hơn thế thì không thể. Phải đến khi tất cả những cảnh sát canh gác đều đã chết. Hắn ghi nhớ vị trí của từng công tắc đèn, rồi tiếp tục cuộc hành trình trong tâm trí. Phòng xem ti vi, gian bếp, những phòng ngủ. Ước lượng khoảng cách, cân nhắc góc nhìn từ bên ngoài vào.

Đó không phải là một vấn đề...

Ghi nhớ vị trí của từng nạn nhân. Xem xét khả năng có thể họ đã vào phòng trong vòng mười lăm phút vừa qua.

… mà chỉ là một nhân tố.

Đến đây hắn mở choàng mắt. Hắn gật đầu với chính mình, nhét con dao vào túi áo rồi đi dần ra cửa.

Hắn khẽ khàng bước vào gian bếp, thó một chiếc thìa có xẻ rãnh từ tủ chạn phía trên bồn rửa bát. Bước lại gần tủ lạnh và tự rót cho mình một cốc sữa. Sau đó hắn bước ra phòng khách chung và nhẩn nha đi từ giá sách nào sang giá sách kia, làm ra vẻ đang tìm kiếm thứ gì đó để đọc. Cứ đi qua một chiếc camera giám sát an ninh là hắn lại rướn lên với chiếc thìa và gõ mạnh vào ống kính. Sau đó hắn đặt cốc sữa và chiếc thìa lên một chiếc bàn rồi quay người bước về phía phòng an ninh.

“Ê, kiểm tra màn hình xem nào”, một người cảnh sát càu nhàu, vặn vẹo một nút điều khiển trên màn hình ti vi trước mặt anh ta.

“Sao thế?” Người kia hỏi, cũng không thực sự quan tâm cho lắm.

Jodie bước qua người cảnh sát đầu tiên, người này ngẩng đầu lên và bắt đầu hỏi, “Này, thưa ông, ông đang làm gì vậy” thì xoẹt, xoẹt, Jodie đã gọn ghẽ mở toang cổ họng anh ta ra thành chữ V, máu từ vết đâm phun trào vẽ thành một cầu vồng đỏ rực trong không khí. Đồng đội của anh ta trợn tròn mắt và vươn tay ra chộp lấy khẩu súng, nhưng Jodie đã giật nó khỏi tay anh ta và đâm nạn nhân một nhát vào cổ họng, một nhát vào giữa ngực. Anh ta đổ sụm xuống sàn nhà giãy giụa hồi lâu. Đó là một cái chết thật ồn ào – đúng như Jodie đã biết trước là sẽ như thế. Nhưng hắn không thể đâm thêm nhát dao nào nữa vào người đàn ông; hắn cần bộ đồng phục và buộc phải giết anh ta với lượng máu dây ra ở mức tối thiểu.

Trong khi người cảnh sát nằm còng queo trên sàn, giãy giụa và hấp hối, mắt anh ta vẫn trợn trừng nhìn Jodie trong lúc hắn đang lột bỏ bộ quần áo dính đầy máu nạn nhân ra. Ánh mắt người cảnh sát liếc đến bắp tay của Jodie và dán chặt vào hình xăm rất lạ.

Trong khi cúi xuống và bắt đầu cởi bộ đồng phục trên người viên cảnh sát tư pháp, Jodie chợt nhận ra ánh mắt người đàn ông xấu số, hắn bèn nói, “Nó được gọi là Vũ điệu của Thần Chết. Thấy không? Thần Chết đang nhảy với nạn nhân tiếp theo của hắn. Quan tài của cô ta ở ngay phía sau. Mày có thích không?”.

Hắn hỏi câu này với vẻ tò mò hoàn toàn thành thực, mặc dù hắn không nghĩ sẽ có câu trả lời. Và quả thật là không có.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36


Giờ thứ 43 của 45

Mel Cooper, tay đã xỏ sẵn đôi găng latex, đang đứng cạnh cái xác của người thanh niên họ tìm thấy trong Công viên Trung tâm.

“Tôi có thể thử dưới hai bàn chân”, anh gợi ý, không giấu được vẻ chán nản.

Những dấu vân dưới bàn chân cũng đặc trưng không khác gì dấu vân tay nhưng chúng cũng chẳng có giá trị gì nếu như họ không có mẫu lưu của đối tượng tình nghi; dấu vân chân không được lưu giữ trong các cơ sở dữ liệu AFIS.

“Đừng mất công làm gì”, Rhyme lầm bầm.

Cái xác này là của ai được nhỉ? Rhyme tự hỏi, mắt không rời cái xác tàn tạ trước mặt mình. Anh ta chính là chìa khóa cho hành động tiếp theo của tên Vũ công. Ôi, đây thật là cảm giác tồi tệ nhất trần đời: giống như một chỗ ngứa không thể nào với tới. Khi có một vật chứng ở ngay trước mặt, khi đã biết nó là chìa khóa của vụ án, vậy mà vẫn không thể nào giải mã nổi.

Ánh mắt Rhyme vơ vẩn lướt sang bản sơ đồ bằng chứng treo trên tường. Cái xác cũng giống như những mẫu sợi màu xanh họ tìm thấy trong hangar – quan trọng, Rhyme linh cảm được, nhưng ý nghĩa của chúng thì vẫn hoàn toàn mờ mịt.

“Còn gì nữa không?”, Rhyme hỏi tay bác sĩ lưu động vừa từ phòng pháp y của Sở Cảnh sát đến. Anh ta đã đến cùng với cái xác kia. Bác sĩ pháp y là một người đàn ông còn trẻ, nhưng đã bắt đầu hói, mồ hôi rịn ra thành từng chùm lớn trên trán anh ta. Tay bác sĩ pháp y nói, “Anh ta là người đồng tính, hay nói chính xác hơn, anh ta từng có lối sống của một người đồng giới khi anh ta còn trẻ. Có thể thấy anh ta đã nhiều lần quan hệ tình dục bằng đường hậu môn cách đây một vài năm, mặc dù gần đây thì không”.

Rhyme hỏi tiếp, “Vết sẹo kia cho anh biết điều gì? Phẫu thuật à?”.

“Chậc, đó là một vết rạch chính xác. Nhưng tôi không hiểu vì lí do gì mà lại phải mổ ở đó. Có thể là do tắc ruột. Nhưng ngay cả như thế chăng nữa tôi cũng chưa bao giờ nghe nói đến trường hợp có bác sĩ lại tiến hành mổ cho bệnh nhân ở vị trí hõm ổ bụng đó.”

Rhyme thầm tiếc là Sachs không có mặt ở đây. Anh muốn được ném vung vãi những suy nghĩ của mình ra với cô. Chắc chắn cô sẽ nghĩ được điều gì đó mà anh đã bỏ qua.

Anh ta có thể là ai được nhỉ? Rhyme suy nghĩ đến nát óc. Xác định nhân dạng là một ngành khoa học phức tạp. Anh đã từng có lần dựng lại được nhân dạng của một người đàn ông với đúng một cái răng duy nhất và không gì khác. Nhưng đây là quá trình đòi hỏi rất nhiều thời gian – thường là phải nhiều tuần không thì nhiều tháng.

“Kiểm tra nhóm máu và đặc điểm ADN”, Rhyme nói.

“Anh nói rồi còn gì nữa”, tay bác sĩ pháp y nói. “Chính tôi đã gửi các mẫu đi đối chiếu rồi.”

Nếu nạn nhân có phản ứng dương tính với HIV điều đó có thể giúp họ xác định danh tính của anh ta qua các bệnh viện hoặc bác sĩ. Nhưng nếu không còn manh mối nào để điều tra tiếp, thì việc phân tích nhóm máu cũng chưa chắc đã giúp được gì.

Vân tay...

Mình sẵn sàng đánh đổi bất kỳ điều gì để có một dấu vân tay tử tế, Rhyme thầm nghĩ. Có thể…

“Chờ đã!”, Rhyme bật cười thành tiếng. “Chim của anh ta!”

“Gì cơ?” Sellitto há hốc miệng.

Dellray thì nhíu mày khó hiểu.

“Anh ta không còn tay. Nhưng còn một phần cơ thể mà chắc chắn anh ta đã phải động tay vào thì sao?”

“dương v*t”, Cooper thốt lên. “Chỉ cần anh ta có đi tiểu trong vòng vài giờ qua là rất có thể chúng ta sẽ lấy được dấu vân tay!”

“Ai muốn đảm đương vinh dự này nào?”

“Chẳng có công việc gì là quá ghê tởm”, người kỹ thuật viên nói gọn lỏn, rồi lồng thêm một lớp găng tay latex khác. Anh bắt tay vào công việc với những tấm phim in da Kromekote. Và anh lấy được hai mẫu vân tay hoàn hảo – một dấu vân của ngón tay cái phía trên đầu dương v*t của cái xác và một dấu vân của ngón trỏ ở phía dưới.

“Tuyệt lắm, Mel.”

“Đừng kể với bạn gái tôi đấy”, người kỹ thuật viên ngượng ngùng nói. Anh nhập dấu vân tay vừa tìm được vào hệ thống AFIS.

Dòng tin nhắn hiện lên trên màn hình: Xin vui lòng chờ... Xin vui lòng chờ...

Cầu trời là có trong hồ sơ, Rhyme tuyệt vọng tự nhủ. Cầu trời là có trong hồ sơ.

Đúng là có thật.

Nhưng khi kết quả được gửi về, Sellitto và Dellray, hai người đứng gần nhất với máy tính của Cooper, trừng trừng nhìn màn hình như không tin vào mắt mình.

“Thế quái nào thế này?”, viên thám tử thốt lên.

“Sao thế?”, Rhyme hét lên. “Đó là ai vậy?”

“Đó là Kall.”

“Cái gì?”

“Đó chính là Stephen Kall”, Cooper nhắc lại. “Tỉ lệ trùng khớp là 20/20. Không thể nghi ngờ gì nữa.” Cooper tìm lại dấu vân tay tổng hợp mà họ đã lắp ghép được trước đó để xác định danh tính tên Vũ công. Anh đặt nó lên bàn cạnh tấm phim Kromekote. “Giống nhau hoàn toàn.”

Thế là thế nào? Rhyme ngơ ngẩn tự hỏi. Tai sao lại có chuyện đó?

“Thế biết đâu”, Sellitto nói, “đó chỉ là dấu vân tay của Kall trên chim của gã này thì sao? Biết đâu Kall lại là một tên nghiện khấu dâm?”.

“Chúng ta đã có mẫu ADN từ máu của Kall, đúng không? Được lấy ở tháp nước ấy?”

“Đúng rồi”, Cooper cũng nhớ ra.

“Hãy so sánh chúng với nhau”, Rhyme ra lệnh. “Tôi muốn có kết quả phân tích mẫu ADN của cái xác này. Và tôi muốn có nó ngay bây giờ.”

Chất thi vị chưa hề mất đi trong con người hắn.

“Vũ công Quan tài”… mình thích cái tên đó, hắn tự nhủ. Nghe hay hơn nhiều so với “Jodie” – cái tên được hắn lựa chọn cho phi vụ này vì nghe nó hoàn toàn không có gì đáng sợ. Một cái tên ngu xuẩn, một cái tên vô nghĩa.

Vũ công...

Tên gọi rất quan trọng, hắn biết điều đó. Hắn cũng nghiên cứu triết học. Nghệ thuật đặt tên – phân biệt từng cá thể – chỉ có ở loài người. Lúc này đây tên Vũ công đang thì thầm nói với Stephen Kall quá cố và chỉ còn là cái xác cụt tay: Kẻ mà ngươi nghe nói tới chính là ta. Chính ta là người chuyên gọi các nạn nhân của mình là “xác chết”. Ngươi gọi chúng là Người vợ, là Người chồng, là Người bạn, muốn thế nào cũng được.

Nhưng một khi đã có kẻ thuê ta giết thì chúng chỉ còn là xác chết. Đơn giản thế thôi.

Mặc trên người bộ đồng phục của một cảnh sát Tư pháp Mỹ, hắn bắt đầu bước dọc hành lang mờ tối bỏ lại xác chết của hai nạn nhân. Tất nhiên hắn không thể nào tránh được việc bị máu dây vào quần áo, nhưng trong bóng tối mờ ảo của khu nhà giữa rừng này cũng khó có thể nhận ra những mảng máu đỏ bầm thấm vào bộ đồng phục cảnh sát màu xanh hải quân.

Lên đường đi tìm Xác chết số ba.

Người vợ, nếu ngươi thích gọi thế, Stephen. Ngươi mới thật là một sinh vật phức tạp và yếu đuối làm sao. Với hai bàn tay lúc nào cũng được cọ sạch và một con chim lạc lối! Người chồng, Người vợ, Người bạn…

Xâm nhập, Đánh giá, Đánh lạc hướng, Tiêu diệt…

À, Stephen… Lẽ ra ta có thể dạy ngươi rằng trong cái nghề này chỉ có một quy tắc duy nhất: Phải đi trước một bước so với bất kỳ kẻ nào.

Giờ đây hắn đã có hai khẩu súng ngắn nhưng hắn sẽ chưa dùng đến chúng vội. Hắn không bao giờ muốn ra tay một cách bất cẩn. Chỉ cần sơ sẩy lúc này hắn sẽ không bao giờ còn cơ hội giết Percey Clay trước khi bồi thẩm đoàn triệu tập sáng ngày hôm đó.

Nhẹ nhàng di chuyển vào phòng riêng nơi hai cảnh sát bảo vệ khác đang ngồi, một người đang đọc báo, người kia đang xem ti vi.

Người thứ nhất ngẩng đầu lên, liếc nhìn tên Vũ công, nhìn thấy bộ đồng phục, cúi xuống đọc báo tiếp. Rồi lại ngẩng lên.

“Chờ chút”, viên cảnh sát lắp bắp, bất thình lình nhận ra anh ta không biết khuôn mặt này.

Nhưng tên Vũ công không chờ.

Hắn trả lời bằng hai tiếng xoẹt, xoẹt vào cả hai bên động mạch cảnh. Người cảnh sát đổ gục về phía trước và chết trên trang sáu của tờ Daily News lặng lẽ đến nỗi cộng sự của anh ta vẫn dán mắt vào màn hình ti vi, nơi một phụ nữ tóc vàng đeo cơ man nào là trang sức bằng vàng đang thao thao giải thích cô ta đã gặp bạn trai của mình qua một lần lên đồng gọi hồn như thế nào.

“Chờ á? Chờ cái gì?”, người cảnh sát thứ hai hỏi, mắt vẫn không rời khỏi màn hình.

Anh ta chết hơi ồn ào hơn một chút so với cộng sự của mình, nhưng có vẻ như không một ai trong ngôi nhà nghe thấy. Tên Vũ công đặt hai cái xác nằm xuống sàn, rồi kéo họ vào dưới gầm bàn.

Ra đến cửa sau hắn dừng lại kiểm tra chắc chắn là không có thiết bị cảm ứng trên khung cửa rồi mới lẻn ra ngoài. Hai cảnh sát đứng gác phía trước rất cảnh giác, nhưng ánh mắt của họ không hướng về ngôi nhà. Một người liếc nhanh về phía tên Vũ công, khẽ gật đầu chào, rồi quay lưng lại và tiếp tục quan sát. Một ánh bình minh đang bắt đầu hé lên phía chân trời, nhưng trời vẫn còn đủ tối để anh ta không nhận ra hắn. Cả hai cùng chết mà hầu như không kịp kêu một tiếng.

Đến lượt hai người gác phía sau, ở trạm gác nhìn ra hồ nước, tên Vũ công nhẹ nhàng đến phía sau họ. Hắn thọc dao vào tim một người cảnh sát bằng nhát đâm từ phía sau lưng và rồi xoẹt, xoẹt, cắt phanh cổ họng của người cảnh sát thứ hai. Nằm trên mặt đất, người cảnh sát thứ nhất bật ra một tiếng thét xé lòng trước khi chết hẳn. Nhưng một lần nữa dường như không có ai nghe thấy; có lẽ vì âm thanh nghe giống hệt tiếng kêu của một con chim lặn gavia[121] đang đón chào ánh ban mai tuyệt đẹp phớt hồng pha ánh xám đang hửng dần, tên Vũ công tự nhủ.

Coi như Rhyme và Sellitto đã lụt cổ trong món nợ ngân sách khi bản fax in kết quả phân tích ADN được chuyển đến. Kết quả được đưa ra bằng phương pháp xét nghiệm nhanh, nhưng hầu như cũng đủ để đưa ra kết luận cuối cùng; tỉ lệ vào khoảng 6000/1 rằng cái xác trước mặt họ lúc này chính là Stephen Kall.

“Có kẻ đã giết hắn?”, Sellitto thốt lên. Áo sơ mi của anh nhàu nhĩ đến nỗi trông nó giống như hình ảnh của một mẫu sợi vải được đặt dưới ống kính hiển vi có độ phóng đại năm trăm lần. “Tại sao chứ?”

Nhưng tại sao lại không phải câu hỏi trong đầu nhà hình sự học lúc này.

Bằng chứng… Rhyme tự nhủ. Bằng chứng là mối quan tâm duy nhất của anh.

Anh liếc nhìn lên những hồ sơ hiện trường vụ án treo trên tường, đảo qua tất cả những đầu mối của vụ án. Những mẫu sợi, đầu đạn, mẩu kính vỡ…

Chú thích

[121]Chim lặn gavia: Một giống chim ăn cá phổ biến ở Bắc Mỹ, giống như chim cốc, có đuôi ngắn, chân có màng, lông mượt màu đen và trắng, có tiếng kêu rất đặc trưng.

Phân tích đi! Nghĩ đi nào!

Mày biết quy trình đó mà. Mày đã thực hiện nó hàng triệu lần rồi.

Trước hết anh phải xác định các dữ kiện. Rồi anh tiến hành xác định số lượng và phân loại chúng. Anh đưa ra các giả thuyết. Và từ đó anh rút ra kết luận. Tiếp theo là kiểm tra…

Các giả thuyết, Rhyme thầm nghĩ.

Có một giả thuyết hiển nhiên có mặt trong vụ án ngay từ đầu. Họ đã tiến hành điều tra hoàn toàn dựa trên ý nghĩ rằng Kall là Vũ công Quan tài. Nhưng trong trường hợp không phải thế thì sao? Giả sử như hắn chỉ là một con tốt và tên Vũ công đã sử dụng hắn như một thứ vũ khí?

Đánh lạc hướng...

Nếu thế sẽ lại có một số bằng chứng không hề ăn khớp. Điều gì đó chỉ ra kẻ nào thực sự là tên Vũ công.

Anh căng mắt nhìn những bảng sơ đồ thật kỹ càng.

Nhưng tất cả đều đã được giải mã đầy đủ chỉ trừ mẫu sợi màu xanh. Hơn nữa cái đó lại không cho anh biết điều gì.

“Chúng ta không tìm được bất kỳ thứ quần áo nào trên người Kall, đúng không?”

“Không có, người trần như nhộng khi được phát hiện”, tay bác sĩ pháp y nói.

“Chúng ta có thứ gì mà hắn đã từng tiếp xúc đến không?”

Sellitto nhún vai, “Hừm, thì gã Jodie đấy”.

Rhyme hỏi, “Anh ta đã thay quần áo ở đây đúng không?”.

“Đúng thế”, Sellitto trả lời.

“Mang lên đây. Quần áo của Jodie ấy. Tôi muốn kiểm tra chúng.”

“Ọe”, Dellray thốt lên. “Chúng bốc mùi không dễ chịu lắm đâu.”

Cooper đi tìm và mang đống quần áo lên. Anh rũ và trải chúng trên những tờ giấy in báo sạch sẽ. Sau đó anh gắp những mẫu chất rơi ra lên giá kính rồi đặt dưới đế quan sát của kính hiển vi điện tử.

“Xem chúng ta có gì nào?” Rhyme hỏi và nhìn lên màn hình máy tính, trên đó là hình ảnh giống hệt những gì Cooper đang nhìn thấy qua kính hiển vi.

“Cái thứ màu trắng kia là gì?”, Cooper hỏi. “Những hạt kia kìa. Chúng có khá nhiều. Rơi ra từ đường chỉ quần của hắn.”

Rhyme cảm thấy mặt mình đột nhiên nóng bừng. Một phần là vì huyết áp của anh bắt đầu hỗn loạn do kiệt sức, một phần là vì cơn đau ma quái thỉnh thoảng vẫn bất thần trở lại hành hạ anh. Nhưng chủ yếu là vì sự căng thẳng của cuộc săn lùng.

“Ôi, lạy Chúa tôi”, anh thì thầm.

“Chuyện gì thế? Lincoln?”

“Đó là đá oolite”, anh khẳng định.

“Là cái chết tiệt gì?”, Sellitto hỏi.

“Đá trứng cá. Đó là một loại cát hình thành từ san hô bị phong hóa. Người ta tìm thấy chúng ở đảo Bahamas.”

“Bahamas?”, Cooper hỏi và nhíu mày. “Chúng ta cũng vừa mới nghe nói cái gì về Bahamas ấy nhỉ?” Anh nhìn quanh phòng thí nghiệm. “Tôi không nhớ.”

Nhưng Rhyme thì có. Mắt anh đang dán chặt lên tấm bảng sơ đồ, nơi đang ghim báo cáo phân tích của FBI về mẫu cát do Amelia Sachs tìm được tuần trước trong xe của Tony Panelli, viên đặc vụ bị mất tích trong phân khu trung tâm.

Anh đọc những dòng ghi trên đó:

“Về mặt kĩ thuật thì mẫu được gửi tới phân tích không hẳn là cát. Nó là một mẩu vụn san hô từ những rạn san hô ngâm dưới biển và có chứa những gai nhỏ, cả dấu cắt ngang xúc tu của những con giun biển, vỏ các loài chân bụng và trùng có lỗ. Nhiều khả năng những mẩu vụn san hô này có nguồn gốc từ phía bắc khu vực Caribbe: Cuba hoặc Bahamas.”

Viên đặc vụ Dellray, Sellitto nhớ lại… Người nắm rõ những ngôi nhà an toàn của chính phủ liên bang được bảo vệ nghiêm ngặt nhất trong khu Manhattan. Người sẽ phải khai tất cả cho kẻ đang tra tấn anh ta để moi địa chỉ.

Đó là lý do tại sao tên Vũ công có thể chờ sẵn ở đó, chờ Stephen Kall xuất hiện, kết bạn với hắn, rồi bố trí để chính mình bị bắt và tiếp cận các nạn nhân.

“Các loại thuốc!”, Rhyme hét lên.

“Anh bảo gì?” Sellitto không hiểu.

“Tôi bảo gì à! Dân bán ma túy không bao giờ pha trộn thuốc có kê đơn! Như thế quá mất công. Chúng chỉ pha loãng ma túy đường phố thôi!”

Cooper gật đầu. “Hóa ra tên Jodie không hề trộn lẫn số thuốc hắn ăn cắp được với sữa bột của trẻ em. Hắn chỉ bán thuốc nguyên viên thôi. Hắn lại còn nuốt cả những viên thuốc giả để chúng ta tưởng hắn là dân nghiện.”

“Jodie chính là Vũ công”, Rhyme gào toáng lên. “Gọi điện ngay đi! Gọi đến ngôi nhà an toàn ngay lập tức!”

Sellitto chộp lấy điện thoại và bấm số.

Chẳng lẽ đã quá muộn?

Ôi, Amelia, anh đã làm gì thế này? Lẽ nào anh đã giết em?

Bầu trời đang ửng lên một màu hồng ấm áp.

Một tiếng còi hụ từ xa vọng đến.

Con chim ưng đực – con tiercel, anh tự nhủ – cũng vừa thức dậy và đang chuẩn bị đi săn.

Lon Sellitto tuyệt vọng ngẩng đầu lên từ chỗ đặt điện thoại. “Không có ai trả lời”, anh nói.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37


Giờ thứ 44 của 45

Họ đã nói chuyện một lúc lâu, cả ba người với nhau, trong phòng của Percey.

Nói về máy bay, về xe cộ và công việc của cảnh sát.

Rồi khi Bell đã quay về phòng mình chợp mắt thì Percey và Sachs lại tâm sự về đàn ông.

Cuối cùng Percey nằm ngả lưng xuống giường, nhắm mắt lại. Sachs nhấc chiếc cốc whiskey ra khỏi tay người nữ phi công đang ngủ và tắt đèn. Cô tự nhủ mình cũng phải về phòng cố ngủ một chút.

Lúc này cô đang dừng lại trong hành lang để tranh thủ ngắm nhìn bầu trời ban mai đang ửng dần – một màu hồng và cam dịu mắt – bỗng cô chợt nhận ra là chiếc điện thoại trong sảnh chính của khu nhà đã đổ chuông được một lúc lâu.

Tại sao không có ai nghe máy nhỉ?

Cô tiếp tục đi dọc theo hành lang.

Cô không nhìn thấy hai người cảnh sát bảo vệ gần đó. Khu nhà có vẻ còn tối hơn trước. Hầu hết bóng đèn đã bị tắt đi. Một nơi thật u ám, cô tự nhủ. Rùng rợn. Thoang thoảng mùi gỗ thông và rêu ẩm. Còn gì nữa nhỉ? Một mùi gì đó rất quen thuộc với cô. Là mùi gì nhỉ?

Mùi gì đó thường thấy ở những hiện trường vụ án. Nhưng trong trạng thái kiệt sức như lúc này cô không sao nhớ nổi.

Điện thoại vẫn dai dẳng đổ chuông.

Cô bước qua cửa phòng Roland Bell. Cánh cửa hơi hé mở và cô nhìn vào trong. Lưng anh quay ra cửa. Anh đang ngồi trong một chiếc ghế bành nhìn ra khung cửa sổ che kín rèm, đầu anh gục xuống ngực, hai tay khoanh lại.

“Thám tử?” Cô khẽ gọi.

Không thấy anh trả lời.

Giấc ngủ thật ngon lành. Đó chính là điều chính cô cũng đang muốn có. Cô khẽ khàng khép cửa lại và tiếp tục đi dọc hành lang, về phía phòng mình.

Cô vừa bước vừa nghĩ đến Rhyme. Cô hy vọng anh cũng đang tranh thủ chợp mắt đôi chút. Cô đã từng chứng kiến một cơn rối loạn huyết áp của anh. Lần đó thật đáng sợ và cô không muốn anh phải chịu đựng như thế thêm nữa.

Chuông điện thoại im bặt, giữa một hồi chuông chưa đổ hết. Cô liếc nhìn về phía cô đã nghe thấy tiếng chuông, phân vân không biết đó có phải là điện thoại gọi cho mình không. Cô không nghe thấy tiếng người nào trả lời. Cô chờ thêm một lát, nhưng không thấy ai gọi mình.

Im lặng. Rồi một tiếng gõ, một tiếng sột soạt rất khẽ. Và tất cả lại chìm vào im lặng.

Cô bước vào trong phòng mình. Căn phòng tối om. Cô quay người sờ tìm công tắc và chợt nhận ra mình đang trừng trừng nhìn thẳng vào một đôi mắt loé sáng phản chiếu ánh đèn từ bên ngoài rọi vào.

Tay phải nắm chặt báng khẩu Glock của mình, cô vung tay trái lên bật công tắc đèn. Cái đầu hươu gớm guốc trừng trừng nhìn cô bằng đôi mắt giả bóng loáng.

“Những con thú chết”, cô lầm bầm. “Thật là sáng kiến vĩ đại trong một ngôi nhà an toàn…”

Cô cởi áo ngoài và gỡ chiếc áo giáp chống đạn American Body Armor cồng kềnh ra khỏi người. Tất nhiên là không đến nỗi cồng kềnh như áo giáp của Jodie. Thật là một gã đáng ghét. Đồ… quắt queo… Dellray dùng từ đường phố gì ấy nhỉ? À, xương khô. Kẻ vứt đi gầy nhẳng. Thật là một tên đần độn.

Cô luồn tay vào dưới lần áo lót lưới của mình và cào như điên. Hai bầu ngực, phần lưng dưới áo nịt, hai bên sườn.

Ôi trời ơi, thật là dễ chịu.

Kiệt sức, cái đó thì không phải bàn cãi nữa, nhưng liệu cô có ngủ được không?

Chiếc giường trông mới dễ chịu và êm ái làm sao.

Cô lại choàng chiếc áo lên người, và đóng cúc lại, rồi nằm xuống đệm. Nhắm mắt lại. Hình như cô vừa nghe thấy tiếng bước chân?

Một trong những cảnh sát bảo vệ đang pha cà phê thôi, cô tự nhủ.

Ngủ thôi chứ? Thở sâu nào…

Không ngủ được.

Mắt cô mở thao láo và cô trừng trừng nhìn lên trần nhà đầy mạng nhện.

Tên Vũ công Quan tài, cô trầm ngâm. Hắn sẽ tấn công họ bằng cách nào đây? Vũ khí lần này của hắn là gì?

Vũ khí đáng sợ nhất của hắn là đánh lạc hướng…

Liếc nhìn ra một kẽ rèm chưa khép hết, cô nhận ra ánh bình minh tuyệt đẹp màu xám bạc như vảy cá. Một làn sương mỏng đang làm nhoè màu ban mai chiếu rọi trên rặng cây phía xa.

Đâu đó trong khu nhà cô chợt nghe thấy một tiếng thịch rất khẽ. Tiếng bước chân.

Sachs vùng dậy đặt chân xuống sàn nhà và ngồi thẳng lên. Có lẽ cũng không nên cố làm gì nữa, tốt nhất là dậy uống chút cà phê. Đêm nay mình sẽ ngủ bù vậy.

Cô chợt cảm thấy một nỗi thôi thúc muốn nói chuyện với Rhyme, để hỏi xem anh đã phát hiện thêm được gì chưa. Cô có thể nghe thấy giọng anh đang nói, “Nếu như tôi mà phát hiện được gì thì chắc chắn tôi đã gọi cho cô rồi, đúng không? Tôi đã bảo là tôi sẽ gọi mà”.

Không, cô không muốn đánh thức anh dậy, nhưng cô ngờ là anh cũng không chợp mắt. Cô rút điện thoại di động của mình từ trong túi ra và bật nó lên trước khi kịp nhớ là viên cảnh sát tư pháp Franks đã cảnh báo họ chỉ được sử dụng đường dây điện thoại bảo mật trong phòng khách.

Đúng lúc cô định tắt điện thoại thì nó rung lên inh ỏi.

Sachs rùng mình – không phải vì âm thanh chói tai kia, mà là vì ý nghĩ bằng cách nào đó tên Vũ công đã lần ra số điện thoại của cô và muốn gọi để chắc chắn rằng cô đang ở trong khu nhà an toàn này. Trong giây lát cô còn tự hỏi hay là bằng cách nào đó hắn đã gài được thuốc nổ vào trong điện thoại của cô.

Mẹ kiếp, Rhyme, xem tôi sợ đến mức nào đây này!

Đừng có trả lời, cô tự nhủ.

Nhưng bản năng mách bảo cô nên trả lời, và cho dù các nhà hình sự học có phủ nhận bản năng đi nữa, thì cảnh sát tuần tra, đặc biệt là cảnh sát đường phố, bao giờ cũng lắng nghe những tiếng gọi từ bên trong đó. Cô kéo dài chiếc ăng ten của điện thoại ra.

“A lô?”

“Tạ ơn Chúa…” Giọng nói hoảng sợ của Lincoln Rhyme làm cô cũng thấy sởn gai ốc.

“Ôi, Rhyme. Có chuyện gì…”

“Nghe cho kỹ này. Cô đang ở một mình à?”

“Vâng. Có chuyện gì thế?”

“Jodie chính là tên Vũ công.”

“Cái gì?”

“Stephen Kall chỉ là cách đánh lạc hướng. Jodie đã giết hắn. Cái xác mà chúng ta tìm được trong công viên chính là của Stephen Kall. Percey đâu rồi?”

“Trong phòng chị ấy. Ở đầu hành lang. Nhưng làm thế nào mà…”

“Không có thời gian nữa đâu. Chắc chắn lúc này hắn đang ra tay. Nếu những cảnh sát bảo vệ còn sống, hãy bảo họ thiết lập vị trí phòng thủ trong một căn phòng nào đó. Nếu họ chết rồi, hãy đi tìm Percey và Bell rồi thoát ra ngoài. Dellray vừa báo động cho lực lượng SWAT nhưng cũng sẽ phải mất hai mươi đến ba mươi phút trước khi họ kịp tới đó.”

“Nhưng có đến tám cảnh sát bảo vệ. Hắn không thể nào vô hiệu hoá được ngần ấy người…”

“Sachs”, anh nghiêm nghị nói, “hãy nhớ hắn là ai. Đi ngay đi! Hãy gọi cho tôi khi cô đã an toàn.”

Bell! Cô chợt nghĩ ra, và nhớ lại tư thế bất động của người thám tử, đầu anh cúi gục về phía trước.

Cô lao ra cửa phòng mình, mở toang cánh cửa, rút súng cầm trên tay. Phòng khách đen ngòm và hành lang sâu thông thống. Tối om. Chỉ có những tia sáng ban mai đầu tiên nhợt nhạt le lói hắt vào trong các căn phòng. Cô nghe ngóng. Có tiếng di chuyển. Tiếng kim loại lách cách. Nhưng những âm thanh đó từ đâu vọng đến?

Sachs quay về phía phòng Bell và bước thật nhẹ nhàng và rón rén hết sức có thể.

Anh tấn công cô đúng ngay trước khi kịp bước vào phòng anh.

Vừa thoáng thấy bóng người bước vụt từ ngưỡng cửa ra, cô vội thụp người xuống và chĩa khẩu Glock về phía đó. Anh khẽ kêu lên và chặt mạnh cạnh bàn tay khiến khẩu súng văng ra khỏi tay cô. Không kịp nghĩ gì nữa, cô húc thẳng đầu mình đẩy anh về phía trước, xô anh ngã đập lưng vào tường.

Quờ tay xuống tìm con dao bấm.

Roland Bell thở hổn hển, “Bình tĩnh đi. Ê, này...”

Sachs vội buông vạt áo anh ra.

“Là anh à?”

“Cô làm tôi sợ vãi cả linh hồn mất. Chuyện gì...?”

“Anh không sao à!”, cô thốt lên.

“Chỉ vừa ngủ quên mất một phút. Có chuyện gì thế?”

“Jodie chính là Vũ công. Rhyme vừa gọi cho tôi.”

“Cái gì? Sao lại thế?”

“Tôi không biết.” Cô nhìn quanh, người run lên vì sợ. “Những người bảo vệ đâu hết rồi?”

Cả hành lang và sảnh đều vắng tanh.

Và cô đột nhiên nhận ra cái mùi mà cô vẫn băn khoăn từ nãy tới giờ. Chính là mùi máu! Như mùi đồng nung nóng. Và đến lúc này cô biết chắc rằng tất cả những cảnh sát bảo vệ đều đã chết. Sachs loay hoay đi tìm khẩu súng của mình, nó đang nằm lăn lóc trên sàn. Cô cau mày, nhìn xuống phía cuối báng súng. Cái chỗ lẽ ra là băng đạn giờ chỉ còn là một lỗ trống hoác. Cô nhặt khẩu súng lên.

“Không!”

“Có chuyện gì?” Bell hỏi.

“Băng đạn của tôi. Biến mất rồi.” Cô vội vỗ lên thắt lưng đồ của mình. Cả hai băng đạn dự phòng trong túi cũng đã biến mất.

Bell rút hai khẩu súng của anh ra – một khẩu Glock và một khẩu Browming. Cả hai đều không còn băng đạn. Thậm chí cả buồng đạn cũng trống trơn.

“Lúc ở trong xe!”, cô lắp bắp. “Tôi dám cá hắn đã giở trò lúc ở trong xe. Hắn đã ngồi giữa chúng ta. Ngọ nguậy không yên suốt chặng đường. Hết xô vào người này lại ngả sang người kia.”

Bell nói, “Tôi đã thấy có một tủ súng ở trong phòng khách. Có hai khẩu súng trường đi săn”.

Sachs cũng nhớ điều này. Cô chỉ tay. “Kia kìa!” Họ chỉ có thể lờ mờ nhận ra cái tủ trong ánh ban mai nhập nhoạng. Bell nhìn quanh mình và lom khom chạy vụt tới đó, trong khi Sachs chạy sang phòng Percey và nhìn vào trong. Người nữ phi công đang nằm ngủ trên giường.

Sachs bước trở ra hành lang, bấm cho lưỡi dao bật lên và cúi thấp người, nheo mắt nhìn quanh. Một lát sau Bell quay lại. “Tủ súng bị phá khoá rồi. Cả hai khẩu súng trường đều đã biến mất. Cả đạn cho súng ngắn cũng không còn.”

“Đánh thức Percey dậy và ra khỏi đây thôi.”

Một tiếng bước chân vọng đến từ cách đó không xa. Một tiếng cạch khô khốc của khoá nòng súng trường lên đạn.

Cô chụp lấy cổ áo của Bell và lôi anh nhào xuống sàn nhà.

Phát súng nổ đanh đến điếc tai và đầu đạn lao đi phá vỡ giới hạn âm thanh sát sạt ngay phía trên đầu họ. Sachs ngửi thấy mùi khét của chính tóc cô bị cháy sém. Chắc chắn lúc này Jodie phải có trên người cả một kho vũ khí đáng kể – tất cả số súng ngắn của những người cảnh sát bảo vệ – nhưng hắn lại đang dùng khẩu súng trường đi săn.

Họ lao vọt về phía phòng Percey. Cánh cửa bật mở đúng lúc họ chạy đến nơi và cô bước ra, miệng há hốc, “Lạy Chúa, có chuyện gì….”.

Cú xô cả người của Roland Bell đẩy Percey bắn trở lại trong phòng. Sachs cũng lao vào nằm đè lên trên hai người. Cô đạp cửa đóng chặt lại, khoá vào, rồi chạy tới bên cửa sổ, đẩy nó mở toang ra. “Ra, ra, ra, ra…”

Bell bế xốc Percey Clay còn đang bàng hoàng lên khỏi mặt sàn và lôi cô về phía cửa sổ trong khi những phát đạn săn hươu có sức công phá lớn đang phá nát cánh cửa gỗ xung quanh ổ khoá.

Không một ai trong ba người còn tâm trí mà để ý xem tên Vũ công thành công đến đâu trong việc phá khoá. Họ nhào ra khỏi cửa sổ hoà vào ánh sáng bình minh bên ngoài và chạy và chạy và chạy xuyên qua bãi cỏ còn thấm đẫm sương đêm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38


Giờ thứ 44 của 45

Sachs dừng lại khi đến mép hồ. Sương mù, như được dát một lớp áo màu hồng và đỏ của ánh bình minh, lơ lửng thành những mảng lớn hình thù ma quái trên mặt nước tĩnh lặng và xám xịt.

“Chạy tiếp đi”, cô hét lên với Percey và Bell. “Về rặng cây đằng kia.”

Cô đang chỉ tay về phía nơi ẩn náu gần nhất – một rặng cây rậm rạp ở phía cuối đồng cỏ rộng nằm bên kia hồ nước. Nó còn cách chỗ họ khoảng hơn 100 thước nữa nhưng dù sao cũng vẫn là nơi ẩn náu gần nhất lúc này.

Sachs liếc nhanh về phía khu nhà gỗ. Không thấy bóng dáng Jodie đâu cả. Cô thụp người xuống nép sát cạnh xác của một trong những cảnh sát bảo vệ. Tất nhiên bao súng của anh ta đã trống trơn, cả những băng đạn cũng không còn. Cô biết trước là Jodie đã lấy những vũ khí đó đi, nhưng cô vẫn hy vọng còn điều gì đó mà hắn không ngờ tới.

Hắn cũng là người thôi, Rhyme...

Và sau một hồi cuống cuồng sờ lần trên cái xác lạnh ngắt cô cũng tìm thấy thứ cô đang tìm kiếm. Khi kéo hẳn gấu quần của người cảnh sát bảo vệ lên trên ống đồng, cô rút ra được thứ vũ khí dự phòng vốn được anh ta dắt trong chiếc bao phía trên mắt cá. Một khẩu súng ngu xuẩn. Một khẩu Colt ổ xoay bé tí với năm viên đạn, nòng súng ngắn choằn chưa đến hai inch.

Cô liếc về phía khu nhà gỗ đúng lúc khuôn mặt của Jodie hiện ra trên cửa sổ. Hắn nâng khẩu súng trường săn lên. Sachs quay ngoắt lại và nã vội một phát súng. Cửa kính vỡ choang cách mặt hắn chỉ trong gang tấc khiến hắn phải loạng choạng hụp đầu vào trong phòng.

Sachs chạy vòng quanh mép hồ đuổi theo Bell và Percey. Họ chạy như điên, lạng bên này rồi lại tránh sang bên kia, xuyên qua đồng cỏ đẫm sương.

Họ mới chỉ chạy xa khỏi ngôi nhà gỗ được gần 100 thước trước khi nghe thấy phát súng đầu tiên. Đó là một tiếng súng nổ đanh giòn, rền vang qua các gốc cây. Viên đạn cảy tung mặt đất ngay sát chân Percey.

“Nằm xuống”, Sachs gào lên. “Đằng kia!” Cô chỉ tay về một hõm đất nông trên mặt cỏ.

Họ lăn xuống đất đúng lúc hắn nổ súng tiếp. Nếu Bell vẫn còn đứng thẳng như trước đó viên đạn chắc chắn đã xuyên vào giữa hai vai anh.

Họ vẫn còn cách xa 50 feet tính từ vạt cây gần nhất có thể dùng làm nơi ẩn nấp. Nhưng cố chạy tới đó vào lúc này chẳng khác gì tự sát. Có vẻ như Jodie không hề kém một chút nào so với khả năng thiện xạ của Stephen Kall khi còn sống.

Sachs vụt nhô đầu lên trong tích tắc.

Cô không kịp nhìn thấy gì mà chỉ nghe thấy một tiếng nổ. Một thoáng sau viên đạn rít lên veo véo trong không khí ngay sát cạnh cô. Sachs lại cảm thấy nỗi kinh hoàng đến mụ mẫm người giống như khi ở sân bay. Cô úp mặt mình xuống lớp cỏ mùa xuân mát lạnh, thấm đẫm sương đêm và mồ hôi của chính cô. Hai tay cô run bắn.

Bell ngẩng lên thật nhanh rồi lại hụp đầu xuống.

Lại một phát súng nữa. Đất bắn tung toé ngay sát mặt anh.

“Tôi nghĩ tôi đã trông thấy hắn”, viên thám tử nói. “Có mấy bụi cây phía bên phải ngôi nhà. Trên ngọn đồi kia kìa.”

Sachs thở liền ba hơi thật nhanh. Rồi cô lăn người sang bên phải khoảng năm feet, ngẩng đầu lên thật nhanh, rồi lại cúi xuống.

Lần này Jodie quyết định chưa nổ súng nên cô tranh thủ nhìn được khá rõ. Bell nói đúng: Tên giết người đang ở bên sườn một ngọn đồi, ngắm bắn họ bằng một khẩu súng trường săn hươu có kính ngắm; cô đã thoáng nhìn thấy ánh sáng lấp loáng từ ống kính hắt ra. Hắn không thể bắn được họ tại vị trí họ đang nấp lúc này nếu như họ nằm yên. Nhưng tất cả những gì hắn phải làm là đi lên đỉnh đồi. Từ vị trí cao nhất này hắn có thể bắn xuống hố đất mà họ đang ẩn náu – một khu vực tiêu diệt hoàn hảo.

Năm phút trôi qua mà không có thêm phát súng nào. Chắc hắn đang tìm đường lên đỉnh đồi, cho dù có phải thận trọng hơn – hắn biết Sachs có súng và hắn cũng đã thấy cô bắn giỏi như thế nào. Liệu họ có thể trốn hắn mãi được không? Khi nào thì chiếc trực thăng chở đội SWAT mới tới đây?

Sachs nhắm chặt mắt lại, hít ngửi mùi đất, mùi cỏ tươi.

Cô nghĩ đến Lincoln Rhyme.

Cô hiểu rõ hắn hơn bất kỳ ai khác, Sachs...

Cô sẽ không bao giờ hiểu được hung thủ cho đến khi cô bước trên những nơi hắn từng bước, cho đến khi cô lần theo những dấu vết tội ác của hắn....

Nhưng, Rhyme, cô tự nhủ, đây đâu phải là Stephen Kall. Jodie không phải là kẻ giết người mà tôi biết. Những nơi tôi đã đi qua cũng đâu phải hiện trường vụ án mà hắn gây ra. Cái mà tôi đã nhập vào cũng không phải là suy nghĩ của hắn...

Cô cố tìm một cái hố thấp nào đó trên mặt đất có thể dẫn họ an toàn chạy tới rặng cây nhưng không có gì. Chỉ cần họ nhúc nhích khoảng năm feet về bất kỳ hướng nào, coi như hắn đã có một mục tiêu ngon lành.

Hừ, đằng nào thì cũng chỉ một phút nữa thôi họ sẽ trở thành những mục tiêu ngon lành của hắn, khi hắn đã lên được đỉnh đồi.

Và đột nhiên ý nghĩ đó nảy ra trong đầu cô. Rằng những hiện trường vụ án cô đã từng khám nghiệm thực sự là hiện trường của tên Vũ công. Có thể hắn không phải là kẻ đã bắn phát súng giết chết Brit Hale hoặc gài quả bom làm nổ tung máy bay của Ed Carney hoặc vung con dao giết hại John Innelman trong tầng hầm toà nhà văn phòng.

Nhưng Jodie vẫn chính là hung thủ.

Hãy nhập vào suy nghĩ của hắn, Sachs, cô nghe thấy Lincoln Rhyme đang nói.

Vũ khí đáng sợ nhất của hắn – vũ khí đáng sợ nhất của mình là đánh lạc hướng.

“Cả hai người”, Sachs hô to, và quan sát xung quanh, “Tới chỗ kia.” Cô chỉ tay về phía một khe đất thấp.

Bell liếc nhìn cô. Cô có thể thấy là anh cũng khát khao tóm được tên Vũ công đến nhường nào. Nhưng ánh mắt cô lúc này cho anh biết một điều rằng tên giết người kia là con mồi của cô và chỉ mình cô thôi. Không bàn cãi và không tranh luận gì hết. Rhyme đã cho cô cơ hội này và không điều gì trên đời có thể ngăn cô làm cái việc cô chuẩn bị làm.

Người thám tử nghiêm nghị gật đầu và anh kéo Percey trườn theo mình xuống khe hõm rất nông trên mặt đất.

Sachs kiểm tra khẩu súng ngắn. Còn bốn viên đạn.

Thế là nhiều rồi.

Quá đủ là khác...

Nếu mình tính đúng.

Đúng không? Cô tự hỏi, mặt vẫn nẹp chặt xuống lớp đất ẩm ướt và ngai ngái. Và cô quyết định dứt khoát rằng, đúng, mình tính đúng… Một đòn tấn công trực diện không phải là cách ra tay của tên Vũ công. Đánh lạc hướng.

Và đó chính là điều mình sẽ tặng hắn.

“Nằm xuống. Cho dù có chuyện gì, cũng cứ nằm yên.” Cô chống tay vào đầu gối để nhổm dậy, hé mắt nhìn qua gờ đất. Chuẩn bị sẵn sàng, tự trấn an mình. Hít thở thật chậm rãi.

“Đó sẽ là phát súng từ khoảng cách 100 thước, Amelia”, Bell thì thào. “Với một khẩu súng cụt nòng ư?”

Cô phớt lờ anh.

“Amelia”, Percey gọi. Người nữ phi công đăm đăm nhìn Sachs hồi lâu rồi hai người phụ nữ cùng nhoẻn miệng chia sẽ một nụ cười. “Thấp đầu xuống”, Sachs ra lệnh và Percey làm theo, nép sát người vào trong lớp cỏ.

Amelia Sachs đứng dậy.

Cô không cúi khom người, không quay nghiêng người lại để tạo thành một mục tiêu khó bắn hơn. Thay vào đó cô đường hoàng tạo thành tư thế đứng bắn hai tay quen thuộc. Quay mặt về phía ngôi nhà, về phía mặt hồ, đối diện với bóng người nằm sấp trên lưng triền đồi, kẻ đang chĩa thẳng ống ngắm vào cô. Khẩu súng ngắn cụt nòng bỗng nhẹ bẫng như một ly whiskey trên tay cô.

Cô ngắm thẳng vào điểm phản chiếu ánh nắng lấp loáng của chiếc ống ngắm quang học, cách chỗ cô đứng phải đến cả một sân bóng bầu dục.

Mồ hôi và sương sớm đang đọng lại trên mặt cô.

Hít, thở, hít, thở.

Thật bình tĩnh.

Chờ đợi...

Một cảm giác run rẩy chạy dọc sống lưng, lan ra hai cánh tay của cô rồi xuống bàn tay. Cô cố ép mình xua đi nỗi sợ hãi.

Hít, thở…

Lắng nghe, lắng nghe đi…

Hít, thở…

Nào!

Cô quay ngoắt lại một vòng và khuỵu gối xuống đúng lúc khẩu súng trường thò ra từ lùm cây phía sau cô, cách đó khoảng 50 feet, khạc đạn. Viên đạn rít lên xé toạc khoảng không ngay trên đầu cô.

Sachs nhận ra cô đang nhìn thẳng vào khuôn mặt bàng hoàng của Jodie, khẩu súng trường săn vẫn còn áp bên má hắn. Hắn chợt nhận ra rằng sau bao nhiêu công sức hắn đã không đánh lừa được cô. Rằng cô đã đoán ra chiến thuật của hắn. Đoán ra việc hắn đã bắn vài phát ở bên hồ, rồi kéo xác một trong những người cảnh sát bảo vệ lên triền đồi và dựng anh ta ở đó với một trong hai khẩu súng trường săn để giữ họ nằm bẹp dưới hố đất trong lúc hắn chạy ra lối đi và vòng về phía sau lưng họ.

Đánh lạc hướng…

Trong một khoảnh khắc không một ai trong hai người nhúc nhích.

Không khí cũng hoàn toàn tĩnh lặng. Không còn những mảng sương mù mờ ảo giăng qua, không còn tiếng vạt cỏ hoặc những cành cây rầm rì trong gió.

Một nụ cười nhạt thoáng hiện lên trên mặt Sachs khi cô nâng khẩu súng ngắn lên bằng cả hai tay.

Khiếp đảm, hắn cuống cuồng giật vỏ đạn ra khỏi khẩu súng trường săn hươu và nạp một viên đạn khác. Đúng khi hắn lại vừa tì khẩu súng lên má thì Sachs nổ súng. Hai phát.

Cả hai viên đều trúng đích. Nhìn thấy hắn ngã ngửa ra sau, khẩu súng trường bắn tung trong không khí như cây gậy của cô nàng dẫn đầu đoàn diễu hành[122].

“Ở lại với chị ấy, thám tử!”, Sachs gọi Bell rồi lao vụt về phía Jodie.

Cô tìm thấy hắn trong vạt cỏ, nằm ngửa mặt lên trời.

Một trong hai viên đạn Sachs bắn ra đã làm vỡ nát vai trái của hắn. Viên kia xuyên thẳng qua chiếc ống ngắm quang học, phá toang cả lớp vỏ bằng kim loại và thuỷ tinh trước khi khoan vào mắt phải tên giết người. Khuôn mặt hắn lúc này bê bết máu.

Cô giương khẩu súng bé tí của mình lên, cảnh giác vận sực sẵn vào ngón tay đặt trên cò và gí sát nòng súng vào thái dương hắn. Cô bắt đầu lục lọi và móc trong túi áo của hắn ra một khẩu Glock cùng một lưỡi dao dài làm từ chất các bua. Ngoài ra cô không tìm thấy thứ vũ khí nào khác.

“An toàn rồi”, cô gọi.

Khi cô đứng dậy, móc chiếc còng tay của mình từ trong bao ra, tên Vũ công khẽ ho và khạc nhổ, quờ tay lau máu ra khỏi con mắt còn lành lặn của hắn. Rồi hắn rướn đầu lên và nhìn ra ngoài đồng cỏ. Hắn nhìn thấy Percey Clay đúng lúc cô đang chậm rãi đứng lên từ trong vạt cỏ, mắt trừng trừng nhìn kẻ vừa tấn công mình.

Toàn thân Jodie dường như run bắn khi hắn trợn mắt nhìn cô. Lại một tràng ho nữa và sau đó là một tiếng rên khàn đục. Hắn làm Sachs giật mình bằng cách gạt vào chân cô bằng cánh tay không bị thương. Hắn bị thương rất nặng – thậm chí là nguy kịch – và hầu như không còn chút sức lực nào. Đó là một cử chỉ thật lạ lùng, giống như khi người ta gạt một con chó Bắc Kinh vòi vĩnh ra khỏi hướng nhìn của mình.

Cô bước lùi lại, nòng súng vẫn cảnh giác chĩa thẳng vào ngực hắn.

Amelia Sachs đã hoàn toàn không còn là mối quan tâm của tên Vũ công Quan tài. Càng không phải những vết thương của hắn cùng cơn đau khủng khiếp mà chắc chắn những vết thương đó đang gây ra. Chỉ còn đúng duy nhất một điều trong tâm trí hắn lúc này. Bằng một cố gắng phi thường hắn lăn người nằm sấp xuống và vừa rên rỉ vừa cào cấu mặt đất như điên cuồng, hắn bắt đầu bò rướn về phía Percey, về phía người phụ nữ mà hắn được thuê giết.

Bell lại gần Sachs. Cô đưa cho anh khẩu Glock và hai người cùng lăm lăm chĩa súng của mình vào tên Vũ công. Họ hoàn toàn có thể chặn hắn lại một cách dễ dàng – hoặc giết hắn. Nhưng cả hai vẫn đứng yên tại chỗ, nhìn tên giết người đáng thương đang tuyệt vọng mê mải trong sứ mệnh của mình đến nỗi hắn dường như không hề biết rằng mặt và vai mình đã bị bắn nát.

Hắn cứ thế rướn lên được vài feet nữa, chỉ hơi dừng lại để chộp lấy một hòn đá sắc cạnh to cỡ quả bưởi chùm. Để rồi lại tiếp tục bò trườn về phía con mồi. Không nói lấy một lời, người ướt sũng mồ hôi và máu, khuôn mặt nhăn nhúm vì đau đớn. Ngay chính Percey, người có mọi lý do để căm thù hắn, để lẽ ra phải giằng lấy khẩu súng ngắn trên tay Sachs và kết liễu mạng sống của tên giết người ngay tại chỗ này, ngay chính cô cũng ngỡ ngàng chết lặng, đứng nhìn những cố gắng tuyệt vọng nhằm kết thúc công việc mà hắn đã bắt đầu.

“Đủ rồi đấy”, cuối cùng Sachs gằn giọng. Cô cúi xuống và giằng ném hòn đá ra xa.

“Không”, hắn khò khè. “Không…”

Cô bập còng lên tay hắn.

Vũ công Quan tài bật ra một tiếng rên thê thảm – cũng có thể là vì cơn đau của hắn nhưng dường như tiếng rên bật ra chủ yếu vì nỗi thất bại và mất mát không sao chịu nổi – và thả bịch đầu xuống đất.

Hắn nằm bất động. Ba người đứng quanh hắn, nhìn máu của hắn thấm ướt mặt cỏ và những khòm nghệ tây vô tội. Chỉ một lát sau tiếng kêu khắc khoải của những con chim lặn gavia ngoài hồ bị át đi hoàn toàn trong tiếng phạch phạch phạch của một chiếc trực thăng đang bay lướt qua những ngọn cây. Sachs nhận thấy Percey ngay lập tức chuyển sự chú ý của mình ra khỏi kẻ đã gây ra cho cô không biết bao nhiêu đau khổ, người nữ phi công đứng ngây ra như bị thôi miên trước cảnh chiếc máy bay cồng kềnh xé toang bầu không khí đẫm sương và nhẹ nhàng hạ xuống trên mặt cỏ.

Chú thích

[122]Tại Mỹ trong những dịp lễ lớn, nhất là ngày Quốc khánh (ngày 4 tháng 7), thường có các hoạt động diễu hành trên đường phố. Dẫn đầu đoàn diễu hành là một cô gái trẻ với cây gậy chỉ huy ngắn trên tay.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39


Như thế là trái với quy định, Lincoln. Tôi không thể làm được.”

Lon Sellitto tỏ ra rất kiên quyết.

Nhưng Lincoln Rhyme cũng kiên quyết không kém. “Hãy để tôi nói chuyện với hắn, nửa giờ thôi.”

“Họ sẽ không thích thú gì với chuyện này đâu.” Nhưng câu nói tiếp theo mới thực sự diễn tả hết ý của viên thám tử, “Họ quát tháo ầm ĩ khi tôi đề xuất ý này ra. Vì anh chỉ là dân thường”.

Bây giờ là gần mười giờ sáng ngày thứ Hai. Buổi trình diện trước bồi thẩm đoàn của Percey đã bị hoãn sang ngày mai. Đội thợ lặn của hải quân mới tìm được những chiếc túi bạt mà Phillip Hansen đã nhấn chìm xuống đáy biển ngoài khơi Long Island. Chúng nhanh chóng được gửi tới cho đội PERT của FBI trong Toà nhà Liên bang khu trung tâm để tiến hành phân tích. Eliopolos đã hoãn lại buổi họp của bồi thẩm đoàn để có thể thu thập thêm được càng nhiều bằng chứng thuyết phục chống lại Hansen càng tốt.

“Họ lo sợ cái gì mới được chứ?”, Rhyme bực bội hỏi.” Chẳng lẽ tôi lại đánh được hắn hay sao?”

Anh đã nghĩ đến việc giảm bớt yêu cầu của mình xuống còn hai mươi phút. Nhưng đó là một biểu hiện của sự yếu đuối. Và Lincoln vốn dĩ không hề tin tưởng vào việc để lộ điểm yếu của mình. Vì vậy anh nói. “Tôi đã tóm được hắn. Tôi xứng đáng có cơ hội thẩm vấn hắn một lần”.

Nói xong anh chìm vào im lặng.

Blaine, vợ cũ của Rhyme, từng nói với anh trong một khoảnh khắc sâu sắc rất hiếm hoi của cô rằng đôi mắt của Rhyme, sâu thẳm như đêm đen, còn có sức nặng hơn rất nhiều so với những lời mà anh nói ra. Và thế là anh đăm đăm nhìn vào mắt Sellitto cho đến khi viên thám tử thở dài, rồi quay sang nhìn Dellray.

“Hầy dà, cho anh ấy một lúc vậy”, viên đặc vụ nói. “Cũng có cháy nhà hay chết người gì đâu? Đưa thằng khốn đó lên đây. Và nếu hắn tìm cách bỏ trốn, mẹ kiếp, tôi lại càng có lý do bằng vàng để tập bắn luôn thể.”

Sellitto đầu hàng, “Ôi, được rồi. Tôi sẽ gọi điện vậy. Chỉ có điều, đừng có làm hỏng vụ án này đấy”.

Nhưng nhà hình sự học hầu như không để ý gì đến những lời đó. Mắt anh đang hướng ra phía cửa, như thể tên Vũ công Quan tài chuẩn bị xuất hiện, bằng xương bằng thịt như có phép màu.

Anh cũng sẽ không ngạc nhiên chút nào nếu điều đó xảy ra.

“Tên thật của anh là gì? Có đúng là Joe hay Jodie không?”

“A, điều đó thì quan trọng gì? Ông bắt được tôi. Ông có thể gọi tôi như thế nào cũng được.”

“Thế còn họ của anh thì sao?”. Rhyme hỏi.

“Sao không dùng cái tên các ông vẫn gọi tôi? Vũ công. Tôi thích cái tên này.”

Người đàn ông nhỏ bé thận trọng săm soi Rhyme bằng con mắt còn lại của hắn. Giả sử như những vết thương có làm hắn đau đớn, hay mệt mỏi do dùng thuốc, hắn cũng không hề để lộ ra. Cánh tay trái của hắn đã được bó bột và đeo lại nhưng hắn vẫn phải đeo một cái còng tay dày bịch được nối với một cái cùm xích ở hông. Hai chân hắn cũng bị xích lại.

“Anh muốn thế nào cũng được”, Rhyme nói với vẻ dễ dãi. Và tiếp tục chăm chú nhìn hắn như thể hắn là một bào tử phấn hoa dị thường mà anh vừa tìm thấy tại hiện trường vụ án.

Tên Vũ công mỉm cười. Những dây thần kinh ở mặt bị phá nát cùng mớ bông băng dày cộm khiến nụ cười của hắn trông thật quái đản. Chốc chốc người hắn lại run lên lẩy bẩy, những ngón tay giật giật như người trúng gió, bả vai bị bắn vỡ hết nhô lên rồi hạ xuống ngoài tầm kiểm soát. Rhyme chợt có một cảm giác kỳ lạ – rằng chính anh mới là người khoẻ mạnh còn tên tù kia là kẻ tàn phế.

Xứ mù thằng chột làm vua.

Tên Vũ công nhìn anh và mỉm cười. “Ông đang khát khao muốn biết đúng không?”, hắn hỏi Rhyme.

“Biết gì chứ?”

“Biết tất cả… Đó là lý do tại sao ông đưa tôi tới đây. Ông đã gặp may – ý tôi là nên mới bắt được tôi – nhưng ông hoàn toàn không biết tôi đã làm thế nào.”

Rhyme tặc lưỡi. “Ồ, vậy mà tôi lại biết chính xác anh đã làm như thế nào đấy.”

“Ông biết thật sao?"

“Tôi chỉ yêu cầu anh tới đây để nói chuyện với anh thôi”, Rhyme trả lời. “Tất cả chỉ có vậy. Nói chuyện với một kẻ suýt nữa đã thắng trí tôi.”

“Suýt nữa.” Tên Vũ công phá lên cười. Lại một nụ cười méo xệch. Trông hắn mới thật quái dị làm sao. “Được rồi, vậy nói đi xem nào.”

Rhyem mút một hơi trông ống hút. Lần này là sinh tố hoa quả. Anh đã khiến Thom sững sờ không tin vào tai mình khi ra lệnh cho chàng thanh niên đổ hết chỗ whiskey ra và thay bằng thứ nước quả Hawaiian Punch. Xong xuôi anh mới nhẹ nhàng lên tiếng, “Được thôi. Anh được thuê để giết Ed Carney, Brit Hale và Percey Clay. Anh được trả khá nhiều tiền, tôi đoán thế. Sáu con số”.

“Bảy”, tên Vũ công tự hào thốt lên.

Rhyem nhướng một bên lông mày. “Cái nghề này kiếm cũng bộn đấy chứ!”

“Nếu ông làm tốt.”

“Anh gửi tiền vào ngân hàng ở Bahamas. Trước đó anh đã biết được tên của Stephen Kall ở đâu đó – tôi cũng không biết đích xác là ở đâu. Có lẽ là từ một mạng lưới lính đánh thuê...”, tên Vũ công gật đầu xác nhận, “... rồi anh thuê hắn kiểu như làm nhà thầu phụ cho mình. Hoàn toàn nặc danh, có thể là bằng email, có thể là qua fax, sử dụng những nguồn giới thiệu mà hắn sẽ tin tưởng. Tất nhiên anh chưa bao giờ gặp hắn trực tiếp. Và tôi nghĩ anh đã thử thách hắn rồi”.

“Tất nhiên. Một vụ ở ngoại ô Washington, D.C. Tôi được thuê giết một tay trợ lý nghị sĩ Quốc hội chuyên đánh cắp tài liệu của Uỷ ban Quân lực. Đó là một nhiệm vụ dễ ợt, nên tôi đã thuê Stephen làm thay. Giúp tôi có cơ hội để kiểm tra hắn. Tôi theo dõi hắn ở tất cả các khâu. Đích thân tôi kiểm tra vết thương chỗ viên đạn đi vào trên xác chết. Rất chuyên nghiệp. Tôi nghĩ hắn đã nhìn thấy tôi đang theo dõi hắn và hắn truy lùng tôi để thủ tiêu nốt nhân chứng. Ngay cả việc đó cũng đáng đánh giá cao.”

Rhyme nói tiếp, “Anh gửi cho hắn tiền công cùng chìa khoá mở cửa hangar của Phillip Hansen – nơi hắn đã phục sẵn để gài bom lên máy bay của Carney. Anh biết là hắn giỏi nhưng anh không dám chắc hắn đủ sức giết cả ba người. Có lẽ anh nghĩ cùng lắm hắn sẽ chỉ giết được một người nhưng ít nhất cũng đủ giúp anh đánh lạc hướng chúng tôi để anh có thể tiếp cận hai người còn lại”.

Vũ công gật đầu, miễn cưỡng để lộ vẻ ấn tượng. “Việc hắn giết được cả Brit Hale làm tôi ngạc nhiên. Ồ, vâng. Và tôi còn ngạc nhiên hơn gấp bội khi sau đó hắn tẩu thoát được và lại còn gài quả bom thứ hai lên máy bay của Percey Clay.”

“Anh đoán rằng anh sẽ phải tự tay giết ít nhất một trong ba nạn nhân nên tuần trước anh đã trở thành Jodie, bắt đầu rao bán thuốc của mình ở khắp nơi khiến cho dân đường phố đều biết về anh. Anh bắt cóc người đặc vụ ngay trước cửa Toà nhà Liên bang, để tìm ra địa chỉ những ngôi nhà an toàn mà các nhân chứng sẽ đến. Anh phục sẵn ở nơi thích hợp nhất mà Stephen sẽ thực hiện cuộc tấn công và để hắn bắt cóc anh. Rồi anh để lại rất nhiều đầu mối dẫn đến nơi ẩn náu của mình dưới đường tàu điện ngầm để chắc chắn chúng tôi sẽ lần ra anh… và sử dụng anh làm mồi nhử bắt Kall. Tất cả chúng tôi đều tin anh. Đúng vậy, tất cả – Stephen hoàn toàn không hay biết chính anh đã thuê hắn. Tất cả những gì hắn biết là anh đã phản bội hắn và hắn muốn giết anh. Vỏ bọc của anh quá hoàn hảo. Nhưng thật mạo hiểm.”

“Nhưng đâu còn là cuộc sống nếu không có những điều mạo hiểm?” Tên Vũ công tinh quái hỏi. “Càng khiến cho tất cả trở nên thật bõ công, ông có nghĩ thế không? Hơn nữa, khi chúng tôi ở cùng nhau tôi đã thiết lập một số… chúng ta cứ tạm gọi là những biện pháp phòng ngừa, khiến hắn phải lưỡng lự khi định bắn tôi. Chứng đồng tính tiềm tàng bao giờ cũng có ích.”

“Nhưng”, Rhyme nói thêm, tỏ ra tự ái khi câu chuyện của anh bị hắn làm gián đoạn, “khi Kall ở trong công viên, anh đã lẻn ra khỏi con hẻm nơi anh đang ẩn náu, tìm ra hắn, và giết hắn… Anh tống cả hai bàn tay, răng hàm và quần áo – cùng với súng của hắn – vào đường cống thoát nước. Và rồi chúng tôi đưa cả anh tới Long Island… Con cáo trong chuồng gà”. Rhyme khinh khỉnh nói nốt, “Tinh thần chung là thế… Đó chỉ là những nét xương cá chính. Nhưng tôi nghĩ từng đó cũng đủ để nói lên toàn bộ câu chuyện”.

Con mắt còn lành lặn của gã nhắm lại trong giây lát, rồi lại mở choàng ra. Đỏ ngầu và ẩm ướt, nó đang trừng trừng nhìn Rhyme. Hắn khẽ gật đầu với vẻ thừa nhận, và có lẽ là cả khâm phục. “Điều gì vậy?” Cuối cùng Vũ công lên tiếng. “Điều gì đã khiến ông đoán ra?”

“Cát”, Rhyme trả lời. “Những hạt cát ở Bahamas.”

Hắn gật đầu, nhăn mặt vì đau. “Tôi đã lộn hết túi ra. Tôi còn dùng cả máy hút bụi.”

“Chúng kẹt trong những đường chỉ quần. Cả thuốc nữa. Dư chất và sữa bột trẻ em.”

“À, đúng rồi.” Một lúc sau tên Vũ công nói thêm, “Kể ra hắn sợ ông cũng đúng thôi. Ý tôi là Stephen ấy.” Con mắt độc nhất vẫn dán chặt vào Rhyme. Như một bác sĩ đang theo dõi khối u. Hắn nói thêm, “Kẻ khốn khổ. Một sinh vật đáng thương. Theo ông thì ai là người đẩy hắn đến nông nỗi ấy? Tay bố dượng hay bọn con trai ở trại cải tạo? Hoặc cả hai cũng nên?”.

“Tôi không biết”, Rhyme nói. Ngoài bậu cửa sổ con chim ưng vừa đậu xuống và đang thu cánh lại.

“Stephen đã hoảng sợ”, tên Vũ công trầm ngâm. “Và một khi đã hoảng sợ thì coi như không còn gì nữa. Hắn nghĩ lũ giòi đang truy lùng hắn. Lincoln Con Giòi. Tôi nghe thấy hắn thì thầm câu đó mấy lần liền. Hắn sợ ông.”

“Nhưng anh không hề sợ.”

“Không”, tên Vũ công kiêu hãnh nói. “Tôi không bao giờ sợ.” Đột nhiên hắn gật gù, như thể cuối cùng hắn cũng nhận ra điều gì đang làm hắn thấy bứt rứt. “À, hoá ra ông đang chăm chú nghe giọng tôi, phải không? Cố đoán xem là giọng vùng nào à?”

Đúng là Rhyme đang làm thế thật.

“Nhưng ông thấy chưa, giọng tôi thay đổi liên tục. Vùng núi nhé… Connecticut… Vùng Đồng bằng miền Nam và cả vùng Đầm lầy miềnNam này… Giọng Missouri. Kentucky. Mà tại sao ông lại thẩm vấn tôi nhỉ? Ông phụ trách việc khám nghiệm hiện trường thôi mà. Tôi bị bắt rồi. Đến lúc nói lời tạm biệt. Hết chuyện. Mà này, tôi thích cờ vua lắm. Tôi yêu cờ vua thì đúng hơn. Ông có bao giờ chơi không, Lincoln?”

Trước kia anh cũng từng thích chơi cờ. Anh và Claire Trilling thỉnh thoảng lại cùng nhau đánh cờ. Thom vẫn thuyết phục anh chơi thử trên máy tính và còn kiếm về cho anh một chương trình chơi cờ vua rất hay, cài đặt sẵn trên máy. Có điều là Rhyme chưa bao giờ vào thử. “Lâu lắm rồi tôi không chơi nữa.”

“Lúc nào đó ông và tôi phải chơi với nhau một ván mới được. chắc chắn ông sẽ là một đối thủ rất thú vị… Mà ông có muốn biết một sai lầm mà nhiều người thường mắc phải không?”

“Là cái gì?” Rhyme cảm nhận rõ cái nhìn bỏng rát của gã. Đột nhiên anh cảm thấy thật khó chịu.

“Họ trở nên tò mò về đối thủ của mình. Họ cố tìm ra những thông tin liên quan đến đời sống riêng tư của đối thủ. Toàn những thứ chẳng có ích gì hết. Họ từ đâu tới, nơi họ được sinh ra, anh chị em của họ là ai.”

“Thật thế sao?”

“Điều đó có thể thoả mãn trí tò mò. Nhưng lại làm họ trở nên hoang mang. Đây là điều rất nguy hiểm. Ông hiểu không, tất cả trò chơi là ở trên bàn cờ, Lincoln. Tất cả đều ở trên bàn cờ mà thôi.” Lại một nụ cười méo xệch. “Chẳng lẽ ông không thể chấp nhận thực tế là không biết chút nào về tôi được sao?”

Không, Rhyme tự nhủ, mình không thể.

Tên Vũ công nói tiếp, “Hừm, vậy chính xác thì ông muốn gì đây? Một cái địa chỉ à? Một cuốn niên giám trung học? Để tôi cho ông một đầu mối nhé? Rosebud[123]. Thấy thế nào? Ông làm tôi ngạc nhiên đấy, Lincoln. Ông là một chuyên gia về tội phạm - chuyên gia giỏi nhất mà tôi từng biết. Vậy mà ngay cả ông cũng loay hoay trong con đường uỷ mị ấy làm gì. Chậc, tôi là ai ư? Kỵ sĩ không đầu[124], Beelzebub[125]. Tôi là Nữ hoàng Mab[126]. Tôi là chúng như trong câu Hãy cảnh giác với bọn chúng; chúng đang bám theo ngươi. Tôi không phải là những cơn ác mộng khủng khiếp nhất mà ông vẫn gặp bởi vì ác mộng không có thực trong khi tôi lại có thực hơn tất cả những gì con người dám thừa nhận. Tôi là một nghệ nhân. Tôi là một doanh nhân. Ông sẽ không bao giờ biết được tên tôi, cấp bậc hay số hiệu quân nhân nào hết. Tôi không chơi theo luật của Công ước Geneva[127].”

Rhyme không thể nói thêm điều gì.

Có tiếng gõ trên cánh cửa.

Đội áp giải tù nhân đã đến.

“Các ông có thể tháo chiếc cùm ra khỏi chân tôi được không?” Tên Vũ công hỏi hai nhân viên cảnh sát bằng giọng van vỉ, con mắt lành lặn của hắn chớp chớp và đỏ hoe nước. “Ôi, xin các ông. Tôi đau quá. Để thế này bước đi khó khăn lắm.”

Một trong hai người bảo vệ nhìn hắn với ánh mắt thông cảm rồi lại ngước nhìn Rhyme, anh thủng thẳng nói, “Chỉ cần các anh nới lỏng một bên cùm thôi các anh cũng sẽ mất việc và không bao giờ được làm việc trong thành phố này nữa”.

Người cảnh sát chằm chằm nhìn Rhyme một lúc rồi gật đầu với cộng sự của mình. Tên Vũ công phá lên cười. “Đó không phải là một vấn để”, hắn nói, mắt vẫn nhìn Rhyme không dứt, “mà chỉ là một yếu tố”.

Hai người cảnh sát nắm chặt lấy cánh tay không bị thương của tên Vũ công và xốc hắn đứng dậy. Nhìn hắn lọt thỏm giữa hai người đàn ông cao lớn khi họ dẫn hắn đi ra cửa. Hắn ngoảnh đầu lại.

“Lincoln?”

“Sao?”

“Ông sẽ nhớ tôi cho mà xem. Không có tôi, ông sẽ thấy nhàm chán.” Con mắt độc nhất của hắn nhìn xoáy vào mắt Rhyme. “Không có tôi, ông sẽ chết.”

Một giờ sau tiếng bước chân uỳnh uỳnh báo hiệu sự có mặt của Lon Sellitto. Đi cùng viên cảnh sát là Sachs và Dellray.

Rhyme biết ngay lập tức là có chuyện không hay. Trong giây lát anh đã tự hỏi chẳng lẽ tên Vũ công vừa trốn thoát.

Nhưng vấn đề không phải vậy.

Sachs thở dài.

Sellitto liếc nhìn sang Dellray. Khuôn mặt gầy gò của viên đặc vụ nhăn lại, cau có.

“Được rồi, nói đi xem nào”, Rhyme gắt.

Sachs thông báo cái tin mà họ mang tới. “Mấy cái túi bạt kia. PERT đã kiểm tra chúng.”

“Thử đoán xem bên trong có gì”, Sellitto nói.

Rhyme thở dài, kiệt sức, và không có tâm trạng đâu mà chơi trò đoán mò. “Thì kíp nổ, plutonium và xác của Jimmy Hoffa.”

Sachs nói, “Một chồng dày Những Trang Vàng hạt Westchester cùng khoảng năm pound đá hộc”.

“Cái gì?”

“Chẳng có gì hết, Lincoln. Tuyệt nhiên không.”

“Các vị có chắc chắn đó chỉ là những cuốn danh bạ điện thoại chứ không phải hồ sơ làm ăn được mã hoá chứ?”

“Bộ phận mật mã của Cục đã kiểm tra rất kỹ rồi”, Dellray nói. “Chỉ là mấy quyển Những Trang Vàng chết tiệt loại in hàng loạt. Và mấy hòn đá cũng chẳng có giá trị quái gì cả. Chẳng qua chúng được nhét vào để làm túi chìm sâu hơn thôi.”

“Sớm muộn họ cũng sẽ phải thả Hansen ra”, Sellitto căm giận lẩm bẩm. “Ngay lúc này họ đang làm nốt các thủ tục giấy tờ. Thậm chí vấn đề còn không được đưa ra trình bày trước bồi thẩm đoàn. Bao nhiêu người đã chết hoàn toàn vô ích.”

“Cho anh ấy biết nốt phần còn lại đi”, Sachs nói chen vào.

“Eliopolos cũng đang trên đường tới đây”, Sellitto nói. “Hắn có giấy rồi.”

“Một tờ trát à?” Rhyme hỏi cộc lốc.” Để làm gì?”

“Ôi, như hắn đã nói ấy. Để bắt anh.”

Chú thích

[123]Rosebud: Nghĩa đen là “nụ hồng”. Xuất phát từ bộ phim Mỹ Citizen Kane (Công dân Kane), sản xuất năm 1941, do Orson Welles làm đạo diễn. Bộ phim kể về cuộc đời Charles Foster Kane, từ một đứa trẻ bị bỏ rơi trở thành một ông trùm quyền lực trong giới xuất bản và bào chí, nhờ vào những thủ đoạn tàn nhẫn. Bộ phim dựng lại cuộc điều tra, truy tìm của một phóng viên nhằm tìm ra ý nghĩa trong từ cuối cùng Kane thốt ra trước khi chết: “Rosebud”.

[124]Kỵ sĩ không đầu: Nhân vật trong tiểu thuyết cùng tên của nhà văn người Anh Main Rid.

[125]Beelzebub: Beelzebub là vị thần bảo trợ của người Philistine ở Palestine cổ đại, còn được gọi là thần Ekron, Baal-Zebub. Trong Kinh thánh, Beelzebub được coi là “Quỷ vương”, tức là quỷ Satan.

[126]Nữ hoàng Mab: Một bà tiên thường được nhắc đến trong tác phẩm văn học Anh giai đoạn thế kỷ XVII, thường được coi là bà tiên của những giấc mơ.

[127]Công ước Geneva: Các Công ước Geneva (hay Hiệp định Geneve, Hiệp định Geneva...) gồm bốn hiệp định được viết ở Genève (Thụy Sĩ) đặt tiêu chuẩn luật pháp quốc tế về vấn đề nhân đạo, nhất là trong điều kiện chiến tranh.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom