Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,259
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


Tám giờ sáng, Thompson Boyd lấy ô tô từ ga ra nằm trên con hẻm gần ngôi nhà gỗ ở Astoria mà hắn đã đậu ngày hôm qua sau khi chạy thoát khỏi căn hộ ẩn nấp trên phố Elizabeth. Hắn lái chiếc Buick màu xanh vào dòng xe cộ đông đúc, hướng về phía cầu Queensborough, một lần nữa về Manhattan và đi vào khu phố phía bắc.

Nhớ lại địa chỉ từ tin nhắn trong hộp thư thoại, hắn lái vào khu tây Harlem và đậu xe cách ngôi nhà của gia đình Settle hai dãy phố. Hắn mang theo khẩu súng ngắn 22 ly của quân đội Bắc Mỹ và chiếc dùi cui, cầm trong tay túi đựng đồ, mà giờ chẳng còn là quyển sách hướng dẫn trang trí nữa; ở bên trong là thiết bị mà hắn đã làm đêm hôm qua và hắn hết sức thận trọng với nó khi di chuyển chậm rãi trên vỉa hè. Hắn nhìn lên xuống con phố một vài lần, thấy mọi người có vẻ như đang đi t

i chỗ làm, cả những người da trắng và những người da đen với số lượng như nhau, rất nhiều trong số họ đang mặc trang phục công sở, trên đường đi làm, và những sinh viên thì hướng về phía trường Đại học Columbia - những chiếc xe đạp, ba lô, râu quai nón... Nhưng hắn không thấy gì có vẻ là một mối đe dọa cả.

Thompson Boyd dừng lại bên lề đường và nghiên cứu ngôi nhà cô bé sống.

Có một chiếc Crown Vic, đậu cách đó vài nhà - họ quả là thông minh khi không làm cho nó nổi bật. Quanh góc phố là chiếc xe cảnh sát thứ hai ở cạnh ống nước cứu hỏa. Thompson cho rằng hắn thấy một vài chuyển động trên mái nhà. Một tay bắn tỉa? Hắn tự hỏi. Có thể không, nhưng chắc chắn là có ai ở đó, không nghi ngờ gì ngoài một cảnh sát. Họ đang thực hiện vụ này với thái độ thận trọng thực sự.

Joe Trung bình quay đầu và đi bộ ngược lại chiếc xe “trung bình” của hắn, bước vào và nổ máy. Hắn sẽ phải kiên nhẫn. Quá liều lĩnh để cố gắng tấn công ở đây; hắn phải chờ đợi cơ hội thực sự. Bài hát Cat’s in the Cradle của Harry Chapin vang lên trên đài. Hắn tắt đi nhưng lại tiếp tục huýt sáo giai điệu ấy, không mất một nốt nhạc, không đứt một quãng nào.

Bà cô của cô bé đã tìm ra thứ

Trong ngôi nhà của Geneva, Roland Bell nhận được cuộc gọi từ Lincoln Rhyme, báo rằng người cô của cha Geneva, tên là Lilly Hall, đã tìm ra một vài chiếc hộp đựng những bức thư cũ, những kỷ vật và các đồ vật làm bằng tay trong nhà kho. Bà ấy không biết liệu chúng có thể có ích hay không - đôi mắt của bà không có tia hy vọng nào cả - nhưng những chiếc hộp các tông nhồi nhét đầy giấy. Liệu Geneva và cảnh sát có muốn xem qua không?

Rhyme muốn được xem mọi thứ nhưng bà ấy nói không và chỉ đưa riêng nó cho cô cháu gái của mình mà thôi. Bà ta không tin một ai cả.

“Kể cả cảnh sát?”, Bell hỏi Rhyme và anh trả lời: “Đặc biệt là cảnh sát”.

Amelia Sachs xen vào cuộc hội thoại giữa họ để đưa ra điều mà Bell nhận ra chính là lời giải thích thực sự: “Tôi cho rằng bà ấy muốn nhìn thấy cháu gái mình”.

“À. Vâng. Tôi hiểu rồi.”

Không có gì ngạc nhiên rằng Geneva còn cảm thấy hơn cả hào hứng. Thực tế, Roland Bell thích được hộ tống những người lo lắng hơn, những người không muốn đặt chân lên vỉa hè bê tông của thành phố New York, những người thích ôm lấy trò chơi điện tử máy tính và những quyển sách dày cộp. Nhét họ vào trong một căn phòng tách biệt khép kín, không cửa sổ, không khách khứa, không có đường vào từ mái nhà và gọi đồ ăn Trung Quốc hay pizza hằng ngày.

Nhưng Geneva Settle không giống với bất cứ ai mà anh từng bảo vệ.

Ông Goades, làm ơn... Tôi là nhân chứng một vụ án và tôi đang bị giữ bởi cảnh sát. Nó ngược lại với ý muốn của tôi và tôi...

Viên thanh tra sắp xếp hai chiếc ô tô. Sẽ có Bell, Geneva và Pulaski trên chiếc Crown Vic của anh. Luis Martinez và Barbe Lynch sẽ lên chiếc Chevy của họ. Một cảnh sát mặc sắc phục sẽ đậu chiếc xe cảnh sát gần ngôi nhà của Geneva khi họ đi khỏi.

Khi chờ chiếc xe cảnh sát thứ hai xuất hiện, Bell hỏi xem có lời nào từ bố mẹ cô bé nữa không. Cô nói rằng lúc này họ đang ở Heathrow, chờ chuyến bay tiếp theo.

Bell, cha của hai cậu nhóc, có định kiến với những người làm cha làm mẹ mà lại để con gái của mình ở với người bác trong khi họ tung tăng ở châu Âu. (Đặc biệt là người bác này. Không đưa tiền ăn trưa cho cô bé? Quả là một việc không dễ dàng chút nào). Dù Bell chỉ là một người cha đơn thân với một công việc đòi hỏi rất nhiều thứ, anh vẫn làm bữa sáng cho các con hằng ngày, gói ghém đồ ăn trưa và làm bữa tối hầu hết các ngày, tuy nhiên những bữa ăn có thể chỉ là qua quýt và cứng nhắc. Ăn kiêng theo kiểu Atkins[1] không phải là từ có trong từển ẩm thực của Roland Bell.

[1] Chế độ ăn kiêng do bác sĩ R. Atkins của Mỹ đưa ra.

Nhưng công việc của anh lúc này là bảo vệ tính mạng của Geneva, chứ không phải là bàn luận về những người cha mẹ không có nhiều kỹ năng chăm sóc con cái. Giờ anh gác những suy nghĩ về vấn đề cá nhân sang một bên và bước ra ngoài, tay đặt gần khẩu Berreta, nhìn quanh một lượt mặt trước các ngôi nhà, những chiếc cửa sổ, mái của các tòa nhà xung quanh và ô tô, tìm kiếm bất cứ thứ gì bất thường.

Chiếc xe cảnh sát tăng cường dừng lại và đỗ bên ngoài, trong khi Martinez và Lynch bước vào trong chiếc Chevrolet, quanh góc phố từ ngôi nhà của Geneva.

Bell nói vào chiếc điện đàm của mình: “An toàn. Đưa cô bé ra ngoài”.

Pulaski xuất hiện, áp Geneva vào trong chiếc Crown Victoria. Anh nhảy vào ngồi xuống bên cạnh cô và Bell thì ngồi xuống ghế lái. Đi thành hàng, hai chiếc xe nhanh chóng tăng tốc qua khu phố và cuối cùng đến một tòa nhà chung cư cũ nát phía đông Đại lộ 5, một khu vực ở Harlem có nhiều người đến từ quốc gia nói tiếng Tây Ban Nha.

Phần lớn khu vực này là những người Puerto Rico và người Dominica, nhưng các chủng tộc Latin khác cũng sống ở đây, những người đến từ Haiti, Bolivia, Ecuador, Jamaica, Trung Mỹ - cả da trắng và da đen. Cũng có cả những nhóm người nhập cư mới, hợp pháp và bất hợp pháp, từ Senegal, Liberia và các quốc gia Trung Phi. Hầu hết những vụ án bị lên án mạnh mẽ ở đây không phải là giữa những người da trắng và người Hispanic[2] hay những người da đen, đó là cuộc chiến giữa người sinh ra và lớn lên ở Mỹ với những người nhập cư của bất cứ một chủng tộc và quốc tịch nào. Thế giới vẫn thế. Bell suy tư một cách ưu phiền.

[2] Hispanics: những người đến từ các quốc gia nói tiếng Tây Ban Nha.

Viên thanh tra đỗ chiếc xe vào vị trí mà Geneva chỉ rồi đợi đến khi những sĩ quan khác bước ra khỏi chiếc xe cảnh sát phía sau và kiểm tra khu phố. Ngón tay cái giơ lên từ phía Luis Martinez và họ cùng nhau nhanh chóng áp Geneva đi vào trong.

Tòa nhà đã cũ kỹ và xập xệ, hành lang có mùi bia và thức ăn đã bốc mùi lên men. Geneva có vẻ ngượng ngùng với tình trạng của nơi này. Giống như lúc ở trường, cô một lần nữa gợi ý viên thanh tra đợi ở ngoài, nhưng cô vẫn do dự, như thể mong đợi câu trả lời của anh là: “Tốt hơn hết là ta sẽ đi cùng cháu”.

Ở tầng hai, cô gõ cửa và tiếng một người già vang lên: “Ai thế?”

“Geneva. Cháu đến gặp bà Lilly ạ”

Tiếng hai sợi xích lách cách và hai cái chốt được mở ra. Cánh cửa hé mở. Một người phụ nữ nhỏ trong bộ đồ bạc màu nhìn Bell một cách thận trọng.

“Chào buổi sáng, thưa bà Watkins”, cô bé nói.

“Chào, cháu yêu. Bà ấy ở trong phòng khách đấy.” Một cái nhìn dò xét vào viên thanh tra.

“Đó là bạn cháu.”

“Ông ta là bạn cháu ư?”

“Vâng, đúng thế ạ.” Geneva nói với bà.

Khuôn mặt của người phụ nữ cho thấy bà không muốn ủng hộ cô bé dành thời gian đi với một người đàn ông gấp ba lần tuổi của mình, ngay cả khi anh ta là một cảnh sát.

“Roland Bell, thưa bà.” Anh đưa bà ta xem ID của mình.

“Lilly nói rằng có điều gì đó với cảnh sát”, bà nói một cách không thoải mái lắm. Bell tiếp tục mỉm cười và không nói gì hơn. Người phụ nữ nhắc lại: “Ừm, bà ấy ở trong phòng khách”.

Bà cô của Geneva, một người phụ nữ già yếu trong chiếc váy màu hồng, đang nhìn chằm chằm vào màn hình ti vi qua chiếc kính dày cộm to đùng. Bà nhìn cô bé và khuôn mặt bà nở một nụ cười. “Geneva, cháu yêu. Cháu sao rồi? Và đây là ai vậy?”

“Roland Bell, thưa bà. Rất vui được gặp bà.”

“Tôi là Lilly Hall. Anh chính là người quan tâm tới Charles?”

“Đúng thế ạ.”

“Ước gì tôi có thể biết nhiều hơn. Tôi đã nói với Geneva mọi điều mình biết về ông ấy. Có trang trại cho riêng mình, rồi lại bị bắt. Đó là tất cả những gì mà tôi nghe nói. Thậm chí còn không biết được rằng ông ấy đã vào tù hay không?”

“Có vẻ như ông ấy đã phải vào tù, thưa bà. Chúng tôi không biết điều gì xảy ra sau đó. Đó chính là điều mà chúng tôi muốn tìm ra.”

Trên tấm giấy dán tường hình hoa đã ố màu phía sau bà là ba tấm ảnh: Martin Luther King, Jr., John F. Kenedy và bức ảnh nổi tiếng về Jackie Kenedy trong nỗi đau với John John và Caroline ngay bên cạnh cô.

“Những cái hộp ở ngay đây.” Người phụ nữ hất đầu về phía ba chiếc thùng các tông lớn đựng đầy giấy, những quyển sách bụi bặm và những đồ vật bằng gỗ và nhựa. Những chiếc hộp nằm cạnh chiếc bàn cà phê với một chân đã bị gãy và được dán lại bằng băng dính. Geneva cúi xuống nhìn vào chiếc hộp lớn nhất.

Lilly quan sát cô bé. Sau một lúc bà nói: “Đôi khi ta cảm thấy ông ấy”.

“Bà...?” Bell hỏi.

“Người họ hàng của nhà ta, Charles. Ta cảm thấy ông ấy. Như kiểu những chuyện kỳ lạ về ma quỷ khác vậy.”

Haint[3]… Bell biết từ này xuất phát từ Bắc Carolina. Một thuật ngữ cũ của người da đen ám chỉ hồn ma.

[3] Những chuyện kỳ lạ về ma quỷ.

“Ông ấy không yên nghỉ, đó là những gì ta cảm thấy”, người phụ nữ nói.

“Cháu không biết điều đó”, Geneva nói với một nụ cười.

Không, Bell nghĩ, Geneva khó mà giống với kiểu người tin vào ma quỷ hay bất cứ gì siêu nhiên. Dù vậy, viên thanh tra vẫn không chắc chắn lắm. Anh nói: “Chà, có thể những gì chúng ta đang làm ở đây sẽ giúp ông ấy được bình yên đôi chút”.

“Cháu biết đấy”, người phụ nữ nói, gẩy chiếc kính trên mũi. “Cháu là người quan tâm tới Charles, có vài người họ hàng nữa ở khắp đất nước. Cháu có nhớ người anh họ của cha cháu ở Madison? Và vợ anh ta, Ruby? Ta có thể gọi và hỏi. Hoặc là Genna Louise ở Memphis. Hoặc là ta sẽ gọi lúc nào đó, chi bởi vì ta không có điện thoại riêng.” Liếc nhìn vào chiếc điện thoại hiệu Princess cũ kỹ nằm trên chiếc bàn ti vi gần bếp, vẻ mặt buồn bã của bà cho thấy những cuộc tranh cãi với người phụ nữ mà bà đang sống cùng. Bà thêm vào: “Và cả thẻ điện thoại, chúng thật tốn tiền.”

“Chúng cháu sẽ gọi, bà ạ.”

“Ồ, ta không ngại gọi và nói chuyện với họ. Đã lâu rồi. Ta nhớ những khi gia đình quây quần đông đủ.”

Bell lục túi quần. “Thưa bà, bởi vì đây là công việc mà Geneva và tôi đang cùng nhau làm, để tôi được mua cho bà một chiếc thẻ điện thoại.”

“Không.” Geneva thốt lên. “Cháu sẽ làm điều đó.”

“Cháu không...”

“Cháu có”, cô bé nói một cách quả quyết và Bell cất tiền đi. Cô bé đưa cho bà ấy tờ hai mươi đô.

Người phụ nữ nhìn tờ tiền đầy trân trọng và nói: ‘Ta sẽ mua thẻ và gọi điện trong hôm nay”.

Geneva nói: “Nếu bà tìm ra điều gì đó, hãy gọi lại cho chúng cháu theo số mà bà đã trước đó”.

“Tại sao cả cảnh sát cũng quan tâm tới Charles? Một người hẳn là đã chết cách đây ít nhất là hơn một trăm năm rồi.”

Geneva nhìn vào Bell và lắc đầu; người phụ nữ không biết rằng Geneva đang bị nguy hiểm và cô bé muốn giữ bí mật theo cách đó. Qua cặp mắt kính dày cộp, bà ấy không nhìn thấy được ánh mắt họ ra hiệu với nhau. Geneva nói: “Họ đang giúp cháu chứng minh ông ấy không hề phạm tội”.

“Họ đang làm thế sao? Sau tất cả ngần ấy năm?”

Bell không chắc rằng người phụ nữ hoàn toàn tin lời cô cháu gái của mình. Bà dì của chính người thanh tra, cũng tầm tuổi người phụ nữ này, vẫn sắc sảo như một cây kim. Không có gì qua mặt được bà.

Nhưng Lilly nói: “Các ông thật là tốt. Bella, hãy pha cho họ một ít cà phê. Và ca cao cho Geneva. Ta nhớ rằng đó là thứ con bé thích”.

Khi Roland Bell cẩn thận nhìn ra bên ngoài qua khoảng trống giữa những tấm rèm được thả, Geneva lại tiếp tục nhìn vào đống hộp đựng đồ.

Trên một con phố của Harlem.

Hai cậu bé đang cố gắng ganh đua bằng cách trượt ván xuống từ lan can của một căn nhà đá màu nâu, tán gẫu về những quy luật vật lý và cả sự trốn học.

Một người phụ nữ da đen đứng ở cổng vòm, đang tưới khóm cây phong lữ rất đẹp mà mùa giá rét vừa rồi đã không giết chết được nó.

Một chú sóc thì đang chôn, hay đang đào lên, cái gì đó ở mảng đất lớn nhất gần đó: có hình chữ nhật cạnh khoảng mét hai và mét rưỡi phù đầy cỏ vàng, ở giữa là khung một chiếc máy giặt.

Và ở phía đông phố 123, gần nhà thờ Iglesia Adventista, với đường lên cao vút của chiếc cầu Triborough ở phía sau làm nền, ba sĩ quan cảnh sát xem xét một cách tỉ mỉ ngôi nhà đá nâu tồi tàn và các khu phố xung quanh. Hai người - một nam và một nữ - mặc quần áo bình thường; người cảnh sát còn lại ở trong hẻm thì mặc cảnh phục. Anh ta đi lên đi xuống con hẻm như một tên lính mới đang đứng gác.

Thompson Boyd quan sát, hắn đã bám theo Geneva Settle và những người bảo vệ cô tới đây, giờ đang đứng ở một tòa nhà bỏ hoang bên kia con phố, chếch sang hướng tây vài căn nhà. Hắn quan sát chăm chú qua những vết nứt ở các tấm quảng cáo về cho vay tiền cầm cố nhà.

Hắn tò mò vì họ lại đưa cô bé ra ngoài. Không giống như sách vở. Nhưng đó là vấn đề của họ.

Thompson bắt đầu tính toán các bước: Hắn giả dụ đây sẽ là một chuyến đi ngắn gọn - một cú tấn công chớp nhoáng, có thể nói là thế, với chiếc Crown Victoria và chiếc xe khác đậu song song, họ chẳng làm gì để che giấu danh tính những chiếc xe này cả. Hắn quyết định phải hành động thật nhanh để chiếm lợi thế. Nhanh chóng ra khỏi tòa nhà đổ nát bằng lối cửa sau, Thompson đi một vòng quanh dãy phố, chỉ dừng lại đủ lâu để mua một gói thuốc lá ở một cửa hàng rượu. Khẽ lẻn vào căn hẻm phía sau tòa nhà nơi Geneva đang ở, Thompson nhìn ra ngoài. Hắn cẩn thận đặt chiếc túi xuống đường và tiến về trước một vài mét. Nấp đằng sau một đống túi đựng rác, hắn quan sát viên cảnh sát tóc vàng đang tuần tra con hẻm. Tên sát thủ bắt đầu đếm số bước chân của chàng trai trẻ. Một, hai...

Ở bước mười ba viên cảnh sát tới phía sau lưng tòa nhà và quay lại. Nhiệm vụ của anh ta là phải canh chừng một khu vực lớn; hẳn anh ta đã được giao nhiệm vụ là phải quan sát toàn bộ con hẻm, cả trước và sau, đồng thời để mắt tới những cánh cửa sổ trong tòa nhà đối diện nữa.

Ở bước mười hai, anh ta lại tới vỉa hè phía trước tòa nhà và bắt đầu bước ngược lại. Một, hai, ba...

Lại mười hai bước để tới phía sau tòa nhà. Chàng cảnh sát nhìn quanh rồi tiếp tục bước quay lại về phía trước, bước mười ba bước.

Lần sau lại là mười một bước, rồi mười hai.

Không chính xác như một chiếc đồng hồ, nhưng vẫn khá đều. Thompson Boyd vẫn có ít nhất mười một bước chân để lẻn tới phía sau tòa nhà mà không bị phát hiện, trong khi cậu lính trẻ vẫn đang quay lưng lại. Rồi sau đó hắn lại có ít nhất mười một bước để đợi tới lúc cậu ta quay trở lại phía sau tòa nhà. Hắn kéo chiếc mũ trùm qua đầu.

Chàng sĩ quan trẻ lúc này quay lại và hướng về phía con phố một lần nữa.

Trong một khắc, Thompson lao ra khỏi chỗ nấp và nhanh chóng trườn vào phía sau của tòa nhà, nhẩm... ba, bốn, năm, sáu...

Di chuyển không tiếng động với đôi giày hiệu Bass, Thompson giữ ánh mắt trên lưng cậu cảnh sát. Cậu ấy không hề quay lại nhìn. Hắn tiếp cận bức tường ở bước thứ tám, đứng dựa vào tường, lấy lại hơi thở; hắn quay về phía con hẻm nơi mà chàng cảnh sát trẻ sẽ nhanh chóng xuất hiện.

Mười một. Chàng cảnh sát chắc hẳn là mới đến phía con phố bên kia và bắt đầu quay lại. Một, hai, ba...

Thompson Boyd, nén hơi thở thật chậm.

Sáu, bảy...

Thompson Boyd, nắm thật chặt cây dùi cui bằng cả hai tay.

Chín, mười, mười một...

Tiếng chân bước lạo xạo trên con đường đá cuội lởm chởm.

Thompson bước thật nhanh ra khỏi con hẻm, vung cây dùi cui giống như một tay đập bóng chày, chớp nhoáng như cú tấn công của một con rắn đuôi chuông. Hắn thấy một vẻ bàng hoàng thuần khiết trên khuôn mặt cậu trai trẻ. Hắn nghe thấy tiếng gió rít của cây gậy và tiếng thở hắt ra của chàng cảnh sát, mà tất cả cùng dừng lại khoảnh khắc cây gậy đập vào trán cậu ta. Chàng trai khuỵu xuống, tiếng nói ứ nghẹn ríu trong cổ họng. Tên sát thủ đánh vào đỉnh đầu cậu ta.

Chàng cảnh sát đổ sập úp mặt xuống nền đất bẩn thỉu. Thompson kéo chàng trai trẻ đang rung lên bần bật, vẫn còn ý thức một chút, vòng qua lưng tòa nhà, nơi không thể bị phát hiện từ phía con phố.

Nghe thấy tiếng súng nổ, Roland Bell nhảy dựng về phía cửa sổ căn hộ, nhìn ra ngoài một cách thận trọng. Anh mở khuy áo ngoài và chộp lấy điện đàm.

Anh lờ đi người bạn của bà Lilly đang mở to mắt, nói: “Lạy Chúa, có chuyện gì đang xảy ra vậy?”.

Bà Lilly im lặng nhìn chằm chằm vào khẩu súng to đùng ở bên hông người cảnh sát.

“Bell đây”, anh nói vào điện đàm. “Có vấn đề gì vậy?”

Luis Martinez trả lời với hơi thở đứt quãng: “Súng nổ. Từ phía sau tòa nhà, thưa sếp. Pulaski ở đó. Barbe đã đi xem sao rồi”.

“Pulaski”, Bell gọi vào điện đàm. “Nghe rõ trả lời.”

Không có gì hết.

“Pulaski!”

“Như vậy là sao?” Lilly nói, khiếp sợ. “Lạy Chúa.”

Bell giơ một ngón tay lên. Nói vào điện đàm: “Các vị trí, báo cáo”.

“Tôi vẫn đang ở cổng vòm phía trước”, Martinez trả lời. “Không có tin gì từ Barbe.”

“Di chuyển nhanh chóng xuống giữa khu vực hành lang tầng trệt, quan sát kỹ cửa sau. Đó là lối tôi sẽ đi vào, ý tôi là nếu mình là hắn. Nhưng bảo đảm cả hai lối vào.”

“Rõ.”

Bell quay sang Geneva và hai người phụ nữ già. “Chúng ta phải đi, ngay.”

“Nhưng...”

“Ngay, thưa quý cô. Ta sẽ vác cháu nếu như phải làm thế nhưng như vậy sẽ khiến chúng ta nguy hiểm hơn.”

Barbe Lynch cuối cùng đã báo cáo. “Pulaski gục rồi.” Cô gọi 10-13, yêu cầu chi viện và nhân viên y tế.

“Cửa sau vẫn còn nguyên chứ?”, anh hỏi.

Lynch đáp lại: “Các cửa vẫn đóng và khóa. Đó là tất cả những gì tôi biết”.

“Giữ nguyên vị trí, quan sát kỹ khu vực hẻm phía sau. Tôi sẽ đưa cô bé ra ngoài.”

“Chúng ta đi thôi”, anh nói với cô bé.

Sự bướng binh đã bớt nhưng cô nói: “Cháu không bỏ họ lại được”. Hướng về phía hai người phụ nữ già.

“Anh nói cho tôi ngay chuyện này là thế nào”, người bà cô của cô bé nói, nhìn Bell đầy giận dữ.

“Đó là vấn đề của cảnh sát. Có kẻ nào đó đang cố tấn công Geneva. Tôi muốn các bà rời khỏi đây. Có người bạn nào của hai người ở đây mà hai người có thể trú tạm một thời gian không?”

“Nhưng...”

“Liệu có nhất thiết phải khăng khăng ở lại không, thưa các quý bà. Có cần thế không? Nói với tôi nhanh lên.”

Họ nhìn nhau với đôi mắt hoảng sợ và gật đầu. “Bà Marie, tôi cho là”, Lilly nói. “Lên nhà trên thôi.”

Bell bước về cửa ra vào và nhìn ra ngoài. Hành lang vắng lặng ập vào mắt anh.

“Được rồi, giờ thì đi thôi.”

Những người phụ nữ già nhanh chóng đi xuống hành lang. Bell thấy họ gõ cửa. Nó mở ra và những tiếng nói trong đó tắt đi, rồi khuôn mặt một người phụ nữ da đen nhìn ra bên ngoài. Những người phụ nữ biến mất vào trong, cánh cửa đóng lại và theo đó là tiếng sợi xích và tiếng khóa. Viên thanh tra và cô bé vội vàng lao xuống cầu thang, Bell dừng lại ở tất cả các chiếu nghỉ để bảo đảm tầng bên dưới an toàn, khẩu súng tự động màu đen to đùng nằm trong tay.

Geneva chẳng nói gì cả. Cô nghiến chặt hàm, nỗi tức giận lại bùng nổ một lần nữa.

Họ dừng lại ở hành lang. Viên thanh tra chỉ Geneva núp mặt vào những góc tối phía sau anh. Anh hét lớn: “Luis?”.

“Tầng này an toàn, thưa sếp, ít nhất là tới lúc này”, viên cảnh sát nói với giọng thì thầm chắc nịch từ cách đó nửa đường đi tới cái hành lang dẫn ra cửa sau.

Tiếng Barbe bình tĩnh nói: “Pulaski vẫn sống. Tôi tìm thấy cậu ấy đang nắm chặt khẩu súng - cậu ta đã nổ một phát súng. Đó là tiếng mà chúng ta nghe thấy. Không có dấu hiệu nào cho thấy cậu ta đã bắn trúng cái gì”

“Cậu ấy nói gì không?”

“Cậu ta bất tỉnh rồi.”

Vậy có lẽ hắn ta đã chuồn mất rồi, Bell nghĩ.

Hoặc là hắn dự định làm một điều gì đó khác. Liệu có an toàn hơn không khi ở đây đợi viện trợ? Đó thực sự là một câu hỏi cần phải cân nhắc kỹ về logic. Dù vậy, vấn đề thực tế là, liệu đó có phải là câu trả lời đúng đắn cho câu hỏi của cái điều mà Nghi phạm 109 có trong đầu hay không?

Bell quyết định.

“Luis, tôi sẽ đưa cô bé ra khỏi đây. Giờ. Cần sự hỗ trợ của anh.”

“Sẵn sàng, thưa sếp.”

Thompson Boyd một lần nữa đứng trong tòa nhà cháy dở phía bên kia con phố của tòa chung cư mà Geneva Settle và những cảnh sát ở đó.

Cho đến lúc này, kế hoạch của hắn đã có tác dụng.

Sau khi hạ gục chàng cảnh sát trẻ, hắn đã rút một viên đạn từ khẩu Glock của anh ta. Rồi buộc nó bằng dây cao su vào một điếu thuốc đang cháy dở - để làm kíp nổ - và đặt cái thiết bị kích nổ tự tạo này ở trong con hẻm. Và hắn nhét khẩu súng vào tay chàng cảnh sát đã bất tỉnh.

Hắn cởi mặt nạ, chạy sang một con hẻm khác, ở phía đông của tòa nhà, bước vào phố. Khi điếu thuốc cháy xuống và kích nổ viên đạn thì hai cảnh sát trong thường phục biến mất, hắn chạy tới chiếc Crown Victoria. Hắn có một thanh sắt nhỏ mảnh để cậy cánh cửa nhưng không cần đến nó; chiếc xe không bị khóa. Từ chiếc túi đựng đồ, hắn lấy ra vài thứ đã chuẩn bị sẵn từ đêm hôm trước, rồi ráp lại và giấu chúng bên dưới ghế lái và cẩn thận đóng cửa.

Thiết bị tự chế này khá đơn giản: một lọ acid sunfuric thấp và rộng, nằm trong đó là một cái đế nến thấp bằng kính. Và ở trên đó là một bọc bằng lá kim loại vo tròn chứa vài thìa đầy bột cyanide[4] nghiền nhuyễn. Bất cứ chuyển động nào của chiếc xe đều có thể khiến nó lăn xuống lọ acid, mà có thể làm tan cả lớpỏ và hòa tan chất độc. Cái chất khí chết người ấy sẽ nhanh chóng lan ra và đánh ngất những người trên xe trước khi họ kịp mở cửa hay cửa sổ. Họ sẽ chết - hoặc là chết não - nhanh chóng sau đó thôi.

[4] Một loại chất cực độc.

Hắn nhìn lén qua khe nứt ở giữa tấm biển quảng cáo và những gì còn lại ở bức tường phía trước tòa nhà. Ở cổng vòm là viên thanh tra tóc màu nâu có vẻ như là người chịu trách nhiệm nhóm bảo vệ. Bên cạnh anh ta là một nam cảnh sát mặc thường phục và ở giữa họ là cô bé.

Cả ba người dừng lại ở cổng khi viên thanh tra quan sát khu phố, những nóc nhà, ô tô, và các con hẻm.

Khẩu súng nằm trong bàn tay phải. Chìa khóa xe ở bên tay trái. Họ đang chuẩn bị chạy vào trong chiếc xe tử thần ấy.

Hoàn hảo.

Thompson Boyd quay đi và rời khỏi tòa nhà một cách nhanh chóng. Hắn cần phải tạo khoảng cách vừa đủ với khu vực này. Những cảnh sát khác hẳn đã trên đường tới đây, tiếng còi xe cảnh sát hú inh ỏi ngày một to lên. Khi trượt ra khỏi phía sau của tòa nhà, hắn nghe thấy tiếng nổ máy chiếc xe của viên thanh tra. Sau đó là tiếng bánh xe rít lên.

Thở thật sâu, hắn nghĩ tới những người ngồi trên xe. Hắn nghĩ thế bởi hai lý do: Đầu tiên, tất nhiên là, hắn muốn cái nhiệm vụ khó nhằn này kết thúc. Nhưng đồng thời hắn cũng gửi thông điệp tới họ vì một lý do khác: Chết bởi chất độc cyanide có thể cực kỳ khủng khiếp. Cầu cho họ chết nhanh chóng và không đau đớn là những gì mà một người với những cảm xúc sẽ nghĩ, một người không hề vô cảm chút nào.

Nho, sơri, sữa...

Thở thật sâu.

Cảm nhận tiếng động cơ ầm ầm - nó làm tay, chân và lưng cô rung lên - Amelia Sachs đang lao thật nhanh tới khu Spanish Harlem[5]. Cô đã đạt mức sáu mươi dặm một giờ trước khi vào số ba.

[5] Còn có tên gọi khác E1 barrio, East Harlem, nơi có cộng đồng người Mỹ Latin tập trung đông ở thành phố New York.

Cô ở với Rhyme khi họ nhận được tin báo: Pulaski bị hạ, kẻ giết người đã lên kế hoạch đặt một loại thiết bị vào xe của Roland Bell. Cô đã phi xuống tầng, nổ máy chiếc Camaro 1969 màu đỏ và chạy tới hiện trường vụ tấn công ở phía đông Harlem.

Lao vun vút qua những đèn xanh và giảm tốc xuống khoảng ba mươi dặm một giờ ở các đèn đỏ - quan sát bên trái, bên phải, lùi số và nhấn ga

Mười phút sau cô đã dừng ở phố 123, đi ngược lại dòng xe cộ, để hụt một chiếc xe tải có vài centimet. Nhìn phía trước, cô có thể thấy những ánh đèn chớp nhoáng của chiếc xe cứu thương và ba chiếc xe cảnh sát từ sở cảnh sát địa phương. Đồng thời cũng thấy: hàng tá cảnh sát và một vài thành viên đội ESU, đang làm công việc của mình dọc các vỉa hè. Họ di chuyển một cách thận trọng, như thể là những người lính đang ở giữa chiến trường.

Để ý sau lưng mình...

Cô phanh kít chiếc Chevy đột ngột khiến lốp xe bốc khói trên nền đường và nhảy ra ngoài, nhìn chằm chằm vào những con hẻm xung quanh cùng những cửa sổ trống rỗng để tìm bất cứ một dấu hiệu nào của hung thủ và khẩu súng bắn kim của hắn. Đi thật nhanh vào trong con hẻm, giơ huy hiệu của mình ra, cô đã thấy các nhân viên y tế ở xung quanh Pulaski. Cậu ta đang nằm ngửa và họ đã lau rửa sạch đường hô hấp - ít nhất là cậu ta vẫn còn sống. Nhưng có rất nhiều máu và mặt cậu ta sưng lên khá to. Cô đã hy vọng rằng cậu ta có thể nói với họ điều gì đó nhưng cậu ta đang trong tình trạng hôn mê.

Có vẻ như cậu lính trẻ đã bị giật mình bởi sự xuất hiện của kẻ tấn công, hắn đã nằm phục chờ đợi cậu bước xuống con hẻm. Cậu ta đã đứng quá gần với bên hông của tòa nhà. Hẳn là không có cảnh báo nào khi hắn tấn công. Chúng ta thường đi ở giữa vỉa hè và các con hẻm để không ai có thể nhảy ra và làm ta giật mình.

Cậu ta đã không biết...

Cô tự hỏi liệu cậu ta có thể sống để học bài học này không.

“Cậu ta thế nào rồi?”

Nhân viên y tế không nhìn lên. “Không đoán trước được. May mắn là cậu ta vẫn còn sống.” Rồi nói với đồng nghiệp của mình. “Được rồi. Đưa anh ta ra ngoài thôi. Ngay bây giờ.”

Khi họ đặt Pulaski lên chiếc cáng chuyên dụng và nhanh chóng đưa anh ta tới chiếc xe cứu thương, Sachs giải tán mọi người ra khỏi hiện trường để bảo vệ bất cứ bằng chứng nào có thể còn ở đó. Rồi cô quay lại căn hẻm và mặc bộ Tyvek màu trắng của mình vào.

Ngay khi cô kéo khóa chiếc áo lên, một trung sĩ cảnh sát khu vực bước tới phía cô. “Cô là Sachs phải không?”

Cô gật đầu. “Có dấu hiệu nào của hung thủ không?”

“Chẳng có gì cả. Cô sẽ khám nghiệm hiện trường hả?”

“Đúng vậy.”

“Cô có muốn xem qua chiếc xe của thanh tra Bell không?”

“Chắc chắn rồi.”

Cô bước về phía trước.

“Đợi đã”, người đàn ông nói. Anh ta đưa cho cô một chiếc mặt nạ.

“Nó tồi tệ thế sao?”

“Anh ta kéo chiếc mặt nạ của mình vào. Qua lớp cao su dày, cô nghe thấy tiếng nói nghiêm trọng của anh ta: “Đi theo tôi”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,259
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Với sự tiếp viện của đội ESU, hai cảnh sát đến từ đơn vị Phòng chống bom mìn từ Khu số 6 đang cúi rạp người ở ghế sau chiếc Crown Victoria của Bell. Họ không mặc áo giáp chống bom mà mặc những bộ đồ chống vũ khí sinh học kín mít từ đầu đến chân.

Mặc bộ áo mỏng hơn và màu trắng, Amelia Sachs đứng ở phía sau khoảng chín mét.

“Tình hình sao rồi, Sachs?” Rhyme gọi vào trong điện đàm. Cô nhảy dựng lên vì giật mình. Rồi vặn tiếng nhỏ xuống. Dây nối từ điện đàm của cô đã được lắp vào mặt nạ chống khí độc.

“Em chưa đến gần lắm để thấy; họ vẫn đang tháo thiết bị đó ra. Nó là cyanide và acid.”

“Nhiều khả năng đó là sulfuric chúng ta thấy ở các dấu vết trên bàn làm việc của hắn.” Anh nói.

Thật chậm, đội tháo dỡ bom mìn lấy thiết bị chết người ấy ra. Họ bọc kín các bộ phận bằng những hộp chứa chống độc đặc biệt.

Một tiếng nói khác xen vào - từ một trong những sĩ quan đội phòng chống bom mìn: “Thám tử Sachs, chúng tôi đã vô hiệu hóa nó. Cô có thể khám nghiệm chiếc xe nếu cô muốn. Nhưng vẫn phải đeo mặt nạ chống độc. Không có khí độc thoát ra nhưng hơi acid bốc lên có thể nguy hiểm”.

“Đúng vậy, cảm ơn anh.” Cô bắt đầu bước tới.

Tiếng Rhyme lại vang lên. “Khoan đã...”

Rồi anh quay lại. “Họ an toàn, Sachs. Họ đang ở đơn vị rồi.”

“Họ” chính là những nạn nhân của chất độc bỏ lại trong chiếc Crown Victoria hướng tới, Roland Bell và Geneva Settle. Họ đã rất gần với cái chết. Nhưng, khi chuẩn bị lao thật nhanh từ tòa nhà của người bà cô Geneva tới chiếc xe, Bell rằng có điều gì đó bất thường ở hiện trường vụ tấn công Pulaski. Barbe Lynch tìm thấy cậu ta cầm khẩu súng trong tay mình. Nhưng nghi phạm này lại thừa ranh mãnh để bỏ lại khẩu súng trong tay một cảnh sát đang gục xuống, ngay cả khi anh ta đã bất tỉnh. Không, ít nhất hắn phải ném nó đi, nếu hắn không muốn mang nó theo. Bell đã kết luận rằng bằng cách nào đó, hung thủ đã tự nổ súng và để khẩu súng lại khiến họ nghĩ rằng chàng cảnh sát trẻ đã bóp cò. Mục đích? Để lôi kéo các cảnh sát ra khỏi phía trước tòa nhà.

Và tại sao? Câu trả lời rất rõ ràng: Để họ bỏ mặc những chiếc xe không ai bảo vệ.

Chiếc Crown Vic không bị khóa, có nghĩa là hung thủ có thể đã nhét vào đó một thiết bị nổ. Bởi vậy anh đã lấy chìa khóa tới chiếc Chevy mà Martinez và Lynch đã lái tới đây và dùng phương tiện này để đưa Geneva thật nhanh ra khỏi khu vực nguy hiểm, cảnh báo tất cả mọi người tránh xa chiếc Ford cho tới khi Đội phá bom mìn làm việc với nó. Sử dụng một camera có sợi cáp quang họ dò tìm bên dưới và bên trong chiếc Crown Vic, cuối cùng tìm ra thiết bị ấy ở dưới ghế lái.

Sachs giờ đang khám nghiệm khu vực hiện trường: chiếc xe, đường tiếp cận nó và con hẻm nơi Pulaski bị tấn công. Cô không tìm thấy gì nhiều hơn ngoài dấu giày Bass, mà đó là dấu vết xác nhận rõ hung thủ chính là Nghi phạm 109, và một thiết bị khác, một thiết bị tự tạo: viên đạn từ khẩu súng tự động mà Pulaski được trang bị đã được buộc vào một điếu thuốc cháy dở. Hung thủ đã để nó cháy trong con hẻm và chuồn ra phía trước tòa nhà. Khi nó kích nổ viên đạn, “tiếng súng” sẽ thu hút các cảnh sát về phía sau, tạo cho hắn cơ hội cài đặt thiết bị vào chiếc xe của Bell.

Khốn kiếp thật, hắn thật là thông minh, cô nhủ trong đầu với một sự ngưỡng mộ.

Không có dấu hiệu nào cho thấy bạn đồng hành của hắn, gã da đen với chiếc áo khoác dã chiến, đã - hoặc vẫn - ở gần đó.

Đeo chiếc mặt nạ vào một lần nữa, cô kiểm tra thật cẩn thận phần làm bằng kính của thiết bị độc, nhưng không thu lại được dấu vân tay hay bằng chứng nào, điều này cũng không khiến mọi người ngạc nhiên. Có thể chất cyanide hoặc acid sẽ cho họ biết điều gì đó. Thất vọng, cô báo các kết quả cho Rhyme.

Anh hỏi: “Vậy em tìm những cái gì rồi?”.

“Ừm, chiếc xe và con hẻm quanh Pulaski. Lối vào và các đường thoát khỏi con hẻm, con phố hắn tiếp cận chiếc Crown Vic - cả hai hướng.”

Im lặng một lúc khi Rhyme đang suy nghĩ.

Cô cảm thấy nặng nề, không thoải mái. Liệu cô có bỏ qua điều gì đó không? “Anh đang nghĩ gì, Rhyme?

“Em hãy tìm theo quyển sách, Sachs. Đó là những nơi chính xác cần làm. Nhưng em đã thực hiện trên tổng thể hiện trường chưa?”

“Chương II quyển sách của anh?”

“Tốt lắm. Ít nhất cũng có ai đó đọc nó. Nhưng em đã làm theo những gì anh nói chưa?”

Mặc dù thời gian vẫn luôn là vàng là bạc, là điều cốt yếu khi khám nghiệm một hiện trường, một trong những phương pháp Rhyme gắn chặt là dành ra vài phút để bao quát toàn bộ hiện trường dựa trên từng vụ án cụ thể. Ví dụ mà anh trích ra trong quyển sách khoa học pháp y là một vụ giết người có thật ở làng Greenwich. Hiện trường chính ban đầu là nơi nạn nhân bị chết ngạt được tìm thấy, ở căn hộ của anh ta. Hiện trường thứ hai là lối thoát hiểm mà hung thủ sử dụng để tháo chạy. Dù vậy, vẫn có hiện trường thứ ba, mà nó chả có vẻ gì là một hiện trường cả, Rhyme đã tìm thấy ở đó các que diêm có dấu vân tay của hung thủ: một quán bar đồng tính cách ba dãy nhà. Không một ai có thể hoặc sẽ nghĩ đến việc tìm dấu vết ở một quán bar, ngoại trừ điều đó thì Rhyme đã tìm thấy các cuộn băng sex đồng tính ở nhà nạn nhân; một cuộc điều tra quán bar đồng tính gần nhất đã tìm ra một nhân viên phục vụ có thể nhận dạng nạn nhân và nhớ ra rằng anh ta đã uống rượu với một người đàn ông vào thời điểm trước khi xảy ra vụ án. Phòng thí nghiệm đã làm hiện lên những dấu vết ẩn trên hộp diêm bỏ lại gần chỗ họ ngồi trong quầy bar, những dấu vân tay đưa họ tới kẻ giết người.

“Tiếp tục suy nghĩ đi, Sachs. Hắn lập nên kế hoạch này - mới chỉ nảy ra khi hắn ở đó nhưng rất tỉ mỉ và công phu - để đánh lạc hướng chú ý người của ta và đặt thiết bị đó vào trong chiếc xe. Điều đó có nghĩa là hắn phải biết rõ vị trí tất cả những người tham gia, biết họ đang làm gì và làm thế nào hắn có thể tạo ra đủ thời gian để cài đặt thiết bị đó. Nó cho ta biết điều gì?”

Sachs đang kiểm tra xung quanh khu phố. “Hắn quan sát tất cả.”

“Đúng thế, quả thật là vậy, Sachs. Tốt lắm. Và liệu hắn có thể quan sát từ vị trí nào được?”

“Ở bên kia con phố là nơi có tầm quan sát tốt nhất. Nhưng có hàng tá tòa nhà mà hắn có thể đã ở đó. Em không biết được là cái nào.”

“Đúng thế. Nhưng khu lân cận là Harlem, đúng không?”

“Em...”

“Có hiểu anh đang nói gì không?”

“Không hoàn toàn hiểu...”

gia đình, Sachs. Các gia đình sống ở đó, các gia đình nhiều đời, nhiều con cháu chung sống cùng nhau, chứ không phải là những gã nhà giàu mới nổi sống một mình. Xâm nhập vào một ngôi nhà không thể không bị để ý. Cũng giống như chẳng thể có một kẻ nào có thể lẩn trốn vào các hành lang hay các con hẻm. Đó là một từ hay đấy, đúng không? Lẩn trốn. Tất cả là thế.”

“Vậy mấu chốt là gì, Rhyme?” Tâm trạng tốt của anh đã quay lại nhưng cô thực sự phát cáu bởi anh thích thú với câu đố của vụ án hơn cơ hội sống còn để hồi phục của Pulaski hay việc Roland Bell và Geneva Settle đã gần như bị giết chết.

“Không phải một căn hộ. Không phải từ một mái nhà - người của Roland luôn luôn quan sát chỗ đó. Hẳn phải có một nơi nào khác để đứng và quan sát, Sachs. Em nghĩ xem liệu đó có thể là chỗ nào?”

Nhìn dọc khu phố một lần nữa... “Có những tấm biển quảng cáo ở một tòa nhà bị bỏ hoang. Nó đầy những hình vẽ graffiti và những tờ rơi - anh biết đấy, đúng là thật khó để mà phát hiện ra một ai đó đang nhìn lén từ đằng sau nó. Em sẽ đi xem sao.”

Kiểm tra thật cẩn thận dấu hiệu chứng tỏ nghi phạm có thể còn ở quanh đó và không thấy gì khả nghi, cô băng qua phố và bước tới phía sau của tòa nhà cũ kỹ - một cửa hàng bị cháy, có vẻ là thế. Trèo vào qua cửa sổ phía sau, cô nhận thấy sàn nhà đầy bụi - một bề mặt hoàn hảo cho các dấu chân, và đủ để chắc chắn, cô nhận ra dấu giày của Nghi phạm 109 ngay lập tức. Cô vẫn choàng các sợi dây chun quanh phần chân của bộ Tyvek - một thủ thuật mà Rhyme nghĩ ra để bảo đàm rằng một sĩ quan cảnh sát khi khám xét một hiện trường không bị nhầm lẫn dấu vết của mình với của hung thủ. Nữ thanh tra bắt đầu bước vào căn phòng, khẩu Glock trong tay.

Đi theo dấu giày của hung thủ tới phía trước, cô dừng lại từng chút một, lắng nghe các tiếng động. Sachs nghe thấy một hay hai tiếng chân sột soạt nhưng không có gì lạ hơn ngoài âm thanh của một New York với mặt trái của nó, cô nhận ra ngay tức khắc kẻ xâm nhập là một con chuột.

Cô nhìn ra phía trước qua khoảng trống giữa các tấm gỗ dán của cái bảng quảng cáo nơi hắn ta đứng và nhận ra rằng, đúng thế, vị trí này mang đến tầm quan sát con phố một cách hoàn hảo. Cô thu lượm một vài thiết bị pháp y cơ bản rồi quay lại và dùng tia cực tím chiếu vào bức tường. Sachs quay cái que chiếu ánh sáng chuyên dụng để nổi dấu tay vào đó.

Nhưng những dấu vết duy nhất mà cô tìm ra là dấu găng tay cao su.

Cô nói với Rhyme những gì vừa tìm thấy rồi nói: “Em sẽ thu một vài dấu vết nơi hắn đứng nhưng không thấy gì nhiều. Hắn chẳng để lại một thứ gì cả

“Quá chuyên nghiệp”, Rhyme nói, thở dài. “Cứ mỗi lần chúng ta lột được âm mưu của hắn, thì hắn cũng vượt qua được tính toán của ta. Chà, mang về những gì em thu được, Sachs. Chúng ta sẽ xem xét nó.”

Trong khi họ chờ đợi Sachs frở về, Rhyme và Sellito đưa ra một quyết định: Trong khi mọi người đều tin rằng Nghi phạm 109 đã chuồn khỏi khu vực xung quanh tòa nhà, họ vẫn sắp xếp để cho bà cô của Geneva, Lilly Hall và bạn của bà chuyển tới khách sạn một thời gian.

Với Pulaski, cậu ta đang trong giai đoạn hồi sức cấp cứu, vẫn bất tỉnh sau khi bị hạ gục. Các bác sĩ không thể nói được liệu cậu ta có thể sống sót hay không. Trong phòng thí nghiệm của Rhyme, Sellito đóng chiếc điện thoại một cách đầy giận dữ khi nhận được tin: “Cậu ta là một tay lính mới ngu ngốc. Tôi đã thật sai lầm khi chọn cậu ta vào đội của Bell. Đáng lẽ tôi phải đi mới đúng”.

Nói ra điều đó thật lạ lùng. “Lon”, Rhyme hỏi: “Anh có quân hàm. Anh tốt nghiệp chuyên ngành bảo vệ, khi nào? Hai mươi năm trước?”.

Nhưng điều đó không an ủi viên cảnh sát to lớn chút nào. “Đưa cậu ta vào vị trí quá với khả năng. Tôi thật ngu ngốc. Chúa ơi.”

Một lần nữa bàn tay anh ta lại mài vào cái điểm trên má. Ngày hôm nay viên thanh tra cáu kỉnh và nhìn đặc biệt nhàu nhĩ. Cách ăn vận thường nhật: áo màu sáng với quần màu tối. Dù vậy, Rhyme tự hỏi, liệu có phải đây là bộ quần áo mà anh ta mặc ngày hôm qua không. Có vẻ là thế. Đúng vậy, có một vết máu từ vụ bắn súng ở thư viện trên tay chiếc áo khoác - như thể anh ta mặc bộ quần áo như một sự hối lỗi.

Tiếng chuông cửa reo lên.

Thom quay lại một khắc sau đó với một người đàn ông gầy cao lêu nghêu. Da xanh nhợt, hình dáng xấu xí, mái tóc xoăn tít màu nâu và bộ râu lởm chởm. Anh ta mặc một chiếc áo khoác bằng nhung kẻ màu nâu nhạt và quần màu nâu đậm. Đôi xăng đan hiệu Brikenstock.

Đôi mắt ông ta quét quanh phòng thí nghiệm rồi nhìn Rhyme đầy dò xét. Không nhếch mép cười, anh ta hỏi: “Geneva Settle có ở đây không?”

“Ông là ai?” Sellito nói.

“Tôi là Wesley Goades.”

À, Kẻ hủy diệt hợp pháp[6] - không phải là nhân vật hư cấu, Rhyme có một chút ngạc nhiên khi biết. Sellito kiểm tra chứng minh thư của ông ta và gật đầu.

[6] Nguyên văn: legal terminator (cách chơi chữ của tác giả ở đây, liên quan đến phần đầu câu chuyện).

Những ngón tay dài của người đàn ông chỉnh chiếc kính gọng có dây dày cộp hoặc giật bộ râu dài của ông ta một cách vô thức và không bao giờ nhìn vào mắt một ai đó quá nửa giây.

Sự bồn chồn lo lắng đập vào mắt liên tục khiến Rhyme nhớ tới người bạn của Geneva, Lakeesha Scotta với cái miệng nhai kẹo cao su chóp chép.

Ông ta đưa tấm danh thiếp cho Thom, rồi anh đưa cho Rhyme nhìn. Goades là giám đốc của Tập đoàn Dịch vụ Pháp lý Trung tâm Harlem và được sát nhập với Liên minh tự do dân sự Hoa Kỳ. Con dấu đóng ở dưới cho thấy ông ta được cấp phép hành nghề về luật ở tiểu bang New York, các tòa án liên bang cẩp quận ở New York và Washington D.C., và trước Tòa án Tối cao Mỹ.

Có lẽ những ngày đại diện cho các công ty bảo hiểm tư bản đã khiến ông ta thay đổi sang hướng khác.

Đáp lại cái nhìn đầy thắc mắc từ Rhyme và Sellito, ông ta nói: “Tôi đã không có mặt ở thành phố thời gian qua. Tôi nhận được tin Geneva gọi đến văn phòng của mình ngày hôm qua. Điều gì đó về việc cô bé là một nhân chứng. Tôi chỉ muốn xem cô bé thế nào rồi”.

“Cô bé vẫn ổn”, Rhyme nói. “Có kẻ cố gắng sát hại cô bé nhưng chúng tôi đã bảo vệ cô bé mọi lúc mọi nơi.”

“Cô bé đang bị giữ ở đây? Trái với ý muốn của cô ấy?”

“Không phải là bị giữ, không hề”, nhà tội phạm học nói một cách quả quyết. “Cô bé đang ở nhà mình.”

“Cùng với bố mẹ cô ấy?”

“Một người bác.”

“Tất cả điều này là gì?” Viên luật sư không có nụ cười hỏi, ánh mắt ông ta liếc từ khuôn mặt này sang khuôn mặt khác, nhìn vào các tấm bảng bằng chứng, các thiết bị, các sợi dây.

Rhyme, luôn luôn, do dự trong việc nói chuyện về một vụ án đang điều tra với một người lạ, nhưng viên luật sư có thể sẽ có vài thông tin hữu ích. “Chúng tôi cho rằng có kẻ nào đó lo lắng về điều mà Geneva đang nghiên cứu cho bài tập ở trường, về một người tổ tiên của cô bé. Cô ấy có nói gì với ông trước đây không?”

“À, điều gì đó về người cựu nô lệ?”

“Chính xác.”

“Đó là lý do tôi đã gặp cô bé. Cô bé tới văn phòng của tôi tuần trước và hỏi tôi có biết ở đâu có các tài liệu ghi chép về các vụ án cũ trong thành phố - quay ngược lại vào khoảng những năm 1800. Tôi đã cho cô bé nhìn qua một vài quyển sách cũ mình có, nhưng đúng là không thể nào tìm ra các ghi chép về các phiên tòa sơ thẩm lâu đến thế. Tôi không giúp gì được cả.” Người đàn ông cao gầy nhướn lông mày nói. “Cô bé muốn trả công cho tôi vì đã mất thời gian của mình. Phần lớn khách hàng của tôi lại không làm như vậy.”

Đảo mắt quan sát căn phòng một vòng nữa, Goades có vẻ như đã hoàn toàn yên tâm rằng tình hình đúng là có vẻ như vậy. “Các anh đã gần tóm được gã đó chưa?”

“Chúng tôi có một chút manh mối”, Rhyme nói một cách lấp lửng.

“Chà, nói với cô bé là tôi ghé qua, được chứ? Và nếu như cô bé cần bất cứ điều gì, bất cứ lúc nào, hãy để cô ấy gọi điện cho tôi.” Ông ta hất đầu về phía tấm danh thiếp của mình rồi đi ra.

Mel Cooper cười khoái trí. “Cá một trăm đô là ông ta đã từng đại diện cho một con cú đốm trong thời gian hành nghề của mình.”

“Chẳng ai cá điều đó cả.” Rhyme lẩm bẩm. “Và chúng ta sẽ làm gì cho xứng với sự xao nhãng này? Quay lại với công việc nào. Làm việc thôi.”

Hai mươi phút sau, Bell và Geneva đến với một chiếc hộp đựng tài liệu và các đồ vật khác từ căn hộ của bà Lilly, thứ mà viên cảnh sát tuần tra đã mang đến cho họ từ ngôi nhà ngoại ô.

Rhyme nói với cô bé rằng Wesley Goades đã ghé qua.

“Để xem cháu thế nào phải không? Cháu đã nói với chú rằng ông ấy là người tốt. Nếu cháu có ý định kiện một ai đó thì cháu sẽ thuê ông ấy.”

Luật sư của Sự hủy diệt hàng loạt...

Amelia Sachs bước vào trong với các bằng chứng thu được ở hiện trường, gật đầu chào Geneva và những người khác.

“Xem chúng ta có gì nào”, Rhyme nói đầy hào hứng.

Điếu thuốc mà Nghi phạm 109 sử dụng như ngòi kích nổ cho “phát đạn” là hiệu Merit, khá phổ biến và không có dấu vết lần theo. Điếu thuốc được châm nhưng không được hút - hoặc là ít nhất họ cũng không thể phát hiện dấu răng hay nước bọt trên đầu lọc. Điều này có nghĩa là hắn không phải là một người hay hút thuốc, gần như chắc chắn là thế. Tất nhiên, không một dấu tay trên điếu thuốc. Cũng như vậy, chẳng có gì là nổi bật về sợi dây cao su mà hắn dùng để buộc chặt điếu thuốc vào viên đạn. Họ không tìm thấy dấu công ty sản xuất chất cyanide. Acid thì có thể mua được ở rất nhiều địa điểm. Vật được dùng để trộn acid và chất độc ở trong xe của Bell được làm từ những đồ vật trong nhà: một cái chai thủy những tấm lá bằng kim loại và một chiếc đế nến bằng thủy tinh. Chẳng thứ nào có dấu vết hay một thứ gì để có thể lần ra một địa điểm riêng biệt.

Trong tòa nhà bị bỏ hoang mà tên sát thủ dùng để quan sát, Sachs đã tìm ra thêm những dấu vết của cái chất lỏng huyền bí mà cô lấy được từ ngôi nhà ẩn nấp trên phố Elizabeth (chính là chất lỏng mà những phân tích của FBI vẫn đang khiến Rhyme mất hết cả kiên nhẫn chờ đợi. Hơn nữa, cô đã thu được một vài mảng màu cam nhỏ li ti từ nền của các tấm biển báo chỉ đường hoặc biển cảnh báo của các công trình tháo dỡ hoặc xây dựng. Sachs chắc chắn đó là từ nghi phạm bởi cô đã tìm thấy các mảng này ở hai vị trí khác nhau, ngay cạnh các dấu chân của hắn, và không ở đâu khác ngoài cái cửa hàng bị bỏ hoang đó. Rhyme suy đoán rằng nghi phạm có thể đã giả dạng thành một công nhân làm đường cao tốc, công nhân xây dựng hay các công trình công cộng. Hoặc có thể đó chính là công việc thực sự của hắn.

Trong khi đó, Sachs và Geneva xem xét chiếc thùng đựng kỉ vật của gia đình từ căn hộ của người bà cô. Nó đựng hàng đống sách cũ và các tạp chí, giấy tờ, mẩu báo được cắt ra, các tờ ghi chú, công thức, đồ lưu niệm và các tấm bưu thiếp.

Và, nó cho thấy, một lá thư đã ngả vàng lấp đầy những dòng chữ viết tay đặc biệt của Charles Singleton. Tuy nhiên, cách hành văn trên tờ giấy này ít tao nhã hơn nhiều so với những bức thư khác của ông.

Có thể hiểu được, tùy vào tình huống.

Sachs đọc nó thật to.

Ngày 15 tháng 7 năm 1868.

“Sau ngày xảy ra vụ trộm ở Quỹ Nô lệ tự do”, Rhyme chỉ ra. “Tiếp tục đi.”

Violet - Thật điên khùng biết bao! Anh đã gần như có thể nhận thấy được, những sự kiện này là một kế hoạch nhằm làm mất uy tín của anh, để làm anh xấu hổ trước những người bạn và trước những người lính danh dự trong cuộc chiến tự do.

Ngày hôm nay anh đã biết được nơi mình có thể tìm thấy công lý. Tối nay, anh đi tới Potter’s Field, mang theo khẩu Navy Colt của mình. Nhưng những nỗ lực của anh kết thúc bằng thảm họa, và hy vọng duy nhất của anh giờ đây nằm im mãi mãi bên dưới những lớp đất.

Anh mất cả đêm chạy trốn những người cảnh sát - họ giờ đang trùy lùng anh khắp nơi - rồi sẽ lẻn tới New Jersey vào buổi sáng. Em và con trai của chúng ta cũng phải chạy trốn; anh sợ họ cũng sẽ tìm cách trả thù em và con. Ngày mai vào buổi trưa, gặp anh tại chỗ John Stevens Pier ở New Jersey. Cùng với nhau, chúng ta sẽ làm lại ở Pennsylvania, nếu em gái em và chồng của nó đồng ý cưu mang chúng ta.

Có một người đàn ông trong tòa nhà sống ở trên cái chuồng ngựa mà anh đang trốn lúc này, và có vẻ như động lòng với hoàn cảnh khốn khổ của anh. Ông ấy đã bảo đảm với anh rằng sẽ đưa em lá thư này.

Sachs nhìn lên. “Có gì đó bị gạch ở đây. Em không thể đọc nổi.” Rồi cô tiếp tục:

Trời tối lắm rồi. Anh rất đói và mệt, trắc trở như Job[7] vậy. Và dòng nước mắt của anh - những vệt mà em thây trên lá thư này, em yêu ạ - không phải là từ nỗi đau mà từ sự hối tiếc vì bi kịch mà anh đã mang lại cho chúng ta. Tất cả chỉ vì cái bí mật... của anh! Giá mà anh đã hét lên sự thật từ nóc tòa thị chính thành phố, có lẽ những sự kiện đầy nỗi đau này sẽ không xảy ra. Giờ thì đã quá muộn cho sự thật rồi. Xin hãy tha thứ cho sự ích kỷ của anh, và sự hủy hoại bắt nguồn từ những dối trá mà anh đã tạo ra.

[7] Một nhân vật trong Kinh thánh, gặp phải rất nhiều chông gai thử thách từ Chúa trong cuộc sống.

Sachs nhìn lên. “Ông ấy ký mỗi chữ Charles.”

Rhyme nhớ lại, buổi sáng ngày hôm sau cuộc săn đuổi ông ấy được tường thuật lại trong tờ tạp chí mà Geneva đọc khi cô bé bị tấn công.

“Hy vọng duy nhất của ông ấy?”; “Nằm sâu bên dưới lớp đất sét và đất”. Rhyme nhìn bức thư một lần nữa, Sachs giơ nó lên cho anh. “Không có gì đặc biệt chú trọng về bí mật ấy... Và điều gì đã xảy ra ở Potter’s Field? Đó là nghĩa trang dành cho những người ăn xin, người nghèo, vô danh phải không?

Cooper lên mạng và tra thông tin một lúc. Anh báo lại rằng nghĩa trang thành phố dành cho những người nghèo khổ nằm ở đảo Hart, gần khu Bronx. Hòn đảo từng là một căn cứ quân sự, và nghĩa trang mới chỉ được mở ở đó không lâu trước khi Charles tới đó với nhiệm vụ bí mật của mình, mang theo khẩu Colt.

“Quân đội?” Rhyme hỏi, cau mày. Có điều gì đó nảy ra trong trí nhớ của anh. “Cho tôi xem những lá thư khác.”

Cooper làm việc đó.

“Nhìn này, sư đoàn của Charles tập trung ở đây. Tự hỏi liệu đó có phải là sự liên quan không. Có điều gì khác về cái nghĩa trang không?”

Cooper đọc. “Không. Chỉ có một hay hai bài thôi.”

Rhyme quét qua tấm bảng trắng. “Charles định làm gì nhỉ? Gallow Heights, Potters’ Field, Federick Douglass, những nhà lãnh đạo quyền dân sự, các nghị sĩ, các chính trị gia, Tu chính án số 14,... Cái gì gắn k chúng lại với nhau?” Sau một khoảng thời gian yên lặng dài lê thê nhà tội phạm học nói: “Hãy gọi cho một chuyên gia”.

“Ai còn tốt hơn cả anh nữa?”

“Ý tôi không phải là chuyên gia khoa học pháp y, Mel”. Rhyme nói. “Tôi đang nói về lịch sử. Có một vài chủ đề tôi không giỏi lắm.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,259
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


Giáo sư Richard Taub Mathers cao và mảnh khảnh, với làn da sậm màu như gỗ gụ, đôi mắt sắc và sự hiểu biết gợi cho người khác thấy hẳn ông phải có đến một vài tấm bằng sau đại học trong hồ sơ của mình. Ông chưng diện kiểu tóc xoăn ngắn, hất ngược ra sau và một thái độ khiêm tốn, nhã nhặn. Cách ăn mặc mang phong thái của một giáo sư: áo khoác bằng vải tuýt và chiếc nơ ở cổ áo (chỉ thiếu mỗi mẩu da lộn được gắn vào ở chỗ khuỷu tay).

Ông ta gật đầu chào Rhyme, tỏ vẻ ngạc nhiên với chiếc xe lăn, và bắt tay với những người khác.

Rhyme thỉnh thoảng có giảng dạy ở các trường đại học trong vùng về khoa học pháp y, hầu hết là ở John Jay và Fordham; anh hiếm khi xuất hiện ở những nơi cao quý như Đại học Columbia, nhưng một giáo sư anh biết ở trường George Washington ở D.C. đã đưa anh tới giáo sư Mathers, một người nổi tiếng ở Momingside Heights. Ông là giáo sư ở một trường luật - giảng dạy về tội phạm, hiến pháp và các luật về quyền dân sự cũng như các khóa học về những điều cao siêu - và tham gia giảng dạy các nghiên cứu về Mỹ - Phi ở các

chương trình sau đại học.

Mathers lắng nghe một cách chăm chú khi Rhyme nói những gì họ biết về Charles Singleton và cuộc vận động về quyền dân sự, bí mật của ông ta, cũng như khả năng ông ta bị gài bẫy vào vụ trộm. Rồi anh nói với giáo sư về những chuyện xảy ra với Geneva trong suốt hai ngày vừa qua.

Vị giáo sư chớp chớp mắt trong sự ngạc nhiên vì những thông tin vừa được biết. “Cố gắng để giết cháu à?”

Geneva không nói gì cả. Vẫn nhìn vào mắt ông ta, cô bé hơi gật đầu.

Mathers nới những chiếc cúc trên chiếc áo khoác và kéo cặp kính mảnh rất phong cách, ông đọc những bức thư của Charles Singleton một cách cẩn thận, chậm rãi rồi gật đầu một, hai lần gì đó, khẽ cười mỉm. Khi đã đọc xong, ông nhìn lướt qua tất cả một lần nữa. “Một người đàn ông thú vị. Một cựu nô lệ, một nông dân, phục vụ trong Sư đoàn số 31 của Mỹ dành cho người da màu - đã ở Appomattox[8].”

[8] Đây là nơi diễn ra một trong những trận chiến cuối cùng của cuộc Nội chiến Mỹ với sự đầu hàng của tướng Robert E. Lee.

Tuy nhiên, ông đọc những bức thư một lần nữa dù Rhyme cắt ngang và thúc giục nhanh hơn. Cuối cùng người đàn ông bỏ kính xuống, lau sạch những mắt kính một cách cẩn thận với một tờ giấy và trầm ngâm suy tưởng. “Như vậy là ông ấy đã can dự vào việc ban hành Tu chính án số 14?” Vị giáo sư lại mỉm cười, rõ ràng cảm thấy tò mò và thích thú. “Chà, việc này có thể sẽ rất thú vị đây. Nó có thể là một sự kiện nào đó.”

Cố gắng để giữ kiên nhẫn, Rhyme hỏi: “Vâng, và chính xác thì nó có thể là gì? Cái điều gì đó thú vị?”

“Tất nhiên, tôi đang nói về cuộc tranh luận.”

Nếu như có thể làm được, hẳn Rhyme đã chộp lấy cổ áo của người đàn ông và hét vào mặt ông ta rằng: Hãy nhanh lên đi. Nhưng anh chỉ thể hiện một cái cau mày bình thường. “Và cuộc tranh luận đấy là gì?”

“Một chút về lịch sử chứ?”, vị giáo sư ướm hỏi.

Rhyme thở dài. Sachs nhìn anh một cách u ám và nhà tội phạm học nói: “Tiếp tục đi xem nào”.

“Tài liệu về Hiến pháp Hoa Kỳ - Tổng thống, Quốc hội và Tòa án Tối cao. Nó vẫn kiểm soát cách chúng ta vận hành và thay thế từng luật, điều lệ trong nước.

Giờ đây, trên đất nước này, chúng ta luôn muốn một sự cân bằng: một chính phủ đủ mạnh để bảo vệ chúng ta khỏi ngoại bang và để chinh đốn, làm hài hòa cuộc sống của người dân, nhưng không quá mạnh để đàn áp. Khi những người thành lập đất nước đọc lại bản Hiến pháp sau khi nó được ký, họ đã lo lắng rằng nó có quá nhiều quyền lực - có thể dẫn đến một chính phủ chuyên chế. Nên họ sửa đổi nó - thông qua mười bản sửa đổi, bản Tuyên ngôn Nhân quyền Hoa Kỳ. Tám bản đầu tiên là những bản thực sự thiết yếu. Chúng liệt kê những quyền cơ bản về bảo vệ công dân khỏi sự lạm dụng của chính quyền liên bang. Ví dụ: FBI không thể bắt ta mà không có nguyên nhân chính đáng. Quốc hội không thể lấy đi ngôi nhà của bạn để xây một con đường cao tốc liên bang mà không có khoản đền bù. Ta có được một tòa án công bằng với bồi thẩm đoàn chí công vô tư. Ta không thể bị đối xử một cách dã man và những hình phạt bất thường... Nhưng, các cậu có nắm được điểm quan trọng ở đây không?”

Rhyme nghĩ rằng ông ta thực sự đang kiểm tra họ. Nhưng Mathers tiếp tục nói trước khi ai đó có thể mở miệng. “Liên bang. Chúng ta được điều hành bởi hai chính phủ khác nhau ở n Mỹ: Chính phủ liên bang ở Washington và chính quyền bang mà chúng ta sinh sống. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền chỉ giới hạn những điều mà chính phủ liên bang có thể làm với chúng ta: Quốc hội và các sở, cục liên bang, như FBI hay DEA. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền hầu như mang lại cho chúng ta không một sự bảo vệ nào chống lại những vi phạm về quyền con người và quyền dân sự từ chính quyền bang. Và luật pháp của bang chính là thứ ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta trực tiếp hơn hẳn với chính phủ liên bang - phần lớn các vấn đề liên quan tới cảnh sát chống tội phạm, các công việc công cộng, bất động sản, ô tô, các quan hệ đối nội, mong muốn, các vụ tố tụng dân sự là những vấn đề của bang.”

“Hiểu chứ? Hiến pháp và bản Tuyên ngôn Nhân quyền chỉ bảo vệ chúng ta ở Washington mà thôi; chứ không phải từ New York hay Oklahoma.”

Rhyme gật đầu.

Người đàn ông di chuyển thân hình mảnh khảnh của mình tới một chiếc ghế đẩu trong phòng thí nghiệm, nhìn một cách không chắc chắn vào chiếc đĩa thí nghiệm đang đựng những mẩu đất tơi xốp màu xanh, và tiếp tục: “Hãy ngược lại những năm 1860. Miền Nam ủng hộ chế độ nô lệ thua trong cuộc Nội chiến, do đó chúng ta ban hành Bản sửa đổi số 13, cấm các hình thức nô lệ. Đất nước tái thống nhất, các hình thức nô lệ không tự nguyện là vi phạm pháp luật... chỉ còn tự do và hòa bình bao trùm. Đúng vậy không?”

Một tiếng cười giễu cợt vang lên. “Sai rồi. Cấm chế độ nô lệ là không đủ. Thậm chí những người da đen còn chịu nhiều cảm xúc tồi tệ hơn so với trước chiến tranh - ngay cả ở miền Bắc - bởi có quá nhiều thanh niên trẻ đã phải chết vì sự nghiệp giải phóng họ. Các cơ quan lập pháp cấp bang đã thông qua hàng trăm luật phân biệt đối xử với người da đen. Họ bị ngăn cản các quyền như: bầu cử, nắm giữ các cơ quan, có tài sản riêng, sử dụng các trang thiết bị công cộng, không được ra làm chứng trước tòa... Cuộc sống của phần lớn những người da đen gần tồi tệ như thời nô lệ.

“Nhưng đó là luật pháp của bang, nên nhớ điều đó; bản Tuyên ngôn Nhân quyền không thể ngăn điều đó. Bởi vậy Quốc hội quyết định rằng các công dân cần có sự bảo hộ của chính quyền bang. Họ đưa ra Tu chính án số 14 để sửa chữa điều đó.” Mathers nhìn vào một chiếc máy tính. “Các vị có phiền không nếu tôi sử dụng internet một chút?”

“Không, hoàn toàn không vẩn đề gì.” Rhyme nói với ông ta.

Vị giáo sư gõ vào trang tìm kiếm Alta Vista và một lát sau ông đã tải xuống được một đoạn văn. Ông cắt và dán đoạn văn ấy vào một cửa sổ riêng biệt, mà tất cả mọi người trong phòng có thể thấy trên những chiếc màn hình phẳng trong phòng.Không một bang nào có thể tạo ra hay củng cố bất cứ một điều luật nào có thể tước đi hoặc hạn chế quyền lợi hay quyền bất khả xâm phạm của các công dân Hoa Kỳ; cũng như không có một bang nào tước đoạt mạng sống của bất cứ một ai, quyền tự do, hay tài sản, mà không qua một quá trình xét xử theo đúng luật pháp; cũng như không thể phủ nhận quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng của một cá nhân trong phạm vi thẩm quyền tài phán của bang đó…

“Đây là một đoạn trong phần thứ nhất của Tu chính án số 14”, ông ta giải thích. “Nó hạn chế một cách triệt để những gì mà các bang có thể làm với công dân. Một phần khác, mà tôi đã không in ra, lại khuyến khích các bang trao cho những người da đen, những người đàn ông da đen, quyền được bầu cử. Vậy, các vị đã hiểu chứ?” Vị học già hỏi.

“Chúng tôi vẫn lắng nghe.” Sachs nói.

“Giờ thì, cách thức mà bản sửa đổi trình tới Quốc hội có hiệu lực là nó phải được Quốc hội thông qua ở Washington rồi phải được ba phần tư các bang chấp nhận. Quốc hội thông qua Tu chính án số 14 vào mùa xuân năm 1866, và được chuyển tới các bang để phê chuẩn. Hai năm sau, cuối cùng nó đã được thông qua bởi đủ số lượng bang cần thiết.” Ông lắc đầu mình. “Nhưng ngay sau đó đã có những lời đồn đại rằng nó chưa bao giờ chính thức được thông qua và ban hành. Đó là cuộc tranh cãi mà tôi đang đề cập đến. Rất nhiều người cho rằng nó không có hiệu lực.”

Rhyme cau mày. “Thật vậy sao? Họ nói có vấn đề gì với việc ban hành nó?”

“Có hàng tá luận điểm khác nhau. Một vài bang đã rút lại sự ủng hộ sau khi họ bỏ phiếu cho việc thông qua nhưng Quốc hội lờ đi điều này. Một số người thì nói rằng nó không thực sự được trình hay thông qua ở Washington. Cũng có những tranh cãi cho rằng có những phiếu thuận giả ở các cơ quan lập pháp các bang, hối lộ và thậm chí cả đe dọa.”

“Đe dọa?” Sachs hất về phía bức thư. “Như là Charles nói.”

Đã sửa bởi quacauphale lúc 07.03.2015, 19:12.

Mathers giải thích: “Đời sống chính trị khi đó rất khác. Đó là thời đại mà J. P. Morgan nắm trong tay một quân đội riêng để chiến đấu với những đội quân được thuê bởi Jay Gould và Jim Fisk trong cuộc tranh giành đường sắt. Cảnh sát và chính quyền chỉ ngồi yên và quan sát những gì xảy ra”.

“Và các vị cũng phải hiểu rằng mọi người hoàn toàn nhiệt huyết với Tu chính án số 14: Đất nước của chúng ta đã gần như bị phá hủy, một nửa triệu người chết - bằng với số người mà chúng ta đã mất trong tất cả các cuộc chiến tranh khác cộng lại. Không có Tu chính án số 14, miền Nam sẽ nắm quyền trong quốc hội, và chúng ta có thể một lần nữa nhìn thấy đất nước bị chia cắt. Có thể sẽ là một uộc nội chiến thứ hai.”

Ông ta vẫy vẫy bàn tay trên những đồ vật ở phía trước. “Ngài Singleton của các vị rõ ràng là một trong những người đàn ông đi tới các bang để vận động sự ủng hộ bản sửa đổi. Sẽ thế nào nếu như ông ta phát hiện ra rằng bản sửa đổi không có hiệu lực? Đó hẳn phải là điều bí mật đã giày vò ông ta.”

“Có thể là thế”, Rhyme suy đoán: “Một nhóm những người ủng hộ bản sửa đổi đã tạo ra vụ trộm giả để làm mất uy tín của ông ấy. Để nếu như ông ấy có nói ra những gì mình biết thì sẽ chẳng một ai tin điều đó”.

“Tất nhiên, không phải là một nhà lãnh đạo vĩ đại lúc bấy giờ, không phải Federic Douglass hay Stevens hoặc Sumner. Nhưng, đúng vậy, chắc chắn rằng sẽ có hàng loạt các chính trị gia mong muốn bản sửa đổi được thông qua, và họ sẽ làm bất cứ điều gì để nó thành sự thật.” Vị giáo sư quay về phía Geneva. “Và điều đó có thể lý giải tại sao cô bé này đang gặp nguy hiểm.”

“Tại sao?”, Rhyme hỏi. Anh đã lắng nghe lịch sử nhưng sự ám chỉ rộng hơn có lẽ là hơi khó nắm bắt.

Thom liền nói: “Tất cả những gì ta phải làm là mở tờ báo ra”.

“Và nó có nghĩa là gì?”, Rhyme ngắt lời.

Mathers trả lời: “Anh ta ám chỉ rằng, hằng ngày có hàng đống câu chuyện về việc Tu chính án số 14 đã tác động đến cuộc sống của chúng ta như thế nào. Anh có thể không nghe việc nó được nói đến một cách cụ thể nhưng nó vẫn là một trong những vũ khí mạnh nhất trong kho vũ khí nhân quyền của chúng ta. Ngôn từ rất mập mờ - quá trình xét xử theo đúng luật là gì? Hay là pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng?, quyền lợi hoặc quyền bất khả xâm phạm? Tất nhiên, sự mập mờ đó là có chủ đích, nên Quốc hội và tòa án tối cao có thể tạo ra sự bảo vệ mới để đáp ứng những hoàn cảnh của mọi thế hệ.”

“Bên ngoài những câu chữ ngắn gọn đó là hàng trăm điều luật về bất cứ điều gì có thể tưởng tượng được, không đơn thuần chỉ là sự phân biệt chủng tộc. Nó đã được sử dụng để làm mất hiệu lực các điều luật về thuế có tính phân biệt, để bảo vệ những người vô gia cư, những người lao động không đủ tuổi, để bảo đảm các dịch vụ y tế căn bản cho người nghèo. Nó là nền tảng cho các quyền dành cho người đồng tính và cho hàng ngàn vụ án về quyền lợi của tù nhân hằng năm. Có lẽ vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất là sử dụng bản sửa đổi để bảo vệ quyền được phá thai?”

“Không có nó, các bang có thể quyết định rằng các bác sĩ phá thai là những kẻ giết người chủ yếu. Và bây giờ, sau sự kiện ngày 11 tháng 9, trong tư tưởng về An ninh quốc gia, chính Tu chính án số 14 đã ngăn các bang truy lùng những người đạo Hồi và giam giữ họ cho đến khi nào cảnh sát chán thì thôi.” Khuôn mặt của ông thể hiện một nỗi buồn. “Nếu như nó không có hiệu lực, bởi vì điều gì đó mà ông Charles Singleton đã biết được, nó có thể là kết thúc của sự tự do mà chúng ta vẫn biết.”

“Nhưng mà”, Sachs nói: “Cứ cho là ông ấy đã tìm ra điều đó, và nó không có hiệu lực. Bản sửa đổi có thể đơn giản được thông qua lần nữa, đúng không?”.

Lần này thì tiếng cười của vị giáo sư thật sự mỉa mai. “Sẽ không xảy ra đâu. Một điều duy nhất mà tất cả các học giả đồng ý là Tu chính án số 14 được thông qua chỉ trong khoảng thời ngắn trong lịch sử. Không, nếu như Tòa án Tối cao làm vô hiệu hóa bản sửa đổi, chúng ta có thể tái thông qua một số điều luật, nhưng vũ khí chủ yếu cho quyền dân sự và quyền tự do dân sự có thể sẽ biến mất mãi mãi.”

“Nếu như đó là động cơ”, Rhyme hỏi. “Ai là kẻ đứng sau vụ tấn công Geneva? Chúng ta nên tìm kiếm ai?”

Mathers lắc đầu. “Chà, danh sách sẽ dài vô tận. Hàng chục trong hàng ngàn người sẽ muốn bảo đảm rằng bản sửa đổi vẫn có hiệu lực. Họ có thể là những người cấp tiến về chính trị, thành viên của một nhóm nhỏ - về chủng tộc hoặc về khuynh hướng tình dục - hoặc là vì lợi ích của các chương trình xã hội, các dịch vụ y tế dành cho người nghèo, quyền phá thai, quyền dành cho người đồng tính, quyền lợi của tù nhân, và quyền lợi của công nhân lao động... Chúng ta nghĩ tới những kẻ cực đoan, những thành phần quá khích vì lợi ích tôn giáo - những người mẹ có những đứa con nằm trên bàn trong các phòng phá thai - hay là những kẻ đánh bom các tòa nhà thị chính. Nhưng họ không có độc quyền sát hại người khác vì đức tin của mình. Hầu hết chủ nghĩa khủng bố ở phương Tây được thực hiện bởi những kẻ theo đảng cấp tiến cánh tả.” Ông ta lắc lắc đầu mình. “Tôi thậm chí không thể đoán được ai đứng đằng sau sự việc.”

“Kiểu gì thì chúng ta cũng phải thu hẹp phạm vi tình nghi”, Sachs nói.

Rhyme gật đầu một cách chậm rãi và nghĩ: Tâm điểm chinh trong vụ án này là phải bắt được Nghi phạm 109 và hy vọng rằng hắn sẽ nói ra kẻ đã thuê mình, hoặc tìm ra các bằng chứng có thể đưa manh mối tới kẻ đó. Nhưng anh cũng cảm nhận một cách rất bản năng rằng đây cũng là một manh mối quan trọng. Hiện tại, nếu như không có một câu trả lời rõ ràng về việc kẻ nào đứng sau các vụ tấn công Geneva Settle, họ sẽ phải xem xét tới quá khứ. “Dù kẻ đó là ai đi chăng nữa, hắn rõ ràng phải biết về những gì xảy ra vào năm 1868 hơn chúng ta. Nếu chúng ta có thể tìm ra điều đó - điều mà Charles nhận ra, ông ấy phụ thuộc vào điều gì, bí mật của ông ấy, và vụ trộm - nó có thể chỉ cho chúng ta đến một nơi nào đó. Tôi muốn thông tin hơn về thời gian lúc đó ở New York, Gallows Heights, Potter’s Field, bất cứ gì mà chúng ta có thể tìm thấy.” Anh nhíu mày như thể một ký ức bất chợt trở về và nói với Cooper: “Khi tìm cái tên Gallows Heights lần đầu tiên, anh đã tìm ra một bài viết về địa điểm đó ở gần đây, Tổ chức Sandford”.

“Đúng thế.”

“Anh vẫn giữ nó chứ?”

Mel Cooper lưu trữ lại mọi thứ. Anh nhớ lại về bài báo của tạp chí Times trên chiếc máy tính của mình. Những dòng chữ hiện lên trên màn hình của anh. “Nó đây rồi.”

Rhyme đọc bài báo và biết được rằng tổ chức Sandford này có lưu trữ tổng thể về lịch sử khu Upper West Side. “Liên lạc với giám đốc nơi này - William Ashberry. Nói với ông ta chúng ta cần làm việc với thư viện của ông ấy.”

“Tôi sẽ làm như vậy.” Cooper nhấc điện thoại lên. Anh có một cuộc nói chuyện ngắn gọn, rồi dập máy và báo cáo. “Họ rất vui lòng được giúp đỡ. Ashberry sẽ đưa chúng ta tới người quản lý các kho lưu trữ.”

“Sẽ phải có một ai đó đi tìm hiểu việc này”, Rhyme nói, nhìn Sachs với đôi lông mày nhướn cao.

“Ai đó? Em phải làm cái công việc chán ngắt đó sao.”

Cô ấy còn nghĩ được ra ai nữa? Pulaski thì đang nằm trong viện. Bell và đội của anh ta đang bảo vệ Geneva. Cooper là một chuyên gia trong phòng thí nghiệm. Sellito thì thừa tầm để thực hiện những công việc đơn giản dành cho lính mới kiểu này. Rhyme trách cô: “Không có những hiện trường nhỏ, chỉ có những cuộc điều tra hiện trường nhỏ mà thôi”.

“Hài hước đấy”, cô nói một cách chua chát. Mặc áo khoác vào, cô cầm lấy chiếc túi xách của mình.

“Một điều nữa”, Rhyme nói, lúc này giọng nghiêm trọng.

Cô nhướn lông mày lên.

“Chúng ta biết rằng hắn sẽ nhắm vào chính chúng ta.”

Cảnh sát, ý anh là thế.

“Ghi nhớ những mẩu sơn màu vàng đó trong đầu. Quan sát các công trình hoặc các công nhân thi công đường cao tốc... Chà, đối với gã này, cần phải đề phòng bất cứ ai.”

“Em biết rồi”, cô nói. Rồi lấy địa chỉ của tổ chức và rời đi.

Sau khi cô đi khỏi, Giáo sư Mathers nhìn qua những bức thư và các tư liệu khác một lần nữa rồi đưa chúng cho Cooper. Ông nhìn Geneva. “Khi ta ở tuổi của cháu, họ thậm chí còn chưa đưa các nghiên cứu về lịch sử Mỹ - Phi vào chương trình học. Chương trình hiện tại thế nào rồi? Cháu phải học hai kỳ à?”

Geneva cau mày: “Chương trình học Mỹ - Phi? Cháu không học môn này”.

“Vậy thì bài nghiên cứu của cháu là về nội dung gì?”

“Nghệ thuật ngôn ngữ.”

“Chà. Vậy là cháu sẽ học môn nghiên cứu lịch sử Mỹ - Phi năm tới?”

Do dự một lúc. “Cháu không định học môn đó chút nào hết.”

“Thật sao?”

Geneva rõ ràng cảm nhận được sự trách móc trong câu hỏi của ông ta. “Nó đơn giản là qua và trượt. Tất cả những gì ta phải làm là có mặt trong lớp. Cháu không muốn kiểu đánh giá như vậy có trong hồ sơ học bạ của mình.”

“Nó không thể làm cháu đau lòng.”

“Vậy vấn đề ở đây là gì?” Cô hỏi một cách thẳng thừng bất lịch sự. “Chúng cháu đã nghe đi nghe lại suốt rồi... Bộ phim Amistad, các nô lệ, John Brown, các điều luật Jim Crow, vụ kiện tụng Brown chống lại Hội đồng giáo dục, Martin Luther King, Jr., Malcolm X...”, rồi cô bé im lặng.

Không đứng trên vai trò một giảng viên, Mathers hỏi: “Chỉ là rên rỉ về quá khứ thôi à?”.

Geneva cuối cùng cũng gật đầu. “Cháu cho rằng đó chính là cách mình nhìn nhận về nó. Ý cháu là, bây giờ là thế kỷ hai mươi mốt rồi. Thời đại để chúng ta tiếp tục bước đi. Tất cả những trận chiến ấy đã kết thúc.”

Vị giáo sư mỉm cười, rồi ông nhìn Rhyme. “Chà, chúc may mắn. Hãy cho tôi biết nếu tôi có thể giúp gì hơn.”

“Chúng tôi sẽ làm vậy.”

Người đàn ông mảnh khảnh bước tới cánh cửa. Ông ta dừng lại và quay đầu.

“À, Geneva?”

“Vâng?”

“Hãy nghĩ tới điều này - từ một người có kinh nghiệm sống nhiều hơn cháu một vài năm. Đôi khi chú vẫn tự hỏi nếu như cuộc chiến thực sự vẫn chưa kết thúc như vậy.” Ông ta hất đầu về phía tấm bảng chứng cứ và những lá thư của Charles. “Có lẽ điều đó chỉ là khó nhận biết được kẻ thù hơn mà thôi.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,259
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Đoán xem, Rhyme, có những hiện trường nhỏ đấy.

Em biết thế bởi em đang thấy một cái như vậy.

Amelia Sachs đứng trên phía tây phố 82, ngay phía Broadway, ở trước tòa nhà Hiram Sanford đầy ấn tượng, với kiến trúc lớn và tối màu kiểu thời nữ hoàng Victoria. Đây là trụ sở của Tổ chức Sanford. Xung quanh cô là những tòa kiến trúc của New York cổ kính và hài hòa: Bên cạnh tòa lâu đài hơn một tăm năm tuổi, là một bảo tàng nghệ thuật có từ khoảng năm 1910 và một hàng các ngôi nhà tuyệt đẹp. Cũng chẳng cần đến những nghi phạm với bộ đồ có các vệt sơn màu da cam mà khiến cô nổi da gà; ở ngay bên cạnh tòa lâu đài là khách sạn Sanford lộng lẫy và kỳ quái (có tin đồn là bộ phim Rosemary’s Baby lúc đầu định được thực hiện ở Sanford).

Những bức tượng thú vật nhìn vào Sachs từ các gờ tường như thể chúng đang nhạo báng nhiệm vụ hiện thời của cô.

Ở bên trong, cô được giới thiệu với người đàn ông mà Mel Cooper đã nói chuyện, William Ashberry, giám đốc của tổ chức và là giám đốc điều hành cấp cao của ngân hàng Sanford and Trust, hiện đang sở hữu một tổ chức phi lợi nhuận. Người đàn ông trung niên ăn mặc chỉnh tề chào đón cô với vẻ vồn

vã đầy hoang mang. “Chúng tôi chưa bao giờ có một cảnh sát ở đây, xin lỗi, một nữ cảnh sát, ý tôi là thế, chà, thực ra là chưa bao giờ có bất cứ cảnh sát nào cả.” Ông ta có vẻ hơi thất vọng khi cô đưa ra một lời giải thích mập mờ rằng mình chỉ cần một chút thông tin chung về bối cảnh lịch sử của khu vực và không cần sử dụng tổ chức làm nơi giám sát hay thực hiện một chiến dịch bí mật.

Ashberry sẵn lòng để cô đi quanh các kho lưu trữ và thư viện, dù cá nhân ông ta không thể giúp cô; chuyên môn của ông ta là về tài chính, bất động sản, và luật thuế, không phải về lịch sử. “Tôi thực sự là một người làm ngân hàng”, ông ta thú nhận, như thể Sachs không thể biết điều này từ bộ vest tối màu ông ta đang mặc, với chiếc áo sơ mi trắng, chiếc cà vạt sọc và cả các tài liệu kinh doanh khó nhằn cũng như những tờ ghi chép thống kê nằm thành chồng ngăn nắp trên chiếc bàn làm việc.

Mười lăm phút sau, cô đã được sự giúp đỡ của người quản lý - một người đàn ông trẻ, trong bộ quần áo bằng vải tuýt dẫn cô đi xuống một hành lang tối tăm vào khu lưu trữ nằm dưới tầng hầm. Cô đưa cho anh ta xem tấm ảnh ghép của Nghi phạm 109, nghĩ rằng tên sát thủ có thể cũng đã đến đây, tìm các tài liệu về Charles Singleton. Nhưng người quản lý không nhận ra bức ảnh của hắn và không nhớ ra bất cứ một ai hỏi về nào liên quan tới Tuần báo Minh họa dành cho người da màu thời gian gần đây. Anh ta chỉ ra chồng tài liệu và một thời gian ngắn sau đó cô đã ngồi xuống, cáu kỉnh và mệt mỏi, trên chiếc ghế cứng trong một căn phòng nhỏ xíu như một cái quan tài, vây quanh là hàng tá các thể loại sách và tạp chí, bản in, bàn đồ và các bản vẽ.

Cô thực hiện công việc tìm kiếm này theo đúng cái cách mà Rhyme đã dạy khi khám xét một hiện trường: nhìn tổng thể trước, lập ra một kế hoạch logic, rồi tiến hành tìm kiếm. Sachs trước tiên chia đống tài liệu thành bốn chồng: thông tin tổng họp, lịch sử khu West Side và Gallows Heights, quyền dân sự trong khoảng giữa những năm 1800 và Potter’s Field. Cô bắt đầu với cái nghĩa trang trước. Cô đọc từng trang, xác nhận đề cập của Charles Singleton về việc trung đoàn của ông tập trung ở đảo Hart, tìm hiểu quá trình hình thành của nghĩa trang và sự bận rộn của nó, đặc biệt trong thời kỳ dịch tả và dịch cúm hoành hành trong những năm giữa và cuối thế kỷ XIX, khi mà những chiếc quan tài bằng gỗ thông rẻ tiền có thể làm bẩn hòn đào, chất đống cao ngất, và chờ đợi được chôn cất.

Những thông tin chi tiết rất hay, nhưng không hữu ích lúc này. Cô quay sang những tài liệu về quyền dân sự, đọc một đống thông tin chán ngắt, bao gồm các tài liệu tham khảo về cuộc tranh cãi về Tu chính án số 14 nhưng không có gì liên quan hay đề cập chút nào đến những vấn đề mà Giáo sư Mathers gợi ý cho họ là động cơ của việc giăng bẫy Charles Singleton. Cô đọc một bài báo trong tờ New York Times năm 1867 mà Frederick Douglass và các nhà lãnh đạo quyền dân sự lỗi lạc khác của thời bấy giờ đã xuất hiện ở một nhà thờ tại Gallows Heights. Douglass đã nói với các nhà báo sau đó rằng ông tới khu vực xung quanh để gặp một vài người đàn ông trong cuộc chiến và bạc về việc thông qua bản sửa đổi. Nhưng điều này thì họ đã biết rồi, nó được nhắc đến trong những bức thư của Charles. Sachs không tìm thấy thông tin nào đề cập đến cái tên Charles Singleton nhưng có xem qua một tài liệu với một bài viết dài lê thê trong tờ New York Sun về những người cựu nô lệ và những người nô lệ tự do giúp đỡ Douglass. Dù vậy, vấn đề riêng biệt này không ở trong các lưu trữ.

Hết trang này đến trang khác, cứ như thế... Đôi lúc do dự, rồi lo lắng rằng mình có thể bỏ qua vài câu quan trọng mà có thể dẫn tới ánh sáng cho vụ án. Hơn một lần Sachs quay lại và đọc lại một hay vài đoạn mà cô nhìn qua chứ không đọc. Vươn vai, duỗi người, bồn chồn, ấn những chiếc móng tay, gãi xước cả da đầu.

Rồi lại cày bới những tập tài liệu một lần nữa. Những tài liệu cô đã đọc chất đống cao trên bàn nhưng cái tập giấy ở trước mặt vẫn chẳng có nổi một ghi chú nào.

Quay sang lịch sử New York, Sachs đọc thêm nhiều điều về Gallows Heights. Đó là một nơi mà có đến nửa số ân định cư ban đầu ở khu vực Upper West Side của New York, thực sự chia cắt các ngôi làng, giống như Manhattanville và Vandewater Heights (mà giờ là Morningside). Gallows Heights trải rộng về phía tây từ Broadway hiện tại cho tới dòng sông Hudson và từ khoảng phố 72 hướng về phía bắc tới phố 86. Cái tên có từ thời thuộc địa, khi những người Hà Lan xây dựng một cái giá treo cổ trên đỉnh một ngọn đồi nằm ở trung tâm khu định cư. Khi người Anh mua lại mảnh đất, chiếc giá treo cổ đã hành hình hàng tá phù thủy, tội phạm, các nô lệ nổi loạn và các tên thực dân cho tới khi hàng loạt các điểm thực thi công lý và trừng phạt ở New York được tập trung về khu trung tâm thành phố.

Năm 1811, các nhà quy hoạch thành phố đã chia toàn bộ Manhattan thành những khu được sử dụng như ngày hôm nay, mặc dù trong vòng năm mươi năm sau đó ở Gallow Heights (và phần lớn còn lại của thành phố) những ô vuông đó chỉ còn thấy trên giấy tờ. Trong những năm đầu 1800, khu đất ở đây là một mớ lộn xộn các con đường, cánh đồng trống không, khu rừng và các túp lều, khu chuồng trại lập tự phát của những người đến chiếm đất, nhà máy và các bến tàu khô cạn bên dòng sông Hudson, và một vài khu đất xinh xắn trải dài. Vào khoảng giữa thế kỷ XIX, Gallow Heights phát triển theo hướng đa dạng, được phản ánh trong tấm bản đồ mà Mel Cooper tìm thấy trước đó: Những tòa nhà to lớn nằm song song cạnh những tòa nhà chung cư dành cho tầng lớp lao động và các ngôi nhà nhỏ bé. Khu nhà ổ chuột chứa những băng đảng chuyển đến từ miền Nam, trong làn sóng vươn dài của thành phố. Và - cũng quanh co lươn lẹo và đầy mánh khóe như những tên trộm trên phố, mặc dù với quy mô lớn hơn và ranh ma hơn - Willam ‘Boss’ Tweed điều hành phần lớn bộ máy chính trị thuộc đảng dân chủ Tammy Hall thối nát, tham ô tham nhũng bằng những quầy bar và nhà hàng ở Gallows Heights (Tweed bị ám ảnh với việc làm lợi từ sự phát triển của khu vực xung quanh; trong một âm mưu vụ lợi điển hình, ông ta bỏ túi 6000 đô la một cách hợp pháp bằng việc bán một khoảng đất nhỏ xíu trị giá dưới 35 đô la cho thành phố).

Khu vực này giờ đây là khu hàng đầu của Upper West Side và tất nhiên, nằm trong số những khu vực đẹp nhất, giàu có nhất trong thành phố. Chi phí cho các ngôi nhà lên tới hàng ngàn đô la một tháng. (Và trong khi Amelia Sachs cáu kỉnh lúc này đang nghiền ngẫm trong cái “xà lim” nhỏ xíu với một “hiện trường nhỏ”, thì Gallows Heights ngày nay là nơi có những quầy bán đồ ăn nhanh và những tiệm làm bánh mỳ vòng bagel ngon nhất trong thành phố; mà cô vẫn chưa từng được ăn.)

Những dòng lịch sử dày đặc cuộn qua nhưng chẳng có gì liên quan đến vụ án cả. Khốn nạn, cô đáng ra phải làm công việc phân tích các vật ở hiện trường, hoặc ít nhất cũng là làm việc trên những con phố quanh căn hộ ẩn náu của nghi phạm, cố công tìm ra những kết nối dẫn đến nơi hắn sổng, tên hắn là gì.

Rhyme đang nghĩ cái không biết?

Cuối cùng, cô đã đến quyển sách duy nhất còn lại trong cái chồng cao ngất. Cô ước tính khoảng 500 trang (lúc này Sachs đã có nhãn quang tốt để đoán được điều đó), và nó có năm trăm linh bốn trang. Mục lục không cho thấy thông tin nào quan trọng mà cô cần. Sachs lướt qua những trang sách nhưng cuối cùng cũng không thể cố thêm được nữa. Cô quẳng cuốn sách sang một bên, đứng dậy, dụi mắt rồi vươn vai. Nỗi sợ những không gian hẹp đang biến mất, nhờ có cái không gian chật hẹp ngột ngạt của kho lưu trữ, nằm sâu hai tầng dưới mặt đất. Tổ chức này có lẽ đã được tu sửa vào tháng trước nhưng nơi này vẫn là tầng hầm ban đầu của Sanford Mansion, cô cho là vậy; nó có trần thấp, hàng tá các cột và các bức tường đá, khiến cho không gian nơi này càng trở nên chật chội.

Như thế đã đủ tệ rồi nhưng điều tồi tệ nhất là việc phải ngồi, Amelia Sachs ghét phải ngồi yên một chỗ.

Khi con chuyển động, chúng không thể tóm được con...

Không có hiện trường nhỏ nào cả, Rhyme? Chúa ơi...

Cô bắt đầu rời khỏi nơi này.

Nhưng ở thềm cửa, cô dừng lại, quay lại nhìn vào đống tài liệu và nghĩ: Một vài câu trong một quyển sách mốc meo này hay những tờ báo đã ngả vàng có thể tạo ra sự khác biệt, ranh giới giữa sống và chết với Geneva Settle - và cả những người vô tội khác mà Nghi phạm 109 có thể sẽ giết một ngày nào đó.

Tiếng nói của Rhyme hiện ra trong đầu cô. Khi đang khám nghiệm hiện trường, em lần tìm một lần, rồi một lần nữa và khi đã làm xong, em lại lần tìm một lần nữa. Khi em đã làm xong việc đó, em lại tiếp tục một lần nữa. Và...

Cô nhìn vào quyển sách cuối cùng - quyển sách đã hạ gục cô. Sachs thở dài, ngồi xuống, giở cái tập dày cộp năm trăm linh bốn trang ấy về phía mình và đọc nó một cách cẩn thận rồi lật ra những bức ảnh nằm ở giữa. Và rồi, nó hiện ra, là một ý tưởng tốt.

Cô thấy lạnh gáy, nhìn chằm chằm vào bức ảnh con phố West Eightieth, được chụp năm 1867. Cô cười, đọc dòng ghi chú và những dòng chữ trong trang đối diện. Rồi lôi chiếc điện thoại ra khỏi thắt lưng và nhấn phím tắt số 1.

“Em tìm ra Potter’s Field, Rhyme.”

“Chúng ta biết nó ở đâu”, anh nói vào trong chiếc loa thoại gần miệng. “Hòn đảo ở...”

“Có một cái khác.”

“Một nghĩa trang thứ hai?”

“Không phải là một nghĩa trang. Đó là một nhà hàng, ở Gallows Heights.”

“Một nhà hàng?” Chà, điều này thú vị đây, Rhyme nghĩ.

“Em đang xem một tấm ảnh, hoặc một tấm ảnh, chụp bằng phương pháp Daguerre[9] hay bằng bất cứ cách nào đi nữa. Một quán bar tên là Potter’s Field. Nó nằm ở phía tây phố 18.”

[9] Phép chụp hình được đặt theo tên Louis Daguerre, một nghệ sĩ, vật lý học người Pháp, được công nhận cho phát minh ra quy trình nghệ thuật chụp hình thực tiễn.

Vậy là họ đã sai, Rhyme nghĩ. Cuộc gặp gỡ định mệnh của Charles Singleton có lẽ hoàn toàn không phải ở trên hòn đảo Hart.”

“Và, có vẻ tin tốt là địa điểm ấy đã bị cháy rụi. Nghi là bị đốt. Thủ phạm và động cơ vẫn không rõ.”

“Liệu anh có đúng không khi đoán rằng đó chính là ngày mà Charles Singleton tới đó để - ông ấy nói gì nhỉ? Để tìm công lý?”

“Đúng vậy. Ngày 15 tháng 7.”

Mãi mãi nằm sâu trong bùn đất...

“Có gì khác về ông ấy không? Hay là cái quán ăn?”

“Chưa thấy.”

“Tiếp tục tìm kiếm đi.”

“Tất nhiên rồi, Rhyme.”

Họ ngắt cuộc gọi.

Cuộc gọi của Sachs được đưa ra loa ngoài; Geneva đã nghe thấy hết. Cô hỏi một cách đầy tức giận: “Chú cho rằng Charles đã đốt cháy chỗ đó à?”.

“Không cần thiết. Nhưng một trong những lý do cho việc phóng hỏa một địa điểm là để phá hủy các chứng cứ. Có thể đó là điều mà Charles định làm, che giấu điều gì đó về vụ trộm.”

Geneva nói: “Hãy đọc bức thư của ông ấy... ông ấy nói rằng vụ trộm là để làm mất uy tín của mình. Tới lúc này, chú vẫn không nghĩ rằng ông ấy vô tội sao?”. Giọng nói của cô bé thấp và cứng rắn, đôi mắt nhìn chằm chằm vào mắt Rhyme.

Nhà tội phạm học đáp trả ánh nhìn của cô bé. “Chú tin, đúng thế.”

Cô gật đầu, cười nhạt vào điều vừa biết được, rồi nhìn vào chiếc đồng hồ Swatch rạn vỡ của mình. “Cháu nên về nhà.”

Bell đang lo rằng nghi phạm có thể đã biết được nơi ở của Geneva. Anh đã chuẩn bị một chỗ trú ẩn an toàn cho cô bé, nhưng nó vẫn chưa sẵn sàng cho tới đêm nay. Trong lúc này, anh và đội bảo vệ sẽ phải đặc biệt cảnh giác.

Geneva thu lại các bức thư của Charles Singleton. “Hiện tại chúng ta sẽ giữ những thứ này.” Rhyme nói.

“Giữ chúng? Như là, làm bằng chứng?”

“Chỉ là tới khi chúng ta hiểu rõ được nguyên nhân của những gì đang diễn ra.”

Geneva nhìn vào những lá thư một cách do dự. Dường như có một khao khát mãnh liệt trong đôi mắt cô bé.

“Chúng ta sẽ giữ nó ở một nơi an toàn.”

“Được rồi.” Cô bé đưa nó cho Mel Cooper.

Anh nhìn vào vẻ mặt băn khoăn của cô bé. “Cháu có muốn bản copy của những lá thư này không?”

Cô có vẻ ngượng nghịu. “Vâng. Cháu muốn... Chỉ là... Chúng là, chú biết đấy, từ gia đình. Điều đó khiến chúng trở nên quan trọng.”

“Không vấn đề gì cả.” Anh copy mấy bản trên chiếc máy Xerox và đưa nó cho cô bé. Cô gập lại cẩn thận và chúng biến mất vào chiếc túi xách.

Bell nhấc điện thoại, nghe một lúc rồi nói: “Tuyệt, mang nó tới đây càng sớm càng tốt. Đánh giá cao điều đó”. Anh cho địa chi của Rhyme, rồi tắt máy. “Trường học. Họ tìm ra băng ghi hình an ninh khu vực sân trường khi kẻ đồng phạm của nghi phạm ở đó ngày hôm qua. Họ đang chuyển nó tới.”

“Ôi Chúa ơi”, Rhyme nói một cách gay gắt: “Ý anh là có một manh mối thực sự cho vụ án? Và nó không phải đã hơn một trăm tuổi rồi ư?”

Bell chuyển sang tần số đã được thay đổi và nói với Luiz Martinez về kế hoạch của họ, rồi điện đàm sang Barbe Lynch, viên sĩ quan đang bảo vệ khu vực phía trước ngôi nhà của Geneva. Cô báo lại rằng khu phố an toàn và đang chờ họ.

Cuối cùng thì viên sĩ quan đến từ Bắc Carolina nhấn vào nút l ngoài trên điện thoại của Rhyme và gọi tới người bác của cô bé để bảo đảm rằng ông ấy đang ở nhà.

“Xin chào!”, người đàn ông nói.

Bell giới thiệu tên mình.

“Con bé vẫn ổn chứ?”, người bác hỏi.

“Cô bé vẫn ổn. Chúng tôi chuẩn bị về bây giờ. Mọi thứ vẫn ổn ở đó chứ?”

“Vâng, thưa ngài, chắc chắn là thế.”

“Ông có nghe tin gì từ cha mẹ cô bé không?”

“Bố mẹ con bé? Có, em trai tôi gọi cho tôi từ sân bay. Bị hoãn chuyến bay hoặc gì đó. Nhưng họ sẽ sớm rời khỏi đó.”

Rhyme vẫn thường bay tới London để tham vấn với Sở cảnh sát Scotland và các cơ quan cảnh sát châu Âu khác. Bay ra nước ngoài không phức tạp bằng bay sang Chicago hay California. Không hề một chút nào nữa. Chào mừng đến với thế giới hàng không quốc tế hậu 11/9, anh nghĩ. Anh đã tức giận rằng bố mẹ cô bé mất quá nhiều thời gian để bay trở về. Geneva hẳn là đứa nhóc trưởng thành nhất mà anh từng gặp nhưng dù thế nào vẫn là một đứa bé và cần phải được ở với bố mẹ.

Rồi điện đàm của Bell kêu lẹt xẹt và tiếng Luis Martinez lẹt xẹt qua sóng báo cáo: “Tôi ở bên ngoài, thưa sếp. Chiếc xe ở phía trước, cửa mở”.

Bell ngắt điện thoại và quay sang Geneva. “Sẵn sàng thôi, cô bé.”

“Anh đây rồi”, Jon Earle Wilson nói với Thompson Boyd, hắn đang ngồi trong một nhà hàng ở trung tâm Manhattan, trên phố Broad.

Gã da trắng gầy giơ xương với mái tóc kiểu cắt ngắn ở hai bên và phía trước nhưng dài ở đằng sau gáy, đang mặc chiếc quần jeans màu be, không có gì quá sạch sẽ, đưa chiếc túi đựng đồ cho Boyd, đang nhìn chằm chằm vào bên trong.

Wilson ngồi xuống ở quầy đối diện với hắn. Boyd tiếp tục nghiên cứu chiếc túi. Bên trong là một chiếc hộp lớn của công ty chuyển phát nhanh. Một chiếc túi nhỏ hơn ở bên cạnh, từ tiệm bánh Dunkin’ Donuts, mặc dù những gì ở trong chắc chắn không phải là những chiếc bánh. Wilson sử dụng những chiếc túi đựng đồ từ các cửa hàng mua sắm liền dãy bởi nó được lót một lớp chống thấm nhẹ và cũng được bảo vệ chống ẩm.

“Chúng ta ăn gì chứ?” Wilson hỏi. Gã ta nhìn thấy món salad lướt qua. Hắn đang đói. Nhưng mặc dù hắn vẫn thường gặp Boyd ở các quán cà phê và các nhà hàng, cả hai chưa bao giờ bẻ chung một cái bánh mỳ. Món ăn ưa thích của Wilson là pizza và nước soda, thường có trong căn hộ một phòng của mình, chất đầy với các dụng cụ, dây rợ và những con chip máy tính. Gã cứ nghĩ là, với tất cả những gì gã đã làm cho Boyd, Boyd sẽ có thể mời hắn một cái sandvvich hay là cái khỉ gì đó.

Nhưng gã sát thủ nói: “Tôi phải đi trong khoảng một, hai phút nữa”.

Chiếc đĩa đựng những xiên thịt cừu nướng mới ăn một nửa nằm phía trước tên sát thủ. Wilson tự hỏi liệu hắn có đề nghị gã ăn một ít không. Boyd không làm thế. Hắn chỉ cười với cô hầu bàn khi cô tới và dọn chiếc đĩa. Boyd cười - điều này hoàn toàn mới lạ. Wilson chưa bao giờ thấy điều đó trước đây (dù hắn phải thừa nhận rằng đó là một nụ cười vô cùng kỳ quái).

Wilson hỏi: “Nặng, đúng không?”, và nhìn về phía chiếc túi. Hắn thể hiện ánh mắt đầy tự hào.

“Đúng.”

“Tôi cho là anh sẽ thích nó.” Gã tự hào bởi thứ hắn làm ra và có một chút bực mình vì Boyd không đáp trả.

Wilson hỏi tiếp: “Vậy mọi việc thế nào rồi?”.

“Vẫn đang diễn ra.”

“Tất cả ổn chứ?”

“Có một chút khó khăn. Đó là lý do tại sao…” Hắn hất đầu về phía chiếc túi và không nói gì nữa. Boyd huýt sáo một cách nhẹ nhàng, cố gắng để bắt vào giai điệu của một bản nhạc dân ca phát ra từ chiếc loa trên đầu. Tiếng nhạc thật kỳ cục. Một nhóm nữ ca sĩ chị em hoặc gì đó ở Ấn Độ hay Pakistan hoặc chỗ quái nào ai biết được. Nhưng Boyd bắt các nốt nhạc khá chuẩn. Giết người và huýt sáo - gã đàn ông này biết cách làm hai điều này.

Cô gái ở quầy thu ngân đánh rơi một chiếc đĩa đựng các món ăn vào khay của người dọn bàn với một tiếng động lớn. Khi mọi thực khách quay ra nhìn, Wilson cảm thấy có gì đó gõ nhẹ vào chân hắn phía dưới cái bàn. Gã chạm vào cái phong bì, nhét nó vào túi chiếc quần ống loe đang mặc. Thật ngạc nhiên khi chiếc phong bì mỏng này chứa đựng được 5000 đô la. Nhưng Wilson biết tất cả số tiền nằm đủ trong đó. Một điều về Boyd là: Hắn trả những gì mắc nợ và thanh toán đúng hẹn.

Một lúc trôi qua. Và họ không đang ăn với nhau. Họ ngồi và Boyd uống trà còn Wilson đang đói. Dù Boyd phải rời đi sau “một đến hai phút”.

Thế này là sao?

Rồi gã có câu trả lời. Boyd nhìn ra bên ngoài cửa sổ và thấy một chiếc xe tải nhỏ cũ kỹ không ký hiệu đi chậm rãi và bẻ lái vào con hẻm dẫn tới phía sau nhà hàng. Wilson nhìn thoáng qua người tài xế, một người đàn ông nhỏ bé với làn da nâu sáng và bộ râu quai nón.

Đôi mắt Boyd quan sát kỹ. Khi nó biến mất vào trong con hẻm, hắn đứng dậy, nhấc cái túi đựng đồ lên. Hắn để lại tiền trên bàn cho hóa đơn của mình và hất đầu với Wilson rồi bắt đầu bước về phía cửa. Hắn dừng lại và quay đầu. “Tôi đã cảm ơn chưa nhỉ?”

Wilson chớp mắt mắt. “Anh đã gì cơ?”

“Tôi đã cảm ơn chưa?” Hắn hất đầu xuống phía chiếc túi.

“À, không.” Thompson Boyd mỉm cười và cảm ơn mọi người. Hẳn phải là một đêm trăng tròn quái quỷ.

“Tôi đánh giá cao nó”, tên sát nhân nói. “Ý tôi là, công sức của anh. Thật đấy.” Những lời đó nói ra như thể hắn là một diễn viên tồi. Rồi, điều này cũng lạ lùng nữa, hắn nháy mắt chào tạm biệt cô gái ở quầy thu ngân và đi về phía cửa, bước ra những con phố ồn ào náo nhiệt của quận tài chính, đi vòng quanh con hẻm tới phía sau nhà hàng, với chiếc túi nặng trịch ở bên cạnh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,259
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Trên phố 118, Roland Bell lái chiếc Crown Vic mới của mình tới phía trước ngôi nhà của Geneva.

Barbe Lynch gật đầu từ vị trí gác của mình: Cạnh chiếc Chevy Malibu mà Bell đã trả lại cho họ. Anh nhanh chóng đưa Geneva vào bên trong và lên cầu thang tới căn hộ, nơi bác của cô đã đợi sẵn để chào đón Geneva bằng một cái ôm và bắt tay Bell một lần nữa, cảm ơn anh vì đã bảo vệ cho cô bé. Ông nói mình đang định đi lấy một vài thứ ở cửa hàng thực phẩm và bước ra ngoài.

Geneva bước vào phòng của mình. Bell nhìn theo vào trong và thấy cô bé đang ngồi trên giường. Cô mở chiếc cặp sách của mình ra và lục lọi bên trong.

“Chú có thể làm gì cho cháu không? Cháu đói à?”

“Cháu hơi mệt”, cô nói. “Cháu nghĩ là mình chỉ cần làm bài tập về nhà lúc này. Hoặc có thể là nằm nghỉ một chút.”

“Đó thực sự là một ý tưởng tốt, nhất là sau tất cả những gì mà đã trải qua.”

“Cảnh sát Pulaski sao rồi hả chú?”, cô hỏi.

“Chú có nói chuyện với người chỉ huy củ

a cậu ta lúc trước. Cậu ta vẫn bất tỉnh. Họ không biết cậu ta sẽ thế nào. Chú ước mình có thể nói với cháu điều gì khác đi, nhưng đó là sự thật. Chú sẽ ghé qua và hỏi thăm xem cậu ta thế nào sau.”

Cô tìm thấy một quyển sách và đưa nó cho Bell. “Chú có thể đưa cho anh ấy cái này không?”

Viên thanh tra cầm quyền sách. “Tất nhiên là ta sẽ làm thế rồi... Chú phải nói trước rằng ngay cả khi có thể tỉnh dậy, chúng ta cũng không thể biết được liệu cậu ta có thể đọc được hay không.”

“Chúng ta phải hy vọng điều tốt đẹp nhất. Nếu như anh ấy tỉnh lại, có thể sẽ có ai đó đọc nó cho anh ấy nghe. Có thể có ích. Đôi khi là thế. Chỉ cần lắng nghe câu chuyện. À, hãy nói với anh ấy và gia đình anh ấy rằng có một vật may mắn ở trong đó.”

“Cháu thật tốt bụng.” Bell đóng cửa phòng cô bé lại và bước về phía phòng khách, gọi điện cho các con trai của mình, nói với chúng rằng một lúc nữa anh sẽ ở nhà. Rồi anh kiểm tra cùng với các sĩ quan bảo vệ khác trong đội SWAT, những người đã báo cáo rằng tất cả đều an toàn.

Anh ngồi xuống trong phòng khách, hy vọng rằng bác của Geneva sẽ tính đến việc mua sắm đồ ăn ở cửa hàng thực phẩm. Cô cháu gái tội nghiệp của ông ấy thực sự cần béo hơn chút nữa.

Trên đường tới căn hộ của Geneva Settle, Alonzo Jackson chậm rãi đi xuống một con đường nhỏ chia cắt những ngôi nhà đá nâu ở khu tây Harlem.

Tuy nhiên, vào chính khoảnh khắc này, gã không phải là Jax - một cựu tù chân tập tễnh, hay là vua Graffity với những hình vẽ bằng máu của Harlem một thời. Gã giờ chỉ là một kẻ vô danh, không nhà cửa trong chiếc quần jeans đầy bụi và chiếc áo thun màu xám, đẩy một chiếc xe đựng đồ lấy trộm từ trong cửa hàng, tay cầm mấy quyển báo giá khoảng năm đô la, được đóng thành tập cẩn thận và một đống những chai lọ trống rỗng lấy từ các thùng rác. Gã nghi ngờ rằng nếu ai đó ở quá gần sẽ nhận ra gã đang giả bộ - quá sạch sẽ so với một tên vô gia cư điển hình - nhưng gã chỉ cần đánh lừa vài người mà thôi: như những tay cớm đang bám sát lấy Geneva Settle.

Bên ngoài một con hẻm, sang bên kia phố, vào một con hẻm khác. Jak ở cách phía sau căn hộ mà thằng nhóc con Kevin Cheany đã chỉ khoảng ba dãy phố

Mẹ kiếp, một nơi ở thật đẹp.

Cảm thấy đáng khinh một lần nữa, gã hồi tưởng về những kế hoạch cho một gia đình đã tan biến.

Thưa ông, tôi cần phải nói chuyện với ông một chút. Tôi rất tiếc. Đứa bé... Chúng tôi không thể cứu đứa trẻ.

Đó là một thằng bé đúng không?

Tôi rất tiếc, thưa ông. Chúng tôi đã làm những gì có thể, tôi thề nhưng...

Đó là một bé trai...

Gã xua những ý nghĩ ấy ra khỏi đầu. Cố điều chỉnh cái bánh sau của chiếc xe đẩy cứ xoay sang bên trái, Jax lẩm bẩm và di chuyển chậm rãi nhưng kiên định, nghĩ rằng: Mày ạ, thật nực cười nếu bị bắt vì lấy trộm một chiếc xe đẩy hàng. Nhưng rồi gã khẳng định rằng, nó không hề nực cười chút nào. Kiểu như là một cảnh sát quyết định sờ gáy gã vì một chuyện cỏn con như vậy và phát hiện ra khẩu súng. Rồi kiểm tra ID và thế là hắn lại bị tóm về Buffalo. Hay là một nơi nào đó còn tồi tệ hơn nữa.

Lạch cà, lạch cạch - con đường đầy rác bừa bãi quả là địa ngục với cái bánh xe vỡ. Gã chật vật giữ nó đi cho thẳng. Nhưng gã cần phải nằm im ở con hèm tăm tối này. Để tới gần một ngôi nhà xinh đẹp từ vỉa hè, ở khu tuyệt đẹp của Harlem, có thể khiến gã bị chú ý như một kẻ tình nghi. Dù vậy, ở trong con hẻm, đẩy một chiếc xe chở hàng, mọi chuyện không tồi tệ đến mức như vậy. Những kẻ giàu có ném những cái chai lọ rỗng ra ngoài nhiều hơn những người nghèo. Và đối với rác thải, chất lượng ở quanh đây có vẻ tốt hơn. Điều hiển nhiên là những kẻ vô gia cư thích đi khua khoắng ở tây Harlem hơn là ở khu trung tâm.

Còn xa bao nhiêu?

Gã vô gia cư Jax nhìn lên và nheo mắt. Hai tòa nhà nữa là tới căn hộ của con bé.

Gần như đến rồi. Gần như xong rồi.

Anh cảm thấy ngứa ngáy.

Với trường hợp của Lincoln Rhyme, nó có thể là thật - anh có cảm giác ở trên cổ, vai và đầu, trên thực tế đó là một cảm giác mà anh chẳng cần phải có; đối với một người liệt toàn thân, không có cả khả năng gãi một chỗ ngứa là một điều khiến ta cảm thấy bực bội và khó chịu nhất trên đời.

Nhưng đây là sự ngứa ngáy theo nghĩa bóng kỳ lạ mà anh cảm

Có điều gì đó không đúng. Nó là gì?

Thom có hỏi anh một câu. Anh không chú ý lắm.

“Lincoln?”

“Tôi đang suy nghĩ. Cậu không thấy à?”

“Không, điều đó diễn ra ở bên trong anh”, người phụ tá bắt bẻ lại.

“Chà, giữ im lặng đi.”

Vấn đề là gì?

Anh nhìn lên, đọc lại các thông tin trên tấm bảng bằng chứng, trên hồ sơ, những bức thư cũ và những bài báo cắt ra, về biểu lộ lạ lùng trên khuôn mặt lộn ngược của Người treo ngược... Nhưng bằng một cách nào đó cái cảm giác ngứa ấy có vẻ không liên quan tới các bằng chứng.

Anh giả dụ rằng trong trường hợp nào mình chỉ đơn giản là lờ nó đi.

Quay trở lại với...

Rhyme gõ đầu mình. Gần như đã nắm được suy nghĩ đó. Nó nảy lên nảy xuống và biến mất.

Có một điều gì đó bất thường, lời mà ai đó mới nói có vẻ không khớp nhau.

Rồi:

“Ôi, khốn kiếp”, anh thét lên. “Người bác!”

“Gì cơ?” Mel Cooper hỏi.

“Chúa ơi, bác của Geneva.”

“Ông ta làm sao?”

“Geneva nói đó là anh trai mẹ cô bé.”

“Và?”

“Khi chúng ta nói chuyện với ông ta, ông ta nói rằng đã nói chuyện với em trai mình.”

“Chà, hẳn ý ông ta là em rể.”

“Nếu anh muốn nói em rể, thì anh sẽ nói như thế... Lệnh, gọi số Bell.”

Điện thoại reo và vị thanh tra nhấc máy ở nốt nhạc đầu tiên của bản nhạc chuông dành riêng cho cuộc gọi từ địa chỉ của Lincoln Rhyme.

“Bell đây.”

“Roland, anh đang ở nhà Geneva hả?”

“Đúng thế.”

“Điện thoại của anh không bật loa ngoài chứ?”

“Không. Cứ nói đi.” Viên thanh tra theo bản năng lôi chiếc áo khoác sang bên và tháo sợi dây da treo khẩu súng ngắn lớn hơn trong hai khẩu của anh. Giọng nói vững vàng như bàn tay, dù lúc này tim anh ta đang đập nhanh hơn một vài nhịp một giây.

“Geneva đâu rồi?”

“Trong phòng cô bé.”

“Ông bác?”

“Không biết. Ông ta mới đi tới cửa hàng.”

“Nghe này. Ông ta bịa ra câu chuyện về quan hệ giữa ông ta với cô bé. Ông ta nói ông ấy là anh trai bố cô bé. Cô bé lại nói ông ấy là anh trai mẹ mình.”

“Khỉ gió, ông ta là kẻ giả mạo.”

“Đến chỗ Geneva và ở với cô bé cho tới khi ta làm sáng tỏ việc này. Tôi sẽ gửi vài người hỗ trợ tới đó.”

Bell đi thật nhanh về phía phòng cô bé. Anh gõ cửa nhưng không thấy phản hồi.

Tim đập nhanh, anh lôi khẩu Berreta ra. “Geneva!”

Không có gì cả.

“Roland”, Rhyme nói: “Có chuyện gì vậy?”.

“Đợi một chút”, viên thanh tra thì thầm.

Trong tư thế cúi thấp, sẵn sàng cho một cuộc đấu súng, anh đầy cánh cửa mở, giơ cao khẩu súng, bước vào trong.

Căn phòng trống rỗng. Geneva đã biến mất.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,259
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


“Trung tâm, tôi có một cuộc gọi theo số 1209, khả năng là một vụ bắt cóc trẻ em.”

Bell lặp lại thông điệp đáng lo ngại với giọng nói bình tĩnh và đưa địa chỉ. Rồi: “Nạn nhân là một cô bé da đen, mười sáu tuổi, một mét năm tám, khoảng năm mươi cân. Nghi phạm là một người đàn ông da đen, to lớn, gần bốn mươi tuổi, tóc ngắn”.

“Rõ. Các đơn vị đang trên đường. Hết.”

Bell cài chiếc điện đàm vào thắt lưng, gửi Martinez và Lynch đi tìm kiếm trong tòa nhà trong khi nhanh chóng bước xuống tầng. Con phố phía trước tòa nhà được giám sát bởi Lynch, trong khi Martinez ở trên mái nhà. Nhưng họ lại đinh ninh Nghi phạm 109 hoặc đồng phạm của hắn sẽ xuất hiện hướng tới tòa nhà, chứ không phải là rời khỏi nó. Martinez cho rằng anh đã nhìn thấy một cô bé và một người đàn ông, mà có thể chính là ông bác, đi khỏi căn hộ ba phút trước. Anh đã không chú ý tới họ lắm.

Nhìn quanh con phố, Bell không thấy một ai ngoài vài nhân viên văn phòng. Anh đi xuống con hẻm bên cạnh tòa nhà. Anh để ý thấy một gã vô gia cư đẩy một chiếc xe chở hàng nhưng ở cách hai dãy phố. Bell sẽ nói chuyện với anh ta một phút và sẽ biết được anh ta có thấy cô bé hay không. Giờ, anh tìm một nhân chứng khả quan khác, một vài cô bé đang chơi trò nhảy dây đôi.

“Chào.” Chiếc dây chùng xuống khi chứng ngước lên nhìn người thanh tra.

“Chào các cháu. Chú là cảnh sát. Chú đang tìm một bạn gái. Cô ấy da đen, gầy, tóc ngắn. Đi cùng với một người đàn ông trung niên.”

Tiếng còi xe cảnh sát hú vang không gian, ngày càng to lên.

“Chú có huy hiệu chứ?”, một cô bé hỏi.

Bell kìm nén nỗi lo lắng của mình xuống, vẫn giữ nụ cười và giơ chiếc phù hiệu cảnh sát ra cho lũ nhóc.

“Ồ.”

“Vâng, chúng cháu có thấy họ”, một cô bé nhỏ nhắn, xinh xắn nói. “Họ đi lên con phố kia. Rẽ sang phải.”

“Không, sang trái.”

“Cậu có nhìn đâu.”

“Tớ có. Chú có súng không?”

Bell lao nhanh về phía con phố mà lũ trẻ chỉ. Một dãy nhà ở bên phải, anh thấy một chiếc xe đang lao vòng ra khỏi vỉa hè. Anh chộp lấy điện đàm của mình. “Các đơn vị trả lời tình huống 1029. Có ai ở gần phố 117 không... Có một chiếc Sedan màu nâu sẫm đang di chuyển về phía tây. Chặn nó lại và kiểm tra những người trong xe. Nhắc lại, chúng ta đang tìm kiếm một cô bé da đen, mười sáu tuổi. Nghi phạm là một người đàn ông da đen, bốn mươi tuổi, hết. Hắn có thể có vũ khí.”

“Đội tuần tra 772. Chúng tôi ở ngay đấy. Hết... Đây rồi, chúng tôi đã thấy đối tượng. Sẽ đuổi sát chiếc xe ngay lập tức.”

“Đã rõ, 772.”

Bell nhìn thấy chiếc xe cảnh sát, đèn của nó đang nhấp nháy, tăng tốc đuổi theo chiếc Sedan màu nâu sẫm đang phanh gấp. Tim đập nhanh, Bell bắt đầu đi chuyển về phía họ, khi viên cảnh sát tuần tra bước ra khỏi chiếc xe, đi tới cửa sổ chiếc Sedan và cúi xuống, bàn tay đặt trên báng khẩu súng ngắn.

Làm ơn đi mà, phải là cô bé.

Viên cảnh sát vẫy vẫy cho chiếc xe đi tiếp.

Chó chết thật, Bell nói với mình đầy giận dữ khi bước nhanh về phía viên cảnh sát.

“Thanh tra.”

“Không phải họ à?”

“Không phải, thưa ngài. Một người phụ nữ da đen. Tầm ba mươi tuổi. Cô ấy đi một mình.”

Bell yêu cầu sĩ quan tuần tra này đi lên và xuống các con phố ở gần phía nam rồi điện đàm cho các sĩ quan tuần tra khác xử lý các hướng còn lại. Anh quay đầu và chọn ngẫu nhiên một con phố, lao vào nó. Điện thoại đổ chuông.

“Bell nghe đây.”

Lincoln Rhyme hỏi xem chuyện gì đang xảy ra.

“Không ai thấy cô bé cả. Nhưng tôi không hiểu, Lincoln. Chẳng lẽ cô bé không biết bác của mình sao?”

“À, tôi có thể nghĩ tới một vài già thiết mà nghi phạm có thể đưa một người thay thế vào. Hoặc là ông ta làm việc với nghi phạm. Tôi không biết nữa. Nhưng có điều gì đó hoàn toàn không đúng ở đây. Nghĩ tới cách ông ta nói. Không có vẻ như là anh trai của một giáo sư lắm. Ông ta có một chút gì đó mang phong cách đường phố.”

“Đúng thế thật... Tôi muốn kiểm tra với đội của mình. Tôi sẽ gọi lại cho anh sau.” Bell dập máy rổi gọi điện cho các cộng sự của mình. “Luiz, Barbe, báo cáo. Mọi người tìm thấy gì rồi?”

Người phụ nữ báo rằng một số người mà cô ấy đã hỏi trên phố 118 không nhìn thấy một ai cả, người bác hay cô bé. Martinez báo cáo rằng họ đã kiểm tra tất cả tòa nhà và không tìm thấy bất cứ dấu vết của kẻ đột nhập hay dấu hiệu phá cửa nào. Anh hỏi Bell: “Anh đang ở đâu?”.

“Dãy phố phía đông tòa nhà, đang hướng về phía đông. Tôi đã cử các sĩ quan tuần tra quét sạch các dãy phố. Một trong số các anh tới đây với tôi. Những người khác bảo vệ khu vực căn hộ.”ết.”

“Ngắt.”

Bell bước nhanh qua một con phố và nhìn sang bên trái. Anh nhìn thấy gã vô gia cư một lần nữa, hắn dừng lại, nhìn anh và rồi cúi xuống gãi cổ chân mình. Bell bắt đầu bước về phía hắn để hỏi xem liệu hắn có thấy gì không.

Nhưng rồi anh nghe thấy tiếng một cánh cửa xe ô tô sập lại. Nó đến từ phía nào vậy? Âm thanh dội lại từ bức tường khiến anh không thể biết được.

Tiếng động cơ bắt đầu rung lên.

Ở phía trước... Anh bước về phía đó.

Không, sang bên phải.

Anh bước vội vàng trên phố, bất chợt nhìn thấy một chiếc Dodge màu xám cũ sờn lao ra đường. Nó hướng về phía trước nhưng phanh gấp khi thấy một chiếc xe cảnh sát đang đi lòng vòng chậm rãi về phía ngã tư. Người lái chiếc Dodge đưa xe về chế độ lùi và lăn bánh lên vỉa hè, vào một chỗ đậu xe trống, thoát khỏi tầm mắt của sĩ quan tuần tra. Bell tin rằng anh đã nhìn thấy có hai người bên trong... Anh đưa mắt nhìn. Đúng thế! Là Geneva và người đàn ông tự nhận mình là bác của cô bé. Chiếc xe hơi chồm lên trước một chút khi ông ta chuyển số.

Bell chộp lấy điện đàm và gọi các sĩ quan tuần tra, yêu cầu họ khóa chặt hai ngã tư.

Nhưng người cảnh sát tuần tra đang lái chiếc xe gần nhất rẽ vào con phố, hơn là chỉ chặn ở ngã tư; người bác của Geneva nhìn thấy anh ta. Ông ta chuyển chiếc xe về số lùi, nhấn chân ga và đảo chiếc xe xoay vòng quanh chỗ đậu hướng về phía con hẻm phía sau các dãy nhà. Chiếc Dodge vọt khỏi tầm mắt của Bell. Anh không biết nó rẽ sang phía nào nữa. Chạy nhanh tới chỗ nhìn thấy chiếc xe lần cuối cùng, anh ra lệnh cho chiếc xe cảnh sát vòng qua dãy phố.

Anh chạy vào trong hẻm và nhìn sang bên phải, vừa đúng lúc nhìn thấy đuôi chiếc xe biến mất. Anh lao theo nó, lôi khẩu Berreta ra khỏi bao. Chạy với tốc độ nhanh nhất có thể và rẽ sang góc cua.

Bell đông cứng lại.

Tiếng lốp xe rít lên, chiếc Dodge cũ kỹ đang chạy lùi ngay về phía anh, cố gắng trốn khỏi chiếc xe cảnh sát chặn đường tầu thoát của nó.

Bell kiên quyết giữ chặt vị trí. Anh nâng khẩu Berreta lên. Anh nhìn thấy đôi mắt sợ hãi của người bác, và vẻ mặt hoảng hốt của Geneva, cô lên thét. Nhưng anh không thể nổ súng. Chiếc xe cảnh sát ở ngay phía sau chiếc Dodge. Ngay cả khi anh bắn trúng kè bắt cóc, những viên đạn đồng cũng có thể đi xuyên qua mục tiêu rồi chiếc xe và trúng những cảnh sát khác.

Bell nhảy sang một bên, nhưng giẫm phải những hòn đá cuội trơn trượt với rác và ngã vật xuống đường, rền rĩ. Anh nằm ngay trên đường đi của chiếc Dodge. Viên thanh tra cố gắng tránh khỏi nguy hiểm. Nhưng chiếc xe đang lao tới với tốc độ cao khiến anh không kịp tránh nữa.

Nhưng... nhưng điều gì đang xảy ra chứ?

Người bác giậm chân phanh. Chiếc xe dừng lại chỉ cách Bell một mét rưỡi. Những cánh cửa mở toang và cả Geneva lẫn người bác của cô chạy ra ngoài, về phía anh, người đàn ông hét lớn: “Anh không sao chứ? Anh không sao chứ?”.

“Thanh tra Bell”, Geneva nói, cau mày, cúi xuống và giúp anh đứng dậy.

Co quắp vì đau, Bell chĩa súng về phía người bác và nói: “Đứng im, không được cựa quậy”.

Người đàn ông chớp chớp mắt và cau mày.

“Nằm xuống. Và giơ thẳng hai cánh tay của ông ra.”

“Thanh tra Bell...”, Geneva bắt đầu.

“Đợi một phút đã cháu.”

Người bác làm theo lời anh. Bell còng tay ông ta lại, khi những cảnh sát thuộc đội tuần tra lao tới từ con hẻm.

“Khám xét ông ta.”

“Rõ, thưa ngài.”

Người bác nói: “Nghe này, ngài không biết mình đang làm gì đâu, thưa thanh tra”.

“Im lặng”, Bell nói với ông ta và đưa Geneva sang bên, đẩy cô bé vào một cánh cửa kín đáo để không rơi vào tầm ngắm từ bất cứ ai trên các mái nhà xung quanh.

“Roland!”, Barbe Lynch chạy nhanh xuống từ con hẻm.

Bell đứng dựa vào bức tường gạch, cố gắng lấy lại hơi thở.

Anh nhìn sang bên trái, nhìn thấy gã vô gia cư lúc trước đang liếc nhìn một cách không thoải mái vào cảnh sát và quay vòng, chuyển sang một hướng ngược lại.

Bell lờ hắn ta đi.

“Chú không cần phải làm thế”, Geneva nói với người thanh tra, hất đầu về phía người đàn ông đang bị còng tay.

“Nhưng đó không phải là bác của cháu”, viên thanh tra nói, lấy lại bình tĩnh. “Đúng không?”

“Không.”

“Vậy thì ông ta đang làm gì với cháu lúc này?”

Cô bé cúi nhìn xuống, một nỗi đau khổ hiện lên trên khuôn mặt.

“Geneva”, Bell nói một cách nghiêm khắc: “Việc này nghiêm trọng. Nói cho chú biết chuyện gì đây”.

“Cháu nhờ ông ấy đưa cháu tới một nơi.”

“Nơi nào?”

Cô bé cúi gằm mặt. “Để làm việc”, cô nói. “Cháu không thể lỡ mất ca của mình”. Cô mở chiếc áo khoác ra, để lộ trang phục của McDonald. Trên chiếc thẻ tên là dòng chữ: “Xin chào, tôi là Gen”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,259
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


“Chuyện là thế nào?”, Lincoln Rhyme hỏi. Anh đã lo lắng, nhưng trái ngược với nỗi sợ hãi trước sự biến mất của cô bé, vẫn không có một chút quở trách nào trong giọng nói.

Geneva đang ngồi trên một chiếc ghế gần xe lăn của Rhyme, ở tầng trệt của ngôi nhà. Sachs đứng bên cạnh cô bé, tay khoanh tròn trước ngực. Cô mới trở về với một chồng cao ngất những tài liệu mang từ kho lưu trữ của tổ chức Sanford, nơi cô đã có khám phá lớn về Potter’s Field. Nó nằm trên chiếc bàn gần Rhyme, bị quên lãng bởi tình huống mới phát sinh này.

Cô bé nhìn một cách bướng bỉnh vào mắt anh. “Cháu đã thuê ông ấy để đóng vai bác của cháu.”

“Thế còn bố mẹ cháu?”

“Cháu không có.”

“Cháu không...”

“Có ai”, cô bé nhắc lại qua hàm răng đang nghiến chặt.

“Nói tiếp đi”, Sachs nói một cách nhẹ nhàng.

Cô bé im lặng một lúc. Cuối cùng: “Khi cháu lên mười tuổi, cha cháu đã bỏ chúng cháu, mẹ cháu và cháu. Ông ấy chuyển tới Chicago với một người phụ nữ và họ lấy nh

au, ông ấy đã có cho riêng mình một gia đình hoàn toàn mới. Trái tim cháu như vỡ nát thành nhiều mảnh - thực sự đau đớn. Nhưng tận sâu trong lòng, cháu không thực sự đổ lỗi cho ông ấy nhiều lắm. Cuộc sống của gia đình cháu là một đống lộn xộn. Mẹ cháu, bà ấy dính vào ma túy, không thể từ bỏ nó. Họ đã có những trận chiến kịch liệt - vâng, bà ấy đã động tay động chân. Cha cháu đã rấcố gắng để lôi kéo bà ấy trở lại với cuộc sống và bà ấy thì nổi đóa với ông ấy. Để trả tiền cho thứ mình cần bà ấy ăn trộm đồ từ các cửa hàng.” Geneva vẫn nhìn Rhyme chằm chằm khi nói: “Và bà ấy tới chỗ những người bạn gái của mình và họ có một vài người đàn ông ở đó - chú biết là gì rồi đấy. Cha cháu biết tất cả những chuyện đó. Cháu đoán là ông ấy đã chịu đựng điều đó lâu hết mức có thể và rồi đã bước đi”.

Cô lấy một hơi thật sâu rồi tiếp tục: “Rồi mẹ cháu đổ bệnh. Bà ấy dương tính với HIV nhưng không hề sử dụng thuốc và cuối cùng chết vì căn bệnh. Cháu đã sống với chị gái của bà ở Bronx một thời gian nhưng rồi sau đó bà ấy chuyển tới Alabama và bỏ lại cháu ở căn hộ của bà Lilly. Nhưng bà Lilly cũng không có tiền và tiếp tục bị đuổi khỏi nhà, chuyển sang sống với những người bạn, như bây giờ. Bà ấy không đủ khả năng để cho cháu sống cùng. Nên cháu đã nói chuyện với người quản lý tòa nhà mà mẹ cháu từng đến làm việc vài lần, chỉ là lau dọn. Ông ấy nói cháu có thể ở lại dưới tầng hầm - nếu trả tiền cho ông ấy. Cháu có một chiếc giường nhỏ ở dưới đó, một chiếc tủ, một cái lò vi sóng, và một cái giá sách. Cháu đã lấy địa chỉ của ông ấy làm địa chỉ hòm thư của mình.”

Bell nói: “Cháu có vẻ không hề thoải mái khi ở trong chỗ đó. Nó là của ai?”

“Một cặp vợ chồng đã nghỉ hưu. Họ sống ở đó nửa năm và tới nam Carolina vào mùa thu và mùa đông. Willy có chìa khóa dự phòng.” Cô bé thêm vào: “Cháu sẽ trả tiền cho hóa đơn điện, mua bia và những thứ mà Willy đã lấy để trả lại chỗ cũ”.

“Cháu không phải lo lắng về vấn đề đó.”

“Có, cháu có.” Cô bé nói một cách kiên quyết.

“Vậy ta đã nói chuyện với ai trước đó, nếu như đó không phải là mẹ cháu?”, Bell hỏi.

“Xin lỗi”, Geneva nói, thở dài. “Đó là Lakeesha. Cháu nhờ bạn ý giả vờ là mẹ cháu. Bạn ấy thực sự là một diễn viên giỏi.”

“Con bé đã hoàn toàn đánh lừa được ta.” Viên thanh tra cười méo xệch vì bị mắc lừa hoàn toàn.

“Vậy còn ngôn ngữ trong cách nói năng của cháu thì sao?” Rhyme hỏi. “Cháu thực sự giống như là con gái của một giáo sư.”

Cô bé chuyển ngay sang giọng điệu đường phố. “Đừng có nói năng như lũ vô gia cư mất dạy, ý ông là thế hả?” Một nụ cười tinh quái. “Cháu đã học tiếng Anh chuẩn từ khi mới bảy hay tám tuổi cơ.” Khuôn mặt cô bé trở nên buồn rầu. “Điều duy nhất tốt đẹp về cháu - ông ấy luôn muốn cháu đọc thật nhiều sách, ông ấy đã từng đọc cho cháu nghe một vài quyển.”

“Chúng ta có thể tìm ông ấy và…”

“Không!” Geneva nói với một giọng chói tai. “Cháu không muốn làm gì liên quan tới ông ấy nữa. Dù sao thì, ông ấy đã có những đứa con cho riêng mình rồi. Ông ấy không muốn làm gì liên quan đến cháu.”

“Và không một ai biết được là cháu không có gia đình sao?” Sachs hỏi.

“Tại sao họ phải biết? Cháu chưa bao giờ tìm đến trợ cấp xã hội hay lương thực miễn phí để không có một nhân viên xã hội nào tìm đến cháu. Cháu chưa bao giờ đăng kỷ các bữa ăn miễn phí ở trường bởi nó sẽ lật tẩy vỏ bọc của cháu. Cháu tự ký tên bố mẹ vào trong các giấy tờ của nhà trường khi cần chữ ký của họ. Và cháu có một hộp thư thoại đang sử dụng. Đó cũng là Keesh. Bạn ấy ghi âm lại thông tin thoại, giả vờ là mẹ cháu.”

“Và nhà trường không bao giờ nghi ngờ sao?”

“Đôi khi mọi người hỏi tại sao cháu không bao giờ có ai đến tham dự buổi họp giáo viên - phụ huynh, nhưng chẳng ai nghĩ gì về việc đó lắm bởi cháu luôn giành được điểm A. Không trợ cấp xã hội, điểm số tốt, không rắc rối với cảnh sát... Sẽ chẳng ai chú ý nếu như ta không có điều gì đó sai phạm.” Cô bé cười. “Chú biết quyển sách của Ralp Ellison chứ, Invisible Man? Không, không phải là bộ phim khoa học viễn tưởng ấy. Nó nói về người da đen ở Mỹ, nghĩa là phải vô hình. Chà, cháu là một cô gái vô hình.”

Nó thực sự hợp lý lúc này: quần áo cũ kỹ và chiếc đồng hồ đeo tay rẻ tiền, chẳng có chút nào là những thứ mà người cha mẹ giàu có hay đi du lịch mua cho cô con gái của mình. Một trường công, không phải trường tư. Bạn của cô bé, một cô gái có nhà cửa, gia đình - Keesh, không phải dạng gần gũi với con gái của một giáo sư đại học.

Rhyme gật đầu. “Chúng ta chưa bao giờ thực sự thấy cháu gọi điện cho bố mẹ ở Anh. Nhưng cháu đã gọi điện cho người đóng thế này hôm qua, sau những gì xảy ra ở bảo tàng, đúng không? Ông ta đã bao giờ từng giả vờ là bác cháu chưa?”

“Ông ấy nói đồng ý nếu cháu trả thêm tiền, ông ấy muốn cháu đến ở chỗ của ông ấy - nhưng đó không phải là một ý tưởng hay cho lắm. Chú hiểu cháu nói gì chứ? Bởi vậy cháu nói với ông ta sử dụng căn hộ 2-B của gia đình nhà Reynolds đang đi vắng. Cháu đã nhờ ông ấy rút tên họ ra khỏi hòm thư.”

“Ta chưa bao giờ cảm thấy ông ta là một người họ hàng ruột thịt của cháu”, Bell nói và Geneva đáp lại với một nụ cười chế giễu.

“Nếu như bố mẹ cháu không bao giờ xuất hiện, cháu định nói gì với chúng ta chứ?”

“Cháu không biết.” Giọng chùng xuống và chợt nhiên nhìn cô bé trông đầy tuyệt vọng và mất mát. Rồi định thần lại. “Cháu từng phải ứng phó với tất cả mọi thứ. Khi cháu đi lấy những bức thư của Charles ngày hôm qua?” Cô nhìn Bell, anh gật đầu. “Cháu đã phải lẻn qua lối cửa sau, và đi xuống tầng hầm. Chúng nằm ở đó.”

“Cháu có người thân nào ở đây không?”, Sachs hỏi. “Ai đó, ngoài bà cô của cháu.”

“Cháu chả có...” Ảnh nhìn hoảng sợ trong đôi mắt của cô bé, lần đầu tiên Rhyme thấy. Và nguồn gốc của nó không phải là vì gã sát thủ giết mướn mà là việc nói năng ứng xử trở thành thứ tiếng với ngữ pháp đáng ghét[10]. Cô bé lắc đầu: “Cháu không có một ai cả”.

[10] Ở đây, câu đầu Geneva nói: “I don’t have no…” là sai ngữ pháp. Cô bé đã sửa lại thành: “I don’t have anybody.”

“Tại sao cháu không tới các Dịch vụ Xã hội?” Sellito hỏi. “Đó là lý do tại sao họ được thành lập.”

Bell thêm vào: “Cháu vất vả hơn bất cứ ai có thể đến đó”.

Cô bé cau mày và đôi mắt sẫm màu trở nên tối tăm hơn nữa. “Cháu không lấy thứ gì miễn phí cả.” Rồi lắc lắc đầu. “Hơn nữa, nhân viên xã hội có thể sẽ đến để kiểm tra mọi việc và biết được tình trạng của cháu. Cháu sẽ lại bị gửi xuống chỗ chị gái mẹ cháu ở Bama. Bà ấy sống ở một thị trấn bên ngoài Selma, có ba trăm người sống ở đó thôi. Chú có biết được cháu sẽ nhận được sự giáo dục như thế nào ở đó chứ? Hoặc là, cháu ở lại đây, và kết thúc trong một trường giáo dưỡng ở Brooklyn, sống trong một phòng với bốn cô gái gangster, những chiếc ti vi bật hip hop và BET[11] hai mươi tư giờ một ngày, bị lôi vào nhà thờ...” Cô rùng mình và lắc lắc đầu.

[11] Một giải thưởng hằng năm về hip hop.

“Đó là lý do cháu làm việc”, Rhyme nhìn vào bộ đồng phục.

“Đó là lý do cháu làm việc. Có người đưa cháu đến chỗ một người giúp cháu làm bằng lái xe giả. Theo đó, cháu mười tám tuổi.” Cô bé cười thành tiếng. “Cháu không nhìn vào đó, cháu biết. Nhưng cháu xin việc ở một nơi mà người quản lý là một một ông già da trắng. Ông ấy không có bằng chứng nào về việc tuổi bằng cách nhìn cháu. Và làm việc ở đấy suốt từ đó. Chưa bao giờ bỏ một ca làm nào hết. Cho đến ngày hôm nay.” Một tiếng thở dài. “Ông chủ của cháu sẽ tìm ra nguyên nhân, ông ấy sẽ phải sa thải cháu. Chán thật. Và cháu vừa mới mất một việc khác tuần trước.”

“Cháu làm hai công việc?”

Cô bé gật đầu. “Xóa các hình vẽ graffiti. Đó là sự thay đổi đang diễn ra ở Harlem. Các cô chú có thể thấy ở bất cứ đâu bây giờ. Một vài công ty bảo hiểm và bất động sản lớn sửa chữa các tòa nhà cũ và cho thuê với rất nhiều tiền. Họ thuê những đứa nhóc để làm sạch các bức tường. Họ trả rất nhiều tiền. Nhưng cháu đã bị đuổi việc.”

“Vì cháu không đủ tuổi?”, Sachs hỏi.

“Không. Bởi vì cháu nhìn thấy những người công nhân đó, có ba gã da trắng to lớn làm việc cho một công ty bất động sản. Họ quấy rối một cặp vợ chồng già đã sống ở tòa nhà từ rất lâu rồi. Cháu bảo họ dừng lại nếu không sẽ báo cảnh sát...” Cô bé nhún vai. “Họ đuổi việc cháu. Cháu đã gọi cho cảnh sát nhưng họ không quan tâm lắm... Quá nhiều để làm những việc tốt.”

“Và đó là lý do tại sao cháu không muốn cô cố vấn Barton giúp đỡ”, Bell nói.

“Cô ấy biết là cháu không có gia đình, và thế là, bùm một phát, cháu vào trong trường giáo dưỡng.” Cô bé rùng mình. “Cháu đã gần xong rồi! Cháu đáng lẽ đã có thể hoàn thành. Một năm rưỡi nữa thôi là cháu có thể biến mất. Có thể là ở Harvard hoặc Vassar. Rồi cái gã đó xuất hiện ở bảo tàng ngày hôm qua và phá hỏng mọi thứ.”

Geneva đứng dậy và bước tới bảng ghi các dữ liệu về Charles Singleton. Cô bé nhìn nó chăm chú. “Đó là lý do tại sao cháu đang viết về ông ấy. Cháu phải tìm ra sự thật là ông ấy vô tội. Cháu muốn ông ấy phải là một người đàng hoàng tốt bụng và là một người chồng, một người cha tốt. Những bức thư thật tuyệt đẹp. Ông ấy có thể viết ra thật hay những lời của mình. Ngay cả nét chữ của ông ấy cũng thật đẹp.” Cô nín thở thêm vào: “Và ông ấy là một anh hùng trong thời Nội chiến, dạy dỗ những đứa trẻ, cứu những em bé mồ côi từ những kẻ nổi dậy chống chế độ quân dịch. Sau cùng, bỗng nhiên cháu có một người thân trong gia đình tốt đẹp. Một người thông minh, biết những người nổi tiếng. Cháu muốn ông ấy trở thành một người mà cháu có thể ngưỡng mộ, khác với bố hay mẹ cháu”.

Luiz Martinez dừng lại ở ngưỡng cửa. “Anh ta đã kiểm tra. Đúng tên và địa chỉ, không tiền án tiền sự, chưa từng bị bắt.” Anh ta đă điều tra tên của người bác giả mạo. Rhyme và Bell không tin tưởng một ai

“Cháu cần phải ở một mình”, Sachs nói.

Im lặng một chút. “Cha đưa cháu đến nhà thờ vài lần, trước khi ông ấy bỏ đi. Cháu vẫn nhớ bài hát Phúc âm[12] này. Nó từng là bài hát yêu thích của chúng cháu. Tên nó là Aint got time to die. Đó là những gì giống với cuộc đời cháu. Cháu không có thời gian để cô đơn.”

[12] Một loại nhạc tôn giáo khởi nguồn từ các nhà thờ của người Mỹ gốc Phi.

Nhưng lúc này, Rhyme đã hiểu khá rõ Geneva. Cô bé đang thiếu thành thật. Anh nói: “Vậy là cháu có bí mật giống như người tổ tiên của mình. Ai biết những bí mật của cháu?”

“Keesh, chủ ngôi nhà, vợ ông ấy. Thế thôi.” Cô bé nói với Rhyme với một cái nhìn thách thức. “Chú định lật tẩy cháu phải không?”

“Cháu không thể sống một mình được”, Sachs nói.

“Cháu đã như thế hai năm rồi”, cô bé ngắt lời. “Cháu có sách vở, trường lớp. Cháu không cần bất cứ thứ gì khác nữa.”

“Nhưng...”

“Không. Nếu chú nói ra, nó sẽ phá hỏng mọi thứ.” Cô bé thêm vào: “Cháu xin đấy”. Tiếng nói lịm dần, như thể vô cùng khó khăn để thốt ra điều đó.

Im lặng một lúc. Sachs và Sellito nhìn Rhyme, người duy nhất trong căn phòng không phải trả lời trước các quy định và cấp trên. Anh nói: “Không cần phải đưa ra quyết định ngay lập tức. Chúng ta đang ngập đầu với việc truy bắt hung thủ rồi. Nhưng ta đang nghĩ rằng có lẽ cháu nên ở lại đây, không phải nơi nào khác nữa”. Anh nhìn Thom. “Ta nghĩ rằng chúng ta có thể tìm một phòng cho cháu trên lầu, đúng không?”

“Chắc chắn là có rồi.”

“Cháu muốn...”, cô bé bắt đầu.

Rhyme nói với một nụ cười: “Ta nghĩ lần này chúng ta sẽ cương quyết”.

“Nhưng công việc của cháu. Cháu không thể mất nó được.”

“Ta sẽ lo việc này.” Rhyme lấy số điện thoại từ cô bé và gọi điện cho ông chủ cửa hàng McDonald, giải thích chung chung về vụ tấn công và nói rằng Geneva sẽ không thể đến trong một vài ngày. Người quản lý nghe giọng có vẻ thực sự quan ngại và nói với anh rằng Geneva là nhân viên cẩn thận nhất mà họ có được có thể nghỉ chừng nào mình muốn và yên tâm rằng công việc sẽ chờ đợi đến khi cô bé quay trở lại.

“Cô ấy là nhân viên tốt nhất của chúng tôi”, tiếng người đàn ông nói qua chiếc loa ngoài. “Một cô bé tuổi mới lớn mà trách nhiệm còn hơn cả những người gấp đôi tuổi. Anh sẽ không hay thấy điều đó đâu.”

Rhyme và Geneva mỉm cười với nhau rồi anh tắt điện thoại.

Ngay sau đó, chuông cửa reo. Bell và Sachs lập tức đề cao cảnh giác, tay họ nhanh chóng đưa về vị trí vũ khí của mình. Rhyme nhận thấy rằng, Sellito vẫn còn hoảng sợ, và mặc dù nhìn xuống vũ khí của mình, anh ta vẫn không chạm vào nó. Những ngón tay của anh ta vẫn ở trên má, gãi nhè nhẹ, như thể động tác này yêu cầu một vị thần xuất hiện và xoa dịu trái tim đang khốn khổ của anh ta.

Thom xuất hiện ở ngưỡng cửa và nói với Bell: “Có cô Barton ở đây, đến từ trường học. Cô ấy mang đến một bản copy từ video an ninh”.

Cô bé lắc đầu trong hoảng sợ. “Không”, cô thì thầm.

“Đưa cô ấy vào đây”, Rhyme nói.

Một người phụ nữ Mỹ gốc Phi to lớn bước vào trong phòng, mặc một chiếc đầm màu tím. Bell giới thiệu. Cô ta gật đầu chào mọi ngưòi, và giống như những cố vấn mà Rhyme đã từng gặp, không có phản ứng gì với tình trạng của anh. Cô ta nói: “Chào, Geneva”.

Cô bé gật đầu. Khuôn mặt vẫn là một chiếc mặt nạ. Rhyme có thể thấy rằng cô bé đang nghĩ về sự đe dọa mà người phụ nữ này đại diện: miền quê Alabama hoặc một trại giáo dưỡng.

Barton tiếp tục: “Em thế nào rồi?”

“Ổn ạ, em cảm ơn cô.” Cô bé nói với sự tôn trọng, không giống với kiểu cách thường ngày.

“Chuyện này hẳn phải rất khó khăn với em”, người phụ nữ nói.

“Em đã khá hơn rồi.” Geneva giờ cố nở một nụ cười khiên cưỡng. Cô bé nhìn người phụ nữ một lần rồi nhìn sang chỗ khác.

Barton nói: “Tôi đã nói chuyện với hàng tá người về gã đàn ông ở gần sân trường ngày hôm qua. Chỉ hai hoặc ba người nhớ có thấy một ai đó. Họ không thể miêu tả kẻ đó, ngoại trừ việc hắn ta là người da màu, mặc một chiếc áo dã chiến màu xanh và đi đôi giày lao động cũ kỹ”.

“Điều này mới”, Rhyme nói. “Đôi giày.” T viết điều này lên bảng.

“Và đây là cuộn băng từ phòng an ninh của chúng tôi.” Cô ta đưa một cuộn băng ghi hình cho Cooper, anh bật nó lên.

Rhyme lăn chiếc xe tới gần màn hình và cảm thấy cổ căng ra khi nghiên cứu những hình ảnh.

Nó không giúp gì nhiều lắm. Chiếc camera được hướng chủ yếu vào sân trường, không phải các con phố và vỉa hè xung quanh. Trong phạm vi của nó có thể nhìn thấy vài hình ảnh lờ mờ của những người đi qua, nhưng không có gì nổi bật. Không có hy vọng rằng họ sẽ thu được nhiều thông tin, Rhyme ra lệnh cho Cooper gửi cuốn băng tới phòng thí nghiệm ở Queens để xem liệu nó có thể cải thiện được chất lượng hình ảnh hơn không. Anh điền vào bản CoC[13] và gói nó lại, gọi người đến lấy.

[13] Xác nhận lưu giữ bằng chứng hợp pháp.

Bell cảm ơn sự giúp đỡ của người phụ nữ.

“Bất cứ điều gì chúng tôi có thể làm được”, bà ta dừng lại và nhìn cô bé. “Nhưng ta thực sự cần phải nói chuyện với bố mẹ em, Geneva.”

“Bố mẹ em?”

Cô ta gật đầu một cách chậm rãi. “Ta phải nói là - ta đã nói chuyện với một vài sinh viên và giáo viên, thật lòng thì, hầu hết họ đều nói gia đình em không quan tâm lắm tới việc học hành của em. Thực tế, ta chưa thấy một ai thực sự gặp họ.”

“Nhưng điểm số của em rất tốt.”

“À, ta biết điều đó. Chúng ta thực sự hài lòng với việc học tập của em, Geneva. Nhưng trường học là học sinh và cha mẹ cùng phối hợp với nhau. Ta thực sự muốn nói chuyện với họ. Số điện thoại của họ là gì?”

Cô bé tê cứng lại.

Một sự im lặng ngột ngạt bao trùm.

Cuối cùng, Lincoln Rhyme phá vỡ nó. “Tôi sẽ nói với cô sự thật.”

Geneva cúi gằm xuống. Hai bàn tay cô nắm chặt lại.

Rhyme nói với Barton: “Tôi vừa mới ngắt điện thoại với bố cô bé”.

Tẩt cả những người khác trong phòng quay sang và nhìn anh chằm chằm.

“Họ đã về nhà chưa?

“Không, họ sẽ không về một thời gian.”

“Không?”

“Tôi yêu cầu họ không về.”

“Anh làm thế sao? Tại sao?” Người phụ nữ cau mày.

“Đó là quyết định của tôi. Tôi làm thế để giữ an toàn cho Geneva. Ngài Roland Bell đây sẽ nói cho cô biết.” Anh nhìn về viên thanh tra đến từ Carolina, đang gật đầu, một hành động đáng tin cậy, tuy dường như không hiểu chuyện gì đang diễn ra. “Khi thiết lập các thông tin bảo vệ, đôi khi chúng tôi cần phải tách biệt những người chúng tôi bảo vệ với gia đình họ.”

“Tôi không biết điều đó.”

“Nếu không”, Rhyme tiếp tục, sửa lại: “Kẻ tấn công có thể lợi dụng người nhà của họ để kéo họ ra ngoài”.

Barton gật gù. “Hợp lý.”

“Như thế gọi là gì, Roland?” Rhyme nhìn viên thanh tra một lần nữa. Và tự trả lời: “Cách ly đối tượng ảnh hưởng, đúng không nhỉ?”

“IOD[14]", Bell nói, gật đầu. “Đó là cách chúng tôi gọi phương pháp này. Một phương pháp vô cùng quan trọng.”

[14] Isolation of Dependants: Cách ly đối tượng ảnh hưởng.

“Chà, tôi rất vui được biết điều đó”, cô cố vấn nói. “Nhưng bác của cháu trông chừng cháu chứ, đúng không?”

Sellito nói: “Không. Chúng tôi cho rằng cách tốt nhất với Geneva là cô bé sẽ ở lại đây”.

“Chúng tôi cũng áp dụng phương pháp này với bác của cô bé nữa”, Bell nói. Lời nói dối nghe đặc biệt êm tai từ một cảnh sát với giọng nói rề rà đậm chất miền Nam. “Chúng tôi muốn giữ ông ấy ngoài tầm liên lụy.”

Barton chấp nhận tất cả những lời nói dối đó, Rhyme có thể thấy điều đó. Cô cố vấn nói với Geneva: “Chà, khi chuyện này kết thúc, hãy nói họ liên lạc với ta. Có vẻ như em đang xoay xở khá ổn. Nhưng xét về mặt tâm lý thì nó phải có những tác động không hay. Tất cả chúng ta sẽ ngồi chung với nhau và giải quyết một số vấn đề”. Cô ta nói thêm với một nụ cười: “Không có cái gì bị phá vỡ mà không thể được hàn gắn lại”.

Câu nói này hẳn phải được khắc trên bảngdanh đặt ở bàn làm việc hoặc trên cốc cà phê ở văn phòng của cô ta.

“Được rồi”, Geneva nói một cách thận trọng.

“IOD.” Bell nhắc lại.

“Và cô ta sẽ làm gì?” Rhyme lẩm bẩm. “Bắt tôi phải ở lại sau giờ học à?” Rồi anh hất đầu cộc lốc về phía tấm bảng ghi bằng chứng. “Giờ chúng ta quay lại với công việc được chưa? Có một tên sát nhân ở ngoài kia. Và hắn có đồng bọn. Có kẻ thuê chúng. Nhớ điều đó chứ? Tôi muốn làm rõ chúng là ai một lúc nào đó trong cái thập kỷ này.”

Sachs bước tới cái bàn, bắt đầu sắp xếp các tập tài liệu và bản copy của những thứ mà William Ashberry đã cho cô mượn từ thư viện của tổ chức - cái “hiện trường nho nhỏ”. Cô nói: “Đây phần lớn là về Gallows Heights - bản đồ, hình vẽ, bài báo. Một vài thứ về Potter’s Field”.

Cô đưa từng tập tài liệu cho Cooper. Anh ghép lại rồi dán vào một vài bản vẽ và bản đồ của Gallows Heights, thứ Rhyme đang nhìn vào chằm chằm một cách cố ý khi Sachs nói với họ về những gì cô tìm ra về khu vực xung quanh. Rồi cô bước tới bản vẽ, chạm vào tòa nhà thương mại hai tầng. “Potter’s Field chính là ở đây. Phía tây phố 18.” Cô lướt qua vài tập tài liệu. “Có vẻ như nó khá tai tiếng, có rất nhiều kẻ xấu lảng vảng ở đây, những người như Jim Fisk, Boss Tweed và các nhà chính trị có liên quan tới bộ máy Tammany Hall.”

“Nhìn xem những hiện trường nho nhỏ giá trị như thế nào, Sachs? Em là một tài sản to lớn đầy những thông tin có giá trị.”

Cô quắc mắc nhìn anh, rồi nhấc lên một bản photocopy. “Đây là bài báo về vụ hỏa hoạn. Nó nói rằng cái đêm mà Potter’s Field cháy rụi, các nhân chứng đã nghe thấy tiếng nổ ở trong căn hầm và rồi, gần như là ngay lập tức, nơi này ngập chìm trong biển lửa. Bị nghi ngờ là có người phóng hỏa nhưng chưa có một ai bị bắt. Không có nạn nhân.”

“Charles đến đó để làm gì?” Rhyme trầm ngâm thành tiếng. “Ý ông ta là gì khi đề cập tới ‘công lý’? Và cái gì sẽ mãi mãi bị vùi lấp dưới bùn đất?”

Liệu có một manh mối, chút ít bằng chứng, một mẩu tài liệu nào có thể trả lời câu hỏi về kẻ muốn giết Geneva Settle?

Sellito lắc đầu. “Quá tệ là nó đã xảy ra một trăm bốn mươi năm trước. Dù là gì, thì nó cũng đã biến mất. Chúng ta sẽ không bao giờ biết được.”

Rhyme nhìn Sachs. Cô b gặp ánh mắt của anh. Rồi mỉm cười.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,259
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


“Ồ, một phần nào đó thì cô may mắn”, David Yu, người kỹ sư trẻ với mái tóc dựng ngược đang làm việc cho thành phố giải thích.

“Chúng tôi có thể sử dụng một ít”, Amelia Sachs nói. “May mắn, ý tôi là thế.”

Họ đang đứng trên phía tây phố 18, cách Riverside Walk khoảng nửa dãy phố về phía đông, nhìn vào tòa nhà đá nâu ba tầng. Một chiếc xe buýt của đội khám nghiệm hiện trường đã đợi ở gần đó, cả một người bạn khác của Sachs cũng đang đứng đợi sẵn, một nữ cảnh sát tên là Gail Davis, từ đơn vị K9, và con chó của cô - Vegas. Hầu hết các chú chó cảnh sát là giống chó chăn cừu, Malinois - đánh hơi bom - và giống chó săn Labrador. Dù vậy, Vegas, là một con Briard, một giống chó cổ của Pháp với lịch sử phục vụ lâu đời trong quân đội; giống chó này nổi tiếng với những chiếc mũi thính tuyệt vời cùng khả năng huyền bí có thể cảm nhận các mối đe dọa tới gia súc và con người. Rhyme và Sachs đều nghĩ rằng việc khám nghiệm một hiện trường một trăm bốn mươi năm tuổi có thể có ích từ việc sử dụng vài phương pháp tìm kiếm cổ điển truyền thống, thêm vào đó là các hệ thống công nghệ cao có thể được áp dụng.

Viên kỹ sư, Yu, hất đầu về phía tòa nhà được xây dựng từ vị trí mà quán Potter’s Field bị đốt cháy. Ngày tháng ghi trên viên đá nền là năm 1879. “Để xây một tòa nhà chung cư như thế này năm đó họ không cần phải đào lên và đổ một lớp móng bê tông. Họ chỉ cần đào một cái móng

theo chu vi, đổ bê tông vào đó và xây lên các bức tường. Đó là phần chịu tải trọng. Nền tầng hầm hẳn phải rất bẩn. Nhưng bộ luật xây dựng đã thay đổi. Họ chắc phải đổ nền bê tông một lúc nào đó đầu thế kỷ này rồi. Dù sao, nó không mang tính kết cấu mà vì lý do sức khỏe và an toàn. Nên những nhà thầu cũng sẽ không đào lên.”

“Vậy may mắn của tôi ở đây là thứ gì đó nằm ở dưới này từ những năm 1860 có thể vẫn còn đó”, Sachs nói.

Mãi mãi chôn giấu...

“Phải.”

“Và cái không may mắn là nó nằm bên dưới lớp bê tông.”

“Nhiều khả năng là thế.”

“Dày khoảng 30 cm?”

“Có thể ít hơn.”

Sachs đi xung quanh tòa nhà đầy bụi và cũ kỹ, dù biết những căn hộ bên trong nó có thể phải thuê với giá 4000 đô la một tháng. Có một lối vào ở phía sau dẫn xuống tầng hầm.

Cô đang quay ra đằng trước tòa nhà thì điện thoại đổ chuông. “Thám tử Sachs.”

Lon Sellito đang ở đầu dây bên kia. Anh đã tìm ra tên chủ của tòa nhà, một doanh nhân sống cách đó vài dãy phố. Ông ta đang trên đường tới để cho họ vào trong. Rhyme gọi điện một lúc sau đó và cô nói với anh những gì Yu nói.

“Vận may, vận rủi”, anh nói, rõ ràng là cau có. “Tôi đã ra lệnh cho đội Tìm kiếm và Giám sát ở đây với máy phát sóng radar bề mặt và siêu âm.”

Ngay sau đó người chủ tòa nhà xuất hiện, một người đàn ông thấp, đầu hói trong bộ vest và chiếc áo sơ mi trắng mở phanh cổ. Sachs tắt điện thoại với Rhyme và giải thích nhanh gọn cho người đàn ông về việc họ cần xem xét căn hầm. Ông ta nhìn cô một cách ngờ vực rồi mở cửa căn hầm và bước lùi lại, khoanh tay, gần Vegas. Chú chó cảnh sát có vẻ không thích ông ta lắm.

Một chiếc Chevy Blazer trờ tới và ba chuyên gia thuộc đội S & S của Sở cảnh sát New York bước ra. Các nhân viên S & S bao gồm cả cảnh sát, kỹ sư và nhà khoa học, nhiệm vụ của họ là hỗ trợ đội đặc nhiệm xác định vị trí hung thủ và nạn nhân ở các hiện trường với kính viễn vọng, các máy nhìn ban đêm, hồng ngoại, tai nghe mini và các trang bị khác. Họ gật đầu với các chuyên gia khám nghiệm hiện trường và rồi mở những chiếc va li màu đen đã cũ sờn, rất giống với những đồ đựng thiết bị khám nghiệm hiện trường riêng của Sachs. Người chủ tòa nhà quan sát họ với một cái cau mày.

Các nhân viên S & S bước xuống tầng hầm lạnh và tăm tối, có mùi dầu và mùi đất mốc meo, Sachs và người chủ đi theo sau. Họ kết nối chiếc máy dò mà giống với một chiếc máy hút bụi chân không với các thiết bị được điều khiển bằng máy tính.

“Cà khu vực này?” một người hỏi Sachs.

“Ừ.”

“Sẽ không ảnh hưởng đến ai, đúng không?” người chủ hỏi.

“Không, thưa ngài.” Một chuyên viên trả lời.

Họ bắt đầu vào công việc. Họ quyết định sử dụng máy phát sóng radar trước. Sóng radar xuyên qua bề mặt phát ra các sóng radio và phản hồi thông tin về những vật thể mà nó chạm vào, giống như những sóng radar thường thấy trên tàuuyền hoặc máy bay. Điều khác biệt duy nhất là máy phát sóng radar có thể đi xuyên qua các vật thể như bùn đất và những mảnh gạch đá vụn. Nó có tốc độ nhanh như tốc độ ánh sáng, và khác với sóng siêu âm, không cần phải chạm vào bề mặt để có được thông tin.

Họ quét tìm cái sàn khoảng một tiếng đồng hồ, gõ các phím máy tính, ghi chú, trong khi Sachs đứng bên cạnh, cố không gõ gõ chân mình hay bồn chồn một cách thiếu kiên nhẫn, nhận ra rằng nó sẽ không tốt cho việc hoạt động của các thiết bị.

Sau khi họ quét sạch tầng hầm với radar, đội dò tìm tra trên màn hình máy tính rồi dựa trên những gì họ biết, đi xung quanh căn hầm một lần nữa, hướng đầu dò siêu âm vào khối bê tông trong cả tá vị trí mà họ đã đánh dấu là quan trọng.

Khi hoàn thành, họ gọi Sachs và Yu tới chiếc máy tính, lướt qua một vài tấm hình. Màn hình tối xám khiến cô không đọc được: Nó được lấp đầy bởi các đốm và vạch màu, rất nhiều trong số đó có các ô nhỏ chứa các con số và chữ cái bên cạnh mà cô không thể đoán được đó là gì.

Một trong những chuyên viên nói: “Hầu hết những thứ này là những gì ta hy vọng sẽ có ở dưới một tòa nhà ở tuổi này. Những hòn đá lớn bị mài mòn do nước, những thảm đá cuội, những tảng gỗ mục. Đó là một phần của một đường thoát nước ở đây”. Anh chỉ vào một phần của màn hình.

“Có một đường xả nước đi vào dòng xả chính tới dòng sông Hudson”, Yu nói. “Hẳn chính là nó.”

Người chủ đứng nghiêng vai dựa vào tường.

“Ông có phiền không, thưa ngài?” Sachs gằn giọng. Người đàn ông bước lùi lại một cách miễn cưỡng.

Người chuyên viên hất đầu. “Nhưng ở đây…” Anh chạm vào một điểm bên cạnh bức tường ở phía sau. “Có một cái gì đó ở đây nhưng không hiện lên rõ.”

“A...”

“Khi có vật thể nào mà máy tính đã nhìn thấy trước đó, nó gợi ý đó có thể là gì. Nhưng cái này thì máy không đoán được.”

Sachs thì chỉ nhìn thấy một vùng ít tối hơn trên cái màn hình tối đen.

“Bởi vậy chúng tôi đã dùng sóng siêu âm và được thứ này.”

Cộng sự của anh ta gõ lệnh và một màn hình khác xuất hiện, với bức ảnh sáng hơn và rõ ràng hơn: một cái vòng xù xì, bên trong là một vật hình tròn đụcó một sợi gì đó thò ra từ nó. Trong cái vòng xù xì, ở khoảng không bên dưới, một vật thể nhỏ hơn xuất hiện với hình dạng như một đống que và ván gỗ, có thể, Sachs đoán vậy, một cái rương đã bị vỡ ra sau ngần ấy năm.

Một nhân viên nói: “Cái vòng ngoài khoảng 60 cm. Cái bên trong thì có mặt - dạng hình cầu. Nó có đường kính khoảng 22 cm.”

“Nó có nằm gần bề mặt không?”

“Cái lớp bê tông dày khoảng 20 cm, và vật thể này nằm bên dưới khoảng 1,8 đến 2 mét.”

“Chính xác ở vị trí nào?”

Người chuyên viên nhìn từ màn hình máy tính tới sàn nhà và quay lại. Anh ta bước tới điểm ở ngay bên cạnh bức tường ở phía sau căn hầm, gần cái cửa dẫn ra bên ngoài. Anh ta vẽ một dấu bằng phấn. Vật thể đó nằm ở ngay bên bức tường. Bất cứ ai xây bức tường này đã bỏ qua nó chỉ vài centimet.

“Tôi đoán đó là một cái giếng hoặc một cái bể nước. Có thể là một cái ống khói.”

“Cần những gì để xuyên qua lớp bê tông?” Sachs hỏi Yu.

“Sự cho phép của tôi”, người chủ tòa nhà nói. “Và các người sẽ không lấy được điều đó. Sẽ không có ai phá hỏng căn hầm của tôi.”

“Thưa ngài”, Sachs nói một cách kiên nhẫn: “Đây là công việc của cảnh sát”.

“Dù có là cái gì đi nữa, đây là khu vực thuộc quyền sở hữu của tôi.”

“Quyền sở hữu không phải là vấn đề ở đây. Nó có thể liên quan tới một cuộc điều tra của cảnh sát.”

“Chà, vậy thì các cô sẽ cần có lệnh của tòa án. Tôi là luật sư. Và không ai trong các người được phép đập phá chỗ này của tôi.”

“Việc tìm hiểu xem đó là gì thực sự rất quan trọng với chúng tôi.”

“Quan trọng?” ông ta hỏi. “Tại sao?”

“Nó có liên quan tới một vụ án từ vài năm trước.”

“Vài năm?” ông ta ngay lập tức nói, nhấn vào điểm yếu trong vụ án của cô. “Vài năm là bao nhiêu?” Ông ta hẳn phải là một luật sư khá giỏi.

Ta nói dối với kiểu người như vậy và điều đó quay trở lại làm hại ta. Cô nói: “Một trăm bốn mươi năm. Có thể nhiều hơn, có thể ít hơn”.

Ông ta cười. “Đây không phải là điều tra. Đây là kênh Discovery. Không có búa khoan. Hừm.”

“Có chút cộng tác nào ở đây không, thưa ngài?”

“Lấy lệnh của tòa án. Tôi sẽ không hợp tác cho đến khi buộc phải làm thế.”

“Vậy thì đó không còn là hợp tác nữa rồi, đúng không?” Sachs đáp lại và gọi cho Rhyme.

“Có chuyện gì vậy?”, anh hỏi.

Cô tóm tắt cho anh biết chuyện gì đang xảy ra.

“Một chiếc rương bên trong một cái giếng hoặc một cái bể nước bên trong tòa nhà cháy sụp ấy. Chẳng có chỗ giấu nào tốt hơn thế nữa.”

Rhyme yêu cầu đội S & S gửi những bức ảnh qua email. Họ làm theo.

“Anh có bức ảnh ở đây rồi, Sachs”, anh nói sau một khắc. “Không rõ nó là gì lắm.”

Cô nói với anh về vị công dân tỏ vẻ không hợp tác.

“Và tôi sẽ đấu tranh”, vị luật sư nói, nghe cuộc hội thoại giữa họ. “Tôi sẽ tự tay đưa vụ này ra tòa với thẩm phán. Tôi biết hết họ. Chúng tôi khá là thân thiết.”

Cô nghe thấy Rhyme trao đổi với Sellito về vấn đề này. Khi quay lại với cuộc gọi, anh tỏ vẻ không hài lòng. “Lon đang cố gắng lấy lệnh của tòa án, nhưng sẽ mất thời gian. Và anh ấy thậm chí còn không chắc về giấy cho phép của tòa án trong một vụ như thế này.”

“Tôi có thể chỉ đấm hắn một trận không? lẩm bẩm và dập máy rồi quay sang người chủ tòa nhà. “Chúng tôi sẽ sửa lại tầng hầm cho ông. Một cách hoàn hảo nhất.”

“Tôi có những người thuê nhà sống ở đây. Họ sẽ phàn nàn. Và tôi sẽ phải giải quyết điều đó. Các cô sẽ không làm thế. Và sẽ phải biến đi.”

Sachs vẫy vẫy tay một cách bực bội, thực sự đang nghĩ tới việc còng tay lại vì - chà, vì cái gì đó - và rồi đào xuyên qua cái tầng hầm khỉ gió này. Mất bao lâu để có lệnh của tòa án? Nhiều khi là mãi mãi, cô tưởng tượng, xem xét tới khả năng các thẩm phán cần một lý do “chính đáng” để cho phép cảnh sát xâm nhập tư gia của một ai đó.

Điện thoại cô đổ chuông một lần nữa và Sachs trả lời.

“Sachs”, Rhyme hỏi: “Có viên kỹ sư đi cùng ở đó không?”

“David? Vâng. Anh ấy đang đứng cạnh em.”

“Anh có một câu hỏi.”

“Gì cơ?”

“Hỏi anh ấy xem ai sở hữu con hẻm?”

Câu trả lời, trong trường hợp đặc biệt này, dù không phải là tất cả, là: thành phố. Người luật sư chỉ sở hữu cái mặt bằng của tòa nhà và những gì bên trong mà thôi.

Rhyme nói: “Đưa những kỹ sư lấy vài thiết bị sang bên kia bức tường, ở bên ngoài và đào xuống rồi tạo một đường hầm bên dưới bức tường của ông ta. Như thế có được không?”

Ngoài tầm nghe của người sở hữu tòa nhà, cô đưa câu hỏi cho Yu, anh nói: “Ừm, chúng ta có thể làm như vậy. Không có nguy cơ tổn hại về kết cấu nếu đào một lỗ hẹp”.

Hẹp, người nữ cảnh sát với nỗi sợ không gian chật chội nghĩ. Chỉ là thứ tôi cần... Cô dập máy rồi nói với viên kỹ sư: “Được rồi, tôi muốn một...” Sachs cau mày. “Những cái máy mà có cái thìa to đùng được gọi là gì nhỉ?” Kiến thức của cô về các phương tiện có tốc độ tối đa mười dặm một giờ khá là hạn chế.

“Máy xúc?”

“Hình như thế. Mất bao lâu các anh có thể đưa một cái đến đây?”

“Khoảng nửa giờ”.

Cô nhìn anh một cách đau khổ. “Mười phút

“Để xem tôi có thể làm được gì.”

Hai mươi phút sau, với tiếng bíp cảnh báo lùi xe vang lên inh ỏi, một chiếc máy xúc của thành phố tiến sát tới bên cạnh tòa nhà. Không có cách nào để giấu chiến thuật của họ nữa. Người chủ tòa nhà bước tới trước, vẫy vẫy những bàn tay. “Các người đang đi vào bên dưới từ bên ngoài! Các người cũng không thể làm như thế được. Tôi sở hữu tòa nhà này từ trời cho đến tâm đất. Đó là những gì mà luật pháp nói.”

“Chà, thưa ngài”, một nhân viên trẻ, mảnh dẻ nói. “Có đường thoát nước công cộng nằm dưới tòa nhà. Chúng tôi có quyền để tiếp cận. Như tôi chắc chắn là ông biết rõ.”

“Nhưng cái đường thoát khỉ gió ấy nằm ở bên kia tòa nhà.”

“Tôi không nghĩ thế.”

“Nó hiện rõ trên cái màn hình ở ngay đây này.” ông ta chỉ vào một chiếc máy tính - ngay khi cái màn hình tối sầm.

“Úi” một trong những nhân viên S & S nói, người vừa tắt cái máy đi. “Những thứ khỉ gió này luôn hỏng.”

Người chủ sở hữu tòa nhà quắc mắt nhìn anh ta, rồi nói với Yu: “Chẳng có cái đường xả lũ nào ở cái chỗ mà các người định đào”.

Yu nhún vai. “Chà, ông biết đấy, khi có ai đó tranh cãi về vị trí của đường xả, trách nhiệm của ông ta là phải có lệnh của tòa án để dừng chúng tôi lại. Có lẽ ông sẽ phải gọi cho một vài người bạn thẩm phán của ông thôi. Và ông biết gì không? Tốt hơn hết là ông nên làm điều đó nhanh lên, bởi chúng tôi bắt đầu làm bây giờ.”

“Nhưng...”

“Tiếp tục đi”, anh ta hét lớn.

“Có thật không?” Sachs thì thầm với anh ta. “Về cái đường xả lũ ấy?”

“Tôi không biết. Nhưng có vẻ như ông ta mua nó.”

“Cảm ơn.”

Chiếc máy xúc bắt tay vào công việc. Không mất nhiều thời gian lắm. Mười phút sau, theo hướng dẫn của đội S & S, chiếc máy xúc đã đào được một cái lỗ cáo rộng khoảng một mét hai, và sâu khoảng ba mét. Móng của tòa nhà chấm dứt khi cách mặt đất khoảng một mét tám, bên dưới đó là một bức tường bằng đất thịt và đất sét. Sachs sẽ phải trèo xuống đáy của cái lỗ và phải đào sang ngang khoảng mươi centimet cho tới khi chạm tới được cái bể nước hoặc giếng. Cô mặc vào bộ Tyvek và một chiếc mũ cứng với đèn ở trên đỉnh rồi gọi Rhyme qua điện đàm - không dám chắc là điện thoại di động có thể nhận cuộc gọi bên dưới cái lỗ này. “Em đã sẵn sàng rồi”, cô nói với anh.

Sĩ quan Gail Davis của K9 bước tới với chú chó Vegas, kéo căng sợi dây da, và đào xới ở ven miệng lỗ. “Có thứ gì đó dưới này”, nữ cảnh sát nói.

Cứ như thể tôi chưa đủ sợ hãi vậy, Sachs nghĩ, nhìn vào khuôn mặt cảnh giác của con chó.

“Đó là tiếng gì, Sachs?”

“Gail đang ở đây. Con chó của cô ấy có vấn đề với địa điểm này.”

“Có gì đặc biệt không?” Sachs hỏi Davis.

“Không. Nó có thể đánh hơi hay cảm thấy bất cứ gì.”

Vegas gầm gừ rồi cọ móng vào chân Sachs. Davis đã từng nói với Sachs về một kỹ năng khác của giống Briard, đó là khả năng phát hiện ra ai là người bị thương nặng hơn để ưu tiên chữa trị - đã được sử dụng bởi các y bác sĩ quân đội để quyết định vết thương nào có thể cứu được và cái nào không, ngay tại tiền tuyến. Cô tự hỏi liệu Vegas có đang báo trước cho cô về sự việc xảy ra ở tương lai hay không.

“Bám sát nhé”, Sachs nói với Davis, với một nụ cười không thoải mái lắm. “Trong trường hợp tôi cần đào ra ngoài.”

Yu xung phong đi xuống cái lỗ (anh nói mình thích những đường hầm và các hang động, điều mà khiến Amelia Sachs kinh ngạc). Nhưng cô nói không. Sau tất cả, đây chính là một hiện trường, ngay cả khi nó đã một trăm bốn mươi năm tuổi, cả cái vật thể hình cầu và cái rương, hay cái gì cũng được, là bằng chứng cần được thu lại và bảo quản, theo các bước cần phải được thực hiện trong khám nghiệm hiện trường.

Người công nhân hạ thấp cái thang vào trong hầm, Sachs đang nhìn xuống dưới, thở dài.

“Cô ổn chứ?”, Yu hỏi.

“Không sao”, cô nói một cách hân hoan và bất đầu trèo xuống hố rồi nghĩ: Nỗi sợ không gian hẹp ở kho lưu trữ của tổ chức Sanford không là gì so với điều này. Ở dưới đáy, cô lấy xẻng và cái cuốc chim mà Yu đưa từ trước và bắt đầu đào.

Đổ mồ hôi vì nỗ lực, run lên vì những cơn sợ hãi, cô mải miết đào, mỗi một xẻng lại nghĩ tới cảnh cái đường hầm này sụp xuống và b chặt lấy mình.

Lôi ra những hòn đá, xới những khối đất đặc.

Mãi mãi chôn vùi dưới bùn đất...

“Em thấy gì rồi, Sachs?”, Rhyme hỏi qua điện đàm.

“Đất, cát, sâu bọ, một vài hộp thiếc, đá.”

Cô đã đi được khoảng 30 cm bên dưới tòa nhà, rồi 60 cm.

Mũi xẻng của cô kêu ‘cạch’ một tiếng và dừng lại ngay lập tức. Cô cạo lớp đất và tìm thấy một bức tường gạch tròn, rất lâu đời, lớp vữa thì được trát vụng về giữa những viên gạch.

“Có gì đó đây rồi. Một bên của cái bể nước.”

Đất bẩn từ miệng cái hầm nhỏ xíu chảy xuống sàn. Nó khiến cô hoảng sợ còn hơn việc một con chuột bò qua đùi mình. Một hình ảnh rất nhanh hiện ra trong đầu cô: nằm bất động trong khi đất bẩn đổ ụp xuống xung quanh, đè ép ngực, rồi tràn vào trong mũi và miệng. Chết ngạt trong đất...

Được rồi, cô gái, thoải mái nào. Sachs lấy lại vài hơi thở thật sâu. Cạo thêm đất ra. Một gallon đất hoặc một lượng tương đương tràn trên đầu gối. “Anh có cho rằng chúng ta nên chống chỗ này không?”, cô gọi Yu.

“Gì cơ?” Rhyme hỏi.

“Em đang nói với viên kỹ sư.”

Yu gọi: “Tôi nghĩ có lẽ nó sẽ vẫn giữ vững được. Đất đủ ẩm để bám chặt thành một khối.”

Có lẽ.

Người kỹ sư tiếp tục: “Nếu cô muốn, chúng tôi có thể, nhưng sẽ mất vài giờ đồng hồ để đóng khung đỡ”.

“Không sao”, cô nói với anh. Cô hỏi: “Lincoln?”

Cô cảm thấy một luồng điện chạy dọc sống lưng, nhận ra rằng mình vừa gọi anh bằng tên riêng. Cả hai người họ đều chẳng ai mê tín nhưng có một quy tắc mà họ gắn vào: Đó sẽ là điềm gở nếu như dùng tên riêng của họ trong công việc.

Sự do dự cho thấy cả anh cũng đã nhận ra cô vừa phá vỡ quy tắc. Cuối cùng anh nói: “Tiếp tục đi”.

Sỏi và đất khô tiếp tục rớt xuống một bên của đường hầm và phủ xuống vai và cổ. Nớt xuống bộ Tyvek, làm âm thanh càng rõ. Cô bật lùi ra sau, cảm giác như bức tường đang sụp xuống. Thở dốc một hơi.

“Sachs? Em không sao chứ?”

Cô nhìn xung quanh. Không, bức tường vẫn đang đứng vững. “Em ổn.” Cô tiếp tục cạo đất bẩn ra khỏi cái bể nước bằng tường gạch tròn. Với cái cuốc chim, cô đào những mảng vữa rồi hỏi Rhyme: “Có ý tưởng nào khác về cái vật bên trong không?” Câu hỏi chỉ phần lớn nhằm vào cảm giác an tâm khi được nghe giọng anh.

Một khối cầu với cái đuôi.

“Chẳng có ý tưởng nào hết.”

Một cú đánh mạnh với cái cuốc. Một viên gạch rớt ra. Rồi hai. Đất chảy xuống từ bên trong cái giếng và phủ đầy đầu gối.

Khốn kiếp, tôi ghét điều này.

Nhiều gạch, nhiều cát, đá cuội và đất bẩn hơn. Cô dừng lại, rũ sạch cái đống nặng trịch đất đá khỏi đôi chân đang quỳ của mình và quay lại với nhiệm vụ.

“Em sao rồi?”, Rhyme hỏi.

“Kẹt ở đây”, cô nói một cách yếu đuối và lôi ra vài viên gạch nữa. Có cả đống gạch đã nằm rải rác xung quanh. Cô quay đầu, chiếu ánh sáng vào thứ nằm phía sau những viên gạch: Một bức tường đất đen xì, tro bụi, một vài mẩu than đá và những mảnh gỗ.

Cô bắt đầu đào vào bên trong cái lớp đất khô cứng và chặt chẽ bên trong cái giếng. Chả có gì gọi là kết dính với đống đất phải gió này, cô nghĩ, nhìn dòng màu nâu xốp chảy xuống, lấp lánh trong ánh sáng từ chiếc đèn trên mũ.

“Sachs”, Rhyme hét lên. “Dừng lại!”

Cô thở dốc. “Cái gì..?”

“Anh mới xem lại lịch sử vụ phóng hỏa một lần nữa. Người ta nói rằng có tiếng nổ ở tầng hầm của quán rượu. Lựu đạn thời bấy giờ có hình cầu và có dây dẫn nổ. Charles hẳn phải mang theo hai quả. Đó chính là khối cầu trong chiếc giếng! Em đang ở ngay sát quả mà đã không phát nổ. Quả bom này có thể dễ bị kích động như nitroglycerine. Đó chính là thứ mà con chó đã đánh hơi thấy, chất nổ! Ra khỏi đó nhanh lên.”

Cô ấn mạnh vào thành giếng để đẩy thân mình về phía chân.

Nhưng viên gạch mà cô dựa vào đột ngột long ra, khiến cô ngã ngửa và một trận mưa đất kh từ bên trong giếng tràn ra đường hầm. Đá, sòi và đất bẩn chảy quanh, kẹt chặt chân cô và nhanh chóng trải lên ngực và mặt.

Cô hét lên, cố gắng vùng vẫy một cách liều mạng để nhổm dậy với chân mình. Nhưng cô không thể; cơn lũ đất đã tràn đến lấp đầy những cánh tay.

“Sa...”, cô nghe thấy tiếng Rhyme khi sợi dây tai nghe tuột ra khỏi chiếc điện đàm.

Nhiều đất hơn nữa chảy xuống tràn qua người, đông cứng và không bấu víu được dưới cái sức nặng đè bẹp tăng dần lên như nước lũ.

Rồi Sachs thét lên một lần nữa - khi cái khối cầu, được mang ra bởi dòng chảy của đất, rớt xuống từ cái lỗ hổng ở bức tường gạch và lăn xuống thân thể bất động.

Jax đã ra khỏi khu vực của gã.

Bỏ lại Harlem phía đằng sau, cả về địa lý lẫn trạng thái tinh thần. Bỏ lại đằng sau những khu đất trống đầy những chai Malt, bỏ lại sau lưng những vỉa hè trước các cửa hàng mà gã thường trú chân, những bức poster quảng cáo nhãn hiệu nước tẩy rửa Red Devil cũ sờn vì thời tiết, thứ mà những người đàn ông da đen sử dụng để kéo tóc thẳng ra ở thời đại Malcolm X; bỏ lại đằng sau những rapper tuổi mới lớn thích được nổi tiếng và những nhóm gõ trống bằng xô ở công viên Marcus Garvey, những gian hàng bán đồ chơi và dép xăng đan cùng những đồ phụ kiện lấp lánh với những cái móc treo tường vải kente. Bỏ lại phía sau tất cả những công trình xây dựng mới được tái thiết, bỏ lại đằng sau những chiếc xe buýt chạy tour.

Giờ gã đang ở một trong số ít những nơi mà mình chưa từng tàn phá với dòng chữ Jax 157, chưa bao giờ vẽ một hình bừa bãi. Một phần thanh lịch ở phía tây Central Park.

Nhìn chằm chằm vào tòa nhà mà lúc này Geneva Settle đang ở bên trong.

Sau sự việc xảy ra ở con hẻm, gần nhà cô bé trên phố 118, với Geneva và người đàn ông trên chiếc xe màu xám, Jax đã nhảy vào một chiếc taxi khác và đi theo những chiếc xe cảnh sát tới đây. Gã không biết nơi này để làm gì: hai chiếc xe cảnh sát ở phía trước, và từ trên cầu thang xuống vỉa hè là một đường dốc thoải, giống như họ làm cho những người đi xe lăn.

Đi khập khiễng, chậm rãi qua công viên, xem xét kỹ ngôi nhà từ bên ngoài. Con bé đang làm gì ở bên trong chứ? Gã cố gắng nhòm vào trong. Nhưng những chiếc rèm đã được thả xuống.

Một chiếc ô tô khác - chiếc Crown Vic, loại mà cảnh sát sử dụng rất nhiều - dừng lại và hai cảnh sát bước mang theo một cái va li rẻ tiền được dán băng dính và những hộp đựng sách. Hẳn là của Geneva, hắn đoán. Con bé sẽ chuyển sang sống ở đây.

Họ bảo vệ cô bé thậm chí còn vững chắc hơn, gã nghĩ và cảm thấy nản lòng.

Gã bước vào một bụi rậm để có được tầm nhìn tốt hơn khi cánh cửa mở, nhưng ngay lúc đó một chiếc xe cảnh sát khác đi qua, chậm rãi. Có vẻ như là tên cớm bên trong đang quan sát công viên cũng như các vỉa hè. Jax ghi nhớ số nhà, rồi quay đi và biến mất vào trong công viên. Gã hướng lên phía bắc, bước ngược về Harlem.

Cảm thấy khẩu súng nằm trong tất của mình, cảm thấy sự kéo giật lại của viên sĩ quan giám sát cách hai trăm dặm về phía bắc, người có thể đang nghĩ tới một chuyến viếng thăm bất ngờ tới căn hộ ở Buffalo của gã ngay lúc này, Jax vẫn nhớ câu hỏi mà Ralph - vị Pharaoh - đã hỏi: Liệu việc gã đang làm có đáng để mạo hiểm không?

Gã đang suy nghĩ về điều đó, khi quay về nhà.

Gã nghĩ: Liệu nó có đáng cho sự mạo hiểm hai mươi năm trước, bám vắt vẻo trên cái gờ sắt rộng 12 cm của chiếc cầu vượt trên đại lộ Grand Central, chỉ để vẽ cái hình Jax 157 ở độ cao 9m bên trên dòng xe cộ với tốc độ sáu mươi dặm một giờ?

Liệu có đáng cho sự mạo hiểm sáu năm trước, nhét một viên đạn 12 ly vào trong khẩu súng và gí cái họng súng ấy vào mặt một người lái xe buýt có vũ khí, chỉ để lấy số tiền 50.000 hay 60.000 đô la? Đủ để giúp gã vượt qua khó khăn, đưa cuộc đời gã trở lại như ngày trước.

Và gã biết rằng, câu hỏi của Ralph không phải là một câu hỏi có chút ý nghĩa nào cả, bởi vì nó gợi ý rằng có một sự lựa chọn. Lúc ấy và bây giờ, đúng hay sai, không quan trọng. Alonzo “Jax” Jackson đang đi thẳng về phía trước. Nếu việc này thành công, gã có thể quay trở lại với cuộc sống đáng lẽ phải có ở Harlem, ngôi nhà của gã, nơi mà cả những người xấu và tốt đã tạo nên gã bây giờ - nơi mà chính gã đã góp phần hình thành, với hàng ngàn bình sơn xịt. Gã chỉ đơn giản đang làm điều đã phải làm.

Cẩn thận.

Trong nơi ẩn nấp ở Queens, Thompson Boyd đang đeo chiếc mặt nạ phòng chống khí độc và đôi găng tay dày. Hắn đang chậm rãi pha trộn acid và nước, rồi kiểm tra nồng độ.

Cẩn thận...

Đây chính là phần rắc rối phức tạp. Chắc chắn bột kali cyanide ở gần đó nguy hiểm rồi - đủ để giết ba mươi hoặc bốn mươi người - nhưng ở thể rắn thì nó t đối ổn định. Giống như thứ mà hắn đặt vào trong chiếc xe cảnh sát, cái chất bột trắng ấy cần phải được pha trộn với acid sulfuric để tạo ra cái khí độc chết người (chất độc Zyklon-B bỉ ổi được sử dụng trong cơn mưa bởi Đức quốc xã để hủy diệt dân chúng).

Nhưng cái từ “nếu” to đùng ấy là acid sulfuric.

Nồng độ quá thấp sẽ tạo ra khí độc chậm, có thể tạo cơ hội cho những nạn nhân phát hiện ra mùi và chạy trốn. Nhưng acid quá mạnh - nồng độ quá 20% - sẽ khiến cho chất xyanua ấy phát nổ trước khi hòa tan, làm hỏng mục đích mong muốn về tác dụng chết người.

Thompson cần nồng độ càng gần với 20% càng tốt - với một lý do đơn giản: Địa điểm mà hắn chuẩn bị đặt thiết bị này - ngôi nhà nằm ở khu phía tây Central Park cổ kính mà Geneva Settle đang ở trong đó - nơi khó có khả năng kín gió. Sau khi biết được đó là nơi cô bé ẩn nấp, Thompson đã tiến hành việc quan sát ngôi nhà và phát hiện ra những cửa sổ chưa được bịt kín cũng như hệ thống điều hòa và lò sưởi đã cũ kỹ. Nó sẽ là một thử thách để biến cấu trúc to lớn thành một căn phòng chết chóc.

...con sẽ hiểu về thứ chúng ta đang làm ở đây. Nó giống như mọi thứ khác trong cuộc sống. Chẳng có cái gì là hoàn toàn đúng 100% cả. Chẳng có cái đi theo con đường mà nó phải...

Ngày hôm qua, hắn đã nói với ông chủ của hắn rằng lần tấn công tiếp theo vào Geneva sẽ thành công. Nhưng giờ thì hắn không chắc chắn về điều đó. Cảnh sát quá giỏi.

Chúng ta chỉ dựng lại và tiếp tục. Chúng ta không thể có cảm xúc về nó.

Chà, hắn không hề xúc động và day dứt. Nhưng hắn cần phải sử dụng những biện pháp quyết liệt - trên vài phương diện. Nếu như cái khí độc trong ngôi nhà ấy giết chết Geneva, tốt. Nhưng đó không phải mục tiêu chính của hắn. Hắn buộc phải hạ ít nhất vài người bên trong đó - những nhà điều tra đang tìm kiếm hắn và ông chủ của hắn. Giết họ, khiến họ hôn mê, gây ra những tổn thương trong não - điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là làm họ tiêu hao lực lượng.

Thompson kiểm tra nồng độ một lần nữa, và thay đổi một cách nhẹ nhàng, điều chế làm sao để không khí có thể thay đổi độ cân bằng pH. Đôi tay hắn hơi run, nên hắn bước lùi một chút để bình tâm lại.

Wsst...

Bài hát mà hắn bắt đầu thổi sáo là bài Stainvay to Heaven.

Thompson dựa ra sau và nghĩ về cách để nhét quả bom khí này vào bên trong ngôi nhà. Một vài ý tưởng xuất hiện - bao gồm cả một hay hai cách mà hắn khá chắc chắn rằng sẽ có hiệu quả. Hắn kiểm tra nồng độ của acid một lần nữa, thổi sáo một cách vô thức qua phần miệng của chiếc mặt nạ chống độc. Chiếc máy phân tích báo rằng nồng độ đạt 19,99394%.

Hoàn hảo.

Wsst...

Giai điệu mới nảy ra trong đầu hắn là Ode to Joy từ bản giao hưởng số chín của Beethoven.

Amelia Sachs đã không bị đè bẹp đến chết bởi đất thịt và đất sét cũng như không bị thổi bay xác vì quả mìn không ổn định từ thế kỷ XIX ấy.

Cô giờ đang đứng đây, đã tắm rửa và đóng bộ quần áo sạch sẽ, ở trong phòng thí nghiệm của Rhyme, xem xét cái vật đã lăn xuống từ cái giếng khô cạn vào vạt áo của mình một giờ trước đó.

Đó không phải là một quả bom cũ. Nhưng có một chút nghi vấn lúc này về việc nó đã bị bỏ lại trong giếng bởi Charles Singleton vào đêm ngày 15 tháng 7 năm 1868.

Chiếc xe lăn của Rhyme đang đứng ở trước chiếc bàn khám nghiệm bên cạnh Sachs, và họ đang nhìn ngó, xem xét bên trong cái hộp thu vật chứng bằng bìa các tông. Cooper ở đó với họ, đeo găng tay cao su.

“Chúng ta sẽ phải nói với Geneva”, Rhyme nói.

“Có cần thế không?”, Sachs nói một cách lưỡng lự. “Em không muốn.”

“Nói với cháu điều gì cơ?”

Sachs quay lại rất nhanh. Rhyme lùi lại khỏi chiếc bàn, lưỡng lự rồi nghĩ rằng: Khốn nạn. Cần phải cẩn thận hơn nữa.

Geneva Settle đứng ở thềm cửa.

“Các cô chú tìm ra điều gì đó về Charles trong căn hầm của quán rượu, phải không? Mọi người phát hiện ra rằng ông ấy thực sự đã lấy trộm tiền. Đó có phải là bí mật của ông ấy không, sau tất cả?”

Nhìn Sachs, rồi Rhyme nói: “Không, Geneva. Không phải. Chúng ta tìm ra việc khác cơ”. Hất đầu về phía cái hộp. “Đây. Nhìn đi.”

Cô bé bước tới gần hơn rồi dừng lại, chớp mắt, nhìn chằm chằm vào cái đầu lâu màu nâu của một người. Đó là thứ họ đã nhìn thấy trên bức ảnh sóng siêu âm, thứ đã lăn ra và chảy vào vạt áo của Sachs. Với sự giúp đỡ của Vegas, chú chó giống Briard của Gail Da người thanh tra đã khai quật được các mẩu xương còn lại. Những mẩu xương này - Sachs đã nghĩ rằng đó là những mẩu gỗ từ cái rương - là của một người đàn ông, Rhyme đã xác định. Cái xác rõ ràng đã bị nhét thẳng xuống giếng ở căn hầm của quán Potter’s Field ngay trước khi Charles châm lửa cho vụ hỏa hoạn. Việc ghi hình ảnh bằng sóng siêu âm đã chụp được đỉnh của chiếc sọ não và một cái xương sườn bên dưới nó, tạo ra dáng vẻ của một sợi dây dẫn cháy của một quả mìn.

Những cái xương nằm ở trong chiếc hộp thứ hai trên chiếc bàn khám nghiệm.

“Chúng ta khá chắc chắn rằng đó là người đàn ông mà Charles đã giết.”

“Không!”

“Và rồi ông ấy đốt cháy quán rượu để che giấu tội ác.”

“Chú không thể biết điều đó được.” Geneva ngắt lời.

“Chúng ta không. Nhưng đó là một suy luận hợp lý.” Rhyme giải thích: “Lá thư nói ông ấy đang trên đường tới Potter’s Field, mang theo khẩu côn Navy Colt. Đó là khẩu súng ngắn từ thời Nội chiến. Nó không giống như súng thời hiện đại, nạp một viên đạn vào phía sau của ổ đạn tròn. Ta phải nhét từ phía trước với một viên bi và thuốc nổ”.

Cô gật đầu. Đôi mắt nhìn vào những chiếc xương màu nâu đen và cái sọ não không mắt.

“Chúng ta đã tìm ra vài thông tin về súng giống như của ông ấy trong hồ sơ lưu trữ. Đó là một khẩu 36 ly nhưng phần lớn các chiến sĩ Nội chiến học cách sử dụng những viên bi cỡ 39. Nó to hơn một chút và nhét vào khít hơn. Khiến cho phát bắn chính xác hơn.”

Sachs nhấc một chiếc túi nhựa nhỏ lên. “Cái này nằm trong hộp sọ”. Bên trong là một đầu đạn hình tròn. “Đó là viên bi cỡ 39 được bắn ra từ một khẩu súng nòng cỡ 36 ly.”

“Nhưng điều đó không chứng minh cái gì cả.” Cô bé nhìn chằm chằm vào cái lỗ trên trán của chiếc sọ.

“Không”, Rhyme nói một cách nhẹ nhàng. “Nó gợi ý. Nhưng nó gợi ý một cách mạnh mẽ rằng Charles đã giết ông ta.”

“Ông ta là ai?” Geneva hỏi.

“Chúng ta không có ý tưởng nào hết. Nếu ông ta có bất cứ giấy tờ tùy thân nào trên người thì nó đã bị đốt cháy hoặc đã bị phân hủy cùng với quần áo rồi. Chúng ta tìm thấy viên đạn, một khẩu súng nhỏ ông ấy chắc hẳn đã mang theo, một vài đồng tiền vàng và chiếc nhẫn với từ... Đó là từ gì nhỉ Mel?”

“Winskinskie.” Anh giơ chiếc túi nhựa với chiếc nhẫn vàng bên trong. Bên trên chữ khắc là một bản lỷ lịch của một người da đỏ.

Cooper đã nhanh chóng tìm ra nghĩa của từ đó là “người gác cửa” hay “người giữ cửa” trong ngôn ngữ người da đỏ ở tiểu bang Delaware. Đây có thể là tên của người đàn ông đã chết này, mặc dù cấu trúc xương sọ cho thấy ông ta không phải một người Mỹ chính gốc. Rhyme cảm thấy rằng nó giống với kiểu khẩu hiệu của một hội kín, trường học hoặc một tổ chức và Cooper đã gửi email để nhờ một số nhà nhân chủng học và các chuyên gia về lịch sử để xem liệu họ có biết cái từ đó không.

“Charles không làm điều đó”, hậu duệ của ông ta nói với một giọng sụt sùi. “Ông ấy không thể giết hại một ai cả.”

“Viên đạn được bắn vào trước trán ông ấy”, Rhyme nói. “Không phải từ đằng sau. Và khẩu Derringer - khẩu súng mà Sachs tìm thấy trong giếng có thể thuộc về nạn nhân. Điều này gợi ý cho thấy phát đạn có thể là để tự vệ.”

Dù cho sự thật vẫn còn đó là Charles đã tự nguyện đi tới quán rượu với khẩu súng, ông ấy chắc cũng đã tiên liệu trước cuộc ẩu đả.

“Đáng lẽ ra cháu không bao giờ nên bắt đầu những điều này ngay từ đầu”, Geneva lầm bầm. “Thật là ngu ngốc. Cháu thậm chí không hề thích quá khứ. Nó thật là vô nghĩa. Cháu ghét nó.” Cô bé quay lưng và chạy vào hành lang, rồi lên tầng.

Sachs đi theo rồi trở lại vài phút sau đó. “Cô bé đang đọc sách. Nó nói muốn được ở một mình. Tôi nghĩ rằng nó sẽ ổn thôi.” Dù sao, giọng của cô vẫn không có vẻ nào là chắc chắn cả.

Rhyme xem xét những thông tin về hiện trường lâu đời nhất anh từng làm việc - một trăm bốn mươi năm. Tất cả mục đích của cuộc tìm kiếm là để tìm ra điều gì đó có thể đưa họ tới bất cứ kẻ nào có thể đã thuê Nghi phạm 109. Nhưng kết quả là gần như giết chết Sachs và làm Geneva thất vọng với thông tin rằng ông tổ của cô bé đã giết một người đàn ông khác.

Anh nhìn vào bản copy của lá bài Người treo ngược, nhìn chằm chằm một cách điềm tĩnh, bình thản trên chiếc bảng bằng chứng, chế nhạo sự thất bại của Rhyme.

Cooper nói: “Này, có gì đó đấy”. Anh đang nhìn vào màn hình máy tính của mình.

“Cái từ winskinskie ấy hả?”, Rhyme hỏi.

“Không. Nghe này. Câu trả lời cho cái chất huyền bí của chúng ta - cái mà Amelia tìm thấy ở nơi ẩn náu của hung thủ trên phố Elizabeth và gần nhà bà cô của Geneva. Cái chất lỏng ý.”

“Cuối cùng thì cũng có. Nó là cái quỷ gì vậy? Có phải độc chất toxin không?” Rhyme hỏi.

“Hung thủ của ta có đôi mắt khô và hay rát”, Cooper nói.

“Gì cơ?”

“Đó là Murine.”

“Thuốc nhỏ mắt á?”

“Đúng vậy. Thành phần giống hệt.”

“Được rồi. Thêm điều đó vào bảng”, Rhyme yêu cầu Thom. “Có thể chỉ là tạm thời thôi - bởi hắn đã phải làm việc với acid. Trong trường hợp này, thì có vẻ không có nhiều tác dụng. Nhưng nó có thể là bệnh kinh niên. Như thế thì tốt.”

Nhà tội phạm học thích những tên hung thủ mắc bệnh hoặc tật về thể chất. Rhyme có hẳn một chương riêng trong quyển sách về việc lần tìm dấu vết người khác thông qua đơn thuốc hoặc những loại thuốc được bán không cần đơn, những kim tiêm đã được sử dụng bị vứt bỏ, kính đeo mắt được chỉ định của bác sĩ, những dấu giày đặc trưng từ các nghi phạm có vấn đề về phẫu thuật chỉnh hình...

Đó là lúc điện thoại của Sachs đổ chuông. Cô nghe một lúc. “Được rồi. Tôi sẽ ở đó mười lăm phút nữa.” Nữ cảnh sát tắt máy, nhìn Rhyme. “Chà, chuyện này thú vị đây.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,259
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


Khi Amelia Sachs bước vào Khoa chăm sóc đặc biệt của bệnh viện Columbia - Presbyterian, cô nhìn thấy những hai Pulaski.

Một đang nằm trên giường, được băng kín bởi những chiếc bông băng, gạc và nhét chằng chịt những ống nhựa trong suốt nhìn nổi da gà. Đôi mắt vẫn còn lờ đờ, miệng thì há ra.

Người còn lại ngồi bên cạnh giường, lúng túng trên chiếc ghế nhựa không được thoải mái lắm. Cũng với mái tóc vàng, khuôn mặt trẻ măng, trong cùng bộ quân phục phẳng phiu màu xanh da trời của NYPD mà Ron Pulaski vẫn mặc khi Sachs tuyển anh ta vào đội ở trước bảo tàng Mỹ - Phi ngày hôm qua và nói với anh cần chú ý tới cái đống r

Cần bao nhiêu đường?...

Cô chớp mắt nhìn vào hình ảnh như trong gương.

“Tôi là Tony. Anh trai của Ron. Chắc là cô cũng đã đoán ra rồi?”

“Chào, Thanh tra”. Ron gượng dậy. Giọng của anh không ổn lắm. Nó mềm yếu và thều thào.

“Cậu cảm thấy thế nào rồi?”

“Geneva thế nào rồi?”

“Con bé ổn. Tôi chắc chắn là cậu đã nghe nói rồi - chúng tôi đã ngăn hắn ở nhà bà cô của cô bé nhưng hắn đã trốn thoát... Cậu có đau không? Hẳn là phải đau lắm.”

Anh hất đầu về phía chai nước truyền. “Món súp hạnh phúc... Chẳng cảm thấy gì hết.”

“Cậu ấy sẽ ổn thôi.”

“Tôi sẽ ổn thôi.” Ron lặp lại lời anh trai mình. Hít một vài hơi thật sâu, nháy nháy mắt.

“Một tháng hoặc hơn”, Tony giải thích. “Một vài liệu trình. Cậu ấy sẽ trở lại làm nhiệm vụ. Một vài vết rạn. Không có nhiều tổn thương bên trong. Sọ dầy. Như bố vẫn hay nói.”

“Sọ.” Ron cười nhăn nhở.

“Hai người cùng học trong học viện với nhau?” Cô kéo một cái ghế và ngồi xuống.

“Đúng vậy.”

“Các cậu ở khu nào?”

“Khu số 6”, Tony trả lời.

Khu số 6 nằm ở trung tâm phía tây Làng Greenwich. Không có nhiều vụ lộn xộn hay cướp xe hoặc ma túy. Hầu hết là đột nhập trộm cướp, bạo lực giữa các cặp đồng giới và những sự vụ do những nhà văn và nghệ sĩ bị rối loạn cảm xúc. Khu số 6 cũng là trụ sở của Đội phòng chống bom mìn.

Tony run lên, và cả giận dữ nữa. “Gã đó vẫn đánh cậu ấy, ngay cả khi nó đã gục xuống rồi. Hắn không cần thiết phải làm thế.”

“Nhưng có thể”, Ron nói nói lắp bắp. “Nó làm mất thời gian... hắn đã mất nhiều thời gian với tôi hơn. Nên hắn không... hắn không chộp được cơ hội tốt nhất theo sau Geneva.”

Sachs mỉm cười. “Cậu thuộc kiểu một người lạc quan.” Cô không nói với cậu ta rằng cậu ấy đã bị đánh gần như đến chết chỉ đơn giản để Nghi phạm 109 có thể sử dụng v khẩu súng của cậu và thu hút sự chú ý của họ.

“Tôi cho là thế. Cảm ơn Geneva... hộ tôi. Vì quyển sách.” Anh ta thậm chí còn chẳng thể xoay nổi đầu mình nhưng đôi mắt lại trượt về hướng chiếc bàn cạnh giường, chỗ quyển sách Giết con chim nhại nằm. “Tony đang đọc nó cho tôi nghe. Anh ấy thậm chí còn có thể đọc các chỗ chơi chữ nữa.”

Anh trai của cậu cười. “Đồ ngốc.”

“Vậy cậu có thể nói gì với chúng tôi không, Ron? Gã này khá thông minh và vẫn đang lang thang bên ngoài. Chúng ta cần một cái gì đó để có thể sử dụng.”

“Tôi không biết, thưa b... Tôi không biết, thưa Thám tử. Tôi chỉ đang đi tuần trong con hẻm. Hắn nấp khi tôi muốn... khi tôi đi về con phố. Đi ngược lại phía sau, con hẻm... Tôi đã không nghĩ là há... Hắn. Hắn ở quanh cái góc, của tà... cô biết đấy, tòa nhà. Tôi đi tới khúc cua. Tôi thấy hắn đeo cái mặt nạ như kiểu mặt nạ trùm trượt tuyết. Và rồi là thế này đây. Cây dùi cui, quá nhanh. Thực sự không thể nhìn thấy. Hắn đã làm tốt điều đó.” Anh nhấp nháy mắt một lần nữa, rồi nhắm mắt. “Bất cẩn. Nà... Là đứng quá gần bức tường. Không bao giờ như vậy nữa.”

Cậu đã không biết. Giờ thì biết rồi.

“Một tiếng rít.” Cậu ấy co rúm lại.

“Em không sao chứ?”, Ron hỏi.

“Em không sao.”

“Một tiếng rít?”, Sachs khuyến khích, nhích chiếc ghế của cô tới gần hơn.

“Gì cơ?”

“Cậu nghe thấy một tiếng rít lên.”

“Vâng, tôi nghe thấy tiếng ấy, thưa bà. Không phải ‘thưa bà’. Thám tử.”

“Không sao cà, Ray. Gọi tôi thế nào cũng được. Cậu có nhìn thấy bất cứ gì không? Bất cứ thứ gì sau đó?”

“Vật này. Giống như một cây gậy. Không, không phải là Người dơi và Robin. Ha. Mà là một chiếc gậy đánh bóng chày. Đập ngay vào mặt tôi. ồ, tôi đã nói điều này rồi. Và tôi ngã xuống. Ý tôi là, thưa thám tử. Không phải ‘Thưa bà’.”

“Được mà Ron. Rồi sau đó cậu nhớ gì không?”

“Tôi không biết. Tôi chỉ nhớ mình nằm trên đất. Nghĩ... Tôi nghĩ rằng hắn lấy vũ khí của mình. Tôi cố gắng để giữ khẩu súng của mình. Nà... Là trong quyển sách. Không được để vuột mất nó. ‘Luôn luôn kiểm soát vũ khí của mình’. Nhưng t không làm được. Hắn đã lấy được nó. Tôi đã chết. Tôi biết là tôi đã chết hẳn rồi. ”

Cô khuyến khích một cách nhẹ nhàng: “Cậu có nhớ đã nhìn thấy gì nữa không?”.

“Một mớ lộn xộn.”

“Một cái gì cơ?”

Anh ta cười. “Ý tôi không phải là một mớ lộn xộn. Một hình tam giác. Một cái hộp các tông. Nằm trên đất. Tôi không thể cử động. Đó là tất cả những gì tôi có thể nhìn thấy.”

“Và cái thùng các tông này. Nó là của hung thủ à?”

“Cái hình ta... giác? Không, ý tôi là, hình tam giác. Không, nó chỉ là rác mà thôi. Ý tôi, đó là tất cả những gì tôi có thể thấy. Tôi cố gắng bò. Tôi không nghĩ là mình đã làm được thế.”

Sachs thở dài: “Cậu được tìm thấy đang nằm sấp trên đất, Ron”.

“Tôi đã...? Nằm úp xuống?”

“Nghĩ lại xem. Cậu có nhìn thấy trời không?”

Anh liếc mắt.

Trái tim cô đập nhanh hơn. Liệu cậu ta có nhìn thấy gì không?

“Má...”

“Gì cơ?”

“Má... ở trong mắt tôi sau đó.”

“Máu?”, anh trai cậu ta gợi ý.

“Đúng rồi. Máu. Không thể nhìn thấy gì sau đó. Không hình tam giác, không tòa nhà. Hắn đã đánh tôi.

Hắn ở quanh tôi một lúc. Rồi tôi không nhớ thêm gì khác nữa.”

“Hắn đã ở gần? Gần thế nào?”

“Tôi không biết. Không quá gần. Không thể nhìn thấy. Có quá nhiều máu.”

Sachs gật đầu. Chàng cảnh sát tội nghiệp có vẻ quá mệt mỏi. Hơi thở của cậu ta khó nhọc, đôi mắt lờ đờ hơn lúc cô mới đến. Cô đứng dậy. “Tôi sẽ đi để cậu ấy nghỉ ngơi vậy.” Cô hỏi: “Cậu đã nghe tới Terry Dobyns?”.

“Không. Có phải là cậu ta... Ai cơ?” Chàng cảnh sát đang nằm trên giường bệnh nhăn mặt. “Đó là ai?”

“Nhà tâm lý học của sở.” Cô nhìn Ron với một nụ cười. “Việc này sẽ lôi cái sự cứng nhắc của cậu ra một thời gian. Cậu nên nói chuyện với anh ấy về việc này. Đó là một người đàn ông. Anh ấy sẽ chịu trách nhiệm.”

Ron nói: “Không cần phải...”.

“Cảnh sát tuần tra Ronald Pulaski?”, cô nói một cách nghiêm nghị.

Cậu ta nhướn mày, rụt lại.

“Đây là mệnh lệnh.”

“Vâng, thưa bà. Ý tôi là... Thưa bà.”

Anthony nói: “Tôi sẽ chắc chắn là cậu ấy làm như vậy”.

“Cô sẽ cảm ơn... Geneva hộ tôi chứ? Tôi thích cuốn sách đó.”

“Tôi sẽ làm thế.” Sachs quăng chiếc túi lên vai và bắt đầu bước ra cửa. Vừa bước qua ngưỡng cửa cô dừng lại đột ngột, quay lại. “Ron?”

“Gì vậy?”

Cô quay trở lại bên giường cậu ta, ngồi xuống một lần nữa.

“Cậu nói hung thủ đã ở quanh cậu một vài phút.”

“Đúng.”

“Nếu như cậu không thể thấy hắn, với máu đầy trong mắt. Sao cậu có thể biết là hắn ở đó?”

Chàng cảnh sát trẻ cau mày. “À... Vâng. Có một điều tôi quên không nói.”

“Hung thủ của chúng ta có một thói quen, Rhyme.” Amelia Sachs đã quay lại phòng thí nghiệm.

“Đó là gì vậy?”

“Hắn huýt sáo.”

“Gọi taxi?”

“Nhạc. Pulaski đã nghe thấy. Sau khi cậu ấy bị đánh cú đầu tiên và nằm trên sàn, hung thủ đã lấy vũ khí, rồi, em đoán là, mất vài phút để ghép viên đạn vào điếu thuốc. Trong khi làm điều đó, hắn đã huýt sáo. Rất nhẹ nhàng, Ron nói, nhưng cậu ấy chắc chắn rằng hắn huýt sáo như vậy.”

“Không kẻ chuyên nghiệp nào huýt sáo khi đang làm việc.” Rhyme nói.

“Anh không nghĩ thế được. Nhưng em cũng nghe thấy thế nữa. Ở nơi ẩn nấp của hắn trên phố Elizabeth. Em đã nghĩ rằng đó là tiếng đài hoặc gì đó - hắn thổi khá tốt.”

“Chàng lính trẻ sao rồi?”, Sellito hỏi. Anh không còn chà tay lên vết máu vô hình trên mặt nữa nhưng vẫn khá lo lắng.

“Họ nói cậu ấy sẽ ổn thôi. Một tháng trị liệu hoặc hơn. Tôi đã bảo cậu ta gặp Terry Dobyns. Ron không muốn thế lắm nhưng anh trai cậu ta ở đó. Anh ta sẽ chăm sóc cậu ấy. Đó cũng là một cảnh sát. Một cặp song sinh giống nhau như đúc.”

Rhyme không ngạc nhiên lắm. Phục vụ trong các lực lượng thường có nhiều thành viên cùng một gia đình. “Cớm” có thể là tên của một loại gen trong con người.

Nhưng Sellito thì lại lắc đầu trước thông tin về người anh em. Anh ta có vẻ cảm thấy đau khổ hơn, như thể đó là lỗi của anh ta về việc cả gia đình đã bị ảnh hưởng bởi vụ tấn công.

Dù sao, vẫn không có thời gian để giải quyết vấn đề của anh ta. Rhyme nói: “Được rồi. Chúng ta có một vài thông tin mới. Hãy đưa nó lên để sử dụng”.

“Như thế nào?”, Cooper hỏi.

“Vụ giết hại Charlie Tucker vẫn là manh mối gần nhất mà chúng ta đang giữ, có vẻ liên quan tới Ngài 109. Nên, rõ ràng là”, nhà tội phạm học thêm vào: “Chúng ta sẽ gọi cho Texas”.

“Còn nhớ Alamo chứ”, Sachs gợi ý và nhấn vào nút loa ngoài trên điện thoại.

Bảng bằng chứng:

Hiện trường quán Potter’s Field (1868)

+ Một quán rượu ở Gallows Heights - trên con phố 80 ở Upper West Side, vào khoảng những năm 1860.

+ Potter’s Field có khả năng là nơi tụ tập của Boss Tweed và các chính trị gia tham nhũng của New York.

+ Charles đến đây vào ngày 15 tháng 7 năm 1868.

+ Bị đốt cháy sau một vụ nổ, được phỏng đoán là ngay sau chuyến viếng thăm của Charles. Để che giấu bí mật của ông ấy?

+ Xác ở dưới tầng hầm, đàn ông, được phỏng đoán bị Charles Singleton giết.

- Phát bắn vào trán bởi khẩu Navy Colt 36 ly được nạp đạn 39 ly (loại súng mà Charles sở hữu)

- Những đồng tiền vàng.> - Người đàn ông bị giết có một khẩu Derringer.

- Không có danh tính.

- Có chiếc nhẫn khắc “Winskmskie”.

- Nghĩa là “người canh cửa” hoặc “người gác cổng” theo ngôn ngữ Delaware của người da đỏ.

- Hiện đang tìm các nghĩa khác.

Hiện trường đông Harlem (Căn hộ của bà cô Geneva)

+ Sử dụng điếu thuốc và viên đạn cỡ 9 mm như một thiết bị nổ nhằm đánh lạc hướng cảnh sát. Hiệu Merit, không lần dấu vết được.

+ Các dấu vết để lại: Không. Chỉ có dấu găng tay.

+ Thiết bị khí độc:

- Lọ thủy tinh, viên bọc lá kim loại, chân nến. Không lần được dấu vết.

- Cyanide và acid sulfuric. Không có nhãn hiệu. Không lần được.

* Chất lỏng trong suốt giống những gì tìm thấy trên căn hộ ở phố Elizabeth.

- Được xác định là Murine.

- Các mảng màu cam nhỏ. Như ở công trường xây dựng hoặc các công nhân thi công đường cao tốc?

Ngôi nhà an toàn trên phố Elizabeth của hung thủ:

+ Sử dụng bẫy điện.

+ Dấu tay: Không. Chỉ có dấu găng tay.

+ Camera và màn hình an ninh: K

+ Bộ bài tarot, thiếu lá số mười hai; không có manh mối.

+ Bản đồ chi tiết bảo tàng nơi Geneva bị tấn công và các tòa nhà bên kia con phố.

+ Dấu vết:

- Falafel và sữa chua.

- Các mẩu gỗ lấy ra từ mặt bàn làm việc với vệt acid sulfuric tinh chất.

- Chất lỏng trong suốt, không phải chất nổ. Gửi tới phòng thí nghiệm của FBI.

* Xác định là Murine.

* Nhiều sợi vải từ dây thừng hơn. Thừng thắt cổ

+ Carbon nguyên chất tìm thấy trên tấm bản đồ.

+ Ngôi nhà được thuê bằng tiền mặt, với cái tên Billy Todd Hammil. Khớp với miêu tả của Nghi phạm 109, nhưng không có manh mối nào liên quan tới cái tên Hammil trên thực tế.

Hiện trường Bảo tàng Mỹ - Phi

+ Gói đồ hiếp dâm:

- Lá bài tarot, số mười hai trong bộ bài, Người treo ngược, có nghĩa là sự tìm kiếm tâm linh.

- Chiếc túi có hình mặt cười.

- Quá chung chung để lần tìm.

- Dao rọc giấy.

- Bao cao su Trojan.

- Băng dính.

- Dầu thơm mùi hoa nhài.

- Vật không rõ giá 5,95 đô. Có khả năng là chiếc mũ trùm.

- Hóa đơn, cho thấy cửa hàng nằm ở thành phố New York, cửa hàng tạp hóa giảm giá hoặc một hàng dược phẩm.

- Nhiều khả năng được mua từ một cửa hàng trên phố Mulberry, Little Italy. Hung thủ được nhận dạng bởi nhân viên bán hàng.

+ Dấu tay:

- Nghi phạm đeo găng tay cao su.

- Dấu tay trên gói đồ thuộc về một người có bàn tay nhỏ, không có dữ liệu trong hệ thống IAFIS. Nhiều khả năng là của nhân viên bán hàng.

+ Dấu vết:

- Sợi thừng vài bông, một vài có vết máu người. Dây để thắt cổ?

- Gửi tới CODIS.

* Không tìm thấy DNA trùng khớp ở CODIS.

- Bỏng ngô và kẹo bông với những dấu vết nước đái chó.

+ Vũ khí:

- Dùi cui hoặc một chiếc côn.

- Khẩu súng có ổ thuốc lớn, hạt kích nổ vành, kiểu súng ngắn Quân đội Bắc Mỹ 22 ly, loại Black Widow hoặc Minimaster.

- Đạn tự chế, đầu đạn chứa những chiếc kim. Không thấy dữ liệu trong IBIS hay DRUGFIRE.

+ Đ

- Chưa chắc chắn. Hiếp dâm chỉ là động cơ giả.

- Động cơ thật sự có thể là để lấy đi tấm vi phim của bài báo trên tờ Tuần báo Minh họa dành cho người da màu ngày 23 tháng 7 năm 1868, và giết Geneva Settle vì việc cô quan tâm tới bài báo này vì một lý do chưa biết. Bài báo viết về người tổ tiên của Geneva tên là Charles Singleton. (Xem thông tin bên biểu đồ bên cạnh.)

- Người thủ thư - nạn nhân bị giết báo rằng có một ai đó muốn được xem bài báo.

- Yêu cầu có được nhật ký cuộc gọi của người thủ thư để kiểm tra điều này.

* Không có manh mối nào.

- Yêu cầu cần có thông tin từ những nhân viên thư viện hoặc với những người mong muốn được thấy câu chuyện.

- Không có manh mối nào.

- Tìm kiếm bản copy của bài báo.

- Một vài nguồn báo cáo về một người đàn ông yêu cầu cùng một bài báo. Không manh mối nào được xác nhận. Phần lớn các ấn bản đều đã mất hoặc bị phá hủy. Xác định được vị trí một ấn bàn. (Xem biểu đồ bên cạnh.)

- Kết luận: Geneva Settle vẫn còn trong tình trạng nguy hiểm.

- Động cơ có thể để giữ kín thực tế là ông tổ của Geneva phát hiện ra Tu chính án số 14 trình lên Quốc hội Mỹ không có hiệu lực, đe dọa tới hầu hết quyền công dân Mỹ và các điều luật về tự do công dân.

+ Hồ sơ các vụ việc gửi tới VICAP và NCIC.

- Nạn nhân là một nhân viên coi ngục đã nghỉ hưu.

- Bức ảnh từ máy tính được gửi tới nhà tù Texas.

* Chưa được nhận diện

- Vụ giết người ở Ohio, ba năm về trước. Cũng có hiện trường được làm giả (làm như đó là một vụ tấn công tình dục đồng giới, nhưng động cơ thật sự là được thuê giết). Hồ sơ bị thất lạc.

Hồ sơ về Nghi phạm 109

+ Nam da trắng.

+ 1m85 gần 90 kg.

+ Giọng trung.

+ Sử dụng điện thoại để tiếp cận nạn nhân.

+ Mang một chiếc giày Bass cỡ 11 màu nâu sáng, khoảng ba năm hoặc hơn. Bàn chân phải hơi hướng ra ngoài.

+ Mùi hoa nhài.

+ Quần tối màu.

+ Đeo mũ trùm, màu tối.

+ Sẽ nhắm vào những người vô tội để tạo cơ hội hạ gục nạn nhân và trốn thoát.

+ Nhiều khả năng là một kẻ giết thuê.

+ Nhiều khả năng là một cựu phạm nhân ở Amarillo, TX.

+ Có giọng miền Nam.

+ Mái tóc màu nâu sáng, được chải chuốt chỉnh tề, râu cạo sạch sẽ.

Không đặc biệt, nổi bật.

+ Được thấy mặc một chiếc áo mưa tối màu.

+ Không phải một người hay hút thuốc.

+ Một công nhân xây dựng?

+ Sử dụng Murine.

+ Hay huýt sáo.

Hồ sơ về kẻ thuê Nghi phạm 109

+ Chưa có thông tin gì lúc này.

Hồ sơ về kẻ đồng phạm Nghi phạm 109

+ Nam, da đen.

+ Cuối ba mươi, đầu bốn mươi.

+ Cao khoảng mét tám.

+ Thân thể khỏe mạnh cường tráng.

+ Mặc chiếc áo dã chiến màu xanh.

+ Từng là phạm nhân.

+ Chân khập khiễng.

+ Được báo cáo có mang súng.

+ Râu được cạo sạch sẽ.

+ Đeo chiếc khăn trùm đầu màu đen.

+ Đang đợi thêm các nhân chứng và băng ghi hình an ninh.

- Băng ghi hình chưa rõ ràng, được gửi tới phòng thí nghiệm để phân tích.

+ Giày lao cũ kỹ.

Hồ sơ về Charles Singleton

+ Cựu nô lệ, tổ tiên của Geneva Settle. Có gia đình, một con trai. Được ông chủ cho một vườn cây ở tiểu bang New York. Làm việc với vai trò một thầy giáo. Tham gia vào cuộc vận động vì dân quyền từ rất sớm.

+ Charles bị cho là đã thực hiện một vụ ăn trộm năm 1868, chủ đề của bài báo trong tấm vi phim bị lấy trộm.

+ Có một bí mật chưa được hé lộ. Lo lắng rằng sẽ gây ra thảm kịch nếu bí mật bị hé lộ.

+ Tham gia vào các buổi họp bí mật ở Gallows Heights gần New York.

+ Dính líu tới những hoạt động mạo hiểm?

+ Làm việc với Frederick Douglass và những người khác liên quan tới Tu chính án số 14 trình Thượng viện để được phê chuẩn.

+ Vụ án, theo tờ Tuần báo Minh họa dành cho người da màu:

+ Charles bị bắt bởi Thám tử William Simms vì ăn trộm một lượng lớn từ Quỹ Nô lệ tự do ở New York. Đột nhập vào két, nhân chứng nhìn thấy ông ta rời khỏi đó nhanh chóng. Dụng cụ dùng để gây án được tìm thấy ở gần đó. Phần lớn tiền đã được tìm lại. Bị tuyên án năm năm tù. Không có thông tin gì sau khi bị tuyên án. Bị cho là tận dụng quan hệ với những nhà lãnh đạo trong cuộc vận động dân quyền thời gian đầu để tiếp cận Quỹ.

+ Thư của Charles:

- Bức thư thứ nhất, gửi tới vợ: về cuộc khởi nghĩa chống quân dịch năm 1863, sự chống lại người da đen ở khắp tiểu bang New York, hành hình, đốt phá. Nguy cơ ảnh hưởng tới tài sản mà người da đen sở hữu.

- Bức thư thứ hai, tới vợ: Charles trong trận chiến ở Appromattox vào giai đoạn cuối cuộc Nội chiến.

- Bức thư thứ ba, tới vợ: Tham gia vào cuộc vận động quyền dân sự. Bị đe dọa vì công việc của mình. Đau khổ với bí mật.

- Bức thư thứ tư, tới vợ: Đi tới Potter’s Field với khẩu súng vì “công lý”. Kết quả thảm khốc. Sự thật hiện đang nằm sâu dưới quán Potter’s Field. Bí mật là tất cả những gì khiến ông ấy đau khổ.

“A lô?”

“Xin chào, J.T. Đây là Lincoln Rhyme từ New York.” Nói chuyện với một ai đó bằng tên viết tắt và sống ở bang Ngôi sao cô đơn - chưa kể đến giọng nói khề khà của anh ta - khiến ta thiên về việc bỏ những từ như “này”, và “nghe này” trong câu nói của mình.

“À, vâng thưa ngài, mọi việc thế nào rồi? Tôi đã đọc về ngài từ sau khi chúng ta nói chuyện lần trước. Không hề biết rằng ngài là người nổi tiếng.”

“Ồ, chỉ là một cựu đầy tớ của nhân dân thôi mà”, Rhyme nói với sự khiêm nhường mà nghe giống như một cái lon thiếc đã xỉn. “Không có gì hơn kém cả. Có gì khả quan hơn với bức ảnh chúng tôi gửi cho anh không?”

“Tôi rất tiếc, thám tử Rhyme. Sự thật là, hắn nhìn giống với một nửa số gã da trắng đã rời khỏi đây. Hơn nữa, chúng tôi cũng như hầu hết các nhân viên quản giáo khác - thay đổi nơi làm việc xoành xoạch. Không có một nhân viên nào vẫn còn ở đây từ lúc Charlie Tucker bị giết.”

“Chúng tôi có thêm một ít thông tin về hắn. Nó có

thể giúp loại bớt danh sách. Anh đợi một chút chứ?”

“Vâng, cứ tự nhiên.”

“Hắn có thể có vấn đề về mắt. Hắn sử dụng Murine thường xuyên. Nó có thể là mới đây nhưng có thể hắn làm như vậy khi còn là tù nhân ở đó. Và chúng tôi cho rằng hắn có thể có thói quen huýt sáo.”

“Huýt sáo? Như kiểu thấy một người phụ nữ hay những gì đại loại như vậy ư?”

“Không, huýt một giai điệu. Một bài hát.”

“À. Được rồi. Đợi một chút xem.” Năm phút dài như chưa từng có cho đến khi anh ta quay lại. “Rất tiếc. Không có ai nhớ gì về kẻ nào huýt sáo, hay có mắt kém, không đặc biệt lắm. Nhưng chúng tôi sẽ tiếp tục tìm kiếm.”

Rhyme cảm ơn và ngắt máy rồi nhìn vào tấm bảng bằng chứng với sự bất lực. Đầu những năm 1900, một trong những nhà tội phạm học vĩ đ nhất từng sống, Edmond Locard của Pháp, đã tìm ra một phương pháp - một nguyên tắc mà ông gọi là nguyên lý trao đổi, nói rằng ở mỗi một hiện trường có một vài sự trao đổi bằng chứng, tuy nhiên chỉ trong thời gian ngắn, giữa tên tội phạm và hiện trường hoặc nạn nhân. Tìm ra bằng chứng đó là mục tiêu của một thám tử điều tra pháp y. Tuy nhiên, nguyên lý của Locard không thể tiếp tục bảo đảm rằng việc hình thành đơn giản của liên kết đó có thể đưa ta tới trước cửa nhà hung thủ.

Anh thở dài. Chúng ta đã biết rõ đây sẽ là một cuộc chiến dài mà. Họ có gì? Một bức vẽ mơ hồ từ máy tính, một đôi mắt có lẽ có vấn đề, một điều có thể là thói quen, một mối thù với người bảo vệ nhà tù.

Còn gì nữa?

Rhyme cau mày. Anh đang nhìn chằm chằm vào lá bài thứ mười hai trong bộ bài tarot.

Người treo ngược không liên quan, ám chỉ đến một ai đó đang bị trừng phạt...

Có thể không, nhưng nó vẫn miêu tả một người đàn ông lủng lẳng trên chiếc giá treo cổ.

Có điều gì đó nảy lên trong đầu anh. Anh nhìn lên bảng bằng chứng một lần nữa. Để ý thấy: cái dùi cui, dòng điện gắn với cửa căn hộ trên phố Elizabeth, thiết bị khí độc, những mảnh đạn trong tim, vụ án hành hình Charlie Tucker, những sợi vải của dây thừng với các vệt máu...

“Ôi! Chết tiệt!”, anh đã phát hiện ra.

“Lincoln? Có vấn đề gì vậy?”, Cooper nhìn sếp của

mình, lo lắng.

Rhyme hét lên: “Lệnh, gọi lại!”.

Chiếc máy tính phản ứng trên màn hình: Tôi không hiểu ngài vừa nói gì. Ngài muốn tôi làm gì?

“Quay lại số.”

Tôi không hiểu ngài nói gì.

“Chết tiệt! Mel, Sachs... Ai đó nhấn nút gọi lại đi.” Cooper làm theo và một vài phút sau nhà tội phạm học đã nói chuyện với người cai ngục ở Amarillo một lần nữa.

“J.T., là tôi Lincoln.”

“Vâng, thưa ngài?”

“Quên những tù nhân đi. Tôi muốn biết về những người gác hoặc bảo vệ.”

“Bảo vệ?”

“Một ai đó từng là nhân viên ở đó. Với các vấn đề về mắt. ýt sáo. Và hắn có thể đã từng làm việc ở khu Tử hình trước hoặc trong thời gian Tuker bị giết.”

“Tất cả chúng ta đều không nghĩ tới nhân sự của mình. Và, một lần nữa, phần lớn nhân sự của chúng tôi không ở đây từ năm, sáu năm trước. Nhưng đợi một chút. Để tôi đi hỏi xem sao.”

Hình ảnh của Người treo ngược đã mang ý tưởng ấy đến với Rhyme. Anh để ý đến cách thức và vũ khí mà Nghi phạm 109 đã sử dụng. Đó là các biện pháp hành hình: khí xyanua, điện, treo cổ, bắn một chùm đạn vào tim, giống như đội bắn. Và vũ khí của hắn để hạ gục những nạn nhân là một thanh dùi cui, giống như cái mà một người cai tù mang theo.

Một lát sau anh nghe thấy: “Đây, thưa Thám tử

Rhyme!”.

“Nói tiếp đi, J.T.!”

“Khá chắc chắn, một người đã nói nghe quen quen. Tôi đã gọi cho một nhân viên bảo vệ đã nghỉ hưu, làm việc ở bộ phận hành hình. Tên là Pepper. Ông ấy đã đồng ý đến văn phòng và nói chuyện với ngài, sống gần đây thôi. Sẽ có mặt sau vài phút. Chúng tôi sẽ gọi lại cho ngài ngay.”

Một cái nhìn khác vào lá bài tarot.

Một sự thay đổi về phương hướng...

Mười phút dài không thể chịu đựng được sau khi điện thoại reo.

Họ nhanh chóng giới thiệu. Nhân viên sở Pháp lý Texas đã nghỉ hưu, Halbert Pepper nói với giọng khề khà mà khiến cho tiếng của J.T. Beauchamp nghe như là tiếng Anh - Anh vậy. "Tôi nghĩ là có thể giúp đỡ chút gì đó.”

“Nói tôi biết”, Rhyme nói.

“Cho đến cách đây khoảng năm năm, chúng tôi có một nhân viên kiểm soát hành hình khớp với người mà các ngài miêu tả cho J.T. Có vấn đề với mắt và anh ta say mê thổi sáo. Tôi đã chuẩn bị nghỉ hưu nhưng vẫn làm cùng anh ta một thời gian.”

“Đó là ai?”

“Anh ta tên là Thompson Boyd.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,259
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Qua loa điện thoại, Pepper đang gi thích:

“Boyd lớn lên như vậy. Cha là một thợ khoan dầu...”.

“Dầu?”

“Làm việc trên những khu mỏ. Vâng, thưa ngài. Mẹ thì ở nhà. Không có anh chị em nào khác. Một tuổi thơ bình thường, có vẻ thế. Khá là êm đềm. Hắn luôn kể về gia đình mình, rất yêu thương họ. Làm rất nhiều cho mẹ của hắn, bà ta bị mất một cánh tay hoặc chân hay gì đó ở trong một cơn bão. Hắn luôn quan sát và bảo vệ bà ấy. Có lần tôi được nghe kể là một đứa nhóc trên phố trêu chọc bà ta, và Boyd đã đi theo nó, dọa sẽ thả một con rắn đuôi chuông vào giường của thằng nhóc một đêm nào đó nếu nó không xin lỗi.”

“Dù sao thì sau khi hết trung học và một hoặc hai năm học cao đẳng, hắn vào làm việc ở công ty của cha hắn một thời gian, cho đến khi họ gặp phải một đợt giảm biên chế hàng loạt. Hắn bị sa thải. Cha hắn cũng vậy. Đó là khoảng thời gian khó khăn và không thể kiếm được công việc ở quanh đây, nên hắn rời khỏi bang. Không biết là ở đâu. Kiếm được công việc ở trong một nhà tù. Bắt đầu là một người gác trại. Rồi có một vài rắc rối - nhân viên thi hành án của họ bị ốm, tôi nghĩ thế - và không có ai làm công việc đó nên Boyd nhận nó. Cái việc đốt cháy đã được thực hiện rất tốt..

“Cái gì cơ?”

“Xin lỗi, việc hành hình bằng điện được hắn thực hiện tốt đến mức họ đã nhận hắn vào công việc đó. Hắn ở lại một thời gian, nhưng lại tiếp tục đi từ bang này tới bang khác

, bởi hắn luân chuyển theo yêu cầu. Trở thành một chuyên gia trong việc thi hành án. Hắn hiểu rõ về những chiếc ghế...”

“Gh

điện?”

“Đúng vậy, giống như cái OP Sparky của chúng tôi ở đây. Một thứ khá nổi tiếng. Hắn cũng biết sử dụng khí nữa, là một chuyên gia về tháo lắp súng. Để tôi cho anh biết hắn cũng biết cách thắt một nút dây treo cổ và không có nhiều người trên nước Mỹ được cấp phép cho kiểu công việc như vậy. Công việc của một nhân viên thi hành án đang được bỏ trống và hắn nhảy vào vị trí đó. Chúng tôi đã chuyển sang tiêm thuốc độc, giống như hầu hết các nơi khác, và hắn trở thành một phù thủy với phương pháp này. Thậm chí, nghiên cứu về chúng và có thể trả lời những người phản đối. Có một vài người nói rằng sử dụng các chất hóa học rất đau đớn. Tự bản thân tôi nghĩ rằng những người bảo vệ thiên nhiên và những người theo đảng Dân chủ, không hề quan tâm tới sự thật. Điều đó thật là vớ vẩn. Ý tôi là, chúng tôi có những...”

“Về Boyd?”, Rhyme hỏi một cách thiếu kiên nhẫn.

“Vâng, thưa ngài, xin lỗi. Nên hắn đã quay trở lại đây và mọi việc ổn trong một thời gian. Không ai quan tâm tới hắn nhiều lắm. Hắn thuộc dạng kiểu như người vô hình. ‘Joe Trung bình’ là biệt danh của hắn. Nhưng sau đó có chuyện xảy ra. Có điều gì đó thay đổi. Sau một thời gian, hắn bắt đầu có biểu hiện kỳ lạ.”

“Như thế nào?”

“Càng thực hiện nhiều cuộc hành hình, hắn càng điên cuồng. Kiểu như càng ngày càng trống rỗng. Như vậy có nghĩa gì không? Giống như kiểu hắn không bình thường về mặt tâm thần. Cho anh một ví dụ nhé: Tôi đã nói với anh về việc hắn và người thân rất gắn kết với nhau. Dù chuyện gì xảy ra thì họ cũng bị giết chết trong một vụ tai nạn ô tô, cả người dì của hắn nữa, và Boyd, hắn không hề chớp mắt. Hắn thậm chí còn không đi dự lễ tang. Anh có thể đã nghĩ rằng hắn đang bị sốc, nhưng không phải như vậy. Hắn chỉ đơn giản không tỏ vẻ quan tâm. Hắn vẫn tới phiên trực của mình và, khi mọi người nghe thấy, hỏi hắn đang làm gì ở đó. Phải hai ngày mới tới phiên hành hình tiếp theo. Hắn đã có thể nghỉ. Nhưng hắn không muốn thế. Hắn nói sẽ đi tới mộ của họ sau đó. Không thể biết được hắn đã từng đến hay chưa.

Thấy không, giống như là hắn ngày càng tới gần với những phạm nhân - quá gần, rất nhiều người nghĩ như vậy. Chúng ta không làm như thế. Không bình thường chút nào. Hắn không đi chơi với các nhân viên khác nữa và dành thời gian với những phạm nhân. Hắn gọi họ là “người của ta”. Hắn thậm chí từng một lần ngồi vào một chiếc ghế điện cũ của chúng tôi, cái loại ở bảo tàng ấy. Chỉ để xem nó như thế nào. Và ngủ. Tưởng tượng điều đó đi.

Có ai đó hỏi Boyd về điều này, hỏi hắn cảm thấy như thế nào khi ngồi vào trong chiếc ghế điện. Hắn nói rằng đó không giống như là không có cảm xúc. Nó chỉ giống như là kiểu ‘vô cảm’. Hắn nói thế là quá nhiều về sự kết thúc. Hắn cảm thấy không có cảm giác.”

“Ông nói là cha mẹ hắn bị giết? Hắn có chuyển về sống trong ngôi nhà của họ không?”

“Tôi nghĩ là có.”

“Liệu nó vẫn ở đấy chứ?”

Người đàn ông Texas cũng để máy ở chế độ loa ngoài và J.T. Beauchamp nói vọng ra: “Tôi sẽ tìm hiểu điều đó, thưa ngài”. Anh hỏi một ai đó. “Sẽ biết trong một vài phút nữa, ngài Rhyme.”

“Và liệu anh có thể tìm ra những người họ hàng của hắn trong khu vực không?”

“Vâng, thưa ngài.”

Sachs hỏi: “ông nhớ rằng hắn huýt sáo rất nhiều, đúng không Pepper?”.

“Vâng, thưa bà. Và hắn thực sự giỏi. Đôi khi hắn hát

cho những phạm nhân một hay hai bài để ‘tiễn họ đi’.”

“Về đôi mắt của hắn thì sao?”

“Cũng vậy”, Pepper nói. “Thompson có đôi mắt không được khỏe mạnh lắm. Chuyện là hắn thực hiện hành hình bằng điện - không phải ở đây - và có điều gì đó trở nên tồi tệ. Đôi khi xảy ra, khi ta sử dụng chiếc ghế. Ngọn lửa bắt đầu bốc lên..

“Người bị hành hình?”, Sachs hỏi, co rúm lại.

“Đúng vậy, thưa bà. Bị bốc cháy. Anh ta có thể đã chết rồi, hoặc bất tinh. Không ai biết. Anh ta vẫn cử động như họ thường thế. Nên Thompson bước vào với một khẩu súng hơi, sẵn sàng bắn vào người tù tội nghiệp, giải thoát cho anh ta khỏi nỗi đau đớn. Tôi phải nói với anh rằng điều đó giờ đây không còn là một phần của nghi thức. Đó là hành động giết người nếu giết một tên tử tù trước khi hắn chết dưới hình thức hành hình đã được đưa ra. Nhưng Boyd vẫn làm thế bất kể có chuyện gì đi nữa. Không thể để một trong những ‘người của hắn’ chết như thế. Nhưng ngọn lửa bùng lên. Các đồ cách ly trên dây điện hoặc nhựa hoặc gì đó bắt lửa và khói đã khiến Boyd choáng váng. Hắn đã không nhìn thấy gì trong một hay hai ngày.”

“Còn tên tử tù?”

“Thompson không cần phải bắn anh ta. Điện đã làm điều đó.”

“Và hắn rời công việc năm năm trước?”, Rhyme hỏi.

“Về điều đó”, Pepper nói với giọng rề rà. “Bỏ việc. Tôi nghĩ là hắn đi tới một nơi nào đó, một nhà tù, ở Midwest. Không bao giờ nghe thấy bất cứ thông tin gì về hắn sau đó nữa.”

Midwest - có thể là Ohio. Nơi mà một vụ giết người khác có vẻ khớp với hồ sơ xảy ra. “Gọi một ai đó ở nhà tù Ohio.” Rhyme thì thầm với Cooper, anh gật đầu và chộp lấy một chiếc điện thoại khác.

“Thế còn Charlie Tucker, người gác bị giết? Boyd rời đi trong khoảng thời gian của vụ án phải không?”

“Vâng, thưa ngài, đúng vậy.”

“Có mối thâm thù nào giữa họ không?”

Pepper nói: “Charlie làm việc dưới quyền Thompson một năm trước khi nghỉ hưu. Charlie được chúng tôi gọi là một kẻ sùng đạo. Ông ta đôi khi có thể đọc đi đọc lại kinh thánh cho những phạm nhân, nói với họ rằng họ đang xuống địa ngục... Thompson không khoái lắm”.

“Vậy có thể Boyd giết ông ta để trả đũa việc ông ấy

khiến cuộc sống của những tù nhân trở nên đau khổ hơn.”

Người của ta...

“Có thể là như vậy.”

“Thế còn về bức tranh chúng tôi đã gửi thì sao? Đó có phải Boyd không?”

“J.T. mới vừa đưa nó cho tôi xem”, Pepper nói. “Và, đúng rồi, đó có thể là hắn. Mặc dù hắn to hơn, béo hơn, ý tôi là, lúc đó. Hắn để đầu trọc và râu dê - rất nhiều người như chúng tôi làm thế, cố để nhìn mình đáng sợ như những tên tù nhân.”

“Hơn nữa”, người bảo vệ nói: “Chúng ta đang tìm kiếm những tên tội phạm, không phải người bảo vệ”.

Đó chính là sai lầm của tôi, Rhyme nghĩ một cách bực dọc.

“Chà, khốn kiếp.” Giọng của người bảo vệ lại vang

lên.

“Gì vậy, J.T.?”

“Người của tôi đi lấy hồ sơ nhân sự của Boyd. Và..”

“Nó biến mất.”

“Đúng vậy.”

“Vậy là hắn ăn trộm hồ sơ của mình để che đi mọi vấn đề liên quan tói vụ giết Charlie Tucker”, Sellito nói.

“Tôi cũng đoán vậy”, J.T. Beauchamp nói.

Rhyme lắc đầu: “Hắn lo lắng về dấu vân tay bởi trong hồ sơ hắn là nhân viên nhà nước, không phải một tên tội phạm”.

“Khoan đã”, người bảo vệ nói với giọng rề rà đặc trưng của mình. Một người phụ nữ đang nói chuyện với anh ta. Rồi anh ta quay lại với chiếc điện thoại. “Tôi vừa nghe thông tin từ một người bạn ở sở dữ liệu của hạt. Boyd đã bán ngôi nhà của gia đình hắn năm năm trước. Không mua bất cứ gì trong bang. Ít nhất là bằng tên hắn. Hẳn là đã lấy tiền và biến mất... Có ai biết về các mối quan hệ khác của hắn không.”

“Tên đầy đủ của hắn là gì?”, Rhyme hỏi.

Pepper nói: “Tôi nhớ là chữ cái đầu tên đệm là G, nhưng tôi không biết là viết tắt của từ gì”. Rồi thêm vào: “Một điều tôi sẽ nói về hắn, đó là Thompson Boyd biết những gì hắn đang làm. Hắn biết rõ về EP

“EP?”

“Là Execution Protocol. Đó là quyển sách mà chúng tôi có, ghi chi tiết mọi thông tin về việc hành hình một ai đó. Hắn bắt tất cả những ai thực hiện công

việc ghi nhớ nó, và khiến họ phải vừa đi vừa học thuộc rằng, ‘Tôi phải làm theo quyển sách, tôi phải làm theo quyển sách’. Thompson luôn nói ta không bao giờ có thể đi đường tắt để chết.”

Mel Cooper dập máy.

“Ohio?” Rhyme hỏi.

Người chuyên viên gật đầu. “Nhà tù an ninh tối đa Keegan Falls. Boyd chỉ làm việc ở đó khoảng một năm. Người bảo vệ nhớ hắn bởi vấn đề ở đôi mắt, và hắn huýt sáo. Ông ta nói Boyd đã là vấn đề ngay từ đầu. Gây gổ, va chạm với các nhân viên gác khác về cách đối xử với tù nhân, dành rất nhiều thời gian để trò chuyện với các phạm nhân, mặc dù điều đó vi phạm với quy định. Người bảo vệ nghĩ rằng hắn đang tạo quan hệ để sau này sử dụng họ như những sát thủ.”

“Giống như móc nối với gã thuê hắn ta giết nhân chứng ở đó.”

“Có thể lắm.”

“Và bộ hồ sơ nhân viên của hắn ở đó thì sao? Cũng bị mất trộm?”

“Thất lạc, vâng. Không một ai biết hắn sống ở đâu hay bất cứ điều gì khác về hắn. Như biến mất khỏi màn hình radar.”

Joe Trung bình...

“Chà, hắn không còn thuộc về Texas hay Ohio nữa. Hắn là của chúng ta. Hãy tìm kiếm thật tỉ mỉ.”

“Đúng thế.”

Cooper chạy chương trình tìm kiếm chi tiết - các văn bản pháp lý, Cục quản lý xe cơ giới, các khách sạn, vé giao thông, thuế... tất cả mọi thứ. Trong vòng mười lăm phút, tất cả các kết quả hiện ra. Có một vài danh sách về Thompson G. Boyd và một về T. G. Boyd. Nhưng tuổi và miêu tả của họ không khớp với nghi phạm lắm. Người chuyên viên cũng đã thử vài cách đánh vần khác nhau của những cái tên này và cho ra kết quả tương tự.

“Tên thường gọi?”, Rhyme hỏi. Hầu hết các hung thủ chuyên nghiệp, đặc biệt là các sát thủ giết mướn, sử dụng tên thường gọi khác. Cái tên chúng chọn thường giống với mật khẩu cho máy tính và tài khoản ATM - có vài biến đổi từ cái tên có ý nghĩa với hung thủ. Khi tìm ra nó là gì, ta có thể đá mình một cái vì sự đơn giản trong lựa chọn. Nhưng để đoán được những cái tên này quả là không thể. Họ vẫn thử: đảo chỗ của tên (Thompson tất nhiên là phổ biến với họ hơn).

Cooper thậm chí còn thử một phần mềm chuyên dùng đảo chữ cái để sắp xếp lại các chữ cái trong tên “Thompson Boyd”, nhưng chẳng có cái nào khớp với cơ sở dữ liệu.

Không có gì cả, Rhyme nghĩ, bực dọc trước sự bế tắc. Chúng ta biết tên, biết hắn trông như thế nào, biết hắn ở trong thành phố...

Nhưng ta chẳng thể nào tìm ra hắn.

Sachs liếc nhìn lên bảng, gõ đầu mình. Cô nói: “Billy Todd Hamil”.

“Ai?”, Rhyme hỏi.

“Cái tên mà hắn sử dụng để thuê căn hộ trên phố Elizabeth.”

“Nó thì sao?”

Cô giở lướt nhanh qua một tập giấy rồi nhìn lên.

“Chết sáu năm trước.”

“Có nói ở đâu không?”

“Không. Nhưng em cá là ở Texas.”

Sachs gọi cho nhà tù một lần nữa và hỏi về Hammil. Một lát sau cô dập máy và gật đầu. “Đây rồi. Giết một nhân viên ở cửa hàng tạp hóa mười hai năm trước. Boyd giám sát việc hành hình ông ta. Có vẻ như hắn có mối liên hệ kỳ lạ này với những người mà mình giết. Phương pháp thực hiện của hắn xuất hiện từ khi là người thi hành án. Tại sao đó không phải là tính cách của hắn?”

Rhyme không biết, hoặc không quan tâm, về “mối liên hệ kỳ lạ”, nhưng dù động cơ của Boyd là gì, có một vài logic trong gợi ý của Sachs. Anh hét lớn: “Lấy danh sách tất cả những phạm nhân hắn hành hình và so sánh nó với DMV[1]. Thử Texas trước rồi sẽ sang các bang khác”.

[1] Cơ quan điều hành giao thông cấ tiểu bang ở Mỹ với hai chức năng chính là thu thuế lưu thông và cấp bằng lái xe.

J.T. Beauchamp gửi họ danh sách của bảy mươi chín tù nhân mà Thompson Boyd đã hành hình dưới vai trò nhân viên thi hành án ở Texas.

“Nhiều thế sao?”, Sachs hỏi, cau mày. Dù Sachs có thể không bao giờ do dự nổ súng giết kẻ nào đó nếu cần cứu những người khác. Rhyme biết cô có một chút nghi ngờ về án tử hình bởi nó thường được đưa ra sau một vài phiên xử được dàn dựng và mắc sai lầm, thậm chí đôi khi còn cố ý thay đổi bằng chứng.

Rhyme nghĩ tới một ẩn ý khác về số vụ hành hình: ở một thời điểm nào đó trong s tám mươi vụ thi hành án, Thompson Boyd đã đánh mất sự khác nhau giữa sự sống và cái chết.

Dù điều gì xảy ra thì họ đã bị giết trong vụ tai nạn ô tô... Và Boyd, hắn không hề chớp mắt. Chết tiệt, hắn thậm chí còn không tới dự đám tang.

Cooper ghép các tên của những tử tù nam bị hành hình với các ghi chép của chính phủ.

Không có gì hết.

“Khốn kiếp”, Rhyme gắt gỏng. “Chúng ta sẽ phải lần ra những bang khác mà hắn làm việc và những người mà hắn hành hình ở đó. Nó sẽ vô cùng mất thời gian.” Rồi một ý tưởng này ra. “Khoan đã. Những người phụ nữ.”

“Gì cơ?”, Sachs hỏi.

“Thử tên những người phụ nữ mà hắn đã hành hình. Sự thay đổi theo các tên.”

Cooper làm thế, giới hạn lại một danh sách nhỏ hơn, cho chạy các cái tên và tất cả những cách viết có thể có, qua máy tính của cơ quan Điều hành giao thông.

“Được rồi, có thể sẽ có gì đó đây”, người chuyên viên nói một cách hào hứng. “Tám năm trước, một người phụ nữ tên là Randi Rae Silling - một ả gái điếm - đã bị hành hình ở nhà ngục Amarillo vì ăn cướp và giết hai khách hàng của ả. Cơ quan Điều hành giao thông của New York có một kết quả, trùng họ, nhưng đó là một người đàn ông, Randy với một chữ Y và tên đệm R-A-Y. Trùng tuổi và miêu tả. Địa chỉ ở Queens - Astoria. Có một chiếc Buick Century màu xanh da trời, ba năm tuổi.”

Rhyme ra lệnh: “Đưa vài người mặc thường phục mang bức ảnh vi tính tới quanh đó để gặp vài người hàng xóm.”

Cooper gọi cho Phó thanh tra - người đứng đầu khu vực 114. Trụ sở này phụ trách khu vực Astoria, và phần lớn khu vực Greek gần đó. Anh giải thích về vụ án và gửi email bức ảnh của Boyd. Vị Phó thanh tra nói anh ta sẽ cử vài cảnh sát mặc thường phục tới để điều tra một cách khéo léo từ những người ở trong căn hộ của Randy Silling.

Trong nửa giờ căng thẳng - và không có thông tin nào từ đội lấy thông tin ở Queens - Cooper, Sachs và Sellito liên lạc với các cơ quan lưu trữ công cộng ở Texas, Ohio và New York, tìm kiếm bất cứ thông tin nào họ có thể về Boyd, Hammil hoặc Silling.

Không có gì hết.

Cuối cùng họ nhận được cuộc gọi từ viên thanh tra từ khu 114. “Đại úy?”, người đàn ông gọi. Rất nhiều sĩ quan cấp cao vẫn sử dụng chức danh cũ để gọi Rhyme.

“Chúng tôi có hai người đã xác nhận là người đàn ông này sống ở địa chỉ mà MDV cung cấp.” Anh nói. “Ngài nghĩ sao về việc ưu tiên tạo điều kiện cho chúng tôi tiếp cận, thưa ngài?”

Công lao, Rhyme thở dài. Anh không cần đến bất cứ câu trả lời mang tính đối đáp nào vói cách nói quan liêu và chấp nhận bằng một câu trả lời hơi khó hiểu: “Hãy đi tóm cổ hắn lại”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,259
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


Hàng tá các nhân viên cảnh sát của lực lượng phản ứng nhanh đang di chuyển vào vị trí phía sau tòa nhà sáu tầng của Thompson Boyd trên phố 14 ở Astoria, Queens.

Sachs, Sellito và Bo Haumaiui đang đứng ở trung tâm chỉ huy được thiết lập lệnh một cách nhanh chóng đằng sau một chiếc xe tải không bị để ý của đội ESU.

“Chúng em đây, Rhyme.” Sachs thì thầm vào chiếc micro.

“Nhưng hắn có ở đó không?”, nhà tội phạm học hỏi một cách thiếu kiên nhẫn.

“Chúng ta đã đưa các cảnh sát thuộc đội Tìm kiếm và Giám sát vào vị trí... Đợi một chút. Có ai đó đang báo cáo.”

Một sĩ quan đội Tìm kiếm và Giám sát đi tới chỗ họ.

“Có nhìn được vào trong không?”, Haumann hỏi. “Không, thưa ngài. Hắn đã che kín cửa sổ trước rồi.” Viên cảnh sát trong đội thứ nhất nói rằng anh ta đã tiếp cận cửa sổ phía trước của căn hộ gần hết mức có thể; đội thứ hai thì ở ngay phía sau. Viên sĩ quan thêm vào: “Tôi có thể nghe thấy tiếng nói, tiếng nước chảy. Trẻ em, nghe có vẻ giống”.

‘Trẻ con, khốn kiếp.” Haumann càu nhàu.

“Có thể là ti vi hoặc đài. Tôi chỉ không dám nói chắc.”

Haumann gật đầu. “Trung tâm gọi đội số hai. Báo cáo.”

“Đội số hai đây. Có một vết nứt nhỏ phía sau thanh rèm - không nhiều lắm. Không có ai ở phòng ngủ phía sau cả. Tôi có thể nhìn thấy. Nhưng đó chỉ là một góc hẹp thôi. Có ánh sáng ở phía trước. Nghe thấy tiếng nói, tôi nghĩ vậy. Tiếng nhạc. Hết.”

“Có thấy đồ chơi trẻ con hay

“Không. Nhưng tôi chỉ có thể quan sát phòng ngủ một góc mười độ. Đó là tất cả những gì tôi có thể nhìn thấy. Hết.”

“Có thấy chuyển động nào không?”

“Không, hết.”

“Nghe rõ. Đội hồng ngoại thì sao?” Máy dò hồng ngoại có thể định vị vị trí của người, động vật và các

nguồn nhiệt khác bên trong một tòa nhà.

Kỹ thuật viên đội số ba đang cho chạy máy dò thân nhiệt vào ngôi nhà. “Tôi đang thu thập các vị trí nhiệt, nhưng nó quá yếu để nhận diện, hết.”

“m thanh, hết?”

“Tiếng cót két và tiếng kêu rên. Có thể là các phần ngôi nhà, đồ dùng, máy sưởi, máy thông gió và điều hòa không khí. Có thể là hắn đang đi loanh quanh hoặc lê cái ghế. Giả định hắn ở đó nhưng không thể nói được chính xác vị trí. Hắn thực sự đã che kín nơi này, hết.”

“Được rồi, đội S & S tiếp tục làm nhiệm vụ. Hết.” Sachs nói vào micro của mình: “Rhyme, anh có nghe thấy chút nào không?”.

“Làm thế nào mà anh có thể nghe thấy chứ?”, giọng Rhyme cáu kỉnh.

“Họ cho rằng có chuyển động trong căn hộ của hắn.”

“Điều cuối cùng chúng ta cần là một trận đấu súng”, Rhyme lẩm bẩm. Một cuộc trạm trán về mặt chiến thuật là một trong những phương pháp hiệu quả nhất để phá hủy các dấu vết và các bằng chứng khác ở một hiện trường. “Chúng ta cần phải bảo đảm giữ được càng nhiều bằng chứng càng tốt - nó có thể là cơ hội duy nhất để tìm ra kẻ thuê hắn và tên đồng phạm.”

Haumann nhìn tòa nhà một lần nữa. Anh có vẻ không vui lắm. Và Sachs - một nửa trong cô là một chiến sĩ đặc nhiệm - có thể hiểu tại sao. Đó có thể là một cuộc triệt hạ khó nhằn, đòi hỏi rất nhiều sĩ quan. Căn hộ của nghi phạm có hai cửa sổ trước, ba sau và sáu cửa sổ bên. Boyd có thể dễ dàng nhảy qua một trong số chúng và cố gắng trốn chạy. Đồng thời cũng có một tòa nhà bên cạnh, chỉ cách có một mét hai - một cú nhảy dễ dàng từ trên mái nếu hắn chọn đường trốn ở trên cao. Hắn cũng có thể có được chỗ nấp phía sau mái trước ngôi nhà và có thể nhắm bắn vào bất cứ ai bên dưới, ở bên kia phố, đối diện với ngôi nhà của tên sát thủ, là những ngôi nhà khác. Nếu như xảy ra một trận chiến, một viên đạn lạc cũng có thể dễ dàng là bị thương hoặc giết chết một người vô tội. Boyd cũng có thể nã đạn vào những ngôi nhà này, với mục đích gây ra những thương tổn. Sachs đang nhớ lại việc hắn nhắm vào những người vô tội chỉ đơn giản để đánh lạc hướng. Chẳng có lý do nào để nghĩ rằng hắn có thể xử lý tình huống này một cách khác đi. Họ sẽ phải di tản toàn bộ những người dân quanh đây trước khi thực hiện cuộc đột kích.

Haumann nói qua điện đàm: “Chúng tôi vừa bắt được hình ảnh ai đó đi vào hành lang. Không có camera nào giống như cái Boyd sử dụng trên phố Elizabeth.”

Hắn không biết chúng ta đang tiếp cận.” Dù vậy, viên sĩ quan đặc nhiệm vẫn thêm vào một cách mơ hồ: “Trừ khi hắn có vài cách khác để báo động. Mà hắn có thể biết rất rõ cuộc tấn công này”.

Sachs nghe thấy tiếng rít bên cạnh và quay lại. Mặc bên ngoài bộ áo chống đạn và một cách vô thức để tay chạm vào báng khẩu súng ngắn nằm trong bao, Lon Sellito đang xem xét tòa nhà. Nhìn anh cũng đầy ưu tư. Nhưng Sachs ngay lập tức biết rằng đó không phải là sự khó khăn của việc xâm nhập vào ngôi nhà khiến anh suy nghĩ. Cô có thể thấy anh đang đau khổ như thế nào. Với vai trò một thám tử điều tra cấp cao, không có một lý do gì cho anh để tham gia vào đội đột nhập - trên thực tế, với bề ngoài to lớn, bụng to và kỹ năng sử dụng vũ khí cơ bản, có lý do để anh không tham gia thực hiện những pha đột nhập bất ngờ.

Nhưng logic chẳng liên quan gì tới lý do thực sự việc anh có mặt ở đây. Nhìn thấy bàn tay anh một lần nữa đưa lên má và gãi vào vệt máu vô hình, biết rằng anh đang nghĩ lại vụ nổ súng bất ngờ ngày hôm qua, và việc tiến sĩ Barry bị bắn chết ngay trước mắt, Sachs hiểu rằng: Đây là khoảng thời gian thử thách của anh ấy.

Cách nói này xuất phát từ cha của cô, người đã làm rất nhiều việc dũng cảm trong lực lượng nhưng có lẽ dũng cảm nhất là lần chiến đấu cuối cùng, chống lại căn bệnh ung thư quái ác đã cướp đi sinh mạng của ông, mặc dù khó mà đánh bại được tinh thần ông ấy. Con gái ông trở thành một cảnh sát từ đó và ông bắt đầu đưa ra cho cô những lời khuyên về công việc. Một lần, ông đã nói rằng có lúc cô sẽ nhận ra chính mình trong những tình huống mà phải đơn độc chống lại sự thử thách và hiểm nguy. “Cha gọi đó là ‘giai đoạn thử thách’, Amie. Một chuyện gì đó mà ta phải gồng mình lên để vượt qua. Trận chiến có thể là chống lại một hung thủ, có thể là chống lại một người cộng sự. Nó thậm chí có thể là chống lại cả Sở cảnh sát New York.”

Đôi khi, ông nói, trận chiến khó khăn nhất lại nằm bên trong tâm hồn ta.

Sellito biết phải làm gì. Anh phải là người đầu tiên xông qua

Nhưng sau sự việc xảy ra ở bảo tàng ngày hôm qua, anh như bị tê liệt với nỗi sợ ấy.

Giai đoạn thử thách... Liệu anh ấy sẽ vượt qua được hay không?

Haumann giờ đang phân các sĩ quan đột nhập thành ba đội, cử một vài người tới các góc phố để ngăn dòng giao thông và những người khác tới các góc khuất bên cạnh cửa trước của ngôi nhà để ngăn bất cứ ai định đi vào - và hiển nhiên, để sẵn sàng hạ Boyd nếu hắn có ý định bước ra ngoài lang thang làm việc gì đó. Một cảnh sát trèo lên trên mái nhà. Vài cảnh sát trong đội Phản ứng nhanh bảo vệ những ngôi nhà bên cạnh - trong trường hợp hắn cố trốn thoát theo cách đã làm trên phố Elizabeth.

Haumainn sau đó nhìn Sachs: “Cô sẽ đi vào với chúng tôi chứ?”.

“Tất nhiên”, cô trả lời. “Cần có một ai đó từ đội Khám nghiệm hiện trường bảo đảm nơi này. Chúng ta vẫn chưa biết được ai thuê tên khốn này và chúng ta cần phải tìm ra.”

“Cô muốn vào đội nào?”

“Với bất cứ ai định đột nhập bằng cửa trước”, cô nói.

“Đó sẽ là Jenkin.”

“Vâng, thưa ngài.” Rồi cô giải thích về những người dân sống bên kia phố và nhắc họ rằng Boyd có thể nhắm vào những người dân thường sống ở đó khi cố gắng chạy trốn. Haumann gật đầu. ‘Tôi cần người bảo đảm những nơi này, ít nhất là đưa mọi người tránh các cửa trước và giữ họ tránh các con phố.”

Tất nhiên, không ai muốn công việc này. Nếu như các cảnh sát thuộc đội Phản ứng nhanh là những chàng cao bồi, Haumann đang yêu cầu ai đó tình nguyện thực hiện.

Một giọng nói phá vỡ sự im lặng. “Mẹ kiếp, tôi sẽ nhận nhiệm vụ này.” Là Lon Sellito. “Quá tốt với một gã già như tôi.”

Sachs nhìn anh ta. Người cảnh sát đã đầu hàng trước khoảng thời gian thử thách của mình. Anh ta đã tuyệt vọng, cười một cách vô tư lự, có thể là nụ cười buồn nhất trong đời Sachs từng nhìn thấy.

Người chỉ huy đội ESU nói vào micro của mình: “Tất cả các đội, triển khai giữ vững khoảng cách. Đội S & S, hãy cho tôi biết lúc có thay đổi trong nhà, hết”.

“Rõ. Hết.”

Sachs nói vào micro: “Bọ chuẩn bị tấn công,

Rhyme. Em sẽ kể anh biết những gì xảy ra”.

“Đã nghe”, anh nói ngắn gọn.

Không gì nữa được nói giữa họ. Rhyme không thích việc cô tham gia vào trận đấu. Nhưng Rhyme biết cô quyết tâm đến mức nào, và những mối đe dọa tới người vô tội có thể làm Sachs sôi máu cũng như việc bảo đảm rằng những kẻ như Thompson Boyd không trốn thoát được quan trọng với cô như thế nào. Đây là một phần bản năng của cô và anh sẽ không bao giờ khuyên cô dừng lại vào những lúc như thế này.

Dù sao, nó không có nghĩa là anh cảm thấy vui.

Nhưng rồi những suy nghĩ của Lincoln Rhyme mờ dần khi họ bắt đầu vào vị trí.

Sachs và Sellito đang bước lên con hẻm, cô nhập vào đội đột nhập, anh ta sẽ tiếp tục tới các nhà bên kia phố và đưa mọi người tới nơi ẩn nấp. Nụ cười ngoác miệng giả tạo của chàng Trung úy đã biến mất. Khuôn mặt anh nhìn béo phị và lấm tấm mồ hôi, mặc cho thời tiết mát mẻ. Anh lau nó, gãi gãi vệt máu vô hình và nhận ra cô đang nhìn mình. “Cái áo chống đạn chết tiệt. Nóng quá.”

“Nó thật đáng ghét”, Sachs nói. Họ tiếp tục bước xuống con hẻm, cho tới khi đến gần phía sau ngôi nhà của Boyd, nơi mà các cảnh sát đang triển khai đội hình. Bất ngờ cô chộp lấy cánh tay của Sellito và kéo anh lại. “Có ai đó đang nhìn....” Nhưng khi họ bước tới gần tòa nhà, Sachs trượt trên một túi rác và khuỵu xuống. Cô thở dốc, co rúm và ôm lấy đầu gối.

“Cô ổn đấy chứ?”

“Không sao”, cô nói, đứng lên với khuôn mặt nhăn nhó và gọi vào điện đàm, với một giọng không ra hơi: “5885, tôi thấy có chuyển động trên cửa sổ tầng hai, ở phía sau tòa nhà. Đội S & S, các anh có thể xác nhận không?”.

“Không phải đối tượng thù địch. Đó là một trong những người của ta, hết.”

“Đã nhận, hết.”

Sachs tiếp tục bước về phía trước, đi khập khiễng. “Amelia, cô đang bị đau.”

“Không có gì.”

“Hãy nói với Bo.”

“Đây không phải vấn đề.”

Sự thật là cô đang phải chịu đựng căn bệnh viêm khớp mvài người trong cuộc biết đến như - Rhyme, Mel Cooper và Sellito - nhưng đó là về chuyện này. Cô đã vượt qua một khoảng thời gian rất dài để che giấu đi bệnh tật của mình, lo lắng rằng chỉ huy sẽ đưa cô ra ngoài chữa trị nếu họ phát hiện ra. Cô thò vào bên trong túi chiếc quần lùng thùng của mình và lôi ra một gói thuốc giảm đau, bóc nó bằng răng rồi nuốt một viên.

Trên điện đàm họ nghe tiếng Bo Haumann: “Tất cả các nhóm đã vào vị trí, hết”.

Sachs tiến lên phía trước nhập vào đội xâm nhập chính. Cái chân lại đau hơn.

Sellito kéo cô sang một bên. “Cô không thể vào được.”

“Không phải là tôi hạ hắn nằm im trên sàn, Lon. Tôi chỉ muốn bảo đảm an toàn hiện trường.”

Viên thanh tra quay lại chiếc xe trung tâm chi huy, hy vọng có thể tìm thấy một ai đó để hỏi về tình hình, nhưng Haumann và những người khác đã vào vị trí.

“Nó khá hơn rồi, không sao đâu”, cô bước lên cà nhắc.

Một trong những cảnh sát thuộc nhóm A gọi Sachs thì thầm: “Thám tử, cô đã sẵn sàng chưa?”.

“Rồi.”

“Không, cô ấy chưa.” Sellito quay sang phía người cảnh sát. “Cô ấy sẽ đi sơ tán những người dân thường. Tôi sẽ đi vào cùng các anh.”

“Ngài?”

“Ừ, tôi. Có vấn đề gì không?”

“Không, thưa ngài.”

“Lon”, cô thì thầm: “Tôi ổn mà”.

Viên thám tử to béo đáp lời: “Tôi đủ hiểu biết để bảo đảm giữ an toàn cho hiện trường. Rhyme đã nhắc đi nhắc lại cho tôi hằng năm trời để làm cho đúng”.

“Tôi sẽ không chạy đi chạy lại đâu.”

“Ừ, có thể là không, nhưng liệu cô có thể nhảy vào một trận chiến nếu hắn chĩa cái khẩu súng quái quỷ đó vào cô?”

“Đúng, tôi có thể.” Cô trả lời một cách kiên quyết. “Chà, tôi không nghĩ vậy. Nên thôi tranh cãi đi và bảo đảm những người dân thường an toàn.” Anh cột chắc bộ áo chống đạn và rút khẩu côn của mình ra.

Cô lưỡng lự.

“Đây là mệnh lệnh, thưa Thám tử.”

Cô nhìn anh một cách ù rũ. Nhưng vẫn tự tin như Sachs thường thế 1 một vài người sẽ dùng cái từ “kẻ nổi loạn” - con gái của một cảnh sát biết vị trí của mình về mặt thứ bậc trong Sở cảnh sát New York. Cô nói:

“Được rồi... nhưng đây, cầm lấy cái này”. Cô rút khẩu Glock của mình ra và đưa nó cho Sellito cùng với một băng đạn phụ. Cô cầm lấy khẩu côn sáu viên của anh.

Anh nhìn vào khẩu súng tự động to màu đen. Đó là một khẩu súng với cái cò kéo một cách nhẹ nhàng như cánh của một con bướm đêm. Nếu như sử dụng khẩu này không đúng, giống như đã làm ngày hôm qua trên phố Elizabeth, anh có thể sẽ dễ dàng giết chết mình hoặc một ai đó trong đội đột nhập. Gãi nhẹ lên má một lần nữa, Sellito nhìn vào tòa nhà. Và nhanh chóng nhập vào với các cảnh sát khác.

Chạy băng qua phố để di tản mọi người ra khỏi các tòa nhà và các căn hộ. Sachs nhìn ra phía sau và quan sát họ đi. Cô quay lại tiếp tục với các căn hộ bên kia đường.

Cảm giác đau ở chân đã biến mất.

Thật ra, cô vẫn ổn. Nỗi đau duy nhất mà cô cảm thấy là sự thất vọng vì không tham gia cùng với đội đột nhập. Nhưng cô cần phải giả vờ cú ngã và vết thương.

Vì lợi ích của Lon Sellito. Cô không thể nghĩ ra bất cứ cách nào để giúp đỡ, ngoại trừ việc ép anh ta phải tham gia nhiệm vụ. Cô đã đánh giá mức độ mạo hiểm của việc để anh tham gia vào đội và quyết định rằng chỉ có nguy cơ tối thiểu đối với anh hay bất cứ ai khác - có hàng tá các sự bảo đảm, mọi người đều mặc áo chống đạn và họ đang truy bắt hung thủ bằng cách đột nhập bất ngờ. Sellito cũng có vẻ như có vài cách kiềm chế nỗi sợ hãi. Cô nhớ lại sự thận trọng trong cách anh giữ và kiểm tra khẩu Glock, cũng như cách đôi mắt nhanh nhẹn của anh nhìn vào tòa nhà của tên hung thủ.

Nhưng trong bất cứ sự kiện nào thì giờ đây thực sự không có lựa chọn nào khác. Sellito là một cảnh sát tuyệt vời. Nhưng nếu vẫn tiếp tục sự yếu đuối, anh sẽ không còn là một cảnh sát và cuộc đời của anh có thể kết thúc với điều đó. Những mẩu tự ti này có cách riêng ảnh hưởng đến toàn bộ tinh thần của ta. Sachs biết điều đó, cô đã chiến đấu với chúng thường xuyên. Nếu như không quay trở lại trận chiến lúc này, anh sẽ từ bỏ.

Cô nhấc chân bước; sau cùng, cô đã có một nhiệm vụ quan trọng ở đây, sơ tán tất cả những dân cư trong các ngôi nhà bên kia phố và cần phải di chuyển thật nhanh chóng; đội đột nhập có thể xông vào bất cứ lúc nào. Sachs bắt đầu nhấn các chuông cửa, đưa mọi người ra khỏi các phòng gần cửa trước và bảo đàm rằng họ sẽ ở bên trong với các cánh cửa khóa chặt. Cô điện đàm cho Bo Haumann thông qua một tần số an toàn và nói rằng những ngôi nhà xung quanh đã được bảo đảm an toàn; cô sẽ tiếp tục tới các tòa nhà khác, ở trên và cả dưới con phố.

“Được, chúng tôi sẽ tiến vào”, anh nói một cách ngắn gọn và ngắt máy.

Sachs tiếp tục đi dọc con phố. Cô nhận ra là móng tay mình đang bấm chặt vào ngón cái. Phản ánh một sự thật mỉa mai: Sellito bồn chồn về trận chiến; Amelia Sachs thì cáu kỉnh khi đang ở cách xa nơi nguy hiểm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,259
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


Lon Sellito bám theo bốn cảnh sát khác đi vào một cầu thang tối lờ mờ, tới chiếu nghỉ tầng hai của căn nhà.

Thở hổn hển sau khi trèo, anh dừng lại, lấy hơi. Các cảnh sát đặc nhiệm chụm lại, đợi mệnh lệnh từ Haumann báo về việc đã ngắt đường điện vào tòa nhà - họ không muốn thêm bất cứ một ai bị sốc điện nữa.

Trong khi chờ đợi, viên cảnh sát to lớn tự nói chuyện với mình: Mày đã sẵn sàng chưa?

Nghĩ về nó. Giờ là lúc để quyết định, ở lại hay rời đi?

Phụp, phụp, phụp...

Mọi thứ đang xoay vòng trong tâm trí: Những vết máu bắn vào, những mũi kim từ viên đạn xé nát da thịt. Đôi mắt màu nâu còn ngập đầy sự sống trong giây lát rồi chỉ một khắc sau đó ánh lên tia chết chóc. Khoảnh khắc ớn lạnh thoáng qua của nỗi kinh hoàng khi cửa căn hầm trên phố Elizabeth mở ra và khẩu súng của anh phát nổ với tiếng nổ lớn và bất ngờ, Amelia Sachs sợ hãi nấp đi, tóm lấy khẩu súng của mình, khi những mẩu đá bắn vọt ra khỏi bức tường chỉ cách vài bước chân.

Viên đạn từ chính cái khẩu súng khỉ gió này.

Điều gì đang xảy ra vậy? Anh tự hỏi. Có phải thần kinh của mình đã biến mất rồi chăng? Anh cười giận dữ với chính mình, khi so sánh với dạng thần kinh mà anh đang nghĩ tới của Lincoln Rhyme, người mà những dây thần kinh, ở trong xương sống của anh ta, căn bản đã bị phá hủy. Chà, Rhyme thì đối đầu một cách khá tốt với những gì xảy ra với anh ấy. Tại sao mình không thể?

Đó là phải được trả lời, bởi vì nếu anh bước lên lúc này và phá hỏng nhiệm vụ một lần nữa, sẽ có người chết. Có thể sẽ là như thế vì hung thủ mà họ đang săn đuổi là một gã vô cùng nguy hiểm.

Nếu lùi lại, lôi mình ra khỏi trận chiến, cả sự nghiệp của anh sẽ kết thúc, nhưng ít nhất anh sẽ không phải đẩy một ai khác vào nguy hiểm nữa.

Mình có thể làm thế không? Sellito tự hỏi.

Chỉ huy nhóm nói: “Thám tử, chúng ta sẽ xông vào trong vòng ba mươi giây nữa. Chúng ta sẽ phá sập cánh cửa, tản ra và bảo đảm căn nhà. Anh có thể vào và bảo vệ hiện trường sau đó. Như vậy được chứ?”

Ở lại hay bỏ đi? Viên trung úy tự hỏi chính mình. Mình chỉ cần bước xuống cầu thang. Chỉ thế thôi. Từ bỏ phù hiệu cảnh sát, làm việc như một nhân viên tư vấn an ninh cho một vài công ty. Mức lương gấp đôi.

Không bao giờ bị bắn nữa.

Phụp, phụp, phụp...

Không bao giờ phải nhìn thấy những đôi mắt ánh lên vẻ đau đớn rồi sự sống nhanh chóng biến mất chỉ cách bạn vài centimet.

Phụp...

“Như thế ổn chứ?”, nhóm trường nhắc lại.

Sellito nhìn viên cảnh sát “Không”, anh thì thầm: “Không”.

Viên cảnh sát thuộc đội ESU cau mày.

Viên thanh tra nói: “Phá cánh cửa với thanh dầm, rồi tôi sẽ đi vào. Đầu tiên”.

“Nhưng...”

Sellito lầm bầm: “Anh đã nghe thám tử Sachs nói rồi đấy. Tên tội phạm này không làm việc một mình. Chúng ta cần bất cứ thứ gì có thể dẫn tới kẻ thuê hắn. Tôi sẽ biết cần phải tìm cái gì và tôi có thể bảo vệ hiện trường nếu như hắn cố gắng để phá tung nó lên.”

“Để tôi gọi điện đã”, viên cảnh sát thuộc đội ESU nói một cách đầy ngờ vực.

“Đồng chí”, viên thanh tra nói một cách bình tĩnh: “Đó chính là cách chúng ta phải như vậy. Ở đây tôi là chỉ huy.”

Chỉ huy nhóm nhìn vào người phó chỉ huy. Họ nhún vai.

“Đó là... quyết địnhài.”

Sellito đoán rằng phần còn lại của câu nói ấy (sau đoạn ngập ngừng) lúc ban đầu là “đám tang” chứ không phải là “quyết định”.

“Ngay khi họ ngắt nguồn điện thì chúng ta xông vào”, viên cảnh sát thuộc đội ESU nói. Anh ta đeo chiếc mặt nạ chống độc lên. Cả đội cùng đeo mặt nạ của họ vào, Sellito cũng thế. Anh nắm chặt khẩu Glock của Sachs - giữ ngón tay mình nằm ngoài vành cò súng - và bước sang một bên cánh cửa.

Tiếng nói vang lên bên tai anh: “Chúng tôi đang ngắt điện trong ba... hai... một”.

Người chỉ huy nhóm khẽ đập vai viên cảnh sát bằng thanh dầm. Người đàn ông to lớn vung nó lên thật mạnh và cánh cửa bị phá bung ra.

Cảm giác lâng lâng, quên hết tất cả mọi thứ trừ tên sát thủ và bằng chứng, Sellito xông vào trong, các cảnh sát đặc nhiệm theo sau yểm trợ, đạp cánh cửa bung ra và lùng sục các căn phòng. Đội thứ hai đột nhập vào từ bếp.

Không có bất cứ một dấu hiệu mới nhất nào của Boyd. Trên chiếc ti vi nhỏ là một vở hài kịch đang phát - đó là nguồn âm thanh và gần như là nguồn nhiệt và tiếng động mà đội S & S đã tìm thấy.

Gần như là.

Nhưng có thể là không.

Nhìn sang trái rồi sang phải khi bước vào căn phòng khách nhỏ, không thấy một ai, Sellito hướng thẳng tới chiếc bàn làm việc của Boyd, được chất đống cao: những tập giấy, đạn, vài cái phong bì, một ít dây cao su, một chiếc đồng hồ kỹ thuật số, một ống chất lỏng và ống bột màu trắng, một chiếc đài bán dẫn, dây thừng. Dùng một tờ giấy ăn, Sellito cẩn thận kiểm tra ngăn kéo bằng kim loại gần chiếc bàn xem có bẫy không. Anh không thấy gì và mở nó ra, phát hiện ra nhiều chai lọ và hộp hơn. Hai khẩu súng. Một vài tập tiền mới - ước tính gần 100.000 đô la.

“Căn phòng an toàn”, một trong các cảnh sát ESU nói. Rồi tiếng một người từ một căn phòng khác.

Cuối cùng là tiếng: “Trưởng nhóm A gọi trung tâm, chúng tôi đã bảo đảm hiện trường, hết”.

Sellito cười lớn. Anh đã làm được. Đối diện với điều khỉ gió nào đó đã giày vò anh.

Nhưng đừng quá tự mãn, anh tự nói với mình, nhét khẩu Glock của Sachs vào trong túi. Mày đã đi đến tận lúc này chỉ vì một lý do, nhớ không? Mày còn có việc phải làm. Vậy thì bảo vệ những bằng chứng khỉ g đi.

Khi quan sát căn hộ, anh nhận ra có tiếng gì đó xè xè. Cái gì chứ?

Nhìn vào bếp, hành lang, chiếc bàn làm việc. Cái gì kỳ lạ ở đây? Có gì đó không ổn.

Rồi nó hiện ra trong đầu anh.

Chiếc điện đàm.

Có phải nó tạo ra âm thanh này không? Chà, nếu là thế, ta khó có thể nhìn thấy, với tất cả những thiết bị chơi nhạc rẻ tiền kỳ diệu hơn nhiều: những chiếc đài loa to đùng, đầu CD, MP3.

Khốn kiếp. Đó là một cái bẫy, một thiết bị nổ! Và nó đang nằm ngay bên cạnh lọ đựng chất lỏng trong suốt, với cái nút đậy bằng thủy tinh, mà Sellito đã được học từ những lớp học khoa học chính là thứ ta sử dụng để đựng acid.

“Chúa ơi!”

Anh có bao nhiêu thời gian trước khi nó phát nổ đây? Một, hay hai phút?

Sellito vung lên phía trước và chộp lấy điện đàm, bước vào phòng tắm, đặt nó vào trong chậu rửa mặt.

Một trong những cảnh sát đặc nhiệm hỏi: “Cái gì...?”.

“Chúng ta có một thiết bị nổ tự tạo! Nhanh chóng ra khỏi tòa nhà mau!”, viên thanh tra hét lớn, đeo mặt nạ chống độc vào.

“Chạy mau!”, viên cảnh sát hét lên.

Sellito lờ anh ta đi. Khi người ta làm những thiết bị nổ tự tạo thì họ không bao giờ băn khoăn về những dấu tay hay các bằng chứng khác bởi một khi cái thiết bị ấy nổ tung, hầu hết các vật chứng sẽ bị phá hủy. Họ biết danh tính của Boyd, tất nhiên, nhưng có thể sẽ có một vài dấu vết hoặc các dấu tay khác ở trên thiết bị có thể đưa họ tới kẻ thuê hắn hoặc tên đồng phạm.

“Gọi cho đội phá bom đi”, ai đó nói qua chiếc điện đàm.

“Im nào. Tôi đang bận.”

Có một chiếc nút tắt/mở trên cái đài bán dẫn nhưng anh không tin rằng nó được dùng để vô hiệu hóa nguồn nổ. Chịu thua, viên thanh tra tìm cách tháo cái nắp nhựa sau màu đen của nó ra.

Bao lâu, bao lâu?

Khoảng thời gian bao lâu cho Boyd để đi vào trong nhà và ngắt chiếc bẫy

Khi anh nhấc cái nắp lưng lên và cúi xuống, Sellito thấy một nửa que dynamite - không phải là chất nổ dèo nhưng thừa khả năng thổi bay bàn tay và làm anh mù mắt. Không có màn hình. Chỉ có trong các bộ phim thì bom mới có những chiếc đồng hồ số đếm ngược dễ nhìn. Những quả bom thật sự sẽ được kích nổ bởi những con chip định giờ với bộ vi xử lý siêu nhỏ mà không cần màn hình hiển thị. Sellito giữ cố định thanh dynamite bằng những móng tay của mình - để tránh làm hỏng bất cứ dấu tay nào. Anh bắt đầu tìm cách tháo kíp nổ ra khỏi quả bom này.

Tự hỏi liệu tên sát thủ này tinh quái đến mức nào (những kẻ tạo bom chuyên nghiệp sử dụng một thiết bị kích nổ phụ để hạ những người như Sellito, lởn vởn quanh tác phẩm của chúng), anh kéo cái kíp nổ ra khỏi cục dynamite.

Không có thiết bị kích nổ phụ, hay bất cứ...

Một tiếng nổ, một tiếng đùng lớn, vọng lên trong phòng tắm, dội vào những viên gạch.

“Cái gì vậy?”, Bo Haumann gọi. “Ai đó đang nổ súng? Chúng ta có nổ súng? Các đơn vị báo cáo ngay.”

“Tiếng nổ trong phòng tắm của nghi phạm”, một ai đó gọi. “Cần nhân viên y tế tới hiện trường, đội Phụ trách các tình huống khẩn cấp vào hiện trường.”

“Không có gì, không có gì. Mọi người thư giãn đi.” Sellito nhét bàn tay đang cháy phừng phừng của mình vào nước lạnh. “Tôi chỉ cần một miếng dán Band-Aid thôi.”

“Là anh phải không, Trung úy?”

“Vâng. Đó là cái kíp nổ. Boyd đã dùng một cái bẫy

nhằm phá hủy các bằng chứng. Tôi đã giữ lại phần lớn...” Anh ấn tay mình vào nách và rít lên: “Khốn kiếp, đau quá”.

“Thiết bị lớn cỡ nào?”, Haumann hỏi.

Sellito nhìn vào chiếc bàn làm việc trong một căn phòng khác. “Đủ lớn để thổi bay cái thứ nhìn giống một bình gallon đựng acid sulfuric, tôi đoán thế. Tôi thấy vài lọ đựng bột, nhiều khả năng là cyanide. Nó đáng ra đã có thể hủy diệt phần lớn các bằng chứng - và bất cứ ai ở gần rồi.”

Một vài cảnh sát đội phản ứng nhanh nhìn Sellito với sự biết ơn. Một người nói: “Tôi muốn tự tay mình hạ tên hung thủ này”.

Haumann, vẫn với giọng của một viên cảnh sát khách quan, hỏi một cách thực tế nhất: “Tnghi phạm?”.

“Không có dấu hiệu nào. Nhiệt trên ảnh hồng ngoại là từ ti vi, tủ lạnh và ánh mặt trời trên các đồ vật trong nhà, có vẻ thế.” Một cảnh sát trả lời.

Sellito quan sát căn phòng và rồi thông báo: “Có ý này, Bo”.

“Cứ nói đi.“

“Hãy sửa cánh cửa thật nhanh. Để tôi và một vài cảnh sát khác bên trong, đưa mọi người ra khỏi khu phố. Hắn có thể sẽ quay về sớm. Chúng ta sẽ tóm hắn lúc đó.”

“Đã hiểu, Lon. Tôi thích ý tưởng này đấy. Bắt tay vào việc thôi. Ai biết làm mộc không?”

“Tôi sẽ làm việc này.” Sellito nói. “Một trong những sở thích của tôi. Chỉ cần đưa cho tôi vài dụng cụ thôi. Và cái đội đột nhập kiểu quái gì thế này? Chẳng lẽ không một ai có cái băng dán Band-Aid đấy sao?”

Dưới con phố cách xa căn hộ của Boyd, Amelia Sachs đang lắng nghe cuộc trao đổi qua điện đàm về cuộc đột nhập. Có vẻ như kế hoạch của cô dành cho Sellito đã có hiệu quả - thậm chí còn tốt hơn cô đã hy vọng. Sachs không thực sự hiểu những gì xảy ra nhưng rõ ràng là anh ấy đã làm điều gì đó một cách đầy dũng cảm và cô đã nghe thấy sự tự tin trong giọng của anh.

Cô xác nhận thông điệp về kế hoạch đưa mọi người ra khỏi khu phố và đợi Boyd quay lại, sau đó nói thêm rằng mình đang đi cảnh báo những người dân còn lại ở bên kia con phố, và sau đó cô sẽ nhập vào những người khác trong nhiệm vụ nấp tại căn nhà, tới trước một ngôi nhà và yêu cầu người phụ nữ trong căn nhà đó tránh xa tất cả cửa trước cho tới khi nghe thấy có người báo rằng đủ an toàn để ra ngoài. Có hoạt động của cảnh sát đang diễn ra trên phố.

Đôi mắt của người phụ nữ mở to. “Có nguy hiểm không?”

Cô nói với người phụ nữ: Chúng tôi chỉ đang đề phòng thôi, không có gì phải đến mức báo động hay như thế. Nói một cách chung chung, không làm họ quá sợ hãi. Một nửa công việc của cảnh sát là quan hệ công chúng. Đôi khi nó chiếm phần lớn công việc của họ. Sachs thêm vào rằng cô đã thấy vài thứ đồ chơi trẻ em trong sân nhà bà ta. Liệu lũ trẻ có ở trong nhà lúc này không?

Đó là lúc cô nhìn thấy một người đàn ông hiện ra từ con hèm trên phố. Hắn đang đi bộ chậm rãi theo hướng về phía căn nhà, đầu cúi xuống, đội một chiếc mũ và chiếc áo khoác ngoài dài. Cô không thể nhìn thấy khuôn mặt của anh ta.

Người phụ nữ với một giọng đầy lo lắng: “Chỉ có tôi và bạn trai ở nhà lúc này. Lũ trẻ đang đi học. Chúng thường đi bộ về nhà nhưng chúng tôi có nên đi đón chúng không?”.

“Thưa bà, cái người đàn ông kia, ở bên kia phố ấy?” Người phụ nữ bước tới trước và nhìn. “Anh ta?”

“Cô biết anh ta chứ?”

“Đúng rồi. Anh ta sống trong ngôi nhà đằng kia.”

“Tên anh ta là gì?”

“Larry Tang.”

“Ồ, đó là một người Trung Quốc à?”

“Tôi đoán thế. Hoặc Nhật hoặc gì đó.”

Sachs thả lỏng.

“Anh ta không liên quan chứ?”, người phụ nữ hỏi.

“Không hề. về lũ trẻ của cô, có lẽ là tốt nhất nên...”

Ồ, Chúa ơi.

Nhìn qua người phụ nữ, Amelia Sachs nhìn chằm chằm vào một phòng ngủ của ngôi nhà đang trong quá trình sơn sửa lại. Trên bức tường là hình một vài nhân vật hoạt hình được vẽ bằng sơn. Một là trong chuyện của gấu Pooh - nhân vật chú hổ Tigger.

Mảng màu cam của lớp sơn hoàn toàn giống với mẫu cô tìm thấy ở gần nhà bà dì của Geneva ở Harlem. Màu cam sáng.

Rồi cô nhìn vào sàn nhà ở sảnh vào. Trên tập báo là một đôi giày cũ. Màu nâu sáng. Cô chỉ có thể nhìn thấy nhãn hiệu bên trong. Đó là hiệu Bass. Khoảng cỡ 11.

Amelia Sachs hiểu ngay lập tức rằng người bạn trai mà người phụ nữ này nói chính là Thompson Boyd và ngôi nhà ở bên kia phố không phải là chỗ ở của hắn mà là một nơi ẩn náu khác. Tất nhiên, lý do nó không có ai lúc này đơn giản bởi vì hắn đang ở chỗ nào đó trong chính ngôi nhà này.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,259
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


Amelia Sachs đang nghĩ: Kéo người phụ nữ ra ngoài. Đôi mắt của cô ta cho thấy không hề biết gì. Cô ấy không liên quan tới chuyện này.

Tất nhiên là Boyd có vũ khí

Và mình vừa đổi khẩu Glock lấy cái khẩu côn khỉ gió này.

Kéo cô ấy ra khỏi đây. Nhanh lên.

Bàn tay của Sachs đang xuôi về phía dây đeo lưng, vị trí của khẩu súng bé nhỏ của Sellito. “À, một điều nữa, thưa cô.” Cô nói một cách bình tĩnh. “Tôi nhìn thấy một chiếc xe tải ở trên phố. Tôi muốn hỏi xem liệu cô có thể nói cho tôi biết nó là của ai không?”

Tiếng gì vậy? Sachs tự hỏi. Có cái gì đó từ bên trong ngôi nhà. Kim loại. Nhưng không giống tiếng một vũ khí, một tiếng lạch cạch chìm dần.

“Một chiếc xe tải?”

“Đúng. Cô không thể nhìn thấy nó ở đây. Nó ở phía sau cái cây đằng kia.” Sachs bước lùi lại, ra hiệu cho cô ta đi tới trước. “Cô có thể ra ngoài và nhìn nó được không? Đó sẽ là một sự giúp đỡ rất lớn.”

Dù vậy, người phụ nữ đứng yên tại chỗ ở cửa vào, nhìn về phía bên phải của mình, về phía âm thanh phát ra. “Anh yêu?”, cô cau mày. “Có chuyện gì vậy?”

Tiếng lạch cạch, mà Sachs đã hiểu ra ngay lập tức, là của những tấm rèm che cửa. Boyd đã nghe được cuộc nói chuyện của cô với bạn gái hắn và nhìn ra ngoài cửa sổ. Hắn đã thấy một cảnh sát thuộc đội ESU hoặc một chiếc xe cảnh sát ở gần ngôi nhà ẩn náu của hắn.

“Điều này thực sự quan trọng”, Sachs cố gắng. “Nếu cô có thể chỉ...”

Nhưng người phụ nữ đứng đông cứng lại, đôi mắt mở to.

“Không! Tom! Anh đang làm...?”

“Thưa cô, bước tới đây ngay!”, Sachs hét lên, rút khẩu Smith & Wesson. “Giờ! Cô đang nguy hiểm đấy!”

“Anh đang làm gì với nó vậy? Tom!”, cô bước lùi khỏi Boyd nhưng vẫn đứng trong hành lang, đứng như trời trồng vì quá bất ngờ, sợ hãi. “Không!”

“Cúi xuống!”, Sachs nói với giọng đanh lại, cúi thấp mình lấy đà và di chuyển về phía ngôi nhà.

“Boyd, nghe tôi nói đây”, Sachs hét lớn. “Nếu anh

có vũ khí, hãy thả nó ra. Ném nó ra đây để tôi có thể thấy. Rồi nằm xuống sàn. Tôi muốn anh làm ngay! Có rất nhiều cảnh sát bên ngoài.Im lặng, trừ tiếng sụt sịt của người phụ nữ.

Sachs thực hiện một động tác ló đầu ra nhanh chóng, quan sát tầm thấp quanh góc bên trái cô. Cô đã thấy một người đàn ông, khuôn mặt bình thản, một khẩu súng ngắn lớn màu đen trong tay. Không phải khẩu cỡ 22 ly của Bắc Mỹ, mà là một khẩu tự động, với đầu đạn nổ sau khi chạm mục tiêu và băng đạn cỡ mười lăm viên hoặc hơn. Cô lùi lại để có chỗ nấp. Boyd đã tính là cô sẽ di chuyển cao hơn và hai viên đạn bắn ra đã trượt mục tiêu, chỉ vài centimet, thổi bay các mảng vữa và các mành gỗ vào không khí. Người phụ nữ có làn da rám nắng đang la hét, quờ quạng lung tung, nhìn vào Sachs

rồi quay lại nhìn vào Boyd. “Không, không, không!” Sachs gọi lớn: “Ném vũ khí của anh xuống!”.

“Tom, làm ơn đi mà! Chuyện gì đang xảy ra vậy?” Sachs gọi cô ta: “Cúi xuống, thưa cô!”.

Một khoảng dài im lặng tuyệt đối. Boyd đang định làm gì? Dường như hắn đang tranh đấu xem sẽ làm gì tiếp theo.

Rồi hắn bắn một phát duy nhất.

Nữ thanh tra né tránh phát đạn. Dù vậy, viên đạn vẫn đi trượt mục tiêu. Nó hoàn toàn trượt ra khỏi bức tường gần vị trí đứng của Sachs.

Nhưng, hóa ra, Boyd không hề nhắm vào cô, và quả thật là viên đạn đã trúng vào mục tiêu được nhắm tới.

Người phụ nữ khuỵu xuống, tay ôm lấy đùi, máu đang trào ra. “Tom”, cô thì thào. “Tại sao?... Ồ, Tom.” Cô lăn qua lưng và nằm ôm chặt lấy chân mình, thở hổn hển trong cơn đau.

Cũng giống như ở bảo tàng, Boyd đã bắn một ai đó để đánh lạc hướng cảnh sát, để tạo cơ hội cho hắn bỏ chạy. Nhưng lần này đó là bạn gái hắn.

Sachs nghe thấy tiếng kính vỡ khi Boyd phá vỡ cửa sổ để trốn thoát.

Người phụ nữ vẫn thì thào những lời mà Sachs không nghe được. Cô điện đàm cho Haumann về tình trạng và vị trí của người phụ nữ, rồi ngay lập tức anh đưa nhân viên y tế và lực lượng hỗ trợ tới. Rồi cô nghĩ: Nhưng sẽ mất vài phút để các cảnh sát đội cứu thương tới đây. Mình cần phải cứu cô ấy. Một tấm gạc có thể làm giảm việc chảy máu. Mình có thể cứu mạng sống của cô ấy.

Nhưng rồi: không. Hắn sẽ không chạy trốn được. Cô nhìn quanh góc nhà, thấp, thật nhanh và thấy Boyd đang nhảy ra khỏi cửa sổ ở hành lang vào sân bên sườn nhà.

Sachs do dự, quay lại nhìn người phụ nữ. Cô ấy đã bất tỉnh, và bàn tay rơi khỏi chỗ vết thương khủng khiếp trên chân. Máu đã chảy thành vũng bên dưới thân người.

Chúa ơi...

Cô chạy lại phía người phụ nữ. Rồi dừng lại. Không. Mình biết mình phải làm gì. Amelia Sachs chạy về phía cửa sổ bên. Cô nhìn ra ngoài, rất nhanh một lần nữa, trong trường hợp hắn đang đợi cô xuất hiện. Nhưng, không, Boyd đã hy vọng rằng cô sẽ cứu người phụ nữ. Sachs nhìn thấy hắn đang chuồn thật nhanh khỏi căn nhà trên con hẻm đá cuội mà không hề quay lại nhìn.

Cô nhìn xuống. Khoảng cách gần hai mét từ đây xuống đất. Câu chuyện về cơn đau từ cú ngã mà cô nói với Sellito hai mươi phút trước là giả; nhưng cơn đau kinh niên thì không.

Ồ, người anh em.

Cô trèo lên bậu cửa sổ, phủi sạch những mẩu kính vỡ, vung chân ra ngoài, rồi nhảy chồm tới. Cố làm giảm độ sốc của cú nhảy, Sachs giữ đầu gối của mình gập lại. Nhưng đó là một cú nhảy dài và khi tiếp đất đôi chân cô khuỵu xuống, ngã nhào lên những viên đá cuội và cỏ, rên rỉ với cơn đau.

Thở một cách nặng nề, cô gượng đứng dậy và bắt đầu lao theo Boyd, nhưng giờ tốc độ giảm đi do sự tập tễnh của đôi chân. Chúa bắt ta phải trả giá cho sự dối trá, Sachs nghĩ.

Gạt những bụi cây mỏng manh, Sachs lao từ khoảng vườn vào con hẻm phía sau những ngôi nhà và các căn hộ. Cô nhìn sang trái rồi sang phải. Không có dấu hiệu nào của hắn.

Rồi, ở cách đó khoảng ba mươi mét về phía trước, cô nhìn thấy một cánh cửa gỗ lớn mở ra. Đây là một đặc trưng của những khu cũ kỹ ở New York - những ga ra nằm dọc các con hẻm phía sau những ngôi nhà. Điều đó có nghĩa là hắn giữ xe của mình trong ga ra; đội Tìm kiếm và Giám sát đã không tìm thấy nó ở bất cứ nơi nào trong các dãy phố xung quanh. Đi thật nhanh về phía trước hết mức có thể, Sachs báo vị trí của hắn cho viên chỉ huy.

“Nghe rõ, 5855. Chúng tôi đang trên đường, hết.”

Di chuyển một cách loạng choạng trên những viên đá cuội, cô búng mở ổ đạn khẩu Smittie của Sellito và nhăn mặt khi thấy anh là một trong những người cầm súng còn thận trọng hơn; ổ đạn nằm dưới búa hoàn toàn không có đạn.

Có năm phát.

Trái ngược với khẩu tự động của Boyd với số đạn gấp b lần và khả năng là cả một hay hai băng dự trữ trong túi của hắn.

Chạy về lối vào con hẻm, Sachs có thể nghe thấy tiếng động cơ nổ và một giây sau, chiếc Buick màu xanh da trời lùi ra ngoài, hướng về phía cô. Con hẻm quá hẹp để có thể quay đầu với một lần bẻ lái, nên Boyd phải dừng lại, tiến lên rồi lùi lại. Điều này đã tạo điều kiện cho Sachs có thể lao tới thu hẹp khoảng cách với ga ra khoảng mười tám, hai mươi mét.

Boyd đã xong việc chỉnh đầu xe, và với cánh cửa như một lá chắn giữa hắn và Sachs, tăng tốc bỏ chạy thật nhanh.

Sachs nhoài mạnh người trên những viên sỏi và nhìn thấy mục tiêu duy nhất cô có nằm dưới khe hở hẹp dưới chân cánh cửa ga ra: những chiếc bánh xe.

Nằm sõng soài, Sachs ngắm vào chiếc lốp bên phải.

Có một quy tắc trong những vụ nổ súng ở thành phố là không bao giờ nổ súng trừ khi ta biết phía sau là gì, đó là, nơi mà viên đạn sẽ kết thúc hành trình nếu ta bắn trượt - hoặc nếu nó xuyên qua mục tiêu và tiếp tục bay. Khi chiếc xe của Boyd đang quành đi khỏi, Sachs đã để ý tới điều này trong một phần của một giây, rồi - nghĩ tới Geneva Settle - cùng với quy tắc riêng của cô: Tên khốn nạn này sẽ không chạy đi đâu hết.

Điều tốt nhất cô có thể làm để kiểm soát phát súng là nhắm thật thấp để viên đạn lượn lên và trúng vào chiếc xe nếu cô bắn trượt.

Giơ súng lên ngắm với một động tác, để việc kéo cò nhạy cảm hơn nữa, cô nhắm bắn và nhả hai phát đạn, một phát cao hơn một chút.

Những viên đạn rít lên bên dưới cánh cửa ga ra và ít nhất một viên đã chọc thủng lốp bên phải. Khi chiếc xe lắc lư và trượt mạnh vào bức tường gạch của căn hẻm, Sachs bật dậy và lao tới chiếc xe, nhăn nhó vì cơn đau. Ở chỗ cánh cửa ga ra, cô dừng lại và nhìn quanh rồi phát hiện ra rằng cả hai bánh bên phải của chiếc xe đã bị chọc thủng; cô cũng đã bắn trúng bánh trước. Boyd cố lái xe ra khỏi bức tường, nhưng bánh trước đã vẹo sang một bên và hoàn toàn bất động. Hắn trèo ra ngoài, vung khẩu súng ra sau và tới trước, tìm kiếm người bắn.

“Boyd! Bỏ vũ khí xuống!”

Hắn đáp lại bằng năm hay sáu phát súng về phía cánh cửa. Sachs cũng trả lời bằng một viên, trúng vào thân xe chỉ cách hắn vài centimet, rồi cô lăn sang bên phải và chồm dậy thật nhanh, thấy Boyd đang lỉnh nhanh vào con phố bên ngoài.

Cô có thể nhìn thấy nền phía sau lúc này - một bức tường gạch phí bên kia con phố - và nổ một phát đạn khác.

Nhưng ngay khi viên đạn được bắn đi, Boyd quay ngoặt sang một bên như thể hắn đã biết trước. Viên đạn bay vọt qua hắn, cũng chỉ vài centimet. Hắn đáp trả phát đạn, bằng một loạt đạn, và cô nhoài mạnh trên những viên sòi bẩn thỉu đầy bùn đất một lần nữa, cái điện đàm vỡ tan. Hắn biến mất ở góc phố về bên trái.

Chỉ còn lại một viên đạn. Đáng lẽ chỉ cần bắn một viên vào cái lốp xe là được rồi, cô nghĩ một cách đầy giận dữ, khi bật dậy và lao theo hắn nhanh nhất có thể với cái chân đang đau nhói. Dừng lại một chút ở góc phố nơi giao với con phố, nhìn thật nhanh sang bên trái. Cô thấy cái bóng rắn chắc của hắn đang trốn chạy thật nhanh.

Cô chộp lấy chiếc Motorola và nhấn nút truyền tin. Không được, nó hỏng rồi. Khốn kiếp. Gọi 911 bằng điện thoại di động? Quá nhiều thời gian để giải thích, quá ít thời gian để lưu lại một tin nhắn. Phải có một ai đó trong những tòa nhà gọi tới báo về những tiếng súng. Cô tiếp tục truy đuổi Boyd, miệng thở dốc, chân nện trên mặt đất.

Ở giao lộ phía xa, cuối dãy phố, một chiếc xe cảnh sát đang đi chuyển vào chỗ đậu. Những cảnh sát không bước ra; họ không nghe thấy những tiếng súng, không biết rằng gã sát nhân và Sachs đang ở đây. Boyd nhìn lên và thấy họ. Hắn dừng lại thật nhanh và nhảy vọt qua một cái hàng rào nhỏ rồi chuồn xuống bên dưới cầu thang dẫn vào tầng một của tòa nhà. Cô nghe thấy tiếng đạp khi hắn cố gắng đột nhập vào trong tầng hầm của tòa nhà.

Sachs vẫy tay về phía những cảnh sát nhưng họ đang nhìn lên rồi xuống con phố bên kia và không thấy cô.

Đó là lúc có một cặp đôi trẻ tuổi bước ra khỏi cánh cửa trước của tòa nhà phía đối diện với Boyd. Sập cánh cửa phía sau họ, người đàn ông trẻ kéo khóa chiếc áo khoác để tránh cái lạnh của ngày hôm nay và người phụ nữ ôm lấy tay anh. Họ bắt đầu bước xuống những bậc thang.

Tiếng chân đạp cửa ngừng lại.

Ôi, không... Sachs nhận ra rằng điều gì sắp xảy ra. Cô không thể nhìn thấy Boyd nhưng cô biết hắn định làm gì. Hắn đang ngắm vào cặp đôi này. Hắn sẽ bắn một hoặc cả hai người, lấy chìa khóa của họ và trốn thoát vào trong tòa nhà - hy vọng một lần nữa rằng những cảnh sát sẽ chia lực lượng để giúp đỡ những người bị thương.

“Cúi xuống!”, Sachs hét lên.

Phải đến hơn ba mươi mét, đôi nam nữ không nghe thấy

Boyd hẳn đang phải nhắm vào họ lúc này, đợi họ bước tới gần hơn nữa.

“Cúi xuống!”

Sachs nhỏm dậy và chạy cà nhắc về phía họ.

Cặp đôi nhìn thấy cô nhưng không hiểu cô đang muốn nói gì. Họ dừng lại, cau mày.

“Nằm xuống!”, cô nhắc lại.

Người đàn ông úp bàn tay lên tai mình, lắc lắc đầu. Sachs dừng lại, lấy một hơi thật sâu và bắn viên đạn duy nhất còn lại vào một cái thùng rác bằng kim loại cách họ khoảng sáu mét.

Người phụ nữ hét toáng lên và họ quay đầu, quờ quạng bước lên cầu thang hướng vào căn hộ của mình. Cánh cửa sập lại.

Ít nhất thì cô đã làm được...

Ở ngay bên cạnh Sachs một miếng đá vôi nổ tung, bắn vào cô những mẩu đá nóng. Một nửa giây sau cô nghe thấy tiếng nổ lớn từ khẩu súng của Boyd.

Một phát súng khác rồi một phát nữa, đẩy Sachs lùi lại, những viên đạn bắn tới cách cô chưa đầy một mét. Cô trượt vào một khoảng sân, vấp phải một hàng rào dây cao ngang chân và những đồ trang trí bãi cỏ bằng thạch cao, chú hươu Bambis và những chú lùn. Một viên đạn sượt qua chiếc áo khoác, làm Sachs thót tim nín thở. Cô nhoài lăn mạnh trên thảm cỏ. Càng nhiều hơn những viên đạn giã vào căn nhà gần đó. Boyd quay sang phía những cảnh sát đang nhảy ra khỏi chiếc xe. Hắn nã vào chiếc xe cảnh sát với vài loạt đạn, bắn xịt lốp và đẩy lùi những cảnh sát nấp vào sau chiếc xe. Những cảnh sát giữ yên vị trí nhưng ít nhất họ cũng đã phải gọi báo về cuộc tấn công và các lực lượng khác hẳn phải đang trên đường.

Tất nhiên điều đó có nghĩa là chỉ có một cách duy nhất để Boyd có thể thoát được – nhắm vào cô. Cô lao xuống nấp phía sau một vài bụi cây. Boyd đã ngừng nã súng nhưng cô có thể nghe thấy tiếng chân hắn đang tới gần. Hắn cách khoảng hơn sáu mét, cô đoán. Rồi ba mét. Cô chắc chắn rằng bất cứ một phút nào mình có thể thấy khuôn mặt của hắn, kèm theo là họng khẩu súng của hắn. Rồi cô sẽ chết...

Phụp.

Phụp.

Nhổm lên trên một khuỷu tay, cô có thể nhìn thấy tên giết người, gần hơn, đang sút vào một cánh cửa xuống tầng hầm một tòa nhà khác, mà nó đang chậm rãi mở đường cho hắn. Khuôn mặt hắn bình thản một ỳ quái - giống như khuôn mặt của Người treo ngược trên lá bài tarot mà hắn đã cố ý để lại bên cạnh xác của Geneva Settle. Hắn hẳn phải cho rằng mình đã bắn trúng Sachs bởi hắn lờ đi chỗ cô ngã xuống và đang chăm chú vào việc phá cánh cửa - con đường thoát duy nhất lúc này. Hắn nhìn vào phía sau một hoặc hai lần, về phía đầu kia của dãy phố, chỗ mà những cảnh sát đang tìm cách tiếp cận - dù chậm rãi bởi hắn đã quay sang và nhả vài phát đạn về phía họ.

Hắn cũng có thể phải hết đạn, cô suy đoán điều đó. Hắn chắc phải...

Boyd tháo băng đạn trong khẩu súng và nhét một băng khác vào. Nạp đạn.

Được rồi...

Cô có thể nằm yên ở chỗ của mình, an toàn và hy vọng rằng các cảnh sát khác sẽ đến đây trước khi hắn trốn thoát.

Nhưng Sachs nghĩ tới người phụ nữ với làn da rám nắng nằm trong vũng máu ở căn nhà - có thể đã chết lúc này. Cô nghĩ tới những cảnh sát bị dính bẫy điện của hắn, người thủ thư bị giết ngày hôm qua. Cô nghĩ tới chàng cảnh sát trẻ Pulaski, với khuôn mặt bị đánh nát và đầy máu. Và cô nghĩ nhiều hơn tới cô bé tội nghiệp Geneva Settle, người sẽ nguy hiểm từng phút nếu Boyd còn tự do và lang thang trên những con phố. Sachs vồ lấy khẩu súng, cô đã có một quyết định.

Thompson Boyd đạp một cú thật mạnh nữa vào cánh cửa căn hầm. Nó sắp mở đường cho hắn. Hắn sẽ vào trong, sẽ...

“Đứng im, Boyd. Bỏ súng xuống.”

Chớp chớp đôi mắt đang nhức nhối trong sự ngạc nhiên, Thompson quay đầu lại. Đúng, như hắn đã nghĩ, chính là người phụ nữ từ hiện trường vụ án ở thư viện của bảo tàng ngày hôm qua. Đi tới rồi lại đi lui, tới rồi lại lui, giống như một con rắn đuôi chuông. Mái tóc màu đỏ, trong trang phục màu trắng. Người mà hắn đã thích thú quan sát, ngưỡng mộ. Có quá nhiều điều để hắn ngưỡng mộ, hắn nghĩ. Và là một tay súng cừ nữa.

Hắn đã ngạc nhiên vì cô vẫn còn sống. Hắn đã nghĩ chắc chắn rằng mình đã bắn trúng cô trong loạt đạn cuối cùng.

“Boyd. Tôi sẽ nổ súng. Bỏ súng của anh xuống, nằm úp xuống đất.”

Hắn nghĩ rằng một vài cú đạp nữa vào cánh cửa sẽ làm nó đổ ngược vào trong. Rồi sẽ là hành lang của tòa nhà. Hoặc có thể những người trong tòa nhà này sẽ có một chiếc ô tô. Hắn có thể lấy chìa khóa và bắn bất cứ ai bên trong, làm họ bị thương, thu hút nhiều hơn nữa cảnh sát. Trốn

Nhưng, tất nhiên, có một câu hỏi cần phải được trả lời trước tiên: Liệu cô ta có còn viên đạn nào không? “Anh có nghe tôi nói không Boyd?”

“Vậy đó là cô.” Liếc đôi mắt nhức nhối lên, hắn đã không nhỏ giọt Murine nào khá lâu rồi. “Dù có thể đúng là vậy.”

Cô cau mày, không hiểu hắn ám chỉ điều gì. Có lẽ cô đang tự hỏi liệu hắn đã từng nhìn thấy mình trước đây chưa, và tại sao hắn biết.

Boyd đã cẩn thận không cử động. Hắn cần phải tìm ra điều này. Bắn cô ta hay không? Nhưng nếu hắn thực hiện dù chỉ một cử động nhỏ nhất về phía đó thì nếu như còn đạn cô ta sẽ nổ súng. Hắn hoàn toàn không nghi ngờ điều đó. Không có gì cần phải quá cân nhắc về người phụ nữ này.

Chúng sẽ giết con chỉ bằng một nụ hôn...

Hắn đắn đo suy tính. Khẩu súng của cô ta là loại sáu viên Smith & Wesson cỡ 38 đặc biệt. Cô ta đã bắn năm phát. Thompson Boyd luôn đếm các phát súng (hắn biết rõ chính mình còn lại tám viên trong băng đạn hiện tại, và một băng mười bốn viên nữa trong túi).

Cô ta đã nạp đạn chưa? Nếu chưa, liệu có phải vẫn còn một viên duy nhất?

Có những cảnh sát để ổ đạn trống dưới búa đập ở những khẩu côn đề phòng những trường hợp hiếm hoi như vô tình đánh rơi sẽ khiến nó phát nổ. Nhưng cô ta có vẻ như không thuộc dạng người như vậy. Cô ta quá hiểu về vũ khí và sẽ không bao giờ vô tình đánh rơi một khẩu súng. Bên cạnh đó, nếu như đang làm nhiệm vụ đặc nhiệm, cô ta sẽ cần mọi phát đạn có thể. Không, cô ta không phải dạng cớm súng-không-còn-đạn.

“Boyd, tôi sẽ không nhắc lại lần nữa đâu.”

Mặt khác, hắn đang nghĩ, khẩu súng này không phải là của cô ta. Ngày hôm qua ở bảo tàng cô ta đeo một khẩu tự động ngang hông, một khẩu Glock. Cô ta vẫn đeo bao khẩu Glock ấy trên thắt lưng lúc này. Liệu khẩu Smitte này có phải là khẩu dự phòng? Ngày trước, khi mọi cảnh sát đều chỉ có loại súng sáu viên, đôi khi họ mang thêm một khẩu khác ở bao súng đeo dưới chân. Nhưng bây giờ, với những khẩu tự động có ít nhất mười hai viên và hai băng dự phòng ở thắt lưng, họ thường không quan tâm tới việc có thêm một khẩu dự phòng.

Không, hắn cá rằng cô ta có thể đã mất khẩu tự động hoặc đưa nó cho một ai đó và mượn khẩu này, điều đó có nghĩa là vẫn còn khả năng cô ta không còn đạn để nạp. Câu hỏi tiếp theo là: Liệu cái người mà đưa cho cô ta mượn khẩu Smitie có để ổ đạn trống dưới búa đập không? Mà, hắn không có cách nào để biết được, tất nhiên là thế.

Vậy nên câu hỏi là cô ta thuộc dạng người như thế nào. Boyd nghĩ tới bảo tàng, nhìn thấy cô ta tìm kiếm dấu vết giống như một con rắn đuôi chuông. Nghĩ tới cô ta ở trên sảnh bên ngoài căn hộ ẩn nấp của mình ở phố Elizabeth, đi qua cánh cửa đuổi theo hắn. Nghĩ tới việc cô ta đang lao lên theo hắn lúc này – bỏ mặc Jeanne chết bởi viên đạn ghim trong đùi cô ấy.

Hắn đã quyết định: Cô ta đang giả vờ. Nếu như cô ta còn lại một viên đạn thì hẳn đã bắn vào hắn rồi.

“Cô đã hết đạn rồi“, hắn tuyên bố một cách tự tin rồi quay về phía cô và đưa khẩu súng của mình lên.

Cô cau có và hạ khẩu súng xuống. Hắn đã đúng. Hắn sẽ giết cô chứ? Không, chỉ bắn để làm cô bị thương thôi. Nhưng vị trí nào tốt nhất? Đau đớn và đe dọa mạng sống. Tiếng la hét và máu chảy đều thu hút sự chú ý của người khác. Cô nghĩ tới một bên chân; hắn sẽ bắn vào cái chân bị đau, ở đầu gối. Và khi cô gục xuống, hắn sẽ bồi thêm một phát nữa vào vai cô. Rồi bỏ đi.

“Vậy thì ngươi thắng rồi”, cô nói. “Giờ là sao đây? Tôi là con tin chăng?"

Hắn chưa từng nghĩ về điều này. Hắn do dự. Như vậy có hợp lý không? Liệu như thế có ích chứ? Thường thì con tin mang đến nhiều rắc rối hơn là giá trị.

Không, tốt hơn là nên bắn cô ta. Hắn bắt đầu kéo cò khi cô ta ném khẩu súng của mình xuống vỉa hè với sự thất bại. Hắn nhìn khẩu súng, nghĩ, có gì không đúng ở đây... Đó là gì?

Cô ta đã nắm khẩu súng bằng tay trái. Nhưng cái bao súng lại nằm bên hông phải.

Đôi mắt của Thompson quay lại nhìn cô và há hốc miệng khi thấy con dao lóe lên bay vào mặt hắn. Cô đã quăng nó bằng bàn tay phải của mình, khi hắn nhìn khẩu súng chỉ trong một giây.

Con dao không cắm, hay thậm chí là cứa da hắn - đó là cái tay cầm sượt lên má hắn - nhưng cô đã quăng nó thẳng vào đôi mắt. Thompson nhào sang bên theo bản năng, đưa tay lên để bảo vệ mắt. Trước khi hắn có thể lùi lại và định vị mục tiêu, người phụ nữ đã áp sát, vung một hòn đá mà cô nhặt trong vườn. Hắn cảm thấy một cú đánh choáng váng vào bên thái dương, thở hồng hộc trong cơn đau.

Hắn kéo cò một lần, và khẩu súng nổ. Nhưng viên đạn đã trượt mục tiêu và trước khi có thể bắn một phát nữa, viên đá đập mạnh vào bàn tay phải của hắn. Khẩu súng rớt xuống đất. Hắn rít lên và ôm lấy những ngón tay đau đớn.

Nghĩ rằng cô sẽ đi lấy khẩu súng, hắn cố khóa chặt cô lại. Nhưng Sachs không có ý định với khẩu súng. Cô đã có mọi thứ vũ khí mà cô cần; viên đá đập vào mặt hắn một lần nữa. “Không, không...“ Hắn cố gắng để đánh trả, nhưng cô cũng khá to khỏe, và một một cú đánh khác bằng hòn đá đã khiến hắn khuỵu xuống, rồi một bên sườn hắn vặn lên từ những cú đánh. “Dừng lại, dừng lại“, hắn la hét. Nhưng đáp lại là một cú đánh khác vào má bằng hòn đá. Hắn nghe thấy tiếng rít lên trong cơn thịnh nộ từ cổ họng của cô.

Chúng sẽ giết con...

Cô ta đang làm gì vậy? Hắn tự hỏi trong cơn bàng hoàng. Cô ta đã thắng... Tại sao cô ta lại làm việc này, phá vỡ mọi quy tắc? Sao cô ta có thể? Điều này không có trong quyển sách.

... bằng một nụ hôn.

Trên thực tế, khi những cảnh sát chạy tới một khắc sau đó, chỉ có một trong số họ tóm lấy Thompson Boyd và còng tay hắn lại. Người kia đưa tay vòng quanh Sachs và vật lộn để giành lấy viên đá đầy máu trong tay cô. Trong cơn đau nhói bên tai hắn, Thompson nghe thấy viên cảnh sát nói đi nói lại: “Được rồi, được rồi. Cô bắt được hắn rồi, Thám tử. Ổn rổi, cô thả lỏng đi. Hắn sẽ không đi đâu hết, hắn sẽ không đi đâu hết, hắn sẽ không đi đâu hết...”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,259
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33


Làm ơn, làm ơn đi mà...

Amelia Sachs đang vội vã quay ngược trở lại căn nhà của Boyd nhanh hết mức có thể, bỏ qua những lời chúc mừng từ các đồng sự và cố gắng quên đi nỗi đau ở chân.

Đổ mồ hôi, thở dốc, cô chạy tới chỗ nhân viên y tế đầu tiên của đội cứu thương mà mình thấy và hỏi: “Người phụ nữ trong ngôi nhà đó sao rồi?”.

“Kia ư?”, anh ta hất đầu về phía ngôi nhà.

“Đúng. Người phụ nữ nước da rám nắng sống ở đó.”

“Ồ, là cô ta. Tôi e là, tình hình không tốt.”

Sachs hít vào một hơi thật sâu, cảm thấy nỗi sợ hãi giống như tảng băng đặt lên da thịt mình. Cô đã tóm cổ được Boyd nhưng còn người phụ nữ cô đã có thể cứu sống thì lại chết. Cô nhấn tay vào ngón tay cái của mình và cảm thấy cơn đau, cảm thấy máu đang chảy ra. Nghĩ: Mình đã làm chính xác điều mà Boyd làm. Mình đã hy sinh mạng sống của một người vô tội vì lợi ích của công việc.

Nhân viên y tế tiếp tục: “Cô ta bị bắn”.

“Tôi biết”, Sachs thầm thì. Nhìn chằm chằm xuống đất. Này, thật khó mà sống với...

“Cô không cần phải lo lắng.”

“Lo lắng?”

“Cô ấy sẽ ổn thôi.”

Sachs cau mày. “Anh nói là tình hình không tốt.”

“Chà, kiểu như là, bị bắn cũng là một điều không hay chứ sao.”

“Chúa ơi, tôi đã biết là cô ấy bị bắn. Tôi đã ở đó khi điều đó xảy ra.”

“Ồ.”

“Tôi cứ nghĩ rằng ý anh là cô ấy đã chết.”

“Giờ. Cô ấy vẫn đang chảy máu nhưng chúng tôi đã đến đúng lúc. Cô ấy sẽ ổn thôi. Hiện cô ấy ở bệnh viện Luke’s ER. Tình trạng ổn định.”

“Được rồi, cảm ơn.”

Tôi có một tin xấu...

Sachs bước lại chậm rãi, với cái chân khập khiễng, và tìm thấy Sellito và Haumann ở trước ngôi nhà ẩn náu của Boyd.

“Cô tóm cổ hắn với một khẩu súng hết đạn phải không?”, Haumann hỏi, bằng giọng ngờ vực.

“Thực ra tôi tóm hắn với một hòn đá.”

Chỉ huy đội Phản ứng nhanh gật đầu, nhướn lông mày - lời khen ngợi ngọt ngào nhất của anh.

“Boyd có nói gì không?”, cô hỏi.

“Hắn biết quyền của mình. Hắn câm như hến.”

Cô và Sellito đổi lại súng. Anh nạp đạn. Cô kiểm tra khẩu Glock của mình và nhét lại nó vào bao.

Sachs hỏi: “Thế còn sự việc ở ngôi nhà thì sao?”. Haumann vuốt cái đầu húi cua lởm chởm của mình và nói: “Có vẻ như ngôi nhà hắn đang sống được thuê dưới tên Jeanne Starke. Đó là lũ trẻ của cô ta, hai bé gái. Không phải của Boyd. Chúng ta đã có tổ chức Bảo trợ trẻ em. Tòa nhà đó - anh hất đầu về phía ngôi nhà thứ nhất - là một nơi ẩn náu của hắn. Có đầy đủ vật chứng để chúng ta làm việc”.

Sachs nói: “Tốt hơn là tôi sẽ khám nghiệm hiện trường”.

“Chúng tôi giữ nó an toàn”, Haumann nói. “À, anh ấy làm điều đó.” Hất đầu về phía Sellito. Người đứng đầu ESU nói: “Tôi phải hỏi cung tên khốn này. Cô sẽ đến sau khi khám nghiệm hiện trường chứ? Họ sẽ cần lệnh”.

Sachs gật đầu, cùng với viên thanh tra to lớn bước về phía ngôi nhà tên tội phạm dùng để ẩn nấp. Một sự im lặng dày như những lớp cát ở giữa họ. Cuối cùng Sellito nhìn vào chân cô và nói: “Lại đau rồi phải không”.

“Lại?”

“Đúng, khi cô đi sơ tán các ngôi nhà, ở bên kia phố,

tôi đã nhìn ra ngoài cửa sổ. Có vẻ như là lúc đó cô vẫn đi lại được.”

“Đôi khi nó tự khỏi mà.”

Sellito nhún vai. “Thật buồn cười là làm thế nào những việc kiểu như vậy xảy ra được.”

“Buồn cười.”

Anh biết điều cô đã làm cho mình. Anh cũng nói với cô như vậy. Rồi anh hỏi: “Được rồi. Chúng ta đã bắt được tên giết người. Nhưng đó mới chi là một nửa công việc mà thôi. Chúng ta cần phải tóm được tên đầu sỏ thuê hắn và kẻ đồng lõa của hắn - kẻ mà chúng ta phải giả định rằng vừa mới nhận lấy nhiệm vụ từ Boyd. Bắt tay vào công việc thôi, Thanh tra”. Sellito nói với cái giọng cộc cằn như Rhyme có thể vẫn hay nói.

Đó chính là lời cảm ơn tuyệt vời nhất mà anh có thể nói với cô: Chỉ đơn giản là biết rằng anh đã trở lại.

Thường thì phần bằng chứng quan trọng nhất là cái cuối cùng mà chúng ta tìm ra.

Một nhà khám nghiệm hiện trường giỏi ngay lập tức nhắm vào các vật chứng dễ bị hủy hoại, thường là ảnh hưởng bởi sự bay hơi, bị xóa hỏng bởi mưa, bị tiêu tan bởi gió... và bỏ lại những bằng chứng đã quá rõ ràng để thu thập sau - như là khẩu súng còn bốc khói.

Lincoln Rhyme thường nói nếu hiện trường được bảo vệ, những đồ còn tốt sẽ không biến đâu mất

Tại cả hai nơi ở của Boyd và ngôi nhà ẩn náu bên kia phố, Sachs đã thu các mẫu dấu tay ẩn, ghép các dấu vết, thu lượm các mẫu chất lỏng từ nhà vệ sinh để có các phân tích DNA, cạo bề mặt sàn và các đồ vật, cắt các mẩu thảm để có các mẫu sợi và chụp ảnh cũng như quay phim toàn bộ khu vực. Chỉ sau khi làm như thế cô mới quay sự chú ý của mình sang các đồ rõ ràng và lớn hơn. Cô sắp xếp để đưa các chất acid và cyanide tới trụ sở trung tâm lưu giữ bằng chứng độc hại ở Bronx, và xử lý cái thiết bị nổ tự tạo được đựng trong chiếc đài bán dẫn.

Cô xem xét và kiểm tra các vũ khí cũng như đạn, tiền, các cuộn dây thừng, dụng cụ. Hàng tá đồ vật có vẻ hữu dụng để làm bằng chứng.

Cuối cùng, Sachs lấy lên một phong bì nhỏ màu trắng nằm ở gần cửa trước của ngôi nhà dùng để ẩn náu.

Ở bên trong là một tờ giấy.

Sachs đọc nó. Rồi cười rất nhanh. Cô đọc bức thư một lần nữa. Và gọi cho Rhyme, tự nghĩ rằng: Người anh em à, liệu chúng ta có sai không.

“Vậy”, Rhyme nói với Cooper khi hai người nhìn vào màn hình máy tính. “Tôi cá một trăm đô là chúng ta tìm thấy nhiều carbon nguyên chất hơn nữa, giống như thứ trên bản đồ giấu dưới gối của hắn ở căn hộ trên phố Elizabeth. Anh có muốn thử không? Đặt cược không?”

“Quá muộn rồi”, Cooper nói, khi chiếc máy phân tích kêu bíp và bản phân tích dấu vết các thành tố từ trên tờ giấy trồi lên trước họ. “Không thế thì kiểu gì tôi cũng cược rồi.” Anh ta đẩy chiếc kính cao hơn trên mũi và nói: “Và, đúng, carbon. Một trăm phần trăm”.

Carbon. Có thể được tìm thấy trong than đá, bụi hoặc hàng tá các vật chất khác.

Nhưng nó cũng có thể là bụi kim cương.

“Điều đáng ghét mới nhất trong tiếng Anh của thế giới thương mại là gì?” Nhà tội phạm học hỏi, tâm trạng lại một lần nữa tràn đầy hứng khởi. “Chúng ta đi sai đường rồi.”

Ồ, họ đã không sai về việc Boyd là hung thủ của vụ này hoặc sự thật là hắn đã được thuê để giết Geneva. Không, chính là họ đã hoàn toàn thổi phồng động cơ vụ án. Tất cả mọi thứ họ phỏng đoán về phong trào quyền dân sự trước đây, về những gợi ý hiện tại về việc dàn dựng nên vụ cướp của Charles Singleton từ Quỹ Nô lệ tự do, âm mưu về Bản sửa đổi số 14... Họ đã sai hoàn toàn.

Geneva Settle đã bị mục tiêu đến chết đơn giản bởi vì cô đã nhìn thấy một thứ gì đó mà đáng ra không nên thấy: một vụ cướp nữ trang đã được lên kế hoạch.

Bức thư mà Amelia Sachs tìm thấy trong ngôi nhà ẩn náu của hắn có bản đồ của nhiều tòa nhà khác nhau trên phố, bao gồm cả bảo tàng Mỹ - Phi. Tờ giấy ghi chú viết:

Một con bé da đen, ở cửa sổ này tầng năm, ngày mùng 2 tháng 10, khoảng 8 giờ 30 phút. Nó thấy chiếc xe chở hàng của tôi đậu ở con hẻm phía sau cửa hàng mua bán trang sức đá quý. Nó đã nhìn đủ để đoán ra được kế hoạch của tôi. Giết nó.

Cửa sổ của thư viện ở gần chiếc máy đọc vi phim, chỗ mà Geneva bị tấn công được khoanh tròn trên tấm biểu đồ.

Bên cạnh lỗi đánh thiếu chữ, ngôn ngữ của tờ ghi chú cũng khá khác thường, và theo như nhà tội phạm học thì khá tốt; khi lần theo dấu vết của một cái bất thường thì dễ dàng hơn. Rhyme đã đưa Cooper gửi một bản copy tới Paker Kincaid, một cựu chuyên viên kiểm tra tài liệu của FBI bên ngoài D.C., hiện đang hành nghề tự do. Cũng giống như Rhyme, Kincaid đôi khi được tham gia vào các công việc của những chỉ huy cũ và các sở hành pháp khác để tư vấn trong một số vụ việc liên quan tới các tài liệu và chữ viết tay. Email trả lời của Kincaid nói rằng anh sẽ có câu trả lời cho họ nhanh nhất có thể.

Khi xem xét lá thư, Amelia Sachs đã lắc đầu một cách đầy giận dữ. Cô nhớ lại vụ việc về gã có vũ trang mà cô và Pulaski ở bên ngoài bảo tàng ngày hôm qua - hóa ra hắn là một nhân viên an ninh, kẻ đã nói với họ về những thứ giá trị của giao dịch, về những giao dịch hàng triệu đô từ Amsterdam và Jerusalem hằng ngày.

“Chúng ta đáng lẽ nên chú ý điều đó”, cô nói, lắc lắc đầu.

Nhưng ai có thể đoán được là Thompson Boyd được thuê giết Geneva chỉ vì cô bé nhìn ra bên ngoài cửa sổ không đúng lúc?

“Nhưng tại sao lại lấy đi cái máy đọc vi phim chứ?”, Sellito hỏi.

“Tất nhiên là để đánh lạc hướng của chúng ta. Và đúng là nó đã làm khá tốt việc đấy.”

Rhyme thở dài. “Trong khi chúng ta thì chạy vòng quanh, nghĩ về các âm mưu liên quan tới luật hiến pháp. Boyd hẳn là chẳng có chút hiểu biết gì về cái mà Geneva đang đọc.” Anh quay sang cô bé, đang ngồi gần đó và cầm một ly chocolate nóng. “Kẻ nào viết cái tờ giấy đó đã nhìn thấy cháu từ trên phố. Hắn hoặc là Boyd liên lạc với người quản lý thư viện để biết cháu là ai và khi nào thì cháu sẽ quay lại, để Boyd có thể ở đó, đợi cháu. Tiến sĩ Barry bị giết ông ấy có thể chỉ ra manh mối giữa cháu với chúng... Giờ, nghĩ lại khoảng một tuần trước. Cháu nhìn ra ngoài cửa sổ lúc 8 giờ 30 phút, nhìn thấy một chiếc xe tải và một kẻ nào đó ở trong hèm. Cháu có nhớ đã thấy gì không?”

Cô bé liếc mắt và cúi xuống. “Cháu không biết. Cháu nhìn ra ngoài rất nhiều lần. Khi đọc mệt quá thì cháu đi loanh quanh vài lần, chú biết đấy. Cháu không thể nhớ một điều gì cụ thể cả.”

Sachs nói chuyện với Geneva trong mười phút, cố gắng gợi cho cô bé nhớ lại một hình ảnh. Nhưng để nhớ lại một người cụ thể và một chiếc xe tải chở hàng trên những con phố đông đúc ở trong thành phố chỉ qua một cái nhìn một tuần trước là quá nhiều với trí nhớ của một cô bé.

Rhyme gọi cho giám đốc của Sở giao dịch trang sức đá quý Mỹ và nói với ông ta những gì họ mới phát hiện ra. Hỏi xem liệu ông ta có tình cờ biết ai đó có khả năng cố tạo ra một vụ trộm, ông ta đáp lại rằng: “Mẹ kiếp, không có gì hết. Dù nó xảy ra nhiều hơn anh có thể nghĩ”.

“Chúng tôi tìm thấy dấu vết của carbon nguyên chất trong một vài vật chứng. Bụi kim cương, chúng tôi nghĩ thế.”

“Ồ, vậy có nghĩa là chúng đã xem xét con hẻm ở gần khu ga ra. Không ai ở bên ngoài được đến gần khu phòng cắt, nhưng, này, nếu anh đánh bóng sản phẩm, anh sẽ nhặt được bụi. Nó có ở trong những chiếc túi máy hút bụi chân không và trên bất cứ vật gì mà chúng tôi ném ra ngoài.”

Người đàn ông cười, không nhiều lo lắng với tin tức về vụ trộm đang lơ lửng trên đầu được báo trước. “Dù gì, tôi cũng sẽ báo với anh, bất cứ kẻ nào định động vào chúng tôi sẽ dính ngay vài viên đạn. Chúng tôi có hệ thống an ninh tốt nhất trong thành phố. Ai cũng tưởng là nó giống với trên ti vi. Chúng tôi có những gã đến để mua nhẫn cho bạn gái rồi chúng nhìn quanh và hỏi những tia vô hình mà ta đeo kính mới thấy đâu, anh hiểu chứ? Chà, câu trả lời là họ chả làm ra cái máy phát tia vô hình khi gió nào cả. Bởi nếu anh có thể đi loanh quanh các tia khi đang đeo những chiếc kính đặc biệt, thì những kẻ xấu sẽ đi mua những cái kính chó chết ấy và đi vòng quanh đúng không? Hệ thống báo động thực sự không như vậy. Nếu một con ruồi đánh rắm trong két của chúng tôi, còi báo động sẽ rú ầm ĩ. Và, sự thật là, cái hệ thống an ninh chặt đến mức một con ruồi cũng không thể lọt qua được.”

“Tôi đáng lẽ cần phải biết”, Lincoln Rhyme nói sau khi họ dập máy. “Nhìn lên biểu đồ nào! Nhìn vào những gì chúng ta tìm thấy ở nơi trú ẩn đầu tiên của hắn.” Anh hất đầu về phía tấm bản đồ được tìm thấy ở căn hộ trên phố Elizabeth. Nó chỉ cho thấy nét phác thảo của thư viện nơi Geneva bị tấn công. Trung tâm giao bên kia phố được vẽ lớn hơn và chi tiết hơn nhiều, cũng như các con hẻm gần đó, các cánh cửa và các khu ga ra - lối vào và lối ra của trung tâm, chứ không phải bảo tàng.

Hai thanh tra từ trung tâm thành phố đã hỏi cung Boyd về thân nhân kẻ đứng đằng sau vụ cướp, kẻ đã thuê hắn, nhưng hắn né tránh.

Sellito kiểm tra dữ liệu của sở Larceny, sở NYPD trên các báo cáo về các hoạt động đáng ngờ ở quận kim cương nhưng không có manh mối nào đặc biệt có vẻ liên quan. Fred Dellray tạm dừng việc điều tra những tin đồn về các vụ đánh bom khủng bố tiềm năng để kiểm tra các dữ liệu của FBI về bất cứ cuộc điều tra nào liên quan đến các vụ trộm trang sức. Bởi trộm cắp không phải là một tội cấp bang, không có nhiều vụ lắm, nhưng một vài trong số đó - phần lớn liên quan đến hoạt động rửa tiền trong khu vực New York - đang còn hiệu lực và anh hứa sẽ mang các báo cáo tới ngay lập tức.

Giờ họ quay sang các vật chứng tìm thấy tại nơi ở và ngôi nhà ẩn nấp của Boyd, với hy vọng tìm ra kế hoạch của tên trộm. Họ kiểm tra khẩu súng, những chất hóa học, dụng cụ và các vật còn lại, nhưng không có gì mà họ chưa tìm ra trước đó: nhiều mầu sơn màu cam, các vệt acid, các mẩu vụn bánh falafel và các vết sữa chua, có vẻ như đó là bữa ăn ưa thích của Boyd. Họ kiểm tra thông qua số seri các tờ tiền và không tìm thấy gì từ Bộ tài chính, và chẳng có tờ tiền nào có lấy một dấu vân tay. Để rút một số tiền lớn như vậy từ một tài khoản là khá mạo hiểm với gã thuê Boyd bởi bất cứ một giao dịch lớn nào như vậy đều phải được báo cáo theo các quy định về việc lưu giữ tiền. Nhưng một cuộc kiểm tra nhanh về các vụ rút tiền lớn gần đây từ các ngân hàng trong khu vực không đưa ra được một đầu mối nào. Điều này khá kỳ lạ, Rhyme nghĩ, dù đã kết luận rằng hung thủ hẳn đã rút nhiều khoản tiền nhỏ suốt thời gian để trả công cho Boyd.

Có vẻ như thủ phạm phải là một người rất khó tìm trên thế giới này, hắn không có điện thoại di động, hoặc nếu có, hắn hẳn phải là một thuê bao trả trước vô danh - sẽ không có các hóa đơn cước về nhật ký cuộc gọi - cũng như hắn phải tính toán trước để vứt nó đi trước khi bị bắt. Xem xét hóa đơn điện thoại bàn của Jeanne Starke không mang lại điều gì khả nghi trừ việc có hàng tá cuộc gọi tới một chiếc bốt điện thoại công cộng ở Manhattan, Queens hoặc Brooklyn, nhưng chẳng liên quan tới một địa điểm nào cụ thể thường xuyên cả.

Tuy nhiên, sự dũng cảm của Sellito đã mang lại những bằng chứng khá tốt: những dấu tay trên thanh dynamite và phần lõi của chiếc đài bán dẫn nổ. Hệ thống IAFIS cùa FBI và các dữ liệu dấu vân tay cấp cơ sở đưa tới một cái tên: Jon Earle Wilson. Hắn đã từng phạm nhiều tội ở Ohiho và New Jersey, bao gồm cả đốt nhà phóng hỏa, chế tạo bom và lừa đảo bảo hiểm. Nhưng hắn đã tr khỏi tầm kiểm soát của các nhà chức trách địa phương, Cooper báo cáo. Địa chỉ cuối cùng là ở Brooklyn nhưng đó là một khu đất trống.

“Tôi không cần những địa chỉ cuối cùng của hắn được biết đến. Tôi muốn địa chỉ hiện tại. Đưa cả FBI vào tìm kiếm nữa.”

“Nhất trí.”

Tiếng chuông cửa reo. Tất cả mọi người vẫn còn cảnh giác với hung thủ chính đằng sau vụ án và tên đồng phạm vẫn chưa bị tóm cổ và họ nhìn ra cửa với sự thận trọng. Sellito đã trả lời tiếng chuông cửa và anh bước vào phòng thí nghiệm với một cậu bé da đen, tầm tuổi vị thành niên, cao ráo, mặc một chiếc quần lửng ngang bắp chân và một chiếc áo Knicks. Cậu ta mang theo một chiếc túi đồ nặng. Cậu nhóc chớp chớp mắt ngạc nhiên khi nhìn thấy Rhyme - rồi mọi thứ khác ở trong căn phòng.

“Ồ, Geneva, chuyện gì xảy ra vậy?”

Cô nhìn cậu ta với một cái cau mày.

“Ồ, mình là Rudy.” Cậu ta cười. “Cậu không nhớ tớ rồi.”

Geneva gật đầu. “Ừ. Mình cũng nghĩ thế. Cậu là…”

“Anh trai của Ronelle.”

Cô bé nói với Rhyme. “Một bạn gái trong lớp cháu.”

“Sao cậu biết tớ ở đây?”

“Ừ, Ronee nghe ai đó nói.”

“Hẳn phải là Keesh rồi. Cháu đã nói với cậu ấy.” Geneva nói với Rhyme.

Cậu bé nhìn quanh phòng thí nghiệm một lần nữa rồi quay lại với Geneva. “Đây là gì, vài đứa trong lớp gửi cho cậu cái này. Cậu biết đấy, cậu đã không ở trường và chúng nó nghĩ là cậu sẽ cần cái gì đó để đọc. Tớ đã bảo là, đưa cho cậu cái Game Boy, nhưng chúng nó bảo không, cậu thích đọc sách. Nên bọn nó gửi cái này cho cậu.”

“Thật sao?”

“Thật. Không phải bài tập về nhà hay đại loại như thế đâu. Cậu có thể đọc để giải trí"

“Ai gửi?”

“Ronelle, vài đứa con gái khác, không biết nữa. Đây này. Nặng cả tấn ý chứ.”

“Chà, cảm ơn nhé

Cô cầm lấy cái túi.

“Lũ con gái nói với tớ rằng mọi việc sẽ ổn.”

Geneva cười gượng gạo và cảm ơn cậu ta một lần nữa, gửi lời chào của mình tới bạn bè trong lợp. Cậu bé rời đi, Geneva nhìn xuống chiếc túi. Nhấc lên một quyển sách của Laura Ingalls Wilder, Geneva lại cười. “Không biết chúng nó đang nghĩ gì. Mình đã đọc quyển này rồi, đến bảy năm trước rồi ý chứ.” Cô thả nó vào trong túi. “Dù sao thì, các bạn ấy thật tốt.”

“Và khá có ích”, Thom nói một cách châm chọc. “Chú e là, không có nhiều thứ ở đây để cho cháu đọc đâu.” Một cái nhìn tới Rhyme. “Chú vẫn làm việc với anh ta. m nhạc. Giờ anh ta rất hay nghe nhạc. Thậm chí còn đe dọa sẽ tự viết vài bản nhạc. Còn đọc truyện viễn tưởng á? Chúng ta vẫn chưa đạt đến trình độ ấy.”

Geneva cười với Thom một cách vui vẻ, cầm chiếc túi đựng đồ và đi về phía hành lang khi Rhyme nói: “Cảm ơn. Vì đã vạch áo tôi ra, Thom. Trong bất cứ tình huống nào, giờ thì Geneva có thể đọc thỏa thích, mà tôi chắc chắn là cô bé thích làm thế hơn là ngồi nghe những câu nói chán ngắt của cậu. Còn với thời gian rảnh rỗi của tôi? Tôi cho là mình không có nhiều thời gian như thế, cậu biết đấy, cố để tóm những kẻ giết người”. Đôi mắt anh lại quay lên nhìn vào tấm bảng ghi chép bằng chứng.

Bảng bằng chứng:

Nơi ở của Thompson Boyd và nhà an toàn chính

+ Có nhiều falafel và sữa chua hơn, các vết sơn.

+ Tiền mặt (tiền cho công việc?) 100.000 đô la tiền mới. Không có dấu vết. Nhiều khả năng được rút ra bằng các khoản tiền nhỏ nhiều lần.

+ Vũ khí (súng, dùi cui, dây thừng) có liên hệ với các hiện trường trước.

+ Acid và cyanide có liên hệ với hiện trường trước đó, không có dấu hiệu đưa tới nhà sản xuất.

+ Không có điện thoại di động. Các thông tin ghi chép về điện thoại khác không có ích.

+ Các dụng cụ đưa tới hiện trường trước.

+ Lá thư hé lộ ra việc G. Settle bị nhắm tới vì cô bé là nhân chứng cho một vụ cướp trang sức đang được lên kế hoạch. Nhiều carbon nguyên chất hơn 1 được nhận định là bụi kim cương.

+ được gửi tới Parker Kincaid ở Washington D.C., để làm các kiểm tra đánh giá.

+ Thiết bị nổ tự tạo, một phần bẫy trong nhà. Các dấu tay là của một kẻ tạo bom từng bị kết án John Earle Wilson. Hiện đang truy lùng tên này.

Hiện trường quán Potter’s Field (1868)

+ Một quán rượu ở Gallows Heights - nằm trên con phố 80 ở Upper West Side, vào khoảng những năm 1860.

+ Potter’s Field có khả năng là nơi tụ tập của Boss Tweed và các chính trị gia tham nhũng của New York.

+ Charles đến đây vào ngày 15 tháng 7 năm 1868.

+ Bị đốt cháy sau một vụ nổ, được phỏng đoán là ngay sau chuyến viếng thăm của Charles. Để giấu bí mật của ông ấy?

+ Xác ở dưới tầng hầm, đàn ông, được phỏng đoán bị Charles Singleton giết.

- Phát bắn vào trán bởi khẩu Navy Colt 36 ly, được nạp đạn 39 ly (loại súng mà Charles sở hữu).

+ Những đồng tiền vàng.

+ Người đàn ông bị giết có một khẩu Derringer.

+ Không có danh tính.

+ Có chiếc nhẫn khắc chữ “Winskinskie”.

- Nghĩa là “người canh cửa” hoặc “người gác D.C., để làm các kiểm tra đánh giá.

+ Thiết bị nổ tự tạo, một phần bẫy trong nhà. Các dấu tay là của một kẻ tạo bom từng bị kết án John Earle Wilson. Hiện đang truy lùng tên này.

Hiện trường quán Potter’s Field (1868)

+ Một quán rượu ở Gallows Heights - nằm trên con phố 80 ở Upper West Side, vào khoảng những năm 1860.

+ Potter’s Field có khả năng là nơi tụ tập của Boss Tweed và các chính trị gia tham nhũng của New York.

+ Charles đến đây vào ngày 15 tháng 7 năm 1868.

+ Bị đốt cháy sau một vụ nổ, được phỏng đoán là ngay sau chuyến viếng thăm của giấu bí mật của ông ấy?

+ Xác ở dưới tầng hầm, đàn ông, được phỏng đoán bị Charles Singleton giết.

- Phát bắn vào trán bởi khẩu Navy Colt 36 ly, được nạp đạn 39 ly (loại súng mà Charles sở hữu).

+ Những đồng tiền vàng.

+ Người đàn ông bị giết có một khẩu Derringer.

+ Không có danh tính.

+ Có chiếc nhẫn khắc chữ “Winskinskie”.

- Nghĩa là “người canh cửa” hoặc “người gác

+ Bộ bài tarot, thiếu lá số mười hai; không có manh mối.

+ Bản đồ chi tiết bảo tàng nơi Geneva bị tấn công và các tòa nhà bên kia con phố.

+ Dấu vết:

- Falafel và sữa chua.

- Các mẫu gỗ lấy ra từ mặt bàn làm việc với vệt acid sulfuric tinh chất.

- Chất lỏng trong suốt, không phải chất nổ. Gửi tới phòng thí nghiệm của FBI.

* Xác định là Murine.

- Nhiều sợi vài từ dây thừng hơn. Thừng thắt cổ?

- Carbon nguyên chất tìm thấy trên tấm bản đồ.

* Xác định là bụi kim cương.

* Ngôi nhà được thuê, bằng tiền mặt, với cái tên Billy Todd Hammil. Khớp với miêu tả của Nghi phạm 109, nhưng không có manh mối nào liên quan tới Hammil thực tế.

Hiện trường Bảo tàng Mỹ - Phi

+ Gói đồ hiếp dâm:

- Lá bài tarot, số mười hai trong bộ bài, Người treo ngược, có nghĩa là sự tìm kiếm tâm linh.

- Chiếc túi có hình mặt cười.

* Quá chung chung để lần tìm.

- Dao rọc giấy.

- Bao cao su Trojan.

- Băng dính.

- Dầu thơm mùi hoa nhài.

- Vật không rõ giá 5,95 đô. Có khả năng là chiếc mũ trùm.

- Hóa đơn, cho thấy cửa hàng nằm ở thành phố New York, cửa hàng tạp hóa giảm giá hoặc một hàng dược phẩm.

* Nhiều khả năng được mua từ một cửa hàng trên phố Mulberry, Little Italy. Hung thủ được nhận dạng bởi nhân viên bán hàng.

+ Dấu tay:

- Nghi phạm đeo găng tay cao su.

- Dấu tay trên gói đồ thuộc về một người có bàn tay nhỏ, không có dữ liệu trong hệ thống IAFIS. Nhiều khả năng là của nhân viên bán hàng.

+ Dấu vết:

- Sợi thừng vải bông, một vài có vết máu người. Dây để thắt cổ?

* Gửi tới CODIS.

* Không tìm thấy DNA trùng khớp ở CODIS.

- Bỏng ngô và kẹo bông với những dấu vết nước đái chó.

+ Vũ khí:

- Dùi cui hoặc một chiếc côn.

- Khẩu súng có ổ thuốc lớn, hạt kích nổ vành, kiểu súng ngắn Quân đội Bắc Mỹ 22 ly, loại Black Widow hoặc Minimaster.

- Tạo những viên đạn riêng, đầu đạn với những chiếc kim. Không thấy dữ liệu trong IBIS hay DRUGFIRE.

+ Động cơ:

- Geneva Settle là nhân chứng một vụ phạm tội đang trong kế hoạch thực hiện - ở Trung tâm mua bán trang sức bên kia con phố từ bảo tàng Mỹ - Phi

+ Hồ sơ vụ việc gửi tới VICAP và NCIC.

- Vụ giết người ở Amarillo, Texas, năm năm trước. Cũng có hiện trường được làm giả (làm như vụ giết người là nghi lễ tôn giáo, nhưng động cơ thật sự vẫn chưa được tìm ra).

* Nạn nhân là một người gác ngục đã nghỉ hưu.

* Bức ảnh từ máy tính được gửi tới nhà tù Texas.

• Được nhận dạng là Thompson G. Boyd, nhân viên thi hành án.

+ Vụ giết người ở Ohio, ba năm về trước. Cũng có hiện trường được làm giả (làm như đó là một vụ tấn công tình dục đồng giới, nhưng động cơ thật sự là được thuê giết). Hồ sơ bị thất lạc.

Hồ sơ về Nghi phạm 109

+ Thompson Boyd, cựu nhân viên thi hành án, Amarillo, TX.

+ Hiện đã bị bắt giữ.

Hồ sơ về kẻ thuê Nghi phạm 109

+ Chưa có thông tin gì lúc này.

Hồ sơ về đồng phạm của Nghi phạm 109

+ Nam, da đen.

+ Cuối ba mươi, đầu bốn mươi.

+ Cao khoảng 1m8.

+ Thân thể khỏe mạnh cường tráng.

+ Mặc chiếc áo dã chiến màu xanh.

+ Từng là phạm nhân.

+ Chân khập khiễng.

+ Được báo cáo có mang súng.

+ Râu được cạo sạch sẽ.

+

+ Đang đợi các nhân chứng thêm và băng ghi hình ninh.

- Băng ghi hình chưa rõ ràng, được gửi tới phòng thí nghiệm để phân tích.

+ Giày lao động cũ kỹ.

Hồ sơ về Charles Singleton

+ Cựu nô lệ, tổ tiên của Geneva Settle. Có gia đình, một con trai. Được ông chủ cho một vườn cây ở tiểu bang New York. Làm việc với vai trò một thầy giáo. Tham gia vào cuộc vận động vì dân quyền từ rất sớm.

+ Charles bị cho là đã thực hiện một vụ ăn trộm năm 1868, chủ đề của bài báo trong tấm vi phim bị lấy trộm.

+ Có một bí mật chưa được hé lộ. Lo lắng rằng sẽ gây ra thảm kịch nếu bí mật bị hé lộ.

+ Tham gia vào các buổi họp bí mật ở Gallows Heights gần New York.

- Dính líu tới những hoạt động mạo hiểm?

+ Làm việc với Frederick Douglass và những người khác liên quan tới Tu chính án số 14 trình Thượng viện để được phê chuẩn.

+ Vụ án, theo tờ Tuần báo Minh họa dành cho người da màu :

- Charles bị bắt bởi Thám tử William Simms vì ăn trộm một lượng lớn từ Quỹ Nô lệ tự do ở New York. Đột nhập vào két, nhân chứng nhìn thấy ông ta rời khỏi đó nhanh chóng. Dụng cụ dùng để gây án được tìm thấy ở gần đó. Phần lớn tiền đã được tìm lại. Bị tuyên án năm năm tù. Không có thông tin gì về ông ấy sau khi bị tuyên án. Bị cho là tận dụng quan hệ với những nhà lãnh đạo trong cuộc vận động dân quyền thời gian đầu để tiếp cận Quỹ.

+ Thư của Charles:

- Bức thư thứ nhất, gửi tới vợ: về cuộc khởi nghĩa chống quân dịch năm 1863, sự chống lại người da đen ở khắp tiểu bang New York, hành hình, đốt phá. Nguy cơ ảnh hưởng tới tài sàn mà người da đen sở hữu.

- Bức thư thứ hai, tới vợ: Charles trong trận chiến ở Appromattox vào giai đoạn cuối cuộc Nội chiến.

- Bức thư thứ ba, tới vợ: Tham gia vào cuộc vận động quyền dân sự. Bị đe dọa vì công việc của mình. Đau khổ với bí mật.

- Bức thư thứ tư, tới vợ: Đi tới Potter’s Field với khẩu súng vì “công lý”. Kết quả thảm khốc. Sự thật hiện đang nằm sâu dưới quán Potter’s Field. Bí mật của ông ấy là tất cả những gì khiến ông ấy đau khổ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,259
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34


Bỏ đi cái xe đẩy chở hàng, Jax lại đóng vai kẻ vô gia cư một lần nữa.

Lúc này hắn không còn bị tâm thần phân liệt như trước đây nữa. Vua Graffiti đang giả vờ là một cựu chiến binh bị bắn vào mông điển hình, cảm thấy nuối tiếc, thương hại chính mình, xin tiền lẻ, ngửa một chiếc mũ Mets cũ sờn ra trên vỉa hè dính đầy bã kẹo cao su và đựng ba mươi bảy cent.

Một trò rẻ tiền.

Hắn không còn mặc chiếc áo khoác dã chiến màu oliu nâu xám hay chiếc áo màu xám, mà đang mặc một chiếc áo phông màu đen đầy bụi bên trong chiếc áo khoác thể thao cũ sờn màu be (được nhấc lên khỏi một đống rác theo cách mà một người vô gia cư thật sự làm), Jax đang ngồi trên băng ghế bên kia ngôi nhà ở khu Central Park, ôm ấp một chiếc can được bọc kín trong chiếc túi giấy màu nâu bẩn thỉu. Đáng lẽ phải là loại rượu Malt, hắn nghĩ một cách chua chát. Ước gì là thế. Nhưng nó chỉ là trà đào Arizona. Hắn ngồi dựa ra sau, như đang nghĩ xem liệu mình muốn thử công việc kiểu gì để cũng có thể tận hưởng một ngày mùa thu thật mát mẻ, và nhấp thêm nhiều ngụm nước trà đào ngọt lịm. Hắn đốt một điếu thuốc và nhả khói vào bầu trời trong vắt.

Hắn đang nhìn một đứa nhóc từ trường trung học Langston Hughes bước tới, đứa vừa mới rời khỏi ngôi nhà ở phía tây khu Central Park, nó vừa đưa chiếc túi tới Geneva Settle. Vẫn không có dấu hiệu nào cho thấy có người đang kiểm tra khu phố từ bên trong, nhưng điều đó không có nghĩa là chẳng có ai trong đó. Hơn nữa, hai chiếc xe cảnh sát đậu ở trước nhà, một xe có sơn huy hiệu và một xe thường, ngay bên cạnh đường dành cho xe lăn. Vậy Jax đã đợi thằng nhóc mang đồ đến ở đây, cách đó gần một dãy phố.

Thằng nhóc gầy guộc bước tới và ngồi phịch xuống ghế bên cạnh vị vua Graffiti - không - hẳn - là - vô - gia - cư.

“Yo, yo.. chào.”

“Tại sao lũ nhóc chúng mày cứ nói ‘yo, yo’ suốt thế?”, Jax hỏi, nhái lại giọng. “Thế quái nào mày phải nói hai lần chứ?”

“Ai cũng nói thế. Vấn đề của ông là gì ch

?”

“Mày đã đưa cái túi chưa?”

“Có vấn đề gì với cái lão không có chân ấy chứ?”

“Ai?”

“Có một lão trong đó không có chân. Hoặc là lão ta có nhưng không dùng được.”

Jax không biết thằng nhóc đang nói về cái gì. Hắn muốn có một đứa lanh lẹ hơn đưa chiếc túi vào trong ngôi nhà, nhưng đây là đứa duy nhất hắn tìm thấy quanh cái sân trường Langston Hughes - nơi duy nhất có các mối liên hệ của Geneva Settle - và em gái của thằng nhóc này có vẻ biết con bé. Hắn nhắc lại: “Mày đã đưa con bé cái túi chưa?”.

“Tôi đã đưa rồi, ừm.”

“Nó nói gì?”

“Tôi chả biết. Điều gì đó rồi cảm ơn. Tôi không biết nữa.”

“Nó có tin mày không?”

“Lúc đầu, con bé có vẻ không biết tôi là ai, rồi sau đó nó có vẻ nhớ ra. Khi tôi nói đến em gái mình.”

Hắn đưa cho thằng nhóc vài tờ tiền.

“Tuyệt... Yo, nếu có điều gì khác cần tôi làm, tôi luôn sẵn sàng nhé. Tôi...”

“Biến đi.”

Thằng nhóc nhún vai và bắt đầu quay đi.

“Đợi đã.” Jax nói.

Thằng nhóc vừa đi vừa nhún nhảy rồi dừng lại. Nó quay đầu.

“Con bé nhìn như thế nào?”

“Con quỷ cái ấy á? Nhìn nó như thế nào ư?”

Không, đó không phải là điều hắn đang tò mò muốn biết. Nhưng hắn không biết phải hỏi như thế nào, rồi quyết định không muốn hỏi nữa. Hắn lắc đầu. “Đi làm việc của mày đi.”

“Gặp sau nhé.”

Thằng nhóc biến mất.

Một phần tâm trí nói với hắn ở lại đây. Nhưng như thế có vẻ là ngu ngốc. Tốt hơn là nên giữ khoảng cách giữa hắn với chỗ ấy. Hắn sẽ biết sớm, bằng cách này hay cách khác, điều xảy ra khi con bé nhìn vào cái túi.

Geneva ngồi trên giường, nằm ngả ra, nhắm nghiền mắt, tự hỏi cô đang cảm thấy dễ chịu vì điều gì.

Chà, họ đã bắt được tên giết người. Nhưng tất nhiên đó không thể là tất cả cảm giác đó, bởi cái gã thuê tên này vẫn ở đâu đó ngoài kia. Và cũng còn cả cái gã với khẩu súng ở sân trường, trong bộ áo khoác dã chiến.

Cô nên lo sợ, chán nản mới phải.

Nhưng cô không như vậy. Cô cảm thấy thoải mái, phấn chấn.

Tại sao?

Rồi cô đã hiểu ra: Đó là bởi vì Geneva đã nói ra điều bí mật của mình. Gỡ bỏ đi gánh nặng đè lên trái tim về việc phải sống một mình, về cha mẹ. Và không có một ai cảm thấy kinh khủng cũng như sốc và ghét bỏ cô vì điều dối trá ấy. Chú Rhyme và cô Amelia thậm chí còn giúp đỡ cô, cả thanh tra Bell nữa. Họ đã không hề bực tức và không tố cáo cô với cô giáo cố vấn.

Chà, cô cảm thấy yên tâm. Thật khó khăn biết bao, khi mang theo điều bí mật này - giống như Charles đã chất chứa điều bí mật của ông (dù nó có là điều gì đi nữa). Nếu như người cựu nô lệ đã nói với ai đó, liệu ông ấy có bớt được những nỗi buồn khổ sau đó không? Theo bức thư, có vẻ ông ấy cũng nghĩ như vậy.

Geneva nhìn vào chiếc tài đựng những quyển sách mà các nữ sinh ở Langston Hughes đã đưa cho cô. Sự tò mò trỗi dậy và cô quyết định nhìn chúng. Cô nhấc chiếc túi lên giường. Như lời của anh trai Ronelle nói, nó nặng cả tấn.

Cô mò vào trong và nhấc ra quyển sách của Laura Ingalls Wilder. Rồi quyển khác: Geneva cười thành tiếng lớn. Cái này còn lạ lùng hơn nữa: Đó là một cuốn truyện trinh thám của Nancy Drew. Kỳ lạ vì điều gì? Cô nhìn vào một vài tựa đề, sách của Judy Bume, Dr Seuss, Pat McDonald. Đều là sách cho trẻ em và lứa tuổi thanh thiếu niên. Các tác giả tuyệt vời, cô biết tất cả họ.

Nhưng cô đã đọc những câu chuyện của họ hằng năm trước rồi. Như thế thì sao? Chẳng phải Ronelle và lũ nhóc biết cô hay sao? Phần lớn những cuốn sách cô đọc để giải trí gần đây là các tiểu thuyết dành cho người lớn: Tàn dư của ngày của Kazuo Ishiguro và Người phụ nữ của Trung úy Pháp của John Fowles. Lần gần đây nhất cô đọc Trứng xanh và đùi lợn đã là mười năm trước rồi.

Có thể có gì đó hay ho hơn ở bên dưới chăng. Cô bắt đầu mò vào trong cùng.

Một tiếng gõ cửa làm cô giật mình.

“Mời vào.”

Thom bước vào, mang theo một cái khay với Pepsi và vài gói bim bim.

“Đây nè”, anh nói.

“Vâng.”

“Anh nghĩ rằng em muốn một ít đồ ăn.” Anh mở lon soda cho cô bé. Cô lắc đầu với chiếc cốc mà anh đang định đổ vào. “Uống bằng lon cũng được mà” cô nói.

Cô muốn giữ mọi đồ vật trống để biết chính xác phải trả lại cho Rhyme bao nhiêu.

“Và... đồ ăn có ích cho sức khỏe.” Anh đưa cho cô một thanh kẹo Kit Kat, và họ cười.

“Có lẽ để sau.” Tất cả mọi người đều đang cố làm cho cô béo lên. Sự thật là, cô không quen với việc ăn uống. Đó là việc chúng ta làm cùng với gia đình quanh chiếc bàn ăn, không phải một mình, cúi gằm xuống một cái bàn cập kênh trong tầng hầm, vừa đọc một quyển sách hoặc đang ghi chú cho một bài tập về Hemingway.

Geneva nhấp một ngụm soda, khi Thom lôi những quyển sách ra khỏi túi cho cô. Cô cầm lên từng quyển một. Có một quyển của C.S. Lewis. Một quyển khác: Khu vườn bí mật.

Vẫn không có gì cho người lớn.

“Có một quyển to ở dưới cùng.” Anh nói, nhấc nó ra. Đó là một cuốn Harry Potter, tập đầu tiên. Cô đã đọc nó ngay từ khi nó vừa mới xuất bản.

“Em muốn đọc quyển này chứ?” Thom hỏi.

Cô do dự. “Chắc chắn rồi.”

Người phụ tá đưa cho cô bé quyển sách nặng trịch.

Một người đàn ông đi bộ thể dục tầm bốn mươi tuổi, đang tới gần, nhìn vào Jax - một cựu binh vô gia cư - đang mặc một chiếc áo khoác lấy từ thùng rác, giấu một khẩu súng ngắn trong tất và ba mươi bảy cent tiền bố thí trong túi áo.

Người đàn ông không thay đổi biểu lộ của mình khi ông ta lướt qua. Nhưng đúng là người đàn ông có thay đổi một chút của mình, nhấn thêm một bước chân giữa ông ta và gã da đen to lớn, một sự thay đổi nhỏ tới mức khó có thể thấy được. Ngoại trừ Jax gã thấy nó rõ ràng như thể người đàn ông đó đã dừng lại, quay đầu lại rồi bỏ chạy vừa hét lớn: “Tránh xa ra, đồ mọi đen”.

Hắn chán ngấy cái loại phân biệt chủng tộc này. Luôn luôn y hệt nhau. Liệu nó có bao giờ thay đổi không?

Có. Không.

Làm sao có thể biết được?

Jax cúi xuống một cách thản nhiên, chỉnh khẩu súng đang cộm lên ở tất và ép chặt vào xương chân đầy khó chịu. Rồi hắn tiếp tục bước lên phố, đi thật chậm rãi với cái chân cà nhắc.

“Yo, ông có tiền lẻ không?” Hắn nghe thấy tiếng nói từ phía sau của một người đàn ông đang đến gần.

Hắn nhìn thấy một người đàn ông cao, lom khom với làn da tối màu, cách sau hắn khoảng ba mét. ông ta nhắc lại: “Yo, tiền lẻ, ông có chứ?”.

Hắn lờ đi người ăn mày và nghĩ, thật hài hước. Cả ngày, hắn đã đóng vai là một kẻ vô gia cư hoặc gần như vậy và bây giờ xuất hiện một kẻ ăn mày thực thụ. Đây là những gì hắn nhận được với vai diễn của mình lúc này.

“Yo, tiền lẻ?”

Hắn nói một cách cộc lốc: “Không, tôi không có”.

“Nào. Ai mà chả có một ít tiền lẻ. Và thường thì họ ghét chúng lắm. Họ muốn vứt bỏ chúng. Tất cả các đồng xu đều thật nặng và ta chẳng mua được cái khỉ gì cả. Tôi đang giúp đỡ anh đấy, người anh em.”

“Biến đi!”

“Tôi đã không ăn gì hai ngày rồi.”

Jax nhìn ra sau, gắt gỏng. “Tất nhiên là không rồi. Vì mày xài hết tiền vào mấy cái đồ của Calvin Kleins này rồi.” Hắn nhìn vào bộ quần áo của người đàn ông - tuy bẩn thỉu nhưng là một bộ Adidas thể thao màu xanh da trời sáng. “Đi mà kiếm việc làm đi”, Jax quay đi và bắt đầu bước lên phố.

“Được rồi”, tên ăn mày nói. “Mày không định cho tao ít tiền lẻ nào chứ gì, vậy thì nếu mày đưa những bàn tay bẩn thỉu của mày cho tao thì sao?”

“Tay của...?”

Jax thấy chân mình bị kéo trượt khỏi mặt đất bên dưới. Hắn ngãđập mặt xuống vỉa hè. Trước khi hắn có thể vặn người lại và lấy khẩu súng thì cả hai cổ tay đã bị xoắn vòng ra sau lưng và có vẻ như một khẩu súng ngắn bự đã nhấn vào hõm sau tai hắn.

“Mày đang làm cái gì đấy?”

“Câm mồm.” Những bàn tay vỗ dọc người hắn và tìm thấy khẩu súng rồi còng tay hắn lại, Jax bị thúc xuống tư thế ngồi. Hắn phát hiện ra mình đang nhìn vào một tấm thẻ nhân viên FBI. Tên riêng ghi trên đó là Frederick. Họ là Dellray.

“Ồ, anh bạn.” Jax nói, giọng trống rỗng. “Tôi không muốn rắc rối thế này.”

“Chà, đoán xem, ôn con, có cả đống rắc rối trên đường mày đi. Nên tốt hơn là mày làm quen với nó đi.” Viên đặc vụ đứng dậy và một lát sau Jax nghe thấy: “Dellray đây. Tôi đang ở ngoài. Tôi nghĩ rằng tôi đã tóm được đồng đảng của Boyd. Tôi mới thấy hắn nhét tiền cho thằng nhóc mới đi ra khỏi nhà của Lincoln. Thằng nhóc da đen, tầm mười ba tuổi. Nó làm gì ở đó?... Chiếc túi? Mẹ kiếp, đó là một thiết bị đấy! Khả năng là khí độc. Boyd hẳn đã đưa nó cho thằng nhóc kia để tuồn vào bên trong rồi. Đưa mọi người ra ngoài ngay và gọi 1033... Và đưa ai đó đến chỗ Geneva ngay!”

Trong phòng thí nghiệm của Rhyme, gã đàn ông to lớn ngồi với tay bị còng và chân thì bị xích vào ghế, xung quanh là Dellray, Rhyme, Bell, Sachs và Sellito. Hắn đã bị tước hết súng, ví, dao, chìa khóa, điện thoại, thuốc lá và tiền.

Trong nửa tiếng đồng hồ, sự hỗn loạn bất ngờ diễn biến trong ngôi nhà của Lincoln Rhyme. Bell và Sachs đã tự tay tóm lấy Geneva, hối thúc cô bé ra ngoài lối cửa sau và vào trong xe của Bell, rồi nhanh chóng tăng tốc di chuyển đề phòng trường hợp có một kế hoạch tấn công khác khi Geneva ra ngoài. Tất cả những người khác thì sơ tán ra con hẻm. Đội chống bom mìn, một lần nữa trong bộ đồ phòng chống độc, chạy lên lầu, sử dụng tia X-quang và rồi kiểm tra hóa chất những quyển sách. Không có chất nổ, không có khí độc. Chỉ đơn giản là những quyển sách, mục đích là, Rhyme phỏng đoán, khiến cho họ nghĩ rằng có thiết bị gì đó trong những quyển sách trong tủi. Sau khi họ sơ tán khỏi tòa nhà, tên đồng đảng có thể lẻn vào qua cửa sau hoặc đi vào cùng với lính cứu hỏa hoặc cảnh sát để chờ cơ hội giết

Geneva.

Vậy đây chính là gã đàn ông mà Dellray đã nghe những tin đồn về ngày hôm qua, kẻ đã gần như tóm được Geneva ở sân trường Langston Hughes, kẻ đã tìm ra nơi cô bé sống và lần theo đến chỗ ở của Rhyme để thực hiện một lần nữa nỗ lực tấn công cô bé.

Rhyme hy vọng, hắn cũng chính là kẻ, có thể nói với họ aithuê Boyd.

Nhà tội phạm học lúc này quan sát hắn một cách cần thận, gã đàn ông to lớn không hề nhếch mép. Hắn đã đổi chiếc áo dã chiến bằng một chiếc áo thể thao màu nâu sờn, hẳn là cho rằng họ đã chú ý tới hắn ở trường ngày hôm qua với chiếc áo dã chiến màu xanh lá cây.

Hắn chợp mắt và nhìn xuống sàn nhà, cảm thấy mình nhỏ lại vì bị bắt nhưng không hề bị đe dọa bởi những cảnh sát đang ngồi xung quanh. Cuối cùng, hắn nói: “Nghe này, các ngài không...”.

“Shhhh”, Dellray yêu cầu im lặng và tiếp tục lục lọi chiếc ví của hắn, trong khi giải thích với đội phá án điều đã xảy ra. Viên đặc vụ đang mang báo cáo từ các cuộc điều tra về việc rửa tiền của FBI ở khu trang sức khi thấy một thằng nhóc bước ra khỏi nhà của Rhyme. “Tôi thấy hắn đưa cho thằng nhóc một vài tờ đô la và đuổi thằng nhóc đi. Bản miêu tả và cái chân cà nhắc khớp với những gì chúng tôi được thông báo trước đó. Có vẻ hài hước đối với tôi, nhất là khi tôi thấy hắn có một mắt cá bị dị dạng”. Viên đặc vụ hất đầu về phía khẩu súng tự động nhỏ cỡ 32 ly tìm thấy trong tất của Jax. Dellray giải thích rằng mình đã cởi chiếc áo khoác, bọc các tài liệu vào trong đó và nhét chúng vào trong mấy bụi cây,

bôi ít bùn đất lên bộ quần áo thể thao để giả làm một kẻ vô gia cư, một vai mà anh đã diễn khá nổi tiếng ở New York khi đang làm nhiệm vụ chìm. Rồi anh tiến tới tóm cổ hắn.

“Hãy cho tôi nói vài lời”, kẻ tòng phạm của Boyd bắt đầu nói.

Dellray vẫy vẫy ngón tay khổng lồ của mình vào hắn ta. “Chúng tôi đồng ý sẽ cho anh cơ hội để nói, chúng tôi muốn mọi việc được nói ra rõ ràng từ chính miệng anh. Nhất trí chứ?”

“Tôi...”

“Nhất trí?”

Hắn gật đầu một cách dứt khoát.

Viên đặc vụ FBI đưa ra những gì tìm thấy bên trong chiếc ví: tiền, một vài bức ảnh gia đình, có một bức đã mờ và cũ. “Đây là gì?”, anh hỏi.

“Kiểu ký hiệu riêng của tôi.”

Viên đặc vụ giơ tấm ảnh lên cho Rhyme xem. Đó là một toa tàu điện ngầm kiểu cũ ở New York. Hình vẽ graffiti rực rỡ một bên ghi, Jax 157.

“Một họa sĩ graffiti”, Sachs nói, nhướn mày. “Cũng khá đẹp.”

“Anh vẫn được gọi là Jax?”, Rhyme hỏi.

“Vẫn thường thế.”

Dellray giơ lên bức ảnh trong một tấm thẻ căn cước. “Có thể anh là Jax đối với Sở Giao thông, nhưng đối với phần còn lại của thế giới thì anh là Alonzo Jackson. Đồng thời cũng được biết đến như là phạm nhân số 220934, từ Trại cải tạo ở Alden của thành phố New York xinh đẹp.”

“Đó là Buffalo, đúng không?”, Rhyme hỏi.

Kẻ đồng phạm của Boyd gật đầu.

“Là mối quan hệ trong tù nữa. Đó là cách anh làm quen với hắn phải không?”

“Ai?”

“Thompson Boyd.”

“Tôi không biết bất cứ ai tên là Boyd.”

Dellray quát lớn: “Vậy thì ai thuê mày làm việc này chứ?”.

“Tôi không biết các ông đang hỏi về việc gì. về công việc này. Tôi thề là tôi không biết.” Hắn ta có vẻ như thực sự không hiểu. “Và tất cả những cái này nữa, khí độc hay bất cứ thứ gì mà mọi người đang nói đến. Tôi...”

“Anh đang tìm kiếm Geneva Settle. Anh mua một khẩu súng và anh đến trường cô bé sáng ngày hôm qua.” Sellito giải thích.

“Ừm, điều đó đúng.” Hắn ta nhìn với một sự kinh ngạc về những gì mà họ biết.

“Và anh xuất hiện ở đây”, Dellray tiếp tục. “Đó là cái việc mà chúng tôi đang nói đến.”

“Chẳng có công việc nào ở đây cả. Tôi không hiểu ý ngài là gì. Thật lòng đấy.”

“Vậy thì những quyển sách là sao?”, Sellito hỏi.

“Đó chỉ là những quyển sách mà con gái tôi đọc khi nó còn nhỏ. Chúng là cho cô bé.”

Viên đặc vụ lẩm bẩm: “Tuyệt. Nhưng giải thích cho chúng tôi tại sao anh trả công cho người khác để đưa chúng cho...” Anh ta ngập ngừng rồi cau mày. Trong khoảnh khắc, dường như những lời nói không nảy ra khỏi miệng của Fred Dellray.

Rhyme hỏi: “Anh đang nói là...?”.

“Đúng vậy.” Jax thở dài. “Geneva. Nó là con gái tôi.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,259
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35


“Từ đầu”, Rhyme nói.

“Được rồi. Đó là... Tôi bị bắt sáu năm trước và lĩnh bản án sáu đến chín năm ở Wende.”

Một nhà tù an ninh tối đa của Trại cải tạo ở Buffalo.

“Vì lý do gì?”, Dellray ngắt lời. “Vụ cướp và giết người mà chúng tôi nghe nói đến?”

“Một là cướp. Một là tàng trữ vũ khí. Một là tội hành hung người khác.”

“Án tối đa 25-25? Vụ giết người?”

Anh ta nói một cách quả quyết: “Đó không phải là một tội đúng. Từ việc bị đánh gục thành hành hung. Ban đầu tôi không hề làm điều đó.”

“Chưa từng nghe điều này”, Dellray lẩm bẩm.

“Nhưng anh đã tham gia vụ cướp?” Sellito hỏi.

Anh ta nhăn mặt. “Đúng.”

“Tiếp tục đi.”

“Năm ngoái tôi được chuyển đến trại an ninh tối thiểu Alden. Được làm việc bên ngoài nhà tù trong thời gian thi hành án. Tôi đã làm việc và đến trường giáo dưỡng ở đó. Và được thả có điều kiện trước thời hạn bảy tuần trước.”

“Nói cho tôi biết về vụ cướp.”

“Được thôi. Vài năm về trước, tôi là một thợ sơn, làm việc ở Harlem.”

“Graffiti?”, Rhyme hỏi, hất đầu về phía bức ảnh toa tàu điện ngầm.

Jax cười, nói: “Sơn nhà. Ta không làm ra tiền với graffiti, trừ khi ta là Keith Haring và nhóm của ông ta. Và họ cũng là những người giỏi thực sự. Dù sao thì tôi cũng sẽ bị giết bởi món nợ. Anh biết chứ, Venus - mẹ của Geneva - có những vấn đề thực sự. Đầu tiên là cocain, rồi heroin và sau cùng là ma túy đá. Chúng tôi cần tiền để bảo lãnh và trả cho

các luật sư nữa.”

Nỗi buồn trên khuôn mặt anh ta có vẻ là thật. “Có những dấu hiệu cho thấy cô ấy có vấn đề khi chúng tôi sống với nhau. Nhưng, các anh biết đấy, chẳng ngoài tình yêu có thể biến ta thành một tên ngốc mù quáng. Dù sao thì, chúng tôi cũng sắp bị đá khỏi ngôi nhà và tôi không có tiền mua quần áo và sách vở cho Geneva hay thậm chí là thức ăn. Con bé cần một cuộc sống bình thường. Tôi đã nghĩ rằng nếu chứng tôi có thể lấy được ít tiền thì tôi sẽ đưa Venus đi chữa trị hoặc làm gì đó, để đưa cô ấy sống trở lại. Và nếu cô ấy không làm thế, tôi sẽ đưa Geneva đi xa, tạo dựng một gia đình tốt hơn cho con bé.

Những gì xảy ra là do gã này, Joey Stokes, nói với tôi về thỏa thuận mà hắn có được ở Buffalo. ở đó có chiếc xe được trang bị vũ khí chạy vào các thứ Bảy, thu lượm các hóa đơn từ các khu mua sắm bên ngoài thành phố. Có vài gã bảo vệ lười nhác. Đó là chiếc xe đi thu gom.

Joey và tôi rời đi vào sáng thứ Bảy, nghĩ rằng chúng tôi có thể quay về với năm mươi, sáu mươi ngàn mỗi người tối hôm đó.” Một cái lắc đầu buồn bã. “Chà, tôi không biết rằng mình đang làm gì lúc đó, nghe theo cái gã đó. Khoảnh khắc mà người lái xe đưa tiền, mọi thứ trở nên tồi tệ. Anh ta có hệ thống báo động bí mật mà chúng tôi không biết. Anh ta nhấn nó và tiếng còi xe cảnh sát hú lên khắp nơi.

Chúng tôi chạy hướng về phía nam nhưng đi tới đoạn giao với đường tàu, chúng tôi đã không để ý. Chuyến tàu chở hàng đã bị dừng lại. Chúng tôi quay ngược và chạy vào vài con đường không có trên bản đồ và phải đi qua một cánh đồng. Hai lốp xe bị thủng và phải chạy bộ. Cảnh sát ập đến chỉ khoảng nửa giờ sau đó. Joey bảo phải chống cự còn tôi nói không và hét lên rằng chúng tôi đầu hàng. Nhưng Joey nổi điên và bắn vào chân tôi. Lực lượng cảnh sát nghĩ rằng chúng tôi đang nhắm bắn vào họ. Đó là tội cố ý giết người.”

“Và anh phải trả giá”, Dellray nói, với ngữ điệu, chứ không phải ngữ pháp, của một nhà triết học nghiệp dư.

“Chúng tôi đã bị nhốt trong trại tạm giam một tuần, mười ngày trước khi họ cho phép tôi được gọi điện. Dù sao thì tôi không thể gọi cho Venus được; điện thoại của chúng tôi đã bị cắt. Luật sư của tôi là một thằng nhóc nào đó từ Sở trợ giúp pháp lý, cậu ta chẳng làm được cái gì cả. Tôi có gọi cho một vài người bạn nhưng họ không thể tìm ra Venus hay Geneva. Hai mẹ con đã bị đá ra khỏi căn hộ.

Tôi đã viết những bức thư từ trong tù. Chúng vẫn luôn bị gửi lại. Tôi gọi cho bất cứ ai có thể nghĩ tới. Tôi đã rất muốn được gặp cô ấy! Mẹ của Geneva và tôi đã mất một đứa bé trước đó. Và rồi tôi đánh mất Geneva khi phải vào tù. Tôi muốn lại có gia đình của mình.

Sau khi được thả ra, tôi đến đây để tìm con bé.

Thậm chí c việc sử dụng những đồng tiền tôi có vào cái máy tính cũ kỹ này để tìm nó trên mạng hay bằng cách nào đó. Nhưng tôi đã chẳng may mắn chút nào. Tất cả những gì tôi được nghe nói tới là Venus đã chết và Geneva đã đi mất. Dễ dàng biến mất và rơi vào lãng quên ở Harlem này. Tôi cũng không thể tìm thấy cô của mình nữa, nơi hai mẹ con họ thường đến ở một vài lần. Rồi sáng ngày hôm qua một người phụ nữ mà tôi quen trước đây, làm việc ở Midtown, nhìn thấy sự náo loạn ở bảo tàng dành cho dân da đen này, có một cô bé bị tấn công và bà ta nghe thấy tên cô bé là Geneva, mười sáu tuổi và sống ở Harlem. Bà ấy biết tôi đang tìm con gái và gọi cho tôi. Tôi liên lạc với một gã trong các băng nhóm ở khu ngoại ô và rồi anh ta kiểm tra các trường học ngày hôm qua. Tìm hiểu được là con bé học ở trường Langston Hughes. Tôi đến đấy để tìm con bé.”

“Họ phát hiện ra anh”, Sellito nói. “Ở sân trường.”

“Đúng vậy. Tôi đã đến đó. Khi tất cả đuổi theo thì tôi bỏ chạy. Nhưng tôi quay lại và biết được nơi ở của con bé qua thằng nhóc đó, ở khu tây Harlem, Morningside. Tôi đến đó ngày hôm nay, định để những cuốn sách lại đó nhưng tôi thấy các anh đưa nó lên xe và đi mất.” Anh ta hất đầu về phía Bell.

Viên thanh tra cau mày: “Anh đang đẩy chiếc xe chở đồ”.

“Đúng là tôi giả vờ như vậy. Tôi bắt một chiếc taxi và đi theo mọi người tới đây.”

“Với khẩu súng”, Bell nhấn mạnh.

Anh ta nói: “Có kẻ nào đó đang cố gắng tấn công cô gái bé nhỏ của tôi! Nên tôi mới mua cho mình khẩu súng này. Tôi sẽ không để bất cứ chuyện gì xảy ra với con bé”.

“Anh dùng nó?”, Rhyme hỏi. “Khẩu súng?”

“Không.”

“Chúng tôi sẽ kiểm tra nó.”

“Tất cả những gì tôi làm là rút nó ra và dọa những thằng nhóc mất dạy đó để chúng nói cho tôi biết chỗ Geneva sống, một thằng nhóc tên là Kevin, nó nói xấu về con gái tôi. Thật tồi tệ là nó tè ra quần khi tôi gí khẩu súng vào nó... nó đáng bị như vậy. Nhưng đó là tất cả những gì tôi đã làm - bên cạnh việc tôi có cãi lộn với nó. Các anh có thể tìm ra nó và hỏi.”

“Tên bà ta là gì, người phụ nữ gọi cho anh ngày hôm qua?”

“Betty Carlson. Bà ấy làm việc cạnh bảo tàng.” Anh ta hất đầu về phía chiếc điện thoại. “Số của bà ấy ở trong danh sách cuộc gọi đến. 718 - đó là mã vùng.Sellito lấy điện thoại và bước ra hành lang.

“Thế còn gia đình của anh ở Chicago thì sao?”

“Cái gì của tôi cơ?”, anh ta cau mày.

“Mẹ của Geneva nói rằng anh chuyển tới Chicago với ai đó và cưới cô ta.” Sachs giải thích.

Jax nhắm mắt trong sự căm phẫn. “Không, không... Đó là một lời nói dối. Tôi chưa từng đến Chicago. Venus chắc chắn đã nói với Geneva điều đó để đầu độc con bé chống lại tôi... Người phụ nữ đó, tại sao tôi đã từng yêu cô ta được chứ?”

Rồi Rhyme nhìn vào Cooper. “Gọi cho Trại cải tạo.”

“Không, không, làm ơn”, Jax nói, khuôn mặt tuyệt vọng. “Họ sẽ buộc tội tôi vi phạm một lần nữa. Tôi không thể ra quá hai mươi lăm dặm từ Buffalo. Tôi xin phép ban có thẩm quyền hai lần và cả hai lần họ đều không chấp nhận. Thế là tôi vẫn cứ đi.”

Cooper cân nhắc điều này. “Tôi có thể kiểm tra anh ta thông qua hệ thống dữ liệu cơ bản của Trại cải tạo. Như thế sẽ bình thường. Các Cán bộ giám sát không thấy điều đó.”

Rhyme gật đầu. Một lát sau bức ảnh của Alonzo Jackson và hồ sơ của anh ta hiện lên trên màn hình máy tính. Cooper đọc to nó lên. “Xác nhận những gì anh ta nói. Được thả ra trước thời hạn nhờ cải tạo tốt. Có vài tín chỉ cao đẳng. Và có đề cập đến một con gái, Geneva Settle, là con ruột.”

“Cảm ơn vì điều đó”, Jax nói, cảm thấy thoải mái. “Cái gì với những quyển sách?”

“Tôi không thể chỉ đến chỗ các anh và nói tôi là ai - tôi có thể bị tóm lại - nên tôi lấy cả đống sách mà Geneva đã đọc khi con bé còn nhỏ. Để con bé có thể thấy được mẩu giấy ghi chú mà tôi gửi.”

“Ghi chú nào?”

“Tôi viết cho nó một mẩu ghi chú, nhét nó vào một trong những quyển sách.”

Cooper lục lọi trong túi. Trong một quyển Khu vườn bí mật cũ sờn là một mẩu giấy. Dòng chữ viết tay nắn nót ghi: Con yêu Gen, bố gửi cho con những thứ này. Hãy gọi cho bố. Bên dưới mẩu tin là số điện thoại của anh ta.

Sellito bước về phía cửa, gật đầu: “Đã gọi cho bà Carlson. Tất cả những gì anh ta nói đã được kiểm tra”.

Rhyme hỏi: “Mẹ của Geneva là bạn gái không phải vợ. Đó là lý do tại sao Geneva không mang họ Jackson?”.

“Đúng thế.”

“Anh sống ở đâu?”, Bell hỏi.

“Tôi có một phòng trọ ở Harlem. Phố 136. Khi tìm ra Geneva, tôi định đưa con bé quay lại Buffalo cho đến khi được phép trở về nhà.” Khuôn mặt anh ta trầm xuống và Rhyme tin rằng mình thấy nỗi đau thuần khiết trong đôi mắt đó. “Nhưng tôi không nghĩ rằng có nhiều cơ hội để điều đó xảy ra lúc này.”

“Tại sao?”, Sachs hỏi.

Jax cười một cách buồn bã. “Tôi đã nhìn thấy nơi con bé sống, một ngôi nhà đẹp ở gần Morningside. Tất nhiên, tôi rất vui cho con bé, thực sự rất vui. Nó đã có cho mình cha mẹ nuôi chăm sóc, có thể có cả một người anh, em trai hoặc chị em gái mà nó vẫn luôn mong muốn có nhưng không được, sau khi Venus trải qua khoảng thời gian đó ở phòng khám. Làm sao mà Geneva sẽ muốn trở lại với tôi? Con bé đã có cuộc sống mà nó xứng đáng được hưởng, tất cả những gì mà tôi không thể mang lại cho nó.”

Rhyme nhìn Sachs với cặp lông mày nhướn lên. Jax không nhìn thấy điều đó.

Câu chuyện của anh ta nghe hợp logic với Rhyme. Nhưng anh mang trong mình sự hoài nghi mà một cảnh sát vẫn luôn có. “Tôi muốn hỏi anh một vài câu.”

“Bất cứ điều gì.”

“Người cô mà anh đề cập đến là ai?”

“Em gái của cha tôi. Lilly Hall. Bà ấy cũng đã nuôi nấng tôi. Hai lần góa phụ. Bà ấy sẽ 90 tuổi vào năm

nay. Vào tháng Tám. Nếu như bà ấy vẫn còn sống.” Rhyme chẳng có manh mối nào về tuổi hay sinh nhật của bà ấy nhưng đó là cái tên mà Geneva nói với họ.

“Bà ấy vẫn sống.”

Một nụ cười trên khuôn mặt anh ta. “Tôi vui vì điều đó. Tôi đã rất nhớ bà ấy. Tôi cũng không thể tìm ra bà ấy nữa.”

Bell nói: “Anh có nói gì với Geneva về các từ ‘Ngài’. Nó là gì?”.

“Tôi nói với con bé ngay từ khi nó còn nhỏ là hãy nhìn vào trong mắt mọi người và luôn luôn đầy tự trọng, nhưng không bao giờ gọi ai đó là ‘ngài’ hay ‘bà’ trừ khi họ xứng đáng với điều đó.”

Viên thanh tra người Carolina gật đầu với Rhyme và Sachs.

Nhà tội phạm học hỏi: “Charles Singleton là ai?”. Jax chớp mắt trong sự ngạc nhiên. “Làm sao mà anh biết ông ấy?”

“Trả lời câu hỏi đi, anh bạn”, Dellray ngắt lời.

“Ông ấy là, tôi không nhớ chính xác, kiểu như là ông cố của ông cố của tôi, hay đại loại như thế.”

“Tiếp tục đi”, Rhyme khuyến khích.

“Chà, ông ấy từng là nô lệ ở Virginia. Ông chủ của ông ấy giải phóng ông và vợ rồi cho họ một trang trại phía bắc. Rồi ông xung phong vào Nội chiến, như trong bộ phim Glory. Ông ấy quay trở về sau đó, làm việc với vườn cây và dạy học ở trường - một trường học miễn phí dành cho người da đen. Bán rượu táo để kiếm tiền cho những người công nhân xây tàu trên con đường gần trang trại. Tôi còn biết ông ấy đã được tặng huân chương trong cuộc chiến, ông ấy thậm chí còn được gặp Abraham Lincoln một lần ở Richmond. Chỉ ngay sau khi quân Liên bang chiếm được vùng đất đó. Hoặc đó chỉ là những gì mà cha tôi kể lại.” Một tiếng cười buồn bã khác. “Rồi sau đó là câu chuyện ông ấy bị bắt vì ăn trộm vàng, tiền lương hoặc gì đó và phải vào tù. Giống như tôi.”

“Anh có biết chuyện gì xảy ra với ông ấy sau khi ra tù không?”

“Không. Chưa bao giờ nghe ai nói về điều đó. Vậy, anh có tin tôi là cha của Geneva không?”

Dellray nhìn Rhyme, nhướn mày.

Nhà tội phạm học đánh giá người đàn ông. “Gần như thế. Một điều cuối cùng. Há miệng ra.”

“Ông là cha tôi?”

Khó thở, gần như là choáng váng với điều đó, Geneva Settle cảm thấy trái tim mình đang đập loạn trong ngực. Cô bé nhìn ông ta một cách cẩn thận, nhìn lên khuôn mặt, vai, bàn tay. Phản ứng nắm chặt tay lại cho thấy sự nghi ngờ nhưng cô bé không thể phủ nhận rằng mình nhận ra ông ấy. Ông ấy vẫn đeo chiếc nhẫn mà mẹ cô, Venus, đã tặng vào dịp Giáng sinh - cái ngày họ vẫn còn chờ đón Giáng sinh. Dù sao, ký ức mà cô lấy ra để so sánh người đàn ông này, vẫn không rõ nét, giống như nhìn vào một người với ánh mặt trời sáng chói sau lưng họ.

Trừ bức ảnh trong bằng lái xe, cái ảnh khi cô còn là một đứa bé với ông ấy và mẹ của cô, bức ảnh về một trong những hình vẽ graffiti cũ của ông, cô không thể phủ nhận mối liên hệ giữa họ với hiện tại, trừ xét nghiệm DNA mà Cooper thực hiện. Không còn nghi ngờ gì về việc họ có quan hệ ruột thịt với nhau.

Chỉ có hai cha con ngồi cạnh nhau trên tầng - tất nhiên là không có ai khác, trừ thanh tra Bell, người bảo vệ cho cô. Những cảnh sát còn lại ở bên dưới đang điều tra nốt, cố gắng để tìm ra kẻ đứng đằng sau vụ cướp trang sức.

Nhưng Rhyme, Amelia và tất cả những người khác - cũng như gã sát nhân và tất cả những sự kiện đáng sợ khác trong mấy ngày qua - trong một lúc, đã không còn trong trí óc của họ. Câu hỏi mà giờ đây đang quay cuồng trong Geneva là: Làm thế nào mà cha cô có thể đến đây? Và tại sao?

Quan trọng nhất là: Điều đó có nghĩa gì với cô chứ?

Hất đầu về phía túi đồ. Cô nhấc quyển sách của Dr Seuss lên. “Con không đọc sách dành cho trẻ em nữa.” Đó là tất cả những gì cô nghĩ ra để nói lúc này. “Con đã mười sáu tuổi hai tháng trước.” Ý cô muốn nhắc cho ông ấy biết đã bao nhiêu sinh nhật phải ở một mình rồi.

“Ta đưa cho con những quyển này chỉ để con biết rằng đó là ta. Ta biết con đã lớn lên cùng chúng.”

“Thế còn gia đình khác của cha thì sao?”, cô hỏi với một giọng lạnh lùng.

Jax lắc đầu. “Họ đã nói với ta những gì Venus nói với con, Genie.”

Cô bỗng tức giận khi ông gọi cô bằng cái tên mà ông đã gọi từ rất nhiều năm trước. Viết tắt ghép từ ‘Geneva’ và ‘genius’ - thiên tài.

“Mẹ con dựng nên chuyện đó. Để con chống lại ta. Không, không, Genie, ta sẽ không bao giờ bỏ rơi con. Ta đã bị bắt.”

“Bị bắt?”

“Đó là sự thật, Geneva ạ.” Roland Bell nói. “Bọn chú đã kiểm tra hồ sơ của ông ấy. Ông ấy bị bắt đúng cái ngày rời khỏi cháu và mẹ. Ông ấy đã ở trong tù từ ngày đó. Mới được ra ngoài thôi.”

Rồi ông kể với cô bé về vụ cướp, về việc liều lĩnh kiếm chút tiền để cuộc sống của họ tốt hơn một chút, để giúp mẹ của cô.

Nhưng những lời nói trở nên mệt mỏi. Ông ấy đang nói một trong hàng ngàn những lời xin lỗi mà ta vẫn thường nghe quanh mình. Kẻ buôn bán ma túy, những kẻ ăn trộm trong cửa hàng, những kẻ lừa đảo trợ cấp xã hội, những tên cướp giật dây chuyền.

Ta làm những điều đó vì con, con yêu ạ

Cô cúi xuống nhìn quyển sách trong tay. Nó đã cũ. Nó dành cho ai khi còn mới? Cha mẹ mua quyển sách này cho con mình giờ ở đâu? Ở trong tù, rửa bát đĩa, lái một chiếc Lexus, hay đang tiến hành một ca phẫu thuật thần kinh?

Có phải cha cô đã lấy trộm nó từ một cửa hàng sách cũ?

“Ta quay lại để tìm con, Genie. Ta đã tuyệt vọng khi đi tìm con. Và ta thậm chí còn tuyệt vọng chán nàn hơn nữa khi Betty gọi điện và nói với ta rằng con bị tấn công... Điều gì đã xảy ra ngày hôm qua? Ai đang săn đuổi con? Chưa một ai nói với ta điều đó.”

“Con đã nhìn thấy một việc gì đó”, cô nói một cách qua loa, không muốn nói quá nhiều điều. “Có lẽ là một ai đó đang làm một việc phạm pháp.” Geneva không thích thú lắm với hướng hội thoại này. Cô nhìn ông và nói đầy giận dữ hơn dự định: “Cha biết là mẹ đã chết rồi”.

Ông gật đầu. “Ta không biết điều đó cho đến khi quay lại. Rồi ta nghe nói thế. Nhưng không hề ngạc nhiên. Mẹ con là một người phụ nữ đầy rắc rối. Có lẽ bà ấy đã hạnh phúc hơn lúc này.”

Geneva không nghĩ vậy. Dù trong bất cứ trường hợp nào thì cũng chẳng có một thiên đường tạo nên hạnh phúc cho cái chết cô đơn như bà ấy, thân thể bà ấy co rúm lại nhưng khuôn mặt thì phình ra như mặt trăng vàng.

Và nó không thể bao che cho nỗi đau trước đó - phải kiếm tiền trên thân xác của mình để có một vài viên ma túy đá trong khi con gái của bà ta đứng đợi bên ngoài cánh cửa.

Geneva không nói về những điều này.

Ông ấy cười. “Con đã có cho mình một nơi thực sự đẹp.”

“Chỉ là tạm thời thôi. Con sẽ không ở đó nữa.”

“Con không ở đó nữa? Con sẽ đi đâu?”

“Con không biết nữa.”

Cô từ chối nói ra điều này và nhận ra rằng, điều đó khiến ông bước chân ra cửa. Và, dù chắc chắn để thấy, ông nói mục đích của mình: “Ta sẽ đi hỏi Cán bộ giám sát liệu rằng ta có thể quay về đây. Biết rằng đang có một gia đình cần ta chăm sóc, có thể ông ấy sẽ đồng ý”.

“Cha không có gia đình nào ở đây. Không còn nữa.”

“Ta biết con đang giận ta lắm, con yêu. Nhưng ta sẽ tạo cho con một gia đình. Ta...”

Cô bé ném quyển sách xuống sàn nhà. “Sáu năm và không có gì hết. Không một lời. Không một cú điện thoại. Không một lá thư.” Nỗi tức giận, những giọt nước mắt tuôn ra từ đôi mắt cô. Cô lau sạch chúng và giũ tay mình.

Ông thầm thì: “Ta có thể viết rồi gửi đi đâu? Ta có thể gọi tới đâu? Ta vẫn kiên trì trong suốt sáu năm đó để liên lạc với con. Ta sẽ đưa cho con xem chồng thư mà ta có, tất cả đều gửi quay trở lại nhà tù. Hàng trăm lá thư. Ta đã cố làm tất cả mọi việc có thể nghĩ tới. Ta không thể nào tìm thấy con”.

“Chà, con cảm ơn lời xin lỗi. Nếu đó là một lời xin lỗi. Nhưng con nghĩ rằng đã đến lúc cha nên đi.”

“Không, con yêu, hãy để cha...”

“Không ‘con yêu’, không ‘Genie’, không ‘con gái’”

“Ta sẽ mang cho con một gia đình”, ông nhắc lại và lau những giọt nước mắt của mình.

Cô hoàn toàn không cảm thấy gì hết, khi nhìn thấy nỗi đau của ông - hay là bất cứ thứ gì đi nữa. Không có gì, ngoài sự giận dữ. “Đi đi!”

“Nhưng, con yêu, cha...”

“Không. Hãy đi đi.”

Một lần nữa, viên thanh tra từ bắc Carolina, chuyên gia bảo vệ nhân chứng, làm nhiệm vụ của mình một cách thành thục và không cần vẫy tay ra hiệu. Anh đứng dậy và lặng im nhưng kiên quyết đưa người cha đi ra hành lang. Anh gật đầu về phía cô bé, an ủi cô với một nụ cười và đóng cánh cửa lại phía sau, để lại Geneva một mình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,259
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36


Trong khi cô bé và cha của mình ở trên lầu, Rhyme cùng những người khác đang làm việc với những manh mối dẫn tới vụ cướp tiệm trang sức có nhiều khả năng sắp xảy ra.

Và chẳng có một thành công nào cả.

Những tư liệu mà Dellray mang tới cho họ về các vụ rửa tiền liên quan tới trang sức, đá quý nhưng chỉ là những chiến dịch nhỏ, không có vụ nào tập trung ở Midtown. Và họ không có một báo cáo nào từ Interpol hoặc các sở cảnh sát địa phương có chứa bất cứ thông tin gì liên quan tới vụ án.

Nhà tội phạm học lắc lắc đầu trong sự bế tắc, rồi điện thoại đổ chuông. “Rhyme nghe đây.”

“Lincoln, là tôi Parker.”

Chuyên gia phân tích chữ viết tay phân tích mẩu tin từ ngôi nhà ẩn náu của Boyd. Parker Kincaid và Rhyme trao đổi thông tin về gia đình và sức khỏe. Rhyme được biết rằng người sống cùng Kindcaid, đặc vụ FBI Margaret Lukas, vẫn ổn, cũng như những đứa con của Parker, Stephie và Robby.

Sachs gửi lời chào rồi Kincaid nói về vấn đề công việc. “Tôi đã làm việc liên tục với lá thư từ khi anh gửi. Tôi có một bản mô tả về người viết.”

Một bản phân tích chữ viết tay chi tiết không bao giờ chỉ ra nhân cách từ cách viết bức thư; bản thân chữ viết tay chỉ thích hợp khi so sánh một văn bản với một văn bản khác, như là, khi kiểm tra một giấy tờ hay văn bản giả mạo. Nhưng điều đó không hấp dẫn với Rhyme lúc này. Không, những gì mà Parker Kincaid đang nói tới là suy ra nhân cách, đặc điểm của người viết dựa vào ngôn ngữ mà anh ta sử dụng - cách viết “bất thường” mà Rhyme cảm thấy từ trước. Điều này có thể rất có ích cho việc nhận dạng các đối tượng nghi vấn. Phân tích về mặt ngữ pháp và cú pháp của tờ giấy đòi tiền chuộc trong vụ bắt cóc, Lindbergh là một ví dụ, đưa ra một bản mô tả hoàn hảo của kẻ bắt cóc, Bruno Hauptmaim.

Với sự nhiệt tình mà anh cảm thấy riêng cho công việc của mình, Kincaid tiếp tục: “Tôi tìm thấy một vài điều thú vị. Anh có tờ giấy trên tay chứ?”.

“Nó ở ngay trước mặt chún

g tôi đây.”

Một con bé da đen, ở cửa sổ này tầng năm, ngày mùng 2 tháng 10, khoảng 8 giờ 30 phút. Nó thấy chiếc xe chở hàng của tôi đậu ở con hẻm phía sau cửa hàng mua bán trang sức đá quý. Nó đã nhìn đủ để đoán ra được kế hoạch của tôi. Giết nó.

Kincaid nói: “Đầu tiên, hắn là một người sinh ra ở nước ngoài. Cú pháp rườm rà và việc viết sai chính tả cho tôi biết điều đó. Cũng như thế, cái cách hắn nói ngày tháng - đặt ngày trước tháng. Và thời gian được đưa ra theo đồng hồ kiểu 24 tiếng. Kiểu viết hiếm thấy ở Mỹ”.

Chuyên gia về chữ viết tay tiếp tục: “Giờ là một điểm quan trọng khác: Hắn ta...”.

“Hoặc cô ta”, Rhyme ngắt lời.

“Tôi đang nghiêng về khả năng là đàn ông”, Kincaid đưa ra ý kiến. “Sẽ nói với anh lát nữa. Hắn ta sử dụng giới tính với đại từ ‘anh’, có vẻ như để nói tới chiếc xe tải của mình. Như thế khá đặc biệt một vài ngoại ngữ khác nhau. Nhưng cái thực sự thu hẹp nó lại là hai cụm với cấu trúc sở hữu.”

“Cái gì cơ?” Rhyme hỏi.

“Cấu trúc sở hữu - cách để tạo nên từ sở hữu. Nghi phạm của anh viết là ‘chiếc xe tải của tôi’.”

Rhyme nhìn lại tờ giấy. “Thấy rồi.”

“Nhưng ngay dưới đó lại viết ‘những kế hoạch thuộc về tôi’. Điều này khiến cho tôi nghĩ rằng gã này của chúng ta có ngôn ngữ mẹ đẻ là tiếng Ả Rập.”

“Ả Rập?”

“Tôi có thể nói là 90% như vậy. Có một cấu trúc sở hữu trong tiếng Ả Rập là i.daafah. Cách sở hữu luôn được tạo thành bằng cách nói: ‘Chiếc xe John’. Nghĩa là: ‘Chiếc xe của John’. Hay là, trong tờ giấy của anh: ‘kế hoạch thuộc về tôi’. Nhưng những quy tắc ngữ pháp của tiếng Ả Rập đòi hỏi chỉ một từ nó sử dụng cho sự vật được sở hữu - từ ‘xe tải chở hàng’ không có trong tiếng Ả Rập. Đó là một cụm bốn từ, nên hắn không thể sử dụng i.daafah. Hắn chỉ đơn giản nói là ‘xe tải chở hàng của tôi’. Manh mối khác là việc sử dụng sai mạo từ không xác định trong từ ‘con hẻm’. Điều này khá phổ biến trong cộng đồng những người nói tiếng Ả Rập; ngôn ngữ mà không hề sử dụng các mạo từ không xác định, chỉ có mạo từ xác định ‘the’.” Kincaid thêm vào: “Điều này cũng đúng với tiếng ở xứ Wales, nhưng tôi không nghĩ rằng tên này đến từ Cardiff”.

“Tốt lắm, Parker”, Sachs nói. “Rất tinh tế, tốt quá.” Một nụ cười nhẹ qua loa ngoài. “Tôi sẽ nói cho cô biết, Amelia, bất cứ ai trong công việc này đều đang phải làm việc rất nhiều với việc nghiên cứu sâu về tiếng Ả Rập trong những năm qua.”

“Đó là lý do tại sao anh nghĩ rằng đó là một người đàn ông?”

“Có bao nhiêu hung thủ là phụ nữ người Ả Rập mà các anh từng thấy?”

“Không nhiều lắm... Gì nữa không?”

“Đưa cho tôi thêm nhiều mẫu hơn nữa và tôi sẽ so sánh chúng nếu các anh muốn.”

“Chúng tôi sẽ nhờ đến anh nữa.” Rhyme cảm ơn Kincaid và họ ngắt máy. Rhyme lắc đầu, nhìn vào tấm bảng ghi bằng chứng rồi cười một cách chế giễu.

“Anh đang nghĩ gì thế Rhyme?”

“Chúng ta biết hắn định làm gì, đúng không?”,

tội phạm học hỏi với một giọng đáng ngại.

Sachs gật đầu đồng ý. “Hắn không định cướp trung tâm mua bán trang sức. Hắn muốn thổi tung nó.”

“Đúng vậy.”

Dellary nói: “Chính xác rồi - những báo cáo mà chúng ta đã có, về những tên khủng bố nhắm vào các mục tiêu Israel ở trong khu vực”.

Sachs nói: “Người bảo vệ ở bên kia phố với bảo tàng nói họ có những chuyến hàng hằng ngày từ Jerusalem... Được rồi, tôi sẽ phong tỏa khu mua bán và đưa mọi người di tản”. Cô lôi điện thoại di động cùa mình ra.

Rhyme nhìn lên tấm bảng bằng chứng rồi nói với Sellito và Cooper: “Bánh falafel, sữa chua... và chiếc xe tải chở hàng. Tìm xem có bất cứ nhà hàng nào quanh khu mua bán có phục vụ đồ ăn Trung Đông, nếu có, ai giao hàng và khi nào. Họ sử dụng xe chở đồ loại nào.”

Dellray lắc lắc đầu. “Nửa thành phố ăn cái đồ đấy. Anh có thể mua một cái bánh gyro hay falafel ở bất cứ góc nào trong thành phố. Chúng...” Viên đặc vụ ngừng nói khi nhìn vào mắt Rhyme.

“Xe đẩy hàng.”

Sellito nói: “Có hàng tá xe đẩy hàng xung quanh bảo tàng ngày hôm qua”.

“Hoàn hảo để quan sát”, Rhyme nói. “Và quả là một cái vỏ bọc tốt. Hắn đưa đồ đến cho họ hằng ngày, nên chẳng ai để ý đến hắn. Tôi muốn biết ai cung cấp cho các cửa hàng rong trên phố. Nhanh lên!”

Theo ban y tế, chỉ có hai công ty cung cấp thức ăn Trung Đông cho những chiếc xe đẩy bán hàng ở dãy phố quanh trung tâm mua bán trang sức. Trớ trêu là, cái lớn nhất do hai anh em người Do Thái làm chủ với gia đình ở Israel và sùng đạo; họ khó có thể là nghi phạm được.

Công ty còn lại thì không sử dụng các chiếc xe đầy nhưng có bán gyro, thịt xiên nướng và falafel, cùng với các đồ gia vị và soda cho hàng chục xe đẩy ở Midtown. Việc điều hành được thực hiện bên ngoài một nhà hàng trên phố Board, những người chủ có thuê một người đàn ông để làm công việc giao hàng quanh thành phố.

Dellray cùng hàng tá các đặc vụ khác và các cảnh sát vây xung quanh, tất cả những người này đều vô cùng hợp tác - gần như là sợ đến phát khóc. Tên của người vận chuyển là Bani-al-Dahab, quốc tịch Ả Rập Xê út, visa đã hết hạn lâu rồi. Anh ta từng là một chuyên gia về lĩnh vực nào đó ở Jeddah và từng là một kỹ sư ở Mỹ một sau khi visa hết hạn và trở thành người tị nạn trái phép, anh ta đã làm mọi công việc có thể - khi thì nấu ăn, đưa thức ăn tới các xe đẩy và các nhà hàng Trung Đông khác ở quanh Manhattan, Brooklyn.

Trung tâm mua bán trang sức đã sơ tán và kiểm tra - không có thiết bị nào được tìm thấy - và một thiết bị định vị phương tiện khẩn cấp đã được đặt lên chiếc xe tải của al-Dahab, mà theo những người chủ hàng, có thể là ở bất cứ đâu trong thành phố; anh ta được tự do lên kế hoạch giao hàng cho mình.

Vào những giờ phút như lúc này, Rhyme đáng lẽ sẽ đi đi lại lại khi suy nghĩ, nếu có thể. Hắn đang ở chỗ quái nào được? Liệu có phải gã đang lái chiếc xe tải đầy chất nổ nhởn nhơ ngoài kia? Có thể hắn đã từ bỏ vụ nhắm vào trung tâm mua bán trang sức và đang săn đuổi mục tiêu phụ: một giáo đường Do Thái hay một văn phòng hãng hàng không El-Al.

“Đưa Boyd tới đây, gây áp lực với hắn.” Anh nói lớn: “Tôi muốn biết cái gã này ở đâu!”.

Đó là lúc điện thoại của Mel Cooper đổ chuông.

Rồi tiếp theo là điện thoại của Sellito và Amelia Sachs.

Cuối cùng, điện thoại chính của phòng thí nghiệm bắt đầu đổ chuông lanh lảnh.

Những người gọi điện thì khác nhau nhưng tin họ thông báo thì lại là một.

Câu hỏi về địa chỉ của kẻ đánh bom đã được trả lời.

Chỉ có người lái xe thiệt mạng.

Hãy để ý tới lực của vụ nổ và chiếc xe tải thì nằm ở giao lộ giữa Đại lộ 9 và 54, xung quanh là rất nhiều xe khác, đó thực sự là một phép màu.

Khi quả bom phát nổ, hướng của vụ nổ hầu hết là nổ lên phía trên, qua nóc xe, và cả bên ngoài cửa sổ, bắn ra các mảnh vụn và kính, làm bị thương nhiều người, nhưng thiệt hại chủ yếu nằm trong chiếc E250. Chiếc xe tải rực lửa chòng chành lên vỉa hè, rồi bùng lên thành một ngọn đuốc. Đội cứu hỏa từ trên Đại lộ 8 dập tắt ngọn lửa nhanh chóng và đẩy lùi đám đông. Còn người lái xe, chẳng có chút hy vọng nào trong việc cứu sống hắn ta; hai mảnh xác lớn nhất còn lại bị bắn tung ra cách nhau vài mét.

Đội phá bom mìn đã bảo đảm an toàn hiện trường và lúc này cảnh sát chỉ việc chờ các bác sĩ pháp y và đội Khám nghiệm hiện trường.

“Đó là mùi gì vậy?”, thanh tra từ bắc Midtown hỏi. Một cảnh sát cao, đầu bước ra vì mùi hôi, mà anh cho là mùi thịt người cháy, vấn đề là mùi khá thơm.

Một trong các cảnh sát từ đội chống bom cười vị tharih tra mặt xanh lét. “Gyros đấy.”

“Gear - gì cơ?” Viên thanh tra hỏi, nghĩ nó là một dạng gì đó kinh khủng.

“Nhìn này.” Viên cảnh sát chống bom giơ lên một khoanh thịt cháy với bàn tay đeo găng cao su. Anh ta hít hà khoanh thịt. “Thơm thật.”

Viên thanh tra bắc Midtown cười và không tỏ ra mình đang buồn nôn tới mức nào.

“Đó là thịt cừu.”

“Đó...”

“Người lái xe đang đi giao đồ ăn. Đó là công việc của anh ta. Thùng sau xe tải chứa đầy thịt, falafel và các thứ kiểu thế.”

“Ồ.” Viên thanh tra vẫn chẳng cảm thấy bớt lợm giọng chút nào.

Đúng lúc đó chiếc Camaro SS màu đỏ tươi - một chiếc xe thật tuyệt - dừng lại giữa phố, vừa chạm vào dải băng cảnh sát màu vàng. Một cảnh sát với mái tóc đỏ bước ra, người chịu tránh nhiệm hiện trường, gật đầu với viên thanh tra.

“Này”, anh nói.

Người phụ nữ nối chiếc tai nghe vào chiếc máy Motorola và vẫy về phía chiếc xe của đội Khám nghiệm hiện trường, cũng vừa mới dừng lại, cô hít hít không khí, hít một vài hơi thật sâu. Cô gật đầu. “Vẫn chưa kiểm tra hiện trường”, cô nói vào trong micro: “Nhưng ngửi mùi thì em thấy, chúng ta đã tóm được hắn rồi, Rhyme”.

Ngay lúc đó người thanh tra cao hói đầu nuốt ực và nói: “Tôi sẽ quay lại ngay”. Anh ta bước vào quán Starbuck gần đó, cầu mong là sẽ đến được nhà vệ sinh kịp lúc.

Đi bên cạnh thanh tra Bell, Geneva đang bước xuống phòng thí nghiệm trong ngôi nhà của Rhyme ở dưới lầu. Cô nhìn vào cha mình, ông đang nhìn cô với đôi mắt to tròn đầy đau khổ.

Trời ạ. Cô quay đi chỗ khác.

Rhyme nói: “Chúng ta có một vài tin cho cháu. Kẻ thuê Boyd đã chết rồi”.

“Chết? Cái gã định ăn cướp trung tâm mua bán trang sức?”

“Mọi việc không như vẻ bề ngoài của nó.” Rhyme nói.”Bọn chú... à, chú đã sai. Chú đã nghĩ tới bất cứ kẻ nào có ý định cướp trung tâm mua bán trang sức. Nhưng không, hắn ta muốn đánh sập chỗ đó.”

“Khủng bố?”, cô hỏi.

Rhyme gật đầu về phía tập tài liệu nhựa mà Amelia đang cầm. Bên trong đó là một lá thư, được gửi đến tờ The New York Times. Trong đó nói rằng vụ đánh bom cửa hàng mua bán trang sức chỉ là một phần trong cuộc chiến thần thánh chống lại Israel và đồng minh. Cùng một loại với mẩu giấy được dùng để gửi tin về yêu cầu giết Geneva và bản đồ của phố 55 khu phía tây.

“Hắn là ai?”, cô bé hỏi, cố nhớ lại chiếc xe tải và người đàn ông Trung Đông nào đó trên con phố ngoài bảo tàng một tuần trước. Nhưng không thể.

“Một người nhập cư bất hợp pháp từ Ả Rập Xê út”, thanh tra Sellito nói. “Làm việc cho một nhà hàng ở

dưới trung tâm. Tất nhiên, người chủ khá sợ hãi. Họ nghĩ chúng ta cho rằng họ là vỏ bọc của Al-Qaeda hoặc tương tự vậy.” Anh cười khùng khục. “Mà họ có thể lắm chứ. Chúng ta sẽ tiếp tục theo dõi. Nhưng tất cả bọn họ đều là công dân có hồ sơ trong sạch, đã ở đây nhiều năm rồi, thậm chí có vài đứa con trong quân đội nữa. Có thể nói họ là một đám người vô cùng hoảng sợ lúc này.”

Phần quan trọng nhất về gã đánh bom này, Amelia tiếp tục nói, là gã Bani al-Dahab không hề có liên quan với bất cứ kẻ tình nghi khủng bố nào. Người phụ nữ mà hắn hẹn hò gần đây và những đồng nghiệp đều nói họ không biết có một lần nào hắn gặp những người có thể ở trong các trại khủng bố, nhà thờ hồi giáo mà hắn thường lui tới hoàn toàn ôn hòa về mặt tôn giáo và chính trị.

Amelia đã kiểm tra căn hộ của hắn ở Queens và không tìm thấy một chứng cứ nào có liên quan tới các nhà tù khủng bố khác. Ghi chép dữ liệu điện thoại của hắn cũng đang được kiểm tra xem có mối liên hệ nào với các tôn giáo chính thống khác không.

“Chúng ta sẽ tiếp tục kiểm tra các bằng chứng”, Rhyme nói, “nhưng chúng ta chắc chắn 90% rằng hắn làm việc một mình. Ta nghĩ rằng điều đó có nghĩa là cháu hẳn đã an toàn rồi”.

Anh lăn chiếc xe của mình tới chiếc bàn đựng vật chứng và nhìn vào vài cái túi đựng đồ nhựa và sắt bị cháy. Anh nói với Cooper: “Đưa chúng lên bảng, Mel. Chất nổ là TOVEX, và chúng ta có nhiều mảnh của thiết bị kích nổ, hộp, dây, một mẩu kíp nổ. Tất cả được đựng trong một cái hộp của UPS đề địa chỉ gửi tới trung tâm trang sức, nhắm vào giám đốc”.

“Thế làm sao mà nó lại phát nổ trước vậy?”, Jax Jack hỏi.

Rhyme giải thích rằng sử dụng một quả bom điều khiển bằng sóng vô tuyến trong thành phố rất nguy hiểm bởi có quá nhiều sóng vô tuyến xung quanh - từ các máy phát tín hiệu trong khu xây dựng, những chiếc điện đàm, và hàng trăm nguồn phát khác nữa.

Sellito nói thêm: “Hoặc có thể hắn đã tự giết chính mình. Hắn có thể đã nghe tin Boyd bị bắt hoặc trung tâm mua bán trang sức đang được rà soát bom. Hắn hẳn phải nghĩ rằng việc bị tóm chỉ còn là vấn đề thời gian mà thôi”.

Geneva cảm thấy bối rối. Những người xung quanh cô bỗng trở thành những người xa lạ. Lý do họ tập hợp lại không còn tồn tại nữa. Với cha cô, ông ấy còn xa lạ với cô hơn cả những cảnh sát. Cô muốn được trở lại phòng mình ở căn hầm tại Harlem với những quyển sách và kế hoạch tương lai của mình, về đại học, giấc mơ về Florence và Paris.

Nhưng rồi cô nhận ra là Amelia đang nhìn mình thật gần gũi. Người nữ cảnh sát hỏi: “Từ giờ cháu định làm gì?”.

Geneva nhìn cha mình. Chuyện gì sẽ xảy ra? Cô đã có cha, người cha thật sự, nhưng người đó đã từng là tội phạm, thậm chí còn không thể ở đây, trong thành phố này. Hẳn là họ sẽ vẫn muốn giao cô cho một gia đình nào đó nhận nuôi.

Amelia nhìn Lincoln Rhyme. “Cho đến khi mọi việc được làm sáng tỏ hết, tại sao chúng ta không tiếp tục với kế hoạch của mình? Để Geneva ở đây một thời gian.”

“Ở đây?”, cô bé hỏi.

“Cha của cháu phải quay trở lại Buffalo và lo mọi việc ở đó.”

Dù sao thì việc sống với ông ấy cũng không phải là một lựa chọn, Geneva nghĩ. Nhưng cô giữ nó trong lòng.

“Một ý tưởng hay.” Thom thốt ra câu này. “Tôi nghĩ đó là những gì chúng ta sẽ làm.” Giọng của anh rất kiên quyết. “Em sẽ ở đây.”

“Như thế có sao không?”, Amelia hỏi Geneva.

Geneva không chắc chắn lý do vì sao họ muốn cô ở lại. Lúc đầu cô cảm thấy nghi ngờ. Nhưng vẫn luôn phải nhắc chính mình rằng, sau khoảng thời gian sống một mình quá lâu, tính ngờ vực theo đuổi cô giống như một cái bóng. Cô nghĩ tới một quy tắc khác về những cuộc đời giống như cô: Ta coi trọng gia đình của mình theo cách ta tìm ra nó.

“Chắc chắn rồi”, cô nói.

Bị còng tThompson Boyd được đưa đến phòng thí nghiệm của Rhyme và hai người bảo vệ đặt hắn ngồi trước mặt Rhyme và những cảnh sát. Geneva một lần nữa được đưa về phòng cô bé, lúc này được bảo vệ bởi Barbe Lynch.

Nhà tội phạm học hiếm khi làm điều này, đối diện trực tiếp với những hung thủ. Đối với anh, một nhà khoa học, niềm đam mê duy nhất trong công việc chính là trò chơi, cuộc săn đuổi, chứ không phải là hiện thân của những tên tội phạm. Anh không hề có chút khao khát nhìn những tên tội phạm dù nam hay nữ mà mình bắt được với ánh mắt hả hê. Những lời nhận tội và xin lỗi khẩn thiết không làm anh thay đổi, đe dọa thậm chí chẳng làm anh cảm thấy phiền hà.

Giờ anh chỉ muốn bảo đảm một cách tuyệt đối rằng Geneva Settle đã an toàn. Anh muốn chính mình tiếp cận với kẻ tấn công cô bé.

Khuôn mặt hắn được băng bó và thâm tím bởi cuộc chiến với Sachs khi bị bắt, Boyd nhìn quanh phòng thí nghiệm. Các trang thiết bị, các biểu đồ trên những tấm bảng trắng.

Chiếc xe lăn.

Không chút cảm xúc, không một chút rung động nào cùa sự ngạc nhiên hay thích thú. Thậm chí ngay cà khi hắn quay đầu về phía Sachs. Như thể quên rằng cô đã đánh hắn liên tục bằng một viên đá.

Có một ai đó hỏi Boyd về điều đó, rằng cảm thấy thế nào, khi ngồi trên chiếc ghế điện. Hắn nói rằng cảm giác đó không hề giống với cái gì cả. Chỉ có cảm giác như một kiểu vô cảm. Hắn nói như thế rất nhiều về sự kết thúc. Hẳn cảm thấy vổ cảm.

Hắn đặt câu hỏi: “Làm sao các người tìm ra được tôi?”.

“Có một vài điều”, Rhyme trả lời. “Và một trong số đó là, anh đã chọn nhầm lá bài tarot để bỏ lại như là một bằng chứng. Nó đặt vào trong suy nghĩ của tôi về sự hành hình.”

“Người treo ngược”, Boyd nói, gật đầu. “Ông đúng. Tôi chưa bao giờ nghĩ tới điều đó. Chỉ có vẻ giống như một kiểu ghê rợn thôi. Chỉ để đánh lạc hướng các ông.”

Rhyme tiếp tục: “Nhưng, thứ đưa chúng tôi lần ra được tên anh, là thói quen của anh”.

“Thói quen?”

“Anh hay huýt sáo.”

“Tôi hay thế thật. Tôi đã cố không như thế khi làm việc. Nhưng đôi khi nó tự phát ra. Vậy ông đã nói chuyện với...”

“Đúng, vài người ở Texas.”

Gật đầu, Boyd nhìn Rhyme với đôi mắt màu đỏ, nheo nheo. “Vậy các ông biết về vụ Charlie Tucker sao? Hắn quả là một sự tồi tệ của loài người. Khiến cho những ngày cuối cùng của những người của tôi trở nên khốn khổ. Nói với họ rằng họ sẽ bị thiêu đốt dưới địa ngục, nói những điều vô nghĩa về Jesus và những thứ vớ vẩn.”

Những người của tôi...

Sachs hỏi: “Có phải Bani al-Dahab là kẻ duy nhất thuê anh làm việc?”.

Hắn chợp chợp mắt kinh ngạc; đó dường như là cảm xúc thật đầu tiên xuất hiện trên khuôn mặt hắn. “Làm thế nào...?” Rồi hắn im lặng.

“Quả bom phát nổ sớm. Hoặc hắn tự sát.”

Một cái lắc đầu. “Không, hắn ta không phải một kẻ đánh bom tự sát. Nó hẳn đã phát nổ một cách bất ngờ. Hắn đã không cẩn thận. Quá nóng vội. Không chịu làm mọi việc theo hướng dẫn gì hết. Nhiều khả năng hắn đã kích hoạt nó quá sớm.”

“Anh đã gặp hắn như thế nào?”

“Hắn gọi cho tôi. Biết tên tôi qua một ai đó ở tù. Kiểu như mối liên hệ Hồi giáo.”

Vậy là thế. Rhyme đã băn khoăn về việc làm thế nào mà một người bảo vệ nhà tù ở Texas lại có thể liên quan tới những kẻ khủng bố Hồi giáo.

“Họ rất điên cuồng”, Boyd nói. “Nhưng họ có tiền, những người Ả Rập đó.”

“Và cả John Earle Wilson? Hắn chính là kẻ tạo bom của anh?”

“Joimy, vâng, đúng.” Hắn lắc đầu. “Ông cũng biết về anh ta sao? Tôi phải thật lòng mà nói các ông cũng thật giỏi đấy.”

“Anh ta ở đâu?”

“Tôi không biết. Chúng tôi để lại tin nhắn ở các quầy điện thoại trà trước vào một hộp thư thoại. Gặp nhau ở những nơi công cộng. Chưa bao giờ trao đổi quá chục từ.”

“FBI sẽ tiếp tục nói chuyện với anh về al-Dahab và vụ nổ bom. Những gì mà chúng tôi muốn biết là về Geneva. Có còn ai khác muốn tấn công cô bé không vậy?”

Boyd lắc đầu. “Từ những gì anh ta nói với tôi, al- Dahab làm việc một mình anh ta có nói với những người ở Trung Đông một vài lần. Nhưng không có ai ở đây. Anh ta không tin tưởng một ai hết.” Cái giọng lè nhè vùng Texas phát ra rồi trầm xuống, như thể hắn ta đã cố gắng để làm mất đi giọng nói này.

Sachs nói một cách đe dọa: “Nếu anh nói dối, nếu như có điều gì xảy ra với cô bé, chúng tôi có thể bảo đảm chắc chắn rằng phần còn lại của cuộc đời anh sẽ hoàn toàn khốn khổ”.

“Như thế nào?”, Boyd hỏi, có vẻ thật sự tò mò.

“Anh đã giết người thủ thư, tiến sĩ Barry. Anh tấn công và cố ý giết các cảnh sát. Anh đáng ra sẽ phải trả nhiều lần cái mạng sống của mình trong tù. Và chúng tôi đang điều tra về cái chết của cô gái trên phố Canal ngày hôm qua. Có ai đó đẩy cô ấy ra trước xe buýt gần chỗ anh trốn thoát trên phố Elizabeth. Chúng tôi đang đưa ảnh của anh tới các nhân chứng. Anh sẽ mãi mãi biến mắt.”

Một cái nhún vai. “Chẳng có chút gì quan trọng cả.”

“Anh không quan tâm sao?”, Sachs hỏi.

“Tôi biết các người không hiểu tôi. Tôi không đổ lỗi cho điều đó. Nhưng, nhìn xem, tôi không quan tâm tới việc bị giam giữ. Tôi chả quan tâm cái khỉ gì hết. Các người thực sự không thể nào hiểu được tôi đâu. Tôi đã chết rồi. Giết một ai đó chẳng là vấn đề đối với tôi, cứu một mạng sống cũng chả là gì.” Hắn nhìn Amelia Sachs, cô đang nhìn hắn trừng trừng. Boyd nói: “Tôi thấy ánh mắt đó, nó đang tự hỏi là cái loại quái vật gì thế này? Chà, sự thật là, các người biến tôi thành tôi”.

“Chúng tôi?”, cô hỏi.

“Ồ, vâng, thưa bà... Bà biết công việc của tôi là gì.”

“Người kiểm soát việc hành hình”, Rhyme nói.

“Đúng, thưa ngài. Giờ tôi sẽ nói cho các người về công việc này: Ta có thể tìm ra tên của từng người được hành hình một cách hợp pháp ở nước Mỹ này. Rất nhiều. Và ta có thể tìm ra tên của tất cả những thống đốc, những người đợi cho đến tận nửa đêm hoặc bất cứ lúc nào để có cảm hứng. Ta có thể tìm thấy tên của tất cả những nạn nhân mà những tội phạm giết, và phần lớn thời gian là tên của con cháu họ. Nhưng các anh có biết một cái tên mà không thể tìm ra?”

Hắn nhìn các cảnh sát quanh mình. “Là những người như chúng tôi, những người nhấn nút. Những người hành hình. Chúng tôi bị lãng quên. Ai cũng đều nghĩ đến việc án tử hình sẽ ảnh hưởng đến gia đình của kẻ bị buộc tội như thế nào. Hoặc xã hội gia đình của phạm nhân. Không nói đến người đàn ông hay đàn bà đang nằm xuống chờ chết. Nhưng không một ai từng mất một giọt mồ hôi để nghĩ tới chúng tôi, những người hành hình. Không một ai từng dừng lại và nghĩ tới những gì xảy ra với chúng tôi.”

“Ngày qua ngày, sống với những người của chúng tôi - đàn ông, phụ nữ, những người sắp chết, dần quen với họ. Nói chuyện với họ. Về đủ mọi thứ trên trời dưới bể. Nghe một người da đen hỏi về việc làm thế nào mà một người đàn ông da trắng phạm chính xác cùng một tội lại có thể bị án chung thân, hoặc thậm chí nhẹ hơn, trong khi anh ta thì sắp phải chết? Một người Mexico thề thốt rằng anh ta không hề hãm hiếp và giết cô bé đó. Anh ta chỉ đang mua bia ở quán 7-Eleven và cảnh sát ập đến rồi anh ta biết rằng mình đang ở trong nhà giam tử tù. Và rồi sau một năm, sau khi đã nằm sâu dưới ba tấc đất thì họ làm xét nghiệm DNA và phát hiện ra rằng họ đã tóm nhầm người, anh ta hoàn toàn là một người vô tội.”

“Tất nhiên, thậm chí là một người mắc tội cũng là con người, sống với tất cả bọn họ, ngày qua ngày. Trở nên tử tể, tốt bụng với họ vì họ tốt với ta. Dần dần hiểu họ. Và rồi... ta giết họ. Chính ta, tất cả là ta. Với chính bàn tay mình, nhấn chiếc nút, ném cái công tắc... Điều đó thay đổi ta.”

“Các anh biết họ nói gì? Anh nghe thấy điều đó rồi. ‘Xác chết di động’. Nó ám chỉ những người tử tù. Nhưng đó thực ra là chúng tôi. Những người hành hình. Chúng tôi là những người đã chết rồi.”

Sachs lẩm bẩm: “Nhưng còn bạn gái của anh? Làm sao mà anh có thể bắn cô ấy chứ?”.

Hắn im lặng. Lần đầu tiên bóng tối bao phủ khuôn mặt hắn. “Tôi đã cân nhắc về phát súng ấy. Tôi hy vọng rằng mình có cảm giác rằng không nên làm thế. Rằng cô ấy rất ý nghĩa đối với tôi. Tôi sẽ để cô ấy sống và chạy, chỉ để lấy những cơ hội cho mình. Nhưng..Hắn lắc đầu. “Nó đã không xảy ra. Tôi nhìn cô ấy và tất cả những gì tôi cảm thấy là sự lạnh lùng vô cảm. Và tôi biết rằng việc bắn cô ấy sẽ có ý nghĩa.”

“Và nếu như là lũ trẻ ở nhà lúc đó chứ không phải cô ấy thì sao?” Sachs nói hắt ra. “Anh sẽ bắn một đứa để chạy trốn chăng?”

Hắn suy nghĩ điều đó một lúc. “Chà, thưa bà, tôi cho là nó sẽ có hiệu quả, đúng không? Bà đã có thể dừng lại để cứu chúng thay vì chạy theo săn đuổi tôi. Giống như cha tôi đã từng nói: Đó chỉ là câu hỏi về việc con đặt cái dấu thập phân ở đâu.”

Bóng tối dường như đã được nhấc khỏi khuôn mặt hắn, như thể cuối cùng hắn đã nhận được câu trả lời nào đó hoặc điết luận nào đó trong cuộc đấu tranh khiến hắn khổ sở suy nghĩ một thời gian dài.

Người treo ngược... Lá bài thường dự báo một sự khuất phục trước những kinh nghiệm, kết thúc một sự tranh đấu và chấp nhận nó.

Hắn nhìn Rhyme. “Giờ, nếu ông không phiền, tôi nghĩ rằng đã đến lúc tôi về nhà.”

“Nhà?”

Hắn nhìn họ một cách tò mò. “Nhà tù.”

Như thể, cái gì nữa mà hắn có thể còn ám chỉ chứ?

Người cha và đứa con gái bước khỏi chuyến tàu C trên phố 135 và hướng về phía đông, phía trường trung học Langston Hughes.

Cô đã không muốn ông đến đó nhưng ông ấy cứ khăng khăng đòi bảo vệ cô Rhyme và thanh tra Bell cũng muốn làm như vậy. Hơn nữa, cô nghĩ rằng, ông ấy sẽ sớm trở về Buffalo vào ngày mai và cô cho rằng mình có thể tha thứ bằng một hay hai tiếng đồng hồ với ông ấy. Ông hất đầu về phía chiếc tàu điện ngầm đằng sau: “Ta đã từng rất thích vẽ trên tàu C. Sơn bám lên đó rất đẹp... Ta biết rất nhiều người đã từng thấy. Vẽ hết lên toa này sang toa khác năm 1976. Năm đó là dịp kỷ niệm 200 năm ngày Quốc khánh. Những chiếc tàu ở trong thành phố. Tuyệt tác của ta từng ở trên một trong những con tàu đó, cùng với chỗ tượng Nữ thần Tự do”, ông cười. “Bộ phận phụ trách giao thông thành phố đã không chùi sạch toa tàu đó ít nhất một tuần, ta nghe thấy người ta nói vậy. Có lẽ chỉ vì họ bận nhưng ta thích thú khi nghĩ rằng có một ai đó thích những gì ta vẽ và để nó đó lâu hơn một chút so với bình thường.”

Geneva lẩm bẩm, đang định nói rằng mình có chuyện muốn nói với ông. Cách đó một dãy phố cô có thể thấy giàn giáo nằm ở trước tòa nhà nơi cô đã làm việc và bị đuổi. Làm thế nào mà cha cô lại muốn biết rằng công việc của cô từng làm là đi tẩy sạch những hình vẽ graffiti trên các tòa nhà được sửa lại? Có thể cô thậm chí từng xóa đi vài hình vẽ của ông. Rất muốn nói với ông điều đó. Nhưng cô không cất nên lời.

Đã sửa bởi nguyennguyen lúc 09.03.2015, 21:30.

Ở bốt điện thoại công cộng đầu tiên còn dùng được mà họ tìm thấy trên Đại lộ Frederick Douglass, Geneva dừng lại, rút ra vài đồng tiền lẻ. Cha cô bé đưa cho cô chiếc điện thoại của ông ấy.

“Không sao mà cha.”

“Cứ lấy dùng đi.”

Cô lờ ông, thả những đồng xu vào máy và gọi cho Lakeesha, trong khi cha cô nhét chiếc điện thoại vào túi và bước tha thẩn tới rường, nhìn khu vực chung quanh như một thằng bé đứng trước khu bán kẹo ở trong một cửa hàng tạp hóa.

Cô quay đi khi nghe tiếng bạn mình nhấc máy. “A lô?”

“Tất cả xong hết rồi, Keesh.” Cô giải thích về trung tâm mua bán trang sức, về vụ đánh bom.

“Đó là những gì xảy ra ư? Khốn kiếp. Một tên khủng bố á? Thật là đáng sợ. Nhưng cậu ổn chứ?”

“Tớ ổn. Thật đấy.”

Geneva nghe thấy một tiếng nói khác, tiếng một người đàn ông, nói gì đó với bạn mình, cô ấy đang đặt tay lên che ống nói một lúc. Sự trao đổi của họ có vẻ khá nóng.

“Cậu ở đó chứ, Keesh?”

“Ừ.”

“Ai vậy?”

“Không có ai cả. Cậu đang ở đâu? Cậu không ở lại tầng hầm ấy nữa phải không?”

“Tớ vẫn ở chỗ mà tớ nói với cậu rồi đấy - với cái chú cảnh sát và bạn gái của chú ấy. Chú mà ngồi xe lăn ý.”

“Cậu đang ở đó hả?”

“Không. Tớ đang ở khu ngoại ô. Đang đến trường.”

“Bây giờ?”

“Để lấy bài tập về nhà của tớ.”

Cô gái dừng lại một chút. Rồi: “Nghe này, tớ sẽ đến gặp cậu ở trường. Muốn thấy cậu, nhóc. Khi nào thì cậu sẽ đến đó?”.

Geneva nhìn cha của mình, ở gần đó, đang đút tay vào túi quần, vẫn đang nhìn ngắm con phố. Cô quyết định không nhắc đến ông với Keesh, hay bất cứ ai khác, chỉ là chưa nói thôi.

“Để ngày mai đi, Keesh. Tớ không có thời gian bây giờ.”

“Chán quá.”

“Chà, tốt hơn là ngày mai.”

“Sao cũng được.”

Geneva nghe thấy tiếng dập máy. Tuy nhiên cô vẫn đứng im tại chỗ một lúc, chưa bước đến phía cha mình.

Cuối cùng, cô cùng ông tiếp tục hướng về phía trường

“Con biết có gì ở đó không, cách đây ba hay bốn dãy nhà?” Ông hỏi, chỉ về phía bắc. “Strivers Row. Con đã bao giờ thấy chưa?”

“Chưa”, cô lầm bầm.

Ta sẽ đưa con đến đó một lúc nào đó. Một trăm năm trước, một người phát triển khu đấy, tên là King, ông ấy đã xây ba tòa nhà lớn này và vô số các ngôi nhà khác. Ông ấy đã thuê ba trong số những kiến trúc sư giỏi nhất trong nước và mời họ tới làm việc. Những nơi thật đẹp.King Model Homes là tên thật sự nhưng chúng thật sự đắt và đẹp, đó là câu chuyện, nó được gọi là Strivers Row bởi chúng ta phải cố gắng, nỗ lực rất nhiều để có thể sống ở đó. W.C. Handy sống ở đó một thời gian. Con biết ông ấy chứ? Cha đẻ của dòng nhạc Blue. Nhà soạn nhạc thực sự từng sống. Ta có vẽ ở đó một lần. Đã bao giờ ta kể cho con chưa nhỉ? Ta phải mất đến ba mươi can sơn để vẽ đấy. Không phải là một hình vẽ nhanh đâu; ta mất hai ngày để vẽ đấy. Vẽ một bức tranh về W.C. Một nhà nhiếp ảnh của tạp chí Times đã chụp nó lại và đưa lên báo.” Ông hất đầu về phía bắc

“Nó đã ở đó trong..”

Cô dừng lại nhanh. Hai bàn tay đập vào hông mình. “Đủ rồi.”

“Genie?”

“Thôi đi. Con không muốn nghe những thứ này.”

“Con...”

“Con không quan tâm tới bất cứ gì cha đang nói với con.”

“Con đang mất bình tĩnh rồi, con yêu. Ai mà không như thế sau tất cả mọi việc đã xảy ra chứ? Nhìn xem, ta đã có lỗi”, ông nói, giọng đang vỡ dần. “Đó là quá khứ. Giờ ta đã khác rồi. Tất cả sẽ khác. Ta sẽ không bao giờ đặt ai lên trước con nữa, như ta đã từng làm khi sống với mẹ con. Con là người duy nhất mà đáng lẽ ra ta phải cố gắng để giữ lại - chứ không phải là mất từng ấy năm ở Buffalo.”

“Không! Cha không hiểu điều đó. Đó không phải là về những gì cha đã làm. Đó là tất cả cái thế giới kỳ quặc của cha mà con chẳng muốn là gì trong đó cả. Con chẳng cần biết Strivers là cái gì, con không quan tâm tới Apollo hay là câu lạc bộ Cotton gì cả. Hay là Thời Phục hưng Harlem. Con không thích Harlem. Con ghét ở đây. Đó là súng, là ma túy, hiếp dâm và cả đống người nghiện những đồ phụ kiện rẻ tiền và những chiếc khuyên tai trong tiệm tạp hóa. Đó là những cô gái, tất cả những gì mà họ quan tâm là tóc tai. Và..”

“Và phố Wall có những kẻ làm giao dịch nội gián, New Jersey thì có mafia và Westchester có những khu dành cho dân di cư với những chiếc xe kéo”, ông trả lời.

Cô hầu như không nghe ông nói: “Đó là những cậu

trai, mà tất cả những gì họ quan tâm là kéo tụi con gái lên giường. Đó là những con người thờ ơ, không quan tâm tới những gì họ nói. Đó là..”

“Có chuyện gì xảy ra với tiếng Anh của con vậy?” Cô chớp mắt. “Làm sao mà cha biết về điều đó?” Bản thân ông chưa bao giờ nói bằng ngôn ngữ của người da đen - cha của ông đã bảo đảm chắc chắn rằng ông thực sự nỗ lực ở trường (ít nhất cho đến khi bỏ học để bắt đầu cái “sự nghiệp” bôi vẽ lên tài sản của thành phố). Nhưng hầu hết những người sống ở đây không hề biết tới cái tên gọi chính thức cho cái mà họ nói là tiếng Anh của người Mỹ gốc Phi.

“Khi ta còn ở trong đó”, ông giải thích: “Ta đã có được bằng tốt nghiệp trung học và một năm Cao đẳng”. Cô không nói gì cả.

“Phần lớn ta học đọc và nhớ từ vựng. Có thể điều đó không giúp ta có được một công việc nhưng nó là thứ lôi cuốn ta. Ta vẫn luôn yêu thích sách và đồ vật, con biết điều đó. Ta là người đã khuyến khích con đọc từ khi còn nhỏ... Ta đã học tiếng Anh chuẩn. Nhưng ta cũng học tiếng Anh bản ngữ nữa. Và ta thấy không có gì không đúng cả.”

“Cha không sử dụng nó”, cô chỉ ra một cách lạnh lùng.

“Ta không lớn lên và nói nó. Ta cũng không hề lớn lên và nói tiếng Pháp hay Mandigo.”

“Con chán ngán khi nghe thấy người ta nói, ‘Lemme axe you a question’[1].”

[1] Cho tôi được hỏi một câu. Câu đúng phải là: Let me ask you a question.

Cha cô nhún vai. “’Axe’ chỉ là một cách nói cũ của ‘ask’ trong tiếng Anh cổ. Hoàng gia đã từng hay sử dụng nó. Có một cuốn Kinh thánh dịch rằng nói về việc ‘cầu xin Chúa’ ban ơn. Đó không phải là một thứ liên quan tới người da đen, như người ta vẫn nói. Sự kết hợp của việc nói chữ ‘s’ và ‘k’ ở cạnh nhau rất khó để phát âm. Đảo chữ sẽ dễ dàng hơn nhiều. Và cả ‘ain’t’? Xuất hiện trong tiếng Anh kể từ thời đại của Shakespeare.”

Cô cười. “Cố gắng kiếm một công việc mà nói tiếng Anh bản ngữ ấy sao.”

“Chà, sẽ ra sao nếu như có một ai đó từ Pháp hay Nga cố gắng kiếm một công việc như thế? Con không nghĩ rằng ông ủ sẽ cho họ cơ hội, lắng nghe họ, xem liệu họ sẽ làm việc chăm chỉ, thông minh, thậm chí nếu họ nói một thứ tiếng Anh khác? Có thể vấn đề là ông chủ đó đang sử dụng ngôn ngữ của một người nào đó để làm lý do từ chối không thuê họ.” Ông cười. “Những người ở New York tốt hơn là nên biết nói ít tiếng Tây Ban Nha và Trung Quốc trong một vài năm tới. Tại sao không là tiếng Anh bản xứ?”

Cách lập luận của ông khiến cô còn bực tức hơn nữa.

“Ta thích ngôn ngữ của chúng ta, Genie. Nghe nó tự nhiên hơn. Nó khiến ta cảm thấy mình đang ở nhà. Nhìn xem, con có quyền để tức giận ta vì những gì ta đã làm. Nhưng không phải vì ta là ai hay vì cái gì mà ta như thế này. Đây là nhà. Và con biết con làm gì với gia đình của mình, đúng không? Con thay đổi những gì phải thay đổi và học cách tự hào vì những gì con không thể làm.”

Geneva nhắm chặt mắt lại và đưa tay lên mặt. Năm này rồi năm khác cô mơ về một người cha, một người mẹ - thậm chí không dám mơ có cả hai, nhưng chỉ cần một người ở đó khi cô về nhà mỗi buổi chiều, để kiểm tra bài về nhà của cô, để gọi cô dậy vào mỗi một buổi sáng. Ngay cả khi điều đó không xảy ra, khi cô cuối cùng đã quyết định tự vực dậy cuộc sống của mình bằng chính mình và bắt đầu tìm ra đường đi khỏi cái nơi này, nhưng quá khứ trói buộc và lôi cô lại.

“Nhưng đó không phải là những gì mà con muốn”, cô thì thầm. “Con muốn một điều gì đó hơn là cái mớ lộn xộn này.” Cô vẫy vẫy bàn tay mình quanh con phố.

“Ồ, Geneva, ta hiểu điều đó. Tất cả những gì ta hy vọng là có thể chúng ta sẽ có những năm yên bình ở đây, trước khi con bước chân vào cuộc sống. Hãy cho ta cơ hội để sửa lại những gì chúng ta đã làm với con, mẹ con và ta. Con xứng đáng có một cuộc sống khác... Nhưng, con yêu à, ta phải nói rằng - con có thể gọi cho ta một nơi mà con cảm thấy hoàn hảo? Những con phố được lát gạch vàng? Những nơi mà người ta yêu mến hàng xóm của mình?” ông cười và chuyển sang dùng tiếng Anh bản ngữ. “Con gọi đó là một đống lộn xộn ở đây? Chà, quá thẳng thắn. Nhưng cái đống đó ở đâu? Nó ở đâu?”

Ông đưa tay vòng qua ôm Geneva. Cô gồng lên nhưng lại không hề chống cự. Họ bắt đầu bước tới trường.

Lakeesha Scott ngồi trên chiếc ghế băng ở công viên Marcus Garvey, cô đã ở đó hơn nửa tiếng đồng hồ, sau khi trở về từ chỗ làm kế toán ở một nhà hàng trong trung tâm.

Cô châm một điếu Merit khác, nghĩ: Có những điều chúng ta làm vì ta muốn thế và những điều chúng ta làm vì ta phải làm. Những điều sống cò

Và điều mà cô sắp làm lúc này là một trong những cái điều phải làm ấy.

Thế quái nào mà Geneva không nói rằng sau tất cả cái đống lộn xộn khỉ gió ấy, cô sẽ đi khỏi thành phố và không bao giờ quay lại?

Cô ấy sẽ đi tới Detroit hay là Bama?

Xin lỗi, Keesh, chúng ta sẽ không gặp nhau được nữa. Ý tớ là mãi mãi. Tạm biệt.

Thế thôi, và tất cả cái vấn đề khỉ gió ấy sẽ biến mất.

Tại sao, tại sao, tại sao?

Và nó thậm chí còn tồi tệ hơn là: Gen phải đi và nói với cô chính xác mình đang đi tới đâu trong một vài tiếng đồng hồ tới. Keesh không có lý do nào để vuột mất cô ấy lúc này. Ồ, cô vẫn giữ cách nói chuyện chợ búa của mình khi họ nói chuyện cách đây một lúc để Gen không biết được điều gì sắp xảy ra. Nhưng giờ, cô ngồi đây một mình, chìm vào trong nỗi buồn.

Tôi cảm thấy thật sự tồi tệ.

Nhưng không có sự lựa chọn nào.

Những điều ta làm vì ta phải làm...

Cố lên nào, Keesh nói với chính mình. Phải vượt qua. Đi nào. Phải làm thôi...

Cô dụi điếu thuốc và rời khỏi công viên, hướng về phía tây rồi sang phía bắc trên khu Malcolm X, đi qua nhà thờ này rồi nhà thờ khác. Chúng có ở khắp nơi. Nhà thờ Mt. Morris Ascension, Bethelite Community, Ephesus Adventist, Baptist - rất nhiều. Một hay hai nhà thờ Hồi giáo, một giáo đường Do Thái.

Những cửa hàng và cửa hiệu: Papaya King, một cửa hiệu bán đồ tôn giáo, một hiệu cho thuê vest tuxedo, một đại lý rút tiền bằng séc. Cô đi qua ga ra của một người du mục, chủ nhân đang ngồi bên ngoài, tay nắm chiếc đài được ghép lại với nhau bằng băng dính, sợi dây điện dài biến mất vào trong một văn phòng tối om. Ông ta vui vẻ cười với cô. Làm thế nào mà Lakeesha ghen tị với họ: một đức cha đứng trước bậc thềm bám bụi, dưới ánh đèn neon của cây thánh giá, một người đàn ông vô tư lự nhét mẩu xúc xích vào trong miếng bánh bao nhân nho đã được hấp nóng, người đàn ông béo ục ịch ngồi trên một chiếc ghế rẻ tiền, với điếu thuốc và cái micro dở hơi của ông ta.

Họ không phản bội một ai cả, cô nghĩ.

Họ không phản bội lại một trong những người bạn tốt nhất trong nhiều năm rồi.

Chộp lấy thanh kẹo cao su, nắm chặt sợi dây đeo túi với những ngón tay mập mạp được sơn màu đỏ và vàng ở móng tay. Lờ đi ba cậu nhóc người Dominica.

“Pssst”

Keesh thò vào trong túi và cầm lấy con dao bấm của mình. Cô gần như bật nó mở ra, chỉ để lưỡng lự nhìn chúng. Cô nhìn trừng trừng nhưng giữ nguyên con dao sắc nhọn ở đó, biết chắc rằng mình sẽ gặp phải cả đống phiền phức khi đến trường. Chả nghĩ đến nó nữa.

“Pssst.”

Cô tiếp tục đi, bàn tay run rẩy mở một gói kẹo cao su. Nhét hai miếng có vị hoa quả vào miệng. Lakeesha chật vật tranh đấu để tìm lại trái tim giận dữ của mình.

Điên tiết lên đi nào. Nghĩ tới mọi thứ mà Geneva đã làm khiến mình bức tức, nghĩ tới những gì mà nó có mà mình không và không bao giờ có. Sự thật đau lòng là cô ấy quá thông minh, đến trường đều đặn mỗi ngày, luôn giữ được dáng vẻ nhỏ nhắn mà không giống với những ả điếm bị AIDS, rằng cô ấy vẫn khép chặt chân mình lại và nói với những cô gái khác những điều giống như những bà mẹ đầy lo lắng nói với con gái họ.

Làm như là cô ấy tốt hơn tất cả mọi người.

Nhưng cô ấy không như vậy. Geneva Settle chỉ là một đứa nhóc từ một gia đình mà mẹ thì nghiện và cha thì bỏ đi.

Cô ấy là một trong số chúng ta.

Bực tức với sự thật là cô ấy nhìn vào mắt ta và nói: “Cậu có thể làm được, cậu có thể làm được, cậu có thể thoát ra khỏi đây, cậu có cả thế giới ở phía trước”.

Chà, không, đôi khi chúng ta chỉ đơn giản không thể làm được. Đôi khi nó quá nhiều để chịu đựng. Ta cần sự giúp đỡ để vượt qua. Ta cần một ai đó với những đồng tiền, ai đó quan sát và giúp đỡ, bảo vệ.

Trong một khoảnh khắc, sự tức giận với Geneva sôi lên và cô tóm lấy cái dây túi thậm chí còn chặt hơn.

Nhưng cô không thể giữ được sự tức giận đó. Nỗi tức giận biến mất, bị thổi bay đi không khác thứ phấn rôm cô rắc lên mông của hai đứa em họ sinh đôi mỗi khi thay tã lót cho chúng.

Khi Lakeesha bước đi trong sự mê mụ qua Lenox Terrace hướng về phía trường học, nơi mà Geneva Settle sẽ sớm có mặt ở đó, cô nhận ra rằng mình không thể dựa vào sự tức giận hay lý do nào cả.

Tất cả những gì cô có thể dựa vào đó là sự sống còn. Đôi khi ta phải quan tâm đến chính mình và nhận lấy sự giúp đỡ mà người ta đưa ra.

Những điều mà ta làm bởi ta phải làm...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,259
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37


Ở trường, Geneva có thêm bài tập về nhà và thật bất ngờ, bài tập về nghệ thuật ngôn ngữ tiếp theo của cô bé là viết về quyển Ngôi nhà Harlem của Claude McKay, xuất bản năm 1928 và là một trong những tác phẩm đầu tiên bán chạy nhất của một tác giả da đen.

“Em không thể chọn một quyển của E. E. Cummings được sao?”, cô hỏi. “Hoặc là John Cheever?”

“Đó là thứ tự bài học về văn hóa Mỹ - Phi, Gen.” Giáo viên nghệ thuật ngôn ngữ nói và mỉm cười.

“Vậy thì Frank Yerby”, cô kì kèo. “Hay là Octavia Butler”.

“À, họ là những tác giả tuyệt vời, Gen”, người giáo viên nói. “Nhưng họ không viết về Harlem. Đó là những gì chúng ta học trong phần này. Nhưng tôi đưa cho em tác giả McKay bởi tôi cho rằng có thể em sẽ thích ông ấy. Ông ấy là một trong những tác giả yêu thích tranh luận nhất nổi lên thời Phục hưng Harlem. Ông bị chỉ trích rất mạnh mẽ vì nhìn vào mặt đối lập của Harlem. Ông ấy viết về những khía cạnh nguyên thủy của nơi này. Nó đã khiến Dubois và rất nhiều những nhà tư duy khác lúc bấy giờ thất vọng. Nó ở ngay con hẻm gần nhà em.”

Có thể cha sẽ giúp cô hiểu rõ, Geneva nghĩ một cách đầy mỉa mai, bởi ông yêu quý khu vực ấy và ngôn ngữ của nó.

“Thử với nó xem”, thầy giáo nói. “Em có thể sẽ thích nó cho mà xem.”

Ồ, không, em sẽ không thích đâu. Geneva nghĩ.

Ra khỏi trường, cô bắt đầu bước đi với cha mình. Họ đi tới một điểm chờ xe buýt và nhắm mắt lại trước một cơn gió lạnh đầy bụi xoáy quanh họ. Họ đã đạt được sự giải tỏa căng thẳng nhất định và cô đồng ý để ông đưa mình vào một nhà hàng Jamaica mà ông vẫn luôn mơ ước trong sáu năm qua.

“Liệu nó có còn ở đấy nữa không?”, cô hỏi một cách bình thản.

“Ta không biết. Nhưng ta sẽ tìm ra thứ gì đó. Hãy xem đây như một chuyến phiêu lưu.”

“Con không có nhiều thời gian.” Cô run lên vì lạnh.

“Cái xe buýt đó ở đâu?”, ông hỏi.

Geneva nhìn sang con phố và cau mày. Ôi, không... Đó là Lakeesha. Đó chính là cô ấy; cô ấy đã thậm chí không thèm nghe Geneva nói và đến đây.

Keesh vẫy vẫy tay.

“Ai vậy?”, cha cô hỏi.

“Bạn của con.”

Lakeesha ngập ngừng nhìn cha Geneva rồi vẫy tay ra hiệu cho Gen đi sang đường.

Có chuyện gì vậy chứ? Khuôn mặt cô ấy đang cười nhưng rõ ràng là suy tính điều gì đó. Có thể cô ấy tự hỏi không biết Geneva đang làm gì với một người đàn ông lớn tuổi hơn mình.

“Cha hãy đợi ở đây”, cô nói. Và bắt đầu bước về phía Lakeesha, đang nháy nháy mắt và có vẻ như vừa hít một hơi thở thật sâu. Cô ấy mở túi và thò vào bên trong.

Có chuyện gì vậy nhỉ? Geneva tự hỏi. Cô băng qua phố và dừng lại bên lề đường. Keesha lưỡng lự rồi bước về phía trước. “Gen”, cô nói, đôi mắt bỗng tối sầm lại.

Geneva cau mày: “Này cậu, có…”

Keesh dừng lại thật nhanh khi một chiếc xe phanh gấp bên lề đường bên cạnh Geneva trong lúc cô đang chợp mắt ngạc nhiên. Phía sau tay lái là cô cố vấn của trường, Barton. Người phụ nữ vẫy cô bé vào trong xe. Geneva do dự, nói với Keesh là đợi mình một lúc và đi về phía cô cố vấn.

“Chào, Geneva. Ta không kịp gặp em ở trong trường.”

“Chào cô.” Cô bé khá thận trọng, không chắc chắn rằng cô Barton có biết về cha mẹ mình hay không.

“Người phụ tá của ông Rhyme nói với ta rằng họ đã tóm cổ được gã đang cố gắng giết em. Và cha mẹ em cuối cùng đã về.”

“Cha em”, cô chỉ. “Ông ấy đang đứng ngay kia.”

Cô cố vấn nhìn về phía người đàn ông có dáng người đậm trong chiếc áo phông và áo khoác cũ kỹ.

“Mọi thứKhông nghe thấy họ đang nói gì, Lakeesha nhìn họ với một cái cau mày. Biểu hiện của cô ấy còn có vẻ khó hiểu hơn trước. Cô ấy có vẻ vui mừng qua điện thoại, nhưng giờ Geneva nghĩ về điều đó, có thể là sự giả vờ. Và ai là kẻ mà cô ấy đã nói chuyện?

Không có ai cả...

Mình không nghĩ vậy.

“Geneva?”, cô Barton hỏi. “Em không sao chứ?”

Cô bé quay lại nhìn. “Xin lỗi. Vâng. Em ổn.”

Người phụ nữ một lần nữa quan sát người cha kỹ hơn rồi quay đôi mắt màu nâu vào cô bé, khi cô đang nhìn đi chỗ khác.

“Có điều gì em muốn nói với ta không?”

“Dạ...”

“Sự thật là gì?”

“Em...”

Đó là tình huống mà dù thế nào đi nữa sự thật cũng sẽ được tiết lộ.

“Được rồi, nhìn xem, cô Barton. Em xin lỗi. Em đã không hề thành thật một chút nào. Cha em không phải là một giáo sư. Ông ấy đã ở trong tù. Nhưng giờ đã được tự do rồi.”

“Vậy thì suốt thời gian qua em đã sống ở đâu?”

“Sống một mình.”

Không có một sự phê bình hay chỉ trích nào trong đôi mắt của cô cố vấn, cô gật đầu. “Mẹ em thì sao?”

“Đã mất rồi.”

Cô ta cau mày. “Cô rất tiếc... Và ông ấy đang chuẩn bị chăm sóc em?”

“Chúng em chưa thực sự nói về chuyện này. Bất cứ điều gì ông ấy làm đều phải báo với tòa án hay gì đó.” Cô nói vậy để kéo dài thêm thời gian. Geneva đã lập ra một nửa kế hoạch cho sự trở lại của cha cô là sẽ chăm sóc mình, nhưng cô vẫn phải tiếp tục sống một mình. “Trong một vài ngày tới, em sẽ ở với ông Rhyme và cô Amelia, ở nhà của họ.”

Người phụ nữ nhìn cha cô bé một lần nữa, ông đang nhoẻn một nụ cười gượng gạo về phía họ.

“Điều này khá là kỳ lạ.”

Geneva nói một cách thách thức: “Emẽ không vào nhà giáo dưỡng. Em sẽ không đánh mất những gì mình đã cố gắng có được. Em sẽ bỏ chạy. Em sẽ...”.

“Dừng lại nào. Bình tĩnh đi.” Cô cố vấn mỉm cười. “Ta không nghĩ rằng chúng ta cần phải tạo ra một vấn đề lúc này. Em đã trải qua quá đủ rồi. Chúng ta sẽ nói về chuyện này một vài ngày nữa. Giờ hai người định đi đâu?”

“Tới nhà ông Rhyme.”

“Ta sẽ đưa em và cha đi.”

Geneva ra hiệu cho cha cô đi tới. Ông đi chậm rãi tới chiếc xe, cô bé giới thiệu họ với nhau.

“Rất vui được gặp cô, thưa cô. Và cảm ơn rất nhiều vì đã để tâm tới Geneva.”

“Được rồi, lên xe đi.”

Geneva nhìn sang phố. Keesh vẫn đang ở đó.

Cô hét lớn: “Tớ phải đi đây. Sẽ gọi cho cậu sau”. Cô đưa tay lên làm động tác gọi điện.

Lakeesha gật đầu một cách không thoải mái, rút lại tay đang để trong túi.

Geneva trèo lên ghế sau, phía sau cha mình. Ngoái lại nhìn qua cửa kính phía sau và thấy khuôn mặt nghiêm trọng của Keesh.

Rồi cô Barton lái xe ra khỏi lề đường và cha cô lại bắt đầu với một bài học lịch sử tức cười khác, nói thao thao bất tuyệt những chuyện như: Biết tôi đã từng làm một hình về anh em nhà Collyer không? Homer và Langley. Sống ở số 128 và số 5. Họ là những người sống ẩn dật và kỳ cục nhất trên thế giới. Họ kinh hãi nạn tội phạm ở Harlem và tự nhốt mình trong nhà, đặt những chiếc bẫy một cách vụng về, không bao giờ ném một thứ nhỏ nhất ra ngoài. Một trong số họ bị đè nát bởi đống báo. Khi họ chết, cảnh sát đã phải đẩy ra ngoài hàng trăm tấn rác từ nơi ở của họ. Ông hỏi: “Đã bao giờ cô nghe về họ chưa?”.

Cô cố vấn nói rằng cô ấy nghĩ mình đã nghe qua rồi.

“Không”, Geneva trả lời. Và nghĩ: Hãy hỏi xem con có quan tâm tới chuyện đó hay không.

Lincoln Rhyme đang chỉ cho Mel Cooper sắp xếp các bằng chứng mà họ đã thu được từ hiện trường vụ đánh bom, xem xét lại một vài báo cáo phân tích bằng chứng mà họ nhận được.

Một đội liên bang, dưới sự chỉ huy của Dellray, đã tìm đến Jon Earle Wson, người đàn ông có dấu vân tay trên quả bom bằng đài bán dẫn ở chỗ ẩn nấp của Boyd. Hắn đã bị tóm cổ và một vài đặc vụ đang mang hắn tới chỗ Rhyme để điều tra chống lại vụ án Thompson Boyd.

Đó là lúc điện thoại của Bell đổ chuông. Anh trả lời: “Bell đang nghe đây... Luis, có chuyện gì vậy?” Anh gõ vào đầu để nghe.

Luis...

Đó là Martinez, anh bám theo Geneva và cha cô bé từ khi họ rời khỏi nhà của Rhyme để tới Langston Hughes. Họ đã hoàn toàn được thuyết phục rằng Jax, Alonzo Jackson, chính là cha cô bé đồng thời không có đe dọa nào với cô cả, và rằng tên khủng bố làm việc một mình. Nhưng điều đó không có nghĩa là Bell và Rhyme để Geneva đi bất cứ đâu mà không có sự bảo vệ.

Nhưng có điều gì đó không đúng ở đây. Rhyme có thể nhìn thấy điều đó trong đôi mắt của Bell. Viên thanh tra nói với Cooper: “Chúng ta cần kiểm tra DMV. Nhanh”. Anh ghi nhanh lại một biển số xe vào một tờ giấy ghi chú và dập máy, đưa mẩu giấy đó cho một đồng chí trong đội Điều tra hiện trường.

“Có chuyện gì xảy ra vậy?”, Sachs hỏi.

“Geneva và cha cô bé đang ở một bến xe buýt gần trường học. Một chiếc xe dừng lại. Họ bước vào trong. Luis không nghĩ tới điều đó và không thể băng qua phố đủ nhanh để ngăn họ lại.”

“Xe? Ai lái?”

“Một phụ nữ da đen có dáng vẻ to lớn. Cách mà anh ta miêu tả cô ấy, có vẻ như đó là giáo viên cố vấn, cô Barton.”

Thật sự không có gì cần phải lo lắng lắm, Rhyme nghĩ. Có thể người phụ nữ chỉ đơn giản thấy họ đang đứng chờ xe buýt và cho họ đi nhờ.

Thông tin từ Cơ quan điều hành giao thông hiện lên trên màn hình của anh.

“Chúng ta có gì vậy, Mel?”, Rhyme hỏi.

Cooper nheo mắt khi đọc thông tin. Anh gõ một vài từ và nhìn lên, đôi mắt mở to qua cặp kính dày cộp. “Vấn đề. Chúng ta có vấn đề rồi.”

Cô Barton đang hướng về phía nam trung tâm Harlem, đi chậm rãi trong dòng giao thông đầu buổi chiều. Cô ta đi từ từ khi họ qua một dự án tái phát triển bất động sản khác.

Cha cô bé lắc đầu. “Nhìn xem.” Ông hất đầu về phía tấm bảng quảng cáo. “Các nhà ngân hàng, kiến trúc sư.” Một tiếng cười chua chát. “Cá với cô là không có lấy một người da đen nào đang điều hành chúng.”

Không thỏa đáng, Geneva nghĩ. Cô muốn ra vẻ chăm chú lắng nghe.

Than vãn về quá khứ...

Cô cố vấn nhìn về chỗ đó và nhún vai. “Ở đây ông sẽ thấy nó khắp nơi.” Cô nhấn phanh và đi xuống một con hẻm ở giữa một trong những tòa nhà cũ kỹ đang bị phá và một khu đang bị đào xới.

Đáp lại cái nhìn thắc mắc của cha cô bé, cô Barton nói: “Đường tắt”.

Nhưng cha cô nhìn quanh. “Đường tắt hả?”

“Chỉ để tránh dòng giao thông ở phía nam.”

Ông nhìn quanh, nheo mắt. Rồi thốt lên: “Mẹ kiếp”.

“Cha!”, Geneva rền rĩ.

“Ta biết dãy phố này. Phía trước là đường cụt. Họ đang phá hủy một vài nhà máy cũ.”

“Không.” Cô Barton nói. “Tôi chỉ đi đường này và...”

Nhưng cha cô bé chộp lấy cần thắng tay kéo ngược lại mạnh nhất có thể, rồi quành vô lăng sang bên trái. Chiếc xe dừng lại sượt vào một bức tường gạch với âm thanh rít lên của kim loại và nhựa mài vào đá.

Chộp lấy cánh tay của cô cố vấn, ông hét lớn: “Cô ta là một nhóm với chúng, con yêu. Muốn làm hại con đấy! Ra ngoài, chạy đi!”.

“Cha, không, cha điên mất rồi! Cha không thể…”

Nhưng sự xác nhận đến ngay sau đó khi khẩu súng ngắn được rút ra từ trong túi của người phụ nữ. Cô ta chĩa nó vào ngực cha cô bé và kéo cò. Ông chớp mắt trong kinh hoàng và giật mạnh về sau, ôm chặt lấy vết thương. “Không, không”, ông thì thào.

Geneva nhảy lùi ra sau khi người phụ nữ quay khẩu súng bạc về phía cô. Ngay khi nó nổ, cha cô vung nắm đấm vào hàm người phụ nữ và làm cô ta choáng váng. Lửa và một ít thuốc súng rắc lên mặt Geneva nhưng viên đạn thì đã chệch hướng. Nó thổi bung kính sau xe thành hàng ngàn mảnh vụn nhỏ.

“Chạy đi, con yêu!”, cha cô lầm bầm và sụp xuống bảng đồng hồ trước xe.

Oánh nó đi...

Sụt sịt, Geneva bò ra ngoài cửa sổ vỡ vụn phía sau xe và rơi xuống đất. Cô cố gắng đứng dậy và bắt đầu chạy thật nhanh xuống con dốc về phía khu công trường tối tăm đang bị phá hủy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,259
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38


Alina Frazier - người phụ nữ giả làm cô cố vấn Patricia Barton - không có được sự lạnh lùng như đồng phạm của bà ta. Thompson Boyd đã là một tảng băng rồi. Hắn không bao giờ bị bối rối hay lo lắng. Nhưng Alina luôn luôn dễ kích động. Cô ta giận dữ, chửi rủa, khi quờ quạng cào bới qua xác cha của Geneva và lao vào con hẻm, nhìn sang trái rồi sang phải tìm kiếm cô bé.

Điên tiết vì Boyd đã bị tóm cổ, điên tiết vì cô bé đang chạy trốn.

Hít thở thật sâu, nhìn lên rồi xuống con hẻm vắng tanh vắng ngắt. Chạy đuổi lên trước rồi phía sau. Con quỷ cái nhỏ thó ấy có thể ở đâu...?

Một ánh màu tối sẫm ở bên phải cô ta: Geneva đang bò ra từ phía sau một thùng đựng rác màu xanh da trời hoen gỉ và biến mất sâu hơn vào trong khu công trường. Người phụ nữ bắt đầu lao vào truy đuổi, thở hổn hển. Bà ta to lớn, nhưng cũng rất khỏe và di chuyển nhanh nhẹn. Tù tội có thể khiến một người trở nên mềm yếu, hoặc cũng có thể vì tù tội mà biến ai đó trở thành sắt đá. Cô ta đã chọn cái thứ hai.

Frazier đã từng là một gangster trong đầu những năm 90, thủ lĩnh một nhóm nữ lang thang khắp quảng trường Thời đại và phía Upper East Side, nơi mà khách du lịch và người dân - người luôn dè chừng những đám con trai tuổi mới lớn - không hề nghĩ tới một nhóm đầy nữ quái hung dữ, mang những chiếc túi mua sắm của Daffy Dan và Macy. Cứ như vậy, cho đến khi những con dao hay súng xuất hiện và những mụ giàu có mất tiền, trang sức. Sau một thời gian ngắn ngồi tù lúc vị thành niên, cô ta lại dính vụ lớn hơn và lại ngồi tù vì tội ngộ sát - đáng lẽ đó là tội giết người, nhưng công tố viên đã nhầm. Sau khi tại ngoại, cô ta quay lại New York, ở đây, cô ta gặp Boyd thông qua một gã mà cô ta sống cùng, và khi chia tay, Boyd gọi cho cô ta. Lúc đầu, cô ta cứ nghĩ rằng đó chỉ là một trong số những thứ ở gã-da-trắng-thu-hút-những-cô-gái-da-màu. Nhưng khi nhận lời mời uống cà phê, hắn không hề muốn tán tỉnh cô ta chút nào. Hắn chỉ quan sát cô bằng đôi mắt kỳ lạ, khô khốc của mình và nói rằng sẽ rất có ích nếu một phụ nữ làm việc với hắn trong một vài nhiệm vụ. Liệu cô có cảm thấy thích thú không?

Nhiệm vụ? Cô hỏi, nghĩ tới ma túy, nghĩ tới súng, nghĩ tới những kênh ti vi về tộ

Nhưng hắn đã thì thầm giải thích về công việc của mình.

Cô chớp mắt.

Rồi hắn còn thêm vào rằng nó có thể mang lại năm mươi ngàn đô cho cô chỉ sau vài ngày làm việc.

Một khoảng dừng. Rồi một cái cười nhăn nhở. “Đồng ý thôi.”

Mặc dù về sự việc liên quan tới Geneva Settle, chúng đã yêu cầu số tiền gấp năm lần số tiền trên. Nó là một cái giá khá đẹp, bởi đó là vụ khó thực hiện nhất mà chúng từng làm. Sau đợt tấn công ở bảo tàng sáng ngày hôm qua không có kết quả, Boyd đã gọi cho cô ta và yêu cầu giúp đỡ (thậm chí còn đề nghị thêm năm mươi ngàn đô nếu cô ta tự tay giết chết cô bé). Frazier, luôn luôn tinh quái nhất trong nhóm của mình, đã nghĩ ra ý tưởng đóng giả làm giáo viên cố vấn và một tấm thẻ ngành giả được làm. Cô ta bắt đầu gọi điện cho các trường công trong Harlem, đề nghị được nói chuyện với bất cứ giáo viên nào của Geneva Settle, và đã nhận được hàng tá câu trả lời: “Cô bé không được tuyển vào, rất tiếc”. Cho tới trường trung học Langston Hughes, một vài người làm việc văn phòng nói, đúng rồi, đây là trường của con bé. Frazier chỉ đơn giản là mặc một bộ trang phục công sở rẻ tiền, treo lủng lẳng chiếc thẻ trước bộ ngực to lớn và đi dạo trong trường như thể đó là chỗ của mình.

Ở đó, cô ta đã nghe về phụ huynh huyền bí của cô bé, căn hộ trên phố 118 - từ thanh tra Bell và các cảnh sát khác về ngôi nhà trên khu tây Central Park cũng như ai đang bảo vệ Geneva. Cô ta đã đưa hết những thông tin này cho Boyd để giúp hắn vạch kế hoạch sát hại cô bé.

Cô ta lén theo dõi căn nhà của cô bé ở gần Momingside cho đến khi thấy rằng việc này quá mạo hiểm bởi những người bảo vệ Geneva. (Cô ta đã bị tóm lúc lởn vởn quanh đó buổi chiều ngày hôm nay, khi một chiếc xe cảnh sát yêu cầu cô ta dừng xe bên lề đường gần ngôi nhà để kiểm tra, nhưng hóa ra là cảnh sát không truy tìm ả.)

Frazier đã nói chuyện với người bảo vệ ở Langston Hughes đưa cuộn băng an ninh sân trường cho mình, và với cái cớ ấy, cô ta đã sắp xếp để vào được bên trong căn nhà của người đàn ông bị liệt, đồng thời biết được nhiều thông tin hơn về cô bé.

Nhưng rồi Boyd bị tóm cổ - hắn đã nói với cô ta rằng những cảnh sát giỏi tới mức nào - và giờ thì nhiệm vụ của Alina Frazier là hoàn thành công việc nếu muốn phần còn lại của khoản tiền công, 125.000 đô la.

Hổn hển lấy hơi thở, người phụ nữ to lớn giờ đứng nghỉ ở giữa con dốc đưa xuống móng của khu đất. heo mắt vì ánh mặt trời lặn phía tây hắt vào mắt, cố gắng nhìn xem cô bé đã trốn đi đâu. Khốn kiếp, con nhóc, thò mặt ra đi xem nào.

Rồi: Có chuyển động một lần nữa. Geneva đang cố gắng tìm đường về phía bên kia của khu xây dựng bị bỏ hoang, bò thật nhanh trên nền đất, nấp sau máy trộn bê tông, Bobcats, hàng đống xà, cột và vật liệu. Cô bé biến mất phía sau một thùng dầu.

Bước vào phía bóng tối để nhìn rõ hơn, Frazier nhằm vào giữa thùng dầu và nổ súng, viên đạn trúng vào lớp kim loại với một tiếng vang lớn.

Cô ta cho rằng bùn đất bắn tóe lên không trung qua thùng đựng dầu. Liệu có trúng vào con bé không?

Nhưng không, con bé đang bò lên và di chuyển nhanh tới một đống những mảnh vụn – của gạch, đá, ống nước. Ngay khi cô bé nhảy tót qua nó, Frazier lại nổ súng.

Cô bé lộn xuống bên kia bức tường với một tiếng thét inh tai. Có một cái gì đó bắn lên không khí. Đất và bụi đá? Hay là máu?

Liệu Frazier đã bắn trúng cô bé chăng? Ả là một tay súng cừ - ả và gã bạn trai cũ, một tay buôn súng ở Newark, đã dành hàng tiếng đồng hồ nhắm bắn lũ chuột trong những tòa nhà bỏ hoang nằm ở rìa thành phố, thử những sản phẩm của chúng. Ả cho rằng mình đã bị để ý lúc này. Nhưng không thể đợi lâu để kiểm chứng điều đó; mọi người hẳn đã phải nghe thấy tiếng súng nổ. Hẳn là vài người sẽ lờ đi, chắc chắn rồi, và vài người sẽ cho rằng những công nhân vẫn đang làm việc với các thiết bị nặng. Nhưng ít nhất sẽ có một hay hai công dân tốt có thể đang gọi 911 lúc này.

Chà, để xem sao nào...

Ả ta bắt đầu chậm rãi bước xuống con dốc dành cho xe tải, để bảo đảm rằng mình không ngã; con dốc khá dựng đứng. Nhưng rồi một tiếng còi ô tô bắt đầu rú inh ỏi từ con hẻm, phía sau và bên trên ả. Đó là tiếng từ xe của cô ta.

Mẹ kiếp, ả nghĩ đầy giận dữ, cha của con bé vẫn sống.

Frazier do dự, rồi quyết định: Đã đến lúc cuốn gói khỏi nơi này. Kết thúc người cha. Geneva hẳn đã trúng đạn và không thể sống lâu được. Nhưng thậm chí nếu con bé không bị thương, Frazier có thể lần theo hạ gục nó sau. Sẽ có hàng đống cơ hội.

Tiếng còi chó chết... Nó có vẻ ầm ĩ hơn tiếng súng nổ và thu hút sự chú ý hơn. Tồi tệ hơn là, nó có thể che đi bất kỳ tiếng còi xe cảnh sát nào đang đến gần. Frazier leo lên frên con phố phía trên con hẻm bụi bẩn, thở mạnh vì cố sức. Nhưng khi tới chỗ chiếc xe, cau mày, thấy nó trống không. Cha của Geneva không ở ghế lái. Một vệt máu dài dẫn tới một con hẻm gần đó, nơi mà xác ông ta đang nằm sõng soài. Frazier nhìn lại một lần nữa vào trong chiếc xe của mình. Những gì xảy ra là: Trước khi bò khỏi xe, ông ta đã lôi chiếc thanh nâng của xe ra và chống nó vào phím còi ở trên bánh lái.

Giận dữ, Frazier giật mạnh nó ra.

Ả ném cái thanh nâng vào ghế sau và nhìn vào người đàn ông. Liệu ông ta đã chết chưa? Chà, nếu chưa thì sẽ sớm thôi. Ả bước về phía ông, khẩu súng ở sát sườn. Rồi ả dừng lại, cau mày... Làm thế nào mà một người đàn ông với một vết thương nặng như cái gã này có thể mở cốp xe, vặn cái thanh nâng ra, lôi nó tới ghế trước và dựng nó vào bánh lái chứ?

Frazier bắt đầu nhìn quanh.

Và nhìn thấy một hình ảnh nhòe nhoẹt ở bên phải, nghe thấy tiếng gió rít lên khi chiếc cần nậy bằng sắt vung xuống và đập mạnh vào cổ tay ả, làm văng khẩu súng và tạo ra một cơn đau nhói đến nghẹt thở xuyên suốt cơ thể. Ả đàn bà to lớn la hét và khuỵu xuống, vung tìm khẩu súng với bàn tay trái. Ngay khi ả chộp được nó, Geneva vung thanh sắt lên một lần nữa và đập vào vai ả với một tiếng rắc. Frazier lăn trên đất, khẩu súng trượt khỏi tầm tay ả. Mắt nhắm tịt vì cơn đau và sự giận dữ, ả lao tới và chặn cô bé trước khi cô có thể vung thanh sắt một lần nữa. Geneva ngã nhào, không thể thở được.

Ả đàn bà quay sang phía khẩu súng đang nằm nhưng trong hơi thở hổn hển và nghèn nghẹt, Geneva bò về phía trước, chộp lấy cánh tay phải của ả và cắn vào cái cổ tay đã bị đập trầy trụa của Frazier. Cơn đau không thể nào tồi tệ hơn nữa chạy dọc cơ thể. Frazier vung mạnh nắm đấm chắc nịch của ả vào quai hàm cô bé. Geneva hét lên và nước mắt lăn ra xối xả khi lăn lộn tuyệt vọng. Frazier loạng choạng bước tới, ôm lấy cái cổ tay đầy máu và đau đớn vì bị gãy, đá vào bụng cô bé. Cô bé bắt đầu nôn mửa.

Loạng choạng đứng dậy, Frazier tìm kiếm khẩu súng, đang nằm cách đó đến hơn ba mét. Không cần nó, không muốn dừng nó. Cái thanh sắt nâng cũng đủ để làm rồi. Bùng lên nỗi giận dữ, ả nhặt nó lên và bắt đầu bước tới. Nhìn xuống cô bé với một sự căm thù tột độ và giơ thanh sắt lên trên đầu. Geneva co rúm lại và đưa bàn tay lên ôm mặt.

Rồi một tiếng hét lên từ phía sau ả đàn bà to lớn: “Không!”.

Frazier quay ra nhìn người nữ cảnh sát với mái tóc đỏ từ ngôi nhà của người đàn ông bị liệt chậm rãi bước tới phía ả, khẩu súng ngắn tự động được nắm chặt trong hai tay.

Aliz Frazier khẩu colt gần đó.

“Tôi cần một lời xin lỗi...”, người nữ cảnh sát nói. “Thực sự cần.”

Frazier ngồi sụp xuống, quẳng thanh sắt sang một bên và, cảm thấy nhụt chí, hoàn toàn thất bại. Ả ôm lấy bàn tay gãy nát của mình.

Người cảnh sát tiến tới gần hơn, đá khẩu súng và thanh sắt ra xa, khi Geneva đứng dậy, lảo đảo bước tới phía hai nhân viên y tế đang chạy lại. Cô bé chỉ cho họ về phía cha cô.

Nước mắt giàn giụa từ cơn đau, Frazier đòi hỏi: “Tôi cần bác sĩ”.

“Cô sẽ phải xếp hàng theo thứ tự”, nữ cảnh sát nói và quấn chiếc còng tay dẻo vào cổ tay ả mà trong tình trạng này, Frazier cho là thực sự nhẹ nhàng.

“Ông ấy ổn rồi”, Lon Sellito nói. Anh vừa trả lời cuộc gọi từ một nhân viên ở Bệnh viện Columbia - Presbyterian. “Anh ta không biết điều đó có ý nghĩa như thế nào. Nhưng chúng ta đã nhận được tin tốt này rồi.”

Rhyme gật đầu khi biết tin về Jackson. “Ổn” có nghĩa là gì đi chăng nữa, ít nhất thì ông ấy cũng còn sống, mà Rhyme thực sự vô cùng biết ơn điều đó - vì lợi ích của Geneva.

Các nhân viên y tế đã kiểm tra và sơ cứu các vết thương của Gevena sau đó cho cô bé về.

Chính bức ảnh về đồng phạm của Boyd đã cứu cô bé. Mel Cooper đã rà soát biển số xe mà cô bé và cha mình bước vào rồi tìm ra nó được đăng ký dưới tên Alina Frazier. Một cuộc kiểm tra nhanh chóng qua Trung tâm lưu trữ quốc gia và dữ liệu bang đã chỉ ra rằng ả có hồ sơ tiền án tiền sự: hầu tòa với tội ngộ sát và hai vụ tấn công với vũ khí chết người ở New York, cũng như một loạt những vi phạm khi còn trẻ.

Sellito đã phải dùng đến chương trình Định vị thiết bị cơ giới khẩn cấp, qua đó cảnh báo tất cả các nhân viên an ninh, cảnh sát trong khu vực tìm kiếm chiếc Sedan của Frazier. Một cảnh sát đảm trách giao thông đã báo cáo về việc trước đó không lâu một chiếc xe đã được thấy ở gần khu công trình bị phá hủy ở phía nam Harlem. Đồng thời cũng có những báo cáo về tiếng súng ở trong khu vực quanh đó. Ở nhà của Rhyme, Amelia Sachs đã nhảy vào chiếc Camaro và lao như bay tới hiện trường, nơi cô tìm thấy Frazier đang chuẩn bị đánh Geneva đến chết.

Frazier đã được thẩm vấn nhưng chẳng có chút hợp tác nào hơn đồng phạm của mình. Rhyme đoán rằng ả phải suy nghĩ rất lâu và thận trọng về việc phản bội Thompson Boyd, đặc biệt là trong tù, đó là nơi hắn có những mối liên hệ trong phạm vi

Liệu Geneva cuối cùng đã an toàn hay chưa? Hầu như là rồi. Hai tên sát thù đã bị tóm và nhân vật chính thì bị thổi bay thành từng mảnh. Sachs đã tìm đến căn hộ của Alina Frazier và không tìm thấy gì ngoài vũ khí và tiền mặt - không có thông tin nào cho thấy có một kẻ nào khác muốn truy sát Geneva Settle. Jon Earle Wilson, một cựu tù từ New Jersey, kẻ đã làm chiếc bẫy cho căn hộ ần nấp của Boyd trên phố Queens, đang được áp giải đến chỗ Rhyme, và nhà tội phạm học hy vọng rằng hắn sẽ giúp xác nhận lại những kết luận của họ. Rhyme và Bell vẫn quyết định cử một sĩ quan cảnh sát mặc thường phục trong một xe cảnh sát bảo vệ Geneva.

Giờ, chiếc máy tính kêu lên một tiếng báo thân thiện và Mel Cooper nhìn lên màn hình. Anh mở một bức email. “Chà, điều bí ẩn đã được giải đáp.”

“Có thể là điều bí ẩn nào vậy nhỉ?”, Rhyme nói một cách cộc cằn. Tâm trạng của anh ấy, luôn dễ thay đổi, có vẻ như buồn hơn vào cuối vụ án, khi sự buồn tẻ đang dần hiện ra.

“Winskinskie”.

Một từ trong ngôn ngữ của người Anh điêng trên chiếc nhẫn mà Sachs tìm ra quanh xương ngón tay bên dưới đống đổ nát ở quán rượu Potter’s Field.

“Và?”

“Đây là email từ giáo sư ở Đại học Maryland. Bên cạnh bản dịch nguyên mẫu từ ngôn ngữ Delaware: ‘Winskmskie’ là một cấp bậc trong tổ chức chính trị Tammany.”

“Cấp bậc?”

“Kiểu như là trung sĩ trong quân đội. Boss Tweed là người lãnh đạo tối cao. Còn đây - một cái hất đầu về phía những mẩu xương và cái sọ mà Sachs tìm thấy trong chiếc giếng - là Winskinskie, người canh cửa.”

“Tammany Hall...”, Rhyme gật gật đầu khi suy tư về nó, để cho tâm trí của mình trôi ngược lại dòng thời gian, bỏ qua vụ án này, đi vào cái thế giới của thời báo đen trắng và khói bụi của New York thế kỷ XIX. “Và Tweed có qua lại ở Potter’s Field. Vậy nên ông ta và bộ máy Tamany Hall hẳn đã đứng sau vụ dàn dựng ông Charles.”

Anh ra lệnh cho Cooper thêm một số tìm kiếm mới vào tấm bảng. Rồi xem xét các thông tin một lúc. Anh gật đầu. “Rất thú vị.”

Sellito nhún vai. “Vụ án đã kết thúc rồi”, Linc. Gã sát thủ đã bị tóm cổ. Tên khủng bố thì đã chết. Thế thì còn lý do gì mà một điều xảy ra hàng trăm năm trước lại thú vị nữa chứ?”

“Gần một trăm bốn mươi năm, Lon. Hãy chính xác một chút.” Arih đang cau mày khi nhìn chằm chằm vào tấm bảng bằng chứng, những tấm bản đồ - và khuôn mặt bình thản của Người treo ngược. “Và câu trả lời cho câu hỏi của anh là: Anh biết rõ rằng tôi ghét những kết thúc lỏng lẻo như thế nào.”

“Ừ, nhưng thế nào là lỏng lẻo chứ?”

“Cái điều gì mà chúng ta đã quên mất trong suốt những giờ phút nóng bỏng của trận chiến, nếu chúng ta bước đi trên một bãi mìn đầy những câu nói cũ xin một lần nữa, Lon?”

“Tôi chịu”, Sellito ậm ừ.

“Bí mật của Charles Singleton. Ngay cả khi nó chẳng có liên quan chút gì tới hiến pháp hay những tên khủng bố, ít nhất tôi đang vô cùng muốn biết nó là gì đây. Tôi cho rằng chúng ta nên tìm ra.”

Bảng bằng chứng:

Hiện trường vụ nổ bom xe tải

+ Chiếc xe được đăng ký dưới tên Bani-al-Dahab (xem hồ sơ).

+ Giao đồ ăn tới các nhà hàng Trung Đông và các xe đẩy hàng.

+ Bức thư nhận trách nhiệm về vụ đánh bom trung tâm mua bán trang sức được tìm lại. Mẩu giấy khớp với tư liệu trước đó.

+ Các thành phần của thiết bị nổ được tìm ra: Phần còn lại của Tovex, các dây điện, pin, bộ phận kích nổ bằng sóng vô tuyến, các phần của hộp đựng.

Nơi ở của Thompson Boyd và nhà an toàn chính

+ Có nhiều falafel và sữa chua hơn, các vết sơn, như trước.

+ Tiền mặt (tiền cho công việc?) 100.000 đô la tiền mới. Không có dấu vết. Nhiều khả năng được rút ra nhiều lần bằng các khoản tiền nhỏ.

+ Vũ khí (súng, gậy dùi cui, dây thừng) đưa tới hiện trường trước.

+ Acid và cyanide đưa tới hiện trường trước đó, không có dấu hiệu đưa tới nhà sản xuất.

+ Không có điện thoại di động. Các thông tin ghi chép về điện thoại khác không có ích.

+ Các dụng cụ đưa tới hiện trường trước.+ Lá thư hé lộ ra việc G. Settle bị nhắm tới vì cô bé là nhân chứng tới một vụ cướp trang sức đang được lên kế hoạch. Nhiều carbon nguyên chất hơn - được nhận định là bụi kim cương.

- Lá thư được gửi tới Parker Kincaid ở Washington D.C., để làm các kiểm tra đánh giá về văn bản.

* Ngôn ngữ của người viết là tiếng Ả Rập.

* Thiết bị nổ tự tạo, một phần bẫy trong nhà. Các dấu tay là của một kẻ tạo bom từng bị kết án, John Earle Wilson.

- Đã được xác định. Đang được đưa tới thẩm vấn tại chỗ Rhyme.

Hiện trường quán Potter’s Field (1868)

+ Một quán rượu ở Gallows Heights - nằm trên con phố 80 ở Upper West Side, vào khoảng những năm 1860.

+ Potter’s Field có khả năng là nơi tụ tập của Boss Tweed và các chính trị gia tham nhũng của New York.

+ Charles đến đây vào ngày 15 tháng 7 năm 1868.

+ Bị đốt cháy sau một vụ nổ, được phỏng đoán là ngay sau chuyến viếng thăm của Charles. Để giấu bí mật của ông ấy?

+ Xác ở dưới tầng hầm, đàn ông, được phỏng đoán bị Charles Singleton giết.

- Phát bắn vào trán bởi khẩu Navy Colt 36 ly được nạp đạn 39 ly (loại súng mà Charles sở hữu).

- Những đồng tiền vàng.

- Người đàn ông bị giết có một khẩu Derringer.

- Không có danh tính.

- Có chiếc nhẫn khắc ‘Winskinskie’

* Nghĩa là “người canh cửa” hoặc “người gác cổng” theo ngôn ngữ Delaware của người da đỏ.

* Hiện đang tìm các nghĩa khác.

* Là một cấp bậc trong bộ máy chính trị Tammany Hall của Boss Tweed

Hồ sơ về Nghi phạm 109

+ Thompson Boyd, cựu nhân viên thi hành án, Amarillo, TX.

+ Hiện đã bị bắt giữ.

Hồ sơ về kể thuê Nghi phạm 109

+ Bani al-Dahab, Ả Rập Xê út, ở lại Mỹ bất hợp pháp do visa đã hết hạn.

+ Đã chết.

+ Tìm kiếm tại chỗ ở cho thấy không có liên quan tới khủng bố. Hiện đang kiểm tra nhật ký điện thoại.

+ Đang thực hiện điều tra những người thuê hắn làm việc để tìm kiếm các liên hệ với khủng bố.

Hồ sơ về đồng phạm Nghi phạm 109

+ Được xác định không phải là người đàn ông theo miêu tả lúc đầu, mà là Alia Frazier, hiện đã bị giam giữ.

+ Tìm kiếm nơi ở không cho thấy vũ khí và tiền bạc, không có gì khác liên quan tới vụ án.

Hồ sơ về Charles Singleton

+ Cựu nô lệ, tổ tiên của Geneva Settle. Có gia đình, một con trai. Được ông chủ cho một vườn cây ở tiểu bang New York. Làm việc với vai trò một thầy giáo. Tham gia vào cuộc vận động vì dân quyền từ

rất sớm.

+ Charles bị cho là đã thực hiện một vụ ăn trộm năm 1868, chủ đề của bài báo trong tấm vi phim bị lấy trộm.

+ Có một bí mật chưa được hé lộ. Lo lắng rằng sẽ gây ra thảm kịch nếu bí mật bị hé lộ.

+ Tham gia vào các buổi họp bí mật ở Gallows Heights gần New York.

- Dính líu tới những hoạt động mạo hiểm?

- Làm việc với Frederick Douglass và những người khác liên quan tới Bản sửa đổi số 14 trình Thượng viện để được phê chuẩn.

Vụ án, theo tờ Tuần báo Minh họa dành cho người da màu:

- Charles bị bắt bởi Thám tử William Simms vì ăn trộm một lượng lớn từ Quỹ Nô lệ tự do ở New York. Đột nhập vào két, nhân chứng nhìn thấy ông ta rời khỏi đó nhanh chóng. Dụng cụ dùng để gây án được tìm thấy ở gần đó. Phần lớn tiền đã được tìm lại. Bị tuyên án năm năm tù. Không có thông tin gì về ông ấy sau khi bị tuyên án. Bị cho là tận dụng quan hệ với những nhà lãnh đạo trong cuộc vận động dân quyền thời gian đầu để tiếp cận Quỹ.

+ Thư của Charles:

- Bức thư thứ nhất, gửi tới vợ: Về cuộc khởi nghĩa chống quân dịch năm 1863, sự chống lại người da đen ở khắp tiểu bang New York, hành hình, đốt phá. Nguy cơ ảnh hưởng tới tài sản mà người da đen sở hữu.

- Bức thư thứ hai, tới vợ: Charles trong trận chiến ở Appromattox vào giai đoạn cuối cuộc Nội chiến.

- Bức thư thứ ba, tới vợ: Tham gia vào cuộc vận động quyền dân sự. Bị đe dọa vì công việc của mình. Đau khổ với bí mật.

- Bức thư thứ tư, tới vợ: Đi tới Potter’s Field với khẩu súng vì “công lý”. Kết quả thảm khốc. Sự thật hiện đang nằm sâu dưới quán Potter’s Field. Bí mật của ông ấy là tất cả những gì khiến ông ấy đau khổ.

V. BÍ MẬT CỦA NGƯỜI CỰU NÔ LỆ

Thứ Sáu ngày 12 tháng 10 đến thứ Sáu ngày 26
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,259
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39


Người đàn ông da trắng năm mươi tư tuổi trong bộ trang phục Brooks Brothers ngồi tại một trong hai văn phòng ở Manhattan, đang chìm vào cuộc tranh cãi gay gắt với chính mình.

Có hay không?

Câu hỏi rất quan trọng, thực sự là một vấn đề giữa sống và chết.

William Ashberry, Jr. với vóc dáng gọn gàng, săn chắc ngồi dựa vào chiếc ghế xoay và nhìn vào đường chân trời của New Jersey. Cái văn phòng này không thanh lịch hay phong cách bằng cái ở phía dưới trường bất động sản New York, đã mang lại cho cả ông ta và ngân hàng Sanford một khoản tiền khổng lồ.

Cổ hủ, chắc chắn rồi, nhưng chỉ trên một quan điểm nào đó. Ông ta có một lối sống được chu cấp bởi mức lương hàng triệu đô một năm, cùng với các khoản thưởng đáng nể như tầm ảnh hưởng tại phố Wall, một vài ngôi nhà, thành viên của một vài câu lạc bộ golf, những cô con gái xinh đẹp ngoan ngoãn có học thức, cũng như mối quan hệ với một loạt các hội từ thiện mà ông ta và vợ luôn sẵn lòng vui vẻ giúp đỡ. Một chiếc chuyên cơ Grumman riêng cho những chuyến đi ra nước ngoài thường xuyên cũng là một phần thưởng quan trọng.

Nhưng Ashberry cũng không phải là một trong những giám đốc điều hành điển hình thuộc cấp độ Forbes. Cạo đi lớp vỏ bề ngoài và ta sẽ thấy một đứa trẻ bướng bỉnh từ South Philly, cha là đốc công ở một nhà máy và ông nội từng làm sổ sách giả cho công ty, rồi làm những công việc khó nhằn hơn, cho Angelo Bruno[1]- “Docile Don” - và sau đó là cho Phil ‘Chicken Man’ Testa[2]. Ashberry đã tự tay điều hành một đám du côn, kiếm tiền bằng cả dao và khối óc cũng như từ những công việc có thể quay lại ám ảnh ông ta nếu không bảo đảm một cách tuyệt đối rằng chúng mãi mãi bị chôn vùi. Nhưng trong những năm đầu của tuổi hai mươi, trong tư tưởng ông ta đã nhận thức rằng nếu tiếp tục cho vay nặng lãi, đi gõ đầu thu tiền bảo kê, lượn lờ trên các con phố Dickson và Reed ở Philly, phần thưởng duy nhất là món tiền lẻ đủ mua một cái bánh kẹp thịt và một chỗ ngồi chắc chắn trong tù. Nếu ông ta thực hiện điều tương tự như thế trong thế giới thương mại, dành nhiều thời gian ở Broadway và khu Upper West Side của Manhattan, ông ta sẽ giàu có khủng khiếp và có một vị trí ngon lành ở Alban

y hay Washington. ông ta thậm chí còn có thể trở thành một Frank Rizzo[3] nữa ý chứ. Tại sao không nhỉ?

[1] Trùm xã hội đen.

[2] Trùm xã hội đen.

[3] Một nhà chính trị nổi tiếng người Mỹ.

Nên đó là những lớp học luật buổi tối, một giấy phép kinh doanh bất động sản và cuối cùng là một công việc ở ngân hàng Sanford - đầu tiên là ngồi ở bàn phục vụ khách hàng rút tiền, rồi từng bước leo lên từng vị trí. Tiền quả thực bắt đầu đổ vào, lúc đầu là chậm rãi, sau đó là một dòng ổn định, ông ta leo lên nhanh chóng vào vị trí đứng đầu một trong những chi nhánh ngân hàng nóng bỏng nhất, giao dịch tài chính về bất động sản. Đánh ngã hết những đối thù cạnh tranh - cả trong và ngoài ngân hàng - đi lên từ hai bàn tay trắng. Rồi ông ta dùng mánh khóe để giành vị trí lãnh đạo trong tổ chức Sanford, và học được rằng làm từ thiện là cách tốt nhất để tạo ra các quan hệ chính trị.

Một cái nhìn khác về phía chân trời New Jersey, một khoảng thời gian tranh luận khác, chà xát tay một cách gượng ép trên bắp đùi rắn chắc nhờ những séc teirnis, đi bộ, đánh golf và bơi thuyền. Có hay không?

Sống và chết...

Một cách tính toán, một bàn chân đã vĩnh viễn cắm xuống con phố 17 cùa khu nam Philly, Bill Ashberry đã từng chơi với những gã có máu mặt.

Những gã giống như Thompson Boyd.

Ashberry có được tên của gã sát thủ từ một kẻ phóng hỏa đã sai lầm khi đốt cháy rụi một trong những tòa thương mại của ông ta - và bị bắt quả tang - một vài năm trước. Sau khi Ashberry nhận ra rằng phải giết Geneva Settle, ông ta đã thuê một thám tử tư để truy tìm kẻ phóng hỏa được trả tự do sớm này và trả cho hắn 20.000 đô la để dẫn mình tới một sát thủ chuyên nghiệp. Gã đàn ông đầu đầy gàu (với mái tóc cắt gọn gàng ở trước nhưng dài thượt phía sau) đã gợi ý Thompson Boyd. Ashberry rất ấn tượng với sự lựa chọn. Boyd quả thật đáng sợ, nhưng không phải theo kiểu cùa vùng phía nam Philly. Không có một tia cảm xúc nào trong đôi mắt của hắn, không bao giờ thốt ra một chữ chửi bậy kiểu “mẹ kiếp” hay “chó chết”.

Nhà tài phiệt đã giải thích ông ta cần gì và họ thỏa thuận xong mức thù lao - hai trăm năm mươi ngàn đô (ngay cả con số này cũng không gợn lên một chút ngạc nhiên hay thích thú trong mắt của Boyd; hắn có vẻ là thích thú hơn với - ta không thể nói là hào hứng - viễn cảnh giết một cô gái trẻ, như thể hắn chưa bao giờ làm điều đó).

Chỉ cần thời gian là Boyd có thể thành công và cô bé sẽ chết, do đó tất cả những vấn đề của Ashberry sẽ biến mất theo.

Nhưng rồi thảm họa xảy ra, Boyd và đồng phạm, mụ Frazier, đều bị tóm cổ.

Do đó, ông ta ngồi đây tranh đấu: Có, không... Liệu Ashberry có nên tự tay giết Geneva không?

Với cách tiếp cận công việc đặc trưng của mình, ông ta cân nhắc sự mạo hiểm.

Ngược lại với tính cách lạnh lùng vô cảm, Boyd trở nên sắc bén khi hắn bị đe dọa. Hắn biết công việc liên quan đến giết chóc, biết rõ cả việc điều tra các vụ án, cũng như làm thế nào để sử dụng động cơ gây án để đánh lạc hướng của cảnh sát. Hắn đã đưa ra một vài động cơ giả nhằm làm ệch hướng điều tra của cảnh sát. Đầu tiên, vụ hiếp dâm, đã không có tác dụng. Vụ thứ hai thì tinh tế hơn nhiều. Hắn đã gieo những hạt mầm mà chúng chắc chắn rằng lúc này đang nảy nở: mối liên quan đến khủng bố. Hắn và kẻ đồng lõa đã tìm ra một gã giao đồ ăn Trung Đông khốn khổ, các xe đẩy và nhà hàng ở gần khu mua bán trang sức, tòa nhà nằm ở phía bên kia con phố với nơi mà Geneva Settle suýt nữa bị giết chết. Boyd định vị tòa nhà hắn làm việc và theo dõi nơi đó, tìm hiểu xe tải cùa hắn là gì. Boyd cùng cộng sự của mình đã tạo ra một loạt những dẫn chứng giả để tạo cho nó có vẻ như cái gã khốn khổ người Ả Rập kia đang lên một kế hoạch đánh bom khủng bố và hắn muốn Geneva chết vì cô bé đã nhìn thấy hắn lên kế hoạch vụ tấn công.

Boyd đã tìm cách lấy một vài tờ giấy văn phòng bỏ đi ở thùng rác phía sau trung tâm mua sắm. Hắn đã vẽ một cái bản đồ vào một tờ và trên tờ còn lại thì viết một mẩu ghi chú về cô bé bằng tiếng Anh - pha chút Ả Rập (Một trang ngôn ngữ Ả Rập trên mạng đã rất có ích) - để đánh lừa các cảnh sát. Boyd đang định bỏ những tờ giấy này ở gần hiện trường nhưng nó đã có hiệu quả thậm chí còn tốt hơn cả mong đợi; cảnh sát tìm thấy chúng trong căn nhà ẩn nấp của Boyd trước khi hắn thực hiện, và điều này tạo ra nhiều cơ sở đáng tin cậy cho sự liên quan tới khủng bố. Chúng đã sử dụng thức ăn Trung Đông làm vật chứng và gọi điện nặc danh cho

FBI đe dọa đánh bom khủng bố từ một quầy điện thoại công cộng trong khu vực.

Boyd đã không hề lên kế hoạch nào xa hơn với trò đấu trí này. Nhưng rồi nữ cảnh sát chết bằm đó - Thanh tra Sachs - xuất hiện ngay đây, ở cái tổ chức này, xới tung tất cà hồ sơ lưu trữ! Ashberry vẫn nhớ rằng mình đã phải đấu tranh tới mức nào để có thể giữ bình tĩnh, nói chuyện vắn tắt với người phụ nữ tóc đỏ ấy và để cho cô ta tự do đi vào đống sách trong kho lưu trữ. Hắn đã phải sử dụng tất cả sức mạnh ý chí của mình để không lao xuống dưới cầu thang và hỏi cô ta một cách thật bình thường rằng họ đang tìm kiếm cái gì. Nhưng nó sẽ là một mối nguy lớn có thể làm tăng lên sự nghi ngờ ở họ. Hắn đã đồng ý để cô ta lấy đi một vài thứ và nhìn xung quanh khi cô ta đi ra, hắn không hề thấy có gì có thể gây phiền phức cho mình cả.

Sự hiện diện ở tổ chức và sự thật là cô muốn kiểm tra một vài thứ đã cho nhà tài phiệt biết rằng cảnh sát vẫn chưa nắm được động cơ khủng bố. Ashberry ngay lập tức gọi cho Boyd và nói với hắn làm thế nào để cho câu chuyện trở nên đáng tin cậy hơn nữa. Gã sát thủ đã mua một quả bom từ kẻ đốt nhà trước đây đã móc nối Ashberry với Boyd. Hắn đã đặt quả bom lên chiếc xe tải đưa hàng, với một bức thư gửi tới tạp chí Times về những người Do Thái. Boyd đã bị bắt chỉ ngay sau đó nhưng cộng sự của hắn - mụ da đen ở Harlem - đã kích hoạt quả bom, và cuối cùng thì cảnh sát tóm được thông tin: Khủng bố.

Và, do cái gã theo đạo hồi kia đã chết, họ sẽ rút bớt sự bảo vệ cô bé.

Việc này tạo cơ hội cho Alina Frazier kết thúc công việc.

Nhưng những cảnh sát đã thông minh hơn một lần nữa, và ả cũng đã bị bắt.

Câu hỏi lớn đặt ra lúc này là: Liệu cảnh sát có tin rằng mối đe dọa cô bé cuối cùng đã tan biến, với kẻ chủ mưu đã chết và hai sát thủ chuyên nghiệp bị bắt?

Hắn quyết định rằng họ có thể chưa hoàn toàn bị thuyết phục, nhưng sự phòng bị sẽ trở nên giảm bớt.

Vậy mức độ mạo hiểm là bao nhiêu nếu hắn tiếp tục?

Tối thiểu, hắn quyết định.

Geneva Settle sẽ phải chết.

Giờ, hắn chỉ cần cơ hội, Boyd nói cô bé đã ra khỏi căn hộ của mình ở tây Harlem và đang ở nơi khác. Mối liên hệ duy nhất Ashberry biết là trường học của cô bé.

Hắn đứng dậy, rời văn phòng và bước vào chiếc thang máy với hoa văn trang trí lộng lẫy đi xuống tầng. Rồi bước về phía Broadway và tìm một quầy điện thoại công cộng (Luôn luôn là buồng điện thoại công cộng, không bao giờ là điện thoại cố định. Và không bao giờ, là điện thoại di động. Cảm ơn, Thompson.).

Hắn lấy số từ Trung tâm hỗ trợ danh bạ và nhấn nút gọi.

“Trường trung học Langston Hughes xin nghe.” Giọng một phụ nữ trả lời.

Hắn nhìn vào sườn một chiếc xe tải giao hàng của một cửa hàng bán lẻ và nói với người lễ tân: “Đây là thanh tra Steve Macy ở sở cảnh sát. Tôi cần nói chuyện với người quản lý”.

Một lát sau hắn được chuyển máy tới một phó hiệu trường.

“Tôi có thể giúp gì ông?”, giọng một người đàn ông mệt mỏi hỏi. Ashberry có thể nghe thấy vô vàn tiếng động ở đầu dây bên kia. (Bản thân là một doanh nhân hắn đã rất ghét từng phút ngồi ở trường.)

Hắn tự giới thiệu một lần nữa và thêm vào: “Tôi đang theo v việc liên quan tới một trong số các sinh viên của ông. Geneva Settle?”.

“Ồ, cô bé là nhân chứng, đúng không?”

“Đúng. Tôi cần đưa một số giấy tờ cho cô bé vào chiều hôm nay. Luật sư quận đang chuẩn bị truy tố vài người dính líu tới vụ án và chúng tôi cần chữ ký của cô bé vào bản buộc tội. Tôi có thể nói chuyện với cô bé không?

“Chắc chắn rồi. Đợi một chút.” Dừng lại một chút, ông ta hỏi một ai đó trong phòng về thời khóa biểu của cô bé. Ashberry nghe thấy dường như cô bé đang nghỉ học. Vị hiệu phó quay lại. “Cô bé không đến trường ngày hôm nay. Và sẽ trở lại vào thứ Hai.”

“Ồ, cô bé có ở nhà chứ?”

“Đợi đã...”

Một giọng khác nói chuyện với vị hiệu phó, đưa ra lời gợi ý.

Làm ơn đi mà, Ashberry nghĩ...

Ông hiệu phó quay trở lại điện thoại. “Một trong các giáo viên của cô bé cho rằng cô bé sẽ ở Đại học Columbia chiều nay, làm về một bài khóa nào đó.”

“Đại học Columbia?”

“Đúng. Thử tìm Giáo sư Mathers xem. Tôi không có tên riêng cùa ông ấy, rất tiếc.”

Giọng của ông hiệu phó nghe có vẻ không rảnh rỗi lắm, nhưng để bảo đảm rằng ông ta không gọi cho cảnh sát chỉ để kiểm tra về cuộc gọi, Ashberry nói bằng cách gạt bỏ sự nghi ngờ: “Được rồi, tôi chỉ cần gọi cho đồng chí cảnh sát đang bảo vệ cô bé là được, cảm ơn”.

“Vâng, xin chào.”

Ashberry dập máy và dừng lại, quan sát con phố đông đúc. Hắn chỉ cần địa chỉ của con bé nhưng điều này có khi lại có hiệu quả hơn - mặc dù ông hiệu phó không có vẻ ngạc nhiên khi Ashberry nói đến việc con bé được bảo vệ, điều đó có nghĩa là có thể vẫn còn ai đó đang bảo vệ nó. Hắn sẽ phải cân nhắc kỹ lưỡng về điều này. Hắn gọi cho tổng đài Đại học Columbia và biết được rằng giờ làm việc của Giáo sư Mathers ngày hôm nay tại văn phòng là từ 1 giờ đến 6 giờ.

Geneva sẽ ở đó bao lâu nhỉ? Ashberry tự hỏi. Hắn hy vọng rằng sẽ là cả ngày; hắn có rất nhiều việc cần phải là

Lúc 4 giờ 30 phút chiều, William Ashberry đang lái chiếc BMW M5 qua Harlem, nhìn xung quanh. Hắn không nghĩ tới một địa điểm này với ý niệm về chủng tộc hay văn hóa. Hắn nhìn nhận điều này như một cơ hội. Đối với hắn thì giá trị của một người đàn ông được quyết định bởi khả năng thanh toán những món nợ đúng hẹn - đặc biệt xuất phát từ quan điểm vì lợi ích cá nhân - khả năng của một người đàn ông trả tiền thuê hay thế chấp cho một trong những dự án tái phát triển mà ngân hàng Sanford đang thực hiện ở Harlem. Dù người mượn là da đen hay da trắng, người nói tiếng Tây Ban Nha hay người châu Á, là một kẻ buôn bán ma túy hay một nhà điều hành cơ quan quảng cáo... không là vấn đề. Miễn là người đó ký vào tấm séc đều đặn hằng tháng.

Lúc này, ở trên phố 135, hắn đi qua chính một trong những tòa nhà mà ngân hàng của hắn đã cải tạo lại. Những hình vẽ graffĩti đã được xóa đi, bên trong đã được phá hủy, vật liệu xây đựng được chất đống ở tầng trệt. Những người thuê trước đó đã được tạo động lực để đi tới nơi khác sinh sống. Một vài người dân lưỡng lự thì đã được “thúc giục” để đi và hiểu ý. Một vài người thuê mới đã ký mức thuê đắt đỏ, mặc dù việc xây dựng vẫn chưa được hoàn thành trong vòng sáu tháng.

Hắn quay trở lại con phố thương mại đông đúc, nhìn vào các cửa hàng. Không phải là thứ hắn cần. Hắn tiếp tục tìm kiếm - nhiệm vụ cuối cùng trong buổi chiều còn thú vị một chút, ít nhất là thế. Sau khi rời văn phòng ở tổ chức Sandford, hắn đã nhanh chóng lái xe tới ngôi nhà nghỉ dưỡng cuối tuần ở New Jersey. Ở đó, hắn mở khóa ngăn đựng súng và lấy khẩu súng hoa cải hai nòng. Trên chiếc ghế ở ga ra hắn đã cắt nòng đi, biến khẩu súng dài chỉ còn 54 cm - một công việc nặng nhọc một cách ngạc nhiên, đã khiến hắn tiêu tốn mất nửa tá lưỡi cưa điện. Ném những mẩu nòng bị cưa đứt vào chiếc hồ phía sau ngôi nhà. Hắn dừng lại, nhìn quanh, nghĩ tới việc cái hồ này là nơi mà con gái lớn của hắn sẽ làm đám cưới vào năm tới, sau khi tốt nghiệp từ Vassar.

Hắn đã ở lại đó một lúc lâu, nhìn chằm chằm vào mặt trời vỡ nhòa trong dòng nước màu xanh lạnh giá. Rồi hắn nạp đạn vào khẩu súng và đặt nó cùng với một tá đạn vào một chiếc hộp các tông, che lên trên là vài quyển sách cũ, báo và tạp chí. Hắn không cần một đồ dùng nào khác nữa để che đậy tốt hơn những thứ này, vị giáo sư và Geneva không sống đủ lâu để thậm chí nhìn vào bên trong cái hộp.

Mặc lên một bộ vest và áo khoác thể thao lệch tông, tóc chải ngược ra sau, với cặp kính lão trí thức - vẻ cải trang tốt nhất mà hắn có thể nghĩ ra - sau đó Ashberry lái xe thật nhanh qua cầu George Washington vào Harlem, nơi hắn đang ở đó, tìm kiếm lý do cuối cùng cho màn kị

À, ở đó...

Hắn đỗ xe và bước ra ngoài. Đi bộ lên những quầy hàng vỉa hè của cộng đồng Hồi giáo và mua một cái mũ, một chiếc mũ trùm Hồi giáo, không phát ra một tia nhìn ngạc nhiên. Ashberry, lấy chiếc mũ với bàn tay đeo găng (cảm ơn một lần nữa, Thompson), rồi quay lại chiếc xe. Khi không có ai nhìn, hắn cúi xuống và cọ chiếc mũ lên nền đất bên dưới quầy điện thoại công cộng, mà hắn đoán chừng là đã có rất nhiều người đứng ở đó trong ngày trước hoặc trước đó. Chiếc mũ sẽ lấy một ít đất bẩn và các bằng chứng khác - lý tưởng nhất là một hoặc hai sợi tóc - mà có thể mang lại cảnh sát thậm chí còn nhiều manh mối giả hơn về vụ khủng bố. Hắn chùi mặt trong của chiếc mũ vào ống nói của chiếc điện thoại để lấy mẫu DNA từ nước bọt và mồ hôi. Ném chiếc mũ vào trong cái hộp với khẩu súng và đống tạp chí, sách vở, hắn leo lên xe và lái về Momingside Heights và vào khuôn viên Đại học Columbia.

Hắn giờ tìm thấy tòa nhà bộ môn cũ kỹ có văn phòng của Mathers và nhận ra một chiếc xe cảnh sát đang đậu ở trước, một cảnh sát đang ngồi ở ghế lái, quan sát con phố một cách cẩn thận. Vậy là cô bé thực sự có người bảo vệ.

Chà, hắn có thể xoay xở được. Hắn đã từng sống sót qua những tình huống còn khó nhằn hơn thế này - trên những con phố của South Philly và trong phòng họp kín trên phố Wall. Bất ngờ là lợi thế tốt nhất - chứng ta có thể đánh bại bất cứ thứ gì quá sức nếu ta làm một điều bất ngờ.

Tiếp tục đi hết con phố, hắn quay ngược lại và đậu xe phía sau tòa nhà, chiếc xe của hắn nằm ngoài tầm nhìn và hướng về phía đường cao tốc sẵn sàng cho một cuộc tẩu thoát nhanh chóng. Hắn bước ra và nhìn quanh. Đúng rồi, nó sẽ có tác dụng, hắn có thể tiếp cận văn phòng từ bên hông, rồi lẻn vào qua cửa trước khi viên cảnh sát nhìn đi đâu đó.

Để chạy trốn... có cửa ra sau tòa nhà. Hai cửa sổ ở tầng trệt nữa. Nếu viên cảnh sát chạy tới tòa nhà ngay khi nghe thấy tiếng súng, Ashberry có thể bắn anh ta từ một trong những cửa sổ trước. Trong bất cứ trường hợp nào, hắn sẽ có đủ thời gian để vứt lại chiếc mũ như là một tang vật và chạy tới chiếc xe trước khi bất cứ cảnh sát nào khác đi tới.

Hắn tìm thấy một quầy điện thoại công cộng. Gọi cho tổng đài của ngôi trường.

“Đại học Columbia”, một giọng nói trả lời.

“Làm ơn cho gặp Giáo sư Mathers.”

span>“Xin vui lòng đợi một chút”,

Một giọng người da đen trả lời: “Xin chào?”.

“Giáo sư Mathers?”

“Đúng vậy.”

Sử dụng cái tên Steve Macy một lần nữa, Ashberry giải thích rằng hắn là một tác giả từ Philadelphia, đang làm một nghiên cứu ở thư viện Lehman - một Cơ sở thuộc Đại học Columbia đóng góp vào khoa học xã hội và báo chí (tổ chức Sanford đã đầu tư rất nhiều tiền vào các thư viện và trường học như thế này. Ashberry đã từng kiếm lợi ở đó; hắn có thể nói về nó nếu hắn phải nói). Rồi hắn nói rằng một trong những người thủ thư có nghe nói rằng Mathers đang tìm kiếm tài liệu chuyên sâu về lịch sử New York thế kỷ XIX, đặc biệt là thời đại Phục hưng. Có đúng không?

Vị giáo sư cười một cách ngạc nhiên. “Đúng thế, sự thật là thế. Nhưng không phải cho tôi, thực tế. Tôi đang giúp đỡ một cô bé học sinh trung học. Cô bé đang ở đây với tôi.”

Cảm ơn Chúa. Con bé vẫn ở đó. Ta có thể kết thúc tất cả ngay lúc này, tiếp tục với cuộc sống của mình.

Ashberry nói rằng mình có mang theo một ít tài liệu từ Philly. Liệu ông ấy và cô bé học sinh có muốn xem qua không?

Vị giáo sư nói họ chắc chắn là muốn xem, cảm ơn anh ta rồi hỏi lúc nào thì tiện cho hắn ghé qua.

Khi mới mười bảy tuổi, Ashberry đã từng nắm một con dao rọc giấy gí vào đùi một người bán hàng cao tuổi và nhắc nhở ông ta rằng khoản tiền bảo kê đã quá hạn. Lưỡi dao sẽ cắt đến ba centimet cho mỗi ngày khoản tiền chưa được trả trừ khi ông ta trả ngay lập tức. Giọng của hắn bình thản như lúc này, khi nói với Mathers: “Tôi sẽ rời đi đêm nay nhưng có thể ghé qua lúc này. ông có thể copy nếu ông cần. Ông có máy Xerox chứ?”.

“Vâng, tôi có.”

“Tôi sẽ có mặt trong vài phút nữa.”

Họ tắt máy. Ashberry lần vào trong chiếc hộp và nhấn chiếc nút an toàn trên khẩu súng vào vị trí sẵn sàng nổ súng. Rồi hắn nhấc chiếc thùng các tông lên và hướng về tòa nhà, bước qua những chiếc lá mùa thu đang cuộn lên xoay vòng trong trận gió xoáy lạnh buốt.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom