Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


Tuần trăng, chiếc lá, thứ đồ lót quỷ quái, bụi. Cả nhóm đã quay lại phòng ngủ của Rhyme, trừ Polling và Haumann; để đại úy chỉ huy tham gia vào một chiến dịch rõ ràng là không hợp lệ, một thử thách quá lớn đối với lòng trung thành của NYPD.

“Cậu đã G-C chất lỏng trên đồ lót rồi phải không, Mel?”

“Phải làm lại thôi. Chúng ta đã bị cắt ngang trước khi có kết quả.”

Anh ta thấm một mẫu chất lỏng và bơm nó vào máy sắc ký khí. Khi chạy máy, Sachs giả vờ nhìn vào các đỉnh và đáy của đồ thị đang hiện lên trên màn hình.Giống như chỉ số chứng khoán. Rhyme nhận ra cô đang đứng gần anh, hình như cô lân la lại gần khi anh không nhìn. Cô hạ giọng nói. “Tôi…”

“Vâng?”

“Tôi đã lỗ mãng hơn tôi nghĩ. Ý tôi là lúc trước. Tôi rất nóng tính. Tôi không hiểu sao tôi lại như thế. Nhưng tôi đã làm vậy.”

“Cô nói đúng", Rhyme nói.

Họ dễ dàng chấp nhận ánh mắt của nhau và Rhyme nghĩ tới những lúc anh cùng Blaine nói chuyện nghiêm chỉnh. Khi nói, họ luôn tập trung vào một vật nằm giữa họ – một con ngựa sứ do cô sưu tầm, một cuốn sách, một chai vang Merlot hay Chardonnay gần cạn.

Anh nói: “Tôi có cách khám nghiệm hiện trường không giống với các nhà hình sự khác. Tôi cần một người không có định kiến. Nhưng tôi cũng cần người biết tự suy nghĩ.”

Những phẩm chất đối nghịch mà người ta tìm thấy ở những cặp tình nhân hoàn hảo. Mạnh mẽ và yếu đuối, cân bằng nhau.

Cô nói: “Khi tôi nói chuyện với Eckert, tôi chỉ muốn được chuyển công việc. Đó là tất cả những gì tôi muốn. Không bao giờ tôi nghĩ rằng câu chuyện có thể đến tai nhân viên của Cục và họ lại lấy mất vụ này.”

“Tôi biết.”

“Tôi vẫn để mình giận dữ. Tôi xin lỗi.”

“Đừng thụt lùi, Sachs. Tôi cần có ai đó nói với tôi rằng, tôi là đồ ngốc khi tôi ra vẻ như vậy. Thom làm thế. Nên tôi thích cậu ta.”

“Đừng có lấy lòng tôi, Lincoln.” Thom nói với lại, từ phía phòng bên kia.

“Chưa có ai nặng lời với tôi. Lúc nào họ cũng nâng như nâng trứng. Tôi ghét bị như thế.”

“Có lẽ gần đây không mấy người đến nói chuyện với anh.”

Một lúc sau, anh nói: “Đúng thế.”

Trên màn hình máy sắc ký khí – phổ kế những đỉnh và đáy đã thôi không chuyển động và trở thành một trong những chữ ký nhiều vô hạn độ của thiên nhiên. Mel Cooper gõ bàn phím và đọc kết quả. “Nước, dầu diesel, phosphate, sodium, dấu vết của khoáng chất… không hiểu nó có ý nghĩa gì.”

Thông điệp gì nhỉ? Rhyme băn khoăn. Là chiếc quần lót? Là chất lỏng? Anh nói: “Tiếp tục đi, tôi muốn xem chỗ bẩn.”

Sachs đem cái túi đến chỗ anh. Nó đựng ít cát màu hồng, có một ít đất sét và đá cuội.

“Gan bò”, anh tuyên bố. “Hỗn hợp đá và cát. Ở ngay bên trên nền đã của Manhattan. Có lẫn sodium silicate không?”

Cooper chạy máy sắc ký khí. “Có. Nhiều lắm.”

“Thế thì ta phải tìm một nơi ở trung tâm, cách mép nước khoảng mười lăm thước…” Rhyme cười to khi thấy cái nhìn ngạc nhiên của Sachs. “Chẳng có phép lạ gì đâu. Tôi chỉ làm bài tập ở nhà thôi. Các nhà thầu thường trộn sodium silicate với gan bò để gia cố nền đất trước khi đào móng ở những khu vực nền đá sâu gần nước. Điều đó có nghĩa là nó phải ở trung tâm. Còn giờ hãy xem cái lá”.

Cô giơ cái túi lên.

“Chẳng hiểu nó là cái gì”, Rhyme nói. “Tôi cho là mình chưa bao giờ nhìn thấy cái lá nào như vậy. Không phải ở Manhattan.”

“Tôi có một danh mục các trang web về nghề làm vườn”, Cooper nói, vẫn nhìn chăm chăm vào màn hình máy tính. “Tôi phải lướt web một tí.”

Rhyme đôi lúc cũng lên mạng, lang thang Internet. Cũng như với sách vở, phim ảnh và áp phích, mối quan tâm của anh với Internet cuối cùng cũng tiêu tan. Có thể vì thế giới của chính anh đã quá ảo, mà mạng thì cũng vậy, rốt cuộc lại trở thành một nơi đau khổ đối với Rhyme.

Màn hình của Cooper nhấp nháy, nhảy múa khi anh ta bấm những đường siêu liên kết và thâm nhập vào trang web. “Tôi đang tải mấy file về. Có lẽ mất khoảng mười đến hai mươi phút.”

Rhyme nói: “Được rồi. Những manh mối còn lại mà Sachs tìm thấy… Những manh mối không phải được để lại. Những thứ khác. Chúng có thể nói cho ta biết hắn đã ở đâu. Hãy xem thử vũ khí bí mật của chúng ta, Mel.”

“Vũ khí bí mật?” Sachs hỏi.

“Chứng cứ dấu vết.”

Đặc vụ Fred Dellray tổ chức đợt xâm nhập mười người. Hai đội cộng thêm nhóm S&S. Mấy đặc vụ mặc áo chống đạn đứng trong bụi cây đổ mồ hôi như tắm. Bên kia phố, trên tầng gác một tòa nhà bỏ hoang bằng đá nâu, nhóm S&S có máy nghe trộm và máy quay hồng ngoại chiếu vào nhà nghi phạm.

Ba thiện xạ nằm trên mái nhà cùng những khẩu Remingtons vĩ đại, lên đạn và sẵn sàng. Một người quan sát cầm ống nhòm quỳ cạnh họ như những bà mụ.

Dellray – mặc áo gió FBI và quần bò thay vì bộ vét màu xanh lá Leprechaun – đang lắng nghe qua tai nghe.

“Giám sát báo cáo chỉ huy. Chúng tôi đã có kết quả hồng ngoại trong tầng hầm. Dưới đó có người đang đi lại.”

“Cảnh tượng thế nào?” Dellray hỏi.

“Không nhìn thấy gì. Cửa sổ bẩn quá,”

“Một mình hắn? Có nạn nhân ở đó không?” Có thể sĩ quan Sachs nói đúng; lúc này chắc hắn đã tóm được ai đó rồi.

“Không biết. Chúng tôi chỉ thu được chuyển động và nhiệt.”

Dellray cử một sĩ quan khác chạy qua bên cạnh ngôi nhà. Họ báo cáo: “Không có bóng dáng ai ở tầng một và tầng hầm. Ga ra bị khóa.”

“Thiện xạ?” Dellray hỏi. “Báo cáo.”

“Xạ thủ một báo cáo chỉ huy. Tôi đã chiếm được cửa trước. Hết.”

Những ngưới khác đã vào hành lang và một phòng ở tầng một. “Sẵn sàng.”

Dellray rút khẩu tự động ra.

“Được rồi, ta có giấy tờ”, Dellray nói. Có nghĩa là giấy phép. Họ không cần phải gõ cửa. “Đi nào! Nhóm một, nhóm hai dàn trận, dàn trận, dàn trận.”

Nhóm đầu tiên phá cửa trước bằng một thanh gỗ trong khi nhóm thứ hai có cách thức văn minh hơn là phá cửa sổ sau nhà rồi mở chốt. Họ tràn vào, Dellray đi theo sĩ quan cuối cùng trong nhóm một vào căn nhà cũ kỹ, bẩn thỉu. Mùi thịt thối thật kinh khủng, và Dellray, mặc dù đã quá quen với những hiện trường vụ án cũng phải nuốt khan, cố gắng không nôn thốc nôn tháo.

Nhóm thứ hai chiếm được tầng trệt, sau đó xông lên cầu thang tới phòng ngủ, trong khi nhóm thứ nhất chạy xuống tầng hầm, tiếng giày nện ầm ầm trên cầu thang gỗ.

Dellray chạy xuống tầng hầm bốc mùi ghê sợ. Anh ta nghe thấy tiếng cửa bị phá đâu đó phía dưới và nghe tiếng thét: “Không động đậy! Đặc vụ liên bang đây. Đứng im. Đứng im. Đứng im!”

Nhưng khi đến cửa tầng hầm, anh ta nghe thấy vẫn tiếng đặc vụ đó cáu kỉnh quát nhưng với giọng hoàn toàn khác. “Quái quỷ gì thế này? Ôi, lạy Chúa.”

“Mẹ kiếp”, một đặc vụ khác nói. “Kinh quá!”

“Thối như cứt”, Dellray la lên, bị nghẹt thở khi bước vào trong. Cố gắng nuốt khan vì mùi quá kinh khủng.

Một xác người nằm trên sàn, chảy ra một thứ nước đen. Cổ họng bị cứa đứt. Anh ta đã chết, mắt nhìn chăm chăm lên trần nhà nhưng thân hình anh ta trông có vẻ động đậy – phồng lên, dịch chuyển. Dellray sởn gai ốc, anh ta chưa bao giờ miễn dịch được với cảnh tượng nhung nhúc những côn trùng. Số lượng giòi bọ cho thấy nạn nhân chết ít nhất đã được ba ngày.

“Vì sao hồng ngoại lại dương tính?” Một đặc vụ hỏi.

Dellray chỉ một con chuột cùng những vết răng chuột và cạnh mạng sườn sưng vù của nạn nhân. “Chúng chắc chỉ loanh quanh đâu đây. Ta làm gián đoạn bữa trưa của chúng.”

“Chuyện gì xảy ra vậy? Một nạn nhân đã hạ được hắn?”

“Anh nói gì thế?” Dellry cáu kỉnh.

“Không, phải hắn đấy ư?”

“Không, đó không phải là hắn ta”, Dellray nổi giận, mắt nhìn vết thương trên thân thể nạn nhân.

Một người trong nhóm nói với vẻ nghiêm trọng.: “Này Dellray. Đúng là hắn đấy. Ta có ảnh hắn. Chính hắn là Pietrs.”

“Tất nhiên đấy là thằng Pietrs chết tiệt. Nhưng hắn không phải đối tượng của chúng ta. Không hiểu à?”

“Không, ý cậu là gì?”

Mọi thứ trở nên rõ ràng với anh ta. “Thằng khốn.”

Điện thoại của Dellray rung làm anh ta nhảy lên. Anh ta mở nó ra, nghe khoảng một phút. “Cô ta làm cái gì? Cứ như là tôi cần lắm… Chưa, vẫn chưa tóm được thằng khốn đó.”

Anh ta nhấn phím tắt, chỉ ngón tay giận dữ vào hai đặc vụ SWAT. “Các cậu đi với tôi.”

“Có gì thế, Dellray?”

“Chúng ta sẽ có một chuyến viếng thăm. Khi đến đó chúng ta sẽ như thế nào?” Hai đặc vụ nhìn nhau, cau mày. Nhưng Dellray đã có câu trả lời: “Chúng ta sẽ không tử tế chút nào cả.”

Mel Cooper đổ những thứ bên trong phong bì lên một tờ báo. Dùng kính lúp kiểm tra đám bụi. “Được rồi, có bụi gạch. Và một ít đá kiểu khác. Tôi nghĩ là đá cẩm thạch.”

Anh ta để một mẩu lên thanh trượt và xem xét nó dưới kính hiển vi. “Đúng rồi, đá cẩm thạch. Màu hồng.”

“Trong đường hầm ở bãi chăn, chỗ cô tìm thấy cô gái người Đức ấy, có tí đá cẩm thạch nào không?”

“Không”, Sachs trả lời.

Cooper gợi ý có thể chúng từ nơi ở của Monelle, chỗ cô ta bị Đối tượng 823 bắt.

“Không, tôi biết khu Deutsche Haus. Đó chỉ là mấy tòa nhà East Village được chuyển đổi. Loại đá tốt nhất ở đó chỉ là đá hoa được đánh bóng. Có thể, chỉ có thể thôi, đây là một mẩu từ hang ổ của hắn. Nó có gì đặc biệt không?”

“Dấu đục.” Copper nói, vẫn đang cúi mình trên kính hiển vi,

“Thế à, tốt. Có rõ không?”

“Không rõ lắm. Không đều.”

“Như vậy là máy cắt đá hơi nước cũ.”

“Ừ, tôi đoán thế.”

“Viết đi, Thom.” Rhyme chỉ thị, hất đầu về phía tấm áp phích. “Trong nhà hắn có đá cẩm thạch. Cẩm thạch cũ.”

“Nhưng tại sao ta lại phải quan tâm đến nơi ẩn nấp an toàn của hắn nhỉ?” Banks vừa hỏi vừa nhìn đồng hồ. “Đặc vụ liên bang sẽ đến đây bất kỳ lúc nào.”

“Thông tin không bao giờ đủ, đúng không, Banks. Nhớ lấy điều đó. Ta còn gì nữa nào?”

“Một mẩu găng tay nữa. Da màu đỏ. Cái gì thế này?” Anh hỏi Sachs, cô đang giơ cái túi nhựa đựng mẩu gỗ lên.

“Mẫu nước hoa dùng sau khi cạo râu. Chỗ hắn chạm vào cột.”

“Tôi có phải đọc lại bài cũ không?” Cooper băn khoăn.

“Để tôi ngửi thử đã”, Rhyme nói.

Sachs đưa cái túi lại chỗ anh. Trong đó là một mẩu gỗ nhỏ hình tròn. Cô mở túi và anh ngửi không khí bên trong.

“Tuyệt. Sao mình có thể bỏ qua được nhỉ? Thom, viết thêm là anh bạn của chúng ta dùng nước hoa bán trong cửa hàng.

Cooper tuyên bố: “Ta có thêm một sợi lông nữa.” Kỹ thuật viên gắn nó lên kính hiển vi so sánh. “Rất giống với thứ ta tìm thấy trước đây. Có thể từ cùng một nguồn. Lincoln, cái này cho anh đấy. Tôi có thể nói nó giống nhau. Màu nâu.”

“Đoạn cuối bị cắt hay gãy tự nhiên?”

“Bị cắt.”

“Tốt rồi. Ta có kết luận về màu tóc”, Rhyme nói.

Thom viết màu nâu đúng lúc Sellitto nói: “Đừng viết vội.”

“Sao thế?”

“Rõ ràng đây không phải màu nâu”, Rhyme tiếp.

“Tôi nghĩ…”

“Thứ gì đó nhưng không thể là màu nâu. Màu vàng, màu cát, đen, đỏ…”

Viên thám tử giải thích: “Trò rất cũ. Cậu đến một ngõ phố, lấy mấy sợi tóc trong cửa hiệu cắt tóc. Vứt chúng quanh hiện trường.”

“Ồ”, Banks cất điều này vào đâu đó trong bộ óc đầy nhiệt huyết của anh ta.

Rhyme nói: “Được rồi. Đám sợi.”

Cooper đưa nó vào kính hiển vi phân cực. Anh ta nói trong khi điều chỉnh các nút vặn: “Khúc xạ đúp .053.”

Rhyme thốt lên: “Nylon 6. Trông nó thế nào, Mel?”

“Rất thưa. Mặt cắt dạng thùy. Xám nhạt.”

“Thảm.”

“Được rồi. Tôi sẽ kiểm tra cơ sở dữ liệu.” Một lúc sau anh ta ngẩng đầu lên. “Sợi Hampstead Textile 118B.”

Rhyme thở dài, vẻ chán nản.

“Sao thế?” Sachs hỏi.

“Vải bọc cốp xe thông dụng nhất nước Mỹ. Có ở hơn một trăm loại xe trong suốt năm mươi năm. Vô vọng… Mel, có gì trong cái sợi ấy không? Dùng SEM[111] nhé.”

Kỹ thuật viên bật kính hiển vi điện tử quét. Màn hình bật lên ánh sáng xanh dương – xanh lá ma quái. Mẩu sợi trông như một sợi dây khổng lồ.

“Có gì đây này. Tinh thể. Rất nhiều. Họ dùng titanium dioxide để làm cho thảm mất độ bóng. Có thể là nó đấy.”

“Đốt nó lên. Quan trọng đấy.”

“Không đủ, Lincoln. Tôi sẽ phải đốt tất cả sợi.”

“Thế thì đốt đi.”

Sellitto tế nhị nói: “Mượn chứng cứ liên bang là một chuyện. Còn phá hủy nó? Tôi không biết, Lincoln. Nếu như có xử án…”

“Ta phải làm.’

“Trời ơi”, Banks nói.

Sellitto miễn cưỡng gật đầu và Cooper gắn mẫu vào máy. Chiếc máy rít lên. Một lúc sau màn hình nhấp nháy, các đồ thị cột hiện ra. “Đây này, đây là phân tử polyme chuỗi dài. Nylon. Nhưng đường sóng nhỏ này là thứ khác. Chlorine, chất tẩy… Đó là chất giặt tẩy.”

“Nhớ rằng cô gái Đức nói chiếc xe có mùi sạch sẽ. Hãy tìm xem đó là loại gì.” Rhyme nói.

Cooper nhập thông tin vào cơ sở dữ liệu tên thương hiệu. “Sản phẩm của Pfizer Chemicals. Nó được Baer Automotive Products bán với thương hiệu Tidi-Kleen ở Teterboro.”

“Tuyệt hảo!” Lincoln Rhyme la lên. “Tôi biết công ty này. Họ bán sỉ cho các đội xe. Phần lớn là các công ty cho thuê xe. Đối tượng của ta dùng xe thuê.”

“Hắn không đủ điên để lái một chiếc thuê đến hiện trường gây án, đúng không?” Banks hỏi.

“Xe đánh cắp”, Rhyme lẩm bẩm, như thể người thanh niên hỏi anh hai cộng hai bằng mấy. “Và nó sẽ có biển xe ăn cắp. Emma vẫn làm với chúng ta chứ?”

“Giờ này chắc cô ta về nhà rồi.”

“Gọi cô ta dậy, bảo cô ta tìm kiếm kẻ đánh cắp của Hertz, Avis, National và Budget.”

“Sẽ làm”, Sellitto nói, dù không thoải mái lắm, có thể vì anh ta ngửi thấy mùi vật chứng liên bang bị hỏa thiêu đang phảng phất trong không khí.

“Dấu chân?” Sachs hỏi.

Rhyme nhìn bức hình tĩnh điện do cô đem về.

“Giày bị mòn kiểu khác thường. Hãy xem phần đế giày dưới ngón chân cái bị vẹt đi này?”

“Ngón quặp?” Thom nói thành tiếng.

“Có thể, nhưng lại không thấy phần mòn tương ứng của gót chân.” Rhyme nghiên cứu vết chân. “Tôi nghĩ có thể hắn ta là người đọc sách.”

“Một người đọc sách?’

“Cô ngồi xuống ghế ở kia”, Rhyme nói với Sachs. “Cúi xuống bàn, vờ như đang đọc sách.”

Cô ngồi xuống, rồi ngẩng lên hỏi: “Và?”

“Giả vờ lật trang đi.”

Cô làm theo, một vài lần. Lại ngẩng lên.

“Tiếp tục đi. Cô đang đọc Chiến tranh và hòa bình.”

Tiếp tục lật trang, đầu cô hơi cúi. Sau một lúc, không nghĩ ngợi, cô bắt tréo chân. Phần tiếp xúc duy nhất với mặt đất là cạnh ngoài của chiếc giày.

Rhyme chỉ ra điều này. “Đưa nó vào hồ sơ đi Thom. Nhưng đánh dấu hỏi.”

“Giờ hãy xem đường vân.”

Sachs nói cô không lấy được được dấu tay tốt, dấu tay họ có thể dùng nhận dạng đối tượng. “Nó vẫn trong tòa nhà kiểu liên bang.”

Nhưng Rhyme không quan tâm đến dấu tay đó. Mà là dấu tay khác, dấu Kromekote mà Sachs lấy được trên da cô gái người Đức. Anh muốn xem nó.

Không quét được”, Cooper tuyên bố. “Thậm chí không được loại C. Tôi sẽ không phát biểu gì nếu như tôi phải có ý kiến.”

Rhyme nói: “Tôi không quan tâm đến nhận dạng. Tôi quan tâm đến đường này.” Đó là một đường hình trăng lưỡi liềm nằm ngay giữa ngón tay.

“Cái gì thế?” Sachs hỏi.

“Tôi nghĩ là vết sẹo”, Cooper nói. “Từ một vết cắt cũ. Rất sâu. Có vẻ sâu đến tận xương.”

Rhyme nhớ lại những dấu vết và dị dạng trên da mà anh đã nhìn thấy trong nhiều năm qua. Thời gian trước, khi công việc còn chưa phải chủ yếu là sắp xếp giấy tờ và gõ bàn phím, thì có thể đoán được một người làm nghề gì chỉ nhờ nhìn tay anh ta: những ngón tay biến dạng vì đánh máy, những vết đâm của máy khâu và kim khâu da, vết mực và dấu quản bút trên tay người ghi tốc ký và kế toán viên, những mẩu giấy từ xưởng in, những vết sẹo của người cắt khuôn, những vết chai khác biệt từ các loại hình lao động chân tay khác nhau….

Nhưng vết sẹo kiểu này chẳng nói với họ điều gì.

Ít nhất là chưa phải lúc này. Chưa phải tới lúc họ có được bàn tay của nghi phạm để kiểm tra.

“Còn gì nữa? Dấu đầu gối. Tốt. Cho ta biết hắn mặc gì. Giơ nó lên đi, Sachs. Cao lên. Quần thụng. Có vết ly rất sâu, vì thế đó là sợi tự nhiên. Với thời tiết thế này thì tôi nghĩ rằng đó là vải bông. Không phải len. Ngày nay người ta không mặc quần thụng lụa nhiều nữa.”

“Nhẹ, không phải vải bông chéo”, Cooper nói.

“Bộ đồ thể thao”, Rhyme kết luận. “Thêm điều đó vào hồ sơ của ta đi, Thom.”

Cooper quay lại màn hình máy tính và nhập thêm dữ liệu. “Không may mắn lắm với cái lá. Không trùng hợp với bất cứ thứ gì ở Smithsonian[112].”

Rhyme ngả đầu xuống gối? Họ còn được bao nhiêu thời gian? Một giờ? Hai giờ?

Mặt trăng. Bụi bẩn. Nước biển…

Anh liếc nhìn Sachs đang đứng một mình ở góc nhà. Cô cúi đầu, mái tóc đỏ dài xuôi xuống nền nhà. Cô đang nhìn một cái túi chứng cứ, vẻ mặt nghiêm nghị, hoàn toàn tập trung. Không biết bao nhiêu lần Rhyme đã đứng trong tư thế ấy, gắng sức để…

“Tờ báo!” Cô la lớn, ngẩng nhìn. “Cái mẩu giấy báo đâu rồi?” Ánh mắt cô đầy phấn khích khi tìm kiếm trên những mặt bàn. “Báo hôm nay?”

“Gì thế, Sachs?” Rhyme hỏi.

Cô giật tờ Thời báo New York từ Jerry Banks và nhanh chóng lướt qua.

“Thứ chất lỏng… từ đồ lót”, cô nói với Rhyme. “Có thể là nước biển được không?”

“Nước muối?” Cooper cúi nhìn đồ thị GC-MS. “Tất nhiên rồi! Nước, natrium và những khoáng chất khác. Dầu và phosphate. Đó là nước biển bị ô nhiễm.”

Mắt cô gặp mắt Rhyme và họ đồng thanh nói: “Thủy triều!”

Cô giương tờ báo, đã được lật đến bản đồ thời tiết. Nó có sơ đồ tuần trăng giống với sơ đồ được tìm thấy tại hiện trường. Phía dưới là sơ đồ thủy triều. “Còn bốn mươi phút nữa thủy triều lên.’

Mặt Rhyme nhăn nhó vì khó chịu. Anh chưa bao giờ giận chính mình đến thế. “Hắn sẽ dìm chết nạn nhân. Họ đang ở dưới một cầu cảng ở trung tâm.” Anh nhìn vô vọng vào bản đồ Manhattan với bờ biển dài nhiều dặm. “Sachs, đến lúc đua xe rồi. Cô và Banks đo theo hướng tây. Lon, sao anh không đi về hướng đông? Vòng quanh cảng South Street. Còn Mel, nghĩ xem cái lá là cái quái quỷ gì thế!”

Một con sóng thình lình vỗ vào đầu ông đang gục xuống ngực.

William Everett mở mắt và phì mạnh chỗ nước lạnh ngắt từ mũi ra. Nó lạnh như đá và ông cảm thấy trái tim đau yếu của mình đập thình thịch khi nó gắng sức bơm luồng máy ấm trong cơ thể ông.

Ông suýt ngất đi lần nữa, như lúc tên khốn đó bẻ ngón tay của ông. Rồi ông tỉnh lại, nghĩ đến người vợ quá cố của mình – và các lý do cho những lần họ đi du lịch cùng nhau. Họ đến Giza. Và đến Guatemala. Nepal. Teheran (một tuần trước khi đại sứ quán bị chiếm).

Chiếc máy bay của hãng hàng không Đông Nam Trung Quốc hỏng một trong hai động cơ, sau một giờ cất cánh từ Bắc Kinh, Evelyn cúi đầu, trong tư thế khẩn cấp, chờ chết nhưng mắt vẫn đọc một bài báo trong tờ tạp chí trên máy bay. Bài báo cảnh báo không nên uống chè nóng ngay sau bữa ăn. Sau đó, khi ngồi trong quán rượu Raffles ở Singapore, bà đã kể lại cho ông nghe chuyện này. Họ đã cười như điên, cười đến chảy cả nước mắt.

Ông nghĩ tới ánh mắt lạnh lùng của tên bắt cóc. Răng, đôi găng tay thô thiển của hắn.

Bây giờ, trong cái nhà mồ ướt át ghê rợn này, một cơn đau không chịu nổi trườn theo tay ông lên tới cằm.

Do ngón tay gãy hay cơn suy tim? Ông băn khoăn.

Có thể là mỗi thứ một chút.

Everett nhắm mắt cho tới khi cơn đau dịu đi. Ông nhìn xung quanh. Cái cống nơi ông bị còng nằm dưới một cầu cảng hôi thối. Một vành gỗ thò từ bờ rìa cầu cảng xuống mặt nước, lúc này còn cách nó khoảng sáu inch. Ánh sáng từ những con thuyền trên sông và những nhà máy của Jersey phản chiếu trên rạch nước hẹp. Nước đã ngập tới cổ ông và mặc dù nóc cầu cảng còn ở cách đầu ông mấy feet, nhưng cái còng tay giữ chặt ông tại chỗ.

Cơn đau tràn qua ngón tay ông, đầu Everett giãy giụa trong cơn hấp hối, rơi xuống nước khi ông ngất đi. Nước đầy mũi và cơn ho khốn khổ khiến ông tỉnh lại.

Mặt trăng kéo nước dâng cao thêm. Với một tiếng oạp ẩm ướt, cái cống bị tách khỏi dòng sông bên ngoài. Căn phòng tối om. Ông nghe thấy tiếng gầm gừ của những con sóng và tiếng rên rỉ đau đớn của chính mình.

Ông biết mình đã chết, biết mình chẳng thể giữ đầu cao hơn mặt nước nhầy nhụa được quá vài phút nữa. Ông nhắm mắt, úp mặt vào cây cột đen đúa, trơn tuột.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


“Tiến thẳng vào trung tâm, Sachs”, giọng Rhyme vang lên trong máy bộ đàm.

Cô nhấn ga chiếc RRV, đèn đỏ nhấp nhoáng khi họ lao vào thành phố theo Xa lộ West Side. Lạnh như băng, cô tăng tốc lên tám mươi[113].

“Được, tuyệt”, Jerry Banks nói.

Đếm ngược. Phố Hai mươi ba, Hai mươi, một cú ngoặt cháy đường gần bến phà chở rác trên Phố Mười bốn. Khi họ lao qua Village, quận bán thịt, một chiếc xe lao từ phố bên cạnh ra chèn đường cô. Thay vì đạp phanh, cô đánh mạnh tay lái vọt qua vỉa hè trung tâm như kỵ sĩ vượt rào, kéo theo câu chửi thề phều phào của Banks và một tiếng còi hơi rền vang của chiếc xe tải trắng vừa kịp hoành tráng quay ngoắt lại.

“Ối chà”, Amelia Sachs thốt lên và quay lại làn đường đi về phía nam. Cô nói với Rhyme: “Anh nói lại đi. Tôi bỏ mất đoạn này.”

Giọng nói yếu ớt của Rhyme vang lên trong tai nghe của cô: “Vào trung tâm là tất cả những gì tôi có thể nói với cô. Cho tới khi chúng tôi tìm ra ý nghĩa của chiếc lá.”

“Chúng tôi đang đến Battery Park City”.

“Còn hai mươi nhăm phút nữa thuỷ triều sẽ lên”, Banks nhắc nhở.

Có thể đội của Dellray sẽ xác định được vị trí chính xác của hắn ta. Họ có thể lôi Ngài 823 vào một con hẻm nào đó với một túi táo. Nick có nói với cô về cách họ thuyết phục bọn tội phạm “hợp tác”. Lấy một túi hoa quả đập vào bụng chúng. Rất đau. Mà không để lại dấu vết. Khi đang ở tuổi trưởng thành, cô không thể nghĩ được rằng cảnh sát có thể làm như vậy. Nhưng giờ thì cô đã thấy được sự khác biệt.

Banks đập vai cô. “Kia. Có mấy cái cầu cảng cũ”

Gỗ thối, bẩn thỉu. Những nơi chốn rùng rợn.

Họ phanh kít, nhảy ra khỏi xe, chạy tới mép nước.

“Anh có đấy không, Rhyme?”

“Nói với tôi nào, Sachs. Cô ở đâu?”

“Một cái cầu cảng phía bắc Battery Park City.”

“Tôi vừa được Lon báo cáo về từ phía đông. Anh ta không tìm thấy gì.”

“Vô vọng lắm”, cô nói. “Có khoảng một tá cầu cảng. Cả một đoạn đường đi bộ nữa... Còn cảng tàu cứu hoả, bến phà và cầu cảng ở Battery Park... Ta cần đến ESU.”

“Ta không có ESU mà, Sachs. Họ không còn ỏ phe ta nữa rồi.”

Hai mươi phút nữa là thuỷ triều lên.

Mắt cô đảo quanh mép nước. Vai cô trĩu nặng vì bất lực. Tay cầm súng, cô lao về phía con sông. Jerry Banks chạy ngay theo sau.

“Cho tôi thứ gì đó về cái lá đi, Mel. Phỏng đoán, gì cũng được. Bịa ra đi.”

Bồn chồn lo lắng, Cooper nhìn từ kính hiển vi lên màn hình máy tính.

Tám nghìn loại lá cây ở Manhattan.

“Nó không có cấu trúc tế bào giống với bất kỳ thứ gì cả.”

“Nó già rồi”, Rhyme nói. “Bao nhiêu tuổi?”

Cooper lại nhìn vào cái lá. “Đã biến thành xác ướp. Tôi có thể đoán khoảng một trăm năm, hoặc ít hơn thế một chút.”

“Những thứ gì có thể tuyệt chủng trong một trăm năm qua?”

“Cây cối không bị tuyệt chủng trong một hệ sinh thái như Manhattan. Chúng luôn tái sinh.”

Một tiếng binh vang lên trong đầu Rhyme. Anh gần nhớ ra điều gì đó. Anh vừa thích vừa ghét cảm giác này. Anh có thể tóm lấy ý nghĩ như tóm một con ruồi bay chậm. Hoặc nó có thể biến mất hoàn toàn, làm anh cụt hứng.

Mười sáu phút nữa là thuỷ triều lên.

Ý nghĩ đó là gì nhỉ? Anh nhắm mắt, cố nắm bắt lấy nó...

Cái gì thế nhỉ? Nghĩ đi!

Cầu cảng... những con tàu... bốc dỡ... hàng hoá.

Bốc dỡ hàng hoá.

Mắt anh bật mở. “Mel, đấy có phải cây trồng không?”

“Ôi, quỷ thật. Tôi đi tìm những trang về cây hoang dại, không phải loại cây trồng.” Anh ta gõ máy tính quá lâu.

“Thế nào?”

“Chờ đã, chờ đã. Đây là danh sách mã nhị phân đã được mã hoá.” Anh ta quét nó. “Linh lăng, lúa mạch, củ cải đường, yến mạch, thuốc lá...”

“Thuốc lá! Thử nó xem.”

Cooper bấm chuột và hình ảnh chậm chạp hiện ra trên màn hình.

“Đúng nó!”

“Tháp trung tâm Thương mại Thế giới.” Rhyme tuyên bố. “Mảnh đất phía bắc đã từng được dùng để trồng thuốc lá. Thom, phần nghiên cứu cho cuốn sách của tôi – tôi muốn tấm bản đồ từ những năm 1740. Và cả tấm bản đồ mới mà Bo Haumann đã dùng để tìm những nơi đang dọn dẹp asbestos. Đặt chúng lên bàn, cạnh nhau.”

Người trợ lý tìm thấy tấm bản đồ cũ trong tập hồ sơ của Rhyme. Anh ta dán chúng lên bức tường gần giường. Được vẽ một cách thô thiển, tấm bản đồ cũ đã cho thấy phần phía bắc của thành phố – một cụm phía dưới hòn đảo – là các trang trại. Có ba cầu tàu thương mại trên sông, khi đó còn chưa được gọi là Hudson mà là sông Tây. Rhyme nhìn vào bản đồ thành phố hiện tại. Tất nhiên là khu đất nông nghiệp đã biến mất, các cầu tàu cũng vậy, nhưng bản đồ hiện tại cho thấy một cái cầu tàu bị bỏ hoang ở đúng vị trí một cầu cảng cũ của nhà xuất khẩu thuốc lá.

Rhyme cố gắng vươn người tới trước để đọc tên phố gần đó. Anh đã định quát Thom đưa bản đồ lại gần hơn thì từ phía cầu thang, anh nghe thấy một tiếng la lớn đấy giận dữ dưới nhà và cánh cửa bật tung vào bên trong. Kính vỡ tan.

Thom xuống cầu thang.

“Tôi muốn gặp anh ta.” Có giọng nói nhát gừng tràn ngập hành lang.

“Chỉ là...” Người trợ lý bắt đầu.

“Không. Không phải chờ một phút. Không phải chờ một giờ. Mà là ngay. Mẹ kiếp. Bây giờ.”

“Mel”, Rhyme thì thầm, “giấu chứng cứ ngay, tắt máy.”

“Nhưng...”

“Làm đi!”

Rhyme lắc đầu thật mạnh, giằng rời cái míc trên tai nghe. Nó rơi xuống cạnh chiếc giường Clinitron. Tiếng bước chân nện ầm ầm trên cầu thang.

Thom là tất cả những gì có thể để câu giờ nhưng những người khách là ba nhân viên FBI, hai người trong số họ cầm súng. Họ từ từ đẩy anh ta giật lùi để lên cầu thang.

Chúa phù hộ cho anh ta, chỉ trong năm giây, Cooper đã tháo tung cái kính hiển vi điện tử và đang bình thản tháo dỡ linh kiện với một sự quan tâm quá mức khi FBI lên hết cầu thang và lao vào phòng Rhyme. Những cái túi đựng vật chứng đã được nhét xuống gầm bàn và phủ lên bằng tạp chí Địa lý Quốc gia.

“À, Dellray”, Rhyme hỏi, “Tìm được đối tượng rồi chứ?”

“Sao anh không nói với chúng tôi?”

“Nói với các anh cái gì?”

“Rằng dấu tay ấy là đồ giả.”

“Có ai hỏi tôi đâu?”

“Đồ giả?” Cooper ngạc nhiên hỏi.

“Thực ra thì đó là dấu tay thật”. Rhyme nói như thể đó là điều rõ ràng. “Nhưng không phải của đối tượng. Anh chàng của chúng ta cần một chiếc taxi để đi câu. Và thế là hắn ta gặp – tên hắn ta là gì nhỉ?”

“Victor Pietrs”, Dellay lẩm bẩm và kể lại câu chuyện về người lái taxi.

“Rất hay”, Rhyme nói với một chút ngưỡng mộ thực sự.

“Nhặt một anh chàng Serbia có tiền án và vấn đề về tâm thần. Tôi không hiểu hắn phải mất bao lâu để tìm ứng viên này. Tuy nhiên, 823 giết ngài Pietrs tội nghiệp và ăn trộm taxi của anh ta. Cắt một ngón tay. Hắn giữ nó và nghĩ nếu chúng ta tới quá gần, hắn sẽ để lại hiện trường một dấu tay rõ đẹp để lừa chúng ta. Tôi đoán việc này đã phát huy tác dụng.”

Rhyme liếc nhìn đồng hồ. Còn mười bốn phút.

“Sao anh biết?” Dellray nhìn những tấm bản đồ trên nhà Rhyme, nhưng ơn Chúa, anh ta không quan tâm đến chúng.

“Dấu tay đã khô và nhăn nheo. Tôi đoán thi thể cũng tệ hại. Anh tìm thấy nó trong tầng hầm phải không? Tôi đoán đúng chứ? Nơi anh chàng của chúng ta thích giấu nạn nhân.”

Dellray lờ anh đi và đánh hơi quanh phòng y như một con chó săn khổng lồ. “Anh giấu chứng cứ của chúng tôi ở đâu?”

“Chứng cứ? Tôi không biết anh nói gì. Nói đi, anh có phá cửa nhà tôi không? Lần trước anh vào mà không gõ cửa. Lần này thì anh phá cửa.”

“Này Lincoln, tôi đã có ý định xin lỗi anh rồi đấy...”

“Anh thật rộng lượng, Fred.”

“Nhưng giờ thì tôi sắp tóm cổ anh.”

Rhyme nhìn chiếc tai nghe có ống nói đang lủng lẳng trên nền nhà. Anh hình dung giọng Sachs thỏ thẻ trên tai nghe.

“Trả chứng cứ cho tôi, Rhyme. Anh không biết là anh đang gặp rắc rối thế nào đâu.”

“Thom”, Rhyme chậm rãi nói, “đặc vụ Dellray làm tôi giật mình đánh rơi cái tai nghe máy Walkman. Cậu giúp tôi treo nó vào thành giường, được chứ?”.

Người trợ lý đoán ý rất nhanh. Anh ta để chiếc mic cạnh đầu Rhyme, khỏi tầm mắt Dellray.

“Cảm ơn”, Rhyme nói với Thom. Rồi nói thêm. “Cậu biết đấy tôi vẫn chưa được tắm. Tôi nghĩ đến lúc rồi, cậu thấy thế nào?”

“Tôi đang băn khoăn không biết lúc nào thì anh yêu cầu”. Thom nói, như một diễn viên bẩm sinh.

“Rhyme, nói đi. Lạy Chúa, anh đang ở đâu?”

Thế rồi cô nghe thấy một giọng nói trong tai nghe. Giọng của Thom. Rỗng tuếch, khoa trương. Có gì đó không ổn.

“Tôi vừa mua miếng bọt biển mới đấy”, Thom nói.

“Trông cũng được đấy”, Rhyme trả lời.

“Rhyme?” Sachs cáu kỉnh. “Chuyện quái gì thế?”

“Mười bảy đô la đấy. Phải tốt chứ. Tôi sẽ lật anh lại đấy?

Những giọng nói khác vang lên trong tai nghe, nhưng cô không phân biệt được.

Sachs và Banks đang chạy theo mép nước, nhìn xuống những chiếc cầu cảng vươn ra dòng nước màu nâu xám của sông Hudson. Cô ra hiệu để Banks dừng lại, gập người cho đỡ cơn chuột rút dưới mỏ ác, nhỏ nước bọt xuống sông. Cố gắng lấy lại hơi thở.

Cô nghe tiếng nói qua tai nghe: “... không lâu đâu. Các vị thứ lỗi cho chúng tôi.”

“...chúng tôi sẽ đợi, anh không phản đối chứ?”

“Tôi phản đối", Rhyme nói. "Tôi muốn được riêng tư một chút?”

“Rhyme, anh có nghe tôi nói không?” Sachs tuyệt vọng gọi. Anh ta làm cái trò quái quỷ gì vậy nhỉ?

“Không. Không có riêng tư gì cho bọn trộm vật chứng.”

Dellray! Anh ta đang ở trong phòng Rhyme. Thế thì xong rồi. Xong đời nạn nhân.

“Tôi muốn lấy lại vật chứng”, viên đặc vụ cáu kỉnh nói.

“Thế à, thứ mà anh có được chỉ là toàn cảnh một người đàn ông tắm bằng bọt biển thôi, Dellray.”

Banks định nói, nhưng cô vẫy tay bảo anh ta im lặng.

Mấy người nói vài câu cô không hiểu.

Tiếng quát tháo giận dữ của viên đặc vụ.

Sau đó là giọng nói bình thản của Rhyme: “... Anh biết không Dellray, trước kia tôi hay đi bơi lắm. Ngày nào cũng bơi.”

“Ta còn chưa đến mười phút”, Sachs thì thầm. Sóng vẫn bình thản vỗ bờ. Hai con tàu lặng lẽ lướt qua.

Dellray lầm bẩm gì đó.

“Tôi thường bơi ở sông Hudson. Sông lúc đó sạch hơn bây giờ nhiều. Ý tôi là nước rất sạch.”

Đường truyền có vấn đề. Anh nói lảng đi.

“...cầu cảng cũ. Cái cầu cảng mà tôi thích không còn nữa. Chỗ đó trước đây từng là nhà của Hudson Dusters. Băng đảng đó, anh có nghe nói về bọn chúng không? Từ những năm 1890. Phía bắc của Battery Park City bây giờ. Trông anh có vẻ buồn chán. Mệt mỏi vì phải nhìn mông thằng tàn tật rồi ư? Chưa à? Hợp với anh à? Cái cầu nằm giữa North Moore và Chambers. Tôi sẽ nhảy xuống nước, bơi quanh cầu cảng...”

“North Moore và Chambers!” Sachs la lớn. Quay ngoắt lại. Họ bỏ qua nó vì họ đã đi quá sâu xuống phía nam. Nó cách chỗ hiện tại của họ khoảng một phần tư dặm. Cô có thể nhìn thấy những cọc gỗ màu nâu lở loét, một miệng cống lớn ngập nước thuỷ triều. Còn được bao lâu nữa? Chẳng còn mấy. Họ chẳng còn cách gì cứu được ông ta.

Cô giật tai nghe và chạy nhanh ra xe, Banks chạy theo sau.

“Cậu biết bơi không?” Cô hỏi.

“Tôi ấy hả? Chỉ một, hai vòng trong bể bơi câu lạc bộ thôi.”

Họ không làm được rồi.

Sachs dừng bất ngờ, vòng nhanh xe lại, nhìn con phố vắng vẻ.

Nước dâng gần đến mũi ông.

Một con sóng nhỏ vỗ vào mặt William Everett đúng lúc ông hít vào, dòng chất lỏng mặn chát cháy vào cổ họng ông. Ông ho sặc sụa, phát ra âm thanh trầm đục, ghê rợn. Vặn vẹo. Nước tràn vào phổi. Ông tuột tay khỏi cây cột của cầu cảng chìm xuống nước, co cứng người rồi lại cố ngoi lên lần nữa, rồi lại chìm xuống.

Không, lạy Chúa... làm ơn đừng để con...

Ông lắc cái còng tay thật mạnh, cố gắng thoát ra. Chỉ có thể là phép màu thì những bắp thịt đáng thương của ông mới có thể uốn cong con ốc khổng lồ mà ông bị còng vào.

Ông xì nước trong mũi ra, đầu gục gặc trong cơn hoảng loạn. Trong một khắc, phổi ông được thông thoáng trở lại. Cơ cổ cháy bỏng – đau như ngón tay gãy của ông – vì ông phải ngửa đầu ra sau để tìm lớp không khí mỏng manh ngay bên trên mặt.

Ông được nghỉ một lát.

Rồi một con sóng nữa, cao hơn...

Và thế là hết.

Ông không thể chiến đấu được nữa. Đầu hàng. Về với Evelyn, nói lời tạm biệt...

William Everett buông xuôi. Ông bập bềnh dưới mặt nước rác rưởi, đầy đồ thải và cọng rong biển.

Rồi kinh hoàng tỉnh lại. Không, không...

Hắn đang ở đây. Tên bắt cóc. Hắn quay lại.

Everett nhao lên mặt nước, hít thêm nước vào phổi, tuyệt vọng tìm cách thoát ra. Người đàn ông chiếu ánh sáng chói vào mắt Everett và chìa con dao về phía ông.

Không, không...

Dìm ông chưa đủ, hắn còn muốn đâm ông chết. Không nghĩ ngợi gì, Everett lao về phía hắn. Nhưng tên bắt cóc biến xuống nước… và sau đó, soạt một tiếng, tay Everett được tự do.

Ông già quên phắt những lời từ biệt thầm lặng, lao như điên lên mặt nước, gấp gáp hít không khí, giật tung mảnh băng đang dán miệng. Hổn hển, nhổ nước. Đầu ông đập mạnh vào nền cầu cảng gỗ sồi ở phía trên, nhưng ông cười lớn. “Ôi, lạy Chúa, lạy Chúa...”

Sau đó, xuất hiện một khuôn mặt khác… Cũng trùm đầu, trong tay là một ngọn đèn sáng chói và Everett chỉ kịp nhận ra huy hiệu của NYPD trên bộ quần áo ướt sũng của người đàn ông. Họ không cầm dao mà là kìm sắt cắt. Một người nhét miếng cao su đắng ngắt vào miệng Everett và ông hít vào một hơi oxy mát rượi đến kinh ngạc.

Người thợ lặn vòng tay ông quanh anh ta, họ cùng nhau bơi đến rìa cầu cảng.

“Hít thật sâu nào, một phút nữa là ta thoát khỏi đây.”

Ông hít căng hai lá phổi chật hẹp, nhắm mắt, cùng người thợ lặn ngụp sâu xuống làn nước được chiếc đèn vàng của người đàn ông chiếu sáng một cách ma quái. Chuyến đi ngắn nhưng thật khổ sở, ngụp thẳng xuống ngoi lên trên qua lớp nước mờ đục, vẩn bụi. Có lúc ông trượt khỏi tay người thợ lặn, họ tách rời nhau trong một khắc. Nhưng với một cú quạt nước, William Everett quay lại. Sau buổi tối hôm đó, bơi một mình trên dòng nước bập bềnh của sông Hudson chỉ còn là chuyện nhỏ.

Cô không có ý định bắt taxi. Xe bus của sân bay cũng quá tối.

Nhưng Pammy đã quá mệt mỏi vì thiếu ngủ – cả hai người đã thức suốt từ năm giờ sáng – và cô cảm thấy bồn chồn. Con bé phải được đi ngủ ngay, nó đã rúc vào chăn với chai Hawaii Punch của nó. Ngoài ra, chính Carole cũng không thể đợi tới khi họ đến Manhattan – cô chỉ là một cô gái gầy gò vùng Trung Tây, người chưa bao giờ rời Ohio trong bốn mươi mốt năm, và cô đang ao ước được nhìn thấy Quả Táo Lớn.

Carole lấy hành lý của cô và họ đi về phía cửa ra. Cô kiểm tra để chắc chắn mình không quên gì khi đi khỏi nhà Kate và Eddie buổi chiều hôm đó.

Pammy, gấu Pooh, ví, chăn, va li, ba lô màu vàng.

Đủ hết.

Bạn bè đã cảnh báo cô về thành phố. Eddie nói: "Họ sẽ xô đẩy cậu. Bọn trộm ví, móc túi...”

"Đừng chơi bài ngoài phố”, Kate nói thêm, như mẹ dặn con.

"Trong phòng khách nhà tớ mà tớ còn không chơi bài”, Carole cười, nhắc bạn mình. "Thế thì sao tớ lại chơi bài trên đường phố của Manhattan?”

Nhưng cô trân trọng sự quan tâm của họ. Gì thì gì, cô cũng đã tới nơi, một người đàn bà goá và một đứa con ba tuổi, đến thành phố lộn xộn nhất Trái Đất để tham dự hội nghị Liên Hiệp Quốc – chưa bao giờ cô nhìn thấy nhiều người nước ngoài, quỷ thật, nhiều người ở một chỗ cùng lúc như ở đây.

Carole tìm được điện thoại công cộng và gọi cho khách sạn để kiểm tra đăng ký của mình. Nhân viên trực đêm nói phòng đó đã sẵn sàng và đang chờ họ. Anh ta sẽ gặp cô sau khoảng bốn mươi nhăm phút nữa.

Họ đi qua cánh cửa tự động, không khí mùa hè làm họ sốc đến ngột thở. Carole dừng lại, nhìn quanh. Một tay nắm chặt tay Pammy, tay kia chiếc va li cũ kỹ. Cái ba lô màu vàng nặng trịch đè trĩu trên vai cô.

Họ xếp hàng cùng những hành khách khác để chờ taxi trên bến đỗ.

Carole liếc nhìn tấm bảng quảng cáo bên kia đường cao tốc, nó viết Chào mừng các đoàn đại biểu Liên Hiệp Quốc!. Tấm bảng được trang trí tệ hại, nhưng cô vẫn nhìn nó một lúc lâu; một người trên đó giống Ronnie.

Một thời gian, sau khi anh mất, khoảng hai năm trước, hầu như mọi thứ đều gợi cho cô nhớ tới người chồng đẹp trai có kiểu tóc húi cua của mình. Cô lái xe qua McDonald và nhớ anh thích Big Macs. Những diễn viên trong phim chẳng giống anh chút nào, nhưng họ có thể có cách nghiêng đầu giống anh. Đọc tờ rơi quảng cáo máy cắt cỏ, cô nhớ anh thích cắt cỏ cho mảnh sân nhỏ xíu cuả họ ở Arlington Heights.

Nước mắt lại trào ra. Và cô quay lại dùng Prozac[114] hay imipramine[115]. Nằm cả tuần trên giường. Miễn cưỡng chấp nhận đề nghị của Kate, đến nhà của cô ấy và Eddie một đêm. Hay một tuần. Hay một tháng.

Nhưng cô không khóc nữa. Cô đến đây để bắt đầu cuộc đời mới. Sự đau khổ giờ đã ở lại phía sau.

Lắc mái tóc màu vàng sẫm khỏi bờ vai đẫm mồ hôi, Carole đẩy Pammy và đá túi hành lý lên phía trước khi hàng người nhúc nhích. Cô nhìn quanh, cố tìm một chút gì đó của Manhattan. Nhưng cô chẳng nhìn được gì ngoài xe cộ chạy trên đường, những cái đuôi mây bay và một biển người, taxi, ô tô. Hơi nước bốc lên từ lỗ cống như những con ma ghê rợn, trời đêm lẫn lộn đen, vàng và mù sương.

Được rồi, thế nào mình cũng nhìn thấy thành phố ngay thôi. Cô hy vọng Pammy đã đủ lớn để có những ký ức đầu tiên về cảnh tượng thành phố.

"Con có thích chuyến phiêu lưu của chúng ta không, con yêu?”

"Phiêu lưu. Con thích phiêu lưu. Con muốn uống Waiin Punch. Mẹ làm ơn cho con một ít được không?”

Làm ơn... Từ này mới đây. Cô bé lên ba bắt đầu học cách bắt mạch cha mẹ. Carole cười: "Mẹ sẽ mua cho con ngay thôi.”

Cuối cùng thì họ cũng có xe. Cốp xe bật mở và Carole quăng hành lý vào trong, dập nắp. Họ trèo vào ghế sau và đóng cửa.

Pammy, gấu Pooh, ví...

Người lái hỏi: “Ta đi đâu?” Carole cho anh ta địa chỉ khách sạn Midtown Residence, cô phải hét qua tấm kính ngăn Plexi.

Chiếc xe nhập dòng xe cộ. Carole dựa lưng và để Pammy ngồi trong lòng mình.

“Ta có đi qua trụ sở Liên Hiệp Quốc không?” Cô hỏi.

Nhưng người đàn ông đang tập trung để chuyển làn đường và không nghe thấy cô.

“Tôi đến tham dự hội nghị", cô giải thích. “Hội nghị Liên Hiệp Quốc.”

Vẫn không thấy trả lời.

Cô tự hỏi có phải anh ta không thạo tiếng Anh hay không. Kate cảnh báo cô rằng tất cả tài xế ở New York đều là người nước ngoài. (“Lấy mất việc làm của người Mỹ”, Eddie gầm gừ. “Nhưng đừng để tôi nói đến chuyện này.”). Cô không nhìn rõ người lái xe qua tấm kính ngăn xước xát.

Có thể anh ta chỉ không thích nói chuyện.

Họ quành vào một con đường cao tốc khác – và bất thình lình, nó kia rồi, ngay trước mặt cô, đường chân trời góc cạnh của thành phố. Chói loà. Như những đồ pha lê mà Kate và Eddie sưu tập. Một cụm khổng lồ những khối nhà màu xanh dương, màu vàng, màu bạc nằm giữa hòn đảo và một cụm khác bên trái. Nó to hơn tất cả những gì mà Carole đã từng nhìn thấy trong đời; trong một khoảnh khắc, hòn đảo trông như một con tàu khổng lồ.

“Nhìn kìa, Pammy, chúng ta đến đó đấy, trông thật đẹp, phải không con?”

Một khắc sau, quang cảnh biến mất khi chiếc xe ra khỏi đường cao tốc và quành thật nhanh xuống phía cuối đoạn đường dốc. Sau đó xe chạy trên những con phố nóng bức, trống trải, bị bao bọc bới nhưng toà nhà xây bằng gạch.

Carole nghiêng người ra trước. “Có đúng đường này đi về thành phố không?”

Lại không trả lời.

Cô đập mạnh vào lớp kính ngăn Plexi. “Anh có đi đúng đường không đấy? Trả lời tôi. Trả lời tôi đi!”

“Mẹ ơi, có chuyện gì thế?” Pammy nói và bắt đầu khóc.

“Anh đi đâu thế?” Carole quát.

Nhưng người đàn ông cứ vẫn lái xe – bình thản, đèn đỏ nào cũng dừng, không bao giờ vượt quá giới hạn tốc độ cho phép. Và khi hắn rẽ vào một bãi đỗ xe trống trải phía sau một nhà máy tối tân, bỏ hoang, hắn vẫn bật đèn xi nhan đúng luật.

Ôi không... không!

Hắn đeo chiếc mặt nạ trượt truyết rồi ra khỏi xe. Đi lại phía sau, hắn đưa tay mở cửa. Nhưng rồi hắn ngần ngại trong giây lát, cánh tay thõng xuống. Hắn cúi xuống, mặt đối diện cửa xe và gõ vào cửa kính.

Một lần, hai lần, ba lần. Như gọi bọn thằn lằn trong gian nuôi bò sát ở vườn bách thú. Hắn nhìn người mẹ và cô con gái một lúc lâu trước khi mở cửa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


“Cô làm thế nào hả, Sachs?”

Đứng cạnh sông Hudson hôi thối, cô nói chuyện với Rhyme qua máy bộ đàm. “Tôi nhớ là tôi có nhìn thấy cảng tàu cứu hoả ở Battery Park. Họ kiếm mấy người thợ lặn và đến chỗ cầu cảng chỉ trong ba phút. Trời ạ, anh phải xem cái tàu ấy chạy! Một ngày nào đó tôi cũng muốn lái thử một cái.”

Rhyme kể với cô về người lái xe taxi cụt ngón.

“Thằng chó chết!” Cô nói, tặc lưỡi ghê tởm. “Con chồn ấy lừa tất cả chúng ta.”

“Không phải tất cả chúng ta”, Rhyme rụt rè nhắc cô.

“Tức là Dellray đã biết tôi lấy chứng cứ. Anh ta có tìm tôi không?”

“Anh ta nói anh ta quay về toà nhà kiểu liên bang. Có thể để quyết định xem bắt ai trong chúng ta trước. Hiện trường ở đó thể nào, Sachs?”

“Tệ lắm”, cô báo cáo. “Hắn đỗ xe trên sỏi...”

“Tức là không có dấu chân.”

“Còn tệ hơn thế. Thuỷ triều làm dâng nước trong ống cống và chỗ hắn đỗ xe bây giờ đang ngập nước.”

“Quỷ thật”, Rhyme lẩm bẩm.” Không dấu vết, không dấu tay, chẳng có gì. Họ sẽ để ông ta trong bệnh viện một, hai ngày.”

“Ông ta không nói cho chúng ta biết thông tin gì ư?”

Sachs đến chỗ Banks. Anh ta đang phỏng vấn William Everett.

“Hắn không to lắm”, người đàn ông nghiêm trọng nói, cẩn thận quan sát thanh nẹp bó bột được nhân viên y tế buộc vào tay mình. “Hắn ta không được khoẻ lắm, không phải là người có cơ bắp. Nhưng hắn khoẻ hơn tôi. Tôi tóm hắn nhưng hắn kéo tay tôi ra.”

“Mô tả?” Banks hỏi.

Everett nhớ lại bộ quần áo tối màu và chiếc mặt nạ trượt tuyết. Đó là tất cả những gì ông có thể nhớ được.

“Tôi phải nói với cậu một việc”, Everett giơ cánh tay băng bó của mình lên. “Hắn rất ác. Tôi đã nói với cậu là tôi tóm lấy hắn. Tôi không nghĩ ngợi gì – đơn giản là tôi đã hoảng loạn. Nhưng hắn đã lên cơn điên thực sự. Vì thế hắn bẻ ngón tay tôi.”

“Trả thù à?” Banks hỏi.

“Tôi đoán thế. Nhưng đó không phải là phần kỳ quặc.”

“Không?”

“Kỳ quặc là hắn lắng nghe.”

Viên thám tử trẻ tuổi ngừng viết. Nhìn sang Sachs.

“Hắn ép tay tôi thật chặt vào tai hắn và bẻ ngón tay tôi khi nó gáy. Như thế hắn lắng nghe. Và thích thú.”

“Anh có nghe thấy không, Rhyme?”

“Có. Thom, thêm điều này vào hồ sơ của chúng ta. Thế nhưng tôi vẫn không biết điều này nghĩa là gì. Ta sẽ phải suy nghĩ về nó.”

“Có dấu hiệu nào của vật chứng không?”

“Vẫn chưa.”

“Đan lưới đi Sachs. À, mà lấy cả... của nạn nhân.”

“Quần áo? Tôi đã bảo ông ta rồi. Tôi – Rhyme, anh ổn chứ?” Cô nghe thấy tiếng ho.

Đường truyền bị đứt ngay tức khắc. Một giây sau anh trở lại. “Anh có đấy không, Rhyme? Mọi việc ổn chứ?”

“Ổn cả”, anh nói nhanh. “Đi thôi. Đan lưới đi.”

Cô khảo sát hiện trường đang được những ngọn đèn halogen của ESU soi sáng. Thật khó chịu. Hắn đã ở đây. Hắn đã đi trên con đường trải sỏi cách đây vài feet. Nhưng bất kể hắn có để lại vật chứng gì thì chúng đã nằm sâu mấy inch dưới làn nước mờ đục. Cô chậm rãi kiểm tra nền đất. Lui và tới.

“Tôi chẳng nhìn thấy gì cả. Manh mối có thể đã bị cuốn đi mất rồi.”

“Không đâu, hắn quá thông minh để không tính đến thuỷ triều. Manh mối sẽ ở trên chỗ đất khô đâu đó.”

“Tôi có một ý”, cô bất ngờ nói. “Anh đến đây đi.”

“Cái gì?”

“Khám nghiệm hiện trường cùng tôi, Rhyme.”

Im lặng.

“Rhyme, anh nghe tôi nói không?”

“Cô đang nói với tôi đấy à?” Anh hỏi.

“Anh trông giống như De Niro[116]. Anh không diễn giỏi như De Niro. Anh biết không? Một cảnh trong phim Taxi Driver?”

Rhyme không cười. Anh nói: “Lời thoại là: Mày đang nhìn tao đấy à? chứ không phải nói với tao.”

Sachs tiếp tục, không chút bối rối. “Tới đây đi. Khám nghiệm hiện trường với tôi.”

“Tôi sẽ sải đôi cánh của mình. Không, tốt hơn là tôi sẽ tự phóng tôi ra đó. Thần giao cách cam, cô biết rồi đấy.”

“Đừng đùa nữa. Tôi nghiêm chỉnh đấy.”

“Tôi...”

“Chúng tôi cần anh. Tôi không thể tìm được manh mối để lại.”

“Nhưng mà chúng sẽ ở đó. Cô chỉ cần cố thêm chút nữa thôi.”

“Tôi đan lưới hai lần rồi.”

“Thế thì cô đã khoanh vùng hơi hẹp. Thêm vài feet nữa và tiếp tục đi. 823 vẫn chưa kết thúc đâu, không phải bây giờ.”

“Anh đang đánh trống lảng đấy. Đến đây và giúp tôi với.”

“Bằng cách nào?” Rhyme hỏi. “Tôi làm việc ấy bằng cách nào?”

“Tôi có một người bạn cũng gặp khó khăn”, cô bắt đầu, “và anh ta...”.

“Ý cô là, anh ta là một người tàn tật”, Rhyme chỉnh lại. Mềm mỏng nhưng chắc chắn.

Cô tiếp tục: “Sáng nào người sĩ quan phụ tá cũng đặt anh ấy vào xe lăn và anh ấy tự lái xe đi khắp nơi. Đi xem phim, đi...”

“Những cái xe lăn ấy...”, giọng Rhyme uể oải vang lên. “Không có tác dụng gì với tôi...”

Cô ngừng nói.

Anh tiếp tục: “Vấn đề không phải ở chỗ tôi bị thương. Vấn đề là nếu tôi lên xe lăn sẽ rất nguy hiểm. Nó có thể...” – anh ngần ngại – “làm cho mọi chuyện xấu đi”.

“Tôi xin lỗi. Tôi không biết.”

Một lúc sau anh nói: “Tất nhiên là cô không biết.”

Hỏng mất vụ này rồi. Ôi trời. Người anh em...

Nhưng Rhyme không có vẻ gì tệ hơn sau lời nói hớ của cô. Giọng anh ta vẫn đều đặn, vô cảm. “Nghe này, cô phải tiếp tục tìm kiếm. Đối tượng của chúng ta đang khiến mọi thứ khó khăn hơn. Nhưng không phải là không thể... Tôi có một ý. Hắn là người dưới lòng đất, đúng không? Có thể hắn sẽ chôn chúng.”

Cô nhìn lên hiện trường.

Có thể ở kia... Cô nhìn thấy một ụ đất và lá cây trong một khóm cỏ cao gần con đường trải sỏi. Trông có gì bất ổn, cái ụ đất trông có vẻ như mới được đắp lên.

Sachs quỳ xuống cạnh nó, cúi đầu và dùng một cái bút chì gạt lá ra.

Cô quay mặt sang trái, thấy mình đang nhìn vào một cái đầu vươn cao, đầy răng nanh...

“Lạy Chúa tôi”, cô hét lớn, vấp ngã ra sau, phệt mông xuống đất, vội vàng lần tìm vũ khí.

Không...

Rhyme thét lên: “Cô không sao chứ?”

Sachs ngắm mục tiêu và cố gắng giữ vững, khẩu súng trên hai tay run rẩy. Jerry Banks chạy tới, khẩu Glock của anh ta đã được rút ra. Anh ta dừng lại. Sachs lồm cồm đứng dậy, nhìn vào thứ trước mặt họ.

“Trời ạ”, Banks thì thầm.

“Một con rắn – thật ra là bộ xương rắn”, Sachs nói với Rhyme. “Con rắn chuông. Mẹ kiếp.” Cô cất súng. “Nó được gắn vào một cái bảng.”

“Một con rắn?Hay đấy.” Giọng Rhyme có vẻ tò mò.

“Đúng rồi. Thực sự là thú vị”, cô lẩm bẩm. Cô đeo đôi găng cao su và nhấc những cái xương bị cuộn tròn. Cô lật ngược nó lại. "Sự biến hình"

“Cái gì?”

"Nhãn dán dưới đế. Tên cửa hàng bán thứ này, tôi đoán thế. 604 Broadway.”

Rhyme nói: “Tôi sẽ bảo Những Chàng trai Dũng cảm của chúng ta kiểm tra xem. Chúng ta có gì nhỉ? Nói tôi nghe về manh mối đi.”

Chúng nằm phía dưới con rắn. Trong một cái túi. Tim cô đập mạnh khi quỳ xuống bên cái túi.

“Một cuốn sách bằng diêm”, cô nói.

“Được rồi, có thể hắn nghĩ tới việc đốt nhà. Trên đó có in gì không?”

“Không. Nhưng có vết bẩn gì đó. Như dầu bôi trơn Vaseline. Có điều nó bốc mùi.”

“Tốt, Sachs – luôn phải ngửi thử vật chứng mà ta không chắc chắn lắm. Có điều cần chính xác hơn.”

Cô cúi xuống gần hơn.”Ối...”

“Thế là không chính xác.”

“Có thể là lưu huỳnh.”

“Có thể có gốc nitrate. Chất nổ. Tovex[117]. Có phải màu xanh dương không?”

“Không, trắng như sữa.”

“Thậm chí nó có thể sai bét, tôi hình dung đó là loại chất nổ thứ cấp. Loại ổn định. Còn gì nữa không?”

“Một mẩu giấy nữa. Có gì đó ở đây.”

“Cái gì, Sachs? Tên hắn, địa chỉ của hắn, thư điện tử?”

“Giống như giấy từ một tờ tạp chí. Tôi thấy một bức ảnh đen trắng nhỏ. Giống như một phần của toà nhà nhưng không nhìn thấy được là phần nào. Dưới đó có một dòng ngày tháng. Ngày Hai mươi sáu tháng Năm năm 1906.”

“Năm, hai mươi, không-sáu. Không hiểu có phải mã gì không. Hay là một địa chỉ. Tôi phải nghĩ thêm về điều này. Còn gì nữa không?”

Cô nghe thấy anh ta thở dài.”Được rồi. Về thôi, Sachs. Mấy giờ rồi nhỉ? Lạy Chúa tôi, gần một giờ sáng rồi. Lâu lắm rồi tôi không thức muộn thế này. Về thôi, để xem ta có gì.”

Trong tất cả các khu của Manhattan, Lower East Side là nơi ít thay đổi nhất trong lịch sử thành phố.

Tất nhiên là nhiều thứ đã biến mất. Những bãi chăn thả. Những toà nhà kiên cố của John Hancock và những người nổi tiếng trong chính quyền thời đó. Der Kolek, hồ nước ngọt lớn (cái tên Hà Lan của nó cuối cùng bị biến thành “The Collect”, miêu tả chính xác hơn thì là một cái ao ô nhiễm khủng khiếp). Khu Five Points nổi tiếng – trong những năm 1800 là dặm vuông nguy hiểm nhất trên thế giới – nơi mà chỉ một toà nhà cho thuê, như toà nhà Gates of Hell đổ nát, có thể là nơi chứa chấp tới hai, ba trăm tên giết người mỗi năm.

Nhưng vẫn còn lại hàng nghìn toà nhà cũ – những toà nhà cho thuê từ thế kỷ XIX và những ngôi nhà khung xây kiểu thuộc địa, những ngôi nhà hàng phố bằng gạch kiểu liên bang trước đó, những hội trường Baroque, một vài toà nhà công cộng kiểu Ai Cập được xây dựng theo lệnh của viên Nghị sĩ tha hoá Fernando Wood. Một số khác đã bị bỏ hoang, mặt tiền của chúng bám đầy cây cỏ, sàn nhà bị lũ cây non ương bướng làm nứt vỡ. Nhưng nhiều toà nhà vẫn còn được sử dụng; đó là mảnh đất tội lỗi của Tammany Hall, của xe đẩy và công xưởng khổ sai, toà nhà định cư Phố Henry, những vở hài kịch tục tĩu của Minsky và Yiddish Gomorra nổi tiếng – tên mafia người Do Thái. Khu vực sinh ra những hình thái như vậy không thể chết một cách dễ dàng.

Khu vực này chính là nơi Kẻ Tầm Xương, lái chiếc taxi chở người phụ nữ gầy gò và cô con gái của cô ta đến.

Thấy cảnh sát đang theo dõi mình, James Schneider lại trườn xuống đất, như một con rắn, tìm kiếm nơi ẩn nấp – người ta nghi ngờ là ở trong những căn phòng của rất nhiều toà nhà cho thuê của thành phố (mà độc giả có thể tình cờ nhận ra là “nhà trọ” vẫn còn đang rất thịnh hành). Và hắn im hơi lặng tiếng suốt mấy tháng.

Khi lái xe về nhà, Kẻ Tầm Xương thấy quanh mình không phải là Manhanttan của những năm 1990 – những quán ăn nhanh Hàn Quốc, những cửa hàng bánh sừng bò ướt át bẩn thỉu, những cửa hiệu cho thuê phim khiêu dâm, những cửa hàng quần áo trống rỗng – mà là một thế giới mộng mơ của những người đàn ông đội mũ quả dưa, những người phụ nữ mặt váy phồng sột soạt, viền và gấu dây đầy bùn bẩn ngoài phố. Những chiếc xe độc mã và tam mã, không khí tràn ngập mùi khí metal đôi khi dễ chịu, đôi khi thật kinh tởm.

Nhưng có động cơ xuẩn ngốc, không mỏi mệt nào đó bên trong thúc giục hắn phải làm mới bộ sưu tập của mình, ép hắn ra khỏi nơi lẩn trốn để tìm kiếm một người công dân lương thiện nữa; một thanh niên mới tới thành phố để hợc đại học.

Lái xe qua Quận Mười tám nổi tiếng, nơi đã từng là chỗ trú ngụ của gần mười lăm nghìn người, bị nhồi nhét vào một nghìn khu nhà đổ nát. Khi mọi người nghĩ tới thế kỷ XIV, họ nghĩ tới màu nâu đỏ – màu của những bức ảnh chụp thời đó. Nhưng không phải vậy, Manhattan xưa kia có màu đá. Với làn khói bụi làm nghẹn thở, sơn tường đắt giá và ánh sáng mờ mờ, thành phố hình thành từ nhiều sắc độ của màu xám và màu vàng.

Schneider lẩn lút theo sau chàng trai và chuẩn bị tấn công. Nhưng cuối cùng lương tâm của thần May mắn lên tiếng. Hai cảnh sát đã xuất hiện đúng lúc. Họ nhận ra Schneider và đuổi theo. Tên sát nhân chạy sang phía đông, chạy qua kỳ quan thiết kế khi đó, cầu Manhattan, cây cầu được xây xong vào năm 1909 hai năm trước khi sự việc này xảy ra. Nhưng hắn dừng lại giữa đường khi nhìn thấy cảnh sát chạy tới từ phía Brooklyn; họ đã nghe thấy tiếng huýt còi và tiếng súng từ những đồng nghiệp phía Manhattan.

Schneider, không mang vũ khí, lại bị pháp luật bao vây nên chỉ còn cách trèo lên thành cầu. Hắn hét lên những câu chỉ trích cảnh sát điên loạn, kết tội họ đã phá hoại cuộc đời hắn. Từ ngữ của hắn ngày càng điên loạn hơn. Lúc cảnh sát lại gần, hắn nhảy từ thành cầu xuống sông. Một tuần sau, một người hoa tiêu phát hiện ra thi thể hắn trên bờ đảo Welfare, gần Hell Gate. Chẳng còn lại gì nhiều, vì cua cáy và rùa đã làm việc rất cần cù. Chúng chẳng để lại cho Schneider chút gì ngoài những khúc xương mà hắn đã từng tôn thờ.

Hắn đánh chiếc taxi vào con phố trải sỏi East Van Brevoort, và dừng lại trước một toà nhà. Hắn kiểm tra hai sợi dây bẩn thỉu mà hắn đã chăng thấp dưới cửa để bảo đảm rằng không có ai vào nhà. Một chuyển động bất ngờ làm hắn giật mình và hắn lại nghe thấy tiếng gầm gừ sâu trong cổ họng của những con chó, mắt chúng màu vàng, răng màu nâu, cơ thể lấm tấm sẹo và vết lở loét. Hắn lần tay tìm khẩu súng ngắn nhưng chúng bất ngờ quay đi, vừa sủa ăng ẳng vừa đuổi theo một con mèo hay con chuột trong ngõ.

Hắn không nhìn thấy ai trên vỉa hè nóng bức. Hắn mở khoá cửa nhà để xe ngựa, sau đó quay về xe và lái nó vào ga ra, đỗ bên cạnh chiếc Taurus.

Sau cái chết của tên tội phạm, dấu vết của hắn được các thám tử thu thập và nghiên cứu kỹ. Nhật ký của hắn cho thấy hắn đã giết tám công dân lương thiện của thành phố. Hắn cũng là kẻ trộm mộ, vì từ những trang viết của hắn có một điều chắc chắn là (nếu như những tuyên bố của hắn được coi là sự thực) hắn đã xâm hại một số nơi yên nghỉ thiêng liêng trong các nghĩa địa quanh thành phố. Không nạn nhân nào sỉ nhục hắn; phần lớn họ là những công dân trung thực, cần cù và vô tội. Tuy vậy, hắn vẫn không thấy mình có lỗi. Thực sự, hắn có vẻ hoạt động với một sự ảo tưởng điên rồ rằng, hắn đang ban cho nạn nhân của mình những ân huệ.

Hắn dừng lại, gạt mồ hôi ra khỏi miệng. Cái mặt nạ trượt tuyết làm hắn ngửa. Hắn kéo người phụ nữ và đứa con gái ra khỏi cốp xe, vào gạt ra. Cuối cùng thì hắn cũng còng được họ.

“Thằng khốn nạn!” Cô ta rống lên. “Không được động vào con tao. Mày mà động vào nó, tao giết mày.”

Hắn ôm chặt quanh ngực cô ta và dán miệng cô ta lại. Sau đó hắn cũng làm thế với đứa bé con.

“Thịt da có thể khô héo và yếu ớt” – (tên tội phạm viết bằng nét chữ thô bạo nhưng chắc chắn ) – “xương cốt là phần khỏe nhất của cơ thể. Da thịt chúng ta có già đi, nhưng xương cốt chúng ta luôn trẻ mãi. Đó là mục tiêu cao quý của tôi, tôi không hiểu tại sao lại có người muốn tranh cãi với nó. Tôi làm điều tử tế cho tất cả bọn họ. Giờ đây họ bất tử. Tôi giải phóng họ. Tôi đã lấy họ đến tận xương”.

Hắn kéo họ xuống tầng hầm và đẩy mạnh người phụ nữ xuống sàn nhà, đứa con gái ở cạnh cô ta. Buộc còng tay của họ vào tường bằng dây phơi. Sau đó quay lên cầu thang.

Hắn nhặt chiếc ba lô màu vàng của cô ta ở sau xe taxi, đi qua một cánh cửa gỗ bắt vít vào phòng chính của toà nhà. Hắn định vứt chúng vào góc nhà nhưng vì một lý do nào đó hắn lại thấy tò mò về những đồ vật này. Hắn ngồi xuống trước một bức bích hoạ – một bức tranh vẽ tên đồ tể, một tay cầm dao, một tay cầm khúc thịt bò.

Hắn đọc nhãn hành lý. Carole Ganz. Carole với chữ E. Tại sao lại thừa một chữ? Hắn băn khoăn. Cái va li chẳng có gì ngoài quần áo. Hắn lục lọi cái ba lô. Hắn thấy tiền ngay lập tức. Phải có đến bốn, năm nghìn đô la. Hắn nhét lại nó vào ngăn kéo khoá.

Có một tá đồ chơi trẻ con: búp bê, hộp màu nước, một gói đất nặn, bộ đồ chơi Mr. Potato Head[118]. Trong đó còn có một máy chơi nhạc dòng Discman đắt tiền, nửa tá đĩa CD và cái đài đồng hồ du lịch hiệu Sony.

Hắn nhìn mấy bức ảnh. Ảnh Carole và đứa con. Trong hầu hết các bức ảnh, người phụ nữ trông rất sầu não. Một số, trông cô ta có vẻ vui hơn. Không có ảnh nào có cả Carole và chồng dù cô ta đeo nhẫn cưới. Nhiều bức ảnh là hai mẹ con với một cặp – một người đàn bà to béo mặc bộ đồ bà già cũ kỹ và một người đàn ông hói, để râu, mặc áo sơ mi vải flanenl.

Kẻ Tầm Xương nhìn rất lâu vào bức hình đứa bé con.

Số phận của Maggie O'Connor đáng thương, một cô bé mỏng manh chưa đấy tám tuổi, đặc biệt bất hạnh. Vận đen của cô bé, như cảnh sát phỏng đoán, là cô bé đã bắt gặp James Schneider khi hắn đi phi tang một trong những nạn nhân của mình.

Một cô bé, cư dân khu “Hell's Kitchen” nổi tiếng, ra ngoài nhổ lông đuôi ngựa. Trong khu vực nghèo khó này của thành phố có rất nhiều súc vật chết. Bọn trẻ ở đây đã quen với việc đan lông đuôi ngựa thành nhẫn và vòng đeo cổ – đồ nữ trang duy nhất mà những đứa trẻ cù bơ cù bất như nó có thể dùng để trang điểm cho mình.

Da và xương, da và xương.

Hắn đặt bức ảnh lên bệ lò sưởi, cạnh đống xương nhỏ mà hắn đang làm dở sáng nay và một số thứ hắn ăn trộm ở cửa hàng nơi hắn tìm thấy con rắn.

Người ta ngờ rằng Schneider đã thấy Maggie gần hang ổ của hắn chứng kiến cảnh tượng rùng rợn khi hắn giết một trong những nạn nhân. Hắn hạ cô bé nhanh hay chậm, điều này ta không đoán được. Nhưng không giống như những nạn nhân khác của hắn, những người mà cuối cùng thi thể của họ cũng được tìm thấy – thi thể của Maggie O'Connor yếu đuối không bao giờ được tìm thấy.

Kẻ Tầm Xương xuống cầu thang.

Hắn giật tấm băng dính trên miệng người mẹ, người phụ nữ hổn hển hít không khí, nhìn hắn với cơn giận dữ lạnh lùng. “Mày muốn gì?” Cô ta the thé hỏi. “Cái gì?”

Cô ta không gầy như Esther nhưng, ơn Chúa, cô ta không giống Hanna Goldschmidt chút nào. Hắn có thể nhìn thấy thật nhiều tâm hồn cô ta. Hàm dưới hẹp, xương đòn. Và qua lần váy mỏng màu xanh, dấu xương chậu – một kết nối của xương chậu, đốt háng và xương mu. Những cái tên nghe như những vị thần La Mã.

Con bé con vặn vẹo người. Hắn nghiêng người ra trước và đặt tay lên đầu nó. Xương sọ không phát triển từ một miếng xương duy nhất mà từ tám miếng xương riêng biệt, và đỉnh đầu nối lên như những mảnh tam giác trên mái vòm sân Astrodome. Hắn chạm vào xương chẩm và xương đỉnh của đầu con bé. Và hai mảnh xương nhạy cảm, ưa thích của hắn quanh hốc mắt – xương bướm và xương sàng.

“Thôi đi!” Carole lắc đầu giận dữ. “Tránh xa con bé ra.”

“Suỵt...” Hắn đưa ngón tay đeo găng của mình lên môi. Hắn nhìn con bé con, nó đang khóc và ép chặt người vào mẹ.

“Maggie O'Connor”, hắn thủ thỉ, nhìn khuôn mặt con bé. “Maggie bé bỏng của ta.”

Người phụ nữ giận dữ nhìn hắn.

“Con có mặt không đúng lúc, đúng nơi rồi. Con đã nhìn thấy ta làm gì rồi?”

Trẻ trung đến tận xương cốt.

“Mày đang nói gì thế?” Carole thì thầm. Hắn chuyển sự chú ý sang cô.

Kẻ Tầm Xương luôn băn khoăn về người mẹ của Maggie O'Connor.

“Chồng cô đâu?”

“Anh ấy chết rồi.” Cô cục cằn nói. Sau đó nhìn đứa con và nói nhẹ nhàng hơn. “Anh ấy bị giết hai năm trước. Này, chỉ cần thả con gái tôi thôi. Nó không thể nói bất cứ điều gì về anh với người khác. Này anh kia... anh có nghe tôi nói không? Làm gì thế?”

Hắn tóm tay Carole và nhấc lên.

Hắn gập xương bàn tay, chỗ cổ tay. Các đốt ngón tay – những ngón tay nhỏ xíu. Bóp vào xương.

“Không, đừng làm thế. Tôi không thích thế. Làm ơn đi!” Giọng cô vang lên trong cơn hoảng loạn.

Hắn mất tự chủ và không thích cảm giác này chút nào. Nếu hắn muốn thành công ở đây, với các nạn nhân, với kế hoạch của hắn thì hắn phải chiến thắng sự ham muốn đang xâm chiếm hắn – cơn điên đang kéo hắn sâu hơn vào quá khứ, lẫn lộn ngày đó và bây giờ.

Trước đây và sau đó...

Hắn cần đến tất cả trí tuệ và sự khéo léo của mình để kết thúc những gì hắn đã bắt đầu.

Và lúc này... lúc này...

Cô ta thật nhỏ nhắn, cô ta thật hoàn hảo. Hắn nhắm mắt và hình dung lưỡi dao cào trên xương ống chân cô ta sẽ hát lên như mã vĩ của một cây đàn violin cổ.

Hắn thở gấp gáp, mồ hôi đổ như tắm.

Cuối cùng, khi mở mắt hắn thấy mình đang nhìn vào đôi giày của cô. Hắn không có nhiều xương chân trong tình trạng tốt. Những người vô gia cư bị hắn bắt trong mấy tháng qua... họ đều bị còi xương và loãng xương, ngón chân họ bị những đôi giày không vừa chân làm hỏng.

“Tôi muốn thoả thuận với cô”, hắn nghe thấy mình đang nói.

Cô nhìn xuống con gái. Đang ép chặt hơn vào người cô.

“Tôi sẽ thoả thuận. Tôi sẽ để cô đi nếu cô để tôi làm mấy việc.”

“Việc gì?” Carole thầm thì.

“Cho tôi bóc da cô.”

Cô chớp mắt.

Hắn thầm thì. “Cho phép tôi. Làm ơn đi? Một chân. Chỉ một chân thôi. Nếu cô làm thế tôi sẽ để cô đi.”

“Cái gì...?”

“Đến tận xương.”

Cô hoảng sợ nhìn hắn chằm chằm. Nuốt nước bọt.

Điều đó có ý nghĩa gì? Hắn nghĩ. Kiểu gì thì cô ta cũng đã gần đó lắm rồi, thật gầy, thật góc cạnh. Đúng là có gì đó khác biệt ở cô ta – không như những nạn nhân khác.

Hắn cất khẩu súng ngắn và lấy dao trong túi. Mở nó ra với một tiếng động làm giật mình.

Cô không động đậy, ánh mắt cô trượt xuống đứa con gái. Quay lại phía hắn.

“Mày để bọn tao đi?”

Hắn gật đầu: “Cô chưa nhìn thấy mặt tôi. Cô không biết đây là đâu.”

Một lúc lâu. Cô nhìn quanh tầng hầm. Cô lẩm nhẩm một cái tên. Ron hay Rob.

Mắt vẫn nhìn hắn, cô giơ chân ra và đưa về phía hắn. Hắn kéo giày ra khỏi chân cô.

Hắn nắm lấy chân cô. Xoa nắn những mạch máu dễ vỡ.

Cô ngửa người ra sau, những sợi gân nổi lên trên cổ cô thật đẹp. Mắt cô nhắm chặt. Hắn chăm sóc da cô bằng lưỡi dao.

Tay nắm chắc con dao.

Cô nhắm mắt, hít vào và phát ra một tiếng khóc yếu ớt. “Làm đi”, cô thầm thì. Và xoay mặt con bé ra chỗ khác. Ôm nó thật chặt.

Kẻ Tầm Xương hình dung ra cô trong bộ quần áo thời Victoria, váy lồng đăng ten đen. Hắn thấy ba người họ ngồi với nhau ở Delmonico hay đi trên Đại lộ Năm. Hắn nhìn thấy Maggie nhỏ bé cùng với họ, mặc bộ váy diêm dúa, đang dùng gậy đánh vòng khi họ đi qua cầu Canal.

Ngày đó và bây giờ…

Hắn đặt lưỡi dao hoen gỉ vào vòng cung chân cô.

“Mẹ ơi!” Con bé hét lên.

Có điều gì đó trong người hắn bật ra. Hắn bàng hoàng một lúc vì khiếp sợ điều hắn đang làm. Sợ chính hắn.

Không! Hắn không thể làm điều đó. Không phải với cô ta. Với Esther hay Hanna thì được. Hay với người tiếp theo. Nhưng không phải cô ta.

Kể Tầm Xương lắc đầu buồn bã và chạm bàn tay vào gò má cô. Hắn lại dán miệng cô bằng băng dính và cắt sợi dây buộc chân cô.

“Nào”, hắn lẩm bẩm.

Cô vùng vẫy hết sức nhưng hắn giữ chặt đầu cô và kẹp mũi cô cho tới khi cô ngất đi. Sau đó hắn vác cô lên vai và đi lên cầu thang, thận trong nhấc các túi bên cạnh lên. Rất cẩn thận. Hắn không muốn nó rơi. Lên cầu thang. Chỉ dừng lại một lần để nhìn Maggie O’Conner bé nhỏ, tóc quăn đang ngồi trên bụi bẩn, tuyệt vọng ngẩng đầu nhìn hắn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Anh ta tóm họ ngay trước nhà Rhyme.

Nhanh như rắn, Jerry Banks đang bê cạnh sườn, như một món quà từ Santa Fe.

Dellray và hai đặc vụ bước từ trong ngõ ra. Anh ta tuyên bố với vẻ thoải mái: “Có tin mới đây, bé yêu. Cô đã bị bắt vì tội ăn cắp chứng cứ đang thuộc sự quản lý của chính phủ Mỹ.”

Lincoln Rhyme đã nhầm. Dellray không hề về tòa nhà kiểu liên bang. Anh ta theo dõi chỗ ở của anh.

Banks đảo mắt. “Bình tĩnh nào, Dellray. Chúng tôi đã cứu được nạn nhân.”

“Con giai, con làm được việc thật tốt rồi đấy. Nếu không, chúng ta sẽ kết án con tội giết người.”

“Nhưng chúng tôi cứu được ông ta”, Sachs nói. “Còn anh thì không.”

“Vớ vẩn.”

“Còng quý cô trẻ tuổi này lại”, con Kỳ nhông bất ngờ nói với đặc vụ lực lưỡng đứng cạnh anh ta.

Cô bắt đầu. “Chúng tôi tìm thấy thêm manh mối, đặc vụ Dellray. Hắn đã bắt được một nạn nhân khác. Tôi không biết chúng ta còn bao nhiêu thời gian.”

“À, còn phải mời cả anh bạn này tới dự tiệc cùng chúng ta nữa chứ.” Dellray hất đầu về phía Banks. Một nữ đặc vụ FBI đang tiến lại chỗ anh ta, còn anh ta có vẻ như đang nghĩ đến việc đánh nhau với cô ta.

Dellray nói vui vẻ: “Đừng, đừng, đừng. Cậu không muốn thế đâu.”

Banks miễn cưỡng chìa tay ra.

Sachs giận dữ nở một nụ cười lạnh lùng với viên đặc vụ. “Chuyến đi đến Morningside Heights của anh thế nào?”

“Hắn đã giết chết chàng lái taxi ấy. Các chàng trai PERT của chúng tôi đang lồm cồm khắp nhà như giòi bò trong phân.”

“Và đó là tất cả những gì họ sẽ tìm thấy”, Sachs nói. “Đối tượng này biết về hiện trường vụ án tốt hơn anh và tôi.”

“Về trung tâm.” Dellray tuyên bố, hất đầu về phía Sachs. Cô có quyền được yên lặng. Cô có…”

“Được rồi’, một giọng nói vang lên phía sau họ. Sachs quay lại và nhìn thấy Jim Polling đang sải bước lên vỉa hè. Cái áo thể thao thùng thình, tối màu anh ta đang mặc thật nhàu nát. Giống như là anh ta đã mặc nó khi đi ngủ, mặc dù khuôn mặt u ám của anh ta nói rằng đã mấy ngày nay anh ta chưa được ngủ. Có thể nhìn thấy bộ râu cả ngày chưa được cạo và mái tóc thực sự rối bù của anh ta.

Dellray chớp mắt một cách khó chịu, không phải viên cảnh sát làm anh ta thấy bất ổn mà là thân hình cao lớn của chưởng lý quận Nam đang ở phía sau Pollong. Và sau nữa là SAC Peskins.

“Được rồi, Fred. Để họ đi.” Giọng nói của viên chưởng lý.

Con Kỳ nhông nói bằng giong nam trung của phát thanh viên chương trình âm nhạc đài FM: ”Cô ta lấy trộm vật chứng, thưa ngài.Cô ta...”

“Tôi chỉ làm vài phân tích pháp y thôi”, Sachs nói.

“Nghe này...”, Dellray bắt đầu.

“Không”, Polling nói, hoàn toàn làm chủ. Không hề có âm hưởng giận dữ. “Không, chúng tôi không nghe.” Anh ta quay sang Sachs và cáu kỉnh: “Còn cô thì đừng cố làm trò.”

“Không, thưa ngài. Xin lỗi, thưa ngài.”

Viên chưởng lý nói với Dellray: ”Fred, anh hành động theo suy luận và đã thất bại. Đó là sự thật.”

“Một đầu mối tốt”, Delllray nói.

“Chúng tôi thay đổi hướng điều tra”, viên chưởng lý tiếp tục.

Perkins nói: “Chúng tôi đã họp với giám đốc và với phòng Nghiên cứu Hành vi. Chúng tôi quyết định rằng hướng điều tra của các thám tử Rhyme và Sellitto là đúng.”

“Nhưng đặc tính của tôi biết chắc rằng điều gì đó đã xảy ra tại sân bay. Và đó không phải là thứ mà anh ta thích lắm.”

“Chúng ta sẽ quay lại chuyện đó, Fred”, viên chưởng lý nói cộc lốc. “Bất kể là tên khốn này muốn gì thì nhóm của Rhyme cũng đã cứu được nạn nhân.”

Nhứng ngón tay dài ngoẵng của Dellray cuộn lại thành nắm đấm, nhưng sau đó lại mở ra: “Tôi đánh giá cao việc này, thưa ngài. Nhưng...”

“Đặc vụ Dellray, chúng tôi đã quyết định rồi.”

Khuôn mặt đen bóng – thật hăng hái khi anh điều binh khiển tướng trong toà nhà kiểu liên bang – lúc này ủ rũ, dè dặt. Trong một khắc, anh chàng mê nhạc jazz biến mất. “Vâng, thưa ngài.”

“Con tin gần đây nhất có thể bị chết nếu thám tử Sachs không can thiệp”, viên chưởng lý nói.

“Là sĩ quan Sachs, thưa ngài”, cô chỉnh lại. “Vả lại phần lớn là nhờ Lincoln Rhyme. Tôi chỉ là tay sai của anh ta thôi. Có thể nói như vậy.”

“Vụ này trả về thành phố”, viên chưởng lý tuyên bố. “A-T của Cục vẫn tiếp tục xử lý mối liên hệ với người đưa tin liên quan tới khủng bố nhưng với số lượng người ít hơn. Tất cả những thông tin mà họ có được đều phải chuyển cho các thám tử Rhyme và Sellitto. Dellray, anh phải chuyển người sang để họ sử dụng cho bất kỳ nỗ lực tìm kiếm, theo dõi hay giải cứu con tin nào. Hoặc bất cứ thứ gì họ cần. Anh hiểu chứ?”

“Vâng, thưa ngài.”

“Tốt. Ạnh nên tháo còng cho các sĩ quan này ngay.”

Dellray bình tĩnh mở khóa còng và thả nó vào túi mình. Anh ta đi ra chỗ một chiếc xe lớn đậu gần đó. Khi Sachs nhặt cái túi đựng vật chứng lên, cô nhìn thấy anh ta đứng một mình bên rìa một vệt sáng đèn đường, đằng sau xe của anh ta, ngón tay trỏ vuốt vuốt điếu thuốc. Cô có một chút cảm thông với nhân viên liên bang này, sau đó cô quay lại chạy lên cầu thang, hai bậc một, theo sau Jerry Banks và con rắn chuông của anh ta.

“Tôi nghĩ ra rồi. À, hầu hết.”

Sachs bước và phòng Rhyme đúng lúc anh đưa ra tuyên bố này. Anh ta khá hài lòng với bản thân.

“Mọi thứ, trừ con rắn và cái mớ hỗn độn này.”

Cô giao vật chứng mới cho Mel Cooper. Căn phòng lại được chuyển đổi, những cái bàn được chất đầy lọ thủy tinh, cốc thí nghiệm, hộp tròn đựng thuốc, thiết bị phòng thí nghiệm và những cái hộp. Không nhiều như ở trụ sở FBI nhưng với Amelia Sachs, kỳ lạ thay nó lại khiến cô thấy như đang ở nhà.

“Nói tôi nghe”, cô nói.

“Ngày mai là Chủ Nhật… xin lỗi – hôm nay là Chủ nhật. Hắn sẽ đốt một nhà thờ.”

“Làm thế nào mà anh nghĩ ra được?”

“Ngày tháng.”

“Trên mẩu giấy? Nó có ý nghĩa gì?”

“Cô đã bao giờ nghe nói tới những người vô chính phủ chưa?”

“Những người Nga nhỏ bé mặc áo choàng mang theo những quả bom trông như quả bóng bowling phải không?” Banks nói.

“Từ một anh chàng đọc truyện tranh” Rhyme khô khan nhận xét. “Cội-rễ-truyện-tranh-sáng-thứ-Bảy của anh ta đang thể hiện đây, Banks. Chủ nghĩa vô chính phủ là một phong trào xã hội cũ kêu gọi loại bỏ chính phủ. Một người vô chính phủ – Enrico Malatesta – có tuyên ngôn ‘tuyên truyền bằng hành động’. Dịch ra là giết người và gây lộn xộn. Một trong những kẻ theo gót ông ta, một người Mỹ tên là Eugene Lockworthy, sống ở New York. Một buổi sáng Chủ nhật, hắn ta khóa cửa một nhà thờ ở Upper East Side[119] ngay sau khi buổi lẽ bắt đầu và đốt nơi đó. Giết mười tám người đi lễ.”

“Và nó xảy ra vào ngày Hai mươi tháng Năm năm 1906?” Sachs hỏi.

“Đúng.”

“Tôi sẽ không hỏi làm thế nào mà anh nghĩ ra được.”

Rhyme nhún vai. “Rõ ràng quá. Đối tượng của chúng ta thích lịch sự, đúng không? Hắn cho ta vài que diêm để nói với ta rằng, hắn lên kế hoạch cho một vụ hỏa hoạn. Tôi vừa nghĩ tới những vụ cháy nổi tiếng của thành phố – Triangle Shirtwaist, Crystal Palace[120], du thuyền Tướng Slocum… tôi xem lại ngày tháng – Ngày Hai mươi tháng Năm là đám cháy nhà thờ First Methodist.”

Sachs hỏi: “Nhưng ở đâu? Cũng chỗ nhà thờ ấy?”

“Tôi nghĩ là không phải”, Sellitto nói. “Bây giờ chỗ đó là một cao ốc thương mại, 823 không thích những chỗ mới. Tôi có một vài người dự phòng nhưng ta không chắc là hắn sẽ đi nhà thờ.”

“Và chúng ta nghĩ”, Rhyme nói thêm, “hắn sẽ đợi cho tới khi buổi lễ bắt đầu.”

“Vì sao?”

“Có một điều, vì đó là cách Lockworthy đã làm”, Sellitto tiếp tục. “Hơn nữa, chúng tôi cũng nghĩ tới điều Terry Dobyns nói với chúng ta – tăng tiền cược. Nhiều nạn nhân hơn.”

“Như vậy là ta có thêm chút thời gian. Cho tới khi buổi lễ bắt đầu.”

Rhyme nhìn lên trần nhà. “Rồi, có bao nhiêu nhà thờ ở Manhattan?”

“Hàng trăm cái.”

“Nghe hoa mỹ lắm, Banks. Ý tôi là – chúng ta tiếp tục xem xét manh mối. Hắn sẽ phải thu gọn còn vài cái thôi.”

Tiếng chân bước trên cầu thang.

Lại là hai anh em sinh đôi.

“Chúng tôi gặp Fred Dellray ở ngoài kia.”

“Anh ta chẳng thân mật chút nào.”

“Hay vui vẻ.”

“Ôi trời, nhìn này.” Saul – Rhyme tin rằng đó là Saul ; anh ta quên mất ai là người có tàn nhang – hất đầu về phía con rắn. “Trong một đêm, tôi đã phải nhìn thấy thứ này nhiều hơn là tôi muốn rồi đấy.”

“Rắn?” Rhyme hỏi.

“Chúng tôi đến Metamorphosis. Đó là…”

“… một chỗ rất ghê rợn. Có gặp ông chủ ở đấy. Một anh chàng kỳ quặc. Các anh chắc cũng đoán được.”

“Để râu dài lắm. Chúng tôi ước là mình không đến đấy tối đó”, Bedding tiếp.

“Họ bán dơi nhồi bông và côn trùng…”

“Dài tới năm inch.”

“… và có những con quái vật như con này.” Sachs hất đầu về phía con rắn.

“Bọ cạp, rất nhiều bọ cạp.”

“Thôi được, khoảng một tháng trước họ bị đột nhập và đoán thử xem cái gì bị mất? Một bộ xương rắn chuông.”

“Họ có báo không?” Rhyme hỏi.

“Có.”

“Nhưng tổng giá trị tài sản mất cắp chỉ khoảng một trăm đô la. Vì thế Larceny không muốn lôi tất cả mọi người vào, các anh biết đấy.”

“Nhưng nói với họ.”

Sachs gật đầu. “Con rắn không phải là thứ duy nhất bị mất. Kẻ trộm còn lấy đi mấy chục cái xương.”

“Xương người à?” Rhyme hỏi.

“Đúng. Người chủ nghĩ điều đó thật hài hước. Những con côn trùng...”

“Quên năm inch đi, một số con dài tới tám inch. Dễ.”

“...chúng trị giá ba, bốn trăm. Nhưng tất cả vật chứng bị lấy là con rắn và xương.”

“Có xương nào đặc biệt không?”

“Một nhóm. Giống như mẫu Whitman của anh.”

“Hắn ta nói thế, không phải chúng tôi.”

“Chủ yếu là xương nhỏ. Tay và chân. Và xương sườn, có thể là cả hai cái.”

“Anh ta không chắc lắm.”

“Có báo cáo hiện trường nào không?”

“Cho xương bị đánh cắp? Không đâu.”

Những Chàng trai Dũng cảm lại đi ra, vào thành phố, tới hiện trường cuối cùng để điều tra khu vực lân cận.

Rhyme băn khoăn về con rắn. Có phải nó cho họ biết địa điểm không? Nó có liên quan đến đám cháy Nhà thờ First Methodist không? Nếu bọn rắn chuông là đặc thù của Manhattan thì những công trình phát triển thành phố đã từ lâu đóng vai trò Thánh Patrick và đã quét dọn chúng ra khỏi đảo rồi. Hắn có chơi chữ rắn hay chuông không?”

Bất ngờ Rhyme tin rằng anh ta đã hiểu ra. “Con rắn là dành cho chúng ta.”

“Chúng ta?” Banks cười.

“Một cái tát vào mặt.”

“Mặt ai?”

“Tất cả những ai đang tìm hắn. Tôi nghĩ đây là một chuyện đùa độc địa.”

“Tôi không cười quá to đâu”, Sachs nói.

“Câu của cô khá là buồn cười đấy.” Banks nhăn mặt.

“Tôi nghĩ chúng ta khá hơn hắn tưởng và hắn không thích điều này. Hắn phát điên và hắn đổ nó sang cho chúng ta. Thom, thêm điều này vào hồ sơ của chúng ta đi. Hắn đang nhạo báng chúng ta.”

Điện thoại của Sellitto đổ chuông. Anh ta nghe và trả lời. “Emma thân yêu. Cô có gì thế?” Anh ta gật đầu trong khi ghi chép. Sau đó ngẩng lên và thông báo. “Những tên trộm xe cho thuê. Hai chiếc Avis đã biến khỏi chỗ của chúng ở Bronx trong tuần qua, một chiếc ở Midtown. Chúng để ở ngoài vì màu không đúng: đỏ, xanh và trắng. Không có tính dân tộc. Bốn chiếc Hertz bị đánh cắp. Ba chiếc ở Manhattan – một chiếc từ địa điểm của họ ở trung tâm East Side, một chiếc từ Midtown và một chiếc từ Upper West Side. Hai cái màu xanh và – có thể đây là nó – một cái màu nâu. Nhưng chiếc Ford bạc bị lấy từ White Plains. Đó là sự bầu chọn của tôi.”

“Đồng ý”, Rhyme tuyên bố. “White Plains.”

“Làm sao anh biết?” Sachs hỏi. “Monelle nói có thể nó màu be hay màu bạc.”

“Vì anh chàng của chúng ta đang ở trong thành phố”, Rhyme giải thích, “và nếu hắn ta lấy một thứ to như một chiếc xe hơi thì hắn sẽ làm việc đó càng xa hang ổ của hắn càng tốt. Một chiếc xe Ford, anh vừa nói thế à?”

Sellitto hỏi Emma, sau đó ngẩng lên. “Taurus. Kiểu của năm nay. Nội thất màu xám tối. Biển số không trùng.”

Rhyme gật đầu. “Thứ đầu tiên mà hắn thay đổi sẽ là biển số xe. Hãy cảm ơn cô ấy và bảo cô ấy chợp mắt một chút. Nhưng đừng rời điện thoại quá xa.”

“Tôi có gì này, Lincoln”, Mel Cooper gọi.

“Gì thế?”

“Mớ hỗn độn. Tôi đã chạy nó qua cơ sở dữ liệu thương hiệu.” Anh ta bật màn hình. “Tham chiếu chéo… Xem nào, phù hợp nhất có lẽ là Kink-Away. Đó là loại thuốc duỗi tóc được bán trong cửa hàng.”

“Không phù hợp lắm về mặt chính trị, nhưng có ích. Điều này đưa ta đến Harlem, các anh có nghĩ thế không? Thu hẹp số lượng nhà thờ một cách đáng kể.” Banks đang lướt qua mục buổi lễ tôn giáo trong danh bạ của ba tờ báo thành phố. “Tôi đếm được hai mươi ba.”

“Buổi lễ sớm nhất là lúc nào?”

“Ba nơi làm lễ lúc tám giờ. Sáu nơi lúc chín giờ. Một nơi vào lúc chín rưỡi. Còn lại vào mười hay mười một giờ.”

“Hắn ta sẽ đến nhà thờ làm lễ đầu tiên. Hắn đã cho chúng ta vài giờ để tìm kiếm chỗ này rồi.”

Sellitto nói. “Tôi sẽ bảo Haumann tập hợp các anh chàng ESU của chúng ta lại.”

“Còn Dellray thì sao?” Sahcs nói. Cô hình dung ra viên đặc vụ đáng thương đứng một mình trong góc phố phía bên ngoài.

“Hắn ta thì sao?” Sellitto lẩm bẩm.

“À,cho anh ta nhập cuộc với. Anh ta muốn bắt thằng cha kia lắm đấy.”

“Perkins nói anh ta sẽ phải giúp đỡ”, Banks khuyến nghị.

“Cô thực sự muốn có hắn ư?” Sellitto nhăn nhó hỏi.

Sachs gật đầu. “Chắc chắn.”

Rhyme đồng ‎ý. “Được rồi, anh ta có thể chỉ huy các nhóm S&S của liên bang. Tôi muốn mỗi nhà thờ có một nhóm ngay lập tức. Tất cả các lối vào. Nhưng họ phải đứng cách đó thật xa. Tôi không muốn đánh động hắn. Ta có thể bắt quả tang hắn.”

Sellitto nhận một cuộc gọi. Anh ta ngẩng lên, mắt nhắm. “Lạy Chúa.”

“Ồ, không”, Rhyme lẩm bẩm.

Viên thám tử lau khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi và gật đầu. “Trung tâm nhận được một cuộc gọi 911 từ nhân viên trực đêm mở một khu nào đó? Khách sạn Midtown Residence? Một người phụ nữ và con gái cô ta gọi cho anh ta từ La Guardia, nói rằng họ sẽ bắt đầu lên taxi đến. Một lúc trước; nhưng họ lại không đến. Biết tin tức về vụ bắt cóc, anh ta nghĩ anh ta nên gọi điện. Tên cô ta là Carole Ganz. Đến từ Chicago.”

“Quỷ thật”, Bank lẩm bẩm. “Có cả một đứa bé gái. Chắc là ta phải dừng hết taxi ngoài phố cho tới khi tóm được hắn.”

Rhyme vô cùng mệt mỏi. Đầu anh điên đảo. Anh nhớ lại lúc khám nghiệm hiện trường tại một nhà máy sản xuất bom. Nitroglycerin rơi ra từ một ít thuốc nổ thấm vào chiếc ghế bành mà Rhyme phải tìm kiếm dấu vết trên đó. Nitroglycerin làm cho ta đau đầu dữ dội.

Màn hình máy tình của Cooper nhấp nháy. “Thư điện tử”, anh ta nói và mở thông điệp. Anh ta đọc những dòng chữ nhỏ xíu.

“Họ đã phân cực tất cả các mẫu giấy bóng kính mà ESU thu thập được. Họ cho rằng mẩu giấy chúng ta tìm thấy trên khúc xương ở hiện trường Phố Pearl là từ cửa hàng thực phẩm ShopRite. Giống nhất với loại giấy bóng kính mà họ sử dụng.”

“Tốt”, Rhyme nói. Anh hất đầu về phía tấm áp phích. “Gạch bỏ tất cả cửa hàng thực phẩm trừ ShopRite đi. Ta còn những địa điểm nào.”

Anh nhìn Thom xóa tên các cửa hàng, chỉ để lại bốn.

B’way & 82nd

Greenwich & Bank

8th Ave. & 24th

Houston & Lafayette

“Như thế là ta còn lại Upper West Side, West Village, Chelsea và Lower East Side.”

“Nhưng hắn có thể đến bất cứ đâu để mua.”

“Chắc chắn là hắn có thể rồi, Sachs. Hắn có thể mua chúng ở White Plains khi hắn ăn trộm xe. Hay ở Cleveland khi đi thăm mẹ hắn. Nhưng nghe nay, có một điểm là bọn thủ phạm cảm thấy thoải mái với sự lừa dối của chúng và chúng không còn quan tâm đến việc che giấu dấu vết nữa. Những kẻ ngu xuẩn – hay lười biếng – ném khẩu súng còn bốc khói xuống hố rác ngay sau nhà mình và vui vẻ biến đi. Những kẻ thông mình ném nó vào một thùng Spackle rồi vứt vào Hell Gate. Những kẻ xuất sắc lẻn vào nhà máy lọc dầu và làm nó bốc hơi trong lò nóng năm nghìn độ. Nghi phạm của chúng ta thông minh, chắc chắn rồi. Nhưng hắn cũng giống như tất cả các tên tội phạm khác trong lịch sử thế giới. Hắn cũng có giới hạn. Tôi cá là hắn nghĩ chúng ta không có thời gian hay ý định tìm kiếm hắn hay hang ổ của hắn vì chúng ta quá bận bịu với những manh mối để lại. Nhưng tất nhiên là hắn hoàn toàn sai lầm. Đó chính xác sẽ là cách chúng ta tìm ra hắn. Còn bây giờ, hãy xem liệu ta có đến gần được hang ổ của hắn hay không? Mel, có gì trong quần áo của nạn nhân từ hiện trường vừa rồi không?”

Những đợt sóng thủy triều đã giặt sạch hầu hết mọi thứ trên quần áo của William Everett.

“Cô nói là họ có đánh nhau, phải không Sahcs? Nghi phạm và ông Everett này.”

“Không hắn là một vụ đánh nhau. Everett tóm áo hắn.”

Rhyme tặc lưỡi. “Chắc là tôi mệt rồi. Nếu tôi nghĩ đến việc đó thì tôi đã bảo cô cạo móng tay ông ta. Kể cả khi ông ta chìm dưới nước thì vẫn có một chỗ...”

“Đây này, cô nói và chìa ra hai cái túi nhựa.”

“Cô có cạo?”

Cô gật đầu.

“Nhưng sao lại hai túi?”

Nhấc lần lượt từng cái lên, cô nói: “Tay phải, tay trái.”

Mel Cooper bật cười. “Ngay cả anh cũng chẳng bao giờ nghĩ đến việc dùng hai túi cho hai tay. Ý hay tuyệt.”

Rhyme gầm gừ. “Phân tích hai tay có khả năng cùng có giá trị giám định.”

“Ôi trời”, Cooper vẫn cười. “Thế có nghĩa là anh ta nghĩ đó là một ý tuyệt vời và anh ta tiếc rằng mình không phải là người đầu tiên nghĩ ra nó.”

Kỹ thuật viên nghiên cứu chỗ cạo móng tay. “Ở đây có ít gạch.”

“Chẳng có tí gạch nào quanh ống cống hay ngoài hiện trường”, Sachs nói.

“Nó bị gãy vụn. Nhưng có cái gì dính vào đó. Tôi không biết đấy là thứ gì.”

Banks hỏi: “Có thể là từ đường hầm chỗ bãi chăn không? Ở đó có rất nhiều gạch, đúng không?”

“Và tất cả xuất phát từ cô Annie Oakley[121] đây”. Rhyme nói, buồn bã hất đầu về phía Sachs. “Không, nhớ lại đi, thủ phạm đã bỏ đi trước khi cô ta rút súng sáu.” Sau đó anh nhăn nhó, thấy mình cố vươn ra phía trước. “Mel, tôi muốn xem mẩu gạch đó. Trên kính hiển vi. Có cách nào không?”

Cooper nhìn ra chỗ máy tính của Rhhyme. “Tôi nghĩ ta có thể làm gì đó.” Anh ta kéo một sợi cáp từ cổng video của chiếc kính hiển vi tới máy tính của anh ta và sau đó đào bới trong cái va li. Anh ta lôi ra một sợi cáp to, dây màu xám. “Đây là cáp nối tiếp”. Anh ta kết nối hai máy tính với nhau và truyền một phần mềm gì đó sang chiếc Compaq của Rhyme. Sau năm phút, Rhyme phấn chấn nhìn được đúng những gì mà Cooper đang nhìn qua ống ngắm kính hiển vi của anh ta.

Đôi mắt của nhà hình sự học quét qua mẩu gạch, đã được phóng đại khổng lồ. Anh cười thành tiếng. “Hắn ta đã tự đánh bẫy mình. Có thấy những đốm trắng màu trắng dính vào mẩu gạch không?”

“Cái gì đấy?” Sellitto hỏi.

“Trông giống như hồ dán”, Cooper đề xuất.

“Chính xác. Từ cuộn băng dính làm sạch lông thú vật trên quần áo. Những tên tội phạm thực sự cẩn thận dùng thứ này để xóa sạch dấu vết khỏi quần áo chúng. Nhưng chúng bị phản pháo. Vài mẩu hồ rơi ra khỏi cuộn băng dính và dính vào quần áo của hắn. Như vậy ta biết đó là từ nơi ẩn nấp an toàn của hắn. Chính mẩu hồ giữ sạch mẩu gạch lại cho tới khi móng tay của Everett nhặt nó lên.”

“Mẩu gạch ấy có nói cho ta biết điều gì không?” Sachs hỏi.

“Nó đã cũ. Và đắt tiền – gạch rẻ tiền rất xốp có trộn chất làm đầy. Tôi nghĩ chỗ của hắn có thế là một cơ quan hay tòa nhà của ai đó rất giàu có. Tòa nhà ít nhất đã một trăm năm. Có thể cổ hơn.”

“À, đây rồi”, Cooper nói. “Có vẻ là một mẩu găng tay nữa. Nếu thứ này cứ tiếp tục phân rã thì chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ có dấu vân tay của hắn thôi.”

Màn hình của Rhyme nhấp nháy và một khắc sau anh nhận thấy có một mẩu da nhỏ xuất hiện trên màn hình. “Có thứ trông buồn cười này”, Cooper nói.

“Không phải màu đỏ”, Rhyme nhận xét. “Như mẩu kia. Mẩu này lại màu đen. Cho nó qua máy GC-MS xem.”

Cooper thử, sau đố gõ lên màn hình của anh ta. “Đó là da. Nhưng thuốc nhuộm khác. Có thể nó đã bị dây bẩn hoặc phai màu.”

Rhyme nghiêng người về phía trước, căng thẳng, nhìn kỹ mẩu da trên màn hình và anh nhận ra mình gặp rắc rối. Rắc rối nghiêm trọng.

“Này, anh ổn chứ?” Sachs chính là người thốt lên.

Rhyme không trả lời. Cổ và cằm anh bắt đầu rung bần bật. Một cảm giác như cơn rối loạn tràn lên từ cạnh cột sống đã gãy của anh và lan lên đầu. Sau đó, tựa như bộ điều chỉnh nhiệt được bật lên, cơn lạnh và gai ốc biến mất, anh bắt đầu toát mồ hôi. Mồ hôi túa ra trên mặt anh và cù anh buồn phát điên.

“Thom!” Anh thì thầm. “Nó đến đấy.”

Sau đó anh thở hổn hển, cơn đau đầu dâng lên và lan tỏa theo thành hộp sọ. Anh nghiến chặt răng, lắc đầu, làm bất cứ điều gì có thể để ngăn chặn cơn đau không thể chịu đựng được. Nhưng chẳng có ích gì. Đèn trong phòng nhấp nháy. Cơn đau dữ dội tới mức phản ứng của anh là chạy trốn khỏi nó, chạy trên đôi chân bại liệt đã không nhúc nhích được trong nhiều năm.

“Lincoln!” Sellitto la lớn.

“Nhìn mặt anh ấy kìa”, Sachs hổn hển, “nó đỏ rực”.

Còn tay anh thì trắng bệch như ngà voi. Cả người anh dước kinh độ C4[122] thần kỳ đang trắng bệch. Máu của Rhyme, trong một sứ mệnh tuyệt vọng, sai lầm là phải đến được chỗ nó nghĩ nó cần đến, đang dồn lên những ống mao dẫn trên não anh, khiến chúng dãn ra, đe dọa làm nổ tung những mạch máu yếu ớt.

Dù cơ đột quỵ càng ngày càng tệ hại hơn, nhưng Rhyme vẫn biết được Thom đang vươn trên người anh, kéo tung cái chăn ra khỏi giường. Anh vẫn biết Sachs tiến về phía trước, đôi mắt xanh dương tỏa sáng của cô co lại vì lo lắng. Điều cuối cùng anh nhìn thấy trước khi bóng tối trùm xuống là con chim ưng đang tung bay ra khỏi bờ tường trên đôi cánh to lớn của nó, bị giật mình vì những hoạt động rối loạn bất ngờ trong phòng, tìm kiếm sự quên lãng dễ dàng trong làn không khí nóng bỏng bên trên những con phố trống vắng của thành phố.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Khi Rhyme ngất đi, Sellitto là người đầu tiên chạy tớ chỗ cái điện thoại.

“Quay 911 gọi EMS”, Thom ra lệnh. “Sau đó quay số này. Quay số nhanh. Đó là Peter Taylor, chuyên gia cột sống của chúng tôi.”

Sellitto gọi điện.

Thom quát: “Tôi cần giúp đỡ. Có ai đó không?”

Sachs đứng gần nhất. Cô gật đầu, bước lại phía Rhyme. Viên trợ lý ôm dưới nách người đàn ông bất tỉnh nhân sự và kéo anh ta nằm cao hơn. Anh ta giật tung chiếc áo sơ mi và ấn tay vào lồng ngực nhợt nhạt, vừa làm vừa nói. “Những người còn lại, làm ơn đi ra chỗ khác.”

Sellitto, Banks và Cooper vẫn ngần ngừ trong giây lát rồi bước ra ngoài. Sellitto đóng cánh cửa phía sau họ.

Một chiếc hộp màu be xuất hiện trên tay viên trợ lý. Bên trên nó có mấy cái công tắc và núm xoay, một sợi dây nối từ đó ra một chiếc đĩa phẳng được người trợ lý đặt lên ngực Rhyme và dán xuống.

“Bộ kích thích thần kinh cơ hoành. Nó giúp anh ta thở.” Anh bật máy.

Thom quấn cái vòng đo huyết áp và cánh tay trắng như thạch cao của Rhyme. Sachs nhận thấy ngay từ đầu là cơ thể anh ta gần như không có nếp nhăn. Anh ta khoảng bốn mươi tuổi nhưng cơ thể anh ta là của một thanh niên hai mươi nhăm tuổi.

“Sao mặt anh ấy lại đỏ thế? Trông anh ta giống như sắp nổ tung.”

“Đúng thế”, Thom nghiêm trọng nói, lôi bộ dụng cụ bác sĩ từ dưới cái bàn đầu giường. Anh mở nó ra rồi tiếp tục đo huyết áp. “Mất phản xạ... Sự căng thẳng ngày hôm nay. Tinh thần và thể chất. Anh ấy không quen với nó.”

“Anh ta nói suốt là bị mệt.”

“Tôi biết. Nhưng tôi không thường xuyên chú ý. Suỵt. Tôi phải nghe đã.” Anh ta cắm ống nghe vào tai, thổi căng chiếc vòng đo huyệt áp và từ từ xả khí. Nhìn đồng hồ. Hai cánh tay anh ta vững như đá. “Tâm trương một trăm hai mươi lăm. Mẹ kiếp.”

Lạy Chúa, Sachs nghĩ. Anh ta sẽ bị đột quỵ mất.

Thom hất đầu về phía cái túi đen. “Chị tìm một chai nifedipine. Rồi mở một cái ống rò ra.” Trong khi cô tìm kiếm, Thom tụt chiếc quần pyjama của Rhyme xuống, vơ lấy một cái ống thông tiểu cạnh giường, xé luôn cái túi nhựa đựng nó. Anh ta bôi chất K-Y vào một đầu rồi nâng cái dương v*t nhợt nhạt của Rhyme lên., nhẹ nhàng nhưng nhanh chóng nhét chiếc ống thông vào trong.

“Đây là một phần của vấn đề. Áp lực trong ruột và bang quang cơ thể gây ra đột quỵ. Hôm nay anh ấy uống nhiều hơn mức cho phép.”

Cô mở kim tiêm dưới da ra, nhưng nói: “Tôi không biết tiêm.”

“Tôi sẽ làm.” Anh ta ngẩng lên nhìn cô. “Tôi muốn nhờ cô… cô không thấy phiền khi làm việc này chứ? Tôi không muốn ống bị xoắn.”

“Được chứ. Chắc chắn rồi.”

“Cô cần găng tay không?”

Cô đi găng tay, thận trong nắm lấy dương v*t của Rhyme bằng tay trái, tay phải giữ ống. Đã rất, rất lâu rồi cô mới chạm vào chỗ đó của đàn ông. Da mềm mại và cô nghĩ thật lạ lùng khi gần như trung tâm của sự tồn tại của người đàn ông lúc nào cũng mềm như lụa.

Thom tiêm thuốc rất thành thục.

“Nào, Lincoln…”

Có tiếng còn hụ vẳng lại từ xa.

“Họ gần đến nơi rồi.” Cô nói trong khi nhìn ra ngoài cửa sổ.

“Nếu ta không làm anh ấy tỉnh lại ngay bây giờ thì họ cũng chẳng giúp được gì.”

“Phải bao lâu thuốc mới có tác dụng?”

Thom liếc nhìn Rhyme đang vô cảm, nói: “Nó phải có hiệu lực ngay bây giờ. Nhưng nếu liều cao quá anh ấy có thể bị sốc.” Viên trợ lý cúi xuống và lật mi mắt Rhyme ra. Đồng từ xanh lơ đờ đẫn, không tập trung.

“Không tốt rồi.” Anh ta lại đo huyết áp. “Một trăm năm mươi. Chúa ơi.”

“Nó giết anh ta mất”, cô nói.

“Ồ. Không vấn đề gì.”

“Cái gì?” Amelia Sachs choáng váng thì thầm.

“Anh ấy không quan tâm đến cái chết.” Anh thoáng nhìn cô như thể cô vẫn chưa hiểu ra chuyện gì. “Anh ấy chỉ không muốn bị bại liệt hơn bây giờ.” Anh chuẩn bị một mũi tiêm khác. “Có thể anh ấy đã bị rồi. Ý tôi nói là một cơn đột quỵ. Điều đó làm anh ấy hoảng sợ.”

Thom cúi người về phía trước và tiêm thêm một liều thuốc nữa.

Tiếng còi hụ đã rất gần. Cả tiếng còi xe. Xe hơi có thể chặn đường xe cấp cứu, không hề có ý định vội vã tránh đường – một đặc thù về thành phố làm cho Sachs giận giữ.

“Cô có thể lấy ống thông ra được rồi.”

Cô thận trong rút cái ống ra. “Tôi có cần...” Cô hất đầu về phía túi nước tiểu.

Thom cố nở một nụ cười yếu ớt. “Đó là việc của tôi.”

Vài phút trôi qua. Xe cứu thương có vẻ như không động đậy, nhưng rồi đột nhiên một giọng nói vang lên trong loa phóng thanh và tiếng còi hụ lại gần hơn.

Bất thình lình Rhyme động đậy. Đầu anh lắc nhẹ. Sau đó ngẩng lên cúi xuống, dựa vào gối. Tông màu đỏ rực trên da anh đã nhạt bớt.

“Lincoln, anh nghe tôi nói không?”

Anh rên rỉ: “Thom...”

Rhyme đang run rẩy dữ dội. Thom lấy chăn đắp cho anh.

Sachs thấy mình đang vuốt mái tóc rối bời của Rhyme. Cô lấy khăn thấm mồ hôi trên trán anh.

Tiếng bước chân thình thịch trên cầu thàng và hai nhân viên y tế lực lưỡng của EMS xuất hiện, tiếng bộ đàm khụt khịt. Họ chạy vội vào phòng, đo huyết áp Rhyme và kiểm tra bộ kích thích thần kinh. Một giây sau, bác sĩ Peter Taylor lao vào phòng.

“Peter”, Thom nói. “Là mất phản xạ.”

“Huyết áp.”

“Giảm rồi. Nhưng tệ lắm. Trên một trăn năm mươi.”

Ông bác sĩ nhăn mặt.

Thom giới thiệu Taylor với các nhân viên y tế của EMS. Họ có vẻ chào mừng vì đã có chuyện gia ở đây và lùi lại khi Taylor đến gần giường.

“Chào bác sĩ.” Rhyme run rẩy nói.

“Hãy kiểm tra mắt đã nào.” Taylor chiếu đền vào đồng tử Rhyme. Sachs nhìn mặt ông bác sĩ để thăm dò phản ứng và cô thấy lo lắng vì vẻ mặt nhăn nhó của ông ta.

“Không cần máy kích thích thần kinh làm gì”, Rhyme thầm thì.

“Cậu và lá phổi của cậu, đúng không?” Ông bác sĩ hỏi chế giễu. “Được rồi, cứ để nó đấy một lúc, sao lại không nhỉ? Chỉ cho tới khi ta biết chắc chuyện gì đang xảy ra.” Ông ta nhìn Sachs. “Có thể cô nên đợi dưới nhà.”

Taylor cúi xuống gần hơn và Rhyme nhận thấy những giọt mồ hôi đang lấm tấm trên đầu ông ta, dưới lớp tóc mỏng.

Ông bác sĩ khéo léo lật mi mắt và nhìn vào một đồng tử, sau đó là đồng tử còn lại. Ông ta đo huyết áp cho Rhyme, ánh mắt xa xắm vẻ tập trung cao độ của những bác sĩ trong giây phút quan trọng.

“Đang trở lại bình thường”, ông ta tuyên bố. “Nước tiểu thế nào?”

“Bảy trăm cc”, Thom nói.

Taylor quắc mắt. “Coi thường mọi thứ rồi à? Hay chỉ là uống quá nhiều?”

Rhyme quắc mắt nhìn lại: “Chúng tôi bị rối trí, thưa bác sĩ. Tối nay tôi bận quá.”

Taylor nhìn theo hướng đầu của Rhyme và đảo mắt quanh phòng, ngạc nhiên như thể ai đó đã đưa trộm thiết bị vào khi ông không nhìn. “Tất cả những thứ này là gì?”

“Họ không cho tôi nghỉ hưu nữa.”

Vẻ mặt nhăn nhó của Taylor biến thành nụ cười. “Đúng lúc đấy. Tôi đã chạy theo cậu vài tháng để bắt cậu phải làm gì đó với cuộc sống của mình. Còn tình hình bụng dạ thế nào?”

Thom nói: “Khoảng mười hai, mười bốn giờ.”

“Cậu vô tâm quá”, Taylor rầy la.

“Không phải lỗi của cậu ta”, Rhyme càu nhàu. “Cả ngày hôm nay nhà tôi có rất nhiều người.”

“Tôi không muốn nghe thanh minh”, ông bác sĩ quát lại. Đó chính là Peter Taylor, người không bao giờ nói chuyện với Rhyme qua bất kỳ ai và không bao giờ cho bệnh nhân bắt nạt ông.

“Chúng ta cần chăm sóc mọi thứ một chút.” Ông đi đôi găng tay phẫu thuật, cúi xuống thân hình Rhyme. Những ngón tay ông bắt đầu làm việc trên bụng Rhyme và bắt các cơ quan nội tạng phải làm công việc của mình. Thom nhấc chăn và lấy bỉm dùng một lần.

Một lát sau, việc đã xong và Thom vệ sinh cho ông chủ.

Taylor bất ngờ nói: “Tôi hy vọng cậu đã bỏ cái thứ vớ vẩn ấy đi rồi chứ?” Nghiên cứu Rhyme một cách kỹ lưỡng.

Cái thứ vớ vẩn ấy...

Ý ông ta là vụ tự tử. Liếc nhìn Thom, Rhyme nói: “Cũng không nghĩ đến nó được một lúc.”

“Tốt.” Taylor nhìn vào các thiết bị trên bàn. “Đây là việc mà cậu phải làm. Có thể Sở sẽ lại trả lương cho cậu đấy.”

“Tôi không nghĩ là tôi có đủ sức khỏe.”

“Đầu cậu thế nào?”

“Có thể dùng một tá cuốc chim để mô tả nó. Cổ tôi cũng thế. Bị hai lần chuột rút là rất tệ hại trong ngày hôm nay.”

Taylor đi ra sau chiếc giường Clinitron, ấn các ngón tay của ông vào hai bên cột sống của Rhyme, chỗ mà – Rhyme nghĩ, mặc dù tất nhiên là anh chưa bao giờ nhìn thấy chỗ đó – có những vết sẹo rõ ràng từ những cuộc phẫu thuật mà anh phải chịu đựng trong những năm qua. Taylor thành thục xoa bóp cho Rhyme, ấn sâu vào những sợi cơ căng cứng trên cổ và vai anh. Cơn đau từ từ biến mất.

Anh cảm thấy những ngón tay cái của bác sĩ dừng lại ở chỗ mà anh đoán là đốt xương sống bị vỡ.

Còn tàu vũ trụ, con cá đuối...

“Một ngày nào đó họ sẽ chữa được”, Taylor nói. “Một ngày nào đó, nó sẽ chẳng tệ hơn là gãy chân. Cậu nghe tôi. Tôi tiên đoán điều đó.”

Mười lăm phút sau, Peter Taylor xuống cầu thang và góp mặt với những viên cảnh sát đang đứng trên vỉa hè.

“Anh ta ổn chứ?” Amelia Sachs lo lắng hỏi.

“Huyết áp giảm rồi. Chủ yếu là cậu ta cần được nghỉ ngơi.”

Bác sĩ, một người đàn ông trông rất bình thường, chợt nhận ra rằng mình đang nói chuyện với một phụ nữ tuyệt đẹp. Ông vuốt lại mái tóc muối tiêu đang mỏng dần và phóng một cái nhìn vào thân hình yểu điệu của cô. Ánh mắt ông chuyển sang những chiếc xe đặc nhiệm đỗ trước nhà và hỏi: “Cậu ta giúp các bạn vụ nào vậy?”

Sellitto lưỡng lự, như tất cả những thám tử khác trước câu hỏi tương tự của một thường dân. Những Sachs đoán Taylor và Rhyme rất gần gũi nên cô nói: “Những vụ bắt cóc. Ông có nghe nói về chúng không?”

“Vụ tay lái xe taxi? Có trên tất cả các báo. Thế là tốt cho cậu ấy. Công việc là thứ tốt nhất có thể đến với cậu ấy. Cậu ấy cần bạn bè và cậu ấy cần mục đích.”

Thom xuất hiện bên trên cầu thang. “Anh ấy nói cám ơn, Peter. Thực ra anh ấy không nói cám ơn. Nhưng ‎ ý anh ấy thế. Ông biết anh ấy mà.”

“Với tôi thế là được”, Taylor hỏi, giọng ông ta lúc này hạ xuống, đầy toan tính. “Cậu ta còn định nói chuyện với họ nữa không?”

Và sau khi Thom nói “không”, có cái gì đó trong giọng điệu anh ta nói với Sachs là anh ta đang nói dối. Cô không biết điều đó là gì và nó có thể quan trọng đến đâu. Nhưng nó làm cô khổ sở.

Định nói chuyện với họ?

Nhưng có vẻ như Thom không lừa được Taylor. Ông ta nói: “Ngày mai tôi quay lại, xem cậu ấy thế nào.”

Thom nói anh ta đánh giá cao việc đó và Taylor khoác túi lên vai rồi đi khỏi.Viên trợ ‎l‎ý‎ ra hiệu cho Sellitto. “Anh ấy muốn nói chuyện với anh một lúc.” Viên thám tử nhanh chóng đi lên cầu thang. Anh ta biến mất vào trong phòng, sau khoảng vài phút anh ta và Thom cùng đi ra ngoài. Sellitto lúc này cũng nghiêm trang liếc nhìn cô. “Đến lượt cô đấy.” Va hất đầu về phía sau cánh cửa.

Rhyme nằm trên cái giường khổng lồ, tóc rối bù, mặt đã hết đỏ, tay không còn trắng bệch. Căn phòng bốc mùi nội tạng khắm khú. Trên giường đã có vải trải giường mới và anh đã được thay quần áo mới. Lần này là một bộ Pyjama màu xanh lá như bộ véc của Dellray.

“Đây là bộ pyjama màu xấu xí nhất mà tôi từng nhìn thấy”, cô nói. “Vợ cũ của anh mua đấy à?”

“Làm thế nào cô đoán ra? Quà tặng kỷ niệm ngày cưới. Xin lỗi vì đã làm cô sợ.” Anh ta nói, không nhìn vào cô. Anh ta bỗng có vẻ ngại ngùng và điều này làm cô khó chịu. Cô nghĩ đến cha mình trong phòng tiền phẫu thuật ở viện Sloan-Kettering trước khi họ đưa ông vào một cuộc phẫu thuật mang tính thăm dò mà sau đó ông không bao giờ tỉnh lại.

“Xin lỗi?” Câu hỏi của cô thật đáng sợ. “Đừng làm trò khỉ ấy nữa, Rhyme.”

Anh ngắm nhìn cô khoảng một phút rồi nói: “Hai người sẽ ổn thôi.”

“Hai chúng tôi?”

“Cô và Lon. Tất nhiên là cả Mel nữa. Và Jim Polling.”

“Ý anh là gì?”

“Tôi rút lui.”

“Anh cái gì?”

“Quá nặng nề đối với một hệ thống cũ kỹ. Tôi sợ là như thế.”

“Nhưng anh không thể rút lui dược.” Cô vẫy tay về phía tấm áp phích Monet. “Hãy nhìn tất cả những thứ mà chúng ta tìm được về 823. Chúng ta gần hắn lắm rồi.”

“Thề thì các bạn càng không cần đến tôi nữa. Tất cả những gì các bạn cần là một chút may mắn.”

“May mắn? Phải mất mười mấy năm mới tóm được Bandy. Còn tên giết người Zodiac thì sao? Còn Người Sói?”

“Chúng ta có thông tin tốt. Thông tin chắc chắn. Cô sẽ tìm được những manh mối tốt. Cô sẽ tóm được hắn, Sachs. Thiên thần may mắn của cô sẽ cất tiếng trước khi họ đưa cô sang Phòng Quan Hệ Công chúng. Tôi có cảm giác Đối tượng 823 đang trở nên tự mãn; thậm chí hắn có thể bị tóm ngay ở nhà thờ.”

“Trông anh ổn lắm”, một lát sau cô nói. Mặc dù trông anh ta không hề ổn t‎‎‎í nào.

Rhyme cười. Sau đó nụ cười nhạt đần. “Tôi rất mệt. Và đau. Quỷ thật, tôi nghĩ là tôi thấy đau ở những chỗ mà bác sĩ bảo tôi không thể cảm thấy đau.”

“Làm như tôi nói đi. Ngủ một lúc.”

Anh cố tạo ra một nụ cười nhạo báng nhưng giọng anh rất yếu. Cô ghét phải nhìn thấy anh như thế. Anh ho nhẹ, nhìn xuống cái máy kích thích thần kinh, nhăn mặt như thể anh cảm thấy ngượng ngùng vì mình phải phụ thuộc vào máy móc. “Sachs,… tôi không nghĩ là chúng ta sẽ tiếp tục làm việc cùng nhau. Tôi chỉ muốn nói rằng trước mắt cô là sự nghiệp sáng lạng, cô có những lựa chọn đúng đắn.”

“Được rồi, tôi sẽ quay lại và gặp anh sau khi đá đít hắn.”

“Tôi cũng muốn thế. Tôi rất mừng vì hôm qua sĩ quan đầu tiên lại là cô. Tôi không muốn đan lưới cùng ai khác. "

“Tôi…”

“Lincoln”, một giọng nói vang lên. Cô quay lại và nhìn thấy một người đàn ông đang đứng ngoài cửa, Ông ta tò mò nhìn quanh phòng, để ‎ ý đến tất cả các loại thiết bị.

“Ở đây trông có vẻ phấn khích quá nhỉ?”

“Chào bác sĩ”, Rhyme nói. Mặt anh ta tươi lên thành một nụ cười. “Làm ơn, vào nhà đi.”

“Bác sĩ William Berger, còn đây là Amelia Sachs.”

Nhưng Sachs có thể thấy cô không còn tồn tại trong vũ trụ của Lincoln Rhyme nữa. Tất cả những gì còn lại cần được nói – và cô cảm thấy có điều gì đó, rất nhiều điều – phải đợi. Cô đi ra cửa. Thom, đang đứng ở hành lang bên ngoài, đóng cửa sau lưng cô, và luôn đúng mực, ngừng lại gật đầu để cô đi trước anh ta.

Khi Sahcs bước vào màn đêm nóng bức, cô nghe thấy một giọng nói gần đó. “Xin lỗi.”

Cô quay lại và thấy bác sĩ Peter Taylor đứng một mình dưới gốc cây bạch quả. “Tôi nói chuyện với cô một phút, được không?”

Sachs đi theo Taylor lên vỉa hè cách đó mấy nhà.

“Vâng?” Cô hỏi. Ông ta dựa vào bức tường đá và lại vô thức vuốt tóc. Sachs nhớ lại không biết bao nhiêu lần cô đã dọa nạt được những người đàn ông chỉ bằng một lời nói hay cái liếc mắt. Cô nghĩ, ‎ ý nghĩ thường xuyên đến với cô: Quyền lực của sắc đẹp mới vô dụng làm sao.

“Cô là bạn cậu ấy, đúng không?” Ông bác sĩ hỏi cô. “Ý tôi là cô làm việc với cậu ấy nhưng cô cũng là bạn cậu ấy chứ.”

“Chắc rồi. Tôi đoán thế.”

“Người đàn ông vừa vào nhà. Cô biết ông ta là ai không?”

“Tôi nghĩ là Berger. Ông ta là bác sĩ.”

“Ông ta có nói ông ta đến từ đâu không?”

“Không.”

Taylor ngẩng nhìn cửa số phòng ngủ của Rhyme trong một khắc. Ông hỏi: “Cô có biết Hội Bến mê không?”

“Không, ồ, đợi đã… đó là nhóm ủng hộ chết theo yêu cầu, đúng không?”

Taylor gật đầu. “Tôi biết tất cả bác sĩ của Lincoln. Và tôi lại chưa bao giờ nghe nói đến Berger. Tôi vừa nghĩ không biết ông ta có phải là một trong số họ không?”

“Cái gì?”

Anh ta vẫn nói chuyện với họ…

Như vậy họ nói về chuyện ấy.

Cô có cảm giác mình trong trạng thái không trọng lượng vì bị sốc. “Anh ấy có… trước đây anh ấy có nói nghiêm túc về chuyện này không?”

“Ồ, có chứ.” Taylor thở dài, nhìn lên bầu trời đêm mờ sương. “Có chứ.” Rồi ông nhìn vào tấm thẻ ghi tên của cô. “Sĩ quan Sachs, tôi đã nói chuyện hàng giờ, thuyết phục cậu ta từ bỏ ‎ý định ấy. Hằng ngày. Nhưng tôi cũng đã làm việc với những bệnh nhân bại liệt nhiều năm và tôi biết họ bướng bỉnh thế nào. Có thể cậu ta sẽ nghe cô. Chỉ vài lời thôi… Tôi đang nghĩ… Cô làm được không?...”

“Ồ, quỷ tha ma bắt, Rhyme”, cô lẩm bẩm, bắt đầu rời vỉa hè và chạy, không để ông bác sĩ nói hết câu.

Cô đã ở cổng ngôi nhà đúng lúc Thom định đóng cửa. Cô đẩy cửa, đi ngang qua anh ta. “Tôi quên cuốn nhật k‎ý tuần tra.”

“Của cô?...”

“Tôi quay lại ngay.”

“Cô không thể lên trên đó. Anh ấy đang có bác sĩ.”

“Tôi chỉ cần một giây thôi.”

Cô đã ở cầu thang, trước khi Thom đuổi theo.

Chắc anh ta biết đó là trò nói dối nên đã bước hai bậc một. Nhưng cô đã vượt trước và đẩy tung cửa phòng Rhyme trước khi người trợ lý leo hết các bậc cầu thang.

Cô bước vào trong, làm cả Rhyme và ông bác sĩ giật mình. Ông ta đang đứng dựa lưng vào bàn, khoanh tay trước ngực. Cô đóng rồi khóa cửa. Thom bắt đầu đập cửa. Berger quay lại phía cô với một nét nhăn nhó, tò mò trên mặt.

“Sachs”, Rhyme buột miệng.

“Tôi phải nói chuyện với anh.”

“Về cái gì?”

“Về anh.”

“Để sau.”

“Để sau là bao lâu, Rhyme?” Cô mỉa mai hỏi. “Ngày mai? Tuần sau?”

“Ý cô là gì?”

“Anh muốn tôi sắp xếp lịch hẹn, một tuần sau từ thứ Tư? Liệu anh có làm được không? Anh có còn đó nữa không?”

“Sachs…”

“Tôi muốn nói chuyện với anh. Một mình.”

“Không.”

“Thế thì chúng ta sẽ dùng biện pháp mạnh.” Cô bước tới chỗ Berger, “Ông đã bị bắt. Vì tội âm mưa giết người có trợ giúp.” Chiếc còng tay sáng loáng lên. Cách, cách, luông sáng bạc siết chặt cổ tay ông ta.

Cô đoán đây là một nhà thờ.

Carole Ganz nằm trên nềm nhà dưới tầng hầm. Một tia sáng lạnh lẽo xiên chéo trên tường, chiếu sáng một bức hình Chúa Jesus bầu bĩnh và một chồng truyện Sách Vàng Kinh Thánh mốc meo. Một nửa tá ghế nhỏ xinh – cho học sinh ngoại khóa ngày Chủ nhật, cô đoán – được đặt giữa phòng.

Chiếc còng và miếng băng dính dán miệng vẫn ở nguyên chỗ cũ. Hắn còn buộc cô vào đường ống gần tường bằng một sợi dây phơi dài khoảng bốn feet.

Trên cái bàn cao gần đó, cô có thể nhìn thấy đỉnh của một chiếc bình thủy tinh lớn.

Nếu làm nó rơi xuống, cô có thể dùng mảnh thủy tinh cắt sợi dây phơi. Cái bàn có vẻ nằm ngoài tầm với nhưng cô lật nghiêng ngừoi và bắt đầu bò như một con sâu về phía nó.

Điều này làm cô nhớ tới Pammy lúc còn nhỏ, nó xoay vòng trên giường, giữa cô và Ron; cô nghĩ tới con gái, một mình trong tầng hầm kinh khủng và bật khóc.

Pammy, gấu Pooh, ví.

Trong một giây, một giây ngắn ngủi, cô thấy mình yếu đuối. Cô ước gì mình chưa bao giờ rời Chicago.

Không, không được nghĩ thế nữa! Đừng tiếc nuối cho chính mình! Đó là một việc hoàn toàn đáng làm. Mày làm thế vì Ron. Và cho cả bản thân mày nữa. Anh sẽ tự hào vì mày. Kate đã nói với cô như vậy hàng nghìn lần. Và cô tin.

Cố thêm một lần nữa. Cô dịch chân tới gần bàn hơn.

Lảo đảo, không thể nào suy nghĩ chính xác được.

Cổ họng cô rát bỏng vì khát. Vì bụi và mốc trong không khí.

Cô bò ra xa hơn một chút, sau đó lật nghiêng, cố lấy hơi, nhìn lên trên bàn. Trông có vẻ vô vọng. Có ích gì chứ? Cô nghĩ.

Không hiểu Pammy nghĩ gì.

Thằng khốn! Carole nghĩ. Vì thế tao sẽ giết mày.

Cô vặn vẹo, cố dịch xa hơn trên nền nhà. Nhưng thay vào đó, cô mất thăng bằng và ngã ngửa. Cô thở hổn hển, cô biết điều gì sắp đến! Không! Cổ tay bị gãy của cô phát ra một tiếng kêu lớn. Cô gào lên qua lớp băng dính. Ngất đi. Khi tỉnh lại, cơn buồn nôn xâm chiếm lấy cô.

Không, không, không… Nếu nôn cô sẽ chết. Với miếng băng dính trên miệng, sẽ là kết thúc.

Nén nó xuống. Nén nó xuống. Nào. Mày làm được. Đây rồi… cô nôn khan một lần. Lần nữa.

Không được! Kiểm soát nó.

Trào lên họng.

Kiểm soát…

Kiểm soát nó…

Rồi cô cũng làm được. Thở bằng mũi, cô tập trung tư tưởng vào Kate, Eddie và Pammy, cái ba lô màu vàng đựng tất cả tài sản quý giá của cô. Nhìn thấy nó, chụp ảnh nó dưới mọi góc độ. Cả cuộc sống của cô nằm trong nó. Cuộc sống mới của cô.

Ron, em không muốn làm hỏng chuyện này. Em đến đây vì anh, anh yêu…

Cô nhắm mắt. Nghĩ: Thở sâu. Hít vào, thở ra.

Cuối cùng thì cơn buồn nôn cũng qua đi. Một lát sau, cô thấy khá hơn và mặc dù cô đang khóc lóc vì cơn đau nơi cổ tay bị gãy, nhưng cô vẫn cố gắng vặn vẹo để bò được tới chỗ cái bàn. Một foot. Hai.

Cô cảm thấy đỉnh đầu và vào chân bàn. Cô mới chỉ bám được vào nó và không thể di chuyển xa hơn được nữa. Cô ngửa đầu lấy đà, đập mạnh vào chân bàn vài lần. Cô nghe tiếng cái bình đổ khi bị xê dịch trên mặt bàn. Cô nhìn lên.

Một phần của cái bình thò ra ngoài mặt bàn. Carole ngửa đầu và đập vào chân bàn lần cuối.

Không! Cô đã đẩy chân bàn ra ngoài tầm với. Cái bình nghiêng đi một chút nhưng rồi lại đứng thẳng. Carole co người, cố gắng làm chùng sợi dây phơi nhưng không thể.

Mẹ kiếp. Ôi mẹ kiếp! Khi tuyệt vọng ngẩng đầu lên nhìn cái bình bẩn thỉu, cô nhận ra rằng nó đựng đầy chất lỏng và thứ gì đó trôi nổi bên trong. Cái gì thế nhỉ?

Cô bò lùi về phía tường một, hai feet và nhìn lên.

Thứ bên trong trông giống cái bóng điện. Không, không phải là cả cái bóng điện mà chỉ có dây tóc và đế, được xoắn vào đui đèn. Một sợi dây dẫn chạy từ đui đèn ra khỏi cái bình đến một trong những cái đồng hồ định giờ mà ta hay dùng để tắt bật đèn khi đi nghỉ. Nó trông giống như…

Một quả bom! Giờ thì cô đã nhận ra mùi xăng thoang thoảng.

Không, không…

Carole bắt đầu lăn lộn tránh xa cái bàn nhanh hết mức có thể, nghẹn ngào vì tuyệt vọng. Cạnh tường có một tủ hồ sơ. Nó sẽ bảo vệ cho cô. Cô giơ hai chân lên cao sau khi cảm thấy một cơn hoảng loạn lạnh người và vội vàng gỡ chúng ra. Cử động này làm cô mất thăng bằng. Cô kinh hoàng nhận ra rằng mình bị lật ngửa thêm một lần nữa. Ồ, dừng lại. Đừng… Cô cố gắng bình tĩnh, hoàn toàn bất động một lúc lâu, run rẩy trong lúc cố gắng dồn trọng lượng cơ thể về phía trước. Nhưng sau đó cô tiếp tục lăn, ngã đèn lên cánh tay bị còng, cổ tay gãy của cô chịu sức nặng của toàn cơ thể. Có một thoáng đau đớn cùng cực, và ơn phước, cô lại ngất đi lần nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


“Không đời nào, Rhyme. Anh không thể làm thế.”

Berger lo lắng quan sát. Rhyme cho rằng trong công việc của mình, ông ta đã từng nhìn thấy rất nhiều cảnh tượng điên rồ xảy ra vào những lúc như thế này. Vấn đề lớn nhất của Berger không phải là những người muốn chết, mà là những người muốn tất cả những người còn lại phải sống.

Thom đập cửa.

“Thom”, Rhyme gọi. “Được rồi. Cậu cứ để chúng tôi một mình.” Sau đó nói với Sachs. “Chúng ta đã nói lời chia tay rồi mà. Tôi và cô. Còn đây là một cách tồi tệ để phá hỏng một sự ra đi hoàn mỹ.”

“Anh không thể làm thế.”

Ai là người thổi còi? Có thể là Peter Taylor. Ông bác sĩ này chắc đã đoán được anh và Thom nói dối.

Rhyme nhìn thấy ánh mặt cô lướt qua ba đồ vật trên bàn. Những thứ quà tặng của Magi: rượu cô nhắc, những viên thuốc và cái túi nhựa. Có thêm sợi dây cao su giống như những sợi dây Sachs dùng buộc giày. (Đã bao nhiêu lần anh từ hiện trường vụ án về nhà và thấy Blaine nhìn chăm chăm vào những sợi dây buộc giày chồng mình, và hoảng sợ? “Mọi người sẽ nghĩ rằng chồng em không có tiền mua giày mới. Anh ấy phải lấy dây chun buộc để đế giày không bị rơi ra. Thật đấy, Lincoln!).

“Sachs, tháo còng cho bác sĩ đây. Và lần cuối cùng, tôi mời cô ra khỏi nhà.”

Cô cười lên một tiếng. “Tôi xin lỗi. Đây là một hành vi phạm pháp ở Thành phố New York. Công tố viên quận có thể biến nó thành tội giết người nếu ông ấy muốn thế.”

Berger nói: “Tôi chỉ nói chuyện bình thường với bệnh nhân.”

“Đó là lý do vì sao tôi danh chỉ là âm mưu giết người. Cho tới lúc này. Có thể chúng tôi sẽ đưa tên và dấu tay của anh qua NCIC. Để xem chúng tôi tìm được gì.”

“Lincoln”, Berger nói nhanh, vẻ lo lắng. “Tôi không thể…”

“Chúng tôi sẽ giải quyết việc này”, Rhyme nói. “Sachs, làm ơn đi.”

Đứng giạng chân, hai tay chống nạnh, khuôn mặt lộng lẫy của cô đầy vẻ độc đoán. “Đi thôi”, cô quát viên bác sĩ.

“Sachs, cô không biết điều này quan trọng đến thế nào đâu.”

“Tôi sẽ không cho phép anh tự giết chết mình.”

“Cho phép tôi?” Rhyme vặc lại. “Cho phép tôi? Chính xác là vì sao tôi lại cần đến sự cho phép của cô?”

Berger nói: “Này cô,… sĩ quan Sachs, đấy là quyết định của anh ấy và quyết định này hoàn toàn có ý thức. Lincoln là người hiểu biết hơn tất cả những bệnh nhân tôi đã từng xử lý.”

“Bệnh nhân? Ý ông là nạn nhân?”

“Sachs!” Rhyme buột miệng, cố gắng giấu sự tuyệt vọng trong giọng nói. “Mất cả năm tôi mới tìm được người trợ giúp đấy, cô biết không?”

“Có thể vì điều đó không đúng. Đã bao giờ anh nghĩ thế chưa? Sao lại là bây giờ, Rhyme? Ngay giữa vụ án?”

“Nếu tôi lên cơn một lần nữa và bị đột quỵ. Tôi có thể mất toàn bộ khả năng giao tiếp. Tôi có thể có ý thức trong bốn mươi năm nữa nhưng không thể cử động. Và nếu tôi chưa bị tê liệt não, sẽ chẳng có một ai trong cả vũ trụ chịu rút phích cắm. Ít nhất là lúc này, tôi vẫn còn có thể truyền đạt quyết định của mình.”

“Nhưng tại sao?” Cô buột miệng.

“Sao lại không?” Rhyme trả lời. “Nói tôi nghe. Sao lại không?”

“Được rồi…” Có vẻ như đối với cô những luận chứng chống lại việc tự sát quá rõ ràng tới mức cô cảm thấy khó mà nói được thành lời. “Là vì…”

“Vì sao, Sachs?”

“Thứ nhất, vì hèn nhát.”

Rhyme cười. “Cô có muốn tranh luận không, Sachs? Muốn không? Được rồi. Hèn nhát là điều cô nói. Điều đó dẫn ta đến với ngài Thomas Browne: Khi cuộc sống kinh khủng hơn cái chết, những người dũng cảm nhất sẽ sống. Can đảm đối mặt với muôn vàn khó khăn… Một luận cứ cổ điển ủng hộ sự sống. Nhưng nếu điều đó đúng thì tại sao lại đánh thuốc mê bệnh nhân khi phẫu thuật? Bán aspirin để làm gì? Sao lại phải bó bột cánh tay bị gãy? Hà cớ gì mà Prozac lại là loại thuốc được kê nhiều nhất ở Mỹ? Xin lỗi, nhưng đau đớn chẳng có gì là tốt đẹp cả.

“Nhưng anh không đau đớn.”

“Cô định nghĩa thế nào là đau đớn, Sachs? Không có cảm giác cũng có thể là đau đớn chứ.”

“Anh có thể cống hiến rất nhiều. Hãy xem anh biết những gì. Mọi thứ về pháp y, mọi thứ về lịch sử.”

“Luận cứ cống hiến xã hội. Một luận cứ phổ biến.” Anh liếc nhìn Berger nhưng viên bác sĩ giữ im lặng. Rhyme thấy ông ta tập trung sự quan tâm vào khúc xương trên bàn – một chiếc đĩa bạc thếch từ một đốt sống. Ông ta nhặt nó lên, xoa vuốt nó bằng đôi bàn tay bị còng của mình. Ông ta từng là bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình, Rhyme nhớ lại.

Anh tiếp tục nói với Sachs: “Nhưng ai nói là chúng ta bắt buộc phải cống hiến gì đó cho cuộc đời? Ngoài ra, kết cuộc có thể là tôi đóng góp điều gì đó không tốt. Tôi cũng có thể gây tác hại nữa chứ. Cho bản thân tôi hay cho ai đó.”

“Nhưng cuộc sống là thế.”

Rhyme cười. “Nhưng tôi chọn cái chết, không phải cuộc sống.”

Sachs trông không thoải mái khi cô phải vắt óc suy nghĩ. “Chỉ có điều… cái chết không tự nhiên. Cuộc sống thì có.”

“Không? Freud sẽ không đồng ý với cô. Ông ta đã từ bỏ nguyên tắc khoái lạc và bắt đầu cảm thấy còn có một sức mạnh khác – sự hung dữ phi tình dục bản năng, đó là cách mà ông ta gọi nó. Làm việc để tháo gỡ nhưng kết nối mà chúng ta tạo dựng trong cuộc sống. Sự phá hoại của chính chúng ta là một sức mạnh thiên nhiên hoàn hảo. Mọi thứ đều chết; còn gì để tự nhiên hơn điều đó?”

Một lần nữa cô lại phải động não.

“Được rồi”, cô nói. “Cuộc sống đối với anh thách thức hơn với nhiều người khác. Nhưng tôi nghĩ… mọi thứ mà tôi nhìn thấy ở anh nói với tôi rằng anh là một người thích thác thức.”

“Thách thức? Để tôi nói cô nghe về thách thức. Tôi nằm với ống thông phổi trong suốt một năm. Cô có nhìn thấy vết sẹo mở khí quản này trên cổ tôi không? Rồi nhờ các bài tập thở áp suất dương – và với sức mạnh ý chí vĩ đại nhất mà tôi có thể có – tôi đã thoát ra được cái máy đó. Trên thực tế, tôi có lá phổi hoàn toàn bình thường. Chúng khỏe như phổi của cô. Đối với một người tàn tật C4, đó là trường hợp điển hình, Sachs ạ. Điều nay tiêu tốn của tôi tám tháng cuộc đời. Cô có hiểu tôi nói gì không? Tám tháng chỉ để xử lý một chức năng động vật rất cơ bản. Tôi không nói đến việc vẽ Nhà thờ Sistine hay chơi violin. Tôi chỉ mới nói về sự hít thở chết tiệt ấy thôi.”

“Nhưng anh có thể khá hơn. Năm tới, họ có thể tìm ra cách chữa.”

“Không. Không phải năm sau. Không phải mười năm nữa.”

“Anh không biết việc đó. Chắc chắn là họ đang nghiên cứu.”

“Chắc chắn là như thế. Cô có muốn biết không? Tôi là một chuyên gia. Cấy mô thần kinh bào thai vào mô hỏng để thúc đẩy việc tái tạo theo trục.” Những ngôn từ đó phát ra một cách dễ dàng từ đôi môi thật đẹp của anh ta. “Không có hiệu quả đáng kể. Một vài bác sĩ sử dụng phương pháp hóa học tại vùng bị ảnh hưởng để tạo ra những loài cấp cao. Những dạng thức thấp của sự sống cho thấy kết quả khá tốt. Nếu là một con ếch thì lúc này chắc tôi đã đi lại được. Thôi được, hy vọng là thế.”

“Như vậy là vãn có người nghiên cứu chuyện đó?” Sachs hỏi.

“Tất nhiên rồi. Nhưng không ai trông đợi có bước đột phá trong khoảng hai mươi hay ba mươi năm.”

“Nếu họ đã trông đợi”, cô đối đáp, “thì khi đó sẽ chẳng còn là đột phá nữa, đúng thế không?”

Rhyme cười. Cô ấy giỏi thật.

Sachs hất lọn tóc đỏ khỏi mắt và nói: “Sự nghiệp của anh là thực thi pháp luật, nhớ chứ. Tự tử là bất hợp pháp.”

“Đó còn là tội lỗi nữa”, anh đáp lời. “Những người da đỏ Dakota tin rằng hồn ma của những kẻ tự tử bị kéo lê mãi mãi xung quanh cái cây mà họ tự treo cổ. Nhưng điều này có dừng được việc tự tử không? Không. Họ chỉ dùng những cái cây bé hơn.”

“Biết không, Rhyme. Đây là luận cứ cuối cùng của tôi.” Cô hất đầu về phía Berger, và nắm lấy sợi xích còng. “Tôi mượn và đăng ký ông ta. Phản biện lại nó đi.”

“Lincoln”, Berger căng thẳng nói, mắt ông ta hoảng loạn.

Sachs nắm vai ông bác sĩ và dẫn ông ta ra cửa. “Đừng. Đừng làm thế.” Ông ta nói.

Nhưng Sachs đã mở cửa và Rhyme gọi với ra: “Sachs, trước khi cô làm thế, trả lời tôi mấy câu.”

Cô dừng lại. Một tay để trên tay nắm cửa.

“Một câu hỏi.”

Cô quay lại.

“Cô đã bao giờ muốn làm thế chưa? Tự tử?”

Cô mở khóa cửa với một tiếng tách lớn.

Anh nói: “Trả lời tôi đi!”

Sachs không mở cửa. Cô đứng quay lưng lại phía anh. “Không. Không bao giờ.”

“Cô có hạnh phúc với cuộc sống của mình không?”

“Giống như những người khác thôi.”

“Cô có bao giờ bị trầm cảm không?”

“Tôi không nói thế. Tôi nói tôi chưa bao giờ muốn tự tử.”

“Cô có nói với tôi là cô thích lái xe. Những người thích lái xe thường thích lái xe nhanh. Cô cũng thế, đúng không?”

“Đúng thế, đôi khi.”

“Tốc độ nhanh nhất của cô là bao nhiêu?”

“Tôi không biết.”

“Trên tám mươi?”

Một nụ cười không đồng tình. “Đúng.”

“Trên một trăm?”

Cô chỉ ngón tay cái lên trên.

“Một trăm mười? Một trăm hai mươi?” Anh hỏi, cười vì quá ngạc nhiên.

“Đã có lần lên một trăm sáu mươi tám.”

“Trời ơi, Sachs. Cô thật là ấn tượng. Được rồi, lái xe nhanh như thể thì cô có nghĩ là có thể, chỉ có thể thôi, sẽ có chuyện gì đó xảy ra? Tay đòn hay trục xe có thể gãy, lốp có thể nổ, một vết dầu trên đường?”

“Cũng khá an toàn. Tôi không điên.”

“Khá an toàn. Nhưng lúc lái xe nhanh như lái máy bay cỡ nhỏ thì cũng không an toàn tuyệt đối. Đúng không?”

“Anh đang mớm cung đấy.”

“Không, tôi không mớm cung. Theo ý kiến của tôi nhé. Cô lái xe nhanh thì cô phải chấp nhận rằng cô có thể gặp tai nạn và chết, đúng không?”

“Có thể”, cô nhượng bộ.

Berger, tay bị còng phía trước, sốt ruột theo dõi, tay vẫn mân mê chiếc đĩa xương sống màu vàng nhạt.

“Như vậy, cô cũng đến rất gần giới hạn đó rồi, đúng không? À, cô biết tôi nói về điều gì rồi chứ. Tôi biết là cô hiểu – ranh giới giữa nguy cơ tử vong và chắc chắn tử vong. Thấy không, Sachs, nếu cô đem cái chết theo mình thì rất dễ bước qua ranh giới đó. Một bước ngắn là đến với chúng.”

Cô cúi đầu, khuôn mặt cô trở nên bất động khi mái tóc che lấp đôi mắt của cô.

“Bỏ qua người đã chết”, anh thầm thì, cầu mong cô đừng đem Berger đi, biết rằng anh đã tới rất gần để đẩy cô vượt qua ranh giới. “Tôi nói đến chuyện rất nhạy cảm. Cô muốn theo người chết đến đâu? Hơn một chút, Sachs ạ. Nhiều hơn một chút rất nhiều.”

Cô chần chừ. Anh biết anh đã đến rất gần trái tim cô.

Cô giận dữ quay lại phía Berger, nắm lấy sợi dây còng. “Đi thôi.” Đẩy ông ta ra cửa.

Rhyme gọi theo: “Cô biết tôi nói gì, đúng không?”

Cô dừng lại lần nữa.

“Đôi khi… sự việc xảy ra, Sachs ạ. Đôi khi cô không thể trở thành người mà cô phải trở thành, cô không thể có thứ mà cô phải có. Và cuộc sống luôn thay đổi. Có thể chỉ một chút, có thể là rất nhiều. Và đến một lúc nào đó, không còn đáng để tiếp tục chiến đầu, sửa những sai lầm.”

Anh nhìn họ đứng đó, bất động ở ô cửa. Căn phòng im lặng một cách đáng sợ. Cô quay lại và nhìn anh.

“Cái chết chữa lành sự cô đơn”, Rhyme tiếp tục. “Nó chữa khỏi chứng căng cơ. Chữa khỏi những cơn ngứa.” Giống như trước đó cô nhìn chân anh, lúc này anh liếc nhanh những ngón tay nát nhừ của cô.

Cô thả tay khỏi chiếc còng của Berger và đi về phía cửa sổ. Những giọt lệ trên má cô lấp lánh trong ánh sáng vàng ngoài phố.

“Sachs, tôi thấy mệt mỏi”, anh nói một cách chân thành. “Tôi không thể nói với cô là tôi mệt mỏi đến thế nào. Cô biết cuộc sống khó nhọc như thế nào khi bắt đầu với. Hàng núi gánh nặng. Rửa ráy, ăn uống, bài tiết, gọi điện thoại, cài cúc áo, gãi mũi… Rồi thì hàng nghìn thứ khác. Và sau đó nữa.”

Anh im lặng. Sau một lúc lâu, cô nói: “Chúng ta sẽ thỏa thuận.”

“Gì thế?”

Cô hất đầu về phía tấm áp phích. “823 đang giữ người mẹ và đứa bé… Giúp chúng tôi cứu họ. Chỉ họ thôi. Nếu anh đồng ý, tôi sẽ cho ông ta một giờ để nói chuyện riêng với anh.” Cô liếc nhìn Berger. “Với điều kiện sau đó ông ta phải biến khỏi thành phố.”

Rhyme lắc đầu. “Sachs, nếu tôi bị đột quỵ, nếu tôi không còn giao tiếp được nữa…”

“Nếu điều đó xảy ra”, cô nói đều đều, “nếu anh không còn nói được một lời, thỏa thuận của chúng ta vẫn còn nguyên giá trị. Tôi sẽ bảo đảm để các anh có một giờ đồng hồ với nhau”. Cô lại khoanh tay, đứng giạng chân, một hình ảnh yêu thích về Amelia Sachs đối với Rhyme. Anh ước anh có thể nhìn thấy cô ở đường tàu sáng nay, lúc chặn đoàn tàu. Cô nói: “Đó là điều tốt nhất tôi sẽ làm.”

Một khoảnh khắc trôi qua. Rhyme gật đầu. “Được rồi. Thỏa thuận.” Anh nói với Berger: “Thứ Hai?”

“Được rồi, Lincoln. Cũng được.” Berger, vẫn còn đang run rẩy, cảnh giác nhìn Sachs khi cô mở còng. Có vẻ như ông ta sợ cô sẽ đổi ý. Khi được tự do, ông ta nhanh chóng đi ra cửa. Rồi nhận ra rằng mình vẫn đang cầm mẩu xương đốt sống, ông ta quay lại và đặt nó – gần như cung kính – bên cạnh báo cáo hiện trường vụ án giết người đầu tiên buổi sáng hôm nay.

“Sướng như lợn vầy bùn”, Sachs nhận xét, thả người xuống chiếc ghế mây kêu răng rắc. Đó là Sellitto và Polling, sau khi cô nói với họ rằng Rhyme đã đồng ý với vụ này thêm một ngày nữa.

“Đặc biệt là Polling”, cô nói. “Tôi nghĩ anh chàng nhỏ bé này sẽ ôm lấy tôi. Đừng nói với anh ta là tôi gọi anh ta như thế. Anh cảm thấy thế nào? Trông anh khá hơn đấy.” Cô nhấp một ngụm whisky và đặt trả chiếc cốc vào cái bàn cạnh giường, bên cạnh tủ của Rhyme.

“Không tệ.”

Thom đang thay ga giường. “Anh đổ mồ hôi như tắm”, cậu ta nói.

“Nhưng chỉ bên trên cổ”, Rhyme nói. “Ý tôi là đổ mồ hôi.”

“Đúng thế à?” Sachs hỏi.

“Đúng thế. Như thế đấy. Nhiệt kế phía dưới đã nổ. Tôi không bao giờ phải dùng đến nước hoa cho tứ trụ.”

“Trụ?”

“Các chỗ lõm”, Rhyme cằn nhằn. “Nách. Viên trợ lý thứ nhất của tôi không bao giờ nói nách. Anh ta nói: ‘Lincoln, tôi sẽ cầm trụ nhấc anh lên.’ À, và: ‘Nếu anh muốn nôn, thì cứ thoải mái đi, Lincoln.’ Anh ta tự gọi mình là ‘săn sóc viên’. Anh ta viết cả từ này vào lý lịch. Tôi không hiểu vì sao tôi lại thuê anh ta. Chúng tôi rất mê tín, Sachs ạ. Chúng tôi nghĩ rằng gọi thứ gì đó bằng một cái tên khác có thể làm nó thay đổi. Tội phạm. Thủ phạm. Nhưng người trợ lý đó, anh ta chỉ là một ý tá bị ngập trong phân đến tận nách. Đúng không, Thom? Chẳng có gì phải ngượng ngùng. Đó là một nghề cao thượng. Hỗn loạn nhưng cao thượng.”

“Tôi lớn nhanh trong sự hỗn loạn. Vì thế mà tôi làm việc cho anh.”

“Cậu là gì? Trợ lý hay săn sóc viên?”

“Tôi là một vị thánh.”

“Ha, đối đáp rất nhanh. Tiêm cũng rất nhanh. Cậu ta đem tôi trở về từ cõi chết. Hơn một lần rồi.”

Rhyme đột nhiên hoảng sợ, anh lo rằng Sachs đã nhìn thấy anh trần truồng. Mắt chăm chú nhìn vào hồ sơ thủ phạm, anh hỏi: “Nói xem tôi có nợ cô một lời xin lỗi nào không, Sachs? Cô có đóng vai Clara Barton[123] không đấy?” Anh căng thẳng chờ câu trả lời của cô, không biết là anh còn có thể nhìn nữa không nếu cô đã trông thấy.

“Không”, Thom trả lời. “Một mình tôi cứu anh. Không muốn bất cứ linh hồn nhạy cảm nào bị tổn thương bởi đôi mông xập xệ của anh.”

Cảm ơn Thom, anh nghĩ. Sau đó quát: “Giờ thì biến đi. Chúng tôi phải bàn về vụ án, Sachs và tôi.”

“Anh cần phải ngủ một chút.”

“Tất nhiên là tôi cần. Nhưng chúng tôi vẫn phải bàn về vụ này. Chúc ngủ ngon, chúc cậu ngủ ngon.”

Sau khi Thom ra về, Sachs rót một ly Macallan. Cô cúi đầu ngửi mùi rượu hơi oi khói.

“Ai tiết lộ?” Rhyme hỏi. “Peter?”

“Ai?” Cô hỏi.

“Bác sĩ Taylor, người của SCI.”

Cô cố tỏ ra chần chừ để anh biết đó chính là Taylor. Cuối cùng cô nói: “Ông ấy rất quan tâm đến anh.”

“Tất nhiên là ông ta quan tâm. Đó là vấn đề… Tôi muốn ông ta quan tâm ít đi một chút. Ông ta có biết về Berger không?”

“Ông ấy nghi ngờ.”

Rhyme nhăn mặt. “Nghe này, nói với ông ta Berger chỉ là một người bạn cũ. Ông ta… Sao?”

Sachs chậm rãi thở ra, như thể thổi khói thuốc từ đôi môi mọng của cô. “Anh không chỉ muốn tôi để anh tự tử mà anh còn muốn tôi nói dối với người có thể thuyết phục anh đừng làm việc đó.”

“Ông ấy không thuyết phục được tôi đâu”, Rhyme đáp lời.

“Thế thì sao anh muốn tôi nói dối?”

Anh cười. “Cứ để bác sĩ Taylor hoàn toàn không biết gì trong vài ngày nữa.”

“Được rồi”, cô nói. “Lạy Chúa, anh là người rất khó xử lý đấy.”

Anh nhìn cô thật gần. “Sao cô không nói điều đó với tôi?”

“Điều gì?”

“Ai là người chết? Những người mà cô vẫn chưa bỏ qua?”

“Họ, rất nhiều.”

“Ví dụ?”

“Đọc báo mà xem.”

“Thôi nào, Sachs.”

Cô lắc đầu, uống cạn ly whisky Scotch với nụ cười nhạt nhòa trên môi. “Không, tôi không nghĩ thế.”

Anh coi sự im lặng của cô là do miễn cưỡng phải nói chuyện thân mật với một người mà cô mới được biết có một ngày. Mọi việc nghe có vẻ mỉa mai, nếu tính đến việc cô ngồi cạnh một tá ống thông tiểu, một ống kem K-Y và mộthộp Depends. Dù vậy anh vẫn không thúc ép và không nói thêm gì nữa. Vì thế anh ngạc nhiên khi bất ngờ cô ngẩng lên và buột miệng, “Chỉ là… chỉ là, ôi quỷ thật.” Khi cơn nức nở bắt đầu, cô đưa tay lên mặt, gạt nửa chai whisky Scotch hạng nhất đổ lênh láng ra sàn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


“Không thể tin được em lại kể điều đó với anh.” Cô ngồi cuộn mình trên ghế, chân co lên, đôi giày chuyên dụng được tháo ra. Lệ đã khô, mặc dù cô vẫn còn đỏ ửng như màu của mái tóc.

“Tiếp đi”, anh khuyến khích.

“Anh chàng mà em đã kể với anh? Bọn em định cùng nhau mua một căn hộ.”

“Ồ, cùng với một con chó giống collie. Em không nói đó là một anh chàng. Bạn trai của em à?”

Người tình bí mật? Rhyme băn khoăn.

“Anh ấy đã từng là bạn trai của em.”

“Anh đã nghĩ có thể đó là người cha đã mất của em.”

“Không. Đúng là cha em đã mất – ba năm trước. Bị ung thư. Nhưng gia đình em biết điều đó sẽ đến. Nếu điều đó làm em phải sẵn sàng thì em nghĩ em đã sẵn sàng. Nhưng còn Nick…”

“Anh ấy bị giết?” Rhyme dịu dàng hỏi.

Nhưng cô không trả lời. “Nick Carelli. Một người trong hàng ngũ của chúng ta. Một cảnh sát. Một thám tử, cấp ba. Làm việc trong nhóm Tội phạm Đường phố.”

Cái tên nghe quen quen. Rhyme không nói gì để cô tiếp tục.

“Bọn em sống với nhau một thời gian. Đã nói đến chuyện hôn nhân.” Cô ngừng lại, có vẻ như đang sắp xếp lại ý nghĩ như sắp xếp lại các tấm bia trong trường bắn. “Anh ấy là mật vụ. Vì thế bọn em giữ bí mật về mối quan hệ của mình. Anh ấy không thể để tin đồn lan trên phố rằng bạn gái anh ấy là cảnh sát.” Cô hắng giọng. “Rất khó giải thích. Anh biết không, bọn em có… một thứ đó giữa hai người. Đó là… điều đó không thường xuyên xảy ra với em. Quỷ thật, điều đó chưa bao giờ xảy ra trước Nick. Bọn em có mối quan hệ thực sự sâu sắc. Anh ấy biết em phải làm cảnh sát và đó không phải là vấn đề đối với anh ấy. Em cũng nghĩ như vậy về công việc cớm chìm của anh ấy. Như một dạng… bước sóng. Anh biết đấy, như lúc anh vừa hiểu được hoàn toàn về một người nào đó? Anh đã bao giờ cảm nhận được điều em đang nói không? Với vợ anh?”

Rhyme mỉm cười nhợt nhạt. “Anh có cảm thấy. Đúng thế. Nhưng không phải với Blaine, vợ anh.” Và đó là tất cả những gì anh muốn nói về vấn đề này. “Hai người gặp nhau thế nào?” Anh hỏi.

“Bài giảng nhiệm vụ tại học viện. Khi có người đứng lên và nói cho anh nghe những nhiệm vụ mà đơn vị của họ thực hiện. Nick giảng bài về công tác mật vụ. Anh ấy rủ em đi chơi ngay lập tức. Lần hẹn hò đầu tiên của bọn em là ở Rodman’s Neck.”

“Trường bắn?”

Sachs gật đầu, sịt mũi. “Sau đó bọn em tới nhà mẹ anh ấy ở Brooklyn và ăn mì ống, uống một chai Chianti. Bà véo em rất mạnh và nói em quá gầy để có thể có con. Bắt em ăn hai suất cannoli. Bọn em về nhà em và tối hôm đó, anh ấy đã ở lại. Lần hẹn hò đầu tiên đáng kể đấy chứ? Từ đó, bọn em gặp nhau thường xuyên. Chắc chắn sẽ nên chuyện, Rhyme ạ. Em cảm thấy thế, chắc chắn mọi chuyện sẽ tốt đẹp.”

Rhyme nói: “Chuyện gì xảy ra?”

“Anh ấy…”

Một ngụm lớn. “Chuyện là anh ấy đã lợi dụng. Cả quãng thời gian em biết anh ấy…”

“Thế à?”

“Ăn trộm. Trộm lớn. Em không hề có bất kỳ manh mối nào. Không một manh mối khốn kiếp nào. Anh ấy giấu nó ở vài ngân hàng quanh thành phố. Anh ấy lấy khoảng hai trăm nghìn đô la.”

Lincoln im lặng một lúc. “Anh xin lỗi, Sachs. Ma túy?”

“Không. Chủ yếu là đồ dùng. Đồ điện tử, ti vi. Và quần áo. Họ gọi đó là Liên kết Brooklyn. Báo chí.”

Rhyme gật đầu. “Đó là lý do anh nhớ đến nó. Có khoảng gần một tá người liên quan, đúng không? Tất cả đều là cảnh sát.”

“Chủ yếu. Một số người của ICC[124] nữa.”

“Chuyện gì xảy ra với cậu ấy? Nick ấy?”

“Anh biết chuyện gì xảy ra khi cớm xử cớm rồi. Họ đánh anh ấy nhừ tử. Nói rằng anh ấy chống cự, nhưng em biết là không phải. Gãy ba xương sườn, hai ngón tay, mặt nát nhừ. Bị kết án nhưng anh ấy vẫn bị tù hai mươi đến ba mươi năm.”

“Vì tội chiếm đoạt tài sản?”

“Anh ấy tự làm một, hai vụ. Dùng súng đập một lái xe, bắn người kia. Chỉ để dọa anh ta thôi. Em biết là chỉ để dọa anh ta. Nhưng quan tòa đã quăng anh ấy đi.” Cô nhắm mắt, mím môi thật chặt.

“Khi anh ấy bị bắt, bên Nội vụ theo anh ấy rất chặt. Họ kiểm tra điện thoại. Bọn em rất thận trọng trong việc gọi điện cho nhau. Anh ấy nói thỉnh thoảng bọn tội phạm nghe trộm điện thoại của anh ấy. Nhưng vẫn có mấy cuộc gọi đến chỗ em. Bên Nội vụ bám theo em luôn. Vì thế Nick gạt em ra. Ý em là anh ấy phải làm thế. Nếu không em sẽ xuống dốc luôn cùng anh ấy. Anh biết bên Nội vụ rồi đấy – lúc nào cũng là những tên thợ săn phù thủy.”

“Chuyện gì xảy ra?”

“Để thuyết phục họ rằng em chẳng là gì đối với anh ấy… thì anh ấy đã nói vài câu về em.” Cô nuốt khan, mắt nhìn xuống nền nhà. “Khi bên Nội vụ thẩm vấn, họ hỏi anh ấy về em. Nick nói: ‘ À, P.D. Sachs? Tôi có chơi cô ta vài lần. Hóa ra cô ta cũng vớ vẩn. Nên tôi đá cô ta.” Cô ngửa đầu ra sau, lấy tay lau nước mắt. “Biệt hiệu? P.D.”

“Lon có nói với anh.”

Cô nhăn mặt. “Ông ấy có nói nó nghĩa là gì không?”

“Con gái cớm tuần tra. Từ cha em.”

Cô cười uể oải. “Nó khởi đầu như thế đấy. Nhưng đó không phải là cách kết thúc. Trong cuộc điều tra, Nick nói em là thứ vớ vẩn đến mức nó phải có nghĩa là ‘săn bướm’, bởi vì có lẽ em thích con gái hơn. Anh đoán xem điều này lan truyền trong sở nhanh đến thế nào.”

“Chỗ đó có cùng mẫu số mà, Sachs.”

Cô hít một hơi dài. “Em thấy anh ấy ở tòa vào cuối cuộc điều tra. Anh ấy nhìn em một lần và… em không thể tả được điều gì trong mắt anh ấy. Thực sự là cõi lòng tan nát. Anh ấy làm điều đó để bảo vệ em. Nhưng vẫn cứ… Anh đã đúng, anh biết không. Về sự cô đơn.”

“Anh không có ý…”

“Không”, cô nói mà không cười. “Em đánh anh, anh đánh em. Thế là công bằng. Và anh đúng. Em ghét sự cô đơn. Em muốn ra ngoài, em muốn gặp ai đó. Nhưng sau Nick, em đã mất hứng thú với tình dục.” Sachs cười chua chát. “Mọi người đều nghĩ rằng có ngoại hình như em là tuyệt vời. Em có thể chọn anh chàng của mình, đúng không? Thật vớ vẩn. Những thằng cha mời em đi chơi là những thằng cha muốn chơi em. Thế nên em đầu hàng. Tự làm còn dễ hơn. Em ghét điều đó, nhưng dễ hơn”

Cuối cùng thì Rhyme đã hiểu phản ứng của cô khi lần đầu tiên nhìn thấy anh. Cô thoải mái với anh vì đấy là người đàn ông không phải là mối đe dọa đối với cô. Không thúc ép tình dục. Một người mà cô không phải phòng ngự. Có thể có một chút tình đồng nghiệp nữa – như thể họ cũng thiếu mất một loại gen thiết yếu.

“Em biết đấy”, anh đùa, “anh và em, ta cần đến với nhau và không được có chuyện gì”.

Cô cười. “Thế thì kể cho em nghe về vợ anh. Hai người lấy nhau được bao lâu?”

“Bảy năm. Sáu năm trước tai nạn. Và một năm sau đó.”

“Và cô ấy bỏ anh?”

“Không. Anh bỏ cô ấy. Anh không muốn cô ấy cảm thấy có lỗi trong việc này.”

“Anh quá tốt.”

“Cuối cùng thì anh cũng làm cô ấy bỏ đi được. Anh là một tên khốn. Em mới chỉ nhìn thấy mặt tốt của anh thôi.” Một lúc sau, anh hỏi. “Câu chuyện của Nick… có liên quan gì tới lý do em bỏ Đội Tuần tra không?”

“Không. Thực ra là có.”

“Chim bị tên sợ cây cong?”

Cuối cùng cô gật đầu. “Cuộc sống ngoài phố giờ khác rồi. Đó là thứ đã làm cho Nick như vậy. Thứ làm biến đổi anh ấy. Nó không còn giống như khi cha em đi tuần trong khu của ông nữa. Khi đó mọi thứ tốt hơn.”

“Ý em là nó không giống như những câu chuyện cha kể cho em nghe?”

“Có thể”, cô nhượng bộ. Sachs ngồi thụp xuống ghế. “Bệnh than? Đúng như thế nhưng không nghiêm trọng đến mức như em giả bộ.”

“Anh biết”, Rhyme hỏi.

“Anh biết? Sao anh biết được?”

“Anh chỉ cần nhìn vào chứng cứ và rút ra một số kết luận.”

“Đó là lý do anh theo vụ của em cả ngày? Anh biết là em giả vờ?”

“Anh theo vụ của em”, anh nói, “vì anh biết em giỏi hơn em nghĩ”.

Cô nhìn anh thăm dò.

“À Sachs này, em làm anh nhớ đến chính mình.”

“Thế ư?”

“Để anh kể cho em nghe một chuyện. Anh làm công việc khám nghiệm hiện trường được gần một năm thì nhận được một cuộc gọi từ Đội Trọng án. Có một người chết trong một ngõ hẻm ở Greenwich Village. Tất cả trung sĩ chỉ huy đã ra ngoài nên anh được chọn để khám nghiệm hiện trường. Lúc đó, anh nhớ anh mới hai mươi sáu tuổi. Anh tới đó, kiểm tra và phát hiện ra người chết là giám đốc Sở Y tế và Nhân đạo của thành phố. Lúc đó xung quanh ông ta có rất nhiều ảnh Palaroid. Chắc em đã nhìn thấy vài tấm ảnh đó – ông ta đã đến một trong những hộp đêm S&M[125] trên Phố Washington. À, anh quên không nói, khi họ tìm thấy ông ta thì ông ta mặc một bộ váy ngắn màu đen và đi đôi tất chân mắt lưới.

Thế là anh bảo vệ hiện trường. Bất ngờ ông đại úy xuất hiện và đi qua dây chắn. Anh biết ông ấy có ý định làm cho những tấm ảnh đó biến mất trên đường đến phòng vật chứng nhưng anh lại ngây thơ tới mức không quan tâm đến những tấm ảnh – anh chỉ quan tâm đến việc ai đó đi ngang qua hiện trường.”

“Peretti là bảo vệ hiện trường vụ án.”

Rhyme tặc lưỡi. “Thế là anh không cho ông ấy vào. Lúc ông ấy đứng ngoài hàng rào quát tháo thì một nhân viên của Sở đến và cố gắng kết thúc sự việc. Anh nói không với ông ấy. Ông ấy cũng bắt đầu quát tháo anh. Hiện trường phải được giữ nguyên cho tới khi IRD xong việc, anh nói với họ thế. Đoán thử xem cuối cùng là ai đến?”

“Thị trưởng?”

“Gần đúng. Phó Thị trưởng.”

“Và anh bắt cả họ phải đứng ngoài.”

“Không ai vào được hiện trường, trừ bên chụp ảnh. Tất nhiên cái giá mà anh phải trả là sáu tháng làm nhân viên in ấn. Nhưng bọn anh bắt được thủ phạm nhờ vào một vài manh mối và dấu vân tay trên một bức hình Palaroid – hóa ra đấy là bức hình được tờ Bưu điện in trên trang nhất. Giống như việc em làm sáng hôm qua, Sachs ạ. Chặn tàu và xe trên Đại lộ Mười một.”

“Em không nghĩ tới điều đó”, cô nói. “Em chỉ làm thôi. Sao anh lại nhìn em thế?”

“Nào, Sachs. Em biết là em cần ở đâu mà. Ngoài phố. Tuần tra, Các vụ Trọng án, IRD, không quan trọng… Nhưng Phòng Quan hệ Công chúng ư? Ở đó em sẽ thối rữa. Đó là công việc tốt đối với một số người, nhưng không phải dành cho em. Đừng đầu hàng nhanh thế.”

“Ồ, thế còn anh thì không đầu hàng à? Còn Berger thì sao?”

“Với anh mọi chuyện hơi khác.”

Cái nhìn của cô dò hỏi. Đúng thế không? Rồi cô đi quanh tìm khăn giấy. Khi quay lại ghế, cô hỏi: “Anh không đem xác chết nào theo anh đấy chứ?”

“Cũng có khi. Nhưng giờ chúng đã được chôn cất rồi.”

“Kể em nghe đi.”

“Chẳng có gì cả đâu, thật đấy…”

“Không đúng. Em thấy thế. Nào, em đã kể cho anh nghe chuyện của em rồi.”

Anh cảm thấy một cơn ớn lạnh lạ lùng. Anh biết đấy không phải cơn sai lệch phản xạ. Nụ cười của anh biến mất.

“Rhyme, kể đi”, cô dai dẳng. “Em muốn nghe.”

“Được rồi, có một vụ vài năm trước”, anh nói. “Anh đã phạm sai lầm. Một sai lầm tệ hại.”

“Kể em nghe.” Cô rót cho hai người thêm một ngấn whisky Scotch nữa.

“Đó là một cuộc gọi nội địa báo giết người – tự sát. Một cặp vợ chồng trong một căn hộ ở Chinatown. Ông ta bắn vợ, rồi tự sát. Anh không có nhiều thời gian khám nghiệm hiện trường; anh làm rất nhanh. Và anh phạm một sai lầm cũ rích – anh đã biết trước mình sẽ tìm thấy gì trước khi anh bắt đầu tìm kiếm. Anh tìm thấy một ít sợi vải mà anh không biết đặt vào đâu nhưng anh giả định rằng cặp vợ chồng này đã lôi nó vào. Anh tìm thấy mảnh đạn nhưng không so nó với khẩu súng tìm được tại hiện trường. Anh nhận thấy phương cách nạp đạn tự động nhưng không đan lưới để tìm vị trí chính xác của khẩu súng. Anh tìm xong, ký giấy rồi về văn phòng.”

“Chuyện gì đã xảy ra?”

“Hiện trường bị dàn cảnh. Thực ra, đó là một vụ cướp của giết người. Tên tội phạm chưa rời căn hộ.”

“Cái gì? Hắn vẫn ở đó?”

“Sau khi anh ra về hắn bò từ gầm giường ra và bắt đầu bắn. Hắn giết chết một nhân viên pháp y và làm bị thương một người trợ lý. Hắn chạy ra phố và bắn nhau với mấy cảnh sát tuần tra chạy đến khi nghe gọi 10-13. Tên tội phạm bị bắn – sau đó cũng đã chết – nhưng hắn giết chết một cảnh sát và làm bị thương người khác. Hắn cũng bắn một gia đình vừa ra khỏi nhà hàng Trung Quốc gần đó. Dùng đứa con làm lá chắn.”

“Ôi, trời ơi.”

“Colin Stanton là tên người cha. Ông ta không hề bị thương và ông ta là một bác sĩ quân y – EMS nói ông ta đã có thể cứu được vợ và cả hai đứa con nếu ông ta cố gắng cầm máu, nhưng ông ta đã quá hoảng loạn và cứng đơ người. Ông ta cứ đứng, nhìn họ chết dần trước mắt mình.”

“Lạy chúa, Rhyme. Nhưng đó không phải lỗi của anh. Anh…”

“Để anh kể nốt. Đó vẫn chưa phải là đoạn kết.”

“Chưa ư?”

“Người chồng về nhà – ở phía bắc New York. Ông ta bị suy nhược thần kinh và phải vào bệnh viện tâm thần một thời gian. Ông ta thử tự tử. Đầu tiên ông ta tự cắt cổ tay mình bằng một mảnh giấy – bìa tạp chí. Sau đó ông ta lẻn vào thư viện và tìm thấy một cốc nước trong phòng tắm của người thủ thư, đập nó ra và dùng mảnh kính vỡ cứa vào cổ tay. Người ta đã khâu lại vết thương cho ông ta và giữ ông ta trong bệnh viện tâm thần khoảng một năm. Cuối cùng thì người ta cũng thả ông ra. Khoảng một tháng sau khi ra viện, ông ta lại thử lần nữa. Lần này thì dùng dao.” Rhyme lạnh lùng nói thêm. “Lần này thì có kết quả.”

Anh biết về cái chết của Stanton nhờ một tờ cáo phó được fax từ nhân viên điều tra đột tử ở Albany tới Phòng Quan hệ Công chúng của NYPD. Ai đó đã gửi nó cho Rhyme bằng đường công văn nội bộ với một tờ giấy vàng dán kèm: FYI – có thể anh sẽ quan tâm, người sĩ quan đó viết.

“IA điều tra nội bộ. Lỗi chuyên môn. Họ đập cổ tay anh. Anh nghĩ họ có thể đuổi việc anh.”

Cô thở dài và nhắm mắt trong giây lát. “Và anh nói với em là anh không thấy có lỗi trong chuyện này?”

“Hết rồi.”

“Em không tin anh.”

“Anh đã chịu án rồi, Sachs ạ. Anh sống với những xác chết này một thời gian. Sau đó anh bỏ chúng đi. Nếu không, làm sao anh tiếp tục làm việc được.”

Sau một lúc lâu, cô nói: “Khi em mười tám tuổi, em bị phạt. Vì chạy quá tốc độ. Em chạy với tốc độ chín mươi ở chỗ chỉ được phép chạy bốn mươi.”

“Rồi.”

“Cha em nói, ông sẽ cho em vay tiền nộp phạt, nhưng em phải trả lại ông. Có lãi. Nhưng anh biết ông còn nói gì với em nữa không? Ông nói bố sẽ đánh đòn nếu con vượt đèn đỏ hay lái xe không cẩn thận. Nhưng chạy nhanh thì ông hiểu. Ông nói với em: ‘Bố biết cảm giác của con, con yêu ạ. Khi ta di chuyển, chúng không thể bắt được ta.’”, Sachs nói với Rhyme. “Nếu em không thể lái xe, nếu em không thể chuyển động, có thể em cũng sẽ làm điều đó. Tự tử.”

“Anh đã từng đi bộ khắp nơi”, Rhyme nói. “Anh lái xe không nhiều. Không có xe suốt hai mươi năm. Em có xe gì?”

“Chẳng phải là thứ mà một người Manhattan kiêu kỳ như anh sẽ lái đâu. Một chiếc Chevy. Mác Camaro. Đó là xe của cha em.”

“Ông đã cho em một cái máy khoan hơi? Để sửa xe, anh đoán thế?”

Cô gật đầu. “Và một máy hàn hơi. Một bộ tạo khe bugi. Cờ lê bánh cóc – món quà sinh nhật lần thứ mười ba của em.” Cười nhẹ nhàng. “Chiếc Chevy ấy, thật là một chiếc xe với núm tay lỏng. Anh có biết đấy là gì không? Một chiếc xe Mỹ. Đài, quạt và công tắc điện đều lỏng lẻo và hạng bét. Nhưng bộ giảm xóc thì như đá, nhẹ như thùng trứng và em lúc nào cũng qua mặt được BMW[126].”

“Anh đoán là em đã làm rồi.”

“Một, hai lần gì đấy.”

“Xe hơi có địa vị trong thế giới của người tàn tật”, Rhyme giải thích. “Bọn anh ngồi – hay nằm – trong khu cách ly của Viện Phục hồi Chức năng và nói chuyện về những thứ bọn anh có thể lấy được từ công ty bảo hiểm. Xe tải kiểu xe lăn thật là đỉnh. Sau đó là xe điều khiển bằng tay. Tất nhiên là những thứ đó chẳng giúp gì cho anh.” Anh liếc mắt, kiểm tra bộ nhớ thuần thục của mình. “Anh không đi xe đã nhiều năm. Anh không nhớ lần cuối là khi nào cả.”

“Em có một ý”, Sachs bất ngờ nói. “Trước khi ông bạn của anh – bác sĩ Berger – quay lại, để em đưa anh đi một vòng. Hay có vấn đề? Ngồi dậy? Anh nói là xe lăn không giúp được anh.”

“À, không, xe lăn không thành vấn đề. Nhưng còn xe hơi? Anh nghĩ chắc là được.” Anh cười. “Một trăm sáu mươi tám? Dặm một giờ?”

“Hôm ấy là một ngày đặc biệt”, Sachs nói và nhớ lại. “Điều kiện tốt. Không có cảnh sát giao thông.”

Điện thoại reo và Rhyme tự trả lời. Đó là Lon Sellitto.

“Chúng tôi đã có các nhóm S&S ở tất cả các nhà thờ mục tiêu trong khu Harlem. Dellray chịu trách nhiệm về việc này – anh ta trở thành một tín đồ thực sự rồi. Anh không còn nhận ra anh ta nữa đâu. Ồ, mà tôi còn có thêm ba mươi cảnh sát tuần tra và hàng tá nhân viên anh ninh Liên Hiệp Quốc để đến bất cứ nhà thờ nào mà chúng ta có thể bỏ qua. Nếu hắn không xuất hiện, chúng tôi sẽ càn quét tất cả các nhà thờ vào lúc bảy rưỡi, trong trường hợp hắn lẩn được vào mà chúng tôi không phát hiện ra. Tôi nghĩ chúng ta sẽ tóm được hắn, Linc ạ.” Viên thám tử nói, nhiệt tình một cách đáng nghi ngờ so với một cảnh sát của Đội Trọng án Thành phố New York.

“Được rồi, Lon. Khoảng tám giờ tôi sẽ cử Amelia tới Trung tâm chỉ huy của anh.”

Họ dập máy.

Thom gõ cửa trước khi vào phòng.

“Như thể cậu ta sẽ bắt được chúng ta trong tư thế tế nhị.” Rhyme cười thầm.

“Không lý do gì nữa”, anh ta nói. “Đi ngủ. Ngay bây giờ.”

Đã 3:00. Từ lâu rồi, Rhyme đã không còn cảm giác kiệt sức. Anh đang bay lượn ở đâu đó. Phía trên cơ thể mình. Anh băn khoăn không hiểu có phải mình gặp ảo giác hay không.

“Được rồi, thưa mẹ”, anh nói. “Sĩ quan Sachs sẽ ngủ lại đêm nay, Thom. Cậu làm ơn lấy giúp một cái chăn.”

“Anh nói gì?” Thom quay lại phía anh.

“Một cái chăn.”

“Không, trước đó cơ.” Người trợ lý hỏi. “Cái từ ấy?”

“Tôi không biết. ‘Làm ơn’?”

Mắt Thom mở to vì cảnh giác. “Anh ổn chứ? Anh có muốn tôi gọi Peter Taylor quay lại không? Hay cha cả của Tu viện Columbia? Bác sĩ phẫu thuật?”

“Thấy thằng khốn này làm phiền tôi chưa?” Rhyme nói với Sachs. “Hắn không biết là hắn gần đến lúc bị đuổi việc thế nào rồi đâu.”

“Gọi dậy lúc mấy giờ?”

“Sáu giờ ba mươi là ổn,” Rhyme nói.

Khi anh ta đi khỏi, Rhyme hỏi: “Này, Sachs, em có thích nghe nhạc không?”

“Em thích.”

“Loại nào?”

“Nhạc cổ, dòng doo-wop, Motown… Còn anh thì sao? Anh trông có vẻ giống một anh chàng cổ điển.”

“Em thấy cái tủ chỗ kia chứ?”

“Cái này hả?”

“Không, cái khác cơ. Phía bên phải. Em mở nó ra.”

Cô làm theo và há miệng vì ngạc nhiên. Cái tủ quả là một căn phòng chứa tới gần nghìn đĩa CD.

“Giống như cửa hàng bán đĩa[127]?”

“Có một bộ dàn, em thấy nó trên giá không?”

Cô lướt nhẹ tay trên dàn máy Harmon Cardon dính đầy bụi.

“Đắt hơn cả chiếc xe hơi đầu tiên của anh”, Rhyme nói. “Anh không dùng nó nữa.”

“Sao lại không?”

Anh không trả lời mà nói: “Em cho đĩa gì đó vào đi. Điện còn cắm không? Thế à? Tốt. Em chọn nhạc đi.”

Một khắc sau, cô bước ra khỏi tủ và đi lại ghế sofa khi Levi Stabbs[128] và Four Tops[129] bắt đầu hát về tình yêu.

Phải đến một năm rồi mới lại có âm nhạc vang lên trong nhà, Rhyme nghĩ. Anh im lặng, cố gắng trả lời câu hỏi của Sachs vì sao anh lại ngừng nghe nhạc. Nhưng anh không thể.

Sachs dọn tài liệu và sách ra khỏi ghế. Nằm lên đó và lần giở cuốn Hiện trường vụ án.

“Tặng em một cuốn được không?” Cô hỏi.

“Em cứ lấy mười cuốn.”

“Anh sẽ…”, giọng cô chợt ngừng lại.

“Ký sách cho em?” Anh cười. Cô cười với anh. “Anh điểm chỉ, được không? Các nhà phân tích nét chữ không bao giờ cho em xác suất trùng lặp nét chữ quá tám mươi phần trăm. Nhưng còn dấu tay? Bất kỳ chuyên gia dấu vân tay nào cũng có thể khẳng định đó là dấu tay của anh.”

Anh nhìn cô đọc chương một. Mắt cô rũ xuống. Cô gập sách.

“Anh làm cho em một việc, được không?” Cô hỏi.

“Việc gì?”

“Đọc cho em nghe…”

“Đọc cho em nghe. Thứ gì đó trong sách. Khi Nick và em còn bên nhau…”, giọng cô nhạt dần.

“Sao cơ?”

“Khi Nick và em còn ở bên nhau, nhiều lần Nick đọc cho em nghe trước khi bọn em ngủ. Bất cứ thứ gì: sách, báo, tạp chí… Một trong những thứ em nhớ nhất.”

“Anh đọc rất dở”, Rhyme thú nhận. “Anh đọc như thể anh đang trích dẫn báo cáo khám nghiệm hiện trường. Nhưng anh có trí nhớ… khá là tốt. Để anh kể em nghe về vài hiện trường vụ án, được không?”

“Thật không?” Cô nằm ngửa, cởi chiếc áo khoác màu xanh hải quân và tháo cái áo giáp chống đạn hiệu American Body Armor, vứt nó sang một bên. Phía trong cô mặc một chiếc áo phông nhàu nát và dưới đó là áo lót ngực thể thao. Cô lại mặc chiếc áo khoác rồi nằm lên ghế, kéo chăn. Xoay người sang bên rồi nhắm mắt.

Rhyme giảm ánh sáng bằng điều khiển từ xa.

“Anh luôn thấy ngạc nhiên với hiện trường chết chóc”, anh bắt đầu. “Chúng giống như những đền thờ. Chúng ta luôn quan tâm đến nơi chôn cất người chết hơn là nơi họ được sinh ra. Ví dụ như John Kennedy. Mỗi ngày có hàng nghìn người đến thăm kho sách Texas ở Dallas. Em nghĩ có bao nhiêu người hành hương đến một phòng sản phụ ở Boston?”

Rhyme ngả đầu vào chiếc gối mềm mại quý phái “Anh có làm em chán không?”

“Không”, cô nói. “Làm ơn đừng dừng lại.”

“Em có biết điều làm anh luôn băn khoăn là gì không, Sachs?”

“Nói cho em biết đi”

“Điều đó làm anh ngạc nhiên nhiều năm rồi – Tinh thần Hiệp sĩ. Hai nghìn năm trước. Còn bây giờ, có một hiện trường vụ án mà anh thích khám nghiệm. Anh biết em sẽ nói: Nhưng chúng ta biết bọn tội phạm rồi cơ mà. Có phải như vậy không? Điều mà chúng ta thực sự biết được là những gì nhân chứng nói với chúng ta. Em có nhớ là anh đã nói – đừng bao giờ tin nhân chứng. Có thể những câu chuyện trong Kinh thánh là không hề có thực. Bằng chứng đâu? Phải là chứng cứ vật lý. Móng tay, máu, mồ hôi, ngọn giáo, chữ thập, giấm ăn. Dấu dép và dấu vân tay.”

Rhyme hơi nghiêng đầu sang trái và tiếp tục kể chuyện về những hiện trường vụ án và chứng cứ cho tới khi ngực Sachs phập phồng đều đặn, hơi thở của cô làm những sợi tóc đỏ nhẹ nhàng bay. Ngón tay anh lần tìm nút tắt đèn trên bộ điều khiển ESU, và rồi anh cũng nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.

Ánh sáng mờ mờ của buổi bình minh xuất hiện trên bầu trời.

Hoàn toàn tỉnh táo, Carole Ganz có thể nhìn thấy lớp kính lõi lưỡi thép bên trên đầu cô. Pammy, con yêu... Rồi cô nghĩ tới Ron. Và tất cả tài sản của cô còn đang ở trong cái tầng hầm kinh khủng ấy. Tiền bạc, chiếc ba lô màu vàng...

Cô nghĩ tới Pammy.

Có thứ gì đó làm cho cô gián đoạn giấc ngủ chập chờn, bất ổn. Gì vậy nhỉ?

Cơn đau ở cổ tay? Nó giật giật khủng khiếp. Cô xoay người một chút. Cô...

Tiếng rống khó chịu của đàn organ và giọng hát của dàn đồng ca lại ngập tràn trong phòng.

Đó là thứ đã đánh thức cô. m nhạc. Làn sóng âm nhạc ập tới. Nhà thờ không bị bỏ hoang. Có người ở đây. Cô mỉm cười. Có ai đó sẽ...

Điều này nhắc cô nhớ tới quả bom.

Carole nhìn qua khe tủ hồ sơ. Nó vẫn còn đó, bập bềnh ngoài cạnh bàn. Nó mang hình dáng thô thiển của một quả bom thật sự và một thứ vũ khí giết người – không giống những dụng cụ sáng bóng, dễ thương mà ta vẫn thấy trên phim ảnh. Băng dính quấn xộc xệch, dây dẫn bị bóc vỏ nham nhở, xăng vẩn đục… có thể chỉ là bom xịt, cô nghĩ. Trong ánh sáng ban ngày, trông nó không có vẻ nguy hiểm lắm.

m nhạc lại vang lên. Nó vang lên ngay trên đầu cô. Kèm theo tiếng lê chân. Cửa đóng lại. Sàn nhà gỗ kêu kẽo kẹt khi mọi người đi lại. Bụi bay ra từ rầm nhà.

Giọng hát đang vang lên nửa câu bỗng ngừng lại. Một giây lát sau, họ lại bắt đầu hát.

Carole đạp chân, nhưng ở đây nền nhà bằng bê tông, tường gạch. Cô cố hét lên nhưng âm thanh bị miếng băng dính dán miệng nuốt chửng. Buổi diễn tập vẫn tiếp tục, tiếng nhạc nghiêm trang, đầy sinh lực lan xuống tận tầng hầm.

Sau mười phút, Carole kiệt sức ngã vật xuống sàn. Mắt cô lại nhìn về phía quả bom. Lúc này đã sáng hơn và cô có thể nhìn thấy cái đồng hồ hẹn giờ.

Carole nhăn mặt. Cái đồng hồ hẹn giờ!

Đó không phải là một quả bom thối. Kim định giờ đặt ở mức 6:15. Kim đồng hồ lúc này chỉ 5:30.

Bò xa hơn ra phía sau tủ hồ sơ, Carole lấy đầu gối đập vào thành tủ kim loại. Nhưng bất kỳ tiếng động yếu ớt nào phát ra đều ngay tức khắc bị tan biến trong tiếng rền vang của bài hát Sweet Low, Sweet Chariot từ trên cao vọng xuống, đang ngập tràn tầng nhà thờ.

IV

IV

ĐẾN TẬN XƯƠNG

Các vị thần chỉ chối từ một thứ: quyền năng thay đổi quá khứ.

ARISTOTLE
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


5:45 AM Chủ nhật đến 7:00 PM thứ Hai

Mùi hương làm anh tỉnh giấc. Như mọi khi.

Và – cũng giống như rất nhiều buổi sáng – anh không vội vàng mở mắt mà giữ nguyên vị trí nửa nằm, nửa ngồi của mình, cố gắng suy đoán xem mùi hương không quen thuộc đó là gì.

Mùi không khí buổi bình minh? Giọt sương trên những con phố bóng như dầu? Mùi vữa ẩm? Anh cố gắng phân biệt mùi hương của Amelia Sachs nhưng thấy rằng mình không thể.

Ý nghĩ của anh bỏ qua cô và tiếp tục. Mùi gì thế nhỉ?

Chất tẩy rửa? Không phải.

Một thứ hóa chất từ phòng thí nghiệm ngẫu hứng của Cooper?

Không, anh nhận ra được tất cả những thứ mùi đó.

Đó là… à, đúng rồi… mùi bút viết bảng.

Đến lúc này anh đã có thể mở mắt – sau khi liếc nhìn Sachs vẫn đang ngủ để chắc chắn là cô chưa bỏ đi – và thấy mình đang nhìn vào tấm áp phích Monet treo trên tường. Mùi tỏa ra từ đó. Không khí nóng bức, ẩm thấp của buổi sáng tháng tám này đã làm giấy khô đi và mùi xuất phát từ đó.

- Hiểu biết quy trình khám nghiệm hiện trường

- Có thể có tiền án

- Hiểu biết về dấu vân tay

- Súng = Colt .32

- Trói nạn nhân bằng nút thắt khác thường

- “Cổ xưa” hấp dẫn hắn

- Gọi một nạn nhân là “Hanna”

- Biết tiếng Đức cơ bản

- Thích những chỗ dưới lòng đất

Những con số nhợt nhạt trên đồng hồ chỉ 5:45. Ánh mắt anh quay lại chỗ tấm áp phích. Anh không thể nhìn thấy rõ ràng, chỉ thấy những hoa văn xám trên nền trắng tuyệt đối. Nhưng ánh sáng nhợt nhạt của bầu trời buổi sáng cũng đủ để đọc được phần lớn các từ.

- Đa nhân cách

- Có thể là thầy tu, nhân viên hoạt động xã hội, luật sư

- Giày mòn kiểu khác thường, đọc nhiều?

- Lắng nghe khi bẻ gãy ngón tay nạn nhân

- Bỏ lại con rắn để chế giễu cuộc điều tra

Những con chim ưng đã tỉnh giấc. Anh cảm thấy những tiếng đập cánh run rẩy bên ngoài. Ánh mắt Rhyme quay lại với tấm áp phích. Trong văn phòng của anh ở IRD, anh treo khoảng một tá bảng trắng và trên đó anh ghi lại những đặc tính quan trọng nhất của nghi phạm trong những vụ án lớn. Anh nhớ lại: đi lại, ngắm nghía, suy nghĩ về những người mà họ mô tả.

Những phân tử sơn, bùn, phấn hoa, lá cây…

- Tòa nhà cũ, đá cẩm thạch hồng.

Nghĩ tới tên trộm đá quý gian xảo mà anh và Lon tóm mười năm trước. Tại Central Booking, tên trộm rụt rè nói họ sẽ không bao giờ tìm được những thứ hắn lấy từ những vụ trước đó, nhưng nếu họ xem xét lệnh ân xá, hắn sẽ nói cho họ biết hắn giấu ở đâu. Rhyme trả lời: ” Được rồi, bọn tao có một chút rắc rối khi tìm xem chúng ở đâu.”

“Chắc chắn rồi”, tên trộm nói.

“Xem này”, Rhyme nói. “bọn tao đã biết tới bức tường đá trong phòng đựng than của một ngôi nhà nông thôn kiểu thuộc địa trên sông Connecticut. Cách Long Island Sound khoảng năm dặm về phía bắc. Tao chỉ chưa biết là ngôi nhà này ở bờ phía đông hay bờ phía tây của dòng sông mà thôi”.

Khi câu chuyện lan ra ngoài, câu nói mà mọi người dùng để mô tả nét mặt của tên trộm lúc đó là: mẹ kiếp, chắc chắn là mày phải đến đấy rồi chứ.

Có thể đấy chính là phép thuật, Sachs ạ. Anh nghĩ.

- Ít nhất một trăm năm tuổi, có thể là một biệt thự hay cơ quan

Anh nhìn lướt tấm áp phích một lần nữa rồi nhắm mắt, ngả đầu xuống chiếc gối tuyệt vời của mình. Đúng lúc đó anh cảm thấy choáng váng. Giống như có ai đó tát vào mặt mình. Cơn sốc lan lên đầu anh như lửa cháy. Mắt mở to, nhìn chằm chằm vào tấm áp phích.

- “Cổ xưa” hấp dẫn hắn

“Sachs!” Anh la lên. “Dậy ngay!”

Cô giật mình và ngồi dậy. “Cái gì? Gì thế...?”

Cổ xưa, cổ xưa, cổ xưa...

“Anh sai mất rồi”, anh nói cộc lốc. “Có vấn đề rồi.”

Đầu tiên cô nghĩ đó là vấn đề sức khỏe, vì thế cô nhảy khỏi ghế, vớ lấy túi cứu thương của Thom.

“Không, manh mối cơ, Sachs, manh mối... Anh hiểu sai.” Hơi thở của anh gấp gáp, anh nghiến răng trong lúc suy nghĩ.

Cô mặc quần áo, ngồi thẳng dậy, những ngón tay cô tự động đưa lên gãi đầu. “Gì vậy, Rhyme? Điều gì vậy?”

“Nhà thờ. Có thể nó không phải ở Harlem.” Anh nhắc lại. “Anh sai rồi.”

Giống như với thủ phạm giết gia đình Colin Stanton. Trong ngành hình sự học, ta có thể xác định chính xác hàng trăm manh mối, nhưng manh mối mà ta bỏ qua lại khiến cho người ta mất mạng.

“Mấy giờ rồi?” Cô hỏi.

“Hơn sáu giờ kém mười lăm một chút. Lấy tờ báo đi. Lịch biểu lễ nhà thờ.”

Sachs tìm thấy tờ báo, lướt qua. Sau đó cô ngẩng lên. “Anh nghĩ gì vậy?”

“823 đam mê những thứ cổ xưa. Nếu hắn muốn một nhà thờ cổ của người da đen thì có thể ý hắn không phải là khu phố trên. Philip Payton thành lập công ty bất động sản Mỹ-Phi tại Harlem năm 1900. Còn có hai khu người da đen nữa trong thành phố. Khu trung tâm, chỗ tòa án hiện nay và San Juan Hill. Ở đây chủ yếu là người da trắng... Ôi quỷ thật, anh đang nghĩ gì vậy nhỉ?”

“San Juan Hill ở đâu?”

“Phía bắc Hell’s Kitchen. West side. Nó được đặt tên để tôn vinh tất cả những người lính da đen đã chiến đấu trong cuộc chiến Mỹ – Tây ban nha.”

Cô đọc lướt qua tờ báo.

“Các nhà thờ trong khu trung tâm”, cô nói. “Nếu ở khu Battery Park thì ở đó có viện Seamen. Có một nhà thờ tại đây, họ có làm lễ. Chúa ba ngôi. Thánh Paul.”

“Đó không phải khu của người da đen. Xa hơn nữa về phía bắc và phía đông.”

“Nhà thờ Trưởng lão trong khu Chinatown.”

“Có nhà thờ Tin lành hay Phúc âm nào khồng?”

“Không, không có gì ở khu này. Đây… ôi, quỷ thật.” Ánh mắt cam chịu, cô thở dài. “Ôi, không.”

Rhyme hiểu ra. “Lễ chào mặt trời.”

Cô gật đầu: “Tín lành bánh thánh… Không, Rhyme có một lễ hát thánh ca bắt đầu lúc sáu giờ sáng. Đại lộ năm mươi chin và Mười một.”

“Đó là San Juan Hill! Gọi cho họ đi!”

Cô vơ lấy điện thoại và quay số. Cô đứng cúi đầu, nhíu mày trong lúc lắc đầu. “Trả lời đi, trả lời đi… Quỷ thật. Máy ghi âm. Mục sư chắc đã rời khỏi văn phòng.” Cô nói vào ống nghe. “Đây là NYPD. Chúng tôi có lý do để tin rằng trong nhà thờ của ngài có bom. Hãy sơ tán càng nhanh càng tốt.” Cô dập máy, rồi đi giày.

“Đi đi, Sachs. Em phải tới đó ngay. Ngay bây giờ.”

“Em?”

“Chúng ta ở gần đó hơn đồn gần nhất. Sau mười phút là em tới đó rồi.”

Cô chạy ra cửa, vừa chạy vừa đeo thắt lưng thiết bị vào eo.

“Anh sẽ gọi điện cho đồn.” Anh nói với theo khi cô nhảy xuống cầu thang, tóc như một đám mây đỏ quấn quanh đầu. “Sachs này, nếu em muốn lái xe thật nhanh thì bây giờ là lúc đấy.”

Chiếc xe RRV trượt bánh trên Phố Tám mươi mốt, lao nhanh về phía tây.

Sachs lao đến ngã tư ở Broadway, trượt bánh và va phải chiếc máy bán báo Bưu điện New York, hất nó bắn qua cửa sổ hiệu Zabar trước khi cô điều khiển được chiếc xe. Cô nhớ tới tất cả các loại thiết bị khám nghiệm hiện trường vụ án chở phía sau. Một chiếc xe nặng mông, cô nghĩ; không được quặt khi đang chạy với tốc độ năm mươi.

Sau đó chạy dọc Broadway. Phanh lại ở ngã tư. Nhìn phải, nhìn trái. Không có gì. Nhấn ga!

Cô thoát ra Đại lộ Chín tại trung tâm Lincoln và sau đó chạy xuống phía nam. Mình chỉ…

Quỷ tha ma bắt!

Lốp xe rít lên khi bị phanh gấp.

Phố bị cấm.

Một dãy rào cản chặn Đại lộ Chín để chuẩn bị cho hội chợ đường phố buổi sáng nay. Một khẩu hiệu viết Đồ thủ công mỹ nghệ của tất cả các dân tộc. Tay trong tay, chúng ta là một.

Ôi trời… quỷ tha ma bắt Liên Hiệp Quốc. Cô lùi lại một nửa khối nhà và tăng tốc độ lên năm mươi trước khi lao vào dây rào chắn đầu tiên. Rẽ tung những chiếc bàn gấp bằng nhôm và giá bày hàng gỗ, cô rẽ một đường qua hội chợ không người. Sau hai khối nhà, chiếc xe lao qua rào cản phía nam và cô rẽ về hướng tây sang Phố Năm mươi chín, lao lên vỉa hè một đoạn nhiều hơn cô muốn.

Có một nhà thờ cách đó khoảng một trăm thước.

Giáo dân đứng trên bậc cầu thang – cha mẹ, một cô bé con mặc bộ váy diềm màu trắng hồng, những cậu bé mặc vét tối màu và áo trắng, tóc nhuộm bạc hay tạo thành những núm lạ mắt.

Từ dưới cửa sổ đường hầm, một đám khói xám nhỏ đang bốc lên.

Cô đạp cần ga chạm sàn, động cơ gầm rú.

Vớ lấy máy bộ đàm. “RRV Hai gọi trung tâm, nghe rõ?”

Đúng lúc cô nhìn xuống chiếc bộ đàm Motorola để xem âm thanh đã được vặn lên hết cỡ hay chưa, một chiếc Mercedes lớn lao ra khỏi ngõ, đúng đường đi của cô.

Một cái liếc nhìn rất nhanh gia đình đang ngồi trong xe, mọi người mắt mở to vì sợ hãi khi người cha đạp phanh.

Sachs theo bản năng đánh mạnh tay lái sang trái, đưa chiếc xe sang trạng thái trượt có điều khiển. Nào, nào, cô van xin những cái lốp xe… bám vào, bám vào, bám vào! Nhưng mặt đường nhựa trơn trượt đã bị mềm đi dưới sức nóng của mấy ngày qua và bị phủ sương. Chiếc xe trôi trên đường như đi tàu cánh ngầm.

Đuôi xe va mạnh vào đầu chiếc Mercedes với tốc độ năm mươi dặm một giờ. Sau một tiếng động lớn, chiếc 560 cắt đứt sườn bên trái của chiếc xe thùng. Những chiếc va li khám nghiệm hiện trường bay lên không, mở tung và đổ những thứ bên trong ra phố. Những người đi nhà thờ cúi xuống tránh mảnh kính vỡ, nhựa và kim loại.

Túi khí tung ra và phồng lên làm Sachs giật mình. Cô lấy tay che mặt khi chiếc xe thùng nhảy tung qua một dãy xe hơi, qua một cửa hiệu báo và trượt trên đường cho tới khi dừng hẳn, lộn ngược. Báo và túi đựng vật chứng trên mặt đất như những người lính dù tí hon.

Bị dây an toàn treo lộn ngược, tóc che kín mắt, Sachs gạt máu chảy ra từ vết thương trên trán và môi, cố gắng mở khóa. Nó chặt cứng. Xăng nóng chảy vào xe và chảy theo tay cô buồn buồn. Cô rút con dao gấp ở túi sau, mở ra và cắt dây an toàn. Chút nữa bị rơi vào con dao, cô nằm đó, thở hổn hển, ngạt vì khói xăng.

Nào cô bé, ra thôi. Ra nào!

Cửa xe bị kẹt, phía sau của chiếc xe thùng đã bị bẹp nên cũng không có đường thoát. Sachs bắt đầu đạp cửa sổ. Kính không vỡ. Cô co chân đạp thật mạnh vào lớp kính chắn gió đã bị nứt. Không ảnh hưởng gì, ngoại trừ việc cô suýt bong gân chân.

Súng!

Cô sờ vào hông; khẩu súng đã rơi khỏi bao và lăn lóc đâu đó trong xe. Cảm thấy làn mưa xăng nóng bỏng trên tay và trên vai, cô tìm kiếm điên cuồng trong đám giấy và thiết bị khám nghiệm hiện trường vương vãi trên nóc xe.

Sau đó cô nhìn thấy khẩu Glock nặng nề của mình gần cái chao đèn. Cô phủi nó và nhắm vào cửa bên.

Làm đi. Bên ngoài thoáng, vẫn chưa có ai đến xem.

Sau đó cô ngần ngừ. Liệu lửa nòng có làm xăng bắt cháy không?

Cô giữ khẩu súng cách xa bộ đồng phục thấm xăng của cô hết mức có thể, suy nghĩ. Rồi bấm cò.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


Năm phát, theo hình sao. Mặc dù vậy kính của chiếc General Motors vẫn y nguyên.

Ba phát nữa, nổ inh tai trong không gian chật hẹp của chiếc xe thùng. Nhưng kính vẫn không vỡ.

Cô tiếp tục đạp. Cuối cùng cánh cửa sổ bung ra bên ngoài thành một dòng thác những viên băng nhỏ màu xanh. Đúng lúc cô vừa lăn ra ngoài, nội thất của chiếc xe thùng nổ.

Cởi hết áo chỉ để lại áo phông, cô ném áo khoác và áo chống đạn ngấm xăng, ném tai nghe có mic sang bên cạnh. Cảm thấy mắt cá lung lay nhưng cô vẫn lao về cửa chính của nhà thờ, chạy qua những người đi lễ và dàn đồng ca đang chạy trốn. Tầng trệt đầy khói. Gần đó, một phần của nền nhà bị gợn sóng, nóng lên và bùng cháy.

Bất ngờ vị mục sư xuất hiện, bị ngạt khói, nước mắt ròng ròng. Ông ta kéo theo một người phụ nữ bất tỉnh. Sachs giúp ông ta đưa người phụ nữ ra cửa.

“Tầng hầm ở đâu?” Cô hỏi.

Ông ta ho dữ dội, lắc đầu.

“Ở đâu?” Cô quát lên, nghĩ tới Carole Ganz và đứa con nhỏ của cô. “Tầng hầm?”

“Đằng kia, nhưng…”

Phía bên kia nền nhà đang bốc cháy.

Sachs gần như không nhìn thấy nó, khói quá dày. Một bức tường đổ xuống trước mặt họ, những cái rầm và cột nhà cũ đằng sau nó kêu lách tách, phun ra những tia lửa và những luồng khí nóng vào căn phòng mù mịt khói. Cô ngần ngại một chút, rồi bắt đầu đến cửa tầng hầm.

Mục sư nắm tay cô. “Đợi đã.” Ông ta mở kho và lấy một bình cứu hỏa, giật khóa bảo vệ . “Đi thôi.”

Sachs lắc đầu. “Ông không phải đi. Ông cứ kiểm soát khu vực này. Nói với lính cứu hỏa là có một sĩ quan cảnh sát và một nạn nhân khác đang ở dưới tầng hầm.”

Lúc này thì Sachs đang tăng tốc.

Khi ta di chuyển…

Cô nhảy qua lỗ thủng lớn trên nền nhà. Nhưng khói làm cho cô đánh giá sai khoảng cách tới bức tường, nó gần hơn cô tưởng nên cô va phải bức vách gỗ và ngã ra sau, lăn tròn khi tóc cô quét qua ngọn lửa, một vài lọn tóc bắt lửa. Nôn khan vì hít phải mùi, cô dập lửa và cố gắng đứng lên. Nền nhà, đã bị ngọn lửa phía dưới làm yếu đi, vỡ ra dưới chân làm cô ngã đập mặt xuống nền gỗ sồi. Cô cảm thấy lưỡi lửa dưới tầng hầm đang liếm cánh tay và cổ tay mình khi cô giật tay về.

Lăn ra khỏi rìa lỗ thủng, cô đứng dậy và với tay đến cái nắm tay của cửa xuống tầng hầm. Bất ngờ cô dừng lại.

Này cô bé, nghĩ cho kỹ vào! Hãy cảm nhận cánh cửa trước khi mở. Nếu bên trong quá nóng và mày lại để oxy lọt vào trong căn phòng siêu nóng, nó sẽ bùng nổ và hơi phản hồi sẽ thiêu cháy mày ngay. Cô chạm vào gỗ. Nóng như thiêu.

Sau đó cô nghĩ: thế mình có thể làm được gì khác nào?

Nhổ nước bọt vào tay, cô nắm rất nhanh cái tay nắm cửa, xoay cho nó mở và thả tay ra trước khi bàn tay kịp bị bỏng.

Cánh cửa mở tung, một đám mây khói và tia lửa cuồn cuộn trào ra.

“Có ai trong đó không?” Cô gọi và bắt đầu đi xuống.

Những bậc thang dưới cùng đang cháy. Cô phun một lượt carbon dioxide rồi nhảy xuống tầng hầm ẩm mốc. Cô đạp gãy bậc thang gần cuối cùng, chúi người về phía trước. Bình cứu hỏa rơi loảng xoảng xuống nền nhà khi cô nắm vội lấy tay vịn cầu thang, vừa đúng lúc không để chân bị gãy.

Kéo mình ra khỏi bậc thang gãy, Sachs liếc nhìn qua làn khói mịt mù. Dưới này khói không đến nỗi quá tệ – nó bay lên trời cao – nhưng còn lửa thì lại bốc cháy quanh cô.

Bình cứu hỏa lăn xuống dưới cái bàn đang cháy. Quên nó đi! Cô chạy qua đám khói.

“Có ai không?” Cô la lớn.

Không ai trả lời.

Sau đó cô nhớ ra thủ phạm 823 thường dùng băng dính; hắn thích những nạn nhân câm lặng.

Cô đá tung một cánh cửa nhỏ và ngó vào trong phòng nồi hơi. Có một cánh cửa dẫn ra ngoài nhưng rác thải cháy đã chặn nó lại. Phía trong là một bình nhiên liệu, lúc này đang bị ngọn lửa bao vây.

Nó sẽ không nổ, Sachs nhớ lại bài học từ học viện – bài giảng về hỏa hoạn. Dầu nhiên liệu không nổ. Đá rác rưởi sang một bên và đẩy cửa mở ra. Dọn đường rút lui cho mình. Sau đó mới đi tìm người phụ nữ và đứa bé.

Cô chần chừ, nhìn những lưỡi lửa đang liếm quanh thùng dầu nhiên liệu.

Nó sẽ không nổ, nó sẽ không nổ đâu.

Cô bắt đầu tiến lên phía trước, lần bước ra cửa.

Nó sẽ không...

Thùng nhiên liệu bất thình lình nổ bục như một lon soda và nứt đôi ở đoạn giữa. Dầu phụt lên không trung, bùng cháy thành một đám bọt màu cam khổng lồ. Một bể lửa đang thành hình trên nền nhà và chảy về phía Sachs.

Nó không nổ. Được rồi. Nhưng lại cháy không tệ chút nào. Cô nhảy lùi qua cửa, đóng sập nó lại. Đường rút lui của cô thế là hết.

Đi giật lùi về phía cầu thang, ho sặc sụa, người cúi thấp, cố gắng tìm kiếm bất kỳ một dấu vết nào của Carole Ganz và Pammy. Liệu 823 có thay đổi quy luật hay không? Liệu hắn ta có bỏ qua tầng hầm và đưa những nạn nhân này lên tầng gác mái của nhà thờ hay không?

Rắc...

Cô ngẩng đầu lên nhìn rất nhanh. Một thanh rầm gỗ sồi, bốc lửa đùng đùng bắt đầu rơi xuống.

Sachs nhảy sang một bên với tiếng thét lớn nhưng bị vấp rồi ngã ngửa, nhìn lên một thanh gỗ khổng lồ đang lao thẳng xuống mặt và ngực cô. Cô giơ hai tay lên đỡ theo bản năng.

Một tiếng động ầm ĩ phát ra khi thanh gỗ hạ cánh trúng chiếc ghế học sinh trường Chủ nhật. Nó dừng lại cách đầu cô chỉ vài inch. Cô bò ra và đứng lên.

Nhìn quanh phòng, nhìn xuyên qua lớp khói đang đen dần.

Quỷ thật. Không, mình sẽ không đánh mất thêm một nạn nhân nào nữa. Sặc sụa, Sachs quay lại chỗ đống lửa và lần bước tới góc phòng mà cô chưa kiểm tra.

Lúc cô đang chạy tới trước, một cẳng chân thò ra từ phía sau tủ hồ sơ ngáng ngã cô.

Tay bay tới trước, Sachs sấp mặt tiếp đất, chỉ cách bể dầu cháy vài cm. Cô lăn nghiêng, rút súng và chĩa nó vào khuôn mặt hoảng loạn của một người phụ nữ tóc vàng đang cố gắng ngồi dậy.

Sachs gỡ băng dính ra khỏi miệng cô ta và người phụ nữ nhổ ra một bãi nước nhầy màu đen. Cô ta nôn khan một lúc, phát ra những âm thanh trầm, chết chóc.

“Carole Ganz?”

Cô ta gật đầu.

“Con gái chị đâu?” Sachs la lớn.

“Không có… ở đây. Tay tôi! Cái còng.”

“Không còn thời gian đâu. Đi nào.” Sachs lấy dao cắt dây, giải phóng mắt cá chân cho Carole.

Sau đó cô nhìn thấy một chiếc túi nhựa đang nóng chảy đối diện với bức tường gần cửa sổ.

Manh mối để lại! Những manh mối nói cho ta biết đứa bé gái đang ở đâu. Cô bước lại chỗ nó. Nhưng với một tiếng nổ inh tai, phòng nồi hơi đứt làm đôi, phun ra một làn sóng cao sáu inch dầu sôi lên sàn nhà, bao vây chiếc túi. Nó tan biến tức khắc.

Sachs nhìn nó trong giây lát rồi cô nghe thấy tiếng thét của người phụ nữ. Cả cầu thang lúc này đang cháy. Sachs đá bình cứu hỏa ra khỏi gầm cái bàn đang âm ỉ cháy. Cái tay cầm và vòi phun đã nóng chảy, không thể cầm vỏ bình kim loại vì quá nóng. Cô dùng dao cắt một mảnh áo khoác đồng phục và nắm cổ chiếc bình cứu hỏa nóng rẫy ném lên trên những bậc cầu thang đang bốc cháy. Nó dừng lại trong một khắc, giống như một con ky sau đó rơi xuống dưới.

Sachs rút khẩu Glock và khi cái trục đỏ lăn được nửa đường, cô bắn hết một băng.

Chiếc bình cứu hỏa nổ tung; những mảnh vỏ vỡ bay qua đầu họ. Một đám mây hình nấm carbon dioxide và bột xuất hiện trên cầu thang, ngay lập tức dập tắt phần lớn ngọn lửa.

“Đi thôi!” Sachs la lớn.

Họ cùng nhau nhảy ra hai bậc cầu thang một, Sachs mang trọng lượng của cả người cô và một nửa của người phụ nữ, cùng nhau lao qua cửa vào hỏa ngục của tầng trệt. Họ bám vào tường lần mò bước ra cửa, trong khi đó phía trên họ, những cánh cửa sổ kính màu vỡ tan tạo ra một cơn mưa mảnh vụn nóng bỏng – thân hình nhiều màu sắc của Jesus và Mathew, Mary và Chúa trời – xuống hai tấm lưng cúi gập của hai người phụ nữ đang trốn chạy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Bốn mươi phút sau, Sachs đã được xoa thuốc, băng bó, khâu và thở nhiều oxy nguyên chất đến mức cô có cảm giác mình đang say thuốc. Cô ngồi bên cạnh Carole Ganz. Họ đang nhìn những gì còn lại của nhà thờ. Thực ra chẳng còn lại gì ở đó. Chỉ là hai bức tường, thật lạ kỳ là một phần của tầng ba, vươn lên không gian phía bên trên đống tro tàn và mảnh vỡ trong tầng hầm, quang cảnh giống như trên mặt trăng.

“Pammy, Pammy…” Carole rên rỉ, sau đó nôn khan rồi nhổ. Cô ta cầm chiếc mặt nạ oxy của mình đưa lên mặt, ngửa người ra sau, mệt mỏi và đau đớn.

Sachs xem xét miếng giẻ tẩm cồn mà cô đang lau máu trên mặt. Đầu tiên chúng có màu nâu còn bây giờ bắt đầu chuyển sang màu hồng. Những vết thương không thực sự nghiêm trọng – một vết cắt trên trán, những vết bỏng độ hai trên cánh tay và cẳng tay. Môi cô không còn hoàn mỹ nữa, môi dưới đã bị cắt rất sâu trong vụ đâm xe, vết rách phải khâu ba mũi.

Carole bị ngạt khói và gãy cổ tay. Một cái nẹp tạm thời bọc lấy cổ tay trái của cô ta, cô ta nâng nó, đầu cúi xuống, nói qua hàm răng nghiến chặt. Mỗi hơi thở là một tiếng khò khè đầy đe dọa. “Thằng khốn ấy.” Ho. “Vì sao… lại là Pammy? Vì sao vậy? Một đứa trẻ ba tuổi!” Cô ta gạt những giọt nước mắt giận dữ bằng mu bàn tay không bị thương.

`“Có thể hắn ta không muốn làm hại con bé. Cho nên hắn chỉ đưa một mình cô đến nhà thờ.”

“Không”, cô ta giận dữ quát. “Hắn không quan tâm đến nó. Hắn là đồ bệnh hoạn! Tôi nhìn thấy cách hắn ta nhìn con bé. Tôi sẽ giết hắn. Tôi sẽ giết chết hắn.” Ngôn từ ác nghiệt biến cơn ho thành ác nghiệt hơn.

Sachs nhăn mặt vì đau. Cô lại vô thức chọc móng tay vào đầu ngón tay bỏng rát. Cô lấy cuốn nhật ký tuần tra. “Chị có thể kể lại cho tôi những gì xảy ra, được không?”

Giữa những cơn ho sâu trong họng và tiếng nức nở, Carole kể lại cho cô câu chuyện về vụ bắt cóc.

“Chị có muốn tôi gọi điện cho ai đó không?” Sachs hỏi. “Chồng chị chẳng hạn.”

Carole không trả lời. Cô ta kéo đầu gối lên tới cằm, tự ôm lấy mình, khò khè một cách nặng nhọc.

Bằng cánh tay phải bị bỏng, Sachs bóp chặt bắp tay người phụ nữ và nhắc lại câu hỏi.

“Chồng tôi…”, cô ta nhìn Sachs với cái nhìn khủng khiếp. “Chồng tôi chết rồi.”

“Ồ, tôi xin lỗi.”

Thuốc an thần làm Carole cảm thấy lảo đảo, một nữ nhân viên y tế đưa cô vào nghỉ trong xe cứu thương.

Sachs nhìn lên, thấy Lon Sellitto và Jerry Banks đang chạy lại phía cô từ nhà thờ cháy trụi.

“Lạy chúa, sĩ quan.” Sellitto đang khảo sát cảnh thương vong trên phố. “Bé gái sao rồi?”

Sachs gật đầu: “Hắn ta vẫn giữ con bé.”

Banks nói : “Cô ổn chứ?”

“Không có gì nghiêm trọng.” Sachs nhìn về phía chiếc xe cấp cứu. “Nạn nhân, Carole, cô ta không còn tiền, không có chỗ nghỉ ngơi. Cô ta đến đây để làm việc cho Liên Hiệp Quốc. Tôi nghĩ anh có thể gọi vài cú điện thoại, được không thám tử? Để xem họ có bố trí được gì cho cô ta một thời gian không?”

“Tất nhiên rồi”, Sellitto nói.

“Có để lại manh mối gì không?” Banks hỏi. Anh ta nhăn mặt khi chạm phải dải băng trên lông mày phải của mình.

“Mất rồi”, Sachs nói. “Tôi có nhìn thấy chúng. Ở dưới tầng hầm. Không lấy được chúng đúng lúc. Cháy và bị lấp mất tiêu rồi.”

“Ôi, trời.” Banks lẩm bẩm. “Chuyện gì sẽ xảy ra với đứa bé đây?”

Anh ta nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra với đứa bé?

Cô đi lại chỗ chiếc xe thùng IRD và tìm thấy cái tai nghe. Cô đeo nó vào và đã định yêu cầu gọi cho Rhyme nhưng sau đó chần chừ rồi ngắt mic. Cô có thể nói gì với anh được? Cô nhìn nhà thờ. Khám nghiệm hiện trường thế nào được khi không có hiện trường.

Cô đứng chống nạnh, nhìn chăm chăm vào đống tro tàn khổng lồ đang âm ỉ của tòa nhà, rồi cô nghe thấy một âm thanh mà cô không quen. Một âm thanh rền rĩ của máy móc. Cô không để ý thấy nó cho tới khi cô thấy Lon Sellitton dừng phủi bụi trên chiếc áo sơ mi. Anh ta nói: “Tôi không thể tin chuyện này.”

Cô quay về phía con phố.

Một chiếc xe hòm lớn màu đen đỗ cách đó một dãy nhà. Một chiếc cầu thủy lực chìa ra ngoài, bên trên có thứ gì đó. Cô liếc nhìn. Có vẻ như một con rô bốt phá bom. Cái cầu hạ xuống vỉa hè và con rô bốt lăn bánh.

Cô cười lớn.

Chiếc máy kỳ quặc quay về phía họ và bắt đầu chuyển động. Chiếc xe lăn làm cô nhớ tới một chiếc Pontiac Thunderbird, màu đỏ kẹo. Đó là kiểu xe lăn chạy điện, bánh sau nhỏ, ắc quy lớn và động cơ lắp bên dưới.

Thom đi bên cạnh nhưng chính Lincoln Rhyme lái xe – hoàn toàn kiểm soát, cô châm biếm nhận thấy – bằng một cọng rơm ngậm trong miệng. Kỳ lạ là chuyển động của anh trông lại trang nhã. Rhyme ghé vào chỗ cô và dừng lại.

“Được rồi, anh đã nói dối”, anh bất ngờ nói.

Cô thở dài. “Về cái lưng của anh? Khi anh nói anh không dùng được xe lăn?”

“Anh đang thú nhận mình nói dối. Em sẽ điên lên đấy, Amelia. Thế thì cứ điên lên đi rồi vượt qua nó.”

“Anh có nhận ra là, khi tâm trạng tốt anh gọi em là Sachs, còn lúc nào tâm trạng tệ hại anh gọi em là Amelia không?”

“Tâm trạng anh không tệ”, anh cáu kỉnh.

“Anh đúng là rất tệ đấy”, Thom đồng ý. “Anh ta rất ghét bị bắt quả tang.” Người trợ lý hất đầu về phía chiếc xe lăn. Cô nhìn về phía đó. Nó được công ty Action chế tạo, hiệu Storm Arrow[130]. Anh ta cất nó trong kho dưới nhà trong khi lại kể ra câu chuyện thảm hại của mình. Ồ, vì thế tôi sẽ để anh ta chịu đựng.”

“Không bình luận, Thom, cảm ơn cậu. Tôi đang xin lỗi, được chưa?Tôi. Xin. Lỗi.”

“Anh ta có nó mấy năm rồi”, Thom tiếp tục. “Học điều khiển nó bằng cách thổi với hút. Điều khiển bằng cọng rơm đó. Anh ta thực sự rất giỏi chuyện này. Và anh ta lúc nào cũng gọi tôi là Thom. Tôi chưa bao giờ được goi bằng họ.”

“Tôi rất mệt khi bị nhìn ngó”, Rhyme nói một cách thành thực. “Vì thế tôi lái xe nữa.” Sau đó nhìn cánh môi rách của cô, anh hỏi. “Có đau không?”

Cô chạm tay vào miệng, lúc này nó đã bị bẻ cong thành nét nhăn nhó. “Nhức kinh khủng.”

Rhyme nhìn sang bên: “Chuyện gì xảy ra với cậu thế, Banks? Cạo râu trên trán à?”

“Đâm đầu vào xe cứu hỏa.” Anh chàng nói và lại sờ vào chỗ dải băng.

“Rhyme”, Sachs bắt đầu, không cười nữa. “Chẳng có gì ở đây cả. Hắn ta có đứa bé còn em không kịp lấy được vật chứng để lại”

“À, Sachs, bao giờ cũng có thứ gì đó. Hãy tin vào lý thuyết của ngài Locard.”

“Em nhìn thấy chúng cháy hết, manh mối ấy. Và nếu còn lại gì đó thì nó cũng bị chôn dưới hàng tấn mảnh vỡ rồi.”

“Thế thì ta sẽ tìm kiếm những manh mối mà hắn không định để lại. Ta sẽ cùng khám nghiệm hiện trường, Sachs ạ. Em và anh. Đi thôi.”

Anh thổi hai hơi ngắn vào cọng rơm và tiến lên phía trước. Họ tiến tới gần nhà thờ thêm ba mét thì bất ngờ cô nói. “Đợi đã.”

Anh phanh lại.

“Anh bắt đầu lơ đễnh rồi đấy, Rhyme. Buộc ít dây cao su vào bánh xe đi chứ. Anh không muốn nhầm dấu vết của anh với dấu vết của tội phạm đấy chứ?”

“Chúng ta nên bắt đầu từ đâu?”

“Ta cần mẫu tro”, Rhyme nói. “Có mấy hộp sơn sạch ở sau xe. Xem em có tìm được một hộp không?”

Cô nhặt một cái hộp từ chỗ xác chiếc RRV.

“Em biết lửa phát ra từ đâu không?” Rhyme hỏi.

“Cũng biết.”

“Lấy một mẫu tro – khoảng một, hai hộp – càng gần chỗ phát lửa càng tốt.”

“Được rồi”, cô nói, trèo lên một bức tường gạch cao năm feet – tất cả những gì còn lại ở mặt phía bắc của nhà thờ. Cô nhìn xuống cái hố bốc khói dưới chân mình.

Một nhân viên cứu hỏa gọi: “Này sĩ quan, chúng tôi vẫn chưa dọn sạch khu này đâu. Nguy hiểm đấy.”

“Không nguy hiểm như lần trước tôi đến đây”, cô trả lời. Răng cắn quai hộp sơn, cô bắt đầu trèo xuống.

Khi Lincoln Rhyme nhìn cô, anh như đang nhìn thấy chính mình, ba năm rưỡi trước, lúc cởi áo vét để trèo xuống công trường xây dựng ở cửa vào của ga tàu điện ngầm gần Tòa Thị chính. “Sachs”, Rhyme gọi. Cô quay lại. “Cẩn thận đấy. Anh đã nhìn thấy chiếc RRV còn lại những gì. Anh không muốn mất em hai lần trong một ngày đâu.”

Cô gật đầu và biến mất qua bờ tường.

Sau vài phút, Rhyme quát Banks: “Cô ấy đâu rồi?”

“Tôi không biết.”

“Ý tôi là cậu đi xem cô ấy thế nào, hiểu không?”

“Ồ, tất nhiên rồi.” Cậu ta đi ra chỗ bức tường, nhìn qua.

“Ổn chứ?” Rhyme hỏi.

“Lung tung lắm.”

“Tất nhiên là lung tung. Cậu có nhìn thấy cô ấy không?”

“Không.”

“Sachs?” Rhyme la lớn.

Có tiếng gỗ kẽo kẹt khá lâu, sau đó là tiếng chạm. Bụi bốc lên.

“Sachs? Amelia?”

Không có tiếng trả lời.

Đúng lúc anh định gửi nhóm ESU vào tìm cô thì họ nghe thấy giọng của cô. “Tôi lên đây.”

“Jerry?” Rhyme gọi.

“Sẵn sàng”, viên thám tử trẻ tuổi trả lời.

Chiếc hộp bay từ dưới tầng hầm lên. Banks dùng một tay bắt nó. Sachs trèo ra khỏi tầng hầm, chùi tay vào quần, nhăn mặt.

“Ổn chứ?”

Cô gật đầu.

“Bây giờ thì khám nghiệm cái ngõ”, Rhyme ra lệnh. “Chỗ này lúc nào cũng có xe cộ đi lại nên hắn sẽ không muốn đỗ xe ở phố khi hắn lôi cô ta vào trong. Đó là chỗ hắn đỗ xe. Dùng cái cánh cửa ở ngay đây.”

“Làm sao anh biết?”

“Có hai cách để mở những cánh cửa khóa – không dùng chất nổ, thế thôi. Khóa và bản lề. Cánh cửa này đã bị bắt vít bên trong nên hắn tháo ốc bản lề. Thấy không, hắn không thèm bắt chúng lại đủ chặt khi hắn bỏ đi.”

Họ bắt đầu từ cánh cửa và đi dần ra phía sau một khe núi, tòa nhà đang âm ỉ bốc khói nằm phía bên phải họ. Di chuyển từng foot một, Sachs chiếu đèn PoliLight lên lớp sỏi. “Anh muốn tìm vết lốp xe”, Rhyme nói. “Anh muốn biết xe tải của hắn đỗ ở đâu.”

“Ở đây”, cô nói, kiểm tra mặt đất. “Dấu lốp. Nhưng em không biết lốp trước hay lốp sau. Hắn có thể lùi xe.”

“Nó mờ hay rõ? Vết lốp ấy?”

“Hơi mờ.”

“Thế thì là lốp trước.” Anh cười vẻ mặt hoang mang của Sachs. “Em là chuyên gia về xe cộ, Sachs. Lần sau em thử vào trong xe, khởi động xem thử em có xoay tay lái một chút trước khi đi không nhé. Để kiểm tra xem lốp có thẳng hướng hay không. Vết lốp trước luôn mờ hơn vết lốp sau. Còn bây giờ, chiếc xe bị mất là chiếc Ford Taurus những năm 1997. Chiều dài của nó là 195,7 inch từ đầu đến đuôi, khoảng cách giữa hai bánh là 108,5 inch. Khoảng cách từ tâm bánh sau đến cốp xe khoảng bốn mươi lăm inch. Đo khoảng cách ấy rồi hút bụi đi.”

“Nào Rhyme, sao anh biết được tất cả những thứ ấy?”

“Vừa tra cứu sáng nay. Em lấy quần áo nạn nhân chưa?”

“Rồi. Cả móng tay và tóc nữa. Mà Rhyme này, còn điều này nữa: đứa bé tên là Pammy nhưng hắn gọi nó là Maggie. Giống như hắn đã làm với cô gái người Đức – hắn gọi cô ta là Hanna, nhớ không?”

“Ý em là nhân cách khác của hắn làm như thế”, Rhyme nói. “Anh băn khoăn không biết ai là nhân vật trong vở kịch nhỏ của hắn.”

“Em sẽ hút bụi quanh cửa nữa”, cô tuyên bố. Rhyme nhìn cô – mặt bị rạch, tóc rối bù, vài chỗ bị cháy sém. Cô hút bụi phía dưới cửa và đúng lúc anh định nhắc cô là hiện trường vụ án có ba chiều thì cô đã khua máy hút bụi lên lần theo khung cửa.

“Có thể hắn nhìn vào trong trước khi đưa cô ta vào”, cô nói và bắt đầu hút bụi cả bậu cửa sổ.

Đó chính là mệnh lệnh tiếp theo của Rhyme.

Anh lắng nghe tiếng động của máy hút bụi Dustbuster. Nhưng anh dần dần tan biến. Vào quá khứ, mấy giờ trước.

“Em đang…”, Sachs bắt đầu.

“Suỵt…”, anh nói.

Như những lần dạo anh đã đi, như những buổi hòa nhạc anh đã dự, như rất nhiều cuộc trao đổi anh đã có, Rhyme trượt sâu dần vào tâm thức của mình. Và khi anh tới một nơi – anh cũng không biết đó là nơi nào – anh thấy không chỉ có một mình anh. Anh hình dung ra một người đàn ông thấp bé đeo găng tay, mặc bộ quần áo thể thao tối màu, đeo mặt nạ trượt tuyết. Trèo ra ngoài chiếc xe Ford Taurus, tỏa mùi chất tẩy rửa và mùi xe mới. Người phụ nữ – Carole Ganz – nằm trong cốp xe, đứa con gái của cô bị giữ trong một tòa nhà xây bằng đá cẩm thạch hồng và gạch đắt tiền. Anh nhìn thấy người đàn ông kéo người phụ nữ ra khỏi xe.

Điều đó thật là rõ ràng. Gần như là ký ức.

Bật bản lề, mở cửa ra, kéo cô ta vào, trói lại. Hắn bắt đầu đi ra nhưng rồi dừng lại. Hắn đến một nơi mà từ đó hắn có thể nhìn lại và thấy rõ Carole. Giống như hắn đã nhìn xuống người đàn ông mà hắn đã chôn cạnh đường ray buổi sáng hôm qua.

Giống như hắn đã xích Tammie Jean Colfax vào đường ống giữa phòng. Để hắn có thể nhìn cô thật rõ.

Nhưng mà vì sao? Rhyme băn khoăn. Vì sao hắn ta lại nhìn? Để đảm bảo nạn nhân không thể trốn chạy? Để đảm bảo hắn không để lại thứ gì? Để…

Mắt anh bật mở; hình ảnh của thủ phạm 823 biến mất. “Sachs! Có nhớ hiện trường Coltfax không? Chỗ em tìm thấy dấu găng tay?”

“Có chứ.”

“Em nói hắn nhìn cô ta, đó là lý do hắn xích cô ta ở chỗ thoáng. Nhưng em không biết tại sao. Được rồi, anh đã nghĩ ra. Hắn nhìn nạn nhân vì hắn phải nhìn.”

Vì đấy là bản chất của hắn.

“Ý anh là gì?”

“Nào!”

Rhyme hút mạnh ống hút hai lần để xoay chiếc xe lăn Arrow ngược lại. Sau đó thổi thật mạnh và anh tiến lên phía trước.

Anh lăn xe đến vỉa hè, hút mạnh để dừng xe. Anh liếc mắt nhìn xung quanh. “Hắn muốn nhìn nạn nhân, anh cá là hắn cũng muốn nhìn giáo dân nữa. Từ một chỗ nào đó mà hắn nghĩ là an toàn. Chỗ mà hắn không buồn quét trước khi bỏ đi.”

Anh đang nhìn qua phố, tập trung vào một vị trí hẻo lánh, thuận lợi trong khu nhà: hàng hiên ngoài đường của một nhà hàng đối diện nhà thờ.

“Đằng kia! Quét nó thật sạch vào, Sachs.”

Cô gật đầu, nạp một băng đạn mới vào khẩu Glock, lấy chiếc túi đựng vật chứng, một cặp bút chì và cái máy hút bụi. Anh nhìn thấy cô chạy qua phố và thận trọng đi lên cầu thang, vừa đi vừa kiểm tra các bậc thang. Hắn đã ở đây, cô nói to. “Có vết găng tay, và cả dấu giày – nó bị mòn giống như cái dấu giày kia.”

Đúng rồi! Rhyme nghĩ. Ồ, cảm giác thật dễ chịu. Mặt trời ấm áp, không khí, những người xem. Và sự phấn khích của cuộc săn đuổi

Khi ta di chuyển, chúng không thể bắt được ta.

Được rồi, nếu chúng ta di chuyển nhanh hơn, chúng ta có thể.

Rhyme tình cờ nhìn vào đám đông và thấy có mấy người nhìn anh chằm chằm. Nhưng còn nhiều người nhìn Amelia Sachs hơn.

Cô mải mê khoảng mười lăm phút tại hiện trường và khi quay lại cô giơ chiếc túi nhỏ đựng vật chứng.

“Em tìm thấy gì thế, Sachs? Giấy phép lái xe của hắn? Giấy khai sinh?”

“Vàng”, cô mỉm cười nói. “Em tìm được một ít vàng.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


“Nào mọi người”, Rhyme nói. “Ta phải xử lý vụ này thôi. Trước khi hắn đưa đứa bé đến hiện trường tiếp theo. Ý tôi nói là di chuyển!”

Thom chuyển Rhyme từ xe lăn lên giường, nhanh chóng nhấc anh lên một tấm bảng trượt rồi thả anh xuống chiếc giường Clinitron. Sachs nhìn vào chiếc thang nâng cái xe lăn được gắn vào một trong những cái tủ trong phòng ngủ – đó là cái tủ anh không muốn cô mở ra khi anh chỉ cho cô bộ dàn và đĩa CD.

Rhyme nằm yên một lúc, thở sâu vì đã quá nỗ lực.

“Manh mối đã bị mất”, anh nhắc lại với họ. “Chẳng có cách nào giúp ta biết được hiện trường tiếp theo ở đâu. Vậy chúng ta sẽ đánh quả lớn – hang ổ của hắn.”

“Cậu nghĩ là chúng ta có thể tìm thấy chỗ đó ư?” Sellitto hỏi.

Ta có lựa chọn nào khác không nhỉ? Rhyme nghĩ nhưng không nói gì.

Banks vội vàng đi lên cầu thang. Anh ta không vào phòng trước khi Rhyme buột miệng. “Họ nói gì? Nói tôi nghe. Nói tôi nghe.”

Rhyme biết mảnh vàng Sachs tìm được nằm ngoài khả năng của phòng thí nghiệm ngẫu hứng của Mel Cooper. Do đó, anh đã yêu cầu viên thám tử trẻ tuổi chạy nhanh đến phòng thí nghiệm tại văn phòng PERT của FBI để phân tích nó.

“Nửa tiếng nữa họ sẽ gọi cho chúng ta.”

“Nửa tiếng?” Rhyme lầm bầm. “Họ có ưu tiên cho nó không?”

“Chắc chắn là họ sẽ ưu tiên. Dellray đang ở đấy. Anh phải gặp anh ta. Anh ta ra lệnh dừng tất cả các vụ khác lại và nói nếu báo cáo luyện kim đó không được đưa ngay cho anh thì họ sẽ rắc rối to – anh biết cách anh ta nói thế nào rồi đấy.”

“Rhyme”, Sachs nói. “Cô Ganz còn kể một chuyện chắc cũng quan trọng. Hắn ta nói hắn sẽ để cô ấy đi nếu cô ấy đồng ý cho hắn vụt chân.”

“Vụt da chân?”

“Lóc da chân.”

“À, lột da[131] chân”, Rhyme chữa lại.

“Ồ. Nhưng hắn chẳng làm gì. Cô ta nói là có vẻ như cuối cùng hắn cũng không thể bắt bản thân hắn cắt vào chân cô ấy được.”

“Như ở hiện trường đầu tiên – người đàn ông cạnh đường tàu.” Sellitto khuyến nghị.

“Hay thật…”, Rhyme trầm ngâm. “Tôi nghĩ hắn cắt ngón tay nạn nhân để không ai dám ăn trộm chiếc nhẫn. Nhưng có thể không phải như vậy. Hãy xem hành vi của hắn: Cắt đứt ngón tay người lái taxi và đem nó theo. Cắt tay chân cô gái người Đức. Ăn trộm xương và bộ xương rắn. Lắng nghe khi bẻ gãy ngón tay Everett… Có gì đó trong cách hắn nhìn nạn nhân. Cái gì đó mang tính…”

“Giải phẫu.”

“Chính xác đấy, Sachs.”

“Ngoại trừ cô Ganz”, Sellitto nói.

“Quan điểm của tôi là”, Rhyme nói. “Hắn có thể cắt chân cô ta mà vẫn giữ cô ta còn sống cho chúng ta. Nhưng có gì đó ngăn hắn lại. Cái gì vậy?”

Sellitto nói: “Cô ta có gì khác biệt? Không thể chỉ vì cô ta là phụ nữ. Hoặc cô ta là người ngoại tỉnh. Cô gái Đức cũng vậy.”

“Có thể hắn không muốn làm đau cô ta trước mặt đứa con gái”, Banks nói.

“Không”, Rhyme nói dứt khoát, “lòng thương không phải là thứ hắn có.”

Sachs bất ngờ nói: “Nhưng có một điều khác biệt – cô ấy là một bà mẹ.”

Rhyme xem xét điều này. “Cũng có thể. Mẹ và con gái. Không đủ sức nặng để hắn thả họ ra. Nhưng đủ để ngăn hắn không tra tấn cô ta. Thom, viết vào nhé. Với một dấu hỏi.” Anh hỏi Sachs: “Cô ta có nói gì thêm về ngoại hình hắn không?”

Sachs lật cuốn sổ.

“Vẫn như trước”, cô đọc, “mặt nạ trượt tuyết, thân hình nhỏ bé, găng tay đen, hắn…”

“Găng tay đen?” Rhyme nhìn lên tờ giấy trên tường. “Không phải màu đỏ à?”

“Cô ấy nói là màu đen. Em đã hỏi lại xem cô ấy có chắc không.”

“Mẩu da khác cũng có màu đen, đúng không, Mel? Có thể đó chính là đôi găng tay. Thế thì miếng da đỏ ở đâu ra?”

Cooper nhún vai: “Tôi không biết nhưng ta tìm thấy một, hai miếng. Như vậy đó là thứ gần gũi với hắn.”

Rhyme nhìn vào những cái túi vật chứng. “Ta còn tìm được gì nữa nhỉ?”

“Dấu vết ta hút được trong ngõ và trên bậc cửa.” Sachs đổ túi lọc bụi ra một tờ báo và Cooper dùng kính lúp để soi. “Chẳng có gì hết”, anh ta tuyên bố. “Chủ yếu là đất. Một ít khoáng chất. Đá phiến diệp thạch mica vùng Manhattan. Chất feldspar[132].”

Những thứ này có khắp nơi trong thành phố.

“Tiếp tục đi.”

“Lá cây mục. Thế thôi.”

“Còn quần áo của cô Ganz thì sao?”

Cooper và Sachs mở tờ báo ra và xem xét dấu vết.

“Chủ yếu là đất”, Cooper nói. “Vài mẩu trông giống như đá.”

“Tuyệt!” Rhyme la lớn. Nói với Cooper: “Đốt nó lên đi. Chỗ đất ấy.”

Cooper đặt một mẩu vào máy GC-MS. Họ nóng lòng chờ đợi kết quả. Cuối cùng thì màn hình máy tính cũng nhấp nháy. Tấm lưới trên màn hình gợi nhớ khung cảnh mặt trăng.

“Được rồi, Lincoln. Thú vị đấy. Tôi đọc thấy có chất tannin và…”

“Sodium carbonate?”

“Ngạc nhiên chưa?” Cooper cười. “Sao anh biết?”

“Người ta dùng nó trong các xưởng thuộc da thế kỷ XVIII và XIX. Tannic acid xử lý da sống còn kiềm làm cho nó chắc hơn. Như thế là nơi ẩn nấp an toàn của hắn ở gần một xưởng thuộc da cũ.”

Anh cười. Không thể dừng được. Anh nghĩ: Mày có nghe tiếng bước chân không, 823? Chúng ta đang theo sau mày đấy.

Mắt anh lướt sang tấm bản đồ Randel Survey. “Vì chúng bốc mùi nên không ai muốn có xưởng thuộc da trong khu của họ, do đó ủy ban thành phố đã hạn chế chúng. Tôi biết một vài nơi ở bên Lower East Side. Và ở West Greenwich Village – khi nó thực sự còn là một khu làng, khu ngoại ô thành phố. Sau đó là phía West Side trong những năm 1950 – gần đường hầm ở bãi chăn, nơi ta tìm thấy cô gái người Đức. Ồ, cả ở Harlem trong những năm 1900.”

Rhyme nhìn danh sách những cửa hàng thực phẩm – vị trí những cửa hàng ShopRite có bán chân bê. “Chelsea bị loại. Không có thuộc da ở đây. Harlem cũng vậy – không có cửa hàng ShopRite ở đây. Như vậy còn lại West Village, Lower East Side hay Midtown West Side – lại là Hell’s Kitchen. Có vẻ hắn thích chỗ này.”

Chỉ khoảng mười dặm vuông, Rhyme đánh giá sơ bộ. Từ ngày đầu tiên đi làm anh đã nhận ra rằng trốn ở Manhattan còn dễ hơn ở North Woods.

“Tiếp tục đi. Còn hòn đá trong quần áo của Carole thì sao?”

Cooper đang cúi xuống kính hiển vi. “Được rồi. Có rồi.”

“Chuyển sang cho tôi đi, Mel.”

Màn hình máy tính của Rhyme hoạt động trở lại, anh ngắm nghía những mảnh đá và tinh thể, trông như những thiên thạch kim cương.

“Di chuyển nó đi”, Rhyme hạ lệnh. Ba vật chất bám dính lấy nhau.

“Mẩu bên trái là đá cẩm thạch hồng”, Cooper nói. “Giống như mẫu đá trước đây ta tìm thấy. Ở giữa, thứ màu xám…”

“Là vữa. Và cái kia là đá cát kết nâu.” Rhyme tuyên bố. “Nó từ một ngôi nhà kiểu liên bang, như Tòa Thị chính năm 1812. Chỉ có mặt tiền được lát đá cẩm thạch; phần còn lại là đá cát kết nâu. Họ làm thế để tiết kiệm chi phí. À, họ làm thế để tiền mua đá cẩm thạch có thể tìm được đường vào túi. Còn bây giờ, chúng ta có gì nữa nhỉ? Tàn tro. Thử tìm chất phát hỏa xem.”

Cooper đưa mẫu tro vào máy GC-MS. Anh ta nhìn chăm chăm vào đường cong xuất hiện trên màn hình.

Xăng mới được lọc, có chứa phẩm màu và chất phụ gia của nhà sản xuất, mang tính đặc thù và có thể lần ngược tới một nguồn duy nhất nếu các lô xăng khác nhau không bị trộn lẫn ở trạm mà tội phạm mua xăng. Cooper nói xăng tuyệt đối trùng với loại bán ở các trạm bảo dưỡng xe hơi Gas Exchange.

Banks vớ lấy Những Trang Vàng và mở ra. “Ta có sáu trạm xăng ở Manhattan. Ba trạm trong nội thành. Một ở Đại lộ Sáu và Houston, một ở Delancey, 503 East. Một ở Đại lộ Mười chín và Tám.”

“Đại lộ Mười chín quá xa về phía Bắc”, Rhyme nói. Anh nhìn bảng hồ sơ. “East Side hay West Side. Ở đâu nhỉ?”

Cửa hàng thực phẩm, xăng…

Một thân hình gầy guộc bất ngờ lấp đầy cánh cửa.

“Tôi vẫn được mời dự tiệc ở đây đấy chứ?” Frederick Dellray hỏi.

“Còn tùy”, Rhyme đáp lời. “Xem anh có đem quà đến không?”

“À, tha hồ mà quà.” Viên đặc vụ nói, vẫy cái phong bì có trang trí hình tròn quen thuộc của biểu tượng FBI.

“Anh có bao giờ gõ cửa không, Dellray?” Sellitto hỏi.

“Mất thói quen đó rồi, anh biết đấy.”

“Vào đi”, Rhyme nói. “Anh có gì nào?”

“Không biết chắc lắm. Chẳng có ý nghĩa gì với tôi. Nhưng mà tôi biết gì nào?”

Dellray đọc qua báo cáo rồi nói: “Tony Farco ở PERT, nhân tiện anh ta gửi lời chào anh đấy, Lincoln, đã phân tích mẫu vật chứng mà các cậu tìm thấy. Hóa ra đấy là một lá vàng. Có thể khoảng sáu mươi đến tám mươi năm tuổi rồi. Anh ta còn thấy mấy sợi cellulose dính ở đó nên anh ta nghĩ nó rơi ra từ một cuốn sách.”

“Tất nhiên rồi! Phần mạ vàng đầu trang”, Rhyme nói.

“Anh ta còn tìm thấy mấy hạt mực trên đó. Anh ta nói, tôi trích dẫn nhé: ‘Nó không phải không nhất quán với loại mực Thư viện Công cộng New York dùng để đóng dấu ở đầu sách’. Anh ta nói thật khôi hài, phải không?”

“Một cuốn sách thư viện”, Rhyme trầm ngâm.

Amelia Sachs nói: “Một cuốn sách bìa da đỏ của thư viện.”

Rhyme nhìn cô chăm chăm. “Đúng rồi!” Anh la lớn. “Đó chính là gốc của những miếng da đỏ. Không phải găng tay. Đó là một cuốn sách mà hắn luôn mang theo. Có thể là Kinh Thánh của hắn.”

“Kinh Thánh?” Dellray hỏi. “Anh nghĩ hắn là một kẻ cuồng tôn giáo hay sao?”

“Không phải là Kinh Thánh đó, Fred. Banks, gọi lại cho thư viện đi. Có thể đó chính là cách hắn mài mòn đôi giày của hắn – trong phòng đọc. Tôi biết, đoán thế là quá xa. Nhưng chúng ta không có nhiều lựa chọn. Tôi muốn có danh sách tất cả các cuốn sách cổ bị lấy cắp từ các nơi trong phạm vi Manhattan trong năm qua.”

“Sẽ làm.” Chàng thanh niên xoa xoa vết sẹo cạo râu khi anh ta gọi đến nhà Thị trưởng, thẳng thừng xin phép ngài liên hệ với giám đốc thư viện công cộng và nói với ông ta những gì họ cần.

Nửa tiếng sau, máy fax reo chuông và nhả ra hai trang giấy. Thom kéo giấy ra khỏi máy. “Ôi trời, ngón tay của độc giả thành phố này dính quá”, cậu ta nói khi đem nó đến cho Rhyme.

Tám mươi tư cuốn sách có tuổi đời năm mươi năm hoặc lâu hơn đã biến khỏi các chi nhánh của thư viện công cộng trong vòng mười hai tháng qua, ba mươi lăm cuốn ở Manhattan.

Rhyme lướt qua danh sách. Dickens, Austen[133], Hemingway, Dreiser[134]… Sách về âm nhạc, triết học, rượu vang, phê bình văn học, truyện cổ tích. Giá của những cuốn sách này thấp đến mức đáng ngạc nhiên. Hai mươi, ba mươi đô la. Anh nghĩ rằng không cuốn nào trong số này là bản in lần thứ nhất, nhưng có lẽ bọn trộm không biết điều này.

Anh tiếp tục lướt qua danh sách.

Không có gì. Không có gì. Có thể là…

Và rồi anh nhìn thấy nó.

Crime in Old New York, tác giả Richard Wille Stephans, do Bountiful Press xuất bản năm 1919. Giá của nó được liệt kê là sáu mươi lăm đô la, và nó bị đánh cắp từ chi nhánh Phố Delancey của Thư viện Công cộng New York chín tháng trước. Nó được mô tả là có kích thước năm nhân bảy inch, được bọc bằng da dê mềm, bìa sau phủ cẩm thạch, gáy mạ vàng.

“Tôi muốn một bản. Tôi không quan tâm làm sao mà có được. Cho ai đó đến Thư viện Quốc hội nếu cần.”

Dellray nói: “Để tôi lo vụ này.”

Cửa hàng thực phẩm, xăng, thư viện…

Rhyme cần quyết định. Có khoảng ba trăm nhân viên tìm kiếm – cảnh sát, quân đội bang và đặc vụ liên bang – nhưng họ sẽ bị trải siêu mỏng nếu như họ phải tìm cả West Side và East Side của khu trung tâm New York.

Anh nhìn lên bảng hồ sơ.

Nhà máy ở West Village phải không? Rhyme lặng lẽ hỏi 823. Liệu mày có đánh cắp sách và mua xăng ở East Side để lừa bọn tao không? Hay đó thực sự là khu của mày? Không, vấn đề không phải là mày thông minh đến đâu, mà là mày nghĩ mày thông minh đến đâu. Mày tự tin về chuyện bọn tao không thể tìm những mảnh li ti của mày đến mức nào, những mảnh nhỏ mà Ngài Locard bảo đảm với bọn tao là mày sẽ phải để lại?

Cuối cùng Rhyme ra lệnh. “Đi tìm ở Lower East Side. Quên West Village đi. Đưa tất cả mọi người tới đó. Tất cả lính của Bo, tất cả lính của anh nữa, Fred. Đây là thứ mà các anh cần tìm: một ngôi nhà lớn kiểu liên bang gần hai trăm năm tuổi, mặt tiền đá cẩm thạch hồng, hai bên và phía sau là đá cát kết nâu. Có thể đã từng là một biệt thự hay một tòa nhà công cộng. Có một cái ga ra hoặc nhà để xe ngựa bên cạnh. Một chiếc Taurus sedan hay Yellow Cab qua lại trong vài tuần qua. Thường xuyên hơn vào những ngày gần đây.”

Rhyme nhìn Sachs.

Bỏ qua người đã chết…

Sellitto và Dellray gọi điện.

Sachs nói với Rhyme: “Em cũng đi.”

“Anh không trông chờ điều gì khác.”

Khi cánh cửa đóng lại phía dưới nhà, anh thì thầm. “Chúc may mắn, Sachs. Chúc may mắn.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


Ba chiếc xe tuần tra chậm rãi chạy dọc theo những con phố của Lower East Side. Hai tên cớm trong một xe. Ánh mắt tìm kiếm.

Một lát sau, hai chiếc xe độc mã đen xuất hiện… ý hắn là hai chiếc sedan. Không được đánh dấu, nhưng ánh đèn tìm kiếm dưới gương chiếu hậu bên trái đã không để lại chút nghi ngờ nào về việc họ là ai.

Hắn biết họ sẽ thu hẹp vùng tìm kiếm, tất nhiên là như vậy, chỉ là vấn đề thời gian trước khi họ tìm thấy nhà hắn. Nhưng hắn bị sốc khi thấy họ ở gần như vậy. Và đặc biệt hắn khó chịu khi mấy tên cớm đã ra khỏi xe và kiểm tra chiếc Taurus màu bạc đỗ trên phố Canal.

Làm thế quái nào mà chúng tìm được xe ngựa của hắn? Hắn biết rằng ăn trộm xe có rủi ro rất lớn nhưng hắn nghĩ phải mất vài ngày Hertz mới biết đến chiếc xe bị mất cắp. Mà kể cả họ có phát hiện được thì hắn chắc chắn rằng cớm sẽ không bao giờ liên kết hắn với kẻ trộm. Chà, họ giỏi đấy chứ.

Một trong những tên cớm có ánh mắt độc ác liếc nhìn chiếc xe của hắn.

Nhìn thẳng về phía trước, Kẻ Tầm Xương chậm rãi rẽ vào Phố Houston, biến mất trong một đám đông xe taxi khác. Nửa tiếng sau, hắn bỏ rơi chiếc taxi, chiếc Hertz Taurus, đi bộ về nhà.

Maggie bé nhỏ ngước nhìn hắn.

Con bé đang hoảng sợ, nhưng nó đã không khóc nữa. Hắn băn khoăn không biết có nên giữ con bé hay không. Kiếm cho mình một đứa con gái. Nuôi nấng nó. Ý nghĩ này xuất hiện trong đầu hắn chỉ một khoảnh khắc rồi biến mất.

Không, sẽ có quá nhiều câu hỏi. Ngoài ra, còn có điều gì đó ghê rợn trong cái cách con bé nhìn hắn. Trông con bé có vẻ già trước tuổi. Nó sẽ luôn nhớ hắn đã làm những gì. Ồ, nhưng có thể nó sẽ nghĩ đó chỉ là giấc mơ. Nhưng rồi một ngày nào đó, sự thực sẽ lộ ra. Luôn luôn là vậy. Có giấu thế nào chăng nữa, sự thực vẫn sẽ lộ ra.

Không, hắn không thể tin con bé nhiều hơn hắn tin bất cứ ai khác. Cuối cùng thì bất cứ linh hồn tội nghiệp nào cũng có thể làm hại hắn. Mày có thể tin tưởng sự căm thù. Mày có thể tin tưởng xương cốt. Tất cả những thứ còn lại chỉ là sự phản bội.

Hắn quỳ xuống cạnh Maggie và bóc miếng băng dính khỏi miệng cô bé.

“Mẹ ơi!” Con bé gào khóc. “Cháu muốn mẹ!”

Hắn không nói gì, chỉ đứng đó và nhìn xuống con bé. Nhìn vào hộp sọ mỏng manh của nó. Những cánh tay mỏng manh của nó.

Nó la hét như còi báo động.

Hắn lấy đôi găng tay. Những ngón tay của hắn lơ lửng trên đầu con bé trong giây lát. Sau đó hắn vuốt ve mớ tóc mềm mại của nó. (“Có thể lấy được dấu tay trên da thịt, nếu lấy trong vòng chín mươi phút sau khi tiếp xúc (Xem KROMEKOT) nhưng chưa có ai lấy được và tái tạo lại dấu vân tay từ tóc người.” Lincoln Rhyme, Vật chứng, xuất bản lần thứ tư, New York: Forensic Press, 1994.)

Kẻ Tầm Xương chậm rãi đứng dậy và leo lên cầu thang, vào một phòng khách lớn trong tòa nhà, đi qua những bức vẽ trên tường – những người công nhân, những người phụ nữ và trẻ em đang nhìn chằm chằm. Hắn nghiêng đầu lắng nghe tiếng động mờ nhạt phía bên ngoài. Sau đó lớn dần – tiếng kim loại va vào nhau loảng xoảng. Hắn vơ vũ khí và vội vã chạy ra phía sau tòa nhà. Mở chốt cánh cửa rồi bất thình lình đẩy nó mở tung, hắn đã ở tư thế hai tay giương súng.

Một đàn chó hoang đang nhìn hắn. Chúng nhanh chóng quay trở lại với cái thùng rác vừa bị chúng lật đổ. Hắn đút súng vào túi và quay lại phòng khách.

Hắn lại thấy mình đứng cạnh ô cửa sổ kính chai, nhìn ra bãi tha ma cũ. Đúng rồi. Đằng kia! Lại có một người đàn ông mặc đồ đen đứng trong nghĩa địa. Phía xa, bầu trời bị đâm thủng bởi cây cột buồm của những con thuyền cao tốc và thuyền buồm đang đậu trên sông Đông dọc theo bờ Out Ward.

Kẻ Tầm Xương cảm thấy một nỗi buồn nặng trĩu. Hắn băn khoăn không hiểu có phải vừa xảy ra thảm kịch gì hay không. Có thể là đám cháy lớn năm 1776 vừa mới phá hủy hầu hết những tòa nhà ở Broadway. Hay dịch sốt vàng da năm 1795 đã tàn sát cộng đồng người Ireland. Hay đám cháy trên du thuyền tướng Slocum năm 1904 vừa giết chết hơn một nghìn phụ nữ và trẻ em, tàn phá khu kiều dân Đức ở Lower East Side.

Hoặc hắn đang cảm thấy những thảm kịch sắp diễn ra.

Sau vài phút, tiếng la hét của Maggie đã lắng xuống, thay vào đó là những âm thanh của thành phố xưa, tiếng gầm của động cơ hơi nước, tiếng chuông leng keng, tiếng súng nổ, tiếng vó ngựa cộng hưởng trên những con đường trải sỏi.

Hắn tiếp tục nhìn, quên đi những tên cớm đang theo dấu hắn, quên đi Maggie, chỉ còn nhìn hình ảnh ma quái đang trôi trên phố.

Ngày đó và bây giờ.

Mắt hắn tập trung ra ngoài cửa sổ một lúc lâu, lạc lối vào một thời đại khác. Vì thế hắn không nhận thấy những con chó hoang, chúng đã đi qua cánh cửa hậu hắn để mở tung. Chúng nhìn hắn qua ô cửa phòng khách và chỉ dừng lại một thoáng trước khi quay lại và lặng lẽ nhảy ra phía sau ngôi nhà.

Mũi hếch lên ngửi mùi, tai lắng nghe những tiếng động của một nơi chốn xa lạ. Nhất là tiếng khóc lóc yếu ớt vang lên từ đâu đó bên dưới chúng.

Đó là dấu hiệu của sự tuyệt vọng, khi mà những Chàng trai Dũng cảm cũng phải tách nhau ra.

Bedding tìm kiếm khoảng nửa tá khu nhà quanh Delancey, Saul ở xa hơn về phía nam. Sellitto và Banks, ai cũng có khu vực tìm kiếm của mình, cùng với hàng trăm sĩ quan, đặc vụ FBI và quân nhân khác. Họ đang tìm kiếm từng nhà, hỏi về một người đàn ông nhỏ bé, một đứa trẻ kêu khóc, một chiếc Taurus màu bạc, một tòa nhà kiểu liên bang bị bỏ hoang, mặt tiền là đá cẩm thạch, phần còn lại là đá cát kết nâu.

Hả? Ý anh muốn nói cái gì, kiểu liên bang?... Có nhìn thấy đứa bé không à? Anh hỏi tôi có nhìn thấy một đứa bé ở Lower East Side không ư? Này Jimmy, cậu có nhìn thấy đứa bé nào quanh đây không? Ít nhất là không phải trong sáu mươi giây vừa qua?

Amelia Sachs đang thả lỏng người. Cô đòi được tham gia nhóm của Sellitto, nhóm đi đến cửa hàng ShopRite ở Đông Houston, nơi đã bán chân bê cho thủ phạm 823. Và đến trạm xăng đã bán xăng cho hắn. Thư viện nơi hắn chôm cuốn Crime in Old New York.

Nhưng họ không tìm thấy manh mối gì ở đây và tản ra như những con sói ngửi thấy quá nhiều mùi. Mỗi con chọn lấy một lãnh địa để tự nhận là của mình.

Sachs khởi động chiếc RRV mới để đến một khối nhà khác, cô cảm thấy sự bất ổn quen thuộc khi khám nghiệm hiện trường trong mấy ngày qua: quá nhiều chứng cứ, quá nhiều sân phải bao. Cảm thấy sự vô vọng của nó. Ở đây, trên những con phố nóng bức, khó chịu, rẽ nhánh thành hàng trăm con phố và ngõ khác, chạy qua hàng nghìn ngôi nhà – tất cả đều đã cũ – việc tìm kiếm nơi ẩn nấp cũng có vẻ bất khả thi như tìm kiếm một sợi tóc như Rhyme đã kể với cô, bị dính lên trần nhà do sức giật của khẩu ổ quay .38.

Cô định đến từng con phố, nhưng thời gian trôi đi và khi cô nghĩ đến đứa bé bị chôn dưới hầm sắp chết, cô bắt đầu tìm kiếm nhanh hơn, lao trên các con phố, nhìn sang hai bên để tìm tòa nhà bằng đá cẩm thạch hồng. Sự hoài nghi làm cô đau đớn. Cô có bỏ qua tòa nhà nào vì quá vội vàng không? Hay cô cần lái xe nhanh như chớp và qua nhiều phố hơn?

Tiếp tục. Một khối nhà, thêm khối nữa. Vẫn chẳng có gì.

Sau cái chết của tên tội phạm, dấu vết của hắn được các thám tử thu thập và nghiên cứu kỹ. Nhật ký của hắn cho thấy hắn đã giết tám công dân lương thiện của thành phố. Hắn cũng là kẻ trộm mộ, vì từ những trang viết của hắn có một điều chắn chắn là (nếu như những tuyên bố của hắn được coi là sự thực) hắn đã xâm hại một số nơi yên nghỉ thiêng liêng trong các nghĩa địa quanh thành phố. Không nạn nhân nào sỉ nhục hắn; phần lớn họ là những công dân trung thực, cần cù và vô tội. Tuy vậy, hắn vẫn không thấy mình có lỗi. Thực sự, hắn có vẻ hoạt động với một sự ảo tưởng điên rồ rằng, hắn đang ban cho nạn nhân của mình những ân huệ.

Ngón tay trái của Lincoln Rhyme động nhẹ và chiếc khung lật trang giấy màu vỏ hành của cuốn Crime in Old New York, cuốn sách được hai nhân viên liên bang đem tới mười phút trước, dịch vụ này được cung cấp nhờ phong cách không thể bắt chước của Fred Dellray.

“Thịt da tan biến và cơ thể yếu đuối – (tên tội phạm viết bằng nét chữ thô thiển nhưng đều đặn) – xương cốt là phần mạnh nhất của cơ thể. Có thể thịt da chúng ta già cỗi, nhưng xương cốt chúng ta luôn tươi trẻ. Đó là mục đích cao quý của tôi, nó vượt qua tôi và làm sao mà ai đó lại có thể tranh luận về nó được. Tôi ban ơn cho họ. Tất cả bọn họ giờ đã bất tử. Tôi giải phóng họ. Tôi chiếm hữu họ đến tận xương.”

Terry Dobyns đã đúng. Chương Mười: “James Schneider: Kẻ Tầm Xương”, là bản thiết kế cho hành vi của Đối tượng 823. MO giống hệt nhau – lửa, động vật, nước, luộc sống. 823 lảng vảng ở những nơi Schneider đã đến. Hắn nhầm một khách du lịch người Đức với Hanna Goldschmidt, một người nhập cư đầu thế kỷ, và hắn đã bị lôi kéo đến khu dân cư người Đức để tìm kiếm nạn nhân. Và hắn gọi Pammy Ganz bé nhỏ bằng một cái tên khác – Maggie. Rõ ràng hắn nghĩ rằng cô bé là O’Connor, một trong những nạn nhân của Schneider.

Trong cuốn sách có một bức tranh khắc acid rất tệ, được bọc bằng giấy, minh họa James Schneider ma quái đang ngồi trong tầng hầm, ngắm nghía cái xương chân.

Rhyme nhìn chăm chăm vào tấm bản đồ Randel Survey của thành phố.

Xương cốt…

Rhyme nhớ lại một hiện trường vụ án mà anh đã một lần khám nghiệm. Anh được gọi đến một công trường xây dựng ở Lower Manhattan, nơi máy xúc phát lộ ra một cái sọ người nằm cách mặt đất vài feet trong một khu đất trống. Ngay lập tức Rhyme thấy rằng cái sọ đã rất cũ và anh mời nhà pháp y nhân chủng học tham gia vào vụ này. Họ tiếp tục đào và phát hiện thêm một số xương và sọ người nữa.

Một nghiên cứu nhỏ cho thấy năm 1741 có một cuộc nổi loạn của nô lệ ở Manhattan, một số nô lệ – và những người da trắng theo chủ nghĩa bãi nô – đã bị treo cổ trên một hòn đảo nhỏ ở Collect. Hòn đảo này trở thành một pháp trường treo cổ. Một vài nghĩa địa không chính thức và mỏ đất sét đã được tìm thấy trong khu vực.

Collect là ở chỗ nào nhỉ? Rhyme cố nhớ lại. Gần nơi giao nhau giữa Chinatown và Lower East Side. Nhưng khó nói được chắc chắn vì cái ao đã bị lấp rất lâu rồi. Nó đã là…

Đúng rồi! Anh nghĩ, tim đập mạnh. Collect bị lấp đi vì nó đã ô nhiễm tới mức ủy ban thành phố coi nó là nguy cơ lớn đối với sức khỏe. Một số nơi gây ô nhiễm chính là những xưởng thuộc da phía Đông.

Đã khá thuần thục với bộ quay số, Rhyme không quay nhầm số nào và chỉ cần một lần anh đã gọi được cho Thị trưởng. Tuy nhiên, người thư ký nói hiện giờ ông ta đang ăn sáng với Liên Hiệp Quốc. Nhưng khi Rhyme xưng tên, người thư kí nói. “Xin chờ một phút, thưa ngài.” Không phải chờ lâu đến thế, anh đã được nói chuyện với một người đàn ông vừa nói miệng vừa đầy thức ăn: “Nói đi, thám tử. Công việc của các anh có cái mẹ gì hay không?”

“5885, nghe rõ.” Amelia Sachs trả lời máy bộ đàm. Rhyme nghe thấy sự bực dọc trong giọng nói của cô.

“Sachs.”

“Không hay rồi.” Sachs nói với anh. “Chúng ta không gặp may.”

“Anh nghĩ anh đã tóm được hắn rồi.”

“Cái gì?”

“Khối nhà sáu trăm, East Van Brevoort. Gần Chinatown.”

“Làm sao anh biết?”

“Thị trưởng vừa giúp anh liên lạc với giám đốc Hội Sử học. Ở đó có một khu khai quật khảo cổ. Một nghĩa địa cũ. Đối diện với chỗ trước đây từng là một xưởng thuộc da. Ở đó trước đây đã có mấy ngôi biệt thự kiểu liên bang. Anh nghĩ hắn ở gần đấy.”

“Em đi đây.”

Anh nghe thấy tiếng lốp xe rít lên, sau đó là tiếng còi hụ.

“Anh đã gọi cho Lon và Haumann”, anh nói thêm. “Họ cũng đang trên đường tới đó.”

“Rhyme”, giọng nói khẩn cấp của cô vang lên. “Em sẽ cứu cô bé ra.”

À, em có một trái tim nhân hậu của một cảnh sát, Amelia, một trái tim chuyên nghiệp, Rhyme nghĩ. Nhưng em vẫn chỉ là lính mới. “Sachs?” Anh nói.

“Vâng?”

“Anh đã đọc cuốn sách ấy. 823 đã chọn một kẻ xấu xa làm hình mẫu cho hắn. Một kẻ thực sự xấu xa.”

Cô không nói gì.

“Điều anh định nói là”, anh tiếp tục, “bất kể cô bé có ở đó hay không, nếu em tìm thấy hắn và hắn phản ứng, em phải hạ hắn ngay.”

“Nhưng ta có thể bắt sống hắn, hắn có thể dẫn ta đến chỗ cô bé. Ta có thể…”

“Không, Sachs. Nghe anh này. Em hạ hắn. Khi có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy hắn lấy vũ khí, bất kỳ thứ gì… em hãy hạ hắn.”

Tiếng tĩnh điện loạt xoạt. Sau đó anh nghe thấy giọng nói bình thản của cô. “Em đang ở East Van Brevoort, Rhyme ạ. Anh đã đúng. Trông giống như chỗ của hắn.”

Mười tám chiếc xe không số, hai xe thùng ESU và chiếc RRV của Sachs tụ tập gần một con phố ngắn, hoang vắng ở Lower East Side.

East Van Brevoort trông như ở Sarajevo. Các tòa nhà bị bỏ hoang, một vài tòa nhà đã bị đốt trụi. Phía đông con phố là một bệnh viện đổ nát, mái của nó đã trũng xuống. Bên cạnh là một cái hố lớn trên mặt đất, không có dây chắn, với tấm biển Cấm vào có đóng dấu của Tòa án Quận – một khu khai quật khảo cổ mà Rhyme đã nhắc đến. Một con chó gầy giơ xương đã chết nằm trong ống máng, bị chuột gặm.

Ở giữa bên kia phố là một ngôi nhà mặt tiền cẩm thạch, màu hồng nhạt với một nhà xe bên cạnh, trông khả dĩ hơn một chút so với những ngôi nhà đổ nát dọc Van Brevoort.

Sellitto, Banks và Haumann đứng cạnh chiếc xe thùng ESU trong khi một tá sĩ quan khác đang mặc áo giáp chống đạn và kiểm tra những khẩu M-16. Sachs đi cùng họ, không hỏi han, nhét mớ tóc vào mũ bảo hiểm và bắt đầu mặc áo giáp.

Sellitto nói: “Này Sachs, cô không phải là lính chiến thuật.”

Kéo dây chiếc áo khóa dán Velcro xuống, cô nhìn chằm chằm vào viên thám tử, lông mày nhướn cao, cho tới khi anh ta chịu nhượng bộ: “Được rồi, nhưng cô ở hàng chặn hậu. Đó là mệnh lệnh.”

Haumann nói: “Cô sẽ ở Nhóm Hai.”

“Vâng, thưa ngài. Tôi chịu được việc này.”

Một sĩ quan ESU đưa cho cô khẩu súng máy MP-5. Cô nghĩ tới Nick – cuộc hẹn hò của họ ở trường bắn tại Rodman’s Neck. Họ tập bắn súng tự động trong hai giờ, bắn theo hình chữ Z qua cửa, nạp đạn nhanh bằng cái kẹp đạn hình quả chuối và tháo súng M-16 để lau sạch cát. Nick thích bắn từng loạt ngắn nhưng Sachs không thích hỏa lực hỗn loạn của những thứ vũ khí lớn cho lắm. Cô đề nghị một trận đấu giữa chúng với khẩu Glock và đã thắng anh ba lần liên tiếp từ khoảng cách mười lăm feet. Anh cười và hôn cô say đắm khi những vỏ đạn cuối cùng văng ra, nảy trên nền trường bắn.

“Tôi dùng súng của mình thôi”, cô nói với viên sĩ quan ESU.

Những Chàng trai Dũng cảm chạy tới, lom khom như thể sợ xạ thủ bắn tỉa.

“Chúng tôi có tin đây. Chẳng có ai ở đây. Khu này…”

“Hoàn toàn trống rỗng.”

“Cửa sổ nhà hắn đều bị chặn. Lối vào phía sau…”

“Đi theo ngõ. Cửa mở.”

“Mở?” Haumann hỏi, nhìn các sĩ quan của mình.

Saul khẳng định: “Không những không khóa mà mở.”

“Bẫy à?”

“Chúng tôi không nghĩ vậy. Nhưng không có nghĩa là…”

“Không có gì.”

Sellitto hỏi: “Trong ngõ có cái xe nào không?”

“Không.”

“Hai cửa vào. Một cửa chính đằng trước…”

“Trông có vẻ đóng chặt. Cửa vào thứ hai là của nhà để xe. Cửa kép, đủ rộng cho hai xe. Dùng khóa xích.”

“Nhưng đều nằm trên sàn cả.”

Haumann gật đầu: “Như vậy có thể hắn vẫn ở trong nhà.”

“Có thể”, Saul nói, “nói cho anh ta nghe chúng ta nghĩ chúng ta nghe thấy gì.”

“Rất nhỏ. Có thể là tiếng khóc.”

“Có thể là tiếng la hét.”

Sachs hỏi: “Cô bé?”

“Có thể. Nhưng đã ngừng. Làm sao mà Rhyme nghĩ ra chỗ này?”

“Các cậu nói tôi nghe đầu óc anh ta làm việc như thế nào?”, Sellitto nói.

Haumann gọi một chỉ huy của mình lại và ra lệnh. Ngay sau đó, hai chiếc xe thùng của ESU lao tới ngã tư đường và chặn cả hai đầu phố.

“Nhóm Một, cửa trước. Lấy mìn phá cửa. Cửa gỗ nên để mìn thấp xuống, được chứ? Nhóm Hai, vào ngõ. Nghe tôi đếm đến ba, rõ chưa? Vô hiệu hóa nhưng có thể cô bé còn trong đó nên phải nhìn phông trước khi siết cò. Sĩ quan Sachs, cô chắc là cô muốn làm việc này chứ?”

Một cái gật đầu chắc chắn.

“Được rồi, các chàng trai, cô gái. Đi tóm hắn thôi.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


Sachs và năm sĩ quan khác trong Nhóm Hai chạy vào một con ngõ nóng như điên đã bị những chiếc xe của ESU phong tỏa. Những cây cỏ dại mọc lởm chởm đang ngoi lên khỏi lớp đá cuội và làm nứt nẻ nền móng, sự tiêu điều hoang vắng làm Sachs nhớ lại ngôi mộ bên cạnh đường ray sáng hôm qua.

Anh ta hy vọng nạn nhân đã chết. Vì chính nạn nhân…

Haumann đã ra lệnh cho các sĩ quan leo lên nóc những tòa nhà xung quanh, cô nhìn thấy nòng những khẩu Colt của họ dựng đứng lên như những chiếc ăng ten.

Cả nhóm dừng lại ở cửa sau. Những người đồng sự nhìn cô khi cô kiểm tra những sợi băng cao su đeo trên giày. Cô nghe thấy một người trong số họ thì thầm điều gì đó về sự mê tín.

Sau đó cô nghe thấy trong tai nghe.

“Nhóm trưởng Nhóm Một ở cửa trước, mìn đã cài. Chúng tôi sẵn sàng, nghe rõ.”

“Nghe rõ, nhóm trưởng Nhóm Một. Nhóm Hai?”

“Nhóm Hai, vào vị trí. Nghe rõ?”

“Nghe rõ, nhóm trưởng Nhóm Hai. Hai nhóm, tấn công nhanh. Nghe tôi đếm đến ba.”

Kiểm tra vũ khí lần cuối.

“Một…”

Lưỡi tôi chạm vào một giọt mồ hôi đọng ở vết thương đang sưng trên môi cô.

“Hai…”

Được rồi, Rhyme bọn em vào đây.

“Ba!”

Tiếng nổ nghe rất dịu, một tiếng bốp từ xa, và sau đó các nhóm di chuyển. Nhanh. Cô chạy sau những sĩ quan ESU khi họ luồn vào trong và tản ra, những chiếc đèn pin gắn trên nòng súng quét ngang dọc với những tia sáng chói lóa như ánh sáng mặt trời chiếu qua cửa sổ. Sachs thấy chỉ có mình cô khi những người còn lại trong nhóm tản ra, kiểm tra tủ, giá quần áo và bóng tối phía sau những bức tượng lố bịch đầy trong căn nhà.

Cô quay vào góc. Một khuôn mặt nhợt nhạt lờ mờ hiện ra. Một con dao…

Tim đập thình thịch. Tư thế sẵn sàng chiến đấu, súng giương cao. Cô ấn mạnh cò súng trước khi cô nhận ra rằng mình đang nhìn vào một bức vẽ trên tường. Một tên đồ tể ghê rợn mặt tròn, một tay cầm dao, tay kia là một miếng thịt.

Người anh em…

Hắn chọn một chỗ tuyệt vời để làm nhà.

Những sĩ quan ESU lộp cộp lên cầu thang, khám xét tầng một và tầng hai.

Nhưng Sachs lại tìm kiếm một thứ khác.

Cô tìm thấy một cánh cửa dẫn xuống tầng hầm. Nó hé mở. Được rồi. Tắt đèn. Phải nhìn qua trước đã. Nhưng cô nhớ lại điều Nick từng nói: không bao giờ ngó vào góc ở tầm đầu hay ngực – đó chính là nơi hắn chờ đợi ta. Quỳ xuống. Hít thật sâu. Nhìn!

Không có gì. Đen ngòm.

Trở lại nơi ẩn nấp.

Lắng nghe…

Đầu tiên cô không nghe thấy gì. Sau đó chắc chắn có tiếng gãi. Tiếng loảng xoảng. m thanh thở gấp gáp hay tiếng khụt khịt.

Hắn đang ở trong đó và đào lối ra!

Cô nói vào mic: “Tôi thấy có động tĩnh dưới tầng hầm. Cần yểm trợ.”

“Nghe rõ.”

Nhưng cô không đợi được. Cô nghĩ đứa bé đang ở dưới đó với hắn. Cô bắt đầu bước xuống cầu thang. Dừng lại và lắng nghe. Sau đó cô nhận ra mình đang đứng với nửa thân dưới hoàn toàn không có bảo vệ. Cô nhảy xuống sàn nhà, tiếp đất với tư thế lom khom trong bóng tối.

Thở sâu.

Còn bây giờ, hành động thôi!

Cây đèn halogen trên tay trái cô xuyên một tia sáng chói lòa khắp căn phòng. Nòng súng nhắm vào giữa chiếc đĩa trắng đang đong đưa từ trái sang phải. Chiếu luồng sáng xuống thấp. Hắn cũng có thể đang lom khom. Nhớ lại điều Nick nói với cô: bọn tội phạm không biết bay.

Chẳng có gì. Không một dấu hiệu của hắn.

“Sĩ quan Sachs?”

Một sĩ quan ESU đang đứng trên đầu cầu thang.

“Ôi, không”, cô lầm bầm khi luồng sáng chạm vào Pammy Ganz, đang cứng người trong góc tầng hầm.

“Đừng di chuyển”, cô nói với người lính đặc nhiệm.

Cách cô bé vài inch là một đàn chó hoang gầy gò, đang hít ngửi mặt, ngón tay, chân của cô bé. Đôi mắt mở to của cô bé nhìn hết con chó này sang con chó khác. Khuôn ngực nhỏ bé của bé phập phồng, nước mắt chan hòa trên mặt. Miệng bé há ra, cái lưỡi nhỏ xinh của nó như thể đã dính chặt vào vành môi bên phải.

“Cứ ở trên đó”, cô nói với người lính đặc nhiệm. “Đừng làm chúng sợ.”

Sachs ngắm nhưng không bắn. Cô có thể giết chết hai, ba con nhưng những con còn lại có thể hoảng loạn và vồ lấy cô bé. Một con thôi cũng có thể bẻ gãy cổ cô bé chỉ bằng một cái lắc đầu.

“Hắn có dưới đó không?” Sĩ quan ESU hỏi.

“Không biết. Anh gọi bác sĩ tới đây. Chỉ đứng ở đầu cầu thang thôi. Đừng ai xuống.”

“Rõ.”

Đầu ruồi súng của cô trượt từ con chó này sang con khác. Sachs chậm rãi tiến lên phía trước. Từng con một, lũ chó cảm nhận được cô và rời khỏi Pammy. Cô bé con chỉ là chút thức ăn; Sachs là thú săn mồi. Chúng gầm gừ, chân trước run rẩy trong khi chân sau duỗi thẳng, sẵn sàng nhảy lên.

“Cháu sợ”, Pammy rít lên, thu hút sự chú ý của lũ chó.

“Suỵt, cháu yêu”, Sachs dỗ dành. “Đừng nói gì cả. Yên lặng nào.”

“Mẹ. Cháu muốn mẹ cháu!” Tiếng gào khóc của cô bé làm lũ chó phát khùng. Chúng nhảy nhót tại chỗ, vung vẫy những cái mũi méo mó sang hai bên, gầm gừ.

“Từ từ, từ từ…”

Sachs bước sang trái. Lúc này lũ chó đối mặt với cô, nhìn từ mắt xuống cánh tay cô đang duỗi ra và khẩu súng. Chúng tách làm hai bầy. Một bầy vẫn ở gần Pammy. Bầy kia đi vòng quanh Sachs, cố tấn công bên sườn cô.

Cô luồn vào giữa cô bé và ba con chó gần nhất.

Khẩu Glock được nâng lên hạ xuống, một con lắc. Những con mắt đen của chúng dán vào khẩu súng đen bóng.

Một con chó vàng ghẻ lở gầm gừ và bước sang bên phải Sachs.

Cô bé con đang thút thít: “Mẹ ơi…”

Sachs di chuyển chậm rãi. Cô cúi xuống, kẹp tay vào áo cô bé và kéo nó ra sau cô. Con chó vàng tiến lại gần hơn.

“Xùy…”, Sachs nói.

Vẫn tiến lại gần hơn.

“Cút đi!”

Những con chó đằng sau con chó vàng căng thẳng khi nó nhe bộ răng vàng lởm chởm.

“Cút con mẹ mày đi!” Sachs gầm lên rồi đập nòng khẩu Glock vào mũi con chó. Con chó chớp mắt vì mất tinh thần, ré lên và chạy lên cầu thang.

Pammy gào lên khiến những con chó khác phát điên. Chúng bắt đầu đánh nhau, tạo ra một cơn lốc xoáy răng và nước bọt. Một con Rottweiler[135] đầy sẹo ném một con chó lai xuống sàn như một búi giẻ đầy bụi ngay trước mặt Sachs. Cô giẫm mạnh chân cạnh vật thể gầy còm màu nâu và nó nhổm lên, chạy vụt lên cầu thang. Những con chó khác đuổi theo nó như lũ chó săn đuổi một con thỏ.

Pammy bắt đầu nức nở. Sachs quỳ xuống cạnh cô bé và dùng cây đèn quét tầng hầm lần nữa. Không có dấu hiệu gì của tên tội phạm.

“Ổn rồi, cháu yêu.Chúng ta sẽ về nhà ngay thôi. Cháu sẽ ổn thôi. Người đàn ông ở đây? Cháu còn nhớ ông ta không?

Cô bé gật đầu.

“Ông ta đi chưa?”

“Cháu không biết. Cháu muốn mẹ.”

Sachs nghe tiếng những sĩ quan khác báo cáo. Tầng một và tầng hai an toàn. “Chiếc xe và chiếc taxi?” Sachs hỏi. “Có dấu hiệu gì không?”

Một người lính nói: “Chúng không có đây. Chắc là hắn đã đi rồi.”

Hắn không ở đó, Amelia. Như thế là phi logic.

Từ trên cầu thang một sĩ quan gọi: “Tầng hầm an toàn chưa?”

Cô nói: “Tôi sẽ kiểm tra, chờ chút.”

“Chúng tôi xuống đây.”

“Không được”, cô nói. “Chúng ta có một hiện trường vụ án khá sạch sẽ và tôi muốn giữ nó được như thế. Chỉ cần đưa nhân viên y tế xuống đây để kiểm tra cô bé.”

Một nhân viên y tế trẻ, tóc màu cát đi xuống rồi quỳ xuống cạnh Pammy.

Chính lúc đó Sachs nhìn thấy một dấu vết dẫn tới phía sau tầng hầm – tới một cánh cửa sắt thấp sơn đen. Cô đi tới đó, tránh không giẫm lên đường để bảo vệ dấu chân, rồi cô quỳ xuống. Cánh cửa khép hờ và có vẻ như có một đường hầm phía bên kia, tối tăm nhưng không hoàn toàn đen kịt, dẫn tới một tòa nhà khác.

Một đường thoát. Thằng khốn.

Cô dùng xương nắm tay trái đẩy cánh cửa mở rộng hơn. Nó không kêu rên rỉ. Cô ngó vào trong đường hầm. Có ánh sáng mờ mờ cách đó hai mươi, ba mươi feet. Không có cái bóng chuyển động nào.

Nếu Sachs nhìn thấy thứ gì trong bóng mờ tối thì đó là thân hình biến dạng của T.J. đang đung đưa trên đường ống màu đen, là cơ thể tròn trịa, yếu ớt của Monelle Gerger lúc con chuột đen trèo lên cổ họng cô ta.

“5885 báo cáo Trung tâm”, Sachs nói vào mic.

“Nói đi, nghe rõ”, Haumann trả lời cộc lốc.

“Tôi thấy một đường hầm dẫn tới một tòa nhà phía nam tòa nhà của thủ phạm. Cho người bọc lót cửa lớn và cửa sổ đi.”

“Sẽ làm, nghe rõ.”

“Tôi sẽ vào”, cô nói với anh ta.

“Vào đường hầm? Chúng tôi sẽ cho người yểm trợ cô, Sachs.”

“Không. Tôi không muốn hiện trường bị ô nhiễm. Chỉ cần cho người để ý đến cô bé.”

“Nói lại xem nào.”

“Không. Không cần yểm trợ.”

Cô tắt đèn và bắt đầu bò.

Tất nhiên trong học viện không có khóa học xử lý chuột cống. Nhưng những điều Nick nói với cô về việc bảo vệ hiện trường không thân thiện quay lại với cô. Giữ súng gần người, không chĩa quá xa, vì có thể sẽ bị đánh bật ra. Ba bước – à, lê chân – tới trước, dừng lại. Nghe ngóng. Thêm hai bước. Dừng lại. Nghe ngóng. Lần sau bốn bước. Đừng làm điều gì có thể đoán trước được.

Quỷ thật, tối quá.

Nhưng mùi gì thế nhỉ? Cô sởn gai ốc vì kinh tởm khi ngửi thấy thứ mùi nóng nực, kinh khủng.

Nỗi sợ bị giam cầm bao lấy cô như một đám khói dầu và cô phải dừng lại một lúc, tập trung vào bất kỳ thứ gì ngoài bức tường. Cơn hoảng loạn trôi qua nhưng mùi thì kinh khủng hơn. Cô nôn khan.

Yên nào, cô bé. Yên nào!

Sachs kiểm soát được phản xạ và đi tiếp.

Tiếng gì thế nhỉ? Thứ gì đó như điện. Tiếng rù rì, dâng lên rồi chìm xuống.

Mười feet nữa là hết đường hầm. Qua ô cửa, cô có thể nhìn thấy một tầng hầm lớn thứ hai. m u, mặc dù không tối như tầng hầm nhốt Pammy. Ánh sáng lọt vào qua một cái cửa sổ nhờn dầu. Cô thấy những hạt bụi bay lượn trong bóng tối.

Không, không được cô bé. Cô giữ súng trước mặt quá xa. Chỉ một cú đánh ra xong. Kéo nó lại gần mặt. Giữ trọng tâm thấp và lùi ra sau! Tay để ngắm bắn, mông giữ thăng bằng.

Cô đến được chỗ ô cửa.

Cô lại nôn khan, cố gắng dập tắt âm thanh.

Hắn có đợi mình không nhỉ?

Thò đầu ra, nhìn thật nhanh. Mày có mũ bảo hiểm. Nó sẽ chống được mọi thứ trừ đạn bọc kim loại hay Teflon, nhớ rằng hắn chỉ có khẩu .32. Súng nữ.

Được rồi. Nghĩ đã. Xem nhìn bên nào trước?

Cẩm nang tuần tra không giúp được gì còn Nick thì không có lời khuyên nào trong lúc này. Tung đồng xu vậy.

Sang trái.

Cô thò đầu ra thật nhanh, nhìn sang trái. Rồi thụt vào đường hầm.

Cô không nhìn thấy gì. Một bức tường trống, bóng tối.

Nếu hắn đứng phía bên kia chắc chắn hắn đã thấy mày và có vị trí nhắm bắn tốt.

Được rồi, kệ mẹ nó. Cứ đi thôi. Nhanh lên.

Khi ta di chuyển…

Sachs nhảy lên.

… chúng không thể bắt được ta.

Cô nặng nề rơi xuống sàn, lăn tròn. Xoay người lại.

Một hình người trốn trong bóng tối trên bức tường bên phải, phía dưới cửa sổ. Nhắm mục tiêu, cô chuẩn bị bắn. Nhưng rồi đông cứng.

Amelia Sachs thở dốc.

Ôi, trời ơi…

Cô không thể rời mắt khỏi thân thể một người phụ nữ bị dựng đứng vào tường.

Từ eo trở lên, cô ta là người gầy gò, tóc màu nâu tối, một khuôn mặt gầy hốc hác, ngực nhỏ, tay xương xẩu. Ruồi bâu kín làn da cô ta – tiếng vù vù mà Sachs đã nghe thấy.

Còn từ eo trở xuống, cô ta…chẳng có gì. Những chiếc xương hông máu me, xương đùi, xương sống, bàn chân…Toàn bộ thịt đã bị hòa tan trong một bể tắm ghê sợ bên cạnh cô ta – một món thịt hầm kinh khủng, màu nâu đậm, những khúc thịt trôi nổi bên trong. Có thể là dung dịch kiềm hay acid. Khói làm mắt Sachs cay sè, trong khi sự khủng khiếp – và cơn giận dữ – sôi sục trong tim cô.

Tội nghiệp…

Sachs xua đuổi một cách vô nghĩa lũ ruồi đang túi bụi bay vào mặt kẻ đột nhập mới.

Cánh tay người phụ nữ đang thư giãn, bàn tay ngửa lên trên như thể cô ta đang trầm tư. Mắt nhắm. Bộ quần áo chạy thể thao đang nằm cạnh cô ta.

Cô ta không phải là nạn nhân duy nhất.

Một bộ xương khác – đã bị lóc sạch thịt – nằm cạnh một cái bể chứa tương tự, cũ hơn, không còn chất acid kinh khủng nhưng bị bao bọc bởi lớp cặn máu và thịt đen sì. Bộ xương không có cẳng tay và cánh tay. Và đằng sau nó là một bộ xương khác – nạn nhân này bị chặt nhỏ, những cái xương bị lóc thịt kỹ lưỡng, rửa sạch và đặt cẩn thận trên sàn. Một chồng giấy ráp được xếp cạnh xương sọ. Những đường cong tao nhã của cái đầu bóng loáng lên như một chiếc cúp.

Rồi cô nghe thấy ở phía sau.

Một hơi thở. Mờ nhạt nhưng không thể nhầm lẫn. Tiếng khò khè của không khí sâu trong họng.

Cô quay lại, tự giận dữ với bản thân vì sự bất cẩn của mình.

Chỉ có tầng hầm trống rỗng nhìn cô. Cô quét tia sáng trên sàn nhà bằng đá, vì vậy không hiện dấu chân rõ như nhà của 823 bên cạnh.

Một hơi thở nữa.

Hắn ở đâu? Ở đâu?

Sachs khom người xuống thấp hơn, chiếu tia sáng sang bên, lên xuống… Không có gì cả.

Hắn ở chỗ chết tiệt nào nhỉ? Đường hầm khác? Một lối thoát ra phố?

Cô nhìn xuống nền nhà một lần nữa và phát hiện một thứ mà cô nghĩ là dấu vết mờ nhạt dẫn vào vùng bóng tối của căn phòng. Cô đi theo nó.

Dừng lại. Nghe ngóng.

Hơi thở?

Có. Không.

Cô quay lại một cách ngu ngốc, nhìn lần nữa vào người phụ nữ đã chết.

Nào!

Quay lại nhìn lần nữa.

Đi dọc nền nhà.

Chẳng có gì. Làm sao mình nghe thấy nhưng không thể nhìn thấy hắn?

Bức tường phía trước cô kín mít. Không có cửa hay cửa sổ. Cô lùi lại, về phía những bộ xương.

Từ đâu đó, lời nói của Rhyme quay lại với cô. “Hiện trường vụ án có ba chiều.”

Bất thình lình Sachs nhìn lên, chiếu tia sáng trước mặt cô. Hàm răng của một con chó giống Doberman[136] khổng lồ phản xạ ánh sáng về phía cô – những miếng thịt màu xám đong đưa. Cách đó khoảng hai feet trên bờ tường cao. Nó đang chờ đợi cô, như một con mèo hoang.

Trong một khắc, không ai động đậy. Hoàn toàn chết cứng.

Sau đó Sachs cúi đầu xuống theo bản năng. Trước khi cô kịp giương súng, nó lao mình vào mặt cô. Hàm răng của nó cắn vào chiếc mũ. Ngậm chặt sợi dây trong miệng, nó giật điên cuồng, những muốn bẻ cổ cô khi họ cũng ngã xuống, bên cạnh cái thùng đựng đầy acid. Khẩu súng bay khỏi tay cô.

Con chó vẫn giữ chặt mũ bảo hiểm của cô trong khi chân sau của nó nhảy lên, hai hàm răng thọc sâu vào áo giáp, vào bụng và vào đùi cô. Cô đấm nó thật mạnh nhưng nó giống như một khúc gỗ trì độn; nó không hề cảm thấy cú đánh.

Thả chiếc mũ bảo hiểm ra, nó lùi lại, sau đó lao vào mặt cô. Cô đấm tay trái vào mắt nó khi nó ngoạm cánh tay cô. Cô cảm thấy những chiếc răng kẹp vào da mình, cô lôi con dao gấp trong túi ra và thọc vào xương sườn con chó. Một tiếng tru chói tai, nó lăn ra khỏi người cô và lao thẳng ra cửa.

Sachs nhặt khẩu súng ngắn và ngay lập tức đuổi theo nó, quờ quạng chạy trong đường hầm. Cô lao ra ngoài để nhìn thấy con thú đang lao thẳng tới chỗ Pammy và nhân viên y tế, anh này đang đứng chết cứng khi nhìn thấy con Doberman lao lên không trung.

Sachs quỳ xuống bắn hai phát. Một phát trúng đầu con chó, phát thứ hai đập vào bức tường gạch. Con chó ngã vật xuống thành một đống thịt run rẩy dưới chân nhân viên y tế.

“Tiếng súng”, cô nghe thấy tiếng nói trong bộ đàm và khoảng nửa tá lính đặc nhiệm lao xuống cầu thang, kéo con chó ra và dàn hàng quanh cô bé.

“Được rồi!” Sachs la lớn. “Là tôi đấy.”

Nhóm đặc nhiệm đứng lên.

Pammy đang la hét: “Con chó chết rồi… Cô ấy giết nó.”

Sachs cất súng và nhấc cô bé lên hông mình.

“Mẹ ơi!”

“Cháu sẽ gặp mẹ ngay thôi”, Sachs nói. “Các cô sẽ gọi cho mẹ cháu ngay.”

Lên trên cầu thang, cô đặt Pammy xuống sàn và quay sang một sĩ quan ESU đang đứng gần đó. “Tôi đánh mất chìa khóa còng rồi. Anh làm ơn tháo cho cô bé, được chứ? Mở nó ra một tờ báo sạch, gói nó vào giấy và cho tất cả vào một cái túi nhựa.”

Viên sĩ quan đảo mắt. “Nghe này người đẹp, đi tìm lính mới mà ra lệnh.” Anh ta bước ra chỗ khác.

“Anh lính”, Bo Haumann quát, “anh sẽ làm những gì cô ấy nói.”

“Thưa ngài”, anh ta chống trả, “tôi là lính đặc nhiệm.”

“Tin mới đây”, Sachs lầm bầm, “bây giờ anh là dân khám nghiệm hiện trường.”

Carol Ganz nằm trong phòng ngủ màu be rất đậm, nhìn lên trần nhà, nghĩ tới thời gian khoảng vài tuần trước khi cô, Pammy và nhóm bạn ngồi quanh đám lửa trại ở Winsconsin tại nhà của Kate và Eddie, nói chuyện, kể chuyện, hát.

Giọng của Kate không hay lắm, nhưng Eddie thì có thể trở thành ca sĩ chuyên nghiệp. Anh ấy chơi được ghita. Anh ấy hát bài Tapestry của Carole King cho mình cô nghe và Carole vừa thì thầm hát vừa khóc. Cô nghĩ, có thể, chỉ là có thể thôi, cô đã thực sự để cái chết của Ron lại phía sau và tiếp tục cuộc sống của mình.

Cô nhớ tới giọng của Kate đêm đó: “Khi ta giận dữ, cách duy nhất để xứ lý nó là gói nó lại và quẳng đi. Đưa nó cho ai đấy. Cậu có nghe thấy không? Đừng giữ nó bên trong cậu. Cho nó đi.”

Lúc này cô đang giận dữ. Điên cuồng.

Một đứa trẻ – một thứ rác rưởi không có suy nghĩ – đã lấy mất chồng cô, bắn vào lưng anh. Còn bây giờ, một thằng điên nào đó đã bắt con gái cô. Cô những muốn nổ tung. Cô đã phải dùng toàn bộ ý chí để không cho phép mình ném các thứ vào tường và tru lên như chó sói.

Cô nằm trên giường và thận trọng đặt cổ tay bị gãy của mình lên bụng. Cô đã uống Demerol, nó giúp giảm đau nhưng cô không thể ngủ được. Cô không làm gì ngoài việc ở trong nhà cả ngày, cố gắng liên lạc với Kate và Eddie, chờ tin tức của Pammy.

Cô cứ hình dung ra Ron, hình dung ra cơn giận của cô, thực sự hình dung cô đang cho nó vào trong một cái hộp, gói ghém cẩn thận, đóng dấu…

Rồi điện thoại reo vang. Cô nhìn nó một lát rồi nhấc máy.

“Tôi nghe.”

Carole lắng nghe một nữ cảnh sát nói với cô là họ đã tìm thấy Pammy, rằng con bé đang trong bệnh viện nhưng nó ổn. Một lát sau, Pammy nói vào điện thoại và cả hai cùng vừa khóc vừa cười.

Mười phút sau, cô đã trên đường đến bệnh viện Manhattan, ngồi ở ghế sau một chiếc xe cảnh sát màu đen.

Thực sự là Carole đã chạy hết tốc lực theo hành lang dẫn tới phòng Pammy và thấy ngạc nhiên khi bị một cảnh sát đứng gác chặn lại. Như vậy là họ vẫn chưa bắt được thằng khốn ấy ư? Nhưng cô chỉ cần nhìn thấy con gái mình, cô đã quên hắn ta, quên nỗi sợ hãi khi ở trong chiếc taxi và cái tầng hầm ghê rợn. Cô vòng tay ôm đứa con gái bé bỏng của mình.

“Ôi, con yêu, mẹ nhớ con! Con ổn chứ? Ổn cả chứ con?”

“Cô ấy, cô ấy giết con chó…”

Carole quay lại và nhìn thấy một người nữ cảnh sát cao, tóc đỏ đang đứng gần đó, người đã cứu cô ra khỏi tầng hầm của nhà thờ.

“… nhưng không sao vì nó muốn ăn thịt con.”

Carole ôm lấy Sachs: “Tôi không biết phải nói gì… Tôi chỉ… Cảm ơn cô. Cảm ơn cô.”

“Pammy ổn rồi”, Sachs quả quyết với cô. “Vài vết xước… không có gì nghiêm trọng… và con bé bị ho một chút.”

“Bà Ganz?” Một thanh niên vào phòng, đem theo vali và chiếc ba lô màu vàng của cô. “Tôi là thám tử Banks. Chúng tôi có hành lý của bà ở đây.”

“Ôi, ơn Chúa.”

“Có bị mất gì không?” Anh ta hỏi cô.

Cô nhìn cẩn thận chiếc ba lô. Tất cả các thứ đều ở đó. Tiền, con búp bê của Pammy, gói đất nặn, bồ đồ chơi Mr. Potato Head, đĩa CD, cái đài đồng hồ… Hắn chẳng lấy gì cả. Từ từ đã…” Anh biết không, tôi nghĩ là có mất một tấm hình. Tôi không chắc lắm. Tôi nghĩ tôi có nhiều hơn thế này. Nhưng các thứ quan trọng thì ở đây cả.”

Viên thám tử đưa cô ký vào tờ biên lai.

Một bác sĩ nội trú trẻ tuổi vào phòng. Anh ta đùa với Pammy về con gấu Pooh của con bé trong lúc đo huyết áp.

Carole hỏi anh ta: “Khi nào thì chúng ta đi được?”

“À, chúng tôi chỉ giữ cháu ở đây vài ngày. Chỉ để đảm bảo rằng….”

“Vài ngày? Nhưng con bé ổn mà.”

“Con bé hơi bị viêm phế quản nên tôi muốn theo dõi. Và…”, anh ta hạ giọng. “Chúng tôi cũng có một chuyên gia về chuyện lạm dụng. Chỉ để chắc chắn hơn.”

“Nhưng ngày mai con bé phải đi với tôi. Đến những buổi lễ của Liên Hiệp Quốc. Tôi đã hứa với nó rồi.”

Người nữ cảnh sát nói thêm: “Tốt hơn là để con bé được bảo vệ ở đây. Chúng tôi vẫn chưa biết thủ phạm – tên bắt cóc – ở đâu. Chúng tôi sẽ cử một sĩ quan trông cháu.”

“Vậy thì chắc là được. Tôi có thể ở lại với cháu một lúc, được không?”

“Chắc chắn rồi”, bác sĩ nội trú nói. “Chị có thể ở lại qua đêm. Chúng tôi sẽ đem một chiếc giường trẻ em đến.”

Sau đó Carole được ở một mình với con gái. Cô ngồi xuống giường và vòng tay quanh đôi vai hẹp của con bé. Cô có một chút khó chịu khi nhớ lại hắn, tên điên khùng ấy, đã chạm vào Pammy như thế nào. Ánh mắt của hắn khi hắn hỏi cô xem liệu hắn có được lột da cô hay không… Carole sởn gai ốc và bắt đầu khóc.

Pammy là người đưa cô trở lại thực tại. “Mẹ ơi, kể chuyện cho con nghe… Không, không, hát bài gì đó cho con nghe. Hát bài hát bạn bè đi mẹ. Làm ơn mà!”

Lấy lại bình tĩnh, Carole hỏi: “Con muốn nghe bài đấy à?”

“Vâng ạ!”

Carole đặt con bé vào lòng mình, bắt đầu hát bài You’ve got a friend bằng cái giọng khàn khàn. Pammy hát theo cô từng đoạn.

Đó là một trong những bài hát ưa thích của Ron và mấy năm qua, từ khi anh mất, cô không thể nghe hết vài đoạn trong bài hát mà không ứa nước mắt.

Ngày hôm nay, cô và Pammy đã cùng nhau hát hết bài hát này, khá đúng nhạc, mắt ráo lệ và cười vui.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33


Cuối cùng thì Amelia Sachs cũng về đến căn hộ của cô ở Caroll Gardens, Brooklyn.

Cách nhà cha mẹ cô đúng sáu khối nhà, nơi mẹ cô đang sống. Vừa bước vào trong nhà, cô bấm nút quay số nhanh chiếc điện thoại trong bếp.

“Mẹ. Con đây. Con sẽ đưa mẹ đi Plaza ăn bữa trưa. Thứ Tư. Đó là ngày nghỉ của con.”

“Để làm gì? Để ăn mừng nhiệm vụ mới của con? Phòng Quan hệ Công chúng thế nào? Không thấy con gọi điện.”

Một nụ cười thoáng qua. Sachs nhận ra mẹ cô không hề biết cô đã làm gì trong hơn một ngày qua.

“Mẹ có xem thời sự không ạ?”

“Mẹ à? Mẹ là người hâm mộ bí mật của Brokaw[137] mà, con biết đấy.”

“Mẹ có nghe về kẻ bắt cóc mấy ngày vừa rồi không?”

“Ai mà không biết… Con định nói gì với mẹ thế, con yêu?”

“Con có tin nội bộ sốt dẻo đây.”

Và cô kể cho người mẹ đang kinh ngạc của cô câu chuyện – về việc cứu sống các nạn nhân, về Lincoln Rhyme, và với một chút chỉnh sửa, về những hiện trường vụ án.

“Amie, cha con sẽ rất tự hào.”

“Thế thì báo ốm thứ Tư mẹ nhé. Plaza. Được chứ?”

“Quên nó đi, con yêu. Tiết kiệm tiền chứ. Mẹ có bánh quế và đồ ăn của hiệu Bob Evans[138] trong tủ lạnh. Con có thể đến đây.”

“Không đắt lắm đâu mẹ ơi.”

“Không đắt lắm ư? Cả gia tài đấy.”

“Thế thì thế này”, Sachs nói, cố tỏ ra tự nhiên, “mẹ thích Pink Teacup, đúng không?”

Một quán nhỏ ở West Village bán món trứng và bánh kếp ngon nhất vùng East Cost với giá gần như cho không.

Ngừng một lát.

“Nghe được đấy.”

Đó là chiến lược mà Sachs sử dụng thành công trong nhiều năm nay.

“Con phải nghỉ chút, mẹ ạ. Ngày mai con gọi lại.”

“Con làm việc nhiều quá. Amie, cái vụ này của con… không nguy hiểm chứ?”

“Con chỉ làm bên kỹ thuật thôi mà mẹ. Hiện trường vụ án. Chẳng có gì an toàn hơn được.”

“Họ chỉ định đúng con!” Người mẹ nói. Sau đó nhắc lại: “Cha con chắc sẽ rất tự hào về con.”

Họ cúp máy và Sachs vào phòng ngủ, thả mình xuống giường.

Sau khi rời khỏi phòng của Pammy, Sachs đến thăm hai nạn nhân còn sống sót khác của thủ phạm 823. Monelle Gerger, băng bó lốm đốm và đã được tiếp đầy huyết thanh phòng dại, đã được ra viện và trở về với gia đình ở Frankfurt “nhưng chỉ đến cuối mùa hè”, cô ta cứng rắn nói, “không phải đi luôn, chị biết đấy”. Và cô chỉ vào bộ dàn và bộ sưu tập CD trong căn hộ đổ nát ở khu Deutsche Haus để chứng minh rằng không có thằng điên nào ở New World có thể xua được cô ra khỏi thành phố.

William Everette vẫn còn trong bệnh viện. Ngón tay gãy tất nhiên không phải là vấn đề nghiêm trọng nhưng tim ông lại có vấn đề. Sachs ngỡ ngàng khi biết được ông có một cửa hiệu ở Hell’s Kitchen nhiều năm trước và nghĩ có thể ông biết cha cô. “Tôi biết tất cả cảnh sát tuần tra”, ông ta nói. Cô cho ông ta xem bức hình một người đàn ông mặc cảnh phục trong ví cô. “Tôi nghĩ thế, tôi không chắc lắm, nhưng tôi nghĩ thế.”

Những cuộc gặp gỡ chỉ có tính xã giao nhưng Sachs vẫn đem theo nhật ký tuần tra. Tiếc là cả hai nạn nhân chẳng thể nói cho cô biết thêm điều gì về nghi phạm 823.

Lúc này trong căn hộ của mình, Sachs đang nhìn ra ngoài cửa sổ. Cô nhìn thấy những cây bạch quả và cây phong rung rinh trong cơn gió mạnh. Cô cởi bỏ bộ cảnh phục, gãi ngực – chỗ lúc nào cũng ngứa như điên vì bị ép chặt dưới lớp áo giáp chống đạn. Cô mặc chiếc áo choàng tắm.

Thủ phạm 823 không nhận được nhiều cảnh báo nhưng chừng đó cũng đủ. Nơi ẩn nấp tại Van Brevoort đã được rửa sạch hoàn toàn. Mặc dù chủ nhà nói hắn chuyển đến đã khá lâu – tháng Một vừa rồi (với một giấy chứng minh giả, không ai ngạc nhiên về điều này) – 823 đã để lại tất cả những gì hắn đem đến, kể cả rác rưởi. Sau khi Sachs khám nghiệm hiện trường, Phòng Mật vụ NYPD đã đến hút bụi tất cả các mặt phẳng có ở đó. Nhưng các báo cáo ban đầu hoàn toàn không đáng khích lệ.

“Có vẻ cả khi đi ị hắn cũng đeo găng tay”, Banks báo cáo với cô.

Một đơn vị Cơ động đã tìm thấy chiếc xe hơi và chiếc taxi. Nghi phạm 823 đã ranh mãnh đỗ chúng gần Đại lộ D và Phố Chín. Sellitto đoán chỉ cần bảy, tám phút là các băng nhóm địa phương đã bóc chiếc xe chỉ còn khung. Bất kỳ vật chứng nào có thể còn trong xe lúc này đã nằm trong khoảng một tá cửa hàng phụ tùng quanh thành phố.

Sachs xoay người quanh bồn tắm và thấy tin mới. Chẳng có gì liên quan tới vụ bắt cóc. Tất cả các câu chuyện đều xoay quanh những buổi lễ khai mạc của hội nghị hòa bình Liên Hiệp Quốc.

Cô nhìn chằm chằm vào Bryan Gumbel[139], nhìn chăm chú Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, các nhà ngoại giao đến từ Trung Đông, chăm chú hơn nhiều so với mức độ quan tâm của cô. Thậm chí cô còn đọc cả quảng cáo như là cô muốn học thuộc chúng.

Vì có một điều mà chắn chắn là cô không muốn nghĩ tới: thỏa thuận của cô với Lincoln Rhyme.

Thỏa thuận rất rõ ràng. Lúc này Carole và Pammy đã an toàn, đến lượt cô vào cuộc. Cho anh một giờ riêng với bác sĩ Berger.

Giờ là ông ta, Berger… Cô không hề thích vẻ ngoài của ông bác sĩ đó. Ta có thể nhìn thấy một cái tôi lớn tướng trong thân hình rắn chắc, khỏe mạnh của ông ta, trong đôi mắt lẩn tránh của ông ta. Mái tóc đen của ông ta được chải một cách hoàn hảo. Quần áo đắt tiền. Tại sao Rhyme lại không thể tìm được ai đó như Kevorkian[140]? Ông ta có vẻ mưu mô, nhưng ít nhất trông ông ta còn giống một người ông thông thái.

Mí mắt cô sụp xuống.

Bỏ qua người đã chết…

Thỏa thuận là thỏa thuận. Nhưng mà quỷ tha ma bắt, Rhyme…

Được rồi, cô không thể để anh ta ra đi mà không thử lần cuối. Anh ta đã tóm được cô trong phòng ngủ của anh ta. Cô đã bối rối. Không nghĩ ra được lý lẽ nào thực sự tốt. Thứ Hai. Cô còn có thời gian đến ngày mai để thuyết phục anh ta không làm việc đó. Hoặc ít nhất là đợi một thời gian. Một tháng. Quỷ thật, một ngày.

Cô có thể nói gì với anh ta? Cô viết ra những lý lẽ của mình. Viết một bài diễn văn ngắn.

Mở mắt ra, cô trèo ra khỏi giường để tìm cây bút và mấy tờ giấy. Mình có thể…

Sachs cảm thấy ớn lạnh, hơi thở của cô rít lên trong phổi như gió thổi bên ngoài.

Hắn mặc bộ đồ đen, chiếc mặt nạ trượt tuyết và đôi găng tay đen như dầu.

Thủ phạm 823 đang đứng giữa phòng ngủ của cô.

Cánh tay cô theo bản năng vươn tới cái bàn đầu giường – khẩu Glock và con dao. Nhưng hắn đã sẵn sàng. Chiếc xẻng vung lên thật nhanh và đập vào cạnh đầu cô. Ánh sáng vàng bùng lên trong mắt cô.

Cô quỳ cả hai chân, hai tay, một bàn chân đá vào lồng ngực làm cô ngã quỵ, và cô cố vùng vẫy để thở. Cô cảm thấy tay cô đã bị còng ra sau, một đoạn băng dính dán trên miệng cô. Chuyển động nhanh, hiệu quả. Hắn lật ngửa cô ra; chiếc áo choàng tắm mở tung.

Giận dữ khua chân, gắng sức như điên hòng dứt đứt sợi dây còng.

Một cú đánh nữa vào dạ dày. Cô nôn khan nhưng vẫn cảm thấy hắn giơ tay nắm lấy mình. Tóm dưới nách cô, hắn kéo cô ra cửa sau và đi vào một khu vườn lớn kín đáo phía sau căn hộ.

Ánh mắt hắn vẫn trên mặt cô, thậm chí không buồn nhìn núm vú của cô, cái bụng phẳng, xương mu với vài sợi lông xoăn màu đỏ của cô. Cô có thể sẵn sàng cho hắn những thứ đó nếu điều đó có thể cứu được mạng sống của cô.

Nhưng không, chẩn đoán của Rhyme là đúng. Tình dục không phải động cơ của 823. Trong đầu hắn còn có thứ gì khác. Hắn ném thân hình mảnh dẻ của cô xuống một bụi hoa và cây lá dày, mặt ngửa lên trời, khuất tầm mắt hàng xóm. Hắn nhìn quanh, lấy hơi. Hắn nhặt cái xẻng lên và thọc lưỡi xẻng xuống đất.

Amelia Sachs bắt đầu khóc.

Anh dụi gáy vào gối.

Hành vi mang tính bắt buộc, một bác sĩ đã nói với anh như vậy sau khi quan sát hành vi này của anh – một ý kiến Rhyme không yêu cầu hay mong muốn. Rhyme nghĩ việc dụi đầu vào gối của anh cũng giống như việc Amelia Sachs dùng móng tay bóc thịt ngón tay.

Anh thả lỏng cơ cổ, xoay xoay đầu trong khi nhìn lên tấm áp phích treo trên tường. Rhyme tin rằng toàn bộ câu chuyện về sự điên rồ của người đàn ông đó đang nằm trước mặt anh. Trong những dòng chữ viết tay màu đen, mấp mô – và những khoảng trống giữa các từ. Nhưng anh chưa thể đọc được đoạn kết của câu chuyện. Tạm thời thì chưa.

Anh nhìn một lần nữa vào những manh mối. Chỉ còn vài thứ vẫn chưa được giải thích.

Vết sẹo trên ngón tay.

Nút buộc.

Mùi nước hoa dùng sau khi cạo râu.

Vết sẹo đối với họ là vô ích nếu như họ không có được một nghi phạm để có thể kiểm tra ngón tay. Chẳng có gì may mắn trong việc nhận dạng kiểu nút buộc – chỉ có ý kiến của Banks cho rằng đó không phải là nút buộc kiểu hải quân.

Mùi nước hoa dùng sau khi cạo râu rẻ tiền thì sao? Giả sử phần lớn thủ phạm không xịt nước hoa khi bắt cóc, vì sao hắn lại làm khác? Rhyme chỉ có thể kết luận rằng hắn làm thế để át đi một thứ mùi khác, dễ lộ hơn. Anh điểm qua các khả năng: Thức ăn, rượu, hóa chất, thuốc lá…

Anh cụp mắt xuống và nhìn sang phải.

Những điểm đen trong hố mắt xương xẩu của con rắn nhìn về phía chiếc giường Clinitron. Đó là một trong những manh mối không phù hợp. Nó chẳng có mục tiêu gì, ngoài việc nhạo báng họ.

Bất chợt có điều gì đó nảy ra trong anh. Sử dụng cái khung lật trang, anh chậm rãi lật lại cuốn Tội phạm ở New York xưa. Đến chương nói về James Schneider. Anh tìm thấy đoạn văn mà anh vừa nhớ ra.

Một bác sĩ thần kinh nổi tiếng (người thực hành môn “tâm lý” đã được báo chí nhắc đến rất nhiều trong thời gian vừa qua) cho rằng ý định thực sự của James Schneider không phải là hãm hại nạn nhân của hắn. Mà thực sự – người bác sĩ giàu kinh nghiệm đó cho rằng – tên tội phạm đang tìm cách báo thù những người mà hắn cho là có hại: sở cảnh sát thành phố và có thể là cả xã hội.

Ai mà biết được gốc gác sự thù hận của hắn nằm ở đâu? Có thể giống như dòng sông Nile cổ xưa, không ai trên thế giới biết được nó bắt nguồn từ đâu; có thể chính bản thân hắn cũng không hay biết. Tuy vậy, một lý do có thể được tìm thấy trong một sự kiện ít người biết đến là, James Schneider khi còn nhỏ, lúc mới mười tuổi, đã nhìn thấy cha mình bị cảnh sát lôi đi, để rồi chết trong nhà tù vì tội cướp giật và sau đó ông ta đã được chứng minh là vô tội. Sau lần bắt bớ không may đó, mẹ cậu bé sống cuộc sống đường phố và bỏ rơi đứa con, đứa bé lớn lên trong sự bảo trợ của bang.

Có phải ngẫu nhiên mà tên điên đó gây ra những tội ác này để cười vào mặt chính ngành cảnh sát đã vô ý làm tan nát gia đình hắn không?

Chắc chắn chúng ta sẽ không bao giờ biết được.

Tuy nhiên, điều có vẻ rõ ràng nhất là, cùng với việc chế nhạo sự bất lực của những người bảo vệ công dân, James Schneider – “Kẻ Tầm Xương” – đã ném sự trả thù lên chính thành phố cũng như những nạn nhân vô tội của hắn.

Lincoln ngửa đầu lên gối và nhìn lại bản hồ sơ trên tường.

Đất nặng hơn tất cả mọi thứ.

Chính là đất, bụi từ một lõi sắt, và nó không giết người bằng cách chặn không khí vào phổi mà bằng cách nén chặt các tế bào cho tới khi chúng chết đi vì nỗi hoảng loạn.

Sachs ước gì cô đã chết. Cô cầu nguyện được chết. Thật nhanh. Từ nỗi sợ hãi hay cơn đau tim. Trước khi xẻng đất đầu tiên rơi xuống mặt cô. Cô cầu xin điều đó, khẩn thiết hơn Lincoln Rhyme cầu xin những viên thuốc và cốc rượu của anh.

Nằm trong nấm mồ mà tên tội phạm đã đào sẵn trong sân sau nhà mình, Sachs cảm nhận được đất màu, dày đặc và đầy giun, đang dịch chuyển dần trên người cô.

Hắn từ từ chôn cô một cách tàn bạo, chỉ hất xuống từng xẻng đất nhỏ, cẩn thận rắc xuống xung quanh cô. Hắn bắt đầu từ chân cô. Đến bây giờ hắn đã đến ngực cô, đất luồn vào trong áo choàng tắm và quanh bầu vú của cô như những ngón tay của người tình.

Nặng dần, nặng dần, ép chặt, trói lấy phổi cô; mỗi lần thở, cô chỉ hít vào được một chút không khí. Hắn dừng lại một, hai lần để nhìn cô, rồi lại tiếp tục.

Hắn thích nhìn…

Tay bị trói ở dưới, cổ căng cứng để giữ cho đầu cao hơn làn sóng triều của đất.

Thế rồi ngực cô bị chôn kín hoàn toàn. Vai, rồi cổ họng. Đất lạnh leo lên làn da mặt cô nóng bỏng, chèn quanh đầu làm cô không thể động đậy. Cuối cùng, hắn cúi xuống và giật miếng băng dính ra khỏi miệng cô. Sachs định hét lên thì hắn đổ một ít đất vào mặt cô. Cô sởn gai ốc, ho sặc sụa vì đất đen. Có tiếng rung trong tai, và vì một lý do nào đó, cô nghe thấy một bài hát đã lâu lắm rồi, từ thuở ấu thơ The green leaves of summer, một bài hát mà cha cô đã bật đi bật lại trên máy thu. Một bài hát buồn bã, ám ảnh. Cô há miệng lần nữa và lại nhận được một cốc đầy đất.

Bỏ qua người đã chết…

Rồi cô bị lấp kín.

Tuyệt đối yên lặng. Không có tiếng ho hay tiếng thở hổn hển – đất là chất hàn hoàn hảo. Trong phổi cô không còn không khí, không thể tạo ra bất kỳ tiếng động nào. Im lặng, trừ giai điệu ma quái của tiếng gầm ngày càng lớn lên trong tai cô.

Rồi áp lực trên mặt cô biến mất khi cơ thể cô tê cứng, tê cứng như cơ thể của Lincoln Rhyme. Đầu cô ngừng hoạt động.

Bóng tối, bóng tối… Không một lời nào của cha cô. Chẳng có gì từ Nick… Không có những ước mơ đổi số từ số năm sang số bốn để đẩy đồng hồ tốc độ lên ba con số.

Bóng tối.

Bỏ qua…

Sức nặng đè lên cô, đẩy, đẩy xuống. Cô chỉ còn nhìn thấy một hình ảnh: cánh tay thò ra từ nấm mộ buổi sáng hôm qua, vẫy vẫy cầu xin sự may mắn. Khi không có chỗ cho sự may mắn.

Vậy gọi cô đi theo.

Rhyme, em sẽ nhớ anh.

Bỏ qua…
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34


Thứ gì đó đập vào đầu cô. Rất mạnh. Cô cảm thấy cú đánh mạnh nhưng không thấy đau.

Gì thế, gì thế nhỉ? Cái xẻng của hắn? Một viên gạch? Có thể là trong một thoáng lòng tốt của 823, hắn cho rằng cái chết từ từ như thế này là quá sức chịu đựng đối với bất kỳ ai và hắn tìm cổ họng cô để cắt đứt mạch máu.

Một cú nữa, rồi một cú nữa. Cô không mở được mắt nhưng cô cảm nhận được ánh sáng đang bừng lên quanh cô. Màu sắc. Và không khí. Cô phun đám đất trong miệng ra và lấy hết sức mình hít vào một hơi thở mong manh. Bắt đầu ho ầm ĩ, nôn khan, nhổ bọt.

Cô mở choàng mắt, và qua làn lệ cô nhìn thấy Lon Sellitto người đầy bùn đất đang quỳ bên trên cô, bên cạnh là hai nhân viên y tế EMS, một người đang móc đất trong miệng cô bằng những ngón tay đeo găng cao su và lôi ra đám nhầy nhụa, người thứ hai chuẩn bị sẵn sàng mặt nạ oxy và một thùng nước màu xanh.

Sellitto và Banks tiếp tục đào, hắt đất ra xung quanh bằng những cánh tay lực lưỡng của họ. Họ kéo cô lên, vứt lại chiếc áo choàng tắm như một lớp da bị lột bỏ. Sellitto, người đàn ông bỏ vợ, trong trắng nhìn ra chỗ khác khi choàng chiếc áo khoác của anh ta lên vai cô. Tất nhiên, chàng thanh niên Jerry Banks có nhìn, nhưng cô vẫn thấy quý anh ta như thường.

“Các… anh… có?” Cô khò khè nói, nhưng lập tức dừng lại vì một cơn ho nổ phổi.

Sellitto nhìn Banks một cách trông đợi, anh ta trông kiệt sức hơn. Anh ta chắc đã cố hết sức lúc đuổi theo thủ phạm. Viên thám tử trẻ tuổi lắc đầu: “Hắn chạy mất rồi.”

Ngồi thẳng dậy, cô thở bình oxy một lúc.

“Làm thế nào?” Cô khò khè. “Làm thế nào các anh biết được?”

“Rhyme”, anh ta trả lời. “Đừng hỏi tôi làm thế nào. Anh ấy ra lệnh 10-13 cho tất cả mọi người trong đội. Khi anh ấy biết chúng tôi ổn, anh ấy bảo chúng tôi tới đây càng sớm càng tốt.”

Sau đó tình trạng tê liệt trôi qua, nhanh như chớp. Và lúc này cô mới thực sự nhận thấy điều gì đã diễn ra. Cô đánh rơi chiếc mặt nạ oxy, lùi lại trong cơn hoảng loạn, lệ tuôn trào, cất tiếng khóc thảm thiết, cơn hoảng loạn của cô lớn dần, lớn dần. “Không, không, không….”

Tự tát vào mặt, vào đùi, cố gắng phủi đi nỗi kinh hoàng đang bám chặt lấy cô như một bầy ong nhiều vô kể.

“Trời ơi, trời ơi… Không…”

“Sachs?” Banks lo lắng hỏi. “Này, Sachs?”

Viên thám tử lớn tuổi hơn ra hiệu cho cộng sự của mình đi chỗ khác. “Ổn thôi.” Anh ta ôm lấy cô khi cô bò bốn chân trên mặt đất, nôn mửa kịch liệt, nức nở, nức nở, bóp chặt đất giữa các ngón tay như thể cô muốn bóp chết nó.

Cuối cùng, Sachs cũng bình tĩnh lại và ngồi trên đôi chân trần của cô. Cô bắt đầu cười, đầu tiên thật dịu dàng, sau đó lớn dần, lớn dần, điên dại, cô ngỡ ngàng khi thấy bầu trời rộng lớn hơn và trời đang mưa – những cơn mưa mùa hè nặng hạt – thế mà cô đã không nhận ra.

Quàng tay quanh cổ anh. Mặt áp vào mặt anh. Họ ngồi như thế một lúc lâu.

“Sachs... Ôi, Sachs.”

Cô rời khỏi chiếc giường Clinitron và thả người xuống cái ghế bành cũ ở góc phòng. Sachs – mặc quần thể thao bông màu xanh hải quân và áo phông của trường Cao đẳng Hunter – ngồi lọt thỏm xuống ghế và đong đưa đôi chân tuyệt đẹp của cô như một nữ sinh.

“Sao lại là chúng ta hả, Rhyme? Vì sao hắn lại đuổi theo chúng ta?” Giọng cô vẫn thì thầm, khàn khàn vì bụi đất mà cô vừa nuốt phải.

“Vì những người hắn bắt cóc không phải nạn nhân thực sự. Chúng ta mới là nạn nhân.”

“Chúng ta là ai?” Cô hỏi.

“Anh không chắc. Có thể là xã hội. Hay là thành phố. Liên Hiệp Quốc. Cảnh sát. Anh đọc lại cuốn kinh thánh của hắn – chương viết về James Schneider. Em có nhớ giả thuyết của Terry về việc vì sao hắn để lại manh mối không?”

Cô nói: “Như thể biến chúng ta thành kẻ đồng loã. Để chia sẻ tội lỗi. Để cho hắn giết người dễ dàng hơn.”

Rhyme gật đầu, rồi nói: “Nhưng anh vẫn không nghĩ đó là lý do thực sự. Anh nghĩ manh mối là cách hắn dùng để tấn công chúng ta. Mỗi nạn nhân đã chết là một mất mát đối với chúng ta.”

Mặc bộ đồ cũ, tóc buộc túm ra sau, lúc này trông Sachs đẹp nhất trong hai ngày qua. Nhưng mắt cô vô hồn. Có thể cô ấy đang sống lại cái ký ức với từng xẻng đất, anh nghĩ. Và Rhyme thấy ý nghĩ về việc cô bị chôn sống nặng nề tới mức anh phải nhìn đi chỗ khác.

“Hắn có gì để chống lại chúng ta?” Cô hỏi.

“Anh không biết. Cha của Schneider bị bắt nhầm và chết trong nhà tù. Thủ phạm của chúng ta? Ai mà biết được vì sao? Anh chỉ quan tâm đến vật chứng...”

“... không phải động cơ.” Amelia Sachs nói nốt câu.

“Nhưng vì sao hắn lại theo chúng ta nhanh như thế?” Banks hỏi, hất đầu về phía Sachs.

“Chúng ta tìm thấy hang ổ của hắn và cứu được cô bé. Tôi không nghĩ hắn lại muốn chúng ta đến sớm thế. Có thể hắn bực mình. Lon, chúng ta cần có bảo mẫu hai mươi tư trên hai mươi tư giờ, cho tất cả chúng ta. Có thể hắn sẽ biến mất một thời gian sau khi chúng ta cứu được cô bé, nhưng hắn vẫn loanh quanh đâu đó và gây thêm tội ác. Anh và Jerry, tôi, Cooper, Haumann, Polling, tất cả chúng ta đều nằm trong danh sách của hắn, chắn chắc thế. Trong lúc này, chúng ta phải đưa lính của Peretti đến chỗ Sachs. Tôi chắc là hắn đã dọn sạch nhưng có thể còn thứ gì đó. Hắn phải rời đi nhanh hơn hắn dự tính nhiều.”

“Tốt nhất là em tới đó”, Sachs lên tiếng.

“Không”, Rhyme nói.

“Em phải khám nghiệm hiện trường.”

“Em phải nghỉ ngơi một chút”, anh ra lệnh. “Đó mới là điều em phải làm, Sachs. Em không phản đối anh nói chứ, trông em tệ lắm đấy.”

“Đúng rồi, sĩ quan”, Sellitto nói. “Đó là mệnh lệnh. Tôi yêu cầu cô nghỉ hết ngày hôm nay. Chúng tôi có hơn hai mươi đặc vụ liên bang nữa.”

“Tôi có một hiện trường vụ án ở sân sau nhà mình mà tôi lại không được khám nghiệm nó?”

“Đúng”, Rhyme nói, “tóm lại là như thế”.

Sellitto đi ra cửa. “Có vấn đề gì không, sĩ quan?”

“Không, thưa ngài.”

“Nào, Banks, ta còn có việc phải làm. Cô cần đi nhờ không Sachs? Hay họ vẫn giao xe cho cô?”

"Không, cảm ơn, tôi có xe dưới nhà rồi", cô trả lời.

Hai viên thám tử đi ra. Rhyme nghe thấy giọng nói của họ vọng lại từ đại sảnh. Sau đó, cửa đóng và họ đi hẳn.

Rhyme thấy đèn trần đang bật sáng. Anh bấm vài lệnh và điều chỉnh ánh sáng mờ đi.

Sachs vươn vai.

“Được rồi”, cô nói, đúng lúc Rhyme hỏi: “Thế nào đây?”

Cô nhìn đồng hồ. “Muộn rồi.”

“Đúng thế.”

Cô đứng dậy, đi lại chỗ cái bàn nơi cô để chiếc ví. Cô nhặt ví lên, mở ra, tìm chiếc gương nhỏ và bắt đầu xem xét vết cắt trên môi.

“Trông cũng không tệ lắm”, Rhyme nói.

“Như quỷ nhập tràng”, cô nói, vẻ kích động. “Sao họ không dùng chỉ khâu có màu tươi hơn chứ?” Cô để chiếc gương sang bên, vắt chiếc ví lên vai. “Anh vừa kê lại giường”, cô nhận ra. Nó được kê lại gần cửa sổ hơn.

“Thom làm đấy. Anh có thể nhìn xuống công viên nếu anh muốn.”

“Thế à. Thế thì tốt.”

Cô bước lại gần cửa sổ. Nhìn xuống.

Ồ, vì Chúa, Rhyme nghĩ thầm. Nói đi chứ. Có chuyện gì được nhỉ? Anh buột miệng thật nhanh: “Em có muốn ở lại không? Ý anh là, muộn rồi. Nhóm Mật vụ còn hút bụi nhà em mấy tiếng nữa.”

Anh cảm thấy sự hy vọng bùng nổ trong anh. Được rồi, giết nó đi, anh nghĩ, giận dữ với chính mình. Cho tới khi cô nở một nụ cười thật tươi. “Em cũng muốn thế.”

“Tốt quá.” Hàm anh nổi gai ốc vì adrenaline. “Tuyệt vời. Thom!”

Nghe nhạc, uống chút whisky Scotch. Có thể anh sẽ kể cô nghe vài vụ án nổi tiếng. Nhà sử học trong anh cũng tò mò về người cha của cô, về công việc của cảnh sát những năm 1960 và 1970. Về đồn cảnh sát vô danh ở khu Nam Midtown ngày xưa.

Rhyme la lớn: “Thom! Lấy ít khăn trải giường. Cả chăn nữa. Thom! Anh không biết cậu ta đang làm cái quái gì nữa. Thom!”

Sachs định nói gì đó nhưng người trợ lý đã xuất hiện ngoài cửa và gắt gỏng: “Chỉ cần quát một lần là được rồi, anh biết chứ, Lincoln.”

“Amelia ở lại đêm nay. Cậu đem giúp mấy cái chăn và gối vào đi văng, được không?”

“Không, không phải đi văng nữa chứ”, cô nói. “Ngủ trên đó như nằm trên đá ấy.

Sự từ chối của cô đâm vào người Rhyme như một lưỡi dao. Anh buồn bã nghĩ: Phải mấy năm rồi mình mới có được cảm xúc ấy. Cam chịu, nhưng anh vẫn cười và nói: “Dưới nhà có một phòng ngủ. Thom sẽ sửa soạn cho em.”

Nhưng Sachs đã để ví xuống. “Được rồi, Thom. Anh không phải chuẩn bị gì đâu.”

“Không sao mà.”

“Được rồi. Chúc ngủ ngon, Thom.” Cô đi ra cửa.

“Thế à, tôi...”

Cô cười.

“Nhưng…”, anh ta bắt đầu, nhìn cô rồi quay sang Rhyme, anh đang nhăn mặt, lắc đầu.

“Chúc ngủ ngon, Thom”, cô nói một cách kiên quyết. “Cẩn thận không vấp đấy.” Và cô chậm rãi đóng cửa khi anh ta quay lại hành lang. Nó đóng lại với một tiếng cạch lớn.

Sachs tháo giày, cởi quần áo. Cô mặc chiếc áo lót dây và quần lót rộng thùng thình. Cô trèo lên chiếc giường Clinitron rồi nằm cạnh Rhyme, thể hiện tất cả quyền năng mà người phụ nữ đẹp nắm giữ khi ngủ cùng một người đàn ông.

Cô nằm cuộn tròn và cười.” Đúng là một cái giường hết ý.” Cô nói, vươn người như một con mèo. Mắt vẫn nhắm, cô hỏi.”Anh không phản đối chứ?”

“Tất nhiên là anh không phản đối.”

“Rhyme?”

“Sao?”

“Kể em nghe về cuốn sách của anh, được chứ? Những hiện trường vụ án khác?”

Anh bắt đầu kể về một tên giết người hàng loạt ranh mãnh ở Queens, nhưng chưa đầy một phút cô đã ngủ say.

Rhyme nhìn xuống và thấy ngực cô đang áp vào ngực anh, đầu gối cô gác lên đùi anh. Một sợi tóc phụ nữ vương trên mặt anh, lần đầu tiên sau nhiều năm. Nó cù anh buồn buồn. Anh hoàn toàn quên mất điều đó. Với một người thường xuyên sống trong quá khứ, với trí nhớ tốt như thế, anh rất ngạc nhiên khi thấy mình không thể nhớ tốt như thế, anh rất ngạc nhiên khi thấy mình không thể nhớ được chắc chắn lần cuối cùng mình có được cảm giác này là lúc nào. Điều anh nhớ là sự lộn xộn của những buổi tối với Blaine, anh nghĩ, trước khi tai nạn xảy ra. Anh nhớ rằng anh đã chịu bị cù buồn, không gạt những lọn tóc ra chỗ khác để không làm vợ mình thức giấc.

Còn bây giờ, tất nhiên anh sẽ không thể gạt những lọn tóc của Sachs sang chỗ khác, thậm chí, nếu chính Chúa Trời ra lệnh. Nhưng anh cũng không nghĩ đến việc gạt nó đi. Ngược lại, anh muốn cảm giác đó kéo dài cho tới khi cả vũ trụ tan tành.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35


Sáng hôm sau, Lincoln Rhyme lại ở một mình. Thom đã đi mua sắm và Mel Cooper đang ở phòng thí nghiệm IRD tại trung tâm. Vince Peretti đã làm xong công việc khám nghiệm hiện trường tại khu biệt thự ở East Van Brevoort và nhà của Sachs. Họ tìm được rất ít manh mối mặc dù Rhyme cho rằng đó là do thủ phạm quá thông minh chứ không phải do tài năng không ổn định của Peretti.

Rhyme đang đợi báo cáo hiện trường vụ án. Nhưng cả Dobyns và Sellitto đều tin rằng 823 đã trốn bặt – ít nhất là tạm thời. Trong mười hai giờ qua, không có vụ tấn công cảnh sát và nạn nhân nào bị bắt cóc.

Người canh phòng cho Sachs – một sĩ quan tuần tra to lớn từ MTS – đã cùng đi với cô tớ gặp bác sĩ tai mũi họng tại bệnh viện ở Brooklyn; đất có ảnh hưởng lớn đến họng của cô. Rhyme cũng có vệ sĩ – một sĩ quan mặc cảnh phục từ Đồn Hai mươi, đóng ngay trước khu nhà của anh – một cảnh sát thân thiện mà anh đã biết nhiều năm qua, người Rhyme rất thích tranh luận về ảnh hưởng của than bùn đến việc sản xuất whisky ở Ireland và Scotland.

Rhyme đang rất vui. Anh gọi xuống dưới nhà qua máy liên lạc nội bộ. “Tôi có hẹn với bác sĩ trong một, hai giờ tới. Cậu có thể cho ông ta lên.”

Viên cảnh sát nói, anh ta sẽ làm theo.

Bác sĩ William Berger bảo đảm với Rhyme rằng lần này ông ta sẽ đến đúng giờ.

Rhyme ngả đầu xuống gối và nhận ra trong phòng không chỉ có mình anh. Trên gở cửa sổ, những con chim ưng đang bước đi. Õng ẹo một cách hiếm thấy, chúng có vẻ bất ổn. Một cơn đau nữa lại đến. Cửa sổ của Rhyme cho thấy bầu trời yên bình, nhưng anh tin tưởng lũ chim. Chúng là dụng cụ đo khí áp chính xác.

Anh nhìn lên cái đồng hồ treo trên tường. Đã 11:00. Như hai hôm trước, anh đang chờ sự xuất hiện của bác sĩ William Berger. Cuộc đời là thế, anh nghĩ: trì hoãn hết lần này đến lần khác, nhưng cuối cùng với chút may mắn, ta vẫn đến được nơi ta cần đến.

Anh xem ti vi khoảng hai mươi phút, tìm kiếm tin tức về những vụ bắt cóc. Nhưng tất cả các đài đều đưa tin đặc biệt về ngày khai mạc hội nghị Liên Hiệp Quốc. Rhyme thấy những tin tức này buồn chán và quay lại với Matlock[141], rồi chuyển sang kênh CNN với nữ phóng viên xinh đẹp đứng bên ngoài toà nhà trụ sở Liên Hiệp Quốc, cuối cùng anh tắt máy.

Chuông điện thoại reo, anh làm một loạt động tác phức tạp để nhấc máy. “Tôi nghe.”

Một khoảng im lặng trước khi giọng một đàn ông vang lên: “Lincoln, đúng không?”

“Đúng.”

“Jim Polling đây. Anh thế nào?”

Rhyme nhận ra rằng từ sáng sớm hôm qua anh đã không gặp viên đại uý, ngoại trừ chương trình tin tức hội nghị tối hôm qua, lúc anh ta nhắc vở cho Thị trưởng và sếp Wilson.

“Ổn rồi. Có tin gì về thủ phạm của ta không?” Rhyme hỏi.

“Chưa có gì. Nhưng chúng ta sẽ tóm được hắn.” Một khoảng im lặng nữa.

“Này, anh ở nhà có một mình à?”

“Ừ.”

Một khoảng im lặng lâu hơn.

“Tôi đến, được chứ?”

“Chắc rồi.”

“Nửa tiếng nữa, được chứ?”

“Tôi sẽ ở đây”, Rhyme vui vẻ nói.

Anh ngả đầu xuống gối, ánh mắt anh lướt qua sợi dây phơi buộc nút treo bên cạnh tấm áp phích. Vẫn chưa có câu trả lời về cái nút buộc. Đó là – anh cười thành tiếng vì câu đùa – là phần còn thừa. Anh thấy khó chịu với ý tưởng bỏ vụ này mà không phát hiện ra đó là kiểu nút thắt nào. Rồi anh chợt nhớ ra Jim Polling là người câu cá. Có thể anh sẽ nhận ra...

Polling, Rhyme trầm ngâm.

James Polling...

Cái cách viên đại uý dai dẳng yêu cầu Rhyme tham dự vụ án thật là buồn cười. Cách anh ta đấu tranh để giữ anh trong vụ này thay vì Peretti – người sẽ là lựa chọn tốt hơn, về mặt chính trị cho Polling. Nhớ lại cái cách anh ta nổi giận với Dellray khi viên đặc vụ này cố chiếm lấy vụ điều tra từ NYPD.

Bây giờ anh nghĩ tới việc đó, toàn bộ sự liên quan của Polling vào vụ này là một điều bí ẩn. 823 không phải là loại tội phạm mà anh tự nguyện – ngay cả khi anh muốn có một vụ ngon lành để thêm vào lý lịch công việc. Quá nhiều rủi ro để mất nạn nhân, quá nhiều cơ hội cho báo chí – và giới quan chức – đánh hơi anh để làm thịt.

Polling... nhớ lại cách anh ta lao vào phòng anh, kiểm tra tiến độ công việc rồi bỏ đi.

Tất nhiên rồi, anh ta báo cáo cho Thị trường và sếp. Nhưng – một ý nghĩ bất ngờ vụt hiện trong đầu Rhyme – liệu Polling còn báo cáo cho ai đó khác hay không?

Ai đó muốn tìm hiểu về cuộc điều tra? Có thể chính là hắn?

Nhưng làm thế nào mà Polling có quan hệ với 823? Có vẻ như...

Thế rồi điều đó khiến anh sợ hãi.

Liệu Polling có thể là thủ phạm không?

Tất nhiên là không. Thật lố bịch. Nực cười. Ngay cả không tính đến động cơ và phương tiện, ta vẫn còn câu hỏi về cơ hội. Viên đại úy đã ở đây, trong phòng của Rhyme, khi mấy vụ bắt cóc diễn ra...

Nhưng có phải thế không?

Rhyme nhìn lên bản hồ sơ treo trên tường.

Quần áo tối màu và chiếc quần dài bông nhàu nát. Polling mặc quần áo thể thao tối màu suốt mấy ngày qua. Nhưng thế thì sao? Nhiều người cũng làm thế...

Cánh cửa dưới nhà mở ra rồi đóng lại.

“Thom?”

Không có tiếng trả lời. Người trợ lý sẽ không trở lại sau vài giờ nữa.

“Lincoln?”

Ồ không. Quỷ thật. Anh bắt đầu quay số bằng bộ ECU.

9-1-

Cằm anh đấy con trỏ sang số 2.

Tiếng bước chân dưới cầu thang.

Anh thử quay số lại, nhưng trong cơn tuyệt vọng anh đẩy thanh điều khiển ra khỏi tầm với.

Jim Polling vào phòng. Rhyme đã hy vọng người lính canh sẽ gọi anh trước. Nhưng tất nhiên là anh chàng cảnh sát tuần tra sẽ để viên đại úy mà không cần suy nghĩ.

Cái áo khoác tối màu của Polling mở phanh ra và Rhyme nhìn thấy khẩu tự động anh ta đeo bên hông. Anh không biết liệu đó có phải súng anh ta được cấp hay không. Nhưng anh biết Colt.32 là loại súng trong danh sách vũ khí cá nhân được chấp nhận của NYPD.

“Chào Lincoln”, Polling nói. Anh ta trông rõ ràng có vẻ bất ổn, cảnh giác. Anh ta nhìn khúc xương sống trắng bệch.

“Cậu thế nào, Jim?”

“Không tệ.”

Polling là người ưa hoạt động. Liệu vết sẹo trên ngón tay có thể là dấu tích của nhiều năm quăng dây câu? Hay một sự cố với con dao săn? Rhyme cố nhìn nhưng Polling vẫn đút tay trong túi. Anh ta có giấu gì trong đó không? Một con dao?

Chắc chắn Polling hiểu về hiện trường vụ án và pháp y – anh ta biết làm thế nào để không để lại vật chứng.

Cái mặt nạ trượt tuyết? Nếu Polling là thủ phạm, chắc chắn anh ta phải đeo mặt nạ – vì một trong những nạn nhân sau này có thể nhìn thấy anh ta. Và nước hoa dùng sau khi cạo râu... Nếu nghi phạm thực sự không dùng nước hoa dùng sau khi cạo râu mà chỉ đem theo một lọ để phun ra hiện trường khiến họ tin rằng hắn có dùng? Như vậy, khi Polling tới đây, không dùng tí nước hoa nào, sẽ chẳng có ai nghi ngờ anh ta.

“Anh có một mình thôi à?” Anh ta hỏi.

“Trợ lý của tôi...”

“Viên cảnh sát dưới nhà nói anh ta sẽ đi vắng một lúc.”

Thân hình Polling nhỏ nhắn nhưng khỏe mạnh, tóc màu cát. Lời nói của Terry Dobyns trở lại trong đầu anh: một người hữu ích, thẳng thắn. Một nhân viên hoạt động xã hội, luật sư, nhà chính trị. Người hay giúp đỡ kẻ khác.

Như một cảnh sát.

Rhyme đang băn khoăn liệu anh sắp phải chết hay chưa. Và thấy sốc khi nhận ra mình không muốn. Không phải kiểu này, không phải theo điều kiện của người khác.

Polling tiến về phía chiếc giường.

Nhưng anh chẳng thể làm được gì. Hoàn toàn phụ thuộc vào sự nhân từ của người đàn ông này.

“Lincoln”, Polling nói, vẻ nghiêm trọng.

Ánh mắt họ gặp nhau và một cảm giác về sự liên kết như luồng điện chạy qua người họ. Những tia lửa khô khốc. Viên đại úy nhìn nhanh ra cửa sổ. “Anh cũng đang băn khoăn, đúng không?”

“Băn khoăn?”

“Lý do tôi muốn anh vào vụ này.”

“Tôi nghĩ đó là vì tính cách của tôi.”

Viên đại uý không cười.

“Vì sao anh lại muốn tôi, Jim?”

Các ngón tay của viên đại uý đan vào nhau. Mảnh dẻ, nhưng mạnh mẽ. Bàn tay của một người câu cá, môn thể thao có vẻ hiền lành, nhưng mục tiêu lại là lôi con vật tội nghiệp ra khỏi nhà của nó, mổ bụng nó bằng một lưỡi dao sắc ngọt.”

“Bốn năm trước, vụ Shepherd. Chúng ta làm cùng nhau.”

Rhyme gật đầu.

“Những người công nhân tìm thấy xác viên cảnh sát đó trong ga tàu điện ngầm.”

Tiếng răng rắc, Rhyme nhớ lại, như âm thanh của tàu Titanic đang chìm trong phim A night to remember. Sau đó là tiếng nổ như tiếng súng khi thanh rầm rơi xuống cái cổ không may mắn của anh, và bụi đất bao trùm lấy anh.

“Và anh tự khám nghiệm hiện trường, như mọi khi.”

“Đúng thế.”

“Anh có biết chúng tôi kết án Shepherd thế nào không? Chúng tôi có một nhân chứng.”

Một nhân chứng? Rhyme chưa được nghe điều đó. Sau vụ tai nạn, anh đã mất hết tất cả manh mối liên quan đến vụ án, ngoại trừ việc Shepherd đã bị kết án và ba tháng sau đã bị một kẻ tấn công đâm đến chết trên đảo Riker. Tên này không bao giờ bị bắt.

“Một nhân chứng”, Polling nói tiếp. “Hắn có thể đặt Shepherd với vũ khí giết người vào nhà một nạn nhân.” Viên đại úy tiến lại gần giường hơn, đứng khoanh tay. “Chúng tôi có nhân chứng một ngày trước khi phát hiện cái xác cuối cùng – cái xác dưới tàu điện ngầm. Trước khi tôi yêu cầu anh khám nghiệm hiện trường.”

“Anh nói gì thế, Jim?”

Mắt viên đại úy cắm xuống sàn.

“Chúng tôi không cần anh. Chúng tôi không cần báo cáo của anh."

Rhyme im lặng.

Polling gật đầu. “Anh hiểu điều tôi nói chứ? Tôi đã rất muốn bắt tên Shepherd đó... Tôi muốn có một vụ thật chặt chẽ. Và anh biết là báo cáo hiện trường vụ án của Lincoln Rhyme sẽ làm điều gì với luật sư bảo vệ rồi đấy. Nó làm cho bọn họ sợ mất mật.”

“Nhưng Shepherd có thể vẫn bị kết án mà không cần đến báo cáo về hiện trường dưới tàu điện ngầm của tôi.”

“Đúng thế, Lincoln. Nhưng còn tệ hơn thế nữa. Anh biết không tôi được bên thiết kế giao thông cho biết chỗ đó không an toàn.”

“Ga tàu điện ngầm. Và anh vẫn để tôi khám nghiệm hiện trường trước khi họ chống lại nó?”

“Shepherd giết cảnh sát.” Mặt Polling nhăn nhúm vì ghê tởm. “Tôi rất muốn bắt được hắn. Tôi sẽ làm mọi thứ để tóm hắn. Nhưng...” Anh ta lấy tay che mặt.

Rhyme im lặng. Anh nghe thấy tiếng răng rắc của thanh rầm, tiếng nổ tung của gỗ gãy. Sau đó là tiếng xào xạc của đám bụi xung quanh anh. Sự bình an ấm áp, lạ lùng trong cơ thể lúc trái tim anh phập phồng vì hoảng sợ.

“Jim...”

“Chính vì thế tôi muốn anh vào vụ này, Lincoln. Anh thấy không?” Một cái nhìn khốn khổ xuất hiện trên khuôn mặt cứng rắn của viên đại úy; anh ta nhìn chằm chằm vào đốt xương sống trên bàn. “Tôi vẫn được nghe những câu chuyện nói rằng cuộc đời anh coi như đã vứt đi. Anh đang bị bỏ phí ở đây. Định tự tử. Tôi thấy có lỗi kinh khủng. Tôi muốn trả lại anh một phần cuộc sống.”

Rhyme nói: “Và anh đã sống với điều này suốt ba năm rưỡi qua?”

“Anh biết tôi rồi đấy, Lincoln. Mọi người biết tôi. Tôi bắt được ai đó, hắn phản ứng lại, hắn sẽ toi. Tôi đã chơi rắn với vài tên, tôi không dừng lại tới khi thằng khốn bị đóng gói rồi dán nhãn. Tôi không kiểm soát được điều đó. Tôi biết là đôi khi tôi đã quá tay với mọi người. Nhưng chúng là tội phạm – hay ít nhất là nghi phạm. Chúng không phải người của tôi, chúng không phải cảnh sát. Điều này xảy ra với anh... là tội ác. Là quá sai.”

“Tôi không phải lính mới”, Rhyme nói. “Tôi không phải khám nghiệm hiện trường nếu tôi nghĩ nơi đó không an toàn.”

“Nhưng...”

“Không đúng lúc chăng?” Một giọng nói khác vang lên ngoài cửa.

Rhyme ngẩng lên, nghĩ rằng sẽ trông thấy Berger. Nhưng đó là Peter Taylor, ông ta đang lên cầu thang. Rhyme nhớ là ông ta đã đến đây ngày hôm nay để chăm sóc bệnh nhân sau khi bị mất phản xạ. Anh cũng nghĩ rằng ông bác sĩ sẽ lại cho anh một bài về Berger và Hội Bến mê. Anh thì không có tâm trạng cho việc này; anh muốn có thời gian ở một mình – để tiêu hoá lời thú tội của Polling. Lúc này, nó cũng chỉ nằm đó, tê liệt như chính bắp đùi của Rhyme. Nhưng anh nói: “Vào nhà đi, Peter.”

“Cậu có hệ thống an ninh rất buồn cười, Lincoln ạ. Người bảo vệ hỏi tôi có phải là bác sĩ không rồi anh ta cho tôi lên. Sao thế? Vậy luật sư và kế toán bị đá đít à?”

Rhyme cười. “Tôi chỉ cần một giây thôi.” Rhyme quay lại với Polling. “Số phận thôi, Jim ạ. Điều xảy ra với tôi ấy mà. Tôi chỉ ở không đúng nơi và không đúng lúc thôi. Thỉnh thoảng điều đó vẫn xảy ra.”

“Cảm ơn, Lincoln.” Polling đặt tay lên vai Rhyme và bóp nhẹ.

Rhyme gật đầu, và để tránh sự biết ơn không dễ dàng, anh giới thiệu hai người với nhau. “Jim, đây là Peter Taylor, một trong những bác sĩ của tôi. Còn đây là Jim Polling, chúng tôi đã từng làm việc với nhau.”

“Rất vui được gặp anh”, Taylor nói, chìa tay phải ra. Đó là một cử động dài và ánh mắt Rhyme nhìn theo nó, vì một lý do nào đó anh nhận ra vết sẹo hình vành trăng sâu trên ngón tay trỏ của Taylor.

“Không!” Rhyme la lớn.

“Vậy mày cũng là cớm.” Taylor nắm chặt tay Polling trong khi hắn thọc ba lần lưỡi dao đang được hắn nắm chắc bên tay trái vào ngực viên đại úy, xuyên qua kẽ xương sườn với sự tinh tế của một bác sĩ phẫu thuật. Chắc chắn là hắn không phạm đến chiếc xương quý giá.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36


Chỉ với hai bước dài Taylor đã đến bên chiếc giường. Hắn vớ lấy bộ điều khiển ECU đang nằm dưới ngón tay Rhyme và ném nó đi.

Rhyme lấy hơi để thét gọi. Nhưng tên bác sĩ nói: “Hắn cũng chết rồi. Tên cớm.” Hất đầu về phía cửa, chỉ người cận vệ dưới nhà. Taylor thích thú nhìn Polling đang giãy giụa như một con thú gãy lưng, phun máu ra nền nhà và lên tường.

“Jim!” Rhyme gào lên. “Không, ôi, không...”

Hai bàn tay viên đại uý ôm lấy lồng ngực bị rạch nát của anh ta. Tiếng ằng ặc đáng sợ của anh ta tràn ngập căn phòng, cộng với tiếng đế giày đập như điên dại xuống sàn khi anh ta chết. Cuối cùng, anh ta giật bắn người một lần nữa rồi nằm yên. Hai con mắt mờ đục, lấm tấm máu của anh ta nhìn lên trần nhà.

Quay lại phía Rhyme, hắn nhìn chằm chằm vào anh khi đi vòng quanh chiếc giường. Đi vòng quanh, dao trên tay. Hơi thở lạnh lùng.

“Ông là ai?” Rhyme thở hổn hển.

Taylor từ từ tiến lại gần hơn, đặt các ngón tay lên tay Rhyme và bóp xương vài lần, có thể mạnh, có thể đau, có thể không. Bàn tay hắn lần xuống ngón tay đeo nhẫn bên trái của Rhyme. Hắn nhấc nó ra khỏi bộ điều khiển ECU và chăm sóc nó bằng lưỡi dao đang nhỏ máu. Thọc đầu nhọn con dao vào móng tay.

Rhyme cảm thấy một cơn đau mờ nhạt, một cảm giác buồn nôn. Sau đó đau hơn. Anh thở hổn hển.

Sau đó, Taylor nhận thấy điều gì đó và cứng đờ người. Hắn thở hổn hển. Cúi người ra trước. Nhìn chằm chằm vào cuốn sách Crime in Old New York trên chiếc giá lật trang.

“Ra thế... Mày tìm được nó đấy... Ồ, bọn cớm chắc phải tự hào lắm vì có mày trong đội ngũ, Lincoln Rhyme ạ. Tao đã nghĩ phải mất nhiều ngày thì bọn mày mới tìm được ngôi nhà. Tao nghĩ lúc đó Maggie đã bị lũ chó xé nát rồi.”

“Sao ông lại làm thế?” Rhyme hỏi.

Nhưng Taylor không trả lời, hắn đang cẩn thận xem xét Rhyme, lẩm bẩm như nói với chính mình: “Trước đây, mày không được giỏi thế này, mày biết không? Ngày xưa ấy mà. Khi đó mày bỏ qua nhiều thứ quá, đúng không? Ngày xưa ấy mà.”

Ngày xưa... ý hắn ta là gì?

Hắn lắc lắc cái đầu hói, tóc hoa râm – không phải nâu – và liếc nhìn cuốn sách pháp y của Rhyme. Có sự thừa nhận trong mắt hắn và Rhyme dần dần hiểu ra.

“Ông đọc sách của tôi”, nhà hình sự học nói. “Ông nghiên cứu nó. Trong thư viện, đúng không? Chi nhánh thư viện công cộng gần nhà ông?”

Cuối cùng thì 823 cũng là một kẻ đọc sách.

Vì thế hắn biết quy trình khám nghiệm hiện trường của Rhyme. Vì thế hắn quét chúng cẩn thận, vì thế hắn đeo găng tay khi sờ vào những bề mặt mà hầu hết bọn tội phạm không nghĩ là sẽ để lại dấu tay, vì thế hắn phun nước hoa dùng sau khi cạo râu tại hiện trường – hắn biết chính xác Sachs sẽ tìm kiếm thứ gì.

Và tất nhiên cẩm nang đó không phải là cuốn duy nhất hắn đọc.

Cả Scenes of The Crime nữa. Cuốn này cho hắn ý tưởng về những manh mối để lại – những manh mối New York cổ xưa. Những manh mối chỉ Rhyme mới có thể giải mã.

Taylor nhặt đĩa có đốt xương sống mà hắn đưa cho Rhyme tám tháng trước lên. Hắn lơ đãng xoay xoay nó giữa các ngón tay. Và Rhyme nhìn thấy món quà, khi đó thật cảm động, nhưng giờ hoá ra lại là một lời nói đầu thật kinh khủng.

Mắt hắn không tập trung, nhìn xa xăm. Rhyme nhớ lại trước đây anh đã nhìn thấy điều đó – khi Taylor khám cho anh trong những tháng qua. Anh đã xem điều đó là sự tập trung của một bác sĩ nhưng giờ anh hiểu, đó là sự điên loạn. Khả năng kiềm chế mà anh đang cố duy trì dần biến mất.

“Nói cho tôi biết”, Rhyme hỏi. “Vì sao?”

“Vì sao à?” Taylor thầm thì, lướt tay trên chân Rhyme, ấn thử lần nữa, đầu gối, da, mắt cá chân. “Vì mi rất tuyệt vời, Rhyme ạ. Độc đáo. Mi là người không có điểm yếu.”

“Ý ông là gì?”

“Làm sao có thể trừng phạt được một người đang muốn chết? Nếu ta giết hắn, ta đã làm điều hắn muốn. Vì thế ta phải làm cho mi muốn sống.”

Cuối cùng thì câu trả lời cũng đến với Rhyme.

Ngày xưa...

“Đồ giả phải không?” Anh thầm thì. “Bản cáo phó từ nhân viên điều tra đột tử ở Albany. Chính ông viết nó.”

Collin Stanton. Bác sĩ Taylor chính là Colin Stanton.

Người đàn ông có gia đình bị tàn sát ngay trước mắt ông ta, trên những con phố của khu Chinatown. Người đàn ông đứng đó, tê liệt trước thi thể của vợ và hai đứa con, nhìn họ mất máu cho đến chết, ghê sợ khi không dám lựa chọn cứu ai trong số họ.

Mi bỏ qua nhiều thứ. Ngày xưa.

Miếng ghép cuối cùng đã vào đúng chỗ, nhưng quá muộn.

Việc hắn nhìn các nạn nhân: T.J. Colfax, Monelle và Carole Ganz. Hắn chấp nhận nguy cơ bị bắt để đứng lại và nhìn họ – đúng như Stanton đứng nhìn gia đình mình, nhìn họ đã chết dần. Hắn muốn báo thù nhưng hắn lại là bác sĩ, hắn đã thề không bao giờ giết người, vì thế để có thể giết chóc hắn phải trở thành tổ tiên tinh thần của chính mình – Kẻ Tầm Xương, James Schneider, một tên điên loạn của thế kỷ XIX, người có gia đình bị cảnh sát làm tan nát.

“Sau khi ra khỏi nhà thương điên, ta quay lại Manhattan. Ta đọc báo cáo điều tra về việc mi đã bỏ qua tên giết người tại hiện trường vụ án như thế nào, hắn thoát khỏi căn hộ đó ra sao. Ta biết ta phải giết mi. Nhưng ta không thể. Ta không biết vì sao... Ta cứ đợi, đợi điều gì đó xảy ra. Rồi sau đó, ta tìm thấy cuốn sách. James Schneider... Hắn đã trải qua chính xác những gì mà ta đã trải qua. Hắn đã làm được, ta cũng làm được.”

Ta sẽ lóc họ đến tận xương.

“Bản cáo phó”, Rhyme nói.

“Đúng thế. Chính ta viết nó trên máy tính. Fax nó đến NYPD để họ không nghi ngờ. Sau đó, ta trở thành một người khác. Bác sĩ Peter Taylor. Mãi về sau ta mới nhận ra vì sao ta chọn cái tên này. Mi nghĩ ta được không?” Stanton nhìn lên tấm bảng trên tường. “Câu trả lời ở đó.”

Rhyme nhìn qua hồ sơ.

- Biết tiếng Đức cơ bản

“Schneider”, Rhyme nói, thở dài mệt mỏi. “Tiếng Đức là thợ may[142].”

Stanton gật đầu. “Ta đã ở thư viện hàng tuần, đọc về chấn thương cột sống và sau đó gọi điện cho mi, nói rằng ta được SCI Columbia giới thiệu. Ta định giết mi ngay từ lần đầu tiên, lóc từng rẻo thịt của mi ra, để cho mi mất máu đến chết. Sẽ phải mất vài giờ, thậm chí vài ngày. Nhưng chuyện gì xảy ra?” Mắt hắn mở to.” Ta thấy mi muốn tự giết mình.”

Hắn cúi xuống gần Rhyme. “Lạy Chúa, ta vẫn nhớ lần đầu tiên ta nhìn thấy mi. Đồ khốn kiếp. Mi chết rồi. Thế là ta biết ta phải làm gì – ta phải là cho mi muốn sống. Ta phải cho mi mục tiêu để sống.”

Tức là hắn bắt ai không quan trọng. Ai cũng được. “Thậm chí ông không quan tâm nạn nhân sống hay chết.”

“Tất nhiên là không. Điều tao muốn là bắt mi cố cứu họ.”

“Nút thắt”, Rhyme hỏi, nhìn thấy là vòng dây phơi treo cạnh tấm áp phích. “Đấy là mũi khâu phẫu thuật.”

Hắn gật đầu.

“Tất nhiên rồi. Còn vết sẹo trên tay ông?”

“Ngón tay ta?” Hắn nhăn mặt. “Làm sao mi... Cổ cô ta! Mi lấy dấu tay trên cổ Hanna. Ta biết là có thể. Ta không nghĩ đến điều đó.” Tự giận mình. “Ta đập vỡ cốc trong thư viện của nhà thương điên”, Stanton tiếp tục. “Để tự cắt cổ tay. Ta bóp cho đến khi nó vỡ tan.” Hắn cà điên dại vào vết sẹo trên ngón tay trỏ.

“Những người đã chết”, Rhyme nói đều đều. “Vợ và các con ông. Đó là tai nạn. Một tai nạn khủng khiếp, đáng sợ. Nhưng không phải là cố tình. Đó là một sự sai lầm. Tôi rất lấy làm tiếc cho ông và cho họ.”

Bằng một giọng ngân nga, Stanton quở trách: “Có nhớ mi đã viết gì không?... Trong lời mở đầu cuốn sách giáo khoa của mi?” Hắn trích dẫn một cách chính xác. “Một nhà hình sự học biết rằng mỗi hành động đều có hậu quả. Sự hiện diện của tội phạm làm biến đổi mọi hiện trường vụ án, bất kể nó mờ nhạt đến đâu. Chính vì thế chúng ta có thể phát hiện, định vị được bọn tội phạm và nắm được công lý.” Stanton nắm tóc Rhyme và kéo đầu anh ra phía trước. Họ chỉ cách nhau vài inch. Rhyme có thể ngửi thấy hơi thở của tên điên loạn, thấy được những giọt mồ hôi trên làn da màu xám. “Được rồi, ta là hậu quả cho những hành động của mi.”

“Ông sẽ đạt được điều gì? Ông có giết tôi thì tôi cũng không tệ hơn bây giờ.”

“Ồ, nhưng ta chưa giết ngươi. Chưa đâu.”

Stanton thả tóc Rhyme ra, lùi lại.

“Mi có biết ta sẽ làm gì không?” Hắn thầm thì. “Ta sẽ giết tay bác sĩ của ngươi, Berger. Nhưng không theo cách giết của hắn. Ồ, không thuốc ngủ, không rượu. Ta sẽ xem hắn có thích chết theo cách truyền thống không. Sau đó là bạn mi, Sellitto. Còn sĩ quan Sachs? Cả cô ta nữa. Cô ta là người may mắn đấy. Nhưng lần sau ta sẽ tóm được cô ta. Một lần chôn cất cho cô ta nữa nhé. Tất nhiên cả Thom nữa. Nó sẽ chết ngay ở đây, trước mặt mi. Ta sẽ lóc nó đến tận xương... đẹp đẽ và chậm rãi.” Hơi thở của Stanton gấp gáp. “Có thể ta sẽ chăm sóc nó ngay hôm nay. Khi nào thì nó về nhỉ?”

“Tôi đã sai lầm. Đó là...” Bất ngờ Rhyme ho dữ dội. Anh hắng giọng, cố lấy lại hơi thở. “Đó là lỗi của tôi. Ông làm gì tôi cũng được.”

“Không. Không phải là mi. Đó là...”

“Làm ơn di. Ông không thể...” Rhyme lại bắt đầu ho. Cơn ho biến thành những cơn rung toàn thân. Anh không thể điều khiển được mình nữa rồi.

Stanton nhìn anh.

“Ông không thể làm đau họ. Tôi sẽ làm điều gì đó...” Giọng của Rhyme gấp gáp. Đầu anh lật ra sau, mắt lồi ra.

Hơi thở của Lincoln Rhyme ngừng hẳn. Đầu anh lắc lư, vai rung bần bật. Gân cổ cứng như dây thép.

“Rhyme!” Stanton gào lên.

Sùi bọt mép, môi phun nước bọt, Rhyme giật người một lần, hai lần như thể một cơn động đất tràn qua cơ thể mềm oặt của anh. Đầu anh rơi ra sau, khoé miệng rỉ máu.

“Không!” Stanton hét lên. Ấn tay vào ngực Rhyme. “Mi không được chết!”

Viên bác sĩ lật mí mắt Rhyme, nhìn thấy toàn lòng trắng.

Stanton mở tung hộp cứu thương của Thom và lấy mũi tiêm huyết áp dưới da, tiêm thuốc. Hắn ném cái gối khỏi giường và kéo Rhyme nằm thẳng ra. Hắn lật ngửa đầu Rhyme, lau môi và áp miệng hắn vào miệng Rhyme, thỏi mạnh vào hai lá phổi đã tê liệt của Rhyme.

“Không!” Stanton phát khùng. “Ta không cho mi chết! Mi không được chết.”

Không một chút phản hồi.

Một lần nữa. Hắn kiểm tra đôi mắt bất động.

“Nào! Nào!”

Một lần hà hơi nữa. Đập vào bộ ngực bất động.

Sau đó hắn lùi lại, chết cứng vì hoảng loạn và sốc, nhìn, nhìn chằm chằm người đàn ông đang chết trước mặt hắn.

Cuối cùng hắn cúi xuống và thổi thật sâu vào miệng Rhyme lần cuối cùng.

Và đúng vào lúc Stanton nghiêng đầu, ghé tai để lắng nghe một âm thanh yếu ớt của hơi thở, bất kỳ tiếng thở ra yếu ớt nào, Rhyme phóng về phía trước như một con rắn đang mổ. Anh cắn chặt răng vào cổ Stanton, xé tung động mạch cảnh và cắn môi vào một phần xương sống của người đàn ông.

Đến tận...

Stanton gào lên vào quờ quạng vật ra sau, kép Rhyme ngã khỏi giường và rơi đè lên hắn. Họ nằm trên sàn. Máu nóng phun ra, ngập trong miệng Rhyme.

... xương

Lá phổi của anh, hai lá phổi sát thủ của anh, đã không có không khí suốt một phút, nhưng anh từ chối không nhả ra để lấy hơi, bỏ qua cơn đau đớn khủng khiếp bên trong má, nơi làn da mềm mại bị anh cắn đến chảy máu để làm cho cơn đột quỵ do mất phản xạ của anh đến nhanh hơn. Anh gầm gừ trong cơn giận dữ – tưởng tượng cảnh Amelia Sachs bị chôn dưới đất, tưởng tượng cảnh hơi nước phun lên cơ thể T.J. Colfax – anh lắc đầu, cảm thấy tiếng lạo xạo của xương và sụn.

Stanton lại gào lên, đập dữ dội vào ngực Rhyme. Đạp chân để thoát khỏi con quái vật đã cắm chính nó vào hắn ta.

Nhưng không thể thoát khỏi hàm răng của Rhyme. Dường như tinh thần của tất cả các cơ bắp thịt đã chết trong cơ thể anh dồn cả lên hai hàm răng.

Stanton bò tới cái bàn đầu giường và cố với được con dao của hắn. Hắn đánh mạnh vào Rhyme. Một lần, hai lần. Nhưng những nơi duy nhất hắn có thể với tới là tay chân của nhà hình sự học. Cơn đau là thứ làm người ta tê liệt, nhưng cơn đau lại là thứ Rhyme hoàn toàn miễn dịch.

Hai hàm răng anh nghiến chặt hơn, tiếng thét của Stanton tắt ngấm lúc khí quản hắn đứt rời. Hắn thọc dao sâu vào tay của Rhyme. Con dao bị chặn lại khi chạm đến xương. Hắn bắt đầu rút nó ra để đâm lần nữa, nhưng cơ thể của tên điên loạn đột nhiên đông cứng rồi quẫy mạnh, một lần, hai lần, và hoàn toàn mềm oặt.

Stanton đổ vật xuống sàn, kéo theo Rhyme. Đầu nhà hình sự học đập bộp xuống nền gỗ sồi. Nhưng anh không buông tha. Anh bám chặt, tiếp tục nghiến ngấu cổ của người đàn ông, lắc, xé thịt như con sư tử đói say máu và điên loạn bởi sự khoái lạc vô biên của cơn khát thèm được thoả mãn.

KHI TA DI CHUYỂN,

CHÚNG KHÔNG THỂ BẮT ĐƯỢC TA

Nghĩa vụ của người bác sĩ không chỉ là kéo dài cuộc sống, mà còn là chấm dứt sự khổ đau.

BÁC SĨ JACK KEVORKIAN
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,359
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37


7:15 PM đến 10:00 PM thứ Hai

Khi Sachs bước vào phòng anh thì mặt trời đã sắp lặn.

Cô không mặc đồ thể thao. Cũng không phải cảnh phục. Cô mặc quần bò và chiếc áo khoác màu xanh lá cây. Trên khuôn mặt xinh đẹp của cô có vài vết sẹo mà Rhyme không nhận thấy, mặc dù anh đoán với những sự kiện trong ba ngày qua thì những vết thương này không phải tự có.

“Ái chà”, cô nói trong khi đi vòng quanh phần sàn nhà nơi Stanton và Polling đã chết. Chỗ đó đã được lau sạch bằng chất tẩy rửa – khi tên tội phạm đã vào trong quan tài thì pháp y trở thành thừa thãi – nhưng vết bẩn thì thật khổng lồ.

Rhyme nhìn Sachs dừng lại và lạnh lùng gật đầu chào bác sĩ William Berger, ông ta đang đứng cạnh ô cửa sổ của con chim ưng với chiếc va li bên cạnh.

“Anh tóm được hắn rồi, đúng không?” Cô hỏi, hất đầu về phía vết máu.

“Ừ”, Rhyme nói. “Hắn toi rồi.”

“Một mình anh?”

“Cũng không công bằng lắm”, anh nói. “Anh phải cố kìm chế mình.”

Phía bên ngoài, mặt trời đang xuống thấp, đổ thứ ánh sáng rực rỡ xuống thắp sáng những ngọn cây và đường viền của những toà nhà tinh tế dọc theo Đại lộ Năm phía bên kia công viên.

Sachs liếc nhìn bác sĩ Berger, ông này nói: “Lincoln và tôi vừa có cuộc trao đổi nhỏ.”

“Đúng thế ư?”

Một khoảng im lặng thật dài.

“Amelia”, anh bắt đầu. “Anh sẽ tiến hành thôi. Anh quyết định rồi.”

“Em thấy rồi.” Đôi môi tuyệt đẹp của cô, đang bị những mũi khâu nhỏ xíu làm hỏng, hơi mím lại một chút. Đó là phản ứng duy nhất của cô. “Anh biết không, em rất ghét khi bị anh đem tên riêng ra gọi. Em rất ghét.”

Làm thế nào mà anh giải thích được cho cô biết rằng cô là lý do chính để anh chọn cái chết cho mình? Buổi sáng hôm đó, khi thức dậy và có cô bên cạnh, anh buồn bã nhận ra rằng rồi cô sẽ bước xuống giường, mặc quần áo và đi ra cửa – trở lại với cuộc sống riêng của cô, cuộc sống bình thường. Vì sao, câu chuyện tình của họ đã kết thúc – nếu như anh dám nghĩ về họ như một đôi tình nhân. Việc cô tìm thấy một anh chàng Nick khác để yêu chỉ là vấn đề thời gian. Vụ 823 đã chấm dứt, và không có nó để liên kết họ lại thì cuộc sống của họ sẽ trôi ra rất xa nhau. Điều đó là chắc chắn.

Ồ, Stanton thực sự thông minh hơn anh nghĩ. Rhyme đã bị lôi kéo tới bờ vực của thế giới thực thêm một lần nữa và, đúng thế, anh đã vượt qua nó, rất xa.

Sachs, anh nói dối đấy. Đôi khi ta không thể bỏ qua những người đã chết. Đôi khi ta phải cùng đi với họ...

Hai bàn tay nắm chặt, cô đi về phía cửa sổ. “Em đã cố gắng nghĩ ra một lý lẽ đủ mạnh mẽ để thuyết phục anh đừng làm điều đó. Anh biết đấy, một điều thực sự hấp dẫn. Nhưng em không thể. Tất cả những gì em có thể nói là em không muốn anh làm điều đó.”

“Thoả thuận là thoả thuận, Sachs ạ.”

Cô nhìn Berger. “Mẹ kiếp, Rhyme.” Bước tới phía giường, cô quỳ xuống. Cô đặt tay lên vai anh, vuốt tóc trên trán cho anh. “Nhưng anh làm cho em một việc nhé.”

“Việc gì?”

“Cho em một vài giờ.”

“Anh không thay đổi ý định đâu.”

“Em hiểu. Chỉ cần hai giờ thôi. Có một việc anh cần phải làm trước đã.”

Rhyme nhìn Berger. Ông ta nói: “Tôi không thể ở lại lâu hơn được nữa, Lincoln. Máy bay của tôi... Nếu anh muốn đợi thì một tuần nữa tôi có thể quay lại...”

“Được rồi, bác sĩ...”, Sachs nói. “Tôi sẽ giúp anh ấy.”

“Cô?” Ông bác sĩ nghi ngờ hỏi.

Cô miễn cưỡng gật đầu. “Vâng.”

Đó là bản chất của cô. Rhyme có thể thấy rất rõ điều đó. Anh nhìn vào đôi mắt xanh của cô, tràn lệ nhưng thật trong sáng.

Cô nói: “Khi em bị... khi hắn chôn sống em, Rhyme ạ, em không cử động được. Không một ly. Trong một khắc, em rất mong được chết. Không phải sống nữa, chỉ làm sao để chấm dứt điều đó. Em hiểu cảm giác của anh.”

Rhyme chậm rãi gật đầu rồi nói với Berger: “Được rồi, bác sĩ. Anh có thể để lại... Ngày nay người ta gọi là gì nhỉ?”

“Đồ dùng cá nhân được không?” Berger đề xuất.

“Ông có thể để nó trên bàn, ở đằng kia.”

“Cô chắc chứ?” Ông ta hỏi Sachs.

Cô lại gật đầu.

Người bác sĩ để những viên thuốc, chai brandy và cái túi nhựa lên chiếc bàn đầu giường. Sau đó ông ta lục lọi trong va li. “Tôi sợ tôi không có dây chun. Buộc cái túi.”

“Được rồi”, Sachs nói, nhìn xuống đôi giày của cô. “Tôi có vài sợi.”

Sau đó Berger đi lại gần giường, đặt tay lên vai Rhyme. “Tôi chúc anh tự giải thoát bình yên”, ông ta nói.

“Tự giải thoát”, Rhyme châm biếm nói khi Berger đi khỏi. Sau đó nói với Sachs: “Còn bây giờ, anh cần làm gì nhỉ?”

Cô quay xe lúc đang chạy với tốc độ năm mươi dặm một giờ, trượt mạnh trên đường và êm ả chuyển sang số bốn.

Gió thốc vào qua cửa sổ mở rộng, thổi tóc họ bay tung. Gió dữ dội nhưng Sachs chưa bao giờ nghe nói tới chuyện lái xe mà đóng cửa sổ.

“Thế thì không phải là kiểu Mỹ rồi”, cô tuyên bố và vượt ngưỡng một trăm dặm một giờ.

Khi ta di chuyển...

Rhyme cho rằng sẽ sáng suốt hơn nếu họ lái xe trong bãi tập của NYPD nhưng anh không ngạc nhiên khi Sachs tuyên bố đó là đường chạy vớ vẩn; cô đanh bại nó ngay trong tuần đầu tiên tại học viện. Vậy là họ chạy ra Long Island, câu chuyện về lý do để “đối phó” với cảnh sát Hạt Nassau của họ đã sẵn sàng, vì họ đã luyện qua và nó có vẻ đáng tin.

“Vấn đề của xe có năm số là số cao nhất không phải là số nhanh nhất. Đó là số chạy đường trường, em thì không quan tâm đến tiết kiệm xăng và đường trường”. Sau đó cô nắm lấy tay trái anh đặt chiếc núm tròn màu đen, trùm tay cô lên tay anh, về số.

Động cơ gầm lên và họ vọt lên tốc độ một trăm hai mươi dặm một giờ, những ngôi nhà và hàng cây lao qua vun vút, những con ngựa đang ăn cỏ trên cánh đồng lo lắng ngẩng lên nhìn theo vệt đen của chiếc Chevrolet đang lao qua.

“Đỉnh quá, phải không Rhyme?” Cô nói to. “Hết ý, hơn cả sex. Hơn mọi thứ”.

“Anh cảm thấy sự chuyển động”, anh nói. “Anh nghĩ là anh cảm thấy được. Ở ngón tay anh.”

Cô cười. Anh tin rằng cô siết chặt tay anh trong bàn tay cô. Cuối cùng họ cũng chạy hết đoạn đường vắng, xung quanh lại đông người. Sachs miễn cưỡng giảm tốc độ, quay xe hướng về phía vầng trăng lưỡi liềm vừa mọc trên thành phố xa xa, gần như vô hình trong không khí tháng Tám ngột ngạt.

“Thử chạy với tốc độ một trăm năm mươi xem sao”, cô đề nghị. Lincoln Rhyme nhắm mắt, thả mình vào trong gió, mùi cỏ mới cắt và tốc độ.

Đó là buổi tối nóng nhất trong tháng.

Từ điểm quan sát mới của mình, Lincoln Rhyme có thể nhìn xuống công viên, nhìn ngắm những kẻ lập dị ngồi trên ghế đá, những người chạy bộ kiệt sức, các gia đình ngồi quây quần quanh khói của chiếc bếp nướng thịt đang lụi tàn như những kẻ sống sót sau một cuộc chiến thời trung cổ.

Thom đã cho đĩa CD vào máy – khúc khoan thai bi tráng cho đàn dây của Samuel Barber[143]. Nhưng Rhyme nở một nụ cười chế giễu, tuyên bố rằng điệu nhạc này là một lời chia buồn sáo rỗng và ra lệnh cho cậu ta thay nó bằng Gershwin[144].

Amelia Sachs lên cầu thang, vào phòng ngủ của anh và nhận thấy anh đang nhìn ra ngoài. “Anh nhìn gì vậy?” Cô hỏi.

“Những người nóng bỏng.”

“Và những con chim? Lũ chim ưng?”

“À, đúng rồi, chúng nó ở kia.”

“Cũng nóng bỏng chứ?”

Anh nhìn con chim đực. “Anh không nghĩ thế. Hình như chúng nó vượt lên trên điều đó”.

Cô đặt cái túi xuống chân giường và nhấc thứ bên trong ra, một chai brandy đắt tiền. Anh nhắc cô về chai whisky Scotch nhưng cô nói cô sẽ góp phần rượu. Cô đặt nó bên cạnh những viên thuốc và cái túi nhựa. Trông như một người vợ chuyên nghiệp vui tươi, vừa từ Balducci’s[145] về nhà đem theo hàng đống rau dưa và đồ biển nhưng lại có quá ít thời gian để nấu nướng.

Cô còn mua thêm ít đá, theo yêu cầu của Ryhme. Anh nhớ Berger đã nói đến sức nóng của cái túi. Cô mở nút chai Courvoisier[146], rót cho mình một ly và đổ đầy cái cốc vại của anh, đưa ống hút vào miệng cho anh.

“Thom đâu?” Cô hỏi anh.

“Ra ngoài”

“Anh ta có biết không?”

“Có.”

Họ cùng nhấm nháp rượu.

“Anh có muốn em nhắn gì cho vợ anh không?”

Rhyme suy nghĩ một lúc lâu: chúng ta có nhiều năm để chuyện trò với ai đó, để giãi bày và khoác lác, để nói về khát vọng, sự giận dữ và những nỗi hối tiếc – và than ôi, chúng ta đã lãng phí những khoảnh khắc đó như thế nào. Còn Amelia Sachs, anh mới biết cô có ba ngày và họ đã cùng thổ lộ tâm tình nhiều hơn những gì anh và Blaine đã làm trong gần một thập kỷ.

“Không”, anh nói. “Anh đã gửi mail cho cô ấy.” Anh cười thầm. “Thực sự là một món quà của thời đại chúng ta, phải nói là như thế.”

Uống thêm một chút rượu, vị đắng se se lan tỏa trong miệng anh. Êm hơn, mờ mịt hơn, nhẹ nhàng hơn.

Sachs cúi xuống giường, chạm cốc với anh.

“Anh có một ít tiền”, Rhyme bắt đầu. “Anh chuyển cho Blaine và Thom phần lớn. Anh…”

Nhưng cô khiến anh im lặng bằng một nụ hôn lên trán và cái lắc đầu.

Có tiếng lóc cóc nhẹ nhàng của đá cuội khi cô đổ những viên Seconals nhỏ xíu ra tay.

Rhyme nghĩ một cách máy móc: Tia reagent thử màu Dille-Koppanyi. Thêm một phần trăm cobalt acetate vào chất đang khám nghiệm sau đó là năm phần trăm isopropylamine trong metanola. Nếu chất này là thuốc an thần, tia reagent sẽ chuyển sang màu xanh tím rất đẹp.

“Ta phải làm thế nào?” Cô hỏi, nhìn những viên thuốc. “Em thực sự không biết”.

“Hòa với rượu”, anh đề xuất.

Cô thả chúng vào cốc vại của anh. Chúng nhanh chóng tan ra.

Chúng thật mong manh. Như những giấc mơ mà chúng tạo ra.

Cô dùng ống hút khuấy cho tan. Anh nhìn những móng tay xướt xát của cô nhưng điều đó cũng không làm anh buồn. Đêm nay là đêm của anh, và đó là đêm của niềm vui.

Bất chợt Lincoln Rhyme nhớ lại thời thơ ấu của mình, ở ngoại ô Illinois. Anh chẳng bao giờ uống sữa. Mẹ đã phải mua cho anh ống hút tráng mùi bên trong để dỗ anh uống. Mùi dâu tây, mùi chocolate. Anh không nghĩ đến chúng cho tới lúc này. Đó là một phát minh vĩ đại, anh nhớ lại. Anh luôn chờ suất sữa buổi chiều của mình.

Sachs đẩy ống hút đến gần miệng anh hơn. Anh ngậm nó vào môi. Cô đặt tay lên tay anh.

Ánh sáng hay bóng tối, âm nhạc hay sự im lặng, những giấc mơ hay sự nhập định của giấc ngủ không mộng mị? Ta sẽ thấy gì?

Anh bắt đầu uống. Vị chẳng có gì khác với rượu thường. Có thể hơi đắng hơn một chút. Nó giống như…

Phía dưới nhà có tiếng đập cửa thình thình. Dùng cả chân lẫn tay, có lẽ thế. Cả tiếng người la hét.

Anh nhả ống hút. Nhìn ra phía cầu thang.

Cô nhìn anh, nhăn mặt.

“Em ra ngoài xem thế nào”, anh nói với cô.

Cô biến mất dưới cầu thang và một khắc sau đã quay lại, trông có vẻ không vui. Lon Sellitto và Jerry Banks theo sau. Rhyme nhận thấy viên thám tử trẻ lại làm trò đồ tể trên mặt anh ta bằng dao cạo râu. Chắc chắn là anh ta cần học cách kiểm soát nó.

Sellitto nhìn cái túi và cái chai. Ánh mắt anh ta quay sang Sachs, nhưng cô khoanh tay nhìn lại, thầm ra lệnh cho ông ta ra về. Đây không phải vấn đề cấp bậc, cái nhìn nói với viên thám tử rằng điều đang diễn ra ở đây không phải việc của ông ra. Mắt Sellitto nhận thông điệp, nhưng ông ta không hề có ý định bỏ đi.

“Lincoln, tôi cần nói chuyện với anh.”

“Nói đi, nhưng nhanh lên, Lon. Chúng tôi đang bận.”

Viên thám tử nặng nề ngồi xuống cái ghế mây. “Một giờ trước, một quả bom đã phát nổ tại trụ sở Liên Hiệp Quốc. Ngay cạnh phòng tiệc. Trong bữa tối chào đón các đại biểu của hội nghị hòa bình.”

“Sáu người chết, năm mươi tư người bị thương”, Banks nói thêm. “Hai mươi người trong số họ bị thương rất nghiêm trọng.”

“Trời ơi”, Sachs thầm thì.

“Kể cho anh ấy đi”, Sellitto lầm bầm.

Banks tiếp tục: “Liên Hiệp Quốc đã thuê khá nhiều nhân viên thời vụ phục vụ hội nghị. Tội phạm là một trong số họ – một nhân viên tiếp tân. Khoảng nửa tá nhân chứng nhìn thấy cô ta đeo một cái ba lô đi làm và để nó trong kho cạnh phòng tiệc. Cô ta để nó ở đấy, trước khi có tiếng nổ. Đội công binh cho rằng phải có tới hai cân C4 hay Semtex”.

Sellitto nói: “Linc, quả bom, đó là một cái ba lô màu vàng, nhân chứng nói như vậy.”

“Màu vàng? Sao nghe quen thế nhỉ?”

“Bộ phận nguồn lực của Liên Hiệp Quốc nhận định nhân viên tiếp tân đó là Carole Ganz.”

“Người mẹ”, Rhyme và Sachs đồng thanh.

“Đúng thế. Người phụ nữ được các vị cứu trong nhà thờ. Có điều Ganz là tên giả. Tên thực của ả là Charlotte Willoughby. Ả là vợ Ron Willoughby. Có thấy gì không?”

Rhyme nói không.

“Tin này được đưa khoảng hai năm trước. Anh ta là trung sĩ quân đội, được giao nhiệm vụ phục vụ trong lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc tịa Miến Điện”.

“Tiếp đi”, nhà hình sự học nói.

“Willoughby không muốn đi – anh ta nghĩ một người Mỹ không nên mặc quân phục UN và không nhận mệnh lệnh từ bất kỳ ai ngoài Quân đội Mỹ. Ngày nay nó là vấn đề cánh hữu rất lớn. Chưa được một tuần thì anh ta đã bị một tên du côn ở Rangoon bắn chết. Bị bắn vào lưng. Anh ta trở thành người tử vì đạo của phe bảo thủ. Bên chống khủng bố nói là vợ anh ta đã được một nhóm quá khích ở ngoại ô Chicago chiêu mộ. Vài sinh viên tốt nghiệp Đại học Chiacago hoạt động bí mật. Edward và Katherine Stone”.

Banks tiếp tục câu chuyện. “Chất nổ được giấu trong gói đất nặn trẻ em, cùng với những thứ đồ chơi khác. Chúng tôi nghĩ ả sẽ đem cô bé theo cùng để nhân viên an ninh ở lối vào phòng tiệc không để tâm đến đất nặn. Nhưng Pammy vẫn ở trong bệnh viện nên ả không còn vỏ bọc, ả đã bỏ qua phòng tiệc và để nó trong nhà kho. Nhưng như thế cũng đã đủ thiệt hại rồi.”

“Thoát rồi à?”

“Đúng thế. Không để lại một dấu vết.”

“Đứa bé con thì sao?” Sachs hỏi. “Pammy?”

“Đi rồi. Ả đã cho cô bé xuất viện đúng lúc vụ nổ xảy ra. Không có dấu vết gì của họ.”

Rhyme nói: “Còn nhóm khủng bố?”

“Nhóm ở Chicago? Chúng cũng biến mất. Có một hang ổ ở Wisconsin[147] nhưng nó cũng đã bị xóa sạch. Chúng ta không biết chúng ở đâu.”

“Thế thì đó là tin đồn mà đặc tình của Dellray nghe được”. Rhyme cười. “Carole là người tới sân bay. Chẳng liên quan gì đến thủ phạm 823”.

Anh thấy Sellitto và Banks đang nhìn mình chằm chằm.

Ồ, lại là cái trò im lặng này.

“Quên đi, Lon.” Rhyme nói, cảm nhận thật rõ ràng cái cốc bên cạnh mình, đang tỏa hơi ấm đón chào. “Không được đâu.”

Viên thám tử lớn tuổi kéo chiếc áo phông, vẻ khúm núm. “Mẹ kiếp, ở đây sao lạnh thế, Lincoln. Chúa ơi, cậu thử nghĩ xem. Có hại gì đâu?”

“Tôi không giúp được đâu.”

Sellitto nói: “Có một tin nhắn. Carole viết và gửi tới Tổng thư ký trong phong bì nội bộ. Lải nhải về việc chính phủ thế giới đang tước bỏ quyền tự do của Mỹ. Những thứ vớ vẩn kiểu thế. Nhận trách nhiệm về vụ đánh bom ở London và nói sẽ có thêm những vụ khác. Ta cần tóm chúng, Linc.”

Banks mặt sẹo nói, tỏ vẻ quan trọng: “Cả Tổng thư ký và Thị trưởng đều mời anh. SAC Perkins nữa. Nếu anh cần thuyết phục thêm, sẽ có người từ Nhà Trắng gọi tới. Nhưng chúng tôi chắc là anh không cần, phải không thám tử?”

Rhyme không nhận xét gì về sai lầm liên quan đến chức vụ của anh.

“Nhóm PERT của Cục cũng đã sẵn sàng. Fred Dellray nắm vụ này và anh ta mời – trân trọng, anh ta dùng đúng từ ấy – anh ta trân trọng mời anh phụ trách vấn đề pháp y. Hiện trường vụ án thì vẫn còn y nguyên, ngoại trừ việc người ta đã đưa những người bị thương đi.”

“Thế thì nó không còn nguyên vẹn nữa”, Rhyme cáu kỉnh. “Cực kỳ ô nhiễm rồi.”

“Càng có thêm lý do để chúng tôi cần anh”, Banks liều mạng, thêm câu “thưa ngài” để xoa dịu cái nhìn của Rhyme.

Rhyme thở dài, nhìn cái ly và ống hút. Sự bình yên đã tới quá gần. Và cả đau đớn. Vô hạn.

Anh nhắm mắt. Trong phòng không một tiếng động.

Sellitto nói: “Nếu chỉ có mình ả thì không sao. Nhưng ả còn có cô bé nữa, Lincoln. Hoạt động bí mật, với một bé gái? Anh có biết là cuộc đời cô bé sẽ ra sao không?”

Anh sẽ chết với tôi vì câu này đấy, Lon.

Ryhme tựa đầu xuống gối. Cuối cùng anh mở bừng mắt. Anh nói: “Sẽ phải có vài điều kiện”

“Nói đi, Linc.”

“Thứ nhất”, anh nói. “Tôi không làm việc một mình.”

Rhyme nhìn về phía Amelia Sachs.

Cô ngần ngừ một thoáng, sau đó mỉm cười và đứng dậy, nhấc cốc brandy pha thuốc lên. Cô mở rộng cửa sổ, hắt thứ chất lỏng màu vàng nâu vào làn không khí nóng nực, chín nẫu phía bên trên con ngõ cạnh tòa nhà. Trong lúc ấy, chỉ cách đó vài feet, con chim ưng ngẩng lên, nghiêng đầu giận dữ nhìn cử động của cánh tay cô, rồi quay lại cho những đứa con đang đói meo của nó ăn.

PHỤ LỤC

Trích từ: Từ điển thuật ngữ, Lincoln Rhyme, Chứng cứ vật lý, xuất bản lần thứ tư. New York: Forensic Press, 1994. Đã được phép in lại.

Nguồn sáng thay thế (ALS): Bất kỳ loại bóng đèn nào có cường độ sáng cao với bước sóng và màu sắc ánh sáng khác nhau, được sử dụng để hiển thị những dấu vân tay ẩn, một số loại dấu tích và chứng cứ sinh học.

Hệ thống nhận dạng dấu vân tay tự động (AFIS): Một trong những hệ thống được máy tính hóa để quét và lưu trữ dấu vân tay.

Birefringence (khúc xạ đúp): Sự khác biệt giữa hai giá trị khúc xạ do một số loại tinh thể hiển thị. Có ích trong việc nhận dạng cát, sợi và bụi bẩn.

Thẻ đăng ký vật chứng (COC): Một bản ghi chú của những người đã sở hữu một vật chứng từ lúc thu được nó lên hiện trường vụ án cho tới khi đưa nó ra tòa.

COD: Nguyên nhân tử vong.

Mẫu đối chứng: Vật chứng thu được tại hiện trường vụ án từ những nguồn đã biết, được sử dụng để so sánh với vật chứng từ một nguồn chưa biết. Ví dụ: máu, lông, tóc của nạn nhân là mẫu đối chứng.

DCDS: Chết tại hiện trường.

Kiểu thử biến thiên mật độ (D-G): Một kỹ thuật so sánh các mẫu đất để xác định xem chúng có xuất xứ từ một nơi hay không. Phép đo bằng cách thả những mẫu đất vào các ống chứa chất lỏng có giá trị mật độ khác nhau.

Nhận dạng DNA: Phân tích và lập biểu đồ cấu trúc gen trong tế bào của những loại chứng cứ sinh học nhất định (ví dụ: máu, tóc, tinh dịch) nhằm mục tiêu so sánh với mẫu đối chứng từ nghi phạm đã biết. Quy trình bao gồm tách và so sánh các đoạn DNA – deoxyribonucleic acid – đơn vị tạo dựng cơ bản của nhiễm sắc thể. Một số loại nhận dạng DNA đưa ra xác suất chứng cư xuất phát từ một cá nhân nhất định chỉ bằng vài phần trăm triệu. Còn được gọi là “nhận dạng gen” – hay còn bị gọi sai là “lấy vân tay DNA” hay “lấy vân tay gen”.

Nhà nhân chứng học pháp y: Một chuyên gia về khung xương, trợ giúp các nhà điều tra hiện trường vụ án trong việc đánh giá và nhận dạng hài cốt, khai quật mộ.

Nha sĩ pháp y: Một chuyên gia răng miệng, hỗ trợ các nhà điều tra hiện trường vụ án trong việc nhận dạng nạn nhân nhờ nghiên cứu những di cốt của răng và phân tích các chứng cứ vết cắn.

Vân: Những đường nổi lên của da trên ngón tay, bàn tay và bàn chân, mỗi người có hình dáng vân riêng biệt, duy nhất. Những dấu vân tại hiện trường vụ án có thể được phân loại thành: (1) nhựa (để lại trên các vật thể dễ bị ảnh hưởng như mát tít); (2) vật chứng (do da bị phủ các chất lạ như bụi hay máu để lại); (3) ẩn (do da bị dính chất nhờn của cơ thể như dầu hay mồ hôi để lại, thường không thấy được bằng mắt thường).

Sắc ký khí/phổ kế khối lượng (GC-MS): Hai thiết bị được sử dụng trong phân tích pháp y để xác định các chất chưa biết như ma túy hay vật chứng đã tồn tại. Chúng thường được kết nối với nhau. Sắc ký khi tách các thành phần của chất, sau đó đưa chúng sang phổ kế khối lượng, thiết bị này xác định chính xác từng thành phần.

Lưới: Cách phổ biến được sử dụng để tìm kiếm chứng cớ, theo đó nhân viên tìm kiếm khắp hiện trường theo một chiều (ví dụ từ trên xuống dưới), sau đó đi khắp hiện trường theo hướng vuông góc (tây – đông).

Tàn thuốc súng (GSR): Vật chất – cụ thể là barium và antimony – rơi rớt trên tay và quần áo của người bắn súng. GSR sẽ ở lại trên da người trong vòng sáu tiếng nếu không bị cố tình rửa trôi hay vô ý cọ sạch bởi sự tiếp xúc quá mức khi tội phạm bị bắt, bị còng (rủi ro cao hơn nếu tay bị còng ra sau lưng).

Nhận dạng vật chứng: Xác định loại hay lớp vật chất của một chứng cứ. Khái niệm này khác với “nhận dạng cá thể” là việc xác định nguồn duy nhất của vật chứng. Ví dụ, một mẩu giấy báo được tìm thấy tại hiện trường vụ án có thể được nhận dạng là loại giấy in họa báo nhưng có thể được nhận rõ là một mẩu trùng khớp với phần bị mất từ một trang bị xé trong một số nhất định của một tờ họa báo của nghi phạm. Nhận dạng cá thể, tất nhiên có giá trị chứng minh khác với nhận dạng vật chứng.

Nhận dạng cá thể: Xem “Nhận dạng vật chứng”

Vết xám: Phần da nạn nhân đã tử vong bị thâm tím, biến màu do máu bị đông và sẫm lại sau khi chết.

Nguyên tắc trao đổi của Locard: Được Edmond Locard, một nhà hình sự học người Pháp đưa ra. Lý thuyết này cho rằng luôn có sự trao đổi vật chứng giữa tội phạm và hiện trường vụ án hay nạn nhân, bất kể chứng cứ này có thể là nhỏ bé hay khó phát hiện đến đâu.

Phổ kế khối lượng: Xem “Sắc ký khí”.

Ninhydrin: Hóa chất làm hiển thị dấu vân ẩn trên những bề mặt xốp như giấy, bìa và gỗ.

Vật chứng (PE): Trong luật hình sự, PE tham chiếu tới những thực thể được trình tại tòa để hỗ trợ khẳng định của bị đơn hay công tố viên về việc một tuyên bố nào đó là đúng sự thật. Vật chứng bao gồm: các đối tượng vô tri vô giác, các chất của cơ thể và các dấu ấn (như dấu tay).

Thử máu có cơ sở: Số lượng bất kỳ các kỹ thuật hóa học sử dụng để xác định có máu vương tại hiện trường hay không, ngay cả trong trường hợp mắt thường không nhìn thấy được. Những phép thử phổ biến nhất là dùng luminol và orthotolidine.

Kính hiển vi điện tử quét (SEM): Một thiết bị bắn các hạt electron vào mẫu vật chứng cần nghiên cứu và chiếu hình ảnh thu được lên màn hình máy tính. Với SEM, có thể nhận được độ phóng đại mười vạn lần so với độ phóng đại năm trăm lần của kính hiển vi thông thường. SEM thường được gắn khối tia X tán sắc năng lượng (EDX), có thể xác định được các chất có trong mẫu khi kỹ thuật viên quan sát.

Dàn cảnh: Nỗ lực của tội phạm nhằm sắp xếp lại, thêm hay bỏ bớt chứng cứ khỏi hiện trường vụ án để tạo ấn tượng rằng tội ác do hắn hay do ai đó khác gây ra sẽ không thể tìm thấy.

Chứng cứ dấu tích: Những mẩu vật chất nhỏ, đôi khi siêu nhỏ như bụi, chất xơ và sợi.

Đối tượng: Nghi phạm chưa được xác định.

Máy làm lắng chân không kim loại (VMD): Phương tiện hữu hiệu nhất hiển thị dấu vân ẩn trên những bề mặt nhẵn. Vàng hay kẽm được làm bốc hơi trong một buồng chân không bao bọc một lớp kim loại mỏng lên đối tượng cần được quan sát, do đó làm hiển thị dấu vân.

GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ

Tôi mang ơn Peter A. Micheels, tác giả cuốn The Detectives – và E. W. Count, tác giả cuốn Cop Talk, những cuốn sách của họ không chỉ hữu ích cho tôi khi nghiên cứu mà còn là những cuốn sách tuyệt hay. Cảm ơn Pam Dorman, sự biên tập khéo léo của anh có mặt khắp nơi trong câu chuyện này. Và tất nhiên, cảm ơn người đại diện của tôi, Deborah Schneider… Nếu thiếu chị thì tôi có thể làm được gì đây? Tôi chân thành cảm ơn Nina Salter ở Calmann-Lévy vì những nhận xét của cô trong những bản thảo đầu tiên của cuốn sách này, và cảm ơn Karolyn Hutchinson tại REP ở Alexandria, Virginia vì sự giúp đỡ vô giá liên quan đến xe lăn và những thiết bị khác dành cho người bị liệt. Tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn tới Teddy Rosenbaum – bản thân cô cũng là một thám tử – vì công việc biên tập của cô. Các sinh viên nghiên cứu về thực thi pháp luật có thể băn khoăn về cấu trúc của NYPD và FBI được giới thiệu trong cuốn sách này; việc thay đổi sơ đồ tổ chức hoàn toàn do tôi tự làm. À, tất nhiên – nếu ai đó muốn đọc cuốn Crime in Old New York có thể sẽ gặp đôi chút khó khăn để tìm được nó. Đây là một tác phẩm hư cấu, dù tôi có được nghe nói tới sự tồn tại của một cuốn như thế nhưng đã bị ăn trộm khỏi Thư viện Công cộng New York – bởi một hay vài người chưa rõ danh tính.

Jeffery Deaver

* * *

[1] Upper West Side: Một khu vực thuộc Manhattan, New York, nằm giữa Công viên Trung tâm và sông Hudson. (Các chú thích là của người dịch)

[2] Dặm: Một dặm tương đương với 1,6km; ở đây tương đương với một trăm km một giờ.

[3] Midtown: Là một trong ba phân khu chính của khu Manhattan, Thành phố New York.

[4] Feet: Số nhiều của foot, một foot tương đương với 30,48cm, ở đây là khoảng 10m.

[5] CS: Khám nghiệm hiện trường.

[6] Bungee-jumping: Môn thể thao mạo hiểm, người chơi buộc dây đàn hồi vào người và nhảy từ một vị trí cao xuống.

[7] JFK: Sân bay quốc tế John F. Kennedy ở New York.

[8] CNN (viết tắt của Cable News Netwowk): Kênh truyền hình cáp tin tức nổi tiếng của Mỹ.

[9] IRD (viết tắt của Investigation and Resource Division), là bộ phận Điều tra và Nguồn lực, thuộc Sở cảnh sát New York.

[10] Cliffhanger: Cheo leo vách núi, tên một bộ phim.

[11] Morgan Stanley: Một công ty dịch vụ tài chính toàn cầu ở Thành phố New York.

[12] Martha Stewart: Chủ bút một tờ báo gia đình, một kiểu chị Thanh Tâm ở Mỹ.

[13] The Scences of the Crime: Những hiện trường vụ án.

[14] ROM: Một dạng bài tập kéo dãn cơ.

[15] ECU (viết tắt của Environment Control Unit): Thiết bị Điều khiển Môi trường.

[16] SOB (viết tắt của Son of a Bitch): Một cách nói khinh bỉ về cơ quan trước đó của Rhyme.

[17] Katherine Anne (Katie) Couric: Sinh năm 1975 tại Arlington, Virginia, một nhà báo, phát thanh viên nổi tiếng ở Mỹ.

[18] BQE: Đường cao tốc Brooklyn-Queen ở New York.

[19] Yale: Đại học Yale, nơi Banks tốt nghiệp; đây là một cách nghĩ chế nhạo về Banks.

[20] Công ty Everest & Jennings: Một công ty chế tạo giường bệnh và hệ thống hỗ trợ của Rhyme.

[21] CRC Press: Tên một nhà xuất bản chuyên về Pháp y.

[22] Pound: Một pound tương đương với 453,59g. Ở đây tương đương với bảy mươi lăm kg.

[23] NYPD (viết tắt của New York Police Department): Sở Cảnh sát New York.

[24] SCI (viết tắt của Spinal Cord Injury): Chấn thương cột sống.

[25] Con đường An lạc, Hội Độc cần: Tên của những hội ủng hộ việc chết theo ý muốn.

[26] FBI (viết tắt của Federal Bereau of Investigation): Cục Điều tra Liên bang Mỹ.

[27] Chinatown: Khu phố của người Trung Quốc ở New York.

[28] PERT: Nhóm Phản ứng Vật chứng.

[29] Inch: Một icnh tương đương với 2.54 cm.

[30] ALS: Xem phần phụ lục.

[31] Ninhydrin: Xem phần phụ lục.

[32] PE (viết tắt của Physical Evidence): Vật chứng – Xem phần phụ lục.

[33] Amiăng: Tên một nhóm các khoáng chất có trong tự nhiên dưới dạng sợi và được sử dụng trong một số ngành công nghiệp.

[34] Hornblende: Tên một loại khoáng chất.

[35] CSU (viết tắt của Crime Scene Unit): Đơn vị Khám nghiệm Hiện trường.

[36] Đại Bản Doanh (nguyên văn là Big Building): Cách gọi One Police Plaza (sở chỉ huy của Sở Cảnh sát New York) của cảnh sát New York.

[37] Stalactite: Thạch nhũ.

[38] Sears: Một thương hiệu bình dân.

[39] ESU (viết tắt của Emergency Services Unit): Đơn vị Phản ứng nhanh.

[40] SWAT (viết tắt của Special Weapon And Tactics): Đội Chiến thuật và Vũ khí Đặc nhiệm.

[41] Nighthawks: Đại bàng đêm, tác giả Edward Hopper (1882 – 1967), một họa sĩ nổi tiếng người Mỹ.

[42] S&S: Tìm kiếm và giám sát.

[43] HRT (viết tắt của Hostage Rescue Team): Nhóm Giải cứu con tin.

[44] Paul Leland Kirk (1902 – 1970): Nhà hóa học, nhà khoa học pháp lý nổi tiếng của Mỹ.

[45] Quả Táo Lớn: Tên lóng của New York.

[46] EDTA: Tên viết tắt của hợp chất hóa học ethylenediaminetetraacetic acid.

[47] BAFT (viết tắt của Bereau of Alcohol, Tobacco, Firearms and Explosives): Cục Phụ trách các vấn đề về rượu, thuốc lá, vũ khí và chất nổ, một tổ chức của chính phủ Mỹ.

[48] EPA (viết tắt của Environmental Protection Agency): Cục Bảo vệ Môi trường.

[49] Sam Spade: Tên của những nhân vật thám tử trên truyền hình hay truyện tranh.

[50] Kojak: Tên của những nhân vật thám tử trên truyền hình hay truyện tranh.

[51] Jury Garland: Tên của những nhân vật thám tử trên truyền hình hay truyện tranh.

[52] Jessica Beatrice Fletcher: Một nhân vật hư cấu trong series chương trình truyền hình của Mỹ: Murder, she wrote.

[53] EDX (viết tắt của Energy dispersive X-ray spectroscopy): Một phương pháp phân tích trong ngành hóa học.

[54] GC-MS: Xem phần phụ lục.

[55] Pearl: Ngọc trai.

[56] RRV (viết tắt của Rapid Response Vehicles): Những chiếc xe phản ứng nhanh.

[57] Howard Robard Hughes (1905 – 1976): Phi công, nhà tư bản công nghiệp, đạo diễn, nhà sản xuất phim nổi tiếng người Mỹ.

[58] CP (viết tắt Commanding Post): Trạm chỉ huy

[59] 10-84: Tên một mẫu biểu thủ tục hành chính cảnh sát.

[60] DCDS: Xem phần phụ lục.

[61] Món thịt gà của Tướng Tso: Đây là món gà chiên ngọt tẩm gia vị thường thấy tại các nhà hàng Trung Quốc ở Mỹ. Có một giả thuyết không chắc chắn cho rằng, tên gọi của món ăn này xuất phát từ câu chuyện: vợ của Tướng Tso – tên là Zuo Zongtang (1812-1885), một vị tướng người Hồ Nam dưới triều nhà Thanh – đã chế biến món ăn này, dâng lên chồng mình và các cộng sự của ông, nó trở thành đặc sản của tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc.

[62] Morgen: Ngày mai (tiếng Đức).

[63] Mein Gott: Lạy Chúa (tiếng Đức).

[64] Früh morgens: Sớm sủa lắm (tiếng Đức).

[65] Wisk: Tên một loại bột giặt.

[66] Irgendwas stimmt hier nicht: Có gì đấy không ổn (tiếng Đức).

[67] Oasis (Ốc đảo): Một nhóm nhạc rock của Anh.

[68] Gottverdammte: Chết tiệt (tiếng Đức).

[69] Nein: Không (tiếng Đức).

[70] Hilfe: Cứu tôi (tiếng Đức).

[71] Nein, bitte nicht: Làm ơn, đừng (tiếng Đức).

[72] Ming Wa: Một nhà hàng Trung Quốc ở Alhambra.

[73] Rocky Raccoon: Chồn Đá, một bài hát nổi tiếng của The Beatles.

[74] WNYC: Đài phát thanh và Truyền hình Công cộng Thành phố New York.

[75] Crime in Old New York: Tội phạm ở New York.

[76] Kommen Sie mit mir mit: Đi với tôi (tiếng Đức).

[77] Mein Name ist micht Hanna: Tao không phải Hanna (tiếng Đức).

[78] Thước (yard): Thước Anh, tương đương với 0,914m.

[79] So nicht: Thôi đi (tiếng Đức).

[80] Edward Henry Weston (1886 - 1958): Nhiếp ảnh gia nổi tiếng người Mỹ.

[81] Dieser Schmerz: Đau quá (tiếng Đức).

[82] Vorwärts: Lên đi (tiếng Đức).

[83] Bitte, helfen Sie mir: Cứu tôi với (tiếng Đức).

[84] Bitte: Giúp tôi (tiếng Đức).

[85] Judas: Tên một nhân vật trong Kinh Thánh, kẻ phản bội Chúa Jesus. Ở đây ám chỉ kẻ phản bội.

[86] ATF: Viết tắt của BATF.

[87] Dashiell Hammet (1894 – 1961): Một nhà văn người Mỹ nổi tiếng với tiểu thuyết trinh thám và truyện ngắn. Ông được coi là cây bút viết truyện thám xuất sắc mọi thời đại.

[88] DEA: Cơ quan phòng chống ma tuý.

[89] Und: Và (tiếng Đức).

[90] Was: Cái gì (tiếng Đức).

[91] Das Nummernschild: Loại xe (tiếng Đức).

[92] Vielen Dark: Cảm ơn nhiều (tiếng Đức).

[93] Danke schön: Cảm ơn (tiếng Đức).

[94] Dustbuster: Tên một loại máy bút hụi cầm tay.

[95] Jekyll và Hyde: Hai nhân vật trong tiểu thuyết của nhà văn Louis Stevenson. Nói về sự rối loạn đa nhân cách của con người.

[96] Oedip: Hay còn gọi là Hội chứng Oepidus theo lý thuyết của nhà tâm lý học người Áo Zigmud Freud. Hội chứng này được đặt tên theo tên nhân vật Oedipus trong thần thoại Hy Lạp. Đây là nhân vật đã giết cha mình là Laius, và kết hôn với mẹ mình, Jocasta. Theo lý thuyết này, hội chứng đó thường xuất hiện trong giai đoạn trẻ từ ba đến năm tuổi. Đứa trẻ sẽ cảm thấy ham muốn về giới tính đối với mẹ, là người khác giới và mong muốn cái chết của cha, là người cùng giới.

[97] Zodiac: Tên lóng của những tên giết người hàng loạt nổi tiếng ở Mỹ.

[98] Thả xu gọi điện (tiếng lóng): ý nói người nào chỉ điểm.

[99] Pony Express: Nói kháy, một dịch vụ bưu chính xa xưa của Mỹ, dùng ngựa Pony để vận chuyển.

[100] SOP: Quy trình làm việc tiêu chuẩn.

[101] Texas Chainsaw: Cưa máy Texas, một bộ phim kinh dị.

[102] MO (viết tắt của Modus Operandi): Hoạt động.

[103] AFIS: Xem phần phụ lục.

[104] Dick: dương v*t.

[105] Señor Ortega: Ngài Ortega.

[106] 13-43: Mẫu đơn Khiếu nại, được dùng như một động từ.

[107] COC: Xem phần phụ lục.

[108] DMV: Cơ quan Quản lý Phương tiện Giao thông.

[109] New York DMV: Cơ quan Quản lý Phương tiện Giao thông New York.

[110] ETA: Dự kiến thời gian đến nơi.

[111] SEM: Xem phần phụ lục.

[112] Smithsonian: Cơ sở đào tạo quốc gia của Mỹ, với nhiều viện nghiên cứu và bảo tàng.

[113] Tốc độ tám mươi: Hơn một trăm năm mươi km một giờ.

[114] Prozac: Một loại thuốc giảm đau.

[115] Imipramine: Một loại thuốc an thần.

[116] Robert Mario De Niro, Jr.: Nam diễn viên đã hai lần giành được giải thưởng của Viện Hàn lâm Điện ảnh Mỹ, đạo diễn, nhà sản xuất phim. Ông được coi là một trong những diễn viên vĩ đại và có ảnh hưởng nhất mọi thời đại.

[117] Tovex: Một loại chất nổ dạng gel nước.

[118] Mr. Potato Head: Một loại đồ chơi của Mỹ gồm một mô hình củ khoai tây bằng nhựa có thể được trang trí bằng những bộ phận khác nhau như tai, mắt để tạo ra một khuôn mặt. Đồ chơi này được George Lerner sáng chế năm 1949, do Công ty Hasbro sản xuất và phân phối lần đầu tiên vào năm 1952.

[119] Upper East Side: Một khu vực thuộc Manhattan, New York, nằm giữa Công viên Trung tâm ở sông Đông.

[120] Crystal Palace: Cung điện Pha Lê, một địa danh ở New York.

[121] Annie Oakley: Nữ diễn viên, xạ thủ người Mỹ đầu thế kỷ XX.

[122] C4: Đốt sống C4.

[123] Clara Barton (1821 – 1912): Nữ y tá người Mỹ, nhà nhân đạo, người sáng lập Hội Chữ thập đỏ Mỹ.

[124] ICC (viết tắt của International Criminal Court): Tòa án Hình sự Quốc tế, một tòa án xử tội phạm chiến tranh, tội phạm chống nhân loại và diệt chủng.

[125] Hộp đêm S&M: Hộp đêm ở đó có các trò bạo dâm và khổ dâm.

[126] BMW: Một thương hiệu xe nổi tiếng của Đức.

[127] Nguyên văn: Tower Records: Chuỗi cửa hàng bán băng đĩa.

[128] Levi Stabbs (tên thật là Levi Stubbles): Sinh năm 1936, một ca sĩ người Mỹ, được biết tới như ca sĩ chính của nhóm nhạc R&B The Four Tops nổi tiếng của Motown.

[129] Four Tops: Nhóm tứ tấu vocal Mỹ, hát các thể loại doo-wop, jazz, nhạc soul, R&B, disco, nhạc hiện đại và nhạc trình diễn.

[130] Storm Arrow: Mũi tên Bão táp.

[131] Lột da – Flail (vụt) và flay (lột da): Từ đồng âm khác nghĩa, một cách chơi chữ.

[132] Feldspar: Tên của nhóm các khoáng chất tạo thành đá và tạo thành sáu mươi phần trăm lớp vỏ Trái Đất.

[133] Austen: (1775 – 1817): Tiểu thuyết gia người Anh. Xã luận và cách sử dụng điệu nghệ ngôn ngữ tự do gián tiếp và mỉa mai đã làm cho Austen trở thành một trong những tiểu thuyết gia được tôn trọng và có ảnh hưởng lớn nhất trong văn học Anh.

[134] Dreiser: Theodore Herman Albert Dreiser (1871 – 1945), tác giả người Mỹ thuộc trường phái tự nhiên, nổi tiếng vì sự gai góc, mạnh bạo.

[135] Rottweiler: Một giống chó lớn có nguồn gốc từ Đức.

[136] Doberman: Một giống chó địa phương (Mỹ).

[137] Brokaw (Thomas John Brokaw – sinh năm 1940 tại Webster, South Dakota): Phóng viên truyền hình nổi tiếng người Mỹ. Trước đó làm các bộ phim tài liệu tin tức được chiếu thường xuyên cho mạng truyền hình NBC, cựu phát thanh viên của NBC News, tổng biên tập chương trình NBC Nightly News with Tom Brokaw.

[138] Bob Evans: Một công ty dịch vụ, xử lý và bán lẻ thực phẩm có trụ sở chính tại Columbus, Ohio. Công ty điều hành hai chuỗi nhà hàng ăn tối ở Mỹ, gồm có Bob Evans Restaurants và Mimi.

[139] Bryan Gumbel (Bryan Charles Gumbel): Một nhân vật trên truyền hình Mỹ cho các chương trình tin tức và thể thao. Ông ta nổi tiếng với mười lăm năm làm việc như người đồng dẫn chương trình The Today Show của đài NBC.

[140] Kevorkian (Jack Kevorkian): Ông được ghi nhận là người công khai tuyên truyền cho quyền được chết của bệnh nhân thập tử nhất sinh thông qua cái chết nhẹ nhàng, ông tuyên bố đã hỗ trợ ít nhất một trăm ba mươi bệnh nhân làm việc này. Câu nói nổi tiếng của ông là: “Chết không phải là phạm tội.”

[141] Matlock: Chương trình truyền hình pháp luật của đài ABC, Mỹ.

[142] Thợ may: Tailor, đọc như Taylor, có nghĩa là thợ may.

[143] Samuel Osborne Barber (1910 – 1981): Nhà soạn nhạc opera, nhạc cho piano và nhạc giao hưởng người Mỹ.

[144] George Gershwin (1898 – 1937): Nhà soạn nhạc và nghệ sĩ dương cầm người Mỹ.

[145] Balducci’s: Một trong những công ty thực phẩm đặc biệt lớn nhất ở Mỹ với mười cửa hàng thực phẩm, bốn nhà hàng và có di sản từ năm 1916.

[146] Courvoisier: Một loại rượu cô nhắc.

[147] Wisconsin: Một bang nằm gần trung tâm lục địa Bắc Mỹ.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom