Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Vũ Điệu Của Thần Chết

Vũ Điệu Của Thần Chết
Tác giả: Jeffery Deaver
Tình trạng: Đã hoàn thành

--- oOo ---


Vũ điệu của Thần Chết là sự trở lại đầy ấn tượng của nhà hình sự học lừng danh Lincoln Rhyme cùng nữ cảnh sát xinh đẹp Amelia Sachs và đồng nghiệp. Lần này họ phải lần theo dấu vết của tên giết người chuyên nghiệp mà Rhyme đã hiểu quá rõ, kẻ mang hình xăm kỳ quái trên bắp tay: hình Thần Chết đang nhảy múa với một phụ nữ ngay phía trước chiếc quan tài, vũ khí đáng sợ nhất của hắn không phải là dao hoặc súng mà là sự hiểu biết đến kỳ lạ về bản chất con người…

Đọc “Vũ điệu của Thần Chết” một lần nữa bạn đọc sẽ được hòa mình vào những cuộc đấu trí nảy lửa, những cuộc rượt đuổi ngoạn mục trong suốt hành trình tìm kiếm Vũ công Quan tài, kẻ nắm giữ sức mạnh ghê gớm của Tử Thần.

“Đừng nghĩ đến chuyện có thể nuôi chim ưng làm cảnh. Ở đây không có chỗ cho sự ủy mị. Xét ở góc độ nhất định, đó là nghệ thuật của một bác sĩ tâm thần. Là một cuộc đấu trí giữa hai bên với động cơ và lợi ích chết người! (Chim ưng, T.H.White)
 
Sửa lần cuối:

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1


Khi Edward Carney chào tạm biệt vợ là Percey, anh không hề nghĩ rằng đó sẽ là lần cuối cùng anh được nhìn thấy cô.

Anh trèo vào chiếc xe đang đậu trên một khoảng trống hiếm hoi ở phố Tám mươi mốt Đông trong khu Mahattan của mình và hoà vào dòng xe trên đường. Vốn là người có óc quan sát bẩm sinh, Carney chợt để ý thấy một chiếc xe thùng màu đen đang đậu gần nhà anh. Một chiếc xe thùng với những cửa kính gương phản quang lấm tấm vết bùn. Anh liếc nhìn chiếc xe cà tàng và nhận thấy nó mang biển số bang West Virginia, anh chợt nhớ ra là đã mấy lần nhìn thấy chiếc xe ngoài phố trong vài ngày vừa qua. Nhưng rồi dòng xe trước mặt anh bỗng nhiên tăng tốc. Anh kịp chạy vọt lên khi đèn giao thông vừa chuyển sang màu vàng và hoàn toàn quên bẵng chiếc xe thùng. Trong giây lát anh đã rẽ ra đường cao tốc FDR[1], hướng thẳng về phía bắc.

Hai mươi phút sau, anh nhấc điện thoại gắn trong xe và gọi cho vợ. Anh hơi bồn chồn khi không thấy cô nghe máy. Theo kế hoạch thì lẽ ra Percey sẽ bay cùng anh hôm nay – đêm qua họ đã tung đồng xu để tranh nhau chiếc ghế bên trái[2]trong buồng lái và cô là người chiến thắng, thậm chí cô còn tặng anh một nụ cười đắc chí không lẫn vào đâu được. Nhưng rồi lúc ba giờ sáng nay, cô thức dậy với một cơn đau nửa đầu nhức buốt đến hoa mắt suốt cả ngày không dứt. Sau vài cuộc điện thoại họ đã tìm được một phi công phụ thay thế, Percey uống một viên Fiorinal và quay lại giường nằm nghỉ.

Cơn đau nửa đầu là chứng bệnh duy nhất có thể bắt cô ở lại mặt đất.

Edward Carney – năm nay bốn mươi lăm tuổi, với thân hình xương xương và cao lòng khòng, mái tóc vẫn để húi cua kiểu quân đội – hơi nghiêng đầu, căng tai lắng nghe tiếng chuông điện thoại đang đổ dồn cách đó vài dặm[3]. Chiếc máy trả lời tự động ở nhà bật lên, anh đặt điện thoại xuống giá để ống nghe, bắt đầu thấy lo lắng.

Anh giữ cho xe chạy ở tốc độ chính xác 60 dặm một giờ, căn chính giữa làn đường bên phải; giống như các phi công khác, anh là người bảo thủ khi ngồi sau vô lăng. Anh tin tuởng những phi công khác nhưng lại cho rằng hầu hết dân lái xe trên đường đều là lũ điên rồ.

Trong văn phòng công ty bay dịch vụ Hudson Air Charters nằm trong sân bay khu vực Mamaroneck ở Westchester, một chiếc bánh ngọt đã chờ sẵn. Bà Sally Anne nghiêm nghị và chỉn chu – người thơm nức chẳng khác gì gian bán nước hoa tại một cửa hàng Macy – đã tự tay nướng chiếc bánh để chào mừng hợp đồng mới của công ty. Cài trên đầu chiếc trâm xấu mù hình chiếc máy bay hai tầng cánh bằng kim cương giả do lũ cháu nội tặng từ hồi Giáng sinh năm ngoái, bà nhìn một lượt khắp phòng để bảo đảm là mỗi người trong số hơn chục nhân viên công ty đều đã có phần bánh to bự của mình. Ed Carney ăn qua loa vài miếng bánh và trao đổi về chuyến bay đêm nay với Ron Talbot, cái bụng khổng lồ của người đàn ông này khiến người ta có cảm giác ông ta thích bánh trái, mặc dù thực tế ông ta sống chủ yếu bằng thuốc lá và cà phê. Talbot đảm nhiệm cả hai cương vị giám đốc điều hành bay và giám đốc kinh doanh, ông ta không giấu nổi nỗi lo lắng liệu chuyến hàng có đưa tới nơi kịp thời gian không, liệu khoản tiêu hao nhiên liệu cho chuyến bay được tính toán chính xác chưa, và liệu họ đề nghị mức giá như vậy đã thỏa đáng chưa. Carney đưa nốt cho ông ta chỗ bánh còn lại của mình và bảo ông ta cứ yên tâm.

Chợt anh lại nghĩ đến Percey và bước vào phòng làm việc của mình, nhấc điện thoại lên.

Vẫn không thấy có ai ở nhà nhấc máy.

Giờ thì cảm giác bồn chồn đã trở thành lo lắng thực sự. Những người có con cái và những người có công ty riêng bao giờ cũng phải ngay lập tức nhấc điện thoại đang đổ chuông. Anh dập mạnh ống nghe xuống, thoáng nghĩ đến việc gọi điện nhờ một người hàng hàng xóm qua kiểm tra xem Percey thế nào. Nhưng rồi chiếc xe màu trắng đồ sộ đã dừng lại phía trước cái hangar[4] bên cạnh văn phòng và cũng là lúc bắt tay vào công việc.

Talbot đưa cho Carney cả một chồng tài liệu cần ký, đúng lúc đó anh chàng Tim Randolph trẻ tuổi xuất hiện trong bộ đồ sẫm màu, áo sơ mi trắng tinh và một chiếc cà vạt mảnh màu đen. Tim tự giới thiệu mình là “phi công phụ” và Carney thấy thích như thế. Những “cơ trưởng hàng đầu” bao giờ cũng là người của công ty, những sản phẩm tiêu biểu của ngành hàng không, và mặc dù Carney tôn trọng bất kỳ ai có năng lực thực sự trên chiếc ghế bên phải trong buồng lái, thói tự phụ đã ngăn anh thể hiện điều đó ra ngoài.

Cô nàng Lauren ngăm đen dong dỏng, trợ lý của Talbot, đã mặc chiếc váy may mắn cho buổi tối nay, chiếc váy màu xanh da trời này kết hợp rất hài hoà với gam màu trên logo của công ty Hudson Air – mang hình in nghiêng của một con chim ưng đang bay trên quả địa cầu. Cô ta ghé sát vào Carney và thì thầm, “Giờ thì mọi chuyện sẽ tốt đẹp, đúng không?”.

“Tất cả sẽ ổn thôi”, anh trấn an cô ta. Hai người choàng tay ôm nhau trong giây lát. Sally Anne cũng ôm Carney và đưa cho anh một ít bánh để mang theo trong chuyến bay. Anh thoáng ngần ngại. Ed Carney chỉ muốn lên đường ngay. Tránh xa cái trò ủy mị này, tránh xa những màn nghi lễ, ăn mừng này. Tránh xa mặt đất.

Và anh sớm được toại nguyện. Lơ lửng cách mặt đất hơn ba dặm, điều khiển một chiếc Lear 35A, loại máy bay phản lực tư nhân tuyệt vời nhất từng được chế tạo, hoàn toàn không có những chi tiết rườm rà như tên công ty hay biểu tượng này nọ, ngoài số hiệu đăng kiểm hàng không tiêu chuẩn, toàn thân máy bay óng lên một màu bạc tuyệt đẹp, lấp lánh như một mũi thương thon thả.

Họ bay về phía hoàng hôn đẹp đến ngỡ ngàng – một chiếc đĩa khổng lồ màu da cam hoàn hảo đang chìm dần vào giữa những đám mây mênh mông và bướng bỉnh, hồng và tím biếc, toả những tia nắng rực rỡ lên nền trời.

Chỉ có vẻ đẹp của bình minh mới sánh được. Và cũng chỉ có cảnh sấm chớp mới kỳ vĩ hơn.

Từ nơi cất cánh đế O’Hare là 723 dặm, và họ hoàn thành chặng đường đó trong vòng chưa đầy hai giờ. Trung tâm Kiểm soát Không lưu Chicago lịch sự yêu cầu họ hạ xuống độ cao 14000 feet[5], rồi bàn giao họ cho Trung tâm Kiểm soát Tiếp cận Chicago.

Tim thực hiện cuộc gọi. “Trung tâm Kiểm soát Tiếp cận Chicago. Lear 94 Charlie Julietgọi từ độ cao 14000 feet.”

“Xin chào, 94 Charlie Juliet”, giọng nói điềm tĩnh một nhân viên Kiểm soát Không lưu sân bay cất lên. “Hạ xuống và duy trì độ cao 8000 feet. Cao kế[6] Chicago mức 37,1. Theo hướng đường băng 27 trái.”

“Đã nghe rõ, Chicago. 94 Charlie Juliet đang chuyển từ độ cao 14000 xuống độ cao 8000.”

O’Hare là sân bay bận rộn nhất thế giới và Trung tâm Kiểm soát Không lưu yêu cầu thực hiện chế độ bay lòng vòng trên khu ngoại ô phía tây thành phố, chờ đến lượt mình hạ cánh.

Mười phút sau, vẫn giọng nói dễ nghe, rành rọt đó cất lên. “94 Charlie Juliet, duy trì hướng 090, xuôi theo chiều gió, hướng đường băng 27 trái.”

“090. 94 Charlie Juliet nghe rõ”, Tim nhắc lại.

Carney ngẩng lên nhìn những chòm sao lấp lánh rực rỡ trên bầu trời đêm màu thép lạnh đẹp lộng lẫy và thầm nghĩ: Nhìn kìa, Percey, tất cả những vì sao đêm…

Và cùng với ý nghĩ đó, trong anh chợt trào lên một cảm xúc thôi thúc rất thiếu chuyên nghiệp, có lẽ lần duy nhất trong toàn bộ sự nghiệp bay của anh. Nỗi lo lắng về Percey bừng bừng trong anh như một cơn sốt. Anh bỗng cảm thấy muốn được nói chuyện với cô một cách tuyệt vọng.

“Cầm lái này”, anh nói với Tim.

“Rõ”, chàng thanh niên trả lời, hai bàn tay nắm lấy cần lái không chút do dự.

Giọng nói từ Trung tâm Kiểm soát Không lưu vang lên, “94 Charlie Juliet, hạ xuống độ cao 4000 feet. Duy trì hướng bay”.

“Rõ, Chicago”, Tim nói. “94 Charlie Juliet đang chuyển từ độ cao 8000 xuống độ cao 4000.”

Carney chuyển tần số trên máy radio để thực hiện một cuộc gọi riêng[7]. Tim liếc nhìn anh với ánh mắt dò hỏi. “Gọi về Công ty”, Carney giải thích. Khi Talbot trả lời, anh yêu cầu ông ta nối máy về nhà mình.

Trong lúc chờ đợi, Carney và Tim thực hiện nốt khâu kiểm tra bắt buộc trước khi hạ cánh.

“Nâng cánh tà hai bên… 20 độ”

“20, 20, đèn xanh:, Carney trả lời.

“Kiểm tra tốc độ”.

“180 knot[8]”.

Trong khi Tim đang nói vào mic của mình – “Chicago, 94 Charlie Juliet, đang giảm dần độ cao, từ 5000 xuống 4000” – Carney căng tai nghe tiếng điện thoại bắt đầu đổ chuông từ ngôi nhà trong khu Mahattan của họ, cách đó hơn 700 dặm đường.

Nhanh lên nào, Percey. Nghe máy đi! Em đang ở đâu vậy?

Xin em…

Trung tâm Kiểm soát Không lưu lên tiếng, “94 Charlie Juliet, giảm tốc độ xuống 180. Liên lạc với Đài Kiểm soát Không lưu sân bay. Chúc vui vẻ.”

“Nghe rõ, Chicago. Tốc độ 180 knot. Xin chào.”

Ba hồi chuông.

Cô âý đang ở chỗ quái nào nhỉ? Chẳng lẽ có chuyện gì không hay?

Cảm giác bồn chồn trong bụng anh mỗi lúc một cồn cào.

Tiếng cánh quạt trong động cơ turbo gầm lên, một âm thanh chói tai. Tiếng động cơ thủy lực rít lên ken két. Tiếng tích điện lách tách trong tai nghe của Carney.

Giọng Tim vang lên rành rọt, “Nâng cánh tà lên 30 độ. Hạ bánh xe xuống”.

“Nâng cánh tà, 30, 30, đèn xanh. Hạ bánh xe. Ba đèn xanh.”

Và rồi, cuối cùng – trong tai nghe của anh – một tiếng cạch khô khan khẽ vang lên.

Giọng nói của vợ anh, “Alô”.

Anh bật cười thành tiếng, thở phào nhẹ nhõm.

Carney đang định trả lời nhưng, trước khi anh cất tiếng, chiếc máy bay bỗng giật mạnh một cái thật khủng khiếp – dữ dội đến nỗi chỉ trong một phần nghìn giây sức ép của vụ nổ đã giật tung bộ tai nghe nặng trịch ra khỏi tai anh và cả hai người đàn ông bị ném thẳng vào bảng điều khiển phía trước. Tia lửa và những mảnh vụn văng tung toé xung quanh họ.

Choáng váng, theo bản năng Carney chụp lấy chiếc cần lái bất động bằng bàn tay trái của mình; bàn tay phải của anh đã bay đâu mất. Anh quay sang phía Tim đúng lúc cơ thể nát bấy và máu me của chàng thanh niên đang dần biến mất qua lỗ hổng há hoác bên sườn thân máy bay.

“Ôi, lạy Chúa. Không, không…”

Rồi toàn bộ buồng lái tách rời khỏi thân máy bay đang vỡ tan và bắn thẳng lên không trung, bỏ lại phần thân, hai cánh và những động cơ của chiếc Lear phía sau, tất cả đều bị trùm trong một quả cầu lửa cháy rừng rực.

“Ôi, Percey”, anh thì thầm, “Percey…”. Mặc dù lúc này đã không còn chiếc mic nào cho anh nói nữa.

Chú thích

[1]Con đường mang tên Franklin Delano Roosevelt – Tổng thống thứ 32 của Mỹ (1933-1945). (Các chú thích của người dịch).

[2]Tức là ghế phi công chính trong chuyến bay.

[3]Dặm: Đơn vị đo khoảng cách phổ biến ở các nước nói tiếng Anh. Tương đương 1,6km.

[4]Nhà để máy bay trong sân bay.

[5]Feet (số nhiều của foot): Đơn vị đo lường khoảng cách phổ biến ở Anh, Mỹ. Một foot tương đương 0,3048 mét.

[6]Thiết bị chỉ độ cao so với mực nước biển, thường gắn trên máy bay, xác định độ cao thông qua chênh lệch áp suất không khí.

[7]Trong khi bay, phi công thường sử dụng sóng radio với tần số chung, để liên lạc với Đài Kiểm soát Không lưu hoặc các máy bay chung quanh, khi muốn liên lạc riêng phải chuyển qua tần số khác.

[8]Knot: Hải lý, đơn vị đo vận tốc dùng trong hàng hải và hàng không để đo tốc độ của tàu, máy bay hoặc gió, tương đương với 1,85 kilomét
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2


To như những tiểu hành tinh, màu vàng xương.

Nhũng hạt cát lấp lánh trên màn hình máy tính. Người đàn ông ngồi cúi hẳn về phía trước, đôi mắt nheo lại chăm chú – vì tập trung cao độ, chứ không phải bị tật về thị giác.

Tiếng sấm ầm ì từ xa vẳng lại. Bầu trời buổi sáng sớm vàng vọt pha lẫn sắc xanh với cơn bão có thể ập tới bất cứ lúc nào. Đây được coi là mùa xuân ẩm ướt nhất trong lịch sử khí tượng thành phố.

Những hạt cát…

“Phóng to”, anh ra lệnh, và ngay lập tức hình ảnh trên máy tính được phóng to gấp hai lần.

Lạ thật, anh nghĩ bụng.

“Kéo con trỏ xuống… Dừng lại.”

Lại cúi sát người về phía trước, căng mắt, chăm chú nhìn vào màn hình.

Cát,Lincolnthầm nghĩ, là nguồn vui đối với một nhà hình sự học; nhũng mẩu đá vụn, nhiều khi nằm lẫn với các vật liệu khác, có kích cỡ từ 0,05 đến hai milimet (to hơn thế thì được gọi là sỏi, nhỏ hơn thì được gọi là hạt bùn). Cát bám vào quần áo của thủ phạm giống như chất sơn dính và chờ lúc thuận tiện sẽ rơi ra hiện trường một vụ án hoặc nơi trú ẩn nào đó tạo nên mối liên hệ giữa nạn nhân và kẻ thủ ác. Nó cũng có thể nói lên rất nhiều điều về việc kẻ tình nghi đã từng ở những đâu. Cát mờ đục có nghĩa là hắn đã ở trên sa mạc. Cát trong suốt cũng đồng nghĩa với những bãi biển. Cát dạng khoáng chất hocblende nghĩa làCanada. Cát obsidian,Hawaii. Cát thạch anh và cát đá mờ từ núi lửa,New England. Cát quặng sắt có từ tính màu xám mịn, miền tây vùngGreat Lakes[9].

Nhưng những hạt cát trong trường hợp này có nguồn gốc ở đâu, Rhyme hoàn toàn không có manh mối gì. Hầu hết cát trong khu vựcNew Yorklà cát thạch anh và cát khoáng feldspar. Cát đá ở mạn eo biển Long Island, cát bụi ở bờ Đại Tây Dương và cát bùn dọc trên sôngHudson. Nhưng đây lại là loại cát trắng tinh, lấp lánh, có viền sắc lởm chởm, pha lẫn với những ánh đỏ nhỏ li ti. Và lại còn những cái vòng ngấn kia nữa chứ? Những vòng đá trắng trông chẳng khác gì lát cắt ngang thân của một con mực bút. Tóm lại là anh chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì như thế này.

Câu hỏi hóc búa đó đã khiến Rhyme thức đến tận bốn giờ sáng. Anh vừa mới gửi một mẫu cát tới phòng thí nghiệm kỹ thuật hình sự của một đồng nghiệp FBI[10]ởWashington. Anh đã phải miễn cưỡng lắm mới quyết định gửi nó đi – Lincoln Rhyme ghét phải nhờ người khác trả lời thay cho những câu hỏi của chính anh.

Có sự chuyển động bên ngoài cửa sổ cạnh giường anh. Anh nhìn ra phía đó. Hàng xóm của anh – hai con chim ưng hoang dã – đã thức dậy và chuẩn bị cho một ngày săn mồi. Lũ bồ câu hãy dè chừng, Rhyme thầm nghĩ. Rồi anh hơi nghiêng đầu, miệng lầm rầm, “Chết tiệt”, mặc dù câu rủa của anh không hề liên quan đến nỗi bực bội vì chưa giải mã được bằng chứng cứng đầu này mà là vì sự phiền nhiễu sắp đến với anh.

Những tiếng bước chân gấp gáp đang vang lên ngoài cầu thang. Thom đã để khách vào nhà còn trong lúc này Rhyme chẳng muốn khách khứa gì hết. Anh giận dữ lườm về sảnh trước. “Ôi, không phải lúc này đấy chứ, vì Chúa.”

Nhưng họ không nghe thấy, tất nhiên rồi, mà cho dù có nghe thấy đi chăng nữa họ cũng không bao giờ dừng lại.

Có hai người…

Một người nặng nề. Người kia thì không.

Một tiếng gõ rất nhanh vang lên trên cánh cửa để mở và họ bước vào.

“Lincoln.”

Rhyme càu nhàu.

Lon Sellito là một thám tử hạng nhất của NYPD[11],và chính là người có bước chân ầm ầm, nặng nề. Nhẹ nhàng bước bên cạnh viên thám tử là người cộng sự trẻ tuổi và thon thả của anh ta, Jerry Banks, bảnh chọe trong bộ vét màu xám may bằng vải len đắt tiền. Chàng trai đã cố vuốt mớ tóc bò liếm xuống sát đầu bằng keo xịt – Rhyme có thể ngửi thấy mùi propane, isobutan và cả vinyl acetate – nhưng chỏm tóc ngộ nghĩnh vẫn cứ vểnh lên như chàng Dagwood[12].

Viên thám tử béo ục ịch nhìn quanh căn phòng ngủ trên tầng hai, với kích thước mỗi chiều khoảng hơn sáu mét. Bốn bức tường trống trơn, không một bức tranh. “Có khác gì đâu chứ, Linc? Ý tôi là cái chỗ này ấy?”

“Chẳng có gì.”

“Ồ, chậc, tôi biết rồi – phải nói là nó sạch sẽ thật”, Banks nói, rồi bỗng im bặt khi nhận ra mình vừa lỡ lời.

“Sạch sẽ, chắc chắn rồi”, Thom nói, trông anh chàng chỉn chu không thể chê vào đâu được với chiếc quần màu nâu vàng là thẳng ly, áo sơ mi trắng và chiếc cà vạt hoa mà theo Rhyme lòa loẹt một cách vô ích mặc dù chính anh đã đặt mua nó, bằng dịch vụ bán hàng qua bưu điện, cho chàng thanh niên. Đến lúc này người trợ lý trẻ tuổi đã ở với Rhyme được vài năm – và mặc dù anh ta từng bị Rhyme đuổi việc hai lần cộng với một lần tự thôi việc thì cũng đã ngần ấy lần nhà hình sự học tàn phế phải thuê lại cậu y tá kiêm trợ lý mát tính của mình. Thom có đủ hiểu biết về bệnh tê liệt tứ chi để trở thành một bác sĩ, và cũng đã học được nhiều điều về khoa học hình sự, đủ để trở thành một thám tử, Nhưng anh chàng bằng lòng với chức danh mà công ty bảo hiểm gọi là “người chăm sóc”, mặc dù cả Rhyme và Thom đều không đồng ý với thuật ngữ này. Tùy từng lúc mà Rhyme có thể gọi anh ta là “gà mái mẹ” hoặc “nữ thần báo oán”, cả hai cách gọi đều khiến anh chàng trợ lý vô cùng thích thú. Lúc này anh ta đang lăng xăng quanh những vị khách. “Anh ấy không thích thế nhưng tôi cứ thuê dịch vụ Molly Maids về kỳ cọ và dọn dẹp thật sạch chỗ này. Nói cho đúng là phải xông hơi tẩy uế. Sau vụ đó anh ấy nhất định không thèm nói chuyện với tôi đúng một ngày.”

“Đâu cần phải dọn sạch chứ. Tôi không thể tìm được thứ gì cả.”

“Nhưng mà anh ấy làm saophảitìm thứ gì nhỉ?” Thom phản pháo. “Đó không phải là trách nhiệmcủa tôisao?”

Không có tâm trạng đùa cợt. “Sao đây?” Rhyme hất khuôn mặt đẹp trai của mình về phía Sellitto. “Có chuyện gì?”

“Đang có một vụ án. Chợt nghĩ là có thể anh muốn giúp một tay.”

“Tôi đang bận.”

“Những cái gì thế này?”, Banhks vừa hỏi vừa bước lại gần chiếc máy tính mới đặt ngay cạnh giường của Rhyme.

“Ồ”, Thom thốt lên với vẻ hớn hở làm Lincoln lộn ruột, “giờ thì anh ấy sành điệu về công nghệ lắm rồi. Cho họ xem đi,Lincoln. Cho họ xem đi”.

“Tôi không muốn cho họ xem đấy.”

Thêm một loạt sấm ùng oàng nhưng vẫn không một giọt mưa. Giống mọi khi, hôm nay thiên nhiên lại đang trêu ngươi.

Thom vẫn khăng khăng. “Cho họ xem nó làm việc như thế nào đi.”

“Đã bảo không muốn mà.”

“Anh ta xấu hổ đấy.”

“Thom”, Rhyme lầm bầm.

Nhưng anh chàng trợ lý trẻ tuổi hoàn toàn không thèm đếm xỉa đến những lời dọa nạt hay đay nghiến. Anh ta chỉnh thẳng lại chiếc cà vạt lụa gớm ghiếc, hay cũng có thể gọi là sành điệu, của mình. “Tôi không biết tại sao hôm nay anh ấy lại dở chứng thế. Mọi hôm anh ấy tỏ ra tự hào về hệ thống máy móc này lắm cơ mà.”

“Không có đâu.”

Thom tiếp tục. “Chiếc hộp kia” – anh chàng chỉ tay về phiá một thiết bị kì cục màu be – “dẫn thẳng tới máy tính.”

“Oao, những 200 megahertz cơ à?”, Banks hỏi và gật gù trước cái máy tính. Để thoát khỏi cái lườm cáu kỉnh của Rhyme, anh ta vội chộp lấy câu hỏi đó như một con cú mèo vừa vồ được con nhái.

“Vâng”, Thom nói.

Nhưng Lincoln Rhyme không thèm quan tâm đến máy tính. Ngay lúc này đây Lincoln Rhyme chỉ quan tâm đến những vòng tròn nhỏ li ti như thân mực cắt ngang và những hạt cát.

Thom vẫn thao thao nói. “Chiếc mic nối thẳng với máy tính. Tất cả những gì anh ấy nói đều được máy tính nhận dạng ngay. Phải mất một thời gian máy tính mới quen với giọng của anh ấy. Chẳng là anh ấy nói năng lập bập quá cơ.”

Kỳ thực Rhyme rất lấy làm hài lòng với hệ thống này – chiếc máy tính cực nhanh, một hộp ECU[13]và một phần mềm nhận dạng giọng nói. Chỉ bằng giọng nói của mình, anh có thể chỉ huy con trỏ thực hiện tất cả những gì một người bình thường có thể làm với bàn phím và con chuột. Và anh còn có thể ra những mệnh lệnh cụ thể, Giờ đây, bằng giọng nói, anh có thể tăng giảm nhiệt độ trong phòng, bật đèn lên hoặc tắt đi, bật dàn âm thanh stereo hoặc tắt mở ti vi, soạn thảo trên phần mềm xử lý văn bản riêng của mình, thực hiện các cuộc điện thoại, gửi và nhận fax.

“Thậm chí anh ấy còn viết nhạc được nữa cơ”, Thom say sưa khoe với các vị khách. “Anh ấy chỉ cần ra lệnh cho máy tính đánh dấu lại những nốt nào trên khuông nhạc.”

“Giờ thì điều đó mới hữu ích làm sao chứ”, Rhyme thốt lên chua chát. “Âm nhạc.”

Đối với một người tứ chi bất toại kiểu C4 – chấn thương của Rhyme xảy ra ở đốt sống cổ thứ tư – thì việc gật đầu vẫn khá dễ dàng. Thậm chí anh còn có thể nhún vai, mặc dù không được kiêu bạc như anh muốn. Một trò khác của anh là nhúc nhắc ngón tay đeo nhẫn bên tay trái khoảng vài milimét theo bất kỳ hướng nào anh muốn. Đó là tất cả vốn liếng biểu diễn liên quan đến thể chất của anh trong suốt mấy năm vừa rồi; sáng tác một bản sonata cho đàn violin có lẽ là một chuyện thật viễn vông.

“Anh ấy còn chơi được game nữa cơ đấy.”

“Tôi ghét game. Tôi không bao giờ chơi game.”

Sellitto, người làm Rhyme liên tưởng đến một chiếc giường lớn bề bộn, hờ hững nhìn chiếc máy tính và không lấy gì làm ấn tượng với nó cho lắm. “Lincolnnày”, anh ta bắt đầu với vẻ nghiêm trọng. “Có một vụ đặc biệt đây. Liên quan đến cả các cơ quan điều tra của liên bang. Đêm qua chúng tôi húc phải một vấn đề gay go.”

“Húc phải một bức yường gạch thì đúng hơn”, Banks đánh liều chen ngang.

“Chúng tôi nghĩ… hừm,tôinghĩ biết đâu anh lại muốn giúp chúng tôi thoát khỏi chuyện này.”

Muốngiúp họ thoát khỏi là sao?

“Hiện tại tôi đang bận việc khác rồi”, Rhyme giải thích. “Thực ra là làm cho Perkins.” Thomas Perkins, đặc vụ phụ trách văn phòng địa bàn Manhattan của FBI. “Một trong những chàng trai của Fred Dellray đang mất tích.”

Đặc vụ Fred Dlllray, một nhân viên kỳ cựu của Cục, là người chỉ đạo hầu hết các đặc vụ ngầm của văn phòng địa bànManhattan. Bản thân Dellray cũng từng là một trong những đặc vụ ngầm hàng đầu của Cục. Thậm chí anh còn nhận được lời tuyên dương đặc biệt của đích thân giám đốc FBI vì thành tích đã thâm nhập vào đủ một loạt mục tiêu, từ hang ổ của những băng đảng ma túy trong khu Harlem[14]cho tới các tổ chức vũ trang của dân da đen. Một trong những đặc vụ của Dellray là Tony Panelli đã biến mất từ vài ngày trước đó.

“Perkins cũng có kể cho chúng tôi biết”, Banks nói. “Quái đản thật.”

Rhyme hơi nhướng mắt trước cụm từ hơi sỗ sàng đó. Mặc dù anh cũng không thể phản bác được.Tayđặc vụ kia đã biến mất khỏi xe của mình ngay trước cửa Toà nhà Liên bang ở khu Hạ Manhattan[15]vào khoảng chín giờ tối. Đường phố khi đó không còn đông đúc nhưng cũng không vắng vẻ gì. Động cơ của chiếc CrownVictoriado Cục trang bị vẫn đang nổ, cánh cửa xe mở toang. Không có vết máu, không có dư chất của thuốc súng, không có những vết trầy xước thường thấy khi xảy ra vật lộn. Không một nhân chứng nào – ít nhất thì cũng không có nhân chứng nào dám ra mặt khai báo bất cứ thông tin gì.

Quả thật quái đản.

Dưới quyền Perkins có cả một đơn vị khám nghiệm hiện trường vụ án, bao gồm cả PERT[16]của Cục. Nhưng chính Rhyme mới là người thành lập và tổ chức ra PERT, và cũng chính Rhyme là người được Dellray yêu cầu nghiên cứu hiện trường vụ mất tích. Người sĩ quan phụ trách khám nghiệm hiện trường làm việc với tư cách cộng sự của Rhyme đã mất mấy giờ đồng hồ liền săm soi bên trong chiếc xe của Panelli và quay về mà không tìm được dấu vân tay lạ nào, ngoài muời túi bằng chứng vô nghĩa, và – có lẽ là đấu mối duy nhất – mấy chục hạt của loại cát rất kỳ quái.

Những hạt cát đó lúc này đang sáng lấp lánh trên màn hình máy tính của anh, mịn màng và đồ sộ như những thiên thể lửng lơ trong vũ trụ.

Sellitto nói tiếp. “Perkins sẽ cho người khác điều tra tiếp về vụ Panelli,Lincoln, nếu anh đồng ý giúp chúng tôi. Vả lại, tôi nghĩ là anh sẽ muốn vụ này.”

Lại là động từ đó –muốn. Tất cả chuyện này là thế quái nào nhỉ?

Rhyme và Sellitto đã làm việc cùng nhau trong những cuộc điều tra trọng án cách đây vài năm. Những vụ án hắc búa – và cả những vụ gây om sòm dư luận. Anh hiểu rõ Sellitto cũng giống như anh hiểu bất kỳ cảnh sát nào. Thường thì Rhyme vẫn hoài nghi khả năng của mìmh trong việc đọc suy nghĩ của người khác (vợ cũ của anh, Blaine, vẫn nói – khá thường xuyên, và gay gắt – rằng Rhyme có thể nhìn thấy một chiếc vỏ đạn cách xa cả dặm nhưng lại không đếm xỉa gì đến một con nguời bằng xương bằng thịt đang đứng ngay trước mặt anh), nhưng lúc này anh có thể cảm thấy rằng Sellitto đang giấu giếm điều gì đó.

“Được rồi, Lon. Có chuyện gì vậy? Kể cho tôi nghe đi.”

Sellitto gật đầu với Banks.

“Phillip Hansen”, chàng thám tử trẻ hơi nhướng mày và nói với vẻ nghiêm trọng.

Rhyme chỉ biết cái tên này qua một vài bài báo. Hansen – một doanh nhân cỡ bự xuất thân gian khó từ vùngTampa,Florida– sở hữu một công ty bán buôn tạiArmonk,New York. Công ty này làm ăn cực kỳ phát đạt và nhờ nó mà ông ta đã trở thành triệu phú. Hansen có tất cả những gì một doanh nhân bình thường phải thèm muốn. Ông ta không bao giờ phải nhọc công tìm kiếm khách hàng, không bao giờ quảng cáo, không bao giờ gặp những vấn đề liên quan đến hoá đơn thanh toán. Trên thực tế, nếu phải kể ra một khía cạnh tiêu cực liên quan đến PH Distributors, Inc., thì đó là việc chính quyền liên bang và chính quyền bang New York đang dồn rất nhiều tâm trí cho mục tiêu đóng cửa công ty này và tống vị chủ tịch hội đồng quản trị của nó vào tù. Bởi vì sản phẩm mà công ty của ông ta bán ra không phải là các loại xe quân sự cũ đã thanh lý, như ông ta khẳng định, mà là vũ khí, phần lớn đều được ăn trộm từ các căn cứ quân sự hoặc do nhập khẩu trái phép từ nước ngoài. Hồi đầu năm đã có hai binh sĩ lục quân bị giết trong vụ cướp một xe tải chở đầy các loại vũ khí hạng nhẹ xảy ra gần cầu George Washington khi chiếc xe đang trên đường tớiNew Jersey. Hansen đứng sau vụ này – đó là một thực tế mà Bộ Tư pháp Hoa Kỳ và Chưởng lý New York đều biết mà không có cách nào chứng minh được.

“Perkins và chúng tôi đang phối hợp điều ra vụ này”, Sellitto nói. “Làm việc cả với Cục Điều tra Hình sự Quân đội nữa. Nhưng phải công nhận là vụ này xương thật.”

“Và không một ai dám ra mặt tố cáo hắn”, Banks nói. “Từ trước đến giờ.”

Rhyme cũng thừa hiểu rằng, không, không một ai dám đứng ra vạch mặt một kẻ như Hansen. Chàng thám tử trẻ tuổi tiếp tục, “Nhưng cuối cùng thì, tuần trước, chúng tôi cũng gặp may. Anh biết đấy, Hansen vốn là một phi công. Công ty của hắn có mấy gian nhà kho và hangar ở sân bay Mamaroneck – cái sân bay gầnWhite Plainsấy! Tòa án đã ký lệnh kiểm tra những chỗ đó. Như mọi khi, chúng tôi vẫn không phát hiện được gì cả. Nhưng rồi tuần trước, lúc nữa đêm nhỉ? Khi đó sân bay đã đóng cửa nhưng vẫn còn một số người ở lại, làm việc rất khuya. Họ nhìn thấy một người trùng hợp với đặc điểm nhận dạng của Hansen lái xe tới chỗ chiếc máy bay tư nhân đó, chất mấy cái túi vải bạt to đùng lên máy bay, rồi cất cánh. Trái phép. Không có lịch trình chuyến bay. Cứ cất cánh thế thôi. Khoảng bốn mươi phút sau đó thì quay lại, hạ cánh, leo lên xe của mình và rú ga lao khỏi sân bay đến khét lẹt cả lốp xe. Không còn thấy bóng dáng những chiếc túi bạt đâu nữa. Các nhân chứng đã báo lại số đăng ký của chiếc máy bay cho FAA[17]. Hoá ra đó là chiếc máy bay riêng của Hansen, chứ không phải máy bay của công ty hắn”.

Rhyme nói. “Vậy là hắn biết các anh đang theo dõi sát sao và hắn muốn phi tang thứ gì đó có thể là bằng chứng về việc hắn có liên quan đến vụ giết người kia”. Anh bắt đầu hiểu tại sao họ lại muốn anh tham gia vụ này. Có vài hạt giống quan tâm đang nảy mầm đây. “Trung tâm Kiểm soát Không lưu có theo được dấu hắn không?”

“LaGuardia đã bám sát hắn được một lúc. Hắn bay thẳng qua eo biểnLong Island. Rồi đột ngột hạ thấp khỏi tầm theo dõi của radar khoảng mười phút gì đó.”

“Và các anh đã khoanh vùng xem hắn có thể bay qua khỏi eo biển được bao xa. Đã cho triển khai đội thợ lặn rồi chứ?”

“Đúng vậy. Còn trước mắt, chúng tôi xác định ngay là nếu Hansen biết chúng tôi có ba nhân chứng kiểu gì hắn cũng giở trò đối phó. Vì thế chúng tôi đã xoay xở được cách vô hiệu hoá hắn đến thứ Hai. Tống vào Trung tâm Tạm giam Liên bang.”

Rhyme phá lên cười. “Các anh tìm được cớ để thuyết phục tòa án thông qua lệnh tạm giam rồi cơ à?”

“Đúng vậy, vì tội cất cánh trái phép”, Sellitto nói. “Cùng với mấy cớ lằng nhằng vì vi phạm quy định của FAA và những nguy hiểm có thể xảy ra. Không có lịch trình chuyến bay, bay dưới độ cao tối thiểu theo quy định của FAA.”

“Thế ngài Hansen có phản ứng gì không?”

“Hắn quá ranh ma trong trò này còn gì nữa. Không hé một lời với những người bắt giữ, không một lời với các công tố viên. Luật sư của hắn cãi bay tất cả và đang chuẩn bị đơn kiện tội bắt nhầm người, vân vân và vân vân.. Có nghĩa là nếu chúng tôi tìm thấy những cái túi chó chết kia, chúng tôi có thể đàng hoàng tới phiên triệu tập của bồi thẩm đoàn hôm thứ Hai, và pằng, hắn coi như tiêu đời.”

“Với điều kiện”, Rhyme nhấn mạnh, “là trong những cái túi đó phải có bằng chứng vạch tội hắn”.

“Ồ, kiểu gì chẳng có bằng chứng vạch tội.”

“Làm sao anh biết chắc thế?”

“Bởi vì Hansen đang sợ hãi. Hắn đã thuê người thủ tiêu các nhân chứng. Hắn xoá sổ được một người rồi. Cho nổ tung máy bay của anh ta lúc nửa đêm hôm qua bên ngoàiChicago.”

Và, Rhyme thầm nghĩ, họ muốn mình tìm ra mấy cái túi vải bạt kia… Những câu hỏi thú vị đang lướt nhanh trong đầu anh. Liệu có thể xác định vị trí cụ thể của chiếc máy bay trên mặt biển căn cứ vào kiểu kết tủa hoặc dư chất muối hoặc xác côn trùng dính lại trên cánh máy bay không nhỉ? Liệu có ai tính toán được thời gian chết của một con côn trùng không? Lại còn thông số về nồng độ muối và các chất gây ô nhiễm khác trong nước nữa chứ? Khi bay sát mặt nước như vậy, liệu động cơ hoặc cánh máy bay có bị dính tảo với những dấu vết còn lưu lại trên thân và phần đuôi không nhỉ?

“Tôi sẽ cần đến một số bản đồ khu vực eo biển”, Rhyme bắt đầu nói. “Bản vẻ động cơ và thiết kế loại máy bay của hắn…”

“À, ừm,Lincoln, đó không phải lý do chúng tôi có mặt ở đây”, Sellitto nói.

“Không phải là để tìm mấy cái túi”, Banks bổ sung.

“Không ư? Thế thì là cái gì?” Rhyme khó chịu lắc một lọn tóc đen nhánh đang lòa xòa trước trán và gườm gườm nhìn chàng thanh niên.

Ánh mắt Sellitto lơ đãng quét qua chiếc hộp ECU màu be. Từ chiếc hộp đâm ra những sợi dây điện màu đỏ quạch, vàng và đen rải loằng ngoằng trên sàn nhà, trông như những con rắn đang nằm sưởi nắng.

“Chúng tôi muốn anh giúp chúng tôi tìm tên sát thủ. Kẻ được Hansen thuê. Ngăn chặn hắn trước khi hắn kịp thủ tiêu hai nhân chứng còn lại”.

“Và?” Vì Rhyme nhận thấy Sellitto chưa đề cập gì đến điều mà anh ta vẫn giấu kín từ đầu tới giờ.

Vừa hờ hững liếc ra ngoài cửa sổ viên thám tử vừa khẽ khàng nói, “Hình như đó là tên Vũ công, Lincoln ạ”.

“Vũ công Quan tài ư?”

Sellitto quay mặt lại và gật đầu.

“Anh chắc chứ?”

“Chúng tôi nghe nói hắn mới làm một vụ ở thủ đôWashingtonD.C.cách đây vài tuần. Giết hại một trợ lý nghị sĩ Quốc hội liên quan đến những hợp đồng buôn bán vũ khí. Chúng tôi có mẫu đăng ký viết tay và phát hiện được cả những cuộc gọi từ một bốt điện thoại trả tiền bên ngoài ngôi nhà Hansen tới khách sạn, nơi tên Vũ công đang ở. Chắc chắn là hắn rồi, Lincoln.”

Trên màn hình máy tính, những hạt cát lấp lánh, to như những tiểu hành tinh, mịn màng như bờ vai phụ nữ, bỗng nhiên vụt biến mất khỏi tâm trí của Rhyme.

“Hừm”, anh trầm ngâm buột miệng, “đó lại là một vấn đề, phải không?”.

Chú thích:

[9]Great Lakes: Hay còn gọi là vùng Ngũ Hồ ở miến Bắc nước Mỹ, nhóm hồ lớn nhất thế giới gồm: Superior (Hồ Lớn), Michigan, Huron, Erie, Ontario.

[10]FBI (viết tắt của Federal Bueau of Investigation) : Cục Điều Tra Liên Bang Mỹ.

[11]NYPD (viết tắt của New York Police Department): Sở Cảnh sát New York.

[12]Dagwood Bumstead” Một nhân vật truyện tranh rất nổi tiếng ở Mỹ, thường được thể hiện với hai chỏm tóc vểnh lên trên.

[13]ECU (viết tắt của Enviroment Control Unit): Thiết bị Điều khiển Môi trường.

[14]Harlem: Một quận thuộc thành phố New York, nơi tập trung chủ yếu người da đen.

[15]Midtown (Trung), cùng với Uptown (Thượng) và Downtown (Hạ), là ba phân khu chính của quận Manhattan, New York.

[16]PERT: Nhóm Phản ứng Vật chất.

[17]FAA (viết tắt của Federal Aviation Agency): Cơ quan Hàng không Liên bang.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3


Cô nhớ lại.

Đêm qua, những hồi chuông điện thoại lanh lảnh làm gián đoạn tiếng mưa rơi rả rích bên ngoài cửa sổ phòng họ.

Cô đã khinh khỉnh nhìn nó như thể NYNEX[18] phải chịu trách nhiệm cho cảm giác buồn nôn và cơn đau đến nghẹt thở trong đầu cô khi ấy, ánh đèn trên điện thoại nhấp nháy mờ ảo sau mí mắt.

Cuối cùng cô cũng gượng đứng dậy và nặng nề cầm ống nghe lên sau hồi chuông thứ tư.

“A lô?”

Trả lời cô là tiếng vọng xa xăm của những tín hiệu thường thấy ở một cuộc gọi nối máy từ sóng radio tần số riêng sang điện thoại.

Và rồi một giọng nói cất lên. Có lẽ thế.

Một tiếng cười. Có lẽ thế.

Một tiếng nổ đinh tai. Một tiếng cạch khô khan. Im lặng.

Không còn tín hiệu đường dây. Chỉ là sự im lặng, bao phủ bởi những dải sóng dao động vọng lại trong tai cô.

A lô? A lô?...

Cô đã gác máy và quay về chiếc sofa, lặng lẽ nhìn làn mưa trong đêm, nhìn cây sơn thù du ngoài cửa oằn mình xuống rồi lại bật thẳng lên dưới những trận gió của cơn bão mùa xuân. Rồi cô lại thiếp đi. Cho đến khi điện thoại lại đổ chuông sau đó khoảng nửa tiếng với cái tin chiếc Lear 94 Charlie Juliet nổ tung khi đang chuẩn bị hạ cánh khiến cả chồng cô và người phi công phụ trẻ tuổi Tim Randolph thiệt mạng.

Giờ đây, trong buổi sáng u ám này, Percey Rachel Clay mới biết rằng cuộc điện thoại bí hiểm đêm qua là của chồng mình. Ron Talbot – người có đủ can đảm để gọi điện thông báo cho cô cái tin khủng khiếp về vụ nổ – vừa giải thích rằng chính ông ta đã nối máy về nhà cho cô vào khoảng thời gian chiếc Lear nổ tung.

Tiếng cười nhẹ nhõm của Ed…

A lô? A lô...?

Percey vặn mở nắp nút chiếc chai bẹt, tu một hớp. Cô nghĩ về cái ngày lộng gió cách đây nhiều năm khi cô và Ed lái chiếc Cessna 180 có trang bị thêm phao nổi dưới càng tới Red Lake, ở tỉnh Ontario, và đáp xuống với chỉ khoảng sáu ounce[19] nhiên liệu còn lại trong thùng. Họ đã ăn mừng lần chạm đích đó bằng một chai whiskey Canada vô danh, khiến cả hai bị một trận say bê bết đáng nhớ nhất trong đời. Ý nghĩ về kỷ niệm đó giờ đây lại khiến mắt cô ầng ậc nước, cũng giống như cơn đau hồi đó.

“Thôi nào, Percey, như thế là đủ lắm rồi, được chứ?” Người đàn ông ngồi đối diện cô trên sofa trong phòng khách lên tiếng. “Xin cô.” Anh chỉ tay vào chiếc chai.

“Ồ, được chứ”, giọng nói sầu thảm của cô bật lại với vẻ giễu cợt đầy kiềm chế. “Chắc chắn rồi.” Và cô lại tu thêm một hơi nữa. Cảm thấy thèm một điếu thuốc lá, nhưng cô kìm được. “Thế quái nào mà anh ấy lại gọi cho tôi giữa lúc chuẩn bị hạ cánh nhỉ?”, cô hỏi.

“Có lẽ anh ấy lo cho cô”, Brit Hale gợi ý. “Vì cơn đau nửa đầu của cô.”

Giống như Percey, cả đêm qua Hale cũng thức trắng. Talbot đã gọi điện cả cho anh với thông tin về vụ nổ, sau đó anh lái xe từ căn hộ của mình ở khu Bronxville xuống đây với Percey. Anh đã ở bên cô suốt đêm, giúp cô thực hiện những cuộc điện thoại cần phải gọi. Chính Hale, chứ không phải Percey, mới là người thông báo tin này cho bố mẹ cô ở Richmond.

“Anh ấy chẳng việc gì phải làm như thế cả, Brit. Ai lại gọi ngay lúc hạ cánh.”

“Chuyện đó cũng đâu liên quan tới những gì đã xảy ra”, Hale nhẹ nhàng nói.

“Tôi biết”, cô nói.

Họ đã biết nhau nhiều năm nay. Hale là một trong những phi công đầu tiên của Hudson Air và đã làm việc không lương suốt bốn tháng đầu cho đến khi khoản tiền tiết kiệm của anh cạn sạch và anh buộc phải miễn cưỡng tới gặp Percey với đề nghị về một khoản lương nho nhỏ. Anh không bao giờ biết rằng cô đã phải trả lương cho anh bằng tiền túi của mình, vì công ty không hề có lợi nhuận trong suốt một năm sau khi đi vào kinh doanh. Nhìn Hale chẳng khác gì một giáo viên gầy gò, khắc khổ. Thực tế anh lại rất dễ gần – trái ngược hoàn toàn với Percey – và là người chuyên đùa cợt pha trò rất kỳ quặc, anh nổi tiếng vì sẵn sàng cho máy bay của mình bay lật ngửa nếu như hành khách trên máy bay tỏ ra thô lỗ hay ương ngạnh và anh cứ giữ nguyên như vậy cho đến khi đầu của họ nguội trở lại. Hale vẫn giữ chiếc ghế bên phải trong buồng lái của Percey và là phi công phụ được cô yêu mến trong giới đồng nghiệp. “Đặc quyền được bay cùng quý cô”, anh vẫn nói như vậy bằng cai giọng bắt chước Elvis Presley dở ẹc. “Xin cảm ơn rất nhiều.”

Đến lúc này, cơn đau phía sau hai mắt của cô gần như biến mất hoàn toàn. Percey đã mất bạn bè – chủ yếu là vì những vụ rơi máy bay – và cô biết rằng những mất mát tinh thần là loại thuốc gây tê đối với cơn đau thể xác.

Whiskey cũng như vậy.

Lại tu thêm một hơi từ chiếc chai bẹt. “Chết tiệt, Brit.” Cô đổ phịch người xuống chiếc sofa bên cạnh anh. “Ôi, chết tiệt thật."

Hale choàng cánh tay cứng cáp của mình quanh người cô. Percey gục mái đầu phủ kín những lọn tóc xoăn đen thẫm của mình lên vai anh. “Cố giữ gìn nhé, cưng”, anh thủ thỉ. “Hứa đi nào. Tôi có thể làm gì đây?”

Cô lắc đầu. Đó là một câu hỏi không có câu trả lời.

Lại một hớp rượu whiskey đầy miệng, rồi cô nhìn đồng hồ. Chín giờ sáng. Mẹ của Ed có thể tới đây bất kỳ lúc nào. Rồi còn bạn bè, họ hàng… Còn cả một buổi lễ tưởng niệm cần chuẩn bị…

Rất nhiều việc phải làm.

“Tôi phải gọi cho Ron”, cô nói. “Chúng ta phải làm gì đó. Công ty…”

Trong ngành hàng không và các hãng bay dịch vụ, cái từ “công ty” không hoàn toàn mang ý nghĩa giống như trong các lĩnh vực kinh doanh khác. Từ “Công ty”, với chữ “C” viết hoa, là một thực thể, một vật đang sống. Người ta nhắc đến nó với niềm trân trọng, tự hào hoặc bi phẫn. Thỉnh thoảng là với nỗi đau đớn. Cái chết của Ed đã để lại một vết thương trong rất nhiều cuộc sống, kể cả cuộc sống của chính Công ty, và đó là một vết thương có thể làm chết người.

Rất nhiều việc phải làm…

Vậy mà giờ đây Percey Clay – người phụ nữ chưa bao giờ biết sợ hãi, người phụ nữ đã từng bình tĩnh điều khiển những lắc thân máy bay kiểu Hà Lan[20] chết người, vốn là một tử huyệt thường gặp ở loại máy bay Lear 23, người đã từng bình tĩnh như không sau những cú lộn xoáy trôn ốc có thể khiến nhiều phi công dày dặn khác phải bổ nhào – đang ngồi chết lặng đến tê tái trên ghế. Quái đản thật, cô thầm nghĩ, như thể đang ở một chốn xa xăm nào đó nhìn về, mình không sao nhúc nhắc được. Thậm chí cô còn cúi xuống nhìn hai bàn tay và đôi chân mình như thể chúng chỉ còn là xương trắng hếu không một chút máu.

Ôi, Ed…

Tất nhiên còn cả Tim Randolph nữa chứ. Một phi công đồng hành có năng lực mà người ta có thể tìm được, những phi công hạng nhất như thế thường rất hiếm. Cô hình dung ra khuôn mặt tròn trịa và trẻ măng của chàng thanh niên, giống hệt như Ed thời trai trẻ. Lúc nào cũng cười toe toét mà không sao cắt nghĩa được. Luôn tập trung và biết nghe lời nhưng cũng rất kiên định – đưa ra những mệnh lệnh rất dứt khoát, ngay cả với Percey, một khi anh chàng là người chỉ huy chiếc máy bay.

“Cô cần một chút cà phê”, Hale tuyên bố rồi đi về phía bếp. “Tôi sẽ pha cho cô một ly mochaccino đặc quánh với váng sữa bốc khói cho mà xem.”

Một trong những câu chuyện đùa thân mật mà họ thường nói với nhau là về các loại cà phê nhạt thếch. Cả hai đều có chung quan điểm rằng, những phi công thực thụ sẽ chỉ uống Maxwell House hoặc Folgers.

Mặc dù vậy, hôm nay Hale, cầu Chúa phù hộ cho anh, không thực sự muốn nói đến cà phê. Ý anh là: Đừng có nốc rượu nữa. Percey hiểu lời nhắc nhở bóng gió đó. Cô xoáy nút chiếc chai bẹt lại và vứt nó lên bàn nghe đánh keng một cái. “Được rồi, được rồi.” Cô đứng dậy và bắt đầu đi đi lại lại trong phòng khách. Cô chợt bắt gặp hình ảnh của mình trong gương. Khuôn mặt ngắn bè bè. Mái tóc đen xoăn tít thành từng lọn bướng bỉnh. Hồi còn ở tuổi dậy thì đau khổ, trong một giây phút tuyệt vọng vì vẻ ngoài của mình, cô đã từng tự cắt cho mình kiểu đầu cua. Cho chúng nó biết tay. Mặc dù tất cả những gì mà hành động ngỗ ngáo đó làm được chỉ là giúp cho bọn con gái quyến rũ ở trường Trung học Lee tạiRichmondcó thêm vũ khí để chống lại cô. Percey có một thân hình nhỏ nhắn và đôi mắt đen long lanh mà mẹ cô vẫn nói đi nói lại rằng đó là nét đẹp nhất của cô. Cũng đồng nghĩa với nét đẹp duy nhất mà cô có. Và đó lại là một nét đẹp mà bọn con trai, tất nhiên, chẳng bao giờ thèm mảy may quan tâm.

Hôm nay dưới đôi mắt đó là những viền thâm quầng và làn da mai mái tuyệt vọng – da của một người nghiện thuốc lá, cô nhớ lại quãng thời gian cô từng đốt hết hai bao Marlboro mỗi ngày. Những lỗ đeo khuyên trên dái tai của Percey cũng đã bị lấp kín từ lâu lắm rồi.

Một cái nhìn hướng ra ngoài cửa sổ, qua rặng cây, về đoạn phố chạy qua phía trước ngôi nhà. Cô nhìn thấy cảnh người xe đi lại và có gì đó chợt gợn lên trong tâm trí cô. Điều gì đó thật bất an.

Cái gì? Cái gì mới được chứ?

Cảm giác đó vụt biến mất, bị đẩy sang một bên cùng với tiếng chuông cửa vừa vang lên.

Percey mở cửa và nhìn thấy hai sĩ quan cảnh sát to như hộ pháp đứng ở ngưỡng cửa.

“Bà Clay phải không ạ?”

“Vâng.”

“NYPD.” Xuất trình phù hiệu.

“Chúng tôi có mặt tại đây để trông chừng cho bà đến khi chúng tôi điều tra xong những gì vừa xảy ra với chồng bà.”

“Vào đi”, cô nói. “Brit Hale đang ở đây.”

“Ông Hale ư?” Một trong hai viên cảnh sát vừa nói vừa gật đầu. “Ông ấy cũng ở đây à? Tốt lắm. Chúng tôi cũng vừa cử hai cảnh sát vũ trang của hạt Westchester tới nhà ông ấy.”

Đúng lúc đó cô ngước nhìn qua lưng một viên cảnh sát ra ngoài đường phố và ý nghĩ mơ hồ kia lại chợt hiện ra trong đầu cô.

Cô bước vòng qua hai viên cảnh sát ra hẳn bậc thềm trước nhà.

“Chúng tôi mong là bà sẽ ở bên trong thì hơn, thưa bà Clay…”

Cô trân trối nhìn ra đường phố. Là cái gì nhỉ?

Và rồi cô chợt hiểu.

“Có điều này các ông nên biết”, cô nói với hai viên cảnh sát, “Một chiếc xe thùng màu đen.”

“Một...?”

“Một chiếc xe thùng màu đen. Lúc trước còn có một chiếc xe thùng màu đen.”

Một viên cảnh sát rút quyển sổ ghi chép ra. “Tốt nhất là bà nên kể rõ lại chuyện này cho tôi.”

“Chờ chút”, Rhyme nói.

Lon Sellitto tạm ngừng lời kể của mình.

Lúc này Rhyme nghe thấy một loạt tiếng bước chân khác đang bước đến, không nặng nhưng cũng không nhẹ. Anh biết đó là tiếng bước chân của ai. Đây không phải là suy đoán. Anh đã nghe tiếng bước chân đặc biệt này rất nhiều lần rồi.

Khuôn mặt xinh đẹp của Amelia Sachs, với mái tóc dài đỏ rực bao quanh, hiện ra trên cầu thang và Rhyme thấy cô hơi lưỡng lự trong giây lát, rồi tiếp tục tiến thẳng vào phòng. Cô mặc nguyên cả bộ sắc phục tuần tra màu xanh hải quân, chỉ thiếu mũ và cà vạt. Tay cô xách một túi mua hàng của Jefferson Market.

Jerry Banks vụt nở một nụ cười về phía cô. Việc anh chàng tha thiết bày tỏ niềm si mê của mình đối với cô đã quá rõ ràng, chỉ có điều là không đúng thời điểm cho lắm – không có nhiều sĩ quan cảnh sát tuần tra từng có thời gian theo đuổi sự nghiệp người mẫu ở Đại lộ Madison[21] giống như cô nàng Amelia Sachs cao ráo. Mặc dù vậy ánh nhìn đắm đuối cùng vẻ cuồng si của anh chàng không hề được đáp lại và chàng thám tử trẻ tuổi, bản thân anh ta cũng là một thanh niên đẹp trai dù khuôn mặt có bị cạo nham nhở cùng một vệt tóc bò liếm trên trán, dường như đành chấp nhận tiếp tục công cuộc trồng cây si của mình thêm một thời gian nữa.

“Chào Jerry”, cô nói. Với Sellitto cô trao thêm một cái gật đầu nữa, cùng câu xưng hô “thưa ngài” đầy lễ độ. (Chẳng gì anh ta cũng là Đại úy Thám tử và là một huyền thoại trong lĩnh vực điều tra án mạng. Sachs mang gen cảnh sát di truyền trong người và cô đã được dạy dỗ chu đáo tại bàn ăn cũng như trong trường cảnh sát là phải biết kính trọng các bậc tiền bối.)

“Trông cô có vẻ mệt mỏi”, Sellitto nhận xét.

“Tôi có ngủ được đâu”, cô nói. “Phải đi tìm cát.” Cô rút ra một tá những túi nhỏ từ trong chiếc túi mua hàng. “Tôi vừa ra ngoài thu thập mẫu về.”

Chú thích:

[18]NYNEX: Công ty cung cấp dịch vụ điện thoại tại năm bang mạn New England của Mỹ (gồm Maine, Massachusettes, New Hampshire, Rhode Island, Vermont) và cả bang New York.

[19]Ounce: Đơn vị đo lường phổ biến ở Anh, Mỹ, mỗi ounce tương đương 28,35 gam.

[20]Lắc thân máy bay kiểu Hà Lan: Nguyên văn là “Dutch roll”: Một dạng chuyển động không ổn định ở máy bay do mất cân bằng ở phần đuôi và thân.

[21]Đại lộ Madison được mệnh danh là “con đường thời trang” ở thành phốNew York. Đây là nơi tập trung nhiều hãng thời trang danh tiếng.

“Tốt lắm”, Rhyme nói.

“Nhưng đó là tin cũ rồi. Chúng ta vừa nhận nhiệm vụ mới.”

“Nhiệm vụ mới?”

“Có kẻ mới xuất hiện trong thành phố. Và chúng ta phải tóm hắn.”

“Kẻ nào?”

“Một tên sát thủ”, Sellitto nói.

“Chuyên nghiệp?” Sachs hỏi. “Tội phạm có tổ chức?”

“Chuyên nghiệp, đúng vậy”, Rhyme nói. “Hiện chúng ta chưa phát hiện được mối liên hệ nào với tội phạm có tổ chức cả.” Tội phạm có tổ chức là đầu mối cung cấp những sát thủ giết thuê lớn nhất nước Mỹ.

“Hắn là sát thủ tự do”, Rhyme giải thích. “Chúng tôi gọi hắn là Vũ công Quan tài.”

Bất giác cô bồn chồn đưa móng tay lên gãi gãi một bên lông mày. “Tại sao?”

“Duy nhất chỉ có một nạn nhân từng tiếp cận với hắn mà còn sống thêm được đủ lâu để cung cấp cho chúng ta một số chi tiết. Hắn có – hoặc ít nhất cũng đã từng có – một hình xăm trên bắp tay: Thần Chết nhảy múa với một phụ nữ phía trước một chiếc quan tài.”

“Hừm, đó đáng là một chi tiết phải cho vào phóng sự vụ án trong chương trình Dấu hiệu Nhận biết mới đúng”, cô nói với vẻ chế giễu. “Chúng ta còn biết những gì về hắn nữa?”

“Nam giới, người da trắng, có lẽ khoảng ngoài ba mươi tuổi. Tất cả chỉ có vậy.”

“Chúng ta đã cho người lần theo hình xăm đó chưa?” Sachs hỏi.

“Tất nhiên”, Rhyme trả lời một cách khô khan. “Đến tận cùng trời cuối đất.” Điều anh nói là sự thật theo đúng nghĩa đen. Không một sở cảnh sát tại bất kỳ thành phố chính nào trên thế giới có thể cung cấp thông tin về một hình xăm như thế.

“Xin thứ lỗi, thưa các quý ông và cô đây”, Thom nói. “Có việc phải làm.” Cuộc trò chuyện tạm thời gián đoạn trong lúc chàng thanh niên bắt tay vào thực hiện các động tác xoay người cho ông chủ của mình. Mục đích của việc này là giúp Rhyme làm sạch phổi. Đối với những người liệt tứ chi thì một số bộ phận nhất định trên cơ thể trở nên có tính cách như con người; người bệnh phát triển những mối quan hệ đặc biệt với các bộ phận này. Sau khi cột sống của anh bị dập nát trong lúc khám nghiệm một hiện trường vụ án cách đây vài năm, hai tay và hai chân của Rhyme đã trở thành những kẻ thù tàn độc nhất đối với chính anh và Rhyme đã từng phải tuyệt vọng dồn hết sức lực của mình cố gắng bắt chúng làm những gì anh muốn. Nhưng rồi chúng đã thắng, không phải tranh cãi gì thêm nữa, và suốt từ đó đến giờ lúc nào chúng cũng trơ ra như gỗ. Rồi anh lại còn phải đối mặt với những cơn co giật hành hạ cơ thể mình một cách không thương tiếc. Anh đã cố gắng bắt chúng phải chấm dứt. Cuối cùng thì chúng cũng dừng lại – dường như là vì tự chúng muốn thế thì đúng hơn. Rhyme cũng không hoàn toàn tuyên bố chiến thắng mặc dù anh có chấp nhận sự đầu hàng của chúng. Sau đó anh lại quay sang với những thách thức ít gay cấn hơn và bắt đầu tuyên chiến với hai lá phổi của mình. Cuối cùng, sau một năm điều trị phục hồi chức năng, anh có thể tự giải phóng cho mình khỏi cái máy thở. Ngay khi chiếc ống khí quản nhân tạo được rút ra, anh có thể tự thở bình thường. Đó là chiến thắng duy nhất mà Rhyme giành được trong cuộc chiến với cơ thể mình và anh vẫn nuôi dưỡng một sự mê tín đen tối rằng hai lá phổi kia đang kiên trì mai phục chờ ngày trả thù. Anh tự hình dung ra cảnh mình sẽ chết vì viêm phổi hoặc chứng phù thủng chỉ sau một, hai năm nữa.

Cũng không hẳn là Lincoln Rhyme bị giày vò với ý nghĩ về cái chết. Chỉ có điều là có quá nhiều cách để chết; anh quyết tâm sẽ không chọn cho mình một cách quá khổ sở.

Sachs đang hỏi tiếp, “Có manh mối gì không? Phi vụ gần đây nhất?”

“Gần đây nhất hắn gây án ở khu vực Washington D.C”, Sellitto nói bằng cái giọngBrooklynlè nhè của mình. “Thế thôi. Không có thêm gì sất. À, mà chúng tôi cũng có nghe một số thông tin về hắn. Thực ra là Dellray nghe được chứ không hẳn là chúng tôi, anh ta có những tay chỉ điểm và cơ sở mật mà, cô biết đấy. Tên Vũ công, cứ như thể hắn là mười con người khác nhau vậy. Thay thùy tai, cấy ghép mặt, độn silicon. Thêm sẹo, bớt sẹo. Tăng cân, gỉảm cân. Có lần hắn còn lột da xác chết – lấy cả phần bàn tay của nạn nhân rồi đeo vào tay mình cứ như người ta xỏ găng tay vậy, để đánh lừa cảnh sát về dấu vân tay.”

“Nhưng không phải tôi”, Rhyme nhắc. “Hắn đâu có qua mặt được tôi.”

Mặc dù chính mình cũng không tóm được hắn, anh cay đắng thầm nghĩ.

“Hắn lên kế hoạch cho mọi chi tiết”, viên thám tử nói tiếp. “Sắp đặt các biện pháp đánh lạc hướng rồi xâm nhập. Và ra tay. Sau đó thằng chó chết này dọn dẹp hiện trường gây án cực kỳ sạch sẽ.” Sellitto ngừng lời, trông anh có vẻ bức xúc lạ lùng, điểm ít thấy ở một người chuyên sống bằng nghề săn lùng những tên sát thủ.

Ngoảnh mặt ra ngoài cửa sổ, Rhyme không tỏ một chút xúc động trước sự uất ức của người cộng sự cũ. Anh chỉ lạnh lùng nói tiếp. “Vụ án đó – vụ hắn đã lột da bàn tay nạn nhân – là tội ác gần đây nhất của tên Vũ công ở New York. Năm, sáu năm trước. Hắn được một tay chủ ngân hàng đầu tư ở phố Wall thuê giết đối tác làm ăn của mình. Hắn ra tay rất gọn gàng và nhanh chóng. CS[22] của tôi tới nơi hắn gây án và bắt đầu rà soát. Một thành viên trong đội đã nhấc một tập giấy ra khỏi thùng rác. Làm kích nổ một khối thuớc PETN[23]. Nặng khoảng tám ounce gì đó, được tăng cường bằng khí gas trong phòng. Cả hai nhân viên đều thiệt mạng và hầu hết mọi manh mối đều bị phá hủy.”

“Tôi rất tiếc”, Sachs nói. Giữa hai người có một sự im lặng thật khó xử. Cô vừa là học trò vừa là cộng sự của anh từ hơn một năm nay – và cũng đã trở thành bạn tâm giao của anh nữa. Thậm chí thỉnh thoảng còn nghỉ lại qua đêm tại đây, ngủ trên sôfa, hoặc hơn thế nữa, trong sáng như một người em gái, nằm ngay trên chiếc giường Clinitron nặng cả nửa tấn cuả Rhyme. Nhưng họ hầu như chỉ nói chuyện về khoa học hình sự, trong đó Rhyme ru cô vào giấc ngủ bằng câu chuyện về những tên giết người hàng loạt bệnh hoạn hoặc những tên trộm ranh ma chuyên đột vòm một cách thần tình. Họ hầu như không mấy khi đề cập tới những vấn đề riêng tư. Lúc này cô không thể nói gì thêm ngoài câu “Chuyện đó chắc vô cùng khó khăn”.

Rhyme xua đi sự cảm thông gượng gạo đó bằng một cái lắc đầu. Anh trân trân nhìn vào bức tường trống trơn. Một dạo đã từng có những tấm poster nghệ thuật được dán xung quanh căn phòng. Chúng đã được tháo bỏ từ lâu nhưng mắt anh vẫn cố hình dung ra khung cảnh cũ từ những mẩu băng dính còn sót lại. Hình dáng mà chúng tạo nên là một ngôi sao lệch, trong khi ấy, ở đâu đó trong sâu thẳm trong tâm hồn anh, Rhyme cảm thấy một nỗi tuyệt vọng trống rỗng khi hình dung lại hiện trường vụ án khủng khiếp sau khi quả bom phát nổ, chứng kiến những thi thể dập nát và cháy sém của hai đồng nghiệp.

Sachs hỏi, “Người đã thuê hắn ấy, ông ta có đồng ý tố cáo tên Vũ công không?”.

“Có đồng ý chứ, chắc chắn rồi. Nhưng ông ta cũng chẳng biết gì mà khai cả. Ông ta chuyển tiền mặt vào một thùng thư cùng những chỉ thị được viết cụ thể. Không có điện chuyển khoản, không có số tài khoản nào hết. Họ chưa bao giờ gặp nhau trực tiếp.” Rhyme hít một hơi thật sâu. “Nhưng điều tệ nhất trong chuyện này là tay chủ ngân hàng trả tiền cho vụ giết người cuối cùng lại đổi ý. Ông ta đã hoảng sợ. Nhưng ông ta không có cách nào để liên lạc với tên Vũ công. Chuyện đó cũng chẳng ảnh hưởng gì. Tên Vũ công đã nói thẳng với ông ta ngay từ đầu: Không bao giờ có chuyện hủy đơn đặt hàng.”

Sellitto kể tóm tắt lại cho Sachs biết về vụ án hiện tại liên quan đến Phillip Hansen, những nhân chứng đã nhìn thấy máy bay của hắn thực hiện cú cất cánh vào lúc nửa đêm và vụ đánh bom đêm qua.

“Nhân chứng còn lại gồm những ai?”, cô hỏi.

Percey Clay, vợ của cái tay phi công Carney bị giết trên máy bay đêm qua. Cô ta là chủ tịch công ty dịch vụ bay của họ, Hudson Air Charters. Chồng cô ta là phó chủ tịch. Nhân chứng còn lại là Britton Hale. Anh ta cũng là một phi công làm việc trong công ty. Tôi đã cử người tới canh chừng cho cả hai người này.”

Rhyme nói, “Tôi vừa gọi cho Mel Cooper tới. Anh ta sẽ đảm trách phòng thí nghiệm dưới nhà. Vụ Hansen này huy động lực lượng tổng hợp cho nên chúng ta sẽ cần đến Fred Dellray để đại diện cho cơ quan an ninh liên bang. Anh ấy sẽ huy động các đặc vụ cho chúng ta trong trường hợp cần thiết đồng thời chuẩn bị một trong những ngôi nhà an toàn chuyên bảo vệ nhân chứng của Cảnh sát Tư pháp Hoa Kỳ dành riêng cho cô Clay kia và Hale”.

Những ký ức bộn bề của Lyncoln Rhyme lại thoáng tràn về xâm chiếm khiến anh bất giác không còn nhận ra Sellitto đang nói gì nữa. Trong tâm trí anh lúc này là hình ảnh về một văn phòng làm việc, nơi tên Vũ công đã gài qủa bom cách đây năm năm.

Hồi tưởng: Chiếc thùng rác, nổ toác miệng như một bông hồng đen ngòm. Mùi thuốc nổ – mùi hoá chất nồng nặc, hoàn toàn không giống chút nào so với mùi khói do gỗ cháy thông thường. Những vết nứt rạn óng ánh trên mặt gỗ cháy thành than. Thi thể bầm nát của hai nhân viên do anh cử đi, nát bấy và cong queo trong ngọn lửa.

Tiếng tít tít phát ra chiếc máy fax kéo anh khỏi dòng suy tưởng đau đớn. Jerry Banks giật lấy tờ giấy đầu tiên. “Baó cáo khám nghiệm hiện trường vụ nổ”, anh ta thông báo.

Đầu Rhyme giật mạnh về phía chiếc máy fax đầy háo hức. “Đến lúc bắt tay vào việc rồi, các chàng trai, cô gái!”

Rửa thật sạch. Rửa sạch chúng đi.

Quân nhân, những bàn tay đó sạch chưa?

Thưa ngài, sắp sạch rồi ạ, thưa ngài.

Người đàn ông vạm vỡ, khoảng ngoài ba mươi tuổi, đứng trong nhà vệ sinh của một quán cà phê trên Đại lộ Lexington, hoàn toàn chú tâm vào công việc của mình.

Cọ mạnh, cọ mạnh, cọ mạnh vào…

Hắn dừng lại và ngoái nhìn ra cửa nhà vệ sinh dành cho nam giới. Dường như không có ai mảy may quan tâm đến việc hắn đã ở trong này được gần mười phút.

Quay lại với việc kỳ cọ.

Stephen Kall chăm chú nhìn lớp biểu bì và những đốt ngón tay tấy đỏ của mình.

Trông có vẻ sạch, trông có vẻ sạch. Không có giòi. Không một con.

Trước đó hắn đã cảm thấy thật dễ chịu sau khi lái chiếc xe thùng màu đen ra khỏi đường phố và giấu nó sâu tít bên dưới một ga ra ngầm. Stephen đã lấy những thứ mà hắn cần từ thùng sau chiếc xe và bước ngược dốc đi lên, len vào giữa con phố tấp nập người đi lại. Trước đây hắn cũng đã thực hiện một số vụ ở New York nhưng hắn chưa bao giờ có thể quen với cảnh biển người hỗn loạn, chỉ riêng đoạn phố này cũng đã có cả nghìn người rồi.

Làm mình thấy ghê sợ.

Làm mình thấy nhớp nhúa.

Và thế là hắn ghé vào nhà vệ sinh dành cho nam giới trong quán cà phê này để kỳ cọ qua một chút.

Quân nhân, anh vẫn chưa xong việc đó cơ à? Anh còn hai mục tiêu phải tiêu diệt đấy.

Thưa ngài, sắp xong rồi, thưa ngài. Phải loại bỏ bất kỳ nguy cơ để lại dấu vết nào trước khi bắt tay vào thực hiện chiến dịch tiếp theo, thưa ngài.

Ôi, lạy Chúa lòng lành…

Dòng nước nóng chảy tràn trên hai bàn tay của hắn. Kỳ cọ bằng một cái bàn chải hắn luôn mang theo bên mình trong một chiếc túi nylon. Xịt thêm chất xà phòng lỏng màu hồng từ trong bình lên tay. Và lại tiếp tục kỳ cọ thêm lúc nữa.

Cuối cùng hắn săm soi hai bàn tay đỏ bầm và hong khô chúng dưới luồng khí nóng của máy sấy. Không dùng khăn, không để lại những sợi vải có thể làm lộ chân tướng.

Và không có giòi.

Hôm nay Stephen vẫn mặc đồ cải trang, nhưng không phải đồ rằn ri quân sự màu xanh ô liu hoặc màu be kiểu trong chiến dịch Bão táp Sa mạc. Hắn mặc quần jean, áo sơ mi công nhân, chiếc áo khoác gió màu xám lấm tấm những giọt sơn, đi giày thể thao Reebok. Trên thắt lưng hắn là một chiếc điện thoại di động và cái thước dây lớn. Trông hắn chẳng khác bất kỳ nhà thầu xây dựng nào trong khu Manhattan, và sở dĩ hôm nay hắn diện bộ đồ này là vì không một ai để tâm đến một người công nhân xây dựng mang găng tay vải trong một ngày mùa xuân ấm áp cả.

Bước ra ngoài.

Vẫn còn rất nhiều người. Nhưng hai bàn tay hắn đã sạch sẽ và hắn không còn cảm thấy ghê sợ nữa.

Hắn dừng lại ở góc phố và nhìn về phía tòa nhà đã từng là ngôi nhà của Người chồng và Người vợ nhưng lúc này Người vợ chỉ còn một mình vì Người chồng đã bị nổ tung thành hàng triệu mảnh trên Vùng đất của Lincoln[24].

Vậy là hai nhân chứng vẫn còn sống và cả hai sẽ phải chết trước khi bồi thẩm đoàn được triệu tập vào thứ Hai. Hắn liếc nhìn chiếc đồng hồ to đùng bằng thép không gỉ của mình. Bây giờ mới là chín rưỡi sáng thứ Bảy.

Quân nhân, liệu còn đủ thời gian để tiêu diệt cả hai không?

Thưa ngài, lúc này có thể tôi không giết được cả hai cùng một lúc, nhưng tôi vẫn còn gần bốn mươi tám tiếng đồng hồ nữa, thưa ngài. Ngần đó thời gian là quá đủ để xác định và vô hiệu hóa cả hai mục tiêu, thưa ngài.

Nhưng, quân nhân, anh có e ngại thách thức không?

Thưa ngài, tôi sống vì những thách thức, thưa ngài.

Có đúng một chiếc xe tuần tra của cảnh sát bên ngoài ngôi nhà. Đó là điều hắn đã dự kiến từ trước.

Được rồi, chúng ta có một khu vực tiêu diệt quen thuộc ở phía trước ngôi nhà, một khu vực tiêu diệt xa lạ bên trong…

Hắn nhìn quanh hai bên đường phố, rồi bắt đầu bước dọc theo vỉa hè, hai bàn tay vừa được kỳ cọ sạch, ngứa ran. Chiếc ba lô sau lưng nặng gần 60 pound[25] nhưng hắn hầu như không hề cảm thấy gì. Stephen đầu cua là một tên vạm vỡ.

Vừa bước đi hắn vừa tự hình dung bản thân như một người dân địa phương. Vô danh. Hắn không hề nghĩ mình là Stephen, ông Kall hay Todd Johnson hoặc Stan Bledsoe, hay bất kỳ ai trong số hàng chục cái tên giả khác mà hắn từng sử dụng trong suốt mười năm qua. Tên thật của hắn giống như một cái thang sét gỉ cho trẻ con leo trèo gắn ở sân sau, một thứ mà người ta lờ mờ biết là có nhưng cũng không mấy khi nhìn thấy.

Bất thình lình hắn rẽ và bước vào trong sảnh trước của tòa nhà đối diện với ngôi nhà của Người vợ. Stephen đẩy cánh cửa trước và cảnh giác quan sát những ô cửa sổ kính rộng bên kia phố, vốn bị cành lá lòa xòa của một cây sơn thù du đang ra hoa che phủ một phần. Hắn đeo một cặp kính tráng lớp bảo vệ màu vàng dành cho xạ thủ tập bắn và ánh chói lòa trên cửa sổ kính biến mất. Hắn nhận ra bóng những người chuyển động bên trong. Một tên cớm… không, hai tên cớm. Một người đàn ông quay lưng lại phía cửa sổ. Có thể là Người bạn, một nhân chứng khác mà hắn đã được thuê thủ tiêu. Và… đúng rồi! Có cả Người vợ nữa. Thấp bé. Thô kệch. Trông như trẻ con. Cô ta mặc một chiếc áo màu trắng. Một mục tiêu thật ngon ăn.

Cô ta bước khỏi tầm nhìn của hắn.

Stephen cúi xuống và kéo mở khóa ba lô.

Chú thích:

[22]CS: Đội khám nghiệm hiện trường.

[23]PETN: Pentaerythritol tetranitrate, một loại thuốc nổ cực mạnh.

[24]Vùng đất của Lincoln:Chicago, bang Illinoislà nơi lớn lên và trưởng thành của Tổng thống Mỹ thứ 16 Abraham Lincoln.

[25]Pound: Đơn vị đo lường phổ biến ở Anh, Mỹ, tương đương 0,454 kilogam.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4


Chuyển từ giường xuống ngồi vào chiếc xe lăn Storm Arrow[26]. Giờ là lúc Rhyme có thể tự xoay sở, miệng ngậm chặt chiếc ống hút bằng nhựa đóng vai trò như thiết bị điều khiển mút-và-hút, anh lái xe lăn vào chiếc thang máy bé tí–vốn là một cái tủ để đồ cũ được cải tạo lại. Đó là cách đơn giản và nhanh chóng nhất để đưa anh xuống tầng một của ngôi nhà.

Hồi những năm 1890, khi toà nhà mới được xây dựng, căn phòng mà Lyncoln Rhyme đang lăn xe vào lúc này vốn là phòng khách nằm bên ngoài phòng ăn chính. Kết cấu trát thạch cao và ốp gỗ chân tường, những gờ chỉ trần mang phong cách của các cung điện hoàng gia Pháp, những hốc tuờng hình cửa tò vò làm nơi đặt ảnh và tượng, sàn nhà lát gỗ sồi chắc chắn ăn khít với nhau như những tấm thép được hàn lại. Mặc dù vậy, một kiến trúc sư hẳn sẽ phải lấy làm kinh hoàng khi nhận ra rằng Rhyme đã cho phá bỏ bức tường cũ chia đôi hai phòng và đục những lổ rộng hoác trên những búc tường còn lại lấy chỗ luồn dây điện bổ sung. Hai căn phòng thông nhau giờ đây trở thành một khoảng không gian bừa bộn mà trong đó không có những tấm kính mờ của Tiffany hoặc những bức tranh phong cảnh đầy tâm trạng của George Innes mà chất đầy các hiện vật hoàn toàn khác: những ống nghiệm phân tích tỷ trọng vật chất, máy vi tính, kính hiển vi phức hợp, kính hiển vi đối chiếu, một chiếc máy sắc ký/phổ kế khối lượng, một đèn chiếu ánh sáng thay thế chuyên dụng PoliLight, máy in và phóng to vân tay. Chễm chệ trong góc phòng là một chiếc kính hiển vi quét bằng hạt electron đắt tiền gắn kèm với một tổ hợp thiết bị chụp X-quang năng lượng phân tán. Đây cũng là nơi tập trung những dụng cụ và trang thiết bị trần tục nhất cần thiết cho công việc của một nhà hình sự học: kính bảo hộ, găng tay cao su và găng tay chống trầy xước, ống nghiệm, tuốc nơ vít và kìm, thìa cong chuyên dụng dùng trong giám định pháp y, panh kẹp, dao mổ, thanh đè lưỡi, gạc bông, bình lọ, túi nhựa, khay kiểm tra, que thăm dò. Ngoài ra còn hơn một chục đôi đũa ăn bình thường (Rhyme ra lệnh cho các phụ tá của mình phải gắp những mẩu bằng chứng như thể họ đang gắp miếng sủi cảo tại quán ăn Trung Quốc Ming Wa vậy.).

Rhyme điều khiển chiếc xe lăn Storm Arrow chắc chắn, sơn màu đỏ lựng như táo chín, vào vị trí cạnh chiếc bàn làm việc. Thom đeo một chiếc mic lên tai ông chủ của mình và khởi động máy tính.

Một lát sau Sellitto và Banks hiện ra ở ngưỡng cửa, đi cùng họ còn có một người đàn ông khác vừa mới tới nơi. Đó là một tay cao kều, chân tay lòng khòng, da đen bóng như lốp xe. Anh ta mặc một bộ vest màu xanh, bên trong là một chiếc áo sơ mi màu vàng trông thật lố lăng.

“Chào anh, Fred.”

“Lincoln.”

“Xin chào.” Sachs gật đầu với Fred Dellray khi cô bước vào phòng. Cô đã tha thứ cho anh ta tội bắt giữ cô cách đây chưa lâu – sau một vụ lộn xộn trong hiệp đồng giữa các cơ quan an ninh – và giờ đây họ đã có một sự đồng cảm rất lạ lùng, giữa cô cảnh sát xinh đẹp, cao ráo và tay đặc vụ tinh quái, cao lều nghều. Rhyme đã rút ra kết luận dứt khoát rằng, cả hai đều là những cảnh sát con người (trong khi anh tự coi mình là cảnh sát bằng chứng). Dellray tin tưởng vào khoa học hình sự cũng ít như Rhyme tin vào các lời khai của các nhân chứng. Mặc dù vậy, đối với một người từng là sĩ quan tuần tra thiên về hành động như Sachs, Rhyme cũng chẳng thể làm được gì để thay đổi những khuynh hướng bẩm sinh của cô, nhưng anh quyết địng rằng cô cần phải gác lại những phẩm chất đó qua một bên để trở thành nhà hình sự học giỏi nhất New York, nếu không muốn nói là nhất nước Mỹ. Một mục tiêu quá dễ dàng trong khả năng của cô, cho dù chính bản thân cô cũng không ý thức được điều đó.

Dellray rảo bước ngang qua phòng, rồi dừng lại bên khung cửa sổ, hai cánh tay dài ngoằng khoanh lại trước ngực. Không một ai – ngay cả Rhyme – thực sự hiểu được con người của tay đặc vụ. Anh ta sống độc thân trong một căm hộ nhỏ ở khu Brooklyn, thích nghiền ngẫm các tác phẩm văn học và triết học, thậm chí còn thích chơi bi a trong những quán rượu rẻ tiền. Một thời từng là viên kim cương trên vương miện giới đặc vụ ngầm FBI, giờ đây thỉnh thoảng Fred Dellray vẫn được nhắc đến bằng biệt danh quen thuộc khi anh còn đang hoạt động: “Kỳ nhông”. Anh từng là một kẻ nổi loạn, tất cả mọi người đều biết thế, nhưng những người lãnh đạo Dellray trong Cục luôn để anh tự do hành động theo ý mình; Dellray có công lớn trong hơn một nghìn vụ bắt giữ. Nhưng thời gian anh hoạt động ngầm đã quá lâu và bất chấp kỹ năng gần như hoàn hảo trong việc khoác lên mình những vỏ bọc khác nhau, dần dần anh cũng trở nên “nhẵn mặt”, như bất kỳ đặc vụ ngầm nào trong Cục. Sẽ chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi anh bị lộ tẩy và bị thủ tiêu, vì vậy cuối cùng Dellray đành miễn cuỡng chấp nhận một công việc hành chính là chỉ đạo các đặc vụ ngầm khác cùng mạng lưới những CI – cơ sở mật.

“Vậy đấy, các chàng trai của tôi cho biết là chúng ta đang đối mặt với chính tên Vũ công”, viên đặc vụ nói nhấm nhẳng, bằng giọng mũi đặc trưng của dân Mỹ gốc Phi, nghe rất… Dellray. Vốn từ vựng và cú pháp của anh ta, cũng giống như chính cuộc đời của anh ta, đã được biến tấu đi rất nhiều.

“Có tin gì về Tony không?”, Rhyme hỏi.

“Anh chàng bị mất tích ấy à”, Dellray hỏi, mặt anh ta méo xệch đi vì giận dữ. “Không gì sất.”

Tony Panelli, người đặc vụ mất tích ngay trước cửa Toà nhà Liên bang trước đó vài ngày, đã để lại một người vợ ở nhà, một chiếc Ford màu xám động cơ vẫn đang chạy và những hạt cát bí hiểm đến bực mình – những thiên thể cuốn hút hứa hẹn mang đến câu trả lời, vậy mà từ đầu đến giờ mọi chuyện vẫn giậm chân tại chỗ.

“Khi chúng ta tóm được tên Vũ công”, Rhyme nói, “chúng tôi sẽ quay lại vụ kia, Amelia và tôi. Tập trung toàn bộ thời gian. Tôi hứa”.

Dellray cáu kỉnh gõ gõ đầu lọc của một điếu thuốc lá chưa châm kẹp đằng sau vành tai bên trái của mình. “Vũ công… Chó chết. Tốt nhất là lần này phải cho nó tiêu luôn. Chó chết.”

“Thế còn vụ ra tay của hắn thì sao?”, Sachs hỏi. “Vụ nổ đêm qua ấy. Đã có manh mối gì chưa?”

Sellitto đọc lướt qua một tập bản fax và một số trang ghi chép tay của mình. Anh ngẩng lên nhìn mọi người. “Ed Carney cất cánh từ sân bayMamaroneckkhoảng bảy giờ mười lăm phút tối qua. Hudson Air là công ty bay dịch vụ tư nhân. Họ chuyên chở hàng cho các công ty có nhu cầu, như chúng ta biết. Cho thuê máy bay. Họ cũng vừa nhận được một hợp đồng bay mới – nói thế nào nhỉ – vận chuyển các bộ phận cơ thể cần cấy ghép tới các bệnh viện thuộc miền Trung Tây và dải bờ biển miền Đông. Nghe nói ngày nay đây là một ngành kinh doanh phải cạnh tranh rất ghê.”

“Cắt cổ”, Banks nhận xét, và là người duy nhất mỉm cười với câu nói đùa của chính mình.

Sellitto nói tiếp. “Khách hàng là Tập đoàn U.S. Medical. Đặt trụ sở tại Somers. Đây là một trong những hệ thống bệnh viện hoạt động vì lợi nhuận. Carney có một lịch trình bay rất căng. Theo kế hoạch anh ta phải bay tới Chicago, Saint Louis, Memphis, Lexington, Cleverland rồi dừng lại ở Erie, Pennsylvania. Đến sáng nay thì quay về.”

“Có hành khách nào không?”, Rhyme hỏi.

“Hành khách nguyên vẹn thì không” Sellitto càu nhàu. “Chỉ có hàng thôi. Chuyến bay khởi đầu rất suôn sẻ. Thế rồi cách O’Hare khoảng mười phút, một quả bom phát nổ. Làm máy bay tan tành. Cả Carney và người phi công phụ của anh ta đều thiệt mạng. Bốn người dưới mặt đất cũng bị thương. Tiện đây cũng nói luôn là lẽ ra đêm qua vợ anh ta sẽ cùng bay nhưng sau đó cô ta bị ốm và phải hủy kế hoạch bay.”

“Đã có báo cáo của NTSB[27] chưa”, Rhyme hỏi và tự trả lời. “Không, tất nhiên là không. Không thể có được. Chắc là chưa.”

“Chắc phải đến hai ba ngày nữa mới có báo cáo.”

“Hừ, chúng ta không thể đợi hai hoặc ba ngày được!”, Rhyme hét ầm lên. “Tôi cần nó ngay bây giờ!”

Trên cổ anh vẫn còn vết sẹo hồng hồng của ống thông khí quản trước kia. Nhưng Rhyme đã đoạn tuyệt được những lá phổi giả và anh hoàn toàn có thể tự thở như một người bình thường. Lincoln Rhyme là một người tàn tật tứ chi bất toại nhưng vẫn có thể thở dài, ho hắng và quát tháo không khác gì một thủy thủ. “Tôi phải biết tất cả những gì có thể liên quan đến quả bom.”

“Tôi sẽ gọi cho một người bạn ở Windy City[28]”, Dellray lên tiếng. “Hắn còn mắc nợ tôi. Sẽ cho hắn biết chuyện vụ nổ và yêu cầu hắn chuyển ngay cho chúng ta bất kỳ thứ gì có thể.”

Rhyme gật đầu với tay đặc vụ, rồi xem xét lại những gì Sellitto vừa cho anh biết. “Được rồi, vậy là chúng ta có hai hiện trường. Hiện trường vụ nổ ở Chicago. Chỗ đó thì quá muộn cho cô rồi, Sachs. Chắc hẳn là đã bị làm lộn tung lên. Chúng ta đành phải hy vọng là mấy tay ở Chicago làm ăn không đến nỗi cẩu thả quá. Hiện trường còn lại là sân bay Mamaroneck– nơi tên Vũ công cài quả bom lên máy bay.”

“Làm sao chúng ta biết hắn đã làm như vậy ở sân bay?” Sachs hỏi. Cô đang vấn mái tóc đỏ rực của mình lại và buộc thành một búi ở trên đầu. Những sợi tóc nổi bật như thế này có thể gây khó khăn tại các hiện trường vụ án: chúng có nguy cơ làm xáo trộn những bằng chứng nguyên bản. Sachs luôn bắt tay thực hiện nhiệm vụ của mình với vũ khí là một khẩu Glock 9 ly và cả tá những chiếc kẹp ghim cho mái tóc.

“Thông minh lắm, Sachs.” Anh thích thấy cô tỏ ra tinh quái hơn mình. “Chúng ta không biết và chúng ta sẽ không thể biết cho đến khi chúng ta tìm thấy nơi hắn cài quả bom. Có thể nó được cài trong khoang chứa hàng, trong một chiếc túi xách đựng đồ bay, thậm chí là một bình cà phê cũng nên.”

Hoặc có thể là một thùng rác, anh rầu rĩ tự nhủ, và bất giác lại hình dung ra vụ nổ ở phố Wall.

“Tôi muốn có tất cả những mẩu vụn của quả bom đó tại đây càng sớm càng tốt. Chúng ta bắt buộc phải có”, Rhyme nói.

“E hèm, Lincoln”, Sellitto chậm rãi lên tiếng, “máy bay phát nổ khi cách mặt đất hơn một dặm. Những mảnh vụn chết tiệt bắn tung tóe khắp cả một khu vực rộng lớn”.

“Tôi không quan tâm”, Rhyme nói, những cơ bắp ở cổ anh căng cứng, đau nhức. “Họ vẫn đang tìm kiếm đấy chứ?”

Các nhân viên cứu hộ địa phương chịu trách nhiệm rà soát hiện trường những vụ tai nạn nhưng trách nhiệm điều tra thuộc về các cơ quan an ninh liên bang do vậy chính Fred Dellray là người gọi điện cho một đặc vụ FBI đang có mặt tại hiện trường.

“Bảo anh ta là chúng ta cần tất cả những mẩu vụn của vụ nổ có phản ứng dương tính với thuốc nổ. Ý tôi là chỉ cần một nanogam cũng đủ. Tôi muốn tìm quả bom đó.”

Dellray truyền đạt lại mệnh lệnh này. Rồi anh ngước lên và lắc đầu. “Hiện trường đã được giải phóng.”

“Gì cơ?, Rhyme hét lên. “Sau có mười giờ sao? Thật lố bịch. Không thể chấp nhận được.”

“Họ phải cho khai thông các đường phố. Anh ta nói…”

“Xe cứu hoả!”, Rhyme lại hét tướng lên.

“Cái gì?”

“Mọi xe cứu hoả, xe cứu thương, xe cảnh sát... tất cả những phương tiện ứng cứu khẩn cấp sau khi xảy ra vụ nổ. Tôi muốn cho người cạo lốp những chiếc xe này.”

Dellray quay cả khuôn mặt dài và đen bóng của mình lại, chằm chằm nhìn anh. “Anh muốn nhắc lại câu đó chứ? Cho ông bạn cũ tốt bụng của tôi đây?”. viên đặc vụ ấn chiếc điện thoại vào người anh.

Rhyme phớt lờ chiếc điện thoại và nói với Dellray. “Lốp của những chiếc xe cấp cứu, cả cứu hoả lẫn cứu thương, là một trong những nguồn lưu trữ bằng chứng tốt nhất tại tại các hiện trường vụ án bị xáo trộn. Chúng là các phương tiện đầu tiên có mặt tại hiện trường, và cũng thường đuợc trang bị lốp mới tinh với những rãnh ma sát còn sâu, hơn nữa chúng cũng không phải đi lại bất kỳ chỗ nào ngoài chỗ tập trung và hiện trường vụ nổ. Tôi muốn người của các anh cạo toàn bộ lốp xe và gửi các mẫu bằng chứng tới đây.”

Dellray cố lắm mới thuyết phục được đầu mối của mình ở Chicago cam kết sẽ tiến hành cho cạo lốp của số xe cấp cứu trong vụ nổ đêm qua, càng nhiều càng tốt.

“Không phải là càng nhiều càng tốt”, Rhyme quát chen vào. “Tất cả số lốp xe.”

Dellray nhướng mắt lên nhưng rồi cũng truyền đạt thông tin đó và gác máy.

Bất thình lình Rhyme gào ầm lên, “Thom! Thom, cậu đâu rồi?”.

Một lát sau anh chàng trợ lý mẫn cán xuất hiện ở ngưỡng cửa. “Ở phòng giặt đồ chứ còn ở đâu được nữa.”

“Quên chuyện giặt giũ đi. Chúng ta cần có một biểu đồ thời gian. Cậu viết đi, viết đi…”

“Viết gì cơ, Lincoln?”

“Thì viết lên tấm bảng đó, đằng kia kìa. Cái bảng to ấy.” Rhyme quay sang nhìn Sellitto. “Khi nào thì bồi thẩm đoàm được triệu tập?”

“Chín giờ sáng thứ Hai.”

“Công tố viên muốn các nhân chứng có mặt ở đó trước khoảng vài tiếng – sẽ có xe tới đón họ lúc khoảng sáu, bảy giờ sáng”. Anh ngước nhìn đồng hồ treo tường. Bây giờ là mười giờ sáng thứ Bảy.

“Chúng ta có chính xác là bốn mươi lăm tiếng đồng hồ nữa, Thom viết đi, “Giờ thứ 1 của 45”.”

Anh chàng trợ lý lưỡng lự.

“Viết ngay!”

Chàng thanh niên làm theo.

Rhyme liếc nhìn những người còn lại trong phòng. Anh nhận thấy ánh mắt của họ đang thể hiện nỗi băn khoăn, khó hiểu, một cái cau mày hoài nghi trên khuôn mặt Sachs. Bất giác cô đưa tay lên đầu và gãi mạnh.

“Nghĩ là tôi đang nghiêm trọng hóa sự việc sao?”, anh hỏi. “Nghĩ là chúng ta không cần gì để tự nhắc nhở mình sao?”

Thoạt đầu không ai nói năng gì. Cuối cùng Sellitto lên tiếng. “Chậc, Linc à, ý tôi là, từ giờ tới lúc đó chưa chắc đã có chuyện gì đâu.”

“Ồ, có đấy, chắc chắn có chuyện sắp xảy ra”, Rhyme nói, mắt nhìn con chim ưng đực đúng lúc con chim vạm vỡ đang nhẹ nhàng tung mình lên không trung bên trên Công viên Trung tâm. “Đến bảy giờ sáng thưa Hai, hoặc là chúng ta sẽ tóm được tên Vũ công, hoặc là cả hai nhân chứng chúng ta sẽ chết. Không thể có lựa chọn khác đâu.”

Thom lưỡng lự trong giây lát rồi cầm viên phấn lên và bắt đầu viết.

Sự im lặng ngột ngạt trong phòng bị phá vỡ bởi tiếng chuông khe khẽ phát ra từ điện thoại di động của Banks. Anh ta chăm chú nghe khoảng một phút, rồi ngẩng lên. “Có chuyện rồi đây”, anh ta nói.

“Gì vậy?”, Rhyme hỏi.

“Mấy cảnh sát bảo vệ Clay và nhân chứng còn lại, Britton Hale thì phải?”

“Họ làm sao?”

“Họ đang ở nhà cô ta. Một trong những cảnh sát đó vừa gọi tới. Hình như Clay cho biết mấy hôm trước có một chiếc xe thùng màu đen mà cô ta chưa thấy bao giờ đã đậu ở con phố ngay bên ngoài ngôi nhà. Mang biển số của một bang khác thì phải.”

“Cô ấy có nhớ biển số xe hay biết của bang nào không?”

“Không”, Banks trả lời. “Cô ấy cho biết chiếc xe biến mất một lát vào đêm qua, sau khi chồng cô ta rời nhà tới sân bay.”

Sellitto chăm chú nhìn anh ta.

Rhyme cũng căng thẳng ngẩng đầu lên. “Và?”

“Cô ta nói là sáng nay nó lại xuất hiện một lúc. Bây giờ thì lại biến mất rồi. Cô ấy đang…”

“Ôi, lạy Chúa”, Rhyme thì thầm.

“Sao thế?” Banks hỏi.

“Khu Trung tâm!”, nhà hình sự học gào lên. “Cho phong toả khu Trung tâm. Ngay lập tức!”

Một chiếc taxi đỗ xịch ngay trước cửa nhà của Người vợ.

Một bà già bước xuống và lập cập bước về phía cửa.

Stephen đang theo dõi, cảnh giác.

Quân nhân, đây có phải là một phát bắn dễ dàng không?

Thưa ngài, một xạ thủ không bao giờ coi bất kỳ phát súng nào là dễ dàng cả. Mỗi phát súng đều đòi hỏi nỗ lực và khả năng tập trung tối đa. Nhưng, thưa ngài, tôi có thể thực hiện phát súng này và tạo ra những vết thương chí mạng, thưa ngài. Tôi có thể biến những mục tiêu của mình thành cám, thưa ngài.

Bà già bước lên bậc thềm và biến mất vào sảnh trước. Một lát sau Stephen thấy bà ta xuất hiện trong phòng khách của Người vợ. Một bóng vải trắng thoáng lướt qua – vẫn là áo của Người vợ. Hai người ôm choàng lấy nhau. Một bóng người nữa bước vào phòng. Một người đàn ông. Cớm chăng? Người đàn ông quay lại. Không, đó chính là Người bạn.

Cả hai mục tiêu, Stephen phấn khích nghĩ, chỉ cách chỗ hắn chưa đầy 30 thước[29].

Người phụ nữ cao tuổi – mẹ đẻ hoặc mẹ chồng – vẫn đứng phía trước Người vợ khi hai người nói chuyện, hai mái đầu cùng cúi xuống.

Khẩu Model 40 ưa thích của Stephen lại nằm trong thùng xe. Nhưng với khoảng cách này hắn cũng không cần đến khẩu súng trường bắn tỉa, chỉ khẩu Beretta nòng dài là đủ. Đó là một khẩu súng tuyệt cú mèo. Cũ rích, sứt sẹo và thô mộc. Khác với nhiều tên lính đánh thuê hoặc sát thủ chuyên nghiệp khác, Stephen không bao giờ tôn sùng vũ khí của mình đến mù quáng. Nếu như hòn đá là cách hiệu quả nhất để thủ tiêu một nạn nhân nào đó, hắn sẽ dùng hòn đá.

Hắn đánh giá khoảng cách đến mục tiêu, ước lượng góc tới của đường đạn, khả năng khúc xạ ánh sáng và làm biến dạng hình ảnh thật của kính cửa sổ. Người phụ nữ cao tuổi tách ra khỏi Người vợ và đứng ngay trước cửa kính.

Quân nhân, chiến thuật của anh là gì?

Hắn sẽ bắn xuyên qua cửa kính và bắn trúng đầu bà già. Bà ta sẽ ngã gục ngay. Theo bản năng Người vợ sẽ lao tới bên bà già và cúi người xuống, tự biến mình thành một mục tiêu rất ngon ăn. Người bạn sẽ chạy vào trong phòng và cũng sẽ phơi mình ra trước nòng súng.

Thế còn lũ cớm thì sao?

Kể ra cũng hơi liều lĩnh. Nhưng mấy tên cớm mặc sắc phục tuần tra thường bắn rất tệ và thậm chí có khi chúng còn chưa bao giờ phải nổ súng thực sự trong suốt cả sự nghiệp của mình. Chắc chắn chúng sẽ hoảng sợ.

Sảnh trước của ngôi nhà vẫn trống trơn.

Stephen gạt cần búa của khẩu súng về phía sau để lên đạn và cho phép hắn kiểm soát tay cò chặt chẽ hơn khi chuyển sang sử dụng chế độ bắn từng phát một. Hắn đẩy khẽ cho cánh cửa mở hé ra, thò một bàn chân vào chặn nó lại, quan sát trước và sau con phố.

Không có ai.

Hít sâu vào, quân nhân. Hít, thở. Hít, thở.

Hắn hạ thấp khẩu súng xuống lòng bàn tay, báng súng tì hẳn vào bàn tay đi găng. Hắn bắt đầu nhẹ nhàng gia tăng áp lực lên cò súng.

Hít, thở. Hít, thở.

Hắn căng mắt nhìn người phụ nữ cao tuổi và hoàn toàn quên bẵng việc kéo cò, quên cả việc ngắm bắn, quên cả khoản tiền mà hắn kiếm được trong vụ này, quên đi tất cả mọi sự trên đời. Hắn chỉ cần giữ khẩu súng vững vàng như một hòn đá trên bàn tay thả lỏng và mềm dẻo của mình, chờ đến khi khẩu súng tự phát hỏa.

Chú thích:

[26]Storm Arrow: Mũi tên bão táp.

[27]NTSB (viết tắt của National Transportation Safety Board) : Ủy Ban An Toàn Giao Thông Quốc Gia (Mỹ).

[28]Thành phố Gió : Tên gọi khác của Chcago.

[29]Yard: Đơn vị đo độ dài ở Anh, Mỹ, tương đương 0,914 mét.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5


Bà cụ lau nước mắt. Người vợ đứng phía sau, hai tay khoanh trước ngực.

Chúng chết rồi, chúng…

Quân nhân!

Đột nhiên Stephen cứng đờ người. Ngón tay trên cò súng bỗng buông lỏng.

Ánh đèn!

Những ánh đèn lia loang loáng, lặng lẽ lia dọc con phố. Những ánh đèn gắn trên nóc một chiếc xe tuần tra của cảnh sát. Rồi thêm hai chiếc xe nữa, và rồi cả tá, một chiếc xe cấp cứu lao phăm phăm qua những ổ gà trên đường. Tất cả ập vào quanh ngôi nhà của Người vợ từ cả hai đầu con phố.

Cài chốt an toàn súng đi, quân nhân.

Stephen hạ súng xuống, khẽ lùi vào trong gian tiền sảnh lờ mờ tối.

Cảnh sát từ trong những chiếc xe ùa ra như nước chảy. Họ tản ra dọc theo vỉa hè, ánh mắt lia khắp nơi và trên các mái nhà gần đó. Họ đạp tung những cánh cửa dẫn vào ngôi nhà của Người vợ, đập kính vỡ tan tành và lao vào trong.

Năm nhân viên thuộc ESU[30], nai nịt và vũ trang đầy đủ, triển khai dọc lề đường, phong toả rất gọn ghẽ tất cả những vị trí cần phong toả, những ánh mắt tinh tường mở to đầy cảnh giá, những ngón tay co lại đặt sẵn trên cò những khẩu tiểu liên đen sì. Cảnh sát tuần tra thực ra cũng chỉ là cảnh sát giao thông không hơn không kém, nhưng không thể có lực lượng nào thiện chiến hơn ESU của New York. Người vợ và Người bạn đã biến mất, có lẽ là bị đẩy nằm bẹp xuống sàn nhà. Cả bà già cũng vậy.

Lại thêm cơ man nào là xe ập đến, vây kín đường phố, phong tỏa các vỉa hè xung quanh.

Stephen Kall bắt đầu cảm thấy rùng mình. Nhớp nháp. Mồ hôi rịn ra ở hai lòng bàn tay và hắn phải nắm chặt hai bàn tay lại để vắt hơi ướt ra khỏi găng tay.

Rút lui ngay, quân nhân…

Hắn dùng một chiếc tuốc nơ vít để cạy tung ổ khoá trên cửa chính và lách người vào trong, hắn rảo bước thật nhanh nhưng không hề chạy, đầu cúi thấp, hướng thẳng về lối cửa lách dành cho người giúp việc dẫn ra con hẻm. Không một ai trông thấy hắn và hắn lẻn ra ngoài. Chỉ một lát sau hắn đã ở trên Đại lộ Lexington, rảo bước theo hướng nam xuyên qua đám đông về phía ga ra ngầm, nơi hắn đã để chiếc xe thùng.

Nhìn thẳng về phía trước.

Thưa ngài, lại có vấn đề rồi, thưa ngài.

Ngày càng đông cảnh sát.

Họ đã phong toả Đại lộ Lexington từ cách đó ba toà nhà về phía nam và đang thiết lập một vòng vây xung quanh ngôi nhà của Người vợ, chặn các xe lại, theo dõi những khách bộ hành trên đường phố, lục soát từ cửa nhà này sang nhà khác, chốc chốc lại rọi những chiếc đèn pin dài ngoằng của mình vào dãy xe đậu hai bên đường. Stephen nhìn thấy hai cảnh sát, tay họ lăm lăm đặt sẵn trên báng những khẩu Glock, yêu cầu một người đàn ông bước ra khỏi xe trong khi họ kiểm tra bên dưới một đống chăn trên băng ghế sau. Điều khiến Stephen thấy chột dạ là người đàn ông đó là một người da trắng và cũng trạc tuổi hắn.

Toà nhà nơi hắn đã đậu chiếc xe lại nằm ngay trong vòng vây lục soát của cảnh sát. Hắn không thể lái xe ra ngoài mà không bị chặn lại. Hàng rào cảnh sát mỗi lúc một khép lại gần hơn. Hắn bước nhanh quay lại ga ra và kéo mở cánh cửa chiếc xe thùng. Hắn vội vàng thay quần áo – cởi bỏ vẻ ngoài của một nhà thầu xây dựng, quần jean màu xanh, giày bảo hộ (không có những dấu vết khiến hắn lộ tẩy), một chiếc áo phông màu đen, một chiếc áo gió màu xanh thẫm (không có bất kỳ chữ in nào) và một chiếc mũ lưỡi trai bóng chày (không có biểu tượng của đội nào). Chiếc ba lô màu đen đựng laptop của hắn, mấy cái điện thoại di động, những khẩu súng ngắn mà đạn bổ sung được lấy từ thùng xe ra. Hắn có thêm đạn, cặp ống nhòm, ống kính nhìn đêm, dụng cụ, mấy gói thuốc nổ, và vô số kíp nổ khác nhau. Stephen cho tất cả vào chiếc ba lô lớn.

Khẩu Model 40 được để trong một chiếc hộp đàn guitar bass hiệu Fender. Hắn nhấc hộp đàn ra khỏi thùng xe và đặt nó cùng chiếc ba lô xuống sàn ga ra. Hắn cân nhắc xem phải làm gì với chiếc xe. Stephen chưa hề động chạm vào bất kỳ bộ phận nào trên xe mà không đi găng tay nên trong xe sẽ không có gì có thể làm lộ danh tánh của hắn. Bản thân chiếc Dodge này cũng là xe ăn trộm và hắn đã tháo bỏ tất cả những biển số cũ của chiếc xe. Tự tay hắn đã làm những biển số giả thay thế. Hắn cũng đã tính đến chuyện sớm muộn cũng vứt bỏ chiếc xe và có thể làm nốt phi vụ mà không cần tới nó. Hắn quyết định bây giờ là lúc phải bỏ nó lại. Hắn trùm lên chiếc Dodge vuông chằn chặn một tấm vải bạt che xe màu xanh hiệu Wolf, rồi chọc mũi dao găm vào lốp xe khiến chúng xì hơi và xẹp xuống, làm ai nhìn qua cũng tưởng chiếc xe đã nằm đây từ vài tháng nay. Hắn rời ga ra bằng thang máy đi lên tòa nhà.

Ra đến ngoài, hắn lại lẻn vào giữa đám đông. Nhưng lúc này chỗ nào cũng có cảnh sát. Da hắn bắt đầu sởn gai ốc. Hắn cảm thấy nhớp nháp, giòi bọ. Hắn bước lại một cột điện thoại công cộng và làm ra vẻ đang gọi điện, đầu hắn cúi xuống bảng kim loại của cột điện thoại, cảm thấy mồ hôi đang túa ra trên trán, bên dưới cánh tay. Suy nghĩ. Chúng ở khắp mọi nơi. Tìm kiếm hắn, chòng chọc nhìn thẳng vào hắn. Từ những chiếc xe. Từ đường phố.

Từnhững khung cửa sổ…

Ký ức lại ùa về…

Khuôn mặt trên khung cửa sổ.

Hắn cố hít một hơi thật sâu.

Khuôn mặt trên khung cửa sổ…

Chuyện đó cũng vừa xảy ra gần đây. Stephen được thuê thực hiện một phi vụ tại Washington D.C. Công việc là thủ tiêu một trợ lý nghị sĩ Quốc hội chuyên bán những thông tin mật liên quan đến vũ khí trang thiết bị quân sự cho – theo Stephen đoán – một đối thủ cạnh tranh của kẻ đã thuê Stephen. Điều dễ hiểu là tay trợ lý cũng rất đề phòng và thận trọng, thậm chí anh ta còn có một ngôi nhà an toàn ở Alexandria, Virginia. Stephen đã biết vị trí ngôi nhà và cuối cùng hắn còn mò đến sát tận nơi, đủ gần cho một phát súng ngắn – mặc dù đó là phát súng đòi hỏi phải đặc biệt thận trọng.

Một cơ hội, một phát súng…

Stephen đã phải chờ suốt bốn tiếng đồng hồ, cho tới khi nạn nhân tới nơi và lao vọt về phía ngôi nhà của anh ta, Stephen đã kịp bắn đúng một phát duy nhất. Hắn tin là mình đã bắn trúng mục tiêu nhưng nạn nhân đã đổ ngã vào một khoảnh sân năm ngoài tầm nhìn của hắn.

Nghe tôi nói đây, cậu nhóc. Cậu vẫn nghe đấy chứ?

Thưa ngài, có ạ.

Cậu phải lần theo tất cả các mục tiêu bị thương và làm nốt công việc. Cậu phải lần theo vết máu và quay lại cho dù nó có dẫn xuống địa ngục chăng nữa, cậu phải làm.

Nhưng…

Không nhưng gì hết. Cậu phải khẳng định chắc chắn con mồi đã chết. Cậu hiểu tôi chứ? Không có lựa chọn khác đâu.

Rõ, thưa ngài.

Và rồi Stephen đã trèo qua bức tường gạch vào khoảng sân nhà tay trợ lý. Hắn tìm thấy xác tay trợ lý nằm sõng soài trên nền đá hộc, bên cạnh một vòi phun nước hình đầu dê. Hóa ra đó đúng là một phát súng chí mạng.

Nhưng điều gì đó quái đản đã xảy ra. Điều gì đó chợt khiến hắn chợt rùng mình mà trên đời này không có nhiều thứ từng khiến hắn rùng mình. Có thể đó chỉ là tình cờ, do cách tay trợ lý gục xuống hoặc do cách viên đạn xuyên trúng anh ta. Nhưng hắn có cảm giác ai đó đã thận trọng rút vạt áo sơ mi của nạn nhân và vén nó lên để nhìn vết thương nhỏ xíu do viên đạn xuyên vào ngay phía trên xương ức.

Stephen quay ngoắt người, nhìn quanh xem kẻ nào đã làm việc đó. Nhưng, không, xung quanh không có một bóng người.

Hoặc ít ra lúc đầu hắn cũng đã tưởng vậy.

Rồi Stephen vô tình ngước lên nhìn qua bên kia sân. Có một ngôi nhà ngang cũ, những khung cửa sổ nhọ nhem và bẩn thỉu, mặt kính lấp loáng phản chiếu ánh hoàng hôn sắp tắt. Trong một khung cửa sổ như vậy, hắn đã nhìn thấy – hoặc cứ tưởng hắn đã nhìn thấy – một khuôn mặt đang chăm chú theo dõi mình. Hắn không nhìn rõ mặt người đàn ông – hoặc người phụ nữ. Nhưng dù có là ai chăng nữa thì người đó cũng không hề tỏ ra sợ hãi chút nào. Thậm chí kẻ đó còn không hề hụp đầu xuống hoặc tìm cách bỏ chạy.

Một nhân chứng, anh đã để sổng một nhân chứng, quân nhân!

Thưa ngài, tôi sẽ triệt tiêu khả năng bị nhận diện ngay lập tức, thưa ngài.

Nhưng khi đạp tung cánh cửa của ngôi nhà ngang, hắn thấy nó hoàn toàn trống trơn.

Di tản ngay, quân nhân…

Khuôn mặt trên khung cửa sổ…

Lần đó Stephen đã đứng trong ngôi nhà ngang trống trơn trông thẳng ra khoảng sân nằm trong khuôn viên ngôi nhà của người trợ lý Quốc hội, ánh mặt trời từ phía tây rọi vào những khung kính sáng rực rỡ. Và hắn cứ đứng tại chỗ mà quay vòng, chậm rãi, như một người quẫn trí.

Kẻ đó là ai? Hắn làm gì trong này? Hay đó chỉ là sự hoang tưởng của Stephen? Giống như cha dượng hắn vẫn nhìn thấy những tay súng bắn tỉa nằm náu mình trong những tổ chim ưng treo vắt vẻo trên ngọn những cây sồi ở West Virginia.

Khuôn mặt trên khung cửa sổ đã nhìn chằm chằm Stephen giống hệt như cha dượng hắn nhiều lúc vẫn nhìn hắn, săm soi, dò xét hắn. Stephen còn nhớ rõ hồi đó thằng nhóc là hắn đã nghĩ: Mình vừa phạm lỗi à? Mình có làm tốt không? Ông ấyđang nghĩ gì về mình nhỉ?

Cuối cùng hắn không thể chờ đợi thêm được nữa và quyết định quay trở lại khách sạn của mình ở Washington.

Stephen đã từng bị bắn, bị đánh và bị đâm bầm dập. Nhưng chưa có gì từng khiến hắn rúng động khủng khiếp như chuyện xảy ra ở Alexandria. Không một lần nào hắn bận tâm tới khuôn mặt của các nạn nhân, dù còn sống hay đã chết. Nhưng khuôn mặt trên khung cửa sổ đó giống như một con giòi đang bò lên chân hắn.

Nhớp nhúa…

Đó chính xác là cảm giác của hắn lúc này, khi nhìn thấy từng hàng cảnh sát đang tiến gần về phía mình từ cả hai hướng trên Đại lộ Lexington. Còi xe rú lên inh ỏi, cánh lái xe đang tức giận. Nhưng cảnh sát không hề bận tâm; họ vẫn tiếp tục quy trình lục soát dai dẳng của mình. Chỉ vài phút nữa thôi là họ sẽ để ý đến hắn – một người đàn ông da trắng vạm vỡ, khoác trên lưng một hộp đàn guitar có thể là nơi cất giấu lý tưởng cho khẩu súng trường bắn tỉa hoàn hảo nhất mà Chúa Trời tạo ra trên Trái Đất này.

Mắt hắn lướt qua những khung cửa sổ tối đen, cáu bẩn trông ra đường phố.

Hắn thầm cầu nguyện sẽ không nhìn thấy một khuôn mặt đang chằm chằm nhìn ra ngoài.

Quân nhân, anh đang nói cái quái gì vậy?

Thưa ngài, tôi…

Thám thính đi, quân nhân.

Rõ, thưa ngài.

Một mùi đăng đắng, cháy khét thoảng bay tới mũi hắn.

Hắn quay người lại và nhận ra hắn đang đướng bên ngoài một quán cà phê Starbucks. Hắn bước vào và trong khi làm như thể đang đọc quyển menu thì kỳ thực hắn đang chăm chú quan sát khách hàng trong quán.

Có một người phụ nữ to béo ngồi một mình tại bàn của cô ta với những chiếc ghế bé tí, vướng víu. Cô ả đang đọc một tờ tạp chí, tay mân mê cốc trà miệng cao. Trông cô ả trạc ba mươi tuổi, béo ục ịch, với một khuôn mặt to bè bè và cái mũi thô kệch. Starbucks, hắn bắt đầu liên tưởng mông lung…Seattle[31]… chẳng lẽ lại là dân lesbian?

Nhưng không, hắn không nghĩ vậy. Cô ả đang mải mê xem tờ Vogue[32] trên tay với ánh mắt ghen tỵ, chứ không có chút gì là thèm khát.

Stephen mua một cốc trà thảo dược thiên nhiên. Hắn xách hộp đàn lên và bắt đầu bước về phía một chiếc bàn gần cửa sổ. Stephen đang bước qua bàn của người phụ nũ thì chiếc cốc bỗng tuột ra khỏi tay hắn và rơi xuống cái ghế ngay trước mặt cô ta, nước trà nóng trong cốc đổ tràn khắp sàn nhà. Cô ả giật bắn mình, nhảy lùi lại và ngẩng lên nhìn vẻ khiếp đảm hiện rõ trên khuôn mặt Stephen.

“Ôi, lạy Chúa tôi”, hắn thì thào, “tôi vô cùng xin lỗi”. Hắn với tay chụp vội một nắm khăn giấy. “Hy vọng là tôi không làm đổ trà lên người cô đấy chứ.Xin lỗi!”

Percey Clay giằng ra khỏi người thám tử trẻ tuổi vừa giữ cô nằm bẹp xuống sàn nhà.

Bà Joan Carney, mẹ của Ed, nằm cách đó vài feet, khuôn mặt như chết đờ vì choáng váng và bàng hoàng.

Brit Hale đứng dựa sát vào tường, vây kín quanh anh là hai cảnh sát là hai cảnh sát lực lưỡng. Trông chẳng khác gì họ đang bắt giữ anh vậy.

“Tôi xin lỗi, thưa bà Clay”, một viên cảnh sát nói. “Chúng tôi…”

“Chuyện gì đang xảy ra vậy?” Hale không giấu nổi vẻ hoang mang. Khác với Ed và Ron Talbot, và ngay cả với chính Percey, Hale chưa từng phục vụ trong quân đội, chưa bao giờ phải đối mặt với những tình huống giao tranh. Anh thuộc mẫu người không biết sợ là gì – lúc nào anh cũng mặc áo dài tay thay cho chiếc sơ mi trắng ngắn tay truyền thống của phi công để che đi những vết sẹo bỏng nhằng nhịt trên hai cánh tay có từ sau lần anh trèo vào một chiếc Cessna 150 đang bốc cháy rừng rực để cứu một phi công và một hành khách mắc kẹt. Nhưng khái niệm tội ác – hành động cố tình gây tổn thương cho người khác – đối với anh lại hoàn toàn xa lạ.

“Chúng tôi vừa nhận được cuộc gọi từ nhóm điều tra hỗn hợp”, viên thám tử giải thích. “Họ cho rằng kẻ giết ông Carney đã quay lại. Có lẽ là hắn bám theo cả hai người. Ông Rhyme nghĩ tên sát thủ chính là kẻ đã lái chiếc xe thùng màu đen mà bà nhìn thấy hôm nay.”

“Hừ, đã có những người kia bảo vệ chúng tôi rồi còn gì?”, Percey cáu kỉnh hất đầu về phía những cảnh sát đã tới từ trước.

“Lạy Chúa”, Hale thốt lên khi nhìn ra bên ngoài. “Ngoài kia chắc phải có đến hai mươi cảnh sát.”

“Xin ông tránh xa cửa sổ ngay lập tức”, viên thám tử ra lệnh một cách dứt khoát. “Hắn có thể đang phục trên một mái nhà nào đó. Khu vực này chưa được bảo đảm an toàn.”

Percey nghe thấy tiếng những bước chân chạy lên cầu thang. “Mái nhà ư?” Cô hỏi với một giọng cay độc. “Có khi hắn đang đào đường hầm dưới móng nhà cũng nên.” Cô quàng tay quanh bà Carney. “Mẹ không sao chứ?”

“Chuyện đang xảy ra là vậy, tất cả chuyện này là thế nào?”

“Họ nghĩ rằng có thể mọi người ở đây đang gặp nguy hiểm”, viên cảnh sát nói. “Không phải bà, thưa bà”, anh ta giải thích thêm với mẹ của Ed. “Mà là bà Clay và ông Hale đây. Bởi vì họ là nhân chứng trong vụ án kia. Chúng tôi được lệnh phong tỏa khu vực quanh đây và đưa hai người tới sở chỉ huy.”

“Họ đã nói chuyện với hắn chưa?”, Hale hỏi.

“Không biết ông định nói đến ai, thưa ông?”

Chú thích:

[30]ESU (viết tắt của Emergency Services Unit) : Đơn vị phản ứng nhanh.

[31]Starbucks là một hệ thống quán cà phê và đồ giải khát nổi tiếng thế giới, có trụ sở tại thành phố Seattle, bang Washington (Mỹ). Thành phố này cũng là nơi thành lập cộng đồng của lesbian – những người đồng tính nữ đầu tiên của nước Mỹ cũng như trên thế giới vào năm 1971.

[32]Một tạp chí nổi tiếng về thời trang.

Người phi công cao gầy trả lời, “Thì kẻ mà chúng tôi đang làm chứngchống lạichứ còn ai nữa, tay Hansen ấy” Thế giới của Hale là thế giới của khoa học logic. Của những con người suy nghĩ theo lẽ thông thường. Của máy móc, những con số và thủy lực học. Cả ba cuộc hôn nhân của anh đều thất bại bởi vì nơi duy nhất anh dồn cả con tim của mình vào là khoa học hàng không và lý lẽ không thể bác bỏ được của buồng lái. Còn lúc này anh hất những lọn tóc lòa xòa trước trán và nói, “Cứ thẩm vấn hắn đi. Hắn sẽ cho các anh biết tên sát thủ là ai. Chính hắn đã thuê tên kia mà”.

“À, ừm, tôi không nghĩ là mọi chuyện có thể dễ dàng như vậy được.”

Một sĩ quan cảnh sát khác xuất hiện ở ngưỡng cửa. “Đường phố đã an toàn, thưa ngài.

“Xin vui lòng đi cùng chúng tôi. Cả hai người.”

“Thế còn mẹ của Ed thì sao?”

“Bà có sống trong khu vực này không ạ?”, viên cảnh sát hỏi.

“Không, tôi đang sống cùng em gái tôi”, bà Carney trả lời “Trong khu Saddle River.”

“Chúng tôi sẽ cho xe đưa bà về đó, rồi bố trí một cảnh sát vũ trang của bang New Jersey bảo vệ bên ngoài ngôi nhà. Bà không dính dáng đến vụ này nên tôi dám chắc là không có chuyện gì phải lo lắng cả.”

“Ôi, Percey.”

Hai người phụ nữ ôm chặt lấy nhau. “Mọi chuyện sẽ ổn thôi, mẹ ạ.” Percey cố gắng lắm mới ngăn được những giọt nước mắt chỉ chực trào ra.

“Không, không đâu”, bà cụ thút thít. “Sẽ không bao giờ yên ổn nữa…”

Một viên cảnh sát dẫn bà mẹ ra chiếc xe tuần tra của mình.

Percey đứng nhìn cho đến khi chiếc xe khuất hẳn, rồi quay sang hỏi viên cảnh sát đứng bên cạnh, “Bây giờ chúng ta sẽ đi đâu?”

“Đến gặp Lincoln Rhyme.”

Một viên cảnh sát khác nói, “Chúng ta sẽ bước ra cùng một lúc, mỗi bên sẽ có một cảnh sát bảo vệ các vị. Nhớ cúi thấp đầu xuống và không được ngẩng mặt lên trong bất kỳ tình huống nào. Chúng ta sẽ bước thật nhanh tới chiếc xe thùng thứ hai kia. Các vị thấy rồi chứ? Sau đó hai người nhảy ngay vào trong. Đừng nhìn ra ngoài cửa sổ và nhớ thắt dây an toàn. Chúng ta sẽ lái thật nhanh. Có câu hỏi gì nữa không?”.

Percey vặn mở chiếc chai bẹt và hớp một ngụm whiskey. “Có đấy, Lincoln Rhyme là thằng cha quái nào vậy?”

“Cô may cái đó? Tự tay cô làm thật sao?”

“Tôi làm đấy”, người phụ nữ nói, tay vuốt ve lại chiếc áo gi lê thêu may bằng vải jean, cũng giống như chiếc váy xếp nếp mà cô ta đang mặc, hơi rộng một chút, được tính toán rất cẩn thận nhằm che bớt đi thân hình bồ tượng của mình. Những vết khâu làm hắn nhớ đến những vòng ngấn xung quanh thân một con giòi. Hắn rùng mình, chợt thấy buồn nôn.

Nhưng hắn chỉ mỉm cười và nói, “Ấn tượng thật”. Hắn đã thấm sạch chỗ trà đổ và xin lỗi một cách ngọt ngào như một quý ông lịch lãm mà thỉnh thoảng cha dượng hắn đã thể hiện.

Hắn hỏi cô ta có thấy phiền không nếu hắn ngồi cùng bàn với cô ta.

“À, vâng… không có gì”, cô ta nói và giấu vội tờ Vogue vào chiếc túi vải của mình như thể đó là một tạp chí khiêu dâm.

“Ồ, mà nhân tiên cũng xin tự giới thiệu”, Stephen nói “tôi là Sam Levine”. Mắt cô ả thoáng long lanh khi nghe đến cái họ mà Stephen bịa ra và tin ngay vào cái vẻ bề ngoài đậm chất Aryan của hắn. “Chậc, mọi người vẫn gọi tôi là Sammie”, hắn nói thêm. “Đối với mẹ tôi thì tôi là Samuel nhưng chỉ sau khi tôi đã gây ra chuyện không hay gì đó.” Một tiếng cười khúc khích.

“Tôi sẽ gọi là bạn”, cô ả nói dứt khoát. “Tôi là Sheila Horowitz.”

Hắn liếc nhìn ra phía cửa sổ để tránh phải bắt bàn tay ẩm ướt của cô ta, với năm con giòi béo trắng nhởn.

“Rất vui được gặp cô”, hắn quay mặt lại và nói, bắt đầu nhấm nháp cốc trà mới mà hắn thấy thật tởm lợm. Sheila chợt nhận ra hai móng tay múp míp của cô ta đầy cáu bẩn. Cô ả vội vàng kín đáo cạy lớp ghét bên trong chúng ra.

“Thư thái lắm”, cô ta giải thích. “Tôi nói việc may vá ấy. Tôi có một chiếc máy khâu Singer cũ. Một cái màu đen kiểu cổ ấy. Từ đời bà ngoại tôi để lại.” Cô ả cố vuốt thẳng mớ tóc ngắn ngủn và bóng nhẫy của mình, chắc chắn đang ước ao giá như hôm nay là cái ngày cô ta kịp gội đầu.

“Tôi không biết có cô gái nào còn muốn may vá nữa”, Stephen nói. “Cô bạn gái mà tôi hẹn hò ở trường đại học cũng làm thế. Tự may lấy hầu hết quần áo của cô ấy. Hồi đó tôi thấy thật ấn tượng.”

“À vâng, ở New York này hình như không còn ai, ý tôi là không một ai, may vá gì nữa.” Cô ta cười khẩy một cách khinh thị.

“Hồi xưa mẹ tôi cũng suốt ngày may vá, hết giờ này đến giờ khác”, Stephen nói. “Tất cả các đường kim mũi chỉ đều phải hoàn hảo. Ý tôi là hoàn hảo thực sự. Cứ ba mươi giây mới khâu được một inch.” Điều này là thật. “Tôi vẫn còn giữ một ít quần áo mà bà may. Nghe thật ngớ ngẩn, nhưng tôi giữ chúng lại vì mẹ tôi đã may chúng.” Điều này thì không.

Stephen vẫn còn nghe tiếng chiếc máy khâu Singer chạy xành xạch rồi dừng lại vẳng ra từ căn phòng chật chội và nóng nực của mẹ hắn. Suốt ngày suốt đêm. Chăm lo từng đường kim mũi chỉ. Ba mươi giây một inch. Tại sao chứ? Bởi vì điều đó rất quan trọng!Này thì cái thước này, này thì cái thắt lưng da này, này thì con c…

“Hầu hết cánh đàn ông” – cái cách cô ta nhấn mạnh từ “đàn ông” nói lên rất nhiều điều về cuộc sống của Sheila Horowitz – “chẳng thèm quan tâm tới việc may vá. Họ chỉ thích những cô gái biết chơi thể thao hoặc rành về phim ảnh”. Cô ta vội nói thêm. “Ý tôi là tôi cũng biết những thứ đó chứ. Tôi vẫn trượt tuyết mà. Nhưng có lẽ tôi không giỏi bằng anh được. Và tôi cũng thích đi xem phim. Một số bộ phim.”

Stephen nói, “Ồ thật ra tôi không biết trượt tuyết. Tôi cũng không thích thể thao lắm”. Hắn nhìn ra bên ngoài và thấy cớm có mặt ở khắp mọi nơi. Sục sạo trong từng chiếc xe. Một đám giòi xanh lè.

Thưa ngài, tôi không hiểu tại sao chúng lại tiến hành đợt càn quét này, thưa ngài.

Quân nhân, nhiệm vụ của anh không phải là hiểu. Nhiệm vụ của anh là xâm nhập, đánh giá, đánh lạc hướng, cô lập và tiêu diệt. Đó là nhiệm vụ duy nhất của anh.

“Xin lỗi”, hắn hỏi lại, không để ý đến điều cô vừa nói.

“Tôi đang nói là, ồ, đừng an ủi tôi thế. Ý tôi là chắc tôi phải tập luyện, có lẽ là nhiều tháng mới có được thân hình như anh. Tôi đang định tham gia Câu lạc bộ Quần vợt và Sức khỏe. Thực ra tôi đã có kế hoạch tham gia từ lâu. Chỉ có điều tôi gặp trục trặc với cái lưng của mình. Nhưng thực sự, thực sự là kiểu gì tôi cũng sẽ tham gia.”

Stephen bật cười vui vẻ. “Ôi trời, tôi ngán đến tận cổ – chậc, chậc, tất cả những cô nàng ẽo uột ngày nay. Cô biết đấy! Tất cả đều gầy gò, nhợt nhạt. Cứ thử lấy một cô nàng gầy giơ xương mà cô thấy trên ti vi rồi đưa cô ta quay lại thời của Vua Arthur[33] mà xem, thế nào họ cũng cho triệu quan thái y đến để rồi ông ta sẽ cuống quýt tâu, “Cô ta sắp chết rồi, thưa bệ hạ”.”

Ánh mắt Sheila sáng bừng lên, rồi cô ả phá lên cười ngặt nghẽo, để lộ hàm răng thật thảm hại. Câu chuyện đùa cho cô ả một cái cớ để đặt tay lên tay hắn. Stephen cảm thấy năn con giòi đang ngoe ngẩy trên da hắn và cố chống chọi với cảm giác buồn nôn. “Bố tôi”, cô ta nói, “ông ấy từng là một sĩ quan quân đội chuyên nghiệp, đi rất nhiều nơi. Ông kể cho tôi nghe là ở những nước khác người ta cho rằng con gái Mỹ quá gầy gò”.

“Ông ấy là một quân nhân sao?”, Sam Sammie Samuel Levine hỏi với một nụ cười.

“Lúc về hưu ông ấy là đại tá.”

“Chà…”

Quá sức chịu đựng sao? Hắn tự hỏi. Không. Hắn nói, “Tôi cũng đang ở trong quân ngũ. Trung sĩ. Lục quân”.

“Không phải đấy chứ! Anh đóng quân ở đâu?”

“Tác chiến Đặc biệt. Ở New Jersey.” Cô ả sẽ có đủ hiểu biết để không hỏi thêm bất kỳ điều gì liên quan đến hoạt động Tác chiến Đặc biệt. “Tôi rất mừng khi biết trong gia đình cô cũng có một quân nhân. Nhiều khi tôi không muốn nói cho mọi người biết tôi làm gì. Chẳng có gì hay ho cả. Đặc biệt là ở nơi này. Ý tôi là New York ấy.”

“Ôi, anh bận tâm tới chuyện đó làm gì. Tôi nghĩ đó là một nghề rấthayđấy chứ, anh bạn.” Cô ả hất đầu về phía chiếc hộp đàn Fender. “Anh còn là một nhạc công nữa sao?”

“Cũng không hẳn. Tôi làm việc tình nguyện tại một trung tâm chăm sóc cộng đồng. Dạy nhạc cho bọn trẻ. Nằm trong hoạt động chung của đơn vị.”

Ngoảnh nhìn ra ngoài. Những ánh đèn hiệu loang loáng. Xanh trắng. Một chiếc xe tuần tra của cảnh sát vừa vụt qua.

Cô ả nhích chiếc ghế của mình lại gần hơn và hắn nhận thấy một mùi thật tởm lợm. Hắn lại cảm thấy sởn gai ốc và trong đầu bất giác tưởng tượng ra hình ảnh những con giòi bò lổm ngổm trong mớ tóc nhởn nhơ của cô ta. Suýt nữa thì hắn nôn thốc nôn tháo. Hắn xin lỗi đứng dậy và vào nhà vệ sinh kỳ cọ hai bàn tay mấy phút liền. Khi quay lại hắn nhận ra hai chi tiết: chiếc cúc áo trên cùng của cô ta đã được mở ra và vạt sau chiếc áo len của cô ta dính khoảng một nghìn sợi lông mèo. Lũ mèo, đối với Stephen, cũng chỉ là những con giòi bốn chân.

Hắn nhìn ra ngoài và trông thấy những hàng cảnh sát đang tiến lại gần hơn. Stephen liếc nhìn đồng hồ và nói, “Có lẽ tôi phải qua lấy lại con mèo. Nó đang ở chỗ bác sĩ thú y…”

“Ôi, anh cũng nuôi một con mèo sao? Tên nó là gì?” Cô ả tì hẳn người về phía trước.

“Buddy.”

Mắt cô ta sáng bừng lên. “Ôi, cái tên nghe mới dễ thương làm sao. Anh có ảnh không?”

Của một con mèo chết tiệt ư?

“Tôi không mang theo”, Stephen nói, và tặc lưỡi ra vẻ tiếc nuối.

“Anh bạn Buddy tội nghiệp bị ốm à?”

“Chỉ là kiểm tra bình thường thôi.”

“Ôi, thế thì tốt quá. Phải cẩn thận với lũ sán[34].”

“Sao lại thế?”, hắn hỏi, chợt thấy chột dạ.

“Anh biết đấy, ví dụ như sán tim ở mèo chẳng hạn.”

“Ồ, vâng”.

“À, ừm, nếu anh quả là người tốt, anh bạn ạ”, Sheila nói, lại là cái giọng ưỡn ẹo điệu đàng đó, “có lẽ tôi sẽ giới thiệu anh với Garfield, Andrea và Essie. Vâng, đúng ra tên thật phải là Esmeralda nhưng nó chưa bao giờ chấp nhận cái tên đó, tất nhiên rồi”.

“Nghe mới đáng yêu làm sao”, hắn nói, mắt chăm chú nhìn những bức ảnh mà Sheila vừa lấy trong ví ra. “Tôi rất muốn gặp chúng.”

“Anh biết đấy”, cô ả buột miệng. “Tôi sống cách đây có ba khối phố. Trên phố Tám mươi mốt.”

“À, tôi có ý này.” Hắn làm ra vẻ phấn chấn. “Có lẽ tôi sẽ gửi chỗ cô món đồ này rồi tiện thể thăm những cục cưng của cô luôn. Sau đó cô có thể giúp tôi cùng đi đón Buddy.”

“Được thôi”, Sheila nói.

“Chúng ta đi nào.”

Ra đến ngoài, cô ta thốt lên. “Ôi trời, nhìn xem bao nhiêu là cảnh sát kìa. Có chuyện gì thế nhỉ?”

“Chậc, không biết.” Stephen khoác chiếc ba lô lên vai. Có tiếng kim loại gì đó kêu loảng xoảng. Có lẽ một quả lựu đạn va phải khẩu Beretta của hắn.

“Cái gì trong đó vậy?”

“Toàn nhạc cụ ấy mà. Cho bọn trẻ.”

“Ồ, kiểu như phách ba góc ấy à?”

“Đúng rồi, kiểu như phách ba góc.”

“Anh muốn tôi cầm hộ chiếc guitar không?”

“Có phiền cô không?”

“Ồ không, tôi nghĩ sẽ ổn mà.”

Cô ả cầm chiếc hộp đàn Fender và ngoắc cánh tay mình vào tay hắn. Cả hai cùng rảo bước qua một đống cảnh sát, những kẻ mù không để ý gì đến cặp tình nhân, rồi đi thẳng đến cuối phố, cười đùa vui vẻ và nói chuyện về lũ mèo điên rồ.

Chú thích:

[33]Vị vua anh minh và dũng cảm trong những truyền thuyết của nước Anh thời Trung cổ.

[34]Trong tiếng Anh, “worm” là từ dùng chung để chỉ “giòi”, “sán” hay “sâu”. Stephan bị ám ảnh bởi lũ giòi nên khi nghe Sheila nói “worm” theo nghĩa “sán”, hắn mới thấy chột dạ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6


Thom hiện ra trên ngưỡng cửa phòng của Lincoln Rhyme và ra hiệu cho ai đó bước vào.

Một người đàn ông dong dỏng, tóc cắt cua, khoảng năm mươi tuổi. Đại úy Bo Haumann, chỉ huy ESU của NYPD – tức đội SWAT[35] của cảnh sát. Tóc hoa râm, khuôn mặt gân guốc, Haumann trông vẫn giống hệt một trung sĩ huấn luyện – cương vị mà anh ta từng đảm nhiệm khi còn trong quân đội. Anh ta nói năng chậm rãi và thấu đáo, và mỗi khi nói chuyện, bao giờ cũng nhìn xoáy vào mắt bạn với một nụ cười thoảng qua trên môi. Trong các đợt thực thi nhiệm vụ chiến thuật anh ta thường mặt áo giáp chống đạn, trùm mặt nạ Nomex và cũng luôn là một trong những sĩ quan đầu tiên lao mình qua cửa trong tình huống có chướng ngại vật.

“Thực sự là hắn sao?”, viên sĩ quan, “Tên Vũ công ấy?”

“Chúng ta mới nghe nói vậy”, Sellitto nói.

Một cái khẽ chép miệng phát ra từ người cảnh sát kỳ cựu tóc hoa râm này chẳng khác gì một tiếng thở dài thườn thượt từ người khác. Rồi anh ta lên tiếng, “Tôi có hai đội 32-E luôn sẵn sàng”.

Những sĩ quan 32-E, được đặt biệt danh như vậy theo số căn phòng điều hành tác chiến của họ tại tòa nhà Police Plaza, là một bí mật được nhiều người biết đến. Tên chính thức của họ là Sĩ quan Tình huống Đặc biệt thuộc ESU. Các thành viên của lực lượng này, cả nam lẫn nữ, hầu hết từng tham gia quân đội và kinh qua các nhiệm vụ trinh sát và do thám đầy khắc nghiệt, chưa kể nhiệm vụ chính là đột kích, bắn tỉa và giải cứu con tin. Thành viên của lực lượng này cũng không có nhiều. Mặc dù thành phố mang tiếng là có tỷ lệ tội phạm cao, trên thực tế ở New York lại có tương đối ít các hoạt động chiến thuật và các chuyên gia đàm phán con tin của thành phố – được đánh giá là những chuyên gia cừ nhất nước Mỹ – thường dùng biện pháp đàm phán kéo dài thời gian trước khi buộc phải huy động lực lượng đột kích. Hai đội mà Haumann cam kết huy động để truy lùng tên Vũ công, với khoảng mười người, coi như đã chiếm hầu hết lực lượng 32-E.

Lát sau một người đàn ông gầy gò và bắt đầu hói đeo cặp kính cực kỳ lỗi mốt bước vào phòng. Mel Cooper là chuyên viên khoa học hình sự giỏi nhất của IRD[36] mà Rhyme từng lãnh đạo. Mel Cooper chưa bao giờ trực tiếp kiểm tra một hiện trường vụ án, chưa từng bắt giữ một tên hung thủ và có lẽ cũng đã quên cả cách sử dụng khẩu súng ngắn bé tí mà anh miễn cưỡng đeo phía sau chiếc thắt lưng da cũ kỹ của mình. Cooper hoàn toàn không ham hố đến bất kỳ nơi nào trên thế giới ngoài việc ngồi lỳ trên chiếc ghế trong phòng thí nghiệm, căng mắt nhìn vào ống kính hiển vi và phân tích những dấu vân tay rời rạc (vâng, đúng ra là anh chỉ thích ở trong phòng thí nghiệm và trên sàn khiêu vũ cổ điển, nơi anh cũng là một vũ công tango từng giật giải).

“Thám tử”, Cooper lên tiếng, vẫn sử dụng cái chức vụ mà Rhyme từng nắm giữ khi anh kéo Cooper từ Sở Cảnh sát Albany về làm cho mình cách đây vài năm, “cứ đinh ninh tôi sắp phải phân tích các mẫu cát. Nhưng giờ thì nghe nói đó là tên Vũ công”. Có một nơi duy nhất mà thông tin lan truyền nhanh hơn cả trên đường phố, Rhyme nghĩ thầm, đó chính là bên trong NYPD. “Lần này chúng ta sẽ tóm được hắn, Lincoln. Chúng ta sẽ tóm được hắn”.

Trong lúc Banks thông báo qua tình hình cho những người mới đến Rhyme vô tình ngẩng đầu lên. Anh nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở ngưỡng cửa phòng thí nghiệm. Cặp mắt đen quét qua căn phòng như muốn thâu tóm tất cả. Không cảnh giác. Không căng thẳng.

“Bà Clay phải không?”, anh hỏi.

Cô gật đầu. Một người đàn ông cao gầy xuất hiện trên ngưỡng cửa bên cạnh cô. Chắc là Britton Hale, Rhyme thầm đoán.

“Xin mời vào”, nhà hình sự học nói.

Cô bước hẳn vào giữa căn phòng, liếc nhìn Rhyme rồi lại nhìn dãy thiết bị khoa học hình sự chất cao như một bức tường gần Mel Cooper.

“Percey”, cô nói. “Cứ gọi tôi là Percey. Anh là Lincoln Rhyme?”

“Đúng vậy. Tôi rất tiếc về chuyện của chồng cô.”

Cô gật đầu một cách dứt khoát, có vẻ khó chịu với sự thông cảm đó.

Cũng giống tôi, Rhyme nghĩ thầm.

Anh hỏi người đàn ông đứng cạnh Percey. “Còn đây là ông Hale?”

Viên phi công cao lều nghều gật đầu và bước lên phía trước để bắt tay, rồi chợt nhận ra hai cánh tay của Rhyme đang được cột chặt vào thành chiếc xe lăn. “Ôi”, anh khẽ làu bàu rồi đỏ bừng mặt. Anh bước lùi lại.

Rhyme giới thiệu họ với những thành viên còn lại trong nhóm điều tra, tất cả mọi người, trừ Amelia Sachs vì, theo yêu cầu của Rhyme, cô đang thay bộ sắc phục cảnh sát của mình ra và khoác lên người chiếc quần jean cùng cái áo len ngắn tay đang treo trong tủ quần áo của Rhyme ở tầng trên. Anh đã giải thích với cô rằng tên Vũ công thường giết hoặc làm bị thương cảnh sát như một trò tiêu khiển chết người; anh muốn cô trông càng dân sự càng tốt.

Percey rút một cái chai bẹt trong túi áo khoác của cô, một cái màu bạc và nhấp một ngụm nhỏ. Cô ta uống thứ rượu đó – Rhyme ngửi rõ mùi whiskey đắt tiền – như thể nó là thuốc vậy.

Bị chính cơ thể mình phản bội, Rhyme hiếm khi để ý đến những đặc điểm thể chất của người khác, trừ hung thủ và các nạn nhân. Nhưng thật khó mà bỏ qua Percey Clay. Có lẽ cô chỉ cao hơn năm feet một chút. Mặc dù vậy ở cô vẫn toát lên một sức hút thật dữ dội. Đôi mắt đen nhánh như màn đêm của cô làm say đắm lòng người. Chỉ khi nào đủ sức dứt ra khỏi sức quyến rũ của đôi mắt đó bạn mới để ý đến khuôn mặt cô, một khuôn mặt rất không đẹp – ngắn, bè bè, trông như con trai. Cô có mái tóc đen xoăn tít bù xù, đã vậy còn được cắt rất ngắn, mặc dù Rhyme nghĩ rằng những bím tóc dài có lẽ sẽ làm mềm mại hơn những đường nét góc cạnh trên khuôn mặt cô. Ở cô không hề thấy những hành động phòng thủ vô thức thường có ở một số người hạn chế về chiều cao như: hai tay chống nạnh, tay khoanh trước ngực, những ngón tay thường trực che trước miệng. Rhyme nhận ra rằng cô hầu như không có những động tác thừa, cũng giống anh.

Một ý nghĩ bất ngờ chợt hiện trong đầu anh: Trông cô chẳng khác nào một cô nàng Gypsy[37].

Anh nhận ra cô cũng đang chăm chú đánh giá mình. Và kể ra phản ứng của cô cũng thật đáng tò mò. Bình thường khi nhìn thấy anh lần đầu tiên, hầu hết mọi người đều cố rặn ra một nụ cười ngớ ngẩn trên mặt, rồi đỏ mặt tía tai, bắt ép mình phải dán mắt trừng trừng vào trán của Rhyme, sao cho mắt họ không vô tình đi lạc xuống phần cơ thể tàn phế của anh. Nhưng Percey thì nhìn một lần vào mặt anh – khuôn mặt đẹp trai với cặp môi thanh tú và cái mũi của Tom Cruise, một khuôn mặt trẻ hơn nhiều so với cái tuổi ngoài bốn mươi của chủ nó – rồi lại nhìn một lần vào đôi chân, hai cánh tay và phần thân trên bất động của anh. Nhưng sự chú ý của cô tập trung ngay vào mớ thiết bị lằng ngoằng – chiếc xe lăn Storm Arrow bóng loáng, ống điều khiển mút-và-hút, bộ giá đỡ đầu, chiếc máy tính.

Thom bước vào phòng và lại gần Rhyme để bắt đầu đo huyết áp cho anh.

“Không phải bây giờ”, ông chủ của anh nói.

“Đúng là bây giờ đấy.”

“Không.”

“Yên lặng nào”, Thom nói và cứ thế tiến hành việc đo huyết áp. Anh rút ống nghe ra. “Không tệ lắm. Nhưng anh mệt rồi và quá bận rộn trong thời gian vừa qua. Anh cần nghỉ ngơi một chút.”

“Biến đi”, Rhyme gầm gừ. Anh quay lại với Percey Clay. Bởi vì anh là một người tàn tật, một người tứ chi bất toại, bởi vì anh chỉ còn là một mẩu nhỏ của một con người bình thường, nên những vị khách mới đến dường như đều nghĩ rằng anh không thể hiểu nổi những gì họ nói; họ thường nói rất chậm rãi hoặc thậm chí còn nói với anh thông qua Thom. Lúc này Percey đang nói trực tiếp với Rhyme và giành được từ anh rất nhiều thiện cảm khi cô làm như vậy. “Anh nghĩ chúng tôi đang gặp nguy hiểm sao, Brit và tôi ấy?”

“Ồ vâng, nguy hiểm thực sự."

Sachs bước vào phòng rồi liếc nhìn Percey và quay lại nhìn Rhyme.

Anh giới thiệu hai người với nhau.

“Amelia?”, Percey hỏi. “Tên cô là Amelia?”

Sachs gật đầu.

Một nụ cười thoáng hiện trên khuôn mặt Percey. Cô hơi quay người và chia sẻ nó với Rhyme.

“Tôi không được đặt tên theo bà ấy đâu – cái bà phi công ấy”, Sachs chợt nhớ ra và nói. Rhyme cũng nhớ ra rằng Percey là một phi công. “Tôi mang tên một trong những chị em gái của ông nội tôi. Amelia Earhart[38] là thần tượng của chị sao?”

“Không”, Percey nói. “Cũng không hẳn. Chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên thôi.”

Hale nói, “Các anh sẽ có người bảo vệ cho cô ấy chứ, đúng không? 24/24?”. Anh gật đầu về phía Percey.

“Chắc chắn rồi, anh yên tâm”, Dellray nói.

“Được rồi”, Hale nói. “Tốt lắm… Còn điều này nữa. Tôi nghĩ là các anh thực sự cần phải nói chuyện với thằng cha đó. Phillip Hansen.”

“Nói chuyện ư?”, Rhyme tỏ vẻ hoài nghi.

“Với Hansen ấy à?”, Sellitto hỏi. “Chắc chắn rồi. Nhưng hắn đang chối phăng tất cả và nhất định không chịu nói thêm bất kỳ lời nào.” Anh ta quay sang nhìn Rhyme. “Đã cho cặp Sinh đôi quần hắn một thời gian.” Rồi quay lại với Hale. “Họ là những chuyên gia thẩm vấn giỏi nhất của chúng tôi. Vậy mà hắn cứ trơ trơ. Chưa ăn thua gì cả.”

“Các anh không thể đe dọa hắn… hay gì đó được à?”

“Hừm, không”, viên thám tử nói. “Tôi không nghĩ thế.”

“Không sao”, Rhyme nói tiếp. “Đằng nào thì Hansen cũng chẳng có gì mà nói cho chúng ta biết cả. Tên Vũ công không bao giờ nhìn tận mặt thân chủ của mình và hắn cũng không bao giờ cho họ biết hắn sẽ thực hiện công việc như thế nào.”

“Tên Vũ công?”, Percey hỏi.

“Đó là biệt hiệu mà chúng tôi dùng để gọi tên sát thủ. Tên Vũ công Quan tài.”

“Vũ công Quan tài?”, Percey thoáng cười ruồi, như thể cái tên này có ý nghĩa gì đó đối với cô. Nhưng cô cũng không giải thích gì thêm.

“Hừ, nghe đáng sợ gớm nhỉ”, Hale nói với vẻ ngờ vực, cứ như thể cảnh sát không nên đặt ra những cái biệt danh kỳ quái cho những tên tội phạm của họ. Rhyme thầm nghĩ có lẽ anh ta đúng.

Percey nhìn thẳng vào đôi mắt của Rhyme, cũng đen gần như mắt cô. “Thế có chuyện gì xảy ra với anh vậy? Anh bị bắn à?”

Sachs – và cả Hale nữa – đều giật mình khi nghe những lời thẳng thừng không một chút ý tứ đó nhưng Rhyme không hề thấy phiền. Anh vẫn có cảm tình với những người giống mình – tức là những người không bận tâm đến cái trò tế nhị vô tích sự. Anh điềm đạm trả lời cô, “Tôi đang kiểm tra hiện trường vụ án tại một công trường xây dựng. Một thanh rầm rơi xuống. Tôi bị gãy cổ”.

“Giống tay diễn viên kia. Christopher Reeve[39] ấy”.

“Đúng rồi.”

Hale nói, “Đúng là khó khăn. Nhưng quả thật ông ấy mới dũng cảm làm sao. Tôi đã thấy ông ấy qua ti vi. Tôi nghĩ nếu ở vào cương vị của ông ấy chắc tôi sẽ tự tử mất”.

Rhyme liếc nhìn Sachs, cô cũng nhận ra ánh mắt của anh. Anh quay lại nhìn Percey. “Chúng tôi cần sự giúp đỡ của cô. Chúng tôi phải tìm ra cách hắn đã gài quả bom lên máy bay. Cô có ý gì không?”

“Không”, Percey nói rồi nhìn Hale, anh này cũng lắc đầu.

“Vậy cô có thấy bất kỳ ai lạ mặt lảng vảng gần máy bay trước khi chuyến bay khởi hành không?”

“Đêm qua tôi bị ốm”, Percey nói. “Tôi thậm chí còn không đến sân bay.”

Hale nói, “Còn tôi thì về miền quê, câu cá. Hôm qua tôi được nghỉ. Mãi tận tối tôi mới về nhà.”

“Chính xác thì chiếc máy bay được để ở đâu trước khi cất cánh?”

“Ở trong hangar của chúng tôi. Chúng tôi đang cho tiến hành sửa sang lại để phục vụ cho hợp đồng bay mới. Chúng tôi phải cho tháo ghế ra, lắp những giá để hàng đặc biệt có cả nguồn pin công suất cao. Phục vụ các thiết bị làm lạnh mà. Anh biết mặt hàng mà chúng tôi chuyên chở rồi, đúng không?”.

“Nội tạng”, Rhyme nói. “Các cơ quan nội tạng của người. Công ty cô có dùng chung cái hangar đó với công ty khác không?”

“Không, đó là hangar riêng của chúng tôi. Vâng, thật ra là chúng tôi thuê nó.”

“Việc ra vào trong đó có khó khăn không?”, Sellitto hỏi.

“Bình thường nếu không có ai thì được khóa kín nhưng trong mấy ngày vừa rồi chúng tôi có những kíp thợ thay nhau làm việc 24/24 để bố trí lại chiếc Lear.”

“Các vị biết rõ những kíp thợ đó chứ?”, Sellitto hỏi.

“Họ cũng như người nhà cả thôi”, Hale nói với vẻ đề phòng.

Sellitto nhướng mắt nhìn Banks. Rhyme đoán viên thám tử đang nghĩ rằng người nhà bao giờ cũng là đối tượng tình nghi số một trong các vụ giết người.

“Dù sao chúng tôi củng phải ghi lại tên tuổi những người đó, nếu các vị không phiền. Phải kiểm tra toàn bộ.”

“Sally Anne, người quản lý văn phòng của công ty, bà ấy sẽ cho các anh một danh sách.”

“Công ty sẽ phải cho niêm phong hangar”, Rhyme nói. “Cấm không một ai được ra vào.”

Percey lắc đầu dứt khoát. “Chúng tôi không thể…”

“Niêm phong đi”, anh nhắc lại. “Không một ai được ra vào. Không… một… ai”.

“Nhưng…”

Rhyme nói dứt khoát, “Chúng ta phải làm thế”.

“Oa”, Percey nói, “cứ biết vậy đã”. Cô nhìn Hale. “Foxtrot Bravo?”

Anh nhún vai. “Ron nói ít nhất cũng phải mất thêm một ngày nữa.”

Percey thở dài. “Chiếc Learjet mà Ed bay đêm qua là chiếc duy nhất đã được sửa sang lại cho hợp đồng mới. Theo lịch trình thì đêm mai chúng tôi sẽ có một chuyến bay nữa. Chúng tôi sẽ phải làm việc liên tục để chuẩn bị sẵn sàng chiếc máy bay còn lại cho chuyến bay đêm mai. Chúng tôi không thể đóng cửa hangar được.”

Rhyme nói, “Tôi rất tiếc. Nhưng không còn lựa chọn nào khác”.

Mắt Percey long lên, “Hừ, tôi không biết anh là ai mà lại có quyền bắt tôi phải chọn lựa…”.

“Tôi là kẻ đang tìm cách cứu mạng cô đấy”, Rhyme gằn giọng.

“Tôi không thể chấp nhận đánh mất hợp đồng này được.”

“Khoan đã, thưa cô”, Dellray nói. “Cô không hiểu tên khốn kiếp này đâu…”

“Hắn đã giết chồng tôi”, cô trả lời bằng một giọng đanh lại. “Tôi hiểu hắn quá rõ là khác. Nhưng tôi sẽ không để hắn đe dọa đến mức đánh mất công việc này đâu.”

Bất giác Sachs đưa hai tay lên chống nạnh. “Này, đừng có quá quắt thế. Nếu như có ai đó có thể cứu mạng cho chị thì đó chính là Lincoln Rhyme. Tôi không nghĩ chúng tôi cần có người làm mình làm mẩy ở đây đâu”.

Giọng nói của Rhyme vang lên xen vào cuộc cãi vã. Anh hỏi một cách bình tĩnh, “Cô có thể cho chúng tôi một giờ cho việc kiểm tra không?”.

“Một giờ ư?”, Percey vừa hỏi vừa suy nghĩ thật nhanh.

Sachs cười phá lên và hướng đôi mắt ngỡ ngàng vào sếp của mình. Cô hỏi, “Kiểm tra một cái hangar trong vòng một giờ sao? Thôi đi, Rhyme”. Vẻ mặt cô như muốn nói: Tôi đang bảo vệ anh đây này, vậy mà anh có thể nói như thế sao? Rốt cuộc thì anh đứng về bên nào đây?

Một số nhà hình sự học thường phân công các đội tiến hành kiểm tra hiện trường vụ án. Nhưng Rhyme luôn khăng khăng bắt Amelia Sachs phải kiểm tra một mình, đúng như anh vẫn làm trước kia. Một chuyên gia kiểm tra hiện trường vụ án hoạt động độc lập có khả năng tập trung mà bình thường sẽ không thể có được khi làm chung với những người khác. Một tiếng đồng hồ quả thật là quãng thời gian quá ngắn ngủi cho một người tiến hành kiểm tra hiện trường quá rộng như chiếc hangar. Rhyme biết điều đó nhưng anh không trả lời Sachs. Anh vẫn chăm chú nhìn Percey. Cô nói, “Một giờ ư? Được rồi. Ngần đó thì tôi có thể chấp nhận được.”

“Rhyme”, Sachs phản đối, “tôi sẽ cần nhiều thời gian hơn thế”.

“À, nhưng cô là người xuất sắc nhất mà, Amelia”, anh trêu cô. Điều đó có nghĩa là quyết định đã được đưa ra.

“Ở đó có ai có thể giúp đỡ chúng tôi không?”, Rhyme hỏi Percey.

“Ron Talbot. Anh ấy là cổ đông chính trong công ty và là giám đốc điều hành của chúng tôi.”

Sachs nguệch ngoạc ghi lại cái tên đó trong cuốn sổ của cô. “Tôi nên đi ngay bây giờ chứ?”, cô hỏi.

“Không”, Rhyme trả lời, “tôi muốn cô chờ đến khi chúng ta có kết quả về quả bom trong chuyến bay tới Chicago. Tôi cần cô giúp tôi phân tích nó”.

“Tôi chỉ có một tiếng đồng hồ”, cô gắt gỏng. “Anh nhớ chứ?”.

“Cô sẽ phải đợi.” Anh càu nhàu, rồi quay sang hỏi Fred Dellray, “Thế còn ngôi nhà an toàn thì sao?”.

“Ồ, chúng tôi có một chỗ chắc chắn quý vị sẽ thích”, viên đặc vụ nói với Percey. “Trong khu Manhattan. Những đồng đô la đóng thuế của quý vị được sử dụng triệt để đâu vào đấy. Chẹp, chẹp. Cảnh sát Tư pháp Hoa Kỳ chỉ sử dụng nó cho những chương trình bảo vệ nhân chứng quan trọng nhất. Vấn đề duy nhất là, chúng ta cần có ai đó ở NYPD cho công việc giữ trẻ. Ai đó biết và đánh giá đúng mức tên Vũ công.”

Và đúng lúc đó Jerry Banks ngước lên, và tự hỏi tại sao tất cả mọi người đều đang chằm chằm nhìn mình. “Gì cơ?”.Anh chàng hỏi “Gì cơ?” và lúng túng cố gắng một cách vô ích vuốt cho mảng tóc bò liếm ương bướng của mình xẹp xuống.

Stephen Kall, kẻ chuyên nói bằng ngôn ngữ của quân nhân, kẻ sử dụng những loại vũ khí quân dụng, thực tế chưa bao giờ là một quân nhân.

Tuy nhiên lúc này hắn đang nói với Sheila Horowitz, “Tôi tự hào vì con đường binh nghiệp của mình. Và đó là sự thật”.

“Một số người không…”

“Không”, hắn ngắt lời cô ta, “một số người không biết tôn trọng những ai lựa chọn con đường đó. Nhưng đấy là vấn đề của họ”.

“Đấy là vấn đề của họ”, Sheila phụ họa.

“Chỗ của cô đẹp thật”. Hắn nói và nhìn quanh căn hộ tồi tàn, dán đầy những phiếu mua hàng giảm giá của hệ thống cửa hàng giá rẻ Conran.

“Cám ơn anh, anh bạn. E hèm, anh có thích, muốn chút gì đó để uống không? Ối trời, tôi lại sử dụng cái giới từ đó hơi lộn rồi thì phải. Mẹ tôi lúc nào cũng bắt bẻ tôi ghê lắm. Tại xem ti vi nhiều quá. Lúc nào cũng phải nói thế này, thế này, thế kia. Nói ra thật phát ngượng.”

Cô ả đang lải nhải cái quái gì thế nhỉ?

“Cô sống ở đây một mình à?”, hắn hỏi với nụ cười giả lả đầy vẻ tò mò.

“Vâng, chỉ có tôi với bộ ba năng động kia thôi. Tôi không biết tại sao chúng lại trốn biệt như thế. Mấy con quỷ nhỏ ngốc nghếch kia.” Sheila hồi hộp mân mê đường viền chiếc áo gi lê của mình. Và vì hắn chưa trả lời nên cô ta lại hỏi, “Thế nào? Chút gì đó để uống chứ?”.

“Nhất định rồi?”

Hắn nhìn thấy đúng một chai vang duy nhất, bụi bám thành mảng, nằm lăn lóc trên nóc tủ lạnh của cô ta. Chắc để dành cho một dịp đặc biệt. Liệu có phải dịp này không nhỉ?

Hình như là không phải. Cô ta bật một lon soda Dr. Pepper dành cho người ăn kiêng.

Hắn bước lại gần cửa sổ và nhìn ra ngoài. Không còn thấy bóng dáng cảnh sát trên con phố này. Và chỉ cách đây có nửa khối phố là một ga tàu điện ngầm. Căn hộ nằm trên tầng hai và mặc dù cô ta có gắn thêm lưới sắt trên những khung cửa sổ phía sau, chúng đều không có khóa. Nếu nguy cấp hắn có thể trèo xuống theo đường cầu thang cứu hỏa và biến mất vào Đại lộ Lexington, một nơi vốn lúc nào cũng đông đúc…

Cô ta cũng có cả máy tính để bàn và điện thoại. Tốt.

Hắn liếc nhìn một tờ lịch treo tường – hình ảnh những thiên thần. Có một số ký hiệu đánh dấu nhắc việc, nhưng cho cuối tuần này thì trống trơn.

“Sheila này, không biết cô…”, nói đến đây hắn bỗng ngừng lại và lắc đầu, rồi im lặng.

“Vâng, chuyện gì cơ?”

“À không, chỉ là… tôi biết hỏi thế này thật ngớ ngẩn. Ý tôi là kể cũng hơi đường đột và này nọ. Tôi chỉ đang tự hỏi không biết cô có kế hoạch gì cho mấy ngày sắp tới không.”

Bắt đầu có vẻ thận trọng rồi. “Ồ, tôi, à ừ, tôi đang định về thăm mẹ”.

Stephen nhăn mặt tỏ vẻ thất vọng. “Tệ thật. Chẳng là, tôi có một ngôi nhà ở Cape May…”

“Bên bờ biển Jersey!”

“Đúng rồi. Tôi chuẩn bị tới đó…”

“Sau khi anh đón Buddy về?”

Buddy là thằng chó chết nào nhỉ?

À, con mèo. “Vâng. Nếu cô không bận chuyện gì, tôi cứ nghĩ chắc cô sẽ muốn ghé qua chơi.”

“Anh có…?”

“Mẹ tôi cũng sẽ tới đó, cùng với một số bà bạn.”

“Hừm, trời ơi, tôi cũng không biết nữa.”

“Vậy tại sao cô không gọi điện cho mẹ mình và bảo bà ấy rằng bà ấy sẽ phải sống mấy ngày cuối tuần này không có cô nhỉ?”

“À, ừ… thực ra tôi cũng không nhất thiết phải gọi điện. Nếu tôi không đến, chắc cũng không có chuyện gì to tát đâu. Vì thật ra, cũng chưa chắc, có thể tôi sẽ về, có thể không”.

Vậy là cô ta nói dối. Một cuối tuần trống trơn. Trong vài ngày tới sẽ không có ma nào để ý tới sự biến mất của cô ta.

Một con mèo nhảy lên bên cạnh hắn, dụi mặt nó vào người hắn. Hắn hình dung ra cảnh hàng nghìn con giòi đang lổm ngổm bò khắp cơ thể mình. Hắn hình dung ra lũ giòi đang quằn quại trong mái tóc của Sheila. Những ngón tay giòi bọ của cô ta. Stephen bắt đàu thấy căm thù người phụ nữ. Hắn chỉ muốn hét toáng lên.

“Ôi, nói xin chào với người bạn mới của chúng ta đi, Andrea. Nó thích anh đấy, Sam.”

Hắn đứng dậy và nhìn quanh căn hộ. Suy nghĩ:

Hãy nhớ lấy, chàng trai, bất kỳ thứ gì cũng có thể giết.

Một số thứ giết nhanh và một số thứ giết chậm. Nhưng bất kỳ thứ gì cũng có thể giết.

“Này”, hắn hỏi, “cô có cuộn băng dính gói đồ nào không nhỉ?”

“À, để…?” Cô ta bối rối không hiểu. “Để…?”

“Để cho mấy thứ nhạc cụ trong ba lô của tôi ấy mà. Tôi cần băng dính để buộc chặt mấy cái trống lại với nhau”.

“Ồ, có chứ, tôi có một ít trong này.” Cô ta bước vào gian sảnh giữa. “Giáng sinh nào tôi cũng gửi những gói quà cho các dì của mình. Bao giờ tôi cũng mua một cuộn băng dính mới. Tôi không bao giờ nhớ được là trước đó tôi đã mua rồi thành thử cuối cùng tôi có cả tấn băng dính trong nhà. Chẳng biết tôi có ngốc nghếch không?”

Hắn không trả lời vì hắn còn bận nghiên cứu gian bếp và quyết định rằng đó là khu vực tiêu diệt tốt nhất trong căn hộ.

“Của anh đây.” Cô ta tung cho hắn cuộn băng dính một cách tinh nghịch. Theo bản năng hắn giơ tay bắt lấy. Hắn bực mình vì chưa có lúc nào thuận tiện để đeo găng tay. Hắn biết đã để lại dấu vân tay trên cuộn băng dính. Người hắn run lên vì giận dữ và khi hắn nhìn thấy Sheila cười toe toét cười nói, “Ê, bắt tốt đấy, anh bạn”, thì thực sự trước mắt hắn lúc này chỉ còn là một con giòi khổng lồ đang tiến lại gần hơn, gần hơn nữa. Hắn đặt cuộn băng dính xuống và xỏ găng tay vào.

“Găng tay ư? Anh lạnh à? Nói đi, anh bạn, anh đang…?”

Hắn phớt lờ cô ả và mở cánh cửa tủ lạnh, bắt đầu lôi thức ăn trong đó ra ngoài.

Cô ta bước thêm bước nữa vào trong phòng. Nụ cười ngớ ngẩn của cô ta bắt đầu biến mất. “À ừm, anh đói à?”

Hắn bắt đầu lôi những ngăn giá để đồ ra.

Một cái nhìn lướt qua giữa hai người và bất thình lình, từ sâu trong cổ họng cô ta, bật ra một tiếng ré khản đặc, “Eeeeeeee”.

Stephen chộp được con giòi béo đúng lúc cô ta mới chạy được nửa đường và ra đến cửa trước.

Nhanh hay chậm đây?

Hắn lôi cô ta vào trong bếp. Về phía chiếc tủ lạnh.

Chú thích:

[35]SWAT (viết tắt của Special Weapons anhd Tactics): Đội Chiến thuật và Vũ khí Đặc biệt.

[36]IRD (viết tắt của Investigation and Resources Division): Bộ phận Điều tra và Nguồn lực thuộc NYPD.

[37]Gypsy là từ dùng để chỉ chung những người sống lang thang, du mục tại nhiều nơi trên thế giới, nhất là tại châu Âu và Bắc Mỹ, và chuyên làm nghề nhạc công, xem bói… Họ được coi là những người có cá tính phóng khoáng, nổi loạn.

[38]Amelia Earhart (1897-1937): Nữ phi công Mỹ, nổi tiếng với những chuyến bay một mình vượt Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, cùng nỗ lực bay vòng quanh thế giới nhưng không thành công.

[39]Christopher Reeve (1952-2004): Diễn viên điện ảnh người Mỹ, nổi tiếng với loạt phim Superman (Siêu nhân)trong giai đoạn 1978-1987. Ông bị tai nạn năm 1995, liệt toàn thân và phải ngồi xe lăn cho đến khi qua đời.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7


Không bao giờ hai mà không ba.

Percey Clay, người có bằng ưu về chuyên ngành cơ khí, kết cấu khung máy bay và động cơ, sở hữu tất cả các loại chứng chỉ mà FAA có thể trao cho một phi công, không có thời gian cho sự mê tín.

Vậy mà suốt thời gian ngồi trên chiếc xe thùng bọc thép xuyên qua Công viên Trung tâm trên đường tới ngôi nhà an toàn của cơ quan an ninh liên bang ở khu trung Manhattan, cô cứ nghĩ mãi về câu cửa miệng mà những người lữ hành mê tín vẫn lầm rầm nhắc đến như một lời thần chú nghiệt ngã. Không bao giờ hai mà không ba.

Nhất là với những bi kịch.

Đầu tiên là Ed. Giờ là nỗi thống khổ thứ hai: những gì cô đang nghe qua điện thoại di động từ Ron Talbot, ông ta đang ở văn phòng của mình tại Hudson Air.

Cô ngồi kẹp cứng giữa Brit Hale và tay thám tử trẻ, Jerry Banks. Đầu gối gục xuống. Hale chăm chú nhìn cô, còn Banks cảnh giác nhìn qua ngoài cửa sổ, quan sát người xe qua lại và cả những gốc cây.

“Tập đoàn U.S. Medical đã đồng ý cho chúng ta thêm cơ một cơ hội nữa.” Hơi thở của Talbot nghe phì phò thật đáng sợ. Là một trong những phi công cừ khôi nhất mà Percey từng biết, nhưng từ nhiều năm nay Talbot không hề lái chiếc máy bay nào – phải “xuống đất” vì trình trạng sức khỏe tồi tệ của mình. Percey coi đó là một sự trừng phạt bất công khủng khiếp cho những tội lỗi liên quan đến rượu, thuốc lá và thức ăn của ông ta (chủ yếu là vì cô cũng chia sẻ những tội lỗi đó). “Ý tôi là họ hoàn toàn có thể hủy bỏ hợp đồng. Bom không được xếp vào yếu tố bất khả kháng. Họ không coi đó là lý do để chúng ta trì hoãn việc giao hàng.”

“Nhưng họ vẫn cho phép chúng ta thực hiện chuyến bay vào ngày mai.”

Một thoáng im lặng.

“Đúng vậy. Họ đồng ý.”

“Thôi nào, Ron”, cô gắt lên. “Giữa hai chúng ta thì đừng có vòng vo nữa.” Cô nghe thấy tiếng ông ta đang châm một điếu thuốc khác. To béo và ám khói – đó là người đàn ông mà cô đã bám theo xin xỏ những điếu Camels vào quãng thời gian cô đang cố bỏ thuốc – Talbot rất chểnh mảng trong việc thay quần áo sạch và cạo râu. Và rất lúng túng khi phải thông báo những tin xấu.

“Đó là chuyện liên quan đến Foxtrot Bravo”, ông ta miễn cưỡng nói.

“Nó làm sao?”

N695FB là chiếc Learjet 35A của Percey. Tất nhiên trên giấy tờ sở hữu thì không phải như thế. Về mặt pháp lý thì chiếc phản lực hai động cơ được Clay-Carney Holding Corporation Two, Inc., một công ty con thuộc sở hữu hoàn toàn của Hudson Air Charters, Ltd., thuê lại từ Morgan Air Leasing Inc., mà ngay công ty này cũng thuê lại chiếc máy bay từ La Jolla Holding Two, một công ty con của Transport Solutions Incorporated, vốn là một công ty giải pháp giao thông ở Delaware. Kiểu cho thuê lại chồng chéo và phức tạp này hoàn toàn hợp pháp và cũng rất phổ biến, xuất phát từ thực tế là cả máy bay và những vụ tai nạn máy bay đều cực kỳ đắt đỏ.

Nhưng tất cả mọi người ở Hudson Air Charters đều biết rằng chiếc November 695 Foxtrot Bravo là của Percey.. Cô đã bay hàng nghìn giờ trên chiếc máy bay này. Nó là con vật cưng của cô. Là con cái của cô. Và trong rất nhiều đêm Ed vắng nhà chỉ riêng ý nghĩ về chiếc máy bay thôi cũng làm nguôi bớt nỗi đau mà cảm giác cô đơn mang lại. Thanh thoát như một mũi thương, chiếc máy bay có thể thực hiện hành trình ở độ cao 45000 feet với tốc độ 460 knot – hơn 500 dặm một giờ. Riêng cá nhân cô thì biết rõ rằng nó hoàn toàn có thể bay cao và bay nhanh hơn thế, mặc dầu đây là một bí mật được giấu kín khỏi sự soi mói của Morgan Air Leasing, La Jolla Holding, Transport Solutions và FAA.

Cuối cùng Talbot cũng lên tiếng, “Sửa sang lại cho nó – chắc là sẽ khó khăn hơn tôi nghĩ lúc đầu.”

“Anh nói tiếp đi.”

“Được rồi”, cuối cùng ông ta cũng nói thật. “Stu bỏ việc rồi.” Stu Marquard, thợ cơ khí trưởng của họ.

“Cái gì?”

“Cái thằng chó đẻ đó bỏ việc rồi. Hừ, thật ra là chưa hẳn”, Talbot nói tiếp. “Hắn gọi điện đến báo ốm nhưng nghe thật lố bịch, tôi đã gọi đến một số nơi để kiểm tra. Hắn sắp tới làm cho Sikorsky. Đã nhận công việc đó rồi.”

Percey cũng không nói nên lời.

Đó là một vấn đề nghiêm trọng. Những chiếc Lear 35A được xuất xưởng như những chiếc phản lực chở khách tám chỗ ngồi. Để sửa sang lại chiếc máy bay sẵn sàng cho hợp đồng của Tập đoàn U.S. Medical, hầu hết ghế ngồi đều phải được gỡ bỏ, trang bị thêm những thiết bị chống va đập và lắp những ngăn làm lạnh, rồi lại còn những nguồn ắc quy bổ sung được nối với máy phát điện từ động cơ máy bay. Điều đó đồng nghĩa với khối lượng công việc rất lớn liên quan đến hệ thống điện và kết cấu khung máy bay.

Không thể kiếm đâu ra thợ cơ khí nào giỏi hơn Stu Marquard và anh ta đã sửa sang lại chiếc Lear của Ed trong khoảng thời gian kỷ lục. Mà không có anh ta Percey không biết họ sẽ làm như thế nào để hoàn thành công việc chuẩn bị cho chuyến bay đêm mai.

“Có chuyện gì vậy Perce?”, Hale hỏi khi nhận ra khuôn mặt cô đang tối sầm lại.

“Stu bỏ rồi”, cô thì thầm.

Anh lắc đầu, không hiểu. “Bỏ gì?”

“Anh ta bỏ đi rồi”, cô lầm bầm. “Bỏ việc chứ còn gì nữa. Chuyển sang làm cho mấy hãng trực thăng chó chết.

Anh choáng váng nhìn cô. “Hôm nay à?”

Cô gật đầu.

Talbot nói tiếp. “Anh ta sợ, Perce ạ. Mọi người đều biết đó là một vụ đánh bom. Cảnh sát không nói gì nhưng tất cả mọi người đều biết chuyện gì đã xảy ra. Họ đều lo sợ. Lúc nãy tôi đã nói chuyện với John Ringle…”

“Johny?” Một phi công trẻ mà họ mới thuê vào làm từ năm ngoái. “Không phải cậu ta cũng ra đi đấy chứ?”

“Cậu ta chỉ hỏi xem liệu chúng ta có thể ngừng hoạt động một thời gian được không. Cho đến khi tất cả chuyện này qua đi.”

Không, chúng ta sẽ không ngừng hoạt động”, cô nói dứt khoát. “Chúng ta sẽ không hủy bất kỳ một hợp đồng khốn kiếp nào cả. Công ty vẫn hoạt động như thường. Và nếu còn bất kỳ ai gọi điện xin nghỉ ốm, hãy sa thải ngay.”

“Percey…”

Talbot trong có vẻ khó tính nhưng ai cũng biết ông ta là người mềm mỏng nhất công ty.

“Được rồi”, cô gắt gỏng. “Tự tôi sẽ sa thải họ.”

“Nghe này, về chiếc Foxtrot Bravo, tôi có thể tự mình hoàn thành phần lớn công việc”, Talbot nói, bản thân ông ta cũng là một kỹ sư về kết cấu máy bay có chứng chỉ hẳn hoi.

“Hãy làm những gì anh có thể. Nhưng cứ cố xem có tìm được thợ cơ khí nào khác không”, cô bảo ông ta. “Chúng ta sẽ nói chuyện sau.”

Cô tắt máy.

“Thật không thể tin được”, Hale nói. “Hắn dám bỏ chạy.” Viên phi công không giấu nổi vẻ bàng hoàng.

Percey giận đến phát điên. Mọi người đang lũ lượt bỏ chạy – hành động tồi tệ nhất trên đời. Công ty thì đang sắp chết. Vậy mà cô vẫn chưa biết làm thế nào để cứu vãn tình hình.

Percey Clay không có những kỹ năng của loài khỉ trong việc điều hành doanh nghiệp.

Những kỹ năng của loài khỉ…

Một cụm từ cô đã từng nghe khi còn là phi công lái máy bay tiêm kích. Được thốt ra từ miệng một phi công hải quân kỳ cựu, một vị đô đốc, nó có nghĩa là những phẩm chất bí truyền và không thể nào học được của một phi công bẩm sinh.

Vâng, nhưng chắc chắn Percey có những kỹ năng của loài khỉ khi động đến lĩnh vực bay. Bất kỳ loại máy bay nào, cho dù cô có từng lái thử nó trước đó hay chưa cũng vậy, trong bất kỳ điều kiện thời tiết nào, dù là VFR hay IFR[40], ngày hay đêm. Cô có thể điều khiển chiếc máy bay một cách hoàn hảo và cho nó hạ cánh xuống đúng cái điểm kỳ diệu mà các phi công đều nhắm tới – chính xác là “quá vạch số 1000 feet” – cách hàng số hiệu sơn màu trắng ở đầu đường băng hạ cánh đúng 1000 feet. Tàu lượn, máy bay hai tầng cánh, máy bay vận tải quân sự Hercules, Boeing 737, MIC – cô luôn cảm thấy thoải mái trong bất kỳ buồng lái nào.

Nhưng tất cả những kỹ năng của loài khỉ trong Percey Raphael Clay cũng chỉ có thế.

Cô hoàn toàn không có chút kỹ năng nào của loài khỉ trong những mối quan hệ gia đình, điều đó thì quá chắc chắn rồi. Người cha có vai vế trong ngành sản xuất thuốc lá của Percey đã từ chối nói chuyện với với cô từ nhiều năm nay – thực tế ông còn truất quyền thừa kế của con gái mình – sau khi cô bỏ ngôi trường mà ông lựa chọn, Đại học Tổng hợp Virginia, để theo học trường Hàng không, thuộc Đại học Kỹ thuật Virginia. (Mặc dù cô đã nói cho cha mình biết rằng việc cô rời Charlottesville là không thề tránh khỏi – chỉ sáu tuần sau khi bắt đầu học kỳ thứ nhất Percey đã “hạ nốc ao” một cô chủ tịch hội nữ sinh sau khi cô nàng tóc vàng thon thả này thì thầm bình luận một cách hớ hênh rất có chủ ý rằng con bé lùn tịt kia chắc sẽ thích hợp với trường nông nghiệp hơn là với môi trường ký túc xá trường đại học[41]).

Và tất nhiên là cô càng không có kỹ năng của loài khỉ trong môi trường hải quân. Khả năng đáng ngưỡng mộ của cô trong việc điều khiển những chiếc máy bay hầm hố nhất cũng không đủ gỡ điểm cho thói quen rất không may của Percey là cứ toàng toạc nói thẳng những gì mình nghĩ trong khi tất cả mọi người đều khôn ngoan im lặng về nhiều vấn đề cụ thể.

Và không có kỹ năng trong việc điều hành ngay chính công ty bay dịch vụ mà cô là chủ tịch hội đồng quản trị. Cô hoàn toàn không hiểu tại sao lúc nào Hudson Air cũng bận tối mắt tối mũi như vậy mà nguy cơ phá sản vẫn luôn thường trực. Giống như Ed và Brit Hale cùng với các phi công khác trong biên chế, lúc nào cũng thấy Percey làm việc (một lý do khiến cô không muốn làm cho các hãng hàng không theo tuyến cố định là quy định ngu xuẩn của FAA rằng các phi công không được bay quá tám mươi giờ mỗi tháng). Vậy thì tại sao họ lúc nào cũng gần như cháy túi? Nếu không nhờ vào khả năng quyến rũ của Ed trong việc tìm kiếm khách hàng và trông cậy vào Ron Talbot luôn gắt gỏng cắt giảm chi phí đồng thời xoay xở với cánh chủ nợ, chắc chắn họ đã không thể trụ nổi suốt hai năm qua.

Tháng trước Công ty đã gần như phá sản nhưng Ed may mắn giành được hợp đồng này từ Tập đoàn U.S. Medical. Mạng lưới các bệnh viện kiếm được nhiều tiền một cách đáng kinh ngạc từ việc cấy ghép các bộ phận trên cơ thể, mà Percey dần biết rằng đó là một lĩnh vực kinh doanh siêu lợi nhuận không chỉ bó hẹp quanh tim và thận. Khó khăn lớn nhất là phải đưa được nội tạng hiến tặng tới cho người nhận phù hợp trong khoảng thời gian cho phép. Các cơ quan nội tạng thường được vận chuyển trong những chuyến bay thương mại (được chuyên chở trong các thùng lạnh đặt trong buồng lái), nhưng việc vận chuyển lại phụ thuộc vào lịch trình và tuyến đăng ký hoạt động của hãng hàng không. Hudson Air thì không phải lệ thuộc vào những hạn chế như vậy. Công ty đồng ý dành riêng một chiếc máy bay phục vụ U.S. Medical. Nó sẽ bay theo một lộ trình ngược chiều kim đồng hồ từ bờ biển miền Đông qua miền Trung Tây tới sáu hay tám địa điểm của công ty, chuyển những cơ quan nội tạng đến nơi cần thiết. Việc chuyển hàng luôn luôn được bảo đảm. Bão tuyết, mưa gió, cuồng phong, tóm lại là trong những điều kiện thời tiết tối thiểu – chỉ cần sân bay vẫn mở cửa và có giấy phép bay, Hudson Air sẽ đưa hàng tới nơi đúng hẹn.

Tháng đầu tiên là một giai đoạn thử nghiệm. Nếu mọi việc suôn sẻ họ sẽ giành được một hợp đồng kéo dài mười tám tháng đóng vai trò xương sống cho sự tồn tại của Công ty.

Có vẻ như Ron đã thuyết phục được khách hàng để họ có thêm môt cơ hội nữa, nhưng nếu Foxtrot Bravo không sẵn sàng cho chuyến bay ngày mai… Percey thậm chí còn không muốn nghĩ đến khả năng đó.

Trong lúc ngồi trên chiếc xe sảnh sát đi xuyên qua Công viên Trung tâm Percey ngắm nhìn những chồi lá non đầu xuân. Ed đã từng rất yêu thích công viên này và đến đây chạy khá thường xuyên. Bao giờ anh cũng chạy hai vòng liền quanh hồ rồi quay về nhà mồ hôi nhễ nhại, mái tóc bắt đầu ngả màu muối tiêu của anh bết lại thành từng lọn rủ trên khuôn mặt. Còn mình ư? Percey đau đớn cười một mình. Anh thường bắt gặp cô ngồi ở nhà, chăm chú dán mắt vào một quyển nhật ký kế hoạch bay không lưu hoặc một tập tài liệu hướng dẫn sửa chữa động cơ phản lực cánh quạt đẩy, có thể là đang phì phèo hút thuốc, có thể đang tu một chai Wild Turkey. Và, nhăn nhở cười, Ed sẽ dùng một ngón tay khỏe mạnh cù mạnh vào sườn vợ mình rồi hỏi liệu cô còn có thể làm việcgìcó hại cho sức khỏe hơn thế được không. Và trong khi cả hai cùng cười sặc sụa, anh sẽ tu trộm liền một hơi mấy hớp whiskey của cô.

Rồi cô lại nhớ đến lúc anh thường cúi xuống và hôn lên vai cô như thế nào. Khi họ làm tình, bao giờ anh cũng gục mặt vào đúng điểm nối đó, uốn cong người về phía trước, ghì sát vào da thịt cô, và Percey Clay tin rằng ở đúng chỗ đó, nơi chiếc cổ của cô xòe rộng ra thành hai bờ vai mịn màng, nếu như chỉ có chỗ đó, cô sẽ là một phụ nữ tuyệt đẹp.

Ed…

Tất cả những vì sao đêm…

Nước mắt lại giàn giụa, cô liếc nhìn lên bầu trời xám xịt. U ám. Cô đoán lúc này trần mây chỉ cao chừng 1500 feet, gió theo hướng 090 ở tốc độ 15 knot một giờ. Đủ điều kiện để gọi là có gió lớn. Cô bứt rứt ngọ ngoậy trên ghế. Những ngón tay cứng cáp của Brit Hale đang nắm chặt lấy cổ tay cô. Jerry Banks đang tán gẫu về chuyện gì đó. Cô cũng không để ý.

Percey đi đến một quyết định. Cô lại mở chiếc điện thoại di động của mình ra lần nữa.

Chú thích:

[40]VFR (viết tắt của Visual Flight Rules): Quy tắc bay bằng mắt; IFR (viết tắt của Instrument Flight Rules): Quy tắt bay bằng thiết bị.

[41]Nguyên văn là “Greek Row”, nghĩa đen là Dãy nhà Hy Lạp: Ký túc xá của các sinh viên học đại học. Ở các nước phương Tây (nhất là Mỹ) các đoàn thể sinh viên thường lấy các ký tự Hy Lạp như Beta, Pi, Gamma, Alpha… làm tên và khẩu hiệu cho hội sinh viên của họ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8


Tiếng còi hiệu rú lên inh ỏi.

Lincoln Rhyme cứ đinh ninh sẽ nghe thấy hiệu ứng Doppler[42] khi chiếc xe của cảnh sát chạy vụt qua. Nhưng đúng ngay trước cửa nhà anh tiếng còi hiệu chợt hụ lên gấp gáp hơn trong giây lát và im bặt. Lát sau Thom dẫn theo một thanh niên vào phòng thí nghiệm dưới tầng trệt. Với quả đầu húi cua trông rất vui mắt và sành điệu, anh chàng cảnh sát vũ trang bang Illinois mặc một bộ cảnh phục màu xanh tím than, có lẽ hôm qua khi anh ta mới diện lên người trông nó hẳn phải rất phẳng phiu nhưng lúc này bộ quần áo đã trở nên nhàu nhĩ, lấm tấm bụi bẩn và muội đen. Trước đó anh ta đã dũi vội một chiếc máy cạo râu chạy pin qua mặt mình nhưng cũng đủ để tạo thành những vệt mờ mờ trên bộ râu quai nón đen thẫm tương phản với mái tóc màu vàng nhạt. Anh ta mang theo hai chiếc túi xách lớn bằng vải bạt, một cặp tài liệu màu nâu và Rhyme hạnh phúc khi nhìn thấy anh ta hơn là gặp bất kỳ ai trong suốt tuần qua.

"Quả bom", anh gào toáng lên. "Quả bom đây rồi!"

Viên cảnh sát, ngỡ ngàng khi chứng kiến đội ngũ nhân viên công quyền lạ lùng tập trung trong phòng, chắc hẳn phải tự hỏi chuyện gì đang xảy ra với mình khi Cooper giằng ngay hai cái túi còn Sellitto nguệch ngoạc ký vội lên phiếu giao nhận bằng chứng rồi giúi trở lại vào tay anh ta. "Cảm ơn nhé, chờ cậu mãi", viên thám tử thốt lên rồi quay lại với chiếc bàn để bằng chứng.

Thom nhã nhặn mỉm cười với viên cảnh sát vũ trang và dẫn anh ta ra khỏi phòng.

Rhyme gọi tướng lên, "Bắt tay vào việc thôi, Sachs. Cô lại đứng ngây ra đó rồi! Xem chúng ta có gì nào?".

Cô giận dỗi cười nhạt rồi bước lại bên bàn của Cooper, nơi mà tay kỹ thuật viên đang thận trọng lôi những thứ có trong hai chiếc túi ra.

Hôm nay cô ấy bị làm sao thế nhỉ? Một tiếng đồng hồ là quá nhiều cho việc kiểm tra một hiện trường vụ án, nếu như đó là điều khiến cô ấy hậm hực. Chậc, anh lại thấy thích cái tính dễ nổi quạu của cô. Bản thân anh cũng luôn làm việc hiệu quả nhất theo cách đó. "Được rồi, Thom, giúp chúng tôi một chút nào. Tấm bảng đen kia kìa. Chúng ta cần lên danh sách các bằng chứng. Vẽ cho chúng tôi mấy cái biểu đồ. "HT-Một." Dòng đầu tiên."

"H, ừm, T là sao?"

"Hiện trường", nhà chuyên gia tội phạm học gắt lên. "Thế cậu còn tưởng là cái gì nữa? HT-Một, Chicago."

Trong một vụ án gần đây, Rhyme thậm chí còn sử dụng mặt sau của một tấm áp phích mềm oặt của bảo tàng Metropolitan làm bảng vẽ sơ đồ bằng chứng. Còn bây giờ anh đã ở đẳng cấp tiên tiến nhất - trên tường gắn mấy tấm bảng đen cỡ lớn, sực nức những mùi hương gợi cho anh nhớ về những ngày mùa xuân ấm áp được cắp sách đến trường ở vùng Trung Tây, háo hức trong những giờ khoa học, khinh thường môn đánh vần và tiếng Anh.

Cậu trợ lý ném một cái lườm giận dữ về phía ông chủ của mình nhưng rồi vẫn cầm viên phấn lên, phủi phủi mấy hạt bụi dính trên cái cà vạt hoàn hảo và trên những nếp quần là ly cáu cạnh của mình, bắt đầu viết.

"Chúng ta co những gì đấy, Mel? Sachs, giúp cậu ta đi."

Họ bắt đầu mở những túi và bình bằng plastic đựng tro, những mẩu nhựa cháy, kim loại và sợi vải. Hai người dốc những mẩu bằng chứng đó vào các khay gốm. Những kỹ thuật viên kiểm tra hiện trường vụ nổ - nếu họ ở cùng đẳng cấp với những kỹ thuật viên mà Rhyme từng huấn luyện trước đây - chắc hẳn đã dùng nam châm gắn trên đầu con lăn, máy hút bụi công suất lớn và một loạt các loại lưới mắt nhỏ để lọc những mẫu vụn bắn ra sau vụ nổ.

Rhyme, một chuyên gia trong hầu hết các lĩnh vực khoa học hình sự và cũng là bậc thầy về các loại bom. Bản thân anh cũng không đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực này cho đến khi tên Vũ công để lại quả bom bé xíu trong thùng rác của tay nhân viên văn phòng phố Wall, nơi hai kỹ thuật viên của anh bị giết. Sau sự kiện đó Rhyme tự đặt cho mình nhiệm vụ phải nghiên cứu và học hỏi tất cả những gì có thể về chất nổ. Anh đã nghiên cứu với Đơn vị Thuốc nổ của FBI, một trong những phòng thí nghiệm liên bang nhỏ nhất - nhưng cũng tinh nhuệ nhất - bao gồm mười bốn chuyên gia phân tích hoạt chất và kỹ thuật viên. Họ không tìm kiếm IEDs - những thiết bị nổ tự chế - thuật ngữ để chỉ bom trong khoa học hình sự - và họ cũng không vô hiệu hóa chúng. Nhiệm vụ của họ là phân tích bom và hiện trường các vụ đánh bom để truy tìm và phân loại những kẻ chế tạo bom cùng đệ tử của chúng (trong nhiều nhóm nhất định, chế tạo bom được coi là một nghệ thuật và những kẻ mới vào nghề thường học tập rất chăm chỉ để học hỏi kỹ thuật của những kẻ chế tạo bom đã thành danh).

Sachs đang lục lọi những chiếc túi. "Chẳng phải là một qủa bom vẫn tự phá hủy hết sao?"

"Không có gì là tự phá hủy hoàn toàn cả, Sachs. Hãy nhớ điều đó." Mặc dù vậy, khi anh đẩy xe lại gần hơn và tự mình xem xét những chiếc túi, anh cũng phải thừa nhận, "Vụ này tồi tệ thật. Thấy những mẩu vụn này không? Cả thanh nhôm phía bên trái nữa? Mẩu kim loại đã bị xé toang, chứ không bị uốn cong. Điều đó có nghĩa là quả bom có độ brisance rất cao..."

"Cái gì cao cơ?" Sellitto hỏi.

"Brisance." Rhyme giải thích, "Thuật ngữ chỉ độ công phá của bom. Nhưng ngay cả như vậy thì vẫn có từ 60 đến 90% của quả bom còn sót lại sau khi nổ. Hừm, tất nhiên là không nói đến thuốc nổ. Mặc dù bao giờ cũng còn lại đủ dư chất để xác định xem đó là thuốc nổ gì. Chậc, những gì chúng ta có ở đây là quá nhiều rồi".

"Nhiều ư?", Dellray phá lên cười. "Tệ chẳng khác gì gắn Humpty-Dumpty[43] lại như cũ."

"À, nhưng đó có phải là nhiệm vụ của chúng ta đâu cơ chứ, Fred", Rhyme nói một cách dứt khoát. "Tất cả những gì mà chúng ta cần làm là tóm cổ thằng chó đẻ đã đẩy anh ta rơi từ trên tường xuống." Anh đẩy xe tiếp về phía cuối bàn. "Trông quả bom thế nào, Mel? Tôi nhận ra pin, cả dây điện và đồng hồ hẹn giờ. Còn gì nữa không? Có thể là những mẩu va li hoặc túi đựng đồ chăng?"

Những chiếc va li là bằng chứng vạch mặt thủ phạm đánh bom nhiều hơn cả những chiếc đồng hồ hẹn giờ và kíp nổ. Tuy người ta không nói ra nhưng thực tế là những hành lý vô thừa nhận thường được các hãng hàng không tặng lại cho FBI để cơ quan này cho nổ tung với mục đích tái tạo lại các vụ nổ và tạo thành quy chuẩn cho các chuyên gia phân tích bom. Trong vụ đánh bom chuyến bay 103 của hãng hàng không Pan Am, FBI lần ra thủ phạm đánh bom không phải từ loại thuốc nổ được sử dụng mà thông qua chiếc radio bán dẫn hiệu Toshiba được dùng làm vật giấu quả bom, chiếc va li Samsonite đựng chiếc radio, cùng mớ quần áo quấn xung quanh. Người ta lần ra nguồn gốc mớ quần áo trong chiếc va li là từ một cửa hàng ở Sliema, Malta, mà chủ nhân lại là một nhân viên tình báo của Lybia cũng giống như kẻ đã mua những món đồ này.

Nhưng Cooper lắc đầu. "Không có gì xung quanh vùng nổ cả, trừ bản thân những thành phần chính của quả bom."

"Vậy là nó không được giấu trong va li hoặc túi xách nào cả", Rhyme trầm ngâm. "Thú vị đây. Làm thế quái nào mà hắn mò lên máy bay được nhỉ? Hắn đã gắn nó ở đâu? Lon, đọc cho tôi cái báo cáo của Chicago."

"Khó xác định vị trí phát nổ chính xác", Sellitto đọc, "do quy mô đám cháy và mức độ phá hủy của chiếc máy bay. Vị trí đặt thiết bị nổ có vẻ như ở dưới và đằng sau buồng lái".

"Bên dưới và phía sau. Tôi đang phân vân liệu ở đó có ngăn chứa hàng gì không. Có thể..." Rhyme bỗng im bặt. Đầu anh gật gù, mắt vẫn dán chặt vào những túi bằng chứng. "Khoan! Khoan đã!", anh chợt hét lên. "Mel, cho tôi xem những mẩu kim loại đằng kia. Túi thứ ba từ bên trái ấy. Những mảnh nhôm. Cho nó vào dưới kính hiển vi."

Cooper đã nối đường video ra từ kính hiển vi điện tử của mình với máy tính của Rhyme. Những gì Cooper nhìn thấy thì Rhyme cũng nhìn thấy. Người kỹ thuật viên bắt đầu gắp những mẩu kim loại vụn nhỏ li ti lên đế quan sát và đặt chúng dưới ống kính hiển vi.

Một lát sau Rhyme ra lệnh, "Kéo con trỏ xuống. Nháy đúp".

Hình ảnh trên màn hình máy tính của anh được phóng to lên.

"Đấy, nhìn kìa! Vỏ của chiếc máy bay bị uốn cong vào phía trong".

"Vào trong ư?", Sachs hỏi. "Ý anh là quả bom được cài từ bên ngoài?"

"Tôi nghĩ vậy, đúng là như thế. Anh thấy sao, Mel?"

"Anh nói đúng. Tất cả những đầu đinh tán sáng loáng này đều bị uốn cong vào phía trong. Quả bom được đặt ở bên ngoài, chắc chắn là như vậy."

"Một quả rocket chăng?" Dellray hỏi, "Đất đối không?"

Sellitto vừa xem bản báo cáo vừa trả lời, "Không, hệ thống radar không phát hiện được tín hiệu tên lửa nào cả".

Rhyme lắc đầu. "Không, tất cả đều cho thấy đây là một quả bom."

"Nhưng được gắn ở bên ngoài là sao?" Sellitto hỏi. "Chưa bao giờ nghe nói có chuyện như thế cả."

"Thực tế đó giải thích cho chi tiết này", Cooper nói to. Người kỹ thuật viên đeo kính phóng to lên mắt rồi cầm lấy một que thăm bằng gốm, bắt đầu xem lướt qua những mẩu kim loại nhanh nhoay nhoáy như một chàng cao bồi đang đếm đầu số đầu gia súc trong đàn. "Những mảnh kim loại có thành phần là sắt. Nam châm. Không dính vào bề mặt nhôm nhưng bên dưới lại có khung thép. Và tôi còn thấy ở đây có những mẩu dấu vết của keo dính epoxy. Hắn dính quả bom bên ngoài vỏ máy bay được giữ bằng nam châm cho đến keo cứng lại."

"Và hãy xem những dấu sóng chấn động trong lớp keo epoxy kìa", Rhyme nhận xét. "Lớp keo vẫn chưa dính hoàn toàn, có nghĩa là hắn gắn nó lên máy bay không lâu trước khi máy bay cất cánh."

"Chúng ta có thể xác định được nhãn mác loại keo epoxy đó không?"

"Không, keo dán tổng hợp. Có bán ở khắp mọi nơi."

"Có hy vọng tìm được dấu vân tay không? Cứ nói thật đi, Mel."

Câu trả lời của Cooper là một tiếng cười khan đầy vẻ hoài nghi. Mặc dù vậy anh vẫn tiến hành các thao tác kiểm tra và dùng dải ánh sáng PoliLight quét qua những mảnh vỡ. Không có gì hiện lên ngoài những dư chất sau vụ nổ. "Chẳng thấy gì."

"Tôi muốn ngửi qua một chút", Rhyme đột ngột tuyên bố.

"Ngửi ấy à?" Sachs hỏi.

"Với mức độ công phá như vậy, chúng ta biết nó là loại thuốc nổ cực mạnh. Tôi muốn biết chính xác xem đó là loại gì."

Nhiều thủ phạm đánh bom sử dụng thuốc nổ yếu - những hợp chất có khả năng bắt lửa nhanh nhưng khó nổ trừ phi được lèn chặt, trong những ống trụ hoặc hộp cứng. Phổ biến nhất trong nhóm này chính là thuốc súng. Thuốc nổ mạnh - ví dụ như thuốc nổ dẻo và TNT - có thể nổ ở trạng thái tự nhiên và không cần phải gói hoặc lèn vào bất kỳ vật chứa nào. Chúng khá đắt tiền và cũng rất khó kiếm. Chủng loại và nguồn gốc của thuốc nổ có thể nói lên rất nhiều điều về đặc điểm của kẻ đánh bom.

Sachs mang một chiếc túi lại gần chỗ Rhyme và mở nó ra. Anh ngửi một hơi dài.

"RDX", Rhyme thốt lên, anh nhận ra nó ngay lập tức.

"Ăn khớp với độ brisance", Cooper nói. "Anh nghĩ đó là C3 hay C4?" Cooper hỏi. RDX là thành phần chủ yếu trong hai loại thuốc nổ dẻo nói trên, được sử dụng cho mục đích quân sự; những tổ chức và cá nhân dân sự sở hữu chúng sẽ bị coi là phạm pháp.

"Không phải C3", Rhyme nói và lại hăm hở hít chỗ thuốc nổ như thể đó là rượu vang Bordeaux hảo hạng. "Không có mùi ngọt... Không chắc lắm. Và lạ thật đấy... Tôi còn ngửi thấy mùi gì đó... Cho phân tích bằng quang phố kế đi, Mel."

Người kỹ thuật viên cho mẫu đó chạy qua sắc ký khí. Chiếc máy tinh vi này có khả năng phân tách từng thành phần của các hợp chất và xác định chúng. Nó có thể phân tích những mẫu chỉ nhỏ bằng một phần triệu gam, và sau khi xác định được đó là những chất nào, chiếc máy sẽ tiến hành đối chiếu thông tin qua một cơ sở dữ liệu để, trong nhiều trường hợp, tìm ra nhà sản xuất.

Cooper kiểm tra kết quả. "Anh nói đúng, Lincoln. Đó là chất RDX. Có cả dầu nữa. Và chi tiết này mới lạ lùng đây - tinh bột..."

"Tinh bột!" Rhyme phấn khích thốt lên. "Đúng là tôi ngửi thấy mùi đó! Mùi bột guar[44]..."

Cooper bật cười vì quả thật từ Rhyme vừa nói bỗng hiện lên trên màn hình máy tính. "Làm sao anh lại biết vậy?"

"Bởi vì nó là thuốc nổ dynamite quân sự."

"Nhưng không thấy có nitroglycerine", Cooper phản đối. Hoạt chất chủ yếu trong thuốc nổ dynamite.

"Không, không, nó không hẳn là dynamite", Rhyme nói. "Đó là hỗn hợp của RDX, TNT, dầu động cơ và bột guar. Không mấy khi được sử dụng đâu."

"Quân sự à?", Sellitto ngẫm nghĩ. "Đó là Hansen."

"Thì đã hẳn rồi."

Kỹ thuật viên tiếp tục gắp mẫu vật lên đế quan sát của chiếc kính hiển vi điện tử.

Những hình ảnh cũng đồng thời hiện lên trên màn hình máy tính của Rhyme. Các mẩu sợi, dây điện, mảnh vụn, mẩu rác, bụi bẩn.

Anh chợt nhớ lại một hình ảnh tương tự cách đây nhiều năm, mặc dù trong những hoàn cảnh hoàn toàn khác. Khi ngắm nhìn qua một ống kính vạn hoa bằng đồng nặng trịch mà anh mua làm quà tặng sinh nhật cho một người bạn. Cho Claire Trilling, xinh đẹp và phong cách. Rhyme đã tìm thấy chiếc kính vạn hoa trong một cửa hàng ở SoHo. Cả hai đã thức trọn đêm để uống hết một chai vang đỏ Merlot và cố đoán xem những viên pha lê hiếm có hoặc đá quý đang tạo ra trước mắt họ vô số hình ảnh đẹp ngỡ ngàng đến nhường nào. Cuối cùng thì Claire, vốn cũng có tính tò mò khoa học không kém gì Rhyme, đã quyết định vặn mở đáy của ống trụ và dốc những thứ trong đó lên mặt bàn. Cả hai đã cười nghiêng ngả. Hoàn toàn không có gì ngoài những mẩu vụn kim loại, vỏ bào gỗ, một chiếc ghim giấy đã gãy, những mẩu giấy xé vụn ra từ một cuốn Những Trang Vàng, đinh bấm.

Rhyme gạt những ký ức đó qua một bên và tập trung vào những gì anh đang nhìn thấy trên màn hình máy tính: Một mẩu giấy làm từ sợi cây chuối sợi có tráng sáp - đó là loại giấy bọc đặc trưng cho thuốc nổ dynamite quân sự. Những mẩu sợi - tơ nhân tạo và bông tự nhiên - từ sợi dây dẫn nổ mà tên Vũ công đã buộc xung quanh khối thuốc dynamite vốn rất mềm và dễ dàng bám chặt vào sợi dây. Một mẩu nhôm và một sợi dây điện màu bé tí - văng ra từ kíp nổ điện. Thêm những mẩu dây điện và một mẩu than chì kích thước bằng cục tẩy từ nguồn pin của quả bom.

"Đồng hồ hẹn giờ", Rhyme chợt nói to. "Tôi muốn xem cái đồng hồ."

Cooper cầm một chiếc túi nhựa nhỏ trên bàn lên.

Bên trong là con tim bất động, lạnh lùng của quả bom.

Nó ở trạng thái gần như nguyên vẹn, khiến Rhyme ngạc nhiên. À, sai lầm đầu tiên của mày đây rồi, anh thầm nghĩ, như thể đang nói chuyện với tên Vũ công. Hầu hết những kẻ đánh bom đều bọc thuốc nổ quanh hệ thống kích nổ để phá hủy bằng chứng. Nhưng ở đây tên Vũ công lại vô tình đặt đồng hồ hẹn giờ đằng sau một gờ thép dày trên tấm kim loại có tác dụng đỡ quả bom. Gờ thép đã bảo vệ thiết bị hẹn giờ khỏi sức công phá của vụ nổ.

Cổ Rhyme đau buốt khi anh cố nhoài người về phía trước, chăm chú nhìn mặt đồng hồ bị vênh.

Cooper săm soi thiết bị hẹn giờ. "Tôi đã tìm thấy số model và tên nhà sản xuất."

"Rà soát tất cả qua ERC[45]."

ERC là cơ sở dữ liệu đầy đủ nhất trên thế giới về các thiệt bị gây nổ. Nó bao gồm thông tin về tất cả các vụ đánh bom từng xảy ra tại Mỹ, cùng với bằng chứng cụ thể của rất nhiều vụ trong đó. Một số mẫu vật và bằng chứng trong bộ sưu tập này đáng được coi là đồ cổ, được lưu trữ từ những năm 1920.

Cooper lúi húi gõ trên bàn phím máy tính. Một lát sau modem kết nối của anh kêu tít tít và bắt đầu hoạt động.

Hai phút sau, kết quả của lệnh kiểm tra được hiển thị.

"Không tốt rồi", anh chàng hói nói, hơi nhăn mặt, đây là hình thức biểu hiện cảm xúc mạnh mẽ nhất ở người kỹ thuật viên. "Không có bất kỳ hồ sơ lưu trữ cụ thể nào ăn khớp với quả bom này."

Hầu như tất cả những kẻ đánh bom đều đi theo một khuôn mẫu nhất định khi chế tạo thiết bị nổ của mình - chúng học một kỹ thuật nào đó và tuân thủ theo nó rất nghiêm túc. (Xuất phát từ đặc điểm của loại sản phẩm mà chúng chế tạo, tốt nhất là không nên mạo hiểm thử nghiệm quá nhiều.) Nếu những bộ phận trong quả bom của tên Vũ công trùng khớp với một Thiết bị nổ tự chế trước đó, ví dụ như Florida hay California chẳng hạn, nhóm điều tra có thể lần thêm đầu mối bổ sung từ những hiện trường đánh bom đó để tìm ra phạm vi hoạt động của thủ phạm. Quy tắc bất di bất dịch ở đây là nếu hai quả bom có ít nhất bốn điểm chung về kết cấu - ví dụ như những mối nối được hàn lại thay vì dán băng dính, hoặc dùng đồng hồ dạng analog thay vì đồng hồ kỹ thuật số - thì rất có thể chúng được chế tạo bởi cùng một người hoặc ít ra là cũng là dưới sự kèm cặp của hắn. Quả bom của tên Vũ công ở phố Wall cách đây vài năm khác hẳn với quả bom này. Nhưng Rhyme biết rằng quả bom này được chế tạo cho một mục đích hoàn toàn khác. Quả bom kia được gài lại để gây khó khăn cho quá trình khám nghiệm hiện trường vụ án; còn quả này là để làm nổ tung một chiếc máy bay lớn trên bầu trời. Và nếu như Rhyme có biết điều gì về tên Vũ công Quan tài, thì đó chính là việc hắn "đo ly đóng giày" cho những dụng cụ của hắn trong từng phi vụ.

"Còn tệ hơn nữa cơ à?", Rhyme hỏi, anh đọc được ngay vẻ mặt của Cooper trong khi tay kỹ thuật viên vẫn chằm chằm nhìn vào màn hình máy tính.

"Thiết bị hẹn giờ."

Rhyme thở dài. Anh hiểu. "Có hàng tỷ tỷ cái đã được sản xuất?"

"Riêng năm ngoái công ty Daiwana ở Seoul đã bán một trăm bốn mươi nghìn chiếc đồng hồ như vậy. Cho các cửa hàng bán lẻ, các nhà chế tạo thiết bị cơ bản, cho cả những doanh nghiệp nhượng quyền. Hoàn toàn không có mã số phân biệt từng lô hàng được đưa tới đâu."

"Tuyệt thật. Quá tuyệt."

Cooper vẫn dán mắt vào màn hình. "Hừm. Mấy tay ở ERC nói là họ rất quan tâm đến thiết bị này và hy vọng chúng ta sẽ bổ sung nó vào cơ sở dữ liệu của họ."

"Ối trời, cứ như thể đó là ưu tiên số một của chúng ta lúc này vậy", Rhyme lầm bầm.

Những cơ vai của anh đột nhiên căng cứng lại và anh phải ngã đầu ra phía sau, dựa vào giá đỡ gắn trên xe lăn. Anh thở sâu trong vòng vài phút cho tới khi cơn đau tưởng chừng như không thể nào chịu nổi cũng dịu đi, rồi biến mất. Sachs, người duy nhất nhận ra vội bước lại gần, nhưng Rhyme lắc đầu về phía cô, nói, "Anh tìm được mấy sợi dây điện, Mel?"

"Chỉ hai thôi, có vẻ thế."

"Dây nhiều lõi hay sợi quang?"

"Không, chỉ là dây điện bình thường cỡ trung bình thôi."

"Không có dây mạch nhánh à?"

"Không."

Dây mạch nhánh là một sợi dây điện riêng biệt, có vai trò hoàn thành kết nối trong trường hợp dây nối với nguồn pin hoặc với thiết bị hẹn giờ bị cắt trong một nỗ lực nhằm vô hiệu hóa quả bom. Tất cả những quả bom phức tạp đều có cơ chế dây mạch nhánh.

"Chà", Sellitto thốt lên, "đó chẳng phải là tin tốt sao? Có nghĩa là hắn bắt đầu làm ăn cẩu thả".

Nhưng Rhyme lại tin vào điều hoàn toàn ngược lại. "Tôi không nghĩ vậy, Lon. Tác dụng duy nhất của dây mạch nhánh là gây khó khăn cho việc vô hiệu hóa qủa bom. Không có dây mạch nhánh tức là hắn thừa tự tin rằng không ai tìm thấy quả bom và nó sẽ phát nổ đúng như hắn dự đoán - trên không trung."

"Cái của này", Dellray hỏi với vẻ khinh bỉ, mắt nhìn vào những mảnh vụn của quả bom. "Thằng nhóc của chúng ta phải giao du với những loại người như thế nào để có thể tạo ra được cái của như thế này? Tôi có một số cơ sở mật biết khá rõ về những bọn chuyên cung cấp bom."

Bản thân Fred Dellray cũng đã phải học rất nhiều về các loại bom, hơn cả những gì anh định biết. Người cộng sự và cũng là bạn thân lâu năm của anh, Toby Doolittle, đã ở tầng trệt của tòa nhà liên bang tại thành phố Oklahoma cách đây vài năm. Anh bị giết ngay lập tức trong vụ khủng bố bằng bom tự chế từ nguyên liệu sản xuất phân bón[46].

Nhưng Rhyme lắc đầu. "Đây toàn là những thứ có bán nhan nhản trên thị trường ấy mà, Fred. Chỉ trừ thuốc nổ và dây cháy chậm. Có thể Hansen đã cung cấp những thứ này. Mẹ kiếp, có lẽ tên Vũ công đã kiếm được tất cả những gì hắn cần tại Radio Shack[47]".

"Sao cơ?", Sachs hỏi với vẻ ngạc nhiên.

"Ồ, vâng", Cooper nói và giải thích thêm, "chúng tôi gọi đó là Cửa hàng của dân đánh bom".

Rhyme lăn xe dọc theo thành bàn tới gần một mẩu vỏ thép xoắn tít trông như một mảnh giấy nhàu nát, anh chăm chú nhìn nó hồi lâu.

Cuối cùng anh lùi xe lại và ngửa mặt lên trần nhà. "Nhưng tại sao lại gắn ở bên ngoài?", anh trầm ngâm. "Percey nói lúc nào cũng có rất nhiều người xung quanh. Và chẳng phải tay phi công nào cũng phải đi quanh máy bay trước khi cất cánh để kiểm tra bánh xe và các chi tiết khác còn gì?"

"Tôi nghĩ thế", Sellitto nói.

"Vậy tại sao Ed Carney và tay phi công bay cùng anh ta không nhìn thấy?"

"Bởi vì", đột nhiên Sachs lên tiếng xen vào, "tên Vũ công không không thể gài quả bom lên máy bay cho đến khi hắn biết chắc những ai sẽ có mặt trên đó".

Rhyme quay chiếc xe lại về phía cô. "Chính xác, Sachs! Hắn đã có mặt ở đó để thao dõi. Khi nhìn thấy Carney lên máy bay hắn biết ít nhất hắn đã có được một nạn nhân. Hắn đã cài bom ở đâu đó sau khi Carney lên máy bay và trước khi chiếc máy bay cất cánh. Cô phải tìm ra xem hắn làm việc này ở chỗ nào, Sachs. Và kiểm tra nơi đó. Tốt hơn là cô nên bắt đầu đi."

"Chỉ có một tiếng đồng hồ - hừ, bây giờ, thậm chí lại còn ít hơn", cô nàng Amelia Sachs mắt sắc lạnh nói và quay người bước ra phía cửa.

"Có chuyện này", Rhyme nói.

Cô dừng lại.

"Tên Vũ công hơi khác so với tất cả những kẻ mà cô từng phải đương đầu." Anh không biết phải giải thích như thế nào nữa? "Với hắn, những gì cô nhìn thấy cũng chưa chắc đã là sự thật."

Cô sốt ruột nhướng mày lên, ý muốn nói: Cứ nói toạc ra đi.

"Có lẽ hắn không có ở đó, ở sân bay ấy. Nhưng nếu cô nhìn thấy bất kỳ ai lại gần mình, hừm... hãy bắn trước."

"Cái gì cơ?", cô phá lên cười.

"Hãy lo cho bản thân mình trước, hiện trường chỉ là chuyện phụ."

"Tôi chỉ là người khám nghiệm hiện trường", cô vừa trả lời vừa rảo bước qua ngưỡng cửa. "Hắn sẽ không bận tâm tới tôi đâu."

"Amelia, nghe đã..."

Nhưng anh nghe thấy tiếng bước chân của cô xa dần. Những âm thanh quen thuộc: tiếng cồm cộp trên sàn gỗ sồi, những bước chân bịch bịch khi cô bước qua tấm thảm phương Đông và rồi tiếng lách cách trên ngưỡng cửa lát đá cẩm thạch. Cuối cùng , hồi kết - khi cánh cửa trước đóng lại đánh rầm một tiếng.

Chú thích

[42] Hiệu ứng mang tên nhà Vật lý người Áo Christian J. Doppler (1802-1853), diễn tả sự thay đổi tần số âm thanh do chuyển động.

[43] Humpty-Dumpty: Nhân vật thường được miêu tả như quả trứng bị rơi từ trên bức tường rất cao xuống đất trong một bài đồng dao rất phổ biến ở Anh, Mỹ.

[44]Cây guar: Một loại thực vật có nguồn gốc Ấn Độ, hạt được sử dụng làm chất dẻo.

[45] ERC (viết tắt của Explosives Reference Collection): Cơ sở Dữ liệu Tham khảo về thuốc nổ của FBI.

[46] Ngày 19 tháng 4 năm 1995, một quả bom khổng lồ giấu trong xe tải đã phát nổ trước tòa nhà liên bang ở thành phố Oklahoma làm 168 người thiệt mạng, phần lớn tòa nhà bị phá sập. Thủ phạm đánh bom là Timothy McVeigh, kẻ sau đó bị kết án tử hình.

[47] Radio Shack: Hệ thống cửa hàng bán lẻ đồ điện và điện tử gia dụng rất nổi tiếng tại Bắc Mỹ và châu Âu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9


Những người lính xuất sắc nhất là những người lính kiên nhẫn.

Thưa ngài, tôi sẽ nhớ điều đó, thưa ngài.

Stephen Kall đang ngồi bên chiếc bàn trong bếp của Sheila, vừa tự nhủ hắn mới căm ghét Essie làm sao, một con mèo ghẻ lở, mà cái đồ tởm lợm đó tên là gì cũng thế, vừa chăm chú lắng nghe một cuộc trò chuyện dài trên máy ghi âm của mình. Thoạt đầu hắn đã quyết định tìm lũ mèo và giết hết chúng đi nhưng rồi hắn chợt nhận ra thỉnh thoảng chúng lại ngoao ngoao gào lên những tiếng thật đáng sợ. Nếu hàng xóm xung quanh đã quen với âm thanh đó, biết đâu họ sẽ sinh nghi nếu chỉ nghe thấy sự im lặng vọng ra từ căn hộ của Sheila Horowitz.

Kiên nhẫn... Chăm chú nhìn cuộn băng đang quay. Lắng nghe.

Phải hai mươi phút sau hắn mới nghe thấy trong cuốn băng những gì hắn đang chờ đợi. Hắn mỉm cười. Được rồi, tốt lắm. Hắn lôi khẩu Model 40 của mình trong chiếc hộp đàn Fender ra, nựng nó như nựng một đứa bé, rồi bước lại bên tủ lạnh. Hắn nghiêng tai lắng nghe. Những âm thanh đã im bặt. Chiếc tủ không còn rung rinh nữa. Hắn cảm thấy nhẹ nhõm đôi chút, bớt nhớp nháp, bớt sởn gai ốc khi con giòi trong tủ lúc này đã cứng đờ, lạnh băng. Hắn có thể an toàn rời khỏi đây. Hắn xách ba lô của mình lên và ra khỏi căn hộ u ám với mùi mèo lộn mửa, chai rượu vang bám bụi và hàng triệu dấu vết giòi bò lổm ngổm.

Ngoài vùng ngoại ô.

Amelia Sachs lái xe vun vút xuyên qua một đường hầm được tạo bởi những hàng cây mùa xuân, một bên là những tảng đá, một bên là vách núi đá thấp nhô ra biển. Một màu xanh mơn mởn phủ khắp và nhìn đâu cũng nhìn thấy những chùm hoa liên kiều[48] màu vàng nhợt.

Sachs là một cô gái thành phố, chào đời tại Bệnh viện Đa khoa Brooklyn và cả đời cô vẫn là công dân của cái quận đó. Đối với cô, thiên nhiên là công viên Prospect những ngày Chủ nhật hoặc những buổi tối trong tuần, khu bảo tồn rừng Long Island, nơi cô giấu chiếc Dodge Charger màu đen thanh thoát của mình khỏi những chiếc xe của cảnh sát tuần tra đang lùng tìm cô và đám bạn đua.

Giờ đây, ngồi sau tay lái chiếc RRV[49] của IRD - một chiếc wagon chuyên phục vụ cho công tác khám nghiêm hiện trường - cô đạp mạnh chân ga, nghiêng vai hẳn qua một bên và vượt một chiếc xe thùng có gắn hình một con mèo Garfield lộn ngược ở cửa kính phía sau. Rồi quặt tay lái rẽ vào con đường dẫn cô đi sâu vào địa phận hạt Westchester.

Nhấc một tay lên khỏi vô lăng, cô cáu kỉnh luồn một ngón tay lên mái tóc và gãi gãi da đầu. Rồi cô lại nắm chặt lấy vòng vô lăng nhựa của chiếc RRV và đạp mạnh cần ga xuống cho đến khi cô lọt thỏm vào giữa nền văn minh ngoại ô của những dải cửa hàng thấp chạy dài, những tòa nhà thương mại nhếch nhác, các cửa hàng bán đồ ăn nhanh nhượng quyền.

Cô đang nghĩ về bom, về Percey Clay.

Và cả về Lincoln Rhyme.

Hôm nay ở anh có điều gì đó rất khác thường. Điều gì đó rất ý nghĩa. Đến lúc này họ đã làm việc cùng nhau được một năm, kể từ khi anh bắt cóc cô khỏi một công việc buồn tẻ ở phòng Quan hệ công chúng để giúp anh bắt một tên giết người hàng loạt. Vào thời điểm đó cuộc sống của Sachs có thể nói là đang xuống dốc - một mối tình chẳng đi đến đâu và một vụ bê bối tham nhũng trong sở làm cô vỡ mộng đến nỗi chỉ muốn nộp đơn rời khỏi ngành cảnh sát. Nhưng Rhyme nhất định không để cô làm thế. Đơn giản vậy thôi. Mặc dù chỉ là một chuyên gia tư vấn dân sự, anh vẫn bố trí để cô được thuyên chuyển sang CS. Cô đã phản đối đôi chút nhưng cũng nhanh chóng gạt bỏ vẻ bề ngoài miễn cưỡng; sự thật là cô yêu công việc này. Và cô thích được làm việc với Rhyme, sự sắc sảo của anh vừa khiến người khác phải ngỡ ngàng, e sợ vừa - một sự thú nhận mà cô không dám chia sẻ với bất kỳ ai - quyến rũ khủng khiếp.

Như thế cũng không hoàn toàn có nghĩa là cô có thể hiểu thấu con người anh. Lincoln Rhyme là một người sống khép mình và anh không đời nào thổ lộ tất cả cho cô biết.

Hãy bắn trước...

Tất cả chuyện này là thế quái nào nhỉ? Về nguyên tắc thì bạn không bao giờ được nổ súng tại hiện trường vụ án nếu như có cách tránh để chuyện đó xảy ra. Chỉ cần đúng một phát súng thôi cũng đủ làm "bẩn" hiện trường vụ án với carbon, lưu huỳnh, thủy ngân, antimony, chì, đồng và arsenic. Phát súng bắn ra và tác động của nó có thể phá hủy những bằng chứng tối quan trọng. Ngay chính Rhyme cũng đã kể cho cô nghe về lần anh buộc phải bắn một tên hung thủ đang ẩn náu tại hiện trường, mối quan tâm lớn nhất của anh là phát súng đã làm hỏng hầu hết bằng chứng. (Và khi Sachs cứ đinh ninh là cuối cùng cô đã suy nghĩ thấu đáo hơn anh, nói, "Nhưng điều đó thì quan trọng gì chứ, Rhyme? Chẳng phải anh đã tóm được hung thủ còn gì?", anh đã lạnh lùng chỉ ra một sự thật, "Nhưng nếu như hắn có tòng phạm thì sao, hử? Sau đó thì sao nào?".)

Có điều gì khác biệt giữa tên Vũ công Quan tài, ngoài cái biệt danh ngu ngốc và thực tế là hắn có ranh ma hơn một chút so với một tên mafia gốc Ý hoặc một gã găngxtơ miền Tây điển hình?

Lại còn chuyện kiểm tra hiện trường tại hangar trong vòng một tiếng đồng hồ nữa chứ? Sachs có cạm giác anh đã đồng ý như vậy chỉ vì muốn chiều ý Percey. Điều đó hoàn toàn không giống con người anh chút nào. Bình thường Rhyme sẽ bắt niêm phong hiện trường nhiều ngày liền nếu anh thấy như vậy là cần thiết.

Những câu hỏi cứ trở đi trở lại trong đầu và Amelia Sachs vốn không thích những câu hỏi không có câu trả lời.

Mặc dù vậy cô cũng chẳng còn thời gian đâu mà phỏng đoán. Sachs đánh mạnh vô lăng chiếc RRV và rẽ ngoặt vào chiếc cổng lớn của sân bay khu vực Mamaroneck. Đó là một nơi bận rộn, nằm náu mình trong một khu vực có nhiều rừng cây rậm rạp của hạt Westchester, phía bắc Manhattan. Những hãng hàng không lớn cũng từng lập các chi nhánh bay dịch vụ ở đây - như United Express, American Eagle - nhưng hầu hết số máy bay đang đậu tại sân bay này đều là máy bay riêng của các công ty, tất cả đều không sơn biểu tượng hay tên riêng, có lẽ là vì lý do an ninh, cô đoán.

Tại lối vào có một số cảnh sát vũ trang của bang đang làm nhiệm kiểm tra giấy tờ tùy thân của những ai ra vào. Tất cả đều há hốc mồm kinh ngạc khi cô tấp xe lại - trước mắt họ lúc này là một cô nàng tóc hung xinh đẹp lái một chiếc RRV khám nghiệm hiện trường của NYPD nhưng lại mặc quần jean xanh, áo khoác gió, đội chiếc mũ lưỡi trai bóng chày. Họ vẫy tay cho cô qua. Cô theo những tấm biển hướng dẫn tới thẳng Hudson Air Charters và nhận ra tòa nhà nhỏ xây bằng khung lắp ghép ở cuối một dãy terminal của các hãng hàng không thương mại.

Cô đỗ xe phía trước tòa nhà và nhảy xuống. Cô tự giới thiệu mình với hai nhân viên cảnh sát đang làm nhiệm vụ canh gác hangar và chiếc máy bay màu nhũ bạc tuyệt đẹp bên trong. Cô hài lòng nhận thấy cảnh sát địa phương đã dựng hàng rào phong tỏa xung quanh khu vực hangar và cả thềm đế máy bay phía trước để giữ nguyên hiện trường. Nhưng cô thực sự nản khi nhận ra diện tích rộng mênh mông của khu vực đó.

Một giờ để kiểm tra ư? Có lẽ cô phải mất trọn vẹn một ngày ở đây mà chắc gì đã xong.

Cảm ơn nhiều nhé, Rhyme.

Cô vội rảo bước vào khu văn phòng.

Hơn chục người, cả nam lẫn nữ, một số người mặc trang phục công sở, một số người mặc đồ áo liền quần của công nhân. Hầu hết đầu trạc ngoài hai mươi hay ba mươi gì đó. Sachs thầm nghĩ họ đã từng là một nhóm thật trẻ trung và tràn đầy nhiệt huyết cho tới đêm qua. Giờ đây nét mặt ai cũng đều để lộ vẻ buồn bã khiến họ như già đi hàng chục tuổi.

"Ở đây có ai tên Ron Talbot không?" Cô hỏi và chìa tấm phù hiệu cảnh sát màu bạc của mình ra.

Người lớn tuổi nhất trong phòng - một phụ nữ khoảng ngoài năm mươi, với mái tóc xơ xác ngả màu hoa râm, diện một bộ vest trông rất lôi thôi - bước lại gần Sachs. "Tôi là Sally Anne McCay", bà ta nói. "Tôi làm quản lý văn phòng ở đây. Ồ, mà Percey thế nào rồi?"

"Chị ấy vẫn ổn", Sachs nói vẻ đề phòng. "Ông Talbot đang ở đâu?"

Một cô nàng ngăm đen khoảng ngoài ba mươi mặc một chiếc váy màu xanh nhàu nhĩ bước ra từ một phòng làm việc và choàng tay quanh vai Sally Anne. Người phụ nữ lớn tuổi nắm chặt bàn tay cô gái. " Lauren, cô không sao chứ?"

Lauren, khuôn mặt sưng húp như một chiếc mặt nạ che đậy cơn khủng hoảng, hỏi Sachs, "Người ta đã biết chuyện gì xảy ra chưa?"

"Chúng tôi chỉ mới bắt đầu cuộc điều tra... Giờ thì cho hỏi ông Talbot ạ?"

Sally Anne lau nước mắt rồi liếc nhìn về phía một phòng làm việc trong góc. Sachs bước tới ngưỡng của. Bên trong là một người đàn ông to béo với cái cằm lớn lởm chởm râu ria cùng mái tóc bù xù muối tiêu. Ông ta đang dán mắt vào một chồng giấy vừa in từ máy tính ra, hơi thở hổn hển. Ông ta ngẩng đầu lên, một vẻ u sầu hiện trên khuôn mặt. Có vẻ như cả ông ta cũng vừa mới khóc.

"Tôi là sĩ quan Sachs", cô nói. "Người của NYPD."

Ông ta gật đầu. "Các cô đã tóm được hắn chưa?", ông ta hỏi, mắt nhìn ra ngoài cửa sổ như thể ông ta hy vọng sẽ nhìn thấy hồn ma của Ed Carney lượn lờ qua. Ông ta quay lại nhìn cô. "Kẻ giết người ấy?"

"Chúng tôi đang lần theo một số đầu mối." Amelia Sachs, cảnh sát nhà nòi, sở hữu nghệ thuật trả lời lấp lửng không hề thua kém ai.

Lauren hiện ra ở ngưỡng cửa phòng Talbot. "Tôi không thể tin được là anh ấy đã ra đi", cô ta thở hắt ra, giọng nói lộ rõ vẻ bàng hoàng. "Kẻ nào lại có thể làm một việc như vậy được? kẻ nào?" Là một cảnh sát tuần tra - cảnh sát hành động - Sachs đã không biết bao nhiêu lần phải làm cái việc báo tin dữ cho những người thân của nạn nhân. Cô không bao giờ quen được với sự tuyệt vọng mà cô nghe thấy trong giọng nói của những người thân và bạn bè còn sống.

"Lauren", Sally Anne nắm lấy cánh tay đồng nghiệp. "Lauren, về nhà nào."

"Không! Tôi không muốn về nhà. Tôi muốn biết kẻ khốn nạn nào đã làm chuyện này? Ôi, Ed..."

Bước sâu hẳn vào trong phòng làm việc của Talbot, Sachs nói, "Tôi cần sự giúp đỡ của ông. Dường như hung thủ đã gài quả bom bên ngoài máy bay, ngay dưới buồng lái. Chúng tôi phải tìm ra hắn đã làm thế ở đâu".

"Bên ngoài ư?", Talbot cau mày. "Bằng cách nào?"

"Dùng nam châm và keo dán. Chỗ keo còn chưa dính hoàn toàn trước khi vụ nổ xảy ra do vậy chắc chắn là nó được gắn lên máy bay không lâu trước khi cất cánh."

Talbot gật đầu. "Bất kỳ điều gì tôi có thể làm. Nhất định rồi."

Cô vỗ vào chiếc bộ đàm gắn bên hông. "Tôi sẽ liên lạc với sếp của mình. Anh ấy đang ở Manhattan. Chúng tôi cần hỏi ông vài câu." Cô lấy chiếc bộ đàm hiệu Motorola ra, đeo tai nghe và bật mic.

"Được rồi, Rhyme, tôi đây. Anh có nghe thấy tôi nói không?"

Mặc dù hai người đang liên lạc qua tần số khu vực Tác chiến Đặc biệt và lẽ ra phải sử dụng mật danh và mật ngữ, theo đúng các thủ tục của Bộ Viễn thông, nhưng Sachs và Rhyme chẳng mấy khi bận tâm đến những quy tắc radio. Và lúc này thì càng không. Giọng nói của anh vang lên trong tai nghe, truyền qua, có Chúa mới biết, bao nhiêu vệ tinh cả thảy. "Rõ rồi. Có vẻ cô cũng mất khối thời gian đấy nhỉ?"

Đừng có giục giã, Rhyme.

Cô hỏi Talbot, "Chiếc máy bay đã ở vị trí nào trước khi cất cánh? Cụ thể, khoảng một giờ, một giờ mười lăm phút?".

"Trong hangar", Talbot nói.

"Theo ông thì liệu có thể hắn đã tiếp cận máy bay từ trong đó không? Sau quy trình - các ông gọi là gì ấy nhỉ? Khi phi công kiểm tra máy bay ấy?"

"Đi một vòng. Tôi nghĩ là cũng có thể."

"Nhưng ở đó lúc nào cũng có người", Lauren nói. Cơn nức nở tạm qua đi và cô ta đã lau khô nước mắt. Lúc này trông cô ta đã bình tĩnh hơn và đôi mắt ánh lên vẻ cương quyết thay cho nỗi tuyệt vọng.

"Xin lỗi, chị là ai?"

"Lauren Simmons."

"Lauren là trợ lý giám đốc điều hành của chúng tôi", Talbot nói. "Cô ấy làm việc cho tôi."

Lauren nói tiếp, "Chúng tôi đã làm việc cùng với Stu - tay thợ cơ khí trưởng của chúng tôi, nguyên thợ cơ khí trưởng của chúng tôi thì đúng hơn - để sửa sang lại chiếc máy bay, lúc nào cũng có người làm việc 24/24. Nếu có bất kỳ ai lại gần chiếc máy bay chắc chắn chúng tôi đã nhìn thấy."

"Vậy là", Sachs nói, "hắn gài bom sau khi chiếc máy bay đã rời khỏi hangar."

"Sắp xếp theo trình tự thời gian!", giọng Rhyme lại vang lên trong tai nghe. "Chiếc máy bay đã ở đâu kể từ khi nó rời khỏi hangar cho đến khi cất cánh?"

Sau khi cô nhắc lại câu hỏi này Talbot và Lauren dẫn cô sang một căn phòng họp. Trong đó để đầy những biểu bảng, sơ đồ, lịch công tác, hàng trăm cuốn sách, sổ ghi chép và những chồng giấy dày cộp. Lauren trải rộng một tấm bản đồ lớn của sân bay. Trong đó có cả nghìn con số và những ký hiệu mà Sachs không hiểu nổi, mặc dầu những tòa nhà và đường đi được hiển thị rất rõ ràng.

"Không chiếc máy bay nào được di chuyển lấy một inch", Talbot giải thích bằng cái giọng nam trung cộc lốc của mình, "trừ khi được Kiểm soát Mặt đất cho phép. Charlie Juliet được...".

"Cái gì cơ? Charlie...?"

"Đó là số hiệu của chiếc máy bay. Chúng tôi thường gọi tên máy bay bằng hai chữ cái cuối cùng trong số đăng ký. CJ. Vì thế chúng tôi gọi nó là Charlie Juliet. Nó được chất hàng lên trong hangar ở chỗ này..." Ông ta gõ lên mặt bản đồ. "Chúng tôi chất hàng xong..."

"Khi nào?" Rhyme hét tướng lên, to đến nỗi cô cũng không lấy làm ngạc nhiên nếu như Talbot nghe thấy. "Chúng ta cần thời gian! Những mốc thời gian chính xác."

Quyển nhật trình trên chiếc Charlie Juliet đã bị cháy thành tro còn cuốn băng ghi mốc thời gian theo quy định của FAA còn chưa được phân tích xong. Nhưng Lauren kiểm tra những hồ sơ nội bộ của công ty. "Đài Kiểm soát Không lưu Sân bay cho phép họ tiến ra đường băng lúc bảy giờ mười sáu phút. Và họ thông báo gấp bánh xe lên lúc bảy giờ ba mươi."

Rhyme cũng đã nghe thấy. "Mười bốn phút. Hỏi họ xem có lúc nào máy bay vừa khuất khỏi tầm nhìn và dừng lại trong khoảng thời gian đó không?"

Sachs hỏi theo hướng dẫn và Lauren trả lời, "Có lẽ là ở đây". Cô ta chỉ.

Một đoạn đường dẫn máy bay hẹp dài khoảng 200 feet. Dãy hangar đã che khuất nó khỏi phần còn lại của sân bay. Cuối đoạn đường dẫn này là một điểm giao nhau hình chữ T.

Lauren thốt lên, "Ôi, và đó là một khu vực No Vis của ATC".

"Đúng rồi", Talbot nói, như thể đó là một thông tin rất có ý nghĩa.

"Dịch ra!", Rhyme hét lên.

"Nghĩa là gì?", Sachs hỏi.

"Tức là khuất khỏi tầm quan sát của Đài Kiểm soát Không lưu", Lauren trả lời. "Một điểm mù."

"Đúng rồi", giọng nói reo lên trong tai nghe của cô. "Tốt lắm, Sachs. Niêm phong và kiểm tra. Giải phóng chiếc hangar."

Cô quay sang Talbot và nói, "Chúng tôi sẽ không cần phiền đến chiếc hangar nữa. Tôi sẽ cho nó mở cửa trở lại. Nhưng tôi muốn cho phong tỏa đoạn đường băng kia. Ông có thể gọi cho Đài Kiểm soát Không lưu của sân bay được chứ? Họ có đường dẫn dự phòng không?".

"Tôi có thể", ông ta nói với vẻ nghi ngại. "Họ sẽ không thích chuyện này đâu."

Cô nói, "Nếu có bất kỳ vấn đề gì, cứ bảo họ gọi cho Thomas Perkins, người phụ trách Văn phòng FBI khu vực Manhattan. Anh ta sẽ giải quyết mọi chuyện với Trụ sở chính của FAA."

"FAA? Ở Washington ư?", Lauren hỏi.

"Đúng nó đấy."

Talbot gượng cười. "Thôi, được rồi."

Sachs dợm bước về phía cửa, rồi bất chợt dừng lại, nhìn ra không gian sân bay tấp nập. "Ôi, mà tôi còn có môt chiếc xe", cô nói với Talbot. "Có điều gì đặc biệt mà ông phải làm khi lái xe loanh quanh sân bay không?"

"Có đấy", ông ta nói, "cố gắng đừng có đâm vào chiếc máy bay nào cả".

Chú thích

[48] Hoa liên kiều, hay còn gọi là hoa đầu xâu, tên khoa học là Forsythia suspensa Vahl, một loại cây thuộc họ Nhài (Oleaceae).

[49] RRV (viết tắt của Rapid Response Vehicles): Những chiếc xe phản ứng nhanh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10


"Tôi ở đây rồi, Rhyme", cô thông báo.

Sachs bước ra khỏi chiếc RRV và xỏ đôi găng cao su vào hai bàn tay rồi quấn những dải sao su quanh đôi giày của mình - để bảo đảm cho dấu chân của cô không lẫn với dấu chân của hung thủ, đúng như những gì Rhyme đã dạy cô.

"Nhưng mà ở đây là ở đâu, Sachs?", Rhyme hỏi.

"Tại giao điểm giữa hai đường dẫn máy bay. Giữa một dãy hangar. Đây là nơi mà có lẽ máy bay của Carney đã phải dừng lại."

Sachs bồn chồn liếc nhìn về phía rặng cây phía xa xa. Đó là một ngày nhiều mây, ẩm ướt. Một cơn bão nữa đang đe dọa ập đến. Cô cảm thấy thật trống trải. Có thể lúc này tên Vũ công đang ở đây - có thể hắn quay lại để hủy những bằng chứng hắn bỏ lại, có thể là để giết một cảnh sát và gây khó khăn cho quá trình điều tra. Cũng giống như quả bom ở phố Wall cách đây vài năm, quả bom đã giết chết những kỹ thuật viên của Rhyme.

Hãy bắn trước...

Quỷ tha ma bắt anh đi, Rhyme, anh làm tôi thấy sợ rồi! Tại sao anh cứ làm như tên này có thể đi xuyên qua hết bức tường này đến bức tường khác và phun ra chất độc vậy?

Cô nhấc chiếc hộp đèn PoliLight và cái va li to đùng ở phía sau thùng xe xuống. Cô mở va li. Bên trong là cả trăm thứ dụng cụ của cái nghề này: tuốc nơ vít, cờ lê, búa, kìm cắt dây thép, dao, thiết bị thu thập mẫu vân tay, ninhydrin[50], kẹp nhíp, chổi cọ, panh, kéo, búa nhổ đinh, một bộ thu thập dư chất thuốc súng, bút chì, túi nhựa và túi giấy, dải băng khoanh vùng khu vực bằng chứng...

Bước một, thiết lập vành đai phong tỏa khu vực cần kiểm tra.

Cô chăng dải băng cảnh sát màu vàng quanh toàn bộ khu vực.

Bước hai, tính toán đến cánh báo chí và tầm hoạt động của ống kính máy ảnh cũng như mic ghi âm.

Không thấy cánh báo chí. Ít nhất cũng là chưa. Tạ ơn Chúa.

"Cái gì cơ, Sachs?"

"Tôi đang tạ ơn Chúa là chưa có tay phóng viên nào."

"Một lời cầu nguyện khôn ngoan đấy. Nhưng hãy cho tôi biết cô đang làm gì."

"Vẫn đang khoanh vùng hiện trường."

"Hãy để mắt đến..."

"Lối vào và đường tẩu thoát", cô nói.

Bước ba, xác định lối vào và đường tẩu thoát của hung thủ - chúng có thể trở thành những hiện trường thứ cấp.

Nhưng cô hoàn toàn không biết chúng có thể ở chỗ nào nữa. Hắn có thể tới đây từ bất kỳ đâu. Rình mò quanh những góc đường băng, hoặc lái một chiếc xe chuyên chở hành lý, hoặc xe téc chở xăng vào đây...

Sachs đeo kính và bắt đầu quét chiếc đèn PoliLight trên bề mặt đường băng. Không được hiệu quả như khi ở trong một căn phòng tối, nhưng với bầu trời ầm ì toàn mây xám xịt cô cũng có thể nhìn thấy những vết lốm đốm và dấu chạy ngang dọc sáng lên dưới ánh đèn màu xanh-vàng ma quái. Tuy nhiên, không thấy dấu chân nào.

"Cho phun sạch sẽ chỗ này từ đêm qua rồi", giọng nói vang lên phía sau lưng cô.

Sachs giật mình quay ngoắt lại, bàn tay nắm chặt khẩu Glock, đã rút được một nửa ra khỏi bao.

Tôi chưa bao giờ căng thẳng như thế này, Rhyme. Tất cả là lỗi của anh.

Mấy người đàn ông mặc áo bảo hộ liền quần đang đứng bên cạnh dải băng vàng. Cô cảnh giác bước lại gần họ và kiểm tra kỹ ảnh của họ trên thẻ tên. Tất cả đều ăn khớp với khuôn mặt của từng người. Bàn tay cô từ từ trượt khỏi báng súng.

"Tối nào người ta cũng dùng vòi phun rửa sạch sẽ đường băng. Nếu như cô đang tìm kiếm thứ gì đó. Cứ tưởng cô đang tìm gì."

"Dùng vòi phun cao áp", người thứ hai nói thêm.

Tuyệt thật. Tất cả mọi bằng chứng, mọi dấu chân, mọi mẫu sợi vải liên quan đến tên Vũ công đều đã biến mất.

"Đêm qua các anh có thấy ai ở đây không?"

"Chuyện này chắc có liên quan đến vụ đánh bom?"

"Khoảng bảy giờ mười lăm?", cô vẫn kiên nhẫn.

"Không. Chẳng có ma nào mò ra đây cả. Những cái hangar này đều bỏ không. Có lẽ sớm muộn gì người ta cũng cho phá đi."

"Các anh đang làm gì ở đây vậy?"

"Thì nhìn thấy cảnh sát. Cô là cảnh sát đúng không? Và chỉ nghĩ là chúng tôi phải lại xem thử thế nào. Chuyện này có liên quan đến vụ đánh bom phải không? Thủ phạm là ai vậy? Dân Ả Rập à? Hay mấy thằng cặn bã dân quân vũ trang?"

Cô xua họ đi chỗ khác. Rồi cô nói vào mic, "Rhyme, đêm qua họ cho rửa sạch đường băng rồi. Có vẻ là bằng vòi phun nước cao áp".

"Ôi, không."

"Họ..."

"Này, đằng ấy."

Cô thở dài, quay người lại, cứ đinh ninh nhìn thấy hai tay công nhân lúc nãy. Nhưng vị khách mới lần này là một tay cảnh sát vũ trang vênh váo, đội cái mũ hướng đạo sinh kiểu chú gấu Smokey và diện chiếc quần xám là ly thẳng tắp đến đứt tay. Anh ta cúi người luồn qua dải băng.

"Xin thứ lỗi", cô lên tiếng phản đối, "đây là khu vực cấm ra vào".

Anh ta đi chậm lại chứ vẫn không chịu đứng yên. Cô kiểm tra thẻ của anh ta. Hoàn toàn khớp. Bức ảnh chụp anh ta đang hơi nhìn nghiêng đi một chút. Một người mẫu trang bìa trên tạp chí thời trang dành cho nam giới.

"Cô là sĩ quan cảnh sát từ New York xuống phải không?", anh ta cười toe toét. "Phải nói là đồng phục ở trên đó đẹp thật đấy". Nhìn không chớp mắt vào chiếc quần jean bó sát của cô.

"Khu vực này đã được niêm phong."

"Tôi có thể giúp đỡ mà. Tôi đã học qua một khóa về khoa học hình sự. Chủ yếu là tôi tuần tra trên đường cao tốc nhưng tôi cũng có kinh nghiệm điều tra trọng án. Tóc cô trông bắt mắt thật. Đoán là cô đã nghe câu đó nhiều rồi."

"Tôi thực sự buộc phải yêu cầu anh..."

"Jim Everts."

Đừng có dại mà sa vào cái bẫy xưng tên riêng; nó dính như giấy bẫy ruồi cho mà xem. "Tôi là sĩ quan Sachs."

"Vụ này đúng là to chuyện. Đánh bom cơ đấy. Bung bét."

"Nhìn này, Jim, dải băng này nằm đây là để giữ người khác bên ngoài hiện trường. Còn bây giờ, cách tốt nhất anh có thể giúp tôi là bước lùi lại như cũ, được chứ?"

"Khoan đã. Cô định nói là cả sĩ quan cảnh sát khác cũng bị cấm sao?"

"Đúng, tôi muốn nói thế đấy."

"Ý cô là cả tôi sao?"

"Chính xác."

Có năm yếu tố cơ bản làm hỏng hiện trường vụ án: thời tiết, người thân của nạn nhân, nghi phạm, những kẻ thích sưu tập vật lưu niệm, và - tồi tệ nhất - những cảnh sát đồng nghiệp.

"Tôi sẽ không động vào bất kỳ thứ gì. Xin thề đấy. Chỉ là muốn ngắm cô làm việc thôi, bé yêu ạ."

"Sachs", Rhyme thì thầm, "bảo hắn biến khỏi hiện trường vụ án của cô ngay".

"Jim, biến ra khỏi hiện trường vụ án của tôi ngay."

"Nếu không cô sẽ báo cho cấp trên của hắn."

"Nếu không tôi sẽ báo cho cấp trên của anh."

"Ô kìa, cứ nhất định là phải như vậy sao?" Anh ta giơ cả hai tay lên ra dấu hiệu đầu hàng. Câu tán tỉnh cuối cùng tắc lại trong nụ cười nhăn nhở của anh ta.

"Tiếp tục đi, Sachs."

Tay cảnh sát bảnh trai lững thững bước đi đủ chậm rãi để cố vớt vát chút sĩ diện. Anh ta cũng ngoái lại một lần nhưng cái lườm sắc lẹm của cô khiến anh ta phải câm bặt.

Amelia Sachs bắt đầu bước theo khung chia ô.

Có nhiều cách để tiến hành khám nghiệm các hiện trường vụ án. Kiểm tra tổng quát - bước dọc hiện trường theo một đường ngoằn ngoèo - thường được áp dụng cho những hiện trường ngoài trời vì có thể bao quát môt diện tích lớn trong khoảng thời gian ngắn. Nhưng Rhyme không bao giờ chấp nhận cách này. Anh sử dụng cách kiểm tra theo mô hình khung tọa độ vuông - tức là rà soát toàn bộ diện tích hiện trường từ đầu này đến đầu kia theo một hướng, mỗi lần chỉ được bước từng bàn chân một, sau đó rẽ theo một hướng vuông góc và bắt đầu bước tiếp theo chiều đó. Hồi Rhyme còn phụ trách IRD, "bước tọa độ" cũng đồng nghĩa với việc khám nghiệm hiện trường gây án, và có trời mới cứu được bất kỳ nhân viên cảnh sát nào bị Rhyme bắt quả tang đi đường tắt hoặc lơ đễnh khi họ đang bước trên khung tọa độ đó.

Lần này Sachs mất cả nửa tiếng đồng hồ đi đi lại lại. Mặc dù chiếc xe phun nước có thể đã xóa sạch các dấu vân tay và những bằng chứng dấu vết, nhưng nó cũng không thể nào phá hủy được những bằng chứng lớn hơn mà biết đâu tên Vũ công đã làm rơi, vả lại nó cũng xóa mất những dấu chân hoặc dấu cơ thể nằm ép xuống còn in trên bãi lầy bên cạnh đường băng.

Nhưng cô không tìm thấy gì.

"Chết tiệt thật, Rhyme, chẳng có gì cả."

"Kìa, Sachs, tôi cá là thế nào cũng có. Tôi dám cá là có rất nhiều ấy chứ. Chỉ cần chịu khó nỗ lực hơn một chút so với hầu hết các hiện trường khác. Tên Vũ công không giống những hung thủ khác, hãy nhớ thế."

Ôi trời, lại là chuyện đó.

"Sachs". Giọng anh bỗng trầm xuống dỗ dành. Cô bỗng thấy rùng mình. "Hãy nhập vào hắn", Rhyme thì thầm. "Cô hiểu ý tôi mà."

Cô hiểu chính xác ý anh là gì. Căm ghét ý nghĩ đó. Nhưng, ôi trời, đúng vậy, Sachs biết. Những nhà hình sự học cừ khôi nhất phải có khả năng tìm thấy một chỗ nào đó trong tâm trí mình, nơi mà ranh giới giữa kẻ đi săn và con mồi dường như không còn tồn tại. Họ bước qua những hiện trường vụ án không phải với cương vị cảnh sát đang đi tìm đầu mối mà là chính bản thân hung thủ, cảm nhận được những dục vọng, khát khao và nỗi sợ hãi của hắn. Rhyme sở hữu khả năng bẩm sinh đó. Và mặc dù Sachs cố gắng phủ nhận thì thực tế là cô cũng có. (Mới tháng trước cô đã khám nghiệm một hiện trường - một người cha đã sát hại vợ và con của mình - và tìm được hung khí gây án sau khi tất cả những người khác đã bó tay. Sau khi vụ án kết thúc, cả tuần liền cô không thể nào làm việc được và liên tục bị hành hạ bởi cảm giác kinh hoàng rằng chính cô là kẻ đã đâm chết các nạn nhân. Chứng kiến khuôn mặt họ, nghe rõ mồn một tiếng gào thét của họ.)

Một thoáng im lặng. "Hãy nói với tôi đi", anh nói. Và cuối cùng sự gay gắt trong giọng nói của anh biến mất. "Cô chính là hắn. Cô đang bước qua những chỗ hắn đã từng bước qua, cô đang nghĩ hệt như cách hắn đang nghĩ..."

Tất nhiên trước đây anh vẫn nói những lời như vậy với cô. Nhưng lần này - cũng như tất cả những gì liên quan đến tên Vũ công - Sachs có cảm giác Rhyme còn ấp ủ nhiều điều trong đầu chứ không đơn giản chỉ là tìm kiếm những bằng chứng mơ hồ. Không, cô linh cảm thấy anh đang khát khao muốn biết tất cả những gì có thể ở tên giết người này. Hắn là ai, điều gì khiến hắn ra tay như vậy.

Lại một cái rùng mình. Một hình ảnh hiện lên trong suy nghĩ của cô: Quay lại cái đêm hôm đó. Những ánh đèn pha trên sân bay, âm thanh của những động cơ máy bay, mùi xăng cháy phụt ra từ động cơ phản lực.

"Cố lên, Amelia... Cô chính là hắn. Cô là Vũ công Quan tài. Cô biết Ed Carney đang ở trên máy bay, cô biết cô phải gài quả bom lên máy bay. Hãy tập trung một, hai phút nghĩ về điều đó."

Và cô làm theo, khơi dậy từ đâu đó trong tiềm thức một khát khao được giết.

Anh vẫn tiếp tục, với một giọng nói nghe thật du dương, kỳ ảo. "Cô rất quỷ quyệt", anh nói. "Cô hoàn toàn không có những rào cản về đạo đức. Cô sẽ giết bất kỳ ai. Cô sẽ làm bất kỳ điều gì để đạt được mục đích của mình. Cô đánh lạc hướng, cô lợi dụng người khác... Vũ khí đáng sợ nhất của cô là đánh lạc hướng."

Tôi nằm chờ đợi.

Vũ khí đáng sợ nhất của tôi...

Cô nhắm nghiền mắt lại.

...là đánh lạc hướng.

Sachs cảm thấy một niềm hy vọng đen tối, một sự cảnh giác, một khát khao săn mồi.

"Tôi..."

Anh khẽ khàng tiếp lời. "Có chỗ nào để đánh lạc hướng không, bất kỳ nơi ẩn nấp nào?"

Lúc này cô mở choàng mắt. "Toàn bộ khu vực này trống trải. Không có gì để đánh lạc hướng các phi công cả."

"Cô đang trốn ở đâu vậy?"

"Tất cả các hangar đều bị đóng kín. Cỏ mọc xung quanh lại quá thấp nên không thể trốn ở đó được. Không có xe tải hay thùng phuy dầu nào cả. Không ngóc ngách. Không góc khuất."

Trong thâm tâm cô là sự tuyệt vọng. Mình phải làm gì bây giờ? Mình phải gài quả bom. Mình không còn nhiều thời gian nữa. Đèn pha... đèn pha sáng rực khắp mọi nơi. Cái gì? Mình phải làm gì bây giờ?

Cô nói: "Tôi không thể trốn ở bất kỳ đâu bên ngoài những hangar này. Có rất nhiều công nhân. Địa hình quá trống trải. Chắc chắn họ sẽ nhìn thấy tôi".

Trong giây lát, Sachs lại chìm đắm vào dòng suy tưởng của mình và cô tự hỏi, như cô vẫn thường làm, tại sao Lincoln Rhyme lại có được quyền năng nhập hồn cô vào người khác. Thỉnh thoảng điều đó khiến cô tức giận. Thỉnh thoảng nó lại làm cô phấn khích.

Đổ phịch người xuống như một kẻ đang cần náu mình, bất chấp cơn đau ở hai đầu gối do chứng viêm khớp đã hành hạ Sachs dở sống dở chết suốt mười năm qua, trong cuộc đời ba mươi hai năm của cô. "Ở đây quá trống trải. Tôi cảm thấy bị phơi ra trần trụi."

"Lúc này cô đang nghĩ gì?"

"Có rất nhiều người đang săn lùng tôi. Tôi không thể để họ tìm thấy tôi. Tôi không thể!"

Như thế này thật nguy hiểm. Phải lẩn trốn. Phải thấp người xuống.

Không có chỗ nào để trốn.

Nếu mình bị nhìn thấy, tất cả sẽ tan thành mây khói. Họ sẽ phát hiện ra quả bom, họ sẽ biết mình đang bám theo ba nhân chứng kia. Họ sẽ đưa các nhân nhân chứng vào chương trình bảo vệ đặc biệt. Mình sẽ không bao giờ hạ được chúng. Mình không thể để điều đó xảy ra.

Cảm nhận được nỗi hoảng sợ của hắn, cô quay lại đối diện với nơi duy nhất có thể lẩn trốn được. Chiếc hangar ngay bên cạnh đường băng. Trên bức tường trước mặt cô lúc này là một khung cửa sổ duy nhất bị vỡ, kích thước khoảng 3x4 feet. Trước đó cô đã bỏ qua nó vì khung cửa sổ được che kín bằng một tấm gỗ dán mục nát, được đóng đinh chặt với khung cửa từ phía bên trong.

Cô chậm rãi lại gần. Nền đất phía trước được trải sỏi; hoàn toàn không có dấu chân.

"Có một cửa sổ được đóng kín, Rhyme. Chắn bằng gỗ dán từ phía trong. Cửa kính bị đập vỡ."

"Nó có bẩn không, mảng kính còn lại trên cửa số ấy?"

"Bẩn lắm."

"Còn mép kính?"

""Không, rất sạch sẽ." Cô chợt hiểu tại sao anh lại hỏi câu hỏi đó. "Tấm kính mới bị đập vỡ!"

"Chính xác. Đẩy tấm gỗ đi. Đẩy mạnh vào."

Nó đổ ập vào bên trong một cách dễ dàng và đập xuống nền nghe đánh rầm một tiếng rất to.

"Tiếng gì vậy?", Rhyme quát lên. "Sachs, cô không sao đấy chứ?"

"Chỉ là tấm gỗ rơi xuống thôi", cô trả lời, lại bắt đầu cảm thấy ớn lạnh vì sự bứt rứt và căng thẳng của anh.

Cô rọi chiếc đèn pin halogen của mình vào trong hangar. Nó bị bỏ không.

"Cô thấy những gì, Sachs?"

"Trống trơn. Vài cái hộp bụi bặm. Trên sàn nhà có sỏi..."

"Đúng là hắn rồi!", Rhyme trả lời. "Hắn phá cửa sổ và ném sỏi vào trong, để hắn có thể đứng trên sàn nhà mà không để lại dấu chân. Đó là một thủ đoạn xưa như Trái Đất. Có dấu chân nào ở phía trước cửa sổ không? Thế nào chả đầy sỏi", anh chua chát nói thêm.

"Đoán đúng rồi đấy."

"Được rồi. Kiểm tra cửa sổ. Rồi trèo vào bên trong. Nhưng nhớ đề phòng xem có cái bẫy mìn nào không. Hãy nhớ chuyện thùng rác cách đây vài năm."

Thôi đi, Rhyme. Thôi ngay đi.

Sachs lại lia đèn pin vào bên trong chiếc hangar một lần nữa. "Sạch sẽ, Rhyme. Không có bẫy gì cả. Tôi đang kiểm tra khung cửa sổ."

Thiết bị PoliLight không hiển thị được gì ngoài một dấu mờ mờ của ngón tay đi găng vải để lại. "Không có sợi, chỉ có hoa văn của vải bông thôi."

"Có gì trong hangar không? Bất kỳ thứ gì đáng đánh cắp?"

"Không. Hầu như trống trơn."

"Tốt lắm", Rhyme nói.

"Sao lại tốt?", cô hỏi. "Tôi đã bảo là chẳng có dấu vân tay nào cả."

"À, nhưng có nghĩa đó đúng là hắn rồi. Sẽ không logic nếu có ai đó khác phá cửa vào đây mà lại còn mang găng tay vải trong khi chẳng có gì đáng để ăn cắp cả."

Cô thận rọng kiểm tra. Không dấu vân tay, không dấu chân, không có bất kỳ bằng chứng nào.

Chú thích

[50] Ninhydrin: Tên khoa học là triketohydrindene hydrate, một loại hóa chất dùng để xác định dấu vân tay.

Cô cho chạy thiết bị hút bụi Dustbuster và cho những thứ hút được vào túi.

"Mảnh thủy tinh và sỏi", cô hỏi. "Cho vào túi giấy chứ?"

"Ừ."

Hơi ẩm thường phá hủy những bằng chứng dạng vi chất và mặc dù trông có vẻ không được chuyên nghiệp cho lắm thì thực tế là một số bằng chứng sẽ được bảo quản và vận chuyển tốt nhất trong những túi giấy màu nâu thay vì dùng túi nhựa.

"Được rồi, Rhyme. Tôi sẽ chuyển chúng về chỗ anh trong vòng bốn mươi phút nữa ."

Họ cắt liên lạc.

Trong lúc cẩn thận xếp đặt những chiếc túi vào trong chiếc RRV, Sachs cảm thấy bồn chồn, khó chịu, giống như mọi lần sau khi khám nghiệm một hiện trường mà cô không tìm thấy bằng chứng cụ thể nào - dao hoặc súng hay ít nhất cũng là ví của mhung thủ. Những dấu vết mà cô thu thập được có thể là đầu mối để lần ra tên Vũ công là ai và hắn đã trôn ở đâu. Nhưng toàn bộ nỗ lực của cô có thể cũng chỉ là vô ích. Cô nóng lòng muốn quay lại phòng thí nghiệm của Rhyme để kiểm tra xem mình đã tìm được những gì.

Sachs trèo lên chiếc wagon và lái xe quay trở lại văn phòng Hudson Air. Cô vội vã bước vào phòng làm việc của Ron Talbot. Ông ta đang nói chuyện với một người đàn ông cao gầy đứng quay lưng về phía cửa. Sachs lên tiếng, "Tôi vừa phát hiện ra nơi hắn ẩn nấp, ông Talbot. Hiện trường được giải phóng. Ông có thể thông báo cho Đài Kiểm soát...".

Người đàn ông kia quay mặt lại. Đó là Brit Hale. Anh ta cau mày, cố gắng nghĩ đến tên cô, rồi cũng nhớ ra. "Ồ, sĩ quan Sachs. Này. Công việc của cô thế nào rồi?"

Theo phản xạ tự nhiên cô đang định gật đầu chào lại, rồi bỗng ngưng phắt lại.

Anh ta làm gì ở đây thế này? Lẽ ra anh ta phải đang ở trong ngôi nhà an toàn rồi chứ.

Cô nghe thấy tiếng nức nở khe khẽ và nhìn vào trong phòng họp. Trong đó là Percey Clay đang ngồi bên cạnh Lauren, cô nàng ngăm đen xinh đẹp mà theo Sachs nhớ là trợ lý của Ron Talbot. Lauren đang khóc và Percey, cứng cỏi ngay trong nỗi đau khổ của chính mình, đang cố an ủi cô ta. Percey ngước lên, nhận ra Sachs và gật đầu chào cô.

Không, không, không...

Và rồi cú sốc thứ ba.

"Xin chào, Amelia", Jerry Banks vui vẻ thốt lên, vừa nhấp cà phê vừa đứng bên cạnh cửa sổ, nơi anh ta đang chiêm ngưỡng chiếc Learjet đậu trong hangar. "Chiếc máy bay đó thật ấn tượng phải không?"

"Họ đang làm gì ở đây vậy?", Sachs hỏi giật giọng, chỉ tay về phía Hale và Percey, quên phắt rằng Banks có cấp bậc cao hơn cô.

"Họ có vấn đề gì đó liên quan đến một tay thợ cơ khí", Banks nói. "Percey muốn ghé qua đây. Cố gắng tìm..."

"Rhyme", Sachs quát lên vào máy bộ đàm. "Chị ta đang ở đây."

"Ai cơ?", anh gắt gỏng hỏi. "Và đây là ở đâu chứ?"

"Percey. Và cả Hale nữa. Ở sân bay."

"Không! Lẽ ra họ phải đang ở trong ngôi nhà an toàn chứ."

"Hừ, họ không ở đó. Họ đang đứng ngay trước mặt tôi."

"Không, không, không!", Rhyme gầm lên. Một khoảnh khắc nặng nề trôi qua. Rồi anh hỏi, "Hỏi Banks xem họ có thực hiện quy trình lái xe chống bị bám đuôi không?"

Banks lúng túng trả lời là không. "Cô ấy cứ khăng khăng là phải cho họ ghé qua đây trước đã. Tôi đã tìm mọi cách thuyết phục cô ấy..."

"Lạy Chúa, Sachs. Hắn đang ở đó. Tên Vũ công. Tôi biết là hắn đang ở đó."

"Làm sao hắn có thể làm thế được?" Ánh mắt của Sachs lia ra ngoài cửa sổ.

"Cho họ nằm thấp xuống", Rhyme ra lệnh. "Tôi sẽ đề nghị Dellray điều một chiếc xe thùng bọc thép từ văn phòng địa bàn White Plains của FBI tới."

Percey nghe thấy cuộc cãi vã. "Tôi sẽ tới ngôi nhà an toàn của các vị sau khoảng một giờ nữa. Tôi phải tìm bằng được một thợ cơ khí để tiếp tục công việc..."

Sachs vẫy tay ra hiệu cho cô im lặng và nói, "Jerry, giữ họ ở yên đây". Cô chạy lại phía cửa và căng mắt nhìn khắp khoảng trống mênh mông của sân bay đúng lúc một chiếc máy bay phản lực đang ầm ầm lao xuống đường băng. Cô kéo cần mic lại gần miệng hơn. "Bằng cách nào, Rhyme?", cô hỏi. "Hắn có thể tấn công chúng tôi bằng cách nào?"

"Tôi không biết nữa. Hắn có thể làm bất kỳ điều gì."

Sachs cố gắng nhập trở lại suy nghĩ của tên Vũ công, nhưng không thể. Tất cả những gì cô nghĩ lúc này, đánh lạc hướng...

"Khu vực đó có được bảo đảm an ninh không?", Rhyme hỏi.

"Khá chặt chẽ. Hàng rào thép gai. Cảnh sát vũ trang canh gác lối ra vào, kiểm tra vé và giấy tờ tùy thân."

Rhyme hỏi, "Nhưng họ không kiểm tra giấy tờ tùy thân của cảnh sát, đúng không?"

Sachs nhìn những nhân viên cảnh sát mặc sắc phục và nhớ lại họ đã nhanh nhảu vẫy tay cho cô đi qua như thế nào. "Ôi, chết tiệt, Rhyme, có đến hàng tá xe mang biển hiệu cảnh sát ở đây. Và vài chiếc xe bình thường khác. Tôi lại không biết mặt những nhân viên cảnh sát hay thám tử ở đây... Hắn có thể là bất kỳ ai trong số họ."

"Được rồi, Sachs. Nghe này, hãy tìm hiểu xem có cảnh sát địa phương nào bị mất tích không. Trong vòng hai đến ba tiếng đồng hồ vừa qua. Rất có thể tên Vũ công đã sát hại một người và đánh cắp giấy tờ cùng sắc phục của nạn nhân."

Sachs gọi một người cảnh sát vũ trang của bang lại bên cửa, kiểm tra mặt và phù hiệu của anh ta rất kỹ lưỡng, rồi khẳng định anh ta chính là người trong ảnh. Cô nói, "Chúng tôi cho rằng tên giết người có thể ở gần đây, có thể hắn đang đóng giả một sĩ quan cảnh sát. Tôi cần anh cho kiểm tra tất cả mọi người ở đây. Nếu có ai mà anh không biết mặt, hãy thông báo cho tôi ngay. Còn nữa, hãy kiểm tra xem có cảnh sát nào trong khu vực bị mất tích trong vài tiếng đồng hồ vừa qua không".

"Tôi sẽ làm ngay, sĩ quan."

Cô trở lại văn phòng. Trên các cửa sổ không có rèm che và Banks đã đưa cả Percey cùng với Hale tới căn phòng phía trong.

"Có chuyện gì thế?", Percey hỏi.

"Hai người sẽ đi khỏi đây trong vòng năm phút nữa", Sachs nói, mắt vẫn nhìn về phía cửa sổ, cố gắng suy đoán xem tên Vũ công sẽ ra tay bằng cách nào. Cô hoàn toàn không có manh mối gì.

"Tại sao?" Người nữ phi công hỏi, cau mày lại.

"Chúng tôi cho rằng kẻ giết chồng chị đang ở đây. Hoặc đang trên đường tới đây."

"Ôi, thôi đi. Cảnh sát chẳng có mặt ở khắp mọi nơi còn gì. Ở đây tuyệt đối an toàn. Tôi cần phải..."

Sachs gằn giọng quát, "Không tranh cãi gì hết".

Nhưng Percey vẫn không thôi. "Chúng tôi không thể đi được. Thợ cơ khí chính của chúng tôi vừa mới bỏ việc. Tôi còn phải..."

"Perce", Hale nhẹ nhàng nói, "có lẽ chúng ta cần phải nghe theo lời cô ấy".

"Chúng ta phải làm cho cái máy bay kia..."

"Quay vào. Trong kia kìa. Và im lặng đi."

Percey há hốc miệng vì sững sờ. "Cô không được nói với tôi cái kiểu ấy. Tôi không phải là tù nhân."

"Sĩ quan Sachs? Xin chào?" Người cảnh sát vũ trang mà cô vừa nói chuyện bên ngoài văn phòng đang bước vào qua ngưỡng cửa. "Tôi vừa kiểm tra lướt qua tất cả những cảnh sát mặc sắc phục và cả các thám tử ở đây nữa. Không có ai lạ mặt cả. Và cũng không có báo cáo nào về trường hợp một sĩ quan cảnh sát của Westchester hay của bang bị mất thích. Nhưng trung tâm thông tin của chúng tôi có cho biết một chuyện mà có lẽ cô nên biết. Cũng có thể là chẳng có gì đâu. Nhưng..."

"Anh nói đi."

Percey Clay nói, "Cô sĩ quan, tôi phải nói chuyện với cô..."

Sachs phớt lờ cô ta và gật đầu với người cảnh sát. "Nói tiếp đi."

"Bộ phận Tuần tra Giao thông ở White Plains, cách đây khoảng hơn hai dặm. Họ phát hiện được một cái xác được giấu trong thùng rác. Họ cho rằng anh ta bị giết cách đây khoảng một giờ, có lẽ không đến."

"Rhyme, anh vẫn nghe đấy chứ?"

"Có."

Sachs hỏi viên cảnh sát. "Tại sao anh lại cho rằng đây là việc quan trọng?"

"Vì cái cách mà nạn nhân bị giết. Cực kỳ khủng khiếp."

"Hỏi anh ta xem bàn tay và khuôn mặt của nạn nhân có bị mất không", Rhyme nói.

"Cái gì cơ?"

"Cứ hỏi đi!"

Cô làm theo, và tất cả mọi người trong văn phòng đều im bặt, tròn mắt nhìn Sachs.

Viên cảnh sát vũ trang hấp háy mắt vì ngạch nhiên và thốt lên "Vâng, thưa cô, thưa sĩ quan. Vâng, ít nhất thì hai bàn tay cũng bị cắt. Nhân viên tổng đài không nói gì đến khuôn mặt cả. Nhưng làm sao cô lại biết...?".

Rhyme hét lên, "Nó đang ở đâu? Cái xác của nạn nhân ấy?".

Cô nhắc lại câu hỏi.

"Trong xe của chuyên viên pháp y. Họ đang chở nó tới nhà xác của hạt."

"Không", Rhyme nói. "Yêu cầu họ chở tới chỗ cô, Sachs. Tôi muốn cô khám nghiệm nó."

"Cái..."

"Cái xác", anh nói. "Nó có câu trả lời cho việc hắn sẽ tấn công cô như thế nào. Tôi không muốn cho Percey và Hale di chuyển đến chừng nào chúng ta biết phải đương đầu với điều gì."

Cô nhắc lại cho viên cảnh sát nghe yêu cầu của Rhyme.

"Được rồi", anh ta nói. "Tôi sẽ lo chuyện này. Mà... Ý cô là muốn chuyển cái xác tới đây sao?"

"Đúng thế. Ngay bây giờ."

"Bảo họ đưa tới khẩn trương lên, Sachs", Rhyme nói. Anh thở dài. "Ôi, chuyện này tệ thật, quá tệ."

Và Sachs chợt có suy nghĩ rất khó chịu rằng nỗi đau buồn sâu sắc của Rhyme lúc này không chỉ là dành cho người đàn ông mới không may bị giết một cách tàn nhẫn, cho dù anh ta là ai đi chăng nữa, mà còn cả cho những người, có thể, sắp trở thành nạn nhân tiếp theo.

Người ta vẫn tưởng rằng súng trường là công cụ quan trọng của một xạ thủ bắn tỉa, nhưng họ lầm to. Đó chính là cái kính ngắm.

Chúng ta gọi nó là gì, quân nhân? Chúng ta có gọi nó là một cái ống ngắm từ xa không? Hay gọi đơn giản là kính?

Thưa ngài, chúng ta không gọi thế. Chúng ta gọi đó là kính ngắm. Đây là một chiếc kính ngắm hiệu Redfield, độ phóng đại 3x9 với khung ngắm hình chữ thập. Không thể có cái nào tốt hơn thế, thưa ngài.

Chiếc kính ngắm mà Stephen đang lắp lên trên khẩu Model 40 có chiều dài là 12,75 inch và chỉ nặng hơn 12 ounce một chút. Nó được sản xuất đi kèm với đúng khẩu súng trường này, với những số sêri hoàn toàn ăn khớp và thước ngắm cũng đã được hiệu chỉnh rất kỳ công. Dung sai của kính ngắm cũng đã được kỹ sư quang học của nhà máy sản xuất cố định sao cho hình chữ thập nằm ở mép trên trái tim của một người cách đó khoảng 500 thước sẽ hầu như không dịch chuyển khi đầu người bắn nghiêng sang trái hoặc sang phải. Thiết bị quang học này được thiết kế chính xác đến nỗi lực giật của khẩu súng chỉ làm chiếc kính ngắm giật lùi khoảng một milimét về phía lông mày của Stephen mà không chạm vào lấy một sợi lông nào.

Chiếc kính ngắm Redfield đen bóng loáng trông thật thích mắt, và Stephen luôn bọc nó rất cẩn thận trong một tấm vải nhung rồi đặt vào hộp xốp trong chiếc hộp đàn guitar của hắn.

Giờ đây, nằm ẩn mình trong một chiếc ổ lót bằng cỏ cách khu hangar và văn phòng của Hudson Air khoảng 300 thước, Stephen lắp chiếc kính ngắm đen bóng vào khe nấc cài, vuông góc với khẩu súng (lần nào hắn cũng nghĩ đến cây thánh giá của bố dượng khi hắn lắp chiếc kính ngắm), rồi xoay cái ống hình trụ nặng trịch này vào vị trí với một tiếng tách rất vui tai. Hắn vặn nốt những con ốc thật chắc chắn.

Quân nhân, anh có phải là một xạ thủ bắn tỉa cừ khôi không?

Thưa ngài, tôi là người xuất sắc nhất.

Những phẩm chất của anh là gì?

Thưa ngài, tôi có tình trạng thể lực hoàn hảo, tôi là người cẩn thận, tôi thuận tay phải, tôi có thị lực 20/20, tôi không hút thuốc, uống ruợu hay sử dụng bất kỳ loại ma túy nào, tôi có thể nằm phục tại chỗ nhiều giờ liền, và tôi sống để nã đạn bắn tung đít kẻ thù của mình.

Hắn nằm nép sâu vào trong đống lá khô và cỏ.

Rất có thể ở đây có cả lũ giòi, hắn thầm nghĩ. Nhưng ngay lúc này hắn không hề cảm thấy nhớp nháp. Hắn đang thực hiện nhiệm vụ và điều đó hoàn toàn choán tâm trí của hắn.

Stephen ôm khẩu súng, hít hà mùi dầu máy tỏa ra từ chốt kéo khóa nòng và mùi mỡ bò từ sợi dây đeo đã cũ, mềm mại như len angora. Khẩu Model 40 là loại súng trường bắn tỉa tiêu chuẩn của NATO sử dụng cỡ đạn 7,62 milimét và nặng khoảng tám pound, mười ounce. Lực kéo cò dao động trong khoảng từ ba đến năm pound, nhưng Stephen đã đặt cao hơn một chút vì hắn có những ngón tay cực khỏe. Khẩu súng có tầm hoạt động hiệu quả hơn 1000 thước, mặc dù Stephen đã từng thực hiện những phát bắn tiêu diệt mục tiêu ở cự ly hơn 1300 thước.

Stephen hiểu tường tận khẩu súng. Trước kia bố dượng hắn thường nói, trong các đội bắn tỉa, bản thân xạ thủ bắn tỉa không được phép tháo lắp súng, và ông ta nhất định không bao giờ cho phép hắn tháo súng. Nhưng đối với Stephen thì nguyên tắc đó của ông ta hoàn toàn chẳng có gì là thỏa đáng và thế là, trong một hành động ương bướng rất khác với bản tính hay tuân thủ mệnh lệnh của hắn, Stephen đã bí mật tự mày mò cách tháo lắp khẩu súng trường, lau chùi sạch sẽ, sửa chữa, thậm chí cả những bộ phận cơ khí cần được hiệu chỉnh hoặc thay thế.

Qua chiếc kính ngắm hắn lia mắt qua Hudson Air. Hắn không nhìn thấy Người vợ, mặc dù hắn biết cô ta đang ở đó hoặc không sớm thì muộn cũng tới đó. Khi nghe lại cuốn băng ghi âm lén đường dây điện thoại của Hudson Air, Stephen đã nghe thấy cô ta nói chuyện với ai đó tên là Ron rằng họ sẽ thay đổi kế hoạch; thay vì đi tới ngôi nhà an toàn họ sẽ lái xe tới sân bay để tìm một vài thợ cơ khí có thể làm nốt công việc còn dang dở trên chiếc máy bay.

Sử dụng kỹ thuật trườn thấp người, lúc này Stephen đang di chuyển về phía trước cho đến khi hẳn ở trên một gờ đất thấp, vẫn nằm ẩn sau rặng cây và cỏ nhưng lại có thể quan sát tốt hơn toàn bộ hangar, khu văn phòng, bãi đỗ xe phía trước, chia tách hắn khỏi những bãi cỏ bằng phẳng và hai đoạn đường băng.

Đây thật là một khu vực tiêu diệt lý tưởng. Rộng rãi. Hầu như không có chỗ ẩn náu. Từ đây có thể dễ dàng phong tỏa được toàn bộ đường vào và lối ra.

Có hai người đứng bên ngoài cửa trước. Một người là cảnh sát của hạt hoặc của bang. Người kia là một phụ nữ - mái tóc đỏ rực thò ra dưới một chiếc mũ lưỡi trai bóng chày. Rất xinh đẹp. Cô ta cũng là cớm, dù mặc thường phục. Hắn có thể nhìn thấy đường viền vuông vắn của một khẩu Glock hoặc Sig-Sauer bên hông cô ta. Hắn nâng chiếc thước ngắm đo khoảng cách lên và chiếu hình ảnh rời rạc đó lên mái tóc màu đỏ của người phụ nữ, hắn chậm rãi chỉnh chiếc vòng nhỏ cho đến khi những hình ảnh rời rạc đó khớp lại hoàn toàn với nhau.

316 thước.

Hắn đặt thước ngắm khoảng cách xuống và giương khẩu súng trường lên, nhắm thẳng vào người phụ nữ, đặt hình chữ thập trong kính ngắm vào mái tóc cô ta một lần nữa. Hắn liếc nhìn khuôn mặt xinh đẹp của cô ta. Vẻ quyến rũ của người phụ nữ làm hắn thấy khó chịu. Hắn không thích điều đó. Không thích cô ta. Bất giác hắn tự hỏi tại sao.

Cỏ bắt đầu loạt soạt xung quanh hắn. Hắn thầm nghĩ: Lũ giòi.

Bắt đầu cảm thấy nhớp nhúa.

Khuôn mặt trên khung cửa sổ...

Hắn chỉnh hình chữ thập xuống ngực cô ta.

Cảm giác nhớp nhúa chợt biến mất.

Quân nhân, phương châm của một xạ thủ bắn tỉa là gì?

Thưa ngài, đó là "Một cơ hội, một phát súng, một mục tiêu bị tiêu diệt".

Những điều kiện lúc này quả là hoàn hảo. Hơi có gió nhẹ thổi ngang từ phải sang trái, theo ước tính của hắn là với tốc độ khoảng bốn dặm một giờ. Độ ẩm trong không khí khá cao sẽ làm viên đạn ăn lên đôi chút. Hắn đang bắn qua một địa hình thống nhất giữa các luồng nhiệt tương đối cân bằng.

Hắn trườn trở lại xuống dưới gờ đất một chút, dùng một que thông nòng đầu có gắn vải bông mềm lau sạch nòng khẩu Model 40. Bao giờ cũng phải lau sạch súng trước khi bắn. Chỉ cần một giọt hơi nước hoặc dầu nhỏ nhất đọng lại trong nòng súng cũng có thể làm chệch phát súng khoảng một inch là ít. Rồi hắn quấn dây đeo súng lại và nằm xuống chiếc ổ của mình.

Stephen nạp năm viên đạn vào băng, Chúng đều là đạn tiêu chuẩn M-118, được sản xuất tại nhà máy lừng danhLakeCity. Bản thân viên đạn nặng 173 grain[51] có đầu nhọn hình đuôi thuyền, xuyên thẳng vào mục tiêu với tốc độ hơn nửa dặm một giây. Tuy nhiên Stephen đã chỉnh sửa lại đầu đạn một chút. Hắn đã khoan sâu vào lõi đạn và đổ vào đó một lượng nổ bổ sung, đồng thời thay lớp vỏ thép tiêu chuẩn của viên đạn bằng đầu đạn gốm đặc biệt có khả năng xé toang bất kỳ loại áo giáp chống đạn nào.

Hắn lấy ra một tấm khăn rộng chuyên dùng để lau bát đĩa và trải nó xuống mặt đất để hứng những vỏ đạn bắn văng ra. Rồi hắn quấn thêm một vòng dây đeo súng quanh bắp tay trái của mình và tì khuỷu tay đó thật chắc chắn trên mặt đất, giữ cho cánh tay trước vuông góc tuyệt đối với mặt đất - như một giá đỡ bằng xương. Hắn "bắt cố định" má mình và ngón tay cái bên phải vào phần báng súng ngay phía trên tay cò.

Rồi hắn bắt đầu chậm rãi lia mắt qua khu vực tiêu diệt.

Thật khó có thể nhìn được bên trong khu văn phòng nhưng Stephen chợt thoáng thấy bóng Người vợ.

Đúng rồi! Chính là cô ta.

Cô ta đang đứng phía sau một người đàn ông to béo tóc xoăn mặc một chiếc áo sơ mi trắng nhàu nhĩ. Tay anh ta cầm một điếu thuốc. Một người đàn ông trẻ tuổi tóc vàng mặc bộ com lê, thắt lưng cài tấm phù hiệu, đẩy hai người vào trong, khuất khỏi tầm nhìn.

Cứ kiên nhẫn... cô ta sẽ lại thò mặt ra ngay. Chúng không biết là mình ở đây. Mình có thể chờ cả ngày cũng được. Chừng nào lũ giòi...

Lại những ánh đèn pha nhấp nhoáng.

Một chiếc xe cấp cứu của hạt xộc thẳng vào bãi đỗ xe. Cô ả cảnh sát tóc đỏ nhìn thấy nó ngay. Mắt cô ta sáng rực lên vì phấn khích. Cô ta chạy vội về phía chiếc xe.

Stephen hít một hơi thật sâu.

Một cơ hội...

Ngắm súng vào mục tiêu đi, quân nhân.

Góc nâng thông thường của khoảng cách 316 thước sẽ là khoảng ba phút, thưa ngài. Hắn chỉnh kính ngắm sao cho nòng súng sẽ được chỉnh ăn lên một chút để bù lại độ rơi của đường đạn do tác động của trọng lực.

Một phát súng...

Tính toán tác động của gió thổi ngang, quân nhân.

Thưa ngài, công thức tính là nhân khoảng cách vài trăm thước này với vận tốc của đường đạn rồi chia cho 15. Stephen tính rất nhanh trong đầu: Độ chệch do gió sẽ vào khoảng gần một phút. Hắn chỉnh lại kính ngắm theo thông số đó.

Thưa ngài, tôi đã sẵn sàng, thưa ngài.

Một mục tiêu bị diệt...

Một vệt nắng hắt ra từ phía sau đám mây và chiếu sáng mặt tiền của khu văn phòng. Stephen bắt đầu thở thật sâu và chậm rãi.

Hắn gặp may; lũ giòi đã lánh xa. Và không còn khuôn mặt nào đang theo dõi hắn đằng sau những khung cửa sổ.

Chú thích

[51] Grain: Đơn vị đo trọng lượng, tương đương 0,065gam.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11


Giờ thứ 4 của 45

Tay nhân viên pháp y nhảy từ trên xe cứu thương xuống.

Cô gật đầu chào anh ta. “Tôi là sĩ quan Sachs.”

Anh ta xoay cái bụng tròn quay của mình về phía cô và hỏi với nét mặt tỉnh bơ, “Vậy đấy. Chính cô là người gọi bánh pizza à?”. Rồi cười khùng khục.

Cô thở dài. “Chuyện gì xảy ra vậy?”, Sachs hỏi.

“Chuyện gì đã xảy ra ấy à? Với gã này sao? Anh ta bị giết, chuyện xảy ra như vậy đấy.” Anh ta chăm chú nhìn cô, rồi lắc đầu. “Cô là cảnh sát kiểu gì vậy? Tôi chưa bao giờ nhìn thấy cô ở đây cả.”

“Tôi ở trên thành phố xuống.”

“À, thành phố cơ đấy. Cô ở trên thành phố xuống. Hừm, có lẽ nên hỏi cho chắc ăn”, anh ta nói thêm vẻ nghiêm trọng. “Thế trước đây cô đã bao giờ nhìn thấy xác chết chưa?”

Nhiều khi chúng ta cũng phải chịu nhún mình một chút. Còn việc nhún mình như thế nào và nhún mình đến đâu cũng đòi hỏi phải có thời gian, nhưng đó là một bài học rất giá trị. Nhiều khi còn hơn cả giá trị, nhiều khi đó là điều cần thiết. Cô mỉm cười. “Anh biết đấy, ở đây chúng tôi đang phải đối mặt với tình hình rất khẩn trương. Chắc chắn tôi sẽ đánh giá rất cao sự giúp đỡ của anh. Anh có thể cho biết các anh phát hiện ra nạn nhân ở đâu không?”

Anh ta chằm chằm nhìn vào ngực cô trong giây lát. “Lý do tôi hỏi cô về việc đã bao giờ nhìn xác chết chưa là vì chắc chắn cái xác này sẽ làm cô phải suy nghĩ. Tôi có thể làm tất cả những gì cần làm, kiểm tra này nọ.”

“Cảm ơn. Chúng ta sẽ xét đến chuyện đó sau. Còn bây giờ, xin hỏi lại lần nữa, các anh tìm thấy anh ta ở đâu?”

“Trong thùng rác tại một bãi đỗ xe cách đây khoảng hai nháy…”

“Có nghĩa là hai dặm”, một giọng nói khác bổ sung.

“Ê, Jim”, tay nhân viên pháp y nói.

Sachs quay người lại. Ôi trời, tuyệt thật. Lại là tay cảnh sát trên trang bìa tạp chí GQ. Chính anh chàng đã tán tỉnh cô trên đường dẫn máy bay. Anh ta đang sải bước lại gần chiếc xe cứu thương.

“Chào cưng, lại là anh đây. Cái dải băng niêm phong của em sao rồi? Cậu có gì đấy, Earl?”

“Một cái xác, không có bàn tay.” Earl mở toang cánh cửa xe, cúi người vào trong và kéo mở khóa chiếc túi xác. Máu chảy tràn xuống cả sàn chiếc xe cứu thương.

“Ê, này.” Earl nháy mắt. “Nói xem, Jim, sau khi xong việc ở đây, có muốn đi làm tí spagetti không?”

“Có lẽ móng giò lợn còn thích hơn”.

“Cũng là một ý hay”.

Rhyme nói chen ngang vào. “Sachs, có chuyện gì vậy? Cô nhận được cái xác chưa?”

“Tôi có nó đây rồi. Đang tìm hiểu xem đầu đuôi câu chuyện thế nào.” Quay sang tay nhân viên pháp y cô nói, “Chúng ta phải giải quyết cho xong chuyện này đi. Có ai biết nạn nhân là ai không ?”.

“Không có gì để xác định danh tính của anh ta. Cũng chưa có trường hợp nào bị báo là mất tích. Không ai nhìn thấy gì.”

“Liệu có khả năng anh ta cũng là cảnh sát không?”

“Không. Ít nhất cũng không có ai mà tôi biết”, Jim nói. “Còn cậu thì sao, Earl?”

“Không. Nhưng mà tại sao chứ?”

Sachs không trả lời. Cô nói, “Tôi cần khám nghiệm anh ta”.

“Được rồi, thưa quý cô”, Earl nói. “Để tôi giúp cô một tay nhé?”

“Mẹ kiếp”, tay cảnh sát nói, “nghe có vẻ như anh ta mới là người cần được giúp”. Anh ta cười khùng khục; tay nhân viên pháp y cũng cười phụ họa hinh hích nghe như lợn kêu.

Cô trèo lên thùng sau của chiếc xe cứu thương và mở toang hẳn khóa chiếc túi đựng cái xác.

Và chỉ vì cô không chịu tụt bỏ chiếc quần jean của mình để lên giường với họ hoặc không ít nhất cũng phải đáp lại những lời ỡm ờ tán tỉnh, họ không còn sự lựa chọn nào khác là tiếp tục tra tấn cô.

“Vấn đề là, đây không đơn giản như những vụ va quệt giao thông mà cô vẫn quen nhìn đâu”, Earl bảo cô. “Ê, Jim này, vụ này có tệ bằng vụ cậu nhìn thấy tuần trước không nhỉ?”

“Cái đầu mà chúng ta tìm thấy chứ gì?” Tay cảnh sát ngẫm nghĩ, “ Mẹ kiếp, tớ thà ngày nào cũng vớ được một cái đầu mới rụng còn hơn là xác chết một tháng trời. Em đã bao giờ nhìn thấy xác chết sau một tháng chưa, cưng ơi? Nói chung là không thể có thứ gì khó chịu hơn. Cứ ngâm một xác chết trong khoảng ba, bốn tháng trong nước mà xem, chà chà, chẳng vấn đề gì sất – chủ yếu chỉ còn xương là cùng. Nhưng cứ thử tìm thấy một cái xác chết ngâm trong nước khoảng một tháng…”

“Kinh tởm”, Earl phụ họa. “Ặc, ặc…”

“Em đã bao giờ thấy xác chết một tháng chưa, cưng?”

‘Rất biết ơn nếu anh không nói như vậy nữa, Jim”, cô lơ đãng nói với tay cảnh sát.

“Xác chết một tháng ấy à?”

“Cưng.”

“Được chứ, chắc chắn rồi.”

“Sachs”, Rhyme gắt , “có chuyện quái gì đang diễn ra thế?”

“Không rõ danh tính, Rhyme. Không ai biết nạn nhân là ai. Hai bàn tay đã bị cắt bỏ bằng một chiếc cưa lưỡi mảnh sắc như dao cạo.”

“Percey vẫn an toàn chứ? Hale nữa?”

“Họ đang ở trong văn phòng. Banks đang ở cùng họ. Tránh xa khỏi cửa sổ rồi. Có tin tức gì về chiếc xe thùng chưa?”

“Sẽ có mặt tại đó sau mười phút nữa. Cô phải tìm hiểu bằng được từ cái xác đó.”

“Em đang nói chuyện một mình đấy à, cưng… à đồng nghiệp?”

Sachs chăm chú nhìn thi thể người đàn ông xấu số. Cô đoán hai bàn tay đã bị cắt bỏ ngay sau khi anh ta chết, hoặc khi anh ta đang hấp hối, vì lượng máu khổng lồ chảy tràn ra từ những vết thương. Cô xỏ đôi găng tay cao su vào và bắt đầu kiểm tra.

“Lạ thật, Rhyme. Tại sao anh ta chỉ bị xóa bỏ nhân dạng một phần?”

Nếu như hung thủ không có đủ thời gian để thủ tiêu hoàn toàn xác của nạn nhân, chúng thường gây khó khăn cho việc nhận dạng bằng cách cắt bỏ những điểm xác định danh tính chủ yếu: hai bàn tay và răng của nạn nhân.

“Tôi cũng không biết”, nhà hình sự học trả lời. “Cẩu thả không phải là cung cách ra tay của tên Vũ công, ngay cả khi hắn đang vội vàng. Nạn nhân đang mặc gì trên người?”

“Chỉ có quần lót thôi. Tại hiện trường không tìm thấy quần áo hay giấy tờ tùy thân.”

“Tại sao tên Vũ công lại chọn anh ta?”. Rhyme trầm ngâm tự hỏi.

“Nếu như đúng là tên Vũ công gây ra chuyện này.”

“Ở Westchester có bao nhiêu cái xác như vậy tìm thấy rồi?”

“Cứ nghe mấy tay cảnh sát địa phương khoe”, cô rầu rĩ nói. “thì hầu như ngày nào cũng có.”

“Cho tôi biết thêm về thi thể nạn nhân. Nguyên nhân gây ra tử vong?”

“Anh đã xác địng nguyên nhân gây tử vong chưa?”, cô gọi với tay nhân viên pháp y béo ú.

“Bị siết cổ”, anh ta trả lời.

Nhưng Sachs nhận thấy ngay rằng hoàn toàn không có những vết đốm do xuất huyết ở bề mặt bên trong của mi mắt. Cũng không có những tổn thương ở lưỡi. Hầu hết những nạn nhân bị siết cổ đều cắn phải lưỡi của mình tại một thời điểm nào đó trong quá trình gây án.

“Tôi không nghĩ vậy.”

Earl ném một cái nhìn về phía Jim và khịt mũi. “Chắc chắn là thế rồi. Cứ nhìn vết bầm màu đỏ trên cổ anh ta mà xem. Chúng tôi gọi đó là vết chỉ hằn, cưng ạ. Cô biết đấy, chúng ta không thể để anh ta ở đây mãi được. Nó bắt đầu trương lên cho mà xem, trong những ngày như thế này. Camđoan đó sẽ là một thứ mùi cô không thể quên chừng nào cô còn sống.”

Sachs cau mày. “Anh ta không bị siết cổ.”

Cả hai cùng hùa nhau phản đối cô. “Cư… à đồng nghiệp, đó đúng là vết chỉ hằn mà”, Jim, tay cảnh sát vũ trang, nói. “Tôi chứng kiến hàng trăm vụ như thế rồi.”

“Không, không”, cô nói. “Chỉ là do hung thủ dứt một sợi dây chuyền ra khỏi cổ nạn nhân.”

Rhyme nói chen vào. “Có lẽ là vậy đấy, Sachs. Điều đầu tiên cô làm khi cần xóa bỏ những dấu hiệu có thể nói lên danh tính của nạn nhân chính là loại bỏ các món trang sức. Rất có thể đó là một chiếc thánh giá của Thánh Chritopher cũng nên, khéo lại còn có khắc chữ. Ai đang ở đó với cô vậy?”

“Hai thằng điên ấy mà”, cô nói.

“Ôi, trời ạ. Vậy nguyên nhân tử vong là gì?”

Chỉ sau một lúc kiểm tra chớp nhoáng cô đã tìm thấy ngay vết thương. “Dùi chọc đá hoặc dao lưỡi hẹp đâm vào sau hộp sọ.”

Thân hình phì nộn của tay nhân viên pháp y thò vào trong xe. “Lẽ ra chúng tôi cũng đã phát hiện được rồi”, anh ta thanh minh. “Ý tôi là, lúc đó chúng tôi đang vội vàng chở cái xác tới đây, vì các người đấy.”

Rhyme nói với Sachs, “Miêu tả anh ta đi”.

“Anh ta béo phì, bụng phệ. Người nhão nhoét.”

“Có cháy nắng hay rám nắng gì không?”

“Chỉ có trên hai cánh tay và phần thân trên thôi. Chân thì không. Móng chân không được cắt tỉa gì cả, có đeo một chiếc khuyên tai rẻ tiền – loại bằng thép, không phải bằng vàng. Quần lót rẻ tiền hiệu Sears, lại còn thủng lỗ chỗ nữa.”

“Được rồi, có vẻ anh ta là dân lao động tay chân.”, Rhyme nói. “Công nhân , người đưa hàng. Coi như chúng ta đang thu hẹp được phạm vi tìm kiếm. Kiểm tra cổ họng của anh ta.”

“Cái gì cơ?”

“Để tìm ví hoặc giấy tờ. Nếu cô không muốn ai đó phát hiện ra danh tính của một cái xác trong khoảng vài giờ có thể cô chỉ cần tống giấy tờ tùy thân vào họng nạn nhân là xong. Chỉ đến khi mổ giám định tử thi cảnh sát mới tìm ra.”

Một tràng cười sằng sặc từ bên ngoài vọng vào.

Tiếng cười vụt tắt khi Sachs nắm chặt lấy hàm người đàn ông, kéo mạnh cho nó mở ra và bắt đầu thò tay vào trong.

“Chúa ơi”, Earl thốt lên. “Cô đang làm gì đấy?”

“Chẳng có gì ở đó cả, Rhyme.”

“Cô nên cắt nó ra. Cổ họng ấy. Thọc sâu vào.”

Trước đây, Sachs đã nhiều lần xù lông lên trước những yêu cầu quái gở của Rhyme. Nhưng hôm nay cô liếc nhìn hai gã đàn ông đang cười nhăn nhở phía sau mình và rút con dao bấm tự động bất hợp pháp nhưng rất được nâng niu từ túi quần jean ra, bấm cho lưỡi dao bật lên đánh tách một cái.

Nụ cười tắt ngấm trên cả hai khuôn mặt.

“Trời ơi, cưng, em đang định làm gì thế?”

“Tiểu phẫu ấy mà. Phải nhìn bên trong một chút”. Cứ như thể ngày nào cô cũng làm việc này.

“Tôi xin nhắc là tôi không thể chuyển cái xác này cho bác sĩ pháp y sau khi nó đã bị một cảnh sát New York cắt mổ lung tung.”

“Nếu thế thì anh làm đi.”

Cô chìa chuôi con dao của mình cho anh ta.

“Ôi trời, cô ả trêu tụi mình chắc, Jim.”

Cô nhíu một bên mày và thọc lưỡi dao vào yết hầu của nạn nhân như một người đánh cá đang mổ bụng một con cá hồi.

“Ôi, lạy Chúa, Jim, nhìn xem cô ta đang làm gì kìa. Ngăn cô ta lại đi.”

“Tôi ra khỏi đây đây, Earl… Tôi không nhìn thấy gì hết. ”Tay cảnh sát bỏ đi chỗ khác.

Cô kết thúc vệt rạch rất gọn gàng,và nhìn vào trong, thở dài, “Không có gì?”

“Hắn đang âm mưu điều gì vậy nhỉ?” Rhyme hỏi. “Hãy nghĩ xem… Có lẽ nào hắn làm như thế này không phải để che giấu danh tính của nạn nhân? Vì nếu muốn làm thì hắn đã phải nhổ cả răng anh ta. Chẳng lẽ còn điều gì khác mà hắn muốn giấu không để chúng ta biết chăng?”

“Điều gì đó ở đôi tay của nạn nhân?”, Sachs gợi ý.

“Có lẽ”, Rhyme trả lời. “Điều gì đó mà hắn không thể rửa khỏi cái xác một cách dễ dàng. Và cũng là điều có thể cho chúng ta biết ý đồ của hắn.”

“Dầu? Mỡ bò?”

“Có thể nạn nhân đang chuyển nhiên liệu máy bay đến sân bay!”. Rhyme nói. “Hoặc có thể anh ta là người đưa thực phẩm – biết đâu tay anh ta lại chẳng có mùi tỏi.”

Sachs nhìn quanh sân bay. Có đến hàng chục công nhân đang vận chuyển xăng dầu, nhân viên phục vụ mặt đất, thợ sửa chữa, công nhân xây dựng đang hoàn thành một cái chái mới của một trong những terminal trong sân bay.

Rhyme nói tiếp, “Nạn nhân là người to béo đúng không?”.

“Vâng.”

“Có thể hôm nay anh ta đã ra rất nhiều mồ hôi. Có thề anh ta đã lau trán. Hoặc cào gãi da đầu.”

Ngay chính tôi cũng đã làm thế cả ngày hôm nay rồi, Sachs nghĩ bụng, và chợt chỉ muốn cào tay vào tóc mình, gãi da đầu thật đau như cô vẫn làm mỗi khi thấy căng thẳng hoặc khó chịu.

“Kiểm tra da đầu của anh ta, Sachs. Phía sau chân tóc ấy.”

Cô làm theo.

Và đúng tại đây cô đã tìm thấy nó.

“Tôi thấy những vệt màu. Màu xanh. Và vài vết màu trắng nữa. Trên tóc và trên da đầu. Ôi, chết tiệt, Rhyme. Đó là sơn! Anh ta là người cung cấp sơn. Và có đến hai chục công nhân xây dựng đang làm việc trên mặt đất.”

“Vết bầm trên cổ”, Rhyme nói tiếp. “Tên Vũ công đã giật tấm thẻ ghi tên đeo trên cổ nạn nhân.”

“Nhưng nếu thế thì ảnh sẽ phải khác chứ.”

“Trời ạ, tấm thẻ ghi tên có thể đã bị dính đầy sơn hoặc hắn đã dán ảnh giả. Hắn đang ở đâu đó trong sân bay, Sachs. Cho Percey và Hale nằm xuống sàn nhà ngay. Cho một người cảnh giác họ rồi huy động tất cả những người khác ra ngoài, săn tìm tên Vũ công. Đội SWAT đang trên đường tới rồi.”

Có vấn đề.

Hắn đang theo dõi cô ả cảnh sát tóc đỏ phía sau chiếc xe cứu thương. Qua chiếc kính ngắm Redfield hắn không thể nhìn rõ chính xác cô ta đang làm gì. Nhưng đột nhiên hắn cảm thấy bất an.

Hắn có cảm giác cô ta đang làm điều gì đó đối với hắn. Điều gì đó để làm hắn lộ mặt, để triệt hạ hắn.

Stephen run rẩy.

Cô ta nhảy ra chiếc xe cứu thương, nhìn xung quanh sân bay.

Có chuyện gì đó đang xảy ra, quân nhân.

Thưa ngài, tôi biết rồi ạ, thưa ngài.

Tóc đỏ bắt đầu quát tháo, ra mệnh lệnh cho những cảnh sát khác. Hầu hết bọn chúng đều chăm chú nhìn cô ta, nghiêm nghị lắng nghe cô ta thông báo, rồi nhìn khắp xung quanh. Một người chạy tới xe của hắn, rồi người thứ hai.

Hắn nhìn thấy khuôn mặt xinh đẹp của tóc đỏ và đôi mắt của cô ta như hai con giòi đang quét qua bề mặt sân bay. Hắn đặt dấu chữ thập trong kính ngắm vào chiếc cằm xinh xắn của cô ta. Cô ta vừa phát hiện ra điều gì vậy? Cô ta đang tìm kiếm cái gì?

Cô ta chợt dừng lại và hắn thấy cô ta đang nói chuyện một mình.

Không, không phải một mình. Cô ta đang nói vào một chiếc mic. Cách cô ta lắng nghe, rồi gật đầu, dường như cô ta đang nhận mệnh lệnh từ một kẻ nào đó.

Kẻ nào? Hắn tự hỏi.

Kẻ bằng cách nào đó đã phát hiện ra việc mình đang ở đây. Stephen tự nhủ.

Kẻ đang săn lùng mình.

Kẻ có thể theo dõi mình qua những khung cửa sổ rồi biến mất trong nháy mắt. Kẻ có thể đi xuyên qua tường và những lỗ nhỏ hay khe nứt bé tí để rình mò và bắt mình.

Một cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng hắn – sự thật là hắn đã run rẩy – và trong chớp mắt dấu chữ thập của kính ngắm đi chệch khỏi cô nàng cảnh sát tóc đỏ và hắn đã để mất mục tiêu.

Chuyện chó chết gì vậy, quân nhân?

Thưa ngài, tôi không biết, thưa ngài.

Khi lấy lại được mục tiêu là tóc đỏ hắn mới thấy là tình hình đã trở nên tồi tệ đến mức nào.Cô ta đang chỉ tay thẳng về chiếc xe của người cung cấp sơn mà hắn vừa đánh cắp được. Nó được đỗ cách chỗ hắn nằm khoảng 200 feet, trong một bãi đỗ xe nhỏ dành riêng cho những công nhân xây dựng.

Cho dù tóc đỏ đang nói chuyện với ai thì hẳn kẻ đó cũng đã tìm được cái xác của tay thợ sơn và phát hiện ra việc hắn đột nhập vào trong khu vực sân bay này bằng cách nào.

Con giòi đang tiến lại gần hơn. Hắn cảm thấy cái bóng của nó, sự nhầy nhụa của nó.

Cảm giác nhớp nháp. Lũ giòi đang trườn lên chân hắn… lũ giòi đang bò lổm nhổm xuống cổ hắn…

Mình phải làm gì bây giờ? Hắn phân vân.

Một cơ hội… một phát súng…

Họ đang ở rất gần, Người vợ và Người bạn. Hắn có thể kết thúc mọi việc ngay lúc này. Tất cả chỉ cần đến năm giây. Có lẽ những gì hắn thấy trên cửa sổ có lẽ chính là cái bóng của họ. Cái bóng mờ mờ đó. Hoặc là cái kia… Nhưng Stephen biết rằng nếu hắn bắn qua lớp kính, tất cả mọi người sẽ nằm dán chặt xuống sàn nhà. Nếu hắn không giết được Người vợ bằng phát súng đầu tiên, coi như hắn đã phá hỏng một cơ hội.

Mình cần cô ta ra ngoài. Mình cần thu hút chúng ra khỏi nơi ẩn nấp để vào khu vực tiêu diệt. Ở đó thì mình không thể nào bắn trượt được.

Hắn không còn thời gian. Không còn thời gian! Nghĩ đi!

Nếu anh muốn giết con hươu mẹ, hãy nhắm vào con hươu con.

Stephen bắt đầu thở chậm lại. Hít, thở, hít, thở. Hắn tìm được mục tiêu. Bắt đầu tăng lực kéo, hầu như hoàn toàn vô thức, bóp cò. Khẩu Model 40 nổ đanh.

Tiếng nổ đinh tai vang lên khắp sân bay và tất cả cảnh sát đổ nhào xuống đất, rút súng ra lăm lăm.

Thêm một phát súng nữa, và cột khói thứ hai bốc lên từ phần động cơ gắn phía sau đuôi của chiếc phản lực màu bạc đậu trong hangar.

Cô nàng cảnh sát tóc đỏ, khẩu súng lăm lăm trên tay, đang bò thấp, mắt lia khắp nơi quan sát. Cô ta liếc nhìn hai lỗ khói tỏa ra từ vỏ chiếc máy bay, rồi quay ra nhìn sân bay một lần nữa, chĩa khẩu Glock ngắn ngủn ra phía trước.

Tiêu diệt cô ta không?

Có? Không?

Không được, quân nhân. Tập trung vào mục tiêu của anh đi.

Hắn lại bắn tiếp. Viên đạn nổ tung bóc đi một mảnh nhỏ bay ra khỏi sườn chiếc máy bay.

Bình tĩnh. Thêm một phát nữa. ảm giác báng súng giật tì lên vai, mùi thuốc súng cháy ngọt ngào. Một tấm kính chắn gió trong buồng lái nổ tung.

Đây mới là phát súng làm nên chuyện.

Và kia cô ta đột nhiên hiện ra – Người vợ – đang cố lách người chạy ra cửa văn phòng, giằng co với tay cảnh sát tóc vàng, người đang cố kéo cô ta quay vào trong.

Mục tiêu chưa hiện rõ. Cứ để cô ta chạy ra.

Siết cò. Một phát đạn nữa xuyên thẳng vào động cơ.

Người vợ, khuôn mặt kinh hoàng, giằng ra được và chạy thẳng xuống bậc thềm, tiến về phía chiếc hangar để đóng cửa, bảo vệ đứa con cưng của mình.

Nạp đạn.

Hắn đặt dấu ngắm hình chữ thập vào ngực Percey khi cô đặt chân xuống mặt đất và bắt đầu chạy.

Bắn chặn trước mục tiêu toàn thân khoảng bốn inch, Stephen thầm tính trong đầu như một chiếc máy. Hắn nhích mũi khẩu súng về phía trước người cô và siết cò. Súng nổ đúng lúc tay cảnh sát tóc vàng túm được cô và cả hai nằm phục xuống một mô đất nhỏ trên mặt đất. Trượt rồi. Và họ có đủ chỗ che chắn để ngăn hắn tiếp tục nã đạn vào lưng họ.

Chúng đang ập vào đấy, quân nhân. Chúng đang tấn công hai bên sườn anh.

Rõ, thưa ngài, tôi hiểu rồi.

Stephen liếc nhìn qua các đường băng. Những cảnh sát khác đã xuất hiện. Họ đang bò về phía xe của mình. Một chiếc xe đang lao thẳng về phía hắn, chỉ còn cách khoảng 50 thước. Stephen dùng một phát súng để vô hiệu hóa động cơ xe. Khói trắng bốc lên từ mũi xe, chiếc xe khựng lại.

Giữ bình tĩnh, hắn tự nhủ.

Chúng ta đã sẵn sàng rút lui. Chúng ta chỉ cần thêm một phát súng dọn đường nữa.

Hắn nghe thấy tiếng vài phát súng ngắn bắn rất rát. Hắn nhìn lại về phía tóc đỏ. Cô ta đang đứng với tư thế chiến đấu, khẩu súng ngắn ngủn chĩa về phía hắn, tìm vị trí nơi ánh lửa đầu nòng súng của hắn phát ra. Tiếng nổ của những phát súng không giúp gì được cho cô ta, tất nhiên; đó là lý do tại sao hắn không bao giờ bận tâm đến việc dùng ống giảm thanh. Những âm thanh điếc tai cũng khó xác định vị trí chẳng kém gì những tiếng động khẽ.

Cô cảnh sát tóc đỏ đang đứng thẳng người, nheo nheo mắt chăm chú nhìn về phía trước.

Stephen đóng khóa nòng của khẩu Model 40 lại.

Amelia Sachs nhìn thấy một vệt sáng lấp loáng hiện lên và cô biết chỗ tên Vũ công Quan tài đang trốn.

Đó là một rặng cây nhỏ nằm cách đó khoảng hơn 300 thước. Chiếc kính ngắm của hắn phản chiếu vệt sáng ló ra từ đám mây nhợt nhạt phía trên đầu.

“Đằng kia”, cô hét lên, chỉ trỏ, hai cảnh sát của hạt đang lái xe phăm phăm lao tới.

Những cảnh sát vũ trang cũng nhảy vào xe và nổ máy, đi vòng phía sau một hangar gần đó để đánh thọc sườn hắn

.

“Sachs”, Rhyme gọi cô qua tai nghe. “Có chuyện gì…”

“Lạy Chúa, Rhyme, hắn đang ở trên sân bay, nổ súng vào chiếc máy bay.”

“Sao cơ?”

“Percey đang cố chạy đến chỗ hangar. Hắn bắn bằng đầu đạn chạm nổ. Hắn bắn như vậy để kéo chị ta ra ngoài.”

“Cô ở yên đấy, Sachs. Nếu Percey muốn tự sát, cứ để mặc cô ta. Nhưng cô thì ở yên đấy!"

Người cô túa đầm mồ hôi vì căm giận, hai bàn tay run lẩy bẩy, tim đập thình thịch. Cô cảm thấy cơn run rẩy vì kinh hoàng chạy dọc sống lưng.

“Percey”, Sachs gào lên.

Người phụ nữ đã lại giật tung ra khỏi Jerry Banks và guồng chân cắm đầu chạy. Cô đang chạy về phía cánh cửa của hangar.

“Không!”

Ôi, mẹ kiếp.

Mắt Sachs dán chặt vào vị trí nơi cô vừa nhìn thấy ánh lấp loáng hắt ra từ kính ngắm của tên Vũ công.

Quá xa, thực sự là quá xa, cô thầm nghĩ. Mình không thể bắn được từ khoảng cách xa như thế.

Nhưng nếu mày giữ được bình tĩnh, mày hoàn toàn có thể. Mày vẫn còn mười một viên đạn cơ mà. Trời đang lặng gió. Vấn đề duy nhất là độ rơi của đường đạn do khoảng cách. Nhắm cao lên và viên đạn sẽ ăn xuống là vừa.

Cô nhìn thấy mấy chiếc lá bắn tung ra khi tên Vũ công nổ súng lần nữa.

Trong chớp mắt sau đó một viên đạn bay sạt qua mặt cô chỉ cách vài centimét. Cô cảm nhận rõ sóng xung kích đập vào mặt và nghe thấy tiếng rít của viên đạn đang lao đi với vận tốc gấp hai lần vận tốc âm thanh đốt cháy không khí xung quanh.

Cô chỉ kịp bật ra một tiếng rên rất khẽ rồi đổ gục người nằm sấp xuống mặt đất, co rúm lại.

Không! Mày đã có một cơ hội để bắn trả. Trước khi hắn kịp nạp tiếp đạn. Nhưng giờ thì quá muộn rồi. Hắn đã đóng khóa nòng và nạp xong đạn.

Cô vụt ngẩng đầu lên, nâng súng lên ngắm, rồi lại mất sạch nhuệ khí. Thụp đầu xuống, khẩu Glock ngắm vu vơ về phía rặng cây, cô vội vàng bắn bừa năm phát liền.

Nhưng có lẽ chẳng thà cô bắn bằng súng không có đạn còn hơn.

Cố lên nào, cô gái. Đứng dậy. Ngắm hẳn hoi và nổ súng. Mày vẫn còn sáu viên trong buồng đạn và hai băng đạn cài ở thắt lưng cơ mà.

Nhưng ý nghĩ về viên đạn vừa bay sượt qua mặt giữ cô nằm chết gí trên mặt đất.

Làm đi! Cô giận dữ rủa thầm mình.

Nhưng cô không thể.

Tất cả những gì Sachs có đủ can đảm để làm là ngẩng đầu cao thêm vài phân – vừa đủ để nhìn thấy Percey Clay đang chạy như điên về phía cửa hangar đúng lúc Jerry Banks bắt kịp được cô ta.Tay thám tử đẩy cô ta ngã nhào xuống đất ngay phía ssau một chiếc xe chở máy phát điện. Gần như đồng thời với tiếng nổ rền vang từ khẩu súng trường của tên Vũ công Quan tài là tiếng rắc rắc nghe thật ghê sợ khi viên đạn xuyên trúng Banks, anh lảo đảo quay một vòng như người say rượu trong lúc máu phun ra thành một đám mây xung quanh.

Và trên khuôn mặt của anh, đầu tiên là vẻ ngạc nhiên, rồi đến kinh hoàng, và rồi không còn gì nữa khi anh đổ gục xuống mặt bê tông ẩm ướt.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12


Thế nào rồi?”, Rhyme hỏi.

Lon Sellitto gấp điện thoại lại. “Họ vẫn chưa biết”. Ánh mắt viên thám tử hờ hững liếc ra ngoài cửa sổ ngôi nhà của Rhyme, những ngón tay gõ gõ một cách vô thức lên mặt kính. Hai con chim ưng đã quay về đậu trên bậu cửa sổ nhưng vẫn giữ ánh mắt cảnh giác về phía Công viên Trung tâm, không thèm đếm xỉa gì đến tiếng động trên mặt kính phía sau.

Rhyme chưa bao giờ thấy viên thám tử chán chường như thế này. Khuôn mặt tròn trịa, lấm tấm mồ hôi của anh ta trông tái nhợt. Là một điều tra viên trọng án huyền thoại, bình thường Sellitto vẫn luôn điềm tĩnh như không trong mọi hoàn cảnh. Cho dù đang an ủi gia đình các nạn nhân hay đang tấn công không khoan nhượng vào những lỗ hổng trong những chứng cứ ngoại phạm của một kẻ tình nghi, bao giờ anh cũng tập trung toàn bộ tâm trí vào công việc trước mặt. Nhưng lúc này đây tâm trí anh dường như đang vơ vẩn cách đó vài dặm, nơi Jerry Banks đang được mổ cấp cứu – có lẽ đang hấp hối – trong một bệnh viện ở Westchester. Bây giờ là ba giờ chiều ngày thứ Bảy và Banks đã ở trong phòng mổ được một tiếng đồng hồ.

Sellitto, Sachs, Rhyme và Cooper đang ở dưới tầng một trong nhà của Rhyme, trong phòng thí nghiệm. Dellray đã ra ngoài để bảo đảm ngôi nhà an toàn đã được chuẩn bị sẵn sàng và kiểm tra xem NYPD đã phân công ai làm người giữ trẻ thay cho Banks.

Lúc ở sân bay họ đã đưa viên thám tử trẻ tuổi lên xe cứu thương – đúng chiếc xe cứu thương chở xác người thợ sơn mất tay đến. Earl, tay nhân viên pháp y, đã tạm cất đi bộ mặt khốn kiếp của mình và luýnh quýnh bắt tay vào việc để cầm dòng máu đang phun ra xối xả của Banks lại. Rồi anh ta hột tốc lái xe đưa viên thám tử xanh nhợt và bất tỉnh tới phòng cấp cứu cách đó vài dặm.

Các đặc vụ FBI ở văn phòng địa bàn White Plains đưa Percey và Hale vào trong một chiếc xe thùng bọc thép và chuyển bánh về phía nam, tới khu Manhattan, thận trọng sử dụng những biện pháp lái xe cắt đuôi an toàn. Sachs bắt tay vào lục soát hiện trường mới: cái tổ bắn tỉa, chiếc xe của người thợ sơn và phương tiện mà tên Vũ công dùng để bỏ trốn – một chiếc xe đưa thực phẩm. Nó được tìm thấy cách không xa nơi hắn đã giết người thợ sơn và nơi, theo họ đoán, hắn đã giấu chiếc xe hắn dùng để lái tới Westchester.

Rồi cô vội vàng quay lại Manhattan với những bằng chứng thu thập được.

“Chúng ta có những gì?”, Rhyme đang hỏi cô và Cooper. “Có đầu đạn súng trường nào không?”

Miệng nhay một đầu móng tay bị dập bầm máu, Sachs giải thích, “Chẳng còn sót lại gì cả. Chúng đều là đạn chạm nổ”. Trông cô có vẻ đang hoảng hốt, hai mắt đảo lia lịa như những con chim sợ hãi.

“Đó chính là cách ra tay của tên Vũ công. Không chỉ giết người một cách hiệu quả mà bằng chứng của hắn còn tự tiêu hủy.”

Sachs mở một chiếc túi nhựa ra. “Đây là những gì còn lại của một viên. Tôi cạy nó từ trên một bức tường xuống.”

Cooper dốc những thứ trong túi lên một chiếc khay sứ để kiểm tra. Anh đảo chúng tên. “Vẫn là đạn bọc đầu gốm. Áo giáp chống đạn cũng không ăn thua.”

“Thằng chó chết hạng nhất”, Sellitto lẩm bẩm rủa.

“Ồ, tên Vũ công luôn biết chế tạo dụng cụ cần thiết mà”, Rhyme nói.

Có tiếng ồn ào ngoài ngưỡng cửa và Thom dẫn hai đặc vụ FBI mặc áo giáp chống đạn vào phòng. Phía sau họ là Percey Clay và Brit Hale.

Percey hỏi Sellitto, “Cậu ấy thế nào rồi?”. Đôi mắt đen thẩm của cô nhìn quanh căn phòng, nhận ra sự lạnh lùng đang chào đón mình. Nhưng cô không hề tỏ ra bối rối. “Ý tôi là Jerry ấy.”

Sellitto không trả lời.

Rhyme lên tiếng, “Cậu ấy vẫn đang được mổ”.

Nét mặt cô ủ rũ, mái tóc còn bù xù hơn cả lúc sáng. “Tôi hy vọng cậu ấy sẽ không sao.”

Amelia Sachs quay sang nhìn Percey và lạnh lùng rít lên, “Chị làm sao cơ?”

“Tôi nói, tôi hy vọng cậu ấy sẽ không sao.”

“Chị hy vọng à?” Cô cảnh sát lừ lừ tiến lại gần người nữ phi công. Người phụ nữ lùn tịt vẫn đứng im tại chỗ trong khi Sachs tiến tới. “Không phải đã hơi quá muộn để nói thế rồi sao?”

“Cô có vấn đề gì vậy?”

“Câu đó phải là để tôi hỏi chị mới đúng. Chị đã khiến anh ấy bị bắn.”

“Này, sĩ quan”, Sellitto nói.

Percey điềm tĩnh nói, “Tôi không hề yêu cầu cậu ấy chạy đuổi theo tôi”.

“Chị đã mất mạng rồi nếu không có anh ấy.”

“Có thể. Chúng ta không thể biết được. Tôi rất tiếc là cậu ấy bị thương. Tôi…”

“Và chị tiếc đến ngần nào đây?”

“Amelia”, Rhyme quát giật giọng.

“Không, tôi muốn biết tiếc đếnmức nào. Liệu chị có đủ lấy làm tiếc đến mức hiến máu không? Đến mức đẩy xe lăn trong trường hợp anh ấy không thể đi lại bình thường được nữa? Lên đọc điếu văn trong trường hợp anh ấy chết?”

Rhyme nạt khẽ, “Sachs, bình tĩnh nào. Đó không phải là lỗi của cô ấy”.

Sachs vỗ mạnh hai bàn tay của mình, với những móng tay đaã bị nhấm toét, lên đùi và giật nảy lên. “Không phải sao?”

“Tên Vũ công đã khôn ngoan hơn chúng ta.”

Sachs nói tiếp, chằm chằm nhìn thẳng vào đôi mắt đen thẫm của Percey. “Jerry có nhiệm vụ canh chừng chị. Khi chị lao thẳng vào giữa làn đạn đó, chị nghĩ anh ấy sẽ làm gì chứ?”

“Hừ, tôi không hề nghĩ gì cả, được chưa? Tôi chỉ phản ứng thế thôi.”

“Lạy Chúa.”

“Này, sĩ quan”, Hale nói chen vào, “có thể là cô hành động tỉnh táo hơn trong những tình huống phải chịu áp lực so với một số người như chúng tôi. Nhưng chúng tôi đâu có quen với việc bị nã đạn vào người”.

“Nếu vậy thì lẽ ra chị ta phải nằm yên một chỗ. Trong văn phòng. Nơi tôi đã ra lệnh cho chị ta nằm yên.”

Dường như giọng Percey thoáng lạc đi khi cô nói tiếp. “Tôi nhìn thấy chiếc máy bay của mình đang gặp nguy hiểm. Tôi phải phản ứng. Có lẽ đối với cô cũng giống như nhìn thấy đồng đội của mình bị thương.”

Hale nói, “Cô ấy chỉ làm những gì mà bất kỳ phi công nào cũng sẽ làm”.

“Chính xác”, Rhyme tuyên bố. “Đó chính là điều tôi đang muốn nói, Sachs. Đó là cách ra tay của tên Vũ công.”

Nhưng Amelia Sachs nhất định không chịu để yên mọi chuyện như vậy. “Lẽ ra các vị phải tới ngôi nhà an toàn ngay từ đầu. Lẽ ra các vị không bao giờ nên tới sân bay làm gì.”

“Đó là do lỗi của Jerry”, Rhyme nói, càng lúc càng thấy cáu kỉnh hơn. “Cậu ấy hoàn toàn không có thẩm quyền thay đổi lộ trình.”

Sachs liếc nhìn Sellitto, người đã là cộng sự của Banks được hai năm nay. Nhưng có vẻ như anh ta cũng không định nói gì để bênh vực chàng thanh niên.

“Quả là một vinh dự từ đầu tới giờ”, Percey Clay nói một cách khô khan, rồi quay người bước về phía cửa. “Nhưng tôi phải quay lại sân bay ngay bây giờ.”

“Cái gì?”, Sachs há hốc miệng. “Chị điên à?”

“Chuyện đó là không thể được”, Sellitto lên tiếng, thoát hẳn khỏi trạng thái ủ rũ của mình.

“Ngay việc trang bị lại chiếc máy bay của tôi sẵn sàng cho chuyến bay ngày mai cũng đã đủ tệ rồi. Bây giờ chúng tôi lại còn phải khắc phục những thiệt hại vừa xong. Và vì có vẻ như tất cả những thợ cơ khí có bằng cấp trong vùng Westchester đều là một lũ hèn nên tôi sẽ phải tự mình đảm nhiệm khối lượng công việc đó.”

“Cô Clay”, Sellitto bắt đầu, “đó không phải là một ý hay đâu. Cô sẽ được an toàn trong ngôi nhà an toàn nhưng nếu ở bất kỳ nơi nào khác thì chúng tôi không thể nào bảo đảm an toàn cho cô được. Chỉ cần cô chịu ở đó đến thứ Hai, cô sẽ được…”

“Thứ Hai”, cô thốt lên. “Ôi, không. Các anh không hiểu gì cả. Kiểu gì tối mai tôi cũng phải lái chiếc máy bay đó – chuyến bay dịch vụ cho Tập đoàn U.S. Medical.”

“Cô không thể…”

“Xin hỏi một câu”, Amelia Sachs hỏi bằng giọng lạnh như băng. “Liệu chị có thể cho biết chính xác là chị còn muốn giết những ai nữa không?”

Percey bước sấn lại. Cô gằn giọng, “Mẹ kiếp, tôi mất chồng và một trong những phi công giỏi nhất của mình đêm qua. Tôi sẽ không đời nào chịu mất công ty của mình nữa. Cô không có quyền bảo tôi phải đi hay không được đi đâu. Chỉ trừ trường hợp tôi bị bắt.”

“Được rồi”, Sachs nói, và trong chớp mắt chiếc còng tay sáng loáng đã bập đánh tách vào hai cổ tay nhỏ nhắn của người phụ nữ. “Chị đã bị bắt.”

“Sachs”, Rhyme gầm lên, giận dữ. “Cô đang làm gì vậy? Thả cô ấy ra. Ngay lập tức!”

Sachs quay ngoắt lại nhìn anh, và nạt lại, “Anh là một dân thường, anh không có quyền ra lệnh cho tôi làm bất kỳ điều gì hết”.

“Tôi có thể”, Sellitto nói.

“Vậy sao?”, cô ương ngạnh nói. “Tôi đang thực hiện lệnh bắt giữ, thưa thám tử. Anh không thể ngăn tôi bắt người được. Chỉ có Chưởng lý quận mới có quyền hủy bỏ lệnh bắt giữ.”

“Tất cả chuyện vớ vẩn này là thế nào vậy?”, Percey bật ra, giọng nói kéo dài cố hữu thể hiện rõ hơn bao giờ hết. “Cô bắt tôi vì tội gì mới được? Vì là một nhân chứng ư?”

“Vì tội thiếu trách nhiệm gây nguy hiểm cho người khác, và nếu Jerry mà chết thì đó sẽ là tội vô ý gây chết người. Hoặc thậm chí là tội ngộ sát.”

Hale thu hết can đảm và lên tiếng, “Nghe này. Thực sự là tôi không hề hài lòng chút nào với cách nói chuyện của cô với cô ấy suốt cả ngày hôm nay. Nếu cô định bắt cô ấy, tôi e là cô sẽ còn phải bắt cả tôi…”

“Không thành vấn đề”, Sachs nói gọn lỏn, rồi quay sang hỏi Sellitto, “Đại úy, tôi cần mượn còng tay của anh”.

“Sachs”, Rhyme quát, “chúng ta không có thời gian cho chuyện này đâu! Tên Vũ công đang ở ngoài kia, ngay lúc này hắn đang lên kế hoạch cho cuộc tấn công tiếp theo đấy”.

“Cô bắt tôi đi”, Percey nói. “Tôi sẽ được thả chỉ sau hai tiếng cho mà xem”.

“Nếu vậy chị sẽ chết ngay sau hai tiếng mười phút nữa. Và đó hoàn toàn là việc của chị…”

“Sĩ quan”, Sellitto quát giật giọng, “cô bắt đầu quá đáng rồi đấy”.

“… nếu như chị không có thói quen kéo người khác chết cùng với mình.”

“Amelia”, Rhyme lạnh lùng nói.

Cô quay ngoắt lại nhìn anh. Hầu như lúc nào anh cũng gọi cô là “Sachs”; cách anh dùng tên riêng của cô ngay lúc này chẳng khác gì một cái tát vào mặt.

Sợi xích trên hai cổ tay xương xẩu của Percey kêu lách cách. Trên ô cửa sổ, con chim ưng vỗ cánh phành phạch. Không ai mở miệng nói câu gì.

Cuối cùng bằng một giọng rất nhẹ nhàng, Rhyme yêu cầu, “Đề nghị cô tháo còng ra và để tôi nói chuyện riêng với Percey vài phút.”

Sachs lưỡng lự. Khuôn mặt cô là một chiếc mặt nạ vô cảm.

“Xin cô đấy, Amelia”, Rhyme nói, cố gắng tỏ ra kiên nhẫn.

Không nói một lời, cô lẳng lặng tháo còng.

Tất cả mọi người lần lượt ra khỏi phòng.

Percey xoa xoa hai cổ tay rồi rút chai rượu bẹt trong túi áo ra và tu một hơi.

“Phiền cô đóng cửa lại được không?”, Rhyme bảo Sachs.

Nhưng cô chỉ gườm gườm nhìn anh rồi bước thẳng một mạch ra hành lang. Cuối cùng Hale lại là người đóng cánh cửa sồi nặng trịch lại.

Ra ngoài sảnh, Lon Sellitto gọi điện lại để hỏi thăm tình hình của Banks. Anh ta vẫn đang ở trong phòng mổ và cô y tá trực nhất định không nói thêm điều gì về tình trạng của bệnh nhân.

Sachs nhận thông tin này với một cái gật đầu rất khẽ. Cô bước lại gần khung cửa sổ trông xuống con hẻm phía sau ngôi nhà của Rhyme. Ánh sáng nhập nhoạng hắt xuống hai bàn tay Sachs và cô im lặng nhìn những móng tay sứt sẹo của mình. Cô đã phải dán băng lên hai ngón tay đã bị gặm toét ra. Thói quen, cô thầm nghĩ. Những thói quen xấu… Tại sao mình không bỏ được nhỉ?

Viên thám tử bước lại bên cạnh cô, ngước nhìn lên bầu trời xám xịt. Lại hứa hẹn thêm những cơn bão mùa xuân.

“Sachs này”, anh nói, giọng rất khẽ khàng để không ai đứng sau có thể nghe thấy. “Cô ta làm bung bét mọi chuyên, cô nàng kia ấy, đã đành là vậy. Nhưng cô cũng phải hiểu – cô ta đâu phải dân chuyên nghiệp. Sai lầm của chúng ta là để cho cô ta làm bung bét tất cả và, đúng thật, đáng lẽ Jerry không nên hành động hồ đồ như thế mới phải. Chỉ cần nghĩ đến thế thôi chứ không cần nói ra cũng đủ làm tôi đau lắm rồi. Nhưng chính cậu ấy đã làm hỏng chuyện.”

“Không”, cô nói qua hàm răng nghiến chặt. “Anh không hiểu đâu.”

“Hiểu gì cơ?”

Cô có thể nói thẳng ra không nhỉ? Những từ đó sao thật khó khăn.

“Tôi mới làm hỏng chuyện. Đó không phải là lỗi của Jerry.” Cô hất đầu về phía phòng Rhyme. “Ôi, Percey. Đó là lỗi của tôi.”

“Cô ư? Mẹ kiếp, chính cô và Rhyme mới là những người phát hiện ra việc hắn đang ở sân bay. Lẽ ra hắn đã có thể hạ gục tất cả mọi người, nếu không có hai người.”

Cô vẫn bướng bỉnh lắc đầu. “Tôi nhìn thấy… Tôi nhìn thấy vị trí của tên Vũ công trước khi hắn bắn Jerry.”

“Thì sao?”

“Tôi biết chính xác vị trí của hắn. Tôi đã nhắm bắn. Tôi…”

Ôi, chết tiệt thật. Sao mà khó khăn đến thế.

“Cô đang định nói gì vậy, sĩ quan?”

“Hắn nã một viên đạn về phía tôi… Ôi, lạy Chúa. Tôi đã chùn bước. Tôi đã nằm lăn xuống đất.” Ngón tay cô biến mất vào trong đám da đầu và cô cào mạnh đến khi cảm thấy máu rịn ra. Thôi ngay đi. Chết tiệt thật.

“Thì sao?”, Sellitto vẫn không hiểu. “Chẳng phải ai cũng nằm xuống đất tránh đạn sao? Ý tôi là có ai là không làm thế chứ?”

Trân trân nhìn ra ngoài cửa sổ, khuôn mặt bừng bừng vì hổ thẹn. “Sau khi hắn nổ súng và bắn trượt. Tôi đã có ít nhất là ba giây để bắn trả – tôi biết hắn đang bắn chế độ từng phát một. Tôi đã có thể trút vào hắn cả gắp đạn. Vậy mà tôi đã nhào xuống đất. Và rồi tôi không có đủ can đảm để đứng dậy vì tôi biết hắn đã nạp xong đạn trở lại.”

Sellitto bực bội. “Sao cơ? Cô đang áy náy vì cô không đứng dậy, ngay giữa chỗ trống trải, và ngắn bắn vào một tên xạ thủ bắn tỉa? Thôi đi, sĩ quan… Mà này, khoan đã, cô dùng súng do ngành trang bị phải không?”

“Vâng, tôi…”

“Hơn 300 thước với một khẩu Glock cỡ chín ly? Có mà trong mơ nhé.”

“Có thể tôi không bắn trúng được hắn nhưng biết đâu tôi cũng giữ cho hắn không dám ngẩng đầu lên. Nếu vậy hắn đã không kịp bắn phát cuối cùng trúng vào Jerry. Ôi, mẹ kiếp.” Cô vò chặt hai bàn tay, rồi lại chăm chú nhìn móng tay trên ngón trỏ. Máu tụ bầm đen quanh móng tay. Cô lại cào da đầu.

Màu máu đỏ tươi làm cô nhớ đến vòi máu phun ra như một làn mây bụi quanh Jerry Banks và bất giác cô lại cào mạnh hơn.

“Sĩ quan, nếu là tôi, tôi sẽ không trăn trở vì một chuyện như vậy đâu.”

Cô biết giải thích thế nào bây giờ? Những điều đang giày vò cô ngay lúc này phức tạp hơn tất cả những gì viên thám tử có thể hiểu. Rhyme là nhà hình sự học giỏi nhất New York, và có lẽ là ở cả nước Mỹ này. Sachs cũng có tham vọng, nhưng cô không bao giờ có thể sánh ngang anh ở lĩnh vực đó. Nhưng bắn súng – cũng như lái xe nhanh – là một trong những năng khiếu của cô. Cô bắn giỏi hơn hầu hết cánh đồng nghiệp cả nam lẫn nữ trong lực lượng cảnh sát, bằng cả hai tay. Sachs vẫn thường dựng những đồng xu trong trường bắn ở khoảng cách 50 thước và ngắm bắn bằng ánh sáng phản chiếu, biến những đồng xu méo mó đó thành quà tặng cho bạn bè và cô con gái đỡ đầu của mình. Lẽ ra cô đã có thể cứu được Jerry. Chết tiệt thật, thậm chí lẽ ra cô đã có thể hạ được thằng chó đẻ kia.

Cô căm hận mình khủng khiếp, căm hận Percey vì đã đẩy cô vào tình thế khó khăn này.

Và căm hận cả Rhyme nữa.

Cánh cửa bật mở và Percey hiện ra ở ngưỡng cửa. Với một cái nhìn lạnh nhạt về phía Sachs, cô gọi Hale vào trong cùng mình. Anh ta biến mất vào trong phòng và vài phút sau chính Hale là người mở cửa và nói, “Anh ấy muốn mời mọi người quay vào trong”.

Và đây là cảnh Sachs thấy: Percey đang ngồi bên cạnh Rhyme trong một chiếc ghế bành cũ mèm. Cô chợt có ý nghĩ rất lố bịch là trông họ chẳng khác gì vợ chồng.

“Chúng ta, mỗi bên sẽ nhượng bộ một chút”, Rhyme thông báo. “Brit và Percey sẽ tới ngôi nhà an toàn do Dellray bố trí. Họ sẽ tìm ai đó lo việc sửa chữa chiếc máy bay. Cho dù chúng ta có tìm được tên Vũ công hay không, tôi cũng đã đồng ý để cô ấy thực hiện chuyến bay vào đêm mai.”

“Thế nếu tôi cứ bắt giữ chị ta thì sao?”, Sachs nóng nảy thốt lên. “Cho chị ta vào phòng tạm giam?”

Cô đã đinh ninh rằng Rhyme sẽ nổ tung lên – cô đã sẵn sàng đáp trả - nhưng anh chỉ nói rất mềm mỏng, “Tôi cũng đã nghĩ về chuyện đó, Sachs. Và tôi không tin rằng đó là một ý hay. Chỉ tổ làm nhân chứng phải lộ diện nhiều hơn – tòa án, phòng tạm giam, trên đường vận chuyển. Tên Vũ công sẽ càng có thêm cơ hội thủ tiêu họ”.

Amelia Sachs phân vân rồi đầu hàng, gật đầu. Anh nói đúng, vẫn như mọi khi. Nhưng dù đúng hay sai, anh vẫn luôn làm mọi việc theo cách của mình. Cô là trợ lý của anh, chỉ thế thôi. Một nhân viên. Đó là tất cả vai trò của cô đối với anh.

Rhyme nói tiếp. “Còn đây là những gì tôi đang suy tính. Chúng ta sẽ giương một cái bẫy. Tôi sẽ cần sự giúp đỡ của anh, Lon.”

“Cứ cho tôi biết đi.”

“Percey và Hale sẽ tới ngôi nhà an toàn. Nhưng tôi muốn mọi việc diễn ra như thể họ đang tới một nơi hoàn toàn khác. Chúng ta sẽ làm cho mọi việc thật rùm beng. Thật lộ liễu. Tôi sẽ chọn một đồn cảnh sát nào đó, giả vờ như họ sẽ được đưa tới khu phòng giam trong đó để bảo đảm anh ninh. Chúng ta sẽ có một hoặc hai thông báo qua bộ đàm cho lực lượng cảnh sát trên phạm vi toàn thành phố, không cần gây nhiễu, về việc chúng ta sẽ phong tỏa con phố phía trước đồn cảnh sát vì lý do an ninh và đưa tất cả những nghi phạm đang bị tạm giam tại đó tới nhà tù của thành phố để lấy chỗ cho các nhân chứng này. Nếu chúng ta gặp may, kiểu gì tên Vũ công cũng sẽ nghe trộm sóng bộ đàm của cảnh sát. Còn không, giới truyền thông cũng sẽ đánh hơi được và rất có thể hắn sẽ nghe qua cách đó.”

“Đồn cảnh sát Hai mươi được không?”, Sellitto gợi ý.

Đồn Cảnh sát Hai mươi, bên khu Upper West Side, chỉ cách ngôi nhà của Lincoln Rhyme vài khối nhà. Anh cũng biết nhiều nhân viên cảnh sát ở đây.

“Được rồi, tốt lắm.”

Lúc này Sachs mới nhận thấy vẻ gì đó bứt rứt trong mắt Sellitto. Viên thám tử cúi người về phía ghế của Rhyme, mồ hôi rịn ra thành giọt trên vầng trán rộng và nhàu nhĩ. Bằng một một giọng mà chỉ Rhyme và Sachs có thể nghe thấy, anh thì thầm, “Anh chắc về chuyên này chứ, Lincoln. Ý tôi là, anh đã nghĩ kỹ chưa?”.

Ánh mắt Rhyme khẽ liếc về phía Percey. Một cái nhìn thoáng lướt qua giữa hai người. Sachs không hiểu điều đó có nghĩa là gì. Cô chỉ biết là cô không thích nó chút nào.

“Rồi”, Rhyme nói, “Tôi chắc chắn.”

Mặc dù Sachs có cảm giác anh không hề chắc chắn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13


Tôi thấy là có rất nhiều bằng chứng vi lượng đây mà.”

Rhyme hài lòng nhìn những túi nhựa mà Sachs đã mang về từ các hiện trường ở sân bay.

Bằng chứng vi lượng là đối tượng nghiên cứu yêu thích của Rhyme – những mẩu vụn hoặc hạt nhỏ, nhiều khi phải nhìn bằng kính hiển vi, do hung thủ để lại hiện trường, hoặc có sẵn ở hiện trường mà hắn vô tình để dính lên người. Chính bằng chứng vi lượng là thứ mà những tên tội phạm ranh ma nhất cũng hầu như không ngờ đến và vì chúng quá nhỏ bé nên ngay cả những tên kỹ tính nhất cũng khó mà phi tang hết được.

“Chiếc túi đầu tiên, Sachs? Nó ở đâu ra vậy?”

Cô giận dữ lật giở những trang sổ tay.

Cái gì đang trêu tức cô ấy nhỉ? Anh tự hỏi. Điều gì đó không ổn, Rhyme có thể cảm thấy. Có liên quan đến sự giận dỗi của cô ấy với Percey Clay, có thể là vì cô ấy lo lắng cho Jerry Banks. Nhưng cũng có thể không phải. Qua những cái liếc lạnh nhạt của Sachs có thể thấy rằng cô ấy không muốn nói về chuyện này. Đối với anh như thế cũng tốt. Tên Vũ công phải bị tóm bằng mọi giá. Đó là ưu tiên duy nhất của họ lúc này.

“Nó được lấy ra từ chiếc hangar nơi tên Vũ công trốn để chờ máy bay đi qua.” Cô cầm hai chiếc túi lên và hất đầu về phía ba chiếc túi còn lại. “Còn kia là ở ổ bắn tỉa của hắn. Đây là chiếc xe của người thợ sơn. Đây là từ chiếc xe chở thực phẩm.”

“Thom… Thom!”, Rhyme hét lên, làm mọi người trong phòng giật mình.

Anh chàng trợ lý hiện ra trên ngưỡng cửa. Anh hỏi bằng giọng hơi dằn dỗi, “Vâng? Tôi đang chuẩn bị ít thức ăn cho mọi người, Lincoln”.

“Thức ăn?”, Rhyme quát lên với vẻ cáu kỉnh. “Chúng tôi không cần ăn. Chúng tôi chỉ cần thêm biểu đồ. Viết đi: “HT- Hai, Hangar”. Đúng rồi, “HT- Hai, Hangar”. Tốt lắm. Thêm cái này nữa. “HT-Ba”. Đây là chỗ hắn nổ súng. Cái ổ bằng cỏ của hắn.”

“Tôi có phải viết thế không?Cái ổ bằng cỏ?”

“Tất nhiên là không. Chỉ là nói đùa thôi mà. Cậu thấy là tôi cũng có khiếu hài hước đấy thôi. Viết đi: “HT- Ba, Ổ bắn tỉa”. Được rồi, bây giờ, trước hết chúng ta sẽ xem xét cái hangar. Anh thấy gì rồi?”

“Những mẩu thủy tinh”, Cooper nói, tay gẩy gẩy những thứ bày trên mặt khay gốm như một gã buôn kim cương. Sachs nói thêm, “Và một số vi chất thu được bằng máy hút bụi, mấy mẫu sợi trên bậu cửa sổ. Không có FR.”

Ý cô muốn nói đến những dấu vân tay do ma sát lên bề mặt đồ vật. Cả ngón tay lẫn bàn tay.

“Hắn quá cẩn thận với dấu vân tay”, Sellitto lẩm bẩm.

“Không, như thế mới đáng mừng”, Rhyme nói, không giấu nổi vẻ khó chịu – như thỉnh thoảng anh vẫn thể hiện – khi thấy không có ai rút ra kết luận nhanh như mình.

“Tại sao?”, viên thám tử hỏi.

“Hắn thận trọng vì hắn đã có tiền án được lưu trong hồ sơ ở đâu đó! Có nghĩa là nếu chúng ta tìm thấy dấu vân tay, chúng ta rất có thể sẽ xác định được danh tính của tên này. Được rồi, được rồi, còn đây là những dấu găng tay cotton, chúng chẳng giúp được gì… Không có dấu giày vì hắn đã rắc sỏi lên sàn hangar. Tên này ranh ma lắm. Nhưng nếu hắn ngu ngốc thì đã không ai cần đến chúng ta làm gì, phải không nào? Được rồi, những mẩu thủy tinh nói lên điều gì?”

“Chúng còn nói lên điều gì được nữa”, Sachs hơi xẵng giọng, “ngoài việc hắn đã phá cửa để chui vào trong hangar?”

“Tôi đang băn khoăn điều đó”, Rhyme nói. “Chúng ta hãy cùng xem nào.”

Mel Cooper đặt vài mảnh vỡ lên mặt bàn kính rồi chỉnh nó dưới ống kính hiển vi điện tử cài đặt ở mức phóng to trung bình. Anh nhấp chuột vào camera để gửi hình ảnh tới máy tính của Rhyme.

Rhyme tập trung nhìn lên màn hình. Anh ra lệnh, “Chuyển sang chế độ chỉ huy”. Nghe giọng nói của anh, máy tính tự động hiển thị một menu tổng hợp trên màn hình sáng rực. Anh không thể điều khiển được bản thân chiếc kính hiển vi nhưng anh có thể lựa chọn những hình ảnh cụ thể trên màn hình máy tính và điều chỉnh chúng – ví dụ như phóng to hay thu nhỏ. “Kéo con trỏ sang trái. Nhấp đúp chuột.”

Rhyme gò người về phía trước, tâm trí hoàn toàn đắm chìm trong những vệt màu sắc cầu vòng của ánh sáng bị khúc xạ. “Trông như kính cửa sổ chịu lực một lớp loại tiêu chuẩn của PPG[52] ấy nhỉ?”

“Đồng ý”, Cooper nói, rồi nhận xét. “Không có những vụn sắc. Chứng tỏ kính bị đập vỡ bằng một vật tầy. Có lẽ hắn dùng cùi chỏ.”

“Ừ hứ, ừ hứ. Kiểm tra những đường vân vỡ xem thế nào, Mel.”

Khi cửa sổ bị ai đó đập vỡ, lớp kính sẽ vỡ vụn ra theo một loạt những đường vân vỡ nhất định – gọi là những đường nứt gãy uốn lượn. Căn cứ vào những đường vân này cảnh sát có thể xác định được chiều hướng của cú va đập.

“Tôi thấy rồi”, người kỹ thuật viên nói. “Những vết nứt vỡ tiêu chuẩn.”

“Kiểm tra đất bụi”, Rhyme đột ngột nói. “Trên những mẩu kính.”

“Thấy rồi. Nước mưa đọng, bùn, nhiên liệu.”

“Bùn đất ở mặtbên nào của kính?”, Rhyme sốt ruột hỏi. Khi Rhyme còn chỉ huy IRD, một trong những lời phàn nàn của các nhân viên dưới quyền là việc anh hành động không khác gì một bà giáo khó tính. Rhyme thì lại coi đó là một lời khen.

“Đó là… ôi.” Cooper ngỡ ngàng. “Sao lại vậy được nhỉ?”

“Sao cơ?” Sachs hỏi.

Rhyme giải thích. Những đường vân vỡ bắt đầu ở mặt sạch của tấm kính và kết thúc bên mặt bẩn. “Hắn đã ở bên trong khi hắn phá cửa kính.”

Chú thích

[52]PPG: Một hãng sản xuất kính và vật liệu xây dựng nổi tiếng tại Mỹ.

“Nhưng không thể như vậy được”, Sachs phản đối. “Tấm kính nằm bên trong hangar cơ mà. Hắn…” Cô chợt dừng lại và gật đầu. “Ý anh là hắn đập vỡ cửa kính từ bên trong, rồi lại xúc những mẫu kính vỡ lên và hất vào trong cùng chung với sỏi. Nhưng tại sao chứ?”

“Những viên sỏi kia không phải là để xóa dấu giày. Mục đích của chúng là để đánh lừa cho chúng ta tin rằng hắn phá cửa sổ vào.Nhưng thật ra hắn đã ở sẵn bên trong hangar và phá cửa sổ ra. Thú vị thật.” Nhà hình sự học trầm ngâm một lúc rồi chợt hét tướng lên, “Kiểm tra bằng chứng kia. Trong đó có tí đồng nào không? Có tí đồng nào dính với than chì không?”.

“Một chiếc chìa khóa”, Sachs nói. “ Anh đang nghĩ rằng có ai đó đã đưa cho hắn chìa khóa để lọt vào hangar.”

“Đó chính xác là những gì tôi đang nghĩ. Hãy kiểm tra xem ai là người sở hữu hoặc đang thuê lại chiếc hangar.”

“Tôi sẽ gọi điện”, Sellitto nói và mở chiếc điện thoại di động của mình.

Cooper nheo mắt và nhìn qua ống kính của một chiếc kính hiển vi khác. Anh tăng mức độ phóng đại lên. “Đậy rồi”, anh nói. “Rất nhiều dấu vết của than chì và đồng. Ngoài ra theo tôi đoán thì còn có cả vết dầu ba trong một nữa. Như vậy đó hẳn phải là một chiếc chìa khóa cũ. Chắc hắn phải loay hoay khá lâu.”

“Hoặc?”, Rhyme gợi ý. “Tiếp đi, thử nghĩ xem!”

“Hoặc đó là một chìa khóa mới được đánh thêm!” Sachs buột miệng.

“Đúng rồi! Một chiếc hơi khó mở. Tốt lắm. Thom, nhờ cậu viết lên biểu đồ! Viết đi: “Vào bằng chìa khóa.”.”

Bằng nét chữ rất rành rọt của mình, chàng trai trẻ viết những từ đó lên bảng.

“Nào, chúng ta còn có thêm những gì nữa nhỉ?” Rhyme mút và thổi vào ống rồi cố đu người lại gần chiếc máy tính hơn. Anh tính toán sai nên va thẳng vào đó, suýt chút nữa làm màn hình máy tính lật nhào.

“Chết tiệt”, anh càu nhàu.

“Anh không sao chứ?” Sellitto hỏi.

“Không sao, tôi không sao cả”, anh xẵng giọng. “Có thêm gì nữa không? Tôi đang hỏi mà – còn gì nữa không?”

Cooper và Sachs quét nốt những bằng chứng còn lại lên một tờ giấy in báo sạch khổ lớn. Họ đeo kính lúp rối bắt đầu kiểm tra qua một lượt. Cooper dùng kẹp gắp một vài mẩu nhỏ lên rồi đặt chúng vào một bàn kính.

“Được rồi”, Cooper nói. “Chúng ta có mấy thớ sợi.”

Vài giây sau Rhyme đã có thể nhìn qua những thớ sợi nhỏ li ti trên màn hình máy tính của mình.

“Anh nghĩ sao, Mel? Giấy, đúng không?”

“Đúng.”

Rhyme nói vào tai nghe, và ra lệnh cho máy tính của mình kéo lướt qua một lượt những hình ảnh được kính hiển vi phóng to về các thớ sợi. “Có vẻ như là hai loại khác nhau. Một loại màu trắng, nhờ nhờ. Loại kia lại màu xanh lục.”

“Màu xanh à? Hay là tiền?” Sellitto gợi ý.

“Có thể.”

“Có đủ để phân tích bằng sắc ký khí không?” Rhyme hỏi. Máy sắc ký khí sẽ phá vỡ cấu trúc của các thớ sợi.

Cooper trả lời là có và tiến hành thực hiện một vài kiểm tra cần thiết.

Anh đọc kết quả từ màn hình máy tính. “Không có cotton, cũng không thấy có natrium carbonate, sulfate hoặc sulfite.”

Đây là những hóa chất thường được thêm vào trong quá trình xử lý và sản xuất giấy chất lượng cao.

“Đây là giấy rẻ tiền. Thuốc nhuộm lại là loại hòa tan trong nước. Không có dấu vết của loại mực gốc dầu.”

“Nếu vậy đây không phải là tiền”, Rhyme tuyên bố.

“Có lẽ là giấy tái chế”, Cooper nói.

Rhyme lại cho phóng to màn hình. Lúc này hình ảnh ma trận đã hiện to lên và những chi tiết thực lại không còn nữa. Anh thoáng bực mình và thầm ước giá như anh đang được nhìn trực tiếp qua ống kính hiển vi thật. Không gì có thể rõ nét hơn hình ảnh của những thiết bị quang học hạng nhất này.

Và rồi anh chợt nhận thấy điều gì đó.

“Mấy cái vết vàng vàng kia, Mel? Hồ dán à?”

Tay kỹ thuật viên đầu hói nhìn qua ống kính của kính hiển vi và tuyên bố, “Đúng rồi. Keo dán phong bì, có vẻ như vậy”.

Vậy rất có thể là chiếc chìa khóa đã được chuyển cho tên Vũ công trong một cái phong bì. Nhưng còn loại giấy màu xanh kia có vai trò gì trong chuyện này? Rhyme hoàn toàn không có câu trả lời.

Sellitto gập điện thoại lại. “Tôi vừa nói chuyện với Ron Talbot ở Hudson Air. Ông ta đã gọi điện cho vài người. Có đoán được ai đang thuê chiếc hangar nơi tên Vũ công đã mai phục không?”

“Phillip Hansen”, Rhyme nói.

“Đúng vậy.”

“Chúng ta đang có những bằng chứng thuyết phục rồi đây”, Sachs phấn khích.

Đúng đấy, Rhyme thầm nghĩ, mặc dù mục tiêu của anh không phải là bàn giao tên Vũ công cho Tổng Chưởng lý với những bằng chứng xác thực. Không, anh muốn đầu của tên khốn kiếp đó được bêu trên sào.

“Còn gì nữa không?”

“Hết rồi.”

“Tốt lắm, vậy chúng ta hãy chuyển sang hiện trường tiếp theo. Ổ bắn tỉa. Đây là nơi hắn phải chịu rất nhiều áp lực. Biết đâu hắn đã sơ sểnh.”

Nhưng, tất nhiên rồi, hắn không hề có một chút sơ sểnh.

Ở đó hoàn toàn không có vỏ đạn nào.

“Lý do là đây”, Cooper nói, sau khi phân tích những dấu vết để lại qua kính hiển vi. “Sợi vải cotton. Hắn dùng một cái khăn lau đĩa để hứng vỏ đạn bắn ra.”

Rhyme gật đầu. “Dấu chân thì sao?”

“Cũng không nốt.” Cô giải thích rằng tên Vũ công đã đi vòng quanh những mảng bùn đất lộ ra trên mặt sân bay, ngay cả khi chạy ra chiếc xe chở thực phẩm để trốn thoát hắn cũng đi trên cỏ.

“Cô tìm được bao nhiêu dấu vân tay?”

“Ở ổ bắn tỉa thì không có cái nào”, Sachs trả lời. “Trong hai chiếc xe thì phải gần hai trăm mẫu.”

Sử dụng AFIS[53] liên kết tất cả những cơ sở dữ liệu những dấu vân tay đã được số hóa của tội phạm, quân nhân, công chức trên cả nước – có thể giúp xác định chủ nhân của phần lớn những dấu vân tay này (mặc dù công việc đó sẽ rất mất thời gian). Nhưng Rhyme đã quá bị ám ảnh với việc truy tìm tên Vũ công, anh không đời nào chịu mất công đề nghị sử dụng AFIS. Sachs cũng thông báo về việc cô tìm thấy những dấu tay có mang găng của hắn trong xe; như vậy những dấu vân tay trần bên trong hai chiếc xe không thể nào là của tên Vũ công.

Cooper dốc cả chiếc túi nhựa vào một khay kiểm tra. Anh và Sachs cùng xem xét qua. “Đất, cỏ, sỏi… Đây rồi này. Anh có nhìn thấy không, Lincoln?” Cooper đặt một bàn kính khác lên.

“Lông[54]”, Cooper nói, mắt vẫn dính chặt vào ống kính. “Ba, bốn, sáu, chín… hơn chục sợi tất cả. Có vẻ như là kiểu lõi tủy liên tục.”

Lõi tủy giống như một dòng kênh chạy xuyên qua chính giữa một sợi tóc hay lông nào đó. Ở người, lõi tủy hoặc là không tồn tại, hoặc là đứt đoạn. Lõi tủy liên tục có nghĩa đây là lông động vật. “Anh nghĩ sao, Mel?”

“Tôi sẽ cho chúng chạy qua SEM”. SEM là kính hiển vi điện tử quét bằng hạt electron. Cooper chọn tỷ lệ phóng đại gấp 1500 lần và điều chỉnh các nút vặn cho đến khi một sợi lông hiện lên chính giữa màn hình. Đó là một sợi lông trắng nhờ nhờ với những vảy sắc cạnh giống như vỏ của một quả dứa.

“Mèo”, Rhyme khẳng định.

“Những con mèo, số nhiều thì đúng hơn”, Cooper chỉnh và lại chăm chú nhìn vào ống kính hiển vi lần nữa. “Hình như chúng ta có một con màu đen và một con tam thể. Cả hai đều có lông ngắn. Cuối cùng là một con màu hung, lông dài và mảnh. Có lẽ là mèo giống Ba Tư, đại loại như thế.”

Rhyme khịt mũi. “Căn cứ vào hồ sơ của tên Vũ công, tôi không nghĩ hắn là một kẻ thích động vật. Hoặc là hắn đóng giả một kẻ có nuôi mèo hoặc hắn đang ở cùng ai đó sở hữu những con vật này”.

“Vẫn là những sợi lông”, Cooper thông báo và đặt một miếng kính lên giá quan sát của kính hiển vi. “Tóc người, Trông nó… khoan đã, hai sợi dài khoảng sáu inch.”

“Chẳng lẽ hắn bị rụng tóc à?” Sellitto hỏi.

“Ai mà biết được?” Rhyme nói vẻ hoài nghi. Không có phần chân tóc ngắn kèm, không thể nào xác định được giới tính của người đã rụng mất hai sợi tóc này. Việc xác định tuổi tác, trừ phi là tóc của trẻ sơ sinh, cũng là điều không thể.

Chú thích

[53]AFIS (Viết tắt của Automated Fingerprint Identification Systems): Hệ thống nhận dạng dấu vân tay tự động.

[54]Trong tiếng Anh “hair” là từ được dùng để chỉ “lông” và “tóc” nói chung. Nên khi Cooper nói “lông” thì cũng có thể hiểu là “tóc”.

Rhyme gợi ý, “Biết đâu đó là tóc của tay thợ sơn. Sachs? Anh ta để tác dài à?”.

“Không. Húi cua. Hơn nữa lại là tóc vàng.”

“Anh nghĩ sao, Mel?”

Người kỹ thuật viên xem xét chiều dài của sợi tóc. “Đây là tóc nhuộm.”

“Tên Vũ công vẫn thường xuyên thay đổi hình dạng”, Rhyme nói.

“Tôi không biết, Lincoln”, Cooper nói. “Loại thuốc nhuộm này khá giống với màu tóc tự nhiên. Theo tôi, hắn sẽ phải chọn loại nào đó thực sự khác biệt nếu như hắn muốn thay đổi hình dạng. Khoan đã, tôi nhìn thấy hai loại màu nhuộm. Màu tóc tự nhiên là màu đen. Đã được nhuộm thêm chút nâu vàng, và mới đây là lần nhuộm màu ánh tím thẫm. Cách nhau khoảng hai, ba tháng gì đó.”

“Tôi cũng thấy ở đây còn rất nhiều dư chất dính lại, Lincoln. Tôi sẽ cho phân tích một sợi qua sắc ký khí.”

“Làm đi”

Một lát sau Cooper bắt đầu đọc kết quả từ biểu đồ hiện ra trên máy tính kết nối với sắc ký khí. “Tốt rồi, chúng ta tìm thấy một loại mỹ phẩm nào đó.”

Đồ trang điểm rất có ích đối với nhà hình sự học; các nhà sản xuất mỹ phẩm vẫn khét tiếng là hay chơi trò thay đổi công thức các sản phẩm của mình để khai thác tối đa những trào lưu thời trang mới. Từ các thành phần khác nhau có thể lần ra ngày sản xuất cụ thể và thậm chí là khu vực phân phối.

“Chúng ta có những gì rồi?”

“Chờ chút”. Cooper đang bận chuyển công thức tới cơ sở dữ liệu các loại sản phẩm. Một lát sau anh đã có câu trả lời. “Slim-U-Lite. Hàng của Thụy Sĩ, do công ty Jencon nhập khẩu, có trụ sở bên ngoài Boston. Đây là một loại xà phòng tắm có gốc chất tẩy rửa được bổ sung thêm tinh dầu và các loại amino acid. Loại này cũng đang gây tranh cãi – FTC[55] đang điều tra tuyên bố của nhà sản xuất rằng nó có thể lấy bớt đi mỡ và cellulite[56] trên cơ thể”.

“Hãy thử dựng chân dung xem”, Rhyme nói. “Sachs, cô nghĩ thế nào?”.

“Về hắn ư?”

“Về cô ta. Người đang giúp đỡ và tiếp tay cho hắn. Hoặc cũng có thể là người đã bị hắn sát hại để ẩn náu trong căn hộ của cô ta. Hoặc đánh cắp chiếc xe của cô ta.”

“Anh dám chắc đây là một phụ nữ ư?”, Lon Sellitto hoài nghi.

“Không. Nhưng chúng ta cũng không còn thời gian để mà nhút nhát khi đưa ra những suy đoán nữa. Phụ nữ lo lắng về vấn đề cellulite hơn là cánh nam giới. Số phụ nữ nhuộm tóc cũng nhiều hơn nam giới. Suy đoán táo bạo vào! Nghĩ đi!”

“Hừm, thừa cân”, Sachs buột miệng. “Có vấn đề về tự ti về hình ảnh bản thân.”

“Có thể là mang phong cách punk, Làn sóng Mới, hay bất kỳ cái tên nào mà bọn trẻ ranh dị hợm đang tự gọi chúng ngày nay”, Sellitto góp ý. “Con gái tôi cũng nhuộm tóc màu tím. Nó còn xỏ khuyên này nọ nữa, tôi không muốn đề cập tới vấn đề này. Liệu có thể là dân mạn East Village[57] không?”

“Tôi không nghĩ cô ta mang hình ảnh của một người nổi loạn”, Sachs nói. “Không phải là với những gam màu này. Chúng hoàn toàn chưa đủ độ khác biệt. Cô ta chỉ đang cố tỏ ra sành điệu nhưng tất cả những gì cô ta mất công làm đều không có tác dụng. Theo tôi đây là một phụ nữ béo phì, tóc ngắn, khoảng ngoài ba mươi tuổi, có nghề nghiệp. Sống độc thân với lũ mèo của mình vào buổi tối.”

Rhyme gật đầu, chăm chú nhìn biểu đồ. “Cô đơn. Đúng là kiểu người dễ bị dụ dỗ bởi một kẻ có cái lưỡi dẻo quẹo. Hãy kiểm tra qua các bác sĩ thú y xem. Chúng ta biết là cô ta có ba con mèo, ba màu khác nhau.”

“Nhưng ở đâu chứ?” Sellitto hỏi. “Westchester? Hay Manhattan?”

“Trước hết chúng ta hãy đặt câu hỏi”, Rhyme trầm ngâm, “tại sao hắn phải bám lấy người phụ nữ này?”.

Sachs búng ngón tay đánh tách. “Bởi vì hắn buộc phải làm thế! Bởi vì suýt chút nữa chúng ta đã tóm được hắn.” Gương mặt cô vụt sáng bừng lên. Một phần con người cô nàng Amelia mọi khi đã quay trở lại.

“Chính xác!”, Rhyme nói. “Sáng nay, gần nhà của Percey. Khi ESU ập tới.”

Sachs nói tiếp. “Hắn đã bỏ lại chiếc xe thùng và lẩn trốn trong căn hộ của cô ta đến khi an toàn mới mò ra.”

Rhyme nói với Sellitto, “Hãy cho người gọi điện tới chỗ các bác sĩ thú y. Trong khoảng mười khối phố xung quanh ngôi nhà của Percey. Không, cho kiểm tra toàn bộ khu Upper East Side đi. Gọi điện đi, Lon, gọi ngay đi!”

Trong lúc viên thám tử vội vã bấm số trên điện thoại, Sachs lo lắng hỏi, “Anh nghĩ cô ta không sao chứ? Người phụ nữ kia ấy?”.

Rhyme trả lời từ trái tim mình mặc dù không phải với những gì anh tin là sự thật. “Chúng ta có thể hy vọng thế, Sachs. Chúng ta có thể hy vọng.”

Chú thích

[55]FTC (viết tắt của Federal Trade Commission): Ủy ban Thương mại Liên bang.

[56]Cellulite: Những ngấn mỡ thừa lồi lõm dưới da, nhất là ở phần đùi và mông của phụ nữ.

[57]East Village: Một khu dân cư thuộc Manhattan ở thành phố New York, nơi tập trung nhiều văn nghệ sĩ và giới thanh niên mang tư tưởng cấp tiến, nổi loạn. Cũng là nơi sản sinh nhiều ban nhạc rock nổi tiếng mang phong cách punk.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14


Giờ thứ 7 của 45

Đối với Percey Clay, ngôi nhà an toàn mà cô đến chẳng có vẻ gì là thực sự an toàn.

Đó là một công trình ba tầng xây bằng đá hộc màu nâu giống như rất nhiều ngôi nhà dọc khối phố này, gần thư viện Morgan.

“Đây rồi”, một đặc vụ vừa nói với cô và Brit Hale vừa hất đầu ra ngoài cửa sổ chiếc xe thùng. Họ đậu xe trong con hẻm rồi cô và Hale bị đẩy nhanh qua lối vào dưới tầng hầm. Cánh cửa sắt đóng sầm lại. Hai người nhận ra mình đang đứng trước mặt một người đàn ông xởi lởi khoảng bốn mươi tuổi, cao gầy với mái tóc màu nâu đang hói dần. Anh ta đang ngoác miệng cười.

“Xin chào”, anh ta nói và chìa ra tấm phù hiệu NYPD với hình chiếc khiên màu vàng của mình. “Tôi là Roland Bell. Kể từ bây giờ hai người gặp bất kỳ ai, kể cả với một người trông quyến rũ như tôi, hãy yêu cầu họ cho xem giấy tờ chứng minh và nhớ bảo đảm rằng ảnh dán trên đó phải giống mặt thật 100%.”

Percey chăm chú nghe cái giọng kéo dài bắn như súng liên thanh của anh ta và hỏi, “Đừng nói với tôi… anh là người Tarheel[58] đấy?”.

”Chính xác là thế”. Anh ta cười phá lên. “Trước thì sống ở Hoggston – không hề nói đùa một chút nào – cho đến khi chuyển sang Chapel Hill khoảng bốn năm. Theo tôi biết thì cô là người Richmond.”

“Trước kia thôi. Lâu lắm rồi.”

“Còn anh, anh Hale?”, Bell hỏi. “Anh cũng từ bỏ lá cờ Sao và Vạch ngang[59] à?”.

“Người Michigan”, Hale nói và bắt bàn tay cứng cáp của viên thám tử. “Gốc Ohio.”

“Ồ, đừng lo, tôi sẽ tha thứ cho các anh vì sai lầm nhỏ hồi những năm 1860 ấy”.

“Nếu là tôi có lẽ tôi đã đầu hàng rồi”, Hale nói đùa. “Hồi đó không ai hỏi ý kiến tôi cả.”

“Ha ha. Được rồi, tôi là một thám tử hình sự nhưng tôi cũng thường phụ trách những vụ bảo vệ nhân chứng loại này vì tôi có sở trường trong việc giữ gìn mạng sống cho người khác. Vậy là anh bạn thân mến Lon Sellitto đã đề nghị tôi giúp anh ta vụ này. Tôi sẽ là người trông nom quý vị một thời gian.”

Percey hỏi, “Vậy còn người thám tử kia hiện ra sao rồi?”.

“Jerry à? Theo như tôi nghe nói thì cậu ta vẫn đang ở trong phòng mổ. Chưa có thông tin gì mới cả.”

Giọng nói của người cảnh sát có vẻ hơi chậm và kéo dài nhưng đôi mắt anh ta thì vô cùng nhanh nhẹn, lướt qua cơ thể hai người như điện xẹt. Tìm kiếm gì chứ? Percey tự hỏi. Kiểm tra xem họ có mang theo vũ khí không à? Có giấu máy ghi âm trong người không à? Sau đó anh ta quan sát hành lang. Trước khi lia mắt ra ngoài cửa sổ.

“Được rồi”, Bell nói, “tôi là một người dễ tính nhưng tôi cũng có thể là một người khó chịu khi động đến việc bảo vệ những người tôi được phân công chịu trách nhiệm”. Anh khẽ mỉm cười nhìn Percey. “Trông cô cũng có vẻ là một người cứng đầu đấy, nhưng hãy nhớ là tất cả những gì tôi yêu cầu cô làm cũng đều là vì lợi ích của chính cô thôi. Được chứ? Được rồi. Mà này, tôi dám chắc chúng ta sẽ chung sống hòa thuận cho mà xem. Còn bây giờ, để tôi cho hai người thấy nơi ăn ở hạng A này của quý vị nhé.”

Khi họ đang đi lên tầng trên anh lại nói, “Có lẽ hai người đang thèm muốn chết được biết nơi này an toàn như thế nào…”.

Hale hỏi với vẻ ngơ ngác, “Xin lỗi anh vừa nói gì cơ? Thèm muốn chết?”.

“À ừ, ý tôi là nóng lòng ấy mà. Chắc tại tôi vẫn nói theo kiểu miền Nam. Mấy anh bạn ở One Police Plaza[60] – có nghĩa là ở trụ sở chính ấy mà – thỉnh thoảng vẫn lôi tôi ra trêu chọc. Họ vẫn nhắn tin thông báo là vừa tóm cổ được tên vai u thịt bắp nào đó và muốn nhờ tôi làm phiên dịch. Nhân tiện cũng khẳng định là nơi này rất tốt và an toàn. Mấy anh bạn của chúng tôi bên Bộ Tư pháp, ối chà, họ làm việc đâu vào đấy lắm. Trông rộng hơn là nhìn từ bên ngoài nhỉ?”

“Rộng hơn một chiếc cabin, nhỏ hơn một đường băng rộng”, Hale nói.

Bell cười khùng khục. “Mấy cái cửa sổ ở phía trước à? Chắc lúc mới lái xe đến đây hai người cảm thấy chúng không được chắc chắn cho lắm?”

“Đó là một chuyện…”, Percey bắt đầu.

“Chà, phòng phía trước đây rồi. Hãy thử nhìn mà xem.” Anh đẩy một cánh cửa mở hẳn ra.

Hoàn toàn không có cửa sổ nào. Những tấm thép đã được gắn chặt phủ lên chúng. “Rèm che ở phía bên kia”, Bell giải thích. “Nhìn từ ngoài phố ai cũng tưởng đây là những căn phòng tối. Tất cả các cửa sổ còn lại đều lắp kính chống đạn. Nhưng hai người không được lại gần trong bất kỳ tình huống nào. Và phải luôn nhớ kéo rèm xuống. Lối thoát hiểm trong trường hợp hỏa hoạn và mái nhà đều được trang bị các thiết bị cảm ứng, ngoài ra chúng tôi còn lắp đặt hàng tấn máy quay bí mật xung quanh nhà. Bất kỳ ai tới gần đều bị chúng tôi phát hiện và vô hiệu hóa ngay trước khi họ kịp đặt chân tới cửa trước. Phải là một bóng ma mắc bệnh chán ăn mới có thể lọt vào đây.” Anh bước dọc theo một hành lang rộng. “Hãy theo tôi bước qua phía này một chút… Được rồi, đây là phòng của cô đấy, cô Clay.”

“Nếu như chúng ta chuẩn bị sống cùng nhau, có lẽ anh nên gọi tôi là Percey vậy.”

“Nhất trí ngay. Còn anh ở bên này, anh…”

“Brit.”

Những căn phòng đều nhỏ bé, hơi tối và vô cùng yên tĩnh – khác xa văn phòng của Percey trong góc của chiếc hangar ở Hudson Air. Cô chợt nhớ đến Ed, người chỉ thích có một văn phòng trong tòa nhà chính, bàn làm việc luôn được bài trí gọn gàng, ảnh những chiếc B-17 và P-51 treo ngay ngắn trên tường, những cục chặn giấy Lucite đặt trên mỗi chồng tài liệu. Percey thích ngửi mùi xăng máy bay, và tiếng nhạc nền cho một ngày làm việc bận rộn của cô là âm thanh đinh tai nhức óc của những chiếc cờ lê công nghiệp chạy bằng bình khí nén. Cô nhớ đến những lúc hai người còn bên nhau, anh ngồi vắt chân trên bàn làm việc của cô, cùng chia sẻ từng ngụm cà phê. Cô cố xua đưổi những ý nghĩ đó ra khỏi đầu trước khi những giọt nước mắt lại bắt đầu trào ra.

Chú thích

[58]Tarheel: Nghĩa là người quê ở bang North Carolina.

[59]Cờ Sao và Vạch ngang: Lá cờ của các bang miền Nam ly khai trong Nội chiến Mỹ (1861-1865). North Carolia và Virginia (có thủ phủ là Richmond) đều là hai bang miền Nam ly khai, còn Michigan là bang tham gia vào phe miền Bắc.

[60]One Police Plaza: Tòa nhà Lớn – Sở chỉ huy của Sở Cảnh sát New York.

Bell đang nói vào chiếc bộ đàm của anh ta. “Các nhân viên vào vị trí.” Một lát sau hai cảnh sát mặc sắc phục xuất hiện ngoài hành lang. Họ gật đầu chào rồi một người lên tiếng. “Chúng tôi sẽ đứng ở ngoài này. Suốt thời gian các vị ở đây”. Kể cũng lạ, kiểu giọng mũi đặc sệt New York của họ dường như cũng không hề khác gì giọng nói kéo dài ồm ồm của Bell.

“Như thế là tốt đấy”, Bell nói với Percey.

Cô nhướng mày.

“Thì cô vừa kiểm tra phù hiệu của anh ta còn gì. Sẽ không ai qua mặt được cô đâu.”

Cô gượng cười đáp lại.

Bell nói với Percey. “Hiện tại chúng tôi cũng đã cử hai người bảo vệ mẹ chồng cô ở New Jersey. Cô còn người thân nào trong gia đình cần được bảo vệ nữa không?”

Percey trả lời không, ít nhất thì cũng là trong khu vực này.

Anh lặp lại câu hỏi với Hale, anh ta trả lời với một nụ cười rầu rĩ, “Không có ai, trừ khi một người vợ cũ cũng vẫn được coi là người thân trong gia đình. Hừm, những người vợ thì đúng hơn.”

“Tốt rồi. Thế có mèo hay chó gì cần cho ăn không?”

“Không”, Percey nói, và Hale lắc đầu.

“Nếu vậy chúng ta có thể ung dung thư giãn được rồi. Không được gọi điện thoại di động, trong trường hợp các vị có máy. Chỉ được sử dụng đường dây điện thoại cố định đằng kia. Nhớ những gì tôi nói về cửa sổ và rèm che. Ở đằng kia có một chiếc nút báo động khẩn cấp. Trong trường hợp mọi chuyện không thể nào tồi tệ hơn được nữa, hãy bấm nút và nằm sát xuống sàn nhà. Còn bây giờ, nếu hai người cần bất kỳ điều gì, cứ việc nói với tôi một tiếng là xong.”

“Thực ra thì tôi có đấy”, Percey nói. Cô giơ cao chiếc chai bẹt của mình lên.

“Ái chà chà”, Bell kéo dài, “nếu cô muốn tôi giúp cô dốc cạn nó thì e là tôi đang trong ca trực. Nhưng dù sao cũng rất cám ơn cô đã mời. Còn nếu cô muốn tôi giúp đổ đầy nó, ok, coi như xong rồi”.

Kế hoạch của họ không xuất hiện trên bản tin năm giờ chiều.

Nhưng bù lại đã có ba lần phát sóng không gây nhiễu trên tần số sóng bộ đàm cảnh sát toàn thành phố, thông báo cho các đồn cảnh sát về Kế hoạch số 10-66 nhằm tăng cường an ninh tại Đồn Cảnh sát Hai mươi và phát thêm Kế hoạch số 10-67 về việc giải tỏa giao thông và những đoạn phố cần phong tỏa trong khu vực Upper West Side. Tất cả những đối tượng tình nghi đang bị giam giữ trong Đồn Cảnh sát Hai mươi đều phải được chuyển thẳng đến Trại Tạm giam Trung tâm hoặc Nhà giam Liên bang ở khu Hạ Manhattan. Không một ai được phép ra vào đồn mà không có sự cho phép đặc biệt của FBI hoặc của FAA – theo ý của Dellray.

Trong khi những thông tin này đang được phát đi, các đội 32-E của Bo Haumann triển khai vào vị trí xung quanh đồn cảnh sát.

Lúc này Haumann đang phụ trách chiến dịch mai phục. Fred Dellray lo việc huy động một đội giải cứu con tin liên bang trong trường hợp họ phát hiện ra danh tính của người phụ nữ nuôi mèo và căn hộ của cô ta. Rhyme, cùng với Sachs và Cooper, tiếp tục phân tích các bằng chứng được tìm thấy tại hiện trường.

Không có thêm đầu mối nào, nhưng Rhyme vẫn muốn Sahcs và Cooper kiểm tra lại những gì họ đã phát hiện được. Đây là phạm trù khoa học hình sự – bạn tìm kiếm, tìm kiếm và tìm kiếm, để rồi, khi không thể tìm kiếm thấy bất kỳ thứ gì, bạn lại tiếp tục tìm kiếm. Và ngay cả khi đâm sầm vào một bức tường gạch khác, bạn vẫn phải tiếp tục tìm kiếm.

Lúc này Rhyme đã đẩy chiếc xe lăn đến sát máy tính và đang ra lệnh cho nó phóng đại hình ảnh của thiết bị hẹn giờ được tìm thấy trong xác chiếc máy bay của Ed Carney. Bản thân chiếc đồng hồ có thể là chẳng giúp ích được gì, vì nó quá phổ biến, nhưng Rhyme vẫn băn khoăn biết đâu nó lại chẳng chứa một chút dấu vết nhỏ hoặc thậm chí là một dấu vân tay nào đó. Những thủ phạm đánh bom vẫn tin rằng dấu vân tay sẽ bị phá hủy khi quả bom phát nổ nên chúng không mấy bận tâm đến việc dùng găng tay khi chạm đến những bộ phận nhỏ li ti của thiềt bị nổ. Nhưng bản thân vụ nổ chưa chắc đã phá hủy các dấu vân tay. Lúc này Rhyme đang ra lệnh cho Cooper đặt chiếc đồng hồ vào khung SuperGlue để phun hóa chất phát hiện vân tay và sau khi phương pháp này không ăn thua, dùng Magna-Brush để quét qua bề mặt, một kỹ thuật làm nổi dấu vân tay bằng cách sử dụng bột từ tính mịn. Lần này anh cũng không phát hiện được gì.

Cuối cùng anh ra lệnh bắn phá mẫu vật này bằng nit-yag, một từ lóng để chỉ máy chiếu laser hồng ngoại, loại thiết bị hiện đại nhất dùng để phát hiện những dấu vân tay khó nhìn. Cooper đang quan sát hình ảnh này dưới ống kính hiển vi trong lúc Rhyme kiểm tra nó trên màn hình máy tính.

Rhyme bật ra một tiếng cười ngắn, nheo mắt lại, rồi lại chăm chú nhìn, phân vân không biết có phải anh đang bị thị giác của chính mình đánh lừa không.

“Có phải kia không?... Nhìn kìa. Góc dưới bên phải ấy!” Rhyme reo lên.

Nhưng cả Sachs và Cooper đều không nhìn thấy gì.

Hình ảnh phóng to trên màn hình máy tính của anh đã làm lộ ra điều gì đó mà ống kính quang học của Cooper không nhận thấy. Trên lớp vỏ kim loại bảo vệ chiếc đồng hồ hẹn giờ khỏi bị nổ tung thành từng mảnh vụn là một vệt lưỡi liềm mờ mờ gồm những đường lượn sóng đứt đoạn, những đường cắt ngang và rẽ nhánh. Chiều rộng của nó chưa đến 1/16 inch và có lẽ cũng chỉ dài khoảng nửa inch là cùng.

“Đúng là dấu vân tay rồi”, Rhyme nói.

“Không đủ để so sánh”, Cooper nói, mắt dán chặt vào màn hình máy tính của Rhyme.

Trong mỗi dấu vân tay của từng người có tất cả khoảng 150 đặc điểm đường lượn khác nhau nhưng một chuyên gia có thể xác định được dấu vân tay trùng khớp từ tám đến mười sáu đường lượn. Thật không may, mẫu dấu tay này thậm chí còn không có đến một nửa con số tối thiểu đó.

Dù sao Rhyme cũng vô cùng phấn khích. Nhà hình sự học tàn phế không đủ khả năng vặn nút điều khiển trên ống kính hiển vi điện tử lại phát hiện ra cái mà người khác không nhìn thấy. Một điều mà có lẽ anh bỏ sót nếu như anh còn là người “bình thường”.

Anh ra lệnh cho máy tính khởi động một chương trình phân tích hình ảnh, sau đó anh cho lưu dấu vân tay lại dưới dạng file đuôi .bmp, thay vì nén nó dưới dạng file đuôi .jpg, để tránh rủi ro làm biến dạng hình ảnh ban đầu. Anh in ra một bản dạng ảnh giấy bằng máy in laser của mình rồi bảo Thom dán lên lên bên cạnh tấm bảng bằng chứng hiện trường vụ nổ.

Điện thoại đổ chuông và với hệ thống mới của mình, Rhyme dễ dàng nhận cuộc gọi và bật loa ngoài lên.

Đó là cặp Sinh đôi.

Cũng còn được biết đến với danh xưng trìu mến là “Những Chàng trai Dũng cảm”, cặp thám tử trọng án hình sự này làm việc trong One Police Plaza. Họ là những chuyên gia thẩm vấn kiêm chuyên gia vận động – những cảnh sát có nhiệm vụ phỏng vấn người dân trong khu vực, nhân chứng, khách vãng lai sau mỗi vụ án – và hai anh em này, với những nét giống nhau như hai giọt nước, được coi là xuất sắc nhất trong lực lượng cảnh sát thành phố. Ngay chính Lincoln Rhyme, vốn rất hoài nghi đối với khả năng quan sát và trí nhớ của con người, cũng phải tôn trọng họ.

Bất chấp cái kiểu tranh nhau nói của họ.

“Ê, thám tử. Ê, Lincoln”, một người lên tiếng. Tên của hai anh em là Bedding và Saul. Khi gặp trực tiếp cũng khó có thể phân biệt ai là ai. Qua điện thoại, Rhyme thậm chí còn không có ý định thử đoán xem ai đang nói.

“Các anh có gì rồi?”, anh hỏi. “Tìm được cô nàng nuôi mèo chưa?”.

“Vụ này dễ ợt ấy mà. Đã gọi cho bác sĩ thú y, hai cơ sở khám chữa bệnh cho thú cưng…”

“Kiểm tra cả những cơ sở này cũng lý thú thật. Và…”

“Chúng tôi còn rà soát qua ba công ty chuyên dẫn thú cưng đi dạo. Mặc dù…”

“Chẳng có ai lại dẫn mèo đi dạo, đúng không? Nhưng họ cũng cung cấp dịch vụ cho ăn, cho uống và lau dọn chất thải khi người chủ vắng nhà. Theo tôi thì cẩn thận như vậy cũng không hại gì.”

“Ba trong số các bác sĩ thú y có đưa ra một số cái tên phỏng đoán nhưng họ cũng không chắc lắm. Vì họ có rất nhiều khách hàng mà.”

“Trong khu Upper West Side này có không biết bao nhiêu là động vật nuôi. Kiểu gì chắc các anh cũng phải ngạc nhiên. Nhưng chắc là không.”

“Và thế là chúng tôi phải gọi cho tất cả các nhân viên đang nghỉ ở nhà. Các anh biết đấy, bác sĩ, trợ lý, người tắm rửa…”

“Đó cũng là một nghề đấy. Tắm cho thú cưng. Cuối cùng, có một cô lễ tân làm việc tại cơ sở của một bác sĩ thú y trên phố Tám mươi hai cho rằng đó rất có thể là vị khách hàng có tên Sheila Horowitz. Cô ta khoảng ngoài ba mươi tuổi, tóc ngắn tối màu, người phục phịch. Có ba con mèo. Một con màu đen, một con màu vàng. Màu của con thứ ba thì không ai nhớ cả. Cô ta sống trên phố Lexington, giữa phố Bảy mươi tám và Bảy mươi chín”.

Tức là cách nhà Percey bảy khối nhà.

Rhyme cảm ơn hai người và bảo họ giữ máy, rồi anh quay ra hét toáng lên, “Gọi cho các đội của Dellray tới đó ngay! Cả cô nữa, Sachs. Dù hắn còn ở đó hay không chúng ta cũng sẽ có một hiện truờng cần kiểm tra. Tôi nghĩ là chúng ta sắp tóm được hắn rồi. Mọi người có cảm thấy thế không? Chúng ta sắp tóm được hắn rồi!”.

Percey Clay đang kể cho Roland Bell nghe về chuyến bay một mình đầu tiên của cô.

Lần đó mọi việc không hoàn toàn diễn ra như những gì cô dự tính.

Cô cất cánh từ một đường băng nhỏ phủ cỏ nằm cách Richmond khoảng bốn dặm đường, tận hưởng cảm giác khừng khực quen thuộc khi bánh của chiếc Cessna nẩy tưng tưng trên mặt đất lồi lõm trước khi cô đạt đến vận tốc V1. Rồi cô kéo giật cần lái về phía sau và chiếc Cessna 150 nhỏ xíu bay thẳng lên trời. Một buổi chiều mùa xuân ẩm ướt, cũng giống như chiều hôm nay.

“Chắc phải phiêu lưu lắm”, Bell nhận xét, với vẻ mặt ngờ vực, tò mò.

“Còn hơn thế nhiều”, Percey nói, rồi tu một hớp rượu từ cái chai bẹt.

Hai mươi phút sau khi cất cánh động cơ đột ngột ngừng hoạt động ngay lúc đang bay trên khu Hoang dã ở phía đông Virginia, một cơn ác mộng với những bụi mâm xôi và rặng thông rậm rạp. Cô cho chiếc máy bay hạ cánh xuống một con đường mòn, tự mình làm sạch đường ống dẫn nhiên liệu rồi lại cất cánh lần nữa, quay về nhà, bình yên vô sự.

Chiếc Cessna nhỏ bé không bị hề hấn gì – do vậy người chủ của nó không bao giờ phát hiện ra cuộc phiêu lưu vụng trộm. Trên thực tế, hệ quả duy nhất sau vụ này là bài thuyết giáo cô nhận từ mẹ mình bởi ông hiệu trưởng ở trường Lee gọi điện về nhà thông báo việc Percey tham gia vào một chuyến bay khác và đã đấm vỡ mũi Susan Beth Halworth rồi bỏ học sau tiết thứ năm.

“Tôi phải bỏ đến nơi khác”, Percey giải thích với Bell. “Lúc nào họ cũng lôi tôi ra làm trò cười. Tôi nhớ là hồi đó họ gọi tôi là Quỷ lùn. Rất nhiều người gọi tôi như thế.”

“Trẻ con nhiều khi cũng nhẫn tâm”, Bell nói. “Chắc tôi sẽ lột da mấy thằng con mình, nếu chúng làm bất kỳ chuyện gì giống như… Mà khoan đã, hồi đó cô bao nhiêu tuổi nhỉ?”

“Mười ba.”

“Cô có thể làm vậy thật sao? Ý tôi là chẳng phải ít nhất là đủ mười tám tuổi mới được lái máy bay à?”

“Mười sáu.”

“Ôi. Nếu thế… làm thế nào mà cô có thể bay trộm mãi được?”

“Họ không bao giờ bắt được tôi”, Percey nói. “Lý do là thế đấy.”

“Ôi trời.”

Percey và Roland Bell đang ngồi trong phòng của cô ở ngôi nhà an toàn. Anh đã đổ đầy whiskey Wild Turkey vào chiếc chai cho cô – một món quà cảm tạ của tay cơ sở cung cấp tin về bọn găngxtơ đã từng sống ở đây năm tuần liền – và lúc này họ đang ngồi trên chiếc sofa màu xanh lục, viên thám tử cẩn thận vặn nhỏ chiếc máy bộ đàm của mình. Percey ngồi ngả hẳn ra sau, Bell ngồi ngả người ra phía trước – tư thế ngồi của anh như vậy không phải vì chiếc ghế không được êm ái và thoải mái, mà do sự cảnh giác cao độ của người cảnh sát. Mắt anh không bỏ sót bất kỳ chi tiết nào kề cả một con ruồi bay qua cửa, một làn gió lùa vào rèm cửa sổ và tay anh chốc chốc lại lần xuống một trong hai khẩu súng to đùng anh luông mang theo bên mình.

Trước sự háo hức lắng nghe của anh, cô tiếp tục kể câu chuyện về sự nghiệp bay của mình. Cô nhận chứng chỉ học viên phi công năm mười sáu tuổi, chứng chỉ phi công tư nhân sau đó một năm và đến tuổi mười tám, cô đã có giấy phép lái máy bay thương mại.

Trước sự bàng hoàng của bố mẹ, cô từ bỏ truyền thống kinh doanh thuốc lá của gia đình (bố cô không làm việc cho một “công ty” mà là “người trồng”, mặc dù ai cũng biết đó là một công ty lớn với doanh số lên đến sáu tỷ đô la) để theo đuổi ngành cơ khí. (“Rời bỏ trường Đại học Tổng hợp Virginia là điều khôn ngoan đầu tiên con bé từng làm”, mẹ Percey đã nói thẳng với bố cô như vậy, đó là lần duy nhất cô có thể nhớ là mẹ đã đứng về phía mình. Thậm chí bà còn nói thêm, “Với lại kiếm một tấm chồng ở trường Kỹ thuật Virginia cũng dễ dàng hơn”. Ý bà muốn nói là bọn con trai ở đó cũng không kén cá chọn canh cho lắm.)

Nhưng tiệc tùng, rồi bọn con trai hay các hội nữ sinh hoàn toàn không phải là điều cô quan tâm. Có đúng một điều và chỉ một điều duy nhất. Máy bay. Tất cả những ngày có thể phù hợp về mặt tài chính và thể lực là cô lại bay. Cô nhận được chứng chỉ hướng dẫn bay của mình và bắt đầu làm huấn luyện viên. Percey cũng không thích thú lắm với công việc này nhưng cô vẫn kiên trì thực hiện vì một lý do rất khôn ngoan: những giờ hướng dẫn bay của cô sẽ được tính vào sổ nhật ký bay như là khoảng thời gian làm phi công chỉ huy. Đây sẽ là những thông tin ấn tượng trong hồ sơ xin việc một khi cô đến gõ cửa các hãng hàng không.

Sau khi tốt nghiệp cô bắt đầu cuộc sống của một phi công thất nghiệp. Giảng dạy, triễn lãm hàng không, bay thử nghiệm, thỉnh thoảng làm phụ lái cho một công ty bay dịch vụ hoặc chuyển phát nhanh nhỏ nào đó. Taxi hàng không, thủy phi cơ, máy bay phun thuốc trừ sâu cho ngành nông nghiệp, thậm chí những cuộc trình diễn nguy hiểm, lái những chiếc Stearman và Curtis Jenny hai tầng cánh cổ lỗ sĩ vào các buổi chiều Chủ nhật tại các lễ hội bên đường.

“Thật sự là khó khăn, rất khó khăn”, cô bộc bạch với Roland Bell. “Có lẽ cũng giống như khi anh khởi đầu trong ngành bảo vệ luật pháp.”

“Chắc cũng không quá khác biệt, tôi đoán thế. Hồi đầu tôi toàn làm những việc như rình bắt người lái xe quá tốc độ hoặc vượt đèn đỏ khi còn là cảnh sát trưởng ở Hoggston. Cúng tôi có ba năm liên tiếp không có bất kỳ vụ án mạng nào, kể cả tai nạn chết người cũng không. Rồi tôi bắt đầu được thăng chức – tôi nhận được công việc ở lực lượng cảnh sát của hạt, làm việc trong bô phận Tuần tra Đường cao tốc. Nhưng công việc chủ yếu là lôi xác các nạn nhân ra khỏi những chiếc xe bẹp rúm do tai nạn trong đêm. Thế là tôi quay lại Đại học Tổng hợp North Carolina để học lấy bằng cử nhân hình sự học/xã hội học. Rồi tôi chuyển đến Winston-Salem và giành lấy cho mình một chiếc khiên vàng.”

“Một cái gì cơ?”

“À, tức là phù hiệu của một thám tử. Tất nhiên, tôi bị đánh ngất xỉu hai lần và xơi đạn ba lần rồi mới được xem xét thăng chức lần đầu tiên…Ê, này, hãy cẩn thận với những gì anh đòi hỏi, biết đâu anh sẽ nhận được đấy. Cô đã bao giờ nghe câu đó chưa?”

“Nhưng anh đang làm đúng những gì mà anh muốn mà.”

“Thì đúng là như vậy. Cô biết không, người dì đã nuôi tôi khôn lớn lúc nào cũng nói rằng, “Cháu hãy bước theo hướng mà Chúa chỉ lối”. Tôi nghĩ điều đó ít nhiều cũng có ý nghĩa. Còn bây giờ tôi rất tò mò muốn biết cô đã khởi đầu công ty riêng của mình như thế nào?”

“Ed – chồng tôi – và Ron Talbot cùng với tôi đã đứng ra thành lập công ty. Khoảng bảy, tám năm về trước. Nhưng lúc đó tôi cũng từng dừng chân ở một nơi.”

“Chuyện thế nào?”

“Tôi gia nhập quân đội.”

“Cô không đùa chứ?”

“Không hề. Hồi đó tôi khao khát được bay mà vẫn không ai chịu thuê. Anh biết đấy, trước khi có thể nhận công việc ở một công ty bay dịch vụ hoặc một hãng hàng không lớn anh phải có chứng chỉ về loại máy bay mà hãng đó đang sử dụng. Và để có chứng chỉ anh phải trả tiền huấn luyện và bay mô phỏng – bằng tiền túi của mình. Có khi phải mất cả mười nghìn đô la mới lo xong giấy phép lái một chiếc phản lực lớn. Tôi mắc kẹt không sao lấy được chứng chỉ bay máy bay động cơ phản lực vì tôi không có đủ tiền huấn luyện. Thế rồi tôi chợt nghĩ ra: Tôi có thể gia nhập quân đội và được trả lương để bay những chiếc máy bay quyến rũ nhất Trái Đất. Thế là tôi đăng ký. Vào hải quân.

“Tại sao lại là hải quân.”

“Vì những chiếc tàu sân bay. Tôi nghĩ hạ cánh xuống một đường băng đang chuyển động chắc sẽ rất vui.”

Bell nhăn mặt.

Cô cau mày không hiểu và anh bèn giải thích. “Xin nói thế này vì cô không hiểu, tôi không hề hâm mộ công việc của cô một chút nào.”

“Anh không thích các phi công à?”

“Ồ, không, tôi không có ý đó. Ý tôi là tôi không thích bay chút nào.”

“Anh thà bị bắn còn hơn là bay sao?”

Không một chút ngần ngừ, anh gật đầu một cách dứt khoát, rồi nói. “Cô đã tham gia chiến đấu bao giờ chưa?”

“Tất nhiên là rồi. Las Vegas.”

Anh nhíu mày.

“Hồi năm 1991. Khách sạn Hilton. Tầng ba.”

“Chiến đấu ư? Tôi vẫn chưa hiểu.”

Percey hỏi, “Anh đã bao giờ nghe nói đến vụ Tailhook chưa?”

“Ôi, có phải đó là hội nghị hải quân không nhỉ? Nơi mà một nhóm phi công nam giới đã uống say bét và tấn công phụ nữ. Cô cũng ở đó à?”.

“Cũng bị tóm cổ và tống giam cùng những người hung hăng nhất. Đánh ngất xỉu một gã trung úy và bẻ gãy ngón tay một gã khác, mặc dù tôi rất tiếc phải nói hắn ta say đến nỗi không hề thấy đau đớn gì cho đến tận sáng ngày hôm sau.” Cô lại nhấp thêm một ngụm whiskey.

“Vụ đó có tệ như người ta vẫn nói không?”

Sau một lát im lặng cô nói, “Anh đã quen với việc cảnh giác đề phòng một phi công Bắc Triều Tiên hoặc Iran nào đó lái chiếc MiG từ phía mặt trời mọc tới và tấn công anh. Nhưng khi những người lẽ ra cùng chiến tuyến với anh lại làm điều tồi tệ đó, anh sẽ thực sự thấy vỡ mộng. Nó khiến anh cảm thấy bẩn thỉu, như bị phản bội.”

“Chuyện gì đã xảy ra?”

“À, cả một mớ bung bét”, cô làu bàu. “Tôi không chịu nhún mình. Tôi đã vạch mặt chỉ tên và loại nhiều kẻ ra khỏi lực lượng. Một số phi công, nhưng cũng có cả những người ở cương vị cao hơn nữa. Chuyện đó gây ra không khí căng thẳng trong các phòng họp giao ban. Chắc anh cũng biết rồi đấy.”

Dù có những kỷ năng của loài khỉ hay không, bạn không thể bay với phi công yểm trợ mà bạn không tin tưởng. “Thế là tôi giải ngũ. Cũng không vấn đề gì. Tôi đã tận hưởng quãng thời gian vui vẻ với những chiếc phản lực, đã có những phi vụ nhớ đời. Nhưng rồi cũng đến lúc ra đi. Trước đó, tôi đã gặp Ed – chồng tôi – và chúng tôi quyết định thành lập công ty bay dịch vụ này. Tôi quay về hòa giải với bố – tạm gọi là như thế – rồi ông cho tôi vay phần lớn số tiền tôi cần để thành lập công ty.” Cô nhún vai. “Khoản tiền mà tôi phải trả dần cả gốc lẫn lãi với mức lãi suất 3%, tuyệt đối không được thanh toán chậm một ngày nào. Đúng là chết…”

Ý nghĩ này lại làm cô nhớ tới những ký ức về Ed. Giúp cô xoay sở lo những khoản vay. Cùng nhau đi chọn máy bay tại những công ty cho thuê nhìn hai người với vẻ nghi ngại. Rồi lại còn đi thuê mặt bằng làm hangar. Tranh cãi khi loay hoay sửa chữa bảng điều khiển tring buồng lái lúc ba giờ sáng, cố gắng chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng cho chuyến bay lúc sáu giờ. Những hình ảnh đó làm cô thấy đau đớn không kém gì căn bệnh thiên đầu thống dữ dội của mình. Cố gắng xua đuổi những ý nghĩ đó ra khỏi đầu, cô hỏi, “Vậy thì điều gì đã mang anh lên phía bắc này?”.

“Gia đình vợ tôi ở trên này. Ở Long Island.”

“Hóa ra anh từ bỏ North Carolina vì họ hàng bên ngoại sao?” Suýt chút nữa Percey đã buột miệng hỏi xem vợ Bell đã dắt mũi ông bằng cách nào nhưng cũng may mà cô chưa kịp hỏi. Đôi mắt màu nâu nhạt của anh bình tĩnh nhìn thẳng vào mắt cô khi anh nói thủng thẳng, “Beth bị ốm rất nặng. Cô ấy qua đời cách đây mười chín tháng”.

“Ôi, tôi rất tiếc.”

“Cám ơn cô. Quan trọng là trên này có Trung tâm Sloan-Kettering[61] và cả gia đình, anh chị em cô ấy cũng ở trên này nữa. Thực tế là tôi cần có người giúp đỡ việc chăm sóc bọn trẻ. Tôi có thể cùng chúng chơi bóng đá và cũng biết làm món xốt cay nhưng chúng còn cần nhiều thứ hơn thế. Ví dụ như lần nào giặt tôi cũng làm co và nhăn nhúm hết những chiếc áo len của chúng. Đại loại là vậy. Vả lại ngay chính bản thân tôi cũng phản đối việc chuyển nhà. Tôi muốn cho bọn trẻ thấy rằng cuộc đời không chỉ là những chiếc silo[62] hoặc những chiếc máy gặt đập liên hợp.”

“Anh có ảnh của chúng ở đây không?”, Percey hỏi, rồi lại đưa chiếc chai bẹt lên miệng. Ngụm rượu nóng bỏng, thơm ngào ngạt cháy bùng lên trong một khoảnh khắc thật đê mê. Cô quyết định từ giờ sẽ bỏ rượu. Rồi lại quyết định thôi không bỏ nữa.

“Tất nhiên là có chứ.” Anh rút trong túi quần rộng thùng thình ra một chiếc ví rồi khoe ảnh bọn trẻ. Hai cậu bé tóc vàng, khoảng năm đến bảy tuổi. “Benjamin và Kevin”, Bell giới thiệu.

Percey cũng thoáng nhìn thấy một bức ảnh khác – một người phụ nữ tóc vàng xinh đẹp, từng lọn tóc ngắn rủ ngang trán.

“Hai đứa thật đáng yêu.”

“Cô có con cái gì chưa?”

“Chưa”, cô trả lời, lặng lẽ ngẫm nghĩ. Mình vẫn luôn có những lý do riêng. Lúc nào cũng năm sau hoặc năm sau nữa. Khi công ty đã làm ăn khấm khá hơn. Khi chúng ta đã thuê được chiếc 737 kia. Rồi sau khi mình đã có chứng chỉ DC-9… Cô nhìn anh với một nụ cười khắc khổ. “Các con anh thì sao? Lớn lên chúng có muốn trở thành cảnh sát không?”

“Chúng chỉ muốn làm cầu thủ bóng đá thôi. Kể ra ở New York này thì nghề đó cũng không triển vọng cho lắm. Trừ khi đội Mets vẫn tiếp tục giữ phong độ thi đấu như thời gian qua.”

Trước sự im lặng trở nên quá nặng nề, Percey chợt hỏi, “Tôi gọi về công ty một lát có được không? Tôi phải kiểm tra xem chiếc máy bay được sửa chữa đến đâu rồi”.

“Được chứ. Tôi sẽ để cô ngồi lại một mình. Chỉ nhớ là không được để lộ số điện thoại hoặc địa chỉ của chúng ta cho bất kỳ ai. Đó là điều tôi sẽ nhất định không tha thứ đâu đấy.”

Chú thích

[61]Trung tâm Sloan-Kettering: Một cơ sở nghiên cứu và điều trị ung thư nởi tiếng trên thế giới. Tên ban đầu khi thành lập năm 1884 là Bện viện Ung thư New York.

[62]Silo (tháp cao hoặc hầm ủ tươi thức ăn hoặc cỏ cho gia súc trong trang trại). North Carolina là một bang có ngành nông nghiệp phát triển.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15


Giờ thứ 8 của 45

Ron. Tôi, Percey đây. Mọi người sao rồi?”

“Sợ hãi”, ông ta trả lời. “Tôi cho Sally về rồi. Bà ấy không thể…”

“Bà ấy làm sao cơ?”

“Chỉ là quá sợ hãi trước những gì vừa xảy ra. Cả Carol. Và Lauren nữa. Lauren hoàn toàn mất khả năng kiểm soát rồi. Tôi chưa bao giờ thấy ai suy sụp đến mức ấy. Cô và Brit thế nào?”

“Brit gần như phát điên. Cả tôi cũng thế. Thật là một mớ hỗn loạn tồi tệ. Ôi, Ron…

“Thế còn thám tử kia, tay cảnh sát trẻ bị bắn ấy?”

“Tôi không nghĩ là lúc này họ đã biết chắc chắn điều gì. Thế chiếc Foxtrot Bravo sao rồi?”

“Cũng không đến nỗi quá tệ. Tôi vừa thay xong cửa sổ buồng lái. May mà bình nhiên liệu không bị thủng. Động cơ số hai… đó cũng là một vấn đề. Chúng ta phải cho thay khá nhiều phần vỏ ngoài. Chúng tôi đang cố tìm một bình cứu hỏa mới. Tôi không nghĩ đó là một vấn đề quá lớn…”

“Nhưng sẽ phải thay vòng xuyến annular[63].”

“Buồng đốt sao? Thay thế? Ôi, lạy Chúa.”

“Tôi đã gọi điện cho nhà phân phối Garrett ở Connecticut rồi. Họ đồng ý ngày mai sẽ cho chuyển buồng đốt mới đến, cho dù mai là Chủ nhật. Tôi có thể lắp nó trong vòng khoảng hai, ba tiếng.”

“Chết tiệt”, cô lẩm bẩm, “tôi phải đến đó… tôi hứa với họ là tôi sẽ ở yên đây nhưng, quỷ tha ma bắt nó đi, tôi phải đến đó”.

“Cô đang ở đâu vậy, Percey?”

Và Stephen Kall, lúc này đang ngồi trong căn hộ tối tăm của Sheila Horowitz và căng tai lắng nghe cuộc trò chuyện này, sẵn sàng giấy bút để ghi. Hắn áp sát điện thoại vào tai mình.

Nhưng Người vợ chỉ nói, “Ở Manhattan. Có khoảng một nghìn cảnh sát xung quanh chúng tôi. Tôi cảm thấy như thể mình là Giáo hoàng hay Tổng thống vậy”.

Stephen đã nghe được những thông báo trên làn sóng bộ đàm của cảnh sát về một số hoạt động đáng ngờ diễn ra quanh Đồn Cảnh sát Hai mươi, thuộc khu Upper West Side. Trụ sở đồn cảnh sát đang được phong tỏa còn những đối tượng bị tạm giam cũng đang được chuyển đi nơi khác. Hắn phân vân không biết liệu đó có phải là nơi Người vợ đang ẩn náu lúc này không – ngay trong đồn cảnh sát.

Ron hỏi, “Liệu họ có ngăn chặn được tên đó không? Họ đã có manh mối gì chưa?”

Đúng, chúng đã biết gì chưa? Stephen băn khoăn.

“Tôi không biết”, cô trả lời.

“Nhưng phát súng lúc nãy”, Ron nói. “Lạy Chúa, chúng thật đáng sợ. Làm tôi nhớ đến hồi còn tại ngũ. Cô biết đấy, tiếng súng nổ.”

Stephen lại băn khoăn về tay Ron này. Liệu ông ta có thể giúp ích được gì không nhỉ?

Xâm nhập, đánh giá…tra hỏi.

Stephen cân nhắc việc theo dõi rồi tra tấn người đàn ông này để bắt ông ta gọi lại cho Percey và hỏi địa chỉ ngôi nhà an toàn…

Nhưng ngay cả khi hắn có lọt qua được hàng rào an ninh ở sân bay đi nữa thì đó vẫn là một trò mạo hiểm. Và lại mất rất nhiều thời gian.

Trong lúc chăm chú lắng nghe cuộc trò chuyện của họ trên điện thoại, Stephen dán mắt vào màn hình chiếc laptop mở trước mặt. Một tin nhắn hiển thị, Xin vui lòng chờ, vẫn đang nhấp nháy. Thiết bị nghe trộm điều khiển từ xa được gắn với một hộp rờ le tiếp âm của công ty NYNEX gần sân bay và vẫn liên tục chuyển những cuộc nói chuyện từ đường dây này tới máy ghi âm của Stephen cả tuần nay. Kể ra hắn cũng ngạc nhiên là cảnh sát chưa phát hiện ra nó.

Một con mèo – Esmeralda, Essie, con giòi – trèo lên mặt bàn và uốn cong lưng. Stephen có thể nghe rõ tiếng gừ gừ đầy khó chịu của nó.

Hắn bắt đầu cảm thấy nhớp nháp.

Hắn giật mạnh cùi chỏ một cách thô bạo, hất tung con mèo xuống sàn nhà và khoái trá nghe tiếng con vật gào lên thảm thiết.

“Tôi vẫn tìm kiếm thêm các phi công”, Ron nói, không giấu được vẻ khó chịu. “Tôi phải…”

“Chúng ta chỉ cần một người. Phi công phụ cho chiếc ghế bên phải.”

Một thoáng im lặng. “Gì cơ?” Ron hỏi.

“Tôi sẽ phụ trách chuyến bay ngày mai. Tất cả những gì tôi cần là một phi công có chứng chỉ.”

"Cô ư? Tôi không cho đó là một ý tưởng hay đâu, Perce.”

“Thế anh còn người nào không?” Cô hỏi cụt lủn.

“Hừm, vấn đề là…”

“Anh còn người nào không?”

“Brad Torgeson cũng có trong danh sách gọi. Anh ta bảo không hề e ngại gì việc giúp đỡ chúng ta. Anh ta hiểu tình hình hiện nay.”

“Tốt lắm. Một phi công can đảm. Số giờ bay với loại Lear của anh ta thế nào?”

“Cũng nhiều… Percey, tôi tưởng cô sẽ phải nằm yên đến khi bồi thẩm đoàn triệu tập.”

“Lincoln đồng ý để tôi thực hiện chuyến bay ngày mai. Nếu tôi ở yên đây đến lúc đó.”

“Lincoln là ai?”

Đúng, Stephen thầm nghĩ, Lincoln là ai?

“À, anh ta là một người kỳ quặc…” Người vợ ngần ngừ, như thể cô ta muốn nói về tên Lincoln kia nhưng không biết phải nói gì. Stephen thất vọng khi cô ta chỉ nói, “Anh ta đang hợp tác với cảnh sát, cố truy lùng tên giết người. Tôi bảo anh ta tôi sẽ ở yên đây đến ngày mai, nhưng kiểu gì tôi cũng phải thực hiện bằng được chuyến bay. Anh ta đồng ý.”

“Percey, chúng ta có thể hoãn chuyến bay lại mà. Tôi sẽ nói với bên U.S. Medical. Họ biết chúng ta đang gặp một số…”

“Không”, cô nói dứt khoát. “Họ không muốn nghe những lời thanh minh nữa đâu. Họ muốn hàng được chuyển đến nơi theo đúng lịch trình. Và nếu chúng ta không làm được họ sẽ tìm người khác. Khi nào thì họ đưa hàng đến?”

“Khoảng sáu, bảy giờ tối gì đấy.”

“Tôi sẽ có mặt ở đó lúc cuối giờ chiều. Tôi sẽ giúp anh thay buồng đốt.”

“Percey”, ông ta thở khò khè. “Mọi chuyện rồi sẽ ổn cả thôi.”

“Chúng ta sẽ sửa xong động cơ. Mọi chuyện sẽ tốt đẹp.”

“Chắc lúc này cô đang đau khổ lắm”, Ron nói.

“Cũng không hẳn”, cô nói.

Chưa thôi, Stephen thầm sửa lại.

Chú thích

[63]Vòng xuyến annular: Buồng đốt dạng annular gồm hai vành, phần ở giữa hai vành là buồng đốt. Hiệu suất/ thể tích đốt là rất lớn bởi trộn được tối ưu hóa, tận dụng tốt luồng khí đi vào làm mát cho buồng đốt và giảm nhiệt độ dòng khí sau khi ra khỏi buồng đốt. Buồng đốt dạng annular thường được lắp cho các động cơ công suất lớn.

Sachs bẻ quặt tay lái cho chiếc Wagon RRV lao vào góc phố với tốc độ 40 dặm một giờ. Cô nhận ra có đến một tá đặc vụ tác chiến đang đi tuần trên phố.

Các đội của Fred Dellray đang bao vây tòa nhà nơi Sheila Horowitz sống. Một tòa nhà xây bằng đá hộc đặc trưng của khu Upper West Side, bên cạnh một cửa hàng bán đồ ăn Hàn Quốc, phía trước cửa có một người làm công đang ngồi phệt trên thùng đựng sữa chăm chút gọt cà rốt cho món sa lát và hờ hững nhìn những đặc vụ cả nam lẫn nữ tay lăm lăm súng tiểu liên đang bao vây tòa nhà.

Sachs tìm thấy Dellray, vũ khí đã rút khỏi bao, trong gian sảnh lớn, anh đang kiểm tra danh sách những người sống trong tòa nhà.

S.Horowitz. 204.

Anh nói vào máy bộ đàm của mình. “Chúng ta đang ở 480,34.”

Đó là tần số riêng dành cho tác chiến cấp độ chiến thuật của lực lượng liên bang. Sachs điều chỉnh lại tần số trên máy bộ đàm của mình trong khi Dellray nhòm vào thùng thư của cô nàng Horowitz với một chiếc đèn pin nhỏ màu đen. “Hôm nay cô ta chưa hề lấy thứ gì. Có cảm giác là cô gái này không còn nữa.” Rồi anh nói, “Chúng ta đã bố trí người đứng phục ở cầu thang cứu hỏa cả tầng trên rồi tầng dưới với camera theo dõi và cả máy thu tín hiệu âm thanh. Chưa phát hiện được ai trong nhà. Nhưng chúng ta đang thu được một số tiếng cào và gừ gừ. Dù không có âm thanh gì của con người. Cô ta nuôi mèo, nhớ chứ. Anh ấy quả là cự phách, nghĩ ngay đến những bác sĩ thú y. Tôi đang muốn nói đến anh chàng Rhyme của chúng ta ấy mà”.

Tôi biết anh định nói đến ai, cô thầm nghĩ.

Ngoài trời, gió đang gào rú và một dải mây đen kịt đang che phủ lấy thành phố. Những đám mây cũng tầng tầng lớp lớp tím bầm.

Dellray quát khẽ vào máy bộ đàm. “Tất cả các đội. Báo cáo tình hình?”

“Đội Đỏ. Chúng tôi đang ở cầu thang cứu hỏa.”

“Đội Xanh. Tầng hai.”

“Đã rõ”, Dellray làu bàu. “S&S[64]. Báo cáo đi.”

“Vẫn chưa có gì chắc chắn. Chúng tôi thu được tín hiệu hồng ngoại rất yếu. Ai hoặc cái gì trong đó vẫn nằm yên bất động. Có thể là một con mèo đang ngủ. Hoặc là một nạn nhân bị thương. Hoặc có thể là một bóng đèn hiệu hay một chiếc đèn bật sẵn từ lâu. Mặc dù vậy cũng có thể đó chính là đối tượng. Ở sâu hẳn phía trong căn hộ.”

“Xin hỏi, vậy các anh nghĩ thế nào?”, Sachs lên tiếng.

“Ai đấy?”, tay đặc vụ hỏi lại qua sóng bộ đàm.

“NYPD. Số 5885”, Sachs trả lời bằng cách đọc số phù hiệu của mình. “Tôi muốn biết ý kiến của anh. Anh có nghĩ rằng đối tượng đang ở bên trong không?”

“Tại sao cô lại hỏi vậy?”, Dellray muốn biết.

“Tôi muốn có một hiện trường còn nguyên vẹn. Tôi muốn được vào đó một mình nếu họ cho rằng hắn không còn bên trong.” Một lối vào được mở bằng thuốc nổ với cả tá sĩ quan đặc nhiệm chiến thuật có lẽ là cách hiệu quả nhất để phá hủy hoàn toàn một hiện trường vụ án.

Dellray chằm chằm nhìn cô trong giây lát, khuôn mặt đen bóng của anh càng tối sầm hơn, rồi anh nói vào mic, “Quan điểm của các anh thế nào, S&S?”.

“Chúng tôi chưa thể chắc chắn được, thưa sếp”, tay đặc vụ có giọng khàn khàn quái gở trả lời.

“Biết là các cậu không thể rồi, Billy. Chỉ là hãy nói những gì bản năng mách bảo cậu thôi.”

Một khoảng im lặng, và rồi, “Tôi nghĩ hắn đã cao chạy xa bay. Tôi nghĩ bên trong không còn ai.”

“Được rồi”. Anh quay sang Sachs và nói, “Nhưng cô phải để một sĩ quan khác đi cùng. Đó là mệnh lệnh đấy”.

“Nếu thế thì tôi vẫn phải vào trước. Anh ta có thể yểm trợ cho tôi từ cửa ra vào. Anh hãy nhớ, tên này chưa hề để lại dấu vết ở bất kỳ đâu. Chúng ta cần phải thử mọi cơ may thôi.”

“Được rồi, sĩ quan.” Dellray gất đầu với mấy đặc vụ SWAT liên bang. “Đồng ý cho vào”, anh làu bàu khi phải từ bỏ kiểu ngôn ngữ đường phố của mình để ra lệnh.

Một trong số những đặc vụ chiến thuật vô hiệu hóa cánh cửa ở hành lang trong vỏn vẹn có ba mươi giây.

“Khoan đã”, Dellray nói, rồi hất đầu về một bên. “Có một cuộc gọi từ Trung tâm.” Anh nói vào bộ đàm, “Cung cấp cho họ tần số đi”. Anh quay sang nhìn Sachs, “Lincoln gọi cho cô này”.

Một lát sau giọng nhà hình sự học vang lên. “Sachs”, anh nói, “cô đang làm gì vậy?”.

“Tôi chỉ định…”

“Nghe này”, anh vội cắt ngang “Không được vào trong một mình. Để họ phong tỏa an toàn hiện trường an toàn trước đã. Cô biết quy định rồi.”

“Tôi đã có người yểm trợ…”

“Không, hãy để SWAT phong tỏa hiện trường trước đã.”

“Họ chắc chắn hắn không còn trong đó”, cô nói dối.

“Ngần ấy cũng chưa đủ đâu”, anh vặc lại. “Nhất là với tên Vũ công. Không ai có thể nói chắc chắn bất cứ điều gì về hắn.”

Lại nữa rồi. Tôi đâu cần điều đó, Rhyme. Cô cáu kỉnh nói, “Đây là kiểu hiện trường mà hắn không nghĩ rằng chúng ta sẽ tìm ra. Thậm chí có khi hắn còn chưa lo xóa dấu vết cũng nên. Chúng ta có thể tìm thấy một dấu vân tay, một vỏ đạn nào đó. Mẹ kiếp, biết đâu còn tìm thấy thẻ tín dụng của hắn nữa ấy chứ.”

Không thấy có phản ứng gì. Hiếm khi có chuyện Rhyme lại bị ai đó làm cho cứng họng như thế này.

“Đừng có hăm dọa tôi nữa, Rhyme. Được không?”

Anh vẫn không trả lời và cô chợt có cảm giác lạ lùng rằng anh muốn cô cảm thấy bị hăm dọa. “Sachs…?”

“Sao cơ?”

“Hãy thật cẩn thận nhé” là lời khuyên duy nhất của anh, và những từ đó cũng chỉ được thốt ra rất ngập ngừng.

Rồi đột nhiên năm đặc vụ chiến thuật xuất hiện, tất cả đều đeo găng tay Nomex và có mũ trùm đầu, mặc áo giáp chống đạn màu xanh, tay lăm lăm vũ khí.

“Tôi sẽ gọi cho anh từ bên trong căn hộ”, cô nói.

Cô bắt đầu bước lên cầu thang theo sau họ, tâm trí chủ yếu tập trung vào chiếc va ly đựng đồ nghề nặng trình trịch mà cô đang xách trên cánh tay yếu của mình, tay trái, hơn là vào khẩu súng đen sì cô cầm bên tay phải.

Chú thích

[64]S&S (viết tắt của Search and Surveillance): Đội Tìm kiếm và Giám sát.

Những ngày xưa ấy, tức là những ngày trước kia, Lincoln Rhyme từng là một người thích đi bộ.

Có điều gì đó ở kiểu vận động này giúp anh thấy thư thái hơn. Một cuộc tản bộ qua Công viên Trung tâm hoặc Công viên Quảng trường Washington, hoặc bước hối hả qua Fashsion District. À mà thực ra hồi đó cứ chốc chốc anh lại dừng lại – có thể là để nhặt một mẩu bắng chứng nào đó cho cơ sở dữ liệu của phòng thí nghiệm IRD – nhưng một khi những mẩu đất hoặc cây cối hay mẫu các loại vật liệu xây dựng đã được cất giữ an toàn và nguồn gốc của chúng đã được Rhyme ghi lại cẩn thận trong sổ tay, anh sẽ lại tiếp tục con đường của mình. Cứ thế anh rảo bước hàng dặm, hàng dặm đường.

Một trong những điều bực mình nhất liên quan đến tình trạng hiện nay của anh chính là sự bất lực trong việc giải tỏa căng thẳng. Giờ đây anh chỉ có thể nhắm nghiền mắt, tì mạnh gáy lên giá đỡ của chiếc xe lăn Storm Arrow và nghiến răng ken két.

Anh bảo Thom lấy cho mình một chút whiskey.

“Chẳng phải là anh đang cần giữ cho đầu óc thư thái sao?”

“Không.”

“Tôi nghĩ là anh cần đấy.”

Quỷ tha ma bắt cậu đi, Rhyme thầm rủa, và càng nghiến răng mạnh hơn. Thom sẽ phải lau sạch hai hàm lợi bầm máu, sẽ phải bố trí mời nha sĩ đến. Và mình cũng sẽ hành hạ hắn bằng chết thì thôi.

Tiếng sấm vang rền từ xa xa vẳng lại và ánh sáng nhạt dần.

Anh hình dung Sachs đang đi phía trước đội đặc vụ chiến thuật. Cô nói đúng, tất nhiên: Một đội ESU phong tỏa toàn bộ căn hộ chắc chắn sẽ làm hỏng hết hiện trường. Dù vậy anh vẫn lo lắng cho cô đến phát ốm. Từ trước đến giờ lần nào cô cũng liều lĩnh quá mức. Anh đã nhìn thấy cô cào rách da đầu của mình, hết nhíu mày rồi lại gặm móng tay. Vốn là người không bao giờ đếm xỉa gì đến những trò mèo của các nhà tâm lý học, nhưng chỉ cần nhìn qua Rhyme cũng có thể nhận ra ngay đâu là những hành vi tự hủy hoại mình. Anh cũng đã từng ngồi cùng xe với Sachs – trong chiếc xe thể thao đã chế lại động cơ của cô. Họ đã từng lao đi với tốc độ 150 dặm một giờ và dường như cô vẫn còn lấy làm bực bội vì những con đường ngoằn ngoèo trên Long Island không cho phép cô đạt tốc độ gấp đôi con số đó.

Anh giật nẩy mình khi nghe giọng nói thì thầm của cô. “Rhyme, anh còn ở đó không?”

“Cứ nói đi, Amelia.”

Một thoáng ngập ngừng. “Đừng gọi bằng tên, Rhyme. Là điềm gở đấy.”

Anh cố gắng cười phá lên. Thầm ước giá như anh không gọi tên cô, tự hỏi không biết tại sao anh lại gọi thế.

“Nói tiếp đi.”

“Tôi đang ở cửa trước. Họ đang chuẩn bị phá sập cửa bằng rầm gỗ. Một đội khác cũng vừa báo cáo thêm. Họ thực sự không cho rằng hắn còn ở bên trong.”

“Cô đang mặc áo giáp đấy chứ?”

“Tôi xoay sở được một chiếc áo chống đạn của tay đặc vụ FBI nào đó. Trông như kiểu tôi đang mang những hộp ngũ cốc màu đen thay cho áo nịt ngực vậy.”

“Đếm đến ba”, Rhyme nghe thấy giọng của Dellray, “tất cả các đội, phá tung cửa chính và cửa sổ, phong tỏa mọi khu vực trong nhà, nhưng đứng tránh xa lối vào. Một…”.

Rhyme hoàn toàn rối bời. Anh khao khát muốn tóm được tên Vũ công biết bao – anh có thể cảm nhận rõ niềm khao khát đó. Nhưng, trời ơi, anh cũng thấy sợ hãi khủng khiếp cho cô.

“Hai…”

Sachs, mẹ kiếp, anh thầm nghĩ. Tôi không muốn cứ lo lắng về cô thế này…

“Ba…”

Anh nghe thấy một tiếng rắc khe khẽ, như một cậu thiếu niên bứt rứt bẻ đốt ngón tay, và chợt nhận ra mình đang cố chồm người về phía trước. Cổ anh run lên với một cơn co rút dữ dội , anh giật nẩy về sau. Thom xuất hiện và bắt đầu massage nó.

“Không sao đâu”, anh càu nhàu. “Cảm ơn cậu. Cậu có thể chỉ lau mồ hôi thôi được không? Làm ơn.”

Thom nhìn anh với ánh mắt nghi ngờ – vì từ “làm ơn” sau cùng – rồi lau trán cho ông chủ của mình.

Cô đang làm gì vậy, Sachs?

Anh rất muốn hỏi nhưng lại không muốn làm cô phân tâm ngay lúc này.

Rồi anh nghe thấy một tiếng thở hổn hển. Tóc sau gáy anh dựng đứng cả lên. “Lạy Chúa, Rhyme.”

“Gì thế? Hãy nói đi.”

“Người phụ nữ… người phụ nữ tên là Horowitz ấy. Cánh cửa tủ lạnh để mở. Cô ta ở bên trong. Cô ta chết rồi nhưng trông như… Ôi, lạy Chúa, mắt cô ta.”

“Sachs…”

“Dường như hắn nhét cô ta vào bên trong khi cô ta vẫn còn sống. Vì lý do quái quỷ gì mà hắn lại…”

“Hãy cố nghĩ xem, Sachs. Cố lên. Cô làm được mà.”

“Chúa ơi.”

Rhyme biết Sachs đang hoảng sợ. Anh hình dung ra nỗi khiếp đảm mà cô đang phải trải qua khi chứng kiến cái chết khủng khiếp của người phụ nữ kia.

“Hắn có trói hay dán băng dính lên người cô ta không?”.

“Có băng dính. Một loại băng dính gói đồ trong suốt dán lên miệng cô ấy thì phải. Mắt cô ấy, Rhyme, mắt cô ấy…”

“Đừng có xúc động quá, Sachs. Đoạn băng dính đó có thể là bề mặt lý tưởng để lưu lại dấu vân tay. Bề mặt sàn nhà trông thế nào?”

“Trải thảm trong phòng khách. Còn trong bếp là vải sơn trải sàn. Và…” Một tiếng thét thất thanh. “Ôi, Chúa ơi!”

“Gì thế?”

“Chỉ là một con mèo thôi. Nó nhảy ngay trước mặt tôi. Chết tiệt thật… Rhyme?”

“Sao cơ?”

“Tôi ngửi thấy mùi gì đó. Rất buồn cười.”

“Tốt lắm.” Anh đã dạy cô lúc nào cũng phải hít ngửi không khí tại một hiện trường vụ án. Đó là hành động đầu tiên mà chuyên gia khám nghiệm hiện trường cần ghi nhớ.

Nhưng “buồn cười” là thế nào nhỉ?

“Một mùi chua chua. Hóa chất thì phải. Không sao xác định chính xác được.”

“Sachs”, anh hỏi bất thình lình.

“Chính cô đã mở cánh cửa tủ lạnh à?”

“Không, tôi vào đã thấy nó như thế rồi. Hình như cánh cửa tủ lạnh được để mở với một chiếc ghế chèn vào.”

Tại sao? Rhyme tự hói. Tại sao hắn lại làm thế? Anh điên cuồng nghĩ.

“Cái mùi đó, mỗi lúc một nồng nặc hơn. Khen khét.”

Người phụ nữ kia là trò đánh lạc hướng! Bất thình lình Rhyme nghĩ ra. Hắn để ngỏ cửa cánh để bảo đảm khi đội phá cửa xông vào sẽ để ý đến nó!

Ôi, không, không thể một lần nữa!

“Sachs! Cô đang ngửi thấy mùi ngòi nổ. Một ngòi nổ chậm. Có một quả bom nữa! Ra khỏi đó ngay! Hắn để ngỏ cánh cửa tủ để dụ chúng ta vào bên trong.”

“Sao cơ?”

“Đó là một cái ngòi nổ! Hắn đã gài lại một quả bom! Các cô chỉ còn vài giây nữa thôi. Ra ngay! Chạy!”

“Tôi có thể gỡ đoạn băng dính. Trên miệng cô ấy.”

“Biến khỏi đó ngay!”

“Tôi có thể gỡ nó ra…”

Rhyme nghe thấy một tiếng sột soạt, rồi một tiếng thở hổn hển khe khẽ và vài giây sau, âm thanh chát chúa của vụ nổ, giống như tiếng búa tạ đập vào nồi hơi.

Làm tai anh ù đặc.

“Không”, anh gào lên. “Ôi, không!”

Anh liếc nhìn Sellitto, viên thám tử cũng đang trợn mắt nhìn thẳng vào khuôn mặt khiếp đảm của Rhyme. “Chuyện gì vậy? Chuyện gì thế?” Viên thám tử hỏi gấp gáp.

Một lát sau, qua tai nghe của mình, Rhyme có thể nghe thấy giọng một người đàn ông, run rẩy và hoảng loạn, hét lên, “Có một vụ nổ. Trên tầng hai. Các mảng tường đã bay mất. Chúng đổ sụp xuống rồi… Có người bị thương… Ôi, Chúa ơi. Chuyện gì đã xảy ra với cô ấy? Nhìn máu me kìa. Bao nhiêu là máu! Chúng tôi cần giúp đỡ. Tầng hai! Tầng hai!...”.

Stephen Kall đi một vòng quanh Đồn Cảnh sát Hai mươi trên khu vực Upper West Side.

Tòa nhà đồn cảnh sát cách không xa Công viên Trung tâm và hắn thấp thoáng nhìn thấy những rặng cây.

Con phố nơi đặt tòa nhà trụ sở đồn cảnh sát đã được canh phòng, nhưng công tác an ninh ở đây cũng không quá ngặt nghèo. Có ba cảnh sát đứng trước tòa nhà thấp tẹt, căng thẳng quan sát xung quanh. Nhưng chái phía đông tòa nhà thì hoàn toàn không thấy ai, những cửa sổ quay ra phía này đều được che bằng những tấm thép dày bên ngoài. Hắn đoán đây chính là khu phòng giam.

Stephen tiếp tục đi quanh góc phố rồi rảo bước về phía nam sang con phố tiếp theo. Không có những hàng rào răng cưa màu xanh được dựng lên để phong tỏa con phố này, nhưng lại có người canh gác – thêm hai cảnh sát nữa. Họ cảnh giác dõi theo từng chiếc xe và từng khách bộ hành đi qua. Hắn quan sát tòa nhà thật nhanh và tiếp tục đi về phía nam qua một khối nữa rồi vòng về phía tây của trụ sở đồn cảnh sát. Hắn lén vào một con hẻm vắng hoe, rút cặp ống nhòm từ trong ba lô ra, chăm chú theo dõi đồn cảnh sát.

Anh có thể sử dụngcái này chứ, quân nhân?

Thưa ngài, tôi có thể, thưa ngài.

Trong một bãi đỗ xe, bên cạnh đồn cảnh sát là một trạm xăng. Một sĩ quan đang đổ xăng cho chiếc xe tuần tra của mình. Trước đó Stephen chưa hề nhận ra rằng xe của cảnh sát không bao giờ đổ xăng tại các trạm bán xăng của Amoco hay Shell.

Suốt hồi lâu, hắn chăm chú quan sát trạm xăng qua chiếc ống nhòm Leica nhỏ xíu nhưng nặng trịch của mình, rồi cất nó vào trong bao lô, vội rảo bước về phía tây và, như mọi khi, biết rõ những người trên phố đang nhìn theo hắn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16


Giờ thứ 12 của 45

"Sachs!”, Rhyme lại gào lên.

Mẹ kiếp, cô ấy nghĩ gì mà lại làm thế chứ? Tại sao cô ấy có thể liều lĩnh như vậy được?

“Chuyện gì xảy ra thế?”, Sellitto lại gặng hỏi. “Chuyện gì vậy?”

Chuyện gì đã xảy với cô ấy?

“Một quả bom trong căn hộ của Horowitz”, Rhyme tuyệt vọng nói.

“Sachs vẫn ở bên trong khi quả bom phát nổ. Gọi cho họ ngay. Tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra. Bật loa ngoài lên.”

Bao nhiêu là máu…

Một khoảng ba phút dài tưởng như bất tận trôi đi và Sellitto được nối máy với Dellray.

“Fred”, Rhyme hét lên, “cô ấy sao rồi?”.

Một khoảng im lặng nặng nề trước khi người đặc vụ trả lời.

“Không tốt lắm, Lincoln. Chúng tôi vẫn đang cố dập tắt đám cháy. Một loại bom sát thương nào đó. Chết tiệt. Lẽ ra chúng tôi phải kiểm tra trước. Chó chết!”

Những chiếc bẫy bằng bom sát thương thường sử dụng thuốc nổ dẻo hoặc thuốc nổ TNT, trộn lẫn với những mảnh sắt hoặc bi nhỏ – để gây sát thương tối đa cho nạn nhân.

Dellray nói tiếp. “Mấy mảng tường đều bay sạch và toàn bộ căn hộ bị thiêu rụi. Một thoáng ngập ngừng. “Tôi phải nói với anh điều này, Lincoln. Chúng tôi… tìm thấy…” giọng của Dellray – bình thường vẫn rõ ràng và dứt khoát – lúc này đã lạc đi rất khó nghe.

“Cái gì?” Rhyme gặng hỏi.

“Một số bộ phận cơ thể người… Một bàn tay. Một phần cánh tay.”

Rhyme nhắm nghiền mắt lại và cảm nhận nỗi kinh hoàng mà anh chưa hề phải chịu đựng suốt bao năm qua. Một cái đâm buốt nhói chạy xuyên vào phần cơ thể tưởng chừng như vô tri vô giác của anh. Hơi thở của anh bật ra thành một tiếng phì phì rất khẽ.

“Lincoln…” Sellitto bắt đầu.

“Chúng tôi vẫn đang kiểm tra”, Dellray nói tiếp. “Có thể cô ấy không chết đâu. Chúng tôi sẽ tìm cô ấy. Đưa cô ấy vào bệnh viện. Chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể. Anh biết là chúng tôi sẽ cố gắng mà.”

Sachs, thế quái nào mà cô lại làm như vậy chứ? Mà tại sao mình lại để cô ấy làm?

Lẽ ra mình không bao giờ được…

Rồi một tiếng lạo xạo vang lên trong tai nghe của anh. Một tiếng lốp bốp nổ to không khác gì pháo nổ. “Có ai…Ý tôi là, Chúa ơi, có ai gỡ cái này ra khỏi người tôi được không?”

“Sachs?”, Rhyme hét lên vào chiếc mic. Anh dám chắc rằng đó chính là giọng nói của cô. Và rồi nghe như thể cô đang sặc và nôn khan.

“Ặc”, cô thốt lên. “Ôi, trời… Cái mớ kinh tởm này.”

“Cô có sao không?” Anh quay sang chiếc điện thoại đang bật loa ngoài. “Fred, cô ấy đang ở đâu vậy?”

“Phải anh đấy không, Rhyme?”, cô hỏi. “Tôi không nghe thấy gì cả. Ai đó làm ơn nói cho tôi nghe đi.”

“Lincoln”, Dellray gọi to. “Chúng tôi tìm được cô ấy rồi! Cô ấy vẫn ổn. Cô ấy không sao cả.”

“Amelia?”

Anh nghe thấy tiếng Dellray quát gọi nhân viên cứu thương. Cơ thể Rhyme đã không hề biết run rẩy đã nhiều năm nay, vậy mà ngay lúc này anh chợt nhận thấy ngón tay đeo nhẫn bên tay trái của mình đang run bắn.

Giọng Dellray lại vang lên. “Cô ấy vẫn chưa nghe rõ lắm, Lincoln. Những gì vừa xảy ra là… có vẻ như những gì vừa xảy ra mà chúng tôi nhìn thấy… là thi thể của người phụ nữ kia. Horowitz. Sachs lôi cái xác ra khỏi chiếc tủ lạnh ngay trước khi quả bom phát nổ. Cái xác đã che hứng hầu hết sức công phá.”

Sellitto nói, “Tôi biết anh định nói gì rồi Lincoln. Để cô ấy bình tĩnh lại đã”.

Nhưng không đời nào Rhyme làm thế.

Bằng một giọng gầm gừ dữ tợn anh rít lên, “Cô đang nghĩ cái chết tiệt gì thế, Sachs? Tôi đã bảo cô là có một quả bom. Lẽ ra cô phải biết đó là một quả bom và chạy ra ngoài cho nhanh chứ?”.

“Rhyme, phải anh đấy không?”

Cô đang giả vờ. Anh biết chắc là cô đang giả vờ.

“Sachs…”

“Tôi lấy được đoạn băng dính rồi, Rhyme. Anh còn ở đó không? Tôi không nghe thấy anh nói gì cả. Đó là một đoạn băng dính gói đồ trong suốt. Chúng ta phải lấy bằng được một dấu tay của hắn. Chính anh đã nói thế còn gì.”

“Nói thật nhé, cô đúng là hết thuốc chữa rồi”, anh lầm bầm.

“A lô? A lô? Chẳng nghe thấy anh nói cái quái gì cả.”

“Sachs, đường có giở trò với tôi.”

Đáp lới anh là một sự im lặng kéo dài.

“Sachs?... Sachs, cô còn ở đó không? Chuyện quái quỷ gì…?”

“Rhyme, nghe này – tôi vừa mới chiếu đèn PoliLight lên đoạn băng dính. Anh có đoán được không? Trên đó có một dấu vân tay đứt đoạn! Tôi đã có một dấu vân tay của tên Vũ công rồi!”

Điều đó dừng được anh nói trong giây lát, nhưng rồi anh vẫn nhanh chóng quay lại với bài chửi rủa cay nghiệt của mình. Thao thao bất tuyệt rao giảng một lúc lâu anh mới chợt nhận ra mình đang trút cơn giận dữ vào một đường dây trống trơn.

Người Sachs dính đầy muội than đen sì nhưng từ người cô toát lên một vẻ vô cùng phấn khích.

“Đừng có lèm bèm nữa, Rhyme. Đúng là ngu ngốc nhưng tôi không kịp suy nghĩ gì cả. Tôi cứ hành động thế thôi.”

“Chuyện gì đã xảy ra vậy?”, anh hỏi. Chiếc mặt nạ nghiêm nghị của anh đã tạm thời rơi xuống trong chốc lát, anh quá hạnh phúc khi thấy cô vẫn còn sống.

“Tôi đã vào đến giữa căn hộ. Tôi nhìn thấy quả bom sát thương gắn sau cánh cửa và không nghĩ là tôi sẽ còn đủ thời gian chạy thoát ra ngoài. Tôi chộp lấy cái xác người phụ nữ trong tủ lạnh. Tôi định kéo cô ấy ra cửa sổ phòng bếp. Mới được nửa đường thì quả bom phát nổ.”

Mel Cooper kiểm tra qua một lượt những túi bằng chứng Sachs vừa đưa cho anh. Anh kiểm tra chỗ muội than và những mảnh vụn của quả bom. “Loại bom M45. Dùng thuốc TNT, với công tắc chuyển mạch và ngòi nổ kéo dài bốn mươi lăm giây. Đội đột kích lối vào đã chạm vào nó khi họ phá cửa; ngòi nổ được kích hoạt. Đó là graphite, một loại TNT công thức mới. Rất mạnh, sức công phá rất khủng khiếp.”

“Đồ chó chết”, Sellitto lầm bầm rủa. “Ngòi nổ chậm… Hắn muốn bảo đảm cho càng nhiều người vào trong phòng càng tốt, trước khi quả bom phát nổ.”

Ryyme hỏi, “Có thứ gì có thể lần ra nguồn gốc không?”

“Toàn đồ quân dụng rất phổ biến. Chẳng dẫn chúng ta đến đâu trừ…”

“Trừ tên khốn kiếp đã cung cấp những thứ này cho hắn”, Sellitto thốt lên. “Phillip Hansen.” Điện thoại của viên thám tử chợt đổ chuông và anh nghe máy, đầu anh cúi thấp xuống khi chăm chú lắng nghe và khẽ gật.

“Cám ơn”, cuối cùng anh cũng nói và tắt điện thoại.

“Chuyện gì thế?”, Sachs hỏi.

Mắt của viên thám tử vẫn nhắm nghiền.

Viên thám tử lắc đầu, giống hệt cách Rhyme vẫn xua đi những biểu hiện thương hại mọi khi. “Chúng ta còn nhiều chuyện khác để lo lắng.”

Đúng, quả là thế thật.

Rhyme biết đó là chuyện liên quan đến Jerry Banks.

“Lon?”

“Đó là tin về Jerry.” Viên thám tử ngẩng đầu lên. Thở dài. “Cậu ấy sẽ qua khỏi. Nhưng cậu ấy mất một cánh tay. Họ không thể cứu được nó. Bị tổn thương quá nặng.”

“Ôi, không”, Rhyme thì thầm. “Tôi có thể nói chuyện với cậu ta được không?”

“Không”, viên thám tử nói. “Cậu ấy vẫn đang mê man.”

Rhyme nghĩ về chàng thanh niên, hình dung ra cảnh anh ta lúc nào cũng lắp bắp lỡ lời nói linh tinh, hết vuốt chòm tóc bò liếm trên đầu mình lại xoa xoa vết xước do dao cạo để lại trên chiếc cằm hồng hào. “Tôi rất tiếc, Lon.”

Viên thám tử lắc đầu, giống hệt cách Rhyme vẫn xua đi những biểu hiện thương hại mọi khi. “Chúng ta còn nhiều chuyện khác để lo lắng.”

Đúng, quả là thế thật.

Rhyme chăm chú nhìn đoạn băng dính gói đồ trong suốt – mà tên Vũ công đã dùng để bịt miệng nạn nhân. Cũng giống như Sachs, anh nhìn thấy ngay một dấu son môi rất mờ in trên mặt dính của đoạn băng.

Sachs đang chăm chú nhìn mẩu bằng chứng, nhưng đó không phải là một cái nhìn chuyên môn. Không phải sự đăm chiêu của một nhà khoa học. Cô đang bị sốc nặng.

“Sachs?”, anh hỏi.

“Tại sao hắn lại làm thế?”

“Quả bom ư?”

Cô lắc đầu. “Tại sao hắn lại nhét cô ấy vào trong tủ lạnh?” Cô đưa một ngón tay lên miệng và bắt đầu cắn móng tay. Trong mười đầu ngón tay của cô, chỉ có duy nhất một ngón – ngón út bên bàn tay trái – là còn móng dài và nguyên vẹn. Tất cả những móng còn lại đều bị gặm nham nhở. Mấy móng tay thậm chí còn bầm nguyên vết máu.

Nhà hình sự học trả lời, “Tôi cho nguyên nhân là vì hắn muốn đánh lạc hướng chúng ta, để chúng ta không để ý đến quả bom. Một cái xác trong tủ lạnh – điều đó chắc chắn sẽ khiến chúng ta chú ý”.

“Ý tôi không phải thế”, cô trả lời. “Nguyên nhân tử vong là do ngạt thở. Hắn nhét cô ấy vào trong đó khi cô ấy còn sống. Tại sao? Có lẽ nào hắn là một kẻ bạo dâm không?”

Rhyme trả lời, “Không, tên Vũ công không phải là kẻ bạo dâm. Hắn không hơi đâu mà làm thế. Động cơ duy nhất của hắn là hoàn thành công việc, và hắn có thừa ý chí để kiểm soát những dục vọng khác của mình. Tại sao hắn lại để cô ta chết ngạt trong tủ lạnh trong khi hắn hoàn toàn có thể dùng một con dao hoặc một sợi dây?... Tôi cũng không biết chính xác tại sao, nhưng điều đó có thể lại tốt cho chúng ta”.

“Làm sao lại thế được?”

“Có thể có điều gì đó ở cô ta khiến hắn căm ghét và hắn muốn giết cô ta bằng cách dã man nhất hắn có thể nhgĩ ra.”

“Vâng, nhưng tại sao như vậy lại tốt cho chúng ta?” Sellitto hỏi.

“Bởi vì” – chính Sachs là người lên tiếng trả lời thay – “điều đó có nghĩa là có thể hắn đang mất đi sự lạnh lùng. Hắn đã bắt đầu hành động cẩu thả.”

“Chính xác”, Rhyme thốt lên, không giấu nổi vẻ tự hào vì Sachs đã tìm ra mối liên hệ. Nhưng cô không nhìn thấy được nụ cười khích lệ của anh. Mắt cô nhắm nghiền lại trong giây lát và cô lắc mạnh đầu, có lẽ lúc này cô đang hình dung lại đôi mắt kinh hoàng của người phụ nữ xấu số. Người ta thường nghĩ rằng các nhà hình sự học đều là những kẻ máu lạnh (đã không biết bao nhiêu lần vợ cũ của Rhyme trút lên đầu anh lới buộc tội đó?), nhưng trên thực tế những người giỏi nhất phải là những người có được sự đồng cảm đến nát lòng với nạn nhân tại các hiện trường vụ án mà họ khám nghiệm. Sachs là một trong những người như vậy.

“Sachs”, Rhyme dịu dàng thì thầm, “dấu vân tay?”.

Cô trân trân nhìn anh.

“Cô nói là cô tìm được một dấu vân tay. Chúng ta phải hành động thật khẩn trương.”

Sachs gật đầu. “Đây là một dấu vân ngón tay”. Cô giơ chiếc túi nhựa lên.

“Liệu có thể là dấu vân tay của cô ta không?”

“Không. Tôi lấy dấu vân tay của cô ấy rồi. Phải mất khá lâu mới tìm được bàn tay. Nhưng chắc chắn đây không phải dấu vân tay của cô ấy.”

“Mel”, Rhyme nói.

Người kỹ thuật viên cho mẩu băng dính vào khung Super Glue và đun nóng một chút keo. Gần như ngay lập tức một phần nhỏ xíu của dấu vân tay hiện lên rất rõ.

Cooper lắc đầu. “Thật không thể nào tin được”, anh lẩm bẩm.

“Sao vậy?”

“Tên Vũ công, hắn đã lau đoạn băng dính. Chắc chắn hắn biết mình đã chạm vào nó khi không mang găng tay. Chỉ còn lại một phần nhỏ của dấu vân tay.”

Cũng như Rhyme, Cooper là thành viên của Hiệp hội Nhận dạng Quốc tế. Họ là chuyên gia trong việc xác định danh tính con người từ những dấu vân tay. ADN và đặc điểm cấu trúc răng. Nhưng dấu vân tay trong trường hợp này – cũng giống như dấu vân tay trên mặt kim loại của quả bom – nằm ngoài khả năng của họ. Nếu như có chuyên gia nào có thể tìm ra và phân loại được một dấu vân tay, đó phải là hai người, Rhyme và Cooper. Nhưng không phải là dấu vân tay này.

“Cho in ra và dán nó lên”, Rhyme càu nhàu. “Dán nó lên bảng kia.” Bao giờ họ cũng làm đủ các thao tác bài bản vì đó là yêu cầu bắt buộc trong cái nghề này. Nhưng anh thấy chán chường khủng khiếp. Suýt nữa Sachs đã chết một cách vô ích.

Edmond Locard, nhà hình sự học lừng danh người Pháp, đã tìm ra một nguyên tắc mang tên ông. Ông khẳng định rằng trong mỗi cuộc đụng độ giữa hung thủ và nạn nhân luôn có một sự trao đổi bằng chứng. Dù có thể chỉ ở mức độ nhỏ li ti, nhưng vẫn có sự luân chuyển qua lại. Tuy vậy Rhyme có cảm giác rằng nếu như có ai đó đủ khả năng phủ nhận Nguyên tắc Locard, thì đó hẳn phải là bóng ma vẫn được họ gọi bằng cái tên Vũ công Quan tài.

Nhận thấy sự chán nản hiện lên trên mặt Rhyme, Sellitto nói, “Chúng ta vẫn còn chiếc bẫy ở đồn cảnh sát. Nếu gặp may, biết đâu chúng ta sẽ tóm được hắn.”

“Đành phải hy vọng thôi. Chúng ta cũng chỉ còn biết trông cậy vào vận may chết tiệt.”

Anh nhắm mắt lại, ngả đầu lên gối nằm thả lỏng. Một lát sau anh nghe thấy tiếng Thom đang nói, “Gần mười một giờ rồi. Đến giờ đi ngủ”.

Có nhiều lúc thật dễ dàng lãng quên cơ thể mình, quên đi thực tế rằng chúng ta có một cơ thể – đó là những khi cuộc sống đang bị đe dọa và con người ta phải bước ra khỏi cái thân xác vật chất để tập trung suy nghĩ, làm việc, làm việc không ngừng. Con người ta phải vượt ra khỏi những giới hạn thông thường của mình. Nhưng Lincoln Rhyme có một cơ thể nhất định không chịu để cho chủ nó lãng quên mình. Chứng thối loét vì nằm liệt giường có thể dẫn đến tình trạng nhiễm trùng và nhiễm độc máu. Rồi lại còn tràn dịch màng phổi, viêm phổi. Quên không thông bàng quang ư? Quên không xoa bóp ổ bụng để giúp nhuận tràng ư? Đôi giầy Spenco[65] buộc hơi quá chặt? Hậu quả sẽ là chứng rối loạn huyết áp do mất phản xạ và điều đó có thể dẫn tới một cơn đột quỵ. Trong khi chỉ riêng tình trạng kiệt sức cũng có thể gây ra một cơn nhồi máu cơ tim.

Quá nhiều cách chết…

“Anh chuẩn bị đi ngủ nào”, Thom nói.

“Tôi còn phải..”

“Đi ngủ, anh phải đi ngủ.”

Rhyme đành chịu thua; anh thấy mệt mỏi, rất mệt mỏi.

“Được rồi, Thom, được rồi.” Anh đẩy xe về phía cầu thang máy. “Có điều này”,. Anh ngoái lại. “Vài phút nữa cô có thể lên trên này được không, Sachs?”

Cô gật đầu, nhìn cửa chiếc cầu thang bé tí đóng sập lại.

Cô tìm thấy anh trên chiếc giường Clinitron.

Sachs đã chờ hẳn mười phút để anh có đủ thời gian làm cho xong những công đoạn trước khi đi ngủ – Thom đã đặt ống thông tiểu và đánh răng cho ông chủ của mình. Cô biết Rhyme vẫn nói năng bạt mạng – anh có cái khinh bạc bất cần đời của một người tàn phế trước mọi sự thương hại. Nhưng cô cũng biết rằng có những thủ tục cá nhân mà anh không muốn cô nhìn thấy.

Cô sử dụng khoảng thời gian đó để tranh thủ tắm qua trong phòng tắm dưới tầng, thay quần áo sạch – của cô – mà Thom vẫn giữ trong phòng giặt là ở dưới tầng hầm.

Ánh điện mờ mờ. Rhyme đang cọ cọ đầu trên gối như một con gấu gãi lưng vào một thân cây. Clinitron là chiếc giường tiện nghi nhất thế giới. Với trọng lượng lên đến cả nửa tấn, trông nó giống như một tấm phản khổng lồ với những đường ống thủy tinh bên trong để lưu thông luồng không khí đã được đun nóng.

“À, Sachs, hôm nay cô giỏi lắm. Cô đã thắng trí hắn rồi đấy.”

Sao không cảm ơn mình đã khiến Jerry Banks mất một cánh tay?

Và mình đã để tên Vũ công trốn thoát.

Cô bước lại gần tủ rượu của anh và rót cho mình một cốc Macallan, rồi nhướng mày về phía anh.

“Ồ, tất nhiên”, anh nói. “Nguồn sữa mẹ, chất sương mai tiêu sầu…”

Cô đá mạnh cho đôi giày tuột khỏi chân, rồi vén vạt áo lên chăm chú nhìn vết bầm tím.

“Ối chà”, Rhyme thốt lên.

Vết bầm có hình dạng như bang Missouri và tím đen như một quả cà dái dê.

“Tôi không thích bom”, cô nói. “Chưa bao giờ ở gần như quả này. Và tôi không thích chúng.”

Sachs mở túi xách của mình, lục lọi và lấy ra rồi nuốt chửng ba viên aspirin không cần nước (một trò mà hầu như những người bị viêm khớp đều biết). Cô bước lại bên cửa sổ. Phía ngoài kia là những con chim ưng. Những con chim tuyệt đẹp. Chúng cũng không to lắm. 14 đến 16 inch là cùng. Quá nhỏ nếu là một con chó. Nhưng với một con chim thì… quả là đáng sợ. Mỏ của chúng chẳng khác gì móng vuốt của một sinh vật thường thấy trong loạt phim Alien đang được ưa thích.

“Cô không sao chứ, Sachs? Hãy nói thật xem nào?”

“Tôi không sao.”

Cô quay lại ghế ngồi, nhấm nháp thêm thứ chất lỏng cay xè.

“”Đêm nay cô muốn ngủ lại đây không?”, anh hỏi.

Thỉnh thoảng cô vẫn ngủ lại đây. Khi thì nằm trên sofa, khi thì nằm ngay trên giường, bên cạnh anh. Có thể là do cảm giác êm ái mà chiếc giường Clinitron mang lại, hoặc cũng có thể đơn giản chỉ là cảm giác được nằm bên cạnh một người khác – cô cũng không biết lý do tại sao – nhưng khi ngủ lại đây cô ngủ ngon hơn. Cô không hề biết tận hưởng cảm giác nằm bên người đàn ông khác kể từ sau người bạn trai gần đây nhất của cô, Nick. Cô và Rhyme thường nằm cạnh nhau và nói chuyện. Cô sẽ nói cho anh nghe về ô tô, về những cuộc thi bắn súng ngắn của cô, về mẹ cô và đứa con gái mà cô nhận đỡ đầu. Về cuộc đời và cái chết khổ sở, kéo dài của cha cô. Bao giờ cô cũng đưa ra nhiều thông tin cá nhân hơn anh. Nhưng như vậy cũng không sao. Cô thích được nghe anh nói bất kỳ điều gì anh muốn. Trí tuệ của anh thật đáng kinh ngạc. Anh thường kể cho cô nghe về New York cổ xưa, về những đợt truy quét mafia mà cả thế giới chưa bao giờ nghe nói đến, về những hiện trường vụ án sạch sẽ đến nỗi tưởng chừng như vô vọng cho tới khi những người khám nghiệm phát hiện ra một hạt bụi nào đó, một mẩu móng tay, một giọt máu li ti, tóc hoặc sợi vải có thể tiết lộ hung thủ là ai hoặc ít nhất cũng là nơi hắn sống – vâng, tất nhiên là tiết lộ cho Rhyme biết, chứ không hẳn là với tất cả mọi người. Không, bộ óc của anh dường như không bao giờ ngừng nghỉ. Cô được biết rằng trước khi bị thương anh thường lang thang khắp các con phố của New York tìm kiếm những mẫu đất hoặc cỏ, cây hay đá – bất kỳ thứ gì có thể giúp anh phá án. Dường như thể sự hiếu động đã chuyển hết từ đôi chân vô dụng vào bộ óc của anh, tiếp tục lùng sục khắp thành phố – trong trí tưởng tượng của anh – từng đêm.

Nhưng đêm nay thì khác. Tâm trí Rhyme như đang ở tận đâu. Cô không bao giờ phật lòng vì sự bẳn gắt của anh – thậm chí chính việc anh cáu kỉnh như vậy lại là điều tốt. Nhưng cô không thích anh lơ đãng như thế này. Cô ngồi xuống mép giường.

Anh bắt đầu nói điều mà dường như vì nó anh đã yêu cầu cô lên đây. “Sachs này… Lon đã kể cho tôi nghe. Về những gì xảy ra ở sân bay.”

Cô nhún vai.

“Cô cũng chẳng thể làm được gì hơn ngoài việc tự khiến mình mất mạng cả. Cô đã làm đúng những gì phải làm khi nằm xuống tránh đạn. Hắn bắn phát đầu tiên chỉ là hù dọa để đo khoảng cách và chắc chắn với phát thứ hai hắn sẽ hạ được cô.”

“Tôi vẫn còn hai, ba giây. Tôi đã có thể hạ hắn. Tôi biết là lẽ ra tôi đã có thể.”

“Đừng có khinh suất thế, Sachs. Quả bom đó…”

Vẻ dữ dội trong mắt cô lúc này khiến anh im bặt. “Tôi muốn tóm được hắn, bằng mọi giá. Và tôi có cảm giác là anh cũng muốn tóm được hắn không kém gì tôi. Tôi nghĩ nếu là anh chắc anh cũng đánh liều thôi.” Cô nói thêm với một vẻ ý nhị đầy bí ẩn, “Mà có thể anh đang liều cũng nên”.

Nhận xét này gây ra một phản ứng mạnh mẽ hơn cả những gì cô đã dự tính. Anh hấp háy mắt, rồi nhìn lãng ra chỗ khác. Nhưng anh vẫn không nói gì, chỉ lặng lẽ nhấm nháp chỗ whiskey của mình.

Đột nhiên cô lên tiếng, “Tôi hỏi điều này được không? Nếu anh không muốn tôi hỏi, anh có thể bảo tôi ngậm miệng lại”.

“Cứ hỏi đi, Sachs. Chẳng lẽ giữa tôi và cô vẫn còn những bí mật hay sao? Tôi không nghĩ vậy.”

Mắt dán chặt xuống sàn nhà, cô nói, “Tôi nhớ có lần tôi đã kể cho anh nghe về Nick. Về những tình cảm tôi dành cho anh ấy, đại loại thế. Về chuyện xảy ra giữa hai chúng tôi đã khó khăn đến nhường nào”.

Anh gật đầu.

“Và tôi hỏi anh liệu anh có những tình cảm như vậy với bất kỳ ai chưa, có thể là với vợ anh. Và anh trả lời là có, nhưng không phải với Blaine.” Cô ngước lên nhìn anh.

Anh trấn tĩnh rất nhanh, nhưng vẫn không đủ nhanh. Và cô chợt nhận ra cô vừa thổi không khí lạnh buốt lên một tế bào thần kinh trần trụi.

“Tôi nhớ”, anh trả lời.

“Chị ấy là ai? Nghe này, nếu như anh không muốn nói đến chuyện đó…”

“Tôi không ngại đâu. Tên cô ấy là Claire. Claire Trilling. Cô thấy cái họ đó lạ tai không[66]?”

“Có lẽ hồi ở trường chị ấy cũng phải chịu đựng những trò trêu chọc chẳng kém gì tôi. Amelia Sex, Amelia Sucks[67]… Anh đã gặp chị ấy như thế nào?”

“À thì…”, anh bật cười vì chính sự lúng túng của mình rồi tiếp tục. “Ngay trong sở.”

“Chị ấy cũng là cảnh sát?”, Sachs không giấu được sự ngạc nhiên.

“Đúng.”

“Chuyện gì đã xảy ra?”

“Đó là một… mối quan hệ khó khăn.” Rhyme buồn bã lắc đầu. “Tôi đã có vợ, cô ấy đã có chồng. Chỉ có điều không phải là vợ chồng của nhau.”

“Con cái?”

“Cô ấy có một đứa con gái.”

“Vậy là hai người chia tay?”

“Chuyện đó chẳng đi đến đâu, Sachs. Ôi trời, Blaine và tôi sớm muộn gì cũng ly hôn – nếu không thì cũng giết lẫn nhau. Đó chỉ còn là vấn đề thời gian. Nhưng Claire… cô ấy lo cho con gái của mình – sợ chồng cô ấy sẽ giành được quyền nuôi con bé nếu cô ấy ly hôn. Cô ấy không yêu anh ta, nhưng anh ta là người tốt. Rất yêu con.”

“Anh đã gặp con bé chưa?”

“Đứa con gái ư? Rồi.”

“Bây giờ anh còn gặp chị ấy không? Claire ấy?”

“Không. Đó là chuyện quá khứ rồi. Cô ấy không còn làm trong lực lượng cảnh sát nữa.”

“Hai người chia tay sau tai nạn của anh?”

“Không, không, từ trước cơ.”

“Nhưng dù sao chị ấy cũng phải biết là anh bị thương chứ, đúng không?”

“Không”, Rhyme nói sau một thoáng lưỡng lự kéo dài.

“Tại sao anh không nói cho chị ấy biết?”

Chú thích

[65]Spenco: Một loại thiết bị y tế bọc chân được thiết kế đặc biệt cho những bệnh nhân nằm liệt giường, giúp lưu thông máu.

[66]Trilling có nghĩa là “trẻ ranh”, hoặc đọc trệch đi thành chilling có nghĩa là “buốt lạnh”.

[67]Họ của Amelia là Sachs, bị đọc trệch đi thành những từ tục tĩu như “sex” (tình dục) và “Sucks” (dở hơi).

Một khoảng im lặng. “Có một số lý do… Kể cũng buồn, cô lại gợi chuyện về cô ấy lên. Đã mấy năm rồi tôi không còn nghĩ đến cô ấy nữa.”

Anh gắng nở nụ cười gượng gạo, và Sachs cảm thấy cơn đau chạy xuyên qua người cô – cơn đau thực sự giống như cú va đập để lại vết bầm tím hình bang Missouri. Bởi vì những gì anh vừa nói là một lời dối trá. Ôi, anh vẫn luôn nghĩ về người phụ nữ đó. Sachs không tin vào trực giác của phụ nữ, nhưng cô tin vào trực giác của một cảnh sát; cô đã quá dày dạn nên không thể nào không nhận ra những dấu hiệu hiển nhiên đó. Cô biết Rhyme vẫn nghĩ đến cô Trilling kia.

Những cảm giác trong cô lúc này mới lố bịch làm sao, tất nhiên rồi. Cô không có đủ kiên nhẫn cho sự ghen tuông. Trước kia cô cũng không bao giờ ghen với công việc của Nick – anh là một đặc vụ chìm và dành hàng tuần liền lê la trên đường phố. Không bao giờ ghen với những cô gái điếm và những cô nàng tóc vàng hoe mà anh vẫn tán tỉnh bên cốc rượu trong các lần thực hiện nhiệm vụ.

Và nếu gác sự ghen tuông sang một bên đi, cô còn định hy vọng điều gì với Rhyme cơ chứ? Cô đã nhiều lần tâm sự chuyện về anh với mẹ mình. Và bao giờ người phụ nữ già dặn, trải đời đó đều nói một câu đại loại như, “Tử tế với một người tàn tật như thế kể cũng tốt.”

Điều đó dường như khái quát tất cả những gì mà mối quan hệ của họ nên trở thành. Và cũng chỉ có thể đến được thế.

Thậm chí còn hơn lố bịch.

Nhưng thực tế là cô đang ghen. Và không phải với Claire.

Mà với Percey Clay.

Sachs không thể nào quên cách họ đã nhìn nhau khi cô bắt gặp họ ngồi bên nhau trong phòng của anh, buổi chiều hôm nay.

Lại uống thêm rượu. Nghĩ về những đêm cô và Rhyme đã cùng trải qua trong căn phòng này, nói chuyện về những vụ án, nhấm nháp thứ rượu tuyệt với này.Ôi, tuyệt thật. Mình lại đang khóc sướt mướt cơ đấy. Một cảm giác mới chín chắn làm sao. Mình phải túm vào giữa ngực nó và giết nó chết ngay mới được.

Nhưng rồi cô lại đổ thêm men rượu vào cảm xúc đó.

Percey không phải là một phụ nữ quyến rũ, nhưng điều đó cũng chẳng có ý nghĩa gì; Sachs đã mất trọn một tuần ở Chantell, công ty người mẫu trên Đại lộ Madison, nơi cô làm việc mấy năm liền, để hiểu được sự trớ trêu của cái đẹp. Đàn ông thích ngắm nhìn những cô nàng hấp dẫn, nhưng cũng không có gì làm họ hoảng sợ hơn những cô nàng như thế.

“Anh muốn làm thêm chầu nữa không?”

“Thôi”, anh nói.

Lúc này, không hề nghĩ ngợi gì, cô nằm xuống giường, ngã đầu lên gối của anh. Cách con người ta điều chỉnh theo hoàn cảnh kể cũng buồn cười, cô thầm nghĩ. Tất nhiên Rhyme không thể ghì cô nép sát vào ngực anh và choàng tay anh qua người cô. Nhưng cử chỉ tình cảm không kém của anh là nghiêng đầu anh sát vào đầu cô. Với tư thế đó, họ đã cùng nhau ngủ thiếp đi một vài lần.

Tuy vậy, đêm nay cô cảm thấy một sự gượng gạo, một sự e dè.

Cô cảm thấy cô đang mất dần anh. Tất cả những gì cô nghĩ trong đầu lúc này là cố gắng nép lại gần thêm nữa. Gần hết mức có thể.

Đã có lần Sachs tâm sự với bạn mình, Amy, người mẹ của cô con gái mà cô nhận đỡ đầu, về Rhyme, về những tình cảm cô dành cho anh. Và cô bạn đã băn khoăn không hiểu điều gì làm nên sức hấp dẫn ở anh, rồi phỏng đoán, “Có lẽ chính là điều đó, cậu biết đấy, anh ấy không cử động được. Anh ấy là một người đàn ông nhưng lại không hề có vai trò kiểm soát nào đối với cậu cả. Có thể đó chính là điều mang lại sự hấp dẫn”.

Nhưng Sachs biết rằng nguyên nhân hoàn toàn ngược lại. Sức hấp dẫn nằm ở chỗ chính anh là người kiểm soát hoàn toàn, bất chấp thực tế rằng anh không thể cử động.

Những từ ngũ rời rạc từ miệng anh buột ra cứ trượt đi mơ hồ khi anh nói về Claire, rồi về tên Vũ công. Cô nghiêng đầu và nhìn chằm chằm vào cặp môi mỏng của anh.

Hai bàn tay cô bắt đầu đi lang thang.

Anh không cảm thấy gì, tất nhiên, nhưng anh có thể nhận ra những ngón tay thanh tú hoàn hảo của cô cùng những đầu móng tay nham nhở đang trượt dần trên ngực và lần xuống dưới cơ thể mềm mại của anh. Thom tập thể dục cho anh hằng ngày bằng một loạt những động tác chuyển động phứt tạp và mặc dù Rhyme không phải là người vạm vỡ nhưng anh cũng có cơ thể của một thanh niên. Dường như quá trình lão hóa đã dừng hẳn lại vào cái ngày xảy ra vụ tai nạn.

“Sachs?”

Bàn tay cô dịch xuống thấp hơn.

Hơi thở của cô cũng bắt đầu trở nên gấp gáp hơn. Cô đạp chăn xuống. Thom đã thay cho Rhyme một chiếc áo phông. Cô vén nó lên, luồn hai bàn tay mình trên ngực anh. Và cô cởi áo của mình ra, tháo tung chiếc áo nịt ngực, rồi áp chặt làn da căng mịn của mình vào cơ thể xanh xao của anh. Cô cứ tưởng nó sẽ rất lạnh, nhưng hóa ra không phải. Thậm chí nó còn ấm hơn cơ thể cô. Sachs càng xoa mạnh hơn.

Cô hôn một cái lên má anh, hôn vào khóe miệng, rồi hôn trùm lên môi anh.

“Sachs, không… Nghe anh này. Không.”

Nhưng cô nhất định không nghe.

Cô chưa bao giờ kể cho Rhyme biết, nhưng vài tháng trước cô đã mua một cuốn sách có nhan đề Người tình tàn phế. Sachs đã rất ngạc nhiên khi biết rằng ngay cả những người bị liệt tứ chi vẫn có thể làm tình và sinh con. Cái bộ phận đàn ông khó hiểu kia thực sự có ý chí riêng của nó, và cho dù có cắt đứt tủy sống chăng nữa cũng chỉ làm mất đi một loại kích thích mà thôi. Những người đàn ông tàn phế vẫn hoàn toàn có thể cương cứng như bình thường. Tất nhiên anh sẽ không cảm thấy gì nhưng – với cô – khoái cảm thể xác chỉ là một phần của sự gần gũi này, thậm chí chỉ là phần rất nhỏ. Điều quan trọng nhất chính là bản thân sự gần gũi; một đỉnh cao cảm xúc mà cả triệu cơn khoái cảm kệch cỡm thường thấy trong phim ảnh cũng không bao giờ vươn tới được. Cô ngờ rằng biết đâu Rhyme cũng cảm thấy giống mình.

Cô lại hôn anh lần nữa. Ngấu nghiến hơn.

Sau một thoáng ngại ngần anh cũng hôn lại cô. Cô không hề ngạc nhiên khi thấy anh hôn rất giỏi. Sau đôi mắt đen thẫm thì cặp môi thanh tú hoàn hảo là điều đầu tiên ở anh khiến cô chú ý.

Rồi anh cố quay mặt đi chỗ khác.

“Không, Sachs, đừng…”

“Suỵt, im lặng nào…” Cô lần bàn tay mình bên dưới lớp chăn, bắt đầu sờ soạng, vuốt ve.

“Chỉ là…”

Chỉ là cái gì kia? Cô tự hỏi. Chẳng lẽ là có thể mọi việc sẽ không diễn ra như ý sao?

Nhưng mọi việc đang diễn ra rất tốt đẹp đấy thôi. Cô cảm thấy anh cứng dần lên rất nhanh trong tay cô, thậm chí còn nhanh hơn bất kỳ người tình sung sức nào cô từng có.

Cô trườn người, nằm đè lên anh, đạp tung tấm chăn và ga trải giường xuống, rồi cô cúi đầu và lại hôn anh đắm đuối. Ôi, sao mà cô muốn được ở đây đến thế, mặt kề mặt – thật khăng khít như cô và anh đang trải qua lúc này. Để anh hiểu rằng cô coi anh như một người đàn ông hoàn hảo. Anh là người đàn ông trọn vẹn như chính con người anh.

Cô gỡ cặp tóc, để mái tóc đỏ rực của mình rũ tung ra, phủ lên người anh. Cuối thấp xuống và lại hôn anh đắm đuối.

Rhyme hôn lại. Họ ép chặt môi nhau trong một cái hôn tưởng chừng như kéo dài tròn một phút.

Rồi đột nhiên anh lắc đầu, mạnh đến nỗi cô nghĩ có khi anh đang bị một cơn đột quỵ do mất phản xạ tự động.

“Không!” anh thì thào.

Cô đã chờ đợi điều gì đó cợt nhả một chút, cô đã chờ đợi sự nồng nàn, hoặc tệ nhất cũng là một câu tán tỉnh lăng nhăng kiểu Ôi, ôi, không phải ý hay đâu…Nhưng giọng anh nghe thật yếu ớt. Âm sắc gượng gạo trong giọng anh như cứa sâu vào tâm hồn cô. Cô lăn người xuống, chộp một chiếc gối lên che ngực.

“Không, Amelia. Anh xin lỗi. Không.”

Mặt cô nóng bừng vì hổ thẹn. Tất cả những gì cô có thể nghĩ được lúc này là đã không biết bao nhiêu lần cô đi chơi với một người đàn ông là một người bạn hoặc một người hẹn hò ngẫu nhiên để rồi bất ngờ bàng hoàng nhận ra anh ta đang sờ soạng cô như bọn trẻ ranh mới lớn. Giọng cô những lúc ấy cũng nghe cũng thảng thốt như giọng Rhyme lúc này.

Vậy là cuối cùng cô cũng hiểu ra, đối với anh cô cũng chỉ là như vậy mà thôi.

Một cộng sự. Một người đồng nghiệp. Một người bạn với chữ B viết hoa.

“Anh xin lỗi, Sachs… anh không thể. Có nhiều chuyện phức tạp lắm.”

Phức tạp ư? Cô chẳng thấy có gì phức tạp cả, tất nhiên là trừ thực tế rằng anh không hề yêu cô.

“Không,em mới phải xin lỗi”, cô cộc cằn nói. “Thật ngu xuẩn. Tại uống quá nhiều thứ nước men mạch nha khốn kiếp kia. Em cứ uống rượu vào là không còn biết gì nữa. Anh biết rồi mà.”

“Sachs.”

Cô giữ nguyên nụ cười chua chát trên môi khi mặc lại quần áo.

“Sachs, để anh nói với em điều này”.

“Không.” Cô không muốn nghe thêm bất kỳ lời nào nữa.

“Sachs…”

“Em nên đi thôi. Sáng mai em phải đến đây sớm nữa mà.”

“Anh chỉ muốn nói điều này.”

Nhưng Rhyme không có cơ hội để nói bất kỳ điều gì, cho dù là một lời giải thích, một lời xin lỗi hay một lời thú tội. Hoặc một bài rao giảng.

Câu chuyện của họ bị ngắt quãng bởi những tiếng đập thình thình lên cánh cửa. Trước khi Rhyme kịp hỏi ai ngoài đó thì Lon Sellitto đã lao ùa vào phòng.

Anh ta liếc nhìn Sachs một cách rất thản nhiên, rồi quay lại đối diện với Rhyme và thông báo, “Vừa nhận được tin báo từ mấy tay cấp dưới của Bo trên Đồn Cảnh sát Hai mươi. Tên Vũ công đã tới đó, nghiên cứu địa điểm. Thằng chó đẻ đó mắc câu rồi! Chúng ta sắp tóm được hắn, Lincoln. Lần này chúng ta sẽ tóm được hắn”.

“Cách đây khoảng hai tiếng”, viên thám tử tiếp tục câu chuyện của mình, “mấy tay phụ trách trinh sát nhìn thấy một người đàn ông da trắng lởn vởn bên ngoài trụ sở Đồn Cảnh sát Hai mươi. Hắn đã lẻn vào một con hẻm và có vẻ như trước đó hắn đang theo dõi những cảnh sát làm nhiệm vụ canh phòng. Và rồi họ thấy hắn dùng ống nhòm quan sát trạm xăng bên cạnh đồn cảnh sát.”

“Trạm xăng? Cho những chiếc RMP?” Nghĩa là phương tiện tuần tra cơ dùng trang bị radio – nói ngắn gọn là xe tuần tra.

“Đúng vậy.”

“Họ có bám theo hắn không?”

“Có thử. Nhưng hắn biến mất trước khi họ đến gần.”

Rhuyme nhận ra Sachs đang kín đáo cài nốt chiếc cúc áo trên cùng của cô… Anh phải nói chuyện riêng với cô về những gì vừa xảy ra. Anh phải làm cho cô hiểu. Nhưng căn cứ vào những gì Sellitto đang nói lúc này, chuyện kia sẽ phải để lại sau.

“Tin này còn tốt hơn. Cách đây nửa giờ, chúng tôi nhận được báo cáo về một chiếc xe tải bị cướp. Của hãng Rollins Distributing. Ở Upper West Side gần sông. Họ vận chuyển xăng tới cho các trạm bán xăng độc lập. Có kẻ đã chui vào qua hàng rào dây thép gai. Tay bảo vệ nghe thấy tiếng động và chạy tới kiểm tra. Anh ta bị tấn công bất ngờ. Hắn đánh anh ta đến bất tỉnh. Rồi hắn bỏ trốn với một chiếc xe tải.”

“Có phải Rollins chính là công ty mà Sở Cảnh sát thuê chở xăng không?”

“Không, nhưng mà ai biết được? Tên Vũ công sẽ mò tới Đồn Cảnh sát Hai mươi trong một chiếc xe téc, những cảnh sát bảo vệ ở đó sẽ không nghi ngờ gì hết, họ vẫy cho hắn vào trong và tiếp theo…”

Sachs ngắt lới. “Chiếc xe chở xăng nổ tung.”

Điều này khiến Sellitto giật mình. “Tôi chỉ đang nghĩ là hắn sử dụng chiếc xe làm phương tiện để lọt vào trong thôi. Cô nghĩ là hắn sẽ lại dùng bom sao?”

Rhyme gật đầu với vẻ nghiêm trọng. Và giận dữ với chính mình. Sachs nói đúng. “Hắn lại khôn ngoan hơn chúng ta rồi. Tôi chưa bao giờ nghĩ là hắn sẽ dùng đến thủ đoạn như thế này. Lạy Chúa, một chiếc xe téc chở xăng mà nổ trong khu vực đó…”

“Một quả bom phân bón?”

“Không”, Rhyme nói. “Tôi không nghĩ hắn còn đủ thời gian để làm chuyện đó. Nhưng tất cả những gì hắn cần là một quả bom sát thương gắn bên sườn một chiếc xe téc nhỏ và hắn có một thiết bị kích nổ siêu hạng là xăng. Chắc chắn cả trụ sở đồn cảnh sát sẽ cháy rụi. Chúng ta phải cho mọi người sơ tán. Thật kín đáo.”

“Kín đáo”, Sellitto lầm bầm. “Cứ như dễ lắm ấy.”

“Người bảo vệ của công ty phân phối xăng như thế nào rồi? Anh ta nói được chưa?”

“Được rồi, nhưng anh ta bị đánh từ phía sau. Chẳng kịp nhìn thấy gì cả.”

“Hừm, ít nhất thì tôi cũng muốn xem qua quần áo của anh ta, Sachs” – cô bắt gặp ánh mắt anh đang nhìn mình – “cô có thể ghé qua bệnh viện và mang chúng về đây không? Cô sẽ biết phải gói chúng như thế nào mà vẫn giữ lại được các bằng chứng. Rồi sau đó hãy khám nghiệm hiện trường nơi hắn cướp chiếc xe tải”.

Anh phân vân không biết cô sẽ phản ứng thế nào. Anh cũng sẽ không lấy gì làm ngạc nhiên nếu cô lạnh lùng từ chối và cứ thế bước thẳng ra cửa. Nhưng anh có thể nhìn thấy trên khuôn mặt xinh đẹp và vô cảm của cô một điều, cô cũng có cảm giác giống hệt anh lúc này: thật mỉa mai, đó là cảm giác nhẹ nhõm vì tên Vũ công đã can thiệp đúng lúc để thay đổi buổi tối khủng khiếp của hai người.

Cuối cùng, cuối cùng thì đôi chút vận may mà Ryme chờ đợi cũng xuất hiện.

Một tiếng đồng hồ sau Amelia Sachs quay lại. Cô giơ cao chiếc túi plastic bên trong đựng một cặp kìm cắt dây thép.

“Tìm thấy nó ở gần hàng rào thép gai. Chắc chắn người bảo vệ đã làm tên Vũ công giật mình và hắn buộc phải bỏ nó xuống.”

“Đúng!” Rhyme hét toáng lên. “Tôi chưa bao giờ thấy hắn phạm một sai lầm như thế. Có thể là hắn đang hành động cẩu thả… Tôi tự hỏi điều gì đang làm hắn sợ.”

Rhyme liếc nhìn chiếc kìm. Cầu trời, anh thầm cầu nguyện, trên đó có một dấu vân tay.

Nhưng anh chàng Mel Cooper ngái ngủ – anh ta đã ngủ lại ở một trong những phòng ngủ nhỏ hơn trên tầng – đã kiểm tra từng milimét vuông trên chiếc kìm. Hoàn toàn không có dấu vân tay nào.

“Nó cho chúng ta biết điều gì không?”, Rhyme hỏi.

“Đây là một chiếc kìm mang model Craftsman, loại chất lượng tốt nhất, có bán ở tất cả cửa hàng dụng cụ Sears trên cả nước. Vả lại ai cũng có thể mua chúng trong những đợt thanh lý dụng cụ ga ra hoặc đồ đồng nát với giá chỉ vài đô la.”

Rhyme thở hổn hển vì giận dữ. Anh chằm chằm nhìn chiếc kìm một lúc lâu rồi nói, “Có dấu dụng cụ nào không?”.

Cooper nhìn anh với ánh mắt tò mò. Dấu dụng cụ là những vết đặt trưng do dụng cụ mà bọn tội phạm sử dụng đã lưu lại hiện trường – bằng tuốt nơ vít, cờ lê, xà beng nạy khóa, đòn bẩy, và đủ các thứ linh tinh khác. Đã có lần Rhyme tìm ra được mối liên hệ giữa một vụ trộm và một hiện trường vụ án chỉ hoàn toàn nhờ vào một khe cắt hình chữ V bé tí trên củ khóa đồng. Khe cắt ăn khớp với vết mẻ trên một cái đục tìm thấy trong thùng dụng cụ của thủ phạm. Tuy vậy, ở đây thì họ chỉ có dụng cụ, trong khi lại chẳng thấy dấu vết nào mà có thể nó đã tạo ra. Cooper không hiểu Rhyme đang định nói đến dấu dụng cụ nào nữa.

“Tôi đang nói đến những dấu vết lưu lại trên lưỡi kìm”, anh cáu kỉnh nói. “Biết đâu tên Vũ công đã dùng nó để cắt một thứ gì đó đặc biệt, một thứ gì đó có thể cho chúng ta biết hắn đang nhắm vào đâu.”

“Ôi.” Cooper chăm chú kiểm tra lưỡi kìm. “Lưỡi kìm bị mẻ, nhưng để tôi xem nào… Anh có thấy gì bất thường không?”

Rhyme không thấy. “Nạo lưỡi kìm và tay cầm. Kiểm tra xem còn chất gì dính lại không.”

Cooper cho kiểm tra những thứ vừa được cạo ra trên máy sắc ký khí.

“Phù”, anh làu bàu khi những kết quả vừa được phân tích. “Nghe cho rõ này. Dư chất RDX, asphalt và tơ nhân tạo.”

“Dây cháy chậm”, Rhyme nói.

“Hắn cắt nó bằng kìm thật sao?” Sachs hỏi. “Chẳng lẽ có thể làm thế thật?”

“Ối dào, nó ổn định như clothesline ấy mà.” Rhyme lơ đễnh trả lời, anh đang mải hình dung ra cảnh hàng nghìn gallon[68] xăng bốc cháy cùng một lúc sẽ gây nguy hiểm đến mức nào cho khu dân cư xung quanh Đồn Cảnh sát Hai mươi.

Lẽ ra mình phải bắt họ rời đi chỗ khác, anh rầu rĩ nghĩ thầm, Percey và Brit Hale. Đưa họ vào chế độ canh gác bảo vệ đặc biệt và chuyển họ tới Montana cho tới khi bồi thẩm đoàn nhóm họp. Vậy mà mình lại đẩy họ vào cái ý tưởng ngu xuẩn này, cái bẫy khốn kiếp.

“Lincoln?”, Sellitto hỏi. “Chúng ta phải tìm cho ra chiếc xe tải đó.”

“Chúng ta chỉ còn rất ít thời gian”, Rhyme nói. “Hắn sẽ không đời nào tìm cách mò vào đó trước khi trời sáng. Dù thế nào hắn cũng cần có câu chuyện ngụy trang cho việc đánh xe chở xăng tới đó. Còn gì nữa không, Mel? Có dấu vết dư chất nào không?”

Cooper xem qua một lượt những thứ mà máy hút bụi thu được. “Toàn đất và gạch vụn. Khoan đã… ở đây có mấy thớ sợi. Cấu trúc rất giống với giấy. Để tôi phân tích cấu trúc hóa học xem nào… NH4OH.”

“Ammonium hydroxide”, Rhyme nói.

“Ammonia?” Sellitto hỏi. “Vậy có thể anh nhận định sai về khả năng hắn dùng bom phân bón chăng?”

“Có chút dầu nào không?”, Rhyme hỏi.

“Không.”

Rhyme hỏi, “Chất sợi cùng với ammonia – chúng được lấy từ tay cầm của chiếc kìm à?”

“Không. Chúng ở trên quần áo của người bảo vệ bị hắn đánh bất tỉnh.”

Ammonia là sao? Rhyme tự hỏi. Anh đề nghị Cooper cho kiểm tra một thớ sợi qua kính hiển vi quét bằng hạt electron. “Phóng cực đại. Chất ammonia được kết dính bằng cách nào?”

Màn hình nhấp nháy và phóng to lên. Dải thớ sợi trông chẳng khác gì một thân cây lớn.

“Do nung nóng, tôi nghĩ thế.”

Thêm một bí ẩn nữa. Giấy và ammonia…

Rhyme nhìn đồng hồ. Bây giờ là hai giờ bốn mươi phút sáng.

Đột nhiên anh chợt nhớ ra là Sellitto vừa hỏi anh câu gì đó. Anh quay đầu lại.

“Tôi đang nói”, viên thám tử nhắc lại, “là chúng ta có nên bắt đầu sơ tán tất cả dân xung quanh đồn cảnh sát không? Ý tôi, tốt nhất là nên làm ngay lúc này thay vì đợi đến sát thời gian hắn có thể tấn công”.

Trong một khoảnh khắc rất dài Rhyme trân trân nhìn thớ sợi giấy hình thân cây màu xanh nhạt hiện lên trên màn hình máy SEM. Rồi bất thình lình anh buột miệng. “Đúng thế. Chúng ta phải sơ tán tất cả dân ra khỏi đó. Sơ tán người trong các tòa nhà xung quanh đồn cảnh sát. Để tôi nghĩ xem nào – bốn khu chung cư ở hai bên và đối diện bên kia phố.”

“Nhiều đến thế sao?” Sellitto vừa hỏi vừa khẽ cười khan với vẻ hoài nghi. “Theo anh thì thực sự chúng ta phải cẩn thận đến mức thế cơ à?”

Rhyme ngẩng lên nhìn viên thám tử và nói, “Không, tôi lại đổi ý rồi. Toàn bộ khối phố. Chúng ta phải cho sơ tán toàn bộ khối phố. Ngay lập tức. Và cho gọi Haumann, Dellray tới đây ngay. Tôi không quan tâm họ đang ở đâu. Tôi muốn họ có mặt ở đây ngay bây giờ”.

Chú thích

[68]Gallon: Đơn vị đo lường chất lỏng bằng 4,54 lít ở Anh, 3,78 lít ở Mỹ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17


Giờ thứ 22 của 45

Vài người trong số họ đã ngủ.

Sellitto nằm trong một chiếc ghế bành, thức dậy trong tình trạng không thể nhàu nhĩ hơn được nữa, mái tóc bù xù. Cooper thì ngủ dưới nhà.

Có vẻ như Sachs đã qua đêm trên một chiếc sofa dưới nhà hoặc trong một phòng ngủ nào đó dưới tầng một. Không thèm đếm xỉa gì đến chiếc giường Clinitron nữa.

Còn Thom, dù bản thân cũng đang buồn ngủ đến hoa mắt, vẫn lăng xăng đi lại, lúc nào cũng luôn chân luôn tay, bận rộn đo huyết áp cho Rhyme. Mùi cà phê thơm ngào ngạt tỏa khắp ngôi nhà.

Lúc này trời cũng vừa hừng sáng và Rhyme đang chăm chú nhìn những bảng sơ đồ bằng chứng. Họ thức đến tận bốn giờ sáng, vạch định chiến lược nhử tên Vũ công vào bẫy – và đối phó với hàng lô những lời phàn nàn về quyết định sơ tán.

Liệu có ăn thua không nhỉ? Liệu tên Vũ công có rơi vào chiếc bẫy họ giăng lên không? Rhyme tin là có. Nhưng vẫn còn một câu hỏi khác, một câu hỏi Rhyme không hề muốn nghĩ tới nhưng cũng không thể phớt lờ. Liệu chiếc bẫy sẽ bật mạnh đến đâu? Bình thường thì tên Vũ công cũng đáng sợ lắm rồi? Hắn sẽ tiếp tục thế nào nữa, một khi bị dồn vào chân tường?

Thom mang cà phê tới và mọi người bắt đầu nghiên cứu bản đồ chiến thuật của Dellray. Rhyme, lúc này đã quay lại chiếc xe lăn Storm Arrow, đẩy xe vào vị trí và xem bản đồ cùng mọi người.

“Tất cả các bộ phận đã vào vị trí rồi chứ?”, anh hỏi Sellitto và Dellray.

Cả những đội 32-E của Haumann và lực lượng cơ động liên bang của Dellray gồm các sĩ quan SWAT của FBI được lấy từ Quận Nam và Quận Đông đều đã sẵn sàng. Họ đã cơ động vào vị trí dưới sự che chở của màn đêm, qua hệ thống thoát nước và tầng hầm, cũng như trên các mái nhà, tất cả đều mang đồ ngụy trang đặc biệt khi tác chiến trong đô thị; Rhyme tin chắc rằng tên Vũ công vẫn đang duy trì hoạt động theo dõi mục tiêu của mình.

“Đêm nay hắn sẽ không ngủ đâu”, Rhyme đã cảnh báo mọi người.

“Anh chắc chắn hắn sẽ đi vào theo đường này chứ, Lincoln?” Sellitto hỏi với vẻ hoài nghi.

Chắc chắn ư? Anh bực bội nghĩ thầm. Ai có thể chắc chắn điều gì với tên Vũ công cơ chứ?

Vũ khí đáng sợ nhất của hắn là đánh lạc hướng…

Rhyme nói với vẻ chế giễu, “Chắc chắn 92,7%”.

Sellitto khẽ bật ra một tiếng cười chua chát.

Đúng lúc đó chuông cửa vang lên. Lát sau, một người đàn ông trung tuổi thấp đậm mà Rhyme không biết mặt hiện ra ở ngưỡng cửa phòng khách.

Tiếng thở dài từ Dellray cho thấy sắp có chuyện không hay xảy ra. Có vẻ như Sellitto cũng biết anh ta, và anh gật đầu chào với vẻ cảnh giác.

Anh ta tự giới thiệu mình là Reginal Eliopolos, trợ lý Chưởng lý Hoa Kỳ ở Quận Nam. Rhyme nhớ ra anh ta chính là tay công tố viên phụ trách vụ án Phillip Hansen.'

“Anh là Lincoln Rhyme? Đã nghe nói nhiều về danh tiếng của anh. Ừ hứ. Ừ hứ.” Anh ta bắt đầu dợm bước về phía trước, bàn tay chìa ra như một cái máy. Rồi anh ta chợt nhận ra rằng cánh tay mình có vươn với Rhyme cũng bằng thừa, vậy là anh ta đành chuyển nó sang phía Dellray, anh này bắt nó với vẻ miễn cưỡng. Câu chào vui vẻ “Fred, rất vui được gặp anh” của anh ta cũng mang ý nghĩa hoàn toàn ngược lại và Rhyme tự hỏi điều gì là nguồn gốc của sự lạnh lùng trong quan hệ giữa họ.

Tay công tố viên phớt lờ Sellitto và Mel Cooper. Theo bản năng Thom tự cảm nhận được là ai nên anh cũng không thèm mang cà phê ra mời khách.

“Ừ hứ. Ừ hứ. Nghe nói các vị đang cùng nhau thực hiện một chiến dịch ra trò. Có vẻ như các vị chưa xin ý kiến của giới chức trách bên trên thì phải, nhưng của đáng tội, tôi cũng biết là phải tùy cơ ứng biến chứ. Nhiều lúc ai hơi đâu mà đợi có đủ chữ ký từ ba cấp.” Eliopolos bước lại gần một chiếc kính hiển vi điện tử, nheo mắt nhòm qua ống kính. “Ừ hứ”, anh ta nói, mặc dù việc anh ta nhìn thấy cái gì lúc này quả là một điều bí hiểm đối với Rhyme, vì đèn soi của kính hiển vi đã bị tắt từ bao giờ.

“Có lẽ…”, Rhyme bắt đầu.

“Vấn đề chính chứ gì? Đi thẳng vào vấn đề chính chứ gì?” Eliopolos quay ngoắt lại. “Tất nhiên rồi. Nói thế này cho nhanh vậy. Có một chiếc xe bọc thép ở Tòa nhà Liên bang trong khu trung tâm. Tôi muốn các nhân chứng của vụ Hansen có mặt tại đó trong vòng một giờ nữa. Percey Clay và Brit Hale. Họ sẽ được đưa tới khu bảo vệ nhân chứng đặc biệt tại Shoreham của Liên bang, trên đảo Long Island. Họ sẽ ở đây cho đến khi bồi thẩm đoàn triệu tập vào sáng ngày thứ Hai. Vấn đề chính là thế đấy. Các vị thấy sao?”

“Anh nghĩ đây là một ý hay à?”

“Ừ hứ, chúng tôi nghĩ vậy đấy. Chúng tôi cho rằng như thế còn khôn ngoan hơn là sử dụng họ làm mồi nhử cho một kiểu trả thù cá nhân của NYPD.”

Sellitto thở dài.

Dellray thốt lên, “Hãy mở to mắt hơn một chút đi, Reggie. Anh cũng không hoàn toàn đứng ngoài cuộc đâu. Chẳng phải đây là một chiến dịch chung sao? Chẳng phải đây là một chiến dịch phối hợp sao?”.

“Như thế cũng tốt chứ sao”, Eliopolos nói một cách lơ đễnh. Lúc này tâm trí của anh ta đang tập trung hoàn toàn vào Rhyme. “Làm ơn cho tôi biết, chẳng lẽ anh thực sự cho rằng không có ai trong thành phố nhớ ra rằng đây chính là tên hung thủ đã giết chết các nhân viên dưới quyền của anh cách đây năm năm sao?”

Hừm, ừ hứ, quả thật Rhyme đã hy vọng rằng không còn ai nhớ. Và giờ đây khi đã có người nhắc tới chuyện này, anh và cả đội lại phải lóp ngóp bơi trong bát xúp[69].

“Nhưng mà nghe này”, tay công tố viên nói với vẻ khoái trá đầy giả lả, “Tôi không hề muốn có cuộc chiến xung đột về thẩm quyền. Tôi có muốn thế không? Tại sao tôi muốn thế chứ? Cái tôi muốn là Phillip Hansen. Cái mà tất cả chúng ta muốn là Phillip Hansen. Nhớ chứ? Hắn mới là con cá lớn”.

Chú thích

[69]Bơi trong bát xúp: Nghĩa là gặp khó khăn, rắc rối.

Quả thật là Rhyme đã hầu như quên phắt về Phillip Hansen, và giờ đây khi đã được nhắc anh mới chợt hiểu chính xác thì Eliopolos đang làm gì ở đây. Và phát hiện đó khiến anh thấy cực kỳ khó chịu.

Rhyme hít hít xung quanh Eliopolos như một con sói trên thảo nguyên. “Ở đó các anh cũng có các đặc vụ giỏi phải không?” Anh hỏi với vẻ mặt ngây thơ nhất. “Những người phụ trách bảo vệ nhân chứng ấy?”

“Ở Shoreham à?”, tay công tố viên trả lời với vẻ ngập ngừng. “Hừm, chắc chắn là phải có chứ. Ừ hứ.”

“Các anh đã quán triệt cho họ biết tình hình an ninh hiện nay chưa? Về việc tên Vũ công nguy hiểm như thế nào?” Hoàn toàn ngây thơ như một thiên thần nhỏ.

Một thoáng ngập ngừng. “Tôi thông báo cho họ rồi.”

“Và chính xác thì mệnh lệnh của họ là gì?”

“Mệnh lệnh ư?” Eliopolos hỏi một cách yếu ớt. Anh ta cũng không phải là một thằng ngốc. Anh ta biết mình vừa sa bẫy.

Rhyme phá lên cười. Anh quay sang nhìn Sellitto và Dellray. “Thấy chưa, anh bạn công tố viên của chúng ta đây có ba nhân chứng mà anh ta hy vọng có thể giúp tóm cổ được Hansen.”

“Ba?”

“Percey, Hale… và chính tên Vũ công.” Rhyme khịt mũi giễu cợt. “Anh ta muốn tóm cả hắn để biến hắn thành bằng chứng”. Anh trừng trừng nhìn Eliopolos. “Có nghĩa là cả anh cũng đang dùng Percey làm mồi nhử.”

“Chỉ có điều”, Dellray cười khùng khục, “anh ta đang nhét cô ấy vào chiếc bẫy Xin-rủ-lòng-thương[70]. Hiểu rồi, hiểu rồi”.

Rhyme nói tiếp, “Chắc anh đang cho rằng lời buộc tội của anh chống lại Hansen chưa đủ sức nặng, cho dù Percey và Hale có nhìn thấy gì đi nữa”.

Ngài Ừ hứ cố làm ra vẻ chân thật. “Họ nhìn thấy hắn thủ tiêu những bằng chứng chó chết kia. Mẹ kiếp, nhưng của đáng tội là họ không thực sựnhìn thấy hắn làm chuyện đó. Nếu chúng ta tìm thấy những chiếc túi xách đó và tìm thấy bằng chứng cho thấy hắn có liên hệ tới vụ sát hại mấy quân nhân hồi mùa đông vừa rồi, coi như chúng ta đã có một lời buộc tội đủ sức nặng. Có thể. Nhưng, A, có thể chúng ta sẽ không tìm được những chiếc túi, và B, những bằng chứng trong đó có thể đã bị tiêu hủy.”

Nếu vậy thì, C, hãy gọi cho tôi. Tôi có thể tìm được bằng chứng ngay cả trong làn gió đêm thanh sạch nhất, Rhyme tự nhủ.

Sellitto nói, “Nhưng nếu các anh bắt sống được tay sát thủ do Hansen thuê, biết đâu hắn sẽ bán đứng ông chủ của mình.”

“Chính xác”. Epiopolos khoanh tay trước ngực một cách oai vệ, chắc chắn là trông giống hệt bộ dạng của anh ta lúc đứng trước tòa, khi anh ta đang nói những lời buộc tội cuối cùng.

Sachs vẫn đứng ở ngưỡng cửa và chăm chú nghe mọi chuyện từ đầu đến cuối. Cô hỏi một câu mà chính Rhyme cũng đang chuẩn bị hỏi. “Và các ông sẽ đưa cho tên Vũ công lời đề nghị ân xá để hắn làm thế?”

Epiopolos hỏi, “Cô là ai?”.

“Sĩ quan Sachs. IRD.”

“Đây không phải là một hiện trường vụ án để chuyên viên kỹ thuật như cô đặt câu hỏi…”

“Nếu vậy thì chính tôi là người đang đặt câu hỏi khốn kiếp đó đây”, Sellitto gầm lên, “và nếu tôi không có câu trả lời, tôi e là đích thân ngài thị trưởng cũng sẽ đặt câu hỏi đó”.

Chú thích

[70]Xin-rủ-lòng-thương: Nguyên văn là “Havaheart trap”: Kiểu bẫy lồng, dùng thức ăn làm mồi nhử chuột hay chó mèo hoang vào trong lồng. Không làm con vật bị thương hoặc chết.

Eliopolos có cả một sự nghiệp chính trị ở phía trước, Rhyme dám chắc như vậy. Và nhiều khả năng lại còn là một sự nghiệp chính trị rất xán lạn. Eliopolos nói, “Điều quan trọng là chúng tôi thành công trong việc truy tố Hansen. Trong hai tên thì hắn là kẻ đáng sợ hơn. Hắn mới là kẻ có tiềm năng gây ra nhiều mối nguy hiểm hơn”.

“Câu trả lời hay lắm”, Dellray nói, mặt anh ta nhăn nhúm lại vì cáu giận. “Nhưng nó chẳng liên quan chó gì đến câu hỏi cả. Các anh định sẽ đề nghị điều gì với tên Vũ công nếu hắn đồng ý khai ra Hansen?”

“Tôi không biết”, tay công tố viên nói với vẻ lảng trách. “Chuyện đó chưa hề được bàn bạc.”

“Bóc lịch mười năm trong một nhà giam cấp độ trung bình, đúng không?”, Sachs lầm bầm.

“Chuyện đó chưa hề được bàn bạc.”

Rhyme đang nghĩ đến chiếc bẫy mà họ đã lên kế hoạch thật chi tiết đến tận bốn giờ sáng. Nếu Percey và Hale được chuyển lúc này, tên Vũ công sẽ đánh hơi được ngay. Hắn sẽ chuyển hướng tấn công. Hắn sẽ biết họ đang ở Shoreham và với những cảnh sát bảo vệ đã được lệnh phải bắt sống hắn, hắn thừa sức lẻn vào trong, thủ tiêu cả Percey và Hale – cùng cả nửa tá Cảnh sát Tư pháp bảo vệ nhân chứng Mỹ – rồi thoát ra êm đẹp.

Tay công tố viên bắt đầu, “Chúng tôi không còn nhiều thời gian…”.

Rhyme cắt ngang đột ngột, “Anh có trát ở đây không?”.

“Tôi đã hy vọng là các vị sẽ sẵn lòng hợp tác.”

“Chúng tôi không hợp tác đấy.”

“Anh chỉ là một dân thường.”

“Nhưng tôi thì không”, Sellitto lên tiếng.

“Ừ hứ. Tôi hiểu.” Anh ta quay sang nhìn Dellray nhưng cũng thừa hiểu là không nên mất công hỏi xem viên đặc vụ đứng về bên nào. Tay công tố viên lại nói, “Tôi hoàn toàn có thể lấy được trát thông qua chương trình bảo vệ nhân chứng trong vòng ba đến bốn giờ nữa”.

Vào sáng Chủ nhật ấy à? Rhyme thầm nghĩ. Ừ hứ. “Chúng tôi sẽ không để họ đi đâu hết”, anh nói. “Anh muốn làm gì thì làm.”

Eliopolos nở một nụ cười trên khuôn mặt béo tròn rất quan liêu của mình. “Tôi phải cảnh báo anh rằng nếu như tên hung thủ này bị chết trong bất kỳ nỗ lực nào nhằm tóm hắn của các anh, đích thân tôi sẽ xem xét báo cáo của ủy ban đạn đạo[71], và nhiều khả năng tôi sẽ kết luận rằng mệnh lệnh sử dụng vũ lực sát thương trong một tình huống truy bắt tội phạm lại không được đưa ra bởi một người có chức trách phù hợp.” Anh ta nhìn Rhyme với ánh mắt đầy ý nghĩa. “Có thể sẽ nảy sinh những vấn đề về sự can thiệp của cá nhân dân sự vào hoạt động thực thi pháp luật của cơ quan an ninh liên bang. Điều đó có thể dẫn đến quá trình truy tố dân sự nghiêm trọng. Tôi chỉ muốn cảnh báo trước cho anh thế thôi.”

“Cám ơn”, Rhyme làm ra vẻ phấn khởi. “Rất lấy làm cảm kích.”

Khi anh ta đi khỏi, Sellitto làm dấu thánh. “Lạy Chúa tôi, Linc, anh nghe hắn nói rồi đấy. Hắn nói đến truy tố dân sự mới kinh chứ.”

“Ôi giời đất ơi… nói thật chứ, truy tố nghiêm trọng với chả không ghiêm trọng, cứ làm như cậu bé của chúng ta sợ lắm ấy”, Dellray phụ họa.

Tất cả đều cười phá lên vui vẻ.

Rồi Dellray vươn vai và nói, “Gần đây chẳng có chuyện đếch nào ra làm sao cả. Anh có nghe đến chuyện đó không, Lincoln? Về căn bệnh lây lan ấy?”

“Thế là thế nào?”

“Đã lây bệnh cho khá nhiều tay thời gian gần đây. Mấy cậu bé SWAT đã cùng tôi trải qua không biết bao nhiêu chiến dịch các loại với đủ những chuyện có thể xảy ra nhưng dạo này họ lại bị chứng run ngón tay bóp cò rất dở hơi.”

Sellitto, một diễn viên còn lâu mới sánh được với tay đạc vụ, nói bô bô, “Các anh cũng thế à? Tôi tưởng chuyện đó chỉ xảy ra với mấy tay trong ESU của chúng tôi thôi”.

“Nhưng nghe này”, Fred Dellray, Alec Guinness[72] của lực lượng đặc vụ ngầm lăn lộn trên đường phố, nói. “Tôi có cách chữa bệnh rồi. Tất cả những gì chúng ta cần làm là tự tay loại bỏ những tên vô lại khốn kiếp, kiểu như tên Vũ công này, cứ hình dung ra hắn đang nhìn chúng ta bằng nửa con mắt. Cách đó bao giờ cũng hiệu quả.” Anh mở điện thoại di động của mình. “Có lẽ tôi sẽ gọi điện cho các cô bé, cậu bé của mình và nhắc họ nhớ liều thuốc đó mới được. Yên tâm, tôi làm ngay đây.”

Chú thích

[71]Ủy ban đạn đạo: Ủy ban đánh giá tính hợp pháp của việc cảnh sát nổ súng trong quá trình truy bắt tội phạm.

[72]Alec Guinness (1914-2000): Diễn viên điện ảnh người Anh, được đánh giá là một trong những diễn viên vĩ đại nhất thế giới trong thế kỷ XX.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18


Giờ thứ 22 của 45

Thức dậy lúc bình minh trong ngôi nhà an toàn ảm đạm, Percey nhấc mình lên khỏi chiếc giường của cô và bước lại bên cửa sổ. Cô kéo rèm cửa qua một bên và ngước nhìn bầu trời nhuộm độc một màu xám xịt. Một làn sương mỏng mờ giăng trong không khí.

Xấp xỉ những thông số thời tiết tối thiểu, cô nhẩm đoán. Gió thổi với tốc độ năm knot một giờ. Tầm nhìn 1/4 dặm. Cô hy vọng tình hình thời tiết sẽ khá hơn cho chuyến bay đêm nay. Mà thật ra cô có thể bay trong bất kỳ điều kiện thời tiết nào – và thực tế là đã bay như thế. Bất kỳ ai có chứng chỉ IFR đều có thể cất cánh, bay và hạ cánh trong điều kiện thời tiết u ám nhất. (Trên thực tế, với các hệ thống máy vi tính, tiếp sóng radio, radar và thiết bị chống va chạm trên không, hầu hết các máy bay thương mại đều có thể bay tự động – ngay cả cài đặt việc cất cánh và hạ cánh không cần điều khiển.) Nhưng dù sao Percey cũng thích bay trong điều kiện thời tiết trong trẻo hơn. Cô muốn được nhìn thấy mặt đất lùi lại vun vút phía dưới cánh bay. Những ánh đèn trong đêm. Những đám mây. Và phía trên cô là bầu trời sao.

Tất cả những vì sao đêm…

Cô lại nghĩ đến Ed và cuộc điện thoại cho mẹ anh ở New Jersey tối hôm qua. Hai người đã sắp xếp buổi lễ tưởng niệm cho anh. Cô muốn suy nghĩ thêm về chuyện này, lên danh sách khách mời, chuẩn bị đón tiếp.

Nhưng cô không sao làm được. Tâm trí cô hoàn toàn chỉ hướng về Lincoln Rhyme.

Nhớ lại cuộc trò chuyện của hai người ngày hôm qua, đằng sau cánh cửa, trong phòng ngủ của anh – sau cuộc cãi vã căng thẳng với cô nàng sĩ quan Amelia Sachs kia.

Cô đã ngồi ngay cạnh Rhyme trong một chiếc ghế bành cũ kỹ. Anh chằm chằm nhìn cô hồi lâu, săm soi từng chút. Một cảm giác tò mò xâm chiếm lấy cô. Hoàn toàn không phải sự tò mò cá nhân – không phải kiểu mà cánh đàn ông vẫn hau háu nhìn một số phụ nữ (không phải cô, tất nhiên) trong những quán bar hoặc trên đường phố. Đó là cách một phi công lão luyện vẫn săm soi cô trước chuyến bay chung đầu tiên của hai người. Đánh giá khả năng, tính cách, sự quyết đoán của cô. Và thử thách cả lòng can đảm.

Lúc ấy cô đã rút chiếc chai bẹt từ trong túi áo ra nhưng Rhyme lắc đầu và mời cô dùng loại whiskey mười tám năm tuổi của anh. “Thom nghĩ là tôi uống nhiều quá”, anh nói. “Quả có thế thật. Nhưng sống mà không có những thú vui tội lỗi thì còn sống làm gì, phải vậy không?”

Cô uể oải cười khẽ. “Cha tôi là một người cung cấp chúng.”

“Các loại đồ uống? Hay thú vui tội lỗi nói chung.”

“Thuốc lá. Chủ tịch hội đồng quản trị Công ty Thuốc lá Mỹ ở Richmond. Xin lỗi, tôi quên mất. Họ không dùng tên đó từ lâu rồi. Bây giờ là Công ty Sản phẩm Tiêu dùng Mỹ, hay đại loại như thế.”

Có tiếng đập cánh phành phạch bên ngoài cửa sổ.

“Ôi.” Cô cười phá lên. “Đó là một con tiercel[73].”

Rhyme vẫn nhìn theo ánh mắt cô hướng ra ngoài cửa sổ. “Một con gì cơ?"

“Một con chim ưng đực. Tại sao tổ của nó lại ở dưới này nhỉ? Chim ưng vẫn thường làm tổ trên cao cơ mà.”

“Tôi không biết. Một buổi sáng tôi thức dậy và đã thấy chúng ở đó rồi. Cô biết rõ về chim ưng chứ?”

“Tất nhiên rồi.”

“Đã từng đi săn với chúng chưa?”, anh hỏi.

“Trước kia thì có. Tôi có một con chim ưng đực mà tôi dùng để đi săn gà gô. Tôi có nó từ hồi nó còn là một con chưa ra ràng[74].”

“Nghĩa là sao cơ?”

“Nghĩa là một con chim non còn chưa rời tổ. Như thế mới dễ huấn luyện.” Cô chăm chú xem xét chiếc tổ, một nụ cười thoáng hiện trên khuôn mặt. “Nhưng con chim săn tốt nhất của tôi lại là một con già hơn – một con chim ưng trưởng thành. Con chim cái. Chúng còn lớn hơn cả chim đực, đi săn cũng tốt hơn. Rất khó huấn luyện. Nhưng nó có thể săn bất kỳ thứ gì – thỏ rừng, thỏ nhà, gà lôi.”

“Cô vẫn còn nuôi nó chứ?”

“Ồ, không. Một hôm, nó đang chờ đợi – nghĩa là đang lượn lờ trên không, lùng kiếm con mồi. Rồi bỗng nhiên chẳng hiểu tại sao nó lại đổi ý. Để cho một con gà lôi béo múp chạy thoát. Nó bay vào giữa một luồng khí nóng đưa nó lên cao đến hàng trăm feet. Rồi cứ thế biến mất về phía mặt trời. Tôi để mồi nhử cả tháng liền nhưng nó không bao giờ quay lại.”

“Nó đột ngột biến mất vậy sao?”

“Đó là chuyện thường xảy ra với những con đã trưởng thành”, cô nói và nhún vai vẻ bất cần. “Chậc, dù sao chúng cũng là những con chim hoang dã. Nhưng chúng tôi đã có sáu tháng thật kỳ thú bên nhau.” Chính con chim ưng này là nguồn cảm hứng để cô nghĩ ra logo cho hãng Hudson Air. Hất đầu về phía cửa sổ. “Anh thật may mắn khi có những người bạn như thế này. Anh đã đặt tên cho chúng chưa?”

Chú thích

[73]Tiercel: Bản thân từ “tiercel” trong tiếng Anh đã là “chim ưng đực”, tiếng Việt không có từ tương đương nên người dịch để nguyên.

[74]Con chưa ra ràng: Nguyên văn là “A eyas”, nghĩa là chim non

Rhyme buột ra một tiếng cười chế giễu. “Đó không phải là điều tôi thích làm. Thom đã thử. Tôi cười khiến cậu ta đến phát ngượng.”

“Liệu cái cô sĩ quan Sachs ấy sẽ bắt giam tôi thật sao?”

“Ồ, tôi nghĩ tôi có thể thuyết phục cô ấy từ bỏ ý định đó. Mà quả thật tôi phải nói với cô chuyện này.”

“Anh cứ nói đi.”

“Có những lựa chọn mà hai người phải quyết định, cả cô và Hale. Đó là điều tôi đang muốn nói với cô.”

“Lựa chọn?”

“Chúng tôi có thể đưa hai người ra khỏi thành phố. Tới một cơ sở bảo vệ nhân chứng. Với những biện pháp đánh lạc hướng kỹ càng mà tôi dám chắc rằng chúng tôi có thể cắt đuôi được tên Vũ công và giữ cho hai người được an toàn cho đến khi bồi thẩm đoàn nhóm họp.”

“Nhưng?”, cô hỏi.

“Nhưng hắn sẽ bám theo hai người đến cùng. Và ngay cả sau phiên nhóm họp của bồi thẩm đoàn, hai người vẫn là mối đe dọa của Phillip Hansen bởi vì hai người còn phải ra tòa làm chứng. Mà việc đó thì phải vài tháng nữa mới bắt đầu.”

“Có thể bồi thẩm đoàn sẽ quyết định không truy tố hắn, cho dù chúng tôi có nói gì đi nữa”, Percey nêu ý kiến. “Nếu thế thì giết chúng tôi cũng chẳng để làm gì.”

“Điều đó không quan trọng. Một khi tên Vũ công đã được thuê giết ai đó, hắn sẽ không bao giờ dừng tay cho tới khi người đó chết. Hơn nữa, các công tố viên sẽ lại tìm cách truy tố Hansen vì đã giết hại chồng cô nên cô lại là nhân chứng trong vụ án. Hansen cần cô biến mất.”

“Có lẽ tôi hiểu anh đang định nói gì.”

Anh nhíu một bên mày.

“Con giun trên lưỡi câu”, cô nói.

Mắt anh hấp háy, và anh phá lên cười. “Ôi trời, tôi không định diễu cô đi giữa phố đông đâu mà sợ, chỉ là đưa hai người vào một ngôi nhà an toàn của liên bang ở ngay trong thành phố thôi. Có canh gác cẩn mật. Hệ thống an ninh tân tiến nhất. Nhưng chúng tôi sẽ bí mật đưa hai người vào đó và nằm im. Tên Vũ công sẽ thò mặt ra và chúng tôi tóm cổ hắn, một lần và mãi mãi. Đó là một ý tưởng điên rồ, nhưng tôi không nghĩ chúng ta còn sự lựa chọn nào khác.”

Lại thêm môt hớp whiskey. Cũng không tệ chút nào. Nhất là với một sản phẩm không được đóng chai ở Kentucky. “Điên ư?” Cô nhắc lại. “Hãy để tôi thử hỏi anh một câu này nhé. Anh có thần tượng không, thám tử? Ai đó anh ngưỡng mộ ấy?”

“Có chứ. Những chuyên gia hình sự học. August Vollmer, Edmond Locard.”

“Anh có biết Beryl Markham không?”

“Không.”

“Nữ phi công hồi thập niện ba mươi, bốn mươi. Bà ấy – chứ không phải Amelia Earhart – mới là thần tượng của tôi. Bà ấy sống một cuộc đời thật táo bạo. Xuất thân từ tầng lớp thượng lưu Anh. Kiểu người như trong phim Out of Africa[75] ấy. Bà ấy là người đầu tiên – không chỉ là người phụ nữ đầu tiên, mà là người đầu tiên – một mình bay qua Đại Tây Dương theo cách khó khăn nhất, từ đông sang tây. Lindberg[76] lại bay xuôi theo chiều gió.” Cô bật cười. “Tất cả đều nghĩ bà ấy thật điên rồ. Báo chí thi nhau đăng tải những bài xã luận cầu xin bà ấy từ bỏ ý định thực hiện chuyến bay. Nhưng bà ấy vẫn làm, tất nhiên.”

“Và thành công chứ?”

“Đâm xuống đất khi chưa tới sân bay, nhưng, vâng, bà ấy đã thành công. Hừm, tôi cũng không biết thế là dũng cảm hay điên rồ. Nhiều lúc tôi nghĩ hai cái đó cũng chẳng khác gì nhau.”

Rhyme nói tiếp. “Hai người sẽ được bảo đảm an toàn, nhưng khó có thể nói là an toàn tuyệt đối.”

“Để tôi nói với anh điều này nhé. Anh biết tên đáng sợ kia chứ? Cái tên mà các anh dùng để gọi hắn ấy?”

“Vũ công.”

“Vũ công Quan tài. Phù, trong nghề lái máy bay phản lực của chúng tôi cũng có một thuật ngữ. “Góc quan tài”.”

“Nghĩa là thế nào?”

“Đó là biên độ an toàn giữa tốc độ tròng trành của máy bay[77] và tốc độ khi máy bay rời khỏi trạng thái Mach[78] – khi anh đạt đến tốc độ âm thanh. Ở độ cao ngang với mực nước biển, tốc độ tròng trành của máy bay chỉ khoảng 200 dặm một giờ, nhưng ở độ cao 50000 hoặc 60000 feet, tốc độ tròng trành của máy bay có thể lên đến 500 knot một giờ và Mach buffet[79] vào khoảng 540. Nếu không ở nguyên trong biên độ 40 knot một giờ đó, coi như anh đã gặp rắc rối to. Bất kỳ máy bay nào bay cao đến mức đó cũng đều phải có máy lái tự động để duy trì tốc độ của mình ở trong biên độ an toàn. Hừm, phải nói thật là lần nào tôi cũng bay cao như vậy mà hầu như không bao giờ dùng đến máy lái tự động cả. An toàn tuyệt đối không phải là một khái niệm quen thuộc với tôi.”

“Nếu vậy có nghĩa là cô sẽ nhận lời?”

Nhưng Percey không trả lời ngay. Cô chăm chú nhìn anh hồi lâu. “Trong chuyện này còn có nhiều cái khác, đúng không?”

“Nhiều cái khác?” Rhyme hỏi, nhưng vẻ ngây thơ trong giọng anh mỏng tang như một lớp véc ni trên gỗ.

“Tôi cũng hay đọc mục Mero trên tờ Times. Không phải vụ án nào cũng khiến cảnh sát các anh huy động lực lượng rầm rộ như thế này. Hansen đã làm gì nào? Hắn giết chết hai, ba người lính và cả chồng tôi nữa, nhưng các anh đang lùng theo hắn như thể hắn là Al Capone[80] vậy”.

“Tôi quan tâm đếch gì đến Hansen”, Rhyme lặng lẽ thú nhận, anh ngồi như tượng trên chiếc ngai di động của mình, với một cơ thể bất động và đôi mắt rừng rực như hai đốm lửa đen, giống hệt đôi mắt con chim ưng cô đã từng nuôi. Cô không nói với Rhyme rằng bản thân cô, giống như anh, không bao giờ đặt tên cho một con chim săn mồi, rằng cô đã chỉ đơn giản gọi nó là “chim ưng”.

Rhyme nói tiếp. “Tôi muốn tóm được tên Vũ công. Hắn đã giết không biết bao nhiêu cảnh sát, trong đó có cả hai nhân viên dưới quyền tôi. Tôi sẽ tóm bằng được hắn.”

Mặc dù vậy, cô vẫn thấy còn điều gì đó anh chưa nói hết. Nhưng cô không gặng hỏi thêm. “Anh sẽ phải hỏi cả Brit nữa.”

“Tất nhiên.”

Cuối cùng, cô lên tiếng. “Được rồi, tôi sẽ nhận lời.”

“Cám ơn cô. Tôi…”

“Nhưng”, cô ngắt lời.

“Sao cơ?”

“Có một điều kiện.”

Chú thích

[75]Out of Africa: Bộ phim thực hiện năm 1985 dựa trên câu chuyện cùng tên về cuộc đời nữ nam tước Isak Dinesen, người phụ nữ thượng lưu từng sống ở Châu Phi.

[76]Charles Lindbergh (1902-1974): Phi công người Mỹ, người đầu tiên bay qua Đại Tây Dương.

[77]Tốc độ tròng trành của máy bay: Hay còn gọi là vận tốc thất tốc, tốc độ ở đó dòng không khí không thể giữ máy bay ở trên cao. Trong trạng thái này, máy bay thường đột ngột chúi mũi xuống và không còn phản ứng trước những thiết bị điều khiển động lực học.

[78]Mach: Đầy đủ là các thang số Mach, thuật ngữ hàng không chỉ các tốc độ của một vật thể bay so với vận tốc âm thanh. Mach 1 là tốc độ tương đương vận tốc âm thanh, Mach 2 là vận tốc gấp hai lần vận tốc âm thanh.

[79]Mach buffet: Thuật ngữ chỉ sự lắc lư của máy bay khi vượt chỉ số Mach tối đa, tức là vận tốc của máy bay so với vận tốc âm thanh tại một cao độ nhất định.

[80]Al Capone (1899-1947), biệt danh là “Mặt sẹo”, một trùm găngxtơ khét tiếng tại Chicago, Mỹ.

“Điều kiện gì vậy?” Rhyme cau mày, và một ý nghĩ bỗng chợt hiện lên trong đầu Percey: chỉ cần bạn không để ý đến thân thể tàn phế của anh, bạn sẽ nhận ra rằng anh mới đẹp trai làm sao. Và, quả đúng như vậy, một khi đã nhận ra điều đó, cô lại cảm thấy kẻ thù cũ của mình – cảm giác khép nép, nhỏ bé khi đứng trước mặt một người đàn ông đẹp trai. Ê, Mặt chú lùn, Mặt chó pug, Nấm lùn, Công chúa cóc, có hẹn hò gì tối thứ Bảy này không? Chắc là không rồi…

Percey nói, “Đó là tôi sẽ thực hiện chuyến bay cho Tập đoàn U.S. Medical đêm mai.”

“Ôi, tôi không nghĩ đó sẽ là một ý tưởng hay ho đâu.”

“Đó là điều mấu chốt cho thỏa thuận của chúng ta” cô nói, dùng nguyên cách nói mà Ron và Ed thỉnh thoảng vẫn dùng khi đàm phán hợp đồng.

“Tại sao cô phải bay chứ?”

“Hudson Air cần hợp đồng này. Đến mức tuyệt vọng. Đó là chuyến bay có lịch trình rất căng và chúng tôi cần phi công giỏi nhất trong công ty. Đó là tôi.”

“Ý cô là sao, lịch trình căng ấy?”

“Tất cả mọi chi tiết nhỏ nhất đều được lên kế hoạch rất sát sao. Chúng tôi sẽ bay với lượng nhiên liệu tối thiểu. Tôi không thể để một phi công khác mất thời gian bay lòng vòng vì anh ta chưa quen đường bay hoặc không dám bay trong những điều kiện thời tiết tối thiểu.” Cô ngừng lại một lát rồi nói thêm, “Tôi sẽ không bao giờ chịu để công ty của mình chìm xuống sông xuống biển”.

Percey đã nói những lời đó bằng một giọng cương quyết chẳng kém gì anh, nhưng cô thấy anh gật đầu không một chút phản đối. “Được rồi”, Rhyme nói. “Tôi đồng ý.”

“Coi như thỏa thuận vậy nhé.” Theo bản năng cô chìa tay ra định bắt tay anh nhưng kìm lại được.

Anh phá lên cười. “Dạo này tôi chỉ có thể thỏa thuận miệng thế thôi.” Hai người cùng nhấm nháp whiskey ăn mừng sự mặc cả vừa xong.

Giờ đây, trong buổi sáng Chủ nhật này, cô đang đứng dựa đầu lên mặt kính cửa sổ của ngôi nhà an toàn. Có quá nhiều việc cần phải làm. Sửa chữa lại chiếc Foxtrot Bravo. Chuẩn bị sổ nhật trình dẫn đường và kế hoạch bay không lưu – riêng việc này cũng đã mất vài giờ. Nhưng dù vậy, bất chấp sự bứt rứt trong cô lúc này, bất chấp nỗi đau của cô về Ed, cô vẫn cảm thấy một niềm vui không sao diễn tả nổi; đêm nay cô sẽ lại được bay.

“Ê này”, một giọng nói thân mật vang lên.

Cô quay lại và nhận ra Roland Bell ở ngưỡng cửa.

“Xin chào”, cô thốt lên.

Anh vội bước nhanh về phía trước. “Nếu đã mở rèm cửa ra như thế này thì tốt nhất cô nên cúi thấp đầu xuống như một đứa bé sơ sinh.” Anh kéo sập những tấm rèm cửa lại.

“Ôi. Tôi nghe nói thám tử Rhyme đang giăng lên một cái bẫy. Bảo đảm sẽ tóm được hắn.”

“Ồ, vâng, nghe nói là Lincoln Rhyme lần nào cũng đúng. Nhưng tôi đếch dám tin tên giết người lần này của chúng ta một chút nào. Cô ngủ ngon không?”

“Không”, cô nói. “Anh thì sao?”

“Mãi gần sáng tôi mới gật gù chợp mắt được vài tiếng”, Bell nói, đôi mắt tinh anh vẫn chăm chú quan sát ra bên ngoài qua lớp rèm cửa. “Nhưng tôi không cần ngủ nhiều lắm. Hầu như sáng nào cũng thức dậy với đủ thứ chuyện nhọc người. Cứ có con nhỏ rồi cô cũng thế thôi. Nào, giờ thì cô hãy để nguyên cái rèm cửa đóng lại như thế này. Nhớ nhé, đây là thành phố New York và hãy nghĩ tới những chuyện sẽ xảy ra đối với sự nghiệp của tôi nếu cô bị dính đạn lạc của một nhóm găngxtơ đang thanh toán nhau nào đó chẳng hạn. Nếu có chuyện như thế, yên tâm là kiểu gì tôi cũng phải cười méo mặt mất cả tuần. Nào, giờ thì làm chút cà phê chứ?”

Kia là những đám mây nặng nề phủ bóng lên khung cửa sổ căn nhà cũ kỹ sáng sớm ngày Chủ nhật.

Kia là bóng dáng một cơn mưa sắp ập xuống.

Kia là Người vợ đang đứng trong bồn tắm bên cửa sổ, khuôn mặt trắng bệch của cô ta được phủ dưới mái tóc ngắn và xoăn tít trông thật nhàu nhĩ vì vừa thức dậy.

Và kia là Stephen Kall, cách xa đúng một khối nhà tính từ ngôi nhà an toàn của Bộ Tư pháp trên phố Ba mươi lăm, đang nép mình trong bóng tối dưới một tháp nước trên nóc của một tòa nhà chung cư cũ, theo dõi mục tiêu của mình qua cặp ông nhòm Leica, hình ảnh phản chiếu của những đám mây chậm rãi trôi trên cơ thể gầy mảnh của cô ta.

Hắn biết chắc là cửa sổ được lắp bằng kính chống đạn và chắc chắn sẽ làm chệch phát súng đầu tiên. Hắn có thể bắn thêm phát thứ hai sau bốn giây, nhưng lúc đó cô ta đã kịp lùi lại phía sau theo phản xạ khi thấy kính cửa sổ vỡ vụn cho dù cô ta không hề biết là mình đang bị bắn. Có nhiều khả năng là hắn sẽ không có đủ thời gian thực hiện một phát súng có thể sát thương.

Thưa ngài, tôi sẽ giữ nguyên kế hoạch ban đầu, thưa ngài.

Một người đàn ông xuất hiện bên cạnh cô ta và tấm rèm cửa được kéo lại. Rồi khuôn mặt của anh ta nhòm qua khe hở, đôi mắt quét trên những nóc nhà theo logic thông thường sẽ được những tay bắn tỉa lựa chọn. Trông anh ta có vẻ rất có năng lực và nguy hiểm. Stephen thầm ghi nhớ trong đầu hình dáng của người đàn ông.

Và rồi hắn hụp đầu xuống phía sau mặt tiền của tòa nhà trước khi hắn bị phát hiện.

Thủ đoạn của bọn cảnh sát – hắn đoán đây là ý tưởng của Lincoln Con Giòi – qua việc đưa Người vợ và Người bạn vào tòa nhà trụ sở đồn cảnh sát trên mạn West Side đã không thể lừa được hắn quá mười phút. Sau khi nghe Người vợ và Ron nói chuyện điện thoại trên đường dây được cài máy nghe trộm, hắn chỉ cần cho chạy một chương trình phần mềm bất hợp pháp – một kiểu dịch vụ tổng đài 69[81] từ xa – mà hắn tải về từ một diễn đàn bẻ khóa trên Internet. Kết quả mà hắn tìm được là một số điện thoại có đầu 212. Mã khu vực Manhattan.

Bước tiếp theo mà hắn làm hoàn toàn chỉ là trò đánh liều may rủi.

Nhưng người ta giành chiến thắng bằng cách nào, quân nhân?

Bằng cách cân nhắc mọi khả năng, kể cả những khả năng tưởng như không thể, thưa ngài.

Hắn truy cập Internet và chỉ một lát sau đã bắt đầu gõ số điện thoại đó vào một danh bạ truy xuất ngược, cho phép hắn có thể tìm ra địa chỉ và tên của chủ thuê bao. Cách này thường không ăn thua với những số không có trong danh bạ và Stephen dám chắc rằng không ai trong chính quyền liên bang lại ngốc đến nổi sử dụng số điện thoại công khai cho một ngôi nhà an toàn.

Hắn đã nhầm.

Tên chủ thuê bao là James L. Johnson, 258 Phố Ba mươi lăm Đôngh iện lên trên màn hình.

Không thể thế được…

Sau đó hắn gọi tới Tòa nhà Liên bang Manhattan và yêu cầu được nói chuyện với ông Johnson. “Tên đầy đủ là James Johnson.”

“Xin giữ máy, tôi sẽ nối máy cho ông.”

“Khoan đã”, Stephen ngắt lời. “Xin hỏi lại là ông ấy làm ở bộ phận nào ấy nhỉ?”

“Đó là Bộ Tư pháp. Văn phòng Quản lý Công sản.”

Stepen gác máy trong khi cuộc gọi đang được chuyển tiếp.

Chú thích

[81]Tổng đài 69: Tại hầu hết các khu vực ở Mỹ, các công ty điện thoại thường có dịch vụ tổng đài *69. Nếu người sử dụng có một cuộc gọi nhỡ, hoặc nhận được cuộc gọi từ một người lạ, chỉ cần bấm số *69 trên điện thoại của mình, dịch vụ này sẽ cung cấp số điện thoại của người gọi đó.

Sau khi biết Người vợ và Người bạn đang ở trong một ngôi nhà an toàn trên phố Ba mươi lăm, hắn đã đánh cắp một số bản đồ hành chính của thành phố về khu vực này để lên kế hoạch tấn công. Rồi hắn đã làm ra vẻ đi loanh quanh tòa nhà trụ sở Đồn Cảnh sát Hai mươi trên khu West Side và để người ta nhìn thấy hắn đang theo dõi trạm xăng. Sau đó hắn lại ăn trộm một chiếc xe chở xăng và để lại phía sau vô số bằng chứng khiến bọn cảnh sát sẽ phải nghĩ rằng hắn đang sử dụng chiếc xe tải làm một quả bom xăng khổng lồ để thủ tiêu các nhân chứng.

Và giờ đây Stephen Kall đang ở đây, trong tầm bắn rất gần với Người vợ và Người bạn.

Suy nghĩ về phi vụ, cố gắng không nghĩ đến điều đi kèm rất hiển nhiên: khuôn mặt trên khung cửa sổ, chăm chú theo dõi hắn.

Một chút ghê sợ, không đến nỗi quá tệ. Một chút nhớp nhúa.

Rèm cửa đóng kín lại. Stephen lại chăm chú theo dõi ngôi nhà an toàn.

Đó là một ngôi nhà ba tầng đứng biệt lập với những tòa nhà xung quanh, con hẻm trông như một vệt dài tối om quanh công trình. Tường nhà được xây bằng đá hộc màu nâu – loại vật liệu xây dựng bền vững nhất ngoài đá hoa cương và đá granite nên không thể tính đến chuyện khoét tường hoặc cho nổ tung để đột nhập vào – các khung cửa sổ đều được gia cố thêm bằng những thanh trông như sắt lâu năm nhưng Stephen biết thừa rằng chúng đều là thép tôi cứng và kiểu gì cũng được gắn thêm những thiết bị cảm ứng theo dõi chuyển động hoặc âm thanh, hoặc cả hai.

Cầu thang thoát cháy là đồ thật, nhưng nếu quan sát kỹ sẽ nhận thấy là đằng sau các ô cửa sổ có rèm che đều là những khoang tối om. Có lẽ là thép tấm được gắn vào khung cửa phía trong. Hắn đã tìm thấy cửa thoát cháy thực sự – đằng sau một tấm áp phích quảng cáo phim dán trên tường gạch. (Làm gì có ai dán áp phích quảng cáo lên một con hẻm nếu như không phải là để ngụy trang cho một cánh cửa?) Bản thân con hẻm trông cũng bình thường như bất kỳ con hẻm nào trong khu trung tâm, lát đá và trải asphalt, nhưng hắn đã nhận ra con mắt trong suốt của những camera an ninh gắn chìm vào trong tường. Tuy nhiên, vẫn có những túi đựng rác và mấy thùng rác lớn trong con hẻm có thể dùng làm nơi che chắn khá lý tưởng. Hắn có thể trèo xuống con hẻm từ một ô cửa sổ trên tòa nhà văn phòng bên cạnh và sử dụng những thùng rác kia làm nơi ẩn mình để tiếp cận cửa thoát cháy.

Trên thực tế, có một cửa sổ để mở trên tầng một của tòa nhà văn phòng; một tấm rèm cửa bị gió lùa bay ra bay vào. Kẻ nào theo dõi những màn hình an ninh chắc hẳn cũng đã nhận ra chuyển động này và làm quen với với nó. Stephen có thể nhảy xuống qua cửa sổ này, cách mặt đất chỉ khoảng sáu feet, rồi lẩn mình đằng sau thùng rác và bò tới bên cửa thoát cháy.

Hắn cũng biết rằng bọn chúng không thể ngờ là hắn lại ở đây – hắn đã nghe được những báo cáo về việc sơ tán người ở trong tất cả các tòa nhà xung quanh Đồn Cảnh sát Hai mươi, có nghĩa là chúng đã thực sự tin rằng hắn đang tìm cách áp một quả bom xăng bằng xe téc vào tòa nhà.

Đánh giá tình hình đi, quân nhân.

Thưa ngài, theo nhận định của tôi thì kẻ thù đang phòng thủ dựa trên kết cấu vật chất và sự bí mật của khu vực này. Tôi nhận thấy ở đây không tập trung số lượng lớn các đặc vụ tác chiến chiến thuật và tôi rút ra kết luận rằng cuộc đột kích đơn lẻ vào căn cứ này có khả năng thành công rất lớn trong việc loại bỏ một hoặc cả hai mục tiêu, thưa ngài.

Tuy nhiên, dù có sự tự tin đến thế, hắn vẫn không khỏi cảm thấy một chút e sợ.

Hình dung ra Lincoln đang lùng sục bám theo hắn. Lincoln Con Giòi. Một sinh vật nhầy nhụa, béo múp, một thứ ấu trùng, người nhớp nháp thứ dầu trơn nhẫy của giòi, đang láo liên nhìn khắp mọi hướng, nhìn xuyên qua tường, len lỏi trườn bò qua những kẽ hở.

Nhòm qua những khung của sổ…

Lổm ngổm bò lên chân của hắn.

Gặm nhấm da thịt hắn.

Rửa trôi chúng đi. Rửa sạch chúng đi!

Rửa sạch cái gì đi, quân nhân? Anh vẫn còn đang lải nhải về những con giòi chết tiệt đấy à?

Thưa ngài, tôi đang… Thưa ngài, không ạ, thưa ngài.

Anh định chơi trò đàn bà với tôi đấy à, quân nhân? Anh có phải là một cô nữ sinh õng ẹo không đấy?

Thưa ngài, không ạ, thưa ngài. Tôi là một lưỡi dao, thưa ngài. Tôi là Thần Chết thuần khiết. Tôi có một khát khao giết người, thưa ngài!

Hít thật sâu. Từ từ trấn tĩnh lại.

Hắn giấu chiếc hộp đàn guitar chứa khẩu Model 40 trên mái nhà, dưới một tháp chứa nước bằng gỗ. Phần còn lại của khẩu súng được hắn chuyển hết sang một chiếc cặp sách lớn, rồi khoác lên mình chiếc áo gió in hàng chữ Đại học Columbia cùng chiếc mũ lưỡi trai của vận động viên bóng chày.

Hắn trèo xuống cầu thang thoát cháy và biến mất vào con hẻm, cảm thấy hổ thẹn, thậm chí là sợ hãi – không phải vì những viên đạn của kẻ thù mà vì ánh mắt soi mói đến bỏng rát của Lincoln Con Giòi, đang tiến lại gần hơn, lổm ngổn trườn bò chậm rãi nhưng tàn nhẫn khắp thành phố, lùng kiếm hắn.

Stephen cũng đã tính đến chuyện phải thủ tiêu bấy kỳ sự kháng cự nào khi đột nhập, nhưng cuối cùng hắn không phải giết một ai. Tòa nhà văn phòng bên cạnh ngôi nhà an toàn hóa ra trống không.

Sảnh chính vắng hoe và bên trong cũng không thấy có camera an ninh. Cửa chính được chèn để mở hé ra một chút bằng một cái chặn cửa cao su, qua khe cửa hắn nhìn thấy những đồ đạc cũ và cả xe đẩy xếp chồng phía sau. Trông thì thật hấp dẫn, nhưng hắn không muốn tình cờ chạm trán với một công nhân dọn đồ hay người thuê văn phòng nào đó, do vậy hắn lại bước ra ngoài và đi vòng qua góc tòa nhà, tách xa khỏi ngôi nhà an toàn. Hắn nép người sau một cây thông trồng trong chậu, nó giúp hắn không bị phát hiện từ phía hè phố. Rồi hắn dùng khuỷu tay thúc vỡ cửa sổ hẹp dẫn vào một văn phòng tối om – hóa ra là văn phòng của một bác sĩ tâm thần – và chui vào trong. Hắn đứng hoàn toàn bất động suốt năm phút liền, khẩu súng ngắn trong tay. Không có gì. Sau đó hắn khẽ khàng lẻn ra qua cửa chính và bước ra hành lang tầng một của tòa nhà.

Hắn dừng lại bên ngoài một văn phòng mà hắn tin chính là văn phòng có cửa sổ trổ ra con hẻm – cái cửa sổ với tấm rèm bị gió lùa. Stephen với tay về phía tay nắm cửa.

Nhưng bản năng bỗng nhiên thúc giục hắn thay đổi kế hoạch. Hắn quyết định thử bằng lối dưới tầng hầm. Hắn tìm thấy cầu thang và chui người xuống mê cung mốc meo của những căn phòng dưới tầng hầm.

Stephen lặng lẽ lần tìm đường đi về phía hông của tòa nhà gần nhất với ngôi nhà an toàn và đẩy mở một cánh cửa bằng thép. Hắn bước vào một căn phòng tranh tối tranh sáng rộng khoảng gần 40 mét vuông chất cơ man nào là thùng, hộp và đồ gia dụng cũ. Hắn tìm thấy một cái cửa sổ cao ngang đầu người mở thẳng ra con hẻm.

Ô cửa sổ này chật cứng. Hắn sẽ phải tháo bỏ tấm kính và khung gỗ. Nhưng chỉ cần chui được ra ngoài hắn sẽ lẻn thẳng tới phía sau những túi rác kia, rồi bằng kỹ thuật bò trườn của một tay súng bắn tỉa hắn sẽ tới được cửa thoát cháy của ngôi nhà an toàn. An toàn hơn rất nhiều so với cái cửa sổ trên tầng.

Stephen tự nhủ: Mình đã làm được.

Hắn đã đánh lừa tất cả bọn chúng.

Dắt mũi được Lincoln Con Giòi! Điều đó khiến hắn cảm thấy sung sướng không kém gì cảm giác giết được nốt hai nạn nhân còn lại.

Hắn lấy trong cặp sách của mình một chiếc tuốc nơ vít và bắt đầu cạy lớp mát tít trét kính ra khỏi khung cửa sổ. Lớp mát tít xám xịt từ từ bong ra và hắn mải mê với công việc của mình đến nỗi khi hắn thả rơi chiếc tuốc nơ vít xuống và chụp lấy báng khẩu Beretta của mình, thì người đàn ông kia đã lù lù đứng ngay phía trên hắn, gí một khẩu súng vào sau gáy Stephen và nói với hắn bằng một giọng thì thào, “Chỉ cần nhúc nhích một inch thôi là coi như mày tiêu luôn”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19


Giờ thứ 23 của 45

Súng nòng ngắn, có lẽ là Colt hoặc Smittie hoặc Dago sản xuất lậu, lâu rồi không được bắn phát nào. Lau dầu cũng không.

Tôi ngửi thấy mùi gỉ sắt.

Một khẩu súng han gỉ cho chúng ta biết những gì, quân nhân?

Rất nhiều, thưa ngài.

Stephen Kall giơ hai tay lên.

Giọng nói the thé, run rẩy cất lên, “Thả súng của mày xuống kia. Và cả bộ đàm của mày nữa”.

Bộ đàm ư?

“Thôi nào, làm đi. Không tao sẽ bắn vỡ sọ mày cho mà xem.” Giọng nói the thé đầy vẻ tuyệt vọng. Hắn khịt mũi nghe rất tởm.

Quân nhân, dân chuyên nghiệp có bao giờ hăm dọa không?

Thưa ngài, không bao giờ ạ. Tên này là một kẻ nghiệp dư. Chúng ta có nên vô hiệu hóa hắn không?

Chưa được. Hắn vẫn còn là một mối đe dọa.

Rõ, thưa ngài.

Stephen thả khẩu súng của hắn xuống một chiếc thùng carton.

“Đâu rồi…? Thôi đi, máy liên lạc radio của mày đâu?”

“Tôi không có máy radio”, Stephen nói.

“Quay mặt lại. Và đừng có làm gì dại dột đấy.”

Stephen chậm rãi quay người lại và nhận ra hắn đang đứng trước mặt một người đàn ông gầy nhẳng với đôi mắt láo liên. Trông gã thật bẩn thỉu và bệnh hoạn. Nước mũi của gã thò lò còn đôi mắt thì đỏ ngầu đến đáng sợ. Mái tóc dày màu nâu rối bù và bết lại thành từng lọn. Người gã bốc mùi hôi hám. Vô gia cư, có lẽ thế. Một thằng hũ chìm, đó là cách mà cha dượng hắn sẽ gọi gã này. Hoặc là thằng xì ke.

Khẩu Colt cũ kỹ và ngắn choằn thúc mạnh về phía trước gí chặt vào bụng Stephen, búa kim hỏa đã được kéo về sau. Chỉ cần một chút động tác rất nhỏ cũng đủ làm khẩu súng bị cướp cò, nhất là với một khẩu súng cũ như thế này. Stephen nở một nụ cười giả lả. Hắn không hề nhúc nhích. “Nghe này”, hắn nói, “tôi không hề muốn gặp rắc rối”.

“Radio của mày đâu?” Người đàn ông gào lên.

“Tôi không có radio nào cả.”

Gã hồi hộp sờ nắn ngực áo tay tù binh của mình. Lúc này Stephen có thể giết gã, dễ như trở bàn tay – sự cảnh giác của gã đã trở nên sao nhãng. Hắn cảm thấy những ngón tay xương xẩu kia đang sờ nắn khắp người mình, tìm kiếm. Cuối cùng gã lùi lại. “Cộng sự của mày đâu?”

“Ai cơ?”

“Đừng có giở trò với tao. Mày biết thừa còn gì.”

Đột nhiên lại là cảm giác ghê sợ. Nhớp nhúa… Có chuyện gì đó không ổn rồi. “Thực sự tôi không hiểu anh đang nói gì nữa.”

“Thằng cớm vừa mới ở đây chứ còn ai nữa.”

“Cớm ư?” Stephen thì thầm. “Trong tòa nhà này à?”

Đôi mắt ướt nhoét của gã hấp háy vẻ do dự. “Ừ. Chẳng phải mày là cộng sự của nó à?”

Stephen bước lại gần cửa sổ và nhìn ra ngoài.

“Đứng yên. Tao sẽ bắn.”

“Chĩa nó sang chỗ khác đi”, Stephen ra lệnh, mắt liếc nhìn qua vai. Không còn bận tâm đến việc súng cướp cò. Hắn bắt đầu nhận ra sai lầm khủng khiếp của mình. Hắn chợt cảm thấy buồn nôn và ớn lạnh đến tận tâm can.

Giọng nói run rẩy của gã vang lên, cố làm ra vẻ hăm dọa, “Đứng yên. Ngay tại chỗ. Tao nói nghiêm túc đấy, mẹ kiếp”.

“Bọn chúng cũng ở trong con hẻm à?” Stephen bình tĩnh hỏi.

Một thoáng im lặng bối rối. “Mày thực sự không phải là cớm sao?”

“Bọn chúng cũng ở trong con hẻm à?” Stephen trầm giọng nhắc lại.

Gã lúng túng nhìn quanh căn phòng. “Lúc trước có mấy tên liền. Chính bọn chúng đã đặt những cái túi rác ở ngoài đó. Bây giờ thì tao không biết.”

Stephen chăm chú nhìn ra con hẻm. Những cái túi rác… Chúng đã được đặt ở kia để dụ mình ra. Những tưởng có thể làm nơi ẩn nấp.

“Nếu mày báo động cho bất kỳ ai, tao thề…”

“Ôi, có câm đi không.” Stephen chậm rãi liếc mắt qua khắp con hẻm, kiên nhẫn như một con trăn đang rình mồi, và cuối cùng hắn nhìn thấy một cái bóng mờ in trên nền hẻm trải đá hộc – đằng sau một cái thùng rác. Nó nhúc nhích khoảng một vài inch.

Và trên nóc tòa nhà phía sau ngôi nhà an toàn – trên tháp thang máy – hắn nhận ra những cái bóng loang loáng. Bọn chúng cũng khá tinh ranh nên biết giấu kín ánh thép đầu nòng súng, nhưng không đủ tinh quái để nghĩ đến việc che chắn ánh sáng phản chiếu lên trên từ mặt nước lặng phủ trên nóc tòa nhà.

Jesus, lạy Chúa… Không hiểu bằng cách nào tên Lincoln Con Giòi đã biết được rằng Stephen sẽ không bị đánh lừa bởi chiếc bẫy được dựng lên quanh Đồn Cảnh sát Hai mươi. Hóa ra suốt từ đầu, bọn chúng đã chờ hắn ở đây. Thậm chí Lincoln còn đoán được cả ý đồ chiến lược của hắn – rằng Stephen sẽ tìm cách chui vào con hẻm từ chính tòa nhà này.

Khuôn mặt trên khung cửa sổ…

Đột nhiên Stephen lại nảy ra ý nghĩ rất lố bịch rằng chính Lincoln Con Giòi là kẻ ở Alexandria, Virginia, đứng náu mình trong ô cửa sổ tranh tối tranh sáng, theo dõi hắn. Tất nhiên đó không thể là tên Lincoln này được. Dù vậy, điều không thể đó vẫn không làm vơi bớt cảm giác nhớp nháp, chóng mặt buồn nôn đang sôi sục trong ruột gan Stephen lúc này.

Cánh cửa chèn hờ, cửa sổ mở toang, và tấm rèm cửa gió lùa… một tấm thảm mời chào chó chết. Và con hẻm: một khu vực tiêu diệt hoàn hảo.

Điều duy nhất cứu mạng Stephen chính là bản năng của hắn.

Lincoln Con Giòi đã đưa hắn vào bẫy.

Hắn là thằng quái quỷ nào vậy?

Cơn điên sôi lên trong người hắn. Một làm sóng nóng bỏng quét qua toàn bộ thân thể hắn. Nếu lúc này bọn chúng đang mai phục hắn, chắc chắn bọn chúng đang thực hiện các thao tác trong quy trình S&S. Có nghĩa là tên cớm mà gã cứt đái bé choắt này vừa nhìn thấy sẽ sớm quay lại kiểm tra căn phòng. Stephen quay ngoắt lại, đối diện người đàn ông gầy còm. “Lần cuối cùng tên cớm đó vào đây là khi nào?"

Đôi mắt sợ hãi của người đàn ông láo liên, rồi lại cụp xuống vì sợ sệt.

“Trả lời tao đi”, Stephen gầm lên, bất chấp nòng súng đen ngòm của khẩu Colt đang chĩa thẳng vào hắn.

“Mười phút trước đây.”

“Hắn mang theo vũ khí nào?”

“Tao không biết. Tao đoán là một trong những loại vũ khí hầm hố mọi khi ấy. Trông giống như một khẩu súng máy.”

“Mày là ai?” Stephen hỏi.

“Tao không việc mẹ gì phải trả lời những câu hỏi chết tiệt của mày”, gã ngang bướng nói. Hắn giơ ống tay áo lên quệt ngang cái mũi lòng thòng nước. Và phạm sai lầm là làm việc đó đúng bằng bàn tay đang cầm súng. Nhoáng một cái Stephen đánh văng khẩu súng ra khỏi tay gã và đè người đàn ông bé nhỏ xuống sàn nhà.

“Không! Đừng đánh tôi!”

“Câm ngay!”, Stephen quát. Theo bản năng, hắn cầm khẩu Colt nhỏ lên và mở ra kiểm tra xem bên trong có bao nhiêu viên đạn. Chẳng có viên nào. “Súng không có đạn?” Hắn hỏi, không tin vào mắt mình.

Gã nhún vai. “Tôi…"

“Mày dọa tao bằng một khẩu súng không có đạn sao?”

“À ừ… anh phải hiểu là nếu họ bắt được anh và thấy là súng không có đạn, họ sẽ không bắt anh phải ngồi tù quá lâu.”

Stephen không hiểu thằng cha này đang định nói gì nữa. Hắn chỉ nghĩ hắn hoàn toàn có thể giết gã chỉ vì cái tội ngu ngốc là cầm trên tay một khẩu súng không có đạn. “Mày đang làm gì ở đây?”

“Xin hãy đi đi và để tôi được yên”, gã bắt đầu thút thít, loạng choạng cố đứng vững trên hai chân của mình.

Stephen nhét khẩu Colt vào túi áo rồi rút khẩu Beretta ra, chĩa thẳng vào đầu người đàn ông. “Mày đang làm gì ở đây?”

Gã lại giơ ống tay áo lên quẹt mặt. “Trên tầng có các phòng khám của bọn bác sĩ. Với lại hôm nay là Chủ nhật, không có ai đi làm nên tôi lẻn vào đây để, anh biết đấy, xoáy mẫu thuốc.”

“Mẫu thuốc?”

“Bác sĩ bao giờ cũng được bọn trình dược viên mời chào miễn phí đủ các loại thuốc linh tinh mà chẳng có chứng từ, hóa đơn gì cả, do đó tôi có thể vào đánh cắp bao nhiêu tùy thích mà không một ai phát hiện ra. Percodan, Fiorinol, thuốc cho người ăn kiêng, đại loại là các mẫu thuốc như vậy.”

Nhưng Stephen không nghe gã nói gì. Hắn lại cảm thấy cơn ớn lạnh vì Con Giòi Lincoln đang ở rất gần.

“Này, anh không sao đấy chứ?”, gã hỏi, ánh mắt chăm chú nhìn thẳng vào mặt Stephen.

Thật kỳ lạ, lũ giòi đột nhiên biến mất.

“Tên mày là gì?” Stephen hỏi.

“Jodie. Vâng, thật ra là, Joe D’Oforio. Nhưng hình như ai cũng chỉ gọi tôi là Jodie. Tên anh?”

Stephen không trả lời. Căng mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Lại một cái bóng khác đang chuyển động trên nóc tòa nhà phía sau ngôi nhà an toàn.

“Sao cơ?” Rhyme hỏi với vẻ không còn kiên nhẫn thêm được nữa. “Có chuyện gì vậy?”

“Hắn vẫn ở trong tòa nhà mạn phía đông ngôi nhà an toàn. Hắn vẫn chưa chui ra con hẻm.” Sellitto báo cáo.

“Tại sao lại chưa? Lẽ ra hắn phải ở đó rồi chứ. Chẳng có lý do gì mà hắn lại không mò ra đó cả. Có trục trặc gì vậy?”

“Họ đang kiểm tra từng tầng một. Hắn không có ở trong văn phòng mà chúng ta nghĩ hắn sẽ nhắm vào.”

Đó là văn phòng với cửa sổ để ngỏ. Mẹ kiếp! Rhyme đã phân vân về việc để ngỏ cửa sổ, cho gió lùa lay động tấm rèm, làm mồi nhử hắn. Nhưng như vậy là quá lộ liễu. Và tên Vũ công đã chột dạ.

“Tất cả mọi người đều nạp đạn và lên cò sẵn sàng rồi chứ?”, Rhyme hỏi.

“Tất nhiên. Yên tâm đi.”

Nhưng anh không thể nào yên tâm được. Rhyme không thể lường trước một cách chính xác tên Vũ công sẽ thực hiện việc đột nhập vào ngôi nhà an toàn như thế nào. Tuy nhiên, anh dám chắc rằng, việc đột nhập sẽ diễn ra qua con hẻm. Anh đã hy vọng những đống túi rác và thùng rác sẽ dụ được hắn chui vào đó vì nghĩ rằng có đủ nơi cho hắn ẩn nấp và đột nhập vào ngôi nhà theo hướng đó. Các đặc vụ của Dellray và những đội 32-E của Haumann đang bao vây con hẻm, mật phục trong chính tòa nhà văn phòng và trên cả những tòa nhà bao quanh ngôi nhà an toàn. Sachs đang cùng Haumann, Sellitto và Dellray ở trong một chiếc xe thùng ngụy trang thành xe dịch vụ chuyển phát nhanh UPS đậu cách ngôi nhà một quãng ngắn.

Rhyme đã có lúc suýt bị đánh lừa bởi đòn nghi binh về quả bom bằng xe téc chở xăng. Việc tên Vũ công đánh rơi một dụng cụ tại hiện trường vụ án là điều tưởng chừng như không thể, nhưng dù sao vẫn có thể tin được. Tuy nhiên Rhyme cũng bắt đầu nghi ngờ về số lượng dư chất của dây cháy chậm còn dính lại trên lưỡi của chiếc kìm cắt. Điều đó cho thấy tên Vũ công đã bôi thuốc nổ lên lưỡi kim để bảo đảm cho cảnh sát kiểu gì cũng phải tin rằng hắn đang tìm cách tấn công trụ sở đồn cảnh sát bằng một quả bom. Anh khẳng định, không, tên Vũ công không hề mất đi sự tinh quái vốn có của hắn – như Sachs và anh đã có lúc nghĩ thế. Hắn cố tình để bị phát hiện khi đang làm ra vẻ nghiên cứu hướng tấn công rồi để lại một người bảo vệ còn sống sao cho người này có thể báo với cảnh sát và cho họ biết việc chiếc téc bị mất cắp – tất cả những việc này đều có chủ ý.

Tuy nhiên, những vi chất cuối cùng lại là bằng chứng thực sự. Các tinh thể ammonia dính vào một sợi giấy. Chỉ có đúng hai nguồn cho sự kết hợp này – những bản vẽ kiến trúc và bản đồ quy hoạch thành phố lâu năm, vốn được nhân bản bằng máy in ammonia giấy khổ lớn. Rhyme đã yêu cầu Sellitto gọi tới One Police Plaza và rà soát những vụ đột nhập gần đây vào các công ty kiến trúc hoặc văn phòng lưu trữ của hạt. Một lát sau có báo cáo về việc văn phòng lưu trữ bị một kẻ đột nhập. Rhyme yêu cầu họ kiểm tra phố Ba mươi lăm Đông, và những tay cảnh sát thành phố sững sờ xác nhận là đúng vậy, bản đồ quy hoạch khu vực này đã không cánh mà bay.

Tuy nhiên việc tên Vũ công làm cách nào để biết được rằng Percey và Brit đang ở trong ngôi nhà an toàn, cả địa chỉ của ngôi nhà, vẫn còn là điều bí ẩn.

Năm phút sau hai sĩ quan thuộc ESU phát hiện ra một cửa sổ bị đập vỡ trên tầng một của toà nhà văn phòng. Tên Vũ công đã tránh lối cửa trước để ngỏ nhưng vẫn lẻn vào trong tòa nhà để chuẩn bị cho cuộc tấn công vào ngôi nhà an toàn qua con hẻm đúng như Rhyme đã dự đoán. Nhưng có điều gì đó đã khiến hắn chột dạ. Hắn vẫn đang nhởn nhơ trong tòa nhà và họ hoàn toàn không biết vị trí chính xác. Con rắn độc trong một căn phòng tối. Hắn đang ở đâu, hắn đang ấp ủ ý đồ gì?

Quá nhiều cách để chết...

“Hắn sẽ không chờ đâu”, Rhyme lầm bầm. “Như vậy quá nguy hiểm.” Anh bắt đầu thấy phát điên.

Một đặc vụ báo cáo. “Tầng một không có gì. Chúng tôi vẫn đang tiếp tục kiểm tra lại.”

Năm phút trôi qua. Các nhân viên thay nhau báo cáo tình hình không có gì tiến triển nhưng tất cả những gì Rhyme thực sự nghe thấy chỉ là tiếng ù ù loẹt xoẹt trong tai nghe của mình.

Jodie trả lời, “Có ai lại không muốn kiếm tiền chứ? Nhưng tôi không biết phải làm gì”.

“Giúp tao thoát ra khỏi đây.”

“Tôi muốn hỏi là anh đang làm gì ở đây vậy? Và họ đang truy lùng anh à?”

Stephen nhìn từ đầu đến chân người đàn ông bé choắt, thảm hại. Một kẻ vứt đi, nhưng không hề điên rồ hay ngu xuẩn. Stephen quyết định rằng giải pháp tối ưu về chiến thuật lúc này là nói thật. Vả lại, đằng nào thì gã này cũng sẽ phải chết sau vài giờ nữa thôi mà. Hắn nói, “Tao tới đây để giết một vài người”.

“Oa! Nghĩa là anh là dân mafia hay kiểu như vậy sao? Mà anh định giết ai thế?”

“Jodie, nói khẽ chứ. Chúng ta đang ở trong tình thế rất căng đấy.”

“Chúng ta ư? Tôi chẳng làm gì cả.”

“Trừ một điều là mày đã xuất hiện không đúng nơi, không đúng lúc”, Stephen nói. “Và chỉ ngần ấy cũng đã quá tệ rồi, nhưng tình cảnh của mày thì cũng như tao thôi vì bọn chúng muốn bắt tao và chúng sẽ không đời nào chịu tin rằng mày không cùng hội cùng thuyền với tao. Nào, bây giờ mày có định giúp tao hay không thì bảo? Tao chỉ có đủ thời gian cho mày trả lời có hay không thôi đấy.”

Jodie cố gắng làm ra vẻ không sợ hãi, nhưng đôi mắt gã đã phản bội chủ nhân của chúng.

“Có. Hoặc. Không.”

“Tôi không muốn bị hại.”

“Nếu mày đứng về phía tao, mày sẽ không bao giờ bị hại. Điều tao giỏi nhất chính là bảo đảm ai bị hại và ai không bị hại.”

“Và anh sẽ trả cho tôi chứ? Tiền mặt ấy? Không phải bằng séc đâu.”

Stephen không nhịn nổi cười. “Không phải bằng séc. Không. Bằng tiền mặt hẳn hoi.”

Đôi mắt như hai hạt đậu nhão nhoét bắt đầu láo liên toan tính. “Bao nhiêu?”

Thằng khốn nạn bé choắt này lại còn mặc cả cơ đấy.

“Năm nghìn.”

Vẻ sợ hãi vẫn còn in nguyên trong đôi mắt nhưng ngay cả nó cũng bị gạt sang một bên vì sốc. “Thật không? Anh không lừa tôi đấy chứ?”

“Không.”

“Thế nhỡ may tôi giúp anh thoát ra ngoài rồi anh lại giết tôi để không phải trả tiền nữa thì sao?”

Stephen lại bật cười. “Tao được trả hơn thế rất nhiều. Năm nghìn đô la đối với tao chẳng là cái gì cả. Vả lại, nếu chúng ta thoát ra khỏi đây được, kiểu gì tao cũng phải nhờ đến sự giúp đỡ của mày nữa mà.”

“Tôi…”

Một âm thanh từ xa vẳng lại. Tiếng bước chân mỗi lúc một gần hơn.

Đó là tay cớm S&S đang săn lùng hắn.

Chỉ có một tên, Stephen nhận định, căn cứ vào tiếng bước chân. Điều này cũng dễ hiểu. Bọn chúng đang chờ đợi hắn thò mặt ra trong cái văn phòng trên tầng một, với cánh cửa sổ để ngỏ, nơi chắc chắn thằng Lincoln Con Giòi đã bố trí phần lớn số cảnh sát vũ trang mà nó có.

Stephen cất khẩu súng vào chiếc cặp sách của mình và rút con dao găm ra. “Mày có giúp tao không đây?”

Không phải nghĩ ngợi làm gì nữa, tất nhiên rồi. Nếu Jodie không chịu giúp, coi như gã sẽ mất mạng trong vòng sáu mươi giây nữa. Và gã biết điều đó.

“Được rồi.” Gã chìa tay ra.

Stephen phớt lờ cử chỉ đó và hỏi, “Chúng ta sẽ thoát ra bằng cách nào?”

“Anh có thấy bức tường gạch xỉ kia không. Anh có thể rút chúng ra. Thấy chưa, đằng kia kìa? Nó dẫn ra một đường ống cũ. Bao giờ cũng có những đường ống dẫn nước chạy phía dưới thành phố. Nhưng chẳng ai biết về sự tồn tại của chúng cả.”

“Có thật sao?” Stephen ước giá hắn biết điều này từ trước.

“Tôi có thể dẫn chúng ta tới đường tàu điện ngầm. Tôi sống ở đó. Trong một ga tàu điện ngầm cũ.”

Đã hai năm nay Stephen mới hành động với một cộng sự. Thỉnh thoảng hắn cũng ước giá kể hắn không giết mất tên kia.

Jodie dợm bước về phía bức tường gạch xỉ nung.

“Không”, Stephen thì thầm. “Tao muốn mày làm thế này nhé. Mày đứng nép sát vào bức tường đó. Kia kìa.” Hắn chỉ tay về phía bức tường đối diện với ngưỡng cửa.

“Nhưng hắn sẽ trông thấy tôi. Hắn sẽ thò đầu vào đây với chiếc đèn pin và tôi sẽ là thứ đầu tiên bị hắn phát hiện ra!”

“Cứ đứng yên đó và giơ hai tay lên.”

“Hắn sẽ bắn tôi”, Jodie van vỉ.

“Không, hắn sẽ không bắn. Mày phải tin tao chứ.”

“Nhưng…”Mắt gã láo liên nhìn về phía cánh cửa. Hắn quệt ống tay lau mặt.

Liệu thằng khốn này có phá bĩnh không, quân nhân?

Đó cũng là một nguy cơ, thưa ngài, nhưng tôi đã cân nhắc các khả năng và tôi nghĩ hắn sẽ không gây chuyện gì đâu. Đây là một thằng khốn đang rất cần tiền.

“Mày phải tin tưởng hoàn toàn vào tao chứ.”

Jodie thở dài. “Được rồi, được rồi…”

“Nhớ là phải giơ hai tay lên nhé, không là nó sẽ nổ súng đấy.”

“Như thế này à?” Gã giơ tay lên.

“Lùi lại một chút để mặt mày ở trong bóng tối. Đúng rồi, thế, thế. Tao không muốn nó nhìn thấy mặt mày… Tốt. Hoàn hảo.”

Tiếng bước chân lúc này đã rất gần. Bước thật nhẹ nhàng. Thăm dò.

Stephen giơ ngón tay lên môi và ngồi thụp xuống, người hắn gần như biến mất trên mặt sàn.

Tiếng bước chân chỉ còn rất khẽ rồi dừng bặt. Bóng người hiện ra trên ngưỡng cửa. Anh ta mặc áo giáp chống đạn và một chiếc áo gió của FBI.

Anh ta đẩy cửa vào trong phòng, lia một vòng bằng chiếc đèn pin gắn kèm với đầu nòng khẩu tiểu liên Heckler &Koch của mình. Khi tia sáng lia ngang ngực Jodie anh ta có một hành động khiến Stephen choáng váng.

Anh ta chuẩn bị bóp cò.

Cử chỉ đó diễn ra trong chớp mắt và rất khó nhận ra. Nhưng Stephen đã bắn quá nhiều con thú săn và quá nhiều người đến nỗi hắn chỉ cần nhìn những cơ bắp vận động, tư thế đứng như căng người lên thế kia, là biết kẻ thù đang chuẩn bị nổ súng.

Stephen di chuyển cực nhanh. Hắn vọt người lên, hất khẩu tiểu liên bắn văng ra và bẻ gãy cần mic gắn gần miệng tay đặc vụ. Rồi hắn thọc con dao găm của mình vào bên dưới cơ tam đầu của đối phương, làm cánh tay phải của anh ta hoàn toàn tê liệt. Người đàn ông thét lên đau đớn.

Chúng được bật đèn xanh để giết! Stephen thầm nghĩ. Không chấp nhận xin hàng. Chúng chỉ cần nhìn thấy mình là nổ súng ngay. Dù là tay không hay có vũ khí.

Jodie hét lên, “Ôi, lạy Chúa tôi!”. Hắn run lẩy bẩy bước lên phía trước, hai cánh tay vẫn giơ thẳng trên đầu – trông thật khôi hài.

Stephen đánh cho người đặc vụ quỳ gục xuống hai đầu gối rồi kéo chiếc mũ sắt Kevlar của anh ta sụp xuống che kín mắt, hắn nhét một búi giẻ vào miệng nạn nhân.

“Ôi, lạy Chúa, anh đã đâm anh ta”, Jodie lảm nhảm, gã thả hai tay xuống và cuống cuồng đi vòng quanh.

“Câm mồm đi”, Stephen nạt. “Cái lúc nãy chúng ta đã nói đến ấy. Đường thoát.”

“Nhưng…”

“Ngay lập tức.”

Jodie vẫn đứng nhìn như trời trồng.

“Làm đi.” Stephen nổi điên.

Jodie vội chạy tới lỗ hổng trên tường trong khi Stephen nắm chân người đặc vụ và kéo anh ta vào trong hành lang.

Được bật đèn xanh để giết…

Lincoln Con Giòi đã quyết định là hắn phải chết. Stephen căm giận.

“Chờ ở đó”, hắn ra lệnh cho Jodie.

Stephen cắm lại chiếc tai nghe vào máy radio bộ đàm của người đặc vụ và lắng nghe. Lúc này cảnh sát đang dùng tần số Tác chiến Đặc biệt và chắc chắn phải có đến cả tá cảnh sát cũng như đặc vụ liên bang đang liên lạc với nhau trong quá trình lùng sục những phần khác nhau của tòa nhà văn phòng.

Hắn không có nhiều thời gian, nhưng hắn cũng phải làm gì đó để cản bước bọn chúng.

Stephen kéo người đặc vụ đang mê man vào khoảng hành lang màu vàng.

Hắn lại rút con dao găm của mình ra.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom