Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 40


“Giáo sư?”

“Ông là Steve Macy?” Vị giáo sư ăn mặc trông khá luộm thuộm; diện một cái nơ bướm và chiếc áo vải tuýt, đang ngồi phía sau đống giấy tờ phủ đầy trên bàn làm việc.

Ông ta cười: “Vâng, thưa giáo sư”.

“Tôi là Richard Mathers. Còn đây là Geneva Settle.”

Một cô bé chừng mười mấy tuổi thấp bé, màu da thì tối đen y như màu da của vị giáo sư. Geneva nhìn ông ta và gật đầu chào. Cô bé nhìn một cách thích thú vào cái hộp mà ông ta vác theo. Cô bé quá trẻ. Liệu hắn có thể thật sự giết cô bé không?

Rồi hình ảnh lễ cưới đứa con gái hắn trên chiếc bục tại hồ cạnh ngôi nhà nghỉ dưỡng lóe lên trong tâm trí; kéo theo một loạt những hình ảnh khác như: Chiếc Mercedes AMG mà vợ hắn muốn, thẻ thành viên ở sân golf Augusta; kế hoạch cho bữa tối hắn sắp xếp vào buổi tối nay ở L’Etoile, khách sạn được tờ New York Times xếp hạng ba sao.

Những hình ảnh ấy trả lời cho câu hỏi của hắn.

Ashberry đặt chiếc hộp lên sàn. Không có cảnh sát ở bên trong, hắn nhấn mạnh và tự trấn an mình. Hắn bắt tay Mathers, nghĩ: Mẹ kiếp, họ có thể lấy dấu vân tay từ da thịt. Sau khi nổ súng hạ họ, hắn phải mất thêm thời gian để lau sạch lòng bàn tay ông giáo sư. (Hắn nhớ những gì mà Thompson Boyd đã nói với hắn rằng: Khi đối điện với cái chết, ta làm mọi thứ theo quyển sách, hoặc ta sẽ phải bỏ công việc.)

Ashberry mỉm cười với cô bé. Không cần phải bắt tay. Hắn nhìn quanh văn phòng, lựa chọn góc độ.

“Xin lỗi vì sự bừa bộn”, Mathers nói.

“Văn phòng của tôi cũng chẳng ngăn nắp hơn đâu”, hắn nói với một nụ cười nhạt. Căn phòng lấp đầy sách, tạp chí và hàng chồng bản photocopy. Trên tường là một loạt bằng cấp. Hóa ra là, Mathers không phải là một giáo sư về lịch sử mà là một giáo sư về luật. Một người khá nổi tiếng, rõ ràng là thế, Ashberry đang nhìn vào bức ảnh vị giáo sư chụp với Bill Clinton và thị trưởng trước đây Giuliani.

Khi hắn nhìn những bức ảnh này, lòng thương hại lại dâng lên môt lần nữa nhưng nó thực sự chẳng hơn gì tiếng bíp mờ nhạt nháy lên trên màn hình máy tính lúc này. Ashberry lúc này cảm thấy thoải mái với ý nghĩ rằng hắn đang ngồi trong phòng với hai người đã chết rồi.

Họ trò chuyện một vài phút, Ashberry thì nói những cụm từ mơ hồ về các trường học và thư viện ở Philadelphia, tránh mọi bình luận trực tiếp về việc hắn đang tìm kiếm cái gì. Hắn giữ thế chủ động, hỏi vị giáo sư: “Chính xác thì ông đang nghiên cứu cái gì?”.

Mathers để cho Geneva giải thích về việc họ đang cố gắng tìm hiểu một người tổ tiên của cô bé, Charles Singleton, một cựu nô lệ. “Điều đó khá là kỳ lạ”, cô nói. “Cảnh sát nghĩ rằng có sự liên quan giữa ông ấy và một vài tội, những vụ việc vừa mới xảy ra. Nhưng hóa ra lại không phải, ý cháu là không đúng. Nhưng tất cả đều tò mò với điều gì đã xảy ra cho ông ấy. Có vẻ như không ai biết.”

“Hãy xem ông có gì nào”, Mathers nói, lau sạch một chấm trên chiếc bàn thấp phía trước bàn làm việc của ông ta. “Tôi sẽ đi lấy một chiếc ghế khác.”

Lúc này đây, Ashberry nghĩ. Tim bắt đầu đập nhanh. Rồi hắn nhớ lại lưỡi dao sắc lẹm cắt vào da thịt của người bán hàng, sáu centimet cho hai ngày chậm khoản tiền bảo kê. Ashberry hầu như chẳng nghe thấy tiếng hét của người đàn ông.

Nhớ lại tất cả những tháng ngày làm việc đến gãy lưng để tới được vị trí hôm nay.

Nhớ lại đôi mắt chết chóc của Thompson Boyd.

Hắn ngay lập tức trở nên bình tĩnh.

Ngay khi Mathers bước vào hành lang, Ashberry nhìn ra ngoài cửa sổ. Người cảnh sát vẫn ngồi trong xe, cách khoảng mười lăm mét, và tòa nhà thì có tường dày và kín đến mức anh ta thậm chí có thể không nghe thấy tiếng súng. Với chiếc bàn đang ngăn cách hắn và Geneva, hắn cúi xuống, bới qua đống giấy. Hắn nắm lấy khẩu súng hoa cải cưa nòng.

“Ông có tìm bức tranh nào không?”, Geneva hỏi. “Cháu rất muốn tìm hiểu nhiều hơn về khu vực xung quanh như thế nào trong quá khứ.”

“Ta có một ít. Ta nghĩ thế.”

Mathers đang quay lại. “Cà phê nhé?”, có tiếng nói vọng lại từ trong hành lang.

“Không, cảm ơn.”

Ashberry quay ra cửa.

Chí lúc này đây.

Hắn bắt đầu đứng dậy, kéo khẩu súng ra khỏi hộp, giữ nó thấp hơn tầm mắt của Geneva.

Nhắm vào phía cửa, ngón tay đặt lên cò súng.

Nhưng có gì đó không ổn. Mathers không có vẻ như sẽ xuất hiện.

Đó là lúc Ashberry cảm thấy có cái gì đó bằng kim loại chạm vào tai của mình.

“William Ashberry, ông đã bị bắt. Tôi có súng.” Đó là giọng cô bé, mặc dù nó rất khác, là giọng của một người trưởng thành. “Để cái khẩu súng lên bàn. Ngay.”

Ashberry đông cứng. “Nhưng…”

“Khẩu súng. Đặt nó xuống.” Cô gái thúc vào đầu hắn bằng khẩu súng. “Tôi là cảnh sát. Và tôi sẽ sẵn sàng nổ súng.”

Ôi, Chúa ơi, không... Đây là một cái bẫy!

“Nghe này, giờ làm theo những gì cô ấy nói.” Tiếng của vị giáo sư - tất nhiên đó không phải Mathers. Đó cũng là một người đóng thế, một cảnh sát giả vờ là giáo sư. Hắn nhìn sang bên. Người đàn ông đã quay lại vào văn phòng bằng cửa bên. Trên cổ ông ta lủng lẳng tấm thẻ FBI. Và cũng đang nắm một khẩu súng. Làm thế quái nào mà họ lần ra hắn được? Ashberry tự hỏi trong sự bực tức.

“Và đừng có di chuyển cái khẩu súng quá một milimet. Tất cả chúng tôi đều nhằm vào đó rồi.”

“Tôi không nói với ông một lần nữa đâu”, cô gái nói với một giọng bình tĩnh. “Làm ngay đi.”

Hắn vẫn không động đậy.

Ashberry nghĩ tới ông nội mình, tay gangster, hắn nghĩ tới tiếng hét của người bán hàng, nghĩ tới đám cưới của con gái mình.

Thompson Boyd sẽ làm gì?

Làm theo quyển sách và từ bỏ.

Chẳng có cách quái nào cả. Ashberry sụp xuống lộn vòng và lăn, nhanh như chợp, giơ khẩu súng lên.

Có ai đó hét lên: “Đừng!”.

Đó là từ cuối cùng hắn có thể thấy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 41


“Quả là một khung cảnh đẹp”, Thomp nói.

Lincoln Rhyme nhìn ra bên ngoài cửa sổ phía dòng sông Hudson, những vách đá của dãy Palisades trên bờ bên kia và những ngọn đồi xa xa của New Jersey. Có thể là của Pennsylvania nữa. Anh quay đi ngay lập tức, vẻ biểu cảm trên mặt giải thích rằng cái khung cảnh rộng bao la, giống như mọi người vẫn nói, khiến anh cảm thấy nhàm chán không cảm xúc.

Họ đang ở trong văn phòng tổ chức Sandford của William Ashberry, hắn đã chết trên nóc cùa tòa nhà Hiram Sanford trên phố 82 về phía tây. Phố Wall vẫn còn đang xôn xao tin tức về cái chết của người đàn ông và việc ông ta liên quan tới hàng loạt vụ phạm tội trong những ngày vừa qua. Cộng đồng tài chính không hề mất đi động lực để hoạt động, so với những gì xảy ra đối với các cổ đông và nhân viên của tập đoàn Enron và Global crossing[1], cái chết của nhà điều hành của một công ty đầy lợi ích không chấn động đến mức như thế.

[1] Tên hai công ty của Mỹ với hai vụ bê bối rất lớn về gian dối và sai lầm của lãnh đạo trong tổ chức hoạt động.

Amelia Sachs đã khám nghiệm kỹ lưỡng văn phòng, lấy đi những bằng chứng kết nối Ashberry với Boyd và dùng băng dính dán tách riêng những phần nhất định trong căn phòng. Cuộc họp diễn ra trong một khu vực đã được dọn dẹp sạch sẽ, với những cửa sổ được lau sạch các vết ố bẩn và những tấm bảng từ gỗ hồng sắc.

Ngồi bên cạnh Rhyme và Thomp là Geneva Settle cùng luật sư Wesley Goades. Rhyme cảm thấy thích thú vì có đôi lúc đã thực sự nghi ngờ sự đồng lõa của Goades trong vụ việc - do sự xuất hiện bất ngờ của ông ta ở căn hộ của Rhyme, tìm kiếm Geneva, và tình tiết về Tu chính án số 14; viên luật sư hẳn phải có một động cơ lớn lao để chắc chắn rằng không có gì gây nguy hiểm tới một vũ khí quan trọng cho những người ủng hộ tự do. Rhyme cũng đã từng tự hỏi có phải lòng trung thành của người đàn ông với công ty bảo hiểm trước đây đã khiến ông ta phản bội Geneva không.

Nhưng Rhyme không hề chia sẻ sự nghi ngờ về viên luật sư và do đó không có gì để xin thứ lỗi cả. Sau khi Rhyme và Sachs phát hiện ra rằng vụ án đang chuyển sang hướng không mong đợi, nhà tội phạm học đã gợi ý Goades ở lại chờ xem chuyện gì sẽ din ra tiếp theo. Tất nhiên là, Geneva Settle, hoàn toàn ủng hộ việc nhờ ông ấy giúp đỡ.

Bên kia chiếc bàn cà phê bằng cẩm thạch là Gregory Hanson, Chủ tịc

h ngân hàng Sanford, thư ký của ông, Stella Tumer, và một cộng sự cấp cao ở công ty luật Sanford, một luật sư có dáng vẻ gọn gàng tầm bốn mươi tuổi tên là Anthony Cole. Họ đều tỏ ra không thoải mái, mà Rhyme cho là đã xuất hiện từ ngày hôm qua khi anh gọi cho Hanson để đề nghị một buổi họp nói về “vấn đề Ashberry”.

Hanson đồng ý nhưng thêm vào một cách nhanh chóng và ngán ngẩm rằng ông ta thực sự rất sốc như những người khác khi biết về cái chết của Ashberry trong một vụ nổ súng ở Đại học Columbia vài ngày trước. Ông ấy không biết gì về điều đó - hay về bất cứ vụ cướp hàng trang sức cũng như tấn công khủng bố nào cả - ngoại trừ những gì đọc trên báo. Vậy thì chính xác là Rhyme và cảnh sát muốn gì?

Rhyme đưa ra một lời đậm ngôn ngữ của cảnh sát: “Chỉ là câu trả lời cho một vài câu hỏi thủ tục thôi”.

Giờ, họ đã xong phần mào đầu câu chuyện, Hanson hỏi: “Anh có thể nói cho chúng tôi biết đó là gì không?”.

Rhyme đi thẳng vào vấn đề luôn: Anh giải thích rằng William Ashberry đã thuê Thompson Boyd, một sát thủ chuyên nghiệp, giết Geneva Settle.

Ba người thảng thốt nhìn về phía cô bé mảnh khảnh ngồi đối diện. Cô bé bình tĩnh nhìn từng người một.

Nhà tội phạm học tiếp tục thêm vào rằng Ashberry cảm thấy một điều hiển nhiên là không một ai biết lý do mà hắn muốn cô bé chết nên đã cùng với Boyd dựng lên một vài động cơ giả cho cái chết của cô bé. Lúc đầu thì vụ giết người được dàn dựng sao cho giống với một vụ hiếp dâm. Dù vậy, Rhyme đã nhìn xuyên qua âm mưu đó ngay lập tức, và khi tiếp tục tìm kiếm kẻ giết người, anh và đồng đội đã tìm ra lý do thật sự cho vụ án là: Geneva có thể nhận dạng kẻ khủng bố lên kế hoạch vụ tấn công.

“Nhưng lại có vài vấn đề với lý do này: Kẻ đánh bom đã chết có thể kết thúc toàn bộ yêu cầu cần phải giết Geneva. Nhưng không như thế. Đồng phạm của Boyd tiếp tục cố gắng một lần nữa. Chuyện gì đang diễn ra? Chúng tôi lần ra gã đã bán quả bom cho Boyd, một tên phóng hỏa đốt nhà ở New Jersey. FBI đã tóm cổ hắn. Chúng tôi thấy sự liên hệ giữa những tờ đô la của hắn với ngôi nhà ẩn náu của Boyd. Điều đó khiến hắn trở thành đồng lõa cho vụ giết người này và hắn đã đồng ý với một thỏa thuận. Hắn nói với chúng tôi rằng mình đã giúp cho Boyd và Ashberry biết nhau…”

“Dù sao thì, tên khủng bố này”, viên luật sư của ngân hàng nói một cách ngờ vực, với một tiếng cười chua chát: “Bill Ashberry và khủng bố ư? Nó…”.

“Dẫn đến kết cục đó”, Rhyme nói, với giọng chua chát không kém. Có lẽ còn hơn. Anh tiếp tục giải thích: Những lời khẳng định của tên chế tạo bom không đủ để đưa ra lệnh bắt giữ Ashberry. Nên Rhyme và Sellito phải quyết định rằng họ cần phải khiến hắn ra mặt. Họ đã gài một cảnh sát ở trường của Geneva, một người đàn ông giả vờ là phó hiệu trường. Bất cứ ai gọi điện hỏi về Geneva sẽ được nói rằng cô bé đang ở Đại học Columbia với một giáo sư luật. Vị giáo sư thật đã đồng ý để họ sử dụng không chỉ tên ông ta mà cả văn phòng nữa. Fred Dellray và Jonette Monroe, một cảnh sát với vỏ bọc một nữ sinh giang hồ ở trường trung học của Geneva, đã rất vui khi đóng vai vị giáo sư và cô nữ sinh. Họ đã thực hiện nhiệm vụ một cách nhanh chóng và triệt để nhằm dựng lên màn kịch, tạo vài bức ảnh giả bằng photoshop của Dellray với Bill Cliton và Rudy Giuliani, để bảo đảm rằng Ashberry không đoán ra họ đang giả dạng.

Rhyme lúc này giải thích những sự kiện cho Hanson và Cole, thêm vào các chi tiết về vụ cố tình giết người ở văn phòng của Mathers.

Anh lắc đầu. “Tôi đáng ra phải đoán được hung thủ có liên quan tới ngân hàng. Hắn đã có thể rút một lượng lớn tiền mặt và giả mạo vài báo cáo. Nhưng…”, Rhyme hất đầu về phía vị luật sư, “Hắn định làm gì mới được? Tôi biết là những người theo Thiên Chúa giáo chẳng bao giờ ủng hộ cho mầm mống khủng bố cả.”

Chẳng một ai cười. Rhyme nghĩ rằng, người làm ngân hàng, luật sư, chẳng ai có khiếu hài hước cả. Anh tiếp tục: “Bởi vậy tôi quay trở lại với các bằng chứng và để ý thấy có điều gì đó khiến mình cảm thấy băn khoăn: Không có bộ điều khiển phát tín hiệu vô tuyến để kích nổ quả bom. Nó đáng lẽ phải nằm trong các mảnh vụn cùa chiếc xe tải, nhưng lại không hề có.”

“Tại sao không? Hoặc kết luận ở đây là Boyd và cộng sự của mình đã đặt quả bom lên đó và giữ bộ kích nổ để điều khiển quả bom như một sự đánh lạc hướng để lôi chúng ta không tìm ra động cơ thật sự cho việc giết Geneva.”

“Được rồi”, Hanson nói. “Động cơ thật sự. Là gì mới được?”

“Phải suy nghĩ kỹ về nó. Lúc đầu tôi nghĩ rằng có thể Geneva đã nhìn thấy vài người thuê nhà bị đuổi một cách bất hợp pháp khi đang tẩy xóa các hình vẽ graffiti khỏi các tòa nhà cũ cho một công ty phát triển đầu tư. Nhưng tôi nhìn vào nơi mà s việc đó diễn ra và tìm ra rằng ngân hàng Sanford không hề liên quan tới các tòa nhà đó. Vậy thì, nó đã bỏ rơi chúng ta ở đâu? Tôi chỉ có thể quay trở lại với nơi mà lúc đầu chúng tôi đã nghĩ đến...”

Anh giải thích về tờ tạp chí Tuần báo Minh họa dành cho người da màu mà Boyd đã lấy đi mất. “Tôi đã quên mất rằng có ai đó đã truy lùng tờ tạp chí trước khi Geneva được cho là đã nhìn thấy một chiếc xe tải và tên khủng bố. Tôi nghĩ tới khả năng Ashberry lao vào bài báo đó khi tổ chức Sanford nâng cấp lại kho lưu trữ của họ vào tháng trước. Hắn đã làm một vài nghiên cứu và phát hiện ra một việc gì đó thực sự phiền phức, một việc mà có thể phá hủy cả cuộc đời hắn. Hắn đã hủy bản copy của tổ chức và quyết định rằng phải phá hủy tất cả những bản sao của tờ tạp chí. Trong suốt vài tuần vừa qua, hắn đã tìm ra hầu hết các bản sao này - nhưng vẫn còn một cái sót lại trong khu vực: Người thủ thư ở bảo tàng Mỹ - Phi tại Midtown đang lấy bản copy trong kho lưu trữ và hẳn đã phải báo cho Ashberry, một cách ngẫu nhiên, rằng có một cô bé đang quan tâm tới cái chủ đề này. Ashberry biết mình sẽ phải phá hủy bài báo và giết Geneva, cùng với người thủ thư, vì ông ấy có thể liên hệ họ với nhau.”

“Nhưng tôi vẫn không hiểu tại sao”, Cole, vị luật sư nói. Sự chua chát trong giọng nói giờ biến thành cáu gắt thực sự.

Rhyme giải thích nốt mảnh ghép cuối cùng của câu đố: Anh đề cập đến câu chuyện về Charles Singleton, trang trại ông ấy được tặng từ ông chủ của mình và vụ cướp ở Quỹ Nô lệ tự do - và sự thật về việc người cựu nô lệ có giữ một bí mật. “Đó là câu trả lời cho việc tại sao Charles bị dàn dựng vụ cướp vào năm 1868. Và đó là câu trả lời cho lý do Ashberry phải giết Geneva.”

“Bí mật?”, Stella, cô thư ký hỏi.

“Vâng, đúng. Cuối cùng tôi đã tìm ra nó là gì. Tôi nhớ đến điều mà cha của Geneva đã nói với chúng tôi. Ông ấy nói rằng Charles dạy miễn phí ở một ngôi trường dành cho người da đen ở gần nhà mình và ông ấy đã bán rượu táo cho những công nhân đóng tàu trên đường.” Rhyme lắc đầu mình. “Tôi đã đưa ra một giả định thiếu cẩn thận. Chúng tôi nghe nói rằng trang trại cùa ông ấy ở tiểu bang New York... Và đúng là nó ở New York. Trừ việc nó không phải là ở khu phía bắc của bang, như chúng ta vẫn nghĩ.”

“Không phải à? Vậy nó ở đâu?”, Hanson hỏi.

“Rất dễ để tìm ra”, anh tiếp tục. “Nếu anh vẫn nhớ rằng có những trang trại vẫn đang làm việc ở đây trong thành phố cho đến cuối những năm 1800.”

“Ý anh là trang trại của ông ta ở Manhattan?”, Stella hỏi.

“Không chỉ vậy”, Rhyme nói. “Nó ở ngay dưới tòa nhà này.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 42


“Chúng tôi tìm thấy một bản vẽ về Gallows Heights trong những năm 1800 cho thấy có ba khu đất lớn được trồng cây. Một trong các khu đất ấy bao gồm tòa nhà này và vài dãy phố xung quanh. Bên kia con đường trước đây là một ngôi trường miễn phí dành cho người da đen. Phải chăng đó chính là ngôi trường mà ông ấy dạy? Và ở trên dòng sông Hudson…” Rhyme nhìn ra ngoài cửa sổ. “Ở ngay chỗ này, trên con phố 81, là một vũng tàu cạn và một xưởng đóng tàu. Có thể nào những người công nhân ở đó chính là những người mà Charles đã bán rượu táo?”

“Nhưng liệu khu đất có phải của ông ấy không? Có một cách đơn giản để tìm ra điều đó. Thom đã kiểm tra ở văn phòng lưu trữ Manhattan và tìm thấy giấy tờ, văn bản ghi chép từ ông chủ của Charles cho ông ấy. Đúng vậy, mảnh đất thuộc về ông ấy. Rồi chúng tôi hiểu ra tất cả mọi việc. Mọi tài liệu mà chúng tôi tìm thấy liên quan đến những buổi họp ở Gallows Heights - với các chính trị gia và những nhà lãnh đạo nhân quyền? Đó là nhà của Charles, là nơi mà họ gặp gỡ. Đó là bí mật của ông ấy - là việc ông ấy sở hữu mười lăm mẫu đất đẹp nhất ở Manhattan.”

“Nhưng tại sao đó lại là một bí mật chứ?”, Hanson hỏi.

“Ồ, ông ấy không dám nói với một ai rằng mình là chủ sở hữu. Tất nhiên là ông ấy muốn. Đó là điều thực sự giày vò và khiến ông ấy băn khoăn, ông ấy tự hào rằng mình sở hữu một trang trại lớn trong thành phố. Ông ấy tin rằng mình có thể trở thành hình mẫu cho những người cựu nô lệ khác. Cho họ thấy rằng họ đều có thể được đối xử như một người đầy đủ quyền lợi, và được coi trọng. Rằng họ có thể sở hữu đất đai và làm việc trên đó, là những thành viên của cộng đồng. Nhưng ông ấy đã nhìn thấy những vụ nổi loạn do việc cưỡng bức quân dịch, những vụ hành hình người da đen, đốt phá. Vậy nên ông ấy và vợ mình đã giả vờ là những người cai quản đất, sợ rằng sẽ có ai đó phát hiện ra một cựu nô lệ sở hữu một mảnh đất lớn có giá trị và sẽ phá hủy nó. Hoặc, đúng hơn là, lấy nó đi từ ông ấy.”

“Mà”, Geneva nói: “Chính xác là việc đó đã xảy raspan>Rhyme tiếp tục: “Khi Charles bị buộc tội, tất cả tài sản cùa ông ấy đã bị tịch thu - bao gồm cả trang trại - và bán đi... Giờ, chúng ta có một giả thuyết thú vị: Dựng tội một ai đó với những lời cáo buộc giả dối để lấy đi tài sản của người đó. Nhưng có bằng chứng nào không? Quả là một nhiệm vụ khủng khiếp - một trăm bốn mươi năm sau đó - về một vụ án chưa có lời giải đáp... Chà, có một vài bằng chứng. Những két sắt của Exeter Strongbow - loại mà Charles bị buộc tội phá hủy tại Quỹ Nô lệ tự do - được làm ở Anh nên tôi đã gọi cho một người bạn ở Sở cảnh sát Scotland. Anh ấy nói

với một thợ khóa hình sự, anh ta nói rằng không thể nào phá vỡ một cái két Exeter thế kỷ XIX chỉ bằng một cái búa và một cái đục, những dụng cụ được tìm thấy tại hiện trường. Ngay cả những chiếc máy khoan hơi nước thời kỳ đó cũng mất ba đến bốn giờ đồng hồ - và bài báo về vụ trộm nói rằng Charles chỉ ở bên trong tòa nhà đó vẻn vẹn hai mươi phút đồng hồ”.

“Những kết luận tiếp theo là: Có một ai khác đã cướp chỗ đó, và đặt vài dụng cụ của Charles ở hiện trường rồi mua chuộc một nhân chứng để bịa đặt về ông ấy. Tôi nghĩ rằng tên trộm thực sự là gã mà chúng tôi tìm thấy bị chôn bên dưới tầng hầm của quán Potter’s Field.” Anh giải thích về chiếc nhẫn Winskinskie và người đàn ông đeo nó - rằng đó là một nhân viên thuộc bộ máy chính trị tham nhũng Tammany Hall.

“Đó là một trong những người thân cận với Boss Tweed. Một người khác đó là William Simms, viên thanh tra đã bắt Charles. Simms sau đó bị truy tố vì hối lộ và đặt bằng chứng giả chống lại các nghi phạm. Simms, gã Winskinskie, quan tòa và công tố viên tất cả đều sắp đặt việc buộc tội Charles. Tất cả họ giữ trong tay số tiền bị ăn trộm mà đã không được tìm lại.”

“Vậy chúng ta đã khẳng định rằng Charles sử hữu một khu đất lớn ở Gallows Heights và ông ấy đã dựng chuyện để ai đó có thể lấy đi mảnh đất.” Lông mày anh rướn lên. “Câu hỏi logic tiếp theo là gì? Câu hỏi lớn?” Không có ai hỏi.

“Rõ ràng: Hung thủ thực sự là kẻ nào chứ?”, Rhyme nói. “Ai đã cướp của Charles? Chà, cho rằng động cơ là lấy trộm trang trại của ông ấy, tất cả những gì tôi phải làm là tìm ra ai đứng tên mảnh đất.”

“Đó là ai?”, Hanson hỏi, nghe có vẻ khó chịu nhưng vẫn nắm được vài tình tiết lịch sử.

Cô thư ký vuốt váy và nói: “Boss Tweed?”.

“Không, đó là một đồng nghiệp của ông ta. Một người thường được nhìn thấy ở quán rượu Potter’s Field, cùng với vài kẻ tai tiếng khác lúc đó - Jim Fisk, Jay Gould và Simms.” Anh nhìn từng khuôn mặt bên kia chiếc bàn. “Tên ông ta là Hiram Sanford.”

Người phụ nữ chợp chợp mắt. Sau một lát cô ta nói: “Người thành lập ngân hàng chúng tôi”.

“Người duy nhất.”

“Thật là lố bịch”, Cole, vị luật sư nói. “Làm sao mà ông ấy có thể làm điều đó? Ông ấy là một trong những người có ảnh hưởng lớn nhất ở New York.”

“Cũng như William Ashberry?”, nhà tội phạm học hỏi một cách mỉa mai. “Thế giới cạnh tranh làm ăn lúc đó thực sự không hề khác đi chút nào so với bây giờ. Có rất nhiều nhà đầu cơ tích trữ tài chính - một trong những bức thư của Charles có trích từ New York Tribune đề cập đến ‘sự bùng nổ các bong bóng’ ở phố Wall. Đường sắt là mạng công nghệ thông tin của những năm 1800. Cổ phiếu của họ đã được đánh giá quá cao và bị phá sản. Sanford hầu như mất hết tiền bạc khi chuyện đó xảy ra và Tweed đồng ý trợ giúp ông ta. Nhưng, là Tweed, về bản chất ông ta muốn sử dụng tiền của người khác để làm điều đó. Vậy nên cả hai người bọn họ đã dựng chuyện cho Charles, và Sanford đã mua vườn cây trong một phiên đấu giá đã được sắp đặt với một phần nhỏ giá trị thực của nó. Ông ta phá ngôi nhà của Charles và xây dựng tòa dinh thự của mình trên đó, nơi mà chúng ta đang ngồi đây.” Một cái hất đầu ra ngoài cửa sổ về phía những dãy phố gần đó. “Và rồi ông ta cũng như con cháu và những người thừa kế sau đó đã phát triển mảnh đất hoặc bán nó đi từng ít, từng ít một.”

“Chẳng lẽ Charles không hề phản bác rằng mình vô tội sao, nói với họ những chuyện đã xảy ra?”, Hanson hỏi.

Rhyme chế giễu: “Một cựu nô lệ chống lại một bộ máy Tammany Hall phản đối người da đen? Liệu nó có bao nhiêu phần thành công? Hon nữa, ông ấy đã giết gã đàn ông trong quán rượu”.

“Vậy ông ta là kẻ giết người”, Cole lập tức chỉ ra.

“Tất nhiên là không”, Rhyme đáp lời luôn, “Ông ấy cần gã Winskinskie sống - để chứng minh rằng mình vô tội. Cái chết của hắn là vì tự vệ. Nhưng Charles không có lựa chọn nào ngoài việc che giấu cái xác và giấu giếm vụ nổ súng. Nếu họ tìm ra, ông ấy sẽ bị treo cổ.”

Hanson lắc đầu. “Chỉ có một điều chả có ý nghĩa gì cả: Tại sao việc ông Hiram Sanford làm từ rất lâu rồi lại có thể ảnh hưởng tới Bill Ashberry? Cứ cho đó là một hình thức quảng bá tồi tệ đi - một nhà sáng lập ngân hàng lấy trộm tài sản cùa một cựu nô lệ? Đó sẽ là mười phút xấu xí trên bản tin buổi tối. Nhưng thẳng thắn các trợ lý có thể giải quyết những vấn đề kiểu như vậy. Nó không đáng để giết một ai đó vì điều này.”

“À”, Rhyme gật đầu. “Một câu hỏi rất hay... Chúng tôi đã làm một nghiên cứu. Ashberry chịu trách nhiệm cho bộ phận Bất động sản của các ông, đúng không?”

“Đúng vậy.”

“Nhưng nếu bộ phận này sụp đổ thì ông ta sẽ mất công việc và hầu hết tài sản đúng không?”

“Tôi nghĩ vậy. Nhưng tại sao mà nó có thể sụp đổ chứ? Đó là bộ phận mang lại phần lớn lợi nhuận cho chúng tôi.”

Rhyme nhìn vào Wesley Goades. “Đến lượt anh.”

Vị luật sư nhìn lướt qua những người ngồi bên kia bàn, rồi lại nhìn xuống, ông ta đơn giản không thể giữ ánh mắt. Cũng như việc ông ta bị đuối lý, bị cuốn theo những lời giải thích được nhấn mạnh cùa Rhyme - và thỉnh thoảng anh hay đi lạc đề một chút. Anh nói một cách đơn giản: “Chúng tôi ở đây để thông báo với các ông rằng quý cô Settle đây có ý định lập hồ sơ kiện ngân hàng quý vị để lấy lại những mất mát của cô ấy”.

Hanson cau mày và nhìn Cole, người đang nhìn họ với ánh mắt cảm thông. “Dựa trên những gì các vị nói với chúng tôi, đưa ra những cáo buộc có hại cho ngân hàng về việc gây ra những khó khăn về mặt tinh thần hẳn là sẽ không mang lại kết quả gì đâu. Các vị biết đấy, vấn đề là Ashberry hành động một mình, không phải với vai trò một lãnh đạo ngân hàng. Chúng tôi không chịu trách nhiệm cho những hành động của ông ta.” Nhìn vào Goades, mà ông ta thì có thể hoặc không nhún nhường lắm. “Như vị luật sư ở đây sẽ nói cho các anh.”

Hanson cũng nhanh chóng nói thêm với Geneva rằng: “Nhưng, chúng ta thực sự hiểu những gì mà cháu đã trải qua”, Stella Tumer gật đầu. Họ có vẻ như muốn nói điều này một cách rất thành thật: “Ta nghĩ cháu sẽ cảm thấy chúng ta khá rộng rãi”.

Luật sư thấy cần thiết phải thêm vào: “Một cách hợp lý”.

Rhyme quan sát vị chủ tịch ngân hàng một cách kỹ lưỡng. Gregory Hanson có vẻ khá tốt bụng. Trẻ hơn so với tuổi năm mươi, một nụ cười phóng khoáng. Hẳn là típ người sinh ra để làm một doanh nhân - kiểu ông chủ tốt bụng và là người đàn ông của gia đình, thực hiện công việc một cách xuất sắc, làm việc hàng giờ cho những cổ đông, đi máy bay với ghế thường bằng từng xu của công ty, nhớ sinh nhật của nhân viên mình.

Nhà tội phạm học hầu như cảm thấy tồi tệ về những gì sắp diễn ra.

Tuy nhiên, Wesley Goades không hề tỏ ra một chút thương xót với những gì anh ta nói: “Thưa ngài Hanson, sự mất mát mà chúng ta đang nói đến ở đây không phải là vụ việc một cán bộ của các ngài cố gắng giết hại quý cô Geneva Settle - theo cách mà chúng ta gọi cho sự việc ở đây - không phải là ‘nỗi đau tinh thần’”. Không, vụ tố tụng của cô ấy là trên danh nghĩa những người thừa kế hợp pháp của ông Charles Singleton, để lấy lại tài sản đã bị lấy trộm bởi Hiram Sanford, cũng như những thiệt hại về tiền bạc…”

“Đợi đã”, vị chủ tịch thều thào, nở nụ cười yếu ớt.

"... những thiệt hại tương đương với khoản thuê và những lợi ích mà ngân hàng của các ngài đã có được từ tài sản đó từ ngày tòa án chuyển giao tên chủ sở hữu.” Ông ta nhìn vào một mẩu giấy: “Đó là ngày mùng 4 tháng 8 năm 1868. số tiền sẽ được đưa vào một quỹ vì lợi ích của tất cả con cháu của ông Charles Singleton, với việc sử dụng, phân chia sẽ được giám sát bởi tòa án. Chúng tôi vẫn chưa có con số cụ thể.” Cuối cùng Goades ngước lên nhìn vào mắt Hanson. “Nhưng chúng tôi ước tính một cách dè dặt là vào khoảng chín trăm bảy mươi triệu đôla.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 43


“Đó chính là những gì mà William Ashberry sẵn sàng giết người để giành lại”, Rhyme giải thích. “Để giữ bí mật vụ trộm tài sản của Charles. Nếu bất cứ một ai tìm ra và những người thừa kế của ông ấy đưa ra cáo buộc, nó sẽ là sự kết thúc của bộ phận bất động sản và thậm chí có thể đưa cả ngân hàng Sanford đi tới con đường phá sản.”

“Ồ, điều này thật lố bịch”, luật sư bên kia chiếc bàn quát tháo ầm ĩ. Hai đối thủ về luật tương đồng nhau: cao và gầy, mặc dù Cole có làn da rám nắng hơn.

Rhyme cho rằng Wesley Goades không thường ra các sân tennis và golf. “Hãy nhìn quanh các người xem. Những con phố đã phát triển! Mỗi một centimet vuông đều đã được xây dựng.”

“Chúng tôi không cáo buộc gì về việc xây dựng”, Goades nói, như thể điều này đã rõ ràng. “Chúng tôi chỉ muốn quyền sở hữu mảnh đất, và số tiền thuê đáng lẽ phải được trả nhằm tôn trọng quyền sở hữu này.”

“Cho một trăm bốn mươi năm?”

“Đó không phải là vấn đề của chúng tôi, đó là khi Sanford cướp mảnh đất của Charles.”

“Nhưng phần lớn mảnh đất đã được bán đi”, Hanson nói. “Ngân hàng chỉ sở hữu hai tòa nhà trên dãy phố và tòa nhà này.”

“Chà, lẽ tự nhiên, chúng tôi sẽ tính toán để lần theo sự phát triển của mảnh đất mà ngân hàng các ông bán một cách bất hợp pháp.”

“Nhưng chúng tôi đã chuyển nhượng các phần đất hơn một trăm năm rồi.”

Goades nói với cái mặt bàn. “Tôi sẽ nói một lần nữa: Đó là vấn đề của các ông, không phải vấn đề của chúng tôi.”

“Không”, Cole ngắt lời. “Quên chuyện này đi.”

“Quý cô Settle thực sự đã có một chút kiềm chế với cáo buộc về thiệt hại của mình. Điểm đáng tranh luận được đưa ra dựa trên sự thật là nếu không có tài sản của tổ tiên cô ấy, thì ngân hàng của các ngài đã phá sản trong những năm 1860 rồi và cô ấy là người được đứng tên cho tất cả những doanh thu toàn cầu của các người. Nhưng chúng tôi không tiến tới điều đó. Cô ấy không muốn những người chủ ngân hàng hiện tại phải chịu quá nhiều.”

“Thật là rộng rãi đấy”, luật sư lầm bầm.

“Đó là quyết định của cô ấy. Tôi thì ủng hộ việc cho các anh sập tiệm luôn.”

Cole vươn người về phía trước. “Nghe này, tại sao các anh không chấp nhận sự thật đi? Các anh chẳng có vụ án nào ở đây cả. Vì một điều, thời gian hiệu lực của vụ án đã hết rồi. Các anh sẽ bị đá ra khỏi tòa án.”

“Đã bao giờ anh để ý là”, Rhyme hỏi, không thể kháng cự được rằng: “Người ta thường đi tới đâu với luận điểm yếu ớt nhất của mình?... Xin thứ lỗi cho cái điều chú thích đi.”

“Còn về thời hạn hiệu lực”, Goades nói. “Chúng tôi có thể khẳng định một cách vững chắc rằng vụ án đã được trì hoãn và chúng tôi có đủ thẳm quyền để đưa vụ án vào đúng các luật lệ.”

Vị luật sư đã giải thích với Rhyme rằng trong một vài trường hợp giới hạn thời gian để đưa đơn kiện lên tòa án có thể“trì hoãn” nếu như bên bị cáo che giấu tội ác để nạn nhân không biết nó xảy ra, hoặc khi họ không có đủ khả năng để kiện, giống như khi những phiên tòa và các công tố viên hoạt động thông đồng với kẻ làm sai, chuyện đã xảy ra trong vụ án của Singleton. Goades lập lại luận điểm đó lúc này.

“Nhưng dù là Hiram Sanford làm cái gì đi chăng nữa”, viên luật sư chỉ ra. “Chẳng liên quan gì đến ông chủ của chúng tôi – chủ tịch ngân hàng.”

“Chúng tôi đã lần theo dấu vết quyền sở hữu ngân hàng theo mốc thời gian đến khi khởi đầu là ngân hàng Hiram Sanford và Trust Limited, và đó là những gì thuộc về trang trại của Singleton. Sanford sử dụng ngân hàng như một vỏ bọc. Nhưng thật không may... cho các ông.” Goades nói một cách hoan hỉ như thể một người đàn ông chưa từng cười có thể làm được.

Cole không hề có ý định chịu thua. “Chà, các anh có chứng cứ nào để nói rằng tài sản đó sẽ được để lại qua các đời con cháu trong gia đình? Cái ông Charles Singleton này có thể đã bán nó với giá năm trăm đô la trong năm 1870 và phung phí hết nó rồi.”

“Chúng tôi có các bằng chứng về việc ông ẩy muốn để lại trang trại cho các thành viên trong gia đình.” Rhyme quay sang Geneva. “Ông Charles đã nói gì?”

Cô bé chẳng cần phải nhìn vào một mẩu giấy nào cả. “Trong một lá thư gửi cho vợ, ông ấy đã nói không bao giờ muốn bán trang trại đi. Ông ấy nói, ‘Anh mong muốn mảnh đất được để lại nguyên vẹn từng mét tới con trai chúng ta và các con cháu của nó; công việc thì lúc thăng lúc trầm, thị trường tài chính thì bất ổn, nhưng Trái đất là sự vĩnh hằng của Chúa - và trang trại sẽ mang lại sự kính trọng cho gia đình của chúng ta trong con mắt của những người lúc này đây không hề tôn trọng điều đó. Đó chính là sự cứu rỗi cho con cháu chúng ta, và cho các thế hệ sau đó.’”

Hưởng thụ cảm giác của một người đội trưởng đội cổ vũ, Rhyme nói: “Hãy nghĩ xem bồi thẩm đoàn sẽ phản ứng thế nào với điều đó? Không một ai là không nhỏ lệ cho mà xem”.

Cole nghiêng người về phía Goades một cách giận dữ. “Ồ, tôi biết chuyện gì đang diễn ra ở đây. Các người đang làm cho nó nghe có vẻ như cô bé là nạn nhân vậy. Nhưng đây chỉ là tống tiền mà thôi. Giống như tất cả những gì gọi là sự bù đắp lại cho những người nô lệ trước đây mà thôi. Tôi lấy làm tiếc là ông Charles Singleton ấy là một nô lệ. Tôi lấy làm tiếc là ông ấy hay là cha của ông ấy, hay bất cứ ai đi chăng nữa, đã bị đưa đến đây ngược lại với mong muốn của người đó.” Cole vẫy vẫy cánh tay, như thể đang xua một con ong bay đi, và nhìn vào Geneva. “Chà, thưa quý cô, cách đây rất lâu rồi. Ông cố của tôi chết vì bệnh phổi do hít phải bụi than đá trong hầm mỏ. Cô không hề thấy tôi kiện công ty khai thác Than đá và Khoáng chất West Virginia, chỉ để kiếm thêm một vài đồng tiền. Các người phải vượt qua điều đó mà thôi. Chỉ là hãy tiếp tục với cuộc sống của các người. Nếu các người mất càng nhiều thời gian...”

“Khoan đã”, Hanson ngắt lời. Cả ông ta và cô thư kỷ đều nhìn chằm chằm vào vị luật sư.

Cole liếm môi rồi ngồi xuống. “Tôi xin lỗi. Ý tôi không phải như là những gì tôi nói. Tôi nói là ‘các người’ nhưng tôi không ám chỉ là…” Anh ta đang nhìn vào Wesley Goades.

Nhưng Geneva là người lên tiếng. “Thưa ông Cole, tôi cũng cảm thấy như vậy. Giống như là, tôi thực sự tin tưởng vào điều mà Frederick Douglass nói. ‘Người ta có thể không có được tất cả những gì mà họ dành công sức để làm việc vì nó trong cái thế giới này, nhưng họ chắc chắc rằng sẽ làm vì tất cả những gì họ có thể có được.’ Tôi không cần một đồng tiền rẻ mạt nào cả.”

Vị luật sư nhìn cô bé một cách ái ngại, ông ta nhìn xuống sau một khắc. Geneva thì không. Cô tiếp tục: “Tôi đã nói chuyện với cha mình về Charles. Tôi đã tìm ra một vài điều về ông ấy. Như là, ông của ông ấy đã bị bắt cóc bởi những kẻ buôn nô lệ và bị lôi đi khỏi gia đình của mình ở Yorubaland và đưa đến Virginia. Cha của Charles mất khi ông ấy bốn mươi hai tuổi vì ông chủ của ông ấy nghĩ rằng sẽ đỡ tốn tiền hơn nếu mua một nô lệ mới, trẻ hơn thay vì chữa bệnh viêm phổi cho ông ấy. Tôi cũng đã tìm ra rằng mẹ của Charles đã bị bán cho một đồn điền ở Georgia khi Charles mới mười hai tuổi và ông ấy không bao giờ gặp lại mẹ mình được nữa. Nhưng, các ngài biết gì không?” Cô hỏi một cách bình tĩnh. “Tôi không đòi một xu nào hết vì những điều đó. Không. Nó thật sự rất đơn giản thôi. Một thứ mà Charles vô cùng yêu quý đã bị cướp mất khỏi ông ấy. Và tôi sẽ làm bất cứ điều gì có thể để bảo đảm rằng tên trộm phải trả giá cho điều đó.”

Cole mấp máy môi lẩm bẩm một lời xin lỗi khác nhưng chất gen luật sư trong ông ta không cho phép ông ta từ bỏ vụ án của khách hàng, ông ta nhìn vào Hanson rồi tiếp tục: “Tôi đánh giá cao những gì cô vừa nói và chúng tôi cũng đề nghị đưa ra một chút cho những hành động của ông Ashberry. Nhưng còn về quyền với tài sản. Chúng tôi không thể đồng ý được. Chúng tôi thậm chí còn không biết các người còn có chỗ dựa pháp lý nào để đưa vụ án ra tòa. Có bằng chứng nào cho thấy được cô thực sự là dòng dõi của cái ông Charles Singleton ấy?”.

Lincoln Rhyme lướt ngón tay qua màn điều khiển cảm ứng và lái chiếc xe một cách tự tin tới gần chiếc bàn. “Liệu có phải đã đến lúc có một ai đó ở đây hỏi xem tại sao tôi lại được mang đi cùng không nhỉ?”

Im lặng.

“Tôi không hay ra ngoài lắm, mọi người có thể thấy điều đó. Vậy các người nghĩ gì, khi đưa tôi đi ra hàng chục dãy phố về phía tây?”

“Lincoln”, Thom kêu lên.

“Được rồi, được rồi, tôi sẽ đi thẳng vào vấn đề. Đưa tang vật A ra đây.”

“Tang vật nào?”, Cole hỏi.

“Tôi chỉ đang hài hước một chút. Bức thư.” Anh nhìn vào Geneva. Cô bé mở chiếc ba lô của mình và lấy ra một chiếc cặp tài liệu. Cô đặt một bản photocopy lên bàn.

Những người ngồi bên phía ngân hàng Sanford nhìn nó.

“Một trong những bức thư của Singleton?”, Hanson hỏi.

“Chữ viết thật đẹp”, Rhyme quan sát. “Điều đó khá quan trọng vào thời bấy giờ. Không giống như ngày nay, tất cả văn bản đánh máy và những mẩu giấy chép tay liến láu... Được rồi, tôi xin lỗi - không lạc đề nữa. Đây là vấn đề: Tôi có một đồng nghiệp, anh ta tên là Parker Kincaid, ở D.C., đã so sánh chữ viết tay này với tất cả những mẫu viết tay khác còn lại của Charles Singleton, bao gồm cả các tài liệu pháp lý được lưu giữ trong kho lưu trữ ở Virginia. Parker là cựu nhân viên FBI - anh ấy là một chuyên gia về chữ viết tay, các chuyên gia luôn tới khi họ có văn bản nghi vấn. Anh ấy đã thực hiện một bản phân tích chứng thực pháp lý và khẳng định rằng nó giống hệt với những bản mẫu chữ viết tay của Charles Singleton.”

“Được rồi”, Cole chấp nhận: “Đây là bức thư của ông ấy. Vậy thì sao?”.

“Geneva”, Rhyme nói: “Charles nói gì trong đó?”.

Cô bé hất đầu về phía bức thư và đọc nó một lần nữa, bằng trí nhớ của mình: “‘Đó là những giọt nước mắt - những vết ố mà em nhìn thấy trên lá thư này, em yêu - không phải là từ nỗi đau đớn mà từ sự ân hận cho nỗi khổ mà anh đã bắt chúng ta phải chịu đựng’”.

“Bức thư nguyên bản có một vài vết ố”, Rhyme giải thích. “Chúng tôi đã phân tích chúng và thu được lysozyme, lopocalin và lactoferrin - proteins, nếu các ngài quan tâm - và các enzyme cùng loại, lipid và metabolites. Những chất này, và tất nhiên cả nước nữa, tạo thành nước mắt của con người... Tiện đây, các ông có biết là thành phần cấu tạo nước mắt khác biệt rất lớn phụ thuộc vào việc nó rơi vì đau hay vì cảm xúc? Những giọt nước mắt này” - anh hất đầu về phía lá thư - “được rớt ra từ cảm xúc. Tôi có thể chứng minh điều đó. Tôi cho là bồi thẩm đoàn cũng sẽ thấy điều này thực sự cảm động.”

Cole thở dài. “Hẳn anh đã thực hiện xét nghiệm DNA trên vết ố và nó hoàn toàn khớp với DNA của quý cô Geneva Settle này.”

Rhyme nhún vai và cất lên cái từ quan trọng nhất trong ngày hôm nay: “Hiển nhiên rồi”.

Hanson nhìn Cole, ông ta đang hết nhìn lên rồi lại nhìn xuống lá thư và những ghi chú của mình. Vị chủ tịch nói với Geneva: “Một triệu đô. Tôi sẽ ký một tấm séc cho cô ngay bây giờ với một triệu đô, nếu như cô và những người giám hộ ký vào tờ Miễn trách nhiệm pháp lý về tài chính”.

Goades nói một cách lạnh lùng: “Cô Settle muốn có được sự bồi thường thiệt hại thực tế - tiền sẽ được tất cả con cháu của Charles Singleton cùng có phần, không chỉ là cho cô ấy”. Anh ta liếc sang vị chủ tịch ngân hàng. “Tôi chắc chắn ông sẽ không nói rằng số tiền ông chi trả sẽ chỉ là dành cho cô bé thôi, có thể là một sự động viên để lờ đi việc nói với những họ hàng cô bé về việc đã xảy ra.”

“Không, không, tất nhiên rồi.” Hanson nói một cách nhanh chóng. “Để tôi nói chuyện với ban lãnh đạo đã. Chúng tôi sẽ đưa ra con số bồi thường.”

Goades thu thập lại các giấy tờ và nhét chúng vào chiếc ba lô của ông ta. “Tôi sẽ hoàn thành đơn kiện trong vòng hai tuần. Nếu các ông muốn thỏa thuận một cách tự nguyện về việc mở một quỹ cho bên nguyên, các ông có thể gọi tôi theo số ở đây.” Ông đưa một tấm danh thiếp sang bên bàn.

Khi họ đang đứng ở cửa, luật sư của ngân hàng nói: “Geneva, đợi đã, làm ơn. Tôi xin lỗi vì những gì đã nói lúc trước. Thực lòng. Tôi chỉ... không phù hợp mà thôi. Tôi thực lòng cảm thấy tồi tệ vì những gì xảy ra cho cô và cho tổ tiên của cô. Và tôi thực sự có nghĩ tới quyền lợi của cô trong thâm tâm mình. Chỉ nhớ là khoản tiền bồi thường sẽ là những gì tốt nhất cho cô và người thân. Hãy để luật sư của cô cho cô biết sẽ khó khăn tới nhường nào với những vụ kiện như thế này, và nó sẽ mất bao lâu thời gian, bao nhiêu tiền.” Ông ta cười. “Hãy tin tôi. Chúng tôi ủng hộ cô.”

Geneva nhìn ông ta. Câu trả lời của cô là: “Trận chiến luôn như chúng vẫn thế. Chỉ là nhận biết được kẻ thù là ai khó hơn rất nhiều”. Cô bé quay bước về phía cửa.

Vị luật sư rõ ràng không hiểu được ý cô bé muốn nói là gì.

Rhyme cho là điều đó ít nhiều cũng đã khẳng định được quan điểm của cô.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 44


Sáng sớm ngày thứ Tư, không khí mùa thu lạnh và trong như một tảng băng trong suốt.

Geneva mới đến thăm cha mình ở bệnh viện Columbia Presbyterian và đang trên đường trở về trường trung học Langston Hughes. Cô mới hoàn thành bài viết về tác phẩm Home to Harlem. Hóa ra đó không hề là một quyển sách tồi (mặc dù cô vẫn thích viết về Octavia Butler hơn; chà, bà ấy có thể viết rất hay!) và khá hài lòng với báo cáo của mình.

Dù vậy, một điều khá là tuyệt là Geneva đã viết về nó bằng một chiếc máy đánh chữ hiệu Toshiba mà Thom đã chỉ cho cô cách sử dụng ở phòng thí nghiệm của Rhyme. Ở trường, trong số máy tính ít ỏi sử dụng được lại luôn quá tải tới mức ta không thể dùng quá mười lăm phút một máy, chứ đừng nói là một mình sử dụng nó để viết cả một bài luận. Và để tìm ra các dữ liệu nghiên cứu, tất cả những gì cô phải làm là thu nhỏ thanh công cụ WordPerfect đi và truy cập vào mạng. Một phép màu. Hơn nữa, những gì mà có thể phải mất đến hai ngày để viết, cô hoàn thành chỉ trong vài giờ đồng hồ.

Băng qua phố, cô hướng về phía đường tắt xuyên qua sân trường Tiểu học PS 288, mà chỉ mất vài phút đi từ ga tàu Đại lộ 8 tới Langston Hughes. Hàng rào bằng sắt quanh sân trường đổ bóng lên mặt đường nhựa màu nâu. Cô gái mảnh khảnh lách một cách dễ dàng qua khoảng trống ở chiếc cổng, từ rất lâu rồi đã được chêm cho đủ rộng để một cậu nhóc và một quả bóng rổ chui vừa qua nó. Vẫn còn sớm, sân trường thì vắng vẻ.

Cô còn cách hơn ba mét tới cái sân thì nghe thấy tiếng gọi cất lên từ phía bên kia hàng rào.

“Này nhóc!”

Cô dừng lại.

Lakeesha đứng trên vỉa hè, diện chiếc quần màu xanh ôm sát, một chiếc áo cánh màu cam bó sát, nổi bật bộ ngực căng tròn, cặp sách lủng lẳng, các búi tóc và đồ trang sức lấp lánh dưới ánh mặt trời. Khuôn mặt cô vẫn toát ra vẻ ủ rũ giống như khi Geneva nhìn thấy tuần trước, khi cái mụ Frazier khốn nạn ấy cố gắng giết Geneva và cha cô bé. “Này, nhóc, cậu đã ở đâu vậy?”

Keesh nhìn ra ngoài một cách đầy nghi hoặc vào khoảng trống ở chỗ sợi xích; cô không bao giờ vừa để chui qua. “Lại đây nào.”

“Gặp ở trường đi.”

“Lúc này, tớ chỉ muốn nói chuyện giữa hai đứa thôi.”

Geneva ngập ngừng. Biểu lộ trên mặt người bạn nói ch

o cô biết rằng điều này quan trọng. Cô lách qua cánh cổng và bước tới phía người bạn to lớn. Họ bước đi chậm rãi, sát cạnh nhau.

“Cậu đã đi đâu vậy Keesh?”, Geneva cau mày. “Cậu bỏ học.”

“Mình cảm thấy không được tốt lắm.”

“Đến tháng à?”

“Không, không phải thế. Mẹ tớ gửi một bức thư.” Lakeesha nhìn quanh. “Cái gã kỳ lạ với cậu ngày hôm trước là ai thế?”

Cô mở miệng định nói dối nhưng thay vì thế lại nói: “Cha tớ đấy”.

“Không!”

“Thật”, Geneva nói.

“Ông ấy đang sống ở Chiago, hoặc gì đó. Cậu nói thể mà.”

“Mẹ tớ đã nói dối. Ông ấy đã vào tù. Ông ấy được thả ra một vài tháng trước, và đến đây tìm tớ.”

“Bây giờ ông ấy ở đâu?”

“Trong bệnh viện, ông ấy bị thương.”

“Bị đánh à?”

“Ừ. Nhưng ông ấy sẽ ổn thôi.”

“Cậu và ông ấy? Cậu vui chứ?”

“Có thể. Khó mà biết được ông ấy.”

“Chà, ông ấy đột nhiên xuất hiện - quả là một việc bất ngờ.”

“Đúng thế.”

Cuối cùng, cô gái to lớn bước chầm chậm. Rồi dừng lại. Geneva nhìn vào đôi mắt tránh né của bạn mình và nhìn thấy tay cô ấy biến mất vào trong túi, cầm lấy một cái gì đó.

Một sự do dự.

“Gì vậy?”, Geneva hỏi.

“Đây”, cô gái thì thầm thật nhanh, đưa tay lên và lao nó về phía trước. Trong những ngón tay của cô ấy, mà đầu ngón tay được sơn màu kẻ ca rô trắng đên, là một chiếc vòng bạc, một hình trái tim ở cuối sợi dây.

“Đó là...”, Geneva bắt đầu.

“Quà sinh nhật của cậu cho tớ tháng trước.”

“Cậu trả lại nó?”

“Tớ không thể giữ nó được, Gen. Dù sao thì cậu vẫn cần tiền. Cậu có thể mang nó đi cầm.”

“Đừng kỳ cục thế nào. Cứ như là những lời của Tiffany vậy.”

Những giọt nước mắt đang ngân ngấn bên trong đôi mắt của cô gái to lớn, phần đẹp nhất trên khuôn mặt cô. Tay cô chùng xuống. “Tuần sau tớ sẽ đi.”

“Đi? Đi đâu?”

“BK.”

“Brooklyn? Cả nhà ư? Với hai đứa sinh đôi?”

“Chúng nó sẽ không đi. Không ai trong nhà đi cả.” Đôi mắt cô bé quét xuống vỉa hè.

“Thế thì là chuyện gì vậy, Keesh?”

“Tớ sẽ kể cho cậu nghe chuyện gì đang xảy ra.”

“Tớ không hứng thú với kịch lắm”, Geneva ngắt lời. “Cậu đang nói gì vậy nào?”

“Kevin”, Lakeesha nói với một giọng sụt sịt.

“Kevin Cheany?”

Keesh gật đầu. “Tớ xin lỗi, Geneva. Chúng tớ yêu nhau rồi. Cậu ấy có chỗ ở tại đó. Tớ sẽ đi với cậu ấy.”

Cô ấy gật đầu. “Nghe nè, tớ không muốn điều đó xảy ra nhưng nó đã xảy ra rồi. Cậu phải hiểu cho tớ. Chúng tớ có tình yêu, cậu ấy và tớ. Nó không giống với những gì mà tớ từng cảm thấy. Tớ biết là cậu cũng thích cậu ấy. Cậu nói về cậu ấy suốt, nhìn cậu ấy hằng ngày. Cậu đã hạnh phúc biết bao khi được cậu ấy đưa về nhà. Tớ biết tất cả những điều đó và vẫn xen vào. Ồ, tớ đã rất lo lắng, nghĩ tới việc phải nói cho cậu điều này.”

Geneva cảm thấy ớn lạnh, nhưng không hề liên quan tới tình cảm của cô dành cho Kevin, thứ đã biến mất ngay giây phút cậu ta lộ rõ bản chất của mình trong lớp học toán. Cô hỏi: “Cậu có bầu rồi, phải không?”.

Cảm thấy không tốt lắm...

Keesh cúi gằm xuống và nhìn chằm chằm vào chiếc dây lủng lẳng.

Geneva nhắm mắt lại một chút. Rồi cô hỏi: “Bao lâu rồi?”.

“Hai tháng.”

“Cậu cần phải có một bác sĩ ngay. Chúng ta sẽ tới một phòng khám tư, cậu và tớ. Tớ sẽ…”

Người bạn gái cau mày. “Tại sao tớ làm thế? Cứ như là tớ dựa vào đứa bé để bắt cậu ấy. Cậu ấy nói sẽ dùng bao nếu tớ nói thế nhưng cậu ấy thực sự muốn có con với tớ. Cậu ấy nói nó giống như là một phần của cả hai đứa.”

“Đó là lời nói dối, Keesh. Cậu ta đang lợi dụng cậu đấy.”

Bạn của cô nhìn chằm chằm, “Ồ, thật là hay đấy.”

“Không, đó là sự thật. Cậu ta đang đóng kịch thôi. Cậu ta đang lợi dụng cậu đấy.” Geneva đã tự hỏi xem liệu cậu ta muốn gì từ cô ấy. Nó không thể là điểm chác được, không phải với trường hợp của Keesh. Có lẽ là tiền. Mọi người trong trường đều biết cô ấy làm việc nặng nhọc với hai công việc và dành dụm những gì mình kiếm được. Cha mẹ của cô ấy cũng có thu nhập. Mẹ của cô ấy đã từng làm việc ở Dịch vụ Bưu chính nhiều năm; cha thì làm việc cho kênh truyền thông CBSvà cứ cách một đêm thì lại làm cho khách sạn Sheraton. Em trai của cô ấy cũng có công viêc. Kevin hẳn đã để ý tới số tiền của cả gia đình vất vả dành dụm.

“Cậu có đưa cho cậu ta vay chút tiền nào không thế?”, Geneva hỏi.

Cô bạn cúi xuống. Không nói gì cả. Có nghĩa là có. “Chúng ta có thỏa thuận, cậu và tớ. Chúng ta sẽ tốt nghiệp, và vào đại học.”

Lakeesha lau những giọt nước mắt trên khuôn mặt tròn xinh cùa mình với bàn tay mũm mĩm. “Ồ, Geneva, với cậu là chuyện nhỏ. Cậu đang sống trên hành tinh nào vậy? Chúng ta nói chuyện, cậu và tớ, về trường đại học và những công việc tuyệt vời đầy màu sắc nhưng với tớ, chỉ là nói chuyện mà thôi. Cậu viết những bài luận như chẳng có gì và tham gia các kỳ kiểm tra và trở thành số một trên mọi môn học. Cậu biết thừa là tớ không được như vậy.”

“Cậu cũng sẽ trở thành một người thành công, với công việc kinh doanh của mình. Nhớ không nào? Tớ có thể sẽ trở thành một giáo sư nghèo khổ ở một nơi nào đó, ăn cá ngừ đóng hộp và bánh Cheerios cho bữa tối. Cậu là người duy nhất sẽ thực sự trở nên tuyệt vời. Cửa hàng của cậu sẽ thế nào? Chương trình TV của cậu? Câu lạc bộ của cậu?”

Keesh lắc đầu, những búi tóc đung đưa. “Chết tiệt, nhóc, đó là những lời của cậu. Tớ sẽ không đi đâu cả. Những gì tốt nhất tớ có thể hy vọng là những gì tớ đang làm lúc này - phục vụ salad và burger ở T.G.I vào các ngày thứ Sáu. Hoặc tết tóc và làm các phụ kiện nối tóc cho đến khi chúng lỗi mốt. Mà cậu bảo với tớ là nó có thể là sáu tháng.”

Geneva mỉm cười một cách yếu ớt. “Chúng ta vẫn thường nói là kiểu đầu xù sẽ quay trở lại cơ mà.”

Keesh cười. “Đúng thế. Tất cả những gì mà cậu cần cho kiểu đầu đấy là một cái lược và lọ xịt tóc; chả cần đến nhà tạo mẫu nghiệp dư như tớ.” Cô xoay những lọn tóc giả màu vàng quanh ngón tay mình rồi hạ thấp tay xuống, nụ cười nhạt nhòa đi trên khuôn mặt. “Kết cục của chính mình sẽ như là một chiếc túi cũ nát đã hết giá trị sử dụng. Chỉ có một cách để tớ vượt qua là có một người đàn ông bên cạnh.”

“Giờ thì ai đang tự nói xấu về cô ấy vậy? Kevin đã cho cậu ăn cái quỷ quái gì vậy? Cậu chưa bao giờ nói chuyện kiểu này cả.”

“Cậu ấy chăm sóc cho tớ. Cậu ấy đang tìm kiếm một công việc và hứa với tớ sẽ chăm sóc đứa bé. Cậu ấy khác. Cậu ấy không giống như những thằng nhóc vẫn chơi bời cùng.”

“Đúng, cậu ta như vậy. Cậu không thể từ bỏ, Keesh. Đừng làm điều đó! Ít nhất cũng phải ở lại trường. Cậu thực sự muốn đứa bé, được thôi, nhưng hãy ở lại trường. Cậu có thể

“Cậu không phải là mẹ tớ, nhóc.” Keesh ngắt lời. “Tớ biết mình phải làm gì.” Nỗi tức giận lóe lên trong đôi mắt cô bé - hơn tất cả nỗi đau tan nát trong trái tim bởi nó rất giống với sự tức giận hiện lên trên khuôn mặt tròn trịa của cô gái khi bước lên bảo vệ Geneva khỏi những đứa con gái của trường Delano hay St. Nicholas săn đuổi cô bé trên phố.

Đẩy nó, đánh nó đi, đánh chết con chó cái...

Rồi Keesh sụt sùi nói: “Điều mà cậu ấy nói với tớ là, tớ không thể chơi với cậu được nữa”.

“Cậu không thể...”

“Kevin nói cậu đã đối xử không tốt với cậu ấy ở trường.”

“Đối xử không tốt?” Một tiếng cười lạnh lùng. “Cậu ta muốn tớ giúp cậu ta gian lận. Tớ nói không.”

“Tớ nói với cậu ấy rằng đó là điều vớ vẩn, cái điều cậu ấy nói, tớ và cậu đã trở nên thân thiết và mọi điều. Nhưng cậu ấy không hề nghe. Cậu ấy nói tớ không thể gặp cậu thêm được nữa.”

“Vậy cậu chọn cậu ta?”, Geneva nói.

“Tớ không có lựa chọn.” Cô gái to lớn nhìn xuống dưới. “Tớ không thể lấy bất cứ món quà nào từ cậu. Đây.” Cô dúi chiếc vòng cổ vào tay Geneva và thả nó ra thật nhanh, như thể đang bỏ một chiếc chảo nóng bỏng. Nó rơi xuống cái vỉa hè bẩn thỉu.

“Đừng làm thế Keesh. Làm ơn mà!”

Geneva cố tóm lại nhưng những ngón tay của cô chỉ nắm được cái không khí lạnh mùa thu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 45


Mười ngày sau cuộc họp với chủ tịch ngân hàng Sanford Gregory Hanson và luật sư của ông, Lincoln Rhyme đang có một cuộc trò chuyện qua điện thoại với chàng trai trẻ Ron Pulaski, vẫn đang được nghỉ để chữa trị nhưng sẽ trở lại công việc trong khoảng một tháng. Ký ức đã quay lại và cậu ấy đang giúp họ củng cố vụ án chống lại Thompson Boyd.“Vậy anh sẽ đi đến bữa tiệc lễ Halloween chứ?”, Pulaski hỏi. Rồi dừng lại và nói thật nhanh: “Hay gì cũng được”. Hai từ cuối cùng để lấp liếm sự lỡ lời do việc gợi ý cho một người tàn tật hoàn toàn nên tham gia các buổi tiệc.

Nhưng Rhyme đã khiến cậu ta cảm thấy thoải mái hơn khi nói: “Tất nhiên là tôi sẽ đến. Giống như Glenn Cuimingham”.

Sachs bụm miệng cười.

“Thật chứ?”, chàng cảnh sát trẻ nói. “Ừm, chính xác thì đó là ai vậy?”

“Tại sao cậu không tra cứu đi, chàng cảnh sát?”

“Vâng, thưa ngài. Tôi sẽ làm.”

Rhyme ngắt máy và nhìn vào tấm bảng bằng chứng, ở trên cùng được dán lá bài thứ mười hai, Người treo ngược.

Anh nhìn chằm chằm vào lá bài cho đến lúc chuông cửa reo.

Hẳn là Lon Sellito. Anh được về sớm sau thời gian chữa trị. Anh ấy cũng đã không còn chà cái vệt máu vô hình và đang tập luyện vẽ nhanh hình nhóc Billy - mà vẫn chưa có ai giải thích cho Rhyme. Anh đã thử hỏi Sachs về điều đó nhưng cô không thể, hoặc sẽ không nói nhiều. Như thế cũng tốt. Đôi khi, Rhyme tin tưởng một cách kiên định rằng, ta chỉ đơn giản không cần phải biết hết mọi tình tiết.

Nhưng hóa ra, người khách đến lúc này, không phải là vị thanh tra nhàu nhĩ.

Rhyme nhìn ra cửa và thấy Geneva Settle đang đứng ở đó, nghiêng người dựa vào chiếc cặp sách. “Mời vào”, anh nói.

Sachs chào và bỏ chiếc kính bảo vệ đang đeo từ lúc phải điền vào các bản chứng thực bằng chứng hợp pháp cho các mẫu máu lấy được từ hiện trường vụ án mạng buổi sáng hôm đó.

Wesley Goades đã có đầy đue các giấy tờ và thủ tục pháp lý cần thiết để lập hồ sơ vụ kiện chống lại ngân hàng Sanford đồng thời báo cho Geneva rằng cô có thể yên tâm chờ một lời đề nghị thực tế hơn từ Hanson vào ngày thứ Hai. Nếu không, t

hì vị luật sư ‘tên lửa hành trình pháp lý’ cảnh báo đối thủ của mình rằng ông ta sẽ đưa hồ sơ kiện lên tòa án ngay ngày hôm sau. Một buổi họp báo sẽ đi kèm theo với sự kiện (Ý kiến của Goades là một sự quảng bá rầm rộ về những điều xấu sẽ tồn tại lâu đáng kể hơn so với ‘mười phút xấu xí’).

Rhyme nh. Một chiếc áo ấm không hợp thời làm cho cả một tay xã hội đen cũng phải đổ mồ hôi và chiếc mũ trùm trở nên không phù hợp, cô bé mặc một chiếc quần jeans màu xanh và chiếc áo phông không tay với dòng chữ Guess! lấp lánh chạy ngang trên ngực. Nhìn cô bé béo hơn một chút, tóc dài hơn. Cô thậm chí còn trang điểm chút ít (Rhyme đã tự hỏi cái gì ở trong chiếc túi mà Thom đã đưa cho cô một cách đầy bí mật vào ngày hôm đó). Nhìn cô bé khá ổn.

Cuộc sống cùa Geneva đã có được sự ổn định nhất định. Jax Jackson đã được ra viện và đang chạy vật lý trị liệu. Nhờ có sự tác động từ Sellito, anh ta đã chính thức thuộc sự quản lý của cơ quan chức trách ở New York. Geneva đang sống trong căn hộ nhỏ của Thom ở Harlem, một sự thỏa thuận không đến nỗi khốc liệt như cô dự đoán (cô bé đã thừa nhận là không phải vì Rhyme hay Roland Bell mà là vì Thom - người đã giúp đỡ và mời cô bé đến ngôi nhà của mình thường xuyên để dạy nấu ăn, xem TV, tranh cãi về sách vở và chính trị, không

có gì trong số này mà Rhyme thấy thích thú cả). Ngay khi họ có thể tậu được một căn nhà lớn hơn, cô và cha của mình sẽ mời bà cô Lilly đến ở cùng họ.

Cô bé đã bỏ công việc ở chỗ McHash và được về làm việc cùng với Wesley Goades với vai trò một người nghiên cứu và trợ lý hợp pháp. Cô cũng giúp ông dựng quỹ Charles Singleton, sẽ đưa tiền bồi thường tới những người thừa kế của người cựu nô lệ. Sự mong muốn rời khỏi thành phố ngay cơ hội đầu tiên để sống ở London hoặc Rome không hề giảm đi, nhưng những vụ việc mà Rhyme nghe lỏm được khi cô nói một cách say mê về tất cả những gì có vẻ như liên quan đến người dân của Harlem, những người đã bị phân biệt đối xử bởi họ là người da đen, người Mỹ Latin, theo đạo Hồi, phụ nữ hay người nghèo.

Geneva cũng tham gia vào một vài kế hoạch mà cô cho đó là “cứu lấy bạn gái của mình”, cũng không đề cập đến với anh; người cố vấn đưa ra lời khuyên cho sự nỗ lực đặc biệt này có vẻ như là Amelia Sachs.

“Cháu muốn cho chú xem một thứ.” Cô bé giơ lên một tờ giấy ngả vàng có chứa một vài đoạn văn bằng chữ viết tay mà Rhyme ngay lập tức nhận ra đó là của Charles Singleton.

“Một lá thư khác à?”, Sachs hỏi.

Geneva gật đầu. Cô đang cầm lá thư một cách rất cẩn thận.

“Bà Lilly nghe từ một người họ hàng của nhà cháu ở Madison. Ông ấy gửi tới một vài thứ mà ông ấy tìm thấy trong tầng hầm nhà mình. Một cái đánh dấu trang của Charles, một cặp kính. Và hàng tá những lá thư khác. Đây là l muốn đưa cho chú xem.” Với đôi mắt tươi cười rạng rỡ, cô nói thêm: “Nó được viết vào năm 1875, sau khi ông ấy ra tù”.

“Hãy xem nào”, Rhyme nói.

Sachs đưa lá thư vào máy scan và một lát sau bức ảnh đã xuất hiện trên vài màn hình máy tính quanh phòng thí nghiệm. Sachs bước tới bên cạnh Rhyme, đưa tay ôm vòng quanh vai anh. Họ nhìn vào màn hình.

Violet yêu thương của anh,

Anh tin rằng em đang tận hưởng cuộc sống bên cạnh chị gái mình, Joshua và Elizabeth thì vui thích được chơi đùa cùng anh chị em họ của chúng nó. Nhóc Frederick - mới chín tuổi khi anh nhìn thấy nó lần gần đây nhất - giờ đã cao bằng bố của nó, quả là một điều mà anh khó có thể tưởng tượng được.

Tất cả đều ổn trong căn nhà của chúng ta, anh rất vui được báo với em điều đó. James và anh cắt băng trên bờ sông vào các buổi sáng và xây ngôi nhà băng, rồi đổ mùn gỗ lên đó. Sau đó bọn anh đi lên phía bắc dòng sông gần bốn cây số, qua những đống tuyết to lớn để nhìn vườn cây đang được rao bán. Giá thì đắt nhưng anh tin rằng người bán sẽ đáp lại một cách thân thiện với lời đề nghị hoàn giá của anh. Ông ta thực sự nghi ngờ việc bán cho một người da đen, nhưng khi anh hé lộ ra rằng mình có thể trả ông ta bằng những đồng tiền xanh, sự lo ngại của ông ẩy hoàn toàn biến mất.

Trả bằng tiền mặt quả là một cách tốt.

Em có hồ hởi giống như anh không khi đọc về Luật Quyền dân sự có hiệu lực ngày hôm qua? Em có thấy những điểm nổi bật không? Luật bảo đảm cho tất cả mọi người với mọi màu da có quyền bình đẳng ở tất cả các nhà trọ, các phương tiện vận chuyển công cộng, nhà hát và những thứ như vậy. Quả là một ngày quan trọng cho Sự nghiệp của chúng ta! Đây chính là sự ban hành luật mà anh trao đổi với Charles Sunner và Benjamin Butler suốt năm ngoái, và anh tin rằng một vài ý tưởng của anh đã giúp họ trong văn bản quan trọng này.

Em có thể tưởng tượng rằng, cái tin này mang lại cho anh lý do để phải suy nghĩ, nghĩ lại những sự kiện khủng khiếp trong bảy năm qua, bị cướp đi vườn cây của chúng ta ờ Galloxv Heights và bị nhét vào ngục trong những điều kiện khốn cùng.

Và giờ đậy, suy tưởng về tin này từ Washington

D.c. khi anh đang ngồi trước ngọn lửa trong ngôi nhà của chúng ta, anh cảm thấy như những ký ức khủng khiếp ấy tất cả đến từ một thế giới hoàn toàn khác. Phần lớn giống hệt với những ngày chiến tranh đẫm máu ở Cuộc chiến hoặc những năm tháng khốn khó bị làm nô lệ khổ sai ở Virginia vẫn luôn hiện ra trong ký ức nhưng - bằng một cách nào đó - cũng sẽ biến mất như những hình ảnh lộn xộn trong một cơn ác mộng khó nhớ.

Có lẽ tận sâu trong trái tim của chúng ta có một chỗ giấu cho cả nỗi buồn chán và hy vọng, và khi chỗ sâu thẳm ấy được lấp đầy bởi một thứ, thì điều còn lại sẽ không hề ở trong đó mà chỉ là ký ức mờ ảo không rõ ràng của cái còn lại. Và đêm nay trái tim anh được lấp đầy hy vọng.

Em hãy nhớ lại xem, trong nhiều năm trời anh thề nguyện rằng mình sẽ làm bất cứ gì có thể để xóa đi nỗi nhục bị coi như là ba phần năm một con người. Khi nhìn thấy ánh mắt mà anh vẫn nhận được, bởi vì màu da của anh, và hành động của những người khác đối với anh và những người như chúng ta, anh nghĩ rằng mình vẫn chưa được nhìn như một con người toàn diện. Nhưng anh dám nói rằng chúng ta đang tiến tới vị trí mà anh được nhìn nhận như chín phần mười một con người (James cười một cách đầy sảng khoái khi anh nói với anh ấy điều này trong bữa ăn nhẹ tối nay), và anh tiếp tục có niềm tin rằng chúng ta sẽ được nhìn nhận như một con người đầy đủ trong suốt cuộc đời mình, hoặc, ít nhất là trong cuộc đời của Joshua và Elizabeth.

Lúc này đây, tình yêu của anh, anh phải nói tạm biệt với em rồi và chuẩn bị bài học cho sinh viên của anh ngày mai.

Chúc em và các con ngủ ngon và những giấc mơ ngọt ngào, em yêu. Anh sống vì ngày em quay về. Charles của em

Đã sửa bởi nguyennguyen lúc 09.03.2015, 21:57.

Croton on Hudson,

Mùng 2 tháng 3 năm 1875

Rhyme nói: “Nghe như là Douglass và những người khác đã tha thứ cho ông ấy vì tội cướp tài sản. Hoặc quyết định tin rằng ông ấy không hề làm điều đó”.

Sachs hỏi: “Ông ấy đang nói đến luật nào ấy nhỉ?”.

“Bộ luật Dân quyền năm 1875”, Geneva nói. “Nó cấm sự phân biệt chủng tộc tại các khách sạn, nhà hàng, tàu, rạp hát - bất cứ một nơi công cộng nào”. Cô bé lắc lắc đầu mình. “Dù vậy, nó không tồn tại lâu. Tòa án Tối cao đã gỡ bỏ nó trong những năm 1880 vì trái với hiến pháp. Không có một phần nhỏ nào của các quyền dân sự trong lập pháp liên bang được ban hành sau đó trong vòng hơn năm mươi năm.”

Sachs trầm ngâm: “Tôi tự hỏi liệu Charles có sống lâu để biết rằng cái luật ấy đã bị bỏ xuống, ông ấy hẳn là sẽ không thích điều đó”.

Nhún vai, Geneva đáp lời: “Cháu không nghĩ rằng nó là vấn đề. Ông ấy sẽ nghĩ tới điều đó như là một khó khăn tạm thời”.

“Niềm hy vọng đẩy lùi nỗi đau”, Rhyme nói.

“Đúng vậy”, Geneva nói. Rồi cô nhìn vào chiếc đồng hồ Swatch cũ kỹ của mình. “Cháu cần phải quay lại làm việc. Chỗ ông Wesley Goades... Cháu phải nói là, ông ấy thật kỳ quặc. Không bao giờ cười, không bao giờ nhìn vào mình... Và, rõ là, đôi khi chúng ta có thể tỉa bớt râu cơ mà.”

Nằm trên giường đêm hôm đó, trong căn phòng tối, Rhyme và Sachs đang ngắm mặt trăng, cái lưỡi liềm thật mảnh, đúng ra nó phải là màu trắng lạnh nhưng qua bầu khí quyển, nó vàng rực như mặt trời.

Đôi khi, vào những khoảnh khắc như thế này, họ nói chuyện, đôi khi không. Đêm nay họ yên lặng.

Có chuyển động nhỏ ở rìa bên ngoài cửa sổ - từ những con chim cắt làm tổ ở đó. Một cặp chim trống và mái với hai con chim non mới ra ràng. Có lúc đột ngột một người khách đến thăm Rhyme có thể nhìn vào cái tổ và hỏi liệu không biết chúng có tên không.

“Chúng tôi có một thỏa thuận”, anh lầm bầm. “Chúng không đặt tên tôi. Tôi không đặt tên chúng.” Đầu của con chim cắt ngẩng lên và nhìn sang bên, cắt qua tầm nhìn của họ tới mặt trăng. Chuyển động và mặt cắt của con chim cho thấy một vài lý do, sự thông thái, cả nguy hiểm nữa - những con chim ưng trưởng thành không có kẻ thù ăn thịt trong tự nhiên và chúng tấn công con mồi từ trên cao với tốc độ lên tới hơn ba trăm kilômet một giờ. Nhưng lúc này con chim đang cúi xuống hiền lành và đứng yên. Các sinh vật đều làm việc vào ban ngày và ngủ vào ban đêm.

“Đang nghĩ gì à?”, Sachs hòi.

“Hãy đi nghe nhạc ngày mai. Có một buổi biểu diễn hoặc bất cứ gì mà em gọi là một buổi hòa nhạc chiều, ở Lincoln Center.”

“Ai chơi?”

“The Beatles, anh nghĩ thế. Hoặc Elton John và Maria Callas cùng diễn. Anh không quan tâm lắm. Anh thực sự chỉ muốn làm bẽ mặt mọi người bằng việc lăn chiếc xe về phía họ... Quan điểm của anh là vấn đề không phải là ai đang chơi. Anh muốn đứng dậy. Điều đó không thường xuyên xảy ra, em biết đấy.”

biết.” Sachs nghiêng người và hôn anh. “Chắc chắn rồi, hãy đi.”

Anh xoay đầu mình và hôn lên tóc cô. Cô chùng xuống dựa vào anh. Rhyme nắm chặt những ngón tay quanh bàn tay cô.

Cô nắm lại.

“Anh biết chúng ta có thể làm gì không?”, Sachs hỏi, có một chút gợi ý trong giọng nói. “Hãy lén mang vào một chút rượu và đồ ăn. Patê và bơ. Bánh mỳ Pháp.”

“Em có thể mua đồ ăn ở đó. Anh nhớ thế. Nhưng rượu scotch thì thật là khủng khiếp. Và nó tốn kha khá tiền. Chúng ta có thể làm là...”

“Rhyme!”, Sachs ngồi thẳng dậy trên giường, nói.

“Có chuyện gì vậy?”, anh hỏi.

“Anh đã làm gì?”

“Anh đang đồng ý rằng chúng ta sẽ lén đưa một ít đồ ăn vào...”

“Đừng có chối vòng quanh.” Sachs lần mò công tắc bật đên, nhấn nó. Trong chiếc quần đùi lụa màu đen và áo phông màu nâu, tóc hất lệch sang một bên, và đôi mắt mở to, nhìn cô giống như một sinh viên đại học mới chợt nhớ ra là mình có một bài kiểm tra vào tám giờ sáng ngày hôm sau.

Rhyme nheo mắt khi nhìn vào ánh sáng. “Thật là chói mắt quá. Có cần phải bật đèn không?”

Cô đang nhìn chằm chằm vào cái giường.

“Tay... tay của anh. Anh cử động nó.”

“Anh nghĩ là mình đã làm thế.”

“Tay phải của anh! Anh chưa bao giờ có cử động nào ở bàn tay phải cả.”

“Buồn cười, đúng không?”

“Anh đã trì hoãn bài kiểm tra, nhưng anh đã biết là mình có thể làm điều đó rồi?”

“Anh không hề biết là mình có thể. Cho đến lúc này. Anh đã không định thử - anh sợ là nó không có kết quả. Nên anh đang định bỏ tất cả các bài tập, ngừng lo lắng về nó.” Anh nhún vai. “Nhưng anh đã thay đổi quyết định. Anh muốn thử. Nhưng chỉ giữa chúng ta, không có máy móc hay bác sĩ nào xung quanh

Không phải một mình anh nữa, Rhyme thêm vào, dù không nói ra.

“Và anh không nói với em!”, cô ôm chầm lấy cánh tay anh.

“Anh không cảm thấy điều đó.”

Họ cười.

“Thật là kinh ngạc, Rhyme”, cô thì thầm và ôm anh thật chặt. “Anh đã làm được. Anh đã thật sự làm được.”

“Anh sẽ thử lại lần nữa”, Rhyme nhìn Sachs, rồi nhìn vào bàn tay mình.

Anh dừng lại một chút, rồi chuyển đi một luồng năng lượng từ tâm trí xuyên qua các dây thần kinh tới bàn tay phải của mình. Mỗi ngón tay nắm lại một chút. Và rồi, một cách vụng về giống như là một chú ngựa non mới đẻ, bàn tay của anh xoay qua nếp gấp sâu năm centimet của chăn mà như vượt qua miệng vực Grand Canyon[1] và đặt xuống một cách vững chắc lên cổ tay của Sachs. Anh nắm ngón cái và ngón trỏ quanh cổ tay cô.

[1] Một khe núi dốc được tạo ra bởi sông Colorado Arizona. Dài 446 km, rộng từ 0,4 - 24 km và sâu hơn 1,6 km.

Những giọt nước trong đôi mắt, cô cười với niềm vui sướng.

“Như thế thì sao nào”, anh nói.

“Vậy anh sẽ vẫn tiếp tục luyện tập?”

Anh gật đầu.

“Chúng ta sẽ tham gia bài kiểm tra với bác sĩ Sherman chứ?”, cô hỏi.

“Anh cho rằng ta có thể. Trừ khi có một điều gì khác xảy ra. Gần đây chúng ta đã quá bận rộn.”

“Chúng ta sẽ lên lịch cuộc kiểm tra”, cô nói một

cách quả quyết.

Cô tắt đèn đi và nằm gần bên anh. Anh có thể cảm nhận, dù chưa phải là cảm giác thấy.

Trong sự im lặng, Rhyme nhìn chằm chằm lên trần nhà. Đến khi hơi thở của Sachs đều đều, anh cau mày, nhận thấy một cảm giác kỳ lạ nhói lên trong ngực, nơi mà đáng ra chẳng có cảm giác nào cả. Lúc đầu, anh cứ tưởng đó một cơn đau giả. Rồi, cảnh giác, anh tự hỏi liệu có phải nó là bắt đầu của hiện tượng tăng phản xạ tự phát[2], hoặc tồi tệ hơn chăng. Nhưng rồi anh nhận ra rằng không phải, đó là một điều khác hoàn toàn, một cái gì đó không bắt nguồn từ thần kinh hay cơ bắp hay là các bộ phận bên trong. Một nhà khoa học luôn luôn phân tích cảm giác theo kinh nghiệm và nhận ra rằng, nó giống với những gì mà anh cảm thấy khi nhìn thấy Geneva Settle ngẳng cao lên nhìn xuống vị luật sư của ngân hàng. Giống như khi anh đọc về nhiệm vụ của Charles Singleton tìm ra công lý ở quán rượu Potter’s Field trong đêm kinh hoàng ấy vào tháng Bảy cách đây hàng trăm năm trước, hoặc là về lòng nhiệt huyết của ông ấy đối với việc thực hiện quyền dân sự.

[2] Một bệnh lý có khả năng đe dọa đến tính mạng.

Rồi, bất ngờ, Rhyme đã hiểu ra rằng mình đang cảm thấy điều gì. Đó chỉ đơn giản là niềm tự hào. Giống như anh đã tự hào về Geneva và người tổ tiên của cô bé, anh đã tự hào với thành tích của chính mình. Bằng việc gắn chặt với những bài tập và đêm nay đây tự kiểm tra chính mình, Lincoln Rhyme đã đối đầu với điều không thể, làm anh khiếp sợ. Dù cho anh có tìm lại được bất cứ vận động nào hay không đều không liên quan; cái cảm giác đến từ điều mà anh đã giành được không thể chối cãi: sự trọn vẹn, cũng giống như sự trọn vẹn mà Charles đã viết về nó. Anh nhận ra rằng không gì khác - không phải các nhà chính trị hay các công dân hay cái thân thể rắc rối của chúng ta - có thể khiến chúng ta thành ba phần năm một con người; nó chỉ đơn giản là phán quyết trong lòng chúng ta tự nhìn nhận mình như là một con người hoàn thiện hay chỉ là một phần con người và từ đó sống cuộc đời của mình.

Anh tin rằng, tất cả mọi thứ đều có thể không phải đúng với logic vốn có của nó, cũng giống như cử động nhỏ mà anh tìm lại được ở bàn tay mình. Nhưng điều đó không quan trọng. Anh nghĩ về công việc của mình: làm thế nào mà một mẩu sơn vụn có thể giúp tìm ra chiếc xe, rồi từ chiếc xe đó đưa tới điểm đỗ xe, nơi xuất hiện một dấu chân mờ nhạt dẫn tới một cánh cửa mà từ đó có thể tìm ra một sợi vải của một chiếc áo được vứt ra với dấu tay trên nút áo - bề mặt duy nhất mà hung thủ quên không lau sạch.

Ngày hôm sau, đội đặc nhiệm gõ cửa nhà hắn.

Và công lý được mang đến, nạn nhân được cứu, gia đình đoàn tụ. Tất cả đều nhờ vào một mẩu sơn nhỏ xíu.

Những chiến thắng nhỏ bé - đó là những gì mà bác sĩ Sherman đã nói. Những chiến thắng nhỏ bé... Đôi khi đó là tất cả những gì mà ta có thể hy vọng tới, Lincoln Rhyme trầm ngâm suy nghĩ, khi cảm thấy cơn buồn ngủ đang ới.

Nhưng đôi khi chúng là tất cả những gì mà ta cần.

LỜI TÁC GIẢ

Các tác giả sẽ không thể thành công nếu như không có những người bạn. người anh em tuyệt vời bên họ. và tôi vô cùng may mắn khi có được những người bạn thực sự tuyệt vời như vậy quanh mình: Will và Tina Anderson, Alex Bonham, Louise Burke, Robby Burroughs, Britt Carlson, Jane Davis, Julie Reece Deaver, Jamie Hodder-Williams, John Gilstrap, Cathy Gleason, Carolyn Maỵs, Emma Longhurst, Diana Mackay, Tara Parsons, Carolyn Reidỵ. David Rosenthal, Marysue Rucci, Deborah Schenider, Vivienne Schuster, Brigitte Smith và Kevin Smith.

Như mọi khi, tôi xin được gửi tới Madelyn Warcholik lời cảm ơn đặc biệt.

Với độc giả đang tìm kiếm trong những cuốn sách du lịch với hy vọng tìm hiểu về Gallows Heights, các bạn có thể thôi không cần tìm kiếm nữa. Bức tranh cuộc sống về Manhattan thế kỷ
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom