Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


Bọn diều hâu

Nghiên cứu về sự khác nhau trong cách viết là đặc biệt quan trọng. Các đặc tính cần được xem xét tỉ mỉ. Các từ lặp lại cần được so sánh với nhau, các biến thể tự nhiên hay tính đồng nhất không tự nhiên cũng phải được chú ý.

Osbom và Osbom.

Các vấn đề trong Tài liệu nghi vấn.

Thủ đô của thế giới tự do.

Trái tim của siêu cường quốc cuối cùng trên trái đất.

Thế mà Cage suýt thì làm gãy trục chiếc xe Crown Victoria công vụ của ông lần nữa, chỉ vì đâm phải một ổ gà khác.

"Cái thành phố chết tiệt này !", ông lẩm bẩm.

"Cẩn thận nào", Parker ra lệnh và gật đầu về phía hai mảnh kính đã được quấn cẩn thận, đang nằm trên đùi anh như một đứa trẻ sơ sinh. Anh đã ngó qua tập giấy vàng. Nhưng nó bị thiệt hại nặng đến mức chẳng thể tìm được chút manh mối nào chỉ dẫn tới mục tiêu thứ ba và thứ tư. Anh sẽ phải phân tích chúng trong phòng thí nghiệm.

Vượt qua vỉa hè nát bươm, đi dưới những ngọn đèn đường đã bị cháy từ nhiều tháng trước nhưng chẳng bao giờ được thay, lướt ngang những cái hố từng có thời trồng cột chỉ đường, song từ lâu đã bị đánh cắp hay húc đổ.

Thêm nhiều ổ gà nữa.

"Tôi không biết sao mình lại sống ở đây nữa." Cage nhún vai.

Đặc vụ Cage, cùng Parker và Tiến sĩ John Evans, đang vội vã quay về trụ sở qua những con đường tối mịt của Đặc khu Columbia.

"Lại còn tuyết nữa chứ, chúng ta thê thảm rồi", ông nói thêm.

Việc dọn tuyết cũng không phải là thế mạnh của Đặc khu và chỉ một trận bão tuyết có thể sẽ làm hỏng mọi nỗ lực chiến thuật của Jerry Baker nếu họ tìm được chỗ trốn của Digger hay địa điểm bị tấn công tiếp theo.

Evans đang nói chuyện điện thoại, rõ ràng là với gia đình ông ta. Giọng ông ta ngân nga như đang nói với trẻ con, nhưng từ những câu thoại một chiều thì có vẻ chính vợ ông mới đang ở đầu dây bên kia. Parker nghĩ thật kỳ lạ vì nhà tâm lý học lại nói chuyện với một người lớn khác theo cách đó. Nhưng anh là ai mà có quyền nói về các mối quan hệ nào ? Mỗi khi Joan say xỉn hay làm mình làm mẩy, Parker cũng thường đối xử với cô ta như với một đứa trẻ mười tuổi.

Cage cũng lôi điện thoại của mình ra và gọi đến bệnh viện. Ông hỏi về tình trạng của Geller.

Sau khi cúp máy, ông nói với Parker, "Anh chàng may mắn. Chỉ bị hít phải khói và bong gân vì lao ra ngoài cửa sổ thôi. Không có gì nghiêm trọng. Họ sẽ giữ cậu ta lại qua đêm. Nhưng chỉ để đề phòng".

"Nên cấp bằng khen cho cậu ấy", Parker gợi ý.

"Có chứ. Yên tâm đi."

Bản thân Parker cũng bị ho. Hơi cay của khói khiến người ta buồn nôn.

Họ đi tiếp khoảng sáu dãy nhà nữa trước khi Cage hỏi Parker, "Thế nào".

"Thếnào", Parker lặp lại. Rồi hỏi, "Ý ông là gì ?".

"Ôi dào, anh có khoảng thời gian thú vị chứ hả ?", viên đặc vụ nói và vỗ vào tay lái.

Parker lờ ông đi và nhét một mẩu giấy cháy nhỏ xíu xuống dưới mặt kính để bảo vệ những ghi chép của nghi phạm.

Cage phóng xe vòng qua một chiếc xe khác đang đi rất chậm. Một lát sau, ông hỏi, "Đời sống tình cảm của anh gần đây thế nào ? Đang hẹn hò ai không ?".

"Giờ thì không."

Anh nhớ là đã chín tháng kể từ lần cuối anh thường xuyên hẹn hò với một người phụ nữ. Anh nhớ Lynne. Cô trẻ hơn anh mười tuổi, xinh đẹp, khỏe khoắn. Họ đã có nhiều kỷ niệm vui bên nhau: cùng đi bộ, ăn tối, đi chơi trong ngày tới Middleburg. Anh nhớ tính cách sôi nổi của cô, khiếu hài hước của cô (lần đầu tiên tới nhà anh, cô đã liếc thấy chữ ký của Franklin Delano Roosevelt và nói tỉnh như không, "Ôi em có nghe nói về ông này. Ông ta chính là người đã khởi nghiệp Franklin Mint (xưởng đúc tư nhân, chuyên sản xuất đồng xu, tượng và các vật lưu niệm nhỏ khác). Em có bộ sưu tập đê của hãng này". Nhưng bản năng làm mẹ của cô vẫn còn chưa trỗi dậy dù cô đã gần ba mươi. Khi có bọn trẻ của anh, cô rất vui được đi cùng tới các viện bảo tàng hay rạp chiếu phim, nhưng Parker thấy rõ rằng những cam kết sâu đậm hơn với bọn Who, và với anh, sẽ nhanh chóng trở thành gánh nặng cho cô. Parker tin rằng tình yêu cũng giống như khiếu hài hước, chỉ đẹp khi đúng thời điểm. Rốt cuộc, hai người chia tay với thỏa thuận là vài năm tới, khi cô đã sẵn sàng có con, họ có thể cân nhắc thứ gì đó lâu dài hơn. (Tất nhiên, cả hai đều biết rằng với tư cách tình nhân, họ đang chia tay nhau vĩnh viễn.)

Lúc này, Cage đang nói, "Ừ. Thế là anh cứ ngồi nhà thôi à ?".

"Vâng", Parker đáp. "Và sục đâu vào cát giống đà điểu Ozzie ấy."

"Ai cơ ?"

"Trong sách của bọn trẻ ấy mà !"

"Anh không có cảm giác là thế giới đang chuyển động quanh mình còn anh thì đang bỏ lỡ nhiều thứ khác ?"

"Không, Cage, tôi không thấy vậy. Tôi có cảm giác bọn trẻ đang lớn dần và tôi chẳng hề bỏ lỡ điều ấy."

"Việc đó quan trọng, ừ hứ. Tôi có thể thấy là việc ấy tương đối quan trọng."

"Rất quan trọng."

Evans nói trên điện thoại rằng ông ta yêu vợ. Parker gạt những lời ấy ra khỏi đầu. Chúng làm anh chán nản.

"Anh nghĩ sao về Lukas ?", cuối cùng Cage hỏi.

"Tôi nghĩ sao à ? Cô ấy giỏi. Sẽ leo cao. Có khi còn là bậc cao nhất. Nếu trước đó, cô ấy chưa bị nổ trong."

"Nổ tung ấy à ?"

"Không, nổ trong. Như bóng đèn ấy."

"Nghe hay đấy." Cage cười. "Nhưng ý tôi hỏi không phải thế. Anh nghĩ gì về cô ấy với tư cách là một người phụ nữ ?"

Parker lại ho. Anh rùng mình khi nhớ lại những viên đạn và ngọn lửa. "Ông đang cố gán ghép Lukas và tôi đấy à ?"

"Tất nhiên là không." Rồi, "Tôi chỉ ước gì cô ấy có thêm bạn. Tôi quên mất rằng anh cũng khá vui tính. Hai người có thể hẹn hò một chút".

"Cage..."

"Cô ấy chưa kết hôn. Chưa có bạn trai. Và tôi không biết anh có để ý không", viên đặc vụ tinh quái nhận xét, "nhưng cô ấy rất ưa nhìn. Anh không nghĩ vậy à ?".

Chắc chắn rồi, tôi có nghĩ chứ. Đối với một nữ cảnh sát, thì đúng là như vậy. Tất nhiên, Parker bị cô hấp dẫn, và không chỉ bởi vẻ ngoài của cô. Anh nhớ lại cái nhìn đặc biệt trong mắt cô khi cô theo dõi Robby chạy lên cầu thang lúc đầu giờ chiều. Con đường tới trái tim của một người đàn ông là thông qua lũ trẻ của anh ta...

Nhưng anh lại nói với Cage, "Cô ấy chẳng chờ nổi đến lúc vụ này kết thúc để khỏi phải thấy tôi nữa ấy chứ".

"Anh nghĩ thế à ?", ông hỏi, nhưng lần này không còn vẻ hoài nghi nữa.

"Ông nghe cô ấy nói rồi đấy, về chuyện súng của tôi."

"Trời ạ, cô ấy chỉ không muốn trả anh về với lũ trẻ trong đống băng quấn mông thôi."

"Không chỉ có vậy đâu. Tôi đang làm phật ý cô ấy và cô ấy không thích thế. Nhưng tôi muốn cho cô ấy biết: Tôi sẽ còn tiếp tục làm vậy nếu tôi nghĩ mình đúng."

"Đấy thấy chưa."

"Ý ông là sao ?"

"Cô ấy cũng đã nói y hệt thế. Hai người đúng là một cặp..

"Cage, thôi đi."

"Nghe này, mục tiêu duy nhất của Margaret là tóm cổ thủ phạm. Cô ấy tự tôn vô cùng, chắc chắn rồi, nhưng đó là kiểu tự tôn tích cực. Cô ấy là điều tra viên tốt thứ nhì mà tôi từng biết." Parker lờ đi cái liếc mắt đi kèm câu nói trên. Cage nghĩ thêm một phút. "Anh biết điểm tốt của Lukas là gì không ? Cô ấy tự chăm sóc bản thân mình."

"Ý ông là sao ?"

"Để tôi kể cho anh nghe. Vài tháng trước, nhà cô ấy đã bị đột nhập."

"Cô ấy sống ở đâu ?"

"Georgetown."

"Phải, chuyện ấy hay xảy ra ở đó", Parker nói. Dù anh rất thích Đặc khu nhưng lại không bao giờ sống ở khu vực đấy, nhất là cùng với bọn trẻ. Tình trạng tội phạm rất kinh khủng.

Cage nói tiếp, "Cô ấy từ văn phòng về nhà thì thấy cửa bị bẻ khóa. Hình dung ra chưa ? Con chó của cô ấy thì ở sân sau và.."

"Cô ấy nuôi chó à ? Loại nào ?"

"Tôi không biết ? Làm sao tôi biết được ? Loại chó to, lông đen.

Để tôi nói nốt. Sau khi đã chắc chắn rằng con chó không sao, thay vì gọi điện báo cảnh sát, cô ấy trở lại chỗ xe của mình, mặc áo chống đạn rồi lấy khẩu MP-5 ra và tự mình lục soát căn nhà."

Parker cười phá lên. Hình ảnh một cô gái tóc vàng mảnh mai, quyến rũ đi khắp nhà với khẩu súng laze lăm lăm trong tay nghe có vẻ thật lố bịch. Nhưng vì lý do gì đó, nó hoàn toàn bình thường với Lukas. "Vẫn không hiểu ý ông, Cage."

"Chẳng có ý gì cả. Tôi chỉ đang nói rằng Lukas không cần bất kỳ ai chăm sóc cho cô ấy. Anh biết đấy Parker, đàn ông và đàn bà đến với nhau theo cách đó là tốt nhất, không phải sao ? Chẳng ai phải chăm sóc cho ai ? Đấy là quy tắc. Ghi lại đi."

Parker cho rằng viên đặc vụ đang ám chỉ đến Joan. Cage đã trông thấy Parker và Joan đi cùng nhau vài lần. Đúng thật, Parker bị hút về phía vợ cũ của mình vì cô ta luôn tìm kiếm người chăm sóc cho cô ta, và một Parker vừa mất bố mẹ hồi họ mới quen biết thì đang tha thiết mong được chăm lo cho ai đó. Parker nhớ lại mấy giờ đồng hồ trước, Lukas đang phân bổ lính tới Gravesend. Có lẽ đó chính là điều khiến anh rung động nhất khi lắng nghe lời lẽ của cô: không phải ở sự chuyên nghiệp mà là tính độc lập của cô.

Họ ngồi im lặng trong giây lát.

"MP-5 à ?", Parker hỏi và mường tượng ra khẩu súng máy nặng nề màu đen của Heckler & Koch.

"Phải. Còn nói là cô ấy chỉ lo lỡ phải nổ súng thì sẽ làm hỏng mất mấy đồ trang trí trên tường nhà mình. Cô ấy còn may vá nữa cơ. Làm ra mấy cái chăn anh không tin nổi đâu."

"Cái đó ông kể rồi. Thế còn thủ phạm, cô ấy tóm được chứ ?"

"Không. Hắn bị tóm trước rồi."

Parker nhớ lại cơn giận của cô ở Gravesend. Anh hỏi Cage "Thế ông nghĩ trong trường hợp của tôi, sao cô ấy lại thế ?".

Một lát sau, viên đặc vụ trả lời, "Có lẽ cô ấy ghen tị với anh".

"Ghen tị ? Ý ông là sao ?"

Nhưng ông không trả lời. "Tôi không có tư cách để nói. Chỉ cần anh nhớ lấy điều đó và khi nào bị cô ấy chỉ trích thì nên bỏ qua".

"Ông nói vớ vẩn gì vậy, Cage. Cô ấy mà ghen tị với tôi ?"

"Cứ xem nó như mấy câu đố của anh ấy. Hoặc anh tự tìm ra câu trả lời hoặc cô ấy sẽ nói với anh. Tùy cô ấy thôi. Nhưng tôi chẳng cho anh manh mối nào đâu."

"Sao tôi lại muốn biết câu trả lời về Margaret Lukas nhỉ ?"

Nhưng Cage chỉ lao xe qua một ổ gà đặc biệt to khác mà chẳng nói gì thêm.

Evans tắt điện thoại, rót cho mình một cốc cà phê nữa từ bình ủ. Chắc nó phải chứa đến một lít rưỡi cà phê mất. Lần này, Parker nhận cốc được mời và uống mấy ngụm liền loại cà phê đậm đặc ấy.

"Gia đình ông thế nào ?", Parker hỏi ông ta.

"Tôi nợ bọn trẻ một món to đùng", nhà tâm lý học cười rầu rĩ.

"Ông có mấy đứa con ?"

"Hai."

"Tôi cũng vậy", Parker nói. "Mấy tuổi rồi ?"

"Đang thiếu niên cả. Khó khăn lắm !" Ông ta không đi vào chi tiết và có vẻ cũng chẳng muốn nói thêm. Rồi ông ta hỏi, "Còn anh ?".

"Một đứa tám, một đứa chín tuổi."

"À, anh vẫn còn có vài năm yên bình và tĩnh lặng."

Cage nói, "Cháu chắt là tuyệt vời nhất. Cứ tin tôi đi. Các anh chơi với chúng, làm chúng bẩn bê bẩn bết, cho chúng đánh đổ kem đầy người, chiều chuộng chúng như điên rồi trả chúng về với bố mẹ. Còn các anh thì chỉ việc đi uống bia và xem bóng đá. Thấy có tuyệt không hả ?".

Họ lại lái xe trong im lặng trước khi Evans hỏi, "Tai nạn xảy ra với con trai anh mà anh từng nói ? Chuyện gì xảy ra thế ?".

"Ông có nghe nói về Người chèo thuyền bao giờ chưa ?", Parker hỏi.

Cage thận trọng nhìn Parker, rồi lại nhìn đường.

Evans nói, "Có nhớ đã đọc trên báo... Nhưng tôi không chắc lắm".

Parker rất ngạc nhiên; tên sát nhân đã được phơi trên mặt báo nhiều tháng trời. Có lẽ vị bác sĩ này mới đến chăng. "Hắn là tội phạm giết người hàng loạt ở Bắc Virginia, Nam Maryland. Từ bốn năm trước. Hắn bắt cóc phụ nữ, cưỡng đoạt rồi giết cô ta và bỏ xác lại một cái xuồng hay thuyền nào đấy. Đôi lần là trên sông Potomac. Có lúc lại là Shenandoah. Khi thì là hồ Burke ở Fairfax. Chúng tôi có những đầu mối dẫn tới một kẻ sống ở Arlington nhưng không đủ làm bằng chứng. Cuối cùng, tôi đã tìm được mối liên hệ giữa hắn với một trong các vụ giết người nhờ mẫu chữ viết tay. Đội SWAT bắt được hắn. Hắn bị kết án nhưng trốn thoát trên đường đến nhà tù liên bang. Vào khoảng thời gian ấy, tôi đang ở giữa cuộc chiến giành quyền nuôi con với vợ cũ. Tòa đã giao cho tôi quyền giám hộ tạm thời. Bọn trẻ, người quản gia và tôi đang sống trong một ngôi nhà ở Falls Church. Rồi một đêm nọ, khoảng nửa đêm, Robby bắt đầu gào thét. Tôi lao vào phòng nó. Tên kia thì đang cố chui vào".

Evans gật đầu, cau mày tập trung. Đôi mắt ông ta màu xanh nhạt và đang quan sát Parker rất kỹ.

Đến tận bây giờ, dù đã nhiều năm sau, trái tim Parker vẫn còn đập dữ dội khi nghĩ lại: không chỉ bởi hình ảnh khuôn mặt chữ điền đờ đẫn đang nhìn qua cửa sổ phòng ngủ mà còn vì nỗi hoảng loạn vô bờ của con trai anh. Nước mắt rơi lã chã từ đôi mắt mở to của nó, hai bàn tay run rẩy của nó. Anh đã không kể cho Evans và Cage về năm phút, mà dường như kéo dài hàng giờ đồng hồ, sợ hãi và tuyệt vọng ấy: lùa lũ trẻ vào phòng bà quản gia, gác cửa trong lúc lắng nghe Người chèo thuyền đi khắp nhà.

Cuối cùng, khi cảnh sát hạt Farifax mãi không đến, anh đã phải bước ra hành lang với khẩu súng công vụ trong tay.

Anh nhận ra lúc này Evans càng quan sát anh kỹ hơn và cảm thấy mình như một bệnh nhân. Vị tiến sĩ đã nhận ra biểu cảm của Parker và nhìn đi chỗ khác. Ông ta hỏi, "Vậy anh đã bắn hắn ?".

"Phải. Tôi đã bắn."

Khẩu súng nổ to quá ! Parker nghĩ ngợi một cách điên cuồng trong lúc nổ súng, biết rằng tiếng nổ sẽ làm tăng thêm nỗi hoảng loạn của Robby và Stephanie.

Súng nổ to quá !

Khi Cage đỗ xe trước trụ sở, Evans đã nhét bình ủ vào ba lô và đặt một bàn tay lên cánh tay Parker. Ông ta nhìn sâu vào mắt nhà giám định tài liệu. "Có biết chúng ta sẽ làm gì không ?"

Parker nhướng một bên lông mày.

"Chúng ta sẽ bắt tên khốn này rồi cả hai sẽ trở về nhà với gia đình của mình. Nơi chúng ta cần phải có mặt."

Parker Kincaid nghĩ: Amen.

Bên trong phòng Thí nghiệm Tài liệu ở trụ sở, cả đội đã tập hợp.

Margaret Lukas đang gọi điện thoại.

Parker liếc nhìn cô. Cái nhìn khó hiểu mà cô đáp trả anh khiến anh nhớ lại mấy lời của Cage ở trong xe.

Có lẽ cô ấy ghen tị với anh...

Cô lại nhìn xuống đống ghi chép đang viết dở. Anh để ý tuồng chữ của cô. Phương pháp Palmer. Chính xác và tiết kiệm một cách đáng ghen tị. Không lằng nhằng gì cả.

Hardy và c. p. Ardell đứng ngay cạnh, cũng đang nói chuyện điện thoại.

Parker đặt các mảnh kính lên bàn giám định.

Lukas tắt máy rồi nhìn Cage và những người khác. "Ngôi nhà đã sập hoàn toàn. Đội PERT đang kiểm tra lại nhưng chẳng còn gì cả. Máy tính lẫn đĩa mềm đều đã tan tành."

Cage hỏi, "Thế còn tòa nhà mà Digger đứng bắn thì sao ?".

"Sạch sẽ y như Kho sách Texas", cô cay đắng nói. "Lần này, họ thu được vỏ đạn nhưng hắn mang..

"Găng tay cao su", Parker nói và thở dài.

"Đúng vậy. Khi hắn nạp đạn ấy. Và găng tay da lúc vào trong căn hộ. Không có một mẩu bằng chứng nào."

Điện thoại reo, Lukas liền nhấc máy. "Vâng ?... ồ, được rồi !" Cô nhìn lên. "Là Susan Nance. Cô ấy đã có thêm thông tin từ Boston, White Plairis và Philly về các vụ tấn công Czisman nhắc tới. Tôi sẽ bật loa lên.

Cô bấm một nút.

"Nói đi Susan."

"Tôi đã dò theo các thanh tra phụ trách sự vụ, Họ kế với tôi rằng y hệt như vụ ở đây, không có một bằng chứng pháp y cụ thể nào. Không dấu vân tay, không nhân chứng. Tất cả các vụ án trên đều đang để mở. Họ đã có ảnh của nghi phạm do chúng ta gửi đến nhưng không ai nhận ra gã. Song tất cả bọn họ đều nói một câu giống nhau. Một câu kỳ lạ"

"Là gì ?", Parker hỏi. Anh cẩn thận lau miếng kính đang giữ tập giấy vàng bị cháy.

"Về cơ bản, bạo lực luôn áp đảo tiền bạc. Như vụ ở cửa hàng trang sức Boston ? Tất cả những gì gã lấy đi chỉ là một cái đồng hồ."

"Một cái đồng hồ à ?", c. p. Ardell hỏi. "Có phải gã chỉ có cơ hội nhặt cái đó lên không ?"

"Không. Có vẻ như gã chỉ muốn có thế. Tuy đó là một chiếc đồng hồ Rolex... Nhưng nó chỉ có giá khoảng hai ngàn. Ở White Plains, gã trốn thoát với ba mươi ngàn đô la. Philly, vụ giết người trên xe buýt ? Tiền chuộc chỉ là một trăm ngàn đô."

Thế mà gã đòi hai mươi triệu đô từ Đặc khu, Parker nghĩ. Nghi phạm đang ngày một làm lớn hơn chăng.

Rõ ràng Lukas cũng nghĩ tương tự. Cô hỏi Evans, "một tên tội phạm gia tăng mức độ ?".

Tội phạm gia tăng mức độ là một loại hình tội ác liên hoàn, kẻ không ngừng gây án sau nghiêm trọng hơn án trước.

Nhưng Evans lắc đầu. "Không. Có vẻ là vậy nhưng chuyện tăng mức độ luôn là do dục vọng thúc đẩy. Chủ yếu là bọn sát thủ bạo dâm." Ông ta cọ bàn tay xương xẩu lên bộ râu của mình. Râu của ông ta vẫn còn ngắn, cứ như chỉ mới quyết định nuôi gần đây, và chắc là da ông ta ngứa ngáy lắm. "Chúng ngày càng trở nên bạo lực là vì tội ác trước không làm thỏa mãn nhu cầu của chúng. Nhưng cô hiếm khi bắt gặp loại hành vi lũy tiến này ở các tội phạm nhắm đến tiền."

Parker cảm thấy câu đố dường như càng phức tạp hơn trước.

Hay có lẽ đơn giản hơn.

Dù là thế nào, anh cũng thấy thất vọng vì không tìm ra được giải pháp khả dĩ.

Bác nông dân chỉ có một viên đạn trong khẩu súng...

Parker lau xong tấm kính và hướng sự chú ý về phía bằng chứng. Anh quan sát những gì còn lại của hai trang giấy rồi thất vọng nhận thấy rất nhiều tro đã bị rã ra. Thiệt hại từ ngọn lửa nghiêm trọng hơn anh tưởng.

Tuy nhiên, anh vẫn có thể đọc được đôi chữ của nghi phạm trên những mẩu tro lớn nhờ chiếu đèn hồng ngoại trên bề mặt tro. Mực cháy hay vết bút chì sẽ phản lại bước sóng khác với lớp giấy bị cháy và thường thì bạn sẽ nhận ra được hầu hết các chữ.

Parker cẩn thận đặt các miếng kính giữ hai tờ giấy vàng bên cạnh nhau trên máy soi hồng ngoại Foster Freeman. Anh gập người rồi cầm chiếc kính lúp rẻ tiền tìm được trên mặt bàn (tức giận nghĩ: Ten Digger khốn kiếp vừa mới phá hỏng cái kính Leitz cổ năm trăm đô la của mình).

Hardy liếc nhìn tờ giấy bên trái. "Mê cung. Gã vẽ mê cung."

Mặc dù vậy, Parker lờ nó đi và tập trung vào tờ có nhắc tới Nhà hát Mason. Anh đoán nghi phạm cũng đã viết nốt hai mục tiêu còn lại, vị trí tấn công vào lúc tám giờ và nửa đêm. Nhưng những mẩu giấy ấy đã bị rã ra và lẫn lộn vào nhau rồi.

"À, vẫn còn vài thứ có thể nhìn thấy được", anh lẩm bẩm. Nheo mắt lại rồi kéo kính xuống một phần khác trên tờ giấy. "Chúa ơi", anh bật thốt. Lắc đầu.

"Sao ?", c. p. hỏi.

"Ôi, hai mục tiêu Digger đã tấn công thì rõ như ban ngày. Metro và Nhà hát Mason. Nhưng còn hai cái sau... tôi không đọc được. Địa điểm tấn công lúc nửa đêm, vị trí cuối cùng... dễ đọc hơn địa điểm thứ ba. Viết lại đi !", anh nói với Hardy.

Chàng thanh tra chộp vội cây bút và một tập giấy ghi chú. "Đọc đi !"

Parker nheo mắt. "Trông như là, 'Nơi tôi...' Xem nào. 'Nơi tôi đưa.. anh đến/ Rồi một cái gạch ngang. Rồi từ 'đen'. Không, 'cái gì đó đen/. Có một cái lỗ trên giấy. Mất hoàn toàn rồi."

Hardy đọc lại, "Nơi tôi đưa anh đến, gạch ngang,... đen".

"Đúng nó."

Parker ngẩng lên. "Hắn đang nói về chỗ quái nào đấy ?" Nhưng không ai biết.

Cage nhìn đồng hồ. "Thế còn địa điểm lúc tám giờ ? Đó mới là cái chúng ta đang phải tập trung vào. Chúng ta chỉ còn chưa đến một giờ.

Parker soi dòng chữ thứ ba, ngay dưới dòng về Nhà hát Mason. Anh quan sát nó suốt một phút trong tư thế gập người. Rồi đọc, ... hai dặm về phía nam. R../ Đó là một chữ R viết hoa nhưng sau đó thì tro bị vụn hết. Tôi có thể thấy nhiều dấu vết nhưng chúng đều rã ra hết rồi."

Parker cầm bản chép lại và bước đến chiếc bảng treo trên tường phòng thí nghiệm. Anh chép ra các chữ cái cho tất cả mọi người cùng đọc:

"Thế có nghĩa là gì ?", Cage hỏi. "Nghi phạm đang nóí đến chỗ quái nào thế nhỉ ?"

Parker chẳng hiểu gì cả.

Anh quay khỏi mặt bảng và cúi đầu trên những miếng kính cứ như đang nhìn một tên bắt nạt trong sân trường.

Nhưng những mảnh vụn của tờ giấy đã đễ dàng chiến thắng cuộc chơi.

"Hai dặm về phía nam của cái gì ?", anh lẩm bẩm. "'R' là cái gì ?"

Anh thở dài.

Cửa phòng thí nghiệm bật mở và Parker phải nhìn lại lần thứ hai. "Tobe !"

Tobe Geller khập khiễng bước vào phòng. Chàng trai trẻ đã thay quần áo và có vẻ cũng đã tắm gội nhưng vẫn bốc mùi khói và thi thoảng vẫn ho.

"Chàng trai, cậu chẳng có việc gì ở đây cả", Cage nói.

Lukas nói, "Cậu điên à ? Về nhà đi".

"Về với cái phòng độc thân thảm não của tôi ấy à ? Sau khi đã hủy cuộc hẹn Giao thừa với cô bạn gái 'chẳng nghi ngờ gì' là sẽ thành bạn gái cũ sau đêm nay sao ? Tôi không nghĩ vậy ?" Cậu ta bắt đầu cười phá lên, nhưng âm thanh ấy vụn ra thành một tiếng ho. Cậu ta cố kiềm chế và hít thở sâu.

"Cậu sao rồi, anh bạn ?", c. p. Ardell hỏi và ôm Geller thật chặt. Trên gương mặt viên đặc vụ to con, bạn có thể trông thấy nỗi lo lắng cảm động dành cho đồng đội mà các đặc vụ phải trực tiếp chiến đấu thường thể hiện.

"Họ còn chẳng buồn xếp mức độ cho vết bỏng của tôi ấy chứ", Geller giải thích. "Chỉ như là rám nắng ở New England thôi. Tôi ổn." Cậu ta lại ho. "À, ngoài hai lá phổi ra. Không giống như vị tổng thống nào đó, tôi vẫn phải hít thở chứ. Nào. Chúng ta đến đâu rồi ?"

"Tập giấy vàng à ?", Parker rầu rĩ nói. "Ghét phải nói ra nhưng chúng ta chẳng đọc được gì mấy".

"Ai da", viên đặc vụ nói.

"Ừ, đau thật."

Lukas đi đến bàn giám định. Đứng cạnh Parker. Anh không thể ngửi thấy mùi xà phòng thơm được nữa, giờ chỉ còn mùi khét của khói.

"Hừm", một lát sau cô nói.

"Sao ?"

Cô chỉ vào đống tro bị trộn lẫn với nhau. "Có thể một vài mảnh trong này sẽ khớp với phía sau chữ R đúng không ?"

"Có thể."

"Nó nhắc anh nhớ tới cái gì ?"

Parker nhìn xuống. "Tranh ghép hình", anh thì thầm.

"Đúng", cô nói. "Còn anh thì là bậc thầy giải đố. Anh có thể ghép chúng với nhau không ?"

Parker quan sát hàng trăm mảnh tro vụn. Việc này có thể tiêu tốn nhiều giờ, nếu không nói là nhiều ngày; đâu có như một bức tranh ghép thật, các cạnh của mảnh ghép bằng tro đã bị hư hại đến nỗi không nhất thiết chúng phải khớp với nhau.

Nhưng Parker chợt nảy ra một ý. "Tobe ?"

"Sao ?" Viên đặc vụ trẻ ho, chùi một bên lông mày đã bị cháy.

“Trên máy tính có chương trình để giải các câu đố đảo chữ đúng không ?"

"Đảo chữ, đảo chữ ? Anh mới nói chúng là gì ấy nhỉ ?"

Người trả lời câu hỏi lại là anh chàng c. p. Ardell xăm trổ đầy mình, trong khi người khác chỉ đoán được mức độ hoạt động trí óc cao nhất của anh là so sánh giá chiết khấu của các loại bia với nhau, "Ghép các từ khác nhau từ một bộ chữ cái. Ví dụ như là n-o-w, o-w-n, w-o-n".

Geller nói, "Ồ, chắc chắn là có chứ. Nhưng anh có bao giờ dùng phần mềm để giúp mình giải đố đâu, đúng không Parker ?".

"Không, như thế là ăn gian." Anh mỉm cười với Lukas. Khuôn mặt đá tảng của cô chẳng biểu lộ điều gì ngoài một cái liếc mắt thoáng qua, rồi trở lại ngay với đống tro.

Parker nói tiếp, "Sau cụm hai dặm. R../, cậu thấy những chữ cái rời rạc trên tro không ? Cậu có thể ghép chúng với nhau chứ ?"

Geller cười lớn. "Tuyệt vời", cậu ta nói. "Chúng ta sẽ quét một mẫu chữ viết tay từ lá thư. Như thế sẽ có các tiêu chuẩn cho toàn bộ các chữ cái của nghi phạm. Rồi tôi sẽ chụp các mảnh tro trên máy ảnh kỹ thuật số qua bộ lọc hồng ngoại, gạt bỏ lớp nền giấy đã cháy. Như thế chúng ta chỉ còn lại các mảnh chữ cái. Và tôi sẽ để máy tính chắp chúng lại với nhau."

"Có được không ?", Hardy hỏi.

"Ồ, có chứ", Geller tự tin đánh giá. "Tôi chỉ không biết sẽ mất bao lâu thôi."

Geller cầm máy ảnh và chụp đống tro cùng bức thư. Cậu ta kết nối máy ảnh với một cổng trên máy tính rồi bắt đầu tải các hình ảnh lên.

Ngón tay cậu ta lại lướt trên bàn phím. Tất cả mọi người đều im lặng.

Chính điều đó làm cho tiếng chuông điện thoại của Parker nghe càng đinh tai hơn khi nó reo vang vài phút sau đó.

Anh nảy lên vì bị giật mình và mở điện thoại. Anh thấy đó là số của nhà mình.

"Xin chào ?", anh trả lời.

Tim anh đông cứng lại khi bà Cavanaugh nói bằng giọng căng thẳng, "Parker".

Phía sau bà, anh nghe thấy tiếng Robby đang khóc.

"Có chuyện gì ?", anh hỏi, cố không hoảng loạn.

"Mọi người đều ổn", bà vội nói. "Robby không sao. Nó chỉ hơi sợ. Nó nghĩ mình lại trông thấy gã đó ở sân sau. Người chèo thuyền ấy."

Ôi không...

"Không có ai ở đó cả. Tôi đã bật đèn ngoài sân lên. Con chó của ông Johnson lại chạy rông và đã nhảy vào lùm cây ấy. Chỉ có thế thôi. Nhưng thằng bé rất sợ. Thật sự sợ hãi."

"Cho nó nghe máy đi !"

"Ba ơi ? Ba !", giọng thằng bé lả đi vì sợ. Không có gì khiến Parker buồn hơn là nghe giọng thằng bé thế này.

"Chào con, Robby !", Parker vui vẻ nói. "Có chuyện gì vậy ?"

"Con đã nhìn ra ngoài." Nó khóc thêm một lát nữa. Parker nhắm mắt. Nỗi sợ của con trai anh giống như của chính anh vậy. Thằng bé tiếp tục, "Và con trông thấy hắn. Người chèo thuyền. Đó là... Con sợ quá".

"Nhớ này, nó chỉ là bụi cây thôi. Mai ba con mình sẽ cắt hết."

"Không, ở trong gara cơ mà"

Parker giận chính mình. Anh đã lười biếng để mặc cửa gara mở, nơi đó có nhiều thùng hộp mà người ta dễ tưởng nhầm là dáng người đột nhập.

Parker nói với con trai, "Con nhớ mình phải làm gì không ?".

Không có câu trả lời.

"Robby ? Có nhớ không ?"

"Con có tấm khiên."

"Tốt rồi. Thế còn mũ bảo hiểm ?" Parker ngước mắt lên và trông thấy Lukas đang nhìn mình chăm chú. "Con có mũ sắt chưa ?"

"Có ạ", thằng bé trả lời.

"Thế còn đèn ?"

"Mình bật hết lên."

"Bao nhiêu bóng ?", Parker hỏi.

"Tất cả các bóng đèn", thằng bé nhắc lại.

Ôi, chuyện này thật khó khăn, phải nghe giọng con anh... Và biết việc mình phải làm lúc này. Anh nhìn quanh phòng thí nghiệm cùng những khuôn mặt đã trở thành chiến hữu của mình đêm nay. Rồi anh nghĩ, bằng chút may mắn và sức mạnh, người ta có thể tách biệt bản thân khỏi vợ, tình nhân hay các đồng nghiệp. Nhưng không phải với con cái. Không bao giờ. Chúng đã bắt giữ trái tim bạn mãi mãi mất rồi.

Anh nói vào điện thoại, "Ba về nhà ngay đây. Đừng lo !".

"Thật ạ ?", thằng bé hỏi.

"Nhanh hết mức ba có thể lái xe về được ấy."

Anh cúp máy. Tất cả mọi người đều nhìn anh, bất động.

'Tôi phải đi", anh nói, nhìn vào Cage. "Tôi sẽ quay lại. Nhưng giờ phải đi ngay."

“Tôi có giúp gì được không ?", Hardy hỏi.

"Không, cảm an Len", Parker trả lời.

"Lạy Chúa, Parker", Cage định nói và nhìn lên đồng hồ. "Tôi rất tiếc vì thằng bé sợ nhưng..."

Margaret giơ tay lên và khiến viên đặc vụ lớn tuổi hơn phải giữ im lặng. Cô nói, "Không đời nào Digger biết anh có liên quan. Nhưng tôi sẽ cử hai đặc vụ nằm vùng bên ngoài nhà anh".

Anh đã tưởng cô nói thế là để tiền trạm cho câu yêu cầu anh ở lại, Nhưng rồi cô lặng lẽ thêm vào, "Con trai anh phải không ? Về nhà đi. Làm cho thằng bé vui vẻ lên. Bất kể mất bao lâu".

Parker nhìn vào mắt cô thêm một giây nữa và tự hỏi: Có phải anh vừa tìm thấy manh mối của mê cung mang tên đặc vụ Lukas ?

Hay đây chỉ là một lối đi giả ?

Anh định cảm ơn cô nhưng đột nhiên cảm thấy rằng bất kể anh có thể hiện lòng biết ơn theo kiểu nào, có phản ứng ra sao, cũng sẽ làm mất thế cân bằng mong manh giữa hai người. Vì vậy, anh chỉ gật đầu và vội vã đi ra cửa.

Lúc đi ra, anh chỉ nghe thấy duy nhất giọng khàn khàn của Geller nói với cái máy tính, "Nhanh nào, nhanh nào, nhanh nào !". Giống như cách một người chơi cá cược cầu xin con ngựa sắp thua trên trường đấu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


'Từng pixel một.

Nhìn các hình ảnh trượt vào chỗ của chúng trên màn hình của Tobe Geller, vẫn còn vụn vỡ lắm.

Margaret Lukas đi đi lại lại, nghĩ về trò đảo chữ, về đống tro. Về Parker Kincaid.

Khi về đến nhà, anh sẽ làm thế nào để an ủi con trai ? Anh có ôm nó không ? Đọc truyện cho nó nghe ? Xem ti vi cùng nó ? Anh có phải một ông bố chịu nói chuyện với con về vấn đề của chúng ? Hay anh sẽ cố đánh lạc hướng thằng bé, để đưa tâm trí nó thoát ra khỏi nỗi sợ ? Mang quà cho nó để hối lộ ?

Cô không hề biết. Tất cả những gì Margaret Lukas biết là cô muốn Kincaid trở lại đây ngay, đứng gần bên cô.

À, thực ra chỉ một phần trong cô muốn vậy. Phần kia thì muốn anh không bao giờ trở lại, cứ việc trốn mãi trong pháo đài nhỏ ở vùng ngoại ô của anh. Cô có thể...

Không, không... Thôi nào. Tập trung.

Lukas quay sang Tiến sĩ Evans, nhìn ông ta nghiên cứu bức thư tống tiền một cách tỉ mỉ, vừa làm vừa xoa hàm ria lởm chởm. Đôi mắt xanh của ông ta không khiến người khác yên tâm và cô quyết định rằng mình chẳng hề muốn có một bác sĩ tâm lý như thế này. Ông ta rót thêm cà phê từ bình ủ ra, rồi tuyên bố, "Tôi có vài suy nghĩ về tên nghi phạm này".

"Nói xem", cô bảo ông ta.

"Cần phải biết hoài nghi chứ", vị tiến sĩ cảnh báo. "Để làm việc này một cách đúng đắn, tôi cần thêm cả đống dữ liệu nữa cùng hai tuần để phân tích."

Lukas nói, "Đó là cách chúng tôi làm việc. Trao đổi các ý tưởng. Chúng tôi sẽ không bắt ông phải chịu trách nhiệm đâu".

'Tôi nghĩ, từ những gì đã thấy, tên Digger này chỉ là một cỗ máy. Chúng tôi gọi loại như hắn là 'phản tâm lý'. Phân tích hắn chỉ vô dụng thôi. Chẳng khác nào dựng hồ sơ của một khẩu súng. Nhưng tên nghi phạm trong nhà xác thì lại là một câu chuyện khác. Cô có biết bọn tội phạm có tổ chức không ?"

"Tất nhiên", Lukas nói. Bài học tâm lý tội phạm số một trăm lẻ một.

"À, tên này là một loại cực kỳ có tổ chức."

Đôi mắt Lukas lang thang tơi chỗ bức thư khi Evans bắt đầu mô tả kẻ đã viết nên nó.

Vị tiến sĩ tiếp tục, "Tên nghi phạm lên kế hoạch mọi thứ một cách hoàn hảo. Thời gian, địa điểm. Gã biết rõ bản chất con người, chẳng hạn gã biết ngài thị trưởng sẽ chịu trả tiền, mặc dù hầu hết các nhà cầm quyền khác sẽ không làm như vậy. Gã luôn có kế hoạch B của kế hoạch B. Ấy là tôi đang nghĩ đến vụ đánh bom ở nhà trú ẩn. Và gã đã tìm được một vũ khí tuyệt hảo: Digger, một con người bằng xương bằng thịt chỉ biết đến giết chóc. Gã đã tiến hành một vụ việc không tưởng và có thể sẽ trốn thoát nếu không chết trong tai nạn kia".

"Chúng tôi có cả tá bằng chứng, nên tôi nghĩ nghi phạm sẽ chẳng thoát được đâu", Lukas chỉ ra.

"Ồ", Evans nói, "tôi cá là gã có cả kế hoạch để phản pháo vụ đó nữa".

Lukas nhận ra có thể ông ta nói đúng.

Vị tiến sĩ nói tiếp, "Hiện tại, gã đòi hai mươi triệu. Và sẵn sàng giết hàng trăm người để có được nó. Gã không phải loại tội phạm gia tăng mức độ nhưng đúng là gã đã tăng tiền cược lên bởi vì gã biết, à, tin tưởng, rằng mình thoát được. Gã tin rằng mình giỏi, và đúng là gã giỏi thật. Nói một cách khác, sự kiêu ngạo của gã được tài năng chống lưng".

"Làm tên khốn càng nguy hiểm hơn", c. p. gầm gừ.

"Chính xác. Không hề có tính thùng rỗng kêu to để làm gã thất bại. Gã thông minh thật..."

"Kincaid nói rằng nghi phạm là kẻ có học thức", Lukas nói, lại một lần nữa mong ước nhà giám định tài liệu đang có mặt ở đây để cùng trao đổi các ý tưởng. "Gã đã cố ngụy trang chuyện đó trong bức thư nhưng Parker có thể nhìn thấu ngay".

Evans gật đầu từ tốn trước thông tin này. Rồi ông ta hỏi, "Nghi phạm đang mặc gì khi người ta đưa gã vào nhà xác ?".

c. p. tìm được danh sách và đọc lên cho tiến sĩ nghe.

Evans tổng kết, "Vậy là, quần áo rẻ tiền ?".

"Vâng."

"Không chính xác là những thứ mà các bạn trông đợi sẽ tìm được ở một kẻ đa mưu túc trí đến mức dựng nên toàn bộ chuyện này rồi đòi hai mươi triệu tiền chuộc."

"Chính xác", Cage nói.

"Điều đó có ý nghĩa gì ?", Lukas hỏi.

"Tôi thấy có vấn đề về giai cấp ở đây", Evans giải thích. "Tôi nghĩ nghi phạm thích giết người giàu, người có vai vế hơn. Gã tự cho là mình tốt hơn bọn họ. Kiểu người hùng trong đám thường dân."

Hardy chỉ ra, "Nhưng ở vụ đầu tiên gã đã cho Digger tàn sát tất cả mọi người, không chỉ những người giàu".

Evans nói, "Hãy cân nhắc xem vị trí là ở đâu. Dupont Circle. Yuppieville ở đó. Chưa tới khu đông nam. Còn Nhà hát Mason ? Vé xem ba lê chắc phải đến sáu trăm đô một tấm. Còn địa điểm thứ ba nữa", Evans nhắc. "Four Seasons. Mặc dù chúng không tấn công nhưng đã dẫn dụ ta tới đó. Nghi phạm hẳn quen thuộc nơi ấy. Và nó rất cao cấp".

Lukas gật đầu. Đến bây giờ thì chuyện ấy mới có vẻ trở nên quá hiển nhiên và cô thấy buồn vì mình không nhận ra sớm hơn. Cô lại nghĩ về Parker, về cách anh tiếp cận các câu đố. Nghĩ thật bao quát. Mặc dù vậy, việc đó đôi khi rất khó khăn.

Tập trung nào...

"Tôi nghĩ gã tức giận với những người giàu có. Với những tinh hoa của xã hội."

"Tại sao ?", Cage hỏi.

'Tôi chưa biết được. Dựa vào các dữ kiện chúng ta đã có thì không. Nhưng đúng là nghi phạm rất ghét họ. Đầu gã ngập tràn hận thù. Và chúng ta nên nhớ kỹ điều đó khi tìm kiếm mục tiêu tiếp theo của gã."

Lukas đưa tấm ảnh chụp nghi phạm trong nhà xác lại gần mình và nhìn chằm chằm.

Gã đã nghĩ gì trong đầu nhỉ ? Động cơ của gã là gì?

Evans liếc cô và khẽ cười.

"Sao nào ?", Lukas hỏi.

Ông ta gật đầu về phía bức thư. "Tôi có cảm giác như mình đang phân tích nó. Cứ như nó mới là hung thủ."

Cô cũng có cảm nghĩ y hệt.

Chính xác như những gì Parker Kincaid từng nói.

Tập trung nào...

"Chờ đã, mọi người", Geller nói. "Chúng ta có gì này." Mọi người đều vươn mình tới chỗ màn hình để xem các chữ 'hai dặm về phía nam. - Ri..".

Đằng sau cụm từ ấy, máy tính đang điền các tổ hợp chữ cái khác nhau thu được từ mảnh tro. Nó sẽ tự động loại trừ nếu nét bút của một chữ cái không khớp với nét của chữ bên trái nó. Nhưng hệ thống đang dần điền thêm một chữ cái i vào đằng sau chữ R. Một chữ nữa đang thành hình sau đó.

"Lại là chữ i kỳ cục với cái chấm như Parker đã kể", Geller nói.

"Giọt lệ quỷ", Lukas thì thầm.

"Đúng vậy", Geller nói. "Rồi sau đó là... một chữ cái. Có phải chữ t không nhỉ ? Nước mắt chết tiệt, tôi chẳng thấy gì cả."

"Đúng rồi", Lukas nói. "Chắc chắn là chữ t. R-i-t

"Chữ tiếp theo là gì đấy ?", Hardy hỏi và vươn người về phía màn hình.

"Tôi không đọc được", Lukas lầm bẩm. "Mờ quá. Một chữ cái ngắn, không có bất kỳ, Parker gọi chúng là gì nhỉ, thân trên hay thân dưới thì phải".

Cô vươn người qua vai chàng kỹ thuật viên. Mùi khói từ người cậu ta vẫn rất nồng. Trên màn hình, các chữ cái rất mờ nhạt nhưng đúng là có một chữ ii và một chữ t. Tuy nhiên, chữ tiếp theo thì mờ tịt.

"Chết tiệt", Geller lẩm bẩm. "Máy tính nói rằng chữ cái ấy phù hợp. Các nét mực khớp nhau. Nhưng tôi chẳng nhận ra nổi. Có ai nhìn rõ hơn tôi không ?"

"Trông như là hình dích dắc hay gì đó", Lukas nói.

Đầu Cage ngẩng phắt lên. "Dích dắc à ? Hay chữ z ?"

"Ritz !", Hardy buột kêu. "Có thể là Ritz-Carlton không ?"

"Chắc là nó rồi !", Lukas nói và gật đầu với Evans. "Nghi phạm nhắm vào những người giàu có hơn mà."

"Đúng rồi !", Evans nói. "Và cũng hợp lý lắm, cứ theo cái cách gã thích dắt mũi chúng ta thì gã hẳn nghĩ rằng chúng ta sẽ loại trừ các khách sạn vì gã đã dùng mẹo ấy một lần rồi."

Trên chiếc ghế văn phòng, Geller xoay người sang một máy tính khác. Trong vòng năm giây, cậu ta đã có danh bạ Những trang vàng trên màn hình. "Có hai khách sạn Ritz trong khu vực. Một ở phố Tysons Comer. Cái còn lại ở Pentagon City."

Lukas nói, "Parker đã bảo nghi phạm sẽ bám lấy Đặc khu. Tôi đặt cược cho Pentagon City".

Cô gọi cho Jerry Baker và nói với anh ta mục tiêu mới nhất. "Tôi muốn huy động tất cả các đặc vụ tác chiến trong Đặc khu và Bắc Virginia. Cử một đội tối thiểu tới Tysons." Cô nói thêm, "Anh sẽ không thích đâu nhưng lần này không mũ giáp gì cả".

Ý cô là: không đội mũ trùm đầu Nomex và mang mũ bảo hiểm Kevlar, cách nói vắn tắt trong Cục hàm ý mặc thường phục.

"Cô chắc không ?", Baker nghi ngại hỏi. Khi các sĩ quan vận thường phục để làm nhiệm vụ chìm, họ không thể mặc quá nhiều giáp hộ thân như trong các hoạt động tác chiến công khai được. Việc ấy sẽ mang lại nguy hiểm gấp bội, đặc biệt là khi tội phạm được trang bị vũ khí hiện đại.

"Bắt buộc phải thế, Jerry. Lần trước, chúng ta đã suýt tóm được Digger, hắn sẽ bất an như một con nai. Nhìn thấy gì khác thường là hắn lẩn ngay. Tôi sẽ chịu toàn bộ trách nhiệm".

"Được rồi, Margaret. Tôi tiến hành đây."

Cô tắt máy.

Len Hardy nhìn cô chằm chằm. Đột nhiên, khuôn mặt anh ta có vẻ già dặn và đanh thép hơn. Cô tự hỏi có phải anh ta sắp tiếp cận mình một lần nữa để xin vào đội tác chiến. Nhưng anh ta lại hỏi, "Cô đang điều hành một chiến dịch thường phục ?".

"Đúng vậy. Có vấn đề gì sao, thanh tra ?" "Như thế có nghĩa là cô sẽ không sơ tán khách sạn ?"

"Không", cô trả lời.

"Nhưng sẽ có cả ngàn người ở đó đêm nay."

Lukas nói, "Nó phải mở cửa như bình thường. Digger không được phép nghi ngờ gì hết".

"Nhưng nếu hắn vượt mặt được chúng ta... Ý tôi là, thậm chí chúng ta còn không chắc trông hắn như thế nào."

'Tôi biết rồi, Len."

Anh ta lắc đầu, "Cô không thể làm vậy".

"Chúng ta không còn lựa chọn nào khác."

Thanh tra cảnh sát nói, "Cô biết tôi làm nghề gì mà, tôi gom nhặt các số liệu. Cô có muốn biết bao nhiêu người qua đường thiệt mạng trong các chiến dịch tác chiến công khai không ? Dễ có đến tám mươi phần trăm nguy cơ thiệt mạng đối với người vô tội nếu cô cố hạ hắn trong một tình huống như thế này".

"Thế anh định tính sao ?", cô quát lại, để anh ta thấy một phần cơn giận của mình.

"Cứ để người của cô mặc thường phục nhưng hãy đưa tất cả khách khứa ra ngoài. Để lại nhân viên nếu nhất thiết phải thế, chỉ việc đưa những người còn lại ra."

"Khá lắm chúng ta chỉ có khoảng năm đến sáu mươi đặc vụ vào trong khách sạn", cô chỉ ra. "Digger bước vào cửa chính, trông đợi sẽ thấy khoảng năm trăm khách, và hắn tìm được cái nhúm ấy ? Hắn sẽ lùi ngay và tới một nơi khác để xả súng"

“Vì Chúa. Margaret", Hardy lẩm bẩm, "ít nhất cũng phải đưa bọn trẻ ra chứ ?"

Lukas chìm vào im lặng, mắt vẫn dán vào lá thư.

"Làm ơn", thanh tra nài nỉ.

Cô nhìn vào mắt anh ta. "Không. Nếu chúng ta cố sơ tán bất kỳ một ai, tin tức sẽ lan ra ngoài và mọi người sẽ hoảng loạn."

"Vậy là cô chỉ còn biết cầu nguyện cho điều tốt đẹp nhất ?"

Cô liếc nhìn lá thư đòi tiền chuộc.

Kết thúc là đêm.

Dường như nó đang cười nhạo cô.

"Không”, Lukas nói. "Chúng ta sẽ ngăn cản được hắn. Đó là việc chúng ta sẽ làm." Một cái liếc mắt về phía Evans, "Tiến sĩ, ông ở lại đây nhé". Rồi một cái liếc mắt khác cho Hardy. "Anh phụ trách liên lạc."

Hardy thở dài giận dữ. Anh ta không nói gì.

"Đi thôi", Lukas nói với Cage. "Tôi phải ghé qua văn phòng."

"Để làm gì ?” Cage hỏi, gật đầu với bao súng trống không của cô. "Ồ, thêm trợ giúp à ?"

"Không, để lấy quần áo dự tiệc. Chúng ta phải hòa nhập vào đám đông chứ."

"Anh ta có tin tốt cho chúng ta." Wendell Jefferies tuyên bố, hai ống tay chiếc áo mi được đặt may riêng gập lên cao, để lộ những canh tay cơ bắp.

"Anh ta" ở đây tức là Slade Phillips, Thị trưởng Kennedy hiểu như vậy.

Hai người đang ở trong văn phòng Tòa thị chính. Ngài thị trưởng vừa mới tiến hành một cuộc họp báo đáng hổ thẹn nữa, thành phần tham dự chỉ có khoảng một tá phóng viên, mà thậm chí ngay lúc ông đang nói, vẫn cứ nghe điện thoại và kiểm tra máy nhắn tin để hy vọng chộp được tin gì hay ho hơn từ những nguồn khác. Ai có thể đổ lỗi cho họ ? Chúa ơi, ông chẳng còn gì để nói. Tất cả những gì ông nêu ra được chỉ là tình trạng tinh thần của vài nạn nhân mình đã tới thăm ở các bệnh viện.

"Anh ta sẽ lên sóng lúc chín giờ", Jefferies nói với ngài thị trưởng. "Một bản tin đặc biệt"

"Với cái gì ?"

"Anh ta không chịu nói", Jefferies đáp. "Vì lý do gì đó anh ta nghĩ như vậy là vi phạm đạo đức nghề nghiệp."

Kennedy vươn vai và ngả người ra sô pha, thứ đồ nhái thời Georgia mà người tiền nhiệm của ông đã mua về. Ở khâu hoàn thiện, hai tay ghế đã bị xước. Còn cái ghế quỳ ông đang kê đôi giày cỡ mười hai lên thì rất rẻ tiền; chỉ là một tấm bìa các tông gập lại và nhồi dưới một bên chân để giữ nó đứng vững.

Ông liếc nhìn chiếc đồng hồ bằng đồng.

Thưa ngài thị trưởng, cảm ơn ngài rất nhiều vì đã tới nói chuyện với chúng cháu ngày hôm nay. Được nghe ngài nói là một niềm vinh dự. Ngài là người rất tử tế đối với học sinh, sinh viên như chúng cháu và chúng cháu muốn được tưởng... tưởng... tưởng nhớ chuyến thăm của ngài bằng một món quà, chúng cháu hy vọng ngài sẽ thích...

Kim phút tiến tới một khắc. Trong vòng một tiếng nữa, ông nghĩ, sẽ có bao nhiêu người nữa phải thiệt mạng ?

Điện thoại kêu. Kennedy thờ ơ liếc nhìn nó và để Jefferies trả lời.

"Xin chào ?"

Rồi anh ta im lặng.

"Chắc chắn rồi. Chờ máy nhé." Anh ta vừa đưa ống nói cho Kennedy vừa bảo, "Chuyện này thú vị đấy !".

Ngài thị trưởng cầm lấy điện thoại. "Vâng ?"

"Thị trưởng Kennedy ?"

"Đúng vậy."

"Tôi là Len Hardy."

"Thanh tra Hardy ?"

"Đúng vậy. Có... có ai khác đang nghe không ?"

"Không. Đây là đường dây riêng của tôi."

Thanh tra cảnh sát ngập ngừng một chút rồi nói "Tôi đang nghĩ... Về điều chúng ta đã nói với nhau".

Kennedy ngồi thẳng dậy, bỏ chân xuống khỏi ghế sô pha.

"Nói tiếp đi, con trai. Cậu đang ở đâu ?"

"Phố Ninth. Trụ sở FBI."

Một khoảng im lặng. Ngài thị trưởng khuyến khích, "Tiếp tục đi !".

"Tôi không thể ngồi đây thêm được nữa. Tôi phải làm điều gì đó. Tôi nghĩ cô ấy đang phạm một sai lầm."

"Lukas à ?"

Hardy nói tiếp, "Họ đã tìm ra nơi hắn định tấn công tiếp theo đêm nay. Tên Digger ấy".

"Thế à ?" Bàn tay khỏe mạnh của Kennedy tóm chặt điện thoại. Ra hiệu cho Jefferies đưa cho ông một cái bút và tờ giấy. "Ở đâu ?"

"Khách sạn Ritz-Carlton."

"Cái nào ?"

"Họ không chắc. Có thể ở Pentagon City... Nhưng, ngài thị trưởng, cô ấy đã không cho sơ tán."

"Cô ta làm gì ?", Kennedy quát.

"Lukas không sơ tán khách sạn. Cô ấy..."

"Chờ đã", Kennedy nói. "Họ biết hắn sắp tấn công vào đâu mà cô ta không nói với ai ư ?"

"Không, cô ấy sẽ dùng khách khứa làm mồi nhử. Ý tôi là, đó là cách duy nhất để nói về chuyện đó. Dù thế nào, tôi cũng đã nghĩ về những gì ông bảo. Tôi quyết định phải gọi cho ông."

"Cậu đã làm đúng, thanh tra ạ."

"Tôi hy vọng thế, thật sự hy vọng thế. Tôi không thể nói chuyện lâu hơn, thị trưởng. Tôi chỉ muốn thông báo cho ông biết."

"Cảm ơn cậu." Jerry Kennedy cúp máy và đứng dậy.

"Có chuyện gì ?", Jefferies hỏi.

"Chúng ta đã biết hắn sẽ tấn công vào đâu. Khách sạn Rite. Gọi Reggie đi, tôi muốn ô tô của mình ngay bây giờ. Và có cả cảnh sát hộ tống."

Trong lúc ông lao ra cửa, Jefferies lại hỏi, "Thế còn báo chí ?".

Kennedy liếc nhìn trợ thủ. Ý nghĩa của cái nhìn không thể nhầm vào đâu được. Nó nói: Tất nhiên, chúng ta cần tới báo chí rồi.

***

Cả hai đang đứng khá kỳ quặc, bên cạnh nhau, bốn cánh tay đều khoanh trước ngực, trong phòng trọ của Digger.

Cả hai đều đang xem ti vi.

Buồn cười thật.

Những hình ảnh trên ti vi trông rất quen thuộc với Digger.

Ti vi đang chiếu cảnh nhà hát. Nơi mà đáng lẽ ra hắn phải xoay một vòng như hồi ở trong rừng tại Connecticut và xả đạn vào cả triệu chiếc lá. Nơi hắn đã muốn xoay vòng, nơi đáng lẽ hắn phải làm như vậy, nhưng lại không thể.

Nhà hát nơi mà... click... nơi cái người đáng sợ với quai hàm to và chiếc mũ cao đã lao tới bắt hắn. Không, thế không đúng.... Đó là nơi cảnh sát tới để bắt hắn.

Hắn nhìn thằng bé trong lúc nó đang xem ti vi. Thằng bé nói, "Chết tiệt !". Nhưng có vẻ chẳng vì lý do gì.

Y như Pamela.

Digger gọi vào hòm thư thoại của mình và nghe giọng điện tử của một người phụ nữ nói, "Bạn không có tin nhắn mới".

Hắn cúp máy.

Digger không có nhiều thời gian. Hắn nhìn đồng hồ. Thằng bé cũng nhìn đồng hồ của hắn.

Nó vừa gầy vừa yếu. Khu vực quanh mắt phải hơi sẫm hơn nước da đậm màu của nó và Digger biết rằng người đàn ông hắn vừa giết đã đánh thằng bé rất nhiều lần. Hắn nghĩ hắn vui vì đã bắn chết gã kia. Cho dù vui nghĩa là gì.

Digger tự hỏi người chỉ dạy hắn mọi điều sẽ nghĩ gì về thằng bé. Đúng là anh ta đã bảo hắn phải giết bất kỳ ai nhìn vào mặt mình. Còn thằng bé thì đã nhìn rồi. Nhưng có vẻ như... click... có vẻ như... không đúng lắm khi giết nó.

Tại sao, với tôi, dường như mỗi ngày, tôi đều yêu em nhiều hơn.

Hắn đi vào trong bếp và mở một hộp xúp. Múc một ít ra bát. Rồi nhìn cánh tay gầy gò của thằng bé và múc thêm chút nữa. Mỳ. Chủ yếu là mỳ. Hắn hâm lại xúp trong lò vi sóng đúng sáu mươi giây - đó là lời chỉ dẫn để làm cho xúp "sôi sùng sục". Hắn đặt cái bát trước mặt thằng bé. Đưa cho nó cái thìa.

Thằng bé ăn một miếng. Rồi một miếng nữa. Nó không thể ngừng ăn. Nó nhìn vào màn hình ti vi. Cái đầu nhỏ hình viên đạn cứ quay từ bên này sang bên kia, mắt nó trĩu xuống và Digger nhận ra thằng bé bị mệt. Mắt và đầu của Digger cũng như thế mỗi khi hắn mệt.

Hắn và thằng bé giống nhau thật, hắn quyết định.

Digger chỉ về giường. Nhưng thằng bé chỉ sợ hãi nhìn hắn mà không phản ứng gì. Digger chỉ vào ghế sô pha và thằng bé đứng lên rồi bước đến chỗ ghế. Nó nằm xuống, vẫn nhìn chằm chằm ti vi. Digger lấy một cái chăn và đắp ngang người nó.

Digger nhìn ti vi. Lại thêm tin tức. Hắn tìm được một kênh chiếu quảng cáo. Bán hamburger, ô tô và bia.

Những thứ đại loại thế.

Hắn nói với thằng bé, "Tên...". Click... "Tên cháu là gì ?"

Thằng bé nhìn lại hắn bằng đôi mắt đã trĩu xuống một nửa. "Tye."

"Tye." Digger nhắc lại vài lần với chính mình. "Ta sắp... sắp ra ngoài."

"Nhưng ông có quay lại không ?"

Ý nó là gì nhỉ ? Digger lắc đầu, cái đầu với một chỗ lõm rất nhỏ phía trên thái dương.

"Ôngcóquaylạikhông ?", thằng bé lại thì thầm.

"Ta sẽ quay lại."

Thằng bé nhắm mắt.

Nguyên văn: Butyourebeback ? (Ám chỉ cậu bé nỏi líu ríu vào nhau khiến Digger không nghe rõ.)

Hắn cố nghĩ thêm điều gì để nói với Tye. Có vài từ hắn cảm thấy mình rất muốn nói ra nhưng không nhớ nổi chúng. Dù sao cũng chẳng còn là vấn đề nữa vì thằng bé đã ngủ thiếp đi rồi. Digger kéo cái chăn lên cao hơn.

Hắn bước đến tủ quần áo, mở khóa và lấy ra một trong mấy hộp đạn. Hắn đi găng tay cao su, nạp hai băng đạn vào khẩu Uzi rồi lắp lại ống giảm thanh. Và khóa tủ.

Thằng bé vẫn đang ngủ. Digger có thể nghe thấy tiếng nó thở.

Digger nhìn cái túi hình chó con đã bị rách. Hắn định vò nát nó rồi ném đi, nhưng bỗng nhớ lại lúc Tye nhìn cái túi với vẻ thích thú. Thằng bé thích cún con. Digger vuốt phẳng cái túi và đặt nó bên cạnh thằng bé để nếu nó tỉnh dậy trong lúc Digger ra ngoài, nó sẽ nhìn thấy bọn chó con và chẳng còn sợ hãi.

Digger không cần cái túi hình chó con nữa.

"Lần thứ ba hãy dùng một cái túi nâu bình thường", người đàn ông chỉ dạy hắn mọi điều đã dặn.

Và thế là Digger mua một cái túi màu nâu.

Thằng bé xoay người nhưng vẫn ngủ.

Digger đặt khẩu Uzi vào trong chiếc túi nâu, mặc áo khoác tối màu của mình và đeo găng tay vào rồi rời khỏi phòng.

Ở dưới nhà, hắn bước vào ô tô, một chiếc Toyota Corolla rất xinh xắn.

Hắn yêu thích các quảng cáo.

Ôi, mỗi ngày người ta...

Hắn thích câu đó hơn câu.

Ôi, thật là một cảm giác...

Digger biết lái xe. Hắn là một tài xế giỏi. Hắn từng lái xe cùng Pamela. Nàng lái xe rất nhanh còn hắn thì lái rất chậm. Nàng có nhiều vé phạt tốc độ, còn hắn thì chưa từng có bao giờ.

Hắn mở hộp đựng găng. Có mấy khẩu súng ngắn bên trong. Hắn lấy ra một khẩu và nhét vào túi. "Sau nhà hát", người đàn ông chỉ dạy hắn mọi điều đã cảnh báo, "sẽ có thêm nhiều cảnh sát tìm kiếm anh. Anh phải thật cẩn thận. Nhớ là, nếu ai nhìn thấy mặt anh..”. Tôi nhớ rồi.

***

Trên tầng, trong phòng của Robby, Parker đang ngồi với con trai. Thăng bé ngồi trên giường còn Parker thì ngồi trên chiếc ghế xích đu anh đã mua ở tiệm Đồ cổ và Mọi thứ, cũng từng cố sửa lại nó nhưng không thành công.

Hai tá đồ chơi đang nằm trên sàn, một chiếc máy Nintendo 64 cắm vào màn hình ti vi cũ, áp phích Chiến tranh giữa các vì sao thì dán khắp tường. Luke Skywalker. Cả Darth Vader...

Vật cầu may của chúng ta đêm nay.

Cage đã nói vậy. Nhưng Parker đang cố không nghĩ đến Cage. Hay Margaret Lukas. Hay Digger. Anh đang đọc truyện cho con trai nghe. Truyện Anh chàng Hobbit.

Robby chìm đắm trong câu chuyện cho dù nó đã được bố đọc cho nghe vô số lần. Hai bố con luôn bị hút về phía cuốn sách này mỗi khi Robby thấy sợ hãi, đặc biệt là đoạn giết con rồng tàn bạo. Phần đó của cuốn sách luôn khiến thằng bé dũng cảm hơn.

Khi anh bước qua ngưỡng cửa nhà mình một lúc trước, cả khuôn mặt thằng bé đã trở nên sáng rỡ. Parker đã nắm tay Robby và hai bố con cùng đi ra hiên sau. Anh kiên nhẫn cho thằng bé thấy thêm một lần nữa là chẳng có kẻ đột nhập nào ở sân hay gara. Họ đã quyết định rằng ông Johnson già cả, lú lẫn lại để xổng con chó của mình ra ngoài vì quên đóng cổng rào.

Stephie cũng ôm bố và hỏi bạn của anh sao rồi, người bị ốm ấy.

"Chú ấy khỏe", Parker nói, dù đã tìm kiếm nhưng không kiếm nổi một mẩu sự thật nào để níu kéo câu tuyên bố ấy. Ôi, cảm giác tội lỗi của bậc cha mẹ... Nó mới đau xót làm sao !

Stephie đã nhìn theo đầy cảm thông khi Robby và Parker trèo lên gác đọc sách. Nếu là vào lúc khác con bé sẽ đi cùng bố và anh mình, nhưng bản năng của nó lúc này lại biết rằng nên để họ ở riêng với nhau. Điều anh đã học được về lũ trẻ nhà mình: Chúng xích mích với nhau như những đứa trẻ con khỏe mạnh khác, cố tranh giành ảnh hưởng của nhau, ẩu đả lẫn nhau theo kiểu anh chị em. Thế nhưng khi có điều gì đó làm ảnh hưởng tới tâm trí của một đứa, giống như Người chèo thuyền, thì bản năng luôn mách bảo đứa kia sẽ cần phải làm gì. Con bé biến mất vào trong bếp và nói, "Con sẽ làm cho Robby món tráng miệng bất ngờ".

Trong lúc đọc, thi thoảng anh có liếc nhìn sắc mặt con. Đôi mắt thằng bé nhắm lại và nó có vẻ hoàn toàn hài lòng. (Trong cuốn cẩm nang ghi: "Đôi khi việc của bạn không phải là nói lý lẽ hay dạy bảo các con, hay thậm chí là nêu gương người trưởng thành mẫu mực. Bạn chỉ cần ở bên chúng. Thế là đủ".)

"Con muốn ba đọc tiếp không ?", anh thì thầm.

Thằng bé không trả lời.

Parker để sách lên đùi và tiếp tục ngồi trên cái ghế xích đu xập xệ, khẽ đưa đi đưa lại. Và ngắm con trai.

Vợ của Thomas Jefferson, bà Martha, đã chết không bao lâu sau khi sinh hạ đứa con gái thứ ba của họ (cô bé cũng chết năm lên hai). Jefferson chẳng bao giờ tái hôn mà chỉ vật lộn với việc nuôi dạy hai cô con gái còn lại. Là một chính trị gia và nhà lãnh đạo, ông bị buộc phải làm người cha vắng mặt thường xuyên, điều đó khiến ông ghét cay ghét đắng. Chính những lá thư đã giúp ông giữ liên lạc với các con. Ông viết hàng ngàn trang cho các cô con gái, phân phát sự ủng hộ, lời khuyên, phàn nàn và cả tình yêu. Parker hiểu rõ Jefferson như chính cha mình và có thể đọc thuộc lòng nhiều lá thư của ông. Lúc này, anh đang nghĩ về một bức trong số đó, được viết hồi Jefferson còn làm phó tổng thống và đang đứng trước một trận chiến chính trị khốc liệt giữa các đảng phái đối thủ thời đó.

Ngắm nhìn con trai, lắng nghe tiếng con gái loảng xoảng xoong nồi dưới bếp, anh bỗng thấy lo lắng, như vẫn thường thấy thế, rằng liệu mình có đang nuôi dạy các con đúng cách không.

Đã biết bao lần anh nằm trằn trọc giữa đêm khuya để lo lắng về điều ấy.

Rốt cuộc, anh đã chia cách hai con với mẹ chúng. Dẫu tòa án cùng hầu hết bạn bè của anh (và cả bạn bè của Joan) đều đồng tình rằng đó là điều đúng đắn nhất cần làm, thì anh cũng chẳng thấy có gì khác. Anh đã không trở thành một ông bố đơn thân vì thói tật của Thần chết giống như Jefferson; không, Parker đã tự mình quyết định chuyện đó.

Nhưng đó có thực là vì lũ trẻ ? Hay là vì anh muốn thoát khỏi sự bất hạnh của chính mình ? Điều đó thường xuyên dằn vặt anh. Trước khi cưới, Joan ngọt ngào biết bao, quyến rũ biết bao. Nhưng giờ anh nhận ra hầu hết những điều đó đều chỉ là giả tạo. Thực tế, cô ta là một người khó gần và tính toán chi li. Tính khí cô ta thật thất thường: Đôi lúc vui tươi, nhưng lắm khi lại lên cơn giận dữ và nghi ngờ, hoang tưởng suốt nhiều ngày liền.

Hồi mới gặp Joan, anh đang bắt đầu hiểu ra rằng cuộc sống sẽ khác đến nhường nào nếu bạn mất cha mẹ từ khi mình còn trẻ. Khu vực phi quân sự giữa bạn và cái chết sẽ biến mất. Bạn sẽ tìm kiếm một người bạn đời hoặc ai đó chăm lo cho bạn, và trong trường hợp của Parker là ai đó để bạn chăm sóc.

Anh không nghĩ như thế là tốt nhất hay sao ? Không ai phải chăm sóc ai cả ? Đấy là quy tắc. Hãy ghi lại đi.

Vậy nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi anh tìm kiếm một người phụ nữ dù xinh đẹp và quyến rũ nhưng một phần nào đó lại nhõng nhẽo và yếu đuối.

Đương nhiên, chẳng bao lâu sau khi bọn Who ra đời, khi cuộc sống hôn nhân của họ bắt đầu đòi hỏi những trách nhiệm và đôi lúc chỉ còn lại lao động vất vả lẫn sự hy sinh, Joan đã đầu hàng cảm giác bất mãn cùng những cơn mưa nắng thất thường của minh.

Parker thử mọi thứ mình nghĩ ra được. Anh cùng cô tới gặp nhà tâm lý, đảm nhận quá nửa phần công việc chăm sóc lũ trẻ, cố trêu đùa để cô bớt ủ dột, lên kế hoạch các bữa tiệc, đưa cô đi nghỉ, nấu ăn cho cả nhà.

Nhưng trong số tất cả những điều bí mật Joan che giấu anh là tiền sử gia đình nghiện rượu, anh đã rất ngạc nhiên khi phát hiện ra cô ta uống nhiều hơn anh tưởng. Đôi lúc, cô ta cũng áp dụng quy trình mười hai bước và cố thử các biện pháp được tư vấn. Nhưng rồi cô ta luôn sa ngã.

Cô ta ngày càng xa cách với anh và bọn trẻ, lấp dầy thời gian của mình bằng các thú vui cùng những sở thích nhất thời. Đi học lớp nấu ăn đặc biệt, mua xe thể thao, mua sắm bốc đồng, tập luyện như vận động viên Olympic ở một câu lạc bộ xa xỉ (nơi cô ta gặp người chồng tương lai Richard). Nhưng cô ta luôn bỏ giữa chừng; khiến anh và lũ trẻ phải chịu đựng quá đủ.

Rồi đến vụ việc ấy.

Tháng Sáu, bốn năm về trước.

Parker từ chỗ làm ở phòng Thí nghiệm Tài liệu của Cục về và phát hiện Joan đã bỏ đi, cô vú em đang chăm sóc bọn Who. Bản thân việc đó không có gì khác thường hay đáng lo ngại. Nhưng khi anh lên lầu để chơi với lũ trẻ, anh lập tức nhận ra có gì đó không đúng. Stephie và Robby, khi ấy mới lên bốn, lên năm, đang ngồi trong căn phòng chung của chúng và lắp Tinkertoys. Nhưng Stephanie ngồi không vững. Mắt con bé chẳng hề tập trung và mặt thì đổ mồ hôi nhễ nhại. Parker để ý thấy con bé đã nôn trong lúc tới nhà tắm. Anh đặt con bé lên giường và đo nhiệt độ, hoàn toàn bình thường. Parker không ngạc nhiên khi người vú em chẳng biết gì về việc Stephanie bị ốm; trẻ con thường xấu hổ mỗi khi bị nôn ọe hay bĩnh ra quần, vì thế chúng thường cố giấu các bí mật về những tai nạn đó. Nhưng Stephie, và anh trai nó, có vẻ trốn tránh hơn Parker tưởng rất nhiều.

Mắt thằng bé cứ liên tục liếc về phía thùng đồ chơi của chúng. ("Để ý ánh mắt đầu tiên", cuốn Cẩm nang của anh ra lệnh. "Sau đó mới nghe lời chúng nói") Parker đi về phía cái thùng và Robby bắt đầu khóc, cầu xin anh đừng mở nó ra. Nhưng tất nhiên, anh đã làm. Và rồi đứng bất động nhìn xuống đống chai vodka Joan giấu ở đó.

Stephanie đã bị say rượu. Con bé cố bắt chước mẹ nó, uống rượu từ cái cốc Winnie the Pooh của mình.

"Mẹ bảo đừng nói gì về bí mật của mẹ", thằng bé vừa kể vừa khóc. "Mẹ bảo ba sẽ điên tiết nếu ba biết. Mẹ bảo ba sẽ la bọn con."

Hai ngày sau, anh bắt đầu các thủ tục ly dị. Anh thuê một luật sư giỏi và yêu cầu Cơ quan bảo vệ trẻ em can thiệp trước khi Joan kịp dựng lên những lời cáo buộc bạo hành mà luật sư nghĩ là cô ta sẽ thử.

Cô ta đấu tranh quyết liệt nhưng đó là cách một người giành giật bộ sưu tập tem hay chiếc xe thể thao chứ không phải điều gì đó họ yêu quý hơn cả mạng sống.

Rốt cuộc, sau khi mất hàng tháng đau đớn và hàng chục ngàn đô la, lũ trẻ thuộc về anh.

Anh đã tưởng anh có thể tập trung sửa chữa lại đời mình và cho lũ trẻ một cuộc sống bình thường.

Đúng là anh đã làm được, trong bốn năm vừa qua. Nhưng giờ cô ta đã trở lại và đang cố thay đổi phán quyết của tòa.

Ôi Joan, sao cô làm điều này ? Cô không bao giờ nghĩ cho con hay sao ? Cô không hiểu rằng lòng tự tôn của cô, của những bậc làm cha làm mẹ, phải bị gạt đi hoàn toàn khi đặt trước lợi ích của con cái hay sao ? Nếu anh nghĩ việc lũ trẻ chia sẻ thời gian ở với cả bố và mẹ sẽ thực sự tốt hơn cho chúng thì anh sẵn sàng đồng ý ngay tắp lự; cho dù một phần trong anh sẽ tan nát. Nhưng anh vẫn làm.

Thế nhưng anh tin đó sẽ chỉ là thảm họa cho các con anh. Vì vậy, anh chiến đấu không ngừng nghỉ với vợ cũ trước tòa và cùng lúc bao bọc sao cho các con anh tránh khỏi cảm giác thù địch trong thời gian kiện tụng ấy. Vào những lúc như vậy, bạn phải chiến đấu ở cả hai mặt trận: Chiến đấu với kẻ thù và với chính mong muốn da diết được làm một đứa trẻ và chia sẻ nỗi đau của mình với các con. Nhưng đó là việc bạn không bao giờ được phép làm.

"Ba ơi", Robby bỗng nói, "ba ngừng đọc rồi kia".

"Ba tưởng con ngủ rồi." Anh cười.

"Con chỉ cho mắt nghỉ chút thôi. Chúng mệt quá mà. Nhưng con chưa mệt."

Parker liếc nhìn đồng hồ. Tám giờ kém mười lăm. Còn mười lăm phút nữa là đến... Không, lúc này đừng nghĩ ngợi về nó.

Anh hỏi con trai, "Con có khiên chưa ?".

"Ngay đây ạ."

"Ba cũng thế."

Anh lại cầm sách lên và bắt đầu đọc.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


Margaret Lukas quan sát các gia đình ở khách sạn Ritz-Carlton.

Cô và Cage đứng ở đại sảnh, nơi hàng trăm con người đang tụ tập chè chén và ăn uống. Lukas mặc bộ vét màu xanh hải quân do chính cô thiết kế và tự may. Nó được cắt sát với người cô, may từ vải dạ đắt tiền, đi kèm với chiếc váy xếp ly dài. Cô đã cắt một đường đặc biệt trên chiếc áo để đảm bảo là khẩu Clock 10 đeo bên hông không làm hỏng đường nét thanh lịch của bộ váy áo. Nó sẽ rất hoàn hảo khi đi nghe nhạc kịch hay tới một nhà hàng sang trọng, nhưng thường thì cô chỉ mặc nó khi tới đám cưới và đám tang. Cô gọi nó là bộ vest tang-cưới của mình.

Mười lăm phút nữa là tới tám giờ.

"Không có gì, Margaret", giọng nói cộc lốc vang lên trong tai nghe của cô. Giọng của c. p. Ardell. Anh đang ở tầng một, chốt ở bãi đậu xe, một lối vào khác của khách sạn, giả vờ là một tay chè chén đã hơi ngà ngà say. Viên đặc vụ to lớn mặc bộ quần áo xoàng xĩnh hơn đáng kể so với bộ của Lukas: quần bò loang lổ và áo khoác da của dân lái mô tô. Trên đầu anh là chiếc mũ Redskins, anh đội nó không phải vì lạnh mà vì chẳng có mấy tóc để che sợi dây cáp của chiếc tai nghe. Ngoài ra, còn có thêm sáu mươi lăm đặc vụ mặc thường phục ở trong và quanh khách sạn, tất cả đều được trang bị nhiều súng hơn cả triển lãm súng ống ở El Paso.

Và đều đang tìm một người đàn ông mà họ không hề biết nhân dạng.

Có thể là da trắng, vóc người trung bình.

Có thể đang đeo một sợi dây Thánh giá bằng vàng.

Trong sảnh, Lukas và Cage quan sát những vị khách, đội vác hành lý và các nhân viên khách sạn. Không ai có chút gì giống với mô tả họ có được của Digger. Cô nhận ra họ đang khoanh tay đứng nguyên, trông y hệt hai đặc vụ liên bang ăn vận chỉn chu, đi theo dõi ai đó.

"Nói gì buồn cười đi", cô thì thầm.

"Sao cơ ?", Cage hỏi.

"Chúng ta sẽ lộ mất. Giả vờ nói chuyện đi."

"Được thôi", Cage nói và mỉm cười hết cỡ. "Thế cô nghĩ sao về Kincaid ?"

Câu hỏi ấy làm cô bất ngờ. "Kincaid à ? Ý ông là sao ?"

"Tôi đang nói chuyện đấy thôi." Một cái nhún vai. "Cô nghĩ gì về cậu ta ?"

"Tôi không biết."

"Chắc chắn cô biết", Cage khăng khăng.

"Anh ta chỉ hiểu về tội phạm, không biết cách sống còn."

Lần này, cái nhún vai của Cage mang vẻ nhượng bộ. "Hay đấy ! Tôi thích điều đó." Một lúc liền ông không nói gì thêm.

"Ông định nhắm đến cái gì ?", cô hỏi.

"Chẳng có gì. Tôi chẳng nhắm gì cả. Chúng ta chỉ đang giả vờ nói chuyện thôi mà"

Tốt, cô nghĩ.

Tập trung nào...

Họ quan sát một tá các nghi phạm tiềm năng khác. Cô bỏ qua họ vì những lý do cô biết là chỉ thiên về bản năng chứ không giải thích được.

Khả năng sống còn...

Một lát sau, Cage nói, "Cậu ta là người tốt. Kincaid ấy".

"Tôi biết. Anh ta rất hữu ích."

Cage phá lên cười theo kiểu ngạc nhiên của mình, ý là: Tôi nắm thóp được cô rồi. Ông nhắc lại, "Hữu ích".

Lại im lặng.

Cage nói, "Cậu ta mất bố mẹ ngay sau khi tốt nghiệp đại học. Rồi đến cuộc chiến giành quyền nuôi con vài năm trước. Vợ cậu ta đúng là một mụ điên".

"Khổ nhỉ", cô nói và tiến vào đám đông. Cô va phải một vị khách có chỗ gồ lên đáng ngờ dưới cánh tay, nhưng kịp nhận ra ngay đó là điện thoại di động, nên lại quay về chỗ Cage. Và hỏi một cách bốc đồng, "Chuyện gì đã xảy ra với bố mẹ anh ta ?".

"Tai nạn xe cộ. Đại loại cũng điên rồ lắm. Mẹ cậu ta vừa bị chẩn đoán mắc bệnh ung thư và có vẻ căn bệnh đó đến thật đúng lúc. Nhưng họ lại bị một chiếc xe tải đâm phải trên đường Chín lăm, lúc đang tới Johns Hopkins để hóa trị. Bố cậu ta là giáo sư. Tôi đã gặp ông ta đôi lần. Rất tử tế."

"Thế à ?", cô lẩm bẩm, lại bị phân tâm.

"Lịch sử."

"Sao cơ ?"

"Đó là môn bố của Kincaid dạy. Môn lịch sử."

Cuối cùng, Lukas nói, "Tôi chỉ cần một cuộc hội thoại giả vờ, Cage à, không phải trò mai mối".

Ông trả lời, "Tôi đang làm thế à ? Tôi mà làm thế sao ? Tôi chỉ đang muốn nói là cô sẽ không gặp được nhiều ngươi như Kincaid đâu".

"À vâng. Chúng ta phải tập trung, Cage."

"Tôi đang tập trung. Cô cũng đang tập trung. Kincaid không biết tại sao cô lại cáu với cậu ta."

"Rất đơn giản. Anh ta không thuộc về đội. Tôi sẽ bảo với anh ta như vậy. Và chúng tôi sẽ thu xếp với nhau. Hết chuyện."

"Cậu ta là người tử tế", Cage mời chào. "Một người sống tích cực. Lại còn thông minh, trí tuệ rất lạ lùng. Cô phải xem cậu ta giải đố mới được."

"Vâng. Tôi chắc là anh ta rất tuyệt vời."

Tập trung.

Nhưng cô chẳng tập trung nổi. Cô đang nghĩ về Kincaid.

Vậy là anh ta đã nhận lấy chữ V viết hoa của mình trong từ vận rủi: hai cái chết và một vụ ly dị. Một cô vợ khó chiều cùng cuộc vật lộn để tự mình nuôi nấng lũ trẻ. Điều đó giải thích phần nào những gì cô đã thấy.

Kincaid...

Và nghĩ về anh, với tư cách nhà giám định tài liệu, lại khiến cô nhớ về tấm bưu thiếp.

Bưu thiếp của Joey.

Trong chuyến đi không bao giờ có thể trở lại của hai bố con, Tom và Joey đã tới thăm bố mẹ chồng của cô ở Ohio. Đó là ngày trước Lễ tạ ơn. Đứa con trai sáu tuổi đã gửi cho cô một tấm bưu thiếp từ sân bay trước khi họ lên chiếc máy bay định mệnh. Có lẽ là chưa đầy nửa tiếng sau, chiếc 737 đã lao đầu xuống một cánh đồng băng.

Nhưng thằng bé không biết là bạn cần phải dán tem thì mới gửi bưu thiếp đi được. Chắc nó đã nhét vào thùng thư trước khi bố nó biết việc nó vừa làm.

Bưu thiếp đến tay cô một tuần sau đám tang. Nợ tiền cước phí. Cô trả tiền và suốt ba giờ sau đó, cô cẩn thận lột bỏ phần nhãn dán của Dịch vụ bưu chính đã che mất một phần chữ của con trai mình.

Hai bố con vui lắm mẹ ạ. Bà và con đã nướng bánh quy.

Con nhớ mẹ. Con yêu mẹ...

Tấm thiệp từ đứa con trai đã chết của cô.

Giờ đây, nó đang nằm trong ví cô, một bức ảnh hoàng hôn lòe loẹt của vùng trung tây. Chiếc nhẫn cưới đã được cô cất trong hộp nữ trang, nhưng tấm thiệp này thì cô luôn giữ bên mình và sẽ còn mang theo đến khi chết.

Sáu tháng sau vụ tai nạn máy bay, Lukas mang bản sao của tấm thiệp tới gặp một nhà đoán tướng chữ và nhờ bà ta phân tích chữ viết của con trai cô.

Người phụ nữ ấy đã nói, "Bất kể người nào đã viết ra cái này, đó là người sáng tạo và quyến rũ. Cậu bé lớn lên sẽ đẹp trai lắm. Và thông minh nữa, không có lòng kiên nhẫn đối với sự giả dối. Cậu bé cũng đầy ắp yêu thương. Cô rất may mắn vì có được một đứa con trai như thế".

Tốn thêm mười đô la nữa, nhà tướng học đã cho cô ghi âm lại những lời phán của bà. Cứ vài tuần, Lukas lại lắng nghe cuốn băng ấy. Cô ngồi một mình trong phòng khách tối om, châm nến, rót một hai ly rượu và nghe người ta nói con trai mình đáng lẽ sẽ thành người thế nào.

Rồi Parker Kincaid xuất hiện ở trụ sở FBI và tuyên bố bằng cái giọng ta đây biết tuốt của anh rằng đoán tướng chữ chỉ là trò vớ vẩn

Người ta cũng bói bài và gọi hồn người chết đấy thôi. Toàn lừa bịp.

Không phải ! Lúc này cô đang giận dữ với chính mình. Cô tin vào những điều người đoán tướng chữ đã nói.

Cô phải tin. Nếu không, cô sẽ phát điên mất.

Như thể cô mất đi một phần tâm trí khi cô có con. Chúng đánh cắp phần ấy và không bao giờ trả lại. Đôi khi tôi thấy thật kinh ngạc vì các bậc phụ huynh vẫn còn có thể sinh hoạt được bình thường.

Lời bình phẩm của Tiến sĩ Evans. Lúc ấy, cô đã không chấp nhận nhưng cô biết điều đó hoàn toàn đúng.

Lại còn việc Cage cứ cố gán ghép cô. Đúng là cô và Kincaid rất giống nhau. Họ đều thông minh (và cả kiêu ngạo nữa). Họ đều chịu mất mát trong cuộc sống. Cả hai đều có những bức tường bảo vệ, của anh là để ngăn nguy hiểm ở lại bên ngoài, của cô là để ngăn mình rút hẳn vào thế giới nội tâm, nơi mối nguy đáng sợ nhất tồn tại. Thế nhưng, chính bản năng giúp cô trở thành cảnh sát giỏi đã mách bảo rằng, cho dù không có lý do rõ ràng, giữa hai người sẽ chẳng có tương lai nào. Cô phải trở về với cuộc sống "bình thường" nhất có thể. Cô có con chó Jean Luc. Cô có bạn bè. Cô có đĩa CD. Có câu lạc bộ chạy việt dã. Việc khâu vá. Nhưng về mặt tình cảm, Margaret Lukas đã đến "trạng thái bình bình", một cụm từ tồn tại trong Cục để chỉ những đặc vụ không còn cơ hội thăng tiến nào nữa.

Không, cô biết sau đêm nay, mình sẽ chẳng bao giờ gặp lại Parker Kincaid. Và việc đó hoàn toàn ổn...

Tai nghe phát ra tiếng động. "Margaret... Lạy Chúa tôi !" Đó là c. p. Ardell đang đứng chốt dưới nhà.

Lukas rút súng ra ngay lập tức.

"Anh có nghi phạm à ?", cô thì thầm vào micro ở ve áo.

"Không" viên đặc vụ kia nói. "Nhưng chúng ta có rắc rối. Dưới này loạn hết cả lên rồi."

Cage cũng đang lắng nghe. Tay ông hạ xuống gần vũ khí của mình trong lúc nhìn Lukas, cau mày.

c. p. nói tiếp, "Ngài thị trưởng. Ông ta tới đây với cả tá cảnh sát và đội ghi hình nữa, chết tiệt".

"Không !", Lukas quát, thu hút sự chú ý của đám người gần đó.

"Họ mang cả đèn chiếu sáng và đủ thứ. Tên xạ thủ mà nhìn thấy là hắn sẽ chuồn ngay. Trông không khác gì rạp xiếc."

"Tôi xuống ngay đây !"

***

"Ngài thị trưởng, đây là chiến dịch cấp liên bang và tôi buộc phải yêu cầu ngài rời khỏi ngay lập tức."

Họ đang ở trong bãi đỗ xe. Lukas lập tức nhận thấy cửa ra vào có điều khiển và để vào được trong này thì phải có vé. Điều đó có nghĩa là biển số xe sẽ bị ghi lại, đồng nghĩa với việc Digger có thể không đến từ lối này: Tên nghi phạm sẽ bảo hắn không được để lại bất cứ dấu vết gì trong mỗi lần tấn công. Nhưng Thị trưởng Kennedy và đoàn tùy tùng chết giẫm của ông lại hướng thẳng tới cửa chính của khách sạn, nơi ông cùng đám vệ sĩ mặc đồng phục sẽ bị tên sát nhân trông thấy ngay lập tức.

Và vì Chúa, lại còn đội quay phim nữa ư ?

Kennedy nhìn từ trên xuống Lukas. Ông cao hơn cô cả cái đầu và nói, "Cô sẽ phải đưa các vị khách ra khỏi đây. Sơ tán họ. Khi nào tên sát nhân xuất hiện, hãy để tôi nói chuyện với hắn".

Lukas lờ ông đi và nói với c. p., "Đã có ai vào được khách sạn chưa ?".

'"Chưa, chúng tôi đã ngăn họ ngoài này."

Kennedy tiếp tục, "Sơ tán ngay ! Đưa họ ra !".

"Chúng ta không thể làm như vậy", cô nói. "Digger sẽ biết nếu có điều gì không đúng."

"Ít nhất cũng phải bảo họ về phòng chứ !"

"Nghĩ mà xem, ngài thị trưởng", cô quát. "Hầu hết bọn họ không phải là khách. Họ chỉ là dân địa phương tới đây ăn tối hay dự tiệc. Họ làm gì có phòng."

Lukas nhìn quanh lối ra vào khách sạn và con phố bên ngoài. Nó không đông lắm, các cửa hiệu đã đóng cửa nghỉ lễ hết. Cô thì thầm mạnh mẽ, "Hắn có thể ở đây bất kỳ lúc nào. Tôi sẽ phải yêu cầu ông rời khỏi đây". Cô đã định dùng chữ "ngài", nhưng rồi quyết định không làm thế.

"Vậy thì tôi sẽ phải vượt cấp của cô thôi. Ai là cấp trên của cô ?"

"Tôi", Cage nói. Giờ chẳng có nhún vai gì cả. Chi còn một cái lừ mắt lạnh lùng. "Ông chẳng có thẩm quyền gì ở đây hết !"

Ngài thị trưởng quát, "Vậy thì ai là cấp trên của ông ?".

"Một người mà ông không muốn gọi điện đâu, tin tôi đi."

"Cứ để tôi tự đánh giá chuyện đó."

"Không", Lukas cứng rắn nói, liếc nhìn đồng hồ. "Ngay lúc này, Digger có thể đã ở trong tòa nhà. Tôi không có thời gian để tranh cãi với ông. Tôi muốn ông và người của ông ra khỏi đây ngay !"

Kennedy nhìn trợ lý của mình. Tên anh ta là gì nhỉ ? Jefferies, cô nghĩ vậy. Một phóng viên đang ở gần đó, ghi lại toàn bộ cuộc trao đổi.

"Tôi sẽ không để FBI mạo hiểm mạng sống của những con người này. Tôi sẽ..."

"Đặc vụ Ardell", cô nói, "bắt giữ ngài thị trưởng".

"Cô không thể bắt giữ ông ấy", Jefferies quát.

"Có, cô ấy có quyền", lúc này, Cage đã giận dữ nói, với một cái nhún vai quá nhanh. "Và cô ấy có thể bắt luôn anh đấy."

"Đưa ông ấy ra khỏi đây", Lukas nói.

"Nhốt không ?"

Lukas cân nhắc. "Không. Chỉ trông chừng và ngăn ông ấy không xen ngang cho đến khi chiến dịch kết thúc."

"Tôi sẽ gọi luật sư của tôi và.."

Cơn giận dữ bùng nổ bên trong cô, mãnh liệt ngang bằng cơn giận đã khiến cô mắng mỏ Kincaid. Cô nhìn lên ông ta, xỉa một ngón tay vào ngực. "Thị trưởng, đây là chiến dịch của tôi và ông đang cản trở nó. Tôi sẽ để ông tự đi theo đặc vụ Ardell, nếu không, ông sẽ bị tống vào nhà giam. Hoàn toàn do ông quyết định."

Có một khoảng lặng. Lukas thậm chí không hề nhìn thị trưởng; mắt cô liên tục quét qua bãi đỗ xe, vỉa hè, các chỗ khuất sáng. Không có dấu hiệu của bất kỳ ai trông có vẻ giống Digger.

Kennedy nói, "Được thôi". Ông ta gật đầu về phía khách sạn. "Nhưng nếu đêm nay còn vụ đổ máu nào nữa, thì tất cả là lỗi tại cô."

"Hãy lo địa hạt của mình ấy", cô lẩm bẩm trong lúc nhớ lại mình đã đe dọa Kincaid bằng đúng những lời đó. "Đi đi, c. p."

Đặc vụ dẫn thị trưởng về lại chiếc limo của ông ta. Hai người vào trong. Jefferies nhìn trừng trừng Lukas với vẻ thách thức trong giây lát nhưng cô đã nhanh nhẹn quay đi và cùng Cage trở vào trong khách sạn.

"Chết tiệt", Cage nói.

"Không, tôi nghĩ là không sao đâu. Tôi không nghĩ Digger thấy được chuyện vừa rồi."

"Ý tôi không phải vậy. Nghĩ mà xem, nếu Kennedy biết chúng ta đang ở đây, tức là chúng ta đã bị rò rỉ thông tin. Cô nghĩ là từ chỗ quái nào ?"

"Ồ, tôi biết chứ." Cô lấy điện thoại di động và thực hiện một cuộc gọi.

"Thanh tra", Lukas nói, vật lộn kiềm chế cơn giận của mình, "anh biết rằng thông tin về hoạt động tác chiến là bí mật. Anh có muốn cho tôi biết lý do vì sao tôi không nên báo lại chuyện anh vừa làm với Công tố viên Hoa Kỳ không ?".

Cô tưởng Len Hardy sẽ phủ nhận hay ít nhất là biện minh gì đó về lỗi lầm hay chuyện bị lừa. Nhưng cô ngạc nhiên khi anh ta nói chắc nịch, "Cứ việc báo cáo những gì cô muốn nhưng Kennedy muốn có cơ hội thương thuyết với xạ thủ. Tôi đã cho ông ta cơ hội đó".

'Tại sao ?"

"Bời vì cô sẵn sàng để cho... một tá người phải chết ? Hay là hai tá nhỉ ?"

"Nếu điều đó có nghĩa là ngăn chặn được tên sát nhân thì đúng đấy, chính xác là những gì tôi sẵn sàng làm."

"Kennedy bảo ông ấy có thể nói chuyện với hắn. Dụ hắn lấy tiền. Hắn.."

"Anh có biết ông ta xuất hiện với cả đội quay phim chết tiệt không ?"

Giọng Hardy đã không còn chắc chắn nữa, "Gì... gì cơ ?".

"Một đội quay phim bên truyền hình. Ông ta diễn cho báo chí xem. Nếu Digger trông thấy đèn đóm, rồi cảnh sát làm vệ sĩ... hắn sẽ chuồn luôn và tìm mục tiêu khác."

"Ông ấy nói mình chỉ muốn nói chuyện với hắn", Hardy đáp lại. "Tôi đã không biết ông ta sẽ dùng việc ấy để PR cho chính mình."

"À, thế mà có đấy !"

"Digger có...?"

'Tôi không nghĩ hắn trông thấy gì đâu."

Im lặng một lát. "Tôi xin lỗi, Margaret." Anh ta thở dài. "Tôi chỉ muốn làm gì đó. Tôi không muốn có người phải chết nữa. Tôi rất tiếc."

Lukas siết chặt điện thoại. Cô biết mình phải sa thải người này, loại anh ta ra khỏi đội. Có lẽ là báo cáo phàn nàn lên Sở cảnh sát Đặc khu nữa. Thế nhưng, cô lại hình dung ra cảnh một chàng trai trở về, ngôi nhà vắng lặng y như nơi mỗi tối cô vẫn phải trở về sau khi Tom và Joey qua đời, một sự im lặng đau đớn như cái tát từ tình nhân. Anh phải nghỉ lễ ở đó một mình, buộc phải trải qua thời kỳ để tang giả Emma, người vợ không còn sống nhưng cũng chưa hẳn đã chết.

Có vẻ như anh ta đã cảm nhận được phút yếu lòng của cô và nói, "Sẽ không bao giờ có chuyện như vậy nữa. Hãy cho tôi một cơ hội".

Có ? Không ?

"Được rồi, Len. Chúng ta sẽ nói chuyện đó sau."

"Cảm ơn cô, Margaret."

"Chúng tôi phải quay lại chỗ mai phục."

Cô tắt điện thoại đột ngột và nếu Hardy có nói gì thêm, cô cũng sẽ chẳng bao giờ biết. Cô trở về sảnh khách sạn Ritz-Carlton.

Lukas lại nhét súng trượt xuống dưới hông một lần nữa, gài nó vào bên đùi và bắt đầu đi vòng trong đám đông. Cage gõ nhịp trên chiếc đồng hồ. Chỉ còn vài phút nữa là đến tám giờ.

***

Họ nhìn qua rào chắn vào hồ nước tối đen và nói đùa về Titanic; họ ăn tôm và bỏ lại món gan gà; họ nói chuyện về rượu, tỷ lệ lãi xuất, về các kỳ bầu cử sắp tới lẫn những vụ bê bối của Quốc hội và các bộ phim hài sitcom.

Hầu hết đàn ông đều mặc lễ phục hay áo khoác dự tiệc, đa phần phụ nữ mặc váy đen với những vạt váy chỉ cách mặt sàn bóng loáng độ vài phân.

"Tuyệt quá phải không ? Nhìn cảnh trí này".

"Chúng ta có thấy được pháo hoa không nhỉ ?"

"Hank đi đâu rồi ? Anh ấy lấy mất bia của tôi".

Hàng trăm người dự tiệc đang tụ tập trên chiếc du thuyền dài. Ở đây có ba boong tàu và bốn quầy bar, tất cả mọi người trong bữa tiệc tất niên đều cảm thấy rất tuyệt.

Các vị luật sư và bác sĩ có được một vài giờ bình yên, tránh xa khỏi cảnh ngộ của những thân chủ và bệnh nhân. Bố mẹ được tận hưởng chút nghỉ ngơi hiếm hoi khi không có sự hiện diện của con cái. Còn các cặp tình nhân thì nghĩ đến việc tìm một cabin trống.

"Vậy ông ta sẽ làm gì, tôi nghe nói ông ta sẽ tranh cử nhưng các cuộc trưng cầu tệ lắm, sao ông ta không, ồ, thế còn Salley Claire Tom, họ có lấy được chỗ ở Warrenton thật không, chà, tôi không biết làm sao anh ta mua nổi nó..

Từng phút trôi qua và thời gian dần trôi về đúng tám giờ.

Tất cả mọi người đều hạnh phúc.

Những con người lịch lãm tận hưởng bữa tiệc cùng sự bầu bạn của những người xung quanh.

Cảm kích vì tầm nhìn để có thể ngắm đợt bắn pháo hoa vào thời khắc Giao thừa, cảm kích vì cơ hội được chúc tụng và tránh xa những áp lực của thủ đô trong một đêm.

Cảm kích vì những tiện nghi được thủy thủ đoàn và nhà bếp chu cấp cho họ trên chiếc du thuyền sang trọng Ritzy Lady. Nó đang đường hoàng ngự trên bến tàu nơi dòng sông Potomac, cách cầu phố Fourteonth chính xác hai dặm về phía nam.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Robby đã chuyển từ J. R. R Tolkien sang Nintendo.

Có vẻ như thằng bé không còn buồn nữa. Parker chẳng thể chịu được thêm; anh phải tìm hiểu về Digger, về vụ tấn công mới nhất. Lukas và Cage có thành công không ? Họ có tìm được hắn không ?

Họ đã giết được hắn chưa ?

Anh tìm đường đi qua đống đồ chơi trên sàn và xuống tầng một, Stephie đang ở trong bếp với bà Cavanaugh. Con bé nheo mắt tập trung trong lúc đang cọ một lọ thép không rỉ của Parker. Nó đã làm một cây thông Noel bằng bắp rang bơ caramel, trên đó có rắc đường màu xanh. Cái cây được đặt nghiêng ngả một cách quyến rũ trên cái đĩa ở mặt quầy.

"Xinh lắm, Who ạ", anh bảo con bé.

"Con đã cố đặt mấy quá bóng màu bạc lên trên nhưng chúng cứ rơi xuống."

"Robby sẽ thích lắm."

Anh định xuống phòng làm việc nhưng chợt trông thấy vé hốc hác trên gương mặt con.

Anh vòng tay quanh cô bé. "Anh con không sao đâu. Con biết mà."

"Con biết."

"Ba xin lỗi vì tối nay lại hỏng bét hết cả."

"Không sao ạ."

Tất nhiên như thế tức là có sao.

"Mai ba con mình sẽ cùng nhau vui chơi... Nhưng cưng à, con biết không ? Có thể ba lại phải vào viện chăm sóc bạn ba."

"Ồ, con biết ạ", Stephie nói.

"Thật sao ?"

"Con nhận ra mà. Đôi lúc ba ở nhà nhưng đôi lúc lại như không ở nhà. Tối nay, khi ba về, trông ba như đang không ở nhà"

"Ngày mai, ba sẽ ở nhà thật sự. Hình như mai có tuyết đấy. Con có muốn đi trượt tuyết không ?"

"Có ạ ! Con làm chocolate nóng được không ba ?"

"Ba đang hy vọng là con làm món đó." Anh ôm con gái rồi đứng dậy đi vào phòng làm việc để gọi điện cho Lukas. Anh không muốn con gái nghe được cuộc nói chuyện.

Nhưng qua cửa sổ đã kéo rèm, anh trông thấy chuyển động trên vỉa hè, một người đàn ông, anh nghĩ vậy.

Parker bước thật nhanh đến bên cửa sổ và nhìn ra. Không thấy ai, chỉ là một chiếc xe anh không quen.

Anh thò tay vào túi quần và chạm phải lớp kim loại lạnh trên khẩu súng của Lukas.

Ồ, đừng thêm lần nào nữa... Anh đang nghĩ về Người chèo thuyền, hồi tưởng cái đêm kinh hoàng nọ.

Tiếng súng to quá !...

Chuông cửa reo.

"Ba mở cho", anh đột ngột hét lên và liếc nhìn vào trong bếp. Stephie đang chớp mắt. Một lần nữa, cách cư xử bộp chộp của anh làm lũ trẻ giật mình. Tuy nhiên, không có thời gian để an ủi con bé.

Tay đặt trong túi quần, anh nhìn qua cửa kính và thấy một đặc vụ FBI anh đã quen mặt từ lúc tối. Anh thả lỏng, tựa đầu vào khung cửa. Hít thở thật sâu để làm mình bình tĩnh lại rồi mở cửa bằng bàn tay vẫn còn run rẩy. Viên đặc vụ thứ hai bước lên bậc thềm. Anh nhớ lại Lukas từng nói rằng cô sẽ cử người tới canh chừng nhà anh.

"Đặc vụ Kincaid ?"

Anh gật đầu. Nhìn qua vai để đảm bảo Stephie không ở trong tầm nghe.

"Đặc vụ Margaret Lukas cử chúng tôi tới để bảo vệ gia đình anh."

"Cảm ơn anh. Chỉ cần đỗ xe ngoài tầm nhìn nếu anh phải làm nhiệm vụ. Tôi không muốn làm lũ trẻ lo lắng."

"Chắc chắn rồi ạ."

Anh liếc nhìn đồng hồ. Nhẹ cả lòng. Nếu Digger đã tấn công lần nữa thì Cage hoặc Lukas hẳn đã phải gọi điện. Có lẽ họ thực sự đã bắt được tên khốn.

"Xạ thủ trong vụ Metro ?", anh hỏi. "Tên Digger ấy. Họ bắt được hắn chưa ?"

Cái nhìn giữa hai người đàn ông làm Parker lạnh cóng.

Ôi không...

"Anh..."

Trong nhà, điện thoại bắt đầu đổ chuông. Anh thấy bà Cavanaugh đang trả lời.

"Tên xạ thủ đã lẻn lên một chiếc du thuyền đang mở tiệc trên sông Potomac. Giết mười một người, làm bị thương hơn hai mươi người. Tôi tưởng anh biết rồi."

Ôi, Chúa ơi, không...

Cám giác buồn nôn bỗng dâng trào trong anh.

Mình ngồi đây đọc sách trẻ con trong khi người ta thì bị giết. Anh đã sống trong Sesame Street...

Anh hỏi, "Đặc vụ Lukas... cô ấy có sao không ? Còn đặc vụ Cage nữa ?".

"Không sao. Họ không ở gần chiếc thuyền. Họ tìm được một manh mối ghi 'Rite', nên lầm tưởng là Digger sắp tấn công một trong hai khách sạn Rite. Nhưng không phải. Tên của chiếc thuyền là Ritzy Lidy. Xui xẻo quá hả ?"

Viên đặc vụ kia thì nói, "Bảo vệ đã bắn được vài phát súng và khiến tên xạ thủ chạy mất. Sự việc chẳng tồi tệ như đáng lẽ phải thế. Nhưng họ không bắn trúng hắn, đó là họ nghĩ vậy".

Xui xẻo à ?

Không, chẳng có may rủi nào ở đây. Khi bạn không giải được một câu đố, đó không phải là vì vận may.

Ba con diều hâu...

Anh nghe tiếng bà Cavanaugh, "Anh Kincaid ?".

Anh ghé nhìn vào trong.

Mười một người chết.

"Điện thoại của anh."

Parker bước vào bếp. Anh cầm điện thoại lên, tưởng sẽ nghe thấy giọng của Lukas hay Cage.

Nhưng đó lại là một giọng nam trung trơn tru, lịch sự mà anh không hề quen. "Anh Kincaid phải không ?"

"Vâng ? Ai đấy ?"

"Tôi là Slade Phillips, Đài WPLT. Anh Kincaid, chúng tôi đang làm một bản tin đặc biệt về các vụ xả súng đêm Giao thừa. Một nguồn tin giấu tên cho chúng tôi biết rằng anh đã đóng góp vào cuộc điều tra và có thể là người phải chịu trách nhiệm cho những sơ sẩy đã dẫn FBI đến khách sạn Ritz-Carlton trong khi thực tế, tên giết người lại nhắm vào nơi khác. Chúng tôi sẽ phát sóng chương trình lúc chín giờ. Chúng tôi muốn cho anh một cơ hội để biện hộ. Anh có gì để nói không ?"

Parker hít vào thật mạnh. Anh tin rằng tim mình đã ngừng đập trong chốc lát.

Đây chính là kết thúc... Joan sẽ phát hiện ra. Tất cả mọi người sẽ phát hiện ra.

"AnhKincaid ?"

"Tôi không có bình luận nào." Anh dập máy nhưng trượt tay. Anh nhìn điện thoại lao xuống theo đường xoắn ốc và va đập vào sàn với tiếng cạch vang rền.

***

Digger trở lại căn phòng ấm cúng của hắn.

Nghĩ về chiếc thuyền, nơi hắn xoay vòng quanh như là... click... như là con quay giữa những chiếc lá vàng và đỏ trong khi bắn khẩu Uzi của hắn, và bắn, và bắn, và bắn.

Nhìn người ta đổ rầm, gào thét, lẫn bỏ chạy. Đại loại như vậy.

Lần này không giống lần ở rạp hát. Không, không, lần này hắn bắn được rất nhiều người. Chắc người chỉ dạy hắn mọi điều sẽ thấy vui lắm.

Digger khóa cửa phòng trọ và việc đầu tiên hắn làm là tới chỗ sô pha để nhìn Tye. Thằng bé vẫn đang ngủ. Chăn đã tuột khỏi người nên Digger đắp lại cho nó.

Digger bật ti vi lên và nhìn những hình ảnh của con thuyền Ritey Lady. Một lần nữa, hắn trông thấy cái người quen quen, ngài... click... thị trưởng. Thị trưởng Kennedy. Ông ta đang đứng trước mũi thuyền, mặc một bộ vest đẹp và đeo cà vạt đẹp. Thật kỳ quặc khi ông ta mặc bộ vest hào nhoáng như thế mà lại đang đứng trước những cái túi đựng xác. Ông ta nói vào micro nhưng Digger chẳng nghe thấy được vì hắn không bật tiếng, hắn chẳng muốn đánh thức Tye.

Hắn tiếp tục xem một lúc nữa song không có quảng cáo nào, nên vừa thất vọng tắt ti vi, vừa nghĩ, "Ngủ ngon, ngài thị trưởng".

Hắn bắt đầu gói ghém đồ đạc của mình một cách từ tốn.

Họ tới dọn phòng mỗi ngày. Ngay cả Pamela cũng không làm vậy. Nàng rất giỏi trồng hoa và giỏi mấy chuyện trên giường. Cái... click, click... chuyện ấy.

Não lộn tùng phèo, đạn nảy lung tung trong hộp... hộp... hộp sọ.

Vì lý do gì đó, hắn nghĩ đến Ruth.

"Ôi Chúa ơi, không", Ruth nói. "Đừng làm vậy !"

Nhưng hắn đã được dặn là phải làm, đâm một mảnh kính dài vào cổ họng cô ta, và thế là hắn làm. Cô ta rùng mình trong lúc chết. Hắn nhớ là như vậy. Ruth, rùng mình.

Rùng mình như trong ngày Giáng sinh ấy, mười hai hai mươi lăm, một hai hai năm, khi hắn nấu xúp cho Pamela, rồi tặng quà cho nàng.

Hắn nhìn Tye. Hắn sẽ đưa thằng bé đi... click... về miền tây với hắn. Người đàn ông chỉ dạy hắn mọi điều đã bảo rằng anh ta sẽ gọi hắn sau khi họ xong việc ở Washington, D.C., rồi bảo cho hắn biết phải đi đâu tiếp theo.

"Chỗ đó là chỗ nào ?", Digger đã hỏi.

"Tôi không biết. Có thể là miền tây."

"Miền tây là chỗ nào ?", hắn hỏi.

"California. Có thể là Oregon."

Nhưng đôi khi; vào những lúc đêm muộn, khi đã ăn no xúp và đang mỉm cười với các quảng cáo hài hước, hắn nghĩ về chuyện đi đến miền tây, tưởng tượng mình sẽ làm gì ở đó.

Lúc này, trong khi đang thu dọn, hắn quyết định chắc chắn mình sẽ mang theo thằng bé. Tới miền tây... click.

Miền tây.

Phải, như thế sẽ hay lắm. Sẽ tuyệt lắm. Sẽ vui lắm.

Hai người có thể ăn xúp và ớt, có thể xem ti vi. Hắn có thể kể cho thằng bé nghe về các quảng cáo trên ti vi.

Pamela, vợ Digger, với một bông hoa trên tay và cây Thánh giá bằng vàng giữa ngực, đã từng xem quảng cáo cùng hắn.

Nhưng họ không bao giờ có một đứa con như Tye để cùng xem quảng cáo.

"Tôi á ?", Pamela hỏi. "Có con với anh ? Anh bị điên hả, tên khùng kia..." Click. "... tên khùng ? Sao anh không cút đi ? Sao anh vẫn còn ở đây ? Mang món quà khốn nạn của anh đi và cút xéo. Xéo ngay. Anh có..."

Click...

Nhưng tôi càng yêu em...

"Anh cần tôi phải đánh vần cho anh à ? Tôi đã ngủ với William cả năm nay rồi. Anh vẫn còn chưa biết sao ? Cả thị trấn này đều biết, trừ anh. Nếu định có con, tôi sẽ có con với anh ấy."

Nhưng tôi càng yêu em nhiều hơn.

"Anh đang làm cái gì ? Ôi Ch..Click...úa ơi. Đặt nó xuống !"

Ký ức đang tua rất nhanh trong đầu Digger.

"Không, đừng !", nàng hét lên, nhìn chằm chằm vào con dao trên tay hắn. "Đừng !"

Hắn đâm con dao và ngực nàng, ngay bên dưới cây Thánh giá bằng vàng đã tặng nàng vào sáng hôm đó, lễ Giáng sinh. Một bông hồng xinh đẹp liền nở rộ trên áo sơ mi của nàng ! Hắn đâm dao vào ngực nàng thêm một lần nữa, bông hồng càng nở to hơn.

Và máu chảy, máu chảy, máu chảy, Pamela chạy... đi đâu ? Đi đâu ? Tủ quần áo, phải rồi, tủ quần áo trên gác. Chảy máu và bỏ chạy. "Ôi Chúa ơi, Chúa ơi, Chúa ơi..."

Pamela gào thét, giơ khẩu súng lên, chĩa thẳng vào đầu hắn, tay nàng nở ra thành bông hoa màu vàng xinh đẹp và hắn cảm nhận một cú thọi vào thái dương. Tôi càng yêu em...

Digger tỉnh dậy sau đó.

Điều đầu tiên hắn trông thấy là khuôn mặt của người chỉ dạy hắn mọi điều.

Click, click...

Lúc này, hắn đang gọi vào hòm thư thoại. Không có tin nhắn.

Anh ta đang ở đâu, người chỉ dạy hắn mọi điều ?

Nhưng không còn thời gian để nghĩ ngợi, để buồn hay vui nữa, dù chúng là gì. Chỉ còn thời gian để chuẩn bị cho cuộc tấn công cuối cùng.

Digger mở khóa tủ. Hắn lấy ra khẩu súng tự động thứ hai, cũng là một khẩu Uzi. Hắn đeo đôi găng tay cao su mùi hắc hắc vào và bắt đầu nạp đạn.

Lần này là hai khẩu súng. Không có túi mua hàng nữa. Hai khẩu và rất, rất nhiều đạn. Người đàn ông chỉ dạy hắn mọi điều đã bảo rằng lần này hắn phải bắn nhiều người hơn tất cả những lần trước.

Vì đây sẽ là thời khắc cuối cùng của đêm cuối cùng trong năm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Parker Kincaid mồ hôi nhễ nhại chạy vào phòng Thí nghiệm Tài liệu của FBI.

Lukas bước về phía anh. Mặt cô còn tái hơn trong trí nhớ của anh. "Tôi đã nhận được tin nhắn", cô nói. "Tay phóng viên đó, Phillips, anh ta đã tiếp cận một người trong phòng thư tín. Bằng cách nào đó, anh ta đã tìm ra tên thật của anh."

"Cô đã hứa", anh cáu.

"Tôi xin lỗi, Parker", cô đáp lại. "Tôi rất tiếc. Tin không lọt ra từ đây. Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra."

Tiến sĩ Evans và Tobe Geller im lặng. Họ biết có chuyện gì nhưng không muốn dính vào, bởi đã trông thấy cái nhìn trong mắt Parker. Cage thì chẳng có trong phòng.

Parker đã gọi họ từ điện thoại di động trong lúc tăng tốc từ Fairfax vào trung tâm thành phố, với cái đèn hiệu của cảnh sát mượn được từ hai đặc vụ nằm vùng ngoài nhà anh. Tâm trí anh cũng đang chạy đua. Làm sao anh kiểm soát được thảm họa này ? Tất cả những gì anh muốn là giúp cứu vài mạng sống. Đó là động cơ duy nhất của anh, cứu sống vài đứa trẻ. Thế mà chuyện gì đã xảy ra.. .

Giờ chính con anh sẽ bị lấy mất khỏi tay anh.

Anh mường tượng ra cơn ác mộng nếu Joan có được quyền giám hộ một nửa. Cô ta sẽ mau chóng hết hứng thú làm mẹ. Nếu không tìm được vú em, cô ta sẽ để mặc chúng một mình giữa trung tâm mua sắm. Cô ta sẽ mất bình tĩnh với chúng. Chúng sẽ phải tự nấu ăn, tự giặt quần áo. Anh đang tuyệt vọng.

Vì cái quái gì mà anh lại cân nhắc lời đề nghị giúp đỡ của Cage đêm nay chứ ?

Một chiếc ti vi nhỏ đặt trên bàn gần đó. Parker bật kênh tin tức. Vừa đúng chín giờ. Màn quảng cáo vừa kết thúc và hình ảnh tươi cười của "đội tin tức" WPLT đang hiện trên màn hình.

"Cage đâu ?", anh tức giận hỏi.

"Tôi không biết", Lukas trả lời. "Đâu đó trên lầu."

Họ có thể chuyển ra khỏi bang không ? Anh điên cuồng tự hỏi. Nhưng không, Joan sẽ đấu tranh với chuyện đó và tòa án Virginia vẫn còn có thẩm quyền.

Trên màn hình, tên khốn Phillips ngước lên từ một đống giấy tờ và nhìn thẳng vào camera với biểu hiện chân thành kệch cỡm.

"Xin chào quý vị. Tôi là Slade Phillips... Mười một người đã chết và hai mươi chín người bị thương đúng một giờ trước trong vụ xả súng hàng loạt lần thứ ba liên tiếp đang làm kinh hoàng cả thủ đô Washington đêm nay. Trong bản tin đặc biệt này, chúng tôi sẽ có các cuộc phỏng vấn độc quyền với nạn nhân và cảnh sát tại hiện trường. Thêm vào đó, WPLT đã thu được một đoạn video đặc biệt về hiện trường của vụ giết người gần đây nhất: trên một du thuyền neo tại sông Potomac."

Hai tay nắm chặt, Parker lặng lẽ theo dõi.

"WPLT cũng được biết rằng cảnh sát và các đặc vụ FBI đã được cử tới một khách sạn, nơi người ta lầm tưởng là tên giết người sẽ tấn công, và chỉ còn rất ít cảnh sát lẫn đặc vụ đáp lại tin báo xả súng trên thuyền. Hiện vẫn chưa rõ ai là người phải chịu trách nhiệm cho sai sót này nhưng một nguồn tin của chúng tôi đã... báo về rằng..."

Giọng Phillips trượt đi. Đầu của phát thanh viên nghiêng sang một bên, có lẽ là đang lắng nghe ai đó qua chiếc tai nghe màu da người nhét trong tai. Anh ta liếc nhìn camera bên phải và một cái cau mày thoáng qua trên khuôn mặt. Có một chút ngập ngừng rồi miệng anh ta trễ xuống một cách thảm hại khi đọc: “Nguồn tin của chúng tôi cho hay Thị trưởng Gerald D. Kennedy của đặc khu Columbia đã bị các nhà chức trách liên bang bắt giữ, có thể do liên quan đến chiến dịch bất thành lần này... Hiện đang có mặt ở hiện trường của vụ xả súng mới nhất là Cheryl Vandover. Cheryl cô có thể cho chúng tôi biết..."

Cage đi vào phòng thí nghiệm, vẫn mặc áo khoác trên người. Ông tắt ti vi đi.

Parker nhắm mắt và thở hắt ra. "Lạy Chúa !"

"Xin lỗi anh, Parker ", Cage nói. "Đôi khi cũng có những kẽ hở trong công việc. Nhưng tôi đã cam kết với anh và sẽ làm mọi cách để giữ đúng thòa thuận ấy. Có điều này, đừng bao giờ hỏi tại sao tôi làm được. Anh chắc chắn không muốn biết đâu. Giờ, chúng ta chỉ còn một cơ hội nữa. Hãy tóm tên khốn đó ! Và lần này, không được phép thất bại."

***

Chiếc limo từ từ tấp vào lề đường trước cửa Tòa thị chính như một chiếc du thuyền đang vào bến đỗ.

Thị trưởng Jerry Kennedy không thích sự tương đồng đó nhưng không ngăn nổi mình so sánh. Ông vừa mới ở bên bờ sông Potomac để an ủi những người sống sót và thị sát thiệt hai do tên Digger gây ra. Người vợ cao gầy của ông, bà Claire, cũng có mặt. Cả hai rất ngạc nhiên khi thấy những viên đạn đã xé toạc boong tàu, cabin lẫn bàn ghế thành từng mảnh như thế nào. Ông chỉ có thể hình dung chúng đã làm gì với thi thể của các nạn nhân.

Ông vươn người tới và tắt ti vi đi.

"Làm sao hắn dám ?", Claire thì thầm, nhắc đến gợi ý của Slade Phillips rằng chính Kennedy là người phải chịu trách nhiệm cho những cái chết trên tàu theo một cách bí hiểm nào dấy. Wendell Jefferies cũng vươn người tới, gục cái đầu bóng loáng của anh ta lên hai bàn tay. "Phillips... tôi đã trả tiền cho hắn. Tôi..."

Kennedy vẫy tay bảo anh ta im lặng. Rõ ràng trợ thủ của ông đã quên mất tay đặc vụ to lớn, hói đầu đang ngồi ghế trước. Hối lộ phóng viên rõ ràng là hành vi phạm pháp cấp liên bang.

Phải, Jefferies đã trả cho Slade Phillips hai lăm ngàn đô la. Và không, họ sẽ chẳng bao giờ lấy lại được nó.

"Bất kể có chuyện gì", Kennedy buồn rầu nói với Jefferies và Claire, "Tôi cũng không muốn thuê Slade Phillips làm thư ký báo chí của mình đâu".

Cách nói của ông vẫn tỉnh bơ như mọi khi và phải mất một phút hai người kia mới nhận ra ông chỉ đang nói đùa. Claire cười. Jefferies thì dường như vẫn còn đang bị sốc.

Điều hài hước ở đây là Kennedy sẽ không bao giờ cần đến thư ký báo chí nữa. Cựu chính trị gia chẳng cần tới họ. Ông muốn hét lên và muốn khóc.

"Giờ chúng ta phải làm gì ?" Claire hỏi.

"Chúng ta sẽ uống một ly rồi tới bữa tiệc của Hiệp hội giáo viên người Mỹ gốc Phi. Ai mà biết được ? Có thể Digger sẽ vẫn xuất hiện và đòi tiền. Tôi có thể vẫn còn cơ hội đế gặp hắn trực tiếp."

Claire lắc đầu, "Sau chuyện đã xảy ra trên tàu ư ? Anh không thể tin hắn. Hắn sẽ giết anh".

Làm sao giết tôi được nữa khi bọn nhà báo đã kết liễu tôi từ tối nay rồi, Kennedy nghĩ.

Claire xịt một làn sương nước hoa từ chiếc lọ nhỏ lên mái tóc thưa mỏng của mình. Kennedy thích mùi hương ấy. Nó khiến ông cảm thấy nhẹ nhõm. Người phụ nữ mạnh mẽ ở tuổi năm mươi chín với đôi mắt sắc sảo này đã luôn là cố vấn chính của ông kể từ những ngày đầu nắm chính quyền nhiều năm về trước. Mặc xác có phải là bao che dung túng người nhà không; chỉ vì lý do bà là người da trắng mà ông đã chẳng thể đưa bà lên làm trợ lý thứ nhất của thị trưởng: Chính bà cũng khăng khăng cho rằng việc làm ấy sẽ khiến ông gặp bất lợi ở Đặc khu Columbia có tới sáu mươi phần trăm người da màu.

"Tất cả những chuyện này sẽ tệ đến đâu ?", bà hỏi.

"Đến đâu hay đến đó thôi."

Claire Kennedy gật đầu và đặt tay lên một bên chân mập mạp của chồng.

Cả hai không nói gì trong một lúc.

"Trong này có ít champagne nào không ?", đột nhiên ông hỏi và gật đầu về phía quầy bar nhỏ.

"Champagne à ?"

"Đúng vậy. Để ăn mừng sớm sự thất bại nhục nhã của tôi."

"Ông đã muốn dạy học", bà chỉ ra. Rồi nói thêm với một cái nháy mắt, "Giáo sư Kennedy".

"Bà cũng thế mà, Giáo sư Kennedy. Chúng ta sẽ bảo William và Mary là chúng ta muốn có hai lớp học thông nhau."

Bà mỉm cười với ông và mở quầy bar nhỏ trên chiếc limo.

Nhưng Jerry Kennedy không cười. Dạy học sẽ là một thất bại. Sự nghiệp thành công ở hãng Luật Dupont Circle cũng sẽ là một thất bại. Tận sâu trong trái tim, ông biết rằng mục đích cuộc đời mình chính là biến vùng đất lầy lội hình thù kỳ lạ và đầy nhọc nhằn này trở thành một nơi đáng sống hơn cho những thế hệ trẻ trót sinh ra ở đây, rằng Dự án 2000 của ông chính là thứ gần nhất trong tầm với để biến điều đó thành sự thật. Giờ thì mọi hy vọng đã bị hủy hoại.

Ông liếc nhìn vợ. Bà đang cười.

Rồi bà chỉ tay vào quầy bar. "Gallo và Budweiser."

Còn gì khác ở Đặc khu Columbia này được nữa ?

Kennedy nhấc tay nắm cửa và bước vào trời đêm mát lạnh.

***

Cuối cùng súng đã nạp đạn xong.

Bộ giảm thanh hắn đang dùng cũng đã được lắp lại còn cái mới thì đang nằm trên khẩu súng thứ hai.

Digger kiểm tra túi áo trong căn phòng ấm cúng của mình. Xem nào... Hắn có khẩu lục và hai khẩu nữa để trong ngăn đựng găng của ô tô. Cùng rất, rất nhiều đạn.

Digger mang va li ra xe. Người đàn ông chỉ dạy hắn mọi điều bảo rằng nhà trọ đã được thanh toán đủ. Khi nào đến lúc phải đi, hắn chỉ việc đi thôi.

Hắn đóng gói mấy hộp xúp cùng đĩa và cốc của mình, cho chúng vào một chiếc hộp và mang ra chiếc Toyota Everyday People.

Digger quay lại phòng rồi nhìn cậu bé Tye gầy gò mấy phút, lại băn khoăn miền tây là... click... là nơi nào, sau đó, hắn quấn chăn quanh người cậu bé. Và mang thằng bé nhẹ như một chú cún tới chỗ ô tô, đặt nó nằm ở băng ghế sau.

Digger ngồi sau tay lái nhưng không khởi động xe ngay. Hắn quay người lại nhìn thằng bé thêm một lúc. Cuộn tấm chăn quanh đôi chân đang đi giày chạy đã rách bươm của nó.

Ai đó đã từng nói. Ai nhỉ ? Pamela ? William ? Người đàn ông chỉ dạy hắn mọi điều ?

"Ngủ ngon..."

Click, click.

Chờ đã, chờ đã, chờ đã.

"Ta muốn cháu.." Click, click.

Đột nhiên, chẳng còn Pamela, cũng chẳng còn Ruth với mảnh kính trên cổ, không còn người đàn ông chỉ dạy hắn mọi điều. Chỉ còn Tye.

"Ta muốn cháu ngủ ngon", Digger nói với thân hình bất động của thằng bé. Đây là những lời hắn muốn nói với nó. Hắn không chắc chúng có nghĩa là gì. Nhưng dù thế, hắn vẫn cứ nói ra.

Khi tôi đi ngủ mỗi đêm, tôi càng yêu em nhiều hơn...

Hắn khởi động xe, bật xi nhan và kiểm tra điểm mù rồi đưa xe ra đường.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


Địa điểm cuối cùng.

…nơi tôi đưa anh đến… - đen..

Parker Kincaid đứng trước tấm bảng đen trong phòng Thí nghiệm Tài liệu. Hai tay chống hông. Nhìn chằm chằm vào câu đố trước mắt mình..

"Cái gì đen ?", Tiến sĩ Evans lẩm bẩm.

Cage nhún vai. Lukas đang nói chuyện điện thoại với các chuyên gia khám nghiệm hiện trường PERT trên chiếc thuyền Riizy Lady. Cô cúp máy và thuật lại với cả đội, đúng như họ đã nghĩ, có rất ít đầu mối vững chắc. Họ tìm được vỏ đạn với một vài dấu vân tay. Chúng đang được kiểm tra trên APIS , và kết quả nhận dạng sẽ được gửi qua email cho Lukas. Không còn bằng chứng vật chất nào khác. Các nhân chứng mô tả lại một người đàn ông da trắng, trung tuổi, mặc áo khoác màu tối. Hắn mang một chiếc túi mua hàng màu nâu, có thể trong đó chứa khẩu súng tự động. Một mẩu giấy đã được khôi phục lại. Nó bị rách ra từ cái túi, các chuyên viên của PERT đã khẳng định như vậy, nhưng nó chỉ nằm trong nhóm khái quát và không hề đưa ra được đầu mối nào dẫn tới nơi sản xuất.

Parker nhìn quanh, "Hardy đâu ?”

Cage kể cho anh vụ việc xảy ra ở Rite.

"Cô sa thải anh ta à ?", Parker hỏi, gật đầu về phía Lukas.

"Không. Tôi đã tưởng thế nhưng cô ấy chỉ mắng cho anh ta một trận, rồi cho anh ta cơ hội thứ hai. Anh ta đang ở trong thư viện nghiên cứu dưới nhà. Cố gắng chuộc lỗi."

Parker nhìn lại Geller. Chàng đặc vụ trẻ đang chăm chú vào màn hình trước mặt trong lúc máy tính ứng biến chương trình ghép chữ khi cố gắng một cách vô ích để ghép các chữ cái vào trước chữ "đen". Tuy nhiên lớp tro đằng trước đã bị thiệt hại nặng nề hơn nhiều so với chỗ ghi dòng Ritzy Lady.

Parker đi đi lại lại một lát rồi thôi. Anh nhìn lên tấm bảng đen, mơ hồ cảm thấy khó chịu như sắp sửa tìm ra một đầu mối nào đó nhưng chưa hẳn, nên lại thở dài.

Anh thấy mình đang đứng cạnh Lukas. Cô hỏi, "Con trai anh, Robby, thế nào rồi ? Nó ổn chứ ?".

"Ổn. Chỉ hơi sợ một chút."

Cô gật đầu. Chiếc máy tính gần đó báo, "Bạn có thư". Cô bước đến và đọc tin nhắn. Rồi lắc đầu, "Dấu vân tay trên vỏ đạn là của một trong các hành khách trên du thuyền nhặt lên để làm vật lưu niệm. Đã kiểm tra xong anh ta". Sau đó, cô bấm nút "lưu".

Parker liếc nhìn màn hình. "Cái đó biến tôi thành đồ cổ."

"Cái gì ?"

"Email", anh nói. Anh nhìn Lukas và thêm, "Với tư cách là nhà giám định tài liệu ấy. Mọi người viết lách nhiều hơn bất kỳ lúc nào vì có cái này, nhưng..

"Nhưng ngày nay chẳng còn mấy chữ viết tay nữa , cô nói tiếp dòng suy nghĩ của anh.

"Đúng vậy."

"Thật khắc nghiệt", cô nói. "Mất rất nhiều bằng chứng vì thế !".

"Đúng. Nhưng với tôi, chuyện đó không đáng buồn".

"Buồn à ?", cô nhìn anh. Đôi mắt cô không còn lạnh lẽo như đá nữa mà có vẻ đề phòng khi một khái niệm lạ lẫm như thế lại xuất hiện trong phòng thí nghiệm tối tân nhường này.

"Với tôi", Parker nói với cô, "chữ viết tay chính là một phần của nhân tính. Giống như khiếu hài hước hay óc tưởng tượng của chúng ta vậy. Nghĩ mà xem, nó là một trong những thứ hiếm hoi thuộc về con người có thể tồn tại sau khi chúng ta chết. Chữ viết tồn tại cả trăm năm. Cả ngàn năm. Nó là thứ gần với sự bất tử nhất mà con người với tới được."

"Một phần của nhân tính ư ?", cô hỏi. "Nhưng anh nói rằng việc đoán tướng chữ chỉ là trò vớ vẩn."

"Không, ý tôi nói rằng những gì người ta viết ra vẫn là sự phản ánh con người của chính họ. Cách viết hay nội dung viết chẳng thành vấn đề, thậm chí nếu nó có vô nghĩa hay sai sót. Nội chuyện ai đó nghĩ ra từ ngữ ấy rồi tay họ viết nó lên giấy đã là điều có ý nghĩa rồi. Với tôi, nó gần như là một điều kỳ diệu."

Cô đang nhìn chằm chằm xuống sàn, đầu cúi gằm.

Parker nói tiếp, "Tôi luôn nghĩ rằng chữ viết tay chính là dấu vân tay của trái tim và trí óc". Anh tự cười mình trước câu nói này, vì nghĩ chắc cô sẽ lại phản ứng lỗ mãng trước ý nghĩ ủy mị như vậy. Nhưng điều kỳ quặc đã xảy ra. Margaret Lukas gật đầu và vội nhìn đi chỗ khác. Trong một thoáng, Parker nghĩ liệu có phải một tin nhắn khác lại hiện trên màn hình gần đó và làm cô chú ý tới. Nhưng chằng có tin nhắn nào. Vì đầu cô vẫn quay đi không nhìn anh, anh có thể trông thấy hình phản chiếu trên màn hình máy tính và có vẻ mắt cô đang đẫm lệ. Đó là điều anh không bao giờ ngờ tới sẽ thấy ở Lukas, nhưng đúng là thế, cô đang dụi mắt.

Anh định hỏi cô có chuyện gì không thì cô đột ngột đứng lên bước tới chỗ mấy mảnh kính đang giữ các tờ giấy cháy dở. Không cho anh cơ hội để nói thêm về những giọt nước mắt của cô, Lukas hỏi, "Tên nghi phạm vẽ mê cung đấy à ? Anh nghĩ có gì ở đó không ? Đầu mối nào đấy chẳng hạn ?".

Anh không trả lời. Chỉ tiếp tục nhìn cô. Cô khẽ quay lại và nhắc, "Mê cung ấy ?".

Một lát sau, anh nhìn xuống, quan sát tờ giấy vàng. Chỉ có bọn thần kinh phản xã hội mới thường để lại tài liệu mã hóa làm đầu mối, nhưng ngay cả chúng cũng ít khi làm vậy. Dù sao, Parker vẫn nghĩ kiểm tra không hại gì; họ đã có quá ít đầu mối để lần theo rồi. Anh đặt hai tấm kính đang giữ tờ giấy lên chiếc máy chiếu phía trên.

Lukas đứng bên cạnh Parker.

"Chúng ta đang tìm gì ?", Cage hỏi.

"Các đường này có tạo nên chữ cái nào không ?", Lukas hỏi.

"Tốt", Parker nói. Cô đã bắt đầu nắm được cách giải đố. Họ cẩn thận lần theo các đường vẽ. Nhưng không tìm được gì.

"Có thể”, rồi cô gợi ý. "Nó là một cái bản đồ."

Một ý không tồi.

Tất cả mọi người đều nhìn vào các đường vẽ. Là trưởng văn phòng Đặc khu, Lukas rất am hiểu về địa bàn thành phố. Nhưng cô không thể nghĩ ra một con phố hay khu dân cư nào liên quan đến những mê cung này. Chẳng ai nghĩ ra được.

Geller nhìn lại máy tính của mình rồi lắc đầu. Phần mềm ghép chữ không dùng được. "Không còn đủ tro để tạo nên bất kỳ chữ cái nào nữa."

"Chúng ta đành phải giải toán theo cách cũ vậy". Parker bước lại nhìn chằm chằm lên tấm bảng đen, "...đen".

"Một tổ chức Mỹ - Phi nào đó chăng ?", Evans gợi ý.

"Có thể", Parker nói. "Nhưng hãy nhớ là nghi phạm rất thông minh. Và có giáo dục."

Cage cau mày. "Ý anh là sao ?"

Chính Lukas là người trả lời. "Từ 'đen' viết thường. Nếu nó nằm trong tên một tổ chức nào đó, hắn có thế sẽ viết hoa."

"Chính xác", Parker nói. "Tôi đoán nó dùng để mô tả. Nhiều khả năng nó nhăc tới màu da nhưng tôi không nghĩ nó là tham chiếu tới một tổ chức cụ thể nào."

"Nhưng đừng quên", Cage nói. "Gã cũng rất thích biến chúng ta trở thành lũ ngốc””.

"Đúng", Parker thừa nhận.

... đen.

Parker đi đến bàn giám định, nhìn xuống bức thư tống tiền. Đặt hai tay hai bên. Nhìn chằm chằm vào giọt lệ quỷ phía trên các chữ cái ỉ và lớp mực ảm đạm.

Mày biết gì ? Anh lặng lẽ hỏi tài liệu. Mày đã không kể với bọn tao điều gì ? Mày đang nắm giữ bí mật gì ? Cái gì...?

"Tôi tìm được thứ gì đó", giọng nói vọng vào từ cửa.

Tất cả quay lại.

Thanh tra Len Hardy chạy vào phòng với một tập giấy kẹp dưới nách. Anh ta đang chạy thì dừng phắt lại và hít lấy hít để. "Được rồi, Margaret, cô đã đúng. Tôi không giỏi bắn súng cũng chẳng biết điều tra. Nhưng không ai giỏi nghiên cứu hơn tôi. Vì vậy, tôi đã quyết định sao mình không làm thế ? Tôi tìm được chút ít thông tin về cái tên đó. Digger ấy." Anh ta thả tập giấy lên bàn và bắt đầu lật giở rồi liếc nhìn cả đội. "Tôi xin lỗi chuyện lúc trước. Về ông thị trưởng. Tôi đã sai. Tôi chỉ muốn làm gì đó để mọi người không bị tổn hại."

"Được rồi Len", Lukas nói. "Anh có gì ?"

Hardy hỏi Tiến sĩ Evans, "Khi kiểm tra cái tên, ông đã dùng cơ sở dữ liệu nào ?".

"Thì những cơ sở tiêu chuẩn", vị tiến sĩ trả lời, có vẻ hơi bị chạm tự ái.

"Về tội phạm ?", Hardy hỏi, "VICAP, Tội phạm bạo lực của Sở cảnh sát New York, John Jay ?". (1745-1829, chính khách, người yêu nước, nhà ngoại giao, một trong những người sáng lập liên bang Hoa Kỳ, ký kết hiệp định Paris và là Chánh án tòa án tối cáo Mỹ)

"Chắc chắn là những nguồn đó rồi", Evans nói, tránh ánh mắt của Hardy.

"Những nguồn đó không sai", Hardy nói, "nhưng tôi lại nghĩ sao không thử cả các nguồn phi tội phạm ? Cuối cùng tôi đã tìm được. Cơ sở dữ liệu ở phòng Lịch sử tôn giáo của trường Đại học Cambridge". Hardy mở cuốn sổ tay. Có mấy chục trang bên trong, toàn là bảng biểu. Thanh tra trẻ đã nói đúng; chắc chắn là anh ta rất biết cách nghiên cứu.

"Cái nhóm từng xuất hiện ở San Francisco hồi những năm Sáu mươi mà ông đã nhắc tới ấy ?", anh ta hỏi Tiến sĩ Evans. "Nhóm có tên Diggers ?"

''Nhưng tôi đã kiểm tra họ rồi", tiến sĩ nói. "Họ chỉ là một nhóm diễn viên."

"Không phải", Hardy bác lại. "Đó là một nhóm vận động chính trị và xã hội ngầm cực đoan, có trung tâm đặt tại Haight-Ashbury. Tôi đã kiểm tra triết lý hoạt động và lịch sử của họ, hóa ra họ lấy cái tên này từ một nhóm ở Anh hồi thế kỷ XVII. Nhưng họ cực đoan hơn nhiều. Họ ủng hộ chủ trương xóa bỏ quyền sở hữu tư về đất đai. Đây mới là điều đáng chú ý. Họ chuyên lo về mặt kinh tế và xã hội nhưng lại liên minh với một nhóm khác thiên về chính trị và hoạt động tích cực hơn nhiều, đôi khi còn dính dáng tới quân sự. Họ tự gọi mình là True Levelers” (Những người mang lại sự bình đẳng đích thực)"

"Levelers", Cage lẩm bẩm. "Cái tên cũng ghê rợn một cách chết tiệt."

Hardy nói tiếp, "Họ phản đối việc người dân bị nhóm người thuộc tầng lớp cao trong xã hội và Chính phủ tập trung kiểm soát".

"Nhưng điều đó có ý nghĩa gì với chúng ta ?", Lukas hỏi.

Hardy nói, "Nó có thể giúp tìm ra điểm cuối cùng. Digger sẽ muốn tấn công vào đâu để cào bằng xã hội tư bản chủ nghĩa của chúng ta ?".

Parker nói, "Trước khi trả lời câu hỏi đó, chúng ta cần biết tại sao hắn lại muốn làm thế cho xã hội nói chung ?".

"Một tên cuồng tôn giáo chăng ?", Geller hỏi. "Nhớ cây Thánh giá không ?"

"Có thể", Evans nói. "Nhưng hầu hết những tên cuồng tôn giáo đều không muốn lấy tiền; chúng chỉ muốn nửa giờ xuất hiện trên kênh CNN."

"Có thể Digger có thù hằn gì đó", Parker nói.

"Chắc chắn rồi. Trả thù", Lukas đồng tình.

"Ai đó đã làm hắn tổn thương", Parker nói. "Và hắn muốn đòi lại sự công bằng"

Evans gật đầu. "Nghe có lý."

"Nhưng ai mới được chứ ? Ai đã làm hắn tổn thương ?", Hardy lẩm bẩm, lại một lần nữa nhìn vào bức thư ma quái.

"Hắn bị sa thải chăng ?", Cage gợi ý. "Một nhân viên bất mãn ?"

"Không", Evans nói, "một kẻ tâm thần có thể giết người vì việc đó nhưng hắn không bị tâm thần. Hắn quá thông minh và biết cách kiềm chế bản thân".

Geller cũng góp giọng, "Doanh nghiệp lớn, tập đoàn bự, những nhà tài phiệt..”

"Chờ đã", Hardy nói, "nếu thế thì mục tiêu của Digger phải là ở New York, chứ không phải Washington ?".

"Hắn đã từng ở đó đấy chứ", Cage chỉ ra. "White Plains."

Nhưng Hardy lắc đầu. "Không, nhớ lại xem, White Plains, Boston, Philly ? Những nơi đó chỉ là đợt chạy thử của hắn. Đây mới là màn kết hoành tráng."

"Chính phủ", Parker nói. "Đó là lý do Digger ở đây."

Hardy gật đầu. "Và nhóm Diggers phản đối chính quyền tập trung. Vì thế, có thể nó chẳng liên quan gì đến tầng lớp trên cả." Anh ta liếc nhìn Evans. "Mà là Chính phủ liên bang."

Lukas nói, "Đúng rồi. Chắc là thế".

Parker thêm vào, "Chính phủ chịu trách nhiệm cho một việc gì đó làm tổn thương hắn". Rồi anh nhìn khắp một lượt cả đội. "Ai có ý tưởng gì không ?"

"Hệ tư tưởng ?", Cage băn khoăn thành tiếng. "Hắn là cộng sản hoặc một phần tử của lực lượng quân sự cánh hữu."

Evans lắc đầu. "Không, nếu thế thì giờ này Digger phải gửi tối hậu thư rồi. Việc này mang nhiều tính cá nhân hơn thế."

Lukas và Hardy cùng nhìn vào mắt nhau. Với Parker, có vẻ cả hai vừa nghĩ ra cùng một ý. Chính là chàng thanh tra cất tiếng trước, "Cái chết của một người hắn yêu quý".

Lukas gật đầu.

"Có thể", vị tiến sĩ đồng tình.

"Được rồi", Cage nói. "Tình huống nào nhỉ ? Ai đã chết ? Và tại sao ?"

"Hành quyết ?", Hardy gợi ý.

Cage lắc đầu. "Hầu như chưa có cấp liên bang. Chỉ có cấp tiểu bang thôi."

"Hoạt động giải cứu ở biên giới thất bại", Geller gợi ý.

"Mơ hồ quá", Lukas nói.

Hardy thử lần nữa, "Xe của Chính phủ gây tai nạn, chè chén rồi bắn phải nhân viên bưu điện, tai nạn ở sở công viên... quan chức ngoại giao..."

"Quân đội", Cage gợi ý. "Hầu hết những cái chết liên quan đến chính quyền liên bang đều gắn liền với quân đội."

"Nhưng", Lukas nói, "mỗi năm trong lực lượng có tới hàng trăm người chết. Có phải tai nạn không ? Tập huấn ? Chiến đấu ?".

"Bão táp sa mạc ?", Cage gợi ý. (tên một chiến dịch quân sự trong chiến tranh vùng Vịnh)

"Digger khoảng bao nhiêu tuổi ?", Parker hỏi.

Lukas chộp lấy bản báo cáo sơ lược của đội giám định pháp y. Cô đọc và nhìn lên, "Xấp xỉ bốn mươi lăm".

... đen.

Rồi Parker chợt hiểu ra. Anh nói, "Bức tường đen !".

Lukas gật đầu, "Đài tưởng niệm Việt Nam".

"Ai đó hắn biết", Hardy nói, "đã bị giết ở Việt Nam. Anh trai, chị gái. Có thể vợ hắn từng là y tá".

Cage nói, "Nhưng chuyện xảy ra từ ba mươi năm trước rồi. Sao lại nổi lên lúc này ?".

“Ô có chứ", Evans nói. "Nếu nghi phạm của ông không triệt tiêu được cơn giận trong lúc chữa trị tâm lý thì cái nhọt sẽ vỡ ra. Và Giao thừa thường là thời điểm của những quyết tâm mới, con người có xu thế tiến hành những hoại động bạo dạn hơn, thậm chí cả hành động mang tính hủy hoại. Đêm nay có nhiều vụ tự tử hơn bất kỳ đêm nào khác trong năm."

"Ôi lạy Chúa", Lukas nói.

"Sao ?"

"Tôi vừa nghĩ ra Đài tưởng niệm trong công viên Mall. Dễ có đến hai trăm ngàn người sẽ có mặt ở đó. Để xem pháo hoa. Chúng ta sẽ phải hủy sự kiện đó."

"Công viên đầy chật người mất rồi", Parker nói. "Họ đã cắm trại ở đó từ nhiều tiếng trước."

"Nhưng Chúa ơi", Cage nói, "chúng ta cần thêm nhân lực". Ông gọi cho Artie, bảo vệ đêm của tòa nhà, và yêu cầu ông ta thông báo trên loa cho tất cả các đặc vụ đang ở trong tòa nhà phải có mặt ở sảnh để nhận nhiệm vụ khẩn cấp.

Lukas gọi Jerry Baker và bảo anh ta đưa toàn bộ đặc vụ tác chiến của mình tới khu vực tây bắc của công viên Mall. Sau đó, cô nhắn tin yêu cầu phó giám đốc gọi lại. Ông ta gọi ngay lập tức. Cô nói chuyện với ông ta một phút rồi tắt máy.

Cô nhìn toàn đội. 'Phó giám đốc đang trên đường đến. Tôi sẽ gặp ông ấy dưới nhà để tóm lược tình hình rồi sẽ gặp lại mọi người ở Đài tưởng niệm."

Cage mặc áo khoác vào. Geller đứng dậy và kiểm tra súng. Trông nó thật lạ lẫm trong tay cậu ta, rõ ràng đôi tay kia thành thạo cầm chuột máy tính hơn nhiều.

Lukas nói, "Chờ đã, Tobe. Anh về nhà".

"Tôi có thể".

"Đó là lệnh. Anh đã làm đủ rồi.”

Cậu ta phản đối thêm một lúc. Nhưng cuối cùng, Lukas vẫn là người chiến thắng, song chỉ sau khi cô hứa là mình sẽ gọi điện nếu cần thêm sự trợ giúp về kỹ thuật. "Tôi sẽ mang laptop về", cậu ta nói, cứ như mình có thể chịu được cảnh cách xa chiếc máy tính trong bán kính một mét không bằng.

Lukas đi đến chỗ Hardy. "Cảm ơn thanh tra. Làm việc tốt lắm."

Anh ta cười toe toét. "Xin lỗi vì vụ việc với ngài thị trưởng. Ông ta..."

Cô xua tay, chấp nhận câu xin lỗi và khẽ nở nụ cười. "Mọi chuyện rồi sẽ 'mạnh khỏe như mưa rào' thôi." Rồi cô hỏi anh ta, "Anh vẫn còn muốn nếm mùi hành động đêm nay chứ ?".

"Ồ, đương nhiên là có."

"Được, nhưng cứ ở phía sau đoàn nhé. Nói thật với tôi... Anh thật sự biết bắn đấy chứ ?"

"Chắc chắn rồi. Tôi còn bắn khá giỏi... nếu trời không có gió." Viên thanh tra trẻ vẫn còn cười trong lúc mặc áo khoác.

Parker cảm nhận sức nặng của khẩu súng trong túi khi khoác áo vào. Lukas liếc nhìn anh với vẻ nghi ngờ. "Tôi cũng đi", anh nói chắc nịch để trả lời cái liếc mắt ấy.

Cô nói, "Anh chẳng cần đi đâu, Parker. Không sao hết. Anh đã làm đủ rồi".

Anh mỉm cười với cô. Chỉ cần ngắm và bắn thôi, phải không ?

Cô ngập ngừng rồi nói, “Chỉ cần ngắm và bắn”.

***

Nó đây rồi, nó đây rồi... Chúa ơi, nhìn họ mà xem !

Một tá, hai tá đặc vụ chạy ra khỏi trụ sở FBI. Một số người mặc áo khoác chống đạn, những người khác thì không.

Henry Czisman uống ngụm cuối cùng của chai Jim Beam rồi đặt cái chai màu nâu lên ghế sau của chiếc xe thuê mà bên trong nồng nặc mùi thuốc lá và rượu whiskey. Anh ta dụi điếu Marlboro trên chiếc gạt tàn đã đầy ứ.

Họ đang lao về phía ô tô. Từng người một nổ máy rồi phóng đi.

Anh ta không đi theo. Chưa được. Anh ta kiên nhẫn chờ đợi như một con rắn hổ lục.

Rồi Czisman trông thấy viên đặc vụ cao lớn tóc xám tên Cage đi qua cửa trước. Ngó lại đằng sau lưng ông ta. À phải rồi ! Anh chàng đây rồi: Parker Kincaid.

Mặc dù Czisman đã không kể mọi chuyện với các đặc vụ FBI, nhưng thực tế, anh ta là phóng viên gần như suốt cuộc đời. Lại là một phóng viên giỏi nữa. Anh ta có thể đọc hiểu từng người một cách mẫn cảm như bất kỳ cảnh sát đường phố nào. Trong lúc họ chạy thử các chương trình quét võng mạc và phân tích độ căng thẳng giọng nói của anh ta trong căn phòng thẩm vấn kia, bản thân Czisman cũng có những bài thử nghiệm của riêng mình. Ít tính kỹ thuật và nhiều phần bản năng hơn, thế nhưng kết quả anh ta thu được chẳng hề kém chính xác so với Cục điều tra. Một trong những điều anh ta đã nhận ra, rằng Jefferson không phải là Jefferson. Khi anh chàng này vội vã rời khỏi trụ sở và lên ô tô của mình vài giờ trước, Czisman đã gửi biển số xe của anh tới một thám tử tư ở Hartford, Connecticut và có được nhân thân thật sự. Parker Kincaid. Chỉ cần một cuộc tra cứu đơn giản trên Internet là anh ta có thể biết người này từng là trưởng phòng phòng Tài liệu của Cục điều tra.

Nếu Cục đang phải dùng một cựu đặc vụ làm cố vấn, hẳn anh ta phải rất giỏi. Điều đó có nghĩa là anh ta đáng để bám theo. Không phải con người quan liêu như Cage, cũng chẳng phải người vô cảm như Lukas.

Sau khi dừng lại để kéo khóa chiếc áo da, Kincaid nhìn quanh định hướng rồi trèo vào trong chiếc xe không biển hiệu cùng với Cage và một đặc vụ hay cảnh sát trẻ trông có vẻ thật thà trong chiếc áo khoác dài. Họ bật đèn hiệu màu đỏ trên bảng điều khiển xe và nhanh chóng tăng tốc về phía tây, hướng công viên Mall.

Czisman dễ dàng lẩn vào đoàn xe đi cùng, vì cả đoàn đều đang lao quá nhanh nên chẳng ai chú ý tới anh ta. Mặc dù vậy, ở khoảng phố Eighth, gần Đại lộ Constitution, đám đông và xe cộ đi lại dày đặc đến mức các xe của Cục điều tra buộc phải dừng lại, còn các đặc vụ thì phải trèo ra ngoài, chạy về phía công viên Mall. Czisman bám sát nút đằng sau.

Cage và Kmcaid đang đứng cạnh nhau, nhìn ra đám đông. Kincaid chỉ về phía tây của Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam, còn Cage thì gật đầu về hướng đông. Họ chia tay nhau và đi theo hướng mình đã định, chàng trai mặc áo khoác dài thì tách khỏi hai người, hướng về phố Constitution.

Czisman vốn to béo lại không khỏe. Hơi thở anh ta khó nhọc ra vào trong phổi, còn tim thì đập bùm bụp như một chiếc piston. Nhưng anh ta cũng gắng gượng theo được Parker Kincaid, chỉ phải dừng lại một thoáng chốc để lấy khẩu súng từ chỗ cạp quần ướt mồ hôi rồi trượt nó vào trong túi áo khoác.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


Áo khoác của Digger rất nặng.

Nặng vì trọng lượng của hai khẩu súng.

Của những băng đạn, chứa hàng trăm viên cỡ 22 li...

Click, click...

... loại đạn... súng trường cỡ 22 li dùng để cảnh cáo, có thể bay xa tới một dặm mà trẻ em chẳng được phép bắn nếu không có người giám sát.

Nhưng Digger sẽ chẳng bao giờ làm điều đó: để một đứa trẻ bắn súng mà không có ai giám sát.

Không phải Tye. Không, không, không bao giờ là Tye.

Hai ống giảm thanh được lắp rất khéo. Bông và cao su, bông và cao su.

Anh là, anh là người giỏi nhất...

Hai khẩu súng tự động nằm ở túi trong của chiếc áo khoác màu xanh hoặc màu đen, món quà Giáng sinh của Pamela dành cho hắn. Một khẩu súng lục vốn nằm trong ngăn đựng găng của chiếc Toyota nay được nhét vào túi áo bên phải. Bốn băng đạn nữa cho hai khẩu Uzi nằm ở túi bên trái.

Không có túi mua hàng, không có chó con...

Hắn đứng trong bóng tối và không một ai ở gần đó để ý đến hắn. Hắn tìm kiếm cảnh sát hoặc đặc vụ nhưng chẳng trông thấy ai.

Tye đang ngủ trên ghế sau của chiếc ô tô, cách đó một dãy nhà. Khi Digger để thằng bé ở lại đó thì hai cẳng tay khẳng khiu như cành cây của nó đang khoanh trước ngực.

Điều làm hắn lo lắng nhất là: Nếu cảnh sát bắt đầu nổ súng hoặc nếu Digger phải bắn bằng hai khẩu súng không được giảm thanh, Tye sẽ bị thức giấc. Rồi thằng bé sẽ ngủ không ngon.

Hắn cũng lo thằng bé sẽ bị lạnh. Nhiệt độ đang tiếp tục xuống thấp. Nhưng Digger nhớ là hắn đã gập ba cái chăn đắp trên người Tye. Nó sẽ ổn thôi. Nó đang ngủ. Bọn trẻ luôn luôn ổn trong lúc chúng ngủ.

Hắn đứng một mình ngắm nhìn vài người sắp phải lìa đời. Hắn gọi điện thoại lần cuối và giọng phụ nữ giống của Ruth trước khi bị găm miếng kính vào cổ vẫn lặp lại, "Bạn không có tin nhắn mới".

Vậy là hắn phải giết những con người này.

Họ sẽ gục xuống đất như lá rụng.

Bụp chiu bụp chiu bụp bụp...

Hắn sẽ... click... hắn sẽ xoay quanh, như một con quay, như thứ đồ chơi mà hẳn Tye sẽ thích, và hắn sẽ xả đạn vào đám đông. Đạn từ cả hai khẩu súng.

Rồi hắn sẽ lên ô tô và kiểm tra tin nhắn, nếu người chỉ dạy hắn mọi điều vẫn không gọi thì hắn và Tye sẽ lái xe cho đến khi họ tìm được... click... tìm được California.

Ai đó sẽ nói cho hắn biết nó nằm ở đâu.

Chắc không khó tìm lắm. Đâu đó ở viễn tây thôi mà. Hắn nhớ như vậy.

***

Có phải Digger đang ở đằng sau lưng anh ?

Trước mặt ?

Bên cạnh ?

Parker Kincaid tách ra khỏi các đặc vụ khác, điên tiết đi thành vòng tròn rộng gần Đài tường niệm Chiến tranh Việt Nam, rồi mất hút trong biển người. Tìm kiếm một người đàn ông mặc áo khoác tối màu. Mang chiếc túi mua hàng trên tay. Đeo một cây Thánh giá.

Quá nhiều người ở đây. Hàng ngàn, hàng chục ngàn người.

Cage đang ở phía bên kia của Đài tưởng niệm. Len Hardy thì đang ở Đại lộ Constitution. Baker và các đặc vụ tác chiến khác thì quét từ đâu kia của công viên Mall trở lại đây.

Parker định ngăn một cặp đôi đang đi bộ xuống Đài tưởng niệm và hướng họ về phía một đám cảnh sát cho an toàn hơn, nhưng anh không làm.

Đột nhiên, anh nhận ra mình đã không suy nghĩ mạch lạc.

Những câu đố. Hãy nhớ lại những câu đố.

Ba con diều hâu cùng bắt mất gà của bác nông dân...

Rồi anh hiểu ra sai lầm của mình. Anh đã tìm sai chỗ rồi. Anh bước sang một bên, ra khỏi đường đi của đám đông và phân tích mặt đất gần Đài tưởng niệm. Anh nghĩ về những mê cung của tên nghi phạm và nhận ra chắc chắn nghi phạm đã tính đến đợt tấn công thứ ba này, các đặc vụ liên bang hẳn đã có một chút ít mô tả về tên Digger. Gã sẽ bảo tên giết người không tiếp cận Đài tưởng niệm dọc theo một trong các vỉa hè, nơi hắn sẽ dễ bị ngăn lại hơn, mà sẽ đi xuyên qua rặng cây kia.

Parker nhanh chóng quay đi và lủi vào bụi cây phong cùng anh đào rậm rạp. Vẫn còn nhiều người đang tiến về phía công viên Mall nhưng anh không dừng lại để bảo họ rời khỏi khu vực này. Giờ công việc của anh chẳng còn là một người chăm nom, hay người trợ giúp, hay một ông bố nữa; anh đã trở thành một thợ săn, giống hệt như cái đêm từ nhiều năm trước, khi anh phải lùng sục trong ngôi nhà của mình, tìm kiếm Người chèo thuyền.

Tìm kiếm con mồi của mình.

Tìm kiếm một gã đàn ông vô diện trong chiếc áo choàng tối màu.

Một tên đeo Thánh giá.

Henry Czisman bước phía sau Kincaid khoảng chín mét và đang đi bộ qua Đài tưởng niệm thì thấy Kincaid đột ngột rẽ rồi lẩn vào rừng cây.

Czisman bám theo, nhìn biển người quanh mình.

Thật đúng là mục tiêu mà Digger sẽ có được ở đây !

Hắn sẽ khiến họ đổ rạp như cỏ mất.

Khẩu súng lục của Czisman vẫn lăm lăm trong tay, chúi xuống đất. Không ai trông thấy nó; đám đông đang bị phân tâm, tự hỏi có chuyện gì mà cảnh sát và đặc vụ liên bang lại bảo họ phải rời khỏi công viên.

Kincaid vẫn vững bước trong rừng cây, lúc này, có lẽ Czisman cách anh khoảng sáu mét. Tuy nhiên, vẫn có người xuất hiện ở khắp mọi nơi, hàng tá người đang ngăn cách giữa anh ta và Kincaid, còn nhà giám định tài liệu thì chẳng hề biết mình đang bị theo dõi.

Họ còn cách bức tường đen lầm lũi khoảng chín mét thì Czisman trông thấy một người đàn ông mặc áo choàng tối màu bước ra khỏi một cái cây. Cử động ấy rất thận trọng và lén lút, rõ ràng là hắn ta đang trốn đằng sau nó. Khi đi về phía Đài tưởng niệm, hắn di chuyển có mục đích rõ ràng, đầu cúi gằm, tập trung nhìn xuống đất dù chẳng vì lý do gì, cứ như hắn đang cố để không bị chú ý. Rồi hắn biến mất trong đám đông không xa Kincaid là mấy.

Czisman chạy theo hắn.

Đột nhiên, Kincaid quay đầu. Anh liếc nhìn Czisman quay đi, rồi quay lại với một cái cau mày, nhận ra mình đã thấy khuôn mặt này nhưng không sao nhớ được. Czisman quay đi và thụp xuống đằng sau một anh chàng to cao đang bê thùng đựng đá. Anh ta tin là mình đã mất dấu Kincaid. Anh ta quay lại với cuộc truy tìm của mình, một lần nữa tìm kiếm bóng dáng người đàn ông trong áo choàng tối màu.

ở đâu...?

Phải, phải, hắn đây rồi ! Một gã đàn ông ở độ tuổi bốn mươi, hoàn toàn không có gì nổi bật. Hắn đang cởi khuy áo, ngó quanh đám đông bằng đôi mắt đờ đẫn.

Rồi Czisman trông thấy có gì đó lóe lên. Một tia sáng màu vàng trên cổ gã đàn ông.

Hắn đeo một cây Thánh giá bằng vàng...

Các đặc vụ ở quán bar đã kể với anh ta rằng Digger có mang một cây Thánh giá.

Vậy là hắn rồi, Czisman nghĩ. Tên Đồ tể, Kẻ gây góa bụa, tên Quỷ...

"Này !", một giọng nói vang lên.

Czisman quay lại. Đó là Kincaid.

Ngay lúc này, anh ta nghĩ. Ngay bây giờ !

Czisman giơ khẩu súng lên, ngắm thẳng vào mục tiêu.

"Không !", Kincaid hét lên khi thấy khẩu súng. "Không."

Nhưng Czisman không có tầm ngắm. Quá nhiều người đang ở đây. Anh ta nhảy sang một bên và xô đẩy đám đông, khiến mấy người ngã sang bên. Anh ta mất dấu Kincaid.

Cách đó sáu mét, Digger hoàn toàn không biết đến sự tồn tại của cả hai người trên, mà chỉ nhìn vào đám đông như một tên thợ săn đang nhìn một đàn ngỗng khổng lồ.

Czisman đẩy một đám sinh viên sang bên.

"Ông làm cái quái gì đấy hả, lão già ?"

"Này..."

Czisman lờ họ đi. Kincaid đang ở đâu ? Ở đâu ?

Vẫn không có tầm ngắm ! Quá nhiều người...

Áo khoác của Digger mở ra. Ở một bên túi trong là khẩu súng tự động to tướng màu đen.

Không ai hay biết. Các gia đình, những đứa trẻ, chỉ cách tên giết người vài bước chân...

Đám đông dường như đang phình to ra vì thêm người kéo đến. Cảnh sát đang hướng dẫn tất cả mọi người đi về phía Đại lộ Constituition nhưng rất nhiều người vẫn còn nấn ná vì họ không muốn mất chỗ đứng đẹp để xem pháo hoa, Czisman nghĩ vậy.

Digger đang nheo mắt, tìm chỗ để đứng bắn. Hắn bước lên một đụn cỏ nhỏ.

Kincaid hiện ra từ đám đông.

Czisman kéo cò súng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


Chiếc limo đỗ ngay bên ngoài công viên Mall, gần khu vực pháo đài dành riêng cho quan chức ngoại giao và các thành viên của Nghị viện.

Thị trưởng Kennedy cùng phu nhân bước ra, theo sau là Ardell.

"Anh cứ phải kè kè bên chúng tôi thế à ?", Claire hỏi viên đặc vụ.

"Đó là lệnh", Ardell nói. "Mong bà hiểu cho !"

Claire nhún vai.

Hiểu cho ư ? Kennedy nghĩ. Điều ông hiểu là ông đã bị bắt một cách không chính thức và thậm chí còn chẳng thể thoát được nỗi ô nhục khi xuất hiện trước công chúng trong thành phố của mình mà lại bị kèm cặp.

Bất kỳ hy vọng cứu vãn sự nghiệp nào sau đêm nay cũng đã bị dẹp gọn chỉ bằng vài cái liếc nhìn vào những người đang đứng gần khán đài để theo dõi ông. Bản tin thời sự nhập nhằng của Slade Phillips đã bị bỏ lỡ, hay bị lờ tịt đi, và có vẻ như tất cả những kẻ đang có mặt ở đây đều nghĩ rằng Kenrtedy thực sự là đồng phạm của Digger.

Máy quay phim nhá đèn, ghi lại những hình ảnh sắc nét mà ngày mai sẽ được đăng lên báo với tiêu đề "Thị trưởng Jerry Kennedy và phu nhân". Ông vẫy tay với vài người trên khán đài và khéo léo ứng xử với những lời bình luận thoáng qua như: "Ông đã trốn ở đâu đấy ?", "Ông thế nào rồi, Jerry ?". Không ai thực sự muốn một câu trả lời; họ còn bận giữ khoảng cách tối đa với người chẳng bao lâu nữa sẽ thành cựu thị trưởng thành phố.

Một câu hỏi khác mà Kennedy nghe được là: "Tưởng ông không tới xem pháo hoa đêm nay, Jerry. Điều gì mang ông ra ngoài thế ?".

Chà, Claire chính là người đã mang ông ra ngoài.

Thư ký Hiệp hội giáo viên Mỹ gốc Phi đã gọi điện, với giọng hơi hổ thẹn một cách tương đối, và nói rằng sẽ tốt hơn cho ông nếu ông không tham dự bữa tiệc mà đáng lẽ ra ông sẽ là diễn giả chính. "Có lẽ điều đó là tốt nhất cho tất cả mọi người."

Bản thân ông thì hoàn toàn hài lòng với việc chuồn về nhà. Nhưng lúc ngồi cạnh ông trong văn phòng ở Tòa thị chính, Claire lại có ý tưởng hoàn toàn khác. "Cứ say đi rồi tới xem buổi bắn pháo hoa chết tiệt ấy."

"Tôi không biết", Kennedy nghi ngại nói.

'Tôi thì biết. Ông không phải loại người hay dằn dỗi, cưng ạ. Cứ việc ra ngoài với cái đầu ngẩng cao."

Ông nghĩ ngợi một lát rồi quyết định rằng đấy là điều thông tuệ nhất mình nghe được trong đêm hôm đó. Vợ ông đã tìm thấy một chai Moet và họ đã cùng uống trên đường đến đây.

Trong lúc họ đi qua đám đông trên khán đài, Kennedy bắt tay với Nghị sĩ Lanier, ông ta rõ ràng đã nhận ra đặc vụ Ardell cùng nhiệm vụ chính xác của anh: một cai ngục.

Có lẽ Lanier chẳng thể nghĩ ra điều gì để nói mà không chút hả hê nên ông ta chỉ khẽ nghiêng đầu và thảy ra một câu, chẳng hề có vẻ tán tỉnh, "Claire, tối nay bà đẹp quá!".

"Paul", bà nói rồi gật đầu lặng lẽ với phu nhân Lanier và thêm vào, "Mindy".

"Jerry", Lanier hỏi, "tin mới nhất về những vụ xả súng là thế nào ?".

"Tôi vẫn đang chờ nghe đây."

"Chúng tôi có chỗ cho ngài ở ngay đây, thưa ngài thị trưởng", một phụ tá trẻ tuổi nói, chỉ vào dãy ghế màu cam còn trống đằng sau các khán giả khác. "Cả bạn của ngài nữa ạ." Anh ta liếc nhìn viên đặc vụ to lớn.

"Không, không", Kennedy nói. "Chúng tôi sẽ ngồi trên bậc thôi.

"Không, mời ngài..."

Nhưng ít nhất cho đến giờ, Kennedy vẫn còn vị thế xã hội, dù chẳng còn chút vị thế gì về tài chính, và ông phẩy tay với cả Lanier lẫn tay phụ tá. Ông ngồi xuống cạnh Claire trên bậc thềm cao nhất, thả áo khoác ngoài của mình xuống sàn gỗ cho vợ ngồi lên trên, c. p. Ardell trông cục mịch là thế nhưng rõ ràng anh vẫn khá tế nhị và thừa biết ngài thị trưởng sẽ phải hứng chịu nỗi tủi nhục thế nào trước sự hiện diện của một đặc vụ liên bang, thế nên anh chàng to con chỉ đứng cách ông mấy mét chứ không lù lù ngay đằng sau họ.

"Tôi thường đến đây hồi còn nhỏ", viên đặc vụ nói với ngài thị trưởng. "Chủ nhật nào cũng đến."

Việc này khiến Kennedy thấy ngạc nhiên. Hầu hết đặc vụ FBI đều được thuyên chuyển tới khu vực này. "Anh lớn lên ở đây à ?"

"Chắc chắn rồi. Có cho một triệu đô, tôi cũng chẳng đến sống ở Maryland hay Virginia."

"Nhà anh ở đâu, đặc vụ Ardell ?", Claire hỏi anh.

"Gần sở thú. Ngay bên kia đại lộ."

Kennedy khẽ cười. Ít nhất nếu có bị bắt, ông cũng sẽ thấy mừng vì quản giáo của mình lại là dân đồng hương.

Một cảm giác ấm áp từ ly rượu champagne, ông dịch vào gần vợ và nắm tay bà. Họ cùng nhìn ra công viên Mall. Ngắm hàng trăm ngàn con người đang di chuyển. Kennedy mừng khi thấy không có chiếc micro trên khán đài. Ông không muốn phải nghe bất kỳ bài diễn văn nào. Cũng chẳng muốn bất kỳ ai đưa micro cho mình phát biểu ứng biến cả. Chúa ơi, ông phải nói cái quái gì mới được ? Tất cả những gì ông muốn là được ngồi bên vợ và xem pháo hoa nở rộ trên thành phố của ông. Quên đi những nỗi đau đớn của ngày hôm nay. Trong lời cầu khẩn của mình gửi tới Digger, ông đã nói hôm nay là ngày cuối cùng của một năm. Nhưng rõ ràng nó cũng là điểm kết của rất nhiều thứ khác: cơ hội giúp đỡ thành phố của ông, sinh mạng của rất nhiều người dân đã bị giết hại một cách khủng khiếp.

Cũng là kết thúc nhiệm kỳ của ông trong văn phòng thị trưởng. Lanier và các Nghị sĩ khác, những kẻ muốn giật lấy Đặc khu ra khỏi tay người dân của chính nó, có thể sẽ biến vụ Digger trở thành một cái cớ, chẳng hạn như can thiệp vào nghiệp vụ điều tra của cảnh sát những thứ đại loại thế. Thêm vào đó là vụ bê bối của ủy ban Giáo dục, Kennedy có thể sẽ bị sa thải trong vòng mấy tháng tới. Wendell Jefferies cùng tất cả các phụ tá khác sẽ bị quét ra đường cùng với ông. Đó sẽ là cái kết của Dự án 2000.

Chấm dứt mọi hy vọng của ông dành cho Đặc khu. Thành phố tội nghiệp của ông sẽ bị tụt hậu thêm mười năm nữa. Có lẽ thị trưởng kế nhiệm...

Nhưng rồi Kennedy để ý thấy điều kỳ lạ. Có vẻ như những người đến xem pháo hoa đang di chuyển về phía đông một cách có chủ ý, cứ như họ bị lùa đi vậy. Tại sao ? Ông tự hỏi. Tầm nhìn ở đây mới là rõ nhất.

Ông quay sang Claire định nhắc đến điều này, nhưng đột nhiên, bà căng cứng cả người.

"Gì vậy ?", bà hỏi.

"Cái gì ?"

'Tiếng súng", bà nói. "Tôi nghe thấy tiếng súng".

Kennedy nhìn lên trời, tự hỏi âm thanh ấy có phải tiếng pháo hoa được bắn sớm hay không, Nhưng, không, tất cả những gì ông trông thấy chỉ là bầu trời đầy mây và tối đen, bị xuyên thủng bởi mũi nhọn màu trắng của Đài tưởng niệm Washington.

Rồi họ nghe thấy tiếng hét.

Những phát đạn của Czisman đã làm được điều mà anh ta dự định.

Khi anh ta nhận ra không một ai trông thấy Digger, và rằng chính mình chằng thể ngắm bắn được tên sát thủ, anh ta đã bắn hai phát lên trời để làm mọi người phải tản ra và dọn dường đạn.

Hai tiếng súng làm đám đông hoảng loạn. Tiếng rú rít, gào thét vang lên, tất cả mọi người đều bỏ chạy, làm Digger ngã khuỵu xuống. Chỉ trong vòng vài giây, khu vực ở ngay trước mặt Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam gần như đã trống trải.

Czisman thấy Kincaid cũng nằm rạp xuống đất và lôi một khẩu súng tự động nhỏ ra khỏi túi áo. Anh vẫn không trông thấy Digger bởi một bụi thường xuân đang ngăn cách hai người.

Czisman thấy chẳng sao hết. Anh ta muốn giết tên sát nhân.

Digger từ từ đứng dậy. Khẩu súng tự động đã rơi khỏi áo choàng nên hắn vội nhìn quanh để tìm kiếm nó. Bỗng hắn bắt gặp Czisman và liền đứng bất động, nhìn anh ta bằng đôi mắt kỳ lạ nhất mà Czisman từng trông thấy.

Đôi mắt ấy chứa ít cảm xúc hơn cả mắt của loài vật. Bất kể tên chủ mưu đằng sau các vụ giết người là ai, kẻ hiện đang nằm trong nhà xác kia cũng chẳng phải một ác quỷ thực sự. Gã vẫn còn có cảm xúc, ý nghĩ và khao khát. Gã có thể hoàn lương, có thể nuôi dưỡng một chút ít lương tâm trong khả năng của mình.

Còn Digger thì sao ? Không. Chẳng có chút hối lỗi nào ở cỗ máy này. Chỉ có cái chết.

Ten sát nhân với trí óc con người nhưng lại mang trái tim của quỷ dữ...

Digger liếc nhìn khẩu súng trên tay Czisman. Rồi mắt hắn lại hướng lên và nhìn chằm chằm vào khuôn mặt tay phóng viên.

Kincaid đang đứng dậy và la hét với Czisman "Thả vũ khí xuống, thả vũ khí xuống !".

Czisman lờ anh ta đi, giơ khẩu súng về phía Digger. Bằng giọng nói run rẩy, anh ta bắt đầu, "Mày...".

Nhưng có một tiếng nổ khẽ từ phía Digger. Vạt áo của hắn bị bắn bay ra ngoài. Czisman cảm nhận một cú thúc mạnh vào ngực rồi khuỵu xuống. Anh ta nổ súng nhưng phát đạn đi chệch mục tiêu.

Digger bỏ tay ra khỏi túi áo, vẫn cầm khẩu súng lục nhỏ. Hắn nhắm vào ngực Czisman một lần nữa và bắn hai phát.

Czisman ngã ra sau dưới tác động của loạt đạn.

Và khi anh ta ngã trên nền đất lạnh, nhìn ánh đèn xa xa phản chiếu trên bức tường của Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam, anh ta khẽ lẩm bẩm, "Mày..

Czisman cố lấy súng của mình... Nhưng nó ở đâu ? Nó đã rơi khỏi tay anh ta.

Ở đâu, ở đâu ?...

Kincaid đang chạy tìm chỗ nấp, vừa chạy vừa nhìn quanh một cách khó hiểu. Czisman trông thấy Digger bước từ từ về phía khẩu súng tự động của hắn, nhặt nó lên và bắn một loạt về phía Kincaid đang nấp sau một cái cây. Digger bỏ chạy lom khom qua bụi rậm về phía đám đông đang chạy tán loạn.

Czisman mò mẫm khẩu súng của mình. "Mày... mày... mày.. Nhưng bàn tay của anh ta rơi phịch xuống mặt đất như một viên đá và rồi chỉ còn lại bóng tối.

Chỉ có vài người...

Click, click...

Buồn cười thật...

Vài người ở gần đó, túm tụm trên mặt đất, nhìn quanh. Sợ hãi. Digger có thể bắn họ dễ dàng nhưng nếu thế, cảnh sát sẽ trông thấy hắn.

"Lần cuối cùng, phải giết càng nhiều người càng tốt", người đàn ông chỉ dạy hắn mọi điều đã nói.

Nhưng bao nhiêu mới là càng nhiều càng tốt ?

Một, hai, ba, bốn, năm...

Digger không nghĩ rằng anh ta chỉ có ý nói đến nửa tá người.

Thời khắc cuối cùng của giờ cuối cùng của...

Vì vậy, hắn vội chạy theo họ, làm việc mà hắn phải làm, tỏ ra sợ hãi, chạy như đám đông đang chạy, hai vai so lại. Những thứ đại loại như thế.

Anh là... anh là... anh là người giỏi nhất.

Người đàn ông đằng sau là ai nhỉ ? Hắn tự hỏi. Anh ta không phải cảnh sát. Sao anh ta lại cố bắn tôi ?

Digger đã giấu... click, click... khẩu Uzi dưới áo khoác, chiếc áo khoác yêu thích của hắn, bởi nó là do Pamela tặng.

Gần đó có vài tiếng hét, nhưng dường như họ không nhằm vào hắn, nên hắn chẳng buồn chú tâm. Không ai để ý hắn. Hắn di chuyển qua bãi cỏ, gần những bụi và thân cây, dọc theo con phố rộng lớn ấy, Đại lộ Constitution. Có xe buýt, ô tô và hàng ngàn con người ở đó. Nếu hắn có thể tới chỗ họ, hắn sẽ giết được cả trăm người.

Hắn thấy những bảo tàng, giống như nơi trưng bày bức tranh đường vào địa ngục. Bảo tàng vui lắm, hắn nghĩ. Tye sẽ thích bảo tàng cho xem. Có lẽ họ có thể cùng đi thăm bảo tàng với nhau khi tới California.

Thêm nhiều tiếng thét nữa. Mọi người chạy tứ tung. Có cả đàn ông, đàn bà và trẻ con. Cảnh sát và đặc vụ. Họ được trang bị những khẩu Uzi hoặc Mac-lOs hoặc, click, những khẩu súng lục như khẩu của Digger và khẩu của gã đàn ông vừa cố bắn hắn. Nhưng họ sẽ không bắn vì chẳng biết phải bắn vào đâu. Digger chỉ là một người trong đám đông hỗn loạn.

Click, click.

Hắn phải đi bao xa mới tới được chỗ đông người ?

Vài trăm mét, hắn đoán vậy.

Hắn chạy về phía họ. Nhưng con đường này đang dẫn hắn chạy xa khỏi Tye, khỏi chiếc ô tô đỗ trên phố Twenty-second. Hắn không thích ý nghĩ đó. Hắn muốn làm cho xong vụ này rồi trở lại với thằng bé. Khi tới chỗ đám đông, hắn sẽ xoay vòng như con quay và nhìn người ta gục xuống như lá rụng trong khu rừng ở Connecticut, rồi trở lại với thằng bé.

Khi tôi đi trên đường, tôi càng yêu em nhiều hơn.

Xoay, xoay, xoay...

Họ sẽ gục như Pamela với bông hồng trên ngực cùng hoa vàng trên tay.

Thêm nhiều người cầm súng nữa đang chạy trên bãi cỏ.

Đột nhiên, hắn nghe thấy tiếng nổ, rắc, rầm và bốp ở gần đó. Có người đang bắn hắn chăng ?

Không, không... A, nhìn kìa !

Trên đầu hắn, những bông hoa đang nở rộ trên bầu trời. Khói tỏa ra và những bông hoa sáng rực rỡ, màu vàng và đỏ. Cả màu xanh và trắng nữa.

Pháo hoa.

Đồng hồ của hắn đổ chuông.

Đúng nửa đêm.

Đến lúc bắn rồi.

Nhưng Digger chưa thể bắn được. Chưa có đủ người.

Digger tiếp tục di chuyển về phía đám đông. Hắn có thể bắn vài người, nhưng không đủ để làm vui lòng người chỉ dạy hắn mọi điều.

Rắc...

Một viên đạn sượt qua hắn.

Giờ thì đúng là có ai đang bắn hắn.

Gào thét.

Hai người đàn ông khoác áo FBI ở giữa bãi cỏ bên tay phải Digger đã trông thấy hắn. Họ đang đứng trước cái bục gỗ được trang trí bằng các biểu ngữ đỏ, xanh và trắng xinh đẹp, giống như thứ mà những Em bé Năm mới vẫn đeo.

Hắn quay sang họ và bắn khẩu Uzi qua lớp áo khoác. Hắn không muốn làm thế, vì điều đó sẽ tạo ra nhiều lỗ hơn trên chiếc áo khoác xanh hay đen xinh đẹp mà Pamela tặng, nhưng hắn buộc phải làm. Hắn không được để ai trông thấy khẩu súng.

Hai người đàn ông ôm mặt và cổ cứ như bị ong đốt rồi ngã vật xuống.

Digger xoay người rồi tiếp tục chạy theo đám đông.

Không ai trông thấy hắn bắn hai người kia.

Hắn chỉ phải đi vài trăm mét nữa là quanh hắn sẽ đầy chật người, hắn sẽ ngó nghiêng như mọi người khác, tìm kiếm tên sát nhân, tìm kiếm sự cứu rỗi. Rồi hắn có thể bắn và bắn và bắn.

Xoay tròn như một con quay trong rừng Connecticut.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


Khi loạt đạn đầu tiên găm vào gỗ quanh ông, Jerry Kennedy đã đẩy Claire rơi từ khán đài xuống nền đất lạnh.

Ông nhảy theo sau và nằm nghiêng người đỡ đạn cho bà. "Claire !", Kennedy gào.

"Tôi ổn !", giọng bà rít lên sợ hãi. "Có chuyện gì vậy ?"

"Ai đó đang xả súng. Chắc là hắn rồi ! Tên sát nhân, chắc hắn đang ở đây !"

Họ nằm sát vào nhau, ngửi thấy mùi đất, mùi cỏ và bia bị đổ.

Một người trên khán đài đã bị bắn trúng: Tay phụ tá trẻ bị bắn vào cánh tay khi Nghị sĩ Lanier nhảy ra đằng sau anh ta để nấp. Nhưng ngoài ra, không còn ai bị thương. Hầu hết các phát đạn đều bắn trượt. Tên sát nhân đã nhắm vào hai đặc vụ đứng trước khán đài, chứ không phải người ở trên ấy.

Kennedy có thể thấy rằng các đặc vụ đã chết.

Ngài thị trưởng ngước lên và trông thấy c. p. Ardell đang cầm khẩu súng đen trước mặt, nhìn khắp lượt bãi cỏ. Anh đứng cao hẳn lên, thậm chí chẳng buồn so vai.

"Đặc vụ Ardell!", Kennedy hét. "Hắn kia kìa ! Kia kìa !"

Nhưng viên đặc vụ không bắn. Kennedy trèo hẳn lên bậc thang, kéo cổ tay áo của viên đặc vụ và chỉ. "Hắn đang chạy kìa. Bắn đi !"

Viên đặc vụ to lớn giơ khẩu súng tự động lên trước mặt như một nhà thiện xạ.

"Ardell !"

"y", viên đặc vụ đang nói.

"Anh còn chờ gì nữa ?", Kennedy kêu lên.

Nhưng c. p. Ardell cứ nói "ây, ây", khi nhìn khắp bãi cỏ.

Rồi Ardell bắt đầu quay người, chầm chậm xoay tròn, nhìn từ hướng bắc, sang đông, rồi nam... Nhìn về phía bức tường Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam, rồi những rặng cây, tiếp đến Đài tưởng niệm Washington, và lá cờ trang trí phông màn cho khán đài.

"y."

Viên đặc vụ quay thêm một lần nữa, một vòng tròn hoàn chỉnh, và ngã ngửa ra sau, nhìn đăm đăm lên bầu trời bằng đôi mắt rực sáng. Kennedy thấy phần chóp đầu của anh đã không còn ở đó.

"Ôi Chúa ơi !"

Claire thở dốc khi một dòng máu chảy xuống bậc thềm và đọng thành vũng cách mặt bà vài phân.

Viên đặc vụ nói "y" thêm một lần nữa, thổi ra bong bóng khí nhầy nhụa trên miệng. Kennedy nắm tay người đàn ông ấy. Nó khẽ run một lần. Rồi bất động hẳn.

Kennedy đứng dậy. Ông nhìn qua bục phát biểu mà Lanier, trợ lý của ông ta cùng một nghị sĩ khác đang trốn đằng sau. Công viên Mall mờ tối, không có ngọn đèn nào được bật vì đang bắn pháo hoa, nhưng trong ánh đèn pha của các xe cấp cứu, Kennedy thấy được cảnh hỗn loạn. Ông đang tìm bóng dáng Digger.

"Mi đang làm cái quái gì trong thành phố của ta ?", ông thì thầm. Rồi giọng cao lên thành tiếng thét, "Mi đang làm cái quái gì ở đây ?".

"Jerry, nằm xuống!", Claire nài xin.

Nhưng ông vẫn đứng tại chỗ, nhìn khắp bãi cỏ, cố tìm cái bóng đen của tên giết người một lần nữa.

Hắn ở đâu ? Ở đâu ?

Rồi ông thấy một người đàn ông trong bóng râm, đang đi bộ thật nhanh dọc theo hàng cây anh đào không xa Đại lộ Constitution.

Hắn đang chạy theo đám đông ở mé phía đông của công viên Mall.

Kennedy đứng dậy và giật lấy khẩu súng từ tay viên đặc vụ đã chết.

"Ôi, Jerry, không", Claire nói. "Không ! Gọi điện thoại đi !"

"Không còn thời gian đâu."

"Không.. ", bà khóc.

Ông dừng lại và quay sang nhìn bà. Vuốt má bà bằng bàn tay trái và hôn lên trán bà như cách ông vẫn làm trước khi tắt đèn đi ngủ. Rồi ông nhảy qua nhóm người đang túm tụm nhau của mấy tay chính trị trẻ tuổi và chạy ra bãi cỏ.

Ông nghĩ: Mình sẽ đột quỵ mất, khéo mình bị đột quỵ mà chết mất thôi... Nhưng ông không hề chạy chậm lại.

Hình ảnh thân thuộc của thành phố đang bủa vây lấy ông: Đài tưởng niệm Washington màu trắng, hàng cây anh đào khắc nghiệt, ngọn tháp của Smithsonian, những tòa nhà bắt chước kiến trúc Gothic màu xám của các viện bào tàng, xe buýt dành cho khách du lịch...

Kennedy vừa thở dốc vừa chạy, vừa thở dốc vừa chạy.

Digger còn cách ông ba mươi mét. Rồi hai lăm...

Hai mươi...

Kennedy nhìn tên sát nhân ngày càng áp sát đám đông. Rồi hắn lôi khẩu súng đen ra khỏi túi áo.

Có tiếng súng phát ra từ rặng cây bên trái Kennedy. Rồi một, hai tiếng nữa.

Đúng rồi ! Kennedy nghĩ. Họ đã trông thấy hắn !

Nhưng đột nhiên một đụn cỏ bên cạnh Kennedy bay lên không trung và một viên đạn khác sượt qua đầu ông.

Chúa ơi ! Họ đang bắn ông. Họ trông thấy một người cầm súng chạy về phía đám đông và tưởng ông là kẻ giết người.

"Không, không!", ông cúi người rồi chỉ về phía Digger. "Là hắn cơ !"

Tên sát nhân đang ở trong rặng cây, đi vòng sang một bên của đám đông. Chỉ một phút nữa thôi hắn sẽ chỉ còn cách họ chưa đầy mười lăm mét và có thể giết hàng trăm mạng người chỉ với một loạt bắn.

Mặc xác họ. Hãy cứ mong là cảnh sát đều bắn tồi. Kennedy lại lao lên phía trước.

Thêm một tiếng súng nữa bắn về phía ông nhưng rồi ai đó chắc đã nhận ra được. Có tiếng hét trên loa ra lệnh cho cảnh sát ngừng bắn.

"Quay lại đi !", Kennedy đang hét với đám đông.

Nhưng không còn chỗ để lùi nữa. Họ túm tụm vào nhau như một bầy gia súc. Hàng ngàn người. Vài người nhìn pháo hoa, những người khác thì nhìn quanh khó chịu và bối rối.

Kennedy rẽ vào hàng cây, ngực đau thắt nhưng ông vẫn lao về chỗ mình đã nhìn thấy Digger lần cuối.

Mình sắp chết, ông nghĩ. Ông mường tượng bản thân đang lăn lộn đau đớn trên mặt đất trong lúc trái tim sắp ngừng đập.

Hom nữa, mình đang làm cái gì mới được ? Loại ngu xuẩn gì thế này ? Lần cuối cùng ông bắn súng là ở một trại hè cùng với con trai từ ba mươi năm trước. Ông đã bắn ba phát và trượt cả ba trước sự xấu hổ của con mình.

Chạy, chạy...

Gần hàng cây hơn, gần Digger hơn.

Các đặc vụ đã trông thấy ông hướng về đâu và hẳn đã đoán ra ông đang chạy theo tên sát nhân. Một hàng nghiêm chỉnh các nam và nữ đặc vụ trong bộ đồng phục tác chiến đang lao về phía ông.

Digger bước ra khỏi bụi cây, nhắm khẩu súng tự động về phía đám đông. Rồi hắn gật đầu với chính mình.

Kennedy ngừng chạy, giơ khẩu súng của Ardell lên và ngắm thẳng về phía tên sát nhân. Ông thậm chí không biết phải ngắm vào đâu, cái ống ngắm của khẩu súng nặng nề này làm việc thế nào nhỉ. Ông nên ngắm cao hay ngắm thấp. Nhưng Kennedy là một người khỏe mạnh và ông cầm rất chắc khẩu súng trong tay. Ông nhớ lại mình và cậu con trai cả đã đứng bên nhau trong trại hè thế nào, lắng nghe lời của người hướng dẫn: "Bóp cò. Đừng có giật". Thằng bé đã cười khúc khích khi nghe thấy từ ấy.

Vậy là đêm nay, Jerry Kennedy đã bóp cò.

Tiếng nổ rất to và ông không hề ngờ được khẩu súng sẽ bị giật lên cao đến thế.

Kennedy hạ súng một lần nữa. Nheo mắt nhìn bãi cỏ tối om. Ông cười rõ to.

Chúa ơi, con làm được rồi ! Con bắn trúng hắn rồi !

Digger đang nằm trên mặt đất, nhăn nhó và ôm lấy cánh tay trái của hắn.

Kennedy bắn lần nữa. Viên đạn trượt và ông bắn thêm một vòng, rồi hai vòng nữa.

Digger lăn người đứng dậy. Hắn định ngắm vào Kennedy, nhưng ngài thị trưởng đã bắn lần nữa. Lần này cũng trượt, viên đạn trúng phải thân cây, song cũng đủ gần để buộc Digger phải lảo đảo lùi lại. Hắn bắn vội về phía Kennedy. Tất cả các viên đạn đều trượt.

Tên sát nhân nhìn sang bên trái, nơi một hàng đặc vụ và cảnh sát đang di chuyển về phía hắn. Hắn ngắm bắn họ và chắc đã bóp cò. Kennedy không nghe thấy gì, cũng chẳng thấy tia lửa lóe lên ở đầu súng. Nhưng một đặc vụ đã ngã xuống và một mảng đất của sân cỏ liền bay lên không trung. Các đặc vụ khác thụp người xuống trong tư thế phòng thủ trên mặt đất. Họ ngắm bắn về phía hắn nhưng không ai bóp cò. Kennedy đã hiểu được tại sao: Vì đám đông đang ở ngay sau lưng Digger. Họ chắc chắn sẽ bắn nhầm vào những người ở đó.

Chỉ có Kennedy là có tầm ngắm thoáng.

Ông đứng thẳng dậy và bắn xuống mặt đất năm lần nữa để lái Digger lùi lại, tránh xa khỏi đám đông.

Rồi khẩu súng kêu lạch cạch. Hết đạn.

Ông nheo mắt nhìn qua khẩu súng.

Cái bóng đen của Digger đã biến mất

***

Giờ hắn đang thở dốc.

Thứ gì đó bên trong Digger đã vỡ vụn và hắn quên mọi lời huấn thị của người chỉ dạy hắn mọi điều. Hắn quên mất rằng giết càng nhiều người càng tốt, quên những kẻ đã thấy mặt hắn và quên cả việc xoay vòng như một hạt mầm béo ở Connecticut. Hắn muốn ra khỏi đây và trở lại với Tye.

Những viên đạn của ông già kia đã tới rất gần hắn. Ông ta suýt giết hắn. Và nếu hắn bị giết, chuyện gì sẽ xảy ra cho thằng bé ?

Hắn thụp người xuống và lao về phía một chiếc xe du lịch.

Động cơ đang để sẵn, một đám khói bốc lên từ bô xe.

Tay hắn đau khủng khiếp.

Đau đớn...

Nhìn kìa, có một bông hồng đỏ trên cánh tay hắn !

Nhưng, ôi... nó mới... click... đau làm sao.

Hắn hy vọng mình không bao giờ bị đau thế này nữa. Hắn cũng hy vọng Tye sẽ chẳng bao giờ bị đau như vậy.

Hắn tìm kiếm kẻ đã bắn mình. Sao ông ta lại làm thế ? Digger không hiểu. Hắn chỉ làm những gì người ta bảo hắn làm.

Thậm chí nếu em không yêu tôi, tôi vẫn yêu em nhiều hơn.

Pháo hoa nở rộ trên khắp bầu trời công viên Mall.

Một hàng cảnh sát và đặc vụ di chuyển đến gần hơn. Họ bắt đầu bắn. Digger trèo lên bậc thang của xe buýt và quay lại, xả đạn vào đám đông các đặc vụ đang truy đuổi hắn.

Một ngôi sao khổng lồ màu cam nổ tung trên nền trời.

"Ôi chà", hắn nói và nghĩ: Tye sẽ thích lắm đây.

Hắn đập vỡ cửa sổ xe buýt và cẩn thận ngắm bắn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Barker và Cage ngồi xổm sau một chiếc xe cảnh sát.

Cả hai đều không được đào tạo nhiều về tác chiến và biết rằng cần phải để màn đấu súng lại cho những đặc vụ trẻ tuổi nhưng nhiều kinh nghiệm hơn mình.

Hơn thế nữa, như Cage chỉ vừa hét lên với Parker một phút trước, đây đúng là bãi chiến trường chết tiệt. Đạn bay khắp nơi. Digger được bảo vệ an toàn bên trong chiếc xe buýt và đang bắn từng đợt thận trọng qua những ô cửa sổ đã vỡ tan tành. Len Hardy bị ghim chặt xuống đất cùng vài cảnh sát Đặc khu khác ở mé bên kia Đại lộ Constitution.

Cage ấn chặt một bên sườn của mình và nhăn mặt. Ông không bị trúng đạn nhưng một loạt đạn đã xé toạc lớp thép của chiếc xe họ dùng làm vật chắn, khiến ông phải lăn mình xuống đất thật mạnh.

"Ông ổn chứ ?", Parker hỏi.

"Sườn", ông già kêu. "Hình như bị gãy xương rồi. Chết tiệt"

Các đặc vụ đã giải phóng khu vực xung quanh xe buýt và thoải mái bắn như mưa bất kể khi nào họ thấy có cơ hội. Họ đã bắn xẹp các lốp xe để Digger không thế lái đi được, mặc dù Parker thấy hẳn chẳng có cơ hội nào làm thế: Cả đoạn đại lộ rộng lớn bị kẹt xe kéo dài tới tám trăm mét từ cả hai hướng.

Parker nghe thấy những mẩu tin vụn vặt trao đổi trên điện đàm.

"Không thấy mục tiêu... Ném một quả bom quang vào trong. Ai có lựu đạn ? Hai người đã bị hạ ở Constitution. Chúng ta có... có ai nghe không ? Chúng ta có hai người bị hạ ở Constitution... Xạ thủ vào vị trí."

Rồi Cage ngó lên khỏi nắp chiếc xe đã bị xé toạc.

"Chúa ơi", Cage hổn hển, "thằng nhóc làm cái quỷ gì thế kia ?".

Parker cũng đã trông thấy, ở hướng Đại lộ Constitution, theo ánh mắt của viên đặc vụ kỳ cựu. Len Hardy với khẩu súng bé tẹo trong tay đang bò từ cây này sang cây kia về phía chiếc xe buýt, lâu lâu lại ngẩng đầu lên bắn một phát.

Parker nói, "Anh ta điên rồi. Thậm chí anh ta còn không mặc áo chống đạn".

"Len !", Cage gào lên rồi nhăn mặt vì đau.

Parker tiếp tục công việc. "Len !... Len Hardy ! Quay lại ngay. Để đội SWAT xử lý"

Nhưng anh ta chẳng hề nghe thấy họ. Hoặc giả vờ không nghe.

Cage rít lên, "Cứ như cậu ta mong được chết không bằng".

Hardy đứng lên và lao về phía chiếc xe, vừa chạy vừa xả hết băng đạn. Thậm chí cả Parker cũng biết đây không phải là quy trình chuẩn trong hoạt động tác chiến.

Parker trông thấy Digger di chuyển về phía sau xe, nơi hắn có thể dễ dàng bắn hạ Hardy. Viên thanh tra không hề chú ý. Anh ta lom khom trên mặt đất, và hoàn toàn lộ diện khi đang nạp thêm đạn.

"Len !", Parker kêu lên. "Nấp đi !"

"Thậm chí cậu ta còn không có băng đạn dự trữ", Cage lẩm bẩm. Hardy đang trượt từng viên, từng viên vào khẩu súng của mình.

Digger càng tiến sát đuôi xe hơn.

"Không !" Parker lẩm bẩm, biết rằng mình sắp phải chứng kiến chàng trai trẻ bị giết.

"Chúa ơi", Cage vừa kêu vừa thở hổn hển.

Rồi Hardy ngước lên và chắc hẳn đã nhận ra chuyện gì đó đang xảy ra. Anh ta giơ khẩu súng và bắn thêm ba phát nữa, tất cả chỗ đạn mình vừa kịp lắp thêm, rồi lảo đảo lùi lại, cố tìm chỗ nấp.

"Cậu ta chết chắc rồi !", Cage lẩm bầm. "Chết chắc rồi !"

Parker trông thấy bóng tên sát nhân gần ở cửa thoát hiểm phía đuôi xe buýt, nơi hắn sẽ có tầm ngắm hoàn hảo vào Hardy, người đang nằm bò trên phố.

Nhưng trước khi Digger kịp bắn, một đặc vụ khác đã lăn ra từ đằng sau một chiếc xe và cúi người, bắn một loạt đạn vào trong xe buýt. Máu phun lên cửa sổ từ phía bên trong. Tiếp đó là tiếng gió rít và lửa bùng lên bên trong xe buýt. Một dòng xăng cháy loang ra lề đường.

Hardy chật vật đứng lên và chạy đến nấp sau một chiếc xe của cảnh sát Đặc khu.

Có tiếng hét xé tai vang từ bên trong chiếc xe buýt khi nó chìm trong biển lửa màu cam. Parker trông thấy Digger, một ngọn đuốc sống khổng lồ đứng lên rồi gục xuống trên lối đi ở giữa xe.

Rồi một tiếng bụp nhỏ vang lên từ bên trong, giống tiếng bắp rang bơ mà Stephie đã làm để gây bất ngờ cho anh trai nó, khi những viên đạn còn lại của Digger phát nổ trong lửa. Một cái cây trên Đại lộ Constitution cũng bị bắt lửa và soi chiếu khung cảnh rùng rợn bằng ánh sáng vui vẻ đến phi lý.

Các đặc vụ từ từ đứng lên khỏi chỗ nấp và tiếp cận chiếc xe buýt. Họ đứng ở một khoảng cách thận trọng trong lúc những viên đạn cuối cùng bốc cháy, xe cứu hỏa thì vừa tới nơi và bắt đầu phun bọt kem lên khối sắt đã hóa thành than.

Khi lửa đã tắt, hai đặc vụ giáp trụ đầy mình tiến tới cửa xe và nhìn vào bên trong.

Đột nhiên, một tràng nổ lớn vang rền làm rung chuyển cả công viên Mall.

Tất cả các đặc vụ và cảnh sát gần đó đều thụp xuống tư thế tự vệ, tay giơ cao vũ khí.

Nhưng âm thanh ấy chỉ là tiếng pháo hoa, những con nhện màu cam, những ngôi sao nở rộ màu xanh dương, những vỏ sò rung rinh màu trắng. Đó là màn kết tráng lệ của buổi biểu diễn.

Hai đặc vụ bước tránh ra xa khỏi chiếc cửa xe buýt cởi bỏ mũ bảo hiểm.

Một lát sau, Parker nghe tiếng của một trong hai người trên điện đàm của Cage. "Xe đã an toàn", anh ta nói. "Xác nhận đối tượng đã chết", là một câu văn bia không cảm xúc dành cho tên giết người.

Khi họ cùng trở lại Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam, Parker kể cho Cage nghe về Czisman, về khởi đầu của vụ đấu súng này.

"Anh ta đã bắn hai phát cảnh cáo. Nếu anh ta không làm vậy thì Digger đã giết được hàng trăm người ngay tại đây. Có lẽ cả tôi cũng chết rồi."

"Anh ta định làm cái quái gì mới được chứ ?"

Ở trước mặt họ, một viên cảnh sát đang phủ xác của Henry Czisman.

Cage cúi xuống, nhăn nhó vì đau đớn. Một nhân viên y tế chọc vào bụng ông và tuyên bố cú ngã kia đã khiến ông bị gãy mất xương sườn. Cage được quấn băng và được đưa cho một ít thuốc Tylenol 3 . Điểm đáng thất vọng nhất của vết thương là giờ đây, ông đau đến nỗi không thể thực hiện những cái nhún vai thường lệ được nữa. Viên đặc vụ kéo tấm vải bạt màu vàng khỏi thi thể rồi lục tìm trong các túi áo, túi quần của tay nhà báo. Lấy ví của anh ta, rồi tìm thêm được một thứ khác.

"Cái gì đây nhỉ ?". Ông lấy cuốn sách ra khỏi ngực áo của người đàn ông đã chết. Parker thấy nó đúng là một cuốn sách đẹp: Bọc da, các trang giấy được khâu bằng tay chứ không phải loại hồ dán "hoàn hảo" như sách bán đại trà. Giấy da mịn, vào thời của Thomas Jefferson, nó được làm bằng da động vật trơn nhẵn, nhưng ở thời hiện đại thì sẽ là loại giấy vải cao cấp. Mép giấy được viền hai màu đỏ và vàng.

Bên trong sổ, chữ viết kiểu thư pháp, có lẽ là của Czisman đẹp như của một nghệ sĩ thực thụ. Parker chẳng thể không ngưỡng mộ nó.

Cage lật giở cuốn sách, dừng ở vài trang, đọc chúng rồi lắc đầu. Ông đưa nó cho Parker. "Xem này !"

Parker cau mày, nhìn vào dòng tiêu đề được viết bằng mực vàng trên trang bìa. Biên niên sử Đau thương.

Anh mở nó ra. Và đọc to. "Để tưởng nhớ vợ tôi, Anne, nạn nhân đầu tiên của Đồ tể."

Cuốn sách được chia thành các phần. "Boston." "White Plains." Và các bức ảnh hiện trường được dán vào bên trong. Tấm đầu tiên đề "Hartford". Parker lật giở trang và đọc, "Từ tạp chí Hartford News-Times. Czisman đã sao chép lại toàn bộ bài báo. Nó được đề tháng Mười một năm ngoái.

Parker đọc tiếp, "Ba người đã chết trong vụ cướp... Cảnh sát Hartford vẫn đang truy tìm tung tích một người đàn ông đã bước vào văn phòng của tạp chí News-Time hôm thứ Bảy và khai hỏa bằng một khẩu súng lục, giết chết ba nhân viên trong phòng Quảng cáo".

"Mô tả duy nhất về tên giết người: Hắn là đàn ông, tầm vóc trung bình, mặc một chiếc áo khoác màu tối. Người phát ngôn của cảnh sát nói động cơ của hắn có thể là để phân tán sự chú ý của các lực lượng hành pháp trong khi tên đồng bọn cướp một xe chở tiền đang trên đường tới ngân hàng phía bên kia thị trấn. Kẻ tấn công thứ hai đã bắn chết người tài xế xe tải và phụ tá của ông ta. Tên đó trốn thoát với bốn ngàn đô la tiền mặt."

Cage lẩm bẩm, "Giết ba người chỉ vì bốn ngàn. Đúng là chúng rồi".

Parker ngước nhìn lên. "Một trong các nhân viên bị giết ở tòa báo là Anne Czisman. Vợ của anh ta."

"Vậy là anh ta cũng muốn hạ tên khốn y hệt chúng ta", Cage nói.

"Czisman dùng chúng ta để tiếp cận nghi phạm và Digger. Đó là lý do anh ta muốn xem cái xác đến thế. Và đó là lý do vì sao anh ta theo dõi tôi."

Trả thù...

"Cuốn sách này... là cách anh ta đương đầu với nỗi đau." Parker cúi xuống và cung kính kéo tấm bạt phủ lại lên mặt người đàn ông.

"Gọi cho Lukas thôi", anh nói với Cage. "Báo tin cho cô ấy."

***

Ở trụ sở FBI, Margaret Lukas đang đứng trong hành lang dành cho nhân viên trên Đại lộ Pennsylvania, tóm tắt sự vụ cho ngài phó giám đốc, một người ưa nhìn với mái tóc xám gọn gàng theo kiểu chính trị gia. Cô đã nghe các báo cáo về việc Digger xuất hiện ở công viên Mall lẫn vụ đấu súng ở đó. Lukas đã tuyệt vọng muốn tự mình lao tới công viên nhưng vì cô chỉ huy vụ án, nên quy trình yêu cầu cô phải cập nhật tin tức cho cấp trên ở Cục.

Điện thoại của cô đổ chuông. Cô trả lời rất nhanh, vì lý do mê tín mà không cho phép mình hy vọng họ đã bắt được thủ phạm

"Lukas đây"

"Margaret", Cage nói.

Ngay lập tức cô biết họ đã bắt được tên sát nhân nhờ vào giọng điệu của ông. Đó là thứ âm thanh trong giọng nói của cảnh sát mà bạn học được ngay từ lúc khởi đầu sự nghiệp.

"Tóm hay hạ ?"

Bị bắt hay đã bị giết, ý cô là vậy. "Hạ", Cage trả lời.

Trong suốt nám năm qua, đây là lần đầu tiên cô suýt thì đọc lờì nguyện cầu trong Lễ tạ ơn.

"Còn chuyện này nữa, chính thị trưởng đã bắn trúng hắn."

"Cái gì cơ ?"

"Phải đấy, Kennedy. Bắn được mấy phát. Cứu được vài mạng người.”

Cô báo cáo tin này cho phó giám đốc.

"Ông không sao chứ ?", cô hỏi Cage.

"Ổn", Cage trả lời. "Gãy mất một xương sườn trong lúc cố giữ mạng mình thôi."

Nhưng lòng cô thắt lại. Có nghe thấy điều gì khác trong giọng nói của ông, một nỗi trống trải..

Jackie, mẹ của Tom đây... Jackie, mẹ phải nới vớii con một chuyện Hãng hàng không vừa gọi... Ôi, Jackie...

"Nhưng ?", cô hỏi ngay. "Có chuyện gì à ? Kincaid bị sao phải không ?"

"Không, anh ấy ổn", viên đặc vụ khẽ nói.

"Nói cho tôi biết đi."

"Hắn giết c. p. rồi, Margaret. Tôi rất tiếc, cậu ấy đã chết."

Cô nhắm mắt. Thở dài. Cơn giận sôi sùng sục trong người cô lần nữa, giận vì chính mình đã không có cơ hội tự tay găm một viên đạn vào trái tim Digger.

Cage nói tiếp, "Thậm chí còn không phải là trong cuộc đấu súng. Digger bắn bừa về chỗ thị trưởng ngồi. c. p. chỉ vô tình có mặt ở nhầm nơi".

Và đó lại chính là nơi mình đã cử anh tới, cô cay đắng nghĩ. Chúa ơi !

Cô đã quen biết anh được ba năm... Ôi, không...

Cage đang nói thêm vào, "Digger đã giết chết bốn người. Ba người bên ta và khoảng sáu thường dân khác cũng bị thương. Vẫn còn sáu người được báo là mất tích nhưng không tìm thấy xác. Có thể họ chỉ đi tản mát đâu đó mà gia đình chưa tìm thấy thôi. Và còn cả Czisman nữa ?"

"Ai, tay nhà văn à ?"

"Phải. Digger đã giết anh ta"

"Cái gì ?"

"Anh ta chẳng phải nhà văn gì đâu. Ý tôi là, anh ta đúng là có viết văn, nhưng đấy không phải việc anh ta đang làm. Digger đã giết vợ anh ta và anh ta đã lợi dụng chúng ta để sẵn lùng hắn. Mặc dù vậy, Digger đã ra tay trước."

Vậy đêm nay là đêm của những kẻ nghiệp dư, cô nghĩ. Kincaid, ngài thị trưởng. Czisman.

"Còn Hardy ?"

Cage kể với cô rằng viên thanh tra trẻ đã thử đơn thân độc mã tấn công chiếc xe buýt mà Digger chiếm cứ. "Anh ta đến được khá gần và có tầm bắn tốt. Cũng có thể chính những phát đạn của anh ta đã trúng người Digger. Không ai biết chuyện gì đã xảy ra cả."

"Vậy là anh ta không tự bắn vào chân mình hả ?", Lukas hỏi.

Cage nói, "Nói cho cô nghe, trông cứ như anh ta muốn chết thật ấy nhưng khi đối diện với sinh tử thì anh ta đã biết lùi lại và tìm chỗ nấp. Tôi đoán anh ta quyết định ở lại với đời thêm vài năm nữa".

Cũng như tôi thôi, thế thân - Lukas nghĩ.

"Evans có đó không ?", Cage hỏi.

Lukas nhìn quanh. Ngạc nhiên vì vị tiến sĩ không có mặt ở đây. Kỳ lạ thật... Cô tưởng ông ta sẽ xuống sảnh để gặp mình. "Tôi không chắc ông ta đang ở đâu", cô trả lời. "Chắc vẫn trên gác. Trong phòng Thí nghiệm Tài liệu. Hoặc trong Trung tâm xử lý khủng hoảng".

"Tìm ông ta và báo tin tốt nhé. Nói cảm ơn ông ta nữa. Bảo ông ta gửi một hóa đơn thật đắt tới."

"Được rồi. Tôi cũng sẽ gọi cho Tobe."

"Parker và tôi sẽ tiến hành khám nghiệm hiện trường cùng với đội PERT, rồi trở về đó trong vòng bốn mươi lăm phút nữa."

Khi cô tắt máy, vị phó giám đốc liền nói, "Tôi sẽ xuống công viên Mall. Ai là người chỉ huy ?".

Suýt thì cô đã nói Parker Kincaid. Nhưng cô ngăn được mình, "Đặc vụ Cage. Ông ấy ở gần Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam với đội PERT".

"Cần phải tổ chức họp báo. Tôi sẽ thông tin ngay cho giám đốc. Có thể ông ấy muốn tuyên bố gì đó... Vậy là tối nay cô lỡ mất bữa tiệc hả, Lukas ?"

"Ngày lễ là thế đó, thưa ngài. Năm sau lại có mà." Cô cười lớn. "Có lẽ chúng ta nên in câu ấy lên áo phông."

Ông phó giám đốc cười cứng ngắc. Rồi ông hỏi, "Còn quý ông chỉ điểm của chúng ta đang làm gì ? Có lời đe dọa nào không ?".

"Moss ấy à ? Gần đây tôi không kiểm tra ông ta", cô nói. "Nhưng chắc chắn tôi sẽ làm ngay đây."

"Cô nghĩ có vấn đề gì à ?" Vị phó giám đốc cau mày.

"Ôi không. Nhưng ông ấy nợ tôi một ly bia."

***

Trong phòng thí nghiệm trống vắng, Tiến sĩ Evans gấp điện thoại lại rồi tắt ti vi.

Vậy là họ đã giết Digger.

Các bản tin rất rời rạc nhưng ít nhất, Evans có thể nói rằng mức độ thiệt hại là tối thiểu, không như vụ ở Metro hay trên du thuyền. Tất nhiên, từ những hình ảnh trên ti vi thì thấy Đại lộ Constitution trông như một bãi chiến trường. Khói, hàng trăm xe cứu thương, mọi người trốn đằng sau ô tô, cây cối, bụi rậm.

Evans mặc chiếc áo khoác rộng thùng thình của mình rồi đi tới góc phòng thí nghiệm. Ông ta cho chiếc bình giữ nhiệt nặng nề vào ba lô, quăng nó lên vai rồi bấm nút đi qua cánh cửa đôi và xuống một hành lang mờ tối.

Digger... Thật là một sinh vật cuốn hút. Một trong rất ít người trên thế giới này thực sự phản tâm lý, như ông ta đã nói với các đặc vụ.

Ông ta dừng bước trước cửa thang máy, rồi nhìn vào chỉ dẫn tòa nhà, cố định hướng cho mình. Có một bản đồ. Ông ta xem nó. Trụ sở FBI phức tạp hơn ông ta tưởng rất nhiều.

Ngón tay ông ta chuẩn bị ấn nút đi xuống thì một giọng nói vang lên, "Chào". Ông ta liền quay lại. Trông thấy ai đó đang đi về phía mình từ dãy thang máy bên kia.

"Chào tiến sĩ", giọng nói lại gọi. "Ông nghe thấy không ?" Đó là chàng thanh tra trẻ. Len Hardy. Chiếc áo choàng của anh ta không còn phẳng một cách hoàn hảo nữa. Nó bị lấm bẩn và bám đầy bồ hóng. Má anh ta có một vết cắt. Evans bấm nút xuống. Những hai lần. Sốt ruột. "Mới xem trên bản tin", ông ta bảo với Hardy. Ông ta hất ba lô khỏi vai mình. Vị tiến sĩ càu nhàu khi dùng khuỷu tay đỡ lấy nó và bắt đầu mở khóa.

Hardy lơ đãng liếc nhìn chiếc ba lô hoen ố. "Trời ạ, tôi kể cho ông nghe, ở đó, tôi đã hơi hấp tấp khi tình nguyện đuổi theo tên ấy. Hơi điên một chút. Kiểu kích động khi ở tiền tuyến ấy mà."

"Ừ, ừ", Evans nói. Ông ta với tay vào trong ba lô và lấy bình ủ nhiệt ra.

Hardy tiếp tục luyên thuyên, "Suýt thì hắn bắn được tôi. Làm tôi tỉnh lại một chút. Chắc tôi đang ở cách hắn khoảng chín mét. Nhìn được cả mắt hắn, thấy cả họng súng của hắn. Trời ạ... đột nhiên tôi thấy thật hạnh phúc vì mình vẫn còn sống".

"Việc đó vẫn hay xảy ra", Evans nói. Thang máy ở chỗ quái nào nhỉ ?

Hardy liếc nhìn chiếc bình bằng kim loại màu bạc. "Này, ông biết đặc vụ Lukas ở đâu không ?", viên thanh tra hỏi và nhìn lên hành lang tăm tối.

"Tôi nghĩ cô ấy ở dưới nhà", Evans nói rồi mở nắp bình ủ. "Cô ấy phải tóm tắt sự việc cho ai đó. Sảnh ở phố Ninth ấy. Không phải anh vừa đi từ đằng ấy lên à ?"

"Tôi đi vào qua gara."

Vị tiến sĩ mở nắp chiếc bình ủ. “Anh biết không, thanh tra, cái cách anh kể với tất cả mọi người về Digger và Levelers ấy ? Chuyện đó nghe có vẻ anh không hề tin tưởng tôi." Ông ta quay sang Hardy,

Evans nhìn xuống. Ông ta trông thấy khẩu súng đen ngòm đã chuyển sang chế độ giảm thanh của Hardy đang chĩa vào mặt mình.

'Tin tưởng chẳng liên quan gì ở đây cả", Hardy nói.

Evans thả rơi chiếc bình ủ. Cà phê sánh ra sàn. Ông ta nhìn tia chớp vàng lóe lên từ họng súng. Và đó là tất cả những gì mà ông ta có thể trông thấy được.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


Bậc thầy giải đố

Chữ viết tay chính là thứ tồi tệ nhất chống lại tôi.

Bruno Hauptmann.

Nhắc tới bằng chứng trong phiên tòa xử hắn về tội bắt cóc em bé Lindbergh.

Viên đặc vụ vẫn còn đủ trẻ để thấy vui sướng trước ý tưởng được làm một nhân viên FBI. Vì thế, anh ta không phiền một chút nào khi bị phân công ca trực từ nửa đêm đến tám giờ sáng vào đêm Giao thừa ở Trung tâm An ninh của Cục điều tra trên tầng ba trụ sở chính.

Thêm một thực tế nữa là Louise, đặc vụ cùng làm việc với anh ta, cô nàng đang mặc chiếc sơ mi màu xanh bó chặt và chiếc váy ngắn màu đen, lại đang tán tỉnh anh ta nữa.

Chắc chắn là tán tỉnh rồi, anh ta xác định như vậy.

Thực ra, cô ấy đang nói chuyện về con mèo của mình. Nhưng ngôn ngữ cơ thể cô ấy thì nói rằng đây chính là tán tỉnh. Lại còn chiếc áo trong màu đen lộ rõ qua làn áo sơ mi nữa chứ. Đó cũng là một thông điệp.

Viên đặc vụ tiếp tục theo dõi mười màn hình thuộc trách nhiệm của mình. Ở bên trái anh ta, Louise cũng có mười cái khác. Chúng được kết nối với hơn sáu mươi caxnera an ninh đặt trong và quanh trụ sở. Hình ảnh trên các màn hình thay đổi cứ năm giây một lần theo thứ tự các camera.

Louise với áo trong màu đen đang gật đầu lơ đãng lúc anh ta nói về nhà của bố mẹ mình trên Vịnh Chesapeake. Điện thoại nội bộ bất chợt kêu inh tai.

Không thể là Sam hay Ralph được, chính anh ta và Louise vừa thay phiên cho hai đặc vụ ấy nửa tiếng trước; họ đều có thẻ ra vào tất cả các cổng và chỉ việc bước vào đây.

Viên đặc vụ bấm nút điện thoại nội bộ. "Vâng ?"

"Thanh tra Hardy, sở cảnh sát Đặc khu."

"Ai là Hardy ?", viên đặc vụ hỏi Louise.

Cô nhún vai và trở lại với màn hình của mình.

"Vâng ?"

Giọng nói lạo xạo, "Tôi làm việc với Margaret Lukas".

"Ồ, trong vụ xả súng ở Metro à ?"

"Đúng vậy"

Huyền thoại Margaret Lukas. Viên đặc vụ tuy chưa làm việc cho Cục được bao lâu, nhưng ngay cả anh ta cũng biết rằng một ngày nào đó, Lukas sẽ là nữ giám đốc đầu tiên của FBI. Anh ta bấm nút mở cửa, quay lại đối diện với khung cửa.

'Tôi giúp gì được anh ?"

"Tôi e là mình bị lạc", Hardy nói.

"Chuyện thường ấy mà." Anh ta mỉm cười. "Anh đi đâu nhỉ ?"

"Tôi đang cố tìm đường về phòng Thí nghiệm Tài liệu. Tôi bị lạc lúc đi lấy cà phê".

"Tài liệu à ? Trên tầng bảy. Rẽ trái. Không thể bỏ lỡ đâu."

"Cảm ơn anh."

"Cái gì đây ?", đột nhiên Louise nói "Này, cái gì đây ?"

Viên đặc vụ liếc nhìn cô trong lúc cô bấm nút dừng chiếc máy camera và chỉ vào một màn hình. Nó hiện lên cảnh một người đàn ông đang nằm ngửa cách không xa chỗ họ là mấy, trên đúng tầng này. Màn hình chỉ hiển thị đen trắng nhưng có cả vũng lớn thứ rõ ràng là máu đang chảy ra từ đầu anh ta.

"Ôi, Chúa ơi", cô lẩm bẩm và với tay lấy điện thoại. "Trông như Ralph."

Từ đằng sau lưng họ vang lên một tiếng bụp khe khẽ. Louise đột ngột co giật người và gầm gừ khi ngực áo sơ mi của cô biến mất trong một màn sương máu.

"Ối", cô hổn hển. "Chuyện..

Một tiêng bụp khác. Viên đạn trúng vào sau gáy cô và cô đổ gục về phía trước.

Viên đặc vụ trẻ quay về phía ngưỡng cửa, giơ hai tay lên và kêu, "Không, không".

Hardy nói bằng giọng điềm tĩnh, "Bình tĩnh".

"Làm ơn !"

"Bình tĩnh", hắn ta nhắc lại. "Tôi chỉ có vài câu hỏi"

"Xin đừng giết tôi. Làm ơn..

"Nghe này", Hardy hỏi bằng giọng thản nhiên, "máy tính của cậu chạy chương trình Secure-Chek phải không ?".

"Tôi..."

"Tôi sẽ cho cậu sống nếu cậu trả lời tất cả những gì tôi hỏi"

"Vâng." Anh ta bắt đầu khóc. "Secure-Chek."

"Phiên bản nào ?"

"6.0."

"Và nếu cậu không đăng nhập theo đúng định kỳ thì Mã 42 sẽ hiện ra trên Hệ thống Inter-Gov ?"

"Đúng vậy... Ôi, nghe này, thưa ông." Anh ta liếc nhìn thi thể cô gái bên cạnh mình, nó vừa giật cục hai cái. Máu chảy tràn ra bảng điều khiển. "Ôi, Chúa ơi..."

Hardy chậm rãi hỏi, "Cậu đã bắt đầu phiên trực lúc nửa đêm phải không ?".

"Làm ơn, tôi.."

"Nửa đêm phải không ?", hắn lặp lại, như một giáo viên đang dạy dỗ bọn trẻ con.

Viên đặc vụ gật đầu.

"Thời điểm đăng nhập lần đầu của cậu là lúc nào ?"

Giờ thì anh ta đang khóc rất to. "Mười hai giờ hai mươi mốt."

"Lần đăng nhập tới là lúc nào ?"

"Một giờ bảy phút."

Hardy liếc nhìn đồng hồ treo tường rồi gật đầu.

Bằng giọng hoảng hốt, viên đặc vụ trẻ nói tiếp, "Vào ngày lễ chúng tôi áp dụng định kỳ giãn dần, vì thế sau lần đăng nhập thứ hai, chúng tôi...".

"Được rồi", Hardy đảm bảo với viên đặc vụ rồi bắn anh ta hai phát vào đầu trước khi ấn nút để mở cửa.

***

Người đàn ông không phải Thanh tra Len Hardy, một cái tên giả tưởng, mà thực tế là Edward Fielding, tiến bước đến cầu thang máy.

Hắn còn thời gian đến một giờ bảy phút trước khi còi báo động tự động bật lên.

Khá dư dả.

Cả tòa nhà gần như không có ai, nhưng hắn vẫn bước đi theo cách hắn biết cần phải thế. Với dáng vẻ không khẩn trương mà là có chủ đích. Để nếu hắn có vấp phải một trong vài đặc vụ còn ở lại đây, họ sẽ chỉ liếc nhìn thẻ ra vào của hắn và dựa vào phong thái mà quyết định để mặc hắn đi tiếp tới nơi nào hắn cần trong nhiệm vụ quan trọng của mình.

Hắn hít vào thật sâu mùi của phòng thí nghiệm, các văn phòng, nhà xác. Cảm thấy một niềm vui dào dạt khi có mặt ở đây: trung tâm vũ trụ của giới hành pháp. Các hành lang trong trụ sở FBI. Hắn nhớ lại hồi một năm trước, Digger cứ lẩm nhẩm không dứt về chuyện đi tới một bảo tàng nghệ thuật ở Hartford. Fielding đã đồng ý và tên điên ấy đã đứng hàng giờ trước một bức minh họa của Dore từ vở hài kịch Thần thánh: Dante và Virgil chuẩn bị xuống địa ngục. Đó chính là cảm xúc của Fielding lúc này, cứ như hắn đang trong chuyến hành trình vào thế giới ngầm.

Trong lúc đi qua những hành lang, hắn khẽ nói chuyện với các đồng đội của mình. Không, đặc vụ Lukas và Parker Kincaid và Tiến sĩ John Evans ạ... Không, động cơ của tôi chẳng phải là trả thù cho những quan điểm chính trị đã lỗi thời hay khủng bố. Cũng không phải để lột trần bất công xã hội. Càng không phải lòng tham. Hai mươi triệu ư ? Chúa ơi, tôi có thể đòi gấp mười lần như thế.

Không, động cơ của tôi đơn giản chỉ là sự hoàn hảo.

Ý tưởng về một tội ác hoàn hảo chỉ là một cụm từ rập khuôn, đúng vậy. Nhưng Fielding đã học được một thứ rất thú vị khi hắn nghiên cứu bộ môn ngôn ngữ học, hòng tìm ra đúng những từ ngữ và cụm từ để dùng cho bức thư tống tiền. Trong một bài báo trên tờ Chuyên đề Ngôn ngữ học của Mỹ, một nhà triết học, chuyên gia ngôn ngữ, đã viết rằng mặc dù rất nhiều người viết nghiêm túc được cảnh báo phải tránh sai lầm này, nhưng những câu văn rập khuôn vẫn có giá trị, bởi chúng mô tả các sự thật cơ bản bằng thuật ngữ toàn dân dễ hiểu.

Tội ác hoàn hảo.

Chén Thánh của Fielding.

Sự hoàn hảo. Nó làm hắn say sưa. Sự hoàn hảo là tất cả: cách hắn là áo sơ mi và đánh bóng đôi giày hay tỉa tót tóc ở hai bên tai, cách hắn xây dựng các tội ác và cách chúng được thực hiện.

Nếu Fielding có năng khiếu với luật pháp thì chắc hắn đã trở thành luật sư và dành cả đời để tạo ra những bài bào chữa hoàn hảo cho các thân chủ phạm tội một cách rành rành. Nếu hắn ham thích không khí ngoài trời thì chắc hắn đã dạy mình mọi điều cần biết về môn leo núi và thực hiện những chuyến leo đơn thân độc mã hoàn hảo lên đỉnh Everest.

Nhưng những hoạt động kia lại không kích thích hắn.

Chỉ có tội ác.

Hắn cho rằng chỉ là sự may rủi khi sinh ra hoàn toàn bất bình thường. Giống như một số người bị hói và những con mèo có chân sáu ngón vậy. Và hắn xác định rằng chuyện đó chỉ là do tự nhiên, chứ không phải do môi trường. Bố mẹ hắn là những người đáng tin cậy và yêu thương hắn; ngờ nghệch là tội lỗi duy nhất của họ. Bố của Fielding là người bán bảo hiểm ở Hartford, mẹ hắn thì nội trợ. Hắn không hề bị thiếu thốn hay ngược đãi. Mặc dù vậy, từ thuở thiếu thời, hắn chỉ đơn giản tin rằng luật pháp không áp dụng với mình. Nó chẳng có nghĩa lý gì cả. Hắn từng dành nhiều giờ liền tự hỏi, tại sao một người phải trói buộc bản thân mình ? Sao không đi tới bất kỳ nơi nào mà ham muốn và trí óc dẫn lối ?

Dù mất tới vài năm, hắn mới học được điều này, nhưng Fielding được sinh ra với nhân cách tội phạm thuần túy, một kẻ rối loạn nhân cách xã hội điển hình.

Vậy là trong lúc học đại số, vi phân và sinh học ở trường Trung học St. Mary, chàng trai trẻ Fielding cũng đồng thời nghiên cứu khuynh hướng thật của mình.

Trong quá trình rèn luyện ấy, chuyện học tập của hắn cũng có lúc lên lúc xuống.

Fielding, phải vào trại cải tạo thanh thiếu niên vì đã phóng hỏa gã bạn trai của một cô gái mà hắn thích (đáng lẽ phải đỗ xe cách đó ba hay bốn dãy nhà).

Fielding, bị hai cảnh sát đánh gần chết vì đã tống tiền họ bằng những bức ảnh mấy người đàn ông đồng bóng thổi kèn cho họ trong xe tuần tra (đáng lẽ phải kiếm một tay đồng phạm khỏe mạnh).

Fielding, tống tiền thành công một nhà sản xuất thức ăn đóng hộp lớn bằng cách cho gia súc của họ ăn loại enzyme cho kết quả dương tính trong bài kiểm tra chất ngộ độc thực phẩm (mặc dù hắn không bao giờ đến lấy tiền bởi chẳng nghĩ được cách nào ôm đống tiền mặt ấy bỏ trốn).

Sống và học tập...

Đại học cũng chẳng làm hắn thích thú mấy. Sinh viên ở Bennington có tiền nhưng chúng mở toang cửa phòng ký túc và trộm tiền của chúng không có chút thử thách nào. Thi thoảng hắn thích thú tấn công ác ý các nữ sinh cùng trường bởi việc cưỡng hiếp ai đó theo cái cách khiến cô ta chẳng hề nhận ra mình đang bị lạm dụng cũng khá là kích thích. Nhưng ham muốn của Fielding không nằm ở tình dục, mà ở chính bản thân trò chơi ấy, và đến năm thứ ba thì hắn đã tập trung vào cái mà hắn gọi là "những tội ác sạch sẽ", như các vụ cướp. Chứ không phải ''những tội ác bừa bãi" như cưỡng hiếp. Hắn chuyên tâm lấy bằng tâm lý của mình và mơ về chuyện thoát khỏi thế giới Ben & Jerry để tiến vào thế giới thực, nơi hắn được thực hành các mánh khóe của mình.

Trong mười năm tiếp theo, Fielding trở về quê nhà Connecticut và làm đúng như vậy: mài giũa lẫn thực hành. Chủ yếu là cướp bóc. Hắn tránh các tội ác liên quan đến kinh doanh như làm séc giả hay lừa đảo cổ phiếu vì sợ để lại dấu vết trên giấy tờ. Hắn tránh cả ma túy và cướp tàu xe vì chẳng thể làm một mình, mà Fielding thì không bao giờ gặp ai đáng tin cậy.

Hắn giết người lần đầu tiên vào năm hai mươi bảy tuổi.

Một cơ hội trời cho, một tội ác bốc đồng, rất không giống với bản tính của hắn. Hắn đang uống cappuccino tại một quán cà phê trong khu thương mại ngoài trời ở ngoại ô Hartford và rồi trông thấy một người phụ nữ bước ra khỏi cửa hiệu trang sức với một cái túi. Cách cô ta đi đứng có gì đó hơi hoảng sợ, cho thấy rằng cái túi kia chứa một thứ gì đó rất đắt tiền.

Hắn vào ô tô và đi theo cô ta. Trên một đoạn đường kéo dài vắng vẻ, hăn tăng tốc rồi bắt cô ta tấp vào te. Cô ta sợ hãi đẩy cái túi về phía hắn và cầu xin hắn tha cho cô ta.

Khi đứng đó bên cạnh chiếc Chevy của cô gái, Fielding chợt nhận ra mình không mang mặt nạ cũng chưa đổi biển số xe. Hắn tin răng tiềm thức của mình đã cố tình không làm những việc ấy bởi vì hắn muốn biết cảm giác khi giết người như thế nào. Fielding thò tay vào ngăn đựng găng, lôi ra một khẩu súng và trước cả khi cô gái kịp hét lên, hắn đã bắn cô ta hai phát.

Hắn trèo lại vào trong xe, lái về Juice và Java và gọi thêm một tách cappuccino khác. Khôi hài làm sao, hắn tư lự, rất nhiều tội phạm không bao giờ giết người. Chúng sợ vì chúng nghĩ mình sẽ dễ bị bắt hơn. Thực tế, nếu chúng dám giết người thì chúng càng có nhiều khả năng thoát tội hơn.

Tuy nhiên, cảnh sát cũng có những ngươi giỏi và hắn đã bị bắt vài lần. Hắn được thả trong tất cả các trường hợp, trừ một lần. Ở Florida, hắn bị tóm vì cướp có vũ trang và bằng chứng chống lại hắn quá mạnh. Nhưng hắn mời được luật sư giỏi, ông ta giúp hắn được khoan hồng với điều kiện Fielding phải đi trị liệu ở một bệnh viện tâm thần.

Hắn đã sợ chết khiếp khoảng thời gian mình phải chịu án nhưng hóa ra đó lại là hai năm tuyệt vời. Trong bệnh viện tâm thần Thành phố Dade, Fielding có thể nếm được mùi tội phạm. Hắn ngửi thấy mùi ấy. Rất nhiều, nếu không phải là hầu hết, bọn tội phạm có mặt ở đó vì luật sư của họ đã nhanh trí dùng bài biện hộ cho kẻ tâm thần. Những tên ngu đần phải vào tù, lũ khôn thì vào bệnh viện.

Sau hai năm và một lần xuất hiện gương mẫu trước Hội đồng xét duyệt y khoa, Fielding đã lại trở về Connecticut.

Việc đầu tiên hắn làm là kiếm công việc trợ lý ở một bệnh viện dành cho các tội phạm tâm thần tại Hartford.

Ở đó, hắn đã gặp một người đàn ông tên là David Hughes, một sinh vật gây tò mò. Fielding quyết định rằng có lẽ anh ta từng là một anh chàng khá tử tế cho đến khi đâm chết vợ trong một trận ghen tuông vào ngày Giáng sinh. Chuyện đâm chém vốn chẳng có gì đặc biệt nhưng điều thú vị là, sau khi bị chồng đâm mấy nhát thật sâu vào phổi, cô vợ tên Pamela liền chạy tới chỗ tủ quần áo, tìm được một khẩu súng và trước khi chết đã kịp bắn vào đầu Hughes một phát.

Xét về mặt thần kinh học mà nói, Fielding không biết chính xác điều gì đã xảy ra bên trong hộp sọ của Hughes, nhưng có lẽ hắn là người đầu tiên Hughes trông thấy khi anh ta tỉnh dậy sau cuộc phẫu thuật, chính điều đó đã tạo nên mối liên kết kỳ lạ giữa hai người. Hughes làm bất kỳ việc gì Fielding bảo. Lấy cà phê, dọn dẹp cho hắn, là áo sơ mi, nấu ăn. Mặc dù vậy, hóa ra Hughes không chỉ biết làm việc nhà. Fielding phát hiện ra điều này vào một đêm nọ, ngay sau khi y tá trực đêm Ruth Miller gạt tay Fiedling ra khỏi háng cô ta và nói, "Tôi sẽ tố cáo anh, đồ khốn".

Fielding lo lắng lẩm bẩm với Hughes, "Cái con Ruth Miller. Ai đó phải giết nó rồi mới phải".

Và Hughes đã nói, "Hừm, được".

"Cái gì ?" Fielding hỏi.

"Hừm, được."

"Anh giết cô ta cho tôi à ?"

"Ừm.Tôi... chắc rồi"

Fielding đưa anh ta đi dạo trên sân bệnh viện. Họ đã có một cuộc nói chuyện dài.

Ngày hôm sau, Hughes xuất hiện trong phòng ngủ của Fielding, người đầy máu, mang theo một mảnh kính vỡ và hỏi liệu anh ta có thể ăn ít xúp không.

Fielding vừa tắm rửa cho anh ta vừa nghĩ hắn đã hơi bất cẩn về thời gian và địa điểm của vụ án mạng, cả về chuyện thoát ra sau đó. Hắn quyết định rằng Hughes không đáng bị phí hoài trong những chuyện nhỏ nhặt thế này, nên đã bảo anh ta cách trốn khỏi bệnh viện và tới một nhà gỗ nhỏ gần đó. Fielding đã trả tiền thuê ngôi nhà để dan díu với vài bệnh nhân chậm phát triển vào các buối chiều.

Chính vào đêm đó, hắn đã quyết định người đàn ông kia sẽ được dùng vào việc gì.

Hartford, rồi đến Boston, rồi White Plains, rồi Philly. Những tội ác hoàn hảo.

Và giờ thì hắn đang ở Washington.

Thực hiện một tội ác sau này sẽ được gọi là hoàn hảo nhất, hắn xác định như vậy (mặc dù nghĩ lại rằng một nhà ngôn ngữ học như Parker Kincaid sẽ thấy bực mình vì từ bổ nghĩa không cần thiết ấy).

Trong sáu tháng qua, hắn đã dành gần mười tám tiếng mỗi ngày để lên kế hoạch cho vụ cướp. Từng bước phá vỡ rào cản an ninh của FBI, giả dạng là thanh tra trẻ Hardy của sở cảnh sát, phòng Nghiên cứu và Thống kê. (Hắn đã chọn đích danh cái tên ấy vì theo báo cáo các nghiên cứu về ấn tượng tâm lý về tên người thì "Leonard" không hề gây đe dọa và "Hardy" thường gợi lên hình ảnh một đồng đội trung thành.) Hắn xâm nhập phân cục Đặc khu Columbia trước tiên, bởi vì văn phòng này có thẩm quyền pháp lý đối với các tội ác nghiêm trọng của Đặc khu. Hắn đã quen được Ron Cohen, trưởng phân cục, và các trợ lý của ông ta. Hắn biết được khi nào thì SAC Cohen đi nghỉ và nhân viên cấp dưới nào trong đội ngũ đang được ưa thích của ông ta sẽ là "thủ lĩnh" trong một vụ án lớn chừng này. Tất nhiên đó sẽ là Margaret Lukas, người mà toàn bộ cuộc sống đã bị hắn xâm nhập không thương tiếc trong quá trình hắn lẩn vào trong Cục.

Hắn cắm trại trong các phòng họp, ghi chép một lượng số liệu tội phạm khổng lồ cho các bản báo cáo tưởng tượng của mình, rồi đi qua đi lại máy bán hàng tự động và các phòng vệ sinh, liếc qua những bản ghi nhớ nội bộ của FBI, sổ điện thoại cùng sách hướng dẫn tài liệu thẻ căn cước và các quy trình. Trong lúc ở nhà và nơi trú ẩn tại Gravesend, hắn dành thời gian lùng sục trên Internet, học về các cơ quan Chính phủ, quy trình của cảnh sát lẫn các hệ thống an ninh (và đúng rồi, Parker ạ, cả các phương ngữ tiếng nước ngoài nữa).

Fielding đã gọi hàng trăm cuốc cho các nhà thiết kế nội thất làm việc ở trụ sở FBI, gọi tới cả cơ quan GSA, các cựu nhân viên, các nhà thầu bên ngoài và chuyên gia an ninh, hỏi những câu ngây ngô, nói chuyện về các buổi hội họp nhân viên giả, tranh cãi về những hóa đơn tưởng tượng. Thường thì hắn sẽ rút ra được vài thông tin quan trọng, chẳng hạn như sơ đồ của tòa nhà trụ sở, số lượng nhân viên trong các kỳ nghỉ lễ, lối ra vào. Hắn tìm hiểu tên hãng và các vị trí đặt chung chung của camera an ninh trong trụ sở. Số lượng và các trạm gác bảo vệ. Lần hệ thống liên lạc.

Hắn dành một tháng trời để tìm kẻ đứng mũi chịu sào hoàn hảo: Gilbert Havel, một tên vô công rồi nghề không có tiền sự, cũng chẳng có quá khứ lưu trữ trong hồ sơ. Một kẻ đủ ngây thơ để tin rằng ai đó thông minh như Fielding lại cần tới đồng phạm. Một kẻ dễ dàng bị giết.

Đó là một công việc cam go. Nhưng sự hoàn hảo đòi hỏi phải nhẫn nại.

Và rồi sáng hôm nay, Digger đã bắn tung cả địa ngục tại Metro và Fielding xuất hiện ở ngưỡng cửa Cục điều tra, háo hức được giúp đỡ nhưng cũng bất mãn đúng kiểu khi chỉ làm chân gỗ trong cuộc điều tra. Các đặc vụ khác sẽ kiểm tra chéo, thậm chí đến hai lần, giấy ủy nhiệm của hắn, gọi tới trụ sở cảnh sát. Nhưng Margaret Lukas, một góa phụ không con cái tội nghiệp, thì khác. Bởi vì hắn là Len Hardy, cũng sắp trở thành kẻ góa vợ chẳng hề có con cái, cùng chịu chung nỗi đau như cô trong suốt năm năm qua.

Tất nhiên, cô sẽ chấp nhận hắn vào đội mà không hề suy xét.

Họ cũng chẳng bao giờ đoán được điều gì ở hắn.

Y như hắn dự liệu.

Bởi vì Edward Fielding biết rằng chiến đấu với tội ác giờ đây đã trở thành lãnh địa của những nhà khoa học. Thậm chí cả các nhà tâm lý lập hồ sơ tội phạm cũng sử dụng công thức để phân loại con mồi của họ. Thế nhưng, bản thân tên hung thủ, một con người, lại thường bị bỏ qua. Ôi, hắn biết các đặc vụ một khi đã tin rằng nghi phạm chính đã chết sẽ tập trung cao độ vào bức thư tống tiền, cùng ngôn ngữ trong đó, nét chữ viết tay, các bằng chứng để lại, những chương trình máy tính lẫn các thiết bị xa hoa của họ đến nỗi chẳng bao giờ thấy được tên đầu trò đang đứng cách họ chưa đầy một mét theo đúng nghĩa đen.

Hắn đã tới thang máy. Buồng thang máy đến và hắn bước vào trong. Tuy nhiên, hắn không bấm nút tầng bảy để tới phòng Thí nghiệm Tài liệu mà bấm nút 1B.

Buồng thang máy bắt đầu hạ xuống.

Phòng Vật chứng của FBI là kho lưu trữ bằng chứng pháp lý lớn nhất trong cả nước.

Nó hoạt động suốt ngày đêm và thường chỉ có một hai nhân viên giúp các đặc vụ nhập vật chứng vào hệ thống, đôi khi giúp họ mang những đồ quá nặng vào khu vực tủ chứa hay lái những chiếc ô tô, xe tải bị trưng dụng, thậm chí cả toa xe moóc vào trong nhà kho nối liền với phòng này.

Mặc dù vậy, đêm nay sẽ có ba đặc vụ trực, quyết định này được cả phó giám đốc lẫn Margaret Lukas đưa ra. Đó là vì giá trị của vật chứng đặc biệt ngay lúc này đang nằm trong hầm.

Nhưng vì hôm nay là ngày lễ, nên hai người đàn ông và cả người phụ nữ đều ăn mặc khá thoải mái. Họ đang đi thơ thẩn ở phía bên kia của cửa đăng nhập, cùng uống cà phê và nói chuyện về bóng rổ. Hai người đàn ông quay lưng vào cửa sổ.

"Tôi thích Rodman", một trong hai nam nhân viên nói.

"Ôi thôi đi", người kia đáp lại.

"Chào", Edward Fielding nói khi tiến đến cửa sổ.

"Chào, anh nghe chuyện xảy ra với gã ở công viên Mall chưa ?", người phụ nữ hỏi hắn.

"Chưa", Fielding nói và bắn vào đầu cô ta.

Hai người kia chết trong lúc đưa tay rút súng. Chỉ có một người lôi được khẩu Sig-Sauer ra khỏi bao.

Fielding với tay qua cửa sổ, tự mở cho mình vào.

Hắn đếm được tám chiếc camera an ninh gắn trên cửa sổ, các giá và két sắt. Nhưng chúng chỉ chuyển hình ảnh ghi được tới phòng An ninh ở tầng ba, nơi chẳng còn ai sống sót để chứng kiến tội ác hoàn hảo diễn ra.

Fielding lấy chùm chìa khóa trên thắt lưng của người phụ nữ đã chết và mở cửa hầm. Đó là một phòng rộng, khoảng sáu nhân chín mét, nơi các đặc vụ cất trữ ma túy cùng tiền mặt thu được từ các vụ cướp. Trong những tháng ngày nghiên cứu về trộm cắp của mình, Fielding biết được rằng các công tố viên buộc phải trưng ra trước bồi thẩm đoàn số tiền mặt thực tế đã thu được, chẳng hạn trong một vụ án ma túy hay bắt cóc. Đó là lý do các đặc vụ sẽ phải mang khoản tiền chuộc về đây. Lý do khác là điều mà hắn đã đoán dược: Một người bị hắn đọc vị tâm lý như Thị trưởng Kennedy sẽ muốn giữ khoản tiền mặt sẵn có phòng khi Digger liên lạc với ông và đòi lấy tiền.

Và thế là nó ở đây, số tiền ấy.

Hoàn hảo...

Hai chiếc túi vải to màu xanh. Mỗi túi có treo một nhãn màu đỏ. VẬT CHỨNG LIÊN BANG. KHÔNG THÁO BỎ.

Hắn nhìn đồng hồ rồi dự đoán rằng mình có hai mươi phút trước khi Cage cùng Kincaid và các đặc vụ khác trở về từ công viên Mall sau vụ đấu súng với Digger.

Khá dư dả thời gian. Chừng nào hắn còn hành động mau lẹ.

Fielding mở chiếc túi, nó không hề bị khóa, và đổ chỗ tiền ra sàn nhà. Chiếc túi đã bị cài nhiều thiết bị định vị, đúng như hắn đã biết. Cả các tờ giấy gói tiền nữa, cái mẹo không ngờ này hắn học được của Tobe Geller. Hắn tự hỏi từng tờ đô la một có bị can thiệp theo cách nào đó không. Nhưng rồi nghĩ là không; Geller chẳng nói gì về chuyện ấy cả. Tuy nhiên, để cho chắc ăn Fielding vẫn thò tay vào túi và lấy ra dụng cụ nhỏ màu bạc: Một chiếc máy dò có thể quét được những tín hiệu nhỏ nhất trên bất kỳ tần số nào, từ ánh sáng quang học cho đến tia hồng ngoại và các tần số radio. Hắn rà thiết bị qua đống tiền, chỉ để đề phòng kỹ thuật viên của Cục đã nhét được một thứ phát tín hiệu nào đó vào trong từng tờ một. Nhưng chẳng có tín hiệu.

Fielding ném dụng cụ cảm biến đi, hắn chẳng còn cần tới nó nữa, và lôi ra một ba lô bằng lụa từ dưới áo sơ mi. Hắn đã tự mình khâu nó bằng vải may dù. Hắn bắt đầu nhét tiền vào trong túi.

Hắn đòi hai mươi triệu vì đó là con số đáng tin cho một âm mưu cỡ này và cũng để tạo chút tin tưởng cho động cơ trả thù một sự kiện lớn như chiến tranh Việt Nam. Tuy nhiên, Fielding chỉ có thể mang nổi bốn triệu, món tiền có trọng lượng tương đương với ba mươi hai cân. Vốn không phải dân thể thao, hắn đã phải tập tành sáu tuần ở một câu lạc bộ thể dục tại Bethesda, Maryland sau khi tới đây để có đủ sức khỏe mang vác chỗ tiền ấy.

Tất nhiên, các tờ một trăm đô la rất dễ bị lần theo (giờ đây việc đó trở nên dễ dàng hơn nhờ có máy quét và máy tính). Nhưng Fielding đã cân nhắc tình huống đó. Ở Brazil, nơi hắn sắp tới trong mấy ngày nữa, bốn triệu đô la tiền mặt dễ bị lần theo kia sẽ biến thành chỗ vàng trị giá ba triệu hai trăm ngàn đô. Sau đó nó sẽ lại biến thành ba triệu hai trăm ngàn euro và đô la Mỹ không thể lần theo.

Trong vòng vài năm tới nó sẽ lại dễ dàng nở ra thành bốn triệu và còn hơn thế nữa, nhờ vào nền công nghiệp ký quỹ cùng tỷ lệ lãi suất.

Fielding chẳng hề thấy hối tiếc khi bỏ lại chỗ tiền thừa. Tội ác không được liên quan đến lòng tham, mà phải là mánh khóe.

Hắn nhét đủ tiền vào túi và quăng nó lên vai.

Bước ra hành lang, hơi lảo đảo vì sức nặng mình phải mang, hắn tiến đến thang máy.

Nghĩ bụng: Hắn sẽ phải giết bảo vệ ở cửa trước, cũng như bất kỳ ai trong đội vẫn còn lưu lại đây. Tobe Geller đã về nhà. Nhưng Lukas vẫn còn trong tòa nhà. Chắc chắn cô ta sẽ phải chết. Trong những trường hợp khác, giết cô ta sẽ không thành vấn đề, hắn đã rất cẩn thận che giấu thân phận và nơi ở. Nhưng các đặc vụ giỏi hơn hắn tưởng. Chúa ơi, họ thực sự đã tìm được nơi trú ẩn của hắn ở Gravesend... Việc đó khiến Fielding cảm thấy vô cùng lo lắng. Hắn chẳng bao giờ ngờ tới họ sẽ tìm ra được. Rất may, Gilbert Havel đã tới đó một số lần nên khi hàng xóm nhìn thấy bức ảnh Havel mà cảnh sát đưa thì sẽ cho rằng gã ta mới chính là người thuê nơi đó, càng củng cố niềm tin của các đặc vụ rằng Havel là đầu sỏ của tội ác này.

Lại còn suýt thì tìm ra địa điểm tấn công thứ ba là tàu Ritzy Lady nữa... Hắn đã hoảng hồn khi ngồi trong phòng thí nghiệm, nhìn máy tính ráp các mảnh tro của tập giấy ghi chú trong nhà trú ẩn. Hắn đã chờ đến đúng thời điểm rồi buột mồm, "Rite ! Có lẽ là Ritz-Carlton ?". Và ngay khi họ nghe thấy điều đó, lời giải đã được khắc vào đá. Họ không thể nghĩ ra bất kỳ khả năng nào khác.

Đó là cách giải các câu đố, phải không nào, Parker ?

Thế còn anh ta thì sao ?

Ồ, anh ta quá thông minh, là một mối hiểm họa quá lớn nếu được tiếp tục sống.

Trong lúc đi lại chậm rãi trên hành lang vắng lặng, Fielding nhận ra rằng nếu hắn là một tội phạm hoàn hảo thì Kincaid lại chính là một thanh tra hoàn hảo.

Điều gì sẽ xảy ra khi hai thái cực hoàn hảo đối chọi nhau ?

Nhưng đây chỉ là một câu hỏi tu từ, không phải câu đố, và hắn chẳng muốn phí thời gian để trả lời. Hắn đã đến thang máy và bấm nút đi lên.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


Margaret Lukas mở toang cửa phòng thí nghiệm.

Cô nhìn vào trong. "Xin chào ? Tiến sĩ Evans ?"

Ông ta không trả lời.

Ông ta ở đâu nhỉ ? Cô tự hỏi.

Cô dừng lại ở bàn giám định, nhìn xuống bức thư tống tiền.

Rồi nghĩ bụng: Có lẽ Parker Kincaid không hẳn đã đúng khi nói rằng chẳng ai lại phạm một lỗi như thế.

Theo một cách nào đó thì kết thúc chính là đêm nay. Bóng tối cùng giấc ngủ và sự an bình.

Đêm ơi, hãy mang ta đi. Bóng tối ơi, hãy mang ta đi...

Đó là điều cô đã nghĩ khi nhận được cuộc gọi của mẹ chồng thông báo vụ rơi máy bay đã giết chết Tom và Joey. Nằm trên giường vào cái đêm lộng gió tháng Mười một ấy, hay hai ba đêm sau đó, giờ thì tất cả đã hòa lẫn vào nhau, cô đã nằm một mình, không tài nào thở được, cũng chẳng thể khóc được.

Và nghĩ: Đêm ơi, hãy mang ta đi. Đêm ơi, làm ơn mang ta đi. Đêm ơi, mang ta đi...

Lúc này khi đứng cúi người bên bàn giám định tài liệu và chăm chăm nhìn xuống, những lọn tóc vàng ngắn thả rơi xuống mắt, như miếng bịt mắt ngựa. Cô nhìn chằm chằm vào những từ ngữ trong lá thư tống tiền, những nét xoắn xít của chữ viết cẩu thả. Lukas nhớ lại khi theo dõi Kincaid nghiên cứu bức thư, môi anh khẽ mấp máy, cứ như đang thẩm vấn một đối tượng còn sống.

Kết thúc là đêm…

Lukas lắc đầu trước tâm trạng triết lý không lành mạnh của mình, cô xoay người và rời khỏi phòng thí nghiệm.

Cô đi đến thang máy. Có lẽ Evans đang chờ dưới trạm gác. Cô lơ đãng nhìn đèn báo hiệu khi thang máy hạ xuống.

Các hành lang đều trống vắng và cô cảm nhận được những âm thanh nho nhỏ của tòa nhà vắng lặng vào ban đêm. Văn phòng nơi cô làm việc được đặt gần Tòa thị chính, chỉ cách vài dãy nhà, nhưng cô chẳng mấy khi đến đây. Cô không thích trụ sở Cục lắm. Nó quá rộng. Đêm nay, cô lại còn nghĩ nơi này thật tối tăm và ghê rợn. Mặc dù Margaret Lukas không phải là người dễ dàng sợ hãi. Cô nhớ lại khi Kincaid phóng lá thư lên màn hình trong phòng thí nghiệm và cô đã nghĩ: Nó giống một con ma.

Giờ đây, Lukas cảm nhận được nhiều hồn ma hơn. Ngay trong những hành lang này. Hồn ma của các đặc vụ đã bị giết trong lúc làm nhiệm vụ. Hồn ma nạn nhân của những vụ án được điều tra ở đây.

Còn những hồn ma của chính cô thì sao ? Cô nghĩ. Ô, lúc nào mà họ chẳng ở bên cô. Chồng và con trai cô. Họ không bao giờ rời đi. Cô cũng chẳng muốn họ ra đi. Thế thân cần một thứ gì đó để nhắc nhở mình từng là Jackie Lukas.

Cô liếc nhìn xuống mặt sàn phía trước thang máy. Có một vệt sẫm màu trên sàn. Cái gì thế nhỉ ? Cô ngửi thấy mùi cà phê bị chua.

Đèn thang máy phát sáng và tiếng ting vang lên. Cửa mở. Ai đó bước ra ngoài.

"Ồ, chào", Lukas nói. "Có tin cho cô đây."

"Chào Margaret", Susan Nance nói trong lúc vật lộn với hàng tá tập hồ sơ. "Sao vậy ?"

"Họ vừa hạ hắn. Ở công viên Mall."

"Tên sát nhân Metro ?"

"Phải."

Người phụ nữ giơ ngón cái ra. "Tuyệt vời ! Ô, chúc mừng năm mới nhé !"

"Chúc mừng năm mới !"

Lukas vào thang máy rồi đi xuống tầng một.

Ở trạm bảo vệ cửa ra vào dành cho nhân viên, Artie nhìn lên cô và gật đầu chào lịch sự.

"Tiến sĩ Evans đi ra chưa ?", cô hỏi ông.

"Chưa. Không thấy ông ấy."

Cô sẽ chờ ông ta ở đây. Lukas ngồi trên một chiếc ghế dễ chịu ở sảnh. Ngả người trên đó. Cô cảm thấy kiệt sức. Cô muốn về nhà. Cô biết người ta vẫn xì xào sau lưng cô rằng thật buồn làm sao khi phụ nữ phải sống cô đơn một mình. Nhưng chẳng buồn chút nào. Trở về với tổ ấm còn tốt hơn nhiều so với việc lê la quán bar cùng đám bạn gái hay hẹn hò với một lô một lốc các anh càng độc thân nhưng ngây ngô ở Washington.

Tổ ấm...

Nghĩ về bản báo cáo cô sắp phải viết về vụ METSHOOT.

Nghĩ về Parker Kincaid.

Tập trung nào, cô tự bảo mình.

Rồi cô nhớ ra mình chẳng cần phải tập trung nữa.

***

Trong lúc Digger vẫn cháy âm ỉ va tỏa mùi khó chịu, đội cứu hỏa phun bọt vào các cây anh đào đã bén lửa khi đám đông đi vòng quanh chiếc xe buýt bốc cháy thì Parker và Cage lại đang đứng bên nhau.

Digger đã biến mất. Vĩnh viễn..

Các câu thơ trong truyện Tiến sĩ Seuss lượn lờ trong đầu anh y như những sinh vật kỳ lạ của tác giả vậy.

Parker cho rằng những suy nghĩ gàn dở này là kết quả của sự kết hợp giữa adrenaline và kiệt sức.

Anh gọi bọn Who và hứa sẽ về nhà trong nửa tiếng nữa. Robby kể với bố về chuyện ai đó đã bấm còi giữa đêm, làm cả nhà Bradley ở cuối phố thức giấc và gây náo loạn khu phố. Stephia thì mô tả những đợt pháo hoa trong sân bằng những tính từ nghẹt thở và sướt mướt.

“Yêu các con, Who ạ”, anh nói “ba sẽ về nhà sớm”

“Con cũng yêu ba””, con bé nói, “bạn ba sao rồi ?”

"Chú ấy sẽ ổn."

Cage đang nói chuyện với một kỹ thuật viên từ đội PERT còn Parker thì tìm cách né hướng khói từ chiếc xe buýt. Có một mùi khó chịu, tệ hơn cả lốp cao su cháy. Parker biết nó là gì và ý nghĩ hít phải bất kỳ phần nào trên thi thể đã thành tro của Digger cũng khiến anh buồn nôn.

Một kẻ tâm thần đang cháy rụi trước mắt anh, và Parker đã tiến đến đoạn kết của buổi tối khác thường nhất trong đời mình... Thế nhưng, chính những vụn vặt của cuộc sống lại đang trồi lên như đám nghệ tây. Giờ anh nghĩ: Chết rồi, mình không có đủ tiền mặt để trả cho bà Cavanaugh. Anh lục các túi quần, túi áo và lôi ra một cuộn tiền nhỏ. Hai mươi hai đô. Không đủ. Anh sẽ phải ghé vào một máy ATM trên đường về nhà.

Parker liếc nhìn mẩu giấy lẫn vào với tiền. Đó là bản chép lại những ghi chú của nghi phạm trên tập giấy vàng đã bị cháy. Các chỉ dẫn liên quan đến hai địa điểm tấn công cuối cùng mà anh tìm được trên tập giấy do Tobe Geller đã cứu được từ ngôi nhà đang cháy.

…hai dặm về phía nam… R

… nơi tôi đưa anh đến… đen

"Cái gì đấy ?", Cage vừa hỏi vừa xoa nắn khung xương sườn. "Một món quà lưu niệm", Parker nói khi nhìn xuống các từ ngữ. "Chỉ là quà lưu niệm thôi mà."

***

Edward Fielding dừng ở cuối hàng lang, hổn hển dưới sức nặng của đống tiền trên vai.

Hắn nhìn về khu vực lễ tân cách đó tầm chín mét và trông thấy mái tóc vàng ngắn của Margaret Lukas. Đằng trước cô ta là lão bảo vệ đang đọc báo. Đèn hành lang đã tắt và dù họ có quay về phía hắn thì cũng khó có thể trông rõ hắn.

Điều chỉnh lại túi tiền trên vai, hắn cầm súng bằng tay phải và bắt đầu đi xuống tiền sảnh. Đế giày da gõ nhẹ trên nền gạch lát sàn. Hắn để ý thấy Lukas đang không quay mặt về phía mình. Hắn sẽ găm một viên đạn vào đầu cô ta. Rồi khi lão bảo vệ ngước lên, hắn cũng sẽ giết lão.

Rồi tự do về nhà.

Cộp cộp cộp.

Hắn thu ngắn khoảng cách với các mục tiêu.

Hoàn hảo.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


Margaret Lukas ngắm nghía cây thông Noel trong sảnh, người duỗi ra như một chú mèo.

Cô lơ đãng lắng nghe tiếng bước chân trên hành lang đằng sau lưng mình.

Hai tuần trước, lối vào này chất đầy quà cáp mà các đặc vụ và nhân viên văn phòng ủng hộ cho những gia đình vô gia cư. Cô cũng đăng ký tặng một số đồ chơi nhưng vào giây phút cuối, cô đã phải hủy bỏ, thay vào đó là làm việc mười hai tiếng liên tục trong ngày Giáng sinh để điều tra một vụ án mạng sát hại một người da màu do hai gã da trắng gây ra.

Cộp cộp cộp...

Giờ cô ước gì mình chưa từng hủy buổi lễ ngày Giáng sinh. Lúc đó, cô đã lý luận rằng tặng đồ chơi thật là phù phiếm trong khi cô có thể làm những công việc "nghiêm túc". Nhưng giờ thì cô thừa nhận ý nghĩ nhìn thấy những đứa trẻ trong ngày lễ khiến cô thấy đau khổ hơn nhiều so với việc đá tung cánh cửa nhà một tên khùng mang súng ở công viên Manassas.

Hèn nhát, cô tự bảo mình.

Cộp cộp cộp...

Cô nhìn ra ngoài ô cửa sổ bằng kính. Đám đông, những người đang trở về từ công viên Mall. Rồi nghĩ về Digger. Tự hỏi vụ đấu súng diễn ra như thế nào và ai là người đã bắn những phát đạn kết liễu hắn. Dù đã hai lần tham gia những vụ như vậy trong sự nghiệp của mình, nhưng hầu hết những gì cô có thể nhớ được chỉ là sự hoang mang,. Nó khác xa với phim ảnh. Chẳng bao giờ cô có cảm giác mọi thứ quay chậm cả, một cuộc đấu súng ngoài đời thật sự là năm giây mơ hồ của tình trạng hỗn loạn kinh hoàng cực độ, rồi mọi chuyện chấm dứt.

Những hình ảnh sống động đến sau đó là: chăm sóc những người bị thương và di dời xác chết.

Cộp... cộp...

Tiếng chuông điện thoại bỗng làm cô giật mình.

Trước mặt cô, Artie nhấc máy và cô thẫn thờ nhìn gương mặt màu xám của ông.

"Lễ tân..., chào ông, đặc vụ Cage."

Đột nhiên, ông bảo vệ cau mày. Ông liếc nhìn Lukas rồi tập trung vào một điểm đằng sau cô. Mắt ông mở lớn. "À", ông bảo vệ nói bằng giọng không thoải mái lắm. "Thanh tra Hardy hả ?... Anh ta là ai ? Ý ông là sao ?... Nhưng anh ta đang ở ngay đây, anh ta... ôi Chúa ơi !"

Artie thả rơi điện thoại và luống cuống rút súng.

Cộp cộp cộp cộp cộp...

Theo bản năng, Lukas biết rằng những bước chân đang chạy về phía họ kia chính là của một kẻ tấn công. Cô đổ người tới trước ngay khi loạt đạn từ khẩu súng giảm thanh xuyên thủng chiếc ghế sô pha nơi cô vừa ngồi, xé toạc lớp Naugahyde và làm nổ tung một ít đệm bên trong.

Cô nhìn ra đằng sau, xoay người, quờ quạng tìm chỗ nấp đằng sau một chậu cây cảnh.

Đó là... Không, không thể nào ! Đó là Hardy.

Artie vừa bắn loạn xạ vừa hét, "Chính là hắn ! Hắn là tên sát nhân. Hắn... Ôi trời. Ôi không.. Ông bảo vệ nhìn xuống ngực áo mình. Ông đã bị trúng đạn, đổ rầm xuống hai đầu gối và ngã ra sau cái bàn.

Một viên đạn khác xuyên qua lưng ghế sô pha, ngay gần đầu Lukas. Cô cuộn tròn người để nấp phía sau cái cây cọ èo uột mà rất nhiều đặc vụ đã chế giễu. Và co rúm người trước tiếng choang khi một viên đạn bị chậu cây bằng crom đẩy văng lại.

Lukas hành động như một cỗ máy. Cô thậm chí còn chẳng cố tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra hay người đàn ông này thực ra là ai. Cô nhìn lên thật nhanh để tìm kiếm mục tiêu. Nhưng rồi cũng phải thụp xuống nhanh như vậy khi một viên đạn khác cắt lớp lá dày cách mặt cô vài phân. Cô lăn người sang trái, tựa lưng vào tường, nhổm lên và ngắm bắn. Chỉ trong một phần giây, cô đã kịp kiểm tra khung cảnh đằng sau lưng Hardy và bắn ba phát đạn liên tiếp.

Những viên đạn 10 li nặng nề không trúng người hắn và đục những cái lỗ to tướng trên tường. Hardy bắn thêm hai phát về phía cô rồi biến mất ở cuối hành lang.

Cô chạy tới bức tường bên cạnh lối ra vào, dựa lưng vào nó.

Tiếng chân lộp cộp xa dần.

Một giọng nói khác ở đầu phía bên kia vọng tới, "Có chuyện gì thế ? Có chuyện gì thế ?".

Đâu đó trên hành lang, một cánh cửa đã đóng sầm lại.

Lukas chạy ra ngó đoạn khúc cua một cái thật nhanh rồi chạy trở về khi nhìn thấy bóng đen của một người đàn ông ở cuối sảnh.

Cô nằm sấp trên mặt sàn, ngắm bắn và hét, "Đặc vụ liên bang đây ! Xưng tên ngay nếu không tôi bắn !".

"Ted Yan", người đàn ông kêu lên. "Phòng Phân tích Phần mềm."

Lukas biết anh ta. Anh ta là bạn của Geller, cũng là đặc vụ. Nhưng cô nghĩ: Tuyệt đấy, mình có hẳn một tay mọt sách làm tiếp viện.

"Một mình anh à ?", cô hét.

"Tôi..."

Im lặng.

"Ted ?"

"Không. Chúng tôi có hai người... Susan Nance đang ở đây với tôi."

Giọng Nance vỡ òa khi nói, "Ôi Margaret, hắn giết Louise ở phòng An ninh rồi ! Cô ấy chết rồi. Cả Tony Phelps nữa".

Chúa ơi. Có chuyện gì thế này ?

Ted nói, "Chúng tôi đang ở cạnh...".

"Được rồi, khẽ thôi", Lukas nạt. "Đừng có nói ra vị trí của mình. Có ai vừa đi qua anh không ?"

"Không", Ted nói. "Hắn không thể đi qua chỗ tôi được. Tôi nghe tiếng cửa đóng trên hành lang đằng này. Hắn đang ở đâu đó giữa chúng ta."

"Yểm trợ cho tôi", Lukas bảo.

Vừa nhìn lại sau lưng, Lukas vừa chạy tới phòng bảo vệ. Artie đã bất tỉnh song không mất quá nhiều máu. Cô nhấc điện thoại lên nhưng Cage đã chằng còn ở đường dây. Cô bấm 911, xưng danh là đặc vụ của Bộ tư pháp và báo động Mã 42 ở trụ sở FBI.

Theo cô được biết thì chưa từng có ai làm điều này, trong toàn bộ lịch sử của Cục điều tra liên bang. Mã 42 nghĩa là có một cuộc tấn công ở ngay trụ sở chính. Nó đã trở thành một trò đùa kể từ nhiều năm nay, khi ai đó báo Mã 42 tức là họ đã gặp rắc rối thực sự.

"Hai người có vũ khí không ?", Lukas gọi.

"Súng công vụ", Ted nói. "Cả hai chúng tôi".

Có nghĩa là những khẩu Clocks hoặc Sig-Sauer của họ. Lukas nghĩ đến khẩu MP-5 tự động của mình hiện đang nằm trong xe. Cô sẽ trả bất cứ giá nào để lấy được khẩu súng ấy nhưng giờ thì không còn thời gian nữa rồi.

Cô quan sát hành lang lúc này vẫn còn trống.

Tám cánh cửa trên đó. Năm cái bên phải, ba cái bên trái.

Hắn đang đứng đằng sau một trong các cánh cửa kia.

Câu đố cho anh này, Parker. Cánh cửa nào dẫn đến tên phản đồ Judas của chúng ta ?

Ba con diều hâu cùng bắt mất gà của bác nông dân...

Lăm lăm khẩu súng trước mặt, Lukas từ từ tiến tới, trông thấy bóng của hai đặc vụ phía đầu kia hành lang. Cô dùng tay làm ký hiệu để bảo họ tránh sang bên và vòng lại khúc quanh. Nếu Hardy lao ra khỏi cửa, cô sẽ khó ngắm bắn nếu Ted và Nance đang đứng ở đằng sau. Họ cũng gặp vấn đề tương tự và sẽ ngần ngại khi bắn hạ Hardy vì sợ sẽ trúng cô. Chỉ có một mình, cô sẽ mất lợi thế hai gọng kìm nhưng có thể bắn thoải mái nếu hắn cố bỏ chạy.

Lukas đi xuống cuối hành lang.

Cừa nào đây ? Cô tự hỏi.

Nghĩ đi... Nào ! Nghĩ đi !

Nếu Hardy có chút cảm giác định hướng thì hắn sẽ biết rằng năm văn phòng ở bên phải cô đều là ở mé ngoài; hắn sẽ không chọn một cánh cửa bên trái vì như vậy, có nguy cơ bị kẹt lại trong tòa nhà.

Được rồi, chúng ta sẽ thu hẹp phạm vi xuống năm cửa bên phải.

Trong năm cửa này thì hai cái có biển LỄ TN, tên giả thay cho các phòng thẩm vấn, nơi họ đã gặp Czisman. Hardy có thể ngay lập tức nghi ngờ rằng FBI thì cần gì có phòng Lễ tân, hắn sẽ phát hiện ra chúng liên quan đến an ninh nhiều hơn và chẳng thể tiếp cận với bên ngoài mà trên thực tế đúng là như vậy; các phòng này đều không có cửa sổ.

Cánh cửa ở giữa ghi BẢO TRÌ. Lukas không biết chính xác nó dẫn đến đâu nhưng cô đoán nó chính là phòng để đồ của người lao công và cũng chẳng có lối ra nào khác, và kết luận Hardy hẳn sẽ suy luận y hệt như vậy.

Còn lại hai cánh cửa đều không treo biển. Cô vô tình được biết chúng đều dẫn tới văn phòng nhỏ dành cho những người đánh máy thời vụ. Cả hai phòng đều có cửa sổ quay ra phố. Một phòng gần với khu vực tiếp tân nhất. Cái kia thì gần với vị trí của Ted và Nance nhất.

Nhưng sao phải vội ? Cô tự hỏi mình. Chỉ việc chờ viện trợ đến.

Song ngay lúc này, có thể Hardy đang tìm cách đập vỡ một cửa sổ và sắp thoát ra được. Lukas sẽ không mạo hiểm để hắn chạy trốn.

Cửa nào đây, cửa nào đây ?

Cô đưa ra lựa chọn của mình: Cánh cửa gần sảnh nhất. Cũng là hợp lý nhất. Hardy sẽ không chạy tới chín, mười mét trên hành lang với một đặc vụ cầm súng truy đuổi sau lưng mà không tìm chỗ nấp.

Một khi đã quyết định xong, cô quên luôn những lựa chọn khác.

Câu đố nào khi giải xong mà chả thấy dễ. Y như đời sống, đúng không ?

Cô thử tay nắm cửa. Cánh cửa đã khóa.

Lúc nào cửa cũng khóa à ? Cô tự hỏi. Hay hắn đã khóa lại từ bên trong ?

Không, hắn đã khóa đấy. Chắc là hắn ở trong này. Hắn còn đi đâu được nữa ? Cô chạy tới phòng bảo vệ, lấy chìa khóa trên thắt lưng Artie rồi trở lại. Cô tra chìa vào ổ và khẽ khàng hết mức có thể.

Xoay tay cầm.

Nó vang lên tiếng cách đáng báo động.

Quỷ thật. Chả khác gì hét toáng lên rằng, "Ta đang tới đây !".

Một, hai...

Hít sâu.

Cô nghĩ về chồng và con trai.

Con yêu mẹ !

Rồi đẩy nhanh cánh cửa.

Người cúi thấp, vũ khí đã sẵn sàng, ngón tay đặt lên cò súng khẩu Glock...

Chẳng có ai...

Hắn không ở đây.

Chờ đã... cái bàn... Nó là vật duy nhất để hắn trốn đằng sau.

Cô bước vòng qua nó, vũ khí luôn giữ trước mặt

Không có gì.

Quỷ thật, cô sai rồi. Hắn đã đi qua cánh cửa kia, cái xa nhất.

Rồi từ khóe mắt mình, cô thấy một cử động mờ nhạt.

Cánh cửa đối diện ở bên kia hành lang, chính là cửa có biển BẢO TRÌ, khẽ hé mở. Họng của một khẩu súng có lắp ống giảm thanh đang hạ về phía cô.

"Margaret !", giọng Susan Nance vang lên từ cuối hành lang. Rồi cô ấy hét lên, "Đứng im !".

Lukas lăn mình xuống sàn ngay khi súng của Hardy khai hỏa hai phát.

Nhưng hắn không nhắm vào cô. Hai viên đạn là nhằm vào cửa sổ bằng kính. Nó vỡ tan thành ngàn mảnh vụn.

Nance bắn liền ba phát trong lúc Hardy chạy một cách lúng túng vì chiếc ba lô to đùng trên lưng và lao vào văn phòng, nơi Lukas đang cúi lom khom. Ba phát đạn đều trượt. Hắn bắn bừa về hướng Lukas, buộc cô phải tìm chỗ nấp. Cô lăn trên sàn nhà, vỏ đạn rơi lanh canh trên mặt bàn và Hardy lao qua cửa sổ để ra ngoài ban công nhìn xuống phố Ninth. Hắn nhảy qua hàng rào xuống phố. Lukas bắn tiếp nhưng cũng trượt

Cô bò dậy và chạy ra cửa sổ.

Lukas chợt hiểu ra mọi chuyện: Hardy đã thử mở cánh cửa phía bên này tòa nhà nhưng rồi thấy bị khóa. Vậy nên, hắn đã chờ trong phòng lao công phía bên kia hành lang, đoán trước đường đi nước bước của cô, biết rằng cô sẽ chọn cánh cửa này và đi lấy chìa khóa để mở nó. Hắn đã lợi dụng cô.

Cô đã sai lầm nghiêm trọng.

Bác nông dân nhắm vào con diều hâu bên trái và bắn trúng nó...

Đứng trên lớp kính vụn ở ban công, cô nhìn khắp lượt con phố nhưng chẳng thấy dấu hiệu nào của Hardy.

Viên đạn không bật nảy...

Cô chỉ có thể trông thấy một đám đông lớn đang trở về từ bãi bắn pháo hoa, ngạc nhiên nhìn vào khung cửa sổ vỡ toang đang đóng khung một cô gái tóc vàng hấp dẫn với khẩu súng trên tay.

Trên mái nhà còn lại mấy con diều hâu ?...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33


Parker và Cage lại đứng trong phòng Thí nghiệm Tài liệu một lần nữa. Lần này có thêm vị phó giám đốc.

"Sáu người chết", ông giám đốc lẩm bẩm. "Lạy Chúa toàn năng. Ngay bên trong trụ sở."

Tiến sĩ John Evans đã được tìm thấy trong một phòng nhỏ trên tầng bảy, bị bắn hai phát vào mặt. Ông bảo vệ Artie bị thương nặng nhưng sẽ sống sót.

"Hắn là tên quái nào thế ?", vị giám đốc hỏi.

Người đàn ông giả danh Hardy đã để lại vài dấu vân tay rõ nét và chúng đang được kiểm tra trên hệ thống AFIS ngay lúc này. Nếu vân tay của hắn được lưu trữ trong bất kỳ một hồ sơ nào trên khắp cả nước, họ sẽ sớm biết được hắn là ai.

Lukas đẩy cửa vào. Parker lo lắng khi thấy một ít máu trên má cô.

"Cô không sao chứ ?", anh hỏi.

"Của Artie đấy", cô khẽ lẩm bẩm khi thấy anh đang để ý vết máu. "Không phải của tôi." Cô nhìn Parker rồi nhìn Cage một lát, vẻ lạnh lẽo trong đôi mắt ấy đã không còn, nhưng anh chẳng biết thứ gì đã thay thế nó nữa. "Làm sao ông biết được ?"

Cage liếc về phía Parker. "Cậu ta tìm ra đấy."

"Nét run tay" Parker trả lời. Anh giơ ra mẩu giấy phát hiện được trong túi mình khi đang tìm tiền trả cho bà trông trẻ. "Tôi để ý thấy chữ viết tay của hắn hơi run. Việc đó xảy ra khi ai đó cố làm giả chữ viết. Tôi nhớ lại chính Hardy là người đã chép lại theo lời tôi đọc nhưng sao hắn phải giả dạng chữ của mình chứ ? Chỉ có một nguyên nhân duy nhất, đó là vì chính hắn viết lá thư. Tôi đã kiểm tra chữ i trong từ "hai dặm" và cái chấm ấy chính là giọt lệ quỷ. Thế là xong."

"Chuyện gì đã xảy ra ?", phó giám đốc hỏi. "Giám đốc đang muốn biết Ngay lập tức."

"Tất cả đã được dàn dựng", Parker nói, bắt đầu đi tới đi lui. Đâu đó trong đầu anh, toàn bộ âm mưu đã nhanh chóng khớp vào chỗ của nó. Anh hỏi Lukas, "Sao Hardy lại được tham gia vụ án ?".

"Tôi biết hắn", cô nói. "Vài tháng nay, hắn qua lại ở phân cục này. Trưng ra thẻ công vụ và nói hắn cần các thống kê về tội phạm trong Đặc khu cho một bản báo cáo trước Quốc hội. Phòng Nghiên cứu và Thống kê của Sở cảnh sát Đặc khu vẫn làm vậy đôi lần mỗi năm. Tất cả đều là thông tin công khai, không phải các vụ đang điều tra, nên chẳng ai buồn kiểm tra lại. Hôm nay, hắn xuất hiện và nói mình được cử làm người liên lạc trong vụ này"

"Và đó đúng là một trong những phòng ban vô danh tiểu tốt", Parker chỉ ra. "Để nếu thị trưởng hay cảnh sát trưởng thật sự cử ai đó ở phòng Tội phạm nguy hiểm hay phòng Điều tra tới đây làm liên lạc viên thì sẽ chẳng biết được trên đời này không hề có Len Hardy nào cả."

Lukas nói, "Vậy là hắn đã lên kế hoạch cho vụ này suốt hai tháng qua". Cô thở dài ghê tởm.

"Có lẽ là sáu", Parker lẩm bẩm. "Lên kế hoạch từng chi tiết. Hắn là một tên theo chủ nghĩa hoàn hảo chết tiệt. Giày, móng tay, quần áo của hắn... Đều không tì vết"

Cage hỏi, "Nhưng còn gã trong nhà xác thì sao, kẻ chúng ta tưởng là nghi phạm ấy. Gã là ai ?",

Parker nói, "Một chân chạy lon ton. Kẻ do Hardy, hay gì gì đó, thuê để đưa thư thôi".

"Nhưng", Cage nói, "gã đã chết trong một tai nạn".

"Không, đó không phải là tai nạn", Lukas nói, cướp lời của Parker.

Anh gật đầu. "Hardy đã giết gã, tông vào gã bằng chiếc xe ăn cắp để trông có vẻ giống tai nạn."

Lukas nói tiếp, "Để chúng ta nghĩ rằng thủ phạm đã chết và mang tiền trở về phòng Vật chứng. Hắn biết chúng ta sẽ cài thiết bị trong túi. Cả chuyện chúng ta sẽ cố tóm hắn ở chỗ thả tiền nữa".

Cage nói, lại nhăn nhó vì chiếc xương sườn bị gãy, "Hắn bỏ lại hai chiếc túi phát tín hiệu ở dưới nhà. Chuyển tiền sang túi khác và còn tháo luôn cả giấy bọc".

"Nhưng chính hắn đã tìm ra thông tin về Digger, đúng không nào ?", vị phó giám đốc hỏi. "Nhờ hắn mà chúng ta mới ngăn được Digger trước khi hắn thực sự gây họa ở công viên Mall."

"Ồ, tất nhiên là vậy rồi", Parker đáp lại, ngạc nhiên vì họ vẫn không hiểu.

"Ý anh là sao ?", ông phó hỏi

"Đó là lý do hắn chọn Đài tưởng niệm Chiến tranh Việt Nam. Nó không xa đây lắm. Hắn biết chúng ta sẽ bị thiếu người và gần như phải bỏ trống tòa nhà này để cử tất cả ra ngoài tìm kiếm Digger."

"Vậy là hắn chỉ việc nhảy vào phòng Vật chứng và lấy tiền", Lukas cay đắng nói. "Đúng y như những gì Evans nói. Hắn đã lên kế hoạch rất chi li. Tôi từng bảo ông ấy rằng chúng ta đã cài bọ vào túi nhưng Evans nói hẳn thủ phạm sẽ có kế hoạch phản đòn".

Cage hỏi Parker, "Còn dấu vân tay trên lá thư ?".

"Hardy không bao giờ chạm vào nó bằng tay không nhưng lại đảm bảo để tên chạy lon ton kia làm vậy, để chúng ta có thể xác nhận cái xác chính là của nghi phạm."

"Và hắn đã chọn ai đó không hề có hồ sơ tội phạm hay quân ngũ", Lukas thêm vào, "để chúng ta chẳng thể lần theo tên chạy việc... Lạy Chúa, hắn đã nghĩ đến mọi thứ".

Một chiếc máy tính kêu báo hiệu. Cage vươn người tới và đọc "Báo cáo của AFIS và hồ sơ của VICAP lẫn sở cảnh sát Connecticut. Đây rồi. Ông trượt xuống. Một bức ảnh hiện lên màn hình. Chính là Hardy. "Tên thật của hắn là Edward Fielding, địa chỉ cuối cùng ghi lại được là Blakesly, Connecticut, ngoại ô Hartford. Ồ, bạn của chúng ta không phải người tốt lành gì. Bốn vụ bắt giữ, một lần bị kết án. Cả trại giáo dưỡng nữa nhưng các hồ sơ này đều đã bị đóng lại. Liên tục được trị liệu vì các hành vi chống đối xã hội. Từng là phụ tá và hộ lý ở Bệnh viện tiểu bang Hartford dành cho các tội phạm tâm thần. Hắn bỏ đi sau khi một y tá tố cáo hắn quấy rối tình dục bị đâm đến chết.

"Ban quản lý bệnh viện", Cage đọc tiếp trên màn hình, "nghĩ Fielding đã dụ dỗ một bệnh nhân tên là David Hughes giết cô gái. Hughes nhập viện từ hai năm trước. Vào ngày Giáng sinh. Anh ta bị tổn thương não nghiêm trọng sau một vết thương do súng gây ra và rất dễ bị sai khiến. Có lẽ chính Fielding đã giúp Hughes trốn thoát. Ban giám đốc bệnh viện và cảnh sát định điều tra Fielding nhưng hắn đã biến mất ngay sau đó. Chuyện xảy ra vào tháng Mười năm ngoái".

"Hughes chính là Digger", Parker khẽ tuyên bố.

"Anh nghĩ vậy à ?"

"Có khả năng" Anh nói tiếp, "Vụ xả súng ở tòa báo Hartford, chính vụ án đã khiến Czisman bắt đầu lần theo dấu Fielding, xảy ra vào tháng Mười một". Nhớ lại tờ báo kẹp trong cuốn sách của Czisman. "Đó là vụ đầu tiên của chúng."

Biên niên sử Đau thương.

"Nhưng sao lại giết nhiều người đến thế ?", phó giám đốc hỏi. "Không thể nào chỉ vì tiền. Chắc hắn cũng có xu hướng khủng bố."

"Không", Parker nói chắc nịch. "Không phải chuyện khủng bố đâu. Nhưng ông nói đúng hoàn toàn. Nó chẳng liên quan gì đến tiền. Tôi đã nhận ra hắn".

"Anh biết Fielding à ?"

"Không, ý tôi là tôi nhận ra loại đó. Hắn giống một kẻ làm giả tài liệu."

"Làm giả à ?", Lukas hỏi.

"Những bậc thầy làm đồ giả tự coi mình là nghệ sĩ, không phải kẻ trộm. Chúng chẳng thực sự quan tâm đến tiền. Vấn đề là làm sao tạo ra thứ đồ giả che mắt được tất cả mọi người. Đó là mục tiêu duy nhất của chúng: Một tài liệu giả hoàn hảo."

Lukas gật đầu. "Vậy là những vụ án khác ở Hartford, Boston và Philly chỉ là những bài tập. Ăn trộm một cái đồng hồ, vài ngàn đô la chỉ là để hoàn thiện kỹ năng của hắn."

"Chính xác. Và vụ này chính là đỉnh điểm. Lần này hắn đã ôm một món tiền lớn và sẽ nghỉ hưu".

"Sao anh nghĩ vậy ?", Cage hỏi.

Nhưng Lukas cũng biết câu trả lời. "Bởi vì hắn đã hy sinh cậu bé chạy việc để có thể trốn thoát. Và cũng đã cho chúng ta biết Digger ở đâu".

Nhớ lại những phát đạn của Hardy chỗ xe buýt, Parker nói thêm, "Có thể chính hắn là người đã bắn Digger ở công viên Mall. Nếu Digger bị bắt sống, anh ta có thể sẽ nói ra".

"Hardy đang cười vào mặt chúng ta", Cagre nói và đấm tay xuống bàn. "Suốt thời gian qua, hắn đã ngồi ngay bên cạnh chúng ta mà cười."

"Nhưng giờ hắn đang ở đâu ?", vị phó giám đốc hỏi.

Parker nói, "Ồ, hắn đã lên kế hoạch trốn thoát đâu vào đấy. Hắn đoán trước đường đi nước bước của chúng ta từ đầu đến cuối. Giờ hắn sẽ không sẩy chân đâu".

"Chúng ta có thể lấy ảnh của hắn từ camera an ninh trên sảnh", Cage nói. "Đưa nó cho tất cả các đài truyền hình"

"Vào lúc hai giờ sáng sao ?", Parker nói. "Ai là người sẽ xem bản tin ấy ? Và chúng ta đã lỡ mất hạn chót của các tờ báo rồi. Dù thế nào, hắn cũng sẽ ra khỏi đất nước này ngay khi mặt trời mọc và nằm trên bàn phẫu thuật thẩm mỹ trong vòng hai ngày tới".

"Các sân bay đóng cửa rồi", vị phó giám đốc chỉ ra. "Hắn không thể bắt chuyến bay nào cho đến tận sáng mai."

"Hắn sẽ lái xe đến Louisville hay Atlanta hoặc New York", Lukas nói. "Nhưng chúng ta sẽ gửi bản tin đến các phân cục ngay. Cử đặc vụ đến tất cả các sân bay, ga Amtrak và bến xe buýt. Cả các công ty cho thuê xe nữa. Kiểm tra bên Quản lý xe cơ giới và các văn phòng khác để xác định vị trí của hắn. Gọi cho Sở cảnh sát Connecticut nữa" Cô dừng lại và nhìn Parker. Anh có thể thấy cô đang nghĩ y hệt như mình.

"Hắn đã nghĩ tới hết rồi", Parker nói. "Tôi không nói là chúng ta sẽ chẳng làm như vậy. Mà là hắn đã đoán trước hết rồi."

"Tôi biết", cô đáp và dường như càng giận hơn vì sự bất lực của minh.

Phó giám đốc nói, "Tôi sẽ cho đăng lệnh truy nã cấp cao nhất".

Nhưng Parker không nghe. Anh nhìn chằm chằm vào lá thư tống tiền.

"Thứ đồ giả hoàn hảo", anh thì thầm với mình.

"Cái gì ?" Lukas hỏi.

Anh xem đồng hồ. "Tôi phải đi gặp một người."

"Tôi sẽ đi với anh", Lukas nói.

Parker do dự. "Tốt nhất là đừng."

"Không, tôi sẽ đi."

"Tôi chẳng cần ai giúp đâu."

"Tôi đi với anh", cô kiên quyết nói.

Parker nhìn vào đôi mắt xanh dương của cô: lạnh lẽo hay không lạnh lẽo ?

Anh không thể biết được.

Anh đành nói, "Được rồi".

****

Họ lái xe qua các con phố ở Đặc khu, hiện gần như chẳng còn một bóng người. Parker cầm lái.

Một chiếc xe dừng ở ngã tư, phía bên tay phải họ. Khi đánh mắt sang, Parker bắt gặp gương mặt nghiêng nghiêng của Lukas, khuôn miệng mỏng, cánh mũi tròn cùng cần cổ của cô.

Anh quay lại nhìn đường và dấn sâu hơn vào khu vực Alexandria, Virginia.

Có lẽ cô ấy ghen tị với anh.

Anh muốn được nắm tay cô, ngồi cùng cô trong một quán bar hay trên ghế sô pha nhà anh biết bao. Hay nằm trên giường cùng cô.

Và nói chuyện. Về mọi thứ.

Có lẽ về bí mật của Margaret Lukas, bất kể nó là gì.

Hay làm việc mà anh và bọn Who đôi lúc vẫn làm: nói chuyện chẳng ra đầu ra đũa. Nói chuyện kiểu ngớ ngẩn, bọn anh vẫn gọi như thế, về phim hoạt hình hay những người hàng xóm, về cửa hàng Home Depot giảm giá hay các công thức nấu ăn, về những kỳ nghỉ đã qua và các kỳ nghỉ sắp tới.

Hoặc anh và Lukas có thể chia sẻ những câu chuyện chiến tranh mà giới cảnh sát, dù là liên bang, tiểu bang hay cả những người dẫn trẻ qua đường, vẫn thích nhắc lại.

Bí ẩn kia có thể đợi.

Cô còn nhiều năm tới để kể cho anh nghe, anh nghĩ.

Nhiều năm...

Đột nhiên, Parker nhận ra mình đang cân nhắc một mối quan hệ có thể kéo dài nhiều hơn một đêm, một tuần hay một tháng với Lukas. Anh có cơ sở gì mà dựng nên giấc mộng này ? Chẳng có gì chắc chắn. Đó chỉ là một ý nghĩ kỳ quặc.

Bất kể mối quan hệ giữa hai người là gì: một chiến binh như cô và kẻ nội trợ như anh, đó đơn thuần vẫn chỉ là ảo tưởng.

Hay là không phải ? Anh nhớ tới những người Who trong cuốn sách Tiến sĩ Seuss, chủng tộc sinh sống trên một hạt bụi nhỏ bé tới nỗi không ai trông thấy được bọn họ. Nhưng họ vẫn tồn tại ở đó, với tất cả những nụ cười ngây dại, máy móc kỳ cục và kiến trúc quái lạ. Vậy tại sao người ta lại không thể tìm thấy tình yêu trong những thứ tưởng chừng như vô hình ?

Anh nhìn cô thêm một lần nữa và cô cũng nhìn anh. Anh thấy tay mình rụt rè vươn ra và chạm vào đầu gối cô. Tay cô nắm lấy tay anh, chẳng có chút rụt rè nào cả.

Rồi họ tới được địa chỉ anh cần tìm. Anh bỏ tay ra. Dừng xe. Không ai nói lời nào. Cũng chẳng có thêm lấy một cái nhìn.

Lukas ra khỏi xe. Parker cũng vậy. Anh đi sang phía bên ghế của cô và họ đứng đối mặt với nhau. Anh muốn ôm cô biết bao. Vòng tay quanh người cô, trượt tay vào hõm lưng để kéo cô lại gần mình. Cô liếc nhìn anh rồi từ từ cởi khuy áo khoác. Anh thoáng trông thấy chiếc áo lụa màu trắng bên trong và bước tới để hôn cô.

Cô cúi xuống, mở bao súng và cởi thêm một khuy áo khoác. Rồi nheo mắt nhìn qua người anh để kiểm tra khu dân cư xung quanh.

Ồ. Parker bước lùi lại.

"Đi đâu đây ?", cô thản nhiên hỏi.

Parker do dự nhìn vào đôi mắt lạnh băng của cô. Rồi anh gật đầu về phía con dường quanh co dẫn vào một ngõ nhỏ. "Lối này."

***

Người đàn ông ấy chỉ cao khoảng mét rưỡi.

Ông ta có bộ ria cứng và mái tóc rậm rạp. Ông ta đang mặc một chiếc áo choàng tắm nhàu nhĩ và rõ ràng là Parker đã đánh thức ông ta khi anh đấm thình thình vào cánh cửa ọp ẹp.

Ông ta nhìn chằm chằm Parker và Lukas trong một phút rồi chẳng nói chẳng rằng rút lui vào bên trong căn hộ, cứ như bị một sợi dây thun kéo tụt vào.

Lukas đi theo Parker vào trong. Cô nhìn quanh rồi đậy nắp bao súng. Phòng ốc ở đây rất lộn xộn, chất đầy sách vở, đồ đạc và giấy tờ. Trên tường treo hàng trăm lá thư có chữ ký cùng những mẩu văn tự lịch sử. Hơn chục chiếc giá chật cứng sách lẫn hồ sơ. Một chiếc bàn vẽ chất đầy lọ mực và hàng tá bút các loại. Nó chiếm gần hết diện tích căn phòng khách bé tí.

"Ông thế nào, Jeremy ?"

Người đàn ông dụi mắt. Liếc nhìn chiếc đồng hồ báo thức vặn dây cót kiểu cổ và nói, "Trời ơi, Parker. Muộn rồi mà. Này, xem tôi có gì ở đây. Cậu thích chứ ?".

Parker đỡ lấy tập hồ sơ Jeremy đang giơ lên.

Mười ngón tay của ông ta vàng xỉn đi vì những loại thuốc lá yêu thích. Tuy nhiên, Parker nhớ là ông chỉ hút thuốc bên ngoài nhà vì không muốn mạo hiếm làm hỏng tác phẩm của mình. Tương tự như tất cả những thiên tài khác, mọi thói tật của Jeremy đều phải đầu hàng tài năng của ông.

Patker cầm lấy tập hồ sơ và giơ nó trước ánh sáng. Anh cầm một chiếc kính lúp lên và nghiên cứu tài liệu bên trong. Một lát sau anh nói, "Độ rộng của các nét bút... tốt lắm".

"Còn hơn cả tốt ấy chứ, Parker"

"Được rồi, tôi phải đồng ý với ông. Các điểm khởi đầu và nhấc bút rất xuất sắc. Lề trông có vẻ ổn và khổ giấy cũng khớp nữa. Giấy này cũng là từ thời đại ấy à ?"

"Đương nhiên rồi."

"Nhưng ông còn phải làm giả tuổi mực bằng oxy già nữa. Nó có thể bị phát hiện."

"Có thể. Hoặc không." Jeremy cười. "Biết đâu lần này, tôi có chiêu trò mới. Có phải cậu đến để bắt tôi không đấy, Parker ?"

"Tôi không còn làm cảnh sát nữa, Jeremy."

"Không, nhưng cô này thì có, đúng không ?"

"Đúng."

Jeremy lấy lại tờ giấy. "Tôi chưa bán nó. Thậm chí còn chưa rao bán". Quay sang Lukas, ông nói, "Nó chỉ là một thú vui thôi. Người ta được quyền có thú vui mà, phải không ?".

"Cái gì vậy ?", Lukas hỏi.

Parker nói, "Đó là một lá thư do Robert E. Lee gửi cho một trong những vị tướng của ông ta". Anh nói thêm, "Đúng ra tôi phải nói, nó có nội dung lá thư của Robert E. Lee".

"Ông ta làm giả nó à ?", Lukas hỏi, liếc nhìn Jeremy.

"Đúng vậy."

"Tôi không thừa nhận gì đâu nhé. Tôi sẽ nhận điều Năm."

Parker nói tiếp, "Nó có thể có giá tới mười lăm ngàn đô".

"Mười bảy chứ... Nếu ai đó định bán nó. Mà tôi thì không định đâu. Parker đã bắt được tôi một lần rồi", Jeremy nói với Lukas, dùng ngón giữa và ngón cái vân vê bộ ria. "Cậu ta là người duy nhất trên thế giới tóm được tôi. Cô biết cậu ta làm thế nào không ?"

"Thế nào ?", cô hỏi. Parker không chú ý tới bản giả mạo tuyệt vời kia nữa mà tập trung vào Margaret Lukas, trông cô vừa buồn cười lại vừa tò mò vì ông già. Cơn giận của cô đã bay biến trong chốc lát và Parker rất mừng khi thấy thế.

"Hoa văn mờ trên đầu đề in sẵn", Jeremy vừa nói vừa nhạo báng. "Tôi bị tóm chỉ vì một hình hoa văn mờ."

"Vài năm trước", Parker nói, "Jeremy... xem nào, vô tình sở hữu một vài lá thư của John Kennedy".

"Cho Marilyn Monroe à ?", Lukas hỏi.

Mặt Jeremy nhăn nhó. "Cái đó à ? Ôi, toàn là đồ dở hơi. Nghiệp dư hết. Ai mà thèm quan tâm đến chúng ? Không, cái này là giữa Kennedy và Khrushchev cơ. Theo những lá thư ấy thì Kertnedy sẽ sẵn sàng nhượng bộ ở Cuba. Nếu điều đó là thật, nó sẽ trở thành một nút thắt lịch sử thú vị. Tổng thống và Khrushchev sẽ chia đôi hòn đảo. Một nửa cho người Nga, nửa kia cho người Mỹ."

"Có thật thế không ?", Lukas hỏi.

Jeremy im lặng và nhìn đăm đăm vào lá thư của Robert E. Lee với nụ cười phảng phất trên gương mặt.

Parker nói, "Jeremy sáng tạo ra các câu chuyện". Vô tình đó lại là cách nói giảm của anh với bọn Who khi mô tả việc nói dối. "Ông ấy làm giả các lá thư. Định bán chúng lấy năm ngàn đô la."

"Bốn ngàn tám chứ", Jeremy chữa lại.

"Thế thôi à ?", Lukas ngạc nhiên.

"Jeremy làm trong ngành này không phải vì tiền", Parker nói.

"Và anh đã bắt được ông ta ?"

"Kỹ thuật của tôi chẳng hề có sai sót, Parker, cậu phải thừa nhận như vậy".

"Ồ đúng vậy", Parker xác nhận. "Về mặt thủ công thì nó hoàn hảo. Từ mực in, chữ viết tay, điểm đầu và điểm nhấc bút, cách viết, lề... Không may là Văn phòng in ấn của Chính phủ đã thay đổi đầu đề in sẵn cho tổng thống vào tháng Tám năm 1963. Jeremy vớ được đám giấy này và dùng chúng để làm thư giả. Quá tiếc là những lá thư lại để tháng Năm năm 1963."

"Thông tin tình báo tồi thôi", Jeremy lẩm bẩm. "Thế nào, Parker, mang gông xích đến đấy à ? Lần này tôi đã gây ra chuyện gì ?"

"Ồ, tôi nghĩ ông biết mình đã làm gì, Jeremy. Tôi nghĩ ông biết đấy."

Parker kéo ghế cho Lukas và một cái khác cho chính mình. Cả hai ngồi xuống.

"Ôi trời", Jeremy nói.

"Ôi trời", Parker lặp lại.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34


Cuối cùng, tuyết cũng rơi.

Những bông hoa tuyết to đùng nhảy dù xuống mặt đất. Tuyết đã dày đến năm centimet và bịt kín mọi âm thanh của đêm.

Edward Fielding vác chiếc túi đựng tiền trên lưng và cầm súng lục bằng tay phải, dò dẫm đi qua một rừng cây ở Bethesda, Maryland. Từ trụ sở FBI, hắn đã lái đến đây bằng hai chiếc "xe nghi binh", loại xe dùng để đào thoát mà bọn trộm chuyên nghiệp vẫn thường giấu dọc đường trốn chạy của chúng nhằm lừa bịp những người truy đuổi. Hắn kiên trì bám trụ đường cao tốc suốt từ đó đến đây, luôn đi trong giới hạn tốc độ. Hắn đỗ xe phía bên kia rừng cây và đi bộ nốt quãng đường còn lại. Tiền có làm hắn chậm lại đôi chút, nhưng còn lâu hắn mới chịu để lại nó trong xe, bất chấp độ an toàn tương đối ở khu vực ngoại ô Washington yên bình, cao cấp này.

Hắn băng qua sân phụ và dừng lại cạnh hàng rào ngăn cách ngôi nhà thuê của hắn với căn kế bên.

Trên phố, xe nào trông cũng quen mắt.

Trong nhà hắn, chẳng có cử động hay bóng đen nào mà hắn không nhận ra.

Ở phía bên kia, tất cả các ngôi nhà đối diện đều tắt đèn tối om, trừ nhà Harkin. Việc này cũng là điều bình thường. Fielding đã quan sát thấy gia đình Harkin hiếm khi đi ngủ trước hai hay ba giờ sáng.

Hắn thả chiếc ba lô đựng tiền bên cạnh một cái cây trên đất hàng xóm và đứng thẳng người lên, cho phép cơ bắp mình tận hưởng cảm giác tự do khi thoát khỏi gánh nặng. Hắn di chuyển dọc theo hàng rào, kiểm tra phần sân trước, sân sau và sân bên cạnh quanh nhà mình. Không có dấu chân nào trên tuyết hay vỉa hè phía trước mặt.

Fielding nhặt tiền lên và lại tiếp tục đi bộ về nhà. Hắn đã cài vài bẫy an ninh để báo hiệu nếu có bất kỳ vị khách không mời nào, những mánh tự làm, sơ đẳng nhưng rất hiệu quả: chỉ căng ngang cổng, then cửa trước được phủ những hạt bụi sơn khô, góc tấm thảm chùi chân cuộn lên chạm vào cửa.

Hắn học được những điều này từ một website của tụi cánh hữu trên Internet, để bảo vệ bản thân khỏi bọn da đen, Do Thái và Chính phủ liên bang. Bất chấp rằng tuyết sẽ khiến bất kỳ kẻ xâm nhập nào bị lộ diện ngay, hắn vẫn kiểm tra thật cẩn thận. Bởi vì đó là việc bạn phải làm khi thực hiện một tội ác hoàn hảo.

Hắn mở khóa cửa, nghĩ về những bước tiếp theo. Hắn sẽ chỉ ở đây năm đến mười phút, đủ thời gian để nhét tiền vào trong những chiếc hộp đựng đồ chơi trẻ con, thu hồi mấy chiếc va li khác của mình rồi bỏ đi trên ba chiếc xe khác mà hắn đã cài cắm trên tuyến đường tới thành phố Ocean, Maryland. Tới đó rồi, hắn sẽ lên một chiếc thuyền thuê sẵn và đến Miami trong vòng hai ngày. Sau đấy, sẽ là một chiếc máy bay thuê đưa hắn tới Costa Rica và ngay đêm đó, hắn sẽ bay đi Brazil.

Rồi hắn sẽ...

Hắn không chắc cô ta trốn ở đâu. Có lẽ là sau cánh cửa. Có lẽ trong buồng tủ. Trước cả khi Fielding kịp cảm thấy đợt adrenaline tràn ngập cơ thể mình, khẩu súng đã bị tước khỏi tay hắn và Margaret Lukas hét lên, "Đứng im, đứng im, đặc vụ liên bang đây !".

Fielding thấy mình chẳng đứng im gì hết mà bị đẩy tới nằm sấp trên sàn, dưới gọng kìm khỏe mạnh của cô ta. Súng gí vào tai. Tiền bị lột ra khỏi người, còn tay thì bị hai đặc vụ nam to lớn còng lại. Những ngón tay thò vào các túi quần của hắn.

Họ kéo hắn đứng dậy, rồi đẩy hắn tới ngồi vào một chiếc ghế dựa.

Cage và vài người khác đi vào qua cửa chính, trong lúc một đặc vụ kiểm kê số tiền.

Trên mặt hắn là vẻ hoàn toàn không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Cô nói, "Ồ, mấy sợi dây với đống kia ấy à ? Mi có nhận ra chúng ta cũng đánh dấu trang cùng một website như tất cả những người khác không, cái đám rác rưởi đội quân Aryan ấy".

"Nhưng còn tuyết ?", hắn hỏi. Giờ đã rùng mình vì cú sốc. "Không hề có dấu chân. Làm sao các người vào được ?"

"Ồ, chúng ta mượn móc và thang từ sở cứu hỏa Bethesda. Đội SWAT và ta đã treo vào qua cửa sổ tầng hai."

Ngay khi ấy, Parker Kincaid bước vào cửa. Lukas gật đầu về phía anh và giải thích với Fielding, "Xe cứu hỏa là ý tưởng của anh ấy".

Fielding không hề nghi ngờ chuyện đó.

Parker ngồi xuống chiếc ghế đối diện với Fielding và khoanh tay lại. Tay thanh tra, Parker chẳng thể không nghĩ về hắn như vậy, hiện trông già và nhỏ bé hơn. Parker nhớ lại anh đã phải tự nhủ nghi phạm vẫn còn sống để có thể tiếp cận tâm trí của hắn. Với tư cách một bậc thầy giải đố đấu với một bậc thầy khác. Có vẻ như, anh đã đạt được tâm nguyện. Nhưng giờ anh chẳng cảm thấy chút tò mò chuyên môn nào mà chỉ thấy khiếp sợ.

Câu đố nào khi giải xong mà chả thấy dễ.

Khi ấy, chúng cũng trở nên buồn chán nữa.

Lukas hỏi hắn, "Cảm giác của mi thế nào khi biết mình sẽ ngồi trong một xà lim hai mét tư nhân hai mét tư trong mười năm tới, cho đến khi họ ban cho mi mũi tiêm ?".

Cage giải thích, "Mi sẽ không sống được bao lâu nếu bị giam chung. Hy vọng mi thích bầu bạn với chính mình".

"Tôi thích bản thân mình hơn hầu hết những kẻ khác", Fielding nói.

Cage nói tiếp như thể Fielding chưa hề nói gì, "Họ cũng sẽ muốn mi có mặt ở Boston và White Plains và Philadelphia. Ta đoán cả ở Hartford nữa".

Fielding nhướng một bên lông mày với vẻ ngạc nhiên.

Parker hỏi, "Digger là bệnh nhân trong viện của mi phải không ? Bệnh viện dành cho tội phạm tâm thần ? David Hughes ?".

Fielding không muốn tỏ ra bị ấn tượng nhưng đúng là vậy. "Phải. Một gã khôi hài đúng không ?" Hắn cười với Parker. "Kiểu như hóa thân của ông ba bị."

Rồi Parker chợt hiểu ra một điều khác và tim anh đóng băng.

Ông ba bị...

"Trong chiếc xe điều hành... ta đã kể về con trai ta. Không bao lâu sau đó... Lạy Chúa, không bao lâu sau đó, Robby trông thấy có người trong gara. Đó chính là Digger. Mi đã gọi hắn, mi cử hắn tới nhà ta ! Để dọa con trai ta !"

Fielding nhún vai. "Anh quá giỏi, Kincaid ạ. Tôi phải lôi anh ra khỏi vụ án một lát. Khi anh chạy tới lục soát nhà trú ẩn của tôi, nhân tiện, tìm được chỗ đó thật sự là rất giỏi, tôi đã ra ngoài gọi điện và để lại lời nhắn rằng bạn tôi nên đến thăm cậu bé của anh. Tôi đã nghĩ đến chuyện giết bọn trẻ, tất nhiên giết cả anh nữa, nhưng tôi cần anh có mặt ở trụ sở vào khoảng nửa đêm. Để khiến việc thu hẹp các địa điểm của tôi nghe có vẻ đáng tin."

Parker lao tới và giơ nắm đấm ra, Lukas kịp giữ cánh tay anh trước khi nó lao thẳng vào khuôn mặt hèn hạ của Fielding.

Cô thì thầm, “Tôi hiểu. Nhưng việc ấy chẳng giúp ích gì cho ai cả".

Run rẩy vì giận dữ, Parker thả tay xuống, bước đến chỗ cửa sổ và nhìn tuyết rơi. Ép mình phải bình tĩnh lại. Anh tin rằng nếu phải ở một mình với Fielding, chắc anh sẽ bắn hắn. Không phải vì những người đã chết đêm nay mà vì anh vẫn còn có thế nghe thấy nỗi hoảng loạn trong giọng của Robby. Ba ơi... Ba ơi...

Lukas chạm vào tay anh. Anh nhìn cô. Cô đang giơ ra một cuốn sổ và nói với Parker, "Với tôi hắn cũng đã làm điều tương tự". Cô lật giở các trang giấy, gõ vào vài trang. "Mấy tháng trước, nhà tôi bị trộm đột nhập. Hắn chính là tên trộm. Hắn đã ghi chép lại cuộc sống của tôi."

Fielding không nói gì.

Lukas nói tiếp với tên sát nhân. "Mi đã tìm ra mọi điều về ta. Mi phát hiện ra chuyện của Tom..."

Tom ? Parker băn khoăn.

"Mi cắt kiểu tóc của anh ấy. Mi nói quê mi ở ngoại ô Chicago giống như anh ấy. Mi đọc thư anh ấy viết cho ta..." Cô nhắm mắt và lắc đầu. "Mạnh khỏe như mưa rào ! Mi ăn cắp cả câu nói của anh ấy ! Rồi mi kể với ta là mi có một người vợ đang hôn mê. Tại sao ? Đế ta giữ mi lại trong đội, trong khi tất cả những người khác, bao gồm chính ta, không hề muốn mi dính dáng đến vụ án này".

'Tôi cần phải phá vỡ hàng phòng ngự của cô, Margaret. Tôi biết cô sẽ là kiểu đối thủ như thế nào."

"Mi đã ăn cắp quá khứ của ta, Fielding."

"Quá khứ là gì nếu không phải để lợi dụng ?", hắn đều giọng hỏi.

"Nhưng làm sao mi có thể giết nhiều người đến thế ?", Lukas thì thào.

"Ghê rợn ư ?", Fielding hỏi. Hắn có vẻ cáu tiết. "Nhưng tại sao lại không ? Ý tôi là, lạy Chúa, tại sao không ? Tại sao một người chết lại có vẻ ít đáng sợ hơn một triệu ? Cô giết người hoặc cô không làm. Nếu đã làm thì cái chết chỉ là vấn đề mức độ và nếu thấy cần thiết, thấy hiệu quả, cô sẽ phải giết hết những kẻ mình cần giết. Bất kỳ ai không chấp nhận chuyện đó đều chỉ là một kẻ ngốc ngây thơ."

"Gã trong nhà xác là ai ?", Cage hỏi.

"Tên gã là Gil Havel."

"À, ngài Gilbert Jones huyền bí", Parker nói. "Gã đã thuê chiếc trực thăng phải không ?"

"Tôi phải làm anh tin rằng tôi thực sự định trốn thoát với số tiền ở điểm hẹn trên đường Gallows."

"Mi tìm được gã ở đâu ?"

"Một quán bar ở Baltimore."

"Gã là ai ? Havel ấy."

"Một tên bỏ đi thôi. Một kẻ vô công rồi nghề, không hơn không kém. Tôi hứa cho gã một trăm ngàn đô để đưa thư tới Tòa thị chính và giúp tôi thuê trực thăng cùng với nhà trú ẩn. Tôi khiến gã nghĩ rằng gã chính là đồng phạm của tôi."

Parker nói, "Và mi bắt gã đi bộ trở lại Metro hoặc một trạm xe buýt trên tuyến đường ấy. Nơi mi chờ sẵn trong xe tải để tông vào gã".

"Phải làm các người tin là chủ mưu đã chết. Để các người mang tiền trở lại phòng Vật chứng.

"Thế còn Kennedy ? Mi đưa ông ta tới Rite."

"Thị trưởng ư ?", Fielding hỏi. "Việc ông ta gọi cho tôi là một bất ngờ. Và một mối nguy hiểm. Nhưng hóa ra, nó lại là việc tốt." Hắn gật đầu ra vẻ đang phân tích. "Thứ nhất, tôi phải khiến các người tập trung vào Rite-Carlton, chứ không phải thuyền Ritzy Lady. Sau đó, món quà đền bù cho sự phản bội ấy sẽ là mang tới cho các người mẩu thông tin về cái tên Digger... Anh biết không, anh thực sự ra trò đấy, Kincaid. Làm sao anh phát hiện ra được ?"

Parker giải thích, "Làm sao ta biết mi là thủ phạm à ? Bởi vì chữ viết tay của mi. Ta đã có mẫu, khi mi chép lại cho ta từ những tờ giấy ghi chú mà Tobe cứu được".

"Tôi đã lo ngại chuyện đó", Fielding nói. "Nhưng tôi không thể phản đối khi anh bảo tôi chép, đúng không nào ? Song tôi đã cố tùy biến và giả dạng chữ viết của mình".

"Cái chấm trên đầu chữ i đã vạch mặt mi."

Fielding gật đầu. "Ồ, phải rồi. Giọt lệ quỷ. Tôi đã không nghĩ đến chuyện đó... Anh bảo gì ấy nhỉ ? Rằng luôn luôn là những điều vụn vặt”.

"Không phải luôn luôn. Nhưng thường xuyên."

Lukas hỏi, "Thông tin về Digger, mi đã có sẵn từ lúc đầu, đúng không ? Mi không hề đến thư viện".

"Không. Quỷ thật, đó là lý do tôi đặt tên cho Hughes là Digger. Để các người nghĩ anh ta có một âm mưu trả thù ngớ ngẩn nào đó với Chính phủ. Nhưng..." Hắn nhìn quanh phòng. "Làm sao các người tới được đây."

"Nhà này sao ?", Parker không thể ngăn mình. "Sự hoàn hảo", anh nói và nhìn nụ cười ngạo nghễ trượt khỏi bộ mặt của tên sát nhân. Anh tiếp, "Để trốn thoát sau một tội ác hoàn hảo mi cần những hộ chiếu hoàn hảo. Mi sẽ tìm đến người làm giả tốt nhất trong nghề. Vô tình ông ấy lại là bạn ta. Thực ra thì, cứ nói là chúng ta gần gũi với nhau; ta đã từng bắt ông ấy vào tù".

Trong một giây, Fielding thấy bối rối. "Nhưng lão không biết tên thật và địa chỉ của tôi."

"Không, nhưng mi đã gọi điện cho ông ấy", Parker đáp lại.

"Không phải từ nhà này", Fielding nói, rền rĩ và cãi chày cãi cối.

Cả Lukas cũng muốn dự phần giải mã tên tội phạm này. "Từ một quầy điện thoại công cộng ở trên phố." Cô gật đầu về phía góc nhà. "Chúng ta đã kiểm tra các số điện thoại trong máy ghi qua công ty bảo an Bell Atlantic". Rồi cô giơ một bức ảnh in ra từ máy tính cho Fielding. "Chúng ta lấy ảnh này từ một đoạn băng trong camera an ninh ở trụ sở FBI. Vừa cho mấy người quanh đây xem và được dẫn thẳng tới cửa trước nhà mi."

"Chết tiệt !" Hắn nhắm mắt.

Những thứ vụn vặt...

Parker nói, "Trong giới làm giả giấy tờ, có một câu nói bằng ngạn ngữ "bạn không thể nghĩ ra tất cả mọi tình huống" là không đúng. Mi phải nghĩ ra đủ mọi chuyện".

Fielding nói, "Tôi biết anh là một mắt xích quan trọng, Parker ạ. Mối nguy to lớn nhất. Đáng lẽ tôi phải bảo Digger chăm sóc anh ngay từ đầu".

Cage hỏi, "Mi không hề luyến tiếc khi hy sinh bạn mình à ?".

"Digger ư ? Anh ta không chính xác được gọi là bạn." Fielding nói thêm, "Anh ta quá nguy hiểm để được giữ lại mạng sống. Dù sao thì, như các người đã đoán ra, đây là vụ cuối của tôi. Tôi không cần đến anh ta nữa".

Một đặc vụ bước vào ngưỡng cửa. "Được rồi, Fielding. Xe của mi tới rồi."

Họ bắt đầu dẫn hắn ra. Hắn dừng lại ở cửa. Xoay người.

"Thừa nhận đi Parker, tôi rất giỏi", hắn nói một cách xấc xược. "Rốt cuộc, suýt nữa thì tôi đã thành công."

Parker lắc đầu. "Câu trả lời cho một câu đố chỉ có đúng hay sai thôi. Không bao giờ có 'suýt nữa'."

Nhưng khi đã được dẫn ra ngoài, Fielding vẫn còn đang mỉm cười.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35


Các công nhân đang đập bẹp chiếc xe buýt đã cháy.

Bên khám nghiệm pháp y đã xúc thi thể Digger mang đi, trong hai bàn tay hắn là một khẩu súng máy đen ngòm đã bị nung cháy một cách khủng khiếp.

Edward Fielding ngồi trong phòng tạm giam của Cục điều tra, chân bị xiềng, còn hai tay thì bị còng.

Trong lúc chào tạm biệt Cage và nhìn quanh tìm Margaret Lukas, Parker để ý thấy Thị trưởng Gerald Kennedy đang đi về phía họ. Ông đã ở đó với một đội quay phim vài ba người, cùng quan sát thiệt hại và nói chuyện với cảnh sát lẫn các nhân viên cứu hộ.

Giờ thì ông đang đi về phía họ.

"Thị trưởng", Cage chào.

"Tôi phải cảm ơn ông vì câu chuyện nhỏ trên bản tin phải không, đặc vụ Cage ? Chuyện ám chỉ tôi đã gây loạn trên thuyền ấy ?"

Một cái nhún vai. "Cuộc điều tra phải được ưu tiên hàng đầu, thưa ngài. Đáng lẽ ngài không nên xuất hiện ở khách sạn Rite. Thậm chí còn tốt hơn nữa nếu ngài chịu để chính trị đứng ngoài lề."

Kennedy lắc đầu. "Vậy theo tôi hiểu, ông đã bắt được kẻ đứng đằng sau vụ này"

"Chúng tôi đã bắt được hắn, thưa ngài."

Kennedy quay khuôn mặt hai cằm sang phía Parker. "Còn anh là đặc vụ..."

"Jefferson, thưa thị trưởng. Tên tôi là Tom"

"Ồ anh chính là người tôi đã nghe nói tới. Chuyên gia giám định tài liệu phải không ?"

"Đúng vậy", Parker nói "Tôi thấy rằng ngài cũng đã tham gia vài phát đạn khá là khéo léo."

"Chưa đủ khéo." Ngài thị trưởng gật đầu ủ rũ về phía chiếc xe buýt bốc khói. Và hỏi, "Anh có họ hàng với Thomas Jefferson không ?".

"Tôi ư ?", Parker cười phá lên. "Không, không. Đó là một cái tên phổ biến mà."

"Trợ lý của tôi tên là Jefferies", ông nói chuyện cứ như đang tán gẫu trong một bữa tiệc tối.

Rồi Lukas tới. Cô gật đầu với ngài thị trưởng và Parker có thể thấy nét căng thẳng trên gương mặt cô, cứ như cô đang trông đợi một cuộc đối đầu.

Nhưng tất cả những gì Kennedy nói lại là, "Tôi rất tiếc cho bạn của cô, đặc vụ Ardell".

Lukas không nói gì mà chỉ nhìn đăm đăm vào chiếc xe cháy sém.

Một phóng viên gọi, "Thưa thị trưởng, có lời đồn là tối nay ngài đã cố tình không gọi đến Cảnh vệ quốc gia vì nghĩ điều đó sẽ ảnh hưởng đến việc đi lại của khách du lịch. Ngài có bình luận gì không ạ ?".

"Không, tôi không bình luận gì." Cả ông cũng nhìn vào chiếc xe.

Lukas nói, "Tối nay hóa ra lại chẳng tốt lành cho bất kỳ ai, đúng không ?".

"Phải, đặc vụ Lukas ạ", Kennedy chậm rãi nói. 'Tôi không nghĩ những vụ như thế này lại có kết quả gì tốt đẹp".

Ông nắm lấy tay vợ và đi về chiếc limousine của họ.

Margaret Lukas đưa cho Cage vài tài liệu, có lẽ là báo cáo về bằng chứng và hồ sơ bắt giữ. Sau đó cô đi về phía chiếc Explorer của mình, mắt vẫn nhìn chiếc xe buýt Parker tự hỏi, "Chẳng lẽ cô ấy lại bỏ đi không một lời từ biệt ?".

Cô mở cửa, khởi động xe và bật lò sưởi lên, nhiệt độ đã tụt xuống thấp, bầu trời lúc này phủ dầy những đám mây dày, vẫn liên tục đổ xuống các đợt tuyết. Cô để mở cánh cửa xe và ngả người ra ghế.

Cage bắt tay Parker rồi lẩm bẩm, "Tôi có thể nói gì đây ?". Trước sự ngạc nhiên của anh, đặc vụ lão luyện vòng cánh tay quanh người anh và ôm thật chặt dù mặt ông đang nhăn lại vì đau, sau đó ông đi bộ xuống phố.

"Chúc ngủ ngon, Lukas", Cage nói to. "Chúc ngủ ngon, Parker. Trời ạ, mạng sườn tôi đau quá. Chúc mừng năm mới, mọi người. Chúc mừng năm mới chết tiệt."

Parker kéo khóa áo khoác và đi về phía xe tải của Lukas, để ý thấy cô đang nhìn gì đó trong tay mình. Parker không chắc nó là gì. Có vẻ như một tấm bưu thiếp cũ đã bị gập lại. Cô nhìn chằm chằm vào đó rồi liếc sang Parker với vẻ do dự. Ngay trước khi anh chui vào xe, cô đã cất tấm thiệp vào ví.

Cô lôi từ trong túi áo ra một chai bia hiệu Sam Adams, mở nó bằng chiếc chìa khóa đặt trên bảng điều khiển.

"Giờ họ còn bán cả thứ này trong máy bán hàng tự động ở trụ sở cơ à ?"

"Quà từ nhân chứng của tôi, ông Gary Moss đấy. Cô mời anh. Anh uống một ngụm lớn rồi đưa lại cho cô. Lukas vẫn ngồi trong chiếc Forđ nhưng xoay hẳn người lại, đối diện với Parker. "Một đêm nhiều biến cố nhỉ ?"

"Một đêm nhiều biến cố", anh lặp lại. Anh vươn người tới và đưa tay ra.

Cô nắm tay anh thật chặt. Cả hai đều đã tháo găng và mặc dù tay họ đang đỏ lên vì lạnh, da thịt họ vẫn có cùng nhiệt độ; Parker không thấy da cô lạnh cũng chẳng thấy ấm.

Không ai chịu buông tay. Anh nắm tay cô bằng bàn tay trái của mình.

"Bọn trẻ thế nào ?", cô hỏi. "Mà anh gọi bọn nó là gì nhỉ ?"

"Bọn Who."

"Who. Phải rồi. Anh nói chuyện với các con chưa ?''

"Chúng ổn cả." Anh miễn cưỡng thả tay ra. Có phải cô cũng thế không ? Anh chẳng thể biết được. Rồi anh hỏi, "Tôi nghĩ chắc cô cần một bản báo cáo ?". Anh nhớ lại đống giấy tờ mà các công tố viên Hoa Kỳ sẽ đòi hỏi để chuẩn bị cho phiên tòa cấp liên bang. Cả một núi. Nhưng Parker không phiền; rốt cuộc tài liệu chính là nghề của anh mà.

"Chúng ta sẽ cần", Lukas trả lời. "Nhưng không vội."

"Thứ hai tôi sẽ viết cho. Cuối tuần này tôi cần hoàn thành một dự án."

"Tài liệu à ? Hay sửa chữa nhà ?"

"Ý cô sửa nhà là phải dùng dụng cụ ấy hả ?" Anh cười lớn. "Không, tôi chẳng làm được đâu. Bếp núc thì tôi biết. Đóng bàn ghế, tàm tạm. Không, nó là một tài liệu bị nghi là giả mạo: Lá thư mà người ta cho là do Thomas Jefferson viết. Một thương nhân ở New York muốn phân tích nó."

"Có phải là thật không ?"

"Linh cảm của tôi mách bảo là thật. Nhưng tôi vẫn cần thêm vài bài kiểm tra nữa. À, đây..." Anh đưa cho cô khẩu súng ngắn.

Lúc này, Lukas đã chuyển sang mặc váy và không còn ăn vận thích hợp để giấu vũ khí dự bị trên cổ chân nữa. Cô liền nhét khẩu súng vào ngăn đựng găng. Mắt Parker lại lang thang đến khuôn mặt nghiêng nghiêng của cô.

Vì cái quái gì mà cô ấy ghen tị với mình nhỉ ? Anh thầm hỏi.

Đôi khi, các câu đố tự cho câu trả lời, theo thời gian.

Nhưng đôi khi, bạn chẳng bao giờ tìm được câu trả lời.

Parker Kincaid đã đi đến kết luận, nguyên nhân của chuyện đó chính là bạn không phải người do số mệnh định đoạt để giải câu đố ấy.

"Này, tối mai cô có làm gì không ?", đột nhiên anh hỏi. "Có muốn ăn một bữa tối ngoại ô kỳ cục không ?"

Cô do dự. Không đụng đậy lấy một cơ bắp nào. Thậm chí còn như đang không hít thở. Cả anh cũng không dám cử động, chỉ giữ nguyên nụ cười khẽ trên môi, giống như khi chờ đợi bọn Who thú nhận về những chiếc bánh quy bị mất tích hay một chiếc đèn vỡ.

Cuối cùng, cô cũng cười nhưng anh thấy đó là một nụ cười gượng, nụ cười của đá, giống hệt như mắt cô. Anh biết câu trả lời sẽ là gì.

"Tôi rất tiếc", cô nói chính thức. "Tôi có hẹn rồi. Có lẽ để khi khác."

Tức là: không bao giờ. Cuốn Cẩm nang dành cho các phụ huynh đơn thân của Parker Kincaid có hẳn một chương dành cho các loại uyển ngữ.

"Chắc chắn rồi", anh nói, cố đạp bằng nỗi thất vọng, "Để lúc khác nhé !"

"Xe anh đâu ?", Lukas hỏi. "Tôi sẽ cho anh đi nhờ.”

"Không sao đâu. Nó ở ngay kia." Anh nắm tay cô lần nữa và chống lại mong muốn kéo cô về phía mình.

"Chúc ngủ ngon", cô nói.

Anh gật đầu.

Trong lúc đi về xe của mình, anh vẫn nhìn cô và thấy cô đang vẫy tay. Đó là một cử chỉ kỳ lạ vì gương mặt cô vô cảm và không hề mỉm cười.

Rồi Parker nhận ra cô chẳng phải đang vẫy tay gì hết. Cô đang vẽ vệt mờ trên kính cửa sổ, thậm chí còn không nhìn đến anh. Khi đã lau xong cửa kính, Margaret Lukas vào số rồi lao ra đường.

***

Trên đường về nhà, lái xe qua những đường phố tĩnh lặng và phủ đầy tuyết, Parker dừng lại ở một cửa hàng 7-Eleven để mua cà phê đen, bánh sừng bò phủ thịt hun khói cùng trứng, và rút tiền từ máy ATM. Ngay khi bước vào nhà, anh thấy bà Cavanaugh đang ngủ gật trên ghế sô pha.

Anh đánh thức bà rồi trả cho bà gấp đôi số tiền bà đòi hỏi. Sau đó, anh tiễn bà ra cửa và đứng ở bậc thềm, nhìn bà từ tốn lội tuyết cho đến khi biến mất vào nhà của mình ở bên kia con phố.

Bọn trẻ đã ngủ trên giường anh, trong căn phòng có một chiếc ti vi và đầu video của anh. Màn hình vẫn sáng xanh, chứng cứ xác thực cho thấy bọn chúng đã xem một bộ phim. Anh sợ phải tìm xem phim nào đã ru được chúng vào giấc ngủ. Anh có một bộ sưu tập các phim hành động dán nhãn và phim khoa học viễn tưởng, nhưng cuộn băng được đầu máy thả ra lại là Vua Sư tử. Thế cũng phiền lắm rồi, Robby sẽ mãi ghét cay ghét đắng loài linh cẩu, nhưng ít nhất nó cũng có một cái kết cao thượng và ít bạo lực.

Parker đã kiệt sức, thậm chí còn hơn cả kiệt sức. Nhưng anh cảm thấy giấc ngủ vẫn phải đợi thêm một vài giờ nữa.

Bất chấp việc anh đã bảo không cần làm, bà Cavanaugh vẫn rửa bát và lau dọn nhà bếp, thế nên anh chẳng thể triệt tiêu năng lượng vào những việc đó. Thay vì vậy, anh dọn rác quanh nhà và mang ra sân vứt, anh cõng những cái túi màu xanh trên vai như ông già Santa. Và nghĩ bụng: Một cuộc đời khùng điên biết bao, mới một giờ trước còn chĩa súng vào ai đó, bản thân thì bị bắn, và giờ lại trở về giữa vùng ngoại ô, mải miết làm việc nhà.

Trong lúc nhấc nắp thùng rác lên, Parker liếc nhìn vào sân. Anh dừng tay, cau mày. Trên tuyết có rất nhiều dấu chân.

Những dấu chân còn mới.

Chỉ mới vài phút trước, anh đánh giá, các đường nét vẫn còn sắc nét, chưa bị lớp tuyết mới và gió làm cho mờ nhạt. Kẻ đột nhập đã đi bộ tới cửa sổ của phòng dành cho khách rồi biến mất khi tiến về phía cửa trước.

Trái tim Parker bắt đầu đập loạn nhịp.

Anh cẩn thận đặt túi rác xuống và lặng lẽ trở vào nhà.

Anh đóng và khóa cửa bếp lại sau lưng. Kiểm tra cửa chính. Nó vẫn khóa. Vì nghề giám định tài liệu của anh, giá trị của những mẫu vật cùng nguy cơ ô nhiễm và bụi trong không khí, nên mọi cửa sổ trong nhà đều được gắn cố định và chẳng thể mở ra; anh không cần phải kiểm tra chúng.

Nhưng là dấu chân của ai ?

Có lẽ chỉ là của bọn trẻ.

Hoặc ông Johnson đang đi tìm con chó.

Chỉ có thế. Chắc chắn...

Nhưng mười giây sau, anh vẫn gọi điện đến Trại tạm giam của Liên bang ở Đặc khu Washington.

Anh xưng danh là đặc vụ FBI Parker Kincaid, câu tuyên bố chỉ bị sai biệt mất vài năm. "Tôi đã tham gia vụ án tối nay với Margaret Lukas."

"Chắc chắn rồi. Vụ METSHOOT."

"Đúng vậy. Tôi hơi bị lo xa", Parker nói. "Những nghi phạm Edward Fielding chưa được ai bảo lãnh đúng không ?"

"Bảo lãnh ư ? Không đời nào. Đến thứ Hai, hắn mới bị cáo buộc cơ."

"Hắn bị giam rồi chứ ?"

"Vâng. Tôi vẫn thấy hắn đây. Trên màn hình."

"Ngủ rồi à ?"

"Không, chỉ ngồi trên giường thôi. Cư xử đàng hoàng lắm. Đã nói chuyện với luật sư của hắn, khoảng một giờ trước, rồi trở lại phòng giam và ở đấy từ đó đến giờ. Sao vậy ?"

"Tôi đoán là mình chỉ hơi bị hoảng. Nghĩ là đã trông thấy ông ba bị đấy mà."

"Ông ba bị. Ha ha. Chúc mừng năm mới anh nhé !"

Parker cúp máy, nhẹ cả người.

Trong khoảng năm giây.

Nói chuyện với luật sư của hắn ư ?

Parker không biết trên đất nước này, có vị luật sư nào lại sẵn sàng thức giấc giờ này, giữa ngày lễ, để nói chuyện với một khách hàng còn chưa bị cáo buộc cho đến hai ngày tới.

Rồi anh nghĩ: Sự hoàn hảo.

"Ôi Lạy Chúa", anh lẩm bẩm.

Holding, kẻ đã lên kế hoạch cho tất cả mọi chuyện. Chắc chắn hắn đã lên kế hoạch bỏ trốn nếu bị bắt.

Anh nhấc ống nghe lên và bấm con số đầu tiên của số 911.

Đường điện thoại bị ngắt.

Đứng lừng lững trên hiên sau và đang nhìn vào anh qua lớp cửa sổ là một người đàn ông. Hắn trắng bệch. Mặc một chiếc áo khoác tối màu. Đen hoặc xanh đen. Trên cánh tay trái có máu nhưng không nhiều. Mặt hắn bị bỏng song không nghiêm trọng lắm.

Hắn giơ khẩu súng máy đã lắp ống giảm thanh lên và kéo cò đúng lúc Parker lao sang một bên, đâm sầm vào tường và ngã ra sàn. Tay nắm cùng khóa cửa bị thổi bay dưới loạt đạn. Những mảnh kính vụn nổ tung vào trong phòng.

Digger từ tốn đẩy cửa mở và bước vào trong, cứ như người hàng xóm thân thiện được mời tới uống cà phê.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36


Digger bị lạnh, Digger muốn làm cho xong chuyện này và bỏ đi.

Hắn thà ở ngoài trời. Hắn thích... click... thích... tuyết

Hắn thích tuyết.

Ồ nhìn này, vòng hoa và cây Noel ở ngôi nhà ấm cúng của Parker Kincaid rất đẹp. Tye sẽ thích lắm.

Buồn cười thật...

Không có chó con, cũng chẳng có ruy băng. Nhưng nó là một cái vòng hoa và cây Noel xinh đẹp.

Hắn lại bắn lần nữa trong lúc Kincaid đang chạy qua ngưỡng cửa.

Hắn có bắn trúng không nhỉ ? Digger không biết.

Nhưng chắc là không. Hắn thấy Kincaid bò vào một phòng khác, tắt đèn và lăn tròn trên sàn.

Làm những việc tương tự như vậy.

Digger tin là mình đang vui. Người đàn ông chỉ dạy hắn mọi điều đã gọi điện lại khoảng một giờ trước. Không phải lời nhắn thoại từ giọng người phụ nữ giống Ruth mà là một cuộc gọi hẳn hoi trên điện thoại của hắn. Anh ta bảo Digger rằng đêm nay còn chưa kết thúc, dù Digger đã tới bức tường đen và làm đúng như hắn được bảo.

Chưa... click... chưa xong.

"Nghe này", người đàn ông chỉ dạy hắn mọi điều đã nói và thế là Digger lắng nghe. Hắn phải giết ba người nữa. Ai đó tên Cage, một người tên Lukas. Và Parker Kincaid. "Giết hắn ta trước tiên. Được không ?"

"Hừm, được."

Digger biết Kincaid. Tối nay, hắn đã tới nhà anh ta. Kincaid có một cậu con trai nhỏ giống Tye, chỉ có điều Digger không thích con trai của Kincaid, bởi vì Kincaid muốn đưa Digger quay lại cái bệnh viện tồi tàn ở Connecticut. Kincaid muốn đưa hắn rời khỏi Tye.

"Rồi lúc bốn giờ ba mươi sáng", người đàn ông chỉ dạy hắn mọi điều nói, "tôi muốn anh tới Trại tạm giam Liên bang ở phố Third. Tôi sẽ ở trong phòng Y tế. Nó nằm ở tầng một, phía sau tòa nhà. Tôi sẽ giả vờ mình bị ốm. Giết tất cả mọi người ở đó và cứu tôi ra".

"Được."

Đi vào phòng ăn, Digger trông thấy Kincaid lăn ra khỏi gầm bàn và chạy vào sảnh. Hắn bắn một loạt đạn nữa. Mặt Kincaid giống hệt mặt Ruth khi hắn sắp sửa găm mảnh kính vào cổ cô ta và giống Pamela khi hắn đâm con dao vào ngực vợ mình, bên dưới cây Thánh giá bằng vàng, đây là quà Giáng sinh của em, tôi càng yêu em nhiều hơn...

Kincaid biến mất ở phần khác của ngôi nhà.

Nhưng anh ta sẽ không bỏ đi, Digger biết. Bọn trẻ còn ở đây.

Một người cha sẽ không bỏ rơi con mình.

Digger biết bởi vì hắn sẽ không bỏ Tye. Kincaid cũng sẽ không bỏ thằng nhỏ tóc vàng và con nhỏ tóc nâu.

Nếu Parker Kincaid còn sống, Digger sẽ chẳng bao giờ đến được Califomia. Miền tây.

Hắn bước vào phòng khách, giơ khẩu súng trước mặt.

Parker lăn xa khỏi Digger, dọc theo sàn nhà, hai khuỷu tay trầy xước, đầu ong ong ở chỗ va vào cạnh bàn ăn, tránh xa khỏi làn đạn.

Bọn Who ! Anh nghĩ trong lúc tuyệt vọng và bò lên cầu thang. Anh sẽ không để Digger lên trên. Anh thà chết trong lúc bám lấy cổ hắn nếu phải làm vậy, nhưng sẽ cứu các con của mình.

Lại một loạt đạn khác. Anh tránh khỏi cầu thang để lộn nhào vào phòng khách.

Một thứ vũ khí... Anh có thể dùng cái gì nhỉ ? Nhưng chẳng có gì. Anh không thể vào trong bếp và lấy một con dao. Anh cũng chẳng thể vào gara để lấy rìu.

Thế quái nào mà anh lại trả khẩu súng cho Lukas ?

Rồi anh trông thấy một vật, một trong những món quà Giáng sinh của Robby là cây gậy bóng chày. Anh giật lấy nó, nắm chặt tay cầm quấn băng dính rồi bò trở lên cầu thang. Hắn đâu ? Ở đâu ?

Tiếng những bước chân, nhẹ thôi. Tiếng Digger đi qua những mảnh kính và chậu hoa vỡ.

Nhưng Parker không biết hắn ở đâu.

Tiền sảnh chăng ?

Phòng ăn ? Phòng làm việc ở tầng một ?

Anh phải làm gì ?

Nếu anh hét lên bảo bọn trẻ nhảy qua cửa sổ, chúng sẽ chỉ chạy ra xem anh muốn nói gì. Anh phải tự trèo lên gác, ôm lấy chúng và nhảy xuống. Anh sẽ cố giảm nhẹ cú ngã hết sức có thể. Tuyết sẽ giúp anh và anh có thể nhảy vào bụi bách xù.

Tiếng bước chân rất gần. Lạo xạo. Dừng. Thêm tiếng lạo xạo.

Parker nhìn lên.

Không ! Digger đã ở chân cầu thang, chuẩn bị trèo lên, mắt ngước lên. Mặt hắn không có chút biểu cảm nào.

Hắn là kẻ phản tâm lý...

Parker không thể chạy tới chỗ hắn; anh sẽ lộ diện hoàn toàn và bị giết trước khi bước nổi ba bước về phía hắn. Vì vậy, anh quăng chiếc gậy vào phòng ăn, làm vỡ chiếc tủ đựng đồ sứ.

Digger dừng bước, nghe ngóng những tiếng động. Hắn quay người cứng ngắc và đi về phía đó. Giống như con quái vật ngoài hành tinh trong bộ phim kinh dị cũ The Thing.

Khi tới gần ngưỡng cửa mái vòm, Parker trèo ra từ đằng sau ghế sô pha và lao vào hắn.

Anh còn cách con mồi gần hai mét thì đạp trúng đồ chơi của Robby. Nó vỡ tan cùng một tiếng rắc thật to. Digger quay phắt lại ngay khi Parker đâm sầm vào hắn, làm hắn ngã khuỵu. Anh tung được một cú đấm vào cằm tên sát nhân. Nó rất mạnh nhưng Digger đã tránh được, còn Parker thì bị ngã sang một bên theo quán tính. Anh đổ rầm xuống sàn, cố giật lấy súng của Digger. Nhưng hắn quá nhanh so với anh và đã tóm được khẩu súng rồi lảo đảo đứng dậy. Parker không thể làm gì khác ngoài lùi vào khoảng không chật hẹp phía sau ghế.

Mặt anh toát mồ hôi, hai tay thì run rẩy trong lúc co rúm người ở đó.

Không còn chỗ nào mà đi.

Digger đứng dậy được và đang định hướng. Parker trông thấy một vật sắc nhọn trên sàn nhà trước mặt. Lấp lánh. Một mảnh kính dài. Anh liền tóm lấy nó.

Tên giết người nheo mắt nhìn quanh. Hắn nhìn thấy Parker, lúc này đang nhìn lên đôi mắt mờ đục của hắn. Parker nghĩ, "Không, mắt của Margaret Lukas chẳng hề chết; trong đó mang triệu lần sự sống hơn mắt của sinh vật này". Tên giết người tiến lại gần hơn. Bước vòng ra sau ghế. Parker cứng người. Rồi anh nhìn qua người hắn và thấy cây thông Noel. Ba bố con, anh và bọn Who đã cùng mở quà trong buổi sáng Giáng sinh.

Một ý nghĩ tốt đẹp để mang theo khi chết, anh tự xác định.

Nhưng nếu anh sắp chết thì phải đảm bảo bọn trẻ sẽ được an toàn. Parker nắm chặt mảnh kính dài, quấn tay áo sơ mi quanh nửa dưới của nó. Anh sẽ cắt tĩnh mạch cổ của hắn và cầu cho hắn chảy máu đến chết trước khi kịp lên tầng hai, nơi các con anh đang ngủ. Anh không dám nghĩ đến cảnh tượng bọn Who sẽ trông thấy vào buổi sáng. Anh thủ thế và nắm chặt con dao tự chế.

Mọi chuyện sẽ ổn. Bọn trẻ sẽ sống. Đó mới là điều quan trọng.

Anh đã sẵn sàng lao tới.

Digger vòng qua ghế và giơ súng lên.

Parker đông cứng người.

Rồi: Tiếng nổ giòn choáng váng của một phát đạn không được giảm thanh.

Digger rùng mình. Khẩu súng máy rơi khỏi tay hắn. Mắt hắn tập trung vào Parker. Rồi đầu hắn gục xuống và hắn đổ ầm ra sàn. Hắn ngã úp mặt, một lỗ đạn ngay phía sau sọ não.

Parker tóm lấy khẩu Uzi và kéo nó về phía mình, nhìn quanh.

Chuyện gì ? Anh điên cuồng tự hỏi. Chuyện gì đã xảy ra ?

Rồi anh trông thấy ai đó trên ngưỡng cửa.

Một cậu bé... Làm sao có thể ? Đó chỉ là một cậu bé. Da đen. Cầm một khẩu súng ngắn. Rồi cậu bé từ từ đi tới, nhìn chăm chăm vào cái xác. Giống như cảnh sát trong các bộ phim hành động, cậu bé vẫn giữ khẩu súng chĩa vào lưng Digger, bằng cả hai tay và đang phải vật lộn với sức nặng của nó.

"Ông ta giết bố cháu", cậu bé nói với Parker mà không hề nhìn anh. "Cháu đã trông thấy."

"Đưa chú khấu súng", Parker thì thầm.

Cậu bé tiếp tục nhìn đăm đăm vào Digger. Nước mắt chảy xuống má cậu. "Ông ta giết bố cháu. Ông ta mang cháu đến đây, trong ô tô."

"Làm ơn đưa chú khẩu súng. Cháu tên là gì ?"

"Cháu đã thấy ông ta làm thế. Ngay trước mặt cháu. Cháu đã chờ để bắn bỏ ông ta. Tìm được cái này trong xe của ông ta. Khẩu 357V"

"Được rồi", Parker nói. "Cháu tên là gì ?"

"Ông ta chết rồi. Chết tiệt".

Parker nhích tới nhưng cậu bé lại chĩa súng về anh với vẻ đầy đe dọa. Parker cứng người và lùi lại, "Chỉ việc đặt thứ đó xuống. Cháu làm thế được không ? Làm ơn ?".

Cậu bé lờ anh đi. Đôi mắt sợ hãi của nó nhìn khắp phòng. Chúng dừng lại chốc lát trên cây thông. Rồi quay về phía Digger. "Ông ta giết bố cháu. Sao lại thế ?"

Parker từ từ đứng dậy một lần nữa, hai tay giơ lên cao, lòng bàn tay ngửa ra. "Đừng lo. Chú sẽ không làm hại cháu".

Anh liếc nhìn lên gác. Nhưng rõ ràng phát súng đã không làm bọn Who thức giấc.

"Chú chỉ đi ra kia một phút thôi." Anh gật đầu về phía cái cây.

Anh men qua người cậu bé lẫn vũng máu bao quanh đầu Digger và đi tới chỗ cây thông. Parker cúi xuống nhặt một thứ gì đó lên trước khi trở lại và quỳ xuống, rồi giơ bàn tay phải không có gì ra cho cậu bé, mặt ngửa lên. Và tay trái anh đưa cho cậu bé chiếc tàu con thoi Miliennium Falcon trong phim Chiến tranh giữa các vì sao của Robby.

"Chú sẽ đổi cho cháu."

Cậu bé nhìn ngắm món đồ chơi bằng nhựa. Khẩu súng chúi xuống. Cậu bé nhỏ con hơn Robby nhiều và chắc là chỉ nặng ba mươi, ba lăm cân. Nhưng đôi mắt thì già dặn hơn mắt con trai Parker đến hai mươi tuổi.

"Làm ơn đưa cho chú khẩu súng."

Cậu bé ngắm đồ chơi rồi nói với vẻ tôn kính, "Chà". Sau đó đưa khẩu súng cho Parker và cầm lấy món đồ.

Parker nói, "Chờ ở đây nhé. Chú sẽ trở lại ngay. Cháu có muốn ăn gì không ? Cháu có đói không ?".

Cậu bé không trả lời.

Parker nhặt khẩu súng máy lên và mang nó cùng súng ngắn lên gác. Anh đặt cả hai vào ngăn trên cùng của tủ quần áo rồi khóa lại.

Có cử động phía sau anh. Robby đang đi xuống hành lang.

"Ba ơi ?"

"Chào chàng trai." Parker vật lộn để giọng mình khỏi run.

"Con nằm mơ đấy. Con nghe thấy tiếng súng. Con sợ lắm"

Parker chắn ngang thằng bé trước khi nó bước tới cầu thang, vòng tay qua người nó và dẫn nó về lại phòng ngủ. "Chắc là pháo hoa đấy thôi."

"Sang năm mình chơi pháo được không ạ ?", thằng bé ngái ngủ hỏi.

"Để xem đã."

Anh nghe tiếng bước chân bên ngoài, ai đó chạy trên phố phía trước nhà. Parker liếc nhìn ra. Anh thấy cậu bé đang chạy ngang qua bãi cỏ đằng trước, tay vẫn ôm chặt con tàu. Rồi cậu bé biến mất trên phố.

Nhưng đi đâu ? Parker tự hỏi. Tới Đặc khu ? Tây Virginia ? Anh không thể dành một giây nào để nghĩ về cậu bé. Con trai anh đã choán hết tư tưởng của anh rồi.

Parker đưa Robby trở lại giường, nằm bên em gái nó. Anh cần tìm điện thoại di động để gọi 911. Nhưng thằng bé không chịu buông tay bố.

"Giấc mơ tệ lắm à con ?", Parker hỏi.

"Con không biết. Chỉ là có tiếng động."

Parker nằm xuống cạnh thằng bé. Anh liếc nhìn đồng hồ. Giờ là ba rưỡi. Joan sẽ có mặt ở đây lúc mười giờ, cùng nhân viên xã hội của cô ta... Chúa ơi, đúng là cơn ác mộng. Trên tường có cả tá lỗ đạn. Đồ đạc thì bị hỏng, tủ kính võ toang. Cửa hậu cũng bị phá.

Ở giữa thảm trải sàn lại là một cái xác máu me.

"Ba ơi", Stephie lẩm bẩm bằng giọng ngái ngủ của nó.

"Không sao đâu cưng !"

"Con nghe thấy tiếng pháo. Petey Whelan có pháo đấy. Mẹ nó bảo nó không được mua nhưng nó lại có. Con thấy mà."

"Đó không phải việc của mình, con ạ. Ngủ lại đi cưng."

Parker nằm xuống, nhắm chặt mắt. Cảm nhận trọng lượng nhẹ bẫng của con trên ngực mình.

Nghĩ về những lỗ đạn, vỏ đạn, đồ đạc vỡ tung. Và cái xác.

Anh tưởng tượng ra lời chứng của Joan trước tòa.

Anh có thể làm gì ? Có thể nghĩ ra lời biện hộ nào ?

Có thể...?

Một lát sau, Parker Kincaid đã hít thở sâu. Hài lòng trong giấc ngủ của một ông bố đang được ôm các con mình thật chặt và không còn giấc ngủ nào tuyệt vời hơn thế.

Khi anh mở mắt ra, chỉ còn năm phút nữa là tới mười giờ sáng.

Parker bị đánh thức bởi tiếng cửa xe đóng sầm và giọng Joan nói, "Chúng ta đến sớm vài phút nhưng tôi chắc là anh ta không thấy phiền đâu. Cẩn thận bước chân, anh ta biết chúng ta sẽ đến mà không buồn xúc tuyết trên lối đi. Đúng là kiểu của anh ta. Quả là vậy".
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
623,263
Điểm cảm xúc
35
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37


Anh lăn khỏi giường.

Buồn nôn, đầu ong ong, anh nhìn ra ngoài cửa sổ. Joan đang tiến về phía ngôi nhà. Richard đi cùng cô ta, sưng sỉa ôm đồm quà cáp. Anh ta không muốn có mặt ở đây. Còn một người phụ nữ khác nữa: nhân viên xã hội. Thấp, lộp cộp trên đôi giày cao gót chới với, nhìn ngôi nhà với vẻ xét đoán.

Họ đã đến cửa trước. Chuông reo.

Vô vọng rồi...

Anh đứng ở hành lang tầng hai, ngón chân co quắp trên thảm. Chỉ cần không cho cô ta vào, anh tự bảo mình. Anh sẽ cấm cửa. Bắt cô ta phải có lệnh của tòa. Như thế sẽ kéo dài thêm được vài giờ.

Parker ngập ngừng nhìn hai con đang ngủ. Anh muốn ôm lấy chúng mà nhảy ra cửa sau, lái nhanh tới Tây Virginia.

Nhưng cách đó không hiệu quả, anh biết.

Chuông lại reo.

Mình làm gì được ? Làm sao mình trì hoãn đây?

Nhưng Joan sẽ vẫn biết nếu có điều không ổn. Trì hoãn càng khiến người phụ nữ đa nghi ấy thêm tò mò. Mà hai hay ba tiếng đồng hồ thì giúp gì cho anh ?

Anh hít một hơi sâu và bắt đầu đi xuống cầu thang.

Anh có thể nói gì về những vết đạn trên tường ? Máu ? Có lẽ...

Parker sững lại ngay trên bậc nghỉ.

Choáng váng.

Một người phụ nữ mảnh mai, tóc vàng trong chiếc váy đen và áo sơ mi trắng ra mở cửa trong lúc đang quay lưng lại với anh.

Bản thân việc đó đã đáng kinh ngạc rồi. Nhưng thứ thực sự làm anh bị sốc là tình trạng ngôi nhà.

Chẳng chê vào đâu được.

Không thấy một mẩu kính hay đồ sứ vỡ. Cũng chẳng một lỗ đạn trên tường. Chúng đã được trát lại và sơn lót; mấy thùng sơn đang nằm trên lớp vải bạt màu trắng ở góc phòng khách. Chiếc ghế bị nổ tung vì đạn đêm qua đã được thay bằng chiếc tương tự. Tủ cũng là một cái mới tinh.

Xác của Digger thì không thấy đâu. Ở chỗ hắn nằm chết giờ là một chiếc thảm phương đông mới toanh.

Cùng với loan, Richard và nhân viên xã hội đang đứng trước cửa, người phụ nữ trong chiếc váy đen chợt quay lại. "Parker à", Margaret Lukas nói.

"Ừ", một giây sau, anh trả lời.

Cô mỉm cười kỳ lạ.

Anh thử lại, "Chào em !".

"Giấc ngủ của anh thế nào ?", cô hỏi. Rồi đế thêm, "Ngủ ngon chứ ?".

"Ừ", anh nói. "Ngon."

Lukas quay lại và gật đầu với các vị khách. Cô nói với Joan, "Chắc cô là vợ của Parker".

"Vợ cũ", Joan nói và bước vào trong. Nhân viên xã hội, một phụ nữ mập lùn, bước vào sau cô ta, tiếp theo là anh chàng Richard đẹp trai nhưng đần thối.

Parker đi xuống tiếp và không thể không chạm vào tường ở chỗ anh biết rằng đêm qua có một loạt vết đạn. Lớp vữa mượt như má của Stephie vậy.

Anh bị đau khủng khiếp ở trên vai và đầu, ở những chỗ va chạm vào sàn nhà đêm qua, trong lúc Digger đi vào qua cửa bếp. Nếu không phải vì chúng, anh đã nghĩ toàn bộ cuộc tấn công chỉ là một giấc mơ.

Anh nhận ra Joan đang trừng trừng nhìn mình bằng nụ cười không chút hài lòng. "Tôi vừa bảo, 'Chào anh' đấy !"

"Chào em, Joan", anh nói "Chào Richard." Parker bước ra giữa phòng khách và hôn lên má Joan, bắt tay chồng cô ta. Richard mang theo một túi đầy ắp gấu bông.

Joan không giới thiệu Parker với nhân viên xã hội nhưng cô ta bước lên rồi bắt tay anh. Hình như cô ta có nói tên. Parker còn đang mụ mẫm hết cả người nên chẳng để ý lắm.

Joan nhìn Lukas, 'Tôi không nghĩ mình đã gặp nhau. Cô là..'.

"Jackie Lukas. Một người bạn của Parker."

Jackie à ? Parker nhướng một bên lông mày. Viên đặc vụ có thấy nhưng không nói gì thêm.

Joan liếc cơ thể thon gọn của Lukas bằng cái nhìn trung lập. Rồi mắt cô ta, màu mắt quá giống Robby nhưng biểu cảm lại khác xa, đảo khắp phòng khách.

"Anh vừa ?... Anh vừa làm gì đấy ? Trang trí lại hay gì à ? Tối qua, tôi đã không để ý."

"Tôi rảnh rỗi một lát. Nên nghĩ cần sửa sang chút đỉnh."

Vợ cũ ngắm anh. "Trông anh kinh quá, Parker. Anh ngủ không ngon à ?"

Lukas cười phá lên. Joan liếc cô.

"Parker mời tôi tới ăn sáng", Lukas giải thích, dành cho hai người phụ nữ một cái nhìn kiểu đồng phạm. "Rồi anh ấy lên gác để đánh thức lũ trẻ và lại lăn ra ngủ với chúng."

Tiếng làu nhàu của Joan nhắc lại điều cô ta vừa mới nói: Đúng kiểu của anh ta.

Chỗ máu đâu rồi nhỉ ? Đã có nhiều máu thế cơ mà.

Lukas hỏi các vị khách, "Mọi người muốn uống cà phê không ? Bánh cuộn nhé ? Parker tự làm đấy".

"Tôi xin ít cà phê", nhân viên xã hội nói. "Và có lẽ là nửa cái bánh cuộn."

"Bánh nhỏ lắm", Lukas nói. "Hay lấy cả cái nhé !"

"Vậy cũng được."

Lukas biến vào trong bếp và một lát sau, quay ra với một cái khay. Cô nói, "Parker nấu ăn khá lắm".

"Tôi biết", Joan trả lời, không hề bị ấn tượng với tài năng của chồng cũ.

Lukas đưa cà phê cho từng người và hỏi Parker, "Đêm qua mấy giờ anh mới từ bệnh viện về ?".

"Ừm."

"Bệnh viện à ? Bọn trẻ ốm à ?", Joan hỏi bằng giọng lo lắng một cách kịch tính, trong lúc liếc nhìn nhân viên xã hội.

"Anh ấy đi thăm một người bạn", Lukas đáp lời.

"Anh không biết là mấy giờ", Parker nói. "Muộn lắm à ?" Câu trả lời thực ra lại là câu hỏi; Lukas là tác giả kịch bản nên anh cảm thấy mình nên dựa theo.

"Bạn nào ?", Joan tra hỏi.

"Harold Cage", Lukas nói. "Ông ấy ổn cả. Chỉ bị gãy xương sườn. Họ nói thế phải không ?"

"Gãy xương."

"Trượt chân ngã phải không nhỉ ?", Lukas tiếp tục màn diễn đáng nhận giải thưởng của mình.

"Phải", Parker nhái theo. "Trượt chân ngã".

Anh hớp một ngụm cà phê do Lukas đưa cho.

Nhân viên xã hội đã ăn đến cái bánh thứ hai. "Chà, tôi xin công thức cho món này được chứ ?"

"Chắc chắn rồi", Parker nói.

Joan tiếp tục giữ nụ cười hiền lành trên khuôn mặt. Cô ta đi quanh phòng khách thám thính. "Chỗ này trông khác quá !" Lúc đi ngang chồng cũ, cô ta thì thầm, "Sao hả Parker, đang ngủ với Jackie gầy gò bé nhỏ đấy à ?".

"Không, Joan. Bọn tôi chỉ là bạn"

“À..”

'Tôi lấy thêm cà phê nhé !", Lukas nói.

"Để anh giúp", Parker cũng nói.

Trong bếp, anh đóng chặt cửa lại và quay sang Lukas. Anh thì thào, "Làm thế nào ? Thế quái nào...?".

Cô cười phá lên, chắc chắn là vì biểu hiện trên mặt anh. "Tối qua anh gọi đến Trại tạm giam. Nói là anh thấy sợ. Gác ca đêm đã gọi cho tôi. Tôi cố gọi điện cho anh. Bell Atlantic nói đường dây nhà anh bị cắt. Đội SWAT của hạt Fairfax đến đây lúc ba rưỡi, âm thầm đột nhập và phát hiện một cái xác dưới nhà, còn anh thì đang ngủ trên tầng. Ai đã bắn hạ Digger vậy ? Không phải anh đấy chứ ?"

"Một thằng bé. Nó nói Digger đã giết bố nó. Digger mang nó đi cùng. Đừng hỏi tôi tại sao. Thằng bỏ đã bỏ chạy... Giờ trả lời tôi một câu nhé: Cái xác trên xe buýt là ai ?"

"Tài xế. Chúng tôi cho là Digger đã để anh ta sống rồi bắt anh ta chạy tới cửa sau. Sau đó, Digger bắn anh ta và bình xăng phát nổ, khi lửa bốc lên, hắn đã trèo ra ngoài qua cửa sổ. Dùng khói để ngụy trang. Trốn thoát trong đám kẹt xe. Khôn hơn vẻ ngoài nhỉ."

Nhưng Parker lắc đầu. "Không, là Fielding đấy. Hắn đã bảo Digger làm vậy. Hắn chẳng định hy sinh anh ta một chút nào. Đây sẽ không phải vụ cuối cùng của chúng. Có thể còn thêm nhiều năm tới... Nhưng còn ngôi nhà." Parker vẫy cả hai tay. "Làm thế nào...?"

"Cage đấy. Ông ấy đã gọi vài cuộc".

Đúng là người tạo ra kỳ tích.

"Tôi không biết phải nói gì."

"Chúng tôi đã đưa anh vào vụ lộn xộn này. Đây là điều tối thiểu mà chúng tôi làm được."

Parker sẽ không tranh cãi với câu đó.

"Chờ đã... Cô vừa bảo mình tên gì nhỉ ? Jackie ?"

Cô ngập ngừng. "Biệt danh", cô nói. "Gia đình vẫn gọi tôi như thế. Tôi không dùng tên đó nhiều lắm."

Trên cầu thang có tiếng bước chân khẽ khàng khi bọn trẻ đi xuống phòng khách. Parker và Lukas có thể nghe thấy tiếng chúng vọng qua cửa bếp. "Mẹ ! Mẹ à !"

"Chào con", Joan nói. "Đây đây... Của con đây !"

Tiếng loạt xoạt của giấy.

"Con thích không ?", Joan hỏi. "Thích không ?"

Giọng hoài nghi của Stephie nói, "Ồ, đây là Barney".

Robby cười phá lên. Rồi nó rên rỉ. "Và Big Bird"

Parker lắc đầu trước sự thiếu sót của vợ cũ và cười với Lukas. Nhưng cô không để ý. Đầu cô đã quay sang hướng phòng khách, hoàn toàn bị mê hoặc vì tiếng của trẻ nhỏ. Một lát sau, cô nhìn ra ngoài cửa sổ vào màn tuyết rơi. Cuối cùng cô nói, "Vậy ra đó là vợ anh. Hai người có vẻ không giống nhau lắm nhỉ".

Parker cười. Ý của Lukas thực ra là: Làm thế quái nào mà anh lại lấy cô ta ?

Một câu hỏi đúng đắn và là câu anh sẵn sàng trả lời. Nhưng làm thế đòi hỏi nhiều thời gian hơn họ đang có lúc này. Và nó cũng sẽ là một phần trong nghi lễ phức tạp mà cô phải chia sẻ ít nhất vài câu trả lời cho bí ẩn mang tên Margaret hay Jackie Lukas của mình.

Mà cô thì bí ẩn biết bao: Parker nhìn cô khắp một lượt, nào trang điểm, nào đồ trang sức. Chiếc áo sơ mi trắng mềm mại, lớp ren tinh tế của đồ lót bên trong. Và hôm nay, cô lại xịt nước hoa, chứ không chỉ có mùi xà phòng thơm. Nó nhắc anh nhớ tới gì nhỉ ? Anh không biết được.

Cô liếc nhìn ánh mắt tọc mạch của anh.

Lại bị bắt quả tang. Anh không quan tâm.

Parker nói, "Trông cô chẳng giống đặc vụ FBI gì cả".

"Hoạt động ngầm", Lukas nói và cuối cùng cũng cười. "Tôi từng giỏi lắm đấy. Tôi đã đóng vai vợ của sát thủ mafia."

"Người Ý ? Với mái tóc kia à ?"

"Tôi có sự trợ giúp của Quý cô Clairol mà." Cả hai không ai nói gì. "Tôi sẽ ở lại đến khi cô ta đi. Một chút đời sống gia đình chắc sẽ giúp ích cho anh trước nhân viên xã hội."

"Như thế là đòi hỏi quá nhiều so với một nhiệm vụ", anh nói.

Cô nhún vai một cái y hệt Cage.

"Nghe này", anh nói. "Tôi biết cô đã bảo là mình có hẹn rồi. Nhưng bọn Who và tôi định sửa sang cái sân."

'Trong tuyết à ?''

"Ừ. Cắt bụi rậm ở sân sau ấy mà. Rồi chúng ta sẽ đi trượt tuyết nhé ? Sao nào, ở đây không thường xuyên có tuyết mà ?"

Anh ngừng nói. Kết thúc một câu kể bằng cách nhấn giọng hỏi ư ? Lại còn bắt đầu câu bằng "Sao nào". Nhà ngôn ngữ học trong anh không hài lòng chút nào. Chắc là lo lắng đây ? Anh nói tiếp, "Tôi không biết cô có muốn không, nhưng mà.. Anh lại ngừng lời.

"Đó có phải lời mời không ?", Lukas hỏi.

"Ừm. Có chứ."

"Kế hoạch của tôi ấy à ?", cô nói. "Tôi định dọn nhà và khâu nốt cái áo cho con gái của bạn thôi."

"Thế có phải câu đồng ý không ?"

Một nụ cười dè dặt. "Tôi đoán là vậy." Im lặng một lát. "Cà phê thì sao ? Tôi không hay pha. Thường thì tôi chỉ đến Starbucks."

"Ngon lắm", anh trả lời.

Cô đang đối mặt với cửa sổ. Nhưng mắt cô một lần nữa lại hướng ra cửa và đang lắng tai nghe tiếng bọn trẻ. Cô quay sang Parker. "À, tôi giải được rồi !"

"Cái gì ?"

"Câu đố ấy."

"Đố nào ?"

"Còn bao nhiêu con diều hâu trên mái nhà. Sáng nay, lúc ngồi ở đây, tôi đã phát hiện ra."

"Được. Cứ nói đi."

"Đó là câu hỏi mẹo. Có nhiều hơn một câu trả lời".

"Giỏi đấy", Parker nói, "Nhưng như thế không có nghĩa đây là hỏi mẹo. Nó chỉ có nghĩa cô đã nghĩ đúng hướng, cô đã nhận ra câu trả lời đúng là có tới vài cách giải khả dĩ. Đó là điều đầu tiên mà một người giải đố cần phải học".

"Đấy", cô nói tiếp, "ta thường nghĩ rằng mọi dữ liệu cần đến đều đã được đưa vào câu đố, nhưng có vài thứ đã không được nhắc tới".

Chính xác tuyệt đối. Anh gật đầu.

"À", Parker nói, "nhưng bản chất của diều hâu thì liên quan gì đến câu đố ?".

"Bởi vì", cô nói, chỉ một ngón tay vào anh và hé lộ nét nữ tính anh chưa từng trông thấy, "diều hâu có thể bị tiếng súng làm cho hoảng sợ. Nhưng có thể là không. Bởi vì, nhớ không, chúng cách nhau rất xa trên mái nhà. Đó là một manh mối, đúng chứ ?".

"Đúng. Tiếp đi."

"Được rồi, bác nông dân bắn rơi một con chim, nhưng chúng ta không biết hai con kia làm gì. Cả hai có thể ở lại. Nên câu trả lời sẽ là còn hai con. Hoặc một con bay đi và một con ở lại. Hoặc cả hai bay đi, không con nào ở lại. Vậy nên, có tới ba câu trả lời".

"Chà", Parker đáp, "cô đã đúng khi cân nhắc những dữ liệu ẩn".

Cô cau mày. "Ý là sao ? Tôi có đúng không ?"

"Sai"

"Nhưng", Lukas phản đối, "Phải đúng chứ".

"Không, sai mà." Anh cười.

"Ít nhất cũng đúng một phần chứ ?"

"Không có cái gì gọi là đúng một phần khi giải đố cả. Cô có muốn biết câu trả lời không ?"

Một chút ngập ngừng. "Không. Như thế là ăn gian. Tôi sẽ tiếp tục giải."

Đó là thời điểm chính xác để hôn cô và Parker đã làm như vậy, thật nhanh, rồi anh trở lại phòng khách trong lúc Lukas rót thêm cà phê. Anh ôm bọn trẻ và chúc chúng một buổi sáng đầu năm tốt lành.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom