Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Bí Ẩn Tông Đồ Thứ 13

Bí Ẩn Tông Đồ Thứ 13
Tác giả: Michel Benoit
Tình trạng: Đã hoàn thành




Thể loại: Giả tưởng
Dịch giả: Nguyễn Thị Tươi


Cùng bạn mình là cha Andréi, người bị ám sát trên một chuyến tàu từ Rome đi Paris, cha Nil đã phát hiện ra một bí mật động trời về thân thế Jesus, một bí mật hẳn sẽ khiến cả phương Tây lẫn bất cứ quốc gia nào thờ phụng Jesus cũng đều phải chao đảo. Trước mối nguy tiềm tàng ấy, không chỉ Rome mà cả Jerusalem và La Mecque cùng lao vào cuộc đua vây dồn ông, và không loại thủ đoạn nào không được viện tới…

Bí ẩn tông đồ thứ mười ba không chỉ đơn thuần tìm cách làm sáng tỏ bí mật về thân thế chúa Jesus, một bí mật từng khiến thế giới tốn không biết bao nhiêu giấy mực, xương máu và nước mắt, mà còn kể lại một cách sinh động đến nghẹt thở những bí mật lịch sử, những câu chuyện hậu trường tôn giáo đầy gian dối, cạm bẫy, hiểm nguy và chết chóc, làm mê say độc giả, góp phần vinh danh Michel Benoît như một “chuyên gia về nguồn gốc Thiên chúa giáo”.

Michel Benoît là nhà thần học, tiến sĩ sinh học và từng là tu sĩ. Ông rời Giáo hội năm 1984 và các nghiên cứu của ông về cuộc sống cũng như nhân thân Chúa Jésus bị Giáo hội kịch liệt phản đối. Đây cũng chính là lý do khiến ông quyết tâm theo đuổi công cuộc nghiên cứu này - vốn được thể hiện rõ qua nhiều tác phẩm văn học của ông như Tù nhân của Chúa, Bí mật tông đồ thứ mười ba...
 
Sửa lần cuối:

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1


Đoàn tàu lao đi trong đêm tháng Mười một. Ông liếc nhìn đồng hồ đeo tay: tàu tốc hành Roma Express vẫn muộn hai tiếng trên đất Ý như thường lệ. Ông thở dài: chẳng thể nào có mặt ở Paris trước hai mươi mốt giờ được…

Ông cố lựa tư thế ngồi thoải mái nhất, lấy ngón tay trỏ nới rộng cổ áo thầy tu cho đỡ bó sát lấy cổ. Cha Andrei không quen mặc trang phục này, ông chỉ khoác mỗi khi ra ngoài tu viện – điều rất hiếm hoi. Mà hình như những toa tàu này có từ thời Mussolini thì phải! Ghế ngồi bọc da giả cứng ngắc như ghế phòng khách trong tu viện, cửa sổ có thể hạ xuống tận chỗ tì tay vốn cũng rất thấp, điều hòa thì không có…

May thay, cuối cùng thì chỉ còn khoảng một tiếng nữa thôi. Ánh đèn trên sân ga Lamotte-Beuvron vừa vun vút lướt qua ngoài cửa sổ: bao giờ cũng thế, đoàn tàu luôn chạy tốc độ cao nhất trên đoạn đường thẳng băng ở Sologne.

Thấy cha Andrei ngọ nguậy, người khách có dáng dấp béo lùn ngồi đối diện ông ngước đôi mắt màu hạt dẻ khỏi tờ báo đang đọc và nặn ra một nụ cười, nhưng gương mặt với nước da nhợt nhạt của anh ta chẳng tươi tỉnh lên được chút nào.

“Anh ta chỉ cười bằng môi thôi, cha Andrei nghĩ. Mắt anh ta vẫn lạnh lẽo hệt như những hòn đá ven sông Loire…”

Hành khách của Roma Express thường là giới tu hành khiến đoàn tàu giống như một giáo đường phụ của Vatican. Nhưng trong khoang này, chỉ có cha Andrei và hai người đàn ông lặng lẽ khác: những chỗ ngồi còn lại đã đặt trước nhưng vẫn bỏ trống từ khi tàu xuất phát đến giờ. Ông đưa mắt nhìn người khách thứ hai, ngồi khuất trong góc sát hành lang: người này có vẻ nhiều tuổi hơn, dáng dấp sang trọng và có mái tóc vàng như lúa mạch chín. Có vẻ như anh ta đang ngủ - mắt nhắm, nhưng thỉnh thoảng anh ta lại gõ gõ mấy ngón tay phải lên đầu gối, còn tay trái thì đánh nhịp lên đùi. Từ khi tàu chạy, cả ba chỉ trao đổi vài lời lấy lệ bằng tiếng Ý, và cha Andrei nhận thấy anh ta có giọng ngoại quốc rất nặng, nhưng không xác định được là người nước nào. Đông u chăng? Mặt anh ta trông còn trẻ, mặc dù có một vết sẹo chạy dài từ tai trái rồi lẫn vào mái tóc vàng.

Thói quen quan sát đến từng chi tiết nhỏ nhất này hẳn là kết quả của cả một cuộc đời cúi mình trên những trang bản thảo cũ kỹ, mờ mịt nhất của ông.

Ông tựa đầu vào cửa kính, lơ đãng nhìn ra con đường chạy dọc theo đường sắt.

Lẽ ra ông đã phải gửi bản dịch và báo cáo phân tích bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ của Nag Hamadi về Roma từ cách đây hai tháng. Bản dịch thì ông đã hoàn thành lâu rồi. Nhưng còn báo cáo phân tích phải gửi kèm! Ông vẫn không thể viết được. Không thể nói hết mọi chuyện, lại càng không thể viết ra được.

Quá nguy hiểm.

Và thế là họ đã gọi cho ông. Trong văn phòng của Cơ quan truyền bá đức tin Thiên Chúa giáo – trước đây là Tòa án dị giáo – ông không thể thoát ra khỏi mớ câu hỏi mà những người tiếp chuyện ông đặt cho. Lẽ ra ông không nên nói với họ những giả thiết của mình, mà nên che đậy bằng những vấn đề thuần túy thuộc về kỹ thuật dịch. Tuy nhiên, Hồng y Giáo chủ, và nhất là viên thư lại [[2]] đáng gờm của ngài, đã không ngừng tấn công ông, buộc ông phải nói ra nhiều hơn những điều ông muốn nói. Sau đó họ còn hỏi han ông về phiến đá Germigny: mặt họ lại càng sa sầm xuống.

Cuối cùng, ông đã đến kho của Thư viện Vatican. Nơi đây, quá khứ đau thương của gia đình lại khiến ông phải đau đớn – có lẽ rốt cuộc đó chính là cái giá phải trả để được tận mắt nhìn thấy bằng chứng cụ thể của điều mà ông vẫn nghi ngờ bấy lâu này. Thế là ông phải vội vàng rời khỏi San Girolamo, bắt chuyến tàu trở về tu viện: ông đang trong vòng nguy hiểm. Ông muốn được yên ổn, chỉ cần được yên ổn thôi. Chỗ của ông không phải là ở giữa những mưu đồ này, Roma không phải là nhà của ông. Nhưng liệu ông có nơi nào để coi là nhà nữa không? Khi vào sống trong tu viện, ông đã phải thay đổi tổ quốc lần thứ hai, và nỗi cô độc đã vây hãm ông.

Bây giờ, bài toán đã được giải. Khi trở về, ông sẽ nói gì với cha Nil đây? Cha Nil là người rất kín đáo, và ông ấy cũng đã một mình đi được một phần đường… Ông sẽ đưa ông ấy vào cuộc. Điều mà ông khám phá ra sau cả một đời tìm kiếm, hẳn cha Nil cũng sẽ tự tìm ra được.

Và nếu như có chuyện gì xảy ra với ông… Cha Nil sẽ xứng đáng là người tiếp tục con đường.

Cha Andrei mở túi và lục tìm thứ gì đó trước ánh mắt thản nhiên của người hành khách ngồi đối diện. Dù sao thì ba người trong một khoang dành cho sáu hành khách cũng là điều dễ chịu. Ông có thể cởi bỏ chiếc áo vest của tu sĩ còn quá mới, đặt lên chiếc ghế trống bên phải để khỏi bị nhàu. Cuối cùng thì ông cũng tìm thấy thứ đang cần: một cái bút chì và một mảnh giấy vuông. Đặt nó trong lòng bàn tay, ông viết vội lên đó vài chữ rồi vô thức nắm chặt các ngón tay lại, ngả đầu ra sau.

Tiếng ồn của đoàn tàu và âm thanh dội lại từ rằng cây bên đường khiến ông thấy đờ đẫn. Ông có cảm giác mình sắp ngủ thiếp đi…

Mọi việc diễn ra quá nhanh. Người khách ngồi đối diện lặng lẽ đặt tờ báo xuống và đứng dậy. Cùng lúc đó, trong góc phía hành lang, gương mặt người khách có mái tóc vàng bỗng đanh lại. Anh ta đứng lên và tiến lại phía ông như muốn lấy thứ gì đó trong cái túi lưới phía trên đầu ông. Cha Andrei ngước mắt lên theo phản xạ: chiếc túi rỗng không.

Ông không có thời gian để suy nghĩ: mái tóc vàng hoe của người khách đã chúi về phía ông, và ông thấy cánh tay người đàn ông đó vươn về phía chiếc áo mà ông đặt trên ghế bên cạnh.

Đột nhiên, mọi thứ tối sầm lại: ai đó đã trùm chiếc áo lên đầu ông. Ông cảm thấy hai cánh tay cuồn cuộn cơ bắp ôm ngang lưng ông, thít chặt cái áo vào người ông, và nhấc ông lên khỏi mặt đất. Tiếng kêu kinh hoàng của ông bị lớp vải làm cho tắc nghẹn. Thoắt cái, ông đã cảm thấy mình đang ở phương nằm ngang với sàn tàu, nghe thấy tiếng rít của cánh cửa sổ đang hạ xuống, rồi hông ông bị ép sát vào chỗ tì tay bằng kim loại ở cửa sổ. Ông cố giãy giụa, nhưng toàn bộ thân trên của ông đã bị đẩy ra ngoài cửa sổ tàu cho gió quất, còn mặt ông vẫn bị thít chặt trong chiếc áo bởi một bàn tay cứng như thép.

Ông sửng sốt: “Chúng là ai? Lẽ ra sau ngần ấy chuyện xảy đến trong suốt hai nghìn năm qua, mình phải lường trước được chuyện này. Nhưng tại sao lại là lúc này? Tại sao lại ở đây?”

Tay trái của ông, bị ép chặt giữa chỗ tì tay và bụng ông, vẫn nắm chặt mẩu giấy hình vuông.

Ông cảm thấy cả người mình đang bị đẩy ra ngoài.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2


Đức ông Alessandro Calfo cảm thấy hết sức hài lòng. Trước khi rời khỏi căn phòng lớn gần Tòa Thánh Vatican, nhóm Mười một đã trao toàn quyền hành động cho ông: không thể để xảy ra bất kỳ rủi ro nào. Từ bốn thế kỷ nay, thành viên của nhóm Mười một là những người duy nhất bảo vệ kho báu quý giá nhất của Giáo hội Công giáo, tông truyền và Roma. Những kẻ tiếp cận kho báu này quá mức phải bị vô hiệu hóa.

Ông đã hết sức tránh không nói hết mọi việc với Hồng y Giáo chủ. Liệu có thể giữ mãi bí mật này không? Nhưng nếu lộ ra thì bí mật này sẽ là kết thúc của Giáo hội và toàn bộ nền Cơ Đốc giáo trên trái đất này. Đó sẽ là một cú đánh kinh hoàng đối với Phương Tây, vốn đã rất mệt mỏi khi phải chống đỡ sự tấn công của đạo Hồi. Trách nhiệm lớn lao này đè nặng lên vai mười hai con người: Hội Thánh Pie V đã được lập ra chỉ nhằm mục đích duy nhất là bảo vệ bí mật này, và Calfo là Hội trưởng.

Ông tự cho phép mình khẳng định với Hồng y Giáo chủ là chỉ còn tồn tại một số dấu hiệu rất tản mát, và trên thế giới chỉ một vài nhân vật uyên bác là có khả năng hiểu và giải nghĩa các dấu hiệu này. Nhưng ông đã giấu đi điều cơ bản nhất: nếu các dấu hiệu này được chắp nối lại với nhau và phổ biến rộng rãi cho công chúng, thì có thể sẽ dẫn họ đến chỗ tìm ra bằng chứng xác thực, không thể chối cãi được. Chính vì thế, phải luôn đảm bảo rằng những dấu vết còn tồn tại luôn trong tình trạng phân tán. Bất kỳ kẻ nào có đủ ác tâm – hoặc chỉ là đủ sáng suốt – để tập hợp chúng lại với nhau thì sẽ có khả năng phát hiện ra sự thật.

Ông đứng dậy, đi vòng quanh bàn, rồi đứng chôn chân trước thánh giá trên đó Chúa đang bị đóng đinh câu rút, mình đầy máu.

“Thưa Thầy! Mười hai tông đồ luôn bảo vệ Người!”

Một cách máy móc, ông đưa tay xoay xoay chiếc nhẫn đang đeo ở ngón đeo nhẫn bên tay phải. Trên đó có gắn một viên ngọc thạch anh màu xanh đậm điểm những đốm đỏ, viên ngọc to một cách bất thường – ngay cả ở Roma, nơi mà giáo sĩ cấp cao ưa chuộng những dấu hiệu cho phép họ phô trương đẳng cấp của mình. Vật sang trọng này luôn nhắc ông nhớ đến bản chất đích thực của sứ mệnh ông đang thực hiện.

Bất kỳ kẻ nào biết được bí mật cũng sẽ bị ông thủ tiêu, và biến mất khỏi thế gian này!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3


Đoàn tàu trông như một con rắn phát sáng đang lao hết tốc độ trong vùng bình nguyên Sologne. Thân người vẫn bị gập làm đôi, nửa trên bị gió quất, cha Andrei oằn người chống cự lại hai cánh tay cứng như thép đang cố đẩy ông xuống vực thẳm. Rồi đột nhiên, ông thả lỏng người.

“Chúa ơi, con đã kiếm tìm Người từ khi mới chào đời, giờ là lúc kết thúc rồi.”

Hây! Người hành khách béo lùn lăng mạnh cha Andrei vào khoảng không ngoài cửa sổ toa tàu, trong khi đó, bạn đồng hành của hắn vẫn bất động như đã hóa đá phía sau, chăm chú quan sát cảnh tượng xảy ra.

Cả thân người cha Andrei quay tròn như một chiếc lá rồi rơi xuống, nằm bẹp trên nền đường đá.

Đoàn tàu Roma Express hẳn là đang cố gắng bù đắp lại thời gian chậm trễ: chỉ chưa đầy một phút sau, trên lề đường ray chỉ còn lại một hình người chỏng chơ trong khí lạnh trời đêm. Chiếc áo vest đã bay ra xa. Kỳ lạ là khuỷu tay trái của cha Andrei vẫn mắc vào giữa hai thanh tà vẹt, bàn tay ông vẫn nắm chặt mẩu giấy giờ giơ thẳng lên bầu trời xám đen câm lặng, nơi những đám mây đang nặng nề trôi về phương Đông.

Một lát sau, một con hươu cái từ khu rừng gần đó chạy ra và tò mò tiến lại hít hít trên cái vật thể hình thù kỳ dị có hơi hướm con người kia. Nó nhận ra cái mùi khó chịu mà con người thải ra khi họ sợ hãi quá mức. Nó ngửi rất lâu bàn tay nắm chặt của cha Andrei đang chỉ lên trời một cách kỳ cục.

Đột nhiên nó ngẩng đầu lên, rồi nhảy sang một bên và nhanh chóng núp vào sau những bụi cây. Một chiếc ô tô đã rọi đèn chiếu vào nó, rồi đột ngột phanh kít lại trên con đường phía dưới đường tàu. Hai người đàn ông bước ra, trèo lên bờ dốc đường ray và cúi xuống xem xét cái xác đã bị biến dạng. Con hươu đứng im quan sát: hai người đàn ông lại đi xuống đường, và đứng bên ngoài xe tranh luận sôi nổi.

Khi nhìn thấy ánh đèn xe cảnh sát lao đến, con hươu lại nhảy lên lần nữa rồi bỏ chạy vào khu rừng tối đen và tĩnh lặng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4


Kinh Phúc âm theo Marc và Jean

Ông vừa nhăn mặt vừa đưa tay kéo lại chiếc gối đã bị trượt xuống dưới hông. Chỉ người giàu mới có thói quen ăn uống theo kiểu của người La Mã, nửa nằm nửa ngồi trên đi văng thế này. Những người Do Thái nghèo khổ như nhóm của ông thì ngồi luôn trên mặt đất mà ăn. Chính ông là người muốn tổ chức bữa ăn tối này một cách trang trọng. Vị khách danh dự ăn uống rất thoải mái, nhưng Mười hai người còn lại, những người cũng đang nửa nằm nửa ngồi vòng quanh chiếc bàn hình chữ U thì có vẻ hơi lạc lõng trong căn phòng này.

Tối thứ Năm, ngày mồng 6 tháng Tư năm 30, con trai của Joseph, người được tất cả cư dân ở Palestine gọi là Jesus xứ Nazareth, đang chuẩn bị ăn bữa tối cuối cùng của mình cùng với mười hai tông đồ.

Tách ra khỏi các môn đồ khác, mười hai tông đồ này đã tạo thành một tổ chức bảo vệ thân cận cho Jesus, tổ chức này chỉ giới hạn trong Mười hai người họ mà thôi: con số Mười hai mang ý nghĩa tượng trưng đặc biệt, nhắc người ta nhớ đến mười hai bộ tộc của đất nước Isarel. Sắp tới đây, khi họ tấn công Đền thờ, nhân dân sẽ hiểu ra. Mười hai người sẽ cùng lãnh đạo Israel, nhân danh Chúa trời là người đã ban cho Jacob mười hai người con. Về vấn đề này, tất cả mười hai tông đồ đều đã thống nhất. Chỉ có điều, bên phải của Jesus – khi Người lên ngôi – sẽ chỉ có một vị trí duy nhất, và tất cả họ đã ngầm đối địch nhau một cách kịch liệt để biết xem ai trong số họ sẽ là người đứng đầu trong số mười hai tông đồ.

Điều đó sẽ trở thành hiện thực sau cuộc nổi dậy mà họ sắp tiến hành nhân bối cảnh lộn xộn sau Lễ Vượt qua. Chỉ còn hai ngày nữa thôi.

Khi rời bỏ miền đất Galilee quê hương để đến thủ đô, họ đã gặp lại người đang là chủ nhà hôm nay, một người xứ Judee sở hữu một ngôi nhà đẹp trong khu phía Tây Jerusalem. Ông giàu có, được học hành, thậm chí có thể gọi là có tri thức. Trong khi tầm hiểu biết của Mười hai tông đồ không vượt ra khỏi đầu kia của lưới đánh cá.

Trong khi người hầu mang thức ăn ra, chủ nhà im lặng. Ở giữa mười hai tông đồ cuồng tín này, Jesus đang ở trong tình cảnh hết sức nguy khốn: vụ tấn công Đền thờ sắp tới của họ chắc chắn sẽ thất bại... Cần phải hành động để bảo vệ Người khỏi tham vọng của họ, mặc dù để làm được điều đó, ông đã phải tạm thời liên minh với Peter.

Ông đã gặp Jesus hai năm trước, bên bờ sông Jordan. Từ một người Esseni, ông đã trở thành người Nazareth – một trong những giáo phái đấu tranh vì phong trào Baptist của người Do Thái. Bản thân Jesus cũng tham gia giáo phái này, mặc dù Người chẳng bao giờ nói về điều đó. Giữa hai người họ đã nhanh chóng hình thành nên một mối đồng cảm dựa trên sự thấu hiểu và tôn trọng lẫn nhau. Ông khẳng định rằng mình là người duy nhất hiểu rõ Jesus là ai. Không phải là hậu duệ của Chúa như một số người đã ca tụng sau khi khỏi bệnh một cách thần kỳ nhờ bàn tay chữa trị của Người, cũng không phải Chúa Cứu thế như Peter mong muốn, lại càng không phải vua David mới như những người Do Thái yêu nước cuồng nhiệt ước ao.

Jesus là một người hoàn toàn khác, người mà thậm chí Mười hai tông đồ vốn đang bị tham vọng quyền lực làm mờ mắt cũng không thể nhận ra được.

Ông tự coi mình cao hơn họ một bậc, và ông nói với bất kỳ ai muốn nghe rằng ông chính là môn đồ cưng của Thầy. Trong khi đó, từ nhiều tháng nay, Jesus ngày càng cảm thấy khó có thể chịu đựng nổi đội quân gốc Galilee dốt nát với bàn tay hám quyền lực của mình.

Mười hai tông đồ giận dữ điên cuồng khi chứng kiến có thêm một kẻ ngấp nghé quyền lực bỗng nhiên lọt vào được nơi mà họ chẳng bao giờ vào được: đó là nội bộ của những người Nazareth.

Kẻ thù đang ở ngay trong nhóm của họ, đó chính là kẻ tự xưng là môn đồ cưng này. Hắn chưa bao giờ rời khỏi vùng đất Judee nơi hắn sinh ra, mà lại dám nói rằng hiểu rõ Jesus hơn tất cả bọn họ, những người đã luôn theo sát chân Người ngay từ vùng đất Galilee.

Hắn là một tên lừa bịp.

Ông nằm dài bên phải Jesus – vị trí của chủ nhà. Peter không rời mắt khỏi ông: liệu ông ta có nói ra cái bí mật kinh khủng đã liên kết họ lại từ ít lâu nay, và khiến cho Jesus hiểu rằng Người đã bị phản bội? Phải chăng ông ta đang hối tiếc vì đã dẫn Judas đến gặp Caiphe, để lập ra cái bẫy sẽ sập vào chính Thầy, ngay tối nay?

Đột nhiên, Jesus đưa tay nhón một miếng thức ăn, Người để tay bên trên đĩa một lát cho nước xốt nhỏ bớt xuống: Người sẽ tặng nó cho một trong số các khách ăn, đó là một cử chỉ thể hiện tình bằng hữu. Tất cả đột nhiên im lặng. Peter tái mặt, quai hàm cứng lại. Ông ta nghĩ: “Nếu Người tặng miếng thức ăn này cho kẻ bịp bợm kia, mọi việc sẽ hỏng hết, vì như thế có nghĩa là hắn ta vừa phản bội thỏa thuận với ta. Như vậy, ta phải giết hắn, sau đó ta sẽ trốn…”

Bằng một cử chỉ hào hiệp, Jesus đưa miếng thức ăn cho Judas, người đang ngồi bất động như hóa đá ở một đầu bàn.

- Nào, bạn của tôi… Chúng ta cùng ăn nào!

Không nói một lời, Judas cúi người về phía trước, đón lấy miếng thức ăn và đưa lên môi. Một chút nước xốt chảy trên chòm râu ngắn của ông.

Cuộc trò chuyện lại tiếp tục, trong khi Judas nhai chậm chạp, mắt dán chặt vào mắt người thầy của mình. Sau đó, Judas đứng lên và tiến về phía cửa. Khi ông ta đi qua chỗ họ, người chủ nhà thấy Jesus hơi quay đầu lại. Và ông cũng là người duy nhất nghe thấy Jesus nói:

- Bạn của tôi… Cần làm gì thì làm nhanh lên!

Judas chậm rãi mở cửa. Bên ngoài, vầng trăng đêm Lễ Vượt qua còn chưa lên. Màn đêm đen đặc.

Quanh Jesus chỉ còn mười một người.

Chính xác là mười một tông đồ và môn đồ cưng của Jesus.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5


Tiếng chuông cửa vang lên lần thứ hai. Trong ánh bình minh lờ mờ, tu viện Saint-Martin là nơi duy nhất trong làng có ánh sáng đèn. Trong những đêm mùa đông như đêm nay, tiếng gió rít dọc bờ sông hoang vắng khiến vùng Val-de-Loire mang chút dáng vẻ của hoang mạc Siberia.

Tiếng chuông vẫn còn vang dội trong mái vòm của tu viện khi cha Nil bước vào, sau khi đã cởi bộ lễ phục lụng thụng ra: ông vừa kết thúc buổi lễ sớm. Mọi người dân quanh đây đều biết rằng các thầy tu luôn giữ im lặng tuyệt đối cho đến lễ cầu kinh nửa buổi, nên không bao giờ đến bấm chuông tu viện trước tám giờ.

Tiếng chuông lại khẩn thiết vang lên lần thứ ba.

“Thầy dòng gác cửa hẳn sẽ không ra mở vì đây là quy định. Thôi được, mình ra xem sao.”

Từ khi làm sáng rõ được những chi tiết vẫn còn bị che giấu liên quan đến cái chết của Jesus, cha Nil càng ngày càng cảm thấy khó chịu. Ông không thích sự vắng mặt hiếm hoi của cha Andrei: viên thủ thư này đã trở thành người tin cẩn duy nhất của ông sau Chúa. Các tu sĩ sống cùng nhưng không giao tiếp với nhau, trong khi đó cha Nil lại cần phải nói với ai đó về những nghiên cứu của mình. Đáng lẽ phải quay vào phòng riêng, nơi công việc tìm hiểu về các biến cố xảy ra khi Jesus bị bắt đang chờ đợi, thì ông lại đi ra phía phòng của người gác cửa và mở cánh cửa nặng nề ngăn cách tu viện với toàn bộ thế giới bên ngoài.

Trong ánh sáng đèn pha, một viên cảnh sát đứng nghiêm chào ông.

- Thưa cha, có phải đây là nơi cư trú của người này không?

Anh ta đưa ra một cái chứng minh thư. Không nói một lời, cha Nil cầm lấy mảnh giấy ép plastic và đưa lên đọc: Andrei Sokolwski. Tuổi: 67. Nơi ở: tu viện Saint-Martin…

Cha Andrei!

Máu trong người ông bỗng chảy dồn dập:

- Vâng…tất nhiên, ông ấy là thủ thư của tu viện. Có chuyện gì…

Viên cảnh sát đã quen với những công việc khó chịu này.

- Tối qua, có hai công nhân nông nghiệp đến báo với chúng tôi rằng trên đường về nhà, họ đã phát hiện thi thể của ông ấy trên mép đường ray đoạn giữa Lamotte-Beuvron và La Ferté-Saint-Aubin. Ông ấy đã chết. Tôi rất lấy làm tiếc, nhưng phải có một người trong số các cha đến nhận diện thi thể… Để điều tra ấy mà, thưa cha.

- Cha Andrei chết rồi ư?

Cha Nil cảm thấy đất dưới chân như đang chao đảo.

- Nhưng… đó phải là đức Cha tu viện trưởng…

Phía sau họ, có tiếng bước chân khẽ khàng đặc trưng của một người đi giày tu sĩ. Chính là đức Cha tu viện trưởng. Cha bị những tiếng chuông cửa đánh động, hay bị thúc đẩy bởi một linh cảm bí ẩn nào đó?

Viên cảnh sát cúi chào. Trong đội cảnh sát Orléans, mọi người đều biết rằng ở tu viện, người mang nhẫn và đeo thánh giá trước ngực có vị thế Giám mục. Nhà nước Cộng hòa tôn trọng những điều này.

- Thưa đức Cha, một trong các tu sĩ của Ngài, cha Andrei, đã được phát hiện trên mép đường ray tuyến Roma Express, cách đây không xa. Ông ấy không có cơ may sống sót nào sau cú ngã: đốt sống cổ bị gãy, hẳn là ông ấy đã chết ngay lập tức. Chúng tôi sẽ chỉ mang xác ông ấy đến Paris để khám nghiệm sau khi đã làm xong thủ tục nhận diện. Không biết cha có thể lên xe của tôi, và hoàn thành thủ tục… nặng nề, nhưng cần thiết này không?

Từ khi được bầu lên vị trí danh giá này, đức Cha tu viện trưởng tu viện Saint-Martin chưa bao giờ để lộ bất kỳ biểu hiện tình cảm nào. Đương nhiên là cha được các tu sĩ bầu lên theo đúng Quy định của tu viện. Tuy nhiên, ngược với quy định này, đã có rất nhiều cuộc điện thoại trao đổi giữa Val-de-Loire và Roma. Sau đó, ngay trước kỳ bầu tu viện trưởng, lại có một giáo sĩ cấp bậc khá cao về nghỉ dưỡng hàng năm tại tu viện, và kín đáo thuyết phục những người ương ngạnh rằng Dom Gérard chính là người cần phải lựa chọn.

Chỉ có thể trao quyền điều hành tu viện, học viện rất đặc biệt ở đây cũng như ba thư viện trực thuộc vào tay một người vững vàng. Không một thớ thịt trên mặt đức Cha tu viện trưởng để lộ bất kỳ cảm xúc nào trước mặt viên cảnh sát, người vẫn đang giữ tư thế đứng nghiêm.

- Cha Andrei! Lạy Chúa tôi, thật là một thảm họa! Chúng tôi đang chờ ông ấy từ Roma quay về đây sáng nay. Làm sao lại có thể xảy ra tai nạn như vậy được?

-Tai nạn? Vẫn còn quá sớm để dùng từ này, thưa đức Cha. Một vài chi tiết có được khiến chúng tôi thiên về một giả thiết khác. Toàn bộ các toa tàu trên chuyến Roma Express đều làm theo kiểu cũ, tất cả cửa ra vào đều được khóa chặt ngay khi tàu khởi hành, và vẫn khóa như thế trong suốt chuyến đi. Đạo hữu của các cha chỉ có thể ra ngoài qua đường cửa sổ từ chính khoang của ông ấy. Khi đi kiểm tra lần cuối trước khi tàu đến ga cuối cùng, nhân viên soát vé nhận thấy khoang đó trống không: không chỉ có cha Andrei vắng mặt, mặc dù va li của ông ấy vẫn còn ở đó, mà cả hai hành khách trong khoang cũng đã biến mất không để lại hành lý gì. Ba chỗ ngồi khác trong khoang đều đã được đặt trước, nhưng không có ai ngồi ngay từ khi tàu rời Roma. Thế nghĩa là không có một nhân chứng nào. Việc điều tra đã bắt đầu được tiến hành, nhưng giả thiết ban đầu của chúng tôi loại trừ bất cứ khả năng tai nạn nào: vụ này giống như một vụ giết người thì đúng hơn. Chắc chắn cha Andrei đã bị hai hành khách đi cùng ném ra ngoài cửa sổ khi tàu đang chạy nhanh. Cha có thể đi cùng tôi để làm thủ tục nhận diện được không?

Cha Nil đã kín đáo lùi ra phía sau một chút, nhưng ông vẫn có cảm giác một làn sóng cảm xúc đang trào lên và sắp sửa tràn qua bức màn bình thản che chắn trên khuôn mặt cấp trên của ông.

Đức Cha tu viện trưởng lặp lại ngay lời của viên cảnh sát:

- Đi cùng ông? Bây giờ ư? Không thể được, vì sáng nay tôi phải tiếp các Giám mục của miền Trung, tôi không thể vắng mặt được.

Ông quay sang phía cha Nil, thở dài.

- Cha Nil, liệu cha có thể đi cùng ông đây để hoàn tất thủ tục nặng nề này không?

Cha Nil cúi đầu vâng lệnh. Công việc nghiên cứu về những âm mưu đặt ra xung quanh Jesus đang chờ ông. Hôm nay, chính cha Andrei vừa bị đóng đinh câu rút.

- Tất nhiên, thưa Cha: tôi đi lấy áo khoác của chúng ta, vì trời có vẻ lạnh – thưa ông, xin ông chờ cho một lát, tôi sẽ quay ra ngay…

Tu viện vốn nghèo khó nên các tu sĩ bị cấm phát ngôn những từ ngữ thể hiện sự sở hữu cá nhân đối với bất kỳ vật gì, dù là nhỏ nhất: áo khoác của chúng ta chỉ do một mình cha Nil sử dụng từ nhiều năm nay, nhưng điều đó không có nghĩa là ông có thể nói áo khoác của tôi.

Đức Cha tu viện trưởng dẫn viên cảnh sát vào trong căn phòng vắng vẻ của người gác cổng, và thân mật nắm lấy cánh tay anh ta.

- Tôi không vội phán đoán kết quả điều tra cuối cùng. Nhưng một vụ giết người thì hoàn toàn không thể xảy ra được! Ông cứ tưởng tượng cảnh báo chí, truyền hình, phóng viên khi biết thông tin này. Dù thế nào, Giáo hội Công giáo cũng sẽ bị bôi nhọ, và nhà nước Cộng hòa cũng rất khó xử. Tôi chắc đó là một vụ tự tử. Cha Andrei khốn khổ…ông hiểu không?

Viên cảnh sát rút cánh tay ra khỏi tay ông: anh quá hiểu điều đó, nhưng điều tra là điều tra, không thể dễ dàng chui ra ngoài cửa sổ của một đoàn tàu đang chạy hết tốc độ. Và anh cũng không thích bị một người ngoại đạo chỉ dẫn cho anh biết điều anh phải làm – dù người đó có đeo thánh giá và nhẫn Giám mục đi chăng nữa.

- Thưa Cha, việc điều tra vẫn đang được tiến hành. Cha Andrei không thể tự mình rơi ra ngoài cửa sổ tàu được: Paris sẽ xác định vấn đề này. Nhưng ngay lúc này, tôi xin nói với cha một điều, rằng tất cả mọi dấu vết đều cho thấy đây là một vụ giết người.

- Xem nào, một vụ tự tử…

- Một tu sĩ, lại đã ngần ấy tuổi đời, mà tự tử ư? Rất ít khả năng.

Anh đưa tay xoa cằm: dù sao, đức Cha tu viện trưởng cũng có lý, vụ việc này rất có thể làm nảy sinh những rắc rối lộn xộn, và rắc rối có thể lên đến những cấp cao…

- Thưa Cha, hãy cho tôi biết cha Andrei có biểu hiện… rối loạn tâm thần nào không?

Cha tu viện trưởng có vẻ nhẹ nhõm hẳn: hình như viên cảnh sát đã hiểu ra vấn đề.

- Đương nhiên là có! Ông ấy đang phải điều trị, tôi khẳng định với ông rằng ông ấy đang trong tình trạng tổn thương rất nặng nề về mặt tinh thần.

Thật ra, tất cả các đạo hữu của cha Andrei đều biết rằng cha có thần kinh và tâm lý hết sức cân bằng, và suốt bốn mươi năm sống trong tu viện, ông chưa lần nào phải đến bệnh xá. Ông là một nhà nghiên cứu chuyên làm việc với các bản thảo viết tay, một học giả mà nhịp tim chưa bao giờ vượt quá sáu mươi lần một phút. Cha tu viện trưởng mỉm cười với viên cảnh sát.

- Tự tử là tội lỗi đáng sợ đối với một nhà tu hành, nhưng bất kỳ tội lỗi nào cũng đáng được tha thứ. Trong khi một vụ giết người…

Ánh nhợt nhạt của buổi bình minh chiếu lên cảnh tượng. Người ta đã kéo cái xác ra xa đường ray để tàu có thể chạy bình thường, nhưng do đã cứng đờ lại nên nó vẫn giữ nguyên tư thế: cẳng tay trái của cha Andrei vẫn chỉ lên trời, bàn tay nắm chặt. Trên đường đi, cha Nil đã có thời gian để chuẩn bị tinh thần đối mặt với cú sốc. Tuy nhiên, ông vẫn cảm thấy hết sức khó khăn khi phải đến gần, quỳ xuống và kéo tấm vải che mặt ra khỏi cái đầu người nát bấy.

- Đúng rồi, ông thì thầm trong hơi thở. Đúng là cha Andrei. Ông bạn tội nghiệp của tôi…

Ông im lặng một lúc, và viên cảnh sát tôn trọng sự im lặng của ông. Rồi, anh ta chạm vào vai cha Nil:

- Cha hãy ở lại với ông ấy, tôi sẽ lập biên bản nhận dạng trong xe, cha chỉ cần ký tên là xong, sau đó tôi sẽ đưa cha về tu viện ngay.

Cha Nil đưa tay lau dòng nước mắt đang lăn dài trên má. Rồi ông nhận thấy bàn tay nắm chặt của thi thể, như đang nguyền rủa bầu trời trong một cử chỉ tuyệt vọng cuối cùng. Khó khăn lắm ông mới kéo được các ngón tay đã lạnh giá của người chết ra: trong lòng bàn tay, ông nhìn thấy có một mảnh giấy hình vuông nhàu nát.

Cha Nil quay nhìn về phía viên cảnh sát: anh ta đang cúi lom khom lên mui xe. Ông liền gỡ mảnh giấy ra khỏi bàn tay ông bạn quá cố, và nhìn thấy trên đó vài dòng chữ viết vội bằng bút chì.

Không ai để ý đến ông: ông nhanh nhẹn đút mảnh giấy vào túi áo khoác.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6


Kinh Phúc âm theo Matthieu và Jean

Vài ngày trước bữa tiệc cuối cùng, Peter chờ ông bên ngoài tường thành. Người đàn ông vùng Judee đi qua cửa thành, những tên lính canh vội vàng chào ông, vì biết ông chính là người sở hữu một trong những tòa nhà đẹp nhất vùng. Đi vài bước, ông nhận thấy dáng dấp ngư phủ của Peter hiện ra trong bóng tối.

- Shalom!

- Mà shalom lek’ha.

Ông không chìa tay cho người đàn ông đến từ vùng Galilee này bắt. Nỗi lo sợ gặm nhấm tâm can ông suốt cả tuần nay: khi ông gặp họ, trên ngọn đồi phía bên ngoài thành phố, nơi họ qua đêm trong bóng tối đầy chở che của vườn ô liu, Mười hai người này chỉ nói đến vụ tấn công Đền thờ sắp tới. Chưa bao giờ có bối cảnh thuận lợi đến vậy: hàng nghìn người hành hương đang cắm trại khắp vùng ven thành phố. Dưới sự kích động của các nhà Do Thái yêu nước cuồng nhiệt, đám đông này sẵn sàng làm bất kỳ chuyện gì. Cần sử dụng uy tín của Jesus trong nhân dân như một ngòi nổ.

Ngay lúc này.

Họ sẽ thất bại, điều đó là đương nhiên. Và Jesus sẽ bị giết chết một cách ngớ ngẩn trong đám Do Thái hỗn loạn. Thầy xứng đáng được hơn thế, xứng đáng hơn bất cứ ai, và cần được bảo vệ khỏi đám môn đồ cuồng tín của Thầy. Trong đầu ông đã nung nấu một kế hoạch, chỉ còn phải thuyết phục Peter nữa thôi.

- Thầy hỏi không biết có thể đến nhà anh ăn tối trong căn phòng lớn được không. Năm nay, Thầy không thể tổ chức mừng Lễ Vượt qua được, vì chúng tôi bị giám sát quá chặt chẽ. Thế nên chỉ cần một bữa tối trang trọng một chút, theo đúng nghi lễ của người Esseni là được.

- Các anh điên hết rồi! Đến ăn tối tại nhà tôi, cách lâu đài của Giáo chủ chưa đầy hai trăm mét, trong một khu vực mà chất giọng miền Galilee của các anh sẽ khiến các anh bị bắt ngay lập tức!

Anh chàng ngư phủ nhếch một nụ cười tinh quái:

- Đúng thế, không đâu có thể an toàn cho chúng tôi hơn nhà anh. Không bao giờ bọn lính lại có ý nghĩ truy tìm chúng tôi trong chính khu vực được bảo vệ này, ngay trong nhà một người bạn của Giáo chủ lại càng không!

- Ồ, một người bạn ư…, anh hơi quá lời rồi. Chỉ là quan hệ láng giềng thôi, không thể có tình cảm bạn bè nào giữa một người gốc Esseni như tôi với nhân vật cấp cao nhất trong giới tăng lữ được. Các anh định khi nào vậy?

- Tối thứ Năm, sau khi mặt trời lặn.

Đúng là một ý tưởng điên rồ, nhưng cũng hết sức khôn khéo: một khi đã trốn được trong nhà ông thì những người vùng Galilee này sẽ không bị phát hiện.

- Được. Hãy nói với Thầy rằng tôi rất vinh dự được đón tiếp Người trong nhà mình, và tất cả sẽ được chuẩn bị sẵn sàng cho bữa tiệc trang trọng đó. Một người của tôi sẽ đưa các anh lọt qua các đội tuần tra: dấu hiệu nhận diện là anh ta sẽ mang theo một hũ nước để các anh thực hiện nghi lễ rửa tay trước bữa ăn. Bây giờ, anh đi theo tôi, chúng ta cần nói chuyện một chút.

Peter cùng ông leo lên một đống gạch. Một vật bằng kim loại ánh lên dưới vạt áo khoác: chính là sica, thanh kiếm ngắn mà các thành viên của tổ chức người Do Thái yêu nước cuồng nhiệt dùng để mổ bụng nạn nhân của họ. Vậy là ông ta sẽ không rời bỏ vũ khí của mình! Các môn đồ của Jesus đã sẵn sàng làm bất cứ việc gì…

Ông nói vắn tắt với Peter về kế hoạch của mình. Có nhất định phải hành động vào dịp lễ không? Đó là một ý tưởng tuyệt vời, điều khiển đám người hành hương sẽ là việc rất dễ dàng. Nhưng Jesus chỉ là một nhà thuyết giáo luôn kêu gọi hòa bình và tha thứ. Người sẽ phản ứng thế nào trước ngọn lửa hành động? Rất có thể Người sẽ bị thương, thậm chí tệ hơn là Người sẽ bị chết dưới lưỡi kiếm của một tên lính, và vụ tấn công của họ sẽ hoàn toàn thất bại.

Peter đột nhiên lắng nghe với vẻ quan tâm.

- Thế có nghĩa là phải đề nghị Người quay về Galilee, nơi không có chút nguy hiểm nào ư? Mọi chuyện sẽ diễn ra rất nhanh, mà nơi đó thì cách đây đến bốn ngày đường…

- Ai nói là phải đưa Người ra khỏi Jerusalem? Ngược lại, cần để Người ở lại chính nơi diễn ra hành động, nhưng cũng là nơi mà không một mũi tên La Mã nào có thể chạm đến Người. Các anh sẽ ăn tối ngay cạnh lâu đài của Caiphe, vì các anh nghĩ không có nơi nào an toàn hơn để các anh ẩn nấp. Đó là một ý tưởng hay. Còn ý tưởng của tôi là thế này: ngay trước khi hành động, hãy để Jesus được an toàn ngay trong chính lâu đài đó. Hãy làm thế nào đó để Người bị bắt và giải đến lâu đài của Caiphe trước Lễ Vượt qua. Chúng sẽ giam Người dưới hầm ngầm, và như anh đã biết, trong suốt thời gian lễ hội chúng sẽ không mở bất cứ phiên tòa nào. Còn khi lễ hội kết thúc… cũng có nghĩa là quyền lực đã không còn trong tay chúng nữa! Các anh sẽ đến đón Người trong vinh quang, Người sẽ xuất hiện trên ban công của lâu đài, đám đông sẽ vui sướng hò reo vì cuối cùng cũng được giải thoát khỏi gông cùm của các giáo sĩ…

Peter hoảng hốt cắt ngang.

- Giao Thầy vào tay kẻ thù không đội trời chung của chúng tôi ư?

- Các anh cần làm mọi việc để Jesus được an toàn. Việc của các anh là hành động bạo lực, còn việc của Người tiếp theo đó là dẫn dắt quần chúng bằng lời nói, việc chỉ có mình Người làm được. Hãy để Người tránh xa những rắc rối lộn xộn của một vụ nổi dậy đầy bạo lực của các anh, rồi sau đó hãy rước Người trở lại!

“Và sau khi bọn họ thất bại – vì chắc chắn họ sẽ thất bại trong cuộc chiến với quân đội La Mã – ít nhất thì Jesus cũng sẽ còn sống. Đoạn tiếp theo sẽ không như bọn họ mong muốn. Israel cần một nhà tiên tri, chứ không cần một người cầm đầu băng đảng.”

Hai người im lặng bước trên một vách đá trông xuống thung lũng Gehenna.

Đột nhiên, Peter ngẩng lên.

- Anh nói đúng. Thầy sẽ làm chúng tôi vướng chân, vì hẳn là Người không tán thành vụ tấn công của chúng tôi. Nhưng làm thế nào để Người bị bắt đúng vào thời điểm thuận lợi nhất? Vì chỉ nhanh hoặc chậm một giờ, mọi thứ có thể sẽ khác đi!

- Tôi đã nghĩ đến điều đó. Anh biết rằng Judas vô cùng tận tụy với Người. Anh cũng từng là một thành viên của tổ chức người Do Thái yêu nước cuồng nhiệt như anh ta, hãy giải thích cho anh ta hiểu: cần dẫn lính gác Đền thờ đến vào thời điểm chính xác, vị trí chính xác để bắt được Thầy, khi Thầy đã bị tách ra khỏi đám đông lúc nào cũng bảo vệ Người. Ví dụ, ngay sau bữa tiệc tối tại nhà tôi, đêm thứ Năm rạng ngày thứ Sáu, trong vườn ô liu.

- Liệu Judas có đồng ý không? Mà anh ta làm thế nào để liên hệ được với các chức sắc Do Thái? Anh ta chỉ là một người gốc Galilee, làm sao mà vào trong lâu đài của Giáo chủ được? Làm sao mà thỏa thuận được với hắn, trong khi hắn chỉ muốn loại bỏ Thầy? Làm sao mà anh lại nghĩ rằng anh ta có qua lại với các thành viên tổ chức người Do Thái yêu nước cuồng nhiệt? Tôi thì biết rõ họ đấy. Với họ, chỉ có thể thỏa thuận bằng cái này thôi!

Ông ta vỗ vỗ vào thanh sica đang đập đập vào đùi trái của mình.

- Nói với anh ta rằng đây là vì sự nghiệp chung, để bảo vệ Thầy. Anh sẽ tìm được cách nói thuyết phục nhất, anh ta sẽ phải nghe theo anh. Đích thân tôi sẽ dẫn anh ta vào trong lâu đài của Caiphe. Tôi có thể tự do ra vào lâu đài đó, và nếu Judas đi cùng tôi thì bọn chúng sẽ để anh ta qua. Caiphe sẽ mắc bẫy: các giáo sĩ vốn rất sợ Jesus mà.

- Được... nếu như anh nhận đưa anh ta đến gặp Caiphe, nếu anh cho rằng anh ta có thể giả vờ phản bội để bảo vệ Jesus... Việc này rất nguy hiểm, nhưng lúc này thì liệu có việc gì là không mạo hiểm không?

Khi đi qua cửa thành, người đàn ông vùng Judee thân mật đưa tay chào các lính canh. Vài ngày nữa, phần lớn trong số họ sẽ chết hoặc bị thương, nhưng người La Mã sẽ đàn áp được vụ nổi dậy này. Vùng đất Israel cũng sắp vĩnh viễn thoát khỏi băng nhóm Mười hai người.

Và nhiệm vụ của Jesus, nhiệm vụ thực sự của Người cuối cùng cũng có thể bắt đầu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7


Cả sáng nay, từ khi viên cảnh sát đưa ông trở về tu viện, cha Nil ngồi lả trên ghế đẩu, tập tài liệu mà ông đang nghiên cứu về các tình tiết quanh cái chết của Jesus không hề được mở ra lần nào. Phòng ở của tu sĩ không có ghế tựa, nên ông không có chỗ nào để ngả người ra mà suy ngẫm. Tuy nhiên, bất kể tư thế ngồi gò bó ấy, tâm trí ông vẫn đang bay về với quá khứ. Cả tu viện tĩnh mịch như đang được bọc trong một lớp bông: tất cả các giờ học của tu viện đã bị hoãn lại cho đến khi lễ tang cha Andrei kết thúc. Còn một giờ nữa mới đến lễ mixa.

Andrei... Người duy nhất có thể chia sẻ với ông những tìm tòi, khám phá. Người duy nhất có thể hiểu, thậm chí đôi khi còn đoán trước được các kết luận của ông.

- Nil ạ, đừng bao giờ sợ hãi sự thật. Chính là để tìm kiếm sự thật, để biết sự thật mà cha vào tu viện này. Sự thật sẽ biến cha thành một kẻ cô đơn, thậm chí còn có thể khiến cha chuốc lấy thất bại. Đừng bao giờ quên rằng chính sự thật đã dẫn Jesus và rất nhiều người sau Người đến chỗ chết. Tôi đã tiếp cận được với sự thật qua những bản viết tay mà tôi giải mã từ bốn mươi năm nay. Nhưng vì rất ít người có thể theo được tôi trong chuyên môn này, và cũng vì tôi không bao giờ nói ra những kết luận của mình, nên người ta tin tưởng ở tôi. Còn cha, cha đã phát hiện ra... một số điều ngay trong kinh Phúc âm. Hãy cẩn thận, vì nếu như Giáo hội đã vùi lấp những điều này vào quên lãng từ rất lâu rồi, thì có nghĩa là công khai nói ra sẽ là một việc nguy hiểm.

- Kinh Phúc âm theo lời Thánh Jean có trong chương trình học tập của tu viện năm nay. Tôi không thể nào lẩn tránh một câu hỏi: ai là tác giả của kinh này? Vai trò của môn đồ cưng bí ẩn trong âm mưu thời đó, cũng như trong suốt thời kỳ quan trọng tiếp theo cái chết của Jesus là gì?

Là con trai của những người Nga di cư cải đạo sang Công giáo, khả năng thiên phú về ngôn ngữ đã khiến Andrei trở thành người phụ trách ba thư viện của tu viện, một chức vụ rất nhạy cảm mà chỉ những người có uy tín mới được giao phó. Khi mỉm cười, trông ông giống như một nhà truyền giáo già.

- Bạn của tôi... Từ khởi nguồn, câu hỏi này đã được né tránh. Và hẳn là cha cũng đã bắt đầu hiểu tại sao, đúng không? Vậy thì hãy cứ làm như những người đi trước: đừng nói hết tất cả những gì cha biết. Học trò của cha trong tu viện này sẽ không dung thứ cho điều đó đâu... và trong trường hợp này, thì tôi cho cho cha đấy!

Cha Andrei nói đúng. Từ ba mươi năm nay, Giáo hội Công giáo đang phải đương đầu với tình trạng khủng hoảng chưa từng có. Những người vô thần thường chạy theo các giáo phái mới hoặc chuyển sang theo đạo Phật, khiến cộng đồng Cơ Đốc giáo hết sức khó chịu. Không còn tìm đâu ra những giáo sư vững vàng để giảng dạy giáo lý thuần khiết trong những buổi thuyết giáo ngày càng vắng người tham dự.

Vì thế, Roma đã quyết định tập hợp những học viên ưu tú nhất còn lại vào một trường học, một kiểu trường dòng như thời Trung cổ. Khoảng hai chục học viên được giao phó cho tu viện này, và các tu sĩ uyên bác của tu viện chịu trách nhiệm giảng dạy. Các tu sĩ đã lựa chọn con đường tránh xa thế giới thối nát này sẽ trang bị cho các học viên trẻ tuổi của trường dòng chiếc áo giáp sự thật cần thiết để họ có thể tồn tại.

Cha Nil đảm nhận việc chú giải kinh Phúc âm. Ông không phải là một chuyên gia thực sự về các ngôn ngữ cổ, nên phối hợp làm việc cùng cha Andrei, người có thể đọc thông thạo tiếng Ai Cập cổ, tiếng Xiriat và rất nhiều tử ngữ khác.

Từ chỗ chỉ đơn thuần là làm việc cùng nhau, hai con người cô đơn đã trở thành bạn bè: tình yêu đối với các bản viết cổ xưa đã biến một điều hết sức khó khăn trong cuộc sống tu hành trở thành hiện thực.

Cha Nil vừa mất người bạn duy nhất này trong một bối cảnh thật thảm khốc. Cái chết đó khiến ông cảm thấy vô cùng đau buồn.

Cùng lúc đó, một bàn tay đầy căng thẳng đang bấm một số điện thoại quốc tế bắt đầu bằng mã 390, đường dây riêng (và vô cùng bảo mật) của Nhà nước Vatican. Trên ngón áp út bàn tay đó có đeo chiếc nhẫn trang trí bằng một viên ngọc mắt mèo đơn giản: tổng Giám mục Paris cảm thấy có trách nhiệm phải làm gương về tính khiêm tốn.

- Pronto?

Dưới mái vòm do Michel-Ange thiết kế, một bàn tay có những chiếc móng được cắt sửa kỹ lưỡng nhấc máy. Chiếc nhẫn giám mục được trang trí bằng một viên ngọc thạch anh màu xanh kỳ lạ: một hình thoi không đối xứng gắn trên xương nhẫn bằng bạc chạm trổ, tạo thành một cái nắp quan tài. Một thứ đồ trang sức rất có giá trị.

- Chào ngài, tôi là tổng Giám mục Paris... Thế sao, ngài đang định gọi cho tôi?... Vâng, một chuyện rất đáng tiếc, thực sự... nhưng... ngài đã biết rồi ạ?

“Sao lại thế được nhỉ? Tai nạn vừa xảy ra trong đêm qua mà.”

- Giữ kín tuyệt đối à? Chắc là khó đấy ạ, vì việc điều tra được giao cho Ga Orfèvres, có vẻ là một vụ giết người... Hồng y Giáo chủ à? Đúng vậy, tôi hiểu... Tự tử, phải không ạ? Vâng... đúng là tôi thấy chuyện này thật tồi tệ, tự tử là một tội lỗi mà lòng nhân từ của Chúa vẫn không thể chấm dứt được. Ngài nói... hãy để Chúa quyết định việc này?

Tổng Giám mục đưa tai nghe ra xa, mỉm cười. Tại Vatican, người ta ra lệnh cho Chúa thật dễ dàng.

- Alô? Vâng, tôi đang nghe đây... Cần sử dụng các mối quan hệ của tôi à? Tất nhiên, chúng tôi có quan hệ rất tốt với bộ Nội vụ. Được... tôi sẽ chịu trách nhiệm về việc này. Ngài hãy nói để Hồng y Giáo chủ yên tâm, đó sẽ là một vụ tự tử, và mọi chuyện sẽ kết thúc. Arrivederci, monsignore.[[3]]

Ông luôn thận trọng để không phung phí uy tín của mình đối với chính phủ. Tại sao lại phải chấm dứt việc điều tra về cái chết của một thầy tu, một học giả vô hại nhỉ? Tổng Giám mục Paris thở dài. Không nên tranh luận về một mệnh lệnh do Đức ông Calfo đưa ra, nhất là khi ngài chỉ truyền đạt lại yêu cầu rõ ràng của Hồng y Giáo chủ.

Ông bấm máy gọi tổng đài:

- Làm ơn nối máy cho tôi nói chuyện với bộ Nội vụ. Cảm ơn, tôi sẽ chờ...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8


Kinh Phúc âm theo Matthieu và Jean

Đêm thứ Năm sắp hết để nhường chỗ cho ngày thứ Sáu, bình minh đang rạng dần. Người đàn ông vùng Judee tiến lại gần đống lửa và đưa tay ra để hưởng chút hơi ấm dễ chịu. Trời quá lạnh nên lính gác đã đốt một đống lửa trong sân lâu đài của Caiphe, và họ kính cẩn lùi ra để nhường chỗ cho ông: một ông chủ giàu có trong vùng, có quan hệ thân thiết với Giáo chủ... Ông quay lại nhìn: Peter cố náu mình trong một góc, hẳn là đang rất khiếp đảm khi phải ở trong trung tâm quyền lực mà anh ta mong muốn lật đổ bằng cuộc tấn công sẽ xảy ra trong vài giờ tới. Với cái cung cách của một kẻ phạm tội bị bắt quả tang kia, thế nào anh ta cũng khiến bọn lính nghi ngờ.

Ông ra hiệu cho Peter đến gần đống lửa. Người ngư phủ ngần ngại, rồi rón rén nhập vào vòng tròn những kẻ hầu người hạ đang đứng sưởi.

Mọi việc diễn ra hết sức tốt đẹp. Hôm kia, ông đã dẫn dụ được anh chàng Judas khi đó còn đang sửng sốt vì lần đầu tiên đặt chân vào khu vực dành riêng cho các chức sắc Do Thái. Buổi gặp mặt Caiphe dường như bắt đầu thuận lợi – Giáo chủ có vẻ rất phấn khởi vì đã có được cơ hội để bỏ tù Jesus một cách êm thấm, không gây ra náo động gì. Nhưng sau đó Judas bỗng phản ứng. Phải chăng anh ta đột nhiên hiểu ra mình đang đối mặt với ai, và rằng anh ta sẽ giao người Thầy của mình cho chính quyền Do Thái?

- Thế lấy gì để đảm bảo rằng một khi Jesus đã ở trong tay ông, ông sẽ không giết Người?

Giáo chủ trang trọng giơ tay phải lên.

- Hỡi người đàn ông Galilee, ta thề trước Đấng Tối cao: Jesus xứ Nazareth sẽ được xét xử công bằng theo đúng pháp luật, và chưa bao giờ một nhà thuyết giáo lang thang bị xử tội chết cả. Mạng sống của anh ta sẽ không bị đe dọa. Để ngươi yên tâm, ta trao cho ngươi một khoản tiền cược để đảm bảo lời nói của ta: từ nay trở đi, Đấng Tối cao: từ nay trở đi, Đấng Tối cao sẽ là nhân chứng giữa ta và ngươi.

Ông ta mỉm cười và đưa cho Judas ba mươi đồng tiền vàng.

Judas lẳng lặng bỏ tiền vào túi. Giáo chủ vừa đưa ra một cam kết trang trọng: Jesus bị bắt, nhưng sẽ được xét xử trong một phiên tòa. Việc này cần có thời gian, mà chỉ trong vòng ba ngày nữa Caiphe sẽ không còn là lãnh đạo tối cao của đất nước. Hắn sẽ chẳng còn là gì hết.

Nhưng chúng đang làm gì trên đó thế nhỉ? Tại sao Jesus chưa bị giam vào một nhà ngục nào đó dưới hầm ngầm? Bị giam cầm, cũng có nghĩa là được an toàn?

Người đàn ông vùng Judee thấy vài thành viên của Tòa án Do Thái vừa cáu nhặng xị vừa leo lên những bậc cầu thang dẫn đến tầng một của lâu đài, nơi Jesus đã bị giải đến từ khi bị bắt.

Từ lúc đó trở đi, không có động tĩnh gì lọt ra ngoài sân lâu đài nữa. Ông cảm thấy khó chịu trước diễn biến của sự việc; để bớt căng thẳng, ông tiến về phía cửa thành, đi đi lại lại trong phố.

Ông va vào một bóng người đang nép sát tường.

- Judas... anh làm gì ở đây thế?

Người này đang run lẩy bẩy như một chiếc lá sung trước gió biển Galilee.

- Tôi... tôi đến để xem, tôi lo cho Thầy quá! Liệu có thể tin tưởng vào lời hứa của Caiphe không?

- Thôi nào, bình tĩnh đi anh bạn: mọi việc đang diễn ra rất bình thường. Đừng đứng ở đây, lính tuần tra sẽ tóm cổ anh đấy. Đến nhà tôi đi, anh sẽ được an toàn ở phòng trên lầu.

Ông tiến về phía cửa lâu đài. Ngoái lại đằng sau, ông vẫn thấy Judas đứng bất động, hẳn anh ta sẽ không tời khỏi đó.

Tiếng gà gáy bắt đầu vang lên khắp nơi. Đột nhiên cánh cửa phòng lớn mở toang, và ánh đuốc chiếu sáng rực trước hiên nhà. Caiphe bước ra đưa mắt nhìn khắp sân: người đàn ông vùng Judee vội tránh khỏi vùng ánh sáng, không nên để bị nhìn thấy lúc này. Sau này, khi vụ nổi dậy đã thất bại, ông sẽ đến gặp Giáo chủ và đòi hắn phải trả tự do cho Thầy.

Rồi Jesus xuất hiện, đi xuống cầu thang. Người bị trói chặt, hai tên lính gác kẹp hai bên khuỷu tay.

Sao thế nhỉ? Cần gì phải trói chặt thế kia nếu bọn chúng chỉ giải Người xuống hầm giam?

Đám người đi qua đống lửa, và ông nghe thấy giọng nói sắc lạnh của Caiphe:

- Giải hắn đến nhà Pilate, ngay lập tức!

Mồ hôi lạnh vã ra trên trán ông.

Đến nhà Pilate! Một khi chúng đã giải Người đến nhà tổng đốc La Mã thì chỉ có một cách giải thích duy nhất: Caiphe đã phản bội lời thề của hắn.

Judas vẫn đứng chôn chân ở vị trí quan sát. Lúc đầu, anh chỉ nhìn thấy một bó đuốc, ánh lửa tỏa ra khiến anh lóa mắt: anh cố gắng thụt sâu vào trong một hốc cửa, và nín thở. Lính tuần tra chăng?

Nhưng đó không phải là một nhóm lính tuần tra. Giữa một nhóm lính gác Đền thờ, anh nhận ra dáng dấp của một người đang bước đi chệnh choạng, tay bị trói chặt ra sau lưng. Viên quan đi đầu đưa ra một mệnh lệnh ngắn gọn đúng lúc cả nhóm đi qua chỗ Judas đang nấp trong bóng tối:

- Đừng lề mề nữa, đến lâu đài của Pilate ngay!

Anh kinh hoàng nhìn rõ gương mặt của người đang bị bọn lính thúc cùi chỏ vào lưng để giải đi: chính là Jesus.

Mặt Người xanh tái, các đường nét căng ra. Người đi qua cửa mà không hề nhìn vào bất cứ thứ gì – dường như Người đang nhìn sâu vào chính tâm hồn mình. Judas kinh sợ nhìn chằm chặp vào cổ tay Người: hai cổ tay bị trói rất chặt, một chút máu còn vương trên sợi dây thừng, hai bàn tay co quắp xanh tái.

Cơn ác mộng đã đi qua: nhóm người đằng đằng sát khi vừa rẽ phải, đi về hướng pháo đài Antonia nơi Pilate ở mỗi khi ông ta đến Jerusalem.

Bất cứ ai là người Do Thái đều biết Luật này: ở Israel, kẻ báng bổ bị xử tội chết, và việc hành hình bằng cách ném đá vào người phạm tội sẽ được tiến hành ngay lập tức. Chúng đã không ném đá Người trong sân, thế có nghĩa là Người không nhận tội tự coi mình ngang bằng với Chúa trời, tội báng bổ cao nhất. Vậy là các nhà lãnh đạo nhà nước Do Thái đang tìm cách buộc Người vào một tội danh chính trị nào đó, điều chúng sẽ dễ dàng đạt được nhờ tâm trạng dễ bị kích động của người dân La Mã trong Lễ Vượt qua.

Judas loạng choạng rời khỏi thành phố. Jesus sẽ không được xét xử, Caiphe đã phản bội lời thề của mình và quyết định giết Người. Và để làm được điều đó, chúng sẽ giao Người vào tay người La Mã, vì không thể ép Người nhận tội báng bổ.

Người đang ở rất gần giá chữ thập.

Anh tiến đến đối mặt với khối Đền thờ sừng sững. Ba mươi đồng tiền vàng vẫn đang kêu leng keng trong túi anh – khoản tiền không đáng kể gì để đảm bảo cho cam kết giữa anh và Giáo chủ, cam kết vừa bị phản bội bất chấp lời đã hứa. Caiphe đã chơi anh một vố đau đớn.

Anh sẽ đối mặt với hắn ngay trong Đền thờ để nhắc cho hắn nhớ lời hắn đã hứa. Và nếu hắn vẫn khăng khăng bảo vệ cho tội lỗi của hắn, Judas sẽ cầu xin Đấng Tối cao, nhân chứng giữa anh và Caiphe, đứng ra xét xử.

“Hỡi các giáo sĩ của Đền thờ, đã đến giờ Chúa đưa ra phán xét!”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9


Cha Nil giật mình: tiếng chuông đầu tiên nhắc giờ lễ mixa đã điểm, sắp phải xuống kho đồ thờ để chuẩn bị rồi. Ông đọc lại lần nữa mảnh giấy mà ông đã lấy ra khỏi bàn tay lạnh ngắt của Andrei trước đó mấy tiếng:

Nói chuyện với Nil: bản thảo tiếng Ai cập cổ (Apoc).

Bức thư của Tông đồ.

M M M.

Phiến đá G.

Tìm ra mối liên hệ. Ngay lập tức.

Cố gạt bỏ việc tìm hiểu vai trò của Judas trong cái chết của Jesus ra khỏi đầu, ông lại phải đối mặt với thực tế phũ phàng. Điều này có nghĩa là gì? Đương nhiên đây là một mảnh giấy nhắc việc rồi. Cha Andrei muốn nói với ông về một bản thảo tiếng Ai Cập cổ - bản thảo nào Roma đã gửi đến cho ông ấy, hay một bản thảo khác? Có đến vài trăm bản sao được lưu trữ trong văn phòng của cha Andrei: bản thảo mà ông ấy đang nói đến là bản nào trong số đó? Ông ấy lại còn chú thích trong ngoặc đơn (Apoc): một bản thảo tiếng Ai Cập cổ lấy từ kinh Khải Huyền? Manh mối này quá mỏng manh, có hàng chục cuốn Khải Huyền [[4]] khác nhau, của cả Do Thái giáo lẫn Cơ Đốc giáo. Và cho dù cha Nil biết đọc tiếng Ai Cập cổ, thì ông cũng thấy mình không đủ khả năng để dịch chính xác một văn bản khó như vậy.

Dòng tiếp theo gợi ông nhớ đến một trong những lần ông nói chuyện với viên thủ thư. Liệu có phải cha Andrei muốn nói đến bức thư của tông đồ mà đã có lần ông ấy đề cập đến một cách e dè, bóng gió như thể chỉ đưa ra một phỏng đoán, một giả thiết mà không có bất kỳ bằng chứng nào? Ông ấy đã không nói thêm điều gì với cha Nil về bức thư này.

Ba chữ M liên tục ở phía dưới có nghĩa là gì?

Chỉ có dòng chữ sát dòng cuối cùng là rõ ràng đối với Nil. Đúng là ông cần phải quay lại chụp ảnh phiến đá Germigny, như ông đã hứa với bạn mình trước khi ông này đi Roma.

Còn dòng chữ cuối cùng, tìm ra mối liên hệ, thì họ đã nói với nhau thường xuyên rồi: đối với cha Andrei, đó chính là công việc chủ yếu của ông ấy với tư cách là nhà sử học. Nhưng tại sao lại ngay lập tức, và tại sao ông ấy lại gạch chân mấy chữ này?

Ông cố gắng tập trung suy nghĩ. Đầu tiên là những điều ông tìm thấy trong kinh Phúc âm mà cha Andrei thương xuyên hỏi đến. Sau đó là chuyện cha Andrei bị triệu tới Roma để trả lời về bản thảo tiếng Ai Cập cổ kia, cuối cùng là điều phát hiện ra tại Germigny, điều khiến bạn ông tỏ rất bối rối: dường như tất cả những chuyện này đột nhiên mang một ý nghĩa nào đó với ông ấy đến mức ông ấy vô cùng mong muốn được nói với cha Nil ngay khi về đến tu viện.

Hay là cha Andrei đã phát hiện ra điều gì đó ở Roma? Điều gì đó mà hai người đã từng đề cập đến trong nhiều lần trò chuyện cùng nhau? Hay ở đó, ông ấy đã trót nói ra điều lẽ ra nên giữ kín?

Viên cảnh sát đã nói đến cụm từ “giết người”. Nhưng động cơ là gì mới được chứ? Cha Andrei chẳng có tài sản gì, ông ấy sống tách biệt trong thư viện, hầu như không được ai biết đến. Không mấy ai biết đến, trừ Vatican. Tuy nhiên, cha Nil không thể chấp nhận ý nghĩ Roma lại đặt hàng một vụ giết người. Lần cuối cùng Giáo hoàng cho phép ám sát các linh mục của mình sau khi đã suy nghĩ cân nhắc là ở Paraguay, vào năm 1760. Bối cảnh chính trị thời đó cho thấy việc giết chết hàng loạt người vô tội là cần thiết, nhưng bối cảnh hiện nay đã khác rồi. Vào cuối thế kỷ XX này, hẳn Giáo hoàng không thể ra lệnh thủ tiêu một học giả tu hành vô hại được!

“Roma đã không còn gây đổ máu nữa rồi. Tòa Thánh Vatican mà lại giết người ư? Không thể thế được!”

Cha Nil nhớ rằng cha Andrei thường xuyên nhắc ông phải cẩn thận. Nỗi lo sợ xâm chiếm con người ông từ vài tiếng nay bỗng khiến bụng ông quặn thắt.

Ông liếc nhìn đồng hồ đeo tay: còn bốn phút nữa là đến lễ mixa, nếu không xuống kho đồ thờ ngay thì sẽ muộn mất. Ông liền mở ngăn kéo bàn làm việc, cẩn thận nhét mảnh giấy xuống tận đáy, bên dưới mớ thư từ. Tay ông chạm vào cuộn phim chụp ở nhà thờ Germigny cách đây một tháng. Mong muốn cuối cùng của cha Andrei...

Ông đứng dậy và ra khỏi phòng.

Hành lang tầng hai – “hành lang của các cha” – tối tăm và lạnh lẽo mở ra trước mắt ông, nhắc ông nhớ lại mình đang ở đâu: ông đang ở tu viện, và từ nay trở đi chỉ còn mình ông thôi. Không bao giờ ông còn nhìn thấy nụ cười chia sẻ của ông bạn thủ thư nữa, nụ cười khiến ông thấy hành lang này sáng lên.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10


- Mời Đức ông ngồi.

Đức cha Calfo kiềm chế không nhăn mặt và để thân hình mũm mĩm của mình được ôm khít trong ghế phô tơi mềm mại đặt trước chiếc bàn làm việc đồ sộ. Ông không thích bị Emil Catzinger, vị Hồng y Giáo chủ đầy quyền lực đứng đầu Cơ quan truyền bá đức tin, triệu tập một cách chính thức như vậy. Ai cũng biết rằng công việc thực sự không được xử lý tại bàn viết mà được giải quyết khi đang cùng ăn bánh pizza hoặc tản bộ trong một khu vườn râm mát sau khi ăn một đĩa spaghetti, một điếu xì gà ngon kẹp giữa ngón trỏ và ngón giữa.

Alessandro Calfo sinh ra ở khu Tây Ban Nha, trung tâm bình dân của thành phố Napoli, là thành viên của một gia đình sống chật vật, nghèo khổ trong căn hộ một phòng hỗn tạp quay ra phố. Đắm chìm trong một cộng đồng mà dục vọng mạnh mẽ được nuôi dưỡng bởi ánh nắng dồi dào, từ rất sớm ông đã cảm thấy không thể cưỡng lại nhu cầu khoái lạc. Da thịt ở đó, êm ái, run rẩy, nhưng là cái không thể với tới đối với cậu trai khốn khổ, người đã học được cách mơ mộng về tình dục và thèm muốn những giấc mơ của mình.

Alessandro lẽ ra đã trở thành một người xứ Napoli thực sự, bị ám ảnh bởi tín ngưỡng thờ thần Eros – cách duy nhất để lãng quên cảnh nghèo khổ ở khu phố nơi ông sinh ra. Nhưng trong một xã hội phụ hệ, từ ham muốn chuyển thành hành động còn bấp bênh hơn việc được chứng kiến những phép màu mà năm nào Thánh Gennaro [[5]] cũng hứa hẹn.

Chính khi ấy cha ông đã gửi ông đến miền Bắc không mến khách. Trong căn hộ một phòng duy nhất đó đã có quá nhiều trẻ con phải nuôi: cậu trai này sẽ trở thành người của Giáo hội, nhưng không phải ở bất kỳ đâu. Vốn là người hâm mộ Mussolini đến đờ đẫn, cha ông nghe nói rằng ở đó những người yêu nước thực sự đã thiết lập lại các trường dòng theo tinh thần của chủ nghĩa phát xít. Chúa trời vốn cũng là một người Ý tốt bụng, nên không cần phải đi nơi khác để học tập nhằm phục vụ Người. Ngay từ khi mười tuổi, ở miền bình nguyên sông Po, Alessandro đã khoác lên người chiếc áo thầy tu mà ông không bao giờ rời ra nữa.

Nhưng chiếc áo đó cũng bao bọc, tuy không thể kìm giữ, những đớn đau thường xuyên trong cậu con trai của ngọn núi lửa Vesuvius đang khốn khổ với những đợt phun trào của mình.

Ở trường dòng, ông đã có phát hiện thứ hai: sự tiện nghi, thoải mái. Tiền bí ẩn đổ về từ vô số mạng lưới thuộc phái cực hữu của Châu u. Cậu trai nghèo khổ trong khu phố ngày nào đã hiểu được tầm quan trọng của đồng tiên, và rằng tiền có thể làm tất cả.

Mười bảy tuổi, ông được gửi đến dưới bóng Vatican, để học về đức tin bằng ngôn ngữ của Chúa, tiếng Latin. Ở đó, ông đã có phát hiện thứ ba: quyền lực. Và rằng hơn cả nỗi ám ảnh về khoái cảm xác thịt, việc thực thi quyền lực có thể chiếm trọn một cuộc đời và mang lại ý nghĩa cho nó. Tất nhiên, tín ngưỡng thờ thần Eros là một trong những cách để tiếp cận bí ẩn của Chúa: nhưng quyền lực còn khiến người nắm giữ nó trở thành ngang hàng với chính Chúa trời.

Rồi một ngày, khuynh hướng phát xít tự nhiên trong con người ông đã hội ngộ Hội thánh Pie V. Ông hiểu rằng ba phát hiện liên tục của mình sẽ có đất để thực hiện ngay trong chính Hội này. Ham muốn quyền lực của ông sẽ càng phát triển trong chế độ tư tưởng cực quyền của Hội. Chiếc áo thầy tu viền tím sẽ nhắc nhở ông về những khát vọng tinh thần muộn màng, và cũng là một cái vỏ thanh lịch để ông thỏa mãn những ham muốn xác thịt của mình. Cuối cùng, tiền sẽ đổ vào tay ông, nhờ vào hàng trăm hồ sơ được Hội cập nhật một cách cẩn thận và không loại trừ bất cứ một người nào.

Tiền bạc, quyền lực và tình dục: Alessandro Calfo đã sẵn sàng. Ở tuổi bốn mươi, ông được phong Đức ông, và trở thành người đứng đầu của Hội hết sức bí ẩn và rất có ảnh hưởng này, là giáo sĩ cấp cao trực tiếp làm việc dưới quyền của Giáo hoàng, và chỉ phải tuân thủ sự chỉ đạo của duy nhất Giáo hoàng. Thế là điều không ngờ tới đã xảy ra: ông cảm thấy một niềm say mê thực sự đối với sứ mệnh được giao gánh vác, và trở thành người bảo vệ nhiệt thành cho những giáo lý nền tảng của Giáo hội, nơi đã mang lại cho ông tất cả.

Ông thôi không kìm nén ham muốn xác thịt của mình nữa. Nhưng đồng thời với việc để mặc ham muốn này bộc lộ, ông còn gán cho nó một tầm vóc tương hợp với thiên chức của mình: thông qua hóa thân xác thịt, ông tìm thấy cách thức nhanh chóng nhất để đạt đến sự hợp nhất thần bí.

Hai người – và chỉ hai thôi – biết rằng nhân vật đứng đầu đầy quyền lực cùa Hội chính là người đàn ông nhỏ bé có giọng nói êm dịu: Giáo hoàng và Hồng y Giáo chú Emil Catzinger. Đối với tất cả những người khác, trong và ngoài Roma, ông chỉ là một trong những viên thư lại khiêm tốn của Cơ quan truyền bá đức tin.

Về nguyên tắc là thế.

- Mời ông ngồi. Hai vấn đề, một bên ngoài, một bên trong.

Sự phân biệt này đã trở nên quen thuộc trong các bộ của Vatican: ở đây, người ta gọi là “các vấn đề bên trong”, những việc xảy ra trong Giáo hội, thế giới thân tình, bình thường và có thể kiểm soát được. Và “các vấn đề bên ngoài” là những gì xảy ra trong phần còn lại của hành tinh, thế giới thù địch, bất bình thường và cần phải được kiểm soát dù muốn dù không.

- Tôi đã nói với ông về vấn đề đáng lo ngại liên quan đến một tu viện dòng Benedict ở Pháp…

- Vâng, ngài đã yêu cầu tôi làm mọi việc cần thiết. Nhưng chúng ta không cần phải can thiệp nữa, vì cha Andrei tội nghiệp đã tự sát, tôi chắc vậy, và vụ việc đã được xếp lại.

Đức Hồng y rất ghét bị cắt ngang: mặc dù Calfo cố gắng khiến ông quên điều này, nhưng ở đây, ông mới là chỉ huy. Lát nữa ông sẽ phải đặt hắn về đúng chỗ của mình.

Là người Áo, Catzinger đã được Giáo hoàng lựa chọn nhờ có tiếng là một nhà thần học sáng suốt. Nhưng ông nhanh chóng thể hiện là một nhân vật bảo thủ đáng gờm, và vì đó cũng chính là bản chất sâu kín ở người kế tục mới của Thánh Peter, giai đoạn trăng mật giữa hai người đã biến thành mối liên minh bền vững.

- Tự sát là một tội lỗi tồi tệ, cầu Chúa cứu vớt linh hồn ông ấy! Nhưng hình như còn có một con chiên ghẻ khác trong tu viện đó, nơi đàn chiên phải thật hoàn hảo. Hãy xem cái này – ông đưa cho Calfo một tập hồ sơ, tố cáo của Cha tu viện trưởng, v.v… Có thể không có gì quan trọng: ông hãy xem xét, rồi chúng ta sẽ nói lại chuyện này. Không có gì khẩn cấp, ít ra là cũng chưa khẩn cấp.

Các mối liên hệ của Hồng y Giáo chủ với quá khứ của chính ông rất mâu thuẫn. Cha ông là sĩ quan trong đội quân Wehrmacht đóng trên đất Áo, sư đoàn Anschluss. Mặc dù luôn duy trì khoảng cách với chủ nghĩa phát xít, ông vẫn có một đặc điểm của chủ nghĩa này: niềm tin rằng mình là người duy nhất nắm giữ một sự thật, chỉ một mình sự thật này có thể thống nhất thế giới quanh một đức tin công giáo không thể phản bác.

- Vấn đề bên trong liên quan trực tiếp đến ông, Đức ông ạ…

Calfo bắt tréo chân và chờ nghe tiếp.

- Ông hẳn biết câu ngạn ngữ của người Roma: una piccola avventura non fà male, một cuộc phiêu lưu nhỏ thì không có gì xấu, chừng nào giáo sĩ cấp cao đó còn giữ được phẩm cấp của mình, trước hết là sự kín đáo lịch sự. Vậy mà tôi lại được biết rằng một… cô gái đang đe dọa sẽ để các paparazzi làm việc cho giới truyền thông chống giáo quyền tiếp cận, vì họ hứa sẽ cho cô ta nhiều của cái để đổi lấy những tiết lộ liên quan đến một số… nói thế nào nhỉ? một số cuộc nói chuyện riêng tư giữa ông và cô ta.

- Tinh thần, thưa Đức Hồng y. Chúng ta cùng tiến bước trên con đường thử nghiệm thần bí.

- Tôi không nghi ngờ điều đó. Nhưng tóm lại, số tiền đưa ra rất đáng kể. Ông định làm gì?

- Im lặng là đức tính đầu tiên của người Cơ đốc. Chính Thầy của chúng ta cũng đã từ chối trả lời Giáo chủ Caiphe khi hắn lăng nhục Người. Như vậy là nó vô giá: tôi nghĩ rằng vài trăm đô…

- Ông nói đùa! Lần này, cần phải thêm vào một con số không nữa. Tôi luôn sẵn sàng giúp đỡ ông, nhưng đây phải là lần cuối cùng. Đức Thánh Cha hẳn sẽ không bỏ qua mục tin vắn trên tờ La Stampa mà người ta dùng để cảnh báo chúng ta. Tất cả những chuyện này thật là tệ hại!

Emil Catzinger luồn tay vào dưới áo choàng màu tím và lấy từ túi trong ra một chìa khóa nhỏ bằng bạc mạ vàng. Ông cúi xuống, tra chìa khóa vào ngăn tủ dưới cùng của bàn làm việc rồi mở ra.

Trong ngăn có khoảng hai chục chiếc phong bì căng phồng. Từ những xứ đạo nhỏ bé nhất của Đế chế Công giáo, một khoản thuế được thu để nộp về trụ sở giáo hội. Catzinger là người đứng đầu một trong ba cơ quan phụ trách việc thu nhận thứ thức ăn trời ban này, đều đặn – và không mùi – như mưa phùn ở xứ Bretagne.

Ông khẽ khàng nhặt chiếc phong bì đầu tiên, mở ra và đếm nhanh số tiền bằng đầu ngón tay. Sau đó, ông đưa cho Calfo, ông này chỉ mở hé và không cần đưa tay vào phong bì cũng biết chính xác số tiền bên trong: một người xứ Napoli thực thụ chỉ cần một cái liếc mắt để xác định giá trị của một tập tiền.

- Thưa Đức Hồng y, cử chỉ của ngài khiến tôi vô cùng xúc động, tôi dành hết lòng biết ơn và sự tận tụy của tôi cho ngài!

- Tôi không nghi ngờ điều đó. Giáo hoàng và tôi đánh giá cao lòng nhiệt tình của ông đối với sự nghiệp cao cả nhất của chúng ta, vì nó động chạm đến chính con người Đức Thiên Chúa Jesus Christ. Va bene, monsignore [[6]] hãy làm dịu những khát khao truyền thông của cô gái đó, và hãy dẫn dắt cô ta trên những lối đi tinh thần… theo cách ít tốn kém hơn.

Vài giờ sau, Catzinger đang ở trong văn phòng nhô ra bên trên hàng cột Bernin, phía bên phải, có cửa sổ nhìn thẳng ra quảng trường Saint Peter. Từ khi được bầu, Giáo hoàng đã chọn cách đi du lịch, giao lại việc quản lý các công việc hàng ngày cho những người ở dưới bóng Vatican, những người không được ai nói đến. Nhưng chính họ là người chèo lái con thuyền của Thánh Peter đi theo đúng hướng, trên con đường khôi phục trật tự cũ.

Đức Hồng y Emil Catzinger lãnh đạo một cách bí mật – và bằng bàn tay sắt – Giáo hội Công giáo.

Một bàn tay run rẩy chìa một tờ La Stampa về phía Hồng y, người đang đứng kính cẩn trước ghế của ông già. Ông già này diễn đạt một cách khó khăn:

- Câu chuyện này, nơi xuất hiện cái tên Calfo… hừm… có phải là Đức ông Calfo của chúng ta không?

- Đúng, thưa Cha rất thánh, đúng là ông ta. Tôi đã gặp ông ta hôm nay. Ông ta sẽ làm mọi việc cần thiết để ngăn những điều vu khống bỉ ổi này làm vấy bẩn Tòa thánh.

- Vậy… làm thế nào để tránh…?

- Ông ta sẽ đích thân giám sát việc này. Và Ngài cũng biết rằng, thông qua trung gian là Ngân hàng Vatican, chúng ta kiểm soát được tập đoàn báo chí mà La Stampa trực thuộc.

- Không, tôi không biết chi tiết này. Tốt lắm, hãy làm sao để bình yên trở lại, đức cha ạ. Bình yên là điều khiến tôi lúc nào cũng lo lắng

Hồng y Giáo chủ vừa nghiêng mình vừa mỉm cười. Ông đã học được cách để yêu quý vị Giáo hoàng già, người mà quá khứ của ông ngăn cách ông với ngài đến từng thớ thịt trên thân thể. Mỗi ngày, ông lại xúc động trước cuộc đấu tranh chống lại bệnh tật của Giáo hoàng, trước sự chịu đựng dũng cảm của ngài.

Và ông ngưỡng mộ sức mạnh của đức tin nơi ngài.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11


Đức Cha tu viện trưởng là người cuối cùng bước vào phòng ăn rộng, trong khi các thầy tu đang kính cẩn chờ đợi trước những chiếc ghế xếp hàng thẳng tắp. Ông bắt đầu nghi lễ bằng giọng thánh thót. Sau bài Edent pauperes, bốn mươi bàn tay nắm lấy những chiếc ghế đồng loạt kéo vào dưới những vạt áo choàng bằng vải len bua. Những ngón tay đan vào nhau trên mép bàn bằng gỗ màu trắng, bốn mươi mái đầu cúi xuống để lặng nghe đoạn đầu bài kinh.

Bữa ăn trưa vừa bắt đầu.

Đối diện với vị giáo sĩ cấp cao, ở đầu kia phòng ăn, các sinh viên của học viện chiếm cả một bàn. Những mục sư hoàn hảo, một số người ủng hộ chủ nghĩa nguyên vẹn nhiệt thành nhất mặc áo dòng, những gương mặt căng thẳng, những cặp mắt có quầng: tinh hoa của giới tăng lữ Pháp tương lai đang chuẩn bị đón nhận những liễn xúp bằng kim loại, đựng đầy món xa lát mà đạo hữu Antoine mới hái sáng nay. Năm học vừa bắt đầu, phải cầm cự đến tận tháng Sáu.

Cha Nil yêu thích tiết đầu thu này, khi trái cây trong vườn nhắc ông nhớ rằng ông đang sống trong khu vườn của nước Pháp. Nhưng từ nhiều ngày nay, ông không cảm thấy thích thú nữa. Giờ giảng của ông ở học viện diễn ra trong một bầu không khí khiến ông khó chịu.

- Như vậy, đương nhiên là kinh phúc âm theo thánh Jean, với nội dung phức hợp, là kết quả của một quá trình soạn thảo văn học lâu dài.Tác giả của nó là ai? Hay đúng hơn, tác giả của nó là những ai? Những so sánh mà chúng ta vừa đưa ra giữa các đoạn của văn bản đáng kính này cho thấy từ ngữ và thậm chí cả nội dung vô cùng khác nhau. Chỉ một người không thể viết lại cùng lúc các cảnh tượng sống động, phác họa chính thực tế mà người đó được tận mắt chứng kiến, đồng thời với những bài diễn văn dài bằng một thứ tiếng Hy Lạp sang trọng thể hiện rõ ràng hệ tư tưởng của những người theo thuyết ngộ đạo, các nhà triết học phương Đông.

Ông đã cho phép sinh viên của mình được phát biểu khi ông đang giảng, miễn là các câu hỏi của họ phải ngắn gọn. Nhưng từ khi đề cập đến nội dung quan trọng của chủ đề này, trước mặt ông chỉ còn là hai mươi hình khối bất động.

“Tôi biết rằng chúng ta đã ra khỏi lối mòn, và đó không phải là điều mà giáo lý Cơ đốc đã dạy các bạn. Nhưng văn bản đặt ra… Các bạn còn chưa hết ngạc nhiên!”

Bài giảng của ông là kết quả của nhiều năm nghiên cứu cô độc và suy ngẫm. Ông đã nhiều lần tìm kiếm trong thư viện của tu viện, nơi ông được quyền vào, một số tác phẩm mới xuất bản ông được biết tới qua một tạp chí chuyên ngành cha Andrei nhận được, nhưng vô ích.

- Cha Nil, xem này. Cuối cùng thì người ta cũng lôi ra khỏi quên lãng một lô mới các bản thảo vùng biển Chết! Tôi đã không còn tin chuyện đó… Cách đây năm mươi năm, những cái vại đã được phát hiện trong những hang đá Qumran, vậy mà không có gì được công bố từ sau khi Ygaël Yadin chết: hơn một nữa số bản thảo này vẫn chưa hề được công chúng biết đến. Một vụ rắc rối không thể tin được!

Cha Nil mỉm cười. Trong không khí thân mật của văn phòng này, ông đã phát hiện ra một cha Andrei say mê, tỏ tường mọi chuyện. Ông yêu những cuộc trò chuyện dài của họ, sau cánh cửa đóng kín. Cha Andrei nghe ông kể về những nghiên cứu của mình, đầu hơi cúi xuống. Rồi, bằng một từ, đôi khi là một sự im lặng, hưởng ứng hoặc định hướng cho học trò của mình giữa những giả thiết táo bạo nhất.

Con người mà ông nhìn thấy lúc đó mới khác biệt làm sao so với viên thủ thư hay đắn đo, người canh giữ nghiêm khắc ba chiếc chìa khóa mà mọi người trong tu viện bên bờ sông Loire từng biết!

Tòa nhà được xây dựng lại sau chiến tranh, mái vòm vẫn chưa hoàn thiện. Cả tòa nhà tạo thành hình chữ U, quay ra phía bình nguyên. Các thư viện chiếm trọn tầng trên cùng của ba cánh nhà: cánh giữa, cánh Bắc và cánh Nam, ngay bên dưới mái nhà.

Bốn năm trước, cha Andrei đã được giao những khoản tiền đáng kể kèm theo lệnh mua chính xác một số sách trong các lĩnh vực giáo lý và lịch sử. Ông đã vui sướng được sử dụng năng lực của mình để phục vụ cho khoản đầu tư kỳ diệu này. Các kệ sách chất đầy những cuốn sách hiếm, những xuất bản phẩm khó tìm được hoặc đã bán hết, viết bằng tất cả các ngôn ngữ cổ và hiện đại. Đương nhiên, việc mở học viện đặc biệt, vốn được Vatican theo dõi sát sao, chính là nguyên nhân của việc thành lập phương tiện nghiên cứu tuyệt vời này.

Tuy nhiên, có một điều hạn chế bất thường. Mỗi người trong số tám tu sĩ giảng dạy ở học viện chỉ có một chìa khóa duy nhất, chìa khóa của thư viện tương ứng với bộ môn người đó phụ trách. Chịu trách nhiệm về kinh Tân ước, cha Nil đã nhận được chìa khóa thư viện cánh giữa, trước cửa có gắn một tấm biển gỗ khắc chữ: Khoa học về Kinh Thánh. Các thư viện cánh Bắc, Khoa học lịch sử, và ở cánh Nam, Khoa học Thần học, vẫn khăng khăng đóng kín đối với ông.

Chỉ có cha Andrei và cha Tu viện trưởng có chìa khóa của cả ba thư viện, treo thành một chùm đặc biệt mà họ không bao giờ rời xa.

Ngay từ khi bắt đầu nghiên cứu, cha Nil đã đề nghị bạn mình cho phép được vào thư viện lịch sử.

- Ở cánh giữa, tôi không tìm thấy một số tác phẩm mà tôi cần để tiến xa hơn. Cha đã có lần nói với tôi rằng chúng được xếp ở cánh Bắc. Tại sao tôi không thể vào đó được? Thật là buồn cười!

Lần đầu tiên, cha Nil thấy khuôn mặt của bạn mình trở nên kín bưng. Cuối cùng, với vẻ vô cùng ngại ngần, nước mắt lưng tròng, cha Andrei cũng nói với ông:

- Cha Nil… Nếu tôi có nói với cha điều đó, thì tôi đã sai, cha hãy quên đi. Tôi xin cha, đừng bao giờ hỏi tôi chìa khóa của một trong hai thư viện mà cha không được phép tiếp cận. Bạn của tôi, hãy hiểu cho tôi, tôi không làm điều tôi muốn được. Đó là mệnh lệnh chính thức của đức Cha tu viện trưởng, và những mệnh lệnh này được đưa ra… từ cấp cao hơn. Không ai có thể cùng lúc vào cả ba thư viện. Chuyện này đã khiến tôi không thể ngủ được, không phải chuyện buồn cười, mà là bi kịch. Tôi có thể vào cả ba thư viện, và tôi thường dùng thời gian rảnh rỗi để lục lọi rồi đọc. Vì sự yên bình của tâm hồn cha, nhân danh tình bạn của chúng ta, tôi xin cha hãy bằng lòng với những gì cha tìm thấy trong thư viện cánh giữa.

Rồi ông chìm vào im lặng nặng nề, điều không thường thấy ở ông mỗi khi ông còn một mình với cha Nil.

Mất phương hướng, giảng viên phụ trách việc chú giải Kinh Thánh đành thỏa mãn với những kho báu mà chiếc chìa khóa duy nhất của ông mở ra.

- Lời kể cho thấy tác giả chính của kinh Phúc âm theo Thánh Jean biết rõ Jerusalem, và có nhiều mối quan hệ tại đây. Đó là một người vùng Judee khá giả, có học thức, trong khi đó tông đồ Jean sống ở Galilee, là người nghèo và mù chữ… làm sao mà ông có thể là tác giả của văn bản mang tên ông?

Trước mặt ông, những gương mặt dần sa sầm lại theo những điều ông nói. Một số người lắc đầu với vẻ phản đối – nhưng không ai phát biểu. Sự im lặng này của cử tọa khiến cha Nil lo lắng hơn bất kỳ điều gì. Các sinh viên của ông xuất thân từ những gia đình có truyền thống nhất nước. Được lựa chọn kỹ lưỡng để trở thành mũi giáo của Giáo hội bảo thủ trong tương lai. Tại sao người ta lại chọn ông vào chức vụ này? Ông đã sung sướng biết bao khi được lặng lẽ làm việc, cho riêng mình!

Cha Nil biết rằng ông không thể truyền đạt cho họ tất cả các kết luận của ông. Ông chưa bao giờ mường tượng rằng việc chú giải Kinh thánh lại có ngày trở thành một nhiệm vụ khó khăn và nguy hiểm. Khi còn là sinh viên ở Roma, bên cạnh một anh chàng Rembert Leeland nồng nhiệt và thân ái, mọi chuyện thật dễ dàng biết bao…

Tiếng chuông đầu tiên của lễ mixa chậm rãi vang lên.

- Cám ơn các bạn. Hẹn gặp lại tuần sau.

Các sinh viên đứng dậy và thu xếp sách vở. Ở cuối phòng, một sinh viên mặc áo thầy dòng, đầu cạo nhẵn, nán lại một lát để viết mấy dòng lên một mảnh giấy vuông - thứ được các thầy tu dùng để trao đổi với nhau mà không phá vỡ sự im lặng.

Trong khi anh ta vừa gập vuông giấy làm đôi vừa mím môi, cha Nil kín đáo nhận thấy móng tay anh ta bị gặm nham nhở. Cuối cùng anh ta cũng đứng lên, và đi qua thầy giáo của mình mà không hề đưa mắt nhìn ông.

Trong khi cha Nil đang mặc áo lễ trong kho đồ thờ thơm mùi sáp mới, một bóng áo thầy tu lẻn vào căn phòng chung và tiến lại gần những ngăn tủ dành cho các cha. Sau khi liếc nhìn quanh, chắc chắn rằng không có ai trong phòng, một bàn tay có những chiếc móng bị gặm nham nhở luồn một vuông giấy gấp đôi vào ngăn tủ của đức Cha tu viện trưởng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12


Nếu không có những chiếc đèn vách theo kiểu Venise tỏa ra một thứ ánh sáng ấm dịu, hẳn là căn phòng sẽ có vẻ bi thảm. Suốt dọc phòng không có cửa sổ nào, chỉ có một cái bàn gỗ đánh xi, phía sau bàn là mười ba chiếc ghế xếp thẳng hàng, dựa lưng vào tường. Ở chính giữa là một chiếc ngai theo phong cách Napoli – Anjou phủ nhung màu tía. Mỗi bên chiếc ngai là sáu chiếc ghế phô tơi đơn giản, có tay vịn mang hình đầu sư tử.

Cửa ra vào được làm bằng sắt dày, bên ngoài bọc gỗ quý.

Đối diện chiếc bàn, cách khoảng năm mét, là một mảng tường hoàn toàn trống trơn. Hoàn toàn? Không. Một mảng gỗ tối màu được gắn vào tường. Nổi bật lên trên nền gỗ gụ là sắc nhợt của một cây thánh giá màu đỏ máu, theo phong cách Jansen, tạo nên một mảng gần như thô kệch dưới luồng ánh sáng rọi xuống từ hai chiếc đèn chiếu ẩn ngay phía trên ngai trung tâm.

Chiếc ngai này chưa bao giờ có người ngồi, và cũng sẽ không bao giờ có người ngồi. Nó nhắc nhở các thành viên của Hội rằng sự hiện diện của người Thầy Hội Thánh Pie V là hoàn toàn mang ý nghĩa tinh thần, nhưng vĩnh cửu. Từ bốn thế kỷ nay, Jesus – Christ, Chúa tái sinh, ngự ở đây trong tâm trí và trong hiện thực, bao bọc xung quanh là mười hai tông đồ trung thành, sáu người bên phải và sáu người bên trái. Giống hệt như trong bữa ăn cuối cùng mà Người đã dùng cùng với các học trò của mình hai nghìn năm trước, trong căn phòng lớn ở khu phía Tây Jerusalem.

Trên mỗi ghế phô tơi là một người đàn ông mặc áo lễ màu trắng rộng thùng thình có mũ trùm phủ lên đầu. Trước mặt mỗi người là một mảnh vải trắng đơn giản được gắn vào mũ bằng hai khuy bấm ở ngang gò má. Phần dưới khuôn mặt được che kín, chỉ có thể nhìn thấy đôi mắt và phần trước trán.

Ngồi xếp hàng như thế đối diện với bức tường, mỗi người đều phải cúi về đằng trước và xoay đầu một góc bốn mươi lăm độ để nhận thấy dáng vẻ của những người ngồi cùng bàn. Đương nhiên việc quay ngang dọc hay nhăn nhó nét mặt bị cấm chỉ, cũng giống như việc mọi người phải hạn chế để lộ bàn tay của mình đến mức tối thiểu. Cẳng tay khoanh lại đặt trên bàn, những ống tay áo được thiết kế với độ mở rộng để có thể lồng khít vào nhau một cách tự nhiên, che đi phần cổ tay và bàn tay của những người tham dự.

Khi nói chuyện, các thành viên của Hội không trao đổi trực tiếp với nhau, mà nói với hình ảnh đẫm máu gắn phía trước họ. Nếu như tất cả mọi người đều có thể nghe thấy điều người khác nói mà không cần phải quay đầu thì theo quy định có nghĩa là Thầy, người đang im lặng trên thánh giá, đồng ý với điều đó.

Trong căn phòng mà loài người nói chung không biết rằng nó đang tồn tại này, Hội Thánh Pie V đang tổ chức cuộc họp thứ ba nghìn sáu trăm linh ba của mình, kể từ khi Hội này được thành lập.

Ngồi bên phải của chiếc ngai bỏ trống, một người duy nhất để duỗi trên chiếc bàn hoàn toàn trống trơn đôi bàn tay mủm mĩm của mình: trên ngón tay đeo nhẫn bên phải, một viên ngọc thạch anh màu xanh đậm ánh lên khi người đó đứng dậy và máy móc vuốt thẳng nếp áo lễ trên chiếc bụng đã hơi nhô ra.

- Các anh em, hôm nay chúng ta phải quan tâm đến ba vấn đề bên ngoài mà chúng ta đã từng bàn đến ở đây, và vấn đề thứ tư, vấn đề bên trong và… đau buồn đối với mỗi người trong chúng ta.

Tiếp nhận thông báo này là sự im lặng hoàn toàn: mọi người đều chờ đợi phần tiếp theo.

- Theo yêu cầu của Hồng y Giáo chủ đứng đầu Cơ quan truyền bá đức tin, các vị đã được thông tin về một vấn đề nhỏ mới phát sinh ở Pháp, trong một tu viện dòng Benedict được giám sát rất chặt chẽ. Các vị đã trao cho tôi toàn quyền hành động để giải quyết vấn đề này. Và tôi vui mừng được thông báo với các vị rằng vấn đề đã được giải quyết một cách thỏa đáng: từ nay trở đi, tu sĩ mà những câu chuyện gần đây khiến chúng ta lo lắng sẽ không còn khả năng làm phương hại đến Giáo hội Công giáo rất thánh nữa.

Một người tham dự khẽ nhấc hai cẳng tay đang khoanh vào nhau dưới tay áo lên, để tỏ dấu là mình sắp nói:

- Ngài muốn nói rằng ông ta đã bị… thủ tiêu?

- Tôi sẽ không dùng từ đó, offensivum auribus nostris [[7]]. Các vị chỉ cần biết rằng ông ấy đã bị ngã một cách không đúng lúc ra khỏi đoàn tàu Roma Express đang đưa ông ấy trở lại tu viện, và rằng ông ấy đã chết ngay tại chỗ. Chính quyền Pháp đã kết luận đó là một vụ tự sát. Thế nên tôi yêu cầu các vị hãy cầu nguyện cho ông ấy. Các vị đều biết rằng tự sát là một tội lỗi khủng khiếp chống lại đấng tạo ra mọi sự sống.

- Nhưng… người anh em hội trưởng, liệu có nguy hiểm không khi nhờ đến một người lạ để khiến cho vụ… tự sát có thể xảy ra? Chúng ta có thực sự được bào đảm về sự kín đáo của anh ta không?

Tôi đã gặp người Palestine đó trong thời gian tôi ở Cairo, cách đây nhiều năm. Kể từ đó, anh ta luôn tỏ ra rất đang tin cậy. Trong vụ này, lợi ích của anh ta lại trùng khớp với lợi ích của chúng ta, anh ta hiểu rất rõ điều đó. Anh ta đã nhờ đến sự trợ giúp của một người quen biết cũ, một người Israel: người của Fatah và người của Mossad chống đối nhau kịch liệt, nhưng đôi khi họ cũng biết sát vai nhau để cùng đương đầu với một vấn đề chung – và chính là trường hợp này, nó phục vụ cho các kế hoạch của chúng ta. Chỉ có kết quả là quan trọng, các công cụ được sử dụng phải hiệu quả, nhanh chóng và dứt khoát. Và tôi xin đứng ra bảo đảm cho sự kín đáo tuyệt đối của hai người này. Họ đã được trả công rất hậu hĩnh.

- Chính xác mấy nghìn đô la mà ngài đã nói với chúng tôi là một khoản đáng kể. Khoản chi này có được hợp lý hóa không?

Hội trưởng quay mặt về phía người vừa nói, điều hiếm khi xảy ra.

- Người anh em, khoản đầu tư này là một điều nực cười nếu đem so sánh với những lợi ích mà nó có thể mang lại. Và theo ước tính của tôi, thì không phải là hàng nghìn, mà hàng triệu đô la. Nếu chúng ta đạt đến đích, chúng ta sẽ có được những phương tiện để hoàn thành sứ mệnh của mình. Các vị hãy nhớ đến tài sản đột ngột xuất hiện và kếch xù của các Hiệp sĩ dòng Đền. Đúng vậy, chúng ta sẽ khai thác cùng một nguồn với họ. Nhưng sẽ thành công ở chính nơi mà họ đã thất bại.

- Thế còn phiến đá Germigny?

- Tôi đang định nói đến chuyện đó. Phát hiện này hẳn sẽ vẫn không được ai biết đến nếu cha Andrei không nắm được thông tin về nó, do tu viện của ông ta có vị trí địa lý gần đó. Ông ta đã có ý nghĩ không đúng lúc là nhanh chóng đến tận nơi, và là người đầu tiên đọc bản khắc trên đó. Chúng ta biết đến sự tồn tại của phiến đá này qua hồ sơ của các Hiệp sĩ dòng Đền.

- Điều này ngài đã nói với chúng tôi rồi.

- Trong chuyến đi đến Roma mới đây, ông ta đã để lộ một vài nhận xét dường như chứng tỏ rằng ông ta đang kết nối các thông tin mà ông ta có được với nhau. Điều này vô cùng nguy hiểm, chúng ta không bao giờ biết được nó sẽ dừng ở đâu, và Hội của chúng ta đã được Đức Thánh Cha Pie V lập ra – ông cúi người, đầu tiên là về phía bên trái, trước chiếc ngai bỏ trống, và sau đó về phía trước, nơi có cây thánh giá – nhằm tránh để kỷ niệm và hình ảnh về Thầy bị vấy bẩn hoặc lu mờ. Trong suốt lịch sử lâu dài của Giáo hội, tất cả những kẻ có ý định hành động theo chiều hướng đó đều đã bị loại trừ. Thường là kịp thời, đôi khi quá muộn – và đó là những vụ lộn xộn tồi tệ, gây ra rất nhiều đau khổ: hãy nghĩ đến Origène, Arius, rồi còn Nestorius và nhiều kẻ khác nữa… Nhóm hành động trên chuyến tàu Roma Express sẽ tiến hành những việc cần thiết, theo yêu cầu của tôi: phiến đá Germigny sẽ sớm được yên ổn ngay tại đây, tránh khỏi những con mắt tọc mạch.

Một tiếng thở dài nhẹ nhõm lan khắp cử tọa.

- Nhưng bây giờ chúng ta lại có một vấn đề khác, đi liền với vấn đề thứ nhất, hội trưởng dẫn dắt.

Vài cái đầu quay sang ông một cách máy móc.

- Một thời gian trở lại đây, có vẻ như cha Andrei quá cố đã khơi dậy lòng tò mò của một môn đồ nào đó: một trong các tu sĩ, làm giảng viên trong học viện đặc biệt của tu viện có liên quan. Ồ, có thể đây chỉ là một báo động nhầm, bắt nguồn từ một tin nhắn mà đức Cha tu viện trưởng đã gởi cho chúng ta. Một sinh viên tham dự giờ chú giải Kinh Thánh của giảng viên này – một cha Nil nào đó – đã cho biết anh ta nghe thấy cha này phát ngôn những quan điểm ảnh hưởng đến luận thuyết đúng đắn về kinh Phúc âm theo Thánh Jean. Xét bối cảnh mới đây, Cha tu viện trưởng đã cho rằng cần cảnh báo chúng ta ngay lập tức.

Nhiều người ngẩng đầu lên: kinh Phúc âm theo Thánh Jean chính là trung tâm sứ mệnh của họ, bất kỳ điều gì đụng chạm đến nó đều phải được phân tích sát sao.

- Thông thường, tính chính thống của một người chú giải Kinh Thánh công giáo liên quan đến Cơ quan truyền bá đức tin, và tu sĩ này không phải là người đầu tiên Cơ quan này cần đặt lại vào đúng vị trí…

Có thể đoán biết một vài nụ cười dưới tấm mạng phủ trên các khuôn mặt.

- … nhưng đây là hoàn cảnh đặc biệt. Cha Andrei quá cố từng là một học giả ở hàng ngoại lệ, được trời phú cho một trí tuệ sắc bén và sáng tạo.Từ giờ trở đi ông ta không thể gây hại được nữa, nhưng ông ta đã để cho học trò của mình là cha Nil nghe được những gì? Bởi vì, Cha tu viện trưởng đã nhấn mạnh với chúng ta rằng một tình bạn khăng khít – điều luôn luôn đáng tiếc trong một tu viện – đã gắn kết hai nhà trí thức này lại với nhau. Nói cách khác, liệu thứ chất độc đã ngấm vào đầu óc cha Andrei có lây sang cha Nil không? Chúng ta không có cách nào để biết được điều đó.

Một trong những thầy tu nhấc hai cánh tay bắt vào nhau lên.

- Người anh em hội trưởng, hãy cho tôi biết… Cha Nil này, liệu có khi nào, ngẫu nhiên thôi, cũng đi trên chuyến Roma Express?

- Ông ta có thể, hẳn là thế. Nhưng một vụ tự sát thứ hai trong số các tu sĩ của tu viện là điều không nên dự kiến. Cả Chính phủ Pháp lẫn dư luận sẽ không dễ bị thuyết phục, khi khoảng cách giữa hai vụ quá ngắn. Mà đây lại là việc tương đối gấp, vì thầy tu này thường xuyên lên lớp, và có vẻ đã quyết tâm để sinh viên của mình biết được những… tóm lại, một vài kết luận về những nghiên cứu của ông ta. Những kết luận nào? Chúng ta không biết, nhưng chúng ta không thể để bất cứ nguy cơ nào đe dọa. Hồng y Giáo chủ đặt rất nhiều hy vọng vào học viện của tu viện Saint-Martin, ngài muốn nó phải tuyệt đối hoàn hảo.

- Ngài có đề xuất gì không?

Hội trưởng ngồi xuống, thu bàn tay và chiếc nhẫn vào trong ống tay áo lễ.

- Tôi còn chưa biết, tất cả những chuyện này quá mới mẻ. Trước mắt, phải tìm hiểu xem tu sĩ này biết gì, hoặc – nếu ông ta chưa biết điều gì quá trầm trọng – thì ông ta còn có thể đi đến đâu. Tôi sẽ thông tin cho các vị.

Ông ngừng lời, đưa mắt chăm chăm nhìn lên cây thánh giá mà chất liệu ngà bị vấy bẩn vì một thứ máu dường như đã đông cứng lại sau nhiều thế kỷ. Vấn đề tiếp theo sẽ khó khăn hơn, phải dẫn dắt một cách ổn thỏa. Nói cho cùng, mỗi đạo hữu đều mong chờ Hội áp dụng các quy chế của mình.

Ngay cả khi những quy chế này dẫn đến cái chết của một người trong số họ.

- Mỗi chúng ta đều không biết tất cả, hoặc hầu như tất cả mọi điều về người anh em ngồi bên cạnh mình lúc này. Nên chính tôi là người phải đảm nhận nhiệm vụ khủng khiếp là bảo vệ bản chất của Hội chúng ta, khi điều đó trở nên cần thiết.

Hội trưởng Hội Thánh Pie V là một chức vụ trọn đời. Khi cảm thấy mình cận kề cái chết, hội trưởng sẽ chỉ định trong số các hội viên người kế vị mình – và đến lượt mình, người này (và chỉ một mình người đó) sẽ phải biết rõ nhân thân của mười một bạn đồng hành, cũng như được tất cả những người này nhận biết. Phần lớn các hội trưởng từ năm 1570 đều có thiện chí là chết trước khi trở nên vô hiệu. Đôi khi cũng phải hỗ trợ một chút đối với những người gắn bó với cuộc sống nhiều hơn là với Thầy. Mười một thành viên của Hội thực hiện việc kiểm tra chặt chẽ đối với mức độ hiệu quả của hội trưởng. Có hẳn một quy định cho trường hợp này – và chính quy định này sẽ được áp dụng nhưng lần này là để chống lại một hội viên.

- Một trong số chúng ta, thật buồn vì tôi phải nói điều này ở đây, mới đây vừa thể hiện sự bất lực của mình trong việc tuân thủ quy định chính của chúng ta, đó là bảo mật hoàn toàn. Hẳn là tuổi cao đã khiến người đó giảm năng lực tư duy.

Một trong những người tham dự bắt đầu run, làm ống tay áo bị trượt đi, để lộ đôi bàn tay gầy guộc nổi đầy gân.

- Làm ơn che mình đi, đạo hữu! – Tốt, các vị đã biết quy trình áp dụng đối với kẻ mắc lỗi. Tôi báo cho các vị hay, để các vị có thể bắt đầu ngay từ tối nay giai đoạn nhịn ăn, cầu nguyện và hình phạt nghiêm khắc, là những điều luôn gắn liền với việc chấm dứt vĩnh viễn sứ mệnh của một đạo hữu. Chúng ta phải giúp đạo hữu này chuẩn bị, đi cùng người đó trên con đường từ nay trở đi là của người đó. Nhịn ăn hoàn toàn trong ngày trước ngày diễn ra cuộc họp sắp tới, tự phạt bằng roi kim loại sáng và tối, mỗi ngày trong khoảng thời gian một bài kinh Miserere – hoặc nhiều hơn nếu các vị mong muốn. Chúng ta sẽ không kể hết nổi tình cảm trìu mến dành cho người anh em cùng chia sẻ trách nhiệm với chúng ta từ bao lâu nay mà chúng ta sắp phải chia tay.

Calfo không thích phải áp dụng quy định này với một trong số Mười hai thành viên của Hội. Ông nhìn chăm chăm vào cây thánh giá: từ khi làm chủ tọa các cuộc họp của Hội, Thầy đã thấy và nghe biết bao vụ khác.

- Cảm ơn các vị. Chúng ta có thời gian đến tận cuộc họp tiếp theo để bí mật chứng tỏ với người anh em chúng ta sức mạnh tình yêu chúng ta dành cho người đó.

Các hội viên đứng dậy và tiến về phía cánh cửa ra vào bọc sắt ở phía cuối phòng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13


Kinh Phúc âm theo Matthieu và Jean

Ánh mặt trời mới mọc của ngày thứ Bảy Lễ Vượt qua ve vuốt trên mái che hứng nước mưa [[8]]. Ngồi trên gờ bồn phun nước trung tâm, kiệt quệ sau hai ngày chứng kiến biết bao hy vọng tiêu tan, người đàn ông vùng Judee thở dài: ông phải lên thôi. Mười một tông đồ đang ẩn nấp trên phòng lớn, như một bầy cừu sợ sệt. Jesus đã bị giao cho Pilate và bị đóng đinh câu rút vào trưa hôm qua…không chỉ là thua cuộc , mà là thất bại thảm hại.

Cuối cùng ông cũng quyết định, chậm chạp leo lên những bậc cầu thang dẫn lên tầng một và đẩy cánh cửa mà Judas đã bước qua trước mắt ông vào tối thứ Năm. Chỉ có một mẩu nến nhỏ cháy trong căn phòng rộng. Ông nhận ra những bóng người ngồi rải rác trên nền đất. Không ai nói gì. Những người Galilee khiếp sợ và đang lẩn trốn: đây là tất cả những gì còn lại của một đất nước Israel thời kỳ mới.

Một bóng người tách ra khỏi bức tường và tiến về phía ông.

- Thế nào?

Peter ngạo ngễ nhìn ông.

“Hắn sẽ không bao giờ chấp nhận thất bại, không bao giờ chấp nhận là kẻ chịu ơn mình khi phải ẩn nấp trong nhà mình như thế này, cũng như hắn chưa bao giờ chấp nhận mối quan hệ ưu ái mà mình đã có với Jesus.”

- Thì Pilate đã cho phép hạ thi thể Jesus khỏi giá chữ thập tối qua. Vì đã quá muộn để làm các nghi lễ cho Người, nên người ta đã đặt tạm Người trong một ngôi mộ gần đó, thuộc sở hữu của Joseph vùng Arimathie, một người có cảm tình với Người.

- Ai đã mang thi thể Người đi?

- Nicodème đỡ phía đầu, Joseph đỡ chân. Và vài phụ nữ đóng vai người than khóc, là nhữn người quen việc mà chúng tôi biết rõ, Marie de Magdala và các bạn của cô ta.

Peter cắn môi dưới và đấm nắm tay vào lòng bàn tay trái.

- Thật là xấu hổ, thật là… thật là sa sút! Việc bày tỏ lòng kính trọng cuối cùng đối với một người đã chết bao giờ cũng phải do các thành viên trong gia đình người đó thực hiện! Thế mà cả Marie, cả em trai Người là Jacques đều không có ở đó… chỉ có những người có cảm tình với Người! Thầy thực sự đã chết như một con chó.

Người đàn ông vùng Judee nhìn ông với vẻ mỉa mai.

- Có phải là lỗi của bà Marie mẹ Người, của Jacques và ba người anh em khác của Người, và của các chị em Người không, khi mà những việc chuẩn bị cho cuộc nổi dậy của các anh diễn ra trong vòng bí mật nhất? Có phải là lỗi của họ không khi mọi thứ đều bị đổ vỡ trong vòng vài giờ, một cách bi thảm và bất ngờ? Có phải là lỗi của họ không khi Caiphe đã nói dối, khi Jesus bị dẫn đến nhà Pilate sáng hôm qua? Khi Người bị đóng đinh câu rút ngay tức khắc, không qua xử án? Đó là lỗi của ai?

Peter cúi đầu. Chính ông đã giao du với đám bạn cũ là những người Do Thái yêu nước cuồng nhiệt, chính ông đã thuyết phục Judas chấp nhận vai trò bẩn thỉu của mình, tóm lại chính ông là người phải chịu trách nhiệm về mọi chuyện. Ông biết vậy, nhưng không thể thừa nhận như thế được. Không thể thừa nhận trước mặt gã này, kẻ tiếm quyền, kẻ đang tiếp tục nói một cách hùng hồn:

- Anh đã ở đâu khi bọn chúng đặt Jesus nằm lên xà gỗ, khi chúng đóng đinh vào cổ tay Người? Trưa hôm qua tôi đã ở đó, náu mình trong đám đông. Tôi đã nghe những tiếng nện búa khủng khiếp, tôi đã nhìn thấy máu và nước chảy ra từ thân thể Người khi một tên lính kết liễu Người bằng một nhát giáo. Tôi là người duy nhất ở đây có thể làm chứng rằng Jesus xứ Nazareth đã chết như một người đàn ông, không một lời than thở, không một lời trách móc đối với chúng ta, những kẻ đã khiến Người rơi vào cái bẫy đó. Khi đó, tất cả các anh ở đâu?

Peter không nói gì. Caiphe phản bội, Jesus bị giao cho người La Mã, những sự kiện bất ngờ này đã khiến mọi việc chuẩn bị cho cuộc nổi dậy biến thành con số không. Cũng như những người khác, vào lúc Thầy hấp hối, ông đang trốn đâu đó trong khu phố thấp. Càng xa đám lính La Mã, càng xa cửa phía Tây của thành Jerusalem và các giá chữ thập của nó càng tốt. Đúng vậy, ông ta là người duy nhất có mặt, là người duy nhất đã nhìn thấy, từ nay trở đi chỉ có mình ông ta là có thể làm chứng cho cái chết của Jesus, về lòng dũng cảm và phẩm cách của Người. Từ giờ trở đi, ông ta sẽ tỏ ra là kẻ thắng thế, sẽ lên mặt sừng sộ, đồ bịp bợm!

Ông phải lấy lại thế chủ động của mình. Người chỉ huy ở đây chính là ông. Ông kéo người đối thoại với mình đến bên một cửa sổ.

- Lại đây, chúng ta cần nói chuyện.

Peter quan sát bóng đêm một lát. Mọi thứ ở Jerusalem đều đen tối, cả bầu trời cũng vậy. Ông quay lại, cắt ngang bầu không khí im lặng nặng nề:

- Có hai vấn đề khẩn cấp. Đầu tiên là thi thể của Jesus: không ai trong chúng ta có thể chấp nhận việc Người bị vứt vào hố chôn chung, như tất cả những kẻ bị kết án tử hình khác. Làm như vậy sẽ là xúc phạm đến danh tiếng của Người.

Người đàn ông vùng Judee đưa mắt nhìn những bóng người không rõ rệt, lả đi dọc những bức tường của căn phòng lớn. Đương nhiên, không người nào trong số họ có thể mang lại cho người bị tử hình một mộ phần tử tế. Joseph vùng Arimathie hẳn sẽ không chấp nhận để thi thể Jesus được an táng lâu dài trong hầm mộ của gia đình mình. Phải tìm chỗ khác.

- Có thể có một cách giải quyết… Người Esseni vẫn luôn coi Jesus là một người trong số họ - mặc dù Người chưa bao giờ chấp nhận là thành viên trong giáo phái của họ. Tôi đã tham gia cộng đồng phi tôn giáo của họ trong một thời gian dài: tôi hiểu họ rất rõ. Chắc chắn họ sẽ chấp nhận để thi thể Người yên nghỉ tại một nghĩa địa của họ trong sa mạc.

- Anh có thể liên hệ ngay với họ không?

- Eliézer ở rất gần đây, tôi sẽ thu xếp việc này. Thế còn vấn đề thứ hai?

Peter nhìn sâu vào mắt người đối thoại: lúc này mặt trăng đã ra khỏi đám mây, và càng làm nổi bật những đường nét thô ráp trên mặt người ấy. Trở lại là một người Do Thái yêu nước cuồng nhiệt, ông trả lời bằng giọng nghiệt ngã:

- Vấn đề khác là Judas. Và tôi sẽ chịu trách nhiệm về anh ta.

- Judas?

- Anh có biết rằng sáng nay anh ta đã đến Đền thờ và gây ra một vụ ầm ĩ không? Anh có biết rằng anh ta đã tố cáo Giáo chủ là kẻ phản bội, và lấy Chúa trời ra làm nhân chứng giữa Caiphe và anh ta, trước mặt đám đông không? Theo mê tín của người Do Thái, giờ đây một trong hai người sẽ chết trong tay Chúa. Caiphe biết điều đó, và sẽ cho bắt giữ anh ta: thế thì anh ta sẽ nói ra. Anh và tôi, nhất là tôi, sẽ bị vạch mặt. Đối với các Giáo chủ thì điều đó không quan trọng. Nhưng hãy nghĩ đến những người ủng hộ chúng ta, nếu họ biết được rằng vì chúng ta mà Jesus đã bị bắt – mặc dù chúng ta không có ý định nào khác ngoài việc bảo đảm an toàn cho Người – thì tương lai sẽ chấm hết. Anh hiểu chứ?

Kinh ngạc, người đàn ông vùng Judee nhìn chòng chọc vào mặt người đàn ông vùng Galilee: “Tương lai nào, hỡi kẻ thoát nạn khốn khổ, sau một cuộc phiêu lưu thất bại? Còn có tương lai nào khác ngoài việc quay về với những tấm lưới đánh cá của ngươi, thứ mà lẽ ra ngươi không bao giờ nên rời bỏ?”

Ông không nói gì. Peter cúi đầu, gương mặt lại chìm vào bóng tối.

- Anh ta đã rối trí, đã trở thành kẻ nguy hiểm. Cần phải làm gì đó để tránh mối nguy hiểm này. Đừng bận tâm đến điều đó nữa. Tôi sẽ chịu trách nhiệm về Judas.

Và theo bản năng, bàn tay trái ông lướt qua đùi trái nơi có đeo thanh kiếm ngắn sica.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14


Văn tự của các Tông đồ

Để mặc người đàn ông vùng Judee còn đang sững sờ, Peter rời khỏi phòng, đi qua hành lang có mái che và lẻn ra ngoài. Trong buổi bình minh lờ mờ của ngày thứ Bảy Lễ Vượt qua này, chắc là đường phố sẽ vắng vẻ: ông đã biết tìm Judas ở đâu.

Ông luồn lách trong khu phố thấp. Một loạt những con phố nhỏ quanh co rắc rối, càng ngày càng hẹp, không phố nào lát đá: cát lạo xạo dưới dép ông.

Ông gõ vào một cánh cửa.

Gương mặt khiếp sợ của một phụ nữ che mạng hiện ra ở ngưỡng cửa.

- Peter! Nhưng… vào giờ này ư?

- Ta đến không phải để tìm cô, cô gái. Ta tìm Iscariote. Anh ta có ở đây không?

Cô để ông đứng ngoài, và hạ giọng:

- Có, anh ấy đến đây lúc đêm, hốt hoảng. Thực tình, anh ấy dường như không còn là mình nữa… Anh ấy đã cầu xin tôi che giấu anh ấy đến hết dịp lễ này. Anh ấy nói đã công khai tố cáo Giáo chủ Caiphe là kẻ phản bội, và đã xin Chúa làm nhân chứng: bây giờ một trong hai người sẽ phải chết.

- Cô không tin tất cả những điều đó, đúng không?

- Tôi cũng là một học trò của Jesus như ông. Người đã giải phóng chúng ta khỏi tất cả những chuyện hoang đường nhằm chế ngự nhân dân đó.

Peter mỉm cười với cô:

- Vậy thì cô không có gì phải sợ cả, tôi đến đây là để trấn an Judas. Chúa rất công bằng, Người hiểu rõ sự ngay thẳng trong tâm hồn anh ta. Judas đã sai lầm khi lấy Người làm nhân chứng giữa mình và Giáo chủ. Hãy bảo anh ta ra đây, tôi có chuyện muốn nói với anh ta.

Người đàn bà ngập ngừng, nhìn Peter và đóng cửa lại trước mặt ông.

Vị tông đồ bước vài bước: ba căn nhà thấp tạo thành một cái ngõ cụt, tất cả các cửa chớp bên ngoài đều đóng kín. Jerusalem vẫn còn đang ngủ, sau một đêm thức giấc cầu kinh Seder cho lễ Thiên Di.

Một tiếng động làm ông rùng mình quay lại. Judas đang đứng trước mặt ông.

- Peter! Shalom!

Trông anh rất nhợt nhạt, đôi mắt thâm quầng và mái tóc rối bù khiến anh có vẻ nhớn nhác. Anh lo lắng nhìn chòng chọc vào mặt Peter, người không trả lời câu chào của anh mà chỉ gật đầu. Judas liền nói trước.

- Giá mà anh biết được… Chúng ta đã bị phản bội, Peter ạ, bị chính Giáo chủ phản bội. Hắn đã thề rằng sinh mạng của Jesus sẽ được bảo vệ. Thế mà mờ sáng hôm qua tôi đã nhìn thấy Thầy bị dẫn đến nhà Pilate, bị trói. Thế là…

- Thế là mày trở nên điên rồ! Giọng Peter sắc lạnh.

- Thế là tôi muốn nhắc cho Caiphe nhớ thỏa thuận giữa chúng tôi. Và tôi đã nhờ Chúa trời làm nhân chứng giữa tôi với hắn.

- Mày có biết điều đó nghĩa là gì, theo niềm tin vô lý của chúng mày không?

Judas cúi đầu, căng thẳng vặn hai tay vào nhau.

- Mọi lời thề đều gắn với Thượng đế. Caiphe đã thề trước mặt tôi, hắn đã trao cho tôi một khoản coi như tiền cược cho lời hứa của hắn, thế mà Jesus vẫn chết như một kẻ xấu xa! Ồ, đúng, chỉ có Thượng đế mới có thể phán xét một điều bỉ ổi như vậy.

- Chẳng phải Jesus vẫn nhắc đi nhắc lại với chúng ta là không nên thề trước bàn thờ Chúa, vì làm thế là sỉ nhục Người đó sao?

Judas lắc đầu.

- Chúa phán xét, người anh em ạ, Chúa phải phán xét sự bỉ ổi của những kẻ…

“Các Giáo chủ đã biến chúng ta thành thế này đây, Peter nghĩ, nô lệ của những đức tin vô lý. Trước hết phải giải phóng Israel khỏi điều đó và nếu không phải với Jesus, thì sẽ là không có Người. Nhưng Judas đã hoàn toàn hỏng mất rồi. Quá muộn cho anh ta.”

- Và thế nào nữa, Judas?

- Thế là mọi chuyện đã kết thúc. Chúng ta chỉ còn cách quay về Galilee, để chuộc lại cái chết của Thầy chừng nào chúng ta còn sống. Tất cả đã kết thúc rồi, Peter ạ!

Vị tông đồ bước một bước về phía Judas, người đang nhìn ông tiến lên với vẻ ngờ vực. Để trấn an, Peter mỉm cười với anh - người này là một nạn nhân của chính quyền Do Thái, hãy để anh ta được chết yên ổn! Rồi ông rút thanh sica ra, và bằng một động tác mau lẹ, như trước đây ông đã từng học từ những người Do Thái yêu nước cuồng nhiệt, đâm vào bụng dưới Judas. Mặt nhăn lại vì khó chịu, ông kéo lưỡi kiếm lên trên cho đến khi cảm thấy va phải xương ức.

- Chúa đã phán xét, Judas ạ, ông thì thào vào mặt anh. Chúa luôn luôn phán xét. Caiphe sẽ tiếp tục sống, vì sự bất hạnh của Israel.

Mắt mở to hoảng sợ, Judas đổ gục về phía trước không một tiếng kêu, bụng mở phanh, ruột xổ tung trên cát.

Peter chậm rãi lùi lại và xem xét ngõ cụt: không có gì động đậy, hẳn là không có nhân chứng nào. Ông chậm rãi lau thanh kiếm ngắn vào mặt trong áo lót. Rồi ngước mắt lên. Vầng mặt trời vui vẻ của Lễ Vượt qua vừa chiếu sáng vùng đất Israel, nhắc ông nhớ đến khi thoát khỏi ách nô lệ của Ai Cập, và lần lượt vượt qua sóng nước biển Đỏ một cách thần kỳ.

Ngày hôm đó, một dân tộc đã ra đời, Dân tộc của Chúa. Sau đó, mười hai bộ lạc sống du cư trong sa mạc trước khi đến định cư ở Canaan: đất nước Israel cổ xưa, đất nước đã ở vào thời kỳ tàn lụi. Một nước Israel Mới phải được khai sinh, và lần này sẽ do mười hai tông đồ dẫn dắt. Họ chỉ còn lại có mười một người? Chính Chúa trời sẽ chỉ ra người thay thế Judas.

Nhưng không bao giờ gã người vùng Judee kia, kẻ tự xưng là môn đồ cưng, có thể trở thành một trong số Mười hai tông đồ.

Không bao giờ.

Peter bước qua xác Judas. Khi phát hiện ra hắn, tất cả mọi người sẽ nghĩ đến một vụ thanh toán nợ nần giữa những người Do Thái yêu nước cuồng nhiệt với nhau: mổ bụng kẻ thù là cách ký tên quen thuộc của họ. Ông đưa mắt nhìn cái xác lần cuối:

“Từ nay trở đi, ta sẽ là tảng đá trên đó Giáo hội được dựng lên, và cái chết sẽ không còn khả năng chống lại chúng ta. Tất cả chưa phải là đã kết thúc, Judas ạ.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15


Hai ngày đã trôi qua từ sau cái chết của cha Andrei. Cha Nil ngắm nghía bàn làm việc chất đầy giấy tờ, kết quả của nhiều năm nghiên cứu. Ông nghĩ đã làm sáng tỏ những tình tiết thực sự về cái chết của Judas: tất cả đều liên kết với nhau trong vòng vài ngày trước ngày Jesus bị đóng đinh câu rút. Sau đó Judas đã bị giết, ông ta không treo cổ tự tử. Các sự kiện diễn ra tiếp theo chỉ có thể được giải thích bằng cách lục lọi trong các văn tự để nắm bắt không chỉ điều được nói ra trong đó, mà là những điều phải ngầm hiểu ra từ đó. Lịch sử không phải là một môn khoa học chính xác: sự thật của nó bắt nguồn từ việc đối chiếu các dấu hiệu tích lũy được.

Giờ đây, ông phải áp dụng đúng phương pháp này với vuông giấy bí ẩn phát hiện được trong bàn tay người bạn đã khuất. Để làm được điều đó, ông phải tiếp cận được thư viện lịch sử. Thủ thư mới của tu viện sẽ chỉ được bầu ra sau lễ tang, dự kiến diễn ra vào ngày mai.

Ông nhắm mắt lại, để mình chìm vào quá khứ.

- Cha Nil, tôi vừa được biết rằng trong khi trùng tu lại nhà thờ Germigny, công nhân đã phát hiện ra một bản khắc cổ. Tôi muốn được nhìn thấy bản khắc đó, cha có đi cùng tôi được không? Tôi phải chụp ảnh các bản thảo viết tay ở Orléans, đường đến đó có qua vùng Germigny-des-Prés…

Họ đậu xe tại quảng trường của ngôi làng nhỏ. Cha Nil thích thú được đến lại nhà thờ này: kiến trúc sư của vua Charlemagne đã muốn dựng mô hình thu nhỏ của thánh đường Aix-la-Chapelle, được xây dựng vào khoảng năm 800. Những cửa kính ghép màu quý giá bằng alêbát mang lại cho bên trong nhà thờ một bầu không khí thân mật và tĩnh tâm.

Họ bước vào cửa chính điện.

- Cha xem, dường như bí ẩn vẫn bao trùm nơi đây!

Tiếng thì thầm của cha Andrei lẫn trong tiếng búa đập vào bức tường phía cuối chính điện: để hạ những tấm kính ghép màu xuống, công nhân phải phá bỏ những phần vữa bao quanh. Giữa hai chỗ mở, ngay trong phần kéo dài của gian giữa, có thể thấy một cái hố há hốc miệng trong vùng tranh tối tranh sáng. Chan Andrei tiến lại gần.

- Xin lỗi các ông, tôi muốn xem qua một phiến đá mà hình như các ông đã tìm thấy trong khi tiến hành công việc.

- À, phiến đá à? Đúng vậy, chúng tôi đã thấy cái đó dưới một lớp vữa. Chúng tôi đã lấy nó ra khỏi bức tường và đặt trong gian cánh trái.

- Chúng tôi có thể xem được không?

- Không vấn đề gì, các cha là những người đầu tiên quan tâm đến phiến đá ấy đấy.

Hai thầy tu đi vài bước và nhận ra trên nền đất một phiến đá vuông, trên rìa vẫn còn dấu vết của lớp vữa gắn. Cha Andrei cúi người, rồi quỳ một chân xuống đất.

- A… rõ ràng là ngay từ đầu người ta đã gắn nó lên tường bằng vữa. Được gắn lên tường ở vị trí như vậy, phiến đá này sẽ nằm ngay trong tầm mắt của các tín đồ. Thế nghĩa là nó có một tầm quan trọng đặc biệt… Sau đó, cha nhìn xem, người ta đã che phủ nó bằng một lớp vữa có vẻ mới hơn.

Cha Nil cũng chia sẻ tâm trạng hưng phấn của bạn mình. Những người như hai ông không bao giờ đề cập đến Lịch sử như một thời đại đã trôi qua: quá khứ chính là hiện tại của họ. Đúng lúc này, họ nghe thấy một giọng nói vượt qua nhiều thế kỷ: giọng nói của vị hoàng đế đã ra lệnh khắc chữ lên phiến đá này, và muốn rằng nó được gắn lên một vị trí dễ nhận thấy như vậy.

Cha Andrei rút khăn mùi soa và nhẹ nhàng lau mặt phiến đá.

- Lớp vữa này cùng loại với vữa ở các nhà thờ La Mã. Như vậy, phiến đá này đã bị che phủ đi khoảng hai đến ba thế kỷ sau khi được gắn ở đây. Một ngày nào đó, người ta đã nhận thấy cần che giấu bản khắc này khỏi con mắt của công chúng. Nhưng ai có lợi trong việc che giấu này?

Những ký tự hiện ra dưới lớp vữa bị phủi đi.

- Chữ viết dưới thời Carolingien. Nhưng… chính là văn tự về Tín điều Nicée!

- Văn tự Tín điều Credo?

- Chính thế. Tôi đang tự hỏi tại sao người ta lại muốn nó được đặt một cách công khai, trong tầm mắt tất cả mọi người, trong nhà thờ hoàng tộc này. Nhất là, tôi tự hỏi…

Cha Andrei quỳ một lúc lâu trước bản khắc, sau đó đứng lên, phủi bụi và đặt một tay lên vai cha Nil.

- Bạn của tôi, trong bản sao lại Tín điều Nicée này có điều gì đó mà tôi không hiểu: tôi chưa bao giờ nhìn thấy nó.

Họ nhanh chóng chụp một bức ảnh bề mặt phiến đá, và ra đi khi công nhân đóng cửa công trường để nghỉ trưa.

Cha Andrei lặng im cho đến tận Orléans. Khi cha Nil chuẩn bị máy ảnh cho buổi làm việc, ông ngăn lại:

- Không, đừng dùng cuộn phim này, đây là cuộn phim chụp phiến đá. Cha hãy để riêng nó ra, và dùng một cuộn phim khác để chụp các bản thảo này.

Chặng đường về buồn tẻ. Trước khi ra khỏi xe, cha Andrei quay sang cha Nil. Ông có vẻ đặc biệt nghiêm trang.

- Chúng ta sẽ in phim chụp ở Germingny ra thành hai bản. Tôi sẽ lấy một bản, và sẽ fax ngay cho một người làm việc ở Thư viện Vatican mà tôi có liên hệ: tôi muốn biết ý kiến của ông ấy, rất ít người có thể hiểu được những nét đặc thù của các bản khắc vào đầu thời kỳ Trung cổ. Bản thứ hai… cha hãy giữ gìn nó cẩn thận trong phòng của cha. Chẳng ai biết chuyện gì sẽ xảy ra.

Mười lăm ngày sau, cha Andrei gọi cha Nil vào văn phòng mình. Ông có vẻ lo lắng:

- Tôi vừa nhận được một lá thư từ Vatican: họ triệu tập tôi đến đó để báo cáo về việc dịch bản thảo tiếng Ai Cập cổ mà tôi đã nói với cha. Tại sao họ lại yêu cầu tôi đi chuyến này? Cùng với lá thư, còn có lời nhắn của người làm ở Vatican, nói với tôi rằng ông ấy đã nhận được bức ảnh chụp phiến đá Germigny. Không bình luận gì thêm.

Cha Nil cũng ngạc nhiên không kém gì bạn mình:

- Khi nào cha đi?

- Sáng nay, Cha tu viện trưởng đã đến đưa cho tôi một vé đi chuyến tàu Roma Express ngày mai. Cha Nil… xin cha, trong khi tôi đi vắng, cha hãy quay lại Germigny. Bức ảnh mà chúng ta đã chụp không được rõ, cha hãy chụp một bức khác ở góc ánh sáng chiếu là là.

- Cha Andrei, có thể nói cho tôi biết cha đang nghĩ đến điều gì không?

- Hôm nay, tôi không nói với cha nhiều hơn được. Hãy tìm một cớ nào đó để ra ngoài, và nhanh chóng chụp bức ảnh ấy. Chúng ta sẽ cùng xem xét khi tôi trở về.

Ngày hôm sau, cha Andrei lên đường đi Roma.

Và không bao giờ trở về tu viện nữa.

Cha Nil mở mắt ra. Ngay khi có thể, ông sẽ đi thực hiện ước nguyện cuối cùng của bạn mình. Nhưng không có ông ấy thì một phim mới chụp bản khắc sẽ dùng làm gì?

Tiếng chuông sầu thảm bắt đầu vang lên liên hồi, thông báo cho toàn thể thung lũng biết rằng ngày mai, một tu sĩ sẽ được trang trọng đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng. Cha Nil hé mở ngăn kéo bàn và lùa tay xuống dưới chồng thư.

Tim ông bắt đầu đập mạnh. Ông kéo hẳn ngăn bàn ra: bức ảnh chụp ở Germigny đã biến mất, cả mảnh giấy của cha Andrei cũng vậy.

“Không thể! Không thể thế được!”

Ông rải hết những thứ đựng trong ngăn kéo lên bàn: không tác dụng gì, cả bức ảnh và mảnh giấy đều không thấy.

Các tu sĩ đều nguyện sống trong cảnh nghèo khổ: vậy nên họ tuyệt đối không sở hữu thứ gì, không được khóa kín bất cứ thứ gì, và không một phòng nào trong tu viện có ổ khóa. Trừ các văn phòng của thủ quỹ, văn phòng của Cha tu viện trưởng - và ba thư viện, nơi mà chìa khóa được phân phát với sự dè sẻn ta đã biết.

Nhưng phòng của một tu sĩ là nơi sự cô độc của người đó không bị xâm phạm: không ai được vào phòng khi chủ nhân vắng mặt, hoặc không được chủ nhân chính thức cho phép. Trừ Cha tu viện trưởng, người ngay khi được bầu lên đã thề danh dự là tôn trọng quy định không thể xâm phạm này, là điều bảo đảm cho sự lựa chọn của các tu sĩ: sống trong cộng đồng nhưng cô độc trước Chúa.

Không chỉ xâm phạm nơi riêng tư của cha Nil, mà người ta còn lục lọi và lấy cắp. Ông liếc nhìn những tập hồ sơ nằm rải rác, lộn xộn trên bàn. Đúng, người ta không bằng lòng với việc chỉ lục lọi trong ngăn bàn: tập dày nhất trong số các hồ sơ của ông, kinh Phúc âm theo Thánh Jean, không còn ở vị trí quen thuộc. Nó đã bị xê dịch đôi chút, và mở ra. Cha Nil, người đã dùng nó hằng ngày từ khi bắt đầu khóa học, nhận ra ngay rằng một số ghi chép của ông không còn ở đúng vị trí mà ông sắp xếp theo logic của riêng mình. Thậm chí hình như một số tờ đã biến mất.

Một nguyên tắc trong cuộc sống của tu viện dòng Benedict vừa bị xâm phạm, ông đã có bằng chứng hiển nhiên. Điều này hẳn phải do một nguyên cớ vô cùng nghiêm trọng. Ông lờ mờ cảm thấy có một mối liên hệ giữa những sự kiến bất thường xảy ra thời gian vừa qua, nhưng đó là gì?

Ông đã chống lại mong muốn của gia đình không theo đạo của ông để trở thành tu sĩ, ông nhớ lại hình ảnh mình khi còn là chàng thanh niên tập tu. Sự thật… ông đã mang cả cuộc đời mình để đi tìm nó. Có hai người hiểu ông: Rembert Leeland, bạn đồng môn của ông trong bốn năm học ở Roma, và cha Andrei. Leeland hiện đang làm việc ở đâu đó tại Vatican, cha Nil thấy mình đơn độc với những vấn đề mà ông không đủ khả năng giải quyết, và một nỗi lo sợ âm thầm vẫn không rời bỏ ông từ cuối mùa hè.

Ông đưa tay vuốt nhẹ lên tập hồ sơ dày về kinh Phúc âm theo Thánh Jean: tất cả là ở đây. Thật ra, cha Andrei đã không ngừng khiến ông hiểu ra điều đó, mặc dù vẫn từ chối nói hết mọi chuyện với ông hoặc cho phép ông tiếp cận thư viện cánh Bắc. Ông ấy không thể làm khác được: phải phục tùng. Nhưng cha Andrei đã chết, có thể là do sự phục tùng của ông ấy. Và căn phòng của chính ông đã bị lục lọi, một sự xâm phạm đến những quy định bất di bất dịch của tu viện.

Phải làm một điều gì đó.

Vẫn còn một giờ trước kinh chiều tối. Ông đứng dậy, đi ra hành lang, và cả quyết bước về phía cầu thang dẫn đến các thư viện.

Nhờ có trí nhớ hình ảnh tốt, ông đã ghi nhận những chi tiết nhỏ nhất trên mảnh giấy của cha Andrei. Bản thảo tiếng Ai Cập cổ (Apoc) chắc chắn là một bản thảo kinh Khải Huyền bằng tiếng Ai Cập cổ. Bức thư của Tông đồ, sau đó là ba ký tự bí ẩn M M M, và phiến đá Germigny. Sợi dây liên kết tất cả các yếu tố bí ẩn này còn đang nằm im đâu đó, trong những cuốn sách của thư viện.

Ông đến trước văn phòng của cha Andrei, nằm ngay bên thư viện Khoa học về Kinh Thánh. Cách đó mười mét là góc cánh Bắc và lối vào thư viện Khoa học lịch sử.

Cánh cửa văn phòng thủ thư cũng không có ổ khóa giống như bất cứ phòng nào khác trong tu viện. Ông bước vào, bật đèn, thả mình xuống chiếc ghế mà ông đã ngồi trong biết bao giờ phút hạnh phúc để trò chuyện với bạn mình. Không có gì thay đổi. Trên tường, những bộ ván giá chất đầy sách dán nhãn mới tinh: những cuốn mới được mang đến, đang chờ được sắp xếp vĩnh viễn vào một trong ba thư viện. Bên dưới là cái tủ bằng kim loại nơi cha Andrei xếp bản sao của các bản thảo viết tay ông đang nghiên cứu. Bản thảo kinh Khải Huyền bằng tiếng Ai Cập cổ hẳn đang nằm đâu đó trong tủ. Liệu có nên bắt đầu từ đó không?

Bỗng ông giật mình. Trên một giá sách, nhiều cuộn phim để lộn xộn: âm bản của những bản thảo viết tay… Trong số đó, ở hàng đầu tiên, ông nhận ra ngay cuộn phim ông đã dùng để chụp phiến đá Germigny. Cha Andrei đã để nó ở đó, không nghĩ đến nữa, trước khi đi Roma.

Người ta vừa đánh cắp bức ảnh của ông, nhưng không nghĩ đến phim âm bản, hoặc chưa có thời gian để khám xét văn phòng của viên thủ thư. Không ngần ngại, cha Nil đứng dậy, lấy cuốn phim trên giá và bỏ vào túi. Những ước nguyện cuối cùng của một người quá cố là thiêng liêng…

Ngay trước mặt ông, trên lưng ghế phô tơi, ông nhận ra áo vest và chiếc quần tu sĩ mà cha Andrei mặc lúc chết. Ngày mai, ông ấy sẽ được chôn cất trong lễ phục thầy tu: sẽ không bao giờ có ai mặc đến bộ quần áo này nữa, chúng đã trở nên vô ích cho việc điều tra. Mắt cha Nil bị một làn nước làm nhòa đi, rồi một ý nghĩ điên rồ bỗng lướt qua đầu ông. Ông cầm lấy chiếc quần, thọc tay vào túi bên trái: ngón tay ông nắm vào một vật bằng da. Ông vội rút nó ra khỏi túi: một túi đựng chìa khóa! Không ngần ngại, ông mở khuy bấm.

Ba chiếc chìa khóa. Chiếc dài nhất hoàn toàn giống với cái của ông, là chìa khóa thư viện cánh giữa: hai cái còn lại hẳn là chìa khóa cánh phía Bắc và cánh phía Nam. Chùm chìa khóa đặc biệt, chùm chìa khóa mà chỉ thủ thư và Cha tu viện trưởng mới có. Rối trí vì những sự kiện bi thảm xảy đến với tu viện của mình, Cha tu viện trưởng chưa kịp nghĩ đến việc lấy lại chùm chìa khóa này - chùm chìa khóa mà ông ấy sẽ trao lại cho người kế vị cha Andrei sau khi đã lựa chọn được ứng cử viên để bầu vào chức vụ tế nhị này.

Cha Nil lưỡng lự một lát. Rồi ông thấy lại khuôn mặt của bạn mình, ngồi đối diện với ông trên chiếc ghế phô tơi. “Sự thật, cha Nil ạ, chính là để biết được sự thật mà cha đã vào tu viện này!” Ông bỏ chùm chìa khóa vào túi, vượt qua mấy mét hành lang ngăn cách ông với cánh phía Bắc và thư viện của ông.

Khoa học lịch sử: nếu bước qua cánh cửa này, ông sẽ trở thành một kẻ phản nghịch.

Ông quay lại nhìn phía sau lưng: hành lang của cánh giữa và cánh phía Bắc vắng hoe.

Ông cả quyết tra một trong hai chiế chìa khóa nhỏ vào ổ khóa: ổ khóa xoay tròn không một tiếng động.

Cha Nil, giảng viên hiền hậu phụ trách môn chú giải Kinh Thánh, tu sĩ mẫu mực chưa bao giờ vi phạm quy định nào của tu viện, dù là nhỏ nhất, mở cửa và bước lên trước một bước: vào trong thư viện phía Bắc này là ông bước vào thế chống đối.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16


Kinh Phúc âm theo Matthieu

- Họ làm gì trên đó?

Họ ngồi trên một trong những chiếc ghế dài bằng đá trong hành lang có mái che. Bình minh ngày Chủ nhật Lễ Vượt qua vừa hé lộ, căn nhà vẫn im lìm. Giống như chủ nhà, Peter cũng mệt nhoài. “Hai đêm không ngủ, bữa ăn thực sự cuối cùng là vào tối thứ Năm, trong căn phòng lớn cùng với Jesus. Sau đó Thầy bị bắt và chết. Rồi Judas bị thủ tiêu.”

Hai quầng mắt trũng sâu trên gương mặt ông. Ông nhắc lại câu hỏi:

- Thế họ làm gì trên đó?

- Anh phải biết chứ: chẳng phải hôm qua chính anh cũng đã trốn tịt trên đó cả ngày, trong khi tôi mặc cả với người Esseni hay sao?

Người đàn ông vùng Judee không nhắc đến lần ra ngoài ngắn ngủi của Peter vào sáng hôm trước. Khi thấy ông này lẻn ra phố, bàn tay áp sát đùi trái, ông đã đoán ra. Rồi trong ngày hôm đó, ông nghe thấy những lời đồn đại ở Jerusalem: người vùng Galilee bị một người Do Thái yêu nước cuồng nhiệt nào đó sát hại chính là kẻ đã viện Chúa trời làm nhân chứng giữa mình và Caiphe ngày hôm qua. Anh ta chết là đúng thôi: Chúa trời đã phán xử, và đã chọn Iscariote.

- Tôi tin rằng, Peter mỉm cười cay đắng, đa số họ đang ngủ. Anh nói xem, người Esseni có sẵn sàng giúp chúng ta không?

- Có, tôi có tin tốt đây. Họ cho rằng Jesus là một Người Israel chân chính, và sẵn sàng dành cho Người một phần mộ tại một trong số các nghĩa địa của họ. Việc chuyển thi thể không thể tiến hành trước khi có tiếng tù và báo hiệu kết thúc Lễ Vượt qua. Anh biết rằng người Esseni rất nghiêm túc trong những vấn đề sạch sẽ trong nghi thức, họ sẽ không bao giờ đụng vào một xác chết chừng nào lễ hội chưa chính thức kết thúc. Trong một giờ nữa.

Peter ném sang ông một cái nhìn thận trọng.

- Họ sẽ chôn Người ở đâu? Ở Qumran ư?

Người đàn ông vùng Judee không vội trả lời. Ông nhìn thẳng vào mặt Peter.

- Tôi không biết gì cả, họ không nói gì với tôi.

“Họ sẽ nói với ta, nhưng ngươi sẽ không biết đâu.

Không phải ngươi, không bao giờ.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17


Cha Nil nhẹ nhàng khép cánh cửa thư viện lại. Ông đã từng tự do vào đây trong một thời gian dài. Nhưng từ khi thành lập học viện, người ta đã thay ổ khóa, ông không đặt chân vào cánh phía Bắc này từ bốn năm nay.

Ông nhận ra mùi hương quen thuộc, và khi nhìn lướt qua, ông thấy dường như không có gì thay đổi. Biết bao lần ông đã đến đây, bị một cuốn sách mới lôi cuốn! Nghĩa là làm quen với một người bạn mới, bắt đầu một cuộc trò chuyện mới. Sách là những người bạn đồng hành tin cậy: chúng hiến dâng hoàn toàn, không giữ gìn, cho những người biết tìm hiểu chúng một cách tế nhị nhưng bền bỉ. Và cha Nil là người vô cùng bền bỉ.

Chìm trong môi trường vật chất chủ nghĩa ngay từ thời thơ ấu, nơi thành công trong xã hội là vị thần duy nhất được sùng bái, một ngày ông đã nhìn thấy một luồng ánh sáng. Như thế nào? Trí nhớ của ông đã để mất dấu vết này. Nhưng ngày đó ông đã biết rằng sự thật trên thế giới này không hạn chế ở cái mà chúng ta nhận thấy, đơn thuần ở cái vỏ bên ngoài. Thế là trong ông nảy sinh một điều hiển nhiên: biết được cái vượt lên trên những vỏ bề ngoài mới là việc phi thường nhất, mới minh chứng được việc một người dốc hết sức lực của mình trong suốt cuộc đời.

Kể từ đó, đối với ông, chuyến phiêu lưu nội tâm dường như đã trở thành điều duy nhất mang lại ý nghĩa cho cuộc đời của một con người tự do. Và việc kiếm tìm điều vượt trên những cái bề ngoài trở thành điều duy nhất không bị gắn với bất kỳ sức ép nào từ bên ngoài.

Điều ông không hề biết khi bước vào thư viện phía Bắc, đó là ông đã nhầm. Bởi vì ông đã phải bước qua cánh cửa này bằng cách lấy trộm chìa khóa, và người bạn duy nhất của ông ở tu viện đã chết, có thể là vì đã bước qua cánh cửa này quá thường xuyên.

Trước mặt ông, hàng tá kệ sách xếp thẳng hàng, chứa trong mình kiến thức lịch sử của toàn thế giới.

- Sách không mang lại hiểu biết, cha Andrei đã từng nói với ông. Chúng là một loại thực phẩm thô. Việc của cha là phải tiêu hóa nó, nghĩa là phá dỡ nó ra trong khi đọc, sau đó xây dựng lại trong chính bản thân cha. Tôi đã nghiên cứu nhiều, cha Nil ạ, nhưng tôi học được ít. Đừng quên điều mà cha tìm kiếm: đó chính là bí ẩn của Chúa, điều nằm bên trên ngôn từ. Ngôn từ và ý tưởng chứa đựng trong sách sẽ dẫn dắt cha theo những hướng rất khác nhau, tùy theo cách cha sắp xếp chúng. Tất cả đều nằm ở đó, có sẵn trong những cuốn sách này: nhưng đa số mọi người chỉ thấy trên giá sách này những tảng đá đặt lộn xộn. Việc của cha là dùng chúng để xây dựng một công trình có cấu trúc chặt chẽ. Chỉ có điều, cha hãy cẩn thận: không phải mọi kiểu kiến trúc đều có thể được chấp nhận, và không phải tất cả các kiểu kiến trúc đều đã được chấp nhận . Chừng nào cha còn ở trong cái được coi là chuẩn mực về mặt tư tưởng, cha sẽ không gặp vấn đề gì. Hãy nhắc lại điều người ta đã nói trước cha, hãy dựng lại công trình đã được quá khứ công nhận, và cha sẽ được tôn vinh. Nhưng nếu cũng với những tảng đá này, cha dựng nên một công trình mới, thì cha hãy cẩn thận…

Cha Nil nhận ra những kệ sách đầu tiên: thế kỷ XX. Viên thủ thư thời kỳ sau chiến tranh - giờ đây ông ấy đang yên nghỉ ở nghĩa trang - đã không tuân thủ chặt chẽ Hệ thống phân loại phổ thông của Dewey, mà theo một cách thức tiện lợi hơn cho các tu sĩ là sắp xếp theo thứ tự niên đại. Như vậy, những kệ sách mà cha Nil quan tâm nằm ở đầu kia. Ông đi tiếp.

Và bỗng mở tròn mắt.

Cách đây bốn năm, chỉ hai kệ là đủ để chứa các tài liệu về thế kỷ I, được sắp xếp theo nguồn gốc địa lý: Palestine, phần còn lại của Trung Đông, phương Tây dùng ngôn ngữ Latin, phương Tây dùng ngôn ngữ Hy Lạp… Thế mà trước mắt ông bây giờ là cả nửa tá kệ sách. Ông bước đến khu vực tài liệu về Palestine: gần hai kệ! Những văn bản mà ông đã uổng công tìm kiếm trong thư viện duy nhất ông có quyền tiếp cận, những tài liệu về cách chú giải Kinh Thánh Midrash trong thời kỳ của người Do Thái sùng nghi thức đạo, những Thánh vịnh và văn tự thông thái không có cả trong kinh Cựu ước lẫn kinh Tân ước…

Bước thêm vài bước nữa, ông đến trước kệ sách chỉ có một nhãn duy nhất: “Qumran”. Vừa đưa tay lướt qua các cuốn sách, đột nhiên ông dừng lại. Ở đó, xếp giữa những bản in các bản thảo có nguồn gốc từ vùng biển Chết, ngón tay ông vừa chạm vào một tập dày. Trên gáy tập bản in không hề có tên tác giả hay tên nhà xuất bản, mà chỉ có ba chữ cái do tay cha Andrei viết: M M M.

Tim đập mạnh, cha Nil kéo tập sách về phía mình. M M M, chính là ba chữ cái mà cha Andrei đã viết ngay trước khi chết!

Dưới ánh sáng mờ nhạt hắt xuống từ đèn trần nhà, ông mở tập sách ra. Đây không phải là một cuốn sách, mà chỉ là một tập bản sao: cha Nil nhận ra ngay thuật viết đặc thù của các bản thảo vùng biển Chết. Như vậy, M M M chỉ đơn giản là “Manuscrits de la mer Morte” [[9]]… Những bản thảo này từ đâu đến?

Phía cuối trang đầu tiên, ông luận ra được một con dấu in bằng mực xanh đã phai màu: “Thư viện Huntington, San Marino, California”.

Những bản thảo của người Mỹ!

Một hôm, cha Andrei đã nói với ông bằng giọng thì thầm, mặc dù cửa văn phòng của ông đang đóng:

- Các bản thảo vùng biển Chết đã được phát hiện ngay trước khi Nhà nước Israel ra đời, vào năm 1947-1948. Trong bối cảnh lộn xộn khi đó, nơi này là một cái chợ hỗn độn, nơi kẻ nào cũng cố gắng mua - hoặc ăn cắp - những cuộn giấy này càng nhiều càng tốt, vì người ta cho rằng chúng sẽ làm một cuộc cách mạng đối với đạo Cơ Đốc. Người Mỹ đã cuỗm được một số lượng lớn. Từ đó, nhóm nghiên cứu quốc tế phụ trách việc công bố các bản thảo này đã cố gắng hết sức để trì hoãn việc xuất bản. Thấy thế, thư viện Huntington đã quyết định công bố tất cả những gì họ có, bằng cách sao lại và phân phối trong phạm vi bí mật. Tôi hy vọng một ngày nào đó - ông nở một nụ cười ranh mãnh - chúng ta có thể sở hữu một tập ở đây. Đây là bản in lậu những tác phẩm bị kiểm duyệt, cứ như là trong thời kỳ Xô Viết ấy, người ta phải lén lút truyền nhau những bản thảo này!

- Tại sao thế, cha Andrei? Ai ngăn chặn việc xuất bản các bản thảo này? Và tại sao người ta lại lo sợ rằng cuối cùng chúng sẽ bị khám phá?

Như thỉnh thoảng lại xảy ra trong những lần trò chuyện của họ, cha Andrei chìm trong im lặng ngại ngần. Và ông ấy nói sang chuyện khác.

Cha Nil ngần ngại một lúc: đúng ra, ông không thể mượn tập bản thảo này. Mỗi khi một tu sĩ mượn một cuốn sách trên giá, người đó phải đặt vào vị trí cuốn sách một “bóng ma”, tức là một lá phiếu có chữ ký của mình và ngày mượn. Hệ thống này nhằm tránh mất sách, nhưng cũng cho phép giám sát công việc trí óc của các tu sĩ. Cha Nil biết rằng, từ một thời gian trở lại đây, việc giám sát này rất chặt chẽ.

Ông nhanh chóng quyết định: “Người thay thế cho cha Andrei còn chưa được chỉ định. Với đôi chút may mắn, sẽ không ai nhận thấy có một cuốn sách biến mất mà không có bóng ma, chỉ trong một đêm duy nhất.”

Như một tên trộm, ghì chặt thứ vừa ăn cắp được vào ngực, ông tiến về phía cửa và lẻn ra ngoài thư viện: hành lang cánh Bắc trống trơn.

Ông có một đêm: một đêm dài làm việc bí mật.

Trên kệ “Qumran” của thư viện khoa học lịch sử, một khoảng trống há hốc không có bóng ma cho thấy hôm nay một tu sĩ đã vi phạm một trong những quy định chặt chẽ nhất của tu viện Saint-Martin.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18


Cách đó vài kilomet, trong đêm khuya, khi cha Nil đang lật từng trang bản thảo M M M dưới ánh đèn chụp trong phòng mình (ông đã bịt ô kính trên cửa sổ phòng bằng một cái khăn mặt, hành động chống đối thứ hai trong ngày), hai người đàn ông lặng lẽ bước xuống từ một chiếc xe phủ đầy bụi. Vừa thổi vào những ngón tay bị tê cóng vì cái lạnh tháng Mười một, tên lái xe vừa quan sát nhà thờ nhỏ nơi những ô kính màu bằng alêbát đang nhẹ ánh lên trong đêm. Cảm thấy trong lòng dâng lên một làn sóng phấn khích mạnh mẽ, hắn rùng mình, gương mặt chợt đông cứng lại.

Hành khách còn lại tiến lên trước một bước và xem xét xung quanh: ngôi làng đang ngủ. Đằng trước chúng, hàng rào lỏng lẻo của công trường chắc là có thể kéo ra rất dễ dàng, và chúng sẽ mang phiến đá ra một cách thoải mái. Trò trẻ con thôi!

Hắn quay lại.

- Bismillah, yallah! [[10]]

Người đồng hành của hắn cầm một cái túi bằng da.

- Ken, baruch Adônai! [[11]]

Vài phút sau, chúng quay ra, khệ nệ khiêng theo một phiến đá nặng. Trong khi chúng luồn lách giữa những tấm ván hàng rào, tên lái xe cố chế ngự nhịp tim: “Mình phải trấn tĩnh lại…”

Quảng trường của ngôi làng vẫn vắng vẻ và yên ắng. Chúng dựng phiến đá trong cốp xe, rồi tên lái xe ngồi vào trước tay lái, thở dài: chặng đường đến tận Roma sẽ dài lắm đây… Trước khi đóng cửa, ánh đèn trên trần xe soi sáng mái tóc vàng hoe của hắn, nơi một vết sẹo chạy từ tai trái mất hút vào trong.

Viên ngọc thạch anh có điểm những đốm đỏ và được viền khung bạc của Đức ông Calfo hắt ra một tia sáng, trong khi bàn tay mũm mĩm của ông lướt trên mái tóc rực rỡ của cô gái. Ông những muốn tái tạo lại, vào cuối thế kỷ XX này, những điều tinh tế của thời Cổ đại: tầng hầm của Roma chứng tỏ nhà thổ và đền thờ các vị thần luôn tạo thành một thể thống nhất hữu cơ. Cùng một cánh cửa dẫn đến những ngọn nguồn của cùng một cảm giác ngây ngất.

Trong không khí tĩnh mịch tại căn hộ của ông ở gần lâu đài San Angelo, nơi chỉ nghiêng người là có thể thấy mái vòm uy nghi che trên phần mộ Thánh Peter, ông hài lòng vì tối nay toàn bộ trang phục trên người chỉ bao gồm chiếc nhẫn Giám mục.

“Sự hợp nhất giữa thánh thần và thể xác… Nếu Chúa đã hiển linh trong hình hài Jesus-Christ thì đó là để thực hiện sự hợp nhất này. Nào, người đẹp của ta, hãy khiến ta lên trời đi!”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19


Kinh Phúc âm theo Marc và Luc

Từ Đền thờ, tiếng tù và vang vọng chào đón ánh mặt trời, đánh dấu chấm hết Lễ Vượt qua vào sáng Chủ nhật ngày mồng 9 tháng Tư. Bốn thanh niên cả quyết bước vào nghĩa trang nằm phía trước cửa Tây thành Jerusalem. Một trong số họ mang một cái đòn bẩy: cần phải đẩy tảng đá đặt trên mộ sang một bên, chúng nặng vô cùng. Họ đã quen với việc này.

Khi bước vào trong hầm mộ, họ thấy thi thể một người bị tử hình được đặt sơ sài trên một tảng đá trung tâm, trên mình vẫn còn hằn rõ những vết roi và vết đóng đinh. Bên sườn, một vết thương hở vẫn để rỉ ra một chút máu. Họ buột miệng rên lên:

- Thượng đế ơi! Hãy xem chúng đã làm gì con trai Người, những nhà tiên tri Israel! Hãy để sự trừng phạt của Người vì những giọt máu này giội lên đầu chúng! Người đàn ông chân chính này đã phải chịu biết bao đau đớn!

Sau khi đọc xong kinh Qaddish, họ choàng lên người những chiếc áo dài màu trắng: đối với họ, chuyển một thi hài đến miền đất trong sạch là một hành động tôn giáo, trang phục màu trắng là điều bắt buộc. Hơn nữa trang phục này sẽ khiến những người Do Thái hành hương nhận ra họ - những người này đã quen nhìn thấy người Esseni vận chuyển các thi thể để mai táng lại trong các nghĩa địa của mình.

Hai trong số họ đã sẵn sàng khiêng thi thể. Nhưng vì vào tối thứ Sáu, mọi việc đã diễn ra rất nhanh, nên hôm nay thân quyến của người quá cố hẳn sẽ đến để hoàn tất nghi lễ xức dầu. Nếu họ phát hiện hầm mộ rỗng không thì sẽ hoảng lên mất: cần phải báo cho họ.

Hai người còn lại, vẫn mặc trang phục trắng, đứng luôn ở đầu và cuối tảng đá liệm, trong khi hai người đồng hành của họ bắt đầu chuyến đi dài mang thi thể đến một trong những nghĩa trang của người Essseni trong sa mạc.

Họ không phải chờ đợi lâu: mặt trời vẫn còn thấp ở phía chân trời, họ đã nghe thấy tiếng bước chân lén lút. Những người phụ nữ thân thích với Jesus.

Khi nhìn thấy tảng đá nặng nề đặt trên mộ bị dịch chuyển sang một bên, những người phụ nữ giật nẩy mình. Một trong số họ tiến lên một bước, và kêu lên một tiếng kinh hoàng: hai sinh vật mặc đồ trắng đứng trong hầm tối của ngôi mộ, có vẻ như đang chờ đợi họ. Khiếp sợ, bà lắp bắp hỏi, và được hai người đó trả lời một cách ung dung. Khi hai người này tỏ vẻ sắp bước ra để trả lời họ chi tiết hơn, thì những người phụ nữ quay gót chạy trốn, kêu rối rít như một bầy chim.

Hai người Esseni nhún vai. Tại sao các tông đồ của Jesus lại cử phụ nữ đến đây, trong khi lẽ ra chính họ phải đến? Dù sao, nhiệm vụ của họ đã kết thúc. Chỉ còn việc dọn dẹp lại chỗ này trước khi đi.

Họ cởi áo choàng trắng và định dịch chuyển tảng đá trên mộ: vô ích, vì họ chỉ còn có hai người, mà tảng đá thì quá nặng. Để mặc hầm mộ mở toang, họ ra khỏi khu vườn và ngồi sưởi nắng. Người đàn ông vùng Judee, người đã thu xếp mọi chuyện sẽ đến gặp họ: phải chờ ông ta.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom