Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!
Chương 80


Hôm đó trời mưa cả ngày. Những lớp sương mù chầm chậm lan trên sườn dãy núi Abruzzes phía chúng tôi, rồi dường như ngần ngại một lát trước khi vượt qua đỉnh núi và tan biến về phía biển Adriatic. Những cánh chim săn mồi như bị hút về phía chân trời.

Cha Nil đã cho tôi trú lại gian nhà đơn sơ đào ngay trong vách đá của ông. Một chiếc đệm rơm đặt trên một chiếc giường dương xỉ khô, một chiếc bàn nhỏ kê trước cửa sổ tí hon. Một lò sưởi sơ sài, một cuốn Kinh Thánh đặt trên giá, vài bó củi. Còn ít hơn cả những thứ thiết yếu nhất: thứ chủ yếu ở đây nằm ở nơi khác.

Ông báo trước với tôi rằng chúng tôi đang đi đến hồi kết của câu chuyện. Sau mọi chuyện, trong sự tĩnh lặng của vùng núi này, ông mới hiểu hết những tình tiết xung quanh nó. Ông chỉ bối rối có một lần, và tôi nhận thấy điều đó qua sự run rẩy trong giọng nói của ông: đó là khi ông nói với tôi về Rembert Leeland, về nỗi đau khổ nội tâm dai dẳng mà người đàn ông này đã phải trải qua, nỗi đau đã kết thúc trong vòng vài giờ, một cách bi thảm.

Ngay từ khi ông tìm ra bản thảo bị mất tích, các sự kiện đã tác động đến nhau. Khi lôi văn tự thuở xưa này ra khỏi lãng quên, ông đã mở những chiếc van mà phía sau chúng những người ông không hề quen biết đang nôn nóng đợi chờ, mỗi người trong số họ đều bảo vệ cho sự nghiệp của mình với sự kiên quyết và bạo liệt mà cho đến hôm nay ông vẫn không thể hiểu nổi.
 
Chương 81


Ngay tối đó, Moktar gọi điện cho Lev Barjona và hẹn gặp anh tại một quán bar. Họ gọi rượu và đứng ngay tại quầy, nói chuyện với nhau bằng giọng thầm thì mặc dù xung quanh khách hàng đang rất ồn ào.

- Nghe này, Lev, chuyện nghiêm trọng đây. Tôi vừa trao lại cho Calfo cuốn băng ghi âm một cuộc nói chuyện giữa Nil và Leeland. Người Pháp này đã tìm thấy bức thư, đúng là nó nằm trong một thùng rượu Cognac mà Giáo chủ Samuel đã nói với anh. Ông ta đã đọc và để nó lại tại chỗ, ở Vatican.

- Tốt, rất tốt! Bây giờ thì tiến hành nhẹ nhàng thôi.

- Bây giờ, phải hành động, mà không nhẹ nhàng đâu. Tên chó này khoe rằng bức thư đó chứa đựng bằng chứng… hay đúng hơn là khẳng định lòng tin thầm kín của ông ta rằng kinh Coran không phải do Chúa tiết lộ cho Muhammad. Rằng Đấng Tiên tri đã từng gần gũi với người Nazareth trước khi chìm đắm trong bạo lực ở Medina. Rằng Người đã bị tham vọng làm mù quáng… Anh biết chúng tôi từ lâu, anh hẳn phải hiểu điều đó có nghĩa là gì. Ông ta đã vượt quá giới hạn mà sau đó bất kỳ người Hồi giáo nào cũng phải phản ứng ngay lập tức, ông ta phải biến mất. Nhanh chóng, cả kẻ tòng phạm của ông ta nữa.

- Bình tĩnh nào, Moktar: anh có nhận được chỉ thị từ Cairo theo hướng này không? Rồi còn Calfo?

- Tôi không cần chỉ thị từ Cairo, trong hoàn cảnh này kinh Coran cho các tín đồ biết phải cư xử thế nào. Còn về Calfo, tôi không thèm quan tâm. Đó là một kẻ đồi bại, và tôi dửng dưng với những chuyện của người Cơ Đốc. Cứ để họ tự giải quyết những vấn đề của mình và tranh giành quyền lực lẫn nhau, tôi chỉ bảo vệ sự trong sạch của thông điệp mà Chúa truyền cho Muhammad. Mỗi người Hồi giáo đều sẵn sàng đổ máu vì sự nghiệp này, Chúa không thể bị vấy bẩn. Tôi sẽ bảo vệ danh dự của Chúa.

Lev ra hiệu cho người phục vụ.

- Anh định thế nào?

- Tôi biết thói quen đi về của họ, những con đường mà họ vẫn đi. Buổi tối, Nil đi bộ về San Girolamo, ông ta đi mất khoảng một giờ và đi qua đường Salaria Antica, đường này lúc nào cũng vắng vẻ vào đầu đêm. Người Mỹ kia đi cùng ông ta một đoạn, sau đó quay về để hoàn thành nốt cuộc đi dạo quanh Lâu đài San Angelo, nơi ông ta mơ mộng dưới ánh trăng: không bao giờ có ai. Anh có tham gia cùng tôi không? Tối mai.

Lev thở dài. Một vụ qua quýt tiến hành trong lúc giận dữ, không có tầm nhìn xa. Khi sự cuồng tín bốc lên đầu Moktar, anh ta không còn lý trí nữa. Người Ả Rập di cư này nhảy lên lừa của mình và lao đi rửa nhục bằng máu. Chờ đợi là dấu hiệu của sự yếu đuối, trái ngược với luật lệ sa mạc. Sư kiêu ngạo của người Ả Rập, sự bất lực của họ trong việc chế ngự bản thân khi đụng chạm đến một vấn đề về danh dự, những điều này đã luôn giúp Mossad thắng thế. Và anh nhớ lại chỉ thị từ Jerusalem do Ari truyền đạt lại một cách kiên quyết: “Hành động không còn là việc của cậu”.

- Tối mai tôi có buổi tập với dàn nhạc để chuẩn bị cho buổi hòa nhạc cuối cùng. Ai cũng biết là tôi đang ở Roma: sẽ không ai hiểu được tại sao tôi lại trốn. Tôi phải giữ gìn vỏ bọc của mình, Moktar ạ. Rất tiếc.

- Tôi sẽ hành động mà không cần có anh, đầu tiên là kẻ này, rồi đến kẻ kia. Cha Nil chỉ là một tượng sứ nhỏ, khẽ chạm vào là vỡ ngay. Còn người Mỹ kia, chỉ cần khiến ông ta hoảng sợ là ông ta sẽ chết trong nỗi sợ hãi mà không cần tôi chạm vào người. Tôi sẽ không cần bẩn tay với ngữ đó.

Khi họ chia tay, Lev đi về phía vườn Pincian. Anh cần phải suy nghĩ.

Vào đầu đêm, hội trưởng triệu tập gấp cuộc họp Mười hai hội viên. Khi họ đã ngồi sau chiếc bàn dài, ông đứng dậy:

- Các anh em, một lần nữa chúng ta lại quây quần quanh Thầy, giống như Mười hai tông đồ trong căn phòng lớn ngày xưa. Lần này không phải là để đi cùng Người đến Gethsemani, mà để dâng lên Người chuyến trở về Jerusalem trong huy hoàng lần thứ hai. Cha Nil đã tìm được bản cuối cùng và cũng là bản duy nhất còn lại từ bức thư của kẻ bịp bợm, kẻ tự xưng mình là tông đồ thứ mười ba. Nó nằm ngay trong hầm bí mật của Vatican, lẫn trong những bản thảo vùng biển Chết được vĩnh viễn cất ở đó vào năm 1948.

Tiếng thì thầm thỏa mãn cao độ lan khắp cử tọa.

- Ông ta đã làm gì với nó, người anh em Hội trưởng?

- Ông ta để nó tại chỗ, và có ý định thông báo cho Đức Thánh Cha về sự tồn tại và vị trí của nó.

Những gương mặt đột nhiên sầm lại.

- Dù ông ta có làm vậy hay không, cũng không có gì quan trọng: cha Nil sẽ thông qua Breczinsky để thông báo cho Giáo hoàng. Tông đồ thứ mười hai đang kiểm soát chặt chẽ người Ba Lan này, phải không, người anh em?

Antonio lặng lẽ nghiêng đầu.

- Ngay khi Breczinsky được cha Nil thông báo, hẳn là ngày mai, chúng ta sẽ chuyển sang hành động. Người Ba Lan này nằm trong tay chúng ta, ông ta sẽ dẫn chúng ta đến với bức thư. Hai ngày nữa, các anh em, nó sẽ nằm trước mắt chúng ta, ở vị trí dành cho nó, được giữ gìn bởi lòng trung thành của chúng ta và cây thánh giá này. Và trong những tháng năm tiếp theo, chúng ta sẽ dùng đến nó để đạt được các phương tiện mà chúng ta cần nhằm phụng sự sứ mệnh của mình: nghiền nát những con rắn cắn vào gót chân Chúa, bóp nghẹt những kẻ chống đối lại sự ngự trị của Người, khôi phục lại nền Cơ Đốc giáo rộng lớn, sao cho phương Tây lấy lại được uy tín đã mất của mình.

Khi rời khỏi phòng, không nói một lời, ông đưa cho Antonio một chiếc phong bì: ông triệu tập anh đến nhà, ở Lâu đài San Angelo, sáng ngày kia. Để cha Nil có thời gian nói chuyện với Breczinsky.

Và để đầu óc ông được hoàn toàn thảnh thơi chuẩn bị cho cuộc hẹn tối mai với Sonia, cuộc hẹn mà ông chờ đợi rất nhiều. Chuyện này xảy ra vào thời điểm không thể tốt hơn được. Nhờ cô, hẳn ông sẽ tràn ngập trong người thứ sức mạnh mà có lẽ ông sẽ cần đến. Sức mạnh bên trong mà một người Cơ Đốc nhận được bằng cách hóa thân mình đến từng đường gân thớ thịt thành chúa Christ bị đóng đinh trên giá chữ thập.

Antonio nhét lá thư vào túi. Nhưng thay vì đi về phía trung tâm thành phố, anh rẽ sang phía Vatican.

Người đứng đầu Cơ quan truyền bá đức tin luôn trực rất muộn trong văn phòng mình.
 
Chương 82


Roma duỗi mình dưới ánh mặt trời buổi sáng. Trời vẫn lạnh căm căm, nhưng Noel gần đến thôi thúc người dân Roma ra khỏi nhà. Đứng trước cửa sổ, Leeland lơ đãng ngắm nhìn cảnh tượng trên đường Aurelia. Hôm trước, cha Nil đã chia sẻ với ông rằng ông ấy quyết định sẽ nhanh chóng quay về Pháp: với việc phát hiện ra bức thư, điều ông coi như một nhiệm vụ nhận lĩnh từ cha Andrei đã đạt kết quả.

- Remby, cậu có nghĩ rằng phần sa mạc nằm giữa Galilee và biển Đỏ đã sản sinh ra ba tôn giáo đơn thuần của thế giới không? Chính ở đó Moise đã nhìn thấy bụi cây cháy rực, chính ở đó Jesus đã biến đổi một cách triệt để, và cũng chính ở đó Muhammad đã ra đời và sinh sống. Sa mạc của riêng tớ sẽ là ở bên bờ sông Loire.

Sự ra đi của cha Nil đột ngột làm sáng tỏ sự trống rỗng trong cuộc đời ông. Ông biết mình sẽ không bao giờ đạt được kinh nghiệm tinh thần của bạn mình: Jesus sẽ không lấp đầy được khoảng trống bên trong con người ông. m nhạc lại càng không: người ta chơi nhạc để cho người khác nghe, để chia sẻ cảm xúc âm nhạc với người khác. Ông đã rất thường xuyên chơi cho Anselm, anh ngồi bên ông và lật các trang nhạc cho ông. Một mối giao cảm kỳ diệu nảy sinh giữa họ, mái đầu đẹp đẽ của nhạc công violon nghiêng về phía bàn phím trên đó ông lướt ngón tay. Ông đã vĩnh viễn mất Anselm, và Catzinger có đủ phương tiện để nhấn chìm cả hai người trong đại dương đau khổ. “Life is over.”[[54]]

Ông giật mình khi có người gõ cửa: Nil?

Không phải cho Nil, mà là Lev Barjona. Ngạc nhiên vì thấy anh đến nhà mình, Leeland đang định hỏi vài câu, nhưng người Israel đã đặt một ngón tay lên môi và thì thầm:

- Phía trên tòa nhà của ông có sân thượng không?

Có một cái, giống như phần lớn các tòa nhà ở Roma, và nó vắng hoe. Leeland để mặc Lev kéo mình về phía xa đường phố nhất.

- Từ khi cha Nil đến Roma, căn hộ của ông đã bị đặt máy nghe trộm, tôi vừa được biết điều đó. Những cuộc trò chuyện của các ông, dù là nhỏ nhất, đều bị ghi âm và chuyển ngay đến cho Đức ông Calfo, và những người khác, nguy hiểm hơn nhiều.

- Nhưng…

- Để tôi nói nốt, thời gian gấp lắm. Cha Nil và ông đã vô tình tham gia một “trò chơi lớn”, một trò chơi tầm cỡ thế giới mà ông không có ý niệm nào, không hề biết gì về nó, và như thế là tốt hơn cho ông. Đó là một dirty game [[55]], diễn ra giữa những kẻ chuyên nghiệp. Giống như những đứa trẻ còn mặc quần đùi, các ông đã rời khỏi sân chơi nhỏ bé của mình để bước vào giữa sân chơi của người lớn. Những người này không chơi bi mà dùng bạo lực, và luôn vì một điều duy nhất: quyền lực, hoặc hình thái có thể nhận biết của nó, tiền.

- Xin lỗi vì đã cắt ngang: anh cũng luôn chơi trò đó à?

- Tôi đã chơi trò này rất lâu cùng với Mossad, như ông biết đấy. Không bao giờ rời bỏ được trò này, Remby ạ, dù muốn đi nữa. Tôi sẽ không nói thêm về chuyện này với ông, nhưng cha Nil và ông đang gặp một mối nguy hiểm lớn. Báo cho ông thế này là tôi đang chống lại phe của tôi, nhưng ông là một người bạn, và cha Nil là một người tốt. Ông ấy đã thấy thứ mình tìm, giờ đây trò chơi sẽ tiếp tục mà không có các ông: nếu còn thiết tha với cuộc sống, các ông phải biến đi, và nhanh lên. Thật nhanh.

Leeland loạng choạng.

- Biến đi… nhưng bằng cách nào?

- Cả hai ông đều là tu sĩ: hãy trốn vào một tu viện. Một kẻ giết người đang theo dõi các ông, và đó là một kẻ chuyên nghiệp. Hãy đi đi, ngay hôm nay.

- Anh nghĩ rằng hắn sẽ giết chúng tôi?

- Tôi không nghĩ, mà chắc chắn thế. Và hắn sẽ làm điều đó không chậm trễ, ngay khi hắn tóm được các ông. Hãy nghe tôi, tôi xin ông: nếu các ông muốn sống, ngay hôm nay hãy đi tàu, đi ô tô, đi máy bay, bất kỳ phương tiện gì, và thu nhỏ mình lại. Hãy báo cho cha Nil.

Anh choàng tay ôm Leeland.

- Tôi đã mạo hiểm khi đến đây: trong trò chơi lớn, người ta không thích những kẻ không tuân thủ luật lệ, và tôi vẫn muốn sống để chơi thêm nhiều bản giao hưởng nữa. Shalom, bạn của tôi: năm năm, mười năm nữa, chúng ta sẽ gặp lại nhau, mỗi cuộc chơi đều không thể kéo dài vĩnh viễn.

Lát sau anh biến mất, để lại Leeland đứng chết lặng trên sân thượng.
 
Chương 83


Moktar đã tự cho phép mình ngủ nướng sáng nay: lần đầu tiên hắn không cần đứng vào vị trí của mình ngay từ lúc bình minh, tai nghe đeo trên đầu, rình chờ những cuộc nói chuyện dù là nhỏ nhất ở căn hộ bên trên.

Do đó hắn không nhìn thấy Leeland vội vã rời khỏi tòa nhà trên đường Aurelia, ngập ngừng một lát rồi đi về phía trạm dừng xe buýt đi đến đường Salaria. Rất bối rối, người Mỹ này ngóng chờ chiếc xe buýt đầu tiên rồi khuất dạng trong đó.

Cha Nil đẩy tờ giấy trên bàn ra: tự hào về trí nhớ của mình, ông vừa chép lại bức thư của tông đồ thứ mười ba mà ông đã ghi nhớ được không chút khó khăn. Cùng với Giáo hoàng, ông sẽ là người duy nhất biết rằng một nấm mồ chứa đựng di hài của Jesus đang nằm đâu đó trong sa mạc, giữa Jerusalem và biển Đỏ. Ông mở túi và nhét tờ giấy vào trong.

Việc sắp xếp va li chắc là sẽ nhanh thôi, ông sẽ cầm chiếc túi này trên tay. Và bắt chuyến tàu đêm về Paris, vào thời điểm này trong năm tàu không bao giờ đầy khách. Rời khỏi tu viện ma San Girolamo là một niềm an ủi đối với ông: khi nào về đến Saint-Martin, ông sẽ cất những giấy tờ nguy hiểm nhất đi và sẽ đến định cư trong sa mạc. Giống như tông đồ thứ mười ba ngày xưa.

Ông vẫn còn điều cốt yếu nhất: con người Jesus, những hành động và lời nói của Người. Trong một sa mạc, ông không cần đến thứ thức ăn nào khác để sống sót.

Ông rất ngạc nhiên khi nghe thấy tiếng gõ cửa phòng mình. Đó là cha Jean, cả ông này nữa, ông cũng không tiếc nuối gì. Mắt con người có khả năng nói chuyện không mệt mỏi này sáng rực.

- Thưa cha, Đức ông Leeland vừa đến và muốn gặp cha.

Cha Nil đứng dậy ra đón bạn. Chàng sinh viên vui vẻ đã nhường chỗ cho một người đàn ông thảng thốt, bước vào một cách đột ngột và buông người xuống chiếc ghế mà cha Nil kéo cho ông.

- Có chuyện gì thế, Remby?

- Căn hộ của tớ trên đường Aurelia đã bị đặt máy nghe trộm từ khi cậu đến, Catzinger và người của ông ta biết tất cả những chuyện mà chúng ta nói với nhau. Và còn những người khác, nguy hiểm hơn cả họ. Vì những lý do khác nhau, họ không muốn nghe nói đến chúng ta nữa.

Đến lượt cha Nil bị sốc và buông người xuống một chiếc phô tơi.

- Tớ đang mơ, hay cậu bị khủng hoảng thần kinh?

- Lev Barjona vừa đến thăm tớ, và cho tớ biết một cách rất ngắn gọn, nhưng rất rõ ràng. Anh ta bảo tớ rằng anh ta làm điều đó vì tình bạn, tớ không khi nào nghi ngờ anh ta cả. Mọi chuyện đã vượt quá tầm kiểm soát của chúng ta rồi, Nil ạ. Mạng sống của cậu đang bị nguy hiểm, mạng sống của tớ cũng vậy.

Cha Nil úp mặt vào hai bàn tay. Khi ngẩng lên, ông nhìn chăm chăm vào Leeland, hai mắt rưng rưng lệ.

- Tớ đã biết điều này, Remby ạ, tớ biết ngay từ đầu, ngay từ khi cha Andrei cảnh báo tớ. Ngay trong tu viện, trong vẻ yên bình bất biến bề ngoài của một mái vòm được che chở bởi sự tĩnh mịch của nó. Tớ đã biết điều này khi biết về cái chết của ông ấy, khi tớ đi nhận diện thi thể ông ấy nằm co quắp trên nền đường đá sát đường tàu Roma Express. Tớ đã biết khi Lịch sử tiếp cận tớ, trong thực tế kinh khủng của nó, cũng với Breczinsky và một số tâm sự thầm kín của ông ấy. Tớ chưa bao giờ sợ hãi điều tớ phát hiện ra. Mạng sống của tớ bị đe dọa ư? Tớ là người cuối cùng trong một danh sách rất dài, bắt đầu vào thời điểm tông đồ thứ mười ba từ chối điều chỉnh sự thật.

- Sự thật! Chỉ có một sự thật duy nhất, đó là sự thật mà con người cần đến để tạo lập và củng cố quyền lực của mình. Sự thật về một tình yêu rất trong trẻo giữa tớ và Anselm không phải là sự thật của họ. Sự thật mà cậu đã phát hiện trong các văn bản là không đúng, vì nó đi ngược lại sự thật của họ.

- Jesus từng nói: “Sự thật sẽ cho các ngươi tự do.” Tớ tự do, Remby ạ.

- Cậu chỉ như thế nếu cậu biến đi, nếu sự thật của cậu cũng biến mất cùng với cậu. Các nhà triết học mà cậu yêu quý thường rao giảng rất nhiều rằng sự thật là một phạm trù, nó tồn tại trong bản thân nó giống như lòng tốt và cái đẹp. Thế nhưng điều đó lại là sai, và tớ đến đây để nói cho cậu biết. Tình yêu đã gắn kết chúng tớ, Anselm và tớ, là tốt và đẹp: nhưng nó không phù hợp với sự thật của Giáo hội, do đó nó không đúng. Phát hiện của cậu về gương mặt Jesus đi ngược lại với sự thật của Cơ Đốc giáo: như vậy là cậu đã hoàn toàn sai, Giáo hội không dung thứ cho bất kỳ sự thật nào khác với sự thật của nó. Người Do Thái và người Hồi giáo cũng không.

- Họ có thể làm gì tớ? Họ có thể làm gì chống lại một người tự do?

- Giết cậu. Cậu phải trốn đi, rời khỏi Roma ngay lập tức.

Một lát im lặng, chỉ có tiếng những chú chim đập cánh trong vườn hồng của tu viện. Cha Nil đứng dậy và đến bên cửa sổ.

- Nếu cậu nói đúng, tớ không thể quay lại tu viện của tớ nữa, sa mạc đó có thể đã có thú dữ. Trốn đi ư? Nhưng đi đâu?

-Tớ đã nghĩ đến điều đó trên đường tới đây. Cậu có nhớ cha Calati không?

- Thủ lĩnh của những người vùng Camaldoli? Tất nhiên, ông ấy đã từng là thầy dạy của chúng ta ở Roma. Một con người tuyệt vời.

- Cậu hãy đến Camaldoli, đề nghị ông ấy đón nhận cậu. Họ có những căn nhà rải rác trong vùng núi Abruzzes, ở đó cậu sẽ tìm được một sa mạc theo ý cậu. Làm nhanh lên. Ngay lập tức.

- Cậu nói đúng, người Camaldoli luôn rất hiếu khách. Nhưng còn cậu?

Leeland nhắm mắt một lát.

- Đừng lo cho tớ. Cuộc đời tớ đã chấm dứt từ ngày tớ hiểu rằng tình yêu mà Giáo hội rao giảng có thể chỉ là một thứ tư tưởng như những thứ khác. Những điều cậu phát hiện ra, những điều mà tớ cũng tham gia mặc dù không tìm kiếm, chỉ khẳng định thêm cảm giác của tớ: Giáo hội không còn là mẹ tớ, nó vứt bỏ đứa con là tớ trước đây chỉ vì tớ đã yêu theo cách khác với nó. Tớ sẽ ở lại Roma, sa mạc trên núi Abruzzes không dành cho tớ. Sa mạc của tớ ở ngay trong lòng tớ, từ khi tớ bị buộc phải rời khỏi nước Mỹ.

Ông bước về phía cửa.

- Cậu sắp xếp va li nhanh lên. Tớ sẽ xuống dưới, yêu cầu cha Jean dẫn tớ đi thăm thư viện, để đưa ông ấy tránh xa cửa ra vào. Trong lúc đó, cậu hãy kín đáo rời khỏi tu viện, bắt xe buýt đến bến Termini và lên chuyến tàu đầu tiên đi Arezzo. Tớ tin tưởng Calati, ông ấy sẽ bảo đảm an toàn cho cậu. Hãy trốn trong một căn nhà của người Camaldoli và viết thư cho tớ trong vòng hai, ba tuần nữa: tớ sẽ nói cậu có thể quay lại Roma hay không.

- Cậu sẽ làm gì?

- Tớ đã chết rồi, Nil ạ, họ chẳng thể làm gì được tớ nữa. Đừng lo: cậu có vài phút để rời khỏi San Girolamo mà không bị phát hiện. Hẹn sớm gặp lại, ông bạn: sự thật đã biến chúng ta thành những người tự do, cậu nói đúng.

Cha Jean ngạc nhiên khi thấy Rembert Leeland đột ngột tỏ vẻ quan tâm đến thư viện, vốn nổi tiếng là một đống lộn xộn. Trong khi người Mỹ đặt cho ông này những câu hỏi chứng tỏ ông ta hoàn toàn không biết gì về bộ môn khoa học lịch sử, cha Nil tay phải xách va li, lách vào một chiếc xe buýt đi qua đường Salaria Nuova và chở khách đến ga trung tâm của Roma.

Tay trái ông không rời khỏi chiếc túi, dường như đó là tài sản quý báu nhất của ông.
 
Chương 84


Antonio đi nhanh thoăn thoắt. Nằm trong một khúc quanh của sông Tiber, những viên gạch thô của Lâu đài San Angelo ánh lên dưới ánh hoàng hôn. Ngày xưa, đây là nơi thực thi công lý của các Giáo hoàng: đó là công lý thần thánh mà anh phải hoàn thành tối nay. Một người sẵn sàng chống đối lại quyền lãnh đạo của Giáo hội, vì một lý tưởng mà người đó cho là tốt đẹp: không có lý tưởng tốt đẹp nào nằm ngoài hệ thống cả. Và gã đàn ông kia là một kẻ đồi bại, một con quỷ vô đạo. Chàng thanh niên người Tây Ban Nha tựa vào tay vịn cầu Victor-Emmanuel II. Trước khi hành động, anh muốn ôn lại những lời Hồng y nói tối hôm trước, làm sống lại sự giận dữ sôi sục: như thế, anh sẽ không run tay.

- Con nói ông ta sẽ dùng bức thư đó để gây áp lực với chúng ta?

- Ông ta đã nhiều lần khẳng định điều này với chúng con, thưa Đức Hồng y, và Mười hai hội viên đều đồng ý. Bức thư của tông đồ thứ mười ba sẽ mang lại cho người sở hữu nó một quyền lực đáng kể: việc công bố bức thư có thể sẽ gây ra những chuyện rắc rối tới nỗi Giáo hội của chúng ta, thậm chí cả một số nguyên thủ quốc gia phương Tây, sẵn sàng trả giá đắt để Hội Thánh giữ nó trong vòng bí mật. Các Hiệp sĩ đã không ngần ngại sử dụng phương tiện này.

- Nấm mồ của Jesus… không thể tin được. Hồng y đưa tay lên trán. Ta đã nghĩ bức thư đó chỉ dừng lại ở việc phủ nhận thiên chất của Jesus. Đây sẽ không phải là lần đầu tiên, Giáo hội đã luôn vượt qua được mối nguy hiểm đó, bóp nghẹt những kẻ dị giáo. Nhưng một nấm mồ thật, chứa đựng xương cốt của Jesus, được tìm thấy! Không chỉ là thêm một xung đột thần học nữa, mà là một bằng chứng, chắc chắn, không thể chối cãi! Không thể tưởng tượng được, đó sẽ là ngày tận thế!

Antonio mỉm cười.

- Đây cũng là điều mà Đức ông Calfo nghĩ, nhưng ông ta có ý tưởng khác. Ông ta thấy Giáo hội quá sợ sệt trước một thế giới thối nát đang tiến triển mà không có chúng ta, hoặc chống lại chúng ta. Ông ta muốn tiền, nhiều tiền để gây ảnh hưởng với dư luận thế giới.

- Bastardo! [[56]]

Vị giáo sĩ cấp cao nhanh chóng nói tiếp:

- Antonio, khi ta quen con ở Viên, con là một kẻ trốn chạy khỏi Opus Dei: nhưng con đã thề sẽ phụng sự Giáo hoàng và trong trường hợp Ngài không hoàn thành bổn phận của mình, con sẽ phụng sự chính quyền của Giáo hoàng, cột sống của phương Tây. Đức Thánh Cha đáng kính của chúng ta bị ốm, và dù thế nào Ngài cũng luôn cống hiến toàn bộ sức lực và mối quan tâm của mình cho những đám đông hoan nghênh Ngài ở khắp nơi Ngài đến. Từ hai mươi năm nay, quyền quản lý Giáo hội thực sự được đặt lên vai những người như ta, đôi khi Giáo hoàng không được thông báo về những mối nguy hiểm mà chúng ta phải đối mặt. Ta thường phải hành động nhân danh Ngài, và ta sẽ còn làm như vậy. Ta có thể trông cậy và sự hỗ trợ của con không? Cần phải… vô hiệu hóa Calfo, và giành lại quyền kiểm soát Hội Thánh Pie V. Không chậm trễ.

- Thưa Đức Hồng y…

Hồng y mím môi, hai má chảy ra dài và giọng nói của ông như có tiếng gió xuýt:

- Con của ta, hãy nhớ lại đi: khi đến Viên, con đang bị truy đuổi. Không ai có thể rời khỏi Opus Dei, nhất là sau khi đã chỉ trích tổ chức đó như con từng làm. Khi ấy con còn trẻ dại, lý tưởng chủ nghĩa và chưa ý thức được việc mình làm! Ta đã che chở con, đã bảo vệ con, rồi tin tưởng con. Chính ta đã đưa con vào Hội Thánh Pie V, chính ta đã trả tiền để những người Catalan ở Escriva de Balaguer, những kẻ điên khùng đó, im miệng khi Calfo cho điều tra về con. Ta vừa đòi con trả cổ tức cho ta đấy, Antonio ạ!

Chàng trai trẻ cúi đầu. Catzinger hiểu rằng đối với điều ông đang đòi hỏi thì một mệnh lệnh là chưa đủ: cần khơi dậy sự phẫn nộ, đánh thức khí chất ngùn ngụt của anh chàng vùng Andalousia này. Chạm vào điểm nhạy cảm của anh: tính khí cứng rắn, không khoan nhượng, thái độ bất chấp thân xác, được nuôi dưỡng bởi ngần ấy năm trời bị tước đoạt quan hệ tình dục trong trường của Opus Dei. Ông ta tròn môi và rót những lời ngọt ngào:

- Con có biết Hội trưởng của con là ai không? Con có biết người mà con tôn trọng mặc dù ông ta không tuân thủ kỷ luật là ai không? Con có biết những điều kinh khủng mà người đứng đầu Mười hai hội viên có thể tưởng tượng ra, ở nơi chỉ cách Thành phố Thánh và ngôi mộ của Thánh Peter khoảng một trăm bước chân không? Cách đây vài hôm ta đã nghe lời xưng tội của một trong số các nạn nhân của ông ta, một phụ nữ trẻ đẹp và trong sạch như Đức Mẹ, người đã bị ông ta làm vấy bẩn tâm hồn ngoan đạo và lạm dụng thể xác. Và cô ấy không phải là người đầu tiên bị ông ta làm nhục. Con không biết sao? Vậy thì ta sẽ cho con biết đều ông ta đã làm, và điều ông ta lại chuẩn bị làm ngay ngày mai. .

Ông thì thầm một lúc nữa, như thể ông muốn tránh cho cây thánh giá treo trên bức tường phía sau ông phải nghe những lời ông nói.

Khi ông nói xong, Antonio ngẩng đầu lên: đôi mắt đen của anh ánh lên một thứ ánh sáng dữ dội, không gì lay chuyển được. Anh rời văn phòng Hồng y mà không nói thêm lời nào.

Chàng trai vùng Andalousia thở dài và tách người khỏi lan can cầu: anh đã đúng khi sống lại cảnh tượng này trước khi hành động. Giáo hội không ngừng cần được tẩy uế, thậm chí bằng cả bằng sắt. Mệnh lệnh của Hồng y miễn cho anh khỏi mọi trách nhiệm: cả điều này cũng luôn là sức mạnh của Giáo hội. Một quyết định khó khăn, một sự vi phạm đạo đức, một thành viên đồi bại cần loại bỏ… Chưa bao giờ người xuống dao đâm vào da thịt kẻ khác phải chịu trách nhiệm về máu đổ, về những mạng sống bị hủy hoại. Trách nhiệm đó thuộc về Giáo hội.
 
Chương 85


Alessandro Calfo lùi lại với vẻ thỏa mãn: thật hoàn hảo. Trên sàn phòng có đặt một cây thánh giá lớn, hai tấm ván rộng cho phép một người nằm thoải mái. Sonia sẽ ổn thôi. Ông sẽ trói tay cô bằng hai sợi dây lụa mảnh mềm mại mà ông đã chuẩn bị trước, chân cô phải được để tự do. Nghĩ đến cảnh tượng này, máu dồn lên thái dương và bụng dưới của ông: hợp nhất xác thịt với cô gái trẻ nằm chỗ của bậc thánh bị đóng đinh câu rút là hành động cao cả nhất mà ông từng thực hiện. Cuối cùng, sự thần thánh cũng pha trộn với con người, từng tế bào nhỏ nhất trên người ông nhận biết sự ngất ngây khi được hợp nhất với Đấng Christ Cứu thế hy sinh thân mình để chuộc tội trong hình hài hoàn hảo nhất. Không bạo lực: Sonia sẽ chấp thuận, ông biết vậy, ông cảm thấy điềuđó. Phản ứng hoảng hốt của cô hôm trước chỉ là hệ quả của sự ngạc nhiên. Cô sẽ vâng lời, như mọi lần.

Ông xem lại để chắc chắn rằng hình thánh kiểu Byzantine thẳng với cây thánh giá: như thế, trong khi ông thực hiện nghi lễ, cô chỉ cần ngước mắt lên là nhìn thấy hình ảnh sẽ xoa dịu tâm hồn con chiên Chính giáo của cô. Ông đã nghĩ đến mọi chuyện, vì tất cả mọi thức đều phải mẫu mực. Và tối mai, ông sẽ đặt bứcthư đáng nguyền rủa đó lên tầng giá trống đã chờ đợi nó từ rất lâu.

Ông giật mình khi nghe tiếng chuông vang lên. Đã đến rồi ư? Thông thường, vốn là người luôn kín đáo, cô chỉ đến khi đêm xuống. Có thể hôm nay cô ấy sốt ruột chăng? Nụ cười rạng rỡ, ông ra mở cửa.

Không phải là Sonia.

- …Antonio! Nhưng anh làm gì ở đây vào hôm nay thế? Tôi cho gọi anh vào sáng mai kia mà, phải để cha Nil gặp người Ba Lan vào chiều nay trước đã… Chuyện này nghĩa là sao?

Antonio tiến về phía ông, buộc ông phải bước giật lùi trong hành lang lối vào.

- Người anh em Hội trưởng ạ, chuyện này nghĩa là ông và tôi, chúng ta cần nói chuyện.

- Nói chuyện? Nhưng tôi mới là người nói, và chỉ nói khi nào tôi quyếtđịnh! Anh là người cuối cùng trong số Mười hai tông đồ, trong bất kỳ trường hợp nào…

Antonio vẫn bước tiếp, mắt nhìn chăm chăm vào mặt người đàn ông vùng Napoli, người đang lùi dần trước anh cho tới lúc chạm phải tường.

- Ngươi không còn là người quyết định nữa, mà là đức Chúa ngươi vẫn khoe khoang là đang phụng sự

- Mà … mà ta khoe khoang! Ai cho phép ngươi nói chuyện với ta với cái giọng đó?

Người nọ đẩy người kia, hai người tiến đến cửa phòng mà Calfo đã để mở.

- Ai cho phép ta ư? Thế ai cho phép ngươi, đồ khốn, phản bội loài thề trinh bạch?Ai cho phép ngươi núp sau chức vụ Giám mục để làm vấy bẩn một sinh linh của Chúa?

Bằng một cú hích, anh đẩy ngườiđàn ông nhỏ bé mũm mĩm, vẫn ở tư thế lùi, vào phòng. Calfo vấp vào chân cây thánh giá. Antonio đưa mắt nhìn khung cảnh được bài trí cẩn thận: Hồng y đã không nói dối anh.

- Thế còn đây? Điều ngươi sắp làm là một sự báng bổ đáng ghê tởm. Ngươi không xứng đáng được sở hữu bức thư của tông đồ thứ mười ba, Thầy không thể được bảo vệ bởi một kẻ như ngươi. Chỉ một người trong trắng mới có thể tránh cho Đấng Cứu thế của chúng ta khỏi vết nhơ đang đe doạ Người.

- Nhưng…nhưng…

Calfo lại bị mắc chân vào cột dọc của cây thánh giá, trượt và ngã quỵ gối xuống trước chàng trai vùng Andalousia. Anh nhìn ông ta khinh bỉ, môi mím lại vì ghê tởm. Kẻ này không còn là hội trưởng của anh, người đứng đầu Mười hai người nữa. Đây là một kẻ thân tàn ma dại, run rẩy và ướt đẫm mồ hôi bẩn thỉu. Mắt ông ta đột nhiên trở nên lờ đờ.

- Ngươi muốn nằm lên cây thánh giá, phải không? Ngươi muốn hợp nhất thân xác bị biến đổi vì lạc thú của ngươi với thân thể bị biến đổi vì tình yêu đối với mỗi người trong chúng ta của Thầy sao? Vậy thì ngươi sẽ làm thế. Nhưng ngươi sẽ không bao giờ phải chịu đựng bằng Người vốn đã chết vì ngươi.

Mười lăm phút sau, Antonio nhẹ nhàng khép cửa căn hộ, và lau tay bằng một chiếc khăn mùi soa giấy. Không có khó khăn nào. Chưa bao giờ là khó khăn khi người ta vâng lệnh cả.
 
Chương 86


Leeland bước từng bước ngắt quãng trên những viên đá lát mấp mô ở đường Salaria Antica. “Nil từng thích đi qua con đường này để đến nhà mình biết bao…Ồ, mình nghĩ đến cậu ấy ở thời quá khứ rồi!”

Ông đã giữ được cha Jean trong thư viện một lúc lâu, nhưng lại từ chối lời mời ăn trưa cộng đồng của ông này:

- Cha Nil và tôi có hẹn ở Vatican vào đầu giờ chiều. Hẳn là ông ấy đã đi trước mà không chờ tôi, tối nay ông ấy sẽ quay về…muộn.

Cha Nil sẽ không quay về; giờ này hẳn ông đang ở bến Termini, sẵn sàng lên một chuyến tàu đi Arezzo. Hoặc đã đi rồi.

Lòng tràn đầy lo sợ, nhưng Leeland cảm thấy hoàn toàn nhẹ nhàng: thật ra, con người ông đã trống rỗng đến từng thớ thịt nhỏ, đến từng đầu ngón tay. Life is over. Điều ông từ chối chấp nhận từ khi bị đày đến Vatican, sự thật mà ông tự che giấu chính mình, quãng thời gian ngắn ngủi cha Nil đến Roma khiến ông phải thừa nhận một cách hiển nhiên: cuộc sống của ông chẳng còn ý nghĩa gì, niềm vui sống đã rời bỏ ông.

Không hiểu vì sao, ông thấy mình đang đứng trước cửa căn hộ của mình. Đẩy cánh cửa bằng bàn tay run rẩy, khép nó lại và khó nhọc ngồi xuống bên chiếc đàn piano. Liệu ông có thể chơi đàn được nữa không? Nhưng … cho ai nghe?

Ở tầng dưới, Moktar đã ngồi lại vào vị trí nghe trộm của mình và cho chạy máy ghi âm. Hôm nay người Mỹ này về nhà muộn hơn thường lệ, và chỉ có một mình: vậy là ông ta đã để cha Nil lại Vatican, người Pháp này hẳn đang nói chuyện với Breczinsky. Hắn lựa tư thế ngồi thoải mái, tai nghe đeo trên tai. Cha Nil sẽ quay lại vào cuối buổi chiều, và ông ta sẽ nói chuyện với Leeland. Đến đêm ông ta sẽ về San Girolamo, như thường lệ. Đi bộ, trên những đường phố tối tăm và vắng vẻ. Bạn ông ta sẽ đi cùng một đoạn.

Trước hết là người Mỹ. Rồi đến kẻ còn lại.

Nhưng cha Nil không quay lại. Vẫn ngồi bên chiếcđàn piano, Leeland nhìn bóng tối xâm chiếm căn phòng. Ông không bật đèn: ông dồn hết sức chiến đấu với nỗi sợ hãi, chiến đấu với chính bản thân mình. Ông chỉ còn một việc phải làm, Lev đã vô tình mang đến cho ông cách giải quyết. Nhưng liệu ông có đủ quyết tâm và dũng cảm để ra đi không?

Một giờ sau, màn đêm đã trùm xuống Roma. Những cuộn băng từ vẫn quay không: người Pháp đó làm gì nhỉ? Đột nhiên Moktar nghe thấy ở căn hộ phía trên có những tiếng động không rõ rệt, và cửa ra vào căn hộ mở ra rồi đóng lại. Hắn nhấc tai nghe khỏi đầu và đến bên cửa sổ: Leeland, một mình, ra khỏi toà nhà và đi qua phố. Họ hẹn gặp nhau trên đường đến San Girolamo chăng? Nếu thế thì càng đơn giản hơn.

Moktar chuồn khỏi toà nhà. Hắn mang theo vũ khí là một con dao găm và một sợi dây thép. Hắn luôn thích dùng dao hoặc thắt cổ. Tiếp xúc trực tiếp với cơ thể của kẻ phản bội mang lại cho cái chết giá trị thực của nó. Mossad thường thích sử dụng những tay súng xuất sắc, nhưng Chúa của người Do Thái chỉ là một điều viễn vông xa xôi; đối với một người Hồi giáo, có thể đến với Chúa ngay trong thực tế của cuộc chiến giáp lá cà. Đấng Tiên tri chưa bao giờ dùng đến mũi tên, mà dùng thanh kiếm của Người. Nếu có thể, hắn sẽ thắt cổ người Mỹ đó. Cảm thấy tim ông ta ngừng đập dưới tay hắn, tim của người đã sẵn sàng cung cấp cho những người ở tổ quốc của ông ta một vũ khí mang tính quyết định chống lại người Hồi giáo.

Hắn đi theo Leeland, Leeland vừa vòng qua quảng trường Saint Peter mà không đi qua dưới hàng cột, và rẽ vào đường Borgo Santo Spirito. Ông đi về hướng Lâu đài San Angelo: trời rét căm căm, người Roma vốn chịu rét kém nên thu mình ở nhà. Nếu hai người đó hẹn gặp nhau dưới chân lâu đài, hẳn là vì họ biết ở đó sẽ không có một bóng người. Càng tốt.

Lúc này Leeland bướcđi nhẹ nhàng và cảm thấy lòng mình tĩnh lặng. Trong căn phòng tranh tối tranh sáng, ông đã đưa ra quyết định, tự nhắc lại những từ Lev đã dùng: “Một kẻ giết người, một kẻ chuyên nghiệp. Hãy đi đi, trốn trong một tu viện…” Ông sẽ không đi, ông sẽ không trốn. Ngược lại, ông sẽ đi về phía định mệnh của mình, như ông đang làm lúc này, có thể nhìn thấy ông từ bất cứ đâu. Tự sát là điều cấm kỵ đối với một người Cơ Đốc, ông không bao giờ tự chấm dứt cuộc sống không còn là sống mà từ nay trở đi ông phải chịu đựng. Nhưng thật tốt nếu có người khác đảm đương việc này. Ông đến bên bờ trái sông Tiber, đi qua Lâu đài San Angelo, bước vào đường Lungotevere. Vài chiếc ô tô hiếm hoi đi qua con đường nhô ra bên trên sông Tiber, rồi rẽ trái về hướng cầu Cavour. Không có một người đi dạo nào, hơi ẩm bốc lên từ mặt sông và cái lạnh cắt da cắt thịt.

Đến cầu Umberto số I, ông quay đầu lại. Dưới ánh sáng đèn đường, ông thấp thoáng nhìn thấy một người đi bộ cũng đang đi dọc lan can cầu như ông. Ông bước chậm lại, và có cảm giác người kia cũng làm như vậy. Chắc chắn là hắn rồi. Đừng chạy, đừng ẩn nấp, đừng trốn.

Life is over. Em Anselm, những ảo tưởng của ông đã vỗ cánh bay! Cải cách Giáo hội, hôn nhân của các linh mục, chấm dứt nỗi đau khổ dai dẳng cho chừng ấy con người rộng lượng, sự chay tịnh áp đặt bởi một Giáo hội bị mắc chứng co cơ trước tình yêu của con người… Ông nhìn thấy một cầu thang bằng đá dẫn xuống bờ sông Tiber: không ngần ngại, ông bước xuống.

Kè sông chỉ sáng lờ mờ, và được lát đá theo kiểu cũ. Ông bước về phía trước, ngắm nghía làn nước đen thắt lại ở đoạn này, dòng chảy mãnh liệt giội vào những vách đá nằm rải rác trong lòng sông. Những khóm sậy, khóm cây dại rậm rạp phủ đầy triền dốc thẳng đứng chạy xuống đến tận mặt nước. Roma chưa bao giờ rũ bỏ hoàn toàn sắc thái của một thành phố tỉnh lẻ.

Phía sau, ông nghe thấy tiếng bước chân người đàn ông đang bước xuống cầu thang, rồi vang lên trên nền đá kè sông và tiến lại gần ông. Mặc dù ông đã có tuổi, nhưng phẩm chất tu sĩ trong ông đã từng giúp ông thoát khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông vẫn thường tự hỏi liệu ở đó ông có chứng tỏ được sự dũng cảm về thể chất không. Trước cái bóng của kẻ thù đang quyết giết mình, liệu cơ thể ông sẽ phản ứng thế nào? Ông mỉm cười: bờ sông này sẽ là Việt Nam của ông, và tim ông không đập nhanh hơn thường lệ.

Một kẻ giết người, một kẻ chuyên nghiệp. Ông sẽ cảm thấy thế nào? Ông có bị đau đớn không?

Người này đi theo người kia, họ đến gần những chiếc vòm của cầu Cavour. Ngay phía sau, một bức tường cao chắn ngang kè sông, chấm dứt đoạn đường dạo chơi rất được người dân Roma mến chuộng khi thời tiết đẹp. Dọc theo bức tường, không có chiếc cầu thang nào: để trèo lên được đường cao tốc chạy dọc sông Tiber, phải quay lại con đường ông đã đi qua. Và đối mặt với người đang đi theo ông.

Leeland hít một hơi dài và nhắm mắt lại một lát. Ông cảm thấy rất bình tĩnh, nhưng ông sẽ không nhìn mặt người kia. Hãy để cái chết đến từ phía sau, như một kẻ gian lận.

Không quay đầu lại, ông cả quyết tiến vào phía bên dưới vòm cầu tối tăm.

Từ phía sau, ông nghe tiếng bước chân một người đang chạy như để lấy đà. Tiếng bước chân này rất nhẹ, chỉ hơi lướt trên bề mặt những viên đá lát.
 
Chương 87


Một tay cầm túi, tay kia xách va li, cha Nil bước xuống xe buýt. Ngôi làng hoàn toàn quê kệch đúng như cha Calati đã miêu tả:

- Viên quản lý của chúng tôi đi Aquila ngay bây giờ, cha hãy lên xe của ông ấy. Ông ấy sẽ cho cha xuống ga đường bộ địa phương; buổi chiều, một xe buýt sẽ phục vụ giao thông cho khu vực hẻo lánh thuộc vùng núi Abruzzes này. Hãy xuống làng, rồi đi bộ đến một ngã rẽ. Rồi rẽ trái, và đi tiếp một kilomet đường đất nữa cho đến khi gặp một trang trại nằm đơn độc. Chắc chắn cha sẽ gặp Beppo, anh ta sống một mình ở đó cùng với mẹ. Đừng ngạc nhiên, anh ta không nói nhưng hiểu mọi chuyện. Hãy nói với anh ta là tôi cử cha đến, bảo anh ta dẫn cha tới gặp ẩn sĩ của chúng tôi. Sẽ là một chuyến di bộ dài trong núi: Beppo quen rồi, anh ta là người duy nhất thỉnh thoảng trèo lên tận nhà tu để mang cho ẩn sĩ ấy đôi chút thức ăn.

Sau đó, Calati giơ tay lên trời, và im lặng ban phước cho cha Nil, người đang quỳ trên nền đá lạnh của tu viện.

Khi ông xuất hiện ở Camaldoli, thầy dạy cũ của ông đã choàng tay ôm lấy ông, chòm râu rậm rối bù của người thầy dạy lướt nhẹ trên má cha Nil. Ông cần đến định cư trên sa mạc trong khoảng thời gian vô định ư? Không ai được biết nơi ông ẩn ấp ư? Calati không hỏi một câu nào, không ngạc nhiên khi thấy ông đến, không ngạc nhiên trước dáng vẻ chạy trốn cũng như lời đề nghị kỳ lạ của ông. Ông ấy chỉ nói đơn giản rằng nếu ở với ẩn sĩ, mọi chuyện sẽ tốt đẹp.

- Cha sẽ thấy, đó là một người hơi kỳ lạ, ông ấy sống trong núi từ nhiều năm nay. Nhưng ông ấy không bao giờ cô độc: thông qua cầu nguyện, ông ấy liên hệ được với toàn vũ trụ, và ông ấy có một tài năng thiên phú mà đôi khi một số tâm hồn vĩ đại có được. Chúng ta vẫn liên hệ được với nhau nhờ Beppo, cứ nửa tháng anh ta lại xuống núi một lần để bán pho mát ở Aquila. Cầu chúa ban phước lành cho cha!

Cha Nil nhìn chiếc xe buýt đi xa dần trong một màn khói bụi, và bước vào con đường duy nhất của ngôi làng. Trời vẫn còn sáng, nhưng những căn nhà có mái thấp đã đóng kín cửa để chống chọi với cái lạnh ban đêm.

Khi đi ngang qua ông đưa mắt nhìn ô kính trên một cửa sổ, và mỉm cười với hình ảnh phản chiếu trên đó: mái tóc ngắn của ông, vẫn còn màu xám khi ông từ tu viện Saint-Martin ra đi, đã trở nên bạc phơ lúc ông phát hiện ra bức thư.

Chiếc va li trên tay ông trĩu nặng khi ông dừng trước trang trại. Mặc áo vest không tay bằng da cừu, trang phục truyền thống của các mục đồng vùng núi Abruzzes, một người đàn ông trẻ tuổi đang chẻ củi trước cửa nhà. Nghe thấy cha Nil bước đến, anh quay đầu và nhìn ông với vẻ lo lắng, vầng trán dưới mớ tóc xoăn nhăn lại.

- Con là Beppo à? Ta được cha Calati cử đến. Con có thể dẫn ta đến gặp ẩn sĩ được không?

Beppo cẩn thận dựa chiếc rìu vào đống củi, lau tay vào mặt sau áo vest rồi bước lại gần cha Nil và chăm chú nhìn ông. Một lát sau, gương mặt anh giãn ra, anh nở một nụ cười và gật đầu. Nhấc chiếc va li của ông bằng một cánh tay rắn rỏi, anh hất cằm về phía núi và ra hiệu cho ông đi theo.

Con đường dẫn sâu vào trong rừng, rồi dốc ngược lên. Beppo bước những bước đều đặn, dáng đi của anh gợi lên một cảm giác thoải mái, gần như duyên dáng. Cha Nil đi theo anh một cách khó khăn. Liệu chàng trai này có hiểu đúng không? Ông phải trông cậy vào anh, và không rời tay khỏi chiếc túi quý báu của mình.

Họ đến nơi dường như là đoạn cuối con đường: một ngõ cụt, nơi vẫn còn dấu vết đã trở nên cũ kỹ của những đường mòn tạo nên bởi máy móc cơ khí: máy kéo của những người thợ rừng, hẳn là hiếm hoi lắm mới đến tận đây. Trong khe chảy một thứ nước trong vắt: Beppp đặt va li, cúi xuống và uống nước vốc trong lòng hai bàn tay rất lâu. Vẫn im lặng, chàng trai trẻ lại nhấc va li lên và rẽ vào con đường mòn dẫn tới một thung lũng bên sườn núi. Qua các vòm cây, có thể thấy thấp thoáng một đỉnh núi xa xa.

Màn đêm vừa buông xuống khi họ bước vào một bãi đất nhỏ xíu nhô ra phía trên thung lũng tối. Ngay trên vách đá, cha Nil nhìn thấy một cửa sổ sáng đèn. Không ngần ngại, Beppo lại gần, đặt va li xuống đất và gõ vào cửa kính.

Một cánh cửa thấp mở, và một bóng người hiện ra. Mặc áo kiểu blu có thắt lưng, một người đàn ông rất già, mái tóc trắng bao quanh đầu và phủ xuống vai, bước một bước về phía trước: sau ông, cha Nil thoáng thấy cái lò sưởi trong đó một thanh củi đang cháy, toả ra ánh sáng sống động. Beppo nghiêng người, thốt ra tiếng làu nhàu và đưa tay về phía cha Nil. Ông già đưa tay vuốt nhẹ lên mái tóc quăn của chàng trai, rồi quay sang cha Nil và mỉm cười với ông. Ông chỉ cho cha Nil xem bên trong nhà tu của mình, nơi toả ra một làn hơi ấm áp dịu dàng, và chỉ nói:

- Vieni, figlio mio. Ti aspettavo.

Đến đây, con trai, ta đang đợi con!
 
Chương 88


Sáng đó, khắp Thành Vatican bao trùm bầu không khí náo động bồn chồn, một từ hoàn toàn mang ý nghĩa tương đối ở chốn này: vài giáo sĩ cao cấp đi trong các hành lang lát đá cẩm thạch với bước chân bớt điệu đà hơn thường lệ một chút, vài chiếc thắt lưng màu tím bay hơi cao hơn một chút trên những cầu thang mà người ta trèo bốn bậc một. Một chiếcô tô mang biển S.C.V. chạy hết tốc độ qua cửa vào sân Belvedere, người lính gác Thuỵ Sĩ chào đón và nhận ra bên trong xe là bác sĩ riêng của Giáo hoàng, một người đàn ông có tuổi đang giữ chặt một chiếc va li nhỏ trên đầu gối.

Ở bất kỳ nơi nào bên ngoài, những dấu hiệu náo động khó lòng nhận biết này có thể đã trôi qua mà không ai nhận thấy. Nhưng viên lính gác Thuỵ Sĩ, người chứng kiến tình trạng kích động bất thường này trong Thành phố Thánh, rất phấn khởi: hôm nay, hẳn anh chàng sẽ có điều gì đó để làm gia vị cho những cuộc trò chuyện với đồng đội.

Chiếc xe mang biển S.C.V. đi đến hết đường Conciliazione, rẽ trái, vượt qua Lâu đài San Angelo và đậu cách xa một chút trên vỉa hè đường Lungotevere, phía sau một chiếc xe hòm đang bật đèn hiệu. Người đàn ông mang va li nhanh nhẹn đi xuống cầu thang dẫn tới bờ sông Tiber, bước trên những viên đá lát mấp mô dẫn đến vòm cầu Cavour, nơi khoảng chục cảnh sát người Ý đang tập trung quanh một thân hình thảm hại nước chảy tong tong mà hình như họ vừa vớt lên khỏi những bụi sậy ven bờ sông.

Bác sĩ xem xét thi thể, trao đổi với cảnh sát, đóng va li lại rồi ngược lên đường Lungotevere, nơi ông nói nhỏ vào điện thoại di động, cẩn thận tránh xa vài kẻ tò mò đang quan sát cảnh tượng. Ông gật đầu nhiều lần, ra hiệu cho người tài xế quay về không cần chờ ông, và nhanh chóng đi bộ quay trở lại Lâu đài San Angelo. Qua đường, đi tiếp một đoạn và khuất vào một toà nhà mới, dưới chân toà nhà có một thanh niên ăn mặc như du khách có vẻđ ang chờ ông.

Họ trao đổi với nhau mấy câu, rồi người thanh niên lấy từ túi áo ra một chiếc chìa khoá và ra hiệu cho bác sĩ đi theo anh vào trong toà nhà.

Cuối buổi sáng, Hồng y Catzinger đứng trước Giáo hoàng, người đã được đưa đến văn phòng ông. Được tô điểm bởi một chiếc nhẫn của Hội nghị Giám mục Vatican II mà ngài đã tham gia, bàn tay phải của Giáo hoàng run lên khi ông đọc một mảnh giấy. Dù tàn tạ vì đau ốm nhưng dưới hai hàng lông mày rậm, ánh mắt ngài vẫn linh lợi và sắc sảo.

- Đức Hồng y, chuyện này có thật không? Hai giáo sĩ cấp cao của Vatican, chết cách nhau vài giờ cùng trong đêm qua?

- Một sự trùng hợp đau xót, thưa Cha rất thánh. Đứcông Calfo vốn bị một cơn đau nguy hiểm cách đây nhiều tháng, đêm qua đã lên cơn đau tim và không qua khỏi.

Alessandro Calfo được phát hiện trong phòng mình, nằm dài trên hai tấm ván đặt theo hình thánh giá. Gương mặt tím ngắt vẫn còn nhăn nhúm bởi một cái cười nhăn đau đớn. Hai cánh tay đang buộc vào thanh ngang của cây thánh giá bằng hai sợi dây lụa, ánh mắt lờ đờ nhìn lên một hình thánh kiểu Byzantine treo ngay bên trên, thể hiện Đức Mẹ của Chúa với thần thái vô cùng trong sáng và trinh bạch.

Hai chiếc đinh đã được rút ra khỏi thành giường, và đóng sâu vào lòng bàn tay của kẻ bị hành hình. Không có máu chảy ra, hẳn là người đó đã chết trước khi bị đóng đinh câu rút.

Căn hộ cách quảng trường Saint Peter một chút, nên vụ này thuộc thẩm quyền của cảnh sát Italy. Nhưng cái chết thảm khốc của một giáo sỹ cao cấp, công dân Vatican, luôn khiến nhà nước Italy rơi vào tình huống vô cùng tế nhị. Cảnh sát trưởng, cũng là người Napoli giống người quá cố, rất bối rối. Một nghi lễ kỳ quái, người này đã bị đóng đinh câu rút? Ông không thích chuyện đó, và dù sao, theo đường chim bay, biên giới vô hình của Thành phố Thánh chỉ cách đó khoảng một trăm mét: vậy thì có thể coi như bác sĩ riêng của Giáo hoàng, người sắp đến đây, hoàn toàn đủ thẩm quyền để cấp phép mai táng.

Viên thầy thuốc đáng kính còn không thèm mở va li ra: được hỗ trợ bởi người thanh niên có ánh mắt đen đến kỳ lạ đi cùng, đầu tiên ông cẩn thận cài cúc cáo cổ của Calfo, để dấu thắt cổ hằn trên đó không lộ ra nữa. Rồi ông nhổ những chiếcđinh, gọi viên cảnh sát đã kín đáo lùi ra xa, và nói với anh ta kết quả chuẩn đoán của mình: nhồi máu cơ tim, do ăn quá nhiều pasta mà không chịu luyện tập. Đó là những điều mà một người Napoli hiểu ra ngay lập tức. Viên cảnh sát thở dài nhẹ nhõm và không chậm trễ giao thi thể cho chính quyền Vatican.

- Một cơn nhồi máu cơ tim, Giáo hoàng thở dài, vậy chắc là ông ấy không bị đau đớn? Chúa nhân từ với các đầy tớ của mình, requiescat in pace. Nhưng còn người kia thì sao, Hồng y? Vì đêm qua có hai người chết, đúng không?

- Đúng vậy, và trường hợp này tế nhị hơn rất nhiều: đó là Đức ông Leeland mà tôi đã từng nói với ngài.

- Leeland! Vị tu viện trưởng từng ồn ào thể hiện quan điểm ủng hộ các linh mục kết hôn đúng không? Tôi vẫn nhớ rõ, chuyện này đã khiến ông ấy bị điều chuyển theo hình thức promoveatur ut amoveatur, và từ đó, ở Roma, ông ấy rất im ắng.

- Không hẳn thế, thưa Thánh Cha. Ở đây ông ta đã gặp gỡ một thầy tu nổi loạn, người này đã chia sẻ với ông ta những lý thuyết điên rồ về con người của Chúa Cứu thế Jesus-Christ. Có vẻ chuyện đó đã khiến ông ta vô cùng bối rối, hẳn là đến mức tuyệt vọng: sáng nay người ta tìm thấy ông ta bị chết đuối trong những khóm sậy ven bờ sông Tiber, đoạn cầu Cavour. Có thể là một vụ tự sát.

Không hơn các cảnh sát, viên thầy thuốc cũng chẳng muốn chú ý đến vết dây thắt quanh cổ Leeland. Chắc chắn là một sợi dây thép đã nghiến nát lưỡi gà. Công việc của một kẻ chuyên nghiệp. Kỳ lạ là gương mặt người Mỹ vẫn thanh thản, ông gần như đang mỉm cười.

Giáo hoàng khó nhọc ngẩng đầu nhìn chăm chăm vào Hồng y:

- Hãy cầu nguyện cho Đứcông Leeland tội nghiệp, hẳn là ông ấy đã rất đau khổ trong tâm hồn. Từ nay trở đi ông gửi cho tôi tất cả các thư từ có thể được gửi đến cho ông ấy. Thế còn… vị thầy tu nổi loạn kia?

- Hôm qua ông ta đã rời khỏi San Girolamo, nơi ông ta ở trọ từ vài ngày nay, và chúng tôi không biết ông ta đang ở đâu. Nhưng tìm ra dấu vết ông ta chắc cũng dễ dàng thôi.

Giáo hoàng đưa tay phác một cử chỉ.

- Hồng y, ông muốn một tu sĩ trốn tránh ở đâu ngoài một tu viện? Thôi nào, trước mắt đừng làm gì cả, hãy để ông ta có thời gian tìm lại sự yên bình nội tâm mà hình như ông ta đã đánh mất, theo những gì ông nói với tôi.

Trở về căn phòng mình, Catzinger nhận thấy rằng ông chia sẻ không dè dặt tình cảm của Giáo hoàng. Cái chết của Calfo đỡ cho ông một gánh nặng đáng kể; Antonio đã hành động kịp thời: bức thư của tông đồ thứ mười ba vẫn sẽ ẩn mình trong hầm bí mật của Vatican, không ở đâu tốt hơn chiếc hầm đó, nơi nó được bảo vệ khỏi những kẻ tọc mạch ác ý. Leeland ư? Chỉ là một con côn trùng, thuộc loại người ta có thể đưa tay gạt bỏ. Còn cha Nil rốt cuộc cũng chỉ nguy hiểm trong tu viện của ông ta. Chừng nào ông ta chưa quay lại đó thì vẫn không có áp lực gì.

Chỉ có Breczinsky: sự hiện diện của ông ta giữa những bức tường Vatican là một cái gai không thể chịu nổi. Nó luôn nhắc ông nhớ đến một thời kỳ đen tối trong lịch sử nước Đức, và khơi dậy trong ông cảm giác tội lỗi tập thể mà ông vẫn luôn phải chiến đấu chống lại. Cha ông ư? Ông ấy chỉ làm nhiệm vụ của mình, bằng việc dũng cảm hoàn thành nhiệm vụ: chiến đấu chống lại chủ nghĩa cộng sản đang đe doạ trật tự thế giới. Liệu có phải là lỗi của ông ấy, liệu có phải là lỗi của tất cả bọn họ nếu Hitler đã đánh lạc hướng ngần ấy tâm hồn cao thượng để thiết lập nền thống trị của cái gọi là nòi giống cao cấp của ông ta, dù cái giá phải trả là sự kinh hoàng của ngày tận thế?

Người Ba Lan ấy đã bị cha ông huỷ hoại, nhưng đó là số phận của tất cả những kẻ chiến bại. Không tự thú nhận điều này với bản thân, song Hồng y cảm thấy nhục nhã vì một bi kịch mà ông không tham gia. Nhưng cha ông… Cảm giác nhục nhã này thôi thúc ông trong cuộc chiến bền bỉ của mình: sự trong sạch của giáo lý Cơ Đốc. Đó là sứ mệnh của ông, ông sẽ không nằm trong hàng ngũ của những kẻ chiến bại. Dòng giống duy nhất cao cấp, dòng giống duy nhất có thể chiến thắng, là dòng giống của những người có đức tin. Giáo hội là thành luỹ cuối cùng trước Ngày tận thế hiện đại.

Đối với ông, Breczinsky đã trở nên rất khó chịu và phải bị tách xa. Catzinger sẽ không thể tìm thấy sự bình yên chừng nào dưới mắt ông còn có nhân chứng cuối cùng về lịch sử của chính ông, và về lịch sử của cha ông.

Trước mắt, duy nhất một thứ huy động được năng lượng của ông: lễ phong thánh của Escriva de Balaguer, dự kiến sẽ diễn ra trong vài tháng tới. Người sáng lập ra tổ chức Opus Dei đã biết củng cố toà nhà xây dựng trên thiên chất của Christ. Nhờ vào những người có nghị lực tinh thần như ông ta, Giáo hội sẽ chống chọi được.

Tuy nhiên ông vẫn cần tự quyết định tạo ra một phép màu: chuyện này có thể xảy ra.
 
Chương 89


Sa mạc trên dãy núi Abruzzes đúng như cha Nil mong đợi, hẳn cũng đúng như tông đồ thứ mười ba đã từng biết đến sau khi trốn khỏi Pella, và đúng như Jesus từng trải nghiệm sau khi gặp Jean Baptiste bên bờ sông Jordan. Ẩn sĩ chỉ cho ông một cái đệm rơm đặt trong góc.

- Đó là cái đệm rơm mà Beppo vẫn dùng khi cậu ta qua đêm ở đây. Cậu bé này gắn bó với tôi như với cha mình, người mà cậu chưa bao giờ biết mặt. Cậu ta không nói, nhưng chúng tôi có thể trao đổi với nhau không khó khăn gì.

Rồi ông không nói nữa, và trong vài ngày họ đã cùng sống trong yên lặng hoàn toàn, lặng lẽ dùng chung những bữa ăn gồm có pho mát, rau thơm và bánh mỳ trên thềm trước nhà nơi ngọn núi trò chuyện với họ bằng ngôn ngữ của nó.

Cha Nil nhận thấy rằng sa mạc trước hết là một trạng thái của tinh thần và tâm hồn. Rằng ông có thể cảm nhận thấy sa mạc ngay trong tu viện của mình, ngay giữa một thành phố. Rằng đó là một phẩm chất nào đấy trong việc rũ bỏ nội tâm, từ bỏ tất cả những dấu mốc quen thuộc của cuộc sống xã hội. Rất nhanh chóng, ông dửng dưng với sự nghèo khó tột cùng của nơi ông đang sống, đến nỗi ông không nhận thấy nữa. Khi tiếp xúc với ẩn sĩ, ông bắt đầu cảm thấy một sự hiện diện rất mạnh mẽ, rất nồng ấm, một sự giàu có bất ngờ. Ban đầu, ông cảm thấy nó như xuất phát từ bên ngoài, từ thiên nhiên, từ người sống chung với mình. Rồi ông hiểu ra rằng sự hiện diện đó đang nối kết với một sự hiện diện khác, ở bên trong con người ông. Và rằng nếu ông chú ý, để tâm quan sát trước khi tiếp nhận nó, thì không còn điều gì khác đáng kể. Sẽ không còn gì là bất tiện, cô độc, sợ hãi.

Thậm chí, có thể sẽ không còn ký ức về quá khứ và những vết thương của ông.

Một hôm, khi Beppo vừa ra đi sau khi mang bánh mì cho họ, ẩn sĩ vuốt râu và nói với ông:

- Tại sao con vẫn tự hỏi mình về ý nghĩa những lời chào đón của ta: “Ta đang chờ con, con trai”?

Người này đọc được ý nghĩ của ông như đọc một cuốn sách mở.

- Nhưng … Cha không biết con, cha không được báo trước về việc con tới, cha không biết gì về con!

- Ta hiểu con, con trai ạ, và ta biết nhiều điều về con mà bản thân con không biết. Con sẽ thấy, sống ở đây con sẽ tiếp nhận được cái nhìn của sự Thức tỉnh bên trong, cái nhìn mà Jesus có được khi ra khỏi sa mạc, cái nhìn đã cho phép Người thấy Nathanael dưới cây vả, mặc dù nó ở ngoài tầm mắt Người. Con tìm kiếm kho báu quý giá nhất, kho báu mà ngay cả các Giáo hội cũng không nắm giữ được chìa khóa, kho báu mà họ chỉ có thể định ra phương hướng khi không làm tắc nghẽn con đường dẫn tới nó.

- Cha biết ai là tông đồ thứ mười ba sao?

Ẩn sĩ lặng lẽ mỉm cười, một tia sáng nhảy nhót trong mắt ông.

- Thế con tin rằng luôn phải biết thì mới hiểu được sao?

Ông để ánh nhìn của mình lướt trên thung lũng, nơi những đám mây trên cao vẽ thành những cái đốm di động. Rồi ông nói, như nói với một người không phải cha Nil:

- Mọi thứ chỉ có thể được hiểu từ bên trong. Khoa học chỉ là cái vỏ, phải vượt qua nó để tìm thấy cái cốt lõi, thứ gỗ dác của hiểu biết. Các khoáng chất, cây cối, sinh vật sống là thực, kinh Phúc âm cũng là thực. Người xưa gọi sự hiểu biết bên trong này là ngộ đạo. Nhiều người đã bị đầu độc bởi thứ thức ăn quá giàu có mà họ tìm thấy ở đó, nó bốc lên đến đầu họ, họ cứ ngỡ mình cao hơn tất cả, catharoi [[57]]. Người mà con gặp trong kinh Phúc âm, và cũng là người mà con đã trải nghiệm khi cầu nguyện, không cao hơn mà cũng không thấp hơn con: người đó ở cùng với con. Sự hiện diện của Jesus mạnh đến nỗi nó kết nối con với tất cả nhưng cũng tách biệt con với tất cả. Con đã bắt đầu trải nghiệm điều đó, và ở đây con chỉ sống với nó. Chính vì vậy mà con đến đây…

Ta đang chờ con, con trai ạ…
 
Chương 90


Roma dửng dưng chứng kiến việc Hồng y Emil Catzinger chuyển giao quyền quản lý Hội Thánh Pie V. Nhân danh Giáo hoàng, ông tự mình chỉ định hội trưởng kế tiếp người Napoli Alessandro Calfo, đột ngột qua đời tại nhà riêng nên không thể chuyển lại chiếc nhẫn có hình chiếc quan tài, chiếc nhẫn nhắc nhở nghĩa vụ đáng sợ của người nắm giữ bí mật quý giá nhất thuộc về Giáo hội Cơ đốc: bí mật về nấm mồ thực sự nơi xương cốt của người bị đóng đinh câu rút tại Jerusalem đang yên nghỉ.

Hội trưởng này được ông lựa chọn trong số Mười một người và ông muốn người đó phải trẻ tuổi để có sức lực chiến đấu với kẻ thù của người đã trở thành Christ và Đức Chúa. Vì chúng sẽ nhanh chóng ngóc đầu dậy, như chúng vẫn làm từ trước đến nay, kể từ khi phải huỷ hoại con người và nhất là ký ức về kẻ bịp bợm, kẻ tự xưng mình là tông đồ thứ mười ba.

Khi lồng chiếc nhẫn có gắn viên ngọc thạch anh quý giá vào ngón tay đeo nhẫn bên phải của người đó, ông mỉm cười với đôi mắt rất đen, bình lặng như hồ trên núi. Antonio chỉ nghĩ rằng khi trở thành hội trưởng, anh sẽ vĩnh viễn nằm ngoài tầm tay của Opus Dei và các xúc tu của tổ chức này. Lần thứ hai, con trai của Oberstleutnant Herbert von Catzinger, cậu bé được tổ chức Thiếu niên Hitler giám hộ, đã đứng ra bảo vệ anh: nhưng ông ấy cũng đòi anh trả lãi. Trong két của Hội, Antonio thấy có một hồ sơ đánh dấu confidenziale, ghi tên Hồng y. Nếu mở ra, hẳn anh đã thấy những tài liệu liên quan đến người bảo trợ đầy quyền lực của mình, phần đầu trang có hình chữ thập ngoặc. Không phải là toàn bộ những tài liệu này đều có trước tháng Năm năm 1945.

Nhưng anh đã không mở ra, mà tự mình trao lại cho Đức Hồng y, ông đã cho nó vào máy huỷ tài liệu trong văn phòng Cơ quan truyền bá đức tin ngay trước mặt anh.

Trong chiếc áo choàng đen nghiêm nghị, Breczinsky nhìn quang cảnh nông thôn Ba Lan buồn tẻ lướt qua trước mắt. Ông đã bị Antonio đích thân bắt giữ tại văn phòng ông trong kho sách, và bị dẫn ngay đến ga trung tâm của Roma. Từ đó, ông không thể suy nghĩ được nữa. Sau khi băng qua khắp châu Âu, con tàu đang đi sâu vào các bình nguyên trên đất nước ông: ông ngạc nhiên thấy mình chẳng có cảm xúc gì. Đột nhiên ông đứng dậy, và đôi mắt kính tròn của ông bị một làn hơi nước làm mờ đi. Ông vừa nhìn thấy một ga nhỏ tỉnh lẻ vun vút chạy qua: Sobibor, trại tập trung quanh đó sư đoàn Anschluss đã tập trung trước khi vội vàng rút về phía Tây. Bị đẩy đi trước nó là đoàn người Ba Lan cuối cùng, những người sẽ bị thủ tiêu tại đây ngay trước khi Hồng quân đến. Trong đoàn người này có tất cả những người còn lại trong gia đình ông.

Vài ngày trước, một linh mục trẻ, Karol Wojtyla đã coi thường nguy hiểm, bế ông lên và giấu ông trong nơi ở chật hẹp của mình tại Cracovie. Để che chở ông khỏi cuộc vây ráp do sĩ quan người Đức vừa kế nhiệm Herbert von Calzinger, kẻ đã bị quân du kích Ba Lan giết chết, tổ chức.

Breczinsky xuống ga kế tiếp: chính ở đó, trong một tu viện nhỏ dòng Carmen cách xa mọi thứ, ông đã bị Hồng y Catzinger đưa vào vòng quản thúc. Mẹ bề trên đã nhận được một bức thư có đóng dấu của Vatican: vị linh mục được gửi đến đây không bao giờ được tiếp bất kỳ một người khách thăm viếng nào, cũng không được trao đổi với bên ngoài dưới bất kỳ hình thức nào.

Ông cần được tĩnh tâm, nghỉ ngơi. Và hẳn là trong thời gian dài.
 
Chương 91


Cả khán phòng đồng loạt đứng dậy: trong buổi hòa nhạc cuối cùng của Lev Barjona ở Roma, Nhạc viện Saint Cecilia đông tưởng như muốn nổ tung. Anh chàng người Israel này phải biểu diễn bản giao hưởng số ba dành cho piano và dàn nhạc của Camille Saint-Saёns, trong chương thứ nhất anh sẽ thể hiện sự phù hoa, trong chương thứ hai sự uyển chuyển tuyệt vời của các ngón tay, và trong chương thứ ba khiếu hài hước của mình.

Như thường lệ, nhạc công piano bước lên sân khấu mà không nhìn khán giả, và ngồi ngay vào ghế. Khi chỉ huy dàn nhạc ra hiệu đã sẵn sàng, mặt anh đột nhiên đanh lại, và anh gõ những nốt đầu tiên trang trọng và hoa mỹ báo hiệu trường đoạn lãng mạn được thể hiện bởi toàn bộ dàn nhạc.

Ở chương thứ hai, anh tỏa sáng rực rỡ. Những phím đàn nhào lộn dưới các ngón tay anh một cách thần kỳ, mỗi nốt nhạc đều được thể hiện hoàn hảo và trau chuốt mặc dù anh sử dụng nhịp độ dữ dội cho toàn bộ bản nhạc. Sự đối lập giữa âm nhạc sôi động và nét tĩnh lặng hoàn toàn trên khuôn mặt anh khiến khán giả say sưa, và sau nốt nhạc cuối cùng, họ dành cho anh những tràng pháo tay hoan hô nhiệt liệt mà người Roma không tiếc đối với những người biết chinh phục trái tim họ.

Mọi người ai nấy đều nghĩ Lev Barjona sẽ theo thói quen đi ngay vào hậu trường mà không dành cho đám đông lần biểu diễn bis truyền thống. Vì thế, sự ngạc nhiên trong khán phòng càng tăng lên khi anh bước về phía họ và phác một cử chỉ yêu cầu mang cho mình một chiếc micro. Anh cầm lấy và ngước mắt lên, lóa mắt vì ánh đèn chiếu. Dường như anh đang nhìn ra rất xa, ra ngoài căn phòng đột nhiên trở nên im lặng, ra ngoài cả thành Roma. Mặt anh không còn đanh lại mà mang một vẻ nghiêm trang bất thường ở con người quen quyến rũ này. Vết sẹo cắt ngang mái tóc vàng của anh càng khiến điều anh sắp nói ra trở nên bi thảm.

Anh nói rất ngắn gọn:

- Để cảm ơn sự tiếp đón nhiệt tình của các vị, tôi xin tặng các vị bản Gymnopédie thứ hai của Érik Satie, một nhà soạn nhạc vĩ đại người Pháp. Tối nay, tôi đặc biệt dành tặng bản nhạc này cho một người Pháp khác, một người hành hương đến cõi tuyệt đối. Và cho một nhạc công piano người Mỹ đã mất đi một cách bi thảm, nhưng ký ức về ông sẽ không bao giờ rời xa tôi. Chính ông cũng biểu diễn bản nhạc này trong tâm hồn mình, vì giống như Satie, ông đã tin vào tình yêu, và ông đã bị phản bội.

Trong khi Lev, mắt nhắm nghiền, như đang thả mình vào sự hoàn hảo của giai điệu hoàn toàn giản dị, từ cuối phòng một người nhìn anh và mỉm cười. Cố gắng thu nhỏ thân hình cơ bắp của mình, trong hắn hơi lạc lõng giữa những khán giả tinh tế và sang trọng xung quanh.

“Người Do Thái, Moktar Al-Quraysh nghĩ, tất cả bọn họ đều là những người tình cảm!”

Với cái chết của Alessandro Calfo, nhiệm vụ của hắn đã kết thúc. Hắn cảm thấy thỏa mãn khi tự tay mình loại bỏ người Mỹ đó. Còn người kia thì đã biến mất, và Moktar chưa tìm thấy dấu vết ông ta. Chỉ là vấn đề thời gian thôi. Ngày mai, hắn sẽ quay về Cairo. Hắn sẽ báo cáo với Hội đồng Fatah và nhận chỉ thị của tổ chức. Người Pháp đó phải biến mất; để săn lùng dấu vết ông, Moktar cần có phương tiện và sự hỗ trợ. Lev vừa công khai tuyên bố ngưỡng mộ kẻ dị giáo ấy, hắn không thể trông cậy vào anh được nữa.

Còn về Sonia, cô đang thất nghiệp. Hắn sẽ nhanh chóng đưa cô đến Cairo. Che mặt bằng mạng đen, dáng vóc yêu kiều của cô sẽ khiến hắn hãnh diện. Vì hắn sẽ giữ cô lại cho mình. Sau khi qua tay một giáo sĩ cấp cao đồi bại ở Vatican, hẳn cô phải biết làm những điều có thể đã bị Đấng Tiên tri lên án nếu Ngài biết được. Kinh Coran chỉ khẳng định: “Phụ nữ là một cánh đồng cần cày cấy: hãy đi khắp cánh đồng đó và cày cấy nó như con muốn.”[[58]]. Hắn sẽ cày cấy Sonia. Hoàn toàn dửng dưng với thứ âm nhạc thanh nhã đang phát ra từ những ngón tay Lev, hắn cảm thấy máu dồn lên phần đàn ông của mình.
 
Chương 92


Ba tuần trôi qua kể từ khi cha Nil đến vùng Abruzzes, và ông có cảm giác đã sống cả đời mình trong sự cô độc này. Từng mẩu một, ông kể cho vị tu sĩ già nghe toàn bộ câu chuyện của mình: việc ông đến Roma, thái độ của Leeland cho đến lời thú nhận xúc động của ông ấy, cuộc gặp gỡ với Lev Barjona; những dấu vết của bức thư tông đồ mà ông tìm thấy một cách khó nhọc, phát hiện của ông trong hầm bí mật của Vatican…

Ông già mỉm cười.

- Ta biết rằng điều đó không làm thay đổi gì trong cuộc đời con cũng như định hướng sâu kín của nó. Chính sự thật là thứ mà con luôn tìm kiếm, con đã thấy cái vỏ, việc con còn phải làm là đào sâu sự hiểu biết này trong khi cầu nguyện. Con không bao giờ nên oán trách Giáo hội Cơ Đốc. Nó làm điều nó vẫn luôn làm, điều mà vì nó cả Giáo hội đã được lập ra: chinh phục quyền lực, rồi giữ gìn quyền lực bằng mọi giá. Một thầy tu thời Trung cổ đã định nghĩa Giáo hội một cách thực tế: casta simul et meretrix, sự trinh tiết của gái điếm. Giáo hội là một cái nạn cần thiết, con trai ạ: không nên vì việc nó thường xuyên lạm dụng quyền lực của mình mà con quên rằng nó đang giữ kín một kho báu, con người của Jesus. Và rằng, không có nó, hẳn con đã không bao giờ biết được Người.

Cha Nil biết rằng vị ẩn sĩ nói đúng.

Tò mò vì người mới đến quá giống với cha nuôi của mình, giống đến cả mái tóc bạc, Beppo lên căn nhà nhiều hơn thường lệ một chút. Anh ngồi cạnh cha Nil trên ụ đá khô ở sân trước nhà, và ánh mắt họ chỉ giao nhau có một lần. Rồi tu sĩ người Pháp chỉ còn cảm thấy hơi thở của anh, đều đặn và bình thản. Đột nhiên anh đứng dậy, hơi nghiêng đầu và biến mất trong con đường rừng.

Hôm đó, lần đầu tiên cha Nil nói chuyện với anh:

- Beppo, con có thể giúp cha một việc được không? Cha phải gửi thư này đến cho cha Calatin, ở Camaldoli. Con có thể mang nó đi được không? Phải đưa thư đến tận tay ông ấy.

Beppo gật đầu và nhét bức thư vào túi trong của chiếc áo vest bằng da cừu. Nó được đề gửi đến cho Rembert Leeland, đường Aurelia. Trong thư cha Nil kể vắn tắt về việc ông đến căn nhà, cuộc sống của ông, niềm hạnh phúc đã chạy trốn ông quá lâu và dường như đang trở thành hiện thực ở đây. Cuối cùng, ông hỏi tin tức bạn mình, và hỏi xem ông có nên đến Roma gặp lại bạn không.

Vài ngày sau, Giáo hoàng mở bức thư này và đọc hai lần trước mặt Catzinger, người đã trao nó lại theo chỉ thị của ông.

Giáo hoàng mệt mỏi đặt bức thư trên đầu gối. Rồi ông ngẩng đầu nhìn Hồng y, người vẫn đang cung kính đứng trước mặt ông.

- Tu sĩ người Pháp mà ông đã nói với tôi, vì sao ông lại nghĩ là ông ta nguy hiểm cho Giáo hội?

- Ông ta nghi ngờ thiên chất của Christ, thưa Cha rất thánh, theo cách đặc biệt ác ý. Phải khiến ông ta im lặng và trả ông ta về với sự cô độc trong tu viện của mình, nơi ông ta không bao giờ được rời khỏi.

Giáo hoàng để cằm gục xuống cổ áo chùng trắng. Ông nhắm mắt lại. Không bao giờ có thể biết toàn bộ sự thật về Christ. Christ ở phía trước chúng ta: chỉ có thể đi tìm kiếm Người. Tìm kiếm Người nghĩa là đã thấy được Người, Thánh Augustin từng nói vậy. Ngừng tìm kiếm nghĩa là để mất Người.

Không ngẩng đầu lên, ông thì thầm, và Catzinger phải căng tai ra để hiểu ông đang nói gì:

- Sự cô độc… Tôi tin rằng ông ấy đang có được nó, Hồng y ạ, và tôi mong muốn điều đó… đúng, tôi mong muốn. “Tu sĩ”, ông biết đấy, bắt nguồn từ “monos”, nghĩa là đơn độc, hay duy nhất. Ông ấy đã tìm thấy sự duy nhất cần thiết mà Jesus từng nói với Marthe, chị gái của Marie và Lazare. Hãy để ông ấy sống trong sự cô độc của mình, Hồng y ạ. Hãy để ông ấy với Người mà ông ấy đã tìm thấy.

Rồi ông nói thêm bằng giọng còn thoảng nhẹ hơn:

- Chính vì điều đó mà chúng ta ở đây, đúng không? Chính vì điều đó mà Giáo hội tồn tại. Sao cho trong lòng nó, có một vài người tìm thấy điều mà chúng ta, ông và tôi, đang tìm kiếm.

Catzinger nhướng một bên lông mày lên. Điều ông tìm kiếm là giải quyết vấn đề này tiếp sau vấn đề khác, làm cho Giáo hội tồn tại lâu dài, bảo vệ nó khỏi kẻ thù. Sono il carabiniere della Chiesa [[59]], người tiền nhiệm có trí nhớ nổi tiếng của ông, Hồng y Ottaviani, đã từng nói thế.

Giáo hoàng như đã ra khỏi giấc mộng và ra hiệu.

- Làm ơn hãy đưa tôi đến gần chiếc máy ở trong góc kia.

Catzinger đẩy ghế lăn về phía máy hủy tài liệu nhỏ đặt trước một chiếc sọt đã đầy đến một nửa các loại vụn giấy nhiều màu. Vì tay bị run, Giáo hoàng không khởi động cho máy chạy được. Catzinger ấn nút với vẻ tôn kính.

- Cảm ơn… Không, cha cứ để đấy, tôi muốn tự làm.

Máy hủy tài liệu khạc ra vài mẩu giấy vụn, chúng rơi vào trong chiếc sọt chứa đựng những bí mật khác mà chỉ có Giáo hoàng giữ lại trong bộ não còn minh mẫn đến ngạc nhiên.

“Chỉ có một bí mật duy nhất, đó là bí mật của Chúa. Ông ấy thật may mắn, cha Nil ấy. Thật sự là rất may mắn.”
 
Chương 93


Giữa đêm, cha Nil bị đánh thức bởi một tiếng động lạ, và thắp một ngọn nến. Nằm trên đệm rơm, mắt nhắm, vị ẩn sĩ già rên lên khe khẽ.

- Cha, cha thấy đau à? Phải đi tìm Beppo, phải…

- Cứ kệ đi, con trai. Chỉ cần ta rời khỏi bờ để xuống nơi nước sâu, đã đến lúc rồi.

Ông mở mắt, và bao trùm cha Nil trong ánh mắt chan chứa nhân từ.

- Con sẽ ở lại đây, đây là nơi dành cho con vĩnh viễn. Giống như tông đồ thứ mười ba, con sẽ nghiêng đầu về phía Jesus để nghe. Chỉ trái tim con mới có thể hiểu được Người, nhưng nó đang thức tỉnh từng ngày. Con hãy lắng nghe, và đừng làm gì khác: Người sẽ dẫn đường cho con. Đó là người dẫn đường rất đáng tin cậy, con có thể hoàn toàn tin tưởng vào Người. Con người đã phản bội con, nhưng Người, Người không bao giờ phản bội.

Ông cố gắng lần cuối cùng:

- Beppo… con hãy chăm sóc nó, đó là đứa con trai mà ta giao phó cho con. Nó trong sạch như nước chảy trong núi này.

Sáng hôm sau, ngọn núi sáng lên từ phía sườn đối diện. Khi những ngọn lửa của mặt trời bao trùm căn nhà, vị ẩn sĩ già thì thầm tên Jesus và ngừng thở.

Cũng ngày hôm đó, cha Nil và Beppo chôn ông trên một vách đá, có lẽ giống với vách đá nhô ra bên trên Qumran, cha Nil nghĩ. Họ lặng lẽ quay trở về nhà tu.

Đến khoảng sân nhỏ trước nhà, Beppo nắm lấy cánh tay cha Nil đang bất động, cúi đầu xuống trước ông và nhẹ nhàng đặt bàn tay vị tu sĩ lên mái đầu tóc quăn của mình.

Ngày nối tiếp ngày, và đêm nối tiếp đêm. Bất động, dường như thời gian cũng mang một chiều kích khác. Ký ức của cha Nil còn chưa được chữa lành, nhưng càng ngày ông càng ít cảm thấy nỗi lo lắng vốn từng đè nặng lên ông trong những ngày kinh hoàng đó, những ngày ông đã trải qua để vây dồn ảo ảnh của sự thật.

Sự thật không nằm trong bức thư của tông đồ thứ mười ba, cũng không nằm trong kinh Phúc âm thứ tư. Nó không được chứa đựng trong bất kỳ văn tự nào, dù thiêng liêng đến đâu đi nữa. Nó vượt lên trên những từ ngữ in trên giấy, những lời nói phát ra từ miệng con người. Nó nằm trong sự im lặng, và sự im lặng chầm chậm chiếm hữu cha Nil.

Beppo đã chuyển sang ông sự ngưỡng mộ mà anh dành cho vị ẩn sĩ già khi vị ẩn sĩ còn sống. Khi anh đến, lúc nào cũng rất ngẫu hứng, họ ngồi trên mép khoảng sân nhỏ hoặc trước ngọn lửa trong lò sưởi. Cha Nil dịu dàng đọc cho anh nghe kinh Phúc âm và kể với anh về Jesus, giống như tông đồ thứ mười ba đã làm với Iokhanân ngày xưa.

Một hôm, do một cảm hứng đột ngột, ông vẽ lên trán, môi và trái tim chàng trai trẻ một dấu chữ thập vô hình. Tự nhiên, Beppo thè lưỡi ra, và ông cũng đưa tay vẽ lên đó dấu hiệu của cái chết và sự sống.

Ngày hôm sau, Beppo đến từ sáng sớm. Ngồi trên tấm đệm rơm, anh nhìn cha Nil bằng đôi mắt bình lặng của mình và thì thầm trong một hơi thở vụng về:

- Cha… cha Nil! Con… con muốn học đọc. Để có thể tự mình nghiên cứu kinh Phúc âm.

Beppo đã nói. Anh nói ra những điều chất chứa trong tim mình.

Cuộc sống của cha Nil vì thế có đôi chút thay đổi. Từ đó trở đi, gần như ngày nào Beppo cũng đến thăm ông. Họ ngồi trước cửa sổ, và cha Nil mở sách ra trên chiếc bàn nhỏ xíu. Trong vòng vài tuần, Beppo đã có thể đọc được, chỉ ngập ngừng ở những từ phức tạp.

- Con có thể học cuốn kinh Phúc âm của Marc, cha Nil nói với anh. Đó là cuốn đơn giản nhất, rõ ràng nhất, gần với những điều Jesus đã nói và làm nhất. Sau này, một ngày nào đó, cha sẽ dạy con tiếng Hy Lạp. Con sẽ thấy nó không khó lắm đâu, và khi đọc to lên con sẽ nghe thấy điều mà các môn đồ đầu tiên của Jesus nói về Người.

Beppo nghiêm trang nhìn ông.

- Con sẽ làm những gì cha bảo: cha là cha của tâm hồn con.

Cha Nil mỉm cười. Hẳn tông đồ thứ mười ba cũng đã là cha tâm hồn của những người Nazareth trốn chạy khỏi Giáo hội đầu tiên.

- Chỉ có một người cha duy nhất của tâm hồn con, Beppo ạ. Người không có tên, không ai có thể biết được Người, chúng ta không biết gì về Người trừ một điều Jesus gọi Người là abba: cha.
 
Chương 94


Buổi sáng tháng Mười đó, quảng trường Saint Peter mang dáng dấp lễ hội: Giáo hoàng sẽ tuyên bố phong thánh cho người sáng lập ra tổ chức Opus Dei, Escriva de Balaguer. Phía trước Đại giáo đường, trung tâm của nền Cơ Đốc, một bức chân dung lớn của vị thánh mới đã được tặng cho đám đông. Đôi mắt ranh mãnh, dường như ông đang quan sát họ với vẻ mỉa mai.

Đứng bên phải Giáo hoàng, Hồng y Catzinger rạng rỡ vì vui sướng. Lễ phong thánh này mang một ý nghĩa đặc biệt đối với ông. Trước hết, đó là chiến thắng của riêng ông trước các thành viên của Opus Dei, ông đã buộc được họ phải quy lụy mình trong những năm chuẩn bị làm lễ tuyên phúc cho người anh hùng của họ. Từ nay trở đi họ đã mắc nợ ông, điều này sẽ che chở cho ông thêm chút nữa khỏi những thủ đoạn thường xuyên của họ. Catzinger vui sướng vì vừa chơi được họ một vố đẹp, ít nhất ông cũng có lợi thế trước họ trong suốt một khoảng thời gian.

Sau đó, ông che chở cho Antonio khỏi bất kỳ áp lực nào của những người Tây Ban Nha thuộc dòng họ de Balaguer. Điều quan trọng đối với ông là Hội Thánh Pie V phải được duy trì vững vàng, để tránh khỏi những nỗi thất vọng mà ông đã gặp phải với Calfo.

Cuối cùng, và niềm hạnh phúc này cũng không phải là nhỏ trong ngày hôm nay, Giáo hoàng, người càng ngày càng bất lực trong việc khiến người khác hiểu mình, đã giao phó cho ông nhiệm vụ tuyên đọc diễn văn. Ông sẽ tận dụng dịp này để vạch ra chương trình lãnh đạo của mình trước các ống kính truyền hình trên toàn thế giới.

Vì sẽ có một ngày ông lèo lái con thuyền của Peter. Không phải ngấm ngầm lèo lái như ông vẫn làm từ nhiều năm nay nữa. Mà lèo lái công khai, giữa thanh thiên bạch nhật.

Ông máy móc nhấc vạt áo choàng lễ của Giáo hoàng đã bị trượt đi vì những cơn run rẩy của vị Giáo chủ tối cao, điều sẽ khiến việc lên hình bị xấu đi. Và để che lấp cử chỉ này, ông mỉm cười với ống kính máy quay. Đôi mắt xanh, mái tóc bạc của ông sẽ rất đáng ngưỡng mộ trên màn hình. Ông đứng thẳng người lên: ống kính máy quay chĩa thẳng vào ông.

Giáo hội là vĩnh hằng.

Lẫn trong đám đông, một thanh niên nhìn quang cảnh huy hoàng của Giáo hội với ánh mắt chế nhạo. Mái tóc quăn của anh sáng lên dưới ánh mặt trời, và chiếc áo vest kiểu nông dân vùng Abruzzes của anh không bị lạc điệu: những đoàn đại biểu Cơ Đốc trên toàn thế giới, trong trang phục dân gian, tạo nên những mảng màu sặc sỡ trên quảng trường Saint Peter.

Đôi tay anh không để không: ghì sát vào ngực, chúng nắm chặt một chiếc túi bằng da căng tròn.

Cha Nil đã giao nó cho anh hôm qua. Anh thấy lo lắng: ở làng, nơi bất kỳ người lạ nào cũng bị nhận ra ngay lập tức, người ta đã thấy có một người đàn ông đến hỏi han. Chắc chắn không phải là một người miền núi, thậm chí cũng chẳng phải người Italy: anh ta quá cơ bắp, bụng không to lắm, và con mắt của những người dân làng không thể sai lầm. Mọi việc diễn ra như chúng phải diễn ra trong một ngôi làng ở vùng Abruzzes, Beppo đã nhận được tin đồn, nó đến tai anh không chậm trễ. Anh đã nói lại với cha Nil, ông cảm thấy những lo lắng trong mình thức dậy.

Liệu có phải họ đang tìm kiếm ông, ở tận nơi này không?

Ngay hôm sau, ông đã giao chiếc túi của mình cho Beppo. Nó chứa đựng kết quả của bao năm nghiên cứu. Nhất là nó cất giấu bản sao mà ông đã chép lại từ bức thư. Theo trí nhớ, đúng thế, nhưng ông biết nó trung thành với văn bản mà ông đã cầm trên tay trong khoảng thời gian ngắn ngủi dưới hầm bí mật của Vatican.

Mạng sống của ông không quan trọng, cuộc sống của ông không thuộc về ông nữa. Giống như tông đồ thứ mười ba, giống như rất nhiều người khác, có thể ông sẽ chết vì đã yêu Jesus hơn Đấng Christ. Ông biết điều đó, và hoàn toàn bình thản chấp nhận nó.

Ông chỉ còn một tiếc nuối duy nhất, một tội lỗi chống lại Tinh thần mà ông không thể xưng với bất kỳ linh mục nào: dù sao ông vẫn muốn thấy nấm mồ thật sự của Jesus trong sa mạc. Ông biết rằng mong muốn này chỉ là một ảo tưởng tội lỗi, nhưng ông không thể dập tắt nó. Lục tìm trong vùng cát mênh mông giữa Israel và biển Đỏ. Tìm lại một nấm mồ lạc giữa một nghĩa địa bỏ hoang của người Esseni và không được ai biết tới. Đi đến nơi tông đồ thứ mười ba từng công khai mong muốn là không ai được đến. Nghĩ về chuyện đó đã là một tội lỗi: sự im lặng đã không hoàn thành được công việc thanh lọc con người ông. Ông sẽ chiến đấu hết sức để loại bỏ khỏi trí óc mình ý nghĩ này, ý nghĩ tách ông ra xa Jesus, người ngày nào ông cũng gặp khi cầu nguyện.

Giữa những mảnh xương và thực tế, ông không có gì phải ngần ngại.

Nhưng cần phải cẩn thận. Beppo sẽ đi một mình đến Roma, và giao chiếc túi cho một người chú mà anh hoàn toàn tin tưởng.

Hồng y Emil Catzinger kết thúc bài diễn văn trong những tràng vỗ tay như sấm dậy, và khiêm tốn quay trở lại chỗ của mình ở bên phải Giáo hoàng.

Beppo lén cúi đầu xuống và cung kính lướt môi lên chiếc túi.

Sự thật sẽ không bị xóa khỏi mặt đất này.

Sự thật sẽ được truyền lại. Và sẽ tái xuất một ngày nào đó.

Nép mình dưới hàng cột Bernin, Moktar Al-Quraysh không rời mắt khỏi chàng trai. Hắn đã nhận ra anh ở làng. Kẻ dị giáo kia hẳn phải ẩn nấp đâu đó quanh đấy, trong vùng núi.

Chỉ cần đi theo người nông dân vùng Abruzzes có cái nhìn ngơ ngác này.

Anh ta sẽ dẫn hắn đến với con mồi.

Hắn mỉm cười: nếu cha Nil đã có thể thoát khỏi người của Vatican, ông sẽ không thoát khỏi hắn. Không ai thoát được Đấng Tiên tri, cầu cho tên Ngài được ban phúc.

Khi rời khỏi căn nhà, tôi không thể không hỏi thêm một câu:

- Cha Nil, cha không sợ người đang tìm kiếm cha sao?

Ông suy nghĩ một lúc lâu trước khi trả lời tôi:

- Đó không phải là một người Do Thái. Từ khi Đền thờ bị phá hủy, họ đã phải trải qua một nỗi tuyệt vọng sâu sắc: lời hứa là hão huyền, Đấng Cứu thế sẽ không trở lại. Nhưng Chúa là một sự thật sống động đối với họ. Trong khi người Hồi giáo không biết gì về Người, ngoại trừ việc Người là duy nhất, lớn hơn tất cả, và Người phán xét họ. Sự dịu dàng, sự gần gũi của Chúa của các nhà truyền giáo Israel là điều xa lạ đối với họ. Trước một vị Quan tòa bất định và rất đỗi xa xôi, sự tuyệt vọng của người Do Thái đã biến thành nỗi lo lắng mà họ không thể vượt qua. Và một số người luôn cần đến bạo lực để loại bỏ nỗi sợ về một cõi hư vô mà Chúa không lấp đầy được. Hẳn đó là một người Hồi giáo.

Ông mỉm cười nói tiếp:

- Sự thân thiết với Chúa của tình yêu sẽ xóa bỏ vĩnh viễn nỗi sợ hãi. Có thể là hắn đang lần theo tôi chăng? Dù có muốn kéo tôi vào cõi hư vô của hắn, thì hắn cũng không xoa dịu được nỗi lo sợ đang xâm chiếm con người hắn.

Ông đưa hai tay nắm lấy tay tôi.

- Tìm cách hiểu rõ con người của Jesus, chính là trở thành một tông đồ thứ mười ba khác. Con đường kế tục người này luôn để ngỏ. Con có muốn tham gia không?

Từ đó, trong vùng Picardie của tôi, vùng đất của những cánh rừng, những miền đất màu mỡ và những con người trầm mặc, tôi không ngừng nghe thấy những lời nói cuối cùng này của cha Nil.

Mỗi khi chúng vang lên trong tôi, nỗi nhớ sa mạc lại tràn về.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Back
Top Bottom