Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


Cuộc bầu cử các hội đồng tỉnh hạt địa phương – một cuộc tổng dượt cho cuộc bầu cử toàn quốc cấp quốc gia sắp tới – tại Sicily, năm 1948, đã là một thất bại nặng nề cho đảng Dân chủ Thiên chúa giáo. “Khối nhân dân” – tức là liên minh cánh tả, gồm phe cộng sản và phe xã hội – đã giành được sáu trăm ngàn phiếu. Trong khi đó đảng Dân chủ Thiên chúa giáo chỉ được có 330000 phiếu. Còn lại năm trăm ngàn phiếu chia cho các đảng phái lôm côm khác, kể cả phe bảo hoàng. Rome kinh hoàng. Phải làm gì đó quyết liệt tại Sicily, - một xứ lạc hậu nhất nước, nhưng oái ăm thay lại ở vào cái vị thế quyết định – cả nước Ý sẽ bị nhuộm đỏ hay ít ra cũng bị hồng hồng.

Mấy tháng trước ngày bầu cử các hội đồng địa phương Sicily đã có một cuộc “hưu chiến” âm thầm giữa chính quyền Rome và Guiliano. Đám đàn em của hắn được phái đi xé truyền đơn, biểu ngữ vận động của các đảng đối lập, càn quét trụ sở của cánh tả, quấy phá các cuộc biểu tình ủng hộ bọn này ở các thị trấn như Motelepre, Castellammare, Partinico, Piani dei Greci, San Giuseppe Jato và đô thị lớn Monreal. Tại tất cả các thị xã, lâu la của Guiliano đã dán các áp phích có hàng chữ lớn, in màu đen: “đập chết bọn cộng sản”. Một vài trụ sở của đảng xã hội cũng bị các tay anh em của Guiliano phá phách. Trụ sở của lực lượng công nhân xã hội cũng chung số phận.

Tuy nhiên, chiến dịch phá rối ấy phát động quá trễ nên không mang lại kết quả mong muốn. Và cũng vì Guiliano không chịu thi hành chính biện pháp khủng bố, ám sát. Các sứ giả chạy đi tới tấp như con thoi giữa ngài bộ trưởng và đức ngài Hồng y, Ông Trùm Croce và Guiliano. Tất nhiên, Guiliano không tránh khỏi sự phiền trách. Hắn bị hối thức và đẩy mạnh hoạt động hơn nữa, bạo hơn nữa, khát máu hơn nữa, để lật ngược tình thế trong cuộc bầu cử toàn quốc sắp tới, một cuộc bầu cử cực kỳ quan trọng, có tính chất sinh tử với đảng Dân chủ Thiên chúa giáo. Guiliano cũng cẩn thận giữ lại các thư từ, điện tín để làm tài liệu cho bản chúc thư của hắn thêm sức nặng.

Cần phải chơi một đòn thật nặng mới mong cứu vãn được tình hình. Đầu óc quái quỉ của Ông Trùm thiếu gì những ngón đòn hiểm. Thông qua “sứ giả” Andolini, Guiliano đã được gợi ý thực hiện ngón đòn độc này nhằm hạ một lúc hai đối thủ của Croce. Một trong hai dĩ nhiên là cánh tả. Đối thủ kia lại chính là kẻ thực hiện ngón đòn độc này, tức chính là Guiliano. Độc và tài tình là ở chỗ đó.

Ở Sicily, hai thị trấn làm phản và ủng hộ cánh tả mạnh nhất là Piani del Greci và San Giuseppe Jato. Từ nhiều năm qua, ngay cả dưới thời phát – xít còn thống trị đảo Sicily, hai thị trấn này cũng đã lấy ngày 1 tháng 5 làm ngày cách mạng. Ngày này cũng là ngày lễ kinh thánh Giuseppe, thánh bổn mạng của thị xã. Bọn phát – xít ức lắm mà không làm gì được. Dưới chế độ cộng hòa, ngày cách mạng không còn cần phải núp bóng thánh bổn mạng nữa. Nó đã được công khai biến thành một cuộc biểu tình với cờ đỏ và những bài diễn văn sấm sét, nảy lửa của phe tả. Ngày 1 tháng 5 sắp tới sẽ là một ngày quan trọng trong lịch sử của hai thị trấn. Theo thông lệ, hai thị trấn phố hợp với nhau để tổ chức mừng chung. Dân của hai thị trấn này – dù đi làm ăn xa xôi, dù gặp khó khăn đến đâu đi nữa – cũng kéo về quê hương bản quán để mừng thắng lợi trong cuộc bầu cử các hội đồng địa phương vừa rồi. Ông L.O. Causi – một nghị sĩ cộng sản, một diễn giả nổi tiếng với tài diễn thuyết hùng hồn, nảy lửa, sẽ có mặt để đọc bài diễn văn vạch trần những hành động xấu xa bẩn thỉu của đảng Dân chủ Thiên chúa giáo và lên án các bất công xã hội mà nhân dân lao động đang phải gánh chịu, nhằm chuẩn bị cho cuộc bầu cử toàn quốc sắp tới.

Theo kế hoạch của Ông Trùm, băng của Guiliano sẽ tấn công phá vỡ cuộc biểu tình này. Không cần giết, mà chỉ cần bắn đại liên cho đạn bay chíu chíu trên đầu cũng đã khiến cho bọn biểu tình sợ chế khiếp. Đó là bước thứ nhứt có tánh chất hăm dọa sơ sơ, để cảnh cáo. Đồng thời, qua đó, nghị sĩ L.O. Causi phải hiểu là kỳ bầu cử tới, ông ta phải “đi chỗ khác chơi”, chớ có bén mảng tới đây ứng cử mà dại. Guiliano đồng ý và chỉ thị cho các sếp Pisiciotta, Terranova, Passatempo, Sylvestro và Andolini chuẩn bị và thực hiện kế hoạch hù dọa này.

San Giuseppe Jato và Piani del Greci là hai thị trấn nghèo mạt, nhà cửa cũ kỹ, tồi tàn. Phương pháp canh tác cổ lỗ. Phong tục hủ lậu: đàn bà bao giờ cũng phải nhìn nghiêng, không được để cho thằng đàn ông nhìn thẳng vào mặt mình. Ấy thế nhưng về chính trị thì hai thị trấn này lại giật giải quán quân về lập trường cấp tiến. Và phản loạn chống chính quyền thì vô địch.

Hai thị trấn này có lịch sử lâu đời lâu lắm rồi. Nhà cửa ở đây toàn bằng đá. Vài nhà không có cửa sổ, mà chỉ có cái cửa tò vò, cũng chỉ lớn bằng cái đĩa bàn. Nhiều gia đình còn sống chung với gia súc trong nhà. Lò bánh mì của thị trấn cũng là cái chuồng để nhốt dê, nhốt bò, nhốt lừa. Vô ý làm rớt một ổ bánh mì mới ra lò thì chắc chắn nếu không dính phân cũng chấm nước đái bò đọng thành vũng dưới đất.

Dân thị trấn hầu như không ai có ruộng đất. Chỉ có mỗi một nghề làm mướn cho các chủ đất trong vùng. Ngày công nhiều lắm được khoảng một dollar. Có khi còn ít hơn. Không đủ để nuôi gia đình. Khi các con quạ đen – một từ khinh miệt, chế nhạo dùng để gọi mấy ông cha, mấy dì phước – đem quần áo cũ và mì ống đến để vận động bầu cử, thì dân làng vui vẻ nhận và thề sống chết sẽ bỏ phiếu cho đảng Dân chủ Thiên chúa giáo. Nhưng, trong cuộc bầu cử hội đồng địa phương, bao nhiêu phiếu của hai thị trấn này đều dồn cho cánh tả hết ráo. Ông Trùm tức điên lên được, quay ra “ghè” mấy sếp Mafia địa phương làm ăn không nên trò trống gì. Nhưng, ở chỗ công khai, lão lại xoen xoét tuyên bố là khi bỏ phiếu cho cánh tả, hai thị trấn này tỏ ra bất kính Hội Thánh. Và điều đó làm cho lão buồn lòng. Bởi vì, theo lão, một người Sicilian ngoan đạo có bao giờ nỡ làm các dì phước thất vọng khi – vì lòng bác ái của Chúa – các dì đã đem bánh mì đến tận miệng con cháu họ? Đức Hồng y giáo chủ cũng nổi xung. Trước ngày bầu cử, đích thân ngài đến tận hai thị trấn này để dâng thánh lễ, làm phép Báp – têm và ban bí tích “Kiền thành” cho. Gớm đâu có phải mỗi chốc lại có vị Hồng y giáo chủ làm phép Báp – têm cho. Ngài cũng không quên cảnh cáo họ về cái họa cộng sản. Để họ đừng bỏ phiếu cho bọn đó. Ấy vậy mà đến lúc bỏ phiếu, bọn giáo dân ngu muội này vẫn cứ u mê, cứ bỏ phiếu cho bọn cộng sản. Có ức không kia chứ. Ngài bèn triệu các cha sở của hai thị trấn này về tận Palermo, chà xà phòng, cạo sát các vị này. Nhưng trước khi cho các vị này về nhiệm sở, ngài cũng nhủ lòng thương, tha thứ và ban giáo chỉ phải đới tội lập công bằng cách tăng cường nỗ lực hoạt động trong cuộc bầu cử toàn quốc sắp tới.

“Không phải chỉ vì lợi ích chính trị của Hội Thánh mà còn vị sự cứu rỗi linh hồn của các con chiên hồn đạo của hai thị trấn này”. Đó, giáo chỉ của Hồng y giáo chủ Palermo khôn ngoan như vậy đó.

Ngài bộ trưởng Bộ tư pháp Franco Trezza thì không ngạc nhiên về kết quả bầu cử cấp địa phương. Là dân Sicilian thứ thiệt, ngài còn lạ gì lịch sử của đảo này, và nhất là của hai thị trấn này từ lâu vẫn nổi tiếng kiêu hãnh – mặc dù nghèo kiết xác – và là những chiến sĩ hăng say, dữ tợn nhất trong việc chống bọn nhà giàu ở Sicily và bọn bạo chúa ở Rome. Họ là những người đầu tiên đi theo Garibaldi. Và trước cả Garibaldi, họ đã chống bọn Pháp, bọn Maure... từng thống trị đảo này. Nhất là dân thị trấn Piani dei Greci. Vốn là con cháu những người Hy Lạp. Nói tiếng Hy Lạp. Theo lịch Hy Lạp. Áo quần cũng kiểu Hy Lạp cổ. Nhưng đó cũng là dinh lũy của Mafia theo truyền thống cổ điển: chống bất cứ kẻ áp bức xâm lược ngoại bang nào.

Ngài bộ trưởng chỉ thất vọng về những kết quả và cái cách làm ăn của Ông Trùm trong cuộc bầu cử cấp địa phương này. Trong cuộc bầu cử địa phương mà làm ăn bết bát như vậy, thì cuộc bầu cử cấp quốc gia sẽ như thế nào? Đau nhất là phiếu của hai thị trấn này và các vùng xung quanh lại bị một thằng nhãi ranh Silvio Ferra, theo phe xã hội lèo lái.

Sivio Ferra là một quân nhân được trao huy chương cao quí nhất của quân đội Ý, trong đại chiến vừa rồi. Hắn đoạt huy chương ấy trong chiến dịch Châu Phi. Sau đó hắn bị quân đội Mỹ bắt được. Trong trại tù binh của Mỹ, hắn được giáo dục chính trị. Cái nào phát – xít được chà rửa kỹ và thay vào đó bằng học thuyết dân chủ kiểu Mỹ. Thực ra hắn đâu có tin gì vào những điều mà người ta nhồi nhét vào đầu óc hắn. Cho đến khi được đưa ra làm việc tại một lò bánh mì ở ngoài trại, hắn đâm ra mê cái lối tự do kiểu Mỹ, mê sự linh động của các giai tầng xã hội Mỹ. Ở bên Mỹ, nếu chịu khó và biết cách làm ăn thì cu – li, nghèo kiết xác cũng vẫn có thể trở nên trung lưu, giàu có, sang trọng. Ở Sicily hả? Khỏi. Một thằng Sicilian mà đã trót nghèo thì dù có xoay xở, biết cách làm ăn và chịu thương chịu khó làm đến đổ mồ hôi, sôi nước mắt cũng không có hy vọng kiếm đủ để nuôi vợ con. Trọn đời là ăn bữa sáng lo bữa tối. Cái nghèo của người Sicilian là thứ nghèo kinh niên, nghèo truyền kiếp từ đời ông đến đời cháu. Khỏi nhúc nhích cục cựa, đừng hòng ngoi lên tầng lớp trung lưu.

Khi trở về Sicily, Silvio Fera trở thành một người nhiệt tình tuyên truyền không công cho Mỹ. Nhưng, rồi hắn cũng sớm nhận ra đảng Dân chủ Thiên chúa giáo chỉ là một công cụ của bọn nhà giàu, tiếp tay cho bọn áp bức, bóc lột. Thế là, hắn gia nhập câu lạc bộ “Công nhân xã hội” ở Palermo. Hắn say mê học hỏi và đọc sách. Hắn trệu trạo nhai, rồi nuốt lý thuyết của Marx – Engels. Và, hắn gia nhập đảng xã hội. Hắn được trao nhiệm vụ tổ chức một câu lạc bộ tương tự tại San Giuseppe Jato.

Trong bốn năm trời, hắn đã làm ăn ngon lành không thua gì mấy đàn anh hoạt động cho đảng ở miền Bắc nước Ý. Hắn có biệt tài diễn đạt cái lý thuyết cao siêu và viển vông của bọn xã hội bằng thứ ngôn ngữ nôm na, cụ thể, khiến cho mấy thằng cùn mằn, vô học ở cái xó kẹt San Giuseppe ấy hiểu được và mê mẩn. Thế mới hay chớ. Chẳng hạn, khẩu hiệu vận động bầu cử của hắn chỉ đơn giản thế này: muốn có ruộng thì hãy bỏ phiếu cho đảng xã hội. Hắn đặt ra một lô những câu hỏi và những khẳng định, toàn là những thứ đụng đến bao tử của mấy thằng khố rách. Chẳng hạn: tại sao những chúa đất để ruộng hoang, trong khi ấy, dân cày chết đói? Tại sao thằng dân làm hùng hục như con lừa, lúa mì mọc lên tươi tốt mà con mình vẫn đói? Hắn khẳng định: nếu đảng xã hội lên nắm chính quyền thì dứt khoát không có cảnh mấy anh nhà nước lớn nhỏ thi nhau nặn hầu bóp cổ dân nghèo để đòi ăn của đút. Xin miễn luôn cái chuyện phải xỉa ra mấy lire mới được anh phát thư trao cho cái thư có dán tem đàng hoàng của bà con mình gởi cho mình, khỏi có cái chuyện phải đem mấy chục trứng gà biếu ông cha sở để ông đọc giùm một cái thơ của người bà con gửi cho mình. Chấm dứt cái cảnh phải bán sức lao động cho mấy ông quận công, bá tước để lấy mấy đồng tiền chết đói. Công chức nhà nước không phải là cha thằng dân. Đó, là vốn lý thuyết xã hội của hắn chỉ có bấy nhiêu đó. Vậy mà mấy thằng khố rách mê mẩn và rần rần biểu nhau dồn phiếu cho đảng xã hội. Tác hại hơn nữa là Silvio Ferra đã dẫn những chương trong kinh sách của Hội Thánh để chứng minh Hội Thánh đã bênh vực những thằng nhà giàu bóc lột, đê tiện. Nhưng hắn quá khôn ngoan để không bao giờ đả động đến đức Chúa Jesus, đến các chư Thánh “hữu dụng” và nhất là Đức Thánh Nữ Đồng Trinh Marie. Sáng hôm lễ Phục Sinh, hắn cũng chào bà con bằng lối chào truyền thống “Mừng Chúa đã sống lại”. Nếu có ai chào hắn như vậy, hắn cũng vui vẻ đáp lễ bằng câu cũng truyền thống không kém: “Vinh danh Chúa cả trên trời”. Ngày chủ nhật, hắn cũng đi nhà thờ như ai. Vợ con hắn tuân thủ rất kỹ mọi phong tục tập quán tốt lành của dân Sicilian. Hắn là người rất sùng kính những giá trị truyền thống. Vợ con hắn hết lòng thảo hiếu với mẹ cha, và có nhân có nghĩa với anh em, bà con, bè bạn, lối xóm.

Khi đám “người anh em” ở San Giuseppe Jato nhắc nhở, cảnh cáo là hắn đã đi “quá xa”, hắn đã mỉm cười thân mật đáp lại là lúc nào hắn cũng muốn giao hảo với “Người anh em”, mặc dù, trong thâm tâm, trận chiến đấu cuối cùng và gay go sẽ là trận chiến đấu chống lại Mafia. Ngay cả những đặc phái viên của Ông Trùm Croce cũng được hắn tiếp đãi rất nhã nhặn, lịch sự, nhưng cũng rất kiên định. Với cái danh là một anh hùng thời chiến, hắn được mọi người trong thị trấn trọng nể. Có những dấu hiệu cho thấy hắn cũng đối đãi “phải phép” với đám “Người anh em”. Vì thế, Ông Trùm cũng đành phải kiên nhẫn chờ, không dám “sực” hắn liền. Vả lại, lão yên trí là với ngón đòn hiểm của lão, chắc chắn thế nào đảng xã hội cũng rớt đài trong cuộc bầu cử sắp tới.

Nhưng, điểm nổi bật hơn hết là Silvio Ferra rất được cảm tình với đám đông dân nghèo. Đó là một điều hiếm có. Mà không có cảm tình sao được khi một anh hàng xóm nghèo, bị bệnh, không đi làm được thì hắn đã bẻ cái bánh hắn đang ăn mà cho. Một bà già không con không cháu bị đau yếu là hắn đến để làm giùm những công việc lặt vặt. Hắn an ủi khuyến khích những người túng đói và lo sợ trước tương lai. Hắn tuyên bố đảng xã hội là bình minh của hy vọng. Hắn thường dùng những câu chuyện cổ tích dân gian mà nông dân Sicilian rất khóai để diễn giải những vấn đề chính trị khúc mắc. Hắn không bao giờ nói về lý thuyết kinh tế cao siêu của Marx. Hắn chỉ nói đến những căm hờn, những mối thù, những áp bức, những uất ức mà từ bao đời nay nông dân phải chịu. “Bánh mì đối với người nghèo chúng ta ngon, ngọt, béo, bổ như thế nào thì máu dân nghèo cũng ngon, ngọt, béo, bổ đối với bọn nhà giàu như vậy”. Cứ cái kiểu như vậy, hắn đã làm cho nông dân Sicilian sẵn sàng nhảy vào lửa, cũng “ô – kê”, chứ nói gì đến dồn phiếu cho đảng xã hội.

Chính Silvio cũng lập ra một thứ công đoàn gồm những người làm thuê, làm mướn. Hắn xui những người này đồng lòng không chịu làm thuê với giá rẻ mạt, đến ngày mùa, các địa chủ bắt buộc phải điều đình với hắn. Nếu không hoa màu cứ chín rụng ngoài vườn, ngoài ruộng. Cứ như vậy, Silvio dần dần trở thành một tay cầm đầu.

Bên cạnh cái uy tín tự tạo đó, Silvio còn được cái dù bự của Guiliano che cho nữa. Đó là một trong những lý do chính khiến lão Croce chưa dám xuống tay hạ sát Silvio. Vì lão ngại đụng với Guiliano trong lúc dầu sôi lửa bỏng này.

Silvio Ferra – cũng quê quán ở Monteleppre, cũng giống như Guiliano – nổi tiếng ngay từ lúc nhỏ. Từ trước hai người không phải là bạn của nhau – Sivio hơn Guiliano bốn tuổi – nhưng Guiliano cũng ngưỡng mộ bậc đàn anh. Khi Guiliano lớn lên thì Silvio đã thành người hùng ngoài mặt trận. Trở về trong hào quang của một anh hùng, huy chương đầy ngực, Silvio cưới một em ở San Giuseppre và ở rể đó luôn. Cả Guiliano và Silvio đều đã nổi tiếng: Sivio về uy tín chính trị, Guiliano về nghĩa cử hào hùng – nhưng không vì khác biệt chính kiến mà cả hai chàng trai hiên ngang ấy coi nhau như tử thù. Ngay cả khi thực hiện “giáo dục chính trị” cho cử tri ở Sicily để bọn này biết cách bỏ phiếu cho “phải phép”, Guiliano cũng vẫn ra lệnh cho thủ hạ của mình không được có hành vi nào phương hại đến thị trấn San Giuseppe và bản thân Silvio.

Biết được hảo ý của Guiliano, chính khách màu hồng Silvio – khôn khéo có thừa, - đã lịch sự gửi một bức thư qua cám ơn và hứa giúp đỡ Guilano trong những trường hợp có thể. Lịch sử nhưng đồng thời cũng là đòn ly gián. Với ý đồ tách Guiliano ra khỏi phe hữu và Croce, để nếu không kéo được về phía mình thì ít ra cũng trung lập hóa Guiliano. Thủ đoạn khôn khéo đã chứng tỏ Silvio là một tay có bản lãnh chính trị già dặn, chứ đâu phải tay mơ, tài tử. Bức thư được chuyển qua tay ông bà già của Silvio lúc đó đang cư ngụ tại Monteleppre. Một trong những dứa em của Sivilo lại chính là Justina – lúc đó mười lăm tuổi - đem qua trao lại cho ông già Guiliano. May mắn làm sao, lúc cô bé mang thư qua thì Guiliano đang có mặt ở nhà và đích thân Guiliano nhận bức thư ấy.

Với tuổi mười lăm, con “bé” Sicilian đã phổng phao rực rỡ, đã biết kẻ mắt thoa môi rồi, thấy chàng Guiliano, cô gái trăng rằm Justina “mết” liền. Làm sao khỏi kia chớ. Guilano thân thể cường tráng, phong thái, cử chỉ rất hùng! Mết là phải. Turi cùng với ông bà già và cả La Venera đang ngồi uống cà – phê. – Được hỏi có muốn làm một ly không, Justina từ chối, cứ đăm đăm nhìn chàng say đắm, khỏi cần e lệ, giấu giếm, coi sự có mặt của ông bà già và của La Vennera như không. La Venera cũng chú ý ngay đến sắc đẹp sức hấp dẫn của cô bé. Guiliano đâu có nhận ra Justina là chính cô bé mấy năm trước ngồi khóc hu hu ngoài đường vì bị cớm chớp mất từ bạc 5 lire, và đã được Guiliano “thưởng” cho gấp mấy chục lần để về nhà khỏi bị ông bà già cho ăn roi. Guiliano nói với cô bé:

- Cho tôi gửi lời cám ơn anh cô. Và nhờ cô nói giùm anh ấy đừng lo lắng nhiều đến hai ông bà già. Tôi sẽ bảo vệ cho.

Justina vội vã chạy biến về nhà. Từ hôm ấy trở đi, lúc nào cô nàng cũng mơ tưởng đến Guiliano như mơ đến một người yêu lý tưởng của mình. Cô nàng cũng rất hãnh diện vì tình cảm mà Guiliano đã dành cho anh ruột của mình.

Trước khi phá đám buổi mít – tinh biểu tình ở Portella del Ginestra, Guiliano đã báo cho Silvio và khuyên anh chàng này đừng tham dự. Hắn cũng đảm bảo là, tuy phá đám, nhưng sẽ không có một người dân nào bị hại. Nhưng, chính bản thân Silvio có thể gặp nguy hiểm, nếu hắn ta cứ tiếp tục nhất định theo phe xã hội. Bản thân Guiliano không làm gì hại hắn, nhưng đám “Người anh em” quyết đè bẹp phe tả ở Sicily. Do đó, chắc chắn Silvio sẽ là một trong các mục tiêu của chúng.

Nhận được tin đó, Silvio Ferra cho rằng, một lần nữa thằng già dịch Croce tìm cách hù hắn, nên không tin, không quan tâm. Đảng xã hội đang trên đà thắng phom phom. Dễ gì hắn bỏ qua không tham gia đại lễ mừng thắng lợi mà đảng vừa đoạt được.

Năm 1948, ngày một tháng năm tức là ngày lễ Lao Động. Dân chúng hai thị trấn Piani del Creci và San Giuseppe Jato dậy từ sáng sớm để lên đường, cuốc bộ qua đèo Portella del Ginestra đặng tới địa điểm mít – tinh. Dẫn đầu đoàn biểu tình là một ban nhạc được mướn từ Palermo tới. Cùng với vợ con hắn, Silvio Ferra hãnh diện vác lá cờ đỏ to đoàng dẫn đầu đoàn biểu tình của thị trấn San Giuseppe. Theo sau đoàn biểu tình là những chú lừa hoặc ngựa. Bữa nay bọn này cũng trang trí bằng chùm lông đỏ, lưng phủ những tấm mền sặc sỡ. Những chiếc xe chở lỉnh kỉnh nào thức ăn, nào rượu, nào củi, kèm theo một con bê để làm thức ăn tươi.

Trẻ con nhảy múa, đá banh. Người lớn cưỡi ngựa chạy thử để tập dượt chuẩn bị cho cuộc đua buổi chiểu. Cuộc đua ngựa sẽ là cái đinh của lễ bế mạc buổi mít – tinh cắm trại.

Khi đoàn biểu tình của thị trấn San Giuseppe vừa tới chân đèo thì phía đầu đàng kia, đoàn biểu tình của thị trấn Piani del Greci cũng vừa đi đến nơi. Ngọn cờ đỏ của đảng Xã hội được giương cao. Hai đoàn nhập một, reo hò ầm ĩ, vui vẻ chào đón nhau. Rồi tiếp tục vừa đi vừa cười, nói, bàn tán về những vụ xì – căng đan chính trị mới nhất, về cuộc bầu cử toàn quốc sắp tới, về những khó khăn mà đảng phải đương đầu. Tất nhiên, không thể thiếu cái màn thi đua tố khổ và sỉ vả đảng Dân chủ Thiên chúa giáo, chửi bới mấy thằng nhà giầu biển lận. Có vị còn cao hứng thề rằng khi đảng Xã hội lên nắm quyền, họ sẽ bắt mấy thằng cha trong đảng Dân chủ Thiên chúa giáo và mấy thằng nhà giàu quen thói hút máu, phải rửa đít mấy con lừa của mình cho bõ ghét. Mặc dù có tiếng đồn rì rầm là đối phương sẽ tìm cách phá đám buổi mít – tinh cắm trại hôm nay, nhưng chẳng ai tỏ ra e ngại, sợ sệt. Họ coi các chính khách ở Rome chẳng là cái gì hết. Đám Mafia thì họ sợ thiệt, nhưng không chịu khuất phục. Trong cuộc bầu cử hội đồng địa phương vừa rồi, Mafia cũng hầm hè dữ lắm. Nhưng họ vẫn bỏ phiếu cho đảng Xã hội. “Người anh em” đâu có dám làm hỗn. Nghĩa là, nói cho cùng, chỉ là trò “mềm nắn, rắn buông, rung cây nhát khỉ” vậy thôi.

Đến khoảng gần trưa, toàn thể dân cư của hai thị trấn tham gia mít – tinh cắm trại đã tập trung trên khoảng đất trống dưới thung lũng. Đàn bà con gái líu tíu làm thức ăn. Trẻ con thì thả diều. Những con diều gặp gió khe núi bốc lên cao vút, lơ lửng trên không nom như những con diều hâu. Ông L.O.Causi, thượng nghị sĩ cộng sản đang ngồi trầm ngâm thảo bài diễn văn sắp đọc. Đám thanh niên – dưới sự hướng dẫn của Silvio – lăng xăng làm khán đài để lát nữa hắn và các bậc vị vọng trong thị trấn đứng cho bà con hai thị trấn chiêm ngưỡng dung nhan. Silvio cũng được yêu cầu có vài lời giới thiệu ông thượng nghị sĩ cho bà con hay, để mai mốt, bà con dồn phiếu cho. Loay hoay vậy mà lũ nhóc đã quanh quẩn bên mấy mẹ, mấy chị. Dễ hiểu quá, Kiến bò bụng rồi!

Đúng lúc đó có tiếng nổ giòn. Silvio Ferra mỉm cười và lấy làm thú vị: “Mấy ông nhóc chưa gì đã đốt pháo”. Hắn quay ra nhìn.

Cũng sáng hôm đó, nhưng ngay từ lúc sớm tinh mơ, hai toán mỗi toán mười hai người, xuất phát từ “tổng hành dinh” của Guiliano, cũng đi về phía đèo Portella del Ginestra. Một tóan do Pasatempo chỉ huy. Toán kia do Terranova thống lĩnh. Ngoài súng cá nhân, mỗi toán có khẩu liên thanh hạng nặng. Passatempo dẫn quân của mình trấn phía sườn núi Cumeta. Hắn lựa chọn cẩn thận vị trí đặt đại liên. Bốn tên kia được phân tán bố trí xung quanh phòng ngừa bị tấn công bất ngờ. Terranova và các thủ hạ của hắn ở phía bên kia sườn núi Pizzuta. Từ các vị trí cao điểm đó, đại liên của chúng dễ dàng chế ngự đám biểu tình ở phía dưới. Ngoài nhiệm vụ bắn hù đám mít – tinh, Terranova có nhiệm vụ ngăn chặn bọn cảnh vệ, nếu chúng dám phiêu lưu đến để “làm phiền” Terranova và đồng bọn.

Từ sườn núi hai phía, đám thủ hạ của Guiliano nhìn dân chúng hai thị trấn San Giuseppe và Piani del Greci lũ lượt kéo nhau qua đèo Portella del Ginestra để vào địa điểm tập trung. Trong đám thủ hạ, một vài đứa cũng có anh em trong đám biểu tình. Nhưng chẳng đứa nào cảm thấy lương tâm áy náy. Bởi vì chỉ thị của Guiliano rất rõ ràng: súng bắn chỉ thiên cho đạn bay “chíu chíu” trên đầu đám biểu tình đặng hù cho họ sợ, chạy toán loạn, giải tán, kéo nhau chạy về nhà. Cấm ngặt gây thương tích cho ai.

Guiliano cũng định đi đến địa điểm Portella và đích thân chỉ huy. Nhưng bảy ngày trước đó, bất ngờ, Pisciotta bị ho thổ huyết. Trong khi đang lên núi để tới “Bộ tư lệnh”, Pisciotta ói ra máu, nằm vật xuống ngay chỗ dốc, nên y lăn lông lốc trở xuống. Đi phía sau, Guiliano tưởng Pisciotta giỡn chơi. Nhưng khi nhìn thấy mặt mày và áo sơ – mi của Pisciotta bê bết máu, Guiliano tưởng Pisciotta bị bắn sẻ, nhưng vì hắn không để ý nên không nghe thấy tiếng nổ. Guiliano vội ẵm Piciotta chạy ngược trở lên. Nhưng, lúc đó Pisciotta còn tỉnh. Y thều thào nói với Guiliano: “Cứ để tao nằm xuống, cứ để tao nằm xuống!”. Lúc đó Guiliano mới biết là y không phải bị trúng đạn. Vì giọng nói đó không phải của người bị trúng thương hay bị gãy bể một bộ phận nào trọng yếu nào.

Pisciotta được đặt lên cáng do mười bộ hạ hộ tống đến một bác sĩ ở Monreal. Ông bác sĩ này thường trị thương cho người của Guiliano. Lão bác sĩ là người biết kín mồm kín miệng và được Guiliano tin cậy. Nhưng chính Guiliano lại không biết là lão cũng phải báo cáo bệnh tình, thương tích của đám người trong băng Guiliano đến chữa trị cho Croce Male. Một phần vì sợ Ông Trùm, một phần vì lão cũng ngấp nghé cái ghế giám đốc bệnh viện Palermo. Lão biết, nếu không có bàn tay phù thủy vạn năng của Ông Trùm thì trọn đời, cái ghế giám đốc ấy vẫn chỉ là giấc mơ hão huyền đối với lão.

Lão bác sĩ đưa Pisciotta vào bệnh viện của thị trấn Moreal để tiến hành các thủ nghiệm. Lão hỏi Guiliano có ở lại chờ kết quả không?

- Ngày mai tôi sẽ trở lại.

Hắn chỉ thị cho bốn thuộc hạ ở lại canh gác Pisciotta. Hắn và những tên khác quay về ẩn náu tại nhà một thuộc hạ khác.

Ngày hôm sau, lão bác sĩ nói Pisciotta cần thứ thuốc gọi là Streptomycin mà chỉ bên Mỹ mới có. Guiliano cũng đã nghĩ đến điều này. Hắn đã nhờ ông già nó và Stefan Andolini viết thư cho Ông Trùm Corleone bên Mỹ gửi qua. Hắn cho bác sĩ biết điều đó và hỏi xem Pisciotta có thể xuất viện được không?

- Được, bác sĩ đáp. – Có điều anh ta phải nằm tĩnh dưỡng nhiều tuần lễ.

Thế là Guiliano phải ở lại Monreal săn sóc Pisciotta. Trong khi đó xảy vụ Portella.

Khi Silvio quay nhìn về phía tiếng nổ, thì hắn ghi nhận cùng một lúc ba sự kiện: Một, một cháu bé giơ tay lên cao, chới với kinh ngạc. Sợi dây diều vuột khỏi bàn tay máu chảy ròng ròng. Con diều đứt dây rơi xuống sườn núi. Hai, tiếng nổ không phải là tiếng pháo và không xuất phát từ trong đám đông mà là tiếng súng đại liên từ phía sườn núi vọng lại. Ba, con ngựa ô máu chảy ròng ròng, bứt dây cương chạy nháo nhào như điên giữa đám đông kinh hoàng. Silvio chạy len lỏi qua đám đông tìm vợ con.

Từ sườn núi Pizzuta, qua ống nhòm, Terranova quan sát những diễn biến trên khoảng đất trống dưới thung lũng phía dưới. Lúc đầu hắn thấy thiên hạ nằm rạp xuống đất vì sợ. Sau đó, hắn thấy vài người giãy giụa như người bị thương giãy chết, rồi nằm xuội lơ. Hắn ra lệnh ngừng bắn. Nhưng phía sườn núi bên kia, chỗ Pasatempo trấn giữ, súng vẫn nổ giòn. Terranova nghĩ có lẽ Pasatempo không biết là mình đã hạ quá thấp giác độ nòng súng nên đạn đã trúng đám đông. Ít phút sau, sườn núi đó cũng im tiếng súng. Sự im lặng chết chóc đè nặng trên cả vùng núi và thung lũng. Rồi, bỗng chốc, tiếng la hét kinh hoàng, đau đớn, tiếng khóc lóc thảm thiết vang lên trên khoảng đất trống trong thung lũng. Terranova ra lệnh cho thủ hạ lần theo sườn núi! Terranova vò đầu bứt tai không biết rồi sẽ ăn nói ra sao với Guiliano. Hắn sợ rằng Guiliano sẽ xử tử hắn và các thủ hạ đã tham gia thực hiện. Tuy vậy, hắn cũng biết chắc chắn Guiliano rất công minh, biết lắng nghe và phân biệt phải,quấy. Hắn và đám thủ hạ thành thật thề chúng đã không hạ thấp nòng súng bắn vào đám đông. Hắn tự hỏi không hiểu Passatempo sẽ ăn nói ra sao.

Súng ngừng bắn một lúc lâu Silvio Ferra mới tìm thấy vợ con. Gia đình hắn không có ai bị thương. Nghe súng nổ, mọi người nằm úp mặt xuống đất, nay lục tục nhỏm dậy. Silvio bảo mọi người tiếp tục nằm xuống. Cho đến khi thấy một người cưỡi ngựa chạy ra phía đèo – xem chừng đi báo cho cảnh vệ - và súng không còn nổ nữa, Silvio hiểu là cuộc khủng bố đã chấm dứt. Hắn đứng dậy.

Từ trên khoảng đất trống trong thung lũng, hàng ngàn người, đàn ông, đàn bà, trẻ con hốt hoảng, sợ hãi cắm đầu cắm cổ chạy thục mạng về phía đèo. Lúc đến thì cờ giong trống giục oai hùng là thế, bây giờ, “chém vè” hỗn độn, thảm hại là thế. Tiếng gào thét, gọi nhau ơi ới. Tiếng khóc như ri của con nít gọi cha mẹ thất thanh, thảm thiết, nên khoảng đất trống chỉ còn lại rải rác những người chết và bị thương cùng với gia đình họ lăn lộn, khóc lóc gào thét, rên la. Ngọn cờ đỏ oai phong sáng nay giờ đây nằm chỏng chơ, nhàu nát bừa bộn trên mặt đất lẫn lộn với thức ăn tung tóe khắp nơi. Mặt trời rực rỡ chói chang. Những vũng máu đỏ tươi. Đám cỏ xanh nhàu nát vì bị giày đạp! Nồi niêu xoong chảo lăn lóc bừa bãi. Những bếp lửa, củi cháy dở dang còn nghi ngút khói.

Silvio để gia đình đứng đó và đến giúp những người bị thương. Hắn chặn mấy người đang hốt hoảng bỏ chạy, nhờ họ làm cáng tải người bị thương. Hắn kinh hoàng khi thấy trong số người chết và bị thương có cả mấy em nhỏ. Hắn không cầm được nước mắt. Bây giờ hắn mới hiểu rằng những ông thầy của hắn, những kẻ tin vào biện pháp đấu tranh hòa bình, đấu tranh bạo động cũng có thể cải tạo được xã hội, tất cả đều sai lầm, không tưởng. Ở Sicily, chỉ có những thằng khùng mới nghĩ rằng lá phiếu có thể làm Sicily thay đổi. Ở xứ này, thằng nào giết người giỏi, thằng đó có quyền.

Silvio nghiến chặt hai hàm răng, trân cứng mình để nén cảm xúc. Trước mắt, hắn chỉ thấy lửa hận thù ngút trời và lấp loáng ánh thép của vũ khí. Lỗ tai hắn lùng bùng tiếng súng, tiếng bom và những tiếng thét man rợ: “Giết, giết, giết”.

Chính giáo sư Hector Adonis đem tin dữ đến cho Guiliano, lúc đó đang ngồi bên giường bệnh của Pisciotta. Lập tức, Guiliano trở về “Bộ tư lệnh”, để Pisciotta trơ trọi, không ai canh gác.

Về đến nơi, lập tức hắn gọi Terranova và Passatempo tới:

- Trước khi nghe chúng bay nói, chúng bay hãy nghe tao cảnh cáo trước. Dù mất bao nhiêu thời gian, tốn báo nhiêu công để tìm ra kẻ có trách nhiệm trong vụ này, tao không ngần ngại. Phải tìm cho ra. Sẽ tìm ra. Càng lâu thì sự trừng phạt càng nặng. Nếu là do sai lầm kỹ thuật, ngoài ý muốn, chúng bay cũng phải thú thật, tao sẽ tha chết cho!

Chưa bao giờ Terranova và Passatempo thấy Guiliano giận dữ như lúc này. Chúng đứng ngay đơ không dám nhúc nhích khi bị nó tra hỏi. Chúng thề là đã bắn bổng lên đầu đám đông. Khi thấy có người bị thương, chúng đã ngưng bắn.

Guiliano gạn hỏi từng thủ hạ tham gia cuộc hù dọa ấy. Nó phân tích từng chi tiết. Terranova bắn năm phút, rồi ngưng. Passatempo bắn mười phút. Tất cả đám thủ hạ đều thề rằng chúng đã bắn bổng lên trên đầu đám đông. Không một đứa nào nhận là có thể có sai lầm nào hoặc đã hạ nòng súng xuống.

Cho chúng ra ngoài, Guiliano ngồi một mình thừ ra. Lần đầu tiên, từ ngày sống ngoài vòng pháp luật, chưa bao giờ Guiliano cảm thấy nhục nhã ê chề như bây giờ. Không tìm được một lý do để có thể biện hộ, bào chữa. Suốt bốn năm qua, nó thường tự hào không bao giờ làm hại dân nghèo. Bây giờ niềm tự hào ấy tiêu tan. Nó đã tàn sát dân nghèo vô tội. Tự đáy lòng, nó cảm thấy mình không còn là vị anh hùng nữa. Nghĩ tới nghĩ lui, mọi giả thuyết đều không đứng vững, ngoại trừ đám thuộc hạ của nó chỉ quen sử dụng súng săn lupara. Nay sử dụng đại liên nên điều chỉnh giác độ sai. Nhất là từ trên cao bắn xuống. Nó không tin Terranova và Passatempo dám chơi qua mặt nó. Nhưng cũng rất có thể một trong hai thằng bị mua chuộc để gây đổ máu. Nó cũng nghe phong phanh một nguồn tin có cuộc phục kích của một phe nhóm khác. Cũng may trước khi ra quân nó đã căn dặn kỹ càng như vậy, chớ nếu không, dám có tắm máu. Guiliano ngẫm nghĩ: ngòai mục đích khủng bố, cuộc tàn sát này còn nhằm mục đích làm ô danh nó trước mặt dân nghèo. Nếu vậy thì đầu óc nào có thể nghĩ ra ngón đòn hiểm độc này? Không thể là ai khác ngoài cái đầu nham hiểm, độc ác và quỉ quyệt của thằng già lựu đạn Croce Malo!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Cuộc tàn sát ở Portella del Ginestra làm rung động cả nước Ý. Báo chí, đặc biệt là báo của phe hữu, mỉa mai thay lại lớn họng hơn hết. Những hàng tít chạy suốt trang nhất: “Tàn sát vô nhân đạo đàn bà trẻ em vô tội”, “Không thể ngủ yên: mười lăm nhân mạng chết, ba mươi người bị thương trầm trọng”, “Thành tích của người hùng: nhiều xác trẻ thơ”, “Máu vô tội đổ lên đầu ai?”...

Lúc đầu, ai cũng đinh ninh không ai khác ngoài đám “Người anh em” là tác giả của tác phẩm kinh tởm ấy. Trong cuộc họp báo, Silvio Ferra cũng có lời bóng gió khiến người ta hiểu như vậy. Nhưng, Ông Trùm đã chuẩn bị trước phương án đối phó. Có vài “Người anh em” ra trước tòa khai chúng đã thấy bóng thấp thoáng của Terranova và Passatempo tại địa điểm phục kích. Băng của Guiliano không công nhận, cũng không phủ nhận. Im lặng một cách khó hiểu. Người dân Sicilian ngơ ngác hỏi nhau ý nghĩa của sự im lặng khác thường ấy!

Hai tuần lễ trước ngày bầu cử toàn quốc, Silvio Ferra đạp xe từ San Giuseppe Jato đi Piani del Greci. Hắn đạp xe dọc theo bờ sông Jato, men theo đường mòn dưới chân núi. Trên đường, có hai người mang vũ khí lên tiếng gọi tên hắn. Và bảo hắn dừng lại. Nhưng, hắn cắm đầu đạp xe vọt lẹ. Được một quãng dài, hắn mới dám ngoảnh cổ lại nhìn. Hai tên kia còn kiên nhẫn lếch thếch chạy theo. Nhưng hắn vọt luôn. Vào đến thị trấn Piani, quay lại nhìn, hắn không còn thấy hai tên kia nữa.

Silvio vào trụ sở của đảng xã hội và họp với mấy lãnh đạo của đảng trong vùng đó gần ba tiếng đồng hồ. Lúc xế chiều, hắn vội vã để cố trở về nhà trước khi trời tối. Dắt chiếc xe đạp lững thững qua quảng trường thị xã, nhiều người quen biết lên tiếng vui vẻ chào hỏi hắn. Bỗng, có bốn người vây lấy hắn và đi theo hắn. Silvio Ferra nhận thấy một trong bốn tên kia là một sếp sòng Mafia ở Montelepre. Hắn cảm thấy rờn rợn. Từ hồi còn nhỏ, hắn đã biết Quintana. Hắn cũng biết là tại thị trấn Piani, cái bóng của Guiliano khiến cho đám “Người anh em” không dám ngang nhiên vùng vẫy như chỗ không người. Trên đầu bọn chúng, lưỡi gươm Guiliano treo lơ lửng. Tình hình lúc đó không cho phép “Người anh em” dám chọc giận công khai Guiliano. Tuy nhiên, Silvio cũng không dám công khai khiêu khích “Người anh em”. Bởi vậy, hắn cũng mỉm cười gật đầu chào Quintana và nói, giọng xởi lởi:

- Từ đây về đến nhà ông anh, đường cũng còn xa dữ. Ông anh đi chơi về trễ qúa vậy, ông anh?

- A, chào người hùng. Anh em mình cùng đi dạo với nhau một quãng nhé, đừng từ chối. Mà cũng chớ la lối om sòm. Không có lợi cho anh bạn đâu. Tụi này có vài điều muốn nói với anh bạn.

- Thì ông anh cứ nói ngay tại đây đi.

Silvio Ferra bắt đầu thấy run. Cũng như khi hắn ra trận lần đầu tiên. Với kinh nghiệm ấy, hắn nghĩ rằng hắn có thể khắc phục được sự sợ hãi mà hắn đang cảm thấy. Hắn cố chủ động để không vì bộc phát mà có những hành động không thích hợp và dại dột. Hai tên trong bọn nắm lấy cánh tay hắn và kè sát hai bên. Chúng làm như những người bạn thân thiết kè sát nhau đi. Chiếc xe đạp của Silvio bị để lại nằm chỏng trơ giữa quảng trường.

Silvio nhìn thấy dân thị trấn vẫn ngồi chơi trước cửa nhà họ. Họ cũng nhìn thấy hắn và biết sự gì sắp xảy ra. Dĩ nhiên là họ có thể đến cứu hắn. Nhưng vụ tàn sát kinh khủng ở Portella del Ginestra, không khí khủng bố ngột ngạt nặng nề đè nặng lên mọi người làm cho ai nấy tuy biết, tuy muốn cứu hắn, nhưng cũng không dám hó hé, nhúc nhích. Silvio Ferra đứng lì như chôn chân xuống đất. Quay nhìn về phía trụ sở, hắn vẫn thấy vài “đồng chí” đứng ở cửa. Lẽ nào họ không nhìn thấy và không hiểu hắn đang bị uy hiếp. Nhưng, chẳng có ai chạy tới. Hắn la lớn: “Cứu tôi với!”. Dân thị xã đứng im, nhìn! Các đồng chí cũng đứng im, nhìn!

Quintana cười gằn và đẩy mạnh hắn về phía trước:

- Đừng có khùng. Đã ai làm gì nào. Tụi này chỉ muốn nói chuyện với anh bạn thôi mà. Ngoan ngoãn đi theo tụi này. La lối kêu cứu là hại mấy thằng kia đó. Vả lại, chẳng có thằng nào dám đến đâu. Kêu vô ích.

Trời đã sẩm tối, trăng đã lên. Silvio cảm thấy họng súng gí sau lưng. Hắn nghĩ: nếu muốn, chúng vẫn có thể giết hắn ngay tại quảng trường này mà chẳng sợ hãi gì. Và ngay tại đó cũng chẳng có ai – kể cả các “đồng chí” của hắn – dám cứu hắn. Ngoan ngoãn đi theo Quintana thì có lẽ không chết. Có thiếu gì nhân chứng biết Quintana. Nếu hắn cứ tiếp tục cự nự, rất có thể buộc lòng chúng phải “khử” hắn. Những ý nghĩ ấy liên tiếp nảy ra trong đầu Silvio.

Quintana nhỏ nhẹ nói:

- Tụi này khuyên anh bạn nên “stop” cái trò điên khùng cộng sản của anh bạn lại. Tụi này đã nhân nhượng, bỏ qua cho anh bạn cái tội vu khống cho tụi này thực hiên vụ khủng bố ở Ginestra. Nhưng, anh bạn tỏ ra không biết điều. Sự nhẫn nại của tụi này, đáng tiếc, rất hạn chế, đã thế lại không được đền bù gì. Anh bạn tưởng thế là khôn ngoan sao chứ? Nếu anh bạn cứ nhất định diễn trò cộng sản thì tụi này bắt buộc phải để đám con của anh bạn mồ côi cha đấy.

Lúc đó họ đi ra khỏi thị trấn. Và bắt đầu lên dốc đá dẫn tới núi Cumeta. Silvio ngay nhìn lại phía sau. Chẳng thấy ai đi theo. Tuyệt vọng, hắn nói với Quintana:

- Lẽ nào ông anh đang tâm giết một người cha trong gia đình chỉ vì chuyện chính trị nhỏ nhặt đó sao?

Quintana cười gằn, đểu cáng:

- Đ.m, chỉ cần vô ý nhổ nước miếng trúng phải giày của tao thì cũng đủ bỏ mẹ rồi, nữa là...

Khi cảm thấy cánh tay được nới lỏng. Silvio vùng chạy xuống dốc, vừa chạy vừa la.

Dân thị xã nghe thấy tiếng súng nổ. Một trong số những người lãnh đạo đảng bộ Xã hội ở địa phương đã chạy đến đồn cảnh vệ.

Sáng hôm sau, xác của Silvio được tìm thấy bị vứt trong khe núi. Khi được cảnh sát hỏi, không một người dân thị xã nào nhận mình đã nhìn thấy sự việc xảy ra lúc đầu như thế nào. Không một ai đã nhận trông thấy Quintana. Thế đấy, bướng bỉnh, chống đối, ủng hộ cánh tả... nhưng, căn cốt đã là người Sicilian, thì không thể phạm luật omerta. Tuy không khai báo gì với cảnh sát, nhưng Guiliano đã được họ kể lại cho nghe, từng chi tiết.

Nhờ phối hợp nhiều yếu tố, nhiều thủ đoạn, nhiều loại hình hoạt động, đảng Dân chủ Thiên chúa giáo đã thắng trong cuộc bầu cử toàn quốc sau đó. Lần này thì Ông Trùm và đám “Người anh em” đã làm ăn có hiệu quả. Vụ tàn sát ở Portella del Ginestra chỉ làm cho dân Ý xúc động. Nhưng đã làm cho dân Sicilian tê liệt tinh thần. Giáo hội Công giáo – đã đem ngọn cờ thánh giá ra để vận động bầu cử, và đã thực thi đức ái hữu của Chúa một cách rất hào phóng – sau khi xong việc, đã trở lại cái mức “tằn tiện dè sẻn” trong các hoạt động bác ái của mình. Vụ ám sát Silvio Ferra được báo chí của phe tả đem mọi nỗ lực thổi bùng căm hờn trong dân chúng. Nhưng những bài báo ấy nghe cũng chỉ xao xác như chim hót của con chim thiên nga giãy chết. Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo cầm quyền đã nhận chìm vụ này.

Năm 1948, đảng Dân chủ Thiên chúa giáo thắng lớn trong cuộc bầu cử toàn quốc. Với đa số áp đảo, đảng vẫn dễ dàng thao túng quốc hội. Chính phủ vẫn nằm trong tay đảng. Mọi sự đâu lại vào đó. Ông nhà giàu vẫn tiếp tục bóc lột và phè phỡn. Thằng khố rách vẫn tiếp tục đổ mồ hôi với cái bụng lép kẹp. Vợ con thằng nghèo vẫn tiếp tục xanh xao, đói rách. Nghĩa là vẫn đường xưa lối cũ. Nghĩa là đảng Dân chủ Thiên chúa giáo vẫn còn thì giờ và sức lực để ca khúc “đường ta ta cứ đi, tiền dân ta cứ tiêu, đầu dân ta cứ đè”. Rõ ràng là trong tương lai nhìn thấy được, đảng Dân chủ Thiên chúa giáo vẫn ăn trên ngồi trước, Ông Trùm Croce vẫn là người cai trị trên thực tế của đảo Sicily. Đạo Thiên chúa vẫn là quốc đạo của Ý. Và thiên hạ cá nhau, sớm muộn gì ngài Franco Trezza cũng vồ được cái ghế thủ tướng nước Ý.

Thì ra rốt cuộc, thằng Pisciotta có lý!

Thông qua giáo sư Adonis, Ông Trùm đã cho Guiliano biết là đảng Dân chủ Thiên chúa giáo xét thấy không thể miễn xá cho nó được vì “vụ Portella tai tiếng quá”. Hoặc “hậu quả của chính trị vụ đó quá nặng nề”. Theo lời Ông Trùm nói với giáo sư Adonis thì:

- Ngài bộ trưởng Franco Trezza cũng bị trói tay. Đức Hồng y giáo chủ cũng không thể đỡ gạt gì được cho một kẻ mà chính ngài cũng đinh ninh là đã tàn nhẫn đang tâm giết hại đàn bà, trẻ thơ vô tội. Nhưng, riêng tôi – còn nước, còn tát – tôi sẽ vẫn tiếp tục làm tất cả những gì phải là và có thể làm để giật cho được cái miễn xá cho Guiliano.

Tuy nhiên, cũng theo ý Ông Trùm, tốt nhất là Guiliano nên di cư sang Mỹ hoặc sang Brazil. Trong trường hợp này, lão sẽ làm mọi sự để giúp hắn ra đi suôn sẻ.

Thái độ của Guiliano khi nhận được tin bọn Rome và ngay cả đức Hồng y giáo chủ và Croce “chơi bài ba lá” với mình đã làm cho tất cả thủ hạ của hắn ngạc nhiên. Dường như hắn đã dự đoán trước và đã có đối sách trước sự lừa lọc, lật lọng, xảo quyệt và đểu cáng của đàn anh, của cả Đấng Bề Trên rất đáng kính trọng: Hội Thánh. Và như thế hắn coi chuyện đểu cáng của bọn ấy là điều dĩ nhiên. Hắn hạ lệnh cho thủ hạ rút sâu vào trong núi. Và các sếp phải hạ trại quanh quanh gần đó để có mặt ngay khi cần. Ngày lại ngày trôi qua, Guiliano như càng rúc sâu vào và co lại trong thế giới huyền bí riêng của mình. Các sếp nôn nóng, khắc khoải chờ đợi mấy tuần lễ liền. Vẫn êm re.

Nhưng, vào một buổi sáng không vệ sĩ nào đi theo, một mình Guiliano đi sâu nữa vào trong núi. Mãi đến lúc trời tối mịt hắn mới về đến sào huyệt. Đứng trước đống lửa, Guiliano vắn tắt, nhưng oai nghiêm ra lệnh:

- Aspanu, mời các sếp lại họp.

Trên lãnh địa rộng mấy trăm ngàn mẫu của mình, hoàng thân Ollorto đã cho trồng đủ thứ cây trái, nhờ đó từ ngàn xưa Sicily đã được hân hạnh mang cái mỹ hiệu “vựa trái cây ngon lành nhất nước Ý”. Chanh, cam, đậu, ô – liu, nho, ớt, cà chua, cà tím, trái nào trái ấy to bằng mấy cái tô. Lại cả tre để đan sọt đựng trái cây nữa. Và ô – liu thì rất nhiều dầu. Chỉ có một phần rất nhỏ đất được nhượng lại cho nông dân theo chế độ thu tô trên căn bản một nửa số lượng thu hoạch. Tuy là hoàng thân, ngài cũng không muốn tỏ ra khác biệt với bất cứ một tên địa chủ nào khác. Nghĩa là, bao nhiêu phần béo bở nhất thì ngài giành lấy hoặc tìm cách giành lấy đớp hết. Cho thuê máy móc, ngài độc quyền. Hạt giống, cũng ngài. Phân bón, cũng ngài. Cho đến chuyên chở sản phẩm, cũng ngài luôn. Bởi vậy tiếng là tá điền hưởng 50% sản lượng thu hoạch, nhưng thực tế vào được đến bao tử tá điền 25% đã là quá may. Và để được cái may đó thì tá điền phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt quanh năm suốt tháng. Nhưng, quả thực là còn may so với thằng không được làm tá điền cho ngài mà chỉ làm công nhật theo mùa với đồng lương chết đói.

Nói chung, đất ở Sicily tốt. Và các ngài quý tộc, địa chủ của Sicily vẫn có thói quen tốt lành mà có lẽ vì đầu óc mụ ẫm, ngu muội nên mấy thằng khố rách không tài nào hiểu được. Đó là các ngài cứ nhất định bỏ hoang một số ruộng đất. Không trồng trọt. Cũng chẳng cho thuê. Để hoang chơi vậy đó. Thế mới ngông. Ngay năm 1860, nhà đại cách mạng Ý là Garibaldi đã hứa với nông dân là “người cày có ruộng”. Ấy vậy mà đến năm 1947, đức ngài hoàng thân Ollorto vẫn còn hàng trăm ngàn mẫu bỏ hoang, cho thỏa thói chơi ngông của ngài. Các ông hoàng bà chúa khác sử dụng số đất hoang này như một “quỹ dự trữ”. Lâu lâu túng tiền, cắt một miếng, bán. Lâu lâu cần tiền thanh toán cho cơn hứng bất tử của mình, cắt một miếng, bán.

Trong cuộc bầu cử toàn quốc vừa qua, tất cả các đảng phái, kể cả đảng Dân chủ Thiên chúa giáo đều hứa sẽ tranh đấu để phân chia lại ruộng đất, thực hiện lời hứa của nhà đại cách mạng Garibaldi “người cày có ruộng”, mà có phải là nước Ý chưa có đạo luật quy định tất cả đất bỏ hoang của các lãnh địa mênh mông đều được chia ra bán lại cho nông dân với giá tượng trưng đâu!? Có rồi! Và có hơi nhiều và hơi lâu rồi nữa là khác.

Nhưng...

Các ông hoàng bà chúa chủ đất có một thủ thuật rất đơn giản và tương đối rẻ tiền để khỏi thi hành luật ấy. Chỉ việc thảy cho mấy “Người anh em” ít tiền còm là “Người anh em” sẽ thăm hỏi ra oai cho thằng khố rách áo ôm nào dám trưng luật ra để đòi tiền mua rẻ đất của các ngài. Vào những ngày – theo luật – cho phép nông dân mua lại đất thì mấy “Người anh em” chỉ việc cưỡi ngựa diễu tới diễu lui rong chơi phía ngoài cổng lâu đài của các chủ đất là mấy thằng khố rách co vòi hết ráo, chẳng thằng nào dám lân la đến gần lâu đài để eo xèo, xin mua lại đất. Nếu thằng nào dám thí mạng cùi, thì cũng chỉ dám đến ngồi ở cổng lâu đài, chẳng dám vào. Và nếu có thằng nào cứ nhất định thí mạng vào đòi mua... thì cũng được thôi. Có điều, gia đình thằng đó khỏi có một thằng đàn ông, con trai nào sống sót để cày ruộng đó. Và, cái đó đã thành lệ, thành truyền thống Sicilian, chỉ đơn giản thế thôi mà từ bao năm qua, chưa một thước đất nào của lãnh địa bán ra theo luật cả. Luật pháp làm gì được mấy ông cả, bà lớn đó. “Ơ hơ, có phải tôi không chịu bán đất đâu. Tụi nó không chịu đến mua. Bộ tôi phải đến nhà tụi nó để lạy lụy tụi nó đến mua à?”. Thế là xong. Quốc hội Rome cứ việc thông qua các đạo luật cải cách ruộng đất rất chi là cấp tiến. Một trăm đạo luật như thế cũng chấp hết. Cứ nằm đó cho bụi đóng chơi. Như đã có lần, trong một lúc bất ngờ, Ông Trùm Croce đã vui miệng nói với ngài bộ trưởng tư pháp một câu để đời như thế này: “Luật với lệ làm quái gì. Vì với tụi này, luật lệ có sức nặng nào đâu”.

Chỉ cần một sếp Mafia thì cũng quá đủ để khỏi có một thằng khố rách nào dám đến lâu đài ngài hoàng thân Ollorto để láo lếu đòi xin mua đất theo luật định. Nhưng, có lẽ Ông Trùm muốn cho các sếp tay em của mình có “công ăn việc làm”, kiếm chút tiền còm tăng thu nhập, để cải thiện bữa ăn hay sao mà gợi ý ngài hoàng thân mướn luôn một lúc sáu sếp làm gabellati “bảo vệ”.

Bởi vậy, buổi sáng rực rỡ hôm ấy, thời tiết nóng đến nỗi núi đá ở Sicily cũng phải đổ mồ hôi. Vậy mà sáu sếp Mafia của Sicily vẫn vui vẻ rủ nhau cưỡi ngựa thả diều bên ngoài cổng lâu đài của ngài hoàng thân. Đám nông dân đói quá nên đầu gối cũng phải bò, lết đến cổng lâu đài, mặc dù trong bụng đánh lô – tô. Chúng lết tới, nhưng cũng chỉ dám túm tụm nhau dưới bóng cây ô – liu hoặc bóng bức tượng Đức Chúa Jesus ở gần cổng lãnh địa để nhìn sáu nhân vật nổi tiếng hung ác nhất Sicily cưỡi ngựa rong chơi ở đó. Đám khố rách kiên nhẫn ngồi ở đó chờ Chúa ban phép lạ. Nhưng chờ hoài, phép lạ chẳng xảy ra. Luật pháp, có như không. Ngày hôm đó, không hiểu có phải là để đề phòng cuộc nông dân nổi dậy hay sao mà ngài bộ trưởng Bộ tư pháp đã ban lệnh cho toàn thể ngành cớm, từ cớm gộc, đến cớm oắt phải cắm trại 100% để... trực chiến. Trên toàn đảo Sicily ngày hôm đó có lẽ trừ cảnh sát giao thông, không tìm đâu ra một anh cớm ngoài đường. Tất cả đều trong doanh trại, trong đồn. Để trực chiến. Báo chí và phe đối lập hoạnh họe gì được. Bên ngoài lãnh địa đã có các sếp Mafia đi tuần tiễu giùm. Cao kiến thay! Có vậy mới làm được bộ trưởng Bộ tư pháp chớ.

Đám khố rách cũng lì, chịu dãi nắng bên ngoài cổng lâu đài. Chờ. Sáu ông sếp Mafia cũng kiên trì chẳng kém. Vẫn cứ cưỡi ngựa diễu tới diễu lui dưới ánh nắng chói chang. Nét mặt vị nào cũng lạnh như tiền, mặc dù trời rất nóng nực. Vị nào cũng biểu dương lực lượng giống hệt như nhau: súng lục tận lưng, súng săn đeo trên vai, súng máy cài sau yên ngựa. Cứ thế cưỡi ngựa đi tới đi lui, như cái quả lắc đồng hồ. Chẳng nói chẳng rằng, làm như không có đám dân khố rách đang đứng ngồi túm tụm ở đó. Chắc bọn này hy vọng Chúa làm phép lạ cho mấy đấng “long kỵ binh” kia cất cánh bay lên trời để cho họ can đảm vượt qua cổng lâu đài, vào xin mua lại mảnh đất theo luật định. Trong khi chờ đợi phép lạ xảy ra, đám khố rách giở cơm nắm cơm gói ra mà ăn uống với nhau. Có người còn thủ theo chai rượu. Bấy giờ giở ra nhâm nhi lai rai với nhau. Chỉ dám chờ. Không có ai dám quậy. Những người có mặt ở đây hầu hết là đàn ông. Chỉ có một số ít là đàn bà. Trong số ấy có cả ông bà già của Silvio Ferra và cả Justina cô nương nữa. Gia đình này đến là để xin mua lại đất, vừa để tỏ sự thách thức những kẻ đã giết con, giết anh của họ. Trong bụng thì nghĩ vậy, nhưng cũng “rét”, nên không dám vượt qua ranh giới định mệnh do móng mấy con ngựa của sáu tên cốt đột kia vạch ra trên mặt đường, để đòi cái quyền mà luật pháp do những ông to bà lớn của đảng Dân chủ Thiên chúa giáo ở Rome đã làm ra và dành cho họ.

Đám nông dân không phải chỉ sợ thôi. Sáu đấng “long kỵ binh” kia đều là những con người “đáng trọng nể”. Chính các vị là người làm ra luật, thi hành luật và xét xử theo luật. Tất nhiên không phải luật pháp của quốc gia. Ý muốn của các vị là luật. Và bản thân các vị là những đấng toàn năng và toàn quyền, nhất là quyền sinh sát. Chính quyền Mafia chỉ là cái bóng, nhưng hữu hiệu gấp bội so với chính quyền Rome. Lơ mơ với chính quyền Rome có thể vẫn bình an vô sự. Nhưng lơ mơ với mafia thì dứt khoát là không xong rồi. Nếu không tiêu mạng thì nhà cửa, gia súc, mùa màng cũng bị bầy hầy là giá chót. Nông dân bị mất trộm cừu ấy, mà còn nhiều thứ khác tiếp theo nữa. Đám khố rách Sicilian, trong những trường hợp tương tự, có một lối giải quyết khác, độc đáo và hữu hiệu vô cùng cứ đến gặp sếp Mafia địa phương, “Puộc – boa” (1) 25% giá trị con vật bị mất thì chẳng những tìm thấy, mà còn nhận được lời đảm bảo con vật ấy sẽ không bao giờ bị “mất” như vậy nữa. Chánh quyền Rome có dám hứa ngon, đảm bảo chắc như vậy không? Nếu có một tên cốt đột nào ngà ngà say, hoặc vì lý do trời ơi đất hỡi nào đó, đã quất sụm một công nhân, nông dân vô tội nào đó, thì nhà nước chẳng nên phí sức đi điều tra tìm thủ phạm. Mất công vô ích. Bởi vì sẽ có vô khối nhân chứng gian và nhất là luật omerta. Dân Sicilian có thể không tuân theo mười giới răn của Chúa, nhưng luật omerta thì thủ rất kỹ, rất kỹ. Gia đình nạn nhân hãy đến sếp Mafia địa phương. Ân oán sẽ phân minh ngay trước mắt. Nếu bị chính sếp Mafia quất sụm, thì gia đình nạn nhân hãy ghi vào sổ nợ máu. Đời cha không đòi được thì đời con. Đời con không đòi được thì đời cháu. Có thể đòi không được mà còn bị vay thêm. Nhưng dù không đòi được, vẫn phải đòi. Nếu không sẽ bị coi là hèn. Con trai nhà đó khỏi lấy vợ. Con gái nhà đó khỏi lấy chồng. Còn tệ hơn bị cùi. Không có chuyện tha thứ. Không có chuyện xót thương trắc ẩn.

Trộm cắp lặt vặt giữa lối xóm với nhau cũng có thể tử hình. Trong khi đó, những mối cừu thù vẫn có thể giải quyết “trong danh dự”. Tranh chấp có thể giải quyết khỏi tốn một xu cho thầy cãi. Phán quyết của các sếp Mafia có thể bỏ qua. Cũng không thể chống án. Sự trừng phạt rất nặng nề và được thi hành răm rắp. Không thể trốn tránh, trừ khi bán sới khỏi xứ di cư sang nước khác sống mai danh ẩn tích, nếu không đủ móng vuốt trả đũa những cuộc tầm thù. Các sếp mafia thực sự nắm quyền hành ở Sicily, ngay cả thủ tưởng nước ý cũng đành chào thua.

Chính vì những lý do đó mà đám dân khố rách kia, tuy đông đảo, cũng đành ngồi ngoài cổng lâu đài ngài hoàng thân Ollorto để ngắm sáu đấng anh hùng Mafia cưỡi ngựa, rong chơi diễu qua diễu lại. Tuy cùng mục đích, nhưng sáu đấng không đi chung với nhau. Vì như vậy tỏ ra là yếu. Anh hùng một cõi. Giang sơn nào, anh hùng nấy. Như một ông vua trong vương quốc của mình, mỗi vị có sắc thái riêng, sở trường riêng, độc đáo của mình.

Trong số lục vị quần anh ấy, đấng anh hùng được khiếp sợ nhất có cái tên cúng cơm là Siano. Cõi trời riêng của “ngài” là thị trấn Bisacquino. Hôm đó, “ngài” cưỡi con ngựa xám đốm đen. Năm đó, “ngài” khoảng lục tuần. Nước da mặt của “ngài” cũng xám xám lốm đốm như màu lông con ngựa “ngài” đang cưỡi. Chỉ mới hai mươi sáu tuổi, danh của “ngài đã nổi như cồn, đến mức hầu như “ngài” trở nên một nhân vật thần thoại. “Ngài” khởi đầu sự nghiệp bằng cách quất sụm nhân vật tiền nhiệm của “ngài” là “ sếp” Mafia địa phương lúc đó. Vị tiền nhiệm này đã “hóa kiếp” cho đấng thân sinh của “ngài”, lúc đó “ngài” mới 12 tuổi. “Ngài” đã ăn chay nằm đất, gặm nhấm nỗi căm hờn của mình suốt mười bốn năm trời. Cho đến một hôm cừu nhân của “ngài” đang nhong nhong cưỡi ngựa trên đường thì từ trên cây, “ngài” đã phóng mình xuống, trúng lưng con ngựa, ngay phía sau cừu nhân. Gí dao sau lưng cừu nhân và phóng ngựa ra giữa quảng trường thị trấn. Trước sự quan chiêm của đồng bào đông đảo, “ngài” đã nghiêm chỉnh đòi món nợ máu mười bốn năm trước. “Ngài” đã cắt tai, xẻo mũi, khoét mắt, cắt môi và xẻo luôn cái “củ tội” của cừu nhân. Sau đó “ngài đã ôm cái xác máu me đầm đìa của cừu nhân, cưỡi con ngựa cừu nhân, nghênh ngang diễu qua diễu lại ngay trước cửa nhà cừu nhân. Sau lễ đăng quang đó, “ngài” lên ngôi và trị vì thị trấn Bisacquino bằng máu và bằng bàn tay sắt của “ngài”.

Đấng anh hùng thứ hai phương danh là Arzana. Vương quốc của “ngài” là thị trấn Piani del Greci. Hôm đó “ngài” cưỡi ngựa ô trên đầu cắm chùm lông tía. “Ngài” là vị quân vương thâm trầm, chín chắn. Triết lý của “ngài” là bất cứ một cuộc tranh chấp, một đám cãi nhau nào, vì bất cứ lý do gì bao giờ cũng có hai phía đối nghịch. Phía đúng, phía có lý là phía chạy đến cầu cứu “ngài” trước phe kia. Vũ trụ quan và nhân sinh quan của “ngài” chỉ đơn giản có vậy thôi. Những triết lý thái cực của người Tàu hay triết học biện chứng của Hegel cũng có hơn gì? “Ngài” không chịu tham gia vào việc kết án tử hình tên Silvio Ferra “nếu chỉ vì mục đích chính trị”. Thật ra, “ngài” đã biết trước cái kết thúc bi thảm của tên đó từ mấy năm trước, nghĩa là từ lúc hắn tập tọng đóng trò cho bọn hồng, bọn đỏ kia. “Ngài” có hơi buồn vì bản án tử hình dành cho Silvio. Nhưng “ngài” bất lực không đỡ gạt giùm hắn được. Bởi vì đấng chúa tể Croce Malo và các đấng quân vương kia đã phán rằng: “Nay đã đến lúc phải treo cổ một tấm gương để răn dạy người dân vùng này”. Ách cai trị của “ngài” xem ra êm ái hơn, nhẹ nhàng hơn so với các đấng quân vương kia. Bởi vậy, trong số lục vị anh hùng cưỡi ngựa rong chơi hôm đó, “ngài” ít bị dân chúng khiếp nhất. Hôm đó, với nét mặt vô cảm, “ngài” cưỡi ngựa tham gia biểu dương lực lượng và ý chí cùng các vị khác. Trong lòng “ngài”, không gợn lên một chút hoài nghi về sự lành, dữ, đúng, sai trong hành vi của “ngài”.

Đấng anh hùng thứ ba đang ngồi trên lưng ngựa mang danh là Piddu. Giang sơn riêng của “ngài” là thị trấn Caltaniseta. Hôm ấy “ngài” đã cho trang trí hàm thiếc con ngựa “ngài” cưỡi bằng những tràng hoa rực rỡ. Năm nay, “ngài” tương đối đã cao niên, nhưng vẫn đầy hùng tính, ngay từ lúc còn là thanh niên, hùng tính của “ngài” đã có nét bộc lộ độc đáo: rất ưa nịnh, nông nổi, phù phiếm, háo thắng và nhất là háo sắc. Trong một ngày lễ hội của thị trấn, đã có một chàng trai tuy gốc gác quê mùa, nhưng lại rất hào hoa, phong nhã. Hắn đã phạm tội trọng vì cái tội phong nhã của hắn đã làm cho con tim của nhiều bà, nhiều cô thổn thức. Lúc khiêu vũ, hắn đã dám đeo nhạc vào cổ tay, cổ chân của hắn và nhảy múa dẻo quẹo, hắn dám mặc áo sơ – mi lụa đặt may tại Palermo, hắn đã dám đệm cho lời ca vốn đã đầy sức mê hoặc quyến rũ bằng cây đàn chế tạo tại Tây Ban Nha. Như vậy, sao quốc vương Piddu không nổi giận cho được. Nhưng “ngài” nổi điên khi những đôi mắt chó giấy của lũ đàn bà con gái địa phương này đã không biết người biết của và đam mê ngu muội, không biết si mê “ngài” mà lại si mê thằng nhà quê nọ, nó chẳng có cái đếch gì ngoài cái tốt mã, nụ cười duyên, điệu múa dẻo và giọng ca mê hoặc. Valentino, thằng nhà quê ngu muội ấy đâu biết rằng ngày lễ hội hôm đó cũng là ngày thần định mệnh đến gõ cửa nhà mình. Trên đường trở về, người ta thấy xác chàng trai ấy nằm sấp trên đường, đạn găm nát thây, lỗ chỗ như tổ ong bầu. Đó là thành tích khởi nghiệp của đấng anh hùng Piddu.

Đấng anh hùng thứ tư mang phương danh là Marcuzzi. Thằng khốn Pisciotta đã lấy máu của một người anh em bà con của “ngài” để làm lễ nhập đạo dao búa. Đó chính là tên buôn lậu đã mau mồm mau miệng xin thầy đội cho phép nó đi bắt Guiliano trong chuyến buôn chui đầu tiên và bị thầy đội đế cho một tràng tiểu liên suýt toi mạng đó. Người hùng Marcuzzi có nếp sống khắc khổ và rất sùng đạo. Như mọi đấng phú hào miệt vườn, “ngài” đặt ngay trong nhà của “ngài” một phòng mà “ngài” mệnh danh là “nhà nguyện riêng”, nơi hàng ngày “ngài” cầu kinh sớm tối. Không hiểu do trong nhà của “ngài” có nhiều tượng thánh – đủ kiểu đủ cỡ tượng Đức Chúa Jesus, Đức Thánh Nữ Đồng Trinh Maria và nhiều chư thánh khác, chỗ nào cũng có, từ đầu giường nơi “ngài” và phu nhân hú hí cho đến xó bếp – hay là “ngài” vẫn giữ được nếp sống của lão già miệt vườn nên “ngài” sống rất thanh đạm. “Ngài” có cái nếp rất đáng quí là không thích tiêu mà chỉ thích giữ để dành tiền. Phải thành thật và ca tụng và khâm phục “ngài” ở chỗ - tuy không giàu có – “ngài” vẫn đủ tâm huyết và khẳng khái từ chối những mối lợi bất chánh. “Ngài” yêu chuộng quyền lực chẳng phải vì quyền lực đem lại cho “ngài” lợi ích vật chất, mà chỉ yêu quyền lực vì quyền lực. Triết lý về quyền lực của “ngài” rất thâm thúy, theo đó thì “quyền lực tự bản thân nó đã có một giá trị”. Nghĩa là quyền lực có giá trị nội tại trong chính nó, lấy chính nó làm cứu cánh. Cũng như chủ trương của Palton, “yêu là để yêu chứ không phải để chiếm đoạt cái ta yêu.” Thấy chưa, sâu sắc chưa. Ấy vậy mà những đứa thối mồm cứ nói “ngài” là một thằng già hủ. Tâm hồn của “ngài” là một trường ác đấu giữa hai tình cảm và mâu thuẫn: say mê giúp đỡ người đồng hương Sicilian một cách hòan toàn vô tư, đồng thời lại là một Mafioso theo trường phái cổ điển và cuồng tín. Chẳng thế ngài đã thẳng tay xử tử thằng cháu ruột của “ngài” khi nó phạm luật omerta, dám tiết lộ cho cảnh sát bí mật của hành động Mafia, chỉ vì nó bị cảnh sát của phát – xít nện đau quá, chịu không nổi mà phải khai ra.

Đấng anh hùng thứ năm trên lưng ngựa là ngài Bucilla, thị trấn Partinico là nơi dụng võ của “ngài”. Ngày hôm nay “ngài” vẫn giữ và còn đang mặc bộ đồ “cao – bồi vườn” mà năm năm trước đó “ngài” đã mặc khi đến vi thiềng của giáo sư Adonis “ít trái cây vườn nhà, nhiều quá ăn không hết, để rụng uổng”, đặng xin cho con trai của người bạn hàng xóm thi rớt đại học được đậu. Vẫn bộ đồ ấy, mặc dù sau năm năm, đã bao nhiêu nước chảy qua cầu, đã bao nhiêu bèo dạt hoa trôi. Chẳng hạn, thân thể của “ngài” vốn dĩ đã to ngang, nay lại tặng trọng thêm hai chục ký thịt và mỡ nữa. Chẳng hạn gia sản của “ngài” – so với tài sản của hoàng thân Ollorto thì chẳng khác nào giọt nước sánh với đại dương – cũng tăng gấp năm gấp mười so với năm năm trước. Chỉ vì hiếu cổ và tôn cổ chứ chẳng phải tằn tiện, keo kiệt mà “ngài” vẫn cứ đeo bộ đồ cao – bồi vườn ấy. Những hành động mà thiên hạ độc mồm độc miệng gọi là hung bạo tàn nhẫn đều được “ngài” thực hiện với ý thức sáng suốt và đều do động lực là lòng chí thành chí thiện. “Ngài” cũng có ý thức rất cao về danh dự cá nhân. Chẳng thế một lần kia, có một tên dại dột vui miệng nói một câu khôi hài chọc ghẹo “ngài”, “ngài” đã lụi cho thằng đó mấy nhát dao, cho về chầu tổ tức khắc. Lòng yêu của “ngài” dành cho đức công bằng mạnh mẽ không thua gì tòa án tối cao của nước Anh thế kỷ 18, đã dành án tử hình cho đứa bé con can tội móc túi vì nó đói quá. Cũng vậy, có đứa đã toi mạng bởi tay “ngài” chỉ vì đã trộm của “ngài” một quả trứng.

Đấng anh hùng thứ sáu với nét mặt cô hồn hắc ám có phương danh là Guido Quitana. Trên danh nghĩa, nơi hùng cứ của “ngài” là thị trấn Montelepre. Nhưng chiến công đẫm máu của “ngài” lại diễn ra ở thị trấn Corleone. Bất đắc dĩ “ngài” phải đi viễn chinh như vậy. Chỉ vì thằng nhóc khốn nạn Guiliano đã làm “kỳ đà cản mũi” sự nghiệp của “ngài” ở đó. Chẳng những thằng nhóc khốn nạn ấy đã che lấp cái oai linh của “ngài” mà còn dồn “ngài” đến chỗ “đói”. Đã có Guiliano thì ai thèm chạy đến chỗ “ngài” để cầu cứu điều gì. Và “ngài” cũng chẳng thi thố được một đòn ngoạn mục nào để ra oai cho dân thị trấn khiếp vía, đặng hù dọa kiếm chác. Dân thị trấn Montelepre không sợ “ngài”, không nhờ vả “ngài”. Vì thế cũng chẳng biếu xén “ngài” cái gì. Cho nên “ngài” “đói”. Mà đã đói thì đầu gối phải bò. Đó là luật sinh tồn ở đời. Đó là lý do “ngài” phải viễn chinh ở Corleone. Khốn nỗi, dân thị trấn Corleone cũng toàn là dân nghèo kiết xác. Cho nên bổng lộc của “ngài” ở đó cũng rất hom hem. Cũng may, để bù cho sự thiệt thòi ấy thì cái bản năng dã thú, khát máu của “ngài” gặp được nơi phúc địa. Tấm lòng khát khao những hành vi tàn bạo, man rợ đã được thỏa mãn tối đa. “Ngài” đã thi triển được hết các món nghề giết người và rất lạnh và đủ kiểu của “ngài”. Thành tích vĩ đại của “ngài” tại thị trấn Corleone chỉ trong có mấy năm trời “ngài” viễn chinh tại đó – chỉ xin kể thành tích vĩ đại nhất, xuất sắc nhất – là đã xóa sổ đời cho trọn vẹn bốn gia đình. Già trẻ lớn bé, thậm chí trẻ sơ sinh, đều được “ngài” ra tay tế độ tuốt luốt. Mà chỉ vì trong bốn gia đình này đã có đứa cả gan dám cưỡng lại lệnh “ngài”. Chính tay “ngài” cũng xóa sổ bụi đời cho Silvio Ferra. Cũng chính tay “ngài” đã hóa kiếp cho tất cả những tên hồng hồng hay đỏ lói trong thị trấn Corleone. “Ngài” chỉ thấy màu đỏ của máu, chứ không muốn màu cờ của bọn xã hội và bọn cộng sản. Có lẽ trong số sáu anh hung cưỡi ngựa diễu qua diễu lại trước cổng lâu đài hoàng thân Ollorto hôm đó, thì “ngài” là vị độc nhất bị người ta ghét sợ hơn là nể sợ.

Đó là sáu đấng anh hung sếp sòng Mafia của đảo Sicily do ngài hoàng thân Ollorto triệu tới, để làm gabelatti theo luật định. Sáu đấng anh hùng, mỗi đấng một vẻ, mỗi đấng một cách, mỗi đấng một oai linh, để làm hiệu kỳ cho mình. Chỉ thấy bóng hiệu kỳ của mỗi đấng, dân chúng đã thấy bàng hoàng kinh sợ. Sáu đấng anh hùng hôm đó thong dong cưỡi ngựa dạo chơi bên ngoài cổng lâu đài của ngài Hoàng thân. Đám khố rách sợ oai linh của các đấng lắm. Sợ lắm, nhưng cái đói cũng làm cho họ trở nên lì lợm. Tuy nhiên, cũng chỉ dám lì lợm đến cái mức run rẩy đứng dưới bóng tượng Đức Chúa Jesus dựng ở gần đó. Để chờ phép lạ. Không đủ lì để vượt qua ranh giới định mệnh mà vào xin mua đất bỏ hoang theo luật định. Hai ngàn năm trước, có lẽ Chúa đã làm phép lạ. Nhưng bây giờ… Có lẽ Chúa mệt!? Không, Chúa không mệt, Chuá rất thương đàn con khố rách của Chúa, nên Chúa sẽ làm phép lạ cho sáu đấng long kỵ binh kia bay đi bằng cách khác. Qua tay Guiliano.

Chiếc xe Jeep chở đầy người có vũ trang từ Montelepre chạy như bay trên đường dẫn tới Palermo và quẹo qua đường dẫn tới bức tường thành của hoàng thân Ollorto. Trừ hai người, những người khác trên xe đều bịt mặt, chỉ chừa hai con mắt. Hai người trên xe không bịt mặt là Guiliano và Pisciotta. Một chiếc xe Jeep khác từ hướng Palermo chạy tới nhập đoàn với chiếc xe Jeep kia. Khi xe chạy tới cách sáu đấng anh hung sếp sòng Mafia chừng năm chục thước, thì một đám khá đông gồm toàn đàn ông, cũng bịt mặt chen chúc nhau kéo đi ngang qua chỗ đám nông dân đang ngồi. Kế đó, họ phân tán thành đội hình bán nguyệt vây lấy sáu sếp sòng kia và sẵn sàng trong tư thế tác chiến. Trước đó, những người này giả dạng đi pích – ních và ẩn núp trong vườn ô-liu gần đó. Khi hai xe Jeep xuất hiện, họ lôi vũ khí giấu trong các thùng đựng thức ăn và lấy khăn ra, bịt mặt lại. Có tất cả khoảng năm chục tay súng.

Guiliano xuống xe, oai vệ như một ông tướng đứng quan sát những người bịt mặt triển khai đội hình và tư thế chiến đấu. Hắn đã nhìn thấy mấy sếp Mafia. Và các sếp cũng đã thấy hắn. Nhưng mỗi bên đều làm như không quan tâm đến bên kia. Đường ta, ta cứ đi, việc ta, ta cứ làm. Đám nông dân khố rách cũng nhận ra nó.

Aspanu, như một con rắn, mất kiên nhẫn, nhấp nhỏm đứng bên cạnh Guiliano. Những người kia bịt mặt vì họ sợ gia đình họ bị trả thù. Guiliano và Aspanu ra mặt chấp nhận về phần mình mũi dùi cuộc trả thù. Và sẵn sàng đương đầu. Chơi xả láng. Một sống một chết. Thách thức kẻ thù và cũng thách thức chính định mệnh. Cả hai đều thắt dây lưng chạm phượng hoàng và sư tử. Guiliano chỉ mang một khẩu súng lục đeo lủng lẳng bên hông. Ngón tay vẫn đeo chiếc cà rá nạm ngọc lấy được của công tước phu nhân Alcamo mấy năm trước. Pisciotta mang súng lục trong bao đeo dưới nách. Mặt mày xanh xao, tái nhợt vì bịnh phổi và vì sốt ruột. Trong bụng, y cằn nhằn Guiliano: “Làm thì làm mẹ đi cho rồi, dùng dằng mãi”. Lần này, y biết, Guiliano không nao núng vì động lòng trắc ẩn trong trường hợp khử lão Frisella. Y cũng biết Guiliano không có bản năng hiếu sát. Do đó, không có sự thích thú của con mèo vờn chuột. Guiliano cẩn thận quan sát xem lệnh của hắn có được thi hành xong, đầy đủ và đúng kế hoạch chưa. Chiến thuật của Guiliano trong trận này không có tân kỳ, bí hiểm. Hắn vẫn dành cho đối phương một lối thoát thân. Thủ hạ của hắn bao vây nhưng vẫn để chừa một lối thoát. Điểm độc đáo của Guiliano là thâm hiểm một cách lãng mạn. Như một nét bút phóng khoảng của một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy, chất nghệ thuật thể hiện ngay trong sự táo bạo. Sáu đấng anh hùng Mafia đang lầm lì cưỡi ngựa có thể đi về hướng mà nó cố ý bỏ ngỏ. Nhưng các đấng chọn cái chước thứ ba mươi sáu, thì đó là sự tự sát về mặt tinh thần. Truyền thống Mafia cổ điển không có chiến thuật rút êm, không cho phép chọn chước thứ ba mươi sáu. Mafioso theo truyền thống cổ điển phải là một con cà cuống: chết đến đít vẫn còn cay. Vả lại, nếu sáu đấng anh hùng “sếp sòng” Mafia ngạo nghễ cưỡi ngựa lại chọn chước thứ ba mươi sáu, thì họ không còn là những nhân vật đáng nể sợ. Do đó, cũng hết đường mần ăn. Và đó cũng là con đường chết về thể xác.

Sáu đấng anh hùng “sếp sòng” Mafia của Sicily không quá ngu để không thấy vòng vây của Guiliano đã để ngỏ một lối thoát, và cũng không quá ngu để không thấy ý đồ của đối thủ trong lối thoát ấy. Và các vị cũng nhận định rõ ràng tình thế tương quan lực lượng. Vinh, nhục đã rõ. Khi giãy chết, nên gầm rống như sư tử hay khan khan não nùng như con thiên nga? Sanh nghề tử nghiệp! Có sao! Tới lối thoát và cũng là ranh giới định mệnh, Siano đã quay đầu ngựa, trở lại. Mấy đấng anh hùng kia cũng bắt chước theo. Không hăm hở, nhưng cũng không trì trệ. Lầm lì. Các anh hùng quay lại để đối diện với Guiliano, với thần chết, với định mệnh.

Từ trên một trong những ngọn tháp cao của tòa lâu đài cổ, qua ống nhòm, hoàng thân Ollorto đã nhìn thấy toàn cảnh. Ngài thấy rõ từng chi tiết trên khuôn mặt Guiliano. Đôi mắt bồ câu. Làn da trắng mịn. Đôi môi bình thường lúc nào cũng he hé như mỉm cười, nhưng lúc này mím lại. Ngài biết rõ: sức mạnh toát ra từ khuôn mặt ấy là sức mạnh của đức hạnh. Ngài lấy làm tiếc cái ý thức về đức hạnh của Guiliano đã không một chút nồng ấm của lòng trắc ẩn. Cơn cám dỗ của cái thiện đã đẩy người ta đến chỗ tàn bạo kinh khủng, còn mạnh hơn cơn cám dỗ của cái ác. Ngài biết rõ tâm địa ngay lành, trong trắng, lương thiện và đầy lòng xót thương đối với người nghèo của Guiliano. Chính vì vậy, ngài tự cảm thấy mắc cỡ với chính mình, vì cái vai trò của mình trong vụ này. Là quí tộc chính gốc, nhưng ngài cũng hiểu rõ người đồng hương Sicilian của ngài. Và bây giờ ngài cảm thấy có trách nhiệm về những gì sắp xảy ra. Sáu tên cốt đột kia, vì đồng tiền, mà phải chết để bảo vệ tài sản có nguồn gốc mù mờ của ngài. Bằng cách nào tổ phụ ngài đã trở nên chủ nhân của lãnh địa mấy trăm ngàn mẫu này? Bằng mồ hôi của chính mình? Không! Bằng mồ hôi của tá điền? Còn hơn thế nữa! Bằng máu của chính mình? Bằng máu của tá điền? Bằng mưu mô? Bằng gươm bén? Trên từng tấc đất của lãnh địa mênh mông, đã thấm bao nhiêu mồ hôi, bao nhiêu nước mắt, bao nhiêu oán than, bao nhiêu hận thù. Hoàng thân Ollorto và tên tướng cướp Guiliano, ai là hoàng thân, ai là tướng cướp. Đã có ai lọt lòng mẹ với bằng khoán xác nhận chủ quyền đất đai trong tay? Thế mà sáu tên cốt đột kia sắp chết để ngài được làm chủ những đất đai ấy, chỉ vì đồng tiền của ngài. Chúng không thể chạy được. Chúng đã đe dọa được hàng ngàn người đang ngồi rúm ró dưới gốc cây ô – liu và dưới bóng bức tượng kia. Nhưng Guiliano đang đứng trước chúng như vị thần báo oán.

Giữa ban trưa mà hoàng thân thấy trời đất tối sầm!

Guiliano bước tới chỗ sáu đấng anh hùng sếp sòng Mafia đang cưỡi ngựa rong qua diễu lại. Cả sáu đều to, mập. Chúng lỏng buông tay khấu. Lũ ngựa đi bước một, như thể chính con ngựa cũng ngập ngừng. Sáu sếp sòng đều làm ra vẻ ngạc nhiên. Thỉnh thoảng lại cho ngựa dừng lại liếm láp lúa mạch chất đống trên tảng đá vôi lởm chởm.

Guiliano tiến lại, sát phía đường mà sáu con ngựa sắp đi qua. Pisciotta theo bén gót. Sáu tên cốt đột trên lưng ngựa có vẻ phân vân không biết nên ngừng hay nên tiếp tục đi. Nét mặt của chúng đều có vẻ khó hiểu. Súng ống tên nào chẳng có. Nhưng dường như chúng cũng hiểu rằng khi thần định mệnh và thần báo oán đã xuất hiện thì súng ống cũng chẳng ích gì. Do đó, không tên nào có ý định rút vũ khí ra cầm tay. Guiliano để cho sáu tên đi qua đi lại ba lần. Sau đó, Guiliano lùi lại và quay ra nói với Pisciotta:

- Bảo mấy thằng kia xuống ngựa và dẫn tất cả chúng lại đây.

Nói rồi, Guiliano băng qua đường, tiến tới tảng đá vôi, đứng tựa lưng vào bức tường thành của tòa lâu đài.

Khi bước qua đường, Guiliano hiểu rằng hắn đã vượt qua ranh giới định mệnh, rằng ngày hôm nay không cảm thấy do dự. Không cảm thấy khó chịu. Chỉ thấy hận thù. Chỉ thấy căm hờn đối với thế giới này. Hắn dư hiểu rằng chập chờn đằng sau sáu bộ mặt cô hồn cốt đột kia, là cái bóng dáng hiểm độc của Croce Malo. Rằng chính thằng già “lựu đạn” ấy mới là kẻ thù đích thực của hắn. Hắn cũng cảm thấy giận đám nông dân khố rách đang túm tụm ở kia. Hắn cảm thấy xấu hổ giùm cho họ. Tại sao họ lại nhu nhược, khiếp sợ đến như vậy? Nếu hắn thực sự lãnh đạo họ, hắn sẽ làm cho Sicily đổi mới. Nhưng, rồi hắn cảm thấy lòng mình tràn ngập nỗi xót thương đám dân đói nghèo, sống dở chết dở kia. Hắn đưa cánh tay lên vẫy chào và khuyến khích họ vùng lên. Nhưng hắn chỉ nhận được sự ù lì, im lặng. Hắn nghĩ bụng: nếu có Silvio Ferra ở đây, thì chắc chắn hắn ta đã đứng lên đáp lại cánh tay vẫy chào của hắn.

Pisciotta nắm quyền chỉ huy trận địa. Y bận chiếc áo thun in hình con rồng đang chồm lên. Mái tóc chải sáp láng bóng, lấp lánh dưới ánh mặt trời như lưỡi dao cạo ánh lên trong nắng giữa trưa. Y quay đầu như quay lưỡi đao về sáu tên sếp sòng sừng sỏ của Sicily. Pisciotta nhìn trừng trừng vào chúng như con rắn độc thôi miên con mồi. Khi đang ngang trước mặt y, con ngựa của Siano ỉa, cứt suýt văng vào Pisciotta, khiến y phải nhảy lùi lại một bước.

Quay về phía Terranova, Passatempo và Sylvestro, Pisciotta khẽ gật đầu ra hiệu, Lối thoát dành cho sáu đấng Mafia sừng sỏ của Sicily khép lại. Hùng thiệt! Sáu sếp cứ thản nhiên rong cương ngựa, tiếp tục đi. Hiên ngang, ngạo nghễ như thể chúng chỉ nhìn thấy đám nông dân đang túm tụm, rúm ró ở kia, chứ không thấy thần chết trước mặt. Chúng dư biết, dư hiểu. Như vậy, chúng đã thắng keo này rồi đây. Guiliano phải quyết định bước sau cùng và nguy hiểm chết người.

Pisciotta tiến tới lối đi của con ngựa do Siano đang cưỡi. Y giơ tay, oai nghiêm chỉ vào mặt lão. Nhưng Siano không ngừng lại. Con ngựa nhảy lé sang một bên, người cưỡi co dây cương, chút xíu nữa cả người cưỡi lẫn con ngựa chồm lên người Pisciotta. Với nụ cười man rợ, y cúi chào người hùng Siano, rồi đứng ngay phía sau, rút súng kè vào mông ngựa, lảy cò. Ruột ngựa đổ cả đống. Máu tuôn có vòi. Cứt bắn tung tóe. Chân sau con ngựa khuỵu xuống làm cho Siano té theo và bị thân con ngựa đè lên. Bốn thủ hạ của Pisciotta vội chạy lại, lôi lão ra, trói thúc ké và dẫn lại chỗ Guiliano đang đứng. Con ngựa còn sống và giãy giụa dữ dội. Pisciotta bồi thêm một phát ân huệ vào đầu ngựa.

Tiếng xì xầm, vừa có vẻ sợ hãi, vừa có vẻ thích thú từ đám nông dân vọng ra. Guiliano vẫn đứng tựa lưng vào tường. Khẩu súng lục vẫn còn trong bao. Hắn khoanh tay đứng nhìn xem Pisciotta định làm gì sau đó.

Năm người hùng “sếp sòng” Mafia còn lại vẫn bình thản điều hành. Tiếng nổ làm cho mấy con ngựa chồm lên. Nhưng người cưỡi áp chế được ngay. Lũ ngựa lại chậm rãi, bước một tà tà đi tiếp. Một lần nữa. Pisciotta lại tiến ra giữa lộ. Y giơ cánh tay chỉ vào tên đi đầu. Bucilla dừng lại. Những tên kia cũng dừng lại theo. Pisciotta nói:

- Chắc hẳn gia đình tụi bay sẽ cần những con ngựa này trong những ngày sắp tới. Tao hứa sẽ gửi trả tận nhà. Bây giờ, tất cả xuống ngựa và đến kính chào Guiliano.

Tiếng y vang lên như chuông. Đám nông dân nghe rõ mồn một.

Im lặng một chút, rồi cả năm lặng lẽ xuống ngựa. Chúng vẫn kiêu hãnh nhìn vào đám nông dân. Những con mắt tóe ra những tai lửa ác độc, xấc xược. Thủ hạ của Guiliano khép chặt vòng vây. Cẩn thận và lịch sự, mấy thủ hạ tiến tới tước vũ khí của các sếp sòng và dẫn tới trước mặt Guiliano.

Guiliano, với nét mặt vô cảm, nhìn cả sáu đấng anh hùng hét ra lửa, mưa ra khói một thời. Đã có lần Quintana làm nhục hắn và mấy lần định ám sát hắn. Nhưng nay, tình thế đã đảo ngược. Từ năm năm nay – và có lẽ từ trước đó nữa – cái bản mặt cô hồn của Quintana dường như chẳng thay đổi mấy tí. Người ta, càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan, nhân đức. Nhưng hắn, càng già càng đểu, càng thêm tuổi càng thâm độc. Vẫn cái nhìn lấm lét của chó sói, nhưng, lúc này, cặp mắt ấy dường như tan hết sinh khí mà vẫn cố làm ra cái vẻ thách thức, bất cần đời của một tay sếp sòng Mafia.

Siano, mặt mày xám ngắt, nhưng vẫn nhìn Guiliano, khinh khỉnh. Bucilla dường như hơi kinh ngạc, như thể hắn ngạc nhiên tự hỏi tại sao hắn lại dính vào một công việc bực bội mà chẳng liên can gì đến hắn. Mấy đấng anh hùng còn lại đều lạnh lùng, nhìn thẳng vào mắt Guiliano, như thể mình là những vĩ nhân mà hắn phải tôn kính, đồng thời lại có vẻ ngạo nghễ, như một tác phong phải có của những tay anh chị gặp bước đường cùng. Guiliano đã nghe danh tất cả sáu vị anh hùng này. Lúc còn nhỏ, hắn sợ oai linh của các đấng này lắm, nhất là Siano. Bây giờ, hắn hạ nhục các đấng trước toàn thể Sicily. Các đấng anh hùng này không còn nhiều thì giờ để quên đi được nỗi nhục nhã này. Vĩnh viễn, chúng là kẻ tử thù. Guiliano biết mình phải làm gì. Nhưng hắn cũng biết mấy đấng anh hùng này cũng là những người cha, người chồng. Vợ con của họ sẽ khóc thương họ.

Các đấng anh hùng nhìn Guiliano, ngạo nghễ, thách thức, kiêu hãnh, không tỏ ra sợ hãi. Ý nghĩ của các đấng đã rõ ràng: “Guiliano, mày muốn làm gì ông thì làm. Ông không sợ. Ông cũng không thèm van xin”. Siano còn đủ hùng khí để nhổ “tẹc” vào chân Guiliano. Để tỏ vẻ khinh bỉ hay là để tỏ vẻ coi thường thần chết?

Guiliano nhìn thẳng vào mặt từng tên.

- Hãy quì xuống và ăn năn tội lỗi và làm hòa với Chúa đi, - Guiliano dõng dạc ra lệnh cho lục vị cốt đột.

Nhưng cả sáu vị, không ai nhúc nhích. Sáu ông sếp sòng Mafia đứng xếp hàng ngang trước tảng đá vôi trắng. Guiliano đã lớn tiếng oai nghiêm, dõng dạc nói cho cả sáu và cho cả đám nông dân khố rách ngồi đằng kia cùng nghe:

- Nhân danh Thiên chúa, nhân danh đảo Sicily, tao xử tử chúng bay.

Nói rồi hắn khẽ vỗ vai Pisciotta, ra hiệu.

Lúc đó, người hùng Marcuzzi mới bắt đầu quì xuống. Nhưng Pisciotta đã khai hỏa. Cùng lúc, Passatempo, Terranova và Sylvestro cũng lảy cò. Sáu cái xác bị đạn tiểu liên hất tung lên, rồi té vật vào tảng đá như cơn bão hất tung những phiến lá khô. Máu chảy chan hòa. Loang lổ. Sáu cái xác rướn lên, chới với, quơ quào như đi trên dây, rồi ngã vật xuống giãy giụa vài cái và nằm xuội lơ.

Từ trên tháp cao, hoàng thân đã chứng kiến từ đầu tới cuối. Và ngài quay đi.

Guiliano bước tới, rút súng. Chậm rãi, trang nghiêm như cố đạo cử hành lễ, hắn lần lượt tặng cho mỗi người hùng một phát ân huệ.

Có tiếng reo hò ầm ĩ của đám khố rách chứng kiến cảnh đó. Và chỉ vài giây sau, hàng ngàn người ồ ạt, chen chúc nhau vượt qua cổng để vào lâu đài của hoàng thân Ollorto.

Đứng nhìn họ, Guiliano để ý thấy không một người nào trong đám đông dám lại gần hắn.

... ...... ...

(1) “Puộc – boa”: nguyên văn Pour boire: tiền trà nước, tiền thù lao.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1949 thật tưng bừng rộn rã. Từ trên cao, mặt trời chói lọi tỏa ánh sáng chan hòa xuống một Sicily huy hoàng muôn hoa. Trên ban công các tòa nhà thủ phủ Palermo, những giàn hoa rực rỡ màu sắc. Những cánh hoa tuy đã tàn, nhưng màu sắc còn tươi thắm trộn lẫn xác pháo hồng phủ đầy các vỉa hè, và nhất là bên ngoài những ngôi nhà cổ kính. Ngoài đường phố, người người nô nức, hân hoan lũ lượt kéo nhau đến nhà thờ chánh tòa dự lễ Missa do đích thân Hồng y giáo chủ cử hành. Mặc những bộ đồ “vía” màu đậm, đám dân nhà quê – đàn ông, đàn bà, con nít, tíu tít, hớn hở chào nhau bằng lời chào truyền thống của ngày lễ “Mừng Chúa sống lại”. Turi cũng lẫn lộn trong đám nhà quê ấy và cũng đáp lại bằng một câu truyền thống “Vinh danh Chúa Muôn đời”.

Turi Guiliano và các thủ hạ lén nhập vào thủ phủ từ tối hôm trước. Chúng cũng vận bộ đồ màu đen thô kệch may theo kiểu nhà quê. Chiếc áo khoác rộng thùng thình che kín vũ khí lận trong người. Guiliano chẳng bỡ ngỡ lạ lùng gì với phố xá của Palermo. Mấy năm nay hắn thường lén vào thủ phủ này để chỉ huy bắt cóc các vương tôn, công tử và các tay phú hào giàu sụ để đòi tiền chuộc. Hắn cũng chẳng sợ hãi gì mà không dám đi ăn ở các nhà hàng sang trọng. Để vuốt râu trêu ngươi nhà chức trách, mỗi khi ăn xong, hắn để lại giấy cho biết Guiliano đã đến ăn ở nhà hàng này.

Trong những cuộc thăm viếng thủ phủ như vậy, chẳng lần nào Guiliano gặp rắc rối. Khi đi ngoài phố, Guiliano bao giờ cũng có thầy cai Canio Sylvestro bên cạnh, hai thủ hạ khác đi trước chừng hai chục mét, bốn tên đi bên kia đường, hai đi phía sau và hai đi phía sau xa xa nữa. Dọc đường, nếu một chú cớm nào lớ ngớ hỏi giấy Turi thì đúng là vô phước cho chú cớm đó. Đám thủ hạ cứ “khử” cái đã. Hạ hồi phân giải. Vào nhà hàng, đám thủ hạ cũng chia nhau ngồi rải rác khắp các góc bàn ở chỗ hiểm yếu.

Sáng hôm lễ Phục Sinh đó, Guiliano đem theo năm chục thủ hạ. Các sếp – ngoại trừ Stefan Andolini phải ở lại thủ trại – đều được đi theo Guiliano, kể cả đồ tể Passatempo. Khi Turi và Aspanu vào nhà thờ chánh tòa thì có bốn chục thủ hạ vô theo. Còn lại mười tên phòng thủ bên ngoài dưới sự chỉ huy của thầy cai. Terranova có nhiệm vụ lái chiếc xe dùng khi tẩu thoát.

Đức Hồng y giáo chủ làm chủ tế đại lễ. Ngài mặc áo lễ màu trắng thêu kim tuyến lấp lánh, chống cây trượng bằng vàng. Cây thánh giá bằng vàng khối nạm ngọc to tướng đeo lủng lẳng trước ngực. Toàn thân ngài, ánh kim lấp lánh, chói lọi, rực rỡ như tỏa hào quang. Nhìn ngài lúc này mà đứa nào dám nói “Cái áo không làm nên thầy tu” là nói bậy, làm phạm thượng. Bởi vì trông ngài uy nghiêm, thánh thiện, siêu thoát và linh thiêng quá đi, khiến người ta không thể không cảm thấy kính cẩn và sợ hãi. Nhất là mấy mụ nhà quê thì khỏi nói. Nếu Đức Chúa Jesus hoặc Đức Thánh Nữ Đồng Trinh Mary mà hiện ra chắc cũng không thể uy nghi, lộng lẫy hơn đức Hồng y giáo chủ trong khung cảnh này.

Trong nhà thờ, chỗ nào cũng thấy tượng thánh. Đủ kiểu đủ cỡ và đủ màu sắc. Bi thương có, hớn hở có, trầm mặc có. Nào tượng Đức Chúa Jesus Phục Sinh, tượng Đức Thánh Nữ Đồng Trinh Mary và vô số tượng chư thánh la liệt trên bàn thờ, trên tường. Turi nhúng mấy ngón tay vào bình đựng nước thánh trang trí hình nổi Chúa chịu nạn và làm dấu thánh giá. Hắn quì gối, đưa mắt đảo khắp nhà thờ, từ mái vòm cho đến các bàn thờ. Bàn thờ nào cũng đèn, nến sáng choang.

Thủ hạ của Turi chia nhau đứng rải rác khắp trong nhà thờ, nhất là chỗ gần bàn thờ chính. Tín đồ chen chúc nhau trên các ghế ngồi. Những bộ áo quần màu đậm của đám nhà quê lam lũ bên cạnh những bộ quần áo màu sáng hoặc sặc sỡ của đám dân thị thành. Guiliano đứng trước bàn thờ Đức Thánh Nữ Đồng Trinh Mary có các thánh tông đồ đứng bên. Hắn ngắm nhìn và cảm thấy vẻ đẹp huyền bí của các bức tượng thu hút, đến nỗi, trong giây lát, hắn như quên đi những gì xung quanh.

Nhà thờ vang lên tiếng hát của giáo sĩ và ban đồng ca. Giọng lĩnh xướng cao vút, du dương được tiếng đại phong cầm vừa réo rắt vừa trầm bổng hòa theo, khi nhặt, khi khoan. Uy linh quá. Siêu thoát quá. Thỉnh thoảng giọng ầm vang của toàn thể các tín đồ trong nhà thờ đáp lại giọng lĩnh xướng, nghe vừa mơ hồ vừa ầm ầm như thác đổ. Mùi hương ngào ngạt tỏa ra từ các bình bông trên bàn thờ. Mùi trầm hương quyện trong khói mờ mờ ảo ảo. Điệu bộ sung tín của các tín đồ. Tất cả tác động mạnh vào Guiliano. Lễ Phục Sinh cuối cùng mà hắn dự cũng đã cách đó năm năm rồi, trước khi hắn xử tử tên thợ hớt tóc phản bội. Lễ Phục Sinh hôm đó, hắn cảm thấy một sự mất mát và kinh sợ mơ hồ mà hắn không rõ nguyên nhân. Đã bao lần hắn nói với kẻ thù mà hắn kết án tử: “Nhân danh Thiên Chúa, nhân danh xứ Sicily, tao xử tử mày”. Hắn liên tưởng đến bài kinh mà các ông Cha vẫn đọc khi làm phép bí tích rửa tội: “Nhân danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa con… ta rửa tội cho mày”. Mỗi khi hắn đọc bản án tử hình giống như bài kinh của ông cố đạo, hắn cũng chờ đợi nghe tiếng kẻ thù thì thầm cầu nguyện. có lúc, hắn cũng ao ước làm cho lũ kẻ thù đó sống lại – như Chúa đã sống lại – và đem chúng ra khỏi nơi tối tăm mà chính hắn đã ném vào. Và rất có thể, buổi sáng lễ Phục Sinh năm nay, hắn cũng sẽ cho một đức Hồng y giáo chủ gia nhập vào đám kẻ tử thù mà hắn đã ném vào nơi tối tăm kia. Bởi vì, ông hoàng của Hội Thánh, nếu không lừa bịp dối trá, thì ít nhất cũng đã nuốt lời hứa với hắn, phản bội hắn. Do đó, ngài đã tự nguyện trở thành kẻ thù của hắn. Bất kể ông ta hát hay như thế nào, bất kể ông ta nom uy nghi, lộng lẫy, thánh thiện, siêu thoát, thần thiêng như thế nào – là kẻ thù của Guiliano có nghĩa là phải chết. Ra lệnh cho một vị Hồng y giáo chủ: “Hãy ăn năn tội lỗi và hãy làm hòa với Chúa đi” thì có phải là xấc láo không nhỉ?

Buổi lễ sắp bế mạc. Các tín đồ lần lượt kéo nhau lên gần bàn thờ để được ban Thánh Thể. Ngày hôm qua, tại tu viện, số thủ hạ đã xưng tội với cha bề trên Manfredi. Và như vậy, giờ này tâm hồn chúng sạch tội, trong trắng. Từ hôm qua đến giờ, chúng chưa có dịp để phạm tội trọng nào. Có lẽ sau khi rước Thánh Thể vào lòng, chúng sẽ phạm tội giết người. Các tín đồ, lòng nhẹ nhàng, lâng lâng vì tâm hồn họ đã sạch sẽ, tinh tuyền sau khi xưng tội, nay lại rước Thánh Thể vào lòng. Họ hớn hở ra khỏi nhà thờ, trong lòng còn mang Thánh thể. Họ hân hoan vui bước tỏa ra khắp các nẻo đường, đại lộ để về nhà ăn mừng Chúa phục sinh.

Phía sau bàn thờ, giáo sĩ phụ lễ cung kính đỡ lấy chiếc lễ miện của Đức Hồng y. Đầu trần, trông ngài lại có vẻ cao lớn hơn. Vành lễ miện bằng vàng chắn ngang trán đã làm giảm cái nét độc đáo Sicily trên khuôn mặt nghiêm nghị đến mức khắc khổ của ngài. Lúc này – không đội lễ miện – khuôn mặt ngài gây cho người ta cái ấn tượng ngài đầy oai quyền hơn là thánh thiện. Ngài thay áo lễ khác và cùng với các giáo sĩ tùy tùng – theo tục lệ truyền thống – ngài bắt đầu đến cầu nguyện trước từng bàn thờ trong số bốn bàn thờ chính trong nhà thờ.

Bàn thờ thứ nhất cũng là lăng mộ của đức vua Roger đệ nhất. Bàn thờ thứ hai là lăng mộ của đức hoàng đế Fréderic đệ nhị. Bàn thờ thứ ba là lăng mộ của đức vua Henry đệ tứ. Những nấm mộ này hình chiếc quan tài, làm bằng cẩm thạch và chạm hình nổi rất công phu và nghệ thuật. Bàn thờ thứ tư ở cách xa hơn và hơi khuất. Đây là nơi thờ bức tượng Thánh Rosalie, thánh bổn mạng của thủ phủ Palermo. Bức tượng làm bằng bạc khối, nặng cả tạ. Hằng năm, vào ngày lễ kính nhớ Thánh bổn mạng, nhân dân thành phố vẫn khiêng tượng này ra để rước kiệu trên khắp các đường phố của thủ phủ. Nơi đặt bàn thờ này cũng là nơi an táng của tất các vị Hồng y giáo chủ đã từng cai quản thủ phủ Palermo. Vì chính thức ngài đương kim Hồng y giáo chủ - khi tạ thế - cũng sẽ được an táng tại đây. Khi đang quì cầu nguyện tại bàn thờ này, thì ngài và đoàn giáo sĩ tùy tùng bị Guiliano và các thủ hạ bao vây. Một vài tên đã chặn cửa ra vào lăng mộ để không ai có thể báo động.

Đức Hồng y giáo chủ đứng dậy. Ngài trừng trừng nhìn lũ người bao vây. Nhưng thấy khuôn mặt Pisciotta, ngài đã nhận ra. Tuy nhiên, khuôn mặt y bây giờ quá khác lạ với khuôn mặt khi y yết kiến ngài lần đầu. Khuôn mặt y bây giờ là khuôn mặt quỉ sứ từ dưới hỏa ngục chui lên, bắt linh hồn ngài về dưới đó, ném vào lò lửa hỏa ngục thiêu đốt đời đời.

- Tâu đức Hồng y giáo chủ, - Guiliano cung kính, nhưng không thiếu vẻ cương quyết, ngài đã bị chúng con bắt làm tù nhân. Nếu ngài làm theo lời chúng con thì cam đoan ngài không bị hại. Chúng con rất sung sướng và hãnh diện được kính mời đức ngài lên núi nghỉ lễ Phục Sinh với chúng con. Và chúng con cung kính xin hứa là, tại đó đức ngài vẫn được cung phụng đầy đủ và sung sướng không thua gì ở tòa Hồng y.

Hồng y giáo chủ giận dữ nói:

- Các con cả gan dám đem theo cả vũ khí vào nhà Chúa?

Guiliano bật cười. Tất cả những cảm giác sợ sệt thoắt tan biến và nhường chỗ cho cảm giác thích thú về những gì hắn sắp làm.

- Tâu đức ngài, có gì mà không dám. Con còn dám trách đức ngài là đấng bề trên thánh thiện, mà lại đi nuốt lời hứa, nếu chúng con giúp đảng Dân chủ Thiên Chúa giáo thắng trong cuộc bầu cử toàn quốc vừa qua, thì đức ngài sẽ can thiệp với chính quyền cho chúng con được miễn xá. Nay đảng Dân chủ Thiên Chúa giáo đã thắng. Và thắng lớn. Nhưng đức ngài lờ lời hứa của đức ngài đi. Bây giờ, bản thân đức ngài và Hội Thánh sẽ phải trả giá cho sự bội hứa tồi tệ đó.

- Ta không rời khỏi nơi thiêng liêng này một bước, - đức Hồng y giáo chủ lắc đầu nói một cách oai nghiêm và kiên quyết. – Cứ giết ta đi nếu các con dám. Giết ta, cái tiếng tăm nhơ nhuốc của các con sẽ được không phải chỉ xứ Sicily, mà cả nước Ý, thậm chí cả thế giới này biết và phỉ nhổ.

- Tâu đức ngài, rất may là chúng con được cái vinh dự ấy rồi. Nếu bây giờ đức ngài không tự ý làm theo lời chúng con, chúng con đành lòng phải cưỡng bách. Trước hết, chúng con sẽ giết chết hết các giáo sĩ tùy tùng. Sau đó, chúng con đành phải vô phép nhét giẻ vào miệng đức ngài, trói đức ngài lại, rồi chở đi. Nếu đức ngài cứ lặng lẽ làm như tự ý đi theo chúng con, thì cam đoan, đoàn tùy tùng của đức ngài sẽ không có ai bị hại. Đức ngài lên nghỉ mát trên núi với chúng con ít ngày, sau đó bình yên trở về tòa Hồng y, chứ có gì đâu!

Đức Hồng y làm dấu thánh giá và lặng lẽ đi về phía cửa mà Guiliano đã chỉ. Cửa này dẫn đến cửa hậu của Vương cung thánh đường. Tại đó, một thủ hạ của Guiliano đã lái chiếc Limousine của ngài cùng với tài xế chờ sẵn. Chiếc xe đồ sộ, trang trí hoa Phục sinh rực rỡ. Xe cắm hiệu kỳ Hồng y. Ngoài xe của đức ngài Hồng y, còn có một chiếc xe khác chở các giáo sĩ tùy tùng của ngài.

Guiliano dẫn đức ngài vào xe. Aspanu ngồi băng trước với tài xế. Đòan xe có hiệu kỳ Hồng y giáo chủ ngang nhiên chạy qua các đại lộ của thủ phủ Palermo. Các toán tuần tiễu đã chào đoàn xe. Guiliano đề nghị đức Hồng y giáo chủ giơ cao tay ban phép lành cho họ. Ra khỏi thủ phủ, đến một khoảng đường vắng. Hồng y giáo chủ được mời xuống xe và sang xe khác. Xe này chạy được một quãng dài nữa, Hồng y giáo chủ lại được mời xuống xe. Một toán thủ hạ dưới sự chỉ huy của Andolini chờ sẵn nghênh đón và dùng cáng khiêng giáo chủ chạy biến vào trong biển hoa dại muôn màu rực rỡ mọc đầy trong núi. Đoàn tùy tùng và xe được để lại và sau đó được cho quay về.

Guiliano làm đúng như lời hắn đã hứa. Trong hang sâu trên núi Camaratta, Hồng y giáo chủ hàng ngày vẫn được dâng những thức ăn mà ngài vẫn dùng tại tòa Hồng y. Những tên cướp hầu hạ ngài – cử chỉ đầy vẻ tôn kính đối với vị lãnh đạo tinh thần cao cấp – đã xin ngài ban phước lành cho chúng mỗi khi chúng dâng thức ăn hoặc hầu ngài một việc gì đó.

Báo chí trên tòan nước Ý như điên cuồng. Tức giận, lồng lộn. Nhất là báo chí của phe hữu. Trong khi đó, dân chúng vừa hãi hùng kinh sợ, vừa hân hoan khoái chí. Hãi hùng kinh sợ vì sự phạm thánh, hân hoan khoái chí vì mấy anh cớm bị bẽ mặt. Họ cực kỳ hãnh diện vì coi đó là một chiến công của người Sicilian đã đánh bại tập đoàn cai trị ở Rome. Guiliano trở thành một người “đáng kính nể” số một. Người ta cũng ngơ ngác hỏi nhau: Guiliano đã đòi hỏi gì nơi đức ngài Hồng y? Và họ cũng tự trả lời một cách đơn giản: một số tiền chuộc khổng lồ.

Giáo hội, nói cho cùng, trên danh nghĩa, chỉ là chuyện lo phần linh hồn cho người ta, chớ đâu phải là một siêu công ty mà nói tiền rừng bạc biển. Nhưng giáo hội đâu có thể hạ mình thương lượng cò kè thêm bớt như những tên quí tộc keo kiệt, cho nên, bèn xỉa ngay một trăm triệu đồng lire. Nhưng, ý đồ của Guiliano đâu có phải chỉ giản đơn như vậy. Đã đành là không chê tiền.

- Tâu đức ngài, chúng con chỉ là lũ nhà quê dốt nát, không thông tỏ thần học, cũng mù mờ chẳng biết đường lên thiên đàng. Tuy nhiên, con chưa bao giờ nuốt lời hứa với ai. Còn đức ngài, chức trọng quyền cao trong Hội Thánh, thánh giá Chúa đeo trước ngực, mặc áo thánh, thế mà đức ngài nói láo như cuội. Cả Hội Thánh của đức ngài cũng không cứu sống nổi đức ngài đâu.

Nghe vậy hai đầu gối đức ngài Hồng y như muốn sụm. Nhưng, Guiliano nói tiếp:

- Nhưng cũng còn may cho đức ngài. Con có một đề nghị dâng lên xin đức ngài cứu xét.

Hắn đưa bản chúc thư của hắn, xin đức ngài Hồng y đọc. Đến lúc đó, đức ngài Hồng y mới thở phào biết mình thoát chết. Vì, cho đến lúc đó ngài vẫn đinh ninh sẽ bị Chúa phạt qua tay Guiliano vì sự bội ước của mình. Ngài chăm chú đọc bức thư hơn là để ý đến lời trách móc của Guiliano. Nhìn thấy mảnh giấy ngài đã viết cho Pisciotta khi tên này đến yết kiến ngài lần đầu, ngài mới thấy mình bị hố. Ngài đưa tay làm dấu thánh giá với cái vẻ giận thân, trách mình ngu dại bị thằng nhóc cho vào bẫy.

- Tâu đức ngài, kính mong đức ngài trình lại những tài liệu này cho Hội Thánh. Đồng thời thông báo giùm chúng con cho ngài bộ trưởng Bộ tư pháp. Đức ngài đã thấy bằng chứng khả năng của chúng con có thể làm cho đảng Dân chủ Thiên Chúa giáo thân bại danh liệt, sự nghiệp tiêu tan. Cái chết của con – nếu không phải là cái chết chính đảng đó – ít ra cũng là một rủi ro lớn của nó. Chúc thư này sẽ được cất giấu một nơi mà chính quyền không mong gì đụng chạm đến được. Ngay cả khi chết rồi, con vẫn có thể làm cho đảng Dân chủ Thiên Chúa giáo chết chìm theo con. Nếu có ai nghi ngờ khả năng của con thì cứ bảo họ đến hỏi Croce Malo, xem con đã đối xử với kẻ thù của con như thế nào.

Một tuần lễ sau ngày bắt cóc ngài Hồng y giáo chủ Palermo, La Venera đã từ giã Guiliano.

Trong ba năm trời, Guiliano vẫn chui qua đường hầm sang nhà chị ta. Trên giường của chị ta nó không chỉ tìm thấy những khóai lạc nhục dục, mà còn cả sự nồng nàn và nơi an nghỉ. Không bao giờ chị ta than vãn hay mè nheo đòi hỏi gì khác ngoài những khoái lạc. Nhưng đêm nay thì khác. Sau phút hoan lạc, chị ta nói với hắn là sẽ dọn đến ở chung với một người bà con ở Florence.

- Tôi yếu tim lắm, - La Venera nói, - tôi không thể tiếp tục chịu đựng những phút hồi hộp lo cho mạng sống của cậu. Tôi vẫn nằm mơ thấy câu bị bắn ngay trước mắt tôi. Ngay trước cửa nhà tôi. Y như thằng chồng tôi trước kia. Bọn cớm đã bắn chết anh ấy y như một con chó vậy. Chúng bắn cho đến lúc thân xác anh ấy nát bấy như giẻ rách. Tôi nằm mơ thấy cậu cũng như vậy.

Chị ta kéo đầu Guiliano áp vào ngực mình.

- Cậu hãy nghe, nghe tiếng tim tôi đập.

Hắn nghe. Và xúc động vì nỗi xót xa và yêu thương theo tiếng đập thình thịch rã rời của con tim Venera. Chị ta khóc, Guiliano vuốt mái tóc dày, màu nâu đậm của Venera.

- Trước kia chị có sợ như vậy bao giờ đâu. Mà có gì thay đổi đâu?

La Venera lắc đầu:

- Turi, cậu đã hóa ra liều lĩnh lắm rồi. Cậu gây thù chuốc oán quá nhiều rồi. Mà toàn là có thù có oán với bọn có quyền có thế. Bạn bè cậu cũng chỉ sợ giùm cho cậu. Mỗi khi có tiếng gõ cửa là bà già cậu lại sợ tái xanh, tái xám đi. Cậu không thể thoát được đâu.

- Nhưng tôi vẫn chẳng có gì thay đổi cả.

- Không, cậu đã thay đổi nhiều rồi. Bây giờ cậu giết người dễ dàng và mau lẹ hơn xưa rồi. Tôi không nói là cậu độc ác. Mà chỉ nói là cậu quá coi thường cái chết. – La Venera vẫn khóc rấm rứt.

Guiliano thở dài. Hắn thấy rõ chị ta run rẩy, sợ hãi. Cõi lòng tràn ngập nỗi buồn mà hắn không hiểu căn cớ vì sao.

- Thôi được, chị cứ đi. Tôi sẽ biếu chị ít tiền đủ để chị sống suốt đời ở Florence. Một ngày nào đó, nỗi buồn lo của chị sẽ hết. Sẽ không còn chém giết nữa. Tôi đã có kế hoạch. Tôi sẽ không còn là một thằng ăn cướp nữa. Đêm đêm, má tôi sẽ ngủ yên và chúng ta sẽ gặp nhau.

Hắn cũng thấy rõ là chị ta không tin.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Có ai ngờ rằng Guiliano đã làm được cái việc mà tất cả các đấng chính khách – kể cả các đấng “bự” nhất – cũng không làm nổi. Đó là tập hợp các chính đảng ở Italia để theo đuổi, chung sức với nhau vào một hành động chung. Điều mỉa mai là hành động chung ấy nhằm tiêu diệt chính hắn.

Tháng 7 năm 1949, không thèm thông báo cho Guiliano, trong một cuộc họp báo, ngài bộ trưởng Bộ tư pháp Franco Trezza đã công bố thành lập Bộ tư lệnh cảnh vệ đặc biệt gồm năm ngàn người. Ngài đã chọn được một cái tên rất kêu, rất hách để đặt cho lực lượng ấy. Lực lượng đặc biệt tiễu phỉ. Báo chí khen ngợi đảng Dân chủ Thiên Chúa giáo đang cầm quyền đã có quyết định dứt khoát đáng khen. Đồng thời, những báo gân hơn hoặc đa nghi hơn, đã sớm moi ra được những khía cạnh dè dặt, chưa đủ quyết tâm. Vì chưa nhằm thẳng vào Guiliano, chưa coi nó là đối tượng chủ yếu. Mục đích thực sự của sự la lối om sòm, đểu cáng này chỉ để làm cho người ta quên đi tên phỉ bậc nhất Sicily chẳng phải Guiliano mà chính là Ông trùm Croce. Đồng thời, để vồ món nợ mà Đảng dân chủ Thiên Chúa giáo đã “vay” hắn.

Báo chí trong toàn quốc cũng quên “bốc thơm” ngài bộ trưởng Bộ tư pháp đã rất khôn ngoan khi tuyển chọn người để thành lập lực lượng này. Hầu hết là những cớm non, cớm oắt còn độc thân. Nhược điểm không phải là không có. Kinh nghiệm chiến trường chẳng hạn. Nhưng bọn phỉ cũng có hơn gì: Vài ba trăm tên ô hợp, chẳng được luyện chiến thuật. Ngoài những hành động phỉ như bắt cóc, chặn cướp xe… chúng cũng làm gì có dịp đụng trận lớn. Nhưng cái lợi của bọn cớm non, cớm oắt là anh hùng rơm, dễ khích. Khi chúng chết, khỏi phải nuôi báo cô vợ, con chúng. Đó là một cái lợi lớn nhất. Tính toán dễ sợ. Ngài bộ trưởng còn dự tính, nếu cần, sẽ tung lực lượng xung kích com – măng – đô, lính dù, xe tăng, trọng pháo… Và cả không quân nữa. Với một dúm người, bọn phỉ chịu sao thấu một lực lượng áp đảo với hỏa lực kinh khủng như vậy?

Chỉ huy trưởng lực lượng đặc biệt tiễu phỉ là đại tá Ugo Luca, một chiến hữu của tướng Rommel, một nhân vật đã trở thành huyền thoại của quân đội Đức Quốc xã. Báo chí dưới thời phát – xít Musolini cũng đã tán tụng ông đại tá này là “Con cáo sa mạc” của Ý. Ugo Luca bậc thầy về chiến tranh du kích – sẽ làm cho lối đánh “rừng” của Guiliano chới với là cái chắc.

Báo chí đề cập qua loa vài hàng để chỉ định Fred Velardi làm đầu ngành “cớm chìm” trên toàn cõi Sicily. Người ta biết rất rõ về ngài thanh tra Velardi, ngoại trừ điều ông ta được chính ngài bộ trưởng chọn làm phụ tá cho đại tá Ugo Luca.

Một tháng trước khi có họp báo công bố quyết định thành lập “Lực lượng đặc biệt tiễu phỉ”, có một cuộc gặp gỡ tay ba bí mật giữa bộ trưởng Franco Trezza, đức Hồng y giáo chủ Palermo và Ông Trùm Croce Malo. Trong cuộc họp ấy, lần đầu tiên đức Hồng y đề cập đến bản chúc thư của Guiliano với những tài liệu nguy hiểm chết người trong đó.

Ngài bộ trưởng nghe và sợ đến khiếp vía. Phải hủy cho bằng được cái tài liệu ấy trước khi lực lượng đặc biệt tiễu phỉ kết thúc nhiệm vụ. Đã có lúc ngài có ý định thu hồi lệnh thành lập lực lượng đặc biệt tiễu phỉ lại. Nhưng bị áp lực dữ dội của cánh tả. Chưa gì bọn này đã rêu rao lực lượng đặc biệt tiễu phỉ chỉ là màn khói hỏa mù để che đậy sự bảo chợ ngầm của đảng Dân chủ Thiên Chúa giáo dành cho Guiliano. Mà dẹp lực lượng này đi thì cái lưỡi không xương của bọn tả cũng thiếu gì cách nói.

Nhưng, đối với Ông Trùm thì bản chúc thư của Guiliano chỉ làm cho vấn đề thêm khó khăn, phức tạp thêm, chứ không làm thay đổi giải pháp của lão. Lão đã quyết định phải diệt thằng Guiliano. Không còn con đường nào khác. Lão sống thì Guiliano phải chết. Hoặc ngược lại. Không còn giải pháp nào khác. Guiliano đã chơi “bể gáo” sáu thằng “sếp” Mafia của lão rồi. Nếu để Guiliano, chẳng những uy tín của lão bị dìm xuống đất đen mà lực lượng, tay chân của lão suy yếu đi thấy rõ. Uy tín của Guiliano ngày càng lên, lực lượng của hắn ngày càng mạnh. Như vậy, ngày tàn của bạo chúa Croce Malo không xa. Chẳng lẽ muối mặt đi than phục hắn. Mà chắc gì hắn đã chịu. Đã đành là phải diệt hắn nhưng không được thò cái mặt ra. Phải chơi trò ném đá giấu tay. Phải mượn tay người khác diệt hắn. Bởi vì, trước mặt dân Sicily hiện nay, Guiliano là một đại anh hùng, một đại ân nhân, một người bảo trợ vững mạnh. Đụng đến Guiliano là đụng đến đám khố rách đó. Chúng nó khiếp nhược thật đó, nhưng nếu chúng nó nổi khùng lên thì ông trời cũng nhỏ, chứ đừng nói gì đến lão và tổ chức Mafia. Ấy là chưa kể đến cú “rờ - ve” của hắn. Vỡ mặt là cái chắc. Ông Trùm cũng trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan.

Hồng y giáo chủ cũng bấn không kém. Hứa cái gì, hứa với ai không hứa, mà lại đi hứa xin miễn xá cho một thằng ăn cướp! Nhưng ngài cũng ở vào một cái thế ít bị kẹt và dễ xoay trở cái lưỡi hơn hai đấng kia. Có gì đâu, Ngài sẽ trích dẫn câu kinh thánh: Chúa để cả bầy chiên ở đó để đi tìm một con chiên lạc. Xong ngay. Ngài sẽ dẫn câu chuyện thằng phá gia chi tử trong kinh thánh, rồi sau đó kết luật: kẻ có bệnh mới cần uống thuốc, kẻ tội lỗi phải được yêu thương nhiều hơn. Hết sẩy. Thần học thứ thiệt. Mấy nhà ngụy biện Hy Lạp có sống lại cũng đành bái phục, tôn ngài làm sư phụ. Trong ba cái đầu ấy, thì cái đầu của Ông Trùm là đa mưu túc kế hơn cả. Cái gì chớ bày ra mưu sâu kế hiểm, dăng ra thiên la địa võng là nghề của lão. Tất nhiên, trong trường hợp diệt Guiliano, lợi ích của lão ăn khớp với yêu cầu của ngài bộ trưởng. Trong đời Croce Malo chưa hề làm cái gì không công cho ai. Ngài bộ trưởng muốn cái gì? Cái ghế thủ tướng nước Ý.

- Tất nhiên là ngài phải diệt thằng đó, - lão nói với ngài bộ trưởng. – Ngài không còn cách nào khác. Trước sau gì cũng phải diệt cho bằng được. Nhưng xin cứ để cho nó sống đó cho đến khi nào tôi vô hiệu hóa được bản chúc thư ấy đã. Bởi vì, con rắn chết rồi, nọc độc của nó vẫn giết người được cơ mà. Tôi cam đoan làm được điều đó.

“Làm ăn” với nhau từ lâu, ngài bộ trưởng rất tin tưởng ở cái đầu óc đầy nghẹt mưu sâu kế hiểm của lão. Ngài gật đầu đồng ý. Ngài đưa tay bấm máy “intercom” và dõng dạc ra lệnh:

- Cho mời ông thanh tra.

Vài giây sau, một người cao dong dỏng, khuôn mặt quí phái, đôi mắt xanh lạnh lùng, bước vào. Ông ta không mập, nhưng ăn mặc thì cực kỳ tuyệt. Sang trọng nhưng trang nhã. Không khúm núm, nhưng không phách, không như mấy anh đài các rởm, kiểu cách học đòi. Ngài bộ trưởng nói với Ông Trùm:

- Xin giới thiệu: đây là ông thanh tra Velardi. Tôi sắp công bố quyết định cử ông ta làm giám đốc an ninh tình báo trên toàn cõi Sicily, ông ta sẽ phối hợp với chỉ huy trưởng lực lượng đặc biệt.

Quay sang phía thanh tra Velardi, ngài bộ trưởng đề cập đến bản chúc thư của Guiliano với tính chất nguy hiểm chết người của tài liệu ấy. Đúng là bản chúc thư ấy đe dọa đến sinh mạng của đảng Dân chủ Thiên Chúa giáo.

- Này, ông thanh tra, - ngài bộ trưởng gằn giọng nhấn mạnh, - tôi yêu cầu ông hãy coi ông Croce đây là đại diện của chính tôi tại Sicily. Ông sẽ cung cấp cho ông ta tất cả các tin tức mà ông ta yêu cầu. Và coi đó là cung cấp cho chính tôi. Và đó cũng là một trong những nhiệm vụ của ông. Ông hiểu chứ?

Chính vì hiểu, cho nên ông thanh tra đã lịm người đi một lúc mới nuốt trôi được cái yêu cầu quái gở ấy. Nghĩa là ngài thanh tra, giám đốc an ninh tình báo phải báo cáo cho Croce – trùm Mafia – mọi kế hoạch hành quân của đại tá Ugo Luca. Sau đó Croce sẽ báo cáo lại cho Guiliano để tên này kịp thời lỉnh đi, hoặc chuẩn bị chơi lại, nếu dám. Thông minh, học rộng như ngài thanh tra mà cũng chỉ hiểu được một cách rất lơ mơ những uẩn khúc, lắt léo đến độ quái gở ấy.

- Nghĩa là, tôi phải cung cấp mọi tin tức cho ông Croce đây chứ gì? Nhưng, xin lỗi đại tá đâu có ngu. Rồi ông ta cũng sẽ đoán ra ngay cái kẽ hở theo đó tin tức bị lọt ra. Lúc đó, thì kẹt quá! Ít nhất, ông ta cũng sẽ không mời tôi dự các cuộc họp tham mưu nữa.

- Nếu ông gặp trục trặc rắc rối gì, cứ cho tôi biết ngay, - ngài bộ trưởng nói. – Nhiệm vụ chủ yếu của ông là cứu cho được bản chúc thư chết người đó. Nghĩa là phải làm thế nào để Guiliano còn sống cho đến khi nào vô hiệu hóa được bản chúc thư kia.

Ngài thanh tra đưa đôi mắt xanh lạnh lùng của mình chiếu thẳng vào Ông Trùm:

- Tôi rất sung sướng được giúp đỡ ông ấy, - ngài thanh tra nói, - có điều tôi muốn biết rõ: nếu lỡ ra Guiliano bị đại tá Ugo Luca bắt sống, trước khi tài liệu nguy hiểm kia bị vô hiệu hóa, thì tôi phải làm sao?

Ông Trùm không phải là một công chức – dù chỉ là ngang tầm với ngài thanh tra – nên trong trường hợp này lão không thể nói huỵch toẹt ra như thế này: “Trong trường hợp đó, nếu anh em mình không bị mắc làm mồi câu sấu là may. Nhưng, cả đám đi ăn mày là giá chót. Cái đó thì chắc”.

Việc chỉ định đại tá Ugo Luca làm tư lệnh Lực lượng đặc biệt tiễu phỉ đã được báo chí hoan nghênh như một lựa chọn sáng suốt và biểu hiện quyết tâm của đảng Dân chủ Thiên chúa giáo. Báo chí nêu ra những thành tích, huy chương, lòng can đảm, tài năng tham mưu, chỉ huy, tính nết điềm đạm, bình tĩnh, không ưu tuyên bố rùm beng, huênh hoang. Nhất là, ông đại tá này có một sự kinh tởm rất đáng quý. Đó là kinh tởm mọi sự thất bại, bất cứ vì lý do gì. Cũng theo báo chí “bốc thơm”, thì ngài đại tá cũng là một tay rất kiên trì. Có vậy mới trị được cái thói tàn bạo truyền thống của Sicily chớ!

Trước khi bắt tay vào việc, đại tá đã nghiên cứu kỹ tất cả các tài liệu tình báo về Guiliano. Ngài bộ trưởng thấy đại tá vùi đầu vào những chồng hồ sơ, báo cáo và tất cả các bài báo nói về Guiliano. Khi được ngài bộ trưởng hỏi khi nào ông ta sẽ xuất quân, đại tá đã nhỏ nhẹ đáp lại là ông ta đang thành lập bộ tham mưu. Và, Guiliano chẳng bốc hơi được mà sợ.

Đại tác Luca để ra cả tuần lễ để nghiên cứu. Sau đó, ngài đã hình dung ra được một nhận định đại khái như thế này: Guiliano rất có tài về chiến tranh du kích. Nhưng nó chỉ có một chiến thuật độc nhất. “Bộ khung” của nó như sau: Aspanu, chỉ huy phó. Canio Sylvestro, cận vệ. Stefan Andolini nắm tình báo, liên lạc với Croce Malo và mạng lưới Mafia trong vùng. Terranova và Passatempo có bộ hạ riêng và “hành quân” độc lập, không do Guiliano trực tiếp chỉ huy, trừ những khi cần “hành quân phối hợp”. Terranova sở trường về bắt cóc. Passatempo thiện nghệ về chặn cướp xe lửa và tấn công nhà băng. Nhưng mọi kế hoạch đều do Guiliano vạch ra. Đại tá Luca cũng biết rõ thủ hạ của Guiliano chỉ nằm trong con số ba trăm đổ lại. Nhưng, đại tá kinh ngạc tự hỏi nếu chỉ như vậy thì không hiểu bằng cách nào, Guiliano đã làm mưa làm gió suốt sáu năm trời, vô hiệu hóa toàn bộ lực lượng cảnh vệ của cả một tỉnh và hoàn toàn “kiểm soát” miền Bắc đảo Sicily? Bằng cách nào hắn đã thoát được mọi cuộc hành quân truy lùng của một lực lượng cảnh vệ hùng hậu như vậy? Câu trả lời chỉ đơn giản là hắn đã huy động được rất đông nông dân Sicilian bất cứ khi nào hắn cần. Khi lực lượng chính phủ hành quân càn quét trên núi, bọn chúng lẩn xuống các thị trấn, làng mạc, sống lẫn lộn trong đám nông dân quê mùa. Cũng có một số đông dân thị trấn – như Montelepre chẳng hạn – là thành viên bí mật của hắn. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn hết là Guiliano được lòng dân chúng. Rất ít có cơ may cài được người vào băng của hắn. Cũng không có hy vọng mua chuộc được người làm phản trong số tay chân bộ hạ của hắn. Vô phúc, nếu hắn lên tiếng công khai kêu gọi một cuộc cách mạng! Sẽ có hàng ngàn, hàng ngàn người, già trẻ lớn bé sẵn sàng theo, hoặc ít ra cũng bao che cho hắn. Điểm rắc rối nghe tưởng như phi lý là dường như Guiliano có khả năng tàng hình. Thấy hắn xuất hiện ở đó, đưa quân đến bao vây kín mít và sục tìm. Vô ích. Tưởng như hắn tan vào không khí không bằng. Càng đọc các tài liệu, tin tức tình báo và báo chí, đại tá càng có ấn tượng mạnh. Nhưng ngài cũng cho rằng mình đã tìm ra được những đầu mối để từ đó phăng ra và đặt kế hoạch đối phó, phản công. Những đầu mối đó, trong giai đoạn đầu có thể chưa giá trị mấy, những về lâu dài sẽ quan trọng.

Trong những bức thư gửi cho báo chí, Guiliano thường mở đầu bằng cách hăm dọa úp mở đại khái như thế này: “Tôi vẫn tin báo của quí ông và bản thân quí ông không phải là kẻ thù của tôi. Nếu đúng như vậy thì xin vui lòng đăng bức thư này trên báo của quí ông tại trang nhất…” Ai còn lạ gì cái số phận là kẻ thù của Guiliano. Bởi vậy, không ai ham làm kẻ thù của nó. Thế là Guiliano bảo đăng gì là báo chí rụp rụp đăng cái đó. Phần kế tiếp của các bức thư – theo đại tá – là những lời tuyên truyền thù nghịch chống chính phủ hoặc huênh hoang khoe số tiền mà nó cướp được và đem phân phát cho đám khố rách, huênh hoang về thành tích bắt cóc, tống tiền, chặn cướp xe… khi chọi nhau với đám cảnh vệ và có một vài cảnh vệ chết, Guiliano làm bộ bùi ngùi tiếc “trong trận chiến, khó tránh khỏi những tổn thất ngoài ý muốn”. Và dựa vào đó để đả kích chính quyền và kêu gọi cảnh vệ đừng dại dột đổ máu cho bọn quyền thế, bọn nhà giàu chuyên hút máu dân nghèo”. Trong bức thư giải thích việc nó giết sáu sếp Mafia, Guiliano đã giở giọng “giả nhân giả nghĩa”: “Chỉ có như vậy người nông dân mới hưởng được cái quyền mà luật pháp và đạo đức đã dành cho họ”.

Ngài đại tá lấy làm ngạc nhiên khi thấy chính quyền đã để cho báo chí đăng tải những bức thư như vậy. Cái thói quen suy nghĩ theo kiểu mấy ông nhà binh đã khiến cho ngài đại tá yêu cầu ngài bộ trưởng Bộ tư pháp cho phép mình đặt Sicily trong tình trạng thiết quân luật. Dựa vào tình trạng này, ngài đại tá đã cho “treo” hết các quyền tự do, dân chủ và nhân quyền. Chẳng hạn ngài đại tá kiểm soát và “đục bỏ” những tin tức loạn một cách có lợi cho Guiliano. Nhất là những bức thư của Guiliano. Từ đó, ngài đại tá cắt đứt mối liên hệ của Guiliano với quần chúng, công khai thông qua báo chí.

Ngài đại tá cũng là một tay thiện nghệ trong ngón đòn “tâm lý chiến”. Ngài cố dò tìm những tin tức về tình hình giao du của Guiliano với đàn bà con gái. Nhưng ngài đã không thành công. Chỉ có những báo cáo về các cuộc săn tìm hoa của đám bộ hạ của Guiliano tại các xóm “chị em ta” ở Palermo. Và ngài cũng được biết Pisciotta là một tay khá háo sắc. Nhưng, về Guiliano thì ngài chỉ được biết rằng kể từ khi dấn thân vào kiếp sống ngoài vòng pháp luật, Guiliano sống dường như không biết mùi đàn bà. Với tư cách là một người Ý, đại tá Luca không tin rằng có thể có tình trạng đó. Chắc chắn Guiliano đâu phải là thánh sống. Vậy, tìm ra được người đàn bà mà Guiliano thường lui tới, thì công việc kể như đã giải quyết xong.

Điều làm cho ngài đại tá quan tâm và lấy làm thú vị là lòng thảo hiếu của Guiliano. Nhất là đối với bà mẹ hắn. Hắn gần như “tôn thờ’ bà mẹ. Ngài đại tá đặc biệt lưu ý điểm này. Và đưa yếu tố này vào luận điểm của ngài: Nếu thật sự Guiliano không có chuyện đàn bà, con gái bê tha, bồ nhí… mà lại có lòng tôn kính đặc biệt đối với bà mẹ hắn thì có thể dùng chính bà mẹ đó làm mồi bẫy hắn.

Khi nghiên cứu hồ sơ và tình hình xong, đại tá bắt tay vào việc. Trước hết là lập bộ tham mưu. Chỉ định quan trọng và đắc ý nhất của ngài là cử đại úy Antonio Perenza làm sĩ quan trợ lý và cận vệ. Đại úy Perenza là một người cao, to, mập. Và như hầu hết mọi ông mập khác, đại úy là một người tính nết xuề xòa. Đại tá biết ông đại úy này là một sĩ quan can đảm. Và đại tá cũng dự đóan trước sắp tới ngài rất cần sự can đảm của ông ta.

Tháng 10 năm 1949, đại tá Luca đến Sicily. Mặc dầu được báo chí Ý bốc thơm và đánh bóng rất kỹ, đại tá cũng cảm thấy tự ái hơi bị dụng chạm. Thân danh là một anh hùng thời chiến với cái biệt danh rất bóng bẩy là “con cáo sa mạc”. Vậy mà bây giờ lại phải cầm đầu một lũ cớm oắt, cớm nhóc để chọi với một dúm đầu trộm đuôi cướp đứng đầu là một thằng nhóc mới lớn. Mặc dù mang danh tư lệnh Lực lượng đặc biệt tiễu phỉ. Cũng vẫn đau. Tuy nhiên là một sĩ quan chuyên nghiệp, có tinh thần kỷ luật cao, cho nên đại tá cũng hết mình. Vả lại, đi sông đi biển không chết, mà lại chết trong vũng trâu đầm, cái đó mới càng “quê” hơn nữa. Đợt đầu, đại tá chỉ đem sang Sicily 2.000 quân. Và ngài hy vọng bấy nhiêu cũng đủ. Ngài không muốn làm cho hào quang của thằng ăn cướp ấy lớn thêm, sáng thêm bằng con số năm ngàn quân. Theo ngài, dù sao đó cũng chỉ là một nhóm phỉ mà ngài có thể mau lẹ đè bẹp.

Khi đặt chân đến Sicily, đại tá tư lệnh lực lượng đặc biệt tiễu phỉ đã dằn mặt Guiliano bằng ba đòn. Đòn thứ nhất là báo chí cấm tường thuật các hành động phỉ của Guiliano, nhất là đăng tải “thư” của nó. Đòn thứ hai là tống giam ông bà già của Guiliano với tội danh âm mưu thông đồng với bọn phỉ. Đòn thứ ba là thẩm vấn và tống giam trên 200 người dân Montelepre với lý do tình nghi là “gian nhân hiệp đảng” với bọn phỉ. Tất cả những người này bị giải về giam tại nhà ngục ở Palermo do chính lính của đại tá canh giữ cẩn mật. Tất cả những đòn này được thi hành dựa trên đạo luật do chế độ phát – xít ban hành, những vẫn chưa bị chế độ công hòa hủy bỏ. Nhà của ông bà già Guiliano bị lục soát kỹ. Đường hầm thông qua nhà của La Venera bị phát hiện. Bản thân La Venera bị bắt ở Florence. Nhưng chị ta được thả ra, vì khai không hề biết gì về đường hầm đó. Vả lại, thể theo đề nghị của thanh tra Velardi, chị ta được thả ra để làm mồi bẫy Guiliano.

Báo chí Ý lại “bốc” đại tá Luca lên tận mây xanh với hàng tít lớn đại khái như cuối cùng, người ta đã tìm ra được người hùng. “Đại tá Ugo Luca hay là ngày tàn của bọn phỉ”. “Tại sao dùng dao mổ trâu để giết gà?”. Ngài bộ trưởng Bộ tư pháp cũng khóai chí vì được khen sáng suốt khi cử Ugo Luca làm tư lệnh Lực lượng đặc biệt tiễu phỉ. Nhất là khi ngài được thủ tướng chính phủ tán thưởng sự bổ nhiệm này. Chỉ có Ông Trùm là chẳng cảm thấy gì trước những lời bốc thơm ngài đại tá.

Tháng đầu tiên của ngài đại tá tại Sicily trôi qua không xảy ra một hành động “ngoạn mục” nào của Guiliano. Người ta đã tưởng là chỉ cần oai danh của đại tá cũng đủ để Guiliano phải co vòi. Thực ra, “trong bóng tối”, Guiliano để tâm nghiên cứu cách thức bày binh, bố trận của đại tá xem ngài có xứng danh là “con cáo sa mạc” hay cũng chỉ là con ngáo ộp. Hắn đã rất khâm phục sự sáng suốt của đại tá, khi ra lệnh cấm báo chí đăng tải các tin tức có lợi cho hắn, nhất là các bức thư của hắn. Làm như vậy, rõ ràng đại tá đã cắt đứt mạch máu nối liền nó với nông dân Sicilian. Nhưng, khi đại tá tống giam bừa bãi mấy trăm người dân ở Montelepre, thì sự cảm phục biến thành lòng căm thù. Cho đến khi ông bà già hắn cũng bị ngài đại tá cho nếm cơm tù, thì Guiliano hào hoa phong nhã đã biến thành một hung thần ác sát, một cơn ác mộng đối với lực lượng cảnh vệ của Sicily.

Hai ngày liền hắn ngồi trong hang sâu trên núi Camaratta. Nó xem xét, cân nhắc rất kỹ những tin tức thu lượm được về Lực lượng đặc biệt tiễu phỉ. Và dựa trên đó, hắn đặt kế hoạch. Ít nhất cũng có một ngàn cảnh vệ được bố trí quanh thủ phủ Palermo chờ hắn đến giải cứu ông bà già hắn. Một ngàn quân khác thì rải ra đóng ở thị trấn Montelepre và các vùng quanh đó. Nhiều người dân là thành viên bí mật của hắn cũng được tuyển mộ vào trong số lính đó.

Đại tá Ugo Luca đặt tổng hành dinh và bộ tham mưu của ngài tại Palermo mà ngài nghĩ là bất khả xâm phạm đối với Guiliano. Nhưng, chính vì vậy mà ngài đại tá bị hố.

Turi hướng sự căm thù của mình vào việc nghiên cứu và đề ra kế hoạch chơi lại ngài đại tá. Đối với hắn, kế hoạch đó có những nét rõ ràng và đơn giản như trò chơi con nít. Với một ngàn quân rải ra tại Montelepre và các vùng xung quanh, đại tá Luca cứ tưởng là đủ để khóa chặt Guiliano tại sào huyệt của hắn. Cứ làm như thể là hắn không thể ra khỏi và sau đó lại an toàn rút về sào huyệt. Nhưng, đồng thời Guiliano cũng biết kế hoạch của hắn chỉ có thể thành công nếu không có một sơ sót nhỏ nào – dù trong chi tiết – khi được triển khai, thực hiện.

Guiliano gọi Aspanu vào trong hang và trình bày toàn bộ kế hoạch. Kế đó, từng người một, từ Passatempo, Terranova, thầy cai Canio Sylvestro và Stefan Andolini, mỗi người được cho biết và chỉ được cho biết phần việc của mình.

Bộ tư lệnh cảnh vệ đóng ở Palermo trả lương cho toàn bộ lính cảnh vệ đồn trú tại phía tây và bắc Sicily. Hàng tháng, xe phát lương được canh gác rất cẩn thận và được một lực lượng khá hùng hậu hộ tống – chạy một vòng khắp các đồn trại trong vùng để phát lương cho lính. Lương của mỗi người lính được đựng trong bao, từng đồn từng trại được đặt trong thùng, khóa cẩn thận và chất lên xe. Xe này là xe chở vũ khí của quân đội Mỹ.

Người tài xế được trang bị súng lục. Phát ngân viên ngồi bên cạnh được trang bị súng tiểu liên. Mỗi khi xe phát lương – chở hàng mấy chục triệu lire – rời khỏi Palermo, thì đều được hộ tống cẩn thận. Đòan xe hộ tống gồm ba xe Jeep bố trí súng đại liên mở đường. Trên mỗi xe Jeep này ngòai tài xế còn có ba cảnh vệ. Một xe tải chở trên hai chục cảnh vệ khác áp sát xe lương. Đoạn hậu là hai xe chỉ huy, mỗi xe gồm sáu cảnh vệ. Có máy truyền tin có thể liên lạc với Palermo hoặc với trại binh nào gần nhất để xin tăng viện khi cần. Bộ bọn cướp muốn tự sát hay sao mà dám chơi trò vuốt râu cọp một lực lượng như vậy?

Sáng sớm hôm đó, đoàn xe phát lương rời Palermo. Trạm dừng chân thứ nhất là một thị trấn nhỏ, Tommasco Natale. Từ đây, đoàn xe phải nương theo đường núi ngoằn ngoèo. Để tới thị trấn Montelepre là trạm dừng chân thứ hai. Phát ngân viên và toán hộ tống cũng biết đây là cuộc hành trình khá gay go và phải mất cả ngày – nếu kể cả thời gian phát lương – nên xe nào cũng ráng chạy nhanh. Lính tráng ăn uống ngay trong lúc xe đang chạy. Chúng cười giỡn vui vẻ. Mấy chú cảnh vệ ngồi trên xe Jeep còn tháo võ khí để đại xuống sàn xe. Khi đoàn xe vượt ngọn đồi cuối cùng để đi vào thị trấn Montelepre, thì lính tráng trên xe thấy một đoàn cừu lớn choán hết cả khúc đường trước mặt. Mấy chiếc xe Jeep mở đường và xe tải chở lính hộ tống ráng len lỏi vào giữa bầy gia súc, mấy anh cớm trên xe la hét chửi om sòm mấy anh chăn cừu. Bọn cảnh vệ, đứa nào cũng nóng lòng đến doanh trại trong thị trấn để kiếm bữa ăn nóng, hoặc để cởi bộ đồ trận ra, chỉ mặc đồ lót cho thoải mái rồi kềnh lên giường cho cái lưng đỡ ê ẩm, hoặc túm tụm nhau là vài canh xì – phé vừa đỡ nghiền, vừa có hy vọng đứa nọ lột đứa kia. Đã đến khúc đường này rồi, chẳng còn nguy hiểm gì nữa. Montelepre – một trại binh trên năm trăm quân – kia rồi. Chỉ cách có mấy dặm. Nhìn lại phía sau, toán xe mở đường thấy chiếc xe chở lương đứng trơ trọi một mình giữa bầy cừu. Phía trước xe, phía sau xe, lũ cừu xúm xít dồn cục và đứng ì ra. Toán mở đường đâu biết là xe chở lương bị kẹt cứng vì cừu, không còn lối đi. Phía bên kia đồi, hai xe chỉ huy cũng bị cừu vây kín. Không nhìn thấy xe mở đường và xe lương. Nhưng toán này cũng yên trí không có gì xảy ra. Montelepre ở cách vài dặm phía bên kia đồi. Bố bảo bọn cướp cũng không dám giở trò.

Mấy tên chăn cừu cũng làm bộ tíu tít xua bầy cừu để mở đường cho xe. Chúng sùy con này, suỵt con kia. Cây gậy vung bên trái, đập bên phải, chẳng để ý đến tiếng còi xe pin pin inh ỏi. Nhưng xua được con cừu này đi thì con khác lại xô tới. Chiếc xe vẫn không đi được. Bọn cảnh vệ trên xe đứa thì cười, đứa la hét, chửi thề om sòm, không có dấu hiệu gì báo động.

Thình lình sáu tên chăn cừu áp lại xe chở tiền. Hai trong số sáu tên rút súng trong túi áo khoác, chĩa vào tài xế và phát ngân viên. Bốn tên còn lại, mở thùng đựng tiền, nhồi vào bao bố. Passatempo chỉ huy nhóm này. Nét mặt cô hồn của hắn đủ làm cho tài xế và phát ngân viên rụng rời. Sợ còn hơn sợ súng.

Cùng lúc đó, phía bên kia ngọn đồi, từ hai bên sườn núi bên vệ đường, một toán cướp vũ trang ào xuống. Hai chiếc com – măng – ca bị bắn bể lốp. Pisciotta đứng phía trước mũi chiếc xe thứ nhất, ra lệnh:

- Để vũ khí lại trên xe, tất cả xuống xe. Cứ từ từ. Chớ manh động, dại dột. Muốn còn sống mà về với vợ con? Hay là muốn làm anh hùng? Tụi này không thèm lấy tiền túi của mấy bạn. Đừng phiền!

Xa xa phía đàng trước, ba xe Jeep mở đường và xe chở lính áp tải đã qua được bầy cừu và bắt đầu xuống dốc đi vào thị trấn. Sĩ quan chỉ huy toán mở đường quay lại nhìn phía sau. Bây giờ trên đường lại có thêm nhiều cừu cắt đứt đoàn xe của ông ta với xe chở lương. Cũng chẳng thấy xe chỉ huy, ông ta nhắc máy truyền tin ra lệnh cho một xe Jeep quay lại và dùng tay ra hiệu cho các xe đậu nép sát bên lề cho xe Jeep quay trở lại. Khi chiếc xe quay trở lại và leo được nửa con dốc thì nguyên một tràng đại liên bắn xối xả vào nó. Bốn cảnh vệ trên xe, đạn găm nát bấy. Chiếc xe không người lái, loạng choạng, tuột dốc và bốc cháy.

Sĩ quan chỉ huy toán mở đường nhảy khỏi xe Jeep, nằm ép xuống mé đường, miệng ra lệnh cho tóan lính áp tải xuống xe và dàn đội hình chiến đấu. Nhưng, hai chiếc xe Jeep kia như con nai kinh hoảng đâm đầu chạy trốn. Trên thực tế, toán cảnh vệ áp tải không tiếp cứu được xe chở tiền vì hễ cứ ngóc đầu lên là hỏa lực của các tay em của Guiliano bắn nằm xuống. Thủ hạ của Guiliano phục sẵn trên các cao điểm chế ngự dễ dàng. Toán cảnh vệ bắn vu vơ. Điều tốt nhất mà toán áp tải có thể làm là kiếm một chỗ núp cho kín, rồi bắn đì đẹt cho qua chuyện.

Thầy đội Maressciallo ngồi trong doanh trại ở Montelepre để chờ xe phát lương. Cuối tháng, thầy đội cũng bấn. Tháng này, cớm chìm cớm nổi vây kín Montelepre, nên mấy thằng buôn chui đâu dám ngo ngoe. Dân chúng trong thị trấn nhà nào cũng có đám tang. Công việc mần ăn đình trệ hết. Trẻ nít không dám ra đường. Cáo tử thì hồ bi. Tháng này thầy đội không liếm láp được gì, nên túi cũng cháy. Bởi vậy, cũng như ai, thầy cũng muốn ngày vừa lãnh lương thì tối đi ăn nhà hàng một bữa, sau đó, kiếm một em “ấp” qua đêm cho giải sầu. Nghe tiếng súng xa xa, thầy đội cũng phát hoảng. Nhưng thầy trấn tĩnh được ngay: “Mẹ kiếp, cho ăn kẹo, thằng Guiliano cũng đếch dám chọc ghẹo tóan tuần tiễu của ông giữa ban ngày ban mặt. Cả tháng nay đám lính của đại tá Luca nó quần cho chạy té cứt ra. Bố nó cũng không dám vuốt râu cọp”.

Ngay đúng lúc đang nghĩ như thế, thầy đội giật nảy mình vì một tiếng nổ dữ dội ngay cổng trại Bellamp. Một trong những xe võ trang đang đâu ở đó phát lửa và bốc cháy như ngọn đuốc. Kế đó, Maresciallo nghe tiếng súng máy nổ gần ở phía đường đi về thị trấn Castellammare và đường đi ra thị trấn bờ biển Trapani. Kế đó là tiếng súng nổ ở các căn cứ dưới chân núi bên ngoài thị trấn Montelepre. “Bỏ mẹ, - thầy đội chợt nghĩ, - thế này thì khỏi có nơi nào tiếp cứu nơi nào”. Ngay lúc đó, thầy đội thấy toán tuần tiễu của mình, hớt hơ hớt hải chạy về trại, vừa thở hổn hển vừa run run báo cáo là Guiliano tung toàn bộ lực lượng “chơi” vào trại gồm 500 quân của đại tá Luca.

Tất cả những cái đó diễn ra giữa ban ngày.

Từ trên mỏm núi cao, phía trên thị trấn Montelepre, qua ống nhòm, Guiliano quan sát cuộc chặn cướp xe chở lương. Quay 900, hắn quan sát trận đánh diễn ra ngay trong thị trấn, trực tiếp tấn công trại Bellampo và toán tuần tiễu ven biển. Các sếp của nó hành động tuyệt hảo. Passatempo và các tay em đã chặn cướp được tiền lương. Pisciotta đã vô hiệu hóa được toán áp tải xe chở lương. Terranova và các bộ hạ của hắn – được tăng cường thêm một số mới tuyển – tấn công trại Bellampo và các toán tuần tiễu. “Thầy dòng” Stefan Andolini đang sửa soạn một vố đích đáng và “ngoạn mục”.

Tại bộ tư lệnh ở Palermo, ngài đại tá nhận được điện báo đoàn xe phát lương bị chặn cướp, các doanh trại bị tấn công… với một thái độ im lặng mà các thuộc hạ của ngài cho là khác thường. Nhưng, trong thâm tâm, đại tá rất phục tài Guiliano. Tuy nhiên, ông cũng thắc mắc không hiểu bằng cách nào, Guiliano nắm được những tin tức về các hoạt động của các toán cảnh vệ. Bốn cảnh vệ bị chết trong cuộc chặn cướp xe lương. Mười cảnh vệ khác “anh dũng hy sinh” trong cuộc chạm súng dàn trận với Guiliano. Ngài đại tá còn đang cầm ống nghe báo cáo số thương vong, thì đại úy Perenza bước vào. Cái cằm của ông ta vốn đã thô và bạnh ra giờ đây lại run run xúc động. Ông ta vừa nhận được báo cáo có vài tên phỉ bị thương và một xác chết để lại tại trận. Căn cứ vào giấy tờ trên xác tên phỉ này và do hai người dân thị trấn Montelepre nhận dạng thì đây là xác của Turi Guiliano.

Không dè dặt, chưa đợi tin tình báo, ngài đại tá đã vội mừng thầm, lòng tràn ngập niềm vui chiến thắng. Những tài liệu tham mưu trong các quân trường, những quân trang quân sử ghi đầy những chiến công hiển hách, những mưu lược, đấu trí sâu hiểm. Nhưng cũng có những chiến thuật của những chiến lược gia tăm tiếng đã bị một thằng vô danh tiểu tốt dìm xuống bùn đen chỉ nhờ lối đánh “rừng”, sự táo tợn ngòai dự liệu và sự may mắn lạ lùng của nó. Cũng như một viên đạn vô tình bắn vu vơ đã trở thành định mệnh và biến tên phỉ lừng danh thành một bóng ma. Ồ, biết đâu đấy. Sự đời lắm nỗi bất ngờ éo le. Những suy nghĩ miên man và dồn dập đã giúp đại tá bình tĩnh trở lại, cẩn thận dè dặt hơn, bớt lạc quan tếu hơn. Cũng có thể là dịp may. Nhưng, cũng có thể là cái bẫy. Nếu vậy thì chính ngài, đại tá Ugo Luca, “con cáo sa mạc” sợ gì mà không chui vào bẫy để bắt chính kẻ giăng bẫy?

Đại tá bèn cho lệnh chuẩn bị. Một đoàn quân cơ giới đủ mạnh để áp đảo bất cứ cuộc tấn công nào của bọn phỉ. Thiên la địa võng của chúng cũng chấp. Nhưng phòng xa cho chắc ăn, chiến xa mở đường. Tiếp đó là hai chục xe Jeep chở đầy nhóc lính dù. Rồi đến xe thiết giáp chở ngài đại tá và ngài thanh tra. Đoạn hậu cũng chiến xa, cũng lính dù. Chưa hết, cảnh vệ được lệnh rải nằm đường, lập các nút chặn, các toán tuần tiễu vũ trang hùng hậu diễn tới diễn lui suốt dọc đường. Từ Palermo đoàn hùng binh phải mất một giờ mới tới được Montelepre. Dọc đường, ngài thanh tra không nhấn mạnh ở chỗ cái xác đó có đúng là xác Guiliano hay không. Cái mà ngài quan tâm hơn hết là tài liệu mà cái xác đó mang theo có phải là bản chúc thư chết người kia không. Nếu phải, thì làm thế nào để nẫng tay trên ngài đại tá, chứ nếu nó lọt vào tay ông nhà binh này thì cũng hơi phiền. Vì tài liệu càng có ít người biết càng tốt.

Đoàn hùng binh, thần kinh căng thẳng suốt dọc đường. Tay lăm lăm súng, sẵn sàng khạc đạn. Đoàn xe tới nơi bằng an, vô sự. Không một viên đạn chui ra khỏi nòng súng, chiến thắng. Nhưng là chiến thắng “chống lại cái cối xay gió”. Cũng đúng thôi. Lực lượng của thằng Guiliano bao lăm mà dám trêu ngươi một đoàn hùng binh như vậy.

Nhưng ngài đại tá vẫn bị thất vọng.

Ngài thanh tra chỉ vào cái xác – được chở bằng xe cứu thương về trại Bellampo – và khẳng định “không phải xác Guiliano”. Mặt của các xác ấy – tác phẩm ngoạn mục của Andolini – bị đạn bắn nát bấy. Nhưng làm sao qua được con mắt nhà nghề của ngài cớm gộc Velardi. Những người dân khác trong thị trấn Montelepre được đưa tới nhận diện cũng khẳng định “không phải”.

Vậy, đúng là cái bẫy.

Ngài đại tá hình dung ra Guiliano suy nghĩ như thế này: “Mẹ kiếp, nghe tin vui, thằng cha đại tá mừng húm, nhảy đại lên xe, gọi với vài thằng cận vệ, phóng đại đến địa điểm. Thế là chui vào rọ!”. – “Con ơi, con mới chỉ ở mức “điếm” thôi, chớ tía mày có sỏi có sạn trong đầu. Để xem ai chui vào rọ”.

Mặc dù tới nơi bình an, nhưng đại tá vẫn ra lệnh phải hết sức cảnh giác trên đường trở về. Chính ngài cũng vội vã quay về Palermo chui ngay vào Bộ tư lệnh. Ngài đại tá muốn đích thân báo cáo cho Rome những gì vừa xảy ra. Yêu cầu đặc biệt của ngài là Rome phải làm thế nào để bọn nhà báo ở lục địa (trên đất Ý) đừng có sủa ầm ĩ một cách có lợi cho thằng giặc. Im đi được là nhất.

Trước khi rời trại Bellampo, đích thân ngài đại tá kiểm tra đội hình đoàn xe. Đơn vị nào phải đúng vị trí theo kế hoạch, đề phòng tối đa âm mưu phục kích. Trên đường về ngài đại tá chơi ngon. Ngài ngồi xe Jeep dẫn đường. Ngài thanh tra ngồi ở một xe khác phía sau. Một sự táo bạo có tính toán. Không hổ danh “con cáo sa mạc”. Nhờ đó mà ngài đại tá và đấng cớm gộc Velardi thoát chết. Đòan xe về gần đến thủ phủ Palermo. Lính tráng trên xe đã thở phào hú vía, thì một tiếng nổ vang. Chiếc com – măng – ca không chở ngài đại tá – nảy lên cao cả thước, rơi xuống, cháy bùng bùng, các mảnh vụn vung vãi tứ tán. Chiếc xe vận tải chở lính hộ tống đi sát ngay phía sau cũng được ăn theo. Trên xe có ba chục thì đã có tám mạng đi đứt tại chỗ, mười lăm mạng khác ngắc ngư. Hai sĩ quan và tài xế trên chiếc com – măng – ca chỉ còn là những đống thịt bầy nhầy tan như xác pháo.

Tại Bộ tư lệnh Lực lượng đại tá tiễu phỉ, ngài đại tá báo tin dữ cho ngài bộ trưởng Bộ tư pháp và xin gửi nốt ba ngàn cảnh vệ và xin Bộ tổng tham mưu cho thêm vài đại đội dù.

Ông Trùm, biết rằng, những cuộc tấn công như vậy sẽ còn dài dài, nếu ông bà già của Guiliano còn bị giam. Bởi vậy, lão đã can thiệp để ngài đại tá thả họ ra.

Nhưng lão cũng không thể ngăn được việc tăng thêm viện binh. Thị trấn Montelepre nhỏ như vậy mà bị hai ngàn lính trong Lực lượng đặc biệt tiễu phỉ của ngài đại tá quần suốt ngày đêm. Ba ngàn lính khác lung sục từng hòn đá, gốc cây trên núi. Số người dân tại thị trấn Montelepre, các thị trấn xung quanh và ngay cả tại Palermo được nếm cơm tù của ngài đại tá nay đã lên đến con số 700. Ngài đại tá “tận dụng” những quyền hạn đặc biệt mà chính quyền của đảng Dân chủ Thiên chúa giáo đã dành cho ngài. Trong giờ giới nghiêm từ chập tối cho đến sáng, dân trong thị trấn phải ở trong nhà, không được ra đường, nếu không có giấy thông hành đặc biệt. Ai vi phạm, nếm cơm tù ngay lập tức. Khủng bố. Bầu không khí ngột ngạt.

Ông Trùm bối rối quan sát tình hình, vì thấy ngọn gió đã xoay chiều bất lợi cho Guiliano.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Trước khi chính quyền Rome chơi bạo bằng cách thành lập Lực lượng đặc biệt tiễu phỉ, Guiliano vẫn ngang nhiên đi về Montelepre bất cứ khi nào nó muốn, coi lực lượng cảnh vệ địa phương có cũng như không. Lúc đó hắn thường trông thấy Justina Ferra. Thỉnh thoảng cô lại nhà hắn chơi, hoặc để nhận tiền mà Guiliano gởi, giúp đỡ ông bà già của cô. Thời gian đó, thật sự, Guiliano cũng chẳng dè trước được là lúc trổ mã cô nàng lại là một thiếu nữ lộng lẫy, nẩy lửa. Cho đến một ngày kia, hắn gặp cô nàng theo ông bà già đi mua sắm ở thủ phủ Palermo để chuẩn bị lễ kính nhớ Thánh bổn mạng của thị trấn. Ở thị trấn Montelepre heo hút kia thì làm gì có những thứ ngon lành. Đã thế, giá cả lại cao ngất trời xanh. Cái gì cũng tưởng như làm bằng vàng. Hôm đó, Turi và mấy tay em cũng đi mua sắm.

Cách hôm gặp gỡ ở Palermo sáu tháng, Guiliano không thấy lại cô nàng. Ai dè chỉ trong sáu tháng, như con nhộng lột xác thành con bướm rực rỡ, cô bé Justina trổ mã thành một cô gái đẹp rực rỡ. Thân hình dong dỏng cao, thon. So với tầm vóc trung bình của gái Sicilian vào tuổi đó thì cô nàng thuộc loại “trường túc”. Cặp giò thon, dài, dận trên đôi giày cao gót mới mua. Năm đó cô nàng mới ở tuổi trăng tròn lẻ. Nhưng cái khí hậu cận nhiệt đới của Sicily đã làm cho khuôn mặt và vóc dáng cô bé sớm trổ mã thành một cô nàng nom mơn mởn. Mái tóc đậm màu, buông xõa như dòng suối chảy gọn gàng theo ba chiếc kẹp có gắn cái gì đó nom như ba viên ngọc. Chiếc cổ cao, thon, nõn nà như cổ của bức tượng Ai Cập khắc họa trên các bình hoa. Đôi mắt to, ngây thơ, ngơ ngác con nai vàng. Bộ phận duy nhất trên khuôn mặt phản lại cái vẻ ngây thơ là cái miệng. Môi dưới hơi trề ra, nom đã thấy chất “ham muốn” rồi. Cô nàng mặc bộ đồ trắng, dải băng đỏ quấn ngang đầu.

Lúc đó – đối với Guiliano – cô bé là vẻ yêu kiều hiện thân bằng da thịt, đến nỗi, Guiliano nhìn đến lõ mắt ra hồi lâu. Hắn đang ngồi nhâm nhi ly cà – phê tại một quán ngòai trời. Cô nàng cùng với ông bà già tình cờ đi ngang. Nhìn thấy hắn đấy chớ. Nhưng, ông già tảng lờ như không thấy. Bà già liếc nhanh, chỉ có Justina là cứ ngó đăm đăm vào anh chàng. Tuy nhiên, cô nàng cũng đủ “chất Sicilian” để ngó thì ngó chớ chào thì không. Chào, lộ hết cả còn gì! Nhưng, coi thiên hạ như củ khoai, cô nàng cứ mắt anh chàng mà đá long nheo. Còn chàng như bị hớp hồn. Chàng thấy đôi mắt kia dường như hé nở nụ cười tủm tỉm. Trong ánh nắng trên hè phố Palermo, nàng lộng lẫy, chờn vờn trong ánh hào quang. Cái vẻ đẹp dữ dội, nảy lửa, “rất Sicilian” từ thuở nào tới giờ vẫn là sản phẩm độc đáo loại này! Từ ngày lao thân vùng vẫy trong chốn giang hồ, Guiliano vẫn không dám mơ tưởng, nhất là không dám tin cậy vào tình yêu. Đối với hắn, yêu là chấp nhận sự khuất phục. Và tình yêu là mầm mống của phản trắc, của lừa lọc. Và do đó, tình yêu đối với đàn bà con gái là con đường đưa người hùng đến chỗ suy bại. Nhưng, lúc ngồi ở quán cà – phê, nhìn thấy Justina, hắn cảm thấy một cái gì đó hoàn toàn mới lạ. Một cái gì đó đột nhiên chụp lấy hắn, ùa tràn và chạy rần rật khắp toàn thân, khiến cho hắn cảm thấy không thể không tự nguyện làm nô lệ cho cô nàng. Nhưng, hắn lại không nhận ra đó là tình yêu mà hắn thường đồng nhất với bóng dáng của tử thần.

Một tháng sau ngày gặp gỡ “dở chứng” ấy, hình ảnh của một Justina đứng chờn vờn trong vòng hào quang trên đường phố Palermo cứ lở vởn trước mắt và ám ảnh trí Guiliano. Hình ảnh ấy không mờ đi thì chớ, lại còn rõ nét thêm. Hắn tưởng đó là sự thèm khát khoái cảm nhục dục. Lâu rồi, hắn không còn được hưởng khoái cảm ấy với La Venera. Thế rồi, không những chỉ trong giấc ngủ hắn mới mơ thấy cảnh hoan lạc với nàng. Ngay lúc tỉnh thức, giữa ban ngày, ban mặt, hắn mơ được dắt nàng đi lang thang trên rặng núi, chỉ cho nàng cái hang núi này, cái khe núi kia mọc đầy hoa dại rực rỡ sắc màu, ngạt ngào hương bay, chia sẻ cùng nàng những món ăn nóng hổi trên các bếp lửa ngòai trời. Cây đàn ghi – ta còn để lại nhà. Thế mà nó vẫn mơ gẩy đàn cho nàng nghe. Hắn hình dung mình và nàng ngồi bên nhau thủ thỉ, cho nàng xem những bài thơ hắn đã làm trước kia, trong đó có bài đã được đăng báo. Hắn còn dám nghĩ đến chuyện liều lĩnh lẻn về Montelepre, đến tận nhà của nàng để được nhìn thấy nàng, mặc dầu Montelepre lúc này đầy cớm và cảnh vệ. Nhưng, hắn cũng kịp tỉnh ngộ để biết rằng hắn đang bị những hiểm nghèo vây bủa, rình rập. Và ước mơ đó thật điên khùng.

Vào thời gian này, Guiliano chỉ còn hai con đường để lựa chọn. Một là bị bọn cảnh vệ bắn chết. Hai là tìm được một chỗ ẩn thân bên Mỹ hay Brazin. Nếu cứ tiếp tục mơ tưởng đến cô nàng thì chuyện đi Mỹ là không thể có được. Bởi vậy, phải gạt bỏ hình ảnh cô nàng khỏi tâm trí. Hay là… dụ cô nàng trốn đi theo sang Mỹ. Nếu vậy, hắn sẽ trở thành kẻ tử thù của ông già cô ta. Sicilian là thế đó. Cheo cưới đàng hoàng. Nếu không, xin miễn. Không thể có chuyện dụ con gái nhà người ta, rồi tiền trảm hậu tấu. Không thể có chuyện khơi khơi dắt nhau đi cho đến khi con cái đề huề, rồi quay về lạy mẹ lạy cha. Ngay chính Guiliano cũng không chấp nhận vượt quá quyền ông bà già, rất ghét chuyện dụ dỗ con nhà lành. Guiliano rất “cổ điển”, rất “truyền thống” trong quan niệm gia đình. Vợ cái, con cột. Bất di bất dịch, chính hắn đã có lần quất Aspanu một trận nên thân về tội dụ dỗ gái tơ. Và cũng đã có ba thằng tay em của hắn bị xử tử về tội hãm hiếp. Hắn muốn Justina nghĩ về hắn như một người sẽ đem lại hạnh phúc cho cô nàng, hắn sẽ ân ái với nàng và nàng phải cảm phục hắn, nhìn hắn như hắn tự nhìn mình. Hắn muốn đôi mắt cô nàng tràn ngập tin yêu đối với hắn.

Đầu óc “chiến lược gia” của Guiliano làm gì mà chẳng giúp hắn tìm ra được giải pháp cho vấn đề. Giải pháp đó là bí mật cưới cô nàng. Không có ai ngoài cha mẹ đôi bên biết điều này. Dĩ nhiên, Aspanu và một vài tay chân thân tín nữa cũng được chia sẻ bí mật đó. Sau khi cưới nếu có cơ hội an toàn, nó sẽ “nháy” cô nàng vào trong hang núi sống với hắn vài ngày. Là vợ của Guiliano cũng có nghĩa là chấp nhận hiểm họa. Sau đó, hắn sẽ tìm cách đưa cô nàng sang Mỹ. Ở đó, cô nàng sẽ chờ đợi cho đén khi hắn trốn qua được.

Đó, giải pháp của Guiliano là vậy. Không hiểu Justina nghĩ sao.

Từ năm năm qua, lão Caesaro Ferra đã là thành viên bí mật trong băng của Guiliano. Tất nhiên, nhiệm vụ của lão không phải là đánh đấm, đâm chém. Lão thuộc ngành “văn”, chứ không phải ngành “võ”. Lão làm công tác tình báo. Tối ngày bí mật dò la theo dõi tin tức, rồi báo cho Guiliano. Vợ chồng lão Caesaro là chỗ quen biết với ông bà già của Guiliano. Hai nhà chỉ ở cách nhau mười căn. Guiliano là một thanh niên có học thức nhất trong số dân ở thị trấn Montelepre. Hắn không muốn thành một anh canh điền cổ cày vai bừa. Khi Justina còn là đứa con nít đánh mất tiền, nó đã cho tiền “đền” và còn viết vài hàng để con bé mang về nhà. Trong giấy ấy có hứa là cả gia đình sẽ được hắn bảo trợ. Nhận được giấy, lão Caesaro qua gặp ông bà già của Guiliano để cám ơn và tự nguyện được “giúp hắn một tay”. Lão dò la thu thập – trong và quanh vùng thị trấn Montelepre và ngay cả tại thủ phủ Palermo – những tin tức về hoạt động của bọn cớm, của các nhà giàu có máu mặt để Guiliano bắt cóc đòi tiền chuộc, phát hiện những tên làm chỉ điểm cho cớm… Mỗi lần bắt có thành công, lão cũng được chia phần “chiến lợi phẩm”. Lão mở một quán nhậu nho nhỏ. Vừa làm kế sinh nhai, vừa làm nơi moi tin và chuyển tin.

Khi Silvio Ferra giải ngũ về nhà trở thành đảng viên xã hội, lão Caesaro đã đuổi hắn ra khỏi nhà. Chẳng phải vì lý do gì quan trọng mà lão dứt tình cha con. “Để nó ở nhà, có ngày cả gia đình mang đại họa lây vì nó”. Lão không hề có ảo tưởng về nền dân chủ của các ngài chính khách của đảng Dân chủ Thiên chúa giáo. Khi Silvio bị sát hại, lão đã nhắc lại cho Turi lời hắn đã hứa bảo trợ cho gia đình lão, Turi hứa sẽ báo thù.

Lão Caesaro không bao giờ phiền trách Guiliano. Lão biết vụ tàn sát ở Portella đã làm cho Guiliano rất khổ tâm, rất buồn phiền và đến bây giờ vẫn còn day dứt. Lão biết điều này qua mụ vợ của lão, khi mụ cùng bà già của Guiliano chuyện vãn với nhau. Gia đình Guiliano sung sướng biết bao trong những ngày trước khi tai họa khủng khiếp xảy ra. Tức là ngày đứa con trai cưng của họ bị cớm bắn tưởng chết. May mà sống sót. Những vụ giết chóc do Guiliano gây ra từ trước đến giờ - theo lão Caesaro – đều là chính đáng, cần thiết hoặc ít ra cũng là bất đắc dĩ cả. Nhưng bà già của Guiliano vẫn cứ áy náy về từng vụ. Khi xảy ra vụ Portella, lão Caesaro để tâm dò la manh mối, lão quyết phanh phui cho bằng được điều bí ẩn ở Portella. Phải chăng Passatempo đã điều chỉnh sai tầm súng? Phải chăng thằng đồ tể hóa sát khát máu ấy bắt chết đàn bà con nít cho sướng tay? Có thể có một bọn khác không phải là người của Guiliano đã thực hiện cái việc tàn sát ác nhân ác đức ấy để làm ô danh hắn? Nếu vậy, bọn đó là tay chân của Ông Trùm Croce hay là bọn cớm? Không ai thoát khỏi sự nghi ngờ của lão Caesaro, từ Guiliano. Bởi vì, nếu đến như Guiliano mà cũng còn như vậy nữa thì – theo lão – thế giới này hết thuốc chữa. Lão thương Guiliano như thương con mình. Lão đã nhìn thấy hắn từ lúc hắn còn là đứa trẻ ở truồng cho đến lúc hắn trở thành một nhân vật tiếng tăm lừng lẫy. Chưa bao giờ lão thấy hắn tỏ ra táng tận lương tâm, xấu xa, độc ác, đểu cáng, háo sát.

Lúc nào lão Caesaro cũng tai tỉnh mắt tinh, không để lọt một lời nói, một cử chỉ vô tình của khách nhậu. Lão cung cấp đồ nhậu cho những thủ hạ bí mật của Guiliano chưa bị đại tá Luca tống giam. Lão chăm chú ghi nhận từng chi tiết cỏn con, vu vơ, không đâu của đám “Người anh em”, tay chân bộ hạ của lão Croce vẫn thỉnh thoảng đến đây – trong lúc nhâu nhẹt, đánh bài – đã hớ hênh xì ra. Có một đêm, lão đã nghe thấy chúng cười nói bàn tán với nhau về việc thằng “súc sinh” và thằng “quỉ sứ” đã bí mật đến gặp Ông Trùm. Và thằng già “lựu đạn” này đã gạ gẫm và mua chuộc hai thằng côn đồ, cốt đột này thành tay sai, chỉ điểm cho lão.

Lão Caesaro nghiền ngẫm về những chi tiết cỏn con ấy. Với đầu óc tinh quái và một tay Sicilian thứ thiệt, lão rị mọ chắp nối, sắp xếp những chi tiết cỏn con, vu vơ, rời rạc, vụn vặt ấy thành một câu chuyện có đầu đuôi mạch lạc. Do đó, chỉ với một vài điều bang quơ do bọn kia vô tình xì ra, lão đã suy ra thành một câu chuyện như thế này. Passatempo có hỗn danh là đồ tể thì trong câu chuyện của lũ kia, nó mang cái tên là thằng “súc sinh”, Andolini có biệt danh là “thầy dòng” thì trong câu chuyện được gọi là quỉ sứ. Có thế chứ! Villaba cách xa Montelepre như vậy thì hai tên này bí mật mò đến đó làm gì? Và chúng đã nói năng gì, thỏa thuận gì trong những lần gặp gỡ bí mật ấy? Lão đã sai thằng nhóc mười tuổi, con lão, đến nhà bà già Guiliano để nhắn cho Guiliano có tin khẩn. Hai ngày sau lão được Turi hẹn gặp trên núi. Lão đã kể cho Guiliano đầu đuôi câu chuyện mà lão đã xây dựng được. Guiliano lắng tai nghe, nhưng không tỏ ra một chút xúc động nào. Hắn chỉ thề sẽ tìm mọi cách để phát hiện cho bằng được điều bí mật ấy.

Bẵng đi ba tháng, Ferra không nghe thấy Guiliano nhắc nhở gì đến vụ ấy. Lão đã tưởng Guiliano cũng đã bỏ qua, sau khi dò tìm không ra manh mối. Bỗng một hôm lão được Guiliano nhắn mời lên núi. Lão hồi hộp và khấp khởi mừng thầm, vì chắc đã được nghe đoạn kết của câu chuyện do chính lão bắt đầu.

Guiliano và đồng đảng – trong giai đoạn này – phải rút sâu vào trong núi để tránh sự uy hiếp trực tiếp và thường xuyên của đại tá Luca. Caesaro phải đi ban đêm. Gặp Pisciotta tại điểm hẹn. Sau đó được dẫn tới “bản doanh” của Guiliano. Mãi đến gần sáng họ mới tới nơi. Có bữa ăn nóng chờ họ. Thức ăn ngon được bày ra trên bàn có trải khăn đàng hoàng. Bộ đồ ăn mạ bạc. Turi mặc áo lụa trắng. Quần nhung màu nâu da bò. Chân mang giày da đánh xi bóng lộn. Tóc chải sáp láng bóng. Chưa bao giờ nó diện bảnh như hôm nay.

Pisciotta rút lui để hai người nói chuyện với nhau. Guiliano coi bộ có một cái gì đó có vẻ ngượng nghịu không thoải mái tự nhiên và thân mật như mọi lần. Hình như hắn đang ốm.

- Cháu cám ơn bác đã cung cấp những tin tức quí báu, rất quan trọng – Guiliano trịnh trọng nói, - cháu đã theo dõi, điều tra. Và quả đúng như vậy. Rất quan trọng. Nhưng, hôm nay cháu mời bác đến để bàn một chuyện khác. Điều cháu sắp thưa với bác chắc sẽ làm cho bác ngạc nhiên và cháu mong sẽ không làm phiền lòng bác.

Lão Caesaro giật mình, nhưng lão cũng nói một cách nhũn nhặn:

- Anh nói quá chăng. Có bao giờ anh làm phiền tôi đâu. Tôi còn mang ơn anh thì có.

Guiliano mỉm cười. Nụ cười cởi mở, thành thật mà lão đã nhìn thấy ở hắn từ lúc nó còn bé.

- Bác nghe cho kỹ này. Cháu thưa với bác bước thứ nhất đã. Nếu bác không thuận thì cháu xin phép khỏi phải nói bước kế tiếp. Và cũng xin nói rõ, cháu nói chuyện này không phải trong cương vị chỉ huy. Và bác thì không phải trong tư cách thuộc cấp mà là trong tư cách người cha của cô Justina. Chính bác cũng đã biết là cô ấy rất đẹp. Và cũng đã có vô khối cậu lượn tới, lượn lui trước cửa nhà bác. Cháu cũng biết là hai bác đã dạy dỗ cô ấy rất đàng hoàng. Và cô ấy cũng là người đứng đắn, gia giáo. Phải nói, đây là lần đầu tiên cháu cảm thấy như… Cháu muốn cưới cô ấy làm vợ. Nếu như bác từ chối, cháu cam đoan với bác, đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng cháu đề cập đến vấn đề này với bác. Sau này, cháu không bao giờ nhắc đến nữa. Và bác vẫn cứ được cháu trọng vọng, kính nể như từ trước đến nay. Và cô ấy cũng vẫn được cháu đặc biệt bảo trợ. Nếu bác trả lời “được”, cháu sẽ tiến bước thứ hai là sẽ hỏi xem cô ấy có thuận không. Nếu cô ấy trả lời “không”, thì lại coi như không có vấn đề gì.

Lão Caesaro nghe mà trong lòng bối rối quá chừng. Đến nỗi lão ta cứ lắp bắp mãi:

- Để tôi nghĩ coi, để tôi nghĩ coi…

Rồi, lão làm thinh một hồi lâu. Khi lão cất tiếng nói, thì cũng vẫn nhũn nhặn. Và có lẽ còn nhũn nhặn hơn trước nữa:

- Em nó được anh thương đến thì còn gì bằng nữa. Cứ ý tôi thì có đến mòn con mắt ra nó cũng sẽ chẳng tìm được đâu ra một tấm chồng bằng anh. Thằng Silvio nhà tôi – nếu nó còn sống – chắc chắn nó cũng sẽ bằng lòng. – Rồi, lão lại lắp bắp: - Tôi lo là lo sự an nguy của em nó kìa. Nếu biết Justina là vợ anh, thế nào thằng cha đại tá Luca cũng tìm mọi cách bắt giam nó, hoặc dùng nó làm mồi để bẫy anh. Mà ngay cả đám Mafia – anh cũng biết hiện chúng đang thù anh đến tận xương tận tủy – cũng sẽ chẳng để nó yên thân. Phần anh – nói anh bỏ quá cho – anh chỉ có hai đường hoặc trốn sang Mỹ, hoặc bỏ xác trên núi này. Em nó còn trẻ quá mà phải cảnh góa bụa. Tôi không đành lòng. Tôi rất thành thật với anh, thương anh và thương con mà nói như vậy, mong anh bỏ qua cho. Có nó, đời anh thêm vướng víu, bận bịu. Cái đó là cái làm cho tôi lo hơn cả. Một chú rể mà lúc nào cũng phải nơm nớp đề phòng cạm bẫy kẻ thù thì làm sao mà sung sướng được. Cuộc hôn nhân này có thể dẫn anh đến chỗ chết. Ấy, chẳng qua là vì tôi quá thương quá quí anh mà phải nói thẳng, nói thật nên hóa ra nói năng càn rỡ chăng. Nếu cứ để đến lúc tương lai của anh ngã ngũ ra sao thì hãy tính, chắc là hay hơn. – Nói xong lão nhìn thẳng vào mắt hắn xem hắn có vẻ phật ý không. Nhưng lão thấy mặt nó ỉu xì. Rõ là mặt của một anh chàng thất tình. Lão cảm thấy có một cái gì đó trong lòng lão thôi thúc, bắt buộc lão phải nói thêm:

- Nói vậy không phải là tôi kiếm cớ để thoái thác, từ chối đâu.

Guiliano thở dài:

- Cháu cũng đã nghĩ đến tất cả những cái đó. Kế hoạch của cháu là thế này. Cháu sẽ bí mật cưới Justina. Cha bề trên Manfredi sẽ làm phép hôn phối cho chúng cháu. Phép cưới sẽ cử hành ngay trên núi này. Bất cứ ở một nơi nào khác cũng sẽ vô cùng nguy hiểm cho sinh mạng của cháu. Nhưng cháu sẽ sắp xếp để cả hai bác đến đây dự lễ cưới. Sau đó, sau đó cô ấy sẽ ở lại đây với cháu vài ba ngày. Rồi cháu sẽ lại gửi cô ấy về nhà. Nếu chẳng may cô ấy thành góa bụa, thì cháu cũng đã dành được một món tiền đủ để cô ấy sống cả đời. Hai bác khỏi lo cho tương lai cô ấy. Thương cô ấy, cháu sẽ phải chắt chiu, chăm chút bảo vệ cổ cả đời chứ. Nếu tình hình trở nên tệ hơn, cháu lại càng phải lo cho tương lai cổ hơn. Lấy một thằng như cháu làm chồng, thì quả là quá ư liều lĩnh thật. Một người cha khôn ngoan và thương con cái như bác thật có lý để không cho con mình liều lĩnh như vậy.

Lão Caesaro hết sức xúc động. Anh chàng này nói năng thật mộc mạc, đơn giản. Nhưng thẳng thắng và chắc nịch, và cũng hết sức tha thiết. Và trên hết, nó đi thẳng vào vấn đề. Không vòng vo tam quốc. Cũng không úp úp mở mở gì cả. Hắn đã dự kiến hết. Kể cả những tình huống xấu nhất. Lão đứng dậy, ôm hôn hắn:

- Thật là hân hạnh cho tôi quá. Để tôi sẽ nói với em nó.

Trước khi ra về, lão Caesaro cho biết lão rất sung sướng nếu cái tin mà lão đã cung cấp quả là có ích và giải thoát được tiếng oan cho hắn. Và lão ngạc nhiên trước sự thay đổi trên gương mặt Guiliano. Đôi mắt mở lớn ra. Cứ nhìn bâng khuâng. Khuôn mặt đẹp trai đanh lại và lạnh như đá cẩm thạch.

- Cháu sẽ mời cả hai – Andolini và Passatempo – dự lễ cưới. Sau đó, cháu sẽ tính.

Chỉ mãi sau này lão Caesaro mới hiểu ra tại sao kỳ cục vậy. Đám cưới mà lại phải làm bí mật, lén lút.

Ở Sicily, chẳng có gì là chướng, là bất thường khi một cô gái, cho đến lúc lấy chồng, vẫn chưa có một lần gặp gỡ riêng người mà cô sẽ lấy làm chồng. Tục lệ ở đây vẫn đòi hỏi khắt khe một người con gái chưa chồng – khi ra khỏi nhà – phải luôn luôn làm thế nào để đàn ông không được nhìn thẳng mặt mình. Nếu thấy chỉ thấy được nửa mặt thôi. Không được phơi cái mặt lồ lộ khi ra đường. Nếu không, sẽ bị coi là gái buông tuồng, không đứng đắn. Trai gái cũng không có chỗ nào khác để gặp nhau “hợp pháp” ngoài khu vực nhà thờ. Ở đó, lúc nào các cô cũng được Đức Thánh Nữ Đồng Trinh Mary bảo vệ và được đôi mắt chăm chú của bà “sơ” già trông chừng. Nếu anh chàng nào chỉ mới nhìn nghiêng một em mà đã thấy mết rồi, và muốn tâm sự dài dòng thì phải viết thành những bức thư nói rõ ý định của mình. Đây là vấn đề đứng đắn quan trọng. Bởi vì chỉ cần làm không hợp pháp, thì cũng đủ để sinh chuyện đổ máu. Có những tay viết thư chuyên nghiệp đã được mướn để viết những bức thư như vậy. Ăn nói láng cháng, hoặc lời lẽ tối tăm, không rõ ràng minh bạch là có thể có đám ma thay vì đám cưới. Bởi vậy, trường hợp Guiliano ngỏ lời trực tiếp và thẳng thừng với ông bố Justina chẳng có gì là bất thường, ngoại trừ trường hợp không có dấu hiệu gì cho thấy anh chàng đã “nhắm” em bé đó từ trước.

Lão Caesaro cũng biết trước câu trả lời của cô nàng sẽ là “thuận”. Lúc còn bé, mỗi khi cầu kinh tối có bao giờ cái miệng leo lẻo của nó quên đọc trơn tru câu “Xin Chúa gìn giữ Turi Guiliano khỏi tay bọn cớm”. Lúc nào nó cũng xăng xái đem tin đến hoặc kiếm chuyện để đến nhà của bà già thằng kia. Và khi biết tin có đường hầm thông từ nhà Guiliano sang nhà La Venera, con bé làm như hóa khùng. Lúc đầu, ông bà già nó cứ tưởng là con nhỏ tức điên lên vì ông bà già của Guiliano – mà nó rất quí mến – bị bắt. Về sau hai ông bà mới hiểu. Thì ra cô nàng ghen.

Biết trước câu trả lời, nên khi nghe con bé trả lời “chịu” Caesaro không ngạc nhiên. Điều làm cho lão ngạc nhiên là cái cách nó tiếp nhận tin đó. Nó mỉm cười tinh quái. Cứ như thể chính nó đã sắp đặt để “chài” thằng kia. Và nó đã bẫy được.

Phía sâu trong các dãy núi có một lâu đài – đúng hơn là một pháo đài – do người Viking phương Bắc xây cách đó hàng ngàn năm trước, nay đã hoang phế. Guiliano quyết định làm đám cưới và hưởng tuần trăng mật ngay tại đó. Để cặp tân hôn không bị quấy nhiễu bởi những cuộc đột kích bất ngờ, Guiliano đã ra lệnh cho Aspanu lập một vành đai an ninh và phòng thủ.

Rời tu viện trên một chiếc xe lừa kéo, kế đó, cha bề trên Manfredi được cáng đến nơi. Ngài rất ngạc nhiên khi thấy bên trong khu lâu đài này lại có một nhà nguyện riêng. Tất nhiên những bức tượng có giá trị và các đồ gỗ đã bị đánh cắp từ hồi nảo hồi nào. Nhưng tảng đá được dùng làm bàn thờ nom vẫn đẹp. Thực ra, Cha bề trên cũng không ưng ý lắm việc Guiliano lấy vợ. Nhưng khi phép thánh đã ban xong rồi, ngài mới vui miệng nói đùa với nó: - Guiliano, con nên lưu ý đến châu châm ngôn này: “Chơi một mình thì khỏi sợ thua”.

- Nhưng, con cũng phải nghĩ đến hạnh phúc riêng của con chứ, - Guiliano cười đáp. Sau đó hắn nhắc lại câu tục ngữ của dân nhà quê mà Cha bề trên cũng lấy làm thích thú. Đó là: “Thánh thiện đến như Joshep mà cũng lo cạo râu cho mình, rồi sau đó mới cạo râu cho các thánh khác”. Câu nói đó làm cho cha bề trên khoái chí cười ha hả. Ngài lật mũ xuống, lấy ra chứng thư hôn thú đã viết sẵn và giấu trong đó. Ngài cầm vào trao cho Guiliano. Đó là một ấn chỉ rất đẹp, chữ in kim nhũ theo lối viết bay bướm kiểu Trung cổ.

- Chứng thư hôn thú này đã được ghi vào sổ của tu viện. Nhưng con cứ yên trí, không ai được xem sổ này đâu.

Cô dâu và ông bà nhạc đã cưỡi lừa đến từ đêm hôm trước. Họ ở trong một phòng của tòa lâu đài đã được thủ hạ của Guiliano dọn dẹp quét tước sạch sẽ. Có giường bằng tre, trải nệm rơm. Guiliano cảm thấy hơi buồn vì ông bà già hắn đã không dự lễ cưới của hắn được. Người của đại tá Luca bám sát họ. Thủ hạ của Guiliano chỉ có Aspanu Pisciotta, Stefan Andolini, thầy cai Canio Sylvestro, Passatempo và Terranova được mời dự lễ cưới. Justina mặc bộ áo cưới trắng tinh đặt may tại Palermo. Cô nàng nhìn anh chàng, mỉm cười. Guiliano choáng váng, ngây ngất vì nụ cười rạng rỡ ấy. Cha bề trên làm lễ vắn tắt. Sau đó tất cả kéo ra bãi cỏ trước tòa lâu đài. Bàn ăn đã dọn sẵn. Cũng thịt, cũng bánh, cũng rượu. Tất nhiên là không ê hề, sang trọng. Họ uống mừng cô dâu chú rể. Tiệc cưới “thời chiến”, trong tinh thần khẩn trương, nên các thực khách cũng làm lẹ lẹ. Cuộc trở về của cha bề trên vừa dài vừa nguy hiểm. Họ lo là bất thình lình bị toán tuần tiễu của cảnh vệ chộp được. Hoặc có thể bị kẹt giữa hai lằn đạn của cảnh vệ và của chính các tay em của Guiliano. Vì nhiều lý do nên cha bề trên muốn quay về gấp gấp. Nhưng Guiliano đã giữ ngài lại một chút:

- Con xin cám ơn Cha về những gì Cha đã ban cho con. Nhất là những gì Cha đã làm cho con ngày hôm nay. Nhân ngày cưới của con, con cũng xin được đền đáp công ơn của Cha, dưới một hình thức hơi khác lạ. Tuy nhiên, muốn vậy, con phải được sự giúp đỡ của Cha.

Cha bề trên và Guiliano tách ra khỏi bàn và nói nhỏ với nhau một chút. Cha bề trên gật đầu.

Justina ôm hôn cha mẹ. Đưa đôi mắt khẩn khoản, bà mẹ nhìn cô nàng, rồi nhìn Guiliano. Justina thì thầm cái gì đó vào tai bà mẹ khiến bà bỗng bật cười. Lại ôm hôn lần nữa trước khi ông bà lên lưng lừa ra về.

Cô dâu chú rể động phòng tại phòng ngủ của tòa lâu đài hoang phế. Căn phòng trơ trọi không có đồ đạc gì. Nhưng Guiliano cũng cho chở đến đấy một tấm nệm nhồi lông ngỗng và bọc bằng lụa. Mền, gối đủ lệ bộ. Tất cả đều được đặt làm tại Palermo. Ngay trong phòng ngủ có một bồn tắm lớn làm bằng thạch cao. Tất nhiên là không có vòi nước. Nhưng, đích thân Guiliano xách nước từ dòng suối trong veo chảy gần đó đổ đầy bồn. Trong phòng tắm có đủ thứ hết. Từ xà – phòng thơm cho đến dầu thơm thứ cực kỳ đắt giá mà từ nhỏ đến giờ đây là lần đầu tiên Justina mới được nhìn thấy.

Lúc đầu, thấy mình trần truồng bên cạnh một người đàn ông, cô có vẻ ngường ngượng, thèn thẹn. Nằm nghiêng, co giò, hai tay nhét vào giữa cặp đùi kẹp chặt. Làn da mịn, hây hây. Cô nàng trông có vẻ mảnh khảnh, nhưng bộ ngực tròn trịa, căng phồng, nảy lửa. Khi được chàng hôn, cô hơi nghiêng đầu để môi chàng chỉ đủ chạm môi mình. Không vồ vập. Không “háu”. Anh chàng vẫn kiên nhẫn, không phải cái thứ kiên nhẫn của một tay dày dạn kinh nghiệm trong chiến trận dập liễu vùi hoa. Nhưng là cái kiên nhẫn của bậc thầy về du kích chiến. Nàng hất mái tóc đậm màu của mình ra phía sau. Chàng vuốt tóc nàng, thủ thỉ nói cho nàng nghe cái cảm tưởng khi, lần đầu tiên, ở Palermo, chàng “khám phá” ra nàng. Nghĩa là thấy nàng như một cô gái mơn mởn, chứ không còn là cô bé loắt choắt nữa. Chàng đột nhiên thấy nàng đẹp biết chừng nào! Chàng đọc cho nàng nghe những bài thơ chàng đã làm khi mình trơ trọi trên núi, lòng mơ tưởng đến sắc đẹp của nàng. Nàng nằm duỗi dài ra, nhưng lại lấy mền phủ lên thân thể. Chàng nằm bên cạnh. Nhưng nàng vẫn tránh đôi mắt của chàng.

Justina cũng nói cho chàng nghe nàng đã yêu chàng như thế nào. Yêu ngay từ lúc đem bức thư của Silvio Fera đến cho chàng. Yêu lập tức. Yêu mê say. Yêu cuồng nhiệt. Nàng cảm thấy như tim mình tan nát khi chàng không nhận ra nàng là cô bé gái năm xưa ngồi khóc ti tỉ bên đường vì bị cớm cướp mất tiền. Nàng nói, ngay từ lúc còn nhỏ xíu đó, đêm đêm nàng vẫn cầu nguyện cho chàng. Và lúc mới mười hai tuổi nàng đã yêu chàng mê mệt.

Turi cảm thấy hạnh phúc tràn ngập khi nghe nàng nói như vậy. Thì ra trong lúc chàng tưởng mình trơ trọi, cô đơn trên núi, thì ở Montelepre nàng đã yêu, đã mơ, đã tưởng nhớ đến chàng. Chàng vuốt tóc nàng. Nàng đưa tay nắm chặt lấy tay chàng. Bàn tay ấm áp, mềm mại, nhỏ xinh không nắm kín được tay chàng.

- Em có ngạc nhiên khi anh nói với cha em xin cưới em không?

- Sức mấy mà ngạc nhiên. Kể từ lúc anh nhìn em ở Palermo, em đã biết. Đâu cần phải nói, em cũng đã chuẩn bị để… là của anh rồi!

Chàng cúi xuống. Gắn chặt môi mình vào môi nàng. Lúc đó, nàng không nghiêng, không né nữa. Chàng ngạc nhiên vì hương vị ngọt ngào từ miệng nàng, từ hơi thở của nàng, từ làn da thịt săn mịn của nàng. Lần đầu tiên trong đời, chàng cảm thấy thân thể mình mềm nhũn, như tan chảy ra. Nàng quăng tấm mền đắp lên người ra. Áp sát vào chàng. Hai tay ôm chặt lấy chàng. Da thịt áp sát vào da thịt. Hai thân thể như tan hòa vào nhau. Hòa nhập làm một. Chàng cảm thấy thân thể nàng hòan toàn khác hẳn những thân thể mà chàng đã từng ôm ấp. Nàng nhắm mắt lại.

Turi hôn tới tấp như mưa vào môi, vào ngực nàng. Làn da nóng hổi như muốn đốt cháy đôi môi chàng. Chàng choáng váng ngây ngất vì hương vị từ da thịt nàng. Ngọt ngào. Chưa hề vương vấn hệ lụy cuộc đời. Còn tươi trẻ. Và hoàn toàn không có bóng dáng sự tàn lụi, chết choc. Chàng đưa tay ve vuốt cặp đùi nàng. Bàn tay mơn man trên là da mịn màng làm cho chàng thấy run lên như có làn điện truyền qua, chạy khắp thân thể và làm cho chàng có cảm giác như là đau đau. Nhưng, chàng kinh ngạc vì cảm giác ấy lại làm cho chàng phá lên cười lớn tiếng. Nàng vội vã lấy tay bịt miệng chàng, cầm tay chàng đặt lên đùi mình. Chàng cảm thấy đê mê như mất hết cảm giác. Chàng ghì chặt nàng bằng một đam mê bốc lửa. Lúc đầu nàng đã đáp lại bằng ve vuốt nhè nhẹ, từ từ, hơi có vẻ dè dặt. Nhưng sau đó, nàng cũng như một đám lửa bùng cháy lên. Dữ dội.

Đến lúc rạng đông, Justina nằm lăn ra ngủ.

Nàng tỉnh dậy thì mặt trời đã lên gần đỉnh đầu. Bồn tắm nước đã đầy. Thùng đựng nước bên cạnh cũng đầy. Không thấy Turi đâu. Một mình, Justina cũng cảm thấy sờ sợ. Nàng vào nhà tắm, tắm rửa.

Bên ngòai, mặt trời tháng năm chói lọi như đổ lửa. Nhưng gió đã làm dịu không khí nóng. Trên bàn ăn, thức ăn đã bày sẵn. Turi đã ngồi chờ ở đó. Không có ai, Justina chạy lại, ôm chầm lấy Guiliano và hôn say sưa. Nàng cám ơn chàng đã dọn cơm. Nhưng lại trách chàng đã không đánh thức nàng dậy sớm để lo cơm nước. Một người đàn ông cặm cụi nấu nướng để cho bà vợ nằm ngủ là điều chưa bao giờ nghe thấy ở Sicily.

Hai người ăn uống ngoài trời. Bao quanh họ, phía xa xa đã có bức tường thành đổ nát của tòa lâu đài hoang phế. Bên trên họ, ngọn tháp sừng sững. Họ lững thững dắt tay nhau ra vườn. Những cây ôliu cổ thụ, những gốc chanh, cam dại mọc rải rác. Nơi nơi, hoa dại nở rực rỡ. Hoa cô phúc thọ trắng muốt điểm những vết đỏ thắm. Theo truyền thuyết, loài hoa ấy là hiện thân kết cục bi thảm của mối tình nồng cháy giữa thần Vệ nữ và thần Andonises. Guiliano ôm choàng ngang lưng Justina, lững thững bước ra phía ngoài tường thành đổ nát. Mái tóc nàng, thân thể nàng như đượm mùi hương hoa dại. Đi ngang lùm cây ôliu, Justina nũng nịu dìu chàng ngồi xuống. Họ say sưa ân ái ngay giữa trời, trên thảm cỏ hoa đồng nội. Trên trời xanh trong vắt, một áng mây trắng lờ đờ trôi. Xung quanh họ, những cánh bướm sặc sỡ rập rờn.

Ngày thứ ba và cũng là ngày cuối cùng Justina ở lại với Guiliano, họ nghe thấy tiếng súng từ xa vọng về. Justina hốt hoảng, sợ hãi. Guiliano trấn an nàng. Chàng đã sắp đặt rất kỹ lưỡng, cẩn thận để trong ba ngày này không xảy ra một bất trắc nào. Ngay trong chỗ họ đang ở, Guiliano cũng làm thế nào để không gợi lên trong lòng Justina ý nghĩ và hình ảnh chết choc, bạo lực. Súng, chàng giấu trong kẽ khối đá làm bàn thờ. Chàng dặn những người canh gác phải ở thật cách xa và không xuất hiện với vũ khí để Justina nhìn thấy. Không phải là chàng khinh suất, thiếu cảnh giác. Chàng chỉ sợ trong lúc đang du dương, nghe thấy súng, nàng giật mình, nghĩ ngợi vẩn vơ. Một lát sau khi nghe thấy tiếng súng nổ, Aspanu Pisciotta xuất hiện. Con thỏ rừng máu me bê bết vắt vẻo trên vai. Justina cười:

- Có một con thỏ mà bắn chi dữ vậy, ông mãnh?

Ném con thỏ xuống chân Justina, Aspanu đủng đỉnh đáp:

- Làm cho thằng chồng mày ăn đi. Món khoái khẩu của nó đấy. Ở đó mà một con. Có quyền nấu hư con này. Hai chục con nữa cũng có.

Justina cúi xuống, nhặt con thỏ đem làm thịt. Pisciotta ngoắc tay ra hiệu cho Guiliano đi theo y. Hai đứa đi ra khỏi cổng lâu đài, ngồi xuống trên một tảng đá.

- Nè, Turi, - Pisciotta nói, giọng có vẻ cằn nhằn, - liệu con nhỏ ấy có đáng để tụi mình phải liều mạng vậy không?

- Hiện nay tao đang ngụp lặn trong hạnh phúc, - Guiliano trầm giọng, đáp. – Nhưng thôi, nói tao nghe hai chục con thỏ mày vừa bắn hạ được đó.

- Một tóan tuần tiễu. Thứ dữ của thằng cha Luca. Hai xe võ trang hạng nặng. Tụi tao chặn nó ở vành đai an ninh, lừa cho một xe chạy vô bãi mìn. Ầm một phát. Trúng liền. Chiếc xe bốc cháy như đuốc. Mấy con trên xe, nếu không đi đứt ngay thì cũng bị thương, không lết được, dù còn sống cũng bị thui. Xe kia vội de gấp. Chạy có cờ mà vẫn bắn ào ào. Tội nghiệp mấy tảng đá. Sáng mai, thế nào tụi nó cũng quay lại. Để hốt xác đồng đội chứ. Và, chắc chắn là đông. Nặng đó, cha. Bởi vậy, tao đề nghị, ngay tối nay tụi mình dời đó.

- Sáng mai ông già của Justina đến đây đón nó về. Mày đã thu xếp điểm hẹn chưa?

- Rồi.

- Sau khi vợ tao về rồi, - Thấy Guiliano lắp bắp, bẽn lẽn nói khẽ tiếng “vợ tao”, Pisciotta cười. Guiliano cũng mỉm cười theo và tiếp. - … Mày bảo mấy thằng kia vô chỗ nhà nguyện. Ở đó, tụi mình sẽ tính. – Im lặng một chút, hắn nói tiếp: - Mày có ngạc nhiên khi tao vạch trần sự thật vụ Portella della Ginestra không?

- Ngạc nhiên đếch gì!

- Mày ở lại ăn tối với tụi tao?

- Để mừng đêm tân hôn cuối cùng của mày đấy hả? – Pisciotta lắc đầu. – Mày có biết câu ngạn ngữ này không?

Coi chừng dâu mới làm cơm

Thơm ngon chưa thấy, tai ương gần kề.

Câu ngạn ngữ ấy ám chỉ sắc đẹp giai nhân đã khiến cho biết bao anh hùng vương lụy. Trầm ngâm, Pisciotta khẽ nói tiếp, như thể nói với chính mình:

- Thê tróc, tử phọc. Cổ nhân đã dạy. Mấy khi sai? Con là cái nợ. Vợ là oan gia. Cửa nhà là nghiệp chướng!

Thâm thúy khiếp chưa. Triết lý sống, nhân sinh quan của ông ranh Pisciotta là thế đấy. Guiliano mỉm cười:

- Tao biết. Sự thể này không thể kéo dài. Dĩ nhiên. Mình sẽ phải sống cách khác. Mày ráng giữ vững an ninh vành đai cho đến sáng mai. Cho đến lúc tụi mình đâu đó mọi việc thu xếp xong.

Pisciotta gật đầu. Nó liếc mắt về phía đống lửa, Justina đang lúi húi làm cơm.

- Con nhỏ đó đẹp ác. Coi, nó đẹp rực rỡ ngay trước mũi tụi mình từ hồi nào tới giờ, mà sao giờ này mình mới phát hiện ra, nhỉ? Mà này, ông già nó nói là nó có máu sư tử đó. Coi chừng. Chớ để súng liền tay nó. Có ngày!

Nhận xét và khuyến cáo của Pisciotta không ra ngòai truyền thống của mấy anh nhà quê ma mãnh. Nhưng Guiliano tảng lờ, làm như không nghe thấy. Pisciotta nhẹ nhàng chạy len lỏi qua những gốc ôliu, thoăn thoắt nhảy qua bức tường thành đổ nát, rồi mất hút trong đám ôliu khác.

Justina kiếm mấy bông hoa dại, cắm vào cái bình cũ mèm, sứt mẻ lượm được đâu đó trong khu lâu đài. Vậy mà bông hoa cũng làm cho bàn ăn có vẻ trịnh trọng. Trên bàn, nàng dọn những món ăn vừa nấu. Thịt thỏ rô – ti, xốt cà chua nêm tỏi. Một đĩa xa – lát trộn dầu ôliu. Chai rượu vang đỏ. Nàng thấy Turi có vẻ như hơi bứt rứt, buồn bực. Nàng đoán có lẽ là do mấy tiếng súng nổ hồi nãy. Cũng có thể là do Pisciotta với nét mặt hắc ám, khẩu súng lục đen sì – đã làm vẩn đục chốn bồng lai của nó.

Đôi lứa ngồi đối mặt. Ăn uống chậm rãi. Guiliano thầm nghĩ: “Cô nàng nấu ăn không phải là dở”. Nàng rót thêm rượu, gắp thêm thức ăn, bẻ thêm bánh mì… cho đức lang quân. Rõ ra là một người vợ hiền. Bà già rèn kỹ thiệt. Guiliano để ý, cô nàng – tuy không phải bợm – nhưng ăn nhậu cũng không phải hạng xoàng. Cũng đúng thôi. Thân hình ấy, tuy chưa thể gọi là “vâm”, nhưng cũng đâu phải là loại mình ve, xác hạc. Nàng ngước mắt nhìn chàng đang đăm đăm nhìn mình, rồi toét miệng cười.

- Ngon bằng bà già anh nấu không?

- Hơn chứ! Nhưng, chớ có nói với bà vậy, nghen!

Cô nàng vẫn cúi lom lom nhìn chàng. Như mèo rình chuột.

- Ngon bằng Le Venera nấu không?

Turi coi vậy, chớ hồi nào tới giờ đã làm gì có mối tình đầu, tình cuối nào. Có yêu thương mèo mỡ nhí nhố bao giờ đâu. Mới lớn lên thì đã sống “đời giang hồ” rồi. Một mình, cu ki với mấy thằng đực rựa cũng như mình. n*ng lên thì đã có chị em ta. Cùng lắm thì dành “chị Năm” vậy. Bởi vậy, câu hỏi của Justina thật bất ngờ khiến anh chàng bối rối không thể ứng đối tức khắc và trôi chảy được. Tuy nhiên, đầu óc chiến lược gia mà, đời nào chịu bí. Hắn thấy ngay cả một chuỗi những câu hỏi tiếp theo câu hỏi: “La Venera nấu ăn có ngon không. Chẳng hạn, “vui vẻ” với La Venera có đã không. Vân vân và vân vân. Guiliano không muốn nghe và không muốn trả lời những câu hỏi như vậy. Nó không khinh rẻ, không coi như điếm, nhưng dứt khoát là khỏi có cái chuyện yêu đương mụ nạ dòng đó. Gọi là dịu dàng và kính trọng đối với La Venera thì có, chứ yêu đương thì không. La Venera, một người đàn bà đã phải chịu nhiều đau khổ phải qua nhiều kinh nghiệm thương đau, phải chứng kiến nhiều thảm kịch. Một cô gái hơ hớ, mới lớn như Justina làm sao mà hiểu được tình cảnh và thân phận của một người đàn bà như vậy.

Justina đứng lên dọn bàn. Nhưng vẫn chần chờ. Đợi câu trả lời của chàng. Guiliano mỉm cười, nhìn vợ:

- La Venera là một tay nấu ăn tuyệt vời. Sức mấy mà em đòi sánh với chị ấy.

Chiếc đĩa bay vút qua đầu Guiliano. Anh chàng không nín cười được. Chàng cười vui vẻ khóai chí. Vì cái cảnh đĩa bay cũng có, mà vì lần đầu tiên, cái mặt nạ dịu dàng, thùy mị của cô nàng đã bị tuột ra cũng có. Nhưng khi thấy cô nàng bật khóc, anh chàng cuống quít ôm chặt cô nàng trong vòng tay. Hai người cứ thế đứng ôm nhau trong ánh nắng chiều vội tắt ở Sicily. Anh chàng thì thầm bên tai đỏ ửng giấu dưới lọn tóc đậm màu của cô nàng:

- Anh nói giỡn mà. Nấu ăn em là số dách. Hơn cả bà già anh, hơn xa La Venera. Em nấu ăn tuyệt nhất trần đời!

Anh chàng cúi xuống để cô nàng không thấy nụ cười mỉm ranh mãnh của mình.

Đêm cuối cùng đó, đôi tân hôn nằm nói chuyện với nhau nhiều hơn là ân ái nhau. Justina hỏi anh chàng về La Venera. Guiliano nói đó là dĩ vãng, nên quên đi. Nàng hỏi sau này hai đứa làm thế nào để gặp nhau. Guiliano cho cô nàng biết tin nó đang thu xếp để gửi cô nàng sang Mỹ trước. Và hai người sẽ gặp nhau ở đó. Nhưng, điều đó cô nàng đã được ông già cho hay trước rồi. Cô nàng chỉ muốn biết làm thế nào để hai đứa gặp nhau lần nữa, ít nhất trước khi nàng đi Mỹ. Không bao giờ Guiliano nói cho Justina biết rất có thể nó sẽ không bao giờ thoát được. Cô nàng chịu sao thấu một kết thúc khủng khiếp như vậy?

Sáng sớm tinh mơ hôm sau, ông bố cô nàng đến. Justina đeo dính cứng trên cổ Guiliano cho đến lúc ra về.

Guiliano đi tới nhà nguyện nằm trong khu lâu đài cổ. Nó chờ đời Pisciotta dẫn mấy sếp tới. Trong khi chờ đợi, Guiliano lấy súng giấu đằng sau tảng đá dùng làm bàn thờ và đeo vào người.

Trong lúc nói chuyện với Cha bề trên, ngay sau lúc làm phép cưới, Guiliano đã bày tỏ với cha sự nghi ngờ của hắn về việc Passatempo và Stefan Andolini bí mật gặp Ông Trùm. Hắn đảm bảo với Cha bề trên là con trai của ngài khỏi lo. Điều nó đặc biệt muốn biết là sự thật trong vụ này. Cha bề trên đã kể cho nó đầu đuôi câu chuyện. Và, đúng như nó đã dự đoán, Andolini đã thú nhận tất cả với Cha.

Ông Trùm bảo Stefan Andolini rủ Passatempo bí mật đến gặp lão ở Villaba. Andolini được lệnh ở ngoài để hai người kia nói chuyện riêng với nhau. Và họ nói với nhau những gì, tất nhiên, Andolini không thể biết. Việc này xảy ra chỉ hai ngày trước khi xảy ra vụ Portella del Ginestra. Sau vụ ấy. Andolini cật vấn Passatempo. Tên này nhận là Ông Trùm đã trả một món tiền rất lớn, khi hắn làm sai lệnh của Guiliano nghĩa là chĩa súng bắn vào đám đông. Passatempo dọa ngược trở lại Andolini. Nếu tên này làm cho Guiliano hay, thì Passatempo cũng làm cho Andolini chết chìm cùng hắn. Bằng cách tố với Guiliano là chính Stefan Andolini môi giới và cũng có mặt trong lúc Ông Trùm thương lượng với hắn. Andolini sợ, không dám nói với ai khác, ngoài ông già ruột, tức là cha bề trên. Suốt một tuần lễ sau vụ thảm sát đó, Guiliano buồn kinh khủng. Nhìn nét mặt buồn khổ của Guiliano, Andolini tin rằng, nếu Guiliano biết thì chắc chắn cả Passatempo lẫn gã, không thể nào thoát chết.

Guiliano đã cho Pisciotta biết ý định khu xử của hắn. Nhưng phải đợi sau “tuần trăng mật” của hắn đã. Guiliano không muốn làm đồ tể trước khi làm chú rể.

Ngôi nhà nguyện bị tróc mái từ lâu. Cho nên, đứng trong nhà nguyện mà cũng như đứng ngoài trời. Guiliano đứng tựa lưng vào tảng đá dùng làm ban thờ, dưới bầu trời trong xanh Địa Trung Hải. Chờ các sếp của hắn tới.

Pisciotta nói vắn tắt cho thầy cai biết sự việc sắp xảy ra và dặn gã phải đứng chỗ nào để họng súng của gã dễ dàng chế ngự thằng đồ tể và thằng quỷ sứ. Hai tên này được dẫn thẳng đến trước mặt Guiliano. Riêng Terranova, khi đến nhà nguyện, chẳng biết đầu đuôi ất giáp gì. Hắn ta ngồi xuống cái ghế đá kê sẵn từ đời nào trong nhà nguyện. Suốt đêm rồi, hắn ta phải thức trắng để chỉ huy đội phòng thủ vành đai an ninh. Do đó, giờ này hắn mệt lả người ra. Guiliano không hề nói với ai là hắn sẽ xử lý trường hợp Passatempo như thế nào.

Passatempo như một con thú hoang có bản năng đánh hơi trước được cạm bẫy, nguy hiểm. Cho nên, ngay khi vừa đặt chân vào nhà nguyện, nó đã cảm thấy một cái gì khang khác và đặc biệt nguy hiểm cho nó. Cho đến lúc đó, Passatempo vẫn chưa biết việc gì sắp xảy ra. Bởi vì, cho đến lúc đó, Guiliano đối đãi với nó vẫn y như thường. Thật ra, từ lâu Guiliano đã biết Passatempo là một con thú hoang. Do đó, khi bố trí công tác, Guiliano vẫn sắp đặt sao cho Passatempo và thủ hạ của nó có một khoảng cách nào đó với các sếp khác. Guiliano vẫn gớm cái thói dã man của thằng này. Passatempo thường được giao nhiệm vụ đao phủ để xử tử những tên phản bội, làm chỉ điểm cho cớm hoặc làm ngáo ộp để hù những vị khách mời bướng bỉnh, cứng đầu, cù cưa tiền chuộc. Chỉ cần nhìn thấy cái bản mặt cô hồn thần chết của nó, thì khách mời dù có lì cách mấy cũng phát khiếp và thương lượng gấp gấp cho rồi. Nhưng có những vị dù đã được thấy dung nhan cô hồn của nó rồi mà vẫn còn lì, thì đích thân Passatempo sẽ thông báo cho khách và gia đình những biện pháp kế tiếp của nó. Cách đối xử của nó thì thú vị đến nỗi hầu như không vị khách nào dám cò kè. Hết bao nhiêu thì hết, ôkê, trao tiền gấp mà về để khỏi phải nhìn cái bản mặt thần chết của nó.

Guiliano chĩa mũi súng vào Passatempo và nói:

- Trước khi chuyển trại, tao phải thanh tóan món nợ này đã. Không nói thì tụi bay cũng biết món nợ ấy là gì. Nhưng cũng nên nói ra cho rõ. Tụi bay đã nhận tiền của thằng già khốn nạn Croce để bắn vào đám dân vô tội ở Portella đặng vu cáo, bêu xấu tao.

Passatempo cố nhướng con mắt ti hí của nó lên để nhìn Guiliano, để dự đoán khoảng cách an toàn của mình với Guiliano. Đồng thời, để xem Guiliano sẽ coi ai – nó hay Andolini – là chánh phạm. Mặc dù chính nó cũng là bị cáo, nhưng nó nghĩ, nó cũng có thể làm một cái gì đó để tự vệ. Nhưng, Pisciotta cũng đã chĩa súng vào nó. Guiliano nói với Terranova:

- Tao biết mày và đám thuộc hạ tuân thủ đúng chỉ thị của tao. Nhưng Passatempo thì không. Làm như vậy, nó kéo cả mày vào vòng nguy hiểm. Vì nếu tao không tìm ra được sự thật thì cả hai thằng chúng bay cùng chung số phận. Nhưng, đã rõ chỉ có Passatempo mới phải thanh toán món nợ này.

Andolini có tâm trạng của một tín đồ tuyệt đối tin tưởng vào Chúa, và hoàn toàn phó thác cho Chúa. Một tín đồ tuyệt đối tin Chúa sẽ không bao giờ nghĩ là Chúa sẽ hại mình, dù mình có phạm đến tội gì chăng nữa. Cũng vậy, Andolini đã tuyệt đối trung thành với Guiliano. Tuy nhiên, gã cũng vẫn sợ. Không dám nhúc nhích và hòan tòan phó thác cho số phận.

Với bản năng thú vật, Passatempo cảm thấy cái chết cầm tay. Lúc này – nó nghĩ – có lẽ ngòai sự độc ác của nó, chẳng cái gì có thể giúp nó thoát khỏi cái chết gần kề. Hai họng súng đã chĩa vào nó rồi. Chỉ có nước tìm cách trì hoãn phút nào hay phút nấy. Rồi bất thình lình hạ độc thủ. Trong hoàn cảnh này, mười mất, một còn cũng là hy vọng. Mong manh, nhưng cũng là hy vọng.

- Chính thằng Andolini môi giới, chuyển tin, chuyển tiền cho tao, sao không xử nó?

Thâm ý của Passatempo là lôi kéo Andolini vào đồng minh. Nếu thằng này cũng có một hành động gì đó cùng một lúc với nó, thì hai chọi hai hoặc cùng lắm hai chọi bốn, nếu kể cả Terranova và Sylvestro về phe Guiliano, thì cũng vẫn có nhiều cơ may hơn là một mình nó chọi với tất cả.

- Andolini đã thú tội với tao rồi. Vả lại, trong vụ đó, tay nó đâu có đụng vô cò súng. Thằng già khốn Croce đã lừa nó, như nó đã lừa tao.

Passatempo bối rối thấy rõ:

- Nhưng, tao đã giết cả trăm mạng rồi, mà mày có phàn nàn, trách móc gì đâu. Vụ Portella cách nay cũng đã hai năm rồi. Tao sống chung với mày cũng đã sáu bảy năm nay, chớ đâu phải ít. Trong suốt thời gian đó chỉ có mỗi một lần đó là tao không nghe lời mày. Thằng già Croce đã thuyết phục tao là mày không thể nào biết được. Lão cũng nói là bắn hù theo kiểu mày chưa đủ “đô”, dân nó cóc sợ, không chắc ăn. Với lại, vài mạng người chết có nhằm nhò mẹ gì, so với số người mà tụi mình đã “xịt”. Vậy mà mày làm chi dữ vậy. Ngoại trừ lần đó, tao chưa bao giờ tỏ ra bất trung với mày.

Đến nước này, Guiliano thấy rõ là hết thuốc chữa cho thằng khốn này. Không có cách gì để làm cho thằng chó đẻ này thấy được tầm mức tệ hại của việc nó làm. “Việc này có đáng gì so với biết bao nhiêu người đã bị mất mạng vì chúng nó. Chi mà dữ vậy. Qua từng ấy năm trời làm thằng ăn cướp, bộ thằng Guiliano không giết người chắc? Bộ thằng Guiliano không tàn bạo chắc? Xử tử thằng cha thợ hớt tóc, đóng đinh tên giả danh giáo sĩ, giết không tiếc tay mấy thằng chỉ điểm, làm thịt mấy thằng cớm, bắt cóc tống tiền… Những cái đó là việc làm phúc đức chắc? Nếu Passatempo là giống súc sinh lớn lên như dã thú, thì Guiliano là cái gì? Thánh chắc? Chúa tể Sicily chắc…”.

Những ý nghĩ ấy tuồn tuột kéo nhau ra nhảy múa trong đầu óc Guiliano, khiến hắn cảm thấy như có cái gì đó miễn cưỡng khi phải xử tử Passatempo. Tuy vậy, hắn vẫn cứ nói:

- Tao cho mày ít phút để ăn năn tội, làm hòa với Chúa. Quỳ xuống và cầu nguyện đi.

Mấy người kia đứng tách ra xa khỏi Passatempo. Nó làm bộ như quỳ xuống cầu nguyện. Nhưng, bất thình lình, như một con thú nhảy chồm lên vồ mồi, nó lao về phía Guiliano. Nhưng cùng lúc đó, nòng súng chĩa thẳng vào ngực Passatempo, tiến lên một bước Guiliano lẩy cò. Viên đạn hất ngược Passatempo trở lại, nhưng, hai mắt mở trừng trừng, thân xác nó còn đủ đà để chạm vào người Guiliano trước khi ngã xuống giãy giụa. Guiliano bước tránh sang một bên.

Trưa hôm đó, xác của Passatempo được phơi ra trên quãng đường mà bọn cớm vẫn tuần tiễu đi qua. Trên ngực nó ghim mảnh giấy ghi dòng chữ: “Những kẻ phản bội Guiliano sẽ chết như thế này”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


Đang ngủ say bỗng Michael Corleone giật mình tỉnh dậy. Tưởng như mình bị hất tung ra khỏi một cái hố. Phòng ngủ tối om. Hắn đóng chặt cái cửa sổ để ngăn ánh trăng lọt vào. Không một tiếng động, ngoại trừ tiếng trống ngực của hắn đập thình thịch. Hắn không cảm thấy có sự hiện diện của một ai trong phòng.

Hắn tỉnh giấc, nhưng nằm trằn trọc trên giường. Hắn thấy hình như có một cái gì đen đen ở phía cửa. Hắn với tay bật đèn ngủ ở đầu giường. Cái vật đen đen ấy là cái đầu bức tượng Đức Thánh Mẫu bằng gỗ mun mà bà Maria Lombardo tặng hắn. Và cũng chính trong ruột bức tượng quý có bản chức thư - hay là bửu bối an toàn của Guiliano. Hắn nghĩ, có lẽ cái đầu ấy rớt từ trên bàn xuống. Và tiếng động ấy làm hắn giật mình. Hắn nằm duỗi thẳng cẳng và mỉm cười. Đúng lúc đó, hắn thấy tiếng kẹt cửa nhè nhẹ. Hắn quay nhìn về hướng đó. Trong ánh sáng vàng vọt, lờ mờ hắt ra từ chiếc đèn ngủ, hắn thấy lờ mờ khuôn mặt hốc hác, trơ xương của Pisciotta.

Y ngồi tựa lưng vào cánh cửa. Bộ ria mép nháy nháy. Y toét miệng cười không thành tiếng. Cái cười của một kẻ chiến thắng. Như thể hắn nói: "Đ.m. canh phòng, bảo vệ, an ninh nơi ẩn trú như vậy mà cũng đòi đảm bảo an toàn cho Guiliano. Lo cho mình còn cóc ra gì mà cũng ra vẻ, học đòi làm nghĩa hiệp". Michael nhìn đồng hồ đeo tay để trên bàn ngủ 3 giờ đêm.

- Giờ giấc của anh bạn cũng lạ nhỉ. Anh bạn chờ cái gì vậy?

Michael vừa hỏi, vừa vội vã đứng dậy mặc quần áo và tức tốc mở cửa sổ. Ánh trăng lọt vào phòng. Bóng cây bên cửa sổ khẽ lay động làm cho bóng của nó in trên nền phòng và nền trời lấp loáng như bóng ma.

- Sao anh bạn không đánh thức tôi dậy? – Michael hỏi tiếp.

- Tôi thích quan sát người khác đang ngủ. Đôi khi, trong lúc mơ ngủ, người ta vô tình thổ lộ những bí mật. Nổi nóng, nhưng Michael vẫn cố bình tĩnh:

- Khỏi lo. Chưa bao giờ thằng này tiết lộ bí mật. Kể cả trong lúc nó ngủ mơ.

Cả hai bước ra sân thượng. Michael chìa bao thuốc ra mời Pisciotta. Hai người cùng lặng lẽ kéo khói. Michael nghe thấy tiếng khò khè và tiếng húng hắng khô khan của Pisciotta. Dưới ánh trăng mờ ảo, khuôn mặt hốc hác, lợt lạt của hắn nom càng dễ sợ. Vẫn im lặng. Thình lình, Pisciotta lên tiếng.

- Anh bạn nhận được bản chúc thư chưa?

- Rồi.

- Mẹ kiếp, thằng Turi tin tôi hơn bất cứ ai trên đời này, - Pisciotta thở dài, - nó tin đến cái mức dám phó thác cả sinh mệnh của nó cho tôi. Hiện nay, tôi là người duy nhất biết nó đang ở đâu. Đ.m, thế mà trong vụ chúc thư, nó lại đếch tin tôi. Anh bạn có cái chúc thư đó ở đây không Michael ngần ngừ. Pisciotta nói:

- Xin lỗi, anh bạn cũng đếch khác gì thằng Turi.

- Chúc thư đã được gửi đi Mỹ. Giờ này có lẽ nó đang nằm trong tay ông già tôi.

Michael không muốn cho Pisciotta - cũng như cho bất cứ ai - biết hiện bản chúc thư đang trên đường đi Tunis. Michael rất sợ phải nghe câu hỏi kế tiếp mà theo hắn, đó là lý do duy nhất khiến Pisciotta mò đến đây vào giờ này, với cung cách lén lút như thế này. Chỉ có lý do đó mới đủ mạnh để khiến y phải liều mạng vượt qua sự canh gác nghiêm ngặt, cẩn thận của toà biệt thự này. Hay là y đã được để cho đi qua? Có thể là Guiliano sắp xuất hiện hay đã xuất hiện ở đây, không chừng. Nhưng chưa tiện ra mặt.

- Khi nào Guiliano tới đây? - Michael hỏi.

- Tối mai. Nhưng không phải ở đây.

- Tại sao lại không phải ở đây? Ở đây an toàn...

Nhưng Michael chợt thấy mình đã nói sai. An toàn mà Pisciotta lọt vào được mà không bị phát giác. Hắn nói mới nửa câu rồi im. Pisciotta cười:

- An toàn của anh bạn! Rõ chán! An toàn mà tôi lọt vào được đến tận đây. Êm re. Phải vậy không?

Michael tức giận, vì quả là thế. Nhưng hắn lại tự hỏi phải chăng chính Domenic Clemenza đã ra lệnh cho bọn canh gác để hắn đi qua. Thậm chí, chính già Domenic đã dắt hắn đến tận phòng của mình. Nếu không, sao hắn biết phòng của mình.

- Guiliano quyết định như vậy hay sao? – Michael hỏi.

- Không, chính tôi quyết định giùm nó. Anh đã hứa với gia đình nó là đảm bảo an toàn cho nó. Nhưng thằng già dịch Croce đã biết anh bạn ở đây. Và như vậy thì thằng cớm chúa - thanh tra Velardi - cũng biết. Gián điệp nhan nhản. Hỏi thật: anh bạn định dựng vở như thế nào cho Guiliano? Một đám cưới nhé, hay là bữa tiệc sinh nhật? Hay một đám ma? Anh bạn đã chỉ nói với tụi này toàn những điều tào lao, điên khùng. Chi vậy? Bộ tưởng qua được mắt tụi này sao chứ? Bộ anh bạn nghĩ tụi này cũng như lũ lừa ở Sicily sao chứ?

- Cũng đếch cần phải úp mở, rào đón lôi thôi gì hết. Nói thẳng cho anh bạn hay. Tôi sẽ đếch bao giờ nói cho ai hay - ngay cả cho chính anh bạn, thậm chí cả Guiliano, cũng vậy - cái kế hoạch đào thoát của tôi. Tin hay không là tuỳ anh bạn. Tin thì đến. Đếch tin thì thôi. Cứ đòi tôi cho biết kế hoạch thì - xin lỗi - khỏi? Anh bạn cứ nói chỗ của Guiliano đang ẩn náu. Còn làm thế nào để đem hắn đi là phần của tôi. Miễn sao an toàn là được. Hay là không nói, cũng được. Nói rõ: bản thân tôi rất muốn giúp anh bạn Guiliano tới nơi tới chốn. Bằng an, vô sự. Nhưng anh bạn không tin thì cũng đành chịu. Và nếu anh bạn không nói thì ngay tối mai, tôi đã ở trên đất Mỹ với ông bà già tôi rồi. Trong khi đó mấy bạn vẫn cứ bị tụi nó rượt té cứt ra.

- Anh bạn nói y như một thằng Sicllian thứ thiệt, - Pisciotta cười. - Mấy năm trời anh bạn ẩn náu ở đây thật không uổng chút nào. - Y thở dài. - Tôi [bad word] tin là mọi sự như vậy đâu, [bad word] tin đó là đã xong, đã ổn đâu. Trong gần bảy năm trời, tụi này vừa đánh vừa chạy. Quen rồi. Có té cứt thì bây giờ cũng đếch còn cứt để mà té nữa. Chạy, để khỏi bị phản bội và bị giết. Đó là lúc tụi này là vua của vùng Montelepre. Cứ kể ra thì bấy nhiêu đó cũng là vinh quang, danh giá chán. Chứ sao? Bao phen cớm lớn, cớm bé, cớm già, cớm trẻ ở vùng này khiếp vía, co vòi vì tụi này rồi. Phải công nhận Turi là người có lòng nhân hậu và có trí lớn. Tôi thì chỉ lo, chỉ nghĩ đến mình. Còn nó chỉ lo, chỉ nghĩ đến mấy thằng khố rách. Lúc đầu tôi cứ cho nó là nổi hứng lãng mạn, mơ mộng viển vông, lý tưởng hão huyền... Nhưng sau một năm sống ngoài vòng pháp luật, nó đã chứng tỏ cho tôi - và cho cả băng của tụi này - thấy là, quả thật, nó

chỉ quan tâm đến đám dân cùn mằn, khố rách đó thiệt. Và quan tâm hết mình nữa là khác. Tôi là phó tướng cận kề nó, là em họ nó, là người nó tin cậy nhất. Tôi cũng mang cái khóa dây lưng bằng vàng chạm nổi chim phượng hoàng và sư tử. Giống y của nó. Nó cho tôi đấy. Ấy vậy mà khi tôi dụ con nhỏ, con của một thằng cha nông dân ở Partinico, làm cho con nhỏ này một bụng, ông già con nhỏ mách nó, anh bạn biết nó làm gì không? Mẹ kiếp, nó trói tôi vào gốc cây và quất một trận nên thân. Tất nhiên, không quất tôi trước mặt ông già con nhỏ kia hay trước mặt đám bộ hạ. Nó vẫn giữ thể diện cho tôi. Không bao giờ nó tỏ ra thiếu kính trọng đối với tôi Đó là cái bí quyết giúp tụi này dám sống dám chết cho nhau như vậy. Nhưng nếu nó biết tôi không nghe lời nó một lần nữa thì, đ.m., nó dám giết tôi lắm. Đó, Turi của tôi như vậy đó.

Tay Aspanu kẹp điếu thuốc run run đưa lên miệng. Dưới ánh trăng mờ, bộ ria con kiến của y sáng lên, lấp lánh như một mảnh xương đen, mỏng, bóng láng dán vào môi. Michael trầm ngâm. Câu chuyện thật lạ lùng. Không lẽ y liều thình giữa bao nhiêu cạm bẫy hung hiểm chết người, đến đây vào giờ này để nói với mình chuyện này?

Hai người quay vào phòng ngủ. Michael đóng cửa lại Pisciotta cúi xuống, nhặt cái đầu bức tượng lên và trao cho Michael:

- Tôi liệng cái này xuống sàn đặng đánh thức anh bạn. Bản chúc thư đựng trong bức tượng này chứ gì?

- Phải.

Mặt Pisciotta sa sầm:

- Vậy mà Maria Lombardo cũng nói dối tôi nốt. Tôi đã hỏi bà có giữ bản chúc thư không. Bà ấy nói không. Thế mà chính bà trao cho anh bạn ngay trước mắt tôi. - Y cười chua chát. - Tôi chẳng khác gì con đẻ của bà. - Im lặng một chút, y nói tiếp: - Và, tôi coi bà chẳng khác nào mẹ đẻ của tôi.

Pisciotta hỏi xin một điếu thuốc khác. Trong vò còn ít rượu. Michael rót hai ly. Pisciotta làm gọn một hơi, ngon lành.

- Cám ơn anh bạn. Bây giờ mình phải bàn tiếp công việc. Tôi sẽ trao Guiliano cho anh bạn ở ngoại biên thị trấn Castelvetrano. Anh bạn hãy đến đó bằng chiếc xe mui trần, để tôi có thể nhìn ra anh bạn. Và anh bạn cứ khởi hành thẳng từ Trapani này. Tôi sẽ chặn anh bạn ở chỗ chúng tôi đã chọn. Nếu có gì nguy hiểm, anh bạn cứ đội mũ lên, chúng tôi sẽ không xuất hiện. Thời gian là lúc rạng đông. Anh bạn liệu được chứ?

- Ôkê. Xong ngay. Mọi sự ơn thoả. Có điều này tôi chưa cho anh bạn hay. Hôm qua, Stefan Andolini đã không đến như đã hẹn với giáo sư Adonis. Ông giáo sư tỏ ra rất bồn chồn, lo lắng.

Lần đầu tiên Michael thấy y giật mình. Nhưng, rồi gã trấn tĩnh và nhún vai:

- Ông già chim chích ấy chẳng mấy khi gặp trên. Thôi, bây giờ xin chia tay anh bạn. Cho đến ngày mốt, lúc rạng đông. Xong?

Y bắt tay Michaei. Michael buột miệng:

- Sao anh bạn không đi Mỹ cùng tụi này?

Pisciotta lắc đầu:

Cả đời, tôi đã sống ở Sicily. Và, tôi yêu đời lắm. Nếu cần phải chết, tôi cũng muốn được chết tại Sicily. Nhưng, dù sao, cũng cám ơn nhã ý của anh bạn.

Michael xúc động một cách kỳ lạ vì những lời này. Mới chỉ biết Pisciotta sơ sơ, nhưng Michael cũng cảm thấy y không thể sống thích hợp ở một nơi nào khác, ngoài miền núi non của Sicily. Y quá hung ác, quỷ quyệt tàn bạo và khát máu. Cho đến nước da, giọng nói của y cũng hoàn toàn "Sicilian”. Đặc biệt "Sicilian". Không bao giờ y tin vào một con người xa lạ, một vùng đất xa lạ nào khác.

- Để tôi đưa anh bạn ra cổng, - Michael nói.

- Cám ơn, khỏi? Phải giữ kín tuyệt đối cuộc gặp gỡ này. Nghe!

Sau khi Pisciotta đi khỏi, Michael nằm trằn trọc trên giường cho tới sáng, không ngủ được. Những mộng mị, những ý nghĩ liên tiếp kéo theo ra sân khấu ý thức của hắn. Cuối cùng, thì hắn có thể gặp mặt Guiliano? Và cả hai cùng đi Mỹ? Hắn băn khoăn tự hỏi, khi gặp mặt liệu hắn có thể phát hiện ra chân tướng của Guiliano và tay này thuộc loại người nào không? Phải chăng Guiliano chỉ là một huyền thoại? Huyền thoại ấy lớn hơn chính cuộc đời thực của một con người có thực, đã thống ngự hòn đảo này và tác động đến dòng lịch sử của cả một quốc gia? Hắn nhổm dậy và đi ra phía cửa sổ. Bình minh hé rạng. Hắn nhìn mặt trời từ từ nhô lên khỏi chân trời, toả ánh vàng rực rỡ và làm thành một vệt sáng lớn trên mặt biển. Trông luồng ánh sáng đó, hắn thấy chiếc khinh tốc đỉnh đang rẽ sóng đi về phía cầu tàu. Hắn đi ra khỏi biệt thự, xuống bờ biển đến cầu tàu để đón Clemenza.

Hai người ngồi ăn sáng. Michael thuật lại cho Clemenza cuộc gặp gỡ với Pisciotta hồi đêm. Clemenza không tỏ ra ngạc nhiên về việc Pisciotta có thể xâm nhập toà biệt thự được canh gác cẩn mật như vậy. Họ để ra cả buổi sáng để sắp đặt kế hoạch đón gặp Guiliano. Chắc chắn có gián điệp theo dõi từng cử động của họ. Vậy thì một đoàn xe xuất phát từ biệt thự này thì khỏi nói, sẽ được gián điệp chăm sóc kỹ là khác. Tất nhiên, Michael lại càng được theo dõi kỹ. Đúng là lực lượng cảnh sát, an ninh của cớm chúa Velardi có thể sẽ không can thiệp. Nhưng, sự đời! Nếu biết chắc và biết trước được mọi sự thì ở đời làm gì có những vụ bội phản, lừa lọc? Và trong vụ này, ai biết được những bội phản, lừa lọc kiểu nào đang được sửa soạn. Mà đối tượng, biết đâu lại chẳng phải chính là Michael, chứ không phải là Guiliano. Biết đâu cái chết của Michael lại quá quan trọng đến nỗi các đối thủ không ngại tốn kém khi phải "dựng vở” một cách rộng lớn và hiểm hóc như vậy. Chỉ khi nào Michael đã an toàn trên đất Mỹ thì cái màn hoả mù này mới ngừng chăng?

Khi kế hoạch phác họa xong thì đã đến giờ ăn trưa. Sau đó, Michael đi ngủ. Hắn muốn ngủ bù đêm rồi. Peter Clemenza còn nhiều chi tiết phải sắp xếp và thực hiện trước cho xong. Lão ra lệnh cho bộ hạ của lão lo phương tiện chuyên chở và báo cáo lại cho ông anh Domenic chuyến đi của mình.

Michael đóng cửa sổ, lên giường nằm. Thân thể mỏi mệt, nhưng không sao ngủ được. Chỉ nội trong hai tư giờ qua mà có biết bao nhiêu việc dồn dập xảy ra. Đấu trí và cạm bẫy. Tung hoả mù và né tránh. Xuyên thấu tử địa để tìm lối thoát... Hắn có linh cảm về một kết thúc chẳng lành. Nhưng rồi hắn lại tưởng tượng ra cuộc trở về của mình. Tại Long Island, ông bà già hắn đang đứng ở cửa chờ hắn trở về. Cái thành tích "ghè" bể sọ thằng Thổ Sollorzo và cớm gộc Mc. Closkey đã khiến hắn phải lẩn lút sống lưu vong hai năm tại Sicily. Cuộc lưu vong này đã kết thúc. Hắn trở về để nhận quyền cai trị "đế quốc Corleone" do ông già hắn trao lại.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


Sau bảy năm vùng vẫy ngoài vòng.pháp luật, Turi Guiliano biết là đã đến lúc hắn phải rời bỏ "giang sơn" của mình để bay sang Mỹ, nơi hắn được thành hình trong bụng mẹ, nơi mà ông bà già nó thường nhắc tới như một vùng "đất hứa", nơi mà "sữa và mật ong" chảy tràn trề ngoài đường lộ. Ôi, cái vùng đất hoang đường ấy! Nơi mà người nghèo cũng được hưởng công lý. Nơi mà nhà nước không phải là tôi tớ của bọn người có cửa. Nơi mà những tên Sicilian khố rách áo ôm, không một xu dính túi, tiếng Anh không đủ để làm một thằng ăn mày... mà vẫn cứ thành một anh nhà giàu, nếu biết chí thú làm ăn!

Để tỏ ra thuỷ chung với bạn bè, ông Trùm Croce đã cho Guiliano biết mình đã tiếp xúc với Bố Già Corleone bên Hoa Kỳ để giải cứu Guiliano khỏi vòng tay của đại tá Luca, và Bố Già - chiếu cố tình xưa cũ với ông già ruột của Guiliano - cũng đã hoan hỉ dành cho hắn một chốn dung thân bên đó. Guìliano có lạ đếch gì cái thâm ý của thằng cha già "lựu đạn" hiểm độc đó. Hắn biết mình cũng không có nhiều giải pháp để chọn lựa. Quyền lực đã bắt đầu tuột khỏi tay hắn rồi.

Đêm nay, hắn sẽ phải đi gặp Aspanu Pisciotta. Hắn sẽ phải phó thác sinh mệnh mình cho một thằng Mỹ nào đó tên là Michael Corleone. Phải rời bỏ vùng núi non Sicily, chốn dung thân hào phóng của hắn trong suốt bảy năm qua. Phải lìa bỏ "giang sơn” quyền lực, gia đình, bạn bè! "Quân lực" của hắn rã rời. Núi non của hắn đã bị lính của đại tá Luca quậy nát. Lực lượng bảo trợ của hắn - đám nông dân khố rách Sicilian nghèo mạt - đã bị lực lượng đặc biệt của Luca nghiền nát. Nếu còn ở lại, hắn cũng có thể chơi được vài keo nữa. Nhưng thất bại cuối cùng cũng vẫn về phần hắn. Chắc chắn. Bởi vậy, chỉ còn chước thứ ba mươi sáu. Đào vi thượng sách.

Turi khoác lên vai khẩu lupara, tay cầm súng lục, đi về hướng Palermo. Áo sơ-mi trắng. Áo ja-ket túi trên, túi dưới, túi trong, túi ngoài tùm lum. Túi nào cũng đầy ắp đạn. Hắn rảo bước. Kim đồng hồ chỉ chín giờ, tức là hai mốt giờ chiều. Trên trời vẫn còn vài tia nắng quái. Nhưng mặt trăng đã rụt rè ló lên. Những toán tuần tiễu của lực lượng đặc biệt tiễu phỉ giăng giăng ngang dọc như mắc cửi. Mỗi bước đi là mỗi hung hiểm. Nhưng Guiliano tỉnh bơ, chẳng sợ hãi gì. Mấy hôm qua, hắn đã khéo ngụy trang đến mức tưởng như có phép tàng hình. Dân trong vùng ai nấy đều sẵn lòng che giấu cho hắn. Có toán tuần tiễu, họ báo. Nếu hắn gặp nguy, họ lăn xả vào bảo vệ, giấu hắn trong nhà. Hắn bị tấn công thì đám nông dân và đám chăn cừu tụ lại tiếp cứu. Không bao giờ họ phản bội người đã bảo trợ họ.

Một tháng sau ngày cưới của Guiliano, có nhiều cuộc đụng độ lớn giữa bộ hạ của Guiliano và Lực lượng đặc biệt tiễu phỉ của đại tá Luca. Ngài đại tá thừa ranh mãnh để thủ lợi và khai thác cái chết của Passatempo. Báo chí chạy tít lớn trên trang nhất "thành tích" của đại tá: "Đại tá Ugo Luca đã chặt đứt một cánh tay của Guiliano" - "Hung thần của Guiliano đã bị đại tá Luca quất sụm” - "Passatempo, tiểu tướng hung bạo nhất của Guiliano đã bị đại tá Luca bắn hạ"... Dưới những hàng tít giật gân ấy là những bài tường thuật trận đánh ác liệt giữa Lực lượng đặc biệt tiễu phỉ và quân của Guiliano. Có báo còn tường thuật những giây phút cuối cùng của Passatempo khi bị quân đại tá vây hãm và bắn gục. Cứ như thể chính phóng viên đó đã có mặt tại trận. Chẳng những không dại gì tiết lộ mảnh giấy ghim trên ngực thằng cô hồn Passatempo, các sĩ quan báo chí của đại tá còn cung cấp thêm "mắm muối để mấy anh nhà

báo "xào nấu cho thêm phần hấp dẫn và làm cho hào quang của ngài đại tá chói sáng thêm. Nhưng, cớm chúa Velardi đã báo cho ông Trùm Croce biết. Thằng già "lựu đạn" này hiểu là sự thật của vụ Portella đã bị Guiliano phát hiện. Lão mỉm cười tự khen mình: Guiliano đã không còn khả năng và cơ hội để vạch trần sự thật đặng thanh minh, đồng thời lại tự chặt tay mình. Trong cuộc đấu trí này, Guiliano dưới "cơ” thấy rõ.

Với năm ngàn lính của Lực lượng đặc biệt tiễu phỉ, ngài đại tá gây sức ép tối đa lên băng của Guiliano. Hắn hết dám lượn lờ khơi khơi ngay tại thủ phủ Palermo để mua sắm. Và, muốn lẻn về Montelepre thăm bà già, và nhất là Justina, mà cũng không dám. Nhiều thuộc hạ của hắn bị phản thùng và bị đốn ngã. Nhiều tên chạy vắt giò lên cổ sang Tunisie hoặc Algérie. Những tên khác lặn kỹ hết dám ngo ngoe. Lúc này, đám người anh em của Croce và các tay em của sáu sếp mafia bị Guiliano làm thịt độ nọ ra mặt chơi lại băng của Guiliano. Được "Người anh em" chỉ điểm, đại tá Luca như có kính chiếu yêu, đã lần lượt khui được những tay em bí mật của Guiliano "chui" vào đầu quân cho ngài.

Guiliano lãnh thêm một đòn bái xái nữa: Terranova gặp xui bị tiêu tùng. Điều trớ trêu là chỉ vì lòng tốt mà Terranova bị bẫy. Terranova không tàn bạo, dã thú như Passatempo, không khôn ranh quỷ quái như Pisciotta, không cô hồn hắc ám như Andolini. Phải cái tội "hảo ngọt". Gã thông minh nhưng lại đa cảm. Bởi vậy, gã vẫn được Guiliano phân công cho làm "bạn" với các "khách mời” và đem tiền đến giúp đỡ những người nghèo. Chính gã và các thuộc hạ vẫn thường đêm đi dán áp - phích, rải truyền đơn của Guiliano tại thủ phủ Palermo. Ít khi gã phải tham gia các vụ chém giết. Gã, tướng cướp bất đắc dĩ, do đó không dằn được nỗi khát khao một tình yêu, một mái ấm gia đình. Mấy năm trước đó - theo lệnh của Guiliano - gã đem tiền đến giúp một mụ gần có ba con. Lòng trắc ẩn đã biến thành tình yêu. Gã vui vẻ "hốt ổ”. Mụ kia đâu biết gã là tướng cướp. Cứ tưởng đâu là một ông lớn nào ở Rome lâu lâu qua Sicily công cán. Gã chi "sộp" lắm. Mụ mê gã vì tiền. Bầy nhóc của mụ khoái gã vì những món quà, những đồ chơi đắt giá. Gã cũng nói rõ cho mụ biết là tuy không phải chuyện bậy bạ qua đường nhưng chỉ có thể vụng trộm, chứ cưới hỏi đàng hoàng thì khỏi, không thể. Mụ cũng "ô-kê". Gã vung bạc quá mà. Được cái, mụ không chỉ biết moi tiền, mụ cũng khá "sòng phẳng” với gã. Mỗi khi tới, gã đã được mụ cung phụng đúng như vợ hiền cung phụng ông chồng. Nấu những món ăn thật ngon. Giặt quần, giặt áo. Và cái "khoản kia”, chẳng những mụ cung phụng đầy đủ, mà còn cung phụng với một sự tự nguyện rất chi là nhiệt tình và hào hứng. Với kinh nghiệm của một người đàn bà ba con, mụ đã cho gã hưởng những cảm giác khoái lạc nhục thể tới nơi tới chốn. Mối liên hệ tuy vụng trộm, nhưng làm sao qua mắt được đám "Người anh em". Ông Trùm biết, nhưng vẫn để dành đó. Phòng khi hữu sự.

Có vài lần Justina lén lên núi thăm Guiliano. Chính Terranova đã hộ tống các chuyến đi, về. Sắc đẹp của Justina đã làm hắn động lòng nhớ nhung đến mụ nạ dòng. Gã quyết định liều đi thăm mụ. Trong tình hình dầu sôi lửa bỏng, cạm bẫy, gián điệp dăng dăng, cớm chìm, cớm nổi lúc nhúc ở Palermo mà quyết định như vậy - gã biết - là liều lĩnh, không khôn ngoan. Nhưng có lẽ sự thôi thúc của cái "khoản kia" cũng không kém mạnh mẽ. Vả lại, cũng do lòng nhân hậu, không biết mình sống chết lúc nào, nên gã muốn cho mụ và lũ nhỏ một món lớn, đặng lỡ gã có mệnh hệ nào bất ngờ, "mẹ con nó” cũng có phương tiện sinh nhai lâu dài.

Đêm đó, một mình gã lẻn về Palermo. Gã cho mụ một món tiền lớn và nói có thể còn lâu lắm, may ra gã mới có thể gặp lại. Mụ khóc và không nhận tiền. Cuối cùng, gã đã tiết lộ lai lịch của mình. Mụ kinh ngạc. Mà, kinh ngạc là phải. Cử chỉ điềm đạm, tính tình hiền hậu, nói năng lịch sự, vậy mà lại là một trong những tiểu tướng thân tín của Guiliano, tướng cướp lừng danh? Không hiểu có phải vì gã nói còn lâu mới gặp lại hay sao mà đêm nay mụ lại rất "tích cực" ân ái với gã. Buổi chiều trước khi đi ngủ, họ và mấy ông nhóc như một gia đình rất đầm ấm, hạnh phúc. Gã dạy mấy ông nhóc chơi bài. Và lần này, khi thua gã "thua" hoài - hắn trả bằng tiền thật, làm mấy ông nhóc khoái chí.

Sau khi mấy nhóc đi ngủ, gã và mụ tiếp tục ân ái dài dài cho đến lúc rạng đông. Terranova sửa soạn ra đi. Họ ôm nhau, hôn nhau mùi mẫn, lần chót. Terranova vội vã rảo bước trên phố và đi về hướng nhà thờ chánh toà ân ái suốt đêm qua, gã thấy "đã", nhưng mệt mỏi, gã thấy tâm hồn an toàn, bình thản, không thấp thỏm, không dáo dác mắt trước mắt sau cảnh giác.

Bỗng tiếng động cơ xe hơi vang động trong không khí ban mai. Ba chiếc xe đen sì, đầy nhóc cớm, xả hết tốc lực dồn về phía gã. Cũng ngay lúc đó, từ khắp xó xỉnh, lũ cớm, tay lăm lăm súng đổ xô ra. Cớm từ trên xe nhảy xuống. Tiếng hô lớn: "Đứng lại, cấm nhúc nhích, giơ tay lên".

Terranova đưa mắt nhìn lần chót ngôi nhà thờ, tượng chư thánh đứng dài dài trên các bệ thờ bên ngoài tường nhà thờ, những ban-công quét vôi vàng của những ngôi nhà nổi bật trên nền trời trong xanh, mặt trời chưa hé mà phương đông đã rực rỡ. Gã biết, đây là lần chót gã được nhìn thấy những cảnh vật tuyệt vời ấy. Chỉ còn một động tác chót phải làm: thình lình, gã nhảy một phát thật mạnh vào cửa nhà thờ, như thể muốn nhảy qua đầu thần chết để lao mình vào một thế giới an toàn. Khi chân vừa chạm đất, thì tay cũng vừa kịp rút khẩu súng lục ra. Nhưng cùng lúc đó thì hàng trăm viên đạn đã xé nát xương thịt gã thành một đống bầy nhầy.

Xét ở một khía cạnh, thế là may cho hắn: sự việc xảy ra quá bất ngờ và nhanh đến nỗi hắn không có thì giờ để kịp tự hỏi phải chăng con mụ nạ dòng đêm qua đã khóc lóc, đã tưng bừng ráo riết làm tình với hắn, thế mà đã phản bội hắn!

Cũng là đặc điểm của Sicilian!

Cái chết của tiểu tướng Terranova đã khiến cho Guiliano hiểu đời hắn đã đến hồi mạt vận. Sự thống ngự của hắn đã đến hồi kết thúc. Băng của hắn tan rã. Không thể phản công hữu hiệu đã đành, mà lẩn trốn trên núi cũng không được nữa. Nhưng, hắn vẫn nghĩ, bản thân hắn và các tiểu tướng của hắn vẫn còn cơ may thoát hiểm, mặc dù chúng đang bước nhanh ra nghĩa địa. Guiliano biết mình không còn nhiều thì giờ. Còn một điều nữa hắn vẫn muốn làm. Guiliano cho gọi thầy cai Canio Sylvestro:

- Anh em mình đến hồi mạt vận rồi. Đã có lần anh nói với tôi, anh có một thằng bạn bên nước Anh có thể che chở cho anh được. Bây giờ đã đến lúc anh phải đi tới đó. Tôi cho phép.

Thầy cai lắc đầu:

- Tôi chỉ rời khỏi nơi này, khi anh đã an toàn trên đất Mỹ. Hiện giờ, tôi vẫn còn có ích cho anh. Anh đã biết chắc là không bao giờ tôi phản bội anh.

- Tôi biết chứ. Và anh cũng đã rõ tình cảm tôi dành cho anh là như thế nào. Nói thiệt, không bao giờ anh có thể làm một thằng ăn cướp thứ thiệt, thứ chuyên nghiệp được. Trong thâm tâm, anh vẫn tôn trọng pháp luật. Anh chỉ là một thằng ăn cướp bất đắc dĩ, cực chẳng đã mà phải sống ngoài vòng pháp luật. Khi lối sống như hiện nay chấm dứt, khác với tụi tôi, anh vẫn có thể "làm lại cuộc đời”. Tụi tôi dường như không thể, không được phép. Có lẽ định mệnh đã dành cho tụi tôi cái số phận của những thằng lục lâm.

- Không bao giờ tôi nghĩ anh là một thằng lục lâm!

- Trong thâm tâm, tôi cũng nghĩ vậy. Bảy năm nay, tôi đã làm gì, để sống như thế nào. Tôi cho rằng tôi đã chiến đấu cho công lý. Tôi đã cố gắng giúp đỡ người nghèo khổ, kẻ bị áp bức, bóc lột. Tôi muốn đem lại tự do cho Sicily. Tôi muốn sống lương thiện. Nhưng, bây giờ tôi mới hiểu đã chiến đấu cho những cái đó, đã muốn những cái đó không phải lúc, và nhất là không phải cách. Sicily chưa sẵn sàng để đón nhận những cái đó. Bởi vậy, anh phải sang nước Anh. Tôi rất sung sướng nếu biết anh được bình yên ở đó. - Guiliano ôm hôn Canio: - Anh đã là người bạn chân thành của tôi. Anh phải đi. Đó là lệnh của tôi mà anh phải thi hành.

Lúc sẩm tối, Tua Guiliano rời khỏi sào huyệt và đi về phía tu viện của dòng khổ tu Phranxixcô, ở ngay bên ngoài vùng biên thủ phủ Palermo. Tại đó, hắn đợi tin tức của Aspanu Pisciotta. Một trong những thầy dòng của tu viện này là đồng đảng bí mật của Guiliano. Ông ta được phân công phụ trách khu hầm mộ (crypte) của tu viện. Trong hầm mộ này có hàng trăm xác ướp.

Từ một thế kỷ trở về trước, những gia đình quyền quí, giàu có của Sicily vẫn có tục lệ treo sẵn trên tường khu hầm mộ những kiểu quần áo mà họ muốn mặc sau khi chết. Sau khi ma chay xong, xác của họ được đưa vào hầm mộ của tu viện. Tại đây các thầy dòng ướp xác cho họ bằng cách sấy khô từ từ, liền trong sáu tháng, làm cho những phần mềm trong cơ thể lần lần teo quắt lại. Khi đó, da trở lên nhăn nheo, khuôn mặt nhăn nhúm. Có người nom nhưđang sợ hãi. Có người nom như đang cười. Nhưng dù là gì đi nữa thì xác ướp nào trông cũng phát khiếp. Sau đó, xác ấy được mặc những bộ quần áo họ đã chọn lúc còn sống và đặt vào hòm kính theo những thế đứng, ngồi, nằm khác nhau. Nom như những con búp-bê xấu xí.

Guiliano nằm trên sàn đá lát ẩm ướt trong hầm mộ và tựa đầu vào một hòm kính. Hắn chăm chú nhìn những nhà quyền quí, giàu có người Sicilian đã chết cách đó cả trăm năm. Có xác là một hiệp sĩ của triều đình, mặc bộ đồ bằng lụa xanh, đầu đội mũ sắt, tay cầm gươm. Có xác là một triều thần, ăn mặc theo kiểu người Pháp, đầu mang tóc giả màu trắng, chân mang giày đế cao. Cũng có vị Hồng y, mặc áo đỏ, đầu đội lễ miện. Có xác phụ nữ mặc áo dài nạm vàng phồng lên nom như con nhện bám trên cái xác khô teo nhăn nhúm. Nhìn vào bộ quần áo và cái xác ấy, người ta có cảm tưởng như nó đang bay. Có xác cô nương, tay mang găng trắng, áo dài xếp li.

Guiliano đã ở đấy hai ngày rồi. Và hai đêm rồi, nó cảm thấy khó ngủ, không phải vì sợ, mà vì những ý nghĩ mien man. Nhìn các xác ướp, Guiliano tư lự, trầm mặc như một triết nhân. "Ở đời, ai mà chẳng vậy. Các ông cả bà lớn cao sang quyền quí của Sicily sống cách đây cả bốn, năm thế kỷ đã nghĩ rằng xác ướp đã giúp cho thân thể họ khỏi làm mồi cho giòi bọ. A, cái ý nghĩ đỏm dáng và kiêu hãnh của bọn giàu sang quyền quí - những con cưng của số mệnh -

thật dễ ghét. Chẳng thà chết banh xác ngoài đường như thằng chồng của La Venera có khi lại hay”.

Cái làm cho Guiliano không ngủ được không phải là khung cảnh âm u chết chóc này mà là một thắc mắc nó không sao giải đoán được. Tại sao tuần vừa rồi thằng già dịch Croce kia lại thoát chết? Rõ ràng là cuộc mưu sát ấy đã được Guiliano hoạch định một cách rất chính xác và tỉ mỉ. Nó đã nghiền ngẫm hoạch định kế hoạch này kể từ lúc nó biết chắc được sự thật bí ẩn của vụ Portella del Ginestra. Thằng già "lựu đạn" ấy bố trí canh gác cho lão kỹ đến cái mức con muỗi chui cũng không lọt. Lão yên trí là phương án ấy đủ đảm bảo an ninh thân thể cho lão. Nhưng kế hoạch của Guiliano lại chọn chính chỗ đó làm điểm bất ngờ chết người để hoạch định kế hoạch. Guiliano quyết định thử thời vận của mình ngay ở chỗ lão tưởng mình được bảo vệ cẩn mật tối đa trong cái hang hùm của lão, tức là "khách sạn" Umberto. Gián điệp của Guiliano tại hang hùm này là một anh bồi. Y đã cung cấp rất chính xác, thời gian biểu làm việc của thằng cha già "lựu đạn" kia, cũng như cách thức thay đổi phiên gác của đám cận vệ. Từ thông minh, đầu óc chiến lược gia của Guiliano đã vạch ra được một kế hoạch rất táo bạo và chắc ăn.

Guiliano đã chọn ba chục tay em tin cẩn ở Palermo. Hắn cũng được cho biết việc Michael Corleone gặp và ăn trưa với lão. Hắn đã đợi cho Michael vừa ra khỏi là ra tay đột kích. Hai chục tay em tấn công trực diện và dụ đám vệ sĩ ra khỏi vườn. Vài phút sau, hắn và mười tay em khác đặt mìn phá tường, lọt vào. Trong vườn chỉ còn năm vệ sĩ của ông Trùm. Một tên bị bắn hạ, bốn tên khác hoảng quá, "vắt giò", chạy. Guiliano và các tay em lục soát khắp trong phòng không thấy tăm hơi thằng già dịch đâu. Các phòng đều rỗng. Cái thân hình bồ tượng của lão đâu có dễ ẩn núp chỗ nào, đâu có dễ vọt nhanh như vậy. Vậy chỉ còn một giả thuyết: chỉ ít phút sau khi Michael rời khỏi thì lão cũng dông luôn. Kể từ ngày sống ngoài pháp luật, đây là lần đầu tiên hắn vồ hụt con mồi. Mà lại là con mồi quan trọng nhất, vào lúc quyết định nhất. Chỉ có thể là chính thằng già lựu đạn đã được báo trước cho biết cuộc đột kích. Kẻ đó là ai?

Guiliano ngẫm nghĩ: "Đáng tiếc? Ngoài việc loại được một kẻ thù hung hiểm nhất, đây lẽ ra là trận đánh chót, xuất sắc, vẻ vang. Không hiểu sau này các bài tụng ca dân gian sẽ nói thế nào nếu Guiliano vồ được ông Trùm tại vườn của lão. Có thể thua keo này bày keo khác được không? Kết có thể, vào một ngày nào đó... Miễn là thằng già dịch còn sống đến ngày đó. Ta đâu chịu ở lì bên Mỹ. Sẽ có ngày trở về. Ngày ấy, chắc sẽ không thể vồ hụt được nữa.

Ngày thứ ba, Guiliano ở tại hầm một ông thầy dòng, người của hắn - mặt mũi, da dẻ ông ta nhăn nheo chẳng khác mấy cái xác ướp - đã đưa tin của Pisciotta đến cho hắn. Chỉ vỏn vẹn có dòng chữ "Tại hoàng cung Charlemagne đại đế”. Guiliano hiểu liền.

Zu Peppino, sếp sòng các xà ích đánh xe lừa ở thị xã Castelvetrano, người đã giúp Guiliano chặn cướp xe lương thực của ông Trùm khi hắn mới "vào nghề” đã là thành viên bí mật của hắn từ hồi đó. Lão có ba cái xe và sáu con lừa. Cả ba xe của lão đều vẽ hình theo sự tích Charlemagne và các hiệp sĩ Roland và Olivier: Bởi vậy, lúc còn nhỏ, Guiliano và Aspanu thường gọi nhà của lão là "hoàng cung của Charlemagne đại đế”. Thời gian hẹn thì đã định sẵn rồi.

Đêm đó, đêm sau cùng của Guiliano trên đất Sicily. Hắn đi bộ từ hầm mộ của tu viện đến Castelvetrano. Nó chọn vài anh chăn cừu là thành viên bí mật để làm vệ sĩ trong cuộc hành trình. Cả bọn đi tới Castelvetrano - suốt dọc đường - dễ dàng, không gặp trở ngại gì, đến nỗi Guiliano phải nghi ngờ một hiện tượng bất thường. Thị trấn như bỏ ngỏ, không một bóng dáng của toán tuần tiễu mọi khi nườm nượp như mắc cửi. Guiliano cho các vệ sĩ nghỉ tại thị trấn. Một mình hắn lầm lũi lần tới một ngôi nhà nhỏ nằm bên ngoài thị trấn. Ngôi nhà có tường xây bằng đá. Trước sân có ba chiếc xe lừa. Tranh vẽ trên xe bây giờ không phải là sự tích Charlemague nữa mà là dựa theo những huyền thoại về Guiliano. Đó là nhà của Zu Peppino.

Lão Zu không ngạc nhiên khi thấy Guiliano. Đặt cây bút đang sơn xe xuống, đóng cửa lại, lão nói với hắn:

- Em đến đây là gây tai hoạ lớn cho già rồi đấy. Xác con lừa chết thu hút ruồi nhặng thế nào, thì em cũng thu hút bọn cớm chìm cớm nổi y như vậy. Ấy, nói vậy chớ không phải là đuổi em đi khỏi đây đâu.

Guiliano cảm thấy nhói trong lồng ngực.

- Bộ có lính của thằng cha Lu ca hả, già?

- Ừa, nhưng tụi nó núp kỹ lắm. Khỏi có thấy được. Em có để ý không, trong thị trấn không có lấy bóng của một tháng cớm nào. Già cũng nom thấy một vài xe của chúng trên đường già đi làm về. Già nghĩ rằng nó đang dăng bẫy chụp người của mình. Nhưng già không dè đó lại là em. Lẽ ra em không nên đi quá xa về phía nam, quá xa sào huyệt của em như thế này.

Guiliano tự hỏi tại sao bọn cớm lại biết điểm hẹn này? Chúng đã theo Aspanu? Hay là Michael hoặc người của hắn đã không kín đáo? Hay là bọn cớm có chỉ điểm trong số người của mình? Trong tình hình này thì sao, nó cũng không nên gặp Aspanu tại Castelvetrano. Nếu vì một lý do nào đó, một trong hai đứa không đến điểm hẹn "chính thức" chúng sẽ cùng đến điểm hẹn "dự phòng”.

- Cám ơn già đã cho biết tin. Già để ý xem có thấy Aspanu thì già nói cho nó biết. Khi nào già có dịp đánh xe qua Montelepre, thì làm ơn nói lại với ông bà già là con đã sang Mỹ bình an rồi.

- Để già này được ôm hôn em một lần, - lão ôm và hôn lên má Guiliano, - già nói thật, em đừng buồn, không bao giờ già tin em có thể giúp ích gì cho cái xứ Sicily này đâu. Bởi lẽ giản dị là không bao giờ có ai có thể làm được điều đó. Kể cả Garibaldi. Kể cả thằng bẻm mép Mussolini. Nếu em muốn thì để già đánh xe chở em đến nơi em cần.

Giờ hẹn với Pisciotta là vào nửa đêm. Bây giờ mới là mười giờ đêm. Hắn có ý đến sớm để thăm dò đường đất trước. Hắn cũng biết giờ hẹn với Michael Corleone là vào lúc rạng đông. Điểm hẹn dự phòng - rất bí mật - ở cách Castelvetrano ít ra cũng hai giờ đi bộ. Guiliano nghĩ là nên đi bộ tới một mình hơn là dùng xe của Peppino. Hắn cảm ơn và lẩn vào đêm tối.

Điểm hẹn dự phòng là vệ thành của Selinus, một phế tích nổi tiếng của người Hy Lạp cổ tại Sicily. Nằm về hướng nam thị trấn Castelvetrano, gần Mazara del Vallo. Phế tích đứng trơ vơ trên rìa cánh đồng rộng, nơi vách đá của bờ biển bắt đầu nhô lên cao. Từ trước công nguyên, vệ thành đã bị sụp đổ sau một trận động đất. Nhưng hàng cột vẫn đứng vững. Nói đúng ra thì chính các nhà khảo cổ đã dựng lại hàng cột đó. Người ta vẫn có thể nhìn ra những giao thông hào, mặc dù ngày nay đã bị những mảnh đổ vỡ của phế tích lấp kín. Một đền thờ khác, mái bị dây nho dại phủ kín, dưới ánh trăng, nom như những cái đầu lâu khổng lồ. Những hàng cột đá vươn lên sừng sững, trơ gan cùng tuế nguyệt. Vệ thành là khu trung tâm của một đô thị Hy Lạp cổ và thường được xây trên một cao điểm. Từ cao điểm đó, người ta có thể bao quát, chế ngự đô thị phía dưới, đồng thời dễ phòng thủ.

Ngọn gió Siroco, ngọn gió nóng, khô rất khủng khiếp từ sa mạc suốt ngày thổi tới. Ban đêm, do ở gần biển nên toà vệ thành bị sương mù che khuất.

Mệt nhừ sau mấy giờ đi bộ. Guiliano vẫn cố leo lên mỏm đá cao để từ đó nhìn xuống xung quanh. Quang cảnh đẹp đến nỗi có lúc hắn quên hàng mối hiểm nguy đang rình rập. Ngôi đền thời thần Appolo đã sụp đổ. Rải rác quanh đó còn có những ngôi đền khác chập chờn trong sương mù và ánh trăng. Có ngôi chỉ còn là những hàng cột tua tủa vươn lên. Có ngôi, mái đã sụp, xiêu vẹo, chỉ còn bức tường lỗ chỗ cửa sổ đã mất hết chấn song. Trên phần đồng bằng phía dưới vệ thành, xưa kia là đô thị sầm uất, nay, ở giữa đồng đổ nát, chỉ còn một trụ đá lớn vượt lên cao. Sừng sững. Thách thức. Trụ đá ấy mang tên là "cây kim của mụ già". Dân Sicilian đã quá quen thuộc với vô số những phế tích rải rác trên khắp đảo, nên, tuy không coi thường, nhưng cũng không trầm trồ ngưỡng mộ như những du khách ngoại quốc đến đây.

Guiliano ngồi xuống bậc thềm, tựa lưng vào chân cột đá, vũ khí để ở bậc thềm phía dưới, trong tầm tay. Tiếng côn trùng rù rì. Tiếng cóc nghiến răng trong đống đá hoang phế. Nhưng, nếu có tiếng bước chân lại gần hắn vẫn có thể phát hiện ra ngay. Nghĩa là hắn sẽ phát hiện ra kẻ thù - nếu có - trước khi kẻ thủ phát hiện ra hắn.

Tựa lưng vào chân cột đá, cơ thể mệt mỏi, rã rời Guiliano cảm thấy gân cốt giãn ra như được xả hơi. Trăng tháng Bảy rọi trên hàng cột trắng xám đứng đối diện với bờ vách đá và biển cả. Bên kia bờ đại dương là nước Mỹ, nơi Justina đang ở, nơi đứa con của hai người sẽ ra chào đời. Và bản thân Guiliano cũng sắp sống an toàn ở đó. Bảy năm trời vùng vẫy ngoài vòng pháp luật - bảy năm - trôi qua. Nhanh như một giấc mơ. Có lúc hắn đã nghĩ: ở ngay trên đất Sicily này mà hắn còn không được hưởng hạnh phúc, thì trên đất Mỹ, chắc gì đã được hưởng. Và, ở đó hắn sẽ ra sao? Guiliano mỉm cười, tưởng tượng ra ngày hắn thình lình quay về. Và hắn hình dung ra khuôn mặt kinh ngạc, hãi hùng của kẻ thù vì sự bất ngờ đó. Hắn thở dài, mệt mỏi, tháo giày và tất, chà hai chân không vào nhau. Hai bàn chân không đặt trên nền đó mát lạnh, hắn cảm thấy dễ chịu. Hắn thò tay vào túi lấy ra hai trái lê dại. Vị nước ngọt, mát của trái lê làm dịu cơn khát.

Một tay cầm trái lê, một tay đặt trên khẩu súng lục, Guiliano ngồi chờ Aspanu Pisciotta.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


Michael, Peter Clemenza và Domenic dùng cơm tối sớm hơn thường lệ. Nếu cuộc gặp mặt Guiliano diễn ra vào lúc sáng tinh mơ thì mọi sự phải được sắp đặt ngay từ lúc chập tối. Kế hoạch được họ xem đi xét lại rất tỉ mỉ. Và được Domenic đồng ý sau khi bổ sung một chi tiết: Michael không được mang vũ khí. Sự trở về Mỹ một cách an toàn của Michael quan trọng đến nỗi họ phải nghĩ tôi ngay cả trường hợp tệ nhất, Michael vẫn về được Bởi vậy, Michael không được mang vũ khí, để, trong trường hợp có trục trặc bất ngờ, bị cớm vồ, cớm cũng không thể vin vào chỗ Michael có vũ khí để bắt giữ hắn. Do đó, cớm phải thả hắn ra. Nhờ đó hắn vẫn có thể rời khỏi Sicily như không có gì xảy ra.

Họ ngồi bên một gốc chanh trong vườn của toà biệt thự, quây quần bên vò rượu cho tới lúc đến giờ khởi hành. Sếp Domenic hôn giã từ ông em và quay qua ôm hôn phớt nhẹ Michael.

- Cho qua gửi tới ông bà già em những lời chúc tốt đẹp nhất, - lão nói nhỏ với Michael. - Và cầu nguyện cho tương lai của em. Chúc em may mắn. Những năm sắp tới nếu em cần qua giúp đỡ gì thì cứ nói, qua sẽ hết lòng.

Ba người đi xuống cầu tàu, Peter Clemenza và Michael bước lên chiếc khinh tốc đỉnh đã nổ máy chờ. Trên tàu đã có sẵn một số người, vũ khí đàng hoàng. Chiếc tàu lướt đi. Domenic đưa tay vẫy chào giã từ. Michael và Peter Clemenza đi vào ca-bin. Clemenza cần phải ngủ. Suốt ngày hôm đó, lão bận bù đầu. Chiếc khinh tốc đỉnh sẽ chạy lòng vòng trong vùng biển cho đến lúc mờ sáng.

Họ đã thay đổi kế hoạch. Chiếc máy bay hạng nhẹ sẽ bí mật hạ cánh ở Mazara dệt Vallo. Trước đó, theo dự kiến, máy bay này sẽ được dùng để đưa Michael và Guiliano ra khỏi Sicily. Nay, máy bay này chỉ được dùng để nghi trang đặng đánh lạc hướng theo dõi. Thay vì đáp máy bay, họ sẽ đáp chiếc khinh tốc đỉnh đi Châu Phi. Chính Clemenza đã phải tốn nhiều công lắm mới thuyết phục được họ theo giải pháp này. Theo lão, kiểm soát và bảo vệ được con đường từ chỗ Guiliano đến chỗ con tàu và bảo vệ được con tàu thì dễ hơn là kiểm soát "phi trường” - thực chất chỉ là bãi đất trống - dù chỉ là "phi trường” nhỏ. Vả lại, quanh vùng gần đó có nhiều đồi, máy bay hạng nhẹ lại mong manh. Hơn nữa, nó có thể là cái bẫy chết người lúc đậu ở phi trường. Tốc độ trong trường hợp này không quan trọng bằng mưu mẹo.

Ngoài ra, trên biển thì dù sao cũng dễ lẩn tránh hơn là trên trời. Giả sử như nếu cần thời gian dài, người ta có thể chuyển thực phẩm từ tàu khác qua. Chớ máy bay thì... thua!

Suốt ngày hôm đó, lão Clemmenza đã bận phái người và xe đến các điểm chót trên đường đi Castelvetrano. Đồng thời, phái người đi bảo vệ và tiếp cứu - nếu cần - thị trấn Mazara dệt Vallo, nơi có "phi trường”. Lão đã cho mỗi toán đi cách nhau một giờ chứ không xuất phát cùng một lúc. Một đoàn xe rần rần chạy qua cổng biệt thự thì dù có đui đi nữa, gián điệp nó cũng biết. Và các xe tuy cùng đến địa điểm đã định nhưng theo những hướng khác nhau, cốt đánh lạc hướng sự chú ý và theo dõi của bọn chỉ điểm. Trong khi đó, xuồng máy đánh một vòng xuống phía nam Sicily, thả neo đâu đó cho đến giờ hẹn thì chạy một mạch vào cảng Mazara del Vallo. Từ đó Michael sẽ lên xe. Chỉ cần nửa giờ xe là hắn có thể tới Castelvetrano mặc dù phải vòng lên phía bắc để rẽ vào con đường đi từ Trapani đến Castelvetrano. Pisciotta có thể chặn đón ở chỗ nào đó trên khoảng đường này.

Michael nằm trên chiếc giương hẹp dưới tàu. Nghe thấy lão Clemenza đã ngủ, ngáy khò khò, Michael rất phục vì trong tình thế như thế này mà lão vẫn có thể ngủ dễ dàng. Hắn nghĩ vẩn vơ, miên man. Chỉ vài tiếng đồng hồ nhà hắn sẽ có mặt ở Tunis. Và mười hai tiếng đồng hồ sau đó là có mặt tại nhà hắn ở bên Mỹ. Sau hai năm sống lưu vong, cho đến lúc đó hắn mới được sống thong dong. Không còn phải hễ thấy bóng mấy anh cớm là né. Không còn phải tuỳ thuộc vào người bảo trợ. Lúc đó mới được quyền muốn gì thì làm. Nhưng, tất cả những cái đó chỉ thực hiện được với điều kiện hắn còn sống sót sau mấy chục tiếng đồng hồ này. Trong khi mơ màng tưởng tượng đến những ngày sắp tới được vung vít ở đất Mỹ, tiếng máy tàu nổ đều đều, trầm trầm đã ru hắn vào giấc ngủ không mộng mị.

Thầy dòng quỉ sứ ngủ một đêm thật ngon lành!

Buổi sáng hôm đó, trước khi đến đón giáo sư Hector Adonis, Stefan Andolini đã ghé Palermo. Gã có hẹn với cớm chúa của đảo Sicily, tức là thanh tra Velardi. Buổi gặp gỡ thường lệ thôi. Qua các buổi gặp này, ngài thanh tra sẽ cung cấp cho gã những tin tức về hoạt động trong ngày hoặc sắp tới của đại tá Luca. Andolini sẽ chuyển lại tin đó cho Pisciotta và sau đó đến Guiliano.

Sáng hôm sau, trời đẹp. Cánh đồng dọc theo con lộ hoa đại nở rực rỡ. Gã khởi hành sớm trước giờ hẹn, nên dọc đường ghé lại một miếu thờ, kẻo vài hơi khói, rồi đến quì trước tượng thánh Rosalie. Lời cầu nguyện của gã đơn giản và thực tế: gã cầu xin đáng thánh che chở gã khỏi tay kẻ thù. Gã dự tính, chủ nhật kế đó, gã sẽ đến gặp cha Benjamino đặng xin xưng tội và rước Thánh Thể. Mặt trời chói lọi làm cho cái đầu trần của gã cảm thấy nóng. Mùi hương ngào ngạt của hoa đồng nội đã làm át cả mùi khói thuốc. Gã cảm thấy bụng đói như cào. Gã tự hứa sau khi gặp ngài thanh tra xong, sẽ đến nhà hàng thật sang ở Palermo làm một bữa đích đáng.

Ngài thanh tra Frederico Velardi, cớm chúa ngành "lính kín" Ở Sicily, cảm thấy khấp khởi mừng vì một chiến thắng "lương thiện". Niềm vui của một người kiên nhẫn chờ đợi và hằng tin rằng, sau cùng. Chúa sẽ lập lại trật tự trên thế gian này, rằng Chúa sẽ ban phần thưởng cho. Từ gần một năm nay theo lệnh trực tiếp và bí mật của ngài bộ trưởng Trezza, ngài thanh tra đã giúp Guiliano tránh được các cuộc hành quân tiễu phạt của ngài đại tá và các cuộc săn lùng của ngay đám cớm đàn em của ngài. Trên thực tế, từ gần một năm nay, ngài thanh tra "bị đặt dưới quyền sử dụng" của ông Trùm. Thế mới đau cho ngài.

Velardi sinh quán ở miền Bắc nước ý, nơi mà nhờ học thức người ta có thể làm được một cái gì đó, kiếm được một địa vị nào đó trong xã hội chẳng hạn. Và, ở đó, người ta còn tin vào luật pháp và chính quyền. Trong những năm phục vụ tại Sicily, ngài thanh tra nhiễm nặng cái thói khinh bỉ và ghê tởm bọn Sicilian, bất cứ thằng Sicilian nào, dù là thượng lưu hay hạ tiện. Thằng có của thì không hề có lấy một ly ý thức xã hội. Chúng thông đồng, âm mưu với bọn Mafia để kìm giữ dân lành trong vòng đói khổ. Bọn Mafia, miệng cứ huênh hoang là bảo vệ dân nghèo, thực ra chỉ là tôi tớ bọn có của. Còn bọn khố rách thì cũng chẳng đáng thương. Đã nghèo kiết xác ra mà vẫn cứ kiêu hãnh, coi cái thói giết người, hung bạo, như một thứ hào quang, mặc dù có phải tù chung thân cũng cứ "ôkê".

Nhưng, bây giờ mọi sự thay đổi. Ngài thanh tra đã được cởi trói và các toán cớm tay em của ngài đã được rảnh tay hành động. Để rồi coi xem đám cớm chìm của ngài làm ăn có khác với lũ hề cảnh vệ không thì biết.

Ngài thanh tra ngạc nhiên khi thấy đích thân bộ trưởng ra lệnh bắt giữ và biệt giam tất cả những người đã được chính ông ta phát cho tấm thông hành đặc biệt có sọc đỏ. Với tấm thông hành quyền uy đó, kẻ mang nó được quyền có võ khí, đi qua bất cứ nơi nào, giờ nào. Đặc biệt phải thu hồi cho được cái thông hành đã cấp cho Stefan Andolini và Aspanu Pisciotta.

Ngài thanh tra sửa soạn và bắt tay vào việc. Andolini đang ở phòng chờ để được ngài chuyển thư như thường lệ. Hôm nay thì thằng chó đẻ này biết tay. Ngài thanh tra nhấc ống điện thoại lên gọi một đại uý và bốn thầy đội cớm - thứ "gồ ghề” nhất của ngài - và nói họ chuẩn bị có thể có những bất trắc sắp xảy ra. Bản thân ngài cũng lận một khẩu súng lục vào thắt lưng, một điều rất ít khi ngài làm, khi ngồi ở văn phòng. Rồi, Andolini được mời vào.

Mái tóc màu râu bắp của Andolini được chải chuốt cẩn thận. Gã bận quần sọc đậm, áo sơ-mi trắng và cà vạt màu đậm. Dù chỉ là cuộc gặp gỡ "thường lệ", nhưng là gặp một vị thanh tra, nên ăn vận cũng cần đàng hoàng, chứ đâu có thể xập xệ như đi gặp đồng đảng được. Gã không mang vũ khí. Theo kinh nghiệm, gã biết bất cứ ai trước khi vào Bộ tư lệnh cũng đều bị kiểm soát vũ khí. Gã đứng ở trước bàn giấy của Velardi để đợi được mời ngồi xuống như thường lệ. Nhưng, lần này ngài thanh tra đã không mời gã ngồi. Do đó, gã vẫn cứ đứng, gã bỗng cảm tưởng phải cảnh giác.

- Đưa tôi coi giấy thông hành đặc biệt của anh.

Andolini không nhúc nhích. Gã cố đoán xem sao lại có cái sự đòi hỏi bất thường này. Trên nguyên tắc, gã chối.- Tôi không mang theo, - gã nói, - vả lại, tôi đến gặp một người bạn, chớ có phải là... - Gã nhấn mạnh vào chữ "bạn”.

Chính cái chữ "bạn" đó đã làm cho Velardi điên tiết. Ngài thanh tra bèn đứng lên đi vòng ra khỏi bàn giấy, đứng trước mặt Andolini, nhìn trừng trừng vào gã.

- Ai là bạn với thứ hạng mày. Nếu đã có lần tao ngồi ăn nhậu với mày thì chẳng qua đó là làm theo lệnh. Chớ cái đồ chó đẻ như mày mà đòi. Bây giờ thì nghe đây: mày bị bắt. Mày bị tống vào xà lim cho đến khi có lệnh mới. Và cho mày hay tao đã sắm sẵn cho mày cái "thùng tắm nắng” rồi. Nhưng thôi, ngày mai, nếu mày tỏ ra biết điều, tao sẽ nói chuyện đàng hoàng tử tế với mày. Bây giờ hãy chịu khó nằm xà lim đã.

Sáng hôm sau, ngài thanh tra nhận được điện thoại của ngài bộ trưởng và những "chỉ thị” rõ ràng hơn của ông Trùm. Một lát sau, Andolini được đưa từ xà lim đến bàn giấy ngài thanh tra.

Đã sửa bởi Nminhngoc1012 lúc 24.06.2015, 10:11.

Một đêm nằm trong xà lim suy nghĩ về sự bắt giữ khác thường này, Andolini hiểu rằng gã đang gặp nguy hiểm chết người. Velardi sải bước, đi đi, lại lại trong phòng, mắt long lên sòng sọc, có vẻ tức giận. Stefan Andolini mặt lạnh như tiền. Gã đã cẩn thận quan sát: ông quan ba và bốn anh đội cớm đã sẵn sàng. Khẩu súng lục lận ở thắt lưng ngài thanh tra. Gã biết là gã bị ngài thanh tra ghét cay ghét đắng và thù đến tận xương. Và gã cũng ghét ngài thanh tra không kém. Nếu đừng có mấy con khỉ đột kia gã sẽ thịt được thằng cớm chúa dễ như trở bàn tay. “Đằng nào cũng chết, nhưng phải cho thằng cớm chúa này chết theo, nếu không chẳng hoá ra mạng mình rẻ lắm sao". Bởi vậy, gã nói:

- Bảo mấy thằng cớm chìm khỉ đột kia ra đi, rồi mày muốn biết gì, tao sẽ nói cho nghe, nếu tao biết.

Velardi ra lệnh cho bơn đội cớm ra ngoài, nhưng nháy anh quan ba cớm ở lại. Ngài cũng làm bộ lấy súng ra khỏi người và đặt lên bàn. Rồi ngài nhìn trừng trừng vào Andolini:

- Tao muốn biết tất cả những tin tức giúp bắt được thằng Guiliano. Lần chót mày gặp nó và thằng Pisciotta ở đâu?

Stefan Andolini cười thành tiếng. Khuôn mặt cô hồn hắc ám của gã nhăn lại coi hiểm ác lạ thường. Làn da nổi hột với bộ rau màu râu bắp đỏ rực như đám lửa. Thảo nào, người ta gọi gã là thầy dòng quỉ sứ là phải. Velardi ngẫm nghĩ: "Gã đúng là một tay nguy hiểm. Phải làm thế nào để gã không ngờ được những gì sắp xảy ra".

Velardi điềm tĩnh nói với gã:

- Trả lời đi, hay là để đợi tao phải cho đi tắm nắng?

- Mày chỉ là cái đồ chó đẻ phản bội mạt hạng. Tao được ngài bộ trưởng Trezza và ông Trùm Croce che chở. Khi họ thả tao ra, tao sẽ cho mày thấy con đĩ mẹ mày.

Velardi bước tới, giáng cho Andolini hai cái tát nảy lửa Andolini hộc máu mồm ra. Đôi mắt gã toé lửa tức giận. Ngài thanh tra bình thản quay vào ghế bàn giấy.

Trong lúc đó, cơn giận làm cho Andolini hết còn nghĩ đến chuyện sống chết. Gã chộp ngay lấy khẩu súng trong bao trên thắt lưng ngài thanh tra lấy cò. Và cũng ngay lúc đó, anh đại úy cớm hờn sẵn đã nổ liền bốn phát vào Andolini. Thân thể gã bị hất mạnh vào tường ở cách đó khá xa, rồi nằm vật xuống sàn. Cái áo sơ-mi trắng của gã bây giờ máu nhuộm đỏ lòm. Velardi nhìn vào cái áo đẫm máu ấy và nghĩ thật nó chẳng khác gì mái tóc của gã. Ngài thanh tra bước tới và nhặt khẩu súng lục trong tay Andolini, khi mấy anh cớm khỉ đột kia nghe tiếng nổ, chạy ùa vào phòng. Ngài thanh tra khen ngợi anh đại uý cớm kia về sự nhanh nhẹn đúng lúc và chính xác. Và, trước sự ngạc nhiên của anh đại uý, ngài đã nạp đạn vào khẩu súng lục mà trước khi gặp Andolini ngài đã tháo đạn ra. Ngài cớm chúa này không chịu để cho anh đại uý có ảo tưởng về cái công ơn vĩ đại đã cứu cớm chúa thoát chết.

Ngài ra lệnh cho mấy anh cớm lục soát xác Andolini. Vì ngài nghĩ rằng tấm thông hành đầy quyền uy kia chắc chắn nằm chung trong ví của Andolini với tấm thẻ căn cướp mà người Sicilian lúc nào cũng bắt buộc phải mang theo trong người. Ngài thanh tra chớp lấy tấm thông hành ấy và cất kỹ. Đích thân ngài sẽ giao nó tận tay ngài bộ trưởng. Và biết đâu ngài lại chẳng gặp may để vớ nốt tấm thông hành đã cấp cho Pisciotta.

Michael và Clemeza ngồi tựa lưng trên thành song chắn trên boong tàu, nhâm nhi ly cà-phê. Mũi tàu chĩa thẳng vào đất liền, con tàu từ từ tiến. Tiếng máy khua nhẹ. Họ đã nhìn thấy ánh đèn trên cầu tàu. Đèn hiệu nhấp nháy.

Clemeza đi lòng vòng trên boong ra lệnh cho các tay súng và hoa tiêu. Michael chăm chú nhìn đèn hiệu nhấp nháy dường như đang tiến về phía hắn. Con tàu tăng tốc độ. Mặt biển bị rẽ ra, tuy bọt trắng xoá như muốn xua đuổi bóng đêm. Chân trời phía đông hé rạng. Michael nhìn thấy cầu tàu Mazara del Valllo, những cây dù màu sắc sặc sỡ lốm đốn nổi bật trên nền bãi biển.

Khi tàu cập bến thì đã có ba chiếc xe và sáu người chờ sẵn. Già Clemeza đưa Michael lên một chiếc xe mui trần dẫn đầu. Trên xe đã có sẵn tài xế. Clemeza ngồi băng trước với tài xế, Michael ngồi băng sau. Lão nói với Michael:

- Nếu xe mình bị toán tuần tiễu ách lại thì em cứ núp sát xuống sàn xe. Ai ngu mà lại đi lằng nhằng mất thì giờ. Cứ phơ tới đi, rồi dông cho lẹ.

Ba chiếc xe kiểu du lịch, nhưng cũng dềnh dàng, chạy lao vút đi trong ánh sáng ban mai còn mờ nhạt. Vẫn là buổi rạng đông như ngàn vạn buổi rạng đông khác trên đất Sicily từ trước đến nay, hầu như chẳng thay đổi gì mấy kể từ ngày Chúa Jesus Christ giáng trần. Vẫn những con kênh xây từ thời La Mã cổ dẫn nước tưới trên những cánh đồng. Không khí nóng ẩm và đượm mùi hăng hắc nồng nồng toả ra từ các bông hoa dại đang thối rữa dưới sức nóng thiêu đốt của mặt trời mùa hè xứ Sicily. Họ đi ngang phế tích Selimunte, một phế tích của đô thị Hy Lạp cổ khác. Michael đã từng thấy rải rải khắp Sicily nhưng hàng cột cẩm thạch tua tủa từ các đền đài cổ của các đô thị Hy Lạp xây dựng từ hơn hai ngàn năm trước. Đất đen màu mỡ leo bám lên tận vách đá trên núi. Suốt dọc đường không thấy một ngôi nhà, một con vật hay một bóng người.

Họ rẽ về hướng Bắc để đi về phía con đường dẫn tới Trapani - Castelvetrano. Trên quãng đường này, Michael và Clemeza lại càng cảnh giác hơn. Bởi vì, rất có thể ở một chỗ nào đó trên quãng đường này, Pisciotta sẽ chặn họ lại để đưa Guiliano lên xe. Michael cảm thấy rất hồi hộp. Ba chiếc xe du lịch chạy chầm chậm. Clemeza tay lăm lăm khẩu súng và trong tư thế sẵn sàng lao ra khỏi xe. Mặt trời đã lên cao, toả ánh sáng rực rỡ, chiếc xe chạy chậm hơn nữa. Họ đã đi gần tới thị trấn Castelvetrano.

Clemeza ra lệnh cho tài xế đi chậm hơn nữa. Lão và Michael chăm chú nhìn xem có dấu hiệu nào của Pisciotta không. Họ đã đi tới sát ngoại vi thị trấn Castelvetrano và bắt đầu đi xuống dốc. Xe ngừng lại để từ đó họ quan sát thị trấn nằm phía dưới. Từ trên cao điểm nhìn xuống, con đường đi từ Palermo tới lổm ngầm đầy những xe nhà binh. Dưới thị trấn lúc nhúc đám lính cảnh vệ mặc đồng phục đen viền trắng. Những tiếng còi hú của xe cảnh sát, nhưng dường như không phải để giải tán đám đông đang tụ tập trên phố chính của thị trấn. Trên trời có hai máy bay nhỏ đang lượn lờ.

Người tài xế chửi thề, đạp thắng và cho xe ép vào lề đường. Gã quay sang hỏi Clemeza:

- Ông muốn đi tới nữa không?

Michael cảm thấy buồn nôn. Hắn hỏi Clemeza:

- Trong thị trấn, chú có bao nhiêu người của mình?

- Không đủ, - Clemeza đáp, giọng hơi có vẻ gắt. - Mặt lão thoáng nét sợ hãi, hốt hoảng. - Mike, mình phải rút khỏi đây liền. Phải quay về tàu gấp thôi.

- Chờ chút đã.

Michael nhìn thấy chiếc xe lừa đang ì ạch lên dốc đi về phía họ. Người đánh xe là một ông già. Chiếc mũ rơm chụp xuống sát gần mí mắt. Vẫn chiếc mũ rơm màu loè loẹt sặc sỡ với tranh tích kiểu độc đáo Sicilian. Chiếc xe lừa dừng lại bên xe của Michael. Khuôn mặt lão đánh xe nhăn nheo và không lộ một chút cảm xúc gì. Khác với khuôn mặt, cánh tay phơi trần đến tận nách để lộ bắp thịt cuồn cuộn. Lão dừng lại trước mũi xe của Michael:

- Phải xe của ông Clemeza không đấy?

Trong giọng nói của Clemeza thấy có vẻ mừng khấp khởi:

- Zu Peppino, có cái quỉ gì dưới kia vậy. Tại sao mấy người của tôi lại không đến báo cho tôi vậy?

Khuôn mặt nhăn nheo vô cảm nói, lạnh tanh:

- Mấy ông về Mỹ đi được rồi đấy. Tụi nó làm thịt Turi Guiliano rồi.

Michael cảm thấy choáng váng và thấy như trời sập. Hắn nghĩ tới ông bà già của Guiliano, tới Justina hiện đang chờ đợi Guiliano ở bên Mỹ, tới Pisciotta, tới Stefan Andolini và tới Hector Adonis. Guiliano là ánh sáng soi đường cho họ. Họ sẽ ra sao nếu giờ đây ánh sáng ấy tắt đi?

- Lão có chắc chắn đúng là không? - Clemeza gằn giọng hỏi.

Lão già kia nhún vai.

- Thì vẫn là một trong những mẹo cũ của Guiliano, phơi một cái xác nào đó chình ình ra, rồi phao tin là Guiliano bị ám sát để dụ mấy anh cớm, mấy anh xăng đá đến là quất. Nhưng, đã hai giờ đồng hồ rồi, mà vẫn chưa thấy xảy ra gì ráo. Cái xác vẫn nằm phơi trên sân chỗ nó bị giết ấy. Có cả mấy ông nhà báo từ Palermo tới, máy ảnh bấm lia lịa, chụp loạn cả lên, chụp luôn cả con lừa của tôi nữa. Vậy đó, ông muốn tin sao thì tin.

Michael thấy muốn phát ốm, nhưng ráng nói:

- Mình cứ đi vô trong thị trấn coi. Tôi muốn biết chắc thực hư ra sao?

Lão Clemeza nổi cáu:

- Sống hay chết thì bây giờ mình cũng chẳng giúp gì được nó nữa rồi. Mike, qua có bổn phận phải đưa em về bên ấy an toàn.

- Không, - Michael dịu dàng đáp. - Mình phải vào trong kia. Rất có thể Pisciotta đang chờ mình. Hoặc có thể Andolini không chừng. Để cho mình biết phải làm sao chớ. Rất có thể cái xác ấy không phải của Guiliano. Tôi không tin như vậy. Hắn không thể chết, nhất là khi hắn sắp sửa đi như thế này, nhất là khi bản chúc thư đã nằm an toàn bên Mỹ.

Lão Clemeza thở dài. Lão nhìn vẻ đau khổ trên khuôn mặt Michael. Có lẽ không phải là Guiliano. Có lẽ Pisciotta đang chờ để cho một điểm hẹn khác. Có lẽ đây chỉ là một phần trong âm mưu nhằm đánh lạc hướng vì bọn cớm bám sát quá.

Lúc này mặt trời đã lên cao. Clemeza ra lệnh cho bộ hạ của lão đậu xe lại, rồi lội bộ theo lão. Cả bọn đi tới đường phố có người xúm đen xúm đỏ, tò mò, dáo dác. Họ rẽ đám đông đi vào một đường phố đậu đầy xe nhà binh và cớm làm hàng rào chặn. Phía bên kia đường là những căn nhà, phía dưới có sân. Clemeza và Michael cũng đứng xớ rớ bên đám đông, nhìn. Một sĩ quan cảnh sát đang tiếp các nhà báo và các quan chức được cho đi qua hàng rào cảnh sát sau khi đã xem xét cẩn thận. Michael nói với Clemeza:

- Làm thế nào để đến chỗ thằng cha sĩ quan kia, được không?

Clemeza nắm cánh tay Michael và ra khỏi đám đông.

Họ đi vào một căn nhà nhỏ phía bên kia dường. Căn nhà này cũng có một sân nhỏ và chỉ cách chỗ đám đông khoảng hai chục căn. Clemeza để Michael ở đó cùng với bốn người của lão. Còn lão và hai người nữa quay ra đi đâu đó. Cả tiếng đồng hồ sau, lão quay trở lại, mặt buồn thiu.

- Hỏng rồi, Mike. Bà già của Guihano được đem từ Montelepre đến để nhận diện cái xác. Đại tá tư lệnh lực lượng đặc biệt tiễu phỉ cũng đang ở đấy. Báo chí quốc tế kể cả báo bên Mỹ nhà mình - cũng đang ùn ùn kẻo đến đây. Cả thị trấn sắp thành cái nhà thương điên đến nơi. Mẹ kiếp, mình phải vọt gấp khỏi đây mau.

- Mai, - Michael nói. - Mai mình mới đi. Bây giờ phải tìm cách vượt qua hàng rào cảnh vệ kia đã. Bộ chú mà cũng không xoay xở được cách nào để qua sao?

- Chẳng có cách nào hết.

- Thì bây giờ mình cứ đi ra, đến nơi rồi xem xem, biết đâu lại chẳng có cách. Cứ ngồi đây thì làm sao có cách được.

Phản đối, nhưng Clemeza cũng đành phải đi theo Michael ra đường. Thị trấn chỗ nào cũng lúc nhúc cớm chìm, cớm nổi, cảnh vệ, "xăng-đá". Có đến trên ngàn người. Súng ống lăm lăm. Và cả một đạo quân nhà báo, phóng viên chụp hình. Đường phố san sát xe nhà binh, xe cớm, xe báo chí. Và đúng là không thể nào lại đằng chỗ sân có cái xác kia. Họ thấy một nhóm sĩ quan cao cấp đang đi vô một nhà hàng. Người ta thì thào bàn tán với nhau: “Ngài đại tá và bộ tham mưu đi ăn mừng chiến thắng đấy". Michael liếc nhìn thoáng thấy ngài đại tá. Ông ta nhỏ con, nhưng coi bộ rắn rỏi, chớ không có loắt choắt. Nét mặt nom buồn. Có lẽ do trời nóng nên quan ngài cũng lột mũ ra. Và lấy khăn che cái đầu hói trụi của ngài. Đám phóng viên chụp hình bấm lia lịa. Và đám phóng viên khác hỏi tới tấp. Ngài đại tá xua tay, không trả lời và đi vào nhà hàng.

Cả thị xã đông ghét người. Đến nỗi Michael và Clemeza muốn tới, lui cũng khó. Clemeza quyết định quay về căn nhà lúc nãy và ngồi đó chờ tin. Mãi đến xế trưa mới có tin về nói là bà Maria Lombardo đã nhận diện đúng là con của mình.

Họ ăn trưa tại một nhà hàng. Tiếng ra-đi-ô om sòm loan tin về cái chết của Guiliano. Theo tường thuật của đài phát thanh thì Lực lượng đặc biệt tiễu phỉ và cảnh sát bao vây căn nhà mà họ tin rằng Guiliano đang lẩn trốn trong đó. Khi hắn chạy ra, cảnh sát và Lực lượng đặc biệt tiễu phỉ của đại tá ra lệnh đầu hàng. Hắn liền đáp lại lệnh đầu hàng bằng cách nổ súng lung tung. Đại uý Perenze, sĩ quan tham mưu trưởng của đại tá Luca trả lời các phóng viên của đài phát thanh. Ông ta cho biết, Guiliano đâm đầu chạy. Nhưng ông ta - đại uý Perenze - đã dồn hắn vào trong sân. Guiliano lồng lộn như một con sư tử trong chuồng. Và ông đại uý đành phải băn hạ hắn. Mọi người trong nhà hàng ăn đều ngừng để lắng nghe ra-đi-ô. Bồi cũng ngưng chạy bàn để nghe.

Clemeza quay lại nói với Michael:

- Đ.m., chuyện bá láp, cóc tin được. Thôi, tối nay bọn mình dông.

Nhưng, ngay lúc đó, đường phố có nhà hàng trong đó Clemeza và Michael đăng ăn đều nghẹt cớm và xăng- đá. Một chiếc xe - thứ xe của các cớm gộc - dừng lại trước cửa nhà hàng. Từ trên xe, cớm chúa Velardi bước ra. Ngài thanh tra đi thẳng đến bàn Michael và Clemeza đang ngồi. Ngài đặt tay lên vai Michael nói:

- Anh bị bắt. - Quay sang Clemeza, đôi mắt xanh, lạnh như băng của ngài chĩa thẳng vào lão: - Và cũng tiện quá, ông cũng bị bắt cùng với hắn. Cảnh cáo trước: tôi có một trăm người bao vây nhà hàng này rồi. Chớ có dại dột, làm hoảng, kẻo lại theo thằng Guiliano xuống địa ngục sớm.

Chiếc xe bít bùng trờ tới. Michael và Clemeza bị lính kín nắm kỹ và đẩy lên xe. Vài phóng viên nhiếp ảnh đang ăn trong nhà hàng cũng nhảy vội ra bấm lia liền bị lính kín và cớm chìm lập tức chặn lại. Ngài thanh tra đứng mủm mỉm cười nhìn quang cảnh ấy. Trong bụng thoả mãn vì suốt một năm qua phải ngậm đắng nuốt cay giả lả với bọn người như tụi này.

Sáng hôm sau, ông già của Turi Guiliano đứng trên ban-công nhà mình nói xuống với những người đang đứng dưới phố. Theo đúng tục lệ truyền thống Sicìly, ông ta lên tiếng đòi nợ máu những kẻ đã phản bội con ông. Đặc biệt, ông ta tuyên bố mối huyết thù với kẻ đã hạ sát con ông. Kẻ đó - theo lời ông - không phải là thằng cha đại uý Perenza hay một thằng cớm, thằng xăng-đá nào. Mà chính là... Aspanu Pisciotta.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


Từ một năm qua, Pisciotta cảm thấy mầm phản bội lớn dần trong lòng mình.

Từ lúc nó cùng với Guiliano "khởi nghiệp" cho đến lúc đó y vẫn luôn luôn trung thành với Guiliano. Mà ngay từ lúc còn bé, y đã chấp nhận sự lãnh đạo của Guiliano mà chẳng cảm thấy ghen tị gì. Khi lập "băng", Guliano vẫn luôn tuyên bố hắn và Pisciotta "đồng lãnh đạo”, chứ Pisciotta không phải là tuỳ tướng, tiểu tướng như cỡ Passatempo, Terranova, Andolini và Canio Sylvestro. Nhưng, cái nhân cách trội vượt của Guiliano đã làm cho cái danh hiệu đồng lãnh đạo của Pisciotta ta trở thành hão huyền. Guiliano chỉ huy. Và chính Pisciotta cũng chấp nhận mà không phàn nàn gì.

Guiliano đảm lược hơn người. Chiến thuật du kích của hắn chưa có tay nào qua mặt được. Kể từ thời Garibaldi đến lúc đó, chưa có ai có tài thu hút được đám nông dân khố rách bằng hắn. Vừa lý tưởng lại vừa lãng mạn. Vừa quỉ quyệt lại vừa chơi bạo, là những cái mà dân Sicilian rất mê. Nhưng hắn có một sơ hở mà Pisciotta nhìn thấy và cố gắng để sửa chữa.

Khi Guiliano nhấn mạnh là sẽ trích một nửa số tiền cướp được cho đám dân khố rách, Pisciotta đã nói:

- Mày chỉ có thể: hoặc là giàu có hoặc là được thiên hạ yêu mến. Mày tưởng là đám dân khố rách Sicilian kia sẽ bừng bừng đứng dậy đi theo ngọn cờ cách mạng của mày để chống lại bọn Rome ấy hả? Đ.m. còn khuya! Đếch bao giờ chúng dám. Mày còn tiền để cho chúng nó thì chúng nó còn yêu mày, che giấu cho mày và không phản bội mày. Nhưng, cách mạng thì khỏi. Chúng sẽ xin hai chữ bình an. Đó, Sicilian là thế đó.

Pisciotta đã phản đối khi Guiliano theo đuổi thằng già dịch Croce và bọn chính khách của đảng Dân chủ Thiên chúa giáo. Y cũng phản đối sự áp đảo bọn hồng, bọn đỏ. Khi Guiliano hy vọng chính quyền của bọn Dân chủ Thiên chúa giáo miễn xá, Pisciotta nói ngay:

- Ngây thơ! Không đời nào bọn nó lại chịu miễn xá cho mày. Không đời nào thằng già “lựu đạn” Croce lại chịu để cho mày có ít quyền lực nào. Số phận của mình là: hoặc dùng tiền để thoát khỏi cuộc đời thằng ăn cướp, hoặc chết như một thằng ăn cướp. Và, nếu có chết như vậy đi chăng nữa thì cũng đếch có gì là xấu, nhất là đối với tao.

Nhưng Guiliano đâu có thèm nghe. Thế là sự phản bội bắt đầu ngấm ngầm nảy nở trong lòng Pisciotta.

Guiliano vẫn cứ lý tưởng, vẫn cứ ngây thơ, Pisciotta nhìn thấy hết, biết hết. Khi có sự kiện Luca và lực lượng đặc biệt tiễu phỉ thì Pisciotta biết ngay: ngày tàn đã tới. Chúng có thể thắng trăm trận, nhưng chỉ cần bại một trận thôi là đủ tiêu tùng rồi. Cũng như trong chuyện cổ tích hai chàng hiệp sĩ Roland và Olivier của Charlamagne đại đế. Đã ba lần Olivier hối thúc Roland nổi tù và để gọi cứu viện. Nhưng Roland cứ muốn làm anh hùng. Cuối cùng cả hai cùng chết. Guiliano cũng như Roland – cứ muốn theo đuổi giấc mộng lớn, cứ muốn đường đường chính chính, được miễn xá… Pisciotta thấy mình như Olivier, yêu cầu Guiliano “nổi tù và”. Chỉ khác Olivier ở chỗ Pisciotta không muốn chết như Olivier, mà theo Pisciotta “chết vô nghĩa, đếch ăn cái giải gì”.

Khi Guiliano mê và cưới Justina nữa, thì Pisciotta thấy rõ giữa y và Guiliano là phải “anh đường anh, tôi đường tôi”. Guiliano có thể vù sang Mỹ hú hí với vợ, con. Còn nó, Pisciotta trơ thân cụ. Cứ mãi mãi lẩn tránh, trốn chui trốn nhủi. Y biết là đời y không thọ. Không viên đạn thì cũng con vi trùng lao. Định mệnh của y là thế. Y không tài nào sống ở Mỹ được.

Điều làm cho Pisciotta buồn phiền và lo lắng hơn cả là từ khi yêu và cưới Justina, Guiliano bỗng trở nên một tên cướp tàn bạo dễ sợ. Ra lệnh giết tất cả những cảnh vệ mà hắn bắt được trước kia. Xử tử Passatempo ngay trong tuần trăng mật. Tỏ ra tàn bạo với bất cứ ai hắn nghi làm chỉ điểm. Pisciotta sợ rằng con người mà bao năm qua y đã yêu quí, bảo vệ sẽ có ngày quay ra hỏi tội chính y. Nhất là khi Guiliano biết một vài điều mà mới đây y đã làm, thì cái án tử hình của Guiliano dành cho y không sao tránh khỏi.

Trong ba năm trở lại đây. Ông Trùm Croce theo dõi thật sát và nghiên cứu kỹ mối liên hệ giữa Guiliano và Pisciotta. Chúng là mối đe dọa độc nhất trong “đế quốc” của lão, chúng là con kỳ đà cản mũi cho bước đường thống ngự của lão trên tòan cõi Sicily. Lúc đầu lão nghĩ có thể biến Guiliano thành quả đấm sắt trong tổ chức “Người anh em” của lão. Giáo sư Hector Adonis đã được phái đi làm thuyết khách. Nhưng sự không thành. Mà đề nghị đâu có gì là mập mờ, không hấp dẫn. Thì Turi nắm ngành võ, Ông Trùm nắm ngành văn. Nhưng ngành võ thì phải dưới “cờ” ngành văn. Turi phải nhún, chịu lép vế với Ông Trùm một chút. Chỉ có vậy thôi mà hắn không chịu mới ngu chứ. Cứ đường hắn, hắn đi. Toàn là giấc mộng lớn cả. Nào là giúp đỡ người nghèo. Nào là giải phóng Sicily ra khỏi ách áp bức, bóc lột của bọn nhà giàu? Nào là bẻ gãy xiềng xích của bọn chính khách ở Rome. “Để được cái gì? Cái danh hão ấy có nuôi nổi ai?”. Ông Trùm ngẫm nghĩ, và ngán ngẩm vừa tiếc cho cái tài của hắn. “Ngu ơi là ngu. Cơm không muốn ăn, mà cứ đòi ăn cứt. Làm cha thiên hạ không muốn, cứ muốn trốn chui trốn nhủi. Ăn đời ở kiếp trên núi ấy được à? Thành đạt được giấc mộng lớn à? Xóa bỏ áp bức bất công à? Thì chính Đức Chúa Jesua cũng bị đóng đinh chỉ vì các ước vọng ngông cuồng đó. Thằng Turi là cái gì mà đòi làm hơn?”. Ông Trùm càng nghĩ càng không sao hiểu được. Và càng tiếc. Giá có nó làm nắm đấm sắt thì đỡ cho lão biết mấy. Chẳng có nó, đôi lúc nói năng với bọn Rome cũng dễ dàng hơn. Và nhất là công việc làm ăn không bị ai thọc gậy bánh xe. Lão cũng tiếc cho cái cơ nghiệp của lão. Bộ lột da sống đời để ôm cái cơ nghiệp ấy? Có độc một thằng con, thì lại là một thằng bị cái bả “cứu nhân độ thế” làm mê muội đi. Lão càng nghĩ, càng tiếc. Càng tiếc lại càng tức. “Đ.m. đơm cỗ cho nó ăn, nó không ăn, nó còn chửi mình. Mà chịu lép một chút thì có gì là nhục mà nó không nghe”.

Từ năm 1943 đến năm 1947, Guiliano là ngôi sao đang lên. Trong lúc đó Ông Trùm đang mắc bận ổn định lại tổ chức, xây dựng lại lực lượng. Sau trận chu diệt của Mussolini, tổ chức “Người anh em” của lão ngắc ngư, tưởng tiêu luôn. Mấy năm trời vẫn chưa gượng lại, lấy lại sức được. Với kinh nghiệm, lão thừa biết rằng một tổ chức sống ngoài vòng pháp luật mà “đi” với chính quyền thì chỉ có hai con đường: hoặc tiêu vong, hoặc làm tôi tớ cho chính quyền. Cả hai lão đều không muốn. Mà làm tôi tớ cho chính quyền thì sớm muộn gì cũng tiêu vong. Vì bọn chính khách nào cũng chó đẻ như nhau, đểu cáng như nhau. Để có thì giờ tổ chức, xây dựng lại lực lượng riêng của mình, lão đã bấm bụng chịu “đi đêm” với bọn Dân chủ Thiên chúa giáo, mặt khác, ráng tranh thủ Guiliano. Nhưng khi thấy Guiliano quyết không đi vào quỹ đạo lão vạch ra, cái đầu óc thâm hiểm của lão đã tìm ra được một đòn, đòn này chắc chắn đưa Guiliano đến chỗ mất mạng đã đành, mà danh dự cũng tiêu ma luôn. Nghĩa là – “cơm không muốn ăn, cứ đòi ăn cứt. Dễ thôi” – dành cho Guiliano một cái chết toàn diện, cả về thể xác lẫn tinh thần. Trước hết, lão gài Guiliano vào cái thế liên minh với bọn Dân chủ Thiên chúa giáo. “Hễ đi với chính quyền thì sớm muộn gì cũng chết”. Đòn thứ hai nhằm thẳng vào danh dự của Guiliano là vụ Portella del Ginestra. Trong vụ này chính Guiliano tự tay dìm danh dự của mình xuống đất đen. Chẳng những thế, Guiliano cũng tự bít luôn con đường “miễn xá”. Vì bọn chính khách ở Rome có thừa đểu cáng để dùng vụ này làm cái cớ “phủi nợ” với Guiliano. Lão sẽ trở thành “bất chiến tự nhiên thành”. Lão mượn tay bọn Rome để diệt Guiliano – tức là bọn Rome dọn đường, làm không công cho lão – mà bọn Dân chủ Thiên chúa giáo còn phải mang ơn lão. Đồng thời, bôi tro trát trấu vào danh dự của Guiliano, được coi như một tay cự phách trong vai trò bảo vệ dân khố rách. Cho đến khi Guiliano ra tay “hóa kiếp” cho sáu sếp sòng Mafia của lão, thì giữa “băng” của Guiliano và tổ chức “Người anh em” chỉ là một mất một còn.

Bởi vậy, thằng cha già “lựu đạn” có đầu óc hiểm độc và con mắt rốt lõi đời đã chiếu cố đến Pisciotta. Theo lão, Pisciotta khôn lỏi hơn. Nhưng cho dù có lọc lõi thì – vì còn trẻ - hắn cũng không đủ bản lĩnh để đánh giá đúng mức được lòng dạ người khác, nhất là những tay tinh ma lão luyện như lão. Mà Pisciotta cũng là một tay ham hố. Mùi vị và những cám dỗ cuộc đời, Pisciotta không hề chê. Trong khi Guiliano rất coi nhẹ tiền bạc thì Pisciotta lại rất khoái. Trong khi cướp bóc, bắt cóc tống tiền, Guiliano kiếm ra hàng tỉ đồng “lire”, nhưng hắn đã không giữ lấy cho riêng mình một xu. Hắn chia cho bọn khố rách hết. Và cũng chỉ giúp đỡ gia đình gọi là.

Trong khi đó – lão Croce nhận xét – Pisciotta rất ăn diện, áo quần toàn bằng hàng thứ “de luxe”, đặt may tại Palermo, Và chơi điếm thì chọn toàn là điếm hạng sang. Gia đình của Pisciotta sống cũng thoải mái hơn gia đình Guiliano. Lão cũng biết Pisciotta gởi tiền ở nhà băng dưới những cái tên giả, có nhà riêng ở Trapani. Nghĩa là Pisciotta có những toan tính, lo xa cẩn thận, kín đáo, khôn ranh như bất cứ một tay lõi đời nào. Và lão Croce còn biết Pisciotta làm tất cả những cái đó, nhưng giấu không cho Guiliano.

Lão biết như vậy thì thế nào cũng có ngày Pisciotta tìm đến lão. Lão chờ. Pisciotta cũng biết, thằng già dịch sẵn lòng lúc nào cũng mở rộng cửa đón chờ y. Và Ông Trùm có thiếu gì khôn ngoan và kinh nghiệm để lo xa, dự phòng. Lúc nào lão cũng có cận vệ vũ trang cùng mình để bảo vệ hắn. Lão cũng cẩn thận không báo trước cho ngài đại tá Luca và ngài thanh tra Velardi để sẵn sàng cho cuộc gặp gỡ này, nếu mọi chuyện suôn sẻ. Nếu mọi sự không xong, nếu lão đánh giá sai Pisciotta để đến nỗi chính Pisciotta là người được Guiliano phải đến để làm thịt lão… thì nơi đó cũng phải là nơi kết thúc cuộc đời của chính Aspanu Pisciotta.

Pisciotta đã để cho các tay em của Ông Trùm tước vũ khí trước khi dẫn nó đến gặp lão. Nó không có vẻ gì là sợ hãi. Vì mới chỉ mấy ngày trước đó, nó đã ra tay cứu tử cho lão bằng cách báo trước cho lão kế hoạch tấn công của Guiliano vào khách sạn lão đang ở.

Chỉ có hai người đối mặt. Bồi của Ông Trùm đã dọn sẵn các món ăn và bày sẵn rượu. Theo cung cách tiếp khách nhà quê, Ông Trùm rót rượu và gắp thức ăn mời khách.

- Cái thời vàng son, huy hoàng, vung vít là hết rồi, nghen, - lão già dịch khai báo – Bây giờ đã đến lúc tao với chú mày phải đàng hoàng, cẩn thận. Thời gian sắp tới có tính chất quyết định cho sinh mạng của anh em mình. Tao mong chú mày sẵn sàng để tâm đến những gì tao sắp nói đây.

- Tôi không cần biết đến nỗi lo lắng, quan tâm của ông. Có điều tôi biết là sắp tới, tôi phải hết sức cẩn thận may ra mới toàn mạng.

- Bộ chú mày không muốn di cư sang Mỹ? Chú mày có thể đi cùng Guiliano. Tất nhiên, rượu nho ở đó thì bằng thế đếch nào của mình ở đây. Dầu ôliu ở đấy ấy hả? Cứ gọi là nhạt như nước lã. Rồi, ở đấy nó có ghế điện. Và trên hết, chính quyền ở đấy nó đếch có văn minh, điệu nghệ như chính quyền của mình ở đây. Chú mày không có làm liều, làm ẩu được đâu. Tuy nhiên, sống ở đó cũng không phải là tệ lắm đâu.

Pisciotta cười:

- Tôi cần đếch gì cái nước Mỹ ấy? Mẹ kiếp, thời vận của tôi là ở đây này, ở cái xứ Sicily cùn mằn này. Một khi thằng Guiliano phớt đi rồi ấy hả, tụi nó cũng chẳng thèm mà rượt tôi lắm làm chi. Vả lại núi non coi vậy chứ cũng hiểm trở, đâu phải ít?

Ông Trùm nói giọng có vẻ ái ngại:

- Thế còn cái bệnh phổi của chú mày lúc này ra sao? Vẫn dùng thuốc dài dài đấy chứ?

- Ừ, - Pisciotta nhe răng ra cười nói với Ông Trùm, - Nhưng cái đó nhằm nhò mẹ gì. Cái đó không thành vấn đề đối với tôi. Cái may của tôi là con vi trùng lao chưa đủ sức để vật ngã tôi được.

- Thôi, anh em mình cứ nói với nhau như người Siciclian, sống chết trên cái đất Sicily này đi, - Ông Trùm nói, giọng trang nghiêm. – Khi ta còn nhỏ, khi ta còn trẻ, thì cái chuyện ta yêu quí bạn bè, ta rộng lượng, ta tha thứ lỗi lầm của bạn… là điều tự nhiên. Lúc đó, mỗi ngày là mỗi tươi mát. Ta đón nhìn tương lai với niềm hy vọng chứa chan. Với sự thú vị. Và đếch có sợ hãi. Lúc đó, thế giới này chẳng có gì là nguy hiểm cho ta. Đó là thời kỳ hạnh phúc. Nhưng, một khi ta lớn lên, phải đổ mồ hôi ra kiếm miếng ăn, thì lúc đó, tình bè bạn không có ngon ngọt như lúc còn nhỏ, còn trẻ đâu. Lúc nào mình cũng phải mắt trước mắt sau, đề phòng. Các bậc cha, anh công sức đâu mà chăm lo, săn sóc, nuôi báo cô mình hoài. Ta cũng đâu còn hứng thú để chơi mấy cái trò chơi trẻ con nữa. Ta trở nên kiêu hãnh, tự hào hơn. Ta muốn trở thành một nhân vật, có quyền thế, có tiền của, hay tệ ra thì cũng giữ gìn làm sao cho đời mình khỏi mạt. Tao biết là chú mày thương thằng Guiliano lắm. Nhưng chú mày cứ nhìn lại chú mày coi, được cái gì nào? Sau những năm tháng yêu thương như vậy, thì còn lại cái gì nào? Hay chỉ là những kỷ niệm suông?

Lão ngưng nói như thẻ chờ câu trả lời của Pisciotta. Nhưng mặt cái thằng khốn kiếp ấy trơ như đá, trắng bệch như vôi. Khuôn mặt ấy lạnh tanh, nhìn chằm chằm vào lão.

- Riêng tao, - Ông Trùm nói tiếp, - Tao không thể để cho thằng khốn kiếp Guiliano sống hoặc trốn thoát. Nếu chú mày cứ trung thành với thằng khốn ấy thì đương nhiên, chú mày là kẻ thù của tao. Cứ biết thế đi. Và khi thằng khốn kia “đi tong” rồi, thì một mình - ở cái đất Sicily – chú mày không thể sống nổi, nếu không có sự bảo trợ của tao.

- Bản chúc thư của Guiliano nằm an toàn trong tay mấy thằng bồ của nó bên Mỹ rồi, nghe cha. Cha láng cháng đụng đến nó, nó tung bản chúc thư ấy ra công luận là chính quyền đảng Dân chủ Thiên chúa giáo thân bại danh liệt với nó, chớ không phải chuyện chơi. Và, chính quyền khác lên – xin lỗi ông anh – tôi sợ đến cái mức ông anh xin đuổi gà cho vợ ở Vilaba nhà ông anh, nó cũng đếch cho.

Lúc đầu lão còn cười tủm tỉm. Sau lão cười hô hố, cười bò ra. Lão nói, giọng khinh khỉnh, giễu cợt:

- Chú mày đã được đọc cái bản chúc thư quỉ khốc thần sầu ấy chưa?

Kinh ngạc trước phản ứng của Ông Trùm, Pisciotta đáp gọn lỏn:

- Rồi.

- Tao thì chưa, - Ông Trùm nói, - Nhưng cứ việc tao, tao làm. Như tao muốn. Đếch thèm coi cái chúc thư ấy ra cái giống gì. Hoặc giả, tao cứ coi như không cóc cái chúc thư ấy, đã sao chưa?

- Ông anh bảo thằng này phản Guiliano hả? – Pisciotta nói. – Dựa vào đâu mà ông anh lại dám ăn chắc như vậy?

Ông Trùm mỉm cười:

- Chú mày đã báo trước cho ông anh mày đây cuộc tấn công của hắn vào khách sạn này. Cái đó chưa đủ để ăn chắc sao? Hành động như chú em bộ là hành động thân hữu chắc?

- Cho ông anh hay: thằng này hành động như vậy là vì lợi ích của Guiliano chớ đếch phải vì cái mạng cùi của ông anh đâu mà ham. Là vì lúc này thằng Turi nó điên rồi. Hắn định giết ông anh. Đúng. Nhưng một khi ông anh “tịch” rồi, thì tụi này đếch còn hy vọng gì, tôi biết. Vì cái tổ chức “Người anh em” cũng vẫn cứ tồn tại. Có chúc thư hay không có chúc thư, cũng vậy thôi. Hắn – thằng Turi – trong lúc này có thể trốn ra nước ngoài nấn ná ẩn thân chờ đợi ít lâu quay về để trả thù, để “đòi nợ”. Và món nợ của nó chính là cái mạng cùi của ông anh đấy, chứ chẳng phải ai xa lạ. Bởi vậy, hôm nay tôi đến đây để thu xếp với ông anh. Điều kiện trao đổi là thế này: ngày một ngày hai, Guiliano sẽ rời khỏi xứ Sicily. Hắn sẽ coi như xí xóa món nợ. Vậy hãy để cho nó ra đi êm đẹp.

Đang cúi đầu xuống đĩa thức ăn trên bàn, Ông Trùm ngửa mặt lên trời cười. Rồi, lão nhấm nháp ly rượu:

- Chú mày vậy mà trẻ con cóc chịu được. Tao với thằng Guiliano đã đến cái chỗ hết chuyện để nói rồi. Nó nguy hiểm quá, không thể để cho nó sống được. Nhưng, tao cũng không thể giết nó, vì tao còn sống mà phải sống chỉ ở Sicily này được thôi. Bởi vậy, tao không thể giết người hùng vĩ đại nhất của Sicily, mà vẫn còn sống để mà làm những điều tao muốn làm. Nhiều người thương thằng Guiliano quá. Và do đó sẽ có nhiều đứa lặn lội, tìm tòi để trả thù cho nó. Vậy thì chỉ có bọn cớm giết chết nó là ổn. Và chính là điều mà tao và chú mày có thể xếp đặt, chú mày là thằng duy nhất có thể đưa Guiliano vào cái bẫy sập đó.

Lão ngưng nói một chút. Trầm ngâm. Rồi lại tuôn ào ào:

- Ngày tàn của mấy chú mày đã tới rồi. Riêng chú mày còn được chọn lựa. Hoặc chú mày còn ở lại trong cái thế giới điêu tàn đổ nát của chú mày, hoặc chú mày bước qua cái cổng đổ nát ấy để sang thế giới bên kia. Cái đó là tùy chú mày.

- Thằng tôi có thể được Chúa che chở. Nhưng Chúa cũng chịu, nếu người ta biết là thằng này đã phản bội Guiliano.

- Chuyện đáng lo thì chú mày đếch lo, đi lo chuyện trời sập. Tao hỏi chú mày: người ta ở đây là ai mới được chứ. Chú mày chỉ cần một mình tao biết là sắp tới, chú mày sẽ gặp thằng khốn kiếp kia ở đâu. Rồi, thế là xong phần chú mày. Sẽ không có một ai khác biết. Mọi sự sau đó, tao sẽ thu xếp với lão đại tá Luca và thằng cha thanh tra Velardi. Bọn này sẽ tính gọn. Nghề của tụi nó mà.

Lão ngưng một chút, rồi chơi cú đòn chót:

- Thằng Guiliano đã thay đổi rồi. Hắn không còn là bạn chí thiết với chú mày như hồi nhỏ nữa rồi. Lúc này hắn chỉ lo cho thân hắn. Và, chú mày còn chờ gì nữa, mà không bắt chước hắn, lo cho mình?

Chiều ngày 5 tháng 7 năm 1950, khi trở về Castelvetrano, Pisciotta đã tự nạp mình cho con hồ ly tinh Croce. Y đã nói với lão nơi y sẽ gặp Guiliano. Và y cũng biết sau đó, con hồ ly tinh này sẽ báo cho mấy con sói Luca và Velardi. Y không nói rõ tại nhà Zu Peppino mà chỉ nói là ở thị trấn Castelvetrano. Và còn báo trước cho Croce biết phải cẩn thận vì cái giác quan thứ sáu của Guiliano.

Nhưng khi Pisciotta tới nhà Zu Peppino, lão già đánh xe này đã chào hỏi nó một cách lạnh nhạt khác thường, đến nỗi, Pisciotta phải tự hỏi không hiểu có phải là lão già này đã đánh hơi được cái gì, hoặc nghi ngờ gì nó chăng. Y cũng không thể không lưu ý tới những hoạt động tấp nập một cách bất thường của bọn cớm tại thị trấn này. Với cái óc hoang tưởng chính xác rất “Sicilian”, y đã chắp nối những chi tiết ấy lại.

Trong giây lát, Pisciotta cảm thấy đau nhói trong tâm can. Tiếp theo đó là những ý nghĩ giày vò, dằn vặt. Bà già của Guiliano sẽ như thế nào khi biết chính thằng cháu cưng của bà đã ám hại con bà? Bà sẽ nói gì, làm gì nếu chẳng phải là một ngày nào đó, đứng trước mặt y, bà sẽ nguyền rủa, phỉ nhổ và gọi y là đồ phản bội, quân giết người? Y và bà đã ôm nhau và khóc, và y đã thề với bà sẽ bảo vệ con bà. Thế mà y đã hôn bà theo kiểu Judas (1).

Trong giây lát, Pisciotta như điên cuồng. Y muốn giết chết lão già đánh xe, rồi tự tử.

- Nếu chú em đi tìm Turi, - Già Peppino nói, - Thì nó đã đi rồi.

Nhìn cái mặt trắng bệch – có lẽ vì nó ngộp thở - già Peppino bỗng thấy tội nghiệp cho nó:

- Em uống chút rượu cho nó ấm bụng không? – Già Peppino hỏi.

Pisciotta lắc đầu, quay ra đi. Già đánh xe nói với theo:

- Cẩn thận đấy, nghe em. Thị trấn lúc nhúc những cớm là cớm.

Pisciotta bỗng thoáng cảm thấy sợ. Và thấy mình thật điên khùng, không nghĩ đến trường hợp Guiliano đánh hơi được cạm bẫy. Nếu Guiliano cảm thấy ai là kẻ bội phản thì…

Pisciotta chạy nhanh ra khỏi nhà lão đánh xe, lần theo đường mòn đến điểm hẹn dự phòng, tức là phế tích vệ thành Selinus, đô thị Selinunte cổ xưa là đô thị ma quái.

Phế tích đô thị cổ Hy Lạp nằm chập chờn dưới ánh trăng mùa hạ. Trong đống đổ nát ấy, Guiliano đang ngồi trên bậc thềm của một trong những ngôi đền và mơ về nước Mỹ xa xôi. Hắn cảm thấy nỗi buồn mênh mang. Giấc mộng cũ nay đã tàn. Hắn đã chứa chan hy vọng về một tương lai tươi sáng cho mình, cho cả Sicily. Hắn đã hoàn toàn tin vào sự bất tử của mình. Có biết bao nhiêu người đã thương mến ngưỡng mộ, sùng bái hắn. Thế mà giờ đây, dường như Guiliano đã trở thành cái đích cho biết bao nhiêu người nguyền rủa. Dù có đưa ra những lý lẽ gì đi nữa, thì cũng rõ ràng là hiện giờ hắn đang bị bỏ rơi. Nhưng, hắn hãy còn một người. Đó là Aspanu Pisciotta. Và rất có thể sẽ có một ngày nào đó, cả hai sẽ lại làm cho cái lòng thương mến, ngưỡng mộ, sùng bái kia sống lại, cái giấc mộng, cái lý tưởng cao cả kia thành hiện thực. Nghĩa là cả hai, và chỉ có hai đứa là có thể bắt đầu lại từ đầu. Trăng khuất trong đám mây. Phế tích chìm trong bóng tối. Các phế tích bây giờ nom như những bộ xương in hình lờ mờ trên nền trời. Từ trong bóng tối mênh mông, Guiliano nghe thấy tiếng huýt gió từ đống đá phía dưới. Hắn vội nép mình vào giữa hai cây cột dá, súng cầm tay sẵn sàng. Mặt trăng lại chui ra khỏi đám mây. Guiliano thấy Aspanu Pisciotta đang đứng giữa con đường ngổn ngang mảnh đổ nát dẫn tới vệ thành.

Pisciotta từ từ bước lên theo con đường đầy gạch đá. Con mắt loang loáng tìm tòi, miệng khẽ gọi tên Turi. Guiliano ẩn mình sau cây cột đợi cho Pisciotta đi qua, mới bước ra, đứng sau lưng Pisciotta, rồi mới lên tiếng. Như khi xưa chúng chơi trốn tìm với nhau. “Xí, Aspanu, mày thua rồi”. Hắn ngạc nhiên khi thấy Pisciotta la lên, sợ hãi.

Guiliano ngồi xuống bậc thềm, để súng bên cạnh.

- Ngồi xuống bên cạnh tao nè, nghỉ chút đi, - Guiliano nói. – Chắc là mày mệt dữ lắm. Đây có lẽ là lần cuối cùng tao với mày được ngồi nói chuyện riêng với nhau.

Pisciotta nói:

- Mình sẽ nói chuyện ở Mazara del Vallo, ở đó an toàn hơn.

- Ôi, mình có chán thì giờ. Mày không nghỉ một chút đi, mệt quá lại thổ huyết bây giờ đấy. Lại đây, ngồi cạnh tao nè, nghỉ chút đi đã.

Hắn thấy Pisciotta tháo súng đang đeo ra. Hắn nghĩ là Pisciotta làm thế là để ngồi cho thoải mái, đỡ vướng. Hắn đứng lên, bước tới, đưa tay tính kéo Pisciotta lên. Đến lúc đó hắn mới thấy ông bạn nối khố đang chĩa súng vào hắn. Hắn sợ điếng người. Cả người bỗng thấy lạnh toát. Từ bảy năm nay, đây là lần đầu tiên nó bị chộp trong lúc hoàn toàn bất ngờ.

Đầu óc Pisciotta rối tinh rối mù và tràn ngập nỗi sợ, khi phải nghe Guiliano hỏi, nếu chúng nói với nhau. Chẳng hạn Guiliano có thể hỏi:

- Aspanu, trong băng của mình đứa nào là Judas phản bội? Aspanu, ai đã đi báo cho thằng già dịch Croce biết cuộc đột kích của tụi mình? Aspanu, tại sao bọn cớm đang vây trùng trùng điệp điệp tại cái thị trấn Castelvetrano tí xíu này? Aspanu tại sao mày đi gặp thằng già “lựu đạn” Croce, để làm chi vậy? – Nhưng câu Aspanu sợ nhất, nếu Guiliano không hỏi nữa, mà nói: - “Aspanu, mày là thằng em tao”. – Chính nỗi sợ hãi khủng khiếp đó đã khiến Pisciotta nhấn cò súng.

Một lằn đạn thổi bay bàn tay và xé nát thân thể Guiliano.

Kinh sợ vì chính hành động của mình. Pisciotta đã đợi cho Guiliano té vật xuống. Thay vì chính Guiliano từ từ bước xuống bậc thềm, thì máu tuôn có vòi tưới trên bậc thềm đó. Lòng đầy dị đoan về những ám ảnh chết chóc, Pisciotta quay ngoắt và chạy như bay. Y tưởng Guiliano đuổi theo y và rồi thấy Guiliano té xuống.

Nhưng Guiliano đang chết mà vẫn nghĩ mình còn đang chạy. Óc hắn bắn tung tóe thế mà hắn vẫn nghĩ hắn đang cùng với Aspanu chạy nhảy trên rặng núi suốt bảy năm qua. Những dòng nước trong vắt từ trong các hồ chứa xây từ thời người La Mã cổ. Hương hoa rừng ngào ngạt, màu sắc hoa rừng rực rỡ. Hắn còn nghĩ hai đứa cứ chạy, chay qua những miếu thờ bên lề đường, hắn la lên, lớn tiếng như đêm hôm nào năm xưa, hắn đã la lên “Aspanu, tao đã tin, tao đã tin”. Hắn tin vào vận mệnh may mắn, hạnh phúc, tin vào tình bạn chân thật. Thần chết – vậy ra thần chết – cũng có từ tâm – đã giải thoát hắn, để hắn kịp nhận ra sự phản bội và thất bại sau cùng. Guiliano chết trong lúc đang mơ.

Aspanu chạy như bay. Y chạy qua cánh đồng, y chạy trên những con lộ và dùng giấy thông hành đặc biệt để xin gặp đại tá Luca và thanh tra Velardi ngay lập tức, chính họ sẽ thêu dệt và tung ra cái tin Guiliano bị sa vào ổ phục kích và bị đại úy Perenze bắn chết.

Buổi sáng hôm 5 tháng 7 năm 1950, bà Maria Lombardo dậy sớm. Bà thức giấc vì tiếng gõ cửa. Ông chồng đã đi ra để trả lời. Ông quay lại, vào phòng ngủ và nói với bà ông phải đi và có lẽ phải vắng mặt cả ngày. Nhìn qua cửa sổ, bà thấy ông lên một chiếc xe lừa kéo sơn phết lòe loẹt tranh vẽ theo sự tích. Xe của già Zu Peppino. Chắc là ông nhận được tin của Turi. Chắc là nó đã trốn thoát sang Mỹ. Hay là có cái gì trục trặc? Bà cảm thấy nỗi lo lắng quen thuộc từ bảy năm nay. Lo lắng đến mức sợ hãi. Nó làm cho bà bồn chồn, không ăn nghỉ được. Sau khi quét dọn nhà cửa và sửa soạn bữa ăn trong ngày, bà mở cửa nhìn ra ngoài phố.

Suốt con đường Via Bella không có lấy bóng của một người hàng xóm. Trẻ nít cũng không dám chơi ngòai đường. Nhiều đàn ông trong thị xã đã bị tống giam vì bị tình nghi là đồng đảng của con bà. Các bà vợ thì quá sợ đến nỗi cho con ra đường chơi cũng không dám. Đầu phố, cuối phố chỗ nào cũng lúc nhúc cớm, cảnh vệ và lính. Súng máy đeo lủng lẳng trên vai, chúng đi từng toán hoặc từng cặp. Đi bộ. Cứ thế đi tới, đi lui như mắc cửi. Suốt ngày đêm. Lính trên mái nhà. Xe nhà binh đậu dăng dăng. Xe thiết giáp trang bị đại liên trấn ngay lối rẽ vào đường Via Bella, ngay phía trước trại Bellamp. Thị trấn Montelepre nhỏ bằng cái khăn tay mà có đến hai ngàn lính của đại tá Luca quần ngày đêm. Chịu gì thấu. Và bọn lính ấy, đã biến tất cả dân thị trấn này thành kẻ thù của chúng. Chọc ghẹo đàn bà con gái, hù dọa con nít, hành hạ đánh đập đàn ông rồi tống vô tù… Và tất cả bọn lính này ở đây chỉ để săn lùng đặng giết con bà. “Nhưng, - bà nghĩ bụng, - cho bay hay, con bà ấy hả? Tụi bay đừng hòng. Liếm cái gót giầy nó bây giờ cũng không được. Nó đã bay sang Mỹ rồi. Nó được tự do thảnh thơi rồi. Khi thời gian chín muồi thì bà và bố nó cũng sang theo sum họp với nó. Tụi bay ở đây mà làm hùm làm hổ. Nó cũng đếch sợ tụi bay”.

Bà quay trở vào trong nhà, định bắt tay vào làm việc. Bà đi lên lầu, ra ban – công, nhìn lên rặng núi trước mặt. Trước kia, từ trên những ngọn núi kia, con bà vẫn chiếu ống nhòm, nhìn xuống ngôi nhà của nó. Xa cách và không nhìn thấy nó, nhưng bà vẫn cảm thấy sự hiện diện của nó. Nhưng, giờ này bà không cảm thấy. Như vậy, đúng là lúc này nó đã ở bên Mỹ rồi.

Tiếng dập cửa rầm rầm làm bà lạnh toát. Vì sợ. Từ từ, bà đi xuống và mở cửa. Cái đầu tiên bà nhìn thấy là ông giáo sư Adonis. Thật lạ, chưa bao giờ bà nhìn thấy ông ăn mặc xập xệ như vậy. Đầu óc rối bung, bù xù. Không thắt cà – vạt. Chiếc áo sơ - mi mặc dưới chiếc jaket thì nhàu nát, dơ bẩn, cổ áo thì xốc xếch, nhăn nhúm. Nhưng cái mà bà thấy lạ nhất là trên khuôn mặt ông, không còn chút gì gọi là trang trọng, đàng hoàng. Vẻ mặt phờ phạc ảm đạm. Đôi mắt rơm rớm nước mắt, khi ông ta nhìn bà. Bà la lên, thất thanh.

Giáo sư Adonis bước vào nhà nói với bà:

- Đừng, Maria, tôi xin bà!

Một gã trung úy cảnh sát còn trẻ măng, cũng bước vào cùng với ông giáo sư. Nhìn qua hai người, bà Maria Lombardo thấy ngòai đường có ba chiếc xe đen sì đậu trước cửa nhà bà. Và có cả một toán người võ trang đứng đó nữa.

Gã trung úy cớm, trẻ măng, hai má còn đỏ au. Gã ngả mũ cầm tay, trang trọng hỏi bà:

- Thưa, có phải đây là bà Maria Lombardo không?

Âm điệu đặc giọng miền Bắc Ý, dân Tuscany.

Bà Maria Lombardo đáp:

- Phải.

Giọng nói của bà lạc đi vì tuyệt vọng. Miệng bà khô, không còn chút nước miếng.

- Tôi xin mời bà theo tôi đến Castelvetrano, - Gã trung úy nói, - Xe đang đợi. Có ông bạn chúng ta đây sẽ cùng đi theo. Dĩ nhiên, nếu bà muốn vậy.

Bà Maria Lombardo mở to mắt, nhìn. Ngạc nhiên. Rồi, giọng bà rắn đanh lại:

- Để làm gì vậy? Tôi có biết gì, có quen ai ở Castelvetrano đâu!

Giọng gã trung úy có vẻ dịu dàng, trầm ngâm:

- Có một người đàn ông ở đó mà chúng tôi muốn nhờ bà nhận diện giùm. Chúng tôi nghĩ đó là con trai bà.

- Không phải con tôi. Nó chẳng bao giờ đến Castelvetrano làm gì, - bà Maria Lombardo nói. – Bộ chết rồi hả?

- Phải.

Bà Maria Lombardo la lên một tiếng dài, rền rĩ, thảm thiết. Hai đầu gối quỵ xuống.

- Con tôi không bao giờ đến Castelvetrano.

Giáo sư Adonis bước lại gần, đặt tay lên vai bà:

- Bà nên đi, - Ông nói, - Có thể đây cũng chỉ là một mánh để đánh lừa, như trước kia nó đã từng làm

- Không! Tôi không có đi đâu hết! Tôi không có đi đâu hết!

- Vậy thì ông nhà có nhà không? – Gã trung úy hỏi. – Bà không chịu, thì để ông nhà đi thay cũng được.

Bà Maria Lombardo nhớ lại là, sáng nay lão Zu Peppino đã đến tìm ông lão. Bà nhớ lại linh cảm của bà khi nhìn thấy chiếc xe.

- Chờ chút, - Bà nói.

Bà quay vòa phòng, thay quần áo. Khi trở ra, bà mặc bộ đồ đen. Đội khăn san cũng đen. Gã trung úy mở cửa xe cho bà. Trên đường phố, chỗ nào bà cũng thấy lính, thấy cớm, thấy cảnh vệ. Lúc nhúc. Trong ánh nắng rực rỡ tháng bảy, bà nhìn thấy rõ mồn một hình ảnh hai đứa – thằng Aspanu, cháu bà và thằng Turi, con bà – đang dắt con lừa để cho “thả nọc” như bảy năm trước kia, cái ngày mà nó trở thành tên sát nhân và phải sống ngoài vòng pháp luật. Bà bắt đầu khóc rấm rứt. Ông Adonis ngồi bên cạnh bà. Chiếc xe chạy qua giữa đám ồn ào giỡn cợt của bọn lính. Bà úp mặt vào vai ông Adonis. Không khóc nữa, nhưng sợ đến chết khiếp. Vì đến lúc cuối đời, bà lại phải chứng kiến cái cảnh mà bà sắp phải chứng kiến.

Xác của Guiliano được đặt nằm ở đây đã ba tiếng đồng hồ rồi. Nom hắn như đang ngủ. Mặt nằm nghiêng về phái tay trái, chân co, chân duỗi. Thân thể soải dài ra. Cái áo sơ – mi bêt bết máu. Gần cánh tay bị gãy là khẩu súng lục của hắn. Phóng viên nhiếp ảnh và các ký giả từ Palermo, từ Rome đã có mặt. Phóng viên nhiếp ảnh của tờ Life đang chụp hình đại úy Perenza. Tấm hình sẽ xuất hiện trên báo với lời chú thích “Người hùng đã bắn hạ tên cướp khét tiếng”. Khuôn mặt ông quan ba trên tấm hình nom cũng dễ coi. Hơi buồn. Và có vẻ hơi ngỡ ngàng. Trên đầu, cái mũ làm cho ông ta có dáng một chút tiệm tạp hóa hơn là một anh cớm gộc.

Hình ảnh của Guiliano lại được in đầy trên các báo khắp thế giới. Ngón tay – vẫn còn chiếc cà rá đã cướp được của bà công tước năm xưa. Trên bụng vẫn còn sợi dây thắt lưng có khóa bằng vàng chạm nổi hình con phượng hoàng và con sư tử. Cạnh chỗ hắn nằm là một vũng máu.

Trước khi bà Maria Lombardo tới, xác của hắn đã được chở đến nhà xác thị trấn và được đặt trên một phiến đá cẩm thạch lớn, hình bầu dục. Nhà xác là một phần của nghĩa địa có những hàng cây bách đen, cao vút. Bà Maria Lombardo được đưa đến đây và ngồi chờ trên một tảng đá. Họ chờ ngài đại tá và các sĩ quan tham mưu của ngài ăn mừng chiến thắng tại nhà hàng khách sạn Selinus. Bà Maria Lombardo bắt đầu khóc khi nhìn thấy đạo binh ký giả và đám đông tò mò. Đám cảnh vệ phải vất vả để giữ cho họ có trật tự. Giáo sư Adonis cố gắng an ủi bà.

Sau cùng họ dẫn bà tới nhà xác. Các quan chức đứng quanh phiến đá cẩm thạch đang đặt các câu hỏi. Bà ngẩng lên và nhìn mặt Turi.

Chưa bao giờ nom nó lại trẻ thế. Nom y như nó mệt nhọc sau một ngày đi chơi với Aspanu, khi chúng nó còn nhỏ. Trên mặt nó, không có dấu tích gì, ngoại trừ vết bùn dính vào lúc đặt nó nằm trên sàn. Thực tế đã làm cho bà tỉnh người. Bà lặng thinh. Bà chỉ trả lời vắn tắt:

- Phải, đó là thằng Turi con tôi, tôi đứt ruột đẻ ra nó cách nay 27 năm. Phải, tôi xác nhận là nó!

Các quan chức còn cố nói này nọ với bà, đưa giấy tờ gì đó cho bà ký. Nhưng bà không nghe, không nhìn họ. Không nghe, cũng không nhìn đám đông đang xúm xít quanh bà. Các ký giả la hét, các phóng viên nhiếp ảnh phải gây lộn với cảnh vệ để chụp hình bà. Bà hôn trên trán nó. Cái trán và cả khuôn mặt trắng bệch như tờ giấy. Bà hôn trên đôi môi hơi thẫm của nó, trên bàn tay bị đạn bắn tét ra, tâm hồn bà tan ra trong nỗi đau đớn khôn cùng. “Ới con ơi, ơi giọt máu của mẹ ơi, con đã làm gì tàn ác đâu mà đến nỗi phải chết thê thảm thế này! Con ơi là con!”.

Rồi bà ngất đi. Bất tỉnh. Khi y sĩ chích thuốc cho bà tỉnh lại, bà đòi được đưa đến chỗ cái sân, nơi con bà bị bắn chết. Bà quì xuống và hôn trên vũng máu còn đọng ở đó.

Khi được xe chở về Montelepre, bà thấy ông chồng ngồi chờ ở nhà. Tại đây, bà được biết kẻ đã sát hại con bà không phải ai khác xa lạ. Mà chính là đứa cháu cưng của bà. Thằng Aspanu Pisciotta.

... .......

(1) Judas: Judas là một trong mười hai môn đệ của Đức Chúa Jesus. Tên đồ đệ này đã “bán” thầy cho kẻ thù. Hắn đã giao ước với kẻ thù khi bắt Chúa (vì bọn này không biết mặt) “Tôi hôn ai, thì đó chính là người mà các ông muốn bắt” – ND.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Sau khi bị bắt, Michael Corleone và Peter Clemenza được đưa tới nhà tù ở Palermo. Từ đó, họ được dẫn tới văn phòng của ngài thanh tra Velardi để hỏi cung.

Cùng có mặt trong phòng thẩm vấn, có sáu sĩ quan cảnh sát có võ trang cùng mình. Ngài thanh tra chào Michael và Clemenza với một vẻ lịch sự lạnh lùng. Và, ngài quay ra nói với Clemenza:

- Ông là công dân Hoa Kỳ. Ông mang giấy thông hành, nói là đến đây để thăm người anh, già Domenic Clemenza ở Trapani. Cứ như người ta nói với tôi thì ông Domenic là người rất đàng hoàng, đáng trọng nể. – Ngài thanh tra nói năng thì cũng vẫn như lời xã giao thông thường, nhưng trong giọng nói có cái vẻ mỉa mai, châm chọc. - Ấy vậy mà chúng tôi lại bắt gặp ông đi với cái anh Michael Corleone này. Ông lại còn mang vũ khí giết người ở một cái nơi mà chỉ trước đó vài giờ, tên cướp Guiliano bị sát hại. Ông trả lời sao?

- Tôi đang đi săn, - Clemenza trả lời, - tôi đang săn chồn và thỏ. Thế rồi tôi thấy có sự ồn ào, lộn xộn ở Castelvetrano, trong lúc tôi ngừng xe ở quán để uống cà – phê buổi sáng. Thế là tôi tò mò xem xét cái gì xảy ra. Có thế thôi.

Thanh tra Velardi cười gằn, mỉa mai:

- Ngộ nhỉ! Ở bên Mỹ, các ông thường quen đi săn thỏ bằng súng lục à?

Rồi, quay sang phía Michael Corleone, ngài thanh tra nói tiếp:

- Tôi và anh bạn, may mắn thay, ta có dịp gặp nhau rồi. Và cũng may mắn thay, tôi biết anh bạn có mặt ở đây để làm gì rồi. Và ông bạn mập, - ngài day đầu ra dấu về phía Clemenza, - cũng biết nữa. Nhưng cho mấy người hay, kể từ bữa ăn trưa thịnh soạn tại nhà Ông Trùm đến nay thì mọi sự đã đổi thay. Đổi thay nhiều lắm rồi. Thằng Guiliano đã bị hạ sát rồi. Mấy người là đồng mưu tổ chức cho nó tẩu thoát. Tao không còn bị đòi hỏi phải xử nhân đạo với lũ cặn bã như tụi bay. Hãy ký vào bản khẩu cung mà tao đã chuẩn bị đó

Đúng lúc đó, một sĩ quan cảnh sát đi vào. Ghé vào tai ngài thanh tra và nhỏ to cái gì đó. Velardi xẵng giọng, bực tức đáp:

- Cho nó vào.

Thì ra Ông Trùm. Lão ăn mặc cũng xập xệ chẳng thua kém gì bữa ăn trưa hôm nào đó. Cái bản mặt bì bì của lão nom càng lầm lì. Lão lạch bạch đi về phía Michael, ôm hôn hắn, bắt tay già Clemenza, rồi quay vào nhìn thẳng vào mặt người thanh tra, chẳng nói chẳng rằng. Cái sức mạnh thô bạo toát ra từ thân xác dềnh dàng của lão. Uy lực lồ lộ trên khuôn mặt và đôi mắt.

- Hai người này là bạn của tôi, - Lão nói, - Vì lý do gì mà ông lại đối xử với họ tệ như vậy?

Trong giọng nói không có vẻ gì giận dữ, không có một chút cảm xúc. Cứ như thể chỉ là một câu hỏi bình thường về một sự việc tầm thường. Nhưng cũng trong giọng nói đó có cái ý nghĩa khiển trách: “Trong vụ này chẳng có lý do gì để bắt giữ người ta”.

Ngài thanh tra nhún vai:

- Có gì hay không có gì, thì cứ ra tòa rồi biết.

Ông Trùm ngồi xuống chiếc ghế đặt bên cạnh bàn giấy của ngài thanh tra. Cặp lông mày gã nhíu lại. Lão nói, cố gắng để giữ cho giọng không có vẻ đe dọa:

- Thật vuốt mặt mà không nể mũi. Xin ông thanh tra vui lòng giúp tôi, gọi điện thoại cho ngài bộ trưởng xem ý kiến của ngài về vụ này ra sao?

Ngài thanh tra lắc đầu. Đôi mắt xanh của ngài không lạnh lùng, lạnh nhạt, mà lộ vẻ khinh ghét.

- Giữa ông và tôi, - Ngài thanh tra giọng kiêu kì, khinh khỉnh, - Ta chưa bao giờ là bạn với nhau cả. Tôi phải đối đãi với ông theo cái cung cách mà từ trước đến giờ chẳng qua là do lệnh buộc phải như vậy. Nhưng, khi đã giết được thằng Guiliano rồi, thì lệnh đó cũng hết hiệu lực. Hai tên kia sẽ ra tòa. Và nếu tôi có quyền, thì chính ông cũng sẽ bị đưa ra tòa cùng với chúng nó nữa.

Đúng lúc đó, chuông điện thoại trên bàn giấy ngài thanh tra reo. Ngài thanh tra làm như không biết đến cú điện thoại ấy và ngài chờ câu trả lời của Ông Trùm. Nhưng Ông Trùm nói:

- Ngài cứ trả lời điện thoại đi. Có lẽ là ngài bộ trưởng Trezza gọi cho ngài đó.

Ngài thanh tra từ từ nhấc ống nói. Hai mắt nhìn trừng trừng vào Ông Trùm. Ngài nghe, và sau đó nói vào máy:

- Dạ vâng, thưa ngài bộ trưởng.

Và cúp máy. Ngài ngồi phịch xuống ghế và nói với Michael và Clemenza:

- Hai người được trả tự do.

Ông Trùm đứng dậy, dẫn Michael và Clemenza ra khỏi phòng. Vừa như có vẻ đuổi ra khỏi phòng, vừa như có vẻ của con gà mái bao tre lũ gà con tán loạn, hoảng sợ, lão quay lại, nói với ngài thanh tra, giọng bình tĩnh, nhỏ nhẹ:

- Suốt năm qua, tôi đã đối đãi với ngài thanh tra một cách hết sức lịch sự, trọng thể, mặc dù ngài chỉ là người “ngoại quốc” trên xứ Sicily của tôi. Ấy vậy, mà trước mặt bè bạn tôi, trước mặt các sĩ quan thuộc cấp, đồng sự của ngài, ngài lại tỏ ra khinh khi tôi. Nhưng, tôi không phải là người ưa chấp nê. Tôi mong trong một tương lai gần đây, ta lại được ngồi ăn với nhau một bữa, để đối lại cái chỗ bạn bè xưa và hiểu lòng nhau hơn.

Năm ngày sau, giữa ban ngày, ban mặt ngay tại một đại lộ đông đúc của thủ phủ Palermo, ngài thanh tra đã bị ám sát. Chết.

Hai ngày sau, Michael về tới nhà, bên Mỹ. Trong bữa tiệc gia đình, có đủ mặt mọi người, ông anh Fredo bay từ Las Vegas về. Có cả vợ chồng Conie – Carlo, vợ chồng Clemenza, vợ chồng Tom Hagen. Michael nhừ người ra vì bị ôm, hôn, chuốc rượu. Họ tíu tít, ríu rít bình luận nom Michael lúc này ra sao. Không ai đả động gì đến hai năm lưu vong của nó, dù là bóng gió, xa xôi. Không ai đả động gì đến cái mặt nhăn nhúm méo mó của nó. Không ai dám đả động đến cái chết của Somny. Đó là buổi sum họp gia đình. Cứ như thể sau thời gian ở ký túc xá đại học hay là đi nghỉ hè xa và dài hạn trở về thôi. Michael được xếp chỗ ngồi ngay bên cạnh ông bố.

Thế là sau bao nhiêu khó khăn, nguy hiểm, hắn đã về đến nhà. Bình yên, Mạnh khỏe.

Sáng hôm sau, Michael ngủ dậy trễ. Đó là lần đầu tiên, sau hai năm xa nhà, giấc ngủ của hắn mới là ngủ thực sự. Bà mẹ đã dọn ăn sáng. Và chờ. Bà hôn hắn, khi hắn ngồi vào bàn. Một dấu hiệu bất thường để tỏ lộ lòng âu yếm của bà. Trước đó, cũng chỉ có một lần bà làm như vậy, ấy là sau thời chiến tranh, khi hắn giải ngũ trở về.

Ăn sáng xong, Michael đến thư phòng và đã thấy ông bố ngồi chờ ở đó. Hắn ngạc nhiên khi không thấy Tom Hagen luẩn quẩn ở đó. Hắn cho là chắc ông bố muốn nói chuyện riêng với hắn.

Bố Già Corleone trịnh trọng rót hai ly rượu hồi, trao cho y và nói:

- Uống mừng cho cái sự cùng hội cùng thuyền của cha con mình!

Michael nâng ly rượu lên môi:

- Cám ơn bố, con có nhiều điều phải học hỏi bố.

- Mà mình cũng còn chán thì giờ. Và bố ở đây để dạy con đó!

Bố Già Corleone trịnh trọng ngồi xuống và làm một hớp rượu đầy.

- Câu chuyện thật cũng đáng buồn. Lúc đó bố cũng hy vọng là nó trốn thoát được. Ông bà già nó đã là bạn tốt của bố.

- Con không sao hiểu được câu chuyện quái quỷ ấy. Con không sao hiểu được bên nào đúng, bên nào sai. Bố nói cho con biết cái bộ mặt thật của lão Croce, nó ra làm sao, mà Guiliano lại ghét lão thậm tệ đến vậy. Con nghĩ là bản chúc thư của nó đã nằm trong tay bố thì tụi nó không còn dám giết Guiliano nữa. Vậy mà tụi nó vẫn cứ thịt. Nếu bây giờ mình tung cái chúc thư ấy ra cho báo chí thì có phải đúng là tụi nó tự cắt họng tụi nó không?

Michael thấy ông bố nhìn nó, lạnh lùng.

- Đúng típ Sicily, - Bố Già nói, - lừa lọc kẻ lừa lọc, bội phản kẻ bội phản!

- Lão Croce và chính quyền phải trả giá đậm cho Pisciotta à?

Chắc chắn là thế.

Michael vẫn còn thắc mắc:

- Tại sao họ lại làm như vậy. Mình đã có bản chúc thư với đầy đủ tài liệu chứng minh chính quyền đã “đi đêm” với Guiliano. Khi mình tung cái này ra cho báo chí, báo chí không sướng rên lên ấy chứ. Nó không tranh nhau mà vồ lấy tin này ấy chứ. Tin bạc triệu chứ đâu ít. Và, chính quyền của đảng Dân chủ Thiên chúa giáo đứng sao nổi với cái tin động trời này? Tại sao tụi nó lại không nghĩ như thế nhỉ. Bộ chánh quyền Ý không cảm thấy gì sao.

Bố Già mỉm cười:

- Tài liệu ấy vẫn sẽ được giữ kín. Mình sẽ không tung ra cho báo chí.

Phải mất cả mấy phút Michael mới nắm được cái ý nghĩa của điều mà “Bố Già” vừa nói đó. Và, lần đầu tiên trong đời, hắn cảm thấy tức giận ông bố của mình. Mặt hắn trắng bạch ra.

- Vậy là bố và lão Croce đã thông đồng với nhau rồi, hả? Thế có nghĩa là con đã phản bội thằng Guiliano, chứ không phải là đã giúp đỡ nó, hả? Nghĩa là con đã nói dối ông bà già nó, hả? Vậy là chính bố cũng đã phản bội bè bạn của mình, đẩy con họ vào chỗ chết hả? Vậy là bố đã xài con như một thằng khùng, một thằng Judas, một con dê tế thần, hả? Trời đất ơi, Chúa ơi! Guiliano là một con người hiền lương, đôn hậu. Một anh hùng thứ thiệt của đám dân nghèo Sicilian, không, ta phải trả thù cho nó. Ta phải tung cái bản chúc thư ấy cho báo chí.

Bố Già cứ ngồi lặng thinh để hắn xổ một thôi một hồi. Rồi lão từ từ đứng lên và đặt tay lên vai hắn:

- Nghe bố nói đây. Thật ra, mọi sự đã được chuẩn bị để cứu thoát Guiliano đấy chứ. Bố không hề thương lượng điều gì với lão Croce để phản bội Guiliano hết. Máy bay đã chờ sẵn. Clemenza được chỉ thị phải giúp đỡ con hết mình. Chính lão Croce cũng muốn Guiliano trốn thoát. Vì đó là cách dễ nhất. Nhưng chính Guiliano thề là sẽ trả hận. Nó có sang đây thì cũng chỉ là nấn ná đợi dịp thuận tiện là làm. Quyết làm cho bằng được. Nó có thể gặp con sớm hơn vài ngày, thế mà nó vẫn nấn ná để chơi vố trót. Ấy, chính vì thế mà chính nó hại nó.

Michael rời ông bố, đến ngồi trên một chiếc ghế bành bọc da.

- Thế còn lý do tại sao bố lại không chịu tung bản chúc thư kia ra. Vậy, đã rõ là có sự thông đồng, thương lượng, chứ còn gì nữa?

- Phải, cái đó thì có. Con nên nhớ rằng khi con bị đặt bom – may mắn con không bị mà chỉ có vợ con của con bị - bố và bạn bè của bố đã tưởng không sao có thể bảo vệ cho con ở Sicily nữa kia. Càng ngày chúng càng nhằm kỹ vào con, để mưu hại. Bố phải làm mọi cách để đảm bảo cho con được an toàn mà về đến nhà. Bởi vậy, bố đã phải thương lượng với lão Croce. Lão sẽ bảo vệ con. Phần bố, bố sẽ phải khuyến dụ Guiliano để sao cho nó đừng tung tài liệu ấy cho báo chí, một khi nó ở bên Mỹ này.

Michael thấy muốn phát ốm, khi nhớ lại mình là người độc nhất đã cho Pisciotta biết bản chúc thư đã nằm an toàn bên Mỹ. Lúc đó hắn đinh ninh thế là Guiliano sẽ được an toàn. Nhưng éo le thay đó lại là dấu ấn tử thần đóng lên số mệnh Guiliano. Michael thở dài:

- Con đã thề với ông bà già nó là sẽ bảo vệ nó. Và cả Justina nữa. À, lúc này cô ta ra sao?

- Ờ, cô ta vẫn được chăm sóc cẩn thận, chắc vài tháng nữa là đến ngày sanh nở. – Ông ngừng lại một chút, rồi tiếp. – Con bé ấy cũng đảm đang lắm. Ở đây, nhỏ đó sẽ được việc đấy. Làm ăn ngon lành lắm!

- Nhưng, ta sẽ phản bội ông bà già của Guiliano nếu ta không tung tài liệu ấy ra!

- Không, trong những năm tháng sống trên cái đất Hoa Kỳ này, bố đã học hỏi được vài điều. Con phải biết điều mới được. Nghĩa là phải biết thương thảo. Phải biết thỏa hiệp. Phải biết tới, biết lui. Tung cái tài liệu ấy ra thì mình được cái gì kia chứ? Có thể chính quyền của đảng Dân chủ Thiên chúa giáo bị lật nhào. Mà cũng có thể không chứ. Lão bộ trưởng Trezza có thể bị cho về vườn. Nhưng bộ con tưởng họ sẽ trừng phạt lão ra sao chứ?

Michael nói một cách giận dữ:

- Nhưng lão ta là một đại diện cho một chính quyền đã âm mưu ám hại người dân của mình.

Bố Già nhún vai:

- Thì đã sao? Nhưng để bố nói tiếp. Tung cái tài liệu ấy ra thì có ích gì cho ông bà già và bè bạn của nó nào? Chính quyền sẽ trù ếm họ, tống họ vô tù, hành hạ, làm khó dễ họ đủ cách. Tệ hơn nữa, lão Croce có thể còn ghi họ vào sổ bài đen của lão nữa. Chi bằng cứ để họ an vui trong lúc cuộc đời họ xế bóng. Bố sẽ thương lượng để chính quyền và lão Croce bảo trợ họ. Và cứ như vậy thì việc mình giữ kín cái bản chúc thư ấy còn có ích cho họ hơn.

Michael, giọng chì chiết, cay đắng:

- Có ích cho họ? Có chăng là có ích cho mình. Vì một ngày nào đó, biết đâu, mình lại chẳng cần đến Sicily?

- Bố không thể loại trừ điều ấy. – Bố Già nói với nụ cười mỉm tinh quái.

Sau một phút im lặng, Michael lại lên tiếng:

- Con không biết. Nhưng, đó thật là một điều nhục nhã. Guiliano nó đúng là một anh hùng. Nó đã trở thành một huyền thoại. Ta sẽ làm thế nào để người đời phải nhớ đến nó. Không được để nó chìm vào quên lãng bội bạc.

Lần đầu tiên Bố Già tỏ ra bực bội. Ông tự tay rót một ly rượu khác. Và làm một hơi. Ông giơ ngón tay chỉ vào mặt Michael:

- Con muốn học. Thì đây, bài học thứ nhất bố dạy con. Lắng nghe cho kỹ. Cái bổn phận đầu tiên của một con người là làm sao để mình còn sống. Sau đó, mới đến cái gì khác. Cái mà thiên hạ gọi là danh dự, là vinh quang gì gì đó thì cũng phải là sau. Sống đã. Không sống, thì khỏi có cái gì hết. Này, cái mà con gọi là nhục nhã ấy hả? Bố lại rất muốn được người ta đối xử như vậy. Trong hoàn cảnh như vậy, bố đã làm điều đó để cứu mạng con, cũng như con đã làm điều tương tự để cứu mạng bố. Nếu không có sự che chở của Ông Trùm Croce, con chẳng có ngày rời khỏi cái đất Sicily rừng rú tàn bạo ấy. Phải biết thế. Con lại muốn là một anh hùng như Guiliano hả? Con lại muốn trở thành một huyền thoại hả? nghĩa là, muốn chết, hả? Bố thương nó, thương thằng Guiliano ấy, như là con một người bạn của bố. Nhưng cái tiếng tăm của nó, cái danh tiếng của nó, khỏi! Bố xin miễn. Bố không ham. Con còn sống! Còn nó thì đã chết! Con phải luôn luôn nhớ điều này và áp dụng nó trong suốt cuộc đời con. Đó là: sống là để khỏi chết, chứ không phải là để trở thành anh hùng. Với thời gian, anh hùng nào thì cũng có vẻ điên điên, khùng khùng cả.

Michael thở dài:

- Guiliano không còn cách nào khác.

- Nhưng, cha con ta thì may mắn hơn.

Đó là bài học đầu tiên của Michael học được nơi ông bố mình. Và hiện đã học rất kỹ. Đó chính là cái nét độc đáo của cuộc đời hắn. Về sau, bài học đó đã khiến hắn đưa ra những quyết định khủng khiếp mà trước đó hắn chưa bao giờ nghĩ tới. Bài học đó đã làm thay đổi hẳn quan niệm của hắn về danh dự. Và hắn kinh sợ chủ nghĩa anh hùng. Bài học ấy làm cho hắn sống sót. Nhưng không làm cho hắn cảm thấy hạnh phúc. Bởi vì, khác với ông bố, Michael rất muốn cái danh tiếng của Guiliano.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


Cái chết của Guiliano đã nghiền nát tinh thần của người dân Sicily. Hắn đã là người lính chiến của họ, là cái mộc che chở cho họ khỏi sự áp bức của bọn nhà giàu, bọn quý tộc, bọn "Người anh em" và bọn chính khách đảng Dân chủ Thiên chúa giáo ở Rome. Với cái chết của Guiliano, Ông Trùm Croce đã đưa toàn dân Sicily từ thằng có của cho đến tên khố rách – vào cái cối ép, để ép cho ra tài sản, của cải của bọn này. Khi chính quyền muốn xây đập, làm thủy lợi để cung cấp nước, với giá rẻ cho dân, Ông Trùm cho đặt mìn, phá các trang thiết bị dùng để xây đập. Bởi vì, lão kiểm soát tất cả các giếng nước. Đập nước cung cấp nước với giá rẻ cho dân. Nhưng ích lợi gì cho lão, nếu không nói là làm giảm số thu của lão? Sau thời kỳ chiến tranh là thời kỳ tái thiết. Ông Trùm có tay trong, biết trước bản đồ thiết kế, quy hoạch. Chỗ nào ngon, lão mua rẻ - và tất nhiên, lão “mua” thì phải được – sau đó, bán lại với cái giá chóng mày chóng mặt. Lão đứng ra “bảo vệ an ninh” cho các xí nghiệp. Đừng hòng bán – dù chỉ là nước A – ti – sô ở một quầy tại chợ Palermo – nếu không đóng chút đỉnh “thuế đen” cho Ông Trùm. Mấy anh nhà giàu đừng hòng mua sắm nữ trang cho vợ hoặc tậu ngựa nòi cho con trai mà không xin Ông Trùm bảo vệ an ninh cho. Với bàn tay cứng rắn, lão đã bóp nát mọi hy vọng “điên khùng” của đám nông dân khố rách chỉ ao ước được trồng trọt cho mình, trên mảnh đất bỏ hoang của hoàng thân Ollorto. Đạo luật cải cách ruộng đất do nghị viện ở Rome thông qua là cái mẹ gì. Một trăm, một ngàn đạo luật đó, cũng chấp. Bị ép, Ông Trùm một bên và đám quý tộc cùng với chính quyền một bên, thằng dân đen Sicily chỉ còn nước há họng than trời. Và, từ bỏ mọi hy vọng.

Hai năm sau khi Guiliano chết, năm trăm ngàn dân Sicilian – hầu hết là đàn ông, con trai – đã bỏ xứ tha phương cầu thực. Có người lặn lội sang nước Anh để làm vườn, để bán kem, để làm bồi trong các nhà hàng. Có người lần mò sang Đức để nhận những công việc tay chân nặng nhọc, hiểm nghèo. Khá lắm thì cũng sang Thụy Sĩ để quét đường hoặc đóng vỏ đồng hồ chim cúc cu. Có người sang tận Brazil, để vào rừng làm tiều phu. Có người liều mạng mò mẫm lên tận vùng Bắc Âu để chịu cóng rét ở đó mà kiếm miếng ăn. Và phúc đức lắm thì được Clemenza tuyển sang Mỹ để bổ sung “quân” cho cánh Corleone. Những tên đó được coi là may mắn nhất rồi đó. Cứ như vậy, cả cái xứ Sicily trở thành vùng đất của ông già bà cả, của con nít, của mẹ góa con côi. Đất đai trong xóm lẫn lộn sỏi đó không còn đủ sức cung cấp dân làm thuê cho các lãnh địa nữa. Vì vậy, mấy ông điền chủ cũng bị ảnh hưởng. Chỉ có Ông Trùm là mỗi ngày một giàu sụ thêm ra.

Gaspare Aspanu Pisciotta bị bắt vì cái tội phạm khi còn làm ăn cướp. Bị kết án chung thân. Bị giam tại nhà tù Ucciardone. Nhưng ai nấy đều ngầm hiểu trước sau gì y cũng được ân giảm. Nỗi lo lắng độc nhất của y là có thể bị làm thịt ngay trong tù. Chờ mãi chẳng thấy ai ân giảm. Y nhắn tin cho Ông Trùm là nếu không thả ngay y ra thì y sẽ tiết lộ tất cả những cuộc tiếp xúc giữa ngài Trezza và băng ăn cướp của y trước kia. Rồi chính ngài đương kim thủ tướng – lúc này ngài Trezza đã vồ được cái ghế thủ tướng rồi – đã âm mưu với Ông Trùm để sát hại các công dân trong vụ Portella del Ginestra.

Chính vào buổi sáng ngài Trezza nhận chức thủ tướng nước Ý, Aspanu Pisciotta thức dậy lúc tám giờ sáng.Y được biệt giam trong một xà lim rộng rãi, có cây cảnh, có mẫu thêu, may mà nó đã tập làm trong lúc bị giam. Công việc thêu may tỉ mẩn làm cho thần kinh y bớt căng thẳng. Thỉnh thoảng y cũng hồi tưởng lại tuổi thơ của y và Turi. Y cũng nhớ lại tình anh em, bè bạn thắm thiết giữa hai đứa.

Pisciotta làm cà phê uống. Y sợ bị đầu độc. Bởi vậy, mọi thứ trong cái ly cà phê ấy đều là do gia đình y gửi vô, thức ăn do nhà giam cung cấp y dùng để nuôi con vật cưng trong lồng. Những nhu yếu phẩm, y để trên một trong những cái giá cùng với đồ thêu, may, vải vóc và một bình dầu ôliu. Có nghĩa là, nếu bị đầu độc, cứ uống đại một họng đầy dầu ôliu là sẽ ói ra hết. Đếch sợ một thứ bạo hành nào hết. Bởi vì, y được canh gác kỹ quá mà: người đến thăm phải được nó xác nhận mới được vào cửa xà lim. Nó không được phép ra khỏi phòng nó. Kiên nhẫn ngồi nhìn con vẹt ăn hết thức ăn, rồi y mới bắt đầu bữa ăn sáng của mình, một cách ngon lành.

Hector Adonis rời Palermo và đáp xe đi đến nhà giam Ucciardone. Mặt trời tháng Hai đã bắt đầu nóng, mặc dù lúc đó mới là buổi sáng. Ông lấy làm tiếc mình đã thắt cà – vạt và bận đồ màu đen. Nhưng ông cảm thấy mình cũng phải ăn mặc đúng điệu trong những dịp như thế này. Tay ông chạm vào tờ giấy quan trọng để ở túi áo trong, chỗ ngực.

Khi đi qua thành phố, ông cảm thấy bóng ma của Guiliano cũng dõi theo ông. Ông nhớ lại một buổi sáng, chiếc xe điện chở đầy cảnh vệ bị mìn nổ tung. Đó là để báo thù cho gia đình Guiliano bị bắt giam cũng tại nhà tù này. Đã bao lần ông tự hỏi làm sao mà một đứa bé ông đã dạy dỗ kỹ càng như vậy về chủ nghĩa nhân đạo lại có thể làm những việc như vậy được. Ngày nay, những bức tường trước các tòa nhà ông đi qua đã cũ, nhưng trong trí tưởng tượng, ông vẫn nhìn thấy những hàng chữ sơn đỏ “Guiliano muôn năm”. Phải, thằng con đỡ đầu của ông không sống lâu. Nhưng điều làm ông buồn phiền là nó lại bị chính thằng em, thằng bạn từ lúc còn nhỏ của nó sát hại. Chính vì vậy ông đã rất thú vị khi nhận được chỉ thị đặc biệt của Ông Trùm.

Bức tường vào nhà tù cao và kiên cố. Dây kẽm gai chằng chịt. Lính canh gác cẩn mật, tuần tiễu ngày đêm. Giáo sư Adonis có đủ mọi giấy tờ cần thiết cầm tay, nên đã được cảnh sát đặc biệt đi cùng đến tận bệnh xá của nhà tù. Ông được lão Cuto, dược sĩ của nhà tù chào đón. Ông dược sĩ này mặc đồ trắng tinh. Thắt cà – vạt cẩn thận. Có lẽ ông ta cũng được theo học một khóa về tâm lý, nên ông ta cũng đã quyết định phải ăn mặc một cách đặc biệt trong một dịp đặc biệt như thế này. Ông ta thân mật chào hỏi Adonis. Và hai người ngồi chờ Pisciotta vẫn đến dùng thuốc streptomycin để trị bệnh lao phổi.

- Aspanu vẫn dùng thuốc đều đều đấy chớ? – ông Adonis hỏi.

- Phải, ông ranh ấy gìn giữ kỹ sức khỏe của mình nữa là khác. Y còn cai luôn cả thuốc lá nữa. Nghĩ cũng kỳ, tôi đã để ý thấy nơi nhiều tù nhân, lúc còn tự do, chúng phóng túng, bừa bãi, chúng hút thuốc cho đến cháy cổ họng, nhậu nhẹt đến cái mức mà giá như lá gan có bằng thép cũng phải xơ, chơi bời đĩ điếm cho đến kiệt sức, ngủ nghê cũng bất thường, và thường là thiếu ngủ. Còn tập thể dục ấy hả? Khỏi có bao giờ. Ấy vậy mà khi bị kết án chung thân thì mấy ông phá gia chi tử ấy lại bỏ hết mấy thói hư tật xấu ấy, ăn uống điều độ, tập thể dục đều đều, kiêng khem cẩn thận, bỏ hút thuốc…

- Có lẽ vì họ ít có dịp.

- Ấy, không. Ông bạn lầm. Hễ có tiền thì tại nhà tù này, ông bạn muốn gì cũng có. Thì có gì đâu. Lính tráng, cai ngục thì nghèo, mà tù nhân thì giàu. Bởi vậy, có thể hưởng bất cứ “thú vui” gì.

Adonis đưa mắt nhìn quanh tủ thuốc: có những kệ đầy thuốc và y cụ. Có những ô kéo bằng gỗ sồi, dán băng keo (đựng thuốc loại độc). Có cả hai giường bệnh nữa.

- Ông có gặp điều gì rắc rối khi phải lo thuốc cho thằng Pisciotta không? – ông Adonis hỏi.

- Không, tụi tôi đã được lệnh đặc biệt. Sáng nay tôi vừa trao cho y túi thuốc mới, có dấu niêm đặc biệt, người Mỹ làm để xuất khẩu. Thuốc ấy đặc biệt đắt tiền. Tôi lấy làm lạ không hiểu sao nhà nước lại cứ phải quan tâm nhiều quá đến việc giữ cho y sống như vậy, để làm gì không biết?

Cả hai nhìn nhau, mỉm cười.

Trong xà lim, Aspanu Pisciotta cầm lấy túi thuốc strepto và cẩn thận mở niêm. Y đong liều lượng cẩn thận rồi nuốt. Y lấy làm lạ vì cái vị hơi chua chua. Mới chỉ ngẫm nghĩ vậy được chừng một chút, thì thân thể y đã ưỡn cong về phía trước, rồi té lăn xuống sàn. Y la lớn lên, đến nỗi lính canh phải chạy vào. Pisciotta ráng đứng lên, chống cơn đau đớn nhức nhối trong khắp cơ thể, cổ họng rát buốt như muốn tét ra. Y loạng choạng bước về phía bình dầu ôliu: Một lần nữa, cơ thể y cong gập lại và y la lớn cho lính canh gác nghe: “Cứu tôi với! Cứu tôi với! Tôi bị đầu độc!”.

Trước khi gục ngã, y cảm thấy tức giận, vì biết mình bị lão Croce lừa gạt.

Lính gác khiêng Pisciotta xuống trạm xá và nói tù nhân bị ngộ độc. Cuto bảo họ đặt Pisciotta nằm trên giường và khám nghiệm. Ông ta vội vàng pha thuốc giải độc và đổ vào cuống họng Pisciotta. Chỉ có Hector Adonis hiểu rằng thuốc giải độc ấy là quá nhẹ, chẳng giúp ích gì cho nạn nhân. Adonis đi lại cạnh giường, tay thủ sẵn mảnh giấy ấy dưới áo lót của Pisciotta. Cùng lúc đó, ông nhìn vào khuôn mặt y. Cũng đẹp trai. Nhưng khuôn mặt ấy nhăn nhó vì đau đớn. Ông Adonis biết, cơn đau ấy thật là khủng khiếp. Lúc đó, Adonis đọc lời cầu nguyện cho linh hồn y. Và ông cảm thấy buồn kinh khủng. Ông nhớ lại lúc thằng này và thằng con đỡ đầu của ông, hai đứa, tay trong tay, vừa đi trên ngọn đồi, vừa đọc thơ về hiệp sĩ Roland.

Mãi sáu tiếng đồng hồ sau đó – khi liệm xác – người ta mới thấy mảnh giấy luồn dưới áo Pisciotta. Vì vậy, nên không kịp đăng cùng với tin tức về cái chết của Pisciotta đã được đăng trên báo chí và được lan ra khắp Sicily.

Trên mảnh giấy ấy có ghi dòng chữ: “Kẻ phản bội Guiliano sẽ chết như thế đó”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


Ở Sicily, nếu không có tiền thì cũng đừng hy vọng chôn người thân của mình trong lòng đất. Đó là sự thua thiệt cuối cùng của những thằng khố rách. Và, ngay cả ở đất Sicily mà cũng còn phải chịu trách nhiệm về quá nhiều nỗi tủi nhục. Vậy mà ở nghĩa địa lại đầy những phiến đá xinh xinh hay những nhà mồ có cổng vào bằng sắt uốn éo hoa mỹ. Có những ngôi còn để ngỏ, có ngôi đã gắn xi – măng. Có ngôi dành chung cho cả gia đình.

Giáo sư Hector Adonis đã chọn một ngày chủ nhật đẹp trời sau khi Aspanu chết để viếng nghĩa địa thị xã Montelepre. Ông Trùm Croce cũng sẽ đến đó gặp ông, để cùng với ông cầu nguyện bên mồ của Guiliano. Vì họ có việc phải bàn với nhau. Và có nơi nào tốt hơn để làm nơi gặp gỡ của những con người không còn kiêu căng khoe khoang, để tha thứ cho những nguyền rủa đã qua, để đào sâu những suy tính khôn ngoan?

Và có nơi nào tốt hơn để chúc tụng, khen ngợi người bạn đồng sự đã làm được một điều tốt? Nhiệm vụ của Ông Trùm là phải loại bỏ được thằng Pisciotta. Nó quá bép xép và có trí nhớ quá tốt. Ông Trùm đã chọn giáo sư Adonis làm đạo diễn. Tờ giấy luồn vào ngực thằng Pisciotta – là một trong những cử chỉ tế nhị nhất của Ông Trùm. Điều ấy làm cho giáo sư Adonis rất mãn nguyện. Và, một vụ mưu sát chính trị được ngụy trang dưới hình thức một cuộc trả thù rất lãng mạn, thì còn gì hay bằng. Đứng trước cửa nghĩa địa, ông giáo sư nhìn người tài xế và vệ sĩ đỡ Ông Trùm xuống xe. Những năm gần đây – thân xác Ông Trùm vốn đã phát phì – đã lại tăng trọng thêm nữa. Cứ như thể thân xác lão phát triển theo nhịp với sự phát triển quyền lực của lão.

Cả hai bước qua cổng nghĩa địa. Vòng cung phía trên cổng có hàng chữ uốn bằng sắt: “Trước kia chúng tôi cũng giống như quý vị - sắp tới, quí vị cũng giống như chúng tôi”. Ông Adonis mỉm cười vì cái câu vừa bi thương vừa chua chát giễu cợt đó. Nhưng, ở dưới mồ, chắc là Pisciotta đang gào thét, la lớn câu đó.

Ông Adonis không còn cảm thấy ghét cay ghét đắng cái thằng Pisciotta khốn kiếp đã sát hại thằng con đỡ đầu cưng của ông. Ông đã báo thù được cho nó. Ông nghĩ, có lẽ giờ này hai đứa lại đang chơi với nhau cái trò kẻ cướp như hồi còn nhỏ.

Ông Trùm nhìn tấm hình Guiliano:

- Thằng nhỏ thiệt ngon, chúng ta ai nấy đều yêu thương nó. Nhưng làm sao chúng ta có thể sống được với nó. Nó cứ muốn thay đổi cả thế giới này. Nó yêu con người. Nhưng thử hỏi, có mấy ai giết người nhiều hơn nó? Nó tin Chúa, nhưng lại bắt cóc đức Hồng y giáo chủ.

Giáo sư Adonis đăm đăm nhìn vào hình Guiliano. Tấm hình chụp năm hắn mười bảy tuổi. Ôi, cái vẻ đẹp tột cùng của Địa Trung Hải. Sự dịu dàng trên khuôn mặt khiến ta phải yêu thương hắn. Nhìn khuôn mặt ấy, ta không thể nào ngờ rằng hắn đã ra lệnh giết hàng ngàn người và đẩy hàng ngàn người xuống địa ngục.

Ơi Sicily! Hỡi ơi Sicily! Người đã hủy hoại những đứa con tuấn tú nhất của Người và đã biến chúng thành tro bụi. Những đứa con đẹp hơn cả thiên thần, đã lớn lên trên đất người và đã trở thành quỷ dữ. Quỷ dữ tràn lan trên đất Người, nhiều như cỏ, như cây! Vậy mà, tại sao một người như Croce lại đến đặt vòng hoa trên mộ Guiliano?

- Chúa ơi! – Ông Trùm than – Ước gì con có được một đứa con, chỉ một thôi cũng được, như Turi Guiliano! Và như vậy thì không hiểu con sẽ để lại cho nó một đế quốc như thế nào. Ai biết được nó sẽ đoạt được vinh quang đến mức nào!

Giáo sư Adonis mỉm cười. Đúng, Ông Trùm là một con người vĩ đại. Nhưng lão ta không có khái niệm gì về lịch sử. Thật ra lão có hàng ngàn đứa con sẽ kế tục sự cai trị của lão, sẽ thừa kế sự quỷ quyệt của lão, sẽ cướp phá Sicily cho đến tan hoang ra, sẽ làm cho Rome ung thối ra và chính ông, giáo sư sử học và văn học Palermo cũng là một trong những đứa con ấy.

Ông giáo sư và Ông Trùm quay ra về. Một dãy dài xe lừa kéo đang chờ trước nghĩa địa. Trên mỗi phân vuông của mỗi xe đều sơn màu lòe loẹt, vẽ lại các sự tích của Guiliano và Pisciotta. Nào là cướp tư trang của bà công tước, nào là cuộc hạ sát tập thể tất cả các sếp Mafia. Nào là cuộc sát hại Guiliano do chính tay Aspanu thực hiện. Ông giáo sư dường như đã biết tất cả những sự tích đó. Ông cũng biết rằng, mặc dù là một con người vĩ đại, Ông Trùm chắc chắn sẽ bị chìm sâu trong lãng quên. Rằng, vậy mà Guiliano sẽ sống mãi. Huyền thoại về Guiliano ngày càng lớn lên, càng thêm đậm đà, càng thêm sức lôi cuốn. Đã có vài người tin rằng Guiliano không chết. Hắn còn đang thét vang trên rặng núi Cammarata. Có người tin rằng vào một ngày vĩ đại nào đó hắn sẽ phục sinh để bẻ gãy xiềng xích và đưa Sicily ra khỏi cảnh nghèo đói, áp bức, bóc lột, bất công. Trong hàng ngàn thôn xóm có những ngôi nhà xây bằng đá thô sơ và dơ bẩn, trong những ngôi nhà đó, những đứa trẻ chưa ra đời mà đã biết cầu nguyện cho hương hồn Guiliano và cầu mong hắn phục sinh.

Và, Pisciotta – với cái tâm hồn tinh quái của y – như người ta nói, vì đã không chịu nghe ông Hector Adonis kể chuyện hiệp sĩ Roland và Oliveier, nên đã quyết định đi theo con đường khác? Công bằng mà nói thì lẽ ra Pisciotta cũng phải chìm trong lãng quên. Nhưng vì y đã phạm nhiều tôi ác quá lớn, nên y cũng được đứng bên cạnh Turi yêu quý mãi mãi.

Pisciotta cũng được chôn trong nghĩa địa này. Hai đứa chúng nó sẽ được mãi mãi nhìn ngắm dãy núi thân thiết của chúng. Và cũng chính trên dãy núi ấy có bộ xương con voi của Hanibal. Cũng trên rặng núi ấy còn văng vẳng tiếng tù và của Roland khi hiệp sĩ chiến đấu chống lại quân Hồi. Turi Guiliano và Aspanu Pisciotta chết trẻ. Nhưng chúng còn sống lâu, - nếu không phải là mãi mãi – thì ít ra cũng sống lâu hơn Ông Trùm Croce và lâu hơn cả chính ông, giáo sư Adonis.

Hai người – một cao lớn sồ sề, một thấp nhỏ - đã cùng rời khỏi nghĩa địa. Những thửa ruộng, mảnh vườn bậc thang bám quanh sườn núi như những dải băng xanh. Những tảng đá vôi trắng xóa lung linh dưới ánh mặt trời. Những con ó màu nâu đỏ đang bay lao về phía họ như mũi tên.

.....

Sicily! Ơi hỡi Sicily! Dung nhan của người!

Sicily! Ơi hỡi Sicily! Tâm hồn của người!

Mê hoặc và Huyền bí!

Đạo hạnh và Bạo tàn!
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom