Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Dấu Chân Của Chúa

Dấu Chân Của Chúa
Tác giả: Greg Iles
Tình trạng: Đã hoàn thành




Một dự án tuyệt mật siêu tham vọng của chính phủ, quy tụ những bộ óc hàng đầu.

Một dự án thử nghiệm kết hợp giữa trí óc con người và máy móc để sản sinh ra một loại siêu máy tính.

Dự án Trinity.

Là một thành viên Trinity, tiến sĩ David Tennant không tin rằng cái chết của người đồng sự thân thiết là ngẫu nhiên. Ông lặng lẽ tiến hành kế hoạch của riêng ông cùng với bác sĩ tâm lý Rachel Weiss để khám phá những bí mật của dự án.

Nhưng liệu Tennant có thể dễ dàng vén bức màn bí ẩn, khi đứng sau Trinity là những kẻ quỷ quyệt đầy thế lực, khi người đồng hành Rachel Weiss cũng chưa tạo cho ông sự tin tưởng hoàn toàn, và liệu niềm hy vọng cuối cùng của ông là người đứng đầu quốc gia có đứng về phía ông?

Greg Iles đã đặt người đọc vào một không gian căng thẳng tột độ, khiến họ ngỡ ngàng trước khả năng vô hạn của khoa học và rùng mình trước tham vọng tàn bạo của một dự án tầm cao. Dấu chân của Chúa khiến độc giả ám ảnh vì câu chuyện được kể quá đỗi tài tình mang theo một thông điệp sâu sắc về nhân tính và khoa học.

***

Đôi nét về tác giả Greg Iles

Greg Iles sinh năm1960, là nhà văn trinh thám nổi tiếng người Mỹ. Ông sinh tại Stuttgart, Đức, nhưng trải qua thời thơ ấu tại Mississippi và tốt nghiệp Đại học Mississippi năm 1983. Iles từng thành lập ban nhạc rock Frankly Scarlet và chơi nhạc trong vài năm để kiếm sống. Sau đó ông lập gia đình và dốc toàn bộ tâm sức cho văn nghiệp. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông, Spandau Phoenix xuất bản năm 1993, đứng đầu trong top ten New York Times Bestseller. Ông là tác giả của mười hai tiểu thuyết, bao gồm True Evil, Turning Angel, Blood Memory, Third Degree…Iles giành giải thưởng văn học Richard Wright năm 2004. Hiện ông sống tại Natchez, Mississippi cùng vợ và hai con.

***

Lời khen tặng dành cho Dấu chân của Chúa

“Greg Iles sẽ khiến bạn hồi hộp, huyết áp bạn luôn cao ngất khi đọc cuốn sách này.”

- Booklist

“Một cuốn sách giải trí nhưng đầy thông điệp. Sau khi trang cuối cùng khép lại, dư âm tốt đẹp của nó hẳn sẽ còn đọng mãi.”

- Dan Brown, tác giả Da Vinci code

"Lôi cuốn đến nghẹt thở."

- Nelson DeMille, tác giả Night Fall

"Một sự kết hợp mạnh mẽ giữa khoa học và tâm linh!"

- Linda Fairstein, tác giả Bad Blood
 
Sửa lần cuối:

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1


Tôi là bác sĩ David Tennant. Tôi là giáo sư y đức tại trường y, Đại học Virginia, và nếu bạn đang xem cuốn băng này, có nghĩa là tôi đã chết."

Tôi lấy hơi và tự chủ lại. Tôi không muốn cường điệu. Tôi lắp máy ghi hình Sony trên giá ba chân và xoay màn hình tinh thể lỏng để có thể nhìn thấy mình trong khi nói. Mấy tuần qua tôi đã sút cân. Mắt tôi đỏ ngầu vì mệt mỏi, viền mắt thâm quầng và bóng lên. Trông tôi giống một tên tội phạm bị săn lùng hơn là một người bạn đau buồn.

"Tôi thật không biết bắt đầu từ đâu. Tôi cứ hình dung ra thi thể Andrew nằm dưới nền nhà. Và tôi biết ông đã bị giết. Nhưng... tôi hấp tấp rồi. Các vị cần các dữ kiện. Tôi sinh năm 1961 ở Los Alamos, bang New Mexico. Cha tôi là James Howard Tennant, nhà vật lý hạt nhân. Mẹ tôi là Ann Tennant, bác sĩ nhi khoa. Tôi ghi hình cuốn băng này trong trạng thái tinh thần hoàn toàn tỉnh táo. Và ngay khi làm xong, tôi sẽ gửi cho luật sư của mình, với điều kiện nó phải được mở ra nếu tôi chết vì bất kỳ nguyên nhân nào."

"Cách đây sáu giờ, người ta phát hiện một đồng nghiệp của tôi - tiến sĩ Andrew Fielding - chết bên bàn làm việc của ông vì một cơn đột quỵ triệu chứng rõ ràng. Tuy không chứng minh được, nhưng tôi tin là Fielding bị giết. Trong hai năm qua, ông và tôi tham gia một nhóm khoa học được NSA 1 và DARPA 2 tài trợ. Dưới cấp bảo mật cao nhất, đội ngũ khoa học và công trình của họ được gọi là Dự án Trinity 3 ".

Tôi liếc xuống khẩu Smith & Wesson 38 ly nòng ngắn đặt trên đùi. Tôi đã cố không để khẩu súng lộ ra trước camera, nhưng có nó trong tầm tay khiến tôi thấy yên tâm. Trấn tĩnh lại, tôi lại căng mắt nhìn vào ánh sáng đỏ rực.

"Cách nay hai năm, Peter Godin, người sáng lập tập đoàn Siêu máy tính Godin, đột nhiên nảy ra một ý tưởng, khá giống thời khắc huyền thoại khi quả táo rơi trúng đầu Isaac Newton. Nó diễn ra trong một giấc mơ. Người đàn ông bảy mươi tuổi ấy dường như không dựa trên một cơ sở nào, đã hình dung ra một khả năng đột phá trong lịch sử khoa học. Khi thức dậy, Godin gọi điện cho John Skow, phó giám đốc của NSA ở căn cứ quân sự Meade, Maryland. Sáu giờ sáng, hai người đã soạn thảo và gửi một bức thư cho tổng thống Hoa Kỳ. Bức thư làm chấn động Nhà Trắng đến tận nền móng. Tôi biết điều này vì tổng thống vốn là bạn thân của anh tôi từ ngày còn ngồi trên ghế trường đại học. Anh tôi chết cánh đây ba năm, nhưng nhờ có anh mà tổng thống biết đến công việc của tôi, chính công việc ấy đã đặt tôi vào trung tâm những sự kiện sẽ tiếp nối sau này.

Tôi xoa xoa nòng thép mát lạnh của khẩu 38 ly, tự hỏi không biết nên nói ra những gì và bỏ qua gì. Trong đầu tôi vang lên một giọng nói: Không bỏ qua gì cả. Giọng nói của ba tôi. Cách đây năm mươi năm, ông đóng một vai trò riêng trong lịch sử bí mật của nước Mỹ, và gánh nặng đó đã rút ngắn cuộc đời ông. Ba tôi mất năm 1988, một con người bị ám ảnh, tin chắc rằng cuộc Chiến tranh Lạnh mà ông đã tiêu phí cả sức lực tuổi trẻ để duy trì sẽ kết thúc với một nền văn minh bị hủy hoại, vì việc này quá dễ dàng. Không bỏ qua gì cả...

"Thông điệp của Godin" tôi tiếp tục, "có tác động như bức thư của Albert Einstein gửi tổng thống Roosevelt vào đầu Thế chiến II, phác họa về tiềm lực chế tạo bom nguyên tử và khả năng Đức Quốc xã có thể đã chế tạo một quả. Bức thư của Einstein đã kích hoạt Dự án Manhattan, cuộc nghiên cứu bí mật nhằm đảm bảo rằng Mỹ phải là nước đầu tiên có vũ khí hạt nhân. Bức thư của Godin làm xuất hiện một dự án có quy mô tương tự nhưng tham vọng là vô bờ bến. Dự án Trinity khởi động sau những bức tường của một cơ quan bình phong cho NSA trong Công viên Tam giác Nghiên cứu Bắc Carolina. Chỉ có sáu người trên hành tinh được biết đầy đủ về Trinity, và bây giờ khi Andrew Fielding đã chết, chỉ còn lại năm. Tôi là một. Bốn người kia là Peter Godin, John Skow, Ravi Nara..."

Tôi ngồi chôn chân với khẩu súng 38 ly trong tay. Có tiếng gõ cửa. Qua tấm rèm thưa, tôi thấy một chiếc xe tải nhẹ của Federal Express đậu sát vỉa hè. Khoảng trống ngay trước cửa ra vào thì tôi không nhìn thấy được.

"Ai đấy?" tôi hỏi.

"FedEx," một giọng đàn ông nghèn nghẹt. "Tôi cần ông ký vào đây."

Tôi không chờ đợi thư từ nào cả. "Là thư hay bưu phẩm?"

"Thư."

"Ai gửi?"

"Ờ... Lewis Carroll."

Tôi rùng mình. Một bưu phẩm từ một người đã chết? Chỉ có một người duy nhất có thể gửi cho tôi bưu phẩm dưới tên tác giả "Alice ở xứ thần tiên". Andrew Fielding. Ông gửi cho tôi thứ gì vào cái ngày trước khi chết? Mấy tuần nay Fielding luôn lục lọi như bị ma ám trong các phòng thí nghiệm của Trinity, máy tính cũng như những chỗ khác. Cõ lẽ ông đã phát hiện được điều gì. Mà có lẽ dù là gì đi nữa thì nó cũng đã dẫn đến cái chết của ông. Tôi cảm thấy có nét là lạ trong cung cách của Fielding ngày hôm qua - không dễ gì nhận ra điều đó ở một người nổi tiếng lập dị như ông - nhưng đến sáng nay dường như ông đã trở lại bình thường.

"Ông có muốn nhận hay không?" người đưa thư hỏi.

Tôi lên đạn khẩu súng và nhích dần ra phía cửa. Tôi thường khóa xích cửa sau khi về nhà. Tôi mở cửa bằng tay trái và kéo ra hết khoảng căng của xích. Qua khe mở, tôi thấy khuôn mặt của một thanh niên cỡ ngoài hai mươi tuổi, mặc đồng phục, tóc buộc kiểu đuôi ngựa ngắn.

"Đưa bảng giấy qua đây cùng với gói hàng. Tôi sẽ ký rồi trả lại anh."

"Không được, vì đây là bảng kỹ thuật số."

"Thế thì lấy tay mà giữ."

"Hoang tưởng," hắn làu bàu, nhưng vẫn đưa một tấm bảng dày màu vàng cam qua khe cửa.

Tôi cầm lấy bút từ treo ở đầu sợi dây, ký tháu tên mình lên màn hình cảm ứng.

"OK."

Tấm bảng điện tử biến mất và một phong bì FedEx được tuồn qua. Tôi cầm lấy nó quăng lên sofa, rồi đóng cửa lại đợi đến khi tiếng xe mất hẳn.

Tôi nhặt phong bì lên và liếc qua nhãn. Chữ "Lewis Caroll" được ký bằng bàn tay nghều ngoào của Fielding. Khi tôi rút tờ giấy ra khỏi phong bì, một chất bột màu trắng trơn bóng tràn lên ngón tay tôi. Khoảnh khắc mắt tôi nhận ra màu trắng, một phần não tôi lóe lên ý nghĩ, bệnh than. Khả năng này tuy thấp nhưng người bạn thân nhất của tôi vừa mới chết trong hoàn cảnh mờ ám. Có hoang tưởng đôi chút thì cũng hợp lý thôi.

Tôi chạy vội vào bếp cọ rửa ngón tay bằng nước rửa chén và nước. Rồi tôi lấy từ tủ ra một túi cứu thương màu đen. Trong đó có đủ các thứ thuốc quen thuộc trong nhà một bác sĩ y khoa: thuốc giảm đau, thuốc kháng sinh, thuốc gây nôn, kem steroid. Tôi tìm thấy thứ mình cần trong một ngăn có khóa bấm: một vỉ Cipro, loại kháng sinh mạnh đa năng. Tôi nuốt một viên với nước ở vòi, rồi lấy đôi găng tay mổ trong túi đeo vào. Một động tác phòng ngừa cuối cùng: tôi lấy một chiếc áo thun bẩn từ giỏ mây ra buộc quanh mũi và mồm. Tôi nhét chiếc phong bì FedEx và bức thư vào một túi Ziploc riêng, niêm kín lại rồi ném lên quầy.

Dù rất nóng lòng muốn đọc bức thư, một phần trong tôi vẫn cố cưỡng lại. Fielding có thể đã bị giết vì những gì được viết trong đó. Và dù nếu không phải như thế thì việc đọc nó cũng chẳng mang lại điều gì tốt lành.

Tôi cẩn thận dùng máy hút bụi hút hết chất bột trắng dây ra thảm ở phòng ngoài, tự hỏi liệu tôi có lầm khi cho là Fielding bị giết không? Tôi với ông đã lâm vào trạng thái hoài nghi suốt mấy tuần qua, nhưng khi đó chúng tôi có lý do để nghi ngờ. Mà thời gian thì quá kẹt. Đáng lẽ cất máy hút bụi vào tủ chứa đồ, tôi lại ra cửa sau và quẳng nó ra xa tận ngoài sân. Mua cái mới lúc nào chẳng được.

Tôi vẫn còn bị ám ảnh lạ lùng về bức thư nằm trên quầy bếp. Tôi thấy mình giống như vợ người lính không dám mở một bức điện. Nhưng tôi biết rõ bạn tôi đã chết. Vậy tôi còn sợ gì?

Sợ cái lý do, một tiếng nói trong đầu tôi trả lời. Fielding nói. Anh muốn rúc đầu vào cát. Trò chơi dân tộc của Mỹ đấy...

Cáu kỉnh vì phát hiện ra rằng chết cũng phiền hà như sống, tôi nhặt cái túi Ziploc chứa thư lên, mang ra phòng ngoài. Thư ngắn và viết tay.

David,

Chúng ta cần phải gặp lại nhau. Cuối cùng tôi đã đem những nghi ngờ của mình đến đối chất với Godin. Phản ứng của hắn làm tôi kinh hoàng. Tôi không muốn viết cụ thể ra giấy, nhưng tôi biết mình đúng. Đêm thứ Bảy, tôi với Lu Li sẽ chạy xe ra chỗ nhà xanh. Hãy đến đấy với chúng tôi. Chỗ ấy gần, nhưng kín đáo. Có thể sẽ có thời gian cho anh tiếp xúc với người bạn cũ của anh trai anh, tuy rằng tôi tự hỏi ngay cả ông ta liệu làm được gì vào lúc này. Những sự việc như thế này có sức mạnh vượt mọi cá nhân. Thậm chí vượt cả loài người, tôi e vậy. Nếu có chuyện gì xảy ra với tôi, đừng quên cái vật nhỏ bằng vàng hồi trước tôi nhờ anh giữ giùm. Thời gian gấp lắm, bạn ạ. Hẹn gặp tối thứ Bảy.

Không có chữ ký, nhưng dưới các dòng chữ là bức tranh vui vẽ tay hình đầu một con thỏ và một mặt đồng hồ. Thỏ Trắng, cái biệt danh dễ thương ấy là của các sinh viên vật lý ở trường Cambridge dành tặng cho Fielding. Fielding luôn mang theo một chiếc đồng hồ vàng bỏ túi, đó chính là "cái vật nhỏ bằng vàng" hồi trước ông nhờ tôi giữ hộ.

Hôm ấy, lúc đi ngang qua tôi trong hành lang, ông dúi chiếc đồng hồ treo trên sợi dây chuyền vào tay tôi. "Giữ hộ một giờ, được không anh bạn?" ông thì thầm."Được thôi". Rồi ông đi. Một giờ sau, ông dừng trước phòng tôi để nhận lại đồ, bảo rằng ông không muốn mang nó vào phòng thí nghiệm MRI 4 , ở đó nó có thể bị văng vỡ tung tóe vào máy MRI vì từ trường cực mạnh của máy móc. Nhưng trước đó, Fielding luôn đến phòng thí nghiệm MRI mà chưa bao giờ gửi tôi chiếc đồng hồ bỏ túi ấy. Và cũng không bao giờ gửi lại lần nữa. Chắc nó phải ở trong túi ông khi ông chết. Vậy thì ngày hôm ấy ông gặp chuyện gì?

Tôi đọc lại bức thư. Đêm thứ bảy, tôi với Lu Li sẽ chạy xe ra chỗ nhà xanh. Lu Li là bà vợ mới người Trung Quốc của Fielding. "Nhà xanh" chắc là mật danh của một căn nhà nhỏ ven biển ở Nags Head, Bãi Ngoài, Bắc Carolina. Cách đây ba tháng, khi ông nhờ tôi gợi ý địa điểm cho tuần trăng mật, tôi gợi ý căn nhà nhỏ Nags Head, chỉ mất độ vài tiếng lái xe. Vợ chồng Fielding rất thích chỗ đó, và ông bạn người Anh này rõ ràng đã chọn nó làm địa điểm an toàn để bàn về nỗi lo sợ của mình.

Bàn tay tôi run lên. Người viết những dòng này giờ đây đang lạnh như cái bàn đặt tử thi của ông, tất nhiên nếu ông nằm trong nhà xác. Không ai có thể - hoặc muốn - nói cho tôi biết chính xác bạn tôi được đưa đi đâu. Và bây giờ đến thứ bột trắng! Chẳng lẽ Fielding đã bỏ bột trắng vào phong bì mà không đả động gì đến nó trong thư? Nếu không phải ông thì ai làm? Ai, nếu không phải chính kẻ đã giết ông?

Tôi đặt bức thư lên sofa, tháo đôi găng tay phẫu thuật, tua lại băng hình về điểm tôi bước ra khỏi khuôn hình. Tôi quyết định ghi hình lại vì tôi sợ bị giết trước khi có thể nói với tổng thống những điều mình biết. Bức thư của Fielding không thay đổi được gì cả. Thế nhưng, khi chăm chú nhìn vào ống kính, đầu óc tôi lại suy nghĩ mông lung. Tôi đã gọi cho "người bạn của ông anh quá cố" của tôi trước Fielding. Lúc nhìn thấy thi thể Fielding nằm trên sàn phòng làm việc của ông, tôi biết mình phải gọi cho tổng thống. Nhưng tổng thống đang ở Trung Quốc. Tuy nhiên, ngay khi rời khỏi phòng thí nghiệm Trinity, tôi lại gọi đến Nhà Trắng từ một máy điện thoại trả tiền ở nhà hàng Shoney, một máy điện thoại "an toàn" mà Fielding từng kể với tôi. Bọn theo dõi ngồi trong xe không nhìn thấy nó, và cấu trúc bên trong của nhà hàng khiến việc nghe trộm từ xa bằng microphone parabol rất khó thực hiện.

Khi tôi nói "Dự án Trinity", tổng đài Nhà Trắng nối máy cho tôi tiếp chuyện với một giọng đàn ông cộc cằn bảo tôi nói rõ sự việc. Tôi xin gặp ông Evan McCaskell, chánh văn phòng của tổng thống, người tôi đã gặp trong lần đến Phòng Bầu dục. Evan McCaskell đang ở Trung Quốc với tổng thống. Tôi yêu cầu thông báo cho tổng thống rằng David Tennant cần nói chuyện gấp với tổng thống về Dự án Trinity, và không một ai khác liên quan đến Trinity được biết chuyện này. Người đàn ông nói yêu cầu của tôi sẽ được chuyển, rồi ngắt máy.

Carolina cách Bắc Kinh mười ba múi giờ. Tức là bây giờ ở Bắc Kinh đang buổi sáng. Ban ngày. Thế mà đã bốn giờ trôi qua từ lúc tôi gọi điện, vẫn chưa có tin tức gì. Phải chăng thông tin của tôi tới Bắc Kinh trễ do tầm quan trọng của cuộc gặp cấp cao? Không cách gì biết được. Tôi chắc rằng nếu một ai đó ở Trinity nghe được cuộc gọi của tôi trước, tôi sẽ bị thanh toán như Fielding trước khi tôi có thể nói chuyện với tổng thống.

Tôi nhấn nút START trên điều khiển từ xa, và lại nói vào máy quay.

"Trong vòng sáu tháng qua, tôi đã đi từ cảm giác được tham gia vào những cố gắng khoa học cao quý đến chỗ tự hỏi có phải tôi đang sống trên đất Mỹ đây không? Tôi đã thấy những người đoạt giải Nobel vứt bỏ tất cả các nguyên tắc chỉ để tìm kiếm..."

Tôi im lặng. Một bóng người vụt qua cửa sổ trước. Một khuôn mặt. Rất gần, dòm vào trong. Tuy chỉ thấy nó qua tấm rèm mỏng nhưng tôi chắc chắn. Một khuôn mặt ôm gọn trong mái tóc dài chấm vai. Tôi có cảm giác đó là nét mặt phụ nữ, nhưng...

Tôi định bật dậy nhưng lại ngồi phịch xuống. Răng tôi rung lên như điện giật, tựa hồ có lá nhôm chèn vào trong lúc trám răng. Mí mắt tôi nặng trĩu không mở ra được. Không phải bây giờ, tôi nghĩ, thọc tay vào túi lấy lọ thuốc kê sẵn theo đơn. Chúa ơi, không phải bây giờ. Trong sáu tháng, tất cả các thành viên của nội bộ Trinity đều bị hội chứng thần kinh khủng khiếp. Không ai giống ai. Tôi bị chứng ngủ rũ hành hạ. Ngủ rũ và mộng mị. Ở nhà, tôi thường đầu hàng chứng ngủ như hôn mê kia. Nhưng khi tôi cần đánh lui cơn mê đó - ở Trinity, hay khi lái xe - chỉ có amphetamine mới làm ngưng những đợt sóng trào dữ dội.

Tôi rút chai thuốc ra lắc. Rỗng. Tôi đã nuốt viên cuối cùng hôm qua. Tôi thường lấy amphetamin từ Ravi Nara, bác sĩ tâm thần của Trinity, nhưng Nara và tôi đã không còn nói chuyện với nhau nữa. Tôi cố đứng dậy, định bụng sẽ gọi cho một hiệu thuốc và tự kê đơn cho mình, nhưng chuyện đó thật lố bịch. Tôi thậm chí không đứng lên được. Chân tay tôi nặng như chì. Mặt tôi nóng rực và mí mắt bắt đầu sụp xuống.

Kẻ rình mò lại xuất hiện bên cửa sổ. Tôi tưởng tượng mình giơ súng nhằm mục tiêu, nhưng rồi tôi thấy súng rơi xuống đùi. Ngay cả bản năng sinh tồn cũng không đủ sức làm tan màn sương mù tràn ngập óc tôi. Tôi nhìn ra cửa sổ. Khuôn mặt biến mất. Một khuôn mặt đàn bà. Chắc chắn thế. Chẳng lẽ chúng phái đàn bà đến giết tôi? Tất nhiên. Chúng là lũ thực dụng. Chúng sử dụng bất cứ thứ gì miễn là được việc.

Có cái gì đó cọ vào tay nắm cửa. Qua lớp sương mù dày đặc, tôi cố sức chĩa súng ra phía cửa. Lại có tiếng gõ sầm sập lên cửa gỗ. Tôi đặt ngón tay lên cò súng nhưng khi trí óc bồng bềnh của tôi truyền lệnh bóp cò, cơn buồn ngủ sụp xuống xóa tan ý thức giống như những ngón tay phẩy tắt ngọn nến.

Andrey Fielding ngồi một mình bên bàn làm việc, điên tiết rít thuốc lá. Bàn tay ông run lên sau cuộc đối đầu với Godin. Chuyện xảy ra từ hôm trước, nhưng Fielding có thói quen tái hiện những cảnh như vậy trong tâm trí để tự dằn vặt về việc ông đã trình bày trường hợp của mình một cách kém hiệu quả ra sao, lẩm nhẩm những lý lẽ quật lại mà lẽ ra ông phải nói ra nhưng đã không nói.

Cuộc cãi vã là kết quả của mấy tuần thất vọng. Fielding không thích tranh luận, không phải những cuộc tranh luận ngoài phạm vi vật lý. Ông trì hoãn cuộc gặp cho đến phút cuối. Ông đủng đỉnh đi quanh phòng làm việc, nghĩ mông lung về một trong những vấn đề hóc búa trọng tâm của vật lý lượng tử: tại sao hai hạt được bắn ra đồng thời từ cùng một nguồn có thể đến cùng một đích tại cùng một thời điểm, trong khi một hạt phải chuyển động xa hơn mười lần so với hạt kia? Giống như hai chiếc Boing 747 bay từ New York đến Los Angeles - một chiếc bay thẳng, chiếc kia phải bay về hướng Nam đến Miami trước khi bay sang hướng Tây đến Los Angeles, thế mà cả hai lại hạ cánh ở sân bay L.A. cùng thời điểm. Chiếc 747 thứ nhất bay với tốc độ ánh sáng, vậy mà chiếc còn lại bay vòng qua Miami vẫn đáp xuống sân bay L.A cùng lúc. Có nghĩa là chiếc thứ hai phải bay nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Có nghĩa là Thuyết tương đối hẹp của Einstein còn thiếu sót. Có thể lắm chứ. Fielding đã bỏ ra rất nhiều thời gian suy nghĩ về vấn đề này.

Ông đốt điếu thuốc khác và nghĩ về bức thư đã gửi theo đường chuyển phát nhanh cho David Tennant. Nó không đầy đủ. Gần như không nói được gì. Nhưng nó phải nói lên được gì đó trước khi họ gặp nhau ở Nags Head. Có thể lúc nhận thư Tennant đang làm việc cả chiều trên cùng một hành lang, chỉ cách chỗ ông vài bước chân, nhưng cũng có thể anh ta đang ở Fiji. Không một mét vuông nào không có bóng bọn theo dõi và các thiết bị ghi âm. Tennant có thể nhận được bức thư vào chiều nay, nếu nó không bị ai chặn lại. Để tránh chuyện đó, Fielding đã hướng dẫn vợ bỏ thư vào thùng thư chuyển phát nhanh FedEx bên trong bưu điện Durham, ngoài tầm nhìn của bất kỳ kẻ nào theo dõi bà từ xa. Các bà vợ luôn bị như vậy - bị theo dõi ngẫu nhiên từ trong xe mà không hề hay biết.

Tennant là hy vọng duy nhất của Fielding. Tennant quen biết tổng thống. Dù sao anh ta cũng đã từng dự tiệc tại Nhà Trắng. Fielding đã nhận giải Nobel năm 1998, nhưng ông chưa hề được mời đến số 10 phố Downing 5 . Sẽ không bao giờ, chắc chắn đến chín mươi phần trăm. Ông đã có lần bắt tay thủ tướng trong một buổi tiếp tân, nhưng đó lại là chuyện khác. Hoàn toàn khác.

Ông rít một hơi thuốc và nhìn xuống bàn. Một phương trình nằm đó, một hàm sóng suy sập không giải được nếu dùng toán học hiện tại. Ngay cả các siêu máy tính mạnh nhất thế giới cũng không giải nổi một hàm sóng suy sập. Có một cỗ máy trên trái đất có thể đạt được tiến bộ trong việc giải bài toán này - ít nhất ông tin rằng có cỗ máy như thế - và nếu ông đúng thì thuật ngữ siêu máy tính chẳng mấy chốc sẽ trở thành đồ cổ lỗ như cái bàn tính. Nhưng chiếc máy có thể giải hàm sóng suy sập phải có nhiều khả năng hơn là chỉ biết tính toán. Có lẽ đó là tất cả những gì Peter Godin đã hứa với các quan chức chính phủ ở Washington và còn hơn thế nữa. Cái "hơn" ấy làm Fielding sợ. Vì không ai có thể nói trước các hậu quả không mong muốn khi biến một chuyện như thế thành sự thật. Đúng thực là "Trinity".

Ông đang định về sớm thì có gì đó bỗng lóe lên trong mắt trái. Không thấy đau. Rồi tầm nhìn của con mắt ấy xoắn lại thành một vệt mờ, hình như có tiếng nổ trong thùy não trái trước trán. Đột quỵ, ông dửng dưng nghĩ. Mình đang bị đột quỵ. Bình tĩnh lạ lùng, ông với điện thoại để gọi số 911, rồi nhớ ra rằng bác sĩ tâm thần giỏi nhất thế giới đang làm việc cách ông có bốn phòng.

Gọi điện chắc nhanh hơn đi. Ông với tay cầm ống nghe, nhưng cái hiện tượng đang diễn ra trong hộp sọ ông bỗng bùng ra với tất cả sức tàn phá của nó. Cục máu đông, hay mạch máu bị vỡ, và mắt trái ông trở nên đen ngòm. Một cơn đau như dao cắt xuyên vào gốc não, trung khu của những chức năng trợ giúp sự sống. Ngã vật xuống sàn, Fielding lại nghĩ về các hạt khó nắm bắt chuyển động với tốc độ nhanh hơn ánh sáng, các hạt đã chứng tỏ Einstein sai bằng cách vượt qua không gian như thể nó không tồn tại. Ông nêu ra một ý tưởng thử nghiệm: Nếu Andrew Fielding có thể chuyển động nhanh bằng hạt kia, liệu ông có kịp đến gặp Ravi Nara để được cứu?

Trả lời: Không. Không gì có thể cứu được ông lúc này.

Ý nghĩ mạch lạc cuối cùng của ông là một lời cầu nguyện, một hy vọng thầm lặng rằng trong thế giới lượng tử không có trên bản đồ, ý thức tồn tại bên ngoài cái mà con người gọi là sự chết. Đối với Fielding, tôn giáo là một ảo tưởng, nhưng trong buổi bình minh của thế kỷ hai mốt, Dự án Trinity đã mở ra hy vọng về một sự bất tử mới. Và đó không phải là một quái vật Rube Goldberg 6 mà họ đang giả vờ tạo ra cách phòng làm việc của ông có một trăm mét.

Tác động của nền nhà giống như nước.

Tôi giật mình tỉnh dậy và nắm chặt khẩu súng. Ai đó đang dộng ầm ầm lên cửa trước làm căng sợi dây xích an toàn. Tôi cố đứng dậy nhưng cơn mơ đã làm tôi mất phương hướng. Sự rõ ràng của nó vượt xa tất cả những gì tôi đã trải nghiệm cho đến lúc này. Tôi thật sự cảm thấy mình đã chết, tôi đã là Andrew Fielding vào thời điểm ông chết...

"Bác sĩ Tennant?" một giọng phụ nữ hét lên. "David, anh có trong ấy không?"

Bác sĩ tâm thần của mình? Tôi đặt tay lên trán và cố vùng vẫy để trở về với thực tại: "Bác sĩ Weiss? Rachel? Cô đấy à?"

"Vâng! Anh tháo xích đi!"

"Tôi đến đây," tôi lẩm bẩm. "Cô đi một mình à?"

"Vâng! Anh mở cửa đi!"

Tôi nhét khẩu súng xuống dưới đệm đi văng, loạng choạng đi ra cửa. Khi chạm đến móc khóa xích, tôi mới giật mình nghĩ ra tôi chưa bao giờ nói cho bác sĩ tâm thần biết chỗ ở của mình.

--- ------ ------ ------ -------

1 Cơ quan An ninh Quốc gia (National Security Agency).

2 Cơ quan Dự án Nghiên cứu Tiên tiến của Bộ Quốc phòng (Defense Advanced Research Projects Agency).

3 Chúa ba ngôi.

4 Máy tạo hình ảnh bằng cộng hưởng từ (Magnetic resonance imaging).

5 Phó thủ tướng Anh.

6 Rube Goldberg (1883-1970) là một họa sĩ tranh biếm họa người Mỹ, nổi tiếng với loạt tranh tranh vui vẽ những máy móc phức tạp nhưng chỉ thực hiện những nhiệm vụ đơn giản, được gọi là máy Rube Goldberg.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2


Rachel Weiss có mái tóc đen huyền, nước da ôliu và đôi mắt màu mã não. Cách đây mười một tuần, tôi đã đến phòng khám của cô để khám bệnh lần đầu. Tôi nhớ đến nhân vật Rebecca trong tiểu thuyết Ivanhoe của Ngài Walter Scott. Chỉ trong tiểu thuyết mới có vẻ đẹp hoang dã và phóng túng như của Rebecca. Ở Rachel Weiss toát ra một vẻ khắc khổ rõ nét khiến ngoại hình và quần áo của cô không tương thích, dường như cô phải hành xử khác đi để che giấu phong cách tự nhiên của mình, sợ rằng nó có thể khiến mọi người hình dung cô như một cái gì khác hơn chứ không phải một bác sĩ chuyên khoa xuất sắc.

"Cái gì thế này?" cô hỏi, chỉ tay vào tấm nệm đi văng nơi tôi giấu khẩu súng. "Anh lại tự kê đơn thuốc đấy à?"

"Không. Làm thế nào cô tìm được nhà tôi?"

"Tôi biết một chị ở phòng Nhân sự Đại học Virginia. Anh đã bỏ khám hai lần liên tiếp rồi, nhưng ít ra hai lần ấy anh cũng đã gọi trước để báo hủy hẹn. Hôm nay anh lại để tôi ngồi đợi mà không hề gọi điện. Với trạng thái tinh thần của anh thời gian gần đây, anh muốn tôi làm gì cho anh bây giờ?" Đôi mắt Rachel hướng tới màn hình camera "Ồ, David... anh lại trở lại cái này sao? Tôi tưởng anh đã thôi từ nhiều năm rồi."

"Nó không phải cái cô nghĩ đâu."

Cô có vẻ không tin. Cách đây năm năm, một lái xe say rượu đã tông xe của vợ tôi xuống hồ nước ven đường. Nước không sâu lắm, nhưng cả Karen và con gái Zooey của tôi đã chết đuối trước khi có người đến cứu. Lúc đó tôi đang làm việc ở chính cái bệnh viện mà họ đưa vợ con tôi đến sau vụ tai nạn. Lòng tôi tan nát khi nhìn các nhân viên cấp cứu cố gắng trong vô vọng để làm đứa con gái bốn tuổi của tôi tỉnh lại. Tôi ngồi lì hàng giờ ở nhà trước màn hình ti vi, xem lại không biết bao nhiêu lần băng hình quay cảnh bé Zooey lẫm chẫm tập đi, Zooey nắc nẻ cười trong vòng tay mẹ, ôm chầm tôi trong buổi sinh nhật lần thứ ba của nó. Sự nghiệp y khoa của tôi lụi tàn, rồi chết hẳn. Tôi rơi vào trạng thái trầm cảm lâm sàng. Đó là chuyện đời tư duy nhất mà tôi kể chi tiết với bác sĩ tâm thần của mình, và chỉ sau lần khám thứ ba cô mới kể rằng năm ngoái cô đã mất đứa con trai duy nhất vì bệnh bạch cầu.

Cô thổ lộ điều này vì cô tin rằng những giấc mơ rối loạn của tôi là do nỗi đau mất mát gia đình gây nên, và cô muốn tôi biết chính cô cũng phải chịu một nỗi đau như thế. Rachel cũng đã mất không chỉ mình đứa con. Không chịu nổi cảnh con trai bị bệnh tật tàn phá, tay luật sư chồng cô đã bỏ cô về New York. Giống như tôi, Rachel rơi xuống hố sâu tuyệt vọng nhưng may sao cô đã ngoi lên được. Thuốc men và trị liệu đã cứu được cô. Nhưng giống như cha tôi, tôi luôn hết sức thu mình vào vỏ ốc, và vật lộn trở lại cuộc sống đơn chiếc. Không một ngày trôi qua mà tôi không nhớ vợ con, nhưng những ngày ngồi nức nở trước đoạn phim video cũ đã qua rồi.

"Đây không phải là về Karen và Zooey," tôi bảo Rachel. "Làm ơn đóng cửa lại."

Cô vẫn đứng ở ngưỡng cửa, tay cầm chìa khóa xe, rõ là nửa muốn tin tôi nửa nghi ngờ chẳng kém. "Thế nó là cái gì vậy?"

"Công việc. Làm ơn đóng cửa lại."

Rachel ngập ngừng giây lát, rồi đóng cửa và nhìn sâu vào mắt tôi. "Có lẽ đã đến lúc anh nói cho tôi biết về công việc của anh."

Đây là điểm bất đồng từ lâu giữa tôi và cô. Rachel coi sự tin cẩn giữa bệnh nhân với bác sĩ cũng thiêng liêng như xưng tội, và sự thiếu tin cậy của tôi làm cô bị tổn thương. Cô cho rằng những yêu cầu giữ bí mật và lời cảnh báo nguy hiểm của tôi chẳng qua là dấu hiệu một thực tại hoang tưởng được tôi dựng lên để phòng vệ tâm lý khỏi mọi sự soi mói. Tôi không trách cô. Theo yêu cầu của NSA, tôi phải đến cuộc hẹn khám đầu tiên dưới một cái tên giả. Nhưng mười giây sau khi chúng tôi bắt tay nhau, cô nhận ra ngay bộ mặt tôi trên bìa cuốn sách tôi viết. Cô cho rằng mưu mẹo của tôi là do chứng hoang tưởng của người nổi danh trong giới y khoa, tôi cũng chẳng buồn cải chính. Nhưng sau vài tuần, khi tôi từ chối tiết lộ bất cứ điều gì về công việc của mình - và cứ khăng khăng cho là để "bảo vệ" cô - cô đâm ngờ rằng tôi bị tâm thần phân liệt.

Có điều Rachel không biết là tôi chỉ được phép đến gặp cô sau khi đã thắng một cuộc cãi cọ nảy lửa với John Skow, giám đốc Dự án Trinity. Chứng ngủ rũ của tôi phát sinh do công việc ở Trinity, và tôi cần hỗ trợ chuyên môn để hiểu những giấc mơ đi kèm trong những cơn ngủ rũ ấy.

Đầu tiên NSA đưa từ căn cứ quân sự Meade đến một bác sĩ tâm thần, một nhà tâm thần học-dược lý trị liệu, bệnh nhân chính của ông ta là các kỹ thuật viên luôn phải vật lộn với stress kinh niên và trầm cảm. Ông ta muốn nhồi nhét cho tôi đủ thứ thuốc hưng phấn và tìm hiểu xem làm thế nào để trở thành một bác sĩ có sách được xuất bản trên toàn thế giới như tôi. Sau đó họ đưa đến một phụ nữ, một chuyên gia về rối loạn thần kinh chức năng ở những người bị buộc phải làm việc lâu dài trong bí mật. Trong suốt thời gian cô ở lại đây, tôi thấy kiến thức của cô về ý nghĩa của những giấc mơ chỉ hạn chế ở việc "tích lũy chút ít từ sách vở". Giống như đồng nghiệp của mình, cô muốn quy định cho tôi một chế độ điều trị chống suy nhược và và chống loạn tâm thần. Nhưng cái tôi cần là một nhà phân tâm học có kinh nghiệm phân tích các giấc mộng, thể loại mà NSA không có.

Tôi gọi các bạn bè ở trường y của UVA và phát hiện ra Rachel Weiss, một chuyên gia phân tích ưu tú thuộc trường phái Jung của đất nước, đang ở trường y thuộc Đại học Duke, cách trụ sở Trinity chưa đến mười lăm dặm. Skow cố ngăn tôi gặp cô, nhưng sau cùng tôi bảo thẳng ông ta rằng chỉ có bắt tôi mới cấm được tôi, nhưng muốn thế, ông ta phải gọi cho tổng thống trước đã, tổng thống là người đã chỉ định tôi vào dự án này.

"Có chuyện rồi thì phải," Rachel nói. "Cái gì vậy? Ảo giác lại thay đổi à?"

Ảo giác, tôi cay đắng nghĩ. Không bao giờ cô ta gọi là những giấc mơ.

"Chúng mạnh lên phải không? Trở nên riêng tư hơn? Anh sợ phải không?"

"Andrew Fielding chết rồi," tôi bải hoải nói.

Rachel chớp mắt. "Andrew Fielding là ai?"

"Ông ấy là nhà vật lý."

Mắt cô mở to. "Nhà vật lý Andrew Fielding chết rồi?"

Điều này cho thấy tiếng tăm Fielding lớn đến cỡ nào, đến một bác sĩ y khoa không hiểu biết mấy về vật lý lượng tử cũng biết tên ông! Nhưng điều đó không làm tôi ngạc nhiên. Có những đứa bé sáu tuổi cũng nghe nói đến "Thỏ Trắng". Con người ấy đã làm sáng tỏ phần lớn những bí ẩn về vật chất tối trong vũ trụ, chỉ đứng thứ hai sau bạn ông là Stephen Hawking trong bầu trời vật lý thiên văn.

"Ông ấy chết do đột quỵ," tôi nói. "Hay người ta bảo thế."

"Ai bảo thế?"

"Các đồng sự."

"Anh làm việc với Andrew Fielding?"

"Phải. Từ hai năm nay"

Rachel lắc đầu sửng sốt. "Anh không tin ông ấy bị đột quỵ à?"

"Không."

"Anh đã khám ông ấy chưa?"

"Có khám qua loa. Ông ấy ngã gục trong văn phòng. Một bác sĩ khác đã phát hiện ra ông ấy trước khi ông ấy chết. Hắn ta nói rằng ông ấy bị liệt nửa người bên trái, và dãn đồng tử trái. Nhưng..."

"Sao?"

"Tôi không tin hắn ta. Fielding chết quá nhanh so với một cơn đột quỵ. Trong vòng bốn hoặc năm phút."

Rachel mím môi. "Chuyện đó đôi khi cũng xảy ra. Đặc biệt khi bị xuất huyết nghiêm trọng."

"Đúng, nhưng tương đối hiếm, và dãn đồng tử không phải là chuyện thường thấy." Điều này có thể đúng, nhưng không phải cái tôi đang nghĩ. Tôi đang nghĩ Rachel tuy là một bác sĩ tâm thần giỏi nhưng cũng chưa qua mười sáu năm thực hành chuyên khoa nội như tôi. Người ta thường có cảm giác chính xác về một số ca nào đấy, một số người nào đấy. Giác quan thứ sáu. Fielding không phải bệnh nhân của tôi, nhưng ông nói với tôi rất nhiều về sức khỏe của ông trong hai năm qua. Tình trạng xuất huyết ồ ạt không phải điều mà tôi cảm nhận. "Coi này, tôi không biết xác ông ấy để ở đâu, và tôi không nghĩ sẽ có mổ tử thi, bởi vậy..."

"Tại sao không mổ tử thi?" Rachel ngắt lời.

"Bởi vì tôi nghĩ ông ấy bị giết."

"Nhưng anh đã nói ông ấy chết trong phòng làm việc."

"Thì đúng thế."

"Anh cho rằng ông ấy bị giết ở nơi làm việc? Bạo lực công sở?"

Cô vẫn không hiểu. "Tôi muốn nói một vụ giết người có dự mưu. Tay giết người này chuyên nghiệp, có tính toán kỹ lưỡng."

"Nhưng... tại sao người ta lại giết Andrew Fielding? Ông ấy già rồi, đúng không?"

"Ông ấy sáu mươi ba." Nhớ lại Fielding nằm sõng soài trên sàn phòng làm việc, mồm há hốc, đôi mắt vô hồn nhìn trừng trừng lên trần nhà, bỗng nhiên tôi thấy bắt buộc phải nói với Rachel tất cả. Nhưng liếc nhìn ra cửa sổ, sự thôi thúc trong tôi bị nguội đi ngay. Có thể một microphone parabol đang chĩa vào cửa kính.

"Tôi không thể nói điều gì quá giới hạn. Rất tiếc. Cô nên về đi, Rachel."

Cô tiến hai bước về phía tôi, nét mặt quả quyết. "Tôi sẽ không đi đâu cả. Coi này, ở bang này nếu có bất kỳ ai chết mà không được bác sĩ giám sát thì đều phải khám nghiệm tử thi. Đặc biệt trong những trường hợp mờ ám. Luật pháp yêu cầu thế."

Tôi cười trước sự ngây thơ của cô. "Sẽ không có cuộc mổ tử thi nào đâu. Dù sao cũng không khám nghiệm công khai."

"David..."

"Tôi thực sự không thể nói nhiều hơn. Đáng lẽ ra tôi không nên nói nhiều như thế. Tôi chỉ muốn cô hiểu... chuyện đó là thật. "

"Tại sao anh không thể nói nhiều hơn?" Cô giơ bàn tay nhỏ nhắn duyên dáng lên. "Không, để tôi tự trả lời. Bởi vì cho tôi biết nhiều hơn thì sẽ đặt tôi vào thế nguy hiểm, đúng không?"

"Đúng."

Cô đảo mắt. "David, ngay từ đầu anh đã đưa ra yêu cầu khác thường về bí mật. Và tôi đã tuân theo. Tôi đã nói với đồng nghiệp rằng những giờ anh ở phòng khám của tôi là nghiên cứu cho cuốn sách thứ hai của anh, chứ không nói về những gì thật sự đã xảy ra."

"Và cô biết rằng tôi rất cảm kích chuyện đó. Nhưng nếu tôi đúng về chuyện Fielding, thì bất kỳ điều gì tôi nói ra bây giờ sẽ đe dọa tính mạng cô. Cô hiểu không?"

"Không, tôi không bao giờ hiểu được. Loại công việc gì mà lại có thể nguy hiểm đến thế?"

Tôi lắc đầu.

"Đây giống như một câu đùa dở tệ." Cô cười với vẻ kỳ lạ. " 'Tôi có thể nói với cô, nhưng sau đó tôi buộc phải giết cô.' Một suy nghĩ hoang tưởng điển hình."

"Cô có thật sự nghĩ rằng tôi bịa ra toàn bộ chuyện này không?"

Rachel thận trọng trả lời. "Tôi tin rằng anh tin mọi điều anh nói với tôi là thật."

"Như vậy, tôi vẫn còn bị ảo giác."

"Anh phải thừa nhận rằng, đôi lúc anh bị rối loạn ảo giác. Vài vụ gần đây là những ảo giác tôn giáo điển hình."

"Nhưng phần lớn thì không," tôi nhắc cô. "Tôi là người vô thần, điều đó có điển hình không?"

"Không, tôi thừa nhận điều này. Nhưng anh đã từ chối cho nghiên cứu kỹ chứng ngủ rũ của anh. Hay là chứng động kinh. Hay thậm chí cả xét nghiệm đường huyết cũng không."

Tôi đã được nhà tâm thần học hàng đầu thế giới nghiên cứu kỹ lưỡng. "Cái đó đang được điều tra ở nơi làm việc."

"Bởi Andrew Fielding. Ông ấy không phải là tiến sĩ y khoa, đúng không."

Tôi quyết định dấn thêm một bước. "Ravi Nara đoạt giải Nobel y học ấy ư?"

Cô há hốc miệng. "Ravi Nara. Nghe như trong giải thưởng Nobel y học?"

"Chính hắn," tôi nói giọng chán ghét.

"Anh làm việc với Ravi Nara?"

"Phải. Hắn là một thằng ngu. Chính hắn đã nói Fielding chết vì đột quỵ."

Rachel có vẻ bối rối. "David, tôi không biết nói gì. Có đúng là anh đang làm việc với những người nổi tiếng ấy?"

"Điều đó khó tin đến thế cơ à? Bản thân tôi cũng khá nổi tiếng đấy chứ."

"Vâng, nhưng... không cùng một kiểu. Lý do nào khiến những người nổi tiếng như thế phải làm việc chung với nhau? Họ ở trong những lĩnh vực hoàn toàn khác nhau."

"Họ như thế thật, cho đến cách đây hai năm."

"Ý anh muốn nói gì?"

"Cô trở về văn phòng đi, Rachel."

"Tôi đã hoãn cuộc hẹn với bệnh nhân cuối cùng để có thể đến đây."

"Hãy để tôi thanh toán cho chỗ thời gian cô bị mất."

Cô đỏ mặt lên. "Anh không cần phải xúc phạm tôi. Làm ơn hãy nói cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra. Tôi đã quá mệt vì nghe mãi về các ảo giác của anh rồi."

"Những giấc mơ."

"Gì cũng được. Chúng không đủ để tôi làm việc."

"Với mục đích của cô thì không. Nhưng tôi với cô có những mục tiêu khác nhau. Luôn luôn là như thế. Cô đang cố giải câu đố về David Tennant. Tôi đang cố giải câu đố về giấc mơ của tôi."

"Nhưng câu trả lời gắn chặt với vấn đề anh là ai! Các giấc mơ không độc lập với phần còn lại của bộ óc anh. Anh..."

Tiếng chuông điện thoại cắt ngang lời cô. Tôi đứng lên đi vào trong bếp để nghe, một cái gì rất lạ nhói lên trong ngực tôi. Người gọi điện có thể là tổng thống Hoa Kỳ.

"Bác sĩ Tennant đây," tôi nói theo thói quen từ nhiều năm.

"Bác sĩ David?" tiếng phụ nữ bấn loạn kêu lên bằng giọng châu Á. Đó là Lu Li, người vợ Trung Quốc của Fielding. Hay bà quả phụ...

"Tôi David đây, chị Lu Li. Tôi xin lỗi chưa kịp gọi cho chị." Tôi cố tìm lời lẽ thích hợp nhưng chỉ thấy những câu chữ khuôn sáo. "Tôi không sao bày tỏ hết nỗi đau đớn của tôi về việc Andrey qua đời..."

Một tràng tiếng Quảng Đông điểm thêm vài từ tiếng Anh ào ạt tuôn vào dây nói. Tôi không cần phải hiểu toàn bộ mới biết rằng mình đang nghe một phụ nữ mất chồng quẫn trí đang bên bờ vực suy sụp. Chỉ Chúa mới biết bọn an ninh của Trinity đã nói gì với Lu Li, và bà đã làm gì. Bà mới đến Mỹ được ba tháng nay, việc nhập cảnh của bà được Bộ Ngoại giao giải quyết chóng vánh sau khi có cú điện thoại thúc đẩy ra mặt từ Nhà Trắng gọi tới.

"Tôi biết đây là một ngày khủng khiếp," tôi nói bằng giọng an ủi. "Nhưng tôi mong chị bình tâm lại."

Lu Li hổn hển.

"Chị cố gắng hít thở thật sâu," tôi nói, cố tìm cách tiếp cận vấn đề. An toàn nhất là dùng cái vỏ bọc đoàn thể mà NSA đã một mực khẳng định ngay từ đầu. Theo như phần còn lại của các công ty thuộc Công viên Tam giác Nghiên cứu biết, Tập đoàn Quang học Argus đang phát triển các phần tử máy tính quang học được sử dụng trong dự án quốc phòng của chính phủ. Lu Li không thể biết nhiều hơn điều này.

"Công ty đã nói gì với chị?" tôi thận trọng hỏi.

"Andy chết rồi!" Lu Li khóc. "Họ bảo ông ấy chết vì chảy máu não, nhưng tôi không biết gì cả. Tôi không biết phải làm gì."

Tôi thấy lúc này nêu ra cái giả thiết về vụ giết người khiến bà vợ góa của Fielding kích động thêm thì chẳng ích lợi gì. "Chị Lu Li ạ, Andrew đã sáu mươi ba tuổi, và không phải đang trong tình trạng sức khỏe tốt nhất. Đột quỵ không phải là việc không thể xảy ra trong trường hợp này."

"Anh không hiểu, bác sĩ David! Andy đã cảnh báo tôi điều này."

Tay tôi nắm chặt ống nói. "Chị muốn nói gì?"

Một đợt thác lũ tiếng Quảng Đông nữa tràn qua dây nói, nhưng sau đó Lu Li chuyển sang thứ tiếng Anh ngắc ngứ. "Andy bảo tôi chuyện này có thể xảy ra. Ông ấy nói, 'Nếu xảy ra chuyện gì với tôi, hãy gọi bác sĩ David. Anh ấy biết phải làm gì.' "

Một cơn đau bóp nghẹt tim tôi. Fielding đã đặt niềm tin như thế vào tôi... "Chị muốn tôi làm gì?"

"Đến đây. Nói chuyện với tôi. Cho tôi biết tại sao chuyện này xảy đến với Andy."

Tôi lưỡng lự. NSA có thể đã nghe được cuộc trò chuyện này. Đến nhà Lu Li bây giờ chỉ gây thêm rủi ro cho bà ấy, cho cả tôi nữa. Nhưng tôi còn lựa chọn nào khác. Không thể phụ lòng bạn tôi. "Tôi sẽ đến trong vòng hai mươi phút nữa."

"Cám ơn, cám ơn David. Làm ơn, cám ơn."

Tôi gác máy, quay vào phòng khách. Rachel đang đứng ngay ngưỡng cửa bếp.

"Tôi phải đi đây," tôi bảo cô. "Tôi rất cảm kích vì cô đã đến tận đây thăm bệnh cho tôi. Tôi biết rằng cuộc thăm này nằm ngoài trách nhiệm."

"Tôi sẽ cùng đi với anh. Tôi đã nghe được vài điều, và tôi sẽ cùng đi với anh."

"Không thể được."

"Tại sao?"

"Cô không có lý do để đến đó. Cô không phải người trong cuộc."

Cô khoanh tay trước ngực. "Đối với tôi thì đây là chuyện nhỏ, được chưa? Nếu quả lời anh nói là đúng, tôi sẽ đi tìm bà góa phụ quẫn trí của Andrew Fielding, chỉ mất ít phút lái xe. Và bà ấy sẽ làm sáng tỏ những gì anh đã nói với tôi."

"Không cần thiết. Tôi không biết Andrew Fielding đã tiết lộ bí mật với bà ấy đến mức nào. Vả lại bà ấy hầu như không nói tiếng Anh."

"Andrew Fielding không dạy vợ mình nói tiếng Anh à?"

"Ông ấy nói giỏi tiếng Quảng. Cộng thêm tám thứ tiếng khác nữa. Còn bà ấy thì mới đến đây được vài tháng."

Rachel dùng lòng bàn tay vuốt phẳng nếp váy. "Anh càng phản đối tôi lại càng thấy anh biết rõ nếu tôi đến đó thì sẽ làm lộ tẩy câu chuyện của anh chỉ là ảo giác."

Cơn giận tràn qua người tôi. "Thôi tôi cũng đành liều để cô đến vậy. Nhưng cô chưa biết nó nguy hiểm như thế nào. Cô có thể chết. Đêm nay."

"Tôi không nghĩ thế. "

Tôi cầm lấy túi Ziploc có chứa chất bột trắng và chiếc phong bì FedEx đưa cho cô. "Cách đây ít phút tôi nhận được một bức thư do Fielding gửi. Chất bột này ở trong phong bì thư."

Cô nhún vai. "Trông nó giống như cát. Cái gì thế?"

"Tôi cũng chẳng biết. Tôi sợ rằng nó là bệnh than. Hoặc cái gì đó đã giết Fielding."

Cô cầm lấy chiếc túi từ tay tôi. Tôi nghĩ trước hết cô phải xem xét chất bột, nhưng cô lại đọc nhãn trên chiếc phong bì FedEx.

"Đây ghi người gửi là Lewis Caroll."

"Đó là mật hiệu. Fielding không thể liều đưa tên thật của mình vào hệ thống máy tính của FedEx. NSA sẽ chộp được ngay. Ông ấy lấy mật danh là Lewis Caroll bởi ông có biệt danh "Thỏ Trắng". Cô đã nghe nói rồi phải không?"

Trông Rachel như đang nghĩ lung về chuyện ấy. "Tôi không chắc đã nghe nói. Bức thư đâu rồi?"

Tôi bước ra cửa trước. "Trong cái túi nhựa trên đi văng ấy. Đừng có mở ra."

Cô cúi xuống đọc nhanh dòng chữ. "Không có chữ ký."

"Tất nhiên là không. Fielding không biết những ai có thể đọc nó. Ký hiệu con thỏ là chữ ký của ông ấy."

Cô nhìn tôi đầy ngờ vực. "Cho tôi đi theo, David. Nếu những gì tôi thấy đúng như điều anh nói, từ giờ trở đi tôi sẽ cẩn thận làm theo những lời cảnh báo của anh. Không còn nghi ngờ nữa."

"Thế chẳng khác nào quẳng cô xuống nước để chứng tỏ có cá mập dưới đó. Lúc cô thấy chúng thì đã quá muộn rồi."

"Trong các truyện tưởng tượng loại này bao giờ cũng thế."

Tôi đi lấy chùm chìa khóa trên quầy bếp. Rachel theo sát gót tôi. "Thôi được, cô muốn đến? Lên xe của cô và đi theo tôi."

Cô lắc đầu. "Không đâu. Anh sẽ bỏ rơi tôi ngay ngã tư đèn đỏ đầu tiên."

"Đồng nghiệp của cô hẳn phải nói với cô rằng đi cùng một bệnh nhân đang đuổi theo những tưởng tượng hoang đường là nguy hiểm chứ? Đặc biệt là bệnh nhân bị chứng ngủ rũ."

"Đồng nghiệp của tôi không biết anh. Còn về chứng ngủ rũ, anh còn chưa tự giết mình cơ mà."

Tôi lần tay xuống dưới đệm sofa, lấy khẩu súng ra, nhét vào cạp quần. "Cả cô cũng chưa biết tôi."

Cô quan sát cái báng súng, rồi nhìn thẳng vào mắt tôi. "Tôi nghĩ rằng tôi biết anh. Và tôi muốn giúp anh."

Nếu cô chỉ là bác sĩ tâm thần của tôi, chắc tôi đã để cô lại đó. Nhưng trong thời gian dài khám bệnh, chúng tôi đã nhận ra điều gì đó ở nhau, một tình cảm không nói nên lời mà hai con người từng trải qua mất mát to lớn chia sẻ với nhau. Dù coi tôi là kẻ có bệnh, cô vẫn chăm sóc tôi trong một thời gian dài theo cách khác hẳn mọi người. Đưa cô đi theo có lẽ là ích kỷ, nhưng sự thật đơn giản là, tôi không muốn đi một mình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3


Geli Bauer ngồi trong bóng tối của tòa nhà Trinity, tổ hợp tầng hầm sáng hiu hắt nhờ màn hình máy tính và màn hình theo dõi. Từ đây, những sợi dây điện li ti tỏa ra để theo dõi người và máy móc thiết bị của Trinity. Nhưng đây mới là trung tâm địa hạt của ả. Chỉ cần chạm nhẹ tay vào bàn phím máy tính là Geli có thể giao tiếp với siêu máy tính NSA ở căn cứ quân sự Meade và theo dõi các cuộc nói chuyện, sự kiện ở bên kia địa cầu. Mặc dầu trong ba mươi hai năm có mặt trên trái đất này ả đã nắm nhiều loại quyền lực, nhưng đến giờ ả mới cảm thấy kích động khi biết toàn bộ cái thế giới bị ràng buộc bởi điện tử có thể bị điều khiển chỉ bằng một ngón tay chạm nhẹ của mình.

Trên giấy tờ, Geli làm việc cho Siêu máy tính Godin, có trụ sở ở Mountain View, California. Nhưng chính cái quan hệ bán chính phủ của công ty ả với NSA đã nâng ả lên đến tầng bình lưu của quyền lực. Nếu ả cho rằng một tình hình nào đó là khẩn cấp, ả có thể ngăn chặn những đoàn tàu, đóng cửa các sân bay quốc tế, thay đổi nhiệm vụ của vệ tinh do thám, cho trực thăng vũ trang bay lên không phận nước Mỹ, hoặc lệnh cho chúng phát hỏa. Không một phụ nữ hiện đại nào khác nắm được những quyền lực như thế - xét trên mặt nào đó thẩm quyền của ả còn cạnh tranh với cả quyền lực của cha mình - và Geli không có ý định từ bỏ nó.

Trên màn hình phẳng trước mặt ả sáng lên nội dung cuộc nói chuyện giữa David Tennant với một quan chức nào đó không rõ của Nhà Trắng, được ghi ở nhà hàng Shoney chiều hôm ấy, nhưng Geli không còn nhìn đến nó nữa. Ả đang nói qua ống nghe với một nhân viên an ninh của mình, kẻ đang theo dõi ngôi nhà của Tennant.

"Tôi chỉ nghe được cuộc nói chuyện trong bếp," ả nói. "Nó không có ý nghĩa gì cả. Anh ta và bác sĩ Weiss chắc đang nói chuyện ở nơi khác."

"Có lẽ họ đang làm tình với nhau."

"Nếu thế chúng ta phải nghe thấy. Tôi trông Weiss cứ như một con ngố. Giống ấy lúc nào cũng im lặng."

"Cô muốn tôi làm gì?"

"Lọt vào trong kiểm tra mấy cái mic."

Geli gõ một phím trên bàn phím trước mặt, kết nối với một cựu chỉ huy Delta trẻ tuổi tên là Thomas Corelli hiện đang kiểm soát căn nhà của Andrew Fielding.

"Anh nghe thấy gì, Thomas?"

"Tiếng động nền bình thường. Ti vi. Tiếng ầm ầm, lách cách."

"Anh có nghe thấy đầu dây vợ Fielding nói không?"

"Có, chỉ có điều khó lòng mà hiểu thứ giọng Tàu khựa ấy."

"Anh ở ngoài tầm nhìn à?"

"Tôi đậu xe bên đường một vùng ngoại ô."

"Tennant sẽ đến chỗ các anh trong năm phút nữa. Có một phụ nữ đi cùng hắn, bác sĩ Rachel Weiss. Giữ liên lạc nhé."

Geli bấm thoát, rồi nói rành rọt "JPEG. Weiss, Rachel."

Một tấm ảnh kỹ thuật số của Rachel Weiss hiện lên trên màn hình. Đó là ảnh cận mặt, chụp bằng ống kính tele khi nữ bác sĩ tâm thần bước ra khỏi bệnh viện trường Đại học Duke. Rachel Weiss lớn hơn Geli ba tuổi, nhưng Geli nhận ra típ người này. Ả đã biết những cô gái như thế trong trường nội trú ở Thụy Sĩ. Những con người không ngừng nỗ lực. Đa số là Do Thái. Ả có thể biết Rachel là người Do Thái mà không cần nghe tên hay xem lý lịch. Ngay cả với bộ tóc khá mốt tung bay trong gió, trông Rachel vẫn như người đang vác cả thế giới trên vai. Cô ta có đôi mắt đen của người tuẫn đạo, những vết nhăn sớm hằn bên khóe miệng. Cô ta là một trong số các nhà phân tâm học theo trường phái Jung hàng đầu trên thế giới, và người ta thường không đạt đến trình độ ấy nếu như không bị ám bởi công việc.

Geli luôn phản đối việc dính líu với Weiss. Chính Skow cho phép điều này. Lý thuyết của Skow là già néo đứt dây. Nhưng Geli sẽ gặp rắc rối to khi có vấn đề vi phạm an ninh. Để đề phòng những sự cố này, Geli nhận bản ghi các cuộc thăm bệnh của Weiss với Tennant và ghi âm tất cả các cuộc điện thoại của bác sĩ Weiss. Mỗi tuần một lần, một trong các thuộc hạ của Geli lẻn vào phòng làm việc của Weiss, copy tất cả hồ sơ về Tennant để đảm bảo không có gì lọt khỏi tầm kiểm soát ngặt nghèo của Geli.

Đó là sự phiền nhiễu khi quan hệ với thường dân. Trước đây ở Alamos, với Dự án Manhattan cũng xảy ra đúng như thế. Trong cả hai trường hợp, chính phủ đã cố gắng kiểm soát một nhóm các nhà khoa học dân sự thiên tài, bọn họ vì dốt nát, ngoan cố và mơ mộng nên đã gây ra những mối đe dọa to lớn cho công việc của chính mình. Khi anh tuyển mộ những người thông minh nhất thế giới, anh sẽ có những kẻ lập dị.

Tennant là một kẻ lập dị. Giống như Fielding. Giống như Ravi Nara, nhà thần kinh học đoạt giải Nobel của dự án. Cả sáu yếu nhân của Trinity đã ký một bản thỏa thuận về đảm bảo an ninh và bảo mật tối đa nhưng họ vẫn tin rằng họ có thể làm bất kỳ điều gì mình muốn. Đối với họ, thế giới là một Công viên Disney. Và bọn bác sĩ là tệ nhất. Ngay cả trong quân đội, dường như điều lệnh cũng không áp dụng cho các bác sĩ quân y. Nhưng đêm nay Tennant sắp sửa đi một bước vượt quá xa lằn ranh, có thể khiến anh ta mất đầu.

Ống nghe của ả kêu "bíp" một tiếng. Ả mở mạch nối với người của mình ở nhà Tennant. "Gì thế?"

"Tôi vào trong rồi. Cô không thể tin được đâu. Có kẻ nào đã trám ma tít lên các lỗ đặt mic."

Geli thấy ngực mình nhói lên kỳ lạ. "Làm sao Tennant biết được chỗ đặt mic?"

"Ngoài máy quét ra thì không thể nào."

"Kính phóng đại?"

"Nếu hắn biết tìm kính. Nhưng như vậy mất hàng giờ, mà không chắc sẽ tìm ra hết."

Máy quét. Làm thế quái nào một bác sĩ nội khoa lại có máy scan? Bỗng ả hiểu ra. Fielding! "Tennant đã nhận gói bưu phẩm FedEx. Anh có thấy cái phong bì đâu không?"

"Không."

"Chắc hắn mang theo người. Anh còn thấy gì nữa không? Có gì lạ không?"

"Có một máy quay đặt trên giá ba chân."

********** thật. "Có băng trong đó không?"

"Để tôi xem. Không có băng."

"Còn gì nữa?"

"Một máy hút bụi ở sân sau."

Cái khỉ gì vậy? "Một máy hút bụi à. Lấy cái túi ra mang về đây. Chúng ta sẽ băm ra gửi sang căn cứ quân sự Meade phân tích. Còn gì nữa?"

"Hết rồi."

"Xem lại lần cuối, rồi chuồn."

Geli bấm thoát rồi nói, "Skow, nhà". Máy tính quay số dinh thự Raleigh của giám đốc điều hành Dự án Trinity.

"Geli?" Tiếng Skow. "Có chuyện gì thế?"

Bauer luôn luôn nghĩ Kennedy mỗi khi ả nghe giọng Skow. Skow là một quý tộc Boston, với bộ óc to gấp đôi những bộ óc bình thường của dòng giống gã. Đáng lẽ theo học khoa học nhân văn và luật như thông lệ trong giai cấp của mình, gã lại có bằng cao học về thiên văn và toán, và đã tám năm giữ cương vị phó giám đốc các dự án đặc biệt của NSA. Khu vực quan trọng nhất mà gã chịu trách nhiệm là Trung tâm Nghiên cứu Siêu máy tính tuyệt mật của cơ quan này. Trên lý thuyết, Skow là cấp trên của Geli, nhưng quan hệ giữa họ thường không mấy dễ chịu. Geli chịu trách nhiệm độc lập về an ninh của Trinity, nhưng không được phép giết người. Ả giữ quyền hành này vì Peter Godin - lấy cớ tình trạng kém an ninh trong các phòng thí nghiệm của chính phủ - đã yêu cầu được chọn một đội ngũ riêng để bảo vệ Trinity.

Ông già tìm thấy ả đúng lúc ả vừa xuất ngũ. Geli toàn tâm toàn ý tin tưởng vào nền văn hóa binh nghiệp, nhưng ả không thể chịu đựng lâu hơn nữa thói quan liêu vừa nhỏ nhen thủ cựu vừa ngang ngược vênh váo của quân đội, và cái tiêu chuẩn chất lượng vô cùng tận đối với tân binh. Khi Godin xuất hiện, lão cho ả công việc mà cô ả mơ ước cả đời nhưng không dám tin là có thật trên đời này.

Ả nhận 700.000 đô la một năm để làm trưởng Ban An ninh cho các dự án đặc biệt của Siêu máy tính Godin. Khoản tiền lương kếch xù, nhưng Godin là tỷ phú, lão có thể trả được. Điều kiện làm việc chỉ có một. Ả phải tuân theo mọi mệnh lệnh của lão, không được hỏi lại và không được quan tâm đến tính hợp pháp. Ả không được tiết lộ bất kỳ thông tin nào về nhân viên, cơ quan, công việc của mình. Nếu làm thế, ả sẽ chết. Geli có quyền thuê nhân viên cho riêng mình, nhưng họ cũng phải chấp nhận những điều kiện và sự trừng phạt tương tự, và ả phải thi hành án phạt đó. Ả lấy làm lạ rằng một người tiếng tăm như Godin mà dám đặt ra những điều khoản như thế. Rồi ả biết Godin tìm ra mình qua cha ả. Điều đó nói lên rất nhiều. Geli hầu như không nói chuyện với cha hàng năm trời, nhưng ở cương vị của mình, ông biết rõ ả. Theo cách Godin nhìn ả, có thể nói lão cũng biết ả chút ít. Có lẽ những câu chuyện ở Iraq đã lộ ra sau Bão táp Sa mạc. Godin cần một chuyên gia an ninh, nhưng lão cũng cần một sát thủ. Geli là hai trong một.

John Skow thì không. Không giống như Godin, hồi trẻ từng là lính thủy đánh bộ ở Triều Tiên, Skow chỉ là lính trên lý thuyết. Con người của NSA này bàn tay chưa bao giờ vấy máu, và bên cạnh Geli, đôi khi gã lóng ngóng như gà gặp cáo.

"Geli?" Skow nhắc lại. "Cô có đấy không?"

"Bác sĩ Weiss đến nhà Tennant, " ả nói vào ống nghe.

"Tại sao?"

"Tôi không biết. Chúng tôi hầu như không nghe được họ nói chuyện gì. Bây giờ họ đang trên đường đến nhà Fielding. Lu Li Fielding gọi cho anh ta. Hoảng loạn. "

Skow im lặng một lúc. "Đến để an ủi bà vợ góa đang đau buồn chăng?"

"Tôi chắc đó sẽ là câu chuyện của họ." Ả muốn đánh giá mức độ lo lắng của Skow bằng cách bồi thêm. "Ta để cho họ vào chứ?"

"Tất nhiên. Cô có thể nghe được mọi chuyện họ nói, đúng không?"

"Có thể không. Có vấn đề với những con rệp ở nhà Tennant."

"Vấn đề gì vậy?"

"Tennant trát ma tít lên các micro. Ở trong nhà lại còn có máy quay đặt trên giá ba chân. Không có băng bên trong." Ả để Skow ngấm thông tin. "Hoặc là hắn muốn nói gì đó vào băng mà không muốn chúng ta nghe, hoặc là hắn muốn nói chuyện với bác sĩ Weiss mà không cho chúng ta nghe. Khả năng nào cũng tệ hại."

Ả nghe tiếng Skow thở một lúc.

"Thôi được," cuối cùng gã nói. "Chúng ta sẽ ổn thôi."

"Chắc ông biết điều gì mà tôi không biết, thưa ngài."

Skow tặc lưỡi với từ "ngài" ả nói bằng giọng coi thường. Con người của NSA này khá lì theo cách riêng của gã. Gã có sự lạnh lùng vô cảm của trí thông minh toán học.

"Đặc quyền của lãnh đạo mà, Geli. Sáng nay cô làm ăn giỏi đấy. Tôi rất ngạc nhiên."

Geli nháy sang hình thi thể của Fielding. Việc kết liễu diễn ra khá êm, nhưng nước cờ lại khá ngu xuẩn. Lẽ ra phải khử luôn cả Tennant. Ả có thể dễ dàng điều hai người lên cùng một chiếc xe, và sau đó chỉ là chuyện... dọn dẹp đơn giản. Một vụ tai nạn ô tô. Và Dự án không lâm vào cảnh hiểm nghèo như hiện giờ. "Liệu có thật Tennant đã nói chuyện với tổng thống không, thưa ngài?"

"Tôi không biết. Bởi vậy cô nên giữ khoảng cách. Chỉ giám soát tình hình thôi, đừng đi xa hơn."

"Anh ta cũng đã nhận một bưu phẩm do FedEx mang đến. Một bức thư. Dù là gì thì anh ta cũng đang mang nó theo mình. Chúng ta cần xem bức thư ấy."

"Nếu cô có thể đọc nó mà Tennant không biết thì tốt. Nếu không được thì liên hệ với FedEx xem ai gửi?"

"Chúng tôi đang làm thế."

"Tốt. Miễn là đừng..."

Geli nghe tiếng vợ Skow gọi tên gã.

"Nhớ báo cho tôi," nói rồi gã cúp máy.

Geli nhắm mắt và bắt đầu thở sâu. Ả đã đề nghị Godin cho khử Tennant cùng với Fielding, nhưng lão phản đối. Phải, Godin thừa nhận, Tennant đã phá luật và cùng Fielding dành nhiều thời gian bên ngoài nơi làm việc. Phải, Tennant đã ủng hộ những cố gắng trì hoãn dự án của Fielding. Và chính quan hệ của Tennant với tổng thống đã làm cho việc trì hoãn trở thành khả thi. Nhưng không có chứng cớ về việc Tennant tham gia chiến dịch phá hoại dự án của ông người Anh, hay được chia sẻ những thông tin nguy hiểm mà Fielding có. Geli không biết những thông tin đó là gì, ả không đánh giá được mức độ nguy hiểm nếu để Tennant sống. Ả đã nhắc Godin câu châm ngôn "Giết nhầm hơn bỏ sót". Nhưng Godin không lay chuyển. Rồi lão sẽ phải chấp nhận. Không lâu nữa đâu.

Geli nói "JPEG, Fielding, Lu Li". Hình ảnh một phụ nữ Á Đông tóc đen xuất hiện trên màn hình. Lu Li, tên khai sinh là Cheng, lớn lên ở tỉnh Quảng Đông, Trung cộng. Bốn mươi tuổi. Có bằng cao học vật lý ứng dụng.

"Lại một sai lầm nữa," Geli lẩm bẩm. Lu Li Cheng không có công việc gì trong biên giới Mỹ, lại càng không có việc gì trong nội bộ dự án khoa học nhạy cảm bậc nhất nước này. Geli chạm tay vào phím kết nối ả với Thomas Corelli trong chiếc xe do thám đậu bên ngoài nhà Fielding. "Có thấy gì lạ ở đó không?"

"Không."

"Khám xét xe của Tennant khi hắn đến có dễ không?"

"Tùy thuộc vào chỗ hắn đậu."

"Nếu anh thấy có phong bì FedEx trong xe, lấy ra đọc, rồi bỏ lại chỗ cũ. Và tôi muốn xem băng video quay khi hắn đến."

"Được thôi. Cô muốn tìm gì?"

"Chưa biết. Cứ làm đi."

Geli lấy từ ngăn bàn ra một gói Gauloises, rút một điếu, cấu đầu lọc vứt đi. Trong ánh lửa que diêm, ả thấy bóng mình trên màn hình máy tính. Tóc vàng hoe lòa xòa, gò má nhô cao, mắt xanh màu thép, vết sẹo bỏng quái ác. Geli coi vết sẹo xấu xí hằn trên má trái ả như một bộ phận của khuôn mặt không kém gì mắt hay môi. Đã có lần một bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ đề nghị tẩy miễn phí dấu vết phai màu ấy, nhưng Geli khước từ. Những vết sẹo có một mục đích: nhắc nhở người mang chúng về các vết thương. Vết thương gây ra cái sẹo, ả không bao giờ cho phép mình quên.

Ả nhấn phím chuyển tín hiệu từ các microphone trong nhà Fielding vào ống nghe. Xong ả rít một hơi thuốc thật sâu, ngả người trên ghế, thở một luồng khói mù mịt lên trần nhà. Geli Bauer ghét nhiều thứ, nhưng ả ghét nhất là chờ đợi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4


Chúng tôi lặng lẽ lái xe đi, chiếc Acura lẹ làng lướt qua hoàng hôn. Giờ này buổi tối, chạy xe từ nhà tôi ở ngoại ô đến nhà Fielding gần trường Đại học Bắc Carolina trên đồi Chapel khá nhanh chóng. Rachel không hiểu yêu cầu phải im lặng của tôi, và tôi cũng không hy vọng cô hiểu. Khi tôi bắt đầu dính líu với Trinity, mức độ bài ngoại của chính sách an ninh làm tôi kinh ngạc. Các nhà khoa học khác, trong đó có Fielding, trước đây từng làm việc trong các dự án liên quan đến quốc phòng, đã chấp nhận tình trạng cưỡng chế an ninh ấy như một điều phiền toái cần thiết. Nhưng dần dần, ngay cả những người kỳ cựu cũng than vãn rằng chúng tôi đang phải chịu đựng những điều chưa có tiền lệ. Mạng lưới theo dõi tỏa ra khắp nơi và vươn cả ra ngoài những khu thí nghiệm. Ai phản đối đều bị nhắc nhở cộc lốc rằng các nhà khoa học của Dự án Manhattan còn buộc phải sống giữa hàng rào dây thép gai để bảo đảm an toàn cho "thiết bị". Chút tự do mà chúng tôi được hưởng có cái giá của nó, đường dây điện thoại riêng cũng thế.

Fielding không chịu trả giá. Các trắc nghiệm phát hiện nói dối "ngẫu nhiên" được thực hiện gần như hằng tuần, và ngay cả nhà chúng tôi cũng bị theo dõi. Hôm nay, trước khi có thể bắt đầu quay băng video, tôi đã phải bịt các lỗ kim giấu những microphone nhỏ li ti trên tường. Fielding đã phát hiện ra chúng nhờ cái máy quét đặc biệt ông lắp trong nhà và dùng đinh ghim đánh dấu những chỗ đặt rệp. Ông có vài trò tiêu khiển nhằm tránh sự nhòm ngó của bọn do thám Trinity. Ông nhắc tôi không được tự do nói bí mật riêng trong xe. Ô tô là chỗ rất dễ đặt rệp, ngay cả xe sạch cũng có thể bị nghe trộm từ xa bằng microphone công nghệ cao đặc biệt. Trò chơi mèo vờn chuột của ông người Anh này với NSA làm tôi lắm phen thích thú, nhưng ai cũng biết kẻ nào sẽ giành phần thắng cuối cùng.

Tôi liếc nhìn Rachel. Được ngồi cùng xe với cô kể cũng là chuyện lạ lùng. Trong vòng năm năm từ ngày vợ tôi mất, tôi có quan hệ với hai phụ nữ, đều trước khi tôi làm việc với Trinity. Lần này với Rachel không phải "quan hệ" theo nghĩa lãng mạn. Trong ba tháng qua, cứ mỗi tuần hai giờ, tôi ngồi trong phòng cùng cô thảo luận về khía cạnh rối ren nhất đời tôi: những giấc mơ. Qua những câu hỏi và giải thích của cô, có lẽ cô đã phát hiện ra bản thân mình nhiều hơn là hiểu biết về tôi - song đến giờ còn rất nhiều điều ẩn giấu.

Cô vốn từ viện Giáo hội Trưởng lão New York xuống để nhận vị trí trưởng khoa ở Duke, ở đây cô dạy cho một nhóm nhỏ các bác sĩ nội trú khoa tâm thần về phương pháp phân tích theo trường phái Jung, một nghệ thuật đang suy tàn trong ngành bệnh học tâm thần dược lý hiện đại. Cô cũng có những bệnh nhân riêng, và tiến hành nghiên cứu bệnh lý tâm thần. Sau hai năm làm việc gần như cô độc ở Trinity, tôi thấy kích thích khi tiếp xúc với bất kỳ phụ nữ thông minh nào. Nhưng Rachel đâu phải chỉ có trí thông minh. Ngồi trong chiếc ghế bọc da, trang phục hoàn hảo, mái tóc đen tết kiểu Pháp, cô tập trung nhìn tôi không chớp mắt, như muốn thâm nhập vào chiều sâu tâm trí tôi, nơi mà chính tôi cũng chưa dò tới. Đôi khi gương mặt cô, đặc biệt là đôi mắt, là cả một không gian đối với tôi. Đôi mắt ấy là lãnh địa mà tôi chiếm lĩnh, là cử tọa cho tôi giãi bày, là phán quyết mà tôi chờ đợi. Nhưng đôi mắt ấy rất chậm đưa ra phán quyết, ít nhất trong thời gian đầu. Cô hỏi tôi về những hình ảnh nào đó, rồi hỏi tiếp về mấy câu trả lời tôi vừa đưa ra. Đôi khi cô giải thích về các giấc mơ của tôi, nhưng hoàn toàn không giống các bác sĩ tâm thần của NSA mà tôi biết, cô không nói chắc như đinh đóng cột. Dường như cô tìm kiếm ý nghĩa cùng tôi, khơi gợi để tôi tự mình hiểu ra ý nghĩa của các hình tượng.

"David, anh không cần phải lái lòng vòng suốt đêm. Tôi sẽ không phản anh đâu."

Đúng, tôi nghĩ. Ảo giác về một âm mưu bí mật của chính phủ thì có gì sai cơ chứ? "Hãy kiên nhẫn," tôi bảo cô. "Không còn xa nữa đâu."

Cô nhìn tôi trong bóng tối mờ mờ, ánh mắt hoài nghi.

"Khoản tiền thưởng của một giải Nobel là bao nhiêu?"

"Khoảng một triệu đô. Fielding nhận ít hơn Ravi Nara là vì..." Tôi tắt ngấm khi nhận thấy cô chỉ muốn thử thêm lần nữa, cố làm tiêu tan cái "ảo ảnh" của tôi.

Tôi tập trung nhìn đường, trong bụng chắc mẩm chỉ vài phút nữa cô sẽ phải thừa nhận chứng hoang tưởng của tôi ít nhất cũng có phần nào cơ sở thực tế. Lúc đó cô sẽ nghĩ sao nhỉ? Liệu cô có sẵn lòng nghe tôi giải thích về những giấc mơ của mình, dù chúng có vẻ vô lý thế nào chăng nữa?

Ngay từ buổi thăm khám đầu tiên, Rachen đã khăng khăng rằng cô không thể lý giải đúng các "ảo giác" nếu cô không được biết những chi tiết bí mật trong quá khứ và công việc của tôi. Nhưng tôi không thể tiết lộ nhiều. Fielding đã cảnh báo tôi rằng với NSA, bất cứ ai biết bất kỳ điều gì về Trinity hoặc các yếu nhân của nó, sẽ bị coi là mối nguy hiểm tiềm tàng. Ngoài mối lo ngại đó ra, tôi thấy những hình ảnh tôi mơ trong thời gian bị chứng ngủ rũ không có liên hệ gì với quá khứ của mình. Những hình ảnh ấy dường như đến từ bên ngoài tâm trí tôi. Không phải theo nghĩa nghe thấy ảo thanh, dấu hiệu chắc chắn của bệnh tâm thần phân liệt, mà là theo cái nghĩa xưa nay vẫn hiểu về hình ảnh thị giác. Những hình ảnh hé lộ thiên cơ như các nhà tiên tri thường mô tả. Đối với một người từ bé chưa hề tin vào Chúa, đó là một tình trạng nhiễu loạn kỳ quái.

Những giấc mơ của tôi không xuất hiện ngay từ cơn ngủ rũ đầu tiên. Hồi đầu tôi thật sự bất tỉnh. Có những lỗ hổng trong đời. Những khoảng trống thời gian mất đi vĩnh viễn. Tôi đang ngồi làm việc trước máy tính văn phòng thì bỗng cảm thấy người rung bần bật. Ban đầu thì toàn thân, sau đó cơn rung nhanh chóng tập trung vào răng. Đó là triệu chứng thông thường của chứng ngủ rũ. Tôi bắt đầu cảm thấy buồn ngủ rũ rượi, rồi tự nhiên giật mình choàng tỉnh trên ghế, ngó đồng hồ đã bốn mươi phút trôi qua. Tôi thấy giống như bị gây mê. Không còn nhớ gì nữa cả.

Nhưng rồi giấc mơ đến sau một tuần bất tỉnh. Những giấc mơ đầu tiên luôn luôn giống nhau, chỉ là ác mộng lặp đi lặp lại làm tôi sợ hơn cả những lần mất ý thức. Tôi nhớ lần đầu tiên khi nghe tôi kể tỉ mỉ hiện tượng này, Rachel đã ngạc nhiên thế nào, cô cho là mình hiểu hình ảnh ấy với vẻ chắc chắn khác thường ra sao. Tôi ngồi thụt sâu trong ghế bành lót đệm, đối diện bàn viết của cô, nhắm mắt lại và bắt đầu kể về những hình ảnh mà tôi thấy rất thường xuyên.

Tôi đang ngồi trong một căn phòng tối. Không có chút ánh sáng nào rọi vào. Không một âm thanh nào vọng đến. Tôi có thể lấy tay sờ mắt và tai tôi, nhưng tôi không nhìn không nghe thấy gì. Tôi không nhớ gì. Tôi không có quá khứ. Và bởi vì tôi không nhìn không nghe thấy gì, tôi không có cả hiện tại. Tôi chỉ tồn tại. Đó là thực tại của tôi. TÔI CHỈ TỒN TẠI. Tôi cảm thấy mình như một nạn nhân đột quỵ bị cầm tù trong cơ thể và bộ não không còn hoạt động. Tôi có thể suy nghĩ, nhưng không phải về một hình ảnh nhất định. Tôi cảm nhiều hơn nghĩ. Và điều tôi cảm thấy là như thế này: Tôi là ai? Tôi từ đâu đến? Tại sao tôi có một mình? Có phải lúc nào tôi cũng ở đây không? Tôi có ở đây mãi không? Những ý nghĩ ấy không chỉ chất đầy tâm trí tôi. Nó chính là tâm trí tôi. Không có thời gian như chúng ta đã biết, chỉ có những câu hỏi chuyển từ câu này sang câu khác. Cuối cùng, các câu hỏi hòa tan vào một câu thần chú: Tôi từ đâu đến? Tôi từ đâu đến? Tôi là một người bị tổn thương não ngồi trong căn phòng vĩnh cửu, đặt một câu hỏi về bóng tối."

"Anh thấy không?" Rachel nói. "Anh chưa hoàn toàn thoát khỏi sự ám ảnh về cái chết của vợ con anh. Do mất họ mà anh bị cắt lìa khỏi thế giới này, và khỏi bản thân anh. Anh bị tổn hại rồi. Anh bị thương tật rồi. Cái người bước đi trong thế giới ánh sáng kia là một hành động. Con người thật của David Tennant ngồi trong căn phòng tối, không có khả năng cảm và nghĩ. Không ai có thể cảm nhận được nỗi khổ hay sự đau đớn của anh ta."

"Không phải thế đâu," tôi nói. "Tôi đã có một bước ngoặt về tâm thần, lạy Chúa. Không phải nỗi đau chưa được hóa giải."

Cô thở dài, lắc đầu. "Các bác sĩ luôn tạo ra những con bệnh tệ nhất."

Một tuần sau, tôi bảo cô rằng giấc mơ đã thay đổi.

"Bây giờ trong phòng có thứ gì đó hiện diện cùng tôi. "

"Đó là cái gì?"

"Tôi không biết. Tôi không trông thấy nó."

"Nhưng anh biết nó ở đấy?"

"Phải."

"Người à?"

"Không. Nó rất nhỏ. Một quả cầu, trôi trong không gian. Một quả banh chơi gôn màu đen trôi nổi trong bóng tối."

"Sao anh biết nó ở đấy?"

"Nó giống như thứ bóng tối đậm đặc hơn ở trung tâm bóng tối. Và nó kéo tôi xuống."

"Kéo như thế nào?"

"Tôi không biết. Giống như trọng lực ấy. Trọng lực xúc cảm. Nhưng tôi biết điều này. Nó biết câu trả lời cho vấn đề của tôi. Nó biết tôi là ai và tại sao tôi ngồi lì trong căn phòng tối ấy."

Và rồi nó đi, thay hình đổi dạng chút ít, cho đến khi giấc mơ lại thay đổi lần nữa. Thay đổi sâu sắc. Một đêm, trong lúc đang ngồi nhà đọc sách, tôi "lịm đi" theo cách thông thường. Tôi thấy mình vẫn ngồi trong căn phòng tối quen thuộc, đặt câu hỏi về quả cầu đen. Rồi không hề báo trước, quả cầu nổ chói lòa. Sau một hồi ngồi trong bóng tối thì một que diêm lóe lên cũng đủ giống như vụ nổ, đằng này đâu phải que diêm. Nó nổ bung ra mọi hướng với cường độ của một quả bom khinh khí. Chỉ có điều, nó không tự cuộn mình vào trong mà bùng ra thành một đám mây hình nấm. Nó nở ra với sức mạnh và tốc độ vô hạn, và tôi có cảm giác kinh khủng là bị nó nuốt chửng, nuốt chửng chứ không nghiền nát. Khi ánh sáng lóa mắt nuốt trọn bóng tối, vốn là chính tôi, không hiểu sao tôi biết được chuyện này có thể tiếp diễn hàng tỉ năm nữa mà vẫn không phá hủy tôi hoàn toàn. Thế mà tôi vẫn sợ.

Rachel không hiểu những giấc mơ ấy. Trong ba tuần kế tiếp, cô chỉ lắng nghe tôi miêu tả sự ra đời của các vì sao và dải Ngân hà, sự sống và cái chết của chúng, những lỗ đen, siêu tân tinh, những tinh vân lấp lóe như kim cương bột rắc trên nền trời tối đen, các hành tinh sinh ra và mất đi. Tôi như nhìn suốt từ đầu này đến đầu kia vũ trụ, thấy tất cả các thiên thể cùng lúc dãn ra về phía tôi với tốc độ ánh sáng.

"Trước đây anh từng thấy những hình ảnh như vậy chưa?" cô hỏi tôi. "Khi tỉnh thức?"

"Làm sao tôi có thể thế được?"

"Anh đã xem các bức ảnh do kính thiên văn vũ trụ Hubble chụp chưa?"

"Tất nhiên rồi."

"Chúng rất giống những gì anh vừa miêu tả."

Cảm giác thất vọng trườn vào giọng nói của tôi. "Cô không hiểu. Tôi không chỉ trông thấy chúng. Tôi cảm thấy chúng. Giống như tôi thường cảm thấy khi nhìn trẻ con, những trận đánh, hay các cặp tình nhân với nhau. Nó không chỉ là hình ảnh thị giác."

"Tiếp tục đi."

Đó là câu cửa miệng của cô. Tôi nhắm mắt lại và chìm đắm trong giấc mơ gần đây nhất.

"Tôi đang ngắm nhìn một hành tinh. Bay lượn phía trên nó. Có những đám mây, nhưng không phải như chúng ta thường thấy. Chúng xanh tựa axit, bị méo mó đi vì giông bão. Bây giờ tôi đang lặn, lặn qua mây, như hình ảnh vệ tinh phóng to sát mặt đất. Phía dưới có đại dương, nhưng đại dương không phải màu xanh. Nó màu đỏ, và đang sôi. Tôi nhào xuyên qua mặt đại dương, lặn sâu trong màu đỏ. Tôi đang tìm một thứ, nhưng nó không có đấy. Đại dương trống rỗng."

"Tôi nảy ra rất nhiều ý trong lúc anh miêu tả," Rachel bảo. "Trước hết là những hình ảnh màu. Màu đỏ có lẽ rất quan trọng. Đại dương rỗng là biểu tượng của sự hoang vu, nó thể hiện tâm trạng đau buồn của anh." Cô ngập ngừng một lát. "Anh tìm cái gì dưới đại dương?"

"Tôi không biết."

"Tôi nghĩ anh biết."

"Tôi không tìm Karen và Zooey."

"David." Một thoáng bực bội trong giọng nói của cô. "Nếu anh không nghĩ những hình ảnh ấy có tính tượng trưng thì anh đến đây làm gì?"

Tôi mở to mắt nhìn khuôn mặt hết sức điềm tĩnh của cô. Bức màn chuyên môn đã ngăn cô thấu cảm, nhưng tôi nhìn thấy sự thật. Cô đang phóng chiếu cảm giác mất mát gia đình của chính cô qua tôi.

"Tôi đến đây vì tôi không tìm thấy câu trả lời cho bản thân mình," tôi nói. "Bởi vì tôi đã đọc cả một núi sách mà cũng không giải quyết được gì."

Cô nghiêm trang gật đầu. "Làm sao anh nhớ được những ảo giác đến từng chi tiết như thế? Anh có ghi chúng lại sau khi thức dậy không?"

"Không, chúng không giống những giấc mơ, là cái ta càng gắng nhớ lại bao nhiêu thì càng khó nhớ bấy nhiêu. Đằng này lại không thể tẩy đi được. Đó có phải là đặc điểm của giấc mơ trong cơn ngủ rũ không?"

"Phải," cô dịu dàng nói. "Thôi được. Karen và Zooey đã chết đuối. Tay Karen chắc đã chảy máu khá nhiều, và cả đầu nữa khi chị ấy đập đầu xuống tay lái. Có lẽ vì vậy mà nước có màu đỏ." Rachel ngửa ghế ra và nhìn lên trần nhà. "Trong những ảo ảnh này không có người, nhưng anh đã trải qua phản ứng xúc cảm cực mạnh. Anh có nhắc đến cuộc vật lộn. Anh đã bao giờ phải vật lộn chưa?"

"Chưa."

"Nhưng anh biết rằng Karen đã phải chiến đấu để cứu Zooey. Chị ấy vật lộn để giành lấy sự sống. Anh đã kể với tôi thế."

Tôi nhắm mắt lại. Tôi không muốn nghĩ về chi tiết ấy, nhưng đôi khi tôi không xua đuổi được ý nghĩ. Khi xe của Karen lao xuống đầm nước, xe lật ngửa và ngập trong gần ba mươi xen ti mét bùn nhão. Cửa sổ điện bị chập mạch, nên các cửa không thể nào mở ra được. Xương tay chân của Karen dập nát chứng tỏ nàng đã phải chiến đấu điên cuồng để đập vỡ của kính. Nàng là một thiếu phụ mảnh mai, không khỏe mạnh lắm, nhưng nàng đã không bỏ cuộc. Một nhân viên cứu hộ có mặt ở hiện trường tai nạn kể với tôi rằng khi cuối cùng chiếc xe được trục vớt lên khỏi bùn nhão, và cửa xe mở ra, anh ta thấy nàng ngồi ở băng sau, một tay ôm chặt bé Zooey, tay kia nổi bập bềnh, bàn tay đã bị gãy và các đốt ngón tay giập nát.

Tình huống xảy ra sự cố đã rõ. Khi nước vào đầy xe, Karen vật lộn để đập vỡ cửa kính, Zooey thì quá hoảng sợ. Ai trong cảnh ấy cũng thế, huống hồ một đứa bé. Trong hoàn cảnh ấy, nhiều bà mẹ khác hẳn chỉ lo vật lộn trong khi con mình khóc thét vì sợ hãi. Một số khác có lẽ đã quay sang dỗ dành đứa bé, và cầu nguyện cho có người tới cứu. Nhưng Karen đã ghì chặt bé Zooey vào lòng, hứa với nó mọi việc sẽ ổn thôi, rồi với đôi chân của mình, nàng đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để thoát khỏi cỗ quan tài chìm trong nước ấy. Việc nàng vẫn ôm chặt bé Zooey trong khi chịu nỗi đau đớn cực độ vì bị ngạt cho thấy ở nàng tình yêu mạnh hơn nỗi sợ, và biết được điều đó khiến lòng tôi nguôi ngoai đôi chút.

"Những đám mây màu xanh và đại dương màu đỏ chẳng liên hệ gì với tai nạn ô tô cách đây năm năm," tôi nói.

"Không ư? Vậy tôi nghĩ anh nên kể cho tôi nghe thêm về thời thơ ấu của mình."

"Nó không liên quan."

"Anh làm sao biết được," Rachel khăng khăng.

"Tôi biết."

"Vậy thì hãy kể cho tôi về công việc của anh."

"Tôi dạy môn y đức."

"Anh đã xin nghỉ hơn một năm nay rồi."

"Do đâu mà cô biết được?"

"Tôi nghe nói ở bệnh viện."

"Ai nói?"

"Tôi không nhớ. Tôi vô tình nghe được. Anh rất nổi tiếng trong ngành y. Các bác sĩ ở Duke nói đến cuốn sách của anh luôn. Cả ở viện Giáo hội Trưởng lão New York cũng thế. Vậy đúng không? Có đúng là anh đã xin nghỉ dạy ở trường y không?"

"Chúng ta chỉ đề cập đến những giấc mơ thôi được không? Như vậy an toàn hơn cho cả hai."

"An toàn hơn như thế nào?"

Tôi không trả lời.

Trong cuộc hẹn thăm khám lần sau, các giấc mơ lại thay đổi.

"Tôi đang lơ lửng giữa vũ trụ, nhìn về Trái đất. Đó là vật đẹp nhất tôi từng thấy. Sắc xanh lam và lục với mây trắng cuồn cuộn. Một vật thể sống, một hệ thống khép kín tuyệt hảo. Tôi lặn qua những dải mây, con thiên nga trăm dặm lặn vào đại dương xanh thẳm. Trái đất bừng bừng sức sống. Những phân tử khổng lồ, thể đa bào, sứa, mực ống, rắn biển, cá mập. Mặt đất cũng kín đặc. Rừng rậm bao phủ. Bản giao hưởng của màu xanh cây lá. Trên bờ, cá nhảy lên khỏi sóng và mọc chân. Những con cua kỳ lạ chạy hối hả trên cát và biến thành những sinh vật khác tôi chưa từng thấy. Thời gian trôi vun vút, giống như quá trình tiến hóa trên máy chiếu diễn ra nhanh gấp triệu lần so với tự nhiên. Khủng long biến thành chim, loài gặm nhấm thành động vật có vú, linh trưởng rụng hết lông. Các tảng băng phủ kín rừng già rồi tan ra thành xavan. Hai mươi nghìn năm trôi qua trong một hơi thở..."

"Chầm chậm thôi," Rachel khuyên. "Anh đang xúc động đấy."

"Làm thế nào tôi lại thấy tất cả những cảnh này?"

"Anh biết câu trả lời mà. Trí óc anh tạo ra bất kỳ hình ảnh nào có thể tưởng tượng ra, rồi coi nó là sự thật. Bức ảnh trái đất nhìn từ vũ trụ là một biểu tượng của văn hóa hiện đại. Nó làm người xem xúc động, và anh hẳn đã nhìn thấy nó năm mươi lần kể từ thời thơ ấu."

"Trí óc tôi có thể tạo ra những sinh vật mà tôi chưa từng thấy hay sao? Những con vật trông rất thật."

"Tất nhiên. Anh đã xem tranh của Hieronymus Bosch. Và tôi đã thấy trên ti vi những hình ảnh tốc độ cao mà anh vừa mô tả. Trước đây, tạp chí Life đã làm điều tương tự trong các ấn phẩm. 'Sự Tiến hóa của loài người' chẳng hạn. Vấn đề là, tại sao anh thấy những cảnh này?"

"Đó là lý do tôi đến đây để tìm hiểu."

"Anh có thấy mình trong những cảnh siêu thực này không?"

"Không."

"Anh cảm thấy thế nào?"

"Tôi vẫn đang tìm kiếm một thứ."

"Cái gì vậy?"

"Tôi không biết. Tôi giống như một con chim đang nhìn bao quát mặt đất để tìm kiếm... một thứ."

"Trong mơ anh thấy mình là chim à?"

Giọng cô có vẻ hy vọng. Chim phải có ý nghĩa gì đó trong việc giải đoán giấc mơ.

"Không."

"Vậy anh thấy mình là gì?"

"Không gì cả, thật đấy. Một cặp mắt."

"Một người quan sát?"

"Phải. Một người quan sát hồn lìa khỏi xác. T.J.Eckleburg 1 ."

"Ai?"

"Không. Một nhân vật của Scott Fitzgerald."

"Ồ, tôi nhớ ra rồi." Cô đưa cán bút lên miệng cắn nhẹ. Một cử chỉ không bình thường ở cô. "Anh có ý tưởng gì về việc tại sao anh nhìn thấy tất cả những cảnh đó không?"

"Có." Tôi biết những lời sau đây sẽ làm cô ngạc nhiên. "Tôi tin rằng có ai đó cho tôi xem những cảnh tượng ấy." Cô mở to mắt, thực ra đó là màn diễn của Rachel Weiss. "Thật ư?"

"Ai cho anh xem những cảnh ấy?"

"Tôi không biết. Thế sao cô biết tôi tưởng tượng ra chúng?"

Cô hết quay đầu bên nọ rồi lại quay bên kia. Tôi dường như có thể thấy tế bào thần kinh của cô cháy lên khi xử lý lời lẽ của tôi qua bộ lọc mà sự đào tạo và kinh nghiệm đã gắn chắc vào óc cô. "Tiến hóa là thay đổi. Anh đang nhìn thấy sự thay đổi diễn ra với tốc độ phi tự nhiên. Những thay đổi không kiểm soát được. Tôi cảm thấy cái này có dính dáng ít nhiều đến công việc của anh."

Có thể cô đúng, tôi nghĩ, nhưng tôi không nói ra. Tôi chỉ tiếp tục. Sự im lặng của tôi là lá chắn duy nhất cho cô. Cuối cùng, điều này cũng chẳng quan trọng gì, vì chủ đề tiến hóa đã nguội, và những gì xâm chiếm trí óc say ngủ của tôi làm tôi rung động tận đáy lòng.

Trong giấc mơ mới của tôi có cả người. Họ không nhìn thấy tôi, còn tôi chỉ thoáng thấy bóng họ. Chẳng khác nào đang xem những cuốn phim hỏng chắp nối lộn xộn với nhau. Một người đàn bà bế đứa bé bên hông. Một người đàn ông đang múc nước trong giếng. Một người lính mặc quân phục, mang gươm ngắn, một đấu sĩ như tôi được học hồi lớp tám, trong môn La tinh của cô Whaley. Một chiến binh La Mã. Đó là đầu mối thực đầu tiên của tôi để thấy rằng đây không phải chuỗi hình ảnh ngẫu nhiên, mà là những cảnh của một thời đại nhất định. Tôi thấy bò kéo cày. Một cô gái bán thân trên phố. Người ta đổi tiền. Tiền vàng và tiền đồng in hình khuôn mặt nghiêng nghiêng hống hách của một hoàng đế. Một cái tên. Tiberius. Cái tên ấy gợi lên một vài điều trong óc tôi, nên tôi tìm trên Internet. Tiberius, cựu quân đoàn trưởng, người kế vị Augustus, đã dành phần lớn thời gian trong triều đại của mình lãnh đạo chiến dịch quân sự ở Germania. Một trong số ít những sự kiện quan trọng trong thời kỳ chấp chính của ông (mãi sau này mới được phát hiện) là việc hành hình một nông dân Do Thái vì đã dám tự xưng là vua của người Do Thái.

"Cha anh có sùng đạo không?" Rachel hỏi sau khi nghe kể về giấc mơ mới này.

"Không. Ông ấy là... ông ấy nhìn thế giới theo cách cơ bản hơn."

"Ý anh định nói gì?"

"Nó không liên quan."

Một tiếng thở dài bực bội. "Thế còn mẹ anh?"

"Mẹ tôi tin vào cái gì đó cao hơn loài người, nhưng bà không quá lệ thuộc vào những tôn giáo có tổ chức."

"Khi còn nhỏ anh không được học giáo lý à?"

"Có vài năm theo học trường Chủ nhật. Không có ý nghĩa gì lắm."

"Giáo phái nào?"

"Giám Lý. Đó là nhà thờ gần nhà chúng tôi nhất."

"Họ có chiếu phim về cuộc đời Chúa Jesus không?"

"Có lẽ có. Tôi không nhớ nữa."

"Anh lớn lên ở Oak Ridge, Tennessee, đúng không? Thế thì chắc là có. Và tất nhiên tất cả chúng ta đều đã xem những phim sử thi Kinh thánh từ những năm năm mươi. Mười điều răn. Ben Hur. Đại loại thế."

"Cô đang nói gì thế?"

"Ý tôi chỉ là những ảo ảnh này đã nằm trong tiềm thức của anh từ nhiều năm rồi. Nó có trong tất cả chúng ta. Nhưng giấc mơ của anh có vẻ đang tiến đến một thứ. Và thứ đó có thể là Jesus xứ Nazareth."

"Cô đã nghe kể về những giấc mơ thế này bao giờ chưa?" tôi hỏi.

"Tất nhiên. Nhiều người mơ về Jesus. Về việc giao tiếp riêng với Chúa, nhận thông điệp từ Chúa. Nhưng tiến trình các giấc mơ của anh có logic nhất định và giọng điệu tự nhiên hơn là những hoang tưởng ám ảnh rối rắm. Anh lại tuyên bố mình là người vô thần, hay ít nhất cũng theo thuyết bất khả tri luận. Tôi rất muốn xem điều này sẽ đi đến đâu."

Tôi đánh giá cao sự quan tâm của cô, nhưng đã quá mệt mỏi vì chờ đợi những câu trả lời. "Nhưng cô cho rằng điều đó có ý nghĩa gì?"

Cô mím môi, lắc đầu. "Tôi không còn tin những giấc mơ ấy có liên hệ với việc anh mất vợ con. Nhưng sự thật là tôi chưa hiểu rõ về cuộc đời anh để đưa ra những đánh giá xác đáng."

Chúng tôi lâm vào thế bí. Tôi vẫn không tin quá khứ của mình có dính dáng gì đến các giấc mơ. Tuy vậy, thời gian trôi đi, những thước phim kinh hoàng trong đầu tôi bắt đầu trở nên rõ ràng, và một số nhân vật trong mơ xuất hiện trở lại. Những gương mặt tôi thấy quen thuộc hơn, như bạn bè. Rồi còn thân thuộc hơn cả bạn bè. Một thứ tình cảm lớn lên trong tôi, tôi nhớ những khuôn mặt này, không phải chỉ từ các giấc mơ trước đó. Tôi tả cho Rachel chính xác nhất có thể.

Tôi đang ngồi giữa một vòng tròn. Những khuôn mặt râu ria say sưa quan sát tôi. Tôi biết mình đang nói bởi rõ ràng họ đang chăm chú lắng nghe, tuy nhiên tôi không nghe được tiếng mình nói.

Tôi thấy một gương mặt phụ nữ, thánh thiện mà giản dị, và một đôi mắt tôi biết giống như mắt mẹ tôi. Tuy nhiên, chúng không thuộc về mẹ tôi, không phải người mẹ đã nuôi tôi lớn ở Oak Ridge. Thế nhưng đôi mắt ấy lại nhìn tôi với tình yêu thuần khiết. Một người đàn ông có râu đứng bên bà, ngắm tôi với niềm tự hào của người cha. Nhưng cha tôi suốt đời luôn cạo râu nhẵn nhụi.

Tôi thấy mấy con lừa... và một cây chà là. Lũ trẻ trần truồng. Một dòng sông nâu. Tôi thấy lạnh, rùng mình tê tái như khi ngâm mình xuống nước, tiếng bàn chân trên cát. Tôi thấy một thiếu nữ tóc đen xinh đẹp, ghé sát mặt hôn tôi rồi ngượng ngùng chạy biến. Tôi bước đi giữa những người lớn. Gương mặt họ như muốn nói, Đứa trẻ này không giống những đứa trẻ khác. Một người đàn ông ánh mắt hoang dã đứng trong nước ngập đến hông, một hàng người cả đàn ông đàn bà đứng đợi đến lượt xuống ngâm, trong khi những người khác lội từ dưới nước lên, ho và thở phì phì, mắt mở to.

Đôi khi những giấc mơ không có logic, mà chỉ là những mảnh vụn rời rạc. Cuối cùng khi logic trở lại, nó làm tôi khiếp hãi.

Tôi đang ngồi bên giường một cậu bé. Em không cử động được. Đôi mắt nhắm nghiền. Em bị liệt đã hai ngày nay. Ngồi bên tôi có mẹ và dì của em. Họ mang thức ăn, nước mát, dầu để xức cho em. Tôi thì thầm vào tai em. Tôi bảo người phụ nữ giữ tay em, đoạn cúi xuống gọi tên em. Mắt em nhắm nghiền, nước nhầy chảy ra. Rồi đôi mắt ấy mở ra và sáng bừng khi nhận ra mẹ em. Mẹ em thở hổn hển, kêu lên rằng tay em đã cử động được. Bà nâng em dậy, và em ôm chầm lấy bà. Hai người phụ nữ khóc vì vui sướng...

Tôi đang ngồi ăn với một nhóm phụ nữ. Ô liu và bánh mì dẹt. Vài người tránh nhìn vào mắt tôi. Ăn xong, họ dẫn tôi vào một buồng ngủ, có một bà bầu nằm trên giường. Họ bảo tôi cái thai nằm trong bụng quá lâu rồi, mãi không chịu chào đời. Họ sợ đứa bé chết. Tôi bảo mấy người phụ nữ ra ngoài. Người mẹ trẻ sợ tôi. Tôi nhẹ nhàng vỗ về cô, rồi nâng chăn đặt tay lên bụng cô. Nó căng phồng, cứng như một cái trống. Tôi để tay trên đó hồi lâu, khẽ thúc giục, thì thầm với cô. Tôi không hiểu mình nói gì. Tựa một khúc ca êm ái. Lát sau, cô hé miệng. Cô thấy tiếng đạp. Cô kêu to gọi những người phụ nữ khác. "Con tôi sống rồi!" Những người phụ nữ đặt tay lên người tôi, cố chạm vào tôi như thể tôi có một sức mạnh vô hình. "Chắc chắn đây là người ấy rồi," họ nói.

"Đây là những câu chuyện trong Kinh thánh," Rachel nói "Cả triệu học sinh đều biết. Chẳng có gì là lạ lùng cả."

"Tôi đã và vẫn đang đọc Kinh Tân ước," tôi bảo cô. "Trong ấy không có chuyện Jesus chữa lành cậu bé bị liệt. Không có cảnh ông ăn cơm với toàn phụ nữ, cả đỡ đẻ nữa."

"Nhưng cả hai cảnh đó đều là những hình ảnh chữa trị, mà anh lại là bác sĩ. Tiềm thức dường như đang đóng vai Jesus qua hình ảnh của anh. Hay ngược lại. Có lẽ vấn đề thực sự là ở công việc của anh. Có phải anh đã rời quá xa y học đơn thuần? Tôi biết có những bác sĩ đã rơi vào trầm cảm sau khi thôi chăm sóc bệnh nhân trực tiếp để chuyển sang nghiên cứu thuần túy. Phải chăng đây là trường hợp tương tự?"

Cô đoán đúng về chuyện tôi thôi chăm sóc bệnh nhân, nhưng những giấc mơ rõ ràng của tôi không phải biểu hiện kỳ lạ của sự luyến tiếc cái thuở còn mặc áo blu trắng.

"Một khả năng khác," cô gợi ý. "Nó gần với cách lý giải ban đầu của tôi hơn. Những hình ảnh chữa trị thần thánh ấy có thể là ước mong thầm kín trong tiềm thức của anh, rằng anh có thể mang Karen và Zooey về. Hãy thử nghĩ xem. Hai phép màu kỳ diệu nhất của Jesus là gì?"

Tôi gật đầu miễn cưỡng. "Cứu Lazarus 2 sống lại từ cõi chết."

"Phải. Và Người còn làm cho một bé gái sống lại, nếu tôi không nhầm."

"Đúng thế. Nhưng tôi không nghĩ điều đó có ý nghĩa gì đối với những giấc mơ này."

Rachel mỉm cười với lòng kiên nhẫn vô hạn. "Được rồi, có một điều chắc chắn. Cuối cùng rồi tiềm thức của anh sẽ làm rõ các thông điệp."

Hóa ra lần thăm khám đó lại là cuối cùng. Bởi vì đêm ấy, giấc mơ của tôi thay đổi lần nữa, và tôi không có ý định kể với Rachel.

Giấc mơ cuối cùng rõ ràng hơn tất cả các giấc mơ trước đó, và mặc dầu tôi đang nói tiếng nước ngoài, tôi vẫn hiểu lời mình nói. Tôi đang cuốc bộ xuôi theo con đường cát. Tôi đến một giếng nước. Nước giếng rất sâu mà tôi không có thứ gì để múc lên. Lát sau, có một phụ nữ đi đến mang theo chiếc gầu buộc thừng. Tôi nhờ cô múc cho ít nước. Cô có vẻ rất ngạc nhiên khi thấy tôi nói với cô, và tôi cảm thấy chúng tôi thuộc hai bộ lạc khác nhau. Tôi bảo cô nước trong giếng không thể làm cô hết khát. Chúng tôi nói chuyện với nhau hồi lâu, và cô bắt đầu nhìn tôi bằng ánh mắt dò xét.

"Tôi đoán ông là nhà tiên tri. Ông biết được nhiều điều bí ẩn."

"Tôi không phải nhà tiên tri," tôi bảo cô.

Cô im lặng nhìn tôi hồi lâu. "Người ta nói Chúa Cứu thế sẽ đến đây dạy chúng tôi vài điều. Ông nghĩ thế nào về điều đó?"

Tôi nhìn xuống đất, nhưng niềm tin sâu sắc đã bật ra thành lời, "Người đang nói với cô đây chính là Chúa Cứu thế."

Cô gái không cười. Cô quỳ xuống và chạm tay vào đầu gối tôi, rồi bỏ đi, ngoái nhìn qua vai nhiều lần.

Khi thoát khỏi giấc mơ đó, người tôi đầm đìa mồ hôi. Tôi không nhấc điện thoại gọi cho Rachel để hẹn gặp khẩn cấp. Tôi thấy không có lợi gì. Tôi không còn tin cách giải thích các giấc mơ lại giúp được mình. Đấy không phải là mơ. Đấy là nhớ lại.

"Anh đang nghĩ gì vậy?" Rachel hỏi từ ghế dành cho khách.

Chúng tôi đã đến gần khuôn viên trường Đại học Bắc Caronlina. "Tại sao cô đến đây?"

Cô ngọ nguậy trên ghế và nhìn tôi vẻ lo lắng. "Tôi đến đây vì anh đã bỏ ba cuộc hẹn khám, và chắc chắn anh không làm thế trừ khi sự việc biến chuyển theo hướng xấu đi. Tôi nghĩ các ảo ảnh của anh đã thay đổi lần nữa, và chúng khiến anh khiếp sợ."

Tôi nắm chặt tay lái nhưng không nói gì. Ở một nơi nào đó, NSA đang nghe lén.

"Sao anh không nói với tôi. Có hại gì chứ?"

"Bây giờ không đúng lúc. Hay không đúng chỗ."

Phía trước bên trái là nhà hát Đại học Bắc Carolina. Bên phải chúng tôi là giảng đường ngoài trời Forest nằm giữa những lùm cây thấp hơn mặt đường. Tôi ngoặt gấp về bên phải và lao xuống dốc tối, vào một con phố chạy giữa hai hàng nhà cửa nghiêm trang, khu dân cư một cổng dành cho các giáo sư và dân chuyên nghiệp trẻ tuổi giàu có cư ngụ. Fielding đã sống trong một ngôi nhà nhỏ hai tầng thụt sâu vào so với mặt phố. Thật hoàn hảo cho ông và bà vợ người Hoa mà ông hy vọng đưa về Mỹ.

"Chúng ta đang ở đâu đây?" Rachel hỏi.

"Nhà của Fielding ngay trước mặt kia."

Tôi nhìn về phía ngôi nhà nhưng chỉ thấy tối đen. Tôi cứ tưởng sẽ thấy đèn đuốc sáng trưng, như nhà tôi sau khi tôi mất Karen và Zooey. Tôi thoáng hoảng sợ, linh cảm mình đang lái xe vào một bộ phim xã hội đen những năm bảy mươi, khi ta bước vào một ngôi nhà quen thân và thấy trong ấy không một bóng người. Hoặc tệ hơn nữa, khi ta gặp trong ấy cả một gia đình xa lạ.

Một bóng đèn hiên bật sáng cách đường chừng ba mươi mét. Lu Li có lẽ đã ngồi quan sát hồi lâu bên cửa sổ tối om. Tôi quay đầu liếc dọc phố xem có xe nào khả nghi không. Tôi luôn nhận ra những chiếc xe NSA phái đi theo dõi tôi. Hoặc là tụi an ninh không quan tâm xem tôi có nhận ra chúng không, hoặc là, điều này có lý hơn, chúng muốn cho bọn tôi biết mình đang bị theo dõi. Hôm nay tôi không thấy có gì khả nghi, nhưng tôi vẫn cảm thấy bất ổn. Có lẽ kẻ bám đuôi không muốn bị phát hiện. Tôi rẽ vào cổng nhà Fielding rồi đỗ xe trước cửa ga ra đóng kín.

"Người đoạt giải Nobel sống ở đây à?" Rachel chỉ tay vào ngôi nhà khiêm tốn và hỏi.

"Đã từng sống," tôi chữa lại. "Cô ở đây, để tôi vào một mình."

"Lạy Chúa!" cô giãy nảy. "Chuyện này thật vớ vẩn. Sao ta không coi nó chỉ là một trò chơi đố chữ, rồi kiếm tách cà phê mà ngồi tìm cách giải?"

Tôi túm tay cô và nhìn thẳng vào mắt cô.

"Cô nghe tôi đây, chết tiệt. Có thể không sao, nhưng chúng ta phải làm thế này. Nếu thấy ổn cả, tôi sẽ huýt sáo để cô vào."

Tôi bước tới cửa trước ngôi nhà của người bạn mới mất, hai tay buông cho người ngoài dễ thấy, nhưng tâm trí để cả vào khẩu 38 ly trong túi.

--- ------ ------ ------ -------

1 Nhân vật hư cấu, một bác sĩ nhãn khoa trong tiểu thuyết Đại gia Gatsby của Scott Fitzgerald (1896-1940).

2 Nhân vật trong Kinh thánh, được Jesus cải tử hoàn sinh sau bốn ngày nằm trong mộ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5


Geli Bauer chăm chú nghe Corelli báo cáo từ nhà Fielding.

"Chúng vào trong rồi. Tennant vào trước. Bác sĩ tâm thần còn đang lưỡng lự. Bây giờ cô ta cũng vào rồi. Khoan... Tôi nghĩ bác sĩ mang theo gì đó."

"Bác sĩ nào? "

"À, Tennant. Hắn có một khẩu súng trong túi. Phía trước, bên phải."

"Anh nhìn thấy báng súng không?"

"Không, nhưng trông nó giống súng lục."

Tennant nghĩ hắn định làm cái khỉ gì vậy? Tiếng điện thoại kết nối lách cách.

"Cô muốn tôi làm gì bây giờ?" Corelli hỏi.

"Ngồi yên đó và đảm bảo các mic phải hoạt động."

"Bà góa vừa ra mở cửa. Bà ta kéo họ vào nhà."

"Báo cáo thường xuyên cho tôi."

Geli cắt liên lạc với Corelli. Nếu Tennant mang theo súng, tức là hắn lo sợ cho tính mạng của mình. Chắc hẳn hắn tin rằng Fielding bị giết? Nhưng tại sao? Thứ thuốc độc giết chết Fielding đã gây chảy máu não nghiêm trọng - một cơn tai biến thật sự. Nếu không mổ xác, không thể chứng minh được vụ giết người. Và sẽ không có mổ xác. Tennant chắc hẳn biết nhiều hơn Godin tưởng. Nếu bức thư chuyển qua FedEx mà hắn nhận được là do Fielding gửi, có thể nó chứa một vài chứng cớ nào đó.

Ả chạm vào micro trên tai nghe và nói, "Skow. Nhà." Máy tính quay số nhà riêng của Skow ở Raleigh.

"Giờ thì lại chuyện gì đây?" Skow nghe máy sau hai hồi chuông.

"Tennant và Weiss hầu như không chuyện trò gì trên đường đến nhà Fielding."

"Vậy thì sao?"

"Điều này không tự nhiên. Bọn chúng tránh nói chuyện."

"Tennant biết hắn bị theo dõi. Cô luôn muốn chúng biết điều đó mà."

"Đúng, nhưng chưa bao giờ Tennant lẩn tránh như thế này. Hắn đang mưu mô gì đó."

"Tennant hơi lập dị. Chuyện đó tự nhiên thôi."

"Hắn có mang theo súng."

Một thoáng im lặng. "Thôi được. Hắn là một tên quá lập dị. Chúng ta biết hắn có một khẩu trong nhà."

"Việc đó với việc mang cái của khỉ ấy đi khác nhau đấy."

Skow tặc lưỡi. "Đó là kiểu phản ứng cô truyền cho người khác. Nói nghiêm túc, cô cần bình tĩnh lại. Phải xem xét tình hình chứ. Tôi biết Tennant nghi ngờ. Hôm nay bạn thân của hắn chết. Hắn bị hoang tưởng tự nhiên thôi. Điều chúng ta không mong muốn là để hắn nghi ngờ hơn nữa."

Ả muốn nói chuyện với Godin. Ả đã thử bấm số di động riêng của lão, nhưng lão không trả lời mà cũng chẳng gọi lại. Đây là lần đầu tiên có chuyện như vậy. "Coi này, tôi nghĩ..."

"Tôi biết cô nghĩ gì," Skow nói. "Tôi chưa cho phép thì đừng có manh động."

"Đồ khốn," Geli nói, nhưng Skow đã buông máy.

Ả bấm số liên lạc với trụ sở NSA ở Fort Meade. Sĩ quan liên lạc của ả ở đấy tên là Conklin.

"Chào cô Bauer," anh ta nói. "Cô lại hỏi về FedEx nữa sao?"

"Anh nghĩ thế nào?"

"Tôi đã có cái mà cô muốn. Gói đó được bỏ vào thùng thư ở bưu điện Durham, Bắc Carolina. Tên người gửi đăng ký trong danh sách là Lewis Carroll."

Vậy Fielding đã gửi gói này cho Tennant. Ả biết ông ta không tự mình gửi thư, nhưng rất có thể vợ ông ta đã làm. Geli tắt máy và ngả người ra ghế, tái hiện tình huống.

Cách đây bảy giờ ả đã giết người theo lệnh của Godin, mà không biết chính xác tại sao. Ả cóc cần quan tâm đến điều này. Fielding gây nguy hiểm cho dự án, và theo điều kiện hợp đồng của ả, thế là đủ để ả ra tay. Nếu ả cần mấy lời biện minh đạo đức, thì đây, dự án Trinity cực kỳ quan trọng đối với an ninh quốc gia của Hoa Kỳ. Xử lý Fielding thì cũng giống như giết một điệp viên bị bắt quả tang phản bội. Tuy thế, ả vẫn tò mò về động cơ. Godin nói với ả rằng Fielding đang ngầm phá hoại dự án và ăn cắp dữ liệu Trinity. Không ai có thể mó tay mó chân đưa dữ liệu ra vào tòa nhà này. Còn về vụ trộm cắp điện tử, bọn kỹ thuật viên NSA của Skow đảm bảo rằng không một hạt electron nào ra khỏi tòa nhà mà không qua kiểm soát của gã.

Vây tại sao Fielding phải chết? Cách đây sáu tuần, ông ta cùng Tennant đã làm treo dự án bằng cách đặt ra vấn đề đạo đức và y tế. Nếu đó là lý do, tại sao không giết Fielding ngay? Và tại sao chỉ giết có mình ông ta? Peter Godin có vẻ gần như thất vọng khi ghé thăm Geli đêm qua. Ả chưa từng thấy Godin thất vọng. Phải chăng lão lo lắng đến thế vì muốn đưa dự án trở lại trực tuyến. Ả không hiểu mấy về khía cạnh kỹ thuật của dự án Trinity, nhưng ả biết chắc thành công còn xa vời. Ả có thể đọc điều đó trên mặt các nhà khoa học và các kỹ sư, khi họ báo cáo công việc hằng ngày.

Dự án Trinity đang chế tạo - hoặc nỗ lực chế tạo - một siêu máy tính. Không phải siêu máy tính truyền thống như Clay hay Godin, mà là một máy tính chuyên về trí tuệ nhân tạo, một cái máy biết suy nghĩ thật sự. Ả không hiểu điều gì làm cho thứ máy tính lý thuyết này khó chế tạo đến thế, nhưng Godin đã nói với ả đôi chút về nguồn gốc dự án.

Năm 1994, một nhà khoa học của phòng thí nghiệm Bell đã đưa ra thuyết rằng, nếu dùng các nguyên lý của vật lý lượng tử, có thể chế tạo được một máy tính có sức mạnh gần như vô biên bẻ hết các mã khóa. Geli chẳng biết mấy về vật lý lượng tử nhưng ả hiểu tại sao một máy tính lượng tử có thể tạo nên đột phá. Mã hóa kỹ thuật số hiện đại - hệ thống mã được các ngân hàng, tập đoàn kinh tế, chính phủ quốc gia sử dụng - dựa trên sự phân tích thừa số các số nguyên tố lớn. Những siêu máy tính truyền thống như loại mà NSA đang sử dụng bẻ khóa mã bằng cách thử liên tiếp các chìa khóa khác nhau, giống như thử nhiều chìa để mở ổ khóa. Phá mã cách ấy phải mất hàng trăm giờ. Nhưng một máy tính lượng tử - về lý thuyết - có thể thử đồng thời tất cả các chìa khóa có thể có. Các chìa khóa sai sẽ loại trừ nhau, chỉ còn lại chìa khóa đúng duy nhất để mở khóa mã. Và quá trình đó không cần đến hàng giờ, thậm chí hàng phút. Một máy tính lượng tử có thể tức khắc bẻ khóa được mã hóa bằng kỹ thuật số. Một chiếc máy như thế sẽ làm cho việc mã hóa như hiện nay trở thành lạc hậu, và mang lại cho bất kỳ đất nước nào sở hữu nó ưu thế chiến lược khiến mọi nước khác trên thế giới phải choáng váng.

Xét đến giá trị tiềm tàng của một loại máy như thế, NSA đã khởi động một nỗ lực bí mật khổng lồ để thiết kế và chế tạo máy tính lượng tử. Được mệnh danh là Dự án Ma quỷ, do trước đây Albert Einstein từng miêu tả hoạt động của một số hạt lượng tử là "giống như có ma quỷ điều khiển từ xa", dự án này được đặt dưới sự điều hành của John Skow, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Siêu máy tính của NSA. Sau bảy năm và tiêu hết 600 triệu đô la trong ngân sách đen của NSA, đội ngũ của Skow vẫn không chế tạo ra được một mẫu chuẩn có thể đọ được với tính năng của một chiếc PDA Palm Pilot.

Skow có lẽ đã sắp chịu thua thì nhận được cú điện thoại của Peter Godin, người đã chế tạo siêu máy tính truyền thống cho NSA nhiều năm nay. Godin đề xuất một kiểu máy có tính cách mạng như máy tính lượng tử, nhưng thuộc tính của nó chính phủ không thể phản đối: có thể chế tạo nó dựa trên tinh túy của công nghệ hiện tại. Hơn nữa, sau khi nói chuyện với Andrew Fielding, nhà vật lý lượng tử mà lão đã mời cộng tác cùng dự án, Godin tin rằng chiếc máy có cơ hội cực tốt để trang bị những tính năng lượng tử.

Bằng cách nhử miếng mồi béo bở ấy trước tổng thống, Godin gần như đạt được mọi nhượng bộ mà lão đòi hỏi. Một nhà máy chuyên biệt để chế tạo chiếc máy mới. Nguồn ngân sách gần như vô hạn của chính phủ tài trợ cho một nỗ lực đầy rủi ro theo kiểu Dự án Manhattan. Quyền thuê và sa thải các nhà khoa học riêng của lão. Về phần giám sát của chính phủ, lão chọn Skow, người mà lão lôi kéo được từ nhiều năm trước bằng cách hối lộ, để Skow chọn các máy tính của Godin chứ không phải của Cray cho Trung tâm Nghiên cứu Siêu máy tính. Tổng thống chỉ có một yêu cầu duy nhất là giám sát tại chỗ khía cạnh đạo đức của dự án, điều này được cụ thể hóa bằng David Tennant. Và ban đầu, Tennant dường như chỉ là nỗi phiền toái nhỏ. Mọi việc có vẻ thông đồng bén giọt.

Nhưng đã hai năm trôi qua. Gần một tỷ đô đã tiêu hết veo mà mẫu máy Trinity vẫn chưa hoạt động được. Trong các hành lang bí mật của Thành phố mật 1 thuộc NSA, người ta bắt đầu so sánh nó với Dự án Ma quỷ đã thất bại. Tất nhiên sự khác biệt nằm ở Peter Godin. Ngay cả kẻ thù của Godin cũng phải thừa nhận rằng lão chưa bao giờ hứa suông. Nhưng lần này, họ thì thầm với nhau, lão đã đảm nhận nhiều hơn khả năng xử lý của mình. Trí thông minh nhân tạo có thể không lý thuyết như máy tính lượng tử, ấy thế nhưng nhiều công ty đã phá sản vì không cung cấp được như đã hứa.

Thế nên Geli không hiểu tại sao Fielding nhất định phải chết. Cho đến tận hôm qua, Godin rõ ràng còn nhìn nhận nhà khoa học Anh lỗi lạc ấy như một nhân tố không thể thiếu cho thành công của Dự án Trinity. Rồi bỗng nhiên ông ta bị thanh toán. Điều gì đã thay đổi?

Bốc lên, ả gõ mạnh vào bàn phím, lôi ra một danh sách các vật dụng riêng của Fielding mà ả đã lập sau khi ông ta chết, theo yêu cầu của Godin. Phòng làm việc của Fielding đã biến thành một đống hằm bà lằng những đồ vật kỳ quái, những tập ghi nhớ, giống như của một giáo sư đại học hơn là của một nhà vật lý thực nghiệm.

Có nhiều sách, tất nhiên. Một bản Upanishad 2 bằng nguyên bản chữ Phạn. Một tập thơ của W. B. Yeats. Ba cuốn tiểu thuyết của Raymond Chandler đã đọc mòn nhẵn. Một bản Alice qua tấm gương soi. Nhiều sách giáo khoa khoa học và luận án. Những món khác lạc lõng hơn. Bốn cặp xúc xắc, một đôi tạ. Một răng nọc của rắn mang bành. Một bản mới của tạp chí Penthouse. Một lưỡi gà saxophone. Một chiếc bát cầu nguyện Tây Tạng. Một tờ lịch treo tường in tranh của M.C. Escher. Một áp phích rách quảng cáo cho Club-à-Go-Go ở Newcastle, Anh quốc, nơi Jimi Hendrix chơi vào năm 1967, có thủ bút của tay ghi ta này. Một bức thư lồng khung của Stephen Hawking thừa nhận hai người đã đánh cuộc về bản chất của vật chất tối gì đó. Đĩa compact của Morrison, John Contrane, Miles Davis mua ngoài tiệm. Danh sách các đồ vật còn kéo dài, nhưng tất cả đều thuộc loại vô thưởng vô phạt. Geli đọc lướt qua các cuốn sách, một kỹ thuật viên thì nghe kỹ từng bản nhạc trên đĩa CD nhằm bảo đảm chúng không bị giả mạo để ghi dữ liệu ăn trộm. Bên cạnh đống đồ văn phòng lặt vặt của Fielding còn có ví tiền, quần áo và mấy món kim hoàn. Đồ kim hoàn chỉ có chiếc nhẫn cưới vàng và chiếc đồng hồ quả quýt bằng vàng nối với sợi dây chuyền, một đầu là móc pha lê.

Đang nghĩ về danh sách đồ vật, Geli bỗng giật mình tự hỏi liệu tất cả có còn nguyên trong kho sau khi ả khóa cửa phòng chiều hôm qua? Ả băn khoăn vì John Skow đã vào phòng ấy. Biết đâu Fielding bị giết vì vật mà ông ta có thì sao? Có thể đó là lý do họ muốn ông ta phải chết trong phòng làm việc. Để chắc chắn lấy được thứ họ muốn. Nếu đúng vậy, đó phải là thứ đồ vật mà ông ta luôn mang theo người. Nếu không họ chỉ việc lấy trộm từ phòng làm việc của ông ta. Geli sắp đi kiểm tra lại kho thì lại có tiếng bíp trong ống nghe của ả.

"Tôi nghĩ chúng ta không ổn rồi," Corelli thông báo.

"Gì vậy?"

"Giống như ở nhà Tennant. Bọn chúng ở trong, nhưng tôi không nghe thấy chuyện trò gì cả. Chỉ có tiếng vọng mơ hồ từ mấy cái mic xa tít, như tràn tín hiệu vậy."

"********** thật." Geli chuyển tín hiệu từ nhà Fielding vào tai nghe của mình. Nhưng chỉ thấy im lặng. "Có chuyện rồi," ả lầm bầm. "Các anh mang theo gì?"

"Chúng tôi mang đến một ăng ten parabol, nhưng nó bắt qua tường rất kém, còn qua cửa sổ thì hầu như vô dụng. Chúng tôi cần thiết bị laser."

"Có đây." Ả nhẩm trong óc danh mục các thiết bị hiện có. "Tôi sẽ gửi nó đến cho anh trong vòng mười hai phút."

"Mười hai phút sợ họ về mất."

"Nhìn ban đêm thế nào?"

"Tôi không chờ đợi cái gì mang tính chiến thuật."

Chết tiệt. "Thiết bị đang trên đường đến. Kiểm tra xe Tennant, tìm phong bì FedEx. Và báo cho tôi địa chỉ con đường anh đang đậu xe."

Geli ghi lại, rồi nhấn một nút làm khuấy động căn phòng ở cuối khu liên hợp tầng hầm. Ở đó có giường nghỉ cho đội của ả khi cần trực 24/24. Ba mươi giây sau, một thanh niên cao ráo, tóc vàng hoe dài thượt, ngái ngủ lê chân vào trung tâm điều khiển.

"Gì dzậy?" hắn hỏi.

"Đang có báo động." Ả chỉ vào chiếc máy pha cà phê sát tường. "Uống đi!"

Ritter Bock là người Đức. Trong đội của Geli, hắn là người duy nhất do Godin tuyển chọn. Vốn là cựu lính đặc công GSG-9, Ritter trước đây làm việc cho một cơ quan an ninh riêng của giới chóp bu, thường cung cấp vệ sĩ cho Godin khi lão sang châu Âu hoặc Viễn Đông. Godin đã thuê Ritter lâu dài sau khi tay cựu đặc công này ngăn chặn được một vụ bắt cóc nhà tỷ phú. Tàn nhẫn, thần kinh thép và điêu luyện trong nhiều lĩnh vực vượt ra ngoài chuyên môn chống khủng bố của mình, gã trai 29 tuổi này hóa ra lại trở thành thủ hạ đắc lực nhất của Geli. Và bởi vì trước đây ả đã trải qua nhiều mùa hè ở Đức nên giữa họ không có khó khăn gì về ngôn ngữ.

Ritter uống từng ngụm từ chiếc cốc bốc hơi nghi ngút và nhìn Geli qua miệng cốc. Hắn có đôi mắt pháo thủ màu xám của những cậu trai từng hút hồn ả thuở dậy thì hồi bố ả đóng quân bên Đức.

"Tôi cần anh đưa chiếc ăng ten laser cho Corelli," ả nói. "Anh ta đậu xe ở lối vào gần khu trường Đại học Bắc Carolina."

Ả xé trang đầu trong cuốn sổ ghi chép và ném lên mặt bàn bên cạnh mình.

Ritter khụt khịt gật đầu. Hắn ghét những việc lặt vặt kiểu này, nhưng hắn không bao giờ phàn nàn. Hắn vẫn làm những việc không tên và kiên nhẫn chờ đợi việc mà hắn sinh ra để làm.

"Phải cái laser trong phòng hậu cần không?" hắn hỏi.

"Đúng. Mang theo bốn máy ngắm ban đêm."

Hắn uống nốt cà phê, nhặt mảnh giấy trên bàn rồi đi ra không nói một lời. Geli thích thế. Người Mỹ luôn thấy cần lấp khoảng trống im lặng, như thể im lặng là cái gì đáng sợ. Ritter không phí sức, trong lời nói cũng như trong hành động. Điều đó làm hắn trở nên có giá. Đôi khi hai người cùng làm việc, những lúc khác ả ngủ với hắn. Chuyện đó chẳng thành vấn đề. Ả thường làm thế khi ở trong quân đội, kiếm được chỗ nào vui vẻ là mần liền. Cũng như thời ả là học sinh nội trú ở Thụy Sĩ. Nguy cơ luôn rập rình. Cần phải có khả năng chế ngự được những gã đàn ông - hay phụ nữ - hung hăng, và xử lý được hậu quả sau khi mọi chuyện đã xong. Ả luôn luôn làm được cả hai chuyện đó.

"Corelli?" ả hỏi. "Giờ anh nghe thấy gì?"

"Vẫn không có gì. Nghe như tràn tín hiệu. Khó hiểu."

"Tôi đã báo động. Ritter đang đến."

Chỉ có tiếng nhiễu sóng và im lặng đáp lại. Geli mỉm cười. Ritter làm mọi người khó chịu. "Anh có nghe tôi nói không?"

"Rõ. Tôi đang ở trong xe Tennant."

"Thấy gì không?"

"Không thấy phong bì FedEx. Chắc hắn mang vào trong đó."

"OK."

"Cô muốn tôi làm gì bây giờ"

"Về xe của anh và chờ Ritter."

"Rõ."

Geli tắt máy và tiếp tục nghĩ về đồ dùng cá nhân của Fielding trong phòng lưu trữ. Ả có cảm giác đã bỏ sót một thứ, và bản năng của ả luôn luôn chính xác. Nhưng ả không muốn rời trung tâm điều khiển lúc này. Một khi Ritter đến hiện trường, mọi việc sẽ tiến triển nhanh.

--- ------ ------ ------ -------

1 Biệt danh trụ sở của NSA.

2 Áo nghĩa thư, một loại thánh điển của Ấn Độ giáo.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6


Tôi kéo Rachel vào tiền sảnh nhà Fielding. Cửa đóng nhanh sau lưng chúng tôi, chúng tôi quay lại thì thấy một phụ nữ châu Á chỉ cao khoảng mét rưỡi. Lu Li Fielding đã sống gần bốn mươi năm cuộc đời ở nước Trung hoa Cộng sản. Bà hiểu tiếng Anh khá tốt nhưng không nói được mấy.

"Cô này là ai?" bà hỏi, chỉ vào Rachel. "Anh chưa lấy vợ phải không, bác sĩ David?"

"Đây là Rachel Weiss. Cô ấy là bạn tốt của tôi. Cô ấy cũng là bác sĩ."

Mắt Lu Li đầy vẻ nghi ngờ. "Cô ấy làm cho công ty à?"

"Chị muốn nói Argus Optical?"

"Tlinity" bà nói, thay r bằng l.

"Không hề. Cô ấy là giáo sư trường y thuộc Đại học Duke."

Lu Li dò xét Rachel hồi lâu. "Vậy cô cũng vào đi. Xin mời. Nhanh lên cho, xin mời."

Lu Li cúi chào rồi dẫn chúng tôi vào căn phòng làm việc nhỏ, cửa mở vào trong bếp. Tôi cười buồn bã. Khi Fielding ở căn nhà này hồi còn độc thân, trông nó lúc nào cũng như vừa có cơn bão tràn qua. Sách và giấy rải khắp nhà, hàng chục tách cà phê, chai bia, những cái gạt tàn đầy ngập, vung vãi khắp sàn nhà. Sau khi Lu Li đến, căn nhà trở nên ngăn nắp sạch sẽ như phòng tập thiền. Tối nay, nó thơm mùi chanh và sáp chứ không phải mùi thuốc lá và bia chua.

"Mời ngồi," Lu Li nói.

Rachel và tôi ngồi bên nhau trên sofa mềm. Lu Li ngồi trên mép một chiếc phô tơi cũ, đối diện chúng tôi. Bà chăm chú nhìn Rachel còn cô thì đang mải ngắm tấm bảng đồng treo trên tường sau ghế Lu Li.

"Giải Nobel đây phải không?" cô dịu dàng hỏi.

Lu Li gật đầu, không phải là không tự hào. "Andy đoạt giải Nobel năm 1998. Hồi đó tôi đang ở Trung Quốc, nhưng chúng tôi vẫn biết công trình của ông ấy. Tất cả các nhà vật lý đều ngỡ ngàng."

"Chắc bà rất tự hào về ông ấy." Rachel bình thản hỏi trong khi đôi mắt to của cô gây ấn tượng ngược lại. "Ông bà đã gặp nhau như thế nào?"

Trong khi Lu Li trả lời bằng thứ tiếng Anh ngắc ngứ, tôi không ngớt ngạc nhiên về sự kết hợp giữa người đàn bà này với người bạn đã mất của tôi. Fielding đã gặp Lu Li khi ông đến Bắc Kinh giảng dạy theo sáng kiến ngoại giao Anh - Hán. Bà dạy vật lý ở Đại học Bắc Kinh, và bà ngồi ngay hàng ghế đầu trong suốt chín buổi giảng của Fielding. Các quan chức Đảng mở nhiều tiệc chiêu đãi trong đợt giảng ấy, và Lu Li đã dự tất cả. Hai người nhanh chóng trở nên không thể tách rời, khi đến ngày ông phải rời Trung Quốc, họ đã yêu nhau say đắm. Hai năm rưỡi xa cách tiếp theo, Fielding cố gắng hết sực để xin visa xuất cảnh cho bà. Ngay cả với sự giúp đỡ về tiền bạc của NSA, ông vẫn không tiến thêm được bước nào. Cuối cùng ông đã tính đến chuyện đút tiền cho bọn cò để lén đưa bà rời nước, nhưng tôi thuyết phục rằng ông cách đó quá mạo hiểm.

Mọi việc thay đổi khi Fielding làm chậm trễ Dự án Trinity vì ông đưa ra mối nghi ngờ về các tác dụng phụ mà tất cả chúng tôi phải chịu. Như có phép lạ, thủ tục quan liêu được xóa bỏ, và Lu Li lên máy bay bay thẳng sang Washington. Fielding biết vợ chưa cưới của ông được đưa sang Mỹ chẳng qua chỉ để làm sao lãng cuộc đấu tranh của ông, nhưng ông cóc cần. Việc bà ấy đến cũng không mang lại kết quả như đám người kia muốn. Ông người Anh này vẫn cần mẫn điều tra mọi khía cạnh tiêu cực trong phòng thí nghiệm Trinity, các nhà khoa học khác vì thế càng thêm ghét ông.

"Chị Lu Li," tôi nói khi bà tạm ngừng, "trước hết cho tôi bày tỏ nỗi đau buồn lớn lao của tôi về việc Fielding qua đời."

Nhà vật lý lắc đầu. "Đó không phải lý do tôi mời anh đến đây. Tôi muốn biết về sáng hôm nay. Chuyện gì đã thật sự xảy ra với Andy của tôi?"

Tôi lưỡng lự không muốn nói thẳng ra trong nhà này. Thấy biểu hiện lo lắng của tôi, bà đi đến lò sưởi, quỳ xuống, với tới ống khói. Bà lấy ra một chiếc hộp các tông đầy bồ hóng, đặt lên bàn cà phê. Tôi đã thấy chiếc hộp này từ trước. Nó chứa nhiều linh kiện điện tử tự chế ở nhà, nhắc tôi nhớ đến các công trình Heathkit mà cha con tôi đã làm khi tôi còn nhỏ. Lu Li rút ra một vật trông giống như chiếc gậy kim loại.

"Sáng nay Andy đã rà soát nhà bằng cái này trước khi đi làm," bà nói. "Đã bịt hết các mic rồi. Cứ nói chuyện, không sao."

Tôi liếc nhìn Rachel. Ẩn ý đã rõ. Lu Li biết cách thắng điểm Trinity, hay ít nhất cũng biết những thủ đoạn an ninh của NSA. Geli Bauer chắc sẽ cho lục tung ngôi nhà ngay khi Lu Li rời nhà đến hiệu giặt là hay hàng tạp hóa. Tôi ngạc nhiên là ả lại chờ lâu đến thế.

"Cả ngày hôm nay chị có ra khỏi nhà không?'' tôi hỏi.

"Không," Lu Li đáp. "Họ không cho tôi biết bệnh viện nơi họ đưa Andy đến."

Tôi ngờ rằng Fielding không hề được đưa đến bệnh viện. Có thể ông đã được đưa về trụ sở NSA ở căn cứ quân sự Meade bằng máy bay, bang Maryland, hay bị đưa đến một đơn vị y tế đặc biệt nào đó để mổ xác, hoặc tồi tệ hơn. Nước Anh sau đó có thể phàn nàn, nhưng đó là việc của Bộ Ngoại giao, không phải của NSA. Và nước Anh - những người làm ra Luật Bí mật Chính thức và Thông báo Quốc phòng - sẽ có cách đồng thuận với Hoa Kỳ khi động đến các vấn đề an ninh quốc gia.

"Tôi vẫn nghĩ chúng ta nên nói thầm," tôi nói khẽ, chỉ tay vào cây gậy. "Và có lẽ tôi nên mang theo chiếc hộp khi rời đây. Tôi sợ N" - tôi ngừng lại ngay - "nhân viên an ninh của công ty sẽ lục soát nhà ngay khi chị vừa đi khỏi. Chị không muốn bất kỳ ai tìm thấy nó đâu."

Lu Li lớn lên tại một nước Cộng sản nơi cảnh sát không hề biết thương xót ai. Sẵn sàng tin vào điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là thứ đã ăn sâu vào tâm khảm bà. "Có phải họ đã giết Andy của tôi?" bà thì thầm.

"Tôi hy vọng là không. Xét đến sức khỏe, tuổi tác và các thói quen của Andrew, đột quỵ là điều có thể xảy ra. Nhưng... tôi không tin đó là đột quỵ. Điều gì làm chị cho rằng có thể ông ấy đã bị giết?"

Lu Li nhắm mắt lại cho nước mắt chảy ra. "Andy biết có chuyện xảy ra với ông ấy. Ông ấy bảo tôi thế."

"Ông ấy nói chuyện đó một lần? Hay thường xuyên?"

"Hai tuần cuối, nhiều lần."

Tôi thở ra một hơi dài và chậm. "Chị có biết vì sao Andrew muốn gặp tôi ở Nags Head không?"

"Andy muốn nói chuyện với anh. Tôi chỉ biết thế thôi. Andy rất sợ công việc. Sợ Trinity. Sợ..."

"Cái gì?"

"Godin."

Không hiểu sao tôi đã biết đó chính là Godin. John Skow thì thật dễ ghét - một nhà kỹ trị vênh váo, vô đạo đức - nhưng gã không gây nhiều sợ hãi. Godin thì ngược lại, dễ mến - một thiên tài, một người yêu nước theo nghĩa tốt đẹp nhất của từ này, một người có sức thuyết phục - nhưng sau khi anh làm việc với lão một thời gian, anh sẽ cảm thấy một rung động khó chịu phát ra từ lão, một Faust 1 khao khát hiểu biết khinh thường mọi giới hạn, không thèm đếm xỉa đến các ranh giới. Có một điều đã rõ: bất kỳ ai hay vật gì đứng chắn giữa Godin và mục tiêu của lão thì không tồn tại được lâu ở đó.

Godin và Fielding đã hợp tác khá tốt đẹp khi khởi sự. Hai người gần như cùng thế hệ, và Godin có cái tài năng thiên bẩm thúc đẩy những nhà khoa học tài năng của Robert Oppenheimer 2 : vừa ca ngợi vừa khích lệ họ. Nhưng tuần trăng mật không kéo dài lâu. Với Godin, Trinity là một sứ mệnh, và lão theo đuổi nó với lòng nhiệt thành của một nhà truyền giáo. Fielding thì khác. Ông người Anh không tin chuyện đó, đơn giản vì ông cho rằng điều gì có thể làm được thì nên làm. Ông cũng không tin một mục đích cao quý có thể biện hộ cho bất kỳ phương tiện gì để đạt được nó.

"Andy có giấy tờ gì cho tôi không?" tôi hỏi đầy hy vọng.

"Tôi không nghĩ vậy. Tối nào ông ấy cũng ghi chép, nhưng mỗi đêm trước khi đi ngủ" - bà chỉ vào lò sưởi - "ông ấy lại đốt cả. Andy rất bí mật. Ông ấy luôn cố gắng bảo vệ tôi. Luôn bảo vệ tôi."

Ông ấy cũng làm thế với tôi, tôi nghĩ thầm. Bỗng tôi nhớ đến những lời trong bức thư của Fielding. "Hôm nay đi làm Andy có mang theo chiếc đồng hồ bỏ túi không?"

Lu Li không hề ngập ngừng "Ngày nào ông ấy cũng mang theo. Hôm nay anh không trông thấy nó à?"

"Không. Nhưng tôi chắc họ sẽ đem trả chị cùng với những đồ đạc riêng của ông ấy."

Môi dưới của bà run run, và tôi cảm giác một đợt nước mắt nữa sắp sửa trào ra, nhưng không. Nhìn Lu Li cố nén cảm xúc, tôi cảm thấy một cơn đau thắt, quen thuộc nhưng có gì đó mới lạ với tôi. Tôi không lạ với chuyện tang tóc, nhưng những gì tôi cảm thấy bây giờ không giống những gì tôi cảm thấy sau khi mất vợ con. Andrew Fielding là một trong vài người sống cùng thế kỷ có khả năng trả lời một số vấn đề cơ bản về sự sinh tồn của loài người. Việc biết rằng một trí tuệ như thế đã từ trần để lại trong tôi một khoảng trống sâu hoắm, tưởng như giống loài của mình đã suy giảm đáng kể và không sao khôi phục lại được.

"Giờ thì chuyện gì sẽ xảy đến với tôi?" Lu Li khẽ hỏi. "Họ đưa tôi về lại Trung Quốc ư?"

Không thể có chuyện đó, tôi nghĩ. Một lý do khiến Trinity phải giữ bí mật đến thế là do một số người liên quan cho rằng có thể những nước khác cũng đang nghiên cứu công cụ tương tự. Với lịch sử ăn cắp công nghệ thành thần, Trung Quốc được xếp hàng đầu trong danh sách đó. NSA không bao giờ để một nhà khoa học gốc Hoa từng gần gũi với dự án đến thế trở về tổ quốc. Thật ra tôi còn lo cho tính mạng của bà. Nhưng tôi khó có thể làm được gì để bảo vệ bà cho đến khi tôi nói chuyện được với tổng thống.

"Họ không thể đưa chị về nước đâu," tôi trấn an bà. "Chị đừng lo về chuyện ấy."

"Andy nói chính phủ làm bất cứ chuyện gì họ muốn."

Tôi đang định trả lời thì có ánh đèn pha chiếu qua sảnh. Một chiếc ô tô chạy chậm qua ngôi nhà.

"Điều ấy không đúng," tôi nói. "Lu Li ạ, tôi không thích nói thế này, nhưng điều tốt nhất hiện nay chị có thể làm là hợp tác với NSA. Càng không thấy chị gây ra điều gì phiền toái, người ta càng không coi chị là mối đe dọa. Chị có hiểu không?"

Mặt bà đanh lại. "Bây giờ anh bảo tôi nên để cho họ giết Andy mà không nói gì hết? Không làm gì hết?"

"Chúng ta không biết chắc Andy có bị giết hay không. Và ngay lúc này bản thân chị không xoay xở được nhiều. Tôi muốn chị để tất cả chuyện đó cho tôi. Tôi sẽ gọi cho tổng thống và tôi có thể nghe ông ấy trả lời bất cứ lúc nào. Bây giờ ông ấy đang ở đâu đó tại Trung Quốc. Bắc Kinh."

"Tôi đã thấy trên ti vi. Andy bảo tôi anh có quen ông tổng thống này."

"Tôi đã gặp ông ấy. Ông ấy là bạn anh tôi, và chính ông ấy đã cử tôi vào việc này. Tôi hứa với chị bằng mọi cách sẽ tìm cho ra sự thật về cái chết của Andy. Tôi mắc nợ ông ấy điều đó. Và hơn thế nữa."

Một nụ cười bỗng xuất hiện trên gương mặt đau khổ của Lu Li. "Andy rất tốt. Ân cần, vui tính. Và thông minh."

"Rất thông minh," tôi đồng ý, mặc dầu chữ thông minh mà đem áp dụng vào những người như Andrew Fielding thì chưa nói lên được điều gì hết. Fielding thuộc trong số rất ít người trên hành tinh này thực sự nắm được bí mật của vật lý lượng tử, một lĩnh vực dành riêng cho những sinh viên quá thông minh để làm tiến sĩ khoa học - như các sinh viên Cambridge của Fielding thường đùa.

Rachel ngạc nhiên cười khúc khích khi thấy một quả bóng nhỏ bằng lông trắng lăn vào phòng và tót lên đùi Lu Li. Quả bóng lông là một con chó nhỏ giống bichon frise. Lu Li mỉm cười và xoa mạnh cổ nó.

"Maya, Maya", Lu Li thủ thỉ rồi thì thầm bằng giọng Quảng Đông ê a.

Con chó nhỏ có vẻ lo lắng trước sự có mặt của người lạ trong nhà, nhưng nó không sủa. Đôi mắt nâu nhỏ của nó dán vào tôi.

"Anh có biết Maya không, bác sĩ David?"

"Có. Chúng tôi đã gặp nhau rồi."

"Andy mua nó cho tôi. Cách đây sáu tuần. Maya là bé cưng của tôi. Cho đến khi nào ông trời cho tôi và Andy một..."

Lu Li chìm vào im lặng, và tôi hiểu rằng ông bạn sáu mươi ba tuổi của tôi đã cố gắng có con với bà vợ bốn mươi của mình.

"Tôi rất tiếc," tôi nói một câu vô ích. "Tôi thực sự lấy làm tiếc."

Rachel như muốn nói gì đó, nhưng có những lúc một nhà tâm lý trị liệu đầy tài năng cũng bất lực trong diễn đạt. Khi Lu Li nhìn vào khoảng không, nỗi lo của tôi tăng lên. Nếu Fielding nghi ngờ mình sẽ bị giết, chắc ông có nói điều lo sợ đó với bà, và NSA có thể biết động thái của ông. Gần như chắc chắn là họ biết tôi đang ở đây. Nếu họ ở ngoài đó, có thể họ đã chụp ảnh Rachel, và có khi đang cố tưởng tượng xem cô làm gì ở đây.

"Trông Maya có vẻ muốn ra ngoài dạo chơi," tôi vui vẻ nói.

Lu Li tỉnh người ra.

"Tôi rất vui lòng đưa nó ra ngoài hộ chị," tôi nói thêm.

"Không. Maya không cần..."

Tôi giơ tay lên ngắt lời bà. "Tôi nghĩ không khí bên ngoài sẽ làm tất cả chúng ta dễ chịu hơn."

Lu Li chăm chăm nhìn tôi vài giây. "Được," cuối cùng bà nói. "Hay đấy. Tôi ở trong nhà cả ngày rồi."

Nhìn quanh kiếm thứ gì có thể viết được, tôi thấy một tập giấy nhắn đặt cạnh điện thoại. Tôi đến đó và viết, "Chị có máy ghi âm xách tay không?" Rồi tôi xé tờ giấy, viết số di động của mình lên trang sau.

Khi Lu Li đọc câu hỏi của tôi, bà vào phòng làm việc của Fielding lấy ra một chiếc máy ghi âm mi ni hiệu Sony, loại dùng để học chính tả. Tôi bỏ vào túi và dẫn hai người phụ nữ ra sân trong qua cánh cửa kính đã mở.

Maya theo sau chúng tôi nhưng cứ dính chặt lấy Lu Li, bà cầm sợi dây buộc cổ chó. Nằm sâu trong rừng cách khoảng một trăm mét là giảng đường ngoài trời của trường Đại học Bắc Carolina. Trước đây, đã có hai lần Fielding đưa tôi đến đây nói chuyện.

"Tôi biết Andrew đã soát kỹ trong nhà," tôi thì thầm với Lu Li, "nhưng tôi vẫn không cảm thấy an toàn khi nói chuyện trong ấy. Tôi cần nói chuyện riêng với Rachel mấy phút. Cảm phiền chị quay trở vào nhà. Khóa cửa lại, nhưng để Maya lại cho chúng tôi. Chúng tôi đi dạo trong rừng cây đến chỗ giảng đường, rồi sẽ quay về ngay. Tôi có mang theo điện thoại di động và đã ghi số trên giấy nhắn của chị. Nếu có gì lạ, chị hãy gọi cho tôi ngay."

Lo lắng và bối rối làm mặt Lu Li nhăn lại. "Anh chị cần Maya à?"

"Để ngụy trang thôi, chị hiểu không? Một cái cớ để ra ngoài."

Bà chậm rãi gật đầu, đoạn quỳ xuống, thầm thì với con chó rồi quay trở vào nhà. Tôi bế con chó đang rên ư ử lên và rảo bước băng qua sân sau tới con đường hẹp dẫn qua rừng. Rachel vất vả lắm mới theo kịp vì bị cành cây móc vào quần áo.

"Anh đang làm gì vậy?" cô rít lên.

"Yên lặng nào. Tôi phải nói chuyện với cô, ngắn thôi."

Tôi không rõ nguồn gốc nỗi sợ của tôi, nhưng tôi biết nó làm ruột gan tôi cồn cào. Vô thức, tôi chuyển con chó sang tay trái, tay phải rút súng.

--- ------ ------ ------ -------

1 Nhà ảo thuật và giả kim trong truyền thuyết Đức, kẻ bán linh hồn cho quỷ dữ để đổi lấy sức mạnh và tri thức.

2 Nhà vật lý lý thuyết người Mỹ, giám đốc Dự án Manhattan.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7


Ritter đến rồi," giọng Corelli trong ống nghe của Geli có vẻ căng thẳng. "Anh ta đã lắp ăng ten laser chĩa vào cửa sổ trước."

"Anh ta nghe được gì rồi?"

"Tiếng rõ, nhưng không phải nói chuyện. Như có một người đang đi quanh nhà. Chắc họ đang ở căn phòng phía sau."

"Đổi vị trí và đặt ăng ten laser ở cửa sổ sau. Nhanh lên."

"Được."

Geli hầu như không thể ngồi yên trên ghế. Có chuyện đang xảy ra ở nhà Fielding, và ả chỉ có một cách duy nhất để biết. Một phút trôi qua, rồi giọng trầm của Ritter cất lên, "Nichts 1 ."

"Anh chưa nghe được gì ở phía sau phải không?" ả hỏi.

"Nein 2 ."

"Bọn chúng biết chỗ đặt rệp, và đã bịt cả rồi."

"A a a!" Ritter kêu lên. "Làm sao chúng biết được?"

"Fielding."

"Đồ chó chết," Corelli chửi. "Lần nào lão cũng chơi chúng ta một vố."

Geli gật đầu. Ở Trinity, Fielding cư xử như một giáo sư đãng trí, nhưng chính ông ta là tay cáo già nhất.

"Có lẽ chúng đã ra khỏi nhà rồi," Geli nói. "Fielding và Tennant đã hai lần làm thế. Dẫn chó của Fielding đi dạo! Tôi sẽ tung một đội vào rừng ngay bây giờ."

"Nein," Ritter ngăn. "Tennant sẽ nghe thấy bọn họ."

"Anh có ý gì hay hơn?"

"Tôi sẽ đi một mình."

"OK. Tôi sẽ cài đặt một máy đo trường nhìn. Tennant có thể tìm cách chạy."

"Tôi không nghĩ thế. Chạy thì quả là ngu ngốc. Mà Tennant không ngu."

"Tại sao ngu?"

"Khi chạy thì người ta không đưa phụ nữ đi theo. Như vậy sẽ nhanh và nhẹ hơn."

Geli cười một mình. "Tennant không giống anh đâu Liebchen 3 ạ."

Ritter cũng cười. "Hắn cũng là đàn ông đấy chứ?"

"Hắn là người Mỹ và lớn lên ở miền Nam. Tôi biết nhiều gã như hắn hồi trong quân ngũ. Những anh hùng bẩm sinh. Tính cách lãng mạn. Nhiều tên chết vì thế."

"Giống như lão người Anh?" Ritter hỏi.

Geli nghĩ đến Andrew Fielding. "Đại loại thế. Thôi tiếp tục đi. Bảo Corelli bao vây mặt trước."

"Ja 4 ."

Geli ra khỏi ghế và bắt đầu dạo bước trên lối nhỏ giữa các giá đặt các thiết bị điện tử. Ả định gọi cho Skow lần nữa, nhưng Skow không muốn bị quấy rầy. Được thôi. Ả sẽ gọi khi Tennant chạy trốn, rồi xem thằng cha tự đắc này còn nói gì về chuyện già néo đứt dây nữa không.

--- ------ ------ ------ -------

1 Không có gì (tiếng Đức).

2 Không (tiếng Đức).

3 Cưng.

4 OK (tiếng Đức).
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8


Tôi lặng lẽ di chuyển giữa hàng cây tối thẫm. Rachel kêu lên như một con gấu mù quờ quạng phía sau tôi. Trên đường phố Manhattan có lẽ cô vận động như một trung vệ lão luyện, nhưng rừng xa lạ với cô. Tôi đi chậm lại chờ cô theo kịp rồi bảo cô nắm vào sau thắt lưng tôi. Cô làm theo.

Khi chúng tôi đi khỏi nhà chừng năm mươi mét, tôi hỏi, "Bây giờ cô đã tin những điều tôi nói về Fielding chưa?"

"Tôi tin anh làm việc với ông ấy," Rachel đáp. "Nhưng tôi không chắc ông ấy bị giết. Tôi nghĩ anh cũng thế."

Tôi nhảy qua khúc cây mới đốn, rồi giúp cô vượt qua. "Tôi tin rằng ông ấy bị giết. Chỉ có hai người trong Dự án Trinity phản đối những việc đã làm. Fielding là một, và bây giờ ông ấy chết. Tôi là người thứ hai."

"Anh có định nói cho tôi nghe về Trinity bây giờ không?"

"Nếu cô muốn nghe. Tôi tin giờ cô đã hiểu điều đó nguy hiểm cho cô."

Cô xuýt xoa khi bị cành cây thạch nam cào vào tay. "Tiếp tục đi."

"Khi cô đến nhà tôi hôm nay, tôi đang quay băng video để đưa cho luật sư của tôi. Ông ấy sẽ mở nó trong trường hợp có chuyện xảy đến với tôi. Tôi không bao giờ hoàn thành cuộn băng ấy được. Và sự thật là, tôi lo không biết có còn sống đến sáng mai nữa không."

Cô dừng lại trước lối mòn bị cây cỏ che lấp. "Sao anh không báo cảnh sát? Lu Li rõ ràng là cũng nghi ngờ giống anh, và tôi nghĩ có đủ chứng cớ gián tiếp để..."

"Cảnh sát thành phố không thể điều tra NSA. Và đó là kẻ đang giám sát Trinity."

"Thế thì gọi cho FBI."

"Chẳng khác nào bảo FBI điều tra CIA. Quan hệ giữa hai cơ quan ấy tệ đến mức bất kỳ việc gì cũng mất hàng tuần mới xong. Nếu cô thật sự muốn giúp tôi, hãy trở thành băng ghi hình cho tôi. Nghe những điều tôi nói ở đây, rồi về nhà giữ kín cho mình."

"Và nếu có chuyện gì xảy đến với anh?"

"Gọi cho CNN và New York Times, kể với họ mọi thứ cô biết. Cô càng kể sớm bao nhiêu càng an toàn bấy nhiêu."

"Sao anh không làm thế? Đêm nay?"

"Vì tôi không chắc là mình đúng. Vì tổng thống có thể tìm cách liên lạc với tôi lúc tôi đang nói. Và bởi vì, dù điều này nghe có vẻ trẻ con, đây là vấn đề an ninh quốc gia."

Ôm con chó nhỏ đang rên rỉ của Lu Li bên tay trái, tôi nhét khẩu súng vào túi quần và nắm tay kéo Rachel tiến lên. Thêm bốn mươi mét nữa, tôi thấy phía trước bóng tối càng dày đặc. Cây cối rẽ ra hai bên như hai hàng lính thưa thớt, và một bức tường nhân tạo đã chắn trước mặt tôi. Khi mắt tôi điều chỉnh lại tầm nhìn, tôi thấy cánh cửa mà tôi biết nằm kia. Tôi mở nó ra bằng bàn tay rỗi và dẫn Rachel vào. Chúng tôi bước vào vùng lòng chảo ngập ánh trăng, với những dãy đá chẻ xếp hàng.

"Trời," cô thốt lên.

Giảng đường trông như thể được một phép màu đưa từ Hy Lạp đến cánh rừng Carolina này. Bên phải chúng tôi là sân khấu treo, bên trái là những bậc thang đá dẫn qua các hàng ghế ngồi lên đến hàng cao nhất. Phía trên không xa lắm là đường Country Club. Từ trên con đường nhìn xuống tầm nhìn bị chắn gần hết bởi rừng thông và rừng cây gỗ cứng, nhưng tôi vẫn thấy những vệt sáng đứt quãng của đèn pha ô tô quét qua đầu chúng tôi.

Tôi cầm tay Rachel dắt lên bậc thềm đá và dẫn cô đến rìa sân khấu. Ở đó tôi quấn dây xích Maya vào một cột đèn thấp. Trong lúc con chó đánh hơi thứ mùi phảng phất nào đó, tôi đặt máy ghi âm xuống mép sân khấu và ấn nút RECORD. "Tôi là David Tennant, tiến sĩ y khoa," tôi nói. "Tôi đang nói với bác sĩ Rachel Weiss của trường y, Đại học Duke."

Khi phát lại. Tôi có một bản sao tĩnh lời nói của mình. Tôi nhìn đồng hồ. "Chúng ta cần nói chuyện dưới mười phút."

Rachel nhún vai, mắt cô đầy vẻ tò mò.

"Trong hai năm qua, tôi làm việc cho một Dự án đặc biệt của Cục An ninh Quốc gia. Nó được biết đến dưới tên gọi Trinity và đặt căn cứ trong một tòa nhà của Công viên Tam giác Nghiên cứu, cách đây mười sáu cây. Trinity là một công trình khổng lồ do chính phủ tài trợ, nhằm chế tạo một siêu máy tính có trí tuệ nhân tạo. Một máy tính biết suy nghĩ."

Cô có vẻ không ấn tượng lắm. "Chẳng phải chúng ta đã có máy tính làm được điều đó rồi sao?"

Điều lầm lẫn thông thường này giờ đây làm tôi ngạc nhiên, nhưng những ngày đầu đến làm việc ở Trinity, tôi cũng chẳng hiểu biết gì hơn. Trong vòng năm mươi năm, các nhà viết truyện khoa học viễn tưởng và các nhà làm phim đã tạo ra hình tượng về một "bộ óc điện tử vĩ đại" chiếm lĩnh thế giới. HAL, máy tính biết nói trong 2001: Space Odyssey, đã ăn sâu vào ý thức công chúng và gắn chặt ở đấy từ năm 1968. Trong ba mươi lăm năm tiếp theo, chúng ta đã chứng kiến cuộc cách mạng của máy tính kỹ thuật số, đến mức một người trung bình cũng tin rằng "máy tính biết suy nghĩ" là điều đã gần kề, nếu không phải là trong tầm khả năng của chúng ta. Nhưng thực tế khác xa. Tôi không có thời gian để đi sâu vào những thứ phức tạp của mạng lưới thần kinh hoặc trí thông minh nhân tạo mạnh mẽ. Rachel cần một bài vỡ lòng đơn giản và những thực tế về Trinity.

"Cô đã bao giờ nghe nói về một người đàn ông tên là Alan Turing chưa?" tôi hỏi. "Ông ta là một trong những người đã bẻ mã khóa Enigma của Đức trong Thế Chiến II. "

"Turing à?" Rachel trông có vẻ đăm chiêu. "Tôi có nghe cái gì gọi là trắc nghiệm Turing thì phải."

"Đó là một trắc nghiệm kinh điển về trí thông minh nhân tạo. Turing nói rằng có thể tạo ra trí thông minh máy móc khi có một nguời ngồi ở một bên tường, đánh các câu hỏi vào bàn phím, rồi đọc câu trả lời trên màn hình, mà vẫn tưởng rằng những câu trả lời đó do người khác ở phía bên kia tường đánh vào. Turing tiên đoán điều đó có thể xảy ra vào cuối thế kỷ hai mươi, nhưng cho đến nay vẫn chưa có máy tính nào từng vượt qua được thử thách đó. Nếu chỉ dùng công nghệ hiện thời thì có lẽ phải năm mươi năm nữa."

"Chẳng phải máy tính IBM cuối cùng đã đánh bại Garry Kasparov ở môn cờ vua sao? Tôi biết mình đã đọc thông tin ấy ở đâu đó."

"Cô muốn nói Deep Blue?" Tôi cười, tiếng cười nghe vang kỳ lạ trong giảng đường. "Phải! Nhưng nó thắng được là nhờ dùng thứ máy tính mà các nhà khoa học gọi là sức mạnh dã man. Bộ nhớ của nó chứa toàn bộ các ván cờ đã từng được chơi, và mỗi nước đi nó xử lý hàng triệu khả năng lựa chọn. Nó chơi cờ rất tốt, nhưng nó không biết nó đang làm gì. Là một con người, Garry Kasparov chưa bao giờ phải cân nhắc hàng tỷ khả năng - trong số đó có nhiều nước đơn giản đến mức ngớ ngẩn - như máy tính đã làm. Những kiến thức mà Kasparov có được giúp anh ta có những bước nhảy vọt theo trực giác, và mỗi lần như thế anh ta lại học thêm được một điều gì vĩnh viễn. Anh ta chơi bằng bản năng. Và không ai thật sự hiểu được điều đó nghĩa là gì."

Rachel ngồi lên mép sân khấu. "Vậy, anh muốn nói với tôi điều gì?"

"Rằng máy tính không suy nghĩ như người. Thật ra, nó chẳng suy nghĩ gì cả. Nó chỉ thực hiện các lệnh. Trong các chương trình quảng cáo trên ti vi cô hay nghe thấy 'phần mềm biết suy nghĩ' chứ gì? Vớ vẩn. Các nhà nghiên cứu trí thông minh nhân tạo thậm chí còn ngại dùng thuật ngữ thông minh nhân tạo nữa là."

"OK. Nhưng còn Trinity thì sao?"

"Chén Thánh."

"Anh định nói gì?"

"Mọi người đều muốn chế ra một máy tính hoạt động như bộ óc người, nhưng chúng ta không biết bộ óc người hoạt động như thế nào. Ai cũng thú nhận thế. Ờ... hai năm trước đây, có một người nghĩ rằng điều đó không nhất thiết phải là trở ngại như mọi người thường nghĩ. Rằng chúng ta có thể copy một bộ óc mà không cần thật sự hiểu mình đang làm gì. Dùng những công nghệ hiện tại."

"Người ấy là ai?"

"Peter Godin. Một tỷ phú."

"Godin Siêu máy tính ấy à?"

Bây giờ cô lại làm tôi ngạc nhiên. "Đúng."

"Có một siêu máy tính Godin-4 trong căn cứ ở TUNL, phòng thí nghiệm năng lượng cao ở Duke."

"Đúng, Godin là người đã sáng tạo ra Dự án Trinity."

Có vẻ như nhiều chi tiết tích lũy lại đã thuyết phục được cô.

"Loại công nghệ nào hiện nay có thể copy được bộ não người?"

"MRI."

"Máy chụp cộng hưởng từ?"

"Đúng. Tuần nào cô cũng cho chỉ định chụp MRI đúng không?"

"Tất nhiên."

"Trong máy chụp ấy có rất nhiều thông tin phải không?"

"Đôi khi nhiều hơn là tôi có thể xử lý."

"Cô Rachel, tôi đã từng thấy những máy chụp MRI chứa lượng thông tin nhiều gấp trăm ngàn lần cái máy mà cô vẫn thấy hằng ngày. Độ phân giải một trăm nghìn lần."

Rachel chớp mắt. "Nhưng làm sao có thể thế được. Anh còn thấy gì nữa?"

"Tôi đã thấy phản ứng giữa những khớp thần kinh cá biệt, được làm đông lạnh đúng lúc. Tôi đã thấy những bộ não người hoạt động ở cấp độ phân tử."

"Xạo."

Bác sĩ nào cũng sẽ nói như thế. "Không. Chiếc máy đó có thật. Nó đang ở trong một căn phòng cách chúng ta mười sáu cây. Chỉ có điều là không ai biết."

Cô lắc đầu. "Điều đó không có nghĩa gì cả. Tại sao một công ty lại phải giữ bí mật một việc như thế?"

"Bởi vì nó phải chịu sự ràng buộc về pháp lý do chính phủ quy định."

"Nhưng một chiếc MRI như thế có thể làm ra hàng trăm triệu đô la. Nó có thể phát hiện các tế bào ác tính rất sớm trước khi chúng phát triển thành khối u."

"Cô nói đúng. Đó là vấn đề chủ chốt của tôi với dự án này. Giữ không cho chiếc máy đó phục vụ các bệnh nhân ung thư là vô đạo đức. Nhưng giờ đây, ta chỉ cần thừa nhận rằng có một máy chụp MRI có thể tạo ra các mẫu 3D của bộ não, với độ phân giải đạt kích thước phân tử."

"Những bức ảnh chụp nhanh của não bộ."

"Về cơ bản, đúng. Ravi Nara gọi đó là những 'mẫu thần kinh'."

"Mẫu thần kinh. OK."

"Rachel, cô có nhận ra một trong những mẫu thần kinh đó là gì không?"

"Tôi biết rằng chỉ một trong số chúng là đủ để cách mạng hóa khoa học thần kinh. Nhưng tôi có cảm giác đấy không phải là điều chúng ta định nói."

"Một mẫu thần kinh chính là con người mà từ đó mẫu được lấy ra. Đúng vậy đấy. Những ý nghĩ của anh ta, trí nhớ, nỗi sợ hãi... tất cả mọi thứ."

"Nhưng... nó chỉ là một hình chụp, đúng không? Một bản đồ phân giải cao của bộ não."

"Không. Nó là bản sao được mã hóa của tất cả các phân tử trong bộ não, trong một tương quan không gian và điện hóa học tuyệt hảo. Điều đó có nghĩa là..."

"Khoan đã. Có phải anh sắp nói với tôi rằng họ có thể tải một trong những mẫu thần kinh đó vào máy tính?"

"Không. Nhưng đó là điều mà họ đã làm 24/24 giờ trong suốt hai năm để mong đạt được. Godin tiên đoán phải mất mười lăm đến hai mươi năm, nhưng chỉ trong mười chín tháng qua họ đã đi được một nửa chặng đường. Tôi chưa hề thấy một cái gì như thế. Trong lịch sử chỉ có một tiền lệ là Dự án Manhattan trong Thế Chiến II."

Rachel định nói, nhưng tôi giơ tay ra hiệu. Trên đầu chúng tôi hai ánh đèn pha chậm rãi quét qua với tốc độ chậm hơn một nửa tốc độ của các xe khác. Chúng chậm hẳn lại rồi tăng tốc và biến mất.

"Chúng ta cần phải nhanh lên."

"Nếu Trinity là tất cả những gì anh vừa nói, vậy thì tại sao nó lại đặt căn cứ ở Bắc Carolina?"

Đây không phải câu hỏi mà tôi trông đợi. "Cô có phải là một chuyên gia phân tích hàng đầu thế giới theo trường phái Jung không?"

"Ờ... một người trong số đó."

"Vậy tại sao cô công tác tại Bắc Carolina?"

Cô cau mày. "Bởi vì Đại học Duke ở đấy. Đó lại là chuyện khác."

"Không khác lắm đâu. Peter Godin muốn lập căn cứ cho Trinity ở gần phòng thí nghiệm R&D 1 của ông ta ở Mountain View, California. NSA cung cấp tài chính và nó muốn đặt căn cứ ở căn cứ quân sự Meade, Maryland. Công viên Tam giác là một cơ ngơi lý tưởng. Công nghệ cao mà lại xa khuất."

"Vậy mục đích cuối cùng là gì? NSA muốn làm gì với Trinity?"

"Chính phủ nhìn thấy những bước tiến cách mạng nhất trong khoa học đều liên quan đến tiềm năng vũ khí. Nếu có thể chế một cái máy như thế, chính phủ muốn là người đầu tiên thực hiện."

"Cái máy tính này thì có thể là loại vũ khí gì?"

"Cô hãy nghĩ đến Bão táp Sa mạc, Afghanistan, Iraq. Trong chiến tranh hiện đại, mọi thứ đều có thể đưa vào máy tính. Bẻ khóa mã, thử vũ khí hạt nhân, chiến tranh thông tin, các hệ thống trận địa. Nhưng Trinity sẽ không phải chỉ là một cải tiến. Nó có khả năng làm cho các siêu máy tính hiện tại trở thành lỗi thời như các mốt áo thun. Và nếu Fielding đoán đúng là nó có những khả năng lượng tử... thì các bộ mã hiện đại nhất ngày nay tiêu đời. Đó là lý do NSA chịu chi hàng tỷ đô la cho Trinity."

Rachel đang tiêu hóa những gì tôi nói. "Nhưng đây không chỉ là một siêu máy tính vượt trội về tốc độ. Chúng ta đang nói về loại máy tính có thể nghĩ như con người."

Tôi lắc đầu. "Chúng ta không thể chế tạo loại máy tính có thể nghĩ như con người. Chúng ta đang nói về việc sao chép bộ óc một cá nhân. Tạo ra một thực thể kỹ thuật số vốn là một cá nhân, dùng cho tất cả các mục tiêu thực tiễn. Với chức năng nhận thức của anh ta hoặc cô ta, với mọi hồi ức, hy vọng, ước mơ... mọi thứ, chỉ trừ thân thể. Chỉ cần nó chạy được với tốc độ của một máy tính kỹ thuật số. Nhanh hơn các hệ mạch sinh học một triệu lần."

Cô lẩm nhẩm như nói một mình. "Đó là lý do tại sao Andrew Fielding và Ravi Nara làm việc chung với nhau."

"Chính xác. Các nhà bác học đạt giải Nobel thuộc các lĩnh vực vật lý lượng tử và thần kinh học. Peter Godin kết hợp họ lại với nhau." Tôi kiểm tra lại xem băng ghi âm có còn quay không. "Nhưng tôi mới chỉ nói với cô một phần tiềm năng của Trinity. Một khi mẫu thần kinh của cô được nạp vào máy tính với tư cách Rachel Weiss, ưu thế về tốc độ đối với nguyên mẫu chưa phải là ưu thế duy nhất."

"Anh nói sao?"

"Giả dụ tôi quyết định học chơi piano. Cần ba năm học hành cật lực. Điều đó gây ấn tượng cho cô. Cô cũng muốn học chơi piano. Cô cũng phải mất trên dưới ba năm. Đó là nhược điểm của bộ não người. Những đường cong học tập ở mỗi người gần tương tự nhau. Nhưng mẫu thần kinh của cô trong máy tính không gặp trở ngại ấy. Toàn bộ lý thuyết âm nhạc có thể được tải về bộ nhớ của nó - bộ nhớ của cô - trong khoảng ba giây. Không có đường cong học tập nào cả."

Cô lắc đầu. "Anh đang nói rằng anh có thể tải toàn bộ kiến thức nhân loại vào máy tính ấy - vào tôi - trong vài giờ?"

"Về lý thuyết thì đúng thế."

"David, anh đang nói về một cái gì đó tựa thể... tựa như Thượng đế, gần như thế."

"Không hẳn thế. Vì mẫu thần kinh trong máy tính ấy không chỉ là một Rachel Weiss. Nó là một Rachel Weiss vĩnh viễn. Nó có thể được nhân bản và lưu lại, hoặc tải sang một máy tính Trinity khác. Nó không bao giờ phải chết."

Cô mấp máy môi định nói, nhưng không thốt ra lời nào.

"Cô đã bắt đầu tin tôi chưa?"

"Công việc của anh ở Trinity là gì?"

"Tôi được tổng thống chỉ định để đánh giá mọi tình thế khó xử về khía cạnh đạo đức có thể phát sinh. Trong Dự án Manhattan có những nhà bác học quay lại chống bom nguyên tử vì lý do đạo đức, nhưng họ không có tiếng nói. Tổng thống muốn giảm thiểu sự phản đối của công chúng nhất định sẽ xảy ra một khi Trinity trở thành hiện thực. Ông ấy biết anh tôi ở trường đại học và đã đọc cuốn sách của tôi về Y đức - hoặc đã xem loạt phim NOVA dựa trên cuốn ấy, có lẽ thế. Đó là lý do ông ấy đưa tôi vào dự án. Chỉ có thế."

Rachel lơ đãng nhìn ra hàng cây tối đen. "Điều anh nói nghe không hề đơn giản chút nào. Thật ra, nó có vẻ điên rồ." Cô quay lại nhìn tôi, đôi mắt lóe lên. "Anh nói mười chín tháng qua Trinity đã đi được nửa chặng đường tới thành công. Cái gì cản trở nó trong nửa chặng sau?"

"Chế tạo một máy tính đủ mạnh để giữ được cả một mẫu thần kinh trong mạch của nó. Bộ não người khá chậm chạp về phương diện tốc độ, nhưng về dung lượng lại tương đương. Nó chứa trên một trăm nghìn tỷ mối liên hệ khả dĩ, tất cả có thể tính toán đồng thời, và đấy mới là để xử lý thôi. Nó cũng chứa một lượng tương đương một triệu hai trăm nghìn tỷ byte của bộ nhớ máy tính."

Cô nhún vai. "Điều đó chẳng có nghĩa gì đối với tôi."

"Tương đương với số lượng nhật báo Wall Street phát hành trong sáu triệu năm."

Cô há hốc miệng.

"Khi Trinity bắt đầu, không một máy tính nào trên hành tinh có công năng lớn đến thế. Toàn bộ Internet thì có thể, nhưng nó quá phân tán và không đủ độ tin cậy để có thể kiểm soát được."

"Còn bây giờ?"

"Hãng IBM đã chế một máy tính tên là Blue Gene có thể đọ với bộ não về năng lực xử lý, nhưng nó không làm nổi các công việc của một đứa trẻ lên năm."

"Và Trinity thì khác?"

"Cô có thể tin như thế. Blue Gene có thể choán hết một gian phòng hơn 200m2 và cần máy điều hòa không khí ba trăm tấn để hoạt động. Trinity có kích thước của chiếc xe Volkswagen Beetle. Thế mà Godin còn cho là quá to. Ông ta luôn nói bộ óc người nặng có cân rưỡi và chỉ dùng có mười watt điện năng. Ông ta tin rằng giải pháp cho những vấn đề lớn cần phải đẹp. Thanh nhã."

Rachel nhìn chằm chằm vào những hàng ghế đá thoai thoải, cố sức hình dung một tương lai đang lao nhanh vào hiện tại. "Trinity mất bao lâu nữa để trở thành hiện thực?"

Tôi nghĩ đến khối than đen và tinh thể đang phát triển như một dạng sống trong phòng thí nghiệm tầng hầm của tòa nhà Trinity. "Ngay bây giờ có một chiếc máy đầu tiên với một trăm hai mươi tỷ liên kết, và một bộ nhớ gần như vô hạn."

"Nó có hoạt động không?"

"Không."

"Tại sao không?"

"Bởi dù ta có nạp được bộ não của mình vào máy, thì ta nói chuyện với nó thế nào đây? Bộ não người giao tiếp với thế giới bên ngoài thông qua một cơ thể sinh học có năm giác quan. Hãy tưởng tượng não của cô được nạp vào một chiếc hộp. Nó mù, câm điếc và liệt. Một khối run rẩy vì sợ hãi. Hãy cảm ơn Chúa vì điều ấy. Bởi vì một khi chiếc máy loại đó có thể nói được, nghe được, cử động được, ai dám nói trước nó có thể làm nên những chuyện gì."

Rachel ngước lên nhìn tôi vẻ quan tâm, "Nó có thể làm gì?"

"Cô có nhớ HAL trong 2001: Space Odysse không?

"Nhớ. Một máy tính đáng tin cậy nhất mà người ta đã từng chế ra. Ở Urbana, bang Illinois chứ gì?"

Tôi khẽ chặc lưỡi. "Nó là như thế cho đến khi nó giết phi hành đoàn trên con tàu vũ trụ. Rồi, hãy tưởng tượng HAL sẽ làm gì khi nó được kết nối với Internet."

"Anh nói xem."

"Một máy tính Trinity nối với một đường dây điện thoại có thể công nghiệp hóa trò bắt cóc con tin thế giới. Nó có thể đánh sập mạng điện, đường sắt, kiểm soát không lưu, hệ thống tên lửa đạn đạo, NORAD 2 , phố Wall. Nó có thể đòi hỏi bất kỳ chuyện gì nó muốn."

Cô lắc đầu bối rối. "Nhưng nó có thể muốn gì?"

"Một thực thể biết suy nghĩ có thể muốn gì? Đặc biệt xét về thực chất nó là người."

"Quyền lực?"

"Chính xác." Tôi nhảy lên khi chuông điện thoại di động reo. Màn hình hiển thị Andrew Fielding. Tôi nhấc máy. "Chị Lu Li à. Có chuyện gì xảy ra không?"

"Không có chuyện gì cả," Lu Li trả lời giọng run run. "Tôi lo cho Maya. Hình như tôi nghe thấy tiếng động bên ngoài. Bác sĩ David, anh mang nó về hộ tôi."

Con chó thôi đánh hơi mặt đất, ngẩng lên nhìn tôi và hếch đầu như thể lắng nghe.

"Chúng tôi về ngay đây."

"Bà ấy không sao chứ?" Rachel hỏi khi tôi tắt máy.

"Ừ. Bà ấy bảo chúng ta về, nhưng chúng ta còn phải đợi một tí."

"Tại sao?"

"Bởi vì NSA đã nghe được cuộc gọi vừa rồi. Nếu chúng bố trí người trong rừng cây, chắc bọn chúng sẽ di chuyển ngay bây giờ. Và chúng ta sẽ nghe được."

Rachel lo lắng liếc nhìn bức tường ngăn cách chúng tôi với rừng cây. "Anh có thực sự nghĩ rằng có người ngoài kia không?"

"Đó không phải điều cô sợ," tôi nói. "Điều cô sợ bây giờ là cô nghĩ ngoài đó có người."

Cô tụt khỏi sân khấu và nhìn vào cái cửa chúng tôi đã đi qua. Dễ tưởng tượng rằng có ai đang chờ phía sau.

"Anh nói rằng Fielding bị giết vì anh và ông ấy chống lại dự án. Chính xác thì các anh đã chống lại như thế nào?"

"Chúng tôi không chỉ chống lại nó. Chúng tôi còn làm cho nó ngưng lại. Bị treo. Fielding nỗ lực hết sức để làm điều đó, nhưng tôi cần xin sự can thiệp của tổng thống. Nó cũng giống như đình chỉ các công việc về bom nguyên tử trong Thế Chiến II vậy."

"Tại sao các anh lại muốn đình chỉ nó?"

"Tôi không dám chắc về lý do của Fielding. Tôi cho rằng ông ấy giấu tôi nhiều điều, để bảo vệ tôi. Còn về phần tôi, lý do rất đơn giản."

"Sáu tháng trước, chúng tôi thử máy Siêu cộng hưởng từ MRI. Đầu tiên chúng tôi dùng động vật thì không có vấn đề gì cả. Những người đầu tiên được máy chụp là sáu người trong nội bộ chúng tôi. Trong vòng một tuần, tất cả chúng tôi thấy xuất hiện những hội chứng thần kinh kỳ lạ. Tác dụng ngoại ý của việc bị phơi ra trước máy. Fielding tin rằng..."

"MRI không gây những tác dụng như vậy," Rachel ngắt lời.

"Không phải thứ máy mà cô sử dụng. Từ trường mà máy MRI của Trinity phát ra có cường độ mạnh hơn theo cấp lũy thừa so với các máy hiện nay. Chúng sử dụng vật liệu siêu dẫn cho phép những xung động dữ dội..."

Maya gừ gừ trong cổ họng mà nhìn lên hàng ghế đá thoai thoải. Tôi không nghe thấy tiếng động gì trong rừng cây, nhưng có lẽ con chó đã nghe được. Tôi bỏ máy ghi âm vào túi, bế con chó lên, rút súng và kéo Rachel đi ra qua cửa sân khấu.

Bóng tối bao trùm chúng tôi

"Bám sát sau lưng tôi," tôi nói, lom khom dưới một cành cây.

"Anh có nghe thấy gì không?"

"Không."

Nếu không có Rachel đi theo, tôi đã dễ dàng lẩn về nhà một cách an toàn. Nhưng lúc này chỉ có cách là đi thật nhanh. Tôi rẽ qua những bụi cây thấp, nhắc Rachel mỗi khi tôi gạt một cành cây có thể bật vào mặt cô. Cô kêu lên hai lần và vấp một lần, nhưng cô gượng được và cố bám sát gót tôi. Khi về gần đến nhà, tôi thấy ô cửa vàng trên cánh cửa dẫn ra hiên nhà Fielding. Bóng Lu Li đứng in lên đó, một mục tiêu quá rõ. Hình ảnh ấy làm tôi rùng mình.

Khi bà mở cửa ra, tôi kéo bà vào sâu trong buồng. Maya sủa ngậu lên mãi đến lúc bà khom người giơ tay ra đón. Nó nhảy tót lên tay bà trong khi Rachel đóng cửa kính lại.

"Gọi taxi đi," tôi thì thầm qua vai.

Rachel bước đến điện thoại.

Mắt Lu Li nhòe ướt. Tôi nắm khuỷu tay bà, con chó nhỏ nhắm vào tôi sủa. "Tôi ước gì có thể ở lại với chị đêm nay," tôi nói khẽ, "nhưng như thế dễ bị nghi ngờ hơn là tôi về nhà. Sáng mai đi làm tôi sẽ cố gắng tìm vài câu trả lời, bởi vậy tôi muốn mọi việc có vẻ bình thường nhất. Chị có hiểu không?"

"Hiểu."

"Tôi mang hộp đồ chơi của Fielding theo. Tôi không muốn ai tìm thấy nó ở đây. Như vậy được không?"

Lu Li gật đầu, trìu mến vuốt ve con chó nhỏ như với một đứa trẻ.

"Lúc ra về, tôi sẽ đánh xe vào ga ra sao cho không ai nhìn thấy tôi mang chiếc hộp đi. Nếu có ai hỏi tôi làm gì ở đây, chị cứ bảo rằng tôi chỉ đến chia buồn. Nếu họ có nghe lỏm gì được từ cuộc nói chuyện của chúng ta, chị cứ xử sự đúng như chính mình. Một bà quả phụ đang quẫn trí."

"Quẫn trí là cái gì?"

"Cực kỳ đau thương. Hoảng loạn."

Bà mỉm cười đầy can đảm. "Tôi không cần phải làm thế."

Tôi đặt tay lên vai bà, bóp nhẹ và nói gần như không thể nghe thấy. "Trong thư chuyển phát nhanh Andy gửi cho tôi, có một chất bột trắng. Trông gần giống như cát. Nó đang ở trong chiếc túi trên đi văng kia. Chị có biết gì về chuyện này không?"

Lu Li chăm chú nhìn đi văng, mặt bà nhăn lại vì suy tư. "Không. Không biết gì cả."

"Chị bỏ nó vào thùng thư FedEx phải không?"

"Phải. Sao anh biết?"

"Điều đó không quan trọng." Tôi biết Lu Li đã gửi thư vì trong giấc mơ trước tôi đã ở trong đầu Fielding. Tôi bỗng cảm thấy buộc phải rời khỏi ngôi nhà này ngay. "Rachel? Taxi đâu?"

"Tới ngay sau vài phút," cô trả lời ngay sau lưng tôi.

"Nhờ chị vào trong ga ra," tôi bảo Lu Li. "Khi nghe tôi bấm còi, chị mở cửa ra. Sau khi tôi lùi xe vào, chị đóng ngay cửa lại."

"OK." Bà lẳng lặng rời khỏi phòng.

Tôi nhặt túi Ziploc lên, dẫn Rachel qua phòng khách tối om, nơi có cửa sổ rộng trông ra phố. Tôi ném túi Ziploc lên ghế, rồi ngồi trên sofa đối diện cửa sổ đợi taxi đến.

"Taxi cho tôi à?"cô ngồi xuống bên tôi thì thầm hỏi.

"Phải."

"Nhưng xe tôi còn đậu ở nhà anh."

"Cô không muốn quay về nhà tôi đâu. Mai cô có thể lấy nếu muốn. Tốt nhất là cô gọi taxi đi làm."

"Tôi nghe anh nói với Lu Li là mai anh trở lại làm việc."

"Phải, nếu đêm nay tổng thống không gọi cho tôi."

"Tại sao? Nếu họ đã giết Fielding, lẽ nào họ sẽ không giết cả anh nữa?"

Câu hỏi của cô làm tôi thích thú một cách trái khoáy. "Nghe cứ như là cô chia sẻ các hoang tưởng của tôi ấy."

Môi cô mím chặt, và tôi thấy cô đang sợ thật sự.

"Coi nào, nếu họ thật sự muốn giết tôi, thì tôi đã chết rồi. Và nếu họ quyết định giết tôi trước sáng mai thì không gì ngăn được họ. Nhưng tôi nghĩ họ đang vô cùng lo lắng về việc tổng thống sẽ phản ứng như thế nào, nên chưa dám ra tay. Nếu tôi còn sống đến sáng mai thì tôi cũng sẽ đến nơi làm việc cũng an toàn."

Rachel thở dài và lấy mấy ngón tay xoa thái dương.

"Tôi không biết điều gì sẽ xảy ra," tôi thầm thì. "Nếu có ai hỏi cô cứ nói đúng sự thật càng nhiều càng tốt. Cô đến nhà tôi vì tôi bỏ mấy lần hẹn khám. Tôi nhận được điện thoại từ vợ một người bạn mới chết hôm nay. Bà ấy không có ai thân thích ở đây, và tôi muốn đến an ủi bà ấy. Chúng ta làm cho bà ấy nguôi ngoai và đi dạo với con chó của bà ấy. Đấy là tất cả những điều cô biết."

Cô dò xét khuôn mặt tôi dưới ánh sáng nhợt nhạt. "Đây không phải điều tôi mong đợi."

"Tôi biết. Cô thật sự nghĩ rằng tôi bị điên."

Cô cắn môi, một cử chỉ rất nữ tính. "Tôi đã nghĩ thế. Mặt khác tôi mong là mình lầm. Nhưng bây giờ tôi sợ. Tôi biết về những vấn đề tâm thần. Đây là vấn đề khác hẳn."

Tôi kéo cô lại gần và nói thầm vào tai cô. "Tôi mong cô hãy quên đi tất cả. Trừ khi có chuyện gì xảy ra với tôi. Khi đó cô hẵng nhớ. Nhớ và gào thét lên trời." Tôi đẩy cô ra và nhìn vào mắt cô. "Tôi sẽ không trở lại phòng khám của cô nữa đâu."

Cô trừng trừng nhìn tôi như thể tôi vừa nói, "Chúng ta sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa," mà trong thâm tâm chính tôi cũng cảm thấy thế.

"David..."

"Taxi của cô đến rồi." Tôi đứng đó, khi ánh đèn pha dừng lại trước cửa ngôi nhà, chú ý xem có đèn taxi trên nóc xe không.

Cô lắc đầu, gần như bất lực.

"Đừng lo," tôi nói. "Tôi sẽ không sao đâu. Cô đã giúp tôi rất nhiều."

"Tôi chưa làm được cái khỉ gì cho anh cả."

Tôi kéo cô khỏi khung cửa sổ, rút trong túi ra chiếc máy ghi âm, lấy băng ra đặt vào tay cô. "Nếu cô muốn giúp, đây là cơ hội." Tôi đã định tiễn cô đi, nhưng lại ngần ngừ. "Còn một việc nữa cô có thể làm."

"Nói đi."

Tôi chỉ chiếc túi Ziploc trên ghế. "Liệu ở Duke có ai xét nghiệm được chất bột này một cách an toàn xem có tác nhân lây nhiễm hoặc độc tố không?"

"OK. Ở đó có những người sống bằng nghề này mà."

Có một cái gối có vỏ bọc trên sofa. Tôi tuột vỏ gối ra, bỏ túi Ziplocs vào trong rồi đưa cho cô. "Cô phải hết sức cẩn thận với nó."

"Anh lại dạy khỉ leo cây rồi."

Tôi bóp nhẹ tay cô. "Cám ơn. Thôi nào, đi đi."

Cô không đi. Cô đứng kiễng chân, hôn nhẹ lên môi tôi. "Cẩn thận, làm ơn thật cẩn thận."

Tôi chăm chăm nhìn cô bỏ cái vỏ gối vào dưới áo khoác rồi đi ra tiền sảnh. Tôi nghe tiếng cửa trước khép lại nhẹ nhàng. Qua cửa sổ trước, tôi thấy cô đi đến taxi. Chiếc xe đỗ trên lối vào nhà Lu Li, rồi chạy ra quành lên phía đường Gimghoul.

Tôi ra xe của mình, lùi vào trước cửa ga ra nhà Fielding, bấm còi. Lu Li mở cửa từ bên trong, rồi đóng lại sau lưng tôi.

Bà mở cánh cửa phía khách, đặt chiếc hộp của Fielding lên ghế trước. Tôi với qua nó, nắm chặt cổ tay Lu Li, nhìn sâu vào mắt bà.

"Chị nói thật đi, Lu Li. Chị biết họ đang cố chế tạo cái gì ở Trinity phải không?"

Sau vài giây nhìn nhau bà gật đầu.

"Đừng kể chuyện đó với ai," tôi cảnh báo. "Đừng bao giờ."

"Tôi là người Trung Quốc, David. Biết gì sẽ đến."

Trong khoảnh khắc tôi vụt nhớ lại hình ảnh bà đứng đổ bóng trong khung cửa sân sau, mục tiêu sẵn sàng cho một vụ ám sát.

"Đi với tôi," bỗng tôi nói. "Ngay bây giờ. Chị bế cả con chó vào, rồi chúng ta đi. Tôi sẽ giữ cho chị an toàn."

Một nụ cười buồn thoáng hiện trên môi bà. "Anh người tốt. Giống Andrew. Đừng lo. Tôi đã tự thu xếp rồi."

Thu xếp? Tôi không thể hình dung ra đó là gì. Tôi không nghĩ bà có người quen ở Mỹ. "Họ là ai vậy?"

Bà lắc đầu. "Tốt hơn anh không nên biết. Được không? Tôi sẽ ổn thôi."

Vì lý do nào đó, tôi tin bà. Phát hiện ra rằng Lu Li không vì quá đau buồn mà trở nên bất lực, tôi hỏi thêm bà một câu.

"Trong thư Andy nói với tôi rằng nếu có chuyện gì xảy ra với ông ấy, tôi hãy nhớ đến chiếc đồng hồ bỏ túi. Có gì đặc biệt trong cái đồng hồ đó vậy?"

Lu Li nhìn vào mắt tôi dò xét một lúc lâu. Rồi bằng giọng nói hầu như không thể nghe thấy, bà thì thào, "Không phải đồng hồ. Dây chuyền."

"Dây chuyền nào?"

"Dây đeo đồng hồ."

Tôi nhắm mắt nhớ lại hình ảnh chiếc đồng hồ của Fielding. Nó bị xước nhưng là của gia bảo quý giá, và ở đuôi sợi dây xích là một viên pha lê nhỏ có hình dáng như viên kim cương.

"Viên pha lê?" tôi hỏi.

Lu Li mỉm cười. "Anh thông minh đấy. Anh đoán ra rồi."

--- ------ ------ ------ -------

1 Nghiên cứu và Phát triển (Reseach&Development ).

2 NORAD (North American Aerospace Defense Command): Bộ Tư lệnh Phòng không Bắc Mỹ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9


Geli vừa đi đi lại lại trong trung tâm điều khiển vừa hét vào ống nói với John Skow. Từ trước đến nay ả chưa bao giờ tỏ ra nóng nảy với gã, nhưng nếu ả không được Godin hậu thuẫn, Skow sẽ tỏ ra ngoan cố đến phát điên lên được.

"Anh có nghe tôi nói một lời nào không đấy? Anh không biết chuyện gì đang xảy ra à?"

Skow trả lời bằng giọng hạ cố, "Điều đó thì cô đã nói với tôi rồi. Bác sĩ Tennant và bác sĩ Weiss đến thăm bà quả phụ đau buồn và đi dạo với con chó nhỏ của bà ta. Bác sĩ Weiss hôn Tennant, rồi về nhà bằng taxi."

Geli nhắm mắt lại cố nén cơn giận. "Tennant lùi xe vào ga ra và đóng cửa lại trước khi rời khỏi nhà Fielding. Rõ ràng hắn mang theo vật gì đó mà không muốn chúng ta biết."

"Có thể," Skow nói, "nhưng theo cô nói thì hắn đang trên đường về nhà. Có vấn đề gì nữa?"

"Chúng ta không nghe thấy cái chết tiệt gì cả! Chúng bịt kín hết những con rệp, như đã làm ở nhà Tennant. Còn Weiss thì để luôn chiếc Saab của cô ta lại nhà Tennant, thay vì đi taxi đến đó lấy về. Tại sao cô ta làm thế? Tennant có lẽ đã lên kế hoạch chạy trốn, hoặc thậm chí công bố bí mật này. Có thể cả hai."

"Tôi nghĩ cô đang chụp những hoang tưởng của cô lên đầu Tennant đấy."

"Ritter nghe thấy chúng nói về những tác dụng phụ của MRI."

"Đó là chuyện vặt. Cô không thể biết điều đó, tất nhiên. Máy siêu MRI là mối quan tâm ưa thích của Tennant về đạo đức, và nó chẳng liên quan gì đến vấn đề trung tâm cả."

"Nhưng chúng đã nói chuyện mười phút trước đó. Ritter còn cho biết anh ta trông thấy chiếc máy ghi âm."

Skow thở dài. "Cô muốn tôi xử lý chuyện này thế nào?"

"Khử chúng đi."

Nhân vật NSA lấy hơi. "Tôi có nghe nhầm không đấy?"

"Anh thừa biết là không. Chúng ta phải giả thiết rằng Weiss đã biết tất cả chi tiết về Trinity và mối nghi ngờ của Tennant về cái chết của Fielding."

"Bác sĩ Weiss là một công dân không vi phạm pháp luật."

"Nếu anh không muốn khử chúng thì bắt chúng về thẩm vấn tra tấn."

Khoảng lặng tiếp theo như kéo dài vô tận. Cuối cùng Skow hỏi, "Cô có cho người theo dõi chiếc taxi chở Weiss không?"

Ritter đang theo dõi Weiss. "Người khá nhất của tôi. Anh ta có thể dễ dàng dàn dựng một vụ tai nạn."

Giọng Skow rít lên nghe chói tai. "Nghe đây, Geli. Người của cô sẽ theo chiếc taxi về đến nhà bác sĩ Weiss, rồi cắt liên lạc. Không được để cô ta nhìn thấy. Thậm chí không được thở mạnh về phía cô ta."

"Cái gì?"

"Gọi chó của cô về. Tốp theo dõi Tennant sẽ theo hắn về đến nhà và lập một trạm theo dõi cố định như cách thường làm."

Geli hầu như không kiểm soát được giọng nói của mình. "An ninh của Dự án bị xâm phạm. Nếu chúng ta cứ để mọi việc tiến triển, chúng ta sẽ mất khả năng kiểm soát tình hình, đấy là giả dụ lúc này ta vẫn còn khả năng đó."

"Cô Bauer, ngày mai tổng thống Mỹ có thể sẽ đòi gặp David Tennant tại Phòng Bầu dục. Cô có hiểu điều đó không? Có thể họ đã nói chuyện với nhau rồi. Bởi vậy cô hãy làm tất cả những gì có thể để bình tĩnh đi. Uống mấy viên an thần. Đi nằm đi! Tôi ghét thô lỗ nhưng đây là bước quyết định. Bây giờ... tôi đang ở cùng gia đình. Đừng quấy rầy tôi nếu không phải là Tennant đã nói chuyện với tổng thống, hoặc hắn bắn ai ngoài đường."

"Tôi muốn công khai phản đối quyết định này."

"Tốt, cứ việc."

"Tôi muốn nói chuyện với Godin."

"Không thể. Không thể tiếp cận ông ấy vào lúc này."

"Ông ấy đang ở đâu?"

"Ở Mountain View. Giải quyết khủng hoảng."

"Bữa trưa nay ông ấy còn ở thành phố mà."

"Peter không mua trực thăng để vứt trong kho."

Geli nghe tiếng bọn con trai tuổi teen nhà Skow cãi nhau và tiếng ti vi lảm nhảm vô nghĩa. "Tôi e rằng không thể chấp nhận cách tiếp cận tình hình của anh. Tôi không thể lơ là trách nhiệm của mình, vì anh chẳng dám làm gì cần thiết để bảo vệ Trinity cả."

"Cô mất trí hả? Tối nay tôi đã nói chuyện với Peter hai lần. Tôi biết ông ấy muốn làm gì và không muốn làm gì. Và nếu cô cứ muốn ôm đồm như thế... thì ngay đến bố cô cũng không cứu nổi cô đâu."

Geli vốn đã không thích Skow, bây giờ thì ả thực sự ghét hắn.

Ả gác máy và trừng trừng nhìn màn hình máy tính, trên đó vẫn hiển thị danh sách các đồ vật riêng tư của Fielding. Thế chó nào mà trên đời lại có kẻ thích chơi với lửa? Ả muốn đến ngay kho lưu trữ để kiểm tra đối chiếu các đồ vật với bản danh sách, nhưng lúc này ả đã ngán tận cổ chả thiết làm gì nữa.

Ở Trinity ả luôn phải làm việc với thông tin không đầy đủ. Điều đó làm ả chán ngán vô tận. Quân đội được rèn luyện nhiều để thích nghi với chuyện này. Anh có thể đứng gác một ngôi nhà trong 24 tiếng mà không biết nó chứa bom hạt nhân hay các thùng đồ lót. Nhưng đến bây giờ đã có quá nhiều việc ả không được biết. Bí mật trong lòng Trinity là kiểm soát mọi người mọi việc quanh nó. Dù sao ả cũng chẳng thể làm gì. Ả muốn nói chuyện với Godin nhưng lại không thể tiếp cận lão.

Đứng trước tình cảnh bế tắc, ả gọi cho Ritter Bock bảo hắn thôi theo dõi Weiss. Gã trai trẻ người Đức lầm lì này cần phải quay về trung tâm chỉ huy. Skow ra lệnh cho ả bình tĩnh lại, Geli biết chỉ có một cách để làm điều đó. Lúc này ả cần tuân lệnh hơn là ra lệnh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10


Giấc ngủ không mộng mị vụt tan trong tiếng mạch đập thình thịch và ký ức về Fielding nằm chết trong phòng làm việc của ông. Ánh nắng lọt qua khe rèm cửa sổ. Tôi đã sống sót qua đêm nhưng vẫn luồn tay xuống gối tìm khẩu 38 ly. Chỉ sau đó tôi mới đưa tay đập lên đầu đồng hồ báo thức, dập tiếng chuông.

Suốt đêm điện thoại không réo chuông, vậy là tổng thống đã không tìm tôi. Tôi kiểm tra hộp thư thoại phòng trường hợp ngủ quên không nghe thấy, nhưng chẳng có tin nhắn nào cả. Cố không nghĩ gì lôi thôi nữa, tôi bấm số gọi Lu Li Fielding. Tiếng máy trả lời. Giọng Fielding vẫn vang lên trong hộp thoại, đầy hài hước. Hy vọng lúc này Lu Li đã cách xa Chapel Hill hàng trăm cây số, tôi bỏ máy, cầm súng vào trong buồng tắm, khóa cửa lại sau lưng.

Tôi cạo râu thật nhanh. Một chiếc xe do thám đã đậu gần nhà tôi đêm qua lúc tôi từ nhà Fielding về. Nó vội lủi đi khi tôi đến gần. Sau khi bỏ mấy món đồ nhạy cảm trong cốp xe ra, tôi gọi cho Rachel để biết chắc cô đã về nhà. Tôi nằm yên không ngủ trong khoảng hai tiếng, lắng nghe xem có tiếng động nào khả nghi, đầu óc nghĩ đến chiếc đồng hồ bỏ túi của Fielding. Vỏ bằng vàng xỉn, đã mòn vì cọ xát nhiều, một mặt số bằng chữ số La Mã đã ngả vàng. Không phải đồng hồ, Lu Li bảo thế. Dây chuyền. Có lần tôi đã hỏi Fielding về viên pha lê trên dây đồng hồ. Ông kể rằng một vị đạo sư Tây Tạng đã tặng nó cho ông ở gần Lhasa, nó giúp cho trí nhớ không bị phai mờ. Ông cười ha hả khi kể chuyện đó, nhưng khi ấy tôi không hiểu ý vị của câu chuyện vui. Bây giờ tôi mới hiểu.

Một công nghệ vi tính mới do Trinity hoàn thiện là bộ nhớ lưu trữ hình ảnh không gian ba chiều. Thay vì lưu dữ liệu vào mấy con chíp tí xíu, các kỹ sư của Trinity đã lưu chúng dưới dạng hình ảnh ba chiều trong phân tử của những tinh thể ổn định. Dùng laser để đọc chép dữ liệu, họ đã lưu được những lượng thông tin cực lớn trong các nguyên tử bố trí đối xứng của pha lê. Những viên pha lê tôi đã thấy ở phòng thí nghiệm hình ảnh ba chiều của Trinity có kích thước một quả bóng bầu dục, nhưng không có lý gì những viên pha lê nhỏ hơn không thể sử dụng được. Như cái viên pha lê trên dây đeo đồng hồ của Fielding.

Bằng cách nào đó, ông bạn người Anh này đã tải được các dữ liệu của Trinity vào viên pha lê trên dây đồng hồ. Và bởi vì không có kỹ sư hoặc nhà khoa học nào ngoài những thành viên cơ mật của Trinity biết về khả năng này, nên Fielding đã mang nó ra vào phòng thí nghiệm mà chẳng mảy may bị nghi ngờ.

Nhưng tại sao ông lại ăn cắp thông tin? Để bán cho kẻ trả giá cao nhất ư? Fielding là người truyền thống. Cho dù ông có bị túng quẫn về tiền bạc đi nữa, thì tôi cũng không bao giờ nghi ngờ ông có dính líu đến hoạt động gián điệp. Hay là ông ôm ấp một tư tưởng bí mật nào đó? Hay từ bỏ một tư tưởng? Hay ông là nhà khoa học với tư tưởng chính trị non nớt tin rằng mọi dân tộc nên được chia sẻ quyền tiếp cận những phát minh khoa học mới nhất? Có thể lắm. Nhưng tôi không nghĩ ông muốn một nước hiếu chiến nào đó lại có một vũ khí mạnh như máy tính Trinity. Nghe Fielding nói, có thể thấy ông không muốn bất kỳ một nước nào có nó.

Phải vậy không? Ông chẳng đã làm hết sức mình để ngăn không cho Trinity trở thành hiện thực đó sao? Kịch bản này có vẻ hợp lý nhất, nhưng tôi không đủ thông tin để đoán chắc. Và nếu không có chiếc đồng hồ ấy tôi không thể chứng minh được điều gì.

Tôi tắm dưới vòi hoa sen nóng rẫy, rồi mặc một chiếc quần cotton cứng và áo khoác thể thao, rảo bước ra xe, cố không nghĩ nhiều về những việc sắp làm. Mục đích đầu tiên của việc trở lại Trinity là để tìm chiếc đồng hồ của Fielding, nhưng sự thật là tôi không thể làm gì khác hơn. Ở lì trong nhà chỉ tổ kéo bọn theo dõi của NSA đến gần hơn, còn bỏ trốn - như tôi hy vọng Lu Li đã làm - sẽ khiến cho cả cơ quan chống lại tôi, nhưng nếu cứ duy trì được cái ảo tưởng là mọi chuyện vẫn bình thường - cho đến lúc tổng thống trở về - là tôi có thể trả thù cho cái chết của Fielding.

Trong những ngày giao thông thuận lợi, đi từ nhà tôi ở khu ngoại ô Chapel Hill đến tổ hợp Trinity mất độ hai mươi phút. Công viên Tam giác Nghiên cứu, nơi ẩn náu gọn ghẽ của tập đoàn nghiên cứu khoa học, ở địa phương được gọi là RTP, nằm giữa Raleigh và Durham, tên được đặt theo tam giác hình thành bởi trường y của Đại học Duke, UNC ở Chapell Hill và bang Bắc Carolina. Những con đường lặng lẽ xuyên qua những bãi cỏ rộng mênh mông gợi nghĩ đến một câu lạc bộ thể thao ngoài trời thượng lưu nào đó, nhưng thay vì những sân golf, khu vực các phòng thí nghiệm RTP rộng gần ba nghìn ha này thuộc quyền sở hữu của các hãng DuPont, 3M, Merck, Biogen, Lockheed và hàng chục công ty danh tiếng khác. Hằng ngày có đến bốn mươi lăm nghìn người làm việc phía trong hàng rào, nhưng chưa đến ba trăm người biết những gì xảy ra sau các bức tường của tòa nhà Trinity. Tôi lái chầm chậm, ao ước một cách trẻ con rằng giá cứ đi mà sẽ không bao giờ đến.

Cách phòng thí nghiệm Trinity hai trăm mét có một tấm biển khiêm nhường ghi hàng chữ ARGUS OPTICAL. Một tòa nhà năm tầng bằng thép và kính đen trong khu vực cấm, nằm trong khu rừng hai tư héc ta, có tầng hầm rộng và sân bay trực thăng. Kết cấu thép và kính chẳng qua chỉ là cái vỏ để trưng bề ngoài. Phía sau đó, lớp vỏ bằng đồng công nghệ cao có tên mã hóa là Tempest bao bọc tòa nhà bên trong, ngăn ngừa bức xạ điện từ ra hoặc vào Trinity. Chất liệu đó cũng được dùng để bảo vệ các tòa nhà điều hành của NSA ở căn cứ quân sự Meade.

Vì tòa nhà nằm trên một mảnh đất trũng hình lòng chảo nên hai tầng đầu bị khuất tầm mắt. Cửa vào chính nằm trên tầng ba. Để vào được đó, nhân viên phải đi qua một lối đi hẹp có mái che dài bốn mươi mét. Bên trong chiếc cổng vòm kiên cố ở cuối lối đi ấy, họ đụng phải một hành lang hẹp có một sĩ quan an ninh canh gác, và phải dàn hàng trước các máy dò kim loại, máy dò bom mìn, máy dò huỳnh quang tinh nhạy. Muốn vào, phải có thẻ căn cước dán ảnh, phải quét dấu vân tay, các túi bọc mang theo phải được kiểm soát.

Một lính gác bấm mở cửa, qua một lối đi có mái vòm, tôi đi thẳng tới bàn kiểm tra an ninh, nét mặt không để lộ chút lo lắng nào.

"Chào bác sĩ, " người lính gác tuổi trung niên tên là Henry chào tôi.

Đôi khi tôi nghĩ Henry được thuê qua một trung tâm tuyển lựa. Tất cả nhân viên an ninh khác đều là những cô cậu cao gầy, tuổi chưa đến ba mươi, mặt mũi nhẵn nhụi, mắt cú vọ và không có chút mỡ thừa. Chỉ Henry, người gác cổng, là chào hỏi mọi người.

"Chào bác Henry," tôi đáp.

"Có cuộc họp trên phòng hội nghị lúc chín giờ."

"Cám ơn."

"Anh còn bốn phút nữa."

Tôi liếc đồng hồ, gật đầu.

"Vẫn chưa kết thúc vụ giáo sư Fielding," Henry nói. "Họ nói ông ấy chết trước khi xe cứu thương đến đây."

Tôi thở thận trọng. Cuộc trao đổi này đang được các camera bí mật ghi lại. "Đôi khi chuyện đó xảy ra với trường hợp đột quỵ."

"Không phải là một cách ra đi tồi. Thật chóng vánh, ý tôi muốn nói thế."

Tôi cố nặn ra một nụ cười, rồi áp ngón trỏ phải lên một máy quét nhỏ. Sau tiếng bíp của máy báo hiệu nhận dạng trùng khớp, tôi đi qua dãy thiết bị phát hiện vũ khí, vào cầu thang lên tầng năm, nơi có các văn phòng hành chính và phòng hội họp.

Một dải dây vàng của cảnh sát chăng quanh cửa phòng đóng kín của Fielding. Ai đã chăng nó ở đây? Chắc chắn là NSA không cho phép cảnh sát địa phương hoặc cảnh sát bang đi vào khu vực này. Liếc ngang dọc hành lang vắng bóng người, tôi vội xoay thử tay nắm cửa. Khóa. Và không phải loại khóa nhẹ thường mua ở cửa hàng ngũ kim. Nếu chiếc đồng hồ bỏ túi của Fielding ở bên trong phòng làm việc của ông thì tôi không thể nào lấy được.

Tôi bước tiếp qua mấy cánh cửa tới phòng làm việc của mình, đóng cửa lại, rồi ngồi xuống trước máy tính gốc. Một bộ phận của mạng nội bộ chỉ dành cho các nhà khoa học Trinity, không kết nối với thế giới bên ngoài. Để truy cập Internet, tôi phải dùng một máy tính thứ hai không có cổng và ổ đĩa nào mà qua đó các file có thể từ Trinity truy xuất ra ngoài.

Màn hình máy gốc của tôi hiện lên e-mail nội bộ: lời nhắc về một cuộc họp được bố trí tại phòng hội nghị sau hai phút nữa. Tôi rùng mình ớn lạnh nhận ra mình đang phần nào mong chờ sẽ đọc được một e-mail hài hước của Fielding. Ông hay gửi cho tôi mấy mẩu chuyện cười hay trích dẫn mỉa mai từ các nhà khoa học hoặc triết học đã chết: Các nhà khoa học trên sáu mươi tuổi làm nhiều chuyện có hại hơn là có lợi! - T.H. Huxley - đại loại thế. Nhưng hôm nay không có tin nhắn nào. Và vĩnh viễn không bao giờ còn nữa. Tôi nhìn quanh phòng với ánh mắt trống rỗng. Fielding đi rồi, và tôi hoàn toàn mất phương hướng. Chúng tôi đã cùng nhau hãm Trinity lại trong sáu tuần lễ căng thẳng, làm cho các đồng nghiệp tức giận khi chúng tôi cố gắng vô vọng tìm nguyên nhân gây ra tác dụng ngoại ý của MRI lên sáu nhân vật chủ chốt của Trinity. Cho đến hôm nay vấn đề đó vẫn còn nguyên chưa được giải quyết.

Không phải là tôi tự nguyện cho máy siêu MRI quét qua vì không biết gì. Lý thuyết rất đơn giản: vì loài Homo sapiens vốn tiến hóa trong từ trường trái đất thì năng lượng từ trường của một máy MRI chẳng thể gây nguy hiểm cho sức khỏe của nó. Điều này đã được chứng minh qua vô số lần sử dụng máy MRI thông thường, tạo ra từ trường mạnh gấp ba mươi ngàn lần từ trường trái đất. Nhưng máy Siêu MRI do Trinity phát minh - sử dụng vật liệu siêu dẫn và những nam châm khổng lồ - tạo ra một từ trường lớn hơn từ trường trái đất tám trăm ngàn lần. Những tác dụng phụ khó chịu như làm nóng mô đã được giải quyết tốt trong các thí nghiệm ở động vật, nhưng trong nhiều ngày sau khi tiến hành "siêu chụp", tất cả chúng tôi đã trải qua những triệu chứng rối loạn thần kinh.

Jutta Klein, người thiết kế máy Siêu MRI, bị mất trí nhớ ngắn hạn. Ravi Nara chịu sức ép kinh khủng của các xung động tình dục (y đã bị bắt gặp nhiều lần đang thủ dâm trong phòng làm việc hay trong toilet). John Skow bị chứng run tay, còn bản thân Godin thì bị động kinh. Fielding, thật ngạc nhiên, bị hội chứng Tourette và thường xuyên buột ra những câu chữ không thích hợp. Còn tôi thì bị chứng ngủ rũ.

Vì Ravi Nara, nhà thần kinh học đoạt giải Nobel của chúng tôi, không thể tìm thấy cách giải thích nào về mặt y học cho những triệu chứng hỗn loạn đột ngột này, nên toàn bộ các cuộc chụp Siêu MRI được tạm ngưng. Công việc trên máy tính Trinity vẫn tiếp tục, nhưng máy Siêu MRI đã được đưa ra khỏi dây chuyền, các kỹ sư của Godin chỉ có sáu bản chụp nguyên gốc để khảo sát và không ai biết như vậy có đủ làm nên một bước nhảy vọt trong máy tính mẫu hay không. Nara thất bại rồi, Fielding bắt đầu điều tra những tác dụng ngoại ý này trong thời gian rảnh rỗi. Sáu tháng sau, ông đề xuất rằng những tác dụng ấy là do các quá trình lượng tử trong não chúng tôi bị phá vỡ gây nên - và bổ trợ cho lý thuyết của mình bằng hai mươi trang giấy dày đặc các phép toán phức tạp. Nara cãi rằng không có gì trong lịch sử thần kinh học chứng tỏ rằng não người diễn ra các quá trình lượng tử. Chỉ có vài nhà vật lý - trong đó có Roger Penrose - ủng hộ lý thuyết "tân kỳ" của nhận thức này, tuy vậy Fielding vẫn lao như điên vào công việc để chứng minh lý thuyết của mình là đúng.

Peter Godin lúc đầu ủng hộ Fielding, nhưng chẳng bao lâu sau lão lại cho tiếp tục thí nghiệm MRI trên loài linh trưởng. Tinh tinh và vượn không có biểu hiện bị tác dụng phụ. Fielding lập luận rằng các giống vượn không có ý thức như con người, vậy nên trong não chúng không có các quá trình lượng tử để bị phá vỡ. Godin phớt lờ. Lúc đó tôi báo cáo những hoài nghi của Fielding cho tổng thống, và ông đã chính thức ra lệnh đình hoãn dự án, cho đến khi có một cuộc nghiên cứu thấu đáo về các tác dụng ngoại ý.

Đó là chuyện cách đây sáu tuần. Từ đó đến nay, Fielding và tôi đã làm việc hầu như suốt ngày đêm để chứng minh lý thuyết về sự phá vỡ các quá trình lượng tử của ông. Tôi cảm thấy mình như một người phụ việc cho Einstein, gọt bút chì và ghi chép các nhận xét trong khi thiên tài làm việc bên cạnh. Tuy nhiên, dù cực kỳ thông minh, Fielding vẫn chưa chứng minh được lý thuyết của ông. Còn quá nhiều điều chưa biết về bộ não. Bây giờ ông chết khi chưa chứng minh được mối liên hệ giữa MRI và những tác dụng ngoại ý, tôi không thể hy vọng chặn lại cơn triều của ý chí tập thể đòi tiếp tục dự án. Không có bằng chứng về tác hại, Trinity lại tiếp tục.

Trận chiến sẽ bắt đầu ngay trong vài phút, sau mấy lời trống rỗng tỏ lòng tiếc thương Fielding "ra đi đột ngột". Tôi bước đến trước cửa phòng họp, mồ hôi rịn ra trên mặt.

Phòng họp trống rỗng.

Tôi chưa bao giờ đến đầu tiên ở bất kỳ cuộc họp nào. Những người chủ chốt khác buộc phải đến đúng giờ. Tôi rót cà phê từ bình trên tủ buffet ra, ngồi vào góc bàn phía xa và cố giữ bình tĩnh.

Mọi người đi đâu tiệt cả thế này? Đang quan sát tôi từ phòng an ninh chăng? Họ giấu camera ở đâu? Đằng sau một bức tranh? Phía bên phải tôi treo một bức ảnh đen trắng hiếm có, chụp các nhà vật lý chủ đạo của Dự án Manhattan: Oppenheimer, Szilard, Fermi, Wigner, Edward Teller. Họ đứng thành một nhóm thân ái trước dãy núi Oscura ở New Mehico, những người khổng lồ của khoa học ấy, sau này mỗi người đi theo một số phận tiền định là nổi danh hay ô nhục, tùy theo quan điểm của họ. Một vài người, như Teller hiếu chiến, đã vươn lên trong vinh quang rực rỡ, những người khác thì không được may mắn như vậy. Oppy bị bọn người ti tiện tước mất giấy phép an ninh mà ông cần để làm việc, và sống như một cái bóng của cuộc đời ông đã từng sống. Nhưng năm 1944 họ cùng nhau đứng đó, trong những bộ âu phục sẫm màu giữa cát trắng sa mạc. Họ chăm chăm nhìn qua bàn hội nghị của Trinity như những vị thánh bảo hộ, ánh mắt biểu lộ sự kết hợp bí hiểm của hài hước, khiêm nhường và trí tuệ khó sánh. Trinity chỉ có duy nhất một nhà bác học có được những phẩm chất ấy, nhưng ông đã chết hôm qua trên sàn phòng làm việc của mình.

Nhiều giọng nói từ hành lang vọng vào phòng hội nghị. Tôi ngồi thẳng người trên ghế khi các đồng nghiệp bắt đầu thủng thẳng bước vào, cố làm ra vẻ tự nhiên. Tôi cảm thấy họ vừa mới rời khỏi một cuộc họp riêng mà chủ đề duy nhất là "xử lý" tôi.

Người đầu tiên là Jutta Klein, người phụ nữ duy nhất trong tập thể khoa học này. Vốn là trưởng nhóm nghiên cứu của tập đoàn Siemens ở Đức, bà Klein tóc hoa râm - cũng đoạt giải Nobel vật lý - đã được Trinity mượn trong suốt thời gian dự án. Với sự trợ giúp của Fielding và một nhóm kỹ sư đến từ General Electric, bà đã thiết kế, chế tạo ra máy Siêu MRI thế hệ bốn. Hiện giờ bà giám sát hoạt động của con vật khổng lồ đồng bóng này.

"Guten Morgen 1 , " bà chào tôi một cách khô khan rồi ngồi vào bên phải tôi, khuôn mặt nghiêm nghị không thể hiện cảm xúc gì.

"Morgen," tôi đáp lời.

Ravi Nara vào phòng ngay sau Klein. Y ngồi cách tôi ba ghế, nhấn mạnh khoảng cách trong quan hệ giữa chúng tôi gần đây. Nhà tâm thần học trẻ tuổi người Ấn này cầm một chiếc bánh rán vòng phủ sô cô la trong bàn tay nâu sạm, nhưng bàn tay phải của y thò ra từ khuôn bó bột. Tôi cố nín cười. Cách đây bốn hôm, y mang một ca cà phê pha kim loại vào phòng máy Siêu MRI và đặt lên quầy. Khi Klein mở máy để thí nghiệm trên một con tinh tinh, chiếc ca bỗng bay vọt qua phòng, văng vào tay Nara khiến tay y đập vào máy làm giập khớp xương trụ. Klein bảo rằng y nên tự coi là đã gặp may. Có lần trong khi Siêu MRI làm việc, một kỹ thuật viên mượn của Siemens đã chết do máy xúc kim loại EKG hất cô vào máy và nghiến vỡ sọ cô.

"Chào David."

Tôi ngẩng lên thấy John Skow tươm tất trong bộ cánh hiệu Brooks Brothers ngồi vào chiếc ghế đầu bàn. Là Phó Giám đốc NSA, có thể nói Skow là người có thẩm quyền cao nhất về chiến tranh thông tin, và là giám đốc danh nghĩa của Dự án Trinity. Nhưng chính Peter Godin mới là người quyết định đường đi nước bước của Trinity. Quan hệ giữa Godin và Skow chẳng khác gì quan hệ giữa Tướng Leslie Groves và Robert Oppenheimer ở Los Alamos. Groves là một nhà chỉ huy lạnh lùng, nhưng nếu không có sự hợp tác của Oppenheimer thì ông ta không thể nào có được bom nguyên tử. Như vậy, quyền năng tối thượng nằm trong tay nhà khoa học dân sự, chứ không phải giới quân sự.

"Chào Skow," tôi nói, thậm chí không cả mỉm cười.

"Ngày hôm quả thật là một đòn khủng khiếp với tất cả chúng ta," gã ngân nga cái giọng Boston quý tộc của mình, đôi môi mỏng chỉ hơi mấp máy. "Đặc biệt là với anh, David ạ."

Tôi cố tìm vẻ đau thương chân thành trong giọng nói của gã. Nhân vật NSA này là một tay quan liêu sành sỏi, nên sự chân thành của gã thật khó mà đo đếm được.

"Peter sẽ đến đây ngay trong vài phút nữa," gã nói. "Tôi nghĩ từ nay trở đi ông ấy sẽ là người đến trễ nhất."

Tôi cười thầm. Hồi trước, Fielding luôn là người đến cuối cùng những khi ông chán họp hành. Những hôm ông vắng mặt không lý do, tôi là người được phái đi tìm ông. Tôi thường thấy ông đang vùi đầu vào đống phương trình trong phòng làm việc của mình.

Một tiếng chửi thề khẽ lọt qua cánh cửa mở, báo hiệu Godin đến. Nhà bác học dẫn dắt Trinity bị chứng thấp khớp hành hạ, đôi khi chỉ đi bộ thôi đã là một cực hình đối với lão. Ở tuổi bảy mươi mốt, Godin là nhà bác học hàng đầu của dự án này. Khi lão ra đời, máy điện toán dùng đèn chân không còn chưa xuất hiện, thế mà qua bốn chục năm, "ông già" của dự án Trinity đã đẩy máy điện toán kỹ thuật số đi xa hơn và nhanh hơn bất kỳ một nhà bác học mê mụ đèn tia âm cực nào từng trượt ván ra khỏi thung lũng Silicon.

Giống như Seymour Cray - cha đẻ của siêu máy tính - Godin đã từng là một trong kỹ sư đầu tiên thuộc Hệ thống Kiểm soát Dữ liệu vào đầu những năm 1950. Năm 1957, lão cùng với Seymour rời bỏ công ty này để giúp thành lập Viện Nghiên cứu Cray. Godin là thành viên nhóm nghiên cứu tạo ra 6660 và Cray 1 nổi tiếng, nhưng khi Cray 1 không còn kiểm soát nổi sự bành trướng quá nhanh của Cray 2, Godin quyết định đã đến lúc bước ra khỏi cái bóng ông thầy của mình. Lão đến gặp hết chủ nhà băng này đến chủ nhà băng khác, vay được sáu tỷ đô la, và sáu mươi ngày sau bắt đầu khai trương Siêu máy tính Godin ở Mountain View, California. Trong khi Cray vật lộn để thực hiện cuộc cách mạng Cray 2, thì Godin cùng với nhóm nhỏ của mình sáng chế ra chiếc máy bốn bộ vi xử lý thanh nhã và tin cậy, bằng cách nâng tốc độ lên gấp sáu lần, nó đã làm cho Cray 1 mất ưu thế hàng đầu. Tuy chưa phải là một tiến bộ có tính cách mạng, nhưng đã có một phòng thí nghiệm vũ khí của chính phủ đề nghị mua nó. Với tám tỷ đô la mỗi chiếc máy bán ra, Godin đã nhanh chóng trả hết nợ và bắt tay vào thiết kế chiếc siêu máy tính mơ ước của mình.

Chạy đua với các cơ quan chính phủ và với bản thân Seymour Cray, Godin đã có chỗ đứng trong thị trường siêu máy tính, và lão không bao giờ ngoái lại. Khi sự kết thúc chiến tranh lạnh gần như đã quét sạch các cơ hội làm ăn của siêu máy tính, Godin chuyển sang công nghệ xử lý đồng thời, và vào giữa những năm chín mươi, các máy tính của lão đã chiếm ưu thế hoặc hất cẳng máy của Cray ở NORAD, NSA, Lầu Năm Góc, Los Alamos, Lawrence Livermore và các căn cứ tên lửa trên hầu khắp đất nước. Thời cơ đến, Godin vừa là người tiên phong vừa là người nối gót, nhưng lão là người đầu tiên trụ lại được.

Mọi người ngước nhìn lên khi lão già bước vào phòng họp, còn tôi thì gần như đứng hẳn lên. Khi tôi mới đến đây hai năm trước, Godin trông còn trẻ hơn cả Fielding, lúc đó mới sáu mốt tuổi. Thế mà hai năm dẫn dắt Trinity đã làm Godin già đi kinh khủng. Mặt lão có lúc trông phì ra như bệnh ung thư dùng steroid. Lúc khác, nó lại quắt lại như những hốc xương, tóc thì gần như rụng hết. Hôm nay trông lão có vẻ như sắp sụp xuống trước khi đến được bên bàn. Lão đã từng nói với tôi rằng trong những lúc sáng tạo căng thẳng, cơ thể lão luôn chịu sự biến đổi về vật lý. Godin thường xuyên làm việc không nghỉ năm sáu mươi giờ liền, và mặc dù biết làm thế sẽ lấy đi của lão nhiều năm tuổi thọ, lão cho rằng đó là cái giá công bằng phải trả cho những gì lão đạt được khi còn đứng trên mặt đất này.

Đôi mắt màu xanh nhạt của lão lướt qua phòng một lượt, dừng lại nơi tôi lâu hơn những người khác. Sau đó lão gật đầu chào tất cả mọi người rồi ngồi vào chiếc ghế trống bên cạnh Skow.

"Vâng, giờ tất cả chúng ta đã có mặt cả đây," Skow nói với vẻ trang trọng như đang hành lễ, "Tôi sẽ rất thiếu sót nếu cứ bắt đầu cuộc họp mà không có đôi lời về tổn thất kinh hoàng mà chúng ta - và dự án này - đã phải chịu ngày hôm qua. Sau khi cuộc giải phẫu tử thi hoàn tất, chuyên gia nghiên cứu bệnh học khẳng định rằng tiến sĩ Fielding chết do xuất huyết não. Ông..."

"Chuyên gia nghiên cứu bệnh học ư?" tôi cắt ngang. "Cán bộ pháp y nhà nước à?"

Skow nhìn tôi vẻ nhẫn nhịn. "David, anh biết rằng chúng ta không ở trong tình trạng an ninh thông thường. Chúng ta không thể để chính quyền địa phương dính vào. Nguyên nhân tử vong của tiến sĩ Fielding được chứng thực bởi một chuyên gia nghiên cứu bệnh học của NSA ở căn cứ quân sự Meade."

"NSA có chuyên gia nghiên cứu bệnh học?" Tôi hiểu tại sao cơ quan cần bác sĩ tâm thần. Bẻ mã khóa là một nghề cực kỳ căng thẳng. Nhưng tại sao cần nhà nghiên cứu bệnh học?

"Cơ quan đã nhận được ý kiến bổ sung đầy đủ của các chuyên gia y khoa," Skow nói như hướng dẫn viên của nhà nước. "Một số được thuê trực tiếp, một số là các bác sĩ chuyên khoa được đánh giá kỹ càng." Gã liếc nhìn Godin, lão này đang nhắm tịt mắt. "Anh nghi ngờ về nguyên nhân tử vong của Fielding phải không?"

Đến lúc quyết đấu đây. Găng tay đã ném ra bàn rồi.

"Xét cho cùng," Skow nói bằng giọng hạ cố, "anh cũng là một bác sĩ nội khoa có kinh nghiệm. Phải chăng anh thấy có gì mâu thuẫn trong ca đột quỵ này?"

Tôi cảm thấy không khí căng thẳng. Mọi người đang chờ tôi nói, đặc biệt là Ravi Nara, người đã chẩn đoán là Fielding chết do đột quỵ.

"Không," cuối cùng tôi nói. "Ravi bảo anh ấy thấy hiện tượng liệt, cấm khẩu, dãn đồng tử ngay trước khi chết. Các dấu hiệu ấy phù hợp với đột quỵ. Có điều... thông thường, nó phải kéo dài đôi chút trước khi chết. Sự đột ngột khiến tôi ngạc nhiên."

Chẳng khác gì không khí thoát ra khỏi một quả bóng. Những đôi vai chùng xuống nhẹ nhõm, bàn tọa xê dịch, những ngón tay bắt đầu gõ nhịp trên bàn.

"Ừm, tất nhiên," Skow nói vẻ rộng lượng. "Điều đó cũng làm tất cả chúng tôi ngạc nhiên. Và Andrew, rõ ràng là, không thể thay thế."

Tôi muốn bóp cổ Skow. Chính gã đã muốn thay thế Fielding từ sáu tháng nay, nhưng không một ai có đủ khả năng như nhà bác học người Anh này để mà thay thế.

"Và để chứng minh tôi nói hoàn toàn nghiêm túc," Skow nói, "chúng ta sẽ không tìm người thay thế ông."

Chỉ Jutta Klein có vẻ bị sốc giống tôi. Fielding biết về dự án Trinity rõ hơn bất cứ ai trừ Godin. Ông đã đưa chúng tôi qua bao phen bế tắc. Những vấn đề làm cho các kỹ sư phần mềm cũng như kỹ sư vật liệu phải bí hàng tuần lễ thì đối với ông người Anh lập dị này chỉ như những câu đố vui, đôi khi được giải quyết trong mười lăm phút. Về mặt này, Fielding là người hoàn toàn không ai thay thế được. Nhưng khía cạnh lượng tử của Dự án Trinity thì không thể bỏ qua. Đối với tôi, vật lý lượng tử cũng na ná như giả kim thuật - thứ giả kim có lợi - và nếu cứ tiến hành mà không có ai đủ trình độ giải quyết các vấn đề như hiện tượng liên đới lượng tử và hiệu ứng cơ học lượng tử không mong muốn, thì đúng là điên rồ.

"Nhưng các anh định làm gì với những tác dụng ngoại ý của MRI mà chúng ta đang nghiên cứu?" tôi hỏi. "Như các anh đã biết, Fielding tin rằng đó là do tình trạng rối loạn lượng tử trong não."

"Vớ vẩn," Nara phản pháo. "Không có bằng chứng về bất kỳ quá trình lượng tử nào trong não người. Không có, và sẽ không bao giờ có!"

"Bác sĩ Nara," Skow lên tiếng.

Tôi khinh bỉ nhìn nhà thần kinh học. "Khi ở trong phòng với Fielding, anh đâu có chắc chắn bằng một nửa thế."

Nara im bặt, hầm hầm nhìn tôi.

Skow ban cho tôi một nụ cười nhẫn nhịn. "David, cả Peter và tôi đều coi anh và Ravi hoàn toàn đủ khả năng tiếp tục khám phá ra những vấn đề y học bất thường. Đưa thêm một bác sĩ mới nữa vào đây lúc này chỉ khiến tình hình an ninh thêm rủi ro một cách không cần thiết."

Tôi không muốn tranh cãi chuyện này. Tôi cần dành sức để làm việc với tổng thống. "Liệu thi hài Fielding và các vật dụng cá nhân của ông có được gửi về cho bà quả phụ không?"

Skow hắng giọng. "Hình như chúng ta không thể tiếp xúc với bà Fielding. Do đó di hài của Andrew sẽ được hỏa thiêu theo di chúc của ông."

Cùng với tất cả bằng chứng của vụ giết người. Tôi cố giữ nét mặt bình thản. Như vậy là Lu Li đã trốn thoát rồi. Mặt khác... liệu họ có nói giọng đó không nếu họ đã bắt được hoặc giết bà ấy?

Godin khẽ chạm vào cổ tay Skow.

"Ông muốn bổ sung thêm điều gì phải không, Peter?" Skow hỏi.

Godin đưa tay xoa đỉnh đầu đã hói gần hết dưới ánh đèn phản quang. Lão ngồi bất động như Phật đang tọa thiền, chỉ thấy đôi mắt xanh chuyển động. Lão ít nói, nhưng mỗi khi cất lời là cả thiên hạ lắng nghe.

"Bây giờ không phải lúc nói những chuyện vụn vặt đó," lão nói. "Hôm qua chúng ta đã mất đi một con người vĩ đại. Andrew Fielding và tôi không nhất trí với nhau về rất nhiều vấn đề, nhưng tôi tôn trọng ông hơn bất cứ ai tôi đã từng cộng tác."

Tôi không giấu nổi ngạc nhiên. Mọi người rướn mình lên như muốn nuốt từng lời. Đôi mắt xanh thôi miên lia một vòng quanh căn phòng. Godin tiếp tục. Giọng lão mềm mỏng nhưng vẫn trầm sâu và mạnh mẽ.

"Từ buổi bình minh của lịch sử, chiến tranh bao giờ cũng là động lực của khoa học. Nếu có mặt hôm nay, Fielding ắt sẽ cãi lại tôi. Ông sẽ nói rằng chính bản năng ham hiểu biết của loài người đã thúc đẩy khoa học tiến lên. Nhưng đó chỉ là suy nghĩ ao ước mà thôi. Chính xung đột của loài người đã tạo nên những bước nhảy vọt vĩ đại trong công nghệ. Một thực tế đáng tiếc, nhưng là thực tế mà ai có đầu óc đều phải nhận thấy. Chúng ta sống trong thế giới sự kiện, không phải thế giới triết học. Các nhà triết học đặt ra những câu hỏi về thực tại của vũ trụ rồi tỏ vẻ ngỡ ngàng khi chúng ta đá họ bằng mũi giày và hỏi xem họ có cảm thấy cái thực tại đó không."

Nara cười khẩy, nhưng ánh mắt quắc lên của Godin làm y tiu nghỉu ngay.

"Andy Fielding không phải loại người đó." Godin gật đầu với tấm ảnh đen trắng treo trên tường. "Giống như Robert Oppenheimer, Andy là một huyền thoại. Nhưng về bản chất, Andy là một nhà lý thuyết thiên tài có khuynh hướng thực hành lớn."

Godin vuốt món tóc bạc ra sau vành tai, nhìn khắp bàn. "Việc vũ khí hóa khoa học là bước đi đầu tiên không tránh khỏi đã cuốn biết bao tài năng thời bình vào guồng của nó. Nỗ lực chế tạo bom đầy phi thường của Oppenheimer đã chấm dứt Thế chiến II và mang lại cho thế giới năng lượng hạt nhân an toàn. Chúng ta ngồi đây - năm người còn lại chúng ta - đang đối mặt với một nhiệm vụ không nhẹ hơn chút nào. Chúng ta không cố gắng chiếm lĩnh bộ não của Chúa, như Fielding từng nói. Chúa chỉ là một bộ phận của não người, một cơ chế sao chép tiến hóa được tạo ra để giúp chúng ta chịu đựng được ý nghĩ về cái chết của chính mình. Khi cuối cùng chúng ta tải được mẫu thần kinh đầu tiên vào máy mẫu và có thể giao tiếp với nó, chúng ta sẽ làm việc với bộ phận đó của não, tương tự như các phần còn lại. Nói theo lối nhân cách hóa thì chúng ta sẽ phải làm việc với Ngài. Nhưng Thượng đế, tôi nói trước, sẽ chỉ phiền toái như bất kỳ vết tích nào của não. Bởi vì sự hoàn thiện của Trinity sẽ khiến cơ chế copy đặc biệt này trở nên không cần thiết. Công việc của chúng ta sẽ kết liễu sự ngự trị của cái chết đối với loài người. Và chắc chắn rằng không có một mục tiêu nào cao quý hơn thế."

Godin đặt đôi bàn tay cong vẹo lên bàn. "Nhưng hôm nay... hôm nay chúng ta thương tiếc một con người có niềm tin can đảm. Trong khi chúng ta, do sự cần thiết nghiệt ngã, phải tập trung vào các khả năng quân sự và tình báo của một nguyên mẫu Trinity hoạt động, Fielding đã nhìn thấy cái ngày ông có thể ngồi xuống hỏi máy câu hỏi xưa nhất của loài người: 'Sự sống đã bắt đầu như thế nào? Tại sao chúng ta hiện hữu? Vũ trụ sẽ kết thúc ra sao?' Ở tuổi sáu mươi ba, Fielding có lòng nhiệt tình của một đứa trẻ mà không xấu hổ vì điều đó. Mà ông cũng chẳng việc gì phải xấu hổ." Lão cúi đầu buồn bã. "Phần tôi, tôi sẽ rất nhớ ông."

Tôi thấy nóng mặt. Tôi đã chờ đợi John Skow vãi nước mắt cá sấu xong sẽ vội vã quay về với đề tài nghiên cứu và phát triển toàn diện. Nhưng Godin còn cao thủ hơn. Lời lẽ của lão chứng tỏ lão hiểu rất rõ kẻ thù của mình.

"Sau khi tìm ra nguyên nhân triệu chứng thần kinh của chúng ta," Godin kết luận, "dự án sẽ tiếp tục. Nếu chúng ta cần một nhà vật lý lượng tử nữa, chúng ta sẽ thuê người. Chúng ta sẽ không tiếp tục tiến lên mà không rõ nguy hiểm. Fielding đã dạy tôi biết tầm quan trọng của sự thận trọng."

Godin dùng các ngón tay trái xoa bóp kỹ bàn tay phải. "Tất cả chúng ta đã phải chịu một cú sốc trầm trọng. Tôi muốn mọi người hãy nghỉ ngơi đầy đủ trong ba ngày, bắt đầu từ trưa nay. Sáng thứ ba tới chúng ta sẽ gặp nhau tại phòng này. Trong thời gian này cần tuân thủ tất cả các quy tắc an ninh ngoài nơi làm việc."

Câu nói của Godin làm mọi người im phăng phắc. Con người làm việc hùng hục gấp đôi bất kỳ ai khác lại đề xuất nghỉ ngơi? Một "kỳ nghỉ" như thế trái ngược với bản tính của Godin đến nỗi không ai còn biết nói gì nữa.

Cuối cùng Skow hắng giọng. "Vâng, về phần mình, tôi sẽ tận dụng chút thời gian cho gia đình. Vợ tôi chuẩn bị ly dị tôi bởi tôi dành quá nhiều thì giờ ở đây rồi."

Godin cau mày và lại nhắm nghiền mắt.

"Hoãn họp à?" Skow liếc sang Godin hỏi.

Ông già loạng choạng đứng lên rồi ra khỏi phòng không nói một lời.

"Ừm, thì thế," Skow nói một câu không cần thiết.

Tôi đứng dậy đi về phòng làm việc của mình, mắt dán vào lưng Godin đang thoái lui. Cuộc họp đã diễn ra không hề giống như tôi dự liệu. Phía trước, Godin bắt đầu rẽ, nhưng lão bỗng dừng lại và quay mặt về phía tôi. Tôi bước lại gần lão.

"Anh và Fielding rất thân nhau phải không?" lão hỏi.

"Tôi mến ông ấy. Và cả ngưỡng mộ nữa."

Godin gật đầu. "Tôi mới đọc cuốn sách của anh hai đêm trước. Anh thực tế hơn là tôi dự đoán. Ý kiến của anh về nạo phá thai, nghiên cứu mô bào thai, nhân bản vô tính, chi tiêu cho chăm sóc cuối đời, về chết êm ái. Tôi hoàn toàn đồng ý."

Tôi không thể tin nổi Peter Godin làm việc với tôi hai năm mà lại chưa đọc cuốn sách đã đưa tôi đến với Trinity. Lão nhìn qua vai tôi một lát, rồi lại nhìn thẳng vào mặt tôi.

"Có một ý nảy đến với tôi trong cuộc họp," lão nói. "Anh có biết một giả thuyết cũ về lịch sử? Nếu anh có thể ngược dòng quá khứ, và có cơ hội để giết Hitler, anh có giết không?"

Tôi mỉm cười. "Đây không phải công thức thực tế cho lắm."

"Chưa chắc. Tất nhiên, vấn đề Hitler thì dễ. Nhưng thử tưởng tượng một trường hợp khác xem nhé. Nếu anh trở lại năm 1948 và anh biết rằng Nathuram Godse đang chuẩn bị ám sát Gandhi - anh có giết hắn để ngăn cuộc ám sát không?"

Tôi suy nghĩ về điều này. "Ông thật ra đang hỏi cứ theo chuỗi sự kiện này rồi tôi sẽ đi đến đâu. Vậy ông có giết mẹ Hitle không?"

Đến lượt Godin mỉm cười. "Tất nhiên anh đúng. Và câu trả lời của tôi là có."

"Thực tế, tôi nghĩ câu hỏi của ông là về quan hệ nhân quả. Liệu giết mẹ Hitler có tránh được Thế Chiến II không? Hay một kẻ ất ơ nào đó nổi lên từ sự bất bình của quần chúng lại xả nỗi uất hận Đức vào Hiệp ước Versailles?"

Godin xem xét ý này. "Hoàn toàn có khả năng. Thôi được. Giả sử đây là năm 1952, và anh biết rằng một tay kỹ thuật viên phòng thí nghiệm lóng ngóng sắp làm hỏng thí nghiệm cấy tế bào của Jonas Salk. Việc điều trị bệnh viêm tủy xám bị chậm lại có khi nhiều năm. Liệu anh có giết tay kỹ thuật viên vô tội đó?"

Đầu tôi bắt đầu có tiếng ù ù kỳ lạ. Có lẽ Godin đang đùa bỡn tôi, mặc dầu lão đâu có phí thời gian để đùa.

"May sao cuộc sống thực tế không đặt cho chúng ta những câu đố ấy," tôi nói. "Chỉ có kinh nghiệm mới cho phép chúng ta định hình được nó."

Lão cười nhạt. "Tôi không rõ, bác sĩ ạ. Người ta đã có thể chặn Hitler lại ngay từ khi ở Munich." Godin nhoài người vỗ vào cánh tay tôi. "Dù sao đó cũng là đôi điều để ngẫm nghĩ."

Lão quay đi và cẩn trọng chọn hướng khi đến chỗ rẽ.

Tôi đứng trong hành lang, cố đoán ra ẩn ý trong những điều vừa được nghe. Godin không bao giờ lãng phí ngôn từ. Lão không rỗi hơi suy nghĩ về lịch sử hoặc đạo đức. Lão đã nói trắng ra về vụ giết người. Vụ giết người mà theo lão là chính đáng. Tôi lắc đầu không dám tin. Godin vừa nói đến Fielding.

Việc giết Fielding là cần thiết, lão vừa nói thế. Fielding vô tội, nhưng vì thiện ý ông đã can thiệp, vậy ông phải bị thủ tiêu.

Tôi quay bước về phòng làm việc của mình, bất giác rùng mình. Không ai hỏi tôi về việc liên lạc với Washington. Không ai nhắc đến cuộc viếng thăm của tôi tới nhà Fielding. Không một lời về Rachel Weiss. Và ba ngày nghỉ sẽ cho tôi vô khối thời giờ nói chuyện với tổng thống. Thậm chí tôi có thể bay tới Washington. Cái quái quỷ gì đang xảy ra thế này?

Tôi chết lặng trước ngưỡng cửa phòng làm việc. Một phụ nữ tóc vàng, cao ráo gân guốc với đôi mắt xanh lóe sáng và một vết sẹo lốm đốm trên má trái đang ngồi trên ghế của tôi, dán mắt vào màn hình máy tính của tôi. Geli Bauer. Nếu có người nào trong tòa nhà này ra tay giết Andrew Fielding, thì đó chính là ả.

"Xin chào, bác sĩ," ả nói, môi thoáng cười. "Trông anh có vẻ ngạc nhiên. Tôi nghĩ hẳn anh đang chờ tôi."

--- ------ ------ ------ -------

1 Chào buổi sáng (tiếng Đức).
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11


Tôi đứng lặng người trên ngưỡng cửa. Trong vòng chưa đến một giây đồng hồ, cảm giác nhẹ nhõm bỗng biến thành nỗi lo tê điếng, và cái ý nghĩ rằng Geli Bauer là phụ nữ cũng không làm động mạch đang gõ thình thịch của tôi đập chậm lại chút nào. Giống như đám thuộc hạ, trông ả gầy gò gân guốc với tia sáng giết người trong mắt. Ở con người ả toát ra vẻ tự tin lạnh lùng của vận động viên leo núi đẳng cấp thế giới. Tôi có thể tưởng tượng ả treo mình trên vách đá dựng đứng hàng giờ liền, sức nặng cơ thể dồn vào cả mấy đầu ngón tay. Khó mà đánh giá trí thông minh của ả trong một lò ấp toàn thiên tài, nhưng qua những cuộc trò chuyện trước đây, tôi biết ả cực kỳ nhanh trí. Ả đối xử với mọi người, trừ những nhà bác học hàng đầu của Trinity, như tù khổ sai, và tôi cho đó là vì ả là con gái một vị tướng đầy quyền thế. Ravi Nara thô lỗ gọi ả là "kẻ hủy diệt có vú" còn tôi nghĩ ả là một kẻ hủy diệt có đầu óc.

"Tôi có thể làm gì cho cô?" cuối cùng tôi lên tiếng.

"Tôi cần hỏi anh vài câu hỏi," ả nói. "Thủ tục ấy mà."

Thủ tục? Tôi biết trong vòng hai năm Geli Bauer đã viếng thăm phòng làm việc của tôi đến năm sáu lần. Tôi thường thấy ả qua tấm kính, chúi mũi vào nghiên cứu những trắc nghiệm phát hiện nói dối mà tôi được chọn làm ngẫu nhiên.

"Godin vừa cho chúng ta nghỉ ba ngày," tôi nói. "Tại sao cô không để đến khi chúng ta trở lại làm việc?"

"Tôi e rằng không thể chờ đợi." Ả có giọng lơ lớ của đám sinh viên những trường học của giới thượng lưu ở hải ngoại.

"Cô vừa nói rằng chỉ là thủ tục."

Một nụ cười mềm mỏng. "Sao anh không ngồi xuống, bác sĩ?"

"Cô đang ngồi trên ghế của tôi."

Geli không đứng dậy. Ả có vẻ hiếu chiến.

"Cô không hay đích thân xử lý những thủ tục loại này," tôi nói. "Do đâu mà tôi có vinh dự ấy?"

"Cái chết của tiến sĩ Fielding đã làm phát sinh một tình hình bất thường. Chúng tôi cần chắc chắn mình biết được nhiều nhất có thể về tất cả những gì đang xảy ra xung quanh chuyện này."

"Tiến sĩ Fielding chết do đột quỵ."

Ả im lặng quan sát tôi hồi lâu. Vết sẹo trên má trái của ả nhắc tôi nhớ đến vết sẹo của các cựu binh đã chiến đấu ở Việt Nam, khi tôi còn làm bác sĩ. Họ miêu tả những mảnh lựu đạn phốt pho cháy sâu vào da thịt rồi sau đó tự chai lại như thế nào, chỉ cần gặp không khí là bắt cháy trở lại làm bị thương cả bác sĩ phẫu thuật đang cố gắp những mảnh đó ra. Lính tráng rất sợ những mảnh này, còn Geli Bauer trông như thể đã quen va chạm với chúng. Nhờ vết sẹo đó mà tôi đâm ra thích ả. Một người đàn bà đẹp được đánh dấu bằng một thứ như thế thường có những hiểu biết thấu đáo về cuộc sống mà các chị em khác khó có được. Nhưng khi giao tiếp với Geli, tôi mới vỡ ra rằng cho dù thoát nạn bằng cách quái quỷ nào, bài học ả rút ra từ đó chỉ là cay đắng.

"Tôi quan tâm đến quan hệ của anh với tiến sĩ Fielding," ả nói.

Geli bao giờ cũng xưng tôi, không dùng cái từ ngữ quan liêu chúng tôi; dường như ả cảm thấy giữ an ninh cho cả dự án là trách nhiệm của riêng cá nhân ả.

"Thế ư?" tôi hỏi lại, làm như bị sốc.

"Anh miêu tả về quan hệ giữa hai người như thế nào?"

"Ông ấy là bạn tôi."

"Anh thường gặp và trò chuyện với ông ấy ngoài nơi làm việc."

Nếu thừa nhận điều này tức là thú nhận đã vi phạm quy chế an ninh của Trinity. Nhưng chắc Geli đã có băng video rồi. "Phải."

"Điều đó trực tiếp vi phạm quy chế an ninh."

Tôi đảo mắt. "Thì cứ kiện tôi đi."

"Chúng tôi có thể bắt giam anh."

**********. "Có thế mới thực sự bảo mật được chỗ này."

Ả lùa những ngón tay dài vào mái tóc vàng. Đúng là một con diều hâu đang rỉa lông sửa cánh. "Anh có thể mất vị trí ở đây, bác sĩ ạ."

"Giờ tôi hiểu rồi. Cô đến đây để sa thải tôi."

Một nụ cười lướt qua. "Không cần phải đóng kịch. Tôi đang cố để tìm hiểu những gì cần biết về hoàn cảnh của tiến sĩ Fielding."

"Hoàn cảnh của ông ấy ư? Ông ấy đã chết. Từ trần rồi. Không còn ở bên chúng ta nữa."

"Ngoài giờ làm việc các anh bàn chuyện gì?"

"Bóng đá."

"Bóng đá?"

"Fielding gọi nó là Football 1 . Ông ấy nhận mình 'cuồng bóng đá'. Ông ấy cổ động cho đội Arsenal của Anh. Tôi ngán muốn chết, nhưng tôi thích trò chuyện với ông ấy."

"Anh đã bắt đầu thiếu thành thực, bác sĩ."

"Tôi ư?"

"Cả anh và Fielding đều chống lại việc tiếp tục dự án."

"Không. Tôi bận tâm về khía cạnh đạo đức của dự án. Fielding thì có những mối quan tâm khác."

"Ông ấy muốn dự án dừng lại."

"Chỉ tạm ngưng đến khi xác định được nguyên nhân của những tác dụng ngoại ý lên hệ thần kinh mà tất cả chúng tôi phải chịu."

"Ông ấy có thảo luận những tác dụng ngoại ý ấy với ai không biết rõ thông tin về Trinity không?"

"Tôi cũng không biết nữa."

"Vợ ông ấy chẳng hạn?"

Tôi cố giữ vẻ mặt vô cảm. "Tôi không nghĩ ông ấy có thể làm vậy."

Geli nhướng mày, "Tối qua anh ở bên bà ấy gần cả tiếng đồng hồ."

Vậy là bọn chúng đã theo dõi. Tất nhiên chúng đã làm. Chúng vừa mới giết Fielding và cần biết người bạn thân nhất của ông phản ứng thế nào. Điều đó có nghĩa là chúng đã biết về Rachel.

"Tôi đến để chia buồn."

"Anh đã thảo luận những thông tin nhạy cảm của Trinity với Lu Li Fielding. Một nhà vật lý người Hoa."

"Tôi không làm chuyện gì như thế cả." Tôi nghĩ cuộc hôn nhân của Lu Li với Fielding đã khiến bà trở thành công dân Anh, nhưng lúc này tôi không muốn tranh cãi làm gì.

"Bà Fielding đã biến mất. Chúng tôi cần nói chuyện với bà ấy."

"Nghe như chuyện riêng tư."

Geli phớt lờ lời châm biếm của tôi. "Nếu anh giúp bà ấy trốn, anh sẽ bị kết tội phản bội."

"Lu Li đã phạm tội à?"

Mặt Geli không chút biểu cảm. "Điều đó còn chưa xác định được. Bà ấy có thể là đồng phạm trong một vụ mưu phản."

Viên pha lê, tôi bỗng nghĩ. Điều này chắc phải liên quan đến chiếc đồng hồ của Fielding. "Vậy là cả ông bà Fielding đều biến mất. Tình thế thật là rắc rối, phải không?" tôi nói.

Geli trông chẳng có vẻ gì bối rối. Ả tỉnh bơ.

"Đêm qua Lu Li bảo tôi rằng chẳng ai nói với bà một lời về thi hài của chồng bà ấy," tôi nói. "Bà ấy rất hoảng loạn."

"Đó không phải là phạm vi trách nhiệm của tôi."

"Còn vật dụng cá nhân của Fielding thì sao? Lu Li đặc biệt nhắc đến chiếc đồng hồ bỏ túi bằng vàng. Một vật gia bảo."

Geli cắn môi rồi lắc đầu, "Tôi không nhớ cái đồng hồ bỏ túi. Nhưng ngay khi bà Fielding ra trình diện, tất cả sẽ được sắp xếp đâu vào đấy."

Geli nói dối. Làm việc ở đây hai năm, chắc chắn ả đã trông thấy chiếc đồng hồ ấy hàng trăm lần là ít.

"Sáng nay chúng ta sẽ phải làm trắc nghiệm phát hiện nói dối," ả nói.

Người tôi toát mồ hôi lạnh. "Xin lỗi. Tôi sẽ không làm đâu."

Geli nheo mắt. Đây là lần đầu tiên tôi chối từ một đề nghị như thế này. "Tại sao vậy?"

"Tôi vừa mất một người bạn thân. Tôi không ngủ được. Tôi thấy trong người rất khó chịu. Tôi quên hết mọi thứ rồi."

"Bác sĩ Tennant..."

"Và tôi không muốn phục tùng những trò phát xít của các người hôm nay. Được chưa?"

Ả ngả lưng trên ghế của tôi và nhìn tôi càng lúc càng chăm chú hơn. "Bản hợp đồng làm việc mà anh đã ký cho phép tiến hành trắc nghiệm nói dối vào bất kỳ lúc nào. Anh đã chấp thuận phục tùng."

Nỗi sợ thắt ruột khiến tôi muốn đấm cho ả một quả vào giữa mặt. Suốt đời tôi đã sống tự do vô hạn. Là một bác sĩ nội khoa, tôi hoàn toàn làm chủ được việc hành nghề của mình. Là một tác giả, khi viết tôi chỉ bị hạn chế bởi chủ đề cuốn sách. Nhưng giữa không khí nghẹt thở của Trinity, chứng sợ không gian kín lại dấy lên trong tôi. Cha tôi cũng từng trải qua những cảm giác tương tự khi nghiên cứu vũ khí hạt nhân ở Los Alamos và Oak Ridge. Và hồi ấy ông đã phải phục tùng trắc nghiệm phát hiện nói dối. Nhưng thời thế đã thay đổi so với thời Chiến tranh Lạnh. Ngày nay NSA có những máy phát hiện nói dối dựa trên công nghệ MRI, và không giống máy phát hiện nói dối truyền thống, nó chính xác đến một trăm phần trăm.

Nguyên tắc rất đơn giản: khi nói dối, bộ não vận dụng nhiều tế bào thần kinh hơn khi nói thật. Ngay cả những kẻ nói dối bệnh lý cũng nghĩ đến sự thật trước khi trả lời câu hỏi. Sau đó anh ta mới bịa ra hoặc lặp lại câu nói dối của mình. Hành động này soi sáng bộ não kẻ nói dối như những ngọn đèn đêm Giáng sinh, và máy phát hiện nói dối MRI chỉ việc chụp lại và lưu kết quả cho người thẩm vấn. Chính Fielding là người đã chống lại việc dùng máy phát hiện nói dối MRI, lập luận rằng những triệu chứng lạ trong chúng tôi sẽ trầm trọng hơn khi tiếp xúc thêm với MRI. Đó là một thắng lợi của Fielding trong cuộc chiến chống lại sự xâm phạm cõi riêng tư của chúng tôi, nhưng những cuộc thẩm vấn phát hiện nói dối thông thường thì không ảnh hưởng gì lắm đến thần kinh. Áp dụng chúng một cách bất ngờ sẽ cho anh cái cảm giác như đang sống ở một nơi tinh thần bị đàn áp tồi tệ, nhất là khi anh đang có điều gì muốn giấu.

"Cô định gây mê tôi à?" tôi hỏi. "Hay trói tôi?"

Ả có vẻ muốn thế thật.

"Không. Thôi quên đi."

Ả giơ ngón tay lên lơ đãng sờ vào vết sẹo. "Tôi không hiểu sao anh lại chống cự hăng như vậy, bác sĩ?"

"Chắc chắn là cô hiểu."

"Anh đang giấu giếm điều gì?"

"Nếu tôi có điều gì muốn giấu thì cô cũng thế."

"Anh đang cố lật đổ dự án này."

"Tôi làm thế nào được chuyện đó? Mà tại sao tôi phải làm thế? Dự án đang bị treo cơ mà."

Geli ngắm nghía móng tay ả, hai chiếc trong số đó bị cắn trụi. Có lẽ rốt cục ả cũng không điềm tĩnh cho lắm. "Bằng cách ra trước công luận," cuối cùng ả nói.

À đây rồi. Nỗi sợ hãi thầm kín do chứng hoang tưởng của đầu óc nhà binh. "Tôi chưa hề làm thế."

"Anh có nghĩ đến chuyện đó không?"

"Không."

"Anh đã nói chuyện với tổng thống chưa?"

"Trong đời tôi ấy à?"

Cuối cùng ả cũng gắt lên khó chịu, "Sau cái chết của Fielding."

"Chưa."

"Hôm qua anh có gửi lại lời nhắn ở Nhà Trắng."

Tôi cảm thấy mặt mình đỏ lên. "Phải."

"Anh đã gọi điện thoại công cộng?"

"Thì sao?"

"Tại sao?"

"Di động của tôi hết pin." Tôi nói dối dễ dàng, khó mà kiểm tra được.

"Tại sao anh không đợi về đến nhà hẵng gọi?"

"Đúng lúc đó tôi thấy cần nói chuyện."

"Thấy cần nói chuyện với tổng thống Mỹ?"

"Đúng thế."

"Về cái chết của Fielding?"

"Cùng với những chuyện khác."

Ả có vẻ cân nhắc khá kỹ lưỡng những lời sắp nói ra. "Anh nói với Nhà Trắng anh không muốn các yếu nhân khác của Trinity biết rằng anh đã gọi cho họ."

Huyết áp của tôi tụt xuống đột ngột. Làm thế nào mà bọn chúng nghe được những gì tôi nói qua điện thoại công cộng? Chắc hẳn bằng cách nghe trộm, mà không phải cảnh sát địa phương hay FBI hầm bà lằng. NSA mỗi ngày ghi âm trộm hàng triệu cuộc điện thoại riêng tư, các ổ đĩa ở tầng hầm khu căn cứ quân sự Meade được kích hoạt bởi những từ khóa như thuốc nổ, Al Qaeda, mã hóa, RXD, hoặc thậm chí Trinity. Tôi nhớ mình đã nói "Trinity" ngay khi tổng đài Nhà Trắng trả lời, để cô ấy nối máy cho tôi đến nơi cần gọi. Có lẽ NSA đã ghi âm cuộc nói chuyện của tôi từ lúc ấy.

Tôi trấn tĩnh và nhìn thẳng vào mắt Geli. "Tôi được đích thân tổng thống chỉ định vào dự án này chứ không phải NSA hay John Skow, hay ngay cả Peter Godin. Tôi có mặt ở đây để đánh giá các khía cạnh đạo đức của dự án. Nếu tôi xác định có vấn đề nào tồn tại, tôi báo cáo trực tiếp với tổng thống. Ở đây không ai có quyền nói gì về chuyện này."

Ván bài đã lật ngửa rồi. Tôi vừa mới vạch một lằn ranh giữa tôi với tất cả những người khác trong tòa nhà Trinity.

Geli nhoài người ra phía trước, cặp mắt xanh của ả thách thức tôi. "Anh có mấy điện thoại di động, bác sĩ Tennant? "

"Một."

"Anh còn sở hữu chiếc nào nữa không?"

Tôi bỗng vỡ lẽ. Bọn chúng biết tôi gọi đến Nhà Trắng, nhưng không biết tổng thống đã liên lạc lại với tôi hay chưa. Chúng kiểm soát điện thoại di động của tôi, cái mà chúng biết, nhưng lại lo lắng về những kênh liên lạc khác mà chúng không biết. Nếu chúng lo lắng về điều đó, thì tức là chúng không có đường dây bên trong phủ tổng thống, và tôi vẫn còn cơ hội thuyết phục tổng thống về những mối nghi ngờ của tôi.

"Rachel Weiss có một máy di động," Bauer nói, mắt ả cảnh giác với từng động thái nhỏ nhất của tôi.

Tôi thở chậm và giữ giọng bình thản. "Tôi không thấy có bác sĩ nào mà không có điện thoại di động."

"Nhưng anh biết bác sĩ Weiss rõ hơn bất cứ ai khác."

"Cô ấy là bác sĩ tâm thần của tôi, ý cô định nói thế chăng?"

"Cô ấy là người duy nhất ngoài Trinity mà anh nói chuyện nhiều hơn năm mươi từ trong vòng hai tháng qua."

Tôi tự hỏi không biết có đúng như vậy không.

"Điều đó cũng đúng với bác sĩ Weiss," Geli nói.

"Ý cô muốn nói gì?"

"Cô ta không gặp gỡ ai. Năm ngoái cô ta mất đứa con trai vì ung thư. Sau khi thằng bé chết, chồng cô ta đã bỏ rơi cô ta để trở về New York. Cách đây sáu tháng, thỉnh thoảng bác sĩ Weiss còn có những cuộc hò hẹn với đồng nghiệp nam giới. Ăn tối, đi xem phim, đại loại thế. Cô ta không gặp ai đến lần thứ hai. Hai tháng trở lại đây, cô ta hoàn toàn không gặp một người đàn ông nào nữa."

Điều này không làm tôi ngạc nhiên. Rachel là một phụ nữ mạnh mẽ, và tôi nghĩ không mấy người đáp ứng được tiêu chuẩn của cô.

"Vậy thì sao?" tôi hỏi.

"Tôi nghĩ chính anh là lý do đấy, bác sĩ ạ. Tôi cho rằng bác sĩ Weiss yêu anh."

Tôi cười, lần đầu tiên tôi cười thật sự, kể từ lúc tôi nhìn thấy thi thể Fielding đến giờ. "Bác sĩ Weiss cho rằng tôi bị hoang tưởng, cô Bauer ạ. Có lẽ là một dạng tâm thần phân liệt đấy."

Điều này không làm Geli lúng túng. "Tối qua cô ta hôn anh. Tại nhà Fielding."

"Đó chỉ là cái hôn an ủi. Tôi bị suy sụp sau cái chết của Fielding."

Geli phớt lờ câu ấy. "Anh đã nói gì với bác sĩ Weiss về Trinity?"

"Không nói gì cả, như cô biết rõ. Tôi chắc cô đã tìm cách ghi được tất cả các cuộc khám bệnh của tôi."

Ả làm tôi ngạc nhiên khi khẽ gật đầu thú nhận. "Nhưng những người yêu nhau bao giờ chẳng đủ mánh khóe. Anh đã xoay xở được những cuộc gặp gỡ trái phép. Như tối hôm qua."

"Tối qua là lần đầu tiên tôi gặp Rachel Weiss ngoài phòng khám của cô ấy." Tôi khoanh tay trước ngực. "Và tôi từ chối bàn luận tiếp về cô ấy. Cô ấy chẳng dính dáng gì đến dự án này. Cô đang xâm phạm đời tư của một công dân Mỹ khi người ta chưa ký một thỏa thuận nào từ bỏ các quyền của mình."

Lần này thì chính Geli mỉm cười, vẻ nanh ác chợt lóe lên. "Một khi dính dáng đến Dự án Trinity, đời tư không là cái gì cả. Theo Sắc lệnh 173 về An ninh Quốc gia, chúng tôi có thể bắt giữ Rachel bốn mươi tám tiếng mà không cần cả gọi điện báo trước."

Tôi ngán quá thể. "Geli, cô có biết Dự án Trinity là cái gì không?"

Tôi gọi tên cúng cơm của ả khiến nụ cười trên môi ả vụt tắt, và câu hỏi của tôi khiến ả rõ ràng rơi vào thế thủ. Ả tiêu mất nếu phải thú nhận mình chẳng hiểu mô tê gì về những bí mật bên trong của Trinity, nhưng nếu nói ngược lại dễ làm ả mất việc như chơi. Ả trừng mắt nhìn nhưng không nói năng gì cả.

Tôi tiến một bước về phía ả. "Thôi được, tôi biết rồi. Nhưng xin đừng hăm hở tuân lệnh một cách ngu ngốc như thằng oắt người Đức kia cho đến khi nào cô biết và hiểu hết uẩn khúc sự tình."

Câu mắng chửi đã trúng đích. Ả căng người trên ghế như thể sắp nhảy xổ vào tôi. Tôi lùi lại một bước, ngay lập tức thấy hối tiếc về những lời lẽ vừa rồi. Chẳng có lợi gì khi chuốc lấy oán thù cá nhân với Geli Bauer. Thật ra điều đó hoàn toàn dại dột. Có thể chính ả đã ra tay giết Fielding. Và tôi nhận ra, chính vì thế mà tôi chọc giận ả.

"Chúng ta xong việc rồi," tôi nói và rút chìa khóa xe trong túi ra. "Sáng thứ Ba tôi sẽ trở lại. Từ nay đến đó hãy để lũ chó săn của cô tránh xa tôi ra."

Tôi quay lưng đi.

"Bác sĩ Tennant!"

Tôi cứ bước tiếp.

"Tennant!"

Tôi nhấn nút thang máy. Cửa mở, tôi bước vào, nhưng lại bước ra ngay. Geli có thể biến cái khoang nhỏ xíu này thành xà lim chỉ với một cú nhấn nút. Ả cũng có thể phong tỏa cả tòa nhà này dễ dàng như thế, nhưng dù sao tôi đi cầu thang bộ vẫn hơn.

Khi tôi xuống đầu cầu thang tầng bốn, hình ảnh Fielding ngồi trong đám khói mờ xâm chiếm trí óc tôi. Ông người Anh hút thuốc như ống khói, nhưng trong toàn bộ tổ hợp Trinity đều cấm hút thuốc, cả với những nhà bác học đầu đàn. Đó không phải do luật lệ của bang; mà do Godin không chịu nổi một chút khói thuốc thoảng trong không khí. Vốn tài xoay xở, Fielding đã tìm thấy chỗ để ông có thể nuông chiều thói quen của mình. Trong phòng thí nghiệm vật liệu trên tầng bốn có một gian buồng chân không rộng rãi mà trước đây trong giai đoạn đầu của dự án được sử dụng để thí nghiệm các đặc tính của ống nano carbon. Trong phòng thí nghiệm có đầu dò khói, còn buồng chân không thì không có. Fielding đã khéo léo xếp chồng đống hộp quanh gian buồng khiến hầu hết mọi người quên đi sự tồn tại của nó. Khi đã tìm ông khắp nơi mà không thấy, tôi biết thể nào ông cũng ở đó.

Tôi suy luận, nếu lúc ấy Fielding đang ở trong tòa nhà Trinity và lo sợ cho tính mạng của mình, thì ông có tìm cách cách ly chiếc dây đồng hồ mang viên pha lê? Ông không thể giấu nó trong phòng làm việc, nơi chắc chắn sẽ bị lục soát. Nhưng buồng chân không chỉ cách có một tầng, và ông có thể tin chắc trước sau gì tôi cũng tìm ra chỗ bí mật này.

Tôi ra khỏi cầu thang và tìm đến phòng thí nghiệm vật liệu. Hai kỹ sư tuyển mộ từ Sun Microsystems bước từ phòng thí nghiệm ra, tách nhau ra để vượt qua tôi và hướng về phía thang máy. Tôi cố nặn một nụ cười và bước chậm lại sao cho họ đi khuất chỗ rẽ rồi mới đến cửa phòng thí nghiệm vật liệu.

Không có ai trong phòng. Tôi vội vã đến chỗ đống hộp che chắn cửa căn buồng chân không bằng thép và bắt đầu mở khóa. Cỗ máy gớm guốc trông giống căn buồng giảm áp cho thợ lặn dưỡng khí, với một lỗ cửa sổ và một vành xoay lớn bằng sắt lắp vào cánh cửa trông như cửa sập. Tôi vặn vành xoay để mở cửa sập. Đèn tự động bật sáng.

Tim tôi đập thình thịch khi tôi bước vào bên trong. Tôi nhớ những chiếc giá rộng bừa bộn dụng cụ, kìm và mảnh vụn carbon cũ. Bây giờ trong gian buồng chẳng còn thứ gì. Ngay cả những chiếc giá cũng được mang đi. Cả căn buồng trông như mới được rửa sạch bằng hơi nước.

"Geli Bauer, " tôi thở hắt ra.

Nếu trước đó chiếc đồng hồ bỏ túi của Fielding được giấu ở đây, thì bây giờ Geli đã có nó rồi. Tôi hối hả ra khỏi căn buồng, ngờ ngợ sẽ chạm trán ả trong phòng thí nghiệm. Nhưng cả phòng thí nghiệm và hành lang đều không một bóng người. Tôi lao ra cầu thang, chạy xuống tầng ba và bước về phía bàn bảo vệ, nơi Henry đang chờ tôi.

Để ra khỏi Trinity, mọi nhân viên phải chịu khám người để chứng tỏ họ không mang theo đĩa máy tính hoặc giấy tờ gì ra khỏi tòa nhà. Fielding chắc phải cười thầm mỗi lần Henry bỏ qua dây đồng hồ quả quýt gắn viên pha lê của ông. Khi tôi tới gần bàn bảo vệ, tôi thấy Henry đang nói vào micro trên cổ áo.

"Có chuyện gì thế Henry?" tôi nói trong khi đứng đợi ông ta kiểm tra người.

"Xin đợi một phút, bác sĩ."

Tim tôi đập loạn. Tôi tưởng tượng Geli Bauer đã ra lệnh cho ông ta: Không cho Tennant ra khỏi tòa nhà...

"Tôi cần đi ngay," tôi nói, "tôi có cuộc hẹn."

Henry nhìn tôi, rồi nói vào mic, "Anh ta đây rồi."

Jesus. Nếu Geli phải hỏi xem liệu tôi có ra cửa không, thế tức là ả không nhìn thấy tôi qua camera lắp trong phòng an ninh. Có lẽ ả đang trên đường đến đây. Não giữa thôi thúc tôi chạy thật lực, nhưng phỏng được bao xa? Henry trông có vẻ vô hại nhưng được trang bị khẩu súng tự động Glock 9mm. Chớ lao ra cửa lúc này vẫn là thượng sách.

Henry nghe bằng ống nghe mấy giây, trông ông ta có vẻ bối rối. "Cô có chắc không?" ông ta hỏi. "Được."

Ông ta đi vòng qua bàn, và tôi vụt hiểu rằng nếu Henry rờ tay vào khẩu súng, chỉ vài giây nữa thôi bản năng sống còn trong tôi sẽ lên tiếng. Người tôi căng ra khi bàn tay ông ta rơi xuống, nhưng rồi ông ta ngồi xổm xuống và bắt đầu khám từ ống quần như thường lệ.

Geli quyết định để tôi đi. Vì sao? Vì ả không biết chắc tôi đã nói chuyện với tổng thống hay chưa.

"Anh đi được rồi, bác sĩ," Henry nói, vỗ nhẹ vai tôi. "Vừa rồi tôi tưởng cô ấy - à, họ - yêu cầu tôi giữ anh lại đây."

Khi tôi nhìn vào mặt Henry, tôi thấy nét gì đó trong mắt ông mà tôi không hiểu. Bây giờ thì tôi hiểu rồi. Ông ta không ưa gì Geli hơn tôi. Thật ra, ông ta sợ ả.

Khi tôi vừa qua khỏi cánh cửa kính bọc thép thì chuông điện thoại di động reo.Tôi bấm nhận cuộc gọi và ép điện thoại sát tai.

"A lô?"

"David? Anh ở chỗ quái quỷ nào vậy?'

"Đừng gọi tên tôi," tôi gắt, nhận ra tiếng Rachel.

"Tôi kiếm anh cả tiếng đồng hồ rồi!"

Chắc tín hiệu di động không thể truyền qua lưới đồng bao quanh Trinity. "Cho tôi biết có chuyện gì đi."

"Sáng nay anh có đến phòng làm việc của tôi không?"

"Phòng cô? Tất nhiên là không. Tại sao?"

"Bởi vì có kẻ nào đó gần như đã bới tung nó lên. Hồ sơ bệnh án của anh bị mất, mọi thứ tung tóe hết cả."

Tôi hít một hơi đầy phổi, cố giữ nhịp bước bình thường về phía xe. "Hôm nay tôi không hề đến gần phòng làm việc của cô. Sao cô nghĩ tôi có thể làm một việc như thế?"

"Để củng cố các ảo giác của anh trong mắt tôi! Để tôi tin là chúng có thật."

Giọng cô khá kích động. Vậy ra đêm qua cô không hiểu gì hết? "Chúng ta cần nói chuyện, nhưng không phải như thế này. Cô đang ở văn phòng phải không?"

"Không, tôi đang trên xa lộ 15."

Có lẽ Rachel đã chạy trên xa lộ 15 suốt chặng đường từ Trung tâm Y khoa Duke đến đồi Chapel. "Cô đang đi taxi phải không?"

"Không, sáng nay tôi lấy xe về rồi."

"Hãy gặp tôi ở chỗ cô thấy tôi thu băng hình đó."

"Ý anh nói..."

"Cô biết ở đâu mà. Tôi đang trên đường. Gác máy."

Cô làm theo.

Tôi kiềm chế hết sức để không chạy mấy bước cuối cùng đến xe.

--- ------ ------ ------ -------

1 Bóng đá trong tiếng Mỹ là "soccer", trong tiếng Anh là "football".
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12


Chiếc Saab trắng của Rachel đậu trước nhà tôi. Bản thân Rachel đang ngồi trên bậc tam cấp, tay chống cằm như các cô nữ sinh chờ giờ lên lớp. Thay vì váy và áo lụa quen thuộc, hôm nay cô mặc quần jean xanh và sơ mi Oxford bằng cotton trắng. Tôi nhấn còi. Cô ngẩng lên, không mỉm cười. Tôi vẫy tay chào, lái xe vào ga ra rồi bước qua căn nhà, ra mở cửa trước.

"Xin lỗi để cô phải chờ," tôi liếc một vòng xem có chiếc xe lạ nào trên phố không.

Mắt cô đỏ mọng vì khóc. Cô bước vào phòng khách nhưng không ngồi mà đi vòng quanh chỗ bàn ghế thưa thớt trong phòng, vẫn chưa lấy lại được bình tĩnh.

"Kể tôi nghe chuyện gì đã xảy ra đi," tôi nói.

Cô tạm dừng đủ lâu để nhìn tôi chằm chằm rồi lại bước tiếp. "Lúc đó tôi đang ở bệnh viện khám cho một bệnh nhân định tự tử cách đây hai hôm."

"Và?"

"Tôi quyết định tạt qua văn phòng lấy vài tấm biểu đồ. Khi đến đó tôi nhận thấy có kẻ đã đột nhập. Nghĩa là cửa vẫn khóa, nhưng tôi biết thế, anh hiểu không?"

"Cô có nói rằng căn phòng bị lục tung lên."

Cô nhìn lảng đi. "Không hẳn thế. Nhưng rất nhiều đồ để không đúng chỗ. Tôi biết điều này, vì tôi thích sắp xếp mọi thứ theo một cách nhất định. Sách xếp theo kích cỡ từ nhỏ đến lớn, giấy tờ chất đống... mà thôi, đừng quan tâm."

"Cô bị ám ảnh cưỡng chế rồi."

Đôi mắt sẫm màu của cô lóe lên. "Có những chuyện còn tệ hơn chứng ám ảnh cưỡng chế nhiều."

"Đồng ý. Cô bảo hồ sơ bệnh án của tôi bị lấy mất?"

"Phải."

"Có hồ sơ của bệnh nhân nào khác bị mất không?"

"Không."

"Thế thì đúng rồi. Điều tôi không hiểu được là chúng lấy trộm bệnh án của tôi làm gì. Tại sao không copy thôi? Tôi tin chắc chúng đã đọc từ trước. Có khi chúng còn đọc hằng tuần ấy chứ."

Rachel dừng bước nhìn tôi vẻ không tin. "Làm sao họ làm được điều đó?"

"Bằng cách cho người lẻn vào phòng làm việc của cô. Có thể là buổi tối những ngày tôi đến khám."

"Tại sao trước đây tôi không nhận thấy điều gì?"

"Có thể lần này chúng quá vội."

"Tại sao?"

"Chúng sợ."

"Sợ gì?"

"Sợ tôi. Những gì tôi đã làm. Những gì tôi có thể sẽ làm."

Cô ngồi trên mép sofa của tôi như thể đang định thần lại. "Tôi cần hiểu rõ chuyện này, David. Họ là ai? NSA ư?"

"Đúng và sai. Chúng là những người làm công tác an ninh cho Dự án Trinity, do NSA cung cấp tài chính."

"Và đó là những người mà anh bảo đã giết Andrew Fielding?"

"Đúng."

Cô nhắm mắt. "Tôi đã nhờ một người bạn ở trung tâm y tế xét nghiệm hộ gói bột trắng anh đưa cho tôi. Nó không chứa mầm bệnh than hay bất cứ mầm bệnh hoặc độc chất nào ta biết." Cô mở mắt ra nhìn vào mắt tôi. "Đó là cát, David ạ. Giống thạch cao. Cát trắng. Chẳng nguy hiểm cho ai cả."

Đầu óc tôi bắt đầu quay cuồng với những ý nghĩa có thể có của chuyện này. Những con chíp siêu nhỏ làm bằng silicon, một loại cát. Hay thạch cao là cơ sở của một chất bán dẫn mới mà Godin tìm ra? Có thể Fielding đã cố nói cho tôi biết một điều tương tự mà không tiện nói trắng ra...

"Anh đã thử cố liên lạc lại với tổng thống chưa?" Rachel hỏi.

Tôi há hốc mồm ngạc nhiên.

"Cái gì?"

"Tôi quên kiểm tra hộp thư thoại. Xin lỗi."

Tôi vào trong bếp. Đèn đỏ của điện thoại báo có tin nhắn mới. Tôi nhấn nút, một giọng vùng New England lạo xạo vang lên trong cái loa nhỏ xíu:

"Bác sĩ Tennant hả? Ewan McCaskell, chánh văn phòng tổng thống đây. Tôi nhớ là anh đã đến thăm văn phòng vài năm trước. Tôi vừa nhận được tin nhắn của anh. Chắc anh hiểu chúng tôi ở đây đang quá bận. Tôi không thể quấy rầy tổng thống cho đến khi biết rõ chuyện này là thế nào, nhưng tôi muốn nói chuyện với anh ngay khi có thể. Anh hãy giữ nguyên số máy này, tôi sẽ gọi lại ngay khi thời gian cho phép."

Tôi gần như nhẹ nhõm cả người. Tôi chống tay lên quầy cho vững. Thiết bị nhận dạng người gọi đến cho thấy cuộc gọi của McCaskell đã đến từ hai mươi phút trước.

"Ai đấy?" Rachel hỏi.

Tôi mở lại cho cô nghe lời nhắn.

"Tôi phải thừa nhận rằng," cô nói, "giọng nói nghe như của McCaskell."

"Giống giọng McCaskell? Thì đúng là ông ta. Vậy ra cô vẫn không hiểu tí gì về những chuyện cô thấy đêm qua?"

Cô kéo một chiếc ghế từ bàn bếp ra rồi ngồi xuống đối diện tôi. "Anh nghe tôi nói này, David. Anh biết tại sao tôi đến đây không? Tại sao đêm qua tôi lại giúp anh?"

"Nói đi."

"Cuốn sách của anh."

"Sách của tôi?"

"Phải. Hằng ngày ở bệnh viện tôi thấy những điều mà người ta không nói với tôi khi ở trường y. Các ca đã rơi vào kẽ hở giữa thực tế và luật pháp. Những vấn đề hóc búa mà chính phủ không có can đảm để đối diện. Tôi cố sức xoay xở tình hình... có thể là than phiền với các bác sĩ khác, nhưng chỉ có bấy nhiêu thôi. Anh đã viết ra để thế giới đọc nó, mà không thèm đếm xỉa chuyện gì sẽ xảy đến với mình. Nạo phá thai. Chăm sóc cuối đời và chăm sóc thai nhi. Chết êm ái. Trời ơi, anh viết về việc giúp anh trai của anh chết."

Tôi nhắm mắt lại và thấy hình ảnh của anh trai mình, không thể cử động gì ngoài đôi hàng mi vì sự tàn phá của chứng teo cơ, rồi đến ngày ngay cả đôi hàng mi cũng không còn động đậy được nữa. Chúng tôi đã đi đến một thỏa thuận. Đến thời điểm đó, tôi phải giúp anh chấm dứt những gì còn lại của cuộc đời anh.

"Tôi suýt nữa đã xóa chuyện này khỏi cuốn sách," tôi nói.

Cô nắm cánh tay tôi. "Nhưng anh đã không xóa. Anh đã liều mạng, và anh đã giúp cho vô khối người bằng cách cứ để thế không xóa. Những người mà anh không biết. Nhưng họ biết anh. Tôi biết anh. Và bây giờ thì anh ốm. Anh đã cần trợ giúp hàng tháng trời, và những liệu pháp thông thường đã bó tay. Tôi không thể nào vượt qua bức tường mà anh đã dựng lên." Bàn tay cô nắm chặt cánh tay tôi, cô mỉm cười khích lệ. "Tôi tin rằng anh đang bị cuốn vào một nhiệm vụ rất quan trọng, đúng không? Nhưng hãy trả lời tôi điều này. Nếu máy tính Trinity đúng như những gì anh nói, thì, sao lại là anh? Anh biết không? Anh đã viết một quyển sách tuyệt vời. Tổng thống quen anh trai anh. Nhưng liệu điều đó có làm cho anh đủ trình độ đánh giá môn khoa học mà anh đã kể với tôi không?"

Cô nói đúng. Còn nhiều điều phải nói. Tôi đã giữ kín quá khứ của mình quá lâu để đến bây giờ muốn nói ra cần phải có một ý chí mãnh liệt.

"Cha tôi là một nhà vật lý hạt nhân," tôi nhẹ nhàng nói. "Trong chiến tranh ông làm việc ở Los Alamos. Ông là nhà vật lý trẻ nhất làm việc trong Dự án Manhattan."

Đôi mắt đen của cô lóe lên. "Còn gì nữa?"

"Tôi đã học vật lý lý thuyết ở Đại học Công nghệ Massachusette."

"Trời đất ơi! Đúng là tôi chưa biết gì về anh, phải không?"

Tôi chạm vai cô. "Cô biết chứ. Nghe này, cha tôi là thành viên của nhóm người đầu tiên phản đối việc sử dụng bom. Nhóm gồm những người như Leo Szilard, Eugene Wigner. Người Đức đã đầu hàng, còn người Nhật thì không có nguồn lực để chế bom nguyên tử. Nhóm của cha tôi muốn chơi quả bom ấy với quân đội Nhật, chứ không phải dội xuống đầu dân thường. Sự phản đối ấy bị phớt lờ, và Hiroshima trở thành lịch sử.

"Nhưng ngày nay chúng ta sống trong một thế giới khác. Ngay khi tổng thống nhận ra những điều mờ ám trong Trinity - chúng ta đang nói về việc giải phóng trí thông minh con người ra khỏi thân xác, lạy trời - ông biết rằng mình sẽ bị công kích chính trị nếu công chúng biết ông cứ tiến hành mọi việc mà không quan tâm gì đến các vấn đề luân lý, đạo đức. Hãy nhìn cơn giận dữ của công chúng xung quanh những nghiên cứu về nhân bản vô tính và phôi thai thì biết. Vì vậy tổng thống yêu cầu phải giám sát khía cạnh đạo đức. Ông ấy biết cuốn sách của tôi, ông ấy biết công chúng sẽ tin rằng tôi nói sự thật, và ông ấy tin tôi vì ông ấy biết anh tôi. Hơn nữa, sự khách quan đầy lương tâm của tôi còn có tính huyết thống, từ cha tôi với Dự án Manhattan. Vậy thử hỏi còn ai hơn tôi?"

Rachel lắc đầu. "Vậy tại sao anh lại trở thành bác sĩ mà không phải là nhà vật lý?"

Cô này không sao thoát khỏi cái bóng của một bác sĩ tâm thần. Hay có lẽ chỉ đơn thuần vì cô là phụ nữ. "Sau Hiroshima, cha tôi phải chịu một cuộc sống tồi tệ. Edward Teller tiếp tục dấn lên sáng chế bom khinh khí. Oppenheimer phản đối. Cha tôi cũng vậy. Ông đòi chuyển ngành. Tướng Grover không muốn nhả ông ra khỏi ngành vũ khí, nhưng họ đồng ý cho ông một công việc mang tính kỹ thuật nhiều hơn, ít dính dáng đến những đầu đạn hạt nhân hơn. Họ chuyển ông về một phòng thí nghiệm quốc gia ở Oak Ridge, Tennessee."

"Thế sao cha anh không bỏ việc luôn đi?"

"Cuối cùng ông ấy đã làm thế. Nhưng hồi đó là Chiến tranh Lạnh. Khi ấy có đủ loại áp lực. Oppenheimer bị ngược đãi nhiều năm vì phản đối bom khinh khí. Cha tôi gặp mẹ tôi cũng chính ở Oak Ridge. Ở đó đời sống trở nên dễ chịu hơn. Rồi ông bà sinh ra anh tôi. Tôi sinh sau khá lâu. Một tai nạn, thật ra là thế." Tôi mỉm cười khi nhớ lại cha mẹ tôi bộc bạch điều đó với tôi. "Tôi lớn lên ở Oak Ridge, nhưng khi tôi đến tuổi thiếu niên thì cha tôi đã bỏ vật lý hạt nhân và đưa chúng tôi về Huntsville bang Alabama, nhờ đó ông có thể làm việc cho chương trình không gian."

"Tôi vẫn chưa thấy mối liên hệ với y học."

"Mẹ tôi là bác sĩ nhi khoa ở Oak Ridge. Bà đã làm được nhiều điều tốt. Chẳng cần phải là thiên tài mới nhận ra công việc mang lại cho mẹ tôi nhiều hạnh phúc hơn cha tôi. Điều này đã ảnh hưởng đến tôi."

Tôi nhìn xuống điện thoại, chỉ mong nó lại đổ chuông lần nữa. "Đêm qua, tôi mới chỉ nói với cô một phần sự thật. Khi tổng thống trao cho tôi chức vụ này, tôi có cảm giác kỳ quặc rằng đây là quả báo. Tôi được trao một cơ hội mà cha tôi chưa bao giờ có ở Los Alamos. Cơ hội để thực thi kiểm soát đối với một công trình khổng lồ có thể thay đổi vĩnh viễn cả cái thế giới này. Xem sự thay đổi đó là tốt hay xấu, thiện hay ác. Tôi cảm nhận điều đó vào cái ngày tôi bước chân đến Phòng Bầu dục, và chính điều đó đặt tôi vào đây."

Rachel hít sâu rồi thở ra thật chậm. "Tất cả là thật đấy chứ? Tôi muốn nói đến Trinity."

"Thật. Và tôi phát cuồng lên vì vui sướng khi McCaskell gọi lại cho tôi. Chúng ta cần tổng thống vô cùng."

Tôi đứng dậy, nửa muốn mở lại tin nhắn của McCaskell, nhưng cơn mệt mỏi đã ập xuống. Tôi hy vọng chỉ là do kiệt sức, nhưng rồi những tiếng o o quen thuộc cứ rít lên trong răng hàm. Nhớ ra không còn viên amphetamine nào cả, tôi lấy một lon Mountain Dew từ trong tủ lạnh, bật nắp và uống một hơi dài để có chút caffein.

"David?" Rachel nhìn tôi lạ lùng. "Anh có sao không? Trông anh run rẩy quá."

"Tôi ngất mất," tôi vừa nói vừa uống thêm một ngụm soda nữa.

"Ngất?" Đôi mắt cô mở to. "Chứng ngủ rũ?"

Cô chưa bao giờ chứng kiến một trong những cơn bệnh của tôi. Khi tôi gật đầu, như có một màn đen lướt qua mắt tôi. Nó để lại một cảm giác đe dọa mơ hồ, tựa chừng vừa có ai trong phòng với chúng tôi, ngay đó nhưng tôi không nhìn thấy. "Tôi đang bỏ sót một việc," tôi nói to ý nghĩ của mình lên.

"Anh đang nói về chuyện gì?"

Hình ảnh Geli Bauer vụt hiện trong trí tôi. "Chúng ta đang lâm nguy."

Rachel trông có vẻ lo lắng cho tôi hơn là lo sợ mối hiểm nguy bên ngoài. "Nguy hiểm loại nào?"

"Có gì đó bất thường trong cách mọi chuyện diễn ra. Godin cho chúng tôi nghỉ... Hồ sơ của tôi bị lấy cắp khỏi phòng làm việc của cô... McCaskell gọi. Tôi đang bỏ sót điều gì đó, nhưng tôi quá mệt nên không thể nghĩ ra."

"Tôi nghĩ McCaskell gọi đến là tin tốt chứ."

"Đúng. Nhưng chỉ...." Dù đờ đẫn, tôi vẫn thấy cần súng trong tay đến phát điên. "Tôi nhờ cô một việc. Chờ tôi ở đây hai phút."

"Cái gì?" Mắt cô tối sầm vì lo âu. "Anh định đi đâu?"

"Sang nhà bên cạnh." Tôi hối hả ra cửa sau.

"David! Lỡ anh bị ngất thì sao?"

"Có ai gọi cũng đừng mở cửa!" tôi kêu lên. "Nhưng nếu điện thoại reo thì trả lời và bảo tôi sẽ về ngay."

Tôi chạy ra ngoài và phóng qua hàng rào dày bao quanh sân sau những ngôi nhà trên phố. Tôi phóng vọt qua cả ba mảnh sân, rồi đi tắt qua bờ rào phía sau một kho chứa đồ nhà hàng xóm. Hai giờ đêm qua tôi đã lén ra khỏi nhà và giấu chiếc hộp của Fielding dưới chỗ này. Bên trong chiếc hộp của Fielding là những linh kiện điện tử, một phần cuốn băng ghi video của tôi, lá thư của Fielding và khẩu súng. Tôi quỳ xuống lấy lại chiếc hộp rồi trườn qua hàng rào và chạy thục mạng về sân nhà mình. Khi tôi về đến nơi, tôi có cảm giác như một thằng say rượu chạy trong một thành phố xa lạ.

Rachel đang đợi tôi ngay ở cửa sau. "Đó là món đồ đêm qua," cô nói. "Tại sao anh lại cần nó?"

Tôi nghiêng chiếc hộp cho cô thấy khẩu súng.

Cô bước lùi lại. "David, anh làm tôi sợ."

"Cô phải đi khỏi đây ngay. Cô sẽ ổn trong thời gian tôi kể chuyện của tôi với McCaskell." Tôi để chiếc hộp xuống đất, giắt súng vào thắt lưng rồi dẫn cô ra phía trước nhà. "Hãy ở nơi công cộng đến hết ngày, như siêu thị chẳng hạn. Đừng về nhà trước khi tôi gọi cho cô."

Cô trì người lại và không để tôi kéo đi ra cửa. Động tác quả quyết của cô khiến chúng tôi nhìn thẳng vào mắt nhau. "Dừng lại ngay! Anh đang mất phương hướng và có thể tự bắn mình do bất cẩn."

Tôi định trả lời, nhưng lời nói của tôi như bị hút xoáy vào khoảng tối của trí não. Mấy giây nữa là tôi bất tỉnh mất.

"Tôi sắp ngất."

Cô nắm lấy cánh tay tôi và kéo lê tôi vào phòng, tìm chỗ đặt tôi nằm xuống. Tôi chỉ cửa phòng ngủ của khách. Cảm thấy tôi sắp ngã, cô kéo tôi qua cửa rồi buông tôi ngã sấp xuống nệm.

"Anh có thuốc men gì không?"

"Hết rồi."

Tiếng bước chân cô xa dần. Tôi nghe tiếng cửa tủ sập mạnh, rồi tiếng Rachel tự nói với mình. Khi tiếng cô nghe gần hơn, tôi cố lật người lại. Bóng người che tối khung cửa.

"Cà phê đang pha," Rachel nói. "Anh còn tỉnh không?"

"Hơi hơi."

Cô nhìn tôi như người ta nhìn một con vật trong quá trình thí nghiệm. "Trong bếp của anh không có thức ăn gì cả, ngoài hũ muối khô như đá. Lần anh ra chợ gần đây nhất là bao giờ?"

Tôi không nhớ nổi. Mấy tuần gần đây là những giờ làm việc liên miên với Fielding về các thí nghiệm mà tôi hầu như chẳng hiểu mấy.

Rachel ngồi lên giường và đặt ngón tay lên động mạch cảnh của tôi. Đầu ngón tay cô mát rượi.

"Trước đây có lần tôi cũng thế này," cô vừa nói vừa nhìn đồng hồ, môi cô khẽ mấp máy đếm mạch cho tôi. "Sau khi tôi mất đứa con trai. Ý tôi là không đi chợ. Không trả hóa đơn. Không tắm. Tôi đoán đàn ông cần nhiều thời gian hơn để thoát khỏi tình trạng đó. Cuối cùng, tôi cố làm mấy việc vặt để lập lại trật tự cuộc sống. Nhờ đó tôi mới không phát điên."

Tôi thấy mình mỉm cười. Tôi thấy thích vì cô đã không để môn bệnh học tâm thần xen vào cách dùng những từ ngữ như điên. Tôi cũng thích cách cô đặt ngón tay lên cổ tôi. Tôi muốn nói với cô cái cảm giác được cô chạm vào. Nó nhắc tôi nhớ đến một người, nhưng tôi không rõ là ai...

"Sinh nhật anh là ngày nào?" cô hỏi.

Tôi không thể nhớ ra.

"David?"

Một làn sóng đen ập lên tôi, bao trùm tôi trong bóng tối.

Tôi đang bước đi trên vỉa hè một khu ngoại ô, ngắm nhìn những ngôi nhà dáng vẻ hoàn hảo xếp hàng ngay ngắn. Đó là phố Willow. Tôi sống ở Willow - dù sao thì cũng ngủ ở đó - nhưng nó chẳng giống con phố tôi sống hồi bé mấy. Ở phố Willow, tôi không biết rõ hàng xóm, và có những người tôi chẳng biết tí gì. NSA bảo tôi không được làm quen với ai, và hóa ra điều đó lại rất dễ. Ở phố Willow, không ai cố gắng để bắt quen. Ở Oak Ridge, nhà cửa nhỏ hơn, nhưng tôi có thể kể tên tất cả những người sống trong đó. Xóm nhỏ nhà tôi là một thế giới riêng, đầy những khuôn mặt mà tôi biết rõ như người thân trong gia đình. Ở phố Willow, trẻ con ở trong nhà nhiều hơn ra đường. Những ông bố không tự xén cỏ trong vườn, mà thuê người khác làm. Ở Oak Ridge, các ông bố tự chăm sóc bãi cỏ nhà mình như một thái ấp nho nhỏ, dành hàng giờ bàn bạc với nhau về các loại máy cắt cỏ và cách bón phân.

Tôi đi vòng qua góc phố và nhìn thấy ngôi nhà của mình. Ngôi nhà trắng với thảm cỏ xanh xén tỉa gọn gàng. Nhìn bề ngoài nó giống nhà, nhưng tôi không có cảm giác ấm cúng. Một con chó đen vô chủ giống Labrador nhảy vọt ra đường, một cảnh hiếm thấy ở đây. Một chiếc Lexus lăn bánh lại phía tôi, khi đi ngang qua tôi nó chạy chậm lại. Tôi vẫy tài xế, một phụ nữ dong dỏng cao, trông hống hách. Chị ta nhìn tôi chằm chằm như thể tôi là kẻ thóc mách nguy hiểm. Tôi bước qua đường đến trước cửa nhà mình.

Tôi thò tay vào túi lấy chìa khóa rồi rờ đến tay nắm cửa. Tôi đút cái gì đó vào lỗ khóa, nhưng... không phải chìa khóa của tôi. Nó bằng kim loại mỏng, giống như chiếc giũa. Tôi xoay xoay chìa trong ổ khóa. Hơi bị mắc một chút, nhưng sau đó khóa mở ra. Tôi mở cửa, lách vào bên trong và nhanh chóng đóng cửa lại sau lưng mình.

Tay tôi thọc sâu vào túi bên kia, chạm phải cái gì lành lạnh. Các ngón tay bao quanh gỗ, và bàn tay nắm chặt báng một khẩu súng, một khẩu tự động. Tôi không nhận ra loại vũ khí này. Tôi lấy từ túi bên ra một ống giảm thanh rồi chậm rãi vặn vào nòng súng. Nó vừa khít. Đứng ngoài hành lang, tôi nghe tiếng thủy tinh va vào nhau lách cách. Có ai đang ở trong bếp. Tôi thận trọng tiến lên một bước, chân dận thử ván sàn, rồi bắt đầu bước...

Tôi choàng tỉnh trong nỗi khiếp sợ và giật phắt khẩu súng từ bên hông ra. Một khẩu súng lục, không phải súng tự động. Và không có giảm thanh. Tôi muốn kêu to gọi Rachel, nhưng cố nén lại. Bằng một động tác, tôi lăn khỏi giường, đứng lên, rồi men ra cửa phòng ngủ.

Thoạt tiên tôi chỉ nghe thấy một giọng nữ khẽ ngân nga. Bản nhạc nghe như "California" của Joni Mitchell.

Tiếng sàn gỗ cứng trong hành lang kêu răng rắc.

Tôi khẽ hít hơi rồi nín thở.

Tiếng ván sàn lại răng rắc. Có kẻ nào đang qua cửa, từ phải sang trái. Tôi nhắm mắt chờ đợi. Một tiếng rắc nữa. Tôi đếm chậm đến mười. Rồi tôi dùng bàn tay không nhẹ nhàng xoay tay nắm cửa. Khi đã xoay đủ vòng, tôi giật mạnh cửa ra, lao vào phòng khách, nhắm khẩu 38 ly sang bên trái.

Một thanh niên tóc dài màu vàng hoe đứng cách tôi hai mét, hai cánh tay giơ qua cửa bếp. Tôi không nhìn thấy bàn tay, nhưng tôi biết chúng đang nâng một khẩu súng.

Tôi kéo cò.

Không có tiếng nổ hay tiếng cạch nào cả. Hóa ra tôi chưa gạt chốt an toàn, nên cò súng hai nấc chỉ đi được nửa chừng. Tôi nhả nó về, thằng tóc vàng quay người lại và đập vào mắt tôi là một khẩu tự động có ống giảm thanh, nòng súng đen ngòm không đáy. Đúng lúc này cò súng của tôi giật mạnh, và một tia lửa vàng cam phụt ra chiếu sáng rực hành lang. Tôi chớp chớp nhắm và khi mở mắt ra thì thằng tóc vàng đã biến mất.

Một giọng phụ nữ thét lên khiến màng nhĩ tôi ê buốt.

Tôi nhìn xuống. Thằng tóc vàng nằm trên sàn nhà, máu tuôn ra từ sọ hắn. Tôi bước lại đạp chân lên cổ tay đang giữ súng của hắn. Tiếng thét vẫn không dứt. Tôi liếc sang bên phải. Rachel đang đứng tựa lưng vào bồn rửa bát, mặt cô xám ngoét, mồm há hốc.

"Im ngay!" tôi quát. "Im!"

Mồm cô vẫn há, nhưng tiếng kêu tắt lịm.

Tôi giật khẩu tự động khỏi tay thằng tóc vàng, rồi kiểm tra mạch ở cánh tay hắn. Như sợi chỉ. Viên đạn xuyên qua sọ chỉ trên vành tai phải một chút. Đôi mắt xám của hắn trợn trừng, cả hai đồng tử bất động và dãn rộng. Tôi cúi xuống, thấy chất óc của hắn lộ ra. Hắn không thể sống quá năm phút.

Tôi cảm nhận hơn là nhìn thấy Rachel di chuyển. Nhìn lên, tôi thấy cô đang cầm ống điện thoại trong bếp; sắp sửa quay số.

"Bỏ xuống."

"Tôi gọi cứu thương."

"Hắn không còn cơ hội đâu."

"Làm sao anh biết được!"

"Tất nhiên là tôi biết. Nếu cô không tin thì kiểm tra đi." Tôi đứng thẳng lên. "Mà ngay cả khi hắn có cơ hội sống thì ta cũng không thể liều được."

"Cái gì? Anh nói sao?"

"Cô nghĩ thằng này là ai? Một tên lưu manh đường phố chắc? Một thằng nghiện đột nhập vào nhà tôi giữa ban ngày? Cô nhìn hắn xem."

Rachel liếc xuống chừng vài giây. "Tôi không biết hắn là ai. Anh biết hắn à?"

Khi tôi nhìn kỹ thằng nhãi đã ngỏm, tôi nhận ra mình biết hắn. Ít nhất đã có gặp từ trước. Không thường xuyên, nhưng có lần tôi đi qua hắn trong bãi đậu xe của Trinity, một gã trai gầy cao lêu nghêu, tóc hoe vàng, có dáng vóc của những người mà ta có thể gặp trên đường núi châu Âu. Giống như Geli Bauer, hắn có thể chất của một vận động viên leo núi, hoặc một tên lính xuất sắc.

"Tôi biết hắn. Hắn làm việc cho Geli Bauer."

Rachel nheo mắt bối rối. "Ai vậy?"

"Cô ta là Trinity. Cô ta là Godin. Cô ta là NSA." Tôi quẳng cả hai cây súng lên mặt quầy bếp. "Có kẻ đã ra lệnh cho cô ta lấy mạng tôi. Cả cô nữa, có vẻ thế."

Có gì đó trong tôi vẫn cưỡng lại ý nghĩ cho rằng Peter Godin đã ra lệnh giết tôi. Nhưng ở Trinity không gì có thể thực hiện được nếu lão chưa thông qua.

"Chúng ta phải gọi cảnh sát," Rachel nói. "Chúng ta sẽ không sao. Hắn định bắn tôi. Đó là tự vệ, là... giết người có lý do chính đáng, như họ thường nói."

"Cảnh sát ư? Cô không thể gọi cảnh sát để điều tra NSA. Tôi đã nói với cô rồi."

"Tại sao không? Hắn định giết tôi. Đó là hành vi phạm tội."

Tôi gần như phì cười. "NSA là cơ quan tình báo lớn nhất và bí mật nhất ở Mỹ. Mọi việc nó làm là tuyệt mật. Phải có lệnh của tòa án thì cảnh sát mới có thể bước qua cổng vào căn cứ quân sự Meade."

"Đây không phải căn cứ quân sự Meade."

"Đối với NSA, nó là căn cứ quân sự Meade. Nghe này, chúng ta cứ tự lo cho tới khi tôi gọi được cho tổng thống. Cô hiểu không?"

Cô nhìn xuống vũng máu. "Có thể hắn thật sự là lưu manh đường phố."

"Cô vẫn không hiểu à? Đó là lý do chúng lấy cắp bệnh án của tôi từ phòng cô đấy!"

"Cái gì?"

"Chúng đã tính đến chuyện giết cô."

Cô há mồm ra nhưng không nói gì.

"Nếu không thì chúng đã phải photocopy bệnh án và để lại chỗ cũ. Chúng không muốn để lại một thứ gì ở phòng khám để cảnh sát Durham có thể liên hệ cô với dự án."

Cô lắc đầu, nhưng lý lẽ của tôi khó mà bác bỏ. Tôi giắt khẩu tự động vào thắt lưng rồi nhặt khẩu 38 ly của mình lên.

"Chúng ta phải rời khỏi đây. Thật nhanh. Có thể bọn khác đang đến gần."

Mắt cô mở to. "Bọn khác?"

Tôi bỗng ngộ ra tất cả. "Bọn NSA nghe trộm điện thoại của tôi. Khi chúng thấy Ewan McCaskell để lại tin nhắn, chúng biết tôi chưa nói chuyện được với tổng thống. Đó là tất cả những gì mà chúng mong đợi. Tôi đã quá kích động khi thấy tin nhắn."

Tôi nắm tay cô. Bàn tay lạnh và mềm rũ. "Chúng ta phải chạy thôi. Rachel. Ngay bây giờ. Nếu không, chúng ta chỉ có nước chết ở đây thôi."

"Chạy đi đâu?"

"Bất cứ đâu. Không xác định. Chúng ta phải biến mất."

"Không. Chúng ta không làm gì sai."

"Điều đó chả có nghĩa lý gì." Tôi chỉ vào gã nằm trên sàn và thấy hắn không còn thở nữa. "Cô có nghĩ rằng cái xác này là một trong những ảo giác của tôi không? "

"Anh đã giết hắn," cô nói với giọng của một đứa trẻ.

"Và tôi có thể làm lại điều đó. Lúc ấy hắn chuẩn bị nã một phát đạn vào đầu cô."

Cô loạng choạng. Tôi đỡ cô, rồi dìu cô vào phòng ngủ của khách nơi tôi bị bất tỉnh ít phút trước.

"Cô nghỉ ở đây. Tôi phải đi kiếm mấy thứ." Tôi cố nhét khẩu 38 ly vào tay cô, nhưng cô rụt lại. "Cô giữ đi," tôi nài nỉ, bắt cô nắm lấy súng. "Nếu cô một mình ra khỏi đây, cô sẽ bị giết."

Cô trừng trừng nhìn tôi với cặp mắt trống rỗng.

Tôi lấy khẩu tự động ra khỏi thắt lưng, kiểm tra để đảm bảo chốt an toàn đã gạt. "Hứa với tôi là đừng ra khỏi đây nhé."

"Tôi sẽ không ra khỏi đây," cô đờ đẫn nói.

Tôi rời phòng khách và lao nhanh lên gác. Phòng ngủ của tôi ở bên trái cầu thang. Phía bên phải là một phòng ngủ tôi dành để chứa đồ. Tôi kéo một chiếc ghế cũ vào hốc nhỏ trong phòng rồi đứng lên. Với tay là tôi có thể chạm tới tấm gỗ dán dẫn lên gác xép. Tôi đẩy mảnh gỗ vuông ra rồi dùng sức nâng mình chui vào đó.

Tôi đứng lom khom để khỏi bị đinh trên xà gồ thò ra đâm phải, tôi giữ thăng bằng trên rui nhà, nhìn quanh để tìm phương hướng. Ánh sáng lọt qua mái chìa và lỗ thông hơi dưới vòm đủ để tôi thấy đường. Tôi dò dẫm hai mươi bước sang phải rồi quỳ xuống. Nằm trên tấm cách nhiệt bằng sợi thủy tinh màu hồng là một chiếc búa và một cái xà beng tôi để lại cách đây bốn tuần, hình như bất cẩn bỏ quên. Tôi nhặt chúng lên và bước nhanh đến chỗ sàn lát gỗ dán dày 6 li.

Lách xà beng vào khe giữa hai tấm gỗ, tôi gõ búa cho lún sâu xuống, rồi bẩy mạnh xà beng. Tấm gỗ dán toác ra. Tôi cắm đầu xà beng vào lỗ nứt ấy, bẩy mạnh lên, làm toạc một mảnh gỗ chừng sáu mươi phân. Tôi lôi một chiếc túi thể thao nhỏ bằng nylon từ hang tối phía dưới, kéo mở khóa ra. Ánh sáng mờ mờ lọc qua mái chìa chiếu sáng những đường nét chữ nhật của một hộ chiếu và hai xấp tiền khá dày. Mỗi xấp toàn tiền 100 đô. Tất cả khoảng hai mươi nghìn đô.

Cách đây năm tuần, khi Fielding nói với tôi rằng tôi cần phải giấu một cái bọc như thế, tôi đã cười ông. Nhưng ông đã tiên liệu ngày này sẽ tới. Kéo khóa túi lại, tôi bò trên rui nhà, tìm đến lỗ thông mà ném chiếc túi xuống sàn. Cánh tay tôi run lên vì căng thẳng khi tôi thả người xuống ghế rồi kéo tấm gỗ vuông đậy lỗ thông lại như cũ.

Khi chân tôi vừa chạm sàn nhà, hình ảnh Rachel hoảng hốt chạy ra khỏi nhà bỗng ngập tràn tâm trí tôi. Tôi nắm chiếc túi và chạy xuống gác.

Cô vẫn ngồi trên giường, mắt đờ đẫn vì sốc.

"Đến lúc đi rồi," tôi nói. "Cô sẵn sàng chưa?"

Cô chớp mắt nhưng không nói gì.

Tôi nắm lấy tay cô, kéo cô đứng dậy. "Tôi cần cô bình tĩnh được năm phút, sau đó cô có thể gục xuống nếu cần. Nào ta đi."

Tôi kéo cô qua hành lang và bếp đến phòng giặt đồ có cửa thông ra ga ra. Để cô đứng đó, tôi chạy vào lấy chiếc hộp của Fielding ở cửa sau rồi quay lại lấy khẩu 38 ly từ tay cô.

"Cô cầm lấy cái này," tôi vừa nói vừa đưa cho cô chiếc hộp. "Cứ đợi ở đây đến khi tôi gọi cô."

Không ngập ngừng để nỗi sợ có cơ lấn át, tôi mở toang cửa từ nhà ra ga ra rồi chĩa súng xông vào, lia từ trái qua phải, bao quát mọi góc bắn.

Ga ra trống rỗng.

Tôi lướt nhanh một vòng quanh chiếc Acura của mình, rồi quỳ xuống nhìn dưới gầm.

"Nào đi!" tôi kêu to. "Nhanh lên!"

Đế giày của Rachel rin rít trên sàn xi măng trơn nhẵn. Tôi mở cửa xe cho cô, đỡ lấy chiếc hộp của Fielding và đặt xuống ghế sau. "Nếu có chuyện gì xấu xảy ra, nó sẽ xảy ra ngay bây giờ." Tôi vừa ngồi vào sau tay lái vừa nói. "Cô ngồi thấp xuống."

Cô tuột xuống sàn xe. Chỏm đầu cô chỉ hơi cao hơn khung cửa. Tôi ấn đầu cô xuống, rồi khởi động máy và lùi xe.

"Cứ ngồi yên thế."

Tôi chạm tay vào hộp điều khiển từ xa kẹp trên tấm chắn nắng. Động cơ nâng cửa ga ra rú lên trên đầu chúng tôi, rồi cánh cửa ga ra rộng màu trắng từ từ kéo lên. Tôi siết chặt khẩu súng của tên giết người trong tay, nhìn xem có bóng đôi chân nào trong khoảng nắng chữ nhật đang mỗi lúc một rộng ra không.

Không có gì.

Đúng khoảnh khắc cửa ga ra nâng lên khỏi nóc xe, tôi rú ga. Chiếc Acura lùi vọt ra sân xi măng giữa ánh nắng lóa mắt. Tôi bấm điều khiển từ xa để đóng cửa ga ra, rồi đánh tay lái sang trái. Tôi không rà phanh cho đến khi chiếc xe thẳng hướng phố Willow.

"Chuyện gì vậy?" Rachel hoảng hốt kêu lên vì thấy tôi dừng đột ngột.

"Ngồi xuống!"

Tôi định bụng cứ thong thả chạy nếu đường phố vắng người, nhưng khi chúng tôi dừng lại, tôi mơ hồ cảm thấy có tay thiện xạ vô hình đang ngắm bắn chúng tôi. Tôi sang số, nhấn hết ga lao thẳng lên phố Willow, để lại trên mặt đường sau lưng vệt bánh xe cao su dài hai mét.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13


Tại trung tâm điều khiển của tòa nhà Trinity, Geli Bauer đứng bất động nói vào ống nghe.

"Chúng tôi nghe thấy tiếng súng nổ. Trong nhà Tennant."

"Chẳng phải cô đang mong chờ điều đó ư?" Skow hỏi.

Đồ ngu. "Không. Súng của Ritter có giảm thanh."

"Và đêm qua Tennant có mang theo súng?"

"Đúng."

Skow tiếp tục im lặng. "Điều đó không có nghĩa là Ritter đã gục."

"Không. Thực ra tôi không thể hình dung một kịch bản như thế."

"Tốt. Bây giờ cô muốn làm gì?"

Geli luôn coi Skow là một tên lính suông, vì khi viên đạn bay đi, gã chỉ chờ Geli hướng dẫn. "Tôi đã rút hết lực lượng quan trọng của mình về để không còn tình trạng khả nghi. Nhưng nếu tôi không cầm chắc được thắng lợi trong vòng năm phút nữa, tôi sẽ tung một đội vào đó để điều tra."

"Cô có gì ngụy trang không?"

"Một chiếc xe tải làm dịch vụ vệ sinh thảm."

"Có thể nào người ta đã báo về tiếng súng nổ cho cảnh sát địa phương không?"

"Có thể đấy. Nếu xe tuần cảnh bất ngờ xuất hiện khi chúng ta chưa kịp xóa sạch hiện trường..."

"Dùng quyền ủy nhiệm NSA cho cô để cách ly ngôi nhà," Skow kết thúc, cuối cùng cũng tỏ ra đôi chút can đảm. "Xong gọi ngay cho tôi."

"Tôi sẽ gọi."

"Tôi gác máy đây."

"Đợi chút."

"Cái gì nữa?"

Geli đã chán núp trong bóng tối. "Tennant hỏi tôi về chiếc đồng hồ bỏ túi."

"Chiếc đồng hồ bỏ túi nào?"

Chiếc máy dò nhảm nhí của ả chỉ kịch kim. "Sáng nay tôi đã soát kho. Tìm các đồ dùng cá nhân của Fielding. Tất cả đều còn chỉ trừ chiếc đồng hồ bỏ túi."

Skow im lặng hồi lâu. Rồi gã như tự nói với mình, "Chắc Fielding đã cho hắn biết điều gì đó về cái này."

"Thế anh có muốn cho tôi biết điều gì đó về chuyện này không?"

"Có biết cũng chẳng cần thiết cho công việc của cô."

Nỗi tức giận xoẹt qua người ả. "Nếu là về suy nghĩ của Tennant thì cũng quan trọng đấy."

"Quan trọng. Nhưng không phải với cô. Cứ tiếp tục báo cáo tình hình ở nhà đó cho tôi."

Skow gác máy.

Geli ngồi vào ghế của mình. Ả ghét bị giấu giếm, nhưng đó là bản chất của công tác tình báo. Hãy giữ chúng trong bóng tối và nhồi nhét cho chúng đầy những chuyện tầm phào. Ả thừa hiểu tầm quan trọng của việc đừng tò mò những chuyện không cần biết. Trong hai năm qua, ả không thấy thật sự cần biết các nhà khoa học đang làm gì. Nhưng sự thể đã thay đổi. Từ khi dự án bị treo, Peter Godin cứ đi suốt, hình như là đi thăm trụ sở chính của tổ hợp ở California. Geli không còn tin điều đó nữa. Đôi khi Godin kéo Ravi Nara đi theo, và điều đó thật vô lý. Nara chẳng liên quan gì tới Siêu máy tính Godin, thậm chí Godin còn không ưa tay bác sĩ thần kinh này.

Bây giờ thì Godin lặn mất tăm. Hay Godin đã mang chiếc đồng hồ bỏ túi của Fielding đi theo? Tại sao chiếc đồng hồ lại quan trọng đến thế? Khi Fielding mới đến làm việc ở Trinity, một kỹ sư của NSA đã tháo rời chiếc đồng hồ ra để chắc chắn nó không chứa thiết bị ghi dữ liệu. Anh ta tuyên bố nó sạch. Năm nay nó lại được tháo ra một lần nữa, vào một ngày chọn ngẫu nhiên. Đồng hồ vẫn sạch. Vậy tại sao nó lại bị lấy cắp khỏi kho chứa đồ. Geli hình dung ra chiếc đồng hồ trong trí. Một chiếc vỏ bằng vàng nặng, hiếm khi được sử dụng. Có một dây chuyền gắn vào đó, ở cuối sợi dây là một viên pha lê. Nhưng pha lê trong suốt. Bên trong nó không thể giấu giếm thứ gì được. Ít nhất là những thứ ả đã biết.

Đường dây nối trực tiếp của ả với NSA nhấp nháy đỏ. Ả chuyển sang tai nghe. "Bauer."

"Jim Conklin đây." Conklin là đầu mối liên lạc chính của ả tại Crypto City ở căn cứ quân sự Meade.

"Chuyện gì thế?"

"Chúng tôi vẫn đang tiếp tục kiểm soát cuộc gọi từ các điện thoại công cộng xung quanh nhà Fielding.Tất cả các trạm điện thoại công cộng trong vòng năm cây số, 24/24. Cô đừng bãi bỏ lệnh này."

"Tôi có ý bãi bỏ đâu?"

"Được. Mấy ngày qua chúng tôi đã dùng tất cả thiết bị kiểm soát sử dụng trong hoạt động chống khủng bố để kiểm tra xem có giọng nói nào khớp không."

Tim Geli đập dồn dập. "Các anh có được gì sao?"

"Cách đây bốn ngày, Andrew Fielding đã gọi điện từ một cửa hàng tiện lợi kiêm trạm xăng. Tôi nghĩ cô muốn nghe đấy."

"Anh có thể gửi cho tôi file âm thanh được không"

"Được chứ. Chúng tôi sẽ gửi qua mạng Webworld." Webworld là một mạng an ninh nội bộ của NSA mà Geli là một trong số những người ngoài hiếm hoi được truy cập. "Cô có cần ảnh phổ của nó không?"

"Không. Tôi biết giọng Fielding."

"Chờ hai phút."

Geli bấm tắt, liếc đồng hồ đeo tay, rồi nói "JPEG, Fielding, Andrew." Một bức ảnh Fielding phủ kín màn hình máy tính của ả. Lão già người Anh tóc bạc có khuôn mặt xương xương điển trai, đôi gò má hồng hào. Khi còn sống, Fielding rất thích rượu gin. Nhưng chính đôi mắt ông ta mới gây ấn tượng. Xanh lấp lánh, có cái vẻ láu lỉnh trẻ con gần như che lấp trí thông minh sâu sắc đằng sau. Khi Geli nhìn vào đôi mắt ấy, ả nhận ra ông ta là một đối thủ ghê gớm như thế nào. Ông ta có thể chết mà vẫn kiểm soát các sự kiện.

Một biểu tượng của file âm thanh nhấp nháy góc màn hình. NSA làm việc thật hiệu quả. Ả đang định mở file thì có tiếng bíp ở tai nghe, một mật mã báo động từ nhóm trong xe tải làm dịch vụ vệ sinh thảm.

"Cái gì thế?"

"Có xe tuần cảnh đang chạy trên phố. Chắc có kẻ đã báo về tiếng súng nổ."

Geli nhắm mắt. Có lẽ ả phải xin phép chính quyền liên bang để phong tỏa nhà Tennant. Cảnh sát thành phố sắp biết về sự hiện diện của NSA ở Chapel Hill rồi.

"Tôi đến ngay đây."

"Chúng tôi rút."

Geli nhấn nút trên bàn làm việc, báo động đến tất cả nhân viên các đội an ninh của ả, dù ở trong cơ quan, đang làm nhiệm vụ trực ban, hay đang ngủ ở nhà. Hai phút sau, một mạng lưới đã bủa vây nhà Tennant từ mọi hướng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14


Tôi sắp lái xe ra khỏi khu nhà thì nhận ra mình đã mắc sai lầm. Con đường xa lộ rộng mênh mông tưởng là lối thoát nhưng không phải. Tôi biết Geli Bauer quá rõ. Đánh mạnh tay lái sang trái, tôi quay đầu xe ở giữa phố Hickory, rồi ngoặt lên Elm.

"Sao anh lại quay lại?" Rachel đang ngồi bệt dưới sàn xe phía ghế khách hỏi.

"Cô đã đi săn thỏ bao giờ chưa?"

Cô chớp mắt bối rối. "Thỏ à. Tôi là người New York cơ mà."

Một phụ nữ đi xe đạp leo núi ngang qua chúng tôi đưa tay vẫy, đứa bé con ngồi ghế gắn trên chắn bùn sau. Trong cảnh ngộ hiện thời của chúng tôi, hình ảnh này giống như siêu thực.

"Khi con thỏ chạy thoát thân, nó chạy nhanh như chớp theo một đường dích dắc. Nhưng nó luôn chạy vòng về nơi xuất phát. Đấy là một chiến lược chạy trốn tuyệt hảo. Tất nhiên, người săn thỏ biết điều đó. Chính vì thế họ dùng chó săn. Lũ chó rượt đuổi thỏ trong khi người thợ săn đứng đó chờ bắn thỏ khi nó quay vòng trở về."

Nét mặt Rachel lộ vẻ khó chịu. "Thật là dã man."

"Nhờ thế mới có thực phẩm mà ăn. Vấn đề là, bọn đuổi bắt tưởng chúng ta chạy trốn như người. Nhưng chúng ta lại học bài học của thỏ."

"Làm thế thì chúng ta được gì?"

"Đầu tiên là vì một chiếc xe. Chiếc xe này chỉ chạy được không quá tám cây. Xe cô cũng thế."

"Vậy ta có thể lấy xe của ai?"

"Cô cứ ngồi cho vững đi đã."

Phố Elm bao quanh khu nhà tôi. Khi đến cổng phía Đông của phố Oak - phố này song song với Willow - tôi quẹo trái. Trong khi lái xe, tôi quan sát giữa các ngôi nhà để kịp thoáng thấy dãy mái nhà phố tôi. Khi nhìn thấy nhà mình, tôi quan sát các bãi cỏ phía trước. Phía trên phố Oak một trăm mét, tôi thấy thứ mình muốn tìm. Một tấm biển BÁN NHÀ màu xanh trắng. Ngôi nhà cần bán có lối vào cong dài nhưng không xe nào đậu cả. Rẽ vào lối vào nhà, tôi lanh lẹ đánh tay lái khỏi đường xi măng rồi chạy lại đậu sau một bụi hoàng dương rậm rạp.

"Theo tôi," tôi vừa ra khỏi xe vừa nói.

Rachel đứng lên khỏi sàn xe, mở cửa. Mặt cô tái xanh, tay run lẩy bẩy. Có lẽ phát súng ở nhà tôi đã làm cô bị sốc. Nó cũng làm cho cả tôi lo lắng. Trước đây tôi đã từng giết người. Tôi đã tiêm cho anh tôi ma túy và kali, rồi nhìn thấy tia ý thức cuối cùng tắt ngấm trong cặp mắt. Nhưng bắn vỡ óc một người là chuyện hoàn toàn khác. Và khi Geli Bauer biết tôi đã giết một trong những thủ hạ của ả, ả sẽ săn lùng tôi cùng trời cuối đất để trả thù.

Tôi bước lại gần Rachel, kéo cô lại và ôm cô như trước đây tôi đã từng ôm vợ con tôi. "Chúng ta sẽ ổn thôi," tôi nói mà không tin tưởng lắm. Mùi tóc cô thật gần gũi. Vợ tôi cũng thường dùng loại dầu gội này. Tôi gạt kỷ niệm ra khỏi trí óc. "Nhưng chúng ta phải chạy trốn. Cô hiểu không?"

Cô gật đầu trên ngực tôi. Tôi vuốt tóc cô, vẫn còn bàng hoàng trước những gì đã xảy ra với mình. Cách đây ba mươi phút, tôi tưởng cơn ác mộng này đã qua đi. Evan McCaskell sẽ gọi lại, và tổng thống sẽ kiểm soát được Trinity. Bây giờ thì hy vọng đã tan thành mây khói.

"Chúng ta phải đi bộ một chút," tôi nói, "rồi sau đó sẽ mượn xe. Sẽ không có ai ngăn cản chúng ta. Trông chúng ta sẽ giống người bán hàng khi tôi cầm chiếc hộp của Fielding. Cô có làm nổi không?"

Cô gật đầu.

Tôi lấy chiếc hộp của Fielding trong xe ra rồi đi bộ dọc phố Oak, Rachel đi bên cạnh. "Nơi sân sau kia có một hàng rào chạy sau những lô đất bên phố tôi. Cô sẽ thấy nó ngay thôi. Chúng ta phải đi tắt qua đó để sang phố tôi. Khi nào đến tôi sẽ bảo."

Chạy trên vỉa hè, chúng tôi mau chóng vượt qua hàng trăm mét để đến chỗ có thể trông thấy mái nhà tôi. Tôi dắt tay cô chạy qua thêm hai bãi cỏ rồi nói, "Đây rồi. Lối đi tắt giữa các ngôi nhà."

Có một hàng rào riêng bằng gỗ bịt giữa hai ngôi nhà tôi đã chọn.

"Nếu cổng khóa, chúng ta sẽ trèo vào," tôi nói.

"Nếu có người ở sân sau?"

"Cứ để tôi xử lý."

Cổng mở ra dễ dàng. Sân sau có mấy món dụng cụ sân chơi bằng nhựa, một chiếc máy xén cỏ, nhưng không có người. Tôi đặt tay lên thắt lưng Rachel dẫn cô vượt qua sân. Hàng rào sau không có cổng nên tôi cúi người, đan tay để cô trèo qua, rồi tự mình nhảy bật qua rào xuống đất bên cạnh cô.

Khoảng trống giữa hàng rào và tường bao chỉ rộng chưa đầy một mét. Tôi trườn qua một lỗ hổng phía dưới bụi cây, rồi đứng lên sau cái nhà kho mà trước đây tôi đã giấu chiếc hộp của Fielding. Rachel đi theo, nắm chặt tay tôi và nhao người đi. Tôi không biết chủ nhà kho này làm gì kiếm sống, nhưng tôi đoán anh ta buôn bán gì đó, vì anh ta ít khi ở nhà.

Bên trong nhà kho mờ tối, sặc mùi chuột chết và mùi dầu máy. Hàng loạt dụng cụ treo vào các móc trên bảng. Tôi tìm một chiếc xà beng giống chiếc trên gác xép nhà tôi, nhưng không thấy cái nào. Quỳ xuống, tôi xem xét gầm giá đựng đồ. Ở đó chủ nhà xếp gọn ghẽ các đồ đi câu. Không có cái gì đủ nặng để dùng vào việc của tôi.

"Tôi khó thở quá," Rachel kêu lên.

"Đấy là tại cái mùi. Cô ra ngoài đi."

Khi cô ra rồi, tôi thấy một chiếc búa tạ dựa trong góc. Tôi cầm nó lên đi ra ngoài. Rachel đang cúi gập người, hai tay ôm gối.

"Cái đấy để làm gì vậy?" cô hỏi.

"Lại đây."

Tôi xách búa phi ra cửa sau, vung lên theo đường vòng cung bổ mạnh vào chiếc khóa. Cửa toác ra một lỗ. Vứt búa xuống, tôi chui vào ngôi nhà tối om. Rachel theo sau. Tôi không nghe thấy tiếng chuông báo động, nhưng có thể có loại báo động không kêu. Đường dây dẫn thẳng đến dịch vụ an ninh.

"Tôi cần tìm nhà bếp," tôi bảo cô.

"Lối này. Tôi ngửi thấy mùi tỏi, và mùi nước rửa chén."

"Tìm móc treo tường. Tôi cần tìm chìa khóa xe."

"Anh bật đèn lên thì dễ tìm hơn."

Tôi bấm một công tắc ở tường và bếp tràn ngập ánh sáng. Đó là một gian trưng bày: đầy những thiết bị Viking chuyên nghiệp bằng thép không rỉ. Trong khi Rachel tìm móc treo tường, tôi mở ngăn kéo ra. Cái thì chứa giẻ rửa bát, cái thì gần như đầy ắp phiếu mua hàng giảm giá, điều này có vẻ kỳ cục. Người có tiền mua thiết bị Viking thì chẳng cần cắt phiếu mua hàng ra làm gì.

"Chìa khóa!" Rachel kêu lên, nắm được cái gì đó trên nóc quầy.

Tôi cầm lấy chìa khóa và xem xét. "Cái này là chìa khóa xe cắt cỏ. Tìm tiếp đi."

Ngăn kéo tiếp theo chứa một hộp đinh, vít, keo dán, kẹp giấy. Không có chìa khóa.

"Tại sao anh chọn nhà này?" cô hỏi.

"Người chủ nhà độc thân và không bao giờ có nhà, nhưng tôi biết anh ta có hai xe."

"Thấy rồi!" Cô lấy ra một chiếc chìa khóa đen vuông từ một cái móc dưới ngăn tủ. "Chìa khóa xe Audi."

"Đúng rồi."

Giống như ở nhà tôi, tôi phải đi qua phòng giặt đồ để ra ga ra. Chắc hai nhà cùng một kiến trúc sư thiết kế.

"Sao cô biết chìa khóa xe Audi?"

"Chồng cũ của tôi có một cái."

Tôi mở cửa ra ga ra và thấy một chiếc A8 màu ánh bạc nằm đó như lời đáp cho ước nguyện của mình. Chiếc xe thứ hai của anh chàng này là Honda Accord. Có lẽ anh ta đã vác chiếc Accord ra sân bay cho những chuyến đi xa có mang theo ô tô, và để dành chiếc Audi oách xà lách này để đi lại trên đường.

"Người nào đã có chiếc xe tám mươi ngàn đô chắc phải có hệ thống bảo vệ nhà," Rachel nói qua vai tôi.

"Cảnh sát chắc đang trên đường đến đây. Chìa khóa đâu?"

Cô thảy chiếc chìa khóa vào lòng bàn tay tôi như một y tá chuyền dao mổ cho bác sĩ giải phẫu, và hai mươi giây sau, để cửa ga ra tự sập xuống sau lưng, chúng tôi đã bon bon trên phố Willow. Tôi nhìn ngược xuôi đường phố Willow, chú ý để không vòng quá xa về bên phải trong khi vẫn để mắt nhìn về phía nhà tôi. Không có ai. Ngay cả một người làm vườn.

"Chúng ta lấy cắp chiếc xe này thì được gì nếu cảnh sát đến theo tín hiệu báo động của chủ nó?" Rachel hỏi.

"Cảnh sát sẽ không biết bị mất thứ gì. Họ không biết có chiếc xe này ở đó. Họ sẽ phải lần theo dấu vết chủ nhà, mà bây giờ có lẽ đang đi công tác ở tận phương nào có trời mới biết."

Tôi lái ngoặt hai lần thật nhanh và lao lên đường Kinsdale, nhắm thẳng hướng Đông về phía xa lộ liên bang 40. Đường khá đông xe cộ, làm tôi mừng rỡ.

"Chúng ta đi đâu bây giờ?"

Tôi nhoài ra ghế sau lấy từ trong hộp ra phong thư dán kín của Fielding, ném lên đùi cô. Tôi chỉ dòng chữ, Đêm thứ Bảy, tôi với Lu Li sẽ chạy xe ra chỗ nhà xanh.

"Chỗ nhà xanh?"

Dùng đầu gối để cầm lái, tôi lục tìm trong ngăn đựng đồ thì thấy một chiếc bút bi. Tôi rút thư ra khỏi bao và viết Nags Head/Bãi Ngoài bên dưới hình vẽ Thỏ Trắng ngộ nghĩnh của Fielding.

"Sao anh không thể nói to lên với tôi?"

Tôi viết nguệch ngoạc, Có thể bọn chúng đang nghe trộm.

Cô giật lấy bút và viết, BẰNG CÁCH NÀO? CHÚNG TA CHỈ VỪA MỚI LẤY TRỘM CHIẾC XE NÀY THÔI MÀ!

"Tin tôi đi," tôi thì thầm. "Điều đó có thể đấy."

Cô lắc đầu, rồi viết, Có gì ở Nags Head? Chứng cớ à?

Hình ảnh chiếc đồng hồ bỏ túi của Fielding lóe lên trong óc tôi. Tôi lấy lại bút và viết, Tôi hy vọng thế.

Cô viết, Di động trong túi tôi. Thử gọi cho tổng thống xem?

Tôi lấy bút viết, Chuyện đó lúc này không đơn giản.

"Sao không?"

Không có cách nào viết hết những điều cần nói. Tôi kéo cô sát lại và thì thầm vào tai. "Khi bọn chúng nghe McCaskell nhắn, chúng biết rằng có thể thủ tiêu tôi và nói với tổng thống bất kỳ điều gì chúng dựng lên để giải thích cái chết của tôi. Cả của cô nữa."

"Bịa chuyện thế nào mà giải thích được điều đó?"

"Dễ thôi. Lúc này tổng thống hay rằng chứng hoang tưởng của tôi đã phát triển thành loạn óc. Ravi Nara sẽ viết một bản chẩn đoán chính thức. Y sẽ nói tôi đã trở nên hoang tưởng đến mức nguy hiểm, rằng tôi tin Fielding bị giết trong khi rõ ràng ông chết vì nguyên nhân tự nhiên. Hồ sơ bệnh án của tôi ở phòng khám của cô nói tôi bị hoang tưởng, thậm chí có thể là tâm thần phân liệt. Chúng sẽ được sử dụng để hỗ trợ cho luận điểm của Nara." Tôi dời mắt khỏi đường và nhìn cô. "Cô có thấy thủ đoạn nham hiểm không?"

Cô quay đi.

"Không phải là một bức tranh sáng sủa, đúng không?"

"Không. Nhưng anh phải gạt bỏ nó ra khỏi đầu trong ít phút. Anh đang lái xe trên đường. Nếu anh cứ nhất nhất đòi lái xe thì anh cần phải bình tĩnh lại."

"Nhưng đó không phải chuyện tôi bận tâm lúc này."

"Vậy chuyện gì?"

Chọn cách trả lời trung thực, tôi sẽ phải chịu rắc rối, nhưng tôi không muốn giấu kín thêm nữa. "Tôi đã trông thấy."

"Thấy gì?"

"Thấy kẻ định giết cô."

"Tất nhiên là anh trông thấy. Thì anh phải nhìn thấy mới bắn được hắn chứ."

Tôi lao xe lên dốc I-40, tăng tốc rồi chạy lẫn vào dòng xe cộ lên phía RTP và Raleigh. "Tôi không định nói thế. Tôi thấy hắn đi bộ trên phố. Phố Willow. Trước cả khi hắn đến nhà. Hắn bước thẳng đến cửa trước."

"Anh muốn nói gì?"

"Tôi mơ thấy chuyện đó, Rachel."

Cô nhìn tôi trừng trừng. Trước đây cô chưa từng có mặt bên tôi khi tôi rơi vào trạng thái hoang tưởng. "Anh đã nhìn thấy hắn như thế nào? Giống như những hoang tưởng về Jesus ư? Hay như trong xi nê? Thế nào?"

"Tôi nhìn thấy mọi chuyện theo cách mà cô thấy những gì một tên tội phạm hay một con quái vật nhìn, trong các phim hạng B. Tôi trông thấy nó qua mắt hắn."

Cô ngả người ra ghế. "Anh hãy nói cho tôi biết chính xác là anh thấy những gì."

"Những ngôi nhà trên phố tôi. Đôi chân tôi đang cuốc bộ. Một con chó chạy lon ton bên cạnh. Tôi nghĩ mình đang mơ về bản thân. Nhưng khi tôi về đến nhà và thò tay vào túi lấy chìa khóa thì... tôi rút ra một chiếc móc mở khóa."

"Tiếp tục đi."

"Tôi mở khóa rồi đi vào bên trong. Tôi nghe thấy tiếng cô trong bếp, và sau đó tôi rút ra một khẩu súng."

Rachel nhìn chăm chăm qua kính xe, nhưng rõ ràng tâm trí cô đang ở tận đẩu đâu. "Điều đó chẳng có nghĩa gì cả," cuối cùng cô nói. "Những giấc mơ về kẻ lạ đột nhập vào nhà hay phòng ngủ hầu như phổ biến với các bệnh nhân của chứng ngủ rũ. Ngay cả khi anh không bị bệnh ngủ rũ, thì đó cũng có thể là một giấc mơ điển hình, một biến dạng của hiện thực do những nỗi lo lắng gây ra."

"Không. Giờ giấc ăn khớp rất hoàn hảo. Tôi thấy mối nguy trong mơ, và khi tôi tỉnh dậy, thì mối nguy đang còn đó trong thực tế. Đúng y như tôi đã trông thấy nó."

Cô bóp vai tôi. "Anh hãy nghe tôi. Anh đã quen với tiếng động trong nhà mình. Anh lại vừa bị căng thẳng. Anh bỗng nghe thấy một âm thanh lạ, âm thanh gợi ngay cho anh nỗi sợ bị trộm đột nhập. Cửa trước mở ra. Cửa sổ nâng lên. Một tấm ván kêu răng rắc. Phản ứng với những kích thích ấy, trí não của anh tạo ra một giấc mơ về cuộc đột nhập. Điều đó đủ làm anh hoảng sợ để tỉnh dậy. Giấc mơ của anh là một phản ứng với những kích thích bên ngoài, chứ không có gì khác."

Tôi có nhớ đến tấm ván kêu răng rắc. Nhưng tôi đã tỉnh khi nghe thấy tiếng động đó. "Tôi trông thấy khẩu súng của hắn trong mơ", tôi bướng bỉnh nói. "Đó là một khẩu tự động. Có giảm thanh." Tôi vỗ vỗ vào khẩu súng đeo bên thắt lưng. "Giống như khẩu này."

"Trùng hợp thôi."

"Trước đây tôi chưa bao giờ trông thấy một khẩu súng giảm thanh."

"Tất nhiên anh đã từng thấy rồi. Anh đã nhìn thấy chúng hàng trăm lần trong phim."

Tôi nghĩ ngợi về điều này. "Đúng. Nhưng còn một chuyện nữa."

"Chuyện gì?"

"Đây không phải lần đầu tiên tôi mơ như thế. Tức là trong mơ tôi là một người khác, một người trong hiện tại. Tôi đã mơ như thế vào cái ngày Fielding chết."

"Anh tả nó cho tôi nghe."

Một xe tuần cảnh Durham chạy qua chúng tôi trên làn Tây. Tim tôi thót lại, nhưng chiếc xe không chạy chậm lại hay nháy đèn.

"Hôm qua khi tôi đang thu băng video - ngay trước lúc cô đến - tôi mơ thấy mình là Fielding ngay trước và trong lúc ông ấy chết. Điều đó thực đến mức tôi cảm thấy mình đang chết thật sự. Tôi không nhìn được... không thở được. Khi tôi ra mở cửa cho cô, tôi còn không biết đi đường nào."

"Nhưng Fielding đã chết vào buổi sáng hôm ấy."

"Vậy thì sao?"

Cô giơ tay lên như để nhấn mạnh một sự việc đã rõ ràng. "Anh không thấy ư? Giấc mơ Fielding của anh không báo trước điều gì. Nó chẳng qua là một phản ứng của nỗi đau. Anh còn mơ thấy những giấc mơ nào như vậy nữa?"

Tôi nhìn lại đoạn đường phía sau. Chúng tôi đã đến Công viên Tam giác Nghiên cứu. Con đường I-40 chạy qua đó. Cách đây chưa đầy hai cây số Geli Bauer đang chỉ huy cuộc săn đuổi tôi.

"David, anh còn mơ thấy những giấc mơ nào như vậy nữa?"

"Bây giờ chưa phải lúc bàn chuyện đó."

"Có lúc nào tốt hơn sao? Tại sao anh bỏ ba buổi hẹn khám với tôi?"

Tôi lắc đầu. "Cô đã nghĩ là tôi điên."

"Đó không phải thuật ngữ y học."

"Dù sao nó cũng mô tả đúng thực trạng."

Cô thở dài và nhìn trảng cỏ xanh mướt bên đường phía cô qua cửa kính.

"Đó là Trinity," tôi nói. "Phía trên kia kìa."

Phòng thí nghiệm nằm xa đường quá nên quá nhỏ nhìn không rõ.

"Có logo Argus Optical," cô nói.

"Đó là cái vỏ."

"À, coi nào... anh giấu tôi những hoang tưởng của anh thì có lợi gì nào? Anh nghĩ anh đang bảo vệ cái phần nào trong con người anh?"

"Chúng ta sẽ nói chuyện đó sau." Tôi thấy rõ cô không chịu thôi. "Tôi cần thuốc, Rachel. Tôi không thể chịu nổi năm lần choáng ngất một ngày khi chúng ta còn đang chạy như thế này."

"Anh đang dùng thuốc gì vậy? Modafinil à?"

Modafinil là một loại thuốc tiêu chuẩn điều trị chứng ngũ rũ.

"Đôi khi. Thường thì tôi dùng methamphetamin."

"David, chúng ta đã nói về tác dụng ngoại ý của amphetamin. Chúng có thể làm các hoang tưởng của anh trầm trọng lên đó."

"Đó là thứ duy nhất giúp tôi tỉnh táo. Ravi Nara thường cho tôi uống Dexedrine cơ."

Cô thở dài. "Tôi sẽ kê cho anh một ít thuốc Adderall."

"Đơn thuốc không thành vấn đề. Tôi có thể tự kê được. Vấn đề là chúng biết tôi cần thuốc. Chúng sẽ canh tất cả các hiệu thuốc".

"Họ không thể nào bao quát hết các tiệm thuốc ở khu Tam giác này được."

"Chúng là NSA, Rachel ạ, và chúng biết tôi cần thuốc. Đó là những kẻ đã ghi âm câu chuyện phiếm trong buồng lái giữa các phi công Nga, những người đã bắn rơi máy bay Triều Tiên trên đảo Sakhalin năm 1983. Đã hai mươi năm qua rồi, và đó là tai nạn ngẫu nhiên. Bọn chúng đang ráo riết truy tìm chúng ta. Cô đã đọc cuốn 1984 1 chưa?"

"Tôi đọc từ hai mươi năm trước."

"Khi nói NSA là tôi nghĩ đến Anh Cả 2 . NSA là thứ tương tự nhất mà chúng ta có ở nước Mỹ này."

"Nhưng anh vẫn cần thuốc."

"Chắc cô có quen ai đó."

"Tôi có thể kiếm được thuốc trong quầy thuốc bệnh viện."

"Bọn chúng đang canh chừng ta ở đó."

"Hừ, chó chết thật."

Tôi hầu như chưa bao giờ nghe thấy cô văng tục. Có lẽ chỉ khi nào cô bận jean xanh. Có lẽ cô cố giữ vẻ nghiêm trang khi mặc váy lụa với áo bờ lu.

"Tôi biết một bác sĩ ở Bắc Durham, cô ấy sẽ cho chúng ta một ít," cô nói.

Chúng tôi đã qua Durham lâu rồi và đang thẳng tới Raleigh. Hiểu biết của tôi về Geli Bauer khiến tôi miễn cưỡng nấn ná ở vùng này lâu hơn cần thiết. Hơn nữa, thật là nghịch lý, có gì đó trong tôi không muốn các giấc mơ chấm dứt. Giấc mơ trước đã cứu mạng chúng tôi, và mặc dầu tôi chưa bao giờ thú nhận với Rachel, tôi cảm thấy bằng cách nào đó những giấc mơ - tuy có thể đáng sợ - đã cung cấp thông tin về cảnh ngộ khốn khó của chúng tôi, những thông tin mà tôi không thể có được nhờ cách nào khác.

"Chúng ta không thể quay lại," tôi nói.

"Ngộ nhỡ anh bị choáng khi đang lái?"

"Cô đã thấy nó xảy ra như thế nào khi ở nhà tôi. Nó không xảy ra tức khắc đâu."

"Nhưng khi đó anh không lái xe."

"Tôi luôn được báo trước vài phút. Tôi sẽ dừng lại ngay khi cảm thấy không ổn."

Rachel khó chịu ra mặt. Như thể muốn trút bực bội, cô gác một chân lên bảng điều khiển, tháo dây giày, rồi cột chặt lại. Xong cô làm thế với chân kia. Dường như cái thủ tục bắt buộc ấy làm cô bình tĩnh lại.

Tôi chạy lên đường 440 vòng quanh Raleigh rồi nhập vào đường U.S. 64, đi hết đường này là đến Đại Tây Dương. Con đường cao tốc mang đặc trưng miền Nam: hai dải đường xi măng rộng chạy xuyên rừng thông và rừng cây gỗ cứng. Chắc khoảng hai tiếng nữa mới đến chỗ đất thoải xuống phía Bãi Ngoài. Giá như Fielding không chết, có lẽ hôm nay ông sẽ đi trên con đường này, con đường ông đã đi trước đây, đến địa điểm mà vợ tôi và tôi đã đến thăm mười hai năm trước. Những ý nghĩ như thế cho tôi thấy sự mơ hồ không cần thiết của những từ ngữ như không-thời gian. Một người học vấn trung bình nghe một từ như thế sẽ tưởng anh ta không bao giờ hiểu được nó. Nhưng điều này hết sức đơn giản. Bất kỳ một nơi chốn nào anh nhìn thấy đều liên hệ đến một thời gian nhất định. Ngôi nhà nhỏ ở Nags Head mà Fielding cùng vợ hưởng tuần trăng mật có vẻ như là nơi vợ chồng tôi từng ở, nhưng thực tế lại không phải. Trong khuôn khổ không-thời gian, nó hoàn toàn khác. Ngôi trường anh đến thăm hai mươi năm sau khi tốt nghiệp, sân bóng anh từng chơi, con đường nhỏ anh từng chạy trên đó - không có cái gì như cũ. Nếu nó vẫn như cũ, anh sẽ đụng phải các thế hệ chạy trên đó trước hoặc sau anh. Người yêu mà anh hôn không phải là chính nàng sáu mươi giây trước đó. Trong một phút ấy, một triệu tế bào da đã chết và được thay mới. Những lát cắt cực nhỏ của không-thời gian ngăn cách ý nghĩ và hành động. Sự sống và cái chết.

"Tôi không muốn làm sự việc trở nên xấu hơn," Rachel nói, "nhưng vì anh không thể gọi cho tổng thống nữa, đúng ra anh có thể làm gì? Chúng ta có thể đi đâu?"

"Tôi đang hy vọng một cái gì đó trong ngôi nhà nhỏ ấy sẽ cho tôi một đầu mối. Ngay bây giờ tôi chỉ cố gắng bảo toàn mạng sống của chúng ta."

"Sao anh không đơn giản là công khai nó. Chạy đến Atlanta và nói tất cả với CNN?"

"Bởi vì NSA chỉ cần bảo rằng chúng ta nói dối. Tôi có thể chứng minh điều gì vào lúc này?"

Rachel khoanh tay. "Anh thử nói tôi xem. Chẳng lẽ một người đoạt giải Nobel như Ravi Nara có thể gian dối che giấu tất cả chuyện này?"

"Y sẽ không do dự đâu. An ninh quốc gia là sự hợp lý hóa tốt nhất cho mọi lời nói dối. Còn về tòa nhà Trinity, lúc này chắc nó trống trơn rồi. "

"Lu Li Fielding có thể ủng hộ anh."

"Lu Li đã biến mất rồi."

Sắc mặt Rachel trở nên nhợt nhạt.

"Đừng nghĩ chuyện xấu nhất. Bà ấy đã có kế hoạch chạy trốn, nhưng tôi không biết bà ấy đã thực hiện chưa."

"David, anh chưa nói hết với tôi những gì anh biết."

"Về Lu Li ấy à?"

"Về Trinity."

Cô nói đúng. "Thôi được, vài tuần trước đây, Fielding biết rõ rằng việc treo dự án chỉ là mưu mẹo để làm sao lãng hai chúng tôi. Ông ấy nghĩ dự án Trinity thật sự vẫn được tiếp tục ở một nơi nào khác, có thể đã từ khá lâu rồi."

"Họ còn có thể tiến hành ở chỗ nào khác nữa?"

"Fielding cá là ở các phòng thí nghiệm R&D ở Trung tâm Siêu máy tính Godin tại California. Godin đã nhiều lần bay đến đó bằng chuyên cơ riêng. Nara cũng đi cùng ông ta vài bận."

"Điều đó không chứng minh được gì. Với tất cả những gì anh biết, thì có thể họ đang chơi golf ở bãi biển Pebble cũng nên."

"Các cha đó không chơi golf đâu. Bọn họ làm việc. Bọn họ sẽ bán linh hồn để đổi lấy những gì họ muốn. Khi nào cô nghĩ đến Peter Godin, hãy nghĩ đó là Faust."

"Bọn họ muốn gì?"

"Nhiều thứ khác nhau. John Skow hồi đó sắp bị NSA sa thải thì được Godin yêu cầu quản lý Dự án Trinity. Việc đó đã cứu vãn sự nghiệp của gã."

"Tại sao Godin cần một người như gã?"

"Tôi nghĩ Godin có dự tính gì đó với Skow. Hình như ông ta đã cam kết với gã từ lâu và biết rằng Skow sẽ giữ im lặng tất cả những gì gã được nghe kể. Làm việc cho NSA thì không giàu. Nhưng là nhà cung cấp máy tính Trinity cho cơ quan này thì có thể đặt gã vào ghế giám đốc. Và sau đó, gã có thể là vô giá đối với một tập đoàn tư nhân. Skow sẽ làm bất cứ điều gì cần thiết để hiện thực hóa Trinity."

"Còn Ravi Nara?"

"Nara đòi một triệu đô la một năm cho vị trí này. Khoản nào chính phủ không trả được, Godin trả bằng tiền mặt. Ngoài ra, những gì Nara đóng góp cho Trinity sẽ cho y một cơ hội Nobel nữa. Tất nhiên là chung với Godin và Jutta Klein. Lẽ ra Fielding là người xứng đáng nhất, nhưng ủy ban Nobel không truy tặng. Ngoài nguồn tài chính nghiên cứu vô tận suốt đời, tên tuổi Nara còn được lưu trong các sách lịch sử..."

"Thế còn cái bà Jutta Klein đó?"

"Klein là người thẳng thắn. Bà ấy là một phụ nữ Đức lớn tuổi, và đã chung giải Nobel với hai người Đức khác từ năm 1994. Bà ấy được chuyển nhượng từ Siemens cho Trinity. Đó là cách hình thành của nhiều công ty. Godin muốn có những người giỏi nhất thế giới, ông ta đã mượn họ từ phòng R&D của các hãng máy tính mạnh nhất. Sun Micro. Silicon Graphics. Để đổi lại, những công ty này sẽ nhận được giấy phép sử dụng một số bộ phận thuộc công nghệ Trinity sau khi nó được công khai. Nếu nó được công khai."

"Nếu Jutta Klein trung thực," Rachel nói, "có thể bà ấy sẽ giúp được chúng ta."

"Có muốn bà ấy cũng không giúp được. Bọn chúng sẽ khiến bà ấy phải im lặng."

Rachel thở dài thất vọng. "Thế còn Godin? Ông ta muốn gì?"

"Godin muốn làm Chúa."

"Cái gì?"

Tôi lạng nhẹ sang làn trái để vượt một nhà xe lưu động. "Godin không thèm để ý Trinity có sinh lợi nhuận hay không. Ông ta là tỷ phú. Ông ta đã bảy mươi hai tuổi rồi, và trở thành sao từ khi mới bốn mươi. Bởi vậy hãy quên đi chuyện trở thành cha đẻ của trí thông minh nhân tạo hay những gì tương tự thế. Ông ta muốn trở thành người đầu tiên - hay người duy nhất - mà trí tuệ được nạp vào chiếc máy tính Trinity."

Rachel hất một lọn tóc đen ra khỏi mắt. "Ông ta là người thế nào? Một kẻ ích kỷ cùng cực chăng?"

"Ông ta không đơn giản thế. Godin là một bộ óc sáng chói, là người hiểu rõ những khiếm khuyết của thế giới này. Ông ta giống những người mà ta biết ở trường đại học, những kẻ nghĩ rằng Atlas Shrugged 3 là câu trả lời cho mọi vấn đề của thế giới, chỉ có điều ông ta là một thiên tài. Và ông ta đã có những đóng góp chủ chốt cho khoa học. Cho đến nay, nước Mỹ thật sự là một nơi tốt đẹp chính vì Godin đã sống ở đó. Siêu máy tính của ông ta đóng vai trò quan trọng vào thắng lợi trong cuộc Chiến tranh Lạnh."

"Có vẻ như anh ngưỡng mộ ông ta."

"Ông ta dễ được ngưỡng mộ. Nhưng tôi cũng sợ ông ta nữa. Ông ta gần như vắt kiệt sức mình để chế ra chiếc máy tính mạnh nhất thế giới, nhưng ông ta không quan tâm một điều là ông ta không hiểu nó vận hành thế nào khi cuối cùng nó đi vào hoạt động. Godin dựng nên Trinity để tự mình sử dụng nó. Và tôi không biết có gì nguy hiểm hơn là một con người mạnh mẽ bị ám ảnh bởi việc tái tạo thế giới theo hình ảnh của riêng mình."

Khi tôi với tay ra để chỉnh tốc độ tự động của chiếc Audi, tôi thấy mắt mình bắt đầu mờ đi. Một cơn mệt mỏi tràn qua tôi, và những lời cuối cùng của Rachel trượt khỏi đầu tôi. Mắt tôi nhìn rõ trở lại, nhưng tiếng vo vo chói tai quen thuộc lại bắt đầu. Tôi đạp phanh và tấp vô lề đường.

"Sao thế?" Rachel hỏi.

"Cô phải lái thôi, tôi sắp xỉu rồi."

Cô ngồi dậy. "OK."

Tôi xuống xe và vòng sang phía cô. Rachel trèo qua bảng điều khiển và trườn vào sau tay lái. Trước khi ngồi vào chỗ, tôi ngó trước ngó sau con đường. Xe cộ trên đường đông vừa phải, nhưng đều đặn, và không có người lái nào để ý đến tôi.

Cô quan sát tôi kỹ lưỡng. "Anh không sao chứ, David?"

"Hơi run."

Cô với tay thắt dây an toàn cho tôi. "Vẫn chứng đó hả?"

"Ừ." Tiếng ong ong chói tai đã xuống đến răng hàm.

"Anh nhắm mắt lại. Tôi lái đây."

"Cứ nhắm hướng Đông. Chúng ta sắp đến nơi rồi." - Tôi giơ ba ngón tay lên - "tiếng nữa". Trong ngăn đựng găng tay có tấm bản đồ Carolinas. Tôi tìm đường cao tốc 64 và chỉ đến Plymouth, gần nơi sông Roanoke chảy vào eo Albermarle. "Nếu đến đấy mà tôi không tỉnh thì đánh thức tôi dậy."

Rachel sang số và tăng tốc dọc lề đường. Khi đến tám mươi, cô chạy xe vào làn đường và nhấn ga.

"Anh thấy khó chịu hơn phải không?" cô hỏi.

Tôi trả lời trong đầu, không sao đâu, nhưng một bộ phận của não nhận ra rằng môi tôi không chuyển động. Tôi sắp xỉu. Lòng bàn tay tôi ngứa ran, mặt cảm thấy nóng bừng. Rachel đặt tay lên trán tôi.

"Anh sốt rồi. Chuyện này có thường xảy ra không?"

Tôi cố trả lời, nhưng tôi cảm thấy giống như hồi tôi còn là đứa bé trong bể bơi ở Oak Ridge, cố gắng nói chuyện dưới nước với bạn. Chúng tôi cố gào to nhất, nhưng không thể làm cho bạn hiểu mình. Bàn tay Rachel dường như đang chảy tan vào trán tôi. Dù sao nó cũng làm tôi thấy dễ chịu. Tôi muốn nhìn vào gương xem có thật tay cô đang tan chảy hay không, nhưng tôi không thể nào nhúc nhích. Một người phụ nữ đang gọi tên tôi từ nơi nào rất xa. Trước khi tôi có thể trả lời, một con sóng xanh sâu thẳm cồn lên, vỡ oà ra trong tôi và tôi lịm đi, lăn nhào vào bóng tối.

Tôi ngồi ngoài trời giữa vòng người đang tựa lưng vào tường mà ngủ. Ở giữa là đống than hồng cháy rực. Bầu trời đầy sao sáng. Một người đàn ông khoác áo choàng tên là Peter ngồi cạnh tôi. Ông ta có vẻ rất bồn chồn.

"Tại sao ngài lại muốn làm thế?" ông ta thầm thì. "Nếu ngài bỏ đi, ngài sẽ chịu muôn nỗi nhục nhã. Cho dù dân chúng có nghe ngài, thì bọn tăng lữ và bô lão cũng sẽ ruồng bỏ ngài. Còn bọn La Mã nữa? Tôi sợ chúng sẽ giết ngài."

Dù ông ta không nêu tên địa điểm, song tôi biết ông ta đang nói về Jerusalem. "Cút đi," tôi bảo ông ta. "Ngươi chỉ đáng bằng con chó. Cái thân ngươi, bữa cơm tiếp theo của ngươi, đời ngươi."

Ông ta tóm cánh tay tôi mà lắc. "Ngài không đuổi tôi đi dễ dàng thế được đâu! Tôi đã chiêm bao thấy rõ. Nếu ngài đi, ngài sẽ bị hành hình."

"Kẻ nào cố giữ mạng mình sẽ mất mạng 4 ," tôi trả lời.

Peter lắc đầu, đôi mắt ta ông đầy bối rối.

Cảnh trí bỗng thay đổi. Tôi đang ở trên một ngọn núi cao nhìn xuống một cánh đồng. Quanh tôi có nhiều người ngồi.

"Khi các ngươi xuống thành phố", tôi hỏi, "các ngươi sẽ bảo ta là ai?"

"Chúng tôi nói ngài là một người đã được rửa tội."

Tôi lắc đầu. "Đừng nói thế. Hãy nói thật lòng những gì các ngươi nhìn thấy. Không hơn."

"Vâng, thưa Chúa," một người đàn ông tên John trả lời, mắt ông ta to nâu như mắt đàn bà. Ông ta nhìn Peter rồi thận trọng nói với tôi. "Người ta bảo tôi là ngài muốn đến Jerusalem."

"Đúng."

John lắc đầu. "Nếu ngài làm thế, bọn tăng lữ sẽ không biết phải làm gì với ngài. Chúng sẽ sợ ngài, và chúng sẽ khép ngài vào tội chết."

"Ly rượu đã đến tay ta. Ta phải uống."

Lũ người lặng im. Khi ngắm nhìn cánh đồng phía dưới, nỗi sợ réo sôi trong ổ bụng tôi. Biết món quà của cuộc sống này, của thân thể này, và rồi dứt bỏ nó đi...

Tôi choàng dậy tóm lấy bảng đồng hồ, đập ngay vào mắt là đuôi chiếc máy kéo phía trước. Rachel nắm đầu gối tôi.

"Ổn rồi, David ạ! Tôi đây."

Tay tôi run lên, nỗi sợ từ giấc mơ vẫn còn nguyên. "Chúng ta đi bao lâu rồi?"

"Một tiếng hai mươi phút. Chúng ta vừa qua khỏi Plymouth."

"Tôi đã dặn cô gọi tôi dậy cơ mà!"

"Nhưng anh ngủ quá say, tôi ghét làm chuyện đó."

"Cô có thấy gì khả nghi không?"

"Cách đây nửa tiếng ta đi qua một đồn cảnh sát, và mấy cảnh sát Plymouth, nhưng không ai nhìn chúng ta đến hai lần. Tôi nghĩ chúng ta ổn."

Rachel trông không có vẻ gì là ổn. Và ngay khi đạt được mục tiêu cấp kì là chạy trốn, thì sự điềm tĩnh của cô sẽ lung lay. Tôi cũng không khác. Phản ứng của tôi về vụ giết tên sát thủ của Geli Bauer bị mờ đi bởi cơn thác lũ hóa chất thần kinh phát ra để cứu sống tôi. Những hình ảnh từ giấc mơ của tôi trở lại lấp loáng ánh sáng và màu sắc, nhưng nỗi sợ nhạt đi, sau đó tôi lại cảm thấy khuây khỏa khá lạ lùng. Sau nhiều tháng trong tình trạng mập mờ và bí ẩn, cuối cùng thì những giấc mơ đã có một địa điểm rõ rệt. Jerusalem. Về mặt logic thì chẳng có nghĩa gì cả. Tôi chưa bao giờ tới Israel, và tôi chỉ biết về nó qua những xung đột đẫm máu mà tôi thường thấy trên các bản tin tối từ nhiều thập kỷ nay. Nhưng đến giờ thì logic đã đưa tôi tới đâu?

"David?" Rachel ướm hỏi. "Có lẽ chúng ta có thể nấp lại một lát ở..."

Tôi vội lấy tay bịt miệng cô. "Đừng. Xin lỗi, nhưng tôi đã cảnh báo cô rồi."

Cô gật đầu, và tôi bỏ tay ra. "Nếu đúng là NSA mạnh đến thế," cô thầm thì, "thì anh thu băng video trong phòng riêng như thế nào mà họ không nghe trộm được?"

Tôi nhoài người ra ghế sau, lấy hộp đồ chơi điện tử tự tạo của Fielding, đặt lên đùi. Tôi lấy từ trong đó ra một chiếc que kim loại dài chừng hai nhăm phân. "Fielding đã chỉ cho tôi thấy những con rệp của chúng nằm đâu. Trong những lỗ nhỏ xíu giữa lớp vữa trát tường."

"Ông ấy làm gì với những thiết bị này? Anh có nghĩ như thế là hơi đa nghi không?"

"Tôi hiểu tại sao cô lại nghĩ vậy. Cô cần phải biết ông ấy mới được."

Dù nói thế, trong bụng tôi vẫn thầm nghĩ liệu mình đã thực sự hiểu được ông người Anh kỳ quặc này chưa. Tôi thọc tay vào trong hộp, tìm xem có dấu vết gì của một thông điệp bí mật không. Phần lớn những dụng cụ tự chế này trông giống như đồ chơi của một cậu bé mà cuối tuần nào cũng mải mê trong cửa hàng điện tử RadioShack. Có một cái giống món đồ chơi View-Master của tôi hồi trẻ, một chiếc khung nhựa với ống thị kính và một công tắc ở bên phải. Tôi đưa ống ngắm lên mặt, nhắm vào Rachel và gạt công tắc. Một màn sương màu hổ phách che hết tầm nhìn của tôi, ngoài ra không có gì cả.

"Cái gì vậy?" Rachel hỏi.

"Tôi cũng không rõ nữa." Tôi quay ống nhòm ra kính chắn gió để nhìn ra ngoài đường.

Tim tôi đóng băng. Một chùm sáng đồng bộ mảnh màu xanh lá cây - tia laser- chiếu vào kính chắn gió phía trước của chiếc Audi theo phương gần như vuông góc với mặt đất. Tôi đã thấy nhiều tia như thế trong các phòng thí nghiệm vật lý của trường Đại học Công nghệ Massachuset. Nơi khác duy nhất tôi có thể thấy chúng là trong phim, trong những cảnh bắn súng laser. Có kẻ đang nhắm tia laser vào chúng tôi từ trên không trung! Tôi muốn kêu lên để báo Rachel, nhưng cổ họng tôi như bị gắn keo. Tôi quờ chân đạp phanh, làm cho chiếc xe phanh kít lại.

Rachel rú lên và cố kiểm soát chiếc xe đang quay đầu. Tôi xoay ống nhòm để tìm tia laser. Nó kia, cách khoảng bốn mươi mét, dõi theo xe tôi như bàn tay của Chúa. Chiếc Audi rùng mình dừng lại bên lề cỏ.

"Anh làm cái trò quỷ gì thế hả?" Rachel thét lên.

Chỗ núp gần chúng tôi nhất là một hàng cây cách lề cỏ chừng năm mươi mét. Một kẻ có vũ khí tự động sẽ dễ dàng đốn gục chúng tôi trước khi chúng tôi chạy đến hàng cây. Tôi gí ống nhòm vào mắt Rachel.

"Có kẻ rình bắn chúng ta! Nấp ngay dưới bảng đồng hồ. Càng xa càng tốt."

Trong khi cô gập người chui xuống dưới cần tay lái, tôi lại tìm tia laser. Tôi đợi nó di chuyển đến tôi, nhưng nó lại cố định trên kính chắn gió. Tia sáng không xuyên qua kính; nó dừng lại trên bề mặt. Cố suy nghĩ về tia laser, tôi nhận ra rằng nó không nhằm tôi hay Rachel, mà nhằm tấm bảng đồng hồ.

"Nếu chúng muốn bắn chúng ta," tôi nói ý nghĩ của mình thành lời, "thì chúng đã bắn ngay trước khi tôi lôi được chiếc kính ngắm ra rồi."

"Sao?"

"Đó không phải là đường ngắm bắn."

"Anh đang nói về chuyện gì thế?"

Tia laser có thể là vật chỉ điểm ném bom, nhưng ngay cả khi hoảng loạn đi nữa, NSA cũng chưa đến mức thả một quả bom định hướng xuống lề một con đường cao tốc Mỹ. Chúng có quá nhiều phương án khác để lựa chọn. Tôi bỗng hiểu ra. Tia laser là một công cụ theo dõi. Bằng cách chiếu tia laser lên mặt kính chắn gió và đo rung động của kính, kẻ nghe trộm ngồi trên máy bay hay trực thăng có thể nghe hết mọi lời chúng tôi nói bên trong xe.

"Dậy! Dậy lái tiếp!"

Rachel chật vật ngồi lên ghế, cầm lái chạy lên đường lớn. Tia sáng xanh vẫn bám chặt trên mặt kính chắn gió như một vũ khí vệ tinh nhắm từ vũ trụ. Nhặt tấm bản đồ dưới sàn lên, tôi gấp nó lại thành một tam giác nhỏ và gõ gõ ba lần lên một điểm để chỉ rõ chỗ chúng tôi phải đến.

Cô gật đầu.

Sau đó tôi lần ngón tay theo đường cao tốc 64 chạy sang Đông vài cây nữa, đến một con đường làng nhỏ hiện ra ở bên trái. Tại đó tôi viết, Rẽ ở đây.

Khi Rachel gật đầu lần nữa, tôi ghé sát tai cô và nói. "Rẽ vào, dù có chuyện gì xảy ra. Rõ không?"

"Tôi sẽ rẽ. Cái mà anh thấy còn đó không?"

Tôi nhìn qua kính ngắm, rồi siết vai cô. "Còn. Nhanh lên."

Cô nhấn ga hết tốc lực.

--- ------ ------ ------ -------

1 Tiểu thuyết của George Orwell, nhà văn Anh, xuất bản 1949.

2 Nhân vật độc tài trong tiểu thuyết 1984 của George Orwell.

3 Tiểu thuyết của nhà văn Mỹ gốc Nga, Ayn Rand, xuất bản năm 1957, viết về cuộc đình công của các doanh nghiệp Mỹ.

4 Trích Kinh Thánh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15


Geli Bauer đứng một mình trong căn bếp nhà David Tennant, một mình với xác người yêu của ả. Chiếc xe dịch vụ giặt thảm vẫn đậu bên ngoài, máy hút chân không của nó vẫn rít lên ầm ĩ. Lẽ ra theo bất kỳ quy định nào, ả đã phải chuyển thi hài Ritter đi từ lâu. Nhưng ả không thể làm thế. Ả muốn hiểu điều gì đã xảy ra ở đây. Cứ theo như vết thương trên đầu Ritter và tư thế hắn nằm, có lẽ hắn đã bị bắn từ phía trước, hoặc hơi chếch một tí. Ả không thể hình dung nổi một kẻ không chuyên có thể hạ gục một cựu lính trong đội chống khủng bố sừng sỏ nhất của Đức. Chỉ có hai khả năng xảy ra.

Một: Tennant, bằng cách nào đó đã khiến Ritter kinh ngạc và bắn hắn một cách cực kỳ chính xác trong khi Ritter còn xoay người ngắm bắn.

Hai: Tennant không phải như ta vẫn tưởng.

Hắn lớn lên ở vùng quê gần Oak Ridge, bang Tennessee, điều này chỉ có nghĩa là hắn giỏi chơi súng săn chứ đâu phải súng ngắn? Mà làm sao hắn lại biết cách quét dọn phòng để mò ra mấy con rệp đó? Fielding đã dạy hắn, hay hắn học được ở nơi nào khác? Việc hắn trốn khỏi hiện trường phạm tội để lại nhiều câu hỏi. Khi tốp nhân viên phục trong xe dịch vụ giặt thảm đến nơi, họ thấy chiếc Saab của Rachel Weiss đậu phía ngoài, nhưng ga ra của Tennant thì trống không. Một tốp khác đã dò xét hết khu vực xung quanh và thấy chiếc Acura của Tennant đậu đằng sau bờ rào một ngôi nhà vắng chủ. Phải tốn nửa giờ liên lạc với cảnh sát mới biết rằng có một chiếc Audi A8 màu ánh bạc đã bị đánh cắp từ một ngôi nhà dưới phố.

Nếu máy phân tích mẫu giọng nói không phát hiện ra cuộc gọi bí mật của Fielding từ một cửa hàng tiện lợi thì Tennant và Weiss có lẽ đã vuột thoát khỏi lưới của ả rồi. Nhưng cách đây bốn ngày, Fielding đã đặt sẵn một ngôi nhà ở Nags Head, Bãi Ngoài, dưới tên Lewis Carroll. Điều đó kết hợp với việc hôm qua Tennant nhận được một bức thư chuyển phát nhanh FedEx của Fielding, đủ cho Geli tung máy bay lên khống chế đường cao tốc 64, con đường dẫn tới Nags Head. Và việc này đã đưa Tennant trở về tầm tay của Geli.

Khi ả nhìn xuống hộp sọ vỡ toác của Ritter và mái tóc bết máu, điện thoại cầm tay của ả reo. "Bauer," ả nói.

"Phi đội Một đây. Chúng biết đang bị theo dõi."

"Anh bay cao bao nhiêu?"

"Ba ngàn mét. Chúng không thể nào ngẩng lên giời mà nhìn thấy chúng tôi. Chắc chúng đã nhìn thấy tia laser."

"Điều đó không thể được nếu không có thiết bị đặc biệt."

"Chắc chúng phải có."

"Chúng đang làm gì?"

Tiếng nhiễu lạo xạo. "Chúng chạy xe ra khỏi đường, tuồng như thấy tia laser và hoảng sợ. Chúng nấp dưới lùm cây một lát, rồi lại chạy lên đường cái. Chúng đang chạy ở tốc độ chín mươi, vẫn hướng sang Đông."

"Chúng nói gì?"

"Không nói gì về nơi đến."

"Đội mặt đất đâu?" Geli hỏi.

"Gần nhất là mười lăm phút, cộng trừ hai."

"Tôi sẽ gọi lại cho anh." Ả bấm số gọi nhanh vào máy di động của Skow. Gã trả lời sau tám hồi chuông.

"Gì thế, Geli?"

"Tennant đã phát hiện ra máy do thám trên không của chúng ta. Hắn đang chạy trốn."

"Cô không đùa đấy chứ. Người của cô đã để sổng mất hắn phải không?"

"Máy bay đã tìm thấy chiếc Audi, nhưng họ có thể lạc mất nó."

"Tôi nghĩ cô muốn khử bọn chúng bây giờ?"

Geli cảm thấy ngón tay Skow đặt trên phím ngắt.

"Tôi đang đợi nghe lệnh của anh đây."

"Tình hình đã thay đổi."

"Địa dư đã thay đổi, không phải tình hình."

"Tôi không thích chuyện này. Rồi sẽ xử lý ra sao?"

Câu thần chú của bọn quan liêu. Geli khinh bỉ nghĩ.

"Tennant đã phát rồ. Hắn đã giết bảo vệ của Trinity và bắt cóc bác sĩ tâm thần của hắn. Chúng ta đang tìm cách giải cứu."

Im lặng hồi lâu. Rồi Skow nói, "Peter đã đúng khi thuê cô. Chúc may mắn với chuyện giải cứu của cô."

"Mả mẹ anh," Geli lầm bầm rồi cúp máy. Ả mở liên lạc với máy bay và đội mặt đất của mình.

"Phi đội Một. Chiếc Audi vẫn trong tầm nhìn của anh đấy chứ?"

"Tất nhiên. Chắc chắn bọn chúng biết chúng tôi ở đây. Tennant ngó ra ngoài và nhìn lên chúng tôi."

"Đội mặt đất, khi các anh đến nơi, đợi cho thưa xe cộ thì tấn công chiếc xe và thanh toán chúng."

"Khử bọn chúng à?" Một phi công chiến đấu hỏi lại với vẻ bình tĩnh đến kỳ lạ.

Geli nhìn xuống xác Ritter, nhớ lại đêm qua. Lúc đó hắn còn sống và làm tình với ả. "Tennant có thể đã bắt cóc bác sĩ tâm thần của hắn. Điều đó chúng ta không chắc lắm. Ta chỉ biết rằng hiện nay hắn rất bất ổn, có vũ khí và hắn đã giết một người của ta. Ritter Bock, điều này sẽ nói lên nhiều. Không ai được mạo hiểm. Hãy tự cứu mình trước đã."

Có tiếng đồng thanh. "Rõ."

"Anh hiểu ý tôi chứ?"

Phản ứng im lặng có ý nghĩa hơn mọi sự thừa nhận. Đấy là lý do ả thuê những cựu binh.

"À há, đó là luật," một giọng đàn ông lạnh lùng vang lên.

"Hãy gọi tường thuật chi tiết cho tôi, Phi đội Một."

"Được."

Geli mỉm cười. Tennant và Weiss sẽ không còn sống để nhìn thấy đêm xuống.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16


Khi chiếc Audi rú ga đến gần chỗ ngoặt, tôi nhìn lướt đoạn đường cao tốc phía sau. Chiếc xe gần nhất còn cách chúng tôi khoảng hai trăm mét. Trông giống một chiếc bán tải. Tôi ngờ rằng đó là NSA nhưng có trời mà biết được. Có bọn do thám trên không rồi, bọn dưới đất không cần phải bám sát chúng tôi. Chúng thậm chí có thể dẫn trước chúng tôi. Đơn giản là không thể biết bọn theo dõi chúng tôi là ai và đang ở đâu. Nếu chúng tôi may mắn, thì chiếc máy bay trên kia chỉ mới phát hiện ra chúng tôi vài phút trước khi tôi nhìn thấy tia laser.

Rachel ngả sang ghé sát tôi đủ để nói thầm: "Tôi nghĩ tôi nhìn thấy chỗ rẽ. Có phải đường cao tốc 45?"

Tôi kiểm tra bản đồ. "Đúng, nhưng không phải đường cao tốc. Rẽ đi."

Rachel giảm tốc độ xuống năm mươi rồi quẹo trái vào đường 45.

"Mạnh lên," tôi nói.

Cô dấn ga và lao thẳng vào con đường đôi rải nhựa với tốc độ hơn trăm cây một giờ. Tôi đeo kính ngắm lên mặt tìm tia laser. Nó đã mất dấu chúng tôi ở khúc ngoặt, nhưng nhanh chóng tìm lại mục tiêu, chiếu thẳng vào cửa kính chắn gió phía sau. Tôi ghé tai Rachel.

"Chúng ta sắp vượt qua một chiếc cầu nơi sông Cashie đổ vào Albemarle Sound. Sau đó rẽ trái lần nữa."

"Lúc nào gần đến anh bảo tôi."

Chiếc A8 nuốt lấy con đường như hổ đói, tăng tốc băng qua chiếc cầu cao bắc vòng qua sông Cashie. Tôi nhoài người ra cửa kính nhìn lên trời. Một máy bay nhỏ đang bay dọc theo đường ở độ cao khoảng một nghìn năm trăm mét. Tôi nhẹ cả người. Tôi sợ là sợ trực thăng đổ bộ xuống đường với đội SWAT trang bị súng tiểu liên. Một chiếc máy bay cánh cố định có thể đậu trên đường cao tốc, nhưng không thể hạ cánh xuống con đường ngoằn ngoèo mà chúng tôi sắp tiến vào.

Rachel chỉ ngã tư trước mặt. Tôi gật đầu. Cô giảm tốc vừa đủ để rẽ, sau đó lao vào con đường nhỏ hơn nhiều, hai bên là rừng cây rậm rạp.

"Nhìn đám cây kia," tôi nói, áp tay lên bảng đồng hồ.

Phía trước gần một trăm mét, những cây sồi cao vút bọc lấy con đường, biến nó thành một đường hầm rợp bóng. Khi chúng tôi tiến vào, tôi quay kính xuống và nhoài người ra lần nữa. Đầu tiên chỉ thấy cành cây. Rồi tôi thấy một ánh bạc lóe lên khi chiếc máy bay nhào xuống đằng sau chúng tôi ở độ cao khoảng sáu trăm mét.

"Nhanh!" tôi hét lên. "Cho chúng hít khói."

"Nếu lái nhanh hơn, tôi sẽ mất kiểm soát."

"Cô đang lái rất tốt."

Lực lưỡng cưỡng chế luật pháp sử dụng máy bay cánh cố định để trinh sát, vì so với trực thăng, chúng có thể bay tại chỗ cố định lâu hơn nhiều. Hôm nay chúng sẽ phải trả giá đắt cho chiến lược ấy. Một chiếc máy bay thường không thể lượn trên bầu trời với những đường bay đủ hẹp để có thể duy trì được việc tiếp cận mục tiêu trên con đường ngoằn ngoèo được che phủ rậm rạp.

Các bánh xe lớn của chiếc Audi rít lên khi Rachel cua gấp ở tốc độ trên trăm cây. Vai phải của tôi bị ép mạnh vào cửa xe. Chật vật giữ yên tấm bản đồ, tôi tìm một lối ra. Nếu chúng tôi đi theo con đường làng nhỏ kế tiếp bên tay trái, chúng tôi sẽ nhanh chóng vượt lại sông Cashie một lần nữa mà không phải qua cầu. Ở chỗ ấy sông Cashie chỉ như một con lạch nhỏ, có một ghi chú bằng chữ in nghiêng, Phà. Từ này có thể chỉ nhiều thứ khác nhau, từ chiếc tàu thủy tự hành đến chiếc sà lan vận hành bằng cáp.

Tôi đeo kính ngắm lên nhìn bao quát con đường phía trước. Tia laser đang nhấp nháy loạn xạ trước xe khoảng bảy mươi mét, đứt quãng và xoắn vặn khi người điều khiển đang cố xoay xở với những cành cây che chắn trên đầu chúng tôi.

"Có một chiếc phà ở phía trước," tôi nói. "Nếu chúng ta đến được đó, chúng ta có thể cắt đuôi bọn theo dõi dưới đất."

"Được."

"Cô sẽ nhìn thấy lối rẽ trái ngay bây giờ."

"OK."

"Đó!"

Rachel đạp phanh. Tôi tưởng bọn tôi bị hất tung ra ngoài, nhưng chiếc xe nhờ có bốn bánh chủ động vẫn trụ được trên đường, chỉ chút nữa là cô mất tay lái. Khi đường hầm cây sồi mỗi lúc một rậm rạp, con đường một làn xe thoắt cái chỉ còn sỏi, bùn và dốc thoai thoải, tôi hiểu là sắp đến mép nước.

"Cẩn thận đấy", tôi nói, sợ hãi trước tiếng sỏi bắn rào rào vào gầm xe.

Chiếc xe nghiêng sang phải, chúng tôi vòng một cua cuối cùng rồi chạy đến dừng phía sau một con Chevy Nova cũ màu xanh lá cây đậu giữa đường mòn. Bên kia chiếc xe tôi thấy một dòng sông sẫm màu đang lờ đờ trôi, chiều rộng khoảng tám mươi mét.

"Tôi không trông thấy phà," Rachel nói.

Có một chiếc xuồng nhôm cũ rích được chằng trên nóc chiếc Nova, nhưng tôi không thấy một ai. Tôi lấy vạt áo che khẩu súng, bước ra ngoài về phía dòng sông.

Tiếng ghi ta thùng vọng tới tai tôi, gợi nhớ đến bản Deliverance. Vòng qua chiếc xe, tôi thấy không phải là hai chàng trai miền núi đặc trưng, mà là hai cậu trai tuổi trung học đang ngồi đất. Một cậu tóc vàng quấn khăn rằn như băng đô trên đầu. Cậu kia tóc đen đang gảy cây ghi ta Martin cũ mòn. Tôi lơ đãng khoát tay và bước qua chỗ chúng tới bờ sông.

Chiếc phà được đóng để chở ba hoặc bốn ô tô, đang vượt sông từ bờ kia sang, một cột khói đen ngòm phụt ra từ động cơ gầm gào. Một chiếc nhà xe lưu động đang đỗ ở bờ bên kia. Bên cạnh là một con dốc thoai thoải, và con đường mất hút vào trong rừng.

"Chúng tôi đã gọi phà rồi," tiếng một trong hai cậu bé sau lưng tôi.

Tôi quay lại mỉm cười với chúng. Thằng tóc vàng quấn khăn rằn mặc chiếc áo phông UNC, đôi mắt xanh đảo như rang lạc. Thằng chơi ghi ta trông có vẻ lì, vai nó có một vệt cháy nắng sậm. Tôi ngửi thấy mùi cần sa không lẫn được.

"Các cậu vẫn thường lượn trên các dòng sông quanh đây à?"

Thằng tóc vàng cười. "Chúng tôi đi chơi nhênh nhang thôi. Sáng nay vừa mới lênh đênh trên sông Chova. Bây giờ chúng tôi về nhà, ở Tarboro. Chỉ muốn ngó qua sông Cashie một cái cho biết."

Tôi đưa tay che mắt ngó lên bầu trời. Chiếc máy bay do thám vo vo bay ra khỏi một đám mây tích, sang bên kia sông.

"Chơi hay đấy," tôi nói với tay chơi ghi ta, tay này vẫn gảy đàn nhè nhẹ. Sau đó tôi trở về chỗ chiếc Audi và chui vào trong.

"Phà đang sang."

"Máy bay vẫn còn trên đó à?" Rachel hỏi.

"Ừ."

Trông cô có vẻ mỏi mệt như quá sức chịu đựng của một ngày. Khi rầu rĩ nhìn phía sau chiếc Nova, tôi bỗng nảy ra một ý.

"Tôi sẽ quay lại ngay."

Tôi bước ra, đi vòng qua chiếc Nova, rồi đến ngồi xổm trước mặt hai cậu học sinh. "Tôi có một đề nghị này cho các cậu."

"Đề nghị loại gì?" thằng tóc vàng hỏi.

"Vợ tôi chưa được đi chơi bằng xuồng bao giờ. Cô ấy thấy chiếc xuồng của các cậu và nảy ra một ý định bốc đồng. Cô ấy muốn ngồi xuồng xuôi eo sông."

Tay chơi ghi ta ngưng gảy đàn. "Chúng tôi sắp về nhà, cha nội ạ."

"Tôi nhớ mà. Tarboro chứ gì? Nhưng tôi đang nghĩ... các cậu sẽ định giá chiếc xuồng bao nhiêu nhỉ. Tôi thấy nó là một chiếc Grumman cũ thì phải."

"Đúng đấy," thằng tóc vàng nhanh nhảu. "Trước đây nó là của ông chú tôi. Tôi đoán nó độ bốn trăm đô."

Tất cả chúng tôi cùng quay lại khi boong phà kịch bờ.

Tôi đứng dậy búng sợi dây thừng hình chữ V ngược chằng chiếc xuồng vào chắn trước của xe. "Nói hai trăm thì nghe có vẻ sát hơn," tôi vừa cười vừa nói. "Nhưng tôi chỉ cần vợ tôi vui. Năm trăm được chứ?"

Thằng bé tóc vàng nuốt khan. Nó đang tính thử với năm trăm đô tiền mặt nó có thể mua được bao nhiêu cần sa.

"Vấn đề là, tôi không muốn để xe của chúng tôi lại đây. Tôi muốn nhờ cậu lái nó lên đằng kia."

"Tới đâu?" tóc vàng hỏi.

"Tới Tarboro được không?"

Trông nó có vẻ bối rối. "Nhưng ông làm thế nào đến đó được để lấy lại xe?"

"Xuống phà nào!" người lái phà - một ông già khẳng khiu tóc bạc trong bộ áo liền quần cũ sờn hét lên.

Tôi rút ví lấy ra đếm mười tờ 100 đô. "Đây một ngàn đô, cậu còn lo lắng gì không?"

"********** chó," thằng chơi ghi ta đứng lên. Nó nhìn chiếc Audi qua chiếc Nova. Mặt Rachel trông mờ mờ dưới hồi quang của nắng. "Đây là xe ông hả?"

"Đúng đấy."

"Ông trả thế nào?"

"Tôi trả một ngàn đô cho chiếc xuồng và một chuyến dạo nhanh. Cậu đồng ý chứ?"

Cả hai thằng nhìn chiếc Audi, rồi nhìn nhau. "Một ngàn năm trăm," tóc vàng quay sang tôi nói. "Một nghìn năm trăm tôi sẽ lái nó đến Tarboro. Cái giá của mạo hiểm đấy."

Tôi mỉm cười. "Một nghìn năm trăm, nhất trí. Nhưng chúng ta sẽ phải làm như thế này."

Chúng tôi cho xe xuống phà, ông già lái con phà run rẩy ra giữa dòng chảy chậm. Như giao hẹn, hai đứa con trai ngồi trên chiếc xe Nova của chúng khi sang phà. Tôi và Rachel ngồi trên chiếc Audi. Máy bay của NSA vẫn còn bay tại chỗ, nó lượn một vòng hẹp trên sông. Tôi đoán các đội an ninh của Geli Bauer đang tụ họp trong cái góc nhỏ ở Bắc Carolina.

Khi phà sang đến bờ bên kia, chiếc Nova chầm chậm lăn xuống boong tàu và leo lên dốc vào con đường nhỏ. Rachel theo sau. Rồi bỗng nhiên cô quặt qua đầu chiếc Nova mà lao thẳng vào rừng như ma đuổi. Ngay khi các cành sồi che kín chúng tôi, cô mới đạp phanh và chờ chiếc Nova đến nơi. Hai mươi giây sau, chiếc Chevy cũ kỹ lượn một vòng và đến đậu sau xe chúng tôi.

"Nhanh lên!" tôi quát khi hai thằng ra khỏi xe.

Chiếc xuồng được đặt trên tấm đệm vuông bằng bọt xốp màu vàng để tránh mép kim loại làm trầy xước mui xe. Tôi bắt đầu tháo dây chằng nhưng thằng tóc vàng đã rút từ trong túi ra một con dao và cắt dây ở hai bên xuồng. Tôi giữ phần đáy, tay chơi ghi ta nắm phần đuôi, chúng tôi kéo tuột chiếc xuồng khỏi nóc xe, lật ngược nó lại khi đặt xuống đất. Vào phút cuối cùng chúng tôi bị tuột tay và chiếc xuồng rơi xuống sỏi kêu đánh xoảng.

Thằng tóc vàng nhoài ra ghế sau lấy ra hai mái chèo gỗ dài, ném vào lòng xuồng. Khi nó nhìn lên, mắt nó chăm chú gì đó sau lưng tôi, và nó đỏ mặt. Tôi quay lại thấy đứng sau tôi là Rachel mặc quần jean, áo sơ mi trắng.

"Ôi," cô nói. "Tôi rất cảm ơn các bạn." Rồi cô mỉm cười theo kiểu trước đó chưa bao giờ tôi thấy.

"À, không vấn đề gì," thằng tóc vàng nói.

Thằng chơi ghi ta vẫy Rachel nhưng không nói gì, và tôi thấy mặc dù đã ba muơi lăm nhưng Rachel Weiss vẫn còn hấp dẫn bọn trẻ hai mươi.

"Chúng tôi sắp phải đi rồi," tôi nói. "Các cậu cũng thế."

Tôi đưa cho thằng tóc vàng mười lăm tờ một trăm đô.

"Tôi cũng chả biết ông trả chúng tôi thế này là quá nhiều hay không đủ," nó nói. "Nhưng thôi, thế là gọn," nó chỉ tay ra khóm cây. "Nếu ông đưa chiếc xuồng qua lùm cây kia, chỉ khoảng năm mươi mét là ông sẽ gặp dòng sông."

"Cám ơn."

Nó lóc cóc chạy đến chiếc Audi và ngồi vào sau tay lái. Khi tôi vào lấy chiếc hộp của Fielding ở ghế sau, tôi chạm vào vai nó, "Nếu có ai chặn cậu lại giữa đường để hỏi, cứ nói chính xác những gì đã xảy ra. Về tiền, về tất cả. Cậu sẽ an toàn."

Nó gật đầu. "Đừng lo."

Chiếc Audi gầm lên lao vào con đường rợp bóng sồi. Thằng chơi ghi ta ngồi trong chiếc Nova cười, lắc đầu và từ từ chạy theo. Tôi ném chiếc hộp của Fielding vào lòng xuồng, quấn dây mái chèo vào bàn tay phải và kéo chiếc xuồng về phía lùm cây.

"Tôi đẩy nhé?" Rachel hỏi.

"Tôi kéo được rồi. Cô coi chừng rắn đấy."

Từ giây phút ấy mắt cô không rời mặt đất.

Hàng cây mọc ken sát đến nỗi khó lòng kéo chiếc xuồng qua giữa chúng, làm tôi toát hết cả mồ hôi. Nhưng thằng nhỏ tóc vàng nói đúng. Chẳng mấy chốc tôi ngửi thấy mùi gỗ mục, và mắt tôi bắt gặp những tia nắng vàng chiếu trên mặt nước. Thêm mười lăm mét nữa tôi đã xô được chiếc xuồng giữa hai cây bách và đẩy nó xuống dòng sông.

"Lên xuồng đi," tôi bảo Rachel. "Thẳng tới phía trước."

Cô trèo lên phía đuôi xuồng và thận trọng đến chỗ ngồi ở mũi xuồng. Tôi đẩy xuồng ra chỗ nước sâu hơn rồi nhảy lên đuôi xuồng khi nó lao ra khỏi bờ. Ngồi vào ghế cứng, tôi cầm lấy mái chèo và lái xuồng dọc theo bờ sông ngoằn ngoèo.

"Tôi sẽ cho xuồng chạy dưới tán cây. Cô quan sát máy bay nhé."

Rachel nheo mắt nhìn lên. Vừa chèo tôi vừa căng tai lắng nghe, nhưng chỉ nghe được tiếng nước ì oạp.

"Có thấy gì không?"

Cô lắc đầu.

Tôi nhìn xuống khúc quanh dài tối sẫm của dòng sông, hai bên bờ mọc dày thông và bách. Lúc này chắc là một lực lượng lớn của NSA đang tập trung đi tìm chúng tôi. Nhưng ở đây, lực lượng mạnh ấy hoàn toàn vô dụng. Lần đầu tiên sau nhiều giờ căng thẳng, lúc này tôi mới thấy hơi nhẹ nhõm.

"Anh có biết ta đang đến đâu không?"

"Không, nhưng tôi biết khi nào chúng ta đến đó."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17


Geli Bauer ngồi trong chiếc ghế không trọng lượng của ả ở tầng hầm của ban an ninh tòa nhà Trinity, bàn tay phải của ả nắm chặt hai con xúc xắc nặng lấy được từ số đồ vật cá nhân của Fielding trong gian nhà kho. Ả nhặt chúng để cầu may, nhưng cho đến nay chúng mang lại cho ả rất ít may mắn.

Trên dãy màn hình bên tay phải ả hiện lên hình ảnh hàng tá nhân viên NSA với xe nâng và xe bàn đẩy đang chuyển những thiết bị tinh nhạy và cặp hồ sơ ra các xe tải chờ sẵn phía sau tòa nhà. Ả không muốn bất cứ thứ gì ở đây lọt vào tay mấy ông nghị nhiễu sự, một khi Tennant ra trước công luận.

"Tennant táp vào vệ đường và dừng lại," một giọng đàn bà vang lên trong ống nghe của Geli. Đó là một cựu sĩ quan hải quân tên là Evans, hiện giờ đang ở trong đội mặt đất theo dõi chiếc xe Audi bị đánh cắp.

"Hắn có định chạy không?" Geli hỏi.

"Không. Khi hắn nhận ra bị chúng ta theo dõi, hắn táp vô lề như đó là cột đèn giao thông vậy."

Geli không thích nghe điều này. "Vẫn nhìn rõ bọn chúng chứ?"

"Chỉ thấy thằng đàn ông."

"Cô có loa không?"

"Chúng tôi không cần. Hắn vừa mới ra khỏi xe. Hắn giơ hai tay lên trời."

"Bác sĩ Tennant à?"

"Không phải." Đường dây lạo xạo. "Trông như một thằng trẻ con."

"Trẻ con à?"

"Một thằng hippy. Học sinh trung học."

"Các người chặn nhầm xe rồi!"

"Không, biển số đúng mà. Khoan... bọn chúng hẳn đã đổi xe."

"Ai?"

"Lúc trước có hai thằng học sinh trong một chiếc xe Chevy màu xanh lá cây trên phà. Tennant và Weiss chắc đang ở trong chiếc xe đó."

"Thẩm vấn thằng ranh con chết tiệt. Tìm cho ra!"

"Giữ máy."

Ả liếc nhìn các màn hình. Nhân viên vận chuyển của NSA đang ì ạch khuân từng chồng máy tính ra kho hàng ở tầng trệt. Di chuyển những thiết bị ấy là việc cực nhọc. Giá họ cho giết phứt Tennant cùng một lần với Fielding có phải đỡ khổ không.

"Evans đây," giọng nói trong ống nghe vang lên. "Bọn chúng bây giờ đang ở trên sông."

"Bọn chúng sao cơ?"

"Bọn học sinh có một chiếc xuồng trong xe. Nhôm, không sơn. Tennant đã mua lại của chúng." Geli cảm thấy như sắp muốn quỵ. "Tìm chiếc Chevy và bắt giữ nó lại bằng bất cứ giá nào. Tịch thu cả chiếc Audi nữa."

"Tuân lệnh."

"Phi đội Một, các anh có nghe thấy không?"

"Có."

"Bắt đầu rà soát tầm thấp trên sông. Bắt đầu từ chiếc phà, lên đến eo Albemarle. Dù cho Tennant không thể chạy trốn bằng cách bơi xuồng ngược dòng."

"Chúng tôi sẽ trở lại trên dòng sông trong vòng năm phút."

"Cho đội mặt đất triển khai cả hai bên bờ sông."

"Chỉ một bên sông có đường đi. Bờ Bắc."

"Trời ơi!"

"Thôi được, bao vây bờ bên kia."

Geli buông máy và nói "Skow, nhà" vào ống nói. Sau một hồi chuông, Skow nhấc máy. "Hãy nói với tôi rằng cô đã bắt được chúng."

"Bọn chúng chạy rồi."

"Thế nghĩa là sao?"

"Tennant chuyển sang đi phà. Bây giờ hắn đang cùng với Weiss trên một chiếc xuồng ở đâu đó trên sông Cashie."

"Chó thật, Geli. Sao cô có thể làm ăn như thế?"

Đôi má ả đỏ lên. "Anh có muốn nói cho ra lẽ ai là kẻ gây ra chuyện này không?"

"Đừng có ngang ngược như thế."

"Nếu Tennant tuột khỏi tay chúng tôi ở đây, anh có thể chào tạm biệt quyền lực được rồi."

"Không nhất thiết phải thế. Chờ tôi một lát."

Trong khi Skow cân nhắc tình hình, Geli bật mở bản đồ Bắc Carolina trên màn hình. Tennant đã làm gì sau khi xuống sông? Hắn có thể đi đâu? Phà lên eo sông mất tám cây, mà trên bờ Nam lại không có đường để quan sát dòng sông. Nếu Tennant biết điều này, hắn có thể kéo xuồng lên bất cứ đâu.

"Cô muốn làm gì?"

"Tôi muốn có những bức ảnh thời gian thực chụp con sông đó từ vệ tinh, ngay bây giờ. Độ phân giải cao nhất có thể. Anh đủ thẩm quyền làm điều này, tôi sẽ cung cấp tọa độ cho NRO."

"Còn gì nữa?"

"Tôi cần thêm nhân lực. Tôi không có đủ lực lượng chiến thuật để tiến hành càn quét trên diện rộng, trong một vùng đất rừng như thế này."

"Đó là vấn đề. Chừng nào chúng ta chưa ra trước công luận với những câu chuyện như thế này, chúng ta còn thiếu nhân lực."

"Vậy tốt nhất là anh hãy nghĩ về chuyện ra trước công luận, càng nhanh càng tốt."

"Nghe đây, Geli, nếu chúng ta để sổng hắn, chúng ta vẫn còn một chiêu khác. Tôi sắp sửa cho cô vài thông tin khiến cô đi được trước Tennant một bước."

Radar bên trong ả cảnh giác nghe ngóng. "Thông tin loại gì?"

"Khi nào có cô sẽ biết. Đó là từ một nguồn rất đáng tin cậy."

"Làm gì có chuyện. Có phải là nguồn NSA không?"

"Phải."

"Cho đến bây giờ, cục an ninh chưa cho tôi cái gì tin cậy cả."

"Điều đó sẽ thay đổi. Tôi đang vội. Ta đã nói hết chưa?"

"Chưa. Các quy tắc cam kết."

Skow thở nghe thấy rõ. "Tôi rất ưng kịch bản giải cứu của cô."

"Tôi biết chắc anh ưng mà. Tôi cần lệnh cho phép bắn chết tại chỗ."

Skow không trả lời.

Geli thấy nóng mặt, "Nào, chúng tôi đã đợi..."

"Cho tôi một phút suy nghĩ."

"Sao anh cứ chần chừ cái chết tiệt gì về chuyện này thế?"

"Coi nào... đây là một vụ bắt cóc con tin. Cô có kinh nghiệm khôn khéo. Tôi phải cho cô toàn quyền quyết định."

Geli lắc đầu thì thầm. "Hãy cẩn thận với những gì cô muốn, đúng không?"

"Mệnh lệnh là gánh nặng, cô Bauer ạ."

"Mệnh lệnh không phải là gánh nặng, anh Skow. Nó là cõi niết bàn. Gánh nặng là phải bày mưu tính kế với bọn quan liêu chỉ biết bình luận sau khi mọi việc đã đâu vào đấy cả rồi."

Skow khẽ chậc lưỡi. "Cô nói giống hệt như ông bố. Tôi sẽ nhắc ông ấy điều này."

Nhận xét này làm Geli lạnh người. "Anh cứ việc," ả nói cứng.

Sau khi Skow gác máy, ả ngồi im lặng, khẽ chạm vào vết sẹo trên gò má. Vậy là Skow và cha ả đâu chỉ có mối quen biết trong quá khứ. Ả không thích ý nghĩ này. Không một chút nào.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18


Tôi chèo xuồng liên tục được khoảng một giờ thì nhìn thấy một bờ dốc thoải cho thuyền đậu. Nó nằm dưới chân chiếc cầu cao bắc qua sông Cashie mà ban nãy chúng tôi đã đi qua để lên phà. Từ bến phà đến chỗ này lòng sông mở rộng ra, sớm muộn nó cũng phải mở ra khoảng rộng của eo sông Albemarle. Ở giữa sông chúng tôi dễ bị phát hiện từ trên không. Tôi không thấy dấu hiệu gì của chiếc máy bay do thám, nhưng điều đó chỉ làm tôi dễ thở hơn chút ít.

Từ từ bơi xuồng dưới các tán cây xòe rộng trên bờ hữu, tôi nghĩ đến bờ dốc thoải của dòng sông. Ở đó chắc phải có chỗ nào để đậu xe. Xe tải và xe kéo thuyền. Chắc là đám ngư dân trở về từ những chuyến đánh cá.

Rachel kéo ghế lên ngồi đối diện tôi, chăm chú nhìn tôi khi tôi bơi xuồng. "Chắc trước đây anh đã từng làm thế này."

"Cái gì? Đã từng chạy trốn ấy à?"

"Chèo xuồng."

Tôi gật đầu. "Anh em tôi đã đi cắm trại nhiều lần với ba tôi ở gần Oak Ridge. Cả đi săn và câu cá nữa."

Cô nhìn lên hàng cây trên bờ sông. Mặt trời vẫn bướng bỉnh lơ lửng sau lưng chúng tôi, nhưng bóng cây đã trở nên xanh sẫm.

"Bây giờ mình đã an toàn chưa?"

"Được một lúc. Bọn người săn đuổi chúng ta sử dụng công nghệ cao. Nếu chúng ta ra nơi công cộng, thành phố hay đường cao tốc, có lẽ ta đã bị bắt rồi. Ở đây cuộc chơi ngang bằng hơn."

Cô nghịch nghịch dây đuôi xuồng bằng nylon màu xanh trắng.

"Cái người mà anh hay nói đến, Geli Bauer ấy là ai vậy?"

Tôi ngạc nhiên thấy cô nhớ được tên, nhưng lẽ ra tôi không nên ngạc nhiên như vậy. Cô chưa bao giờ quên một điều gì mà tôi kể với cô. "Cô ta là kẻ giết người, lúc này đang truy đuổi chúng ta."

"Sao anh biết cô ta là kẻ giết người?"

"Cô ta đã từng ở trong quân đội một thời gian. Geli nói trôi chảy tiếng Ả Rập nên được đưa đến Iraq cùng với một số đơn vị biệt kích trước chiến dịch Bão táp Sa mạc. Để thẩm vấn những Vệ binh Cộng hòa bị bắt. Cô ta đã hành hình hai tù binh Iraq vì không theo kịp đơn vị của cô ta. Cắt đứt cổ họng. Thậm chí những người lính trong đội Delta của cô ta cũng bị sốc."

"Tôi nghĩ phụ nữ đã đi xa hơn những gì mà các nhà hoạt động nữ quyền có thể nghĩ."

"Không. Nữ sát thủ đã là một truyền thống lâu đời. Một hôm Geli đã cho Ravi Nara một bài học về chuyện này."

"Nghe ra như cô ta là một phần tử phản xã hội." Rachel buông sợi dây đuôi xuồng ra và mệt mỏi xoa cổ.

"Cô ta là một ca nghiên cứu khá thú vị cho cô đấy."

"Anh có tin là cô ta đã giết Fielding không?"

"Có. Cô ta đã biết về những loại thuốc gây nên cái chết giống như một cơn đột quỵ, và cô ta thường xuyên tiếp cận được mọi thứ trong Trinity. Thức ăn, nước uống, mọi thứ."

Tôi chèo mạnh hơn, và chiếc cầu bắc qua sông Cashie đã hiện ra rất gần. Rachel nhìn qua vai để quan sát cái kết cấu đồ sộ ấy. Vài giây lại có xe chạy qua trên cầu. Chiếc cầu đại diện cho nền văn minh. Tôi ngừng chèo để cho tấm lưng trần cháy nắng của mình nghỉ ngơi một chút. Yên lặng gần như tuyệt đối.

"Anh nghe chim hót kìa," Rachel bảo.

Tôi nghe, nhưng âm thanh mà tôi lọc ra từ cõi im lặng có gì đó không tự nhiên. Tiếng vo vo âm âm rất mơ hồ đang trôi trên sông. Đó có thể là tiếng xuồng máy, nhưng bụng tôi bảo không phải.

"Cái gì thế?" Rachel hỏi. "Trông anh có vẻ sợ hãi."

Tôi quét mắt qua bờ hữu tìm chỗ cho xuồng lên. Nếu một chiếc trực thăng bay là là mặt nước thì những cành cây xòe ra phía trên không che nổi chúng tôi. Tiếng động cơ nghe càng rõ. Bây giờ thì cả Rachel cũng nghe thấy.

"Nghe gần lắm," cô nói.

Ngay phía trước, một thân cây gãy đổ ngang dòng sông. Nửa thân cây chìm dưới nước, đám cành lá chết của nó xòe ra như những chiếc cánh ma quái. Khoảng cách giữa cây và bờ là chỗ dễ có một con rắn nước bất ngờ rơi tõm vào xuồng bạn nếu bạn ngu đến nỗi cho xuồng chui vào đó để kiếm cá. Tôi lái xuồng hướng thẳng vào chỗ thác nước hẹp, có cảm giác như mình là Hawkeye trong truyện Người Mohican cuối cùng. Chỉ có điều tôi mong có được một chút may mắn của anh ta.

Mấy giây sau khi mũi xuồng đâm thẳng vào bờ, tiếng rầm rì của động cơ đang đến gần trở thành tiếng gầm. Tôi hé mắt qua các lùm cây và thấy đúng cái điều mình lo sợ: một chiếc máy bay nhỏ bay là là cách mặt nước khoảng sáu mét, giống như một phi công trong chiến tranh Việt Nam hỗ trợ hỏa lực cho lính mặt đất ven sông.

"Họ không thấy chúng ta phải không anh?" Rachel hỏi.

"Không, nếu không có thiết bị nhiệt-ảnh. Nhưng có thể chúng có. Cô nằm rạp xuống đi." Cô trườn khỏi chỗ ngồi, nằm ép sát xuống lòng xuồng. Tôi nằm cạnh cô. Chấn động phát ra từ máy bay làm vỏ nhôm của xuồng rung lên. Chúng tôi nằm bẹp xuống lòng xuồng, chờ xem nó có quay lại vòng nữa không. Nhưng không có.

Tôi trở lại chỗ ngồi và chèo về phía cầu.

"Tôi không thể tin điều đang xảy ra," Rachel nói. "Tôi không thể tin một người phụ nữ mà tôi chưa hề gặp lại đang cố săn lùng tôi và giết chết tôi. Làm sao cô ta có thể làm việc đó?"

Tôi nhớ lại cuộc gặp cuối cùng với Bauer. "Cô ta nghĩ rằng chúng ta rất gần gũi nhau. Cô ta tưởng rằng cô yêu tôi."

Gò má Rachel ửng đỏ lên dưới ánh nắng nhạt. "Vì cái hôn ở nhà Lu Li ấy à?"

"Không phải chỉ có thế. Hôm qua khi Geli thẩm vấn tôi, cô ta nói rằng cô không hề hẹn hò với ai."

"Làm sao cô ta biết được điều đó?"

"Cô ta biết tất cả những người cô đã hẹn hò và khi nào cô thôi không gặp họ nữa. Cô ta biết thầy giáo lớp ba của cô là ai, và mẹ cô thường cho cô ăn gì mỗi khi cô ốm."

"Khi cô ta bảo tôi yêu anh thì anh trả lời thế nào?"

"Rằng cô nghĩ tôi là một người bị tâm thần phân liệt."

Rachel mỉm cười, đôi mắt cô buồn buồn.

Tôi nhìn lướt mặt sông lúc này đang trải rộng xem có chiếc thủy phi cơ nào khác không. Tôi không thấy, điều đó chẳng có gì đáng ngạc nhiên lắm. Ngư dân mua những động cơ cỡ lớn để đưa họ đi đánh cá càng xa càng tốt. Tôi đẩy mạnh mái chèo nhắm hướng bãi đáp xuồng.

"Dừng hả?" Rachel hỏi khi nhìn thấy bãi đáp thuyền thoai thoải.

"Ừ. Đến nơi, cô cứ ngồi yên đấy. Tôi sẽ quay lại ngay."

"Anh định làm gì?"

"Xem xét quanh đây."

Tôi đậu xuồng bên bãi, lội xuống chỗ nước nông rồi bì bõm lên bờ. Bãi đất đậu xe đầy vỏ sò trải dài từ rừng cây bên tay phải tôi đến cây cầu bê tông sừng sững bên trái. Tôi không thấy người, nhưng một hàng xe bán tải móc với xe kéo thuyền đậu cách bờ dốc khoảng bốn mươi mét. Tôi bước tới và đi lọt vào giữa hai xe tải.

Tôi khom người xuống, dò tìm phía trên lốp của cả hai xe tải xem chìa khóa giấu ở đâu. Không thấy. Bò quanh chiếc xe tải bên trái, tôi kiểm tra thêm hai lốp khác của nó. Vẫn không có. Tôi không gặp may ở hai xe tiếp theo. Chiếc xe kế trong hàng là một chiếc Dodge Ram màu hạt dẻ. Không có chìa khóa nào ở các lốp xe, nên tôi thay đổi chiến thuật. Ngồi xổm giữa đuôi xe tải và đầu một chiếc xe kéo bỏ không, tôi rà tay dưới tấm chắn sau của nó, dọc theo mép kim loại. Một cái gì đó trượt về phía lưới chắn kêu kin kít.

Một hộp khóa từ.

Tôi mở cái hộp đen nhỏ, thấy một chìa khóa xe Dodge và một chiếc để khóa móc xe kéo. Nhanh chóng mở khóa tách chiếc xe kéo khỏi xe tải, tôi ngồi vào buồng lái và nổ máy.

Khi tôi lái tới nơi, Rachel nằm chúi xuống lòng xuồng, không nhận ra tôi ở sau tay lái. Tôi vòng sang trái để cửa kính phía tôi quay về phía cô.

"Mang theo chiếc hộp của Fielding!" tôi kêu. "Nhanh lên."

Ôm chặt chiếc hộp trong tay, Rachel nhảy ào ra khỏi xuồng và bì bõm lao lên bờ. Tôi chạy ra mép sông, bốc một nắm bùn chỗ nước nông bôi lên biển số xe. Xong tôi xuống sông rửa tay, đặt chiếc hộp của Fielding lên băng sau, rồi đỡ Rachel lên ghế ngồi cạnh chỗ tôi.

"Anh đã đấu tắt dây đánh lửa để đề xe phải không?" cô hỏi.

"Tôi không biết làm vậy đâu. Ngư dân vốn là những người thật thà. Họ tin nhau. Thật tình tôi chẳng muốn làm chuyện này."

"Tôi sẽ đọc kinh sám hối cho. Thôi ta đi đi."

Chúng tôi phóng đi, để lại đám bụi trắng như vỏ sò phía sau.

"Chúng ta vẫn đến Nags Head à?" Rachel hỏi.

"Không. Có thể chúng đã đón lõng ta ở đó. Cô đưa tôi mượn di động."

Cô lấy chiếc Motorola màu bạc trong túi ra đưa tôi. Tôi bấm số Nhà Trắng theo trí nhớ, Fielding đã nói cho tôi từ lâu để tôi nhập tâm.

"Anh đang gọi cho ai?" Rachel hỏi.

"Tổng thống, tôi hy vọng thế."

"Nhưng anh đã nói..."

"Tôi muốn xem điều gì xảy ra."

Tổng đài trả lời sau hai hồi chuông. Tôi nói, "Dự án Trinity." Một chút yên lặng, tiếp theo là tiếng kích, và giọng nói hôm qua vang lên. "Anh trình bày đi."

"Tôi là David Tennant. Tôi cần nói chuyện với tổng thống."

"Xin giữ máy."

Một tiếng rít khẽ tiếp theo, và tôi biết mỗi tích tắc bây giờ là thêm thời gian cho NSA lần ra vị trí điện thoại di động của Rachel.

"Sao?" cô hỏi.

"Đếm đến bốn mươi. To lên."

Khi cô đêm đến ba mươi lăm thì một giọng miền New England cất lên, "Bác sĩ Tennant?"

"Có."

"Tôi là Ewan McCaskell. Tôi đang nói với anh từ Không lực Một."

Tim tôi đập thình thịch. "Ngài McCaskell, tôi cần nói chuyện với tổng thống."

"Lúc này tổng thống đang nói chuyện với Thủ tướng Anh. Sau năm phút nữa ông ấy mới có thể đến nghe điện thoại được."

Tôi không thể ngồi đợi để điện thoại di động mở trong cả năm phút.

"Anh có đợi không?" McCaskell hỏi. "Tổng thống biết có chuyện lộn xộn ở Dự án Trinity. Ông ấy rất muốn nói chuyện với anh."

"Tôi không thể đợi được. Tôi sẽ gọi lại Nhà Trắng trong bảy phút nữa."

"Chúng tôi sẽ bảo họ nối máy."

Tôi bấm tắt. Tim tôi đập mạnh.

Rachel chạm vào tay tôi. "Tin tốt hay xấu?"

"Tôi không biết. Đó là McCaskell. Anh ta bảo tổng thống muốn nói chuyện với tôi. Nhưng rõ ràng là họ đã được người ta thông báo trước. Có lẽ là John Skow. Họ chỉ biết những gì mà Godin muốn cho họ biết."

"Họ đã trở về Mỹ chưa?"

"Họ ở trên Không lực Một."

"Trên đường từ Trung Quốc về à?"

"Không. Đó là một chuyến đi năm ngày, cộng thêm một ngày dừng chân ở Nhật. Hôm qua tôi đã kiểm tra lại. Cuộc gặp cấp cao này như kiểu kỷ niệm chuyến thăm của Nixon năm 1972. Một sự kiện lặp lại ấy mà, chỉ có điều không còn căng thẳng chiến tranh lạnh nữa."

"Lát nữa gọi lại anh định nói gì?"

Tôi lắc đầu. Tổng thống Bill Matthews từ một thượng nghị sĩ Cộng hòa bang Texas bị cuốn đến Nhà Trắng trong một cơn thủy triều chống đảng Dân chủ bị thất bại. Không ai có thể ngạc nhiên hơn James - anh trai tôi, người đã biết Matthews từ hồi học chung ở trường Yale. Theo anh tôi thì Matthews là người có sức thuyết phục, nhưng không phải là mũi tên sắc nhọn nhất trong ống tên. Khi còn là thượng nghị sĩ, ông ấy luôn phải phụ thuộc các trợ lý của mình và điều này chưa hề thay đổi sau khi đến Nhà Trắng. Dư luận chung vẫn cho rằng ông đang phải vật lộn trên cả hai mặt trận đối nội và đối ngoại. Tôi đã gặp Matthews một lần ở Phòng Bầu dục, sau đó gặp thêm một lần trong bữa tiệc ở thành phố Georgetown khi tôi đang làm series phim NOVA dựa trên cuốn sách của mình. Không biết ông còn nhớ về tôi như thế nào? Như một bác sĩ điềm đạm có anh từng là người bạn ông yêu quý? Hay là một bệnh nhân hoang tưởng mắc chứng ảo giác mà chắc chắn Skow đã mô tả?

Tôi lái xe trên đường cao tốc số 64, trong lòng lo âu cho đến lúc phải gọi lại. Lần này, khi tôi vừa xưng tên, đường dây gần như được nối ngay lập tức.

"Bác sĩ Tennant đấy à?" Tổng thống hỏi.

"Tôi là David Tennant."

"Tôi là Bill Matthews, chào David. Tôi biết từ lần cuối cùng chúng ta gặp nhau đến nay đã khá lâu, nhưng tôi muốn anh hiểu rằng anh vẫn có thể nói với tôi bất cứ điều gì. Nào, nói đi."

Tôi hít một hơi thật sâu và đi thẳng ngay vào vấn đề. "Thưa tổng thống, tôi biết ngài đã nghe người ta nói với ngài về cái gọi là bệnh tâm thần của tôi. Tôi muốn ngài biết cho rằng lúc này tôi khỏe mạnh không khác gì lần gặp ngài ở Phòng Bầu dục. Bởi vậy mong ngài hãy lắng nghe tôi nói một cách khách quan. Hôm qua Fielding đã chết ở phòng làm việc của mình trong Trinity. Tôi tin rằng ông ấy bị giết. Hôm nay có một âm mưu toan tính lấy mạng tôi. Một gã đàn ông mang súng đến nhà tôi, tôi đã phải giết gã để tự vệ. Dự án Trinity hoàn toàn mất kiểm soát, và tôi cho rằng Godin và Skow phải chịu trách nhiệm."

Một khoảng im lặng dài.

"Thưa ngài tổng thống?"

"Tôi rõ rồi, David ạ. Nghe này, việc đầu tiên chúng tôi cần làm là đưa anh đến một nơi an toàn."

"Không có nơi nào an toàn cả."

"Được rồi, phải có một chỗ nào an toàn chứ."

"Không có, khi mà NSA còn đang tìm cách giết tôi."

"Đừng lo về NSA. Tôi có thể bố trí để Sở Mật vụ đón anh ở nơi nào đó, và họ sẽ đưa anh đến một căn nhà an toàn trong khi chờ tôi trở về."

Nghe có vẻ hấp dẫn đấy, nhưng tôi biết không thể liều cho một cuộc gặp mặt như thế. Còn sống mà đến được đó là gần như không thể. "Tôi không thể làm vậy, thưa tổng thống."

"Anh không tin Sở Mật vụ à?"

"Không phải thế. Vấn đề là tôi không biết mặt một nhân viên mật vụ nào cả."

"Tôi hiểu." Im lặng. "Chúng ta có thể quy ước một mật mã, một dấu hiệu nhận biết chăng?"

"Điều đó không an toàn đối với NSA. Không có việc gì như thế có thể giữ được an toàn."

"Chúng tôi có thể đón anh ngay bây giờ."

"Chúng ta cần phải giả thiết rằng bọn an ninh đang nghe trộm cuộc nói chuyện này. Họ có thể vươn dài đến tận Trung Quốc."

Matthews thở dài. "Thôi được, David. Hãy cho tôi biết, anh có tin Ewan McCaskell không?"

Tôi đã nghĩ chuyện này rồi. Mãi đến khi McCaskell trả lời điện thoại của tôi ở nhà, cú điện cho người của an ninh Trinity biết tôi chưa liên lạc được với tổng thống, thì tôi mới bị mưu hại. Nếu McCaskell có liên lạc với một người nào đó của Trinity, chắc ông ta phải báo cho họ từ lâu về chuyện này trước cuộc điện đàm ấy. "Tôi tin ông ấy. Nhưng tôi cần phải được thấy mặt ông ấy."

"Ừm... có lẽ anh sẽ phải ẩn náu cho đến khi chúng tôi trở về. McCaskell và Sở Mật vụ sẽ đón anh. Anh có thể về Washington trong vòng bốn ngày được không?"

"Tôi có thể, thưa tổng thống. Cho phép tôi hỏi ngài một câu được không ạ?"

"Được chứ."

"Ngài có tin tất cả những gì tôi vừa nói không?"

Matthews trả lời bằng giọng bớt chan hòa hơn. "David, tôi sẽ không giấu anh. John Skow nói tiến sĩ Fielding chết vì nguyên nhân tự nhiên, và nói rằng không có khiêu khích nhưng anh đã bắn chết một sĩ quan an ninh Trinity bên ngoài nhà anh. Anh ta còn nói anh đã bắt cóc bác sĩ tâm thần của anh."

Tôi chớp mắt không tin. Thế là cuối cùng Skow cũng đã mắc sai lầm.

"Xin ngài giữ máy," tôi đưa máy cho Rachel. "Hãy nói cho ông ấy biết cô là ai."

Cô ngần ngừ cầm lấy điện thoại, áp lên tai

"Tôi là bác sĩ Rachel Weiss... Vâng... Không, thưa ngài. Tôi tự nguyện đi cùng tiến sĩ Tennant... Vâng, thưa đúng. Vâng, người ta đang muốn giết chúng tôi... Vâng, thưa ngài tôi sẽ làm thế."

Cô đưa lại điện thoại di động cho tôi.

"Ngài tổng thống."

"Tôi đây, David. Nghe này, tôi không biết nên nghĩ sao. Nhưng tôi biết anh xuất thân trong sạch, và tôi muốn gặp gỡ nói chuyện với anh."

Một thoáng nhẹ nhõm lướt qua tôi.

"Vâng, thưa ngài. Tôi chỉ muốn một cuộc điều trần thẳng thắn."

"Điều đó phải đợi đến lúc tôi về. Cẩn thận nhé, David."

Một tiếng cười nho nhỏ thoát ra qua cái cổ họng tắc nghẹn của tôi. Câu nói đó là câu cửa miệng của anh trai tôi. "Cám ơn, ngài tổng thống. Xin hẹn gặp ngài."

Tôi tắt máy.

Rachel nhìn tôi chờ đợi. "Anh nghĩ thế nào?"

"Tôi nghĩ chúng ta khá hơn trước đây năm phút. Ông ấy hỏi gì cô vậy?"

"Hỏi rằng có phải tôi bị cưỡng ép không. Ông ấy cũng bảo tôi phải chăm sóc anh. Lạy Chúa... tôi không thể nào tin được. Trong bốn ngày nữa chúng ta sẽ làm gì đây?"

Tôi nhấn ga tăng tốc lên hơn một trăm cây. "Chúng ta sẽ đến Oak Ridge."

"Tennessee à?"

"Ờ. Tôi không thấy nơi nào trên trái đất giống như ở đấy. Ra khỏi thành phố gần chục cây là đã như lạc vào chốn hoang vu. Không cảnh sát. Không có ti vi đăng ảnh truy nã những kẻ chạy trốn và ăn trộm xe tải. Không có gì hết."

"Có xa không?"

"Tám giờ xe chạy." Tôi vượt qua một chiếc xe chạy chậm và chuyển qua làn xe bên phải. "Cô cố ngủ đi một lúc."

"Tôi không ngủ được trong ô tô."

"Nhưng đây là xe tải cơ mà."

"Cứ đùa."

Thoát khỏi chiếc máy bay và liên lạc được với tổng thống khiến chúng tôi hơi phấn chấn lên, nhưng cảm xúc ấy không kéo dài. "Tôi nói nghiêm túc chuyện ngủ nghê đấy. Sáng mai cô sẽ cần toàn bộ sức lực."

"Để làm gì?"

"Vượt núi."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19


Geli như ngồi trên lửa, người ả hừng hực lên vì cuộc săn đuổi này. Giữa cuộc săn lùng Tennant - Weiss và cuộc tìm kiếm Lu Li Fielding, các lực lượng của ả bị căng hết giới hạn. Nhưng khi bực mình về chuyện thiếu nhân lực, ả thường nghĩ về sa mạc Iraq, ở đó toàn bộ nguồn lực của ả chỉ có tám lính đặc công trong Lực lượng Delta.

Chuyện đau đầu gần đây nhất của ả là Jutta Klein, chuyên gia Đức về MRI. Rõ ràng Jutta Klein đã lợi dụng sự giám sát lơi lỏng của ả để phóng xe đến Atlanta, rồi tếch lên một chuyến máy bay Lufthansa để bay về Đức. Chính phủ Đức đã cam kết "sẽ trợ giúp bằng mọi cách có thể" nhưng Geli biết họ sẽ mở rộng cánh tay chào đón Jutta Klein với những tài nghệ mà chị ta mới kiếm được.

Geli xoay người trên ghế bành. Một kẻ có mã khóa ngày đang lẻn qua cửa, bước vào trung tâm điều khiển. John Skow từ trong bóng tối bước ra, vẫn vận bộ comple muôn thuở hiệu Brooks Brothers, mắt gã lấp lóe vì sợ hay vì kích động không biết nữa.

"Anh làm gì ở đây?" ả hỏi. "Có chuyện gì vậy?"

Skow ngồi chành bành trên chiếc ghế đối diện với Geli, hai tay như tay đàn bà quàng quanh lưng ghế.

"Tennant vừa nói chuyện với tổng thống. Matthews đang ở trên Không lực Một, trên đường từ Bắc Kinh đến Thượng Hải. Mạng nghe trộm của ta ở Trung Quốc mới bắt được tin này và tôi vừa bẻ được mã khóa lệnh thi hành."

Geli cảm thấy như ả vừa mở cửa một lò nướng nóng sực. Chẳng trách Skow không muốn nói chuyện qua điện thoại mà lại mò thẳng đến đây. "Họ đã nói gì?"

"Tổng thống cố gắng bố trí để Sở Mật vụ đón Tennant ở đâu đó, nhưng Tennant không cắn câu."

"Matthews đã chịu nghe câu chuyện của chúng ta chưa? Hay ông ta tin Tennant?"

Skow cắn môi, như cân nhắc lợi hại. "Tôi nghĩ ông ta tin chúng ta. Nhưng ông ta hứa với Tennant sẽ có cuộc điều trần thẳng thắn."

"Vậy chuyện đó sẽ diễn ra như thế nào?"

"Ewan McCaskell cùng Sở Mật vụ sẽ tìm gặp Tennant và đón hắn cho đến khi tổng thống về. Tennant tin McCaskell."

"Bao giờ thì tổng thống về?"

"Bốn hôm nữa."

"Tức là về Washington?"

"Phải."

"Tuyệt"

"Tại sao?"

Geli đã tiên liệu thể nào Tennant cũng chạy về Washington. "Thủ đô tạo cho chúng ta kịch bản tuyệt vời để loại bỏ Tennant. Bắt đầu ngay từ bây giờ, chúng ta sẽ cố hết sức để làm hắn mất tín nhiệm, bằng cách phóng đại thêm những gì chúng ta đã nói. Tác dụng ngoại ý ở Tennant đã chuyển thành loạn thần. Hắn đã bắn chết nhân viên an ninh của mình và bắt cóc bác sĩ Weiss."

"Rồi sao?"

"Bây giờ hắn đe dọa tính mạng tổng thống."

Skow nheo mắt. "Nhưng hắn vừa mới nói chuyện với Matthews. Hắn chẳng tỏ vẻ đe dọa gì cả."

Geli đảo mắt. "Tennant đang nói tất cả những gì cần nói để tiếp cận cho bằng được người mà hắn muốn giết. Bằng cách vẽ ra hình ảnh hắn như một kẻ cuồng sát, ta có thể khiến mọi cảnh sát thành phố săn lùng hắn. Và một khi anh cho xử lý hắn như một Lee Harvey Oswald, các nhân viên mật vụ sẽ không cho hắn đến gần tổng thống."

"Một chiến lược thông minh. Chúng ta lấy gì làm chứng cớ?"

"Chúng tôi có bản ghi âm hàng trăm giờ ở nhà Tennant và qua điện thoại. Chiếc Godin Four vẫn còn chạy trên đó chứ?"

"Tôi không để ý. Làm gì?"

"Với chương trình thích hợp của NSA, và nhờ trợ giúp của Godin Four, ta có thể chắp thành những lời đe dọa đối với tổng thống mà không ai có thể chứng minh là giả."

Skow nở nụ cười tán thưởng. "Giỏi! Mưu này thật giỏi đó, Geli!"

"Đó là lý do tại sao tôi ở đây. Vấn đề là, Tennant sẽ chạy thẳng vào Washington D.C. hay đợi bốn ngày nữa?"

"Nguồn của tôi nói không," Skow đáp. "Tôi có một danh sách ngắn các địa điểm Tennant có thể sẽ đến, trong đó Washington là điểm cuối cùng."

Nỗi tức giận làm cơ quai hàm của Geli thắt lại. "Nguồn đó là ai, mẹ kiếp?"

"Tôi không thể nói cho cô lúc này, rất tiếc."

"Nhưng nó nói Tennant sẽ chạy đến những nơi khác ngoài Washington D.C.?"

"Phải. Như vậy không hợp lẽ hay sao? Tại sao Tennant phải liều vào Washington trong khi còn bốn ngày nữa mới đến cuộc gặp?"

"Bởi vì hắn biết người ở đó có thể vào POTUS. Viện phẫu thuật. Giám đốc Viện Sức khỏe Quốc gia. Các chính khách từ tiểu bang quê hương hắn. Thượng nghị sĩ Barrett Jackson đứng đầu Ủy ban Đặc trách Tình báo. Ông ta có thể tiếp xúc với Phòng Bầu dục qua điện thoại. Và nếu Tennant có thể thuyết phục một người nào đó như Barrett Jackson tin rằng hắn khỏe mạnh..."

"Tôi hiểu. Thôi được. Nhưng chúng ta không thể biết chắc hắn sẽ đến nơi nào. Và câu chuyện tên ám sát của cô cho phép chúng ta đưa những nguồn lực khác của liên bang vào bao vây các địa điểm khác đó."

"Tốt. Anh lo phần truyền thông. Cũng cần nhằm vào những kẻ mà Tennant biết quanh vành đai cao tốc theo bảng phân loại cảnh báo về an ninh của NSA. Xoáy vào vấn đề tâm thần bất ổn của hắn. Anh có thể làm điều đó một cách thật tinh tế được không?"

Đôi môi mỏng của Skow dãn ra thành thứ gì giống như nụ cười. "Đó là lý do tại sao tôi ở đây."

Geli gật đầu, cảm thấy dễ chịu hơn cách đây vài giờ. "Tốt nhất là anh hãy lên tầng trên để đảm bảo họ vẫn để Godin Four chạy. Hoặc nhanh nhanh mang nó lại đây cho tôi. "

Skow chưa bao giờ chạm vào người Geli, nhưng lần gã chìa tay ra mà nắm lấy cổ tay ả. "Cô có bốn ngày để tiêu diệt Tennant và Weiss. Sau đó, Sở Mật vụ sẽ xử lý mọi việc, và họ sẽ truy lùng thật ráo riết để chộp Tennant chứ không giết hắn."

"Thế cho nên anh cần đảm bảo rằng không lời nào hắn nói được người ta tin."

Skow gật đầu. "Đúng."

"Đừng lo," Geli trấn an hắn gã. "Tổng thống sẽ không bao giờ gặp lại Tennant. Trong vòng hai mươi bốn giờ nữa hắn sẽ chết như anh hắn."
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom