Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


MÁC-XÂY

Gabriel lách nhẹ vào phòng và đóng cửa. Anh đến bên cạnh phòng chứa đồ và kéo một góc tấm thảm, để lộ một cánh cửa trên sàn căn hộ an toàn. Anh vặn chốt và nâng cánh cửa lên. Bên trong ô trống là ba khẩu súng ngắn: một khẩu Beretta 92FS, một khẩu Jericho 941PS loại đặc biệt dành cho cảnh sát, và một khẩu Barak SP-21. Anh thận trọng nhấc từng món vũ khí ra ngoài và đặt trên giường. Hai khẩu Beretta và Jericho đều có cỡ nòng chín ly. Băng đạn của khẩu Beretta chứa được mười lăm viên đạn, khẩu Jericho mười sáu. Khẩu Barak - mập và ngắn, màu đen, và xấu xí - bắn loại đạn lớn hơn và có sức công phá cao hơn, loại đạn có đường kính mười hai ly bảy, tuy nhiên nó chỉ chứa được tám viên đạn.

Anh tháo rời cả ba khẩu súng, bắt đầu với khẩu Beretta và kết thúc với khẩu Barak. Khẩu nào cũng ở trong tình trạng hoàn hảo. Anh ráp chúng trở lại và nạp đạn, rồi thử trọng lượng và độ cân bằng của từng khẩu, cân nhắc xem nên dùng khẩu nào. Có nhiều khả năng anh không thể hành động một cách bí mật và thầm lặng. Có thể nó sẽ diễn ra trên một con phố đông người, có thể là giữa thanh thiên bạch nhật. Đảm bảo việc Khaled phải chết là ưu tiên số một. Vì tiêu chí đó, Gabriel cần đến sức mạnh và độ tin cậy. Anh chọn khẩu Barak làm vũ khí chính và khẩu Beretta 92FS làm vũ khí dự phòng. Anh cũng quyết định sẽ không dùng ống hãm thanh. Ống hãm thanh khiến khẩu súng trở nên cồng kềnh, rất khó giấu và khó rút súng để bắn. Vả lại, dùng ống hãm thanh là vô ích nếu hành động đó diễn ra trước sự chứng kiến của cả một đám đông người qua lại trên đường.

Anh vào phòng tắm và đứng trước gương một lúc để ngắm lại gương mặt mình. Rồi anh mở tủ thuốc và lấy ra một chiếc kéo, một con dao cạo, và một lọ kem cạo râu. Anh cắt bộ râu thật sát, và dùng dao cạo sạch phần chân râu. Tóc anh vẫn được nhuộm màu muối tiêu. Không thể thay đổi chi tiết đó.

Anh cởi quần áo và tắm nhanh, rồi quay trở ra phòng ngủ để mặc trang phục mới. Anh mặc quần lót và mang vớ, rồi mặc chiếc quần jeans may bằng vải bông chéo màu xanh đen và mang một đôi giày da đế cao su. Anh cài máy điện đàm vào thắt lưng quần bên hông trái, rồi kéo một sợi dây nhỏ lên đến tai và một sợi khác đến cổ tay bên trái. Sau khi cố định hai sợi dây bằng vài mảnh băng dính màu đen, anh khoác lên mình một chiếc áo sơ-mi đen tay dài. Khẩu Beretta được nhét trong cạp quần, ngay tại phần hõm lưng. Khẩu Barak thì đủ gọn để nằm trong túi áo khoác da. Thiết bị định vị toàn cầu là một cái nút nhỏ bằng cỡ đồng xu một Euro, được cho vào túi quần trước.

Anh ngồi trên giường và chờ đợi. Năm phút sau, một tiếng gõ cửa vang lên. Đồng hồ chỉ 2 giờ 12 phút sáng.

“Các chuyên gia của anh chắc chắn đến mức nào?”

Ngài Thủ tướng ngước lên nhìn một dãy màn ảnh truyền hình và chờ đợi một câu trả lời. Một trong những màn ảnh đó là hình ảnh của Lev. Tổng Giám đốc Shabak, Moshe Yariv, chiếm lĩnh màn hình thứ hai; Tướng Amos Sherret và Tư lệnh Aman xuất hiện trên màn hình thứ ba.

“Không có bất kỳ sự nghi ngờ nào”, Lev đáp. “Gã đàn ông trong tấm ảnh được Mahmoud Arwish trao cho chúng ta chính là kẻ vừa bước vào một căn hộ ở Mác-xây. Giờ đây tất cả những gì chúng ta cần là sự chấp thuận của ngài để tiến hành giai đoạn cuối của chiến dịch”.

“Tôi chấp thuận. Hãy chuyển mệnh lệnh tới tàu Fidelity ngay”.

“Rõ, thưa ngài Thủ tướng”.

“Tôi tin rằng anh sẽ theo dõi được mọi hành động qua sóng radio?”

“Fidelity sẽ truyền tín hiệu về cho chúng ta qua một đường truyền bảo mật. Chúng ta sẽ duy trì quyền kiểm soát chiến dịch đến giây phút cuối cùng”.

“Hãy gửi tín hiệu đến đây”, ngài Thủ tướng nói. “Tôi không muốn là người cuối cùng biết mọi chuyện”.

Rồi ông bấm một nút trên bàn, và cả ba màn hình đều tắt phụt.

Chiếc môtô mang nhãn hiệu Piaggio X9 Evolution màu xám chì, kiểu tay ga kéo-là-chạy và có đồng hồ tốc độ dừng ở mức tối đa là 160 km/h. Nhưng Yaakov, trong cuộc đào thoát thực tập hôm trước, đã đẩy được tốc độ lên đến 190 km/h. Yên xe phía sau dốc hơn phía trước khá nhiều, điều này khiến người ngồi sau cao hơn người cầm lái đến gần một tấc, và biến nó thành một chiếc môtô hoàn hảo cho công việc ám sát, mặc dù chắc chắn những người kỹ sư thiết kế ra nó không bao giờ tưởng tượng đến công dụng đó khi họ tạo ra mẫu xe này. Động cơ nổ giòn không chút ngượng ngập. Yaakov phóng thẳng đến một điểm trên cầu tàu, nơi Gabriel đang đợi anh với chiếc mũ bảo hiểm đội sẵn trên đầu. Gabriel leo lên yên sau.

“Đưa tôi đến đại lộ Rémy”.

“Anh chắc chứ?”

“Một vòng thôi”, anh nói. “Tôi muốn tận mắt nhìn thấy”.

Yaakov ngoặt mạnh chiếc xe về phía bên trái và phóng nhanh lên đồi.

Đó là một tòa nhà đẹp nằm trên đường Corniche, với mặt sàn lát đá hoa cương trên hành lang và một chiếc thang máy luôn luôn bận rộn. Những căn hộ quay mặt ra đường có góc nhìn ra sông Nile rất đẹp. Những căn hộ ở phía sau có thể nhìn xuống khu đất có tường bao quanh của tòa Đại sứ Mỹ. Đó là một tòa nhà dành cho người nước ngoài và những người Ai Cập lắm tiền, một thế giới khác so với khu chung cư tuyền một màu xám xịt ở Heliopolis nơi Zubair sống, nhưng biết làm sao được khi công việc cảnh sát ở Ai Cập không mang lại thu nhập cao, cho dù là một cảnh sát chìm làm việc cho cơ quan tình báo Mubarat.

Y bước lên cầu thang. Những bậc thang rộng và cong với một đường viền nhạt màu được cố định bởi những mảnh ghép bằng đồng thau. Căn hộ nằm ở tầng trên cùng, tầng mười. Zubair rủa thầm khi đánh vật với những bậc thang. Hai gói thuốc lá Cleopatra mỗi ngày đã tàn phá hai lá phổi của y. Ba lần y phải dừng lại để lấy hơi. Y mất tổng cộng đến năm phút mới tới được căn hộ mà y cần phải tới.

Y áp tai vào cánh cửa, không nghe thấy tiếng động nào bên trong. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Zubair đã theo dõi gã người Anh suốt đêm qua trong cuộc du hý sặc mùi rượu qua các quán bar và hộp đêm dọc bờ sông. Zubair tin rằng gã vẫn còn ngủ.

Y thò tay vào túi và lấy ra một chiếc chìa khóa. Cơ quan Mubarat có một bộ sưu tập chìa khóa rất thú vị: chìa khóa mở cửa nhà riêng của các nhà ngoại giao, những người đối lập, những tay Hồi giáo cực đoan, và đặc biệt là các ký giả nước ngoài. Y nhét chìa khóa vào ổ và vặn, rồi đẩy cánh cửa và bước vào bên trong.

Căn hộ tối và lạnh, những tấm rèm cửa đều được thả xuống nhằm ngăn cản những tia nắng ban mai xâm nhập vào nhà. Zubair đã từng vào căn hộ này rất nhiều lần, do đó y dễ dàng tìm được đường đến phòng ngủ mà không cần bật đèn. Quinnell đang ngáy ầm ĩ trên tấm ga trải giường ướt sũng mồ hôi. Mùi rượu whisky vẫn còn nồng nặc trong không khí. Zubair rút súng ra và bước chầm chậm qua căn phòng, về phía chân giường. Sau vài bước, chân phải của y dẫm lên một vật gì đó nhỏ và cứng. Trước khi y kịp thu chân lại, một tiếng 'rắc' khô khan đã vang lên. Giữa căn phòng im ắng, nó chẳng khác gì tiếng một cành cây gãy. Zubair nhìn xuống và thấy rằng y đã dẫm phải đồng hồ đeo tay của Quinnell. Gã người Anh, mặc dù vẫn còn đang say mèm, ngồi bật dậy như một cái lò xo. Khốn nạn thật, Zubair nghĩ. Y không phải là một tay ám sát chuyên nghiệp. Y đã hy vọng sẽ giết được Quinnell khi gã đang ngủ.

“Anh làm cái quái gì ở đây thế?”

“Tôi mang tới một thông điệp từ người bạn chung của chúng ta”, Zubair nói một cách bình tĩnh.

“Tôi chẳng muốn can dự gì tới hắn nữa”.

“Tôi chia sẻ với anh cảm giác đó”.

“Vậy thì nhân danh Chúa, anh đang làm trò khỉ gì trong nhà tôi?”

Zubair giơ súng lên. Giây lát sau y trở ra khỏi căn hộ và bắt đầu leo trở xuống mười tầng thang bộ. Mới được nửa đường y đã thở hồng hộc như một vận động viên chạy marathon và toát mồ hôi như tắm. Y dừng bước và dựa vào bao lơn. Những bao thuốc Cleopatra chết tiệt. Nếu y không chịu bỏ sớm, nhất định chúng sẽ giết y vào một ngày gần đây.

Mác-xây: 5 giờ 22 phút sáng. Cánh cửa căn hộ bật mở. Một bóng người bước nhanh ra đường. Tín hiệu báo động bằng lời nói của Dina vang lên ở trung tâm chiến dịch tại đại lộ King Saul. Nó lập tức được truyền đến tai Shamron và ngài Thủ tướng ở Jerusalem. Đồng thời nó cũng vang lên trên một khu đất bẩn thỉu chạy dọc theo kênh Belsunce, nơi Gabriel và Yaakov đang ngồi trên mép một đài phun nước bỏ hoang, xung quanh toàn là con nghiện và những người nhập cư không có chỗ nào để ngủ.

“Ai vậy?”. Gabriel hỏi.

“Cô gái”, Dina nói, rồi nàng thêm vào thật nhanh. “Bồ của Khaled”.

“Cô ta đi hướng nào?”

“Bắc, về phía Place de la Préfecture”.

Tiếp theo là nhiều giây im lặng chết chóc. Ở Jerusalem, Shamron đi đi lại lại trên tấm thảm ngay trước bàn của ngài Thủ tướng và sốt ruột chờ đợi mệnh lệnh của Gabriel. “Đừng liều lĩnh”, ông lẩm bẩm. “Nếu ả phát hiện ra bị theo dõi, ả sẽ báo động với Khaled, và anh sẽ mất hắn. Cứ để cho ả đi”.

Mười giây nữa trôi qua trước khi giọng của Gabriel phá tan sự im lặng.

“Quá mạo hiểm”, ông thì thào. “Cứ để cô ta đi”.

Ở Ramallah, cuộc họp kết thúc vừa đúng lúc bình minh. A’one đang có tâm trạng rất vui vẻ. Đối với những người đến dự họp, ông có vẻ hơi giống với một A’one đã về già, một A’one có thể tranh luận suốt đêm về ý thức hệ và chiến lược với những đồng chí thân cận nhất của ông, rồi lại ngồi họp với một vị lãnh đạo nhà nước. Khi những sĩ quan dưới quyền lục tục rời khỏi phòng, A’one ra hiệu cho Mahmoud Arwish ở lại.

“Bắt đầu rồi”, A’one nói. “Giờ đây chúng ta chỉ còn có thể hy vọng Allah sẽ phù hộ cho trận chiến° thần thánh của Khaled”.

“Đó cũng là trận chiến của ngài nữa, Abu Amar”.

“Đúng vậy”, A’one đáp, “và trận chiến này sẽ không thể thành công nếu không có anh, Mahmoud”.

Arwish gật đầu một cách cẩn trọng. Cái nhìn của A’one như đóng đinh y.

“Anh đã hoàn thành xuất sắc vai trò của mình”, A’one nói. “Trò gian trá khôn ngoan mà anh thực hiện cho người Israel gần như đã xoá được sự phản bội của anh đối với ta và dân tộc Palestine. Ta đã cố gắng bỏ qua tội lỗi của anh, nhưng ta không thể”.

Arwish cảm thấy ngực mình thắt lại. A’one mỉm cười.

“Ngươi thực sự nghĩ rằng sự phản bội của ngươi có thể được tha thứ hay sao?”

“Vợ tôi”, Arwish lắp bắp. “Người Do Thái ép buộc tôi “

A’one xua tay tỏ ý thất vọng. “Ngươi ăn nói cứ như là con nít ấy, Mahmoud. Đừng tự lăng nhục mình thêm bằng cách van xin được sống”.

Đúng lúc đó cánh cửa mở toang, và hai nhân viên an ninh mặc đồng phục bước vào phòng, súng lăm lăm trên tay. Arwish định rút khẩu súng lục đeo bên hông ra khỏi bao, nhưng một báng súng trường đã nện thẳng vào vùng thận của y, một cơn đau khủng khiếp khiến y đổ gục xuống sàn nhà.

“Hôm nay ngươi sẽ chết theo kiểu một tên bán mình cho kẻ thù”, A’one nói. “Cái chết của một con chó”.

Hai tên an ninh dựng Arwish dậy và lôi y ra khỏi văn phòng, rồi xuống cầu thang. A’one đến bên cửa sổ và nhìn xuống sân đúng lúc Arwish và bọn nhân viên an ninh xuất hiện trong tầm mắt ông. Một báng súng nữa nện vào thận khiến Arwish lại đổ gục xuống đất. Và màn xử bắn bắt đầu. Chậm rãi và đều đặn, những phát đạn khởi đầu từ đôi bàn chân, và dần dần bò lên dọc theo cơ thể. Khu trại Mukata vang vọng tiếng nổ của súng trường Kalashnikov và tiếng rú của tên phản bội đang chết dần. Đối với A’one, đó là thứ âm thanh dễ chịu nhất - âm thanh của sự trả giá. Âm thanh của trả thù.

Khi tiếng rú đã lịm hẳn, một phát súng “ân huệ” cuối cùng được bắn thẳng vào đầu Arwish. A’one kéo rèm cửa lại. Một kẻ thù đã thanh toán xong. Chẳng bao lâu nữa một kẻ thù khác cũng sẽ chịu chung số phận. Ông tắt đèn và ngồi đó, trong khoảng không gian tranh tối tranh sáng, chờ đợi tin tức cập nhật tiếp theo.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


MARSEILLES

Về sau, khi mọi chuyện đã qua, Dina sẽ tìm kiếm trong vô vọng một tính chất biểu tượng nào đó của thời điểm được Khaled chọn để xuất đầu lộ diện. Còn những lời mà cô đã sử dụng để thông tin cho các đội thì nàng hoàn toàn không nhớ, mặc dù chúng đã được ghi lại mãi mãi trên băng ghi âm: “Chính hắn. Hắn đã ra đường. Đi theo hướng nam về phía công viên”. Tất cả những ai nghe được thông báo của Dina đều phải sửng sốt vì vẻ trầm tĩnh, không chút xúc động của nó. Giọng nói của cô bình lặng đến nỗi, Shamron chưa kịp hiểu chuyện gì đã xảy ra. Chỉ đến khi nghe thấy tiếng gầm rú phát ra từ động cơ môtô của Yaakov, ông mới hiểu rằng Khaled sắp sửa phải đối mặt với bản án của hắn.

Trong vòng năm giây sau khi nghe báo động của Dina, Yaakov và Gabriel đã đội mũ bảo hiểm lên và phóng hết tốc lực về phía tây, dọc theo con kênh Belsunce. Đến Place de la Préfecture, Yaakov đảo mạnh chiếc xe sang phải để chuyển hướng và phóng qua quảng trường, hướng về đầu đại lộ Rémy. Gabriel bám chặt eo Yaakov bằng tay trái. Bàn tay phải của anh thọc trong túi áo khoác và nắm chặt phần báng ngắn và dày của khẩu Barak. Trời đã bắt đầu sáng, nhưng con đường vẫn chìm trong bóng tối. Lần đầu tiên Gabriel tận mắt nhìn thấy Khaled hắn đang bước vội trên phần đường giành cho người đi bộ như người đã bị muộn một cuộc họp quan trọng.

Chiếc xe đột nhiên chậm hẳn lại. Yaakov cần ra một quyết định - chạy lấn sang phần đường ngược chiều để tiếp cận Khaled từ phía sau, hay vẫn chạy đúng chiều bên tay phải rồi vòng trở lại. Gabriel dùng báng súng thúc nhẹ vào sườn bên phải của Yaakov để ra lệnh. Yaakov kéo mạnh tay ga, và chiếc xe bay vọt đi như một viên đạn. Gabriel không rời mắt khỏi Khaled nửa giây. Tên khủng bố người Palestine đang rảo bước nhanh hơn.

Đúng lúc này, một chiếc Mercedes màu xám đậm thò đầu ra từ con đường ngang và phong tỏa lối đi của họ. Yaakov đạp phanh thật mạnh để tránh một vụ va chạm, rồi bấm còi inh ỏi và vẫy tay ra hiệu cho chiếc Mercedes tránh đường. Tài xế, một thanh niên trông có vẻ là người Arập, lạnh lùng nhìn Yaakov và hành hạ anh bằng cách lùi xe từng chút một ra khỏi làn đường của họ. Đến khi Yaakov có thể tiếp tục chạy thì Khaled đã rẽ vào một khúc quanh và biến mất khỏi tầm mắt của Gabriel.

Yaakov vọt đến cuối đường và rẽ trái sang đại lộ André Aune. Con đường này từ khu cảng cổ đi lên dốc, hướng về tòa tháp đồ sộ của nhà thờ Notre Dame. Khaled đã băng qua đường và sắp mất hút vào một con hẻm nhỏ. Gabriel đã dùng chương trình máy tính để ghi nhớ mọi ngõ ngách của từng con đường trong khu vực. Anh biết con hẻm này dẫn tới một cầu thang dốc đứng bằng đá gọi là Montée de l'Oratoire. Khaled đã vô hiệu hóa chiếc môtô.

“Dừng ở đây”, Gabriel nói. “Đừng đi đâu cả”.

Gabriel, đầu vẫn còn đội mũ bảo hiểm, nhảy xuống xe và theo chân Khaled tiến vào con hẻm. Trong hẻm không có đèn đóm gì, và khoảng không gian trong phạm vi vài bước chân ở giữa bị bao phủ bởi bóng tối hoàn toàn. Ở đầu bên kia, ánh sáng xuất hiện trở lại một cách lờ mờ phát ra từ một ngọn đèn màu hồng. Đó là nơi bắt đầu các bậc thang. Nó rộng và rất cũ kỹ với một lan can bằng kim loại ở giữa. Bên trái Gabriel là mặt tiền trát vữa màu vàng nhạt của một ngôi nhà; bên phải là một bức tường đá vôi cao, phía trên có những cành ôliu và dây leo thò ra.

Các bậc thang uốn quanh về bên trái. Khi Gabriel qua khỏi góc quanh, anh lại thấy Khaled. Hắn đã leo được một nửa cầu thang và vẫn đang tiếp tục tiến lên bằng những bước chân vội vã. Gabriel bắt đầu rút khẩu Barak ra nhưng rồi tự ngăn mình lại. Trên đầu cầu thang còn một tòa nhà căn hộ nữa. Nếu Gabriel bắn hụt Khaled, gần như chắc chắn hắn sẽ nhảy vào bên trong tòa nhà đó. Anh nghe thấy những giọng nói vang lên trong tai nghe của mình: Dina hỏi Yaakov đã xảy ra chuyện gì; Yaakov kể về chiếc xe cản đường và cái cầu thang buộc hai người phải tách ra.

“Anh nhìn thấy anh ấy không?”

“Không”.

“Anh ấy đã ra khỏi tầm quan sát của anh trong bao lâu?”

“Vài giây”.

“Khaled đi đâu? Tại sao hắn đi bộ xa thế? Có gì bảo vệ hắn không? Tôi không thích chuyện này. Tôi sẽ yêu cầu anh ấy rút lui”.

“Cứ để mặc anh ấy”.

Khaled lên đến đầu cầu thang và biến mất. Gabriel leo từng hai bậc một và lên đến nơi sau Khaled không quá mười giây. Trước mặt anh là một ngã rẽ hình chữ V của hai con đường giao nhau. Một trong số chúng, con đường bên tay phải Gabriel, dẫn lên đồi, đến thẳng cửa trước nhà thờ. Không có chiếc xe hơi hoặc khách bộ hành nào trên con đường này. Gabriel bước nhanh theo con đường bên tay trái và phóng tầm mắt về phía trước. Ở đây cũng không có dấu vết gì của Khaled, chỉ thấy một cặp đèn sau xe ôtô màu đỏ đang lao nhanh vào bóng đêm.

“Xin lỗi ông. Có phải ông bị lạc đường?”

Gabriel quay lại và nâng chiếc kính che mặt của mũ bảo hiểm lên. Cô ta đang đứng ngay đầu cầu thang, trẻ măng, không quá ba mươi tuổi, với đôi mắt nâu to tròn và mái tóc đen cắt ngắn. Cô nói với ông bằng tiếng Pháp. Gabriel đáp lại cũng bằng ngôn ngữ đó.

“Không, tôi không lạc đường”.

“Có lẽ ông đang tìm ai chăng?”

Và tại sao cô, một phụ nữ trẻ xinh đẹp, lại chủ động bắt chuyện với một người đàn ông lạ đội chiếc mũ bảo hiểm. Anh tiến một bước về phía cô gái. Cô ta vẫn đứng yên, nhưng Gabriel phát hiện ra một nét e sợ thoáng hiện lên trong ánh mắt cô ta.°

“Không, tôi chẳng tìm ai cả”.

“Ông chắc chứ? Tôi nghĩ là ông đang tìm ai đó”. Cô ta hơi nghiêng đầu sang một bên. “Có lẽ ông đang tìm vợ ông”.

Gabriel cảm thấy như gáy đang bị đốt. Anh nhìn kỹ lại khuôn mặt của cô gái và nhận ra mình đã từng thấy nó. Ả chính là người đàn bà đã vào căn hộ với Khaled. Bàn tay phải của anh siết chặt báng súng Barak.

“Bà ấy tên là Leah, phải không? Bà ấy sống trong một dưỡng trí viện ở miền nam nước Anh - ít ra là đã từng sống ở đó. Bệnh viện Stratford, tôi không nhầm tên chứ? Bà ấy được đăng ký dưới cái tên giả là Lee Martinson”.

Gabriel lao tới và chộp ngay cổ họng của ả.

“Chúng mày đã làm gì cô ấy? Cô ấy đang ở đâu?”

“Chúng tôi đã có bà ấy”, ả thở khò khè, “nhưng tôi không biết bà ấy đang ở đâu”.

Gabriel đẩy ả thụt lùi về phía đầu cầu thang.

“Cô ấy đang ở đâu?”. Anh lặp lại câu hỏi bằng tiếng Arập. “Trả lời ngay! Đừng nói với ta bằng tiếng Pháp. Hãy nói bằng tiếng mẹ đẻ của cô. Hãy nói với ta bằng tiếng Arập”.

“Tôi đang nói với ông sự thật”.

“Vậy là cô biết tiếng Arập. Cô ấy đang ở đâu? Trả lời đi, nếu không cô sẽ chết”.

Anh đẩy ả đến sát đầu cầu thang, chỉ còn cách vài phân. Ả huơ tay ra phía sau tìm cái lan can, nhưng chỉ thấy không khí. Gabriel lắc ả một cách thô bạo.

“Nếu ông giết tôi, ông sẽ tự hủy hoại bản thân ông - và vợ ông nữa. Tôi là hy vọng duy nhất của ông”.

“Còn nếu ta làm theo lời cô?”

“Ông sẽ cứu được tính mạng của bà ấy”.

“Thế còn mạng ta?”

Ả không trả lời.

“Hãy bảo những người khác trong đội của ông rút lui. Bảo họ lập tức rời khỏi Mác-xây. Nếu không chúng tôi sẽ báo cho người Pháp về sự hiện diện của các người, và điều đó chỉ làm tình thế tồi tệ hơn thôi”.

Anh nhìn qua vai ả và thấy Yaakov đang từ từ tiến lên cầu thang. Anh ra hiệu bằng tay trái, cho anh ta dừng lại. Đúng lúc đó giọng Dina vang lên trong tai nghe: “Thả cô ta ra, Gabriel. Chúng ta sẽ tìm Leah. Đừng chơi theo kiểu của Khaled”.

Gabriel nhìn sâu vào đáy mắt cô gái: “Và nếu ta bảo họ rút lui?”

“Tôi sẽ đưa ông đến chỗ bà ấy”.

Gabriel lại lắc ả. “Vậy là cô biết cô ấy đang ở đâu?”

“Không, chúng ta sẽ được hướng dẫn phải đi đâu. Từng đích đến một, từng bước rất nhỏ. Nếu chúng ta trễ ở bất kỳ bước nào, vợ ông sẽ chết. Nếu các điệp viên của ông tìm cách bám theo chúng ta, vợ ông sẽ chết. Nếu ông giết tôi, vợ ông sẽ chết. Nếu ông làm theo đúng những gì chúng tôi bảo, bà ấy sẽ sống”.

“Và chuyện gì sẽ xảy ra cho ta?”

“Bà ấy chịu đựng còn chưa đủ sao? Hãy cứu lấy vợ ông, Allon. Đi với tôi, làm theo chính xác những gì tôi nói. Đó là cơ hội duy nhất của ông”.

Anh nhìn xuống cầu thang và thấy Yaakov lắc đầu. Tiếng Dina thì thào vào tai ông. “Em xin anh, Gabriel, hãy từ chối cô ta”.

Anh nhìn vào mắt ả lần nữa. Shamron đã huấn luyện cách đọc cảm xúc của người khác, để khám phá sự thật bên dưới lớp vỏ dối trá, và trong đôi mắt đen của ả tình nhân của Khaled, anh chỉ thấy sự quả quyết bất di bất dịch của một kẻ cuồng tín, thứ niềm tin rằng những nỗi đau khổ của ả trong quá khứ có thể biện minh cho mọi hành động, bất kể là tàn bạo đến đâu. Anh cũng nhận thấy một sự thanh bình đang bị rối loạn. Ả đã được đào tạo hẳn hoi, chứ không phải chỉ tuyên truyền nhồi sọ. Quá trình đào tạo đó biến ả thành một đối thủ đáng gờm, nhưng chính sự cuồng tín này là điểm yếu của ả.

Có thật chúng đã bắt được Leah không? Anh không thấy lý do nào để nghi ngờ điều đó. Khaled đã hủy diệt một tòa đại sứ ngay giữa trung tâm thành Rome. Chắc chắn là hắn có thể tổ chức bắt cóc một người đàn bà ốm yếu ở một dưỡng trí viện Anh quốc. Bỏ rơi Leah vào lúc này, sau tất cả những gì mà cô đã phải chịu đựng, là điều Gabriel không thể nghĩ đến. Có thể cô sẽ chết. Có thể cả hai vợ chồng họ sẽ chết. Có thể, nếu họ may mắn, Khaled sẽ cho phép họ chết cùng nhau.

Khaled đã dàn dựng một trò chơi rất hay. Hắn không bao giờ có ý định giết Gabriel ở Venice. Hồ sơ ở Milan chỉ là màn mở đầu của một âm mưu vô cùng tinh vi và phức tạp nhằm dụ Gabriel đến đây, đến đúng vị trí này ở Mác-xây, và mở ra một con đường không có sự lựa chọn nào khác ngoài đi theo. Lòng trung thành thôi thúc anh tiến lên phía trước. Anh kéo ả khỏi ra rìa cầu thang và buông tay khỏi cổ họng ả.

“Rút lui”, Gabriel nói trực tiếp vào loa nói bé xíu trên cổ tay. “Rời khỏi Mác-xây ngay”.

Khi thấy Yaakov lắc đầu, Gabriel quát. “Hãy làm theo lệnh tôi”.

Một chiếc xe hơi từ trên đồi, phía nhà thờ, chạy đến. Đó chính là chiếc Mercedes đã cản đường anh và Yaakov vài phút trước ở đại lộ Rémy. Nó dừng lại ngay trước mặt họ. Cô ta mở cửa sau và bước vào xe. Gabriel nhìn Yaakov một lần cuối, rồi theo ả.

“Anh ta tắt điện đàm rồi”, Lev nói. “Máy phát tín hiệu của anh ta đã ngừng hoạt động trong năm phút”.

Máy phát tín hiệu của anh ta, Shamron nghĩ, đang nằm dưới một máng nước nào đó ở Mác-xây. Gabriel đã biến mất khỏi màn hình theo dõi. Bao nhiêu kế hoạch, bao nhiêu công sức chuẩn bị đã bị Khaled đánh bại bằng thứ mưu mô cổ lỗ nhất - một con tin.

“Chuyện về Leah có thật không?”. Shamron hỏi.

“Căn cứ ở Luân Đôn đã gọi nhân viên an ninh nhiều lần. Đến giờ vẫn không thấy trả lời”.

“Nghĩa là chúng đã bắt cô ấy”, Shamron nói. “Và tôi ngờ rằng chúng ta có một nhân viên an ninh thiệt mạng đang nằm đâu đó bên trong bệnh viện Stratford”.

“Nếu tất cả chuyện này là sự thật, một cơn bão lớn sắp tràn qua nước Anh trong vài phút nữa”. Shamron cảm thấy giọng nói của Lev vẫn có vẻ rất bình tĩnh, nhưng suy cho cùng Lev vẫn nổi tiếng về khả năng tự chủ. “Chúng ta cần liên hệ với các bạn của chúng ta ở MI5 và Cục Tình báo Anh quốc để giữ cho mọi chuyện yên ắng hết mức có thể và lâu nhất có thể. Chúng ta cũng sẽ phải lôi ngài Ngoại trưởng vào cuộc. Còn tòa đại sứ sẽ phải ra sức câu giờ”.

“Đồng ý”, Shamron nói, “nhưng tôi e rằng có một điều mà chúng ta phải làm trước”.

Ông nhìn đồng hồ đeo tay. Lúc này là 7 giờ 28 phút sáng giờ địa phương, tương ứng với 6 giờ 28 phút ở Pháp - mười hai giờ trước thời điểm kỷ niệm cuộc di tản ngôi làng Beit Sayeed.

“Nhưng chúng ta không thể bỏ mặc anh ấy ở đây”, Dina nói.

“Anh ấy đã không còn ở đây nữa”, Yaakov đáp. “Anh ấy đi rồi. Chính anh ấy đã quyết định đi với ả đàn bà đó. Anh ấy ra lệnh cho chúng ta sơ tán và Tel Aviv cũng vậy. Chúng ta không có sự lựa chọn nào khác. Chúng ta phải đi thôi”.

“Chúng ta phải làm được điều gì đó để giúp anh ấy chứ”.

“Cô sẽ chẳng giúp được gì cho anh ấy nếu cô ngồi trong một nhà tù Pháp”.

Yaakov nâng microphone gắn ở cổ tay anh lên miệng và ra lệnh cho các đội Ayin rút lui. Dina ngập ngừng bước lên cầu tàu và tháo các sợi dây buộc tàu. Sau khi tháo sợi dây cuối cùng, nàng leo trở lên boong tàu Fidelity và đứng cạnh Yaakov trên khoang lái khi anh điều khiển chiếc tàu đi vào eo biển. Lúc họ đi qua Pháo đài Saint Nicholas, nàng xuống phòng khách. Nàng ngồi xuống trước hệ thống thông tin liên lạc, gõ một lệnh để truy cập bộ nhớ, và đặt mã thời gian vào lúc sáu giờ mười hai phút sáng. Vài giây sau nàng nghe giọng nói của chính nàng vang lên.

“Chính hắn. Hắn đã ra đường. Đi theo hướng nam về phía công viên”.

Nàng nghe lại một lần nữa toàn bộ diễn tiến của hành động: Yaakov và Gabriel lặng lẽ leo lên xe môtô; Yaakov nổ máy và bắt đầu tăng tốc; tiếng lốp xe nảy và trượt nhẹ trên mặt đường trải nhựa của Đại lộ Rémy; giọng nói của Gabriel, bình tĩnh và vô cảm: “Dừng ở đây. Đừng đi đâu cả”.

Hai mươi giây sau, một giọng nữ vang lên: “Xin lỗi ông. Có phải ông bị lạc đường?”

STOP.

Khaled đã lên kế hoạch cho trò chơi này trong bao lâu? Hàng năm trời, nàng nghĩ. Hắn đã cố tình để lại những manh mối cho nàng tìm ra hắn, và nàng đã lần theo bọn chúng, từ Beit Sayeed đến Buenos Aires, từ Istanbul đến Rome, để rồi bây giờ Gabriel lọt vào tay chúng. Chúng sẽ giết anh, và đó là lỗi của nàng.

Nàng bấm nút PLAY và lắng nghe lại đoạn cãi vã giữa Gabriel và ả người Palestine, rồi nàng nhấc điện thoại vệ tinh và gọi về đại lộ King Saul trên đường truyền bảo mật.

“Tôi cần nhận diện một giọng nói”.

“Cô có băng ghi âm chứ?”

“Có”.

“Chất lượng?”

Dina giải thích hoàn cảnh cuộc đối thoại.

“Xin hãy bật băng ghi âm”.

Nàng bấm nút PLAY.

“Nếu chúng ta trễ ở bất kỳ bước nào, vợ ông sẽ chết. Nếu các điệp viên của ông tìm cách bám theo chúng ta, vợ ông sẽ chết. Nếu ông giết tôi, vợ ông sẽ chết. Nếu ông làm theo đúng những gì chúng tôi bảo, bà ấy sẽ sống”.

STOP.

“Xin chờ trong giây lát”.

Hai phút sau: “Không có trong hồ sơ lưu”.

Martineau gặp Abu Saddiq một lần cuối trên đại lộ d'Athènes tại chân cầu thang lớn dẫn lên Ga Saint-Charles. Hôm nay Abu Saddiq mặc Âu phục: quần tây vải gabardine gọn gàng và áo sơmi cotton được là thẳng thớm. Y báo tin cho Martineau biết là một chiếc tàu vừa vội vã rời khỏi cảng.

“Tên nó là gì?”

Abu Saddiq trả lời.

“Fidelity”, Martineau lặp lại. “Chọn tên rất hay”.

Hắn quay lại và bắt đầu bước lên các bậc thang, với Abu Saddiq đi bên cạnh. “Cácshaheed đã nhận được mệnh lệnh cuối cùng”, Abu Saddiq nói. “Họ sẽ tiến vào mục tiêu đúng như kế hoạch. Giờ đây thì không gì có thể cản trở họ được nữa”.

“Còn cậu?”

“Còn cậu?”

“Tôi sẽ đón chuyến phà buổi trưa đi Algiers”.

Họ lên đến đầu cầu thang. Màu sắc chủ đạo trong nhà ga này là màu nâu; trông nó thật xấu xí và rõ ràng là đã lâu không được sửa chữa. “Tôi phải thừa nhận”, Abu Saddiq nói, “ rằng tôi sẽ chẳng nhớ nơi này”.

“Hãy đến Algiers, và lặn thật sâu. Chúng tôi sẽ đưa cậu trở lại Bờ Tây khi an toàn”.

“Sau ngày hôm nay...”. Y nhún vai. “Sẽ chẳng bao giờ còn an toàn”.

Martineau bắt tay Abu Saddiq. “Maa-salaamah. - Chúc bình an”.

“As-salaam alaykum. Xin Thượng Đế phù hộ cho anh, Khaled”.

Abu Saddiq quay gót và trở xuống các bậc thang. Martineau vào nhà ga và dừng lại trước đại sảnh. Chuyến tàu cao tốc TGV số mười tám của thủ đô Paris sẽ khởi hành từ Cửa F. Martineau băng qua khu vực đợi và cửa lên tàu. Hắn đi dọc theo đoàn tàu cho tới khi tìm ra toa của mình, và trèo lên.

Trước khi ngồi xuống ghế, hắn vào nhà vệ sinh. Hắn đứng một lúc lâu trước gương, nhìn ngắm hình ảnh của mình được phản chiếu trong gương. Chiếc áo khoác hiệu Yves Saint Laurent, chiếc áo sơmi màu xanh đen, cặp kính được thiết kế theo mẫu riêng - Paul Martineau, người Pháp xuất chúng, nhà khảo cổ học tài ba. Nhưng không phải hôm nay. Hôm nay Martineau là Khaled, con trai của Sabri, cháu nội của Sheikh Asad. Khaled, thiên sứ báo thù cho những sai lầm trong quá khứ, thanh gươm của Palestine.

Các shaheed đã nhận được mệnh lệnh cuối cùng. Giờ đây thì không gì có thể cản trở họ được nữa.

Một mệnh lệnh khác đã được ban ra. Gã đàn ông đang chờ Abu Saddiq ở Algiers tối nay sẽ giết y. Martineau đã rút kinh nghiệm từ những sai lầm của cha ông hắn. Hắn sẽ không bao giờ để mình bị hạ về tay một tên phản bội.

Giây lát sau anh đã yên vị trong chiếc ghế hạng nhất khi đoàn tàu từ từ rời khỏi nhà ga và tăng tốc hướng về phía bắc, đi qua khu dân cư Hồi giáo của thành phố Mác-xây. Paris cách đây đến 539 dặm, nhưng tốc độ cao sẽ giúp đoàn tàu TGV vượt qua khoảng cách này trong không đầy ba giờ đồng hồ. Một phép màu của công nghệ phương Tây và tài năng sáng tạo của người Pháp, Khaled nghĩ. Rồi hắn nhắm mắt lại và mau chóng chìm vào giấc ngủ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


MARTIGUES, PHÁP

Ngôi nhà nằm trong một khu phố của người Arập thuộc tầng lớp lao động, trên rìa phía nam của thành phố. Nó có mái ngói đỏ, một lớp vữa đã bong tróc trát bên ngoài, và một khoảnh sân hoang tàn với những món đồ chơi đã hỏng làm bằng nhựa dẻo màu sắc sặc sỡ vương vãi khắp nơi. Gabriel, khi bị đẩy qua cửa trước, đã chờ đợi sẽ thấy những dấu hiệu của một gia đình. Thay vào đó, anh chỉ thấy một căn hộ bỏ hoang với các phòng đều trống rỗng và các bức tường đã tróc hết vôi vữa. Hai gã đàn ông đang đợi, cả hai đều là người Arập, và đều được nuôi dưỡng rất tốt. Một gã cầm một chiếc túi nhựa có in tên một khu mua sắm giảm giá tại địa phương, rất nổi tiếng đối với những người Pháp nghèo. Gã còn lại đang vung vẩy một chiếc gậy đánh golf rỉ sét bằng một tay, như một chiếc dùi cui.

“Cởi quần áo ra”.

Người phụ nữ anh đi theo ra lệnh bằng tiếng Arập. Gabriel vẫn đứng sững bất động với hai bàn tay khép sát vào các đường may trên chiếc quần tây, như một người lính đang đứng nghiêm. Ả lặp lại mệnh lệnh, lần này với vẻ gay gắt hơn. Khi Gabriel vẫn không nhúc nhích, tên lái chiếc Mercedes tát anh thật mạnh vào một bên má.

Anh cởi áo khoác và áo gi-lê màu đen. Máy phát tín hiệu và hai khẩu súng đều đã không còn - ả phụ nữ đã tịch thu chúng từ khi họ còn ở Mác-xây. Ả xem xét những vết sẹo trên ngực và lưng anh, rồi ra lệnh cho anh cởi nốt° những y phục còn lại.

“Thế còn những kiêng kỵ của Hồi giáo thì sao?”

Vì câu châm chọc này, anh nhận thêm một bạt tai nữa vào mặt, lần này bằng lưng bàn tay. Gabriel, đầu choáng váng, bước ra khỏi đôi giày và cởi vớ. Rồi anh cởi nút quần jeans và tuốt nó ra khỏi đôi chân trần. Giây lát sau anh đã đứng trước bốn tên khủng bố trong chiếc quần lót. Đứa con gái thò tay kéo và bật giây thun quần của anh. “Cả cái này nữa”, ả nói. “Cởi nó ra”.

Chúng tỏ ra hào hứng khi ngắm nhìn anh trần truồng như nhộng. Bọn đàn ông bình phẩm về “của quý” của anh trong khi đứa con gái chầm chậm đi vòng quanh và khen ngợi cơ thể anh như thể một bức tượng được triển lãm. Anh nhận thấy, đối với chúng, anh là một huyền thoại, một con quái thú thường tìm đến vào lúc nửa đêm và giết hại những chiến binh trẻ. Nhìn hắn mà xem, ánh mắt chúng dường như muốn nói. Hắn quá nhỏ bé, quá bình thường. Sao hắn có thể giết quá nhiều người anh em của chúng ta?

Đứa con gái lầm bầm điều gì đó bằng tiếng Arập mà Gabriel không nghe rõ. Ba tên đàn ông bắt đầu cắt vụn quần áo của anh bằng kéo và dao xếp. Không một đường may, một đường viền, một cổ áo nào được chúng bỏ qua. Chỉ có Chúa - hoặc đức Allah - mới biết chúng đang tìm cái gì. Một máy phát tín hiệu thứ hai? Một máy điện đàm được giấu kín? Hay một thiết bị “quỷ quái” nào đó của người Do Thái sẽ làm tất cả bọn chúng tê liệt và giúp anh thoát thân tại một thời điểm và địa điểm bất kỳ mà anh chọn? Đứa con gái theo dõi hành động ngu xuẩn của đồng bọn một lúc, với vẻ mặt cực kỳ nghiêm trọng, rồi ả lại ngoái nhìn Gabriel. Ả đi vòng quanh cơ thể trần truồng của anh thêm hai vòng nữa, với một ngón tay cố tình ấn vào môi. Mỗi lần ả đi qua trước mặt, Gabriel đều nhìn thẳng vào mắt ả. Có một vẻ gì đó lạnh nhạt trong ánh mắt của ả; một ánh mắt mang tính chất chuyên nghiệp và phân tích. Phần nào đó trong anh chờ đợi ả rút ra một chiếc máy ghi âm mi-ni vào bất kỳ lúc nào và bắt đầu ghi lại những nhận xét về kết quả phân tích. Một vết sẹo nhăn nheo trên phần tư ngực trên bên trái, kết quả của một viên đạn do Tariq al-Hourani bắn - Allah vinh danh anh. Một vết sẹo có hình thù như một tờ giấy nhám băng ngang gần hết lưng. Không biết nguồn gốc.

Cuộc tìm kiếm bên trong đống trang phục không tìm ra bất cứ thứ gì ngoài một đống vụn và sợi vải to tướng. Một tên Arập gom tất cả những mảnh vụn và nhét vào lò sưởi, rồi tưới dầu hỏa lên và châm lửa. Trong khi quần áo của Gabriel biến thành tro, bọn chúng, ba trai một gái, đứng thành một đội hình vòng quanh. Đứa con gái đứng trước mặt anh, hai tên khác to con hai bên, và tên đóng vai tài xế ở phía sau lưng. Một tên khác bên tay phải vẫn vung vẩy cây gậy chơi golf một cách lười biếng.

Bọn khủng bố luôn có một nghi thức cho những dịp như thế này. Trận đòn là một phần không thể thiếu của nghi thức đó. Đứa con gái phát tín hiệu bắt đầu với một cái tát mang tính tượng trưng vào mặt anh. Rồi ả bước ra ngoài để bọn đàn ông làm công việc nặng nhọc hơn. Một cú quất gậy chơi golf được nhắm rất kỹ khiến đầu gối Gabriel quỵ xuống và làm anh ngã lăn ra đất. Bây giờ thì cơn mưa đấm đá mới thực sự bắt đầu. Những cú đấm đá dường như không bỏ qua một góc nhỏ nào trên cơ thể anh. Anh quyết định không kêu la. Anh không muốn cho chúng sự thỏa mãn, đồng thời không muốn làm kế hoạch của chúng đi chệch hướng bằng việc đánh động những người sống xung quanh - mặc dù ở khu vực này của thành phố khó có thể tìm ra ai quan tâm nhiều đến việc ba gã đàn ông đánh nhừ tử một người Do Thái. Trận đòn kết thúc cũng đột ngột như nó khởi đầu. So sánh với quá khứ, nó không đến nỗi quá tệ - thực tế là anh đã phải chịu đựng đau đớn hơn nhiều dưới tay Shamron và các “huấn luyện viên” ưa đấm đá của ông ở Học Viện. Bọn chúng chỉ nương tay với khuôn mặt, và điều đó cho biết rằng chúng còn cần phải nhận diện anh.

Anh nằm nghỉ trong tư thế nghiêng về bên phải, với hai bàn tay bảo vệ bộ phận sinh dục và hai đầu gối co lên ngực. Anh có thể nếm được vị tanh của máu trên môi, và vai trái của anh dường như hoàn toàn tê liệt kết quả của nhiều cú đạp liên tiếp của tên to con nhất. Đứa con gái quẳng cái túi nhựa và ra lệnh cho anh mặc quần áo vào. Anh cố gắng di chuyển, nhưng dường như không thể lăn qua hoặc ngồi dậy hoặc nâng bàn tay lên. Cuối cùng, một tên nắm lấy cánh tay trái và kéo anh ngồi dậy. Cái vai bị thương của anh nổi loạn, và lần đầu tiên một tiếng rên đau đớn phát ra. Tiếng rên này, cũng giống như hình ảnh khỏa thân của anh ban nãy, là dịp để bọn khủng bố cười cợt.

Chúng giúp anh mặc quần áo. Rõ ràng là chúng mong đợi một người to con hơn. Chiếc áo thun màu vàng nhạt với chữ MÁC-XÂY! to tướng trên ngực lớn hơn cỡ áo của anh nhiều số. Cái quần chinos có lưng quá rộng và ống quá dài. Đôi dép da rẻ tiền thì cứ chực tuột ra khỏi bàn chân.

“Đứng lên được chứ?”, đứa con gái hỏi.

“Không”.

“Nếu không đi ngay, mày sẽ trễ hẹn ở điểm dừng kế tiếp. Và nếu mày trễ hẹn, mày biết điều gì sẽ xảy ra cho vợ mày rồi đấy”.

Gabriel tự lật mình sang tư thế trụ bằng hai đầu gối và hai bàn tay và, sau hai nỗ lực thất bại, cuối cùng cũng đứng lên được. Đứa con gái đẩy vào giữa hai xương bả vai anh khiến anh chới với bước về phía cửa. Anh nghĩ đến Leah và tự hỏi lúc này cô đang ở đâu. Nằm trong một cái túi đựng xác? Bị nhốt trong một cốp xe? Hay bị giam trong một thùng gỗ đóng kín? Cô có biết điều gì đang xảy ra cho mình, hoặc, nếu may mắn hơn, cô có tin rằng đây chỉ là một đoạn khác trong cơn ác mộng không bao giờ kết thúc? Vì Leah, anh đã có thể đứng thẳng người và vì Leah, anh liên tục đặt bàn chân nọ ra trước bàn chân kia để tiến về phía trước.

Ba gã đàn ông ở lại trong nhà. Đứa con gái theo sau anh chỉ cách nửa bước chân, với một cái xắc tay bằng da đeo trên vai. Ả đẩy anh một cái nữa, lần này về phía chiếc Mercedes. Anh lại loạng choạng bước tới, băng qua khoảnh sân vương vãi những mảnh đồ chơi. Những chiếc xe hơi hiệu Matchbox bị lật úp, chiếc xe cứu hỏa rỉ xét, con búp bê cụt tay và chú lính chì cụt đầu - đối với Gabriel, chúng giống như kết quả của một vụ thảm sát bằng những quả bom được thiết kế một cách tài tình của Khaled. Theo bản năng, anh bước về bên ghế hành khách của chiếc xe.

“Không”, đứa con gái nói. “Mày sẽ lái xe”.

“Tôi không lái được”.

“Nhưng mày phải lái”, ả nói. “Nếu không sẽ trễ hẹn, và vợ mày sẽ chết”.

Gabriel miễn cưỡng trèo lên phía sau vô-lăng. Đứa con gái ngồi bên cạnh. Sau khi đóng cửa xe, ả thò tay vào giỏ xách và lấy ra một khẩu súng ngắn, một khẩu Tanfolgio TA-90, và chĩa nòng súng vào bụng anh.

“Tao biết mày có thể tước cái này của tao bất cứ lúc nào mày muốn”, ả thừa nhận. “Nhưng nếu mày chọn cách hành động như vậy thì cũng chẳng ích lợi gì. Tao đảm bảo với mày rằng tao không biết vị trí của vợ mày, cũng không biết đích đến cuối cùng của mày là ở đâu. Chúng ta sẽ cùng nhau thực hiện chuyến đi này, mày và tao. Chúng ta là cộng sự của nhau trong chuyến phiêu lưu này”.

“Thật vinh hạnh cho cô”.

Ả dùng khẩu súng đánh vào má anh.

“Cẩn thận đấy”, anh nói, “nó có thể cướp cò bất cứ lúc nào”.

“Mày biết rất rõ về nước Pháp, đúng không? Mày đã từng làm việc ở đây. Mày đã giết hại nhiều người Palestine ở đây”.

Thấy Gabriel chỉ im lặng, ả lại giơ súng đánh anh một cái nữa. “Trả lời tao đi! Mày đã từng làm việc ở đây, có đúng không?”

“Đúng”.

“Mày đã giết hại người Palestine ở đây, đúng không?”

Gabriel gật đầu.

“Mày xấu hổ à? Nói to lên xem nào”.

“Phải”, anh nói, “tôi đã giết nhiều tên Palestine ở đây. Tôi đã giết Sabri ở đây”.

“Vậy thì hẳn là mày biết rõ đường xá của nước Pháp. Mày sẽ không mất thời gian xem bản đồ. Điều đó tốt đấy, vì chúng ta không có nhiều thời gian đâu”.

Ả đưa chìa khóa xe cho anh. “Đến Nýmes. Mày có một giờ đồng hồ”.

“Nơi đó cách đây ít nhất là một trăm cây số”.

“Vậy thì tao đề nghị mày ngậm miệng lại và bắt đầu lái xe đi”.

Gabriel đi tắt qua cầu Arles. Dòng sông Rhône màu xanh bạc với vô số xoáy nước trải dài như một tấm thảm kỳ ảo phía dưới họ. Sang đến bờ sông bên kia, Gabriel nhấn mạnh chân ga xuống sát sàn xe và bắt đầu chặng đua nước rút tới Nýmes. Thời tiết hôm nay đẹp một cách trớ trêu: bầu trời trong xanh không một gợn mây, những cánh đồng bừng sáng rực rỡ với bạt ngàn cây oải hương và hoa hướng dương, những ngọn đồi phơi mình dưới ánh nắng chan hòa. Phong cảnh hiện lên trước mắt rõ ràng đến mức Gabriel có thể phân biệt từng đường nét, từng vết nứt của những vỉa đá cách đó đến hai mươi dặm.

Ả phụ nữ ngồi điềm tĩnh trong tư thế hai cổ chân bắt chéo qua nhau, và khẩu súng đặt trong lòng. Gabriel tự hỏi tại sao Khaled lại chọn ả để hộ tống mày đến với cái chết. Bởi sự trẻ trung và xinh đẹp của ả tương phản mạnh mẽ với sự tàn tật của Leah? Hay đây là một cách nhục mạ của người Arập? Có phải hắn muốn lăng nhục Gabriel hơn nữa bằng cách bắt mày nghe theo lệnh của một đứa con gái trẻ đẹp? Cho dù động cơ của Khaled là gì thì ả đàn bà này cũng đã được huấn luyện kỹ lưỡng. Gabriel đã cảm nhận được điều này ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên của họ ở Mác-xây, và một lần nữa trong ngôi nhà ở Martigues - giờ đây mày lại nhận ra điều đó qua đôi cánh tay và đôi vai cơ bắp, cũng như qua cách cầm súng của ả. Nhưng chính đôi bàn tay của ả khiến mày chú ý nhất. Ả có những móng tay cắt ngắn nhưng bẩn thỉu của một người thợ gốm hoặc một người làm việc ở những nơi nhiều đất cát.

Ả lại đánh anh mà không cảnh báo trước. Chiếc xe bị lạng đi, và Gabriel phải khá vất vả mới kìm được nó.

“Tại sao cô làm thế?”

“Mày nhìn khẩu súng của tao”.

“Làm gì có chuyện đó”.

“Mày đang nghĩ đến việc đoạt nó từ tay tao”.

“Không có”.

“Nói dối! Đồ Do Thái dối trá!”

Ả lại giơ súng lên định đánh anh lần nữa, nhưng lần này Gabriel đã giơ một bàn tay lên để tự vệ và đỡ được cú đánh.

“Tốt hơn mày nên chạy nhanh lên”, ả nói, “nếu không chúng ta sẽ không đến Nýmes đúng giờ đâu”.

“Tôi đang chạy gần 200 km/h rồi. Tôi không thể chạy nhanh hơn mà không làm chết cả hai. Lần sau Khaled gọi lại, bảo với hắn là hắn phải nới thời hạn ra một chút mới được”.

“Ai?”

“Khaled”, Gabriel nói. “Gã đàn ông mà cô đang cúc cung phục vụ. Kẻ điều khiển chiến dịch này”.

“Tao chưa bao giờ nghe nhắc đến ai tên là Khaled”.

“Vậy chắc tôi nhầm”.

Ả quan sát anh một lúc. “Mày nói tiếng Arập rất giỏi. Mày sinh trưởng ở Thung lũng Jezreel phải không? Nơi đó cách Afula không xa. Tao nghe nói có nhiều người Arập sống ở đó. Đó là những người từ chối ra đi hoặc bị đưa tới đó”.

Gabriel quyết định chờ cho cá cắn mồi thật sâu rồi mới giật cần câu. “Cô chưa bao giờ nhìn thấy nó sao?”

“Palestine ấy hả?” Một nụ cười thoáng hiện lên. “Tao thấy nó từ xa”, ả nói.

Libăng, Gabriel nghĩ. Ả thấy nó từ Libăng.

“Nếu chúng ta sẽ cùng nhau trải qua một chuyến đi dài, tôi phải có một cái tên gì đó để gọi cô”.

“Tao không có tên. Tao chỉ là một người Palestine. Không có tên, không có gương mặt, không đất đai, không nhà cửa. Cái vali của tao chính là tổ quốc”.

“Tốt”, anh nói. “Vậy tôi sẽ gọi cô là Palestine”.

“Đó không phải là cái tên thích hợp dành cho phụ nữ”.

“Thôi được, thì tôi gọi cô là Palestina vậy”.

Ả nhìn ra đường và gật đầu. “Mày có thể gọi tao là Palestina”.

Còn một dặm nữa là đến Nýmes, ả bảo anh rẽ vào khu đậu xe trải sỏi của một cửa hàng bên đường chuyên bán chậu hoa và dụng cụ làm vườn phương Đông. Trong năm phút dài và căng thẳng đến vô cùng, họ im lặng chờ đợi chiếc điện thoại vệ tinh của ả đổ chuông. Khi tiếng chuông bất thình lình vang lên, Gabriel giật mình như thể anh vừa nghe tiếng còi cứu hỏa. Ả đàn bà lắng nghe mà không nói gì. Căn cứ vào nét mặt vô cảm của ả, Gabriel không thể đoán chắc rằng ả vừa nhận lệnh đi tiếp hay giết anh ngay tại đây. Ả tắt máy và hất hàm về phía con đường.

“Ra làn đường dành cho xe hơi đi”.

“Hướng nào?”

“Bắc”.

“Chúng ta đi đâu?”

Một thoáng lưỡng lự. “Lyon”.

Gabriel làm theo mệnh lệnh của ả. Khi họ tiến gần đến trạm thu phí giao thông, ả giấu khẩu Tanfolgio vào túi xách, rồi đưa cho anh một tờ giấy bạc để nộp phí. Trạm thu phí vừa qua, khẩu súng lại xuất hiện. Ả đặt nó trên đùi. Ngón tay trỏ của ả, với cái móng tay được cắt ngắn bẩn thỉu, đặt hờ hững trên cò súng.

“Hắn trông thế nào?”

“Ai cơ?”

“Khaled”, Gabriel nói.

“Như tao đã nói với mày, tao không biết ai tên là Khaled cả”.

“Cô đã ngủ với hắn ở Mác-xây”.

“Thực ra, tao đã ngủ với một người tên là Véran. Lái nhanh lên”.

“Hắn sẽ giết chúng ta, cô biết không? Hắn sẽ giết cả hai chúng ta”.

Ả không nói gì.

“Hắn có nói với cô đây là một sứ mệnh tự sát không? Cô đã chuẩn bị để chết chưa? Cô đã cầu nguyện và thu băng video từ biệt gia đình chưa?”

“Hãy lái xe đi, và đừng nói nữa”.

“Chúng ta là các shaheed, cô và tôi. Chúng ta sẽ chết cùng nhau - vì những lý do khác nhau, tôi xin phép nhắc cô, nhưng sẽ chết cùng nhau”.

“Mày im đi”.

Nó đây rồi, anh thầm nghĩ. Vết nứt trên vách tường lô-cốt. Khaled đã nói dối ả.

“Chúng ta sẽ chết trong buổi tối nay”, anh nói. “Đúng bảy giờ. Hắn không cho cô biết điều đó à?”

Một lần nữa ả lại im lặng. Ngón tay ả đang rờ rẫm cò súng.

“Tôi đoán là hắn đã quên nói với cô”, Gabriel tiếp tục. “Nhưng đó luôn luôn là cách mà các vụ tấn công tự sát diễn ra. Những kẻ tội nghiệp là những kẻ chết vì Palestine, những kẻ đến từ các trại tị nạn và các khu nhà ổ chuột. Những tên trùm khủng bố thì chỉ ra lệnh từ các biệt thự sang trọng của chúng ở Beirut, Tunis, và Ramallah”.

Một lần nữa ả lại vung khẩu súng về phía mặt anh. Lần này Gabriel bắt lấy nó và giằng nó ra khỏi tay ả.

“Khi cô đánh tôi bằng cái này, nó thật sự gây khó khăn cho việc lái xe”.

Anh chìa khẩu súng ra trả lại cho ả. Ả cầm lấy và đặt nó trở lại vào lòng.

“Chúng ta là những shaheed, Palestina. Chúng ta đang đi đến nơi hủy diệt bản thân mình, và Khaled đang chỉ đường cho chúng ta. Bảy giờ tối nay, Palestina. Bảy giờ tối nay”.

Trên đường đi từ Valence đến Lyon, anh cố gạt Leah ra khỏi đầu và chỉ suy nghĩ về tình huống hiện tại. Theo bản năng, anh tiếp cận nó như một bức tranh cần phục chế. Đầu tiên anh loại bỏ lớp sơn dầu phủ bên ngoài và phân rã bức tranh, cho đến khi chẳng còn lại gì ngoài những nét bút chì phác họa; rồi anh bắt đầu xây dựng lại tất cả, từng lớp một. Lúc này anh vẫn chưa thể bổ sung một sự xác minh đáng tin cậy. Khaled là người họa sĩ, hay Khaled chỉ là một anh thợ học việc trong xưởng vẽ của A’one? A’one đã ra lệnh thực hiện âm mưu này để trả thù cho sự sụp đổ quyền lực và địa vị của ông ta, hay Khaled đã tự ý tiến hành để trả thù cho cái chết của cha và ông nội hắn? Đây là một trận chiến nữa trong cuộc chiến giữa hai dân tộc hay chỉ là một cuộc thanh toán ân oán giữa hai gia đình có quá nhiều duyên nợ với nhau, gia đình al-Khalifa và gia đình Shamron-Allon? Anh ngờ rằng nó là một sự kết hợp của cả hai, một giao điểm giữa nhu cầu và cứu cánh. Hai họa sĩ vĩ đại cùng hợp tác thực hiện một tác phẩm - như Titian và Bellini, anh nghĩ. The Feast of the Gods - Bữa tiệc của các tông đồ.

Ngày bức tranh bắt đầu được thực hiện là một bí ẩn khác đối với anh. Nhưng có một điều anh biết chắc: công việc đã được tiến hành trong nhiều năm và bằng rất nhiều máu. Anh đã vào tròng một cách ngoạn mục và khéo léo. Tất cả bọn họ đều đã vào tròng. Hồ sơ phát hiện ở Milan đã được sắp xếp để dụ Gabriel bắt đầu bước vào cuộc điều tra. Khaled đã để lại một loạt dấu vết và giới hạn số vòng quay của đồng hồ, khiến Gabriel không còn lựa chọn nào khác ngoài việc lao theo chúng hết tốc lực. Mahmoud Arwish, David Quinnell, Mimi Ferrere - tất cả họ đều là một phần trong âm mưu này. Giờ đây Gabriel đã nhìn thấy họ, lặng im và bất động, như những hình vẽ nhỏ ngoài rìa bức tranh của Bellini, có tính biểu tượng nhưng chỉ đóng vai trò hỗ trợ cho điểm trung tâm của bức tranh. Nhưng điểm trung tâm đó là điểm nào? Gabriel biết bức tranh vẫn chưa được hoàn tất. Khaled vẫn còn giữ lại một đòn chí mạng cuối cùng, một tuyệt tác nữa của máu và lửa. Bằng cách nào đó Gabriel phải sống sót qua được nó. Anh tin chắc đầu mối sinh tồn của anh nằm ở đâu đó trên con đường mà anh đã đi qua. Và vì vậy, trên suốt chặng đường hướng về phía bắc đến Lyon, anh không nhìn thấy xa lộ mà chỉ thấy tình huống hiện tại - từng phút giây, mọi sự chuẩn bị, mọi cuộc chạm trán, lớp sơn dầu trên bức tranh. Mình sẽ sống sót qua âm mưu này, anh nghĩ, và một ngày nào đó anh sẽ trở lại tìm Khaled với những luật chơi của chính hắn. Và ả phụ nữ đang ngồi cạnh anh, Palestina, sẽ là cánh cửa thoát hiểm của anh.

“Hãy dừng xe bên vệ đường”.

Gabriel làm theo mệnh lệnh. Họ đang ở cách trung tâm thành phố Lyon vài dặm. Lần này, chỉ hai phút trôi qua trước khi chuông điện thoại reo.

“Trở ra đường”, ả nói. “Chúng ta sẽ đi Chalon. Nó là một…”

“Tôi biết Chalon nằm ở đâu. Nó ở phía nam Dijon”.

Anh chờ đường trống và trở ra làn xe dành riêng

cho ôtô.

“Tao không thể biết được mày là một người can đảm hay một tên ngốc”, ả nói. “Mày đã có thể bỏ đi ở Mác-xây. Mày đã có thể tự cứu lấy tính mạng mình”.

“Cô ấy là vợ tôi”, anh nói. “Và sẽ luôn luôn là vợ tôi”.

“Và mày sẵn sàng chết vì cô ấy?”

“Cả cô cũng sẽ chết vì cô ấy”.

“Vào lúc bảy giờ?”

“Đúng”.

“Tại sao mày biết thời điểm đó? Tại sao là bảy giờ?”

“Cô chẳng biết tí gì về kẻ mà cô đang cúc cung tận tụy làm việc cho hắn, phải không? Tôi cảm thấy tiếc cho cô đấy, Palestina. Cô là một đứa con gái cực kỳ ngốc nghếch. Thủ lĩnh của cô đã phản bội cô, và cô sẽ là người phải trả giá thay cho hắn”.

Ả lại giơ khẩu súng lên toan đánh anh, nhưng rồi suy nghĩ lại và đặt nó trở xuống. Gabriel vẫn không rời mắt khỏi con đường. Cánh cửa đã hé mở.

Họ dừng lại để đổ xăng ở phía nam Chalon. Gabriel đổ đầy bình xăng và trả tiền bằng những tờ giấy bạc mà ả phụ nữ đưa cho. Khi anh trở lại vị trí ngồi sau vô-lăng, ả ra lệnh cho anh đậu xe bên cạnh dãy nhà vệ sinh.

“Tôi sẽ trở lại ngay”.

“Tôi sẽ đợi”.

Ả vào nhà vệ sinh chỉ trong giây lát. Gabriel đã cài số cho xe lùi ra đường, nhưng đứa con gái đã lấy chiếc điện thoại vệ tinh từ trong túi xách ra, và bảo anh đợi. Lúc này là hai giờ năm mươi lăm phút chiều.

“Chúng ta sẽ đi Paris”, anh nói.

“Ồ, vậy ư?”

“Hắn có hai con đường để sai chúng ta đến đó. Đường xa lộ sẽ tách làm đôi ở Beaune. Nếu đi theo đường tắt, chúng ta có thể chạy thẳng vào các khu ngoại ô phía nam. Hoặc chúng ta có thể tiếp tục đi theo hướng đông - từ Dijon đến Troyes, từ Troyes đến Reims - và tiến vào thủ đô từ hướng đông bắc”.

“Có vẻ như mày biết mọi chuyện. Vậy hãy thử nói tao nghe anh ta sẽ chọn cho chúng ta con đường nào?”

Gabriel giả vờ xem đồng hồ đeo tay.

“Hắn muốn chúng ta tiếp tục chạy rông ngoài đường, chứ không muốn chúng ta đến đích quá sớm. Tôi đặt cược vào con đường hướng đông. Tôi đoán hắn sẽ bảo chúng ta đến Troyes và chờ lệnh tiếp theo ở đó. Hắn còn có những lựa chọn khác nếu sai chúng ta đến Troyes”.

Gabriel nói vừa dứt lời thì chuông điện thoại reo. Đứa con gái im lặng lắng nghe rồi tắt máy.

“Trở lại xa lộ”, ả nói.

“Chúng ta đi đâu?”

“Cứ chạy đi”, ả đáp.

Anh xin phép bật radio.

“Cứ tự nhiên”, ả trả lời bằng giọng ân cần.

Anh bấm công tắc điện, nhưng không có chuyện gì xảy ra. Một nụ cười nhẹ xuất hiện trên môi của ả.

“Chơi hay lắm”, Gabriel nói.

“Cám ơn”.

“Tại sao cô làm việc này?”

“Hẳn là mày đang đùa?”

“Tôi hoàn toàn nghiêm túc đấy”.

“Tao là Palestina”, ả đáp. “Tao không có sự lựa chọn”.

“Cô sai rồi. Cô có sự lựa chọn”.

“Tao biết mày đang làm gì”, ả nói. “Mày đang cố lung lạc tao với câu chuyện về cái chết và tự sát. Mày nghĩ mày có thể làm thay đổi lý tưởng của tao, làm tao nhụt chí”.

“Thành thật mà nói, tôi chưa bao giờ mơ tới điều đó. Chúng ta đã đi cùng với nhau trong một thời gian khá dài. Tôi biết cô rất can đảm và hiếm khi nhụt chí. Tôi chỉ muốn biết lý do: Tại sao cô ở đây? Tại sao cô không lấy chồng, sinh con, và chăm sóc gia đình như mọi người phụ nữ khác? Tại sao cô không sống cuộc đời của mình?”

Một nụ cười nữa xuất hiện, lần này mang vẻ chế nhạo. “Đúng là người Do Thái”, ả nói. “Các người nghĩ rằng các người độc chiếm sự đau khổ. Các người nghĩ các người là trung tâm hứng chịu mọi nỗi đau của nhân loại. Cuộc Holocaust - tai ách diệt chủng - của dân tộc tao cũng thật như của các người, nhưng các người khăng khăng phủ nhận nỗi đau khổ của dân tộc tao nhằm che đậy tội lỗi của các người. Các người nói rằng những thương tích của dân tộc tao là do chúng tao tự gây ra”.

“Vậy hãy kể tôi nghe câu chuyện của cô”.

“Câu chuyện của tao là câu chuyện về một Thiên Đường đã mất. Đó là câu chuyện về một dân tộc lương thiện bị thế giới tự nhận là 'văn minh' ép buộc giao nộp đất đai của mình để những người Thiên Chúa giáo đỡ bị mặc cảm tội lỗi về tội ác diệt chủng mà họ đã gây ra”.

“Không, không”, Gabriel ngắt lời. “Tôi không muốn một bài tuyên truyền. Tôi muốn nghe câu chuyện của cô. Cô từ đâu đến?”

“Một trại tị nạn”, ả đáp, rồi thêm vào: “Một trại tị nạn ở Libăng”.

Gabriel lắc đầu. “Tôi không hỏi cô được sinh ra ở đâu, hay cô lớn lên ở đâu. Tôi hỏi quê quán của cô ở đâu”.

“Quê hương tao là Palestine”.

“Dĩ nhiên rồi. Nhưng vùng nào?”

“Miền Bắc”.

“Điều đó giải thích việc tị nạn ở Libăng. Vùng nào của miền bắc?”

“Vùng Galilee”.

“Tây hay Thượng?”

“Tây Galilee”.

“Làng nào?”

“Ngày nay nó không còn nữa”.

“Tên nó là gì?”

“Tao không được phép…”

“Nó có tên chứ?”

“Dĩ nhiên là nó có tên”.

“Phải Bassa không?”

“Không”.

“Phải Zib không?”

“Không”.

“Vậy chắc là Sumayriyya?”

Ả không trả lời.

“Đúng là Sumayriyya rồi”.

“Phải”, ả đáp. “Gia đình tao đến từ làng Sumayriyya”.

“Đường đến Paris vẫn còn xa lắm, Palestina. Hãy kể tôi nghe câu chuyện của cô”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


JERUSALEM

Varash nhóm họp lần thứ hai trong ngày, lần này là cuộc họp trực tiếp trong văn phòng Thủ tướng. Phần thông tin cập nhật của Lev được trình bày rất ngắn gọn, chỉ trong giây lát, bởi hầu như chưa có gì thay đổi kể từ cuộc họp qua truyền hình của họ lần trước. Chỉ có kim đồng hồ vẫn quay đều. Lúc này đã là năm giờ chiều ở Tel Aviv, và bốn giờ ở Paris. Lev muốn gióng hồi chuông báo động.

“Chúng ta phải giả định rằng trong ba giờ đồng hồ nữa sẽ xảy ra một cuộc tấn công khủng bố lớn ở nước Pháp, có thể là ở Paris, và một nhân viên của chúng ta sẽ mắc kẹt giữa chuyện này. Xét hoàn cảnh hiện tại, tôi e rằng chúng ta không còn con đường nào khác ngoài báo tin cho người Pháp biết”.

“Thế còn Gabriel và vợ anh ấy thì sao?”. Moshe Yariv, người đứng đầu Shabak, hỏi. “Nếu người Pháp cho báo động khủng bố trên toàn quốc, Khaled sẽ coi đó là một lý do chính đáng để giết cả hai vợ chồng họ”.

“Hắn chẳng cần lý do nào cả”, Shamron nói. “Đó chính xác là điều hắn dự định làm ngay từ đầu. Lev nói đúng. Chúng ta phải báo tin cho người Pháp. Xét về cả hai mặt đạo lý lẫn chính trị, chúng ta không có lựa chọn nào khác”.

Ngài Thủ tướng thay đổi tư thế ngồi một cách khó khăn do kích thước đồ sộ của cơ thể. “Nhưng tôi không thể nói với họ rằng chúng ta đã gửi một nhóm điệp viên đến Mác-xây để giết một tên khủng bố người Palestine được”.

“Ngài không cần phải làm thế”, Shamron nói. “Nhưng dù chúng ta có giải thích cách nào thì hậu quả của câu chuyện này cũng sẽ rất xấu. Chúng ta đã thỏa thuận với người Pháp là sẽ không tiến hành bất kỳ một chiến dịch nào trên đất của họ mà không hội ý trước. Tất nhiên là chúng ta vẫn vi phạm thỏa thuận này thường xuyên, với sự 'thông cảm' ngầm của các bạn đồng nghiệp người Pháp. Nhưng việc họ lờ đi cho chúng ta là một chuyện, còn việc chúng ta bị bắt quả tang với đầy đủ tang chứng vật chứng lại là chuyện khác”.

“Vậy thì tôi sẽ nói gì đây?”

“Tôi đề nghị bám sát sự thật ở mức tối đa có thể. Chúng ta nói với họ rằng một nhân viên của chúng ta đã bị bắt cóc bởi một tổ chức khủng bố ở Mác-xây. Chúng ta nói với họ rằng người nhân viên đó đến Mác-xây để điều tra về vụ đánh bom tòa đại sứ quán ở Rome. Chúng ta nói với họ rằng chúng ta có bằng chứng chắc chắn để tin rằng Paris sẽ trở thành mục tiêu của một cuộc tấn công khủng bố vào lúc bảy giờ tối nay. Ai mà biết được? Nếu người Pháp gióng lên hồi chuông báo động, biết đâu nó sẽ buộc Khaled phải hoãn hoặc hủy bỏ cuộc tấn công của hắn”.

Ngài Thủ tướng nhìn Lev. “Tình hình các thành viên còn lại trong nhóm thế nào?”

“Tàu Fidelity đã ra khỏi vùng biển của nước Pháp, và các thành viên còn lại trong nhóm đều đã ở hải phận hoặc địa phận quốc tế. Người duy nhất còn lại trên đất Pháp là Gabriel”.

Ngài Thủ tướng bấm một nút trên máy điện thoại bàn. “Nối máy với ngài Tổng thống Pháp, và bảo một phiên dịch viên sẵn sàng. Tôi không muốn có bất kỳ sự hiểu lầm nào giữa hai bên”.

Tổng thống nước Cộng Hòa Pháp đang tiếp Thủ tướng Đức tại sảnh Chân Dung trong Điện Élysée, khi một phụ tá thân cận lặng lẽ vào phòng và thì thầm vài lời. Nhà lãnh đạo nước Pháp không giấu được vẻ khó chịu khi đột ngột bị quấy rầy.

“Không thể để lúc khác được sao?”

“Ngài ấy° nói đây là vấn đề an ninh ở cấp ưu tiên cao nhất, thưa ngài”.

Vị Tổng thống đứng dậy và nhìn vị khách của mình. “Xin thứ lỗi cho tôi một lát, ngài Thủ tướng”.

Cao ráo và lịch lãm trong bộ com-lê đen, người đứng đầu nhà nước Pháp theo nhân viên tùy tùng của ông vào một phòng riêng. Giây lát sau, đường dây điện thoại đã được thông.

“Xin chào ngài Thủ tướng. Tôi hiểu rằng đây không phải là một cuộc gọi xã giao?”

“Đúng vậy, thưa ngài Tổng thống. Tôi e rằng tôi phải thông báo với ngài về một mối đe dọa° lớn đối với quý quốc”.

“Có phải mối đe dọa này mang tính chất khủng bố?”

“Đúng vậy, thưa ngài”.

“Chúng tôi có bao nhiêu thời gian? Bao nhiêu tuần? Bao nhiêu ngày?”

“Chỉ vài giờ, thưa ngài Tổng thống”.

“Chỉ vài giờ? Tại sao bây giờ tôi mới được thông báo?”

“Chúng tôi cũng chỉ mới vừa biết được về mối đe dọa này”.

“Ngài có biết chi tiết nào về cuộc tấn công không?”

“Chỉ biết thời điểm sẽ xảy ra thôi. Chúng tôi tin rằng một tổ chức khủng bố Palestine dự định tấn công vào lúc bảy giờ tối nay. Paris là mục tiêu nhiều khả năng nhất, nhưng chúng tôi không biết chắc”.

“Xin ngài Thủ tướng cho tôi mọi điều mà ngài biết”.

Thủ tướng Israel nói trong hai phút. Khi ông dứt lời, Tổng thống Pháp nhận xét, “Hình như tôi có cảm giác rằng tôi mới chỉ được biết một phần của câu chuyện?”

“Tôi e rằng chúng tôi cũng chỉ biết một phần của câu chuyện như ông”.

“Tại sao các ngài không thông báo cho chúng tôi biết rằng các ngài đang truy đuổi một nghi phạm khủng bố trên đất Pháp?”

“Chúng tôi không có thời gian cho một tham vấn chính thức, thưa ngài Tổng thống. Đây là một cuộc truy lùng phải tiến hành rất khẩn cấp”.

“Thế còn người Ý? Các ngài có thông báo với họ rằng các ngài đã tìm ra một nghi phạm đã tiến hành vụ đánh bom trên đất Ý không?”

“Không, thưa ngài Tổng thống, chúng tôi không thông báo”.

“Thật ngạc nhiên”, nhà lãnh đạo Pháp nói. “Các ngài có bức ảnh nào có thể giúp chúng tôi nhận diện những kẻ có khả năng sẽ thực hiện vụ đánh bom không?”

“Tôi e rằng không”.

“Tôi cũng không cho rằng các ngài muốn gửi ảnh của điệp viên bị mất tích”.

“Điều đó còn tùy vào hoàn cảnh…”.

“Tôi coi đó là câu trả lời của ngài”, Tổng thống Pháp nói. “Tôi sẽ gửi đại sứ nước tôi đến Văn phòng của ngài ngay lập tức. Tôi tin rằng anh ta sẽ nhận được toàn bộ hồ sơ đầy đủ và trung thực về vấn đề này”.

“Tất nhiên rồi, thưa ngài”.

“Có điều gì đó mách bảo tôi rằng còn nhiều chuyện khúc mắc trong vấn đề này, nhưng việc quan trọng phải lo trước. Tôi sẽ giữ liên lạc chặt chẽ với ngài”.

“Chúc ngài may mắn, ngài Tổng thống”.

Vị lãnh đạo nước Pháp dập máy và quay lại nhìn người nhân viên tùy tùng. “Triệu tập khẩn cấp Nhóm Napoleon”, ông ra lệnh. “Tôi sẽ lo liệu ngài Thủ tướng Đức”.

Hai mươi phút sau cú điện thoại bất ngờ, Tổng thống Pháp ngồi vào vị trí quen thuộc bên bàn họp nội các trong Phòng Murat. Tập trung quanh ông là các thành viên Nhóm Napoleon, nhóm các quan chức tình báo và an ninh hàng đầu, cùng các Bộ trưởng trong nội các được lập ra nhằm đối phó với những mối đe dọa cấp thời mà nước Pháp có thể gặp phải. Ngồi ở đầu bên kia chiếc bàn lớn là Thủ tướng Pháp. Chính giữa hai vị lãnh đạo cao nhất của nước Pháp là một chiếc đồng hồ hai mặt kính lộng lẫy bằng đồng thau, được chạm trổ rất công phu. Đồng hồ đang chỉ bốn giờ ba mươi lăm phút chiều.

Ngài Tổng thống mở đầu cuộc họp bằng cách lặp lại chính xác những điều mà ông vừa được biết. Tiếp theo là vài phút tranh luận có phần căng thẳng về tình hình, về nguồn tin, về Thủ tướng Israel, một người không mấy thân thiết với Paris. Tuy nhiên, cuối cùng, mọi thành viên trong nhóm đều nhất trí rằng mối đe dọa này quá lớn và không thể bỏ qua. “Thưa các ngài, rõ ràng là chúng ta cần nâng mức báo động an ninh lên như một biện pháp đề phòng”, Tổng thống nói. “Chúng ta sẽ nâng lên mức nào?”

Kể từ sau các cuộc tấn công của al-Qaeda vào Trung tâm thương mại Thế giới và Ngũ Giác Đài, chính quyền Pháp đã thiết kế một hệ thống báo động an ninh bốn cấp độ, tương ứng với bốn màu, tương tự như hệ thống báo động của Hoa Kỳ. Trong buổi chiều hôm đó, mức báo động an ninh của nước Pháp đang là màu cam, mức cao thứ hai, chỉ cao hơn màu vàng. Mức thứ ba, màu đỏ, sẽ tự động phong tỏa phần lớn không phận của nước Pháp và triển khai các lực lượng an ninh tăng cường ở những nơi công cộng và các hệ thống giao thông, cũng như những địa điểm mang tính biểu tượng quan trọng của nước Pháp như Tháp Eiffel và Bảo tàng Louvre. Mức báo động an ninh cao nhất, màu đỏ tươi, sẽ thực sự phong tỏa toàn bộ đất nước, bao gồm cả hệ thống cấp nước và lưới điện quốc gia. Không có thành viên nào trong Nhóm Napoleon dự định áp dụng mức báo động cao nhất này chỉ dựa trên một lời cảnh báo của người Israel. “’Có nhiều khả năng mục tiêu sẽ là những cơ sở của người Israel hoặc mang tính chất Do Thái”, Bộ trưởng Bộ Nội vụ phát biểu. “Ngay cả khi nó có quy mô như Rome thì nó vẫn chưa đến mức để chúng ta áp dụng mức báo động cao nhất”.

“Tôi nhất trí”, ngài Tổng thống nói. “Chúng ta sẽ nâng lên mức Đỏ”.

Năm phút sau khi cuộc họp của Nhóm Napoleon kết thúc, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Pháp vội vã rời khỏi Phòng Murat để đối diện với một rừng ống kính và Microphone. “Thưa các quý ông, quý bà”, ông nói với nét mặt u ám, “Chính phủ Pháp vừa nhận được thông tin mà chúng tôi tin là đáng tin cậy, thông tin đó tố cáo một âm mưu tấn công khủng bố vào thủ đô Paris trong buổi tối hôm nay”.

Căn hộ nằm trên đường Saules, ở đầu phía bắc yên tĩnh của ngọn đồi Montmartre, cách khu vực của rất nhiều du khách quanh Sacré-Coeur vài dãy phố. Căn hộ nhỏ nhưng tiện nghi, một nơi tạm trú hoàn hảo khi công việc hoặc những cuộc phiêu lưu tình ái đưa Paul Martineau từ Provence đến thủ đô. Sau khi đến Paris, hắn ghé qua khu Luých-xăm-bua để ăn trưa với một người đồng nghiệp đến từ Đại học Sorbonne. Sau đó hắn phải đến phố Germain gặp nhà xuất bản tiềm năng của cuốn sách của hắn viết về lịch sử thời tiền La Mã của vùng Provence cổ. Lúc bốn giờ bốn mươi lăm phút, hắn băng qua khoảng sân yên tĩnh của tòa nhà và bước vào tiền sảnh. Bà Touzet, người gác cửa, ló đầu ra từ cửa phòng mình khi Martineau bước vào.

“Xin chào, Giáo sư Martineau”.

Martineau hôn lên hai bên má trát đầy phấn của bà và tặng bà một bó hoa huệ tây mà hắn vừa mua ở một tiệm hoa trên đường Caulaincourt. Martineau không bao giờ đến căn hộ của hắn ở Paris mà quên mang theo một món quà nhỏ cho Bà Touzet.

“Cho tôi à?”, bà hỏi một cách điệu đà. “Lẽ ra ông không nên làm thế, Giáo sư ạ”.

“Tôi không thể bảo mình là không làm thế”.

“Ông sẽ ở Paris bao lâu?”

“Chỉ một đêm thôi, thưa bà”.

“Thật đáng tiếc! Đợi tôi lấy thư cho ông”.

Lát sau bà trở lại với một chồng bưu thiếp và thư từ, được sắp xếp gọn ghẽ và buộc chặt bằng một sợi ruy-băng hồng, như mọi khi. Martineau lên cầu thang để về căn hộ của mình. Hắn bật truyền hình, chọn kênh 2, rồi đi vào bếp để pha cà phê. Giữa tiếng nước chảy, hắn nghe giọng nói quen thuộc của ngài Bộ trưởng Bộ nội vụ Pháp. Hắn tắt nước và bình tĩnh đi vào phòng khách. Hắn đứng đó, bất động trước màn ảnh truyền hình, trong mười phút tiếp theo.

Người Israel đã chọn cách báo động cho người Pháp. Martineau đã dự tính trước phản ứng này của họ. Hắn biết việc mức độ an ninh được nâng lên đồng nghĩa với sự thay đổi về chiến lược cũng như thủ tục an ninh tại những địa điểm quan trọng quanh Paris, một diễn biến đòi hỏi một sự điều chỉnh nhỏ trong các kế hoạch của hắn. Hắn nhấc máy điện thoại và bấm số.

“Tôi muốn thay đổi một vé tàu đã đặt trước”.

“Xin ông cho biết tên?”

“Giáo sư Paul Martineau”.

“Số vé?”

Martineau đọc một con số.

“Lúc này ông đang đặt vé trở về Aix-en-Provence từ Paris vào sáng mai”.

“Đúng vậy, nhưng tôi e rằng đã có một số sự thay đổi và tôi cần trở về sớm hơn dự kiến. Liệu tôi có thể đổi lấy một vé trên một chuyến tàu nào đó khởi hành vào đầu giờ tối nay không?”

“Vẫn còn ghế trống trên chuyến tàu số mười bảy”.

“Hạng nhất chứ?”

“Vâng”.

“Tôi sẽ lấy một vé”.

“Ông đã biết về cảnh báo khủng bố của chính phủ chưa ạ?”

“Tôi không bao giờ quan tâm nhiều đến những chuyện đó”, Martineau đáp. “Vả lại, nếu chúng ta không tiếp tục sống cuộc sống bình thường của mình thì bọn khủng bố đã thắng rồi, phải không?”

“Đúng vậy!”

Martineau nghe tiếng gõ bàn phím máy tính.

“Xong rồi, thưa Giáo sư Martineau. Giờ đặt vé của ông đã được thay đổi. Tàu của ông sẽ rời ga Lyon vào lúc bảy giờ mười lăm”.

Martineau gác máy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


TROYES, PHÁP

Sumayriyya? Mày muốn biết về Sumayriyya? Đó là Thiên Đường trên trần thế. Là Vườn Địa Đàng. Với những vườn cây ăn quả và những khu rừng ôliu, dưa và chuối, dưa chuột và lúa mì. Sumayriyya rất giản dị và thanh khiết. Cuộc sống của chúng tao vận động theo nhịp điệu của công việc gieo trồng và thu hoạch. Theo hai mùa mưa nắng. Làng chúng tao có tám trăm người. Chúng tao có một nhà thờ Hồi giáo. Chúng tao có một ngôi trường. Chúng tao nghèo, nhưng Allah ban cho chúng tao tất cả mọi thứ mà chúng tao cần”.

Nghe cô ả kìa, Gabriel nghĩ thầm trong khi vẫn chăm chú lái xe. Chúng tao... Của chúng tao... Cô ả ra đời hai mươi năm sau khi làng Sumayriyya biến mất trên bản đồ, nhưng ả nói về ngôi làng đó như thể ả đã sống ở đó cả đời.

“Ông nội tao là một người quan trọng. Không, không phải một muktar, nhưng là một người có ảnh hưởng trong số các bậc 'trưởng lão' trong làng. Ông có gần 60.000 m2 đất và một đàn dê lớn, ông tao được coi là một người giàu có”. Một nụ cười châm biếm xuất hiện trên môi Palestina. “'Giàu' ở Sumayriyya nghĩa là ít nghèo hơn những người khác một chút”.

Ánh mắt ả tối sầm lại. Ả nhìn xuống khẩu súng, rồi lại nhìn một nông trại Pháp vừa vụt qua ngoài cửa sổ.

“Năm 1947 đánh dấu sự kết liễu ngôi làng của tao. Vào tháng 11, Liên Hiệp Quốc biểu quyết chia đôi đất đai của chúng tao và trao một nửa cho người Do Thái. Sumayriyya, cũng như phần còn lại của miền Tây Galilee, được quyết định sẽ trở thành một phần lãnh thổ thuộc về nhà nước Arập của Palestine. Nhưng, tất nhiên, điều đó đã không trở thành hiện thực. Chiến tranh nổ ra ngay sau ngày Liên Hiệp Quốc biểu quyết, và với người Do Thái, toàn bộ đất Palestine giờ đây là mục tiêu để họ tranh đoạt”.

Gabriel muốn nói: Chính người Arập đã mở đầu cuộc chiến - Sheikh Asad al-Khalifa, “sứ quân” của Beit Sayeed, là kẻ đã mở đầu cơn mưa máu với những cuộc tấn công khủng bố của y nhắm vào những chiếc xe buýt trên tuyến đường Netanya-Jerusalem. Nhưng lúc này không phải là thời điểm thích hợp cho một cuộc tranh luận về những cứ liệu lịch sử. Câu chuyện về Sumayriyya đã cuốn hút ả, và Gabriel không muốn phá hỏng điều đó.

Đột nhiên ả hướng ánh nhìn vào anh. “Mày đang suy nghĩ điều gì vậy?”

“Tôi đang lắng nghe câu chuyện của cô”.

“Với một nửa bộ não thôi”, ả nói. “Nửa còn lại mày đang suy tính điều gì đó. Có phải mày đang nghĩ đến chuyện đoạt súng của tao? Có phải mày đang lập kế hoạch đào thoát?”

“Chẳng có lối thoát nào cả, Palestina ạ - cho cả hai chúng ta. Cứ kể tiếp câu chuyện của cô đi”.

Ả nhìn ra cửa sổ. “Đêm 13 tháng 5 năm 1948, một đoàn xe quân sự bọc thép của lực lượng Haganah triển khai đội hình trên con đường chạy dọc bờ biển từ Acre. Mật danh là Chiến dịch Ben-Ami, một phần trong đại chiến dịch Tochnit Dalet”. Ả nhìn anh. “Mày biết cái tên này chứ? Tochnit Dalet? Kế hoạch D?”

Gabriel gật đầu và nghĩ đến Dina, nhớ lại cảnh nàng đứng giữa đống đổ nát của Beit Sayeed. Đã bao lâu rồi nhỉ? Mới chỉ một tháng trước, thế mà anh tưởng chừng như cả một đời người đã trôi qua.

“Mục tiêu công khai của Chiến dịch Ben-Ami là tiếp tế cho nhiều khu định cư Do Thái bị cô lập ở miền Tây Galilee. Tuy nhiên, mục tiêu thật của nó là chinh phạt và thôn tính. Trên thực tế, những người chỉ huy chiến dịch đã được lệnh tập trung biến thành bình địa ba ngôi làng Arập: Bassa, Zib, và Sumayriyya”.

Ả dừng lời, quan sát xem nhận xét của mình có kích hoạt phản ứng nào từ Gabriel hay không, và tiếp tục câu chuyện. “Sumayriyya là ngôi làng đầu tiên bị bức tử. Đoàn xe của Haganah bao vây nó trước bình minh và chiếu đèn pha vào làng. Một số binh lính Haganah đội khăn kaffiyeh kẻ ô vuông đỏ. Một người canh gác trong làng trông thấy những chiếc khăn kaffiyeh và tưởng binh lính Do Thái là lực lượng tiếp viện người Arập. Anh ta bắn chỉ thiên để bày tỏ sự vui mừng và lập tức bị đốn gục bởi đạn của Haganah. Tin người Do Thái ngụy trang là người Arập khiến cả ngôi làng chìm trong hoảng loạn. Những chiến binh bảo vệ làng Sumayriyya đã chiến đấu rất dũng cảm, nhưng họ không thể địch nổi quân Haganah được vũ trang tốt hơn. Chỉ trong vài phút, cuộc di tản bắt đầu”.

“Người Do Thái muốn chúng tao ra đi”, ả nói. “Họ cố tình bỏ ngỏ phía đông ngôi làng để mở đường rút cho chúng tao. Chúng tao không có thời gian để gói ghém quần áo hay thậm chí là thức ăn. Chúng tao chỉ biết bỏ chạy. Nhưng người Do Thái vẫn chưa hài lòng, họ bắn vào chúng tao khi chúng tao chạy qua những cánh đồng mà cha anh chúng tao đã trồng cấy qua nhiều thế kỷ. Năm dân làng chết trên những cánh đồng đó. Các công binh của Haganah lập tức tràn vào. Trên đường chạy trốn, chúng tao nghe thấy những tiếng nổ. Người Do Thái đã biến Thiên Đường của chúng tao thành một đống hoang tàn không thể nào cư trú được nữa”.

Dân làng Sumayriyya chạy theo con đường hướng bắc, dẫn sang Libăng. Chẳng bao lâu sau họ nhập bọn với cư dân hai làng Bassa và Zib và nhiều làng nhỏ khác ở phía đông. “Người Do Thái bảo chúng tao sang Libăng”, ả nói. “Họ bảo chúng tao đợi ở đó trong vài tuần cho tới khi giao tranh chấm dứt, và sau đó chúng tao sẽ được phép trở về. Trở về ư? Chúng tao sẽ trở về đâu? Nhà cửa của chúng tao đã bị xóa sổ. Vì vậy chúng tao cứ đi tiếp, qua biên giới, đi vào đời sống lưu vong, vào lãng quên. Và sau lưng chúng tao những cánh cổng của Palestine đã đóng kín mãi mãi, vĩnh viễn không cho phép chúng tao trở về”.

Reims: 5 giờ chiều.

“Ép vào lề”, Palestina ra lệnh.

Gabriel rẽ chiếc Mercedes vào đường phụ và dừng lại. Họ chờ đợi trong im lặng, chiếc xe rung rung như đang rùng mình trước dòng xe cộ nhộn nhịp chạy qua. Cuối cùng chuông điện thoại cũng reo. Ả lắng nghe, lâu hơn những lần trước. Gabriel ngờ rằng ả đang được dặn dò những mệnh lệnh cuối cùng. Vẫn không nói một lời nào, ả tắt máy, rồi bỏ chiếc điện thoại vào túi xách.

“Chúng ta đi đâu?”

“Paris”, ả nói. “Đúng như mày dự đoán”.

“Hắn muốn tôi đi đường nào?”

“Đường A4. Mày biết đường đó không?”

“Tôi biết”.

“Nó sẽ dẫn mày tới…”.

“Vùng đông nam của Paris. Tôi biết nó dẫn tới đâu, Palestina”.

Gabriel cho chiếc xe tăng tốc và trở ra xa lộ. Đồng hồ trong xe chỉ 5 giờ 05 phút. Một tấm biển vụt qua: Paris - 145. Còn một trăm bốn mươi lăm cây số nữa là tới Paris. Chín mươi mốt dặm.

“Kể nốt câu chuyện của cô đi, Palestina”.

“Chúng ta đến đâu rồi?”

“Libăng”, Gabriel nhắc. “Lãng quên”.

“Chúng tao cắm trại trên các ngọn đồi. Chúng tao lùng sục khắp nơi để tìm thức ăn. Chúng tao sống nhờ vào lòng từ thiện của những người anh em Arập và chờ đợi những cánh cổng của Palestine mở ra đón chúng tao về, chờ đợi người Do Thái thực hiện lời hứa mà họ đã nói với chúng tao trong buổi sáng khi chúng tao phải chạy khỏi Sumayriyya. Nhưng đến tháng 6, Ben-Gurion nói những người tị nạn không thể trở về nhà. Chúng tao là những tên gián điệp và chúng tao không được phép trở về, đó là lời của lão ta. Chúng tao là cái gai trong mắt nhà nước Do Thái mới được thành lập. Lúc đó, chúng tao biết mình sẽ không bao giờ còn được thấy Sumayriyya nữa. Thiên Đường đã mất”.

Gabriel nhìn đồng hồ. 5 giờ 10 phút. Còn tám mươi dặm nữa là đến Paris.

“Chúng tao đi bộ về phía bắc, đến Sidon. Chúng tao sống qua mùa hè dài, nóng bức trong những túp lều. Rồi tiết trời trở lạnh và mùa mưa đến, và chúng tao vẫn sống trong những túp lều tồi tàn ấy. Chúng tao gọi mái nhà mới của mình là Ein al-Hilweh. Suối Ngọt. Người gặp nhiều khó khăn nhất là ông nội tao. Ở Sumayriyya, ông là một nhân vật quan trọng, ông chăm sóc những cánh đồng và đàn gia súc, nuôi sống gia đình. Giờ đây gia đình ông phải sống bằng của bố thí. Ông có văn khế chứng minh quyền sở hữu tài sản, nhưng không còn đất đai. Ông có những chiếc chìa khóa nhưng không còn nhà để mở. Ông mắc bệnh trong mùa đông đầu tiên và qua đời. Ông không còn muốn sống - không phải ở Libăng. Ông nội tao chết khi Sumayriyya chết”.

5 giờ 25 phút. Paris: 62 dặm.

“Lúc đó cha tao chỉ là một cậu bé, nhưng đã phải gánh vác trách nhiệm nuôi mẹ và hai người em gái. Ông không thể làm việc - người Libăng không cho phép. Ông không được đến trường - người Libăng cũng không cho phép việc đó. Không có an sinh xã hội ở Libăng, không có bảo hiểm y tế ở Libăng. Và cũng không có lối thoát, vì chúng tao không có hộ chiếu hợp lệ. Chúng tao không có quyền công dân. Chúng tao không phải là con người. Chúng tao chẳng là cái gì cả”.

5 giờ 38 phút. Paris: 35 dặm.

“Khi cha tao kết hôn với một cô gái cũng đến từ làng Sumayriyya, những người dân làng còn sót lại đều tề tựu về Ein al-Hilweh để dự lễ cưới. Giống hệt như khi còn ở nhà, chỉ có khung cảnh xung quanh là khác. Thay vì Thiên Đường, đó là những túp lều và những căn chòi trong trại tị nạn. Mẹ tao sinh cho cha tao hai người con trai. Đêm nào ông cũng kể cho họ nghe về Sumayriyya, để họ không bao giờ quên quê hương gốc gác của mình. Ông kể cho họ nghe câu chuyện về al-Nakba - Tai Ương, và gieo vào lòng họ giấc mơ về al-Awda - Cuộc Hồi Hương. Hai anh tao lớn lên đều trở thành những chiến binh Palestine. Thật ra họ cũng không có sự lựa chọn nào khác. Ngay khi họ đủ lớn để cầm nổi khẩu súng, Fatah đã bắt đầu huấn luyện họ”.

“Còn cô?”

“Tao là con út. Tao ra đời năm 1975, đúng lúc Libăng rơi vào cuộc nội chiến”.

5 giờ 45 phút. Paris: 25 dặm.

“Chúng tao không bao giờ nghĩ rằng họ sẽ lại đến tìm chúng tao. Phải, chúng tao đã mất nhiều thứ - nhà cửa, làng mạc, đất đai - nhưng ít ra chúng tao được an toàn ở Ein al-Hilweh. Người Do Thái sẽ chẳng bao giờ đến Libăng. Phải thế không?”

5 giờ 52 phút. Paris: 19 dặm.

“Chiến dịch Hòa Bình Galilee - đó là cái tên họ đặt cho nó. Lạy Allah, ngay cả Orwell cũng không nghĩ ra được cái tên nào hay hơn. Ngày 4 tháng 6 năm 1982, Israel xâm lược Libăng để kết liễu vĩnh viễn lực lượng PLO. Đối với chúng tao, mọi chuyện diễn ra sao mà quen thuộc. Một đoàn xe bọc thép Israel tiến thẳng về phía bắc theo con đường dọc bờ biển, chỉ có điều giờ đây con đường dọc bờ biển này nằm ở Libăng thay vì Palestine, và binh lính Israel giờ đây là thành viên lực lượng IDF thay vì Haganah. Chúng tao biết mọi chuyện sẽ trở nên tồi tệ. Ein al-Hilweh nổi tiếng là cứ địa của chúng tao, thủ phủ của người Palestine lưu vong. Vào ngày 8 tháng 6, trận chiến bảo vệ trại tị nạn bắt đầu. Israel cho lính dù nhảy xuống. Những chiến binh của chúng tao chiến đấu với lòng quả cảm của những con sư tử - trên từng dãy phố, trong từng ngôi nhà, từng nhà thờ và bệnh viện. Bất cứ chiến binh nào muốn đầu hàng đều bị bắn. Một lời thề được truyền đi: trận chiến để bảo vệ Ein al-Hilweh sẽ kéo dài cho tới khi người cuối cùng ngã xuống.

“Người Israel thay đổi chiến thuật. Họ sử dụng không quân và pháo binh để dội bom và pháo kích vào trại tị nạn, từng cụm một, hết khu này đến khu khác. Sau đó các phi công của họ mới nhảy dù xuống và tàn sát các chiến binh của chúng tao. Cứ sau vài giờ, người Israel lại tạm dừng cuộc tấn công để chiêu dụ chúng tao đầu hàng. Lần nào họ cũng nhận được cùng một câu trả lời: không bao giờ. Trận chiến cứ kéo dài như vậy trong suốt một tuần lễ. Tao mất một người anh ngay trong ngày đầu của trận chiến, và mất nốt người anh thứ hai trong ngày thứ tư. Trong ngày giao tranh cuối cùng, mẹ tao bị tưởng lầm là một quân du kích khi bà bò ra từ trong đống đổ nát và bị lính Israel bắn chết.

“Khi cuối cùng mọi chuyện chấm dứt, Ein al-Hilweh đã trở thành một vùng đất hoang. Lần thứ hai, người Do Thái đã biến nhà tao thành đống gạch vụn. Tao đã mất các anh trai, tao đã mất mẹ. Mày hỏi tao tại sao tao ở đây. Tao ở đây vì Sumayriyya và Ein al-Hilweh. Đây là tất cả những gì mà chủ nghĩa phục quốc của người Do Thái mang lại cho tao. Tao không có sự lựa chọn nào khác ngoài chiến đấu”.

“Chuyện gì đã xảy ra sau biến cố Ein al-Hilweh? Cô đã đi đâu?”

Ả phụ nữ lắc đầu. “Tao đã kể cho mày nghe đủ rồi”, ả nói. “Quá nhiều là đằng khác”.

“Tôi muốn nghe nốt phần còn lại của câu chuyện”.

“Lái xe đi”, ả nói. “Sắp đến lúc mày được gặp lại vợ rồi”.

Gabriel nhìn đồng hồ: 6 giờ đúng. Còn mười dặm nữa là tới Paris.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


ST. DENIS, MIỀN BẮC PHÁP

Amira Assaf đóng cửa căn hộ lại sau lưng. Hành lang dài màu xám bằng xi măng tranh tối tranh sáng, với nguồn ánh sáng duy nhất là một ngọn đèn ống chập chờn. Ả đẩy chiếc xe lăn về phía thang máy. Một người phụ nữ nói giọng Ma-rốc đang quát mắng hai đứa con nhỏ. Cách xa hơn, một nhóm ba thiếu niên gốc Phi đang nghe nhạc hip-hop Mỹ phát ra từ một dàn stereo xách tay. Đây là những gì còn lại của đế chế Pháp, ả nghĩ, vài hòn đảo trên biển Ca-ri-bê và những cái hộp nhét đầy người ở đường Denis.

Ả bước vào thang máy và bấm nút gọi thang, rồi ngước nhìn một trong những chiếc thang đang tiến về phía ả. Tạ ơn Allah, ả nghĩ thầm. Đây là phần duy nhất trong chuyến đi hoàn toàn nằm ngoài tầm kiểm soát của ả - những chiếc thang máy cũ kỹ trong khu chung cư ổ chuột này. Trong quá trình chuẩn bị, ả đã hai lần phải leo thang bộ xuống 23 tầng lầu vì thang máy không hoạt động.

Một tiếng chuông vang lên, rồi cửa thang máy mở ra. Amira đẩy chiếc xe lăn vào trong khoang thang và được chào đón bởi mùi khai nồng nặc của nước tiểu. Trong khi đi xuống, câu hỏi tại sao những người nghèo lại tiểu trong thang máy của họ cứ lởn vởn trong đầu ả. Khi cánh cửa mở ra, ả vội vàng đẩy chiếc xe lăn ra hành lang và hít một hơi thật sâu. Vẫn không khá hơn là mấy. Chỉ đến khi đã hoàn toàn ra khỏi khu nhà, đắm mình trong làn không khí mát lạnh bên ngoài, ả mới thoát khỏi cái mùi khó chịu của nơi có nhiều người sống chen chúc.

Có nét gì đó của một ngôi làng Thế giới thứ ba hiện diện trong khu dân cư bao gồm bốn tòa chung cư lớn này - từng đám đàn ông, phân chia theo nguồn gốc quốc gia, đang bàn tán đủ thứ chuyện trên trời dưới đất; những người phụ nữ đội các giỏ nhu yếu phẩm; trẻ con thì mải mê chơi bóng đá. Không ai để ý đến một cô gái Palestine trẻ trung, xinh đẹp đang đẩy một chiếc xe lăn chở một người không thể phân biệt rõ giới tính và tuổi tác.

Ả mất đúng bảy phút để đến ga Denis. Đó là một nhà ga lớn, một sự kết hợp giữa hai loại tàu điện RER và Métro. Lúc này là thời điểm nhiều đoàn tàu mới vào ga, và cả một đám đông hành khách vừa xuống tàu đang ùa ra đường. Ả bước vào phòng vé và lập tức phát hiện hai nhân viên cảnh sát, dấu hiệu đầu tiên cho thấy kết quả của việc nâng mức báo động an ninh. Ả vẫn đều đặn theo dõi tin tức cập nhật và biết rằng an ninh đã được thắt chặt ở mọi nhà ga tàu điện trên toàn quốc. Nhưng liệu họ có biết gì về nhà ga Denis? Có phải họ đang tìm kiếm một người phụ nữ tật nguyền vừa bị bắt cóc đêm hôm trước tại một viện an dưỡng Anh quốc? Ả tiếp tục bước tới.

“Xin lỗi, thưa cô”.

Ả quay lại: một anh tiếp viên nhà ga, trẻ tuổi và xông xáo, mặc bộ đồng phục mới toanh và thẳng thớm.

“Cô đi đâu?”

Vì đang cầm cặp vé tàu trong tay, ả đành phải nói thật. “Tàu RER”, ả đáp, rồi nói thêm: “Đến ga Lyon”.

Anh tiếp viên cười tươi. “Có thang máy bên phía tay phải kia”.

“Vâng, tôi biết đường rồi”.

“Tôi giúp cô một tay nhé?”

“Tôi làm được mà”.

“Để tôi giúp cô”, anh ta nói, “hãy cho phép tôi giúp một tay”.

Mình mới may mắn làm sao, ả nghĩ. Cả hệ thống Métro này chắc chỉ có duy nhất một anh tiếp viên dễ thương như vậy, và tối nay anh ta lại làm việc ở ga Denis. Tiếp tục từ chối sẽ có vẻ đáng ngờ. Ả gật đầu và đưa cặp vé tàu cho anh ta. Anh ta đưa ả qua cửa quay, rồi băng qua một đại sảnh đông nghịt người để đến chỗ thang máy. Chiếc thang đưa họ xuống tầng ga tàu RER trong im lìm. Anh tiếp viên dắt ả đến đúng cửa của ả. Trong khoảnh khắc ả đã sợ rằng anh ta sẽ ở lại cho tới khi tàu đến. Nhưng cuối cùng anh ta chúc ả một buổi tối tốt lành và trở ra hướng thang máy.

Amira nhìn lên bảng báo giờ tàu đến. Còn mười hai phút nữa. Ả xem đồng hồ đeo tay và nhẩm tính trong đầu. Không có vấn đề gì. Ả ngồi xuống băng ghế và chờ đợi. Mười hai phút sau, đoàn tàu từ từ tiến vào ga và dừng hẳn lại. Những cánh cửa bật mở kèm theo một tiếng “xì” của hệ thống đẩy bằng không khí. Amira đứng dậy và đẩy người phụ nữ lên tàu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


PARIS

Mình đang ở đâu thế này? Trên một đoàn tàu ư? Và cô gái này là ai? Có phải là cô điều dưỡng làm việc ở bệnh viện? Mình đã nói với bác sĩ Avery là mình không thích cô ta, nhưng ông ấy không chịu nghe. Cô ta dành quá nhiều thời gian ở bên cạnh mình, hình như cô ta đang theo dõi mình quá nhiều. Bà đang bị ảo giác đấy thôi”, bác sĩ Avery sẽ nói với mình như thế. Phản ứng của bà là một phần của căn bệnh. Tên cô ấy là Amira. Cô ấy rất dịu dàng và rất giỏi. Không, mình đã cố nói với ông ấy, là cô ta đang theo dõi mình. Sẽ có chuyện gì đó xảy ra. Cô ta là người Palestine. Mình có thể nhìn thấy điều đó trong mắt cô ta. Tại sao bác sĩ Avery không chịu nghe mình? Hay là mình chưa thực sự cố gắng nói với ông ấy? Mình không nhớ rõ. Mình không nhớ rõ điều gì cả. Xem tivi kìa, Gabriel. Hỏa tiễn lại đang rơi xuống

Tel Aviv. Anh nghĩ lần này bọn chúng có sử dụng đầu đạn hóa học không? Em không thể chịu nổi việc mình ở Vienna trong khi hỏa tiễn đang rơi như mưa xuống Tel Aviv. Ăn cho hết đĩa pasta của con đi, Dani. Nhìn thằng bé mà xem, Gabriel. Nó giống anh quá. Chuyến tàu này trông giống như ở Paris, nhưng sao mình lại bị người Arập vây quanh thế này? Con mụ này định đưa mình đi đâu? Sao anh không ăn gì cả, Gabriel? Anh không bị ốm chứ? Trông anh không được khỏe. Lạy Chúa, sao da anh nóng như lửa thế này? Anh bị bệnh à? Nhìn kìa, lại một quả hỏa tiễn nữa. Lạy Chúa, xin Ngài hãy cho nó rơi xuống một tòa nhà bỏ hoang. Đừng để nó rơi xuống nhà con. Mình muốn ra khỏi cái nhà hàng này. Mình muốn chạy ngay về nhà để gọi điện cho mẹ. Không biết chuyện gì đã xảy ra với anh chàng đến bảo vệ mình ở bệnh viện? Mình đã tới đây bằng cách nào? Ai đã mang mình tới đây? Và đoàn tàu này đang đi về đâu? Tuyết. Chúa ơi, em ghét thành phố này biết bao, nhưng tuyết làm nó trở nên thật đẹp. Tuyết đã gột sạch mọi tội lỗi của thành Vienna. Tuyết rơi ở Vienna trong khi mưa hỏa tiễn trút xuống Tel Aviv. Tối nay anh có phải làm việc không? Anh sẽ thức đến mấy giờ? Xin lỗi, em cũng chẳng biết vì sao mình hỏi nữa. Chết tiệt thật. Chiếc xe bị tuyết phủ kín rồi. Giúp em gỡ tuyết khỏi các cửa sổ xe đã rồi hãy đi. Anh kiểm tra xem đai an toàn của Dani đã chắc chắn chưa? Đường xá mùa này trơn lắm. Vâng, em sẽ cẩn thận. Mau lên nào, Gabriel. Em muốn nói chuyện với mẹ. Em muốn được nghe giọng nói của mẹ. Hôn em nữa đi, một nụ hôn cuối cùng, rồi hãy quay lưng lại và bước đi. Em thích được nhìn anh bước đi, Gabriel. Bước đi của anh như một thiên thần. Em ghét công việc anh làm cho Shamron, nhưng em luôn luôn yêu anh. Chết tiệt, sao chiếc xe không nổ máy? Mình phải thử lại lần nữa. Sao anh quay lại, Gabriel? Con mụ này đưa mình đi đâu đây? Sao anh vừa la hét vừa chạy về phía chiếc xe? Thử xoay chìa khóa một lần nữa xem sao. Im lặng. Lửa và khói. Hãy đưa Dani ra trước! Mau lên, Gabriel! Xin anh hãy đưa con ra! Em đang cháy! Em sắp chết cháy! Con mụ này định đưa mình đi đâu? Cứu em với, Gabriel. Cứu em với!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


PARIS

Nhà ga Lyon tọa lạc ở quận 12 của Paris, cách bờ phía đông sông Seine vài dãy phố. Phía trước nhà ga là một vòng xoay giao thông lớn, và xa hơn nữa là giao lộ giữa hai con đường lớn, phố Lyon và đại lộ Diderot. Chính tại nơi đó, trong một quán cà phê ven đường nhộn nhịp khách thập phương, Paul Martineau đang ngồi đợi. Hắn uống nốt phần chất lỏng còn lại trong chiếc ly thủy tinh mỏng đựng rượu vang Côtes du Rhône, rồi ra hiệu cho anh bồi tính tiền. Năm phút chờ đợi trước khi hóa đơn được đưa lên. Hắn để tiền thanh toán và một khoản “boa” nhỏ lại trên bàn, rồi ra cửa và đi về phía lối vào nhà ga.

Có một số xe cảnh sát tập trung ở vòng xoay giao thông, hai cặp nhân viên cảnh sát bán vũ trang đứng gác ở cổng ra vào. Martineau trà trộn vào một nhóm người và bước vào trong. Hắn đã sắp vào đến đại sảnh của ga đi thì bất thình lình bị một cái vỗ vào vai. Hắn quay lại. Đó là một trong những cảnh sát viên gác cửa.

“Xin cho xem giấy tờ”.

Martineau rút chứng minh thư mang quốc tịch Pháp ra khỏi ví và đưa cho người cảnh sát. Anh ta nhìn mặt Martineau rất lâu trước khi nhìn xuống tấm thẻ.

“Ông đi đâu?”

“Aix”.

“Xin cho tôi xem vé tàu”.

Martineau đưa tấm vé ra.

“Trên vé tàu ghi sáng mai ông mới về”.

“Tôi đã đổi giờ đặt vé hồi chiều nay”.

“Tại sao?”

“Tôi cần về sớm hơn dự định”. Martineau quyết định tỏ vẻ hơi bực bội. “Này anh, tất cả các thủ tục xét hỏi này là sao? Liệu những câu hỏi đó có thật sự cần thiết không?”

“Tôi e là có, ông Martineau. Ông đến Paris làm gì?”

Martineau trả lời. “Để ăn trưa với một người đồng nghiệp đến từ đại học Quốc gia Pháp, và gặp một nhà xuất bản tiềm năng”.

“Ông là nhà văn à?”

“Đúng ra là nhà khảo cổ, nhưng tôi đang viết một cuốn sách”.

Người nhân viên cảnh sát trả chứng minh thư cho Martineau.

“Chúc ông một buổi tối vui vẻ”.

“Cám ơn”.

Martineau quay gót và tiến về phía ga đi. Hắn dừng lại ở sảnh, rồi leo lên cầu thang để tới Le Train Bleu, nhà hàng nổi tiếng nhìn xuống đại sảnh của nhà ga. Một cô lễ tân đón hắn ở cửa.

“Ông có đặt bàn trước không ạ?”

“Thật ra tôi đến tìm một người bạn ở quầy bar. Tôi tin rằng cô ấy đã đến rồi”.

Cô lễ tân bước sang bên để nhường đường cho hắn vào. Martineau rảo bước đến quầy bar, và dừng lại ở một bàn có cửa sổ nhìn bao quát nhà ga bên dưới. Người đang ngồi ở bàn là một phụ nữ xinh đẹp và có vẻ trẻ trung hơn so với độ tuổi tứ tuần, có một lọn tóc nhuộm màu bạch kim trên mái tóc dài đen nhánh. Cô ngước nhìn lên khi Martineau tiến lại. Anh cúi xuống và hôn lên cổ cô.

“Chào Mimi”.

“Paul”, cô ta thì thào. “Được gặp lại anh thật dễ chịu”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


PARIS

Cách hai dãy nhà phía bắc ga Lyon: đường Parrot. 6 giờ 53 phút tối.

“Rẽ vào đây”, ả phụ nữ nói. “Đậu xe đi”.

“Chẳng có chỗ đậu xe đâu. Đường xá giờ này đông như kiến”.

“Tin tao đi. Chúng ta sẽ tìm được một chỗ đậu xe”.

Đúng lúc đó có một chiếc xe lùi ra khỏi ô đậu xe gần khách sạn Lyon Bastille. Gabriel, không để phí một giây nào, lập tức rẽ vào thế chỗ. Đứa con gái giấu khẩu Tanfolgio vào xắc tay và đeo nó lên vai.

“Mở cốp xe ra”.

“Để làm gì?”

“Cứ làm theo lời tao đi. Nhìn đồng hồ kìa. Chúng ta chẳng còn nhiều thời gian đâu”.

Gabriel kéo cần mở cốp xe, và nắp cốp xe bật lên kèm theo một tiếng “cạch” khô khan. Đứa con gái rút chìa khóa xe ra khỏi ổ khóa và thả nó vào xắc tay cùng với khẩu súng và chiếc điện thoại vệ tinh. Rồi ả mở cửa xe và trèo ra ngoài. Ả đi về phía cốp xe, và ra hiệu cho Gabriel đi theo. Anh nhìn xuống. Bên trong cốp là một chiếc vali lớn hình chữ nhật, bằng vải nylon đen, có bánh xe và tay nắm kéo lên được.

“Cầm lấy nó”.

“Không”.

“Nếu mày không chịu cầm lấy nó, vợ mày sẽ chết”.

“Tôi sẽ không mang một trái bom vào ga Lyon”.

“Mày đang vào một nhà ga. Tốt nhất phải làm ra vẻ là một khách du lịch chân chính. Cầm lấy cái vali đi”.

Anh thò tay xuống tìm cái khóa kéo. Đã khóa.

“Cầm lấy ”.

Trong khoang chứa dụng cụ sửa xe có một ống mở vít dùng để thay bánh xe bằng sắt mạ chrome.

“Mày làm gì vậy? Muốn vợ mày chết sao?”

Hai cú nện mạnh, và ổ khóa của chiếc vali gãy lìa. Gabriel kéo cái khóa kéo để xem những thứ chứa bên trong ngăn chính: những viên giấy vo tròn. Tiếp theo anh xem xét những ngăn phụ. Trống không.

“Mày thỏa mãn rồi chứ? Xem đồng hồ đi. Cầm lấy cái vali mau lên”.

Gabriel nâng cái vali ra khỏi cốp xe và đặt nó xuống lề đường. Đứa con gái đã bắt đầu bước đi. Anh kéo tay nắm chiếc vali lên cao và đóng cốp xe, rồi vội vã bước theo ả. Đến góc đường Lyon, họ rẽ trái. Nhà ga, vốn được xây dựng trên một doi đất, hiện ra trước mặt họ.

“Tôi không có vé”.

“Tao có vé cho mày đây”.

“Chúng ta sẽ đi đâu? Berlin? Geneva? Amsterdam?”

“Cứ đi đi”.

Khi họ đến gần giao lộ với đại lộ Diderot, Gabriel trông thấy các nhân viên cảnh sát tuần tra quanh nhà ga và ánh đèn màu xanh dương của các xe cảnh sát nhấp nháy ở giữa vòng xoay.

“Họ đã được cảnh báo”, anh nói. “Chúng ta đang đi thẳng vào một điểm báo động an ninh”.

“Chúng ta sẽ ổn thôi”.

“Tôi không có hộ chiếu”.

“Mày không cần đến nó đâu”.

“Nhỡ họ chặn chúng ta lại thì sao?”

“Đã có tao. Nếu cảnh sát chặn hỏi giấy tờ của mày, chỉ việc nhìn tao, và tao sẽ lo liệu”.

“Chính cô là lý do khiến chúng ta bị chặn lại thì có”.

Đứng trên lề đường Diderot, họ chờ đèn báo qua đường bật xanh, rồi băng qua đường giữa một rừng người đi bộ. Chiếc vali quá nhẹ. Nó không tạo ra được tiếng động phù hợp khi kéo trên lề đường. Lẽ ra bọn chúng phải cho quần áo vào để tạo trọng lượng phù hợp. Lỡ anh bị chặn lại thì sao? Lỡ người ta khám chiếc vali và phát hiện ra nó chứa toàn những tờ giấy vo viên lại thì sao? Lỡ họ khám chiếc xắc tay của Palestina và phát hiện ra khẩu Tanfolgio? Khẩu Tanfolgio... Anh tự nhủ thầm mình phải tạm quên đi chiếc vali rỗng và khẩu súng trong xắc tay của ả này. Thay vào đó anh tập trung vào cảm giác mà anh đã cảm nhận được hồi chiều, cảm giác rằng chiếc chìa khóa sống còn của anh đang nằm đâu đó trên con đường mà anh đã đi qua.

Có nhiều nhân viên cảnh sát và hai binh sĩ đeo súng tiểu liên trên vai đang đứng trước cửa vào nhà ga. Họ chặn những người qua lại một cách ngẫu nhiên, kiểm tra giấy tờ và khám xét hành lý. Palestina vòng tay qua cánh tay Gabriel và kéo anh đi nhanh hơn. Anh cảm thấy những ánh mắt của các nhân viên cảnh sát chiếu lên người mình, nhưng họ không chặn anh lại.

Khuôn viên bên trong của nhà ga, với mái vòm cuốn cao mở ra trước mắt họ. Họ dừng lại một lát ở đầu một chiếc thang máy đang chạy xuống tầng dành cho xe điện ngầm. Gabriel lợi dụng khoảng thời gian này để quan sát xung quanh. Bên trái anh là một dãy phòng điện thoại công cộng; sau lưng anh là cầu thang dẫn lên nhà hàng Le Train Bleu. Ở đầu bên kia đại sảnh có hai quầy bán báo Relay. Cách anh vài bước chân về phía bên phải là một quán bán thức ăn nhanh, ngay bên dưới tấm bảng điện tử lớn báo giờ tàu chạy. Đúng lúc đó bảng điện tử đổi nội dung. Tự nhiên Gabriel cảm thấy những âm thanh lạch tạch khi các ký tự hiện ra nghe như một tràng pháo tay giành cho trò chơi hoàn hảo của Khaled. Đồng hồ trên bảng điện tử báo giờ: 6 giờ 57 phút.

“Mày có thấy cô gái đang sử dụng điện thoại trong phòng thứ nhất phía bên này không?”

“Cô gái nào?”

“Mặc quần jeans xanh, áo len xám, có thể là người Pháp, cũng có thể là người Arập, giống như tao”.

“Tôi thấy rồi”.

“Khi đồng hồ trên bảng điện tử nhảy sang 6 giờ 58 phút, cô ta sẽ gác máy. Mày và tao sẽ đến đó thế chỗ cô ta. Cô ta sẽ dừng lại một lúc để cho chúng ta có đủ thời gian đến đó”.

“Lỡ có người vào trước chúng ta thì sao?”

“Tao và cô ta sẽ lo liệu. Mày sẽ gọi một số điện thoại. Mày sẵn sàng chưa?”

“Sẵn sàng”.

“Đừng quên những chữ số này đấy. Nếu mày quên, tao sẽ không nhắc lại đâu, và vợ mày sẽ chết. Mày chắc chắn là đã sẵn sàng rồi chứ?”

“Cứ đọc con số khốn nạn đó ra đi”.

Ả đọc một số điện thoại, rồi đưa cho anh vài đồng xu đúng lúc đồng hồ nhảy sang 6 giờ 58. Đứa con gái kia đã rời khỏi phòng điện thoại. Gabriel bước tới, nhấc ống nghe và nhét các đồng xu vào khe nạp tiền. Anh bấm từng số một cách thận trọng, sợ rằng nếu bấm nhầm anh sẽ không thể nhớ lại con số đúng. Ở đâu đó một chiếc điện thoại bắt đầu reo. Một hồi, hai hồi, ba hồi chuông...

“Không có ai trả lời cả”.

“Hãy kiên nhẫn một chút. Sẽ có người trả lời thôi”.

“Nó đã reo sáu hồi chuông rồi. Vẫn không ai trả lời”.

“Mày chắc là gọi đúng số chứ? Có thể mày đã bấm nhầm. Có thể vợ mày sắp phải chết vì mày…”

“Câm mồm”, Gabriel quát.

Điện thoại đã ngừng reo.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


PARIS

Chào Gabriel”.

Một giọng nữ vang lên, quen thuộc đến giật mình.

“Hay tôi nên gọi là ngài Klemp? Đó là cái tên anh đã sử dụng khi anh đến câu lạc bộ của tôi, đúng không? Và cũng là cái tên anh sử dụng khi lục soát căn hộ của tôi”.

Mimi Ferrere. Câu lạc bộ The Little Moon.

“Cô ấy đâu? Leah đâu?”

“Cô ấy ở gần anh thôi”.

“Ở đâu? Tôi không thấy cô ấy”.

“Anh sẽ biết trong một phút nữa”.

Một phút... Anh nhìn lên bảng báo giờ tàu chạy. Đồng hồ đã nhảy sang 6 giờ 59 phút. Hai binh sĩ vừa đi tuần ngang qua. Một trong hai người họ nhìn anh. Gabriel quay đi và hạ giọng xuống.

“Các người nói là nếu tôi đến, các người sẽ để cô ấy sống. Bây giờ cô ấy đang ở đâu?”

“Anh sẽ biết tường tận mọi chuyện trong vài giây nữa thôi”.

Giọng nói: anh tập trung vào nó. Nó kéo anh trở lại Cairo, trở lại đêm mà anh đã viếng thăm quán rượu ở Zamalek. Anh bị dụ đến Cairo để cài máy nghe trộm vào điện thoại của Mimi, để nghe được cuộc đối thoại của mụ với một gã tên là Tony và tóm được số điện thoại của một căn hộ ở Mác-xây. Nhưng phải chăng chúng còn có âm mưu gì khác khi dụ anh tới Cairo?

Mụ lại bắt đầu nói, nhưng giọng của mụ chìm nghỉm giữa tiếng loa thông báo của nhà ga:Tàu số 765 đi Mác-xây đang nhận khách ở Cửa D... Gabriel bịt loa nói trên ống nghe.Tàu số 765 đi Mác-xây đang nhận khách ở Cửa D... Anh vẫn nghe thấy thông báo đó vang lên qua đường dây điện thoại - anh tin chắc điều đó. Mimi đang ở đâu đó trong nhà ga này. Anh nhìn quanh và thoáng thấy cặp mông tròn của mụ biến mất ở lối ra. Đi bên trái mụ là một gã đàn ông có đôi vai ngang và mái tóc quăn đen, kẻ đang thọc bàn tay phải vào túi quần sau của mụ. Gabriel đã từng nhìn thấy dáng đi của hắn vào lúc sáng sớm ngày hôm nay ở Mác-xây. Khaled đã đích thân đến ga Lyon để chứng kiến cái chết của anh.

Anh nhìn chúng đi qua cửa và ra khỏi nhà ga.

Tàu số 765 đi Mác-xây đang nhận khách ở Cửa D.

Anh liếc nhìn Palestina. Ả đang nhìn trân trối vào cái đồng hồ trên bảng điện tử. Xét theo nét mặt của ả, giờ đây ả đã biết rằng Gabriel nói thật. Chỉ còn ít giây nữa, ả sẽ trở thành một shaheed trong kế hoạch trả thù của Khaled.

“Anh vẫn đang nghe tôi nói đấy chứ, Gabriel?”

Tiếng ồn của xe cộ: chắc chắn Mimi và Khaled đã ra đến bên ngoài nhà ga.

“Tôi đang nghe đây”, anh nói - và ta đang tự hỏi tại sao mụ dàn xếp cho ta ngồi chung bàn với ba tên Arập trong hộp đêm của mụ.

Tàu số 765 đi Mác-xây đang nhận khách ở Cửa D.

Cửa D... Cửa Dalet... Tochnit Dalet...

“Cô ấy ở đâu, Mimi? Cho tôi biết…”

Đúng lúc đó anh nhìn thấy hắn, kẻ đang đứng trước một trong hai quầy bán báo Relay ở đầu phía đông của nhà ga. Chiếc vali của hắn, một chiếc vali bằng vải nylon đen có bánh xe và tay nắm kéo lên được, giống hệt như của Gabriel, được dựng đứng ngay bên cạnh hắn. Chúng gọi hắn là Bashir trong đêm ở Cairo. Bashir thích rượu Johnnie Walker đỏ và hút thuốc lá Silk Cut. Bashir đeo một chiếc đồng hồ nạm vàng hiệu TAG Heuer trên cổ tay phải và có mang theo món quà gì đó cho một trong các nữ phục vụ của Mimi. Bashir còn là một shaheed - một kẻ đánh bom tự sát. Trong vài giây đồng hồ nữa chiếc vali của Bashir sẽ nổ tung, và hắn, cùng với vài chục người khác ở xung quanh hắn, sẽ chết không toàn thây.

Gabriel nhìn sang trái, phía đối diện với cửa lên tàu: một quầy báo Relay khác, một tênshaheed khác với một chiếc vali giống hệt của Gabriel. Đêm đó hắn được gọi là Naji. Naji: kẻ sống sót. Hôm nay thì mày không thể sống sót được nữa đâu, Naji ạ.

Cách Gabriel chỉ vài bước chân là Tayyib, kẻ đang mua một chiếc xăng-uých mà hắn sẽ chẳng bao giờ ăn được. Cũng một chiếc vali, cũng vẻ mặt vô hồn của một kẻ sắp chết như những tên trước. Hắn đứng gần Gabriel đến mức anh có thể nhìn thấy cơ cấu hoạt động của quả bom. Một sợi dây điện nhỏ màu đen chạy dọc theo bên trong tay nắm được kéo lên cao của chiếc vali. Gabriel nhận ra nút bấm nhả trên tay nắm chính là bộ phận kích nổ. Khi bấm nút này, nó sẽ tiếp xúc với kíp nổ. Điều đó có nghĩa là ba tên shaheed phải bấm nút đồng thời. Nhưng chúng nhận tín hiệu bằng cách nào? Thời gian, tất nhiên rồi. Gabriel nhìn vào mắt Tayyib và thấy rõ hắn đang tập trung vào chiếc đồng hồ điện tử trên bảng báo giờ tàu chạy. 6:59:28...

“Cô ấy ở đâu, Mimi?”

Hai người lính lại đi ngang qua, vừa đi vừa tán gẫu một cách lơ đễnh. Ba tên khủng bố cùng vào nhà ga với ba chiếc vali chứa đầy chất nổ, nhưng các lực lượng an ninh dường như vẫn chẳng để ý gì. Hai người lính kia sẽ mất bao lâu để tháo những khẩu tiểu liên mà họ đang đeo trên vai và đưa chúng vào vị trí ngắm bắn? Nếu họ là người Israel thì chỉ cần tối đa là hai giây để thực hiện động tác đó. Nhưng còn mấy anh chàng người Pháp này? Phản ứng của họ chắc chắn sẽ chậm hơn.

Anh lại liếc nhìn Palestina. Càng lúc trông ả càng có vẻ lo lắng. Đôi mắt ả lộ rõ vẻ tuyệt vọng, bàn tay nắm chặt dây đeo của cái xắc tay. Mắt Gabriel quét qua toàn bộ đại sảnh của nhà ga một lần nữa, trong khi não anh thầm tính toán đường đạn và góc khai hỏa.

Mimi lại chen ngang vào dòng suy nghĩ của anh. “Anh có nghe tôi nói không đấy?”

“Tôi đang nghe đây”.

“Như anh có thể đã đoán ra, nhà ga sắp nổ tung. Theo sự tính toán của tôi, anh có mười lăm giây. Anh có hai lựa chọn. Anh có thể cảnh báo mọi người xung quanh và cứu được tính mạng của nhiều người, hoặc anh có thể cứu mạng vợ anh một cách ích kỷ. Nhưng anh không thể làm cả hai, bởi nếu anh cảnh báo mọi người, nhà ga sẽ rơi vào cảnh hỗn loạn, và anh sẽ không bao giờ có thể tìm thấy vợ anh trước khi những trái bom phát nổ. Cách duy nhất để cứu bà ấy là để hàng trăm người khác chết - hàng trăm cái chết để cứu một con người tàn tật và bệnh hoạn. Thật là một tình thế khắc nghiệt về mặt đạo lý, phải không?”

“Cô ấy đang ở đâu?”

“Anh thử đoán xem”.

“Cửa D”, Gabriel nói. “Cửa Dalet”.

“Rất giỏi”.

“Cô ấy không có ở đó. Tôi không nhìn thấy cô ấy”.

“Tìm kỹ lại đi. Mười lăm giây, Gabriel. Mười lăm giây”.

Và đường dây điện thoại bị ngắt.

Thời gian dường như ngưng đọng. Anh nhìn thấy tất cả mọi người, mọi vật đều dừng lại như một bức tranh tĩnh vật - ba tên shaheed, ba đôi mắt của chúng đang dán chặt vào đồng hồ điện tử; các binh sĩ, vai đeo lủng lẳng những khẩu tiểu liên; Palestina, tay đang nắm chặt chiếc xắc tay bên trong có một khẩu Tanfolgio chín ly đã được nạp đầy đạn. Và ở trung tâm bức tranh, anh nhìn thấy một đứa con gái Arập xinh đẹp đang rời bỏ khỏi một người đàn bà ngồi trên một chiếc xe lăn. Trên đường ray là một đoàn tàu cao tốc chuẩn bị đi Mác-xây, và cách người đàn bà đang chờ chết độ năm bước chân là cánh cửa mở của toa tàu cuối cùng. Trên đầu anh là đồng hồ đang dừng lại ở con số 6:59:50. Mimi đã chơi xỏ anh, nhưng Gabriel biết rõ hơn hầu hết những con người đang góp mặt trên thế giới này: mười giây có thể là vĩnh hằng. Trong mười giây đồng hồ, anh đã theo chân cha của Khaled tiến vào một khoảng sân ở Paris và găm mười một viên đạn vào y. Trong không tới mười giây đồng hồ, vào một đêm mùa đông đầy tuyết ở Vienna, con trai anh đã bị sát hại và vợ anh đã thoát ra khỏi cuộc đời anh về mặt tinh thần và tình cảm, mãi mãi.

Động tác đầu tiên của Gabriel° nhanh và dứt khoát đến mức dường như không ai kịp chú ý - một cú đấm vào mé bên trái sọ của Palestina được tung ra với lực mạnh đến mức, khi Gabriel giật cái xắc tay ra khỏi vai ả, chính anh cũng không rõ ả còn sống hay không. Trong khi đứa con gái Palestine đổ gục dưới chân anh, Gabriel thò tay vào bên trong cái xắc tay và nắm chặt báng khẩu Tanfolgio. Tayyib, tên shaheed đứng gần anh nhất bên quầy thức ăn nhanh, hoàn toàn không nhìn thấy cảnh tượng vừa diễn ra, vì mắt hắn vẫn đang dán chặt vào đồng hồ. Gabriel rút khẩu súng ra, nâng lên bằng một tay, và ngắm tên đánh bom tự sát. Anh siết cò hai lần, đoàng-đoàng. Cả hai viên đạn đều trúng vào phần ngực trên, đẩy hắn ngã ngửa về phía sau, cách xa chiếc vali chứa chất nổ.

Tiếng súng nổ ở nhà ga lớn này đã mang lại đúng hiệu ứng mà Gabriel mong đợi. Khắp nơi trong đại sảnh, mọi người đều ngồi thụp xuống hoặc nằm lăn ra đất. Cách anh khoảng hai mươi bước chân, hai người lính đang kéo các khẩu tiểu liên ra khỏi vai. Và ở hai đầu sảnh, Bashir và Naji vẫn đứng bất động, mắt không rời khỏi đồng hồ. Không có đủ thời gian để hạ cả hai tên.

Bằng tiếng Pháp, Gabriel hô lớn. “Có bom! Nằm xuống! Nằm xuống!”

Đường bắn được khai thông đúng lúc Gabriel chĩa khẩu Tanfolgio vào tên shaheed tên gọi Naji. Hai người lính Pháp, hoang mang trước những gì mà họ chứng kiến, đã do dự khá lâu. Anh bóp cò, nhìn theo tia sáng màu hồng lóe lên, và chứng kiến Naji ngã vật ra đất, nằm bất động.

Anh chạy hết tốc lực về phía cửa D, nơi Leah đang ngồi mà không có gì che chắn trước làn sóng chấn động sắp tràn tới từ vụ nổ. Anh vẫn nắm chặt cái xắc tay của Palestina, bởi nó chứa chiếc chìa khóa mở ra con đường thoát thân cho anh. Anh ngoái nhìn lại sau lưng một lần, và thấy Bashir, tên shaheed cuối cùng, đang tiến về trung tâm nhà ga. Chắc chắn hắn đã thấy hai đồng bọn bị hạ; và giờ đây hắn đang cố làm gia tăng mức độ sát thương của quả bom duy nhất của hắn, bằng cách đặt nó ở khu vực trung tâm của đại sảnh, nơi vẫn tập trung nhiều người nhất.

Dừng lại lúc này gần như đồng nghĩa với cái chết chắc chắn dành cho anh và Leah, nên Gabriel ra sức chạy. Anh đến lối vào cửa D và rẽ phải. Sảnh lên tàu trống trơn; tiếng súng và lời cảnh báo của Gabriel đã đẩy tất cả hành khách vào các toa tàu hoặc ra khỏi các lối thoát hiểm. Chỉ còn lại Leah, bất lực và bất động.

Đồng hồ nhảy sang con số 7.

Gabriel nắm lấy hai vai Leah và nâng tấm thân mềm nhũn của vợ ra khỏi chiếc xe trước khi thực hiện một động tác lao mình cuối cùng vào ô cửa của toa tàu đang chờ đợi đúng lúc chiếc vali phát nổ. Một luồng ánh sáng chói lòa, một tiếng nổ đinh tai, và sức ép của sóng chấn động dường như thổi bay toàn bộ sinh khí ra khỏi cơ thể anh. Những cây đinh tẩm thuốc độc. Những mảnh kính vỡ và máu.

Khói đen bốc lên mù mịt giữa một bầu không khí im ắng không chịu nổi. Gabriel nhìn vào mắt Leah. Cô nhìn thẳng vào mắt anh bằng một ánh mắt trong sáng lạ lùng. Anh nhét khẩu Tanfolgio vào cái xắc tay, rồi bế Leah trên hai cánh tay và đứng dậy, cảm thấy vợ mình nhẹ như lông hồng.

Từ bên ngoài toa tàu vỡ nát vọng vào những tiếng gào thét đầu tiên. Gabriel nhìn quanh. Những ô cửa sổ cả hai bên đều bị thổi tung. Những hành khách đang ngồi trên ghế bị các mảnh kính vỡ bắn vào người. Gabriel nhìn thấy ít nhất sáu người có vẻ bị thương nặng.

Anh trèo xuống các bậc thang và tìm đường đi về đại sảnh. Quang cảnh mới vài giây trước giờ đây không thể nào nhận ra. Anh ngước nhìn lên và thấy một mảng lớn của mái vòm đã bay mất. Nếu cả ba quả bom cùng nổ một lúc, gần như chắc chắn toàn bộ nhà ga sẽ sập xuống.

Anh trượt chân và ngã xuống đất khá mạnh. Nền nhà ga giờ đây ướt sũng máu. Quanh anh là những cánh tay, cẳng chân và những mảnh da thịt người. Anh gượng đứng dậy, nâng Leah lên, và lảo đảo bước tiếp. Chân anh đang giẫm lên những gì? Anh không dám nhìn xuống nữa. Anh trượt ngã lần thứ hai, ở gần phòng điện thoại, và chợt thấy mình nhìn vào đôi mắt không còn sự sống của Palestina. Cú đấm của Gabriel hay những mảnh bom của Bashir đã giết chết ả? Gabriel không quan tâm đến điều đó.

Anh lại gượng đứng dậy. Các cửa nhà ga đều chật cứng người: các hành khách hoảng sợ cố chen nhau chạy ra, trong khi lực lượng cảnh sát cố tìm cách len vào. Nếu Gabriel đi ra lối đó, rất nhiều khả năng sẽ có ai đó nhận ra anh là người đã nổ súng trước khi bom nổ. Anh phải tìm một lối thoát khác. Anh nhớ lại quãng đường đi bộ từ chỗ đậu xe tới nhà ga, chờ đèn giao thông ở giao lộ giữa đường Lyon và đại lộ Diderot. Chắc chắn phải có một lối vào nhà ga tàu điện ngầm ở đó.

Anh mang Leah tiến về phía thang cuốn. Thang đã ngừng chạy. Anh bước qua hai xác chết và bắt đầu leo xuống. Nhà ga đang chìm trong hoảng loạn, các hành khách kêu khóc trong khi các tiếp viên của nhà ga đang cố gắng trong tuyệt vọng hòng trấn an mọi người, nhưng ít ra ở đây không có khói, và nền đất cũng không ướt sũng máu. Gabriel đi theo các tấm biển chỉ đường hướng ra đường Lyon. Hai lần anh được hỏi rằng anh có cần giúp đỡ gì không và hai lần anh lắc đầu trong khi chân vẫn bước đều. Các ngọn đèn nhấp nháy và mờ dần, rồi không biết nhờ phép lạ nào đó, nó sáng trở lại.

Hai phút sau Gabriel đến một cầu thang nhỏ, anh leo lên các bậc thang, và bước ra đường Lyon giữa một cơn mưa phùn lất phất. Anh ngoái nhìn về phía nhà ga. Vòng xoay giao thông giờ đây tràn ngập ánh đèn của xe cứu thương và xe cảnh sát, và khói vẫn đang tuôn ra trên mái. Anh quay gót và bước đi.

Một lời đề nghị giúp đỡ nữa. “Ông ổn chứ? Người ông đang bế có cần bác sĩ không?”

Không, cám ơn, anh nghĩ. Xin làm ơn tránh đường, và làm ơn để chiếc Mercedes vẫn còn ở đó chờ tôi.

Anh vòng qua khúc quanh sang đường Parrot. Chiếc xe vẫn còn đó, đây là sai lầm duy nhất của Khaled. Anh bế Leah băng qua đường. Trong một giây, cô đã bám vào° cổ anh một cách âu lo. Liệu cô có biết anh là Gabriel, hay cô nghĩ anh là một gã bệnh nhân nào đó trong bệnh viện ở nước Anh? Giây lát sau, Leah đã ngồi vào ghế dành cho khách ở phía trước của chiếc xe, mắt nhìn ra cửa sổ một cách vô hồn trong khi Gabriel lùi xe ra khỏi ô đậu xe và đánh vô-lăng để rẽ sang đường Lyon. Anh liếc mắt nhìn nhanh sang bên trái, về phía nhà ga đang bốc khói, rồi rẽ phải và chạy thẳng về phía Cung điện Bastille. Một lần nữa anh thò tay vào cái xắc của ả người Palestine và rút ra chiếc điện thoại vệ tinh. Đến lúc vòng qua vòng xoay giao thông để tiến vào Cung điện Bastille, đại lộ King Saul đã được nối máy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


PARIS

Những giọt mưa phùn lất phất chào đón Gabriel khi anh thoát ra khỏi ga Lyon lúc này đã trở thành một cơn mưa rào mùa xuân. Trời đã sập tối, và Gabriel mừng vì điều đó. Anh đậu xe trên thảm lá rụng của một con đường yên tĩnh gần Cung điện Colombie và tắt máy. Vì bóng tối, và vì cơn mưa, anh tin rằng không ai có thể nhìn vào bên trong xe. Anh lau một khoảng kính chắn gió phía trước và nhòm qua đó. Tòa nhà có căn hộ an toàn nằm bên kia đường, hơi chếch về mé trên. Gabriel biết rõ căn hộ này. Anh biết nó là căn hộ số 4B và tấm biển gắn phía trên chuông cửa mang tên Guzman viết bằng chữ màu xanh đã bạc màu. Anh cũng biết rằng không có chỗ nào an toàn để giấu chìa khóa, và điều đó có nghĩa là phải nhờ ai đó ở căn cứ Paris mở cửa hộ. Thường thì những nhiệm vụ kiểu này được thực hiện bởi một bodel, thuật ngữ của Văn phòng chỉ những nhân viên được thuê tại chỗ để phụ trách những công việc lặt vặt cần thiết nhằm duy trì hoạt động cho một căn cứ ở nước ngoài. Nhưng mười phút sau, Gabriel thở phào nhẹ nhõm khi trông thấy dáng vẻ quen thuộc của Uzi Navot, katsa ở Paris, chạy huỳnh huỵch ngang qua cửa sổ xe anh với mái tóc hung bết vào cái đầu to tròn và một chiếc chìa° khóa căn hộ vung vẩy trên tay.

Navot bước vào tòa nhà và giây lát sau đèn bật sáng bên trong một ô cửa sổ ở tầng bốn. Leah cựa quậy. Gabriel quay lại, và trong một thoáng, ánh mắt ngây dại của cô dường như được nối kết với ánh mắt anh. Anh thò tay nắm lấy phần còn lại của bàn tay cô. Vết sẹo lồi thô ráp, như mọi khi, khiến Gabriel cảm thấy nhói đau trong lòng. Cô đã bị xúc động mạnh trong suốt chuyến đi. Bây giờ trông cô có vẻ trầm tĩnh, theo kiểu mà Gabriel luôn luôn thấy khi anh đến thăm cô ở nhà tắm nắng trị liệu. Anh lại nhòm qua tấm kính chắn gió, về phía ô cửa sổ tầng bốn.

“Phải anh đấy không?”

Gabriel giật mình vì giọng nói của Leah, anh ngước nhìn lên bằng đôi mắt kinh ngạc - thậm chí anh sợ là quá kinh ngạc, vì ánh mắt cô bỗng có vẻ hoảng hốt.

“Phải, anh đây, Leah”, anh nói bằng giọng điềm đạm để trấn an vợ. “Gabriel đây”.

“Chúng ta đang ở đâu?”. Giọng nói của cô nhẹ và khô, như tiếng xào xạc của lá vàng rơi. Nó hoàn toàn không giống như trong ký ức của anh. “Nơi này khiến em cảm thấy giống như Paris. Có phải chúng ta đang ở Paris?”

“Phải, chúng ta đang ở Paris”.

“Đứa con gái đó đã mang em đến đây, phải không? Y tá của em. Em đã cố báo với bác sỹ Avery -” Cô bỏ lửng câu nói. “Em muốn về nhà”.

“Anh đang đưa em về nhà đây”.

“Về bệnh viện?”

“Về Israel”.

Một nụ cười bừng lên, một cái siết nhẹ bàn tay anh. “Da anh nóng quá. Anh có ốm không?”

“Anh khỏe, Leah à”.

Cô chìm vào im lặng và nhìn ra cửa sổ.

“Trông tuyết rơi kìa”, cô nói. “Chúa ơi, em ghét thành phố này biết bao, nhưng tuyết làm nó trở nên thật đẹp. Tuyết đã gột sạch mọi tội lỗi của thành Vienna”.

Gabriel lục lọi trong ký ức, tìm kiếm lần đầu anh nghe những lời này và rồi sực nhớ ra. Lúc ấy họ đang đi bộ từ nhà hàng ra xe. Dani ngồi trên vai anh. Tuyết gột sạch mọi tội lỗi của thành Vienna. Tuyết rơi trên thành Vienna trong khi mưa hỏa tiễn trút xuống Tel Aviv.

“Đẹp thật”, anh đồng tình, cố gắng ngăn vẻ lo lắng len vào giọng nói của mình. “Nhưng chúng ta không ở Vienna. Chúng ta đang ở Paris. Em nhớ chứ? Cô gái đó đã đưa em đến Paris”.

Cô không còn nghe lời anh nói nữa. “Mau lên, Gabriel”, cô nói. “Em muốn nói chuyện với mẹ em. Em muốn được nghe giọng nói của mẹ”.

Xin em, Leah, anh nghĩ. Hãy trở lại là em ngày xưa đi. Đừng tự làm khổ mình nữa.

“Chúng ta sẽ gọi điện cho mẹ ngay”, anh nói.

“Anh kiểm tra xem đai an toàn của Dani đã chắc chắn chưa? Đường xá mùa này trơn lắm”.

Thằng bé ổn, Leah ạ, Gabriel đã nói trong đêm đó. Em lái xe về nhà cẩn thận nhé.

“Vâng, em sẽ cẩn thận”, cô đáp. “Hôn em đi”.

Anh nghiêng người sang và áp môi lên gò má thương tật của cô.

“Một nụ hôn cuối”, cô thì thầm.

Sau đó mắt cô mở to, ngây dại. Gabriel nắm chặt bàn tay đầy sẹo của vợ và nghẹn ngào quay nhìn chỗ khác.

Bà Touzet thò đầu ra từ cửa căn hộ của mình khi Martineau bước vào tiền sảnh. “Giáo sư Martineau, ơn Chúa, ông đây rồi. Tôi sợ gần chết. Ông có mặt ở đó không? Có kinh khủng lắm không?”

Hắn đứng cách nhà ga vài trăm mét khi vụ nổ xảy ra. Và đúng là mọi chuyện rất kinh khủng, mặc dù vẫn chưa kinh khủng như hắn kỳ vọng. Theo kế hoạch, lẽ ra nhà ga phải bị phá hủy hoàn toàn bởi sức công phá của 3 vali bom. Rõ ràng đã có trục trặc gì đó xảy ra.

“Tôi vừa làm một ít sôcôla nóng. Ông vào xem truyền hình với tôi nhé? Tôi rất ghét phải xem những tin kinh khủng đó một mình”.

“Tôi e rằng tôi đã trải qua một ngày dài tồi tệ, thưa bà Touzet. Tôi sẽ đi ngủ sớm”.

“Một danh thắng của Paris giờ đây chỉ còn là đống đổ nát. Rồi sẽ còn chuyện gì xảy ra nữa đây, Giáo sư? Kẻ nào có thể làm ra một chuyện như thế?”

“Tôi cho là bọn Hồi giáo, mặc dù người ta không bao giờ biết động cơ thật của những kẻ đang tâm gây ra một tội ác dã man như thế. Tôi ngờ rằng chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết được sự thật”.

“Ông nghĩ đây có thể là một âm mưu hay không?”

“Bà vào uống sôcôla đi kẻo nguội, bà Touzet. Nếu bà cần bất cứ thứ gì, thì tôi ở ngay trên lầu”.

“Chúc ông ngủ ngon, Giáo sư Martineau”.

Tay bodel, một thanh niên Do Thái gốc Ma-rốc với đôi mắt màu nâu hổ phách đến từ Marais tên là Moshe, xuất hiện ở căn hộ an toàn một giờ sau. Anh ta mang theo hai cái túi. Một túi chứa trang phục cho Gabriel thay, túi còn lại đựng một số thức ăn lặt vặt. Gabriel đi vào phòng ngủ và cởi bỏ trang phục mà ả phụ nữ Palestine đã đưa cho anh trong ngôi nhà ở Martigues, rồi đứng một lúc lâu dưới vòi sen và nhìn máu của các nạn nhân của Khaled chảy xoáy vào lỗ thoát nước. Anh thay trang phục mới và cho quần áo bẩn vào túi. Khi anh trở ra, phòng khách đã gần như chìm trong bóng tối. Leah đang ngủ trên trường kỷ. Gabriel sửa lại cái chăn in hoa cho vợ rồi bước xuống bếp. Navot đang đứng trước bếp lò với một đôi đũa nấu ăn trong tay và một cái khăn lau bát đĩa dắt trong cạp quần. Anh chàng bodel đang ngồi bên bàn, thưởng thức một ly rượu vang đỏ. Gabriel đưa cho anh ta cái túi đựng quần áo bẩn.

“Đem vứt cái này đi”, anh nói. “Ở nơi nào mà không ai có thể tìm thấy chúng”.

Anh ta gật đầu, đoạn đi nhanh ra khỏi căn hộ an toàn. Gabriel ngồi xuống thế chỗ anh ta bên bàn và nhìn Navot. Tay katsa ở Paris là một người đàn ông to con nhưng không cao hơn Gabriel. Anh ta có đôi vai của một đô vật hạng nặng và đôi cánh tay cuồn cuộn cơ bắp. Gabriel luôn luôn thấy ở Navot một nét gì đó của Shamron, và anh ngờ rằng Shamron cũng nhận thấy điều đó. Trong quá khứ, họ từng có xích mích với nhau, nhưng dần dà Gabriel công nhận người nhân viên trẻ tuổi hơn anh là một điệp viên tài ba. Gần đây nhất, họ cộng tác với nhau trong vụ Radek.

“Sẽ có một trận bão ra trò nổi lên sau vụ này”. Navot đưa cho Gabriel một ly rượu. “Có lẽ chúng ta nên chuẩn bị sẵn ủng cao cổ ngay từ bây giờ đi là vừa”.

“Chúng ta đã cảnh báo họ đến mức nào?”

“Người Pháp hả? Sớm hai tiếng đồng hồ. Ngài Thủ tướng đã gọi điện trực tiếp cho Grey Poupon. Grey Poupon nói vài lời đã được cân nhắc kỹ càng. Rồi ông ta nâng mức báo động khủng bố lên màu đỏ. Anh không nghe tin tức gì về chuyện này sao?”

Gabriel kể cho Navot nghe về chiếc radio bị phá hỏng. “Lần đầu tiên tôi cảm nhận được an ninh được thắt chặt là lúc tôi đi bộ trong nhà ga”. Anh nuốt một ngụm rượu. “Ngài Thủ tướng đã cho họ biết những gì?”

Navot thuật lại với Gabriel những chi tiết anh biết về cuộc đối thoại giữa hai vị nguyên thủ quốc gia.

“Họ giải thích thế nào về sự hiện diện của tôi ở

Mác-xây?”

“Họ nói anh đến truy tìm một kẻ có liên quan tới vụ đánh bom ở Rome”.

“Khaled?”

“Tôi không nghĩ họ tiết lộ thông tin cụ thể”.

“Có điều gì đó mách bảo tôi rằng chúng ta phải thẳng thắn trong chuyện này. Tại sao họ chờ quá lâu mới báo cho người Pháp biết?”

“Rõ ràng là họ hy vọng anh sẽ quay lại. Họ cũng cần đảm bảo rằng tất cả các thành viên trong nhóm Mác-xây đã rời khỏi đất Pháp”.

“Họ thoát kịp không?”

Navot gật đầu.

“Tôi cho rằng chúng ta có thể coi như mình đã gặp may khi ngài Thủ tướng thông báo chính thức tin này với Điện Élysée”.

“Tại sao vậy?”

Gabriel kể với Navot về ba tên shaheed. “Chúng tôi đã ngồi cùng bàn ở Cairo. Tôi đảm bảo có người đã chụp một tấm ảnh rất đẹp để kỷ niệm dịp đó”.

“Một sự sắp đặt?”

“Được bố trí nhằm làm ra vẻ tôi có liên quan đến âm mưu này”.

Navot nghiêng đầu về phía phòng khách. “Cô ấy có ăn chút gì không?”

“Cứ để cô ấy ngủ”.

Navot thả nhẹ một quả trứng ốp-la vào đĩa và đặt nó trước mặt Gabriel.

“Món đặc sản trong nhà đây: nấm, phô-mai Gruyère, rau thơm”.

“Tôi chưa ăn gì trong ba mươi sáu tiếng đồng hồ qua. Khi nào thanh toán xong món trứng, tôi dự định sẽ xơi luôn cả cái đĩa”.

Navot bắt đầu đập thêm trứng vào bát đánh trứng. Công việc của anh bị gián đoạn vì đèn đỏ nhấp nháy trên chóp máy điện thoại. Anh chộp lấy ống nghe, lắng nghe trong giây lát, đoạn rì rầm vài lời bằng tiếng Do Thái rồi cúp máy. Gabriel ngước nhìn lên từ đĩa thức ăn.

“Chuyện gì thế?”

“Đại lộ King Saul. Kế hoạch thoát thân giành cho anh sẽ sẵn sàng trong một giờ nữa”.

Trên thực tế, họ chỉ phải chờ 40 phút. Thông điệp được gửi đến căn hộ an toàn bằng đường fax bảo mật - 3 trang giấy tiếng Do Thái, được soạn bằng Naka, mật mã riêng của Văn phòng. Navot, ngồi cạnh Gabriel nơi bàn bếp, tay cầm bảng giải mã.

“Hiện đang có một chiếc máy bay El Al được thuê đang đậu trên đất Warsaw”, Navot nói.

“Người Do Thái gốc Ba Lan về thăm cố quốc?”

“Đúng hơn là về thăm hiện trường tội ác. Đó là một “tua” du lịch trọn gói đến toàn các trại sát sinh của bọn Quốc Xã”. Navot lắc đầu. Anh đã có mặt bên cạnh Gabriel và Radek trong đêm ở Treblinka. Họ đã đi dạo qua đống tro tàn để quan sát mọi thứ dưới góc nhìn của những kẻ sát nhân. “Lý do có người muốn đến một nơi như thế vượt quá tầm hiểu biết của tôi”.

“Khi nào chuyến bay khởi hành?”

“Tối mai. Một trong những hành khách sẽ được yêu cầu tình nguyện thực hiện một sứ mệnh khá đặc biệt - về nhà với một hộ chiếu Israel giả từ một điểm khởi hành khác”.

“Và Leah sẽ thế chỗ trên chuyến bay đó?”

“Chính xác”.

“Đại lộ King Saul đã tìm được người tình nguyện nào chưa?”

“Đã tìm được 3 người. Hiện nay họ đang lựa chọn”.

“Họ sẽ giải thích thế nào về tình trạng của Leah?”

“Bị bệnh”.

“Chúng ta sẽ đưa cô ấy đến Warsaw bằng cách nào?”

“Chúng ta?”. Navot lắc đầu. “Anh sẽ về nhà theo một lộ trình khác: đi đường bộ sang Ý, đến đêm sẽ có người đón anh ở bãi biển Fiumicino. Hình như anh đã quá quen với nơi đó?”

Gabriel gật đầu. Anh biết bãi biển đó rất rõ. “Vậy Leah sẽ đến Warsaw bằng cách nào?”

“Tôi sẽ đưa cô ấy đi”. Navot nhận thấy vẻ ngần ngại trong mắt Gabriel. “Đừng lo. Tôi sẽ không để bất cứ chuyện gì xảy ra với vợ anh đâu. Tôi sẽ hộ tống cô ấy trên chuyến bay về nhà. Trong đoàn du khách có ba bác sỹ. Cô ấy sẽ không sao đâu”.

“Còn khi cô ấy về đến Israel?”

“Một đội từ Dưỡng trí viện Mount Herzl sẽ chờ sẵn để tiếp nhận”.

Gabriel suy nghĩ một lúc. Rõ ràng anh đang không có một ý kiến nào tốt hơn kế hoạch này.

“Tôi sẽ vượt biên bằng cách nào?”

“Anh còn nhớ chiếc xe thùng hiệu Volkswagen chúng ta đã sử dụng trong vụ Radek chứ?”

Gabriel nhớ. Nó có một khoang bí mật bên dưới chiếc giường xếp phía sau. Radek, bị trúng thuốc và bất tỉnh nhân sự, đã được giấu ở đó khi Chiara chở anh ta qua biên giới ÁO - Séc.

“Tôi đã mang nó về Paris sau chiến dịch đó”. Navot nói. “Nó hiện đang nằm trong một ga-ra ở quận 17”.

“Anh thu dọn lại nó rồi chứ?”

Navot cười lớn. “Nó sạch sẽ rồi”, anh nói. “Quan trọng hơn là nó sẽ chở anh qua được biên giới và xuôi xuống bãi biển Fiumicino”.

“Ai sẽ đưa tôi đến Ý?”

“Moshe có thể đảm nhiệm việc đó”.

“Cậu ta? Cậu ta chỉ là một đứa con nít”.

“Cậu ấy biết cách tự xoay sở”, Navot nói. “Vả lại, còn ai hơn được Moshe trong việc đưa anh về Miền Đất Hứa?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


FIUMICINO, ITALY

Tín hiệu kia rồi. Hai chớp ngắn, theo sau là một chớp dài”.

Moshe bật cần gạt nước và chồm người qua vô-lăng của chiếc Volkswagen. Gabriel ngồi điềm tĩnh trên ghế hành khách. Anh rất muốn bảo anh chàng là cứ thư giãn đi, nhưng rồi anh quyết định để mặc anh ta tận hưởng khoảnh khắc hồi hộp của mình. Những nhiệm vụ trước đây của Moshe chỉ bao gồm chuẩn bị thực phẩm cho các căn hộ an toàn và dọn dẹp nhà cửa sau khi các điệp viên đã rời khỏi thành phố. Một cuộc hội ngộ bí mật vào lúc nửa đêm trên một bãi biển của nước Ý hẳn nhiên sẽ trở thành điểm nhấn trong sự nghiệp cộng tác của anh với Văn phòng.

“Chúng lại xuất hiện lần nữa kìa”, tay bodel nói. “Hai chớp ngắn…”

“Và tiếp đó là một chớp dài. Tôi đã nghe cậu nói câu đó một lần rồi”. Gabriel vỗ vào lưng chàng trai trẻ. “Xin lỗi, hai ngày qua thật dài đối với tôi. Cám ơn cậu đã đưa tôi đi. Hãy cẩn thận trên đường về, và nhớ sử dụng…”

“Một con đường khác để qua biên giới”, anh chàng tiếp lời. “Tôi nghe anh nói câu đó bốn lần rồi”.

Gabriel trèo ra khỏi chiếc xe thùng và băng qua khu đậu xe nhìn xuống bãi biển, đoạn anh nhảy qua một bức tường đá thấp, và đi bộ trên cát đến tận mép nước. Anh đứng đợi ở đó, mặc cho những ngọn sóng nối đuôi nhau vỗ nhẹ qua giày, mắt anh chăm chú nhìn chiếc xuồng máy đang tiến lại gần. Giây lát sau anh đã ngồi trên mũi xuồng, lưng quay về phía Yaakov và mắt nhìn về phía tàu Fidelity.

“Lẽ ra anh không nên đi”, Yaakov gào lớn để át tiếng sóng vỗ rì rào bên mạn thuyền.

“Nếu ở lại Mác-xây, tôi sẽ chẳng bao giờ đưa được Leah về”.

“Nhưng anh không biết chắc là có đưa được Leah về hay không. Có thể Khaled sẽ chơi ván bài đó theo một cách hoàn toàn khác”.

Gabriel ngoảnh đầu lại. “Anh nói đúng, Yaakov. Hắn sẽ chơi theo cách khác. Đầu tiên hắn sẽ giết Leah, và để xác cô ấy nằm trên một con đường nào đó ở miền nam nước Anh. Sau đó hắn sẽ cho ba tên shaheed vào ga Lyon và biến nó thành đống gạch vụn”.

Yaakov giảm ga. “Việc anh đã làm là hành động ngu ngốc nhất mà tôi từng thấy”. Rồi, bằng giọng cảm thông, Yaako thêm vào: “Và cho đến nay cũng là hành động dũng cảm nhất. Họ nên gắn một chiếc huy chương lên ngực áo anh khi chúng ta về đến Đại lộ King Saul”.

“Tôi đã sập bẫy Khaled. Người ta không trao huy chương cho những điệp viên tự lao đầu vào bẫy đâu. Họ chỉ mang những người đó bỏ ra sa mạc làm mồi cho lũ kền kền và bò cạp thôi”.

Yaakov lái chiếc xuồng về phía đuôi tàu Fidelity. Gabriel leo lên bậc bơi và trèo cầu thang lên boong tàu. Dina đang đợi anh ở đó. Nàng mặc một chiếc áo len dày, và gió biển đang thổi tung mái tóc đen của nàng. Nàng chạy ào tới và ôm choàng lấy cổ anh.

“Giọng của cô ta”, Gabriel nói. “Tôi muốn nghe lại giọng nói của cô ta”.

Dina cho cuộn băng vào máy và bấm nút PLAY.

“Chúng mày đã làm gì cô ấy? Cô ấy đang ở đâu?”

“Chúng tôi đã có cô ấy, nhưng tôi không biết cô ấy đang ở đâu”.

“Cô ấy đang ở đâu? Trả lời ngay! Đừng nói với ta bằng tiếng Pháp. Hãy nói bằng tiếng mẹ đẻ của cô. Hãy nói với ta bằng tiếng Arập”.

“Tôi đang nói với anh sự thật”.

“Vậy là cô biết tiếng Arập. Cô ấy đang ở đâu? Trả lời đi, nếu không cô sẽ chết”.

“Nếu anh giết tôi, anh sẽ tự hủy hoại bản thân anh - và vợ anh nữa. Tôi là hy vọng duy nhất của anh”.

Gabriel bấm nút STOP, rồi REWIND, rồi PLAY.

“Nếu anh giết tôi, anh sẽ tự hủy hoại bản thân anh - và vợ anh nữa. Tôi là hy vọng duy nhất của anh”.

STOP. REWIND. PLAY.

“Tôi là hy vọng duy nhất của anh”.

STOP.

Anh ngước nhìn Dina. “Em đã tìm trong cơ sở dữ liệu chưa?”

Cô gật đầu. “Không có trong hồ sơ lưu”.

“Không quan trọng”, Gabriel nói. “Tôi có thứ còn quan trọng hơn giọng nói của cô ả”.

“Đó là cái gì?”

“Câu chuyện của cô ta”.

Anh kể cho Dina nghe câu chuyện ngập tràn đớn đau và mất mát mà Palestina đã thổ lộ với anh trong những dặm đường cuối cùng trước khi đến Paris. Gia đình ả đã trôi dạt từ Sumayriyya đến Tây Galilee ra sao; họ bị trục xuất trong chiến dịch Ben-Ami và buộc phải sống lưu vong ở Libăng như thế nào.

“Sumayriyya? Đó là một nơi rất nhỏ, phải không? Chắc chỉ khoảng một nghìn dân?”

“Tám trăm, theo lời cô ả. Cô ta có vẻ biết rõ về quá khứ của mình”.

“Không phải mọi người ở Sumayriyya đều tuân thủ lệnh di tản”, Dina nói. “Vẫn còn một số người ở lại”.

“Và một số người đã lẻn được về trước khi biên giới bị đóng cửa. Nếu ông nội của cô ả thực sự là một trong những 'trưởng lão' của làng, chắc chắn sẽ có người nhớ ra ông ta”.

“Nhưng cho dù chúng ta phát hiện được tên của cô ả, thì nó có lợi gì? Cô ta chết rồi. Làm thế nào cô ta giúp chúng ta tìm ra Khaled?”

“Cô ta yêu hắn”.

“Ả thú nhận với anh điều đó à?”

“Tôi tự biết”.

“Anh nhạy cảm thật đấy. Anh còn biết điều gì nữa về cô gái này?”

“Tôi nhớ diện mạo của cô ta”, anh đáp. “Tôi nhớ chính xác cô ta trông thế nào”.

Cô tìm thấy một tập giấy không kẻ ô trên cầu phao; hai cây bút chì loại thường trong ngăn chứa đồ linh tinh ở nhà bếp. Gabriel nằm dài trên trường kỷ và làm việc dưới ánh sáng của ngọn đèn halogen dùng để đọc sách. Dina tìm cách nhìn trộm qua vai anh, nhưng anh quẳng cho cô một cái nhìn nghiêm khắc và đuổi nàng ra ngoài boong tàu và chờ cho tới khi anh hoàn tất bức vẽ. Cô đứng tựa vào lan can tàu, lơ đãng ngắm nhìn ánh đèn trải dài lung linh trên bờ biển nước Ý rồi mờ dần nơi đường chân trời. Mười phút sau, cô trở lại phòng khách và thấy Gabriel đã ngủ say trên trường kỷ. Bức chân dung ả phụ nữ người Palestine đã chết nằm bên cạnh anh. Dina tắt đèn và để yên cho anh ngủ.

Một chiếc tàu khu trục Israel cặp vào mạn phải tàu Fidelity vào buổi chiều ngày thứ ba. Hai giờ sau, Gabriel, Yaakov và Dina đã đặt chân xuống bãi đáp máy bay trực thăng của một căn cứ không quân bí mật ở phía bắc Tel Aviv. Một “ủy ban đón tiếp” do Văn phòng phái tới đang đợi họ. Những người này đứng thành vòng tròn và tỏ vẻ rất lạnh nhạt, như những người lạ trong một lễ tang. Lev không xuất hiện, nhưng không ai ngạc nhiên vì Lev vốn chẳng bao giờ bận tâm đến những chuyện tầm thường như đón các điệp viên trở về sau những sứ mệnh hiểm nghèo. Gabriel, ngay khi bước chân ra khỏi trực thăng, đã thở phào nhẹ nhõm khi nhìn thấy chiếc Peugoet bọc thép đang chạy vào qua các cánh cổng và phóng như bay qua đoạn đường trải nhựa trộn đá dăm. Không nói một lời, anh tự tách mình ra khỏi những người còn lại và tiến về phía chiếc xe.

“Anh đi đâu đấy, Allon?”. Một người trong đám nhân viên của Lev kêu to.

“Về nhà”.

“Sếp muốn gặp anh ngay bây giờ”.

“Vậy thì có lẽ ông ta nên hủy một hoặc hai cuộc hẹn để đích thân đến đây gặp chúng tôi. Nói với Lev là sáng mai tôi sẽ trình diện. Tôi có vài việc riêng phải giải quyết. Bảo với ông ta như thế”.

Cửa sau của chiếc Peugeot bật mở, và Gabriel bước vào trong. Shamron chào Gabriel trong im lặng. Trông ông già đi thấy rõ sau khoảng thời gian Gabriel vắng mặt. Bàn tay châm xì-gà của ông run nhiều hơn bình thường. Khi chiếc xe phóng về phía trước, ông đặt một tờ báo Le Monde vào lòng Gabriel. Gabriel nhìn xuống và thấy hai bức ảnh của mình - một ở nhà ga Lyon, trong khoảnh khắc ngay trước vụ nổ, và bức còn lại tại hộp đêm của Mimi Ferrere ở Cairo, ngồi cùng bàn với ba tên shaheed.

“Tất cả đều chỉ là suy đoán”, Shamron nói, “và do đó hậu quả càng nặng nề. Bọn họ ám chỉ rằng anh có liên quan tới âm mưu đánh bom nhà ga, theo một cách nào đó”.

“Và động cơ của tôi có thể là gì?”

“Tất nhiên là để hạ uy tín của người Palestine. Khaled đã chơi rất đẹp. Hắn đánh bom nhà ga Lyon và đổ tội cho chúng ta”.

Gabriel đọc lướt qua vài đoạn đầu của bài báo. “Rõ ràng là hắn có nhiều bạn bè giữ những chức vụ quan trọng - ít nhất là ở các cơ quan tình báo của Ai Cập và Pháp. Mubarat đã theo dõi tôi ngay từ khi tôi đặt chân đến Cairo. Bọn họ chụp ảnh tôi ở hộp đêm, và sau vụ đánh bom, họ gửi tấm ảnh đó cho cơ quan DST của Pháp. Khaled là kẻ giật giây toàn bộ vụ việc”.

“Không may là câu chuyện không chỉ dừng lại ở đó. Sáng hôm qua David Quinnel được phát hiện đã bị giết trong căn hộ của hắn ở Cairo. Đảm bảo là chúng ta cũng sẽ bị đổ tội về vụ đó”.

Gabriel trả tờ báo cho Shamron, và ông đặt nó trở về chỗ cũ trong cặp của mình. “Cơn địa chấn đã bắt đầu. Theo lịch trình, Ngoại trưởng của chúng ta sẽ đến thăm Paris trong tuần tới, nhưng lời mời đã bị hủy bỏ. Có những tin đồn về sự rạn nứt tạm thời trong các mối quan hệ và họ đã trục xuất các nhà ngoại giao. Chúng ta phải thoát khỏi vụ này một cách sạch sẽ mới mong tránh được một sự đổ vỡ nghiêm trọng trong các mối quan hệ với Pháp và phần còn lại của cộng đồng châu Âu. Tôi cho rằng cuối cùng rồi chúng ta cũng sẽ khắc phục được thiệt hại, nhưng chỉ ở một mức độ nhất định thôi. Nói cho cùng, đến tận bây giờ nhiều người Pháp vẫn tin rằng chúng ta là những kẻ đã phóng những chiếc máy bay đó vào Trung tâm Thương mại Thế giới. Làm sao chúng ta thuyết phục được họ rằng chúng ta chẳng dính dáng gì đến vụ đánh bom nhà ga Lyon?”

“Nhưng ông đã cảnh báo họ trước khi vụ nổ bom xảy ra”.

“Đúng vậy, nhưng những kẻ ưa thêu dệt dựa trên những câu chuyện bí ẩn sẽ chỉ coi đó là chứng cứ càng làm rõ hơn tội lỗi của chúng ta. Làm thế nào chúng ta biết được quả bom sẽ nổ vào lúc 7 giờ trừ khi chúng ta có liên quan đến âm mưu đó? Chúng ta sẽ phải công khai một vài hồ sơ mật, trong đó bao gồm cả cậu”.

“Tôi ư?”

“Người Pháp rất muốn nói chuyện với cậu”.

“Bảo với họ là sáng thứ hai tôi sẽ đến trình diện tại Đại sứ quán. Nhờ họ sắp xếp cho tôi một phòng ở khách sạn Crillon. Tôi chưa bao giờ có may mắn được ở trong một phòng hạng sang của khách sạn đó”.

Shamron cười phá lên. “Tôi sẽ bảo vệ cậu khỏi người Pháp, nhưng Lev thì lại khác”.

“Ủy ban bức tử chứ gì?”

Shamron gật đầu. “Cuộc điều tra sẽ được bắt đầu vào ngày mai. Cậu là nhân chứng thứ nhất. Cậu nên chuẩn bị sẵn tinh thần cho một cuộc tra khảo kéo dài trong nhiều ngày và sẽ vô cùng khó chịu”.

“Tôi có nhiều việc hay hơn để làm thay vì ngồi chết dí trước ủy ban của Lev”.

“Ví dụ như?”

“Săn lùng Khaled”.

“Và cậu định làm việc đó bằng cách nào?”

Gabriel kể cho Shamron về ả phụ nữ đến từ Sumayriyya.

“Còn ai khác biết chuyện này không?”

“Chỉ có Dina thôi”.

“Hãy theo đuổi hắn một cách âm thầm”, Shamron nói, “và vì Chúa, đừng để lại bất kỳ dấu vết nào”.

“A’one đã nhúng tay vào vụ này. Ông ta cố tình trao cho chúng ta gã Mahmoud Arwish và sau đó giết gã để xóa dấu vết. Và bây giờ thì ông ta tha hồ gặt hái những phần thưởng về mặt quan hệ quốc tế bằng cách vu vạ về sự dính líu của chúng ta trong vụ đánh bom tại ga Lyon”.

“Ông ta đã bắt đầu rồi”. Giới truyền thông quốc tế đang xếp hàng bên ngoài trại Mukata để đợi tới lượt phỏng vấn ông ta. Chúng ta chẳng sờ được tới một sợi lông chân của lão ta đâu”.

“Vậy là chúng ta không làm gì cả và phải nín thở vào ngày 18 tháng 4 hàng năm trong khi chờ đợi một tòa đại sứ hoặc giáo đường tiếp theo của chúng ta nổ tung à?” Gabriel lắc đầu. “Không, Ari, tôi sẽ săn lùng hắn”.

“Cố gắng đừng nghĩ đến chuyện đó vào lúc này”. Shamron vỗ nhẹ vai anh. “Hãy nghỉ ngơi một chút. Đến gặp Leah. Rồi giành một ít thời gian cho Chiara”.

“Phải”, Gabriel đáp. “Một buổi tối được thư giãn sẽ tốt hơn cho tôi”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


JERUSALEM

Shamron đưa Gabriel đến Dưỡng trí viện Mount Herzl. Trời bắt đầu tối khi anh đi bộ theo con đường có hai hàng cây xanh thẳng tắp hai bên dẫn đến cổng chính của bệnh viện. Bác sĩ mới của Leah chờ anh ở hành lang. Mập mạp và đeo cặp kính cận, vị bác sĩ có chòm râu dài của một giáo trưởng Do Thái giáo và tác phong vui vẻ dễ gần thật dễ chịu. Ông tự giới thiệu là Mordecai Bar-Zvi, rồi nắm lấy cánh tay Gabriel và dắt anh đi qua một hành lang đá vôi Jerusalem mát rượi. Bằng cả điệu bộ và lời nói, người thầy thuốc đảm bảo với Gabriel rằng ông am hiểu tường tận về bệnh sử khá đặc biệt của bệnh nhân mới.

“Tôi phải nói rằng có những dấu hiệu cho thấy cô ấy đã vượt qua được cuộc khủng hoảng một cách khá ấn tượng”.

“Cô ấy có nói gì không?”

“Một chút”.

“Cô ấy biết mình đang ở đâu không?”

“Thỉnh thoảng. Tôi có thể chắc chắn một điều: cô ấy rất nóng lòng được gặp anh”. Vị bác sĩ nhìn Gabriel qua phần đỉnh của cặp mắt kính đã ố vàng. “Trông anh có vẻ ngạc nhiên?”

“Đã mười ba năm qua cô ấy không nói một lời nào với tôi”.

Người thầy thuốc nhún vai. “Tôi nghĩ chuyện đó sẽ chẳng bao giờ lặp lại”.

Họ đến trước một cánh cửa. Vị bác sĩ gõ một cái rồi dẫn Gabriel vào trong. Leah đang ngồi trên một chiếc ghế bành bên cửa sổ. Cô ngoái đầu lại khi Gabriel bước vào phòng và thoáng mỉm cười. Anh hôn lên má cô, rồi ngồi xuống cạnh giường. Cô im lặng ngắm anh một lúc, rồi quay đầu và tiếp tục nhìn ra cửa sổ như thể anh không còn ở đó nữa.

Vị bác sĩ chào và đóng cánh cửa khi ra khỏi phòng. Gabriel ngồi đó với cô, chịu đựng sự im lặng trong khi những cây thông bên ngoài đang dần chìm vào bóng tối khi màn đêm buông xuống. Anh ở lại khoảng một tiếng đồng hồ, tới khi một cô y tá vào phòng và nói đã đến giờ cho Leah đi ngủ. Khi Gabriel đứng lên, Leah bỗng quay đầu lại.

“Anh đi đâu thế?”

“Họ nói em cần nghỉ ngơi”.

“Đó là tất cả những gì em làm, nghỉ ngơi suốt cả ngày”.

Gabriel hôn lên môi cô.

“Một nụ…” cô tự dừng lời. “Ngày mai anh sẽ lại đến thăm em chứ?”

“Và cả ngày kia nữa”.

Cô quay đầu đi và nhìn ra cửa sổ.

Không còn chiếc tắc xi nào ở khu vực bệnh viện Mount Herzl, nên anh đành lên một chiếc xe buýt đông nghẹt những người tan sở buổi tối. Tất cả ghế đều đã có người ngồi; anh đứng vào một chỗ trống ở ngay giữa xe và cảm thấy bốn mươi cặp mắt đang soi vào mình. Đến đường Jaffa, anh bước xuống và đứng đợi ở một trạm để đón chuyến xe buýt đi về khu vực phía đông thành phố. Nhưng rồi anh nghĩ lại - mình đã sống sót qua chuyến xe đầu tiên; đi tiếp chuyến thứ hai có vẻ như một hành động mời gọi tai họa - vì vậy anh quyết định cuốc bộ giữa những cơn gió đêm lồng lộng. Anh dừng lại trong giây lát ở lối vào chợ Makhane Yehuda, rồi nhắm hướng đường Narkiss thẳng tiến. Chiara hẳn đã nghe thấy tiếng bước chân của anh vang trên cầu thang, bởi nàng đang đứng chờ anh ở đầu cầu thang bên ngoài căn hộ của họ. Nhan sắc của nàng, sau khi anh đã chứng kiến những vết sẹo của Leah, càng đẹp mê hồn. Nàng chỉ chìa má ra cho Gabriel khi anh cúi xuống hôn nàng. Mái tóc mới gội của nàng thơm mùi va-ni.

Nàng quay gót và đi vào nhà. Gabriel theo sau, rồi chợt khựng lại. Căn hộ đã hoàn toàn thay da đổi thịt: nội thất mới, những tấm thảm và đồ đạc mới, nước sơn mới. Chiếc bàn đã được kê lại và những ngọn nến đã được thắp lên. Chiều dài không còn nguyên vẹn của chúng cho thấy chúng đã thắp được một lúc. Chiara cắt bớt tim nến khi nàng đi ngang qua.

“Đẹp lắm”, Gabriel nhận xét.

“Em đã cố gắng để hoàn tất công việc trước khi anh về. Em muốn nơi này có cảm giác như một ngôi nhà đúng nghĩa. Anh đã đi đâu?”. Nàng cố gắng kìm lại sự trách móc trong giọng nói của mình. Nhưng vốn là một người rất nhanh nhạy trong các tình huống, Gabriel vẫn nhận ra sự trách móc nơi Chiara.

“Chiara, hẳn là em đang đùa?”

“Máy bay của anh hạ cánh cách đây 3 giờ đồng hồ. Và em biết anh không đến Đại lộ King Saul, bởi vì văn phòng của Lev đã gọi điện đến đây tìm anh”. Nàng dừng lại một lát. “Anh đến thăm chị ấy, đúng không? Anh đến thăm Leah”.

“Tất nhiên rồi”.

“Anh không mảy may nghĩ đến chuyện về gặp em trước ư?”

“Cô ấy ở trong bệnh viện mà không biết mình đang ở đâu. Cô ấy rất hoang mang, và hoảng sợ”.

“Em cho rằng Leah và em có rất nhiều điểm giống nhau”.

“Chúng ta đừng thế này, Chiara”.

“Thế này là thế nào?”

Anh đi hết hành lang để đến phòng ngủ. Nó cũng đã được trang trí lại đầy gọn gàng và ấm áp. Trên bàn đầu giường ngủ của Gabriel là những giấy tờ mà, một khi được ký, sẽ chấm dứt cuộc hôn nhân của anh với Leah. Chiara đã để sẵn một cây bút bên cạnh chúng. Anh ngước nhìn lên và thấy nàng đang đứng ở cửa phòng. Nàng đang nhìn anh chăm chú, tìm kiếm trong mắt anh những bằng chứng tiết lộ cảm xúc của anh - như một thám tử quan sát nghi can tại hiện trường tội ác.

“Mặt anh bị làm sao thế?”

Gabriel kể cho nàng nghe về trận đòn mà bọn shaheed đã tặng anh.

“Đau lắm không?”. Nàng hỏi nhưng dường như không thực sự quan tâm.

“Chút chút thôi”. Anh ngồi lên mép giường và lột đôi giày ra. “Em đã biết đến đâu rồi?”

“Shamron kể mọi chuyện cho em nghe ngay khi mọi chuyện xảy ra. Sau đó ông ấy đều đặn cập nhật tin tức cho em trong ngày. Lúc nghe tin anh đã an toàn đó là khoảnh khắc hạnh phúc nhất trong đời em”.

Gabriel nhận thấy Chiara đã không đả động gì đến Leah.

“Chị ấy ra sao?”

“Leah hả?”

Chiara nhắm mắt lại và gật đầu. Gabriel thuật lại chính xác từng lời của bác sĩ Bar-Zvi: Leah đã vượt qua được cơn khủng hoảng một cách phi thường. Anh cởi áo sơmi. Chiara bụm miệng. Những vết thâm tím trên người anh, sau ba ngày lênh đênh trên biển, đã biến thành màu tím bầm và đen.

“Trông bề ngoài kinh khủng vậy thôi chứ không đến nỗi nào đâu”, anh nói.

“Anh đã đến gặp bác sĩ chưa?”

“Chưa”.

“Cởi quần áo ra đi. Em sẽ pha nước nóng cho anh tắm. Ngâm mình trong nước nóng sẽ giúp anh cảm thấy đỡ hơn”.

Nàng rời khỏi phòng. Vài giây sau anh nghe tiếng nước chảy vào bồn tắm. Anh cởi hết quần áo và đi vào phòng tắm. Chiara xem xét các vết bầm của anh một lần nữa; rồi nàng lùa tay vào tóc anh và nhìn phần chân tóc.

“Nó đủ dài để cắt rồi. Đêm nay em không muốn ân ái với một gã tóc bạc đâu”.

“Thì em cắt đi”.

Anh ngồi trên mép bồn tắm. Như thường lệ, Chiara lẩm nhẩm hát trong khi nàng cắt tóc cho anh - những bản nhạc pop Ý ngô nghê mà nàng rất thích. Gabriel đầu cúi xuống nhìn những lọn tóc bạch kim cuối cùng của ngài Klemp rơi nhẹ xuống sàn. Anh nghĩ về Cairo, về cách anh đã bị lừa, và cơn giận một lần nữa lại sôi lên trong anh. Chiara xếp kéo lại.

“Đấy, bây giờ trông anh lại giống trước rồi. Tóc đen, hơi điểm muối tiêu hai bên thái dương. Shamron hay nói gì về thái dương của anh nhỉ?”

“Ông ấy gọi đó là những vết tro”, Gabriel đáp, “Những vết tro bám trên mình Hỏa Thần”.

Chiara thử nhiệt độ nước trong bồn tắm. Gabriel bỏ khăn tắm ra và thả mình vào trong làn nước. Nước quá nóng - Chiara luôn° luôn pha nước quá nóng - nhưng chỉ giây lát sau cơn đau đã bắt đầu rút lui khỏi cơ thể anh. Nàng ngồi bên anh một lúc. Nàng kể về căn hộ, về buổi tối của nàng với Gilah Shamron và mọi chuyện khác trừ nước Pháp. Lát sau nàng đi vào phòng ngủ và cởi trang phục. Nàng hát nho nhỏ. Chiara luôn hát khi cởi quần áo.

Những nụ hôn của nàng, bình thường vốn rất dịu dàng, hôm nay làm đau môi anh. Nàng làm tình với anh một cách điên cuồng, như thể đang cố gắng hút hết Leah ra khỏi dòng máu đang chảy trong huyết quản của anh, và những đầu móng tay của nàng để lại những vết bầm tím mới trên vai anh. “Em tưởng anh đã chết. Em tưởng mình sẽ không bao giờ còn được gặp lại anh”.

“Anh đã chết”, Gabriel đáp. “Anh đã chết từ lâu lắm rồi”.

Những bức tường phòng ngủ của họ ở Venice được trang trí bằng những bức tranh. Chiara, trong thời gian Gabriel vắng mặt, đã đem chúng về treo ở đây. Một số tác phẩm hội họa hiện diện trong căn phòng này được vẽ bởi ông ngoại của Gabriel, Viktor Frankel, họa sỹ trường phái hiện thực nổi tiếng của nước Đức. Những tác phẩm của ông bị bọn Quốc Xã lên án là “đồi trụy” vào năm 1936. Khánh kiệt, bị cấm cả sáng tác lẫn dạy học, ông bị đưa đến trại Auschwitz vào năm 1942 và bị giết bằng hơi ngạt cùng với vợ ngay khi vừa đặt chân đến trại. Mẹ của Gabriel, Irene, cũng bị đày cùng với họ, nhưng Mengele đã đưa bà vào một nhóm lao công, và bà đã sống sót ở trại tập trung nữ ở Birkenau cho tới khi trại này bị sơ tán trước thế tiến công của quân Nga. Một số tác phẩm của bà cũng được treo ở đây, trong phòng tranh cá nhân của Gabriel. Bị dày vò bởi những điều đã chứng kiến tại Birkenau, những bức tranh do bà vẽ luôn luôn cháy bỏng những xúc cảm mãnh liệt mà ngay cả người cha nổi tiếng cũng không sánh kịp. Ở Israel bà sử dụng họ Allon, có nghĩa là cây sồi trong tiếng Do Thái, nhưng luôn luôn ký tên Frankel trên các bức tranh để tỏ lòng tôn kính người cha. Mãi đến bây giờ Gabriel mới có thể thưởng thức và hiểu hết ý nghĩa của những bức tranh này - những bức tranh mà mẹ anh - người phụ nữ đau khổ đã sáng tạo ra.

Chỉ có duy nhất một bức tranh không có chữ ký, bức tranh phác hoạ chân dung của một chàng thanh niên trẻ tuổi, theo phong cách của Egon Schiele. Người họa sĩ thể hiện là Leah, còn nhân vật trong bức tranh chính là Gabriel. Nó được vẽ không lâu sau khi anh trở về Israel với máu của sáu tên khủng bố Palestine nhuốm trên tay, và đó là lần duy nhất anh đồng ý ngồi làm mẫu cho vợ mình vẽ. Anh chưa bao giờ thích bức tranh, bởi nó thể hiện con người anh qua lăng kính của Leah - anh như một thanh niên bị ám ảnh và bị già trước tuổi dưới bóng của thần chết. Chiara không biết bức tranh này, cô nghĩ rằng đó là một bức chân dung tự họa của Gabriel.

Nàng bật đèn ngủ và nhìn những tờ giấy trên côn đầu giường. Đó là một hành động vô ích; nàng biết rằng Gabriel chưa ký.

“Sáng mai anh sẽ ký”, anh nói.

Nàng đưa bút cho anh. “Ký ngay bây giờ đi anh”.

Gabriel tắt đèn. “Thật ra, lúc này anh đang muốn làm chuyện khác”.

Chiara đón nhận thân thể của anh và lặng lẽ khóc trong suốt cuộc ân ái.

“Anh sẽ không bao giờ ký vào đó, đúng không?”

Gabriel cố gắng dỗ yên nàng bằng một nụ hôn.

“Anh đang lừa dối em”, nàng nói. “Anh đang sử dụng thân thể của mình như một vũ khí để gạt gẫm em”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33


JERUSALEM

Lịch làm việc của anh mau chóng được lên kế hoạch. Buổi sáng anh dậy sớm và ngồi trong nhà bếp mới được Chiara trang trí lại với tách cà phê và một xấp báo. Những câu chuyện về vụ Khaled khiến anh chán nản một cách sâu sắc. Tờ Ha’aretz đặt cho nó cái tên “Chiến dịch cẩu thả”, và Văn phòng đã thất bại trong cuộc tranh đấu không để tên Gabriel xuất hiện trên mặt báo. Ở Paris, báo chí Pháp bao vây các quan chức chính quyền và đại sứ Israel để tìm lời giải thích cho những bức ảnh bí ẩn đã xuất hiện trên tờ Le Monde. Ngoại trưởng Pháp, một cựu thi sĩ đỏm dáng, đổ thêm dầu vào lửa khi tuyên bố rằng “có thể chính Israel nhúng tay vào cuộc thảm sát ở ga Lyon”. Ngay ngày hôm sau, trái tim của Gabriel trĩu nặng khi anh đọc được tin tức về một tiệm bánh pizza của người Do Thái trên đường Rosiers bị cướp phá. Tiếp theo là vụ một đám thanh niên Pháp tấn công một cô gái bị cho là người Do Thái khi cô đi bộ từ trường về nhà và rạch lên má cô một dấu thập ngoặc. Chiara thường thức dậy sau Gabriel một tiếng đồng hồ. Nàng đọc về các sự kiện ở Pháp với vẻ lo lắng hơn là buồn rầu. Mỗi ngày nàng gọi điện cho mẹ ở Venice một lần để biết chắc rằng gia đình nàng vẫn được an toàn.

Đúng 8 giờ, Gabriel rời Jerusalem và lái xe theo đường Bab al-Wab đến đại lộ King Saul. Các buổi thẩm vấn được tiến hành tại hội trường nằm ở tầng trên cùng để Lev không phải đi xa nếu anh muốn ghé qua theo dõi. Gabriel, dĩ nhiên, là nhân vật trung tâm. Thái độ và những hành vi của anh, kể từ lúc trở về biên chế chính thức của Văn phòng cho tới khi thoát hiểm ở ga Lyon được mổ xẻ cặn kẽ như dưới kính hiển vi vậy. Trái với những tiên đoán bi quan của Shamron, đã không có cuộc “bức tử” nào xảy ra. Các kết quả điều tra phần lớn đều có thể xác định trước, và ngay từ đầu Gabriel đã thấy rằng anh sẽ không bị biến thành vật tế thần. Đây là một sai sót của tập thể, các thành viên của ủy ban điều tra dường như muốn nói như vậy. Gabriel nhận ra điều đó, thông qua giọng điệu trong những câu nói của họ, rằng một lỗi lầm có thể tha thứ được nếu một điệp viên buộc phải hành động liều lĩnh để tránh những thiệt hại thảm khốc về nhân mạng. Mặc dù vậy, đôi khi các câu hỏi vẫn trở thành những lời chỉ trích. Chẳng lẽ Gabriel không mảy may nghi ngờ về động cơ của Mahmoud Arwish? Cũng như không hề nghi ngờ lòng trung thành của David Quinnell? Liệu sự việc có diễn tiến theo chiều hướng khác hay không nếu anh nghe lời các cộng sự ở Mác-xây và trở về thay vì đi theo ả người Palestine đó? Và nếu vậy, thì ít nhất kế hoạch của Khaled nhằm hủy hoại uy tín của Văn phòng đã không thể thành công. “Các ngài nói đúng”, Gabriel trả lời, “và vợ tôi sẽ chết, cùng với nhiều người vô tội khác nữa”.

Lần lượt, những người liên quan khác cũng bị lôi ra trước ủy ban, đầu tiên là Yossi và Rimona, rồi tới Yaakov và cuối cùng là Dina, người đã có những khám phá đầu tiên đưa tới cuộc điều tra về Khaled. Gabriel cảm thấy đau đớn khi phải chứng kiến họ ngồi vào ghế bị cáo. Sự nghiệp của anh đã kết thúc, nhưng đối với những người khác, sau vụ Khaled, giờ đây khi đã bị công khai rộng rãi, sẽ để lại một vết nhơ không bao giờ có thể gột rửa trong hồ sơ của họ.

Đến cuối buổi chiều, khi ủy ban đã giải tán, anh lái xe đến bệnh viện Mount Herzl để thăm Leah. Đôi khi họ ngồi cùng nhau trong phòng của cô; và đôi khi, nếu trời vẫn còn sáng, anh sẽ đặt cô lên một chiếc xe lăn và đẩy cô đi chầm chậm quanh sân. Cô không bao giờ nhận lầm anh và luôn luôn nói được vài lời với anh. Những chuyến đi ảo giác của cô đến Vienna trở nên ít hơn, mặc dù anh không bao giờ biết đích xác vợ mình đang nghĩ gì.

“Dani được chôn ở đâu hả anh?”, một lần cô chợt hỏi, khi họ đang ngồi dưới tán lá xòe rộng của một cây thông.

“Trên núi Ôliu”.

“Lúc nào đó anh đưa em đến thăm con được không?”

“Nếu bác sĩ cho phép”.

Một lần, Chiara theo anh đến bệnh viện. Khi họ vào trong, nàng ngồi chờ ở hành lang và bảo Gabriel vào phòng một mình.

“Em có muốn gặp cô ấy không?”. Chiara chưa bao giờ gặp Leah.

“Không”, nàng đáp, “em nghĩ tốt hơn em nên chờ ở đây. Không phải vì em mà vì chị ấy”.

“Cô ấy sẽ chẳng biết đâu”.

“Chị ấy sẽ biết, Gabriel ạ. Phụ nữ luôn luôn cảm nhận được nếu người đàn ông của họ yêu người khác”.

Họ không bao giờ tranh luận về chuyện của Leah lần nào nữa. Trận chiến của họ, kể từ đó về sau, trở thành một chiến dịch ngầm, mở đầu bằng sự im lặng kéo dài và kết thúc với những lời bóng gió đầy ẩn ý. Chiara không bao giờ đi ngủ mà quên kiểm tra xem những giấy tờ trên đầu giường đã được ký hay chưa. Cách ân ái của nàng cũng ngầm mang vẻ phản kháng như sự im lặng của nàng vào ban ngày. Thân thể em còn nguyên vẹn đây này, dường như nàng muốn nói với anh. Em mới là thực tại. Leah chỉ là ký ức mà thôi.

Căn hộ trở nên ngột ngạt, nên họ quyết định ra ngoài ăn. Có tối họ tản bộ dọc theo đường Ben-Yehuda. Có tối họ đến Mona, một nhà hàng thời thượng, tọa lạc ngay dưới tầng hầm khu giảng đường cũ của Học viện Nghệ thuật Bezalel. Một buổi tối khác, họ lái xe xuôi theo đường cao tốc Số 1 đến Abu Ghosh, một trong những ngôi làng Arập hiếm hoi ven đường còn tồn tại sau những cuộc trục xuất trong Chiến dịch Dalet. Họ ăn món khai vị thịt gà nấu đậu và món sườn cừu nướng ở một nhà hàng lộ thiên ngay tại sân làng, và trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, họ hình dung ra mọi sự đã có thể khác biệt đến mức nào nếu ông nội của Khaled không biến con đường này thành một khu vực giết chóc. Chiara kỷ niệm dịp này bằng cách mua tặng Gabriel một chiếc vòng tay đắt tiền của một xưởng chế tác trang sức bạc trong làng. Buổi tối hôm sau, trên đường King George, nàng mua cho anh một chiếc đồng hồ bằng bạc để đi đôi với chiếc vòng. Những vật kỷ niệm, nàng gọi chúng như thế là những vật để nhắc anh nhớ về em.

Khi họ về đến nhà đêm hôm đó, có một tin nhắn mới trong máy trả lời tự động. Gabriel bấm nút phát lại và nghe giọng nói của Dina Sarid, cô báo với anh rằng cô đã tìm ra một người từng có mặt trong đêm làng Sumayriyya thất thủ.

Chiều hôm sau, khi ủy ban tạm nghỉ, Gabriel lái xe đến đường Sheinkin đón Dina và Yaakov ở một tiệm cà phê ngoài trời. Họ đi về phía bắc theo con đường cao tốc dọc bờ biển, xuyên qua lớp bụi màu vàng đỏ, qua Herzliyya và Netanya. Khi đến cách Caesarea vài dặm, những triền dốc của núi Carmel xuất hiện trước mắt họ. Họ đi vòng qua vịnh Haifa, tiến thẳng về Akko. Gabriel, trong khi tiếp tục lái xe về phía bắc đến Nahariyya, chợt nghĩ về chiến dịch Ben-Ami - cái đêm mà một đoàn xe bọc thép của Haganah hành quân ngay trên con đường này với mệnh lệnh phá hủy các làng mạc của người Arập ở vùng Tây Galilee. Đúng lúc đó anh thoáng thấy một cấu trúc hình tháp kỳ lạ, cứng đờ và trắng toát, nổi bật trên tấm thảm xanh của một vườn cam. Gabriel biết công trình xây dựng lạ lùng đó là đài tưởng niệm các trẻ em đã thiệt mạng ở Yad Layeled, một đài tưởng niệm về Holocaust của khu định cư Lohamei Ha’Getaot. Khu định cư này được thành lập sau chiến tranh bởi những người còn sống sót qua cuộc nổi dậy của người Do Thái ở Warsaw. Ngay bên rìa của khu định cư, và khuất trong đám cỏ dại cao ngất, là những tàn tích của ngôi làng Sumayriyya.

Anh rẽ vào đường nội bộ và vào sâu trong khu định cư. Bóng tối nhanh chóng ập xuống khi họ vừa đến al-Makr. Gabriel dừng lại trên đường cái, vẫn để xe nổ máy, bước vào một quán cà phê và hỏi người chủ quán đường đến nhà Hamzah al-Samara. Câu hỏi của anh được đáp lại bằng sự im lặng khi người đàn ông Arập nhìn Gabriel bằng ánh mắt lạnh lùng từ bên kia quầy bar. Rõ ràng anh ta cho rằng vị khách người Do Thái là một nhân viên Shabak, Gabriel chẳng buồn cải chính. Người Arập dẫn Gabriel trở ra đường và mô tả đường đi cho anh bằng một loạt những chỉ trỏ và điệu bộ.

Đó là ngôi nhà to nhất trong làng. Có vẻ như nhiều thế hệ nhà al-Samara cùng chung sống ở đây, vì có một số trẻ nhỏ đang chơi đùa trong khoảng sân đầy bụi bặm. Ngồi giữa chúng là một cụ già. Ông cụ mặc một chiếc áo galabia dài màu xám, đội khăn kaffiyeh trắng và đang hút thuốc lá bằng một ống điếu. Gabriel và Yaakov đứng bên phía trống trải của khoảng sân và chờ được phép vào trong. Dina ở lại trên xe; vì Gabriel biết rằng ông cụ sẽ không bao giờ muốn nói chuyện thẳng thắn khi có sự hiện diện của một người phụ nữ Do Thái để đầu trần.

Già al-Samara nhìn lên và ra hiệu cho họ chờ bằng một cái phẩy tay. Ông nói vài lời với đứa trẻ lớn nhất, vài giây sau, hai chiếc ghế nữa được mang ra. Rồi một người phụ nữ, có lẽ là con gái cụ, bưng ra ba tách trà. Tất cả diễn ra trước khi Gabriel kịp giải thích cho ông cụ về lý do của chuyến viếng thăm. Họ ngồi im lặng trong giây lát, nhấp một ngụm trà và lắng nghe tiếng ve sầu râm ran ở những cánh đồng xung quanh. Một con dê lon ton chạy vào sân và ủi nhẹ đầu vào mắt cá chân Gabriel. Một cậu bé, mặc áo thụng dài và đi chân đất, kêu xùy xùy để đuổi con vật ra ngoài. Thời gian dường như đã dừng lại. Nếu không có ánh đèn điện chiếu ra từ ngôi nhà, và không có chiếc ăng-ten chảo để thu sóng từ vệ tinh gắn trên mái nhà, Gabriel sẽ dễ dàng tưởng tượng rằng người Palestine vẫn còn cai trị nơi này.

“Tôi đã làm gì sai à?”, ông cụ hỏi bằng tiếng Arập. Đó là câu hỏi cửa miệng của nhiều người Arập khi đối diện với những người khách không mời mà đến của chính quyền khi họ gõ cửa nhà họ.

“Không”, Gabriel nói, “chúng tôi chỉ muốn nói chuyện”.

“Về việc gì?”

Ông cụ, sau khi nghe Gabriel nói, kéo một hơi thuốc dài tỏ vẻ trầm ngâm. Ông có đôi mắt màu xám sâu thẳm và một bộ ria mép tỉa khéo. Đôi chân mang xăng-đan như thể chưa bao giờ biết viên đá chà chân là vật gì.

“Anh từ đâu đến?”, ông cụ hỏi.

“Thung lũng Jezreel”, Gabriel đáp.

Già al-Samara gật đầu chầm chậm. “Còn trước đó?”

“Cha mẹ tôi đến từ Đức”.

Đôi mắt xám dịch chuyển từ Gabriel sang Yaakov.

“Còn anh?”

“Hadera”.

“Trước đó?”

“Nước Nga”.

“Người Đức và người Nga”, già al-Samara vừa nói vừa lắc đầu. “Nếu không vì người Đức và người Nga, thì bây giờ tôi vẫn đang sống ở Sumayriyya, thay vì ở al-Makr này”.

“Ông đã có mặt trong đêm làng Sumayriyya thất thủ phải không?”

“Không hẳn. Lúc đó tôi đang đi dạo trên một cánh đồng gần làng”. Ông dừng lại và thêm vào một cách bí ẩn. “Với một cô gái”.

“Và khi cuộc pháo kích bắt đầu?”

“Chúng tôi nấp trong cánh đồng và nhìn theo gia đình mình chạy về hướng bắc sang Libăng. Chúng tôi chứng kiến lính Do Thái đặt chất nổ giật sập nhà chúng tôi. Cả ngày hôm sau chúng tôi vẫn trốn ngoài đồng. Khi trời tối, chúng tôi chạy bộ đến đây, đến làng al-Makr này. Những người còn lại trong gia đình tôi, cha mẹ tôi, và các anh chị em, đều chạy sang Libăng”.

“Còn cô gái đã ở cùng ông trong đêm đó?”

“Cô ta trở thành vợ tôi”. Một hơi thuốc dài nữa. “Tôi cũng là một người lưu vong - một người lưu vong tại chỗ. Tôi vẫn còn giữ khế ước đất đai của cha tôi ở làng Sumayriyya, nhưng tôi không thể trở về đó. Người Do Thái đã tịch thu nó và chẳng bao giờ nghĩ đến việc đền bù thiệt hại cho tôi. Tưởng tượng mà xem, một khu định cư Do Thái được những người sống sót qua cuộc Holocaust dựng lên ngay trên đống đổ nát của một ngôi làng Arập”.

Gabriel nhìn quanh ngôi nhà lớn. “Ông tự lo liệu cho mình quá tốt còn gì”.

“Dĩ nhiên là cuộc sống của tôi khá hơn nhiều so với những người phải sống lưu vong. Lẽ ra tất cả chúng tôi đều đã có được những thứ này nếu chiến tranh không nổ ra. Tôi không đổ lỗi cho các anh vì những mất mát của mình. Tôi trách những nhà lãnh đạo của chúng tôi. Nếu Haj Amin và những người khác chấp nhận việc phân chia lãnh thổ, thì miền Tây Galilee đã trở thành một phần của Palestine. Nhưng họ chọn chiến tranh, và đến khi thua trận thì họ khóc lóc rằng người Arập chỉ là những nạn nhân. A’one cũng làm y như thế ở Trại David, phải không? Ông ta ngoảnh mặt làm ngơ trước một cơ hội phân chia đất đai, ông ta châm ngòi một cuộc chiến khác, và đến khi người Do Thái đánh trả, ông ta lại bù lu bù loa rằng mình là nạn nhân. Chẳng biết bao giờ chúng tôi mới khôn ra?”

Con dê quay trở lại. Lần này thì già al-Samara quất cho nó một cú vào mũi bằng cái tẩu thuốc.

“Chắc chắn là các anh chẳng lặn lội đến đây để nghe câu chuyện của một lão già”.

“Tôi đang tìm một gia đình ở cùng làng với ông, nhưng tôi không biết tên của họ”.

“Chúng tôi đều biết nhau rất rõ”, Già al-Samara nói. “Nếu bây giờ chúng ta đi qua những phế tích của làng Sumayriyya, tôi có thể chỉ cho anh nhà của tôi - và nhà của bạn bè tôi, nhà của các anh em họ của tôi nữa. Hãy nói vài điều gì đó về gia đình mà anh cần tìm, tôi sẽ cho anh biết tên của họ”.

Gabriel kể cho cụ nghe những điều mà ả người Palestine đã nói với anh trong những dặm đường cuối cùng trước khi về đến Paris - rằng ông nội của ả là một bậc trưởng lão trong làng, tuy không phải là muktar nhưng vẫn là một người quan trọng, và ông ta sở hữu 60.000 m2 đất cùng với một đàn dê lớn. Ông ta có ít nhất một người con trai. Sau khi Sumayriyya thất thủ, họ chạy về phía bắc, đến Ein al-Hilweh ở Libăng. Già al-Samara lắng nghe những lời mô tả của Gabriel một cách chăm chú nhưng có vẻ hơi lúng túng. Ông gọi vọng vào nhà. Một bà lão, cũng già như ông, xuất hiện ở cửa. Đầu của bà được che kín bởi một chiếc khăn choàng. Bà chỉ nói chuyện với al-Samara, cẩn thận tránh ánh mắt của Gabriel và Yaakov.

“Anh chắc chắn là 60.000 m2 đất?” ông cụ hỏi. “Không phải ba mươi, hoặc hai mươi, mà là sáu mươi?”

“Đó là những gì tôi nghe được”.

Ông cụ lại rít tẩu thuốc một cách trầm ngâm. “Anh nói đúng”, ông ta nói. “Gia đình đó đã dừng chân ở Libăng, ở Ein al-Hilweh. Mọi thứ trở nên tồi tệ đối với họ trong suốt cuộc nội chiến Libăng. Bọn trai tráng trong gia đình đó đều trở thành chiến binh. Họ đã chết cả, theo như những gì mà tôi nghe được”.

“Ông có biết họ tên của gia đình đó không?”

“Đó là gia đình al-Tamari. Nếu anh gặp bất cứ ai trong số họ, nhớ chuyển lời hỏi thăm của tôi. Nói với họ rằng tôi đang sống trong nhà của họ. Nhưng đừng kể rằng chúng tôi đã xây dựng nó khang trang như thế nào. Nó sẽ chỉ làm họ thêm đau khổ mà thôi”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34


TEL AVIV

Ein al-Hilweh? Mẹ kiếp, anh bị điên rồi hả?”

Đó là vào sáng sớm hôm sau. Lev đang ngồi bên chiếc bàn kính trống không của ông; tách cà phê đang được ông đưa lên miệng bỗng khựng lại nửa chừng. Gabriel đã lẻn vào Văn phòng khi cô thư ký của Lev vào nhà vệ sinh. Lát nữa, khi Gabriel đi khỏi, cô gái đáng thương sẽ bị mắng tơi tả vì tội lơ là cảnh giác.

“Ein al-Hilweh là vùng cấm địa, chấm hết, ngừng thảo luận. Tình hình ở đó hiện nay còn tệ hơn cả hồi năm 1982. Có đến nửa tá tổ chức khủng bố Hồi giáo mở tiệm kinh doanh ở đó. Đó không phải là nơi đi dạo - nhất là với một điệp viên đã được đăng ảnh chân dung đầy trên báo Pháp”.

“Vậy thì một người khác sẽ phải đi”.

“Thậm chí anh còn không biết chắc lão già đó còn sống hay không”.

Gabriel cau mày, anh ngồi xuống một trong những chiếc ghế bọc da bóng mượt êm ái phía trước bàn của Lev mà không cần đợi ông ta mời.

“Nhưng nếu lão còn sống, lão có thể cho chúng ta biết đứa con gái của lão đã đi đâu sau khi ả rời khỏi trại tập trung”.

“Có thể”, Lev đồng ý, “nhưng cũng có thể lão chẳng biết gì cả. Hiển nhiên là Khaled sẽ bảo đứa con gái nói dối gia đình vì lý do an ninh. Dựa trên tất cả những gì chúng ta đã biết, toàn bộ câu chuyện về ngôi làng Sumayriyya có thể chỉ là bịa đặt”.

“Ả chẳng có lý do gì để nói dối tôi”, Gabriel nói. “Ả nghĩ rằng tôi sắp bị giết”.

Lev trầm ngâm một lúc lâu bên tách cà phê của mình. “Có một gã ở Beirut có thể giúp chúng ta trong vụ này. Tên hắn là Nabil Azouri”.

“Câu chuyện của hắn là thế nào?”

“Hắn là kẻ mang hai dòng máu Libăng và Palestine. Công việc làm ăn nào hắn cũng nhúng tay vào một chút. Làm phóng viên nghiệp dư cho vài hãng tin phương Tây. Sở hữu một hộp đêm. Thực hiện vài phi vụ buôn lậu vũ khí lẻ tẻ và thỉnh thoảng nhận vận chuyển thuốc lá ha-sít qua đường biển. Tất nhiên là hắn còn làm việc cho chúng ta nữa”.

“Tại sao hắn làm việc cho chúng ta?”

“Vì tiền, lẽ dĩ nhiên. Nabil mê tiền”.

“Chúng ta liên lạc với hắn bằng cách nào?”

“Chúng ta sẽ để lại một tin nhắn điện thoại tại hộp đêm của hắn ở Beirut và một vé máy bay ở chỗ người bảo vệ khách sạn Commodore. Chúng ta hiếm khi làm việc với Nabil trên địa bàn của hắn”.

“Hắn thường đi đâu?”

“Đảo Síp”, Lev trả lời. “Nabil cũng mê đảo Síp”.

Ba ngày sau, Gabriel đã sẵn sàng lên đường. Văn phòng đã sắp đặt cuộc hẹn cho anh. Larnaca là một điểm du lịch phổ biến của người Israel, nên không cần sử dụng hộ chiếu giả của nước ngoài. Tuy vậy, việc đi lại với tên thật của anh là không thể, nên Văn phòng đã làm cho anh một bộ giấy tờ tùy thân với quốc tịch Israel và một cái tên không có gì đặc biệt là Michael Neumann. Một ngày trước khi khởi hành, Văn phòng đã dành cho anh khoảng một giờ đồng hồ nghiên cứu các hồ sơ về Nabil Azouri trong một phòng đọc bí mật. Khi anh nghiên cứu xong, họ trao cho anh một phong bì chứa mười ngàn đôla Mỹ tiền mặt và chúc anh may mắn. Sáng hôm sau, đúng 7 giờ, anh đáp chuyến bay kéo dài hơn một giờ của hãng El Al cất cánh tại phi trường Ben-Gurion để đến đảo Síp. Khi đến nơi, anh thuê một chiếc xe hơi tại sân bay và lái một đoạn đường ngắn dọc theo bờ biển để đến một khu nghỉ mát mang tên khách sạn Palm Beach. Một tin nhắn gửi từ đại lộ King Saul đang đợi anh ở đó. Nabil Azouri sẽ đến vào buổi chiều. Gabriel ở trong phòng trong suốt phần còn lại của buổi sáng, và sau đó, không lâu sau khi đồng hồ báo một giờ trưa, anh xuống nhà hàng cạnh bể bơi để dùng bữa trưa. Azouri đã đặt một chỗ ở đó. Một chai sâm-banh Pháp đắt tiền, đã cạn gần phân nửa, đang yên vị trong một chiếc xô ướp đá bằng bạc.

Gã có mái tóc xoăn sẫm màu, một vài sợi đã điểm bạc, và một bộ ria rậm. Khi gã tháo cặp kính râm, Gabriel thấy xuất hiện trước mặt anh một đôi mắt to màu nâu trễ nải giống như ngái ngủ. Trên cổ tay trái của gã là một chiếc đồng hồ vàng chật cứng; còn trên cổ tay phải, những chiếc lắc vàng va vào nhau lanh canh khi gã nhấc ly sâm-banh đưa lên môi. Gã mặc một chiếc sơmi vải cotton màu kem. Cái quần lụa bóng của gã đã bị nhàu sau chuyến bay từ Beirut đến. Gã đốt một điếu thuốc lá Mỹ bằng một chiếc bật lửa vàng và lắng nghe lời đề nghị của Gabriel.

“Ein al-Hilweh? Mẹ kiếp, bộ anh khùng rồi hả?”

Gabriel đã dự đoán trước phản ứng này. Azouri coi mối quan hệ với cơ quan tình báo Israel cũng chỉ như mọi mối làm ăn khác của gã. Gã là một tay thương lái, còn Văn phòng là khách hàng. Mặc cả là một phần không thể thiếu của quá trình mua bán. Gã thương nhân Libăng chồm người về phía trước và đóng khung Gabriel trong ánh mắt buồn ngủ của mình.

“Gần đây anh có xuống khu đó không? Nó giống hệt như miền tây hoang dã, dĩ nhiên là theo kiểu Khomeini. Nó đã biến thành địa ngục từ khi các anh rút quân ra. Toàn bọn sát thủ mặc đồ đen, sáng danh đấng Allah vô cùng nhân từ. Người ngoài đừng hòng có cơ hội bén mảng vào trong. Khó lắm, Mike ạ. Hãy uống chút sâm-banh với tôi và quên nó đi”.

“Nhưng anh đâu phải người ngoài, Nabil. Anh biết tất cả mọi người, anh có thể đến bất cứ đâu. Đó là lý do chúng tôi trả công cho anh hậu hĩ như thế”.

“Chỉ là tiền 'boa' thôi, Mike, đó là tất cả những gì tôi nhận được từ Văn phòng của anh - chỉ đủ mua thuốc lá, sâm-banh và dư chút đỉnh để tiêu vào khoản em út”.

“Khoản em út của anh có vẻ cao cấp quá nhỉ, Nabil, vì tôi đã xem qua tập chi phiếu chi cho anh. Anh đã kiếm được một khoản không tồi chút nào từ mối quan hệ làm ăn với chúng tôi”.

Azouri giơ ly rượu về phía Gabriel. “Chúng ta hợp tác làm ăn rất tốt, Mike. Tôi không phủ nhận chuyện đó. Tôi rất khoái tiếp tục cộng tác với các anh. Đó là lý do anh sẽ phải tìm người khác chui vào cái ổ rắn độc Ein al-Hilweh cho anh. Nó không tốt cho máu của tôi. Quá nguy hiểm”.

Azouri ngoắc anh bồi và gọi thêm một chai sâm-banh Pháp nữa. Việc từ chối một lời đề nghị làm ăn rõ ràng không ngăn được hắn thưởng thức một bữa ăn ngon bằng hóa đơn của Văn phòng. Gabriel quẳng chiếc phong bì lên mặt bàn. Azouri nhìn nó bằng ánh mắt cân nhắc nhưng vẫn không nhúc nhích.

“Trong đó có bao nhiêu vậy Mike?”

“Hai ngàn”.

“Đơn vị tiền tệ?”

“Đôla Mỹ”.

“Vậy thỏa thuận là gì? Một nửa tạm ứng trước, một nửa khi giao hàng? Buồn cười thật. Tôi chỉ là một gã Arập ngốc nghếch nhưng nếu chỉ vì hai ngàn cộng với hai ngàn là bốn ngàn, thì tôi sẽ không liều mạng đặt chân đến Ein al-Hilweh đâu”.

“Hai ngàn này chỉ là tiền đặt cọc”.

“Và thêm bao nhiêu khi tin tức được giao?”

“Năm ngàn nữa”.

Azouri lắc đầu. “Không, mười ngàn nữa”.

“Sáu”.

Lại một cái lắc đầu. “Chín”.

“Bảy”.

“Tám”.

“Đồng ý”, Gabriel nói. “Hai ngàn trả trước, thêm tám ngàn sau khi mọi chuyện hoàn tất. Không tồi đối với một công việc chỉ làm trong một buổi chiều. Nếu anh tỏ ra biết điều, chúng tôi sẽ thanh toán cả tiền xăng cho anh ấy”.

“Ồ, tất nhiên là các anh trả tiền xăng rồi, Mike ạ. Thù lao của tôi luôn luôn tách biệt với các khoản chi phí”. Người bồi bàn mang chai sâm-banh thứ hai lên. Khi anh ta đi khỏi, Azouri hỏi. “Vậy anh muốn biết gì nào?”

“Tôi muốn anh tìm một người”.

“Có bốn mươi lăm ngàn người tị nạn sống trong cái trại ấy, Mike ạ. Cho biết thêm chút manh mối đi”.

“Đó là một ông già mang họ al-Tamari”.

“Tên?”

“Chúng tôi không biết”.

Azouri nhấp một ngụm rượu. “Cái họ này không quá phổ biến. Không sao. Anh còn có thể cho tôi biết thêm điều gì về lão?”

“Ông ta là một người tị nạn đến từ vùng Tây Galilee”.

“Hầu hết bọn họ đều thế. Từ làng nào?”

Gabriel trả lời.

“Chi tiết gia đình?”

“Có hai con trai chết trận năm 1982”.

“Ở trong trại hả?”

Gabriel gật đầu. “Chúng là người của Fatah. Hình như vợ lão cũng thiệt mạng”.

“Hay đấy. Tiếp đi”.

“Lão có một đứa con gái. Ả lớn lên ở châu Âu. Tôi muốn biết mọi điều mà anh có thể lần ra về cô ả. Ả từng học ở đâu. Học ngành gì. Sống ở nơi nào. Ngủ với ai?”

“Tên cô ả là gì?”

“Tôi không biết”.

“Tuổi?”

“Ngoài ba mươi, chắc chắn. Nói giọng Pháp”.

“Sao anh phải tìm thông tin về cô ta?”

“Chúng tôi cho rằng ả có thể liên quan đến vụ tấn công nhà ga Lyon”.

“Cô ta còn sống không?”

Gabriel lắc đầu. Azouri nhìn ra bãi biển một lúc lâu. “Và các anh nghĩ bằng cách lần theo tiểu sử của cô ả, các anh sẽ tóm được ông trùm, tóm được bộ não đứng đằng sau vụ khủng bố đó?”

“Đại loại thế, Nabil”.

“Tôi nên chơi theo kiểu gì với lão già đây?’

“Bất cứ kiểu gì mà anh muốn”, Gabriel nói. “Miễn là mang về cho tôi thứ tôi cần”.

“Cô gái này”, gã người Libăng nói. “Trông cô ta ra sao?”

Gabriel đưa cho Azouri cuốn tạp chí mà anh mang theo từ phòng khách sạn. Azouri lật từng trang cho tới khi nhìn thấy bức phác họa mà Gabriel đã vẽ trên tàu Fidelity.

“Cô ta trông như thế đấy”, Gabriel nói. “Chính xác như thế”.

Trong suốt ba ngày anh không nghe tin tức gì của Nabil Azouri. Anh chỉ có thể đoán rằng gã người Libăng đã bỏ trốn cùng số tiền đặt cọc hoặc đã bị giết trong khi cố gắng thâm nhập vào trại tị nạn Ein al-Hilweh. Thế rồi, vào buổi sáng ngày thứ tư, chuông điện thoại trong phòng anh reo vang. Chính là Azouri, gọi từ Beirut. Hắn thông báo sẽ đến khách sạn Palm Beach vào giờ ăn trưa. Gabriel gác máy, rồi đi bộ ra bãi biển và đi dạo một đoạn dài dọc theo mép nước. Những vết bầm tím trên người anh bắt đầu mờ đi và phần lớn những cơn đau nhức đã rút lui khỏi thân thể anh. Sau cuộc đi dạo, anh trở về phòng để tắm và thay quần áo. Đến khi anh xuống nhà hàng cạnh bể bơi, Azouri đã thưởng thức ly sâm-banh thứ hai.

“Đúng là một nơi chó chết, Mike ạ. Địa ngục trần gian”.

“Tôi không trả anh mười ngàn đôla để nghe báo cáo về điều kiện sống ở trại Ein al-Hilweh”, Gabriel nói. “Đó là việc của Liên Hiệp Quốc. Anh có tìm được lão già không? Lão còn sống không?”

“Tôi đã tìm thấy lão”.

“Và?”

“Đứa con gái rời Ein al-Hilweh vào năm 1990, chưa một lần trở lại”.

“Tên ả là gì?”

“Fellah”, Azouri đáp. “Fellah al-Tamari”.

“Ả đã đi đâu?”

“Có vẻ như đó là một° đứa con gái thông minh. Ả xin được học bổng của Liên Hiệp Quốc sang học ở châu Âu. Lão già bảo con gái hãy nắm lấy cơ hội đó và đừng bao giờ trở lại Libăng”.

“Ả đã học ở đâu?” Gabriel hỏi, mặc dù anh ngờ rằng anh đã biết câu trả lời.

“Pháp”, Azouri nói. “Đầu tiên ở Paris, sau đó là đâu đó ở miền nam. Lão già cũng không biết chắc. Hình như có những khoảng thời gian dài họ không liên lạc với nhau”.

“Chắc chắn rồi”.

“Lão có vẻ không trách móc gì con gái. Lão muốn ả có được một cuộc sống tốt hơn ở châu Âu. Lão không muốn ả bị chôn vùi trong bi kịch của người Palestine, theo lời lão tâm sự với tôi”.

“Ả chẳng bao giờ quên Ein al-Hilweh”, Gabriel nhận xét một cách lơ đễnh. “Ả học ngành gì?”

“Khảo cổ”.

Gabriel nhớ lại những chiếc móng tay của ả. Ngay từ đầu anh đã có ấn tượng rằng ả phải là thợ làm đồ gốm hoặc một công việc nào đó ngoài trời. Một nhà khảo cổ tất nhiên là phù hợp với những chiếc móng tay đó.

“Khảo cổ à? Anh chắc chứ?”

“Về điểm này thì lão già nói rất chắc chắn”.

“Còn gì khác nữa không?”

“Còn”. Azouri trả lời. “Hai năm trước, đứa con gái gửi cho lão một bức thư rất lạ. Ả bảo lão tiêu hủy tất cả thư từ và ảnh mà ả đã gửi về từ châu Âu trong suốt mấy năm qua. Lão già không chịu làm theo nguyện vọng của đứa con gái. Vì những lá thư và ảnh đó là tất cả những gì còn lại về ả. Vài tuần sau, một tên đầu trâu mặt ngựa xuất hiện trong phòng lão và đốt tất cả những thứ đó giùm lão”.

Bạn của Khaled, Gabriel nghĩ. Khaled đã cố xóa sạch quá khứ của cô ả.

“Anh đã khai thác thông tin từ lão già theo kiểu nào thế?”

“Anh đã có thông tin mà anh muốn. Hãy chừa lại những chi tiết vụn vặt đó cho tôi, Mike”.

“Anh có cho lão xem bức phác họa không?”

“Có. Lão khóc. Lão đã không trông thấy đứa con gái trong suốt mười lăm năm qua”.

Một tiếng đồng hồ sau, Gabriel trả phòng khách sạn và lái xe ra phi trường chờ chuyến bay đêm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35


TEL MEGIDDO, ISRAEL

Sáng hôm sau Gabriel đến Armageddon.

Anh để lại chiếc Skoda trong khu đậu xe khách du lịch và leo bộ lên đỉnh đồi theo con đường ngập trong ánh nắng thiêu đốt. Anh dừng lại một lát để phóng tầm mắt ra xa, bao quát cả thung lũng Jezreel. Với Gabriel, thung lũng này chỉ là nơi chôn nhau cắt rốn, nhưng các nhà nghiên cứu Kinh Thánh và những người bị ám ảnh bởi những lời tiên tri về ngày tận thế thì tin rằng đó là nơi sẽ diễn ra cuộc đối đầu được mô tả trong Sách Khải Huyền giữa các thế lực thiện và ác. Cho dù định mệnh sẽ dành cho nó tai ương nào, thì Tel Megiddo cũng đã chứng kiến rất nhiều cuộc tắm máu. Nằm ngay tại giao lộ giữa Syria, Ai Cập và Mesopotamia, đây là nơi đã diễn ra hàng chục trận chiến lớn trong khoảng một thiên niên kỷ. Người Assyria, Israel cổ, Canaan, Ai Cập, Hy Lạp, La Mã và các hiệp sĩ thập tự chinh - tất cả đều đã tưới máu lên ngọn đồi này. Napoleon đánh bại quân Ottoman ở đây năm 1799, và hơn một thế kỷ sau, Tướng Allenby của quân đội Anh quốc đánh bại họ một lần nữa.

Đất trên đỉnh đồi bị cắt xẻ nát bét bởi một mê hồn trận những đường hào và căn hầm. Tel Megiddo đã phải chịu đựng những cuộc khai quật khảo cổ gián đoạn trong hơn một thế kỷ qua. Đến nay, các nhà nghiên cứu đã khám phá ra những bằng chứng cho thấy thành phố tọa lạc trên đỉnh ngọn đồi này đã bị phá hủy và được xây dựng lại khoảng hai mươi lăm lần. Ngay lúc này cũng đang có một cuộc khai quật diễn ra. Từ một trong những đường hào vẳng lên những câu tiếng Anh theo giọng Mỹ. Gabriel bước tới gần và nhìn xuống. Hai sinh viên đại học người Mỹ, một nam một nữ, đang lom khom chăm chú quan sát một vật gì đó chìm trong đất. Hình như là những mẩu xương, Gabriel thầm đoán.

“Xin chào. Tôi muốn tìm Giáo sư Lavon”.

“Sáng nay Giáo sư làm việc ở khu K”. Cô gái trả lời anh.

“Tôi chưa hiểu”.

“Các đường hào ở đây tạo thành một mạng lưới. Mỗi ô trong mạng lưới đó được ký hiệu bằng một mẫu tự. Bằng cách đó chúng tôi có thể nhanh chóng xác định vị trí của mọi hiện vật tìm được. Anh đang đứng cạnh khu F. Anh thấy tấm biển chứ? Giáo sư Lavon đang làm việc ở khu K”.

Gabriel tìm đường sang căn hầm có tấm biển đề chữ K và nhìn xuống. Dưới đáy hầm, sâu hai mét so với mặt đất, có một người nhỏ thó đội chiếc mũ rơm rộng vành đang gần như nằm bò ra đất. Anh ta dùng một chiếc cuốc chim nhỏ cạo trên lớp đất cứng và có vẻ đang dồn hết tâm trí vào công việc của mình.

“Tìm thấy gì thú vị không, Eli?”

Chiếc cuốc chim dừng lại. Người ở dưới hố ngoảnh đầu và ngước nhìn lên.

“Chỉ vài mẩu đồ gốm vỡ”, anh đáp. “Còn anh thế nào?”

Gabriel thò tay xuống hầm. Eli Lavon nắm lấy tay Gabriel và leo lên.

Họ ngồi dưới bóng mát của một tấm vải dầu màu xanh dương và uống nước khoáng bên một cái bàn xếp. Gabriel, mắt nhìn ra thung lũng phía dưới, hỏi Lavon rằng anh đang làm gì ở Tel Megiddo.

“Có một trường phái phổ biến trong ngành khảo cổ học ngày nay chúng tôi gọi nó là trường phái lý giải lại Kinh Thánh. Những người theo trường phái này tin rằng Vua Solomon, cùng với những câu chuyện xung quanh ông ta, chỉ là huyền thoại, một kiểu vua Arthur của người Do Thái. Chúng tôi đang cố chứng minh là họ sai”.

“Vậy ông ấy có thật không?”

“Tất nhiên là có rồi”, Lavon đáp, “và ông đã cho xây một thành phố ngay tại đây, ở Megiddo”.

Lavon cởi chiếc mũ mềm ra và dùng nó phủi lớp bụi màu nâu xám đang bám trên quần kaki của mình. Như thường lệ, hình như anh đang mặc cùng một lúc tất cả trang phục mà anh sở hữu - Gabriel đếm được ba chiếc áo sơmi, với một chiếc khăn tay vải cotton màu đỏ buộc quanh cổ. Mái tóc muối tiêu rối bù và thưa của anh bay phất phơ trong một cơn gió nhẹ. Anh vén món tóc lơ thơ ra khỏi trán và nhìn Gabriel bằng đôi mắt nâu nhanh nhẹn và tinh anh.

“Anh vội đến làm việc ở một nơi nóng như đổ lửa thế này có hơi sớm quá không?”, Gabriel hỏi.

Lần trước Gabriel gặp Lavon lúc đang nằm trên giường bệnh ở° Trung tâm Y tế Hadassah.

“Tôi chỉ là nhân viên tình nguyện. Tôi làm việc vài tiếng đồng hồ lúc sáng sớm. Bác sĩ của tôi bảo đây là một phương pháp trị liệu tốt”. Lavon nhấp một ngụm nước khoáng. “Vả lại, tôi thấy nơi đây đã cho tôi một bài học giá trị về tính khiêm nhường”.

“Bài học gì vậy?”

“Người ta đến rồi đi khỏi nơi này, Gabriel ạ. Cách đây rất lâu, tổ tiên của chúng ta đã cai trị nó trong một thời gian ngắn. Bây giờ chúng ta lại cai trị nó. Nhưng rồi một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ ra đi. Câu hỏi duy nhất đặt ra là lần này chúng ta sẽ ở đây trong bao lâu, và chúng ta sẽ để lại cái gì cho những người giống như tôi khai quật trong tương lai? Tôi hy vọng không chỉ là những phế tích của một Hàng rào ngăn cách”.

“Tôi chưa sẵn sàng về vườn đâu, Eli”.

“Tôi cũng đoán thế. Anh là một gã bận rộn. Tôi có đọc về anh trên báo. Đó không phải là chuyện hay trong nghề của anh - chuyện được lên báo ấy”.

“Đó cũng là nghề của anh nữa”.

“Đã từng”, anh nói, “cách đây lâu lắm rồi”.

Vào tháng Chín năm 1972 khi Shamron tuyển mộ làm thành viên chiến dịch Cơn thịnh nộ của Chúa, anh đang là một nhà khảo cổ trẻ tuổi đầy triển vọng . Và Lavon trở thành mộtayin, nhân viên theo dõi. Anh đã lần theo các thành viên của tổ chức khủng bố Tháng Chín Đen và nghiên cứu mọi thói quen của chúng. Xét về mọi mặt, chính công việc của anh mới là công việc nguy hiểm nhất, bởi anh phải lộ diện trước bọn khủng bố trong nhiều ngày liền mà không có sự hỗ trợ nào. Công việc đó đã để lại cho anh chứng rối loạn thần kinh và những căn bệnh đường ruột mãn tính.

“Anh đã biết những gì về vụ này hả Eli?”

“Tôi nghe đồn anh đã về nước, và có dính líu gì đó với vụ đánh bom ở Rome. Rồi một đêm nọ Shamron đến nhà tôi và kể với tôi rằng anh đang truy đuổi con trai của Sabri. Chuyện đó có thật không? Có phải thằng nhóc Khaled là thủ phạm vụ Rome?”

“Hắn không còn là thằng nhóc nữa. Hắn đã làm vụ Rome, và hắn đã làm vụ ga Lyon. Thêm cả hai vụ Buenos Aires lẫn Istanbul trước đó”.

“Điều đó chẳng làm tôi ngạc nhiên. Máu khủng bố vẫn chảy trong huyết quản của Khaled. Hắn uống nó cùng với sữa mẹ”. Lavon lắc đầu. “Anh biết không, nếu tôi là người trông chừng anh ở Pháp, như ngày xưa, thì vụ rắc rối này đã chẳng xảy ra”.

“Có lẽ vậy, Eli”.

Những kỹ năng trên đường phố của Lavon đã trở thành huyền thoại. Shamron luôn nói rằng Eli Lavon có thể biến mất ngay khi đang bắt tay người khác. Mỗi năm một lần, anh đến Học Viện để truyền dạy những bí quyết nhà nghề của mình cho các thế hệ sau. Thực tế là tất cả những nhân viên theo dõi ở Mác-xây có thể đều đã từng ngồi dưới chân Lavon để nghe giảng.

“Vậy điều gì đã mang anh tới Armageddon?”

Gabriel đặt một tấm ảnh lên mặt bàn.

“Đẹp trai thật”, Lavon nhận xét. “Hắn là ai?”

Gabriel đặt một phiên bản thứ hai cũng của bức ảnh đó lên bàn. Bức ảnh này có thêm một nhân vật khác ngồi bên trái gã đàn ông nọ, chính là A’one.

“Khaled phải không?”

Gabriel gật đầu.

“Chuyện này có liên quan gì đến tôi?”

“Tôi nghĩ anh và Khaled có thể có vài điểm chung”.

“Ví dụ như?”

Gabriel nhìn ra những đường hào khai quật.

Một nhóm ba sinh viên Mỹ đến ngồi với họ dưới bóng của tấm bạt. Lavon và Gabriel cáo lui rồi đi bộ chầm chậm quanh khu vực khai quật. Gabriel kể cho Lavon nghe mọi thứ, bắt đầu từ hồ sơ của anh được phát hiện ở Milan và kết thúc với thông tin do Nabil Azouri mang về từ trại Ein al-Hilweh. Lavon lắng nghe mà không hỏi câu nào, nhưng Gabriel có thể thấy, qua đôi mắt nâu thông minh của Lavon, anh đã bắt đầu tạo lập các mối liên kết giữa các sự kiện và tìm kiếm những manh mối xa hơn để phục vụ cho cuộc truy lùng. Lavon còn hơn là một bậc thầy theo dõi tài ba. Cũng như Gabriel, Lavon là hậu nhân của những người còn sống sót qua cuộc Holocaust. Sau chiến dịch Cơn thịnh nộ của Chúa, anh định cư ở Vienna và mở một văn phòng điều tra nhỏ mang tên Văn phòng Điều tra Tội ác Thời chiến. Hoạt động dựa trên một nguồn ngân sách ít ỏi, nhưng anh đã truy ra tung tích hàng triệu đôla Mỹ tài sản của người Do Thái bị cướp đoạt và đóng vai trò then chốt trong việc vạch trần nhiều tỉ đôla Mỹ tiền có nguồn gốc mờ ám được ký gửi tại các ngân hàng Thụy Sỹ. Năm tháng trước, một quả bom phát nổ trong văn phòng của Lavon. Hai phụ tá của anh bị giết; còn Lavon bị thương nặng và đã hôn mê trong suốt nhiều tuần liền. Hung thủ đánh bom là tay sai của Erich Radek.

“Vậy là anh cho rằng Fellah al-Tamari biết về Khaled?”

“Tôi không nghi ngờ gì về điều đó”.

“Điều này có vẻ hơi khác thường. Để có thể náu mình trong bóng tối suốt ngần ấy năm, hắn phải là một kẻ cực kỳ thận trọng”.

“Đúng thế”, Gabriel tiếp lời, “nhưng hắn biết Fellah sẽ chết trong vụ đánh bom ở ga Lyon nên bí mật của hắn sẽ được bảo vệ. Cô ả phải lòng hắn, còn hắn đã lừa dối cô ta”.

“Tôi hiểu ý anh”.

“Nhưng bằng chứng thuyết phục nhất cho thấy bọn chúng quen nhau là những thông tin từ cha của cô ả. Fellah đã bảo ông già đốt những bức thư và hình ảnh do ả gửi về trong nhiều năm trước. Điều đó có nghĩa là Khaled chắc chắn đã xuất hiện trong những bức thư hoặc tấm ảnh đó”.

“Với tư cách là Khaled?”

Gabriel lắc đầu. “Nguy cơ còn lớn hơn thế nữa. Chắc chắn ả đã nhắc tới hắn bằng cái tên khác - cái tên tiếng Pháp của hắn”.

“Nghĩa là anh cho rằng Khaled làm quen với đứa con gái này một cách bình thường và sau đó mới tuyển mộ ả?”

“Đó là cách chơi của hắn”, Gabriel nói. “Đó cũng là cách chơi của cha hắn ngày xưa”.

“Chúng có thể quen nhau ở bất cứ đâu”.

“Hoặc cũng có thể chúng đã gặp nhau ở một nơi tương tự như nơi này”.

“Một bãi khai quật?”

“Ả là sinh viên khảo cổ. Có lẽ Khaled cũng thế. Hoặc có thể hắn là một Giáo sư, giống như anh”.

“Cũng có thể hắn chỉ là một gã Arập đẹp trai mà cô ả quen ở quán bar”.

“Chúng ta đã biết tên cô ả, Eli. Chúng ta biết ả từng là sinh viên và biết ả theo học ngành khảo cổ. Nếu chúng ta lần theo dấu vết của Fellah, nó sẽ dẫn chúng ta thẳng tới Khaled. Tôi cam đoan điều đó”.

“Vậy thì lần theo đi”.

“Vì những lý do hiển nhiên, tôi chưa thể trở lại châu Âu ngay được”.

“Vậy sao anh không chuyển hồ sơ cho Văn phòng và để những nhân viên theo dõi của họ làm việc đó?”

“Bởi vì sau thất bại ở Paris, không còn ai mặn mà với chuyện tổ chức một chiến dịch khác nhắm vào Khaled trên đất châu Âu nữa - ít nhất là một cách chính thức. Ngoài ra, tôi là đại diện của Văn phòng, và tôi trao nó cho anh. Tôi muốn anh tìm hắn, Eli ạ. Một cách bí mật. Đó là khả năng thiên bẩm của anh. Anh biết cách thực hiện kiểu công việc này mà không tạo ra một tiếng động nhỏ”.

“Đúng, nhưng tôi cũng đã thụt lùi đến vài bước rồi”.

“Anh có đủ sức khỏe để đi lại không?”

“Miễn là không phải làm những việc nặng nhọc. Đó là việc của các anh. Tôi chỉ là một con mọt sách. Anh mới là gã Do Thái cơ bắp”.

Lavon moi ra một điếu xì gà từ trong túi áo sơmi và châm lửa, dùng bàn tay khum lại để chắn gió. Anh nhìn quanh thung lũng Jezreel trong chốc lát trước khi nói tiếp.

“Nhưng lúc nào mà anh chả thế, phải không, Gabriel?”

“Thế nào cơ?”

“Một gã Do Thái cơ bắp. Anh thích đóng vai một nghệ sỹ nhạy cảm, nhưng sâu thẳm bên trong, anh giống Shamron hơn là anh nhận thấy đấy”.

“Hắn sắp sửa tiếp tục giết chóc. Có thể hắn sẽ đợi đến tháng Tư năm sau, nhưng cũng có thể là một mục tiêu nào đó sẽ xuất hiện sớm hơn - nếu điều đó cho phép hắn tạm thời thỏa mãn cơn khát máu Do Thái”.

“Có thể anh cũng đang chịu đựng một cơn khát tương tự?”

“Chút ít”, Gabriel thừa nhận, “nhưng đây không phải là hành động trả thù. Đây là việc thực thi công lý. Và bảo vệ tính mạng của những người vô tội. Anh sẽ tìm hắn cho tôi chứ, Eli?”

Lavon gật đầu. “Đừng lo, Gabriel. Tôi sẽ tìm ra hắn - trước khi hắn tiếp tục làm đổ máu của những người vô tội”.

Họ đứng trong im lặng một lúc, cùng nhìn xuống mảnh đất dưới chân mình.

“Có phải chúng ta đã đuổi họ đi không, Eli?”

“Đuổi người Canaan hả?”

“Không, Eli. Người Arập”.

“Chắc chắn là chúng ta đã không mời bọn họ ở lại”, Lavon đáp. “Có thể mọi chuyện đã dễ dàng nếu chúng ta làm như thế”.

Một chiếc Sedan xanh đậu trên đường Narkiss. Chiếc xe vẫn đang nổ máy. Gabriel nhận ra gương mặt của người đàn ông ngồi sau tay lái. Anh vào căn hộ và đi nhanh lên lầu. Có hai chiếc vali được đặt ở đầu cầu thang, bên ngoài cánh cửa đang hé mở. Chiara đang ngồi trong phòng khách, mặc một bộ vest nữ kiểu châu Âu được may bằng vải đen trang nhã và đi giày cao gót. Mặt nàng đã được trang điểm. Trước đây Gabriel chưa bao giờ thấy Chiara trang điểm.

“Em đi đâu vậy?”

“Anh biết rõ mà”.

“Vì công việc à?”

“Vâng, tất nhiên là công việc”.

Sự im lặng của nàng khiến Gabriel hiểu rằng nàng sẽ không trở lại.

“Khi nào xong việc, em sẽ về Venice”. Đoạn nàng thêm vào. “Để chăm sóc gia đình em”.

Anh đứng bất động nhìn nàng. Những giọt lệ của Chiara, khi chảy xuống hai bên má nàng, đã biến thành màu đen do mascara của mắt. Đối với Gabriel, chúng trông như những dòng nước mưa bẩn thỉu chảy trên một bức tượng nữ thần. Nàng lau nước mắt và nhìn những đầu ngón tay bị dính màu đen của mình, giận dữ vì đã không thể kiềm chế được cảm xúc. Rồi nàng ngồi thẳng lưng lên và chớp mắt thật mạnh vài lần.

“Trông anh có vẻ thất vọng về em, Gabriel”.

“Về điều gì?”

“Khóc lóc. Anh không bao giờ khóc, phải không?”

“Anh không còn nước mắt”.

Anh ngồi xuống và cố gắng nắm lấy tay Chiara. Nàng rút tay ra khỏi tay anh và dùng một chiếc khăn giấy chấm nhẹ trên lớp phấn trang điểm đã nhòe, rồi mở hộp phấn và nhìn bóng mình phản chiếu trong gương.

“Em không thể lên máy bay với diện mạo này được”.

“Tốt”.

“Anh đừng hiểu lầm. Em vẫn sẽ ra đi. Vả lại, đó chính là điều anh muốn. Anh không bao giờ bảo em đi - anh quá lịch sự để có thể nói với em điều đó - nhưng em biết anh muốn em ra đi”. Nàng đóng hộp phấn lại, khiến nó phát ra một tiếng “tách”. “Em không trách anh. Chẳng hiểu sao điều đó càng khiến em yêu anh hơn. Em chỉ ước anh đã không nói rằng anh muốn cưới em”.

“Anh đã muốn”, anh trả lời.

“Đã à?”

“Anh vẫn muốn cưới em, Chiara”, anh ngập ngừng, “nhưng anh không thể. Anh đã kết hôn với Leah”.

“Lòng chung thủy, phải không, Gabriel? Tận tụy với bổn phận hay nghĩa vụ đối với ai đó. Lòng trung thành. Sự thủy chung”.

“Anh không thể bỏ cô ấy vào lúc này, sau những gì cô ấy đã phải chịu đựng do bàn tay của Khaled”.

“Chỉ một tuần nữa là chị ấy sẽ quên hết”. Chiara, nhận thấy sự thất sắc trên mặt Gabriel, vội nắm lấy tay anh. “Lạy Chúa, em xin lỗi. Xin anh hãy quên lời em vừa nói”.

“Anh quên rồi”.

“Anh là một gã ngốc nên mới để em bước ra khỏi ngôi nhà này. Sẽ không bao giờ có ai yêu anh như em đã yêu anh đâu”. Nàng đứng dậy. “Nhưng chúng ta sẽ còn gặp lại nhau, em tin chắc điều đó. Ai mà biết được, có thể anh sẽ sớm trở thành sếp của em”.

“Em đang nói chuyện gì thế?”

“Cả Văn phòng đang xôn xao vì những tin đồn”.

“Lúc nào° mà chả thế. Em không nên để tâm đến những tin đồn, Chiara ạ”.

“Em đã từng nghe đồn rằng anh sẽ không bao giờ bỏ chị Leah để cưới em. Ước gì em đã tin vào điều ấy”.

Nàng quàng túi xách lên vai, rồi cúi xuống và hôn lên môi Gabriel.

“Một nụ hôn cuối”, nàng thì thầm.

“Ít nhất hãy để anh chở em ra sân bay”.

“Điều chúng ta không cần nhất là một cuộc chia tay đẫm nước mắt ở sân bay Ben-Gurion. Giúp em mang mấy cái túi ra xe đi”.

Anh mang hai chiếc vali xuống và đặt chúng vào thùng xe. Chiara trèo lên ghế sau và đóng cửa mà không quay lại nhìn anh. Gabriel đứng dưới những tán cây khuynh diệp và nhìn theo chiếc xe biến mất khỏi tầm mắt. Khi anh lê bước lên lầu và vào căn hộ trống trải, anh mới nhận ra rằng anh đã không mời nàng ở lại. Eli nói đúng. Điều này sẽ khiến mọi chuyện dễ dàng hơn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36


TIBERIAS, ISRAEL

Một tuần sau khi Chiara ra đi, Gabriel lái xe đến Tiberias để ăn tối với gia đình Shamron. Yonatan đã có mặt, cùng với vợ và ba đứa con nhỏ. Rimora cũng đang ngồi cùng chồng cô. Cả hai người đàn ông đều vừa hoàn thành nhiệm vụ và vẫn còn mặc quân phục. Shamron, giữa đông đủ của các thành viên trong gia đình, có vẻ đang trải qua những phút giây hạnh phúc nhất trong nhiều năm qua. Sau bữa tối, ông dẫn Yonatan và Gabriel lên sân thượng. Ánh trăng non rạng rỡ, phản chiếu ánh vàng trên mặt biển Galilee êm đềm. Xa xa bên kia hồ, giữa khoảng không tối tăm và bất định, nổi lên hình ảnh lờ mờ của Cao nguyên Golan. Shamron ưa nhất chỗ này trên sân thượng, vì nó đối diện trực tiếp với kẻ thù ở phía đông. Ông cố gắng ngồi im không nói gì một lúc, trong khi Gabriel và Yonatan trao đổi một cách bi quan về matsav - tình hình hiện tại. Một lúc sau, Shamron đưa mắt cho Yonatan tỏ ý rằng ông cần nói chuyện riêng với Gabriel. “Con nhận được thông điệp rồi, Abba”, Yonatan nói và đứng lên. “Con sẽ để hai người có thể nói chuyện riêng với nhau”.

“Cậu ấy giờ đã là một đại tá của IDF”, Gabriel nói khi Yonatan đã đi khỏi. “Cậu ấy không thích bị ông đối xử như thế”.

“Yonatan có công việc của nó, chúng ta có việc của chúng ta”. Shamron khéo léo chuyển đề tài từ chuyện riêng của ông sang chuyện riêng của Gabriel. “Leah thế nào rồi?”

“Ngày mai tôi sẽ đưa cô ấy lên núi Olives để thăm mộ Dani”.

“Bác sĩ của cô ấy có tán thành với chuyến đi xa này không?”

“Ông ta sẽ đi với chúng tôi, cùng một nửa đội ngũ nhân viên của Dưỡng trí viện Mount Herzl”.

Shamron đốt một điếu thuốc. “Cậu có nghe tin gì về Chiara không?”

“Không, và tôi cũng chẳng mong điều đó. Ông biết cô ấy đang ở đâu chứ?”

Shamron giả vờ nhìn chiếc đồng hồ đeo tay của mình một cách gượng gạo. “Nếu chiến dịch diễn ra đúng theo kế hoạch, thì có lẽ giờ này cô ấy đang nhấm nháp rượu brandy trong một nhà nghỉ tại khu trượt tuyết ở Zermatt với một quý ông lịch lãm người Thụy Sỹ có nhân thân đáng ngờ. Quý ông này sắp vận chuyển một số lượng lớn vũ khí cho một nhóm du kích Libăng vốn không quan tâm lắm đến lợi ích của chúng ta. Chúng ta muốn biết thời điểm chuyến hàng rời khỏi cảng và điểm đến của nó”.

“Làm ơn nói với tôi là phòng Tác chiến không sử dụng cô ấy làm con mồi trong một cái bẫy mỹ nhân”.

“Tôi không nhúng mũi vào những chi tiết của chiến dịch, tôi chỉ nắm những mục tiêu chính. Về phần Chiara, đó là một cô gái có những chuẩn mực đạo đức rất cao. Tôi tin chắc cô ấy sẽ không dễ dãi với anh bạn người Helvetia của chúng ta đâu”.

“Tôi vẫn không ưa vụ này chút nào”.

“Đừng lo”, Shamron nói. “Chẳng bao lâu nữa chính cậu sẽ là người quyết định cách chúng ta sử dụng cô ấy”.

“Ông đang nói chuyện gì thế?”

“Ngài Thủ tướng muốn nói vài lời với cậu. Ông ấy có một công việc muốn cậu đảm nhiệm”.

“Làm bia hứng đạn à?”

Shamron ngửa đầu ra sau cười lớn, và ngay sau đó ông nổi một cơn ho kéo dài.

“Thật ra, ông ấy muốn cậu trở thành Giám đốc kế nhiệm của phòng Tác chiến”.

“Tôi ư? Khi ủy ban điều tra của Lev xong việc với tôi, tôi sẽ rất may mắn nếu kiếm được một chân bảo vệ ở một quán cà phê nào đó trên đường Ben-Yehuda”.

“Cậu sẽ ổn thôi. Cái thời xử tội bằng cách ném đá trước công chúng đã qua rồi. Hãy để dành nó cho người Mỹ. Nếu chúng ta phải giấu nhẹm vài việc, nếu chúng ta phải nói dối vài câu với một đất nước như nước Pháp, một nước vốn chẳng quan tâm gì đến sự tồn vong của chúng ta, thì cũng chẳng có gì phải ngại”.

“Bằng lời dối trá, ngươi đã tuyên chiến”, Gabriel nhắc lại câu khẩu hiệu của Văn phòng. Shamron gật đầu và nói thêm. “Amen”.

“Cho dù tôi có thể qua khỏi vụ này nguyên vẹn, thì Lev cũng không bao giờ đồng ý cho tôi nắm phòng Tác chiến”.

“Ông ta sẽ không có tiếng nói gì trong chuyện này. Nhiệm kỳ của Lev sắp kết thúc, và ông ta có rất ít bạn bè ở Đại lộ King Saul cũng như ở đường Kaplan. Anh ta sẽ không được mời ở lại nhiệm kỳ thứ hai đâu”.

“Vậy ai sẽ trở thành sếp lớn tiếp theo?”

“Ngài Thủ tướng và tôi đã có một số cái tên. Không ai trong số họ là người của Văn phòng. Cho dù chúng tôi chọn ai, thì người đó cũng sẽ cần một người giàu kinh nghiệm để chỉ huy phòng Tác chiến”.

“Tôi đã biết trước thể nào cũng có chuyện này”, Gabriel nói. “Tôi biết ngay khi tôi vừa nhìn thấy ông ở Venice”.

“Tôi thừa nhận rằng động cơ của tôi là ích kỷ. Nhiệm kỳ của tôi cũng sắp kết thúc rồi. Ngài Thủ tướng sắp ra đi, tôi cũng thế. Và lần này sẽ không còn cửa để trở lại. Tôi cần cậu, Garbriel. Tôi cần cậu để giữ gìn tạo tác của tôi”.

“Là Văn phòng?”

Shamron lắc đầu, rồi ông khoát tay về phía vùng đất xung quanh.

“Tôi biết cậu sẽ nhận”, Shamron nói. “Cậu không có sự lựa chọn. Không phải tự nhiên mà mẹ cậu đặt tên cậu là Gabriel. Michael là đấng cao minh nhất, nhưng cậu, Gabriel, cậu mới là người hùng mạnh nhất. Cậu là người bảo vệ Israel trước mọi kẻ kết tội nó. Cậu là vị thiên thần của sự trừng phạt - là Hỏa Thần”.

Gabriel lặng thinh nhìn ra phía hồ. “Còn một việc tôi phải giải quyết xong đã”.

“Eli sẽ tìm ra hắn, nhất là với những manh mối mà cậu đã cung cấp cho anh ta. Cậu đang có trong tay một thám tử cực kỳ tài ba. Nhưng nói cho cùng, cậu vẫn luôn luôn sở hữu một cái đầu thông minh nhất”.

“Đó là nhờ Fellah”, Garbriel nói. “Ả đã kết liễu đời hắn bằng cách kể cho tôi nghe câu chuyện của ả”.

“Nhưng đó vẫn là kiểu của người Palestine. Họ bị mắc kẹt trong câu chuyện truyền miệng về sự mất mát và tha hương. Không có lối thoát”. Shamron ngả người về phía trước, chống khuỷu tay lên đầu gối. “Cậu có chắc là mình muốn làm cái việc biến Khaled thành một vị thánh tử vì đạo? Có những chàng trai khác có thể gánh vác việc này thay cậu”.

“Tôi biết”, Gabriel nói, “nhưng tôi cần làm việc này”.

Shamron thở dài nặng nề. “Nếu cậu nhất định thế, lần này sẽ là chuyện cá nhân. Không đồng đội, không giám sát, không có những thứ mà Khaled có thể lợi dụng để chiếm ưu thế. Chỉ có cậu và hắn”.

“Tôi muốn như thế”.

Sự im lặng bao trùm lấy họ. Họ im lặng dõi theo những ngọn đèn của một chiếc tàu đánh cá đang chầm chậm đi vào cảng Tiberias.

“Có chuyện này tôi phải hỏi ông”, Gabriel nói.

“Cậu muốn hỏi tôi về Tochnit Dalet”, Shamron nói. “Về Beit Sayeed và Sumayriyya”.

“Sao ông biết?”

“Cậu đã lang thang giữa vô vàn nỗi đau của người Palestine trong một thời gian dài. Đó là điều tự nhiên thôi”.

Anh hỏi Shamron cùng câu hỏi đã đặt ra cho Eli Lavon một tuần trước đó ở Megiddo. Có phải chính chúng ta đã đuổi họ đi?

“Tất nhiên rồi”, Shamron đáp, sau đó vội vã thêm vào. “Ở một vài nơi, trong những hoàn cảnh đặc biệt. Và nếu cậu hỏi tôi, lẽ ra chúng ta phải đuổi họ đi nhiều hơn nữa, xa hơn nữa. Chúng ta đã sai lầm vì không làm như thế”.

“Ông đang đùa hả Ari?”

“Để tôi giải thích”, Shamron nói. “Lịch sử vốn không đứng về phía chúng ta. Năm 1947, Liên Hợp Quốc quyết định trao cho chúng ta một mảnh đất đầu thừa đuôi thẹo để thành lập nhà nước mới. Cậu nên nhớ rằng, bốn phần năm đất đai của Palestine đã được cắt ra để thành lập nhà nước Gioócđan. Đó là tám mươi phần trăm! Trong hai mươi phần trăm còn lại, Liên Hợp Quốc chia cho chúng ta một nửa - chỉ mười phần trăm của đất Palestine, bao gồm thảo nguyên Coastal và sa mạc Negev. Nhưng người Arập vẫn nói không. Hãy tưởng tượng nếu bọn họ đồng ý, khi Ủy ban Peel đề nghị việc phân chia đất đai vào năm 1937. Bao nhiêu triệu người có thể đã được cứu sống? Ông bà của cậu có thể vẫn còn sống. Cha mẹ và các chị em gái của tôi có thể vẫn còn sống. Nhưng người Arập đã làm gì? Họ nói không, và mừng thầm cuộc diệt vong của chúng ta khi Hitler ra tay”.

“Nhưng liệu điều đó có thể biện hộ cho việc trục xuất họ không?”

“Không, và đó không phải là nguyên nhân hành động của chúng ta. Việc họ bị trục xuất là hậu quả của chiến tranh, một cuộc chiến do chính họ khơi mào. Mảnh đất Liên Hợp Quốc trao cho chúng ta có năm trăm ngàn người Do Thái và bốn trăm ngàn người Arập. Những người cực đoan lôi kéo những người khác mang tâm trạng thù địch, và thề sẽ tiêu diệt chúng ta. Chúng ta biết rằng giây phút chúng ta tuyên bố độc lập cũng là lúc chúng ta trở thành mục tiêu của một cuộc tấn công của quân đội Liên Arập. Chúng ta phải chuẩn bị cho cuộc chiến đó. Chúng ta không thể cùng một lúc chiến đấu trên hai mặt trận. Chúng ta không thể một tay giao đấu với người Ai Cập và Gioócđan, còn tay kia đọ sức với người Arập ở Beit Sayeed, Sumayriyya và những nơi khác. Cho nên bọn họ phải ra đi”.

Shamron có thể thấy rằng mình vẫn chưa thuyết phục được Gabriel.

“Nói tôi nghe nào, Gabriel. Cậu thử nghĩ xem nếu bọn chúng giành thắng lợi trong cuộc chiến đó, thì liệu có người tị nạn Do Thái nào không? Hãy nhìn những gì đã xảy ra ở Hebron. Chúng lùa người Do Thái đến trung tâm thành phố và chặt đầu họ, không chừa một ai. Chúng tấn công một đoàn xe chở các bác sỹ và y tá đang trên đường đi đến núi Scopus và tàn sát tất cả. Để chắc chắn rằng không còn ai sống sót, chúng tưới xăng lên đoàn xe và đốt sạch. Đó là bản chất kẻ thù của chúng ta. Mục tiêu của chúng là tận diệt chúng ta, để chúng ta không bao giờ có thể quay trở lại. Ngày hôm nay, chúng ta vẫn là mục tiêu của bọn chúng. Chúng muốn xóa sổ dân tộc ta”.

Gabriel nhắc lại cho Shamron nghe những lời mà Fellah đã nói với anh trên đường đến Paris. Cuộc Holocaust - tai ách diệt chủng - của dân tộc tôi cũng thật như của các người, nhưng các người khăng khăng phủ nhận nỗi đau khổ của dân tộc tôi nhằm che đậy tội lỗi của các người. Các người nói rằng những thương tích của dân tộc tôi là do chúng tôi tự gây ra.

“Thì đúng là do bọn chúng tự gây ra”, Shamron nói.

“Nhưng liệu có một chính sách trục xuất trên quy mô lớn hay không? Ông có công nhận việc thanh trừng chủng tộc chính là một chính sách của chúng ta?”

“Không”, Shamron đáp, “và chứng cứ hiện diện ở khắp mọi nơi xung quanh chúng ta. Cậu đã từng ăn tối ở Abu Ghosh. Nếu có một chính sách trục xuất trên quy mô lớn, thì tại sao Abu Ghosh vẫn còn? Ở miền Tây Galilee, tại sao làng Sumayriyya bị hủy diệt nhưng làng al-Makr vẫn tồn tại? Bởi vì cư dân ở Abu Ghosh và al-Makr không tìm cách tàn sát chúng ta. Nhưng cũng có thể đó là sai lầm của chúng ta. Có thể chúng ta nên trục xuất hết bọn họ thay vì cố gắng giữ lại một thành phần người Arập thiểu số ngay trong lòng chúng ta”.

“Nếu vậy sẽ lại có nhiều người tị nạn hơn”.

“Đúng, nhưng nếu họ đã hết hy vọng để trở về, đáng lẽ họ nên tìm cách hòa nhập với người Gioócđan và Libăng, thay vì tự nguyện trở thành một công cụ tuyên truyền chống chúng ta. Tại sao cha của Fellah al-Tamari vẫn còn ở trại tị nạn Ein al-Hilweh sau ngần ấy năm? Tại sao không một nước Arập có cùng ngôn ngữ, văn hóa, và tôn giáo nào với ông ta chịu chứa chấp ông ta? Bởi vì họ muốn sử dụng ông ta như một công cụ để đặt dấu hỏi về quyền tồn tại của tôi. Tôi ở đây. Tôi sống, tôi thở. Tôi tồn tại. Tôi không cần sự cho phép của bất cứ ai để tồn tại. Tôi chẳng cần ai chấp thuận điều đó. Và cố nhiên là tôi chẳng còn nơi nào khác để đi”. Ông nhìn Gabriel. “Tôi chỉ cần cậu trông nom nó cho tôi. Mắt của tôi không còn được tinh nhạy như xưa nữa rồi”.

Những ngọn đèn của chiếc tàu đánh cá đã biến mất vào khu cảng Tiberias. Shamron đột nhiên trông có vẻ kiệt sức. “Sẽ chẳng bao giờ có hòa bình trên mảnh đất này, nhưng suy cho cùng, tự ngàn xưa nó đã chẳng bao giờ được bình yên. Kể từ khi chúng ta từ Ai Cập và Mesopotamia chạy đến mảnh đất này, chúng ta đã phải chiến đấu. Chống lại người Canaan, người Assyria, người Philistine, người La Mã, rồi người Amalek. Chúng ta tự lừa dối mình khi tin rằng kẻ thù đã từ bỏ giấc mơ tiêu diệt chúng ta. Chúng ta cầu nguyện cho những điều không thể có được. Hòa bình mà không cần công lý, tha thứ mà không cần bồi hoàn”. Ông nhìn Gabriel bằng ánh mắt khiêu khích. “Yêu mà không cần hy sinh”.

Gabriel đứng dậy và chuẩn bị ra về.

“Tôi sẽ nói gì với ngài Thủ tướng đây?”. Shamron hỏi.

“Nói với ông ấy rằng tôi còn phải suy nghĩ đã”.

“Phòng Tác Chiến chỉ là một trạm quá cảnh thôi, Gabriel. Một ngày nào đó cậu sẽ trở thành sếp lớn. Memuneh”.

“Chính ông là Memuneh, Ari. Luôn luôn là như thế”.

Shamron phá lên cười với vẻ thỏa mãn. “Tôi sẽ nói gì với Thủ tướng đây, Gabriel?”

“Nói rằng tôi cũng chẳng còn nơi nào khác để đi”.

Cú điện thoại của Julian Isherwood cho Gabriel cái cớ mà anh đang tìm kiếm để xóa bỏ những dấu vết cuối cùng của Chiara trong căn hộ. Anh liên hệ với một tổ chức từ thiện của những người Nga nhập cư và nói với họ rằng anh muốn hiến tặng một số thứ. Ngay buổi sáng hôm sau, hai thanh niên gầy còm đến từ Matxcơva đã xuất hiện và mang đi tất cả đồ đạc trong phòng khách: trường kỷ, ghế ngồi, bàn và đèn, bàn trong phòng ăn, ngay cả những chiếc lọ trang trí bằng đồng và những chiếc đĩa sứ mà Chiara đã lựa chọn và sắp xếp rất cẩn thận. Anh để nguyên phòng ngủ, ngoại trừ tấm trải giường và cái chăn lông, chúng vẫn còn đọng lại mùi hương vani từ tóc Chiara.

Trong suốt những ngày sau đó, đường Narkiss luôn luôn bận rộn với những chiếc xe giao hàng. Chiếc bàn nghiên cứu lớn màu trắng đến nơi đầu tiên, theo sau là những chiếc đèn huỳnh quang và đèn halogen có thân để điều chỉnh được. Cửa hàng dụng cụ hội họa L. Cornelissen và Con Trai, phố Great Russell, Luân Đôn, gửi tới một lô hàng bao gồm cọ vẽ, màu, dung môi và véc-ni. Một công ty hóa chất ở Leeds gửi tới nhiều thùng dung môi hòa tan thuộc vào loại hàng nguy hiểm khiến cơ quan quản lý bưu điện Israel phải dè chừng. Đến từ Đức là một chiếc kính hiển vi đắt tiền có giá tháo rời được. Và tiếp đến là hai khung tranh lớn bằng gỗ sồi đến từ một xưởng chế tác ở Venice.

Bức tranh sơn dầu Daniel trong hang sư tử được cho là của Erasmus Quellinus được gửi đến vào ngày hôm sau. Gabriel mất gần hết buổi chiều cho công việc tháo dỡ kiện hàng được đóng cực kỳ cẩn thận. Phải nhờ đến sự giúp đỡ của Shamron, anh mới căng được hai tấm vải vẽ khổng lồ lên hai khung tranh giống hệt nhau. Hình ảnh Daniel bị bầy thú dữ bao vây kích thích Shamron, và ông ở lại đến tận buổi tối để xem Gabriel, được trang bị những miếng gạc cotton và một chậu nước cất pha a-mô-ni-ắc, bắt đầu sứ mệnh nhàm chán là chùi rửa những vết cáu bẩn có tuổi đời hàng trăm năm trên bề mặt bức tranh.

Ở một chừng mực có thể, anh cố gắng tái lập những thói quen làm việc ở Venice. Anh thức dậy trước khi trời sáng và cố gắng chống chọi với mong muốn bật radio, để tin tức về những cuộc tắm máu hàng ngày và những tiếng còi báo động thường xuyên cất lên không thể phá vỡ bầu không khí say mê hội họa đang hình thành xung quanh mình. Gabriel ở lại trong xưởng vẽ suốt buổi sáng và thường làm thêm một ca thứ hai vào buổi tối. Anh dành thời gian ở Đại lộ King Saul ở mức ít nhất có thể; thực tế là anh đã nghe tin Lev từ chức qua radio trên xe khi đang từ đường Narkiss đến bệnh viện Mount Herzl thăm Leah. Sau mỗi lần đến thăm của Gabriel, những chuyến đi tưởng tượng của Leah đến Vienna ngày càng trở nên mờ nhạt dần và ngắn hơn về mặt thời gian. Leah hỏi anh nhiều câu về quá khứ của họ.

“Chúng ta đã gặp nhau ở đâu, anh Gabriel?”

“Ở Bezalel. Em là một họa sỹ, Leah ạ”.

“Thế chúng ta kết hôn ở đâu?”

“Ở Tiberias. Trên sân thượng nhà Shamron nhìn ra biển Galilee”.

“Và bây giờ anh là người phục chế tranh?”

“Anh đã theo học Umberto Conti ở Venice. Cứ vài tháng em lại đến thăm anh một lần. Em đóng vai một cô gái người Đức đến từ Bremen. Em còn nhớ không Leah?”

Vào một buổi chiều tháng Sáu nắng gắt, Gabriel ngồi uống cà phê với bác sĩ Bar-Zvi tại căng-tin dành cho nhân viên bệnh viện.

“Liệu có bao giờ cô ấy có thể rời khỏi nơi này không bác sĩ?”

“Không”.

“Trong những khoảng thời gian ngắn thì sao?”

“Tôi không thấy có lý do gì để phản đối cả”, người thầy thuốc nói. “Nói thật, tôi nghĩ đó là một ý kiến hay”.

Trong vài lần đầu tiên, bệnh viện cho một cô y tá đi theo Leah. Dần dần, khi Leah đã quen với việc rời khỏi bệnh viện, Gabriel đưa vợ về nhà mình. Cô ngồi trên một chiếc ghế trong xưởng vẽ của Gabriel, ngắm nhìn anh làm việc hàng giờ không chán. Đôi khi sự hiện diện của Leah mang lại cho anh cảm giác thanh bình, nhưng đôi khi lại là một nỗi đau không sao chịu đựng nổi. Anh luôn luôn ước mình có thể đặt cô lên khung tranh và phục chế người phụ nữ yêu quý mà mình đã tiễn lên xe trong một đêm đầy tuyết ở Vienna.

“Anh có bức tranh nào của em không?”

Gabriel cho Leah xem bức chân dung treo trong phòng ngủ. Khi cô hỏi ai là người mẫu trong bức tranh đó, Gabriel đáp đó chính là anh.

“Trông anh buồn quá”.

“Anh mệt đó thôi”, Gabriel trả lời. “Lúc đó anh mới trở về sau ba năm đi xa”.

“Có thật là em đã vẽ bức tranh này không?”

“Em rất giỏi”, Gabriel trả lời. “Em giỏi hơn anh nhiều”.

Một buổi chiều nọ, trong khi Gabriel đang phục chế một phần khuôn mặt của Daniel đã bị hỏng, Leah hỏi anh tại sao cô đến Vienna.

“Lẽ ra chúng ta phải tạm chia tay nhau vì công việc của anh. Anh tưởng là vỏ bọc của mình đủ chắc chắn để mang em và Dani theo. Đó là một sai lầm ngu xuẩn, và mẹ con em là người phải trả giá cho sự ngu ngốc của anh”.

“Còn có một người phụ nữ khác nữa phải không anh? Một cô gái người Pháp. Làm việc cho Văn phòng”.

Gabriel gật đầu và quay lại với công việc trên khuôn mặt của Daniel. Leah dồn anh thêm một bước nữa. “Ai đã làm việc đó?” cô hỏi. “Ai đã đặt bom trên xe của em?”

“Đó là A’one. Đáng lẽ anh phải chết cùng em và Dani, nhưng kẻ thực hiện nhiệm vụ đó đã thay đổi kế hoạch”.

“Gã đó, hắn ta còn sống không?”

Gabriel lắc đầu.

“Còn A’one?”

Khả năng nắm bắt tình hình hiện tại của Leah là vô cùng mong manh. Gabriel giải thích với cô rằng Yasir A’one, hiện đang sống cách đó vài dặm, ở Ramallah.

“A’one đang ở đây sao? Sao lại có thể như thế được?”

Nhờ cái miệng của những người ngây thơ, Gabriel nghĩ. Đúng lúc đó anh nghe thấy tiếng chân bước trên cầu thang. Eli Lavon xồng xộc đi vào nhà anh mà không thèm gõ cửa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37


AIX - EN - PROVENCE: 5 THÁNG SAU

Những lay động đầu tiên của ngọn gió Mistral bắt đầu len lỏi qua các khe và hẻm núi Bouches-du-Rhône. Paul Martineau bước ra khỏi chiếc Mercedes sang trọng, cài khuy áo khoác và kéo cổ áo lên cao để che đôi tai. Vậy là một mùa đông nữa lại đến với Provence. Vài tuần nữa thôi, Martineau nghĩ, hắn sẽ phải tạm đóng cửa khu khai quật đến mùa xuân năm sau.

Martineau lôi chiếc balô may bằng vải dù ra khỏi thùng xe và bắt đầu men theo rìa bức tường đá cổ dưới chân đồi. Giây lát sau, hắn dừng bước ở cuối bức tường. Cách đó khoảng năm mươi mét, gần rìa đỉnh đồi, một họa sĩ đang đứng trước một bức tranh sơn dầu. Không có gì lạ khi thấy một họa sĩ làm việc trên đỉnh đồi này; ngay cả Cézanne cũng đã từng rất si mê phong cảnh khoáng đạt nhìn từ đỉnh đồi Chaine de l’Étoile. Tuy nhiên, Martineau nghĩ mình nên lại gần xem qua người này vẽ gì trước khi bắt đầu công việc của mình.

Hắn chuyển khẩu súng lục Makarov từ balô sang túi áo khoác, rồi từ từ tiến về phía người họa sĩ. Người này vẫn quay lưng lại Martineau. Phán đoán từ dáng điệu của cái đầu, Martineau biết rằng anh ta đang chăm chú nhìn ngọn núi Saint-Victoire ở đằng xa. Vài giây sau, phán đoán ấy được xác nhận khi hắn nhìn lướt qua bức tranh. Tác phẩm mang đậm phong cách tranh phong cảnh cổ điển của Cézanne. Thật sự, Martineau nghĩ thầm, đây là một tác phẩm sao chép xuất sắc.

Người họa sĩ chăm chú vào bức tranh của mình đến mức hầu như không nghe tiếng bước chân của Martineau. Chỉ đến khi Martineau đã dừng lại sau lưng, anh ta mới ngừng vẽ và ngoảnh đầu lại nhìn. Anh ta mặc một chiếc áo len dày và đội một chiếc mũ mềm rộng vành đang phất phơ trước gió. Bộ râu màu muối tiêu của anh dài và rối bù, hai bàn tay anh dính đầy thuốc vẽ. Xét theo vẻ mặt, anh ta thuộc loại người không thích bị làm phiền khi đang làm việc. Martineau cảm thấy đồng cảm với người đàn ông này.

“Rõ ràng anh là người hâm mộ Cézanne”, Martineau nói.

Người họa sĩ gật đầu, rồi lại tiếp tục công việc.

“Bức tranh rất đẹp. Anh có muốn bán nó cho tôi không?”

“Tôi e rằng bức này đã có người đặt trước, nhưng nếu anh thích, tôi có thể vẽ cho anh một bức khác”.

Martineau đưa cho anh tấm danh thiếp. “Anh có thể đến gặp tôi tại văn phòng ở trường đại học. Chúng ta sẽ bàn về giá cả khi tôi được thấy bức tranh hoàn chỉnh”.

Người họa sĩ nhận tấm danh thiếp và thả nó vào cái thùng gỗ đựng màu vẽ và cọ. Martineau chúc anh ta một buổi sáng tốt lành, rồi băng qua khu khai quật, và dừng lại ở hố mà hắn đang làm việc để tiếp tục công việc còn dang dở từ buổi chiều hôm trước. Hắn trèo xuống hố và dỡ tấm bạt màu xanh đang trải rộng che phủ đáy hố, để lộ ra một cái đầu bằng đá được chạm trổ rất tinh vi. Martineau mở balô, lấy ra một cái bay nhỏ và một cây cọ quét. Đúng lúc hắn sắp bắt tay vào việc, một bóng đen bỗng che khuất cả nền hố. Martineau quỳ thẳng lên và ngước nhìn. Hắn mong đợi sẽ thấy Yvette hoặc một trong các nhà khảo cổ khác cùng làm việc ở khu khai quật này. Nhưng, thay vào đó, hắn nhìn thấy bóng chiếc mũ rộng vành của người họa sĩ, trông như tỏa hào quang dưới ánh sáng mặt trời. Martineau đưa tay lên che trán và nheo mắt nhìn.

“Anh cảm phiền tránh ra khỏi chỗ đó được không? anh đang che mất ánh sáng của tôi”.

Người họa sĩ lặng lẽ chìa ra tấm danh thiếp mà Martineau vừa đưa cho mình lúc nãy. “Tôi tin rằng cái tên in ở đây không đúng”.

“Xin lỗi, anh bảo sao cơ?”

“Ở đây in tên là Paul Martineau”.

“Đúng rồi, đó là tôi”.

“Nhưng đó không phải là tên thật của anh, phải không?”

Martineau cảm thấy một luồng hơi lạnh chạy dọc theo gáy. Hắn nhìn kỹ lại hình người đang đứng trên bờ hào. Đây đúng là gã ư? Martineau không thể đoan chắc; với bộ râu rậm rạp và cái nón sùm sụp đó thì không. Rồi hắn nghĩ đến phong cảnh. Một bản sao hoàn hảo của Cézanne về sắc thái và bố cục. Dĩ nhiên chính là gã rồi. Bàn tay Martineau nhích về phía túi áo khoác. Hắn cố gắng đi một nước cờ cuối cùng nhằm kéo dài thời gian.

“Nghe này, anh bạn, tên tôi là…”

“Khaled al-Khalifa”, người họa sĩ tiếp lời. Những lời tiếp theo của anh được nói bằng tiếng Arập. “Chẳng lẽ ngươi thực sự muốn chết như một người Pháp? Ngươi là Khaled, con trai của Sabri, cháu nội của Asad, Mãnh Sư của vùng Beit Sayeed. Khẩu súng của cha ngươi đang nằm trong túi áo khoác. Hãy rút nó ra. Hãy nói với ta tên thật của ngươi”.

Khaled chộp lấy báng của khẩu Makarov và đang rút nó ra khỏi túi áo nửa chừng thì viên đạn thứ nhất cắm phập vào ngực hắn. Phát đạn thứ hai làm khẩu súng tuột ra khỏi tay hắn. Khaled ngã ngửa về phía sau và đập đầu vào vách đá của hố khai quật. Trong khi dần dần lịm đi, hắn nhìn lên và thấy người Do Thái vốc một nắm đất từ rìa hố. Anh ta rải nắm đất lên mặt Khaled, rồi nâng súng lên lần cuối cùng. Khaled thấy một tia lửa lóe lên, sau đó là bóng tối. Hố khai quật bắt đầu quay cuồng, và hắn cảm thấy mình đang chìm dần, vào quá khứ.

Người họa sĩ giắt khẩu Beretta trở lại cạp quần và đi bộ trở về chỗ mình đang làm việc. Anh nhúng ngập cọ vào sơn đen và ký tên mình lên bức tranh sơn dầu, rồi quay gót và bước theo triền dốc của ngọn đồi để đi xuống. Dưới bóng râm của bức tường cổ, anh gặp một cô gái tóc ngắn, cô ta có nét hao hao giống Fellah al-Tamari. Anh chúc cô một buổi sáng tốt lành và trèo lên yên chiếc xe gắn máy của mình. Giây lát sau anh đã biến mất.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom