Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!
Chương 60


Quảng trường Saint Peter huyên náo đông chật người đổ về chờ đón những ngày quan trọng. Một tấm chân dung to tướng của vị tuyên thánh mới đã được treo ở mặt tiền giáo đường. Trời bớt lạnh và có nắng nên có thể tổ chức lễ tuyên phúc trọng thể ở ngoài trời, hai cánh của hàng cột Bernin ôm trọn đám đông ô hợp vui sướng được nhìn thấy Đức Thánh Cha và tham gia vào một lễ hội của đạo Cơ Đốc.

Với tư cách người đứng đầu Cơ quan truyền bá đức tin, Hồng y Catzinger đứng chủ lễ ở bên phải Giáo hoàng. Ông là người chủ trì lễ tuyên phúc này: lễ tuyên phúc sắp tới có thể sẽ dành cho người sáng lập ra hội Opus Dei. Danh sách liệt kê các phẩm chất siêu nhiên của ông ta đã được lập ra không khó khăn gì, nhưng người ta rất vất vả để tìm được ba phép màu cần thiết cho việc phong thánh theo đúng quy định. Catzinger máy móc nhấc lên một vạt áo choàng của Giáo hoàng bị tuột bởi ông già đang run rẩy. Trong khi Giáo hoàng tuyên bố những lời thiêng liêng, Hồng y mỉm cười. “Phép màu ư, rồi sẽ thấy. Phép màu đầu tiên là sự tồn tại liên tục trong suốt nhiều thế kỷ của Giáo hội Công giáo tông truyền La Mã.”

Catzinger có cái đặc huệ là quen biết riêng người chuẩn bị được phong thánh. Trước khi thành lập Opus Dei, Escriva de Balaguer đã từng là một chiến sĩ tích cực trong cuộc chiến tranh Tây Ban Nha, bên cạnh Franco, sau đó có mối liên hệ bạn bè với một sĩ quan trẻ trong quân đội Chi Lê, một anh chàng Augusto Pinochet nào đó. Cha ông ta có lẽ sẽ tán thành việc phong thánh này; ông này cũng đã chọn hướng đi đúng khi đi chiến đấu trên mặt trận phía Đông chống Cộng Sản. Sớm đưa Escriva de Balaguer lên bàn thờ chính là trả lại công bằng cho người cha đã chết vì phương Tây.

Lẫn trong đám đông các giáo sĩ cấp cao ngồi thành hàng trên những chiếc ghế dài đặt trước bục của Giáo hoàng, ở vị trí kiêm tốn dành cho thư lại, Đức ông Calfo hưởng thụ sự ve vuốt của ánh mặt trời và quang cảnh đẹp đẽ. “Chỉ có Giáo hội Công giáo mới có khả năng tổ chức một cuộc hội ngộ giữa thần thánh và con người ở giữa một quang cảnh đẹp đến thế, cho đông đảo người đến thế.” Cuối buổi lễ, trong khi các giáo sĩ xếp thành đoàn rước phía sau Giáo hoàng, ông bắt gặp ánh mắt của Hồng y, ông này gật đầu ra dấu khẩn cấp.

Một giờ sau, hai người ngồi đối diện nhau trong văn phòng của Catzinger, ông này đang phô ra vẻ mặt của những ngày tồi tệ.

- Thế nào, Đức ông, mọi việc thế nảo rồi?

Ngược lại với người đứng đầu Cơ quan, Calfo có vẻ rất thư thái. Sonia không phải là không được việc gì: ông tìm thấy ở cô một nữ tu sĩ thành thạo trong nghi lễ thờ thần Eros, đồng thời cũng là một thính giả tốt.

- Thưa Đức Hồng y, chúng ta đang tiến triển nhanh chóng, Cha Nil tỏ ra có năng lực, rất có năng lực trong việc nghiên cứu.

Gương mặt Hồng y nhăn lại. Những báo cáo của Leeland chẳng có gì thú vị, cách quãng, và vẫn còn quá sớm để gây áp lực đối với cha Breczinsky: ảnh hưởng của ông đối với người Ba Lan này dựa trên những khúc quanh tối tăm trong tâm hồn con người, ông chỉ có thể sử dụng đòn bẩy này một lần, và phải chắc chắn. Lúc này, Đức ông Calfo là người duy nhất điều khiển trò chơi.

- Ông muốn nói gì?

- À thì…- Calfo uốn đôi môi dày – ông ta tìm thấy dấu vết của một văn bản tông đồ đã bị mất, có thể khẳng định những phân tích của ông ta về kinh Phúc âm theo thánh Jean.

Hồng y đứng dậy, ra hiệu cho Calfo đi theo mình đến gần cửa sổ và chỉ cho ông này thấy quảng trường Saint Peter. Bục của Giáo hoàng vẫn còn ở đó, hàng nghìn người hành hương đang vây quanh trung tâm nhạy cảm này giống như nước trong một xoáy nước xoay quanh xoáy hút. Đám đông có vẻ hạnh phúc, một gia đình lớn phát hiện ra những mối dây liên kết các thành viên lại với nhau ngay khi đang hình thành.

- Hãy nhìn họ đi, Đức ông. Ông và tôi phải chịu trách nhiệm về hàng triệu tín đồ giống như những người này, những người sống bằng niềm hy vọng về sự phục sinh mà hóa thân của Chúa đã hy sinh bản thân để mang đến cho họ. Chỉ một người sẽ đe dọa tất cả những thứ này ư? Chúng ta chưa bao giờ dung thứ cho điều đó. Hãy nhớ đến Giordano Bruno, một tu sĩ cũng rất có năng lực trong việc nghiên cứu: ông ta bị thiêu cách đây một kilomet, tại khu Campo de Fiori, mặc dù ông ta nổi tiếng khắp châu Âu. Thứ đang nói đến ở đây là trật tự của thế giới: lại một lần nữa, dường như một tu sĩ có khả năng làm đảo lộn nó. Giờ đây chúng ta không thể chữa lành thân thể của Giáo hội bằng lửa giống như trong quá khứ. Mà chúng ta phải nhanh chóng chấm dứt các nghiên cứu của cha Nil.

Calfo không trả lời ngay. Mười một thành viên của Hội đã ủng hộ đường lối hành động của ông: chỉ đưa thông tin đủ để làm cho Hồng y sợ, nhưng không để lộ mục đích cuối cùng của Hội.

- Tôi không nghĩ vậy, thưa Đức Hồng y, đó chỉ là một nhân vật trí thức không biết rõ việc mình đang làm thôi. Ý kiến của tôi là cứ để ông ta tiếp tục, chúng ta vẫn kiểm soát được tình hình.

- Nhưng nếu ông ta quay về tu viện, làm sao tránh được việc ông ta công bố các kết luận của mình?

- Pazienza [[35]], thưa Đức Hồng y. Có những cách thức khác, ít gây ấn tượng hơn một tai nạn tàu hỏa, để khiến những người đi lạc khỏi giáo lý của Giáo hội phải câm miệng.

Ngày hôm trước, ông đã phải xoa dịu một Moktar đang nổi điên lên khi nghe cha Nil bác bỏ bản chất thiêng liêng của kinh Coran và thân nhân của người sáng lập ra đạo Hồi: người Palestine này muốn hành động ngay lập tức.

Chỉ trong vài ngày, cha Nil đã tự khoác vào người một chiếc thắt lưng bằng chất nổ. Calfo không muốn cha Nil làm mình nổ tung trước khi tỏ ra thực sự có ích cho Giáo hội Công giáo. Bằng một cử chỉ máy móc, ông xoay chiếc nhẫn Giám mục quanh ngón áp út và kết luận với một nụ cười bảo đảm:

- Ở Roma, cha Nil hành xử giống như chưa từng rời khỏi tu viện: chỉ ra khỏi San Girolamo để đến kho sách của Vatican, không giao tiếp với bất kỳ ai ngoài bạn ông ta là Leeland, không tiếp xúc với báo chí hay các lực lượng chống Giáo hội, dường như ông ta không biết gì về họ.

Calfo hất cằm về phía quảng trường Saint Peter.

- Ông ta không phải là mối nguy đối với những đám người này, họ sẽ không bao giờ nghe nói đến ông ta và ông ta cũng đã tự nguyện lựa chọn không biết đến họ bằng cách giam mình trong một tu viện. Hãy để ông ta được tiếp tục công việc nghiên cứu một cách yên ả: tôi có niềm tin vào quá trình đào tạo mà ông ta đã nhận được ngay từ khi còn tập sự ở tu viện Saint-Martin, đó là một cái khuôn đúc để lại dấu ấn suốt đời trên một con người. Ông ta sẽ trở lại hàng ngũ của mình: còn nếu ông ta muốn tìm lại tự do bên trong của mình, khi đó chúng ta sẽ can thiệp. Nhưng chắc là việc đó sẽ không cần thiết.

Khi chia tay nhau, hai giáo sĩ cấp cao cùng thỏa mãn: người thứ nhất nghĩ rằng đã khiến Đức Hồng y phải lo lắng đủ độ mà vẫn giữ được quyền tự do hành động. Người thứ hai nghĩ rằng tối nay sẽ được gặp Antonio và sẽ được cung cấp thông tin gần như bằng với hội trưởng của Hội Thánh Pie V.
 
Chương 61


- Sáng nay có lễ tuyên phúc: chúng ta sẽ không thể đi qua quảng trường Saint Peter được, phải đi vòng vậy.

Chìm trong suy nghĩ của chính mình, hai người đi vòng qua khu Santo Spirito rồi quay lại thành Vatican qua Lâu đài San Angelo, trước đây đã từng là lăng của hoàng đế Hadrien trước khi trở thành pháo đài và nhà ngục của Giáo hoàng. Cha Nil cảm thấy khó chấp nhận những khoảng im lặng nặng nề chen giữa họ từ khi ông đến Roma.

Cuối cùng Leeland cũng cất tiếng:

- Tớ không hiểu nổi cậu: cậu không ra khỏi tu viện từ nhiều năm nay, và ở đây cậu cũng sống như một người tu kín. Cậu đã yêu mến Roma biết bao khi chúng ta còn là sinh viên, hãy tận dụng một chút, đi thăm vài viện bảo tàng, gặp lại những người mà cậu quen biết trước đây… Cậu cư xử như cậu đã chuyển tu viện của cậu đặt giữa thành phố này vậy!

Cha Nil ngẩng đầu về phía bạn ông.

- Khi vào tu viện, tớ đã chọn nỗi cô đơn ở giữa một cộng đồng toàn cầu là Giáo hội Công giáo. Hãy nhìn đám đông kia, họ có vẻ rất sung sướng trước một lễ phong thánh mới! Trong một thời gian dài, tớ tin rằng họ là gia đình của tớ, thay thế cho gia đình đã từ bỏ tớ. Giờ đây, tớ biết rằng công việc nghiên cứu về nhân thân của Jesus đã loại tớ ra khỏi gia đình thứ hai này. Không ai xem xét lại những cơ sở của một tôn giáo là nền tảng của cả một nền văn minh mà lại không hề hấn gì! Tớ mường tượng rằng tông đồ thứ mười ba kia, khi chống đối lại Mười hai tông đồ, đã phải chịu đựng nỗi cô đơn tương tự. Tớ chỉ còn một người bạn, là Đấng Jesus mà tớ đang cố gắng vén màn bí ẩn về Người.

Ông nói thêm trong một tiếng thở dài:

- Và cả cậu nữa, tất nhiên.

Lúc này họ đang đi dọc những bức tường cao của Thành Vatican. Tu sĩ người Mỹ thọc tay vào túi rồi lấy ra hai tấm bìa nhỏ màu hồng.

- Tớ có một bất ngờ cho cậu. Tớ nhận được hai giấy mời xem buổi hòa nhạc của Lev Barjona tại nhạc viện Saint Cecillia ở Roma, đúng vào trước Noel. Tớ không cho phép cậu lựa chọn đâu, cậu sẽ đi với tớ.

- Anh chàng Lev Barjona này là ai?

- Một nhạc công dương cầm nổi tiếng người Israel, tớ đã quen ở đó khi anh ta còn là học sinh của Arthur Rubinstein: chúng tớ trở thành bạn của nhau dưới chân người thầy này. Một con người đáng ngạc nhiên, có một cuộc sống không giống ai. Anh ta đã ưu ái viết thêm một dòng riêng tư vào giấy mời, nói rằng tấm giấy mời thứ hai là để dành cho cậu. Anh ta sẽ biểu diễn bản Concerto thứ ba của Rachmaninov, hiện anh ta là người chơi bản này hay nhất.

Họ đi vào trong Thành Vatican.

- Tớ rất vui, cha Nil nói, tớ yêu thích Rachmaninov và đã rất lâu không xem buổi hòa nhạc nào, có thể điều đó sẽ khiến tớ thay đổi suy nghĩ.

Đột nhiên, ông dừng phắt lại và nhíu mày.

- Nhưng… làm thế nào mà bạn cậu lại gửi cho cậu tấm vé thứ hai để dành cho tớ?

Leeland có vẻ ngạc nhiên vì nhận xét này, và đang chuẩn bị trả lời thì họ bị tách nhau ra: một chiếc limousine công vụ sang trọng lướt qua ngay trước mặt họ. Bên trong, họ thoáng nhìn thấy bộ áo chùng tím của một Hồng y. Chiếc xe đi chậm lại để qua cổng Belvedere, và cha Nil đột nhiên nắm lấy cánh tay của tu sĩ người Mỹ.

- Rembert, hãy nhìn biển số chiếc xe này xem!

- Thì sao? S.C.V., Sacra Civitas Vaticani, đó là biển số của Vatican. Cậu biết rồi đấy, ở đây ngày nào mà chẳng thấy những chiếc xe như thế.

Cha Nil vẫn đứng như trời trồng giữa sân Belvedere.

- S.C.V.! Nhưng đó chính là ba chữ cái mà cha Andrei đã viết trong sổ của ông ấy, ngay trước chữ “Hiệp sĩ dòng Đền”! Từ nhiều ngày nay, tớ cố vắt óc xem nó có nghĩa là gì: vì tiếp sau nó là một mã số Dewey không đầy đủ, tớ đã tin chắc rằng nó chỉ một thư viện ở đâu đó trên thế giới. Rembert, tớ nghĩ mình vừa hiểu ra rồi! S.C.V. và đằng sau là bốn chữ số chính là vị trí của một loạt tác phẩm tại một trong các thư viện thuộc Sacra Civitas Vaticani, Vatican. Lẽ ra tớ phải nghĩ đến điều này: cha Andrei là người mắc bệnh lục lọi mãn tính. Ở thư viện San Girolamo, ông ấy đã tìm thấy một văn bản hiếm của Origène, nhưng chính ở đây ta phải tìm tác phẩm thứ hai mà ông ấy đã viết trên sổ tay.

Cha Nil ngẩng đầu nhìn về phía tòa nhà sừng sững.

- Trong đó, ẩn giấu ở một nơi nào đó, có một cuốn sách có thể sẽ cho phép tớ biết được nhiều hơn về bức thư của tông đồ thứ mười ba. Nhưng còn có điều gì đó mà tớ chưa hiểu, Rembert ạ: các hiệp sĩ dòng Đền có liên quan gì đến chuyện này nhỉ?

Leeland không nghe ông nói. Tại sao Lev Barjona lại gửi cho ông hai tấm giấy mời nhỉ?

Ông máy móc bấm mã số cửa vào kho sách Vatican.

Khi tiếng chuông vang lên, Breczinsky căng thẳng nắm lấy khuỷu tay người đang nói chuyện với mình.

- Chắc là họ đấy, sang nay tôi không chờ tiếp ai khác. Nếu ra bằng cửa trước chắc là anh sẽ gặp họ. Kho sách này có một cầu thang dẫn thẳng ra Thư viện Vatican: tôi sẽ dẫn anh đi lối đó, nhanh lên, họ sắp đến rồi.

Mặc một chiếc áo dòng bó sát, Antonio ném một cái nhìn sang tu sĩ người Ba Lan, trên gương mặt nhợt nhạt của ông hiện rõ vẻ hốt hoảng. Mọi việc thật dễ dàng: chỉ sau một lát trao đổi trong văn phòng mình, Breczinsky đã như bị tan chảy ra trước mặt anh. Hồng y hiểu rõ tâm hồn con người: chỉ cần biết cách tìm được vết thương bí mật, và ấn lên đó.
 
Chương 62


Sonia vuốt tóc ra trước ngực, và ngắm nhìn người đàn ông nhỏ bé đang mặc lại quần áo. Xét cho cùng, ông ta cũng không dữ tợn. Chỉ có điều kỳ quặc là cái cách nói chuyện không ngừng trong khi cô làm điều mà ông ta chờ đợi ở cô. Khi đến Ả Rập Xê út do bị hấp dẫn bởi viễn cảnh có được một việc làm, cô chấp nhận bị giam trong một căn phòng dành cho phụ nữ của một quan chức cao cấp. Khi làm tình, quan chức người Ả Rập này không nói lời nào, và kết thúc rất nhanh. Trong khi đó, Calfo không ngừng lẩm bẩm những điều không thể hiểu nổi, và bao giờ cũng về vấn đề tôn giáo.

Vốn là người theo Chính giáo, Sonia tôn trọng các vị chức sắc tôn giáo giống như tất cả những người Rumani khác. Nhưng người này hẳn là hơi bị rối loạn: ông ta yêu cầu cô tiến hành chậm chạp, đôi khi khiến cô sợ bằng việc nhìn chăm chăm vào cô. Chất giọng du dương của ông, giọng của một Giám mục, nói những điều gợi lên trong cô nỗi chán ngán dữ dội.

Cô không thể nói chuyện này với Moktar, người đã đưa cô đến Roma. “Em sẽ gặp, anh ta nói với cô, một khách hàng trả công rất hậu.” Đúng vậy, vị Giám mục này rất hào phóng. Nhưng giờ đây Sonia cảm thấy thật quá chật vật mới kiếm được khoản tiền này.

Vừa cài cúc cổ chiếc áo dòng, Calfo vừa quay sang cô.

- Em phải đi thôi, tối mai ta có cuộc họp. Một cuộc họp quan trọng. Em có hiểu không?

Cô gật đầu. Vị Giám mục giải thích cho cô rằng để có thể lên đến cấp độ của Tầng trời [[36]], phải duy trì mối liên kết biện chứng giữa hai khối, xác thịt và tinh thần. Cô chẳng hiểu gì về bài thuyết giảng không đầu không cuối này, nhưng biết rằng mình sẽ chỉ phải quay lại sau hai ngày nữa.

Ông ta luôn như vậy mỗi khi có “cuộc họp quan trọng”. Và ngày mai là thứ Sáu ngày 13.

Mười hai tông đồ tỏ vẻ đặc biệt trang trọng. Mặc áo lễ màu trắng, Antonio lặng lẽ lách vào sau chiếc bàn dài để ngồi vào chỗ của mình. Ánh mắt đen kỳ lạ của anh, thứ duy nhất lộ ra sau tấm vải che mắt, rất trong sáng và an bình.

- Như tất cả các thứ Sáu ngày 13 khác, thưa các anh em, Hội chúng ta lại có cuộc họp thể thức. Nhưng trước khi thể hiện lòng tôn kính đối với vật quý mà chúng ta đang sở hữu, tôi phải thông báo cho các vị biết những tiến triển mới nhất của nhiệm vụ đang được tiến hành.

Hội trưởng ngắm nhìn cây thánh giá trước mặt mình một lát rồi tiếp tục nói trong bầu không khí im lặng hoàn toàn :

- Nhờ vào điệp viên người Palestine của tôi, chúng ta đã có được băng ghi âm tất cả những điều được nói ra trong căn phòng trên đường Aurelia. Tu sĩ người Pháp tỏ ra là người kế tục xứng đáng của cha Andrei. Ông ta đã phá được mật mã của bản khắc Germigny, và hiểu được ý nghĩa của bản khắc này dựa vào câu đầu tiên trong bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ. Ông ta đã tìm lại được lời kể của Origène, và dựa vào câu thứ hai trong bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ, ông ta đang trên con đường dẫn đến bức thư của tông đồ thứ mười ba – bức thư mà cha Andrei chỉ nghi ngờ là có tồn tại trước khi đến Roma.

Một cơn rùng mình lan khắp Hội, và một trong số các tông đồ đưa cẳng tay ra:

- Người anh em Hội trưởng, liệu chúng ta có đang đùa với lửa không? Từ thời các Hiệp sĩ dòng Đền, không ai tiếp cận gần đến thế bí mật mà chúng ta có sứ mệnh bảo vệ.

- Hội chúng ta đã cân nhắc và đi đến quyết định. Để cha Nil tiếp tục việc nghiên cứu là mạo hiểm, nhưng là mạo hiểm có tính toán. Mặc dù các vị tiền bối của chúng ta đã rất cố gắng, nhưng dấu vết của bức thư đó không hoàn toàn biến mất. Chúng ta biết rằng nội dung của nó có thể hủy hoại Giáo hội Công Giáo, và cùng với đó là nền văn minh mà Giáo hội là linh hồn đồng thời cũng là nguồn cảm hứng. Có thể vẫn còn lại một bản sao đã thoát khỏi sự kiểm soát chặt chẽ của chúng ta. Đừng lặp lại sai lầm đã phạm với cha Andrei: chúng ta đã thả con chồn ra, vậy thì lần này đừng ngăn cản nó đuổi theo con mồi. Nếu ông ta xác định được vị trí của bức thư, chúng ta sẽ hành động, rất nhanh chóng. Cha Nil đang làm việc cho chúng ta…

Ông bị một tông đồ ngắt lời, chiếc áo lễ trắng không giấu nổi được căn bệnh béo phì ở người này.

- Phần lớn thời gian họ ở kho sách Vatican: chúng ta có phương tiện nào để kiểm soát được những điều họ nói trong khu vực chiến lược này?

Hội trưởng là người duy nhất biết rằng tông đồ này là một thành viên cao cấp trong Cơ quan truyền bá đức tin, một trong những cơ quan tình báo hiệu quả nhất thế giới. Ông trả lời với vẻ tôn trọng: người này nắm được tất cả các thông tin thu thập được trên năm châu lục, cho đến từng xứ đạo nhỏ nhất ở nông thôn.

- Hôm qua, một người trong số chúng ta đã đến thăm cha Breczinsky, để nhắc nhở ông ta một số điều. Có vẻ ông ta đã hiểu. Tôi nghĩ chúng ta sẽ nhanh chóng xác định được khả năng của cha Nil trong việc tìm thấy bức thư. Bây giờ chúng ta sẽ chuyển sang phần thể thức của cuộc họp.

Với sự trợ giúp của hai tông đồ, ông cho trượt tấm bảng gỗ sang bên, và trân trọng nhấc chiếc hộp đặt trên giá giữa lên. Trước mặt Mười một tông đồ bất động, ông đặt nó lên bàn rồi nghiêng mình thật thấp.

- Thứ sáu ngày 13 tháng Mười năm 1307, quan chưởng ấn Guillaume de Nogaret đã bắt thượng tế của dòng Đền là Jacques de Molay và một trăm ba mươi tám đạo hữu của ông ta tại đền ở Paris. Họ bị giam trong những hầm ngầm và bị hỏi cung, tra tấn liên tục. Cùng ngày hôm đó, trên toàn nước Pháp, hầu hết các thành viên của dòng Đền đã bị bắt và vô hiệu hóa: cộng đồng theo đạo Cơ Đốc được cứu vớt. Hôm nay, theo quy định, chúng ta kỷ niệm ngày thứ Sáu ngày 13 này, ngày đã trở thành ngày tiền định trên toàn thế giới.

Rồi ông cúi xuống, mở chiếc hộp ra. Cha Nil đã tìm được hầu hết các dấu vết mà bức thư của tông đồ thứ mười ba để lại trong Lịch sử, nhưng dấu vết này thì hẳn ông ta đã để tuột mất. Ông lùi lại một bước.

- Các anh em, xin mời thực hiện nghi lễ.

Các tông đồ đứng dậy, rồi từng người một tiến đến gần để hôn lên chiếc nhẫn của hội trưởng, sau đó là vật đựng trong hộp.

Khi đến lượt mình, Antonio đứng bất động một lát trên bàn: được đặt sơ sài trên chiếc gối con bằng nhung đỏ, một khối vàng tự nhiên ánh lên nhè nhẹ. Nó rất nhẵn và mang hình một giọt nước mắt.

“Thứ còn lại từ kho báu của các Hiệp sĩ dòng Đền!”

Anh nghiêng mình, lồng mặt mình vào trong hộp và đặt môi lên giọt lệ vàng. Anh cảm giác nó vẫn còn cháy bỏng, và một cảnh tượng kinh hoàng hiện ra sau đôi mắt đang nhắm lại của anh.
 
Chương 63


Cha Breczinsky đón họ với một nụ cười nhợt nhạt, rồi dẫn họ đến bàn làm việc mà không nói lời nào. Sau khi gật đầu ra hiệu, ông vào văn phòng mình và để cửa mở hé.

Chìm đắm trong phát hiện mới của mình, cha Nil không để ý đến thái độ dè dặt của ông. “S.C.V., một mã số của Vatican. Đây là một trong những thư viện lớn nhất thế giới! Tìm một cuốn sách trong đó: quả nhiệm vụ bất khả thi.”

Ông làm việc như một cái máy trong vài phút, rồi bỗng thở mạnh và quay sang Leeland.

- Rembert, cậu có thể làm việc một mình một lát được không ? Breczinsky là người duy nhất có thể giúp tớ tìm xem mã số S.C.V. mà cha Andrei để lại trong sổ tay của ông ấy ứng với cái gì. Tớ sẽ đi hỏi ông ấy.

Một bóng đen lướt qua khuôn mặt tu sĩ người Mỹ, ông thầm thì :

- Tớ xin cậu, hãy nhớ lại điều tớ đã nói với cậu: ở đây, cậu đừng tin tưởng bất cứ ai.

Cha Nil không nói gì: “Tớ biết những điều mà cậu không biết.” Ông tháo găng và gõ vào cánh cửa văn phòng của viên thủ thư.

Breczinsky ngồi bất động trước màn hình vi tính đã tắt, hai tay đặt nằm trên bàn.

- Cha ạ, hôm trước cha đã nói là cha sẵn sàng giúp tôi. Tôi có thể nhờ cha một việc không ?

Tu sĩ người Ba Lan nhìn ông không nói gì, nét mặt hoảng hốt. Rồi ông cúi xuống nhìn vào đôi bàn tay, và nói bằng giọng trầm đục, như nói với chính mình, như thể cha Nil không có ở đó :

- Cha tôi bị giết chết vào cuối năm 1940, tôi không biết mặt ông. Mẹ tôi kể lại: một buổi sáng, một sĩ quan cao cấp thuộc quân đội Wehrmacht đã đến tìm tất cả đàn ông trong làng, nói là để làm một công việc trong rừng. Cha tôi không bao giờ quay trở lại, còn mẹ tôi chết khi tôi sáu tuổi. Một người anh họ ở Cracovie đã đón tôi về nhà, tôi là một đứa trẻ bơ vơ sau chiến tranh và tôi không thể nói được nữa. Cha xứ trẻ của xứ đạo bên cạnh đã thương xót đứa trẻ câm: ông đón tôi về ở cùng ông, giúp tôi lấy lại niềm vui sống. Rồi một ngày, ông ấy làm dấu thánh lên trán, lên môi và lên tim tôi. Ngày hôm sau, lần đầu tiên trong nhiều năm, tôi đã nói. Sau đó ông ấy cho tôi vào trường dòng trong địa phận Cracovie nơi ông làm Giám mục. Tôi nợ ông mọi thứ, ông là cha của tâm hồn tôi.

- Thế ông ấy tên là gì ?

- Karol Wojtyla. Ông là Giáo hoàng hiện nay. Vị Giáo hoàng mà tôi phụng sự với tất cả sức lực của mình.

Cuối cùng ông ngước mắt lên và nhìn chăm chăm vào mắt cha Nil.

- Cha là một tu sĩ chân chính, cha Nil ạ, giống như cha Andrei: các cha sống trong một thế giới khác. Tại Vatican, có một mạng lưới được dệt nên xung quanh Giáo hoàng, bởi những kẻ trục lợi từ việc ngài không biết được tất cả những điều chúng làm nhân danh ngài. Tại Ba Lan, Karol Wojityla chưa bao giờ biết đến chuyện gì tương tự thế: ở đó, giới tăng lữ hoàn toàn đoàn kết, chống lại kẻ thù Xô Viết chung. Mỗi người đều đặt vào người khác một niềm tin mù quáng, Giáo hội Ba Lan có lẽ sẽ không tồn tại được nếu có những thủ đoạn trong nội bộ. Chính với tinh thần này mà Giáo hoàng đã giao phó các trách nhiệm của ngài cho những người như Hồng y Catzinger. Và tôi, tôi là nhân chứng thầm lặng của rất nhiều điều.

Ông cố gắng đứng lên.

- Tôi sẽ giúp cha, giống như tôi đã giúp cha Andrei. Nhưng tôi đang làm một việc rất mạo hiểm: hãy thề với tôi là cha sẽ không tìm cách hại Giáo hoàng.

Cha Nil trả lời nhẹ nhàng :

- Tôi chỉ là một tu sĩ, cha ạ, không gì khiến tôi quan tâm ngoài khuôn mặt và nhân thân của Jesus. Chính trị và các phong tục của Vatican hoàn toàn xa lạ đối với tôi, tôi không liên quan gì đến Hồng y Catzinger, ông ta không biết gì về công việc của tôi. Cũng như cha Andrei, tôi là con người của sự thật.

- Tôi tin cha: Giáo hoàng cũng vậy, ngài là con người của sự thật. Tôi có thể làm gì cho cha ?

Cha Nil đưa ra cuốn sổ tay của cha Andrei.

- Trong thời gian ở Roma, cha Andrei đã tra cứu một cuốn sách mà ông ấy ghi lại mã số ở đây: nó có nói lên điều gì với cha không ?

Breczinsky chăm chú xem xét trang giấy trong cuốn sổ, rồi ngẩng đầu lên.

- Tất nhiên, đây là mã số thuộc kho sách này. Nó chỉ toàn bộ kệ sách nơi cất giữ biên bản thẩm tra các Hiệp sĩ dòng Đền. Khi đến đây, cha Andrei đã hỏi tôi xem có thể xem được không, mặc dù ông ấy không có giấy phép. Cha đi theo tôi.

Họ im lặng đi qua phía trước chiếc bàn nơi Leeland đang cúi người trên một bản thảo và không thèm ngẩng lên. Đến căn phòng thứ ba, Breczisky ngoặt sang trái và dẫn cha Nil đến trước một kệ sách đặt trong khu đã được gia cố.

- Ở đây – Ông chỉ vào những giá sách đặt dọc theo tường – cha sẽ thấy các văn bản của Tòa án dị giáo liên quan đến vụ các Hiệp sĩ dòng Đền, các văn bản gốc. Tôi có thể nói với cha rằng cha Andrei đã dừng rất lâu trên các biên bản thẩm tra Hiệp sĩ Esquieu de Floyran do Guillaume de Nogaret thực hiện, và thư từ trao đổi của Philippe le Bel, chính tôi đã xếp lại chúng vào đúng chỗ sau khi ông ấy đi. Tôi hy vọng cha sẽ làm việc nhanh như ông ấy: tôi để cha ở đây trong vòng hai giờ. Và cha nhớ cho: cha chưa bao giờ đến khu vực này của kho sách.

Ông tránh đi như một cái bóng. Trong cái xó vắng vẻ này, chỉ còn nghe thấy tiếng máy điều hòa nhiệt độ kêu ro ro. Khoảng mười chiếc hộp giấy xếp thành hàng, được đánh số thứ tự. Trong một hộp, trên một trang giấy mà cha Andrei tìm thấy do chứng thực viên của Tòa án dị giáo ghi lại trước mặt tù nhân bị tra tấn đến kiệt sức, có lẽ có dấu vết của tông đồ thứ mười ba.

Ông cả quyết kéo chiếc hộp đầu tiên: Lời thú nhận của đạo hữu Esquieu de Floyran, Hiệp sĩ vùng Béziers, do tôi, Guillaume de Paris, đại diện cho vua Phillippe le Bel và Quan tòa Tòa án dị giáo Pháp, ghi lại với sự hiện diện của Đức ông Guillaume de Nogaret
 
Chương 64


Bờ biển Chết, tháng Ba năm 1149

- Cố gắng thêm chút nữa, Peter, chúng đang bám gót chúng ta.

Esquieu de Floyran ôm ngang lưng người đồng hành của mình. Họ đang ở dưới chân một vách núi dốc đứng do những đám đá kết thành, trên đó có những đường mòn quanh co do bầy dê đi lại tạo nên. Thấp thoáng có những cái lỗ màu đen: lối vào các hang động tự nhiên nhô ra phía trên khoảng không.

Từ khi gặp nhau ở Vézelay ba năm trước đây, hai người không rời nhau ra nữa. Hừng hực nhiệt huyết sau khi nghe bài thuyết giáo của Thánh Bernard, họ đã khoác lên người chiếc áo lễ màu trắng có chữ thập đỏ và gia nhập cuộc Thập Tự Chinh lần thứ hai đến Palestine. Ở đó, trong dải Gaza, các Hiệp sĩ rơi vào bẫy của những người Thổ Nhĩ Kỳ thuộc đế chế Seldjoukide. Esquieu muốn thoát khỏi chiến lũy: dẫn đầu một đoàn khoảng mười lăm kỵ sĩ, giữa ban ngày anh vượt ra ngoài hòng đánh lạc hướng, và đương nhiên bị một số quân địch đang vây hãm đuổi theo. Trên đường chạy về phía Đông, những người đồng hành của anh lần lượt gục ngã. Bên cạnh anh chỉ còn lại Peter de Montbrison, người bạn trung thành

Đến bên bờ biển Chết, ngựa của họ quỵ ngã. Hai Hiệp sĩ nhảy qua một bức tường gỗ, và đi vào một vùng đổ nát vẫn còn mang dấu vết của một trận cháy khủng khiếp. Họ chạy qua một hồ chứa nước lớn đào trong đá, rồi đi dọc theo những con kênh dẫn nước tưới đổ về phía vách đá. Đó là lối thoát của họ

Đúng lúc họ ra khỏi vùng được cây che phủ, Peter thét lên một tiếng rồi ngã xuống. Khi người đồng hành của anh cúi xuống, một mũi tên xuyên qua bụng anh, ở chỗ thắt lưng.

- Để mặc tôi, Esquieu, tôi bị thương rồi!

Để mặc anh rơi vào tay chúng ư? Không bao giờ! Chúng ta sẽ trốn trong vách đá này, và sẽ thoát được nhờ bóng đêm. Có một ốc đảo ngay gần đây, ốc đảo Ein Feshka: đó là con đường về phía Tây, con đường thoát. Anh hãy dựa vào tôi, đây không phải là mũi tên đầu tiên anh bị trúng: lên trên kia chúng ta sẽ rút nó ra, và anh sẽ gặp lại nước Pháp cũng như đội quân của anh

Những lời lẽ sục sôi của Thánh Bernard vẫn văng vẳng bên tai anh: “Các kỵ sĩ của Christ dâng hiến cái chết một cách bình yên. Nếu anh ta chết, là tốt cho anh ta, nếu anh ta giết người, đó là vì Christ.”[[37]]. Nhưng lúc này, điều cần nhất là phải thoát khỏi nhóm người Thổ Nhĩ Kỳ điên cuồng

Allahou Akbar! Tiếng hét của chúng ở rất gần rồi. “Peter không thể trụ được nữa. Chúa ơi, hãy cứu chúng con!”

Người nọ dìu người kia, họ lách vào trong vách đá.

Họ dừng lại bên lối vào một hang đá, và Esquieu đưa mắt liếc nhìn xuống phía dưới: những kẻ đuổi theo hình như đã để mất dấu họ, và đang bàn bạc với nhau. Từ nơi họ đứng, anh có thể nhìn thấy không chỉ những đống đổ nát cháy đen họ vừa đi qua, mà cả vịnh nhỏ thuộc biển Chết đang ánh lên dưới mặt trời buổi sáng

Bên phải anh, Peter đang tựa mình vào vách đá, tái mét

- Anh phải nằm xuống, và tôi sẽ rút mũi tên ra. Lại đây, chúng ta phải lách vào lỗ hổng này, rồi chờ đến đêm

Lối vào hẹp đến nỗi họ phải đưa chân vào trước. Esquieu đỡ người đồng hành đang rên rỉ, người đầy máu. Kỳ lạ là bên trong hang khá sáng. Anh đặt người bị thương nằm xuống bên trái lối vào, đầu gối lên một thứ giống như là cái bát bằng đất nung nhô lên trên cát. Rồi bằng một động tác dứt khoát, anh rút mũi tên ra: Peter thét lên một tiếng và bất tỉnh

“Mũi tên đã xuyên từ bên này sang bên kia bụng, máu chảy nhiều quá: anh ấy hỏng rồi”

Anh nhỏ nốt những giọt nước cuối cùng trong mình vào môi người hấp hối. Rồi xem xét thung lũng phía dưới: bọn người Thổ vẫn ở đó, phải chờ đến lúc chúng đi khỏi. Nhưng có lẽ Peter sẽ chết trước lúc đó

Là người có học thức uyên bác, Esquieu đã tiếp nhận trên đất của mình một tu viện của các tu sĩ da trắng thuộc dòng tu mới do Thánh Bernard khởi lập. Anh dành thời gian rỗi để đọc các bản thảo tập hợp trong phòng viết của họ, và đã nghiên cứu y thuật của Gallien trong văn bản tiếng Hy Lạp: Peter vẫn đang chảy máu, máu tụ lại dưới thân thể anh thành một vũng sẫm màu. Có lẽ anh chỉ còn sống được khoảng một giờ nữa, hoặc ít hơn thế

Anh bối rối đưa mắt nhìn xuống nền đất trong hang. Dọc theo vách bên trái, những chiếc bát bằng đất nung nhô lên khỏi cát. Anh ngẫu nhiên nhấc chiếc thứ ba từ cửa vào lên: đó là một chiếc vại bằng đất, vẫn còn nguyên vẹn. Bên trong, anh nhìn thấy có cuộn vải dày được phủ dầu. Sát thành vại có một cuộn nhỏ hơn được xếp riêng ra. Anh nhấc nó ra không chút khó khăn. Đó là một mảnh giấy da còn tốt, được buộc lại chỉ bằng một sợi dây lanh mà anh dễ dàng tháo ra

Anh liếc nhìn Peter: anh này đang nằm bất động và thở một cách khó nhọc, gương mặt đã mang màu xỉn của những xác chết. “Bạn tội nghiệp của tôi… chết trên một vùng đất xa lạ thế này!”

Anh giở mảnh giấy da ra. Chữ viết trên đó là tiếng Hy Lạp, vẫn còn rất rõ ràng. Một lối viết thanh lịch, và anh dễ dàng nhận ra các từ ngữ: ngôn ngữ của các tông đồ

Anh lại gần lối ra, rồi bắt đầu đọc. Mắt anh mở to, và tay anh bắt đầu run nhè nhẹ

“Ta, môn đồ cưng của Jessus, tông đồ thứ mười ba, gửi đến tất cả các Giáo hội…” Tác giả nói rằng vào buổi tối diễn ra bữa ăn cuối cùng trong căn phòng lớn, họ không phải có mười hai, mà là mười ba tông đồ, và rằng tông đồ thứ mười ba chính là ông ta. Bằng những từ ngữ trang trọng, ông ta phản đối việc thần thánh hóa Jesus xứ Nazareth. Và khẳng định rằng Jesus không sống lại, mà sau khi chết đã được chuyển đến một nấm mồ, nấm mồ đó nằm ở…

- Peter, nhìn này! Một bức thư của tông đồ ở thời Jesus, bức thư của một trong số các tông đồ của Người…. Peter!

Đầu của anh bạn đã khẽ lệch ra khỏi chiếc bắt bằng đất úp trên chiếc vại đầu tiên trong hang. Bạn anh đã chết

Một giờ sau, Esquieu đưa ra quyết định: thân thể Peter sẽ ở lại đây để chờ đến thời điểm phục sinh cuối cùng. Nhưng bức thư này của một tông đồ của Jesus, bức thư mà anh chưa từng được nghe nói đến, anh phải tiết lộ nó với thế giới Cơ Đốc. Mang mảnh giấy da này theo là quá mạo hiểm: bị thời gian làm cho chai cứng, có thể nó sẽ nhanh chóng bị vỡ vụn ra. Và liệu tối nay anh có thoát khỏi tay đám người Hồi Giáo không? Anh có sống sót để đến được Gaza an toàn không? Bản gốc của bức thư sẽ ở lại hang đá này, nhưng anh sẽ chép ra một bản. Ngay lập tức

Anh kính cẩn lật xác bạn, cởi áo choàng và xé một mảnh lớn từ áo sơ mi của bạn. Rồi anh cẩn thận gọt một mẩu gỗ, đặt mảnh vải lên một phiến đá phẳng. Nhúng ngòi bút tự tạo vào vũng máu đang thấm đỏ nền đất. Và bắt đầu chép lại bức thư của tông đồ, như anh vẫn thường nhìn thấy mọi người làm trong phòng viết của tu viện

Mặt trời lặn sau vách đá Qumran. Esquieu đứng dậy: bức thư của tông đồ thứ mười ba giờ đã được chép lại bằng máu trên áo sơ mi của Peter. Anh cuộn mảnh giấy da, buộc lại bằng sợi dây lanh và cẩn thận đặt lại vào chiếc vại thứ ba – cố gắng để nó không chạm vào cuốn vải phủ dầu. Đậy lại nắp vại, cẩn thận gập bản sao vừa hoàn thành rồi luồn vào thắt lưng

Từ cửa hang, anh đưa mắt nhìn xuống dưới: bọn người Thổ đã giảm xuống chỉ còn một nửa. chỉ có một mình, có lẽ anh sẽ thoát được chúng. Anh phải chờ đến đêm, và chạy qua khu đồn điền của Ein Fesskha. Có lẽ anh sẽ thành công.

Hai tháng sau, một chếc thuyền buồm có đóng dấu chữ thập đỏ vượt qua lạch cảng Saint-Jean-d’Acre, và hướng mũi về phía Tây. Đứng trên mũi thuyền, một kỵ sĩ dòng Đền mặc áo choàng trắng đưa mắt nhìn lần cuối về phía đất nước của Christ

Anh bỏ lại phía sau thi thể người bạn tốt nhất. Trong một cái hang nhô ra phía trên Qumran có chứa hàng chục chiếc vại đựng đầy những cuộn vải lạ lùng. Ngay khi có thể, anh phải quay lại đó. Để lấy lại mảnh giấy da trong chiếc vại thứ ba, ở bên trái lối vào, và mang nó về Pháp, với tất cả sự cẩn trọng xứng đáng với một tài liệu thiêng liêng như vậy

Cái chết của Peter hẳn sẽ không vô ích: bản sao một bức thư của tông đồ mà chưa bao giờ có ai nghe nói đến, anh sẽ trao lại cho Giáo chủ của dòng Đền, Robert de Craon. Nội dung của nó có thể sẽ làm thay đổi bộ mặt thế giới. Và sẽ chứng tỏ với mọi người rằng các Hiệp sĩ dòng Đền đã đúng khi bác bỏ Christ, nhưng lại say mê Jesus

Khi đến Paris, Esquieu de Flyran yêu cầu được gặp riêng Robert de Craon. Trước mặt ông, anh rút từ thắt lưng ra một cuộn vải phủ đầy chữ màu hạt dẻ sẫm, và đưa nó cho Giáo chủ dòng Đền. người thứ hai giữ chức vị này

Không nói một lời, Giáo chủ trải tấm vải ra. Vẫn im lặng, ông đọc văn bản được viết lại rất rõ ràng. Ông nghiêm khắc bắt Esquieu phải thề giữ bí mật, trên máu của người anh em và cũng là bạn của anh, và để anh ra về chỉ với một cái gật đầu

Robert de Craon ở một mình cả tối và đêm trước mặt bàn trên đó có mảnh vải phủ đầy máu một người anh em của ông. Vết máu tạo nên những dòng chữ không thể tin nổi, những dòng chữ có khả năng gây đảo lộn nhất mà ông từng đọc

Ngày hôm sau, vẻ mặt nghiêm trang, ông cho gửi đến các Hiệp sĩ dòng Đền trên khắp châu Âu một lệnh triệu tập bất thường. Không ai trong số các anh em thuộc hội đồng thầy tu, quan án hoặc trưởng tu viện, từ những người được lấy tên đặt cho các pháo đài nổi tiếng cho đến những quân lộc nhỏ nhất, được vắng mặt trong cuộc họp toàn thể này

Không một ai.
 
Chương 65


Khi quay lại gặp người bạn vẫn đang cúi người bên bàn trong phòng làm việc ở kho sách, mặt cha Nil kín bưng. Leeland ngẩng đầu khỏi bản thảo.

- Thế nào?

- Không phải ở đây. Về đường Aurelia đi

Roma đang chuẩn bị mừng đón Noel. Theo truyền thống riêng của Thành phố vĩnh hằng, trong thời gian này, mỗi nhà thờ đều vun đắp thể diện cho mình bằng cách trưng bày một presepio, nghĩa là một máng cỏ được trang trí bằng tất cả những gì mà trí tưởng tượng kỳ cục có thể sáng tạo ra. Người dân Roma dành những buổi chiều tháng Mười hai của mình để lang thang từ nhà thờ này sang nhà thờ khác, so sánh tác phẩm trưng bày của từng nhà thờ rồi vung mạnh tay bình luận.

“Không thể, cha Nil nghĩ khi nhìn các gia đình với đầy đủ thành viên đang đi khuất vào trong những cổng nhà thờ, những đôi mắt mở to vì hạnh phúc của trẻ em, không thể nói với họ rằng tất cả những điều này đều dựa trên một lời nói dối có từ lâu đời. Họ cần có một vị Chúa theo tưởng tượng của họ, một vị Chúa trẻ con. Giáo hội chỉ có thể bảo vệ bí mật của mình: Nogaret đã đúng”

Hai người lặng lẽ bước đi. Về đến phòng, họ tới ngồi bên đàn piano, và Leeland mang ra một chai bourbon. Ông rót cho cha Nil một cốc đầy, ông này làm một cử chỉ ngăn lại.

- Nào, Nil, đồ uống của đất nước chúng tớ mang tên các vị vua Pháp. Uống vài ngụm sẽ giúp cậu kể cho tớ nghe cậu đã làm gì một mình cả sáng nay, trong một khu vực thuộc kho sách Vatican mà về nguyên tắc cậu không có quyền tiếp cận…

Cha Nil không đáp lại lời nói bóng gió đó: lần đầu tiên, có thể ông sẽ giấu bạn mình điều gì đó. Những tâm sự thầm kín của Breczinsky, gương mặt hoảng sợ của ông ấy không có liên quan gì đến việc tìm kiếm của ông: ông cảm thấy mình đang là người nắm giữ một bí mật mà có lẽ ông sẽ không chia sẻ với bất cứ ai. Ông uống một ngụm rượu, nhăn mặt và bật ho

Tớ không biết bắt đầu từ đâu: cậu không phải là một sử gia, cậu không nghiên cứu các biên bản hỏi cung của Tòa án dị giáo mà tớ vừa đọc. Tớ đã tìm thấy những văn bản cha Andrei tham khảo khi đến kho sách, và ngay lập tức chúng nói với tớ: chuyện này vừa rõ ràng, lại vừa mù mờ

- Cậu có tìm thấy thứ gì liên quan đến tông đồ thứ mười ba không?

- Những từ “tông đồ thứ mười ba” hoặc “bức thư của tông đồ” không xuất hiện trong bất kỳ biên bản hỏi cung nào. Nhưng giờ đây khi tớ đã biết thứ mà chúng ta đang tìm, có hai chi tiết khiến tớ chú ý, và tớ không hiểu. Philippe le Bel đã đích thân soạn thảo bản luận tội các Hiệp sĩ, trong một bức thư gửi đến các cảnh sát trưởng trong vương quốc vào ngày 14 tháng Chín năm 1307, một tháng trước cuộc tổng vây ráp tất cả các thành viên dòng Đền. Bức thư này được lưu trữ trong kho sách. Sáng nay tớ đã chép lại nó

Ông cúi xuống và lấy từ trong túi đeo ra một tờ giấy

- Tớ đọc cho cậu nghe lời luận tội đầu tiên: “Đây là một điều cay đắng, một điều tệ hại, rất kinh khủng, một tội ác đáng khinh…” Và đó là điều gì? “Rằng các Hiệp sĩ, khi gia nhập dòng tu của họ, phủ nhận ba lần Đấng Christ và nhổ ngần ấy lần vào mặt Người [[38]]”

- Ồ ồ!

- Sau đó, kể từ cuộc hỏi cung Esquieu de Floyran lần đầu tiên vào hôm sau ngày thứ Sáu ngày 13 tháng Mười năm 1307, cho đến cuộc hỏi cung Jacques de Molay lần cuối cùng trên giàn thiêu vào ngày 19 tháng Ba năm 1314, một câu hỏi không ngừng được đặt ra: “Có đúng là các người phủ nhận Christ không?” Tất cả các Hiệp sĩ, dù bị tra tấn dã man đến thế nào, đều thừa nhận là đúng, họ bác bỏ Christ. Nhưng họ không bác bỏ Jesus, và rằng họ đã được gia nhập quân đội nhân danh chính Jesus

- Thế thì sao?

- Thì đó chính xác là điều mà những người Nazareth đã từng khẳng định theo như Origène tra cứu được trong các văn tự ở Alexandria. Chúng ta biết rằng đó là lời dạy của thầy họ, tông đồ thứ mười ba: nếu chỉ mình bức thư của ông ấy có đủ khả năng phá hủy Giáo hội, nếu nó phải bị hủy bỏ ở khắp nơi theo như yêu cầu trong bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ, thì không chỉ bởi nó phủ nhận việc thánh hóa Jesus - rất nhiều người khác sau ông ấy đã làm điều này – mà còn vì, theo Origène, nó chứa đựng bằng chứng rằng Người không phải là Chúa

- Liệu các Hiệp sĩ có biết về bức thư bị mất của tông đồ thứ mười ba không?

- Tớ không biết, nhưng tớ nhận thấy rằng vào thế kỷ XIV, nhiều Hiệp sĩ đã bị tra tấn và giết chết vì dám tuyên bố một giáo lý giống như người Nazareth, và họ nhấn mạnh lựa chọn của mình bằng một hành động có tính nghi lễ: nhổ vào Christ. Có thể có giả thiết thứ hai - cha Nil đưa tay xoa trán - những người này đã có quan hệ chặt chẽ với người Hồi giáo trong một thời gian dài. Việc từ chối một vị thánh khác Allah không ngừng được nhắc lại trong kinh Coran, và cậu đừng quên rằng chính Muhammad cũng thuộc và nhiều lần trích dẫn lời của những người Nazareth…

- Điều đó có nghĩa là gì? Cậu xáo trộn hết mọi thứ!

- Không, tớ đang liên hệ những yếu tố tản mát lại với nhau. Người ta thường nói rằng các Hiệp sĩ dòng Đền bị ảnh hưởng của đạo Hồi: có thể thế, nhưng việc họ bác bỏ thiên chất của Jesus không bắt nguồn từ kinh Coran. Còn nghiêm trọng hơn thế: thông qua các biên bản hỏi cung, một số người đã thú nhận rằng theo họ, quyền lực của Peter và Mười hai tông đồ đã được chuyển sang con người của Giáo chủ dòng Đền.

- Giáo chủ, kiểu như một người kế vị tông đồ thứ mười ba?

- Họ không thể hiện điều đó qua những lời này, nhưng khẳng định rằng việc họ bác bỏ Christ dựa trên con người Giáo chủ của họ, người mà họ coi là có quyền lực cao hơn cả quyền lực của Mười hai tông đồ và Giáo hội. Mọi chuyện xảy ra cứ như là có một sự kế tục của một giáo lý tông đồ bí mật được truyền lại qua nhiều thế kỷ, song song với giáo lý của Peter. Bắt nguồn từ tông đồ thứ mười ba, sau đó dựa trên những người Nazareth, rồi khi họ bị tiêu diệt thì dựa trên bức thư bí ẩn này.

Cha Nil uống thêm một ngụm

- Philippe le Bel đưa ra lời kết tội nghiêm trọng thứ hai chống lại các Hiệp sĩ: “Khi gia nhập dòng tu, họ hôn người đón nhận họ - Giáo chủ - đầu tiên là vào phần cuối lưng, sau đó vào bụng. [[39]]

Leeland phá lên cười:

- Gosh! Templar queers! [[40]]

- Không, các Hiệp sĩ không phải là người đồng tính, họ thề giữ đức hạnh và mọi thứ đều cho thấy rằng họ tôn trọng lời thề đó. Đó là một cử chỉ mang tính nghi lễ trong một buổi lễ tôn giáo trang trọng và công khai. Cử chỉ này đã cho phép Philippe le Bel kết tội họ là nhiễm thói đồng tính, vì ông ta không hiểu ý nghĩa của nó – trong khi trên thực tế chắc chắn nó mang ý nghĩa biểu tượng rất cao.

- Hôn mông của Giáo chủ, sau đó vòng lại và hôn bụng ông ta: đó mà là một nghi lễ mang tính biểu tượng trong một nhà thờ à?

- Một nghi lễ trang trọng mà họ coi là có tầm quan trọng lớn. Vậy thì cử chỉ này có ý nghĩa gì đối với họ? Lúc đầu tớ nghĩ rằng họ thể hiện lòng tôn kính đối với các chakra của Giáo chủ, những nơi giao nhau của năng lực tinh thần mà ngày nay người Hinđu cho là nằm đúng ở bụng và… mông, theo như cậu nói. Nhưng các Hiệp sĩ không biết triết lý Hinđu. Vậy nên tớ không có cách giải thích nào ngoại trừ cách này: đây là một cử chỉ tỏ lòng tôn kính đối với con người Giáo chủ, vị tông đồ mà đối với họ quyền lực còn vượt cao hơn quyền lực của Peter và những người kế cận ông. Qua đó, họ thể hiện lòng gắn bó với một sự kế tục khác, sự kế tục tông đồ thứ mười ba. Nhưng tại sao lại hôn vào đúng vị trí này, ở phía dưới lưng? Tớ không biết

Đêm đó, cha Nil không tài nào ngủ được. Những câu hỏi cứ quay cuồng trong đầu ông. Cử chỉ báng bổ đó, cử chỉ khiến ký ức về các Hiệp sĩ dòng Đền mãi mãi bị vấy bẩn, có ý nghĩa gì? Và nhất là mối quan hệ giữa cử chỉ này với bức thư của tông đồ thứ mười ba là gì?

Một lần nữa, ông trở mình trên giường, làm tấm đệm lò xo kêu lên kèn kẹt. Ngày mai, ông sẽ đi nghe một buổi hòa nhạc. Một sự giải khuây đúng lúc.
 
Chương 66


Paris, ngày 18 tháng Ba năm 1314

- Lần cuối cùng, chúng ta yêu cầu người hãy thú nhận: có phải ngươi đã bác bỏ thiên chất của Christ? Ngươi có chịu nói cho chúng ta biết nghi lễ báng bổ mà các người thực hiện khi gia nhập Dòng tu có ý nghĩa gì không?

Ở mũi đảo của Thành phố, Giáo chủ của dòng Đền Jacques de Molay đã bị kéo lên trên một đống củi. Hai tay bị trói bên dưới chiếc áo choàng trắng có in hình chữ thập màu đỏ, ông đối diện với Guillaume de Nogaret, quan chưởng ấn và cũng là người hầu cận trung thành của vua Philippe IV le Bel. Dân chúng Paris xúm đông trên hai bờ sông Seine: liệu vào phút cuối cùng, Giáo chủ dòng Đền có rút lại những lời đã nói, khiến những kẻ hiếu kỳ bị hụt mất một cảnh tượng tuyệt hảo không? Viên đao phủ, hai chân giạng ra, tay phải đang cầm một bó đuốc cháy rực, chỉ còn phải làm một cử chỉ nữa thôi

Jacques de Molay nhắm mắt lại một lát, và nhớ lại toàn bộ ký ức về Dòng tu của ông. Chuyện xảy ra trước đó gần hai thế kỷ, vào năm 1149. Không xa giàn thiêu nơi ông sắp chết

Hôm sau ngày kỵ sĩ Esquieu de Floyran đến Paris, Giáo chủ Robert de Craon đã triệu tập gấp một cuộc họp bất thường của dòng Đền.

Trước đông đủ các anh em, ông đã đọc to bức thư của tông đồ thứ mười ba, mà bản sao vừa đến được tay ông một cách thần kỳ. Nó đưa ra bằng chứng không thể chối cãi rằng Jesus không phải là Chúa. Thân thể của Người chưa bao giờ sống lại, mà đã được những người Esseni chôn cất ở đâu đó trong tận cùng sa mạc Idumea. Tác giả bức thư này nói rằng ông bác bỏ lời chứng của Mười hai tông đồ và quyền lực của Peter, người bị kết tội là đã chấp nhận việc thần thánh hóa Jesus để chinh phục quyền lực.

Sững sờ, các Hiệp sĩ nghe ông đọc trong bầu trông khí im lặng chết chóc. Một người trong số họ đứng dậy và nói bằng giọng trầm đục:

- Các anh em, tất cả chúng ta ở đây đã sống nhiều năm gần các kẻ thù Hồi giáo. Ai cũng biết rằng kinh Coran của họ bác bỏ thiên chất của Jesus, với những lời lẽ hoàn toàn giống với bức thư của tông đồ này, và rằng đó là nguyên nhân chính khiến họ chống đối người theo đạo Cơ Đốc kịch liệt đến thế. Phải cho cộng đồng Cơ Đốc giáo biết về bức thư này, để cuối cùng nhân thân thực sự của Jesus được thừa nhận: điều đó sẽ chấm dứt vĩnh viễn cuộc chiến thảm khốc giữa những người kế tục Muhammad và những người kế tục Peter. Chỉ có như vậy thì những người thống nhất tuyên bố rằng Jesus, con trai của Joseph, không phải là một vị thần mà là một con người đặc biệt, một người dẫn đường có thần cảm, mới có thể cùng nhau sống hòa bình!

Robert de Craon cẩn thận cân nhắc từng từ để trả lời: không bao giờ, ông nói với các anh em đang tụ họp, không bao giờ Giáo hội có thể từ bỏ giáo lý căn bản của họ, nguồn gốc của một quyền lực toàn cầu. Ông có một dự định khác, dự định này được chấp thuận sau một cuộc thảo luận dài.

Trong các thập kỷ tiếp theo, của cải của các Hiệp sĩ tăng lên một cách kỳ lạ. Chỉ cần Giáo chủ đến gặp một vị vua hoặc một Giám mục, là lập tức những khoản hiến tặng bằng đất đai hoặc kim loại quý đổ dồn về. Đó là vì những người kế tục Robert de Craon đã biết mang lại giá trị cho một lập luận không thể chối cãi.

- Hãy cho chúng tôi phương tiện để hoàn thành sứ mệnh của mình, họ nói, hoặc chúng tôi sẽ công bố một văn bản của tông đồ mà chúng tôi đang sở hữu, nó sẽ tiêu diệt các ngài thông qua việc phá hủy nền Cơ Đốc giáo, thứ mang lại cho các ngài quyền lực cũng như tất cả của cải

Các vị vua, thậm chí cả các Giáo hoàng, đều chi trả, và các đoàn Hiệp sĩ hùng mạnh mọc lên ở khắp nơi. Một thế kỷ sau, các Hiệp sĩ đảm nhận vai trò ngân hàng cho toàn Châu u: bức thư của tông đồ thứ mười ba đã trở thành cửa van của một dòng sông vàng chảy vào két của các Hiệp sĩ.

Nhưng nguồn gốc của một sự giàu có đến thế, vật khiến tất cả mọi người mơ ước, có nguy cơ bị đánh cắp: cần cất giữ mảnh vải mỏng manh này ở một nơi chắc chắn. Con người của Giáo chủ, người kế tục của tông đồ thứ mười ba và cũng như ông, là người chống đối lại nền Cơ Đốc giáo do Peter xây dựng nên, con người thể xác của ông đã trở thành thứ không thể chạm tới. Một trong số họ nhớ đến cách các tù nhân phương Đông giấu tiền: để tiền trong một ống kim loại rồi nhét ống kim loại đó vào bụng, nhờ đó tiền của họ không bị đánh cắp. Ông liền cho làm một cái ống bằng vàng, đặt bản sao bức thư đã được cuộn cẩn thận vào đó, rồi cho vào trong người, từ đó bức thư nằm sâu trong chính con người ông, giờ đây đã trở nên cao quý gấp đôi.

Để không ai nghi ngờ về bí mật liên quan đến bức thư, phải làm sao để bất cứ dấu vết nào, dù là nhỏ nhất, đều được xóa sạch. Quan án của quân lộc Patay nghe nói đến một bản khắc đặt tại nhà thờ Germigny, nghĩa là nằm trên địa phận của ông. Một tu sĩ uyên bác nói rằng bản khắc này mang một ý nghĩa kín đáo, ẩn trong cách thức đặc biệt mà văn bản của Tín điều Nicée được chép lại. Ông ta nói có thể giải được mật mã này.

Quan án cho gọi tu sĩ này đến, và giam mình cùng với ông ta trong nhà thờ Germigny. Khi ra ngoài, ông có vẻ nghiêm trọng, và cho áp giải ngay tu sĩ đó đến quân lộc của mình ở Patay

Vị tu sĩ uyên bác đó chết vào ngày hôm sau. Phiến đá ngay lập tức bị phủ một lớp vữa, và bản khắc kỳ lạ trên đó biến mất khỏi ánh mắt cũng như trí nhớ của người dân

Từ đó trở đi, nghi lễ gia nhập dòng tu của các Hiệp sĩ dòng đền có thêm một cử chỉ kỳ quặc mà những người tập tu phải kính cẩn thực hiện: trong lễ mixa và trước khi được tiếp nhận chiếc áo choàng trắng, mỗi người phải quỳ xuống trước Giáo chủ và hôn lên đầu tiên là phần dưới lưng, sau đó là bụng ông.

Người anh em mới đó không hề biết rằng mình đang tỏ lòng sùng kính đối với bức thư của tông đồ thứ mười ba, bức thư mà Giáo hội bị nó đe dọa căm thù tầm nã khắp nơi. Và hiện đang nằm trong lòng của Giáo chủ, người chỉ lấy nó ra khỏi chiếc ống quý giá để đe dọa nhằm đạt được thêm nhiều đất, nhiều vàng hơn nữa.

Kho báu của các Hiệp sĩ được cất giữ trong hầm của rất nhiều quân lộc. Nhưng nguồn gốc của kho báu này, nguồn gốc không thể cạn kiệt, được các Giáo chủ truyền lại cho người kế nhiệm, đến lượt người này lại bảo vệ nó bằng chính thân thể mình.

Trên giàn thiêu, Jacques de Molay ngẩng đầu lên. Chúng đã tra tấn ông bằng nước, bằng lửa và những lần kéo giãn thân người, nhưng chúng không lục soát bụng ông. Chỉ cần co người lại, ông có thể cảm nhận được từ sâu kín con người mình sự hiện diện của chiếc ống bằng vàng: bức thư sẽ biến mất cùng ông, vũ khí duy nhất của các Hiệp sĩ chống lại các vị vua và giáo sĩ cấp cao của một Giáo hội, Giáo hội ấy đã không còn xứng đáng với Jesus. Bằng giọng nói mạnh mẽ đến bất ngờ, ông trả lời Guillaume de Nogaret:

- Chính vì bị tra tấn, một số anh em của ta đã thừa nhận những điều kinh tởm mà ngươi kết tội ta. Trước trời đất, giờ đây ta thề rằng tất cả những điều ngươi vừa nói về những tội lỗi và hành động báng bổ của các Hiệp sĩ chỉ là vu khống. Và chúng ta đáng phải chết vì đã không biết cách chống cự lại nỗi đau mà các quan tòa dị giáo gây ra

Với một nụ cười chiến thắng, Nogaret quay về phía nhà vua. Đứng ở một ban công có mái che nhô ra bên trên sông Seine, Philippe giơ tay lên: ngay lúc đó viên đao phủ hạ tay xuống, châm bó đuốc đang cháy rừng rực vào đóng củi trên giàn thiêu

Tàn lửa bốc lên đến tận tháp nhà thờ Đức Bà. Jacques de Molay vẫn còn sức để thét lên:

- Giáo hoàng Clément, vua Philippe! Trong vòng một năm nữa, ta sẽ gọi các ngươi ra trước tòa án của Chúa để nhận hình phạt dành cho chính các ngươi! Ngươi và những kẻ đến sau ngươi, các ngươi sẽ bị nguyền rủa!

Giàn thiêu đổ sập xuống, làm những tia lửa bắn tung tóe. Sức nóng lan đến tận bờ sông Seine.

Cuối ngày, cha xứ của nhà thờ Đức Bà đến cầu nguyện trên đống tro còn bốc khói của giàn thiêu. Quân cảnh đã rút đi hết, chỉ có một mình, ông quỳ xuống. Rồi giật mình: trước mặt ông, giữa đống tro than vẫn còn nóng, một vật đang sáng lên trong ánh hoàng hôn. Dùng một cành cây, ông cời nó lại gần: đó là một khối vàng, vàng đã bị chảy ra do sức nóng của giàn thiêu, rồi đông lại thành hình một giọt nước mắt

Tất cả những gì còn lại của chiếc ống có chứa bức thư của tông đồ thứ mười ba, tất cả những gì còn lại từ Giáo chủ cuối cùng của dòng Đền: tất cả những gì còn lại từ kho báu thực sự của các Hiệp sĩ.

Cũng giống như nhiều người khác, cha xứ biết rằng các Hiệp sĩ vô tội, và cái chết thảm khốc của họ thực ra chính là tử vì đạo: ông kính cẩn đặt môi lên giọt lệ vàng, cảm thấy nó không phải chỉ ấm mà nóng bỏng. Đó là di vật của một vị thánh, ngang hàng với tất cả những vị thánh đã hi sinh cuộc đời mình để gìn giữ ký ức về Jesus. Ông giao nó cho phái viên của Giáo hoàng Clément, người chết sau đó một năm.

Sau một cuộc phiêu lưu vòng vèo, giọt lệ vàng rơi vào tay một hội trưởng của Hội Thánh Pie V. Người này đã hiểu được ý nghĩa của nó, không phải tất cả các Hiệp sĩ dòng Đền đều chết vào đầu thế kỷ XIV: không gì khó xóa bỏ hơn là ký ức.

Vật chứng gián tiếp về cuộc nổi dậy của tông đồ thứ mười ba chống lại Giáo hội cai trị này đã được vị hội trưởng giữ gìn cẩn thận trong số các kho báu của Hội.
 
Chương 67


Đại sảnh thực ra là phòng khách của một dinh thự rộng lớn theo phong cách quý tộc. Cách trung tâm thành phố sôi động chỉ hai bước chân, đường Giulia mang lại cho Roma vẻ quyến rũ với những vòm cuốn phủ cây đậu tía, và vài lâu đài cổ được chuyển đổi thành khách sạn, vừa ấm cúng, sang trọng lại vừa thích hợp cho các buổi tiệc tùng

- Anh có thể báo cho ông Barjona rằng tôi muốn gặp ông ấy không?

Nhân viên tiếp tân, mặc một bộ đồ đen tao nhã, chăm chú nhìn mặt người khách đến vào sáng sớm. Một người đàn ông có tuổi, tóc muối tiêu, ăn mặc xoàng xĩnh: một người hâm mộ, một phóng viên nước ngoài chăng? Anh ta cắn môi

- Đêm qua maestro [[41]] trở về rất muộn, chúng tôi không bao giờ làm phiền ông ấy trước ….

Với vẻ tự nhiên, người khách rút từ trong túi ra một tờ bạc hai mươi đô la và đưa cho nhân viên lễ tân.

- Ông ấy sẽ vui khi gặp tôi, và nếu không phải vậy tôi sẽ bồi thường cho anh bằng này nữa. Hãy nói với ông ấy rằng bạn cũ trong câu lạc bộ đang chờ: ông ấy sẽ hiểu

- Ari, điều gì khiến anh lôi tôi ra khỏi giường vào giờ này, ngay trước buổi biểu diễn? Mà trước hết, anh làm gì ở Roma thế? Lẽ ra anh phải yên bình sống cảnh hưu trí của mình ở Jaffa, và để tôi yên. Tôi không còn dưới quyền anh nữa!

- Chắc chắn rồi, nhưng chúng ta không bao giờ rời bỏ Mossad, Lev ạ, và cậu luôn ở dưới quyền của tổ chức. Thôi nào, thư giãn đi! Tôi đi ngang qua châu Âu, và nhân dịp này đến thăm cậu, vậy thôi. Đợt biểu diễn của cậu ở Roma thế nào?

- Tốt, nhưng tối nay tôi bắt đầu với bản thứ ba của Rachmaninov, đây là một tác phẩm kinh khủng và tôi cần phải tập trung. Như vậy là anh vẫn còn có người nhà ở châu Âu à?

- Một người Do Thái luôn có người nhà ở đâu đó. Gia đình của cậu cũng có thể là tổ chức nơi tôi đã huấn luyện cậu khi cậu vẫn còn là một đứa trẻ. Và ở Jerusalem, mọi người lo lắng cho cậu. Điều gì khiến cậu đi theo tu sĩ người Pháp đó lên chuyến tàu Roma Express, sau khi đã đặt chỗ hết cả khoang ông ta ngồi? Ai đã ra lệnh cho cậu? Cậu muốn lặp lại chuyện trước đó, và lần này là một mình hành động à? Có phải tôi đã dạy cậu hành động đơn thương độc mã thế không?

Lev bĩu môi và cúi đầu.

- Tôi không có thời gian để báo trước cho Jerusalem, mọi chuyện xảy ra quá nhanh…

Ari nắm tay lại và cắt lời:

- Đừng nói dối, nhất là với tôi. Cậu biết rõ rằng, từ sau tai nạn của cậu, cậu không còn là mình nữa, và rằng trong nhiều năm cậu đã quá gần gũi với cái chết. Có những lúc cậu để mình chìm đắm trong nhu cầu về sự nguy hiểm, mùi vị của nó khiến cậu phấn khích giống như một thứ ma túy. Thế là cậu không suy nghĩ gì nữa: cậu có tưởng tượng chuyện gì sẽ xảy ra, nếu đến lượt cha Nil lại cũng bị tai nạn không?

- Chuyện đó có thể sẽ đặt ra một vấn đề lớn cho người của Vatican. Tôi căm thù họ bằng cả tâm hồn, Ari ạ: chính họ đã cho phép bọn phát xít buộc gia đình tôi trốn sang Argentina

Ari dịu dàng nhìn anh.

- Bây giờ không phải là lúc để căm thù, mà để thực hiện lẽ công bằng. Và việc cậu tự mình đưa ra các quyết định chính trị ở một cấp độ như vậy mà không đệ trình lên để cấp trên xem xét là không tưởng tượng được, không chấp nhận được. Cậu đã cho thấy là cậu không còn đủ khả năng tự kiểm soát: chúng tôi phải bảo vệ cậu trước chính cậu. Từ nay trở đi, tuyệt đối cấm cậu thực hiện bất kỳ công việc nào trên thực địa. Chú bé Lev, người đùa giỡn với cuộc sống của mình giống như đó là một bản nhạc, đã lớn rồi. Giờ đây cậu đã nổi tiếng: hãy tiếp tục nhiệm vụ mà chúng tôi đã giao phó cho cậu, theo dõi Moktar AlQuarayh, và tập trung vào tu sĩ người Pháp. Hành động trực tiếp không còn là việc của cậu nữa.
 
Chương 68


Cha Nil vô cùng phấn khởi khi bước vào Nhạc viện Saint Cecilia. Lần cuối cùng ông đi nghe một buổi hòa nhạc là ở Paris, hôm trước ngày ông vào tư viện. Cách đây đã lâu lắm rồi

Khán phòng có kích thước nhỏ, gần như gia đình. Tiếng trò chuyện rì rào, và lẫn trong các trang phục dạ hội thấp thoáng những chiếc áo choàng tím của vài Hồng y. Leeland chìa hai tấm giấy mời cho người mở cửa, anh ta dẫn họ đến hàng ghế thứ hai mươi, hơi chếch về bên trái

- Ở đây các ông sẽ không bị vướng nắp đàn piano, thưa Đức ông, ông có thể theo dõi lối diễn xuất của nghệ sĩ độc tấu.

Họ ngồi xuống và im lặng. Từ khi đến Roma, cha Nil cảm thấy có cái gì đó bị đứt gãy giữa ông và Leeland: niềm tin tưởng hoàn toàn tuyệt đối, điều đã cho phép họ gần gũi nhau đến thế mặc dù xa cách về địa lý, sau ngần ấy năm trời. Dường như ông đã mất người bạn cuối cùng và cũng là duy nhất.

Dàn nhạc đã ổn định chỗ ngồi. Đột nhiên ánh đèn trong phòng tối lại, và nhạc trưởng bước vào, đi sau ông là nghệ sĩ dương cầm. Tiếng vỗ tay vang lên như sấm, và tu sĩ người Mỹ ghé sang cha Nil.

- Lev Barjona đã nhiều lần độc tấu ở đây, khán giả biết và yêu mến anh ta

Nhạc trưởng cúi chào, còn Lev Barjone ngồi ngay vào trước đàn piano, không quay đầu về phía khán phòng. Từ chỗ mình, cha Nil chỉ nhìn thấy phía bên phải gương mặt anh, được một mớ tóc dày màu vàng hoe bao phủ. Khi nhạc trưởng trèo lên bục, nghệ sĩ dương cầm ngước mắt lên mỉm cười với ông. Rồi anh cúi đầu, và mọi người nghe thấy âm thanh run rẩy của đàn violon, khúc dạo đầu sâu lắng báo hiệu sự nhập cuộc của đàn piano.Vừa nghe thấy nhịp điệu lặp đi lặp lại như một nỗi ám ảnh đó, gương mặt của nghệ sĩ dương cầm đanh lại như mặt một người máy.

Đột nhiên một ý nghĩa lóe lên trong đầu cha Nil: ông đã nhìn thấy vẻ mặt này ở đâu rồi. Nhưng đôi tay Lev đã đặt lên đàn piano và chủ điểm của chương đầu tiên vang lên, lan tỏa như nỗi nhớ nhung về một thế giới bị lãng quên, thế giới của niềm hạnh phúc đã mất kể từ sau Cách mạng tháng Mười Nga. Cha Nil nhắm mắt lại. m nhạc của Rachmaninov như một chiếc xe trượt đưa ông lướt trên mặt tuyết đóng băng, rồi trên những nẻo đường lưu vong, đến bên cánh cửa của cái chết và sự bỏ rơi.

Cuối chương thứ hai, khán phòng đã bị chinh phục. Leeland lại nghiêng sang phía của Nil.

- Chương ba là một trong những phần khó nhất trong toàn bộ danh mục tác phẩm biểu diễn.

Lev Barjona nét mặt rạng rỡ, nhưng chỉ chào chiếu lệ trước khán phòng đang đứng cả dậy, rồi biến mất vào hậu trường. Mặt hồng lên vì sung sướng, Leeland vỗ tay nhiệt liệt. Đột nhiên ông ngừng lại.

- Tớ biết Lev, anh ta sẽ không quay lại sân khấu, anh ta không bao giò chơi bis. Nào, chúng ta sẽ cố gặp anh ta.

Họ luồn lách giữa những khán giả đang sốt ruột hò hét: “Hoan hô! Hoan hô! Bis!”

Trong lô phía trước sân khấu dành cho Vatican, Hồng y Catzinger dửng dưng vỗ tay. Ông vừa nhận được một chỉ thị molto confidenziale [[42]] của Bộ Ngoại giao Vatican, cảnh báo ông về nghệ sĩ dương cầm người Isarel. “Một nhân vật mờ ám, có thể thế, nhưng cũng là một nhạc công điêu luyện biết bao!”

Đột nhiên, ông sững lại: ông vừa thoáng thấy ở bên dưới dáng dấp thanh lịch của Leeland, đi sau là mái đầu muối tiêu của cha Nil. Họ đang tiến về phía bên trái sân khấu, về phía hậu trường – nơi dành cho các nghệ sĩ.

- Rembert! Shalom, thật vui vì được gặp lại ông!

Đang bị những phụ nữ xinh đẹp vây kín, Lev Barjona ôm hôn Leeland, rồi quay sang cha Nil.

- Và hẳn đây là bạn ông… Rất vui được làm quen với ông, ông cũng thích Rachmaninov?

Sững sờ, cha Nil không đáp lại lời chào của anh. Lúc này, nhạc công người Isarel đang ở nơi tràn ngập ánh sáng, và lần đầu tiên ông nhìn trực diện anh ta: một vết sẹo xuất phát từ tai trái và chạy vào bên trong tóc.

Người đàn ông trên tàu!

Rất thoải mái, Lev vờ như không nhận thấy vẻ sững sờ của ông. Anh nghiêng người sang Leeland và mỉm cười thì thầm:

- Các ông đến thật đúng lúc, tôi đang cố thoát khỏi các quý cô hâm mộ này. Sau mỗi buổi diễn, tôi phải mất vài giờ để trở lại mặt đất, tôi cần một căn phòng thanh bình và yên tĩnh.

Anh quay sang cha Nil.

- Tôi có vinh dự được mời ông cùng ăn tối không? Chúng ta có thể đến một quán kín đáo, và bên cạnh hai tu sĩ, hẳn là sự yên tĩnh sẽ được đảm bảo: các ông sẽ là những khách mời lý tưởng để giúp tôi rời khỏi thế giới của Rachmaninov. Hãy chờ tôi trước lối ra dành cho nghệ sĩ, tôi sẽ thoát khỏi các quý cô quấy rầy này, thay quần áo rồi đến đó.

Nụ cười và vẻ duyên dáng của Lev Barjona có hiệu quả không thể cưỡng nổi, và rõ ràng là anh biết điều đó: không chờ được trả lời, anh tiến về phía cuối hậu trường, để mặc cha Nil như bị đóng đinh tại chỗ vì sững sờ.

Người đàn ông trên tàu! Anh ta làm gì một mình với ông trên chuyến tàu Roma Express đầy khách, và anh ta đang chuẩn bị làm gì khi người soát vé đột nhiên xuất hiện trong khoang của họ?

Ông sẽ ăn tối với anh ta, mặt đối mặt…

PH̀ẦN BA
 
Chương 69


Tối muộn hôm đó, chuông điện thoại reo trong căn hộ thuộc Lâu đài San Angelo: Alessandro Calfo giật mình. Ông vừa thuyết phục được Sonia – càng ngày cô càng khó khăn hơn trong việc tiếp nhận các đòi hỏi của ông - và đang thực hiện nốt một dàn cảnh phức tạp, nó phải tuyệt đối hoàn hảo.

Vào giờ này, chỉ có thể là Hồng y Giáo chủ.

Đúng là ông ấy, vừa từ Nhạc viện Saint Cecilia ngay gần đó quay về Vatican. Nghe giọng nói, Calfo lập tức hiểu ngay là có chuyện gì đó không ổn.

- Đức ông, ông có biết chuyện này không?

- Nhưng chuyện gì kia, thưa Đức Hồng y?

- Tôi vừa trở về từ buổi hòa nhạc của một người Isarel tên là Lev Barjona. Cách đây vài hôm, Cơ quan đã cảnh báo tôi về người này, và tôi ngạc nhiên khi biết rằng có thể Hội Thánh Pie V đã …nói thế nào nhỉ, sử dụng những tài năng ẩn giấu của anh ta. Ai cho phép ông ra lệnh cho điệp viên nước ngoài hành động nhân danh Vatican?

- Thưa Đức Hồng y, Lev Barjona chưa bao giờ là một điệp viên của Vatican! Anh ta trước hết là một nhạc công piano lỗi lạc, và tôi đã chấp nhận sự hợp tác của anh ta do anh ta là con trai của Abraham giống như chúng ta, và anh ta hiểu rõ mọi việc. Nhưng tôi chưa bao giờ gặp anh ta.

- Thế à, còn tôi, tôi vừa nhìn thấy anh ta xong, ở Saint Cecilia. Và hãy đoán xem trong khán phòng còn có ai nữa?

Calfo thở dài.

- Hai tu sĩ của ông, Catzinger tiếp tục, người Mỹ và người Pháp.

- Đức Hồng y …có gì là xấu nếu đi nghe một buổi nhạc hay?

- Trước hết, chỗ của một tu sĩ không phải là ở nơi biểu diễn. Nhất là vào cuối buổi diễn tôi lại thấy họ đi về phía hậu trường. Hẳn là họ sẽ gặp Lev Barjona.

“Còn tôi, Calfo nghĩ, tôi lại rất hy vọng họ sẽ gặp anh ta”

- Thưa Đức Hồng y, trước đây, ở Jerusalem, Leeland đã làm quen với Barjona, khi anh ta là học trò của Arthur Rubinstein. Ông ta cũng có cùng niềm đam mê âm nhạc với anh ta. Tôi thấy có vẻ bình thường…

Catzinger cắt lời ông:

- Tôi có thể nhắc ông rằng Leeland làm việc tại Vatican, và chính tôi đã cho phép ông sử dụng ông ta làm mồi nhử cha Nil không? Rất nguy hiểm nếu để họ gặp một nhân vật bốc đồng như Lev Barjona, hẳn ông cũng biết như tôi rằng anh ta không chỉ là một nhạc công tài năng. Lòng kiên nhẫn của tôi đã đến mức giới hạn: trong tuần lễ trước Noel, sáng nào tôi cũng làm lễ mixa tại titulum [[43]] của tôi ở Saint Mary in Cosmedin, mai là ngày đầu tiên. Hãy làm thế nào để tôi có thể gặp Leeland vào đầu giờ chiều mai. Tôi sẽ cho gọi ông ta đến văn phòng tôi, và khiến ông ta phải đối diện với trách nhiệm của mình. Về phần ông, đừng quên ông đang phục vụ Giáo hội, chức trách đó cấm ông đưa ra một số… sáng kiến.

Vừa gác máy, Calfo vừa mỉm cười. Ông không muốn mình ở địa vị của tu sĩ người Mỹ: con mồi này sắp bị Đức Hồng y nuốt chửng. Chẳng có gì quan trọng: ông đã đảm nhận vai trò của mình một cách hoàn hảo, đầu tiên là khiến cha Nil phải nói chuyện và bây giờ là khiến ông gặp gỡ người Isarel. Con mồi là để dành cho Hồng y. Còn ông thì chỉ tìm cách điều khiển con cá.

Ông quay về phòng, và kiềm chế một cử chỉ bực tức: Sonia đã cởi bộ quần áo vui mắt của cô và đang trần truồng ngồi trên mép giường. Gương mặt cô lộ vẻ bướng bỉnh, và những giọt nước mắt lăn dài trên má.

- Thôi nào, người đẹp của ta, không đến nỗi kinh thế đâu!

Ông đỡ cô đứng dậy và buộc cô phải khoác lên người một chiếc khăn trùm, che đi mái tóc rực rỡ, rồi đội lên trên một chiếc mũ bà xơ hồ bột có chỏm buông xuống đôi vai tròn của cô. Sau khi đã phục sức theo kiểu một nữ tu thời cổ đại như vậy – “chỉ bên trên thôi, phần còn lại là dành cho ta” – ông để cô quỳ gối trên một ghế cầu kinh bằng nhung đỏ đặt trước một hình thánh theo phong cách Byzance. Vốn là người ân cần, ông đã nghĩ rằng một hình thánh có thể sẽ giúp cô gái người Rumani này đảm nhận tốt hơn vai trò mà ông đang mong đợi.

Ông lùi lại: bức tranh hoàn hảo. Trần truồng nhưng khuôn mặt trái xoan được tôn lên dưới chiếc mũ bà xơ, mắt ngước nhìn lên hình thánh, Sonia chắp đôi tay mảnh dẻ và có vẻ như đang cầu nguyện. “Một tư thế trinh trắng, trước hình Đức mẹ Đồng Trinh. Rất gợi cảm.”

Roma chìm trong bầu không khí tĩnh mịch ban đêm. Đức ông Calfo quỳ phía sau Sonia và áp sát mình vào đường cong nơi thắt lưng cô, bắt đầu nghi lễ tôn thờ thần thánh. Cẳng chân ông tì lên chiếc ghế cầu kinh êm ái ông ưa thích. Đôi tay bám chặt vào ngực cô gái, có một lát ông cảm thấy ngượng nghịu trước ánh mắt của Đức Mẹ Đồng Trinh trên hình thánh ông đang nhìn thẳng vào như một lời trách móc câm lặng. Ông nhắm mắt lại: trong công cuộc kiếm tìm sự hợp nhất bí ẩn, không có gì trong ông xen vào giữa con người và thần thánh, xác thịt và tâm linh.

Trong khi ông bắt đầu thì thầm những lời rời rạc đối với cô, Sonia gắn mắt vào hình thánh, buông hai bàn tay đang chắp ra để lau những giọt lệ đang làm mắt cô nhòe đi.
 
Chương 70


Cùng lúc đó, Lev nâng cốc lên trước mặt những người cùng đi.

- Vì cuộc gặp gỡ của chúng ta!

Anh đã dẫn hai tu sĩ vào một nhà hàng nhỏ ở Trastevere, khu phố đông dân của Roma. Khách hàng chỉ toàn là người Ý, đang ngấu nghiến những suất pasta khổng lồ.

- Tôi khuyên các ông dùng món penne arrabiate của họ. Món ăn được nấu theo kiểu gia đình, tôi thường đến đây sau mỗi buổi hòa nhạc: họ đóng cửa rất muộn, chúng ta sẽ có thời gian để làm quen với nhau.

Từ khi họ đến nhà hàng, cha Nil vẫn im lặng: người Isarel này không thể không nhận ra ông. Nhưng Lev, vui vẻ hồn nhiên và rất thoải mái, có vẻ như không nhận thấy sự im lặng của người đối diện. Anh trao đổi với Leeland về những kỉ niệm thời xa xưa, cuộc gặp gỡ của họ ở Isarel, những phát hiện của họ trong âm nhạc.

- Thời kì đó, ở Jerusalem, cuối cùng chúng tôi cũng có thể sống lại sau cuộc chiến Sáu Ngày. Tư lệnh Ygaël Yadin hẳn đã rất muốn tôi ở lại Tsahal cùng ông ấy…

Lần đầu tiên, cha Nil tham gia vào câu chuyện:

- Nhà khảo cổ học nổi tiếng đó, anh biết ông ấy à?

Lev chờ cho đến khi ba đĩa pasta bốc khói được đặt trước mặt họ rồi mới quay sang cha Nil. Anh bĩu môi rồi mỉm cười.

- Tôi không chỉ biết ông ấy, mà nhờ có ông ấy tôi đã trải qua một cuộc phiêu lưu không hề ngớ ngẩn. Ông là một chuyên gia về các văn tự cổ, một người nghiên cứu, hẳn điều này sẽ khiến ông quan tâm…

Cha Nil có cảm giác khó chịu vì bị rơi vào một cái bẫy. “Làm sao anh ta lại biết mình là một chuyên gia và một nhà nghiên cứu nhỉ? Tại sao anh ta lại dẫn bọn mình đến đây?” Không thể trả lời, ông quyết định cứ để Lev tự bộc lộ, và im lặng đồng ý.

- Năm 1947 tôi lên tám, chúng tôi sống ở Jerusalem. Cha tôi là bạn của một nhà khảo cổ trẻ thuộc trường Đại học Do thái, Ygaël Yadin: tôi lớn lên bên ông ấy. Khi đó ông ấy hai mươi tuổi, và cũng giống như tất cả những người Do Thái khác sống ở Palestin, ông ấy có một cuộc sống kép: là sinh viên, nhưng chủ yếu là chiến sĩ thuộc Hagana[[44]] và nhanh chóng trở thành tư lệnh. Tôi biết điều đó, tôi vô cùng ngưỡng mộ ông ấy và chỉ mơ ước có một điều: cũng được chiến đấu cho đất nước tôi.

- Ở tuổi lên tám?

- Rembert, những chiến sĩ đáng gờm của Palmakh[[45]] và Hagana đều là thiếu niên, ngây ngất phấn khích trước sự hiểm nguy! Họ không ngần ngại kêu gọi trẻ em chuyển tải các thông điệp của họ, chúng tôi không có bất kỳ phương tiện thông tin nào. Sáng ngày 30 tháng Mười một, Liên hợp quốc chấp thuận việc thành lập một Nhà nước Do Thái. Chúng tôi biết rằng chiến tranh sẽ nổ ra: Jerusalem bị bao phủ bởi dây thép gai, từ đó trở đi, chỉ một đứa trẻ mới có thể đi lại trong thành phố mà không cần có giấy thông hành.

- Đó là điều anh đã làm?

- Tất nhiên: Yadin bắt đầu dùng đến tôi hàng ngày, tôi được nghe mọi chuyện xoay quanh ông. Một buổi tối, ông ấy đã nói về một phát hiện kỳ lạ: khi đuổi theo một con dê trong vùng vách đá nhô ra ở biển Chết, một người Ả Rập di cư đã bắt gặp một cái hang. Bên trong, anh ta thấy có những cái vại chứa những cái gói phủ dầu mà anh ta bán với giá năm pound cho một người thợ giày theo đạo Cơ đốc ở Bethlehem. Người này giao lại cho Giáo chủ Samuel, cấp trên của tu viện Saint-Marc, nằm trong phần đất của Jerusalem vừa mới thuộc về người Ả Rập.

Cha Nil dỏng tai lên: ông đã từng nghe nói đến câu chuyện phiêu lưu huyền hoặc của các bản thảo vùng biển Chết. Sự nghi ngại trong ông biến mất tức thì: ông đang đối diện với một nhân chứng trực tiếp, một cơ hội hoàn toàn bất ngờ đối với ông.

Vừa thưởng thức món penne, Lev vừa liếc mắt nhìn cha Nil, vẻ quan tâm đột nhiên của ông có vẻ khiến anh vui thích. Anh tiếp tục:

- Giáo chủ Samuel yêu cầu Yadin nhận dạng các bản thảo này. Phải đi qua thành phố, đến Saint-Marc, mỗi con phố là một điểm phục kích. Yadin đeo vào cổ tôi một chiếc tạp dề và một chiếc cặp học sinh, và chỉ cho tôi hướng đi đến tu viện. Tôi đã luồn lách giữa những chướng ngại vật của người Anh, những xe tăng của người Ả rập, những trung đội thuộc Hagana: tất cả đều ngừng bắn một lát để cho đứa trẻ là tôi đi đến trường! Trong cặp, tôi mang từ tu viện về hai cuộc giấy, và Yadin ngay lập tức hiểu ra đó là cái gì: những bản thảo cổ nhất chưa từng được phát hiện trên đất Isarel, một kho báu theo luật phải thuộc về Nhà nước Do Thái mới.

- Ông ấy đã làm gì với chúng?

- Ông ấy không thể giữ chúng, vì như thế là ăn cắp. Ông đã trả chúng lại cho Giáo chủ, và cho họ biết ông sẵn sàng mua lại tất cả các bản thảo mà những người Ả Rập di cư phát hiện được trong các hang đá ở Qumran. Mặc dù đang có chiến tranh, nhưng tin tức đã lan đi: người Mỹ ở Trường học Mỹ phương Đông và các thầy tu Pháp dòng Dominique thuộc Trường thánh ở Jerusalem đã tổ chức bán đấu giá. Không cần bước quá độ, Yadin chuyển ngay từ việc chỉ huy các chiến dịch quân sự sang những vụ mặc cả bí mật với các thương gia đồ cổ ở Bethlehem và Jerusalem. Người Mỹ đã vơ hết…

- Tôi biết, cha Nil cắt ngang, ở tu viện tôi đã xem được các bản sao của Thư viện Huntington.

- A, các ông đã nhận được một bản à? Rất ít người có may mắn đó, tôi hy vọng rằng một ngày nào đó chúng sẽ được xuất bản. Và thế là tôi đã vô tình trở thành người gây ra một vụ rắc rối, hẳn ông sẽ quan tâm…

Anh đẩy chiếc đĩa của mình ra, tự rót cho mình một cốc vang. Cha Nil nhận thấy gương mặt anh đột nhiên đanh lại – giống như trên tàu, giống như khi anh chơi nhạc của Rachmaninov!

Sau một lát im lặng, Lev cố gắng tiếp tục:

- Một hôm, Giáo chủ Samuel cho Yadin biết ông ta sở hữu hai tài liệu được bảo quản đặc biệt tốt. Người Ả Rập di cư kia đã tìm thấy chúng khi đến hang lần thứ hai, trong chiếc vại thứ ba ở bên trái từ cửa vào, bên cạnh bộ xương của một người hẳn đã từng là Hiệp sĩ vì vẫn còn được bọc trong một chiếc áo choàng trắng có dấu thập đỏ. Tôi lại một lần nữa đi qua thành phố và mang về cho Yadin thứ được tìm thấy trong chiếc vại: một cuộn to bọc ngoài bằng vải dầu, và một tấm giấy da nhỏ – chỉ có duy nhất một mảnh, buộc sơ sài bằng một sợi lanh. Trong căn phòng mà ông ấy dùng làm đại bản doanh, dưới làn bom, Yadin đã mở cuộn giấy có bề mặt phủ đầy những kí tự Do thái: đó là Sổ tay môn đồ của người Esseni. Rồi ông mở tấm giấy da, nó được viết bằng tiếng Hy Lạp, và dịch to dòng đầu tiên trước mặt tôi. Khi đó tôi là một đứa trẻ, nhưng tôi vẫn nhớ: “Ta, môn đồ cưng, tông đồ thứ mười ba, gửi đến tất cả các Giáo hội…”

Cha Nil tái mặt, và nắm chặt bộ đồ ăn để kiềm chế:

- Anh chắc chứ? Có đúng là anh đã nghe thấy “môn đồ cưng, tông đồ thứ mười ba” không?

- Tuyệt đối đúng. Yadin có vẻ bị đảo lộn. Ông ấy đã nói với tôi rằng ông ấy chỉ quan tâm đến các bản thảo bằng tiếng Do Thái, vì chúng là di sản của Isarel: bức thư được viết bằng thứ tiếng Hy Lạp giống như trong các Kinh Thánh này có liên quan đến người Cơ đốc, phải trả lại nó cho Giáo chủ. Ông ấy đã giữ lại Sổ tay môn đồ, và nhét vào cặp sách của tôi một tập đô la, kèm theo đó là tấm giấy da nhỏ viết chữ Hy Lạp. Rồi ông ấy cho tôi quay lại Saint-Marc, giữa màn bom.

Cha Nil sững sờ. “Anh ta đã cầm trong tay bức thư của tông đồ thứ mười ba, bản duy nhất thoát khỏi Giáo hội – có thể còn là bản chính!”

Gương mặt vẫn đanh lại, Lev tiếp tục:

- Đến cách tu viện khoảng một trăm mét, một viên đạn cối rơi trên phố: tôi bị hất tung lên, và bất tỉnh. Khi tôi mở mắt ra, một tu sĩ đang cúi xuống tôi. Tôi đang ở trong tu viện, da đầu bị rách từ dưới lên trên – anh nhăn mặt chạm vào vết sẹo – và chiếc cặp học sinh của tôi đã biến mất.

- Biến mất?

- Vâng. Tôi đã bất tỉnh hai mươi bốn giờ, ở giữa sự sống và cái chết. Khi Giáo chủ đến thăm tôi vào hôm sau, ông nói rằng một trong số các tu sĩ của ông đã nhặt được tôi trong phố và đưa lại cho ông chiếc cặp. Khi mở ra, ông ấy đã hiểu: Yadin trả tiền mặt cho bản thảo Qumran, nhưng không muốn mua bức thư bằng tiếng Hy Lạp. Bức thư này, ông ấy vừa bán cho một thầy tu dòng Dominique, cùng với một lô lẻ các bản thảo tiếng Do Thái mà những người Ả Rập di cư đã mang đến. Ông ấy còn vừa cười vừa nói thêm rằng ông ấy đã nhét tất cả, bức thư và các bản thảo, trong một thùng rượu cognac Napoleon rỗng, thứ mà ông ấy rất ham thích. Và rằng hình như thầy tu dòng Dominique đó hoàn toàn không biết gì về giá trị của những thứ mà ông ta vừa có được.

Những câu hỏi chất chồng trong đầu cha Nil.

- Anh có cho rằng Giáo hội đã đọc bức thư trước khi bán lại nó cho thầy tu này không?

- Tôi chả biết, nhưng nếu thế thì tôi sẽ rất ngạc nhiên. Giáo chủ Samuel có thể là bất kỳ người nào, nhưng không bao giờ là một học giả. Đừng quên chúng tôi đang trong thời chiến, ông ấy cần tiền để nuôi sống các tu sĩ của mình, và chăm sóc những người bị thương mà người ta chuyển đến tu viện mỗi lần hàng chục người. Đó không phải là lúc để tiến hành nghiên cứu các văn tự! Chắc chắn ông ấy đã không đọc bức thư.

- Thế còn… thầy tu dòng Dominique kia?

Lev quay sang ông: anh biết rằng câu chuyện này đã khiến tu sĩ nhỏ bé người Pháp kia quan tâm tột độ. “Thế theo ông, cha thân mến, tại sao tôi lại mời ông bữa tối nay? Chỉ để thưởng thức món bánh phủ xốt cay thôi sao?”

- Tôi đã nói với ông rồi, những kỉ niệm này khắc sâu trong trí nhớ của tôi. Rất lâu sau, trước khi chết, Yadin đã nói lại với tôi về bức thư, và yêu cầu tôi tìm lại dấu vết của nó. Tôi đã làm một điều tra nhỏ, dựa vào Mossad, tổ chức mà tôi đã trở thành… cứ cho là một cộng tác viên thời vụ. Có vẻ như đây là cơ quan tình báo tốt nhất thế giới, sau cơ quan tình báo của Vatican!

Lev rất vui vẻ và lại thể hiện thái độ phấn khởi của mình: mọi căng thẳng trên mặt anh đã biến mất.

- Thầy tu dòng Dominique đó thật ra là một thầy dòng cần vụ [[46]], một người trung hậu và hơi đần. Ngay trước khi Isarel tuyên bố độc lập, tình hình ở Jerusalem đã trở nên căng thẳng đến nỗi nhiều thầy tu bị bắt hồi hương về châu Âu. Hình như thầy tu đó đã nhồi vào hành lý của mình thùng rượu cognac Napoleon kia – ông ta hoàn toàn không biết về giá trị của nó, và mang nó theo tới tận Roma, nơi ông ta chấm dứt cuộc đời tại Tòa chung dòng Dominique, ở Aventin. Chúng tôi đã biết rằng thùng rượu không còn ở đó nữa, khi ông ta chết người ta không tìm thấy gì khác ngoài một tràng hạt bằng gỗ ô liu.

- Thế … nó có thể ở đâu được?

- Mỗi Tòa chung là một cơ quan hành chính, nó không lưu trữ những tài liệu vô ích. Hẳn là họ đã giao lại những thứ tài sản lẻ bộ đến từ Jerusalem cho Vatican, ở đó chắc chắn nó đã gia nhập đống đồ cũ mà người ta không biết dùng làm gì- hoặc người ta không muốn khai thác. Có lẽ nó đang ngủ quên đâu đó, trong góc của một trong những thư viện hoặc một căn phòng khuất nẻo nào đó của Thành phố Thánh: nếu người ta mở ra, thì rốt cuộc nó cũng sẽ được biết đến.

- Tại sao lại thế, Lev?

Bị lây sự thoải mái của người Israel, cha Nil gọi anh bằng tên riêng. Lev nhận thấy điều đó, và rót cho ông một cốc vang khác.

- Vì Ygaël Yadin đã đọc bức thư trước khi trả lại cho Giáo chủ. Và những điều ông ấy nói với tôi trên giường bệnh khiến tôi nghĩ rằng nó chứa đựng một bí mật kinh khủng, mà không một Giáo chủ nào, không một Nhà nước nào- dù kín như bưng và quân chủ như Vatican- có thể ngăn cản nó rò rỉ ra ngoài trong một thời gian dài. Nếu có ai đó đã nhìn thấy bức thư này, cha Nil ạ, thì hoặc giờ này người ấy đã chết, hoặc có lẽ Vatican và Giáo hội Cơ Đốc đã sụp đổ, và điều này hẳn sẽ gây tiếng vang lớn hơn cả cuộc chiến Israel-Ả Rập năm 1947, hơn cả các cuộc Thập Tự Chinh, hơn bất kỳ một sự kiện nào khác trong lịch sử phương Tây.

Cha Nil căng thẳng xoa mặt.

Hoặc giờ này người ấy đã chết…

Cha Andrei!
 
Chương 71


Rượu vang nhẹ Castelli khiến đầu óc cha Nil hơi quay cuồng. Ông ngạc nhiên thấy người phục vụ đặt trước mặt mình một tách cà phê: hoàn toàn bị lôi cuốn bởi câu chuyện của Lev, ông đã ngốn hết món penne arrabiate và lát thịt làm theo kiểu Milan kế tiếp mà không hề để ý. Vẻ lo lắng, Leeland khuấy chiếc thìa trong tách của mình. Ông quyết định hỏi Lev một câu mà cha Nil đã từng đặt ra cho ông, trong sân Belvedere:

- Nói xem, Lev… Tại sao anh lại gửi cho tôi hai giấy mời đến buổi hòa nhạc, và lại còn thêm một lời nhắn nói rõ rằng có thể bạn tôi cũng sẽ quan tâm? Làm thế nào mà anh biết rõ rằng ông ấy đang ở Roma, và rất đơn giản là làm thế nào mà anh biết về sự tồn tại của ông ấy?

Lev nhướng mày vẻ ngạc nhiên.

- Nhưng… chính ông đã cho tôi biết điều đó! Hôm sau khi tôi đến đây, ở khách sạn trên đường Giulia tôi đã nhận được một bức thư, có rập huy hiệu của Vatican. Bên trong có vài dòng đánh máy – nếu tôi nhớ rõ, đại ý là: “Đức ông Leeland và bạn ông là cha Nil sẽ hân hạnh được tham dự v.v…” Tôi đã nghĩ là ông nhờ thư ký báo cho tôi, và tôi cũng thấy chuyện này hơi mau lẹ, nhưng hẳn đó là do phong tục của Vatican đã ảnh hưởng đến ông.

Leeland nhẹ nhàng trả lời:

- Tôi không có thư ký, Lev ạ, và tôi chưa bao giờ gửi thư cho anh. Thậm chí tôi còn không biết khách sạn nơi anh ở trong chuyến lưu diễn của anh tại Roma. Hãy nói xem… bức thư đó có chữ ký của tôi không?

Lev lùa tay vào mái tóc dày.

- Tôi cũng không biết nữa! Không, không phải chữ ký của ông, ở bên dưới chỉ có một chữ cái đầu. Một chữ C viết hoa, tôi nghĩ thế, sau đó là một dấu chấm. Dù sao, Rembert ạ, tôi cũng đã có ý định gặp ông nhân dịp qua đây, và hẳn là tôi cũng sẽ làm quen với cha Nil.

Gương mặt Leeland đột ngột kín bưng: Catzinger hay Calfo? Cơn giận dữ lại dâng lên trong ông.

Chìm đắm trong dòng suy nghĩ, cha Nil theo dõi câu chuyện một cách lơ đãng. Ông đang vướng bận với rất nhiều câu hỏi khác, và đột ngột cắt ngang:

- Chỉ kết quả là đáng kể thôi, vì chính nhờ bức thư này, tối nay tôi được nghe phần trình diễn tuyệt vời bản hòa tấu của Rachmaninov. Nhưng anh nói xem, Lev… Tại sao anh lại tâm sự với chúng tôi những chuyện này? Anh đoán được việc phát hiện ra một bức thư tông đồ mới, bức thư được lôi ra khỏi sự quên lãng một cách thần kỳ vào cuối thế kỷ XX, và có thể sẽ khiến chúng tôi phải xem lại đức tin của mình, có ý nghĩa như thế nào đối với Rembert và tôi. Tại sao anh lại nói với chúng tôi toàn bộ chuyện này?

Lev trả lời bằng nụ cười quyến rũ nhất. Anh không thể nói sự thật với cha Nil: “Vì đó là chỉ thị của Mossad”.

- Vậy còn ai có thể quan tâm đến chuyện này hơn các ông?

Dường như anh không hề coi trọng câu hỏi của cha Nil, và quan sát ông một cách thân tình.

- Cha Nil… liệu một tài liệu cổ đơn giản phản bác thiên chất của Jesus, có thể thực sự làm thay đổi điều gì đó đối với các ông?

Những khách hàng cuối cùng vừa rời khỏi cửa hàng, lúc này chỉ còn lại họ trong căn phòng nơi người chủ bắt đầu nhẹ nhàng thu dọn. Cha Nil suy nghĩ một lúc lâu trước khi trả lời, dường như ông đã quên mất mình đang nói chuyện với ai:

- Tối nay, anh đã cho tôi biết rằng một bức thư của tông đồ đã được phát hiện tại Qumran cùng với các bản thảo vùng biển Chết: từ vài tuần nay, tôi đã tích lũy được các bằng chứng về sự tồn tại của nó. Vào thế kỷ III với một bản thảo chữ Ai Cập cổ, vào thời điểm bản lề của thế kỷ IV với một văn bản của Origène. Vào thế kỷ VIII với một mật mã được đưa vào Tín điều Nicée ở Germigny, và cuối cùng là vào thế kỷ XIV với vụ án các Hiệp sĩ. Tất cả những chuyện này sau nhiều năm giải mã văn bản viết vào cuối thế kỷ I, nơi bắt đầu tất cả: kinh Phúc âm theo thánh Jean. Bức thư của tông đồ thứ mười ba, tôi đã lần theo được dấu vết của nó, nhờ có cái bóng nó in vào lịch sử phương Tây.

Ông nhìn thẳng vào Lev.

- Giờ đây, anh vừa nói với tôi rằng anh đã mang nó trong chiếc cặp học sinh của mình, khi tìm cách hoàn thành dưới làn bom một nhiệm vụ đối với người lãnh đạo của Hagana. Rồi anh cho tôi biết rằng nó đang nằm ở đâu đó ở Vatican, bị che giấu hoặc đơn giản là không được biết tới. Anh đã nghe Ygaël Yadin nói rằng nó chứa đựng một bí mật kinh khủng. Dù tôi có biết được nội dung của nó – hẳn là phải rất kinh khủng, thật thế, để trong suốt những thế kỷ qua có thể gây ra ngần ấy vụ thanh trừng, giết người và cạm bẫy – thì điều đó cũng không làm thay đổi chút nào mối quan hệ giữa tôi với Jesus. Tôi đã gặp Người một cách riêng tư, Lev ạ, anh có thể hiểu điều đó không? Con người của Jesus không thuộc về bất cứ Giáo hội nào, Người không cần đến chúng để tồn tại.

Lev có vẻ bị ấn tượng mạnh. Anh nhẹ nhàng đặt bàn tay lên cánh tay cha Nil.

- Tôi chưa bao giờ là một tín đồ chăm chỉ, cha Nil ạ, nhưng mọi người Do Thái đều hiểu điều ông đang nói với tôi, vì mọi người Do Thái đều xuất thân từ dòng dõi của các nhà truyền giáo, dù muốn hay không. Tôi muốn ông biết rằng tôi thấy ông vô cùng dễ mến, và nếu trong đời mình tôi đã nói dối nhiều, thì khi nói với ông điều này tôi hoàn toàn chân thành.

Anh đứng dậy, chủ quán bắt đầu đi quanh bàn của họ.

- Với tất cả tấm lòng mình, tôi mong rằng ông sẽ thành công trong việc tìm kiếm. Đừng cho rằng nó chỉ liên quan đến ông, và tôi sẽ không nói thêm điều gì nữa. Hãy cẩn thận: tất cả các nhà truyền giáo và những người giống họ đều phải chịu một cái chết tàn khốc. Cả điều này, một người Do Thái cũng biết được bằng bản năng, và anh ta chấp nhận nó giống như Jesus, người Do Thái đã chấp nhận trước đây. Bây giờ là hai giờ sáng: hãy cho phép tôi trả tiền taxi để đưa ông về San Girolamo.

Lún sâu người trong ghế ô tô, cha Nil nhìn mái vòm của Vatican lướt qua, ánh nhẹ lên trong đêm tháng Mười hai lạnh lẽo, mắt ông nhòe nước. Cho đến ngày hôm nay, bức thư này vẫn chỉ là một giả thiết, chỉ là một sự thật giả tưởng. Vậy mà ông vừa bắt bàn tay đã từng chạm vào nó, vừa bắt gặp ánh mắt đã từng nhìn thấy tài liệu này.

Đột nhiên, giả thiết trở thành sự thật. Bức thư của tông đồ thứ mười ba hẳn đang nằm đâu đó sau bức tường thành Vatican cao ngất.

Ông sẽ đi đến tận cùng. Ông cũng vậy, ông cũng sẽ được tận mắt nhìn thấy bức thư này.

Và sẽ cố gắng sống sót, khác với tất cả những người đi trước ông.
 
Chương 72


Leeland đang chơi một khúc dạo của Bach thì cha Nil bước vào căn phòng trên đường Aurelia. Cho đến lúc bình minh, ông đã nghiền ngẫm những điều Lev Barjona tiết lộ. Đôi mắt thâm quầng cho thấy nỗi lo lắng trong lòng ông.

- Tớ đã không chợp mắt suốt đêm qua: cùng lúc, có quá nhiều điều mới mẻ! Không sao cả, chúng ta hãy đến kho sách, làm việc với các bản thảo giai điệu Grégoire của cậu sẽ giúp đầu óc tớ hồi tỉnh. Cậu có ý thức được điều đó không, Rembert, bức thư của tông đồ thứ mười ba có thể đang ở ngay Vatican!

- Chúng ta chỉ có thể ở đó sáng nay. Tớ vừa nhận được một cú điện thoại của Đức ông Calfo: Hồng y cho gọi tớ đến văn phòng ông ta vào mười bốn giờ chiều nay.

- Làm gì mới được chứ?

- Ồ … Leeland đậy nắp đàn piano, vẻ lúng túng, tớ nghĩ là tớ biết tại sao, nhưng tớ muốn chưa trả lời cậu ngay bây giờ. Nếu bức thư bí ẩn mà cậu tìm kiếm từ bấy nhiêu năm đang ở Vatican, cậu sẽ làm thế nào để chạm được tay vào nó?

Đến lượt cha Nil có vẻ ngần ngại.

- Xin lỗi cậu, Rembert, tớ cũng muốn không trả lời cậu ngay lập tức. Cậu đã thấy Vatican biến chúng ta thành thế nào rồi: những người anh em không còn hoàn toàn là anh em nữa, bởi vì họ không nói hết mọi chuyện với nhau…

Ở tầng dưới, Moktar dùng máy ghi âm và huýt gió. Cha Nil vừa nói một câu đáng giá nhiều đô la: bức thư của tông đồ thứ mười ba có thể đang ở Vatican! Hắn đã đúng khi nghe theo lệnh của Cairo, và chưa làm gì hại đến tu sĩ người Pháp bé nhỏ này. Fatah cũng biết nhiều thông tin ngang với Calfo về bức thư kia, và về tầm quan trọng sống còn của nó đối với đạo Cơ đốc: gọng kìm đang siết lại quanh cha Nil, phải để ông ta đi đến cùng.

Calfo bảo vệ Cơ đốc giáo, nhưng còn hắn, Moktar, hắn bảo vệ đạo Hồi, kinh Coran và Đấng tiên tri của hắn – cầu cho tên người được ban phúc.

Khi đi dọc hành lang dài dẫn đến văn phòng của người đứng đầu Cơ quan truyền bá đức tin, Leeland cảm thấy dạ dày quặn lại. Thảm lót dạ phớt, đèn vách kiểu Venise, tường lát gỗ quý: sự sang trọng này đột nhiên trở nên không thể chịu đựng nổi đối với ông. Đó là dấu hiệu phô trương quyền lực của một tổ chức không ngần ngại nghiền nát những thành viên của chính nó, để duy trì sự tồn tại của một đế chế rộng lớn được xây dựng trên một chuỗi những điều dối trá. Từ khi cha Nil đến đây, ông ý thức được rằng bạn mình đã trở thành nạn nhân của quyền lực này, giống như ông – nhưng vì một lý do hoàn toàn khác. Leeland chưa bao giờ thực sự đặt ra cho mình câu hỏi về đức tin: những phát hiện của cha Nil làm cho ông bị đảo lộn, và củng cố cuộc nổi loạn trong con người ông. Ông kín đáo gõ vào cánh cửa cao được trang trí bằng những lát vàng mảnh.

- Mời đức ông vào, tôi đang chờ ông.

Leeland đã chuẩn bị tinh thần gặp ông ta có Calfo đi kèm, nhưng Catzinger chỉ có một mình. Trên bàn làm việc trống trơn có đặt một hồ sơ đơn giản có gạch chéo màu đỏ.

Khuôn mặt Hồng y vốn tròn và hồng hào, giờ cứng như đá.

- Đức ông, tôi sẽ không vòng vo. Từ ba tuần nay ngày nào ông cũng gặp cha Nil. Giờ đây ông còn dẫn ông ấy đến dự một buổi hòa nhạc, và để ông ấy gặp một người không mấy đáng tin cậy, người mà những thông tin chúng tôi có được đều rất xấu.

- Thưa Đức Hồng y, Roma không phải là một tu viện…

- Sufficit![[47]] Chúng ta đã có một thỏa thuận: ông phải cho tôi biết về những cuộc trò chuyện của ông với cha Nil, và về quá trình tiến triển trong các nghiên cứu cá nhân của ông ấy. Không nghiên cứu nào có thể là cá nhân trong Giáo hội Cơ đốc: mọi suy nghĩ, mọi phát hiện phải có ích cho nó. Tôi không nhận thêm được bất kì báo cáo nào từ ông, và những báo cáo ông đã gửi cho tôi thì hoàn toàn hỏng – đó là điều tối thiểu mà ta có thể nói. Chúng tôi biết rằng cha Nil đang đi theo một hướng nguy hiểm, và chúng tôi biết rằng ông ấy có chia sẻ với ông. Tại sao, thưa Đức ông, ông lại chọn đứng về phía mạo hiểm thay vì đứng về phía Giáo hội, nơi ông thuộc về và cũng là mẹ của ông?

Leeland cúi đầu. Với người này, ông có thể trả lời thế nào?

- Thưa đức Hồng y, tôi không hiểu gì nhiều về công việc nghiên cứu uyên thâm của cha Nil…

Catzinger khô khan cắt ngang:

- Tôi không yêu cầu ông phải hiểu, mà phải báo cáo lại điều ông nghe thấy. Tôi cảm thấy rất khó khăn phải nhắc cho ông nhớ, nhưng ông không ở trong tình thế được lựa chọn.

Ông ta nghiêng xuống bên bàn, mở kẹp hồ sơ và đẩy nó về phía Leeland.

- Ông nhận ra những bức ảnh này chứ? Có thể thấy ông đang ở cùng với một trong số các tu sĩ của ông ở St Mary, thời kỳ ông là tu viện trưởng. Ở đây - ông ta ve vẩy trước mũi Leeland một tấm ảnh đen trắng - hai người đang đối diện nhau trong vườn tu viện, và cái nhìn mà ông trao cho anh ta nói lên nhiều điều. Và ở đây, lần này là một tấm ảnh màu, ông đang ngồi sát vào lưng anh ta, và tay ông đặt lên vai anh ta. Giữa hai nhà tu hành, những tư thế này là không đoan chính.

Leeland tái mặt, và tim ông đập dữ dội trong lồng ngực. Ansenlm! Sự trong trắng, sự đẹp đẽ, sự cao quý của em Anselm! Hồng y này không bao giờ có thể hiểu được điều gì về những tình cảm đã gắn kết họ. Nhưng ông sẽ không đời nào để ông ta làm ô danh mình bằng ánh mắt lồi đó, bằng những từ ngữ thoát ra từ cái miệng làm bằng đá cứng rắn và lạnh lẽo đó.

- Thưa Hồng y, tôi đã chứng tỏ điều đó và ngài cũng biết, không có gì xảy ra giữa đạo hữu Anselm và tôi làm ảnh hưởng đến lời nguyện trinh bạch. Chưa bao giờ có một hành động nào, hay thậm chí là một mẩu hành động nào đi ngược lại với đạo đức Cơ Đốc giáo!

- Đức ông, sự trinh bạch Cơ đốc không chỉ bị xâm phạm bởi những hành động, nó ngự trị trong sự làm chủ trí tuệ, tấm lòng và tâm hồn. Ông đã xâm phạm lời thề của mình bằng những ý nghĩ xấu xa, thư từ trao đổi giữa ông với đạo hữu Anselm, ông ta chỉ cho Leeland hàng chục bức thư được xếp cẩn thận dưới những tấm ảnh, quá đủ để chứng tỏ điều đó. Bằng việc lạm dụng quyền hạn của ông đối với anh ta, ông đã dẫn đạo hữu bất hạnh này theo khuynh hướng sôi sục trong ông, và chỉ nhắc đến khuynh hướng đó thôi cũng đủ để khiến một linh mục như tôi cảm thấy ghê tởm.

Leeland đỏ mặt đến tận chân tóc, và phẫn nộ. “Làm sao họ lại có được những bức thư này? Anselm, người bạn tội nghiệp, họ đã làm gì em rồi?”

- Thưa Hồng y, những bức thư này không chứa đựng gì ngoài sự trìu mến, đúng là rất nồng nhiệt, nhưng trong trắng, giữa một tu sĩ và cấp trên của anh ta.

- Ông đùa à! Những tấm ảnh này, cộng thêm những bức thư này, và cộng thêm quan điểm công khai của ông về chuyện hôn nhân của các linh mục, mọi thứ đều chỉ ra rằng ông đã rơi vào tình trạng xuống cấp về đạo đức đến nỗi chúng tôi phải che chở ông sau phẩm tước Giáo mục nhằm tránh xảy ra một vụ bê bối kinh khủng ở Mỹ. Giáo hội Cơ Đốc Mỹ đang trong cơn bão, những vụ việc lặp đi lặp lại liên quan đến chứng yêu trẻ em đã làm suy giảm trầm trọng uy tín của nó đối với con chiên. Tưởng tượng xem một tờ báo hung dữ nào đó chống lại chúng ta sẽ biến thông tin này thành: “Tu viện St. Mary, nhà phụ của Sodome và Gomorrhe![[48]]” Bằng cách che chở ông dưới cái bóng bảo vệ của Vatican, tôi đã buộc được các nhà báo không làm trầm trọng thêm về con người ông, và chúng tôi phải trả giá rất đắt cho điều đó. Hồ sơ này, Đức ông ạ…

Ông ta cẩn thận xếp lại những bức ảnh vào dưới tập thư, và đóng kẹp hồ sơ lại bằng một cử chỉ khô khan.

- … hồ sơ này, tôi không thể giữ bí mật lâu hơn nếu ông không hoàn thành thỏa thuận của chúng ta theo cách mà tôi thấy là thỏa đáng. Từ nay trở đi, ông báo cáo trực tiếp với tôi về tất cả những tiến triển của ông bạn người Pháp của ông. Với lại, bằng việc để ý sao cho ở Roma ông ấy không gặp thêm ai ngoài ông ra, ông sẽ đảm bảo được cho sự an toàn của ông cũng như ông ấy. Capito?[[49]]

Khi Leeland ra đến hành lang dài vắng vẻ, ông phải tựa vào tường một lát. Ông thở hổn hển: cố gắng vừa rồi của ông trước bản thân khiến ông mệt lả, chiếc áo phông dính bết vào ngực. Ông từ từ trấn tĩnh lại, đi xuống cầu thang lớn bằng đá cẩm thạch và ra khỏi tòa nhà của Cơ quan truyền bá đức tin. Như một người máy, ông rẽ sang phải, đi theo lối đầu tiên trong số ba lối đi quanh hàng cột Bernin. Rồi lại rẽ phải, và tiến về phía đường Aurelia. Đầu óc trống rỗng, ông bước đi mà không hề nhìn xung quanh.

Ông có cảm giác thể xác ông vừa bị Hồng y giẫm nát. Anselm! Liệu họ có thể biết, liệu họ có thể hiểu được tình yêu là gì không? Đối với những người của Giáo hội này, tình yêu dường như chỉ là một từ, một chủng loại chung, bên trong cũng trống rỗng như một chương trình chính trị. Làm sao người ta có thể yêu một đức Chúa vô hình, khi mà người ta chưa từng yêu một sinh linh bằng xương bằng thịt? Làm sao có thể là “anh em toàn thế giới ” nếu không là anh em của anh em mình?

Không rõ làm thế nào, ông đã ở trước căn hộ của mình, và trèo lên ba tầng gác. Ông rất ngạc nhiên thấy cha Nil đang ngồi trên một bậc cầu thang, chiếc túi kẹp giữa hai chân.

- Tớ không thể ở lại San Girolamo mà không làm gì, tu viện đó thật thê thảm. Tớ muốn được nói chuyện, tớ đã đến đây chờ…

Không nói một lời, ông dẫn cha Nil vào phòng khách. Ông cũng đang cần nói chuyện: nhưng liệu ông có thể phá vỡ cái vỏ đang siết chặt ngực ông không?

Ông ngồi xuống và tự rót cho mình một cốc rượu bourbon: mặt ông vẫn còn tái mét, cha Nil nhìn ông, đầu hơi nghiêng.

- Remby, bạn của tôi… có chuyện gì vậy? Cậu trông như bị phá hủy ấy.

Leeland ôm lấy chiếc cốc trong hai bàn tay, và nhắm mắt một lát. “Liệu mình có thể nói với cậu ấy không?” Rồi ông uống thêm một ngụm, và trao cho cha Nil một nụ cười dè dặt. “Người bạn duy nhất của mình kể từ nay.” Ông không chịu đựng được bộ mặt kép mà ông buộc phải mang kể từ khi cha Nil đến Roma. Với một sự cố gắng, ông bắt đầu nói:

- Cậu biết rằng tớ vào nhạc viện St.Mary từ khi còn rất trẻ, và tớ đã chuyển thẳng từ ghế nhà trường sang ghế tập tu. Tớ không biết gì về cuộc đời, Nil ạ, và sự chay tịnh không đè nặng lên tớ bởi vì tớ không biết đến sự say đắm. Năm tớ dâng lời nguyện, một thanh niên đã vào tập tu, cậu ấy cũng đến từ nhạc viện như tớ, và cũng giống tớ, cậu ấy trong trắng như một đứa trẻ sơ sinh. Tớ là nhạc công piano, còn cậu ấy là nhạc công violon. Đầu tiên là âm nhạc đã gắn kết chúng tớ, và sau đó là điều gì đấy mà tớ hoàn toàn không biết, trước nó tớ hoàn toàn yếu mềm, điều mà người ta không bao giờ nói đến trong tu viện: tình yêu. Phải mất nhiều năm tớ mới xác định được tình cảm mới lạ này trong tớ, để hiểu rằng niềm hạnh phúc mà tớ cảm thấy khi cậu ấy hiện diện chính là tình yêu. Lần đầu tiên, tớ đã yêu! Và tớ cũng được yêu, tớ biết điều đó vào ngày mà Anselm và tớ cởi mở tấm lòng với nhau. Tớ đã yêu, Nil ạ, một tu sĩ trẻ hơn tớ, mạch nước trong suốt chảy từ một suối nguồn trong vắt, và tớ được cậu ấy yêu!

Cha Nil phác một cử chỉ, nhưng vẫn không cắt lời ông.

- Khi tớ trở thành tu viện trưởng, quan hệ của chúng tớ càng trở nên sâu sắc. Thông qua lựa chọn của tu viện, cậu ấy đã trở thành con trai của tớ trước Chúa: tình yêu tớ dành cho cậu ấy được tô đậm thêm bởi một tình cảm vô cùng dịu dàng…

Hai giọt nước mắt lăn trên má ông: ông không thể nói thêm nữa. Cha Nil nhấc chiếc cốc ra khỏi tay ông, và đặt lên chiếc đàn piano. Ông ngập ngừng một lát:

- Tình yêu song phương đó, tình yêu mà cả hai người đều ý thức được, hai người có thể hiện nó qua một quan hệ thể xác nào không?

Leeland ngước nhìn ông bằng ánh mắt đẫm lệ.

- Chưa bao giờ! Chưa bao giờ cậu hiểu không, nếu cậu muốn ám chỉ điều gì đó dung tục. Tớ hít thở sự hiện diện của cậu ấy, nhưng chưa bao giờ thân thể chúng tớ lao vào một hành vi tiếp xúc thô tục. Chưa bao giờ tớ thôi làm tu sĩ, chưa bao giờ cậu ấy ngừng trong trắng như pha lê. Chúng tớ yêu nhau, Nil ạ, và chỉ cần biết thế thôi là đã đủ cho chúng tớ cảm thấy hạnh phúc. Từ ngày đó, tình yêu Chúa trở nên dễ hiểu hơn, gần gũi hơn đối với tớ. Có thể ngày xưa môn đồ cưng và Jesus cũng đã từng trải qua điều gì đó tương tự chăng?

Cha Nil bĩu môi. Không nên trộn lẫn tất cả, mà phải dừng lại ở sự việc.

- Nếu không có gì xảy ra giữa hai người, nếu chưa từng có hành động nào, nghĩa là không có cơ sở tội lỗi nào, xin lỗi cậu, đó là cách lập luận của các nhà thần học, thì Catzinger có liên quan gì đến chuyện này? Vì cậu vừa ra khỏi văn phòng ông ta, đúng không?

- Trước đây tớ đã viết cho Anselm vài bức thư thể hiện tình yêu này: tớ không biết sau đó Vatican đã gây áp lực thế nào để có được chúng, cùng hai bức ảnh trong sáng trong đó Anselm và tớ đang ở bên nhau. Cậu biết nỗi ám ảnh của Giáo hội đối với tất cả những gì động chạm đến tình dục: chừng ấy là đủ để nuôi dưỡng trí tưởng tượng bệnh hoạn của họ, để kết tội tớ là suy đồi đạo đức, để bêu xấu và phủ một thứ bùn ghê tởm lên một tình cảm mà họ không thể hiểu được. Những giáo sĩ cấp cao này có còn là người nữa không, hả Nil? Tớ nghi ngờ điều đó, họ chưa bao giờ biết đến vết thương tình yêu khiến cho nhân loại sinh ra một con người.

- Như vậy, cha Nil nhấn mạnh, bây giờ Catzinger gây áp lực lên cậu. Nhưng cậu có biết là vì lý do gì không? Ông ta đã nói gì với cậu, tại sao cậu có vẻ bị đảo lộn đến thế?

Leeland cúi đầu, và trả lời trong một hơi thở.

- Ngày cậu đến Roma, ông ta đã cho gọi tớ. Và giao cho tớ nhiệm vụ phải báo cáo ông ta tất cả các cuộc trò chuyện của chúng ta, nếu không ông ta sẽ đưa tớ ra làm mồi cho báo chí: tớ thì chỉ có thể sống sót qua chuyện đó, nhưng Anselm không thể tự vệ được, cậu ấy không được trang bị để đương đầu với lũ chó săn, tớ biết cậu ấy sẽ bị hủy hoại. Vì tớ đã biết cảm giác yêu, vì tớ đã dám yêu, nên người ta yêu cầu tớ theo dõi cậu, Nil ạ!

Giây phút ngạc nhiên ban đầu qua đi, cha Nil đứng dậy và rót cho mình một ly bourbon. Giờ đây ông đã hiểu thái độ nước đôi của bạn mình, những lúc im lặng đột ngột của Leeland. Mọi thứ đã rõ ràng: các tài liệu bị đánh cắp trong phòng riêng của ông bên bờ sông Loire hẳn đã rất nhanh chóng đến một văn phòng của Cơ quan truyền bá đức tin. Việc ông bị gọi về Roma với một cái cớ nhân tạo, việc ông gặp lại Leeland, mọi chuyện đều được sắp đặt trước, mọi chuyện đều là kết quả của một kế hoạch. Theo dõi ư? Ông đã bị theo dõi ở tu viện, ngay sau ngày cha Andrei chết. Khi ông đến Roma, Rembert bất hạnh chỉ còn là một con tốt trên bàn cờ, ông mới chính là quân cờ trung tâm.

Ông suy nghĩ căng thẳng, nhưng nhanh chóng đưa ra quyết định:

- Rembert, hình như những nghiên cứu của tớ và của cha Andrei làm phiền nhiều người. Từ khi tớ phát hiện ra sự hiện diện của một tông đồ thứ mười ba trong căn phòng lớn bên cạnh Jesus, và cách thức mà ông ta không ngừng bị loại bỏ bởi một quyết tâm dai dẳng, đã xảy ra những chuyện mà tớ không thể tin là có thể xảy ra vào thế kỷ XX. Đối với Giáo hội, tớ đã trở thành một con chiên ghẻ vì cuối cùng tớ đã chấp nhận điều hiển nhiên không thể chấp nhận được: việc biến Jesus thành Chúa Christ là một trò bịp bợm. Và cũng vì tớ đã phát hiện ra một mặt bị che giấu trong nhân cách của Giáo hoàng đầu tiên, những thủ đoạn quyền lực bắt nguồn từ Giáo hội. Người ta sẽ không để tớ tiếp tục đi con đường này: giờ đây tớ tin chắc rằng vì vướng vào chuyện này mà cha Andrei đã bị ngã khỏi tàu Roma Express. Tớ muốn trả thù cho cái chết của ông ấy, và chỉ có sự thật mới trả thù được. Cậu có sẵn sàng đồng hành với tớ đến cùng không?

Không ngần ngại, Leeland trả lời bằng giọng trầm đục:

- Cậu muốn trả thù cho người bạn quá cố của cậu, còn tớ, tớ muốn trả thù cho người bạn còn sống của tớ, người đang phải sống khép kín trong xấu hổ và lặng lẽ ở tu viện của chính tớ: từ nhiều tháng nay, cậu ấy không viết cho tớ nữa. Tớ muốn trả thù những điều bẩn thỉu mà họ đã bôi lên chúng tớ, trả thù cho cái chết của điều gì đó quá trong trắng để những người ở Vatican có thể hiểu được. Đúng, tớ sẽ ở bên cậu, Nil ạ: cuối cùng chúng ta lại tìm thấy nhau!

Cha Nil ngả người vào ghế, và nhăn mặt uống cạn ly. “Mình bắt đầu uống như một tên cao bồi!” Đột nhiên, sự căng thẳng trong ông giảm xuống: ông lại có thể chia sẻ mọi điều với bạn mình. Chỉ có hành động mới cho phép họ thoát khỏi tình trạng khép kín.

- Tớ muốn tìm thấy bức thư đó. Nhưng tớ đang tự hỏi về anh chàng Lev Barjona: cuộc gặp gỡ của anh ta với chúng ta không phải là ngẫu nhiên, nó đã được dàn xếp. Nhưng do ai, và để làm gì?

- Lev là một người bạn, tớ tin anh ta.

- Nhưng đó là một người Do Thái, và anh ta từng là thành viên của Mossad. Như anh ta đã nói, người Israel biết về sự tồn tại của bức thư, bởi vì Ygaël Yadin đã đọc nó và đã nhắc đến nó trước khi chết. Còn ai khác biết chuyện nữa không? Có vẻ Vatican không biết rằng nó đang nằm đâu đó giữa những bức tường của mình. Tại sao Lev lại tiết nộ cho tớ thông tin này? Người như anh ta không làm điều gì bộp chộp.

- Tớ không biết gì hết. Nhưng cậu sẽ làm thế nào để tìm thấy một tờ giấy sơ sài, có thể được bo bo bảo vệ, hoặc cũng có thể đơn giản là bị lãng quên trong một góc nào đó? Vatican rất rộng lớn, các bảo tàng, thư viện, nhà phụ, phòng áp mái và hầm ngầm chứa đựng một mớ lộn xộn đến khó tin, từ những bản thảo bị bỏ rơi trong một ngăn kéo cho đến bản sao Spoutnik mà Nikita Khrouchtchev đã tặng cho Jean XXIII. Hàng triệu đồ vật hầu như không được sắp xếp. Và lần này cậu chẳng có gì chỉ dẫn, dù chỉ là một mã số thư viện.

Cha Nil đứng dậy và vươn vai.

- Lev Barjona đã cho chúng ta một chỉ dẫn quý báu, mặc dù có thể anh ta cũng không biết điều đó. Để khai thác nó, quân chủ bài duy nhất của tớ là Breczinsky. Người này là một pháo đài được ngăn chặn từ mọi nơi: tớ phải tìm cách lọt vào trong đó, ông ấy là người duy nhất có thể giúp tớ. Ngày mai chúng ta sẽ vẫn đến kho sách như thường lệ, cậu sẽ để tớ hành động.

Cha Nil rời khỏi phòng: Moktar tháo tai nghe, và cuốn lại những cuộn băng ghi âm. Một cuộn là dành cho Calfo. Hắn nhét cuộn còn lại vào một chiếc phong bì, hắn sẽ mang nó đến đại sứ quán Ai Cập. Qua hành lý ngoại giao, sáng mai hẳn nó sẽ đến tay Người dẫn đường tối cao ở đại học Al-Azhar.

Hắn chun môi lại ngao ngán. Tu sĩ người Mỹ này không chỉ là đồng phạm của cha Nil, ông ta còn là kẻ đồng tính. Cả người này lẫn người kia đều không xứng đáng được sống.
 
Chương 73


Cũng tối đó, Calfo triệu tập một cuộc họp bất thường của Hội Thánh Pie V. Sẽ họp ngắn thôi, nhưng các sự kiện đòi hỏi toàn bộ Mười hai tông đồ phải tập họp về quanh Thầy bị đóng đinh trên giá chữ thập.

Hội trưởng liếc mắt nhìn tông đồ thứ mười hai: đôi mắt khiêm tốn cụp xuống bên dưới chiếc mũ trùm, Antonio đang chờ cuộc họp bắt đầu. Calfo đã giao cho anh xử lý Breczinsky, đồng thời cho anh biết điểm yếu của người Ba Lan này: tại sao anh chàng người Tây Ba Nha lại không đến báo cáo với ông như dự kiến? Phải chăng lòng tin của ông đối với một trong số mười một tông đồ đã bị đặt sai chỗ? Nếu thế thì đây sẽ là lần đầu tiên. Ông ngạt bỏ ý nghĩ khó chịu này. Từ sau lễ nghi hôm qua, quỳ trước Sonia biến đổi thành một hình thái sống, ông đang bơi trong niềm khoan khoái. Cô gái Rumani cuối cùng đã chấp nhận mọi đòi hỏi của ông, giữ đến cùng chiếc mũ bà xơ trên mái đầu nhỏ nhắn xinh xắn.

Táo bạo hơn vì thành công này, khi cho cô về ông đã báo trước với cô: lần sau ông sẽ tổ chức một nghi lễ gợi cảm hơn, nó sẽ hợp nhất họ một cách rất thân mật trong sự hy sinh của Chúa. Khi ông giải thích cho cô nghe về nghi lễ mà ông đòi hỏi cô phải phối hợp, Sonia đã tái mặt, và vội vàng đi mất.

Ông không lo lắng: cô sẽ quay lại, chưa bao giờ cô từ chối ông bất cứ điều gì. Tối nay ông phải giải quyết êm thấm cuộc họp này, để trở về nhà mình, nơi những công việc chuẩn bị lâu dài và tỉ mỉ đang chờ. Ông đứng dậy, và hắng giọng.

- Các anh em, nhiệm vụ đang tiến hành đã có biến chuyển bất ngờ, và rất đáng khích lệ. Tôi đã khiến cho Lev Barjona, người hiện đang có một loạt buổi hòa nhạc ở nhạc viện Saint Cecilia, gặp gỡ cha Nil. Nói đúng ra, tôi can thiệp cũng vô ích: dù sao người Israel đó cũng đã có ý định liên hệ với tu sĩ của chúng ta, điều này cho thấy Mossad quan tâm đến các nghiên cứu của ông ta đến mức nào. Tóm lại, họ đã gặp nhau, và Lev đã để lộ trước mặt nhà trí thức vô hại này thông tin mà chúng ta chờ đợi bấy lâu nay: bức thư của tông đồ thứ mười ba không mất tích. Vẫn còn một bản bức thư này, và hẳn là đang ở Vatican.

Một cái rùng mình lan khắp cử tọa đang vừa ngạc nhiên vừa phấn khích. Một trong số Mười hai hội viên đưa hai cánh tay giao nhau ra phía trước.

- Sao lại thế được? Chúng ta từng nghi ngờ một bản của bức thư này đã thoát khỏi sự cảnh giác của chúng ta, nhưng… ở Vatican.

- Chúng ta đang ở trung tâm của Cơ Đốc giáo, mạng lưới rộng lớn với các mắt lưới bao phủ toàn bộ hành tinh. Mọi thứ đều kết thúc bằng việc đến Vatican vào một ngày nào đó, kể cả các bản thảo hoặc các văn tự cổ phát hiện được ở nơi này nơi kia: đó là điều phải xảy ra. Lev Barjona đưa ra thông tin này không phải không có mục đích: hẳn hắn đang hy vọng nó sẽ khơi dậy sự tò mò của cha Nil, và ông ta sẽ dẫn hắn đến với văn bản mà người Do Thái cũng mong muốn có được không kém gì chúng ta.

- Người anh em Hội trưởng, chúng ta có cần thiết phải mạo hiểm để khai quật bức thư này không? Ông cũng biết đấy, lãng quên đã là vũ khí hiệu quả nhất của Giáo hội chống lại tông đồ thứ mười ba, chỉ có lãng quên mới khiến lời chứng nguy hiểm của ông ta không gây hại được. Có nên kéo dài căn bệnh quên lãng mang tính cứu rỗi này không?

Hội trưởng nhân nhịp này để nhắc nhở Mười một hội viên về tầm vóc lớn lao trong sứ mệnh của họ. Ông trang trọng duỗi bàn tay phải ra, để lộ viên ngọc thạch anh gắn trên chiếc nhẫn.

- Sau hội nghị Giám mục ở Trente, Thánh Pie V, vốn là Antoine-Michel Ghislieri, tu sĩ dòng Dominique, lo sợ trước sự suy yếu của Giáo hội Cơ Đốc, đã làm tất cả để cứu vớt nó khỏi tình trạng chìm xuồng được báo trước. Mối đe dọa nghiêm trọng nhất không xuất phát từ cuộc nổi loạn mới đây của Luther, mà từ một lời đồn đại cổ xưa mà ngay cả Tòa dị giáo cũng không thể dập tắt: nấm mộ có chứa xương cốt của Christ vẫn tồn tại, nó đang nằm đâu đó trong sa mạc ở vùng Cận Đông. Một bức thư bị mất của một nhân chứng có đặc huệ được chứng kiến những giờ phút cuối cùng của Đấng Cứu thế khẳng định rằng không những Jesus không sống lại, mà thi thể của Người còn được người Esseni chôn cất trong vùng này. Các vị đều biết điều đó, đúng không?

Mười một hội viên gật đầu.

- Trước khi trở thành Giáo hoàng, Ghislieri từng là Thẩm phán Tòa dị giáo: ông đã quen với việc hỏi cung những kẻ ly khai bị thiêu sống vì theo dị giáo, ông đã tham khảo một số biên bản xử các Hiệp sĩ, ngày nay tất cả các tài liệu này đã mất. Ông tin chắc rằng nấm mồ của Jesus có tồn tại, và việc phát hiện ra nấm mồ này sẽ đồng nghĩa với sự kết thúc vĩnh viễn của Giáo hội. Thế là vào năm 1570, ông đã thành lập ra Hội chúng ta để bảo vệ bí mật về nấm mồ.

Điều này, các hội viên cũng biết. Đoán được sự nôn nóng của họ, Hội trưởng giơ cao chiếc nhẫn, nó phát ra một tia sáng ngắn dưới ánh sáng của những ngọn đèn chiếu.

- Ghislieri cho thửa chiếc nhẫn Giám mục có hình quan tài này bằng thứ ngọc thạch anh nguyên chất. Từ đó, dưới hình dạng này, nó nhắc nhở mỗi Hội trưởng, khi lấy nó ra khỏi ngón tay tiền nhiệm đã chết của mình, nhớ đến sứ mệnh của Hội chúng ta: làm thế nào để không bao giờ, không một cỗ quan tài nào có chứa đựng xương cốt của người bị hành hình trên giá chữ thập ở Jerusalem có thể bị phát hiện.

- Nhưng mặc dù tin đồn về bức thư của tông đồ thứ mười ba đã xuyên qua nhiều thế kỷ, không có điều gì chứng tỏ rằng nó chỉ ra vị trí chính xác của nấm mồ. Sa mạc rộng mênh mông, từ rất lâu rồi cát đã bao phủ tất cả!

- Đúng thế, không có nguy cơ nào về việc nấm mồ của Jesus bị phát hiện chừng nào chỉ có lạc đà đến được sa mạc. Nhưng việc chinh phục không gian đã cho chúng ta các phương tiện tìm kiếm vô cùng hoàn thiện. Nếu người ta đã có thể tìm ra dấu vết của nước trên sao Hỏa xa xôi, thì ngày nay người ta cũng có thể kiểm kê tất cả xương cốt trong các sa mạc ở Negreb hoặc ở Idumea, kể cả những bộ xương đã bị cát vùi lấp: điều này thì Giáo hoàng Ghislieri không thể tưởng tượng được. Rằng sự tồn tại của nấm mồ đã trở nên công khai, và hàng trăm máy bay ra đa hoặc máy dò không gian sẽ xem xét sa mạc một cách kỹ lưỡng, từ Jerusalem cho đến tận biển Chết. Sự tham gia bất ngờ và ồ ạt của công nghệ không gian tạo ra một nguy cơ mới, mà chúng ta không thể mạo hiểm được. Chúng ta phải tìm lại được tài liệu tồi tệ này, và phải nhanh chóng, vì người Israel cũng đang đi cùng đường với chúng ta.

Ông cung kính đưa chiếc quan tài bằng ngọc thạch anh lên môi, trước khi rút tay vào dưới ống tay áo lễ.

- Tài liệu nguy hiểm này phải được cất giấu trong chiếc tủ trước mặt chúng ta đây. Phải tìm được nó, không chỉ để đưa nó ra ngoài tầm tay kẻ thù của chúng ta, mà còn để nhờ nó, sở hữu được những phương tiện tài chính đáp ứng khát vọng của chúng ta: ngăn chặn phương Tây đi chệch đường. Các vị biết các Hiệp sĩ dòng Đền đã có được tài sản khổng lồ của họ như thế nào rồi đấy, thánh tích mà chúng ta sùng kính mỗi thứ Sáu ngày 13 nhắc nhở chúng ta điều đó. Tài sản này có thể trở thành của chúng ta, và chúng ta sẽ dùng nó để bảo vệ nhân thân thần thánh của Chúa Cứu thế.

- Ông có đề xuất gì, người anh em Hội trưởng?

- Cha Nil đang đoán được một hướng tìm kiếm, cuối cùng thì có thể đây là hướng đúng: hãy để ông ta đi theo nó. Tôi đã tăng cường việc giám sát xung quanh ông ta: nếu ông ta thành công, chúng ta sẽ là người biết đầu tiên. Và sau đó…

Hội trưởng cho rằng không cần thiết phải kết thúc câu nói. “Sau đó” đã xảy ra hàng nghìn lần, trong hầm ngầm các lâu đài của Tòa dị giáo vốn toát ra sự đau đớn hoặc trên những giàn thiêu vốn chiếu sáng Cơ Đốc giáo suốt chiều dài lịch sử của nó. “Sau đó”, họ đã có kinh nghiệm lâu dài. Trong trường hợp hiện nay, Cha Nil sẽ không bị thiêu chết công khai, cha Andrei cũng đã không bị như thế.
 
Chương 74


Mặt trời vuốt ve những viên đá lát trong sân Belvedere khi cha Nil và Leeland bước vào. Nhẹ nhõm vì dốc được bầu tâm sự, tu sĩ người Mỹ đã lấy lại tâm trạng vui vẻ, và trong suốt đoạn đường ông chỉ nói về tuổi trẻ của họ khi là sinh viên ở Roma. Mười giờ, họ có mặt trước cửa kho sách.

Một giờ trước đây, một linh mục mặc áo dòng đã đến trước họ. Khi nhìn thấy giấy phép ra vào do đích thân Hồng y Catzinger ký, viên cảnh sát nghiêng mình và kính cẩn dẫn người đó đến tận cánh cửa bọc sắt, nơi Breczinsky đang chờ đợi với vẻ lo lắng. Lần gặp gỡ thứ hai này cũng chóng vánh như lần đầu. Khi đi ra, vị linh mục đã nhìn chăm chú hồi lâu vào người đàn ông Ba Lan bằng đôi mắt đen của mình, môi dưới ông này run run.

Cha Nil không để ý đến sắc mặt rất nhợt nhạt, gần như bợt ra của ông; khi đến kho, cha Nil không nhận thấy sự bối rối trong ông, và đặt thiết bị lên bàn của họ trong khi Leeland đi tìm những bản thảo mà họ phải xem xét.

Sau khoảng một giờ làm việc, ông tháo găng tay và thì thầm:

- Cứ tiếp tục làm một mình đi nhé, tớ sẽ đi thử vận may với Breczinsky.

Leeland im lặng gật đầu, và cha Nil đi đến gõ của văn phòng viên thủ thư.

- Mời cha vào, mời cha ngồi.

Breczinsky có vẻ sung sướng khi gặp ông.

- Cha đã không nói gì với tôi về những nghiên cứu của cha trong kệ các Hiệp sĩ hôm trước: cha có phát hiện được điều gì hữu ích không?

- Còn hơn thế nữa, cha ạ: tôi đã tìm lại được văn tự mà cha Andrei từng xem xét và ghi lại chỉ dẫn trong sổ tay.

Ông hít một hơi và thử liều:

- Nhờ có đạo hữu đã mất, tôi đang đi theo hướng dẫn đến tài liệu quan trọng nhất, nó có thể khiến ta phải xem xét lại những cơ sở của đức tin Cơ Đốc. Xin thứ lỗi cho tôi không thể nói nhiều hơn. Từ khi tôi đến Roma, vì tôi, Đức ông Leeland đã phải chịu những áp lực đáng kể, nên bằng cách im lặng tôi muốn tránh cho cha mọi điều phiền toái.

Breczinsky lặng lẽ nhìn ông, rồi khẽ khàng hỏi:

- Nhưng… những áp lực như vậy đối với một Giám mục làm việc ở Vatican có thể xuất phát từ ai?

Cha Nil quyết định được ăn cả ngã về không. Ông nhớ lại một nhận xét của người Ba Lan này khi họ gặp nhau lần đầu tiên “Còn tôi thì tin rằng cha là người của Catzinger!”

- Từ Cơ quan truyền bá đức tin, và chính xác hơn là từ chính Hồng y đứng đầu cơ quan này.

- Catzinger!

Người Ba Lan lau mồ hôi trán, tay run nhè nhẹ.

- Cha không biết qua khứ của người này, cũng không biết điều ông ta từng trải qua!

Cha Nil giấu sự ngạc nhiên.

- Đúng là tôi không biết gì về ông ấy, trừ việc ông ấy là nhân vật thứ ba trong Giáo hội, sau bộ trưởng Ngoại giao và Giáo hoàng.

Breczinsky ngước nhìn ông bằng đôi mắt của một con chó bị đòn.

- Cha Nil ạ, cha đã đi quá xa, giờ đây cha cần phải biết. Điều tôi sắp nói với cha, tôi chỉ mới tâm sự với cha Andrei thôi, vì chỉ cha ấy mới có thể hiểu được. Gia đình cha ấy đã cùng gánh chịu những đau khổ như gia đình tôi. Tôi không phải giải thích gì, cha ấy hiểu ngay mọi chuyện.

Cha Nil nín thở.

- Khi người Đức phá vỡ hiệp ước Đức-Xô, quân đội Wehrmacht đã ồ ạt kéo đến nơi trước đây là đất nước Ba Lan. Trong vài tháng, sư đoàn Anschluss đảm bảo công tác hậu cần xung quanh Brest-Litovsk cho quân đội xâm lược, và vào tháng Tư năm 1940, một trong số các sĩ quan cao cấp của sư đoàn này, một người tên là Oberstleutnant đã đến vét hết đàn ông trong làng tôi. Cha tôi bị đưa vào rừng cùng họ, và chúng tôi không bao giờ gặp lại ông nữa.

- Đúng, cha đã kể chuyện này với tôi…

- Sau đó sư đoàn Anschluss gia nhập mặt trận phía Đông, và mẹ tôi đã cùng tôi cố gắng sống sót tại làng, nhờ vào sự giúp đỡ của gia đình cha Andrei. Hai năm sau, chúng tôi thấy những tàn quân cuối cùng của quân đội Đức quay ngược lại chạy trốn quân Nga. Không còn là quân đội Wehrmacht thắng lợi nữa, mà là một băng kẻ cướp hãm hiếp và đốt cháy mọi thứ trên đường chúng đi qua. Khi đó tôi năm tuổi: một hôm, mẹ tôi cầm tay tôi, bà rất hoảng sợ: “Con hãy trốn vào trong hầm, chính là tên sĩ quan đã dẫn cha con đi, hắn lại quay lại đấy!” Qua khe cửa bị lỏng ra, tôi nhìn thấy một sĩ quan Đức bước vào. Không nói lời nào, hắn mở móc thắt lưng, chồm lên mẹ tôi và hãm hiếp bà ngay trước mắt tôi.

Cha Nil kinh hoàng.

- Cha có biết tên sĩ quan đó không?

- Như cha có thể thấy, tôi không bao giờ quên được hắn, và không ngừng tìm kiếm dấu vết hắn: hắn chết sau đó ít lâu, bị những người kháng chiến Ba Lan giết. Hắn là Obersleutnant Herbert von Catzinger, cha của Hồng y đứng đầu Cơ quan truyền bá đức tin hiện nay.

Cha Nil mở miệng nhưng không thể thốt ra lời nào. Trước mặt cha Nil, Breczinsky dường như bị phá hủy. Ông cố gắng nói tiếp.

- Sau chiến tranh, trở thành Hồng y tại Viên, Catzinger đã yêu cầu một người Tây Ba Nha thuộc nhóm Opus Dei tìm kiếm trong các hồ sơ lưu của Áo và Ba Lan, và đã phát hiện ra rằng cha ông ta, người mà ông ta ngưỡng mộ vô bờ bến, đã bị quân du kích Ba Lan giết chết. Từ đó ông ta căm thù tôi, cũng như căm thù tất cả những người Ba Lan.

- Nhưng… Giáo hoàng là người Ba Lan kia mà!

- Cha không thể hiểu được: tất cả những ai phải chịu đựng chủ nghĩa phát xít, mặc dù không muốn, đều giữ lại một dấu ấn sâu sắc. Từng tham gia đội Thiếu niên Hitler, con trai của viên chiến binh thuộc quân đội Wehrmacht bị quân kháng chiến Ba Lan giết chết này vứt bỏ quá khứ của mình nhưng không lãng quên nó: không ai ra khỏi địa ngục đó mà vẫn còn nguyên vẹn. Đối với Giáo hoàng người Ba Lan mà hiện nay ông ta là cánh tay phải, tôi tin chắc rằng ông ta đã vượt qua được nỗi căm ghét trong thâm tâm, ông ta sùng kính ngài một cách chân thành. Nhưng ông ta biết rằng tôi sinh ra ở một làng nơi sư đoàn Anschluss từng đóng, ông ta biết về cái chết của cha tôi.

- Và…về mẹ của cha?

Breczinsky đưa mu bàn tay lau nước mắt.

- Không, ông ta không thể biết được, tôi là nhân chứng duy nhất, ký ức về cha ông ta vẫn nguyên vẹn. Nhưng tôi, tôi biết. Tôi không thể… tôi không thể tha thứ được, cha Nil ạ.

Một nỗi thương cảm tràn ngập trong lòng cha Nil.

- Cha không thể tha thứ cho người cha… hay người con?

Breczinsky trả lời trong một hơi thở:

- Cả người này lẫn người kia. Từ nhiều năm nay, bệnh tật của Thánh Cha đã cho phép Hồng y làm hoặc để người khác làm những điều đi ngược lại với tinh thần của kinh Phúc âm. Ông ta muốn khôi phục Giáo hội của những thế kỷ trước bằng mọi giá, ông ta bị ám ảnh bởi cái mà ông ta gọi là “trật tự của thế giới”. Dưới vẻ bề ngoài hiện đại, đó chính là sự quay lại thời kỳ đồ sắt. Tôi đã thấy những nhà thần học, những linh mục, những tu sĩ bị phá hủy đến con số không, bị nghiền nát bởi một Vatican không chút tình thương giống như trước đây cha ông ta từng thể hiện đối với những dân tộc bị Reich biến thành nô lệ. Cha nói rằng ông ta gây áp lực với Đức ông Leeland? Giá như bạn của cha là người duy nhất… Tôi chỉ là một viên sỏi nhỏ vô nghĩa, nhưng cũng như những người khác tôi phải bị nghiền nhỏ để cái đế của Giáo lý và Đức tin không nứt vỡ.

- Tại sao lại là cha? Giam mình trong sự im lặng của kho sách này, cha không làm phiền đến ai, cha không đe dọa bất cứ quyền lực nào!

- Nhưng tôi là người của Giáo hoàng, và chức vụ mà tôi đảm nhận ở đây nhạy cảm hơn cha nghĩ nhiều. Tôi… tôi không thể nói gì thêm với cha.

Vai ông rung lên nhè nhẹ. Ông cố gắng tiếp tục:

- Tôi chưa bao giờ nguôi ngoai được sau những đau khổ mà tội lỗi của Herbert von Catzinger đã gây ra, vết thương chưa khép lại và Hồng y biết điều đó. Mỗi đêm tôi tỉnh dậy người đẫm mồ hôi, bị ám ảnh bởi hình ảnh cha tôi bị dẫn vào rừng dưới sự đe dọa của những họng súng tiểu liên, và bởi hình ảnh thân thể mẹ tôi bị những gót giày đạp sát vào chiếc bàn trong bếp. Người ta có thể trói buộc một người bằng sự đe dọa, nhưng cũng có thể biến người đó thành nô lệ bằng cách nuôi dưỡng sự đau khổ của anh ta: chỉ cần làm nó sống lại, làm cho vết thương chảy máu. Chỉ ai đó biết về những con người bằng đồng này mới có thể hiểu được, và đó là trường hợp của cha Andrei. Từ khi tôi vào phụng sự Giáo hoàng, tôi luôn bị chà đạp bởi hai gót giày sáng bóng, Catzinger khoác áo choàng tía cai trị tôi, giống như ngày xưa cha ông ta đã cai trị mẹ tôi và những người nô lệ Ba Lan khác trong bộ quân phục bó chẽn.

Cha Nil bắt đầu hiểu ra. Breczinsky chưa bao giờ có thể rời khỏi căn hầm thời ấu thơ của ông, nơi ông nép sát vào cánh cửa mà bên ngoài đó người ta hãm hiếp mẹ mình. Chưa bao giờ ông ra khỏi con đường rừng nào đó, nơi ông bước đi trong giấc mơ, phía sau người cha sắp chết dưới một loạt đạn tiểu liên. Ngày cũng như đêm ông bị ám ảnh bởi hai gót giày đánh xi đạp vào một chiếc bàn, tai ù đi bởi tiếng vọng của mệnh lệnh gầm gừ trong họng Herbert von Catzinger: Feuer![[50]]

Cha ông bị đạn Đức giết chết, nhưng ông cũng không ngừng gục ngã, rơi xuống quay cuồng trong một cái giếng đen tối và không có đáy. Người đàn ông này là một người sống mà như chết. Cha Nil ngập ngừng:

- Có phải… Hồng y đích thân đến đây, tra tấn cha bằng cách nhắc lại quá khứ của cha? Tôi không thể tin được.

- Ồ không, ông ta không hành động trực tiếp. Ông ta cử người Tây Ban Nha, người đã thực hiện việc tìm kiếm các hồ sơ lưu trữ ở Viên cho ông ta. Lúc này người đó đang ở Roma, mấy hôm nay anh ta đến gặp tôi hai lần, anh ta…anh ta tra tấn tôi. Anh ta mặc áo linh mục: nhưng nếu đó thực sự là một linh mục của Jesus- Christ, thì cha Nil ạ, điều đó có nghĩa là Giáo hội đã kết thúc rồi. Anh ta không có tâm hồn, không có tình cảm của con người.

Im lặng một lúc lâu, và cha Nil để Breczinsky nói tiếp:

- Cha hiểu tại sao tôi đã giúp cha Andrei, tại sao tôi giúp cha. Cũng như cha, ông ấy đã nói rằng ông ấy tìm một tài liệu quan trọng: ông ấy tuyệt đối muốn lấy cắp nó khỏi Catzinger, và đưa lại tận tay Giáo hoàng.

Cha Nil nghĩ nhanh: chưa khi nào ông nghĩ đến việc sẽ làm gì nếu tìm thấy bức thư của tông đồ thứ mười ba. Đúng là Giáo hoàng sẽ là người phán xét xem tương lai của Giáo hội có bị ảnh hưởng bởi một nội dung bức thư này không, và tùy ý sử dụng nó.

- Cha Andrei có lý. Tôi chưa biết tại sao, nhưng rõ ràng thứ tôi đã phát hiện ra là điều rất nhiều người thèm muốn. Nếu tìm lại được tài liệu đã mất từ nhiều thế kỷ nay, tôi có ý định thông báo cho Giáo hoàng và chỉ cho ngài biết vị trí của nó. Chỉ có người đứng đầu Giáo hội mới có thể là người nắm giữ bí mật này, giống như ngài đã là người nắm giữ những bí mật về Fatima. Tôi vừa biết được rằng có thể nó đang bị vùi lấp đâu đó ở Vatican: rất mong manh!

- Vatican rộng lớn lắm: cha không có chỉ dẫn nào ư?

- Chỉ có một chỉ dẫn duy nhất, rất nhỏ nhoi. Nếu đúng là nó đã đến Roma, theo như tôi nghĩ, thì nó phải lẫn trong những bản thảo cùng biển Chết. Vatican có thể đã tiếp nhận nó sau cuộc chiến giành độc lập của người Do Thái, vào khoảng năm 1948. Cha có ý tưởng gì về nơi cất giữ những bản thảo chưa được khai thác của người Esseni ở Qumran không?

Breczinsky đứng dậy, ông có vẻ mệt mỏi.

- Tôi không thể trả lời cha ngay được, tôi cần phải suy nghĩ. Chiều mai cha hãy đến văn phòng này gặp tôi: sẽ không có ai khác ngoài cha và Đức ông Leeland. Nhưng tôi xin cha, đừng nói với ông ấy về cuộc nói chuyện giữa chúng ta, lẽ ra tôi không nên nói với cha tất cả chuyện này.

Cha Nil trấn an ông: ông ấy có thể tin tưởng ở ông như đã tin tưởng cha Andrei. Mục đích của họ chỉ là một: thông báo cho Giáo hoàng.
 
Chương 75


- Tôi nâng cốc chúc mừng vì kiều dân Do Thái cuối cùng đã ra khỏi Palestin!

- Còn tôi, vì sự thành lập vĩnh viễn của nước Israel vĩ đại!

Hai người đàn ông mỉm cười trước khi uống cạn. Lev Barjona đột nhiên đỏ mặt và bị nghẹn cổ.

- Vì các bùa chữ của tôi, Moktar Al-Quraysh, cái gì thế này? Dầu Ả Rập à?

- Cent’herba. Rượu vùng Abruzzes. Bảy mươi độ, đây là đồ uống dành cho đàn ông.

Từ khi nể nang lẫn nhau trên chiến trường, một tình cảm tòng phạm kỳ lạ đã nảy sinh giữa hai người Palestin và Israel này. Giống như kiểu tình cảm trước đây đã từng tồn tại giữa các sĩ quan thuộc những quân đội thù địch, hoặc giữa các chính trị gia đối thủ của nhau hoặc các viên chức thuộc những tập đoàn lớn đối đầu nhau. Là chiến binh trong bóng tối, họ chỉ cảm thấy thoải mái với những người giống mình, những người tham gia vào cùng những cuộc xung đột như mình. Khinh bỉ xã hội của những người dân thường bình dị, cuộc sống tẻ nhạt và chán ngán của họ. Thường là họ chống đối nhau một cách quyết liệt: nhưng khi không có hành động nào khiến họ trở nên đối lập, họ không từ chối chia sẻ một cốc rượu, vài cô gái hoặc một chiến dịch chung, nếu có cơ hội ở cùng trên một địa bàn trung lập.

Và cơ hội hiện nay là Đức ông Alessandro Calfo. Ông ta đã đề xuất với họ một trong những nhiệm vụ bẩn thỉu mà Giáo hội không muốn hoàn thành, thậm chí không muốn chính thức chấp nhận. Ecclesia sanguinem abhorret Giáo hội sợ máu. Cũng không thể để những công việc thấp hèn được thực hiện bởi một cánh tay ngoại đạo đã quay lưng lại với mình, từ nay trở đi Giáo hội buộc phải làm việc với những điệp viên tự do. Thường là tay chân của giới cực tả châu Âu. Nhưng những người này không thể cưỡng lại miếng mồi được lên sân khấu truyền thông, và luôn buộc phải trả công cho dịch vụ của họ bằng những đánh đổi chính trị vướng víu. Calfo đánh giá cao việc Moktar chỉ đòi đô la, và việc hai người không để lại bất kỳ dấu vết gì. Họ kín đáo như một luồng không khí vậy.

- Moktar, tại sao anh lại hẹn tôi ở đây? Anh biết rằng nếu có người thấy chúng ta gặp nhau, lãnh đạo của cả hai bên sẽ coi đây là một lỗi nghề nghiệp vô cùng trầm trọng.

- Thôi nào, Lev, Mossad có vô số điệp viên hiện diện ở khắp nơi. Nhưng không phải ở đây: nhà hàng này chỉ chế biến thịt lợn, và tôi quen ông chủ, nếu ông ta biết rằng anh là người Do Thái, anh sẽ không ở thêm một phút dưới mái nhà của ông ta. Chúng ta không gặp nhau từ sau vụ chuyển phiến đá Germigny đến Romas, nhưng anh vừa gặp hai tu sĩ nhà nghiên cứu của chúng ta, mà tôi thì thường xuyên nghe họ nói chuyện. Chúng ta phải nói chuyện với nhau.

- Tôi đang dỏng tai…

Moktar ra hiệu cho ông chủ để bình rượu cent’herba lên bàn.

- Giữa chúng ta với nhau, không cần ra vẻ bí mật thế, Lev ạ, ở đây, chúng ta chơi cùng một cuộc chơi. Chỉ có điều, tôi không biết hết chuyện, nên tôi thấy căng thẳng: tu sĩ người Pháp đó bắt đầu xoay quanh kinh Coran, có những điều mà người Hồi giáo không tha thứ, anh cũng biết đấy. Phải nói cho rõ ràng: tôi thực hiện nhiệm vụ này không chỉ vì Đức ông Calfo, Fatah cũng có liên quan. Nhưng điều không mấy rõ ràng với tôi, đó là lý do mà vì nó cá nhân anh cũng tham gia cuộc chơi, bằng việc gặp cha Nil và để lộ cho ông ta biết những thông tin đáng giá bằng vàng.

- Anh hỏi tôi về lý do khiến chúng tôi quan tâm đến bức thư bị mất này à?

- Chính xác là: câu chuyện về tông đồ thứ mười ba này có liên quan gì đến người Do Thái?

Lev kín đáo gõ nhịp trên mặt bàn bằng đá cẩm thạch: món pizzas al maiale đành phải đợi.

- Những người theo trào lưu chính thống ở Likoud giám sát tất cả những điều được nói ra trong Giáo hội Cơ Đốc có liên quan đến Kinh Thánh. Đối với những người theo đạo này, điều cốt yếu là người Cơ Đốc không bao giờ được nghi ngờ thiên chất của Jesus-Christ. Chúng tôi đã bắt được những thông tin mà cha Andrei để lọt ra ở Roma và với các đồng nghiệp người châu Âu của ông ta. Cũng vì việc này mà tôi được lệnh sát cánh với anh trong vụ Roma Express: mọi việc diễn ra thật đúng lúc, vì học giả này đã phát hiện ra một số điều khiến người của Mea Shearim lo lắng.

- Nhưng tại sao chứ, nhân danh các ma thần! Có liên quan gì đến các anh nếu người Cơ Đốc đột nhiên nhận ra rằng họ đã chế tạo ra một Chúa giả, hay đúng hơn là một vị Chúa thứ hai? Đã mười ba thế kỷ nay kinh Coran lên án họ vì lý do này. Trái lại, lẽ ra các anh phải thỏa mãn vì cuối cùng họ cũng chấp nhận rằng Jesus không là gì khác ngoài một nhà truyền giáo Do Thái, như Muhammad khẳng định.

- Moktar, anh biết rằng chúng tôi chiến đấu vì phẩm cách Do Thái của chúng tôi trên mọi phương diện, chứ không chỉ về mặt lãnh thổ. Nếu Giáo hội Cơ Đốc xem lại thiên chất của Jesus và thừa nhận rằng Jesus chưa bao giờ ngừng là gì khác ngoài một nhà truyền giáo vĩ đại, điều gì sẽ phân biệt chúng tôi với họ? Cơ Đốc giáo, lại trở lại là Do Thái giáo, quay về với nguồn gốc lịch sử của nó, sẽ chỉ là một hướng của Do Thái đạo. Nếu người Cơ Đốc thờ Jesus thay vì ngưỡng mộ Chúa Christ của họ, thì đối với dân tộc Do Thái đó sẽ là một hiểm họa mà chúng tôi không thể để mình phải đối đầu. Thêm nữa, họ sẽ ngay lập tức khẳng định rằng Jesus cao hơn Moise, rằng cùng với Người kinh Torah không còn giá trị gì, mặc dù Jesus đã dạy rằng Người không đến để phá hủy Luật lệ mà là để hoàn thiện nó. Một nhà truyền giáo Do Thái lại đề xuất một luật hoàn hảo hơn luật của Moise: anh biết người Cơ Đốc rồi đấy, sự cám dỗ sẽ là quá lớn. Họ đã không thể tiêu diệt chúng tôi bằng những đợt tàn sát người Do Thái dưới thời Nga hoàng, nhưng chúng tôi sẽ bị hủy diệt bởi quá trình đồng hóa. Lửa của những giàn thiêu đã thanh lọc chúng tôi: nếu Jesus không còn là Chúa, nếu Người trở lại là người Do Thái, chẳng bao lâu nữa đạo Do Thái sẽ chỉ còn là một nhánh phụ của đạo Cơ Đốc, bị nhai, nuốt rồi tiêu hóa trong cái bụng đói của Giáo hội. Chính vì điều đó mà những tìm kiếm như của cha Nil khiến chúng tôi lo lắng.

Người ta vừa đặt trước mặt họ hai chiếc bánh Pizza to tướng tỏa mùi mỡ rán thơm phức. Moktar bắt đầu ăn chiếc bánh của mình một cách tham lam.

- Thử đi, anh sẽ cho tôi biết tin tức mới, và ít nhất, chúng ta cũng biết tại sao chúng ta sẽ kết thúc ở địa ngục. Hừm…Điều kinh khủng đối với người Do Thái các anh chính là chứng cuồng ám. Những nỗi lo lắng mà các anh lôi ra quá xa xôi đối với chúng tôi! Nhưng tôi hiểu các anh, từ góc nhìn của các anh, lập luận này là có cơ sở. Nhất là không được gần gũi với người Cơ Đốc, để tránh nguy cơ bị nuốt chửng như một giọt nước trong biển khơi. Hãy cứ để Giáo hoàng khóc trước các máy quay bên bức tường Than thở, nhưng sau đó ai lại về nhà nấy. Đồng ý. Vậy thì các anh sẽ làm gì nếu cha Nil vẫn quyết tâm lục lọi?

- Tôi đã bị chặn tay lại khi tôi muốn…nói thế nào nhỉ, ngăn chặn công việc của ông ta hơi sớm. Chỉ thị đưa ra là để cho ông ta tiếp tục, và xem kết quả là gì. Đó cũng là chính sách của Calfo. Khi gặp người tu sĩ Pháp này, khi trò chuyện với ông ta, tôi đã cho ông ta một đầu mối nhỏ, có lẽ nó sẽ cho phép ông ta tìm thấy cái mà tất cả chúng ta đang tìm kiếm. Hơn nữa, cha Nil thích Rachmaninov, chứng tỏ ông ta là một người có khiếu thưởng thức.

- Anh có vẻ đánh giá cao ông ta?

Lev nuốt một miếng pizza al maiale to với vẻ thích thú: những người Do Thái giả danh này đúng là rất biết nấu món thịt lợn.

- Tôi thấy ông ấy vô cùng dễ mến, thậm chí còn khiến người ta xúc động. Đó là những điều mà người Ả Rập các anh không thể hiểu được, vì Muhammad chưa bao giờ hiểu gì về các nhà truyền giáo của đạo Do Thái. Cha Nil giống Leeland, cả hai đều là những người lý tưởng chủ nghĩa, những người con tinh thần của Élie, người anh hùng và cũng là hình mẫu của người Do Thái.

- Tôi không biết có phải Muhammad đã không hiểu gì về các nhà truyền giáo của các anh không, nhưng tôi thì hiểu Muhammad: những kẻ phản bội không được sống.

Lev đẩy chiếc đĩa trống ra:

Anh là một người Quraysh, và tôi là một người Barjona, nghĩa là hậu duệ của những người Do Thái yêu nước zélote [[51]] xưa kia từng khiến người La Mã kinh hoàng. Cũng giống như anh, tôi bảo vệ các giá trị và truyền thống của chúng tôi, không ngần ngại: những người Do Thái yêu nước cũng được gọi là kiếm khách, vì sự điêu luyện của họ trong việc điều khiển dao găm và kỹ thuật mổ bụng kẻ thù. Nhưng tôi thấy cha Nil là người dễ mến, còn Leeland là bạn tôi từ hai mươi năm nay. Đừng làm gì họ mà không báo trước cho tôi.

- Ông bạn Leeland của anh thường bước đi tay trong tay với người Pháp đó, ông ta cũng biết gần hết mọi chuyện. Hơn nữa ông ta còn là một kẻ đồng tính, tôn giáo của chúng tôi lên án những kẻ như ông ta! Còn người kia, nếu ông ta động đến kinh Coran và Đấng Tiên tri, thì không điều gì có thể ngăn được công lý của Chúa.

- Rembert mà là người đồng tính ư? Anh đùa à! Họ là những con người trong sạch, Morktar ạ, tôi tin chắc rằng bạn tôi còn nguyên vẹn. Điều gì diễn ra trong đầu ông ấy thì lại là chuyện khác; nhưng kinh Coran chỉ kết tội hành động, chứ không lục soát trong bộ não. Nhiệm vụ này liên quan đến sự toàn vẹn của ba đạo độc thần: đừng động đến một sợi tóc của họ mà không báo trước cho tôi. Hơn nữa, nếu anh muốn áp dụng luật Coran với họ, anh sẽ không thể thoát ra khỏi chuyện này mà không có tôi: chuyện trên tàu Roma Express chỉ là trò trẻ con, nhưng giữa thành phố này mọi thứ sẽ khó hơn đấy. Mossad để lại ít dấu vết hơn là Fatah, anh biết rõ thế mà... Ở đây, các phương pháp của anh không phù hợp đâu.

Khi họ chia tay nhau, bình cent’herba rỗng không. Nhưng bước chân của hai người đàn ông trong phố vắng vẫn chắc chắn giống như trước đó họ chỉ uống toàn nước suối.
 
Chương 76


Từ lúc bình minh, Sonia cứ đi thẳng về phía trước như một cái máy. Cô nghiền ngẫm những điều Calfo đòi hỏi cô làm cho ông ta trong lần tới: cô không thể. “Ta chẳng là gì hơn một con điếm, nhưng thế là quá nhiều.” Cô phải nói chuyện với ai đó, cô cần chia sẻ cảnh đơn chiếc tuyệt vọng của mình. Moktar ư? Anh ta sẽ đưa cô trở lại Ả Rập Xê út mất. Anh ta đã lấy hộ chiếu của cô, và đã cho cô xem ảnh gia đình cô, những bức ảnh mới chụp ở Rumani. Các chị em cô và bố mẹ cô có thể sẽ bị đe dọa, họ sẽ phải trả giá thay cô nếu cô không tỏ ra ngoan ngoãn. Cô lau nước mắt và hỉ mũi.

Cô đi ngược lên bờ sông Tiber, và nhận thấy mình vừa đi qua một ngã tư nhộn nhịp vào đầu buổi sáng. Ở đầu một con phố rộng quang đãng ngoặt về phía trụ sở thành phố, thấp thoáng hai giáo đường cổ và trán tường của Nhà hát Marcellus. Cô không muốn đi theo hướng đó, có thể sẽ có khách du lịch mà cô thì đang cần ở một mình. Cô đi qua: trước mặt cô, cổng nhà thờ Saint Mary in Cosmedin đang mở. Cô bước qua, đi qua cửa Miệng Thần Sự thật, không nhìn mà đi thẳng vào trong.

Cô chưa từng đến đây, và bị choáng ngợp trước vẻ đẹp của các bức tranh ghép. Không có bình phong hình thánh, nhưng nhà thờ này rất giống với những nhà thờ mà cô từng lui tới khi còn trẻ. Nơi đây ngự trí một bầu không khí yên bình và bí ẩn, đức Christ trong ánh hào quang là Đức Chúa của những người theo Chính giáo, và còn phảng phất mùi hương. Người ta vừa tổ chức lễ Mixa trên bàn thờ chính, một em bé trong dàn đồng ca đang thổi tắt từng ngọn nến. Cô bước lại gần, rồi quỳ xuống hàng ghế đầu tiên bên trái.

“Một linh mục: mình muốn nói chuyện với một linh mục. Những người Cơ Đốc cũng tôn trọng sự bí mật của lời xưng tội, giống như ở nước mình.”

Vừa lúc đó, một linh mục đi ra từ cửa bên trái, hẳn là từ kho đồ thờ ra. Ông mặc một áo lễ khoác ngoài rộng bằng đăng ten trắng, không có dấu hiệu gì đặc biệt. Khuôn mặt ông tròn và nhẵn như mặt một em bé, nhưng mái tóc bạc trắng cho thấy đây là một người từng trải. Cô ngước nhìn ông bằng đôi mắt đỏ hoe vì một đêm khóc nhiều, và bị ấn tượng bởi sự dịu dàng trong ánh mắt ông. Với vẻ hăm hở không suy xét, cô ngẩng đầu lên khi ông đi qua.

- Thưa cha…

Ông đưa mắt nhìn cô.

- Thưa cha, con theo đạo chính thống…nhưng liệu con có thể xưng tội với cha không?

Ông mỉm cười với cô một cách nhân từ: ông ưa thích những dịp hiếm hoi mà ông có thể thực hành chức phận nhân từ của mình một cách vô danh. Ánh sáng phản chiếu từ những bức tranh ghép mạ vàng khiến khuôn mặt Sonia đang hõm sâu vì căng thẳng ánh lên vẻ đẹp của người Xênia nguyên thủy.

- Cha không thể ban cho con lễ phước xá tội, con của cha, nhưng Chúa sẽ mang đến cho con niềm an ủi…Hãy đến đây.

Cô ngạc nhiên thấy mình quỳ trước mặt ông, không hàng rào cũng không có chướng ngại vật nào theo phong tục ở Roma. Mặt ông cách mặt cô vài xen ti mét.

- Nào, cha nghe con nói đây…

Khi bắt đầu nói, cô có cảm giác một khối nặng đã được nhấc ra khỏi ngực cô. Cô kể về người phụ nữ đã tuyển dụng cô ở Rumani, rồi về người Palestin đã sai cô đến nhà của viên chức cao cấp người Ả Rập. Cuối cùng là về Roma và người đàn ông nhỏ bé mũm mĩm, một giáo sĩ Cơ Đốc cao cấp mà cô phải thỏa mãn bằng mọi giá.

Khuôn mặt vị linh mục đột ngột rời xa khỏi mặt cô, và cái nhìn của ông trở nên sắc nhọn.

- Vị giáo sĩ cao cấp Cơ Đốc đó, con có biết tên ông ta không?

- Con không biết, thưa cha, nhưng hẳn ông ấy là Giám mục: ông ấy đeo một chiếc nhẫn kỳ lạ, con chưa từng thấy bao giờ. Có thể gọi là một cái quan tài, một viên đá quý hình quan tài.

Vị linh mục vội vàng quay mặt chiếc nhẫn Giám mục đang đeo trên ngón tay vào phía trong, và giấu bàn tay phải vào sau những nếp gấp của chiếc áo lễ. Đang toàn tâm với việc xưng tội nên Sonia không hề nhìn thấy cử chỉ lén lút đó.

- Một Giám mục…thật kinh khủng! Và con nói rằng ông ta bắt con làm…

Một cách khó nhọc, Sonia kể lại cảnh tượng đã diễn ra trước hình thánh kiểu bizăngtin, chiếc mũ bà xơ bọc trên đầu cô, cơ thể trần truồng của cô dâng cho người đàn ông vừa quỳ phía sau cô trên ghế cầu nguyện vừa thì thầm những lời không thể hiểu nổi về việc hợp nhất với Hư vô.

Vị linh mục ghé sát mặt vào cô.

- Và con nói rằng trong lần gặp tới, ông ta muốn…

Cô nói lại với ông điều vị Giám mục đã giải thích cho cô nghe trước khi cho cô về, cũng là điều đã khiến cô cuống cuồng trốn chạy khỏi căn hộ đó. Gương mặt vị linh mục lúc này gần như chạm vào mặt cô, nó trở nên cứng như thứ đá cẩm thạch lát sàn mà cô đang quỳ lên. Ông nói chậm, tách rõ từng từ:

- Con của cha, Chúa tha thứ cho con vì con đã bị lạm dụng bởi một trong những người đại diện cho Người trên trái đất này, và con không có lựa chọn nào khác. Hôm nay, nhân danh Người, cha ban cho con sự bằng an. Nhưng không được, con hiểu ý cha chứ, không được chấp nhận dâng hiến thân xác cho giáo sĩ này trong lần gặp tới: điều ông ta muốn làm với con là một sự báng bổ ghê tởm đối với Jesus-Christ, Đấng Cứu thế đã bị đóng đinh trên thập giá.

Sonia ngẩng khuôn mặt ngao ngán về phía ông.

- Không thể được! Điều gì sẽ xảy ra với con nếu con không vâng lời ông ấy? Con không thể rời khỏi Roma, hộ chiếu của con…

- Sẽ không có chuyện gì xảy ra với con hết. Trước hết là vì Chúa sẽ che chở con, lời thú tội của con chứng tỏ tâm hồn con trong sạch. Con biết đấy, cha sẽ giữ bí mật về lời xưng tội của con. Nhưng cha biết một số người ở Roma, và cha sẽ làm thế nào đó để không có chuyện gì xảy ra với con mà vẫn không phản bội lời hứa giữ bí mật. Con thật bất hạnh vì đã rơi vào tay một Giám mục đồi bại, kẻ không còn xứng đáng với chiếc nhẫn hắn đang đeo. Chiếc quan tài đang trang trí cho bàn tay tội lỗi của hắn, giờ đây đã trở thành biểu tượng cho cái chết tinh thần của chính hắn. Nhưng con cũng đang ở trong tay Chúa: hãy có lòng tin. Đừng đến gặp hắn vào ngày mà con đã nói với cha.

Cuộc gặp bất ngờ với vị linh mục đối với Sonia giống như câu trả lời của Chúa đáp lại lời cầu xin của cô. Lần đầu tiên từ khi lao xuống cầu thang căn hộ của Calfo, cô có thể hít thở tự do. Vị linh mục không quen biết này đã nghe cô nói một cách nhân từ, đã bảo đảm với cô về sự khoan dung của Chúa! Được giải thoát khỏi khối nặng đang đè lên mình, cô nắm tay ông và hôn lên đó giống như những con chiên Cơ Đốc ngoan đạo vẫn làm. Cô không nhận thấy rằng đó là tay trái của ông: bàn tay phải vẫn luôn được giấu trong vạt áo lễ.

Trong khi cô bước về phía cửa ra, vị linh mục đứng dậy và quay vào kho đồ lễ. Trước hết ông xoay lại chiếc nhẫn Giám mục có khắc dấu của thánh Peter. Rồi cởi áo lễ, để lộ chiếc thắt lưng màu tía to bản. Bằng một cử chỉ chính xác, ông vuốt mái tóc bạc và đặt lên đó chiếc mũ chỏm cũng màu tía của Hồng y.

Cho đến nay, ván bài của Catzinger vẫn ở vào thế ít thuận lợi hơn so với ván bài của người Napoli kia. Vô tình, Sonia đã mang đến cho ông một quân bài chủ. Quân bài này, ông sẽ dùng nó bằng cách giao cho Antonio, người trung thành trong số những người trung thành đã thành công trong việc đánh lừa sự cảnh giác của Hội Thánh Pie V: chàng trai gốc Andalousia này chưa bao giờ nhân nhượng hay đi chệch đường, có thể tỏ ra mềm dẻo như một lưỡi dao Toledo, và cũng giống như lưỡi dao đó, chỉ gập lại để bật ra tốt hơn.
 
Chương 77


Ngồi trước cánh cửa bọc sắt đầu tiên, viên cảnh sát của Tòa Thánh để họ đi qua mà không kiểm tra giấy phép của cha Nil: những người quen thuộc…Breczinsky dẫn họ đến trước bàn nơi những bản thảo hôm trước đang chờ đợi.

Cha Nil đã báo trước cho Leeland biết rằng họ chỉ đến Vatican vào đầu buổi chiều: ông cần phải suy nghĩ. Sự tin tưởng mà người đàn ông Ba Lan kia dành cho ông lúc đầu khiến ông ngạc nhiên, sau đó hoảng sợ. “Ông ấy đã nói ra vì cô đơn đến tuyệt vọng, hay vì đang điều khiển mình?” Chưa bao giờ vị giảng viên trầm tĩnh của tu viện bên bờ sông Loire phải đối mặt với hoàn cảnh như vậy. Ông đã quyết định sẽ lần theo dấu vết của tông đồ thứ mười ba: cũng như ông ấy, ông đang ở giữa những xung đột lợi ích vượt quá chính ông.

Breczinsky đã nói muốn giúp ông, nhưng ông ấy có thể làm gì được? Vatican rất rộng lớn, mỗi bảo tàng và thư viện ở đây hẳn phải có một hoặc nhiều nhà phụ nơi hàng nghìn đồ vật có giá trị yên ngủ. Đâu đó trong các nhà phụ này có thể có một thùng rượu Cognac hiệu Napoleon, có chứa những bản thảo bị xé lẻ của người Esseni, và một mảnh giấy, một mảnh giấy da rất nhỏ được buộc bằng một sợi dây lanh. Lời mô tả của Lev Barjona vẫn khắc sâu trong tâm trí cha Nil, nhưng liệu cái thùng đó có bị dốc ra, và những thứ đựng trong đó có ngẫu nhiên bị phân tán bởi một nhân viên vội vàng nào đó không?

Khoảng giữa chiều ông tháo găng tay ra.

- Đừng hỏi tớ nhé: tớ phải gặp lại Breczinsky.

Leeland lặng lẽ gật đầu, và nở một nụ cười khuyến khích với cha Nil trước khi lại cúi xuống bản thảo thời Trung cổ mà họ đang xem xét.

Tim đập mạnh, tu sĩ người Pháp gõ cửa văn phòng viên thủ thư.

Khuôn mặt Breczinsky như đang lên cơn sốt, phía sau cặp kính tròn đôi mắt ông có quầng thâm rõ rệt. Ông ra hiệu cho cha Nil ngồi xuống.

- Cha ạ, cả đêm tôi đã cầu nguyện để Chúa soi sáng cho tôi, và tôi đã quyết định. Điều tôi đã làm cho cha Andrei, tôi sẽ làm cho cha: chỉ cần cha biết rằng tôi lại một lần nữa vi phạm những quy định thiêng liêng nhất được truyền lại cho tôi khi tôi nhận chức vụ này. Tôi quyết định như vậy vì cha đã đảm bảo với tôi rằng cha không tìm cách chống lại Giáo hoàng, mà ngược lại cha có ý định sẽ thông báo cho ngài tất cả những gì cha phát hiện được. Cha có thể thề với tôi điều đó trước Chúa không?

- Tôi chỉ là một tu sĩ, cha Breczinsky ạ, nhưng tôi luôn tìm cách để vẫn là tu sĩ đến cùng. Nếu điều tôi phát hiện ra là một mối nguy cho Giáo hội, Giáo hoàng sẽ là người duy nhất được cảnh báo.

- Tốt… Tôi tin cha, như tôi đã tin cha Andrei. Việc quản lý các tài sản cất giữ ở đây chỉ là một trong các chức phận của tôi, chức phận duy nhất được biết đến và cũng ít quan trọng nhất. Trong khu vực kéo dài của kho sách, có một nơi mà cha không nhìn thấy trên bất kỳ bản thiết kế nào vẽ các công trình ở đây, cha không thấy được nhắc đến ở bất kỳ đâu vì nó không tồn tại một cách chính thức. Nó được xây dựng theo mong muốn của Thánh Pie V vào năm 1570, thời điểm kết thúc việc xây dựng đại giáo đường Saint Peter.

- Các tài liệu lưu trữ bí mật của Vatican à?

Breczinsky mỉm cười.

- Các tài liệu lưu trữ bí mật hoàn toàn chính thức, chúng nằm ở hai tầng trên đầu chúng ta, nội dung của chúng được các nhà nghiên cứu tiếp cận theo những quy định công khai. Không, khu vực này chỉ được rất ít người biết đến, và vì không tồn tại, nên nó không có tên. Cha có thể gọi nó là hầm bí mật của Vatican, phần lớn các nhà nước trên hành tinh này đều sở hữu một thứ gì đó tương tự. Tôi xin nhắc lại là vì nó không tồn tại, nên nó cũng không có thủ thư được chỉ định chính thức, và những thứ được đặt trong đó không có mã số cũng chẳng có danh mục. Đó là một thứ địa ngục nơi mà người ta chôn vào quên lãng những tài liệu nhạy cảm, vì người ta không muốn một ngày nào đó chúng được biết đến bởi các nhà sử học hoặc các phóng viên. Tôi là người duy nhất chịu trách nhiệm về nó trước Đức Thánh Cha. Trải qua nhiều thế kỷ, người ta đã chất vào đó cả đống những thứ lẻ bộ, theo sáng kiến của một Giáo hoàng hoặc một Hồng y bộ trưởng nào đấy. Khi ai đó quyết định gửi một tài liệu đến hầm bí mật, người ta sẽ không lấy nó ra nữa, ngay cả người quyết định đã chết. Tài liệu ấy sẽ không bao giờ được lưu trữ hay khai quật.

- Cha Breczinsky… tại sao cha lại tiết lộ với tôi về sự tồn tại của căn hầm bí mật này?

- Vì đó là một trong hai nơi ở Vatican mà ta có thể tìm thấy thứ cha đang tìm. Nơi còn lại là những tài liệu lưu trữ bí mật được công bố hàng năm, năm mươi năm sau những sự việc có liên quan đến chúng. Trừ phi có quyết định ngược lại, nhưng nhìn chung quyết định đó thường có động cơ chính thức. Cha nói rằng một thùng rượu có chứa các bản thảo vùng biển Chết đã đến Vatican vào năm 1948, thời điểm xảy ra cuộc chiến Israel-Ả Rập đầu tiên: nếu được xếp vào loại các tài liệu lưu trữ bí mật, hẳn nó đã ra khỏi đó rồi. Và nếu một tài liệu nào đó trong số này được cho là quá nhạy cảm để công khai với quần chúng, hẳn là tôi cũng phải được biết: điều này đôi khi vẫn xảy ra, tôi thường nhận được một tập hồ sơ hoặc một kiện hàng cần được cất giấu trong hầm bí mật để tránh những kẻ tò mò ác ý. Tôi là người duy nhất có tư cách làm điều đó: vậy mà từ năm năm nay, tôi không nhận được thứ gì mới, dù là tài liệu lưu trữ bí mật hay thứ gì khác.

- Nhưng… cha có hiểu những thứ mà cha phải cất giữ vĩnh viễn trong hầm bí mật này không? Liệu có ngày nào đó cha tò mò liếc qua những thứ mà những người tiền nhiệm của cha đã cất giữ ở đó từ cuối thế kỷ XVI không?

Breczinsky trả lời với giọng gần như vui vẻ.

- Giáo hoàng Wojtyla đã khiến tôi phải thề không bao giờ được tìm cách biết nội dung của những thứ mà tôi tiếp nhận, hoặc những thứ đang có trong hầm này. Trong vòng mười lăm năm, tôi chỉ đến đó ba lần, để mang vào đó những thứ cần cất giữ. Tôi đã trung thành với lời thề của mình, nhưng tôi không ngăn được mình nhìn thấy một loạt giá sách có dán nhãn Bản thảo vùng biển Chết. Tôi không biết khu vực đó của hầm chứa đựng những gì. Khi tôi nói điều này với cha Andrei, người mà tôi cũng tâm sự những điều đã nói với cha, ông ấy đã xin được xem qua nơi đó. Tôi có thể xin phép ai chứ? Chỉ có Giáo hoàng thôi, nhưng chính Giáo hoàng lại là người mà cha Andrei và tôi muốn ngầm bảo vệ. Tôi đã đồng ý, và cho phép ông ấy ở trong đó một giờ.

Cha Nil thì thầm:

- Và ngay hôm sau ông ấy đã vội vã rời khỏi Roma đúng không?

- Đúng. Ông ấy đã lên tàu Roma Express ngay hôm sau, không nói gì với tôi. Phải chăng ông ấy đã phát hiện ra điều gì? Ông ấy có nói với ai không? Tôi không biết.

- Nhưng ông ấy đã bị rơi khỏi tàu Roma Express trong đêm, và đó không phải là một tai nạn.

Breczinsky đưa hai tay lên mặt.

- Đó không phải là một tai nạn. Điều tôi có thể nói với cha, đó là khi theo đuổi công việc của bạn mình, cha đã đặt bản thân vào hoàn cảnh nguy hiểm tương tự. Cũng như ông ấy, việc tìm kiếm đã dẫn cha đến tận ngưỡng cửa của cái nơi không tồn tại này. Tôi sẵn sàng để cha vào đó, tôi tin tưởng ở cha giống như đã tin tưởng ông ấy. Catzinger, mà tôi e là còn rất nhiều người khác nữa, cũng đang đi theo hướng tìm kiếm này: nếu đến đích trước họ, cha sẽ gặp nguy hiểm giống cha Andrei. Vẫn còn đủ thời gian để cha từ bỏ mọi thứ, cha Nil ạ, và quay về phòng bên cạnh để nghiên cứu những bản thảo vô hại thời Trung cổ. Cha quyết định thế nào?

Cha Nil nhắm mắt lại. Dường như ông đang nhìn thấy tông đồ thứ mười ba ngồi bên phải Jesus trong căn phòng lớn, kính cẩn nghe Người nói. Rồi trở thành người nắm giữ một bí mật nặng nề, phải đơn độc chiến đấu chống lại sự căm thù của Peter và Mười hai tông đồ, những người chỉ muốn có mười hai người và độc quyền nắm giữ thông tin truyền lại. Những người buộc ông phải chịu cảnh lưu đày và câm lặng, để Giáo hội mà họ sẽ xây dựng dựa trên kí ức dối trá về Jesus được tồn tại vĩnh viễn, alpha và omega.

Bí mật này đã trải qua nhiều thế kỷ trước khi đến được với ông. Nằm dài bên bàn trong bữa ăn cuối cùng, người tựa lên khủy tay, ngày nay môn đồ cưng của Jesus đang yêu cầu ông tiếp bước.

Cha Nil đứng dậy.

- Chúng ta đi nào, cha.

Họ ra khỏi văn phòng. Leeland vẫn cúi người bên bàn, thậm chí không ngẩng đầu lên khi nghe bước chân họ đi qua phía sau. Họ đi dọc các phòng của kho sách. Breczinsky mở một cánh cửa nhỏ và ra hiệu cho cha Nil đi theo.

Một hành lang dốc xuống thoai thoải. Cha Nil tìm cách định hướng. Như đoán được ý nghĩ của ông, Breczinsky thì thầm:

- Chúng ta đang ở bên dưới cánh ngang bên phải của đại giáo đường Saint Peter. Nơi này được đào vào trong móng, cách nấm mồ của Thánh tông đồ được phát hiện trong quá trình đào bới theo lệnh của Pie XII dưới bàn thờ chính khoảng bốn mươi mét.

Hành lang tạo thành một chỗ ngoặt, và dẫn đến một cánh cửa bọc sắt. Tu sĩ người Ba Lan mở cúc cổ áo kiểu Roma và lấy ra một chiếc chìa khóa nhỏ mà ông đeo sát vào người. Vừa mở cửa ông vừa nhìn đồng hồ.

- Bây giờ là mười bảy giờ, kho sách đóng cửa vào mười tám giờ: cha có một giờ. Tất cả các cánh cửa đều có thể mở được từ bên trong mà không cần chìa khóa, cánh cửa này cũng vậy: khi ra ngoài, cha chỉ cần đóng lại, nó sẽ tự động khóa. Cha tắt điện trước khi ra ngoài và đến tìm tôi trong văn phòng.

Cánh cửa bọc sắt mở ra không một tiếng động, Breczinsky đưa tay vào tường bên trong và bật một công tắc.

- Cha cẩn thận đừng làm hỏng thứ gì. Chúc cha may mắn!

Cha Nil bước vào: cánh cửa đóng lại sau lưng ông với một tiếng cạch trầm đục.
 
Chương 78


Ông đang đứng trước một đường hầm dài có hình vòm, được chiếu sáng rực. Bức tường bên phải trần trụi, hình như bằng đá: cha Nil đưa tay lướt trên mặt tường, và nhận ra ngay kỹ thuật đẽo đá. Không phải là những thanh đỡ nóc của các thợ nề thời Trung cổ, cũng không phải là những đường cưa của thời đại gần đây. Dấu vết đều đặn của những đường kéo và khoảng cách giữa chúng là cách ký tên của các thợ đẽo đá thời Phục hưng.

Dọc bức tường bên trái, những kệ sách chạy dọc cho đến cuối đường hầm. Một số giá sách được chạm khắc cầu kỳ, đó là những giá sách cổ nhất. Những chiếc khác chỉ đơn giản bằng gỗ mộc, hẳn là được thêm vào qua các thế kỷ theo nhu cầu sắp xếp sách.

Sắp xếp… Mới nhìn qua, cha Nil đã nhận ra không có sự phân loại hợp lý nào cả. Những thùng, những hộp, những thùng giấy, những chồng hồ sơ nằm chồng chất trên các giá. “Cần gì phải đưa trật tự vào chốn địa ngục? Không bao giờ có thứ gì ra khỏi đây hết.”

Ông bước lên một bước để nhìn vào phần cuối đường hầm: khoảng năm mươi mét. Hàng chục kệ, hàng nghìn tài liệu: tìm một cây kim trong bó cỏ khô này, trong vòng một giờ… là điều không thể. Tuy nhiên cha Andrei đã tìm thấy ở đây thứ gì đó, cha Nil tin chắc như thế, chỉ điều này mới giải thích được tại sao ông ấy trốn chạy và thiệt mạng. Ông bước tiếp, vừa đi vừa chăm chú nhìn những kệ sách bên tay trái.

Không hề có sự sắp xếp, nhưng có những tấm biển đóng tại từng khu giá sách, một sự pha trộn giữa kiểu chữ viết thanh lịch thời xưa với những nét chữ hiện đại hơn. Ông có cảm giác thời gian bị phá vỡ.

Cathares… Các vụ xử Hiệp sĩ, cả một kệ. Savonarole, Jean Huss, Vụ Galilei, Giordano Bruno, các giáo sĩ Pháp bỏ đạo, danh sách những linh mục đã tuyên thệ bị Roma kết tội bội giáo vào năm 1792. Một vài thư từ trao đổi S.S với Garibaldi… Toàn bộ lịch sử bí mật của Giáo hội trong cuộc chiến với kẻ thù của nó. Đột nhiên cha Nil sững lại: một kệ xếp đầy những hộp bằng bìa cứng có vẻ còn mới, với một cái nhãn duy nhất: Nghiệp vụ Ratlines.

Quên mất tại sao mình lại ở đây, cha Nil bước vào trong dãy giá sách và mở ngẫu nhiên một hộp: thư từ trao đổi giữa Pie XII và Draganovich, cựu linh mục sau đó trở thành chỉ huy của các oustachi, những tên phát xít Croatia từng gây nên bao nỗi kinh hoàng trong chiến tranh. Ông mở vào hộp khác: phiếu căn cước của những tên tội phạm phát xít nổi tiếng, bản kê hộ chiếu của Vatican lập ra dưới tên chúng, biên nhận những khoản tiền đáng kể. Nghiệp vụ Ratlines là tên gọi mã hóa của một cơ cấu đã cho phép những tội phạm phát xít trốn thoát ngay sau chiến tranh mà không hề bị trừng phạt, nhờ sự giúp đỡ của Trụ sở Thánh.

Cha Nil đưa tay lên mặt. Ông chẳng biết thêm gì mới. Những việc làm tổn hại đến thanh danh Giáo hội, thậm chí những tội ác, là đoạn tiếp theo đúng logic của những điều mà tông đồ thứ mười ba đã phải chịu đựng vào thế kỷ I. Ông ra khỏi dãy, và mắt ông bị thu hút bởi một tập hồ sơ được đặt qua loa trên một giá sách: Auschwitz, báo cáo trong ngục tối 1941. Ông kìm nén mong muốn mở tập hồ sơ: “Trụ sở Thánh đã biết rõ về Auschwitz ngay từ năm 1941…”

Ông nhìn đồng hồ: chỉ còn nửa giờ. Ông bước tiếp.

Đột nhiên, ông dừng lại: mắt ông vừa bắt được một nhãn có nét chữ còn mới.

Manoscritti del mare Morto, Spuria.

Khoảng chục chiếc hộp phủ bụi nằm chồng đống lên nhau. Ông nhặt chiếc hộp trên cùng và mở ra: bên trong nhiều cuộn giấy đã bị thời gian phá hủy đến một nửa. Ông tiếc mình không đeo găng, và nhấc một cuộn lên: những mảnh giấy da rời ra và rơi xuống phủ đầy đáy hộp. “Chữ viết Do Thái ở vùng Qumran!” Đúng là những bản thảo vùng biển Chết, nhưng tại sao chúng lại bị giam hãm trong địa ngục này, bị buộc phải tan vụn ra trong khi các nhà bác học trên toàn thế giới đang tìm kiếm chúng? Spuria, “rác”: phải chăng người ta muốn rút bỏ những thứ rác này ra khỏi cộng đồng thế giới, vì chúng không có giá trị gì… hay vì chúng đại diện cho một thứ rác của Lịch sử cần phải che giấu mọi người mãi mãi vì lịch sử đã ngoặt sang một hướng khác?

Ông đặt lại chiếc hộp vào chỗ của nó. Chiếc thùng bên dưới được làm bằng gỗ màu trắng, và bên cạnh nó có in dòng chữ: Cognac Napoleon, hầm của Hoàng đế.

Chiếc thùng của Giáo chủ Samuel, chiếc thùng được giao lại cho tu sĩ cần vụ của dòng tu Dominique ở Jerusalem!

Tim đập thình thịch, cha Nil kéo nó ra khỏi đống hộp. Trên nắp thùng, một bàn tay nào đó đã viết lên ba chữ cái: MMM. Ông nhận ra nét chữ thô nháp của cha Andrei.

Đầu óc ông quay cuồng: như vậy, khi viết MMM lên mảnh giấy lúc ở trên tàu, cha Andrei không ám chỉ lô bản sao của Thư viện Huntington được cất giữ trong thư viện của tu viện Saint-Martin. Ông ấy còn muốn nói đến chiếc thùng này, thứ mà cha Nil vừa phát hiện ra. Chính cha Andrei đã viết lên nắp thùng ba chữ cái kia để có thể nhận ra nó dễ dàng hơn một ngày nào đó: nó mới là thứ mà ông ấy muốn nói đến. Phát hiện này, thực hiện được nhờ cuộc gặp với Breczinsky, chính là kết quả của những tìm kiếm của họ, và ông ấy có ý định nói hết với cha Nil.

Đó là lý do vì sao ông ấy bị giết.

Cha Nil mở chiếc thùng: cũng vẫn là những mảnh vụn rơi ra từ những cuộn giấy chất đống. Và ở bên cạnh, một cuốn giấy da đơn giản được cuộn lại. Tay cha Nil run lên khi ông tháo sợi dây lanh buộc quanh bản thảo. Ông cẩn thận mở ra: chữ Hy Lạp, nét chữ thanh lịch hoàn toàn có thể đọc được. Chữ viết của tông đồ thứ mười ba! Ông bắt đầu đọc:

“Ta, môn đồ cưng của Jesus, tông đồ thứ mười ba, gửi đến tất cả các Giáo hội…”

Khi đọc xong, mặt cha Nil tái xanh. Phần đầu của bức thư không cho biết thêm điều gì ngoài những điều ông đã biết: Jesus không phải là Chúa, Mười hai tông đồ, bị thôi thúc bởi tham vọng chính trị của họ, đã thần thánh hóa Người. Nhưng tông đồ thứ mười ba biết rằng điều này có thể sẽ không đủ để giữ gìn gương mặt thật của Thầy mình: ông đưa ra lời chứng, một cách không thể chối cãi được, rằng ngày 9 tháng Tư năm 30, ông đã gặp những người mặc đồ trắng, những người Esseni, trước nấm mồ nơi họ vừa lấy thi thể Jesus ra, và đang chuẩn bị mang thi thể này đến một trong những nghĩa trang của họ trên sa mạc để chôn cất một cách xứng đáng.

Nấm mồ này, ông không chỉ ra vị trí chính xác của nó. Bằng một câu ngắn gọn, ông khẳng định rằng chỉ cát sa mạc mới có thể bảo vệ nấm mồ của Jesus khỏi ham muốn của loài người. Giống như tất cả các nhà truyền giáo khác, người Nazareth này sẽ sống trong cõi vĩnh hằng, và sự sùng kính đối với xương cốt của Người có thể khiến nhân loại đi trệch khỏi cách thức duy nhất để gặp gỡ Người: cầu nguyện.

Trong những tháng tìm kiếm vừa qua, cha Nil đã tin rằng bí ẩn mà ông đang đối mặt là bí ẩn về tông đồ thứ mười ba, về vai trò của ông này ở Jerusalem và đối với hậu duệ của ông. Người đã tự tay viết những dòng này cũng biết mình đã bị loại khỏi Giáo hội, bị xóa tên khỏi tương lai của Giáo hội. Tương lai đó, ông đã tiên liệu trước là sẽ không có gì liên quan đến cuộc đời và lời dạy của Thầy mình. Ông gửi gắm vào mảnh giấy da này điều bí mật mà một ngày nào đó có thể sẽ cho phép thế giới phát hiện ra gương mặt thực sự của Jesus. Ông làm điều đó mà không hề có chút ảo tưởng nào: một mảnh giấy mỏng manh thì có ý nghĩa gì khi phải đối diện với tham vọng không bao giờ thỏa mãn nổi của những người sẵn sàng làm mọi chuyện để đạt được mục đích, bằng cách sử dụng ký ức về người mà ông yêu quý hơn bất cứ ai?

Tông đồ thứ mười ba vừa đưa ông đến với điều bí mật có thật: sự tồn tại thực sự về mặt vật lý của một nấm mồ chứa đựng xương cốt của Jesus.

Cha Nil liếc nhìn đồng hồ: mười tám giờ mười phút. “Miễn là Breczinsky còn chờ mình!” Ông xếp lại bức thư đã được tìm thấy một cách kỳ diệu vào thùng, và đặt lại chiếc thùng vào vị trí của nó. Ông sẽ giữ lời: Giáo hoàng sẽ được thông báo, thông qua trung gian là viên thủ thư người Ba Lan, về sự tồn tại của bức thư tông đồ mà ngần ấy thế kỷ cũng như người của Giáo hội đã không thể làm biến mất được. Nhờ vào ghi chú MMM, Breczinsky sẽ dễ dàng tìm được nó và đưa lại cho ngài.

Chuyện xảy ra sau đó sẽ không còn liên quan gì đến một tu sĩ nhỏ bé như ông. Chỉ liên quan đến Giáo hoàng mà thôi.

Cha Nil nhanh chóng ra khỏi đường hầm, cẩn thận tắt đèn: phía sau ông, cánh cửa tự động khóa lại. Khi ông đến nơi Leeland và ông đã làm việc những ngày qua, căn phòng trống không và đèn trần đã tắt. Ông đến gõ cửa văn phòng viên thủ thư: không có ai trả lời, Breczinsky đã không chờ ông.

Cha Nil lo lắng tự hỏi liệu tất cả những cánh cửa dẫn ra sân Belvedere có mở được từ bên trong không: ông hiểu mình sẽ khổ sở thế nào nếu phải qua đêm trong bầu không khí tù hãm của kho sách. Nhưng Breczinsky đã không nói dối ông: ông đi qua hai cánh cửa bọc sắt một cách dễ dàng. Sảnh vào vắng hoe, nhưng cánh cửa bên ngoài tòa nhà mở hé. Không suy nghĩ, cha Nil bước ra sân và hít một hơi thật sâu. Ông cần phải đi bộ, để sắp xếp lại suy nghĩ một chút.

Ông đã vội vàng rời tòa nhà nên không để ý đến ô cửa kính màu nơi viên cảnh sát của Vatican đang đứng hút thuốc. Vừa nhìn thấy ông đi qua, anh ta nhấc điện thoại nội bộ của Thành Vatican và ấn lên một nút.

- Thưa Đức Hồng y, ông ấy vừa đi ra… Vâng, một mình ạ: người kia đã ra trước ông ấy. Di niente, Eminenza[[52]].

Trong văn phòng mình, Hồng y Catzinger vừa gác máy vừa thở dài: sắp đến giờ của Antonio, sắp đến rồi.
 
Chương 79


Cha Nil đi qua quảng trường Saint Peter, và máy móc ngước mắt lên: cửa sổ phòng Giáo hoàng vẫn sáng đèn. Ngay ngày mai ông sẽ nói với Breczinsky, chỉ cho ông ấy vị trí của vỏ thùng Cognac có đánh dấu MMM và nhờ ông ấy nói lại lời nhắn của ông đến vị Giáo hoàng già. Ông bước vào đường Aurelia.

Đến thềm nghỉ ở tầng ba, ông dừng lại: qua cánh cửa, ông nghe thấy Leeland đang chơi bản Gymnopédie thứ hai của Erik Satie. Giai điệu nhẹ nhàng thể hiện nỗi u sầu vô tận, nỗi tuyệt vọng nhuốm màu hài hước và nhạo báng. “Rembert… Sự hài hước của cậu có giúp cậu vượt qua nỗi tuyệt vọng của chính cậu không?” Ông khẽ gõ vào cánh cửa.

- Vào đi, tớ đang sốt ruột chờ cậu đây.

Cha Nil ngồi xuống, gần chiếc đàn piano.

- Remby, tại sao cậu rời kho sách trước khi tớ quay trở lại?

- Breczinsky đến thông báo với tớ vào lúc mười tám giờ: phải đóng cửa, ông ấy nói thế. Ông ấy có vẻ rất lo lắng. Nhưng chuyện đó không quan trọng: nói xem, cậu có phát hiện được gì không?

Cha Nil không chia sẻ được sự vô tư của Leeland: sự vắng mặt của Breczinsky khiến ông lo lắng. “Tại sao ông ấy không ở đó như đã thống nhất, khi mình quay lại?” Ông gạt ý nghĩ này ra khỏi đầu.

- Ừ, tớ đã tìm thấy cái mà cha Andrei và tớ tìm kiếm từ bấy lâu nay: một bản nguyên vẹn bức thư của tông đồ thứ mười ba, thực ra là bản gốc.

- Tuyệt vời! Nhưng bức thư này… nó khủng khiếp đến thế sao?

- Nó ngắn thôi, và tớ thuộc lòng rồi. Origène nói đúng, nó chứa đựng bằng chứng không thể chối cãi rằng Jesus không phải đã sống lại như Giáo hội rao giảng. Như vậy, Người không phải là Chúa: nấm mồ trống ở Jerusalem, trên đó mộ Chúa Jesus được xây lên, là một sự lừa bịp. Nấm mồ thật sự trong đó chứa đựng xương cốt của Jesus nằm đâu đó trên sa mạc.

Leeland có vẻ sửng sốt:

- Trên sa mạc! Nhưng chính xác là ở đâu?

- Tông đồ thứ mười ba từ chối nêu chính xác vị trí nấm mồ, nhằm bảo vệ thi thể Jesus khỏi sự thèm muốn của loài người: ông ấy chỉ nói đến sa mạc Idumea, một vùng rộng lớn ở phía Nam Israel, giới hạn của nó đã thay đổi nhiều theo thời gian. Nhưng ngành khảo cổ học đã có những tiến bộ đáng kể: nếu sử dụng phương tiện, người ta sẽ tìm ra. Một bộ xương đặt trong một nghĩa trang bị bỏ quên của người Esseni trong vùng này, mang những dấu vết của việc đóng đinh câu rút, được xác định bằng phương pháp carbon 14 là có niên đại vào giữa thế kể I có thể sẽ gây ra một cơn địa chấn ở phương Tây.

- Cậu có công bố những kết quả tìm kiếm của cậu cho cả thế giới biết về bức thư này và đi cùng những đoàn khảo cổ không? Nil, cậu có muốn người ta tìm lại được nấm mồ này không?

Cha Nil im lặng một lát. Trong đầu ông vẫn vang vọng giai điệu của Satie.

- Tớ sẽ đi theo tông đồ thứ mười ba đến cùng. Nếu lời chứng của ông ấy được Lịch sử ghi nhận, thì hẳn sẽ không bao giờ có Giáo hội Cơ Đốc. Chính vì biết rõ điều đó mà Mười hai tông đồ đã từ chối coi ông ấy là một người trong số họ. Hãy nhớ đến bản khắc ở Germigny: chỉ có mười hai người được chứng kiến Jesus, mãi mãi là thế, alpha và omega. Liệu hai mươi thế kỷ sau, có cần thiết phải xem xét lại tòa nhà mà họ đã xây lên trên nấm mồ rỗng đó không? Ngày nay, mộ phần của tông đồ Peter đánh dấu trung tâm của nền Cơ Đốc giáo. Thay cho một nấm mồ rỗng, người ta đã xây lên một nấm mồ đầy đủ, nấm mồ của người đầu tiên trong số mười hai tông đồ. Sau đó Giáo hội đã tạo ra các thánh lễ, để mỗi người trên hành tinh này có thể trực tiếp liên hệ với Chúa. Nếu tước mất của các tín đồ điều này, thì họ còn lại gì? Jesus yêu cầu làm theo Người hàng ngày, và phương pháp duy nhất Người đề xuất là cầu nguyện. Nhưng dân chúng, và cả một nền văn minh, chỉ có thể được dẫn dắt bởi những phương tiện cụ thể, có thể sờ mó được. Tác giả của bức thư đã đúng: đặt lại xương cốt của Jesus vào trong mộ Chúa có thể sẽ biến nấm mộ này thành vật duy nhất để chiêm ngưỡng đối với những đám đông cả tin. Việc đó sẽ khiến những người hèn mọn và bé nhỏ vĩnh viễn bị chệch hướng tiếp cận với một vị Chúa vô hình, thông qua các phương tiện vốn bấy lâu nay vẫn thuộc về họ: thánh lễ.

- Thế thì cậu sẽ làm gì?

- Báo cho Đức Thánh Cha về sự tồn tại của bức thư, cho ngài biết về vị trí của nó. Ngài sẽ phải nắm giữ thêm một bí mật nữa, vậy thôi. Khi nào trở về tu viện, tớ sẽ chôn vùi kết quả tìm kiếm của tớ trong sự câm lặng của tu viện. Chỉ trừ một thứ mà tớ muốn công bố không chậm trễ: vai trò của những người Nazareth trong sự ra đời của kinh Coran.

Ở tầng dưới, Moktak đã chu đáo ghi âm hai bản Gymnopédie của Satie, rồi từ sau lúc cha Nil vào phòng và bắt đầu trò chuyện. Đến lúc này, hắn áp chặt tai nghe vào tai.

- Bức thư tông đồ thứ mười ba đã cho cậu biết thêm điều gì mới về kinh Coran à?

- Ông ấy gửi bức thư này đến các Giáo hội, nhưng trên thực tế nó được dành cho các môn đồ của ông ấy, những người Nazareth. Cuối cùng, ông ấy đã đề nghị họ hãy trung thành với lời chứng và lời dạy của ông ấy về Jesus, dù họ có phải lưu đày đến đâu đi nữa. Như vậy, ông ấy đã khẳng định điều mà tớ vẫn ngờ vực: sau một thời gian trốn ở Pella, họ lại phải lên đường, hẳn là trước cuộc xâm lược của người La Mã vào năm 70. Không ai biết sau đó họ ra sao, nhưng dường như cũng không ai nhận ra rằng, trong kinh Coran, Muhammad thường xuyên nói đến các naçâra, từ này luôn được dịch thành “những người Cơ Đốc”. Trên thực tế, naçâra là từ Ả Rập để chỉ “người Nazareth”!

- Kết luận của cậu là gì?

- Muhammad hẳn đã gặp người Nazareth ở Mecca, nơi họ ẩn náu sau khi đi khỏi Pella. Bị quyến rũ bởi những lời giảng dạy của họ, chính ông ấy cũng suýt trở thành một người trong số họ. Rồi ông ấy trốn đến Medina, nơi ông ấy trở thành thủ lĩnh: chính trị và bạo lực đã chiếm ưu thế, nhưng ông ấy vĩnh viễn đã mang dấu ấn của Jesus xứ Nazareth, Jesus của tông đồ thứ mười ba. Nếu Muhammad không bị giày vò bởi ham muốn chinh phục, có lẽ đạo Hồi sẽ không bao giờ ra đời, người Hồi giáo hẳn sẽ là hậu duệ của người Nazareth, giá chữ thập của nhà truyền giáo Jesus có lẽ sẽ nổi trên ngọn cờ của đạo Hồi!

Leeland có vẻ bị lây sự phấn khích của bạn mình.

- Tớ có thể đảm bảo với cậu rằng dù thế nào thì các giảng viên đại học ở Mỹ cũng sẽ say mê với những công trình của cậu! Tớ sẽ giúp cậu làm quen với họ ở đó.

- Tưởng tượng xem, Remby! Cuối cùng người Hồi giáo cũng chấp nhận rằng bộ kinh thiêng liêng của họ mang dấu ấn một người thân của Jesus, người cũng bị Giáo hội loại bỏ vì đã phủ nhận thiên chất của Người, giống như họ! Có thể đây sẽ là cơ sở mới để người Hồi giáo, người Cơ Đốc và người Do Thái xích lại gần nhau. Và hẳn là khi đó việc Djihad chống lại phương Tây sẽ chấm dứt!

Mặt Moktar đột ngột nhăn nhúm lại. Căm thù trào lên, hắn chỉ nghe cuộc trò chuyện bằng một tai: cha Nil đang hỏi Leeland về những dự định của ông ta, xem ông ta sẽ làm thế nào để giấu Catzinger tất cả chuyện này. Liệu Leeland có đủ khả năng chống chọi với áp lực để không nói gì với ông ta không? Điều gì sẽ xảy ra nếu Hồng y chuyển từ đe dọa sang hành động, và công bố rộng rãi mối quan hệ ưu ái của ông ta với Anselm?

Họ chuyện trò dông dài như đàn bà: những chuyện này không khiến người Palestin quan tâm nữa, hắn nhấc tai nghe ra. Hai người này vừa vượt quá đường biên giới cấm: Không được động đến kinh Coran. Các học giả đạo Cơ đốc cứ việc chọc thủng điều bí mật giấu trong kinh Phúc âm, đó là vấn đề của họ. Nhưng không bao giờ được đưa kinh Coran ra để áp dụng những phương pháp chú giải báng bổ của họ, trường đại học Al-Azhar phản đối sự chối bỏ này. Không ai được phân tích lời thánh Allah do Đấng Tiên tri của Người truyền lại, cầu cho tên Người được ban phúc.

Muhammad mà lại là môn đồ bí mật của Jesus người Do Thái! Tu sĩ người Pháp đó có thể sẽ áp dụng những phương pháp của kẻ dị giáo với văn tự thiêng này, ông ta có thể sẽ công bố những kết quả nghiên cứu với sự giúp đỡ của người Mỹ kia. Trong tay nước Mỹ, tay sai của Israel, những công trình của ông ta sẽ trở thành một vũ khí kinh hoàng chống lại đạo Hồi.

Trán nhăn lại, hắn cuộn lại những cuốn băng từ và tự nhắc mình một câu mà hắn thường xuyên nhắc với sinh viên của mình: “Những kẻ dị giáo, hãy bắt và giết chúng ở bất kỳ nơi nào các con gặp chúng”![[53]]

Moktar cảm thấy được an ủi: Đấng Tiên tri, cầu cho tên Người được ban phúc, đã quyết định dứt khoát.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Back
Top Bottom