Chào mừng bạn đến với Diễn Đàn Truyện!

Diễn Đàn Truyện là diễn đàn chuyên về truyện, văn, thơ và giải trí. Để có thể sử dụng đầy đủ chức năng diễn đàn vui lòng bạn đăng ký thành viên, việc đăng ký hoàn toàn miễn phí và dễ dàng!

Đăng ký!
Chương 20


Calfo xoay tròn cái roi một lần nữa, nó đập xuống xương bả vai ông. Chiếc roi tự phạt bằng kim loại, theo quy định chỉ được Hội sử dụng trong những dịp hiếm hoi, được tết bằng dây mảnh có dính những hình cầu nhỏ bằng nhôm. Thông thường, máu sẽ chảy ra vào khoảng tiết thứ mười bảy của bài Thánh vịnh Miserere - ở đây cũng được coi như một loại đồng hồ cát cho hình phạt này. Đến tiết thứ hai mươi mốt và cũng là tiết cuối cùng, phải có vài giọt máu đỏ bắn lên bức tường phía sau tu sĩ tự phạt bằng roi.

Nghi lễ hành xác này nhắc đến ba mươi chín roi Jesus phải chịu trước khi bị đóng đinh câu rút. Được một tên lính tráng kiện điều khiển, với những hòn bi bằng chì có kích thước bằng quả ô liu, ngọn roi La Mã xưa rạch nát thịt, thấu đến tận xương, và thường đánh chết người.

Alessandro Calfo không hề có ý định chết vì hình phạt đánh roi mà ông đang bắt mình phải chịu: một kẻ khác sắp phải chết, và nỗi đau đớn này sẽ là một bằng chứng kỳ diệu thể hiện tình đoàn kết anh em. Ông thậm chí còn không có ý định làm xước làn da mịn màng trên vùng lưng mũm mĩm của mình: chắc là cô gái sẽ quay lại vào tối thứ bảy.

“Ba ngày trước khi ‘kết thúc sứ mệnh’ của người anh em đã trở nên già lão của chúng ta”

Khi đưa cô gái đến cho ông, điệp viên người Palestine đã nói trước:

- Sonia là người Rumani, thưa Đức ông, đó là một cô gái đáng tin cậy. Với cô ta, ngài không cần phải lo ngại về những vấn đề cô gái lần trước đã gây ra… Đúng thế, tuyệt đối an toàn, bismillah, lạy Chúa!

Những năm làm công sứ Toà Thánh ở Hy Lạp đã dạy ông sự cần thiết phải có điều đình với những việc khẩn cấp mâu thuẫn với nhau. Ông nhăn mặt và chuẩn bị vung tiếp roi lên phía bả vai: bởi vì điều đình không có nghĩa là nhượng bộ. Mặc dù sắp có một cuối tuần yên ả cùng Sonia, ông vẫn không huỷ bỏ việc thực hiện nghi lễ tự phạt bằng roi, bằng chứng xác thực thể hiện tình đoàn kết đối với một trong các thành viên của Hội. Ông sẽ dàn xếp được giữa tình anh em và yêu cầu phải đảm bảo cho làn da nhung mịn của mình được vẹn toàn: hình phạt roi sẽ chỉ diễn ra trong khoảng thời gian một bài kinh De Profundis.

Đó cũng là một bài kinh sám hối giống như Miserere, và hẳn là sẽ mang lại một giá trị rất thoả đáng cho nỗi đau đớn mà ông bắt mình phải chịu vì đức hạnh Cơ Đốc.

Nhưng kinh De Profundis chỉ gồm có tám tiết, nên chỉ dài bằng một phần ba bài kinh Miserere dài vô tận kia.
 
Chương 21


Cha Nil tháo kính ra, matxa đôi mắt đang cay sè và lùa bàn tay vào mái tóc xám cắt ngắn. Cả một đêm xem xét tỉ mỉ bản sao của các bản thảo M M M! Ông đẩy ghế đẩu, đứng dậy và đến tháo chiếc khăn mặt che kín cửa sổ ra. Những bài kinh mừng của lễ nhật tụng đầu tiên trong buối sáng sắp sửa vang lên: sẽ chẳng còn ai ngạc nhiên khi nhìn thấy ánh sáng trong phòng ông.

Qua ô cửa sổ, ông ngắm nghía một lát nền trời đen của vùng Val–de–Loire vào mùa đông. Mọi thứ đều tối tăm, ở bên ngoài cũng như trong lòng ông.

Ông quay lại bên bàn và nặng nề ngồi xuống. Ông có vóc người mảnh dẻ, nhỏ nhắn: vậy mà ông cảm thấy quá đỗi nặng nề. Trước mặt ông rải rác những chồng giấy ghi chép viết tay, những ghi chép ông đã thực hiện trong suốt đêm dài vừa qua, được sắp xếp cẩn thận thành từng chồng riêng biệt. Ông thở dài.

Những nghiên cứu về kinh Phúc âm theo Thánh Jean đã dẫn ông đến chỗ phát hiện ra một nhân vật bí hiểm, một người đàn ông vùng Judee chỉ xuất hiện thoáng qua trong văn bản và đóng vai trò chủ chốt trong những ngày cuối cùng của Jesus. Người ta không biết gì về ông ta, kể cả tên gọi, nhưng ông ta tự gọi mình là “môn đồ cưng”, và nói mình là người đầu tiên gặp Jesus bên bờ sông Jordan, trước cả Peter. Và cũng là một trong số những thực khách tham dự bữa tiệc cuối cùng, trong căn phòng lớn - căn phòng này hẳn là nằm trong chính ngôi nhà của ông ta. Ông ta kể rằng đã nằm cạnh Thầy, vị trí danh dự. Miêu tả việc đóng đinh câu rút, tả nấm mồ trống rỗng, với cách thức và giọng điệu chân thực của một người đã tận mắt chứng kiến sự việc.

Một người chủ chốt biết rõ Jesus và những ngày đầu của nền Cơ Đốc Giáo, một người thân cận mà lời chứng có tầm quan trọng cao nhất. Kỳ lạ là sự tồn tại của nhân chứng quan trọng này đã bị cẩn thận tẩy xoá khỏi tất cả các văn tự của kinh Tân ước. Kể cả kinh Phúc âm khác, những lá thư của Paul, thư của các Tông đồ đều không nói đến sự tồn tại của ông ta.

Tại sao người ta lại quyết liệt mong muốn xoá bỏ một nhân chứng có tầm quan trọng nhường ấy? Phải có một lý do vô cùng nghiêm trọng mới có thể thúc đẩy việc xoá bỏ hoàn toàn dấu vết của người này trong ký ức của đạo Cơ đốc. Và tại sao những người Esseni không bao giờ được nhắc đến trong thời kỳ đầu của Giáo hội? Tất cả những chuyện này hẳn phải liên quan đến nhau: cha Nil chắc chắn về điều đó, và cha Andrei đã khuyến khích ông lần theo sợi dây bí ẩn nối kết những sự kiện đã vĩnh viễn in dấu trong Lịch sử phương Tây.

- Người mà cha phát hiện ra khi nghiên cứu kinh Phúc âm, tôi nghĩ rằng bản thân tôi cũng đã bắt gặp trong lĩnh vực của tôi, những bản thảo từ thế kỷ III đến thế kỷ VII.

Đang ngồi đối diện ông trong văn phòng, cha Nil nảy người lên.

- Cha muốn nói rằng cha đã thấy lại dấu vết của người “môn đồ cưng” trong những văn tự ra đời sau kinh Phúc âm à?

Cha Andrei nheo đôi mắt trên khuôn mặt tròn.

- Ồ, những dấu hiệu này hẳn đã không khiến tôi chú ý nếu chính cha không kể với tôi về những điều cha phát hiện ra! Những dấu vết vô cùng nhỏ, cho đến khi Vatican gửi cho tôi bản thảo tiếng Ai cập cổ tìm thấy được ở Nag Hamadi – ông phác một cử chỉ về phía chiếc cặp xếp giấy tờ của mình.

Ông nhìn người bạn đồng hành của mình với vẻ ngẫm ngợi

- Chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu theo hướng của mỗi người. Hàng chục chuyên gia chú giải và sử học cũng đang làm như vậy mà không hề bị quấy rối chút nào. Tuy nhiên, với một điều kiện: các công trình của họ phải tách biệt nhau, không ai được có ý định kết nối các thông tin này lại. Cha có biết vì sao việc tiếp cận các thư viện của chúng ta lại bị hạn chế không? Chừng nào mỗi người chỉ dừng lại trong chuyên môn của riêng mình, anh ta sẽ không có nguy cơ bị kiểm soát hay trừng phạt và tất cả các Giáo hội có thể tự hào khẳng định rằng trong lãnh địa của mình, quyền tự do suy nghĩ là trọn vẹn.

- Tất cả các Giáo hội?

- Ngoài Giáo hội Công giáo, còn có đông đảo những người theo đạo Tin Lành – và trong số họ là những người theo trào lưu chính thống hiện đang rất mạnh, nhất là ở Mỹ. Rồi còn người Do Thái, và Hồi Giáo…

- Người Do Thái thì có lẽ là chính xác – mặc dù tôi không hiểu vì sao việc chú giải một văn tự trong kinh Tân ước lại liên quan tới họ, vì họ chỉ thừa nhận kinh Cựu ước. Nhưng còn người Hồi giáo thì sao?

- Cha Nil, cha Nil… cha đang sống ở thế kỷ I tại Palestine, nhưng tôi thì đã lần đến thế kỷ VII kia! Muhammad đã viết trong kinh Coran vào năm 632. Cha nhất thiết phải nghiên cứu văn bản này, không chậm trễ. Và cha sẽ phát hiện ra rằng nó có liên quan chặt chẽ đến những biến động và số phận của người đàn ông mà cha đang tìm kiếm dấu vết, nếu ông ta thực sự đã từng tồn tại!

Một lúc im lặng, cha Nil ngẫm nghĩ, không biết tiếp tục câu chuyện từ đâu.

- Nếu ông ta đã từng tồn tại… vậy cha nghi ngờ sự tồn tại của người này bên cạnh Jesus?

- Chắc là tôi sẽ nghi ngờ nếu không theo sát nghiên cứu của cha. Cha đã vô tình thúc đẩy tôi xem xét những đoạn cho đến nay vẫn không được để ý đến trong văn học Cổ đại. Cha đã vô tình giúp tôi hiểu được ý nghĩa của một bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ tối nghĩa mà tôi phải nghiên cứu và báo cáo kết quả về Roma – tôi nhận được bản sao của bản thảo này đã sáu tháng nay, thế mà vẫn chưa biết phải xoay xở thế nào với bản báo cáo, tôi bối rối quá. Roma đã nhắc nhở tôi một lần về việc này, tôi e sẽ bị triệu tập nếu vẫn chậm trễ.

Cha Andrei đã bị triệu về Roma.

Và không bao giờ quay về căn phòng yên tĩnh này nữa.

Chuông điểm từng tiếng trong đêm tháng Mười một, cha Nil đi xuống và bước vào vị trí quen thuộc của mình trong gian thờ của tu viện. Cách ông vài mét về phía bên phải, một chiếc ghế vẫn trống khuyết một cách ngoan cố: cha Andrei…Nhưng tâm trí ông không thể nào tập trung được vào những cung bậc chậm rãi của giai điệu Grégoire mà vẫn chìm trong những bản tháo ông vừa giải mã suốt đêm qua. Một thời gian trở lại đây, điều từng là niềm tin của ông trong suốt cuộc đời bị cắt xén dần, từng mảnh từng mảnh một.

Tuy nhiên, thoạt nhìn, các bản thảo M M M không cho thấy bất kỳ điều gì nhạy cảm. Phần lớn các bản thảo này có nguồn gốc từ thư viện bị phân tán của người Esseni vùng Qumran: những luận bàn về Kinh Thánh theo cách của các pháp sư Do Thái, những đoạn giải thích về cuộc chiến giữa cái Tốt và cái Xấu, giữa những người con của ánh sáng và những người con của bóng tối, vai trò trung gian của một người Thầy Công Lý…Bây giờ người ta biết rằng Jesus không thể là người Thầy Công Lý này. Đã có lúc say sưa với những phát hiện tại biển Chết, công chúng liền nhanh chóng thất vọng. Chẳng có gì ly kỳ hết… và những văn tự mà ông cặm cụi đọc suốt đêm qua cũng không phải ngoại lệ.

Nhưng đối với một trí óc tinh nhanh như của ông, điều ông vừa đọc khẳng định toàn bộ những nhận xét mà ông đã cẩn thận ghi chép lại. Những ghi chép này chưa hề ra khỏi phòng ông, không ai biết đến – trừ cha Andrei, người mà ông không che giấu bất cứ bí mật nào.

Các ghi chép này đặt ra việc xem xét lại toàn bộ những điều cho đến nay vẫn được nói về nguồn gốc của đạo Cơ Đốc, nghĩa là nền văn hoá và văn minh của toàn bộ phương Tây.

“Từ San Francisco đến Vladivostok, mọi thứ đều dựa trên một định thể duy nhất: Christ có lẽ là người sáng lập ra một tôn giáo mới. Thiên chất của Người có lẽ đã được tiết lộ với các tông đồ bởi những lưỡi lửa trùm lên họ vào ngày lễ Hạ Trần. Có thể có một thứ trước ngày đó, kinh Cựu ước, và một thứ sau ngày đó, kinh Tân ước. Thế mà điều này lại không chính xác, thậm chí còn sai!”

Cha Nil bất giác thấy mình đang đứng trong gian thờ, trong khi các đạo hữu của ông vừa rạp người xuống để hát kinh Gloria Patri. Ông nhanh chóng theo tư thế rạp người trong hàng của mình. Từ hàng phía trước, Cha tu viện trưởng ngẩng đầu lên và quan sát ông.

Ông định theo sát hơn diễn biến của buổi lễ, nhưng đầu óc ông lại đang phi nước đại như một con ngựa điên cuồng: “Ta đã phát hiện ra trong các bản thảo vùng biển Chết những khái niệm là cơ sở để thiên chất của Jesus được thực hiện. Nhưng vì không có học nên các tông đồ không đủ khả năng để làm điều đó: họ đã vay mượn những gì người ta nói quanh họ, điều mà tất cả chúng ta đều không biết – cho đến khi phát hiện ra những văn tự ở Qumran.”

Lần này, ông là người duy nhất quay mặt vào hàng đối diện, trong khi tất cả mọi người đều đã xoay người xếp thành một khối duy nhất quay mặt về phía điện thờ, để hát kinh Lạy Cha.

Cha tu viện trưởng cũng không nhìn lên điện thờ, ông quay đầu sang phải và nhìn cha Nil vẻ nghĩ ngợi.

Hết lễ kinh mừng, ông bị một sinh viên tóm cổ, anh ta nhất thiết muốn ông cho lời khuyên về khoá luận đang làm. Cuối cùng, vừa được giải phóng khỏi kẻ quấy rầy, ông vội lao như một cơn gió về phòng mình, nhặt tập bản thảo M M M trên mặt bàn đầy ngộn giấy tờ, và không chần chừ luồn xuống dưới khăn choàng vai. Rồi với vẻ tự nhiên nhất, ông tiến về phía thư viện cánh giữa.

Hành lang vắng ngắt. Tim đập mạnh, ông di qua cánh cửa thư viện Khoa học Kinh Thánh, rồi cánh cửa văn phòng cha Andrei, và tiếp tục đi đến tận góc giữa hai cánh của tu viện: dọc hành lang cánh phía Bắc cũng không có một ai.

Cha Nil tiến lại gần cánh cửa mà ông không được phép bước qua – cánh cửa thư viện Khoa học lịch sử - rút từ túi ra chùm chìa khoá của cha Andrei, tra một trong hai chiếc chìa khoá nhỏ vào ổ. Liếc nhìn hành lang một lần cuối: vẫn vắng ngắt.

Ông bước vào.

Không ai đến thư viện vào lúc sáng sớm như thế này. Tuy nhiên, ông không muốn mạo hiểm bật hệ thống chiếu sáng chung, làm thế có thể để lộ ông đang có mặt tại đây. Vài ngọn đèn nhỏ vẫn được thắp thường xuyên và toả ra một thứ ánh sáng yếu ớt vàng vọt. Ông tiến về phía cuối thư viện, rẽ phải đến kệ sách thế kỷ I, và nhanh chóng để lại tập tài liệu M M M vào đúng chỗ mà ông đã lấy tối qua. Sau đó biến đi, không để ai nhìn thấy.

Vừa đến vị trí dành cho các bản thảo ở thế kỷ III, tay phải quờ quạng để định hướng, ông nghe thấy tiếng mở cửa trầm đục ở đầu kia phòng. Gần như ngay lập tức, ánh sáng chói lọi tràn ngập toàn bộ thư viện.

Ông đang đứng ngay giữa lối đi trung tâm, tay phải đưa ra phía trước, một cuốn sách bị cấm dưới cánh tay trái, trong một nơi lẽ ra ông không bao giờ được vào, nơi mà ông không thể có chìa khoá. Dường như các kệ sách ở hai bên đang giãn ra, khiến ông càng trở nên cô độc và phơi mình ra trước những ánh nhìn. Những chiếc đèn chiếu như nhảy ra khỏi tường và trút lên ông những lời trách móc không thương xót: “Cha Nil, cha làm gì ở đây? Làm thế nào mà cha lại có được chiếc chìa khoá này? Cuốn sách này là cái gì? Và tại sao, đúng, tại sao cha lại mượn nó tối qua? Cha đang tìm kiếm gì thế, cha Nil? Đêm qua cha có ngủ không? Tại sao buổi lễ sáng nay cha lại đãng trí như vậy?”

Ông sắp bị phát hiện, và đột nhiên ông nghĩ đến những lời căn dặn thường xuyên của cha Andrei.

Rồi đến thi thể đông cứng bởi cái chết của ông ấy, trên nền đường đá chạy dọc tuyến Roma Express, nắm tay tức giận chỉ lên trời.

Như thể để buộc tội kẻ đã sát hại ông.
 
Chương 22


Kinh Phúc âm theo Jean.

Sáng sớm chủ nhật ấy, những người phụ nữ từ hầm mộ quay về, vẫn kinh hoàng vì thấy nó rỗng không. Họ kể với các tông đồ đang hoài nghi câu chuyện về những người đàn ông mặc đồ trắng, chỉ có thể là các thiên thần mới bí ẩn đến thế. Peter buộc họ im lặng: “Các thiên thần! Đúng là những chuyện lẩn thẩn của đàn bà.” Người đàn ông vùng Judee ra hiệu cho ông. Hai người kín đáo ra khỏi nhà.

Lúc đầu, họ lặng lẽ đi, rồi sau đó bắt đầu chạy. Nhanh chóng bị rớt lại sau, Peter mệt đứt hơi mới đến được khu vườn: hai người Esseni đã bỏ đi mà không đợi ông, nhưng người cùng đi với ông, người đến trước, nói với vị tông đồ rằng ông ta đã kịp nói chuyện với họ. Lại một lần nữa ông ta thắng thế, lại một lần nữa ông ta là nhân chứng may mắn.

Giận điên người, Peter một mình quay về căn phòng lớn: không một lời giải thích, người đàn ông vùng Judee rẽ sang đường khác, và đi về phía một ngôi nhà sang trọng trong khu phố Tây.

Giáo phái của người Esseni ra đời từ hai thế kỷ trước. Giáo phái này bao gồm những cộng đồng tu sĩ sống tách biệt khỏi thế giới như cộng đồng ở Qumran, và những cộng đồng vô thần sống lẫn trong xã hội của người Do Thái. Cộng đồng người Esseni ở Jerusalem là đông đảo nhất, thậm chí còn được lấy tên để đặt cho khu phố Tây của thành phố. Eliézer Ben –Akkai là người đứng đầu cộng đồng này.

Ông nồng nhiệt đón chào vị khách viếng thăm.

- Từ lâu ông đã là người của chúng tôi, nếu không trở thành học trò của Jesus, chắc ông sẽ kế vị tôi. Ông biết đấy, người Do Thái dòng Đền ghét chúng tôi và không chấp nhận để chúng tôi chôn người của mình trong các nghĩa trang tách biệt hẳn với nghĩa trang của họ. Một số nghĩa trang của chúng tôi phải giấu ở giữa sa mạc. Những bàn tay dơ bẩn sẽ không bao giờ làm uế tạp được các nấm mồ của chúng tôi.

- Tôi biết tất cả những điều đó, thưa thầy, và tôi chia sẻ nỗi lo lắng của thầy trong việc giữ gìn nơi an nghỉ cuối cùng cho những Người con chân chính của Israel.

- Jesus xứ Nazareth là một trong số những Người con chân chính đó. Vị trí cuối cùng đặt mộ phần của Người phải được giữ bí mật.

- Eliézer… giờ đây thầy đã già rồi. Thầy không thể là người duy nhất biết mộ phần của Jesus đặt ở đâu.

- Hai con trai tôi, Adôn và Oasis chính là người mang thi thể Người đến đó. Cũng như tôi, chúng biết vị trí nấm mộ và chúng sẽ truyền lại bí mật đó.

- Thế nếu có chuyện gì xảy ra với họ? Thầy phải tiết lộ bí mật đó cho cả tôi nữa.

Eliézer Ben –Akkai vuốt chum râu mảnh của mình một lúc lâu. Vị khách của ông nói đúng, nền hoà bình của Roma vô cùng mỏng manh , tất cả đều có thể nổ tung bất cứ lúc nào. Ông đặt hai bàn tay lên vai người khách.

- Người anh em, anh xứng đáng với lòng tin của chúng tôi. Nhưng nên biết rằng nếu ông giao di hài những người đã khuất của chúng tôi vào bàn tay căm hận của kẻ thù chúng tôi, thì chính thượng đế sẽ là người phán xử giữa chúng tôi và ông!

Ông đưa mắt nhìn quanh căn phòng, nơi những người Esseni đang đi lại .Đi tách về phía cửa sổ, ông ra hiệu cho người đối thoại theo mình.

Ghé miệng vào tay người đó, ông thì thầm vài câu.

Khi chia tay trong im lặng, hai người đàn ông nhìn nhau rất lâu. Gương mặt vô cùng nghiêm trang.

Trên đường trở về nhà mình, người đàn ông vùng Judee mỉm cười. Mộ phần của Jesus sẽ không trở thành khoản đặt cược cho quyền lực.
 
Chương 23


Vẫn còn bị loá mắt vì ánh sáng chói loà vừa ngập tràn thư viện, cha Nil liếc nhìn vào dãy giá sách gần nhất: phần giữa của dãy này trống trơn, và trơn nhẵn như lòng bàn tay. Ông bước một bước, tận cuối dãy chứa sách của thế kỷ II, người ta đã đặt hai hộp các tông lớn, những cuốn sách đang chờ được sắp xếp. Ông nhanh nhẹn luồn ra phía sau hai chiếc hộp, trong lúc đó ông nghe thấy tiếng sột soạt đặc trưng của chiếc áo tu sĩ đang mỗi lúc một gần. Một chiếc áo thầy tu bằng vải len bua, hay áo dòng của một trong các sinh viên theo chủ nghĩa nguyên vẹn? Nếu người đó đến tìm một cuốn sách trên kệ thế kỷ II thì ông thua cuộc. Nhưng có thể người đang tiến đến gần ông lúc này không đến để tìm một cuốn sách? Có thể người đó đã nhìn thấy ông vào đây và đang nuôi dưỡng những ý định khác?

Cha Nil rụt cổ sâu vào giữa hai vai.

Người đó đi qua kệ sách thế kỷ II mà không dừng lại. Núp trong vùng bóng tối ở cuối thư viện, phía sau những chiếc hộp các tông, cha Nil nín thở. Ông nghe thấy người đó bước đến bên kệ sách thế kỷ I, nơi ông đánh cắp tập bản thảo M M M hôm qua, và chợt tiếc đã không nghĩ đến việc xê dịch những cuốn sách bên cạnh để lỗ hổng đỡ phô ra.

Một khoảng thời gian chết, rồi ông nhận ra bước chân người đó lướt qua phía trước kệ sách mà ông đang núp và xa dần về phía cửa thư viện. Ông không bị phát hiện. Vị khách không mời mà đến này là ai? Có thể nhận ra bước chân của một tu sĩ trong số hàng ngàn bước chân: họ không bao giờ tiếp đất bằng gót, mà lướt bàn chân về phía trước, và bước đi như đang đi trên một chiếc đệm không khí.

Không phải là một trong số các sinh viên.

Hệ thống chiếu sáng trung tâm đột ngột tắt, và cha Nil nghe thấy tiếng cánh cửa khép lại, ổ khoá cũng tự động khớp lại. Trán xâm xấp ướt, ông chờ một lát rồi đứng dậy. Mọi thứ đều tối và im ắng.

Lúc ông đi ra sau khi đã đặt tập bản thảo M M M vào vị trí của nó, hành lang phía Bắc vắng hoe, bây giờ phải để lại chùm chìa khoá vào nơi ông đã lấy chúng. Cánh cửa văn phòng thủ thư vẫn không khoá. Cha Nil bước vào, bật đèn trần: quần áo cha Andrei vẫn vắt lên lưng ghế phô tơi. Tim đập mạnh, ông cầm chiếc quần lên và bỏ chùm chìa khoá vào trong túi. Ông biết mình sẽ không bao giờ quay lại văn phòng này nữa - không bao giờ như trước đây nữa. Lần cuối cùng, ông đưa mắt nhìn giá sách nơi cha Andrei xếp những cuốn sách ông đã nhận, trước khi đưa chúng vào thư viện.

Trên đỉnh một chồng sách, ông thấy một cuốn không dán nhãn ghi mã phân loại. Nhan đề của nó khiến ông chú ý:

NHỮNG NGỤY TÁC CUỐI CÙNG BẰNG

TIẾNG AI CẬP CỔ TỪ NAG HAMADI

Bản in có kèm lời bình

Của R.P. Andrei Sokolwski, O.S.B.

Nhà xuất bản Gabalda, Paris.

“Bản in những ngụy tác mà ông ấy đã làm từ mười năm nay, cuối cùng nó cũng được phát hành!”

Cha Nil mở cuốn sách: một công trình học thức uyên bác lỗi lạc, được xuất bản dưới sự hỗ trợ của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp CNRS. Các trang bên trái là bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ mà cha Andrei đã kiên nhẫn chép lại, và trên các trang bên phải là bản dịch của ông ấy. Công trình cuối cùng của bạn ông, một bản di chúc.

Ông đã nấn ná quá lâu trong căn phòng này, và bỗng có một quyết định đột ngột. Người ta đã ăn cắp trong phòng ông mảnh giấy cuối cùng của cha Andrei, mảnh giấy chỉ gửi cho mình ông như một lời trăng trối. Vậy thì, cuốn sách mà bạn ông đã nhận được ngay trước khi đi, trong đó ông ấy đã dồn tụ tất cả học thức và tình yêu của mình, phải thuộc về ông, cha Nil. Cuốn sách còn chưa dán nhãn, vậy là chưa được tiếp nhận trong danh mục sách của tu viện, không ai trên thế giới này có thể biết nếu ông chiếm lấy nó hôm nay. Ông muốn cuốn sách này cho riêng mình. Vượt trên cả cái chết, cuốn sách này dường như là bàn tay đưa về phía ông từ một người không bao giờ còn công bố điều gì – không bao giờ còn ngồi trong chiếc ghế phô tơi này để nghe ông nói, đầu nghiêng nghiêng, một tia ranh mãnh ánh lên trong khe mắt hẹp.

Ông cả quyết luồn bản in Các ngụy tác từ Nag Hamadi xuống dưới khăn choàng vai và bước ra hành lang.

Trong khi bước vào cầu thang, đầu óc tràn ngập nỗi cô đơn từ nay sẽ là của riêng ông, ông không nhận thấy một cái bóng áp sát tường, lùi vào trong cánh cửa lớn của Khoa học Kinh thánh. Đó là bóng một chiếc áo len bua của tu sĩ.

Trên mặt vải trơn nhẵn nổi lên chiếc thánh giá dài ngang ngực, một bàn tay phải đang bồn chồn vặn vẹo nó. Trên ngón đeo nhẫn của bàn tay là một chiếc nhẫn rất đơn giản bằng kim loại, không hề lấp lánh tia sáng nào.

Cha Nil vào phòng mình, khép cánh cửa sau lưng và dừng phắt lại. Lúc trước, khi xuống dự lễ kinh mừng, ông đã cẩn thận xếp những ghi chép trong đêm thành từng chồng nhỏ riêng biệt . Giờ đây, những tờ giấy đang nằm rải rác như sau một cơn gió.

Vào một ngày tháng Mười một này, cửa sổ phòng ông đóng kín. Đóng kín từ hôm qua.

Người ta lại đến thăm phòng ông một lần nữa. Thăm viếng và lục lọi. Lục lọi và có thể đã đánh cắp một số tờ ghi chép của ông.
 
Chương 24


Thư của các Tông đồ.

- Peter, điều gì đã xảy ra với thi thể của Jesus?

Peter đưa mắt nhìn quanh. Đã ba tuần kể từ khi Jesus chết, trong suốt thời gian đó ông không rời khỏi căn phòng lớn. Sáng nay, khoảng gần một trăm người ủng hộ đang ở đây, và cùng một câu hỏi được đặt ra từ khắp các phía.

Ở đầu kia của căn phòng, người chủ nhà đang đứng một mình, dựa lưng vào tường. Khoảng hai chục người ngồi quanh ông, đưa mắt hết nhìn ông lại nhìn về phía cửa sổ, dưới đó Mười một người đang kết thành một khối. Có lẽ là những người ủng hộ ông ta chăng? “Bây giờ, Peter nghĩ, là hắn – hoặc ta.”

Vị tông đồ nhìn mười người đồng hành của mình, André em ông, người đang cắn môi dưới, Jean và Jacques de Zébédée, Matthieu từng là người thu thuế... Không ai trong số họ có dáng dấp của một vị thủ lĩnh.

Phải có ai đứng dậy giữa đám đông đang mất phương hướng này. Đứng dậy và lên tiếng, đúng vào lúc này, chính là nắm lấy quyền lực.

Peter hít một hơi thật sâu, và đứng dậy. Ánh sáng từ cửa sổ chiếu sáng lưng ông, và mặt ông vẫn ở trong vùng bóng tối.

- Các anh em...

Mặc dù đã cố gắng, ông vẫn không thể biết được những người Esseni đã chôn thi thể của Jesus ở đâu, sau khi đã mang Người ra khỏi hầm mộ. “Và hắn ta, nhân chứng duy nhất cùng với ta, hắn có biết không? Đánh lạc hướng chú ý của những người này, và dứt khoát khẳng định quyền lực của ta.” Ông quyết định không đếm xỉa đến câu hỏi của đám đông, và nhìn họ với vẻ khinh bỉ. Ngay bây giờ, họ sẽ biết rằng ông chính là người thực hiện lời phán quyết của Chúa. Chúa đã sử dụng ông, và Chúa sẽ còn sử dụng ông.

- Các anh em, số phận của Judas phải được định đoạt. Hắn từng nằm trong số Mười hai người, và hắn đã phản bội: hắn đã bị ngã về phía trước, bụng phanh ra, ruột gan xổ tung trên cát.

Một bầu không khí im lặng chết chóc bỗng bao trùm căn phòng. Những chi tiết này chỉ có kẻ giết Judas mới có thể biết được. Người đó vừa thú nhận, một cách công khai, rằng bàn tay cầm thanh kiếm đó không phải của bất kỳ một người Do Thái yêu nước cuồng nhiệt nào: chính là bàn tay của người đó.

Ông nhìn chăm chú vào mặt từng người đã to tiếng yêu cầu ông giải thích về số phận thi thể Jesus: dưới cái nhìn của ông, từng người một cụp mắt xuống.

Đang đứng ở đầu kia căn phòng, môn đồ cưng vẫn không nói gì. Peter giơ tay.

- Chúng ta phải thay thế Judas, phải có một người khác đảm nhận công việc của hắn. Người đó phải được lựa chọn trong số những người đã đi cùng Thầy, từ khi gặp Thầy bên bờ sông Jordan cho đến phút cuối cùng.

Một tiếng thì thầm ủng hộ lan trong đám đông, và tất cả các con mắt đều hướng về phía người môn đồ cưng. Vì chỉ có ông mới có thể bổ sung cho đội ngũ mười hai tông đồ: ông là người đầu tiên gặp Thầy bên bờ sông Jordan, và cũng là người thân cận nhất của Thầy cho đến phút cuối cùng. Chính ông là người thích hợp nhất để thế chỗ Judas.

Peter nhận thấy điều mà đám đông cảm thấy.

- Chúng ta không phải là người lựa chọn! Phải để Chúa chỉ định tông đồ thứ mười hai thông qua việc rút thăm. Matthieu, hãy cầm lấy bút sậy của anh, và viết hai cái tên lên mảnh cỏ cây này.

Trước khi Matthieu thực hiện công việc, Peter nghiêng người về phía anh và thì thầm gì đó vào tai. Cựu nhân viên thu thuế nhìn ông với vẻ ngạc nhiên. Rồi anh gật đầu, ngồi xuống và nhanh chóng viết. Hai mảnh vỏ cây được đặt vào một chiếc khăn rồi Peter túm bốn góc khăn lại.

- Cậu lại đây, và nhặt một trong hai cái tên này lên. Và hãy để Chúa trời lên tiếng với chúng ta!

Một chàng trai trẻ đứng dậy đưa tay ra thọc vào trong cái khăn rồi lấy ra một trong hai mảnh vỏ cây.

Peter cầm lấy đưa lại cho Matthieu.

- Ta không biết đọc, hãy nói với chúng ta điều được viết trên đó.

Matthieu hắng giọng, nhìn vào mảnh vỏ cây và tuyên bố

- Tên của Matthias được viết ra!

Từ trong đám đông những tiếng phản đối bật lên.

- Các anh em. Peter phải hét lên để mọi người nghe thấy – chính Chúa trời vừa chỉ định Matthias đảm nhận vị trí của Judas! Chúng ta lại có mười hai người giống như trong bữa ăn cuối cùng mà Jesus đã ăn trước khi chết, ngay tại đây!

Gần như khắp cả phòng mọi người đều đứng dậy, trong khi Peter kéo Matthias về phía mình, hôn và để anh ngồi xuống giữa Mười một người. Rồi ông chăm chăm nhìn người môn đồ cưng, đang đứng cách ông một đám người ngồi. Lúc đó, một nhóm đông dặc những người ủng hộ đang vây quanh người đó còn người đó vẫn đứng, mặt tối sầm. Át cả tiếng ồn, Peter hét lên:

- Mười hai bộ lạc đã nói thay cho Chúa: mười hai tông đồ sẽ nói thay Jesus, ở vị trí của Người hoặc nhân danh Người. Mười hai, và không thêm một người nào, sẽ không bao giờ có tông đồ thứ mười ba!

Người môn đồ cưng chịu đựng cái nhìn của ông một lúc lâu, rồi nghiêng đầu, thầm thì vài lời vào tai một cậu bé có mái tóc quăn. Đột nhiên cảm thấy lo lắng, Peter luồn tay vào trong đường xẻ áo trong và nắm lấy chuôi thanh sica. Nhưng đối thủ của ông đã ra hiệu cho những người vây quanh mình, rồi lặng lẽ tiến ra phía cửa. Khoảng ba chục người theo gót ông, khuôn mặt không để lộ cảm xúc.

Vừa ra đến phố, ông quay lại: cậu bé đã lách đến bên ông, đưa cho ông mảnh vỏ cây còn lại, bị rơi khỏi chiếc khăn mà Peter đã bỏ đi sau khi cuộc lựa chọn của Chúa được công bố. Ông hỏi cậu bé:

- Iokhanan, không ai có thể nhìn thấy mảnh vỏ cây này chứ?

- Không ai cả, abbou [[12]], không ai khác ngoài Matthieu, người viết tên, Peter người đã đọc cho anh ta viết, và bây giờ là cha.

- Vậy thì, con của ta, hãy đưa nó cho ta và vĩnh viễn quên nó đi.

Ông đưa mắt nhìn mảnh phiếu bầu thứ hai được dành để Chúa lựa chọn, rồi mỉm cười với Iokhanan: cái tên được viết trên đó không phải của ông.

“Như vậy, Peter, ngươi đã quyết định vĩnh viễn tách ta ra khỏi Israel Mới! Từ nay trở đi, một cuộc chiến đã nổ ra giữa chúng ta: nó có thể không đè nát đứa trẻ này, cũng như những người đến sau nó”.
 
Chương 25


Đột ngột bị dứt ra khỏi những nghiên cứu và việc nhẫn nại tái lập quá khứ, thế giới ổn định và bình yên của cha Nil sụp đổ: người ta vừa lục lọi phòng ông lần thứ hai. Và lại có một số giấy tờ biến mất khỏi bàn ông.

Những ghi chép bị lấy cắp sáng nay cho biết tình hình nghiên cứu của ông về thuở ban đầu của Giáo hội. Ông ý thức được rằng mình đang mạo hiểm trên một hướng đi luôn bị cấm đối với tất cả các tín đồ Công giáo. Và giờ đây có ai đó trong tu viện biết điều ông đang tìm kiếm, điều ông đã thấy. Ai đó rình rập ông, đột nhập vào phòng khi ông đi vắng, và không ngần ngại cả việc lấy cắp. Mối nguy hiểm mà ông cảm thấy toả lan từ khắp mọi phía quanh mình đang ngày càng trở nên hiện hữu – và ông không biết nó từ đâu đến, cũng chẳng biết tại sao.

Liệu công việc nghiên cứu có thể trở nên nguy hiểm không?

Tâm trí để đâu đâu, ông máy móc lật các trang của tác phẩm cuối cùng mà bạn ông xuất bản. Càng lúc ông càng đo đếm được nỗi trống trải nảy sinh sau khi ông ấy biến mất: sẽ chẳng còn ai ở đây để nghe ông nói, để hướng dẫn ông... Bị bỏ mặc một mình trong cảnh hiu quạnh ở tu viện, một cảm giác chưa từng biết đến xâm chiếm ông: nỗi sợ.

Ý nghĩ cuối cùng của cha Andrei là hướng về ông, ông ấy đã để lại cho ông một thông điệp: phải vượt qua nỗi sợ này và tiếp tục điều tra bắt đầu chỉ từ một mảnh giấy. Dòng đầu tiên trên mảnh giấy đó nói về một bản thảo kinh Khải Huyền bằng tiếng Ai Cập cổ: hẳn nó phải nằm trong tất cả những thứ mà bạn ông cất giữ trong tủ tại phòng ông ấy. Nhưng người khách bí ẩn viếng thăm thư viện cánh Bắc, người suýt bắt gặp ông sáng nay, chắc chắn đã nhận ra lỗ hổng toang hoác trên giá sách vì tập bản thảo M M M bị mượn. Tập bản thảo này chỉ có thể bị một tu sĩ không được quyền vào thư viện này lấy đi: nếu không, ông ta đã để vào chỗ đó một bóng ma có chữ ký của mình theo quy định.

Hẳn là sau đó người ta đã phát hiện ra chùm chìa khoá bị bỏ quên trong túi quần cha Andrei, và sẽ thu hồi lại: văn phòng của ông ấy lập tức được trang bị một ổ khoá, và cha Nil hẳn là không còn hy vọng có thể vào đó để tìm lại bản thảo bí ẩn kia.

Chán nản, ông gấp cuốn sách lại, luồn ngón trỏ vào giữa bìa sách và trang gác theo thói quen. Và ông giật mình.

Ông vừa cảm thấy có một chỗ gờ lên trên mặt trong bìa sách.

Một lỗi của nhà sản xuất chăng?

Ông đưa cuốn sách lại gần đèn, và mở ra dưới luồng ánh sáng: không phải là một sự cố trong khâu đóng bìa. Mép bìa sách đã bị bóc ra rồi dán lại. Bên trong, có thể cảm thấy sự hiện diện của một vật mảnh hình chữ nhật.

Vô cùng thận trọng, ông cắt ngang trang gác bồi cho phần bìa, tách ra, và nghiêng cuốn sách để ánh sáng chói gắt có thể xuyên vào: bên trong, có một văn bản được gấp làm tư.

Ngay trước khi đi, cha Andrei đã luồn vào trong công trình cuối cùng của mình một tờ giấy mà ông đã cẩn thận cất giấu kỹ càng.

Lấy một cái nhíp nhổ, cha Nil bắt đầu kéo mảnh giấy ra khỏi chỗ cất giấu một cách hết sức cẩn trọng.
 
Chương 26


Tối đó, ngồi trong văn phòng mình, đức cha tu viện trưởng sắp bị cơn nóng giận cuốn đi.

Ông đã yêu cầu được nói chuyện với Hồng ý giáo chủ Catzinger, ở Roma, nhưng đường dây số 390 dường như đã bị tắc nghẽn. Cuối cùng, giọng nói êm dịu của viên giáo sĩ cấp cao cũng vang đến tai ông.

- Tôi hy vọng không quấy rầy ngài, thưa Đức Hồng y… Tôi quyết định xin ngài cho tôi lời khuyên, và có thể là giúp đỡ tôi, về chuyện vị tu sĩ mà chúng ta đã từng nói đến… Cha Nil, giảng viên chú giải Kinh thánh ở học viện. Ngài hẳn còn nhớ tôi đã báo cho ngài… Vâng, đúng thế. Thời gian gần đây tôi nhận thấy có sự thay đổi đáng kể trong thái độ ông ấy. Trước đây ông ấy luôn là một thầy tu rất chuyên cần, vô cùng chú ý trong các giờ lễ. Từ sau cái chết của cha Andrei đáng thương, ông ấy không còn như thế nữa. Và một sự việc chưa từng có vừa xảy ra: trong khi chức vụ thủ thư còn bỏ ngỏ, tôi tự mình giám sát các cuốn sách được mượn trong thư viện của chúng tôi. Thế là, sáng sớm nay, tôi đã quan sát được cha Nil lấy cắp một tác phẩm nhạy cảm trong thư viện cánh Bắc. Xin lỗi ngài? À vâng, đó là bản thảo M M M nổi tiếng của người Mỹ…

Ông phải đưa ống nghe ra xa tai. Đường dây riêng của Vatican, vốn quen với những lời êm dịu, truyền đi trung thực cơn tức giận của Hồng y:

- Tôi chia sẻ nỗi lo lắng của ngài, thưa Đức hồng y. Ngài sẽ nhận được ngay một ít các ghi chép mà chính cha Nil đã thảo ra coi như để làm mẫu… Vâng, tôi đã lấy được một số tờ. Như vậy ngài có thể xem xét có cần áp dụng một số biện pháp không, hay chúng ta có thể để cha Nil thân mến được yên tĩnh tiếp tục các công trình khoa học của mình. Ngài sẽ đích thân phụ trách công việc này? Cảm ơn Đức Hồng y… Arrivederci, thưa Đức Hồng y.

Với một tiếng thở dài nhẹ nhõm, đức Cha tu viện trưởng gác máy. Ông đã không hào hứng lắm khi chấp nhận mua một tác phẩm nguy hiểm như tập bản thảo M M M nhưng làm sao có thể chiến đấu chống lại những trận tấn công của đối thủ nếu không biết vũ khí của chúng?

Ông tự biết mình phải có trách nhiệm trước Chúa về các tu sĩ của mình, cả về cuộc sống tâm linh lẫn cuộc sống trí tuệ của họ và xâm phạm đến hai lần chốn riêng tư thiêng liêng trong phòng của một trong những con chiên của mình là điều ông không hề muốn.

Trong văn phòng của mình ở Vatican, Emil Catzinger đưa ngón tay giận dữ ấn lên một nút trên điện thoại.

- Chuyển máy cho tôi nói chuyện với Đức ông Calfo. Đúng, ngay lập tức. Tôi quá biết chứ, giờ đang là tối thứ Bảy! Chắc chắn ông ấy đang ở căn hộ của mình trong khu lâu đài San Angelo. Tìm ông ấy đi.
 
Chương 27


Bàn tay cha Nil run run. Ông vừa kéo ra khỏi bìa cuốn sách của cha Andrei một mảnh giấy phô tô. Ông đưa nó sát vào đèn, và ngay lập tức nhận ra lối viết thanh lịch của tiếng Ai Cập cổ.

Một bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ.

Hoàn toàn có thể đọc được, đó là bản sao chụp một mảnh giấy da trong tình trạng tốt. Cha Nil rất hay được xem xét những kho báu mà cha Andrei lấy ra từ tủ của mình để đưa cho ông chiêm ngưỡng. Ông đã quen với lối viết của những bản thảo quan trọng ở Nag Hamadi, do nhà Ai Cập học Jean Doresse đối chiếu lần đầu tiên sau khi được phát hiện vào năm 1945 trên bờ trái sông Nil đoạn trung lưu. Vốn đã quen với các bản thảo bằng tiếng Hebrew hoặc Hy Lạp, ông biết rằng thuật viết chữ vận động theo thời gian, và luôn có xu hướng đơn giản hoá.

Chữ viết trên mảnh giấy da này cùng kiểu với chữ viết của các ngụy tác nổi tiếng như kinh Phúc âm theo Thánh Thomas vào cuối thế kỷ II, tác phẩm đã thu hút sự quan tâm của toàn thế giới. Tuy nhiên, rõ ràng là kiểu chữ này xuất hiện muộn hơn.

Vì có kích thước rất nhỏ nên mảnh giấy da này hẳn đã bị Doresse đánh giá là không mấy hấp dẫn hoặc khó hiểu và đã từ bỏ nó. Và cuối cùng, giống như biết bao bản thảo khác, nó đã hạ cánh xuống Roma. Để rồi một ngày được một nhân viên của Thư viện Vatican khai quật, và gửi đến tu viện. Là chuyên gia nổi tiếng trong lĩnh vực này, cha Andrei thường nhận được những văn bản kiểu như vậy để phân tích.

Cha Nil biết rằng các ngụy tác ở Nag Hamadi xuất hiện vào các thế kỷ II và III, và từ thế kỷ IV, không có gì được viết ra từ ngôi làng Ai Cập cổ này nữa. Như vậy, mảnh giấy da muộn màng này có vào cuối thế kỷ III.

Một bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ vào thế kỷ III.

Đây có phải là bản thảo đã khiến cha Andrei bối rối đến mức không dám gửi báo cáo cuối cùng của mình về Roma? Nhưng tại sao ông ấy lại cẩn thận cất giấu bản phô tô này như vậy thay vì xếp vào tủ của mình cùng những bản thảo khác?

Cha Andrei không còn ở đây để trả lời những câu hỏi của ông. Cha Nil gục đầu vào lòng bàn tay và nhắm mắt lại.

Ông như lại nhìn thấy dòng đầu tiên trên mảnh giấy mà ông phát hiện trong bàn tay của người bạn: Bản thảo tiếng Ai Cập cổ (Apoc). Ngay lúc đó, ông đã dịch Apoc thành “apocalypse” – Khải Huyền: đó là cách viết tắt truyền thống trong các ấn bản Kinh Thánh. Cha Nil muốn xác minh lại, và mở bản dịch gần đây nhất của Kinh Thánh Công giáo mà cha Andrei sử dụng ra. Trong bản dịch mới và được dùng như tài liệu tham khảo này, tên viết tắt của Apocalypse không còn là Apoc nữa, mà là Ap.

Là người luôn tường tận mọi chuyện, lại tỉ mỉ, nếu có ý định ám chỉ đến cuốn sách về kinh Khải Huyền, có lẽ cha Andrei sẽ viết Ap, chứ không phải Apoc. Thế thì ông ấy đã nghĩ đến cái gì?

Đột nhiên, cha Nil hiểu ra: (Apoc) không phải để chỉ “apocalypse”, kinh Khải Huyền, mà là “apocryphe”: ngụy tác!

Điều cha Andrei muốn nói là: “Mình phải nói với cha Nil về một bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ mà mình đã cất giấu trong cuốn sách in các ngụy tác của mình ngay trước khi đi”. Đó chính là cuốn sách ông đã lấy trong văn phòng ông ấy sáng nay và bây giờ ông đang cầm trong tay. Một bản thảo có nội dung quan trọng đến mức ông ấy muốn nói với ông ngay lập tức, sau khi từ Vatican trở về.

“Đây là bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ từ Roma gửi đến!”

Giữa các ngón tay mình, cha Nil đang giữ văn bản đã dẫn đến việc triệu tập viên thủ thư của tu viện Saint-Martin.

Ông lại cầm mảnh giấy lên và quan sát nó thật gần. Mảnh giấy da rất nhỏ: cha Nil không phải là chuyên gia về tiếng Ai Cập cổ nhưng có thể đọc nó không chút khó khăn, và chữ viết rõ ràng đến nỗi ông không gặp vấn đề gì trong việc nhận mặt chữ.

Liệu ông có dịch được không? Một bản dịch thanh thoát thì chắc chắn là không thể. Nhưng một bản dịch chuyển chữ, theo kiểu mổ cò một cách phỏng chừng thì có thể. Tra từng từ trong từ điển, rồi ghép chúng với nhau: ý nghĩa của văn bản sẽ hiện ra.

Ông đứng dậy. Sau một lát ngập ngừng, ông đặt mảnh giấy quý giá lên phía trên tấm ván mà các tu sĩ dùng làm tủ quần áo rồi bước ra hành lang. Hẳn là người ta sẽ không viếng thăm phòng của ông trong vài phút vắng mặt mà ông đang cần.

Ông nhanh chóng đi về phía thư viện duy nhất ông có quyền vào: Khoa học Kinh Thánh.

Trên kệ sách đầu tiên, nơi xếp những tác phẩm thường được sử dụng nhất, ông tìm thấy cuốn từ điển từ nguyên Ai Cập cổ - tiếng Anh của Cerny. Ông lấy cuốn sách, đặt vào chỗ của nó một bóng ma có tên mình, rồi trở về phòng, tim đập thình thịch. Mảnh giấy quý giá vẫn nằm ở nơi ông đã đặt nó.

Tiếng chuông đầu tiên của giờ kinh chiều tối vang lên: ông đặt cuốn từ điển lên bàn, nhét mảnh giấy vào túi áo trong và đi xuống nhà thờ.

Một đêm không ngủ nữa đang chờ đón ông.
 
Chương 28


Thư của các Tông đồ, thư gửi tín hữu xứ Galatia, năm 48

- Abbou, cha không thể để mặc họ làm mà không nói gì!

Mười tám năm đã trôi qua kể từ khi Jesus chết. Đứng bên người môn đồ cưng, Iokhanân sôi lên vì sốt ruột. Đại diện của những người “Cơ Đốc” – như người ta gọi họ từ một thời gian trở lại đây – vừa hội họp lần đầu tiên tại Jerusalem, nhằm khơi sạch ung nhọt: cuộc chiến giữa các tín đồ “Do Thái”, những người không chịu từ bỏ các quy định của Pháp luật – đặc biệt là phép cắt bì với người “Hy Lạp”, những người không muốn duy trì thủ thuật này mà mong muốn một vị chúa mới cho một tôn giáo mói. Một vị chúa có thể là Jesus, được đặt lại tên là “Chirst”: ý tưởng này bắt đầu được lan truyền rộng rãi, mọi người thì thào với nhau về nó ngày càng nhiều.

Cuộc chiến tư tưởng này che giấu một cuộc chiến khốc liệt để giành vị trí cao nhất: cuộc chiến giữa những người Do Thái sùng đạo đi theo Jacques, em út của Jesus, cũng là một ngôi sao đang lên, với các học trò của Peter – phe chiếm đa số mà thủ lĩnh già này duy trì bằng bàn tay sắt. Và chống lại họ là tất cả những người Hy Lạp theo Paul, một nhân vật mới xuất hiện đang mơ ước biến ngôi nhà nhỏ do các tông đồ xây dựng thành một công trình mang tầm vóc thế giới. Họ lăng nhục nhau, văng vào mặt nhau những lời thoá mạ khủng khiếp – em trai giả mạo, kẻ tiếm vị, gián điệp, thậm chí suýt đến chỗ đánh nhau.

Giáo hội Cơ Đốc đang hình thành tổ chức hội nghị Giám mục đầu tiên ở Jerusalem, thành phố giết hại các nhà truyền giáo.

- Hãy nhìn họ xem, Iokhanân! Họ đánh nhau quanh một xác chết, và chỉ nghĩ đến việc chia cắt danh tiếng của Người!

Chàng trai trẻ có mái tóc quăn nắm lấy cánh tay ông.

- Chính cha là người đầu tiên gặp Jesus, trước tất cả bọn họ. Cha phải nói, abbou!

Ông thở dài, đứng lên. Mặc dù đã tách mình khỏi nhóm Mười hai, nhưng uy tín của người đàn ông này vẫn còn rất lớn. Tất cả mọi người im lặng và quay về phía ông.

- Từ hôm qua, tôi nghe các vị diễn thuyết dông dài, và tôi có cảm giác mọi người đang nói về một Jesus khác chứ không phải người tôi biết. Mỗi người tái tạo Người theo cách của mình: những người này thì muốn Người chỉ là một người Do Thái sùng đạo, những người khác muốn biến người thành một vị thánh. Tôi đã tiếp Người ở bàn ăn nhà tôi, và chúng tôi đã có mười ba người ngồi quanh Người tối đó, trong căn phòng lớn ở nhà tôi. Nhưng ngày hôm sau, tôi là người duy nhất nghe tiếng đóng đinh, nhìn thấy mũi giáo, chứng kiến cái chết của Người. Tất cả vị đều trốn hết. Tôi làm chứng người đàn ông này không phải là môt vị chúa: Chúa không chết, Chúa không phải chịu đựng cảnh hấp hối mà Người đã phải trải qua trước mắt tôi. Tôi cũng là người đầu tiên đến mộ Người vào cái ngày người ta thấy nó trống rỗng. Và tôi biết điều gì đã xảy đến với thi thể bị hành hình của Người, nhưng tôi sẽ không nói gì nhiều hơn ngoài chuyện từ giờ trở đi, sa mạc là nơi che chở Người.

Một loạt những lời nguyền rủa ngăn cản ông nói tiếp. Một số người vẫn ngần ngại chấp nhận thiên chất của Jesus, nhưng tất cả đều thống nhất nói rằng Người đã phục sinh từ cõi chết. Ý tưởng về sự phục sinh thu hút đám đông, họ tìm thấy ở đó phương tiện giúp họ chịu đựng một cuộc sống vốn không chút hy vọng. Phải chăng ông ta, người chỉ có ít học trò, muốn xua đuổi hàng nghìn người cải đạo, buộc họ phải tay không trở về nhà mình?

Trước mặt ông, những nắm tay giương lên.

“Họ muốn sử dụng Jesus để phục vụ cho tham vọng của họ ư? Cứ để họ làm thế mà không có ta”. Ông tựa vào vai Iokhanân và đi ra.

Iokhanân mới chỉ là một cậu bé khi quân lính La Mã phá huỷ Séphoris, thủ phủ của vùng Galilee. Cậu đã nhin thấy hàng nghìn giá chữ thập được dựng lên trên đường phố, và những người bị đóng đinh câu rút dần hấp hối dưới ánh mặt trời. Một hôm, chúng đến tìm cha cậu: cậu kinh hoàng thấy cha bị quất roi vào người, rồi bị đặt nằm lên một cái xà gỗ. Những nhát búa nện lên đinh dội vào tận ngực cậu, cậu thấy máu bắn ra từ cổ tay, nghe tiếng thét đau đớn của cha. Khi chúng dựng giá chữ thập dưới bầu trời vùng Galilee, cậu bất tỉnh; mẹ cậu bọc cậu trong một chiếc khăn san, và trốn về nông thôn ẩn náu.

Từ đó trở đi, đứa trẻ không chịu nói. Nhưng đêm đến, trong giấc ngủ chập chờn, cậu liên tục nhắc đi nhắc lại: “Abba! Cha!”

Khi cậu tỉnh lại, hai mẹ con đến sống ở Jerusalem. Theo lời nguyện của người Nazareth, mẹ cậu dâng cậu cho Chúa: cậu sẽ không cắt tóc nữa. Từ đó trở đi, cậu là một người Do Thái sùng đạo, nhưng cậu vẫn không nói.

Sau đó, giống như mọi người trong thành phố, cậu biết về chuyện Jesus bị đóng đinh câu rút. Nỗi kinh hoàng của cậu trước cảnh hành hình trên giá chữ thập lớn đến nỗi cậu xua đuổi Người ra khỏi trí nhớ của mình. Cậu mong chờ một Đấng Cứu thế, người sẽ sớm xuất hiện, và không thể là Jesus: Đấng Cứu thế không bao giờ để mình bị đóng câu rút. Đấng Cứu thế sẽ mạnh mẽ, để đánh đuổi người La Mã và khôi phục lại vương quốc của vua David.

Rồi sau đó, cậu đã gặp người đàn ông vùng Judee này, một người cũng dè dặt như cậu, người đã nhìn nhận sự câm lặng của cậu một cách thân thiện, không tỏ ra ngạc nhiên. Người nói về Jesus như đã từng sống rất gần Người, dường như ông biết rõ Người từ bên trong tâm hồn. Khi mẹ cậu chết, người đàn ông yêu mến Thầy nhường ấy, người tự nhận mình là môn đồ cưng của Người, đã đón cậu về nhà. Ông đã trở thành abbou, người cha của tâm hồn cậu.

Một hôm, để ông biết rằng cậu đã hiểu về thế giới mới mà Jesus khám phá ra, Iokhanân lấy kéo cắt ngắn những bím tóc dài của mình. Vừa làm, cậu vừa nhìn chăm chăm vào abbou, vì cậu vẫn không nói mà chỉ thể hiện bằng hành động.

Thế là người môn đồ cưng lấy ngón tay cái đánh dấu lên trán, lên môi và lên trái tim cậu một chữ thập vô hình. Iokhanân cũng hiểu điều này, lặng lẽ thè ra chiếc lưỡi nơi dấu vết kinh hoàng vẫn còn in rõ.

Đêm tiếp theo, lần đầu tiên cậu ngủ mà không hất tấm chăn bằng len thô ra. Và ngày hôm sau, lưỡi cậu lại bắt đầu nói để diễn đạt sự dào dạt trong tâm hồn đã được Jesus chữa lành của cậu.

Đến gần nhà mình, người môn đồ cưng đặt bàn tay lên vai cậu.

- Iokhanân, tối nay con đến gặp Jacques, em trai của Jesus. Nói với ông ấy là ta muốn gặp. Bảo ông ấy đến nhà ta.

Chàng trai trẻ gật đầu, và nắm lấy bàn tay của abbou trong tay mình.
 
Chương 29


Khi cha Nil đặt cuốn từ điển xuống mặt bàn chất đầy sách vở, đêm đã về khuya. Ông cảm thấy giờ đây mình cách xa biết bao với hội nghị Giám mục bi thảm ở Jerusalem, mặc dù chỉ mấy ngày trước ông còn đang tìm hiểu các diễn biến của nó! Thế nhưng chính là ngày đó, mười tám năm sau khi Jesus chết, hẳn là người môn đồ cưng đã thực sự bị loại khỏi Giáo hội đang hình thành.

Ông đã có thể dịch được mảnh giấy da tìm thấy trong cuốn sách do bạn ông biên tập. Chỉ có hai câu ngắn, dường như không có mối liên hệ nào với nhau:

Nguyên tắc đức tin của mười hai tông đồ

chứa đựng mầm mống phá huỷ nó

Bức thư phải bị huỷ bỏ khắp nơi

Để nơi ở còn ở lại.

Cha Nil đưa tay xoa trán: điều này có ý nghĩa gì?

“Nguyên tắc đức tin của mười hai tông đồ”: ở thời Cổ đại, đây là cách người ta gọi Tín điều Nicée, Tín điều của các Giáo hội Cơ Đốc. Điều mà họ đã thấy khắc ở Germigny, điều đã khiến cha Andrei phải suy nghĩ nhiều đến thế. Còn cụm từ “mầm mống phá hủy” mà Tín điều này chứa đựng là gì? Điều này chẳng có ý nghĩa gì cả.

“Bức thư phải bị huỷ bỏ ở khắp nơi”: từ Ai Cập cổ mà ông vừa dịch thành “bức thư” cũng là từ chỉ những bức thư của Thánh Paul trong kinh Tân ước. Liệu có phải là một trong những bức thư này không? Giáo hội chưa bao giờ cấm bất cứ bức thư nào của Thánh Paul. Phải chăng bản thảo này do một nhóm người Cơ Đốc ly khai soạn ra?

Dòng cuối cùng đặt ra cho cha Nil một vấn đề khác: “để nơi ở còn ở lại”. Từ điển đưa ra nhiều nghĩa, “nơi ở” hoặc “nhà” thậm chí là “hội”. Điều chắc chắn ở đây là cùng một gốc ký tự Ai Cập cổ được dùng hai lần liên tiếp. Như vậy là có sự cố tình chơi chữ ở đây: nhưng đó là gì?

Ông vừa dịch nghĩa các từ, nhưng không phải ý nghĩa của cả thông điệp này. Cha Andrei có hiểu được ý nghĩa đó không? Và ông ấy đã tìm ra được mối liên hệ nào giữa thông điệp này với các chỉ dẫn khác trong mảnh giấy ông ấy để lại trước khi chết?

Viên thủ thư đã chết sau khi được triệu tập về Roma để báo cáo về bản dịch của mình. Bốn dòng chữ này có liên quan gì tới việc ông đột ngột mất hay không?

Cha Nil đang phải đối mặt với một ván cờ mà các quân cờ nằm rải rác không theo trật tự nào. Cha Andrei đã kiên nhẫn tập hợp những quân cờ này lại trước ông. Và khi từ Roma trở về, trên tàu, ông đã viết: ngay lập tức. Như vậy, khi ở bên ngôi mộ của tông đồ, ông ấy đã có một phát hiện mang tính quyết định – nhưng đó là gì?

Đối với ông, sẽ không còn gì giống như trước đây nữa. Ông phải xem xét lại cả cuộc đời mình chăng? Có thể tự coi mình là người Cơ Đốc nữa không nếu nghi ngờ về thiên chất của Jesus?

Đêm còn lại vài giờ nữa. Cha Nil tắt đèn và đi nằm trong bóng tối.

“Chúa trời, chưa ai từng nhìn thấy Người. Còn Jesus, dù Người không phải là Chúa trời, vẫn là con người hấp dẫn nhất mình từng gặp. Không, mình đã không nhầm khi dâng hiến cả cuộc đời cho Người”.

Vài phút sau, cha Nil, tu sĩ dòng Benedict, người đang nắm giữ những bí mật quá nặng nề, chìm vào giấc ngủ đầy tin tưởng.
 
Chương 30


- Mời Đức ông ngồi.

Khuôn mặt như búp bê của Hồng y Giáo chủ, được bao quanh bởi một mái tóc bạc trắng, đang có vẻ lo lắng. Ông đưa mắt nhìn Calfo, người vừa thở dài vừa ngồi xuống chiếc ghế rộng.

Emil Catzinger ra đời cùng thời điểm với chủ nghĩa phát xít. Giống như tất cả trẻ em cùng độ tuổi khác, dù không muốn, ông vẫn phải gia nhập Đội thiếu niên của Hitler. Sau đó, ông đã dũng cảm tách xa Quốc trưởng, thoát khỏi những vụ thanh trừng của Gestapo. Nhưng con người ông vẫn in đậm dấu ấn của những điều đã nhận được thời thơ ấu.

- Cảm ơn ông vì đã ngừng các hoạt động tối thứ Bảy của mình lại.

Hội trưởng, người vừa bỏ rơi cô gái Rumani ngay giữa một hành trình đặc biệt hứa hẹn, gật mạnh đầu.

- Phụng sự Giáo hội, thưa Đức Hồng y, là công việc không có thời hạn cũng không có giờ giấc!

- Đúng thế. Tốt, xem nào … Chiều nay tôi vừa có một cuộc trao đổi qua điện thoại với Cha tu viện trưởng của tu viện Saint-Martin.

- Một giáo sĩ cấp cao tuyệt vời, xứng đáng về mọi mặt với niềm tin mà ngài trao cho ông ấy.

- Ông ấy cho tôi biết rằng cha Nil đó, người chúng ta từng nói đến, đã lấy cắp trong một thư viện mà ông ta không được phép tiếp cận, một tập tài liệu do bọn ly khai xuất bản.

Calfo chỉ nhướng một bên lông mày lên.

- Và ông ấy vừa fax cho tôi một mẫu trong số các ghi chép cá nhân của ông ta, chúng khiến tôi hết sức bận lòng. Rất có khả năng ông ta sẽ đến được gần bí mật mà Giáo hội rất thánh của chúng ta và Hội Thánh Pie V của các ông đang phải kiên cường gìn giữ.

- Ngài có nghĩ rằng ông ta đã tiến xa trên con đường nguy hiểm này không?

- Tôi còn chưa biết gì cả. Nhưng ông ta rất gần gũi với cha Andrei, ông này lại đã tiến rất xa trên con đường cấm kỵ này. Ông biết điều gì đang đe doạ ở đây: chính là sự tồn tại của Giáo hội Công giáo. Chúng ta phải biết điều mà cha Nil biết. Ông có đề xuất gì không?

Calfo nở một nụ cười thoả mãn, hơi ngả người ra sau, rút từ trong áo dòng ra một chiếc phong bì và đưa cho Hồng y Giáo chủ.

- Nếu Đức Hồng y muốn xem qua cái này… Ngay khi ngài nói với tôi về cha Nil này, tôi đã yêu cầu các anh em trong Hội tiến hành một cuộc điều tra kép. Đây là kết quả thu được, và có lẽ có thể trả lời cho câu hỏi của ngài.

Catzinger lấy từ phong bì ra hai tập hồ sơ có in chữ confidenziale.[[13]]

- Hãy xem hồ sơ đầu tiên này… Ngài sẽ thấy rằng cha Nil đã có thời gian học tập rất xuất sắc tại trường đại học dòng Benedict ở Roma. Rằng đó là một… nói thế nào nhỉ, một người lý tưởng chủ nghĩa, hay nói cách khác ông ta không có chút tham vọng cá nhân nào. Một thầy tu luôn tuân thủ kỷ luật, chỉ tìm kiếm niềm vui trong việc nghiên cứu và cầu nguyện.

Catzinger chăm chú nhìn vào mặt ông ta qua phía trên cặp kính.

- Calfo thân mến của tôi, với ông, tôi không cần phải nói rằng những kẻ nguy hiểm nhất chính là những kẻ lý tưởng chủ nghĩa. Arius là một người lý tưởng chủ nghĩa, Savonarole và Luther cũng vậy… Một con chiên tốt của Giáo hội tin vào các giáo lý mà không đặt ra việc xem xét lại chúng. Bất kỳ lý tưởng nào khác đều có thể vô cùng gây hại.

- Certo, Eminenza [[14]]. Khi học ở Roma, ông ta có quan hệ bạn bè với một tu sĩ dòng Benedict người Mỹ: Rembert Leeland.

- Này, này! Anh chàng Leeland của chúng ta phải không? Chuyện này thú vị đấy!

- Đúng là Đức ông Leeland. Tôi đã lấy hồ sơ của ông ta – tập hồ sơ thứ hai. Trước hết và trên tất cả là nhạc sĩ, tu sĩ ở hạt Kentucky tại tu viện St.Mary, nơi có một học viện âm nhạc. Đã được bầu làm tu viện trưởng. Sau đó, vì thể hiện một số quan điểm gây nhiều tranh luận…

- Đúng, tôi biết đoạn sau, giai đoạn tôi đã là chủ tịch Cơ quan truyền bá đức tin rồi. Ông ta được bầu làm Giám mục in partibus [[15]] sau đó được phái đến Roma theo nguyên tắc tuyệt vời promoveatur ut amoveatur [[16]]. Ồ, ông ta không thực sự nguy hiểm đâu: chỉ là một nhạc sĩ thôi mà! Nhưng khi đó phải dập vụ tai tiếng do những tuyên bố công khai của ông ta về chuyện linh mục kết hôn gây ra. Hiện ông ta đang là thư lại ở đâu đó, đúng không?

- Ở Văn phòng Quan hệ với người Do Thái, sau khi ở Roma, ông ta đã ở Israel hai năm, ở đó ông ta nghiên cứu về âm nhạc nhiều hơn về tiếng Hê brơ. Hình như Leeland là một nhạc công piano tuyệt vời.

- Thế thì sao?

Calfo nhìn vào mặt người đối thoại với vẻ thương hại.

- Sao cơ ạ, Eminenza, ngài không thấy gì sao?

Ông cố kìm nén mong muốn điên rồ là được châm điếu xì gà đang làm biến dạng chiếc túi trong của ông. Hồng y Giáo chủ không hút thuốc, cũng không uống rượu. Nhưng Hội Thánh Pie V sở hữu một hồ sơ đầy những chữ thập ngoặc về quá khứ của ông, là thứ bảo đảm cho sự an toàn của hội trưởng.

- Chừng nào cha Nil còn ở Saint-Martin, chúng ta sẽ không thể biết được những điều ông ta nghĩ trong đầu. Ông ta phải đến đây, đến Roma này. Nhưng ông ta sẽ không thổ lộ điều gì trong văn phòng của tôi lẫn văn phòng của Ngài, thưa Đức Hồng y. Ngược lại, dưới một cái cớ nào đó, hãy để ông ấy gặp gỡ ông bạn Leeland của mình, hãy để họ có thời gian nói chuyện cởi mở với nhau. Giữa nghệ sĩ và người sùng tín, họ sẽ tâm sự với nhau những điều bí mật.

- Cái cớ đó có thể là gì?

- Leeland quan tâm đến các loại âm nhạc cổ còn hơn là các vụ việc của người Do Thái. Chúng ta sẽ phát hiện ra rằng đột nhiên ông ta cần đến sự trợ giúp của một chuyên gia về các văn bản cổ.

- Và ông tin rằng ông ta sẽ… hợp tác?

- Đó là việc của tôi. Ngài biết rằng chúng ta đang nắm giữ ông ta: ông ta sẽ hợp tác.

Một lát im lặng. Catzinger cân nhắc cái được và cái mất. “Calfo là người Napoli. Quen với những thủ đoạn ngoắt nghoéo. Không ngốc”.

- Đức ông ạ, tôi giao toàn quyền cho ông. Hãy thu xếp để triệu tập anh chàng James Bond chuyên chú giải Kinh Thánh đến đây. Và hãy làm thế nào để ông ta trở nên ba hoa.

Khi ra khỏi Cơ quan truyền bá đức tin, Calfo thoáng thấy một tấm thảm dày những tờ tiền xanh sẽ đổ vào lâu đài San Angelo. Catzinger tưởng mình biết rõ tất cả mọi việc, nhưng ông ta lại không biết điều mấu chốt. Chỉ có ông, Alessandro Calfo, thằng bé khốn khổ trở thành hội trưởng của Hội Thánh Pie V, là có được cái nhìn toàn diện.

Chỉ có mình ông biết cách trở nên hiệu quả. Dù có phải sử dụng cùng những phương tiện đã khiến các Hiệp sĩ dòng Đền bị thiêu sống ở châu Âu vào thế kỷ XIV.

Có thể họ không biết điều này, nhưng Philippe le Bel và Nogaret đã cứu cả phương Tây. Ngày nay, đến lượt ông và Hội thánh Pie V đảm nhiệm sứ mệnh đáng sợ này.
 
Chương 31


Jerusalem, năm 48

- Cảm ơn anh đã đến nhanh chóng như vậy, Iakôv.

Người môn đồ cưng gọi Jacques bằng họ của ông theo tiếng Hê brơ. Mặt trời buổi hoàng hôn chiếu sáng mái che của ngôi nhà bằng thứ ánh sáng màu vàng hung, họ chỉ có hai người với nhau. Em trai của Jesus đã bỏ bùa chữ [[17]] ra, nhưng vẫn còn quấn khăn choàng dùng khi cầu nguyện. Ông có vẻ khiếp sợ.

- Hôm qua, Paul đã quay về Antioche, suýt nữa thì hội nghị Giám mục đầu tiên của Giáo hội kết thúc một cách tồi tệ. Tôi đã phải áp đặt một thoả hiệp, Peter ra đi với tinh thần rất sa sút. Ông ta căm thù anh, cũng như căm thù tôi.

- Peter không phải là người độc ác. Cuộc gặp gỡ với Jesus đã khiến ông ta phải đột ngột đối mặt với số phận nghèo khổ của mình. Ông ta từ chối quay lại phía sau, và ghét tất cả những ai có thể cướp đi vị trí cao nhất của ông ta.

- Tôi là em của Jesus. Nếu một trong hai chúng tôi phải biến mất, thì người đó sẽ là ông ta. Ông ta phải đi nơi khác để xác lập vị trí đứng đầu của ông ta!

- Ông ta sẽ đi, Jacques ạ, ông ta sẽ đi. Sau khi Paul xây dựng xong tôn giáo mới mà ông ta mơ ước, nguồn sáng sẽ chuyển từ Jerusalem đến Roma. Cuộc đua quyền lực mới chỉ bắt đầu.

Jacques cúi đầu.

- Từ khi công khai giết chết Ananie và Saphire, Peter không mang vũ khí nữa, nhưng một số người trung thành với ông ta vẫn mang. Hôm qua, tôi đã nghe họ nói chuyện, họ cho rằng anh là người của quá khứ, rằng anh chống đối những người mang lại tương lai. Không thể có một tông đồ thứ mười ba, anh biết điều đó mà. Cuộc sống của anh đang gặp nguy hiểm. Anh không thể ở lại Jerusalem.

- Vụ giết hại Ananie và vợ ông ấy đã xảy ra lâu rồi, và đó là vấn đề tiền bạc. Từ đó trở đi, từ tất cả các nhà thờ ở châu Á, tiền dồn hết về Jerusalem.

- Đó không phải là vấn đề tiền bạc. Anh đang đòi xem xét lại tất cả những điều mà họ tranh đấu. Cùng với Judas, anh là môn đồ mà anh Jesus của tôi yêu mến nhất. Chúng ta biết Peter đã loại bỏ Judas thế nào, cũng như ông ta đã loại trừ những chướng ngại vật trên con đường ông ta đi thế nào. Nếu anh cũng biến mất như Iscariote, thì cả một mảng ký ức sẽ biến mất cùng anh. Anh phải trốn đi, nhanh lên, và có thể đây là lần cuối cùng chúng ta gặp nhau, vậy thì, tôi xin anh, hãy nói cho tôi biết người Esseni đã chôn xác Jesus ở chỗ nào. Hãy nói cho tôi biết mộ của anh ấy ở đâu!

Người đàn ông này không có tham vọng của Peter, cũng không có thiên tài của Paul: anh ta chỉ là một người Do Thái bình thường, đang hỏi thăm tin tức của anh trai mình. Ông nhiệt tình trả lời:

- Thời gian tôi sống với Jesus ít hơn rất nhiều so với anh, Iakôv ạ. Nhưng điều tôi hiểu về Người thì không ai trong số các anh có thể hiểu được. Về phần anh thì là vì anh gắn bó sâu sắc với đạo Do Thái. Còn Paul thì là vì lúc nào cũng gần gũi với các vị thần trong đạo đa thần của Đế chế La Mã, và luôn mơ ước thay thế họ bằng một tôn giáo mới, dựa trên một Christ được xây dựng lại theo cách của ông ta. Jesus không thuộc về bất cứ ai, anh bạn ạ, không thuộc về những người ủng hộ anh cũng chẳng thuộc về những người ủng hộ Paul. Giờ đây Người đang yên nghỉ trong sa mạc. Chỉ sa mạc mới có thể bảo vệ thi thể Người khỏi những người Do Thái hoặc Hy Lạp tham lam trong Giáo hội mới. Đó là con người tự do nhất tôi từng biết. Người muốn thay thế luật pháp của Moise bằng một luật pháp mới, không phải viết trên những tấm bảng mà viết trong trái tim con người. Một luật pháp không có giáo lý nào khác ngoài giáo lý của tình yêu.

Jacques sầm mặt lại. Không được đụng đến luật pháp của Moise, nó chính là bản chất của Israel. Ông muốn thay đổi chủ đề.

- Anh phải đi. Và hãy dẫn mẹ Marie của tôi đi xa khỏi đây, bà có vẻ rất hạnh phúc khi ở bên anh…

- Chúng tôi rất quý mến nhau, và tôi kính trọng mẹ của Jesus. Mỗi lúc bà ở bên đều là niềm vui của tôi. Anh nói đúng, tôi không còn chỗ cả ở Jerusalem lẫn ở Antioche. Tôi sẽ đi. Ngay sau khi biết có thể dựng chiếc lều du mục của mình ở đâu, tôi sẽ cho đưa bà Marie đến ở với tôi. Trong khi chờ đợi, Iokhanân sẽ làm người liên lạc giữa tôi và bà. Đối với cậu ấy, bà gần như là người mẹ thứ hai.

- Anh định đi đâu?

Người môn đồ cưng nhìn quanh. Giờ đây bóng tối đã bao trùm trên mái che, nhưng cửa sổ căn phòng lớn vẫn còn được ánh hoàng hôn chiếu sáng. Căn phòng đó là nơi ông đã ăn bữa ăn cuối cùng với Jesus cách đây mười tám năm. Ông phải rời bỏ nơi này, nơi giờ đây chỉ còn là một ảo ảnh. Tìm kiếm sự thật ở nơi chính Jesus đã tìm thấy.

- Tôi sẽ đi về phía Đông, về phía sa mạc. Chính trong khi đang ở sa mạc, Jesus đã hoàn thiện phép biến đổi, chính ở đó Người đã hiểu ra sứ mệnh của mình. Tôi thường nghe Người vừa mỉm cười vừa nói rằng Người đã ở giữa những con vật hoang dã và chúng tôn trọng nỗi cô độc của Người.

Ông nhìn thẳng vào mặt em trai Jesus.

- Sa mạc, Jacques ạ… Có thể từ nay trở đi đó là tổ quốc duy nhất cho các môn đồ của Jesus xứ Nazareth. Nơi duy nhất họ được ở nhà mình.
 
Chương 32


Trong lúc cởi bỏ trang phục sau lễ kinh mừng, Cha tu viện trưởng nhận thấy nét mặt căng thẳng và vẻ nhợt nhạt của cha Nil.

Khi ông quay lại văn phòng, chuông điện thoại reo vang.

Hai mươi phút sau, khi gác máy, ông cảm thấy vừa phân vân vừa nhẹ nhõm. Ông đã ngạc nhiên khi nghe đích thân Hồng y Giáo chủ thông báo một vinh dự lớn cho tu viện của ông: Vatican đang cần gấp đến năng lực của một trong số các tu sĩ của tu viện. Một chuyên gia về âm nhạc cổ đang làm việc tại Triều chính Toà Thánh cần được hỗ trợ để tiến hành các công trình nghiên cứu về nguồn gốc của âm nhạc Grégorie. Những nghiên cứu quan trọng, được Đức Thánh Cha đặt rất nhiều hy vọng nhằm cải thiện mối quan hệ giữa Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo. Tóm lại, Roma đang chờ đợi cha Nil đến ngay, để mang khả năng của ông ra phục vụ Giáo hội toàn năng. Ông sẽ chỉ vắng mặt trong vài tuần, và ông sẽ đi chuyến tàu đầu tiên đến Roma, ông sẽ ở San Girolamo, tu viện dòng thánh Benedict tại Roma.

Giống hệt như cha Andrei đáng thương.

Không được tranh luận về những mệnh lệnh của Hồng y Catzinger, Cha tu viện trưởng nghĩ. Và cách hành xử gần đây của cha Nil khiến ông lo lắng. Đối với các vấn đề thì càng cách xa càng tốt.

Đức ông Calfo đã phải tạm ngưng một lát trong ngày Chủ nhật thú vị của mình để lướt qua văn phòng của ông ở ngay gần đó, nhưng vẫn không tiếp cận được người cộng tác của mình tại Cairo. Ông leo lên cầu thang trong căn hộ của mình bằng những bước chân hoạt bát. Điều đang chờ ông trên đó khiến ông quên đi những bất lợi của một người Napoli đẫy đà, và chắp cánh cho ông.

Em dấu yêu đang khỏa thân, và hiểu rõ trái tim tôi,

Nên chỉ giữ lại trên người những trang sức kêu vang.

Thực ra, trang sức duy nhất trên cơ thể Sonia đang thiếp ngủ chính là những ánh phản chiếu trên mái tóc cô. Calfo thích thú: “Thật là một nhà thơ đại tài, cái ông Baudelaire này! Nhưng ta sẽ không bao giờ cho họ đồ trang sức; duy chỉ có tiền mặt thôi.”

Moktar nói đúng: Sonia không chỉ tỏ ra hết sức có khiếu trong nghệ thuật tình ái, mà cô còn hoàn toàn kín đáo. Nhân lúc cô đang ngủ, ông nhấc điện thoại và gọi một lần nữa đến Cairo:

- Làm ơn cho gặp Moktar Al-Quraysh … Tôi chờ máy, cảm ơn.

Lần này, người ta đã tìm được hắn: hắn vừa xong buổi cầu kinh ở đền Al-Azhar.

- Moktar? Salam aleikoum [[18]]. Hãy cho tôi biết các học trò của anh có cho anh một chút thời gian rảnh lúc này không? Tuyệt vời. Anh hãy bay đến Roma, và chúng ta sẽ gặp nhau. Tiếp tục nhiệm vụ nhỏ mà tôi đã giao phó cho anh vì chính nghĩa … Vẫn hợp tác với kẻ thù yêu thích của anh à? Không, còn quá sớm, nếu cần anh sẽ liên hệ với anh ta ở Jerusalem. Ồ, cùng lắm là vài tuần thôi! Đúng thế, ở Teatro Marcellus như thường lệ: discrezione, mi racommando! [[19]]

Ông vừa gác máy vừa mỉm cười. Người cộng tác của ông đang phụ trách việc giảng dạy giáo lý kinh Coran tại đại học Al-Azhar nổi tiếng: một kẻ cuồng tín, người bảo vệ dữ tợn của giáo lý Hồi giáo. Khiến một người Ả rập và một người Do Thái, hai điệp viên ngầm thuộc các cơ quan đặc biệt vào loại đáng gờm nhất ở Trung Đông làm việc cùng nhau, để bảo vệ bí mật quý giá nhất của Giáo hội Công giáo: phải nói rằng đó chính là chủ trương giáo hội thế giới.

Chính trong khi làm công sứ của Tòa Thánh ở Cairo, ông đã gặp Moktar Al-Quraysh. Cả nhà ngoại giao và giảng viên giáo lý đều phát hiện ra rằng người kia cũng bị thiêu đốt bởi cùng một ngọn lửa được che dấu bên trong, điều đó đã tạo ra giữa họ một mối liên kết không ngờ đến. Nhưng không giống ông, người đàn ông Palestine này không tìm cách đạt đến mức độ siêu nhiên thông qua các lễ nghi tình ái. Hắn chỉ là một kẻ bị ám ảnh tình dục.

Sonia rên rỉ và mở mắt.

Ông đặt điện thoại lên sàn và nghiêng về phía cô.
 
Chương 33


- Quay lại Roma, Moktar. Hội đồng các Anh em Hồi giáo đã thuyết phục được Fatah về tầm quan trọng của nhiệm vụ này. Những vụ mưu sát của họ không đủ để bảo vệ đạo Hồi nếu bản chất thần khải của kinh Coran bị đưa ra xem xét lại, hoặc nếu nhân thân thiêng liêng của Đấng Tiên tri – cầu cho tên Người được ban phúc – có nguy cơ bị vấy bẩn vì một sự nghi ngờ bóng gió nào, dù là nhỏ nhất. Nhưng có một điều …

Moktar Al-Quraysh mỉm cười: hắn đang chờ đợi điều đó. Nước da nâu, cơ thể săn chắc và vóc người nhỏ bé của hắn lại càng làm nổi bật thêm dáng vóc cao lớn của Mustapha Machlour, thứ được tất cả các sinh viên của đại học Al-Azhar ở Cairo kính trọng.

- Đó là mối quan hệ của anh với người Do Thái kia. Việc anh làm bạn với hắn …

- Anh ta đã cứu mạng tôi trong cuộc chiến Sáu Ngày, vào năm 67. Tôi chỉ có một mình và không hề có vũ khí trước xe tăng của anh ta trong sa mạc, quân đội của chúng ta đang thua chạy tán loạn: anh ta đã có thể chèn lên người tôi, đó là luật của chiến tranh. Nhưng anh ta đã dừng lại, cho tôi uống nước và để tôi được sống. Đó không phải là một người Do Thái như những người khác.

- Nhưng đó là một người Do Thái! Và không phải là bất cứ người nào, anh biết mà.

Họ dừng lại dưới bóng tháp của giáo đường Al-Ghari. Mặc dù đã là cuối tháng Mười một, nhưng làn da mỏng manh của ông già vẫn khó chịu đựng nổi ánh mặt trời thiêu rọi.

- Đừng quên lời Đáng Tiên tri: “Hãy là kẻ thù của người Do Thái và người Cơ Đốc, chúng là bạn bè của nhau! Kẻ nào coi chúng là bạn là tự liệt mình vào với chúng, và Đấng Allah không dẫn dắt một dân tộc tự lừa dối mình [[20]].”

- Ông thuộc kinh Coran hơn bất kỳ ai, Mourchid ạ - hắn dùng danh hiệu “Người dẫn đường tối cao” của ông để thể hiện lòng kính trọng của mình. Chính Đấng Tiên tri cũng đã không ngần ngại liên minh với kẻ thù của mình vì một sự nghiệp chung, và thái độ của Người chính là tiền lệ, kể cả trong trường hợp của Djihad. Cả người Do Thái lẫn người Ả Rập đều không được lợi gì nếu nền tảng lâu đời của Cơ Đốc giáo bị đảo lộn một cách sâu sắc.

Người dẫn đường tối cao mỉm cười nhìn hắn.

- Chúng ta đã đi đến kết luận này trước anh rất lâu, và chính vì thế chúng ta đã để mặc anh hành động. Nhưng đừng quên rằng anh xuất thân từ bộ lạc đã chứng kiến Đấng Tiên tri ra đời – cầu cho tên Người được ban phúc. Vì vậy, hãy cư xử như một người Quraysh, anh đang mang cái họ vinh quang đó. Hãy làm sao để tình bạn đối với người Do Thái này không bao giờ khiến anh quên đi hắn là ai, cùng như hắn làm việc cho ai. Dầu và dấm có thể tạm thời ở cạnh nhau, nhưng chúng không bao giờ trộn lẫn vào nhau.

- Ông hãy yên tâm, Mourchid ạ, dấm của một người Do Thái không bao giờ ngấm được vào một người Quraysh, tôi có làn da bền lắm. Tôi biết người này, nếu tất cả kẻ thù của chúng ta đều giống anh ta, có lẽ hòa bình đã ngự trị ở Trung Đông rồi.

- Hòa bình … Sẽ không bao giờ có hòa bình cho một người Hồi giáo, chừng nào toàn thể trái đất này chưa cúi mình năm lần một ngày trước Qibla chỉ hướng đến Mecca.

Họ rời khỏi cái bóng che chở của tháp giáo đường và lặng lẽ tiến về phía cửa vào giảng đường, mái vòm của tòa nhà sáng rực rỡ dưới ánh mặt trời. Trước khi bước vào bên trong, ông già đặt bàn tay lên cánh tay Moktar.

- Còn cô gái, anh có tin tưởng cô ta không?

- Cô ta ở Roma tốt hơn nhiều so với cái nhà chứa ở Ả Rập Xê út nơi tôi đã lôi cô ta ra! Hiện tại, cô ta đang cư xử tốt. Nhất là cô ta không hề muốn bị gửi trả về gia đình mình ở Rumani. Nhiệm vụ này đơn giản, và chúng ta không sử dụng bất kỳ phương tiện tinh vi nào: chỉ là những phương pháp thủ công cũ kỹ và hiệu quả.

- Bismillah Al-Rach’im. Sắp đến giờ lễ rồi, hãy để ta làm sạch mình.

Bởi vì Người dẫn đường tối cao của Hội đồng các Anh em Hồi giáo, người kế vị của người sáng lập Hội đồng là Hassan Al-Banna, trước đáng Allah cũng chỉ là một muslim – một kẻ phục tùng – giống như mọi người.

Moktar tựa người vào một cây cột và nhắm mắt lại. Có phải là cái vuốt ve của mặt trời không? Hắn sống lại cảnh tượng đó: người đàn ông nhảy ra khỏi xe tăng và tiến về phía hắn, tay phải giơ lên để người phụ trách súng máy không bắn. Xung quanh họ, sa mạc Sinai đã im ắng trở lại, những người Ai Cập thua trận đang trốn chạy. Tại sao hắn vẫn còn sống? Và tại sao người Do Thái này không giết hắn ngay lập tức?

Viên sĩ quan người Israel có vẻ lưỡng lự, khuôn mặt hoàn toàn bất động. Đột nhiên, anh ta mỉm cười, và đưa cho hắn một túi đựng nước. Trong khi uống nước, Moktar nhận thấy một vết sẹo chạy dài bên dưới mái tóc vàng hoe cắt rất ngắn của anh ta.

Nhiều năm sau, phong trào Intifada nổ ra ở Palestine. Trong một con phố nhỏ ở Gaza, Moktar đang vơ vét một khu nhà nát mà những người Israel đang rút chạy bỏ lại trong cơn khốn khó. Hắn bước vào một cái sân bị lựu đạn phá toang: Một người Do Thái ngồi bệt dưới chân một bức tường thấp đang vừa ôm chân vừa rên khe khẽ. Anh ta không mặc đồng phục của Tsahal – chắc đây là một điệp viên của Mossad. Moktar chĩa khẩu Kalachnikov về phía anh ta và sắp sửa bóp cò. Khi nhìn thấy nòng súng chĩa vào ngực mình, gương mặt nhăn nhó vì đau đớn của người Do Thái đó động đậy, và phác ra một nụ cười. Từ tai anh ta, một vết sẹo chạy khuất vào dưới mũ.

Người đàn ông trong sa mạc! Người đàn ông Ả Rập chậm rãi nâng nòng súng lên. Khạc đờm và nhổ xuống trước mặt. Thò tay trái vào trong áo sơ mi, và vứt cho người Do Thái một túi bông băng cứu thương.

Rồi quay lưng đi và ra lệnh ngắn gọn cho quân của mình: tiến lên, chẳng có gì cũng không có người nào trong căn nhà tồi tàn này.

Moktar mỉm cười: Roma là một thành phố đẹp, đầy gái. Chắc chắn là nhiều hơn ở sa mạc.

Hắn sẽ quay lại Roma. Rất sẵn lòng.
 
Chương 34


Ba ngày sau, cha Nil cố lựa tư thế cho thích hợp với những chiếc ghế ngồi thiếu tiện nghi trên đoàn tàu Roma Express.

Ông đã sửng sốt khi biết mình bị triệu tập đến Roma mà không có lời giải thích nào. Những bản thảo âm nhạc cổ! Cha tu viện trưởng đã đưa cho ông tấm vé tàu chuyến ngày hôm sau, không thể quay lại Germigny để chụp ảnh phiến đá một lần nữa. Trong khi sắp xếp các tài liệu – vì không thể để lại bất cứ thứ gì có hại trong phòng mình – ông đã nhét xuống đáy va li cuộn phim lấy được trong văn phòng của cha Andrei. Liệu ông có thể rút ra được điều gì từ đó không?

Ông ngạc nhiên nhận thấy khoang tàu ông ngồi gần như trống không; tuy nhiên tất cả các chỗ ngồi còn trống đều đã được đặt trước. Chỉ có một hành khách duy nhất, một người đàn ông mảnh khảnh trung tuổi hình như đang ngủ, ngồi thụt vào trong góc sát hành lang. Khi khởi hành từ Paris, họ chỉ trao đổi với nhau một cái gật đầu. Mái đầu được bao bọc bởi một mái tóc vàng hoe như một vầng hào quang bị một vết sẹo dài cắt ngang.

Cha Nil cởi áo vest tu sĩ, gấp lại cho khỏi nhàu và đặt lên ghế bên phải.

Ông nhắm mắt lại.

Mục đích của cuộc sống tu sĩ là kìm nén mọi dục vọng, và loại bỏ chúng đến tận gốc rễ. Ngay từ khi tập tu, cha Nil đã ở trong một ngôi trường tốt: tu viện Saint-Martin tỏ ra là một nơi tuyệt vời cho việc từ bỏ cái tôi. Toàn tâm hướng đến việc tìm kiếm sự thật, ông không mấy đau khổ về điều này. Ngược lại, ông thích thú được giải thoát khỏi những dục vọng chế ngự loài người, khiến loài người phải chịu đau khổ nhiều nhất.

Từ lâu, ông không còn nhớ cảm giác giận dữ, đó là một dục vọng thấp hèn. Cho nên ông ngần ngại không muốn xác định điều mình cảm thấy từ vài ngày nay. Cha Andrei chết, việc điều tra được tiến hành qua quýt, rồi vụ việc bị xếp lại: kết luận là tự sát, một điều sỉ nhục đối với ông ấy. Ở tu viện, người ta rình rập, lục lọi, ăn cắp. Người ta gửi ông đến Roma như một gói hàng.

Giận dữ ư? Dù sao cũng có một cảm giác tức giận đang dâng lên, khiến ông lúng túng, giống như một trận dịch bỗng xảy ra do một căn bệnh đã biến mất từ lâu nhờ tiêm vắc xin.

Ông quyết định tạm gác lại việc xem xét căn bệnh đột phát này: “Đợi đến Roma. Thành phố này đã sống sót sau mọi chuyện.”

Ông đã kiên nhẫn dựng lại các sự kiện xung quanh cái chết của Jesus, để từ đó có thể dựng lại cuộc sống của người môn đồ cưng. Sau hội nghị Giám mục ở Jerusalem, người này vẫn tiếp tục sống. Cha Nil thấy giả thiết cho rằng ông đã trốn vào sa mạc là có vẻ đúng hơn cả: đó chính là nơi bản thân Jesus cũng nhiều lần ẩn nấp. Cũng chính tại sa mạc, người Esseni, sau đó là những người Do Thái yêu nước cuồng nhiệt, đã trú ngụ cho đến cuộc nổi dậy của Bar Kochba.

Vết chân của người này đã tan lẫn trong cát sa mạc. Để tìm lại, cha Nil phải nghe được một giọng nói vang lên từ dưới mồ, giọng người bạn đã mất của ông.

Tiếp tục cuộc kiếm tìm này sẽ có tác dụng như một phương tiện chuyển giải cho nỗi tức giận mà ông cảm thấy đang dâng lên trong người.

Ông cố gắng lựa tư thế thoải mái để ngủ một chút.

Tiếng động của đoàn tàu khiến ông dần cảm thấy đờ đẫn. Những ngọn đèn trên đoạn Lamotte-Beuvron vun vút chạy qua.

Khi ấy mọi việc diễn ra rất nhanh. Người hành khách trong góc hành lang rời chỗ ngồi và tiến lại gần, như để lấy thứ gì đó trong lưới trên đầu ông. Cha Nil đưa mắt nhìn lên theo phản xạ: lưới rỗng không.

Ông không có thời gian để suy nghĩ: mái tóc hoe vàng đã nghiêng xuống phía ông, và ông nhìn thấy bàn tay người đó đưa về phía chiếc áo vest tu sĩ.

Cha Nil đang định phản đối cử chỉ sỗ sàng đó của người đồng hành: “Cứ như một người máy vậy!”

Nhưng cánh cửa khoang tàu mở ra với một tiếng động ầm ĩ.

Người đàn ông nhanh chóng đứng thẳng người lên: bàn tay anh ta buông thõng xuống dọc thân người, nét mặt linh hoạt hẳn lên, và anh ta mỉm cười với cha Nil.

- Xin lỗi vì quấy rầy, thưa các ông – hóa ra là người soát vé. Những hành khách đặt chỗ trong khoang của các ông không có mặt. Ở đây tôi có hai nữ tu không tìm được chỗ ngồi cạnh nhau trên tàu. Nào, các xơ của tôi, hãy ngồi chỗ nào các bà muốn, vẫn còn đủ chỗ trong khoang này đấy. Chúc chuyến đi tốt đẹp.

Trong khi hai nữ tu bước vào và trịnh trọng chào cha Nil, người khách đi cùng lùi về chỗ của mình không nói một lời. Một lúc sau, anh ta nhắm mắt ngủ gà gật.

“Thật là một gã kỳ quặc! Anh ta làm sao thế nhỉ?”

Nhưng việc thu xếp chỗ ngồi của hai người mới đến đã thu hút toàn bộ sự chú ý của ông. Phải đưa một cái va li lên lưới, nhét hai cái hộp to tướng xuống dưới ghế ngồi, và sau đó là chịu đựng câu chuyện ba hoa không dứt của họ.

Đêm buông xuống, đang cố ru giấc ngủ, cha Nil nhận thấy người khách bí ẩn đối diện ông ngồi im, chìm sâu trong góc của anh ta.

Bị ánh bình minh đánh thức, khi ông mở mắt ra, chỗ ngồi trong góc hành lạnh trống không. Để ăn sáng, ông phải đi dọc toàn bộ đoàn tàu: không có dấu vết gì của người đàn ông cùng khoang.

Khi trở về khoang của mình, nơi một bà xơ tốt bụng bắt ông phải nếm thứ cà phê kinh khủng mà bà rót từ phích ra, ông phải thừa nhận một sự thật rõ ràng: người hành khách khó hiểu đã biến mất.
 
Chương 35


Pella (Jorrdan), năm 58

- Chân cha thế nào rồi, thưa abbou?

Người môn đồ cưng thở dài. Mái tóc ông đã bạc trắng, các đường nét trên mặt hõm sâu. Ông nhìn người đàn ông đang ở tuổi sung sức đứng bên cạnh.

- Thế là đã hai mươi tám năm kể từ khi Jesus chết, mười năm từ khi ta rời Jerusalem. Đôi chân đã đưa ta đến tận đây, Iokhanân ạ, và có lẽ chúng sẽ còn đưa ta đi xa nữa, nếu điều con nói với ta là đúng …

Họ ẩn dưới bóng của hàng cột, nền đất phủ một bức tranh ghép lộng lẫy thể hiện hình ảnh thần Dionysos. Từ đây, có thể thấy thấp thoáng những đụn cát trong sa mạc ngay bên cạnh.

Pella được những cựu binh của Alexandre Đại đế xây dựng trên bờ phía Đông sông Jordan, và đã bị phá hủy gần như hoàn toàn sau một trận động đất. Khi phải trốn khỏi Jerusalem trước sự đe dọa của những người ủng hộ Peter, ông thấy thành phố nằm ngoài Palestine này dường như có thể giúp ông được an toàn. Ông ở đây cùng mẹ của Jesus, sau đó không lâu những người chủ chốt trong số các môn đồ của ông cũng đến ở cùng. Iokhanân đảm nhận việc đi lại giữa Pella và nước Palestine láng giềng, thậm chí cả Syria nữa: Paul đã thiết lập tổng hành dinh của mình tại Antioche, một trong những thủ đô của vùng Tiểu Á.

- Thế còn Marie?

Tình cảm quyến luyến Iokhanân dành cho mẹ của Jesus làm cho người khác phải xúc động: “Đứa trẻ này đã nhận mẹ của một người bị hành hình làm mẹ nuôi, và đã nhận ta để thay thế cho người cha đẻ đã bị đóng đinh câu rút của mình.”

- Con sẽ gặp bà ấy sau. Cho ta biết thêm tin tức đi: ở đây, ta quá xa với mọi thứ …

- Mọi chuyện xảy ra cách đây vài tuần: Jacques, em trai của Jesus, cuối cùng đã chiến thắng. Ông ấy trở thành người đứng đầu toàn bộ cộng đồng ở Jerusalem.

- Jacques! Thế thì … còn Peter?

- Peter đã kháng cự hết khả năng của ông ta. Thậm chí ông ta còn định lật đổ Paul tại đất của ông ấy, ở Antioche nữa – nhưng đã bị đánh đuổi như một kẻ xấu xa! Cuối cùng, ông ta vừa xuống tàu đi Roma.

Hai người đàn ông cùng cười. Từ đây, nơi giáp ranh với sa mạc và sự trống trải mênh mông của nó, cuộc chiến vì quyền lực dưới danh nghĩa Jesus có vẻ thật nực cười.

- Roma … ta tin chắc như vậy. Nếu Peter không còn là người đứng đầu ở Jerusalem, Roma sẽ là nơi duy nhất để ông ta thực hiện tham vọng của mình. Chính ở Roma, Iokhanân ạ, ở trung tâm của Đế chế, Giáo hội mà ông ta mơ ước sẽ trở nên hùng mạnh.

- Còn một chuyện nữa: các môn đồ của cha ở Judee càng ngày càng bị gạt ra ngoài lề, thậm chí đôi khi còn bị quấy rối. Họ hỏi cha xem họ có phải trốn chạy như cha, và đến đây ở cùng cha không.

Ông già nhắm mắt lại. Ông cũng đã nghĩ đến cả điều này. Những người Nazareth không theo đạo Do Thái như Jacques, cũng không sẵn sàng thần thánh hóa Jesus như Paul: bị vây bọc giữa hai xu hướng đối nghịch nhau kịch liệt ngay trong lòng Giáo hội đang ra đời, lại không muốn bị đồng nhất vào bất kỳ xu hướng nào, họ có nguy cơ bị tiêu diệt.

- Hãy để những người không chịu đựng nổi các áp lực ấy đến sống cùng chúng ta ở Pella. Tại đây chúng ta được an toàn – trong lúc này.

Iokhanân thân mật ngồi xuống cạnh ông, và chỉ vào bó giấy da nằm rải rác trên bàn.

- Cha đã đọc chưa, thưa abbou?

- Cả đêm. Nhất là tập này, tập mà con nói là đã được truyền bá đến tận châu Á.

Ông chỉ khoảng ba chục tờ giấy được gắn với nhau bằng một sợi dây len ông đang cầm trong tay.

- Trong suốt những năm qua, Iokhanân nói, các tông đồ đã truyền miệng những lời nói của Jesus. Để chuyện cũ không mất đi sau khi họ chết, họ đã ghi lại vào đây nhưng không theo trật tự nào cả.

- Đó đúng là lời dạy của Người, đúng như những gì ta đã được nghe. Nhưng các tông đồ rất khéo léo. Họ không để Jesus nói điều ông chưa bao giờ nói: họ bằng lòng với việc thay đổi chỗ này một từ, thêm vào chỗ khác một sắc thái. Họ bịa ra những lời bình luận, hoặc tự gán cho mình những điều họ chưa từng nói. Chẳng hạn, ta đọc thấy rằng một hôm Peter đã quỳ xuống trước mặt Jesus và tuyên bố: “Người đích thực là Đấng Cứu thế, Con của Chúa trời!”

Ông vứt tập giấy lên bàn.

- Peter mà lại nói một điều như thế! Không bao giờ Jesus chấp nhận chuyện đó, cả ở ông hay ở bất kỳ người nào khác. Hãy hiểu rõ, Iokhanân: bằng cách đày cha đi xa, các tông đồ đã tự gán cho mình quyền làm chứng tuyệt đối. Trong tay họ, kinh Phúc âm đã trở thành khoản đặt cược cho quyền lực. Việc biến đổi Jesus sẽ ngày càng trầm trọng hơn, đó là điều hiển nhiên. Nhưng rồi họ sẽ đi đến tận đâu?

Iokhanân quỳ xuống bên chân ông, thân mật đặt tay lên đầu gối ông.

- Cha không thể để họ làm điều đó. Họ viết ra những ký ức của mình, cha cũng viết ký ức của cha. Những điều cha giảng ở đây cho các môn đồ của mình, cha hãy viết ra, và để văn tự này được truyền bá, giống như họ truyền bá những điều họ viết. Hãy kể lại đi, thưa abbou. Cha kể lại lần đầu tiên cha gặp Jesus bên bờ sông Jordan, chuyện Người chữa khỏi cho kẻ bị bại liệt tại bể nước Bethesda, những ngày cuối cùng của Jesus… Hãy kể về Jesus như cha đã kể cho con nghe, để Người không phải chết thêm một lần nữa!

Anh nhìn đăm đăm vào khuôn mặt người cha nuôi, người đang nhặt một tập giấy khác trên bàn.

- Còn Paul thì rất khôn khéo. Ông ta biết rằng mọi người chỉ có thể chịu đựng được cuộc sống khốn khổ của mình nhờ niềm tin vào việc phục sinh. Ông ta giải thích với họ: các ngươi sẽ được phục sinh, bởi vì Jesus là người đầu tiên đã phục sinh. Và nếu Người đã phục sinh … là vì người là Chúa, chỉ có Chúa mới có thể tự mình sống lại.

- Thế thì, thưa cha … Paul đã viết thư cho các môn đồ của mình phải không? Cha cũng hãy làm như vậy. Ngoài việc kể lại mọi chuyện, cha hãy viết cho chúng con một bức thư. Một bức thư để khôi phục sự thật, để nói rằng Jesus không phải là Chúa trời. Và bằng chứng … sẽ là việc nấm mồ của Người tồn tại.

Gương mặt ông chợt kín bưng, và Iokhanân nắm lấy hai bàn tay ông.

- Con đã không muốn nói với cha: Eliézer Ben-Akkai, thủ lĩnh cộng đồng người Esseni ở Jerusalem, đã chết. Liệu ông ấy có mang theo mình bí mật về nấm mộ của Jesus?

Đôi mắt ông già ngấn lệ. Cái chết của người đàn ông Esseni cũng có nghĩa là toàn bộ thời trai trẻ của ông đã bị xóa sạch.

- Chính hai con trai của Eliézer, Adôn và Osias đã chuyển thi thể đi. Họ cũng biết, và như vậy chúng ta có ba người biết, thế là đủ. Con đã học được từ cha cách làm thế nào để gặp gỡ Jesus ngay cả khi Người đã chết. Thế thì con được gì nếu biết vị trí phần mộ của Người? Mộ người được sa mạc tôn trọng, nhưng nó sẽ không được như thế trước con người.

Iokhanân nhanh nhẹn đứng lên, rồi biến mất một lát. Khi quay trở lại, anh cầm trên tay một cuộn giấy da mới tinh, còn tay kia là một cái bút làm bằng sừng trâu và một lọ mực bằng đất. Anh đặt các thứ lên bàn.

- Thế thì cha viết đi, abbou. Cha hãy viết để Jesus vẫn còn sống.
 
Chương 36


- Tôi tuyên bố khai mạc buổi lễ trang trọng này.

Hội trưởng Hội Thánh Pie V hài lòng nhận thấy một số đạo hữu của mình không dựa vào lưng ghế phô tơi: những người đó đúng là đã dùng bài Thánh vịnh dài Miserere để đo thời gian thực hiện hình phạt đánh roi kim loại.

Căn phòng cũng vẫn trống trải như vậy, trừ hai thứ gần như ngoại lệ: trước mặt ông, dưới chân thánh giá vấy máu, có đặt một chiếc ghế tựa đơn giản. Và trên mặt bàn trống trơn, chiếc ly đựng rượu mùi có chứa một thứ chất lỏng không màu, tỏa ra mùi đăng đắng nhẹ nhàng của quả hạnh.

- Người anh em, xin mời đến vị trí làm thủ tục.

Một trong những người tham dự đứng dậy, đi vòng quanh bàn và đến ngồi vào chiếc ghế tựa. Tấm vải che mặt ông ta rung động, dường như ông ta đang thở khá khó nhọc.

- Trong nhiều năm dài, ông đã phục vụ trong Hội của chúng ta mà không thể chê trách điều gì. Nhưng mới đây, ông đã phạm một lỗi lầm nghiêm trọng: ông tiết lộ một số bí mật về công việc đang tiến hành, có tầm quan trọng cốt yếu đối với sứ mệnh của chúng ta.

Người đàn ông giơ đôi tay cầu xin về phía cử tọa.

- Da thịt yếu đuối, các anh em, tôi cầu xin các anh em hãy tha thứ cho tôi!

- Không phải chuyện đó – giọng Hội trưởng sắc lạnh. Tội lỗi về xác thịt đã được xóa sạch bằng lễ phạt roi, giống như Thiên Chúa của chúng ta đã xóa tội cho người đàn bà ngoại tình. Nhưng nhân nói đến cô gái gây ra những lo lắng gần đây cho chúng ta …

- Cô ấy không còn khả năng gây hại được nữa!

- Quả vậy. Đã phải làm thế nào đó để cô ta không thể gây hại nữa, đấy luôn là điều đáng tiếc và phải là ngoại lệ.

- Vậy thì … bởi vì ông đã có lòng tốt giải quyết vấn đề này …

- Ông không hiểu, người anh em ạ.

Ông nói với những người tham dự.

- Nhiệm vụ này có tầm vóc rất quan trọng. Cho đến giữa thế kỷ XX, Giáo hội đã giữ quyền kiểm tra việc diễn giải Kinh Thánh. Từ khi Giáo hoàng Paul VI bất hạnh xóa bỏ Cơ quan kiểm duyệt sách cấm vào năm 1967, chúng ta không còn kiểm soát bất cứ thứ gì nữa. Bất kỳ ai cũng có thể xuất bản bất cứ thứ gì, và Danh mục sách cấm, là thứ giam cầm những ý tưởng độc hại trong ngục tù của các thư viện, đã rơi rụng như một ngón tay mắc bệnh hủi của chủ nghĩa hiện đại. Ngày nay, một tu sĩ bình thường ở tận đáy tu viện của ông ta cũng có thể đe dọa nghiêm trọng Giáo hội bằng cách đưa ra bằng chứng chứng tỏ Christ chỉ là một người bình thường.

Một cơn run rẩy lan khắp cử tọa.

- Từ khi Giáo hoàng rất Thánh Pie V thành lập Hội chúng ta, chúng ta đã chiến đấu nhằm giữ gìn hình ảnh của Đấng Cứu thế và Chúa hiện thân trong hài hình con người trước công chúng. Và chúng ta đã luôn thành công.

Các đạo hữu gật đầu.

- Thời thế đã thay đổi và đòi hỏi những phương tiện hiệu quả. Phải có tiền, để cô lập cái xấu, lập những trường dòng thánh thiện, kiểm soát các phương tiện truyền thông trên khắp hành tinh, ngăn chặn một số xuất bản phẩm. Phải có nhiều tiền để tác động tới các chính phủ trong các vấn đề liên quan đến chính sách văn hóa, giáo dục, để ngăn chặn phương Tây Cơ Đốc bị đạo Hồi hoặc các giáo phái khác xâm chiếm. Đức tin có thể nhấc bổng cả núi, nhưng đòn bẩy của nó là tiền. Tiền có thể làm mọi việc, được những bàn tay trong sạch sử dụng, nó có thể cứu cả Giáo hội, hiện bị đe dọa đến thứ quý giá nhất – giáo lý Hiện thân của Chúa và giáo lý Chúa ba ngôi.

Một tiếng thì thầm hưởng ứng nổi lên trong phòng. Hội trưởng nhìn chăm chăm vào thánh giá, dưới đó người bị kết tội đang run rẩy.

- Vậy mà chúng ta đang phải tính toán chuyện tiền bạc một cách khốn khổ. Các anh em có nhớ khối tài sản đột ngột xuất hiện và vô cùng lớn của các Hiệp sĩ dòng Đền không? Chưa bao giờ có ai biết tài sản đó từ đâu ra. Thế mà hiện nay, cái nguồn vô tận của tài sản này có thể đang nằm trong tầm tay chúng ta. Nếu sở hữu được nó, chúng ta sẽ có được những phương tiện không hạn chế để hoàn thành sứ mệnh của mình. Với điều kiện là …

Ông hạ mắt xuống người anh em khốn khổ dường như đang chảy ra thành nước trên chiếc ghế tựa, trong luồng ánh sáng dữ dội tỏa ra từ hai ngọn đền chiếu nhỏ gắn phía trên thánh giá.

- Với điều kiện là không để bất cứ sự hớ hênh nào làm tổn hại đến công việc của chúng ta. Sự hớ hênh này, người anh em ạ, chính ông đã phạm phải: chúng tôi đã nhổ được cái gai mà ông cắm vào thịt da Thiên Chúa, nhưng chỉ nên có ít cái gai như vậy thôi. Chúng tôi không còn tin ông nữa, và hôm nay sứ mệnh của ông chấm dứt. Tôi yêu cầu mười tông đồ đang có mặt ở đây khẳng định lại quyết định tối cao của tôi thông qua biểu quyết.

Mười bàn tay cùng đồng loạt đưa về phía thánh giá.

- Người anh em, tình cảm trìu mến của chúng tôi sẽ đi cùng ông: ông đã biết thủ tục rồi đấy.

Người bị kết tội mở móc cài che mặt. Hội trưởng đã thường xuyên gặp ông với khuôn mặt để lộ, nhưng những người khác mới chỉ nhìn thấy hai bàn tay.

Tấm khăn rơi xuống, để lộ nét mặt của một người cao tuổi. Đôi mắt ông thâm quầng, nhưng cái nhìn không lộ vẻ cầu xin: hành động cuối cùng này là một phần trong sứ mệnh mà ông đã chấp nhận khi trở thành thành viên của Hội. Lòng sùng kính của ông với Chúa Christ là trọn vẹn, hôm nay hẳn nó cũng không giảm đi.

Hội trưởng đứng dậy, và mười tông đồ khác làm theo. Họ chậm rãi đưa tay ra, cho đến khi các ngón tay chạm vào nhau.

Đối diện với thánh giá rỉ máu, mười con người, cánh tay bắt tréo, nhìn chăm chú vào người anh em của họ đang đứng dậy. Ông ta không run nữa: khi nằm trên giá gỗ, Jesus đã không run.

Hội trưởng cất giọng lạnh lùng :

- Người anh em, Chúa Ba ngôi biết rõ ông đã phục vụ sự nghiệp của một trong ba ngôi tận tụy đến đâu. Chúa Ba ngôi sẽ đón ông về với Người, trong ánh sáng thần thánh mà ông đã không ngừng tìm kiếm suốt cuộc đời.

Ông chậm rãi nhấc chiếc ly đặt trên bàn, nâng lên cao một lát như một bình rượu lễ rồi đưa cho ông già.

Với một nụ cười, người này bước lên trước một bước, và đưa bàn tay gầy guộc về phía chiếc ly.
 
Chương 37


Chào mừng cha đến San Girolamo! Tôi là cha Jean, tu sĩ tiếp khách.

Ra khỏi tàu Roma Express, cha Nil thấy lại dấu ấn của thời sinh viên và không chần chừ tiến về phía bến xe buýt đưa ông tới hầm mộ Priscilla. Rất vui sướng vì được trở lại thành phố, ông không nghĩ gì đến những biến cố trong chuyến đi nữa.

Ông xuống ở bến gần cuối, phía trên một con dốc ở đường Salaria. Nằm trong một khung cảnh vẫn còn xanh rờn, tu viện San Girolamo là một công trình nhân tạo của Giáo hoàng Pie XI, với mong muốn tập hợp các học giả uyên bác trên thế giới để biên tập lại Kinh Thánh – nhưng bằng tiếng Latin. Hội Thánh Pie V theo dõi sát sao từng người trong số các tu sĩ này, cho đến khi họ buộc phải thừa nhận rằng tiếng Latin chỉ còn được sử dụng tại Vatican: thế giới hiện đại chỉ trích công việc của họ. Từ đó, San Girolamo chỉ còn tồn tại bằng những kỷ niệm.

Cha Nil đặt va li ở lối vào hành lang màu vàng bẩn thỉu của tu viện, ở giữa có đặt một bồn phun nước, bên trên là một cụm tre rủ xuống buồn bã. Chỉ có mùi mì ống và hương hoa trúc đào thoang thoảng nhắc cho người ta nhớ mình đang ở Roma.

- Hôm qua, Cơ quan truyền bá đức tin đã báo cho tôi biết cha sẽ đến. Hồi đầu tháng, chúng tôi cũng đã nhận được yêu cầu như vậy đối với cha Andrei ở tu viện của cha, cha ấy đã sống ở đây nhiều ngày …

Cha Jean cũng nói liến thoắng như bất cứ người dân Roma nào sống ở Trastevere. Ông dẫn khách đi về phía cầu thang dẫn lên các tầng.

- Đưa va li của cha cho tôi … Ôi! Nó nặng thế! Tội nghiệp cha Andrei, chẳng biết chuyện gì đã xảy ra với ông ấy, sáng đó ông ấy ra đi mà không báo trước. Và chắc là ông ấy đã thu xếp hành lý vội vàng, vì đã để quên nhiều thứ trong phòng. Tôi vẫn để chúng đấy, trong phòng cha sẽ ở. Không ai đặt chân vào đó kể từ khi ông bạn bất hạnh của cha ra đi. Thế nào, cha đến để nghiên cứu về những bản thảo thời Grégoire à?

Cha Nil không nghe thấy làn sóng ngôn từ đó nữa. Ông sẽ ở trong phòng mà cha Andrei đã ở!

Cuối cùng cũng được giải thoát khỏi cha Jean, ông đưa mắt nhìn quanh phòng. Trái ngược với các phòng trong tu viện của ông, căn phòng này chất đầy đồ đạc nằm rải rác. Một cái tủ lớn, hai giá sách, một giường có trải đệm và giát lò xo, một cái bàn rộng với ghế tựa, một ghế phô tơi … Phảng phất cái mùi không thể xác định của các tu viện, mùi hôi của bụi khô và xi đánh gỗ.

Trên một trong hai giá sách, người ta để vài thứ đồ đạc cha Andrei bỏ quên. Một máy cạo râu, vài chiếc mùi soa, một bản đồ thành phố Roma, một sổ ghi chép … Cha Nil mỉm cười: sổ ghi chép của một tu sĩ, chẳng có gì nhiều để ghi lại!

Ông gắng sức đặt vali lên bàn. Va li gần như đầy ắp những ghi chép quý giá của ông. Lúc đầu, ông định xếp chúng lên giá, nhưng lại thay đổi: cái tủ có khóa. Ông xếp giấy tờ vào đó, nhét cuộn phim chụp ở Germigny xuống dưới cùng. Quay chìa khóa một vòng rồi bỏ vào túi, không chút tin tưởng.

Rồi ông dừng lại: trên bàn có một chiếc phong bì. Gửi cho ông.

Nil thân mến,

Cậu đến giúp mình trong việc nghiên cứu. Welcome in Roma! [[21]] Nói thật, mình không hiểu gì cả: mình chưa bao giờ yêu cầu họ triệu tập cậu đến đây! Nhưng dù sao mình cũng rất vui được gặp lại cậu. Qua văn phòng mình ngay khi có thể nhé: Văn phòng Quan hệ với người Do Thái, nằm trong tòa nhà của Cơ quan truyền bá đức tin. See you soon! [[22]]

Bạn cũ của cậu, Rembert Leeland.

Một nụ cười rạng rỡ sáng lên trên mặt ông: Remby! Hóa ra ông ấy chính là nhạc sĩ mà ông đến giúp việc! Lẽ ra ông đã có thể nghĩ đến điều đó, nhưng từ hơn mười năm nay, ông chưa gặp lại người bạn học cùng ở Roma, và ý nghĩ cho rằng ông được triệu tập đến Roma là vì ông ấy không hề thoáng qua đầu ông. Remby, thật là vui! Ít nhất chuyến đi cũng có điều này là tốt đẹp, vì đã cho phép họ gặp lại nhau.

Rồi ông đọc lại lá thư: Leeland cũng có vẻ ngạc nhiên như ông. Mình chưa bao giờ yêu cầu... Không phải ông ấy yêu cầu triệu tập ông đến đây.

Vậy thì, là ai?
 
Chương 38


Ông già mặc áo lễ trắng cầm chiếc ly hội trưởng đưa cho, đưa lên môi rồi uống một hơi thứ chất lỏng không màu. Ông nhăn mặt, và lại ngồi xuống ghế.

Mọi chuyện diễn ra rất nhanh chóng. Trước mặt mười một tông đồ, những cách tay vẫn đưa ra thành hình chữ thập, ông già nấc lên, rồi gập người làm đôi cùng một tiếng rên rỉ. Mặt ông chuyển sang màu tím, co rút lại thành một cái cười nhăn khủng khiếp, và ông ngã sụp xuống đất. Những cơn co giật kéo dài trong khoảng một phút, rồi người ông vĩnh viễn cứng đơ. Cái miệng há ra như để thở, một dòng nhớt dãi chảy xuống cằm. Đôi mắt ông mở to hết cỡ, nhìn trân trối lên cây thánh giá bên trên.

Các tông đồ chậm rãi hạ tay và ngồi xuống. Trước mặt họ, trên nền đất, hình thù màu trắng nằm bất động.

Người ngồi xa nhất bên tay phải hội trưởng đứng lên, tay cầm một mảnh vải.

Chưa đâu! Người anh em của chúng ta phải trao lại ngọn đuốc cho người kế vị mình. Làm ơn ra mở giúp tôi cánh cửa.

Tay vẫn cầm mảnh vải, đạo hữu đó đi ra mở cánh cửa bọc sắt ở cuối phòng.

Trong bóng tối lờ mờ, một dáng người màu trắng đang đứng, có vẻ chờ đợi.

- Bước lên trước đi, người anh em!

Người mới đến cũng mặc áo lễ trắng giống như những người tham dự, đầu đội mũ trùm, mảnh khăn màu trắng cài khuy hai bên mặt. Người đó bước lên trước ba bước rồi dừng lại, có vẻ khiếp sợ.

“Antonio, Hội trưởng nghĩ thầm, một chàng trai trẻ thật duyên dáng! Mình tiếc cho anh ta. Nhưng anh ta phải tiếp nhận ngọn đuốc, đó là luật lệ kế nhiệm của Tòa Thánh.“

Trước cảnh tượng ông già bị co giật vì cái chết đột ngột, đôi mắt của người hội viên mới vẫn mở to. Một đôi mắt rất kỳ lạ: mống mắt gần như đen tuyền, đôi đồng tử mở to vì ghê sợ mang lại cho anh một cái nhìn lạ lẫm, lại càng nổi bật dưới vầng trán phẳng phiu và xanh xao.

Hội trưởng đưa tay ra hiệu cho anh lại gần.

- Người anh em, anh có nhiệm vụ phải tự tay phủ mặt cho tông đồ này, người mà hôm nay anh sẽ kế nhiệm. Hãy nhìn kỹ mặt ông ấy: đó là khuôn mặt của một người hoàn toàn tận tụy với sứ mệnh của mình. Khi không còn khả năng làm tròn sứ mệnh đó nữa, ông ấy đã tự nguyện chấm dứt chức vụ. Hãy nhận lại ngọn đuốc từ tay ông ấy, để phụng sự như ông ấy đã phụng sự, và chết như ông ấy đã chết, trong niềm vui của Chúa.

Người mới đến quay sang phía người đã mở cửa và giờ đang đưa cho anh mảnh vải. Anh cầm lấy, quỳ xuống bên người chết và ngắm nhìn rất lâu khuôn mặt tím tái. Rồi anh lau chỗ bọt bẩn trên miệng, trên cằm ông, và cuối xuống hôn rất lâu lên đôi môi đã ngả sang màu xanh của người chết.

Rồi thẳng người, phủ mảnh vải trên khuôn mặt đang trương dần lên, và cuối cùng quay về phía những người anh em đang bất động.

- Tốt, Hội trưởng nói với giọng nồng nhiệt. Anh vừa trải qua thử thách cuối cùng, thử thách này khiến anh trở thành tông đồ thứ mười hai ở bên Chúa của chúng ta trong căn phòng lớn tại Jerusalem.

Antonio đã phải trốn khỏi vùng Andalusia quê hương: Opus Dei không dễ dàng để cho thành viên của mình rời bỏ tổ chức, giữ một khoảng cách nhất định với tổ chức này có lẽ là sự cẩn trọng cần thiết. Tại Viên, các cộng tác viên của Hồng y Catzinger đã phát hiện ra chàng trai trẻ trầm mặc có đôi mắt đen láy này. Sau nhiều năm quan sát, hồ sơ của anh được chuyển đến những người đứng đầu Cơ quan truyền bá đức tin, ông này đã đặt nó lên bàn của Calfo mà không bình luận gì.

Phải thêm hai năm điều tra cẩn thận do Hội Thánh Pie V tiến hành. Hai năm theo dõi, nghe trộm điện thoại, giám sát gia đình và bạn bè của anh vẫn đang sống ở Andalusia... Khi Calfo hẹn gặp anh trong căn hộ của mình tại Lâu đài San Angelo để tiến hành một loạt phỏng vấn, có lẽ ông đã biết rõ về anh hơn anh tự hiểu mình. Tại Viên, thành phố ưa khoái lạc, người ta đã thử thách anh bằng mọi cách: anh đã cư xử tốt. Anh không màng đến lạc thú cũng như tiền bạc, mà chỉ quan tâm đến quyền lực và bảo vệ Giáo hội Công giáo.

Hội trưởng đưa tay ra hiệu cho anh. “Anh chàng người Andalusia, dòng máu Moritani. Chỉ trích các phương pháp của Opus Dei. Ưu tư kiểu Ả Rập, hư vô kiểu Viên, vỡ mộng kiểu phương Nam: Một tân binh tuyệt vời!”

- Hãy về vị trí của mình trong số Mười hai người, người anh em.

Đối diện với bức tường trống trơn chỉ có hình ảnh rướm máu của người bị đóng đinh câu rút, Mười hai người lại một lần nữa tập hợp đầy đủ quanh Thầy.

- Anh đã biết sứ mệnh của chúng ta. Anh sẽ đóng góp vào sứ mệnh này ngay từ bây giờ, bằng việc giám sát chặt chẽ một tu sĩ người Pháp đến ở San Girolamo hôm nay. Tôi vừa được biết rằng một điệp viên nước ngoài suýt làm đứt đoạn một quá trình quan trọng liên quan đến tu sĩ này, trên tàu Roma Express. Một rắc rối đáng tiếc, anh ta đã không nhận được bất kỳ mệnh lệnh nào theo hướng này, tôi không trực tiếp kiểm soát anh ta.

Hội trưởng thở dài. Ông chưa bao giờ gặp người này nhưng có hồ sơ đầy đủ về anh ta: “Không thể lường trước. Bị ám ảnh về nhu cầu được náu mình trong hành động. Nếu không phải là một thách thức âm nhạc thì phải là trạng thái kích động do nguy hiểm- Mossad [[23]] đã tước bỏ giấy phép giết người của anh ta.”

- Đây là những chỉ dẫn đầu tiên cho anh – ông đưa một phong bì cho người anh em mới. Những chỉ dẫn tiếp theo sẽ đưa cho anh vào thời điểm thích hợp. Và hãy nhớ anh đang phụng sự ai!

Bàn tay phải của ông chỉ lên cây thánh giá nổi bật trên tấm ván bằng gỗ gụ. Viên ngọc thạch anh màu xanh lục trên chiếc nhẫn của ông tỏa ra một tia sáng.

“Thưa Thầy! Có lẽ từ thời cái Hiệp sĩ dòng Đền, Người chưa bao giờ bị nguy hiểm như thế này. Nhưng Mười hai tông đồ của Thầy, khi có được vũ khí giống như của họ, sẽ dùng nó để bảo vệ Người!”
 
Chương 39


Hồng y Emil Catzinger ra hiệu cho một người đàn ông cao lớn, dong dỏng, có vầng trán rộng bên trên cặp kính vuông ngồi xuống.

- Mời Đức ông ngồi...

Phía sau cặp kính, đôi mắt Rembert Leeland linh lợi. Khuôn mặt dài kiểu người Anglo-Saxon, nhưng lại có cặp môi dày của một nghệ sĩ. Ông đưa mắt nhìn Đức Hồng y với vẻ dò hỏi.

- Hẳn là ông đang tự hỏi tại sao tôi lại triệu tập ông…Trước tiên cho tôi biết: quan hệ với các anh em Do Thái của chúng ta có chiếm hết thời gian của ông không?

Leeland mỉm cười, khiến khuôn mặt của ông có vẻ của một sinh viên tinh nghịch.

- Không hẳn thế, thưa Đức Hồng y. Thật may mắn là tôi còn có việc nghiên cứu âm nhạc!

- Precisamente, [[24]], chúng tôi có biết điều đó. Đức Thánh Cha cũng rất quan tâm đến các nghiên cứu của ông. Nếu ông có thể chỉ ra rằng Thánh ca Grégoire có nguồn gốc từ nghệ thuật hát Thánh vịnh của đạo Do Thái vào thời Trung cổ, đó sẽ là một yếu tố quan trọng chứng tỏ quan hệ gần gũi giữa chúng ta và đạo Do Thái. Chúng tôi cũng đã tìm cho ông một phụ tá là chuyên gia để giải mã các văn bản cổ mà ông phải nghiên cứu… Một tu sĩ người Pháp, chuyên gia chú giải tuyệt vời. Cha Nil, đến từ tu viện Saint-Martin.

- Tôi đã được biết tối qua. Chúng tôi từng học đại học cùng nhau.

Hồng y mỉm cười.

Vậy là hai người đã quen biết nhau, đúng không? Thế nghĩa là vừa dễ chịu lại vừa hữu ích, tôi rất phấn khởi trước những cuộc hội ngộ bạn bè. Ông ấy vừa mới đến, hãy gặp gỡ ông ấy thường xuyên như ông muốn. Và hãy nghe ông ấy nói. Cha Nil là một cái giếng kiến thức, ông ấy có nhiều điều để nói, và ông sẽ học được rất nhiều khi ở bên ông ấy. Hãy để ông ấy nói về điều ông ấy quan tâm. Và rồi… thỉnh thoảng, ông soạn cho tôi một báo cáo về nội dung những lần trò chuyện của các ông. Báo cáo viết nhé: tôi sẽ là người nhận duy nhất. Ông hiểu chứ?

Leeland mở to mắt kinh ngạc. “Điều này có nghĩa là gì? Ông ta yêu cầu mình gợi cho Nil nói chuyện, rồi sau đó viết báo cáo? Ông ta coi mình là ai chứ?”

Hồng y quan sát khuôn mặt sinh động của tu sĩ người Mỹ. Ông đọc được ngay những điều đang diễn ra trong ông này, liền nở một nụ cười hiền từ:

- Đừng sợ, Đức ông ạ, tôi không yêu cầu ông phải tố giác ai cả. Chỉ là thông báo cho tôi về những nghiên cứu và công việc của bạn ông. Tôi rất bận, và có lẽ không có thời gan tiếp ông ấy. Mà tôi lại cũng rất tò mò muốn biết những tiến bộ mới nhất trong lĩnh vực chú giải Kinh Thánh… Ông sẽ giúp tôi qua việc góp phần thông tin cho tôi.

Khi thấy rằng mình chưa thuyết phục được Leeland, giọng ông trở nên khô khan hơn:

- Tôi cũng nhắc thêm về tình trạng hiện nay của ông. Chúng tôi đã phải lôi ông ra khỏi nước Mỹ bằng cách bổ nhiệm ông về đây, ở hàng Giám mục, để chấm dứt ngay vụ bút chiến bê bối ông đã gây ra ở đó. Đức Thánh Cha không dung thứ cho người nào đó đòi xem xét lại việc Người từ chối – một cách tuyệt đối và có cơ sở - phong chức linh mục cho những người đàn ông đã kết hôn. Vì sau đó hẳn sẽ đến lượt phụ nữ, sao lại không chứ? Người lại càng không dung thứ cho việc một tu viện trưởng dòng Benedict, người đứng đầu tu viện danh giá St.Mary, dám công khai khuyên ngài về vấn đề này. Đức ông ạ, ông đang có một cơ hội chuộc lại lỗi lầm trong mắt Giáo hoàng. Vậy nên tôi tin tưởng vào sự hợp tác kín đáo, hiệu quả và không sai sót của ông. Ông đã hiểu tôi chưa?

Đầu cúi xuống, Leeland không trả lời. Lúc đó, Hồng y lại lấy lại giọng điệu của cha mình, khi ông ta từ mặt trận phía Đông trở về:

- Thật khó cho tôi khi phải nhắc ông, Đức ông ạ, rằng còn vì một lý do khác mà chúng tôi phải khẩn cấp đưa ông rời bỏ đất nước mình, và khoác lên người ông phẩm tước Giám mục là thứ vừa bảo vệ lại vừa mang lại vinh dự cho ông. Bây giờ ông đã hiểu chưa?

Lần này, Leeland ngước lên nhìn Hồng y bằng đôi mắt của một đứa trẻ buồn rầu, và ra hiệu ông đã hiểu. Chúa tha thứ mọi tội lỗi, nhưng Giáo hội bắt các thành viên của mình phải gánh hậu quả của những tội lỗi này.

Lâu dài.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Back
Top Bottom