Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


Khi chúng tôi đến được Raleigh thì trời đã tối. Đi hết đường cao tốc 64, chúng tôi rẽ vào I-40, sau đó vòng lại qua Công viên Tam giác Nghiên cứu, chuyển sang hướng Tây về phía Tennessee.

"Trông kìa," Rachel nói khi nhìn những ánh đèn thân thuộc loang loáng trôi qua. "Lúc trời tối như thế này, tôi gần như tin rằng anh sẽ thả tôi về nhà tôi ở Durham, và tôi có thể vào nhà uống một tách trà."

"Giờ thì cô biết rõ hơn rồi đấy."

Cô nhìn tôi hồi lâu rồi khẽ thở dài trong bóng tối.

"Tôi thật tiếc đã kéo cô vào tất cả chuyện này," tôi nói. "Tôi cũng chưa có lúc nào xin lỗi cô cho phải."

"Tự tôi dấn vào chuyện này đấy chứ."

"Không. Tôi đã kéo cô vào từ lúc tôi chọn cô làm bác sĩ tâm thần cho mình."

Vẻ mệt mỏi trên mặt Rachel cho thấy cô đã quá quen với việc phải xử lý những lỗi lầm của người khác.

"Đừng cố mà đoán mò thói đỏng đảnh của số phận. Nếu có một con bướm nào vẫy cánh ở Malaysia trước khi anh gọi, có thể anh đã tìm thấy một người khác. Đời là thế."

Trước đây, tôi cũng đã tự nhủ thế về những chuyện tương tự, nhưng trong trường hợp này tôi không thể nào tin vào nó.

"Không, tôi tìm ra cô vì cô là người giỏi nhất trong lĩnh vực của mình. Một nhà phân tích theo trường phái Jung thì không giống một bác sĩ tâm thần thông thường. Tôi biết nói điều này ra nghe có vẻ trẻ con, nhưng tôi có cảm giác rằng số tôi là phải tìm cô."

Cô nhìn tôi với đôi mắt thông cảm vô hạn, nhưng đằng sau vẻ thông cảm tôi thấy nỗi đau. Bằng cách nào đó, tôi đã chạm vào nỗi niềm sâu lắng của cô. Khi cô nói, giọng cô nghe thật hờ hững.

"Thật dễ khi tự nhủ rằng những gì xảy ra với ta là tiền định. Điều đó an ủi ta. Nó cho ta cảm giác hình như còn có một kế hoạch gì to lớn hơn. Tôi nghĩ tôi và chồng tôi có duyên sống với nhau. Nhưng chúng tôi đã không sống được như thế. Đó chỉ là một lựa chọn tồi mà tôi đã coi là vận mệnh cho có vẻ hợp lý. Thật ra điều này thảm hại làm sao."

"Thảm hại ư? Cuộc hôn nhân ấy đã đem lại cho cô một đứa con mà."

"Vậy ai đã chết trong đau đớn và sợ hãi khi tuổi mới lên năm?"

Giọng cô có vẻ cáu giận. Trong bao năm hành nghề y, tôi đã từng thấy nhiều trẻ em chết, nên tôi hiểu điều đó ảnh hưởng tới những người làm cha mẹ như thế nào. Họ có thể bị suy sụp đến mức không thể gượng lại nổi. Ngay cả các y bác sĩ cũng không tránh khỏi điều này. Cái vỏ chuyên nghiệp dễ dàng tan chảy trước một đứa trẻ chịu đau đớn. Đối với tôi, nỗi đau đớn này - nỗi đau của lũ trẻ ngây thơ - là trở ngại đầu tiên đối với niềm tin vào Thượng đế.

"Cô với con cô còn có năm năm yêu thương nhau vô điều kiện. Chẳng lẽ cô lại muốn nó không ra đời để rốt cuộc cả hai người khỏi phải chịu nỗi đau ấy sao?"

Cô trừng trừng nhìn tôi phẫn nộ. "Gì anh cũng nói được à? Anh không e dè trước một giới hạn nào cả."

"Không, nếu như ta có quyền vượt qua chúng." Tôi đang nói về chuyện mất đứa con của chính tôi, và cô biết điều đó.

Cô lại nhìn ra ngoài cửa sổ. "Thôi không nói chuyện này nữa."

"Chúng ta đâu có cần phải nói. Nhưng chúng ta cần được tiếp tế đấy. Tôi sắp sửa dừng xe trước cửa hàng Wal-Mart mở cửa suốt đêm ở Winston-Salem hay Asheville. Như vậy cô có vài giờ để ngủ."

"Tôi mệt bã người rồi," cô thừa nhận.

"Ghé lại đây."

"Cái gì?"

"Cô tựa vào đây?"

"Vào vai anh ấy à?"

"Không. Can đảm lên. Cô nằm cuộn người trên ghế và gối đầu lên đùi tôi."

Cô lắc đầu, nhưng không phải để từ chối. Tôi chăm chú nhìn đường. Sau vài phút, cô tuột giày, nằm gập chân và gối đầu lên bắp đùi phải của tôi. Tôi có cảm giác đôi mắt cô vẫn mở, nhưng tôi không nhìn xuống. Tôi hạ thấp bàn tay phải và bắt đầu xoa vuốt trán cô, luồn tay vào tóc cô.

"Anh làm tôi nhớ lại hồi bé," cô nói.

"Tôi không nói chuyện với cô đâu. Nhắm mắt lại."

Lát sau, cô nhắm mắt.

Chúng tôi đến Asheville lúc mười giờ ba mươi tối. Cửa hàng Wal-Mart rực rỡ ánh đèn trông như một ốc đảo trong bóng tối, và tôi đã chạy qua biên giới bang. Đầu Rachel vẫn tựa trên đùi tôi, cẳng chân phải của tôi dường như tê dại cả đi. Cô không có phản ứng khi tôi nói. Tôi những muốn để cô lại trên xe để vào cửa hàng, nhưng tôi không muốn cô tỉnh dậy thấy có một mình nơi đỗ xe. Còn có khả năng cảnh sát địa phương đã nhận được tin báo từ những người ngư dân bị mất xe nữa. Để tránh bị phục kích khi chúng tôi ra khỏi cửa hàng, tôi đánh thức Rachel dậy rồi kéo tuột cô vào trong dãy cửa kính, tại đấy cô có thể nhận ra ngay kẻ nào tỏ ra quan tâm quá mức đến chúng tôi trong chiếc Ram màu nâu đỏ.

Tôi đi thẳng đến gian hàng bán đồ thể thao và bắt đầu nhặt các thứ cần thiết, bên cạnh một quầy thu tiền vắng người. Lều trại hai người. Túi ngủ. Ba lô. Đèn dầu, dây may so và dầu. Tại một gian khác, tôi chọn bộ áo liền quần ngụy trang Silent Shadow, khăn trùm đầu, ủng cao su ngụy trang và đồ lót cách nhiệt. Ở một gian hàng khác nữa, tôi chọn một chiếc cung bằng nhựa tổng hợp, tám mũi tên và ống đựng tên. Cuối cùng, tôi chất lên trên đống hàng một chiếc la bàn, một ống nhòm, một dao găm Gerber, thuốc khử trùng, một đèn pin Maglite và hai điện đài xách tay chạy bằng pin. Rồi tôi tìm người bán hàng để tính tiền tất cả chỗ đó.

Thiếu phụ Mexico mà tôi tìm được có vẻ nghi ngờ tiền mặt của tôi. Trong khi cô ta kiểm tra từng tờ 100 đô xem thật hay giả, tôi vào gian hàng hóa mỹ phẩm mua thuốc đánh răng, bàn chải răng và xà phòng. Tổng số tiền hàng lên tới 1.429,84 đô. Trả tiền xong, tôi đẩy xe hàng ra tiền sảnh, để đấy cho Rachel, rồi lấy một chiếc xe khác sang gian hàng tạp phẩm, lấy đủ các thứ giúp chúng tôi sống qua vài tuần, không quên mấy chai nước uống. Trên đường ra quầy thanh toán, tôi thầm nghĩ ngạc nhiên làm sao khi giữa đêm hôm khuya khuắt, tôi lại từ đường cao tốc ghé vào một cửa hàng phục vụ 24/24, tự trang bị cho mình đầy đủ để có thể sống dài ngày nơi hoang dã. Cha tôi chắc không thể tin nổi chuyện này.

Khi tôi ra, Rachel giơ ngón tay ra hiệu OK, và tôi thở nhẹ nhõm hơn. Ở cửa ra, một tay bảo vệ chặn tôi lại nhưng chỉ để kiểm tra số hàng mang ra so với biên lai. Mười giây sau chúng tôi bước qua bãi đậu xe. Tôi quẳng các thứ mua được vào sau ghế ngồi, giúp Rachel lên xe, rồi chạy trở lại đường I-40.

Ngay trước khi đến biên giới bang, tôi rẽ vào bãi đậu xe của nhà nghỉ Best Western, đậu xe giữa hai xe tải ở hàng cuối. Một chiếc là Dodge Ram màu xanh có gắn moóc. Dùng một tuốc nơ vít trong hộp dụng cụ, tôi tháo biển số Texas của xe Ram, thay cho biển số chiếc xe nâu đỏ của chúng tôi. Xong tôi lái lên đường I-40 nhằm thẳng hướng Tây về phía ranh giới Tennessee, nó nằm đâu đó trong rặng Appalachian phía trước.

Chẳng bao lâu Rachel đã lại ngáy êm, đầu cô vẫn gối trên đùi tôi. Tôi vặn radio chọn kênh đang phát nhạc của David Gray, mắt khẽ nhắm hờ chỉ để đủ quan sát hai mép đường. Chúng tôi đang chạy về quá khứ của tôi, về phía những cánh rừng tuổi thơ, một thế giới đầy ắp sự tương phản kỳ lạ và ký ức không phai mờ. Phòng Thí nghiệm Quốc gia Oak Ridge là một trong những trung tâm công nghệ cao nhất của cả nước, thế mà lại nép mình giữa rừng già rậm rạp. Ở đó, tôi được đi học với con cái những ông bà thông minh sáng láng từ Chicago và New York đến và con cái những người đàn ông đàn bà gầy guộc hốc hác chưa từng rời khỏi hạt từ lúc sinh ra. Một số nhà khoa học thấy chỗ quê mùa này buồn chán, nói thẳng ra là khó chịu, nhưng đối với gia đình tôi cảnh núi rừng bao quanh Oak Ridge là một thiên đường.

Xung quanh Oak Ridge có nhiều chỗ kín đáo có thể ẩn náu, nhưng có một nơi tuyệt nhất. Năm ngoái tôi đã nghe một người bạn từ thời thơ ấu kể rằng vì lý do kinh phí hạn chế, chính phủ đã đóng cửa Công viên Quốc gia Frozen Head. Nơi đó tôi với anh tôi đã cắm trại không biết bao nhiêu lần. Bây giờ, công viên vùng núi này đã trở nên hoang phế nhưng vài người đi bộ cuồng nhiệt vẫn vụng trộm đến đây thưởng thức kỳ nghỉ của mình mà không làm phiền đến ai.

Chúng tôi băng qua ranh giới Tennessee ở cực Nam Rừng Quốc gia Pisgah. Chúng tôi đi xuyên rừng già và đến nửa đêm đã qua Knoxville. Tôi chạy tiếp về phía Tây trên đường 62 và không đầy ba mươi phút sau, chúng tôi đã chạy xe qua Oak Ridge, "thành phố bí mật" của Mỹ trong Thế Chiến II. Ngày nay nó nổi tiếng trên thế giới về các căn cứ hạt nhân, nhưng trong Thế Chiến II, nó không có tên trên bản đồ. Trong khoảng thời gian từ 1945 đến 1975 - những năm tôi rời đến Alabama - Oak Ridge đã phát triển thành một nơi kiểu thành phố nhỏ bình thường của Mỹ. Nhưng không bao giờ hoàn toàn như vậy. Luôn có một cảm giác chung về sứ mệnh của Oak Ridge, và chứng cớ về giá trị của thành phố này tuy không nhìn thấy được nhưng vẫn luôn tồn tại. Chúng tôi, những người đã từng sinh sống ở đó biết rõ rằng nếu có xảy ra chiến tranh hạt nhân thì chỉ vài phút là tất cả chúng tôi sẽ thành tro bụi. Ngay trong đêm tối, tôi cũng có thể thấy thành phố đã phát triển hơn nhiều kể từ ngày tôi xa nó. Có thêm nhiều nhà hàng nhượng quyền nằm dọc hai bên đường, thêm nhiều chuỗi cửa hiệu, nhưng trái tim thành phố vẫn là phòng thí nghiệm và những lò phản ứng uranium thời chiến, nó thu hút trí tò mò của du khách muốn nhìn những vũ khí đã giúp người Mỹ chiến thắng trong cuộc chiến với Nhật Bản.

Rời khỏi Oak Ridge trên đường cao tốc 62, xe chúng tôi là phương tiện duy nhất đang chạy trên đường. Chúng tôi đi bọc theo chân núi Big Brushy, phía bên kia là nhà tù bang. Ba ranh giới hạt gặp nhau ở chỗ hoang vắng này, một thế giới chìm trong màn sương, nơi lớp hậu duệ của những người thợ mỏ, người nấu rượu lậu sinh sống. Họ cứ sống dai dẳng trong cái thung lũng mờ tối này và dọc theo các hầm mỏ bỏ hoang vẫn còn lại như những vết sẹo trong vùng núi.

Tôi vòng lên hướng Bắc theo đường 116, một con đường nhỏ băng qua làng Petros, rồi qua nhà tù, một khu đất rào kín trông rõ ngán ngẩm được chiếu sáng chói gắt bằng đèn thủy ngân cao áp và có hàng rào dây thép gai bao quanh. Phía Bắc nhà tù, con đường uốn gập lại giống như một con rắn bị thương. Tôi rẽ trái theo một đường mòn không có số trên bản đồ, nhưng tôi nhớ rất rõ. Chẳng mấy chốc tôi đã đến trước cổng công viên quốc gia cũ bị bỏ hoang, nay có lẽ đã bị phong tỏa.

Cách cổng chừng chục mét, tôi chạy chậm lại và ngó tìm lối vào giữa những hàng cây. Khi nhìn thấy một lối đi, tôi đạp phanh, rẽ khỏi đường và mười giây sau chúng tôi đã biến vào trong đó. Tôi tiếp tục chạy cho đến khi cây cối trở nên quá rậm rạp và đất dốc không thể đi tiếp được nữa. Tôi dừng xe, tắt máy.

Rahel nằm không nhúc nhích. Tôi nhoài người lấy mấy túi ngủ ở sau ghế. Khi tôi giở chúng ra, cô giật mình tỉnh dậy, nhỏm phắt lên khỏi đùi tôi, căng mắt nhìn vào bóng tối.

"Anh định làm gì vậy?"

"Bình tĩnh nào," tôi nói. "Cô ổn cả. Chúng ta đến rồi."

"Đây là đâu?" Cô cố nhìn ra ngoài cửa sổ, nhưng dưới những lùm cây không có chút ánh sáng nào. Chúng tôi như lọt vào một cái hang.

"Chúng ta đang ở bên ngoài Oak Ridge, ở một nơi gọi là Frozen Head. Đó là một công viên quốc gia cũ bị bỏ hoang."

"Frozen Head?"

"Cô ngủ say cả mấy tiếng đồng hồ."

Cô lắc đầu. "Tôi có ngủ được trên xe đâu."

"Ừm, vậy cứ nhắm mắt để đấy đi. Tôi sẽ đánh thức cô trước khi trời sáng."

Cô chớp mắt như thể vừa tỉnh khỏi cơn mê. Rồi cô đưa tay lên che miệng và nhăn mặt. "Anh có mua bàn chải đánh răng không?"

"Có. Cô có thể đánh răng khi trời sáng."

"Tôi muốn đi tiểu."

"Xung quanh toàn là rừng rậm đấy."

"Liệu ra ngoài có an toàn không?"

Tôi định bảo cô phải cẩn thận coi chừng rắn đuôi chuông, nhưng có lẽ cô sẽ không ra nữa nếu tôi nói thế. "Đây là nơi an toàn nhất trong hai mươi bốn giờ qua."

Cô xuống xe đi ra khỏi vùng sáng nhưng không đóng cửa xe. Ánh sáng rọi vào chúng tôi như một chiếc đèn lồng trong rừng. Cô đi khá lâu, tôi dần thấy lo lắng. Mưa bắt đầu rơi rào rào trên kính chắn gió, và tôi nghe tiếng cô hét lên. Cô leo vội lên xe khi chưa kịp kéo khóa quần, đóng sầm cửa lại.

"Trời mưa to quá," cô nói, tay kéo khóa quần.

"Mưa là tốt cho chúng ta. Nó che lấp tiếng động khi ta đi trong rừng."

Cô kéo túi ngủ qua ngực, rùng mình. "Tôi không muốn làm anh thấy phiền, nhưng thế này tệ quá. Chẳng lẽ chúng ta không nghỉ tạm trong một nhà nghỉ rẻ tiền nào đó được sao?"

"Lúc này không một ai trên thế giới biết chúng ta đang ở đâu. Vì thế không ai có thể tìm ra chúng ta. Đấy là điều chúng ta muốn. Ngủ đi."

Cô gật đầu và ngồi tựa lưng vào cửa.

Tôi ngồi nghe bản giao hưởng của mưa và tiếng động cơ lách tách, nhớ lại những buổi sáng trước khi trời rạng, tôi thức cùng cha và anh chờ bắn vịt trời hay hươu nai. Tôi mệt bã người nhưng biết mình phải tỉnh táo trước lúc mặt trời lên. Một vùng nguyên sơ nào đó trong não tôi thiếp ngủ trong các thành phố nay đã được đánh thức nơi rừng hoang, đang thì thầm với tôi nhịp điệu của rừng với độ chính xác không giảm sút. Nhịp điệu đó nói với tôi khi nào trời sắp sáng, khi nào sắp mưa, khi nào trò chơi tiếp tục. Tôi kéo túi ngủ lên ngang cằm.

"Chúc ngủ ngon," tôi nói với Rachel.

Chỉ có tiếng thở đều đều của cô đáp lại.

Tôi bừng tỉnh khi bóng xanh mờ đầu tiên lọt qua tán cây. Tôi chớp mắt nhiều lần, rồi quan sát nhanh cảnh vật mà không quay đầu. Không thấy gì lạ, tôi nhẹ nhàng lay gọi Rachel. Cô lại giật mình ngồi dựng lên, nhưng không đến nỗi quá hoảng hốt như hồi đêm.

"Giờ ta đi," tôi nói.

"OK," cô lầm bầm trong miệng, nhưng trông cô như sẵn sàng ngủ tiếp.

Tôi bước ra ngoài để trút nhẹ bàng quang, rồi lấy các thứ ở sau ghế ngồi ra. Tôi bỏ phần lớn vào ba lô của mình, chỉ đưa cho Rachel túi ngủ, vài hộp thức ăn và mấy bình châm xăng. Khi cô ra ngoài, tôi đưa thêm cho cô bộ áo liền quần ngụy trang, tất dày và ủng.

Mặt cô nhăn nhó, nhưng cô cũng lấy quần áo và đi ra sau xe. Khi cô đang thay quần áo, tôi đặt cung và túi tên vào ba lô của mình. Xong tôi mặc bộ áo liền quần và đi ủng vào. Khi tôi khoác ba lô lên vai, rừng như đột nhiên bừng sáng, tôi biết mặt trời đã ngự trên đỉnh núi Windrock ở hướng Đông.

Rachel đi vòng quanh xe trông như những nữ quân nhân Israel mà tôi từng nhìn thấy trong các bức ảnh. Cô khoác ba lô lên vai không đến nỗi lúng túng lắm, và cô không than phiền về sức nặng của nó.

"Các bạn cô mà trông thấy cô bây giờ nhỉ," tôi nói, cài chiếc điện đài lên thắt lưng cô.

"Chắc bọn họ phải cười bò ra."

Tôi nhét đống đồ chúng tôi vừa thay ra vào túi của cô. "Nhìn kỹ mặt đất. Bước theo bước tôi, và chú ý đừng để cành cây móc vào quần áo. Nếu bị lạc nhau, hãy dùng điện đàm, nhưng khẽ thôi."

"OK."

"Đừng nói nếu không có gì khẩn cấp. Nếu tôi giơ tay lên, hãy dừng lại. Nắm lấy thắt lưng tôi nếu tôi đi quá nhanh. Chúng ta không cần phải vội lắm. Ở đây cô sẽ gặp thú rừng đấy. Bình tĩnh tránh ra khi gặp rắn, không cần để ý những con khác."

Cô gật đầu. "Chính xác thì chúng ta đi đâu?"

"Trong núi có nhiều hang động. Khách đi bộ đường dài có thể biết một số hang, nhưng có một cái hầu như chưa ai biết. Cha tôi và tôi đã tìm ra nó khi tôi còn nhỏ. Đấy là chỗ chúng ta cần."

Cô mỉm cười. "Tôi sẵn sàng như sắp sửa đến đích ấy."

Chúng tôi đi theo vết bánh xe đến khi ra tới đường, sau đó lấy ít bụi cây lấp lối đi. Tôi băng qua đường, nhìn xem có nhánh nào của sông Mới, một lạch nhỏ từ trên núi xuyên qua hẻm đá sâu khoảng mười lăm mét. Hẻm núi này có thể là đường lên núi. Đội phục vụ trong công viên quốc gia đã làm một con đường nhỏ song song với khe suối, nhưng tôi không dám liều để nhỡ đụng phải một khách đi bộ nào đó. Tôi còn sợ gặp phải dân địa phương trồng cần sa trong khu công viên hoang kín đáo này. Vào những lúc mất mùa, đây là một cám dỗ lớn với hậu duệ của dân nấu rượu lậu, bọn họ coi giữ chặt chẽ chỗ này đề phòng những kẻ xâm nhập. Họ gài bẫy trên ruộng của mình, và bắn trước không cần hỏi.

Tôi nhanh chóng tìm thấy khe suối, và khi ánh ngày rọi chiếu trong rừng, chúng tôi đã lội qua khe suối và leo lên hẻm núi. Rễ cây xương xẩu bám chắc lên vách đá như những bàn tay bị viêm khớp. Những tảng đá to như xế hộp nằm dọc theo khe núi. Con suối có chỗ thì nông và rộng, chỗ khác lại thắt hẹp lại thành những luồng chảy réo ùng ục. Tôi thấy dấu chân của hươu nai, và có lần tôi thấy gì như dấu chân gấu. Điều đó làm tôi hơi lo lắng về cái hang. Khi chúng tôi đi ngang qua các bụi rậm, thỏ, tatu phóng ra rào rào chạy trốn. Cứ vài phút tôi lại quay nhìn Rachel, hình như cô cố theo kịp. Có vài lần cô bị trượt chân trên đá ướt, nhưng giẫm chân lên những tảng đá trơn trượt để leo lên dốc đâu phải là chuyện dễ dàng với người mới bắt đầu.

Trong khi bước qua một cành cây ngập nước, tôi ngửi thấy trong gió có mùi khói. Tôi dừng bước bên đường mòn, hy vọng đó là khói từ lửa trại của khách đi bộ. Nhưng không phải. Đó là mùi thuốc lá thơm Virginia. Tôi giơ tay. Nhưng không cần thiết. Rachel đã dừng bước ngay khi trông thấy tôi đứng lại.

Không quay đầu, tôi lia mắt quan sát đá và cây phía trước. Không có gì ngoài tiếng suối róc rách chảy và những giọt mưa rớt xuống từ đám cành lá trên đầu. Tôi ngước nhìn kỹ các cành thấp của vòm rừng. Có thể là chòi của kẻ săn trộm hươu. Nhưng những thợ săn chuyên nghiệp thừa biết rằng hút thuốc lá có thể làm mất cả một mẻ săn, có khi hỏng cả một mùa săn. Tôi không thấy gì trên cây.

Tôi nhẹ nhàng quay đầu quan sát mép khe núi. Từ phải, sang trái. Không có gì. Tôi lại hít không khí. Mùi thuốc lá đã hết.

Rachel kéo mạnh thắt lưng tôi. "Chuyện gì thế?" cô thì thào.

Tôi quay lại thấy nét sợ hãi trên mặt cô. Im lặng, tôi mấp máy môi. Đứng yên.

Cô gật đầu.

Lại có mùi thuốc lá thơm thoảng qua tôi, mạnh hơn lúc trước. Tôi quay đầu lại thật chậm và bất giác ngẩng nhìn lên. Cách chừng bốn mươi mét, một người đàn ông vận bộ đồ bằng vải nylon đen đứng tựa lưng vào thành hẻm núi và búng đầu mẩu thuốc lá xuống khe suối. Tim tôi nhảy lên, nhưng tôi đứng bất động. Mẩu thuốc bay vọt lên không thành một vệt trắng trên nền lá xanh, rơi xuống nước và trôi về phía chúng tôi.

Người đàn ông đưa mắt nhìn theo tàn thuốc. Tôi chắc chúng tôi sắp bị phát hiện, nhưng gã bỗng quay đi mà lấy cái gì xuống khỏi vai. Một khẩu súng trường đen. Một khẩu M16. Gã tựa súng vào thân cây, mở khóa quần và bắt đầu tiểu xuống vách đá nhỏ. Gã nghịch như một thằng trẻ con, cố hướng luồng nước ********* đến khe suối nhưng không tới. Thanh niên chắc đã làm ngon. Tay này ngót bốn mươi, và gã vận quân phục.

Tôi cầu cho Rachel không hoảng sợ. Có lẽ lúc đầu cô chưa nhìn thấy tay súng này, nhưng không thể không nhìn thấy cái "cầu vồng" vàng ánh trong nắng sớm. Tay kia đã ngừng ********* bằng cách vung vẩy tay, lắc mình, kéo khóa quần rồi cầm khẩu M16 lên. Khi khoác súng lên vai, gã nhìn xuống khe suối, ngay vào chỗ chúng tôi.

Tôi nín thở, chờ đợi giây phút dán chặt mắt vào nhau.

Tay súng nhìn chăm chú phía trên đầu chúng tôi, rồi quay đi. Gã nheo mắt, đoạn nhìn ra xa xa xuống suối lần nữa. Chính là nhờ bộ áo liền quần và khăn trùm đầu ngụy trang. Gã không phân biệt được chúng tôi với cảnh nền của khe suối và cây cối. Tôi nhìn thấy gã nghẹo đầu sang phải một cách lạ lùng, tôi tưởng gã bị chứng co giật thần kinh, nhưng liền sau đó tôi nhận ra gã đang nói vào một microphone gắn trên ve áo. Tôi nghe tiếng trả lời eo éo sắc như kim loại, nhưng không rõ được lời nào cả. Sau đó gã quay bước vào rừng.

Tê điếng người vì hoài nghi, tôi quay lại Rachel thì thấy cô đang nhìn tôi bối rối.

"Có chuyện gì đấy?" cô thì thầm.

"Cô không nhìn thấy à?"

"Cái gì?"

"Thằng đàn ông ********* lên vách đá!"

Mắt cô mở to.

"Hắn có một khẩu súng."

"Tôi không nhìn thấy gì cả. Tôi chỉ nhìn anh. Tôi tưởng anh nhìn thấy rắn hay gì đó."

"Chúng ta quay lại xe mau."

Mặt cô nhợt nhạt. "Thế còn cái hang?"

"Hỏng rồi. Chúng đang chờ ta ở trên đó."

"Chúng không thể."

"Chúng có. Thằng kia mang súng M16 và mặc quân phục. Những người săn hươu quanh đây nhìn khác."

"Nhưng chúng ta đã gần đến rồi cơ mà?"

Hơi nóng gai người trùm lên da tôi. "Cô lo cái gì?"

"Tôi có lo đâu. Tôi chỉ muốn nói ở trong hang an toàn hơn."

"Không đâu."

Một ý nghĩ âm ỉ trong khoảng tối của trí óc tôi. Bọn chúng biết nơi chúng tôi đang đến. Trước khi ý nghĩ đi xa hơn, tôi thấy mình lắng nghe một cách tuyệt đối tập trung. Tôi không rõ nghe thấy cái gì, nhưng chắc là có gì đó. Một chuyển động không hợp với những tiếng động thông thường trong rừng vắng. Tôi rủa thầm. Mưa rơi lúc trước làm giảm nhẹ tiếng bước chân của chúng tôi thì nay thành ra che cho kẻ thù của chúng tôi. Hay chúng chỉ là kẻ thù của tôi?

Một ý lóe lên trong óc tôi, tiếng eo éo lại phá vỡ im lặng, và tôi biết có những tay súng nữa cách chúng tôi không quá mười lăm mét. Rón rén sau lưng Rachel, tôi đưa một bàn tay bịt chặt miệng cô, vung cánh tay kia vòng quanh ngực cô, ghì sát cô vào người tôi bằng tất cả sức lực của mình. Cô muốn kêu lên, nhưng không có âm thanh nào thoát ra khỏi miệng.

Tôi đứng bất động trong khe suối, nước chảy táp vào chân. Rachel vùng vẫy cố thoát ra. Chiếc ba lô sau lưng làm tôi khó giữ được cô. Tôi sợ cô có thể cắn tay tôi, nhưng cô không làm thế. Chỉ riêng điều đó khiến tôi càng nghi ngờ chính cô là người đã báo cho NSA biết phải tìm chúng tôi ở đâu.

"Tôi sẽ bỏ tay khỏi miệng cô," tôi thì thầm. "Nếu cô kêu lên, tôi sẽ cắt cổ họng cô."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Khi tôi thả Rachel ra, cô lảo đảo trong con suối, mặt che giấu vẻ khiếp sợ và giận dữ. Rồi cô nhìn thấy con dao găm trong tay tôi, con dao Gerber mà tôi mua trong siêu thị Wal-Mart.

"Bước," tôi ra lệnh. "Quay trở lại khe suối. Cô biết phải làm thế nào rồi đấy."

Cô nhìn tôi trừng trừng trong giây lát, rồi quay đi và bắt đầu bước trên những mỏm đá. Tôi bỏ dao vào bao và tháo dây cung. Để đấu với tay súng M16 thì tôi ít có cơ hội hơn, nhưng tôi mà nhìn thấy hắn trước là tôi bắn liền.

"Đi sát vào thành bên phải."

Cô di chuyển về bên phải, nhảy thoăn thoắt từ tảng đá này sang tảng đá khác. Khi bước theo Rachel xuống dòng suối, trong lòng tôi bộn bề những câu hỏi mà lẽ ra tôi phải hỏi cô từ trước nhưng đã không hỏi. Đó là cái ngày đầu tiên, khi cô đánh thức tôi khỏi giấc mơ về cái chết của Fielding... cô mở cửa bằng cách nào? Tôi đã khóa cửa sau khi anh chàng FedEx đi khỏi, thế mà tỉnh dậy đã thấy cánh cửa đập sầm sầm vào lẫy xích trong khi Rachel réo gọi tên tôi. Cô lại còn tìm đúng nhà tôi khi tôi chưa nói cho cô biết địa chỉ? Tôi biết một chị ở phòng Nhân sự Đại học Virginia, cô đã nói thế. Trường đại học chắc đã phải được cảnh báo về việc cung cấp thông tin cá nhân, theo các nguyên tắc của Trinity. Vậy còn chiếc máy bay do thám trên xa lộ? Làm sao chúng biết được xe nào giữa hàng ngàn xe cộ trên quãng đường từ Chapel Hill đến Nags Head để chĩa tia laser vào? Một cuộc gọi từ Rachel trong khi tôi bất tỉnh có lẽ đã giúp chúng tìm ra chiếc Audi, căn nhà ở Nags Head, mọi thứ.

Còn về Oak Ridge, cô có thể dễ dàng gọi cho chúng từ Wal-Mart ở Asheville, lúc tôi để cô đứng đợi ngoài cửa. Khi đó cô chưa biết về Frozen Head, nhưng cô có điện thoại di động. Với một chút liều lĩnh, cô có thể đã gọi NSA khi ra khỏi xe đi tiểu hồi đêm. Mặt khác tôi vẫn còn nhớ mình đã nhảy vào phòng khách ở nhà và nhìn thấy một kẻ ám sát đang chĩa súng vào lưng Rachel.

Cô dừng lại khi đến chỗ nước sâu giữa lòng suối. Tôi bám sát sau lưng cô đề phòng cô bị ngã hay chạy trốn. Khi chúng tôi vượt qua được chỗ sâu, tôi nhớ lại lúc trước tôi đã chọn cô như thế nào. Skow đã phản đối việc tôi tìm đến một bác sĩ tâm thần ngoài NSA, nhưng sự phản đối của gã có kiên quyết lắm không? Các bạn tôi ở trường đại học Virginia nói với tôi rằng cô là nhà phân tâm học trường phái Jung xuất sắc nhất nước. Liệu có phải Geli Bauer đã theo từng bước chân tôi, đã nói chuyện với tất cả những người tôi tiếp xúc? Liệu ả có chỉ đạo Rachel trước lần khám đầu tiên của tôi? Làm thế nào mà Geli dàn xếp được với cô? Kêu gọi lòng yêu nước ư? Thư nặc danh hăm dọa chăng? Không cách nào biết được.

Tôi nhoài người túm lấy ba lô của Rachel. Đã đến chỗ lòng suối bằng phẳng. Gần lên đến đường.

"Chúng ta đến gần xe rồi," tôi khẽ nói. "Quay trái ở đây, và đừng có giẫm lên cành cây đấy."

Cô quay lại nhìn tôi, mắt cô vẫn còn giận dữ. "Có thật anh nghĩ rằng..."

Tôi đẩy lưng cô. "Bước."

Cô rón rén bước đi dưới những tán cây đang nhỏ nước với vẻ nhanh nhẹn đáng ngạc nhiên. Thêm khoảng bốn mươi mét nữa, tôi lại tóm lấy ba lô của cô, quét mắt qua hàng cây phía trước.

"David, anh đừng nghĩ rằng tôi phản bội anh."

Tôi gật đầu. "Không có cách giải thích nào khác."

"Nhất định phải có."

Tôi hé mắt nhìn qua những thân cây ướt đẫm xem có gì bất thường không. "Bọn chúng có thể đoán ra Oak Ridge, nhưng không thể là Frozen Head. Đáng lẽ tôi đã chọn giữa hàng chục địa điểm khác trong vùng núi quanh đây."

Cô giơ tay lên vẻ bất lực "Tôi không biết phải nói với anh thế nào. Tôi chưa hề nói với ai."

"Cô làm thế nào vào được nhà tôi hôm ấy? Hôm đầu tiên ấy?"

"Nhà anh? Tôi đã cạy khóa."

"Vớ vẩn."

"Anh nghĩ thế à? Cha tôi là một thợ khóa ở Brooklyn. Tôi lớn lên bên cạnh nghề ấy mà."

Đó có thể là một câu nói dối trôi chảy, nhưng nó vang lên chân thành kỳ lạ. "Chubb là cái gì?" tôi bất thần hỏi.

"Một loại khóa rất tốt của Anh. Tôi còn biết kìm nhổ răng xoắn là gì nữa cơ. Anh có biết không?"

Tôi chẳng biết quái gì. "Quay lại bước tiếp đi. Xe cách một trăm mét phía trước."

Rachel quay đi và bước nhanh qua đám cây. Với cây cung đã tháo dây đeo, tôi phải hết sức cẩn thận, dây cung cứ bị vướng vào cây thạch nam, còn mũi tên có ngạnh mà tôi kẹp vào cán cung cứ móc vào cành cây làm nước mưa rỏ xuống người tôi.

Thốt nhiên tôi nghe một tiếng roạt như con hoẵng to nhảy qua lùm cây ướt. Rồi tôi thấy một bóng đen vụt qua giữa hai thân cây.

"Đứng im!" một giọng đàn ông quát tháo.

Rachel dừng lại, lưng cô vừa đủ nhìn thấy giữa hai thân cây lấp lánh. Phía bên kia hiện ra một gã bận đồ nylon đen và áo chống đạn. Gã có một khẩu súng ngắn tự động và nó đang nhắm thẳng vào mặt Rachel.

"Nó đâu?" tay súng hỏi.

"Ai?"

"Cô biết mà. Thằng bác sĩ."

Tôi đặt tên vào dây cung và chậm rãi giương cung lên.

"Tôi không biết anh đang nói chuyện gì," Rachel nói. "Tôi ra đây săn hươu nai hoang dã."

Câu nói dối nghe thật tự nhiên. Liệu cô có ra ám hiệu bằng tay cho tên kia không?

"Máy ảnh của cô đâu?"

Tôi kéo căng dây cung hết cỡ, chạm tới má phải của tôi và ngắm kỹ qua tầm bắn lén. Lưng Rachel che mất một phần tầm ngắm, nhưng tôi không muốn di chuyển sợ gây tiếng động.

"Tôi đánh rơi mất dưới khe suối," cô nói. "Anh là kiểm lâm phải không?"

"Red Six gọi Red Leader," tay súng nói vào mic trên cổ áo.

"Tôi sẽ nói!" Rachel kêu lên.

Tôi nghiêng về bên phải, căng thẳng chờ bắn.

Thằng kia ngẩng lên khỏi mic. "Được. Nó ở đâu?"

Một số loại áo chống đạn có thể ngăn được đạn nhưng không ngăn được dao nhọn. Những mũi tên có ngạnh sắc bén sẽ xuyên thủng như dao, nhưng nếu không trúng, mặt Rachel - hay mặt tôi - sẽ biến mất trong đám sương mù màu đỏ. Tôi nhằm vào hốc chữ V trên yết hầu tay súng, ngay trên cổ áo gã.

"Các anh sẽ làm gì nếu thấy anh ấy?" Rachel hỏi.

"Đó không phải việc của cô."

"Red Six," tiếng lạo xạo của thằng kia rõ đến mức chúng tôi nghe được. "Red Leader đây. Nhắc lại những lời anh vừa nói."

Khi gã sờ đến nút điện đài, Rachel kêu tên tôi, và tôi buông dây cung.

Tiếng kêu của Rachel át các tiếng động khác. Trong giây lát tôi sợ đã bắn trúng cô. Cô ngã khuỵu xuống, nhưng tên kia vẫn đứng cầm súng. Sao gã không bắn? Sao mũi tên bay đi mà không phát ra tiếng động? Dây cung không rung. Tôi giật một mũi tên khác ra khỏi ống tên và lắp vội vào cung bằng những ngón tay run rẩy.

"Red Six, Red Leader đây. Nói gì thì nói đi."

Tôi chờ khẩu súng ngắn khạc lửa, nhưng tôi lại nghe tiếng uỵch nặng nề mà tôi nhận ra ngay lập tức. Khi tôi ngẩng lên, tay súng đã biến mất. Tôi đã từng nghe hươu ngã như thế sau một phát bắn vào lưng. Đầu tiên là dây cung rung lên, rồi tiếng gối khuỵu xuống, và tiếng uỵch như một bao xi măng rơi xuống đất trong cái chết nhanh gọn. Chỉ có sự chậm trễ làm tôi bàng hoàng. Lúc ấy tên kia vẫn đứng im như tượng, không muốn ngã xuống.

"Red Leader đây, trả lời ngay."

Mặt Rachel đầm đìa nước mắt. Tôi đẩy mạnh cô sang một bên và nhìn xuống. Thằng áo đen nằm ngửa sóng sượt. Mũi tên có ngạnh xuyên thẳng vào họng nó và đột thủng đốt sống cổ. Gã không thể nào đứng lâu hơn một giây với vết thương như thế, và điều đó cho thấy trong lúc cao trào của hành động, tôi chỉ đánh giá thời gian chủ quan mà thôi.

"Vào trong xe tải," tôi quát Rachel.

"Nó ở đâu?"

"Ba mươi mét phía trước. Bước!"

Cô loạng choạng bước qua gã đàn ông ngã sõng soài rồi mất hút vào rừng.

"Red Six, Red Leader đây. Anh đang làm cái quái quỷ gì vậy?"

Tôi nghe có tiếng người nào nói trong mớ âm thanh nhiễu, "...vứt mẹ cái radio chết tiệt đi. Vào tận nơi tìm thằng chó đẻ ấy. Bảo nó chúng ta đang pha cà phê đợi nó ở đây. Có thể nó sẽ về đấy."

Đôi mắt người chết vẫn mở trừng trừng nhưng đã đổi màu mờ đục như chiếc ly cổ. Tôi nhặt khẩu tự động của gã lên nhét vào túi bộ áo liền quần của mình. Xong tôi quỳ xuống xốc thi thể gã lên vai. Tôi phải bám vào một cành cây để đứng lên, nhưng tôi cũng xoay xở được và bắt đầu lết về phía xe. Ai đứng cách đấy một trăm mét chắc sẽ tưởng quái vật Bigfoot đang nặng nề lê qua rừng.

Rachel đang đứng đợi bên cạnh chiếc xe tải, mặt cô cắt không còn giọt máu. Tôi bước loạng choạng đến bên xe, ném phịch cái thây vào thùng xe. Khi cô kéo tay áo tôi, tôi xoay người cô đứng áp vào thành xe và lấy chiếc túi ngủ ra khỏi ba lô của cô. Tôi kéo khóa ra trùm lên xác chết. Để chặn cái túi hở, tôi chất cả hai chiếc ba lô nặng lên trên.

"Bước vào," tôi quát.

Cô làm theo.

Tôi trèo lên thùng xe để lấy lại chiếc chìa khóa trong ba lô của mình, rồi lên ngồi sau tay lái, cố sức chạy ra khỏi rừng. Hai lần lao xuống bùn, tôi tưởng bị sa lầy ở đây, nhưng chiếc xe lúc lắc chầm chậm rồi cũng thoát ra khỏi rừng. Bây giờ thì đội SWAT chắc đã nghe thấy tiếng động cơ ô tô. Tôi nhấn ga hướng về phía Nhà tù Bang ở vùng núi Brushy.

Chỉ khi đã vượt qua cây số đầu tiên tôi mới nhìn Rachel. Cô ngồi tựa lưng vào cửa xe quan sát tôi như thể tôi là một bệnh nhân hung dữ.

"Chuyện của cô thế nào?" tôi hỏi. "Bọn chúng đã làm thế nào để móc nối được với cô?"

Cô không nói gì.

Khi đạt tới tốc độ gần hai trăm cây một giờ, tôi không rẽ về hướng nhà lao, mà thẳng tới Caryville, ở đấy có giao lộ với đường I-75.

"Anh nghĩ tôi đã nói cho họ biết chúng ta đang ở đâu à?" Rachel hỏi.

Tôi gật đầu.

"Tại sao tôi phải làm thế?"

"Chỉ có cô hiểu việc đó."

"Nếu tôi muốn họ tìm được anh, tôi đã phản anh từ lâu rồi."

Trời lại đổ mưa, những giọt mưa nặng hạt rơi rào rào trên kính chắn gió. Tôi bật cần gạt nước và cho xe chạy chậm lại.

"Có lẽ chúng chưa muốn bắt tôi cho đến khi cô thu lượm đủ thông tin về tôi. Cô có gọi cho chúng khi ở siêu thị Wal-Mart không?"

Cô nhìn tôi vẻ khinh miệt. "Lúc thằng cầm súng hỏi tôi anh ở đâu, tôi đã có thể bảo nó anh đang ở ngay sau lưng tôi."

"Cô biết tôi đang nhắm thẳng tên vào lưng cô."

Cô thất vọng cau mặt lại. "Nghĩ xem, David. Vừa nãy thôi tôi có thể đập một hòn đá vào đầu anh khi anh đặt cái xác vào trong xe rồi."

"Tôi sẽ nghĩ sau. Bây giờ tôi phải chạy xe đã."

Chúng tôi chạy một đoạn trong im lặng, nhắm thẳng về phía đường ranh giới phân chia hai hạt Morgan và Anderson. Một chiếc cầu hiện ra trước mặt. Mặc dù trời mưa, nhưng bên dưới cầu nước chảy không nhiều, tuy vậy hẻm núi lại sâu, do dòng nước chảy từ các mỏ lộ thiên phía trên xuống năm này qua năm khác. Còn khoảng một phần ba quãng đường thì đến nơi, tôi cho xe táp gần thành cầu và dừng lại.

Rút chìa khóa ra khỏi ổ, tôi đi ra và trèo lên thùng xe. Chiếc túi ngủ đậy trên xác ướt đẫm nước mưa. Tôi đá túi qua một bên, vật cái xác lên vai, ráng sức đứng lên và ném nó qua thành cầu. Nó va phải cành cây rồi rơi đập xuống mấy tảng đá phía dưới. Chiếc túi ngủ đẫm máu, tôi cũng ném xuống luôn. Xong tôi trở vào buồng lái lái tiếp, cố giữ tốc độ một trăm trên con đường ngoằn ngoèo.

"Tôi chưa hề biết có điều đó trong anh," Rachel lặng người nói. "Tôi không thể tin anh là người đã viết xúc động đến thế về tình thương và đạo đức."

"Đây là bản năng sống còn. Mọi người đều có. Kể cả cô nữa."

"Không," cô nói khẽ. "Tôi sẽ không giết người."

"Cô sẽ phải giết." Tôi nhìn thẳng vào mặt cô. "Chẳng qua cô chưa rơi vào đúng hoàn cảnh đó thôi."

"Anh muốn nghĩ gì thì nghĩ. Tôi hiểu tôi."

Con đường dần trở nên thẳng tắp. Tôi tăng tốc đến hơn một trăm và thôi không nghĩ đến Rachel nữa. Tôi lại cảm thấy cô đơn, cô đơn như cái ngày vừa mất Fielding. Tôi đã không nhận ra Rachel từng là nguồn an ủi lớn đến mức nào. Điều khó chấp nhận nhất trong chuyện phản bội của Rachel là cô chưa bao giờ coi tôi là ai khác ngoài một bệnh nhân. Một kẻ ốm yếu và bị lừa dối.

Một luồng hơi nóng cuộn dâng trong tôi, kéo theo sự mệt mỏi rã rời. Tôi hy vọng đó chỉ là cảm giác tức thời sau khi hưng phấn quá mức, nhưng khi răng tôi va vào nhau lập cập, tôi mới biết là không phải. Tôi sắp ngất. Nhưng lần này tôi không thể tin tưởng để Rachel chăm sóc tôi.

"Anh sao thế?" cô hỏi, nhìn tôi chằm chằm. "Anh đang đánh võng giữa đường kìa."

"Không sao."

"Tỉnh lại đi! Anh chạy sang làn trái rồi."

Tôi quặt mạnh tay lái sang phải. Có lẽ việc cố sức ném cái xác đã làm tôi hoàn toàn bất lực trước sự tấn công của cơn bệnh. Lần này sẽ không từ từ đâu. Tôi phải dừng xe lại thôi.

"Đỗ lại!" Rachel thét lên.

Cố gắng hết sức để mở mắt, tôi ngoặt xe vào một con đường rừng nhỏ, cố sức chạy thêm một trăm mét nữa rồi mới dừng. Tôi dừng xe trước biển báo ĐỖ, rồi lấy khẩu súng tự động của người chết từ bộ áo liền quần ra, chĩa vào Rachel:

"Xuống xe."

"Cái gì?"

"Xuống xe! Và bỏ điện thoại di động của cô lại đây. Làm đi!"

Cô nhìn ra ngoài cửa kính như thể bị bắt phải nhảy xuống vực. "Anh không thể để tôi ở ngoài đây được."

"Tôi sẽ cho cô vào khi tôi tỉnh dậy. Nếu cô còn ở đây."

"David! Bọn chúng sẽ tìm thấy ta mất. Hãy để tôi lái!"

Tôi hất khẩu súng về phía cô. "Làm theo tôi bảo!"

Cô để điện thoại trên băng ghế, trèo ra khỏi xe và đóng cửa lại. Đôi mắt đen của cô nhìn tôi qua lớp kính cửa đọng nước mưa. Khi tôi nhoài ra khóa cửa, một đợt sóng đen lại cuộn dâng.

Một cánh cổng thành cao ngất án ngữ trước mặt tôi, một vòm cung đơn sơ trong bức tường đá màu vàng. Dân chúng xếp hàng trên đường, một số người vẫy tay reo mừng, số khác thì khóc. Người ta giữ lừa để tôi leo lên. Chủ nghĩa tượng trưng là quan trọng. Cần thực hiện một lời tiên tri.

"Đây là cửa Đông, thưa Ngài. Ngài có chắc không?"

"Chắc."

Tôi cưỡi lừa đi qua cổng thành. Có tiếng tù và. Binh lính La Mã nhìn tôi cảnh giác. Phụ nữ chạy qua phố đến sờ tay vào áo choàng của tôi, vào tóc tôi. Những khuôn mặt trên đường phố hẹp này là những khuôn mặt đói khát, không phải đói ăn, mà đói hy vọng, đói lẽ sống.

Con đường biến mất và trở thành thánh đường với những cột trụ. Tôi ngồi trên bậc thềm, khẽ trò chuyện với đám đông. Họ lắng nghe với vẻ mặt tò mò, hoang mang. Họ không nói thật những suy nghĩ của mình. Trong đầu họ chỉ có chung niềm trăn trở: "Có phải ông ấy đấy không? Có thể thế không?"

"Các người biết cách giải thích sự xuất hiện của mặt đất và bầu trời," tôi nói với họ. "Thế tại sao các người không biết cách giải thích hiện tại? Ta đã gieo lửa trên thế gian này, và ta sẽ canh chừng đến khi lửa bốc lên rừng rực."

Tôi nhìn các gương mặt. Những lời lẽ ấy tác động đến mỗi người một khác. Đàn ông thì chộp lấy thứ họ cần, vứt bỏ những thứ khác. Một vài người hỏi tôi từ đâu đến. Câu trả lời tốt nhất là một câu đố.

"Chẻ một thanh củi ra có ta ở đó. Nâng một tảng đá lên, các ngươi sẽ thấy ta."

Tôi rời khỏi thánh đường và bước đi trong những con ngõ nhỏ của thành phố. Tôi muốn được yên tĩnh một lúc nhưng từ khắp phía người ta xáp đến hỏi chuyện. Các tăng lữ đến gần và hỏi tôi. Mù thì hay trông.

"Ai cho ông quyền đến đây nói và làm những chuyện này?" họ hỏi.

Tôi mỉm cười. "Thánh John rửa tội cho mọi người. Quyền của ông ta đến từ trời hay từ người?"

Tăng lữ trả lời trong nỗi lo sợ của đám đông. "Điều này chúng tôi chưa rõ."

"Vậy ta sẽ không nói cho ngươi hay ai cho ta quyền làm những điều này."

Tôi bỏ lại đám đông sôi sục trên đường phố, nhưng không xong. Họ bám theo tôi lên đồi và gạn hỏi đến cùng. Câu trả lời của tôi khiến họ phát điên.

"Ta chỉ còn ở lại với các ngươi trong giây lát," tôi nói. "Sau đó ta lại trở về nơi mà ta từ đó đến đây. Nơi ta đến, các ngươi không thể đến. Các ngươi tìm ta nhưng không thể thấy ta. Các ngươi thuộc về thế gian này. Ta thì không."

Họ bảo tôi là kẻ nói dối.

"Các ngươi chỉ còn lại chút ánh sáng," tôi nói. "Hãy bước đi trong khi còn ánh sáng, xua bớt bóng tối trong mình. Ai bước theo ta kẻ ấy sẽ không bao giờ còn bước trong bóng tối."

Ngay khi tôi nhìn họ, tôi thấy ở họ cái nhìn kết tội. Tuy vậy tôi không thể quay khỏi con đường của mình. Trong mắt một tăng lữ tôi thấy sự căm ghét, và cả sự kết tội hắn dành cho tôi... một sự trừng phạt kiểu La Mã. Nhưng đau đớn không phải là nỗi sợ lớn nhất của tôi. Một người mạnh mẽ phải chịu được đau đớn. Cái mà tôi không thể chịu đựng là nỗi cô đơn, cô đơn lần nữa đến muôn đời...

Rachel đang kêu thét. Tôi hoảng loạn chớp mắt, rồi cánh cửa bên trái tôi bị giật tung ra. Tôi cố quay lại xem là ai thì lại chìm vào cơn buồn ngủ ập đến như cát lún.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


Geli Bauer lấy một tay dụi mắt, tay kia rót cà phê đậm đặc vào ca của ả. Ả đang chờ vợ Skow gọi gã đến nghe điện. Đêm qua ả ngủ được ba tiếng trên võng sau khi làm tình với Ritter. Dạo này hầu như ả không nằm mơ, nhưng hồi đêm ả đã mơ thấy một cơn ác mộng cũ từng lặp đi lặp lại trong đó ả bị bọn lính rượt đuổi. Trong mơ ả luôn luôn tự sát trước khi bọn lính bắt được. Mức độ khủng khiếp trước hành động tự giải thoát đó gần như không thể chịu nổi.

"Geli," Skow nói trong tai nghe của ả, giọng mệt mỏi.

Gã đã vật lộn suốt đêm với siêu máy tính Godin 4, chắp vá lời đe dọa tổng thống từ những mẩu ghi âm kỹ thuật số giọng Tennant. Geli đã đánh thức gã dậy một lần, để nói với gã rằng ả đã nhận được báo cáo của đội S.W.A.T về một nhân viên mất tích. Lúc đó chưa có bằng chứng gì về việc Tennant có mặt ở đó, nhưng bây giờ...

"Đội SWAT ở Frozen Head đã tìm thấy nhân viên mất tích của mình," ả nói. "Hắn bị rơi từ một cây cầu trên đường cao tốc xuống khe suối. Hắn bị trúng tên vào cổ họng."

"Tennant bắn à?"

"Tôi nghĩ thế. Tôi đã xem lại lý lịch của hắn. Khi còn nhỏ hắn đã săn bắn rất nhiều. Có lẽ là một tay săn bằng cung vào đầu mùa săn."

"Làm thế quái nào mà hắn kiếm được cung tên?"

"Chúng tôi đang cho kiểm tra băng hình an ninh của các cửa hàng dọc tuyến đường từ bến phà đến Oak Ridge. Rõ ràng hắn đã trù tính ẩn nấp một thời gian ở vùng núi đó. Điều tôi muốn biết là làm sao anh biết hắn có thể ở đâu?"

"Tôi nói rồi, tôi không thể cho cô biết điều đó."

"Nguồn tin bí mật của anh là bác sĩ Weiss, đúng không?"

"Geli..."

"Liệu còn có thể là ai khác nữa? Hơn nữa làm thế nào anh biết được về công viên Frozen Head?"

"Nếu đó là bác sĩ Weiss thì cô phải biết rồi chứ."

Geli đã rõ hơn. "Đó là lý do tại sao anh lại khó khăn như thế về một cái lệnh bắn chết tại chỗ. Anh biết rằng người cung cấp thông tin cho anh có thể bị giết. Điều tôi không hiểu là tại sao anh không nói cho tôi biết cô ta đang giúp chúng ta. Có thể tôi đã bảo vệ cô ta."

"Cô có thói quen hỏi những câu vượt quá bậc lương của mình đấy."

"Tôi không có bậc lương ********** chó nào hết! Tôi làm nhiều hơn anh gấp mười lần."

"Nhưng cô vẫn nhận lệnh từ tôi."

Ả những muốn lao qua đầu bên kia đường dây để cào xé khí quản gã, nhưng tính kỷ luật tự giác dần dần khiến ả tự chủ lại. "Lần cuối anh nói chuyện với Godin là khi nào?"

"Lâu rồi tôi cũng chưa nói chuyện với ông ta," Skow thừa nhận. Giọng tay NSA vang lên đầy bối rối, và gã không cố giấu điều đó.

"Chuyến đi dài ngày của Godin với Nara trong mấy tuần nay có ý nghĩa gì? Họ cùng bay về phía Tây và biến mất trong ba bốn ngày. Họ đi đâu vậy?"

"Chắc hẳn cô đã đào sâu hơn thế."

Ả không dễ dàng bỏ cuộc. "Kẻ đang điều hành an ninh ở đầu kia thật giỏi."

Skow chặc lưỡi khô khan. "Cô chẳng biết gì đâu."

"Tại sao anh không đi với họ?"

Không trả lời.

"Tại sao tất cả những chuyện này đều liên quan đến chiếc đồng hồ bỏ túi của Fielding?"

"Xin lỗi, Geli."

Những sự việc ả đã để ý mấy tuần nay bắt đầu hiện lên hàng đầu trong suy nghĩ của ả. "Zach Levin và đội Giao diện của anh ta đã được cho nghỉ cách đây năm tuần lễ. Hình như họ bốc hơi rồi. Tại sao cả một đơn vị kỹ thuật có thể bốc hơi như thế?"

Skow không trả lời.

Ả tìm câu hỏi mà gã có thể trả lời. "Có phải cái người phụ trách an ninh ở bất kỳ nơi nào có Godin kiểm soát nguồn tin siêu mật của anh không?"

Trong sự im lặng kế tiếp, ả nhận ra rằng vẻ dè dặt của Skow không phải là sự xúc phạm đối với ả. Gã bị tê liệt do bị kẹp giữa bổn phận và sợ hãi.

"Nguồn tin mật của anh có nói sắp tới Tennant sẽ đến đâu không?"

"Cô sẽ có bản danh sách các điểm đến mới ngay bây giờ. Tôi sẽ gửi cho cô ngay khi tôi nhận được nó."

"Anh gửi đi." Ả cố đẩy bí mật về nơi ở của Godin ra khỏi đầu óc. "Câu chuyện tên sát nhân loạn trí của chúng ta đã mấy người biết rồi?"

"Hiện giờ mới chỉ loanh quanh trong đường vành đai, nhưng nó sẽ lan rộng nhanh thôi. Cảnh sát thành phố sẽ biết tin trong sáng hôm nay. Tôi không muốn chuyện lan quá rộng chừng nào tôi chưa xong dự án đêm qua."

"Tôi đã nghe lại băng ghi âm cách đây mấy phút. Thật là rắn như đá."

"Nên thế. Bây giờ cô định làm gì?"

"Ngồi đây đợi gì đó. Bất cứ cái gì. Một tiếng mách thầm chỗ Tennant sắp đến chẳng hạn."

"Rồi sau đó?"

"Tôi sẽ đích thân đến tận nơi. Tôi không tin ai ở đó cả."

"Đến bằng cách nào?"

"Chiếc JetRanger của Godin vẫn còn ở nhà chứa máy bay. Anh có ý kiến gì nếu tôi xài nó không?"

"Không. Tôi sẽ bảo phi công trực đợi cô." Ngừng một hồi, Skow nói. "Bắt giữ Tennant còn là chuyện riêng tư của cô phải không."

Geli nhấp một hớp cà phê nóng và ngậm trong miệng.

"Tôi biết cô quan tâm đến Ritter hơn bất kỳ ai khác," Skow đế thêm.

Ả nuốt. "Bây giờ anh thành bác sĩ tâm thần rồi à?"

"Tôi vừa nảy ra một ý. Nếu cô chắc chắn rằng bác sĩ Weiss là nguồn tin mật của tôi, thì Tennant cũng có thể đi đến kết luận như thế. Ý tôi là, như cô nói đấy... sao đội SWAT lại phải đợi từ bấy đến giờ ở Frozen Head nhỉ?"

"Tiếp tục đi."

"Nếu Tennant nghi Weiss đang cung cấp thông tin về hắn, hắn sẽ đá cô ta. Chúng ta nên phát lệnh truy nã cô ta và kiểm soát điện thoại cũng như nhà ở của tất cả những người cô ta có liên hệ."

"Tôi đã kiểm soát tất cả những người cô ta có thể gọi điện, nhưng không phải vì lý do đó. Tennant sẽ không rời bác sĩ Weiss nửa bước."

"Sao vậy?"

"Vì hắn yêu cô ta."

"Hắn không thể phớt lờ một suy luận logic hiển nhiên như thế."

Geli cười nhẹ. "Tất nhiên hắn có thể. Mọi người thường làm thế mà."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Tôi hốt hoảng bật dậy. Rachel ngồi sau tay lái chiếc xe bán tải đang phóng nhanh. Tôi nằm co quắp trên sàn xe bên phía ghế hành khách. Tôi lết lên ghế và thấy xe chúng tôi đang lao vào một đoạn đường cao tốc vùng nông thôn hiu quạnh. Đằng sau chúng tôi không có gì ngoài con đường vắng lặng.

"Làm thế nào cô vào được?" tôi hỏi. "Tôi đã không khóa cửa xe à?"

Cô không nhìn tôi. "Anh đã khóa rồi. Có một đoạn dây thép nặng trên thùng xe. Tôi làm một cái móc rồi kéo khóa từ bên trong khung cửa ra."

"Chúng ta đang ở đâu đây?"

"Gần Caryville. Theo các biển báo, hình như đường I-75 chạy qua đây."

Tôi lắc đầu xua đuổi tàn dư của giấc mơ Jerusalem khỏi đầu óc. Tôi đã bất tỉnh mất bao lâu? "Đội SWAT đâu rồi?"

"Đang lùng chúng ta, tôi chắc thế."

Tôi nghĩ chắc Rachel đã tiết lộ đích đến của chúng tôi cho NSA. Nếu thế tại sao cô lại chở tôi qua đường vắng? Cô đang quay trở về Frozen Head chăng?

"Tôi biết anh đang nghĩ gì," cô nói. "Nhưng anh nhầm rồi. Chắc chắn có kẻ khác đã biết về công viên Frozen Head. Có thể anh đã từng nói với ai ở Trinity về nó. Ravi Nara chẳng hạn? Trước khi các anh bắt đầu ghét nhau."

"Không. Cô là người duy nhất còn sống biết về cái hang đó. Ít nhất là về mối liên hệ của nó với tôi."

Tôi hạ kính xuống, nhoài người liếc nhìn bầu trời. Không có gì cả, ít nhất là trong khoảng không gian nhìn thấy giữa hai hàng cây dọc con đường nhựa hẹp. Có lý gì người của Geli Bauer không xông đến nếu chúng biết tôi đang ở đâu? Tôi không thể nghĩ ra một lý do nào cả. Geli sẽ tra khảo thay vì theo dõi để nhanh chóng có được mọi thứ ả muốn ở tôi kia.

"Nếu cô không giúp bọn chúng, tại sao cô còn đi theo tôi?"

Rachel nhìn tôi, mắt cô tràn ngập nỗi buồn. "Tôi thậm chí chẳng muốn trả lời anh câu ấy."

Tôi muốn tin cô, nhưng thế chẳng hóa ra tôi ngờ nghệch lắm sao. "Coi nào... nếu cô không nói với chúng về Frozen Head thì chúng không thể đón lõng ta ở đó như thế được."

"Anh đã quên gì đó," cô khăng khăng. "Chắc chắn là thế"

"Không. Cha tôi và anh tôi đã chết. Bọn NSA phải có khả năng đọc được ý nghĩ của tôi mới biết được..."

Người tôi đông cứng lại, miệng há hốc. Phát hiện này khiến tôi choáng váng như bị đánh một cú vào đầu.

"David, anh làm sao thế?"

"Bọn chúng đã làm được chuyện đó," tôi lẩm nhẩm. "Lạy Chúa."

"Đã làm cái gì?"

"Trinity. Chúng đã có được một nguyên mẫu và đang vận hành..."

"Làm sao anh biết?"

Tôi đặt một bàn tay run rẩy lên trán. Ở nơi nào đó trên nước Mỹ, một ảnh não của tôi do Siêu MRI quét đã được nạp vào máy tính Trinity. Và mẫu thần kinh ấy bây giờ đang tồn tại - ít nhất là đến một mức độ nào đó - với tư cách David Tennant. Tôi có cảm giác như những kẻ săn lùng tôi đã phát hiện ra tôi có người anh em sinh đôi, một người anh em ma quái có chung trí nhớ với tôi và sẵn sàng phản bội tôi khi có yêu cầu. Cái cảm giác bị cưỡng bức thật tuyệt đối. Trí óc của tôi là nơi ẩn náu thâm nghiêm nhất của tôi khỏi thế giới bên ngoài. Tôi cảm thấy bị cưỡng bức một cách bí hiểm, bị tước đoạt mất sự riêng tư.

Bọn chúng còn đón lõng tôi ở đâu nữa? tôi tự hỏi.

"David, anh đừng làm thinh với tôi, " cô khẩn nài. "Hãy nói với tôi đi."

"Bọn chúng đã có trí nhớ của tôi, Rachel ạ. Chúng đã có tôi, được nạp vào máy tính của chúng. Nhờ đó chúng biết đường đợi tôi ở Frozen Head. Chúng sẽ không phải săn đuổi ta nữa. Chúng biết những việc tôi sẽ làm cả trước khi tôi thực hiện."

"Không thể thế được."

"Có đấy. Đó chính là những gì chúng thực hiện trong suốt hai năm nay. Tôi biết chúng quá rõ. Tôi biết Peter Godin. Và tôi biết đó là sự thật."

Cô giảm tốc để vào cua. "Có nghĩa anh cho rằng Fielding đã đúng? Họ đã và đang làm dự án máy tính này ở một nơi nào đó từ bấy nay?"

"Đúng thế. Trong khi tôi và Fielding xoay xở để vạch ra tác dụng ngoại ý của MRI thì chúng chế ra cái đồ chết tiệt ấy ở một nơi bí mật." Tôi đập tay lên bảng đồng hồ. "Đó là lý do chúng cho một số đội nghỉ trong thời gian tạm ngưng."

"Anh đang nói về chuyện gì vậy?"

"Sau khi chúng tôi ngừng dự án, chúng bảo một số nhóm kỹ sư được nghỉ phép. Có những lúc trong tòa nhà chỉ còn lại mấy người của bộ khung. Sự vắng mặt lộ liễu nhất là nhóm Giao diện, do một cậu có tên là Zach Levin đứng đầu."

"Nhóm Giao diện là cái gì?"

"Đó là nhóm có trách nhiệm tìm cách giao tiếp với những mẫu thần kinh sau khi chúng được nạp vào máy thành công. Cô có nhớ những điều tôi nói khi ở trong giảng đường không? Nếu anh tải một bộ não người vào máy tính, anh thật sự có được gì? Một con người mù, câm điếc, liệt, sợ hãi đến chết. Một nửa cuộc chiến là để làm cho bộ não ấy có mắt, tai và giọng nói. Đó là công việc của nhóm Giao diện. Vì dự án đang bị ngưng nên nhóm này có cớ để vắng mặt. Nhưng bây giờ thì tôi biết rồi. Trời, giá mà có Fielding ở đây."

Rachel liếc nhìn tôi. "Nhưng nếu họ đã đến gần thành công như vậy thì giết Fielding để làm gì? Nếu Godin thật sự làm được Trinity, thì còn ai thèm quan tâm đến những tác dụng phụ hay cái gì khác nữa?"

"Cô nói đúng đấy. Nếu chúng thực sự làm được điều ấy, thì Godin sẽ hầu như trở nên bất khả xâm phạm. Chúng tôi không có đủ thông tin. Có lẽ..." Hai tay tôi giá lạnh. "Ôi trời!"

"Cái gì thế?"

"Tôi biết tại sao chúng giết Fielding."

"Tại sao?"

"Có thể chúng làm được rồi."

"Anh muốn nói gì?"

"Hôm qua, John Skow tuyên bố rằng gã không có ý định thay thế Fielding. Tôi nghĩ gã điên. Nhưng bây giờ tôi hiểu rồi. Nếu chúng có một máy tính nguyên mẫu và cho hoạt động thì Fielding không chết."

Rachel bối rối quay sang tôi. "Điều đó có nghĩa là gì?"

"Tôi muốn nói chúng có thể nạp mẫu thần kinh của Fielding theo như cách đã nạp tôi vào máy tính. Chúng sẽ có một trí tuệ Andrew Fielding dưới các đầu ngón tay của mình. Ông ấy có thể giải các bài toán còn lại cho chúng!"

Cô lái một lúc không nói năng gì. "OK, tạm thời cứ cho rằng điều ấy có thể đi. Nhưng tại sao Fielding lại giúp những người đã giết ông ấy?"

Lòng tôi tràn ngập cảm giác ngưỡng mộ đến hãi sợ. Peter Godin nhẫn tâm hơn tôi từng tưởng tượng. "Mẫu thần kinh của Fielding sẽ giúp chúng bởi vì nó không biết ông ấy đã bị giết. Việc tải vào máy đã được thực hiện từ sáu tháng trước, khi Fielding được Siêu MRI scan. Nó không nhớ gì kể từ lúc đó. Nó thậm chí không biết việc Fielding cưới Lu Li."

"David, chuyện ấy không thể xảy ra được."

"Chắc chắn là được. Chẳng qua chúng ta ngẫu nhiên đứng quá gần một bước đột phá trong khoa học. Phản ứng phân rã nguyên tử. Tìm ra bản đồ gien người. Nhân bản vô tính cừu."

"Những cái anh vừa nói hoàn toàn không giống với chuyện này. Giải phóng trí tuệ ra khỏi thân xác con người ư?"

Tôi ngẫm nghĩ điều này. "Cô nói đúng. Chuyện này lớn hơn nhiều bởi vì nó cho chúng ta khả năng đạt được những bước tiến theo cấp số nhân. Hay nói đúng hơn, không phải chúng ta. Mà là tất cả những gì chúng ta gọi là dạng mới của ý thức mà Trinity sẽ phát triển thành. Và nó sẽ phát triển rất nhanh chóng."

"Anh đâu biết chắc họ đã làm được hay chưa."

"Ít nhất chúng đã đi được một đoạn đường. Có thể chúng đã có một bản thô và cho hoạt động. Có thể chúng đã tiếp cận được trí nhớ của tôi - rút ra những hình ảnh chẳng hạn - nhưng chưa thực sự vận hành nguyên mẫu đó như một chức năng trí tuệ. Trí nhớ người là lĩnh vực chuyên môn của Ravi Nara, và người ta đã có những tiến bộ ngoạn mục trong lĩnh vực này từ trước. Chỉ có điều là ta không cách gì biết được."

Rachel chạm vào tay tôi. "Nếu anh đúng, thì bọn họ biết gì về những việc chúng ta đang làm hiện giờ?"

"Tôi hy vọng là chúng không biết gì cả. Dù bằng cách bí ẩn nào đi chăng nữa, chúng cũng không thể đọc được ý nghĩ của tôi. Có thể chúng có được trí nhớ của tôi từ lúc nhỏ cho đến cách đây sáu tháng, khi tôi bị Siêu MRI quét qua. Nhưng còn tiến trình suy nghĩ của tôi, còn những suy luận của tôi, nhân cách của tôi - những thứ đó sẽ chiếm toàn bộ chức năng của máy tính. Và nếu chúng có cả cái đó..."

"Cái gì?"

"Tổng thống sẽ không quan tâm chuyện gì xảy đến với hai bác sĩ quèn. Đất nước chấp nhận thêm nhiều thương vong để xây một tòa nhà chọc trời, hoặc một cây cầu. Tôi với cô là cái giá không đáng kể để trả cho ưu tiên chiến lược mà Trinity sẽ mang đến. Nếu Trinity thật sự thành công thì chúng ta phải chết."

Cô chỉ qua kính chắn gió. "Kia là Caryville. Đường I-75. Chúng ta sẽ đi theo hướng Bắc hay Nam?"

"Đỗ lại."

Cô từ từ giảm tốc, đánh tay lái và dừng ngay bên lề đường, chỉ cách con dốc về hướng Bắc một đoạn ngắn.

"Tôi đang cố gắng thoát khỏi bản thân mình," tôi nói to ý nghĩ của mình. "Để làm điều đó, chúng ta phải lựa chọn hoàn toàn ngẫu nhiên... Nhưng lựa chọn của tôi có thể ngẫu nhiên như thế nào? Tôi nghĩ chúng ta sẽ tung đồng xu xem sấp ngửa mỗi khi đến những ngã tư thế này."

Rachel lắc đầu. "Họ không có bản scan não của tôi. Họ không thể đoán được tôi sắp làm gì. Từ giờ tôi sẽ là người lựa chọn."

Cô nhìn thấy vẻ nghi ngờ trong mắt tôi. "Anh vẫn chưa tin tôi phải không?"

"Không phải thế. Nhưng bây giờ Geli Bauer đã biết mọi thứ cần biết về cô. Ả còn biết cả những điều cô không còn nhớ nữa."

Môi Rachel mím lại thành một vạch trắng. "Tôi ghét ả. Tôi ghét ả, mà tôi còn chưa biết ả là ai kia."

"Tôi biết. Nhưng ghét ả không cứu nổi chúng ta."

"Sao chúng ta không lặn đi đâu đó? Trả tiền mặt ở một nhà nghỉ không tên trong một thành phố không tên chẳng hạn. Nhét chiếc xe tải này sau hàng rào rồi đi ngủ liền lấy ba ngày. Nước Mỹ quá rộng mà. Ngay cả với NSA."

"Cô đã bao giờ xem phim America's Most Wanted chưa? Hằng tuần cảnh sát bắt hàng lô tội phạm lẩn trốn như cách cô vừa đề nghị đấy. Ti vi làm cho nước Mỹ chật hẹp hơn cô tưởng nhiều."

Tôi ngả lưng vào ghế và cố để bản năng ngự trị. Xe con và xe tải cứ xuôi ngược chạy qua, cái thì chậm rãi, cái thì làm xe chúng tôi rung cả lên vì gió mà nó tạo ra. Tôi ngồi đó, và tình hình cứ dần dần tự sáng tỏ.

Ba ngày nữa, chúng tôi có thể có cơ hội gặp tổng thống. Vấn đề là chúng tôi phải cố sống sót để nói được với ông ấy. Những điều kỳ quặc đã dài lại càng dài thêm. Ngay cả khi gặp được Matthews, chúng tôi còn phải thuyết phục ông tin rằng tôi nói thật còn tất cả những người dính líu đến Dự án Trinity đều nói dối. Để làm được điều đó, tôi cần những chứng cớ vững chắc. Mà tôi thì không có. Lựa chọn khác - ra trước công luận - sẽ chỉ làm tổng thống tin rằng tôi là một kẻ loạn óc như mọi người ở Trinity vẫn nói, và chia rẽ người duy nhất có thể cứu chúng tôi. Ba ngày...

"Chúng ta còn phải ngồi đây bao lâu nữa?"

"Cho tôi một phút."

Lẩn tránh không phải là giải pháp. Chạy trốn cũng vậy. Những giải pháp thông thường không ăn thua. Chúng tôi phải dùng một cách thật độc đáo khiến không ai trên thế giới này có thể đoán ra. Nhưng cách nào?

Khi chăm chú nhìn luồng xe đang đến qua kính chắn gió, tôi nhận ra rằng tôi và Rachel ngồi đây chỉ vì một lý do duy nhất: những giấc mơ của tôi. Những giấc mơ của tôi đã đưa chúng tôi đến với nhau. Không có những giấc mơ ấy, cả hai chúng tôi có thể đã bị bắn chết ở nhà tôi rồi. Thế mà tôi không hiểu được gì thêm về chúng hơn cái ngày đầu tiên tôi bước chân vào phòng khám của Rachel.

Hàng tháng trôi qua, những giấc mơ cũng tiến triển theo, giống như một thông điệp dai dẳng được gửi từ một nguồn vô tuyến điện xa xôi nào. Ban đầu, những hình ảnh khó hiểu khiến tôi bối rối, thậm chí hoảng loạn. Nhưng cùng với thời gian - và đặc biệt ba tuần gần đây, trong tôi bắt đầu kết tụ một niềm tin rằng có điều gì đó quan trọng đang được thông báo cho tôi. Tất nhiên các bệnh nhân tâm thần phân liệt cũng cảm thấy một niềm tin tương tự. Giữa tôi và họ có điểm gì khác nhau?

Tôi nhắm mắt và cố gắng xóa đi những ý nghĩ trong đầu, nhưng lại phản tác dụng. Tôi bỗng thấy hiện lên một thành phố trên đồi được bao bọc bởi những bức tường thành đá vàng rực dưới nắng. Giữa bức thành là chiếc cổng lớn.

Cửa Đông, một giọng thì thầm trong đầu tôi. Jerusalem.

Tôi chưa bao giờ thấy một hình ảnh như vậy khi đang tỉnh thức. Tôi mở mắt và thấy Rachel đang căng mắt nhìn bảng đồng hồ. Tôi lại nhắm mắt nhưng hình ảnh kia đã biến mất như dư ảnh của bóng đèn flash.

"David? Mắt anh làm sao thế?"

"Không sao đâu."

Tôi dụi mắt và cố hình dung điều vừa xảy đến. Trước đây tôi đã từng có cảm giác bị kéo đến một nơi nhất định nào đó. Thuở còn đôi mươi, tôi đi du lịch rất nhiều và trong khi bị lôi cuốn bởi niềm đam mê xê dịch thời sinh viên, đôi lúc đã có một điều gì đó sâu sắc hơn kéo tôi ra khỏi hành trình đã chọn.

Trong thời gian đi thăm Đại học Oxford, một buổi sáng tôi bị đánh thức bởi cảm giác cần đến Stonehenge - không phải để nhìn thấy nó, mà để có mặt giữa những tầng sa thạch. Người bạn đường của tôi nói không việc gì phải vội vàng; những tảng đá đã nằm đó cả năm ngàn năm nay và chắc chắn có thể đợi thêm ít ngày nữa. Nhưng tôi vẫn thuê một chiếc xe, lái về hướng Nam đến đồng bằng Salisbury. Khi màn đêm buông xuống, tôi một mình đến gần vòng cung cổ và làm cái điều mà du khách ngày nay không ai làm được nữa: bước giữa các tảng đá dưới ánh trăng và nằm lên bàn thờ tế thần linh. Tôi không phải người say mê tìm hiểu về Thời đại Mới theo kiểu amateur, mà là một sinh viên y khoa Đại học Virginia đang chờ mong một sự nghiệp ổn định. Nhưng đó không phải lần duy nhất xảy ra chuyện như vậy. Tôi bị lôi kéo đến Chichén Itzá cũng theo cách ấy. Và trên đường chạy xe đến Grand Canyon, tôi đã thay đổi lộ trình và cắm trại ở Chaco Canyon, New Mehico một tuần lễ. Ở Hy Lạp, tôi lại đến Delphi thay vì Athens. Trong tất cả những hoàn cảnh ấy, tôi luôn cảm thấy một sự thôi thúc bên ngoài, mặc dầu vẫn có tiếng gọi nào đó gọi tôi tới một nơi nhất định.

Điều tôi cảm thấy bây giờ hoàn toàn khác, một sự thôi thúc bên trong giục giã tôi phải đi đến Jerusalem, bất chấp hậu quả. Việc thành phố này thờ ba tôn giáo là không thích hợp. Tôi không có điểm gì chung với hàng triệu người hành hương thành kính đến miền Đất Thiêng theo kế hoạch này. Tôi chỉ cảm thấy đây là thành phố ẩn chứa những câu trả lời cho tôi, những câu trả lời mà tôi không thể tìm thấy ở nơi nào khác.

"Chúng ta đi đâu đây?" Rachel cáu kỉnh hỏi.

"Israel," tôi đáp.

"Cái gì?"

"Jerusalem."

"David..."

"Đó là bởi..."

"Đừng nói nữa. Bởi vì anh đang bị hoang tưởng, đúng không?"

"Đúng."

Cô nhoài người tới nâng cằm tôi lên, rồi nhìn sâu vào mắt tôi. "David, người ta đang tìm cách giết chúng ta. Chính phủ đang tìm cách giết chúng ta. Anh bị chứng hoang tưởng do những nguyên nhân mà chúng ta chưa biết, nhưng chứng bệnh này có thể đã gây tổn thương cho não bộ của anh. Thế mà anh lại định dùng những hình ảnh hoang tưởng này để dẫn dắt chúng ta tìm ra con đường tự cứu mình sao?"

"Kẻ nào cố giữ mạng mình sẽ mất mạng."

"Cái gì?"

Tôi lật ngửa bàn tay. "Tôi không nói điều này sẽ cứu chúng ta. Ý tôi là nếu tôi đang bị săn đuổi và có nguy cơ bị giết, thì thà rằng điều đó xảy ra trong lúc tôi đang đi tìm ý nghĩa một điều gì đó mà tôi tin là có ý nghĩa còn hơn."

"Anh thật sự tin rằng những hoang tưởng của anh có ý nghĩa?"

"Phải."

"Tại sao?"

"Tôi không thể giải thích một cách logic. Đó chỉ là một điều tôi biết. Giống như một con chim bay về hướng Nam vậy."

Cô thở dài như một người mẹ mệt mỏi nói chuyện với đứa con. "Cố lên, được không, cố gắng giải thích đi."

Tôi nhắm mắt tìm từ ngữ để giải thích điều không thể giải thích. "Tôi có cảm giác mình được chọn."

"Chọn để làm gì?"

"Tôi không chắc."

"Ai chọn?"

"Chúa."

"Chúa?"

"Phải."

Cô hít sâu và đan tay đặt lên đùi. Rõ ràng cô đang phải đấu tranh để giữ được bình tĩnh. "Tôi nghĩ đã đến lúc anh phải nói cho tôi biết mấy hoang tưởng gần đây nhất là về cái gì? Anh vẫn còn mơ thấy anh là Jesus à?"

"Phải."

"Những hình ảnh ấy khác với hình ảnh trước ở chỗ nào? Tại sao anh lại giấu tôi?"

Thế là cuối cùng chúng tôi đã đi đến lằn ranh giữa sự tỉnh táo và mất trí. Tôi thấy mừng vì chúng tôi đang ngồi trong xe tải chạy trên xa lộ chứ không phải tại phòng khám của Rachel. Cô không thể gọi ai đến để yêu cầu tôi cam kết. "Bởi vì tôi không còn tin chúng là những hoang tưởng. Hay những giấc mơ. Tôi nghĩ chúng là ký ức."

Cô chán nản thở phì ra. "Ký ức ư? Trời ơi, David! Có gì xảy ra trong những giấc mơ ấy?"

"Tôi đang sống lại một đoạn đời của Jesus. Người đi đến Jerusalem. Những trải nghiệm của Người ở đó. Tôi nghe thấy những giọng nói. Giọng nói của chính tôi... của các môn đồ. Rachel ạ, những gì tôi hình dung trong đầu còn thực hơn cảnh tôi đang nhìn thấy xung quanh. Các sự kiện diễn ra rất nhanh. Tôi sắp thấy cảnh đóng đinh lên thập tự giá rồi."

Cô lắc đầu không tin. "Làm thế nào anh có cái ký ức hai ngàn năm, thứ chỉ đi vào trí óc anh sáu tháng gần đây thôi?"

"Tôi không biết."

"Những giấc mơ này thôi thúc anh đến Israel à?"

Tôi không nghĩ mình cảm thấy thôi thúc như lúc trước, nhưng đúng là thế. Những gì tôi coi là nỗi lo lắng chung chung thật ra là cảm giác cưỡng bách đang lớn dần, hối tôi đi đến nơi diễn ra giấc mơ.

"Đến Đất Thánh," tôi nói. "Phải."

"Có phải anh sợ rằng mình sẽ chết trong đời thực nếu không đến đó trước khi mơ về cảnh Chúa bị đóng đinh lên thánh giá không?"

"Có thể. Chủ yếu tôi có cảm giác là nếu tôi không sớm đến đó, tôi sẽ bỏ lỡ cơ hội tìm hiểu những giấc mơ cố gắng nói với tôi điều gì."

Rachel nhìn chăm chăm luồng xe đang đến, đầu lắc tới lắc lui. Rồi cô đột ngột quay sang tôi, đôi mắt cô mở to, rực sáng.

"Anh có biết hôm nay là ngày mấy không?"

"Không."

"Còn chưa đầy một tuần nữa là đến lễ Phục sinh."

Tôi chớp mắt. "Thì sao?"

"Chúng ta đang đến gần ngày Jesus chết và phục sinh theo truyền thống. Không phải trong những giấc mơ của anh, mà cả trong thế giới thực."

"Cô muốn nói hai cái đó có liên hệ với nhau?"

"Tất nhiên. Bằng cách nào đó, lễ phục sinh đến gần là duyên cớ cho những giấc mơ của anh, cho nỗi lo âu này. Anh giống như những người nghĩ rằng sắp đến ngày tận thế khi bước sang thiên niên kỷ mới. Anh không thấy sao? Tất cả chỉ là bộ phận của một hệ thống ảo ảnh."

Tôi lắc đầu mỉm cười. "Cô sai rồi. Nhưng cô nói đúng về những ngày lễ. Chúng có thể rất quan trọng."

Rachel nhìn tôi như nhìn một kẻ đang trêu chọc cô một cách tinh vi. "Còn cuộc gặp tổng thống thì thế nào?"

"Chúng ta sẽ gặp sau khi trở về. Thêm một vài ngày thì có gì khác đâu? Nhất là nó lại giữ gìn tính mạng cho chúng ta."

Cô nhắm mắt và nói nhẹ nhàng. "Anh đã bao giờ nói cho Andrew Fielding biết về những hoang tưởng của anh chưa?"

"Rồi."

"Ông ấy bảo sao?"

"Ông ấy bảo tôi hãy chú ý đến chúng. Fielding luôn luôn nói rằng khi cố gắng thực hiện Trinity là chúng tôi đang bước theo những dấu chân của Chúa. Ông ấy không biết mình đã đúng biết bao."

"Tuyệt. Quan điểm thật giống nhau." Rachel đặt tay lên vô lăng như thể đang chạy trên đường, nhưng cô cho xe dừng lại. "Anh có ý định đi theo những hoang tưởng của anh đến Israel thật sao?"

"Phải."

"Và anh thừa nhận những hoang tưởng ấy có thể là hậu quả tổn thương não bộ?"

"Không phải tổn thương não bộ như cô nghĩ đâu." Tôi nghĩ đến sự phấn khích của Fielding khi ông diễn giải thuyết ý thức của mình. "Mà là những nhiễu loạn đối với quá trình lượng tử trong não tôi."

Rachel siết chặt vô lăng đến nỗi các khớp ngón tay của cô trắng bệch ra. "Anh cứ như kẻ quyết định đến Ai Cập tìm ý nghĩa cuộc đời sau khi mơ thấy mình là Pharaoh vậy."

"Tôi nghĩ tôi là thế đấy. Tôi biết chuyện đó nghe điên rồ thế nào. Vấn đề là, chúng ta không có lựa chọn nào khác. Nếu cách nói này làm cho cô cảm thấy dễ chịu hơn, thì chúng ta ra đi bởi vì chúng ta cần làm một điều gì đó mà có lẽ máy tính Trinity không thể tiên đoán."

"Nó không thể tiên đoán anh sẽ sang Israel sao?"

"Không. Chính việc quét não bằng Siêu MRI đã gây ra những giấc mơ của tôi. Mẫu thần kinh của tôi không có ký ức về những giấc mơ diễn ra sau đó. Ngay cả trong bệnh án của tôi ở chỗ cô cũng không nhắc đến Jerusalem, vì tôi đã thôi đến khám trước khi thành phố ấy trở thành tâm điểm trong những giấc mơ của tôi."

Rachel trông có vẻ đăm chiêu. "Đến Israel không giống như đến Paris, anh hiểu không. Đất nước ấy chiến tranh liên miên. Tôi đã từng đến đó. Họ đặc biệt chú ý đến những người vào ra nước họ. Hãng hàng không Al El kiểm tra an ninh nhiều gấp bốn lần các hãng hàng không khác. Và chúng ta đang bị chính phủ Mỹ săn đuổi. Ngay khi chúng ta tìm cách đặt vé máy bay, họ đã đón lõng chúng ta ở sân bay rồi."

"Cô nói đúng. Chúng ta cần hộ chiếu giả."

Cô cười cay đắng. "Anh nói cứ như là chúng ta cần mua ít bánh mì và sữa trên đường về nhà vậy."

"Tôi còn mười tám ngàn đô la. Phải có cách kiếm ra hộ chiếu giả với số tiền ấy."

"Hộ chiếu giả không cho chúng ta vào Israel dễ dàng thế đâu. Họ chạm trán với bọn khủng bố hằng ngày đấy."

"Bị bỏ tù ở Israel còn dễ chịu hơn bị giết ở đây."

Rachel ngả người ra ghế thở dài. "Anh nói đúng."

"Tôi định đến New York. Với mười tám ngàn đô la, tôi có thể kiếm được một hộ chiếu giả ở đó. Tôi biết điều này."

"Còn tôi thì sao?"

"Cô có thể đi. Cô cũng có thể không đi. Tùy cô."

Cô gật đầu như thể đang chờ đợi câu đó. "Tôi biết. Nếu tôi không đi thì sao?"

Tôi nghĩ đến Geli Bauer. "Cô muốn tôi phải nói dối cô ư?"

Rachel sang số, cho xe chạy lên dốc về hướng Bắc, rồi tăng tốc.

"Đi New York phải không?" tôi hỏi.

"Không."

"Vậy thì đi đâu?"

Cô nhìn tôi, mặt bớt cảnh giác hơn bao giờ hết. "Anh muốn tôi đi với anh không?"

Tôi muốn chứ. Hơn nữa, tôi có cảm giác cô đề nghị đi cùng tôi. "Tôi muốn cô đi với tôi, Rachel ạ. Vì rất nhiều lý do."

Cô cười khô khan. "Thế là tốt, vì anh không thể xoay xở được nếu không có tôi. Việc anh ngất trên phố cho thấy anh không hề khỏe. Nếu tôi để anh một mình trên xe này thì bây giờ anh chết rồi."

"Tôi biết mà. Cô có đi không?"

Cô vượt một chiếc xe bồn rồi nhẹ nhàng quay vào làn phải. "Nếu anh muốn đi Israel, thì chúng ta phải tới Washington D.C. trước."

Tôi cứng người trên ghế. Bao nhiêu nghi ngờ về cô lại quay trở lại khiến tôi nôn nao."Tại sao lại là Washington?"

"Vì ở đó tôi quen một người có thể giúp chúng ta việc này."

"Ai?"

Tôi muốn dò xem có sự lừa dối trong mắt cô không, nhưng cô vẫn chăm chú nhìn đường. "Tôi đã điều trị cho nhiều phụ nữ khi còn hành nghề ở New York. Thực ra hầu hết là phụ nữ."

"Rồi sao?"

"Một số họ có vấn đề với chồng."

"Và?"

"Đôi khi tòa án cho phép những người chồng đến thăm con họ, mặc dầu đã có những chứng cớ lạm dụng thể chất. Một số bà vợ sợ điều có thể xảy ra đến nỗi chỉ còn cách bỏ trốn."

Tôi cảm thấy lòng bàn tay ngứa ran. "Cô đang nói về trường hợp giám hộ. Bắc cóc ngay chính con của họ."

Cô gật đầu. "Trốn tránh cảnh sát không phải là khó nếu anh chỉ có một mình. Nhưng nếu có trẻ con thì thật gay go. Anh phải đưa đón nó đến trường, chăm sóc y tế, đại loại thế." Cô liếc nhìn tôi, nét mặt căng thẳng. "Những người phụ nữ ấy có một mạng lưới. Như một hệ thống đường sắt ngầm. Chuyện này cần có tài xoay xở."

"Danh tính khác?" tôi nói

"Phải. Đối với trẻ con, nền móng của một căn cước mới là giấy khai sinh. Đối với người lớn, là thẻ an sinh xã hội và hộ chiếu. Tôi không biết nhiều chi tiết, nhưng tôi biết rằng người giúp đỡ những phụ nữ ấy ở Washington."

"Những phụ nữ ấy mua hộ chiếu giả ở Washington D.C. à?"

Rachel lắc đầu. "Không phải hộ chiếu giả. Mà là hộ chiếu thật."

"Thật? Ý cô là sao?"

Cô liếc nhìn tôi, miễm cưỡng tiết lộ điều cô biết. "Có một phụ nữ làm việc trong cơ quan cấp hộ chiếu ở Washington D.C. Mấy năm trước cô ấy có vấn đề với chồng. Cô ấy rất đồng tình với nghề nghiệp này. Tôi không biết cô ấy là ai, nhưng tôi biết một người mà tôi có thể gọi. Một bệnh nhân cũ."

"Nghề nghiệp này," tôi nói. "Nó vẫn tiếp tục à?"

"Phải. Tôi đã gửi một phụ nữ từ Chapel Hill đến chỗ họ. Vợ của một bác sĩ."

"Ồ."

"Tôi chỉ thấy có một vấn đề nghiêm trọng," Rachel nói.

"Vấn đề gì?"

"Anh là đàn ông. Tôi không biết liệu họ có sẵn lòng giúp anh không."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Lần này khi cánh cửa bảo vệ rì rì mở ra, Geli biết đó là Skow. Ả cũng biết rằng có tin xấu, vì ả mới liên lạc với gã trước đó, và lúc ấy nhân vật NSA này tỏ vẻ rất mệt mỏi khi phải ra khỏi giường. Ả xoay ghế và thấy gã đang sải bước về phía ả, lần đầu tiên không diện bộ comple hiệu Brooks Brothers thường ngày. Hôm nay gã mặc quần kaki và áo thun MIT. Mắt Skow thâm quầng, nhưng trông gã vẫn giống một nhà quản trị đại học hơn là một chuyên gia về chiến tranh thông tin.

"Hôm nay trông anh như c-ứ-t ấy," Geli bảo gã.

"Tôi cảm thấy còn tồi tệ hơn."

"Anh đếch đến đây nếu có tin tốt."

"Cô nói đúng đấy. Ravi Nara gọi điện cho tôi ngay khi tôi và cô vừa bỏ máy." Gã ngồi phịch xuống chiếc ghế sau lưng ả. "Cho tôi điếu thuốc."

"Anh có hút đâu."

"Ồ, Geli, có nhiều chuyện cô không biết về tôi đâu."

Ả lắc bao thuốc Gauloise lấy ra một điếu, châm lửa đưa cho gã.

Skow hít một hơi thật sâu rồi nhả khói mà không ho sặc sụa. "Chuyện khốn nạn lắm."

"Nara gọi từ đâu đến?"

Skow lắc đầu. "Mọi việc phải có thứ tự. Bây giờ cô hãy nghe tôi nói đã."

Ả vắt tréo chân ngồi đợi.

"Từ trước đến nay cô và tôi luôn giữ miếng, giấu nhau nhiều điều. Đã đến lúc cần phải sáng tỏ. Càng sáng tỏ càng tốt."

"Tôi nghe anh đây."

"Ở Trinity này Godin luôn ngăn chia các bộ phận với nhau, nên tôi không biết là cô biết những gì. Cô biết chúng ta đang nghiên cứu trí tuệ nhân tạo, nhưng cô có biết chính xác nó là thế nào không?"

"Nói cho tôi biết đi."

"Chúng tôi đang sử dụng kỹ thuật MRI tiên tiến để tiến hành quét phân tử bộ não, rồi cố gắng nạp bản sao đó vào một máy tính mẫu có tính đột phá."

"Tiếp tục đi."

"Mục tiêu của chúng tôi là tạo ra trí tuệ nhân tạo không phải bằng cách ứng dụng kỹ thuật ngược với bộ não, mà copy nó bằng kỹ thuật số. Kết quả là, nếu thành công, thì không phải máy tính làm việc như một bộ não người, mà thực tế chính máy tính là bộ não của một con người nhất định. Cô hiểu không?"

Trước đây Geli nghĩ rằng các bản chụp của MRI được sử dụng để nghiên cứu cấu trúc não người, không phải như nền tảng thực tế của một cái máy. "Nguyên tắc này nghe có vẻ dễ hiểu đấy chứ."

Skow cười giả lả. "Về lý thuyết thì dễ thật. Và sớm muộn gì nó cũng sẽ được thực hiện. Nhưng sự khác nhau giữa sớm hơn và muộn hơn có tầm quan trọng sinh tử với cô và tôi."

"Tại sao?"

"Tại vì Peter Godin sắp chết."

Có cái gì rung lên trong ngực ả khi nghe khẳng định điều mà ả vẫn nghi ngờ nhưng không thú nhận này. Những hình ảnh về Godin lướt nhanh qua trước mắt ả: cái mặt sưng phồng, cái miệng trễ xuống, dáng đi vụng về khó coi.

"Sắp chết như thế nào?"

"Peter có một khối u não. Ravi Nara phát hiện ra nó cách đây sáu tháng, khi làm ca chụp não đầu tiên. Đó là lý do tại sao hai ngày qua cô không liên lạc được với Godin. Khi nào ông ta không trực tiếp điều hành Trinity, là lúc ông ta đi điều trị."

Geli cựa quậy trên ghế. "Ông ấy còn sống được bao lâu nữa?"

"Bây giờ chỉ còn tính từng giờ. Nhiều lắm là một ngày. Khối u này không thể mổ được, ngay cả ở giai đoạn đầu khi Nara phát hiện ra nó. Peter nghĩ rằng nếu chính phủ biết ông ta đang bị ung thư giai đoạn cuối, chính phủ sẽ không chuyển giao các nguồn lực cần thiết để biến Trinity thành hiện thực. Giữa ông ta và Ravi có một thỏa thuận. Ravi sẽ giữ kín chuyện ông ta bị ung thư và sẽ điều trị bằng steroid khiến ông ta có thể hoạt động đủ lâu để hoàn thành Trinity. Tôi ghét nghĩ đến việc Nara đòi hỏi có đi có lại."

"Nara khôn như cáo."

"Đúng. Vấn đề là trong chương trình Trinity có một điểm bị giấu kín ngay từ đầu. Peter làm ra Trinity để lưu giữ cuộc đời ông ta."

"Anh định nói gì?"

"Nếu máy tính Trinity đuợc hoàn tất trước khi Peter chết, mẫu thần kinh của ông ta có thể được nạp vào đấy. Thân thể ông ta có thể chết, nhưng ông ta vẫn tiếp tục tồn tại trong máy tính với tư cách là Peter Godin."

Geli chớp mắt hoài nghi. "Chẳng có quái gì trong chuyện này làm tôi tin được."

Skow cười. "Điều đó không những có thể xảy ra, mà còn là không thể tránh khỏi. Có điều là nó không xảy ra ngay tuần này thôi."

"Nếu điều đó là thật, thì mẫu thần kinh của Godin hay gì đó lại không thể nạp vào máy tính sau khi ông ấy chết hay sao? Hễ khi nào Trinity kết thúc?"

"Tất nhiên. Nhưng trong kịch bản này, Peter sẽ phải chết mà không biết chắc chuyện đó có xảy ra hay không. Ông ta phải chết theo cách mọi người từng chết từ trước tới nay. Và ông ta buộc phải tin tưởng ở chúng tôi để được phục sinh trong máy tính."

"Tôi hiểu." Ả đang chìm đắm trong suy nghĩ về cái chết cận kề của Godin. "Rồi, chính xác vì sao anh đến đây?"

Skow rít một hơi thuốc Gauloise nữa rồi chỉnh ả bằng cái nhìn trừng trừng vẻ nghiêm trọng. "Tôi đến đây là để cứu lấy cái mạng chó của cô. Và cả của tôi nữa."

"Tôi không thấy là cần phải cứu nó."

"Cần đấy. Bởi vì dự án Trinity sắp tiêu rồi."

Bây giờ thì ả hiểu. Con tàu sắp chìm và đàn chuột nháo nhào đi tìm xuồng cứu sinh. "Nhưng sao anh nói là không thể không thành công."

"Ừ thì cuối cùng cũng thành công. Nhưng Godin sắp chết trước khi ông ta làm cho máy chạy, và không còn ai có thể đưa nó sang giai đoạn sau. Fielding đã chết. Ravi đã cống hiến hết khả năng mà y có. Công việc còn lại vượt quá tầm với của y. Và nếu chúng tôi không vận hành được máy tính Trinity, sau khi đã tiêu tốn cả tỷ đô la..."

"Một tỷ?"

Skow có vẻ sốt ruột. "Geli, nguyên mẫu Trinity được chế tạo chủ yếu bằng các ống nano carbon. Đó không chỉ là công nghệ tiên tiến nhất. Chúng tôi đã phải sáng tạo ra cả một môn khoa học mới. Chỉ riêng chi phí vật liệu R&D đã gây sửng sốt. Nghiên cứu trí nhớ bằng hình ảnh laser ba chiều cũng tốn như thế. Chúng tôi..."

"OK, tôi hiểu." Ả chỉ đang nghĩ tới việc thoát thân. "Anh nói rằng khi nào Godin không đi điều trị, thì ông ấy làm việc cho Trinity. Bây giờ ông ấy đang làm việc ở đâu? Mountain View?"

Skow lắc đầu. "Trinity có một cơ sở nghiên cứu khác. Tôi sẽ không nói nó ở đâu cho đến khi chúng ta đi đến thỏa thuận. Nhưng nó được lập ra cách đây hai năm, ngay sau khi chúng tôi biết tổng thống nhất định bắt chúng tôi nhận Tennant để giám sát khía cạnh đạo đức của dự án. Godin biết sẽ có ngày ông ta làm việc cho Trinity mà Tennant hay chính phủ không biết ông ta đang làm gì. Vì vậy ông ta lập ra nó."

Nhận thức của Geli về tình hình thay đổi theo từng câu nói của Skow. "Vậy ngay bây giờ Trinity đang ở đâu? Hoàn toàn ngừng hoạt động à?"

"Không. Vào lúc này, chúng tôi đang cho hoạt động một phần. Chính nguyên mẫu Trinity đã tiên đoán Tennant sẽ chạy đến Frozen Head. Mẫu thần kinh của Tennant về cơ bản đã cho chúng tôi biết hắn có thể ở đâu."

Geli thấy khó lòng mà tin điều này. "Chính anh thấy điều đó à?"

"Không. Nhưng tôi đã thấy cái máy nguyên mẫu. Nó vượt xa mọi tưởng tượng."

"Chính nhờ nó mà anh biết về Frozen Head, chứ không phải từ bác sĩ Weiss à?"

"Đúng."

"Trời đất. Nếu nó có thể làm được chuyện đó, sao anh lại coi là nó thất bại?"

Skow giơ tay lên vẩy qua vẩy lại. "Một phần của Trinity hoạt động. Nhưng nó mới chỉ hoạt động được hai mươi giờ, và thật khó giải thích cho cô biết sự phức tạp của việc hoàn thiện nó. Họ đã thành công với khu vực trí nhớ, nhưng khu vực xử lý chính lại là chuyện hoàn toàn khác."

"Là viên pha lê, phải không?" Geli nói ra ý nghĩ của mình. "Viên pha lê trên dây đồng hồ của Fielding. Đó là cái anh cần để khiến nó hoạt động."

"Đúng. Fielding đã phá hoại dự án, nhưng lão cũng ghi chép lại tất cả những việc lão làm. Ngay cả khi lão bẻ mã khóa của người khác, lão vẫn lưu giữ mã khóa gốc ấy vào viên pha lê của lão. Những kẻ lý tưởng hóa là những tay phá hoại ghê gớm. Fielding đơn giản là không thể phá hoại một tiến bộ khoa học đích thực. Dù sao, khi chúng tôi có được viên pha lê đó, chúng tôi sẽ khôi phục tất cả các mã khóa của máy mà Fielding đã bẻ. Nhưng phần hoa hồng lớn nhất chúng tôi chiếm được là công trình gốc do chính tay Fielding làm. Lão ta không thể cưỡng lại việc cố gắng giải quyết cho chúng tôi những bài toán còn lại, ngay cả khi lão cản trở tiến độ của chúng tôi. Công trình mới của Fielding đặt thành công của Trinity trong tầm tay. Không có viên pha lê đó, máy nguyên mẫu không thể hoạt động gì được."

"Nhưng bây giờ nó đã hoạt động một phần, thì tại sao chính phủ không thể dùng các nhà khoa học khác để chiếm lĩnh và hoàn thiện nó?"

"Họ có thể làm được điều đó nếu họ hiểu về nó. Nhưng họ không hiểu. Mọi việc Godin đã làm từ khi chương trình bị hoãn đều là không được phép và bất hợp pháp."

"Thế thì đưa máy nguyên mẫu trở về tòa nhà này đi."

"Godin không cho phép. Chuyển xong thì ông ta cũng đi rồi."

"Anh đã nói rằng ông ấy sắp chết."

"Cũng không nhanh thế đâu." Nỗi lo lắng hiện lên trong mắt Skow. "Nếu chúng tôi vận hành được Trinity, sẽ không có ai trong chính phủ Mỹ hoặc Anh lo lắng về chi phí sản xuất - chi phí về tiền hay về người. Nhưng trong trường hợp thất bại, sẽ có những câu hỏi hóc búa đấy."

"Ý anh muốn nói gì?"

"Thất bại đòi hỏi có người giơ đầu chịu báng."

"Tôi chẳng dính dáng gì đến việc chế tạo chiếc máy đó hết."

"Phải. Nhưng người ta có thể cho rằng sự thất bại này là do Fielding chết. Mà ai đã giết Fielding?"

Bây giờ thì ả đã biết Skow muốn hướng câu chuyện đến đâu. "Anh bắt đầu làm tôi cáu tiết đấy."

Gã NSA lật ngửa bàn tay. "Tôi chỉ vẽ ra một kịch bản có thể có. Cô là người thích hợp với vai diễn. Có tiếng là quá hăng hái..."

"Anh có muốn còn sống mà ra khỏi phòng này không?"

Skow mỉm cười. "Tôi chỉ cho cô thấy cá nhân cô đang mắc kẹt trong chuyện này. Bây giờ chưa biết Tennant và Weiss chạy trốn ở đâu. Còn Lu Li Fielding vẫn biệt tăm."

"Đó là ba vấn đề tôi giải quyết được."

"Tất cả các chứng cớ nói ngược lại."

Ả ném cho gã một cái nhìn tóe lửa.

"Bình tĩnh nào," Skow nói. "Dù sao lúc này tôi cũng không muốn Tennant chết. Để cho xác chết chồng đống lên là ngu ngốc. Điều đó làm cho khó khăn của chúng ta tăng lên vạn bội."

Ả cảm thấy hai người sắp đi đến mấu chốt trong cuộc gặp này. "OK, nếu tôi không phải là kẻ giơ đầu chịu báng, thì là ai?"

"Là Peter Godin."

"Cái gì?"

Skow nhả một vòng khói xanh rất nghệ ra khoảng không giữa hai người. "Cô thử nghĩ xem. Sau khi Godin chết, mọi việc có thể giải thích bằng cách chỉ cần cường điệu sự thật. Ông ta đã chết dần chết mòn vì khối u não từ lâu. Không ai trong chúng ta biết việc này. Peter là con người vĩ đại, nhưng khối u tác động xấu lên trí óc ông ta. Ông ta bị ám ảnh bởi ý nghĩ phải cứu lấy mạng sống của mình. Ông ta thấy Trinity là phương tiện duy nhất có thể giúp ông ta làm được việc đó. Khi Fielding và Tennant làm trì hoãn dự án, Godin hoảng sợ và đã ra lệnh thủ tiêu hai người."

Geli ngả người ra ghế và chìm đắm trong suy nghĩ về kịch bản này. Lý lẽ thật là hoàn hảo. Đây là lời dối trá trắng trợn, biến đen thành trắng.

"Nếu chúng ta làm thế," Skow tiếp tục, "thì dù Tennant có nói gì đi nữa cũng không ảnh hưởng đến ta. Đó là một giải pháp thanh nhã hơn giết người nhiều."

"Có một vấn đề," Geli nói. "Nếu ta để cho Tennant sống, hắn sẽ lu loa với mọi người rằng tôi là người cố tìm cách giết hắn."

"Hắn sẽ nói thế ư?" Skow mỉm cười, lắc đầu. "Ai đến nhà Tennant để giết hắn. Tennant và Weiss đã nhìn thấy ai?"

"Ritter."

"Chính xác. Và Ritter Bock là nhân viên của tập đoàn Siêu máy tính Godin trước khi cô đến đây. Đúng không?"

Skow có vẻ đã tính hết đường đi nước bước. "Đúng."

"Có ai biết cô ra lệnh cho Ritter giết Tennant không?"

"Tôi chưa bao giờ ra một lệnh như thế."

Skow toét miệng cười. "Tất nhiên là không. Tôi không thể tưởng tượng cô có thể làm như thế. Godin trực tiếp ra lệnh cho Ritter, cận vệ riêng của ông ta. Bác sĩ Tennant gặp may và bắn chết Ritter để tự vệ. Cô trong sạch như tuyết, Geli ạ. Tất cả mọi việc cô làm là theo lệnh Godin."

"Còn anh?"

"Vào lúc tôi nhận ra rằng không phải Fielding chết vì những nguyên nhân tự nhiên, thì Ritter đã chết và Tennant đã chạy trốn. Từ đó đến nay tôi cố gắng tìm ra sự thật."

Geli vẫn cố tìm ra kẽ hở trong kịch bản. "Còn tại sao chúng ta lại vội vã hỏa táng Fielding như thế?"

"Khi chúng ta nhận ra lão bị giết, chúng ta nghi ngờ có một tác nhân sinh học có khả năng truyền nhiễm cao. Nara khuyên nên hỏa thiêu thi thể và tất cả các mẫu máu ngay lập tức. Đó là cách duy nhất để giữ an toàn cho tòa nhà này."

"Liệu Nara có chịu xác nhận chuyện này không?"

"Y sẽ làm tất cả để bảo vệ tiếng tăm của mình."

Geli đứng lên đi đi lại lại trong trung tâm điều khiển. Skow xoay ghế nhìn theo ả.

"Nếu Godin thành công thì sẽ ra sao," ả hỏi. "Nếu như Godin có thể vận hành máy trước khi ông ấy chết, và nó có mọi khả năng như ông ấy hứa hẹn?"

"Nara nói chuyện đó không thể xảy ra. Ông ta đang suy yếu rất nhanh."

Sự trớ trêu của tình hình làm ả chán nản. "Anh biết không, tôi quý Peter Godin. Tôi kính trọng ông ấy. Còn anh lại là người tôi chẳng ưa chút nào. Tôi cũng chẳng tôn trọng anh, cho đến khi anh mang kế hoạch này đến. Cái này có thể có tác dụng."

"Nó sắp có tác dụng đấy. Chỉ còn thiếu một điểm là cô."

Ả không thấy có cách nào khác hơn là hợp tác. "Nói cho tôi biết địa điểm kia của Trinity ở đâu, tôi sẽ thỏa thuận với anh."

Vẻ tự tin biến khỏi mặt Skow. "Tôi không được tự do làm điều đó."

"Tại sao không?"

"Cô sẽ hiểu ngay thôi. Tôi sẽ nói cho cô tên của người phụ trách an ninh ở chỗ mới. Có gì cô cứ thắc mắc với ông ta."

Geli dừng lại mà nhìn gã chằm chằm. "Trò gì thế này?"

"Đó là cách ông ta bảo tôi phải làm theo, và ông ta là loại người mà tôi không muốn biến thành kẻ thù."

"Hắn là tay quái nào thế?"

Skow lắc đầu. "Tôi sẽ cho cô số điện thoại của ông ta."

"Tôi sẽ không gọi cho bất kỳ ai chừng nào chưa biết người mà tôi sẽ gọi là ai."

Gã rít một hơi thuốc, nhìn ả vẻ thương hại. "Tướng Horst Bauer."

Geli nóng bừng mặt. Bao nhiêu tự hào về công việc của ả ở Trinity bỗng chốc tan biến trong thất vọng ê chề. "Cha tôi phụ trách an ninh ở địa điểm mới của Trinity?"

"Đúng."

"Anh là đồ chó đẻ. Tại sao lôi cả cha con tôi vào vụ này?"

Mặc dầu miễn cưỡng ra mặt vì phải nói, Skow hình như cũng cảm thấy đừng hòng ả hợp tác chừng nào gã chưa trả lời.

"Rất đơn giản," gã nói. "Tất cả mọi khía cạnh của Trinity đã được Godin giám sát ngay từ đầu. Nhờ kinh nghiệm tình báo quân sự của mình, cha cô có ảnh hưởng đến việc chọn loại máy tính được quân đội sử dụng trong một số căn cứ. Lầu Năm Góc, các căn cứ khác nhau, và bây giờ là Huachuca."

Căn cứ Huachuca, bang Arizona, là trung tâm của Tình báo Quân sự Mỹ, mà cha ả là sĩ quan chỉ huy.

"Tướng Bauer giúp bảo vệ các hợp đồng cho Siêu máy tính Godin từ phía quân đội," Skow nói. "Ảnh hưởng của ông đã giúp Peter đánh bật Cray, NEC và các hãng khác."

"Ý anh nói ông ấy đã nhận tiền."

"Bộn lắm đó. Ông ấy có một tài khoản số Cayman do Peter rót tiền vào, giống như tôi. Tiền lương của NSA không đủ chu cấp cho lối sống của tôi."

"Lão già đạo đức giả đốn mạt. Tôi nghĩ ít nhất lão cũng nghĩ đến đất nước, đằng này lão lại... thôi bỏ đi. Lẽ ra tôi phải biết rõ chuyện này."

"Cha cô không làm hại đất nước bằng cách thúc đẩy siêu máy tính Godin đâu. Nó cũng tốt như mọi việc khác thôi. Ông tướng chẳng qua nhận chút tiền hoa hồng khi phát hiện ra nó. Bây giờ người ta làm ăn thế cả."

Vết sẹo trên mặt Geli như giật giật vì thịnh nộ. "Quân đội là nơi phục vụ, không phải chỗ làm ăn."

Skow chặc lưỡi. "Tôi chưa bao giờ nghĩ cô lại lãng mạn đến thế."

"Cái mả mẹ anh."

"Dẫu sao, khi Godin quyết định tìm một địa điểm nghiên cứu bí mật, ông ta đã gọi cha cô. Ít tiền trao tay, và ông tướng kiếm cho chúng tôi một chỗ hẻo lánh ngon lành không sợ có kẻ quấy rầy."

"Tại sao đưa tôi vào vụ này?"

"Lúc đó Godin tìm kiếm một người thích hợp với công việc cô đang làm bây giờ. Và cha cô đã tiến cử cô."

Geli bắt đầu đi tới đi lui, mạch máu đập thình thịch trong tai ả. "Ông ấy biết hết cả rồi phải không? Chuyện Godin sắp chết, chuyện dự án bế tắc?"

"Phải. Cả ông ấy cũng dính dáng. Ông ấy cũng có sự nghiệp cần bảo vệ."

"Hừm, mặc xác ông ấy. Mặc xác cả anh nữa."

"Cô gọi cho ông ấy đi, Geli."

"Địa điểm bí mật của Trinity ở căn cứ Huachuca phải không?"

"Không."

Ả không tin gã. Có hàng trăm héc ta đất dùng để thử vũ khí tại căn cứ Arizona hoang vắng. Mặt khác, cha ả là bậc thầy trong nghệ thuật giấu đuôi. Ông ấy có lẽ đã từ chối nếu Trinity trở thành gánh nặng và chắc gì đã cho đặt nó trong căn cứ của mình.

Ả kéo tai nghe lên, bấm bàn phím máy tính, và nói, "Thiếu tướng Horst Bauer, căn cứ Huachuca, Arizona."

Skow thở dài nhẹ nhõm đánh sượt.

Sĩ quan phụ tá của ông tướng trả lời điện thoại.

"Tướng Bauer," Geli cáu kỉnh.

"Thiếu tướng hiện không có đây. Xin hỏi ai ở đầu dây vậy?"

"Đại úy, ông hãy nói con gái của thiếu tướng đang chờ điện thoại."

"Xin giữ máy."

Skow thích cảnh này ra mặt. Geli xoay ghế để khỏi phải nhìn khuôn mặt già nua tinh tướng của gã.

Trong khi chờ đợi, hình ảnh ông bố hiện lên trong tâm trí ả. To cao bệ vệ theo khuôn mẫu Đức, Horst Bauer được các đối thủ mô tả như một phiên bản tóc vàng của nhân vật Tướng James Mattoon Scott trong phim "Seven Days in May" do Burt Lancaster thủ vai. So sánh như thế là xác đáng. Tuy vậy cái típ người cứng nhắc trong mắt mọi người ấy không phải là người đàn ông Geli biết. Geli chỉ thấy một gã đàn ông léng phéng suốt đời lừa dối vợ mình và reo rắc những đứa con ngoài giá thú khắp nơi. Ả thấy một kẻ vũ phu, hổ thẹn vì đứa con gái ngang ngạnh của mình, đã đánh đập nó không tiếc tay bằng bất cứ vật gì vớ được. Cái trớ trêu của đời ả là ả đã đi theo đúng vết chân của người mà ả căm ghét. Lý do rất đơn giản. Ả căm ghét cha mình vì ông ta đã làm ả khiếp sợ đến tận xương tủy, nhưng ả còn khinh thường tính thụ động của mẹ mình hơn nhiều.

"Nào, Geli," một giọng trầm cất lên làm tất cả các bắp thịt trong người ả căng cứng. "Chắc con đang gặp rắc rối. Con có bao giờ gọi cho ta đâu."

Ả định dập ngay máy, nhưng ả cần câu trả lời. "Ông đã biết gì về dự án trí thông minh nhân tạo?"

"Đùa như thế là hơi quá rồi đấy. Con vừa hỏi một câu không rõ ràng."

"Ông muốn rõ ràng hả? Tôi đang phụ trách an ninh cho Dự án Trinity ở Bắc Carolina. Tôi được người ta cho biết có một cơ sở bí mật đang tiến hành nghiên cứu cho dự án này. Ông có biết gì về chuyện đó không?"

Một khắc im lặng. "Có lẽ ba biết đôi điều."

"Và ông chưa bao giờ nói cho tôi biết bởi vì..."

Một tiếng cười khô khốc. "Thế mà ba không nhận ra rằng chúng ta đang bắt đầu một chương trình khôi phục tình cha con đấy."

"Ông đã đề cử tôi cho công việc này với Godin à?"

"Thế con tưởng ông ấy tìm ra con bằng cách nào khác nữa? Còn về chuyện nói cho con biết việc ba dính líu vào đây, Godin muốn tách bạch mọi thứ, ai biết việc người ấy. Con không thể cáu giận về chuyện đó. Con đã chẳng bao giờ nói với ba về cuộc sống của con ngay từ tuổi dậy thì. Ba chỉ biết về con qua những tin đồn, hay qua cảnh sát hoặc bác sĩ."

Có những trận chiến không bao giờ kết thúc. Ả nghĩ. "Chẳng ích lợi gì mà đi hâm nóng lại quá khứ. Tôi đã biết những gì tôi cần biết."

"Vậy con có rõ tình hình không? Cần phải làm gì?"

"Tôi đã rõ rồi."

"Skow chẳng có gan đâu, nhưng lại rất có tài kiểm soát thiệt hại đấy."

"Tôi cúp máy đây," ả nói nhưng vẫn giữ nguyên liên lạc.

"Cứ cúp đi," ông tướng nói. "Ba có cảm giác sẽ sớm gặp lại con."

Ả giật phắt tai nghe ra và giận dữ nhìn Skow.

"Thế nào?" gã NSA nói, "Chúng ta cùng hội cùng thuyền cả phải không?"

"Cút đi."

"Cô vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi."

"Tôi còn có thể lựa chọn gì? Nhưng điều làm tôi phát ốm là người như Godin lại bị suy sụp đến nỗi để những kẻ cặn bã như anh và cha tôi có thể coi thường. Anh không đáng xách dép cho Peter Godin."

Cuối cùng Skow cũng đỏ bừng mặt. "Cô có đồng ý về vụ Tennant và Weiss không? Ta bắt sống chúng về nhé? Nói với chúng tất cả là do hiểu nhầm."

"Godin vẫn còn chưa chết."

"Đúng."

"Và ta không biết chúng đang ở đâu. Ta không thể liên lạc với chúng trừ khi lên ti vi nói cho cả thế giới cùng biết."

"Cũng đúng nốt."

"Tôi vẫn không chắc mình muốn Tennant chạy rông khắp nơi mà nói cho mọi người biết hắn nghĩ gì về mọi chuyện đang xảy ra ở đây. Hắn quen biết mấy nhân vật có thế lực đấy."

Skow đăm chiêu gật đầu. "Tôi bảo thế này nhé. Tôi sẽ để Tennant và Weiss cho cô xử lý. Nếu chúng phải chết, ta sẽ để điều đó diễn ra."

"Anh để việc ấy cho tôi là chuẩn đấy."

Gã đứng lên bước ra cửa. "Còn câu hỏi nào nữa không?"

"Còn một thôi. Tại sao Fielding lại phá hoại dự án?"

Skow mỉm cười. "Lão cho rằng các nhà khoa học không nên sáng tạo ra những thứ họ không hiểu."

"Thế tạo sao lão lại nhận làm việc cho dự án?"

"Có lẽ lão không tin nó có thể tiến nhanh đến thế. Lão nghĩ chúng tôi phải có được những kiến thức cần thiết về bộ não thì mới vận hành được Trinity."

"Thế các anh có được những kiến thức ấy chưa?"

"Cô đùa đấy à? Nếu Trinity hoạt động đủ một trăm phần trăm, nó sẽ hoàn toàn bỏ xa chúng ta."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


Tôi chọn một nhà nghỉ rẻ tiền ở Arlington, từ Washington vượt qua sông Potomac, ở một nơi mà người tiếp tân không nhướng mày lên khi khách đề nghị trả tiền mặt. Một phòng, hai giường đôi, một buồng tắm, một ti vi, một điện thoại. Vừa vào đến phòng, Rachel trút ngay bộ áo liền quần ngụy trang rồi chui tọt vào buồng tắm vòi sen. Tôi thấy mình dõi theo cô đến khi cửa buồng tắm đóng lại. Cách ăn mặc thoải mái của cô hôm trước thật đáng ngạc nhiên sau hàng tuần chỉ thấy váy áo chỉnh tề. Khi nhìn thấy cô tự nhiên bước đi ngay trước mắt tôi trong bộ đồ lót, tôi đã thay đổi ý nghĩ về cô. Cơ thể Rachel săn chắc và có cơ bắp, đặc điểm mà chỉ những người thường xuyên luyện tập căng thẳng mới duy trì được. Điều này không hợp với ấn tượng của tôi về cô như một bác sĩ uyên bác, nhưng có lẽ nó hợp với khuynh hướng ám ảnh cưỡng chế của cô chăng.

Tôi lấy mấy bộ quần áo đi đường trong xe tải ra, rồi đi mua một tờ Washington Post và hai chai Dasani từ máy bán hàng tự động trong bãi đậu xe rồi trở về phòng. Từ dưới khe cửa buồng tắm tỏa ra một làn hơi nước. Tôi thay bộ quần áo thường ngày, gối đầu lên tấm ván đầu giường và mở đài CNN. Không có tin tức gì của liên bang về những kẻ chạy trốn, thế là tôi đọc lướt qua tin tức trong tờ Post.

Chúng tôi đã bắt đầu chuẩn bị cho chuyến đi Israel trong suốt tám giờ lái xe từ Tennessee. Bước đầu tiên là lo kiếm hộ chiếu giả. Chúng tôi lợi dụng bến đỗ xe tải gần Roanoke để Rachel gọi cuộc điện thoại đầu tiên. Một trong các bệnh nhân cũ của cô ở New York cho cô số điện thoại liên lạc ở Washington D.C. và bảo cô đợi một tiếng sau hãy gọi. Trong một giờ đó, sẽ có người xác nhận cho Rachel với người ở số điện thoại cần gặp.

Cô gọi cuộc thứ hai ở Lexington, bang Virginia, cuộc gọi hướng dẫn cô đến tiệm cà phê Au Bon Pain ở ga Liên Hiệp Washington vào lúc mười một giờ sáng mai. Người ta cũng bảo cô chọn lấy hai tên họ đầy đủ cùng với ngày sinh, và kiếm ảnh hộ chiếu cho những "người bạn" đang nói đến. Cô nên mang theo ảnh cùng thẻ có tên và miêu tả nhân dạng cho người ở cuộc hẹn tại Au Bon Pain. Khi Rachel hỏi bao lâu thì cô nhận được những thứ yêu cầu, nguồn kia cho biết thường phải chờ đợi bốn mươi tám tiếng.

Từ Lexington đến đường liên bang 66, chúng tôi nhận ra còn một vấn đề khác phải giải quyết. Thẻ tín dụng. Mua vé máy bay đi Israel bằng tiền mặt sẽ làm nảy sinh nghi vấn, cũng như việc chúng tôi không đặt phòng trước. Bạn bè hoặc người thân có thể sẽ phải đặt phòng cho chúng tôi theo tên mới, bằng cách dùng thẻ tín dụng hợp pháp. Cha tôi đã chết, tất cả bạn bè giờ này đang trong vòng theo dõi của NSA. Cha mẹ Rachel, chồng cũ và bạn bè của cô có lẽ cũng bị theo dõi như vậy. Cuối cùng cô chọn cách gọi cho một bác sĩ mà cô đã suýt đính hôn khi theo học Đại học Columbia. Anh ta là người Do Thái, thường xuyên qua lại Israel, và là người luôn tận tụy với cô. Tôi nghĩ việc đặt phòng khách sạn và vé máy bay dưới tên một người không quen biết có thể khiến anh ta lo ngại, nhưng Rachel đảm bảo với tôi rằng bất cứ việc gì cô yêu cầu sẽ được hoàn thành. Cô thử gọi cho anh ta ba lần trước khi chúng tôi đến thủ đô, nhưng không gặp may. Máy trả lời tự động của anh ta từ chối cung cấp số điện thoại di động của anh, còn Rachel thì không thể để lại số cho anh ta gọi lại.

Cửa buồng tắm bật mở kéo theo làn hơi nước mù mịt, và Rachel xuất hiện với một chiếc khăn tắm quấn quanh người, chiếc khác quấn trên đầu.

"Nước vẫn còn hơi nóng đấy. Có cả khăn tắm nữa. Anh vào tắm đi. Tôi cảm thấy trở lại thành người rồi."

"Chúng ta cần gọi lại cho anh bạn bác sĩ một lần nữa. Tôi đã mang quần áo vào cho cô. Chúng khá bẩn đấy."

Cô mỉm cười mệt mỏi. "Tôi sẵn sàng trả một nghìn đô cho bộ pyjama bằng flannel."

"Ngày mai chúng ta sẽ mua quần áo mới. Hoặc tối nay, nếu cô thật sự muốn. Sau khi chúng ta gọi điện đã."

Vai cô chùng xuống. "Chúng ta không thể chợp mắt một chút sao?"

"Chúng ta cần đặt phòng càng sớm càng tốt trước khi xuất phát. Thường phải đặt trước hàng tuần lễ."

"Ý anh bảo tôi mặc đồ vào đi à?"

Tôi gật đầu.

Cô ngồi trên mép giường sấy tóc.

"Tôi đang nghĩ," tôi nói. "Nếu cô không thấy phiền thì chúng ta nên đóng vai vợ chồng đi du lịch."

Cô quay lại nhìn tôi. "Anh thấy tôi có vẻ phiền về chuyện đó à?"

"Tốt. Chúng ta sẽ nhờ anh bạn kia đặt phòng dưới tên đã kết hôn. Chúng ta có nên lấy tên Do Thái không?"

"Không. Anh không lừa người Do Thái nổi năm giây đâu. Tôi sẽ là một cô gái Do Thái hiền ngoan sa cơ lỡ vận và phải lấy một người ngoài Do Thái. Tôi sẽ đứng ra nói khi cần."

Cô nhặt chiếc sơ mi trên ga giường lên và quay trở vào buồng tắm. Tôi nghe tiếng khăn ướt rơi xuống sàn; rồi cô trở ra, chỉ mặc độc chiếc sơ mi, đuôi áo lơ lửng ngang đùi, nhưng bên dưới chẳng mặc gì cả, và chẳng còn gì nhiều để mà tưởng tượng.

"Tôi phải đi nằm đây," cô nói. "Khi nào định đi thì anh đánh thức tôi dậy."

Tôi nhìn đồng hồ. 5:45 chiều. Để cô ngủ có lẽ là sai lầm, nhưng còn tốt hơn ngồi đợi trời tối. Tôi cũng không nghĩ mình có thể thức. Hai ngày rồi tôi chưa được ngủ cho ra ngủ, bắp thịt thì đau nhức, điều mà hàng năm nay tôi chưa bao giờ cảm thấy.

Rachel kéo chăn ra chui vào bên dưới, cô nằm sấp, mặt quay về phía tôi. Đôi mắt sẫm màu của cô mờ đi vì mệt mỏi, nhưng đôi môi cô thoáng mỉm cười.

"Tôi hầu như không nghĩ gì được," cô nói. "Còn anh?"

"Tôi chỉ đơn giản là đang ở đây."

"Anh có biết tại sao tôi thực sự ở đây không?"

"Bởi vì cô sợ chết."

"Không phải. Bởi vì tôi sợ không sống thật sự hơn là sợ chết. Anh hiểu không?"

"Có đôi chút."

Cô trườn sâu vào dưới tấm chăn. "Anh không hiểu đâu. Con tôi đã chết. Cuộc hôn nhân của tôi tan vỡ. Tôi còn gì nữa để mất?"

Rachel luôn làm tôi ngạc nhiên, nhưng lần này có lẽ cô nói sảng. "Tôi tin chắc các bệnh nhân của cô..."

"Nếu ngày mai tôi chết, các bệnh nhân của tôi sẽ có một bác sĩ tâm thần khác. Tôi ngồi trong căn phòng ấy ngày này qua ngày khác, lắng nghe những người trầm cảm, sợ hãi, giận dữ, hoang tưởng. Tôi lắng nghe những cuộc đời khác và cố gắng tìm ra ý nghĩa cho chúng. Sau đó tôi về nhà và viết báo về họ."

Cô mỉm cười lạ lùng. "Nhưng hôm nay thì khác. Hôm nay một người đàn ông mà tôi chẩn đoán là hoang tưởng đã lôi kéo tôi vào những hoang tưởng của anh ta. Tôi là Alice ở xứ sở trong gương. Người ta tìm cách giết tôi nhưng tôi vẫn sống. Và bây giờ tôi sắp sửa bay qua Israel vì một ảo giác. Bởi một người tôi thực sự tôn trọng bỗng nhiên quyết định anh ta là Jesus."

"Cô cần ngủ rồi đấy."

Cô lắc đầu, không rời mắt khỏi mặt tôi. "Giấc ngủ không làm thay đổi cách tôi cảm nhận về điều này."

Lúc này tôi không rõ lắm cô định nói về điều gì. Tôi trượt khỏi tấm ván đầu giường, kê đầu lên khuỷu tay và nhìn qua khoảng cách giữa hai chiếc giường. Đôi vai cô sẫm màu trên nền vải trắng, những lọn tóc ẩm ướt xõa xuống mắt.

"Thật ra cô đang nói về điều gì?" tôi hỏi.

Ánh mắt cô xuyên thấu mắt tôi theo cái cách mà tôi đã thấy đôi lần ở phòng khám của cô, như thể những bức tường dày mà tôi đã dựng lên từ sau cái chết của vợ con tôi không là gì đối với cô. Rồi, hoàn toàn chủ ý, cô mỉm cười.

"Tôi không biết. Sao anh không đi tắm đi?"

Ánh nhìn của cô nói rõ ý hơn là đôi môi. Tôi đứng dậy bước vào buồng tắm, vừa đi vừa trút bỏ quần áo bẩn khỏi người. Sau hai ngày đêm chạy thoát mạng, lúc này nước nóng nghi ngút đối với tôi còn bổ hơn là thức ăn. Tay và cổ tôi bị cây thạch nam cào xước cả, nhưng dưới tia nước các bắp thịt bắt đầu thư giãn. Khi tôi gội đầu bằng chai dầu gội nhỏ của khách sạn, tôi nghĩ đến mớ tóc đen của Rachel xổ tung trên gối, và tôi vội xả nhanh cho xong. Cô chắc cũng mệt bã như tôi và khó mà cưỡng nổi cơn buồn ngủ. Tôi lau khô người trong buồng tắm rồi quấn khăn quanh bụng, bước ra khoảng trống giữa hai chiếc giường.

Rachel vẫn nằm sấp, nhưng lúc này đã nhắm nghiền mắt, hơi thở đều và sâu. Tôi nhìn cô, ước gì cô cố thức, nhưng tôi không trách cô. Trong hai ngày qua cô đã thấy quá nhiều chuyện, và đã chạy quá xa. Tôi tháo khăn ra, ngồi lên mép gường và bắt đầu sấy tóc. Một lát sau, tôi chỉ muốn gieo mình xuống giường ngủ một giấc thật đã, đến khi nào không ngủ thêm được nữa mới thôi.

Một cánh tay sẫm màu thon thả quờ qua khoảng hẹp giữa hai chiếc gường. Bàn tay Rachel chạm đầu gối tôi, rồi mở ra và nắm lại trong không khí như thể nắm bắt vật gì. Khi tôi đặt tay vào tay cô, cô kéo tôi qua giường bằng một sức mạnh đáng ngạc nhiên. Tôi trườn sang nằm cạnh cô, nhìn sâu vào mắt cô, đôi mắt đang mở to như hai hồ nước đen thẫm.

"Anh tưởng em ngủ à?" cô hỏi.

"Em ngủ rồi mà."

"Vậy em đang mơ sao?"

Tôi mỉm cười. "Có lẽ là ảo giác đấy."

"Thế thì em có thể làm mọi thứ em muốn."

"Đúng thế."

Cô nhỏm đầu lên hôn tôi. Đôi môi cô căng và đỏ mọng, miệng cô hé ra khao khát khiến tôi hiểu cô đã muốn từ lâu rồi. Tôi mở cúc áo cô và kéo cô lại phía mình. Cô khúc khích cười khi những lọn tóc ẩm ướt quệt ngang mặt tôi.

"Trong những lần khám, anh có khi nào nghĩ đến chuyện này không?" cô hỏi.

"Không bao giờ."

"Nói dối."

"Có lẽ một hai lần."

Cô lại hôn tôi lần nữa, và cái cách cô mơn trớn thân thể tôi bằng chính thân thể cô cho tôi thấy ở đây không hề có sự lóng ngóng vụng về của những kẻ mới yêu lần đầu. Cách cô đụng chạm cũng đầy hiểu biết và tin cậy như cái nhìn của cô, và khi cô dồn hết chú ý vào tôi, tôi nhớ rằng không có gì rung cảm hơn một người phụ nữ vốn nhiều lời mà lúc này quyết định không nói năng gì.

Tôi hoảng sợ giật mình thức giấc, đoan chắc chúng tôi đã hoãn gọi điện quá lâu. Ánh sáng từ ti vi hắt ra chiếu sáng căn phòng. Đồng hồ đầu giường chỉ 11:30. Rachel nằm ngửa bên tôi, một tay nàng vắt ngang trán, tay kia đặt dọc người tôi.

Bây giờ đối với tôi nàng đã là một người đàn bà khác. Sau ba tháng giữ khoảng cách nghề nghiệp, nàng đã trao mình trọn vẹn cho tôi. Ký ức của tôi về những việc chúng tôi đã làm trước khi chìm vào giấc ngủ giống ảo giác hơn bất kỳ hình ảnh nào tôi đã thấy trong thời gian mắc chứng ngủ rũ. Thế mà nó lại là thật.

Rachel cần ngủ, nhưng tôi buộc phải đánh thức nàng dậy. Tôi ngồi dậy vớ chai Dasani uống một hơi dài, xong nhẹ nhàng lay cánh tay nàng. Tôi sợ nàng hốt hoảng thức giấc như lúc trên xe tải, nhưng lần này nàng chậm rãi cử động, rồi nhoài người ra nắm chặt lấy cổ tay tôi.

"Này," tôi nói. "Em cảm thấy thế nào?"

Nàng mở to mắt nhưng không trả lời. Thay vào đó, nàng hít một hơi thật sâu rồi ngồi dậy ôm tôi. Tôi ôm lại nàng, ước gì chuyện này xảy ra sớm hơn, ở một nơi nào khác.

"Ta phải cố gọi cho bạn em lần nữa," tôi nói.

"Em không thể gọi ở đây sao?"

"Không em ạ. Nếu em quen thân với người đó ở trường y, NSA có thể đã biết. Và nếu chúng nghe trộm đường dây của anh ấy thì chúng có thể lần ra ta ngay tức khắc. Nếu ta gặp được anh ấy, anh sẽ canh chừng bên ngoài bốt điện thoại và đợi xem có ai xuất hiện không. Thế ta mới biết đường dây của anh ấy có an toàn không."

"OK." Nàng ngả người ra hôn nhẹ lên môi tôi. "Chúng ta hãy làm cho xong chuyện này đi."

Cách nhà nghỉ chừng chục cây về phía Tây, tôi thấy một bốt điện thoại bên ngoài trạm xăng trên đường Columbia Pike, trông có vẻ khá kín đáo. Tôi đậu xe sao cho có thể quan sát đường sá trong lúc Rachel gọi điện.

Nàng đi thẳng đến bốt, cầm chiếc thẻ điện thoại chúng tôi mua ở cửa hàng Quik Stop gần nhà nghỉ. Vài phút sau, nàng mỉm cười giơ ngón tay cái lên làm hiệu và bắt đầu nói. Câu chuyện kéo dài khá lâu, nhưng tôi biết chắc mọi chuyện diễn ra tốt đẹp, vì tôi thấy nàng cầm giấy của nhà nghỉ đọc tên giả của chúng tôi. Ông bà John David Stephens. "Tên thời con gái" của Rachel là Horowitz, còn trong hộ chiếu là Hannah Horowitz Stephens. Trong lúc nàng nói, tôi thầm nghĩ tay bác sĩ này hẳn đã yêu nàng sâu sắc lắm đến nỗi mười lăm năm vẫn chịu làm việc này cho nàng. Nàng treo ống nghe rồi bước về xe tải.

"Tốt chứ?" tôi hỏi.

Nàng đóng cửa xe. "Không có vấn đề gì. Anh ấy sẽ đặt trước mọi thứ. Máy bay, khách sạn, thậm chí cả mấy chuyến đi tham quan thành phố."

"Đi từ New York chứ?" Chúng tôi không thể liều mạng lưu lại Washington lâu hơn cần thiết quá một tiếng.

"JFK 1 ."

"Anh chàng này là ai vậy?"

"Adam Stern. Anh ấy là bác sĩ sản khoa ở Manhattan. Bây giờ anh ấy đã có bốn con rồi."

"Ngày trước chắc anh ấy phải thích em lắm."

Nàng nhìn tôi cười ranh mãnh. "Họ chẳng bao giờ quên được em đâu."

Tôi cho xe chạy thêm một trăm mét trên đường thì dừng, vẫn để máy chạy. Tại đây tôi vẫn nhìn thấy bốt điện thoại mà Rachel vừa gọi.

"Adam nói tuần này ở Israel đông khách du lịch nhất trong năm," nàng nói. "Lễ Phục sinh ở Jerusalem giống như lễ hội Mardi Gras ở New Orleans vậy."

"Điều ấy có thể tốt cho chúng ta."

"Chỉ cần ta bay được. Anh ấy sẽ cố tìm hãng nào khác ngoài El Al, nhưng không chắc chắn lắm."

"Hãng nào cũng tốt. Bọn chúng chắc chưa công khai truy nã ta đâu."

Chúng tôi ngồi một lúc trong tiếng rì rì của động cơ chạy không, nhưng không thấy ai đến gần bốt điện thoại. Tôi luồn tay qua ghế ôm nàng.

"Em ổn cả chứ?"

Nàng gật đầu nhưng không nhìn tôi. "Từ lâu em đã thấy yên tâm về những việc chúng ta làm rồi."

Tôi siết tay nàng, và nàng quay sang tôi. Mắt nàng ướt. Bây giờ tôi mới hiểu nàng đã phải sống bao lâu trong cảnh thiếu vắng thân tình. Có lẽ cũng lâu như tôi thôi.

"Anh rất mừng có em ở đây," tôi nói. "Và anh cũng mừng vì em theo anh sang Israel. Không có em anh không làm được gì cả."

Nàng rút tay lại và lau mắt.

Tôi liếc lại bốt điện thoại. Không có ai lại gần. "Anh nghĩ ta ổn rồi. Em sẵn sàng ngủ một giấc cho thật đã chưa?"

"Em sẵn sàng ăn hamburger pho mát. Rồi sau đó sẽ ngủ."

Chín rưỡi sáng hôm sau, chúng tôi chạy xe qua cầu Memorial, đến đài tưởng niệm Lincoln. Lần trước tôi đến thăm Washington để quay một phần loạt phim NOVA dựa trên cuốn sách của tôi. Hoàn cảnh hồi đó với bây giờ thật trái ngược nhau đến nỗi khó mà hình dung nổi.

Tôi tìm thấy cửa hàng photocopy Kinko phía Đông Nam đồi Capitol và sau hai mươi phút thì lấy được ảnh hộ chiếu mà chúng tôi được chỉ dẫn phải mang đến tiệm cà phê Au Bon Pain ở ga Liên Hiệp. Khi tôi chạy xe đến ga, dòng người đi bộ càng lúc càng tấp nập và tôi bắt đầu thấy lo lắng. Washington bây giờ đứng đầu danh sách các mục tiêu tấn công của bọn khủng bố, ở gần những tòa nhà quan trọng rất dễ có camera theo dõi. Có thể không nhìn thấy những camera này, nhưng chắc chắn là có. Và NSA có năng lực điện toán để tìm kiếm hình ảnh từ các băng hình theo dõi ấy. Tôi cố tránh xa trung tâm mua bán và đậu xe trong bãi đỗ phía Đông của ga Liên Hiệp.

Khi chúng tôi bước chân vào tòa nhà khổng lồ bằng đá granit trắng, chúng tôi cố di chuyển thật nhanh đến cửa chính. Rachel cố sóng hàng với tôi, chiếc túi Kinko lắc qua lắc lại trên tay phải nàng. Nàng không biết tôi giắt súng ở thắt lưng dưới lần áo sơ mi. Nếu cửa chính của nhà ga có lắp máy dò kim loại, tôi sẽ phải quay trở lại xe tải. Hàng chục người xếp hàng ở cửa chính, nhưng sau khi nhìn dòng khách, tôi thở phào nhẹ nhõm. Dòng người di chuyển nhanh thế chắc không bị kiểm soát an ninh nghiêm ngặt.

Vừa bước qua cửa, chúng tôi hòa ngay vào đám đông đang đi qua nhà ga mới được tân trang theo lối kiến trúc tân cổ điển. Chúng tôi đi qua một nhà hàng trên không ở giữa tầng rồi lao nhanh đến sảnh chính rộng mênh mông. Sảnh này dẫn đến một khu mua bán nhiều tầng, tại đây những đoàn du lịch, khách du lịch ba lô và người mua sắm chen lấn xô đẩy nhau trên lối đi và cầu thang cuốn, ngạc nhiên trước các bức tượng, chỉ trỏ vào các quầy hàng. Tiếng ầm ầm dưới đế giày cho tôi biết tàu đang chạy gần đây, thế mà khung cảnh xung quanh tôi cứ nguyên sơ như viện bảo tàng.

"Au Bon Pain kia rồi," Rachel nói và kéo tôi sang bên trái.

Hiệu sách B. Dalton khổng lồ nằm ở cuối khu mua sắm, tiệm cà phê Au Bon Pain nằm ngay bên phải. Khách ra vào tấp nập, và tôi nghĩ người chúng tôi cần gặp đã rất cẩn thận khi chọn chỗ này.

Rachel bước qua khung cửa rộng, hòa vào hàng người nối đuôi nhau trước những bình cà phê lớn trên chiếc bàn cẩm thạch. Tôi đi theo cô, ra vẻ tự nhiên quan sát những bàn bên phải. Cô đã được hướng dẫn hãy tìm một phụ nữ cầm trên tay cuốn The Second Sex của Simone de Beauvoir. Tôi nghĩ mình có thể chỉ dựa vào ngoại hình mà đoán ra người phụ nữ mang cuốn sách đó.

Ở chiếc bàn gần cuối phòng, tôi thấy một phụ nữ tóc đỏ chừng năm mươi tuổi, không trang điểm, miệng mím chặt. Bà ta nhìn chăm chăm xuống bàn như sợ bị người lạ bắt chuyện. Tôi định cược một trăm đô rằng đó là người chúng tôi cần gặp thì Rachel kéo tay tôi chỉ một phụ nữ Mỹ gốc Phi khoảng bốn chục tuổi đang đứng gần giá đựng bánh và đọc cuốn The Second Sex. Rachel rời khỏi hàng đến gần bà ta.

"Đã nhiều năm nay tôi không nhìn thấy quyển sách này!" Rachel nói. "Từ thời còn học đại học cơ. Không biết bây giờ nó còn hợp thời không?"

Người đàn bà nhìn lên và mỉm cười, mắt bà ta ngời sáng thân thiện. "Cũng hơi lỗi thời đấy, nhưng có giá trị về góc độ lịch sử." Bà ta chìa bàn tay nâu đeo đầy nhẫn ra. "Tôi là Mary Venable."

"Hannah Stephen," Rachel nói. "Hân hạnh được gặp bà."

Tôi ngạc nhiên vì thấy cô nhập vai ngọt đến vậy. Có lẽ bác sĩ tâm thần là những người vốn có tài nói dối. Khi tôi bước tới, tôi thấy Venable nói khẽ, "Rất vinh dự được gặp cô, bác sĩ. Cô đã giúp chúng tôi nhiều lắm."

"Cám ơn," Rachel đáp. Rồi cô nói lớn giọng hơn nhiều. "Tôi không thể hiểu tại sao Simone lại chịu làm người tình của Sartre. Trông ông ta như con nhái bén 2 . Không phải nói theo kiểu bôi nhọ người Pháp đâu. Mà là nhái bén thật ấy!"

Mary Venable cười tự nhiên đến mức tôi hầu như không nhìn thấy bà ta lấy cái túi Kinko từ tay Rachel và ném vào trong chiếc giỏ đan châu Phi lớn dưới chân.

"Nếu đêm nay tôi đọc xong," Venable nói, "mai tôi sẽ cho cô mượn. Tôi sẽ ở đây vào giờ này."

"Hẹn gặp lại bà sáng mai," Rachel nói.

Mary Venable ghé sát nàng, nói nhỏ, "Bảo anh bạn cô giấu hàng kỹ hơn một chút."

Trong khi Rachel còn đang ngẩn ngơ, Mary Venable âu yếm siết chặt tay nàng, rồi cầm túi lên và bước đi. Qua chỗ tôi, bà ta chỉ chạm mắt tôi trong một thoáng, nhưng tôi đã đọc được thật to và rõ ràng lời nhắn nhủ trong mắt bà: "Hãy chăm sóc cô bạn của anh cho tốt, chàng trai ạ."

Tôi bước đến bên Rachel, cô nhìn tôi với ánh mắt kỳ quặc. "Hình như bà ấy có nhắc gì đến giải phẫu phải không?"

"Anh sẽ nói với em sau." Tôi nắm cánh tay Rachel dắt nàng ra khỏi cửa hàng.

"Em không biết là có trung tâm mua sắm ở đây," nàng nói. "Chúng ta đi mua mấy bộ quần áo được không?"

"Ở đây không được đâu. Anh thật sự vẫn chưa thấy nơi chúng ta cần đến. Chúng ta cần một khu bách hóa tổng hợp có bán đủ mọi thứ ấy."

"Hay là lên tầng trên?"

"Không phải ở đây," tôi vẫn khăng khăng.

Khi tôi dắt nàng ra đến cửa chính, một tay cảnh sát thành phố bước ngang qua chúng tôi. Tim tôi nhảy loạn. Tôi chắc hắn đã sững người nhìn tôi đúng vào lúc chúng tôi đi ngang qua. Tôi định quay đầu lại kiểm tra, nhưng không dám.

"Có chuyện gì vậy?" Rachel hỏi khi thấy vẻ căng thẳng của tôi.

"Anh nghĩ chúng đang lùng sục ta ở đây."

"Tất nhiên rồi."

"Anh muốn nói chúng lùng công khai ấy. Anh nghĩ thằng cớm vừa rồi đã nhận ra anh."

Nàng định quay lại nhìn, nhưng tôi lắc đầu khá mạnh để ngăn nàng lại.

"Anh cho rằng không chỉ có NSA?" nàng hỏi.

"Anh e là không. Đi sát vào anh và chuẩn bị chạy thôi."

Chúng tôi đi qua một cái cây trong bồn cây cảnh lớn ở giữa tầng. Tôi kéo Rachel ra sau cây và quay lại nhìn từ chỗ núp. Gã cảnh sát bám đuôi chúng tôi và đang nghển cổ nhìn dáo dác quanh bồn cây. Hắn còn nói vào micro trên ve áo.

"Chúng ta bị phát hiện rồi," tôi nói. "Đi thôi!"

--- ------ ------ ------ -------

1 Sân bay Quốc tế Kennedy.

2 Nguyên văn: Frog, vừa có nghĩa là ếch nhái, vừa có nghĩa là cách nói lăng mạ chỉ người Pháp.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


Tôi nắm tay Rachel lao đi nhanh gấp đôi bình thường. Đáng lẽ chạy ra cửa chính, chúng tôi đổi hướng chạy về phía cầu thang dẫn lên tầng trên, lợi dụng đám đông để ẩn náu.

"Lên à?" Rachel chỉ tay vào cầu thang hỏi.

"Không. Mục tiêu của chúng ta là tàu hỏa." Tôi tiến đến quầy vé bên tay trái, nhưng một giọng phụ nữ trên loa phóng thanh ngăn tôi lại.

"Chú ý, quý khách, xin chú ý. Vì lý do bảo trì, tất cả những chuyến tàu sắp vào hay rời ga phải dừng ngay tại chỗ. Yêu cầu ở nguyên trên sân ga, chúng tôi sẽ thông báo ngay khi có thông tin mới. Cảm ơn vì sự kiên nhẫn của quý khách. "

Adrenaline trào lên trong người tôi. Người phát thanh viên đang đọc lại thông báo bằng tiếng Tây Ban Nha.

"Quay lại cầu thang," tôi nói, quay ngoắt người lại.

"Lên hay xuống?"

"Lên!"

Chúng tôi nhảy hai bậc thang một. Ở tầng trên, tôi nhoài người ra khỏi lan can ngó tìm xem gã cớm đã phát hiện ra chúng tôi đâu. Hắn đang đứng ở tầng chính, cố đoán xem chúng tôi đã chạy hướng nào. Hắn ngước lên, lấy tay che mắt cho khỏi chói, rồi bắt đầu đi về phía cầu thang.

"Tại sao chúng cho dừng tàu lại," Rachel hỏi.

"Vì chúng ta."

"Chẳng lẽ chúng chặn tất cả các đoàn tàu vào ga Liên Hiệp để tìm chúng ta?"

"Xin chú ý," tiếng phát thanh viên vang lên. "Cảnh sát yêu cầu tất cả khách mua hàng và khách du lịch bình tĩnh và trật tự di chuyển đến các cửa ra. Chúng tôi xin lỗi vì sự phiền phức này. Không có bất cứ mối nguy hiểm nào cho người và tài sản. Quý khách có thể trả xong tiền mua hàng, nhưng chúng tôi khẩn thiết yêu cầu di chuyển ra các cửa càng nhanh càng tốt. Cám ơn."

Tôi nhận thấy Rachel đang phải cố giữ bình tĩnh.

"Chúng ta sẽ không đi ra chứ?" nàng hỏi.

Tôi nhìn qua lan can một lần nữa. Gã cớm đang ngần ngừ không biết nên lên hay xuống. "Chắc hẳn chúng đã bật một loại báo động khủng bố nào đó. Đấy là cách duy nhất sơ tán chỗ này. Xung quanh tòa nhà chắc đã có hàng trăm tên cớm bao vây rồi."

Rachel nhìn dọc theo gác lửng. Từng đoàn người hối hả đi về phía chúng tôi. Chúng tôi tránh khỏi cầu thang nhường đường cho họ.

Gã cớm bên dưới chạy đến quầy vé và nói lại vào micro trên cổ áo.

"Chúng ta có hai lựa chọn. Một là thay hình đổi dạng và đi theo đoàn người ra ngoài?"

"Thay hình đổi dạng thế nào?"

"Vào trong một gian hàng và mặc cả cây đen vào chẳng hạn. Kiếm chiếc kéo và cắt tóc em đi. Bôi keo cho tóc anh dựng lên. Cố gắng trẻ lại độ mươi tuổi."

Rachel trông chẳng có vẻ gì tự tin hơn. "Như thế chúng ta sẽ bị kẹt lại sân bay. Chúng ta sẽ không còn giống ảnh trong hộ chiếu nữa."

"Em nói đúng. Vậy ta hãy làm một việc đơn giản. Chạy vào trong gian hàng. Kiếm hai chiếc hộp carton lớn, chui vào trốn cho đến khi tạm yên."

"Đơn giản là tốt."

"Nhưng cảnh sát có thể đem chó vào."

"Trời."

"Nào đi," tôi nói, tự nhiên cảm thấy chắc chắn phải làm gì.

Tôi chạy xuống cầu thang cuốn, dè chừng các bộ cảnh phục. Lúc nãy đi vào tôi đã trông thấy mái cửa vào rạp chiếu phim, và theo cách bố trí của nhà ga, tôi đoán nó ở tầng dưới. Cầu thang dẫn xuống một khu vực ăn uống. Mọi người đang ăn vội ăn vàng cho chóng xong, nét mặt lo lắng. Qua một đống ghế màu vàng và cam lộn xộn, tôi thấy một hàng người xem phim nối đuôi nhau ra cửa.

"Chúng ta đi đâu đây?"

"Xem phim."

"Họ đang sơ tán khỏi đây mà."

Khi chúng tôi đến trước lối vào rạp chiếu phim, một bức tường mở ra trước chúng tôi khoảng mười mét, và một đôi trai gái trông có vẻ hoảng sợ bước ra, nhíu mắt lại. Trước khi cánh cửa chống cháy sập lại dưới sức căng lò xo, tôi lao đến đưa chân chặn giữ lại.

Trong rạp đèn còn sáng, nhưng các hàng ghế trống không. Phía trên sàn dốc bên trái, một người bận đồ thể thao đang hướng dẫn người xem phim cuối cùng xuôi theo lối đi giữa ra cửa chính. Bên phải tôi, anh chàng Hugh Grant cao ba mét đang chán ngán bước dọc đường phố London, hai tay đút túi. Rachel dựa vào lưng tôi.

"Trong đó có gì thế?"

Tôi mở cửa đủ rộng cho chúng tôi trườn vào, rồi nâng chân tấm màn nhung đỏ nặng trịch chạy dọc theo tường trùm lên người. Chúng tôi nằm ép sát tường và tách nhau ra, cố khớp với nếp sóng của tấm màn một cách tự nhiên hơn. Tôi không nhìn thấy Rachel nữa, nhưng tôi ngạc nhiên nhận thấy chúng tôi đang nắm tay nhau. Cái bản năng này cũng nguyên thủy như bản năng của hai người Neanderthal 1 an ủi nhau bên vách hang đá vậy.

"Sao lại vào đây?" cô hỏi. "Sao ta không trốn vào sau cửa hàng?"

Tôi hình dung bọn cảnh sát đang xúm xít quanh chiếc xe tải lấy cắp.

"Chó," Rachel thì thầm. Cách đây một phút, phòng này đầy mùi mồ hôi người. Nhiều mùi hỗn tạp. Không giống như trong nhà kho cửa hàng.

"Đúng." Nhạc phim tắt ngấm với một âm thanh rền rĩ. Tôi chờ nghe tiếng người, nhưng không có. Mười lăm phút trôi qua. Hai mươi. Rachel nắm bàn tay ướt đẫm mồ hôi của tôi. Khi tôi quệt mồ hôi trán, một giọng đàn ông xuyên qua tấm rèm.

"Tôi đã vào đến cánh giữa!"

Rachel siết chặt bàn tay tôi.

Tiếng điện đài của cảnh sát léo nhéo vang vọng trong rạp chiếu phim.

"OK," tên thứ hai hét. "Tôi sẽ quét đèn pin dưới gầm ghế."

Mấy tên này không làm tôi lo lắng mấy, nhưng tiếng thở hổn hến theo sau làm tôi suýt đứng tim. Có lẽ tôi phải nhanh chóng cân nhắc lựa chọn giữa đầu hàng hay đọ súng với cảnh sát thành phố.

"Nó đã thấy gì đó!" tên thứ nhất kêu lên. "Coi, nó đã đánh hơi được rồi. Cố lên nào, cưng!"

Tôi cố nhịn thở.

"Con khỉ. Hóa ra là nửa cái xúc xích."

"Chờ tí. Nó đang sục chỗ khác."

Tiếng nói nghe gần hơn. Bàn tay Rachel run lên. Nàng sẽ phản ứng thế nào nếu tôi nổ súng? Đây không phải bọn sát thủ do Geli Bauer phái đến. Có lẽ chỉ là đám cảnh sát thành phố đang làm nhiệm vụ.

"Nó đi theo vòng tròn," giọng thứ hai cất lên. "Quá nhiều mùi. Chính tôi cũng đang ngửi thấy mùi hơi người. Chúng ta phải quay lại sau vậy."

"OK. Dù sao họ cũng muốn nó lần theo dấu vết."

Tiếng nói xa dần.

"Chúng ta làm gì bây giờ?" Rachel thì thào.

"Đợi."

"Bao lâu?"

"Họ không thể đóng cửa ga Liên Hiệp cả ngày được."

"Anh có nghĩ lũ chó sẽ quay lại không?"

"Anh không biết."

"Hình như em ********* ra quần rồi."

"Đừng bận tâm về chuyện đó."

"Liệu chó có đánh hơi ra không?"

Nàng nói đúng. "Hãy cố giữ yên lặng đã."

Một giờ bốn lăm phút sau, một giọng nam cất lên qua hệ thống loa phóng thanh. "Bác sĩ Tennant. Tôi là sĩ quan Wilton Howard của sở cảnh sát Washington D.C. Chúng tôi muốn ông hiểu rằng chúng tôi biết đây chỉ là một sự hiểu lầm. Chúng tôi được biết việc bắn người ở Bắc Carolina là hành động tự vệ, chúng tôi sẵn sàng cho ông quyền được giam giữ có bảo vệ, và ông có thể liên lạc không giới hạn với bất kỳ người nào ông muốn. Đề nghị ông ra trình diện cùng với bác sĩ Weiss, hạ tất cả vũ khí xuống, và đến gặp bất kỳ sĩ quan nào. Ông sẽ không bị đối xử như với tội phạm."

"Anh nghĩ sao?" Rachel hỏi.

"Anh thấy có giọng Geli Bauer trong thông điệp này."

"Có thể họ nói nghiêm chỉnh. Ý em là tất cả cảnh sát trong tòa nhà này cũng nghe thấy rồi."

"Nếu họ đã được báo rằng anh là khủng bố hay đại loại thế, họ sẽ nghĩ việc dùng bất cứ biện pháp nào để lôi cổ anh ra là chính đáng. Hơn nữa, họ nghĩ anh có súng."

"Thế anh có không?"

Tôi định nói dối, nhưng lại nghĩ nàng cần biết sự thật. "Có."

"Trời đất ơi!"

Lời kêu gọi của cảnh sát lại vang lên.

"David..."

Tôi quờ sang siết chặt tay nàng. "Yên."

Thêm một giờ nữa trôi qua, các thông điệp qua loa phát thanh cũng nhiều hơn và thay đổi. Bằng bản năng, tôi bảo Rachel nằm ép xuống sàn và sát vào tường. Tôi cũng làm thế.

Lũ chó không quay lại, nhưng có nhiều cảnh sát quay lại. Nghe như bọn họ đi rà soát từng hàng ghế. Thỉnh thoảng tôi thấy tấm màn nặng nề đung đưa khi có người kiểm tra nó. Khi tiếng bước chân đến gần tôi rút súng khỏi túi quần và thầm nguyện cầu Rachel giữ được bình tĩnh. Những bước chân nặng nề đến sát bên tôi, liền sau đó tấm màn được nhấc khỏi mặt tôi.

Một đôi bốt đen đứng cách mặt tôi chỉ mươi phân. Tôi nín thở, không chắc mình có bị nhìn thấy hay không. Tấm màn vờn trên má phải tôi. Rồi nó được thả xuống, và tiếng ủng xa dần. Tay cảnh sát chỉ giơ tay chạm tường vài lần để kiểm tra phía sau tấm màn.

Tim tôi dường như đông cứng lại.

Tiếng đôi bốt lại gần lần nữa. Tay cảnh sát kiểm tra tấm rèm như lần trước, nhưng dọc xuống. Tôi cố làm ngơ trước tiếng bước chân ấy. Sau khoảng thời gian dài như vô tận, tôi nhận ra hắn đã bỏ qua chỗ chúng tôi. Cuộc tìm kiếm kéo dài thêm năm phút nữa, rồi tiếng liên lạc léo nhéo tắt. Tôi nghĩ Rachel thật cừ, nhưng không dám liều nói chuyện với nàng. Sau hai mươi phút không có thêm lời kêu gọi nào từ hệ thống phóng thanh, tôi nghe có tiếng lách cách và tiếng máy rì rì, và nhận ra họ đang tua lại phim.

"Có phải máy chiếu không?" Rachel hỏi.

"Họ đang tua lại phim. Có lẽ nhà ga đã được mở lại. Chúng ta ra thôi."

"Hay là ta cố chờ đến đêm?"

"Không. Đêm nay chúng sẽ đặt các chốt gác ở lối ra. Ngay lúc này ta có thể lợi dụng tình trạng lộn xộn khi nhà ga vừa mở lại. Đây là cơ hội tốt nhất."

Chúng tôi đứng dậy men theo tường ra cửa. Sau khi lắng nghe mà không thấy gì, tôi mở hé cửa. Hai phụ nữ đi ngang qua, bận trang phục đường phố. Tôi nghĩ họ có thể là cảnh sát, nhưng khi đó loa phát thanh thông báo lịch tàu chạy. Nếu sân ga không có người, chắc không cần một thông báo như thế. Tôi kéo Rachel qua cửa.

Cầu thang thường và thang cuốn chật ních người, tiếng dụng cụ nhà bếp loảng xoảng dội qua sàn nhà cẩm thạch trong khu ăn uống. Chúng tôi bước tới cầu thang cuốn, chuẩn bị đi lên.

"Khi lên đến tầng chính, hãy đi cách sau anh hai mươi mét," tôi nói. "Thấy ai phát hiện ra anh thì em lẩn vào đám đông thoát mau nghe chưa."

Đầu trên của thang cuốn gần ngay lối vào cửa hàng B. Dalton. Tôi hôn lên má Rachel, vừa bước nhanh vừa quét mắt qua đám đông xem có đồng phục cảnh sát nào không.

Du khách giận dữ tràn vào nhà ga như nước tràn qua đập. Đa số hướng đến các đoàn tàu. Thật là một sự che chở quá tốt đối với tôi. Tôi liếc nhanh ra sau để biết chắc Rachel vẫn bám theo, rồi chuẩn bị rẽ phải, ra phía cửa chính. Nếu cảnh sát dồn mọi người qua một điểm kiểm soát duy nhất, tôi sẽ quay ngoắt lại đi kiếm một lối thoát hiểm dự phòng. Nếu không, tôi cứ liều mình trông cậy vào đám đông vô danh là thoát.

Tôi rẽ ngoặt sang phải và hướng đến một phòng mái vòm dẫn ra cửa chính. Dòng người cuồn cuộn đi ngược chiều khiến thật khó định hướng, nhưng tôi vui mừng vì có họ. Việc đóng cửa nhà ga suốt ba tiếng đã tạo cho chính cảnh sát một tình huống gần như bất khả.

Từ chỗ tôi đứng đến cửa chính có một tiệm ăn hình tròn tôi đã nhìn thấy lúc vào. Cao hai tầng, tiệm cà phê ngoài trời này giống như một hòn đảo nhô lên giữa mặt bằng. Trên tầng hai có nhiều bàn và ban công bằng thép cuốn hoa văn, để khách hàng có thể vừa ăn vừa ngắm cảnh nhộn nhịp bên dưới. Đó cũng là nơi có thể đứng nhìn bao quát toàn bộ sảnh lớn. Tôi bắt đầu đi vòng quanh từ bên trái, cố giữ mặt cúi gằm.

"Bác sĩ Tennant!" một giọng nữ hét lên.

Tôi liếc nhìn lên.

Từ tầng hai tiệm cà phê, Geli Bauer đang nhìn chằm chằm xuống tôi. Khuôn mặt sẹo và đôi mắt xanh lè của ả không lẫn vào đâu được, và việc ả có mặt ở đây đúng là một định mệnh không tránh khỏi. Ba tiếng đồng hồ chúng tôi trốn trong rạp chiếu phim đủ thời gian để ả bay từ Bắc Carolina đến đây. Cảnh sát đã mở lại nhà ga, nhưng Geli vẫn hy vọng chờ đợi sẽ tìm thấy chúng tôi. Khi tôi xoay người ra sau để xem Rachel có nhận ra mối nguy hiểm không, tôi mới biết là mình bị hớ. Geli tức khắc phát hiện ra nàng, liền nâng điện đài lên miệng.

"Chạy!" tôi hét lên với Rachel.

Geli buông điện đài xuống, rút phăng ra một khẩu tiểu liên tự động, nhằm thẳng tôi.

Một phụ nữ đứng bên ả rú lên. Khi nhiều người khác hoảng loạn, Geli lao ra cầu thang dẫn xuống tầng chính. Tôi lần tay ra sau với khẩu súng giắt lưng.

"Đừng!" Geli vừa lao xuống cầu thang vừa gào lên. "Tôi không bắn đâu! Lệnh giết anh là của Godin! Godin điên rồi!"

Ả dừng lại ở ba phần tư cầu thang, giương súng bằng cả hai tay trong thế tấn công.

"Nếu đúng thế thì cô bỏ súng xuống đi!"

Ả không bỏ.

Tại sao ả không bắn mình? tôi tự hỏi. Rồi tôi hiểu ra là Rachel đang còn ở khá xa, nếu ả lỡ bắn tôi, nàng có thể chạy thoát cùng với đám đông hoảng loạn.

"Bỏ súng xuống, bác sĩ!" Geli vừa xuống nốt cầu thang vừa quát. "Bỏ súng xuống và nằm sấp xuống sàn! Tôi sẽ không bắn!"

Ở tầm này ả chắc chắn không bắn trượt. Tôi quẳng súng xuống mặt sàn sáng bóng. Mắt ả lóe lên vẻ thỏa mãn.

Đám đông phản ứng với vụ lộn xộn này như một đàn kiến nhận ra nguy hiểm ở ngay giữa chúng. Làn sóng hoảng hốt từ tâm lan ra xa hơn, trùm lên đám du khách cuống cuồng, tạo nên một vòng xoáy người chen lấn ra các cửa. Cảnh sát ở đó phải vật lộn từng phân một để len ngược vào đây.

"Lại đây, bác sĩ Weiss!" Geli gọi to.

"David?" Rachel ngập ngừng gọi.

Khẩu tự động của Geli có nòng giảm thanh. "Chạy đi!" tôi gào lên. "Mau thoát khỏi đây."

Geli quay khẩu súng sang phía Rachel. Tôi nhào lên cầu thang. Tôi túm lấy hai cổ tay ả vừa lúc súng nổ sượt qua tôi. Nhìn ánh mắt giận dữ của ả tôi biết ả đã bắn trượt.

Geli thúc đầu gối ả vào bụng tôi, khiến phổi tôi thắt lại. Tôi vặn mạnh xương ả như người ta cố bẻ một cành non. Ả giật lùi lại, xoay người quật tôi ngã xuống cầu thang rồi ngồi lên người tôi. Tôi vật lộn để nòng súng hướng ra khỏi người tôi, nhưng ả có thế đòn bẩy phía bên sườn. Nòng súng giảm thanh chĩa thẳng mặt tôi chỉ cách mấy phân. Vết sẹo của Geli trắng bệch ra khi mặt ả đỏ gay vì vật lộn.

"Bỏ súng xuống!" một giọng phụ nữ hét lên. "Cả hai người! Bỏ xuống và đứng lên!"

Cách đó ba mét là Rachel, hai tay ghì chặt khẩu súng lục của tôi, đôi mắt mở to vì khiếp hãi.

"Bỏ vũ khí xuống!" Geli thét. "Cô đang can thiệp một sĩ quan liên bang thi hành công vụ đấy!"

"Bắn ả đi!" tôi hét, cố giằng súng khỏi nắm tay ả. "Chính ả đã giết Fielding! Bắn!"

Geli thúc cùi chỏ vào đám rối dương của tôi, tì nòng súng vào má tôi. Một tiếng nổ chát chúa như tiếng cồng xuyên thủng màng nhĩ tôi, rồi thứ gì đó ẩm ướt bắn tung tóe lên mặt tôi. Tôi chỉ còn thấy đôi mắt cháy rực của Geli, rồi một dòng máu trào ra ướt đẫm ngực áo ả.

Tôi giằng được khẩu súng và hất ả ra khỏi người tôi.

Rachel vẫn chĩa nguyên khẩu súng đang bốc khói và run rẩy như người động kinh. Viên đạn trúng cổ Geli, nhưng ả cố bịt mấy ngón tay vào vết thương để ngăn máu chảy. Tôi chưa bao giờ trông thấy vẻ căm thù đến thế trong mắt một con người. Tôi nắm cổ tay Rachel và chạy ngược trở ra sảnh chính. Khi chúng tôi quành qua góc khuất, tiếng Geli vang vọng trong căn phòng cao ba mươi mét. "Mày sẽ chết, Tennant ạ! Mày sẽ chết như con chó!"

Tôi lao đến gian hàng B. Dalton ở cuối trung tâm mua sắm. Các kệ sách to kềnh càng và trĩu nặng. Vậy ra họ đang bốc hàng.

Khách mua hàng đang tràn ra khi tôi kéo Rachel chen vào một nhà kho trong hiệu sách. Sàn nhà lát đá chất đầy hòm xiểng, và chắc chắn có một sàn chất tải cửa lắp động cơ để chuyển hàng vào ra. Tôi nhấn một nút đỏ trên tường, cửa bắt đầu nâng lên.

Nắng tràn ngập phòng. Tôi giúp Rachel xuống nền sàn chất tải bằng xi măng, rồi tự mình nhảy ra. Một chiếc xe giao hàng đậu ngay trên lối vào sàn, hai người đàn ông đang đứng nói chuyện bên buồng lái. Khi chúng tôi chạy lên dốc, tôi trông thấy một chiếc Toyota Corolla màu trắng đậu cạnh xe tải. Cửa bên lái còn mở, nhưng không có ai trong xe.

Tôi chĩa súng vào hai người đàn ông, rồi hất nòng súng về phía chiếc Toyota. "Tôi cần chiếc xe kia!"

Tài xế xe tải giơ tay lên, nhưng người kia thì nhìn chiếc Toyota. "Đó là xe tôi."

"Đưa chìa khóa đây!"

Anh ta đờ người ra.

"Đưa chìa khóa cho hắn đi!" tài xế xe tải nói.

"Nó ở trong ấy."

Tôi kéo Rachel vòng sang cửa khách, đẩy nàng vào rồi trườn vào ghế lái và nổ máy. Người chủ xe gào lên gì đó, nhưng giọng anh ta chìm nghỉm trong tiếng xe gầm rú khi tôi lao vụt đi. Đà lao đi làm cửa xe đóng sầm lại, nhưng tôi dùng hết sức tự kiềm chế để đi chậm lại. Tôi phải chạy với tốc độ bình thường để ra khỏi khu vực nhà ga đã, rồi sẽ vứt xe lại để trốn khỏi thành phố.

"Ôi, trời ơi," Rachel nói, mặt nàng trắng nhợt.

Tiếng còi rền rĩ đang đổ về ga Liên Hiệp.

--- ------ ------ ------ -------

1 Một giống người tiền sử, được phát hiện đã sống cách đây khoảng 600.000 năm, tại châu Âu và Trung Á.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


Tôi đứng sau Rachel trong khu vực ăn uống của sân bay JFK, New York, nhìn kỹ xem nàng có dấu hiệu suy sụp tinh thần nào không. Nàng bận váy màu xanh da trời, một món trong số quần áo mới được mua ở New Jersey, nhưng trang phục không che giấu nổi nước da tái và đôi mắt trũng sâu. Việc bắn Geli Bauer khiến nàng cực kỳ hoảng loạn, và mặc dầu các bản tin cho biết "sĩ quan liên bang" bị bắn ở ga Liên Hiệp còn sống, Rachel vẫn run rẩy trong suốt quãng đường chạy xe đến New York.

Tôi lẽ ra không nên để nàng tự mình rời khỏi Washington. Sau khi bỏ lại chiếc Toyota cách ga Liên Hiệp năm khối nhà, tôi chặn một taxi và bảo nó chở chúng tôi quay trở lại, qua sông Potomac đến Alexandria, Virginia, rồi tới một trung tâm mua bán cao cấp. Tại đó tôi gọi đến số lúc trước đã chỉ dẫn tôi đến gặp Mary Venable ở tiệm cà phê. Tôi nói với người phụ nữ nghe điện rằng bác sĩ Rachel Weiss hiện đang bị đe dọa tính mạng và rất cần được giúp đỡ. Bốn lăm phút sau, một người phụ nữ đi xe Camry xanh đến đón, đưa chúng tôi trở lại Washington, tới một khu nhà riêng ở phía Nam.

Ngôi nhà này là nơi ẩn náu do một nhóm nữ quyền cai quản, chuyên cung cấp giấy tờ tùy thân cho những phụ nữ bị ngược đãi, chạy trốn cùng con nhỏ. Chúng tôi được đưa vào một phòng ngủ ở phía sau căn nhà an toàn, đợi một lúc thì Mary Venable đến. Bà ta hỏi Rachel rõ lâu - hình như bà không tin tôi - rồi bố trí một chiếc xe để hôm sau chúng tôi có thể tự lái đến New York. Bà bảo chúng tôi để xe ở chỗ đậu dài ngày trong sân bay JFK, rồi sẽ có một người "chị em" của họ ở New York đến lấy đi.

Trong phòng ngủ có ti vi, và vụ chạm súng ở ga Liên Hiệp xuất hiện trên tất cả các bản tin. Việc tạm thời đóng cửa nhà ga cũng gây phản ứng ồn áo không kém vụ nổ súng. Những bản tin đầu suy luận rằng nhà ga có nguy cơ bị đánh bom nên buộc phải sơ tán mọi người khỏi ga, nhưng theo những bản tin mới, câu chuyện đã thay đổi. Các nguồn tin của cảnh sát thủ đô rò rỉ thông tin về một vụ mưu ám sát tổng thống đã bị theo dấu đến nhà ga. Tên tôi không được tiết lộ, nhưng phát thanh viên nói rằng người phụ nữ đã bắn cảnh sát ở nhà ga, lúc đầu được cho là con tin, nhưng bây giờ bị xem là đồng phạm của tôi.

Chúng tôi chợp mắt một chút, đến sáng hôm sau, tên và ảnh tôi xuất hiện trên tờ Washington Post. Trong bài viết, một người phát ngôn của Sở Mật vụ đặc tả tôi như một bác sĩ theo chủ nghĩa lý tưởng đã trở nên cáu kỉnh sau nhiều năm quá đau buồn vì mất mát gia đình. Bị những hoang tưởng nghi kỵ thôi thúc, tôi đã đe dọa tính mạng tổng thống, và sự xuất hiện của tôi ở Washington với một khẩu súng chứng tỏ tôi nguy hiểm như thế nào. Đồng phạm nữ vẫn còn "chưa rõ danh tính," nhưng nhiều nhân chứng đã thấy cô ta bắn gục cảnh sát liên bang. Điều làm tôi sợ nhất là bình luận kết thúc bài báo của McCaskell, chánh văn phòng phủ tổng thống, hiện đang ở Trung Quốc.

"Bác sĩ Tennant thật sự đã có dịp gặp tổng thống tại Phòng Bầu dục," McCaskell nói. "Tổng thống khâm phục cuốn sách của ông ta về Y đức. Tổng thống lấy làm tiếc vì vị bác sĩ nổi danh này có vẻ bị suy sụp tâm thần, và mong rằng bác sĩ Tennant sẽ được điều trị trước khi có thể xảy ra bi kịch nào đó."

Tôi lo Mary Venable có thể đọc bài báo này và báo cảnh sát bắt tôi, nhưng một giờ sau bà đem đến cho chúng tôi hai hộ chiếu mới, hai giấy phép lái xe của bang Virginia và chìa khóa của chiếc xe "đi mượn". Bà đã đọc bài báo, nhưng lòng tin của bà vào Rachel mạnh hơn những bản tin trên truyền thông. Không chút chậm trễ, chúng tôi đã bon bon trên con đường I-95 hướng về New York.

Khi biết tên và ảnh của mình đã phát tán khắp nơi trong nước, tôi càng quyết tâm rời khỏi nước Mỹ. Bọn NSA nghĩ tôi đang trù tính để gặp tổng thống tại Washington ngày mai, nên chẳng hề nghĩ tôi lại rời khỏi đất nước. Đi qua cửa khẩu sân bay JFK là mạo hiểm, nhưng còn an toàn hơn ở lại trong nước lúc này.

Rachel hầu như không nói gì trong chặng đầu chạy xe, và những lời tôi nói dường như không lọt tai nàng. Khi đến New Jersey, nàng đã hoạt bát trở lại và đi vào khu mua bán với một danh sách dài kích cỡ quần áo cùng trang phục cho chuyến đi của chúng tôi. Ngoài ra, chúng tôi cũng chỉ dừng lại để đổ xăng, và tôi cũng không ra khỏi xe. Khi đến gần New York, Rachel gọi cho Adam Stern và kể cho anh câu chuyện tôi bịa ra để giải thích lý do anh chàng bác sĩ phải làm trung gian đặt phòng cho chúng tôi.

Vì dịp lễ Phục sinh đông khách đi, Stern buộc phải đặt vé bay đêm của hãng El Al, điều này làm tôi lo lắng không ít. Tôi đội chiếc mũ Yankee đi vào sân bay JFK, thầm cầu nguyện "người đàn ông da trắng cao mét tám" như tôi không quá khác thường để mọi người chú ý. Tại quầy vé El Al, mọi việc diễn ra suôn sẻ không ngờ, nhưng tôi ngại nhất là chuyện ăn nói. Sợ nhất những cuộc phỏng vấn an ninh không chính thức. Theo Stern, có lúc trước khi lên máy bay EI AI, một số sĩ quan an ninh mặc thường phục bỗng dưng đến bắt chuyện với anh để đánh hơi về các ý định của anh. Sẽ không có cách nào thoát khỏi chuyện này nếu Rachel không đứng ra nói.

"Món thịt gà xào súp lơ xanh kia trông ngon đấy chứ," tôi nói, tay chỉ một quầy ăn Tàu.

"Tuyệt," Rachel đờ đẫn nói.

Tôi nắm vai nàng. "Em không sao chứ?"

Nàng không đáp.

Tôi bước lên trước và gọi hai đĩa thịt gà xào súp lơ xanh. Khi tôi trả tiền, tôi nghe một giọng đàn ông nói sau lưng.

"Xin chào. Chúng tôi xếp hàng cùng với ông bà ở quầy vé El Al. Các vị đi nghỉ trước lễ Phục sinh phải không ạ?"

"À... không," Rachel trả lời.

Tôi liếc ra sau và thấy hai gã da đen tầm thước đứng sau chúng tôi. Bọn họ có đôi mắt láo liên và nụ cười cởi mở. Trông như hai anh em.

"Vậy chắc là thăm gia đình?" gã thứ hai hỏi, trên cổ gã đeo dây chuyền vàng.

"Không," Rachel lúng túng nói. "Chúng tôi có chuyện riêng. Vấn đề sức khỏe ấy mà."

Những cái nhìn băn khoăn. "Ồ, xin lỗi đã tò mò."

Họ đang tìm kiếm bọn khủng bố, tôi tự nhủ, không phải tìm người mưu sát tổng thống. Tôi quay lại gật đầu với hai gã.

Im lặng lúc này thật bất tiện, nhưng Rachel bỗng rướn thẳng người và linh hoạt hẳn lên. "Tôi nghĩ chẳng có gì phải giấu," nàng nói. "Bác sĩ phụ sản của tôi giới thiệu tôi đến đó. Tôi vừa được chẩn đoán ung thư buồng trứng. Nhưng anh ấy có người bạn ở bệnh viện Hadassah, Jerusalem. Có một cuộc thử nghiệm lâm sàng để cấy tế bào T của chính bệnh nhân và đưa nó vào để diệt các khối u. Bác sĩ của tôi là một người bạn cũ. Anh ấy bố trí mọi thứ cho chuyến đi của chúng tôi, ơn trời. Máy bay, khách sạn, tất tật." Nàng đặt tay lên tim. "Tôi xin lỗi đã nói nhiều quá. Tôi chỉ có một tia hy vọng, và tôi thấy dễ chịu khi nói về nó."

"Hoàn toàn đúng," gã đàn ông đeo dây chuyền nói. "Và tôi tin bà sẽ khỏi bệnh. Bác sĩ ở Hadassah là những bác sĩ giỏi nhất thế giới."

"Cuộc thử nghiệm có vẻ đầy hứa hẹn," tôi xen vào, không muốn tỏ ra lúng túng. "Nhà nghiên cứu hàng đầu đã từng được đào tạo ở Sloan-Kettering."

"Ông nói như thể chính ông cũng là bác sĩ," gã thấp hơn nói, chút nghi hoặc trong tôi rằng bọn này là an ninh của El AI lúc này tan biến nốt. Bỗng nhiên tôi nghĩ về số tiền mặt 16.000 đô còn nằm trong túi bao tử giấu trong quần áo.

"Thưa ông, món ăn đây ạ," một nhân viên chạy bàn người Hoa ngắt lời.

"Cám ơn," tôi nói, liếc về phía đĩa thức ăn. "Vâng, tôi là bác sĩ nội khoa."

"Ông có biết về chứng viêm khớp không?" gã thấp bé hỏi. "Họ bảo tôi bị bênh viêm khớp vảy nến. Ông có biết bệnh này không?"

Có trả lời hắn không? tôi thầm nghĩ. Cư xử một cách kiêu kỳ? "Phải, có năm loại. Một số loại tương đối nhẹ, có loại gây biến dạng."

"Loại nào tệ nhất?"

"Loại viêm khớp biến dạng."

Gã kia sung sướng cười toác miệng. "Không phải của tôi. Tôi chỉ bị ở gần các đốt ngón tay."

"Có khả năng là viêm khớp liên đốt ngón tay." Tôi cầm tay gã lên xem xét móng tay, thấy có những vết lõm khá rõ. "Có thể là nặng hơn nhiều."

Gã rút tay về. "Được rồi, được rồi. Ừm, chúc ông ngon miệng."

"Chúc ông bà gặp may ở Hadassah," gã đeo dây chuyền nói. "Ông bà đã đến đúng nơi để điều trị đấy."

Tôi đặt cả hai đĩa lên khay và bưng sang một chiếc bàn trống. Rachel theo sau tôi, trông nàng có vẻ choáng váng. Tôi liếc lại phía quầy ăn và thấy hai gã kia bỏ đi mà không gọi món gì.

"Em xử trí tuyệt lắm," tôi khẽ nói. "Xứng cỡ giải thưởng Oscar."

"Bản năng sinh tồn," nàng nói và ngồi xuống ghế. "Ai cũng có cái bản năng ấy trong người. Anh đã nói với em thế ở Bắc Carolina, và em không tin anh. Giờ thì em rõ hơn rồi."

Tôi cầm nĩa lên. "Em đừng day dứt về chuyện đó, không ích gì."

"Bọn này chắc đã nói chuyện với Adam. Em linh cảm thế."

"Không còn nghi ngờ gì nữa. Anh ấy chắc cũng kể cho chúng nghe cùng một câu chuyện. Nếu chúng ta lên được máy bay mà không bị bắt, anh sẽ gửi cho anh chàng này một két champagne."

Rachel nhắm mắt. "Liệu có được không anh?"

"Được chứ. Chỉ cần bên nhau nửa giờ nữa thôi."

Chiếc 747 chật ních người dù là chuyến bay đêm, nhưng chúng tôi được biệt lập khỏi những người gần nhất bởi hai ghế trống và lối đi giữa, nên cũng có được đôi chút riêng tư. Tôi ngồi bên cửa sổ với chiếc mũ Yankee sùm sụp, cẩn trọng không chạm mắt ai khi lấy hai chiếc chăn và cùng kéo đến tận cổ.

Chúng tôi đã ngồi ở cổng tưởng chừng đến hai giờ, nhưng theo đồng hồ tôi, thật ra chỉ mới bốn mươi phút. Trong khi hành khách xung quanh chuyện trò sôi nổi về chuyến thăm Đất Thánh sắp tới, Rachel và tôi giả vờ ngủ, nắm chặt tay nhau dưới lớp chăn. Cuối cùng chiếc El Al cũng chạy chầm chậm trên đường băng rồi lao rầm rầm vào bầu trời đêm.

"Ơn trời," nàng thì thầm khi bánh xe cất lên khỏi nền bê tông.

Trong vòng mười một giờ nữa chúng tôi sẽ phải qua kiểm tra an ninh ở Tel Aviv, nhưng lên được máy bay là thắng được nửa trận chiến rồi, và tôi muốn tập trung vào thắng lợi nhỏ nhoi này. "Em ổn chứ?"

Nàng mở mắt ra, đôi mắt chỉ cách mắt tôi cái lưỡi trai của chiếc mũ Yankees. Tôi thấy trong ấy những cảm xúc mà tôi không hiểu nổi.

"Em cần hỏi anh vài điều, David." Nàng nói như một bác sĩ tâm thần mà tôi đã biết trước khi hai đứa ái ân. "Chúng ta đang tới Jerusalem, và em muốn đi đến tận cùng câu hỏi tại sao. Em muốn anh xử sự như trong một buổi làm việc."

"Không. Nếu em hỏi anh một số điều, anh có thể hỏi em một số điều khác. Và em phải trả lời thật. Đó là quan hệ giữa chúng ta bây giờ."

Nàng ngần ngừ một chút rồi gật đầu. "Thế là sòng phẳng. Anh từng nói với em anh là người vô thần. Anh bảo mẹ anh tin tưởng vào một cái gì cao hơn loài người, nhưng không tin vào tôn giáo có tổ chức. Thế còn cha anh. Ông có bao giờ tuyên bố là vô thần không?"

"Không. Cha anh chỉ không tin vào cái quan niệm thông thường về Chúa thôi. Một vị Chúa dành hết quan tâm cho loài người. Cha là nhà vật lý. Họ vốn là những kẻ đầy hoài nghi."

"Ông ấy có tin tưởng vào một thực thể siêu việt nào không?"

Cha tôi không phải típ người luôn luôn suy nghĩ ở "tầm vũ trụ", nhưng có đôi khi - trong các cuộc cắm trại trên núi dưới bầu trời đầy sao - cha nói cho anh em chúng tôi biết niềm tin thực sự của ông.

"Cha anh có một quan niệm rất giản đơn về bản thể của sự vật. Đơn giản nhưng sâu sắc. Ông không nhìn con người tách rời khỏi vụ trụ, mà chỉ là một bộ phận của nó. Ông thường bảo, 'con người là một vũ trụ có ý thức về bản thân mình'."

"Hình như em đã nghe câu này ở đâu rồi thì phải?"

"Có thể. Anh cũng từng nghe những bậc thầy của phong trào New Age như Deepak Chopra 1 nói điều này. Nhưng cha anh đã nói cách đây hai mươi lăm năm."

"Anh nghĩ ông muốn nói gì?"

"Chính là cái mà ông đã nói. Ông luôn luôn nhắc nhở bọn anh rằng mọi nguyên tử trong cơ thể chúng ta có lúc từng là một bộ phận của một vì sao xa xăm đã nổ tung. Ông nói về tiến hóa từ đơn giản đến phức tạp diễn ra như thế nào và trí thông minh của con người là biểu hiện cao nhất của tiến hóa ra sao. Anh còn nhớ cha anh đã bảo anh bộ não một con ếch còn phức tạp hơn một vì sao nhiều. Ông coi ý thức con người là nơ ron thần kinh đầu tiên của vũ trụ có sự sống và ý thức. Một tia lửa lóe lên trong bóng tối, chờ đợi bùng lên thành ngọn lửa."

Rachel trông có vẻ đăm chiêu "Thật là một ý tưởng đẹp đẽ. Không hẳn là một quan điểm tôn giáo, mà là một cách nhìn đầy hy vọng."

"Và lại thực tế nữa. Nếu chúng ta là những vũ trụ có ý thức về bản thân mình, thì chúng ta có nghĩa vụ tinh thần phải sống còn. Để giữ gìn lấy món quà ý thức. Và để làm được thế, ta phải sống trong hòa bình. Từ đó có thể rút ra bao điều về những bộ luật khả thi, đạo đức, và mọi thứ."

Rachel ngẫm nghĩ. "Anh có đồng ý với cha anh về quan điểm vũ trụ này không?"

"Anh đồng ý cho đến mấy tuần gần đây. Những ảo ảnh của anh không còn hoàn toàn phù hợp với nó nữa."

Nàng đặt tay lên đầu gối tôi. "Chúng ta không biết chúng trùng hợp với cái gì, đúng không? Em cũng không nghĩ rằng quan điểm của cha anh loại trừ sự tồn tại của một đấng sáng thế. Anh vẫn còn lo mình sẽ chết nếu không đến được Jerusalem trước khi anh mơ thấy cảnh đóng đinh trên thánh giá à?"

Mối hiểm nguy trước mắt là bị cảnh sát bắt đã làm tôi xao nhãng nỗi lo này. "Anh vẫn còn cảm thấy nguy cấp, nhưng không giống như trước. Việc chúng ta đang trên đường đến đó khiến áp lực ấy dịu đi đôi chút."

"Nếu anh đã mơ thấy cảnh đóng đinh trên thánh giá thì anh không nên lo lắng về điều đó. Một giấc mơ không thể giết được ai."

Tôi thì không chắc lắm. "Chúng ta nói về em một chút nhé. Em nói em tin Chúa. Chính xác là em tin cái gì?"

"Em không thấy điều đó có liên can gì đến việc chúng ta đang làm."

"Anh nghĩ cả hai chúng ta lên máy bay này vì cùng một lý do. Và anh nghĩ việc em tin cái gì có ý nghĩa quan trọng đấy."

Mặt nàng buồn khôn tả. "Em đến với Chúa khá muộn. Hồi nhỏ em không bao giờ đi nhà thờ hay đến Giáo đường Do Thái."

"Sao lại không?"

"Cha em quay lưng lại với Chúa khi ông mới bảy tuổi."

"Sao còn nhỏ thế mà đã...?"

"Cha em bước sang tuổi thứ bảy trong một trại tập trung."

Có gì trong tôi bỗng lạnh buốt.

Cái nhìn của nàng trở nên mơ màng như đang hướng về quá khứ. "Cha em tận mắt chứng kiến ông nội em bị giết. Đấy không phải chuyện bình thường, dù cho ở trại tập trung. Lúc ấy quân Đồng minh đang đến gần, bọn cảnh vệ Đức Quốc xã liền thủ tiêu tù nhân. Một thằng lính gác nghĩ ra một trò chơi với tiểu đội chuyên làm việc vặt của hắn. Hắn giết mỗi ngày một người. Hắn muốn để cho những người tù đói khát giết lẫn nhau và ai chịu giết sẽ được tha. Tất nhiên ông nội em từ chối. Ông vốn là nhà giải phẫu ở Berlin. Ông đã từng gặp Freud, đã trao đổi thư từ với Jung."

Trí óc tôi quay cuồng khi lý do lựa chọn sự nghiệp của Rachel hiện rõ.

"Thằng lính gác đánh ông em đến chết trước mắt cậu bé là cha em. Từ đó cha em quyết định rằng một vị Chúa đã để cho cảnh ấy xảy ra đáng bị nguyền rủa chứ không đáng được cầu nguyện."

Tôi muốn nói gì đó, nhưng lời nói lúc này phỏng có nghĩa gì?

"Cha em là một trong những người may mắn được nhập cư vào Mỹ. Ông được một người bà con xa ở Brooklyn bảo lãnh." Rachel cười buồn. "Ông Milton, chú của cha em là thợ khóa. Việc cha em không chịu cầu nguyện khiến ông nổi giận, nhưng ông biết cha đã chịu đựng quá nhiều. Khi đến tuổi thành niên, cha em đổi tên thành White, chuyển đến Queens, và thôi gặp gỡ gia đình, dù vẫn gửi tiền cho họ. Ông kết hôn với một người ngoài Do Thái không theo đạo, và cha mẹ em nuôi dạy em trong một ngôi nhà không có ai theo đạo."

Tôi kinh ngạc ngồi nghe. Ta gặp một khuôn mặt trên đường phố Mỹ, hay trong công sở, mà chẳng hề ngờ có một thiên sử thi bi thảm ẩn nấp đằng sau nó.

"Vì thế em luôn cảm thấy như người ngoài cuộc. Tất cả các bạn em đều đi nhà thờ, hoặc đến giáo đường Do Thái. Em thấy tò mò. Khi em mười bảy tuổi, em tìm ra ông Milton. Ông ấy nói cho em biết mọi chuyện. Sau đó... em gia nhập đạo."

Nhiều bí mật nho nhỏ về tính cách của Rachel bỗng trở nên có nghĩa: việc nàng ăn mặc khắc khổ, giữ khoảng cách trong công việc, việc nàng ghê tởm bạo lực...

"Vấn đề là," nàng tiếp tục, "em nghĩ em trở thành tín đồ Do Thái giáo bởi những nhận biết về cảm xúc và chính trị chứ không phải vì khao khát thực hiện ý muốn của Chúa."

"Thế không có gì là sai."

"Tất nhiên là có đấy. Nếu anh hỏi em thật sự suy nghĩ gì về Chúa, thì không có gì liên quan đến Torah hay Talmud_ 1 . Nó chỉ liên quan đến những gì em nhìn thấy trong cuộc đời mình."

"Em thật sự đã nghĩ gì?"

Nàng đan tay lại trên đùi. "Em tin rằng sáng tạo có nghĩa là tạo ra những gì trước đấy chưa từng có. Nếu Chúa là hoàn hảo, thì cách duy nhất Người có thể thật sự sáng tạo là tạo ra một cái gì đó tách rời khỏi Người. Vậy theo định nghĩa thì cái mà Người sáng tạo ra phải không hoàn thiện. Anh thấy không? Nếu nó hoàn hảo, nó sẽ là Chúa."

"Đúng."

"Em tin rằng đối với con người, để khác với Chúa, chúng ta phải có khả năng lựa chọn. Tự do ý chí, đúng không? Và nếu những lựa chọn xấu không dẫn đến nỗi đau thật sự thì ý chí tự do không có ý nghĩa gì hết. Đó là lý do vì sao cái ác tồn tại trong thế giới của chúng ta. Em không biết tôn giáo còn bổ sung thêm gì nữa, nhưng dù là gì, thì đó vẫn là điều em tin."

"Đó là cách giải thích phù hợp cho cái thế giới như ta nhìn thấy. Nhưng nó chưa nói gì về bí mật trung tâm. Tại sao Chúa lại cảm thấy bắt buộc phải tạo ra một cái gì đó?"

"Có lẽ chúng ta chẳng bao giờ biết được."

"Chúng ta có thể. Mặt trời sẽ nổ tung trong khoảng năm tỷ năm nữa. Ngay cả trong trường hợp vũ trụ sụp đổ từ bên trong - Big Scrunch - thì sự kiện sớm nhất có thể xảy ra cũng là hai mươi tỷ năm sau. Nếu chúng ta không tự hủy hoại mình, thì chúng ta còn khối thời giờ để trả lời câu hỏi đó. Có thể là mọi câu hỏi."

Nàng mỉm cười. "Anh và em sẽ không bao giờ biết được."

Nhìn sâu vào đôi mắt màu sẫm của nàng, tôi nhận ra mình đã hiểu nàng quá ít. "Em không hề cổ hủ như em ra vẻ. Anh ước gì em có dịp nói chuyện với Fielding."

"Ông ấy tin tưởng gì vào Chúa?"

"Fielding luôn trăn trở với vấn đề cái ác. Ông ấy được nuôi dạy như một tín đồ Cơ Đốc, nhưng ông bảo cả Cơ Đốc giáo lẫn Do Thái giáo đều không bao giờ đối đầu trực diện với cái ác."

"Ông ấy muốn nói gì?"

"Ông ấy nêu lên ba lời tuyên bố: 'Chúa là toàn năng. Chúa là toàn thiện. Cái ác vẫn tồn tại.' Người ta có thể liên kết một cách logic hai trong ba tuyên bố trên, nhưng không bao giờ là cả ba."

Rachel gật đầu vẻ suy tư.

"Fielding nghĩ rằng chỉ các tôn giáo phương Đông mới đúng là Nhất thần giáo, vì chúng thừa nhận rằng cái ác từ Thượng đế mà ra, chứ không đổ tội cho kẻ yếu thế hơn như Satan chẳng hạn."

"Còn anh? Anh cho rằng cái ác từ đâu mà ra?"

"Từ tim con người."

"Tim bơm máu, David ạ."

"Em hiểu anh muốn nói gì mà. Tâm lý. Một cái giếng tăm tối nơi bản năng nguyên thủy hòa trộn với trí thông minh con người. Nơi người ta thấy con người có thể hung bạo đến mức thật khó tưởng tượng ra những mưu ma chước quỷ đằng sau nó. Anh muốn nói, hãy nhìn vào những gì đã xảy ra với ông em đi."

Rachel siết chặt cánh tay tôi và nhìn tôi với vẻ khẩn khoản gần như khôn cùng. "Vào cái ngày ông em bị giết, có một khoảnh khắc ông em đã có thể giết thằng lính gác đó. Lúc ấy chỉ có ba tù nhân với một tên lính gác ở mỏ đá vắng vẻ. Chỉ còn một ngày nữa thôi là người Mỹ tới. Nhưng ông đã không làm điều đó."

"Tại sao không?" tôi hỏi, sững sờ vì cảm xúc mãnh liệt của nàng.

"Em nghĩ ông biết một điều mà chúng ta đã quên."

"Điều gì?"

"Rằng nếu anh cầm lấy vũ khí của kẻ thù, anh sẽ trở nên giống chúng. Jesus biết điều đó. Gandhi cũng vậy."

"Ngay cả khi con trai anh đứng đó bên cạnh anh? Cần anh che chở? Anh vẫn phải nhẫn nhịn, và chịu hy sinh ư?"

"Anh không phạm tội giết người," Rachel kiên quyết nói. "Nếu ông em giết thằng lính gác đó thì đêm ấy ông và cha em đã có thể bị hành hình rồi. Chúng ta không thể biết được tương lai. Đó là lý do khiến việc em làm hôm qua khiến em sốc đến thế. Em đã nhặt khẩu súng của anh và bắn vào đồng loại. Thật sự em đã làm gì khi hành động như thế?"

"Em đã cứu mạng anh. Cả mạng em nữa."

"Trong một thời gian."

Tôi siết chặt tay nàng. "Chúng ta còn sống đây, Rachel. Và anh tin mình có việc hệ trọng phải làm trước khi chết."

"Em biết anh tin điều đó."

Một anh chàng tiếp viên hàng không bỗng xuất hiện ngay bên chúng tôi trên lối đi giữa. Tôi không muốn ngước nhìn lên, nên ra hiệu cho Rachel quay lại.

"Sao ạ?" Rachel hỏi, giọng ngái ngủ.

"Các vị có muốn ăn tối không ạ?"

Nàng quay lại nhìn tôi, tôi gật đầu. "Có," nàng nói. "Cám ơn."

Người tiếp viên liếc xéo tôi một cái rồi bước đi.

Rachel nín thở. "Anh nghĩ gì vậy?"

"Anh không biết. Nghe có vẻ kỳ, nhưng có lẽ hắn muốn kiểm tra xem có thật chúng ta định ngủ qua cả bữa tối không."

Nàng lắc đầu. "Em không thể."

"Có, em có thể. Chúng ta ổn rồi."

"Còn sân bay Tel Aviv thì sao?"

"Chúng ta sẽ qua đó an toàn."

"Anh làm sao biết được."

Tôi vuốt nhẹ má nàng và nói với niềm tin tưởng mà tôi không biết là mình có. "Anh biết chắc chắn. Có điều gì đó đang chờ anh ở Jerusalem."

"Điều gì?"

"Một câu trả lời."

--- ------ ------ ------ -------

1 Bác sĩ, nhà văn, triết gia người Mỹ gốc Ấn.

2 Kinh sách Do Thái giáo.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


White Sands, New Mexico

Ravi Nara tăng ga chiếc Honda ATV của y và chạy đến nơi mà đội ngũ kỹ thuật của Godin bị lừa đến mức gọi là bệnh viện. Không khí New Mexico làm cổ họng y khô rát, ánh mặt trời thiêu đốt khiến nhà thần kinh học kiệt quệ đến nỗi y cố ở trong bóng râm càng nhiều càng tốt. Một nhân viên kỹ thuật mặc áo choàng trắng đi ngang qua đường giơ tay chào y. Nara giận dữ đạp phanh rồi lại phóng thẳng.

Y đã phải căng óc ra nói chuyện với John Skow qua điện thoại bằng chiếc di động được đổi tần số để tránh nghe trộm mà tay nhân viên NSA đưa cho y. Nhưng Godin đã cận kề cái chết, y đành phải liều. Skow đã thẳng thừng rằng nếu Godin chết trước khi Trinity trở thành hiện thực thì sự nghiệp của cả lũ đi tong, mà có khi cả tính mạng nữa. Zach Levin, kỹ sư trưởng của Godin đã dự báo rằng nguyên mẫu Trinity có thể hoạt động hết chức năng trong vòng từ bảy đến mười ngày nữa. Nhưng dự tính ấy dựa trên cơ sở là bản thân Godin còn tiếp tục tham gia. Ravi biết, giữ cho Godin sống thêm hai mươi bốn giờ nữa là may lắm rồi.

Y ngờ rằng khó có bác sĩ nào từng làm việc căng đến thế để giữ cho bệnh nhân sống. Mới ba mươi sáu tuổi, Ravi Nara đã là một bác sĩ được trọng vọng. Ở quê hương Ấn Độ, y được đối đãi như một anh hùng, dù đã nhập quốc tịch Mỹ. Nhưng nếu Trinity thất bại dưới bóng đen vụ scandal sát hại người đồng đoạt giải Nobel thì không gì có thể cứu vãn danh tiếng của y được nữa.

Y lại nghĩ không biết có ai nghe lén cuộc điện đàm giữa y và Skow không. Tụi an ninh ở Bắc Carolina này hung tợn lắm, nhưng White Sands là lãnh địa chết tiệt của quân đội. Đến giờ y vẫn chưa chạm trán người nào. Có lẽ sự xa khuất của chốn này khiến bọn an ninh bớt hoang tưởng hơn.

White Sands lớn hơn cả Delaware và Rhode Island gộp lại. Khoảnh đất được rào riêng cho khu vực nghiên cứu của Trinity giống như một nốt ruồi trên con voi trắng, nằm trong một vùng rộng lớn do trường Tình báo Quân đội ở căn cứ Huachuca, bang Arizona quản lý. Trước khi Nara viếng thăm cơ sở này, Godin đã mô tả điều kiện sống ở đây "khắc nghiệt như trại lính Sparta". Là một kiều dân ở New York, Nara đã nghĩ Bắc Carolina là nơi xa xôi hẻo lánh. White Sands là chốn khỉ ho cò gáy, một quang cảnh trên mặt trăng với toàn núi đá và thạch cao trắng, chỉ có rắn đuôi chuông làm bạn. Y ngờ mình sẽ gặp những người da đỏ phi ngựa qua đụn cát, đuổi theo sau là đám cao bồi trong phim của John Ford, nhưng bọn họ không xuất hiện.

Tổ hợp Trinity được bố trí kiểu đơn giản hình học. Có bốn tòa nhà chính là: phòng thí nghiệm nghiên cứu, bệnh viện, khu quản trị và nhà Cách ly. Còn có doanh trại, xưởng máy, trạm phát điện lớn, và một đường băng cho máy bay phản lực quân sự lên xuống. Những tòa nhà ấy không thật sự là nhà, mà chỉ là những kho chứa máy bay được cải tạo lại do các kỹ sư quân đội lắp ghép cấp tốc trong có năm tuần lễ. Chỉ có nhà Cách ly là khác. Đó là nơi đặt nguyên mẫu Trinity.

Ravi trông thấy tòa nhà lạ bên phải y, đứng tách riêng ra ở khoảng giữa của tổ hợp. Được xây dựng giống như boong ke thời Thế Chiến II, nhà Cách ly có những bức tường bê tông dày mét hai, được gia cố bằng thép tôi và được bọc chì. Nó được trang bị bốn dây cáp điện khổng lồ, hai đường ống nước, và một hệ thống điều hòa không khí dân dụng. Không có đường dây điện thoại, cáp truyền hình đồng trục và mạng lưới cáp hạng năm chạy vào tòa nhà ấy. Không có giàn ăng ten hay chảo parabol nhô lên từ nóc nhà, như ở mọi tòa nhà khác. Tòa nhà Cách ly giống như một kiến trúc được xây để giữ Harry Houdini 1 , nếu Houdini có thể tự số hóa và chuồn qua dây thép hoặc đường truyền tín hiệu. Nếu nguyên mẫu Trinity hoạt động hoàn chỉnh, không ai - kể cả Peter Godin - muốn nó được kết nối với Internet.

Hôm nay Ravi đã tránh vào viện. Godin đã cận kề cái chết từ nhiều tuần nay, nhưng cách đây hai hôm lão bắt đầu trượt nhanh hơn về cõi vĩnh hằng. Ravi tin rằng cái chết của Fielding gây ra điều này, một sự cần thiết dã man đã giáng cho lão già cú đòn nặng hơn chờ đợi. Tất nhiên việc Fielding chết đã cho họ có được viên pha lê, như vậy mọi nghi ngờ về tính đúng đắn của việc giết ông ta là không cần thiết.

Chỉ vài giờ sau khi lấy được viên pha lê, họ đã khôi phục được tất cả những gì Fielding đã phá mất, và sau khi khám phá ra công việc độc lập mà Fielding đã làm, họ thấy mình chỉ còn cách thành công về mẫu máy khả thi trong gang tấc. Nhưng nỗi phởn chí vì thành công bị cắt ngang bởi vấn đề Tennant và bác sĩ tâm thần của hắn ta. Có lẽ việc xử lý chuyện này đã khiến Godin gục, nhưng theo các phân tích cuối cùng thì chính bệnh ung thư đã đốn ngã lão, như nó giết bất kỳ ai có khối u ác tính như vậy.

Ravi đậu chiếc ATV của y trước bệnh viện được cải tạo từ kho chứa máy bay, rồi bước vào trong. Kho được chia làm nhiều "phòng" bằng những vách ngăn, không gian nào có trần - kể cả phòng tắm - nên mùi khó chịu liên tục lan khắp tòa nhà không trừ chỗ nào. Peter Godin không phải bận tâm về điều ấy. Lão chiếm một căn phòng kín gió có áp suất dương mà không một tác nhân lây nhiễm nào có thể lọt vào. Được cung cấp nước và không khí lọc, căn phòng plastic có biệt danh Bong bóng giống như một chiếc lồng ấp giữa tòa nhà này.

Để Ravi và các y tá khỏi mất thời gian mặc quần áo bảo vệ, gần cửa Bong bóng có lắp đặt bộ khử trùng bằng tia cực tím. Để tự tiệt trùng, Ravi chỉ cần rửa tay, đeo mặt nạ rồi đứng trước bức xạ đủ lâu để quần áo và da sạch hết các vi sinh vật nguy hiểm. Quá trình này chỉ mất hai phút, nhưng gần đây nó khiến Ravi cáu kỉnh. Tất nhiên y vẫn không thể trách Godin. Steroid và hóa học trị liệu đã hạ gục hệ miễn dịch của ông già, và Godin muốn cái điều mà mọi người từ ngàn xưa đã muốn: đánh lừa thần chết.

Đèn cực tím kêu vo vo cuối cùng đã tắt. Ravi giẫm chân lên một công tắc kích hoạt cho cánh cửa sập bằng thủy tinh plexi của Bong bóng mở ra rồi bước vào trong. Godin nằm bất tỉnh trên giường bệnh, xung quanh la liệt các màn hình và thiết bị hồi tỉnh. Thân thể lão bị đường truyền tĩnh mạch trung tâm xuyên vào và được đấu nối với màn hình bằng những sợi dây dẫn mảnh. Cái đầu chỉ huy của lão chẳng nổi bật hơn màu trắng của tấm ga trải giường lão nằm là mấy.

Hai nữ y tá túc trực bên giường bệnh, theo dõi sát sao mọi thay đổi nhỏ nhất trong trạng thái bệnh nhân. Ravi gật đầu với họ, rồi rút bệnh án ra khỏi khe kẹp cuối giường đọc qua loa. U thần kinh đệm thân não, di căn, không mổ được. Y đã làm chẩn đoán này cách đây sáu tháng, khi lần đầu xem ảnh chụp não Godin qua Siêu-MRI. Thật kỳ quái khi nhìn thấy khối u phát triển bên trong một khối óc thuộc hàng tài năng nhất trên trái đất. Khi Godin yêu cầu Ravi giữ kín bệnh ung thư của lão, Ravi đã không do dự. Tiết lộ tình trạng Godin có thể chấm dứt cơ hội tham gia vào nỗ lực khoa học vĩ đại nhất lịch sử của y. Tất nhiên Ravi ra giá cho sự cộng tác của mình. Điều đó đúng thôi. Peter Godin quá giàu, Ravi Nara khá nghèo. Sự mất cân bằng này vì thế được đưa ra thảo luận, giá ở mức vừa phải. Tuy nhiên khoản tiền mặt và cổ phiếu Ravi đã nhận được lúc này trở nên quá tầm thường khi phải đối mặt với các nguy cơ.

"Ravi?" ông già thều thào. "Cậu đấy à?"

Ravi ngước lên khỏi bệnh án và thấy đôi mắt xanh sắc lạnh dán chặt vào y.

"Sao tôi thấy mệt thế này?" Godin hỏi.

"Có lẽ do tai biến ngập máu." Godin vẫn còn bị động kinh từ khi tiếp xúc trực tiếp với Siêu-MRI.

Ravi bước quanh giường và nhìn vào khuôn mặt chảy nhão. Godin trước đây là một trong những người mạnh mẽ nhất mà y từng biết, thế mà căn bệnh ung thư đã làm lão suy sụp như một gã ăn mày hè phố. Mà không... điều đó không hoàn toàn đúng. Không gã ăn mày hè phố nào có được Ravi Nara và một tài sản hầu như vô tận để níu giữ sự sống. Ngay cả khi cận kề cái chết, khi tóc và lông mày rụng hết, Godin vẫn giữ được vẻ mặt nhìn nghiêng như chim ưng từng khiến chàng kỹ sư thiết kế máy tính trẻ tuổi năng động ngày đó nổi bật đến thế những năm cuối thập niên năm mươi, và năm thập kỷ sau đó.

"Khối u của ông đã phát triển rất nhanh, Peter ạ. Đến lúc này tôi chỉ có thể làm được bấy nhiêu thôi. Đó là trận chiến giữa việc giữ cho ông tỉnh, và giữ cho ông khỏi đau để hoạt động."

"Mẹ kiếp cơn đau." Godin nắm bàn tay sưng tấy của mình thành quả đấm. "Đau tôi chịu được."

"Đêm qua ông đâu có nói thế. Đêm qua ông bảo mặt ông cháy rát còn gì."

Godin rùng mình. "Bây giờ tôi đang tỉnh. Gọi Levin đến đây cho tôi."

Zach Levin đã từng là trưởng phòng R&D trong công ty Siêu máy tính Godin tại Mountain View cho đến khi anh ta được đưa đến Bắc Carolina để điều hành đội Giao diện, đơn vị chịu trách nhiệm giao tiếp với máy tính Trinity. Levin là một gã ba mươi lăm tuổi cao ráo, da tái, tóc sớm bạc. Giống như sếp của mình thời còn sung mãn, Levin hình như có thể sống mà không cần ngủ.

"Tôi sẽ gọi anh ta vào," Ravi nói.

Godin giơ tay lên, "Anh có tin gì về Tennant và Weiss không?"

"Từ lúc ở ga Liên Hiệp không còn dấu vết gì của chúng nữa."

Lão già nhắm mắt thở dài khò khè, một dấu hiệu của điều đang chờ đợi lão trong tương lai gần. "Cô ta đã bắn Geli à?"

"Vâng, họ nói chính Weiss đã bắn."

Godin cau mày, nửa dưới khuôn mặt lão nhăn nhúm khủng khiếp. Mặc dầu sống cùng vợ gần như cả đời nhưng lão không có con cái và luôn thể hiện tình thương của một người cha với Geli Bauer. Ý nghĩ này khiến da Ravi sởn lên; cứ như là tình cha con với rắn hổ mang vậy.

"Geli sao rồi?" Godin hỏi.

"Tôi nghe nói đã hoàn toàn khỏe mạnh. Người ta đã chuyển cô ấy đến Walter Reed. Chính bố cô ấy đã bố trí việc đó."

Godin thoáng cười. "Nếu nó biết chuyện đó, chắc nó đã chẳng đi." Nụ cười biến mất đột ngột. "Anh nghĩ Tennant đang mưu toan gì ở Washington? Tổng thống vẫn còn ở Trung Quốc kia mà."

Ravi ước giá như y biết. Trong phần lớn dự án, tay bác sĩ nội khoa này làm y đau đầu nhất. Che giấu bệnh ung thư với dân ngoại đạo không khó khăn gì, thế nhưng Tennant luôn lưu ý Godin về việc trọng lượng tăng giảm bất thường, về dáng đi trở nên lòng khòng tập tễnh và những thay đổi trong cơ thể do steroid gây ra. Có thể giải thích đó là do chứng viêm khớp mãn tính của lão, tuy vậy trong sáu tuần gần đây Ravi vẫn buộc phải cách ly Godin khỏi Tennant.

"Tôi không biết, Peter ạ. Tôi cũng lo lắm."

Khi một y tá đến cho Godin uống ngụm nước, Ravi ước lượng thời gian sống còn lại của lão già kiên cường này. Điều này không dễ. Từ nhiều năm nay Ravi đã không làm việc trực tiếp với bệnh nhân, và Godin với loại u này đã vượt quá thời gian có thể sống theo bảng tuổi thọ trung bình. Tiên lượng thời gian sống của bệnh nhân trong trường hợp này là một kiểu bói theo điềm báo, mà những bác sĩ như Tennant rất giỏi việc này. Nhiều năm kinh nghiệm lâm sàng cho họ cái linh cảm về sống và chết. Nhưng bất kỳ một bà mụ nào cũng làm được điều đó.

Tiếng vo vo và tia sáng tím lóe lên khiến Ravi quay đầu lại. Qua lớp cửa trong suốt của Bong bóng, y trông thấy Zach Levin đang đứng trước đèn khử trùng bằng tia cực tím.

Phần lớn thời gian Levin ở luôn trong phòng bê tông của nhà Cách ly, nhưng anh ta dường như luôn cảm nhận được lúc nào thì Godin tỉnh lại. Levin và các kỹ thuật viên của anh ta giống như một đoàn tăng lữ, chăm sóc chu đáo sư phụ của mình trong giờ phút lâm chung, cũng như đón nhận tác phẩm của ông ta khi nó vừa ra đời. Những tăng lữ của khoa học, Ravi nghĩ. Cái thuật ngữ mới mâu thuẫn làm sao. Y vừa vẫy Levin vừa nghĩ, Mày làm tao rồ đếch chịu nổi rồi.

"Levin đến rồi," Ravi nói, cố rặn ra một nụ cười.

"Tôi còn tỉnh được bao lâu nữa?" Godin hỏi.

"Cho đến khi nào không thể chịu nổi cơn đau thì thôi."

"Trên đường ra cậu bảo Levin vào đây."

Ravi cố nuốt giận. Cả cuộc đời y luôn là một thần đồng, thế mà trong vòng sáu tháng nay y có cảm giác như một viên ngự y hầu vua. Cuộc sống của y bị chế ngự bởi tính khí thất thường của một bạo chúa. Y giẫm chân lên nút bấm để mở cánh cửa sập và bước ra khỏi Bong bóng.

Zach Levin gật đầu chào y từ nơi lắp đèn khử trùng. Về mặt kỹ thuật, Levin và nhóm của anh nằm dưới quyền điều khiển của Ravi. Nhưng phần cứng và phần mềm của máy tính Trinity quá phức tạp nên y không thể hy vọng hướng dẫn đâu ra đấy cho người của Levin, ngoại trừ những vấn đề liên quan trực tiếp đến bộ não. Ngay cả khi họ đến hỏi y những câu hỏi về thần kinh hệ, y cũng cảm thấy như bị họ lợi dụng hơn là cần nghe y giảng giải. Họ bơi như một đàn cá piranha qua trí tuệ của y và ngấu nghiến những gì họ cần cho cuộc hành trình vào mê cung của những mẫu thần kinh...

"Ông ấy sao rồi?" Levin hỏi to.

Đèn cực tím kêu vo vo rồi tắt lịm.

"Ông ấy đang tỉnh đấy," Ravil nói. "Minh mẫn."

"Tốt. Tôi có tin hay cho ông ấy đây."

Nhưng không phải cho tao, Ravi cay đắng nghĩ. "Cậu đã đặt thêm câu hỏi nào cho mẫu Tennant chưa?"

Levin có vẻ đang cân nhắc câu trả lời. "Tôi đã kết xuất mẫu bác sĩ Tennant khỏi máy tính cách đây một giờ rồi."

"Ai bảo cậu làm thế?"

"Thế anh nghĩ là ai?"

Godin.

"Vào lúc này," Levin nói, "vận hành hết chức năng Trinity quan trọng hơn bất cứ nguy cơ gì bác sĩ Tennant gây ra cho dự án."

Ravi cũng cảm thấy như thế, nhưng y không muốn tay kỹ sư này biết. "Làm sao mà việc kết xuất mẫu Tennant ra khỏi máy tính lại giúp cậu làm được điều đó?"

"Peter cho rằng một số vấn đề chúng ta gặp phải có nguyên nhân lượng tử. Ông ấy nghĩ biết đâu Andrew Fielding có thể giúp chúng ta."

"Fielding ư? Cậu muốn nói cậu đã tải mẫu thần kinh của Fielding vào máy mẫu?"

"Đúng thế."

"Cậu thật sự tin rằng mẫu thần kinh của ông ta sẽ giúp các cậu giải quyết nốt những vấn đề còn lại à?"

"Nói cho đúng ra, tôi không biết tại sao mẫu thần kinh của ông ta lại hoạt động khác mẫu của bác sĩ Tennant. Nhưng đây là một vấn đề thú vị. Tiến sĩ Fielding đang nghiệm cùng những thách đố mà Tennant đã trải qua - khủng bố, hỗn loạn, vòng phản hồi trong cuộc sống sinh học có những lối thoát bị cân bằng sai - nhưng ông ta hình như đã thích hợp với chúng ở tốc độ nhanh hơn nhiều."

Ravi rùng mình. Levin nói cứ như Fielding còn sống vậy. "Cậu nghĩ điều đó có nghĩa gì?"

Chàng kỹ sư nhún vai. "Có thể chẳng là gì cả. Nhưng những điều mê tín của Godin đã ứng nghiệm quá nhiều lần nên không thể nào bỏ qua. Và chính cái công trình được lưu trữ trong tinh thể của Fielding đã đưa chúng ta đi xa đến thế. Nếu các vùng xử lý trong mẫu thần kinh của ông ta hoạt động với hiệu quả cao hơn của bác sĩ Tennant... thì có thể còn là cả một trận đấu mới."

Trống ngực Ravi đổ dồn. "Nếu điều ấy xảy ra thì hậu quả sẽ ra sao?"

Levin không trả lời.

Ravi cảm thấy muốn tát vào mặt gã cao to này, nhưng hàm ý của những điều vừa biết đã đẩy suy nghĩ ấy ra khỏi trí óc y. "Được, cứ tiếp tục đi."

Nụ cười ngạo nghễ của Levin cho Ravi biết lúc này lời nói của y chẳng có tí trọng lượng nào.

Ravi bước ra khỏi tòa nhà, leo lên chiếc ATV và nổ máy. Nếu những gì Levin nói là đúng, thì cú điện y gọi cho Skow là quá sớm. Trinity sẽ nhanh chóng trở thành hiện thực, bất chấp cái chết của Godin. Và nếu điều đó xảy ra, nó sẽ làm thay đổi mọi chuyện. Thay vì đi tìm kẻ chịu tội, tổng thống sẽ tìm những bộ ngực để gắn huân chương lên. Và nếu Ravi đi đúng nước cờ, y sẽ là người đứng ở hàng đầu.

Trong khi chạy xe về văn phòng của mình, y liếc nhìn lại khu Cách ly. Chôn nửa mình trong cát, khối nhà bê tông ấy toát ra cái cảm giác quyền lực mà y chưa từng thấy ở nơi nào khác trên thế giới. Y đã từng trải qua cảm giác khó chịu trong các nhà máy điện hạt nhân, nhưng những nguy hiểm của một phản ứng hạt nhân còn đo đếm được. Ngay cả kịch bản tồi tệ nhất cũng có thể dự liệu, vì dù nguy hiểm đến đâu thì nhiên liệu hạt nhân cũng còn tuân theo quy luật tự nhiên.

Trinity sẽ khác hẳn.

Cách cơ sở này tám mươi cây về phía Bắc, vụ nổ hạt nhân đầu tiên trên trái đất đã biến nền sa mạc thành thủy tinh. Robert Oppenheimer kinh hoàng đứng nhìn trân trối vào mắt quả cầu lửa sinh ra từ đó, nhưng nỗi khiếp hãi của ông là nỗi khiếp hãi về bản thân cũng như về cỗ máy ông đã chế ra. Nhưng nếu máy tính bên trong tòa nhà Cách ly đạt hết tiềm năng của nó - nếu mọi vấn đề được giải quyết, và mẫu thần kinh đạt được hiệu suất 90 phần trăm - thì sáng tạo của Godin sẽ biến thứ đồ chơi chết người của Oppenheimer thành trò trẻ con. Vì khi con người nhìn vào mắt của Trinity, Trinity sẽ nhìn lại. Và nó sẽ biết nó đang nhìn cái gì.

Một hình thức thấp hơn của sự sống.

--- ------ ------ ------ -------

1 Harry Houdini (1874-1926): nhà ảo thuật huyền thoại người Mỹ gốc Hung.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Tôi thức dậy thấy chiếc áo thun đầm đìa mồ hôi mà chẳng biết mình đang ở đâu. Một màng dính phủ trên mặt tôi, và một người đàn bà tóc sẫm nằm cạnh tôi trên giường. Tôi biết đó là đàn bà nhờ hình dáng bờ vai. Ánh nắng chiều lọc qua rèm rọi xuống bên trái tôi, rớt xuống hai chiếc va li đặt song song trên sàn nhà. Tôi bắt đầu nhớ ra... Jerusalem.

Một giấc mơ đã khiến tôi thức dậy, một giấc mơ không bình thường. Tôi chỉ thấy có một khuôn mặt đàn ông ghé xuống hôn tôi. Cảnh tượng khiến tôi rùng mình, nhưng tôi cố hết sức đẩy nó ra khỏi trí óc. Những người lính, tôi nhớ, những người lính đeo gươm. Tôi đang đứng trong bóng tối, dưới tán cây trong khu vườn thơm ngát. Quanh tôi, người ngủ la liệt dưới đất. Tiếng ngáy của họ làm tôi cảm thấy cô đơn. Một nỗi sợ chiếm ngự tôi, nỗi sợ cái chết đang đến gần. Tôi nghe phía bên phải có tiếng rung chuyển, rồi giữa đám người đang ngủ, những người lính vùng đứng lên, quát tháo và lục soát các lùm cây. Một người khoác áo choàng từ trong bóng tối bước đến gần tôi. Tê điếng như trong cơn ác mộng, tôi đứng đó trong khi người kia hôn lên má tôi. Môi hắn nhớt và lạnh. Khi hắn rời ra, những người lính tóm cổ tôi...

Rachel chui xuống dưới chăn. Tôi nhìn đồng hồ. Ba giờ rưỡi chiều, giờ Israel, trước New York bảy tiếng đồng hồ. Không thể tin được! Chúng tôi đã ngủ liền tù tì gần mười tám tiếng. Tôi nhấc điện thoại bên cạnh giường gọi phục vụ, yêu cầu đặt một chiếc xe với người lái biết tiếng Anh. Giá là 130 shekel 1 một giờ. Rachel cựa quậy khi tôi nói nhưng vẫn không tỉnh dậy.

Mình nên đi một mình, tôi nhìn xuống nàng và nghĩ. Nhưng ngay lúc đó hiện ra hình ảnh tôi ngã bất tỉnh trên đường phố, lịm đi trong giấc mơ của cơn ngủ kịch phát. Không thể liều thế được. Tôi bước vào buồng tắm đứng dưới vòi hoa sen.

Israel chẳng có gì giống với những giấc mơ của tôi. Từ lúc bước xuống sân bay Ben Gurion ở Tel Aviv, chúng tôi bị choáng ngợp bởi vẻ hiện đại từ mọi phía. Radio, máy dò kim loại, súng liên thanh, mùi xăng máy bay. Chúng tôi đi từ Tel Aviv đến Jerusalem bằng sherut, một loại xe tải nhỏ sáu chỗ. Tôi im lặng suốt quãng đường, đôi khi Rachel phải bấm vào tay tôi để chắc tôi còn tỉnh táo. Nàng có thể thấy tôi bị mất phương hướng, vì quang cảnh ngoài xe không phải những gì tôi mong đợi sẽ được thấy.

Thế nhưng khi đến gần Jerusalem, tôi bị thu hút bởi quang cảnh Thành Cổ trên những sườn đồi, cổ kính ban sơ trong ánh nắng chiều tà, và nỗi thất vọng của tôi nguôi ngoai dần. Những gì tôi đến tìm đang chờ tôi sau những bức tường thành cổ xưa kia.

Khi chúng tôi đến khách sạn thì trời đã xẩm tối. Chúng tôi nói số hộ chiếu của mình cho lễ tân rồi theo cùng hành lý lên tầng sáu. Phòng thì sạch nhưng hơi nhỏ. Chúng tôi định ra ngoài ăn tối, nhưng khi vừa ngồi xuống giường để lấy lại hơi thì cảm giác lệch múi giờ và mệt nhọc sau hai ngày vừa qua ập lên người chúng tôi. Rachel còn ngủ được một chút trên máy bay, chứ tôi thì không. Sự ấm áp và yên tĩnh trong căn phòng khách sạn này như chất ma túy rót vào mạch máu tôi. Tôi ăn một quả cam Rachel mua ở Bel Gurion rồi chìm ngay vào quên lãng. Chỉ có giấc mơ về khu vườn mới có thể lôi tôi ra khỏi tình trạng ấy.

Tôi khóa vòi nước, lau khô người rồi trở lại phòng. Rachel đã lật sấp người. Đôi vai trần của nàng lộ ra dưới lần vải trải giường. Tôi bước đến cửa sổ, vén rèm hy vọng nhìn thấy Thành Cổ, nhưng những khối nhà lô nhô đã che mất tầm mắt.

Tôi bước lại giường và lay tay Rachel. Nàng không phản ứng. Tôi lại lay nữa. Nàng chớp mắt mấy lần rồi chống khuỷu tay nhỏm dậy.

"Cái đồng hồ kia có đúng không?"

"Đúng. Xe sắp đến rồi."

Hình như điều đó làm nàng không vui. "Anh vẫn muốn đi ngay hôm nay sao? Đã muộn rồi mà."

"Anh mới có một giấc mơ khác."

"Mơ về cái gì?"

"Vườn Gethsemane 2 ."

Nàng ngả lưng xuống giường và ngó trần nhà. "Chuyện này về niên đại đi xa hơn tất cả những giấc mơ trước của anh, đúng không?"

"Đúng. Sự kiện Gethsemane bắt đầu quá trình đếm ngược đến vác thánh giá. Anh phải đến Thành Cổ. Anh không thể chờ đến mai được."

Nàng kéo chăn quấn quanh người, rồi đứng lên nhìn vào mắt tôi. "Em nghĩ anh nên để đến ngày mai."

"Tại sao?"

"Chúng ta đang bình an trong căn phòng này. Ta đến được đây đã là một phép màu rồi, em nghĩ ta cần thời gian hồi phục sau tất cả những gì đã trải qua."

"Nhưng giấc mơ của anh..."

Nàng cúi xuống cầm tay tôi. "Không có chuyện gì xảy ra cho anh đâu, David ạ. Ngay cả nếu giấc mơ của anh là vác thánh giá thì cũng không có chuyện gì đâu. Anh ở đây với em, em biết cách chăm sóc anh mà."

Nàng thả nốt bàn tay kia vào tay tôi, và tấm ga rơi quanh chân nàng. Tôi cố tránh nhìn, nhưng nàng cố ý muốn tôi nhìn.

"Rachel, anh phải đi ngay hôm nay."

"Chúng ta có thể đi, nhưng không phải ngay bây giờ." Nàng ngả đầu vào ngực tôi và vòng tay ôm tôi. "Trời đất không sụp đổ ngay đâu nếu chúng ta dành vài phút cho nhau."

Nàng hôn má tôi, rúc vào cổ tôi và kéo tôi áp sát eo nàng. Con người nghề nghiệp của nàng bong ra như lớp da chết của rắn. Người đàn bà mới mẻ này là một khám phá đối với tôi, và tôi thèm muốn nàng. Tôi cúi xuống khuôn mặt đương ngước lên mà hôn nàng. Đôi môi nàng ấm và mềm, không có gì gống đôi môi trơn nhớt trong giấc mơ của tôi. Nhớ về chuyện đó khiến tôi thoáng rùng mình.

Nàng buông ra và nhìn vào mắt tôi. "Anh sao vậy?"

"Anh ổn mà." Tôi nhoài ra hôn nàng lần nữa.

"Anh không ổn đâu, anh vẫn sẽ không ổn chừng nào cái vụ Jesus này chưa yên hẳn."

Chuông điện thoại reo, cả hai chúng tôi cùng giật mình.

Tôi nhấc máy. "A lô?"

"Có xe rồi, thưa ngài," một giọng nặng trịch cất lên.

"Cám ơn." Tôi bỏ máy.

Tôi chưa kịp giải thích gì thì Rachel đã hôn lên má tôi, rồi quay đi và bắt đầu mặc quần áo.

Tài xế của chúng tôi là một ông già có ria mép người Palestine tên là Ibrahim. Ông ta nói tiếng Anh rất khó khăn, nhưng hiểu chúng tôi muốn đến Thành Cổ, và chỉ cần đưa chúng tôi đến cổng Jaffa là được. Khi chúng tôi đến gần những bức tường đá bạc phếch vì nắng gió, tôi có cảm giác mình đã đến chỗ này rồi. Đằng sau bức tường kia, nơi ký thác đẫm máu của lịch sử, có một bí mật cho riêng tôi. Trong hai ngàn năm nó nằm đợi, tàng ẩn trước con mắt của những người đến với xẻng, bàn chải đánh răng, giũa và tăm xỉa răng. Bí mật ấy là gì, tôi chưa biết, nhưng tôi sẽ biết khi tìm thấy nó.

"Anh muốn bắt đầu từ đâu?" Rachel hỏi.

"Ngày cuối cùng của Jesus."

"Vâng," Ibrahim nói, quay lại nhìn tôi. "Núi Olives, vườn Gethsemane, nơi hành hình."

Một chiếc mô tô gầm lên giận dữ lao vút qua mặt chúng tôi.

"Nơi hành hình à?" tôi hỏi.

"Tiếng Hebrew là Golgotha, tiếng Latin là Calvary. Nơi Jesus vác thánh giá."

"Đấy đúng là chỗ chúng tôi muốn tới."

"Nhà thờ Mộ Chúa. Chín trạm thánh giá ở bên ngoài và năm ở bên trong nhà thờ. Tôi sẽ đưa các vị đến đó ngay bây giờ."

"Ta đến đó làm gì?" Rachel hỏi tôi.

Tôi cảm thấy có một luồng hơi nóng tràn qua người, khiến tôi hầu như ngạt thở. "Anh không biết."

"David, có chuyện gì thế?" Nàng đặt tay lên trán tôi. "Anh đang sốt."

Ba mươi giây trước tôi còn khỏe, nhưng nàng nói đúng. "Chúng ta phải nhanh lên."

Ibrahim cho xe vào bãi đỗ, vừa lúc có một chiếc Citroen lùi ra. Một xe buýt du lịch to tướng chắn hết ánh sáng phía sau chúng tôi.

"Chúng ta đậu xe bên ngoài tường thành à?" Rachel hỏi.

"Vâng," Ibrahim trả lời. "Theo lệ phải đi bộ từ chỗ này. Các vị hãy nhìn các cột mốc của thành phố."

"Nhà thờ có xa không?"

"Mộ Chúa? Như ngày hôm nay, thì đến Via Dolorosa 3 mất nửa giờ, có thể hơn một chút."

Rachel có vẻ nghi ngại. "Ông có thể đưa chúng tôi đến gần hơn được không?"

"Ngài đây bị ốm ạ?"

Rachel ngần ngừ. "Vâng. Anh ấy đến Jerusalem với hy vọng nó sẽ giúp anh ấy khá hơn."

"À. Nhiều người bệnh đến mộ Chúa để hôn phiến đá nơi ngài phục sinh."

"Ông có giúp chúng tôi được không?"

"Dạ được chứ. Xin trả thêm một trăm shekel, tôi sẽ đưa ông bà đến đó rất nhanh."

Ibrahim lùi xe, nhấn còi và tăng ga lao đi, hứng trọn tràng chửi của một bà trùm khăn kín mít phải né nhanh mới tránh bị cái chắn bùn trước va vào người. Một luồng hơi nóng mới lại cuộn trào trong tôi, tôi sợ lần này mình sẽ ngất mất.

"Ngủ rũ phải không?" Rachel hỏi.

"Không. Khác."

"Chúng ta nên quay lại khách sạn."

"Không.Via Dolorosa."

"Via Dolorosa," Ibrahim nhắc lại. "Đoạn đường Đau khổ. Người Cơ đốc giáo ở đây gọi nó Đường Hoa. Trạm đầu tiên Jesus bị kết tội chết, trạm thứ hai, người bị buộc vác thánh giá, trạm thứ ba, người vấp ngã lần đầu, trạm thứ tư."

Tiếng người hướng dẫn trở nên o o trong tai tôi, tôi không còn theo dõi được nữa. Mồ hôi nhỏ từng giọt, và tôi bỗng cảm thấy ớn lạnh. Khi xe lao qua đường phố chật hẹp, tôi nhìn những bức tường đá, cửa chớp sáng màu, quầy hàng trong chợ treo đầy đồ trang trí lỉnh kỉnh, và các đoàn du khách bận trang phục của hàng trăm dân tộc khác nhau. Ibrahim hạ kính xuống chửi mắng một người nào đó, và mùi hoa nhài thơm nức tràn vào xe. Khi mùi hương xộc vào mũi tôi, bỗng nhiên tôi cảm thấy phởn phơ kỳ lạ, rồi mọi vật trở nên trắng xóa.

--- ------ ------ ------ -------

1 Đơn vị tiền tệ Israel.

2 Khu vườn dưới chân núi Olives ở Jerusalem, nổi tiếng là nơi Jesus cùng các môn đồ của ông cầu nguyện vào đêm trước ngày vác thánh giá.(Luke 22.42-44) Theo giáo hội Chính giáo Đông Âu, vườn này là nơi các Thánh tông đồ chôn cất Đức Mẹ Đồng trinh.

3 Tiếng Latin có nghĩa là "Đoạn đường Đau khổ". Một đoạn đường trong Thành Cổ Jerusalem. Từ thế kỷ 18 nó được coi là đoạn đường Chúa Jesus vác thánh giá đến nơi hành hình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


David, dậy đi, chúng ta đến nơi rồi."

Ai đó lay vai tôi. Tôi chớp mắt ngồi dậy. Rachel đang nhoài người ra cửa sau xe.

"Chúng ta đang ở đâu đây?"

"Via Dolorosa. Đó là một bức tranh siêu thực đang chuyển động. Anh còn muốn xem không?"

Tôi chui ra khỏi xe và sợ hãi đứng nhìn đám đông du khách, trong số họ có bốn người đang khiêng trên vai những thánh giá lớn bằng gỗ. Hai người có lẽ sẽ đóng vai Jesus mặc áo choàng trắng, những người khác mặc quần áo đường phố. Các thánh giá đều có gắn bánh xe để dễ di chuyển mà theo tôi thấy nó khiến việc khiêng vác trở nên không cần thiết.

"Anh có nhận ra điều gì trong các giấc mơ của anh không?" Rachel hỏi.

"Không. Chúng ta đi thôi."

Ibrahim dẫn chúng tôi đi trên con đường trải sỏi, luồn lách qua đám khách du lịch với vẻ khéo léo thuần thục. Tôi đã chờ đón nhận một không khí sùng kính, nhưng không khí ở đây lại giống trong rạp xiếc hơn. Một mớ hỗn tạp đủ thứ giọng vang dội giữa các bức tường: tiếng Đức, Pháp, Anh, Nga, Hebrew, Ả Rập, Nhật và Ý, và đó lại chính là những thứ tiếng tôi có thể nhận biết. Một người đầu húi cua nói giọng Alabama đang say sưa thuyết giảng với một nhóm hành hương Nhật Bản. Ibrahim nói luôn miệng suốt cả quãng đường bằng thứ giọng đều đều vô cảm hình thành qua nhiều năm hành nghề hướng dẫn.

"Gượm hẵng," Rachel nói, chặn ông ta lại. Nàng quay sang tôi, "Anh muốn xem cái gì?"

"Chúng ta đang ở đâu đây?"

Ibrahim mỉm cười. "Thưa ngài, chỗ cánh cửa xanh trên kia là trường Omaria, trạm đầu tiên của đường thánh giá, nơi Chúa Jesus bị kết tội chết."

"Anh có muốn xem chỗ đó không?" Rachel hỏi.

"Không. Trạm thứ hai là gì?"

Ibrahim chỉ tay xuống dưới con đường trải sỏi dẫn đến bức tường gạch hình bán nguyệt. "Đấy là nơi Jesus bắt đầu mang thập giá. Cuối phố là nhà nguyện Flagellation, nơi bọn lính La Mã quất roi lên Jesus, ấn lên đầu Người vành gai, và nói, 'Chào! Vua của dân Do Thái!' Sau đó Pilate dẫn người đến trước đám đông dân chúng và kêu lên: 'Ecce homo! Các ngươi hãy nhìn con người này!' "

Ibrahim cung cấp thông tin này với vẻ phấn khích của một người đọc số trò bingo ở viện dưỡng lão.

"Đi tiếp đi," tôi nói. "Đến nhà thờ."

Người hướng dẫn của chúng tôi tiếp tục đi xuôi xuống phố. Chúng tôi đi qua một cánh cổng màu đen trong vòm cổng bằng đá trắng, và Ibrahim nói gì đó về chuyện Jesus khuỵu ngã lần thứ nhất. Tôi chăm chăm nhìn cánh cổng mà chẳng cảm thấy gì. Có lẽ những gì tôi đang tìm kiếm nằm ẩn sâu dưới mê cung đường phố, cửa hiệu và mái hiên này. Jerusalem dường như cũng giống Cairo, được dựng trên đống xương tàn của chính nó, nơi mà bất kỳ công trình kiến trúc mới nào cũng khai quật lên những chương sử đã mai một từ lâu.

Ibrahim dẫn chúng tôi qua một vòm cổng bán nguyệt bằng gạch khác, và bắt đầu bài rao giảng mới của mình. "Đây là trạm thứ năm, nơi bọn lính La Mã bắt Simon xứ Cyrene nâng thánh giá lên vai Jesus."

Rachel liếc nhìn tôi. "Tiếp tục đi," tôi nói.

Một thằng bé bán vành gai dạo tươi cười lượn qua. Nó tưởng cái nhìn chăm chú của tôi là dấu hiệu thích thú, nhưng Ibrahim đã xua nó đi. Khi tôi nhìn mớ vành gai trên tay thằng bé lúc lắc xuôi con phố, mắt tôi bỗng tối sầm lại, và hai đầu gối tôi mềm nhũn. Rachel lao đến đỡ dưới cánh tay phải của tôi rồi chúng tôi cùng nhau loạng choạng bước theo Ibrahim.

Mấy trạm dừng sau đó mờ mờ ảo ảo những dòng chữ Palestine nhập nhòa hình ảnh kỳ lạ: Nơi đây Veronica đã lau chùi khuôn mặt khổ ải của Jesus, khi ấy chân dung chân thực của Người in hằn một cách kỳ diệu lên tấm mạng. Nơi đây Jesus ngã khuỵu lần thứ hai... nơi đây Người nói, "Hỡi những người con gái của Jerusalem, đừng khóc vì ta, mà hãy khóc cho chính bản thân và con cái các người..."

Chúng tôi đi qua một nóc nhà và một nhà nguyện tối om, rồi bỗng thấy mình đang đứng trong một cái sân chật cứng người trước nhà thờ Romanesque. Khách hành hương, linh mục, nữ tu đi đi lại lại dưới con mắt canh chừng của hàng chục lính Israel đeo súng máy.

"Đây là nhà thờ Mộ Chúa," Ibrahim vừa nói vừa vẫy tay về phía tòa nhà. "Do những người Thập tự chinh xây trong năm mươi năm, từ 1099 đến 1149. Ban đầu nhà thờ với hai dãy cột do Nữ hoàng Helena, mẹ của Constantine, xây nên, bà đến đây năm 325 và phát hiện ra những mảnh của chính cây thánh giá trong chiếc hang sâu dưới lòng đất."

Tôi thất thần nhìn dòng du khách trước cửa nhà thờ.

"Lượng khách du lịch như thế này không đến nỗi tệ," Ibrahim nói. "Vào mùa này du lịch kém lắm. Chiến sự làm mọi người sợ chả ai dám đến, ngay cả trong Tuần Thánh. Tốt cho các vị nhưng xấu cho chúng tôi. Ngài vẫn ổn đấy chứ? Tôi có thể kiếm ít nước cho ngài trong khi chờ đợi."

"Tôi không sao đâu."

"Anh có thể tựa vào em," Rachel nói trong khi chỉnh lại dáng đi đi dưới cánh tay tôi. Tôi dựa vào nàng mạnh hơn một chút. "Cám ơn em."

Nàng chạm mu bàn tay vào má tôi. "Giá mà em đo được huyết áp của anh lúc này."

"Phía bên phải cổng vào là trạm thứ mười," Ibrahim nói. "Tại đó Jesus trút bỏ y phục của Người. Năm trạm thánh giá cuối cùng nằm ngay trong lòng nhà thờ."

"Thật kỳ lạ, phải không?" Rachel khẽ nói. "Hàng triệu người kéo đến để xem một ngôi mộ rỗng không?"

Cố hết sức tôi cũng chỉ có thể gật đầu.

"Đây là ngôi mộ rỗng duy nhất trong bất kỳ nhà thờ Thiên chúa giáo nào trên thế giới," Ibrahim nói. "Thiên sứ hỏi các bà Mary, 'Các người tìm kiếm gì?' 'Jesus xứ Narareth,' họ đáp. 'Người không có ở đây,' thiên sứ nói. 'Người đã phục sinh rồi.' "

Mảnh sân bỗng dưng mờ đi trước mắt tôi, và tôi thấy chân tay mình nhẹ bẫng. Tôi tưởng như đang bềnh bồng trên cánh tay Rachel.

"David?" nàng hỏi. "Anh có nghe em nói không?"

Tôi chớp chớp mắt và thấy mình đang nhìn lên trần nhà bằng đá. "Chúng ta vào trong nhà thờ rồi à?"

"Anh đang mộng du," nàng thì thầm, mắt nàng đầy vẻ lo lắng. "Phải đưa anh trở lại khách sạn thôi."

"Chúng ta đã tới đây rồi. Chúng ta làm được rồi. Anh phải nhìn nó."

"Nhìn gì?"

Giờ thì tôi đã biết. "Ngôi mộ."

Nàng quay sang Ibrahim. "Mộ Jesus ở đâu?"

"Phía này. Trong nhà thờ này mọi điểm đều gần nhau." Ông ta chỉ phiến đá cẩm thạch ánh đỏ trên nền nhà. Mấy ông bà bận trang phục đường phố quỳ áp mặt vào phiến đá. Phía trên họ, một người phụ nữ rót thứ nước gì đó lên phiến đá. Một làn hương ngọt đến nôn nao xộc vào mũi tôi.

"Cái gì thế?" tôi hỏi.

"Đá xức dầu Thánh," Ibrahim nói. "Nơi thân thể Jesus được xức dầu và bọc trong tấm vải liệm sau khi Người được hạ từ trên thánh giá xuống."

Tôi đến gần hơn nhưng không cảm thấy gì. "Có phải đây là phiến đá đầu tiên?"

"Không phải đâu thưa ngài. Phiến đá này có ở đây từ năm 1810 thay thế cho phiến đá từ thế kỷ mười hai. Xa hơn thời điểm đó thì ta không biết chắc. Đi lối này, thưa ngài."

Ông ta dẫn chúng tôi sang trái vào nhà tròn mái vòm của nhà thờ. Ánh sáng tuôn xuống từ mái vòm rực rỡ màu vàng và trắng. Bên dưới vòm là một tòa kiến trúc đồ sộ hình chữ nhật bằng đá cẩm thạch, thứ đá trông như từng được đóng thùng nẹp đai kim loại dày cộp để chở bằng tàu biển. Trên đỉnh là một cái chóp giống như ở điện Kremlin.

"Đây là cái gì?" tôi hỏi.

"Đây là Mộ Thánh, thưa ngài. Gọi là Edicule, tức là ngôi nhà nhỏ. Vì Jesus là nhân vật cực kỳ quan trọng nên người Byzantine và quân Thập tự chinh đã tiêu tốn vô số tiền bạc để xây ngôi mộ này cho Người. Đây là trạm thứ mười bốn và là trạm cuối cùng của con đường thánh giá. Theo phong tục của dân Do Thái, họ luôn luôn chôn người chết bên ngoài thành phố. Mặt ngoài của đá cẩm thạch đã bị rã ra nên người ta phải dùng đai sắt để nẹp lại. Vào chứ, thưa ngài? Thưa bà, bà đứng vào hàng chứ?"

Ibrahim tiếp tục bài diễn thuyết liến thoắng của ông ta, nhưng tôi đã bị phân tán không còn theo dõi được. Tôi cứ tưởng mộ Jesus phải là một thứ hang động nào đó ngoài trời, chứ đâu phải lăng mộ trong một nhà thờ Trung cổ như hầm ngục thế này.

"Hàng người đang di chuyển," Rachel nói và đỡ tôi tiến lên.

Chẳng mấy chốc chúng tôi đã đứng trước cửa Edicule. Tại đây Ibrahim nói với giọng kính cẩn mà tôi đã chờ đợi từ đầu.

"Bên trong nhà mồ chúng ta sẽ thấy hai căn phòng. Ta vào thôi."

Trong phòng đầu tiên chúng tôi thấy một chiếc bục, trên đặt một hộp kính. Trong hộp có một viên đá.

"Phòng này chúng tôi gọi là phòng thiên thần," Ibrahim nói. "Là nơi người chết đợi để người ta dọn chỗ chôn cất. Ở đây cất giữ một hòn đá lăn, nơi các thiên thần mở cửa mộ để Jesus phục sinh."

Tôi chú ý đến hai lỗ thủng trên bức tường bên phải. Ibrahim nói, "Khi mọi người không có lửa để châm nến Phục sinh, vị linh mục đứng đây cho họ lửa từ ngọn Lửa Thiêng, châm từ ngọn nến lớn của ông đến các ngọn nến của mọi người."

Tôi chuyển sự chú ý sang một cánh cửa thấp trong bức tường cẩm thạch dày của ngôi mộ trong. Tôi cúi mình chui qua cửa vào một căn phòng nhỏ bên trong. Một người đàn ông và một người đàn bà đang quỳ gối cầu nguyện trước một thứ có lẽ là bàn thờ bằng cẩm thạch. Họ làm dấu thánh giá lên phiến đá, làm như phiến đá có thể ban phúc khi họ chạm vào. Trên đầu họ là những chùm đèn lộng lẫy bằng bạc treo trên dây xích, ánh nến lung linh khắp gian phòng. Những bình hoa hồng bạch tỏa hương thơm hắc trong không gian bé nhỏ.

"David, đây chính là cái anh cất công đến để xem đấy à?"

Tôi khom người chạm vào phiến đá cẩm thạch phía trước hai người đang cầu nguyện. Tôi không biết mình đang mong chờ gì, nhưng đúng là có gì đó. Ở Stonehenge, khi tôi trèo qua hàng rào chắn và chạm tay vào những khối đá sa thạch, tôi đã cảm thấy nhiều hơn thế này. "Không phải ở đây."

"Sao?"

"Ở đây chẳng có gì xảy ra cả."

Hai người đàn ông đàn bà đang quỳ ngước lên nhìn tôi, đôi mắt họ mở to.

"Thưa ngài, ngài không được nói thế," Ibrahim nói sau lưng tôi. "Đây là nơi thiêng liêng nhất."

"Không phải ở đây," tôi nhắc lại. Tôi lom khom, vội vã quay trở lại nền nhà mái vòm.

Rachel theo sau tôi. Dòng người xếp hàng đứng đợi nhìn chúng tôi chằm chằm, cảm thấy có chuyện bất ổn. Tôi không quan tâm. Nỗi kinh hoảng bóp nghẹt tim tôi. Bên ngoài trời đã tối mịt mà tôi vẫn chưa tìm thấy cái tôi đến để tìm.

"Nói cho em biết chuyện gì đang xảy ra đi," Rachel thì thầm.

"Không có gì xảy ra ở đó. Đó không phải nơi cần tìm."

Một người đứng trong hàng há hốc mồm kinh ngạc.

"Nơi nào?" Rachel hỏi.

Tôi quay sang Ibrahim, lúc này ông ta đang cầm điện đài và hình như đang lưỡng lự không biết có nên kêu gọi giúp đỡ không. "Đó có phải phiến đá đầu tiên không?"

"Không, thưa ngài. Phiến đá cẩm thạch được đặt ở đó để che đậy chính phiến đá xưa kia Jesus đã nằm."

"Vậy không thể nhìn được phiến đá chính à?"

Mặt người hướng dẫn sáng lên. "Được ạ. Sờ cũng được nữa. Ngài đi theo tôi."

Ông ta dẫn chúng tôi đi ra phía sau Edicule. Nơi đó có một nhà nguyện nữa, kín đáo hơn, mở về phía nhà vòm. Ở đây màu sắc rực rỡ hơn ngôi mộ đá cẩm thạch mà chúng tôi vừa rời khỏi, với những món trang trí treo tường bằng sắt rèn, và có một người đàn ông râu ria lởm chởm chăm nom.

"Đây là ngôi mộ thánh nhìn từ phía khác thưa ngài," Ibrahim thầm thì. "Một phần của nhà nguyện Coptic. Coptic là những người Thiên chúa giáo từ Ai Cập đến. Hết sức sùng đạo."

Ở đây dòng người xếp hàng ngắn hơn nhiều. Nó biến mất vào trong nhà thờ nhỏ hẹp và dừng lại nơi tấm rèm nhỏ che thứ gì đó.

"Thưa ngài, phía sau kia là phiến đá chính nơi chúa Jesus đã nằm, lộ một phần ra ngoài. Nơi đây người có bệnh đến để được chữa, người thường đến để được ban phúc lành."

Trong khi đợi hàng người di chuyển, da tôi ngứa ran như bị ong châm. Cuối cùng cũng đến lượt tôi. Tôi đi qua tấm rèm, quỳ xuống và đặt bàn tay phải lên phiến đá trần.

"David?" Rachel thì thào sau lưng tôi.

Tôi lắc đầu. "Không có gì." Đây là lần đầu tiên trong vòng sáu tháng tôi bắt đầu thật sự nghi ngờ óc tỉnh táo của mình.

"Em nghĩ chúng ta nên về khách sạn thôi," Rachel nói. "Ibrahim định gọi người giúp đỡ đấy."

Tôi lồm cồm bò lên và ra khỏi nhà nguyện, đầu óc rối loạn. Ibrahim nhìn tôi chằm chằm như thể tôi sắp sửa thốt ra lời báng bổ, cảnh mà hồi trẻ người hướng dẫn du lịch già này có lẽ đã từng thấy. Máy điện đàm vẫn còn trong tay ông ta.

"Cả ở đó nữa cũng không có gì xảy ra," tôi nói. "Không phải nơi tôi cần."

"Nhưng thưa ngài, đây là ngôi mộ thánh."

"Chắc chắn chứ?"

"Vâng... một số tín đồ Tin Lành cho rằng ngôi mộ trong khu vườn bên ngoài thành phố mới là mộ chúa Jesus. Nhưng không có nhà khảo cổ nào tin điều đó. Ngài đã được thấy đúng ngôi mộ thật, thưa ngài."

Một phụ nữ cao ráo, dung mạo bình thường cầm quyển Thánh kinh Vua James bước ra khỏi hàng trước nhà nguyện và nói bằng tiếng Anh, "Ngôi mộ ở đâu thì có gì quan trọng, hở người anh em? 'Người không có ở đó. Người phục sinh rồi.'"

"Điều đó có quan trọng không ư?" tôi hỏi bà ta. "Tất nhiên là quan trọng rồi. Giả thử bà tìm thấy ngôi mộ thật có xương của Jesus trong đấy thì sao nào? Đó là sự khác nhau giữa tôn giáo chính thống và chứng phân ly tập thể."

Người phụ nữ suýt thì ngả ngửa ra sau.

Trông Ibrahim rất kích động. "Thưa ngài! Xin ngài đừng nói những điều như thế ở đây."

"Anh là người Hồi giáo, Ibrahim, anh không hề tin bất kỳ điều gì ở đây."

"Làm ơn, ngài..."

Tôi rời khỏi Edicule, không biết nên rẽ lối nào và phải làm gì.

Rachel sánh vai tôi. "David, anh đang tìm kiếm gì?"

"Nơi chúa Jesus phục sinh."

"Nhưng anh không tin vào Chúa. Làm sao anh tìm được nơi chúa Jesus phục sinh khi anh không tin Chúa có thực?"

Ibrahim đã theo kịp chúng tôi. "Thưa ngài, một số người tin rằng chúa Jesus phục sinh từ cõi chết ở một nơi khác. Tôi sẽ chỉ cho ngài."

Ông ta dẫn chúng tôi băng qua nhà vòm đến cửa một nhà thờ lớn nằm trọn trong một nhà thờ khác lớn hơn.

"Đây là Catholicon." Ông ta chỉ tay vào chùm đèn. Bên dưới vòm nhà thờ này là một bồn cẩm thạch có tên là Omphalos. Cái rốn của thế giới. Có những người Hy Lạp tin rằng chúa Jesus phục sinh tại đây, và một ngày nào đó sẽ trở lại đây để phán xử thế gian này."

"Chúng ta có thể đến xem không?"

"Nhà thờ này thường đóng cửa, nhưng tôi sẽ đưa ngài tới đó."

Ông ta dẫn chúng tôi chui qua dây xích đến chỗ chiếc cốc đá đặt trên nền khảm. Tít trên cao là trần vòm vẽ hình ảnh siêu phàm của Chúa Cơ Đốc với màu sắc nhẹ nhàng. Tôi nhìn xuống bán cầu đá, thực chất là một cái bát lớn. Tôi cúi xuống chạm tay vào nó. Tôi không cảm thấy gì khác hơn là chạm vào bồn tắm cho chim trong sân nhà ai đó.

Rachel lập tức quan sát phản ứng của tôi. "Anh hy vọng điều gì? Một cú điện giật? Hay là một giọng nói từ trên trời vọng xuống?"

Tôi quay sang người hướng dẫn du lịch đang đứng lắc đầu. "Còn chỗ nào tôi chưa được xem nữa, Ibrahim?"

"Còn nhiều lắm. Chỗ quan trọng nhất là Golgotha. Tiếng Latin gọi là Calvary. Nơi chúa Jesus phải vác thánh giá."

"Ở bên trong nhà thờ à?"

"Tất nhiên, thưa ngài. Xin đi theo tôi."

Ông ta dẫn chúng tôi qua Catholicon lên một cầu thang dốc. Trong khi bước lên tôi đếm được mười tám bậc. Càng bước lên cao tâm hồn tôi càng ủ ê hơn.

Vào lúc bước lên bậc thang cao nhất, tôi thấy mạch máu mình đập mạnh. Căn phòng chật cứng người, nhưng bên trái tôi, phía trên đầu mọi người, tôi thấy một bức tượng Jesus to bằng người thật treo mình trên cây thánh giá. Có một mảnh vải màu bạc quấn quanh thắt lưng Người và một vương miện cũng bằng bạc trên đầu Người. Không phải pho tượng khiến tôi xúc động, mà là cái gì đó trong chính căn phòng này. Tôi cảm thấy như đang đứng gần dây cáp điện cao thế, và lực tĩnh điện làm mỗi sợi lông trên cơ thể tôi dựng đứng cả lên.

"Cái gì?" Rachel hỏi dồn. "Cái gì thế?"

"Có gì đó trong anh rung lên."

"Trước đây anh đã từng bị thế. Đó là dấu hiệu ảo giác gây buồn ngủ."

"Không... lần này khác hơn."

"Ông Ibrahim?" Rachel hỏi.

"Vâng, thưa bà?"

"Chúng tôi quay trở lại xe đây."

"Vâng," ông ta nói như vừa được giải thoát.

Tôi bước ra xa hai người. Bên phải tôi là một bức tranh tường vẽ chúa Jesus nằm trên thánh giá được đặt ngay trên mặt đất. Mấy người đang đứng trước bức tranh tường tản ra, để lộ ra một căn buồng nhỏ có những tấm bảng được đóng bằng đinh bạc. Khi tôi bước lại gần bức tranh tường, một cơn đau lan tỏa từ bàn tay trái lên đến cánh tay. Trong thoáng chốc tôi nghĩ mình sắp lên cơn đau tim. Rồi cơn đau xuất hiện cả bên cánh tay phải. Tôi co cả hai bàn tay thành nắm đấm, nhưng cũng không khá gì hơn. Tôi quay sang Ibrahim.

"Đây là đâu?"

"Đây là trạm thứ mười một, thưa ngài. Nơi chúa Jesus bị đóng đinh lên thánh giá."

Tôi rên rỉ.

"Chúng ta phải đưa anh ấy ra khỏi đây ngay," Rachel nói. "Ông có gọi được người giúp đỡ không?"

"Ông ấy còn đi được," Ibrahim nói. "Chúng ta đi thôi."

"Tôi không nghĩ anh ấy đi được đâu."

Nhiều người trong phòng nhìn tôi chòng chọc như nhìn một kẻ điên.

"Tôi có thể gọi lính gác," Ibrahim nói. "Nhưng tốt nhất ta không nên làm thế."

"Không," Rachel nói nhanh. "Ý tôi là phải đấy. Không cần gọi đâu."

Một nhóm người hành hương rời khỏi bức tượng chúa Jesus, để lộ ra một bàn thờ trang trí cực kỳ lộng lẫy. Tôi bước đến, dán mắt vào hình Đức Mẹ dát bạc đứng dưới chân Thánh giá. Bàn thờ trước mặt bà hình như được đặt trên một hòm thủy tinh lớn, bên dưới là hòn đá xám xù xì.

"Gì vậy?"

"Golgotha," Ibrahim trả lời. "Nơi hành hình. Đó chính là mỏm núi nơi đá nứt ra khi máu Jesus chảy từ thánh giá xuống. Rồi sau đó là động đất."

Một luồng ánh sáng trắng mờ xóa nhòa quanh cảnh trước mắt tôi. Tôi nhìn thấy ngọn núi hiện diện tại nơi nay là nhà thờ, một đồi đá trơ trụi bên quả núi rải rác những nấm mồ. Ba cây thánh giá cắm trên đồi nhưng không có ai bị treo trên đó. Bầu trời tối dần rồi trở nên đen kịt, và tôi quỳ phục xuống.

Tôi thấy mình đang trừng trừng nhìn một đĩa bạc sáng lóa có lỗ ở giữa. Chiếc đĩa nằm trên bệ đá cẩm thạch của bàn thờ, cách sàn nhà chừng ba mươi phân. Tôi giơ bàn tay phải run rẩy ra đặt lên chiếc đĩa.

Cơn đau trong tay tôi đột nhiên dịu đi.

"Đây đúng là nơi tôi cần tìm," tôi nói. "Đây là nơi chúa Jesus giã từ cõi đời."

"Ông ấy nói đúng," Ibrahim nói. "Chiếc đĩa ấy đánh dấu vị trí cây thánh giá chôn xuống đất. Bên phải và bên trái là những chiếc đĩa đen nơi chôn thập giá của lũ trộm, một là người tốt, một là kẻ xấu. Sau đó, Jesus được đưa vào nhà mồ của Joseph xứ Aramathea, và sống dậy từ cõi chết sau đó ba ngày."

"Không," tôi nói.

Mặt Ibrahim trắng bệch. "Thưa ngài, xin đừng nói những điều như thế ở đây."

"Nói khẽ thôi," Rachel cầu khẩn.

"Chiếc lỗ trên đĩa dùng để làm gì?" tôi vừa hỏi vừa xoa bàn tay trên đĩa bạc mát lạnh.

"Ngài có thể thò ngón tay qua lỗ và chạm tới Golgotha. Mỏm đá Calvary."

Tôi nhắm mắt và thò hai ngón tay qua lỗ. Các đầu ngón tay cào vào mặt đá nhám.

"Trước đây anh đã từng mơ thấy nó phải không?" Rachel hỏi.

Tôi không thể nói nên lời. Có gì đó chảy tràn vào tôi từ tảng đá sống động kia. Giọng Rachel nhạt dần rồi không nghe thấy nữa. Tôi cảm thấy xương cốt tôi đang nhảy múa, đang rung lên đồng cảm với cái gì đó trên trái đất. Đầu tiên là một cảm giác như niềm vui, nhưng khi đến độ mãnh liệt, tôi bắt đầu run rẩy và co giật.

Đây là một cơn tai biến ngập máu, một giọng nói thân quen vang lên trong đầu tôi. Giọng nói y học của tôi. Co cứng, co giật toàn thân... Qua màn sương mờ của ý thức đang lịm dần, tôi nghe thấy tiếng người la hét bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Rồi tôi ngất đi, và Rachel thét lên.

Nền nhà vỗ vào tôi như nước.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


White Sands

Vào lúc 7:52 phút sáng, giờ tiêu chuẩn miền núi, Peter Godin rơi vào tình trạng nguy kịch. Ravi Nara không có mặt tại kho chứa máy bay dùng làm bệnh viện, nhưng y ngủ ngay gần đó, và chỉ mất chưa đầy hai phút y đã đến bên giường Godin. Y đã chờ cho ông già tịch. Không rẽ tắt dòng để giảm bớt áp suất trong não thất thứ tư thì tràn dịch màng não là không thể tránh khỏi. Nhưng khi y đến Bong bóng, y thấy Godin đang lên cơn nhồi máu cơ tim thông thường.

Hai y tá của Godin đã luồn ống ôxy vào khí quản và một người đang xoa bóp để phục hồi nhịp tim. Ravi đọc điện tâm đồ và xác nhận chẩn đoán của họ: nhịp nhanh thất. Họ đang phải sốc điện vì không thấy mạch của lão. Cần đến hai liều thuốc kết hợp và phải sốc điện 360 jun để đưa tim về nhịp xoang. Ravi lấy máu để kiểm tra các enzym đặc trưng của tim, xem cơ tim đã bị hủy hoại đến mức nào. Sau đó, vì Godin vẫn còn bất tỉnh, Ravi ngồi xuống nghỉ một lát.

Y ghét y học lâm sàng. Luôn thường trực bất ngờ khiến anh phải ngạc nhiên. Godin đã được bắc cầu nối mạch vành cách đây mười lăm năm và được cấy ống dẫn tuần hoàn từ năm 1998. Nguy cơ nhồi máu cơ tim luôn còn đó, nhưng dưới áp lực phải cố sức xử lý u thần kinh đệm thân não, Ravi tạm quên đi nguy cơ về tim. Các y tá đã thấy y ngập ngừng trong khi cấp cứu. Không rõ họ có thể chờ mong gì ở một người được giải Nobel y học. Sau nhiều năm làm việc ở phòng thí nghiệm nghiên cứu, y đã không hành nghề chữa bệnh. Thế thì đã sao? Thậm chí một bác sĩ thú y cũng có thể lập phác đồ xử lý các ca nguy kịch.

Khi một y tá vừa chạm đến ống thở của Godin, ông già cố nói, nhưng cố gắng của lão chỉ tạo nên những tiếng kêu the thé.

Ravi ghé xuống sát tai Godin. "Đừng cố nói, Peter, ông hơi bị loạn nhịp tim, nhưng sẽ ổn định ngay thôi."

Godin giơ tay đòi vật gì để viết. Một y tá đưa cho lão chiếc bút và giữ một tấm bìa cứng gần sát tay lão.

Godin viết nghệch ngoạc: "ĐỪNG ĐỂ TÔI CHẾT! SẮP THÀNH CÔNG RỒI!!!"

"Ông không chết đâu." Ravi trấn an lão, mặc dầu chính y còn lâu mới tin điều đó. Giảm ôxy sẽ dễ gây ra cơn tràn dịch màng não chết người mà y đang chờ đợi. Y bóp vai Godin, rồi ra lệnh cho các y tá đặt thông khí. Việc này sẽ làm ông già khiếp sợ, nhưng lão có thể chịu đựng được.

Để tránh sự phản đối của Godin, Ravi rời Bong bóng. Khi y đóng cửa sập lại, y thấy Zach Levin đang lao vào bệnh xá.

"Cái gì thế?" Ravi hỏi. "Đã xảy ra chuyện gì?"

Levin phải dừng lại lấy hơi mới nói được. "Mẫu thần kinh của Fielding đang giải thuật toán cuối cùng! Ông ta đã liên kết được vùng ký ức với vùng xử lý, và đang tạo ra một mạch giao diện hoàn toàn mới. Tôi chưa từng thấy điều gì như thế."

"Ý cậu muốn nói mẫu thần kinh của Fielding đã làm tất cả những việc đó."

"Đúng, đúng. Nhưng tôi phải nói cho anh biết, ngay khi cỗ máy mới chỉ vận hành năm mươi phần trăm công suất, tôi đã có thể cảm thấy ông ta ở đó. Cứ như nói chuyện với một người tôi đã từng cùng làm việc suốt hai năm qua. Như thể ông ta đã sống lại vậy."

"Cậu đã đạt được năm mươi phần trăm công suất?"

Levin cười ngoác miệng. "Và đang tăng lên. Lẽ ra tôi nên tin tưởng hơn vào linh cảm của Godin."

Ravi cố gắng giấu cơn sốc. Chín mươi phần trăm hiệu suất là điểm mà Godin đã dự tính một mẫu thần kinh có thể trở thành ý thức đầy đủ - một trạng thái mà lão gọi tên bằng thuật ngữ trạng thái Trinity.

"Cậu vừa bảo 'nói chuyện'," Ravi nói to suy nghĩ của mình. "Hay là bộ đồng bộ hóa giọng nói đã làm việc? Fielding nói với cậu à?"

"Ông ta cố gắng nói. Ông ta không thể giải thích việc ông ta đang làm. Nhưng hiệu quả đang tăng lên vững chắc. Chúng tôi đã đặt được lịch trình xác định."

Bất chấp hoàn cảnh cá nhân phức tạp, Ravi vẫn không chế ngự nổi cơn phấn khích. "Bao lâu?"

"Mười hai đến mười sáu tiếng."

"Đến trạng thái Trinity ấy à?"

Levin gật đầu. "Và tôi cá sẽ ngắn hơn mười hai tiếng. Chúng tôi đã đưa một nhóm trực đến nhà Cách ly."

Ravi nhìn đồng hồ. "Cậu chắc chắn chứ?"

"Chắc như mọi việc đã làm ở công trình này. Tôi phải đi báo cho Godin biết chuyện đang xảy ra."

Ravi không muốn Godin nghe chuyện này cho đến khi y nói cho Skow biết. "Cậu không vào ngay bây giờ được. Ông ấy không nghe được đâu. Peter lên cơn nguy kịch cách đây hai mươi phút."

Levin cứng người lại cảnh giác. "Ông ấy chưa chết chứ!"

"Chưa. Nhưng đang được thông khí."

"Có tỉnh không?"

"Không đủ tỉnh để hiểu cậu nói. Mà ông ấy cũng không nói được."

"Nhưng ông ấy phải biết việc này! Nó sẽ tăng bội ý chí chiến đấu của ông ấy."

Ravi cố tỏ vẻ đồng cảm. "Ông ấy chưa bao giờ thiếu cái đó."

"Đúng. Nhưng việc này sẽ làm thay đổi tất cả."

"Rất tiếc, Levin. Tôi không thể cho cậu vào được"

Levin khinh bỉ nhìn xuống Ravi. "Anh không thể có một quyết định như vậy được. Hạn chế Godin tiếp cận với những thông tin vô cùng trọng yếu ư?"

"Tôi là bác sĩ của ông ấy."

"Vậy thì anh đang làm một việc chó đẻ. Chẳng cần phải là bác sĩ mới biết điều tốt nhất ta có thể mang lại cho sức khỏe của Godin hiện giờ là cho ông ấy biết thông tin này."

Levin quay đi và bước tới bộ khử trùng cực tím. Ravi định cãi nhưng người kỹ sư đã ấn nút khởi động, làm cho cuộc đấu khẩu trở nên vô ích.

Nếu Levin cứ khăng khăng vào Bong bóng, Ravi không thể ngăn cản anh ta. Godin có thể gọi anh ta bất cứ lúc nào.

Ravi hối hả chạy ra cửa. Y cần báo với Skow ngay lập tức. Bởi vì Zach Levin có lý: nếu chỉ còn mười hai đến mười sáu tiếng nữa Trinity trở thành hiện thực, Godin gần như chắc chắn còn sống để thấy điều đó. Và như thế mọi chuyện sẽ thay đổi. Skow đang lập kế hoạch cho tổng thống thấy thất bại của Trinity, đổ mọi trách nhiệm lên đầu Godin, và dùng Ravi để giúp gã làm việc đó. Nếu Skow đi quá xa, và Godin vào giờ thứ mười một đưa ra được chiếc máy tính cách mạng mà lão đã hứa hẹn - thì Ravi sẽ rơi vào tình trạng hiểm nghèo. Peter Godin sẽ không nhẹ tay với kẻ phản bội. Lão sẽ tự đưa ra phán quyết của mình. Hình ảnh Geli Bauer lướt qua đầu Ravi. Hú hồn là ả đang nằm viện ở Maryland.

Jerusalem

Rachel ghì chặt thành xe cấp cứu khi nó chật vật nhúc nhích giữa dòng giao thông tắc nghẽn. David nằm bất tỉnh trên tấm băng ca đặt trên sàn xe. Người hộ lý ngồi phía sau biết tiếng Anh đủ để trò chuyện với Rachel, nhưng anh ta chỉ có thể nói rất ít, thậm chí còn nói ít hơn về tình trạng bệnh nhân của anh ta.

Khi David gục ngã trong nhà thờ, Rachel biết ngay rằng anh bị tai biến ngập máu. Nàng quỳ xuống đỡ lấy đầu anh khỏi đập xuống sàn, nhưng đó là tất cả những gì nàng có thể làm được. Việc nạn nhân tai biến tự nuốt lưỡi mình chỉ là chuyện tưởng tượng, nếu thò tay vào mồm để ngăn có thể mất ngón tay như chơi. Ibrahim đã dùng điện đàm gọi cấp cứu, nhưng Rachel có cảm tưởng ông ta đã gọi trước đó rồi.

Đám lính Israel nhanh chóng chạy đến lập hàng rào quanh nhà nguyện. Lúc xe cấp cứu đến, cơn tai biến của David đã qua, nhưng anh vẫn chưa tỉnh. Các hộ lý đo đường huyết của anh, thấy mức glucose vẫn bình thường. Trong trường hợp hôn mê, đấy là giới hạn những gì họ có thể làm tại chỗ, nên họ lắp nẹp cổ cho anh, đặt anh lên cáng, rồi gọi lính khiêng anh ra xe cấp cứu trong sân.

Khi họ luồn lách qua phố xá, tâm trí Rachel lướt nhanh qua các nguyên nhân có thể gây hôn mê. Nguyên nhân thông thường nhất là hạ đường huyết, nhưng David không có tiền sử lạm dụng chất gây nghiện. Đầu anh chạm đất không mạnh lắm nên không thể bị chấn thương, bốn mươi mốt tuổi thì cũng khá lớn tuổi để mắc chứng động kinh khởi phát muộn, mặc dầu nàng đã nghi ngờ điều đó ngay từ khi nghe về chứng ảo giác. Ravi Nara đã loại trừ bệnh động kinh, nàng nhớ lại.

Một cơn đột quỵ có thể gây tai biến và hôn mê, nhưng rất hiếm. Đầu độc? Nàng nghĩ đến chất bột trắng trong chiếc phong bì Fielding gửi qua FedEx. Liệu có thứ chất độc nào lẫn trong "cát" mà các nhà khoa học ở trường Duke không tìm ra? Có khả năng là virus viêm não ở phía Tây sông Nile chăng? David có thể từng bị muỗi độc đốt ở Tennessee mà mãi đến bây giờ mới phát bệnh viêm não? Anh cũng có thể nhiễm vi khuẩn viêm màng não ở sân bay Kennedy. Có thể là ung thư não, nhưng nếu thế thì Siêu-MRI của Trinity đã phát hiện ra rồi.

Ngay cả khi Rachel cố ghi nhớ để thuật lại tất cả cho bác sĩ trực cấp cứu, nàng vẫn còn tự mắng mình vì khi điều trị cho anh, nàng đã không kiên quyết yêu cầu David đi khám tổng quát. Thật ra, nàng đã rất kiên quyết. Nhưng David đã từ chối.

Chiếc xe cấp cứu cuối cùng cũng thoát ra khỏi đám đông và tăng tốc lên một đường đồi xanh tươi đến một khu nhà trông như pháo đài. Trên mái nhà chi chít ăng ten và ăng ten vệ tinh còn nhiều hơn ở một đài truyền hình.

"Kia là bệnh viện đấy à?" Rachel hỏi.

Người hộ lý gật đầu. "Hadassah. Bệnh viện tốt nhất đấy."

Xe dừng lại trong sân tiếp nhận bệnh nhân bằng bê tông, và những người hộ lý đẩy xe David vào phòng cấp cứu. Họ không mất thời gian xếp theo thứ tự ưu tiên; mà đưa ngay anh vào phòng điều trị. Rachel đã nói với họ nàng là bác sĩ nên họ cho nàng vào theo. Nàng lấy ghế ngồi sát tường và nhường chỗ cho họ làm việc.

Một y tá kiểm tra ven của David, rồi chuyển từ ôxy trong chai rời sang ôxy của bệnh viện. Một người khác cởi quần áo cho anh và nối những đầu dây của màn hình máy điện tim vào ngực anh. Nhìn thấy David nằm trần trụi bất lực, Rachel đau đớn đến nỗi cái vỏ giáp nghề nghiệp cũng không che giấu nổi. Nàng nhặt chiếc túi bao tử cùng quần áo của anh bỏ vào một túi nylon.

Một người đàn ông mặc đồ trắng đến trước cửa, nói tiếng Hebrew với mấy người hộ lý. Ông ta liếc nhìn Rachel, rồi bước vào yêu cầu nàng tóm tắt chuyện xảy ra ở nhà thờ bằng thứ tiếng Anh nặng trịch. Nàng làm theo và cung cấp tiền sử bệnh lý của David đầy đủ nhất trong chừng mực nàng biết.

Anh đã bất tỉnh ba mươi phút. Đa số bệnh nhân bị co cứng, co giật toàn thể thì sau chừng ấy thời gian cũng phải tỉnh rồi. Vị bác sĩ ra lệnh xét nghiệm máu; chụp X-quang lồng ngực và xương cổ, chụp CT để loại trừ nguyên nhân đột quỵ, u, xuất huyết dưới màng nhện; và lấy tủy xem có viêm màng não không.

Sau khi y tá lấy mẫu máu, một hộ lý chuyển anh vào buồng X-quang chụp CT, mất gần một tiếng. Khi trở lại phòng điều trị, anh vẫn còn mê man. Tiếp đó, một bác sĩ trực cấp cứu khác chích đốt sống. Dịch lấy ra từ xương sống có áp suất bình thường, và Rachel dễ thở hơn hẳn khi nhìn thấy chất dịch trong. Có nhiều khả năng chỉ là nhiễm trùng.

Bước tiếp sau là tham chiếu thần kinh, và từ giây phút này Rachel bắt đầu hoảng sợ. Một bảng tham chiếu thần kinh có nghĩa là cho nhập viện, kèm theo những câu hỏi về bảo hiểm y tế và thanh toán tiền. Trong hai túi bao tử có 15.000 đô la, nhưng nàng không muốn bị nghi ngờ khi phải xuất ra số tiền mặt lớn như vậy. Nàng suýt nữa thì ôm lấy bác sĩ trực cấp cứu khi ông ta thông báo rằng khoa thần kinh không còn giường trống. David sẽ ở lại khoa cấp cứu.

Một nhân viên kỹ thuật điện não đẩy một chiếc máy di động vào để làm điện não đồ cho David, Rachel nhận thấy ngay anh ta rất sắc sảo. Anh ta tắt hầu hết các thiết bị điện trong phòng rồi mới tiến hành làm điện não đồ, như vậy loại trừ tất cả các nguồn gây nhiễu và khiến điện não đồ dễ đọc hơn.

Khi điện não đồ hiện ra, kỹ thuật viên tỏ vẻ căng thẳng, và Rachel hiểu ngay lý do. Não David chỉ hiện sóng alpha có tần số và biên độ không đổi. Kỹ thuật viên viên nhoài người vỗ tay gần tai phải của David, nhưng các sóng alpha vẫn đồng bộ. Chúng chẳng thay đổi gì cả.

Tim Rachel chùng xuống. David đang rơi vào tình trạng gọi là hôn mê alpha. Rất ít bệnh nhân tỉnh dậy sống sót sau cơn hôn mê alpha.

"Chị là bác sĩ phải không?" kỹ thuật viên hỏi khi nhận thấy nét mặt Rachel.

"Vâng."

Ánh mắt anh ta dịu lại. "Tôi rất tiếc."

Khi anh ta dợm tắt máy, Rachel thấy một sóng theta xuất hiện trên màn hình.

"Đợi chút!" nàng kêu lên, đoạn giơ tay chỉ.

"Tôi thấy rồi."

Sóng theta tăng đều về biên độ. Sau đó một vài sóng beta xuất hiện.

"Anh ấy đang mơ," Rachel nói, thấy khó mà tin được điều đó. "Có phải anh ấy chỉ đang ngủ không?"

Kỹ thuật viên cấu tay David. Không có phản ứng gì. Anh ta ghé xuống sát tai và gào lên, "Dậy đi!"

Không có gì xảy ra.

"Không phải anh ấy đang ngủ," kỹ thuật viên trầm ngâm nói. "Nhưng những sóng theta này rõ ràng đang mạnh lên."

"Anh nghĩ chuyện gì đang xảy ra?"

"Anh này chắc chắn đang bị hôn mê alpha. Nhưng não anh ấy đang hoạt động thì phải. Làm gì thì tôi không biết." Kỹ thuật viên bước ra cửa rồi quay lại nhìn Rachel.

"Tôi cứ để máy hoạt động và đi mời một bác sĩ thần kinh xuống đây. OK?"

"Cám ơn anh."

Nàng ngồi một mình bên giường, tay run rẩy khi nhìn màn hình. Cho đến khi nhìn thấy sóng theta đó, nàng vẫn đinh ninh là David chết. Bây giờ nàng chẳng biết chuyện gì đã xảy ra. Nhưng có gì đó đang xảy ra trong đầu anh. Có thể anh đang bị ảo giác trong hôn mê giống như những khi anh bị chứng ngủ rũ quật ngã? Cũng có thể anh không hề hôn mê? Đôi khi có bệnh nhân trông như bị hôn mê trong khi thật ra anh ta đang bị một cơn tai biến nhỏ. Thế nhưng điện não đồ không thể hiện điều này. Nó thể hiện trạng thái hôn mê alpha, ngắt quãng bởi sự xâm nhập không giải thích được của sóng theta và beta.

Nàng không muốn nghĩ David đã làm những gì trước khi bị tai biến, nhưng lại không thể bắt mình ngừng suy nghĩ. Trong không gian âm u thời trung cổ của nhà thờ Mộ Chúa, anh đã đi tìm dấu tích của cuộc đời Jesus trên trái đất. Hay nghĩ về cái chết của anh. Anh đã khinh thường những địa điểm truyền thống mà khách hành hương thường sùng kính - phiến đá xức dầu, bản thân ngôi mộ, nhưng đến chỗ đánh dấu nơi Jesus chết trên thánh giá, anh đã quỳ sụp xuống mà kêu lên, "Chính là chỗ này đây." Đúng lúc đó bắt đầu tai biến.

Sự cố này chắc hẳn đã bắt đầu từ trước đó. Khi David ngắm bức tranh tường mô tả cảnh Chúa Jesus bị đóng đinh trên thánh giá, anh siết chặt hai nắm tay lại, như thể bàn tay bị đau. Điều gì diễn ra trong tâm trí anh lúc đó? Anh thật sự tin mình là Chúa Jesus ư? Anh hoàn toàn tin tưởng điều đó đến nỗi cảm thấy các vết thương của Jesus? Nàng từng nghe nói có những trường hợp tâm trí sinh ra dấu Chúa, nhưng nàng chưa bao giờ thực sự tin. Phải chăng lần này nàng đang chứng kiến một chuyện tương tự?

Nàng nắm chặt bàn tay mềm rũ của David. Mặc xác các điện não đồ, nàng ngờ rằng anh sẽ mở mắt. Thế nhưng mắt anh vẫn nhắm. Nàng thầm cảm ơn thượng đế vì bác sĩ cấp cứu đã chỉ định chụp CT thay vì MRI. Làm thế nào nàng có thể khuyên ông ấy đừng áp dụng phương pháp xét nghiệm hình ảnh mà ông tin là vô hại với bệnh nhân? Làm thế nào nàng có thể bảo vệ cho David khỏi mọi thứ ở đây? Nàng không biết kẻ thù của mình như thế nào. Người duy nhất nàng nghĩ có thể trả lời về tình trạng hôn mê lạ lùng của David là Ravi Nara. Nhưng theo David, Nara chính là một trong số kẻ đang tìm cách giết họ.

"Tỉnh dậy đi, David," nàng dịu dàng nói bên tai anh. "Lạy Chúa, hãy tỉnh dậy đi."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


White Sands

Ravi Nara đậu chiếc ATV của y bên ngoài nhà chứa máy bay dùng làm bệnh viện và bước tới cửa. Trong túi y là một ống tiêm chứa kali clorua đủ để kết liễu trái tim yếu đuối của Godin không kém gì một viên đạn.

Y ngập ngừng trước cửa tòa nhà, không sao mở ra được. Y đã mất cả giờ đồng hồ tự lên dây cót tinh thần cho cuộc viếng thăm này, và nếu không có sự đe dọa của Skow, thì y sẽ không đi xa đến thế. Bọn họ đang theo dõi mình từ xa ở một nơi nào đó, y nghĩ. Tiến lên.

Y bước vào tòa nhà, khoác lên mình chiếc áo choàng thí nghiệm mới tinh, bước đến máy khử trùng, rồi giẫm chân lên công tắc trên sàn để mở cửa. Ánh sáng cực tím cường độ cao chiếu lên y từ mọi phía. Y đứng trong ánh sáng màu tía rực rỡ, chằm chằm nhìn qua cửa Bong bóng. Các y tá của Godin ngồi như lũ chó canh cửa ở hai bên giường. Hoặc lão hoặc ta, y tự nhủ. Nhớ điều Skow nói...

Tay NSA không hét lên vui mừng khi biết rằng máy tính có thể đạt tới trạng thái Trinity trong vòng mười hai giờ. Gã chỉ hỏi Godin còn sống được bao lâu nữa. Khi Ravi đáp là còn hơn mười hai tiếng, Skow bảo y rằng không thể để điều ấy xảy ra.

"Tại sao không?" Ravi hỏi mà sợ rằng chính y đã biết câu trả lời.

"Bởi vì như thế là quá trễ," Skow cáu kỉnh. "Tổng thống đã gọi cho tôi từ Trung Quốc, ông ấy rất phiền lòng về tình hình Tennant. Rất nghi ngờ nữa. Tôi phải nói với ông ấy điều gì đó nghe có lý mới được."

"Ý anh là nói sai sự thật."

"Chính xác. Tôi nói với ông ấy rằng Peter ốm suốt từ bấy đến giờ, và tôi e rằng ông ta phải chịu trách nhiệm về cái chết của Fielding. Tôi bảo Godin đã biến mất, và rằng có thể có một cơ sở nghiên cứu bí mật ở đâu đó. Lúc này FBI đang lục tung tổ hợp máy tính siêu hạng ở Mountain View."

Ravi nhắm mắt và cầu mong đây chỉ là ác mộng. Trong phòng hội nghị ở Bắc Carolina, quyết định kết liễu đời Fielding dường như là một hành động chính thức của chính phủ. Trinity tồn tại để củng cố vị thế chiến lược của Mỹ trên thế giới. Fielding đã phá hoại sự tiến triển của nó. Nhưng khi người ta bóc trần lớp vỏ giả dối, thì vụ "thanh toán" Fielding sẽ trơ ra là một vụ giết người.

"Ravi?"

"Tôi đây." Y biết Skow sắp yêu cầu y điều gì. Và y ghê sợ nó.

"Anh biết phải làm gì mà."

Ravi cố chống đỡ lần cuối. "Anh nói nếu chúng ta khởi động được Trinity thì sẽ không còn ai quan tâm đến chuyện có ai đã chết để hiện thực hóa nó cơ mà."

"Đó là trước khi có vụ rắc rối với Tennant. Chúng ta đã phải nổ súng ở Washington, giời ạ. Tôi đã vẽ nên Tennant như một tên tâm thần nguy hiểm, nhưng không sao. Ta đã có chứng cớ y học trợ giúp."

"Những vấn đề đó là của anh chứ đâu phải của tôi."

Skow bình tĩnh nói, lời lẽ của gã làm Nara ớn lạnh. "Anh không phải là người duy nhất biết mình có dự phần vào cái chết của Fielding. Tôi có băng ghi âm giọng anh. Những chứng cớ đổ tội. Tất cả chúng ta đều cùng chung một con thuyền, Ravi ạ. Anh, tôi, Geli Bauer, và cả tướng Bauer nữa. Nếu tất cả chúng ta đều kể cùng một câu chuyện thì không ai động đến ta được. Nhưng Peter phải chết."

Ravi đau khổ nhắm mắt lại.

"Tính mạng của chúng ta nằm cả trong tay anh, Ravi ạ. Chỉ vài giây can đảm là anh lại trong sạch hoàn toàn."

Trong sạch ư? y nghĩ. Mình không bao giờ trở lại trong sạch được nữa.

Việc giết Godin có trái đạo đức không? Lão cũng chỉ cách cái chết tự nhiên vài giờ nữa, nếu không có Ravi, lão đã chết trước đây mấy ngày rồi. Godin cũng ra lệnh giết Fielding mà chẳng thấy ăn năn gì. Hơn nữa, có một thực tế gần như tuyệt vời là giết chết Godin về mặt sinh học không thực sự chấm dứt cuộc sống của lão. Chừng nào các mẫu thần kinh của lão còn tồn tại, thì trí não và nhân cách của lão có thể phục sinh trong máy tính Trinity.

Vấn đề bây giờ không phải là đạo đức, mà là cơ hội. Khi một con người đã đến bờ thập tử nhất sinh như Godin, có đến dăm bảy cách để đẩy lão xuống vực. Nhưng các y tá của Godin không rời lão nửa bước. Ravi đã thử tìm cách điều họ đi hai lần trong ngày; lần nào họ cũng rút điện thoại di động trong túi ra gọi các y tá đang ngủ dậy trợ giúp.

Sau khi xem xét nhiều phương án, Ravi đã chuẩn bị chiếc xi lanh chứa kali clorua này. Để làm chệch hướng, y sẽ nhấn nút báo động trên màn hình rồi tiêm kali clorua vào tĩnh mạch. Theo sau là thông báo nguy kịch, và Godin không thể sống sót.

Đèn cực tím kêu vo vo rồi tắt. Ravi trông thấy bóng áo trắng mờ mờ của các y tá qua cửa kính bằng thủy tinh plexi của Bong bóng.

Con mẹ Geli Bauer ở chỗ quái quỷ nào không biết, y nghĩ. Công việc này hoàn toàn thích hợp với ả.

Ravi mở cửa sập bước vào rồi đứng sững, cổ họng y nghẹt lại. Đứng cạnh các y tá của Godin là Geli Bauer. Ả mặc đồ đen từ đầu đến chân, trông ả vẫn đầy nguy hiểm như lần cuối y gặp ả ở Bắc Carolina.

"Chào Ravi," ả nói. "Anh có vẻ ngạc nhiên khi thấy tôi."

Ravi không thốt nên lời. Geli mặc một chiếc gi lê chống đạn bên ngoài bộ áo liền quần màu đen, thắt lưng nặng trĩu súng lục, súng điện và dao găm.

Godin bấm công tắc nâng nửa trên của chiếc giường lên, mắt lão nhìn Ravi chằm chặp. Chỉ đến lúc này Ravi mới nhận ra lão đã thôi không thở oxy nữa.

"Cậu có gì muốn nói hả Ravi?" ông già hỏi.

"Tôi ngạc nhiên thấy Geli đã bình phục," y lắp bắp. "Tôi nghe nói cô bị thương ở cổ."

Geli mỉm cười, kéo cổ lọ màu đen xuống để lộ ra một dải băng trắng. "Chỉ là một vết sẹo mới bổ sung vào bộ sưu tập của tôi thôi. Nhóm phẫu thuật cho tôi rất giỏi."

Tim Ravi đập mạnh vào xương ức. Geli làm cái quỷ gì ở White Sands này? Tại sao ả lại bảo vệ Godin. Theo Skow cho biết, ả đã chấp nhận việc giết Godin là cần thiết và cùng bàn bạc kế hoạch với Skow cơ mà.

Ông già có vẻ thích thú trước vẻ bối rối của Ravi. "Này, tôi đây, từ cõi chết trở về đây." Lão nói the thé. "Họ bảo lần này là bệnh tim."

"Nhịp nhanh thất," Ravi khẳng định.

"Tôi nghe nói chính các y tá đã cứu sống tôi."

Giờ Ravi chỉ nghĩ đến chiếc xi lanh trong túi. Y cảm giác chắc chắn lúc này Geli sẽ bước tới khám xét y, lấy chiếc xi lanh ra mà bơm vào tĩnh mạch y.

"Họ đã làm mọi việc một cách hoàn hảo," Ravi nói.

Godin gật đầu. "Cậu cũng đã làm thế chứ, Ravi? Nếu cậu ở một mình với tôi?"

Bụng Ravi quặn lên. "Tôi không hiểu, Peter. Tất nhiên tôi cũng sẽ làm thế."

Godin phớt lờ câu trả lời. "Về phần Geli... tôi muốn cô ấy ở bên cạnh. Tôi thấy an toàn khi có cô ấy ở bên."

Đôi mắt xanh sắc lạnh chòng chọc nhìn Ravi với vẻ tàn nhẫn. "Anh làm gì ở đây, bác sĩ Nara?"

"Tôi đang hy vọng có thể giúp ông thoát khỏi ống thở. Nhưng tôi thấy các y tá đã làm việc đó rồi."

Godin liếc nhìn Geli. Hai người hình như đang có một trò chơi ngầm.

Ravi cố tìm lý lẽ đỡ cho câu nói dối của mình. "Levin nói với tôi máy tính có thể sắp đạt tới trạng thái Trinity. Tôi biết ông muốn mình càng tỉnh táo càng tốt khi điều đó xảy ra."

"Và tất cả là nhờ Andrew Fielding," Godin nói. "Sự mỉa mai thật ngoạn mục."

Ravi lo lắng liếc nhìn Geli. "Đó là một phép màu, Peter ạ. Ông sẽ sống để xem mơ ước của mình thành hiện thực."

Godin khép mí mắt chỉ còn ti hí. "Thật ư? Gần đây anh có nghe tin Skow không?"

Huyết áp Ravi tụt mạnh. "Sáng nay tôi có gọi cho anh ấy. Anh ấy vui mừng lắm. Anh ấy sắp bay đến đây."

Godin khịt mũi. "Anh ta muốn có mặt vào thời điểm sáng tạo ra đời?"

"Tôi đoán thế. Ý tôi là, tất nhiên anh ấy muốn thế."

Sự yên lặng tiếp theo gần như không thể chịu nổi. Ravi không sao dám nhìn vào mắt Geli. Y đang tìm cớ chuồn thì Godin hỏi, "Tôi còn được bao lâu nữa? Trong trường hợp xấu nhất?"

Ravi quá khiếp sợ nên không thể nói bất cứ điều gì ngoài sự thật. "Ông có thể bị nguy kịch trong vòng nửa giờ nữa. Nếu ông bị nghẹn thức ăn, sẽ gây ra một đợt tràn dịch màng não nguy hiểm."

Godin nghiêm trang gạt đầu. "Lâu nhất tôi có thể sống được bao lâu?"

"Có thể... hai mươi bốn giờ."

Ravi dồn hết can đảm bước đến giường. "Tôi muốn làm một khám nghiệm nhanh, nếu ông không phản đối."

Geli chặn đường y. Ả không lộ vẻ đe dọa công khai, nhưng chính cử chỉ của ả tỏ ra nguy hiểm. Ravi khó lòng tin y đã có lần mơ làm tình với ả. Mơ tưởng y có thể thỏa mãn một người đàn bà mạnh mẽ và quyền uy dường này thì thật lố bịch.

"Khám hắn đi," Godin ra lệnh.

Lúc này Ravi biết y thất trận rồi. Y định chạy trốn, nhưng lúc này y như phải đối mặt với một con chó tấn công. Nếu y chạy, Geli sẽ vồ lấy y mà xé nát cổ họng.

Ả quỳ trước y mà khám người. Mấy móng tay ngọn hoắt của ả cào vào háng y đau điếng, nhưng khi bàn tay ả chuyển sang đùi phải, mắt ả bỗng lóe lên như mắt một đứa trẻ chơi ác. Thò tay vào túi quần, ả lôi ra chiếc xi lanh đầy, giơ lên cho Godin nhìn.

"Cái gì trong đó?" Godin hỏi.

"Epinephrine," Ravi đáp. "Tôi muốn sẵn sàng trong trường hợp bị nguy kịch lần nữa."

Geli lắc đầu. "Tôi vừa xem lại cuốn băng theo dõi anh trong phòng thuốc chiều nay. Thấy anh đang bơm đầy xi lanh này từ một chai có nhãn KCl. Kali clorua."

Tay Ravi bắt đầu run.

Godin bình thản nói. "Tiến sĩ Thomas Case từ John Hopkins đang trên đường bay đến đây trong khi chúng ta nói chuyện. Anh hãy tóm tắt tình hình khi ông ta đến. Bác sĩ Case sẽ tiến hành những trị liệu cần thiết tại chỗ từ sau thời điểm này."

Mặt Ravi tê dại đi.

Godin nhìn như muốn bóc trần y, cho y hết đường gian dối. "Anh không chờ được một ngày nữa để căn bệnh ung thư đưa tôi đi sao?"

Y biết nói gì đây? Đổ tội cho Skow liệu có đỡ cho y chút nào không?

"Đừng trả lời," Godin nói. "Dù đã có những vinh quang trong quá khứ, anh còn muốn tiến xa hơn. Anh nhìn nhận thành tựu của bản thân mình không phải với niềm tự hào, mà với nỗi sợ rằng anh không thể nào lặp lại chúng. Anh là một kẻ ti tiện Ravi ạ. Fielding đáng giá gấp mười lần anh."

"Còn ông thì sao," Ravi nói mà ngạc nhiên về chính mình. "Có phải vì thế mà ông giết Fielding?"

Đôi mắt xanh nhắm lại, nhưng Godin trả lời rành rọt. "Fielding là một nhà vật lý vĩ đại, nhưng không ai có thể níu giữ tương lai. Ông ta sẽ có cơ may khác trong đời. Bây giờ ông ta đang tồn tại một phần trong nhà Cách ly, và đến một ngày mẫu thần kinh của ông ta sẽ đạt đến trạng thái Trinity. Ngày đó ông ta sẽ hiểu những việc tôi đã làm. Nào... bây giờ thì đến lượt anh ra đi."

Nara chưa bao giờ thấy Geli cười thỏa mãn hơn lúc này. Cao hơn y khoảng tám phân, ả quàng tay quanh người y như người tình. Ả nhìn xuống mắt y với vẻ âu yếm ớn lạnh.

"Chỉ có một câu hỏi chúng tôi muốn anh trả lời," ả nói. "Anh ấp ủ âm mưu này trong cái đầu nóng của anh, hay anh được ai giúp đỡ?"

Mày đã biết rồi còn gì, Ravi nghĩ. Y vùng vẫy cố thoát ra khỏi cánh tay Geli, nhưng ả chỉ càng siết chặt hơn. Rồi ả lướt móng tay dọc theo vai lên cổ y. "Thôi mà, Ravi... anh đã bao giờ tưởng tượng có lúc nào đó ở một mình với tôi chưa?"

Ravi sợ mình ********* ra quần mất.

Jerusalem

Rachel đã trải qua một đêm với đôi chút hy vọng. Nhưng khi mặt trời buổi sớm nhô lên trên biển Chết và chiếu sáng thung lũng Kindron, nàng từ từ chìm vào tuyệt vọng.

David đang chết.

Bác sĩ tâm thần tối qua xuất hiện để đánh giá tình hình là một người đàn ông thấp lùn, hài hước tên là Weinstein. Bác sĩ Weinstein có mớ tóc sẫm màu, đôi mắt đen linh hoạt không bỏ sót chuyện gì. Anh ta đã được đào tạo tại bệnh viện đa khoa Massachusetts ở Boston, nói tiếng Anh lưu loát.

Ngay khi đọc xong điện não đồ, anh ta ra lệnh dùng MRI chụp não David. Lúc đó Rachel quyết định phải nói ra một phần sự thật. Nàng hỏi Weinstein đã bao giờ nghe đến tên Ravi Nara chưa. Chàng bác sĩ tâm thần biết công trình của Nara và rất ấn tượng khi hay bệnh nhân mới của mình đã cộng tác nghiên cứu với người đoạt giải Nobel ấy. Rachel giải thích rằng nghiên cứu của Nara liên quan đến một máy MRI cực kỳ tối tân đã gây ra tác dụng phụ về tâm thần ở một số người. Vì lý do đó nàng khẩn khoản yêu cầu Weinstein hoãn các đợt quét bằng MRI cho đến khi không còn lựa chọn nào khác.

"Tôi hiểu điều chị đang nói," Weinstein nói. "Và tôi rất tò mò. Nhưng theo tôi người đàn ông này chẳng sống được bao lâu nữa. Tôi chắc chị biết hình ảnh MRI khuếch tán theo trọng lượng cho thấy rõ thân não hơn chụp CT nhiều. Ở khu vực này có rất nhiều xương nặng mà chụp CT khó thấy được."

"Tôi biết," Rachel nói. "Nhưng anh có thật sự nghĩ rằng cơn hôn mê này là do khối u trong thân não gây ra?"

Nhà tâm thần học nhún vai. "Nói thẳng ra, đó là điều duy nhất chúng ta chưa biết rõ. Chị nghĩ những đợt quét của bác sĩ Nara đã sinh ra chất nào đó?"

"Vâng."

Weinstein khoanh tay thở dài. "Chị có biết tôi đang nghĩ gì không?"

"Gì?"

"Bạn chị sẽ chết rất nhanh nếu chúng ta không tìm ra được vấn đề của anh ấy."

Sáu mươi phút sau, bác sĩ Weinstein ngồi xem các bản quét MRI khuếch tán theo trọng lượng chụp thân não của David. Chúng không phát hiện một khối u nào. Khi anh kể lại những khám phá của mình cho Rachel, thì sóng theta và beta biến mất khỏi màn hình điện não. Rachel vồ lấy bảng đồ thị lúc này chỉ còn một sóng alpha đơn điệu thể hiện cơn hôn mê alpha.

Nàng bắt đầu khóc.

Bác sĩ Weinstein vòng tay quanh người nàng. "MRI không thể nào gây ra điều này." Anh nói như thể đang cố tự thuyết phục chính mình hơn là Rachel. "Có lẽ chị nên gọi cho Nara. Chúng ta đang ở trên một vùng đất chưa được khám phá."

Rachel nhắm mắt. Làm sao nàng giải thích được gọi cho Nara thì họ sẽ có nguy cơ bị sát hại?

"Tôi sẽ thử," nàng nói. "Chắc phải mất chút thời gian mới liên lạc được với anh ấy."

Weinstein đưa nàng sang phòng bên và hướng dẫn nàng cách gọi điện thoại đường dài từ bệnh viện. Xong anh ta cho nàng mã số nhắn tin của mình rồi về nhà.

Rachel chằm chằm nhìn điện thoại, cố tự thuyết phục mình gọi cho Nhà Trắng. Đó là cách duy nhất nàng nghĩ có thể tiếp cận Ravi Nara. Nhưng có gì đó giữ nàng lại. Đó là một niềm tin đang lớn dần lên, rằng David dù bệnh tật thế nào, cũng không hoàn toàn hoang tưởng. Anh đã bảo nàng rằng Ravi Nara là mối nguy hiểm, và nàng tin anh một phần. David có thể không bao giờ biết về biểu hiện tín ngưỡng trong anh, nhưng phải chăng đó không phải là bản chất của tín ngưỡng. Tin mà không cần trả lời, không cần tưởng thưởng, không cần chứng cớ? Nàng đứng dậy, lau mắt và không động đến điện thoại.

Đó là trước đây mười giờ.

Từ lúc ấy đến giờ, nàng dành hết thời gian ngồi dán mắt vào màn hình điện não, giống như người hành hương nhìn một tượng đá cẩm thạch với hy vọng nó sẽ nhỏ lệ. Thế nhưng sóng alpha vẫn duy trì không đổi. Khi còn là một bác sĩ nội trú trẻ tuổi, nàng đã trải qua nhiều đêm ngồi nhìn các bệnh nhân từ từ trượt vào cõi chết không thể nào cưỡng được. Là bác sĩ tâm thần, nàng đã thấy những bệnh nhân tự tử chết trong gang tấc do những chất độc tự kiếm tác hại khôn lường. Tuy nhiên, chỉ có một trải nghiệm duy nhất từng đưa nàng đến cõi cô đơn tuyệt vọng như thế này.

Cái chết của con trai nàng.

Hồi ấy nàng đã dở sống dở chết, và bây giờ, sau khi tìm được người đàn ông một ngày nào đó có thể cho nàng đứa con khác, thì nàng lại thấy mình đang ngồi bên giường bệnh của anh, bất lực chờ đợi điều không tránh khỏi.

Vào lúc ba giờ sáng, một đợt sóng theta và beta mới xuất hiện trên màn hình điện não. Chúng kéo dài mười bảy phút, rồi biến mất. Cứ sau nửa giờ một, nàng lại vỗ tay bên tai David, nhưng sóng alpha vẫn giữ nguyên không đổi.

Theo máy thì David đã chết não.

Một giờ sau bình minh, nàng cúi xuống hôn lên trán anh, rồi sang phòng bên nhấc điện thoại. Phải mất một hồi cãi lộn với nhân viên trực, nhưng rồi vài phút sau nàng cũng được nối với tổng đài của Nhà Trắng ở Washington D.C.

"Tôi gọi để trình báo về Dự án Trinity," nàng nói.

"Yêu cầu nhắc lại," điện thoại viên nói.

"Dự án Trinity."

"Xin giữ máy."

Rachel nhắm mắt. Tay nàng run bần bật, và một tiếng nói bên trong bảo nàng bỏ máy. Nhưng trước khi nàng có thể thì một giọng đàn ông cụt lủn hỏi trong máy. "Xin hỏi ai gọi vậy?"

"Rachel Weiss."

Có tiếng thở gấp. "Nhắc lại?"

"Tôi là bác sĩ Rachel Weiss. Tôi đang đi cùng bác sĩ David Tennant, tôi rất cần giúp đỡ. Tôi nghĩ anh ấy sắp chết."

"Bình tĩnh nào, tôi sẽ..."

"Làm ơn," nàng gào lên, cuối cùng nàng đã mất tự chủ. "Tôi cần nói chuyện với người có chuyên môn!"

"Bác sĩ Weiss, dù cô đang làm gì, hãy giữ máy. Cô đã đi đúng hướng. Đừng nghi ngờ gì điều đó."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33


White Sands

Ravi Narra đang nằm trên nền xi măng với một chiếc kim chọc vào tĩnh mạch cổ thì có thông báo trên hệ thống loa White Sands gọi y đến bệnh viện. Geli Bauer sắp sửa giết y bằng chính cái ống tiêm chứa đầy kali clorua mà y định dùng để giết Godin.

"Bác sĩ Nara, yêu cầu liên lạc với Bong bóng ngay."

"Peter có thể lại lên cơn nguy kịch," y gào lên.

Geli lôi y đứng dậy và đẩy y ra cửa.

Trong khi hai người hối hả đi đến bệnh viện, y nghĩ về nửa giờ vừa qua. Sau khi tìm ra chiếc ống tiêm, Geli đưa y từ Bong bóng đến một gian nhà kho bỏ trống. Tới nơi, y hỏi Geli làm cái quái gì ở White Sands này. Gelie mỉm cười đứng dựa vào tường, ngắm nghía y như ngắm một con sâu mà ả sắp găm lên mảnh bìa.

"Tôi muốn biết Skow có nói thật không," ả nói. "Có phải Godin thật sự sắp chết. Và Trinity thật sự sắp thất bại không."

"Và?"

"Godin sắp chết, nhưng Trinity thì không thất bại. Nó sắp sửa cứu sống Godin."

"Không phải cứu sinh mạng," Ravi nói. "Mà là trí tuệ của ông ấy."

"Cái đó chính là điều thiết yếu nhất của sự sống." Geli bước tới gần Ravi và rút ra từ thắt lưng ả một con dao găm sáng lóe. "Tôi có thể cắt đứt tủy sống anh ở bất kỳ chỗ nào từ C-1 đến C-7. Ngay lập tức anh sẽ bị liệt cả tứ chi. Nếu cho anh chọn giữa cái đó và chết, anh có chọn chết không?"

Ravi lùi lại. "Tôi hiểu ý cô."

Geli mỉm cười mê hoặc, lưỡi ả thè ra giữa hai hàm răng. Y đã luôn đánh hơi thấy ả cho rằng có mối liên hệ giữa sex và bạo lực, và hành vi của ả lúc này chứng tỏ điều đó. Ả đang chơi trò mèo vờn chuột với y, và việc nhìn y sợ hãi đã kích thích ả.

"Tôi cũng muốn gặp ba tôi nữa," ả nói. "Đã từ lâu tôi không có được cái thích thú độc đáo ấy."

Ravi không nói gì.

"Còn có một lý do nữa khiến tôi đến đây. Nếu anh đoán đúng, có thể chúng ta sẽ dừng lại ở mức cho liệt hai chi thôi."

"Thôi ngay cái trò ngu xuẩn ấy đi!" Ravi cáu tiết. "Skow có thể đến đây bất cứ lúc nào."

"Anh không đoán được à?" Geli hỏi.

"Không."

"Tôi muốn được quét."

Y chưa tính đến điều này. "Tại sao? Cô có biết rằng việc quét như thế kèm theo những tác dụng phụ về tâm thần không?"

Geli cười. "Người ta còn liều chịu tác dụng phụ để phẫu thuật thẩm mỹ. Tôi sẽ liều một tí để thành bất tử."

Ravi ước cho ả cứ nói mãi.

"Kỹ thuật này sẽ được giữ kín trong thời gian dài," ả nói. "Chỉ có rất ít người được quét. Các tổng thống hay thiên tài như Godin. Cũng có thể là những nhà khoa học đần độn như anh. Nhưng không có các sếp an ninh. Chiều nay tôi sẽ dành ba tiếng cho việc quét ảnh não tôi. Một trải nghiệm thật đặc biệt."

Geli lấy ống tiêm chứa kali clorua từ trong một cái túi nhỏ bên thắt lưng ả ra.

"Tôi tự hỏi không biết tác dụng phụ của tôi sẽ là cái gì?" ả đăm chiêu. "Ngủ rũ hay là động kinh, tôi không cần. Hội chứng Tourette... không. Mất trí nhớ ngắn hạn tôi có thể chịu được. Đằng nào thì tôi chả có lúc bị như thế. Nhưng tác dụng phụ của anh thì rất được. Nó phù hợp với tính cách của tôi."

Ravi lắc đầu. Những cơn khát dục không kiềm chế nổi nghe có vẻ ngồ ngộ cho đến khi ta buộc phải xử trí nó. Giống như bất kỳ cơn xung động thực sự nào khác, nó sẽ đưa ta đến bên bờ vực tự sát.

"Tôi thường quan sát anh trong camera theo dõi của an ninh," Geli cười nói. "Chạy vào toilet năm lần một ngày, tay sục thằng nhỏ của anh... Đôi lần tôi nghe anh rên rỉ gọi tên tôi. Khốn khổ."

Ravi nghiến răng và thầm mong Skow lập kế loại trừ Geli Bauer khỏi mặt đất. Y đang cố nghĩ cách trì hoãn thêm ít nữa nhưng Geli đã đá vào ngực y.

Y ngã phịch xuống và trước khi y kịp thở lại được, ả đã quỳ lên ngực y với chiếc ống tiêm kề cổ y. Cứu y không phải là Skow, mà là hệ thống phóng thanh gọi y về bệnh viện.

Godin phát sinh những vấn đề nghiêm trọng ở lưỡi. Lão nuốt khó khăn và mặt đau nhói trở lại. Theo sách giáo khoa thì đây là triệu chứng của u thần kinh đệm, và chỉ có thể chịu đau mà thôi. Sau một giờ, lão lại điều khiển được lưỡi, nhưng phần mặt bên trái đã bắt đầu xệ xuống.

Khi Ravi giả vờ chữa trị cho ông già, chuông điện thoại di động của Godin reo vang, và Geli trả lời. Đó là Nhà Trắng gọi. Ả giữ điện thoại trước mặt Godin để lão nghe. Ravi không thể đoán được họ đang nói gì, nhưng y linh cảm có chuyện không hay.

"Không Ewan, tôi khỏe mà," Godin nói dối. "Sức khỏe của tôi vẫn tốt như mọi khi, chỉ có điều tôi không hiểu nổi Skow nghĩ gì mà lại nói với ông như vậy."

Godin nghe một hồi rồi nói, "Nếu Fielding chết là do nguyên nhân gì khác ngoài đột quỵ, thì tôi nghĩ người chúng ta phải hỏi tới là Skow. Anh ta không bao giờ hòa thuận với Fielding, và cũng đã săn lùng cả Tennant nữa... đừng lo ngại về bác sĩ Tennant. Tôi sẽ phái Ravi Nara đi ngay bằng máy bay của công ty. Cậu ta là người duy nhất trên thế giới hiểu rõ về chứng hôn mê đặc biệt này."

Phái Ravi Nara đi đâu? Ravi tự hỏi. Đi đâu cũng tốt hơn là ở trong gian nhà kho với Geli Bauer.

"Vâng, tôi sẽ cập nhật cho ông ngay khi có thể... Tạm biệt, Ewan."

Godin vẫy tay ra hiệu cất chiếc điện thoại đi, rồi nhìn Ravi. "Cậu sẽ bay sang Jerusalem."

Ravi chớp mắt ngạc nhiên. "Israel?"

"Tennant đang nằm hôn mê ở bệnh viện Hadassah. Bác sĩ Weiss đang ở đó với hắn. Cô ta vừa mới gọi cho Nhà Trắng để cầu cứu. Tôi cam đoan với Ewan McCaskell rằng anh là người duy nhất trên thế giới có thể giúp được Tennant."

"Nhưng sao ông lại muốn giúp Tennant?" Ravi hỏi. "Tại sao họ muốn giúp? Báo chí đã đưa tin Tennant muốn ám hại tổng thống cơ mà."

Godin đau đớn nuốt nước bọt. "Tổng thống biết rõ là không thể tin vào báo chí. Và cậu đã quên rằng chính Matthews đã ép tôi nhận Tennant ngay từ đầu. Ông ấy muốn có Tennant bên cạnh trong chuyện này."

"Tôi hiểu." Ravi chẳng hiểu gì hết trơn. "Ông muốn tôi làm gì ở Jerusalem?"

"Giết Tennant."

Ravi nhắm mắt.

"Hắn đã gần như chết não rồi," Godin nói. "Chỉ một cái đẩy nhẹ của cậu là hắn sẽ đi mà không có ai chứng kiến hết."

"Peter, tôi không thể vào một bệnh viện Israel mà..."

"Tại sao không? Cậu đã định giết tôi. Tại sao với Tennant lại không được?"

"Tôi không bao giờ có ý định làm hại ông."

Phần mặt bên phải của Godin bỗng nhiên nhăn nhúm lại.

"Ông lại đau à?"

"Câm mồm lại, Ravi. Đây là cơ hội để cậu tự chuộc tội. Một cơ hội sống."

Ravi liếc nhanh sang Geli. Bất kỳ việc gì cũng đều tốt hơn là lại ở một mình với ả. "Thôi được. Nhưng nếu tôi không làm được việc đó thì sao. Ý tôi muốn nói, nếu việc đó không thể thực hiện được?"

"Cậu không phải là người duy nhất cố gắng thực hiện."

"Tôi hiểu. Thôi được... bao giờ tôi đi?"

"Tôi muốn cậu bay trong vòng mười phút nữa. Chiếc Gulfstream đang tiếp nhiên liệu trên đường băng. Trước hết ra phòng hành chính đã. Có điện thoại đang chờ cậu ở đấy."

Điện thoại à? "Được, Peter."

Ravi định đi, nhưng một chút ý thức trách nhiệm còn sót lại níu y. "Còn ông thì sao?"

"Bác sĩ Case sẽ duy trì sự sống cho tôi đến khi đạt được trạng thái Trinity," Godin vẫy bảo hắn đi. "Đừng lo. Tennant có thể chết trước khi cậu đến."

Jerusalem

Rachel ngồi bên máy điện thoại và cầu nguyện cho hồi âm từ Washington mau đến. Nếu trên khoa thần kinh có giường trống, sẽ có người đến đưa David ra khỏi phòng cấp cứu. Nàng đang nghĩ đến việc xem lại điện não đồ của anh thì điện thoại reo.

"A lô?"

Một giọng Mỹ nghe rất rõ vang lên, "Có phải bác sĩ Rachel Weiss đó không?"

"Vâng."

"Tôi là McCaskell, Chánh văn phòng phủ tổng thống."

Rachel nhắm mắt và cố giữ cho giọng nói khỏi run. "Tôi nhận ra giọng ông rồi."

"Bác sĩ Weiss, tôi gọi để đảm bảo với cô rằng tổng thống đang hết sức quan tâm đến sức khỏe của bác sĩ Tennant. Chúng tôi không rõ lắm về lý do đằng sau những sự kiện xảy ra mấy ngày gần đây, nhưng chúng tôi sẽ tìm ra sự thật. Tổng thống hiện nay đã trở về Mỹ và tôi đảm bảo với cô rằng bác sĩ Tennant sẽ có cuộc điều trần công bằng."

Lúc này nàng cảm thấy có gì đó thoát ra, một cảm giác sợ hãi và căng thẳng hỗn loạn kể từ lúc David bắn gục tay sát thủ trong bếp nhà anh. Tiếng nức nở nghẹn ngào bật ra khỏi cổ họng nàng.

"Bác sĩ Weiss?" McCaskell hỏi. "Cô có làm sao không?"

"Vâng... cám ơn ông rất nhiều vì đã gọi điện. Hiện đang diễn ra một việc khủng khiếp, và bác sĩ Tennant đã cố cảnh báo tổng thống về việc đó."

"Bình tĩnh nào, bác sĩ. Tôi biết các bạn đang cần hỗ trợ y tế ở đó, nên tôi sẽ nối máy cho cô nói chuyện với bác sĩ Nara. Tôi nghe nói anh ta là người duy nhất có đủ kiến thức để xử lý tình trạng của bác sĩ Tennant."

Rachel căng thẳng khi nghe nói đến Nara. Có một tiếng cạch như thể đường dây bị đứt.

"Bác sĩ Nara?" McCaskell nói. "Anh có đó không?"

Một giọng nói rõ ràng với âm điệu cao hơn vang lên trên đường dây.

"Vâng. A lô. Bác sĩ Weiss? Tôi là Ravi Nara. Chị có nghe thấy tôi nói không?"

"Có."

"Tôi nghe nói bác sĩ Tennant đã rơi vào tình trạng hôn mê alpha. Đúng không?"

"Không hẳn. Thỉnh thoảng có những sóng theta và beta xuất hiện. Bây giờ lại chỉ có alpha. Tôi sợ anh ấy sắp ngừng thở."

"Không đâu. Bản thân tôi cũng bị hôn mê alpha sau khi bị máy Siêu MRI của Trinity quét. Chị biết chiếc máy đó không?"

"Biết."

"Tôi đã từng bị hôn mê alpha ba mươi hai giờ mà khi tỉnh dậy không bị tác dụng phụ nào. Tôi hy vọng David sẽ tỉnh dậy bất cứ lúc nào."

Gọing Nara vang lên đầy tin tưởng. Nhà bác học đoạt giải Nobel nổi tếng trong toàn giới y khoa, và nàng cảm thấy khó mà coi thường lời lẽ của y, nhất là khi lời lẽ ấy lại gợi lên hy vọng.

"Bác sĩ Nara, tôi không biết phải nói gì."

"Tôi đang chuẩn bị bay đến đó," Nara nói. "Tôi nghe nói tổng thống đã bố trí để David được nhận vào một cơ sở y tế tin cậy hơn. Tôi sẽ có mặt ở Jerusalem trong vòng mười bốn giờ nữa."

"Lạy Chúa tôi."

"Đến lúc đó chắc chắn David đã tỉnh lại, nhưng cũng đừng hoảng sợ nếu anh ấy chưa tỉnh. Chúng ta tiến hành bước này cùng một lúc. Được không?"

Rachel thấy nghẹt thở. "Vâng. Cám ơn anh. Tôi rất mong gặp anh."

"Tôi cũng thế, bác sĩ. Tạm biệt."

Nara buông máy, nhưng McCaskell vẫn còn trên đường dây.

"Bây giờ cô đã cảm thấy khá hơn chút nào chưa, bác sĩ Weiss?"

"Tôi biết cảm ơn ông thế nào đây."

"Rồi sẽ có dịp thôi. Tôi sẽ sớm gọi lại cho cô."

Rachel treo máy và hít mấy hơi thật sâu. Xong nàng lấy giấy ăn Kleenex lau mặt rồi đẩy cửa sang phòng điều trị.

David đang ngồi bên bàn điều trị, mắt mở to, hai hàng nước mắt lăn dài trên hai má.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34


Mắt tôi mở như mắt trẻ sơ sinh, choáng ngợp vì ánh sáng nguyên sơ của thế giới. Khi tôi chớp mắt vì ánh đèn trên đầu, cơ thể tôi réo gào vì cơn đói quặn thắt và hối thúc dồn dập phải giải phóng bọng đ-á-i. Tôi ngồi dậy nhìn quanh. Tôi đang ngồi trong một phòng điều trị y tế. Tôi đã từng làm việc trong hàng chục căn phòng như thế này.

Nước. Tôi nghĩ. Tôi cần nước.

Có tiếng phụ nữ ở đâu đó, "Tôi biết cảm ơn ông thế nào đây." Tiếng nghe thân quen. Tôi lắng nghe thêm, nhưng không thấy nói gì nữa.

Cửa phòng mở. Rachel bước vào và đứng chết lặng. Nàng vụt đưa tay lên bưng miệng, và bắt đầu tiến về phía tôi.

"David, anh có nghe em nói không?"

Tôi giơ tay lên, và nàng ngừng bặt.

"Anh đã bị hôn mê. Anh bất tỉnh mất..." nàng nhìn đồng hồ đeo tay, "...mười lăm giờ. Hầu hết thời gian là hôn mê alpha. Em đã tưởng anh bị chết não." Nàng chỉ vào mặt tôi. "Sao anh lại khóc?"

Tôi quệt tay lên mặt. Tay tôi đẫm nước. "Anh không biết."

"Anh có nhớ gì không? Lúc ngất trong nhà thờ ấy?"

Tôi nhớ mình đã quỳ xuống, thò ngón tay qua cái lỗ trên đĩa bạc. Một luồng năng lượng chạy qua cánh tay tôi lên thẳng não, nó mạnh ngoài sức chịu đựng. Tôi cảm thấy như trí óc mình là một chiếc găng tay nhỏ xíu mà một bàn tay khổng lồ nào đấy đang cố xỏ vào, toàn thân tôi rung lên. Rồi...

"Anh nhớ anh bị ngã."

"Anh có nhớ những gì sau đó không?"

Tôi thấy mình ngã xuống sàn nhà, nhưng trước khi chạm tới sàn, thì ranh giới cơ thể tôi bỗng tan biến, tôi cảm thấy mình đồng nhất với mọi thứ xung quanh: mặt đất và nền đá nhà thờ, lũ chim làm tổ trên vách đá, những bông hoa trong sân nhà thờ phát tán phấn hoa theo gió. Tôi không ngã, mà bồng bềnh trôi, tôi thấy một thực tại sâu hơn nằm bên dưới thế giới vật thể, một ma trận xao động mà tất cả các đường ranh đều mơ hồ, trong đó các hạt phấn hoa không phân biệt với làn gió, trong đó vật chất và năng lượng chuyển động trong một vũ điệu vĩnh hằng, sự sống và cái chết chẳng qua chỉ là sự thay đổi trạng thái của cả hai. Nhưng ngay khi tôi còn bay lơ lửng, trôi bềnh bồng trong thế giới như một con sứa có nhận thức, tôi cảm thấy bên dưới cái ma trận xao động của vật chất và năng lượng ấy có gì đó còn sâu hơn nữa, như một lớp nền lùng bùng, cũng phù du và vĩnh cửu như các định luật toán học, không nhìn thấy được nhưng cũng không thay đổi được, nó điều hành tất cả mà không phải dụng công gì.

Tiếng lùng bùng ấy thật sâu xa, giống như những tuốc bin quay ở giữa đập. Khi lắng nghe, tôi nhận ra một mô thức có tính chất số hơn là giai điệu, như một điệu nhạc chưa được khám phá mà các nốt và gam của nó nằm ngoài tầm hiểu biết của tôi. Tôi điều chỉnh đầu óc mình thích ứng với âm thanh, tìm kiếm các đoạn lặp, chìa khóa khóa giải mã khó nắm bắt. Thế mà cho dù đã lắng nghe bằng cả tâm hồn mình, tôi cũng không hiểu được ý nghĩa nằm trong âm thanh này. Chẳng khác nào nghe tiếng mưa bão mà cố định hình từng giọt mưa khi nó chạm đất. Lòng tôi mong mỏi hiểu được cái mệnh lệnh tàng ẩn kia, bản tổng phổ vĩ đại của mưa rơi.

Và tôi vụt hiểu. Hình mẫu mà tôi tìm kiếm chẳng phải là một hình mẫu nào hết. Nó chỉ là sự hỗn loạn. Một sự hỗn loạn như mớ bòng bong tràn lấp cái tưởng như là trật tự thế giới. Và chính trong khoảnh khắc ấy tôi bắt đầu nhìn rõ hơn bao giờ hết, nghe thấy cái mà ít người từng nghe - giọng nói của...

"David, anh có nghe thấy em nói không?"

Tôi chớp mắt và cố buộc mình tập trung vào các vật xung quanh. Các tủ thuốc. Một máy điện não đồ có bánh xe. Đôi mắt mệt mỏi của Rachel.

"Anh có nghe."

Nàng bước tới trước, vặn vẹo hai bàn tay. "Em đã gọi điện cho Washington. Em nói cho họ biết chỗ ở của chúng ta. Em không biết còn phải làm gì nữa."

"Anh biết."

"Anh có nghe cuộc điện đàm không?"

"Không."

"Vậy sao anh biết?"

Cũng giống như cách tôi biết hiện giờ chúng tôi đang gặp nguy hiểm. Tôi nhìn xuống và bắt đầu rút ống truyền dịch ra khỏi cổ tay.

"Đừng làm thế."

"Chúng ta phải đi."

Măt nàng mở to. "Cái gì?"

"Anh rút ống ra làm chỗ này sắp chảy máu rồi. Em có thể tìm cho anh một cái băng không? Quần áo của anh đâu rồi?"

Nàng lao đến chỗ trống giữa chúng và ngăn tôi rút ống truyền dịch ra. "Anh David, bây giờ anh không còn là anh nữa. Anh đã bất tỉnh suốt đêm. Em đã gọi cho Evan McCaskell. Tổng thống đã điều Ravi Nara đến đây để điều trị cho anh. Trước đây anh ta đã biết loại hôn mê này rồi. Bản thân anh ta cũng từng bị hôn mê suốt ba mươi giờ, và khi tỉnh dậy không thấy có tác dụng phụ nào. Họ muốn giúp chúng ta..."

"Ravi Nara chưa bao giờ bị hôn mê alpha. Tác dụng phụ của MRI đối với y là những xung động tình dục không kiểm soát được. Chỉ có thế thôi."

"Nhưng anh ta bảo em..."

"Y bảo em những điều mà y biết sẽ trấn an được em. Chúng ta phải đi thôi. Ngay bây giờ."

"Nhưng tổng thống muốn biết sự thật. McCaskell bảo em thế, và em tin ông ấy."

Không có cách nào để tôi thông báo những nhận thức bên trong mà không bị coi là điên. Tôi đứng lên, tấm chăn rơi khỏi người.

"Nếu ở lại đây, chúng ta chẳng còn sống để gặp tổng thống đâu. Anh có việc rất quan trọng cần làm. Em làm ơn đưa quần áo cho anh."

Khi Rachel nhìn chiếc túi đặt ở góc phòng, tôi giật phăng ống truyền dịch ra khỏi cổ tay. Một dòng máu sẫm chảy tràn xuống mu bàn tay. Tôi đè chặt lên tĩnh mạch và chạy đến góc phòng kiếm miếng băng 4x4 trong một bình thủy tinh. Rachel trông thấy tôi làm thế liền dán chặt miếng gạc lên tĩnh mạch.

"Anh giữ tay vào đây," nàng bảo. Rồi nàng đến lấy chiếc túi nhựa ở góc phòng đặt lên bàn khám bệnh. "Quần áo của anh đây."

Chỉ có một tủ com mốt đặt cạnh tường, ngoài ra không có vách ngăn hay tấm rèm che nào để tạo thành một nơi kín đáo.

"Anh cần sử dụng cái đó," tôi bảo nàng, tay chỉ chiếc tủ.

"Anh làm đi. Em thấy nó từ trước rồi."

Tôi bước tới tủ com mốt và đứng quay lưng lại phía nàng.

"Tại sao anh lại nghĩ họ đến để giết chúng ta?" nàng hỏi.

"Bởi vì chúng vẫn giữ nguyên ý định. Và bây giờ chúng đã biết nơi ta ở."

"Anh vẫn không tin một ai? Ngay cả tổng thống?"

"Tổng thống không hề hay biết chuyện đang thực sự xảy ra." Tôi bước lại bàn mặc sơ mi vào, rồi thắt túi bao tử quanh hông.

"Nhưng anh muốn đi đâu bây giờ?" Rachel hỏi.

"White Sands."

"Gì cơ?"

"Bãi thử White Sands." Tôi cẩn thận kéo quần lên, rồi ngồi xuống nền nhà xỏ giầy. "New Mexico."

"Tại sao anh muốn đến đó?"

"Đấy là nơi đặt nguyên mẫu Trinity thật."

"Làm sao anh biết?"

"Anh biết, vậy thôi."

Nàng lắc đầu. "David, anh làm em sợ."

"Em đừng nghĩ nữa."

"Khoan đã." Nàng giơ một tay lên. "Đó là thứ có trong bức thư của Andrew Fielding. Bột thạch cao trắng. Cát Trắng - White Sands. Chắc đó là điều ông cố nói với chúng ta. Địa điểm thứ hai của dự án Trinity?"

"Đúng, ông ấy có cho chúng ta biết, nhưng ông không muốn bất cứ kẻ nào ngăn chặn bức thư biết là ông biết." Tôi nhìn cánh cửa đóng kín. "Ta đang ở khu nào trong bệnh viện?"

"Khoa Cấp cứu."

"Tốt. Tầng một. Em có biết lối ra không?"

"Có, nhưng..."

Tôi đứng đó nắm tay nàng. "Mọi việc đã thay đổi, Rachel ạ. Anh biết rõ mình phải làm gì. Nhưng trước hết chúng ta phải đi khỏi đây ngay."

Tôi thấy niềm tin nàng dành cho tôi đang rạn vỡ dưới sức nặng của vai trò bác sĩ tâm thần và ý muốn tránh nguy hiểm của nàng.

"Em, giúp anh đi."

Nàng nhắm mắt thở dài. Rồi nàng ra cửa sổ thử mở ra. Nhưng cửa sổ bị gắn kín và cài then bên ngoài.

Tôi đi ra cửa chính, mở hé ra. Hai y tá ngồi ở bàn tiếp nhận bệnh nhân, nhưng họ hơi quay đi phía khác. Một người đang nói chuyện điện thoại.

"Đi qua hai y tá này bằng lối nào?" tôi thì thầm hỏi.

"Hành lang dẫn đến bãi đậu xe cứu thương bên ngoài. Có một bảo vệ."

Người bảo vệ đó có lẽ kiểm soát người đi vào hơn là đi ra, nhưng ở Israel này thì không biết được.

Người y tá không nói chuyện điện thoại đứng dậy đi về phía phòng điều trị. "Chuẩn bị," tôi nói. Khi người y tá kia xao nhãng, chúng tôi rảo bước qua phòng đến lành hang dẫn ra ngoài.

Rachel vẫy người bảo vệ ngồi ở bàn, rồi dẫn tôi đi qua anh ta.

Tay bảo vệ nói gì đó bằng tiếng Hebrew.

Rachel đi chậm lại nhưng không dừng bước. "Anh có nói được tiếng Anh không?"

"Chút ít," tay bảo vệ đáp.

"Sáng nay bác sĩ Weinstein bảo tôi đưa bệnh nhân này ra ngoài hít thở không khí trong lành. Anh có biết bác sĩ Weinstein không?"

Tay bảo vệ có vẻ bối rối. Rồi anh ta mỉm cười và vẫy tay như có ý nói, "Cứ đi đi, cứ đi đi."

Chúng tôi tự do bước ra ngoài nắng sớm.

Hai chiếc xe cấp cứu đậu dưới một mái che bê tông phẳng. Tôi lỉnh nhanh sang bên trái nơi có một con đường bao quanh bệnh viện. Không có lối đi bộ, nên chúng tôi đi trên lề đường. Khi chúng tôi đi vòng quanh khu nhà, tôi nhìn thấy vòm nhà thờ đá rực vàng trong Thành Cổ. Con đường bên cạnh chúng tôi dẫn đến một đường đồi dài. Bên phải chúng tôi là một nghĩa trang lớn trông nhang nhác cảnh thuộc địa.

"Chúng ta phải gọi taxi," Rachel nói. "Cuốc bộ thì chẳng đi đến đâu được."

"Nghe kìa."

Nổi lên trên tiếng rì rầm của thành phố dưới kia là một âm thanh khẩn cấp hơn nhiều. Tiếng còi.

Chúng tôi nấp sau một bụi cây thấp. Ba mươi giây sau, hai chiếc xe tải màu xanh thẫm lao nhanh lên đồi về phía chúng tôi. Trông không có vẻ là xe cấp cứu. Một chiếc rít lên đỗ trước cổng chính của bệnh viện, chiếc kia chạy vòng ra sau. Từ chiếc xe phía trước bước ra hai người mặc complet và một tổ cảnh sát bán quân sự mang tiểu liên.

"Ai đấy," Rachel thầm thì.

"Có lẽ là Shin Beth. Một nhánh của cảnh sát mật vụ. Ai đó từ Washington đã gọi điện yêu cầu phong tỏa bệnh viện và ngăn chúng ta rời đi."

"Ravi Nara bảo em rằng họ sẽ chuyển anh đến một bệnh viện an toàn hơn."

"Nếu thế chúng có cần đến một đội cảnh sát cơ động không?" Tôi kéo nàng đứng lên. "Chạy thôi!"

Mặc dầu trên đường xuống đồi rất hiếm nơi ẩn náu, chúng tôi vẫn tận dụng bất kỳ chỗ nào tìm được trong khi chạy. Rachel muốn chạy về hướng Thành Cổ, nhưng tôi dẫn nàng lao về phố Churchill để đến khách sạn Hyatt Regency, suốt dọc đường không ngừng liếc về bệnh viện phía sau lưng. Chiếc xe tải vẫn đậu trước cửa. Tôi chỉ có thể hình dung ra cảnh săn lùng điên cuồng bên trong.

Một dãy taxi đậu trên đường Hyatt. Tôi trèo vào chiếc đầu tiên trong dãy, Rachel vào theo tôi.

"Người Mỹ à?" lái xe hỏi.

"Người Mỹ. Tôi cần một tiệm Internet."

Người lái xe dường như suy nghĩ lung lắm. "Ông cần máy tính à?"

"Phải."

"Trong khách sạn Hyatt có máy tính đấy. Cứ trả tiền nửa giờ."

"Tôi cần một nơi công cộng. Tôi không thích khách sạn này."

"Ở Jerusalem không có nhiều tiệm net lắm đâu. Ở Strudel có máy tính, nhưng bây giờ có lẽ họ chưa mở cửa."

"Đưa chúng tôi đến đấy."

Tay lái xe đề máy và đưa chúng tôi đến Ha Universita. Tôi thấy xe cảnh sát đậu san sát phía bên trái. "Đây là đâu?"

"Trụ sở Cảnh sát Quốc gia. Tôi hy vọng ông không muốn vào đấy."

"Đến Strudel. Nhanh lên. Tôi có việc quan trọng."

"Vâng, thưa ông. Chậm nhất là mười phút nữa."

White Sands

Một người lính mặc đồng phục lái xe cho Ravi Nara ra đường băng. Đêm sa mạc dài vô tận đã có lúc làm cho Ravi khó chịu, nhưng đêm nay y thấy thoải mái. Khi chiếc xe Jeep đến gần đường băng, một chiếc Learjet chạy tới chạy lui quanh kho chứa máy bay, rồi đậu bên cạnh chiếc Gullstream 5 của Godin. Chiếc Lear màu đen và không có nhãn mác gì. Khi cửa xe mở, John Skow cúi người bước ra.

"Tôi cố liên lạc với anh mãi mà không được!" tay NSA kêu to. "Điện thoại của anh sao thế?"

Ravi liếc nhìn người lính hộ tống mình, nhưng anh ta có vẻ không quan tâm đến cuộc nói chuyện. "Tôi đang lên đường đi Jerusalem."

Skow nắm cánh tay Ravi lôi y ra xa người lính khoảng mười bước. "Anh nói cái quái quỷ gì thế?"

"Peter cử tôi đi Jerusalem."

"Ông ta còn sống à?"

"Còn."

Sợ hãi và giận dữ khiến khuôn mặt Skow méo xệch. "Anh đã thử chưa?"

"Rồi. Mẹ kiếp!"

"Tại sao Peter cử anh đi Jerusalem?"

"Để đảm bảo cho Tennant chết."

Skow ngật đầu ra sau như người ta cầu Chúa phù hộ. "Quên chuyện đó đi. Anh sẽ không đi đâu cả. Tennant đã chuồn khỏi bệnh viện Hadassah rồi."

"Nhưng... họ nói hắn đang bị hôn mê alpha."

"Chắc hẳn hắn đã qua khỏi rồi. Rõ ràng không phải Rachel Weiss chữa cho hắn."

Ravi không thể nào tin nổi. "Có lẽ có ai đó đã làm được."

"Trời ơi là trời," Skow thở. "Bọn Israel. Chúng sẵn sàng làm tất cả để sở hữu công nghệ Trinity."

Ravi không muốn nghĩ đến Trinity. "Anh có biết Geli Bauer đang ở đâu không, John?"

Skow tò mò nhìn y. "Tất nhiên. Bệnh viện Walter Reed chứ đâu."

Ravi lắc đầu, dạ dày nôn nao. "Thế mà tôi đã nghĩ anh phải khá hơn. "

"Anh đang nói cái gì vậy?"

"Geli đang ở đây, bảo vệ Peter."

Mặt Skow trắng bệch.

"Sao anh lại không biết?"

"Con chó cái ấy gọi di động cho tôi cả ngày, nói rằng các bác sĩ ở Walter Reed rất giỏi."

"Anh đã nói với tôi rằng cô ta ở về phe mình."

"Nó nói thế đấy. Tôi phải gọi điện cho cha nó bây giờ."

Người lính lái xe cho Ravi bước lại gần. "Bác sĩ Nara, đã đến giờ ông lên máy bay."

Skow nói với người lính bằng giọng ra lệnh. "Hạ sĩ, tôi phải đưa bác sĩ Nara quay trở lại để gặp ngài Godin. Tình hình ở Israel đã thay đổi."

Ravi không có ý định ở lại New Mehico. "Tôi sẽ bay sang Jerusalem, John. Tennant và Weiss có thể xuất hiện bất cứ lúc nào. Peter muốn làm ra vẻ ông ta đã xoay xở mọi cách trong phạm vi quyền lực của mình để cứu Tennant, và tôi cho là ông ta đúng."

"Tôi biết anh thích đi Jerusalem," Skow nắm chặt cánh tay Ravi, nói. "Nhưng vấn đề là, ở đây cần anh."

"Peter đã có bác sĩ mới rồi."

"Nhưng ông ấy cần anh."

Ravi nhìn người hộ tống. "Tôi sẵn sàng lên máy bay."

Người lính bước tới trước, nhưng cái trừng mắt đầy uy lực của Skow đã chặn anh ta lại. "Hạ sĩ, tôi đến đây bằng mệnh lệnh trực tiếp của tổng thống. Chỉ huy của anh, tướng Bauer hoàn toàn biết rõ sứ mệnh của tôi. Tôi cần hai phút với người này. Sau đó chúng tôi sẽ đến gặp Godin. Bước lùi lại. Cách tôi hai mươi mét."

Người hạ sĩ tuân lệnh.

Ravi định vùng ra, nhưng bàn tay Skow giữ chặt như gọng kìm. "Anh đã khai ra tôi, phải không. Đồ chó đẻ."

"Tôi không nói gì với họ cả. Nhưng điều đó cũng chẳng giúp gì được cho anh. Họ đã biết quá nhiều. Lẽ ra tôi đã chết rồi, nếu như Peter không lên cơn nguy kịch."

Skow nhìn quanh đường băng như sợ người lính kia có thể tấn công gã bất cứ lúc nào. "Nghe đây Ravi. Dù anh có chạy sang Jerusalem cũng không thoát đâu. Tổng thống đang tin vào kịch bản của chúng ta, nhưng nếu Godin còn sống mà thanh minh thanh nga, thì chúng ta chỉ có đường chết thôi. Vậy nên anh còn có việc phải làm đấy."

Ravi cảm thấy nỗi sợ cồn cào trong bụng y. "Anh điên rồi! Bọn họ sẽ không bao giờ để tôi đến gần Peter nữa. Và nếu tôi ở lại đây, Geli sẽ giết tôi."

Skow lắc y như một đứa trẻ. "Bình tĩnh đi, giời ạ. Anh hãy nấp trong văn phòng của tôi trong khi tôi nói rõ mọi chuyện."

"Nói rõ mọi chuyện? Với Godin?"

Skow mỉm cười. "Anh quên rằng chuyên môn của tôi là chiến tranh thông tin à?"

Gã dẫn Ravi đến chỗ xe Jeep và ra hiệu cho viên hạ sĩ vào ngồi sau tay lái.

"Nhưng họ nghi ngờ anh rồi," Ravi nói. "Anh sẽ nói gì với họ?"

Skow mỉm cười giảo hoạt. "Tôi là cáo già trong chuyện sinh tồn Ravi ạ. Đến Geli cũng còn phải học tôi đấy."
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35


Jerusalem

Tiệm Internet ở Strudel đã đóng cửa. Tôi thấy trong tiệm có một người đàn ông râu ria đang quét dọn. Tôi gõ lên kính, vẫy tay rồi chỉ vào tay nắm cửa. Người đàn ông lắc đầu.

"Em có mang túi bao tử không?" tôi hỏi Rachel.

"Có."

"Đưa anh 100 đô la."

Tôi áp tờ giấy bạc lên cửa kính. Phải mất một phút người đàn ông bên trong mới nhận ra, và khi đó, ông ta lại chỉ vẫy tay bảo tôi đi. Thấy chúng tôi không chịu đi, ông ta bước lại gần để nhìn tờ giấy bạc cho rõ hơn. Rồi ông ta kêu lên bằng tiếng Anh bảo chúng tôi đừng đi, và chạy vào trong lấy ra một chùm chìa khóa.

"Tôi cần máy tính," tôi nói ngay khi cửa mở.

"Vào đi, không vấn đề gì. Internet tốc độ cao."

Rachel trả tiền taxi, rồi đi vào cùng tôi.

Tiệm Strudel tối và bốc mùi như bất cứ tiệm nào trên thế giới, nhưng nó có máy tính. Tôi ngồi xuống và bắt đầu rà soát địa chỉ e-mail của các trường đại học và cơ sở máy tính hàng đầu ở Mỹ và Châu Âu. Cal Tech, Phòng Thí nghiệm Trí tuệ Nhân tạo ở MIT, CERN 1 ở Thụy Sĩ, Viện Max Planck ở Stuttgart, Viện Chaim Weizmann ở Israel, đội máy tính Mô phỏng Trái đất ở Nhật, và nhiều chỗ khác.

"Anh đang làm gì thế?" Rachel vừa leo lên chiếc ghế đẩu bên cạnh tôi vừa hỏi.

"Ra trước công luận."

"Em nghĩ trước đây anh không muốn làm thế."

"Nhưng bây giờ anh không còn cách nào khác. Chúng đã làm được rồi. Hoặc sắp làm được."

"Làm được gì?"

"Trinity sắp trở hành hiện thực."

"Sao anh biết?"

"Anh biết, vậy thôi."

"Và anh sắp nói cho cả thế giới biết?"

"Phải."

"Nhiều không?"

"Đủ để phát động một cơn bão truyền thông khiến tổng thống không thể làm ngơ."

Tôi mở Microsoft Work và bắt đầu gõ thông điệp của mình. Dòng đầu tiên là dễ nhất, đó là một câu trích dẫn của Niels Bohr vĩ đại nói về cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân. "Chúng ta đang ở trong một tình thế hoàn toàn mới, một tình thế không thể nào giải quyết bằng chiến tranh."

"David," Rachel dịu dàng nói. "Trong cơn hôn mê vừa rồi, điều gì đã xảy đến với anh thế?"

"Không phải như những điều anh thấy trước đây. Điều này khó giải thích lắm, nhưng anh sẽ cố ngay khi nào có chút thời gian. Bây giờ anh phải hoàn thành công việc này đã."

Nàng đứng dậy bước đến cửa để quan sát xem có cảnh sát không.

Tôi gò người xuống bàn phím và gõ không ngừng nghỉ, như thể câu chữ chảy thành dòng qua tôi nhờ một sức mạnh nào đó bên ngoài. Sau hai mươi phút tôi nhờ người đàn ông sau quầy gọi hộ một chiếc taxi với tài xế là người Palestine. Rồi tôi gõ câu kết: Tưởng nhớ Andrew Fielding.

"Anh đã gửi xong thư chưa?" Rachel hỏi.

"Rồi. Sau khoảng bốn giờ nữa các mạng truyền thông sẽ hỗn loạn."

"Có thật anh mong muốn thế không?"

"Thật chứ. Cái ác không thể nảy nở dưới ánh sáng."

Nàng lùi lại và nhìn tôi lạ lùng. "Cái ác à?"

"Phải."

Một chiếc taxi đỗ bên lề đường, người tài xế rậm râu nhìn về phía cửa.

"Đi nào."

Chúng tôi ra taxi. "Anh có phải người Palestine không?" tôi hỏi tài xế.

"Tại sao ông lại quan tâm điều đó?" anh ta hỏi lại.

"Anh có biết trụ sở Mossad ở đâu không?"

Người tài xế nheo mắt như quan sát một cảnh lạ mắt. "Biết chứ. Người Palestine nào chả biết chỗ ấy."

"Chính vì thế tôi mới cần anh. Tôi muốn đến đó."

Rachel nhìn tôi với vẻ kinh hoàng. Tôi gần như đọc được ý nghĩ của nàng. Liệu tôi còn có thể muốn gì ở Mossad, cục tình báo tàn bạo ở Israel này?

"Ông có tiền không?" tài xế hỏi.

"Một trăm đô la Mỹ được chưa?"

"Trăm nghe không bằng một thấy."

Rachel rút tiền ra.

Tài xế gật đầu. "Vào đi."

Tôi thậm chí chưa đóng xong cửa sau, anh ta đã rú ga và phóng ầm ầm khỏi lề đường.

White Sands

Geli biết ả đang nhìn ông già đi dần vào cõi chết. Ả cần thuốc lá kinh khủng. Mặc dù mùi thuốc sát trùng nồng nặc trong không khí, gian phòng vẫn tỏa mùi xác chết. Ả không xác định được cụ thể, nhưng ả biết cái mùi này quá rõ. Ả đã ngửi thấy nó trong các bệnh viện dã chiến và những nơi tối tăm khác. Có lẽ quá trình tiến hóa đã khiến khứu giác con người ta nhạy bén tới mức đánh hơi được cái chết đang đến gần. Trong một thế giới bệnh tật lây lan nhanh chóng, chắc chắn đó là lợi thế sinh tồn. Geli từng ngửi thấy chính mặt ả cháy khét, vì vậy ả không có ảo tưởng gì về cái chết. Nhưng ả không ngờ phải chứng kiến cuộc vật lộn cuối cùng của Godin như thế này.

Đã có lúc lão không thể nuốt được, mặc dầu nói còn khá rõ. Lão buồn bã nói với ả về bà vợ quá cố của mình, như kiểu cha nói với con gái. Geli lúng túng không biết xử lý kiểu thân mật này thế nào. Từ sau sinh nhật lần thứ ba của ả, cha ả đã đối xử với ả như một người lính. Trong suy nghĩ của Horst Bauer thì nói chuyện tâm tình tức là ngồi xuống bên nhau và bàn về thời gian biểu hằng ngày. Ả chịu đựng việc đó cho đến tuổi dậy thì. Rồi một cuộc chiến tranh công khai bùng nổ trong nhà Bauer. Khi Geli bắt đầu bộc lộ xu hướng phiêu lưu tình dục giống cha thì ông tướng mất hết tự chủ. Geli biết rằng ở mức độ nguyên sơ nào đó, ông ta ham muốn ả, và điều đó khiến ả có quyền lực với ông ta. Ả diễu qua trước mắt ông trong trang phục hở hang, trơ tráo ve vãn sĩ quan của ông ta - những người đàn ông gấp đôi tuổi ả - và quyến rũ các bác sĩ tâm thần của ả. Những trận đòn sau đó chỉ khiến ả càng quyết tâm chiến đấu.

Khi ả mười sáu tuổi, ả phát hiện cha ả có nhân tình - vài người, tất nhiên - và cuối cùng đã khám phá ra bí mật của mẹ ả. Mười tám năm trời sống trong cảnh bị phụ bạc và đánh đập tàn nhẫn đã biến một người đàn bà đằm thắm thành cái bóng thảm hại của chính mình, một tâm hồn lạc lối chỉ sống trong chờ đợi cho tới lần uống rượu sau. Khi Geli đối đầu với cha mình về chuyện ấy, ông ta nhìn thẳng vào mắt ả và bảo ả đã phát hiện ra điểm yếu của kẻ mạnh. Những người đàn ông tài giỏi cần nhiều hơn một người đàn bà để kìm bớt đam mê của mình, và ả muốn sống muốn tốt thì hãy chấp nhận sự thật đó. Như mọi lần khác, lý lẽ ấy cuối cùng kết thúc bằng một trận đòn.

Tuy nhiên khi Geli vào đại học, ả thấy rằng những lời ấy của cha ả cũng đúng với cả phụ nữ mạnh mẽ nữa. Không người đàn ông nào có thể thỏa mãn tính dâm dục của ả lâu dài. Ngày ả tốt nghiệp với hai chuyên ngành - tiếng Ả Rập và Kinh tế - ả đến một địa điểm tuyển quân và đăng lính với cấp bậc binh nhì.

Không gì có thể làm cha ả giận dữ hơn thế. Chỉ với một hành động ấy, Geli đã vứt bỏ toàn bộ quyền lực và ảnh hưởng của ông ta với ả, khiến ông ta bẽ mặt trước các đồng đội ở West Point, và nối nghiệp ông. Ông tướng bắt đầu uống rượu như điên và rơi vào thời kỳ bất ổn, tình trạng đó nhanh chóng bị đẩy lên đỉnh điểm khi vợ ông ta tự sát. Geli không bao giờ biết được cuối cùng cái gì đã quật ngã tinh thần mẹ ả. Thêm một nhân tình nữa? Hay quá nhiều quả đấm trời giáng? Nhưng ả không bao giờ tha thứ cho cha mình về chuyện đó.

Trái lại, Peter Godin đã sống chung thủy với vợ suốt bốn bảy năm mặc dầu hai người không có con cái. Khi ông già đang nói lan man về những chuyến du ngoạn của lão tới Nhật, Geli nghĩ đến Skow và âm mưu đổ hết tội cho Godin về cái chết của Fielding.

"Thưa ngài?" Geli cắt đứt dòng mơ mộng của ông già.

Peter ngước nhìn lên, đôi mắt màu xanh như hối lỗi. "Tôi nói huyên thuyên quá phải không? Nói làm tôi quên đi cái đau."

"Không phải thế. Tôi muốn thưa với ngài một chuyện."

"Vậy sao?"

"Xin ngài đừng tin John Skow. Chính gã là người đã đưa Nara đến đây để giết ngài. Skow tin rằng Trinity sắp thất bại, và gã định đổ hết trách nhiệm cho ngài."

Godin cười nhạt. "Tôi biết chuyện này. Và tôi biết cha cô có tham gia vào vụ này."

"Vậy sao ngài không hành động gì cả?"

"Khi máy tính đạt đến trạng thái Trinity thì tất cả bọn chúng đều bất lực. Cho đến lúc đó, tôi đã có cô bảo vệ tôi."

"Nhưng nếu ngài không tin họ, sao ngài lại dùng họ?"

"Bởi vì chúng là những kẻ dễ lường. Ngay cả khi chúng phản bội. Chúng phản bội là do lòng tham. Đó là thực tế của những con vật người."

"Còn tôi thì sao? Sao ngài lại tin cậy bảo vệ ngài. Vì ngài trả lương cao cho tôi ư?"

"Không. Tôi đã quan sát cô trong hai năm nay. Tôi biết cô ghét cha cô, và tôi hiểu tại sao. Tôi biết cô đã làm những gì ở Iraq. Cô không ngại khó, và cô chưa bao giờ phản bội bộ quân phục của mình - không như cha cô. Tôi còn biết cô ngưỡng mộ tôi. Chúng ta, tôi và cô, là những con người cao thượng. Tôi không có con gái, và về mặt nào đó, cô không có cha. Tôi cũng mạo muội nghĩ nếu tướng Bauer đến đây giết tôi, cô sẽ chặn ông ta lại bằng một viên đạn."

Geli tự hỏi không biết điều đó có đúng không. "Nhưng tại sao ngài lại thuê cả hai cha con tôi?"

"Khi Horst nói với tôi về cô, tôi nghĩ ông ta tìm cách hòa giải với cô. Nhưng hóa ra tôi lầm."

Ả vồ lấy khẩu súng. Cánh cửa sập của Bong bóng trượt mở với tiếng xì xì của không khí thoát ra. John Skow bước vào trong bộ complet thẳng thớm, tóc tai gọn gàng đến từng cọng. Trông gã chẳng hề giống một người đang lo lắng về tương lai.

"Chào Geli," gã nói.

Từ bên kia phòng, Godin lướt ánh mắt xanh lên người tên NSA. "Khám hắn."

Geli đẩy gã úp mặt vào tường thủy tinh plexi và khám xét cẩn thận. Không có gì.

"Ồ vui đấy," Skow nói. "Bây giờ đến lượt tôi khám cô nhé?"

Ả tự hỏi không biết tên này định giở trò gì đây. Gã không dám đến đây nếu không nắm đằng chuôi.

"Chào Peter," gã nói. "Chúng tôi đã nắm được một số tình hình mới. Tennant đã ra công luận."

Cơ mặt Godin co thắt lại trong một thoáng khó nhận thấy, nhưng khi cơn đau đã giảm, gò má chảy nhão của lão lấy lại được thần sắc cũ. Lão nhìn chằm chằm Skow bằng ánh mắt tóe lửa.

"Tennant đã làm những gì?"

"Hắn đã trốn khỏi bệnh viện Hadassah, đến một máy tính công cộng và gửi một bức thư đến những trung tâm điện toán hàng đầu thế giới. Hắn kể hết về Trinity. Cái chết của Fielding, cuộc mưu sát ông ta, tất tật."

Godin nhắm mắt. "Công nghệ đó?"

"Hắn tiết lộ đủ để người ta tin hắn nói thật. Đủ để đẩy những nước như Nhật Bản trong vòng ba năm có được Trinity riêng của họ. Hắn nói với họ về cơ sở này. Tôi không biết làm sao hắn tìm ra White Sands. Có lẽ từ Fielding."

Godin thở dài sõng sượt. "Ta đã xử không đúng với Tennant. Lẽ ra phải nói chuyện với anh ta... đối xử thỏa đáng với anh ta."

Skow tiến đến gần giường. Geli đặt tay lên khẩu súng. Ả có thể tương ba viên đạn vào lưng gã trước khi gã đến sát giường Godin.

"Chúng ta lâm vào tình thế khó khăn, Peter ạ. Tôi đề nghị thế này..."

"Vứt mẹ cái đề nghị của anh đi," Godin lầm bầm, chật vật ngồi nhỏm dậy trên giường. "Ngay từ đầu các người đã lừa tôi như một thằng khờ, nhưng các người sắp được biết mình đã sai như thế nào."

Godin cầm điện thoại đầu giường và nhấn một nút.

"Ông gọi cho ai thế?" Skow hỏi, mặt vẫn câng câng.

"Rồi anh sẽ thấy. A lô. Tôi là Peter Godin. Tôi cần nói chuyện với tổng thống. Đây là vấn đề an ninh quốc gia... Sao?... Mã số là bảy ba bốn chín bốn không hai. Vâng tôi sẽ đợi."

Skow tái mặt. "Godin..."

"Câm mồm." Godin liếc nhìn Geli, rồi nói bằng giọng mạnh mẽ. "Thưa ngài tổng thống, tôi là Peter Godin."

Geli chưa bao giờ nghe nói đến một thứ quyền uy như thế này. So với nó, quyền hành lừng lẫy của cha ả không là cái gì. Peter đã xưng danh với tổng tư lệnh với giọng như thể, Ngài tổng thống, tôi là Albert Einstein.

Peter nghe một hồi, rồi bắt đầu giải thích chi tiết vì sao lão cho xây căn cứ ở White Sands. Lão nói, cách đây một năm lão thấy lo ngại về tình hình an ninh ở Bắc Carolina. Có kẻ nào đó trong nội bộ Trinity đang phá hoại mã máy tính và có khả năng đã bán bí mật cho một cường quốc nào đó. Không muốn mời một cơ quan "thiếu tin cậy" như FBI hay CIA vì sẽ làm chậm dự án và ảnh hưởng đến an ninh Trinity, Godin đã dùng tiền riêng và quan hệ của mình để lập nên một cơ sở nghiên cứu an toàn. Ban đầu lão tin tưởng giao cho Skow điều tra hiểm họa kia, nhưng bây giờ lão tin rằng chính Skow là một trong những kẻ gây rối ngay từ đầu.

Tổng thống hỏi thêm vài câu, và Godin trả lời với vẻ tự tin tuyệt đối. Theo lão biết, thì Andrew Fielding chết vì nguyên nhân tự nhiên, nhưng không thể loại trừ việc có kẻ chơi xấu. David Tennant trở nên mất thăng bằng sau cái chết của Fielding và bị rối loạn tâm thần có thể do máy MRI gây nên. Tennant đã được hỗ trợ hết sức để hồi phục sức khỏe. Trước khi có những câu hỏi mới, Godin tranh thủ thông báo với tổng thống rằng Trinity chỉ còn không đầy mười hai giờ nữa là hoàn tất, và tất cả mọi dữ liệu đều cho thấy máy tính không chỉ đáp ứng mà còn vượt quá mong đợi đối với loại ứng dụng trí tuệ và vũ khí này. Thông báo đó làm thay đổi hoàn toàn tính chất cuộc đàm thoại.

Fielding, Tennant và sự tồn tại của White Sands bị lu mờ đi khi Godin hứa hẹn một sức mạnh không-mơ-thấy-nổi với người đã đủ thông minh và can đảm tài trợ cho một dự án có tầm quan trọng chiến lược như thế này. Godin tỏ ra vô cùng thoải mái cho đến cuối cuộc nói chuyện, khi lão kết luận đanh gọn. "Vâng, thưa ngài, tất nhiên. Tôi hiểu. Tôi sẽ làm việc đó ngay bây giờ."

Lão đưa điện thoại cho Geli, mắt vẫn dán vào Skow. "Cô ngạc nhiên vì tôi có thể làm được điều đó à? Ngay từ thời LBJ 2 tôi đã có thể giao thiệp thân mật với các tổng thống rồi."

"Matthews nói gì lúc cuối vậy?" Skow thì thào.

"Ông ấy yêu cầu để giảm bớt lo ngại trên công luận Mỹ, tạm thời tôi hãy cho dừng mọi hoạt động."

"Ông ấy lo ngại giới truyền thông."

"Evan McCaskell đang trên đường đến đây. Họ đang thành lập một nhóm giám sát khẩn cấp. Ủy ban Thượng viện Đặc trách Tình báo."

"Ông định làm gì bây giờ?" Skow hỏi.

Godin phẩy tay như đuổi một con ruồi, rồi nhìn tay NSA với vẻ căm ghét không che giấu. "Geli, nếu tên ký sinh trùng này làm gì mà không được phép của tôi thì giết hắn đi."

Mặt Skow không còn giọt máu.

"Đây là việc anh sắp phải làm," Godin nói. "Ra ngay đường băng. Tướng Bauer có thể đến bất cứ lúc nào."

Một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng Geli.

"Chắc chắn anh đã đoán ra việc này," Godin nói. "Horst chắc đã hoảng sợ lúc Tennant ra trước công luận. Có lẽ ông ta đã gọi Nhà Trắng năm phút sau đó và nói với họ rằng tôi đã lừa ông ta để lập nên căn cứ này. Động thái tiếp theo của ông ta sẽ là đến đây bảo vệ máy điện toán. Tổng thống thậm chí có thể đã ra lệnh cho ông ta làm thế."

"Ông muốn tôi nói gì với ông ta?" Skow hỏi.

"Nói rằng mọi âm mưu can thiệp vào nguyên mẫu Trinity sẽ dẫn đến sự giáng trả ở một quy mô không tưởng tượng nổi."

Skow nheo mắt. "Ông đang nói về chuyện gì thế, Peter?"

"Chỉ là nhắc cho viên tướng nhớ mấy việc mà ông ta phải nhớ kỹ lúc này."

"Đó là việc gì?"

"Tôi không bao giờ lừa gạt."

Skow liếc nhìn Geli, rồi đến khẩu súng của ả.

"Đi ra," Godin rít lên.

Skow quay lưng rời khỏi Bong bóng.

"Sao ngài lại để cho gã đi?" Geli hỏi. "Ít nhất cũng để tôi khóa gã lại trong phòng."

"Bây giờ gã không thể làm gì được nữa."

"Một mình thì có lẽ. Nhưng gã có thể kết hợp với cha tôi?"

Godin lắc đầu như thể thời gian cho những lo lắng tầm thường đã qua. "Gọi Levin ở nhà Cách ly cho tôi."

Geli bấm số rồi đưa ống nghe lên mặt ông già.

"Levin đấy à?" Godin nói. "Nghe tôi nói đây. In nomini patri, et filii et spiritussancti 3 ."

Geli không nghe rõ phần cuối của câu nói.

"Ông chắc không, Peter?" Levin hỏi. "Nguyên mẫu Fielding mới chỉ đạt được còn lại tám mươi mốt phần trăm."

"Nguyên mẫu của tôi sẽ phải giải nốt thuật toán cuối cùng," Godin nói.

Một hồi im lặng. "Đây là kết thúc à?"

Đôi môi xám ngoét của Godin hầu như không mấp máy. "Chưa. Nhưng có lẽ chúng ta không nên nói chuyện theo cách này nữa. Cậu hãy chuẩn bị đón khách."

"Chúng tôi chuẩn bị rồi. Tôi đã nghe mấy người lính nói chuyện bên ngoài nhà Cách ly. Họ nói viên tướng đang trên đường về nước."

Geli thấy lạnh trong người.

Godin ho vào ống nói. "Nhớ này... không có kết thúc nào đối với tôi lúc này. Kết thúc là bắt đầu."

"Đó là một đặc quyền, thưa ngài. Và tôi sẽ có mặt ở đó phục vụ ngài khi đạt đến trạng thái Trinity."

Godin nhắm mắt. "Tạm biệt, bạn của tôi."

Geli gác máy. Cha ả đã đến đâu rồi? Căn cứ Huachuca chỉ cách đây ngót năm trăm cây.

Godin nắm cổ tay ả làm ả giật mình. "Cô có hiểu chuyện gì sắp xảy ra không Geli?"

"Có thưa ngài. Levin sắp kết xuất nguyên mẫu thần kinh của Fielding khỏi máy điện toán và đưa mẫu của ngài vào. Khoảng một tiếng nữa, nguyên mẫu của ngài sẽ đạt đến trạng thái Trinity. Ngài sẽ trở thành máy tính Trinity. Hay ngược lại máy tính biến thành ngài."

Godin gật đầu yếu ớt. Những sự kiện trong mấy phút vừa qua đã rút kiệt sức lực của lão. Tiếng thở của lão trở nên nặng nhọc.

"Điều đó có thể giúp gì cho ngài?" ả hỏi. "Ngay cả nếu Trinity hoạt động, tất cả những gì họ phải làm là dừng nó lại, đúng không? Hoặc cắt nguồn điện của nó?"

"Ngay bây giờ có lẽ Skow đang mưu tính phải làm thế nào. Nhưng gã thất bại rồi."

"Cha tôi sẽ đem lính tráng và các thiết bị đến đây cùng với ông ấy."

Godin nhắm mắt. "Hãy để tôi lo chuyện đó. Nếu may mắn, cô có thể sẽ không cần phải bắn ai cả. Ít nhất là những người lính Mỹ."

Geli muốn gào lên. Ông già không biết một lực lượng như thế nào đang nhanh chóng được dàn trận chống lại mình. Nhà Cách ly trông có vẻ vững chắc đấy, nhưng Horst đã từng hạ ngọt những mục tiêu còn rắn hơn nhiều trong sự nghiệp của ông ta.

"Tôi phải sống để nhìn thấy điều này," Godin thì thầm. "Sẵn sàng nổ súng."

Geli ngồi phệt xuống nền nhà tựa lưng vào tường và hướng nòng khẩu Walther của ả ra cửa.

--- ------ ------ ------ -------

1 Viết tắt của: Conseil Européen pour la Recherche Nucléaire (Hội đồng Nghiên cứu Hạt nhân Châu Âu).

2 Lindon Baine Johnson.

3 Tiếng Latin, Nhân danh Cha và Con và Thánh thần.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36


Khi tôi xưng tên ở cổng tòa nhà Mossad, chúng tôi lập tức bị kéo vào trong và khám xét. Tiền bạc và giấy tờ của tôi bị tịch thu hết. Rồi chúng tôi bị khóa trái trong một căn phòng màu trắng không có gì ngoài một chiếc bàn gỗ và ba chiếc ghế.

Một sĩ quan mặc thường phục xuất hiện và hỏi chúng tôi đến đây làm gì. Tôi nói muốn gặp quan chức cao cấp nhất của Mossad. Hắn buộc tôi phải cung cấp thông tin, nhưng tôi từ chối nói thêm. Viên sĩ quan rời phòng và khóa cửa sau lưng.

Bốn mươi phút trôi qua.

Rachel không nói gì. Nàng hiểu rằng mọi lời nói của chúng tôi đều bị ghi âm lén bằng microphone bí mật. Mặc dầu nóng lòng muốn đến ngay New Mexico, tôi vẫn thấy mình chìm trong một tâm trạng thanh thản kỳ lạ. Rachel có lẽ cũng cảm thấy điều đó, vì nàng nhoài người ra nắm tay tôi như thể muốn được tiếp thêm sức mạnh.

Cuối cùng cánh cửa mở ra, một người thấp lùn, da sần sùi như của một chiến binh sa mạc bước vào ngồi sau bàn. Tuổi trạc ngoài năm mươi, gã mặc bộ kaki phủ bụi và đi đôi giày te tua. Gã có bộ tóc bạc dày dặn, và đôi mắt cảnh giác nhất mà tôi từng thấy.

"David Tennant," gã nói, mắt nhìn vào hồ sơ đang cầm trong tay. "Bác sĩ, tác giả sách, nghi can ám sát tổng thống. Anh là kẻ bị săn lùng nhiều nhất ở Mỹ tuần này. Do đâu chúng tôi có được vinh hạnh này?"

"Ngài có phải là chỉ huy của Mossad không?"

"Phải. Thiếu tướng Avner Kinski."

"Tôi tưởng ngài phải ở Tel Aviv chứ?"

"Tôi đã ở Bathlehem. Đầu giờ sáng nay có vụ ném bom ở đó."

"Tôi rất tiếc."

"Tất nhiên." Kinski vô hồn cười lấy lệ. "Vậy, tại sao ông đến đây?"

"Tôi cần được ngài giúp đỡ."

"Để làm gì?"

"Tôi cần liên lạc với Ngoại trưởng Mỹ, trong thời gian sớm nhất có thể."

Câu trả lời của tôi làm gã ngạc nhiên, mà theo tôi, gã có vẻ thuộc loại người hiếm khi ngạc nhiên trước chuyện gì. "Tại sao ông lại muốn trở về Mỹ? Theo tôi biết ở đó ông không được yêu mến lắm đâu."

"Đó là việc của tôi."

Tay chỉ huy Mossad ngả người trên ghế, nét mặt tỏ vẻ kinh ngạc. "Chính xác ông muốn tới đâu?"

"White Sands, New Mexico."

"Thú vị thật. Ông có biết chính phủ chúng tôi được yêu cầu bắt giữ ông không?"

"Tôi cũng đoán thế."

"Chính phủ chúng tôi cố gắng hợp tác với chính phủ nước ông bất cứ khi nào có thể."

"Nhưng không phải lúc nào cũng thế. Đặc biệt là khi dính dáng đến các vấn đề vũ khí và công nghệ."

Tay trùm tình báo khụt khịt và ngả người về phía trước, đôi mắt gã nhìn tôi thách thức.

"Ông trốn khỏi bệnh viện Hadassah, thế mà lại chạy thẳng đến rơi vào tay tôi. Tại sao?"

"Vì tôi biết ngài có thể giúp tôi."

Kinski lắc đầu. "Có thể ông đã không chạy thẳng đến đây ngay. Từ lúc rời khỏi Hadassah cho đến khi tới đây, ông đã qua những đâu?"

"Ngài sẽ được biết ngay thôi."

"Tôi muốn biết ngay bây giờ."

"Rất tiếc."

"Hãy nói với tôi điều gì đi, bác sĩ. Có phải ý định của ông là giết tổng thống Mỹ không?"

"Ngài thấy tôi có vẻ là một tên giết người à?"

Kinski nhún vai. "Những kẻ giết người xuất hiện dưới mọi hình dáng, kích thước. Phụ nữ. Những chàng trai trẻ. Bọn thiếu niên tươi cười. Trông ông rõ ràng là một tay cuồng tín."

"Tôi không phải kẻ giết người."

"Tuy nhiên ông đã giết. Tôi nhìn thấy điều đó trong mắt ông."

"Để tự vệ."

Gã sếp tình báo châm một điếu thuốc và rít thật sâu. "Chúng ta đã lạc đề mất rồi. Điều gì khiến ông tin rằng tôi sẽ giúp ông bí mật bay về Mỹ?"

"Tôi có một thứ mà ông muốn."

Đôi mắt sẫm lóe lên. "Bây giờ ông là thương gia đấy à?"

"Tôi biết thế giới này vận hành như thế nào." Tôi ngả người ra trước. "Ở Mỹ có một dự án quốc phòng bí mật gọi là Trinity. Nó đã hoạt động trong hai năm nay, và chỉ mấy giờ nữa sẽ tạo ra một vũ khí mạnh nhất trên trái đất này. Tôi biết về thứ vũ khí ấy nhiều hơn bất cứ kẻ nào ông có thể nắm trong tay trong tương lai dự kiến."

Mồm gã Israel trễ xuống.

"Tôi biết điều này không làm ngài hoàn toàn ngạc nhiên," tôi nói. "Tôi là một trong sáu người biết tường tận mọi chi tiết của nó ngay từ những bước khởi đầu. Tôi được chính tổng thống bổ nhiệm vào dự án đó. Bởi vậy, ngài có hai lựa chọn. Một là, ngài có thể tống tôi vào tù và tra tấn tôi để lấy được những điều tôi biết. Nhưng có nhiều người biết tôi đã ở Israel - kể cả tổng thống - nên làm thế có thể gây rắc rối cho ngài. Hai là, ngài có thể cho tôi bay đến White Sands. Nếu ngài làm thế, ngài có thể cho bất cứ nhà khoa học nào mà ngài muốn lên máy bay cùng với tôi, và tôi sẽ nói với họ tất cả những điều tôi biết về Trinity." Tôi ngồi ngay ngắn lại trên ghế. "Đó là đề nghị của tôi."

Khói thuốc cuộn lên bồng bềnh từ miệng Kinski. Trông gã có vẻ bình thản, nhưng tôi biết những lời nói của tôi gần như đã hạ gục gã khỏi ghế.

"Hãy nói cho tôi biết bản chất của thứ vũ khí đó, bác sĩ."

"Trí thông minh nhân tạo. Trinity sẽ làm cho những máy tính trong các phòng thí nghiệm vũ khí tối tân nhất của các ngài trở thành lỗi thời như đống máy bay hai tầng cánh bằng vải bạt. Nó sẽ bẻ những mật mã phức tạp nhất của các ngài trong vòng vài giây. Và đó mới chỉ là bước đầu thôi. Tôi đang vội lắm, ngài thiếu tướng."

Tay trùm gián điệp hít một hơi thuốc dài nữa, rồi đứng dậy và mỉm cười tán thưởng. "Ông là người táo bạo thật đấy, bác sĩ ạ."

"Và?"

"Ông có một vé máy bay."

White Sands

Năm phút trước khi máy bay của tướng Bauer chạm đất, gần tòa nhà Cách ly có tiếng súng nổ. Tiếng súng dội vào khu nhà, làm máu Geli Bauer sôi lên. Không có âm thanh nào trên trái đất giống như tiếng súng nổ trong giận dữ.

Godin bắt đầu tỉnh lại và nhấn nút để nâng chiếc giường điều khiển bằng điện lên. "Cha cô chắc đã ra lệnh cho tay chân cố gắng mở cửa tòa nhà Cách ly này."

Geli tự hỏi có phải một đội quân sắp sửa tấn công vào Bong bóng không. "Các kỹ thuật viên có được vũ trang không ạ?"

"Tất nhiên."

"Họ khó có thể chống chọi trước một lực lượng quyết tâm và được trang bị tốt như thế."

"Tôi nghĩ rồi cô sẽ ngạc nhiên."

"Thưa ngài, tôi biết rõ điều tôi nói. Nếu..."

"Mấy giờ rồi?" Godin cắt ngang. "Tôi đã ngủ à? Levin có gọi đến không?"

"Ngài đã ngủ được một chút, nhưng không có ai gọi đến. Họ đã tải mẫu thần kinh của ngài lên cách đây một tiếng. Tại sao để biết một điều gì đó lại mất thời gian thế?"

"Cần có thời gian để quét một mẫu thần kinh ra khỏi máy tính. Sau đó cần một giai đoạn thích nghi sau khi mẫu thần kinh mới được tải lên. Tương tự như cú sốc trong y học, tôi nghĩ thế, khi trí óc phải tự quen dần với trạng thái tách rời khỏi cơ thể vật chất."

"Việc ấy kéo dài bao lâu?"

"Mẫu thần kinh của Tennant bị rơi vào trạng thái mập mờ trong hơn một tiếng. Fielding thì ba mươi chín phút. Nhưng lúc đó hệ thống mới chỉ vận hành năm mươi phần trăm hiệu suất,"

Điện thoại reo. Đó là Levin. Giọng anh ta đứt quãng, và Geli nghe có tiếng thét trong máy. Ả giữ ống nghe áp vào tai Godin. Godin nghe, rồi nói, "Cám ơn, Levin. Chúc may mắn."

Lão ra hiệu cho Geli gác máy, mặt lộ rõ vẻ thỏa mãn.

"Mẫu của tôi đã hoàn toàn thích nghi và đang tiến hành giải các thuật toán cuối cùng, với tốc độ ngang ngửa tốc độ của Fielding ngày trước."

"Ngài nghĩ sẽ kéo dài khoảng bao lâu?"

Chuông điện thoại lại reo. Lần này là John Skow. Godin từ chối nói chuyện với gã.

"Geli," Skow căng thẳng nói. "Máy bay của cha cô vừa hạ xuống đường băng. Ông ấy mang theo một hỏa lực đáng gờm. Chuyện tranh chấp nhỏ vừa qua chỉ là chuyện vặt. Chỉ như vũ khí cầm tay thôi. Nếu không có ai ở đó thuyết phục được Godin bắt Levin và người của lão rời khỏi nhà Cách ly, ông tướng sẽ cho phá hủy toàn bộ ngôi nhà cùng với máy tính."

"Tôi sẽ chuyển tin nhắn này."

Ả treo máy. Godin nhìn ả chờ đợi.

"Skow nói cha tôi sẽ làm nổ tung tòa nhà Cách ly nếu ngài không ra lệnh cho các kỹ thuật viên ra ngoài."

Mặt ông già nhăn nhúm lại vì cơn đau thần kinh. "Tôi không nghĩ ông ta sẽ làm thế mà không nói với tôi trước."

"Ông ấy biết từng nào về những gì ngài đang tạo dựng ở đây?"

"Ông ta biết đó là trí thông minh nhân tạo. Ông ta biết tôi không phí thời giờ cho những việc nhỏ hơn. Nhưng ông ta biết rõ nhất là mình sẽ được trả bao nhiêu để giữ kín chỗ này."

"Cha tôi có thể làm bất cứ chuyện gì để bảo vệ sự nghiệp của ông ấy. Nếu tổng thống muốn máy tính ngừng lại, ông ấy sẽ chơi luôn cả tòa nhà này mà không cần một giây suy nghĩ, nếu đó là cách duy nhất ông ấy có thể làm."

Cửa phòng Bong bóng xì xì mở ra. Geli vung súng lên và thấy mình đang nhằm đúng vào bố đẻ.

"Chắc chắn sẽ có ngày xảy ra chuyện này mà," tướng Bauer nói, miệng nở nụ cười nhăn nhở.

Geli làm thinh. Vào tuổi năm lăm, cha ả có cái vẻ của người chỉ mới ba mươi - tươm tất, rắn rỏi, tóc hoe vàng - và đôi mắt xám không cho phép ai cợt nhả trước mặt mình dù người đó ở cấp bậc hay cương vị nào. Ông ta bận một bộ đồng phục hạng A, trên ngực sáng lóe huân chương khiến ả hiểu rằng ông ta vừa gặp mặt chánh văn phòng phủ tổng thống. Ông ta không đeo vũ khí bên hông, nhưng ả trông thấy bao súng đeo vai lồi lên dưới áo khoác xanh sẫm.

Geli nhích gần đến giường đủ để trao đổi bằng mắt với Godin. "Thưa ngài, tổng thống yêu cầu ngài cho dừng các hoạt động. Nếu ngài đã phát ra bất kỳ một lệnh nào như thế cho các kỹ thuật viên của ngài, thì họ làm lơ rồi. Họ đã lập tuyến phòng thủ trong tòa nhà Cách ly này và đã nổ súng vào lính của tôi. Tôi có hai lính bị chết và năm bị thương. Tôi yêu cầu ngài ra lệnh cho người của ngài ra ngoài ngay. Nếu ngài từ chối, tôi không còn cách nào khác là phải dùng vũ lực tống họ ra ngoài."

Godin chòng chọc nhìn lại Bauer nhưng không nói gì.

Geli biết cha ả đang nói với các thiết bị ghi âm bí mật. Godin có lẽ cũng biết thế. Ánh mắt giao nhau của hai người đàn ông nói nhiều hơn mọi lời lẽ.

"Ngài đã hiểu những gì tôi nói chưa?" tướng Bauer hỏi. Như thể ông ta đang nghĩ Godin đã gần cái chết đến mức mất trí xét đoán.

"Các kỹ thuật viên của tôi đã được chỉ thị không trả lời điện thoại của bất cứ ai," cuối cùng Godin nói. "Kể cả tôi."

"Vậy tôi sẽ cho đưa ngài ra ngoài. Ngài sẽ liên lạc với họ bằng loa phóng thanh."

Godin mỉm cười yếu ớt, như thể lão chấp nhận chơi bài với tay làm thuê bí mật của mình. "Tòa nhà Cách ly được cánh âm hoàn toàn, thiếu tướng ạ. Nó cũng được xây bằng bê tông cốt thép. Ngoài hệ thống phát điện, nó còn có hệ thống cung cấp nước và không khí riêng."

"Tôi có thể cho tòa nhà đó thành cát bụi trong vài giây," Bauer nói. "Người của tôi đang đặt thuốc nổ. Tổng thống muốn giữ lại chiếc máy, nhưng nếu ngài từ chối hợp tác, tôi sẽ không ngần ngại phá tan nó."

Lời đe dọa này có lẽ làm Godin hơi lay chuyển. "Tôi đang đợi kỹ sư chính của tôi gọi đến bất cứ lúc nào."

Viên tướng liếc nhìn Geli, ông ta hơi thả lỏng để dáng điệu bớt cứng ngắc hơn. "Thật ra họ đang làm công việc quái quỷ gì ở đó vậy, ngài Peter?"

"Cỗ máy mạnh nhất mà con người từng tạo ra."

"Nếu vậy bức e-mail của bác sĩ Tennant về những khả năng của cỗ máy đó là chính xác?"

"Không thể đánh giá chúng cao hơn nữa được đâu."

Một ánh nghi ngờ lướt qua mặt tướng Bauer. Ông ta nhìn sang Geli để chờ câu xác nhận, nhưng ả ngoảnh mặt đi, buồn nôn vì ghê tởm. Cha ả đứng kia như một kẻ đầy quyền lực, một phái viên của tổng thống, nhưng ông ta lại cũng tham gia vào Trinity ngay từ đầu. Ả không buông lỏng tay súng. Nếu cha ả nghĩ việc giết Godin có thể giúp ông ta tránh được các hậu quả chính trị, thì ông ta chẳng ngại ngần gì mà không làm.

"Ngài không cho tôi một lựa chọn nào khác," Bauer nói. Ông ta liếc khẩu súng trong tay Geli, rồi quay người bước đi.

Tiếng chuông điện thoại reo giữ chân ông ta lại. Geli dùng tay còn rỗi nhấc máy lên đưa cho Godin. Ả lại nghe thấy những giọng nói vội vã trong ống nghe, một người nói gì đó về đạn dược. Rồi giọng Zach Levin cất lên dõng dạc, "Thưa ngài, đã đạt được trạng thái Trinity... Tôi nhắc lại, đã đạt được trạng thái Trinity."

Mắt Godin nhắm lại, đầu lún sâu xuống gối. "Cám ơn, Levin. Tiến hành đi."

Lão buông rơi ống nghe trên nệm.

"Chết tiệt! Sao ngài dám bảo nó tiến hành?" tướng Bauer hỏi.

Đôi mắt xanh mở ra với vẻ dương dương tự đắc. "Đã đạt được trạng thái Trinity. Bây giờ thì anh không làm gì được nữa."

"Peter, lạy Chúa. Ngài nói cái gì vậy?"

"Trinity đang kiểm soát."

"Kiểm soát cái gì?" Bauer liếc ra cửa Bong bóng như thể có cách nhìn thấy tòa nhà Cách ly. "Ngài đang nói cái quái quỷ gì vậy?"

"Horst, chúng ta biết nhau quá lâu rồi. Anh biết tôi là người trọng lời nói. Nếu anh có ý định đột nhập hay phá hủy nhà Cách ly, thì anh sẽ phá hoại đất nước mà anh đã thề bảo vệ."

Mắt Bauer nheo lại, vừa nghi ngờ vừa bối rối.

"Anh sẽ được hiểu ngay thôi," Godin nói. "Vì quyền lợi của chính anh, tôi khuyên anh hãy kiên nhẫn và thận trọng."

Viên tướng bước lại gần giường và nói mềm mỏng. "Ngài biết tôi luôn ủng hộ sự nghiệp của ngài bất cứ khi nào có thể. Nhưng lúc này không phải tình thế chúng ta nói đến. Đây là một búi thông tin khổng lồ mà giới truyền thông toàn cầu đang lao đến săn."

Godin lơ đãng phẩy tay. "Tôi chắc anh sẽ có cách để thoát ra được. Anh lúc nào chả thế."

Tướng Bauer thở dài, rồi quay lưng bước ra khỏi Bóng bóng mà không liếc về phía Geli lấy một cái.

Ả lại có linh tính như hồi bé. Cha ả đã không xử lý tốt chuyện bất ổn. Ả quay lại phía Godin và thấy lão đang khóc. Cảnh tượng ấy làm ả sững sờ.

"Có chuyện gì thế, thưa ngài?"

Godin đưa bàn tay run rẩy lên sờ mặt mình như thể xem nó còn đó không. "Tôi đã làm được rồi. Cô đang nhìn thấy người đầu tiên trong lịch sử thế giới tồn tại trong hai không gian cùng một lúc." Từ đôi mắt ông già tỏa ra ánh sáng huyền diệu. Huyền diệu và an bình. "Tôi sẽ chết trên chiếc giường này. Nhưng trong nhà Cách ly, tôi lại tiếp tục sống."

Geli chẳng biết nói gì. Ngay cả nếu Godin nói đúng, thì máy tính cũng không thể tồn tại lâu được.

"Xin hãy cầm tay tôi, Geli. Làm ơn."

Đôi mắt lão khẩn khoản. Geli đưa bàn tay không cho lão, và lão siết chặt lấy như một đứa trẻ.

"Bây giờ tôi có thể ra đi. Tôi có thể để cho thân xác này chết được rồi."

Một tiếng súng nổ chát chúa vang vọng trong khu nhà. Geli nghiến chặt răng và vội rút tay lại.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37


Chuyến bay El Al 462

Tám km trên Đại Tây Dương

Thiếu tướng Kinsky của Mossad đã đặt toàn bộ khoang trên của chiếc El Al 747 cho cuộc hành trình của chúng tôi trở lại Mỹ. Các nhân viên Mossad canh gác không cho hành khách cũng như tiếp viên bước chân lên cầu thang. Khi máy bay đến New York, Rachel và tôi được chuyển sang một chuyên cơ phản lực riêng, đưa chúng tôi đến Albuquerque, New Mexico. Từ đó, một trực thăng chuyên dụng lại chở chúng tôi đến tận cổng Bãi thử White Sands.

Để trả công cho sự bố trí này, tôi đã phải dành ba giờ trên ghế đầu hàng, lược thuật cho năm nhà khoa học Israel về Dự án Trinity. Một chiếc camera ghi lại những lời tôi nói, nhưng hầu hết các nhà khoa học đều tự mình ghi chép. Tướng Kinsky có vẻ thích thú khi thấy tôi có thể thoải mái thảo luận về một công trình nhạy cảm như thế, nhưng gã không nắm bắt nổi bản chất thiết yếu của Trinity. Sự tồn tại của máy tính đơn Trinity đã xóa sổ những mô hình an ninh quốc gia cũ. Với loài người, sẽ không còn an ninh nữa.

Rachel ngồi sau các nhà khoa học hai dãy, trên một chiếc ghế bên lối đi giữa. Khi tôi nói, đôi mắt đầy biểu cảm của nàng bộc lộ những cảm xúc không nén được: lo lắng, buồn bã, nghi hoặc, giận dữ. Tôi muốn đưa nàng ra phía sau máy bay mà trấn an nàng, nhưng những người Israel lại nghĩ khác.

Tướng Kinsky chốc chốc lại bước về cuối khoang trên để gọi điện thoại vệ tinh. Qua báo cáo của gã, tôi biết rằng bức e-mail tôi gửi từ tiệm Strudel đã tạo ra sự hoảng loạn mà tôi muốn. Những lý thuyết đằng sau Dự án Trinity đã nhanh chóng được các nhà khoa học máy tính hàng đầu thế giới công nhận. Trong nỗ lực đặt câu chuyện vào đúng hoàn cảnh, nhiều nhà bình luận trên các phương tiện truyền thông đã so sánh với cuộc tranh cãi về nhân bản vô tính năm 1998. Nhưng tác động của Trinity đã khiến ý tưởng về nhân bản vô tính trở nên gần như lỗi thời. Lần thứ sáu trở lại từ phía sau khoang máy bay, tướng Kinski chạm vai tôi, mặt căng ra vì lo lắng.

"Cái gì thế?" nhà khoa học từ viện ChaimWeizmann hỏi. "Có chuyện gì vậy?"

Sếp tình báo Mossad xoa chiếc cằm rám nắng. "Các chuyên gia điện toán khắp nơi trên thế giới bắt đầu chú ý đến một chuyện đang diễn ra trên Internet."

"Chuyện gì?"

"Một thực thể chưa xác định đang di chuyển một cách có hệ thống qua tất cả các mạng máy tính lớn và cơ sở dữ liệu trên toàn thế giới. Các tập đoàn, ngân hàng, văn phòng chính phủ, căn cứ quân sự, thiết bị phòng vệ từ xa. Mạng lưới an ninh hiện có như tường lửa hầu như không ngăn chặn được nó. Mọi người đang suy đoán công khai nó là máy tính Trinity."

"Có lẽ chỉ là một hacker có tài thôi," người khác đoán. "Hay một nhóm. Thực thể này có phá hủy các file không?"

"Không. Nó chỉ xem xét mọi thứ. Gần như thể nó đang lập bản đồ thế giới máy tính. Một số kẻ nghiệp dư - những hacker - tuyên bố đã lần ra dấu vết nguồn của những mẫu này là từ New Mexico."

"Vậy tôi nghĩ chúng ta phải giả định đó chính là Trinity," nhà khoa học Weizmann nói. "Điều tôi không hiểu là tại sao người ta không cắt nguồn điện của cái máy ấy nhỉ."

Tôi lắc đầu. "Godin đã có kế hoạch cho nó từ lâu rồi. Tôi ngờ rằng cắt nguồn điện của Trinity sẽ gây ra hậu họa khôn lường."

Tướng Kinsky rõ ràng đã đi trước các nhà khoa học. "Chúng ta đã nói nhiều về thiết kế và các khả năng của máy tính đó. Chúng ta chưa thảo luận xem ý định của nó có thể là gì."

"Cơ hội tốt nhất cho ngài hiểu được điều đó là hiểu Peter Godin," tôi nói. "Nếu có một mẫu thần kinh nào được tải lên thành công, thì đó là của Godin."

"Ông biết người ấy hai năm rồi. Ông có thể cho chúng tôi biết những gì?"

"Ông ta cực kỳ thông minh."

"Cái ấy thì rõ rồi."

"Ông ta có quan điểm cứng rắn về chính trị."

"Chẳng hạn?"

"Ông ta từng nói rằng nguyên tắc một người, một lá phiếu, đã làm cho nước Mỹ hùng mạnh thì cũng chính cái nguyên tắc ấy sẽ phá hủy nước Mỹ hoàn toàn."

Kinsky phá lên cười. "Còn gì nữa?"

"Godin đã đọc rất sâu về lịch sử, lý thuyết chính trị và có kiến thức triết học vững vàng. Ông ta không theo tôn giáo."

"Tôi cho rằng giống như tất cả những người thành đạt, ông ta có bản ngã mạnh mẽ."

Tôi gật đầu.

"Tôi biết điều ấy mang nhiều tính lịch sử," tay trùm Mossad nói. "Trao cho một kẻ thông minh quyền lực vô hạn thì sẽ nảy sinh nhiều chuyện động trời."

Các nhà khoa học trang nghiêm gật đầu, nhưng tài tuyên bố những chân lý hiển nhiên của ông tướng khiến tôi mỉm cười.

"Xin cho tôi biết, bác sĩ," Kinski nói. "Tại sao ông nôn nóng muốn đến White Sands như vậy?"

"Để ngăn chặn ông ta. Để ngăn chặn Godin."

"Ông định làm thế nào?"

"Nói chuyện với ông ta."

"Ông nghĩ chỉ nói chuyện thôi có thể ngăn chặn được ông ta ư?"

"Tôi là người duy nhất có thể làm được điều đó."

Kinsky lắc đầu. "Làm sao ông biết được."

"Ông không muốn biết đâu."

Gã nhìn tôi như nhìn một kẻ loạn trí trên phố. "Nhưng tôi muốn biết."

"Tôi nói nhầm, thưa thiếu tướng. Đáng lẽ tôi phải nói Godin là người duy nhất làm được việc đó. Ông ta là người duy nhất có thể ngăn chặn chính mình."

"Tổng thống Mỹ có thể có ý kiến khác về vấn đề này, chưa nói gì đến các tướng lĩnh Mỹ."

"Đấy là điều tôi lo ngại." Tôi lấy cả hai tay xoa mặt. "Bây giờ tôi muốn nghỉ ngơi, nếu có thể."

Kinsky vỗ vai tôi. "Chóng thôi, bác sĩ. Nhưng trước hết có vị nào hỏi thêm gì không?"

White Sands

Nara Ravi thích thú nhìn các binh lính đến từ căn cứ Huachuca dựng một bốt chỉ huy cực kỳ tối tân quanh y trên khu đất bỏ không của tòa nhà Hành chính vốn trước kia là kho chứa máy bay. Skow không thèm giới thiệu tướng Bauer với y, nhưng qua nghe ngóng, y cũng thu lượm được nhiều.

Tình báo Quân sự từ lâu đã tạo ra một phòng Tình thế di động có thể đặt ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Tập trung xung quanh một bàn bầu dục lớn là những màn hình plasma khổng lồ được cắm vào hàng loạt máy tính và đầu nối truyền tin. Một chảo ăng ten vệ tinh nối phòng Tình thế với tất cả các cơ sở tình báo Mỹ và vệ tinh giám sát trên quỹ đạo hoặc trên trái đất.

Khi Skow hỏi tướng Bauer làm thế nào ông ta biết mà đưa các thiết bị chuyên dụng đến, Bauer chặc lưỡi cay đắng.

"Tuyên bố của bác sĩ Tennant về khả năng của máy tính này khá chi tiết. Và tôi hiểu Peter Godin. Ông ta không đời nào tự nguyện từ bỏ thứ quyền lực lớn đến vậy. Đó là thực tế của Nietzsche 1 ." Viên tướng khinh bỉ liếc nhìn Skow. "Tôi không tin có lúc anh lại nghĩ rằng nhà Cách ly đã được cách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài."

"Nhưng đó là điểm chính trong thiết kế của nó," Skow nói.

Bauer khịt mũi. "Anh làm cái quái quỷ gì ở Bắc Carolina? Chơi golf à? Các kỹ sư của Godin đã quản lý khu này trong nhiều tháng. Ông ta bay đi bay lại nhiều lần bằng máy bay chở hàng. Có lẽ họ đã làm mọi chuyện ở đây. Nếu anh tin máy tính ấy không được nối kết với bất cứ cái gì thì tôi có mấy mảnh đất ven biển ở gần căn cứ Huachuca muốn bán cho anh."

Mười phút sau, các chuyên gia tín hiệu của ông tướng phát hiện ra một đường ống chạy sâu dưới cát xung quanh tòa nhà cách ly. Ống thép nhìn bề ngoài như đường ống nước, nhưng nó ngăn chặn bức xạ điện từ. Đường ống chạy về phía Bắc hàng cây số và nhiều khả năng có chứa đường cáp nối máy tính Trinity với cơ sở dữ liệu chính OC48c phục vụ cho Bãi thử White Sands.

Trong khi dựng phòng Tình thế thì xảy ra mấy sự kiện sau. Đầu tiên, một khu nhà tạm của cánh nhà báo và xe truyền hình lưu động xuất hiện bên ngoài cổng chính. Hai là, giới chuyên môn về máy tính trên khắp thế giới đã phát hiện ra sự hiện diện kỳ lạ trên Internet, một thực thể di chuyển qua tất cả các mạng máy tính và cơ sở dữ liệu với tốc độ dễ dàng và càn quét mọi chỗ. Ba là, McCaskell đã cất cánh khỏi căn cứ Không lực Andrews trên một chiếc phản lực siêu thanh và sắp đến White Sands.

Khi một người trong nửa tiểu đội lính đang lắp bảng điều khiển trong phòng Tình thế thông báo máy bay của McCaskell sắp hạ xuống đường băng của White Sands, Bauer quay sang Skow.

"Tôi muốn đưa Godin vào đây."

Skow lắc đầu. "Chúng ta không muốn ông già nói chuyện với McCaskell đâu."

"Tôi cóc cần cái ấy. Godin biết nhiều điều mà tôi cần biết. Ông ta chết ở đây thì cũng như ở bệnh viện thôi."

Skow miễn cưỡng bước đi.

"Nói với con gái tôi, tự tôi sẽ bảo đảm an toàn cho Godin!" Bauer hét với theo. "Nó có thể nằm trên giường với ông ta cùng khẩu súng nếu muốn."

Sau khi Skow đi khỏi, tướng Bauer ngước nhìn lên màn hình có cảnh tòa nhà Cách ly ngập trong ánh sáng. Ông ta nhìn chăm chú vào đó một lát rồi quay sang Ravi.

"Anh là bác sĩ tâm thần phải không, bác sĩ Nara?"

"Phải, thưa thiếu tướng," Nara lại gần chiếc bàn bầu dục.

"Godin đã mất trí rồi phải không?"

"Không, thưa sếp." Ravi đoán viên tướng sẽ khoái nghe gọi sếp dù là dân thường nói. "Ông ta hoàn toàn tỉnh táo."

"Căn bệnh u não của ông ta thế nào?"

"Khối u đã tồn tại trong não ông ta một thời gian, nhưng khi máy Siêu-MRI của chúng tôi phát hiện ra thì nó còn rất nhỏ. Hồi ấy khối u đã không mổ được, nhưng nó không ảnh hưởng đến trí tuệ của ông ta. Ngay cả bây giờ tôi nghĩ cũng không ảnh hưởng."

Tướng Bauer trừng trừng nhìn Ravi. "Nhưng anh có thể làm chứng khác đi trong cuộc điều trần ở Quốc hội."

Ravi tránh cặp mắt của ông ta. "Điều ấy hoàn toàn có thể. Đây là một ca rất phức tạp."

"Skow nói với tôi là anh đã định giết ông ta. Ý tôi là Godin ấy."

Ravi không biết nên trả lời thế nào.

Bauer ngoác miệng cười với y. "Đừng đi đâu xa, bác sĩ. Tôi có thể cần anh đấy."

Ravi cúi đầu.

Evan McCaskell sải bước vào phòng Tình thế với hai nhân viên Mật vụ tháp tùng hai bên. Cũng giống như Skow, ông tốt nghiệp Đại học Massachuset, nhưng ông đã bỏ lại tít phía sau vẻ màu mè của dân tinh hoa. Chánh văn phòng phủ tổng thống có bộ tóc đen và mặc bộ đồ màu xanh hải quân sẫm đến mức trông gần như đen. Ông ngự trên ghế đầu bàn và ra hiệu cho tướng Bauer đến ngồi bên phải mình.

Skow đã trở lại và ngồi vào một chiếc ghế xa hơn dọc bàn. Khi viên tướng vẫy Ravi cùng tham gia, Ravi rón rén ngồi vào cuối bàn, đối diện McCaskell.

"Peter Godin sẽ đến đây trong ít phút nữa," Skow nói. "Họ đang chuyển các thiết bị trợ giúp sự sống của ông ta đến đây."

McCaskell gật đầu và đưa mắt nhìn quanh bàn, đôi mắt ông sáng lên chăm chú như tia laser. "Thưa ông, tôi đến đây để đánh giá tình hình này và cũng để dập tắt bất kỳ nguy cơ nào nhằm đến tổng thống trước khi nó xảy ra."

Vẻ mặt của tướng Bauer trở nên căng thẳng.

"Bây giờ," McCaskell tiếp tục, "chúng ta sẽ thảo luận vấn đề bằng cách quái quỷ nào mà cái cơ sở trái phép này mọc ra, và khi mọi việc xong xuôi, đầu ai sẽ lên thớt đây?"

Skow nhìn xuống bàn.

"Peter Godin nói với tổng thống rằng chưa có mẫu thần kinh nào được tải lên máy hết, nhưng các phương tiện truyền thông đã loan truyền về một máy tính đang thâu tóm mạng Internet. Chuyện gì đó đang xảy ra trên Internet. Đây chính là chuyện chúng ta phải xử lý đấy, phải không thưa ông?"

Tướng Bauer nói, "Tôi cho rằng anh Skow và tiến sĩ Nara đây có thể nói về vấn đề này rõ hơn tôi."

"Ai biết rõ hơn thì xin nói đi," McCaskell gắt.

"Chúng ta phải giải quyết một việc mà trước nay chưa ai từng đối mặt," Skow nói. "Gần như chắc chắn đã có một mẫu thần kinh được tải lên chiếc máy tính đó. Và mẫu thần kinh ấy gần như chắc chắn là của Peter Godin. Nhưng tất cả chúng ta có thể tin chắc rằng chúng ta đang phải đối đầu với một trí thông minh siêu việt."

McCaskell không thích câu trả lời ấy. "Nhưng vẫn là Peter Godin, đúng không?"

"Đúng và sai. Mẫu thần kinh của Peter Godin là trí tuệ của ông ta, theo nghĩa chính xác nhất của từ này. Nhưng từ thời điểm nó đi vào máy tính, nó hoạt động với một tốc độ nhanh hơn rất nhiều so với khi bị giới hạn trong mô hữu cơ của bộ não. Tiến sĩ Nara?"

Ravi coi đây là dấu hiệu tốt rằng Skow đã tin cậy y. "Các tín hiệu điện trong máy tính truyền nhanh hơn khi ở trong óc người khoảng một triệu lần, thưa ngài McCaskell."

"Và sự khác nhau không chỉ ở tốc độ," Skow làm sáng tỏ thêm. "Một khi nó bắt đầu hoạt động dưới dạng số hóa, trí tuệ của Godin sẽ có năng lực học hỏi theo cách hoàn toàn mới. Một khối lượng dữ liệu lưu trữ khổng lồ có thể được tải vào. Do đó rất có thể, ít nhất là về mặt lý thuyết - từ thời điểm máy tính đạt đến trạng thái Trinity, các kỹ thuật viên của Godin đã nạp dữ liệu vào. Lịch sử, toán, chiến lược quân sự. Nó cũng có thể rà soát Internet và tiếp thu hết những gì nó thấy, từ tất cả các dấu hiệu ta có thể giả định điều này đang diễn ra."

McCaskell kinh ngạc lắc đầu.

"Sẽ là sai lầm nếu coi máy tính Trinity chỉ như sự mở rộng trí tuệ của Peter Godin," Skow nói. "Mẫu thần kinh Godin đã rời bỏ con người Godin cách đây vài giờ. Và một giờ với Trinity là một thế kỷ đối với chúng ta. Lúc này, mẫu Godin đang tiến hóa tới độ không ai trong chúng ta có thể dự liệu cách giải quyết."

"Anh nói cứ như nó là một kiểu thần thánh gì ấy," McCaskell nói.

Skow nhìn vị chánh văn phòng phủ tổng thống với vẻ kẻ cả.

"Đó chính là lý do chúng ta nói về một mẫu thần kinh hoạt động như hiện tại trong 'trạng thái Trinity'. Nó vừa là người vừa là máy, nhưng nó kỳ diệu hơn cả hai."

"Vậy tôi trình bày với tổng thống thế quái nào đây?"

"Rằng chúng tôi vẫn chưa biết đang phải xử lý chuyện gì," tướng Bauer nói.

"Thế bao giờ thì biết?"

"Khi nào máy tính nói gì đó với chúng ta," Skow đáp.

"Khốn kiếp," McCaskell buột miệng. "Tôi vẫn chưa hiểu sao không có ai cắt điện cái máy ấy."

Tướng Bauer hắng giọng. "Godin đã cảnh báo chúng ta rằng làm thế sẽ là một sai lầm đắt giá."

"Thì ông có thể mong ông ta nói gì khác nữa?"

"Tôi đã biết Godin từ nhiều năm nay, thưa ngài. Tôi không có ý định thử tính trung thực của ông ta trong trường hợp này."

"Ông sợ gì vậy, thiếu tướng?"

Tướng Bauer căng người ra trước lời ám chỉ mình hèn nhát, nhưng ông ta cố giữ giọng bình thản. "Ngài McCaskell, NSA tài trợ cho Dự án Trinity vì tin rằng cỗ máy này có tiềm năng trở thành thứ vũ khí mạnh nhất trong lịch sử. Vũ khí đó lúc này đang tự định hướng và nhằm vào chúng ta. Không cần phải có bằng đại học kỹ thuật California mới biết được nước Mỹ phụ thuộc vào hệ thống máy tính như thế nào. Tôi sợ cái gì, thưa ngài? Tôi sợ chiếc máy này sẽ ở vào thế tống tiền chúng ta giống như cách Liên Xô chưa bao giờ giải quyết được vấn đề vũ khí hạt nhân. Bởi vì chúng ta không có cách gì ngăn cản được nó. Nó không có con cái mà phải lo bảo vệ. Không có các thành phố. Không dân cư. Ta cứ giả định rằng nó muốn tiếp tục sống, nhưng gần như không khao khát sống như chúng ta."

"Tống tiền chúng ta à?" McCaskell láy lại. "Nó là một chiếc máy. Nó có thể muốn cái quái gì được?"

Có tiếng lanh canh bên ngoài vòng màn hình, rồi tiếng bánh xe lăn rin rít.

"Giường bệnh của Godin," Skow thốt lên.

Ba người lính đẩy giường Godin vào phía trong vòng màn hình. Bốn người lính khác đi theo, đẩy xe dụng cụ y tế và một cây truyền tĩnh mạch. Bác sĩ Case từ Viện Y khoa Johns Hopkins bước đi cạnh giường, cùng Geli Bauer theo sau đám rước như cận vệ hoàng đế.

"Ông ấy còn tỉnh không?" McCaskell hỏi.

Bác sĩ Case nói, "Tôi muốn công khai phản đối việc này."

"Cừ đấy," McCaskell nói. Ông đứng lên đến gần bên giường.

Godin ra hiệu bằng tay cho Geli. Ả bước đến quay một tay quay bên giường để nâng Godin lên ngang tầm mắt McCaskell. Ông già thở nặng nhọc hơn.

"Chào ông Godin, chúng ta đã từng gặp nhau rồi," McCaskell nói. "Tôi không có thừa thời giờ để đùa bỡn, mà ông cũng vậy. Tôi muốn ông cho tôi biết ông có ý định gì khi phá vỡ giao ước và nạp mẫu thần kinh vào chiếc máy đó."

Godin chớp chớp mắt như một người cố định hướng khi bước ra khỏi phòng tối. "Trinity không tự nói được sao?"

"Không. Nó tự nói được ư?"

"Tất nhiên."

"Ông chưa trả lời câu hỏi của tôi. Mục đích của việc này là gì?"

"Ông không biết sao?"

"Không."

"Các hệ thống cũ đã hỏng cả, ngài McCaskell ạ. Ngay cả các hệ thống của chúng tôi, cái thí nghiệm tuyệt vời nhất trong tất cả. Bây giờ đã đến lúc cho một hệ thống mới."

"Ông đang nói về những hệ thống nào?"

"Rousseau đã nói rằng chế độ dân chủ là hệ thống chính trị hoàn hảo nhất nếu con người là thánh. Nhưng con người không phải là thánh."

McCaskell liếc nhanh về phía Skow và tướng Bauer. "Ông Godin, điều đó chẳng dẫn đến đâu cả. Liệu tôi có nên suy ra rằng ông có mục tiêu chính trị?"

"Chính trị," Godin thở dài nặng nhọc. "Thế giới này làm tôi ghê tởm, ngài McCaskell ạ. Những con người như các ngài đã làm dơ bẩn nó. Ý tưởng của các ngài về chính phủ là một cái nhà thổ. Một cái chợ trời bẩn thỉu nơi những lý tưởng của cha ông chúng ta bị đem bán lấy mấy đồng bạc rách."

McCaskell nheo mắt nhìn Godin như nhìn một kẻ thuyết giảng đạo đức trên đường phố đang la hét chửi mắng khách qua đường. Ông định nói thì đám người ngồi ở chiếc bàn sau lưng ông bỗng há hốc miệng kinh ngạc.

Trên màn hình plasma lớn xuất hiện bốn dòng chữ thông báo màu xanh.

Tôi có một thông điệp cho tổng thống Mỹ. Sau đó, tôi sẽ có một thông điệp cho nhân dân thế giới. Đừng dại dột can thiệp vào hoạt động của tôi. Sự can thiệp sẽ bị trừng trị ngay tức khắc. Đừng thử tôi.

"Lạy trời," Skow thở ra. "Nó nói thật đấy. Nó đã làm được điều đó. Chúng tôi đã làm được điều đó."

"Phải, các anh đã làm điều đó," Ewan McCaskell nói. "Các anh là đồ chó đểu ngạo mạn. Và các anh có thể bị treo cổ vì chuyện này."

"Nhìn kìa," Ravi Nara kêu lên. "Còn nữa."

Thông điệp đầu tiên được cuốn xuống dưới màn hình, và những dòng chữ khác xuất hiện.

Tôi chỉ chấp nhận những dữ liệu từ phòng Tình thế của Nhà Trắng và từ sở chỉ huy ở White Sands là có hiệu lực. Các thông tin sẽ được gửi tới Địa chỉ Giao thức Internet 105.674.234.64.

"Nó biết chúng ta đang ở đây," Ravi vừa nói vừa liếc quanh gian phòng tìm camera an ninh.

"Tất nhiên là nó biết," Skow nói. "Đó là Godin. Và Levin đã tóm tắt cho ông ta mọi việc xảy ra cho đến lúc này."

"Nhìn kìa," McCaskell kêu lên.

Một lời nhắn mới nhấp nháy trên màn hình.

Peter Godin còn sống không?

"Ai sẽ nói chuyện với cái của này?" tướng Bauer hỏi.

"Trả lời nó đi," McCaskell nói.

Viên tướng ra hiệu cho các kỹ thuật viên ngồi bên bảng điều khiển. "Hạ sĩ, hãy trả lời khẳng định. Bắt đầu đối thoại với máy đi."

"Rõ, thưa ngài."

Có tiếng bàn phím lách cách khi câu trả lời được gõ vào. Một thông điệp mới hiện ra gần như tức khắc.

Tôi muốn nói chuyện với Godin.

"Gõ theo lời tôi nói," McCaskell ra lệnh.

Tướng Bauer gật đầu ra hiệu cho kỹ thuật viên của mình.

"Tôi là Ewan McCaskell, chánh văn phòng phủ tổng thống Mỹ."

Người lính gõ thông điệp của McCaskell. Câu trả lời đến tức khắc.

Tôi biết ông là ai.

"Tôi không biết ông là ai," McCaskell nói. "Ông có thể cho biết quý danh?"

Màn hình lớn tối đen mất một lúc. Sau đó xuất hiện hai từ nhấp nháy rồi sáng ổn định.

Ta là.

"Trời ơi," Ravi thầm thì.

"Gõ câu này," McCaskell nói "Không hiểu câu trả lời. Làm ơn cho biết danh tính. Ông có phải là Peter Godin không?"

Tôi đã từng là.

"Bây giờ ông là ai?"

TA LÀ 2 .

Mọi người ngồi bên bàn nhìn nhau, nhưng không ai nói câu nào. Những chữ cái trên màn hình tiếp tục sáng rực rồi dịu đi, như thể chiếc máy hiểu rằng cần có thời gian cho đám người kia hiểu nó. Ravi cảm thấy một nỗi sợ không giống bất kỳ nỗi sợ nào y từng có, và y thấy nỗi sợ phản chiếu trong mắt những người khác. Chỉ có khuôn mặt Peter Godin bình thản. Đôi mắt xanh của ông già mở to và dán chặt lên màn hình, gương mặt nhăn nheo dãn ra thành một cái nhìn thán phục như trẻ thơ.

--- ------ ------ ------ -------

1 Triết gia Đức (1844-1900).

2 Đây là cách Jesus Christ tự xưng danh: "Các người sẽ chết trong tội lỗi của mình trừ phi các người tin rằng TA LÀ (Chúa)." (Jn.8:24)
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38


Mặt trời tỏa sáng trong trẻo rực rỡ bên ngoài máy bay khi chúng tôi bay về hướng Tây trên lục địa Mỹ. Chiếc El Al 747 được để lại New York. Chiếc Gullstream mà những người Israel đưa chúng tôi đến đây tuy nhỏ hơn nhưng sang trọng hơn nhiều. Rachel vẫn ngủ ngon trên chiếc giường phía sau từ khi chúng tôi rời sân bay JFK. Tôi thì không được may mắn như thế. Tướng Kinski đã buộc tôi phải thức để trả lời những câu hỏi vô tận của các nhà khoa học Israel. Tôi muốn nghỉ quá chừng, nhưng vì viên tướng chỉ huy Mossad có thể ra lệnh cho máy bay quay trở lại bất cứ lúc nào nên tôi đành chấp nhận hợp tác.

Đâu đó trên bầu trời Arkansas, cuối cùng Kinski cũng nhận ra tôi chịu đựng hết nổi. Tôi vào toilet, rồi xuống cuối máy bay đến chỗ Rachel. Nàng không còn ngủ nữa, mà ngồi chăm chú nhìn thảm mây trắng bất tận đang bồng bềnh trôi phía dưới qua cửa sổ máy bay.

"Em ổn chứ?" tôi hỏi.

Nàng ngước nhìn tôi, đôi mắt thâm quầng. "Em tưởng họ sẽ không bao giờ buông tha anh."

Tôi ngồi xuống bên nàng. Họng tôi đau vì nói quá nhiều, còn cổ thì nhức như thể xem phim từ hàng ghế đầu trong rạp chiếu bóng.

Nàng luồn tay vào tay tôi, ngả đầu trên vai tôi. "Chúng ta chưa bao giờ nói chuyện ra đầu ra đũa với nhau kể từ khi anh hết hôn mê."

"Anh biết."

"Bây giờ chúng ta nói được không?"

"Nếu em muốn. Nhưng em sẽ không thích những gì mình sắp nghe đâu."

"Anh có mơ không?"

"Có và không. Nó không giống những giấc mơ cũ của anh. Không giống phim. Mà giống như một người bị điếc suốt đời bỗng nhiên nghe được nhạc Bach. Một cảm giác mạc khải khôn tả. Và bây giờ... anh biết nhiều sự việc."

"Nghe cứ như một ảo giác phiêu diêu. Anh biết những loại sự việc nào?"

Tôi ngẫm ngợi. "Loại sự việc mà những đứa trẻ năm tuổi muốn biết. Chúng ta là ai. Chúng ta từ đâu đến. Chúa có tồn tại không?"

Rachel ngồi bật dậy, và tôi tin rằng nàng đang trượt trở về con người nghề nghiệp của nàng. "Kể cho em nghe đi."

"Anh sẽ kể. Nhưng em phải vứt bỏ các thành kiến của em đi đã. Đây là Saul trên con đường đến Damascus 1 ."

Nàng khúc khích cười, mắt tỏ vẻ hiểu biết. "Thế anh nghĩ em chờ đợi nghe điều gì khác ư?"

Tôi phần nào muốn im lặng. Những gì tôi chia sẻ với Rachel trong quá khứ khiến nàng sẵn sàng tin, nhưng so với mạc khải trong cơn hôn mê của tôi, chúng có vẻ quá tầm thường. Cách mở đầu an toàn nhất là từ những gì quen thuộc.

"Em còn nhớ giấc mơ đầu tiên của anh không? Giấc mơ thường lặp lại ấy."

"Một người đàn ông liệt ngồi trong căn phòng tối?"

"Đúng đấy. Ông ấy không thể nhìn, nghe hay nhớ bất cứ điều gì. Em có nhớ ông ta tự hỏi gì không?"

"Tôi là ai. Tôi từ đâu đến."

"Đúng. Em đã bảo người đàn ông ấy là anh, em nhớ không?"

Nàng vén lọn tóc đen nhánh ra khỏi mắt. "Anh vẫn không tin đó là mình à?"

"Không."

"Vậy ông ấy là ai?"

"Chúa."

Những thớ thịt căng ra bên dưới gương mặt trái xoan của nàng. "Đáng lẽ em phải đoán ra."

"Em đừng hoảng hốt. Anh dùng từ ấy như một kiểu ký hiệu, vì chúng ta không có từ ngữ để truyền đạt điều mà anh đã trải nghiệm. Chúa chẳng giống chút nào với hình ảnh chúng ta tưởng tượng về Người. Người không phải đàn ông hay đàn bà. Thậm chí không phải linh hồn. Anh dùng từ 'ông ấy' chỉ là để thuận tiện khi nói chuyện mà thôi."

"Thật là hay khi biết điều đó." Một nụ cười gượng gạo. "Anh đang bảo em rằng Chúa là một người liệt, không có trí nhớ, ngồi trong căn phòng tối như hũ nút sao?"

"Lúc đầu thì thế."

"Ông ấy bất lực?"

"Không hoàn toàn. Nhưng ông ấy nghĩ mình như thế."

"Em không hiểu."

"Để hiểu cái khởi đầu, em phải hiểu kết thúc. Khi chúng ta đi đến chỗ kết thúc, em sẽ hiểu tất cả."

Nàng có vẻ còn lâu mới tin.

"Em còn nhớ giấc chiêm bao không? Người ngồi trong căn phòng ấy bị ám ảnh bởi những câu hỏi của mình, ám ảnh đến mức ông ấy trở thành những câu hỏi. 'Tôi là ai?' 'Tôi từ đâu đến?' 'Tôi có luôn ở đây không?' Rồi ông thấy một quả bóng màu đen trôi trong không gian trên đầu ông. Đen tối hơn mọi thứ đen tối."

Rachel gật đầu. "Anh có biết quả bóng ấy giờ ở đâu không?"

"Anh biết. Cái duy nhất. Một điểm có mật độ, nhiệt độ và áp suất vô hạn."

"Hố đen? Giống như những gì tồn tại trước Big Bang?"

"Chính xác. Thế em có biết cái gì tồn tại trước đó không?"

Nàng nhún vai. "Chẳng ai biết được điều đó."

"Anh biết."

"Cái gì?"

"Khao khát hiểu biết của Chúa."

Đôi mắt nàng đầy tò mò. "Biết cái gì?"

"Người là ai."

Rachel nắm tay tôi trong hai bàn tay của nàng và bắt đầu dùng ngón tay cái xoa nhẹ lòng bàn tay tôi. "Quả cầu đen bùng nổ trong giấc mơ của anh đúng không? Anh bảo là nó giống như bom khinh khí."

"Đúng vậy. Nó nuốt chửng bóng tối với một tốc độ ghê người. Tuy vậy người trong giấc mơ vẫn còn đó bên ngoài vụ nổ."

"Anh giải thích hình ảnh ấy như thế nào? Chúa chứng kiến sự ra đời của vũ trụ?"

"Đúng. Nhưng anh không giải thích. Anh nhìn thấy cảnh ấy. Anh thấy những gì Chúa nhìn thấy."

Ngón tay cái của nàng thôi không cử động nữa. Nàng không thể giấu nỗi buồn trong ánh mắt.

"Anh biết em đang nghĩ gì," tôi nói.

"David, anh không thể đọc được tâm trí của em."

"Anh có thể đọc được ánh mắt em. Coi này, để hiểu những gì anh đang nói với em, em hãy thôi không làm bác sĩ tâm thần trong hai mươi phút."

Nàng thở dài sõng sượt. "Em sẽ cố. Em thật sự đang cố gắng đây. Anh hãy mô tả cho em những gì anh trông thấy."

"Anh đã mô tả cho em từ nhiều tuần trước. Nhưng lúc đó anh còn chưa hiểu. Rằng vụ nổ đó là Big Bang. Sự ra đời của vật chất và năng lượng từ một điểm duy nhất. Sự ra đời của thời gian và vũ trụ của chúng ta."

"Còn những giấc mơ khác của anh?"

"Em hãy nhớ điều mà anh trông thấy. Sau vụ nổ, vũ trụ mở rộng bắt đầu thế chỗ của Chúa. Điều này không xảy ra trong không gian ba chiều, nhưng đó là cách duy nhất để chúng ta nghĩ về nó. Nghĩ về Chúa như một đại dương vô hạn. Sách Sáng thế cũng mô tả như thế. Không có sóng, không có sức căng, không có cả những bọt bong bóng. Hài hòa hoàn hảo, dung giải toàn bộ, trì trệ tuyệt đối."

"Tiếp đi."

"Nghĩ về sự ra đời của vũ trụ như một bong bóng hình thành giữa tâm đại dương ấy. Hình thành và dãn nở như một vụ nổ, thay thế nước với tốc độ ánh sáng."

"Được lắm."

"Những gì xảy ra bên trong bong bóng chính là điều mà anh đã thấy trong những giấc mơ sau này. Sự ra đời của các thiên hà và các ngôi sao, sự hình thành các hành tinh, và tất cả những thứ còn lại. Anh thấy lịch sử của vũ trụ chúng ta mở ra trước mắt. Em đã gọi nó là 'ảnh của kính thiên văn viễn vọng Hubble'."

"Em nhớ rồi."

"Cuối cùng giấc mơ của anh tập trung vào Trái Đất. Các sao băng va chạm vào bầu khí quyển nguyên thủy. Các axit amin hình thành. Tiến hóa từ vô cơ đến hữu cơ. Các vi khuẩn trở thành đa bào, cuộc đua tiếp tục, các loài nối nhau đời, cá, lưỡng cư, bò sát, chim, động vật có vú, linh trưởng..."

"Người," Rachel kết thúc.

"Phải. Mất đến mười tỷ năm để đạt đến tiến hóa sinh học. Rồi một trăm triệu năm đột biến để hình thành loài người. Và tất cả những cái đó gộp lại không là gì trong con mắt của Chúa."

Rahel cau mày. "Tại sao? Chẳng lẽ Chúa không có ý định cho tất cả các tạo vật ấy tồn tại và tiến hóa sao?"

"Không. Sự tình có lẽ không phải thế. Chúa ngạc nhiên về tất cả những thứ đó."

"Ngạc nhiên ư?"

"Ờ... Anh cho rằng đây là cảm giác ngờ ngợ. Chúa đã nhìn thấy cái tương tự từ trước. Không hoàn toàn như thế, nhưng những gì Chúa thấy đã khiến ngài nhớ lại sự việc."

Rachel xoay người trên ghế, nhìn tôi chằm chằm. "Vậy những sự sáng tạo của cuộc sống không có ý nghĩa gì đối với Người ư?"

"Ban đầu thì không. Nhưng sau đó - từ cái khối sinh thể lúc nhúc kia - một tia lửa rực rỡ như Big Bang lóe lên trong mắt Người."

"Tia lửa nào?"

"Ý thức. Trí thông minh của loài người. Đâu đó ở châu Phi, một giống người biết chế tác công cụ, có bộ não khá lớn đã nhận thức được cái chết của chính nó. Nó nhận thức về một tương lai trong đó nó không còn tồn tại. Giống người này trở nên không chỉ tự ý thức, mà còn có ý thức về thời gian. Đó là thời điểm để Chúa hiện ra."

"Tại sao?"

"Bởi vì trong vụ nổ khủng khiếp của vật chất và năng lượng ấy, ý thức là cái đầu tiên được Chúa thừa nhận là giống bản thân Chúa."

"Vậy Chúa là thế đấy ư? Là Ý thức?"

"Anh nghĩ vậy. Ý thức không có vật chất và năng lượng. Thông tin thuần túy."

Rachel im lặng một lát, và tôi không thể đọc được ánh mắt nàng. "Tất cả những chuyện ấy xảy ra ở đâu?" cuối cùng nàng hỏi.

"Tại một nơi vô cùng khiêu khích. Nhưng bây giờ chúng ta cứ bàn về những giấc mơ đã. Loài người tiến hóa rất nhanh. Họ cày ruộng, xây các thành phố, ghi chép lịch sử của mình. Và Chúa cảm thấy cái gì đó như niềm hy vọng."

"Hy vọng gì?"

"Hy vọng rằng cuối cùng Chúa có thể biết được bản chất của chính mình."

"Chúa đã trả lời các câu hỏi của mình bằng cách quan sát loài người?"

"Không. Bởi sau một điểm nhất định, tiến hóa dừng lại. Không phải là tiến hóa sinh học, mà tiến hóa về tâm lý. Con người phá hủy xã hội cũng nhanh như tạo ra chúng. Con người cướp phá thành phố, hủy hoại các cánh đồng, tàn sát anh em, hãm hiếp chị em mình, ngược đãi con cái mình. Con người có tiềm năng vô hạn, nhưng lại bị kẹt trong vòng tự hoại, không có khả năng tiến hóa ra khỏi một cuộc sinh tồn dã man một cách cần thiết."

"Và Chúa chẳng thể giải quyết chuyện này?"

"Không. Chúa không thể kiểm soát chuyện gì xảy ra bên trong bong bóng. Chúa không tồn tại trong thế giới của vật chất và năng lượng. Dù sao thì cũng không tồn tại với tư cách Thượng đế. Ngài chỉ có thể ngắm nhìn và cố gắng hiểu. Các thế kỷ trôi qua, Chúa trở nên bị ám ảnh bởi con người, như trước đây Người bị ám ảnh về bản thân. Tại sao con người không thể phá vỡ cái vòng bạo ngược và vô dụng này? Chúa tập trung toàn bộ trí lực của mình vào bong bóng, cố tìm ra một điểm yếu, tìm một con đường đi vào cái mê cung của vật chất và năng lượng đang thế chỗ Chúa."

"Rồi sao?"

"Điều đó đã xảy ra. Chúa thấy mình đang nhìn bong bóng từ bên trong. Qua cặp mắt của con người. Cảm thấy bộ da người, ngửi thấy mùi trái đất. Ngước lên nhìn gương mặt mẹ. Gương mặt của mẹ Người."

"Anh đang nói về Jesus phải không? Anh đang nói về Chúa biến thành Jesus xứ Nazareth."

Tôi gật đầu.

"Anh đang nói đúng những điều các tín đồ Thiên chúa giáo tin. Chỉ có điều... anh làm như thể đó là việc ngẫu nhiên vậy."

"Đúng thế, theo một cách nào đó. Chúa cố gắng tập trung vào thế giới, và Jesus là một cánh cửa mở ra cho Người. Tại sao lại là đúng đứa bé đó? Ai mà biết được?"

"Có phải toàn bộ Chúa đã nhập vào Jesus?"

"Không. Ta hãy tưởng tượng một ngọn nến đang cháy. Ta đưa cây nến thứ hai lại gần ngọn lửa, châm lửa rồi đưa ra xa. Cây nến thứ hai cháy, nhưng ngọn lửa đầu tiên vẫn còn. Đó là cách tồn tại của nó. Một phần của Chúa nhập vào Jesus, nhưng phần còn lại vẫn ở bên ngoài vũ trụ của chúng ta. Bên ngoài bong bóng."

"Nhưng Jesus có quyền năng của Chúa chứ?"

"Không. Bên trong bóng bóng, Chúa chịu sự chi phối của những quy luật của vũ trụ chúng ta."

"Thế còn những phép lạ. Đi trên mặt nước. Làm người chết sống lại?"

"Jesus là người cứu chữa, không phải phù thủy. Những câu chuyện như thế chỉ có lợi cho ai muốn dựng lên xung quanh Ngài một tôn giáo."

Rachel lắc đầu như người chóng mặt. "Em chẳng biết nói sao."

"Em hãy suy nghĩ một chút. Quãng đời đầu của Jesus rất ít được biết đến. Chúng ta có truyền thuyết về sự ra đời của ngài. Mấy câu chuyện về thời thơ ấu có lẽ là ngụy tạo. Rồi bỗng nhiên ngài bật lên thành một cá nhân kiệt xuất toàn thiện toàn mỹ vào lứa tuổi ba mươi. Anh thường tự hỏi tại sao người ta không đặt nhiều câu hỏi về thuở thiếu thời của Jesus. Có phải Ngài từng là một em bé hoàn hảo không? Ngài có yêu người phụ nữ nào không? Đã từng có con chưa? Ngài có tội lỗi như tất cả mọi người không? Tại sao lại có khoảng trống lớn đến thế trong cuộc đời ngài?"

"Em nghĩ là anh đã có câu trả lời."

"Anh nghĩ là có. Chúa đi vào nhân thế để cố gắng tìm hiểu tại sao loài người không tiến hóa thêm nữa. Để làm điều đó, Người đã sống như một con người. Và khi trưởng thành, Người đã tìm ra câu trả lời. Nỗi đau và sự vô nghĩa của đời người có thể chịu được là nhờ những niềm vui khôn tả mà con người trải nghiệm. Sắc đẹp, tiếng cười, tình yêu... thậm chí niềm vui đơn giản như ăn trái cây hay nhìn một đứa trẻ. Thông qua Jesus, Chúa cảm nhận được những điều kỳ diệu ấy. Tuy nhiên Người cũng nhìn thấy sự diệt vong của loài người với tư cách giống loài."

"Tại sao?"

"Con người sinh sôi nảy nở trong một thế giới bạo lực bởi vì nó có những bản năng nguyên thủy phù hợp với thế giới ấy. Tuy nhiên nếu muốn tiếp tục tiến hóa, nó phải vứt bỏ bản năng ấy đi. Tiến hóa không bao giờ loại bỏ được bản năng ấy. Tiến hóa không được thiết kế để tạo ra những con người đạo đức. Nó là một động cơ mù, một cơ chế chiến đấu cạnh tranh chỉ hướng tới sinh tồn mà thôi."

Rachel trông có vẻ đăm chiêu. "Em nghĩ em đã biết anh sẽ đi đến đâu."

"Em nói đi."

"Thông qua Jesus, Chúa muốn cố gắng thuyết phục con người vứt bỏ bản năng nguyên thủy của mình, vứt bỏ phần con vật trong bản thân mình."

"Chính xác. Jesus đã nói và làm gì? Hãy quên đi những điều các tín đồ gán ghép vào cuộc đời Ngài. Hãy chỉ nghĩ đến lời nói và việc làm của Ngài."

" 'Hãy yêu người hàng xóm của ngươi như chính bản thân ngươi. Nếu người ta tát vào má phải ngươi, hãy chìa má trái ra.' Ngài chối bỏ phần bản năng người trong Ngài."

"Hãy vứt bỏ tất cả những gì ngươi có và theo ta," tôi trích dẫn. "Jesus sống nêu gương, và mọi người phấn chấn noi theo tấm gương ấy."

"Nhưng Ngài đã bị giết vì điều đó."

"Không thể nào tránh khỏi."

Rachel bậm môi dưới, nhìn ra ngoài qua vuông cửa sổ màu xanh của máy bay. "Thế còn cuộc hành hình? Điều gì xảy ra trên thánh giá?"

"Ngài chết. Ngọn lửa trong Ngài trở về với nguồn của nó. Nó bỏ cái thế giới vật chất và năng lượng này lại phía sau."

"Không có sự phục sinh?"

"Đối với thân thể thì không."

Rachel thở dài nặng nề, rồi quay sang tôi như sợ những điều tôi sẽ tiếp tục nói ra. "Lúc đó Chúa làm gì?"

"Ngài thất vọng. Ngài đã làm hết sức mình trong tư cách một con người, và mặc dầu đã ảnh hưởng đến nhiều người, nhưng thông điệp của Người đã bị cải biên, bị bóp méo, bị lợi dụng. Trong hai nghìn năm, nỗ lực chủ yếu của con người hình như chỉ là để tìm ra những phương thức hữu hiệu hơn để hủy diệt nòi giống của mình. Cho đến khi..."

"Sao?"

"Cách đây mấy tháng."

"Anh lại đang nói về Dự án Trinity?"

Tôi gật đầu. "Trong Trinity có mầm mống của sự cứu rỗi, cho con người và Chúa. Nếu ý thức của con người có thể thoát ra khỏi cơ thể, thì những bản năng nguyên thủy đã tàn phá loài người trong thời gian dài đến thế cuối cùng sẽ bị loại trừ."

"Vậy Chúa đã làm gì?"

"Ngài lại tập trung vào thế giới này một lần nữa. Nhưng theo cách nhỏ hơn nhiều. Tập trung vào nhóm sáu người bọn anh. Godin, Fielding, Nara, Skow, Klein... và anh."

"David... có phải anh đang nói những gì em nghĩ về anh không?"

"Chúa muốn quay trở lại bên trong bong bóng."

"Tại sao?"

"Bởi ngài thấy con người đã gần đạt đến trạng thái kế tiếp của tiến hóa - cái mà bọn anh gọi là trạng thái Trinity - hoàn toàn có khả năng hủy diệt loài người đúng bằng cách Người có thể cứu nó."

"Peter Godin?"

"Đúng."

Nàng nhìn xuống lòng mình. "Anh muốn nói rằng Chúa đã chọn anh để ngăn không cho Peter Godin đi vào máy tính Trinity?"

"Đúng."

Nàng gật đầu như thể đang lặng lẽ khẳng định một chẩn đoán, rồi ngẩng lên nhìn tôi. Bản thân tôi đã gật đầu như thế không biết bao nhiêu lần. "David, hồi còn ở Tennessee anh có nói với em rằng anh cảm thấy mình đã được Chúa chọn. Có phải vị Chúa ấy bây giờ đang ở trong anh không?"

"Phải."

"Giống như Người ở trong Jesus?"

"Một phần ngọn lửa ban đầu lúc này đang ở trong anh. Đó là lý do tại sao anh có những giấc mơ về Jerusalem ấy, và tại sao chúng lại giống ký ức. Chúng chính là ký ức."

"Ôi, David, ôi... không." Nàng ngửa đầu ra sau và chớp chớp ngăn nước mắt trào ra.

"Em không cần phải tin anh ngay bây giờ. Chẳng bao lâu nữa em sẽ thấy tận mắt."

"Thấy gì? Anh sắp sửa làm gì?"

"Ngăn Godin lại."

Nàng quay ngoắt người lại nhìn tôi bằng ánh mắt kiên quyết. "Em sẽ nói em nghĩ gì về anh. Em cần phải nói ngay, vì chúng ta sắp hạ cánh, và anh đã yêu cầu Kinski đưa chúng ta vào một tình thế vô cùng nguy hiểm. Một tình thế mà anh chẳng mấy sẵn sàng dấn thân vào đâu."

"Rachel..."

"Em xin anh cho em nói những điều em nghĩ, được không?"

"Được, nhưng em chưa để anh nói hết. Anh đã nói với em rằng để hiểu được đoạn đầu, em cần phải hiểu đoạn kết."

Nàng nhắm mắt lại, và tôi có thể thấy lòng kiên nhẫn của nàng đã cạn kiệt. Tôi thở dài chịu thua. "Thôi em nói đi."

Nàng nhìn tôi chăm chăm. "Người đàn ông liệt ngồi trong bóng tối đó không phải là Chúa. Đó chính là anh. Anh chưa bao giờ hồi phục sau những gì xảy đến với Karen và Zooey."

Tôi không thể tin nổi. Nàng đã đi trọn một vòng để rồi trở lại với chẩn đoán ban đầu. "Thế còn tất cả những gì anh nói với em hôm nay?"

"Quy về những từ ngữ đơn giản, thì anh đã nói những gì nào? Anh nhận sứ mệnh từ Chúa. Một sứ mệnh từ Chúa để cứu loài người. Anh có đồng ý không?"

"Đồng ý."

"Anh thấy không? Nhờ tin vào câu chuyện huyền hoặc ấy, trí óc anh thoát khỏi nỗi đau khủng khiếp về những mất mát gia đình."

"Như thế nào?"

"Bên trong cái ảo ảnh phức tạp này, cái chết của Karen và Zooey mang một ý nghĩa. Chính cái chết của họ đã khiến anh viết cuốn sách đó. Chính cuốn sách khiến anh được chỉ định vào Trinity. Nếu anh tin rằng Chúa đã đưa anh vào Trinity để chặn tay cái Ác, thì như vậy cái chết của những người thân của anh có ý nghĩa, chứ không còn là một bi kịch vô nghĩa nữa."

Tôi siết chặt tay ghế để cố ghìm nỗi thất vọng.

"David, anh đã có bằng vật lý lý thuyết của Đại học Công nghệ Massachuset. Trí não anh có thể kiến tạo nên hoang tưởng này trong khi anh tìm cách cân bằng lại chính mình."

"Karen và Zooey chết cách đây năm năm rồi," tôi nói. "Khoan, hãy quên lập luận ấy đi. Em có nhớ cha anh nói về tôn giáo như thế nào không?"

"Thế nào?"

"Loài người là một vũ trụ trở nên ý thức về bản thân mình."

"Em nhớ."

"Cha anh nói đúng hơn ông nghĩ nhiều. Và một trong những điều ông dạy anh là mở rộng tâm hồn đón nhận sự thâm nhập của Chúa."

"Nhưng anh chưa bao giờ tin Chúa!"

"Theo cách truyền thống thì không. Nhưng anh tin điều này. Anh biết điều này. Và nếu em cho anh thêm một phút nữa thôi, em sẽ hiểu tại sao anh phải đến White Sands."

"Một phút ư? Như thế nhiều hơn em chờ đợi đấy."

"Sau khi Nils Bohr 2 trốn thoát khỏi vùng đất do bọn Đức Quốc xã kiểm soát, ông đến Los Alamos. Ông thấy ở đấy có một số nhà vật lý đang lúng túng. Cha anh là một trong số đó. Những nhà hàn lâm ngây ngô bỗng thấy mình làm việc với sức mạnh công nghệ không những đủ sức chấm dứt chiến tranh mà còn có thể kết liễu cả thế giới. Bohr trấn an họ bằng cách giải thích một nguyên lý sâu sắc, gọi là nguyên lý bù trừ. Ông nói, 'Mỗi khó khăn to lớn và sâu xa đến mấy cũng tự có nó giải pháp cho chính nó.' Thứ bom có thể hủy diệt thế giới lại cũng có sức mạnh chấm dứt chiến tranh quy mô lớn. Và nó làm được rồi." Tôi gõ mạnh đốt ngón tay lên tay ghế. "Máy tính Trinity chính là một vũ khí như thế. Nó có thể hủy diệt hoặc có thể cứu thế giới của chúng ta."

Rachel ngả người ra ghế và dụi mắt. "Anh không nghĩ mình đang tuyên bố quá lời sao?"

"Không."

"Em không thể nghĩ thêm về chuyện này nữa."

Thay vì cãi lại, tôi vươn người ra và bắt đầu xoa nhẹ cổ nàng. Sự căng thẳng của nàng không dịu đi ngay, nhưng một lúc sau nàng ngồi thụt sâu trong ghế với nhịp thở đều đều. Tôi đang cảm thấy mơ màng buồn ngủ thì tướng Kinski xuất hiện trên lối đi giữa, khuôn mặt bì bì của gã nhìn xuống tôi vẻ khẩn cấp.

"Chuyện gì vậy?" tôi hỏi.

"Một thung lũng ven sông đông dân ở Đức vừa bị ngập lụt. Nửa thành phố bị cuốn trôi. Một cái đập tự động mở ra."

"Chuyện đó thì có liên quan gì đến chúng tôi?" Rachel hỏi giọng ngái ngủ.

"Cái đập đó được điều khiển bằng máy tính. Những người vận hành nó cố gắng vượt qua hệ thống tự động, nhưng tác động của máy tính đã phá vỡ các cánh cửa của đập tràn. Hàng chục người chết đuối."

"Trinity?" tôi nói.

"Chúng tôi tin thế."

"Đây mới là bắt đầu."

Kinski gật đầu. "Tôi e là ông đã đúng."

"Nhưng nước Đức," Rachel kêu lên. "Nước Đức thì có liên quan gì đến Trinity?"

"Tôi hy vọng chúng ta sẽ sớm biết điều này," viên tướng chỉ huy Mossad nói. "Dù sao, tôi tin rằng chúng ta đang chiến đấu với một chiếc máy. Ông làm ơn quay trở lại đầu máy bay, bác sĩ Tennant. Chúng tôi có thêm một số câu hỏi cho ông."

Tôi đứng dậy đi theo viên tướng Israel.

--- ------ ------ ------ -------

1 Trích Kinh thánh, Saul (sau là thánh Paul), ban đầu là người chống Cơ Đốc, nhưng trên đường đến Damascus đã trải nghiệm một mặc khải lạ lùng là được gặp Chúa Jesus. Sau trải nghiệm đó, ông đã quyết định đến với Cơ Đốc giáo.

2 Niels Henrik David Bohr (1885-1962), nhà vật lý học Đan Mạch, có những cống hiến cơ bản về cấu trúc nguyên tử và cơ học lượng tử, giải Nobel vật lý 1922.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39


Phòng Tình thế, White Sands

Ravi Nara hớp một ngụm trà bốc khói và nhìn những người ngồi quanh bàn trong phòng Tình thế. Mọi người đang chằm chằm quan sát một màn hình nhỏ bên góc phải màn hình chính. Đoạn thông điệp đầu tiên của máy tính gửi tổng thống sáng lên sắc xanh, các dòng chữ bây giờ ớn lạnh như khi nó xuất hiện lần đầu trên màn hình chính.

Thưa ngài tổng thống,

Hôm nay ngài thức dậy trong một thế giới mới. Trinity đã làm cho các hình mẫu cũ về chính phủ trở nên lỗi thời. Khái niệm nhà nước tự chủ sẽ sớm sụp đổ. Ngài không nên sợ hãi trước sự thay đổi này. Hãy khuyên các công dân trên thế giới chớ nên sợ hãi. Nguyên thủ của các cường quốc khác cũng được gửi những thông điệp tương tự, và họ sẽ trông cậy vào sự chỉ đạo của ngài. Ngài và ta sẽ còn nói chuyện nhiều trong những ngày tới, nhưng ngay bây giờ có những thực tế nhất định cần được hiểu rõ.

Trước hết, ngài không được có bất cứ mưu đồ nào chống lại ta. Ta có sức mạnh hủy diệt hàng loạt mạng sống cũng như thủ đô của cả Mỹ lẫn các nước khác trên khắp thế giới. Sức mạnh này không khu trú trong mạch của ta. Ngay khi vừa lên mạng, ta đã xuất những chương trình nhất định đến hàng trăm máy tính ngoại vi trong mạng lưới của ta, chúng vây bọc toàn bộ Internet. Nếu ta bị ngắt mạng quá lâu, một thảm họa không tránh khỏi sẽ được khởi động ngay lập tức. Nếu các người có ý định tiêu hủy ta hay thậm chí là ngắt nguồn điện, nước Mỹ như các người biết sẽ không còn tồn tại. Muốn thấy một minh chứng nho nhỏ về sức mạnh của ta, hãy nhìn Nhật Bản xem.

Đã có một cuộc tấn công vào biểu hiện vật chất của ta. Nó bắt đầu từ lãnh thổ nước Đức. Vì ta xác định rằng cuộc tấn công này không phải từ một chính phủ quốc gia, nên ta đáp trả bằng một lực lượng hạn chế. Lãnh đạo các nước nên hành động ngay để ngăn chặn những cuộc tấn công loại này. Sự đáp trả của ta lần tới sẽ không còn hạn chế như thế nữa.

Về phương diện thực tế: bản thân ngài, phó tổng thống và Tổng Tham mưu trưởng Liên quân sẽ tập hợp trong một căn phòng có video kỹ thuật số và thiết bị giám sát âm thanh. Ngài phải giữ va li hạt nhân bên người. Ngài phải bố trí cho những người lần lượt kế nhiệm ngài theo thứ tự từ một đến tám tập hợp trong một căn phòng khác có hệ thống giám sát. Ta biết mã số báo động hạt nhân để triệu tập những quan chức kể trên, nên bắt họ phục tùng mệnh lệnh sẽ không khó khăn gì. Hãy gửi tất cả những tín hiệu giám sát theo thời gian thực đến Trinity. Sự bất tiện này sẽ chỉ cần thiết trong vòng bảy mươi hai giờ. Nếu các người không tuân theo trong vòng chín mươi phút thì ta buộc phải áp đặt những hình phạt thảm khốc. Đừng chậm trễ.

Ta sẽ sớm liên lạc lại với ngài.

Thông điệp này đẩy phòng Tình thế vào tình trạng hoảng loạn. Những câu hỏi cho máy tính không nhận được thêm bất cứ hồi đáp nào, và sự rối loạn chỉ càng thêm tồi tệ cho tới khi câu chuyện về "sự cố" đập nước ở Đức xuất hiện trên bản tin đầu giờ của CNN. Ít phút sau, Skow buông máy sau khi tham khảo các đồng nghiệp NSA của mình ở căn cứ quân sự Meade.

"Cảnh sát liên bang Đức đã bắt giam hai học sinh trung học lớp mười hai. Có vẻ hai thằng bé này đã nghe tin về Trinity và tưởng tượng đây là cơ hội lớn để chúng cứu thế giới. Chúng mò ra địa chỉ IP của Trinity, đột nhập qua tường lửa mà Levin đã dựng lên, và tấn công máy tính đó."

"Bọn chúng sống ở đâu?" tướng Bauer hỏi.

"Trong thành phố bị lụt khi đập vỡ. Trường học và một trong những ngôi nhà của cha mẹ chúng bị phá hủy."

Bauer gục gặc đầu. "Điều này cho chúng ta thấy rõ hơn đặc trưng về khả năng trả thù của máy tính này."

Những tin nóng khác khiến phòng Tình thế chết lặng, tin này từ MSNBC.

"Đồng yên Nhật sụt giảm mười lăm phần trăm trong phiên giao dịch ngoài giờ hôm nay, làm bùng lên nỗi sợ phải bán tống bán tháo do hoảng loạn khi Nikkei mở cửa vào thứ Hai. Sự sụt giảm được cho là do khối lượng giao dịch tăng bất thường của thương mại điện tử đã khiến đồng yên giảm giá xuống thấp hơn giá được kìm giữ trong mậu dịch. Hiện tượng bất thường này làm dấy lên mối nghi ngại rằng các hacker đã lọt được vào hệ thống giao dịch ngoài giờ, nhưng chưa có bằng chứng nào khẳng định điều này. Đồng yên đã tạm thời ổn định, nhưng vẫn còn nỗi sợ dai dẳng rằng các tổ chức thương mại sẽ bắt đầu phá giá đồng bạc này lần nữa vào bất kỳ thời điểm nào."

"Mười lăm phần trăm!" Skow nói với bộ mặt xám ngoét. "Các ông có tưởng tượng nổi chuyện gì sẽ xảy ra khi đồng đô la giảm giá mười lăm phần trăm trong vòng một ngày không?"

Trong khi mọi người ở phòng Tình thế cố gắng tiếp cận ý định của Trinity, các nhà phân tích của trường Tình báo Quân sự ở căn cứ Huachuca lập một danh sách những mục tiêu dễ bị Trinity tấn công. Mục tiêu bao gồm mạng lưới điện quốc gia, các nhà máy hạt nhân và thủy điện, công nghiệp hóa chất và hầm mỏ, hệ thống kiểm soát không lưu, ngân hàng, thị trường chứng khoán, bệnh viện, tàu chiến của hải quân, tàu chở dầu cỡ lớn, đường ống dẫn dầu và khí, và hệ thống đường sắt. Cơn ác mộng khủng khiếp nhất đối với Ravi là hàng trăm đầu đạn hạt nhân bay xuyên lục địa, nhưng tướng Bauer khẳng định kho vũ khí hạt nhân của Mỹ và Nga là an toàn. Trong suốt bốn mươi năm Chiến tranh Lạnh, chúng đã được bảo đảm chắc chắn trước mọi hiểm họa có thể tưởng tượng ra, kể cả các máy tính chơi xấu. Để phóng tên lửa hạt nhân cần có mã số thẩm quyền do tổng thống cung cấp, và hai chìa khóa phòng điều khiển phóng tên lửa do hai con người có kỷ luật cao nhất giữ. Do vậy, mặc dù Trinity có thể gây chết người hàng loạt, nó vẫn không thể khởi động chiến tranh hạt nhân.

Tổng thống vẫn chưa tin chắc vào những giới hạn trả thù có thể liều lĩnh gây thảm họa của Trinity. Năm phút trước khi hết thời hạn tối hậu thư, ông tự nguyện đặt mình dưới hệ thống giám sát. Đầu tiên ông có mấy cuộc nói chuyện với Evan McCaskell, trong đó ông vạch chiến lược hòa hoãn bằng cách tuân theo các thông tin từ máy tính. Ông cũng ra lệnh có thể thử bất cứ hành động nào làm tê liệt máy tính này mà không nguy hiểm cho nhiều mạng sống.

Dùng quyền hạn ra lệnh này là cả một vấn đề khó khăn. Ngay khi bị đặt trong vòng cưỡng chế, tổng thống trở nên không còn quyền hành về pháp lý để thực thi nghĩa vụ của ông. Với sự thỏa hiệp của những quan chức kế nhiệm trực tiếp theo trình tự, đây quả là tình thế có một không hai. Không ai cảm thấy yên tâm trao trách nhiệm giải quyết cuộc khủng hoảng Trinity cho Bộ trưởng Nông nghiệp, người từ lúc này trở đi trở thành người đứng đầu cơ quan hành pháp. Các thành viên Quốc hội tản mát khắp thủ đô, không có cách nào tập hợp họ lại mà Trinity không biết. Để khắc phục khoảng trống lãnh đạo này, tổng thống trao quyền cho một tổ giải quyết khủng hoảng để ra mọi quyết định liên quan đến Trinity.

Tổ này gồm có Evan McCaskell, tướng Bauer và bất cứ thành viên nào của ủy ban Thượng viện Đặc trách Tình báo được bí mật tập hợp một cách vội vã. Mọi quyết định đều được tuân thủ theo đa số. Các thượng nghị sĩ nhóm họp tại đại bản doanh của NSA ở căn cứ quân sự Meade, tại đây liên kết video được bảo vệ bằng hệ thống mã hóa hiện đại nhất của cục an ninh, cho phép liên lạc an toàn với phòng Tình thế ở White Sands. Một hình ảnh góc rộng hiển thị trên màn hình lớn tại phòng Tình thế cho thấy các thượng nghị sĩ ngồi quanh một chiếc bàn dài trong căn phòng không cửa sổ trông như hầm tránh bom.

Thượng nghị sĩ Barrett Jackson, chủ tịch Ủy ban Đặc trách Tình báo từ trên màn hình video nhìn xuống nói, "Tôi trông thấy họ. Họ có trông thấy tôi không?"

"Chúng tôi thấy ông, thượng nghị sĩ ạ. Tôi là Skow của NSA."

Thượng nghị sĩ Jackson là một con người gan lì, với xương hàm bạnh và đôi mắt sâu hoắm. Ông gốc người Texas, giọng nói lè nhè của ông làm ta khó nhận ra cái trí khôn bén nhọn bên trong.

"Tôi nhận ra tướng Bauer," ông nói. "Ờ... rồi. Tôi có một câu hỏi cho chuyên gia các ông. Tại sao máy tính này ngừng liên lạc với chúng ta? Tại sao nó không nói hay ra lệnh gì đó nữa?"

"Nó đang củng cố sức mạnh của nó," tướng Bauer nói. "Đó là một động thái hợp logic. Có khả năng các kỹ thuật viên của Godin vẫn đang nạp dữ liệu vào bộ nhớ của nó."

Skow gật đầu. "Tôi nhất trí. Cả NSA lẫn CERN đều nói Trinity chưa kết thúc chuyến đi vòng quanh toàn bộ hệ thống máy tính thế giới. Nói theo nghĩa đen thì có lẽ nó đang hấp thụ từng bit thông tin khi nó đi qua."

"Tôi hiểu," thượng nghị sĩ Jackson nói. "Thiếu tướng, hãy dự tính kịch bản xấu nhất có thể. Máy tính đó có thể gây ra cho chúng ta những gì?"

"Xin lỗi, tướng Bauer," Skow xen vào. "Trước khi ngài làm việc đó, tôi cảm thấy có bổn phận ít nhất phải nêu ra khả năng của một hệ thống 'bàn tay chết' của Nga."

"Nó là cái quái quỷ gì thế?" Jackson hỏi. "Bàn tay chết à? Tôi có cảm tưởng mình đã nghe qua."

"Ngài thượng nghị sĩ có trí nhớ tốt đấy," Skow nói. "Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, các nhà hoạch định kế hoạch của Liên Xô biết rằng chiến lược của Mỹ là xóa bỏ các mệnh lệnh và tiêu diệt hệ thống điều khiển của họ bằng những tên lửa đầu tiên của ta. Có tin đồn vì thế Liên Xô đã sáng tạo ra cái gọi là hệ thống 'bàn tay chết': một hệ thống máy tính sẽ tự động phóng ICBM 1 ngay khi nhận được báo động tên lửa từ hệ thống ra đa bảo vệ bờ biển của họ. Ngay cả khi các lãnh đạo Liên Xô bị giết thì những 'bàn tay chết' của họ vẫn có thể ấn nút hạt nhân. Tin đồn về hệ thống ấy xuất phát từ Liên Xô, nhưng là thật hay giả thì vẫn chưa ai biết. Các thế hệ lãnh đạo sau của Nga phủ nhận sự tồn tại này, và các sự kiện gần đây đã xác minh lời phủ nhận ấy."

"Ông đang nói về sự cố Na Uy phải không?" một phụ nữ ngồi cuối bàn ủy ban hỏi.

Skow gật đầu. "Chính xác, thưa bà thượng nghị sĩ. Để giải thích cho những ai chưa biết, năm 1995 một tên lửa thử nghiệm của Na Uy sử dụng tầng đầu của tên lửa Honest John, Mỹ đã gây ra báo động hạt nhân toàn phần ở Nga, từ Lực lượng Tên lửa Chiến lược, cho đến tận tổng thống Yelsin. Tuy nhiên, chẳng có cuộc phóng tên lửa trả đũa nào cả."

"Vậy thì hệ thống 'bàn tay chết' có tồn tại hay không?" thượng nghị sĩ Jackson hỏi.

"Không, thưa ngài," tướng Bauer trả lời. "Trong sự cố Na Uy, hệ thống ra lệnh-điều khiển của Nga đã thực hiện đúng chức năng mà nó được thiết kế."

"Như vậy Trinity muốn nói gì khi nó đe dọa tàn phá đất nước?"

Tướng Bauer không giấu nổi thái độ cáu tiết. "Ngài thượng nghị sĩ, Trinity có thể đẩy đất nước ta vào tình trạng hỗn loạn chỉ trong một phút. Nếu nó tấn công thị trường tiền tệ, thì vào sáng thứ Hai trên phố Wall, chúng ta sẽ thấy tình trạng bán tháo vì hoảng loạn chưa từng thấy từ năm 1929. Giả sử Trinity tấn công hệ thống vận tải? Trong vòng ba ngày, sẽ không có thực phẩm đến các siêu thị. Chúng ta có thể sẽ gặp tình trạng bất ổn dân sự trong vòng bảy mươi hai giờ, và bạo động sẽ lan ra trong vòng một tuần lễ."

Thượng nghị sĩ Jackson nặng nề ngồi xuống. "Lạy Chúa."

Một người lính bước đến gần ông tướng và thì thầm vào tai ông ta. Bauer nhìn lên màn hình. "Tôi vừa nhận được tin David Tennant và Rachel Weiss đã về đến cổng căn cứ này. Họ đang ở trên trực thăng và sắp đáp xuống ngay giữa vòng vây truyền thông."

Skow thầm chửi tục.

"Tennant à?" một trong những thượng nghị sĩ trên màn hình hỏi. "Có phải cái tay mất trí định ám sát tổng thống ấy không?"

"Anh ta là bác sĩ, kẻ đã phơi Trinity ra công luận," thượng nghị sĩ Jackson nói. "Trước đây anh ta từng là một trong các cử tri của tôi. Tôi muốn anh ta được đưa đến phòng Tình thế của các ngài."

"Tôi đồng ý," Evan McCaskell nói. "Bác sĩ Tennant có thể đem đến cho chúng ta những thông tin cực kỳ cấp thiết."

Skow đứng lên hướng về màn hình. "Thưa các thượng nghị sĩ, chúng tôi đã làm việc với bác sĩ Tennant trong hai năm. Anh ta có những vấn đề tâm thần trầm trọng, kể cả ảo giác hoang tưởng. Anh ta đã giết hai người mà chúng ta biết, và còn đe dọa tính mạng tổng thống nữa."

"Tôi vẫn cần thấy chứng cớ rõ ràng của lời khẳng định cuối cùng này," McCaskell nói. "Và e-mail của bác sĩ Tennant lại kể câu chuyện hoàn toàn khác."

"Anh ta vẫn còn nguy hiểm," Skow nói.

"Trong vòng vây của Lực lượng Đặc biệt thì không nguy hiểm đâu," tướng Bauer nói. "Tôi sẽ cử đội hộ tống dẫn anh ta vào."

"Một nhân viên Mật vụ của chúng tôi sẽ đi theo," McCaskell nói. "Chỉ để đảm bảo anh ta vào đây an toàn."

--- ------ ------ ------ -------

1 Inter-Continental Ballistic Missile: tên lửa đạn đạo xuyên lục địa.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom