Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Hỏa Thần

Hỏa Thần
Tác giả: Daniel Silva
Tình trạng: Đã hoàn thành




Sau vụ nổ ở Rome phá hủy Đại sứ quán Israel, nhà phụ chế tranh cũ và là gián điệp Cabriel Allon đã khám phá ra một sự thật chấn động – một bộ hồ sơ đang nằm trong tay bọn khủng bố, bộ hồ sơ có thể lột trần bí mật và phơi bày thân phận thật sự của Allon. Bị lôi kéo vào trung tâm của một tổ chức mà anh từng một lần từ bỏ. Allon tự mình bám gót tên trùm khủng bố qua nhiều cục diện đẫm máu. Nhưng rồi Allon nhanh chóng tự hỏi ai bám gót ai trong cuộc chiến này. Rồi khi ván cờ cuối cùng kết thúc, không phải mình Allon bị đe dọa mạng sống, ngoài thân thế thật sự của anh, nhiều bí mật khác nữa cũng được phơi bày.

***

“Một cốt truyện mèo vờn chuột đầy căng thẳng” The New Yorker.

“Nội dung của nó tiến triển đến mức mà độc giả không thể nào đoán trước được và cứ thế cuốn độc giả mãi không dứt. Cốt truyện của Silva sắp xếp thật khéo léo, tài tình” Detroi Free Press.
 
Sửa lần cuối:

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1


ROME NGÀY 4 THÁNG 3

ĐÃ CÓ NHỮNG CẢNH BÁO TỪ TRƯỚC - Vụ nổ bom SHABBAT xảy ra tại trung tâm cộng đồng người Do Thái ở Buenos Aires làm 87 người chết; đúng một năm sau đó vụ nổ bom do một nhóm người Do Thái ở Istanbul gây ra cũng làm thiệt mạng 28 người khác - trong khi đó, Rome vẫn tiếp tục các cuộc chè chén linh đình, và do vậy, nơi này có thể trở thành địa điểm mà bọn chúng nhắm đến tiếp theo.

Ngay sau sự kiện này, dọc theo các hành lang và dãy phòng làm việc của các quan chức thuộc cơ quan tình báo danh tiếng của Israel vẫn nổi lên các cuộc tranh cãi gay gắt về thời gian và địa điểm của những âm mưu tấn công sắp tới. Lev Ahroni, vị Giám đốc đầy thận trọng của cơ quan tình báo, cho rằng âm mưu này đã được lên kế hoạch không lâu sau khi quân đội Israel ập vào tổng hành dinh của A’one ở Ramallah và lấy đi những hồ sơ bí mật. Ari Shamron, một điệp viên lão luyện của Israel nhận thấy ý kiến này thật đáng buồn cười. Shamron luôn bất đồng quan điểm với Lev, ngay cả trong những chuyện đơn giản như thể thao chẳng hạn. Shamron, người đã từng chiến đấu trong hàng ngũ của Palmach trong cuộc chiến giành độc lập và là người luôn cho rằng xung đột là chuyện đương nhiên, bằng trực giác của mình ông hiểu rằng thảm họa diễn ra tại Rome có mầm mống từ những hành động diễn ra cách đây hơn nửa thế kỷ. Tuy nhiên, những chứng cứ lại cho thấy rằng giả thiết của cả Lev và Shamron đều đúng. Lúc này, để có thể đạt được những điều kiện làm việc thuận lợi, họ cũng đã thỏa hiệp cho một sự khởi đầu mới: đó là ngày ngài Jean-Luc đến vùng đồi Lazio và ở lại khu biệt thự được xây cất từ thế kỷ XVIII nằm bên bãi biển Bracciano.

Thời điểm chính xác mà Jean-Luc đến đã được ấn định. Chủ biệt thự, ngài Laval, một người Bỉ thuộc dòng dõi quý tộc vốn rất đa nghi, đã thông báo rằng người thuê biệt thự sẽ đến vào lúc hai giờ rưỡi chiều ngày thứ sáu cuối cùng của tháng Một. Người thanh niên Israel trẻ tuổi, nhã nhặn và đầy sôi nổi đã đến nhà ngài Laval ở Brussels xác nhận ngày anh ta sẽ dọn đến. Ngài Laval lật cuốn sổ làm việc sang trọng có bọc da ra và chỉ vào cái ngày được khoanh tròn. Ở đó, có ghi bằng bút chì rõ ràng thời gian là hai giờ rưỡi chiều với dòng chữ: Gặp ông Jean-Luc tại biệt thự Bracciano.

“Sao ngài lại ghi là biệt thự Bracciano thay vì chỉ cần ghi là biệt thự?” vị khách người Israel hỏi, với tay chỉ vào quyển sổ.

“Để phân biệt nó với biệt thự Tropez của chúng tôi, hay là biệt thự Portuguese, hoặc cáiChalet trên dãy núi Alps ở Thụy Sĩ”.

“À, ra thế”, vị khách Israel nhủ thầm, tuy thế, ngài Laval nhận thấy giọng nói của vị khách dường như thiếu sự nhún nhường vốn có ở hầu hết các công chức bình thường khi tiếp xúc với những người danh giá giàu sang.

Ngoài ra ngài Laval còn nhớ tất cả những gì về người đến ở trong biệt thự của mình? Rằng anh này là một người luôn đúng giờ giấc, thông minh, quần áo chỉnh tề. Và anh trông khá hấp dẫn, luôn thoảng mùi nước hoa đặc trưng dễ chịu, quần áo trông giản dị nhưng lại khá đắt tiền. Anh ta lái chiếc Mercedes, với hai chiếc vali hàng hiệu kềnh càng có ống khóa bằng vàng. Anh đã trả trước tiền thuê nhà trong vài tháng liền bằng tiền mặt, mà với ngài Laval thì điều đó là khác thường ở cái đất nước Italy này. Những gì ngài còn có thể nhớ là anh ta là một người luôn biết lắng nghe, không bao giờ để người khác phải nói đến hai lần. Anh nói tiếng Pháp giọng Paris chuẩn. Rằng anh có vẻ là một người luôn làm chủ được mình trong các cuộc tranh cãi và rất biết chiều chuộng phụ nữ. “Anh ta được sinh ra trong một gia đình quyền quý”, Laval kết luận, ngài chắc chắn về điều đó và hoàn toàn nhận thức được những gì mình đang nói. “Anh ta có dòng máu quý tộc đấy. Hãy ghi lại điều này trong sổ tay”.

Những chi tiết khác về người đàn ông được gọi là Jean-Luc dần dần hiện rõ trong trí nhớ của ngài Laval. Và ngài nhận ra rằng anh ta không khác chính mình là mấy. Anh ta không cần thuê người giúp việc và luôn yêu cầu người làm vườn phải có mặt đúng chín giờ sáng và ra về lúc mười giờ. Anh ta luôn mua sắm ở siêu thị gần nhất và tham gia vào nhóm Mass ở cái villa với lối kiến trúc trung cổ nằm ven hồ ở Anguillara. Anh ta cũng dành nhiều thời gian tham quan những di tích còn lại của thời La Mã thuộc vùng Lazio và đặc biệt bị cuốn hút bởi khu nghĩa địa cổ ở Cerveteri.

Vào cuối tháng Hai - ngài Laval cũng không nhớ chính xác là ngày nào - anh ta biến mất tăm. Ngài cũng không được biết ngày anh ta quay trở lại, vì ngài chỉ được một phụ nữ ở Paris tự xưng là trợ lý riêng của anh chàng ta thông báo rằng anh ta đã rời đi. Mặc dù còn hai tuần nữa mới hết hạn thuê nhà, nhưng anh chàng không hề gây khó khăn cho chính mình, hoặc cho ngài Laval bằng việc đòi hoàn trả số tiền thuê. Cuối mùa thu năm ấy, khi ngài Laval thăm lại villa, ngài rất đỗi ngạc nhiên khi phát hiện ra một mảnh giấy cảm ơn nhỏ, được đánh máy cẩn thận, để trong một chiếc chén bằng pha lê đặt trên bàn trong phòng ăn, và tờ một trăm euro để trả cho bình rượu bị vỡ. Ngài xem xét kỹ lưỡng các ly rượu trong bộ sưu tập của mình và không thấy mất bất kỳ một cái ly nào. Khi ngài Laval cố gắng tìm cách liên lạc với trợ lý của anh ta tại Paris để trả lại số tiền thì số máy ấy lại không thể liên lạc được.

Tiếp giáp công viên Borghese là những đại lộ đẹp tuyệt vời, lá vàng nhẹ rơi bên vệ đường trông như những miếng vảy cá xếp lớp, thấp thoáng những vị khách du lịch qua lại trên những đường phố lớn gần trung tâm thành phố. Đó là những đại lộ kiêu sa ngốn rất nhiều tiền xây dựng, nhưng xe cộ rất thưa thớt, nên những tiếng còi xe hiếm hoi trở thành sự khuấy động khó chịu phá vỡ khung cảnh yên bình của nơi này. Một trong số các đại lộ là con đường cụt. Có một con dốc thoai thoải uốn cong về bên phải. Góc đường này luôn chìm sau bóng của tòa tháp nước bằng đá và bị những cây bạch đàn cao ngất che khuất nhiều giờ trong ngày. Vỉa hè hẹp bên đường bị bong lên bởi những gốc cây trơ rễ. Nó luôn bị phủ lấp bởi những trái thông và lá cây mục. Cuối con đường là khu vực chuyên dành cho các cuộc hội họp ngoại giao được rào chắn cẩn thận, chắc chắn hơn cả thành Rome.

Những người sống sót và sau này trở thành nhân chứng luôn nhớ rõ mồn một về sự hoàn hảo tuyệt đối của buổi sáng cuối đông ấy: một buổi sáng trời trong xanh, đủ lạnh để tạo nên những cơn rùng mình nhè nhẹ dưới bóng râm, đủ ấm để không cần phải tháo nút áo dưới ánh mặt trời. Đó là một buổi sáng lý tưởng để nghĩ đến một bữa trưa thịnh soạn ngoài trời. Ở thành phố Rome đầy tính chính trị ngoại giao thì những buổi tiệc như vậy cũng không phải là hiếm. Nó diễn ra thường xuyên giống như chỉ là một bữa để giết thời gian với ly càphê Cappuccino và Cornetto, để ngẫm nghĩ về một tình huống hoặc phân tích về hành vi của một người nào đó. Hôm nay, ở đây sẽ diễn ra một cộc họp vô cùng quan trọng. Nhiều cuộc họp bàn bình thường khác đã bị hủy bỏ. Tất cả các thủ tục giấy tờ khác bị chuyển qua ngày thứ Hai tuần kế tiếp.

Trên con đường cụt gần khu công viên Borghese, chẳng có một biển báo nào cắm ở ngoài liên quan đến sự kiện sẽ xảy ra. Những viên cảnh sát Ý và nhân viên an ninh canh gác vòng ngoài đang tán gẫu vu vơ dưới ánh nắng vàng rực rỡ. Cũng như hầu hết các cuộc họp ngoại giao khác ở Rome, thông thường sẽ có hai đại diện ngoại giao, một là phía Chính phủ Ý, một là phía Tòa thánh Vatican. Hai bên sẽ tiến hành họp bàn vào thời điểm được ấn định từ trước. Cuộc họp bàn sẽ diễn ra trong phòng họp nghiêm trang và kín đáo.

Đúng mười giờ mười lăm, một tu sĩ to béo lạch bạch đi xuống phía dốc, xách theo chiếc cặp da. Bên trong chứa công văn vận động ngoại giao của Ban Thư kí Toà thánh Vatican buộc tội phía quân đội Israel vì vụ đột nhập vào Bethlehem vừa qua. Người được giao nhiệm vụ chuyển tin đã trao toàn bộ tài liệu cho thư kí của vị đại sứ và hổn hển quay trở lại đầu dốc. Thông tin trong tập tài liệu sẽ được công bố trong cuộc họp, và những lời lẽ trong đó phần nào thể hiện động thái lúng túng từ phía Vatican. Ngay cả thời điểm chuyển tin cũng chứa đựng yếu tố may rủi. Nếu người chuyển tin chỉ cần đến muộn năm phút thôi, thì cả ông ta và bản gốc tờ công văn sẽ mất tăm trong sự kiện sắp diễn ra ở đây.

Thật không may cho những phóng viên của thông tấn xã Ý khi đã đến đây để phỏng vấn ngài đại sứ đương nhiệm về tình hình chiến sự Trung Đông. Đoàn người Do Thái đến để ủng hộ cho hội nghị về việc lên án chủ nghĩa tân phát xít do ngài đại sứ chủ trì sẽ diễn ra vào tuần sau ở Verona cũng không gặp may. Và cả một cặp người Ý, vốn chán ngấy với những trào lưu mới của phong trào bài trừ Do Thái ở Châu Âu, đến đây hỏi thông tin về chuyện nhập cư vào Israel và cũng cùng chịu chung sự kém may mắn đó. Khoảng mười bốn người đứng tụ lại ngay cổng vào, đang chờ nhân viên an ninh của Đại sứ quán khám xét người, trong lúc đó một chiếc xe tải trắng đang rề rề rẽ phải vào con đường cụt và bắt đầu thực hiện sứ mệnh chết người trong khu vực được rào chắn kỹ càng ấy.

Hầu hết mọi người đều nghe thấy tiếng xe trước khi nó xuất hiện. Tiếng gầm rú của động cơ xé toạc bầu không khích tĩnh mịch của buổi sáng. Dẫu có cố gắng đến đâu cũng không thể bỏ ngoài tai tiếng gầm rú ấy. Các nhân viên an ninh người Ý ngưng cuộc đàm thoại dang dở, ngước mắt nhìn lên, mười bốn người đang đứng tại sảnh ra vào của Đại sứ quán cũng ngước nhìn theo. Người tu sĩ to béo đang đứng chờ xe buýt tại phía cuối đường bên kia cũng rời mắt khỏi tờ báo L’Ossservatore Romano, ông ta ngẩng cái đầu tròn trịa của mình lên và dáo dác tìm nơi phát ra tiếng động đó.

Con dốc thoai thoải làm tăng tốc cho chiếc xe tải, nó lao đi với một tốc độ khủng khiếp. Khi đi qua khúc cua, toàn bộ tải trọng của nó như đổ dồn vào hai cái bánh trước. Chiếc xe chỉ chực đổ nhào. Rồi nó quẹo phải, và bắt đầu đâm thẳng vào khu vực có hàng rào che chắn ấy.

Tài xế xe tải thấp thoáng sau cửa kính xe. Đó là một người đàn ông trẻ tuổi, râu cạo nhẵn nhụi. Đôi mắt to, miệng há hốc đầy kinh ngạc. Anh ta như đứng hẳn trên bàn đạp số, và lầm bầm như đang tự chửi rủa mình. Chẳng hiểu vì lý do gì, chiếc cần gạt lại bật lên.

Lực lượng an ninh phản ứng ngay tức khắc. Một số nhảy vào nấp sau hàng rào kiên cố. Một số khác lao vào bốt bảo vệ được làm bằng sắt và thủy tinh. Hai nhân viên khác nã súng liên tục vào chiếc xe tải tử thần. Những tia lửa nổ lẹt xẹt ở phiến chắn, cửa kính chắn gió vỡ tan tành, nhưng chiếc xe tải không giảm tốc, nó vẫn lao thẳng tới. Sau này, chính phủ Israel đã tuyên dương hành động anh dũng của đội bảo vệ người Ý buổi sáng đó. Không một nhân viên bảo vệ nào rời vị trí. Nhưng kể cả có bỏ chạy, thì số phận của họ cũng đã được an bài.

Tiếng nổ to đến mức vang vọng đến quảng trường St. Peter, rồi Piazza di Spagna và đến cả đồi Janiculum. Mọi người ở tầng cao của những tòa nhà đó đã trông thấy một cảnh tượng kinh hoàng, một quả cầu lửa cam đỏ rực bao trùm cả khu bắc vùng Borghese, sau đó là một vùng khói đen kịt ngùn ngụt bốc lên. Những cánh cửa kính cách đó hàng dặm cũng bị vỡ tung do bị chấn động mạnh, cả những cánh cửa kính nhuộm màu của nhà thờ cạnh đó cũng vỡ tan. Cây tiêu huyền trơ trụi lá. Chim đang bay cũng chết cháy. Các chuyên gia nghiên cứu địa lý của trung tâm kiểm soát địa chấn ban đầu chẩn đoán rằng Rome đã trải qua một trận động đất kinh hoàng.

Không ai trong số những nhân viên bảo vệ sống sót sau vụ nổ ấy. Cả mười bốn người khách đang đứng chờ vì công việc của mình, và các quan chức ngoại giao đang làm việc trong văn phòng ngay cạnh vụ nổ khủng khiếp vừa xảy ra cũng cùng chung số phận.

Tuy nhiên, chiếc xe xuất hiện sau vụ nổ mới thực sự kết thúc số phận của những người còn may mắn sống sót. Người chuyển tin của Tòa thánh Vatican, người chỉ bị chấn động bởi vụ nổ đầu tiên, đã trông thấy một chiếc xe chạy vào con đường cụt với tốc độ kinh hoàng. Và đó là chiếc xe Lancia mui kín chạy với tốc độ nhanh, và trong xe có bốn người đàn ông, nên ông tưởng đó là các nhân viên cảnh sát đến ứng phó cho vụ nổ vừa qua. Người tu sĩ đứng lên và đi về phía những cột khói đen cao ngút với hi vọng có thể giúp đỡ những người bị thương và những người đang hấp hối. Nhưng chính mắt ông lại thấy một cảnh tượng kinh hoàng khác. Những cánh cửa chiếc Lancia đồng loạt mở ra, bốn người đàn ông mà ông nhầm tưởng là cảnh sát bắt đầu nã súng vào đám người đang quằn quại dưới đất. Những người sống sót sau vụ cháy chấn động tại tòa đại sứ đã bị giết chết một cách nhẫn tâm.

Bốn tay súng ngừng bắn và nhảy vào chiếc Lancia. Ngay khi chúng lao nhanh ra khỏi khu hỗn loạn đang bốc cháy ngùn ngụt, một tên khủng bố đã nhắm súng tự động thẳng vào tu sĩ. Người tu sĩ đứng thẳng người dang tay hình cây thánh giá, chuẩn bị sẵn sàng cho sự ra đi của mình. Tên khủng bố chỉ mỉm cười và mất hút sau màn khói dày đặc.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2


TIBERIAS, ISRAEL

Mười lăm phút sau loạt đạn cuối cùng nổ ra ở Roma, chiếc điện thoại bảo mật reo lên trong căn biệt thự rộng màu mật ong hướng ra phía biển Galilee. Ari Shamron, cựu Giám đốc hai nhiệm kỳ của Cục tình báo Israel, hiện đang là cố vấn đặc biệt của Thủ tướng về tất cả vấn đề liên quan đến an ninh và tình báo, nhận cuộc gọi trong phòng làm việc. Ông im lặng nghe một lúc lâu, cặp mắt nhắm nghiền vì giận dữ. “Tôi đang trên đường tới”, ông nói và gác máy.

Vừa quay lưng lại, ông thấy Gilah đang đứng ở cửa phòng làm việc. Trên tay bà là chiếc áo khoác bằng da của ông, mắt bà ngấn lệ.

“Người ta mới đưa tin trên tivi. Tình hình tệ đến mức nào vậy anh?”

“Rất tệ. Thủ tướng muốn anh giúp ông chuẩn bị bài phát biểu trước toàn dân”.

“Vậy anh không nên để Thủ tướng chờ lâu”.

Bà khoác áo và hôn lên má ông. Một hành động quá đỗi thường nhật nhưng vô cùng thân thương. Đã bao nhiêu lần ông phải để vợ ở lại một mình sau khi nghe tin người Do Thái đã bị giết bởi bom đạn? Từ lâu ông không còn đếm những lần như vậy nữa. Cho đến cuối cuộc đời mình, ông phải chấp nhận rằng việc này sẽ không bao giờ chấm dứt cả.

“Anh sẽ không hút quá nhiều thuốc chứ?”

“Tất nhiên rồi”.

“Gọi cho em nhé”.

“Anh sẽ gọi khi có thể”.

Ông bước ra cửa. Một luồng gió lạnh và ẩm ùa vào mặt. Một cơn bão đã đổ xuống Golan suốt đêm qua và vây hãm toàn bộ vùng thượng lưu Galilee. Shamron choàng tỉnh sau tiếng sấm gầm đầu tiên, ông nhầm đó là tiếng súng và điều này làm ông thao thức cả đêm. Với ông, ngủ cứ như làm một chuyện gì đó vụng trộm. Ông rất khó ngủ và một khi đã bị thức giấc thì không tài nào ngủ lại được. Trong tâm thức, ông thường hay thấy mình lang thang trong những căn phòng chứa hồ sơ bảo mật, sống lại với những kí ức đã qua, trở lại chiến trường xưa và đối mặt kẻ địch từ nhiều năm trước. Nhưng đêm qua thì khác. Linh tính mách bảo ông thảm họa sắp xảy ra, cảm giác đó rõ đến độ ông đã phải gọi ngay người lính trực đêm ở sở làm cũ để biết chắc mọi chuyện. Viên sĩ quan trẻ đã nói rằng. “Sếp cứ yên tâm. Mọi thứ vẫn ổn”.

Chiếc xe Peugeot bọc sắt và chống đạn màu đen của ông đã nổ máy chờ sẵn trên đường. Rami, viên chỉ huy đội an ninh có mái tóc đen đứng cạnh với cửa hông xe mở sẵn. Trong suốt thời gian hoạt động của mình, Shamron có rất nhiều kẻ thù, hơn thế, tình trạng dân cư ở Israel rất phức tạp nên họ phải sống lay lắt gần Tiberias. Rami luôn lầm lũi như một con sói cô độc và rất hiếm khi rời chủ nhân của mình.

Shamron dừng bước để châm thuốc, đó là một loại thuốc rẻ tiền của Thổ Nhĩ Kỳ mà ông hay hút từ dạo còn đương nhiệm. Ông bước ra vỉa hè. Dáng ông không cao nhưng tuổi tác không làm mất đi vẻ ngoài vạm vỡ ấy. Bàn tay dày đầy vết đồi mồi như thể được mượn từ một người to lớn gấp đôi mình. Khuôn mặt đầy vết nứt nẻ không khác gì quang cảnh sa mạc Negev nhìn từ trên cao xuống. Mái tóc xám bạc gần như rụng hết. Cặp kính ông đeo trông rất buồn cười, nhưng có vẻ ông lại muốn gắn bó với cái gọng xấu xí bằng nhựa không vỡ đó. Tròng kính dày làm đôi mắt xanh vốn từ lâu không còn tinh tường nữa trở nên to hơn. Ông bước đi như thể luôn lường trước một cuộc tấn công từ phía sau, đầu cúi xuống và khủy tay khép chặt lại để phòng thủ. Mọi người ở tổng hành dinh nằm trên đại lộ King Saul, đều gọi điệu bộ đó là “Shamron - tàu con thoi”. Ông cũng biết biệt hiệu đó và chỉ mỉm cười.

Shamron leo nhanh vào ghế sau của chiếc Peugeot. Chiếc xe nặng nề đảo bánh và lao nhanh xuống dốc về phía dòng sông. Xe rẽ phải và lao thẳng về phía Tiberias, sau đó rẽ về hướng tây, băng qua Galilee về hướng vùng đồng bằng ven biển. Trong suốt đoạn đường đi, Shamron cứ nhìn chằm chằm vào mặt chiếc đồng hồ đeo tay đầy những vết xước. Lúc này đây, đối với ông thời gian không khác gì kẻ thù. Cứ mỗi phút trôi qua, những tên sát nhân càng đi xa khỏi hiện trường tội ác. Giả như chúng tấn công vào Jerusalem hoặc Tel Aviv thì bây giờ chắc chắn chúng đã bị bao vây trong mạng lưới trạm kiểm soát và rào chắn. Nhưng cuộc tấn công lại xảy ra ở Ý, không phải ở Israel, và Shamron đành phó mặc cho cảnh sát Ý. Đã lâu lắm rồi, người Ý chưa phải đối mặt với một hành động khủng bố nào nghiêm trọng như vậy. Hơn nữa cầu nối giữa Israel và chính phủ Ý là Đại sứ quán Israel đã bị phá hủy nghiêm trọng. Điều này làm Shamron nghi ngờ vì đây là cơ quan trọng yếu của Cục tình báo Israel. Rome là cơ quan đầu não cho các điệp vụ ở vùng Nam Âu. Vùng này do một sĩ quan tình báo hay còn gọi là katsa tên Shimon Pazner chỉ huy, người đã được Shamron tuyển chọn và dày công đào tạo. Có thể Văn phòng vừa mất đi một trong những sĩ quan tài ba và dày dặn kinh nghiệm nhất.

Cuộc hành trình dường như kéo dài vô tận. Họ nghe tin trên đài phát thanh Israel, và mỗi một tin tức cập nhập về tình trạng ở Rome dường như ngày càng tệ hơn. Ông lo lắng rút chiếc điện thoại được bảo mật ra rồi lại nhét vào vỏ mà vẫn không gọi được cho bất kỳ số nào, đây đã là lần thứ ba rồi. Hãy để cho họ giải quyết, ông tự trấn an. Họ biết mình đang làm gì. Không có mình biết đâu họ lại có cách giải quyết tốt hơn. Hơn nữa, cũng không còn thời gian để một cố vấn đặc biệt của Thủ tướng như ông đề xuất những tham vấn hữu ích về vấn đề an ninh và khủng bố.

Cố vấn đặc biệt… ông vẫn thấy miễn cưỡng với chức danh này. Nó mang rất nhiều hàm ý. Ông bị xem là một Memuneh, nghĩa là người chịu trách nhiệm. Ông đã chứng kiến những giờ phút thăng trầm của đất nước và của chính Cơ quan tình báo mình. Lev cùng những thanh niên theo đường lối kỹ trị quy toàn bộ trách nhiệm cho ông và đày ông đến vùng sa mạc Judean hoang vu. Đáng lẽ ra ông đã phải ở đó đến suốt đời nếu Thủ tướng không mời ông quay lại. Một bậc thầy về “giật dây” như Shamron thừa hiểu rằng quyền lực có được khi làm việc tại văn phòng Thủ tướng không hề thua kém gì thời ông còn đương nhiệm tại Tổng hành dinh ở Đại lộ King Saul. Kinh nghiệm dạy ông phải biết kiên nhẫn. Rốt cuộc mọi chuyện cũng đâu vào đấy. Chắc chắn là như thế.

Họ lên dốc hướng về Jerusalem. Với Shamron, chuyến đi này sẽ không có gì đặc biệt nếu nó không làm ông gợi nhớ về chiến trường xưa. Ông lại linh cảm thấy cái thảm họa đó. Đó có phải là Rome mà ông vừa thấy đêm trước không? Hay nó lại là một điều gì đó thậm chí còn lớn hơn cả Rome chăng? Một kẻ thù cũ, ông tin chắc như thế. Đó là một người đã chết, có liên quan đến quá khứ của ông.

Văn phòng Thủ tướng Israel tọa lạc tại số 3 đường Kaplan, khu Kiryat Ben-Gurion phía tây Jerusalem. Shamron vào tòa nhà từ bãi đậu xe ngầm rồi đi lên phòng làm việc. Căn phòng tuy nhỏ nhưng được bố trí rất hợp lý ngay hành lang dẫn đến phòng Thủ tướng, từ đây Shamron có thể quan sát mỗi khi Lev hoặc bất kì quan chức tình báo cấp cao nào bước vào phòng họp riêng ở bên trong. Ông không có thư ký riêng, nhưng có một cô gái tên Tamara làm việc cho ông cùng với ba nhân viên khác. Cô mang vào cho ông một tách cà phê và bật cả ba chiếc tivi lên.

“Varash có cuộc họp tại văn phòng Thủ tướng lúc năm giờ”.

Varash là từ viết gọn theo tiếng Do Thái cổ thay cho Nhóm các nhà lãnh đạo cấp cao của Cục Tình báo. Bao gồm Tổng giám đốc của Shabak thuộc Bộ Nội vụ; Sĩ quan cấp cao của Aman thuộc tình báo quân đội; và cả lãnh đạo của Cục tình cáo Israel, thường được gọi chung là “Văn phòng”. Shamron với vai trò Lãnh đạo của mình luôn có mặt trong những buổi họp này.

“Nhân tiện”, Tamara nói, “Thủ tướng muốn có một bản tóm tắt tình hình trong hai mươi phút nữa”.

“Nói với ông ấy nửa tiếng nữa thì tốt hơn”.

“Nếu ông muốn nửa tiếng nữa thì xin hãy tự báo cáo với ông ấy”.

Shamron ngồi vào bàn, cầm lấy điều khiển lướt qua các kênh truyền thông quốc tế khoảng năm phút để nắm bắt những thông tin chung. Rồi ông nhấc điện thoại và gọi đi ba cuộc, một cho người quen đã lâu ở Đại sứ quán Ý tên Tommaso Naldi, hai là đến Bộ Ngoại giao Israel, nằm không xa trên trên đại lộ Yitzhak Rabin, ba là đến tổng hành dinh của Văn phòng trên đại lộ King Saul.

“Hiện thời ông ấy không thể tiếp chuyện với ông được”, thư ký của Lev nói. Shamron đã đoán trước được phản ứng của người thư ký này. Gọi Lev thông qua các trạm kiểm soát quân sự còn dễ hơn là thông qua thư ký của ông ta.

“Bảo ông ấy nghe máy đi”, Shamron nói, “hoặc là Thủ tướng sẽ gọi cho cô cuộc tiếp theo đấy”.

Lev để Shamron đợi khoảng năm phút.

“Anh biết những gì rồi?”. Shamron hỏi.

“Sự thật à? Chưa có gì cả”.

“Cơ quan ở Rome vẫn còn chứ?”

“Đừng nhắc đến nữa”, Lev đáp, “nhưng chúng ta vẫn còn katsa của Rome. Lúc đó Pazner đang đi công vụ ở Naples. Anh ta vừa làm xong thủ tục ở sân bay. Giờ anh ta đang quay về Rome”.

Ơn Chúa, Shamron nghĩ. “Còn gì nữa không?”

“Tôi cũng không rõ. Như anh thấy đấy, tình hình lúc này khá lộn xộn”. Lev luôn làm người khác khó chịu bởi cách nói giảm, nói tránh của mình. “Có hai thư kí và một nhân viên truyền thông mất tích”.

“Còn gì trong đống hồ sơ có thể gây thiệt hại hoặc làm rắc rối thêm tình hình không?”

“Chúng ta chỉ có thể hi vọng là chúng không bị tan thành tro”.

“Các hồ sơ đó được cất trong tủ có thể chịu được cả một tên lửa. Tốt hơn hết là phải lấy chúng đi trước khi người Ý lấy được”.

Tamara thò đầu vào cửa. “Thủ tướng muốn gặp ông ngay bây giờ”.

“Tôi sẽ gặp lại anh lúc năm giờ”, Shamron nói với Lev và dập máy.

Shamron gom các tờ ghi chú lại, rồi đi dọc hành lang theo Tamara đến phòng Thủ tướng. Hai vệ sĩ to lớn tóc cắt ngắn, áo bỏ ngoài quần thuộc nhóm bảo vệ đặc biệt Shabak của Thủ tướng nhìn Shamron đang tiến đến. Một người bước nghiêng qua và mở cửa. Shamron đi lướt qua và bước vào bên trong.

Căn phòng hơi tối với bầu không khí lành lạnh. Thủ tướng ngồi sau chiếc bàn lớn, dáng người nhỏ bé hẳn đi dưới bức chân dung cao lớn của nhà lãnh đạo chủ nghĩa phục quốc Do Thái Theodor Herzl treo trên tường. Shamron đã vào căn phòng này rất nhiều lần, nhưng chưa lần nào tim ông đập nhanh đến thế. Đối với Shamron, căn phòng này là biểu tượng cho sự kết thúc một quá trình đấu tranh đáng nhớ, cho sự ra đời của nhà nước Do Thái độc lập trên lãnh thổ Israel. Sự sống và cái chết, chiến tranh và nạn tàn sát người Do Thái - Shamron, cũng như ngài Thủ tướng, đều có vai trò vô cùng quan trọng trong tất cả chuỗi sự kiện này. Theo quan điểm cá nhân, họ xem đây là đất nước của họ, là kết quả họ đã tạo dựng được và họ phải bảo vệ nó khỏi những thế lực mà người Arập, người Do Thái hoặc một số quốc gia khác muốn làm suy yếu hoặc hủy hoại.

Thủ tướng không nói một lời nào, chỉ gật đầu ra hiệu cho Shamron ngồi xuống. Đầu ông hơi nhỏ lại đặt trên chiếc bụng khá to nên dáng ông trông giống như những tảng đá có nguồn gốc từ núi lửa. Đôi tay ông khoanh lại trên bàn, chiếc xương hàm to lộ ra dưới cổ áo sơ mi.

“Tình hình tệ đến mức nào rồi Ari?”

“Cuối ngày chúng ta sẽ biết cụ thể hơn”, Shamron nói. “Nhưng tôi có thể chắc một điều rằng đây là một hành động khủng bố vô cùng tồi tệ nhằm chống lại chúng ta, nếu không nói là tồi tệ nhất”.

“Bao nhiêu người chết?”

“Vẫn chưa có con số cụ thể”.

“Đại sứ hai nước thì sao?”

“Theo thông tin chính thức thì họ vẫn còn nằm trong danh sách mất tích”.

“Còn không chính thức?”

“Người ta cho rằng họ đã chết”.

“Cả hai à?”

Shamron gật đầu. “Và cả những cộng sự của họ nữa”.

“Bao nhiêu trường hợp đã chết thật sự?”

“Theo báo cáo của Ý thì có mười hai cảnh sát và nhân viên an ninh đã chết. Hiện tại, Bộ Ngoại giao đang xác nhận tình trạng hai mươi hai người bị giết cùng với các thành viên của mười ba gia đình sống tại khu liên hợp. Khoảng mười tám người được xem là mất tích”.

“Năm mươi hai người chết?”

“Đó là con số tối thiểu. Hình như lúc đó còn có vài người khách đang chờ để làm thủ tục ngoài cổng vào”.

“Còn cơ quan đại diện của Văn phòng?”

Shamron nhắc lại những gì vừa nghe từ Lev. Pazner còn sống. Ba nhân viên của Văn phòng được cho là đã chết.

“Ai gây ra vụ này?”

“Lev vẫn chưa tìm ra bất cứ…”

“Tôi không nhắc đến Lev”.

“Không may là danh sách nghi phạm khá dài. Những gì tôi có thể nói bây giờ chỉ là suy đoán. Nhưng lúc này đây, suy đoán cũng chẳng giúp ích gì được”.

“Tại sao chúng lại chọn Rome?”

“Khó nói lắm”, Shamron đáp. “Có lẽ đó chỉ là mục tiêu mang tính thời cơ thôi. Có thể chúng phát hiện ra một yếu điểm, sự lỏng lẻo trong phòng thủ của chúng ta, và chúng quyết định tấn công vào nó”.

“Nhưng anh không tin điều đó phải không?”

“Không thưa Thủ tướng”.

“Chắc hẳn phải có gì đó liên quan đến vụ xảy ra ở Vatican vài năm trước - sự việc liên quan đến Allon thì phải?”

“Tôi cũng có nghi ngờ điều° này. Tất cả chứng cứ đều cho thấy đó là một cuộc tấn công tự sát do bọn khủng bố Arập thực hiện”.

“Tôi muốn có một bản tường trình sau khi Varash họp xong”.

“Tôi nghĩ việc đó không khó”.

“Và tôi muốn chính anh viết nó”.

“Nếu ông muốn thế”.

“Anh đã thấy những tổn thất rồi đó Ari. Cả hai chúng ta đều biết. Cần dồn hết tâm sức cho lần này. Hãy tháo bỏ nỗi đau thương Ba Lan mà anh đang mang trong lòng. Tối nay cả đất nước cần phải khóc. Hãy để họ khóc. Nhưng hãy cho họ biết rằng những kẻ dã tâm gây ra chuyện này sẽ phải chịu sự trừng trị thích đáng”.

“Sẽ như vậy, thưa Thủ tướng”.

Shamron đứng dậy.

“Ai gây ra vụ này, Ari?”

“Chúng ta sẽ sớm biết thôi”.

“Tôi muốn lấy đầu hắn”, Thủ tướng nói vô cùng giận dữ. “Tôi muốn treo đầu hắn lên”.

“Chắc chắn ông sẽ có nó”.

Bốn mươi tám tiếng trôi qua, cảnh sát mới lần ra được dấu vết đầu tiên của bọn sát nhân. Nhưng không phải ở Rome mà ở thành phố công nghiệp nằm phía bắc Milan. Điều tra theo lời khai báo của người cung cấp thông tin nhập cư Tunisia, các đơn vị của lực lượng Cảnh sát quốc gia đã bất ngờ tiến hành khám xét một nhà trọ ở khu dành cho công nhân nằm ở phía bắc thành phố, nơi mà hai tên sát thủ còn sống sót được cho là đang trốn ở đây. Bọn chúng đã không còn ở đây nữa, và dựa theo hiện trạng của căn phòng thì có vẻ chúng bỏ đi rất vội vã. Cảnh sát còn phát hiện ra hai chiếc va li chứa đầy quần áo và nửa tá điện thoại cầm tay cùng với những tấm hộ chiếu giả và thẻ tín dụng ăn cắp. Tuy nhiên vật gây tò mò nhất là một chiếc đĩa CD được may chặt dưới tấm lót của một trong hai chiếc vali. Các nhân viên điều tra Ý ở phòng nghiên cứu tội phạm quốc gia ở Rome xác định rằng chiếc đĩa có chứa dữ liệu, nhưng họ vẫn chưa thể phá vỡ được bức tường bảo mật phức tạp của nó. Cuối cùng, sau nhiều tranh cãi nội bộ, phía Ý đành nhờ đến sự giúp đỡ của người Israel.

Chính vì vậy Shimon Pazner đã nhận được lời mời từ tổng hành dinh của Cục An ninh và Tình báo Ý. Anh đến khoảng sau mười giờ đêm và lập tức đến ngay văn phòng của Phó cục An ninh tên là Martino Bellano. Dáng vóc hai người nhìn khá trái ngược nhau: Bellano cao, hơi gầy và ăn vận cứ như vừa bước ra từ một tờ tạp chí thời trang Ý, còn Pazner nhỏ người nhưng vạm vỡ với mái tóc bù xù và chiếc áo khoác thể thao nhăn nhúm. “Một đống đồ chưa giặt” là cách Bellano mô tả Pazner sau cuộc gặp mặt. Trong lúc nói chuyện, Pazner đã cư xử một cách không thẳng thắn lắm, theo thường lệ Bellano thấy rằng người Israel này là “kẻ cho vay khoác trên người một chiếc áo đi mượn”.

Bởi vậy, trong lần đầu tiên, Bellano cũng không mấy bận tâm về vị khách của mình. Bởi Pazner không phải kiểu người gây được thiện cảm ngay lập tức với người mới gặp, khi anh xuất hiện tại văn phòng của Bellano, đôi mắt anh đã nặng trĩu do kiệt sức và cảm giác tội lỗi nặng nề vì mình là kẻ sống sót. Bellano dành vài phút bày tỏ “sự chia buồn sâu sắc” về vụ nổ bom trước khi đi vào lý do chính là tại sao lại mời Pazner đến đây vào lúc muộn như thế này: đó là chiếc đĩa dữ liệu. Ông đặt chiếc đĩa lên bàn một cách lịch sự và đẩy nó về phía Pazner bằng ngón trỏ đã được gọt giũa cẩn thận. Pazner lẳng lặng nhận lấy chiếc đĩa, sau này anh đã thú nhận với Shamron rằng lúc đó tim anh đập liên hồi như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.

“Chúng tôi không làm sao bẻ được khóa”, Bellano nói. “Biết đâu các ngài sẽ gặp may mắn hơn”.

“Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức”, Pazner khiêm tốn đáp trả.

“Tất nhiên, các ngài phải trao cho chúng tôi mọi tài liệu tìm được trong chiếc đĩa này”.

“Điều đó là lẽ đương nhiên”. Pazner đáp và bỏ chiếc đĩa vào trong túi áo khoác.

Cả hai nói chuyện thêm khoảng mười phút nữa. Bellano nhận thấy đã đến lúc phải kết thúc cuộc gặp mặt. Nhưng Pazner vẫn ngồi đấy, tay nắm chặt thành ghế như đang rất thong thả bình tĩnh. Bất cứ người nào gặp anh tại sảnh lớn ở sân bay đều cho rằng anh không có chuyện gì để vội vã. Chỉ khi ra đến bên ngoài và bước ra khỏi cửa trước thì anh mới bước đi rất nhanh đầy nôn nóng vội vã.

Vài giờ sau cuộc tấn công, một nhóm chuyên viên về bom giàu kinh nghiệm của Israel đã có mặt ở Rome để bắt đầu tiến hành phân tích những mảnh vỡ nhằm tìm ra thành phần và nguồn gốc của quả bom. May mắn thay, nhóm chuyên viên của quân đội đã mang những mảnh này từ Tel Aviv về hiện vẫn còn trực chiến tại Fiumicino. Pazner, được sự chấp thuận của Shamron, đã trưng dụng một chiếc máy bay để bay về Tel Aviv. Anh đến ngay lúc mặt trời vừa mọc. Một nhóm người của Văn phòng ra đón anh. Sau đó họ đi nhanh về Đại lộ King Saul một cách thận trọng, món hàng họ đang mang cực kỳ quý giá, không thể để nó bị ảnh hưởng bởi vấn đề tồi tệ nhất ở Israel là đường xá. Vào tám giờ sáng hôm đó, tất cả những bộ óc thông minh của Bộ phận kỹ thuật Văn phòng đều dồn sức vào mở khóa chiếc đĩa và đến chín giờ bức tường lửa đã được phá bỏ. Sau này Ari Shamron có thể kiêu hãnh nói rằng những thiên tài kỹ thuật của Văn phòng chỉ mất một khoảng thời gian tương đương với thời gian nghỉ giải lao của người Ý để tìm ra được mã khóa. Việc giải mã tài liệu mất thêm một tiếng đồng hồ nữa, đến mười giờ bản in nội dung dữ liệu của chiếc đĩa đã được đặt trên bàn Lev. Tập tài liệu đó chỉ nằm đó được một lúc vì Lev đã ngay lập tức bỏ nó vào hành lý bảo mật và mang đến đường Kaplan ở Jerusalem để trình cho Thủ tướng. Tất nhiên lúc đó Shamron đang ở cạnh Thủ tướng.

“Phải làm cho Thủ tướng vào cuộc luôn”, Lev nói với sự hăng hái của một người vừa làm được một chuyện to tát. Shamron nghĩ có lẽ đó chính xác là những gì mà ông ta cảm thấy ông ta luôn xem Shamron là địch thủ, và cách thức đối mặt với địch thủ mà Lev thường làm, dù đó là địch thủ thật sự hay tiềm năng, đó là luôn làm địch thủ của mình phải khó chịu. “Tối nay Pazner sẽ quay về Ý. Hãy cử một nhóm chuyên về trích xuất dữ liệu theo anh ta”.

Shamron lắc đầu. “Anh ta là người của tôi. Tôi phải đưa anh ta về”. Ông dừng lại. “Hơn nữa, hiện tại Pazner còn có việc quan trọng phải làm”.

“Gì chứ?”

“Tất nhiên cứ nói với người Ý là chúng ta vẫn chưa thể mở khóa chiếc đĩa được”.

Lev vốn có thói quen không bao giờ là người đầu tiên ra khỏi phòng, vì vậy ông đứng dậy với một vẻ miễn cưỡng và đi ra ngoài. Shamron ngước nhìn lên và thấy Thủ tướng đang nhìn vào mình.

“Pazner sẽ ở đây cho đến khi kết thúc chuyện này”, ngài Thủ tướng nói.

“Vâng, anh ta sẽ ở đây”, Shamron đồng ý.

“Có lẽ chúng ta cần cho anh ta làm gì đó để giết thời gian”.

Shamron gật đầu ngay, thế là mọi chuyện đã hoàn thành.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3


LUÂN ĐÔN

Việc tìm gặp Gabriel khó khăn không kém gì việc truy tìm thủ phạm vụ thảm sát ở Rome. Anh ta vốn không hay báo cáo việc mình làm và cũng không thích khép mình vào kỷ luật của Văn phòng, vì thế khi anh ta rời Venice mà chẳng buồn báo lấy một tiếng. Chẳng ai thấy ngạc nhiên, kể cả Shamron Anh ta đến Anh để thăm vợ, Leah, vốn đang điều trị tại một bệnh viện tâm thần tư nhân nằm ở một nơi hẻo lánh của vùng Surrey. Tuy nhiên, trạm dừng chân đầu tiên của anh ta lại là con đường New Bond, nơi mà anh đồng ý tham gia cuộc đấu giá Old Master tại Bonhams theo yêu cầu của một nhà buôn nghệ thuật ở Luân Đôn tên Julian Isherwood.

Isherwood đến rất sớm, một tay cắp chiếc cặp da đã mòn gáy, tay kia cầm chiếc áo mưa hiệu Burberry. Một vài nhà buôn khác đang túm tụm trong hành lang. Isherwood lí nhí chào vài tiếng rồi đi ngay vào phòng để mũ áo. Sau khi cởi bỏ chiếc áo mưa Burberry ướt đẫm, ông giơ đồng hồ đến gần cửa sổ. Dáng người ông cao và mảnh khảnh trong bộ comple đấu giá thường lệ - một bộ sọc đứng đắn cùng với chiếc cà-vạt đỏ sẫm vốn được ông coi là thần hộ mệnh của mình. Ông chải nhẹ mái tóc hoa râm bồng bềnh che phủ phần hói và nhìn một lần nữa khuôn mặt mình phản chiếu qua mặt kính. Một người lạ có thể cho rằng ông hơi say. Nhưng Isherwood không phải là loại người như thế. Ông là một tay không hề biết say rượu là gì. Miệng lưỡi lại cực kì sắc sảo. Ông dang hai tay, kéo gấu áo xuống và thoáng liếc nhìn đồng hồ. Đã trễ rồi. Không giống như Gabriel, Isherwood luôn đúng giờ như bản tin lúc chín giờ vậy. Không bao giờ ông bắt khách hàng phải chờ mỏi gối. Càng không bao giờ ông bỏ qua việc chỉnh lại bề ngoài của mình đến từng nếp áo, tất nhiên trừ khi hoàn cảnh không cho phép.

Isherwood chỉnh lại cà-vạt và kéo thấp hai vai áo để hình ảnh đang phản chiếu trong gương có được phong thái ung dung, tự tin của một kẻ xuất thân từ tầng lớp cao quý ở Anh. Ông bước vào các cuộc đấu giá, rao bán những bộ sưu tập cho giới thượng lưu cũng như thay mặt họ giành mua những bộ sưu tập mới, nhưng thực chất ông không bao giờ có thể trở thành một người thuộc tầng lớp của họ được. Thế thì bằng cách nào ông lại làm được điều này? Cái họ chính gốc Anh cùng dáng người cao lêu nghêu đặc trưng đã giúp ông che đậy được sự thật rằng về mặt huyết thống ông không phải là người Anh. Ông có quốc tịch và hộ chiếu Anh, nhưng được sinh ra ở Đức, lớn lên tại Pháp và mang tôn giáo của người Do Thái. Chỉ một số ít bạn bè thân tín mới biết rằng vào năm 1942, đứa trẻ tỵ nạn có tên Isherwood được hai vị linh mục xứ Basque mang đến Luân Đôn sau khi vượt qua dãy núi Pyrenees tuyết phủ trắng xóa. Làm sao ông mang dòng máu người Anh khi cha ông, Samuel Isakowitz, một nhà buôn nghệ thuật tiếng tăm của Berlin, đã kết liễu đời mình tại một góc rừng Ba Lan, một nơi được gọi là Sobibor?

Còn khá nhiều điều mà Julian Isherwood giữ bí mật đối với các đối thủ của mình trong giới nghệ thuật Luân Đôn cũng như những người xung quanh. Đó là trong nhiều năm qua, ông vẫn thỉnh thoảng giúp đỡ một quý ông tên Shamron đến từ Tel Aviv. Theo biệt ngữ dựa trên tiếng Do Thái cổ của đội quân không thường trực của Shamron, Isherwood là một sayan, nghĩa là một người giúp đỡ tình nguyện không công, mặc dù các cuộc gặp gỡ giữa ông và Shamron chủ yếu mang tính bắt buộc hơn là tình nguyện.

Chợt Isherwood thoáng thấy bóng chiếc áo khoác da phủ chiếc quần jeans giữa dòng người co ro trong những chiếc áo mưa trên đường New Bond. Bóng người thoắt ẩn thoắt hiện như thể anh ta đang băng qua những tấm màn để bước ra sân khấu sáng rực ánh đèn. Isherwood vẫn luôn bất ngờ với vẻ ngoài không mấy ấn tượng của anh ta, chiều cao khoảng 1m67, nặng 70kg. Đôi bàn tay lọt thỏm trong chiếc áo khoác đen bằng da dài thườn thượt, vai hơi chúi về phía trước. Anh ta bước đi thoăn thoắt như không hề tiêu tốn chút sức lực nào. Đôi chân hơi cong cong của anh ta khiến Isherwood liên tưởng ngay đến những người có khả năng chạy rất nhanh hay đá bóng giỏi. Anh ta mang đôi giày da lộn đế cao su khá vừa vặn và không mang ô mặc trời mưa rất to. Gương mặt dần hiện rõ với chiếc trán cao, rộng và cái cằm nhọn. Chiếc mũi nhỏ gọn như thể được tạc từ gỗ, xương gò má cao và rộng còn đôi mắt xanh thăm thẳm ấy dường như có chút gốc gác của người Nga. Mái tóc đen được cắt ngắn gọn gàng và có chút hoa râm nơi thái dương. Khuôn mặt anh ta phảng phất sự kết hợp của nhiều nguồn gốc quốc gia khác nhau. Thật ra nếu nói như thế cũng chẳng có ai nghi ngờ điều này, bởi anh ta nói được rất nhiều ngôn ngữ khác nhau. Isherwood vẫn chưa biết Gabriel chính xác là ai? Không gốc gác, không tung tích. Anh ta là một người Do Thái nay đây mai đó.

Rồi anh xuất hiện ngay bên cạnh Isherwood. Không một lời chào hỏi, đôi bàn tay vẫn áp chặt trong túi áo khoác. Cách thức hoạt động trong thế giới ngầm khi làm việc cho Shamron đã hình thành nơi Gabriel một phong cách không mấy lịch thiệp trong các mối quan hệ xã hội bên ngoài. Chỉ trừ khi anh ta phải đóng vai một người lịch lãm. Isherwood nghĩ vẫn có những khoảnh khắc con người ta hé lộ bản chất thật của mình. Như Gabriel lúc này đây, dưới con mắt người ngoài, anh ta là một người lặng lẽ, buồn bã và khó gần. Gabriel khiến những ai tiếp xúc với anh đều cảm thấy khó chịu tột cùng. Hay đây cũng là một trong những biệt tài của anh?

Họ đi dọc hành lang đến bàn đăng ký. “Hôm nay chúng ta là ai đây?”. Isherwood khẽ hỏi, nhưng Gabriel chỉ cúi người về phía trước và viết nguệch ngoạc vài chữ khó đọc vào cuốn sổ đăng ký. Isherwood quên rằng anh ta là một người thuận tay trái. Ký tên bằng tay trái, cầm cọ vẽ bằng tay phải, dùng dao và nĩa bằng tay nào cũng được. Nhưng việc anh ta sử dụng khẩu Beretta bằng tay nào thì thật sự Isherwood cũng không biết.

Họ bước lên cầu thang, Isherwood bám sát Gabriel, lặng lẽ như một vệ sĩ. Áo khoác không vang lên tiếng sột soạt, quần jean cũng không, và đôi giày dường như đang trôi bồng bềnh trên tấm thảm. Isherwood phải chạm nhẹ vào vai Gabriel để nhắc anh ta về sự hiện diện của mình. Đến đầu cầu thang, một nhân viên an ninh yêu cầu Gabriel mở chiếc ba lô da. Anh mở khóa kéo để nhân viên xem xét đồ đạc bên trong: kính mắt một tròng hiệu Binomag, một đèn tia cực tím, một đèn hồng ngoại và một đèn chiếu halogen mạnh. Tay nhân viên vui vẻ ra hiệu cho họ đi tiếp.

Họ bước vào phòng bán hàng, hàng trăm bức tranh treo trên tường và đặt trên giá có phủ vải len tuyết được chiếu rọi dưới ánh đèn. Xen lẫn giữa các tác phẩm là những nhóm nhà buôn đang dáo dác nhìn quanh. Isherwood nghĩ bọn họ không khác gì những con chó rừng đang sục sạo trong đống rác hòng kiếm được một cục xương thừa. Vài người trong bọn họ cứ dí mặt sát vào bức tranh, còn số khác thì đứng xa quan sát. Nhiều phương án được đề xuất. Tiền đã đặt sẵn trên bàn. Các nhân viên ước tính lợi nhuận tiềm năng. Nó chẳng giống với thế giới nghệ thuật chân chính mà Isherwood hằng yêu mến. Gabriel phớt lờ. Anh đi nhẹ nhàng như thể đã rất quen với cảnh hỗn độn của khu chợ ở các nước Hồi giáo. Isherwood không cần nhắc Gabriel tránh sự chú ý của mọi người. Anh ta thừa biết điều đó.

Jeremy Crabbe, vị Giám đốc có tính cách khá vồn vã của Ban Tác phẩm kinh điển của Bonhams, đang đứng đợi bên cạnh tác phẩm ngoại cảnh trường học Pháp, miệng ngậm chặt chiếc tẩu chưa mồi lửa giữa những chiếc răng cửa đã ố vàng. Ông ta hờ hững bắt tay Isherwood và đưa mắt nhìn người trẻ hơn trong chiếc áo khoác da đứng cạnh bên. Gabriel tự giới thiệu “Tôi là Mario Delvecchio” và Isherwood lại một phen ngạc nhiên bởi giọng Venice được phát âm một cách chuẩn xác.

Crabbe thốt lên. “À, ngài Delvecchio bí ẩn. Tất nhiên tôi đã nghe đến danh ông từ lâu nhưng chúng ta chưa có dịp gặp nhau”. Crabbe liếc nhìn Isherwood đầy ẩn ý rồi nói. “Anh có ý định gì thế, Julian? Có điều gì mà anh chưa nói cho tôi biết chăng?”

“Jeremy, anh ta sẽ giúp tôi. Tôi nghĩ rất đáng đồng tiền bát gạo khi mời anh ấy đến thẩm định tranh trước khi mua”.

“Đi lối này”, Crabbe nói đầy nghi hoặc và dẫn họ đến một gian phòng nhỏ, không cửa sổ, cùng tầng với phòng tranh chính. Sự cạnh tranh khốc liệt trong nghề đã buộc Isherwood phải để mắt đến hầu hết các tác phẩm khác. Nếu không Crabbe sẽ không ngần ngại hét giá những bức tranh mà Isherwood đặc biệt chú ý. Tranh ở đây khá tầm thường - một Đức Mẹ thiếu sức sống bên cạnh Chúa hài đồng của Andre del Sarto, bức họa về cuộc sống tĩnh mịch của Carlo Magini, một lò rèn của Vulcan do Paolo Pagani - nhưng ở góc phía xa có một bức tranh sơn dầu không khung được đặt dựa vào tường. Isherwood nhận ngay ra rằng cặp mắt lão luyện của Gabriel cũng đang hướng về nó. Và anh ta cũng lập tức quay đi giả bộ không chú ý. Thật là đúng với phong cách của một người chơi tranh chuyên nghiệp.

Anh ta xem qua các tác phẩm khác trước và chỉ dừng lại đúng hai phút cho mỗi bức tranh sơn dầu. Khuôn mặt anh ta như chiếc mặt nạ, chẳng hề biểu lộ vẻ thích thú hay không hài lòng. Thái độ này khiến Crabbe phải từ bỏ nỗ lực đọc suy nghĩ của Gabriel mà thay vào đó bập tẩu thuốc để giết thời gian.

Cuối cùng anh dừng lại ở lô số 43, tác phẩm Daniel trong hang sư tử của Erasmus Quellinus, khổ 213cmx325cm, tranh sơn dầu, bề mặt sần sùi và khá là bẩn. Nó bẩn đến mức những chú mèo ở góc bức tranh chỉ còn là những bóng mờ. Anh khom người xuống và nghiêng đầu sang một bên để có chút ánh sáng. Sau đó anh liếm ba ngón tay và chùi chùi dung mạo của Daniel. Crabbe hắng giọng và đảo cặp mắt đỏ ngầu. Phớt lờ hắn ta, Gabriel quan sát bức tranh gần hơn, chỉ cách vài centimet và chăm chú nhìn vào cách Daniel khoanh tay và bắt chéo chân.

“Bức vẽ này từ đâu đến?”

Crabbe rời môi khỏi tẩu và nhìn vào nõ tẩu thuốc. “Một bức phác họa từ thời các vua George được tìm thấy ở Cotswolds”..

“Lần cuối nó được phục chế là khi nào?”

“Chúng tôi không chắc lắm, nhưng nhìn bên ngoài thì có lẽ là từ thời Thủ tướng Disraeli còn đương nhiệm”.

Gabriel ngước mắt nhìn Isherwood, lập tức Isherwood quay qua Crabbe và nói. “Cho chúng tôi vài phút, Jeremy”.

Crabbe bước ra khỏi phòng. Gabriel mở túi lấy chiếc đèn tử ngoại. Isherwood tắt đèn, cả căn phòng chìm trong bóng tối. Gabriel bật chiếc đèn tử ngoại và chiếu tia sáng xanh vào bức vẽ.

“Sao?”. Isherwood hỏi.

“Việc phục chế được làm từ lâu lắm rồi nên dấu vết không hiện ra dưới tia tử ngoại”.

Gabriel rút chiếc đèn hồng ngoại ra khỏi túi. Nó giống khẩu súng lục một cách kỳ lạ, và Isherwood cảm thấy lành lạnh khi Gabriel nắm chuôi đèn để bật tia sáng phát quang màu xanh lá cây. Một quầng chấm đen xuất hiện trên bức tranh - vết tích của lần phục chế cuối cùng. Dù rất bẩn nhưng bức vẽ không có vẻ bị hư hại nhiều.

Anh tắt chiếc đèn hồng ngoại, lướt kính mắt một tròng phóng đại và săm soi dung mạo Daniel bằng tia sáng halogen trắng nóng.

“Cậu nghĩ sao?”. Isherwood liếc hỏi.

“Đẹp thật”, Gabriel hững hờ đáp. “Nhưng Erasmus Quellinus không vẽ nó”.

“Chắc không đó?”

“Đủ chắc để dám cá với ông hai trăm ngàn bảng”.

“Chắc cú rồi”.

Gabriel trờ ngón trỏ tới và miết dọc theo hình dáng vạm vỡ và thanh thoát trên bức tranh. “Anh chàng Daniel ở đây, Julian” anh nói, “Tôi cảm nhận được anh ta”.

Buổi trưa, họ đi đến đường James để ăn mừng tại quán Green, nơi gặp gỡ giữa các nhà buôn và các nhà sưu tầm trên phố Duke, cách phòng trưng bày của Isherwood chỉ vài bước. Một chai rượu vang trắng ướp lạnh đang chờ họ ở góc quán quen thuộc. Isherwood rót đầy hai ly và đẩy một ly về phía Gabriel.

“Của Mazel Tov đấy, Julian “.

“Chắc không?”

“Tôi chưa thể nhận định chính xác nếu chưa xem xét bề mặt bên dưới bằng máy phản chiếu hồng ngoại. Nhưng tác phẩm đó rõ ràng là dựa trên trường phái của Rubens, và chẳng nghi ngờ gì đây là phong cách vẽ của ông ta”.

“Tôi chắc cậu sẽ thấy rất tuyệt khi được phục chế nó”.

“Ai nói là tôi định phục chế nó?”

“Cậu chứ ai”.

“Tôi nói tôi sẽ phục hồi giá trị của nó, nhưng tôi chẳng nói gì đến việc phục chế nó cả. Việc đó cần ít nhất sáu tháng. Tôi e rằng lúc đó mình lại đang bận việc khác mất rồi”.

“Chỉ một người thực hiện được công việc này”, Isherwood nói. “Đó chính là cậu”.

Gabriel khẽ ngẩng đầu lên để đón nhận lời tán dương về khả năng chuyên môn đó rồi tiếp tục thờ ơ xem thực đơn. Isherwood có dụng ý khi nói ra điều đó. Gabriel Allon, nếu được sinh ra dưới một ngôi sao chiếu mệnh khác, có lẽ đã trở thành một trong những nghệ sĩ tài hoa nhất. Isherwood nhớ lại lần gặp gỡ đầu tiên - một chiều tháng Chín rực rỡ năm 1978, trên chiếc ghế dài hướng ra hồ Serpentine ở công viên Hyde. Isherwood vẫn còn nhớ lúc đó Gabriel mang dáng dấp nhỏ bé của một cậu trai mới lớn, nhưng hai bên thái dương đã lốm đốm hoa râm. Shamron từng nói rằng đó là dấu vết cho thấy đứa trẻ đó phải đảm đương công việc của một người lớn.

“Anh ta rời Viện nghệ thuật Bezalel năm 1972. Đến năm 1975, anh ta đến Venice học phục chế dưới sự dẫn dắt của nghệ sĩ vĩ đại Umberto Conti”.

“Umberto là chuyên gia xuất chúng nhất ở đó”.

“Tôi cũng nghe nói vậy. Có vẻ như Gabriel đã gây ấn tượng tốt đối với quý ngài Conti. Ông ta cho rằng đôi tay của Gabriel là đôi tay tài hoa nhất mà ông ta từng thấy. Tôi hoàn toàn đồng ý với điều này”.

Isherwood đã lỡ lời khi hỏi Gabriel đã làm gì từ năm 1972 đến 1975. Gabriel quay mặt sang nhìn một cặp tình nhân đang tay trong tay đi dạo nơi góc hồ. Còn Shamron thì lơ đãng nhặt mảnh gỗ vụn trên chiếc ghế.

“Cứ xem như cậu ta chính là một bức tranh bị đánh cắp nhưng đã lặng lẽ quay về đúng chủ của nó. Người chủ sẽ chẳng hỏi bức tranh đó đã ở đâu. Ông ta chỉ hạnh phúc treo lại bức tranh lên tường mà thôi”.

Sau đó Shamron đặt vấn đề “nhờ cậy” đầu tiên.

“Có một quý ngài Palestine đã được đưa đi định cư ở Oslo. Tôi e rằng ý định của quý ngài đây không hay ho cho lắm. Tôi muốn Gabriel giám sát ông ta, và tôi muốn anh tìm cho cậu ấy công việc nào đó đàng hoàng. Chẳng hạn như một công việc phục chế đơn giản thôi, chỉ cần mất khoảng hai tuần. Anh có thể giúp tôi được không Julian?”

Sự xuất hiện của người bồi bàn kéo Isherwood quay về thực tại. Ông gọi súp và tôm luộc, còn Gabriel thì gọi món rau trộn, cá bơn nướng nhạt và cơm. Dù sống chủ yếu ở châu Âu trong suốt ba mươi năm qua, nhưng anh vẫn giữ được khẩu vị bình dân của một người Israel gốc Do Thái lớn lên tại thung lũng Jezreel. Cao lương mỹ tửu, quần áo đẹp và xe đời mới - những thứ đó không thể làm thay đổi con người anh.

“Tôi ngạc nhiên khi cậu có thể bắt đầu công việc ngay hôm nay”, Isherwood nói.

“Tại sao lại không?”

“Rome”.

Gabriel vẫn không rời mắt khỏi thực đơn”. Đó không phải là nhiệm vụ của tôi, Julian. Hơn nữa, tôi nghỉ hưu rồi. Ông cũng biết vậy mà”.

“Thôi đi”, Isherwood khẽ rì rầm. “Vậy cậu đang làm gì trong mấy ngày này?”

“Tôi đang hoàn tất bức họa trang trí ở nhà thờ San Giovanni Crisostomo”.

“Một tác phẩm Bellini nữa à? Thì ra cậu đang tạo dựng tên tuổi cho chính mình”.

“Tên tuổi thì tôi cũng đã có một chút ít rồi”.

Tác phẩm phục chế gần đây nhất của Gabriel, bức họa Bellini ở nhà thờ San Zaccaria đã gây xôn xao trong giới nghệ thuật và hình thành nên những chuẩn mực cho những tác phẩm phục chế của Bellini trong tương lai.

“Chắc là công ty của Tiepolo đang chịu trách nhiệm dự án nhà thờ Crisostomo phải không?”

Gabriel gật đầu đáp”. Tôi hầu như chỉ làm việc cho Fancesco”.

“Ông ta không trả nổi cho cậu đâu”.

“Tôi thích làm việc ở Venice, Julian à. Chỉ cần vừa đủ sống. Ông đừng lo. Tôi không muốn sống theo cái lối trước đây, khi mà còn học việc với thầy Umberto”.

“Vậy mà tôi nghe rằng gần đây cậu rất bận rộn. Có khá nhiều tin đồn rằng người ta gần như phải tháo bức họa trang trí sau bàn thờ ở San Zaccaria vì cậu bỏ việc ở Venice để lo việc riêng”.

“Julian, ông không nên nghe những tin đồn đó”.

“Ồ, thế hả. Tôi còn nghe là cậu đã qua đêm trong tòa lâu đài ở Cannaregio với một thiếu nữ đáng yêu tên là Chiara”.

Gương mặt anh ta đanh lại bên vành ly rượu đã chứng tỏ cho Isherwood rằng tin đồn về đời sống tình cảm của Gabriel là có thực.

“Con bé cũng danh giá chứ?”

“Họ của cô ấy là Zolli, và cô ấy không phải là một con bé”.

“Có đúng cha cô ta là Trưởng giáo Do Thái ở Venice không?”

“Ông ấy là Trưởng giáo duy nhất ở Venice. Đó không phải là một cộng đồng lớn. Chiến tranh đã đặt dấu chấm hết cho cộng đồng ấy”.

“Cô ta có biết cậu là đặc vụ ngầm không?”

“Cô ấy là người của Văn phòng đấy Julian”.

“Hãy hứa với tôi rằng cậu sẽ không đang tâm làm tan vỡ trái tim cô gái ấy như đối với những người con gái khác”, Isherwood nói. “Chúa ơi, người phụ nữ mà cậu vừa buông ra khỏi tầm tay. Tôi vẫn còn tưởng tượng ra hình ảnh tuyệt diệu của Jacqueline Delacroix”.

Gabriel rướn người về phía trước bàn, sắc mặt đột nhiên nghiêm túc. “Tôi sắp cưới cô ấy, Julian à”.

“Còn Leah?”. Isherwood từ tốn hỏi. “Cậu tính sao với Leah đây?”

“Tôi sẽ nói chuyện với cô ấy. Tôi định gặp cô ấy sáng mai”.

“Cô ấy sẽ hiểu chứ?”

“Thật tình tôi không chắc lắm, nhưng tôi đã mắc nợ cô ấy”.

“Thứ lỗi cho tôi khi phải nói ra điều này, cậu nợ chính bản thân mình thì đúng hơn. Đã đến lúc cậu phải sống cho chính mình. Tôi cũng không cần phải nhắc rằng cậu không còn là chàng trai hai lăm tuổi nữa”.

“Ông không là người phải nhìn vào mắt cô ấy và nói với cô ấy rằng mình đang yêu một người phụ nữ khác”.

“Thứ lỗi cho những lời nói đó của tôi. Rượu vào lời ra mà. Còn những tác phẩm của Rubens. Cậu có cần người đi cùng không? Tôi sẽ đưa cậu xuống đó”.

“Không”, Gabriel nói. “Tôi muốn đi một mình”.

Món đầu tiên được dọn ra. Isherwood húp xụp xoạp một cách ngon lành. Còn Gabriel chỉ xiên lấy một miếng rau diếp.

“Ông định trả công bao nhiêu cho việc làm sạch bức tranh của Rubens?”

“À… khoảng một trăm ngàn bảng là được”.

“Quá ít!”. Gabriel nói. “Hai trăm ngàn, tôi cố”.

“Thôi được, hai trăm ngàn, ông bạn ạ”.

“Tuần sau tôi sẽ gọi cho ông”.

“Điều gì khiến cậu không quyết định ngay bây giờ? Mấy tác phẩm Bellini à?”

Không phải, Gabriel nghĩ. Đó không phải là do các tác phẩm Bellini. Đó là Rome.

Viện Stratford, một trong những bệnh viện tâm thần danh tiếng nhất châu Âu, tọa lạc cách trung tâm Luân Đôn một giờ lái xe trên ngọn đồi vùng Surrey vốn thuộc vùng đất của dòng họ Victoria trước đây. Bệnh nhân đang điều trị lâu dài ở đây có cả những gia đình họ hàng của Hoàng gia Anh và người em họ thứ hai của Thủ tướng đương thời, và nhân viên ở đây đã quen với những yêu cầu bất thường của khách thăm. Gabriel đi qua cửa an ninh phía trước sau khi khai báo mình là “ông Browne”.

Anh đậu chiếc xe thuê hiệu Opel vào bãi đỗ dành cho khách ngay sân trước ngôi nhà gạch đỏ kiểu cũ. Leonard Avery, bác sĩ điều trị cho Leah, đón anh trên lối vào sảnh, với dáng vẻ mỏng manh trong chiếc áo khoác hiệu Barbour và đôi ủng Wellington. “Cứ mỗi tuần một lần tôi phải dẫn một nhóm bệnh nhân đi dạo để hít thở khí trời quanh vùng ngoại ô”, Leonard giải thích cho sự hiện diện của mình. “Đó là cách chữa bệnh rất hiệu quả”. Leonard bắt tay Gabriel mà không tháo găng ra và hỏi thăm về chuyến lái xe từ Luân Đôn nhưng có vẻ như ông ta không thực sự muốn biết câu trả lời. “Cô ấy đang đợi anh trong phòng tắm nắng. Cô ấy vẫn thích phòng tắm nắng nhất”.

Họ bắt đầu đi vào một hành lang có trải thảm lót sàn màu đỏ nhạt, gót giày Avery nện lộp cộp trên sàn cứ như đang đi dạo ở thung lũng Surrey. Ông ta là người duy nhất trong bệnh viện biết sự thật về bệnh nhân Lee Martinson. Ông ta biết họ thật của cô ấy là Allon cũng như biết về nguyên nhân của những vết bỏng khủng khiếp và tình trạng gần như rối loạn tâm thần của Lee Martinson. Đó không phải là hậu quả của vụ tai nạn môtô nào - theo như lời giải thích trong bệnh án của Leah - mà là hậu quả của vụ nổ bom xe hơi ở Venice. Ông ta cũng biết rằng thảm họa ấy đã cướp đi mạng sống đứa con trai của cô. Leonard tin rằng Gabriel là nhà ngoại giao Israel nên ông ta cũng không ưa gì anh.

Trên đường đi, ông ta nói ngắn gọn tiến triển mới nhất của Leah. Chẳng có gì biến đổi - Avery tỏ vẻ không mấy lo lắng. Ông không muốn làm người khác hi vọng hão huyền. Ông ta cũng chưa bao giờ tỏ ra thực sự lạc quan với tiến triển của Leah. Và ông ta đã đúng. Đã mười ba năm trôi qua kể từ vụ nổ bom, Leah vẫn chưa thốt được lời nào với Gabriel.

Cuối hành lang là một cửa đôi với khung cửa sổ hình tròn đầy bụi bẩn. Avery mở một cánh và dẫn Gabriel vào phòng tắm nắng. Hơi ẩm ngột ngạt ập vào người khiến Gabriel lập tức cởi áo khoác. Người làm vườn vừa tưới mấy chậu cam vừa nói chuyện phiếm với một nữ y tá - người phụ nữ khá quyến rũ với mái tóc đen mà trước đây Gabriel chưa gặp bao giờ.

“Giờ cô có thể đi rồi, Amira”. Bác sĩ Avery nói.

Cô y tá bước đi, theo sau là người làm vườn.

“Ai vậy?”. Gabriel hỏi.

“Cô ấy là thực tập sinh của trường Trung cấp y tá King và là một chuyên viên chăm sóc. Rất có tâm huyết với công việc. Vợ anh rất thích cô ấy”.

Avery vỗ nhẹ vai Gabriel, rồi bước ra ngoài. Gabriel quay người lại. Leah ngồi thẳng lưng trên một chiếc ghế sắt, mắt hướng về khung cửa sổ đọng hơi nước của phòng tắëm nắng. Nàng đang mặc chiếc quần trắng mỏng vải cotton của bệnh viện và một chiếc áo len cao cổ giúp giữ ấm cơ thể mỏng manh. Đôi tay đầy sẹo và dúm dó đang mân mê một nhành hoa. Mái tóc dài và đen tuyền ngày xưa đã bị cắt ngắn và bạc gần hết. Gabriel cúi xuống và hôn lên má nàng. Môi anh tê cứng khi chạm phải vết sẹo lồi. Leah dường như không có chút cảm giác nào với cái hôn đó.

Rồi anh ngồi xuống và nắm phần còn lại của bàn tay trái Leah. Anh không cảm thấy chút sự sống nào. Leah chậm rãi xoay đầu sang cho đến khi nàng nhìn thấy Gabriel. Anh trông chờ một chút dấu hiệu cho thấy nàng nhận ra anh, nhưng rồi lại một lần nữa anh bị thất vọng. Nàng đã mất trí nhớ. Trong tâm trí Leah giờ chỉ là vụ nổ bom. Nó tua đi tua lại không ngừng như vòng xoay của cuộn băng video vậy. Tất cả những thứ khác đã bị xóa sạch hoặc bị tống vào một góc khuất không thể chạm đến. Đối với Leah, Gabriel thậm chí còn không quan trọng bằng người y tá đã đem cô ra đây hoặc người làm vườn đến chăm sóc cây cối. Leah chính là sự trừng phạt cho những tội lỗi của Gabriel. Leah là cái giá mà một người đàn ông như anh phải trả khi bước vào con đường giết chóc và khủng bố. Đối với Gabriel, người vốn có khả năng thiên phú về việc phục hồi cái đẹp cho các bức hoạ nổi tiếng thì tình trạng của Leah càng trở nên bi thương gấp bội. Anh ao ước có thể xóa sạch những vết sẹo kia và phục hồi lại vẻ lộng lẫy ngày nào cho nàng. Nhưng Gabriel hoàn toàn bất lực. Không ai có thể nhận ra người đàn bà đang câm lặng ngồi sưởi nắng này đã từng một thời là nàng thiếu nữ mang họ Allon xinh đẹp.

Anh nói chuyện, kể về những ngày anh sống ở Venice cùng công việc phục chế tại nhà thờ. Nhưng anh không kể rằng thỉnh thoảng anh vẫn làm những công việc khác cho Ari Shamron, hoặc như việc hai tháng trước đây anh đã sắp đặt việc bắt giữ một tên tội phạm chiến tranh người Áo tên là Erich Radek và dẫn độ về Israel để chịu tội. Sau cùng, anh cố lấy hết can đảm để nói với nàng rằng anh đang yêu một người con gái khác và muốn cả hai chia tay để anh có thể cưới cô ấy, nhưng anh không thể nào thốt nên lời. Nói với Leah cứ như là nói với một người xa lạ. Bởi nàng có nghe thấy gì đâu. Mắt nàng xa xăm như đang sống trong một thế giới khác vậy.

Nửa giờ trôi qua, anh tạm biệt Leah và lầm lũi đi về hướng hành lang. Nữ y tá đã đợi sẵn ở đó, khoanh tay lại và dựa lưng vào tường.

“Ông xong rồi à?”, cô ta hỏi.

Gabriel gật đầu. Không nói thêm một lời, người phụ nữ đó lướt qua Gabriel và bước vào trong.

Chuyến bay từ sân bay Heathrow hạ cánh xuống Venice lúc cuối giờ chiều. Gabriel lên phà để vào thành phố, anh đứng ngay buồng lái, tựa lưng vào cửa cabin và ngắm nhìn những cột phao dập dềnh trong sương mù như những đoàn quân thất trận trở về. Chẳng mấy chốc quận Cannaregio đã hiện ra. Gabriel cảm thấy thoáng chút bình yên. Một Venice không lộng lẫy và dập dềnh sóng nước luôn mang đến cho anh tâm trạng đó. Đây là một thành phố cần phục chế toàn diện, Umberto Conti từng nói với anh như vậy. Hãy làm đi. Hãy hàn gắn Venice, và anh sẽ thấy được giá trị của việc đó.

Anh xuống phà ở Điện Lezze. Gabriel đi về hướng tây của quận Cannaregio rồi đi dọc theo bờ kênh Rio della Misericordia. Anh băng qua một cây cầu sắt, chiếc cầu duy nhất ở Venice. Vào thời Trung Cổ, từng có một cái cổng giữa cầu, nó luôn được một lính gác đạo Cơ Đốc canh giữ để các tù nhân phía bên kia không trốn thoát được. Gabriel qua cầu và đi băng qua sottoportego (lối đi phía dưới tòa nhà). Cuối lối bộ hành, một quảng trường rộng hiện ra trước mắt anh: quảng trường Campo di Ghetto Nuovo, trung tâm của khu phố Do Thái cổ ở Venice. Qua chiều cao của nó cũng có thể biết được đây từng là khu ổ chuột của hơn năm ngàn dân Do Thái. Ngày nay chỉ còn khoảng hai mươi trong số bốn trăm dân Do Thái của thành phố sống trong khu nhà cổ trên, và hầu hết những người lớn tuổi đã an cư ở khu Casa Israelitica di Riposo.

Gabriel tiến tới phía cửa tiệm có gương treo ngoài trông rất hiện đại đối diện quảng trường và bước vào trong. Bên phải là lối vào một cửa hàng sách nhỏ chuyên bán sách về lịch sử và người Do Thái ở Venice. Cửa hàng ấm lên dưới ánh đèn sáng rực, với các khung cửa sổ cao nhìn xuống dòng kênh bao quanh khu Do Thái cổ. Phía sau quầy thu tiền, một cô gái có mái tóc ngắn màu vàng ngồi trên ghế đẩu dưới ánh đèn. Cô mỉm cười chào khi Gabriel bước vào.

“Cô ấy rời khỏi đây được một tiếng rồi”.

“Thế à? Cô ấy đi đâu?”

Cô gái nhún vai. “Cô ấy không nói”.

Gabriel nhìn đồng hồ đeo tay. Bốn giờ mười lăm. Anh quyết định dành vài giờ cho các tác phẩm của Bellini trước khi ăn tối.

“Nếu gặp cô ấy, phiền cô nhắn giùm là tôi ở nhà thờ”.

“Không thành vấn đề. Chào Mario”.

Anh rảo bộ về phía cầu Rialto. Vừa đi hết con đường qua khỏi dòng kênh, anh rẽ trái đi về phía nhà thờ nhỏ có màu đất nung. Gabriel bỗng dừng lại. Anh nhận ra một nhân viên an ninh của Văn phòng tên Rami đang đứng ngay lối vào nhà thờ, bên dưới vòm cửa hình bán nguyệt. Sự hiện diện của người đàn ông này ở Venice chỉ có thể lý giải một điều. Bắt gặp ánh nhìn của Gabriel, ông vội đưa mắt về phía lối vào. Gabriel lướt qua và bước vào trong.

Nhà thờ đang trong những công đoạn cuối cùng của quá trình phục chế. Những dãy ghế dài được đưa ra khỏi gian giữa giáo đường Greek và tạm thời đặt dựa vào bức tường phía đông. Việc làm sạch bức tranh thờ chính Sebastiano del Piombo đã hoàn tất. Khó mà nhận ra nó dưới bóng chiều tà muộn nếu không thắp sáng đèn. Tác phẩm của Bellini được treo trong nhà nguyện thánh Jerome nằm phía bên phải nhà thờ. Lẽ ra nó phải được che khuất sau giàn giáo phủ vải dầu, nhưng giàn giáo đã bị dời sang một bên khiến bức vẽ nằm phơi dưới ánh đèn huỳnh quang chói sáng. Chiara quay ra nhìn Gabriel đang tiến tới. Shamron vẫn dán mắt vào bức tranh.

“Cậu biết đó, Gabriel, tôi phải thừa nhận là nó đẹp thật”.

Giọng người đàn ông lớn tuổi này không mấy thiện cảm. Shamron, một người Israel gốc, ít khi hào hứng với bất kỳ hình thức nghệ thuật hay trò tiêu khiển nào. Ông ta chỉ tìm thấy vẻ đẹp trong hoạt động thế giới ngầm được che đậy hoàn hảo hoặc trong sự hủy diệt kẻ thù. Nhưng Gabriel chú tâm đến chuyện khác - đó là việc Shamron vừa nói với anh bằng tiếng Do Thái cổ và đã phạm một sai lầm không thể tha thứ là thốt ra tên thật của Gabriel tại một nơi không an toàn như thế này.

“Đẹp thật”, Shamron lặp lại, rồi quay sang Gabriel và cười chua xót. “Tiếc là cậu sẽ chẳng bao giờ có thể hoàn tất nó”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4


VENICE

Shamron thả người một cách mệt mỏi xuống băng ghế ngồi của nhà thờ và giơ cánh tay đầy vết đồi mồi ra làm hiệu cho Gabriel chỉnh lại ánh đèn. Ông rút từ chiếc cặp sắt ra một phong bì và lôi ra ba tấm ảnh. Chẳng nói lời nào, ông lấy tấm đầu tiên đưa cho Gabriel. Gabriel nhìn vào, đó là hình anh đang đi dạo cùng với Chiara ở Campo di Ghetto Nouvo. Anh bình thản ngắm nó như đang nhìn vào một bức tranh cần được phục chế và cố gắng nghĩ lại xem đây là vào lúc nào. Màu sắc quần áo của họ tương phản rõ nét với ánh chiều cùng với những thảm lá rụng đầy trên quảng trường lát đá. Điều đó cho thấy khi ấy đã vào cuối thu. Shamron đưa tiếp tấm thứ hai - vẫn là Gabriel và Chiara, lần này là trong một khách sạn gần nhà ở Cannaregio. Tấm thứ ba là lúc Gabriel rời khỏi nhà thờ ở San Giovanni Crisostomo, đây là tấm làm anh thấy lạnh cả người. Đã bao nhiêu lần rồi? Anh tự hỏi. Đã bao lần tên sát thủ đợi trong chỗ ẩn nấp mỗi khi anh rời sở làm vào buổi tối?

“Không thể để chuyện này kéo dài được”, Shamron nói. “Cuối cùng chúng cũng sẽ tìm thấy cậu ở đây. Mấy năm qua cậu đã tạo ra quá nhiều kẻ thù rồi. Cả hai chúng ta đều như thế”.

Gabriel trả xấp ảnh lại cho Shamron. Chiara ngồi xuống cạnh anh. Trong khung cảnh và dưới ánh sáng đó, nàng làm cho Gabriel nhớ đến bức ảnh Alba Madonna của danh họa Raphael. Mái tóc đen hơi xoăn điểm thêm những lọn highlight màu hạt dẻ và nâu đỏ ôm lấy gáy và xõa xuống bờ vai. Làn da nàng nâu bóng. Đôi mắt sâu màu nâu pha lẫn chút ánh vàng sáng lên dưới ánh đèn. Chúng dường như đang biến đổi theo tâm trạng của nàng. Qua ánh nhìn sâu thẳm của Chiara, Gabriel biết rằng sẽ có thêm nhiều tin xấu.

Shamron lại mở cặp tài liệu ra. “Đây là hồ sơ tóm tắt công việc của cậu, chính xác một cách đáng sợ, tôi e là vậy”. Ông ngừng lại. “Nhìn thấy hồ sơ của một người được tóm gọn lại bằng những cái chết mà anh ta gây ra, quả là điều không dễ chịu. Cậu có muốn đọc nó không?”

Gabriel cầm lấy. Shamron đã dịch hồ sơ từ tiếng Arập sang tiếng Do Thái. Thung lũng Jezreel có rất nhiều thị trấn và làng người Arập. Tiếng Arập của Gabriel không mấy lưu loát nhưng cũng đủ để đọc một bản tường trình về những chiến tích của chính mình.

Shamron nói đúng - bằng cách nào đó kẻ thù đã tập hợp đầy đủ và khá chính xác những thông tin về công việc của anh. Hồ sơ ghi rõ tên thật của Gabriel. Ngày anh nhận việc cũng chính xác. Tuy nhiên hồ sơ lại ghi nhận anh đã gây ra cái chết của tám tên khủng bố trong sự kiện Tháng Chín Đen, đó chính là điều cần nói, trong khi thật sự anh chỉ giết chết có sáu tên. Một vài trang đề cập đến vụ Gabriel ám sát Khalil el-Wazir, nhân vật đứng thứ hai của Tổ chức Giải phóng POL thường được biết đến với° biệt danh là Abu Jihad. Gabriel đã giết hắn trong khu biệt thự ven bờ biển ở Tunisia năm 1988. Diễn biến sự việc được vợ của hắn là Umm Jihad, cũng có mặt vào đêm đó, thuật lại. Một bài báo ở Vienna đưa tin khá ngắn gọn và đáng lưu ý. Vợ và con trai anh chết vì bị gài bom trong xe ở Vienna vào tháng Giêng năm 1991. Abu Amar đang tiến hành trả đũa”. Abu Amar không ai khác chính là A’one. Gabriel luôn nghi ngờ rằng A’one sẽ dính dáng đến chuyện này. Nhưng cho đến nay anh vẫn chưa thấy chứng cứ nào về điều đó cả.

Tay vẫn cầm hồ sơ, anh hỏi. “Ông lấy thứ này ở đâu?”

“Ở Milan”, Shamron nói. Rồi ông thuật lại cho Gabriel về cuộc tập kích bất ngờ vào nhà trọ và tìm thấy chiếc đĩa trong túi hành lý của kẻ tình nghi. “Khi người Ý không thể phá được mã bảo mật, họ chuyển qua chúng ta. Tôi cho rằng chúng ta nên xem đó là sự may mắn. Nếu họ mở được chiếc đĩa thì họ có thể đã tóm được tên sát thủ ở Ý ngay rồi”.

Ngoài ra trong hồ sơ còn đề cập đến vụ anh đã giết một gián điệp phát động sự kiện Tháng Chín Đen, tên là Wadal Abdel Zwatier trong căn hộ riêng ở Rome năm 1972. Đó là vụ ám sát đầu tiên của Gabriel, vụ đó đã làm hai bên thái dương anh bạc đi trông thấy chỉ sau một đêm. Anh trả lại tập hồ sơ cho Shamron.

“Chúng ta biết gì về những gã trốn trong căn phòng trọ đó?”

“Dựa vào dấu vân tay được tìm thấy trên đồ vật và khắp phòng, cùng với những bức ảnh trên hộ chiếu giả, chúng ta đã nhận dạng được một tên. Tên hắn là Daoud Hadawi, người Palestine, sinh ra trong trại tị nạn Jenin. Hắn là kẻ cầm đầu trong cuộc nổi dậy đầu tiên của người Palestine chống lại Israel ở Bờ Tây và Dải Gaza, đã vào tù ra khám rất nhiều lần. Năm mười bảy tuổi hắn tham gia phong trào Fatah, và khi A’one trở về Gaza sau tiến trình hòa bình Oslo, Hadawi đã gia nhập Al-Amn Al-Ra’isah, Lực lượng An ninh cận vệ. Cậu có thể biết đến tổ chức đó qua tên gọi trước đây được sử dụng trước khi có tiến trình hòa bình Oslo là: Lực lượng 17, Đội cận vệ của A’one. Những tên sát thủ được A’one sủng ái”.

“Chúng ta còn biết thêm gì về Hadawi không?”

Shamron đưa tay vào túi rút ra gói thuốc lá. Gabriel ngăn ông lại và bảo rằng khói thuốc sẽ làm ảnh hưởng đến những bức tranh. Sharmon thở dài và tiếp tục câu chuyện của mình.

“Chúng ta tin chắc rằng hắn đã tham gia vào rất nhiều chiến dịch khủng bố trong suốt cuộc nổi dậy thứ hai của người Palestine. Hắn được đưa vào danh sách những kẻ tình nghi bị truy nã, nhưng chính quyền Palestine đã từ chối giao nộp hắn. Có thể hắn đang lẩn trốn đâu đó ở Mukata cùng với A’one và các quan chức cấp cao khác”. Mukata là tên của trụ sở vừa là nơi làm việc vừa là nhà ở của A’one ở Ramallah. “Nhưng khi chúng ta tấn công vào Mukata trong Chiến dịch Phòng thủ vũ khí, vẫn không tìm thấy Hadawi trong số những kẻ bị bắt giữ”.

“Vậy hắn ở đâu?”

“Shabak và Aman cho rằng hắn đã trốn sang Gioócđan hoặc Libăng. Họ đã chuyển hồ sơ vụ này về Văn phòng. Nhưng không may là việc tìm ra nơi ẩn náu của Hadawi không phải ưu tiên hàng đầu trong công việc của Lev. Chuyện này đã biến thành một sai lầm tai hại”.

“Hadawi vẫn là thành viên của Lực lượng 17 phải không?”

“Chưa biết được”.

“Hắn vẫn còn liên lạc với A’one chứ?”

“Hầu như chúng ta không biết”.

“Liệu Shabak có nghĩ Hadawi có khả năng làm được những việc như thế không?”

“Không thể nào. Hắn ta là chiến binh, không phải thiên tài quân sự. Vụ tấn công ở Rome đã được lên kế hoạch và thực hiện bởi những kẻ không tầm thường. Phải là ai đó rất thông minh. Kẻ đó phải có khả năng thực hiện những hành động khủng bố trên khắp thế giới. Kẻ đó phải rất có kinh nghiệm trong những hành động như thế này”.

“Kẻ đó là ai?”

“Đó là điều chúng tôi muốn cậu phải tìm ra”.

“Tôi ư?”

“Chúng tôi muốn cậu phải tìm ra những kẻ sâu bọ đã° gây ra cuộc thảm sát này, và cậu phải hạ gục chúng. Cũng giống như năm 1972 thôi, ngoại trừ lần này cậu là người chỉ đạo thay tôi”.

Gabriel chầm chậm lắc đầu. “Tôi không phải là nhà điều tra. Tôi chỉ là người thực hiện mệnh lệnh thôi. Hơn nữa nhiệm vụ này không phải là của tôi. Nó là nhiệm vụ của Shabak. Nhiệm vụ của Sayaret”.

“Họ đã quay lưng lại châu Âu rồi”, Shamron nói. “Chúng ta đang tìm kiếm sự ủng hộ của Châu Âu. Nên giờ đây đó là nhiệm vụ của cậu”.

“Tại sao ông không tham gia chỉ đạo?”

“Tôi chỉ là một cố vấn, không có quyền hạn chỉ huy”. Giọng của Shamron đầy vẻ châm biếm. Ông thích xem mình là một công chức bị áp bức làm trọn công việc của mình mặc dù sự thật không phải như thế. “Hơn nữa, Lev sẽ không muốn nghe chuyện này”.

“Và ông ta sẽ để tôi chỉ đạo sao?”

“Ông ta không còn sự lựa chọn nào khác. Thủ tướng cũng đã bàn đến chuyện này. Dĩ nhiên lúc đó tôi cũng có thì thầm vài vấn đề vào tai ông ấy”. Shamron ngừng lại. “Lev có đưa ra một yêu cầu, tuy nhiên, tôi e rằng mình không thể làm được chuyện này”.

“Chuyện gì?”

Gabriel đã rời khỏi Văn phòng sau vụ đánh bom ở Vienna. Nhiệm vụ của anh trong những năm qua đơn thuần mang tính tự do chủ yếu do Shamron sắp đặt. “Ông ta muốn đặt tôi vào việc tuân thủ kỷ luật của Văn phòng để tiện bề kiểm soát”, Gabriel nói

“Ý đồ của ông ta đã quá rõ ràng. Là người của thế giới ngầm, Lev luôn làm mọi cách để che giấu việc làm của mình. Nhưng cũng đừng quá bận tâm. Tôi mới là người Lev phải gờm. Còn cậu chỉ là người bị liên lụy”.

Một tiếng ồn đột ngột vang lên ngoài đường, những đứa trẻ con ùa chạy ra và la hét ầm ĩ. Shamron im lặng chờ cho tiếng ồn lắng xuống. Khi tiếp tục câu chuyện, giọng ông trở nên nghiêm trọng.

“Chiếc đĩa đó còn chứa nhiều thông tin khác nữa ngoài hồ sơ của cậu”, ông nói. “Chúng ta tìm thấy cả những bức ảnh ghi lại những hình ảnh theo dõi và những tài liệu phân tích khá chi tiết tình hình an ninh của những mục tiêu tiềm năng trong tương lai ở Châu Âu”.

“Những mục tiêu nào?”

“Đại sứ quán, lãnh sự quán, những văn phòng của El Al, những hội người Do Thái lớn, trung tâm cộng đồng người Do Thái và trường học”. Những tiếng cuối của Shamron vang khắp mái vòm nhà thờ một lúc mới im hẳn. “Chúng sẽ tấn công chúng ta lần nữa, Gabriel à. Cậu có thể giúp chúng tôi ngăn chúng lại. Cậu cũng giống như mọi người ở đại lộ King Saul, cậu biết rõ về chúng”. Ông đưa mắt nhìn chăm chú bức họa trang trí sau bàn thờ. “Cậu biết rõ chúng giống như biết rõ những nét cọ của bức tranh Bellini này vậy”.

Shamron nhìn Gabriel. “Những tháng ngày ở Venice đã hết. Một chuyến bay đang đợi cậu ở bên kia hòn đảo. Cậu phải lên đó dù có thích hay không. Cậu sẽ làm gì sau đó là việc của cậu. Cậu có thể ngồi trong một căn phòng an toàn, cân nhắc về hiện trạng cuộc sống của mình, hoặc cậu sẽ giúp chúng tôi tìm ra những tên giết người này trước khi chúng tấn công thêm một lần nữa”

Gabriel không thể từ chối. Shamron nói đúng, anh không còn lựa chọn nào khác mà bắt buộc phải đi. Nhưng vẫn có chút gì đó trong giọng nói tự mãn của Shamron khiến Gabriel cảm thấy phát cáu. Trong nhiều năm qua, Shamron đã khẩn thiết yêu cầu anh hãy rời châu Âu để quay về Israel, và đảm đương trách nhiệm điều hành Văn phòng hoặc ít nhất cũng là Tổ chức. Gabriel đã không đồng ý với lời đề nghị này, và anh cũng không nhận thấy rằng Shamron đã cảm thấy rất thỏa mãn với quyết định đó của anh.

Anh đứng dậy và tiến đến bức họa trang trí sau bàn thờ. Cố hoàn thành nó trong một thời gian ngắn là điều không thể. Bức họa Saint Christopher cùng với bức họa chúa Jesus trẻ tuổi dang rộng đôi vai cần phải được phục chế lại nhiều chỗ. Toàn bộ bức tranh cần được phủ lại lớp vec-ni. Tối thiểu cũng phải mất bốn tuần, cũng có thể lên đến sáu tuần. Anh nghĩ rằng Tiepolo sẽ phải nhờ đến một người khác để hoàn thành nó, đó là điều mà Gabriel không muốn chút nào. Đã thế, ở Israel lại không chuộng những bức tranh thuộc trường phái cổ điển Ý. Có khả năng là anh sẽ không bao giờ được chạm đến một bức tranh nào của Bellini nữa.

“Công việc của tôi là ở đây”, Gabriel nói nhưng giọng có vẻ rất miễn cưỡng.

“Không, ở đây chỉ từng là nhiệm vụ của cậu. Cậu sẽ trở về nhà” - Shamron thoáng ngập ngừng”- “ở đại lộ King Saul. Bên cạnh Eretz Yisrael”.

“Cả Leah nữa”, Gabriel nói. “Tôi cần một chút thời gian để chuẩn bị. Từ giờ cho đến lúc đó, tôi muốn có người bảo vệ cô ấy tại bệnh viện. Tôi không chấp nhận nếu có lúc nào đó, hồ sơ ghi nhận cô ấy đã chết”.

“Một nhân viên an ninh đã được phái từ Luân Đôn đến đây”.

Gabriel nhìn Chiara.

“Cô ấy sẽ cùng đi”, Shamron nói như đã đọc trước những suy nghĩ của anh. “Một đội an ninh sẽ ở lại Venice để bảo vệ gia đình và người thân của cô ấy trong trường hợp cần thiết”.

“Tôi phải báo với Tiepolo là tôi phải đi”.

“Không nên. Càng ít người biết càng tốt”.

“Tôi không quan tâm”, Gabriel nói. “Tôi nợ ông ấy”.

“Cứ làm những gì cậu muốn. Nhưng phải nhanh lên”.

“Còn căn nhà thì sao? Có nhiều thứ…”

“Đội xóa sạch dấu vết sẽ lo liệu những thứ còn lại. Ngay khi họ xong việc, sẽ chẳng còn dấu vết nào của cậu ở đây nữa”. Shamron, mặc cho lời cảnh báo không nên hút thuốc của Gabriel, vẫn châm lửa. Ông giơ cái quẹt lên cao rồi làm động tác thổi tắt nó. “Cứ như là cậu chưa từng tồn tại vậy”.

Shamron cho anh một giờ đồng hồ để chuẩn bị. Gabriel mang trong người khẩu Beretta của Chiara, anh chuồn ra cửa sau của nhà thờ rồi đi về hướng Castello. Anh đã sống ở đây suốt thời gian học việc nên anh nắm rất rõ những con đường ngoằn ngoèo phức tạp trong thị trấn này. Anh đi vào khu mà khách du lịch chưa từng ghé qua, nơi đó có rất nhiều nhà bỏ hoang. Con đường khá ngoằn ngoèo, phải băng qua lối đi dưới những tòa nhà, nơi mà không thể tìm được chỗ ẩn nấp. Anh cố ý bước vào một cái bãi đã được rào chắn xung quanh, chỉ có một lối ra vào duy nhất. Đứng đó khoảng hai mươi phút, anh mới chắc chắn không có ai đang theo dõi mình.

Francesco Tiepolo đặt văn phòng ở San Marco, tại Viale 22 Marzo. Gabriel vào và thấy ông đang ngồi phía sau chiếc bàn làm việc lớn bằng gỗ sồi, cả thân người bị che khuất bởi một chồng lớn giấy tờ. Nếu không có máy tính và đèn điện, có lẽ ông đã trở thành nhân vật trong bức tranh Phục Hưng. Ông ngước lên nhìn Gabriel và nở một nụ cười qua chiếc cằm lởm chởm ria. Khách du lịch trên đường phố Venice thường hay nhầm lẫn ông với danh ca Luciano Pavarotti. Gần đây, ông bắt đầu thích chụp ảnh và tập tành hát một vài câu trong bài “Xin đừng quên tôi” dù giọng ông rất tệ.

Ông đã từng là một người phục chế tranh tài ba, nhưng giờ ông đã chuyển sang công việc kinh doanh. Công ty của Tiepolo là công ty phục chế tranh nổi tiếng khắp vùng Veneto. Ông dành toàn bộ thời gian để chuẩn bị đấu thầu những dự án khác nhau hay tham gia vào các cuộc ngôn luận chính trị với những quan chức ở Venice, những người chịu trách nhiệm bảo tồn những tác phẩm kiến trúc và hội họa. Mỗi ngày ông đều ghé vào nhà thờ San Crisostomo để động viên chuyên gia phục chế đầy tài năng của mình, Mario Delvechio, một người hơi cứng đầu và thích cuộc sống ẩn dật, để thúc đẩy anh ta làm việc nhanh hơn. Ngoài Julian Isherwood, Tiepolo là người duy nhất trong thế giới hội họa biết được sự thật về tài năng của Delvechio.

Tiepolo rủ Gabriel ra ngoài làm một ly rượu nho, nhưng khi thấy vẻ miễn cưỡng của Gabriel, ông đã bước sang phòng bên cạnh để lấy một chai ripasso. Gabriel nhìn lướt qua những khung hình được treo thành hàng trên tường phía sau bàn làm việc. Anh thấy một bức ảnh mới của Tiepolo chụp cùng với người bạn thân của ông, đức Giáo hoàng Paul đệ VII. Pietro Lucchesi đã là từng là Chánh giáo của Venice trước khi đến Vatican và trở thành người đứng đầu của một tỷ tín đồ Công giáo trên toàn thế giới. Tấm ảnh chụp lúc Tiepolo và Giáo hoàng đang ngồi trong phòng ăn ở tòa nhà vừa được xây dựng lại vô cùng nguy nga hướng mặt ra Kênh Đào Lớn. Trong tấm ảnh đó không có mặt Gabriel, lúc đó anh đang ngồi bên trái đức Giáo hoàng. Hai năm trước, nhờ sự giúp đỡ của Tiepolo, anh đã cứu sống đức Giáo hoàng và tiêu diệt hết những phần tử đe dọa đến chức vụ của ngài. Anh hi vọng rằng Chiara và đội làm nhiệm vụ xoá sạch dấu vết sẽ tìm thấy tấm thiệp Hanukkah mà Đức Thánh Cha đã gửi tặng anh vào tháng Mười Hai.

Tiepolo rót ra hai ly rượu vang ripasso đỏ và đẩy một ly về phía Gabriel. Ông uống một lúc hết ngay nửa ly. Chỉ trong công việc Tiepolo mới đòi hỏi sự rõ ràng. Còn những vấn đề khác như đồ ăn, thức uống hay về phụ nữ, Francesco Tiepolo có chiều hướng thích thưởng thức quá độ. Gabriel nhoài người về phía trước và thì thầm cho Tiepola tin mới nhận được - kẻ thù đã phát hiện ra anh đang ở Venice, và anh không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải rời khỏi thành phố ngay lập tức, vì vậy anh không thể hoàn thành bức họa Bellini. Tiepolo mỉm cười một cách buồn bã và nhắm mắt lại.

“Không còn cách nào khác sao?”

Gabriel gật đầu. “Chúng biết nơi tôi sống. Cả nơi làm việc nữa”.

“Còn Chiara thì sao?”

Gabriel trả lời câu hỏi này một cách thật tình. Tiepolo, theo tiếng Ý có nghĩa là một người đáng tin cậy.

“Tôi xin lỗi về bức họa Bellini”, Gabriel nói. “Lẽ ra tôi nên hoàn tất nó một tháng trước”. Có lẽ anh đã làm xong nếu không có vụ Radek.

“Mặc xác bức Bellini đó đi. Tôi chỉ lo cho anh”. Tiepolo nhìn chằm chằm vào ly rượu. “Tôi sẽ nhớ đến Mario Delvecchio, nhưng sẽ nhớ Gabriel Allon nhiều hơn”.

Gabriel nâng ly lên hướng về Tiepolo. “Tôi biết mình không có tư cách để xin ông một đặc ân…”. Giọng anh nhỏ dần.

Tiepolo nhìn bức ảnh Đức Thánh Cha và nói. “Anh đã cứu sống bạn tôi. Thế anh muốn điều gì?”

“Hãy giúp tôi hoàn tất bức Bellini”.

“Tôi ư?”

“Chúng ta đã cùng học một thầy, Fracesco à. Thầy Umberto Conti đã dạy ông rất nhiều mà”.

“Đúng thế, nhưng anh có biết đã bao lâu rồi tôi không cầm cọ để vẽ không?”

“Ông sẽ vẽ tốt mà. Tin tôi đi”.

“Đó thật sự là một đề nghị đầy tự tin từ một người đàn ông. Giống hệt như Mario Delvecchio vậy”.

“Mario đã chết, Fracesco à. Mario không bao giờ còn nữa”.

Gabriel quay về Canneregio trong bóng đêm. Anh đi băng qua một đoạn đường vòng ngắn để đến khu phố cổ của người Do Thái, có thể đây là lần cuối anh đến nơi này. Tại quảng trường, anh đứng nhìn hai gã trai mặc đồ đen với hàm ria lún phún đang hối hả băng qua vỉa hè lát đá đi đến trường. Anh nhìn đồng hồ. Một giờ đã trôi qua kể từ lúc anh để Shamron và Chiara ở lại nhà thờ. Anh quay lại và đi về ngôi nhà mà lát nữa đây sẽ không còn chút dấu vết nào của mình, và máy bay sẽ lại đưa anh trở về nhà lần nữa. Mỗi bước anh đi, trong đầu cứ vang vọng lên hai câu hỏi. Kẻ nào đã tìm thấy anh ở Venice? Và tại sao anh vẫn còn sống?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5


TEL AVIV, NGÀY 10 THÁNG 3

Gabriel đến Tổng hành dinh ở Đại lộ King Saul lúc tám giờ ngay sáng hôm sau. Hai nhân viên phòng nhân sự đang đứng chờ anh tại đó. Họ mặc áo sơ mi vải cotton đồng phục, và có cùng một điệu cười giống nhau - những nụ cười mím chặt đầy lạnh lùng của những viên chức được giao quyền tra hỏi những câu hỏi cắc cớ. Trong mắt của các nhân viên này, việc quay trở về để chịu hình thức kỷ luật của Gabriel đã quá trễ. Anh như một loại rượu tinh túy mà người thưởng thức phải nhấm nháp từng giọt một và bình luận. Anh đã tự về nộp mình cho tổ chức sau những ngày dài rong ruổi trốn chạy và đuổi bắt.

Nào là kí nhận lời khai, tuyên thệ và những câu hỏi vô cớ về tình hình tài chính của anh. Rồi anh bị chụp ảnh cùng với một cái biển nhận diện treo lủng lẳng quanh cổ như một tên tội phạm. Anh bị lấy dấu vân tay mới vì người ta không thể tìm ra dấu vân tay cũ của anh kể từ năm 1972. Tiếp đó anh bị kiểm tra sức khỏe toàn diện. Vị bác sĩ đã vô cùng sửng sốt trước thân thể đầy vết sứt sẹo của anh và hối hả tìm mạch ở cổ tay rồi tìm ven để đo huyết áp. Anh cũng phải trải qua một cuộc kiểm tra nghiêm ngặt với chuyên viên tâm lý. Ông này chỉ ghi qua loa vài chữ vào hồ sơ của Gabriel rồi rời phòng. Đội xe công cấp cho anh chiếc mui trần Skoda để dùng tạm; bộ phận quản lý văn phòng thì nhét anh vào một phòng không có cửa sổ ngay ở tầng hầm và những vật dụng cần thiết cho tới khi anh có thể tự tìm ra chỗ ở. Vì muốn giữ một khoảng cách cần thiết với Tổng hành dinh ở King Saul, Gabriel đã dọn đến một căn hộ bỏ hoang nhưng an toàn trên đường Narkiss tại Jerusalem, không xa trường Đại học Nghệ thuật Bezalel.

Khi hoàng hôn xuống, anh được điều đến phòng làm việc của viên sĩ quan cao cấp để hoàn tất khâu thủ tục cho sự trở về của mình. Những ánh đèn trên cửa phòng Lev chuyển sang màu xanh. Cô nàng thư ký hấp dẫn với cặp chân dài rám nắng và mái tóc nâu nhạt nhấn một chiếc nút vô hình làm cánh cửa nhẹ nhàng kéo lên như mở ra một lối vào căn hầm bí mật của ngân hàng.

Garbriel bước vào trong, nhưng dừng lại trước khi tiến thêm về phía trước. Một cảm giác lạ lẫm dâng lên trong anh. Giống như cảm giác của một người đàn ông tưởng quay trở về chiếc giường ngủ lúc nhỏ quen thuộc của mình nhưng hóa ra nó lại là chỗ làm việc của cha mình. Căn phòng này từng là nơi làm việc của Shamron. Chiếc bàn gỗ với những vết cứa chằng chịt, cặp hồ sơ bằng thiếc và chiếc radio tần sóng ngắn của Đức mà Shamron hay sử dụng để nghe ngóng tin tức đã không còn nữa. Giờ đây cách bài trí trong phòng hiện đại hơn với tông màu xám. Sàn nhà lót bằng vải sơn đã bị xé đi và được thay bằng một tấm thảm lông dày. Người ta cố tình sắp đặt những tấm thảm Phương Đông đắt tiền quanh phòng. Trên trần cao là một bóng đèn halogen âm tường chiếu thẳng xuống khu vực tiếp khách với bộ bàn ghế bọc da đen bóng, Gadriel liên tưởng ngay đến những chỗ ngồi ở khoang hạng nhất trên máy bay. Bức tường gần chỗ ngồi được thay thế bằng một chiếc tivi plasma màn hình rộng với độ phân giải cao. Thiết bị điều khiển nằm trên chiếc bàn uống cà phê cạnh đó, nó to gần bằng cuốn kinh thánh và trông như thể chỉ những kỹ sư lành nghề mới có khả năng điều khiển được.

Trước đây Shamron đặt bàn làm việc khá bất tiện cho việc ra vào nên Lev đã chọn một vị trí khác gần cửa sổ. Tấm màn màu xám nhạt đã được kéo ra nhưng lại xếp nếp nên vẫn có thể nhận ra đường chân trời ngoằn nghèo từ phía khu phố Tel Aviv dưới ánh mặt trời cam vàng khổng lồ đang dần dần chìm trong Địa Trung Hải. Bàn làm việc của Lev, với tấm kính ám đầy khói thuốc, trống trơn ngoài một chiếc máy tính và hai chiếc điện thoại bàn. Ông đang ngồi trước màn hình, đôi bàn tay khoanh lại trông như con bọ ngựa nằm bên dưới chiếc cằm ngang ngạnh của mình. Cái đầu hói của ông hơi ánh lên dưới ánh đèn mờ. Gabriel nhận thấy cặp mắt kính của Lev không hề phản chiếu. Ông ta đeo cặp kính đặc biệt này nhằm làm cho kẻ thù của ông - những người trong Văn phòng vốn luôn chống đối ông, không thể biết được ông đang nghĩ gì.

“Gabriel”, ông cất giọng, ra vẻ vô cùng ngạc nhiên vì sự có mặt của anh. Ông bước ra khỏi bàn làm việc và bắt tay Gabriel một cách từ tốn. Rồi với một ngón tay xương xẩu ấn vào sườn Gabriel như một nòng súng, ông đưa Gabriel băng qua phòng đến chỗ ngồi. Khi đang ngồi vào ghế, một vài hình ảnh trên màn hình tivi khiến ông chú ý, nhưng Garbriel không biết điều gì trên tivi khiến ông ta phải bận tâm. Ông thở dài nặng nề, rồi chầm chậm quay sang nhìn Gabriel với ánh mắt dò xét của một kẻ săn mồi.

Những hình ảnh về cuộc trạm trán cuối cùng giữa hai người chợt hiện về. Nơi gặp gỡ không phải là căn phòng này mà là tại văn phòng của Phó Thủ tướng ở Jerusalem. Một trong những vấn đề đưa ra thảo luận ngày hôm đó là liệu Văn phòng có nên bắt Erich Radek và áp tải hắn về Israel để chịu phán xét của công lý hay không. Lev đã kịch liệt phản đối, dẫu có một sự thật rành rành rằng Radek đã suýt giết chết mẹ của Gabriel trong cuộc thảm chiến ở Auschwitz hồi tháng Giêng năm 1945. Phó Thủ tướng đã bác bỏ phản đối của Lev và giao trọng trách cho Gabriel phải theo đuổi Radek và trục xuất hắn ra khỏi Áo. Radek giờ đây đang bị tống giam ở Jaffa, và Lev, trong hai tháng cuối cùng, đã hết sức nỗ lực để chuộc lại những lỗi lầm của mình vì đã phản đối việc bắt giữ. Từ đó uy thế của Lev trong quân đội tại Đại lộ King Saul giảm sút trầm trọng. Thậm chí tại Jerusalem, một số người cũng bắt đầu tự hỏi liệu có phải thời kỳ hoàng kim của Lev đã hết rồi không.

“Tôi được quyền sắp xếp lại trật tự trong đội của anh”, Lev nói. Ông nhấn nút nội bộ trên điện thoại và cho gọi thư ký. Cô thư ký bước vào phòng với một xấp hồ sơ trên tay. Những cuộc họp của Lev luôn luôn được lên kế hoạch và trình bày một cách rất khoa học. Ông không muốn người nghe khó hiểu trước những biểu đồ phức tạp khi trình bày các vụ án.

Khi cô thư ký quay ra cửa, Lev nhìn Gabriel để xem rằng liệu anh có nhìn theo cô ta hay không. Rồi không nói lời nào, ông đưa cho Gabriel xấp tài liệu, mắt lại hướng về màn hình tivi. Gabriel mở xấp tài liệu ra và thấy bên trong chứa rất nhiều trang, mỗi trang mô tả chi tiết về các thành viên của nhóm như: tên, bộ phận, chuyên môn. Mặt trời đã khuất sau đường chân trời và căn phòng trở nên tối hẳn. Để đọc được những tài liệu đó, Gabriel phải rướn người về phía bên trái và giữ những trang tài liệu ngay dưới những chiếc đèn halogen° trên tường. Sau một hồi lâu, anh ngước mắt lên nhìn Lev.

“Chỉ còn thiếu những đại diện của Hadassah và Liên đoàn thể thao Maccabee”. Gabriel ném một tia nhìn sắc lạnh về phía Lev như ném một viên đá với tốc lực của một chiếc tàu hàng.

“Ý anh là sao, Gabriel?”

“Quá đông. Vướng tay vướng chân”. Có vẻ như Gabriel hiểu rằng Lev muốn anh nói rõ ý mình hơn. “Tôi có thể tiến hành điều tra với một đội gồm nửa số người này”.

Lev miễn cưỡng vẫy tay đồng ý để Gabriel hạn chế bớt số lượng người trong đội. Gabriel bắt đầu loại bỏ một số hồ sơ và đặt chúng lên bàn cà phê. Lev nhau mày. Việc Gabriel cắt giảm một nửa số người này nghiễm nhiên hạ thấp vai trò cung cấp thông tin của Lev.

“Thế này sẽ tốt hơn”, Gabriel nói, đưa lại tập hồ sơ nhân sự cho Lev. “Chúng tôi cần địa điểm để họp bàn. Văn phòng của tôi thì quá nhỏ”.

“Bộ phận quản lý đã chuẩn bị sẵn phòng 456C rồi đấy”.

Gabriel biết rõ căn phòng này. Nó nằm ở tầng hầm thứ 3, phòng 456C. Nó chẳng có gì ngoài một cái sàn đổ nát với những chiếc ghế cũ kỹ, thiết bị máy tính hỏng, và thường bị những nhân viên trực đêm dùng cho những cuộc mây mưa của họ.

“Tốt thôi”, Gabriel nói.

Lev bắt chéo chân lại và nhặt lấy một sợi tơ nhỏ xíu trên quần ra. “Anh chưa bao giờ làm việc tại Tổng hành dinh, đúng không Gabriel?”

“Ông biết rõ tôi làm ở đâu mà”.

“Đó là lý do vì sao tôi cần phải nhắc anh vài điều. Bất kỳ một tiến triển nào trong cuộc điều tra của anh đều không được nói cho bất cứ ai biết ngoài cơ quan tình báo. Và anh phải báo cáo cho tôi, chỉ tôi thôi. Anh rõ chứ?”

“Tôi nghĩ ông đang ám chỉ đến người bạn già đã từng làm ở đây”.

“Anh biết rõ tôi đang nói đến ai”.

“Xét về mối quan hệ cá nhân, Shamron và tôi là bạn thân. Tôi sẽ không phá hỏng mối quan hệ này chỉ để làm ông hài lòng”.

“Nhưng anh vẫn phải hạn chế bàn luận vụ này với ông ta. Tôi nói thế anh đã hiểu rõ rồi chứ?”

Dù là tay ăn trắng mặc trơn, không phải đổ tí xương máu nào cho các cuộc chiến đấu, nhưng Lev lại là tay sừng sỏ trong các cuộc đấu khẩu với các sĩ quan cấp cao.

“Rõ rồi, Lev”, Gabriel nói. “Tôi biết rõ vị trí của ông mà”.

Lev đứng thẳng người dậy, ra vẻ cuộc nói chuyện đã kết thúc, nhưng Gabriel vẫn ngồi yên.

“Còn vài việc tôi muốn bàn thêm với ông”.

“Thời gian của tôi hạn hẹp lắm”, Lev nói, mắt nhìn xuống.

“Không lâu đâu. Chuyện về Chiara”.

Lev thản nhiên quay về chỗ ngồi, ông ta tiến đến gần cửa sổ và nhìn xuống những ánh đèn ở Tel Aviv. “Cô ấy thì sao?”

“Tôi không muốn cô ấy tiếp tục bị lợi dụng cho đến khi chúng ta xác định được ngoài cô ta ra, còn ai đã nhìn thấy nội dung của chiếc đĩa dữ liễu đó”.

Lev xoay người chầm chậm, trông như một bức tượng đang di chuyển trên đế xoay. Với ánh sáng mờ nhạt sau lưng, trông ông không khác nào một chiếc mặt nạ tối tăm tựa vào mép bức rèm.

“Tôi lấy làm mừng vì anh cảm thấy đủ thoải mái đến văn phòng này chỉ để nói ra những yêu cầu của mình”, ông ta nói với vẻ gay gắt, “nhưng tương lai của Chiara sẽ do nhóm điệp vụ và dĩ nhiên, trên hết, là do tôi quyết định”.

“Cô ta chỉ là một nữ trợ thủ tình báo. Phải chăng ông đang cố tình nói với tôi rằng ông không thể kiếm một cô gái nào khác để tháp tùng?”

“Cô ta có được tấm hộ chiếu Ý, và lại làm rất tốt công việc của mình. Anh biết đấy, tốt hơn bất cứ ai”.

“Lev, rồi cô ấy cũng sẽ bị cho nổ tung. Nếu ông giao trọng trách điệp viên cho cô ấy thì ông đã đẩy cô ấy đến bờ vực nguy hiểm. Tôi sẽ không hợp tác với cô ấy nữa”.

“Cũng may là hầu hết các nhân viên điều tra hiện trường của chúng ta không hề kiêu ngạo như anh”.

“Tôi chẳng biết một tay nhân viên điều tra hiện trường tài giỏi nào lại không kiêu ngạo cả, Lev ạ”.

Một bầu không khí nặng nề bao trùm hai người. Lev tiến đến bàn làm việc và nhấn nút điện thoại. Cánh cửa tự động mở ra, và một luồng ánh sáng hắt lại từ khu vực tiếp tân.

“Kinh nghiệm cho thấy hầu hết các nhân viên mật vụ đều không hoàn toàn tuân thủ theo các quy định do Văn phòng đưa ra. Ở hiện trường, họ tự làm ra luật, nhưng ở đây, tôi mới là người ban hành luật”.

“Tôi sẽ cố gắng nhớ lấy điều này, thưa sếp”.

“Đừng có chế nhạo như thế”, Lev nói với theo khi Gabriel hướng về phía cửa. “Nếu anh cứ thế này, thậm chí ngay cả Shamron cũng không thể bảo vệ được anh”.

Ngay sáng hôm sau, họ tập trung tại phòng 456C để họp lúc 9 giờ. Nhân viên vệ sinh cũng chẳng màng đến việc dọn dẹp phòng ốc lại cho gọn gàng. Trong phòng có một chiếc bàn gỗ đã cũ dựng ngay chính giữa, vài cái ghế ngổn ngang xung quanh. Phía xa, gần bức tường, những mảng vôi vữa thừa vung vãi. Vừa bước vào căn phòng, Gabriel chợt nhớ ngay đến những chiếc ghế dài dựng sát tường ở nhà thờ San Giovanni Crisostomo. Mọi thứ sắp đặt trong căn phòng này chỉ là tạm bợ, kể cả những xấp tài liệu để lộn đầu bừa bãi, và cả tấm biển treo ngoài cửa ra vào cũng vậy: PHÒNG HỌP TẠM THỜI DÙNG ĐỂ ĐIỀU TRA CÁC VỤ KHỦNG BỐ TÂY ÂU. Gabriel ngán ngẩm nhìn bao quát toàn bộ đống hỗn độn. Nhưng biết đâu lại như Shamron đã từng nói, trong cái rủi lại có cái may.

Đội của anh có tất cả bốn người, hai nam, hai nữ, tất cả bọn họ đều rất hào hứng, nhiều tham vọng, và trẻ tuổi đến không ngờ. Yossi được cử đến từ bộ phận Nghiên cứu, đó là một người có bộ óc phân tích siêu phàm và đã đọc hết quyển Greats của Oxford; tiếp theo là cô gái mắt sẫm màu tên Dina, đến từ bộ phận Lịch Sử, người có thể thuật lại từng chi tiết từ thời gian, địa điểm, và nạn nhân của mọi vụ khủng bố bị kết án ở toà án Israel. Cô bước đi hơi tập tễnh, và những người xung quanh luôn đối xử với cô thật dịu dàng. Gabriel biết rõ nguyên do tại sao Dina lại bị tập tễnh như thế nhờ vào tập hồ sơ cá nhân của cô. Thực tế là Dina đã đứng tại ngay con đường Tel Aviv Dizzengoff vào một ngày tháng 10 năm 1944, khi một tên đánh bom tự sát Hammas biến toàn bộ chiếc xe buýt số 5 thành một nấm mồ chôn sống hai mươi mốt người trong đó. Cả mẹ và hai người em gái của cô cũng chết trong vụ nổ bom thảm khốc này. Dina bị chấn thương khá nặng.

Hai thành viên khác của nhóm không thuộc Văn phòng. Bộ Ngoại giao Arập của Shabak đã gửi cho Gabriel một tay bất trị tên Yaakov, trong suốt gần mười năm qua, anh ta đã luôn cố gắng trà trộn vào bộ máy khủng bố đáng sợ của những người Palestine cực đoan. Cục tình báo quân đội còn gửi cho Gabriel một đội trưởng tên Rimona, là cháu gái của Shamron. Lần cuối cùng Gabriel thấy Rimona là lúc cô này đang khóc to nhưng không hề sợ hãi lái chiếc xe ba bánh lao thẳng xuống con dốc nhà Shamron. Giờ đây, Rimona có lẽ đang ở đâu đó trong khu tập kết máy bay ở phía bắc Tel Aviv, mải mê nghiên cứu những hồ sơ lấy được từ phía cơ quan tình báo khủng bố Arập tại Ramallah.

Theo bản năng, Gabriel tiếp cận vụ điều tra được giao như ngắm nghía một tác phẩm hội họa. Nó khiến anh nhớ lại bức tranh mình đã phục chế không lâu sau khi kết thúc quá trình tập sự. Đó là bức vẽ Chúa Jesus bị đóng đinh trên thánh giá của một họa sĩ Cima, đến từ Venice giai đoạn đầu thời kỳ Phục Hưng. Sau khi làm sạch lớp vécni phủ bên ngoài, Gabriel phát hiện ra rằng gần như không còn sót lại chút vết tích nào của tác phẩm nguyên thủy. Sau đó anh đã phải chắp nối những mảnh vụn về cuộc đời và tác phẩm của người họa sĩ. Cuối cùng khi bắt tay vào phục chế bức tranh, anh cảm nhận được như có Cima bên cạnh để chỉ dẫn mình.

Trong trường hợp này, tay họa sĩ là một thành viên trong nhóm khủng bố và đã bị nhận dạng rõ ràng: Daoud Hadawi. Hiện Hadawi đang là kẻ ngáng đường, và chỉ mấy ngày sau, sơ lược về cuộc đời hắn đã in sâu vào tâm trí Gabriel. Hắn lớn lên từ một trại tị nạn ọp ẹp ở Jenin, tham gia vào các cuộc bạo động ném đá và đánh bom xe trong cuộc nổi dậy vũ trang lần thứ nhất, và được chọn vào Lực lượng 17. Không một ngóc ngách cuộc đời nào của Hadawi mà Gabriel không tìm hiểu: thời đi học, tín ngưỡng, gia đình, người thân, bè phái và sức ảnh hưởng của hắn ta.

Các thành viên của Lực lượng 17 đều bị điểm mặt và xác định nơi ẩn náu. Những tên sở hữu hoặc được trang bị kỹ năng cần thiết để tạo ra quả bom đã san bằng Lãnh sự quán Úc được đặc biệt chú ý. Những tay cung cấp thông tin người Arập rải rác từ vùng Ramallah đến Dải Gaza, từ Rome đến Luân Đôn đều được triệu tập để tra hỏi. Thông tin liên lạc đứt quãng suốt hai năm qua nay được máy tính sàng lọc và tách riêng những dữ liệu có liên quan đến mạng lưới hoạt động rộng khắp ở Châu Âu. Các báo cáo hiện trường được xem xét lại, danh sách hành khách đi máy bay bị lục tung thêm lần nữa. Rimona trở lại căn cứ riêng của mình mỗi sáng để tìm kiếm manh mối về Rome trong xấp hồ sơ lấy được từ cơ quan tình báo khủng bố Arập.

Ngày qua ngày, căn phòng 456C càng giống như căn cứ của đội quân bị vây hãm. Những hình ảnh được ghim đầy trên tường và có vẻ như những hoạt động của họ tại văn phòng này đang bị dòm ngó bởi một đám đông người Arập. Các cô gái trở ra từ phòng dữ liệu đã tận dụng lối thoát ở bên ngoài hành lang để chất hồ sơ. Gabriel thì trưng dụng căn phòng kế bên cùng với giường chõng và chăn mền. Anh còn yêu cầu một tấm bảng đen và giá đỡ. Yossi mỉa mai phát biểu rằng chưa có ai tìm thấy được tấm bảng đen nào trong Văn phòng ở đại lộ King Saul suốt hai mươi năm qua. Và để “tặng thưởng” cho lời phát biểu đường đột đó, cô được yêu cầu phải đi tìm nó về. “Tôi phải chạy đi hỏi khắp nơi”, Yossi nói. “Dụng cụ sẽ có trong tuần sau”.

Hàng ngày Gabriel bắt đầu cuộc họp với một loạt nghi vấn: Ai đã chế tạo quả bom? Ai đã âm mưu và vạch kế hoạch tấn công? Ai cầm đầu? Ai đảm bảo nơi trú ngụ và phương tiện di chuyển? Ai chi tiền? Ai là kẻ chủ mưu? Liệu có sự hậu thuẫn của chính quyền các Thủ đô Đamát, Tehran hoặc Tripoli hay không?

Kết thúc một tuần dài điều tra mà vẫn không có câu hỏi nào được giải đáp. Mọi người bắt đầu hoang mang. Gabriel chỉ đạo thay đổi phương thức tiếp cận khác. “Đôi khi ta có thể giải những bài toán hóc búa nhờ vào các manh mối phát hiện được, nhưng đôi khi chúng còn được giải đáp bằng việc tìm kiếm những manh mối còn thiếu”. Anh đứng trước tấm bảng đen và lau nó cho đến khi sạch bóng. “Hãy bắt đầu tìm kiếm những manh mối còn thiếu”.

Họ ăn tối cùng nhau, ấm cúng như một gia đình. Gabriel động viên mọi người hãy tạm gác lại việc điều tra và nói sang chuyện khác. Anh nghiễm nhiên trở thành tâm điểm chú ý của mọi người. Họ tìm hiểu những chiến tích lẫy lừng của anh và thậm chí có những sự kiện đã đi vào sử sách mà họ đã từng học. Lúc đầu anh chỉ khiêm tốn lắng nghe. Nhưng những lời tán dương ấy đã kéo anh ra khỏi vỏ bọc của mình và lặp lại vai diễn mà Shamron đã từng đóng trước mặt anh không biết bao nhiêu lần. Anh kể họ nghe về tổ chức Tháng Chín Đen và Abu Jihad; cuộc đột nhập vào tòa thánh Vatican và cuộc truy bắt Erich Radek. Rimona thắc mắc về công việc phục chế tranh dùng để ngụy trang cũng như cách thức anh che giấu tung tích. Yossi bắt đầu hỏi về vụ nổ bom ở Vienna, nhưng Dina, vốn là chuyên gia nghiên cứu về khủng bố và chống khủng bố, đã kịp chạm tay ngăn cô lại và tế nhị chuyển sang đề tài khác. Trong khi nói, Gabriel thỉnh thoảng bắt gặp ánh mắt đầy ngưỡng mộ của Dina như thể anh chính là hiện thân của một anh hùng lịch sử. Anh chợt nhận ra rằng, mình cũng như Shamron trước đây, được vượt qua ranh giới giữa cõi chết và hư vô.

Đề tài về Radek kích động họ nhất. Gabriel hiểu vì sao. Họ đang sống trong một đất nước bất ổn ngay cả khi dùng bữa trong nhà hàng hay đi trên xe buýt. Cơn ác mộng về nạn tàn sát người Do Thái cứ ám ảnh họ mỗi đêm. Có thật là anh đã đặt chân đến trại thảm sát Treblinka? Anh đã chạm mặt hắn ta? Làm thế nào anh có thể chịu đựng nổi giọng điệu của hắn ta tại nơi đó? Có phải anh đã từng ao ước sẽ tự tay bắt hắn? Yaakov chỉ hỏi một câu duy nhất: “Hắn có xin lỗi vì đã sát hại ông bà của chúng ta không?”. Dù muốn nói là có, nhưng Gabriel buộc phải nói ra sự thật. “Không, hắn ta không hề xin lỗi. Thậm chí tôi còn bị sốc mạnh khi thấy hắn còn tỏ ra rất tự hào về điều đó”. Yaakov miễn cưỡng gật đầu, như thể sự thật đó chỉ làm tăng thêm cái nhìn bi quan của anh về sự bình đẳng giữa con người.

Vào ngày Shabbat, ngày lễ cuối tuần của người Do Thái, Dina thắp hai ngọn nến và cầu nguyện. Tối hôm đó, thay vì tiếp tục đào sâu quá khứ u ám của Gabriel, họ nói về tương lai. Yaakov chỉ mong muốn được ngồi trong quán cà phê nào đó ở Tel Aviv mà không còn nỗi ám ảnh bởi các vụ vụ đánh bom tự sát. Yossi ao ước làm một chuyến vi hành khắp thế giới Arập từ Marốc cho đến Bátđa. Ước mơ của Rimona là mỗi sáng bật đài phát thanh, cô không còn nghe thấy bất kỳ người nào bị sát hại. Còn Dina? Gabriel tự hỏi liệu ước mơ của cô có giống mình không? Anh ước mơ một căn phòng chiếu phim riêng biệt, tràn ngập hình ảnh máu và lửa.

Sau buổi ăn tối, Gabriel khẽ rời khỏi phòng và đi dạo dọc hành lang. Anh gặp một cái cầu thang, anh leo lên rồi sau đó bị mất phương hướng. Anh tìm được đường ra nhờ sự chỉ dẫn của nhân viên trực đêm. Cửa ra vào đã bị khóa. Gabriel loay hoay xuất trình tấm thẻ ID mới được cấp nhưng nhân viên an ninh chỉ cười xòa và mở cửa cho anh.

Căn phòng lạnh tanh, mờ mờ ảo ảo dưới ánh sáng phát ra từ những chiếc máy vi tính. Các sĩ quan trực đêm di chuyển nhẹ nhàng trong những chiếc áo len bằng lông cừu. Gabriel leo lên đài quan sát và tựa người vào lan can. Trước mặt anh là tấm bản đồ thế giới vi tính đồ sộ, cao 3m, rộng 9m. Khắp bản đồ rải rác những chấm sáng đèn đánh dấu nơi ẩn nấu gần đây nhất của những tên khủng bố trong danh sách truy nã của Israel. Đốm sáng tập trung dày đặc ở vùng Đamát và Bátđa, thậm chí ngay cả ở những nơi vốn được xem là yên bình như Amman và Cairo. Có một dải chấm sáng kéo dài từ Beirut xuống thung lũng Bekaa đến các trại tị nạn dọc biên giới Israel. Riêng Bờ Tây và Dải Gaza sáng rực những chấm đèn. Một vòng tròn điểm sáng bao quanh khu vực Châu Âu trông như sợi dây chuyền kim cương. Các thành phố Nam Mỹ cũng sáng rực.

Gabriel chợt nhận thấy một cảm giác suy sụp đang đè nặng lên đôi vai. Anh đã hi sinh cuộc đời mình vì sự nghiệp bảo vệ Nhà nước và dân tộc Do Thái, nhưng giờ đây, ngay chính trong căn phòng lạnh lẽo, anh phải đối mặt với một sự thật phũ phàng về giấc mơ phục quốc Do Thái: một người đàn ông đã đến độ tuổi trung niên đang nhìn chằm chằm những đốm sáng đánh dấu kẻ thù và chờ đợi kẻ đánh bom tiếp theo.

Dina đang đợi Gabriel ở hành lang với đôi chân mang tất.

“Tôi có cảm giác rất quen thuộc, Gabriel”.

“Về cái gì?”

“Về cách họ thực hiện vụ đánh bom vừa qua. Cách thức tổ chức. Lên kế hoạch. Đặc biệt là sự liều lĩnh. Giống như vụ đánh bom ở Munich và Sabena”. Cô ngừng lại và vén lọn tóc mai. “Có vẻ đây là hành động của tổ chức Tháng Chín Đen”.

“Không có tổ chức Tháng Chín Đen nào ở đây, Dina - ít nhất là không còn tổ chức khủng bố nào như vậy nữa”.

“Anh yêu cầu chúng tôi tìm kiếm những yếu tố còn sót. Anh đã nghĩ đến Khaled chưa?”

“Khaled chỉ là tin đồn. Chỉ là câu chuyện ma quái”.

“Tôi tin có sự tồn tại của Khaled” cô nói. “Khaled đã khiến tôi bật tỉnh giữa đêm”.

“Cô có linh cảm ư?”

“Một giả thuyết”, cô đáp, “và có vài chứng cứ xác minh. Anh có muốn nghe không?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6


TEL AVIV: NGÀY 20 THÁNG 3

Họ tập trung lại lúc mười giờ đêm hôm đó. Tâm trạng của mọi người lúc này khiến Gabriel nhớ lại thời học nhóm ở đại học, tất cả đều quá kiệt sức vì đề án to tát của tập thể nhưng lại không nỡ tách nhóm ra đi. Dina đã đứng sau bục giảng kinh để củng cố thêm niềm tin cho giả thuyết của mình. Yossi thì ngồi vắt chéo chân trên sàn, xung quanh là những tập hồ sơ quý giá từ phòng nghiên cứu. Rimona, người duy nhất mặc đồng phục, gác đôi chân còn mang giày lên thành ghế trống của Yossi. Còn Yaakov thì ngồi cạnh Gabriel, bất động như một tảng đá.

Dina tắt đèn và đặt một bức ảnh lên máy chiếu. Hình ảnh một cậu bé trai đội chiếc mũ bêrê và quàng chiếc khăn của dân du mục Arập trên vai hiện ra. Cậu bé đang ngồi trong lòng A’one.

“Đó là bức ảnh cuối cùng chứng thực sự tồn tại của Khaled al-Khalifa”, Dina nói. “Bức ảnh được chụp ở thủ đô Beruit năm 1979, trong đám tang của cha hắn, Sabri al-Khalifa. Trong những ngày diễn ra tang lễ, Khaled đã biến mất. Người ta chẳng bao giờ còn thấy hắn ta nữa”.

Yaakov khẽ cựa mình trong bóng tối. “Tôi nghĩ chúng ta đang đối mặt với một tên khủng bố bằng xương bằng thịt”, anh ta làu bàu.

“Hãy để cô ấy nói hết đã”. Rimona ngắt lời.

Yaakov chờ Gabriel lên tiếng đồng tình, nhưng mắt Gabriel chỉ dán chặt vào đôi mắt buộc tội của đứa trẻ.

Rồi Gabriel lẩm bẩm. “Hãy để cô ấy nói hết đi”.

Dina thay tấm hình đó và đặt lên một tấm mới. Một tấm trắng đen hơi lệch tiêu cự, trên đó là hình ảnh một người đàn ông cưỡi ngựa với băng đạn vắt chéo ngực. Đôi mắt đen đầy vẻ thách thức, vừa chỉ đủ thấy qua khe hở của tấm khăn trùm đầu người Arập. Đội mắt đỏ nhìn thẳng vào ống kính camera.

“Để hiểu được Khaled”, Dina nói, “ta cần phải tìm hiểu về dòng tộc được ca tụng của hắn. Người đàn ông này là Asad al Khalifa, ông của Khaled. Hãy bắt đầu câu chuyện từ ông ta”.

Nhà nước Palestine dưới ách thống trị

của Thổ Nhĩ Kỳ: tháng 10 năm 1910

Ông được sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo khó tại làng Beit Sayeed và bị miệt thị vì sinh mãi cũng chỉ được bảy cô con gái và chỉ có một đứa con trai. Đứa con trai duy nhất ấy có biệt danh là Sư Tử. Vốn được mẹ và các chị cưng chiều cùng với sự bao bọc của người cha già yếu, Asad al-Khalifa là một đứa trẻ lười biếng, không bao giờ chịu học hành hay nghe lời bố học thuộc kinh Koran. Thỉnh thoảng để kiếm ít tiền tiêu xài, nó đi dọc theo con đường mòn dẫn đến khu dân cư Do Thái ở Petah Tikvah và làm việc suốt ngày để có được vài đồng pi-át. Đứng đầu khu dân cư là một người Do Thái tên Zev. Ông nói với Asad rằng. “Theo tiếng Do Thái cổ, thì Zev nghĩa là chó sói”. Zev nói tiếng Arập với ngữ âm rất lạ và luôn hỏi Asad về cuộc sống ở Beit Sayeed. Asad cũng ghét người Do Thái như tất cả mọi người ở Beit Sayeed, nhưng công việc không nặng nhọc, lại kiếm được chút tiền nên Asad vui vẻ làm việc cho Zev.

Cậu bé Asad khá ấn tượng với khu Petah Tikvad. Làm thế nào mà những người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái, những người mới đến vùng đất này lại phát triển nhanh đến thế trong khi hầu hết những người Arập vẫn đang sống trong nghèo khổ? Sau khi ngắm nghía những ngôi nhà bằng đá và những con đường sạch sẽ của khu dân cư người Do Thái, Asad cảm thấy xấu hổ khi quay lại làng Beit Sayeed của mình. Dù vẫn mong muốn được sống một nơi tốt hơn, nhưng hắn biết rằng mình sẽ chẳng bao giờ trở thành một người giàu có và quyền lực nếu cứ làm thuê cho lão Do Thái biệt hiệu Chó Sói đó. Hắn ta không đến làm việc ở Petah Tikvah nữa và dành thời gian để suy nghĩ hướng đi riêng cho mình.

Một đêm nọ, trong khi đang chơi trò súc sắc tại một quán cà phê trong làng, Asad thấy một gã lớn tuổi hơn đang buông lời tục tĩu sỉ nhục chị gái mình. Hắn bước đến bàn gã kia và bình tĩnh hỏi những gì hắn vừa nghe thấy có đúng không. “Mày nghe đúng rồi đó”, tên kia đáp trả. “Thêm một điều nữa là con nhỏ xúi quẩy này còn mang khuôn mặt của một con lừa”. Lời chế giễu ấy khiến tất cả mọi người cười òa. Asad, không nói thêm lời nào, quay trở về bàn và tiếp tục trò chơi súc sắc. Sáng hôm sau, tên đàn ông đã sỉ nhục chị của Asad được tìm thấy gần vườn cây ăn quả với cuống họng bị cắt và một chiếc giày được nhét vào mồm, một sự sỉ nhục tột cùng theo cách của người Arập. Một tuần sau, khi người anh trai của gã đó tuyên bố công khai sẽ báo thù cho cái chết của em mình, thì thi thể anh ta cũng được phát hiện trong tình trạng tương tự. Từ đó trở đi, không ai dám đụng đến trai trẻ Asad nữa.

Sự việc ở quán cà phê nọ đã giúp Asad tìm được con đường cho mình. Nhờ vào “số má” mới gây dựng đó, hắn chiêu nạp được một đội quân cướp bóc. Hắn ta chỉ chọn những người đàn ông thuộc bộ tộc và thị tộc của mình vì biết rằng họ sẽ không bao giờ phản bội. Vì muốn bành trướng thế lực ra khỏi làng Beit Sayeed nên hắn đã đánh chiếm một chuồng ngựa của quân đội Anh, lực lượng vừa mới đến cai trị Palestine. Để có đủ uy lực áp đảo đối thủ, hắn ta còn trộm cả súng ống của người Anh. Chưa từng có cuộc cướp bóc nào giống như cuộc cướp bóc của hắn ta xảy ra trên mảnh đất của người Palestine. Hắn cùng với đồng bọn tấn công khắp các thị trấn, làng mạc, từ khu vực đồng bằng ven biển trải dài đến bờ biển Galilee, lên những ngọn đồi ở Samria rồi biến mất không chút dấu vết. Nạn nhân của hắn hầu hết là người Arập, nhưng thỉnh thoảng hắn cũng tấn công một khu người Do Thái kém phòng thủ và đôi khi, nếu đang say máu Do Thái, hắn ta sẽ bắt cóc một người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái và trừ khử bằng lưỡi dao dài và cong của mình.

Asad al-Khalifa nhanh chóng trở nên giàu có. Không giống những tên sát thủ Arập khét tiếng khác, hắn không dại gì thu hút sự chú ý bằng việc phô trương mớ tài sản kếch sù của mình. Hắn vẫn mặc áo choàng dài và quấn khăn trùm đầu như một người nông dân bình thường và thường xuyên ở trong túp lều tranh của gia đình vào buổi tối. Để phòng hờ, hắn đã rải tiền cướp bóc được cho đồng đảng của mình. Dưới con mắt của người ngoài làng Beit Sayeed, hắn ta không khác gì một nông dân bình thường, nhưng bên trong làng giờ đây hắn ta được gọi là Sheikh Asad (Thủ lĩnh Asad). Tuy nhiên băng đảng của hắn không còn hoành hành và giữ vị trí độc tôn được lâu. Palestine đang có nhiều biến động, vị thế của người Arập không còn được như xưa.

Vào giữa thập niên 1930, người Yishuv - tức người Palestine gốc Do Thái, chiếm gần nửa triệu người so với khoảng một triệu người Arập. Tỷ lệ di dân chính thức khoảng sáu mươi ngàn người mỗi năm, nhưng theo Sheikh Asad được biết thì tỷ lệ thực tế còn cao hơn nhiều. Thậm chí ngay cả một đứa trẻ nghèo khó không được học hành cũng nhận thấy rằng người Arập sẽ trở thành thành phần thiểu số trên chính đất nước của họ. Palestine giống như một khu rừng khô cằn cỗi, chỉ cần một mồi lửa cũng có thể làm nó bùng cháy.

Ngọn lửa kích hỏa ấy đã nổ ra vào ngày 15 tháng 4 năm 1936, khi một băng nhóm Arập bắn chết ba người Do Thái trên con đường phía đông khu Tulkarm. Đồng bọn của nhóm Do Thái Irgun Bet đã trả đũa lại bằng cách giết hại hai người Arập sống ven làng Beit Sayeed. Bạo động nhanh chóng diễn tiến vượt ngoài tầm kiểm soát, mà cao trào là cơn thịnh nộ của người Arập khắp đường phố Jaffa khiến 9 người Do Thái thiệt mạng.

Tình trạng bạo động vẫn tiếp tục diễn ra ở Palestine dưới cơn cuồng phong cướp bóc và chém giết của cả hai phe. Chưa bao giờ tình trạng bất ổn dẫn đến bạo lực lại diễn ra ác liệt trên vùng đất này như sự kiện xảy ra vào mùa xuân và mùa hè năm 1936. Người Do Thái khắp nước Palestine chính thức trở thành mục tiêu của cơn thịnh nộ người Arập. Các cửa hàng bị cướp bóc, cây cối bị nhổ bật gốc, nhà cửa và khu dân cư đều bị thiêu rụi. Người Do Thái bị sát hại khắp nơi, trên xe buýt, trong quán cà phê thậm chí ngay cả trong chính nhà mình. Ở Jerusalem, các nhóm Arập triệu tập cuộc họp và yêu cầu chấm dứt tất cả các cuộc di dân của người Do Thái và thiết lập ngay một nhà nước với đa số là người Arập.

Sheikh Asad dù chỉ là một tên cướp nhưng vẫn tự xem mình là một shabad đầu đàn - nghĩa là nhà cách mạng trẻ tuổi. Hắn nhận thấy rằng cuộc nổi dậy của người Arập là cơ hội để tiêu diệt tận gốc người Do Thái. Ngay lập tức, hắn dừng tất cả các hoạt động tội ác và chuyển băng đảng của mình thành nhóm jihaddiayya - đội thánh chiến bí mật. Sau đó hắn mở hàng loạt các cuộc tấn công nhằm vào người Do Thái và binh lính Anh ở quận Lydda, trung tâm Palestine, cũng với chiêu đánh lén bất ngờ của một tên cướp. Hắn tấn công khu người Do Thái ở Petah Tikvah - nơi trước đây hắn từng làm việc, và giết chết Zev, ông chủ có biệt danh Chó Sói khi xưa của hắn bằng một phát đạn vào đầu. Mục tiêu hắn nhắm đến còn là những người mà hắn cho là phản bội chính nghĩa Arập, những tay địa phú đã bán nhiều vùng đất đai rộng lớn cho dân phục quốc Do Thái. Đã có ba người như thế thiệt mạng dưới lưỡi dao cong dài của hắn.

Dù mọi hoạt động của hắn vẫn còn nằm trong vòng bí mật, nhưng cái tên Asad al Khafila sớm được biết đến trong Hội đồng cấp cao người Arập ở Jerusalem. Haj Amin al Husseini, một đại giáo sĩ Hồi giáo kiêm Chủ tịch Hội đồng rất muốn gặp mặt gã chiến binh Arập tàn bạo đã lấy máu không biết bao dân Do Thái ở quận Lydda này. Sheikh Asad đến Jerusalem dưới vỏ bọc của một người phụ nữ và gặp vị giáo sĩ có chòm râu đỏ trong một căn hộ ở thành phố cổ, căn hộ ấy rất gần với nhà thờ Hồi giáo Al-Aksa.

“Cậu là một chiến binh tuyệt vời, Sheikh Asad. Thánh Ala đã ban cho cậu một dũng khí phi thường - dũng khí của một con sư tử”.

“Tôi chiến đấu phụng sự Thượng đế”, Rồi Sheikh Asad nhanh chóng nói thêm. ”Và tất nhiên, cả ngài nữa, ngài Haj Amin”.

Haj Amin mỉm cười vuốt chòm râu màu đỏ được cắt tỉa gọn gàng. “Người Do Thái sống rất đoàn kết. Đó là sức mạnh của chúng. Người Arập chúng ta không hề biết đến sức mạnh đoàn kết. Sự tách biệt giữa gia đình, thị tộc, bộ tộc là cách sống của người Arập. Có khá nhiều chiến binh của chúng ta trước đây là những tên tội phạm như cậu, Sheikh Asad à, và ta e rằng đa số bọn chúng đang lợi dụng cuộc nổi dậy này để trục lợi. Chúng cướp bóc làng mạc người Arập và moi móc đồ cống nạp từ những người già cả”.

Sheikh Asad gật đầu. Hắn ta đã từng nghe về những chuyện đại loại thế. Để chứng tỏ lòng trung thành đối với dân tộc, hắn tuyệt đối nghiêm cấm thuộc hạ mình cướp bóc làng mạc người Arập ở quận Lydda. Thậm chí hắn còn đe dọa sẽ chặt tay bất kỳ thủ hạ nào lấy cắp của họ dù chỉ một con gà.

“Ta lo ngại rằng khi cuộc bạo loạn qua đi”, Haj Amin tiếp tục nói, “thì các đội quân chiến binh của chúng ta sẽ tan rã. Và nếu các thủ lĩnh vẫn chiến đấu riêng rẽ thì họ sẽ chỉ là những mũi tên bắn thí mạng vào bức tường đá của quân đội Anh và lực lượng Do Thái Haganah. Nhưng nếu đoàn kết lại” - Haj Amin siết chặt hai tay - “Chúng ta có thể phá vỡ những bức tường đó và đuổi những kẻ ngoại đạo kia ra khỏi vùng đất thánh”.

“Đó là điều mà ngài muốn tôi làm phải không Haj Amin?”

Vị đại giáo sĩ cung cấp cho Sheikh Asad danh sách các mục tiêu nhắm đến ở quận Lydda. Sau đó những thuộc hạ của tay thủ lĩnh Hồi giáo này đã tấn công không chút thương tiếc: các khu dân cư Do Thái, các cây cầu, đường dây điện, và cả đồn cảnh sát. Sheikh Asad nhanh chóng trở thành tay chiến binh được trọng dụng của Haj Amin, và giống như những gì vị giáo sĩ này tiên đoán, các chiến binh khác bắt đầu ganh tỵ với những đặc ân mà gã chiến binh đến từ Beit Shayeed có được. Trong số đó, có một tên cướp đến từ Nablus, Abu Fareed, đã quyết định gài bẫy. Hắn đã phái một người đưa tin đi gặp một lính Do Thái của quân Haganah. Người này đã tiết lộ rằng Sheikh Asad và đội quân của hắn ta sẽ tấn công khu dân cư Do Thái ở Hadera vào lúc ba giờ đêm. Khi Sheikh Asad và đồng đảng của hắn tiến đến Hadera vào đêm đó, chúng đã bị phục kích bởi quân Hadera và lực lượng Anh và bị xé nát dưới làn đạn tàn khốc.

Sheikh Asad bị thương nặng, hắn nằm trên lưng ngựa xoay sở tìm đường thoát thân bằng cách vượt qua biên giới đến vùng Syria. Suốt thời gian dưỡng thương trong một ngôi làng ở Cao nguyên Golan, hắn nghiền ngẫm mối liên kết giữa các sự kiện xảy ra ở Hadera để tìm ra điểm mấu chốt. Rõ ràng có kẻ phản bội trong nội bộ người Arập, một ai đó biết rõ thời gian và địa điểm mà hắn sẽ tấn công. Hắn có hai sự lựa chọn, hoặc lưu lại Syria hoặc quay trở về chiến trường. Không thủ hạ, không vũ khí, thêm vào đó, một trong những người của Haj Amin lại muốn thủ tiêu hắn. Quay trở về Palestine để chiến đấu là một hành động can đảm nhưng không phải là một hành động khôn ngoan. Hắn đành nán lại thêm ở Golan hơn một tuần rồi đến Đamát.

Đúng như những gì Haj Amin tiên đoán, cuộc nổi dậy của người Arập nhanh chóng tan rã do chia rẽ nội bộ bởi những mối thù truyền kiếp và sự ganh đua giữa các thị tộc. Năm 1938, nhiều người Arập bị giết chết dưới bàn tay của dân phiến loạn hơn là do dân Do Thái. Đến năm 1939, chiến sự đã biến thành cuộc nội chiến tranh giành quyền lực và thanh thế giữa các chiến binh Arập. Sau ba năm bùng nổ, vào tháng 5 năm 1939, cuộc nổi dậy vĩ đại đó đã kết thúc.

Bị truy nã bởi binh lính Anh và lực lượng Haganah, Sheikh Asad quyết định lưu trú ở Đamát. Hắn mua một căn hộ lớn ở trung tâm thành phố và cưới cô con gái của một gia đình Palestine lưu vong. Cô này sinh được một đứa con trai, đặt tên là Sabri. Sau khi sinh được cho hắn ta một mụn con, cô ta không còn khả năng sinh nở nữa. Hắn cũng đã cân nhắc đến chuyện ly dị để cưới một cô vợ khác, nhưng đến năm 1947, có quá nhiều chuyện quan trọng khiến hắn không còn nghĩ đến chuyện vợ con nữa.

Một lần nữa Sheikh Asad được người bạn cũ, Haj Amin, cũng đang sống lưu vong mời đến gặp. Trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai, vị giáo sĩ này là tay cùng hội cùng thuyền với Adolf Hitler. Tại chính cung điện tráng lệ của mình ở Berlin, vị giáo chủ đạo Hồi phục vụ như một công cụ tuyên truyền đáng giá của Đức quốc xã. Ông ta hô hào nhân dân ủng hộ Đức quốc xã và kêu gọi diệt chủng người Do Thái. Cùng với Adolf Eichmann, kẻ khơi nguồn cho ý tưởng tàn sát người Do Thái, tay giáo sĩ này còn bắt tay xây dựng buồng hơi ngạt và những lò hỏa thiêu ở Palestine để tiêu diệt người Do Thái. Khi Berlin thất thủ, ông ta trốn chạy đến Thụy Sĩ trên chiếc máy bay Luftwaffe. Bị từ chối cho nhập cảnh, ông ta bay sang nước Pháp lân cận. Người Pháp nhận ra rằng đây có thể là một đồng minh giá trị ở vùng Trung Đông nên đã cho ông ta lưu trú, nhưng đến năm 1946, dưới áp lực tăng cao của nhân dân đòi đưa vị giáo sĩ này ra tòa án chiến tranh, ông ta được âm thầm cho tẩu thoát đến Cairo. Vào mùa hè năm 1947, ông ta sống ở Alayh, một khu nghỉ dưỡng ở vùng núi Libăng, và đã gặp người chiến binh thân cận của mình, Sheikh Asad.

“Cậu biết chuyện gì đang xảy ra ở Mỹ chứ?”

Sherikh Asad gật đầu. Một phiên họp đặc biệt của Thể chế thế giới mới, còn gọi là Liên Hợp Quốc đã diễn ra để quyết định tương lai của Palestine.

“Rõ ràng là”, giáo sĩ nói, “chúng ta đang gánh chịu hậu quả do tội lỗi của Hitler gây ra. Chiến lược của chúng ta là điều trần trước Liên Hợp Quốc để bác bỏ toàn bộ những tiến trình trên. Nhưng nếu Liên Hợp Quốc quyết định giao đất Palestine cho người Do Thái, chúng ta sẽ sẵn sàng nổi dậy. Đó là lý do tại sao tôi cần cậu, Sheikh Asad”.

Một lần nữa, Sheikh Asad lặp lại chính câu đã từng hỏi Haj Amin mười một năm trước ở Jerusalem, “Ngài muốn tôi phải làm gì?”

“Hãy quay về Palestine và chuẩn bị cho cuộc chiến chắc chắn sẽ xảy ra. Hãy phát triển lực lượng và vạch kế hoạch chiến đấu. Người em họ của ta là Abdel-Kader sẽ chịu trách nhiệm1910 khu vực Ramallah và vùng đồi phía đông Jerusalem. Cậu sẽ chỉ huy quận trung tâm: vùng đồng bằng ven biển, Tel Aviv và Jaffa và khu hành lang dọc Jerusalem”.

“Tôi sẽ làm”, Sheikh Asad đáp, rồi nhanh chóng nói thêm. “Với một điều kiện”.

Vị đại giáo sĩ khựng lại. Dù biết Sheikh Asad vốn hung dữ và kiêu ngạo, nhưng chưa từng có một người Arập nào dám nói với ông cái giọng điệu như thế, đặc biệt trước đây hắn chỉ là một nông dân. Tuy nhiên ông vẫn mỉm cười và hỏi người chiến binh đó về cái giá anh ta đặt ra.

“Cho tôi biết tên của kẻ đã phản bội tôi ở Hadera”.

Haj Amin lộ vẻ do dự nhưng rồi cũng nói cho hắn biết. Dù sao Sheikh Asad vẫn đáng giá hơn Abu Fareed cho sứ mệnh sắp tới.

“Hắn đang ở đâu?”

Đêm đó Sheikh Asad đến Beirut và cắt cổ Abu Fareed. Rồi hắn quay lại Đamát nói lời chào từ biệt vợ và con trai và thu xếp vấn đề tài chính cho gia đình. Một tuần sau đó hắn ta trở về túp lều tranh của mình ở Beit Sayeed.

Vào những tháng cuối năm 1947, hắn không ngừng phát triển lực lượng và vạch kế hoạch cho cuộc chiến sắp tới. Hắn nghiệm ra rằng tấn công trực diện vào các khu trung tâm Do Thái phòng thủ kiên cố không đem lại hiệu quả. Thay vào đó, hắn sẽ đánh vào những nơi sơ hở nhất. Vì người Do Thái sống rải rác khắp lãnh thổ Palestine nên họ chủ yếu phụ thuộc vào những con đường tiếp tế. Nhưng xung quanh những con đường đó hầu hết là thị trấn và làng mạc của người Arập, điển hình như hành lang huyết mạch Jerusalem. Sheikh Asad ngay lập tức hiểu rằng thời cơ đã đến. Hắn có thể tấn công vào những mục tiêu yếu ớt với chiến thuật hoàn toàn bất ngờ; rồi khi trận chiến đã ngã ngũ, lực lượng của hắn có thể trà trộn vào các nơi trú ẩn trong làng. Dân Do Thái trong làng sẽ chết dần chết mòn và cuối cùng toàn bộ người Do Thái trên mảnh đất Palestine cũng sẽ cùng chung số phận.

Vào ngày 29 tháng 11, Liên Hợp Quốc tuyên bố Anh sắp phải chấm dứt quyền cai trị ở Palestine. Sẽ có hai bộ máy chính quyền ở Palestine, một của người Arập và một của người Do Thái. Đối với người Do Thái, đó là một đêm để ăn mừng. Giấc mơ 2000 năm của người Do Thái là được trở về vùng đất tổ tiên nay đã thành hiện thực. Đối với người Arập, đó là đêm của những giọt nước mắt cay đắng. Vậy là một nửa mảnh đất cha ông đã rơi vào tay người Do Thái. Sheikh Asad thức suốt đêm để vạch kế hoạch tấn công đầu tiên. Sáng hôm sau, thuộc hạ của hắn tấn công một chiếc xe buýt đang trên đường từ Netanya đến Jerusalem và làm 5 người thiệt mạng. Cuộc chiến tranh giành vùng đất Palestine bùng nổ.

Suốt mùa đông năm 1948, Sheikh Asad và những người thủ lĩnh Arập khác đã biến những con đường trung tâm Palestine thành bãi tha ma của người Do Thái. Xe buýt, tắc-xi, xe tải cung cấp lương thực đều bị tấn công, tài xế và hành khách bị tàn sát không thương tiếc. Vào thời điểm cuối đông đầu xuân, tổn thất về người và của của lực lượng Haganah lên đến mức báo động. Trong suốt hai tuần cuối tháng 3, lực lượng Arập đã giết hàng trăm người thuộc lực lượng tinh nhuệ nhất và phá hủy hàng loạt xe bọc sắt của quân Haganah. Ngay sau đó toàn bộ khu dân cư của vùng hoang mạc Negev bị phong tỏa. Nghiêm trọng hơn, ở phía tây Jerusalem hàng trăm ngàn người Do Thái cũng trong tình trạng tương tự. Đối với người Do Thái, thế trận ngày một bất lợi. Còn người Arập đã nắm thế chủ động - và Sheikh Asad gần như đang đơn thương độc mã giành chiến thắng ở Palestine.

Vào đêm 31 tháng 3 năm 1948, David Ben Gurion, lãnh đạo của lực lượng Yishuv đã họp bàn với các sĩ quan cao cấp của lực lượng Haganah và lực lượng tấn công Palmach tinh nhuệ ở Tel Aviv để chỉ thị tiếp tục chiến thuật tấn công. Ben-Gurion cho rằng nên chấm dứt việc hộ tống các đoàn xe tiếp viện trước sự càn quét của kẻ thù. Toàn bộ bộ máy của lực lượng Do Thái chẳng mấy chốc sẽ sụp đổ nếu không giành chiến thắng trên các tuyến đường và giữ vững hậu phương. Để đạt mục tiêu này, mức độ ác liệt của cuộc xung đột cần phải được nâng lên. Các làng mạc của người Arập mà Sheikh Asad và các chiến binh khác sử dụng làm căn cứ hoạt động phải bị khống chế và tiêu diệt. Lực lượng Haganah đã vẽ ra một kế hoạch tổng thể cho hoạt động này. Kế hoạch đó được gọi là Tochnit Dalet: D. Ben-Gurion chỉ thị kế hoạch này phải được bắt đầu trong hai ngày cùng với chiến dịch Nachshon, chiến dịch tấn công vào các làng mạc nằm bao quanh khu hành lang Jerusalem. “Và thêm một điều nữa là”, ông ta nói với các sĩ quan khi cuộc họp sắp kết thúc. “Tìm cho được Sheikh Asad càng sớm càng tốt - và kết liễu hắn”.

Người được giao trọng trách hạ thủ Sheikh Asad là Ari Shamron, một sĩ quan tình báo trẻ tuổi của quân Palmach. Anh biết rằng không dễ gì tìm ra tung tích của Sheikh Asad. Bởi hắn không bao giờ duy trì lực lượng đầu não ở một nơi cố định và hắn còn ẩn náu ở những nơi khác nhau mỗi đêm. Dù chỉ mới di cư đến Palestine từ Phần Lan từ năm 1935 nhưng Shamron hiểu rất rõ suy nghĩ của người Arập. Anh ta biết rằng, đối với người Arập, có nhiều thứ quan trọng hơn là sự độc lập của Palestine. Để có được quyền lực như ngày hôm nay Sheikh Asad chắc hẳn phải có nhiều kẻ thù. Và đâu đó trên mảnh đất Palestine này, sẽ có một người Arập đang khao khát được phục thù.

Shamron mất mười ngày để tìm ra người này, một người làng Beit Sayeed đã mất đi hai đứa em dưới tay của Sheikh Asad vì một lời sỉ nhục trong quán cà phê nhiều năm về trước. Shamron đưa cho người Arập đó một trăm đồng tiền Palestine để anh ta tiết lộ nơi tên chiến binh đó đang ẩn náu. Một tuần sau, bên ngọn đồi gần Beit Sayeed, họ gặp nhau lần thứ hai. Kẻ chỉ điểm đó đã chỉ cho Shamron biết nơi có thể tìm ra Sheikh Asad.

“Tôi nghe nói hắn ta định tá túc qua đêm trong một túp lều tranh bên ngoài quận Lydda. Túp lều nằm đâu đó giữa vườn cam. Xung quanh con chó Asad khát máu đó luôn có người bảo vệ. Bọn chúng ẩn nấp dưới những lùm cây. Nếu ông tràn vào tấn công với lực lượng đông, người của hắn sẽ báo động và tên Asad hèn nhát sẽ lập tức trốn thoát”.

“Vậy theo ý anh thì sao?”. Shamron hỏi, đánh vào tính tự phụ của tay Arập đó.

“Chỉ cần một tay sát thủ đơn lẻ, người có thể vượt qua lớp bảo vệ và giết Asad trước khi hắn kịp trốn thoát. Thêm một trăm đồng nữa, tôi sẽ là người đó”.

Shamron không muốn chạm vào lòng tự ái của người cung cấp thông tin này, vì thế anh giả bộ tỏ vẻ chần chừ như đang cân nhắc lời đề nghị trên dù rằng anh đã có quyết định cho mình. Không thể tin tưởng giao phó một nhiệm vụ hệ trọng như thế cho một tên đã phản bội chính thủ lĩnh của mình chỉ vì tiền. Rồi anh nhanh chóng quay lại tổng hành dinh của quân Palmach ở Tel Aviv và truyền đạt tin tức cho Phó chỉ huy, đó là một anh chàng điển trai với mái tóc hung đỏ và đôi mắt xanh có tên Yitzhak Rabin.

“Phải có ai đó đơn thương độc mã đến Lydda tối nay để giết hắn ta”, Shamron nói.

“Có khả năng người đó sẽ không còn sống sót trở về”.

“Tôi biết”, Shamron nói, “vì thế mà người đó phải là tôi”.

“Anh quá quan trọng để có thể liều mình vì một nhiệm vụ như thế”.

“Nếu tình trạng này kéo dài thêm nữa thì chúng ta sẽ mất Jerusalem - và rồi chúng ta sẽ thua trong cuộc chiến này. Còn điều gì quan trọng hơn điều này chăng?”

Rabin thấy rằng không gì có thể ngăn cản Shamron. “Tôi có thể làm gì để giúp anh không?”

“Sắp xếp một chiếc xe hơi và tài xế đợi sẵn ở bìa rừng sau khi tôi giết hắn ta”.

Đêm hôm đó, Shamron cưỡi chiếc xe máy từ Tel Aviv đến Lydda. Anh để chiếc xe cách thị trấn một dặm và đi bộ đến tận bìa rừng cam. Vốn là một sát thủ, Shamron thừa biết rằng thời điểm tấn công tốt nhất là lúc tờ mờ sáng, khi mà lính gác đã mệt mỏi và rất sơ hở. Với khẩu súng máy bắn tự động và con dao găm bằng thép, anh đột nhập vào khu rừng ít phút trước khi mặt trời mọc. Dưới ánh sáng tờ mờ đầu ngày, anh nhận ra những cái bóng uể oải đang dựa mình vào những thân cây cam của các tay lính gác. Một tên đang ngủ say như chết lúc Shamron rón rén vượt qua. Một tên đang một mình đứng gác trước cái sân bẩn thỉu của căn lán. Lưỡi dao êm ái của Shamron nhanh chóng kết liễu đời hắn. Rồi anh bước vào ngôi nhà.

Hóa ra căn nhà chỉ có một gian. Sheikh Asad đang nằm ngủ trên sàn. Bên cạnh là hai cận vệ cấp cao của hắn đang ngồi vắt chéo chân uống cà phê. Mất cảnh giác do Shamron tiến sát mà không gây ra tiếng động, chúng không kịp phản ứng gì khi cánh cửa mở ra. Chỉ khi ngước nhìn lên và phát hiện thấy một tên Do Thái có trang bị vũ khí thì chúng mới cuống cuồng chộp lấy vũ khí. Shamron giết cả hai tên chỉ với một phát súng từ khẩu súng máy của mình.

Sheikh Asad giật mình thức giấc và vồ lấy cây súng trường của hắn. Shamron nổ súng. Sheikh Asad nhìn kẻ thù trân trối, người hắn lịm dần đi.

“Sẽ có người khác lên thay thế tao”, hắn ta nói.

“Tao biết”, Shamron đáp và nã thêm một phát nữa. Anh lẻn ra khỏi túp lều khi các tay gác bắt đầu chạy nháo nhào. Trong ánh sáng tờ mờ của buổi bình minh, anh len mình qua các lùm cây, cho đến khi tới được bìa rừng. Chiếc xe đang chờ ở đó; chính Yitzhak Rabin ngồi đằng sau tay lái.

“Hắn chết chưa?”. Rabin hỏi khi lao xe đi.

Shamron gật đầu đáp. “Xong rồi”.

“Tốt”, Rabin nói. “Hãy để những con chó liếm máu của hắn”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7


TEL AVIV

Dina im lặng một lúc lâu. Yossi và Rimona say sưa lắng nghe với vẻ tò mò của một đứa trẻ. Trông Yaakov như muốn nuốt từng lời của cô, không phải vì anh ta bắt đầu tin vào giả thuyết Dina đưa ra mà vì anh muốn biết câu chuyện sẽ đưa mình đến đâu. Gabriel ước gì mình có thể nói được điều gì đó. Khi Dina đặt một bức ảnh mới lên máy chiếu - hình ảnh một người đàn ông đầy quyến rũ đeo kính râm, đang ngồi trong một quán cà phê ngoài trời. Nhưng hình ảnh tràn về tâm trí Gabriel lúc này không phải là tấm ảnh đen trắng trước mặt mà là bề mặt tấm tranh sơn dầu đã bị mài mòn và ố vàng theo thời gian. Dina tiếp tục nhưng Gabriel không còn nghe thấy gì nữa. Anh đang cố xua đi cái ký ức u ám vốn đã chìm vào quên lãng. Hình ảnh cậu bé Gabriel hối hả chạy dọc trên khoảng sân nhuốm đầy máu trong một căn hộ ở Paris với khẩu súng Beretta trong tay. “Đây là Sabri al-Khalifa”, Dina nói. “Bức ảnh được chụp ở đại lộ Germain ở Paris năm 1979. Đội tình báo của Văn phòng đã nhanh tay chụp được bức ảnh này. Đây là bức ảnh cuối cùng của hắn”.

AMMAN, GIOÓCĐAN : THÁNG 6 NĂM 1967

Vào lúc 11h sáng, một thanh niên điển trai với nước da hơi tái và mái tóc đen bước vào trụ sở chiêu quân của lực lượng Palestine ở khu phố thương mại Amman. Tay nhân viên ngồi trực ngoài sảnh có vẻ mặt cau có. Lãnh thổ của người Arập đã được phân định. Cuộc chiến tranh giành chủ quyền Palestine lần thứ hai đã kết thúc. Thay vì giành lại được đất đai từ người Do Thái thì tai họa lại ập xuống đầu phía Palestine. Trong vòng 6 ngày, quân đội Israel đã đánh tan liên minh Ai Cập, Syria và Gioócđan. Giờ đây bán đảo Sinai, cao nguyên Golan và Bờ Tây thuộc quyền kiểm soát của lực lượng Do Thái và hàng ngàn người Palestine bị trả về các trại tị nạn.

“Tên gì?”, tay nhân viên hỏi cộc lốc.

“Sabri al- Khalifa”

Hắn giật bắn người và ngước nhìn lên. “Vâng, anh đấy à” và hắn nói tiếp, “tôi đã từng chiến đấu với cha anh. Mời anh theo tôi”.

Ngay lập tức, Sabri được đưa vào trong xe hơi: Chiếc xe lao đi vun vút ngang qua thủ đô của người Do Thái và dừng lại ở một ngôi nhà an toàn. Tại đây, Sabri được giới thiệu với một người đàn ông nhỏ thó, trông không mấy ấn tượng, A’one.

“Ta đang đợi cậu”. A’one nói “Ta biết cha cậu. Ông quả là một chiến binh tuyệt vời”.

Sabri mỉm cười. Hắn đã quen với việc nghe nhiều lời ca tụng về cha mình. Từ lúc sinh ra tới giờ, lúc nào hắn cũng được kể về những chiến tích lẫy lừng của người chiến binh tài ba đến từ Beit Sayeed. Hắn còn biết rằng những người Do Thái đã bình địa làng mạc để tra tấn và trừng phạt những người đã ủng hộ cha hắn. Số phận của Sabri al-Khalifa không đến mức thê thảm như những người dân tị nạn khác. Hắn được đưa đến một nơi thanh bình ở Beirut và học tại những ngôi trường tốt nhất của châu Âu. Ngoài tiếng Arập bản xứ, hắn còn nói khá trôi chảy tiếng Pháp, Đức và Anh. Nhờ được hưởng nền giáo dục quốc tế hắn ta trở thành một tài sản giá trị đối với những kế hoạch của người Palestine. A’one sẽ chắc chắn sẽ không bỏ phí hắn ta.

“Phong trào Palestine bị chọc thủng bởi những kẻ phản bội và những kẻ hai mang”. A’one nói. “Mỗi lần chúng ta cử một đội biệt kích qua biên giới, bọn Do Thái đều nằm chờ sẵn. Chúng ta phải loại trừ bọn chúng ra khỏi hàng ngũ nếu muốn trở thành một đội quân hùng mạnh. Tôi nghĩ rằng công việc đó sẽ hấp dẫn cậu vì cậy có thể trả thù được cho cha mình. Chẳng phải ông ta đã bị giết bởi một tên hai mang sao?”

Sabri gật đầu với vẻ nghiêm trọng. Chuyện này hắn cũng đã được nghe kể.

“Cậu sẽ làm việc cho ta chứ?”. A’one hỏi. “Cậu sẽ chiến đấu vì dân tộc, giống như cha cậu chứ?”

Sabri ngay tức khắc đến làm việc ở Jihaz al Razd, một chi nhánh cơ quan tình báo của Palestine. Trong vòng một tháng kể từ khi nhận nhiệm vụ, hắn ta đã vạch mặt được 12 kẻ hai mang Palestine. Sabri đã chứng minh được hành động phản bội của chúng và tự mình ban phát súng ân huệ cho từng tên như một lời cảnh báo cho những kẻ có mưu đồ phản quốc.

Sau sáu tháng ở Jihaz al Razd, Sabri được mời đến gặp A’one lần thứ hai. Địa điểm lần này là một nơi an toàn khác lần trước. Luôn phập phồng lo sợ những kẻ ám sát Israel, vị lãnh đạo lực lượng Palestine phải ngủ mỗi đêm một nơi khác nhau. Mặc dù lúc đó Sabri chưa biết được tương lai của mình ra sao, nhưng hắn ta biết sau này mình cũng sẽ phải sống theo cách đó.

“Chúng tôi có kế hoạch cho cậu”. A’one nói. “Một kế hoạch đặc biệt. Cậu sẽ trở thành một chiến binh tuyệt vời. Thậm chí không thua gì những chiến công của cha cậu. Rồi cả thế giới sẽ nhanh chóng biết đến cái tên Sabri al-Khalifa”

“Kế hoạch thế nào?”

“Phải đợi đến khi thời cơ chín muồi, Sabri. Nhưng chúng tôi sẽ chuẩn bị cho cậu ngay từ bây giờ”.

Hắn ta được chuyển đến Cairo trong vòng 6 tháng để chuẩn bị cho một cuộc huấn luyện khủng bố khắc nghiệt dưới sự giám sát của tổ chức bí mật người Ai Cập, Mubarat. Trong thời gian ở Cairo, hắn ta được giới thiệu với một phụ nữ trẻ tuổi Palestine tên là Rima, con gái một quan chức cấp cao của tổ chức khủng bố. Đó dường như là một cặp đôi hoàn hảo, và hôn lễ bí mật được nhanh chóng tổ chức chỉ với sự tham gia của các thành viên Tổ chức khủng bố và sĩ quan tình báo Mubarat. Một tháng sau, Sabri được gọi quay trở lại Goócđan để bắt đầu giai đoạn tiếp theo của quá trình huấn luyện. Hắn để Rima ở lại Cairo với cha cô mà không biết rằng nàng đang mang thai một bé trai. Ngày đứa trẻ ra đời như báo một điềm gở đối với người Palestine: tháng 9 năm 1970.

Thời gian đó, vua Hussein của Gioócđan lo ngại về thế lực đang ngày càng bành trướng của người Palestine sống trên lãnh thổ mình. Phần lãnh thổ phía Tây có thể được xem là một bang với hàng loạt trại tị nạn bị cai trị bởi lực lượng vũ trang hùng hậu Palestine, những kẻ đã công khai miệt thị chính quyền của quốc vương Hashemite. Vua Hussein lo sợ sẽ mất nốt vùng lãnh thổ còn lại nếu ông không đánh đuổi được những kẻ ở nhờ Palestine ra khỏi vùng đất của mình. Tháng 9 năm 1970, ông ra lệnh cho quân lính Bedouin hung bạo thi hành triệt để sứ mệnh.

Đội quân lính của A’one không cân sức với quân lính Bedouin. Hàng ngàn người đã bị tàn sát và một lần nữa, thêm1967 nhiều người Palestine bị đày ải, lần này là đến các trại tị nạn ở Libăng và Syria. A’one muốn trả đũa quốc vương Gioócđan và tất cả những kẻ phản bội sự nghiệp của mình. Ông muốn thực hiện những hành động khủng bố đẫm máu và gây sự chú ý trên phạm vi toàn thế giới. Hy vọng những hành động đó sẽ làm cộng đồng thế giới lo ngại và làm dịu đi phần nào cơn khát trả thù đang ngày càng dâng cao. Các cuộc tấn công được thực hiện bởi một tổ chức bí mật. Vì thế tổ chức giải phóng Palestine của A’one tự xem mình là một lực lượng cách mạng chính nghĩa đấu tranh giải phóng cho người dân bị áp bức. Abu Iyad, một bản sao của A’one, được giao nhiệm vụ tổng chỉ huy, còn việc đề ra sách lược hành động thì do người con trai của tay chiến binh vĩ đại của làng Beit Sayeed đảm nhiệm. Tổ chức này có tên là Tháng Chín Đen để tưởng nhớ đến những người Palestine đã thiệt mạng ở Gioócđan.

Lực lượng trên được Sabri sàng lọc từ những đội quân giỏi nhất của A’one. Giống với cha mình, hắn chỉ tuyển chọn những người cũng xuất thân từ tầng lớp danh giá như hắn, và phải hiểu biết về thế giới bên ngoài chứ không chỉ gói gọn trong trại tị nạn. Sau đó, hắn đến châu Âu để tập hợp đội ngũ gồm thành phần những nhà trí thức Palestine sống lưu vong. Hắn ta cũng thiết lập mối quan hệ với những nhóm khủng bố châu Âu cánh tả và tổ chức tình báo bài Do Thái. Đến tháng 11 năm 1971, tổ chức Tháng Chín Đen chính thức hoạt động công khai. Đứng đầu danh sách tấn công của Sabri là vua xứ Gioócđan, Hussein.

Cuộc tấn công đẫm máu bắt đầu tại chính nơi hắn được huấn luyện. Trong chuyến thăm chính thức đến Cairo, Thủ tướng Gioócđan đã bị ám sát tại sảnh khách sạn Sheraton. Nhiều cuộc tấn công khác liên tiếp nổ ra. Xe hơi của đại sứ Gioócđan bị phục kích tại Luân Đôn. Máy bay của Gioócđan bị tấn công và các hãng hàng không của Gioócđan lần lượt bị đánh bom. Ở Bonn, năm nhân viên tình báo người Gioócđan đã bị giết hại trong hầm chứa của một căn nhà.

Sau khi trả đũa Gioócđan xong, Sabri quay sang những kẻ thù thực sự của người dân Palestine, những kẻ theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái của Israel. Tháng 5 năm 1972, tổ chức Tháng Chín Đen đã cướp máy bay phản lực của hãng hàng không Sabena, buộc nó hạ cánh ở sân bay Lod, Israel. Vài ngày sau đó, dưới sự chỉ đạo của tổ chức Tháng Chín Đen, những kẻ khủng bố từ lực lượng Hồng Quân của Nhật tấn công hành khách tại sảnh đến của sân bay Lod với súng máy tự động và lựu đạn, làm thiệt mạng 72 người. Điện khẩn được gửi đến những quan chức cấp cao Israel và những quan chức chính trị Do Thái khắp lãnh thổ châu Âu.

Sabri vẫn liên tục giành chiến thắng. Rạng sáng ngày 5 tháng 9 năm 1972, hai năm sau ngày bị trục xuất khỏi Gioócđan, sáu tên khủng bố Palestine đã leo rào vào khu vực Olympic tổ chức ở Munich và đột nhập vào căn hộ tại Connollystrasse 31, nơi đón tiếp những thành viên của đội Olympic Israel. Hai người Israel bị giết, chín người khác bị bắt làm con tin. Hai mươi bốn giờ sau đó, trong khi 900 triệu người trên toàn thế giới đang mải mê theo dõi những trận cầu thì chính phủ Đức phải đi đàm phán với bọn khủng bố yêu cầu thả những con tin Israel. Thời hạn thương lượng đã hết. Vào lúc 10 giờ 10 phút tối, hai chiếc trực thăng chở bọn khủng bố và những con tin cất cánh từ sân bay Furstenfeldbruck. Kế hoạch giải cứu con tin gấp rút của chính phủ Tây Đức lâm vào bế tắc ít phút trước khi hạ cánh. Toàn bộ 9 con tin đã bị ám sát bởi những thành viên của tổ chức Tháng Chín Đen.

Niềm vui tràn ngập thế giới Arập. Sabri al-Khalifa, kẻ chỉ đạo hành động trong một căn hộ bí mật ở Đông Đức, được chào đón như một anh hùng ngay khi trở về Beirut. “Cậu đúng là con trai của ta”. A’one đã nói thế khi ông vòng tay ôm lấy Sabri. “Cậu đúng là con trai ta”.

Ở Tel Aviv, Thủ tướng Golda Meir hạ lệnh cho lãnh đạo cơ quan tình báo phải tiêu diệt toàn bộ tổ chức Tháng Chín Đen để trả thù cho 11 nạn nhân đã thiệt mạng ở Munich. Với biệt danh Wrath of God, tổ chức này do Ari Shamron, người đã từng được giao nhiệm vụ kết liễu trùm khủng bố khát máu Shaikh Asad năm 1948, chỉ huy. Trong vòng 25 năm, đây là lần thứ hai Shamron được giao lệnh giết một người đàn ông mang họ al- Khalifa.

Dina rời căn phòng và khuất dần vào bóng tối, nhưng vẫn tiếp tục phần còn lại của câu chuyện, như thể không hay biết Gabriel đang ngồi đối diện phía cuối bàn, chỉ cách cô 3m.

“Lần lượt từng tên trong tổ chức Tháng Chín Đen bị truy sát và thủ tiêu bởi đội Wrath of God của Shamron. Tổng cộng 12 tên bị giết bởi những tay sát thủ của Văn phòng, nhưng Sabri al-Khalifa, kẻ Shamron muốn loại trừ nhất thì vẫn nhởn nhơ ngoài tầm tay ông. Thậm chí hắn còn đáp trả. Hắn giết một nhân viên của Văn phòng ở Madrid. Hắn tấn công tòa đại sứ Israel ở Bangkok và ám sát Đại sứ người Mỹ ở Xu-đăng. Những cuộc tấn công của hắn ta ngày càng trở nên không thể đoán trước được, cũng giống như tính cách của hắn vậy. A’one đã không thể tiếp tục dối trá về việc không hề dính dáng gì đến tổ chức Tháng Chín Đen nữa, khi mọi sự chỉ trích đều đổ lên ông, thậm chí từ cả những người đã từng ủng hộ ông. Vì dẫu Sabri đã gây nhiều cản trở cho tiến trình hòa bình, thế mà A’one vẫn luôn bao bọc hắn”.

Dina ngưng lại và nhìn Gabriel. Dưới ánh sáng hắt ra từ màn hình máy chiếu, khuôn mặt anh không chút cảm xúc. Mắt anh dán vào đôi bàn tay đang nắm chặt trên bàn.

“Anh có muốn kể đoạn kết của câu chuyện này không?”, cô hỏi.

Gabriel vẫn không rời mắt khỏi đôi bàn tay mình trước khi tiếp lời Dina.

“Shamron được mật báo rằng Sabri có quan hệ với một cô gái ở Paris, một nhà báo phía cánh tả tên là Denis. Cô nàng vẫn một mực tin rằng hắn là một nhà thơ Palestine và là kẻ tự do. Sabri hoàn toàn giấu nhẹm chuyện hắn đã có vợ và một đứa con. Shamron định lợi dụng cô ta nhưng ông đã từ bỏ ý nghĩ đó. Có vẻ đây chỉ là một cô gái ngây thơ tin vào tình yêu thực sự với Sabri. Sau đó, chúng tôi cho người đến Paris để theo dõi cô ta. Một tháng sau, Sabri xuất hiện”.

Anh dừng lại và ngước nhìn màn hình.

“Hắn đến căn hộ của cô ta lúc nửa đêm. Trời quá tối nên khó mà nhận diện được hắn. Vì thế Shamron mạo hiểm quyết định đợi cho đến khi có thể nhìn hắn rõ hơn. Bọn họ “vui vẻ” với nhau cho đến xế trưa, rồi đi ăn ở một quán cà phê trên đại lộ Germain. Đó là lúc chúng tôi chụp được bức ảnh này. Sau bữa trưa, chúng quay về căn hộ. Trời vẫn còn sáng, nhưng Shamron yêu cầu cứ để hắn đi”.

Gabriel bỗng nhiên im lặng và một lần nữa anh nhìn chằm chằm vào hai bàn tay mình. Đôi mắt anh nhắm hờ trong chốc lát.

“Tôi theo sát bọn chúng. Hắn vòng tay ôm eo cô ả, những ngón tay nằm gọn trong túi quần sau của cô ta. Còn tay phải hắn thì nằm trong túi áo khoác. Đó là nơi cất giữ khẩu súng. Hắn có quay lại và nhìn thấy tôi, nhưng rồi vẫn tiếp tục bước đi. Bọn họ đã uống hai chai rượu vang cho bữa trưa và tôi nghĩ có lẽ lúc đó phán đoán của hắn không còn nhanh nhạy nữa”.

Thêm một khoảng lặng khác, rồi sau khi liếc nhanh nhìn khuôn mặt của Sabri, anh lại trầm tư nhìn vào hai bàn tay mình. Khi Gabriel bắt đầu nói tiếp, giọng nói của anh có chút thờ ơ như thể anh đang mô tả chiến công của ai khác vậy.

“Chúng dừng lại ở cổng. Denis đã say mèm và cười vang. Cô ta nhìn xuống ví, bắt đầu lục tìm chìa khóa. Sabri hối thúc cô. Hắn ta lại muốn vui vẻ với cô ả lần nữa. Đáng ra tôi đã có thể giết chết hắn ở đó, nhưng vì có quá nhiều người trên đường nên tôi đi chậm lại và đợi cô ta tìm ra cái chìa khóa chết tiệt đó. Tôi bước ngang qua chúng khi cô ta tra chìa khóa vào ổ. Sabri nhìn tôi một lần nữa và quay mặt đi. Chúng bước vào trong hành lang. Tôi quay người lại giữ cánh cửa trước khi nó kịp đóng lại. Lúc đó Sabri và cô gái đang ở giữa khoảng sân nhỏ. Hắn nghe thấy tiếng bước chân tôi và quay người lại. Bàn tay hắn thọc ngay vào túi áo khoác và tôi có thể nhìn thấy báng súng của hắn. Sabri đã mang theo khẩu Stechkin. Đó là món quà từ một người bạn ở KGB . Tôi vẫn chưa móc súng của mình ra. Chúng tôi gọi đó là quy tắc của Shamron. Ông ta thường nói rằng “Chúng ta không cần phải đi loanh quanh trên đường với khẩu súng trên tay như những tên găng-xtơ”. Ông cũng hay dặn tôi rằng. “Chỉ một giây thôi, Gabriel. Đó là tất cả những gì cậu có. Một giây thôi. Chỉ có những tay súng thiện xạ mới rút súng và bắn trúng mục tiêu được trong một giây”.

Gabriel lướt mắt toàn bộ căn phòng và chăm chú nhìn từng thành viên trong đội một lúc trước khi tiếp tục câu chuyện.

“Ổ đạn của khẩu súng Beretta có 8 viên, nhưng tôi phát hiện ra rằng nếu tôi nén những viên đạn thật chặt, tôi có thể dồn được 10 viên. Sabri còn chưa kịp thủ súng. Khi hắn đang quay người lại để nhìn thì tôi đã nổ súng rồi. Chính vì thế tầm nhìn của hắn bị hạn chế - tôi nghĩ viên đạn đầu tiên và viên thứ hai trúng tay trái của hắn. Tôi chồm tới trước và quật ngã hắn. Cô gái la thất thanh, lao vào đánh tôi từ phía sau bằng túi xách của cô ta. Tôi bắn hắn 10 phát rồi mở ổ đạn và nhét viên đạn dự phòng vào. Chỉ có một băng đạn duy nhất, và đây là viên đạn thứ mười một. Mỗi viên đạn ghim vào đầu hắn là để trả thù cho một người dân Do Thái đã bị băng đảng của Sabri giết hại tại Munich. Tôi đặt thẳng nòng súng vào tai hắn và bắn. Cô gái quỳ sụp xuống bên thi thể hắn và kêu gào tôi là kẻ giết người. Tôi quay trở lại hành lang và bước ra đường. Một chiếc xe phóng đến. Tôi leo lên phía sau”.

Chỉ có Yaakov, người đã từng chứng kiến những hành động giết người trong Vùng bị chiếm đóng, là dám phá vỡ không khí im lặng đang bao trùm cả căn phòng. “Vậy Asad al-Khalifa và con trai của hắn, Sabri có liên hệ gì với những việc xảy ra ở Rome?”

Gabriel nhìn Dina, ánh mắt anh cũng hàm chứa câu hỏi tương tự. Dina lấy bức ảnh của Sabri ra và thay bằng một bức ảnh của Khaled tại đám tang cha hắn.

“Khi nghe tin chồng mình bị giết ở Paris, Rima đã cắt cổ tay tự tử trong phòng tắm ở khu Beruit. Khaled phát hiện thi thể mẹ mình trong bồn tắm đầy máu. Và rồi hắn trở thành một đứa trẻ mồ côi, cả cha mẹ đều bị giết hại, đại gia đình bị phân tán đi tứ phương. A’one đã nhận hắn làm con nuôi và sau đám tang, Khaled biến mất”

“Vậy hắn đi đâu?”. Yossi hỏi.

“A’one nhận thấy ở đứa trẻ có những tính cách có thể có lợi cho cuộc chiến khủng bố và phải bảo vệ nó bằng mọi giá. Chúng tôi nghĩ rằng hắn ta đã đưa nó đến châu Âu dưới một cái tên giả để sống với một gia đình lưu vong giàu có người Palestine. Tất cả những gì chúng tôi biết là trong vòng 25 năm qua, Khaled al-Khalifa chưa hề xuất hiện. Cách đây 2 năm tôi bàn với Lev mở một cuộc điều tra bí mật về hắn. Nhưng tôi không tài nào tìm ra tung tích của hắn. Cứ như thể sau đám tang, hắn bốc hơi trong không khí vậy”. Gabriel quay sang Yossi. “Vậy giả thuyết của cô là gì?”. “Tôi tin rằng A’one đã chuẩn bị cho hắn nối bước theo người cha và cả ông nội tiếng tăm của hắn. Tôi tin rằng hắn đang bắt đầu hành động”.

“Tại sao?”

“Tôi tin rằng A’one đã can thiệp vào chuyện này, và ông ta đang làm điều đó theo cách duy nhất của mình, đó là bạo lực và khủng bố. Ông ta sử dụng Khaled như một thứ vũ khí”.

“Vẫn chưa có cơ sở”. Yaakov nói. “Đây đơn thuần chỉ là cuộc tấn công của một nhóm khủng bố nào đó ở châu Âu nhằm vào chúng ta. Chúng ta không thể mất thời gian đi tìm kiếm một bóng ma được”.

Dina đặt một bức ảnh mới lên máy chiếu. Đó là bức ảnh một tòa nhà đổ nát.

“Buenos Aires, năm 1994. Một vụ đánh bom xe tải đã san bằng trung tâm cộng đồng người Do Thái vào bữa ăn trưa của ngày lễ Shabbat. 87 người chết. Không lực lượng nào đứng ra chịu trách nhiệm”.

Một bức ảnh khác, một tòa nhà tan hoang hơn.

“Istanbul, 2003. Hai quả bom gài trong xe hơi đồng thời phát nổ bên ngoài nhà thờ chính của thành phố. 28 người chết. Cũng không bên nào đứng ra chịu trách nhiệm ".

Dina quay về phía Yossi và nhờ anh bật đèn lên.

“Cô nói cô có bằng chứng chứng minh Khaled liên quan đến Rome”. Gabriel nói, nheo mắt vì ánh sáng đột ngột. “Nhưng cô chưa đưa ra được gì ngoài sự phỏng đoán”.

“Tôi có chứng cứ, Gabriel à”.

“Vậy mối liên hệ là gì?”

“Beit Sayeed”.

Họ khởi hành từ đại lộ King Saul trong một toa xe tải của Văn phòng vài phút trước bình minh. Vì cửa sổ toa xe được gắn bằng những tấm kính sẫm màu và chống đạn, nên dù mặt trời đã lên cao nhưng bên trong vẫn tối đen. Ngay khi họ đến Petah Tikvah, mặt trời đang ló dạng phía ngọn đồi Judean. Đó là vùng ngoại ô hiện đại của Tel Aviv với những ngôi nhà lớn và bãi cỏ xanh ngắt. Nhưng nhìn qua tấm kính sậm màu của toa xe, hình ảnh hiện về trong tâm trí Gabriel chỉ là những căn nhà đá trước kia và cuộc chống chọi của dân định cư từ Nga trước cuộc thảm sát của Sheikh Asad và đội quân thánh chiến của hắn.

Phía xa Petah Tikvah mở ra một vùng thảo nguyên bao la rộng lớn. Dina hướng dẫn tài xế đi vào đường hai chiều ven con đường quốc lộ mới xây. Họ chạy khoảng vài dặm rồi rẽ vào một đường mòn bẩn thỉu giáp ranh với một vườn cây ăn trái mới trồng.

“Ở đây”, Dina đột nhiên nói. “Dừng ở đây”.

Chiếc xe chạy vòng rồi dừng lại. Dina bước xuống và tiến nhanh vào bên trong vườn cây. Gabriel bước theo sau, Yossi và Rimona đi hai bên, còn Yaakov đi phía sau. Họ đi đến cuối vườn cây. Cứ khoảng 1m lại có một hàng cây được trồng một cách ngay ngắn. Xen lẫn giữa chúng là các bụi cỏ dại màu xanh. Dina dừng lại và quay mặt về phía mọi người.

“Chào mừng đến Beit Sayeed”, cô nói

Cô ra hiệu cho mọi người tiến lên phía trước. Rất dễ để nhận ra rằng họ đang đứng giữa tàn tích của một ngôi làng. Những tàn tích ấy vẫn còn hiển hiện rõ rệt trên nền đất xám: những túp lều tranh, bức tường đá, một quảng trường nhỏ và suối nguồn bao quanh. Gabriel nhận thấy nó rất giống với nhiều ngôi làng ở thung lũng Jezreel Valley và Galilee. Dù những người chủ mới của khu đất cố phá hủy những ngôi làng Arập nhưng vết tích đó vẫn còn lưu lại.

Dina dừng lại kế bên suối và mọi người tập trung xung quanh cô. “Vào ngày 18/4/1948, khoảng 7 giờ tối, một toán quân của Palmach đã bao vây Beit Sayeed. Sau một hồi đọ súng, những tay lính Arập bỏ chạy, để lại ngôi làng không sức chống đỡ. Khung cảnh hỗn loạn xuất hiện khắp nơi. Và tại sao họ lại không còn sức chống cự? Ba ngày trước đó, hơn một trăm cư dân ở Deir Yassin đã bị giết bởi những thành viên của băng nhóm Irgun và Stern Gang. Dĩ nhiên là quân đội Arập ở Beit Sayeed không đời nào chịu một cái chết tương tự như vậy. Có lẽ họ không mất nhiều thời gian để đóng gói đồ đạc và bỏ trốn. Khi ngôi làng bị bỏ hoang, người Palmach đã cho phá hủy những ngôi nhà”.

“Vậy mối liên hệ với Rome là gì?”. Yaakov nôn nóng hỏi.

“Daoud Hadawi”.

“Ngay khi Hadawi được sinh ra, nơi này đã bị xóa sổ khỏi bản đồ thế giới”.

“Đúng thế”. Dina nói. “Hadawi được sinh ra trong trại tị nạn Jenin, nhưng gia đình hắn xuất thân ở đây. Bà của hắn, cha hắn cùng những người cô, chú và anh em họ của hắn đã trốn khỏi Beit Sayeed trong tối ngày 18/4/1948”.

“Vậy ông hắn thì sao?”. Gabriel hỏi.

“Ông ta bị giết vài ngày trước đó, gần Lydda. Anh thấy đấy, ông của Daoud Hadawi là một trong những thuộc hạ thân tín của Sheikh Asad. Đó là người đã bảo vệ Sheikh vào cái đêm bị Shamron giết. Hắn ta cũng là người mà Shamron đã đâm trước khi đột nhập vào nhà”.

“Tất cả chỉ có thế thôi à?”. Yaakov hỏi.

Dina khẽ lắc đầu. “Hai cuộc nổ bom ở Buenos Aires và Istanbul diễn ra vào ngày 18/4 lúc 7 giờ tối”.

“Lạy Chúa”. Rimona lầm bầm.

“Còn có một điều nữa”. Dina nói, quay về phía Gabriel. “Cái ngày anh giết Sabri ở Paris, anh nhớ chứ?”

“Khoảng đầu tháng 3” Gabriel nói, “nhưng tôi không nhớ chính xác ngày nào”.

“Đó là ngày 14/3”. Dina nói.

“Cùng ngày với sự kiện ở Rome”. Rimona nói.

“Chính xác”. Dina nhìn xung quanh những dấu vết còn lại của ngôi làng cũ. “Nó bắt đầu ở chính đây trong Beit Sayeed hơn 50 năm qua. Đó là Khaled người đã chỉ huy Rome và hắn ta sẽ tấn công chúng ta lần nữa trong 28 ngày tới”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8


VEN AIX-EN PROVENCE, PHÁP

Thưa Giáo sư, em nghĩ có lẽ chúng ta đã tìm thêm được một cái nữa rồi”.

Paul Martineau đang bò lồm cồm trong cái hầm sâu hun hút, chợt quay đầu lại và tìm nơi phát ra giọng nói làm đứt quãng công việc của mình. Đập vào mắt anh ta là dáng vẻ quen thuộc của Yvette Debré - cô sinh viên cao học trẻ trung tự nguyện tham gia cuộc đào xới này. Dưới ánh nắng vàng rực rỡ của vùng Provence hắt từ phía sau, cô chỉ là một chiếc bóng bé nhỏ. Đối với Martineau, cô như một tác phẩm được che đậy một cách vô cùng khéo léo. Mái tóc ngắn đen tuyền, khuôn mặt hơi góc cạnh hao hao đường nét của một chàng thanh niên. Chỉ khi ngắm nhìn thân hình cô - một bầu ngực đầy đặn, vòng eo thon thả, và một cái hông nở nang thì anh ta mới thực sự bị hấp dẫn. Anh ta đã thám hiểm cơ thể cô bằng đôi tay điêu luyện của mình, tìm đến cả những nơi sâu kín nhất, những chỗ làm cô vui thích và chạm cả vào nỗi đau của những vết thương cũ. Không một ai trong cuộc khai quật này nghi ngờ mối quan hệ thầy trò của họ. Paul Martineau rất giỏi trong việc giữ bí mật.

“Ở đâu?”

“Phía sau nhà thờ”.

“Thật hay bằng đá?”

“Bằng đá”.

“Nó như thế nào?”

“Giáo sư ra xem đi”.

Martineau đứng dậy. Anh ta chống hai tay lên miệng hầm chật chội, đẩy mạnh vai và trồi lên mặt đất. Anh ta phủi nhẹ lòng bàn tay dính đầy đất đỏ vùng Provence và mỉm cười với Yvette. Trông anh ta vẫn như mọi ngày với chiếc quần jeans dày cộm đã bạc màu và đôi ủng da lộn khá hợp mốt so với một số nhà khảo cổ khác. Anh ta mặc chiếc áo thun màu xám tro với chiếc khăn màu đỏ thẫm được thắt thành nơ. Tóc đen nhánh, xoăn tít, mắt to nâu thẳm. Có đồng nghiệp nói với Martineau rằng khuôn mặt anh ta phảng phất đường nét của tất cả các dân tộc đã từng đến cai trị vùng Provence này, người Celto và người Pháp cổ, người Hy Lạp, người La Mã, người Gô-tích, người Giéc-manh, và người Arập. Không thể chối cãi là anh ta khá điển trai. Yvette Debré không phải là cô học viên cao học đầu tiên ngưỡng mộ và gục ngã trước ngài Giáo sư này.

Thực tế, Martineau là Giáo sư thỉnh giảng môn khảo cổ học tại trường đại học danh tiếng Aix Marseille III, vì anh ta dành hầu hết thời gian ở khu khai quật. Đồng thời anh ta còn là chuyên gia tư vấn cho hơn hàng chục bảo tàng khảo cổ nằm rải rác khắp miền Nam nước Pháp.cay. Am hiểu chuyên môn một cách sâu sắc trong lĩnh vực lịch sử tiền La Mã ở Provence, anh ta được đánh giá là một trong những nhà khảo cổ ưu tú nhất ở Pháp thời ấy, dù anh ta chỉ mới ở tuổi 35. Luận án gần đây nhất của anh ta về sự sụp đổ của đế chế Liguria ở Provence được xem là chuẩn mực. Hiện tại, anh ta đang thương thuyết với một nhà xuất bản Pháp để phát hành tác phẩm về lịch sử cổ đại của vùng trên một quy mô lớn.

Sự thành đạt, đàn bà và những tin đồn về của cải khiến anh ta bị ganh ghét và trở thành đề tài đàm tiếu trong giới khảo cổ. Tuy hiếm khi nói về đời tư của mình, nhưng Martineau lại không hề che giấu nguồn gốc lai lịch. Người cha quá cố của anh ta, Henri Martineau, vừa là nhà kinh doanh vừa là nhà ngoại giao, nhưng ở cả hai lĩnh vực trên ông đều thất bại thảm hại. Sau cái chết của mẹ mình, Martineau đã bán ngôi nhà rộng lớn của gia đình ở Avignon cùng cơ ngơi thứ hai ở vùng ngoại ô Vaucluse. Anh ta sống thoải mái từ dạo đó. Anh ta tậu một căn hộ rộng rãi gần Đại học Aix, một căn biệt thự ở làng Lubéron của Lacoste và một chỗ trú chân nhỏ tại Montmartre ở Paris. Khi được hỏi tại sao lại chọn ngành khảo cổ học, anh ta trả lời rằng mình bị mê hoặc bởi sự ra đời, xuất hiện của các nền văn minh cổ đại và nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chúng. Người mới tiếp xúc cảm nhận trong con người anh ta bản tính cố chấp và một sức mạnh đang bị dồn nén. Ít nhất, nó cũng đã thể hiện qua công việc đào bới quá khứ của anh ta.

Martineau theo Yvette xuyên qua mê lộ của các đường hào khai quật. Nằm trên đỉnh một ngọn núi nhìn xuống khu vực đồng bằng rộng lớn của dãy Chaine de l’Étoile, công trình này là một pháo đài trên đồi, hay còn gọi là oppidum, được xây dựng bởi liên minh bộ tộc Celto-Liguria hùng mạnh, gọi chung là Salyes. Những phát hiện khai quật ban đầu cho thấy pháo đài này gồm hai khu vực riêng biệt nhau, người ta cho rằng một khu vực dành cho giới quý tộc Celto và khu vực còn lại là của tầng lớp thứ dân Ligurian. Nhưng Martineau lại đưa ra một giả thuyết mới. Một khu vực tồi tàn hơn vừa được phát hiện hoàn toàn trùng khớp với nơi diễn ra cuộc chiến giữa người Liguria và người Hy Lạp gần Mác-xây. Nhờ cuộc khai quật này mà Martineau đã chứng minh được rằng khu vực đó trước đây chính là một trại tỵ nạn của thời kỳ đồ sắt.

Rồi anh ta bắt đầu tìm kiếm câu trả lời cho ba câu hỏi: Tại sao pháo đài trên đồi này bị bỏ hoang chỉ mới sau một trăm năm? Anh ta tìm thấy khá nhiều đầu lâu gần nhà thờ, gồm cả đầu lâu thật và đầu lâu được trát vào đá. Chúng có ý nghĩa gì? Đó đơn thuần chỉ là chiến tích của người man rợ thời kỳ đồ sắt hay là một phong tục thờ cúng truyền thống nào đó của người Celto? Martineau cho rằng chính việc trát đầu lâu vào vách đá đã khiến pháo đài nhanh chóng bị sụp đổ. Bởi đầu lâu không phải là một vật liệu tốt cho ngành xây dựng. Vì vậy anh ta yêu cầu mọi thành viên trong đội phải thông báo khi phát hiện thêm bất kỳ một cái đầu lâu nào nữa - và đó cũng là lý do vì sao anh ta đích thân quản lý khu vực đào xới này. Kinh nghiệm xương máu đã dạy anh ta rằng không được bỏ sót bất kỳ một manh mối nào dù lớn hay nhỏ. Ý nghĩa của đầu lâu đó là gì? Những đồ tạo tác hoặc những mảnh vụn được tìm thấy xung quanh là gì? Có dấu vết nào gần đó không? Các học viên cao học - thậm chí thông minh như Yvette Debré - cũng khó phát hiện ra những manh mối đó.

Hầm khai quật chỉ dài khoảng 1 mét rưỡi, rộng một sải vai. Martineau hạ thấp người xuống, cẩn trọng để không làm xáo trộn vùng đất xung quanh. Chiếc mũ của anh ta nhô lên khỏi nền đất thô cứng. Martineau lấy từ trong túi sau ra một chiếc cuốc chim, một cái bàn chải và bắt tay vào việc.

Anh ta không hề rời khỏi hầm trong sáu giờ liên tục. Yvette ngồi vắt chân ngay cạnh hầm. Thỉnh thoảng cô đưa cho Martineau nước khoáng hoặc cà phê, những thứ mà thường ngày chẳng bao giờ anh ta nhấp môi. Cứ vài phút, một trong những người trong đội lại đi ngang qua và thắc mắc về những gì anh ta mới phát hiện. Nhưng anh ta chỉ im lặng. Chỉ có tiếng cuốc chim của Martineau phát ra từ trong hố. Cùng với đó là các động tác cuốc, cuốc, quét quét. Rồi lại cuốc cuốc, quét quét và thổi…

Dần dần, khuôn mặt bị sỏi đá che phủ qua thời gian lộ ra trước mắt anh ta, cái miệng thể hiện sự đau đớn tột cùng, mắt nhắm chặt lúc chết. Ánh nắng đã chuyển hướng, anh ta dò sâu hơn theo lớp đất đá và phát hiện ra rằng cái đầu bị giữ chặt bởi một bàn tay đúng như anh ta mong đợi. Những người tập trung cạnh hầm khu khai quật không nhận ra rằng, đối với Paul Martineau, khuôn mặt đó còn hơn cả một món quà quý giá được khai quật từ quá khứ. Trong lớp đất đá tối om, Martineau đã nhìn thấy khuôn mặt kẻ thù của mình, và anh ta nghĩ một ngày không xa mình cũng sẽ được giữ một cái đầu lâu trong lòng bàn tay.

Cơn giông bất ngờ đổ xuống thung lũng Rhône vào giữa trưa. Mưa xối xả, từng cơn gió lạnh căm ào ạt quét qua hiện trường đào xới giống như cuộc bố ráp của đội quân Vandal. Martineau trèo ra khỏi hầm và tiến nhanh lên đồi, nơi những người còn lại trong đội đang trú mình sau bức tường khuất gió của thành lũy cổ.

“Dọn dẹp thôi nào”, anh ta nói. “Sáng mai chúng ta sẽ tiếp tục”.

Martineau chúc họ một ngày tốt lành và hướng về phía bãi đỗ xe. Yvette tách ra khỏi nhóm và đi theo sau anh ta.

“Anh thấy sao nếu mình đi ăn tối nay?”

“Anh cũng muốn vậy lắm nhưng anh e rằng không thể”.

“Sao vậy anh?”

“Tối nay anh phải tham dự một bữa tiệc chiêu đãi chán ngắt của khoa ”, Martineau nói. “Chủ nhiệm khoa yêu cầu anh phải có mặt”.

“Còn tối mai thì sao?”

“Ừ, có thể được đấy”, Martineau nắm tay cô học viên cao học. “Gặp lại em ngày mai nhé”.

Bên kia bức tường là một bãi đậu xe cỏ mọc um tùm. Chiếc xe Mercedes mới tinh của Martineau đậu tách biệt hẳn so với những chiếc xe hơi và mô tô cũ kỹ của những tình nguyện viên và những nhà khảo cổ không mấy tên tuổi ở khu khai quật. Anh ta leo lên xe và lái dọc đường D14 hướng về Aix. Mười lăm phút sau, anh ta đã có mặt tại bãi đỗ xe bên ngoài căn hộ của mình, nằm ngoài đại lộ Mirabeau, ngay trung tâm thành phố.

Đó là một căn nhà sang trọng được xây từ thế kỷ mười tám, mỗi cửa sổ đều mở ra một ban công sắt và một cửa ra vào ở phía tay trái mặt tiền. Martineau lấy thư và bước vào thang máy lên tầng bốn. Thang máy đưa đến một hành lang nhỏ với sàn bằng cẩm thạch. Một cặp water vessel thời La Mã đặt phía ngoài cửa nhà. Khi có người hỏi liệu đó là đồ thật hay đồ giả thì anh ta đều trả lời chúng chỉ là đồ giả nhưng được tái chế khá tinh xảo mà thôi. Trong khi thực chất chúng là một món đồ cổ vô giá.

Căn hộ này có vẻ phù hợp với một thành viên của giới quý tộc vùng Aix hơn là với một nhà khảo cổ học hay một vị Giáo sư thỉnh giảng. Trước đây nó là hai ngôi nhà tách biệt. Sau cái chết bất ngờ của người hàng xóm góa vợ, anh ta mua lại và gộp chung thành một. Phòng khách khá rộng rãi và ấn tượng với trần cao, cửa sổ rộng nhìn thẳng ra đường. Đồ gỗ ở đây được trang trí theo phong cách đặc trưng của vùng Provence, trông đỡ đơn điệu ở căn biệt thự của anh ta tại Lacoste. Căn phòng được tô điểm thêm bởi một bức tranh phong cảnh của Cézanne và một cặp tranh phác họa của Degas. Hai cây trụ thời La Mã khá ấn tượng nằm ngay lối vào phòng làm việc. Nơi đây chứa hàng trăm công trình nghiên cứu khảo cổ, một bộ sưu tập đồ sộ những ghi chép tại hiện trường và bút tích của một số bộ óc tuyệt vời nhất trong lịch sử ngành khảo cổ. Ngôi nhà của Martineau cứ như một thánh đường. Anh ta chẳng bao giờ mời đồng nghiệp về đây trừ những người phụ nữ, và người được mời về gần đây nhất là Yvette.

Martineau tắm qua thay quần áo sạch sẽ. Hai phút sau anh ta lại ngồi sau tay lái xe Mercedes, tăng tốc về phía đại lộ Mirabeau. Anh ta không lái thẳng đến trường đại học, mà lại hướng về thành phố, rẽ sang đường cao tốc A51 về phía Mác-xây. Anh ta đã nói dối Yvette. Đây không phải là lần đầu tiên anh ta nói dối cô.

Phần lớn cư dân vùng Aix không mặn mà gì với thành phố Mác-xây. Nhưng Paul Martineau lại luôn bị nó cám dỗ. Thành phố cảng mà người Hy Lạp từng gọi là Massalia giờ đây là thành phố lớn thứ hai của Pháp. Đây là cửa ngõ dẫn vào thành phố của làn sóng nhập cư, hầu hết đến từ Algeria, Morocco và Tunisia. Đại lộ Canebière rộng lớn cắt ngang thành phố làm nó có hai khuôn mặt khác biệt rõ rệt. Phía nam đại lộ, ở phía bờ cảng cũ, là một thành phố kiểu Pháp sang trọng với những vỉa hè rộng dành cho khách bộ hành, những cửa hiệu mua sắm cao cấp, và khu dạo mát với những quán cà phê ngoài trời. Nhưng phía bắc là khu vực gồm hai thị trấn Le Panier và Quartier Belsunce. Ở đây người ta phải đi bộ men theo hai bên đường hẹp và chỉ toàn nghe tiếng Arập. Khi trời sẩm tối, khách nước ngoài và người Pháp bản địa rất ít khi đi vào khu Arập này, vì họ dễ dàng trở thành nạn nhân của những tên tội phạm đường phố.

Paul Martineau chẳng bao giờ phải bận tâm về sự an toàn của mình. Anh ta bước ra khỏi chiếc Mercedes trên đại lộ Anthène, gần chỗ hầm cầu thang dẫn đến ga Charles và bắt đầu xuống đồi hướng về đường Canebière. Trước khi tới đường lớn, anh ta rẽ phải, đi vào con đường Convalescents hẹp. Con đường chỉ vừa đủ rộng cho một chiếc xe hơi, nó dẫn ra cảng vào trung tâm Quartier Belsune.

Trời đã về khuya, một làn gió lành lạnh ập đến khiến Martineau rùng mình. Không khí ban đêm thoang thoảng mùi khói than, nghệ và mật ong. Hai người đàn ông già nua ngồi trên chiếc ghế ọp ẹp ngay lối đi của khu chung cư đang chia nhau ống điếu hút và hờ hững quan sát Martineau khi anh ta đi ngang qua. Một lát sau một trái bóng non hơi, tiệp với màu vỉa hè, từ bóng tối bay thẳng về phía anh ta. Martineau chặn một chân lên trái bóng và đá trả về hướng mà nó đã bay tới. Trái bóng được hất ngược lên bởi một đứa bé trai mang dép xăng-đan, nhưng ngay khi thấy một người đàn ông cao to trong bộ Âu phục, nó quay đi và biến mất vào trong hẻm. Martineau nhớ lại hình ảnh của mình ba mươi năm về trước. Mùi than, nghệ, mật ong… Trong một thoáng, anh ta ngỡ mình đang đi trên những con đường ở Beirut.

Anh ta bước đến ngã tư. Ngay góc đường là quầy Shoarma1, bên kia đường là một quán cà phê nhỏ hứa hẹn những món ăn khoái khẩu của người Tunisia. Ngay lối vào quán, một bộ ba thanh niên hướng mắt về phía Martineau đầy khiêu khích. Anh ta chúc họ một buổi tối tốt lành bằng tiếng Pháp sau đó chuyển ánh nhìn và sang phải.

Con đường hẹp dần, vỉa hè hầu như bị chiếm dụng bởi các sạp hàng đầy những tấm thảm rẻ tiền và ấm nhôm. Ở cuối đường là một quán cà phê Arập. Martineau bước vào trong. Đằng sau quán cà phê, ngay cạnh nhà vệ sinh là một lối lên cầu thang tối om. Martineau từ từ bước lên từ trong bóng tối. Trên đỉnh cầu thang là một cánh cửa. Khi Martineau tiến tới, cánh cửa đó đột nhiên mở toang. Một người đàn ông, râu ria nhẵn nhụi, mặc áo choàng galabia, bước ra đầu cầu thang.

Ông ta nói. “Maa-salaamah”, và tiếp luôn. “An lành cho anh”.

Martineau cũng nói lại. “As-salaam alaykum”, anh ta lướt qua người đàn ông và bước vào bên trong căn hộ.

Chú thích

________________________________________

1 . Shoama: Món thịt cừu xé mỏng cay.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9


JERUSALEM

Jerusalem là thành phố tọa lạc hẳn trên một ngọn đồi. Thành phố nằm trên đỉnh dãy núi Judean, nối liền đồng bằng bởi những con đường bậc thang uốn lượn bao lấy hẻm núi Sha’ar Ha’Gai và vươn ra đến tận bờ biển. Thế nhưng, cũng như những người Isreal khác, Gabriel vẫn thích gọi nó bằng cái tên Arập, Bab alWad. Anh hạ thấp cửa kính chiếc xe công vụ Skoda xuống, tay chống bên thành cửa. Những làn gió khuya mát lạnh, thoảng mùi thơm của cây bách và thông thổi qua tay áo anh phần phật. Anh băng qua xác một chiếc xe quân sự bọc thép đã gỉ sét. Nó khiến anh chợt nhớ lại những tàn tích của cuộc chiến năm 1948, về Sheikh Asad và cả âm mưu cắt đứt con đường cứu viện tới Jerusalem.

Anh với tay bật radio với mong muốn nghe được một bài hát nào đó giúp anh thoát khỏi những suy nghĩ hiện tại. Thay vào đó, đài lại đang đưa tin về vụ đánh bom tự sát trên một chiếc xe buýt ở Rehavia, vùng đất trù phú cạnh Jerusalem. Gabriel đành phải nghe tin tức, và khi tiếng nhạc buồn thảm vang lên, anh tắt luôn radio. Những bản nhạc buồn chỉ mang đến những cảm giác bi thương mất mát. Mỗi khi bản nhạc này vang lên, nó lại báo hiệu rằng có người đã thiệt mạng, đôi khi là rất nhiều người.

Đại lộ số 1 với bốn làn đường nối liền với một đại lộ rộng lớn hướng về phía trung tâm. Đó là con đường Jaffa nổi tiếng nối từ phía Đông Bắc Jerusalem đến thành cổ. Gabriel men theo bên trái con đường, rồi qua một đoạn cong dài thoai thoải, băng qua cả khu nhà ga sầm uất. Người đi lại vẫn lũ lượt hướng về phía cửa vào mặc cho trận nổ bom vừa xảy ra. Họ không còn sự lựa chọn nào khác, họ vẫn phải bắt xe buýt, và chỉ biết thầm mong sự xui xẻo tương tự không đổ lên đầu mình.

Gabriel lái xe băng qua cửa vào khu chợ Makhane Yehuda đang nằm chắn ngang. Một nữ cảnh sát người Ethiopia trong bộ quân phục đứng canh gác tại thanh chắn và kiểm tra túi xách của từng người. Khi ngừng tại chốt đèn đỏ, anh thấy một đám người Do Thái chính thống mặc áo khoác đen len qua những chiếc xe như những chiếc lá xoay xoay trong gió.

Gabriel phải rẽ vòng vòng mới tới được đường Karkiss. Ở đây chẳng có bãi đậu xe nên anh dừng xe ngay tại một góc đường và chậm rãi đi bộ về phía căn hộ của mình, nơi có những cây bạch đàn vươn cao tỏa bóng mát. Anh vẫn có những ký ức ngọt ngào về Venice, về ngôi nhà yên bình bên con kênh nước chảy nhẹ nhàng, và về con thuyền anh cột bên bến tàu sau nhà.

Một con đường xi măng băng qua khu vườn nhỏ khá bừa bộn dẫn vào khu nhà chung cư bằng đá vôi chỉ cách đường lộ vài mét. Mái hiên được chiếu sáng bởi ánh đèn xanh. Nó ngai ngái mùi sơn mới. Anh chẳng cần kiểm tra thư - vì chẳng ai biết anh đang ở đây, và hóa đơn điện nước thì đã được gửi thẳng về bộ phận Quản lý Văn phòng.

Khu nhà thậm chí còn chẳng có cả thang máy. Gabriel mệt mỏi lê bước trên từng nấc thang xi măng lên tầng bốn, rồi mở cửa. Đối với gia đình Israel thì căn hộ này khá rộng rãi với hai phòng ngủ, một phòng ăn, một phòng làm việc nhỏ nằm giữa phòng khách và phòng ăn - nhưng nó thua xa căn biệt thự kiểu piano nobile của anh nằm cạnh con kênh tại Venice. Bộ phận Quản lý Văn phòng đã có lần rao bán nó cho anh. Có vẻ giá chung cư ở Jerusalem ngày càng rớt thê thảm bởi những trận đánh bom liều chết, và tính đến thời điểm đó, mức giá như thế là quá rẻ. Chiara quyết định không chờ đợi thêm nữa mà cô sẽ mua luôn. Vì không có nhiều việc nên cô rất chăm chỉ với việc mua sắm và quyết tâm biến căn hộ buồn tẻ này thành một tổ ấm thực sự. Chiara vừa thay được một chiếc thảm mới và một cái bàn uống cà phê bằng đồng thau hình tròn với những chiếc ghế gỗ được sơn phết. Anh hy vọng rằng cô mua những thứ đó ở chỗ có tiếng tăm chứ không phải ở những người bán dạo lề đường bán trời không văn tự.

Anh gọi tên Chiara nhưng không thấy cô đáp lại. Anh bước xuống sảnh dẫn vào phòng ngủ. Căn phòng được trang bị dành cho các nhân viên tình báo hơn là cho những đôi tình nhân. Gabriel đã ghép hai chiếc giường lại, nhưng lúc nào thức dậy giữa đêm anh cũng thấy mình và nằm lọt vào rãnh giữa. Phía cuối chân giường có một chiếc hộp bằng giấy cáctông nhỏ. Chiara đã đóng gói hết mọi thứ và đây là thứ duy nhất còn sót lại. Anh cho rằng tay giáo sư trên đại lộ King Saul có thể phân tích được tại sao anh không mở cái hộp đó. Lý do hết sức đơn giản - anh không có thời gian. Hơn nữa, thật ảm đảm khi nghĩ đến viễn cảnh cả cuộc đời còn lại của anh sẽ bị phá huỷ bởi chiếc hộp này. Thật khủng khiếp khi chỉ với một chiếc hộp kim loại nhỏ như thế lại có thể biến số phận con người thành tro tàn. Chúng không phải của anh. Chúng thuộc về Mario Delvecchio, một vai anh chỉ thỉnh thoảng diễn và đã nhận được khá nhiều lời tán dương.

Gabriel ngồi phịch xuống và lấy móng tay cứa đứt sợi dây. Anh cảm thấy thoải mái khi nhìn thấy lại chiếc hộp gỗ, bộ đồ nghề phục chế xách tay gồm mấy hộp màu và cọ vẽ mà anh được Umberto Conti tặng như một phần thưởng vào cuối thời kỳ tập sự. Những cái còn lại đều là những thứ đã bị hư hỏng: những cây chì cũ kỹ, những mảnh ghi chú về việc phục chế, bản nhận xét mà anh nhận được từ một tạp chí nghệ thuật Ý về tác phẩm của mình trong buổi trưng bày các tác phẩm của Tintoretto “Đức Chúa trời trên vùng biển Galilee”. Anh tự hỏi chẳng hiểu sao mình không nỡ vứt đi mà vẫn và giữ lại tất cả những thứ này.

Dưới đáy hộp là một phong thư được cột cẩn thận không lớn hơn cái hộp bao nhiêu. Anh cởi nút thắt và mở phong thư ra. Một cặp kính cận rớt ra ngoài. Chúng là của Benjamin Stern, một cựu sỹ quan tình báo đã bị sát hại. Thậm chí Gabriel vẫn có thể xác định được rõ những dấu vân tay còn hằn trên hai tròng kính.

Anh đặt cặp kính lại vào phong thư và chợt nhận ra có gì đó ở đáy hộp. Anh lật nó ngược lại và dốc ra sàn. Một vật gì đó rơi ra sàn, Gabriel nhìn kỹ hơn thì thấy đó là một miếng san hô đỏ đính trên một miếng bùa bằng da giống như hình một bàn tay. Ngay lúc đó anh nghe tiếng bước chân Chiara từ sảnh vọng vào. Anh vơ vội miếng bùa da đó và nhét gọn vào túi.

Vừa bước ra cửa chính, anh thấy Chiara đang cố mở cửa, tay cầm mấy giỏ rau quả. Cô ngước nhìn Gabriel và mỉm cười như thể rất bất ngờ khi gặp anh ở đây. Mái tóc đen uốn thành những lọn lớn, những tia nắng vùng Địa Trung Hải mới sang xuân còn sót lại trên gò má Chiara. Cô nhìn Gabriel với vẻ ngây thơ của một đứa trẻ Do Thái. Chỉ khi nào cô nói chuyện bằng tiếng Do Thái lơ lớ giọng Ý thì lúc đó cô mới cố giấu đi nguồn gốc của mình. Đã từ lâu Gabriel không nói chuyện với cô bằng tiếng Ý. Chỉ có Mario mới nói tiếng Ý, nhưng Mario đã chết rồi. Họ chỉ nói chuyện bằng tiếng Ý khi âu yếm nhau. Đó là thỏa thuận giữa hai người, vì Chiara cho rằng tiếng Do Thái không phải là ngôn ngữ dành cho những đôi tình nhân.

Gabriel đóng cửa vào và giúp cô xách mấy giỏ đồ vào nhà bếp. Đống đồ ăn thật lộn xộn, cái trắng, cái xanh, cái thì lại màu hồng với tên của một nhà sản xuất bơ nổi tiếng. Anh biết chắc rằng Chiara lại một lần nữa bỏ ngoài tai những lời căn dặn của anh, mà vẫn khăng khăng đi mua sắm tại khu chợ Makhane Yehuda.

“Tình hình ở đó đã khá hơn nhiều rồi, đặc biệt những sản phẩm thực phẩm”, Chiara chống chế khi quan sát ánh mắt không mấy hài lòng của Gabriel. “Hơn nữa, em cũng thích không khí ở đó, đông đúc nhộn nhịp”.

“Ừ, anh biết”, Gabriel đồng tình. “Em cũng nên thấy cảnh tượng tại đó lúc nó bị đánh bom”.

“Đừng nói là Gabriel nổi danh lại sợ mấy thằng đánh bom cảm tử nhé”.

“Phải. Em không thể chết được khi còn nhiều thứ đáng giá hơn phải làm. Em đi về bằng xe buýt phải không?”

Chiara nhìn anh vẻ có lỗi.

“Thấy chưa, Chiara!”

“Em không thể bắt xe điện được”.

“Thế em có biết vừa có một chiếc xe buýt bị nổ bom ở Rehavia không?”

“Dĩ nhiên là em biết. Em có nghe thấy tiếng nổ lúc đang ở trong khu Makhane Yehuda. Đó là lý do vì sao em quyết định đón xe buýt về. Em nghĩ là không thể có hai vụ đánh bom xe buýt liền nhau được. Anh biết là tính em thích những thứ hơi khác thường mà”.

Gabriel biết rõ rằng những cảnh tượng kinh khủng như thế là mặt trái của một xã hội Israel hiện đại.

“Từ giờ trở đi hãy đi tuyến xe buýt số 11”.

“Đó là tuyến nào?”

Anh chỉ hai ngón tay về phía sàn nhà, và di chuyển chúng, để diễn tả một đôi chân đang đi bộ.

“Phải chăng đấy là cái tính hài hước cố hữu trong con người Israel của anh?”

“Em phải có tính hài hước một chút thì mới sống được trong đất nước này. Đó là cách duy nhất giúp em không nổi điên lên với mọi thứ”.

“Khi còn ở Ý, em đã yêu anh nhiều hơn thế này”. Cô đẩy nhẹ Gabriel vào phòng ăn. “Anh đi tắm đi. Tối nay chúng ta có khách đấy”.

Ari Shamron rất hay làm mất lòng những người yêu quý mình. Ông luôn tin một cách mù quáng rằng với chừng ấy năm cống hiến trong Bộ Quốc phòng, cả con cái và bạn bè ông cũng sẽ đều được miễn quân dịch. Con trai ông, Yonatan, là một lính xe tăng trong Bộ Quốc phòng Israel. Yonatan có vẻ luôn bị ám ảnh với việc nếu có chết thì phải hy sinh trong khi làm nhiệm vụ. Con gái ông đã chuyển đến New Zealand sinh sống nhưng trong một nông trại gà với những người không có nguồn gốc Do Thái. Con bé hầu như không liên lạc với Shamron và chẳng thèm màng đến những lời yêu cầu về thăm lại nơi nó được sinh ra.

Chỉ duy có Gilah, người vợ đã suốt một đời hi sinh bản thân mình để chăm lo cho chồng con, là còn ở bên ông. Bà là người điềm tĩnh trong khi tính khí Shamron lại quá thất thường, và bà lại chỉ nhìn được những điểm tốt nơi chồng mình. Bà là người duy nhất dám cáu bẳn với ông, dù việc cáu bẳn đó chẳng khiến ông bối rối vì bà chỉ toàn dùng tiếng Ba Lan. Bà phàn nàn ngay cả khi Shamron loay hoay châm mồi thuốc trên bàn ăn sau khi dùng xong gà quay và cơm thập cẩm. Bà không biết nhiều về công việc của chồng, mặc dù bà cũng hơi nghi ngờ rằng công việc đó không mấy lương thiện. Shamron không hề kể gì công việc của mình cho vợ nghe vì lo ngại rằng nếu Gilah biết quá rõ mọi thứ thì bà sẽ không cho phép ông lại gần con cái. Còn với Gabriel, vì không hiểu công việc của anh nên bà rất quý mến và đối xử tử tế với anh. Bà có cảm giác rằng Gabriel kính trọng Shamron theo một cách rất đặc biệt, như tình yêu của một người con đối với cha vậy. Bà không biết rằng tay Gabriel đã vấy máu theo mệnh lệnh của chính chồng mình. Bà chỉ biết rằng anh là một thư ký và phải thường xuyên họp hành ở châu Âu đồng thời bà cũng biết anh là người rất am hiểu về nghệ thuật.

Gilah giúp Chiara rửa chén bát, trong khi Gabriel và Shamron lui về phòng làm việc để bàn bạc. Đợi khuất tầm nhìn của Gilah, Shamron châm một điếu thuốc. Gabriel mở toang cửa sổ. Tiếng mưa đêm rơi trên mặt đường như một bản nhạc, mùi hương của cây bạch đàn tràn ngập toàn bộ căn phòng.

“Tôi nghe nói là cậu đang truy tìm Khaled”, Shamron nói.

Gabriel gật đầu. Buổi sáng hôm đó anh đã báo cáo sơ bộ tình hình cho Lev nghe về những phát hiện của Dina, và ngay lập tức Lev đã lên đường đi Jerusalem để gặp Thủ tướng và Shamron.

“Thành thực mà nói, tôi chưa bao giờ tin vào những câu chuyện hão huyền về Khaled”, Shamron nói. “Tôi chắc mẩm rằng hắn ta đã thay tên đổi họ và quyết định

thoát khỏi cái bóng của ông nội và cha mình - cũng như muốn thoát khỏi sự tối tăm của mảnh đất này”.

Gabriel nói. “Tôi cũng cho là thế, nhưng giả thuyết mà chúng ta đã đưa ra rất thuyết phục”.

“Đúng vậy. Tại sao trước đó không ai nghĩ đến mối liên hệ giữa thời gian xảy ra hai sự kiện ở Buenos Aires và Istanbul nhỉ?”

“Mọi người đều cho đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên”. Gabriel nói. “Hơn nữa, cũng không có đủ bằng chứng để quy kết điều gì cả. Cũng không ai từng nghĩ đến việc sẽ xem xét khu vực Beit Sayeed, cho đến tận bây giờ”.

“Chà, cô nàng Dina này giỏi thật đấy”.

“Tôi e rằng có cái gì đó đang ám ảnh cô ấy”.

“Cậu đang ám chỉ việc cô ấy đã ở quảng trường Dizengoff vào cái ngày chiếc xe buýt Số 5 nổ tung đúng không?”

“Làm sao ông biết được chuyện này?”

“Tôi được phép xem hồ sơ cá nhân của các thành viên trong tổ điều tra của cậu mà. Cậu cũng biết lựa chọn người đấy nhỉ”.

“Cô ấy biết rất rõ về ông đấy, kể cả một số chuyện mà ông chưa từng kể cho tôi”.

“Ví dụ như điều gì?”

“Ví dụ như tôi chưa từng biết chính Rabin là người lái chiếc xe đứng chờ ngoài cổng khi ông giết Sheikh Asad”.

“Chúng tôi đã rất thân thiết sau vụ đó, Rabin và tôi, nhưng lấy làm tiếc là chúng tôi đã không còn đồng hội đồng thuyền sau Hiệp định Oslo. Rabin tin là A’one đã thất thế và đó là thời điểm thích hợp để thương thuyết hòa bình. Tôi đã cảnh báo với anh ấy rằng A’one đang khởi động việc thương thuyết chỉ vì ông ta thất thế ư? Chẳng qua A’one sử dụng Hiệp định Oslo như một phương tiện để tiến hành cuộc chiến tranh dưới danh nghĩa khác thôi. Và dĩ nhiên, tôi đã đúng. Đối với A’one, Hiệp định Oslo chỉ đơn thuần là một nước cờ trong chiến lược hủy diệt chúng ta. Chính A’one đã thề như thế bằng tiếng Arập”.

Shamron nhắm mắt. “Tôi không thích thú gì khi chứng minh được rằng mình đã đúng. Cái chết của Rabin khiến tôi choáng váng. Phe cánh hữu gọi anh ấy là kẻ phản quốc, là người của Đức Quốc Xã, và đã ám sát anh ấy. Chính chúng ta đã giết đi người của mình. Chúng ta lại đi vào vết xe đổ của kẻ thù chúng ta”. Ông lắc nhẹ đầu. “Mặc dù vậy, cần phải nói rằng mọi nỗ lực chung sống hòa bình với kẻ thù không đội trời chung hoàn toàn hão huyền. Vì thế chúng ta càng phải nắm chặt tay súng nếu còn muốn tồn tại trên mảnh đất này”.

Hết sức thận trọng, Gabriel hỏi về việc ngôi làng Beit Sayeed bị phá hủy.

“Có phải đó là hành động của lực lượng Palmach không?”

“Chính xác thì cậu muốn biết gì hả Gabriel?”

“Ông đã ở đó chứ?”

Shamron thở dài một cách nặng nhọc rồi gật đầu. “Chúng ta không có sự lựa chọn nào khác. Beit Sayeed là căn cứ hoạt động của quân đội Sheikh Asad. Chúng ta không thể để một ngôi làng với đầy lòng thù hằn tồn tại được. Sau cái chết của Sheikh, cần phải giáng cho đám tàn quân của hắn một đòn chí mạng”.

Đột nhiên ánh nhìn của Shamron trở nên xa xăm. Gabriel hiểu ông không muốn bàn sâu về vấn đề này nữa. Shamron rít mạnh một hơi thuốc, sau đó kể cho Gabriel về linh cảm ám ảnh mình trước khi thảm họa ở Rome xảy ra. “Khi đó, tôi đã cảm nhận được sẽ có một thảm hoạ xảy ra. Và cả thời khắc nó xảy ra nữa”. Rồi ông lại tự đính chính. “Tôi đã cảm thấy chuyện đó trước lúc nó xảy ra”.

“Nếu Khaled đang cố trừng phạt chúng ta, tại sao hắn không giết tôi ở Venice khi có cơ hội?”

“Có thể hắn chưa muốn ra tay ở Venice. Daoud Hadawi chỉ cách Milan có vài dặm khi người Ý tìm hắn. Có thể Hadawi là người được đề nghị để giết cậu”.

“Và vụ ở Rome?”. Gabriel hỏi. “Tại sao Khaled lại chọn Rome?”

“Có thể vì Rome giữ vai trò như tổng hành dinh ở châu Âu của tổ chức Tháng Chín Đen”. Shamron nhìn Gabriel. “Hoặc có thế hắn đã cố nhằm mục tiêu vào cậu”.

Thật là tuyệt, Gabriel nghĩ.

“Cậu nhớ lại xem”, Shamron nói. “Trong vòng một tuần trước vụ nổ bom, đã có một cuộc biểu tình quy mô lớn ở trung tâm Rome nhằm vào chúng ta chứ không phải bọn khủng bố người Palestine. Người châu Âu là người bạn tốt nhất của người dân Palestine. Thế giới văn minh đã bỏ mặc số phận chúng ta. Chúng ta quay lại mảnh đất này vì đã bị xua đuổi đi bởi lòng căm ghét của người Thiên Chúa giáo châu Âu. Và bây giờ khi chúng ta chạy đến đây lánh nạn thì họ lại không cho phép chúng ta đấu tranh. Họ sợ rằng sẽ khiến những người Arập ở châu Âu phản kháng”.

Rồi họ chìm vào im lặng. Tiếng chén đĩa kêu leng keng hòa cùng tiếng cười trong trẻo vọng lên từ gian bếp. Shamron ngồi thu mình trong chiếc ghế. Tiếng mưa rơi tí tách và mùi thơm ngạt ngào của những cây bạch đàn có vẻ như là một liều thuốc giảm đau hiệu quả đối với ông.

“Tôi có đem vài thứ giấy tờ để cậu ký”, ông nói.

“Giấy tờ gì thế?”

“Những giấy tờ cần thiết để kết thúc cuộc hôn nhân của cậu với Leah một cách êm thấm”. Shamron đặt bàn tay lên cánh tay Gabriel. “Đã mười bốn năm trôi qua. Cô ấy không thể giữ cậu được nữa. Cô ấy sẽ không quay về. Đến lúc cậu phải tiếp tục cuộc sống cho riêng mình”.

“Điều này không dễ tí nào Ari ạ”.

“Tôi sẽ không tranh cãi với cậu”, Shamron nói. “Khi nào cậu định đưa cô ấy về?”

“Bác sĩ của cô ấy phản đối việc này. Anh ta lo ngại rằng việc quay về Israel chỉ khiến tình trạng của cô ấy tồi tệ thêm. Cuối cùng tôi phải cố gắng lắm mới thuyết phục anh ấy hiểu rằng tôi không thể để cho cô ấy ở lâu hơn được nữa. Nhưng anh ta vẫn nhất quyết rằng cô ấy cần thêm một thời gian nữa mới có thể xuất viện”.

“Khi nào?”

“Một tháng”, Gabriel đáp. “Hoặc có thể sớm hơn”.

“Nói với bác sĩ của cô ấy rằng cô ấy sẽ được chăm sóc chu đáo ở đây. Mặc dù chẳng hay ho gì khi tự nhận rằng chúng ta có khá nhiều kinh nghiệm trong việc chăm sóc các nạn nhân bị khủng bố bom”.

Shamron đột nhiên đổi đề tài. “Cậu thấy căn hộ này thoải mái chứ?”

Gabriel tỏ vẻ hài lòng.

“Nó đủ lớn cho một hoặc hai đứa trẻ nữa đó”.

“Đừng vẽ vời tương lai xa xôi vậy Ari. Tôi chẳng dám nghĩ đến tuổi năm mươi nữa”.

“Chiara sẽ muốn có con nếu cậu cưới cô ấy, tất nhiên là vậy rồi, phụ nữ ai chả thế. Bên cạnh đó, cậu phải làm tròn nghĩa vụ đối với đất nước. Cậu chưa nghe về hiểm họa dân số à? Dân tộc chúng ta sẽ sớm trở thành đất nước thiểu số trong khu vực sông Gioócđan và vùng biển này. Thủ tướng đang khuyến khích tất cả chúng ta có thêm nhiều con. Cám ơn Chúa vì chúng ta là những gia đình Do Thái chính thống. Đó là lý do tại sao chúng ta phải gánh vách trọng trách này”.

“Tôi sẽ cố cống hiến cho đất nước theo cách khác”.

“Cậu biết đó, nó là của cậu”, Shamron nói.

“Cái gì cơ?”

“Căn hộ này đó”.

“Ông đang nói gì thế?”

“Bây giờ cậu là chủ sở hữu căn nhà. Một người của Văn phòng đã mua nó cho cậu”.

Gabriel lắc đầu. Anh luôn ngạc nhiên về cách đề cập chuyện tiền nong theo kiểu xã hội đen của Shamron.

“Tôi không thể nhận nó”.

“Quá muộn rồi. Văn bản đã được gửi đi vào buổi sáng”.

“Tôi không muốn mắc nợ ai cả”.

“Chính chúng tôi mắc nợ cậu mới đúng. Hãy nhận nó một cách thoải mái. Hãy coi nó như là một món quà không cần sự đáp trả”. Shamron vỗ vai Gabriel. “Và hãy sưởi ấm nó bằng những đứa trẻ”.

Gilah thò đầu qua cánh cửa khép hờ. “Món khai vị đã sẵn sàng”, bà nói, quay sang nhìn Shamron và yêu cầu ông bỏ điếu thuốc xuống bằng tiếng Ba Lan.

“Ngày Mười tám tháng Tư”, ông lẩm bẩm khi Gilah đã đi khỏi. “Không còn nhiều thời gian nữa”.

“Tôi biết thời điểm đã gần kề”.

“Tôi chợt nghĩ ra là có một người có thể biết Khaled ở đâu”.

“Là A’one à?”

“Ông ta gần như là cha của Khaled. Nhưng ông ta lại nợ cậu một món nợ lớn. Cậu đã từng cứu mạng ông ta một lần”.

“Tôi không muốn gặp A’one ông ta là một kẻ lừa gạt”.

“Đúng. Nhưng đôi khi những lời dối trá của ông ta lại giúp chúng ta tìm ra sự thật”.

“Lev sẽ không bao giờ cho tôi được tiếp xúc với ông ta”.

“Vậy đừng có nói với Lev”.

“Tôi không nghĩ sẽ là khôn ngoan nếu tôi công khai lộ diện và gõ cửa trước nhà A’one. Trừ khi tôi đến Ramalla trên chiếc xe chở nhân viên bọc thép”.

“A’one thật sự không có đường nào để trốn thoát cả. Quân đội Israel đang canh giữ ngôi nhà đó”. Shamron tự cho phép mình mỉm cười trước sự sa cơ của đối thủ. “Còn về xe bọc thép, chuyện đó để tôi lo”.

Gabriel leo lên giường, từ từ nhích vào trong. Trong bóng đêm, anh với tay và vòng qua bụng Chiara. Cô vẫn nằm bất động.

“Anh và ông Ari nói chuyện gì trong phòng làm việc vậy?”

“Chỉ bàn về vụ điều tra”.

“Chỉ có vậy thôi à?”

Anh nói với Chiara rằng căn hộ giờ đã là của họ.

“Sao lại như thế được?”

“Đó là nhờ Shamron và những người bạn lắm tiền của ông ta. Anh sẽ nói với quản gia chuyển đồ đạc cũ đi. Ngày mai em có thể mua một chiếc giường thoải mái cho hai chúng ta”.

Chiara từ từ giơ tay lên. Trong bóng tối, Gabriel có thể thấy chiếc bùa bằng da đung đưa dưới những ngón tay của cô ấy.

“Cái gì đây anh?”

“Một chiếc bùa may mắn từ đảo Corsica. Người ta nói nó tránh được mắt của quỷ”.

“Anh lấy nó ở đâu thế?”

“Chuyện dài lắm”.

“Kể em nghe đi”.

“Chuyện bí mật mà”.

Anh với tay lấy lại chiếc bùa. Chiara khéo léo di chuyển bàn tay, quay nhanh chiếc bùa để nó nằm gọn trong các ngón tay của cô như cách người Arập vẫn thường đùa nghịch với chuỗi hạt nguyện của họ.

“Một món quà từ người tình cũ của anh à?”. Chiara hỏi.

“Thực ra là kẻ thù cũ. Một người đàn ông được thuê để giết anh và người phụ nữ anh đang bảo vệ”.

“Anna Rolfe à?”

“Phải”, Gabriel trả lời, “là Anna Rolfe”.

“Sao anh lại giữ nó?”. Chiara hỏi”. Anh luôn nhớ về cô ta ư?”

“Chiara, đừng trẻ con như vậy”.

Cô ném chiếc bùa về phía Gabriel. Miếng san hô đỏ đáp xuống ngực anh.

“Có chuyện gì không ổn hả Chiara?”

“Những giấy tờ tối nay Shamron đưa anh trước khi ông ấy đi là gì? Hay đó cũng là một bí mật?”

Gabriel trả lời một cách thành thật.

“Anh đã ký chúng chưa?”

“Anh nghĩ mình cần đọc qua trước đã”.

“Anh biết nó là gì mà”.

“Anh sẽ ký chúng”, Gabriel nói.

“Khi nào?”

“Khi anh sẵn sàng”.

Chỉ ngay sau đó, một tiếng nổ rền vang làm rung chuyển cả tòa nhà. Chiara trèo ra khỏi giường và lao đến cửa sổ. Gabriel vẫn nằm bất động trên giường.

Cô nói. “Gần đây thôi”.

“Anh đoán là khu buôn bán Ben Yehuda. Có thể là một quán cà phê”.

“Bật đài lên đi anh”.

“Chỉ cần đếm số còi hụ cứu thương thôi Chiara. Em có thể biết tình hình tệ đến mức nào qua số lượng xe cứu thương được điều động đến”.

Một lát sau, không gian chìm trong sự im lặng và tĩnh mịch đến đáng sợ. Gabriel nhắm mắt và tưởng tượng. Trí tưởng tượng của anh rõ ràng, sống động và sắc nét hệt như một đoạn băng video, cơn ác mộng đó xảy ra cách ngôi nhà mới của anh chỉ vài tòa nhà. Tiếng xe cứu thương đầu tiên kêu lên, sau đó là tiếng thứ hai, thứ ba, thứ tư. Sau số mười bảy, Gabriel không còn đếm nữa, vì đêm đó đã trở thành một bản giao hưởng của còi hụ cấp cứu. Chiara quay lại giường và ôm lấy ngực anh.

“Hãy ký những giấy tờ đó khi nào anh thấy sẵn sàng”, cô ấy nói. “Em sẽ ở đây. Em sẽ luôn ở đây”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10


JERUSALEM: NGÀY 22 THÁNG 3

Viên Đại tá quân đội đang đứng đợi cạnh bức tường của Thành Cổ, anh ta trông không giống Ari Shamron - cha mình cho lắm, nhưng điều đó chẳng mảy may khiến Gabriel ngạc nhiên. Ánh mặt trời, mối quan hệ xã hội căng thẳng, và cả bầu không khí khủng bố nghẹt thở trên đất nước Israel này - tất cả đều đủ sức tàn phá diện mạo của mọi công dân. Nhỉnh hơn người cha danh tiếng của mình đến 1 tấc rưỡi, chàng trai quyến rũ Yonatan Shamron không hề mang dáng dấp phòng vệ như ông. Gabriel hiểu rằng đó là kết quả của việc cậu ta được nuôi dưỡng và lớn lên ở đây chứ không phải ở Ba Lan. Chỉ khi người lính đó nhảy ra khỏi chiếc xe jeep bọc thép và chìa bàn tay như chĩa con dao găm về phía Gabriel thì lúc này anh mới tìm thấy điểm giống nhau của hai cha con Shamron. Dáng đi nặng nề như người từ cõi chết trở về, cách bắt tay thật chặt và vỗ vai mạnh mẽ khiến Gabriel có cảm tưởng như mình bị đội quân Herodion tấn công.

Họ khởi hành dọc theo con đường số 1 - biên giới cũ giữa Đông và Tây Jerusalem. Chỉ cần đi 16 km về phía bắc là đến Ramallah, vị trí chiến lược của quân đội Palestine. Một trạm kiểm soát hiện ra ngay trước mắt họ. Phía đối diện là trại tỵ nạn Kalandiya, nơi mà mười ngàn dân Palestine sống chen chúc trong những căn nhà bằng gạch xỉ than chỉ trong vòng vài trăm mét vuông. Phía bên phải là những ngôi nhà mái đỏ xếp ngay ngắn bao quanh ngọn đồi nhỏ của khu dân cư Do Thái Psagot. Tấm chân dung lớn của A’one nổi bật với câu khắc bằng tiếng Arập: LUÔN BÊN BẠN.

Yonatan trỏ ngón tay cái ra phía ghế sau và nói, “Anh mặc mấy thứ đó vào đi”.

Nhìn qua vai Yonatan, Gabriel thấy một chiếc áo chống đạn cổ cao và mũ sắt quân sự. Gabriel đã không còn đội chiếc mũ đó kể từ khi tạm ngừng phục vụ quân đội Israel. Chiếc mũ quá khổ mà Yonatan đưa cho cứ sụp xuống mắt Gabriel. Yonatan nói. “Giờ anh giống một người lính thực thụ rồi đó”. Rồi anh ta bật cười. “À, mà chỉ gần như vậy thôi”.

Một lính bộ binh vẫy họ từ trạm kiểm soát, và khi nhận ra người ngồi sau tay lái, anh ta mỉm cười và nói, “A, Yonatan”. Giống như ở Văn phòng, kỷ luật trong quân ngũ Israel nổi tiếng lỏng lẻo. Họ thường chỉ chào nhau bằng tên mà không sử dụng bất kỳ nghi thức quân đội nào cả.

Qua tấm kính chống đạn mờ mờ, Gabriel quan sát khung cảnh xung quanh trạm kiểm soát. Hai người lính có vũ trang đang ra lệnh cho những người đàn ông cởi áo khoác ra và kéo áo sơ mi lên để kiểm tra xem họ có giấu bom trong người không. Phụ nữ cũng bị rà soát sau một rào chắn để tránh cái nhìn những cái nhìn tò mò. Bên ngoài trạm kiểm soát là một đoàn rồng rắn kéo dài cả trăm dặm. Gabriel nhẩm tính họ chắc phải đợi đến ba bốn giờ mới qua được trạm kiểm soát này. Những kẻ đánh bom tự sát đã gây ra quá nhiều điều bất hạnh cho cả hai bên Giới Tuyến Xanh này, mà chính những người Palestine hiền lành - những người công nhân mong tìm được việc ở Israel, những người nông dân tần tảo kiếm sống - lại phải khốn đốn.

Gabriel nhìn ra xa trạm kiểm soát, về phía hàng rào phân cách.

Yonatan hỏi. “Anh nghĩ thế nào?”

“Chắc chắn chẳng có gì tự hào rồi”.

“Tôi nghĩ đó không khác gì một vết nhơ cho đất nước tươi đẹp của chúng ta. Bức tường phân ly mới xây dài hơn nhiều so với bức tường đầu tiên. Giờ đây người dân cả hai bên thành lũy đều phải gánh chịu những điều bất hạnh. Nhưng tôi e rằng chúng ta không có sự lựa chọn nào khác. Nhờ tin tức tình báo chính xác chúng ta có thể ngăn được nhiều, nhưng không thể ngăn được tất cả các cuộc tấn công tự sát. Vì thế mà chúng ta phải xây bức tường này”.

“Nhưng đó không phải là lý do duy nhất để xây nó”.

“Đúng vậy”, Yanathan nói. “Khi bức tường được hoàn thành, nó sẽ cách ly chúng ta khỏi thế giới Arập. Đó là lý do khiến bọn chúng lo sợ. Âm mưu sâu sa của chúng là muốn gây xung đột với chúng ta, nhưng bức tường này sẽ cản trở chúng”.

Đại lộ số 1 rẽ sang quốc lộ 60. Đó là một dải nhựa đen phẳng lì chạy về phía bắc ngang qua những dãy nhà xám xịt của khu bờ Tây. Đã hơn ba mươi năm trôi qua kể từ lần cuối Gabriel ở Ramallah. Giống như bây giờ, ngày ấy anh cũng đi trên những chiếc xe bọc thép, đầu đội mũ quân đội Israel. Những năm đầu định cư nơi đây tương đối êm ả. Điều khó khăn duy nhất của Gabriel là làm sao bắt xe từ sở về nhà bố mẹ mình ở thung lũng Jezreel vào dịp cuối tuần. Cuộc sống của người Arập trên dải Bờ Tây được cải thiện đáng kể sau khi chấm dứt chế độ cai trị của người Gioócđan. Tương tự, người dân Israel cũng được hòa nhập vào nền kinh tế sôi động, có nước máy, điện và cả nền giáo dục. Tỷ lệ chết ở trẻ sơ sinh vốn ở mức cao nhất thế giới đã tụt xuống. Trình độ dân trí thuộc hàng thấp nhất thế giới cũng tăng một cách mạnh mẽ. Quân đội Israel hàng ngày phải đối mặt với những trò ném đá của lũ trẻ, nhưng đối với Gabriel, các hoạt động quân sự ở đây chỉ là những bài luyện tập nhàm chán.

“Vậy anh đến để gặp Người hết thời à?”. Câu nói của Yonatan cắt ngang dòng suy nghĩ của Gabriel.

“Cha anh đã giúp tôi sắp xếp cuộc gặp mặt này”.

“Một ông già bảy mươi lăm tuổi mà vẫn thích giật dây những con rối”. Yonatan vừa cười vừa lắc đầu. “Sao bố tôi không nghỉ ngơi và để yên mọi chuyện nhỉ”.

“Ông ấy gần như phát điên”, Gabriel nói. “Và mẹ cậu cũng thế. Nhân tiện, ông ấy nhờ tôi chào cậu. Ông ấy muốn cậu đến Tiberias phục vụ cho lực lượng Shabbat”.

“Tôi đang tại ngũ mà”, Yonatan nói ngay.

Tại ngũ có vẻ chỉ là lý do để Yonatan tránh phải liên quan nhiều đến cha mình. Gabriel cảm thấy miễn cưỡng khi phải tham gia vào các cuộc tranh luận của gia đình Shamron. Anh hiểu rằng người đàn ông luống tuổi đó đã bị tổn thương sâu sắc đến nhường nào bởi sự ghẻ lạnh của con cái mình. Gabriel cũng là tuýp người luôn nghĩ đến lợi ích của bản thân khi tham gia vào bất cứ việc gì. Nếu như Yonatan thường xuyên ở bên cạnh Shamron thì Gabriel có thể sẽ bớt được phần nào áp lực. Giờ đây, Gabriel lại sống ở Jerusalem thay vì ở Venice, nên Shamron có thể gọi cho anh bất kỳ lúc nào để trao đổi chuyện tầm phào ở Sở Nội vụ hoặc phân tích những tiến triển chính trị gần đây nhất. Gabriel cần khoảng không riêng cho mình. Yonatan có thể đóng vai trò như một người đỡ đạn thay anh.

“Bố anh muốn thường xuyên gặp anh, Yonatan”.

“Tôi chẳng thể nói chuyện với bố tôi lâu được”. Đang lơ đãng nhìn trên đường, chợt anh đưa mắt sang Gabriel. “Hơn nữa, ông ấy thích anh hơn”.

“Anh biết đó không phải là sự thật mà”.

“Thôi được rồi, tôi nói hơi quá. Nhưng chẳng khác sự thật là mấy. Chắc chắn ông ấy luôn coi anh như con trai của mình”.

“Cha anh là một người vĩ đại”.

“Vâng”, Yonatan nói, “và những người vĩ đại luôn nghiêm khắc với con cái”.

Gabriel thoáng thấy hai chiếc xe bọc thép xỉn màu chuyên chở nhân viên đậu phía trước xe họ ở góc đường. Yonatan nói. “Tốt nhất là đừng dại vào thị trấn mà không có một tấc sắt trong tay”. Họ nối đuôi nhau thành một đoàn và xe của Yonatan luôn ở giữa.

Dấu hiệu đầu tiên báo hiệu họ đã đến thành phố là dòng người Arập đi dọc cạnh đường quốc lộ. Những chiếc khăn trùm đầu phụ nữ bay phấp phới trong gió. Và rồi, thành phố Ramallah ảm đạm và xám xịt hiện lên giữa khung cảnh khô cằn. Con đường Jerusalem dẫn họ vào trung tâm thành phố. Mỗi khi xe vượt qua những cột đèn, Gabriel lại bắt gặp ánh mắt chòng chọc của những kẻ nổi tiếng là tử vì đạo. Nơi đây có những con đường được mệnh danh là con đường tử thần; những quảng trường, những khu chợ được coi là địa điểm chết. Một kiốt chuyên bán móc chìa khóa với hình dạng của những khuôn mặt thể hiện sự chết chóc. Một người Arập len lỏi giữa dòng người để chào bán những cuốn lịch có hình những kẻ tử vì đạo. Tấm áp phích mới nhất là một tấm hình quyến rũ của một cô gái trẻ đẹp, một thiếu nữ Arập đã đánh bom tự sát ở khu phố Ben Yehuda hai đêm trước.

Yonatan rẽ phải vào đường Broadcast và đi khoảng một dặm đến khi đụng rào chắn canh giữ bởi năm, sáu tay sĩ quan an ninh Palestine. Một lần nữa Ramallah lại chịu sự kiểm soát của Palestine. Gabriel đến đây theo lời mời của người đương nhiệm cao cấp, cũng giống như việc vào làng Sicilia dưới sự bảo trợ của một quý tộc ở vùng đó. Vì thế không có gì khó khăn khi Yonatan trình bày lý do đến Palestine với giọng Arập khá chuẩn.

Tay sĩ quan Palestine hỏi ý kiến cấp trên thông qua điện đàm trong vòng vài phút. Rồi anh ta gõ lên mui xe và vẫy họ tiến tới. “Chầm chậm thôi, Đại tá Shamron”, anh ta dặn dò. “Một vài tên đã trà trộn vào ngay cái đêm mà đội quân phòng vệ Egoz Battalion của Israel phá cổng và bắt đầu nã đạn khắp nơi. Chúng tôi không muốn nơi này lại có thêm những mối bất hòa nữa”.

Yonatan lái xe len qua mê lộ của các rào chắn bằng bê tông, sau đó nhẹ nhàng tăng tốc. Bên tay phải họ là bức tường thành bằng xi măng cao khoảng ba mét, bề mặt lởm chởm do hậu quả của các loại súng máy hạng nặng gây ra. Những nơi mà bức tường thành bị công phá trông như cái miệng rộng hoác với hàm răng khập khiễng. Lực lượng an ninh Palestine đi tuần quanh vành đai trên những chiếc xe tải không mui hay những chiếc xe jeep. Họ nhìn Gabriel và Yonatan một cách khiêu khích nhưng vẫn dằn vũ khí xuống. Yonatan đạp phanh ngừng lại trước lối vào. Gabriel cởi mũ và áo chống đạn ra.

Yonatan hỏi. “Anh sẽ ở đây bao lâu?”

“Tôi nghĩ điều này phụ thuộc vào cha anh”.

“Anh hãy chuẩn bị tinh thần cho một cơn thịnh nộ đi. Mấy ngày nay ông ta hay cáu bẳn lắm”.

“Ai có thể khiển trách ông ta về điều đó được chứ?”

“Anh nên nhớ ông ta chỉ có thể tự trách mình thôi”.

Gabriel mở cửa xe và bước ra. “Anh ở đây một mình có ổn không?”

“Không vấn đề gì”. Yonatan đáp lời. Sau đó anh ta vẫy chào Gabriel và nói. “Gửi lời chào của tôi tới ông ta nhé”.

Nhân viên an ninh người Palestine đón Gabriel tại thanh chắn của cổng. Hắn ta mặc bộ quân phục bằng vải dày màu nâu ô liu, đội mũ lưỡi trai cùng màu và đeo một miếng băng đen bên mắt trái. Hắn mở cổng chỉ đủ rộng để Gabriel bước qua và ra hiệu cho Gabriel tiến tới. Bàn tay hắn bị cụt ba ngón cuối. Phía bên kia cửa, Gabriel rà soát lại bởi hai nhân viên cảnh phục - một kiểu lục soát thô bạo và xâm phạm thân thể Gabriel trong khi gã Độc Nhãn đứng xem và nhe răng cười cứ như thể tất cả những chuyện này được sắp đặt để làm trò tiêu khiển cho hắn ta vậy.

Độc Nhãn tự giới thiệu hắn là Đại tá Kemel và dẫn Gabriel vào khu liên hợp. Đây không phải là lần đầu tiên Gabriel đặt chân đến căn cứ Mukata. Trong suốt thời gian bị đô hộ, nơi này là pháo đài của quân đội Anh. Sau Cuộc chiến Sáu ngày, quân đội Israel đã giành quyền kiểm soát pháo đài từ tay người Gioócđan và lập căn cứ chỉ huy ở khu vực Bờ Tây. Khi còn đang tại ngũ, Gabriel thường phải báo cáo nhiệm vụ tại nơi mà hiện giờ A’one sử dụng làm cơ quan đầu não của mình.

Văn phòng A’one nằm ở tòa nhà hai tầng vuông vức dựa vào thành lũy phía bắc của Mukata. Mặc dù bị hư hại nặng nhưng đây vẫn là một trong số ít những tòa nhà còn sót lại trong khu liên hợp. Ở hành lang, Gabriel lại tiếp tục bị lục soát lần thứ hai, lần này là một gã khổng lồ râu ria xồm xoàm trong bộ đồ trơn láng với khẩu tiểu liên chắc nịch vắt chéo ngay ngực.

Việc lục soát hoàn tất, tay bảo vệ gật đầu ra hiệu cho Đại tá Kemel, rồi đẩy Gabriel vào giữa một cầu thang hẹp. Đầu cầu thang, một tay nhân viên an ninh khác ngồi chễm chệ trên chiếc ghế hai chân khá bấp bênh. Hắn ta ném một cái nhìn hờ hững vào Gabriel sau đó tiến tới và gõ gõ lên cánh cửa gỗ. Một giọng đầy bực dọc ở phía bên kia cửa đáp. “Vào đi”. Đại tá Kemel mở khóa và dẫn Gabriel vào bên trong.

Văn phòng Gabriel bước vào không rộng hơn văn phòng của anh trên đại lộ King Saul là bao. Trong đó có một chiếc bàn gỗ nhỏ nhắn và một chiếc giường xếp nhỏ với một lượng lớn những tập kinh Koran bọc da nằm trên bao gối trắng được hồ cứng. Màn cửa bằng vải nhung nặng trịch che kín cửa sổ; một chiếc đèn bàn xuống một đống giấy tờ là nguồn sáng duy nhất trong phòng. Từng hàng những khung ảnh chụp Thủ lĩnh người Palestine cùng những người nổi tiếng được treo dọc trên bức tường bị bóng tối bao trùm. Trong số đó có cả tấm hình chụp chung với Tổng thống Mỹ - người đã đồng ý công nhận quyền tự trị một phần đất nước của A’one. Ông ta đã đền ơn bằng cách tấn công trại David và rút khỏi cuộc đàm phán hòa bình.

Phía sau bàn, một người nhỏ bé và có vẻ ốm yếu đang ngồi, đó chính là A’one. Ông ta mặc bộ quân phục được là ủi phẳng phiu và một chiếc khăn trùm đầu ca rô trắng đen. Như bao người khác, chiếc khăn đó che phủ bờ vai trái của ông ta và bó chặt phía trước ngực bộ quân phục của ông ta giống như hình dạng đất nước Palestine. Gabriel chợt nhận ra nó cũng khá giống đất nước Israel. Đôi tay ông ta run rẩy ra hiệu mời Gabriel ngồi xuống, môi dưới trễ hẳn xuống khi ông hỏi Gabriel có muốn dùng trà không. Dĩ nhiên Gabriel thừa biết rằng theo phong tục của người Arập, việc từ chối sẽ làm mọi việc không được suôn sẻ ngay từ lúc đầu, nên anh chọn một tách trà và thích thú quan sát A’one sai Đại tá Kemel đi lấy nước.

Khi còn lại hai người trong phòng họ chỉ im lặng nhìn nhau. Hình ảnh của cuộc chạm trán gần đây nhất chợt hiện về. Chuyện xảy ra tại phòng làm việc trong một căn hộ ở Manhattan. Tariq al-Hourani, kẻ chủ mưu gài bom bên dưới xe hơi của Gabriel ở Viên, cố tình ám sát A’one vì lầm tưởng ông đã phản bội Palestine. Trước khi chuồn khỏi căn hộ, Tariq nã một phát đạn vào ngực Gabriel khiến anh suýt thiệt mạng.

Giờ đây, ngồi đối diện A’one, vết thương nơi ngực anh lần đầu tiên nhói lên sau bao nhiêu năm. Ngoài trừ Shamron, có lẽ không còn ai ảnh hưởng đến cuộc đời của anh nhiều như A’one. Trong suốt ba mươi năm qua họ đã cùng nhau bơi trong một bể máu. Gabriel đã giết hầu hết những sĩ quan mà A’one tin tưởng nhất; A’one thì ra lệnh trả đũa Gabriel ở Viên. Liệu Leah và Dani là mục tiêu tấn công hay trái bom đó thực sự chỉ dành cho Gabriel? Gabriel luôn bị ám ảnh bởi câu hỏi này suốt mười ba năm qua. Tất nhiên là A’one thừa biết câu trả lời. Đó cũng là một trong những lý do khiến Gabriel nhận lời đề nghị của Shamron đến Ramallah.

“Shamron nói rằng cậu có chuyện hệ trọng muốn bàn với tôi”, A’one nói. Tôi đồng ý gặp cậu chỉ vì nể ông ta mà thôi. Chúng tôi trạc tuổi nhau. Lịch sử đã ném chúng tôi vào mảnh đất này, và thật không may là chúng tôi luôn đối đầu nhau ở hai bên chiến tuyến. Thỉnh thoảng, tôi có ưu thế hơn ông ta, nhưng đôi lúc ông ta lại thắng tôi. Giờ đây cả hai chúng tôi đều già cả rồi. Chỉ hy vọng rằng chúng tôi có thể thấy được dù chỉ vài ngày yên bình trước khi chết. Nhưng hy vọng của tôi có vẻ như khó thành hiện thực”.

Gabriel nghĩ, nếu sự thật là vậy, tại sao ông ta lại rút khỏi vòng đàm phán có thể đem đến cho ông ta một nhà nước ở dải Gaza và 97 phần trăm khu bờ Tây với thủ phủ là Đông Jerusalem? Tất nhiên Gabriel biết câu trả lời. Nó nằm ngay trên tấm khăn mang hình dáng đất nước Palestine khoác trên vai A’one. Ông ta muốn toàn bộ đất nước đó.

Gabriel không có cơ hội nói ra suy nghĩ đó của mình vì Đại tá Kemel đã quay lại với một chiếc khay bạc và hai tách trà. Viên Đại tá ngồi xuống và nhìn chằm chằm vào Gabriel với con mắt còn lại. A’one giải thích rằng viên phụ tá rành tiếng Do Thái cổ này sẽ giúp ích cho cuộc đối thoại. Gabriel chỉ hy vọng gặp một mình A’one nhưng có lẽ có thêm thông dịch viên thì tốt hơn. Tiếng Arập của Gabriel dù khá trôi chảy nhưng vẫn không biểu lộ được sắc thái hoặc đủ linh hoạt để đấu khẩu với một người như A’one.

A’one run run đặt tách trà xuống đĩa và hỏi Gabriel lý do anh đến Ramallah. Gabriel trả lời một cách đơn giản. “Khaled”. Đúng như Gabriel dự đoán, trả lời bằng một từ cộc lốc đó khiến A’one sững sờ trong giây lát.

“Khaled sao?”. A’one lặp lại và nhanh chóng lấy lại thăng bằng. “Tôi biết nhiều người tên Khaled. Tôi e rằng đó là một cái tên phổ° biến ở Palestine. Anh cần phải nói rõ hơn”.

Giả bộ lờ đi, Gabriel biết rõ đó là một trong các kỹ năng đàm phán ưa thích của A’one. Gabriel đi thẳng vào vấn đề.

“Người tên Khaled tôi đang tìm kiếm là Khaled al-Khalifa thưa Chủ tịch A’one”.

Viên Đại tá người Palestine sửa lại. “Tổng thống A’one chứ”.

Gabriel gật đầu hờ hững hỏi. “Khaled al-Khalifa đang ở đâu?”

Làn da đồi mồi trên khuôn mặt A’one bỗng biến sắc và môi dưới của ông ta bắt đầu mấp máy. Gabriel nhìn xuống và nhâm nhi tách trà của mình. Chỉ cần liếc nhìn, anh cũng nhận thấy tay Đại tá Kemel cũng nhấp nhổm trên ghế ngồi. Chỉ đến khi bắt đầu nói, A’one mới lấy lại được vẻ điềm tĩnh của mình.

“Theo tôi hiểu thì cậu đang ám chỉ đến con trai của Sabri al-Khalifa phải không?”

“Và nếu tôi không lầm thì giờ đây cậu ta đã là con trai của ông”.

A’one sửa lại “Con trai nuôi của tôi, vì cậu đã giết cha của nó”.

“Cha của cậu ta bị giết ngoài trận mạc”.

“Ông ta bị giết trong vũng máu lạnh trên đường phố Paris”.

“Chính Sabri đã biến Paris thành một bãi chiến trường dưới sự ủng hộ của ông, thưa ngài”.

Không gian chìm vào im lặng. A’one dường như tìm sự cẩn trọng trong lời nói của mình hơn. “Tôi biết rằng một ngày nào đó cậu sẽ đến buông lời khiêu khích Khaled để trừ khử nó. Đó là lý do tại sao sau đám tang của Sabri, tôi đã gửi đứa trẻ đó đi xa khỏi nơi này. Tôi cho nó một cuộc sống mới và nó đón nhận điều đó. Tôi không gặp cũng không nghe được bất cứ điều gì về Khaled nữa kể từ khi nó trưởng thành”.

“Chúng tôi có bằng chứng chứng tỏ Khaled al-Khafifa có liên quan đến vụ tấn công vào tòa đại sứ của nước tôi tại Rome”.

A’one gạt phăng. “Không hề có chuyện đó”.

“Vậy nếu Khaled không liên can gì đến Rome, chắc ông không phiền cho chúng tôi biết có thể tìm thấy cậu ta ở đâu chứ”.

“Như tôi đã nói, tôi không biết hiện giờ Khaled ở đâu”.

“Hiện giờ cậu ta tên gì?”

A’one mỉm cười đầy hàm ý. “Tôi đã đi một chặng đường dài để bảo vệ đứa trẻ khỏi cậu và Sở tình báo đầy hận thù của cậu. Điều gì khiến cậu nghĩ tôi sẽ nói nơi ở của Khaled? Cậu nghĩ tôi giống như tông đồ Judas Iscariot, sẵn sàng đem trao con trai tôi cho cậu phán xét và hành quyết ư?”. A’one lắc đầu nhè nhẹ. “Tôi biết có rất nhiều kẻ phản bội trong nội bộ của mình, nhiều người đang làm việc tại Mukata này, nhưng tôi không phải là một kẻ trong số chúng. Nếu cậu muốn tìm Khaled, cậu hãy tự đi mà”.

“Có một cuộc tấn công vào nhà trọ ở Milan ngay sau vụ nổ bom. Một trong những người đàn ông trốn ở đó tên là Daoud Hadawi, một người Palestine từng là thành viên trong đội cận vệ của ông”.

“Cậu cứ nói tiếp đi”.

“Tôi rất cảm kích nếu có được một bản hồ sơ cá nhân của Hadawi”.

“Có đến vài trăm người làm việc cho Đội cận vệ đó. Nếu người đàn ông đó…”. “A’one ngập ngừng. “Tên anh ta là gì nhỉ?”

“Daoud Hadawi”.

“À, vâng, Hadawi. Nếu anh ta từng phục vụ trong Đội cận vệ và nếu chúng tôi vẫn còn giữ hồ sơ cá nhân của anh ta, tôi sẽ vui lòng đưa nó cho cậu. Nhưng chúng tôi không có nhiều thời gian rảnh rỗi đến thế”.

“Vậy ư?”

“Để tôi làm rõ điều này”, A’one nói. “Chúng tôi, những người Palestine chẳng hề dính líu gì đến cuộc tấn công vào tòa đại sứ nước cậu ở Rome cả. Có thể là lực lượng Hezbollah hoặc Osama. Hoặc cũng có thể là những kẻ phát xít mới. Có Thánh Allah mới biết được đó là ai, vì đất nước cậu có quá nhiều kẻ thù”.

Gabriel chống tay lên thành ghế và chuẩn bị đứng dậy. A’one đưa tay lên. “Khoan đã, Jibril”, ông ta nói sử dụng tên gọi của Gabriel theo cách nói của người Arập. “Đừng đi vội. Hãy ở lại đây thêm một lát nữa”.

Trong một giây, Gabriel dịu lại. A’one loay hoay với chiếc khăn trùm đầu rồi ra lệnh cho Đại tá Kemel ra ngoài để họ ở lại một mình bằng tiếng Arập.

“Cậu còn chưa đụng đến tách trà nữa, Jibril. Cậu muốn dùng thêm gì không? Một chút đường chăng?”

Gabriel lắc đầu. A’one khoanh tay lại và chăm chú nhìn Gabriel rồi mỉm cười. Ở Gabriel có điểm gì đó khác biệt khiến A’one thích thú.

“Tôi biết những gì cậu đã làm cho tôi ở New York vài năm về trước. Nếu không có cậu, Tiriq đã giết chết tôi trong căn hộ đó. Đến một lúc nào đó, có thể cậu lại ước giá như hắn mưu sát thành công”. A’one nở một nụ cười chua chát. “Ai biết được! Một lúc nào đó biết đâu lại là cậu, Jibril, đứng đó với khẩu súng trong tay”.

Gabriel không đáp lại. Giết A’one chăng? Những tuần sau sự kiện ở Viên, anh luôn bị ám ảnh bởi phần da thịt hóa than của vợ và cơ thể bầm nát của đứa con trai. Đúng là rất nhiều lần anh đã nghĩ đến chuyện giết A’one. Trong tận sâu thẳm tâm hồn, anh ao ước điều đó dù phải đổi cả mạng sống của mình.

“Thật lạ, Jibril à, nhưng đã có một thời gian ngắn chúng ta trở thành những đồng minh, cậu và tôi. Cả hai chúng ta đều muốn hòa bình, đều cần hòa bình”.

“Có phải ông muốn hòa bình không, hay đó chỉ là một phần trong chiến lược của ông để hủy diệt Israel và thâu tóm toàn bộ dải đất này?”

Lần này là đến lượt A’one không đáp lại câu hỏi đó cứ lơ lửng trong không trung.

“Tôi nợ cậu mạng sống này, Jibril, và vì vậy tôi sẽ giúp cậu. Không có ai là Khaled cả. Khaled chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng của cậu mà thôi. Nếu còn tiếp tục săn đuổi nó, cậu sẽ để những kẻ sát nhân thực sự trốn thoát”.

Gabriel đứng bật dậy, kết thúc cuộc gặp mặt. A’one bước đến và đặt tay lên vai Gabriel. Các thớ thịt của Gabriel như bốc cháy nhưng anh không thể làm gì để dứt ra khỏi cái siết chặt đó.

“Tôi vui vì cuối cùng chúng ta đã chính thức gặp nhau”, A’one nói. “Nếu tôi và cậu có thể ngồi cùng nhau trong hòa bình, có lẽ sẽ mọi chuyện sẽ trở nên tốt đẹp hơn cho tất cả chúng ta”.

“Có lẽ thế”, Gabriel nói, dù rằng giọng nói của anh lộ rõ vẻ không tin tưởng vào điều đó.

A’one buông Gabriel ra và tiễn anh ra cửa, đột nhiên ông dừng lại. “Cậu làm tôi ngạc nhiên đấy Jibril”.

“Sao lại thế?”

“Tôi đã nghĩ rằng cậu sẽ nhân cơ hội này để làm sáng tỏ mọi chuyện xảy ra ở Viên”.

Cố ý che giấu sự thật về số phận hiện tại của Leah, Gabriel nói với A’one. “Ông đã giết vợ và con trai tôi. Tôi không nghĩ là chúng ta cần làm sáng tỏ chuyện này thêm nữa”.

A’one lắc đầu. “Không, Jibril, tôi không giết họ. Tôi đã lệnh cho Tariq giết cậu để trả thù cho Abu Jilhad. Tôi dặn dò hắn kĩ càng rằng không được phép đụng đến gia đình cậu”.

“Sao ông lại yêu cầu như thế?”

“Bởi vì cậu xứng đáng được điều đó. Cậu xử sự rất đúng mực vào cái đêm ở Tunis. Phải, cậu đã giết Abu Jihad, nhưng cậu không hề làm hại đến vợ con anh ta. Thực sự thì trước khi thoát ra khỏi ngôi biệt thự đó, cậu đã dừng lại để an ủi con gái của Abu Jihah và dặn nó chăm sóc mẹ. Cậu còn nhớ không Jibril?”

Gabriel nhắm mắt lại và gật đầu. Khung cảnh ở Tunis luôn ám ảnh anh mỗi đêm, giống như vụ đánh bom ở Viên.

“Tôi thấy cậu chỉ nên bị trừng phạt giống như những gì Abu Jihad đã phải nhận. Đó là cái chết của một người lính dưới sự chứng kiến của vợ và con cậu. Tariq đã không đồng ý với tôi về điều này. Hắn ta thấy rằng cậu đáng chịu một sự trừng phạt khắc nghiệt hơn nữa, đó là chứng kiến vợ con mình chết. Vì vậy hắn ta đã lên kế hoạch đặt bom xe họ và sắp xếp vụ nổ xảy ra dưới sự chứng kiến của cậu. Vụ ở Viên là do Tariq làm, không phải là chủ mưu của tôi”.

Điện thoại trên bàn A’one rung lên, xé toang ký ức của Gabriel về Viên như một con dao rọc ngang bức tranh sơn dầu vậy. A’one quay ngoắt lại bàn điện thoại và để Gabriel tự ra về. Đại tá Kemel đang chờ ngay đầu cầu thang. Ông ta lặng lẽ dẫn Gabriel qua khu đổ nát của Mukata. Một luồng sáng chói chang đập vào mắt anh khi bước ra màn tối u ám của văn phòng A’one. Bên ngoài cánh cổng gẫy, Yonatan đang chơi bóng cùng một số lính canh người Palestine. Họ leo lên chiếc xe bọc thép và lái xuyên qua các con đường tử thần. Vừa rời khỏi Ramallah, Yonatan hỏi Gabriel xem liệu anh có lấy được tin tức gì hữu ích không.

Gabriel nói một cách chắc chắn. “Khaled al-Khalifa đã đánh bom tòa đại sứ của chúng ta ở Roma”.

“Còn gì nữa không?”

Gabriel nghĩ là còn. Chính A’one đã đích thân ra lệnh cho Tariq al-Hourani giết vợ và con trai mình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11


JERUSALEM: NGÀY 23 THÁNG 3

Hai giờ sáng, chiếc điện thoại của Gabriel reo vang. Yaakov gọi.

“Có lẽ chuyến viếng thăm của anh đến Mukata đã bứt dây động rừng rồi”.

“Cậu đang nói gì thế?”

“Tôi đang ở ngay trước cửa nhà anh”.

Điện thoại mất tín hiệu. Gabriel ngồi bật dậy và lẳng lặng thay đồ trong bóng tối.

“Ai thế anh?”. Chiara hỏi giọng ngái ngủ. “Chuyện gì thế?”

“Anh không biết”.

“Anh định đi đâu?”

“Anh không biết”.

Anh cúi xuống hôn lên trán cô. Chiara giơ tay ra khỏi chăn, choàng qua cổ và kéo anh sát lại. “Cẩn thận nhé anh”, nàng thì thầm và hôn lên má anh.

Một lúc sau Gabriel bị đẩy vào chiếc xe Volkswagen Golf không biển số của Yaakov, chiếc xe phóng nhanh về hướng Tây ngang qua Jerusalem. Trong bộ trang phục Do Thái, Yaakov lao hết tốc lực, một tay cầm vô lăng còn tay kia là cốc cà phê và điếu xì gà. Ánh đèn pha của những chiếc xe chạy ngược chiều rọi thẳng vào khuôn mặt lốm đốm vết rỗ của tay tài xế bạt mạng này.

“Người đó là Mahmoud Arwish”. Yaakov nói. “Một trong những viên nội gián quan trọng của chúng ta bên trong chính quyền Palestine. Hắn ta làm việc trong căn cứ Mukata. Thuộc hạ thân cận của A’one”

“Ai chủ động liên lạc?”

“Arwish đã gửi ám hiệu cách đây vài giờ và nói rằng hắn ta muốn nói chuyện”.

“Về chuyện gì?”

“Dĩ nhiên là về Khaled”.

“Hắn ta biết được những gì?”

“Hắn không muốn nói”.

“Tại sao phải là tôi? Tại sao hắn không nói chuyện với người giám sát của mình?”

“Tôi là người giám sát hắn”. Yaakov nói, “nhưng người hắn thật sự muốn gặp là anh”.

Họ tiến đến rìa phía Tây của thành phố New City. Phía bên phải Gabriel, đắm mình trong ánh sáng bàng bạc của vầng trăng mới nhô lên, thành phố nằm trên vùng đất bằng phẳng của Bờ Tây. Dân địa phương gọi nó là “thủ phủ Shabak”. Đây là vùng đất không áp dụng những luật lệ thông thường - nơi mà những thỏa hiệp hòa bình có thể bị bóp méo hoặc phá vỡ bất cứ lúc nào được để đối phó với tổ chức khủng bố Arập. Nó tập hợp những nhân vật như Yaakov, vốn là tay chỉ điểm của cơ quan tình báo Israel và lực lượng bộ binh chịu trách nhiệm chống khủng bố bằng những phương thức bẩn thỉu. Những phần tử Shabak được phép tùy tiện bắt giữ và khám xét, đóng cửa các doanh nghiệp và phá hủy nhà cửa. Họ luôn sống trong tình trạng phập phồng lo sợ, uống quá nhiều cà phê và ít khi chợp mắt. Những người vợ lần lượt rời bỏ họ. Những° tay cung cấp thông tin người Arập sợ và ghét họ. Dù phải chấp nhận những lời tuyên thệ tối cao của tổ chức, Gabriel vẫn cảm thấy mình thật may mắn khi được gia nhập Văn phòng mà không phải là thành viên Shabak.

Phương thức hoạt động của Shabak đôi khi hoàn toàn ngược lại với những luật lệ của nhà nước dân chủ. Các vụ bê bối bị phanh phui đã bôi nhọ danh tiếng của Văn phòng cả trong và ngoài nước. Tồi tệ và đáng xấu hổ nhất là vụ xe buýt số 300. Vào tháng 4 năm 1984, chiếc xe buýt số 300, đang trên đường từ Tel Aviv hướng về phía nam của thành phố Ashkelon, bị bốn tay lính Palestine tấn công. Hai tên bị bắn chết trong cuộc giải cứu con tin của quân đội Israel, hai tên còn sống sót được đưa vào một đồng lúa mì gần đó và không bao giờ thấy quay trở ra. Sau đó, người ta phát hiện rằng những tên cướp đó bị đánh đến chết bởi những nhân viên Shabak thi hành theo mệnh lệnh cấp trên. Hàng loạt vụ bê bối tiếp theo, lần lượt phơi bày những hành động tàn bạo của Shabak: bạo lực, cưỡng bức nhận tội, tối hậu thư và lừa gạt. Những kẻ biện hộ cho Shabak huênh hoang rằng việc thẩm vấn những kẻ khủng bố bị tình nghi không thể tiến hành nhẹ nhàng như mời một tách cà phê được. Bất chấp mọi chuyện tai tiếng, Shabak vẫn không hề thay đổi. Shabak không muốn bắt những kẻ khủng bố sau khi máu đã đổ. Họ muốn ngăn chặn ngay từ đầu, muốn đẩy lùi những âm mưu tấn công, và, nếu có thể, uy hiếp thanh niên Arập để họ rút tay ra khỏi các hoạt động khủng bố.

Yaakov đột ngột thắng gấp để tránh đâm sầm vào chiếc xe tải đang chầm chậm băng qua. Anh tức tối nhá đèn xe và ấn mạnh còi ô tô. Chiếc xe tải di chuyển sang làn đường khác. Khi Yaakov chạy vụt qua chiếc xe đó, Gabriel liếc nhìn, anh thấy hai người Haderim1đang thản nhiên nói chuyện như chưa có chuyện gì xảy ra.

Yaakov ném cái mũ trùm đầu kippah vào lòng Gabriel. Nó khá rộng và lỏng, cùng với những họa tiết màu cam pha màu hổ phách điểm trên nền đen. Gabriel hiểu ý nghĩa của những họa tiết đó.

“Nếu không có nhân viên an ninh Palestine hay tay lính Hamas nào canh gác tại trạm kiểm soát, chúng ta sẽ vượt qua giới tuyến như những người nhập cư”.

“Vậy chúng ta sẽ khai là từ đâu đến?”

“Kiryat Devorah”. Yaakov trả lời. “Một nơi nào đó trong thung lũng Gioócđan mà cậu sẽ chẳng bao giờ đặt chân đến đó”.

Gabriel nhấc chiếc mũ ra. “Tôi e rằng chúng ta sẽ chẳng được lòng dân địa phương đâu”.

“Chỉ cần nói rằng cư dân vùng Kiryat Devorah sẽ nghiêm túc thực hiện những cam kết đối với đất nước của Israel”.

Gabriel trùm chiếc mũ lên và điều chỉnh lại góc mũ. Vừa lái xe, Yaakov vừa tóm tắt cho Gabriel biết cách thức để vượt qua được khu Bờ Tây, và lộ trình đến ngôi làng Arập nơi Arwish đang đợi. Vừa dứt lời, anh với tay ra ghế sau và lấy lên một khẩu tiểu liên Uzi.

“Tôi thích khẩu này hơn“. Gabriel vừa nói vừa nắm khẩu Beretta.

Yaakov cười. “Đây là Bờ Tây, không phải là bờ bên kia. Đừng ngốc nghếch, Gabriel à. Hãy lấy khẩu Uzi”.

Gabriel miễn cưỡng cầm khẩu súng và nạp đạn vào ổ. Yaakov trùm lên đầu chiếc mũkippah giống hệt của Gabriel. Chỉ còn cách sân bay Ben-Gurion vài dặm, anh tách khỏi đường cao tốc và rẽ vào con đường lộ hai chiều về phía đông của Bờ Tây. Hàng rào phân cách lờ mờ hiện ra trước mặt họ và trải dài trong màn đêm.

Tại trạm kiểm soát, một nhân viên Shabak đang đứng giữa một toán quân của lực lượng Israel. Khi Yaakov tiến đến gần, người đàn ông Shabak thì thầm điều gì đó với những tay lính và chiếc Volkswagen được phép đi qua mà không cần kiểm tra. Ra khỏi trạm kiểm soát, Yaakov lao đi vun vút. Gabriel liếc ngang và thấy một cặp đèn pha ô tô. Ánh đèn vụt sáng rồi khuất dần trong màn đêm. Yaakov dường như không chú ý đến điều đó. Tuy nhiên, Gabriel nghi ngờ chiếc xe đi sau là của nhóm điều tra Shabak.

Cột mốc cây số cho biết chỉ còn cách Ramallah 4 km. Rời khỏi con đường lộ, Yaakov rẽ vào một con đường mòn bẩn thỉu, men theo lớp đất đá của thung lũng đã tồn tại rất lâu. Anh tắt luôn đèn pha và len lỏi qua thung lũng chỉ với ánh sáng màu hổ phách của đèn phanh. Được một lúc, anh dừng xe lại.

“Cậu mở hộ tôi hộp găng tay”.

Gabriel làm theo. Bên trong là hai cái khăn trùm đầu của người Arập.

“Anh đang đùa à?”

“Hãy trùm vào đi”. Yaakov nói “Đó là cách bọn chúng làm”

Yaakov thuần thục trùm chiếc khăn lên đầu và buộc chặt dưới cổ. Cả khuôn mặt anh bị che kín chỉ chừa khe hở nhỏ cho đôi mắt. Gabriel cũng làm như vậy. Yaakov bắt đầu lái xe, hai tay nắm chặt vô lăng lao đi dọc theo thung lũng tối đen, Gabriel miễn cưỡng ngồi bên cạnh như gã chiến binh Arập trong cuộc hành trình liều chết. Chạy thêm được một dặm, họ gặp một con đường trải nhựa hẹp. Yaakov rẽ vào đó và đi về hướng bắc.

Ngôi làng khá nhỏ, kể cả nếu chỉ xét trên môi tương quan với diện tích khiêm tốn của Bờ Tây. Một hoang cảnh tiêu điều hiện ra, những ngôi nhà nâu xám nép mình quanh đỉnh tháp hẹp, ánh sáng leo lét cháy ở một nơi nào đó không thể xác định được vị trí. Giữa làng là một khu chợ nhỏ. Không một chiếc xe cũng như bóng dáng vị khách bộ hành nào lai vãng, chỉ có đàn dê đang chầm chậm tiến đến bầy con mới sinh.

Yaakov dừng xe trước một ngôi nhà nằm về phía bắc của Bờ Tây. Cửa sổ hướng ra đường được lắp cửa chớp lật. Một cánh cửa đung đưa khỏi chiếc bản lề đã gãy. Một chiếc xe đạp trẻ con chỏng chơ gần cửa trước. Chiếc xe quay ra ngoài chứng tỏ cuộc họp vẫn chưa kết thúc. Nếu nó quay theo chiều ngược lại, có lẽ cuộc họp đã buộc phải tạm ngưng và chuyển đến một nơi khác.

Yaakov chộp lấy khẩu Uzi dưới sàn và trèo ra khỏi xe. Gabriel bước theo sau. Làm theo sự chỉ dẫn của Yaakov, anh đẩy cánh cửa dành cho khu vực khách mời. Rồi anh xoay lưng lại để quan sát động tĩnh xung quanh. “Nếu bất cứ ai đến gần chiếc xe trong khi tôi đang ở bên trong, cứ chĩa súng vào bọn chúng”. Yaakov nói. “Nếu chúng vẫn ngoan cố, hãy lập tức hạ bọn chúng”.

Yaakov bước qua chiếc xe đạp và đá chân phải vào cánh cửa. Gabriel nghe thấy tiếng vỡ răng rắc của cánh cửa gỗ trong khi mắt anh vẫn hướng ra đường. Từ bên trong vọng ra tiếng la hét Arập. Gabriel nhận ra đó là của Yaakov. Giọng nói tiếp theo hoàn toàn xa lạ.

Ánh đèn sáng lên trong một ngôi nhà gần đó, rồi lan dần đến các ngôi nhà tiếp theo. Gabriel trông cậy hết vào khẩu Uzi, ngón tay đặt hờ nơi cò súng. Nghe tiếng bước chân phía sau, anh quay phắt lại. Yaakov dẫn Arwish đi qua cánh cửa gãy, hai tay giơ cao, mặt bị che kín bằng mũ trùm đầu màu đen và một khẩu Uzi ấn phía sau đầu hắn.

Gabriel tiếp tục quan sát con đường. Một người đàn ông trong trang phục gabalia màu xám xịt bước ra từ túp lều tranh gần đó. Hắn la thất thanh bằng tiếng Arập khi vừa trông thấy Gabriel. Cũng bằng tiếng Arập, Gabriel ra lệnh ông ta quay ngược vào trong, nhưng gã Palestine này đã nhanh chân tiến đến gần. “Bắn hắn đi”, Yaakov quát, nhưng Gabriel vẫn điềm tĩnh giữ cò súng.

Yaakov ấn Arwish chúi vào băng ghế sau. Gabriel trườn theo và đè hắn xuống sàn. Yaakov chạy ngược lên cửa buồng lái, dừng lại một lúc lâu, đủ để nã một loạt đạn cảnh cáo, không xa nơi gã Palestine vừa chạy ra. Hắn ta đã chạy bán sống bán chết trở lại ngôi nhà.

Yaakov nhảy vào phía sau vô lăng, rồi quay xe về phía con đường hẹp. Đi đến khu chợ, anh quẹo cua và lao ra khỏi ngôi làng. Tiếng súng nổ cùng tiếng xe gầm rú đã gây náo loạn cả ngôi làng. Nhiều khuôn mặt thập thò sau các ô cửa sổ, nhưng chẳng ai dám ra thách thức họ.

Gabriel vẫn trông chừng phía sau cho đến khi ngôi làng khuất hẳn trong màn đêm. Một lát sau, Yaakov lại phóng xe dọc theo thung lũng bùn lầy, lần này theo hướng ngược lại. Kẻ hai mang vẫn đang bị ghì chặt dưới sàn, bó mình trong không gian chật hẹp giữa hai băng ghế.

“Khỉ thật, cho tao ngồi dậy”.

Gabriel ấn khủy tay vào cổ tên Arập và thận trọng lục xét khắp người hắn tìm vũ khí hoặc chất nổ. Không tìm thấy gì, anh kéo tay Arập lên ghế ngồi và giựt phăng tấm khăn trùm đầu. Một con mắt hiểm độc xoáy thẳng vào anh - con mắt của Colenel Kemel, tay phiên dịch của A’one.

Thành phố của người Hadera (người Do Thái chính gốc) nằm lưng chừng dãy đồng bằng duyên hải giữa Haifa và Tel Alviv. Khu canh tác, định cư của người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái trước đây giờ đã biến thành thị trấn công nghiệp ô nhiễm của người Israel. Có một dãy nhà căn hộ chung cư màu vàng nhạt nằm trong khu vực dân cư lao động của thành phố, giáp với một nhà máy sản xuất bánh xe. Căn hộ nằm gần nhà máy nhất luôn chìm ngập trong mùi cao su cháy. Nằm trên tầng cao nhất của khu chung cư này chính là căn cứ an toàn của lực lượng Shabak. Hầu hết các thành viên đều thích chọn nơi này để hội họp. Riêng Yaakov đặc biệt thích nơi này. Anh tin rằng cái mùi khen khét đó sẽ khiến mọi thủ tục được tiến hành khẩn trương hơn, trong trường hợp có những kẻ muốn câu giờ. Tổ tiên của anh, những người Nga gốc Do Thái đến từ Kovno đã góp phần khai phá vùng đất này. Họ đã biến những đầm lầy bỏ hoang thành khu canh tác trù phú. Đối với Yaakov, Hadera là chân lý. Hadera là của người Israel.

Căn phòng không một chút tiện nghi. Phòng khách trống trải với những ghế xếp kim loại và vải lót sàn nhà gồ ghề, xơ xác. Một chiếc ấm điện bằng nhựa rẻ tiền được đặt trên quầy bếp với bốn cái tách cáu bẩn nằm gọn trong cái bồn gỉ sét. Mahmoud Arwish, biệt hiệu Colonel Kemel, từ chối lời mời trà khách sáo của Yaakov. Hắn còn đề nghị Yaakov tắt đèn. Bộ quần áo phẳng phiu mà hắn mặc ban sáng tại Mukata đã được thay bằng một bộ quần vải gabardine và áo cotton trắng, chúng sáng lờ mờ dưới ánh trăng qua cửa sổ. Kẹp giữa hai ngón tay phải của hắn là điếu thuốc Mỹ mà Yaakov mời. Hắn xoa xoa bàn tay trái trên cổ. Con mắt duy nhất của hắn dán chặt vào Gabriel. Không thèm đếm xỉa đến những chiếc ghế xếp, anh ngồi dựa lưng vào tường và vắt chéo chân trước mặt. Yaakov tựa người vào cửa sổ như một cái bóng liêu xiêu.

“Tôi nghĩ anh biết một, hai điều gì đó từ người bạn Shabak”. Vừa nói, Arwish vừa xoa xoa quai hàm. “Bọn họ chỉ giỏi động chân động tay”.

“Anh bảo rằng anh muốn gặp tôi”. Gabriel nói. “Tôi không thích người khác yêu cầu được gặp mình”.

“Anh nghĩ tôi định làm gì? Giết anh ư?”.

“Đó không phải là việc chưa từng xảy ra”. Gabriel bình tĩnh trả lời.

Anh biết rằng các tay mật báo Shabak rất dễ bị tấn công trong các cuộc chạm trán với cái bẫy là các tin tức do phía bên kia chủ động đề xuất. Trong vài năm gần đây, có nhiều kẻ đã bị giết trong các cuộc gặp gỡ như thế này. Có kẻ đã bị chém đến chết bằng một cái rìu trong một căn hộ bí mật ở Jerusalem.

“Nếu muốn giết anh, chúng tôi đã ra tay sáng nay ở Ramallah. Người dân chúng tôi sẽ ăn mừng trước cái chết của anh. Tay anh đã nhuốm đầy máu của những người anh hùng chúng tôi”.

“Chứ không phải mấy ngày nay anh cũng chỉ ăn mừng ‘cái chết’ thôi sao”, Gabriel đáp trả. “Có khi nó còn là điều duy nhất mà các anh có thể làm ấy chứ! Hãy đem lại cho quê hương anh những điều tốt đẹp thay vì các cuộc đánh bom tự sát. Hãy giúp họ thoát ra khỏi những mê muội vì đã trót nghe theo những suy nghĩ cực đoan của xã hội anh. Hãy xây dựng lại để mọi thứ trở nên tốt đẹp hơn”.

“Chúng tôi đã cố gắng”. Arwish trả lời. “Nhưng anh đã san bằng mọi thứ bằng những chiếc xe tăng và xe ủi đất”.

Gabriel liếc nhìn bóng của Yaakov đang chuyển động trên cửa sổ. Tay Shabak nàysoái đang muốn chuyển sang đề tài ít gây mâu thuẫn hơn. Chỉ cần quan sát thái độ khinh khỉnh châm điếu thuốc thứ hai của Arwish cũng đủ hiểu rằng hắn vẫn chưa sẵn sàng thừa nhận những gì Gabriel nói. Gabriel đưa mắt xung quanh để tránh cái nhìn chòng chọc của hắn và lơ đãng miết những ngón tay trên lớp bụi của tấm vải lót sàn. Hãy cứ để hắn huênh hoang, Shamron đã từng khuyên như thế. Hãy để hắn đổ mọi tội lỗi lên đầu cậu. Điều đó sẽ giúp hắn dịu bớt tội phản quốc.

“Phải, chúng tôi đã ăn mừng cái chết”. Arwish nói và dập cái bật lửa kiểu cũ của Yaakov một tiếng tách. “Có vài người trong chúng tôi hợp tác với kẻ thù. Nhưng điều đó luôn diễn ra trong chiến tranh, đúng không? Phải thừa nhận rằng những người Palestine chúng tôi rất dễ dàng bị mua chuộc. Shabak đã gọi nó bằng 3 chữ K: kesef, kavod, kussit. Tiền, sự tôn trọng và đàn bà. Có ai tưởng tượng rằng ai đó lại phản bội dân tộc vì sự quyến rũ của một ả điếm Israel không?”

Gabriel im lặng, tiếp tục viết nguệch ngoạc trên lớp bụi. Anh nhận ra rằng mình đang phác họa hình ảnh họa sĩ Caravaggio - Abraham, với con dao trong tay, chuẩn bị giết đứa con trai mình để dâng Đấng Chúa trời.

Arwish tiếp tục. “Anh có biết tại sao tôi lại hợp tác với anh không, Jirbil? Tôi phải làm thế bởi vì vợ tôi đang lâm bệnh. Bác sĩ ở Ramallah chuẩn đoán cô ấy bị ung thư và sẽ khó lòng qua khỏi nếu không được chữa trị ở Jerusalem. Tôi phải xin phép chính quyền Israel để vào thành phố. Chuyện này là nguyên nhân dẫn đến việc tôi quyết định gặp gỡ tổ chức Shabak và người bạn thân này”. Hắn nghiêng đầu về phía Yaakov đang ngồi chễm chệ trên thành cửa sổ, hai tay khoanh lại. “Trước mặt tôi, anh ấy tự nhận mình là một Solomon1. Tôi biết tên thật của anh là Yaakov, nhưng tôi vẫn xem anh như là Solomon. Dù sao cũng chỉ là một trong nhiều trò chơi của chúng tôi thôi”.

Arwish tận hưởng mẩu thuốc lá còn sót lại. “Không cần phải nói, cái giá phải trả cho việc vợ tôi được phép đến Jerusalem chữa bệnh là quá đắt, đó là sự phản bội của tôi với đất nước mình. Solomon đã bỏ tù con trai tôi hết lần này đến lần khác chỉ để tôi phải liên tục cung cấp thông tin cho anh ta. Thậm chí anh ta còn bỏ tù cả người họ hàng của tôi đang sống ở phía bên Israel của Giới Tuyến Xanh. Nhưng khi Solomon thật sự muốn gây sức ép với tôi, anh ta đe dọa sẽ kể hết mọi chuyện cho vợ tôi. Solomon biết rằng cô ấy sẽ không bao giờ tha thứ cho tôi vì những tội lỗi này”.

Gabriel ngước mặt lên khỏi hình ảnh họa sĩ Caravaggio mình vừa vẽ trên lớp bụi. “Anh nói xong chưa?”.

“Xong rồi, tôi nghĩ thế”.

“Vậy tại sao anh không nói cho tôi biết về Khaled?”

“Khaled”. Arwish lặp lại, lắc lắc đầu. “Khaled chỉ là vấn đề cỏn con của anh thôi mà”. Hắn ta dừng lại và ngước nhìn trần nhà tối đen. “Israel đang bị bỏ rơi. Giờ đây cả dân tộc Israel trở thành thừa thãi trong cộng đồng thế giới, như một con thú hoang cô độc”. Hắn ta nhìn trừng trừng Gabriel lần nữa. “Anh có biết tác giả của những lời sấm đó không?”

“Hosea”. Gabriel lạnh lùng đáp lại.

“Chính xác“. Arwish nói. “Anh có phải là người sùng đạo không?”

“Không”. Gabirel thành thật trả lời.

“Tôi cũng không”. Arwish thú nhận “Nhưng có lẽ anh nên chú ý đến lời khuyên của Hosea. Lối thoát cho Israel trong cuộc chiến với Palestine là gì? Đó là xây dựng hàng rào phân cách. Người Do Thái đã kêu gào suốt hàng thập kỷ qua khi họ phải sống chen chúc trong các khu tập trung. Thế nhưng các anh đang làm gì với cái hàng rào phân cách đó? Chính các anh đã dựng nên khu tập trung người Palestine đầu tiên. Tệ hơn nữa là anh đang xây dựng một cái chuồng cho chính mình”.

Arwish bắt đầu đưa điếu thuốc lên môi, nhưng Yaakov đã nhanh chóng lao tới và giựt phăng điếu thuốc khỏi bàn tay tàn phế của hắn. Arwish cười khinh khỉnh đáp lại, rồi hắn xoay dọc xoay ngang và xin Yaakov một tách trà. Yaakov quay lại cửa sổ, ngồi yên lặng lẽ.

“Không có trà cũng được”. Arwish nói. “Miễn sao có tiền. Để nhận được tiền, tôi phải ký nhận với Solomon và chỉ điểm vào đó. Như thế, nếu phản bội Solomon, tôi sẽ bị trừng phạt. Nhưng tôi cũng biết rằng chỉ có một số phận cho những kẻ cộng tác với địch. Đó là cái chết. Và chắc chắn đó không phải là một cái chết êm ái. Một cái chết như trong Kinh thánh. Tôi sẽ bị ném đá và phanh thây thành từng mảnh bởi những kẻ giết người cuồng tín của A’one. Đó là những đe doạ mà Yaakov đưa ra để đảm bảo rằng tôi sẽ chỉ cung cấp cho anh những thông tin chính xác và kịp thời”.

Yaakov nghiêng về phía trước và thì thầm vào tai Arwish, giống như một luật sư đang hướng dẫn cho nhân chứng trả lời những câu hỏi hóc búa.

“Solomon khó chịu với bài diễn văn dài dòng này của tôi. Solomon muốn tôi vào thẳng vấn đề”. Arwish quan sát Gabriel một lúc. “Nhưng anh thì không phải vậy, Jibril. Anh là một người kiên nhẫn”.

Gabriel ngước lên. “Khaled ở đâu?”

“Tôi không biết. Tôi chỉ biết rằng sáng nay A’one đã nói dối anh. Anh đã đúng. Khaled có tồn tại và đang nối tiếp sự nghiệp sát thủ của ông và cha mình”

“Có phải hắn đánh bom ở Rome?”

Một thoáng do dự, Arwish liếc về phía cái bóng đen của Yaakov rồi từ từ gật đầu.

“Có phải hắn hành động theo chỉ thị của A’one không?”

“Tôi không dám khẳng định điều này”.

“Vậy anh khẳng định được điều gì?”

“Anh ta đang liên hệ với Mukata”.

“Bằng cách nào?”

“Nhiều cách. Thỉnh thoảng bằng fax. Các bản fax được gửi từ nhiều số máy khác nhau. Và khi bản fax đến nơi, không ai có thể đọc được nội dung của nó”.

“Còn gì nữa?”

“Đôi khi anh ta sử dụng địa chỉ thư điện tử đã được mã hoá, nó được truyền đi từ nhiều địa chỉ và máy chủ khác nhau. Thỉnh thoảng hắn gửi tin cho A’one thông qua người đưa thư hoặc những phái đoàn viếng thăm. Mặc dù vậy, hầu hết hắn chỉ sử dụng điện thoại”.

“Anh có thể nhận ra giọng hắn chứ?”

“Tôi không chắc là tôi đã từng nghe thấy giọng hắn”.

“Anh đã bao giờ nhìn thấy hắn chưa?”

“Tôi tin rằng tôi đã gặp hắn một lần từ nhiều năm trước ở Tunis. Một người đàn ông trẻ đến thăm và ở lại nhà của A’one vài ngày. Hắn ta có hộ chiếu và tên Pháp nhưng hắn ta nói tiếng Arập như người Palestine”.

“Điều gì khiến anh nghĩ đó là Khaled?”

“Cái cách mà A’one tiếp đón. Mặt ông ta sáng bừng lên khi người đàn ông trẻ tuổi này xuất hiện”.

“Tất cả chỉ có thế thôi à?”

“Không, còn về diện mạo của anh ta nữa. Mọi người bảo rằng Khaled trong rất giống ông nội của mình. Chàng thanh niên này giống Sheikh Asad đến kinh ngạc”.

Arwish đột ngột đứng lên. Yaakov giơ tay lên và dí thẳng khẩu Uzi vào đầu tên Arập. Arwish mỉm cười và kéo áo sơ mi ra khỏi quần. Buộc ở phía dưới thắt lưng là một lá thư. Gabriel đã không phát hiện ra trong lúc tìm kiếm vũ khí của hắn ở phía sau xe hơi. Arwish lấy thư ra và đưa nó cho Gabriel. Anh đang rất tò mò và vô cùng sửng sốt với bức ảnh vừa rơi ra vào lòng anh. Đó là một chàng trai trẻ hết sức điển trai đang ngồi bên cạnh A’one. Anh ta dường như không nhận ra rằng mình đã bị chụp trộm.

“A’one có thói quen bí mật chụp lại bất cứ ai mà ông ta gặp” Arwish nói. “Anh có bức ảnh của Khaled thời còn nhỏ. Có lẽ máy tính sẽ giúp anh xác nhận người này chính là Khaled”.

“Không giống lắm”. Gabriel nói “Anh có thông tin nào khác không?”.

“Khi anh gọi đến Mukata, giọng trong điện thoại không phải là của hắn”.

“Hắn ta làm thế bằng cách nào?”.

“Hắn ta để một người khác nói chuyện. Là một phụ nữ - một phụ nữ châu Âu”.

“Tên cô ta là gì?”

“Cô ta sử dụng nhiều tên khác nhau và nhiều số điện thoại khác nhau”

“Ở đâu?”

Arwish nhún vai.

“Giọng bản xứ của cô ta là gì?”

“Khó nói lắm, nhưng tiếng Arập của cô ta cũng rất tốt”.

“Ngữ âm thế nào?”

“Cổ điển. Người Gioócđan thượng lưu. Có lẽ ở Beirut hoặc Ai Cập. Cô ta gọi Khaled là Tony”.

“Ai là Tony?”. Gabriel bình tĩnh hỏi “Tony ở đâu?”

“Tôi không biết”. Arwish nói, “nhưng tìm được người phụ nữ, có lẽ anh sẽ tìm được Khaled”.

Chú thích

________________________________________

. Solomon: một vị vua huyền thoại của Israel nổi tiếng thống soái

. Haderim: người Do Thái chính thống
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12


TEL AVIV

Cô ta tự xưng mình là Madeleine khi vào vai một phụ nữ Pháp. Khi muốn là người Anh thì tên cô ta là Alexandra. Còn khi là người Ý, mọi người gọi cô là Lunetta - nghĩa là mặt trăng nhỏ”.

Natan nhìn Gabriel và chớp chớp đôi mắt. Anh chàng cột tóc đuôi ngựa với cặp kính nằm hơi xiên trên sống mũi, và có vài lỗ thủng trên chiếc áo nỉ lướt ván ngắn tay hiệu Malibu. Yaakov đã cảnh báo trước với Gabriel về vẻ bề ngoài của Natan. “Cậu ta là thiên tài. Tốt nghiệp với tấm bằng Cal-Tech, mọi công ty kỹ thuật cao của Mỹ và Israel đều muốn có cậu ta. Cậu ta hơi giống anh đó”, Yaakov đã kết luận như thế với chút đố kỵ của người biết mình kém cỏi hơn đối phương.

Nhìn xuyên qua văn phòng bốn bề là kính của Natan, Gabriel thấy một dãy phòng sáng sủa và rộng rãi với hàng hàng dãy dãy các trạm máy tính. Cứ mỗi trạm lại có một nhân viên kỹ thuật. Tất cả họ đều rất trẻ tuổi và hầu hết là người Mizrahim - những người Do Thái đến từ các nước Arập. Họ là những chiến binh thầm lặng trong cuộc chiến chống khủng bố của Israel. Họ chẳng bao giờ đối mặt với kẻ thù, cũng như chẳng bao giờ uy hiếp hắn phản bội tổ quốc hay chạm trán trên bàn thẩm vấn. Đối với họ, kẻ thù chỉ giống như tiếng nổ tách tách của ổ điện làm đứt sợi dây đồng, hoặc giống như một lời thầm thì trong không khí. Natan Hofi chịu trách nhiệm giám sát luồng thông tin liên lạc điện tử giữa thế giới bên ngoài và các tổ chức khủng bố. Đó dường như là một nhiệm vụ bất khả thi. Máy tính chủ yếu dùng để sàng lọc và ghi lại những từ, câu hoặc giọng nói của những tên khủng bố đã được nhận dạng. Tuy nhiên, Natan vẫn xem đôi tai của mình là vũ khí đáng tin cậy nhất.

“Chúng tôi không biết tên thật của cô ta”, anh ta nói “Hiện tại chỉ biết cô ta qua mã giọng âm 572/B. Cho tới giờ phút này chúng ta đã chen vào được năm cuộc điện thoại giữa cô ta và A’one. Anh có muốn nghe không?”

Gabriel gật đầu. Natan nhấp vào một biểu tượng trên màn hình máy tính, và bản thu âm bắt đầu chạy. Trong mỗi cuộc gọi, người phụ nữ tự xưng mình là một người nước ngoài hoạt động cho hòa bình và cô ta gọi điện để bày tỏ sự ủng hộ với ông trùm Palestine đang bị giam giữ cô ta cũng nói rằng mình hết sức cảm thông trước cơn cuồng bạo của những kẻ theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái. Mỗi cuộc trao đổi đều có liên quan đôi chút đến một người bạn tên là Tony - chính là cách gọi tên bí mật của Khaled mà Mahmoud Arwish đã nói.

Sau khi nghe bốn cuộc trao đổi, Gabriel hỏi. “Dựa vào giọng nói của cô ta, cậu có nhận xét gì về người phụ nữ này? “

“Tiếng Arập của cô ta rất tốt, dù cô ta không phải là người Arập. Có thể cô ta là một người Pháp, đến từ miền Nam hoặc là vùng Mác-xây. Rất tài giỏi. Rất gợi tình. Cô ta còn có hình xăm con bướm nhỏ phía sau mông nữa đấy”.

Yaakov sửng sốt ngước lên nhìn.

“Tôi đùa thôi”. Natan nói: “Nhưng hãy nghe cuộc ghi âm thứ năm. Cô ta đóng vai một phụ nữ Pháp, Madeleine, người đứng đầu một tổ chức được gọi là Trung tâm đấu tranh cho hòa bình Palestine hôm nay và mai sau. Chủ đề cuộc trao đổi là về cuộc tập hợp lực lượng sắp tới tại Paris”.

“Paris sao?” Gabriel hỏi. “Cậu chắc là Paris chứ?”

Natan gật đầu. “Cô ta nói với A’one rằng một trong những người đứng đầu tổ chức này có tên là Tony đã dự đoán sẽ có một trăm ngàn người tham gia. Sau đó cô ta ngập ngừng và tự sửa lại. Cô ta nói dự đoán của Tony không phải là một trăm ngàn, mà là hai trăm ngàn”.

Natan cho chạy bản thu âm. Khi bản thu chạy xong, Yaakov nói. “Đoạn thu âm này có gì thú vị chứ ?”

“Ở đây này”.

Natan mở một tệp tin khác. Âm thanh nghèn nghẹt phát ra trong vài giây.

“Có một ai khác đang ở trong phòng với cô ta vào thời điểm đó. Anh ta giám sát cuộc trao đổi này qua một hệ thống khác. Khi Madeleine nói rằng Tony dự đoán một trăm ngàn người, kẻ này đã che miệng ống nghe và nói với cô ta bằng tiếng Pháp rằng. ‘Không, không, không phải một trăm ngàn. Sắp lên đến hai trăm ngàn rồi.’ Anh ta nghĩ không ai có thể nghe thấy, nhưng rủi thay anh lại để miệng ống nói ngay sát thanh quản của mình. Đó là lỗi của lính mới vào nghề. Chúng ta có ghi lại những dao động đó trên bản thu. Lọc âm và chỉnh một chút, tôi đã làm cho âm thanh nghe rõ như thế này”.

Natan cho chạy lại tập tin lần nữa. Lần này, có thể nghe được giọng một người đàn ông, một giọng Pháp chuẩn. “Không, không, không phải một trăm ngàn. Sắp lên đến hai trăm ngàn rồi”. Natan nhấp chuột và trỏ vào góc phải phía trên màn hình máy tính, một sơ đồ với các đường kẻ ô chằng chịt nhấp nhô.

“Đây là máy ghi phổ âm thanh. Nó là một hàm số toán học dựa trên hình dạng miệng và cổ họng người nói. Chúng tôi đã so bản này với từng giọng nói mà chúng ta có”.

“Và sao?”

“Không trùng khớp với bất cứ giọng nào. Chúng tôi gọi anh ta là bản giọng âm 698/D”.

“Cuộc gọi này được thu khi nào?”

“Cách đây sáu tuần”.

“Cậu có biết nó được gọi từ đâu không?”

Natan mỉm cười.

Đã xảy ra một cuộc cãi vã. Nhưng dường như không có quyết định nào của Văn phòng được ngã ngũ mà không qua những trận đấu khẩu. Lev vẫn muốn giam chân Gabriel trong căn phòng làm việc ở tầng hầm với khẩu phần ăn đạm bạc chỉ gồm bánh mỳ và nước. Và ông ta nhanh chóng chiếm ưu thế. Lev ngụy biện rằng Gabriel đã đuối sức và không còn thích hợp với công việc tình báo hiện trường nữa. Bên cạnh đó, những cuộc nghe lén điện thoại cho thấy Khaled đang giấu mình trong thế giới Arập, nơi mà một người chuyên nằm vùng ở châu Âu như Gabriel chưa từng hoạt động trừ cuộc đột kích chớp nhoáng ở Tunisi. Bằng chiêu bài cuối cùng, Lev viện cớ rằng Gabriel không còn đặc quyền hoạt động ở nước ngoài nữa. Rồi cuối cùng chuyện này cũng đến tai Shamron. Quá muộn màng cho Lev để né tránh đòn đáp trả chí tử. Lời cố vấn đầy uy quyền của Shamron như những lời răn của Chúa khắc trên tường đá.

Vượt qua được rào cản này, giờ đây Gabriel phải nhanh chóng giải quyết các vấn đề về lý lịch và diện mạo. Anh quyết định giả danh thành một người Đức, vì tiếng Đức là ngoại ngữ đầu tiên mà anh yêu thích. Anh chọn công việc thiết kế nội thất và sinh sống tại Munich. Tổ chức cấp cho anh một tấm hộ chiếu với tên là Johannes Klemp và một chiếc ví đầy thẻ tín dụng cùng những vật dụng cá nhân khác, bao gồm một danh thiếp in số điện thoại ở Munich. Nếu gọi vào số này, nó sẽ đổ chuông trong phòng an toàn của Văn phòng và sau đó tự động chuyển sang tổng đài điện thoại của Tổng hành dinh ở King Saul - nơi mà giọng thu âm của Gabriel tự động thông báo rằng anh đang đi nghỉ và sẽ gọi lại ngay khi quay về.

Về diện mạo, các chuyên viên của Tổ chức đề nghị anh để râu. Gabriel miễn cưỡng nghe theo. Anh cho rằng bất kỳ người đàn ông râu ria bờm xờm nào cũng đều không đáng tin và đang giấu giếm điều gì đó. Phải đeo một bộ râu xám xịt khiến anh càng thất vọng hơn. Nhưng các chuyên viên đã sửa sang lại mái tóc anh cho phù hợp với bộ râu đó. Họ đưa thêm cho anh một cặp kính hình chữ nhật không gọng và một chiếc va li đầy những bộ quần áo thời trang cùng một tông màu mua từ Berlin và Milan. Những thiết bị mà các tay “…” trong phòng Kỹ thuật cung cấp cho anh hoàn toàn vô hại nhưng thực tế chúng không đơn giản như vậy.

Vào một buổi tối ấm áp, ngay trước lúc lên đường, anh khoác lên mình bộ trang phục thời trang của Herr Klemp, hiên ngang dạo quanh các sàn nhảy và hộp đêm dọc đường Sheinkin ở Tel Aviv. Giờ đây, anh đã hóa thân thành Herr Klemp, không còn là nhân vật Mario Delvecchio trước đây. Một Herr Klemp hoạt bát, giỏi tán gái, thích rượu đắt tiền và nhạc dance. Anh háo hức vào vai Herr Klemp vì anh cảm thấy an toàn khi ngụy trang như thế.

Anh chợt nhớ lại sự chuẩn bị vội vã cho nhiệm vụ Wrath of God (Cơn thịnh nộ của Chúa) trước đây; anh nghĩ lại những lần đi dạo trên những con đường ở Tel Aviv với Shamron, nghĩ đến việc lấy trộm ví và đột nhập vào các phòng khách sạn dọc Promenade. Chỉ duy nhất một lần anh bị tóm. Một người phụ nữ Rumani gốc Do Thái đã chộp cổ tay Gabriel và gọi cảnh sát. Shamron đã nói. “Cậu bắt đầu trở nên hiền lành từ khi nào thế? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu đó là quân hiến binh? Hoặc là lính cận vệ? Cậu nghĩ tôi sẽ đến đó và yêu cầu thả tự do cho cậu à? Nếu họ đến bắt cậu, cậu phải đánh trả. Nếu cậu phải làm đổ máu người vô tội, cậu vẫn phải làm mà không được ngần ngại. Tuyệt đối không bao giờ để cho mình bị bắt giữ. Không bao giờ!”

Quy định của Văn phòng đòi hỏi Gabriel phải ở đêm cuối cùng tại “địa điểm cất cánh”, đặc ngữ của tổ chức ám chỉ một căn phòng an toàn để khởi hành. Bao giờ đó cũng là những căn phòng nồng nặc mùi xì gà và nhuốm mùi thất bại. Vì thế, đêm đó anh quyết định ở cùng với Chiara trên phố Narkiss. Việc ái ân giữa họ diễn ra miễn cưỡng và ngượng ngịu. Sau đó, Chiara thú nhận rằng cô thấy Gabriel quá đỗi xa lạ.

Gabriel không bao giờ ngủ được trước giờ hành động và đêm cuối của anh ở Jerusalem cũng không phải là ngoại lệ. Vì thế, trước lúc nửa đêm, anh cảm thấy nhẹ nhõm hẳn khi nghe tiếng máy nổ đặc trưng của chiếc xe bọc thép Peugeot của Shamron trước nhà và thấy thấp thoáng bóng cái đầu hói nhẵn nhụi của ông di chuyển trong vườn, theo sau là Rami. Họ trải qua khoảng thời gian còn lại trong phòng làm việc của Gabriel và mở tung các cửa sổ đón lấy không khí lạnh lẽo của đêm. Shamron nói về cuộc chiến giành độc lập, cuộc tìm kiếm Sheikh Asad của ông, và về buổi sáng mà ông đã giết hắn trong ngôi nhà tranh bên ngoài Lydda. Khi bình minh ló dạng, Gabriel thoáng chốc do dự, tự nhiên anh cảm thấy lẽ ra mình nên nghe theo lời khuyên của Lev và để một người khác thay anh lúc này.

Chỉ khi ánh mặt trời đã nhô cao thì Shamron mới bắt đầu căn dặn. Ông ấy nói. “Đừng có đi đâu loanh quanh khu vực tòa đại sứ. Cơ quan tình báo Mubarat cho rằng mọi người làm việc ở tòa đại sứ đều là gián điệp. Và họ có lý khi nói như thế đấy”. Sau đó ông đưa cho Gabriel một danh thiếp. “Ông ta là người của chúng ta, đã bị chúng ta mua chuộc. Ông ta biết mọi người trong thị trấn. Tôi đã nói ông ta chờ anh đến. Hãy cẩn thận. Ông ta là một tay nghiện rượu đó”.

Một giờ sau Gabriel lên chiếc xe của Văn phòng. Nó được trang bị như một chiếc xe tắc xi ở Jerusalem và khởi hành từ Bab al-Wad hướng đến sân bay Ben-Gurion. Anh khai báo hải quan dưới cái tên Herr Klemp, chờ đợi thủ tục kiểm tra an ninh nhiêu khê, rồi sau đó anh bước vào sảnh chờ. Khi nghe đọc tên chuyến bay của mình, anh bắt đầu đi dọc trên mặt đường rải nhựa trắng đến thẳng chỗ chiếc máy bay phản lực đang chờ sẵn và ngồi vào khoang ghế hạng phổ thông. Khi máy bay cất cánh, anh nhìn qua cửa sổ và quan sát vùng đất nhỏ dần phía dưới, lòng anh thắt lại bởi nỗi sợ hãi quá lớn rằng mình sẽ không bao giờ thấy mảnh đất này cũng như không được gặp lại Chiara yêu dấu nữa. Anh nghĩ về hành trình phía trước, một cuộc phiêu lưu dài tuần ở Địa Trung Hải có thể đưa anh từ Athen đến Istanbul và cuối cùng là thành phố cổ phía bờ Tây Fertile Crescent, nơi mà anh hy vọng tìm thấy người phụ nữ tên là Madeleine, hoặc Alexandra, hoặc Lunetta - mặt trăng bé nhỏ và người bạn Tony của cô ta.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13


CAIRO NGÀY 31 THÁNG 3

Quý ông đến từ Munich là vị khách mà chắc hẳn toàn bộ nhân viên ở khách sạn InterContinental không thể quên được. Vốn là trưởng bộ phận tiếp tân luôn điều hành công việc một cách trôi chảy, ông Katubi đã gặp nhiều người như ông ta, loại người hay sinh sự, một người đàn ông nhỏ thó với cái đầu lắc lư như muốn rời khỏi một cặp vai rộng quá khổ. Sự thật là ông Katubi đã phát ngấy vị khách này đến nỗi ông lộ rõ thái độ cau có mỗi khi chạm mặt. Vào ngày thứ ba, ông chào vị khách đó với một nụ cười gượng gạo và hỏi. “Giờ thì chuyện gì nữa đây, thưa ông Klemp?”

Chỉ vừa đến khách sạn được vài phút, vị khách này đã bắt đầu phàn nàn. Ông Klemp đã đặt phòng không hút thuốc. Thế nhưng ông ta khiếu nại là rõ ràng có ai đó vừa hút thuốc ở đây, dù rằng ông Katubi - người luôn tự hào về khứu giác nhanh nhạy của mình, không hề phát hiện ra dù chỉ là một làn khói thuốc trong không khí. Căn phòng được đổi lại thì bị chê là quá gần hồ bơi, cái khác thì quá gần hộp đêm. Cuối cùng ông Katubi phải dành cho ông ta căn phòng trên tầng cao hơn, có ban công hướng ra sông mà không lấy thêm phụ phí nào. Lúc đó quý ngài Klemp mới cho là “tạm chấp nhận được”.

Với vị khách có tên là Klemp này, mọi thứ của khách sạn đều “có vấn đề”. Hồ bơi thì quá ấm mà phòng tắm của ông ta lại quá lạnh. Ông ta liếc nhìn bữa sáng tự phục vụ một cách khinh bỉ và thường xuyên gửi trả lại khẩu phần ăn buổi tối. Người phục vụ phòng thì làm hỏng một trong những cái ve áo vét của ông, còn việc mát-xa ở suối nước khoáng làm ông đau cổ. Ông yêu cầu nhân viên dọn phòng đến dọn dẹp vào đúng tám giờ mỗi sáng, còn ông thì lưu lại trong phòng để giám sát họ làm việc. Ông đã kể lể việc mình bị chôm tiền tại khách sạn Hilton ở Istanbul, và ông quyết sẽ không để chuyện đó xảy ra một lần nữa ở Cairo này. Ngay khi người nữ dọn phòng bước đi, ông treo ngay tấm biển XIN ĐỪNG LÀM PHIỀN trên tay khóa cửa suốt thời gian còn lại trong ngày như treo miễn chiến bài vậy. Ông Katubi ước rằng mình cũng được treo một tấm bảng tương tự thế ở ngay quầy trực của mình.

Đúng mười giờ mỗi sáng, ông Klemp rời khách sạn với tấm bản đồ và sách hướng dẫn du lịch. Các tài xế của khách sạn phải chơi trò rút thăm để xem ai là người thiếu may mắn vì phải phục vụ cho ông ta ngày hôm đó. Dường như càng về sau, các chuyến đi của ông ta càng gặp nhiều sự cố. Đến bảo tàng Hy Lạp, ông bảo rằng nơi này cần phải được dọn dẹp sạch sẽ hơn. Còn pháo đài Citadel thì bị ông chê là cũ kỹ bẩn thỉu. Lúc ở khu vực Kim Tự Tháp của thành phố Giza, ông bị một con lạc đà nghịch ngợm cắn. Khi ông ta quay về sau chuyến thăm Giáo hội Cairo, Katubi hỏi ông có thích nhà thờ thánh Barbara không. “Thú vị đó”, ông Klemp nói, “nhưng thực ra nó không đẹp bằng nhà thờ của chúng tôi ở Đức”.

Vào ngày thứ tư, ông Katubi đang đứng ở lối ra vào khách sạn thì ông Klemp lao ra từ cửa xoay như một cơn gió sa mạc đầy bụi.

“Chào buổi sáng, ngài Klemp”.

“Giờ chưa phải là buổi sáng mà ông Katubi”.

“Ngài có yêu cầu xe sáng nay không?”

“Không cần”.

Vừa dứt câu trả lời, ông ta bắt đầu đi dọc theo con đường ven biển. Phần đuôi của bộ cánh mà ông ta cho là “bị làm hỏng” bay phần phật trong gió như cái chắn bùn của xe tải. Ông Katubi nghĩ cho dù Cairo là một thành phố rất dễ thích nghi, nhưng dẫu vậy nơi này vẫn chẳng thích hợp với một người như ông Klemp chút nào.

Gabriel nhận thấy phảng phất nét đặc trưng của châu Âu lưu lại trên những tòa nhà rêu phong điêu tàn dọc đường Talaat Harb. Rồi anh chợt nhớ lại những gì đã đọc được trong những cuốn sách hướng dẫn của ông Klemp. Vào thế kỷ XIX, người cai trị Hy Lạp - Khedive Ismail - đã thai nghén ý tưởng biến Cairo thành “Paris của sông Nile”. Ông đã thuê những kiến trúc sư tài hoa nhất ở châu Âu để thực hiện ước mơ của mình. Công trình tạo tác này đến nay vẫn còn sót lại ở mặt ngoài theo lối kiến trúc tân Gô-tích, với rào chắn bằng sắt rèn, cửa sổ cửa chớp hình chữ nhật cao. Nhưng công trình đó đã trở thành phế tích, bởi sự ô nhiễm, sự tàn phá của thời tiết, và sự lãng quên của con người trong gần suốt một thế kỷ.

Anh tiến đến một vòng xoay nhộn nhịp. Một cậu bé đi giày xanh đen giật giật ống tay áo, mời anh ghé cửa hàng dầu thơm của gia đình nó. “Không, không”, Gabriel nói bằng tiếng Đức theo kiểu của ông Klemp, nhưng anh lại đẩy lùi đứa trẻ và lách đi theo đúng kiểu người Israel khi né những người bán hàng rong trên các phố hẻm ở Phố Cổ.

Anh men theo vòng xoay, đi ngược chiều kim đồng hồ và rẽ vào đường Qasr e-Nil, một bản sao của cung điện Élysées ở Cairo. Anh tiếp tục rảo bộ, dừng lại và một lần nữa nhìn chằm chằm vào các cửa sổ của gian hàng trang trí lòe loẹt để xem có ai theo dõi mình không. Anh rời đường Qasr el-Nil và vào một con đường hẹp bên cạnh. Vì không thể đi trên lề đường chật cứng những chiếc xe hơi đậu ngổn ngang, anh đi dưới lòng đường như người dân Cairo.

Anh tìm đến địa chỉ ghi trên tấm danh thiếp mà Shamron đã đưa vào đêm trước khi lên đường. Đó là một tòa nhà kiến trúc Ý với mặt tiền nhuốm màu bùn đặc trưng vùng sông Nile. Tầng ba của tòa nhà này là nơi mà hàng loạt những dòng tin tức cập nhật hàng giờ của đài BBC ra lò. Cách lối đi vài mét, một người bán dạo trên chiếc xe chở thùng nhôm đang đi giao món mì spaghetti vùng Bologna đựng trong đĩa giấy. Cạnh người bán dạo là một phụ nữ, mặt che mạng, bán chanh và bánh mì lát. Phía bên kia con đường náo nhiệt có một ki-ốt. Đứng trong bóng tối của mái vòm nhỏ, đeo kính râm và mặc chiếc áo gió hiệu Members Only là một giám sát viên của tình báo Mubarat đang cố gắng ẩn mình để quan sát Gabriel khi anh bước vào trong.

Tiền sảnh vừa tối vừa lạnh lẽo. Một con mèo giống Hy Lạp gầy guộc với hõm mắt sâu và đôi tai lớn gầm gừ nhìn anh trong bóng tối, rồi lại biến mất sau một cái lỗ nhỏ trên tường. Người giữ cửa xuất thân từ vùng sa mạc Nubian trong trang phục áo choàng dài màu chanh và khăn trùm đầu trắng ngồi bất động trên một chiếc ghế gỗ. Anh ta chìa bàn tay thô ráp nhận tấm danh thiếp của người đàn ông mà Gabriel muốn gặp.

“Tầng ba”. Anh ta nói bằng tiếng Anh.

Đến đầu cầu thang, Gabriel phải đi qua hai lớp cửa. Cạnh cửa, bên tay phải là tấm biển bằng đồng thau in chữ: DAVID QUINNELL - BÁO CHÍ QUỐC TẾ. Gabriel nhấn chuông và ngay lập tức được một cậu bé phụ việc văn phòng người Xu-đăng đưa vào một phòng chờ nhỏ, người mà Gabriel dùng giọng Đức chuẩn để nói chuyện bằng tiếng Anh.

“Cho hỏi tôi đang nói chuyện với ai được không ạ?”, cậu bé Xu-đăng đó hỏi.

“Tôi tên là Johannes Klemp”.

“Ông Quinnell có hẹn trước với ông không?”

“Tôi là bạn của Rudolf Heller. Ông ấy biết mà”.

“Xin ông chờ một phút. Tôi sẽ gặp ông Quinnell xem ông ấy có gặp ông bây giờ được không”.

Cậu bé Xu-đăng biến mất sau một cánh cửa đôi cao. Thời gian cứ thế trôi đi, một phút, hai rồi ba phút. Gabriel tiến đến cửa sổ và nhìn xuống đường. Người phục vụ quán cà phê ở góc đường mang cho người đàn ông của cơ quan tình báo Mubarat một tách trà trên một chiếc khay bạc nhỏ. Gabriel nghe thấy tiếng cậu bé Xu-đăng phía sau và ông quay lại. “Ông Quinnell sẽ gặp ông ngay”.

Căn phòng mà Gabriel được dẫn vào là một phòng khách theo lối kiến trúc thời La Mã cổ. Sàn nhà bằng gỗ nhám đến nỗi không thể làm bóng lại được; những họa tiết trên đường chỉ tường như chẳng còn gì dưới lớp cát dày. Hai trong bốn bức tường là những kệ sách lấp đầy bởi những tác phẩm lịch sử Trung Đông và đạo Hồi. Một chiếc bàn rộng bày la liệt giấy báo và thư từ chưa bóc ngả vàng ố.

Căn phòng chìm trong bóng tối, trừ một khoảng không hình thang được ánh mặt trời chói chang chiếu xuyên qua cánh cửa kiểu Pháp khép hờ, lan đến tận mũi chiếc giày da lộn đã sờn của David Quinnell. Ông ta kéo tờ điểm tin sáng Al-Ahram xuống - một tờ nhật báo chính phủ của Hy Lạp, và buồn bã nhìn chăm chăm vào Gabriel. Ông ta mặc chiếc áo sơ mi nhăn nhúm rộng quá khổ và một chiếc áo vét nâu vàng có cầu vai. Vài sợi tóc bạch kim phơ phất trước trán, ẩn phía sau là đôi mắt tròn đỏ ngầu. Ông gãi gãi cái cằm cạo râu không kỹ và vặn nút âm lượng chiếc đài phát thanh cho nó nhỏ xuống. Gabriel dù đứng xa vài bước vẫn có thể ngửi thấy mùi rượu whisky đêm qua từ hơi thở của ông ta.

“Đã là bạn của Rudolf Heller thì chắc chắn cũng là bạn của tôi”. Vẻ ngoài ủ dột của Quinnell không ăn nhập gì với giọng nói nồng nhiệt của ông ta. Gabriel cảm giác như ông ta đang nói cho một đám khán giả của Cục tình báo Mubarat nghe vậy. “Ông Heller có nói với tôi rằng có thể anh sẽ gọi. Tôi giúp được gì cho anh đây?”

Gabriel đặt một tấm hình trên chiếc bàn bề bộn - tấm ảnh mà Mahmoud Arwish đưa cho anh lúc ở Hadera.

“Tôi đang đi nghỉ”, Gabriel nói. “Ông Heller đề nghị tôi nên đến gặp ông. Ông ấy nói ông có thể giới thiệu cho tôi những nét đặc sắc của vùng đất Cairo này. Ông ấy nói ông hiểu rõ Hy Lạp hơn bất cứ ai”.

“Ông Heller nói tốt về tôi quá đấy! Dạo này ông ta khỏe chứ?”

“Vẫn thế ạ”, Gabriel đáp.

Quinnell không cử động người mà chỉ cúi xuống tấm ảnh.

“Bây giờ tôi hơi bận, nhưng tôi nghĩ tôi vẫn có thể giúp cậu”. Ông ta cầm tấm ảnh lên và gấp lại cùng tờ báo đang đọc dở. “Cậu muốn đi dạo chứ? Tốt nhất chúng ta nên ra ngoài trước khi trời trở nên oi bức”.

“Văn phòng của ông đang bị theo dõi”.

Họ bước dọc theo một con đường nhỏ đầy bóng râm, hai bên là những quầy hàng và những người bán rong. Quinnell dừng lại nhìn ngắm một khúc vải cotton Hy Lạp màu huyết dụ.

“Thỉnh thoảng”, ông ta hờ hững đáp, “tất cả tay viết báo đều bị theo dõi. Đặc biệt đối với một đất nước có bộ máy an ninh cồng kềnh như Hy Lạp, họ chỉ vẽ việc để làm”.

“Có thể đúng. Nhưng ông không phải là một phóng viên bình thường”.

“Đúng vậy, nhưng họ không biết chuyện đó. Đối với họ, tôi chỉ là một lão già người Anh thừa thãi, sống qua ngày bằng thù lao từ những bài báo được đăng. Chúng tôi phải xoay xở lắm mới tìm được một chỗ tá túc. Tôi đã yêu cầu họ phải dọn dẹp lại sau khi lục lọi xong căn phòng, và thật sự thì họ đã làm khá tốt công việc đó”.

Quinnell nới lỏng nút áo và băng rất nhanh ngang qua một ngõ hẹp. Gabriel đã thoáng thấy qua vai ông ta một người mặc áo Members Only bơ phờ đang nhấm nháp một tách cà phê. Không kịp quan sát kỹ gã đó, Gabriel vội đuổi theo Quinnell.

Khi Gabriel bắt kịp, khuôn mặt của Quinnell đỏ bừng dưới cái nóng của buổi sáng muộn. Ông ta từng nổi danh là tay phóng viên lưu động cho một tờ nhật báo lớn ở Luân Đôn. Ông ta là dạng phóng viên chuyên săn những tin tức nóng bỏng của thế giới và chỉ dừng bút trước khi câu chuyện trở nên tẻ nhạt và công chúng bắt đầu thấy mất hứng. Nhưng sự nghiệp của ông bị hủy hoại bởi rượu chè và đàn bà. Rồi ông đến Israel trong một chuyến công tác suốt thời kỳ đầu của phong trào nổi dậy chống sự chiếm đóng của người Do Thái để tắm nắng trên hòn đảo của Shamron. Qua một buổi ăn tối riêng tư ở Tiberias, Shamron đã thăm dò và tìm ra điểm yếu của ông - một món nợ khổng lồ, một quá khứ Do Thái bí mật đằng sau vẻ bề ngoài người Anh đầy giễu cợt và nghiện rượu của Quinnell. Đến khi dùng cà phê thì cũng là Shamron bắt đầu vai diễn của mình. Shamron hứa hẹn đây là sẽ mối quan hệ hợp tác hai bên cùng có lợi. Theo định nghĩa của Shamron, “đối tác” có nghĩa là người mà ông có thể thuyết phục hoặc hăm dọa tống tiền để tuân theo mệnh lệnh của mình. Quinnell sẽ cung cấp cho Shamron những thông tin đáng giá trong nguồn dữ liệu Arập của mình. Thỉnh thoảng ông ta cũng có thể lấy được vài mẩu tuyên truyền phản động của Shamron. Đổi lại, món nợ khổng lồ của Quinnell cũng sẽ được thanh lý một cách êm thấm. Ông ta cũng sẽ được độc chiếm một số mẩu tin để đánh bóng lại tên tuổi đã mờ nhạt của mình. Sẽ có nhà xuất bản cho phát hành cuốn sách mà ông đã ấp ủ trong suốt thời gian qua. Nhưng Shamron chẳng bao giờ hé lộ là làm thế nào ông biết được Quinnell có một cuốn bản thảo luôn cất kỹ trong ngăn kéo. Cuộc đổi chác được thực hiện, và Quinnell cũng như Mahmoud Arwish đã chọn con đường phản bội dù biết rằng hình phạt cho hành động này sẽ là một cái chết vô cùng đau đớn. Khi công chúng đòi hỏi Quinnell phải sám hối về những tội lỗi của mình, ông đã quay lưng và đứng về phe Arập. Trên kênh báo chí Fleet, ông ta được xem như một phát ngôn viên của Palestine - xin lỗi về các vụ đánh bom tự sát và các hành động phát xít. Quinnell thường huênh hoang.Những kẻ theo chủ nghĩa đế quốc, theo Tây và những đứa con hoang Israel của chúng đang phải gánh chịu những gì chúng đã gieo rắc. Sẽ không thể có sự an toàn trên đường phố chừng nào mà công lý chưa được thực hiện ở Palestine. Ông ta là nhà bình luận phương Tây ưa thích của tờ Al-Jazeera và trở nên đắt hàng hơn trong các cuộc chạy đua đảng phái ở Cairo. A’one từng gọi ông là “một nhà báo dũng cảm dám viết lên sự thật, một cây bút phương Tây duy nhất thấu hiểu từng ngõ ngách những gì đang diễn ra tại Arập”.

“Có một chỗ ở Zamalek cậu nên đến. Quán Mimi. Thức ăn ngon, nhạc hay”. Quinnell dừng lại và thêm vào một cách khiêu khích: “Đó là một đám đông thú vị”.

“Ai là Mimi?”

“Mimi Ferrere. Cô ta dường như đã gắn chặt với cuộc sống ở Zamalek này. Cô ta đến đây hai mươi năm trước và sẽ không bao giờ rời khỏi nơi đây nữa. Mọi người đều biết Mimi, và cô ta cũng biết mọi người”.

“Cái gì đã đem cô ta đến Cairo?”

“Sự cộng hưởng năng lượng sống”.

Quinnell bắt gặp ánh mắt trống rỗng của Gabriel nên giải thích.

“Một thuyền trưởng tên là Jose Arguelles đã viết một quyển sách cách đây nhiều năm tựa là Những yếu tố Maya. Ông ta khẳng định đã tìm ra chứng cứ trong Kinh Thánh và lịch của người Aztec và Mayan rằng tháng 8 năm 1987 là thời điểm hội tụ quan trọng trong lịch sử nhân loại. Thế giới sẽ có thể theo một trong hai con đường, một là bước sang một thời đại mới, hai là bị diệt vong. Để tránh bị hủy diệt, 144.000 người phải tập trung tại nơi gọi là trung tâm quyền lực quanh trái đất và cộng hưởng năng lượng sống. Mimi đến các Kim Tự Tháp cùng với hàng ngàn kẻ cuồng tín khác. Lúc đó, cô nàng thật quyến rũ. Và nếu cậu hỏi tôi bây giờ cô ta thế nào, tôi sẽ nói rằng cô ta vẫn quyến rũ như thế. Cô ta đã cưới một người Hy Lạp giàu có và sống tại Zamalek. Cuộc hôn nhân đó kéo dài một tuần rưỡi. Sau khi cuộc hôn nhân đổ vỡ, Mimi cần tiền nên đã mở quán cà phê”.

“Cô ta từ đâu đến?”

Quinnell nhún vai. “Mimi đến từ bất kỳ đâu. Cô ta là một cư dân của trái đất”.

“Còn khách khứa của cô ta thuộc thành phần nào?”

“Chủ yếu là người nước ngoài. Một số ít là khách du lịch ham vui. Có cả những người Arập có tiền thích phong cách phương Tây. Ở đó có một gã mà tôi gặp nhiều lần. Tên gã là Tony”.

“Tony sao? Ông chắc không?”

“Đó là tên anh ta tự xưng. Cực kỳ đẹp trai”.

Quinnell đưa cho Gabriel tờ báo. “Đừng đến quá sớm. Quán đó chẳng mở trước nửa đêm đâu. Và hãy cẩn thận với Mimi. Cô ta có thể ngọt ngào như bánh làm từ hoa quả, nhưng cô ta cũng không bỏ qua bất kỳ trò gian trá nào đâu”.

Katubi đặt bàn cho ông Johannes Klemp tại quán bar nhạc Jazz và cả rượu lúc mười giờ tối đó. Chín giờ, Gabriel ra khỏi phòng, đón tắc xi và bắt đầu qua cầu Tahrir đến đảo Gezira. Khi đến nơi, anh rẽ phải về phía Bắc men theo con đường bên dòng sông, rồi lại dọc theo một câu lạc bộ thể thao cũ nơi mà thực dân Anh chơi bài crikê và uống rượu gin trước khi đế chế sụp đổ.

Một chuỗi những tòa nhà chung cư cao tầng đắt tiền hiện ra bên tay trái anh, đó là dấu hiệu đầu tiên cho thấy anh đã đến địa chỉ được nhiều người săn lùng nhất ở Cairo. Dân ngoại quốc, những đại gia Hy Lạp - những người không sống theo kiểu đạo Hồi mà mang hơi hướng Âu Mỹ. Khu Zamalek tương đối sạch sẽ, và những tiếng ồn không ngớt ở Cairo là những tiếng lao xao vọng lại từ phía bờ kia sông. Người ta có thể nhấm nháp một ly cappuccino trong quán cà phê và nói tiếng Pháp trong những cửa hàng sang trọng. Đó là một ốc đảo, nơi mà những người giàu giả vờ như họ không biết đến hoàn cảnh nghèo khổ xung quanh.

Quán Mimi nằm ở tầng trệt của một ngôi nhà cũ vừa ra khỏi đường 26 tháng 7. Tấm biển hiệu đèn

nê-ông trang trí nghệ thuật và toàn bộ thực đơn chay đặt dưới lớp kính trong cái khung gỗ sơn tay đều được viết bằng tiếng Anh. Cạnh thực đơn, một tấm áp phích lớn giới thiệu một màn giải trí đặc sắc buổi tối, năm người đàn ông trẻ với khăn choàng tơ tằm lấp lánh trang sức. Đó là chỗ mà chỉ khi nào bị chĩa súng thì Gabriel mới phải vào. Tuy nhiên, trong lúc này, khi tên của anh không phải là Gabriel mà là quý ngài Klemp, anh vẫn phải bước vào cái nới đáng nguyền rủa này.

Một phụ nữ da ngăm mặc một bộ đồ sa-tanh màu cam và một chiếc khăn quấn đầu cùng tông đon đả tiếp đón anh. Cô ta chào bằng tiếng Anh và ông Klemp đáp lại một cách lịch sự. Khi nghe tên “Johannes Klemp”, cô nàng mỉm cười đề phòng như thể đã được ông Katubi cảnh báo trước là sẽ có những điều khó chịu. Cô ta dẫn anh vào chiếc bàn cạnh bục ban nhạc. Chiếc bàn thấp với kiểu trang trí đường lượn cùng những chiếc ghế dài sặc sỡ màu sắc bao quanh. Gabriel cảm giác đêm nay anh sẽ không ngồi đây một mình. Chỉ sau hai mươi phút, những lo ngại của anh biến thành hiện thực: ba người Arập nữa tiến lại ngồi cùng anh. Họ gọi thêm rượu sâm-banh và coi như không nhìn thấy một quý ông người Đức mặt mày rầu rĩ đang ngồi cùng.

Đó là một căn phòng khá thoải mái, dài hình ô van, quét sơn trắng với những dải lụa treo trên trần cao. Căn phòng kiểu Tây Âu thoảng mùi gỗ đàn hương và mùi thuốc hasit ngai ngái. Dọc theo mép phòng, dưới những hốc hình vòm tù mù trong ánh đèn yếu ớt là nơi riêng tư mà khách ruột của quán có thể ăn uống. Gabriel rà quanh dàn thực khách Arập và tìm kiếm trong vô vọng người đàn ông trong ảnh.

Đúng như lời của Quinnell, ở đây không chơi nhạc trước mười một giờ. Màn trình diễn đầu tiên là điệu nhạc của người Incas mang âm hưởng hiện đại do một người Peru mặc xà-rông với đàn ghi-ta trình diễn. Xen vào giữa các bài hát là những câu chuyện truyền thuyết về vùng cao Andes, chúng được kể bằng thứ tiếng Anh lơ lớ nghe không lọt tai. Đến giữa đêm là màn biểu diễn đặc sắc của buổi tối do một nhóm nhạc Ma-rốc chơi ngẫu hứng loại jazz Arập theo các nốt và nhịp mà những người Âu khó có thể hiểu được. Ba người đàn ông Arập không hề chú tâm đến âm nhạc mà chỉ lè nhè bên° những ly rượu. Ông Klemp mỉm cười và vỗ tay tán thưởng các bản độc tấu tuyệt diệu ấy, nhưng con người thật của ông Klemp là Gabriel thì lại bỏ ngoài tai vì mải tập trung chú ý đến người phụ nữ đứng cuối quầy bar. Đó là Mini.

Lúc còn trẻ cô ta thật quyết rũ. Và nếu cậu hỏi tôi bây giờ cô ta thế nào, tôi sẽ nói rằng cô ta vẫn quyến rũ như thế. Gabriel nhớ lại lời nói của Quinnel.

Cô ta mặc chiếc quần Capri trắng và chiếc áo cánh sa-tanh màu xanh nhạt thắt lại ở phần eo thon. Nhìn từ đằng sau, có thể nhầm tưởng cô ta chỉ đang ở độ tuổi đôi mươi. Chỉ khi cô ta quay lại để lộ những nếp nhăn quanh mắt và một mảng bạc trên tóc thì người ta mới nhận ra đó là một phụ nữ trung niên. Cô ta đeo vòng quanh eo và sợi dây chuyền bạc quanh chiếc cổ cao. Nước da ngăm ngăm màu ô liu với đôi mắt đen láy. Cô ta chào đón tất cả mọi người bằng một nụ hôn trên má và giọng nói thì thầm ngọt ngào như rót vào tai. Gabriel từng gặp nhiều kiểu phụ nữ sống trác táng giống cô ta - những người luôn sống ở hết biệt thự này đến biệt thự khác, tiệc tùng liên miên. Hầu hết họ cũng có dáng người mảnh khảnh với làn da rám nắng và chẳng khi nào màng tới chuyện chồng con. Gabriel thắc mắc không hiểu cô ta đang làm cái quái gì ở Cairo này.

Nhóm năm người Ma-rốc dừng nhạc và báo trước sẽ quay lại trong vòng mười phút. Ánh sáng trong quán mạnh dần lên và âm lượng những cuộc trò chuyện cũng sôi nổi hơn. Người phụ nữ tách mình khỏi quầy bar và dạo quanh phòng, cô ta nhẹ nhàng lướt từ bàn này sang bàn khác, từ hốc vòm này sang hốc vòm khác như một con bướm rập rờn từ bông hoa này đến bông hoa kia. Cô chào đón những vị khách ruột của quán bằng những nụ hôn và những lời thì thầm. Những người mới thì lại được đón đãi bằng cái bắt tay. Cô nói với họ bằng tiếng Arập, Anh, Ý, Pháp, Tây Ba Nha và cả vốn tiếng Đức kha khá của mình. Cô nhận những lời khen một cách bình thản như đã quá quen thuộc và chúng chẳng còn khiến cô phải rung động nữa. Cô là đối tượng mà đàn ông thì thèm muốn nhưng buộc phải dè chừng, còn phụ nữ thì luôn trầm trồ ngưỡng mộ một cách ganh tỵ.

Cô nàng tiến đến bàn ông Klemp khi ban nhạc quay lại sân khấu cho màn biểu diễn thứ hai. Ông Klemp đứng dậy, hơi cúi thấp người và đón lấy bàn tay chìa ra của cô ta. Cô siết chặt, da tay cô lạnh và hơi khô. Buông tay ông Klemp ra, cô hất những lọn tóc lơ thơ ra khỏi mặt và quan sát ông ta với cặp mắt nâu bông đùa. Nếu không thấy cô ta cũng đưa mắt kiểu đó với những người đàn ông khác trong phòng, có lẽ ông đã nhầm tưởng rằng cô ả đang tán tỉnh mình.

“Tôi rất vui vì ông đã đến đây với chúng tôi tối nay”. Cô nói với ông bằng tiếng Anh với giọng điệu hơi lên mặt của một vị chủ quán. “Hy vọng ông thích những bản nhạc tối nay. Chẳng phải chúng tuyệt lắm sao? Xin tự giới thiệu, tên tôi là Mimi”.

Và rồi cô bước đi. Gabriel quay mắt chằm chằm nhìn lên bục diễn, nhưng tâm trí anh thì quay lại trạm ngầm của Natan Hofi và nhớ lại đoạn ghi âm của người phụ nữ bí hiểm với một người tên là Tony.

Xin tự giới thiệu, tên tôi là Mimi.

Không, cô không phải là Mimi, Gabriel nghĩ. Cô là Madeleine, là Alexandra, và là Lunetta. Cô là mặt trăng bé nhỏ.

Sáng hôm sau, khi ông Katubi đang đứng trong quầy ở sảnh thì điện thoại reo. Ông nhìn xem phòng nào gọi đến rồi thở dài nặng nề. Ông nhấc máy thận trọng như một người lính công binh đang gỡ bom, ông đặt ống nghe lên tai.

“Chào buổi sáng ông Klemp”.

“Đương nhiên rồi, ông Katubi”.

“Ông có cần tôi mang hành lý giúp ông không?”

“Không cần sự giúp đỡ nào cả ông Katubi ạ. Có một sự thay đổi nhỏ trong kế hoạch. Tôi đã quyết định ở lại lâu hơn. Tôi đã bị nơi này bỏ bùa rồi”.

“Thật quý hóa cho chúng tôi”, ông Katubi nói một cách lạnh nhạt. “Thế ông định thuê phòng thêm bao nhiêu đêm nữa ạ?”

“Sẽ quyết định sau, ông Katubi. Cứ bình tĩnh, tôi sẽ báo lại cho ông”.

“Vâng, tôi sẽ chờ ông, ông Klemp”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14


CAIRO

Quinnell rầu rĩ nói. “Tôi chưa bao giờ tham gia vào những chuyện như thế này”. Lúc này đã quá nửa đêm; họ ngồi trong chiếc xe Fiat nhỏ quen thuộc của Quinnell. Bên kia sông Nile là trung tâm Cairo cực kỳ náo nhiệt, trong khi đó, khu Zamalek lại khá yên tĩnh. Họ mất hai giờ để đến đó. Gabriel quan sát đằng sau để chắc chắn rằng không bị theo dõi.

“Ông nhớ chính xác số phòng chứ ?”

“Tôi đã từng vào đó”, Quinnell nói. “Không phải như cậu nghĩ đâu, chỉ là đến dự một bữa tiệc của Mimi thôi. Cô ta sống ở căn hộ số 6A. Một địa chỉ khá quen thuộc đấy”.

“Ông chắc chắn là không có con chó nào trong nhà cô ta chứ?”

“Chỉ có một con mèo Thổ Nhĩ Kỳ giống Angora béo phì thôi. Tôi chắc rằng một người tự nhận mình là bạn của ngài Herr Heller vĩ đại sẽ chẳng gặp phải khó khăn gì để xử lý một con mèo béo ú cả. Mặt khác tôi phải giữ chân gã gác cổng người Nubia cao hai mét mốt nữa. Phải làm thế nào nhỉ?”

“Ông là một trong những nhà báo giỏi nhất thế giới mà, Quinnell. Chắc chắn ông có thể lừa được gã gác cổng đó”.

“Phải, nhưng công việc này đâu nằm trong chuyên môn của tôi”.

“Ông chỉ cần xem đây là một trò lừa bịp của tụi học sinh thôi mà. Nói với hắn ta là xe bị chết máy và cần sự trợ giúp. Cho hắn ít tiền. Năm phút thôi, vậy là đủ rồi. Ông hiểu chứ?”

Quinnell gật đầu.

“Và nếu ông bạn từ Cục tình báo Mubarat mò tới đây thì sao?”. Gabriel hỏi. “Ám hiệu sẽ là gì?”

“Hai tiếng còi ngắn, tiếp theo là một tiếng còi dài”.

Gabriel bước ra khỏi xe, băng qua đường và đi xuống những bậc đá dẫn ra cầu cảng. Anh dừng chân một lúc để ngắm nhìn cánh buồm góc cạnh và thanh mảnh của chiếc tàu feluc1đang chậm rãi lướt ngược dòng. Rồi anh quay lại và bước tiếp về hướng nam, trên vai khoác chiếc túi xách da sang trọng của ông Herr Klemp mà mình đang thủ vai. Đi thêm vài bước, những ô cửa trên cao của khu chung cư Mimi hiện ra. Một tòa nhà Zamalek cũ kỹ, vôi trắng với các ban công lớn hướng ra bờ sông.

Vừa qua khỏi chung cư được một trăm mét thì anh gặp một cầu thang khác dẫn ra đường quốc lộ. Trước khi bước lên cầu thang, Gabriel ngoái nhìn lại bờ sông để kiểm tra, nhưng cầu cảng hoàn toàn vắng bóng người. Anh leo lên bậc thang, băng qua đường, rồi bước vào một lối đi tối om chạy dọc phía sau khu chung cư. Nếu là lần đầu tiên đến đây, thể nào anh cũng đã lạc đường. Nhưng vì đã đi thám thính vào ban ngày nên anh biết chắc rằng chỉ một trăm ba mươi bước chân nữa, mình sẽ đến lối vào dành cho nhân viên phục vụ khu chung cư của Mimi Ferrere.

Dòng chữ bằng tiếng Arập KHÔNG PHẬN SỰ MIỄN VÀO được khắc trên cánh cửa kim loại. Gabriel liếc nhìn đồng hồ. Đúng như dự kiến, mất bốn phút ba mươi giây để đi đến đây. Anh kiểm tra chốt cửa, nó vẫn bị khóa như lúc sáng. Anh lấy từ ngăn bên hông của chiếc túi xách ra một cặp dụng cụ mỏng bằng sắt và dán mắt vào ổ khóa. Chỉ mười lăm giây, ổ khóa bị mở tung.

Anh đẩy nhẹ cánh cửa và nhìn vào bên trong. Một hành lang xi măng hẹp mở ra trước mắt anh. Phía cuối hành lang là một cánh cửa khép hờ, dẫn vào tiền sảnh. Gabriel rón rén bước lên và nép mình sau cánh cửa thứ hai. Anh nghe rõ cả giọng nói của David Quinnell vọng lại. Ông này đang cho gã gác cổng người Nubia hai mươi bảng để đẩy giúp chiếc xe hỏng của ông phía bên kia đường. Khi cuộc thỏa thuận đã xong, Gabriel quan sát xung quanh cánh cửa, vừa kịp thấy áo choàng của gã Nubia khuất sau màn đêm.

Anh bước vào tiền sảnh và dừng trước hộp thư. Hộp thư của căn hộ 6A ghi tên: M.FERRERE. Anh leo lên thang gác đến tầng sáu. Hai cây cọ cảnh nằm hai bên cửa ra vào. Gabriel áp tai vào cánh cửa gỗ nhưng không nghe thấy tiếng động gì ở bên trong. Anh lấy từ trong túi áo một công cụ trông như một chiếc dao cạo điện tử và rà khắp mép cửa. Đèn báo hiệu màu xanh lá cây nháy lên chứng tỏ không có thiết bị bảo vệ an ninh nào được cài trong ngôi nhà này cả.

Gabriel nhét gọn thiết bị đó vào trong túi áo và tra kẹp bẻ khóa vào ổ khóa. Vừa mới bắt đầu, anh nghe giọng phụ nữ vang lên từ cầu thang bên dưới. Anh vẫn bình tĩnh tiếp tục. Trong khi những ngón tay đang cố cảm nhận những thay đổi nhỏ nhất về sức ép và độ xoắn thì một phần trí não anh lại đang suy tính các khả năng xảy ra. Tòa nhà có mười một tầng. Và hiển nhiên xác suất người phụ nữ đó lên tầng sáu hoặc tầng trên nữa là khá lớn. Anh có hai sự lựa chọn: một là tạm ngưng công việc và đi xuống cầu thang ở tiền sảnh, hai là tìm một nơi ẩn nấp trên tầng cao hơn. Cả hai kế hoạch đều chứa đựng rủi ro. Những người phụ nữ đó sẽ nghi ngờ vì sự xuất hiện của một ngườiHải nước ngoài lạ mặt trong tòa nhà của mình. Và nếu ngẫu nhiên họ sống trên tầng cao nhất, anh có thể bị mắc kẹt ở đây mà không có đường thoát thân.

Gabriel quyết định tiếp tục công việc. Anh nghĩ đến những đợt tập huấn khắc nghiệt ở học viện, nghĩ đến hình ảnh Shamron đang đứng sau lưng cổ vũ anh như thể mạng sống của ông và cả đội phụ thuộc vào giây phút này. Giờ đây, anh có thể nghe rõ tiếng những đôi giày cao gót khua lộp cộp và trái tim anh như lạc nhịp khi nghe tiếng cười đùa phá lên.

Và rồi mật mã cuối cùng đã giải xong, Gabriel đặt tay lên khóa vặn và cảm thấy nhẹ nhõm khi cánh cửa bắt đầu xê dịch. Anh đẩy cửa vào trong, rồi đóng ngay lại vừa kịp lúc bọn họ đặt chân đến đầu cầu thang. Anh tựa lưng vào cánh cửa, nín thở lắng nghe những tiếng cười đùa lướt qua. Vũ khí duy nhất của anh chỉ là kẹp bẻ khóa. Đột nhiên anh cảm thấy ghét cái tính lẳng lơ của người phụ nữ ấy.

Anh khóa cửa lại. Anh lấy trong túi xách ra một chiếc đèn pin nhỏ bằng điếu xì gà hiệu Maglite và lia khắp phòng. Anh đang đứng trong một hành lang nhỏ, phía trước là phòng khách. Căn phòng lạnh lẽo và đơn điệu với đồ nội thất rẻ tiền và những chiếc gối đầy màu sắc. Nó khiến Gabriel mơ hồ nhớ lại khung cảnh tương tự ở câu lạc bộ đêm của Mimi. Anh bước chầm chậm về phía trước và đột ngột dừng lại khi ánh sáng rọi trúng một cặp mắt sáng quắc như đèn nêông. Con mèo ú mập của Mimi nằm cuộn mình trên chiếc ghế đệm dài. Nó nhìn Gabriel với vẻ thờ ơ rồi tiếp tục nằm yên và nhắm mắt lại.

Anh có rất nhiều thứ phải làm tất cả đã được sắp xếp theo mức độ quan trọng. Đầu tiên là chiếc điện thoại của Mimi. Anh tìm thấy chiếc đầu tiên trong phòng khách, nằm phía cuối bàn. Chiếc thứ hai nằm ở đầu giường ngủ, còn chiếc thứ ba trong căn phòng mà cô dùng để làm việc. Mỗi chiếc anh đều gắn một thiết bị nhỏ, mà theo thuật ngữ của Văn phòng, nó chỉ như một tấm thủy tinh, một loại thiết bị truyền tín hiệu có độ bao phủ cả chiếc điện thoại và căn phòng xung quanh nó. Nhờ phạm vi bao phủ trong bán kính một cây số, thiết bị này cho phép Gabriel sử dụng căn phòng của mình ở khách sạn InterContinental như một địa điểm thu tín hiệu.

Trong phòng làm việc, anh cũng tìm thấy mục tiêu thứ hai của mình, đó là chiếc máy tính của Mimi. Anh ngồi xuống, khởi động máy và nhét một chiếc đĩa vào trong ổ đĩa. Phần mềm cài tự động và bắt đầu thu thập những dữ liệu chứa trên ổ cứng: thư tín, văn bản, hình ảnh thậm chí cả những tập tin âm thanh và video.

Trong khi chờ tải dữ liệu, Gabriel đưa mắt nhìn xung quanh phòng làm việc. Anh đọc lướt qua chồng thư, mở các ngăn kéo, liếc qua tất cả xấp hồ sơ. Không có nhiều thời gian, anh chỉ kiểm tra sơ bộ đống hồ sơ này và cũng không phát hiện được gì.

Anh kiểm tra quá trình tải dữ liệu rồi đứng dậy và lia chiếc đèn pin Maglite khắp tường. Có vài khung ảnh treo trên tường. Hầu hết là các bức ảnh Mimi chụp với những người đẹp khác. Anh phát hiện ra một Mimi trẻ trung hơn trong một bức ảnh với tấm khăn trùm đầu kaffiyeh khoác trên vai. Bức ảnh được chụp ở Kim Tự Tháp Giza. Những khuôn mặt phản chiếu sắc đỏ của buổi chiều tà kia chính là những người theo thuyết duy tâm New Age (Tân Kỷ) đang cố cứu vớt thế giới khỏi hủy diệt nhờ vào sức mạnh tâm linh.

Bức ảnh thứ hai đập ngay vào mắt Gabriel. Đó là hình ảnh Mimi gối đầu trên chiếc gối màu hoa oải hương, mắt nhìn chằm chằm vào ống kính. Má cô áp vào khuôn mặt của một người đàn ông giả vờ ngủ. Chiếc mũ kéo sụp che kín đôi mắt, chỉ để hé lộ mũi, miệng và cằm anh ta. Gabriel biết rằng chừng đó đủ để các chuyên gia về nhận dạng khuôn mặt có thể xác định được một cách tương đối. Anh lấy ngay chiếc máy ảnh kỹ thuật số trong túi xách của ông Klemp và chụp lại bức ảnh đó.

Anh quay trở lại bàn làm việc. Việc tải dữ liệu đã hoàn tất. Anh lấy chiếc đĩa ra khỏi ổ và tắt máy. Sau đó anh liếc nhìn đồng hồ. Anh đã ở trong căn hộ này bảy phút, quá hai phút so với dự tính. Anh bỏ chiếc đĩa vào trong túi, bước ra cửa và ngừng lại một lát để quan sát trước khi bước ra ngoài.

Cầu thang trống không, tiền sảnh cũng vậy, trừ gã gác cổng người Nubia chúc Gabriel một đêm tốt lành khi anh đi ngang qua và bước xuống đường. Quinnell đang ngồi trên mui xe hút thuốc với vẻ mặt thờ ơ. Đúng phong cách một nhà báo chuyên nghiệp, ông ta không hề có chút phản ứng khi Gabriel rẽ trái và bắt đầu đi về phía cầu Tahrir.

Sáng hôm sau, ông Herr Klemp đổ bệnh. Sau khi nghe qua các triệu chứng, ông Katubi chẩn đoán đây là chứng rối loạn đường ruột do vi khuẩn trong tự nhiên gây ra và dự đoán nó sẽ kéo theo những cơn đau thắt. Tuy nhiên nó cũng sẽ nhanh chóng biến mất. Ông Klemp rên rỉ. “Cairo đã phản bội tôi. Tôi đã bị thành phố này quyến rũ và đây là cách nó đáp trả tình° yêu đó của tôi”.

Dự đoán của ông Katubi về sự hồi phục nhanh chóng hoàn toàn sai lầm. Cơn đau đường ruột đã hành ông Klemp suốt mấy ngày đêm. Bác sĩ được mời đến khám và kê toa nhưng dường như không đem lại hiệu quả gì. Ông Katubi dẹp ngay ác cảm đối với ông Klemp và đích thân đảm nhận trách nhiệm săn sóc vị khách này. Ông tự mình pha chế một bài thuốc gia truyền với thành phần gồm khoai tây nhuyễn luộc với nước chanh và muối trong suốt ba ngày liền.

Bệnh tật khiến thái độ ông Klemp dịu hẳn đi. Ông cởi mở với ông Katubi và thậm chí tỏ ra áy náy khi những người phục vụ phải cọ rửa cái phòng tắm hôi hám của mình. Thỉnh thoảng, khi bước vào phòng, ông Katubi thấy ông Klemp ngồi trên chiếc ghế bành cạnh cửa sổ, đôi mắt mệt mỏi hướng về phía bờ sông. Nhưng hầu như chỉ thấy ông nằm ủ rũ trên giường. Để giải tỏa bầu không khí ngột ngạt này, ông Klemp thường nghe nhạc và các bản tin tiếng Đức trên chiếc đài sóng ngắn qua chiếc tai nghe nhỏ để không làm phiền những người khác. Ông Katubi cảm thấy nhớ nhớ con người và tính cách khó chịu của ông Johannes Klemp trước đây. Đôi khi Katubi ngước lên khỏi quầy tiếp tân trên tiền sảnh và mong gặp lại vị khách người Đức gắt gỏng bước rầm rập ngang qua sàn cẩm thạch với vạt áo thẳng tưng và cái quai hàm cương lên đầy thách thức.

Vào buổi sáng đúng một tuần sau ông Klemp đổ bệnh, ông Katubi gõ cửa phòng và ngạc nhiên với giọng nói khỏe khoắn từ phía trong vọng ra. Ông mở khóa và bước vào. Ông Klemp đang đóng gói hành lý.

“Cơn đau đã dứt rồi ông Katubi ạ”.

“Ông có chắc không?”

“Chắc chắn như bất cứ người nào rơi vào hoàn cảnh tương tự như vậy”.

“Tôi lấy làm tiếc là Cairo đã đối xử với ông tệ như thế này, ông Klemp ạ. Tôi cho rằng quyết định kéo dài sự lưu trú của ông ở đây hóa ra lại là một sai lầm”.

“Có thể Katubi, nhưng tôi không phải là người cứ gặm nhấm mãi quá khứ và ông cũng không nên vậy”.

“Đó là một loại bệnh Arập, ông Klemp ạ”.

“Chuyện vặt vãnh thôi mà ông Katubi”. Ông Klemp đặt chiếc máy phát thanh sóng ngắn của mình vào túi xách và kéo khóa lại. “Sau cơn mưa trời lại sáng”.

Chiều hôm đó, ở Frankfurt trời mưa khá to. Viên phi công của hãng Lufthansa liên tục thông báo. Anh ta đã cảnh báo về tình hình thời tiết khi họ vẫn còn trên mặt đất ở Cairo, và lần thứ hai trong suốt chuyến bay, anh tiếp tục cung cấp những thông tin cập nhật buồn tẻ. Gabriel vẫn chăm chú lắng nghe cái giọng nói nặng nề của viên phi công. Nó khiến anh thôi không nhìn chằm chằm vào chiếc đồng hồ để tính toán thời gian xảy ra cuộc tàn sát những người dân vô tội tiếp theo của Khaled. Khi họ gần đến Frankfurt, anh dựa đầu vào tấm cửa kính và nhìn ra bên ngoài với hy vọng tìm thấy những tia sáng đầu tiên của đồng bằng Nam Đức, nhưng trước mặt anh u ám một màu đen. Chiếc máy bay lao thẳng vào những đám mây. Nhìn những vệt nước mưa giăng ngang đầy cửa sổ, Gabriel liên tưởng ngay đến những đợt bày binh bố trận của đội quân Khaled cho cuộc tấn công tiếp theo. Rồi đột nhiên, đường băng xuất hiện, một dải cẩm thạch đen bóng chầm chậm nuốt chửng lấy chúng.

Anh tìm một trạm điện thoại ở sân bay và quay số đến một công ty vận chuyển ở Brussels. Anh nhận mình là Stevens, một trong nhiều cái tên tự xưng trên điện thoại của anh và yêu cầu được nói chuyện với ông Parsons. Một loạt âm thanh lạch cạch và ậm ừ ở đầu dây bên kia, tiếp đó là giọng nữ lạnh nhạt nhẹ vang lên. Gabriel biết cô ta hiện đang ngồi tại phòng Kiểm soát hoạt động trong tổng hành dinh ở đại lộ King Saul.

“Anh cần gì?”, cô ta hỏi.

“Tôi muốn nhận dạng giọng nói”.

“Anh có bản ghi âm chứ?”

“Có”.

“Chất lượng như thế nào?”

Vì không muốn ai hiểu nội dung trao đổi, Gabriel dùng tiếng Do Thái cổ để trả lời ngắn gọn những yếu tố kỹ thuật về giọng nói mà anh đã ghi âm được.

“Anh vui lòng cho chạy bản ghi âm”.

Gabriel nhấn nút CHẠY và giữ máy ghi âm áp trên ống nói của điện thoại. Giọng nam, tiếng Pháp chuẩn.

“Là tôi đây. Hãy gọi cho tôi khi có thể. Không có gì gấp cả. Chào".

Anh hạ thấp chiếc máy ghi âm xuống và áp tai vào ống nghe lần nữa.

“Không trùng với hồ sơ nào cả”, người phụ nữ đó nói.

“Nhờ cô so lại với giọng âm chưa xác định mã số 698/D”.

“Anh chờ chút”. Một lát sau Gabriel đã nghe thấy điều mình mong muốn. “Trùng khớp”.

“Tôi cần số điện thoại gọi đến”.

Gabriel đặt cuộc chặn thứ hai vào. Sau đó nhấn nút CHẠY và giữ máy ghi âm áp vào điện thoại lần nữa. Đó là giọng của Mimi Ferrere thực hiện một cuộc gọi quốc tế từ chiếc điện thoại trong phòng làm việc của cô ta. Sau khi con số cuối cùng được nhấn, Gabriel nhấn nút dừng.

Người phụ nữ phía đầu bên kia đọc lại con số: 0033 9154 6798. Gabriel biết số 33 là mã nước của Pháp và 91 là mã vùng của Mác-xây.

“Hãy tìm cho tôi địa chỉ đó”, anh nói.

“Anh chờ chút”.

Hai phút sau người phụ nữ nói: “Số điện thoại đăng ký là của ông Paul Véran, ở số 56 đại lộ Rémy, Mác-xây”.

“Tôi cần xác định một giọng khác”.

“Chất lượng thế nào?”

“Vẫn như cũ”.

“Anh chạy bản ghi âm đi”.

Gabriel nhấn nút CHẠY, nhưng lần này giọng âm bị át đi bởi âm thanh của bản thông báo an ninh bằng tiếng Đức, nó réo inh ỏi ở đầu dây bên kia: Achlung! Achlung!. Khi tiếng ồn chấm dứt, anh nhấn nút CHẠY lần nữa. Lần này là giọng của một phụ nữ, nghe rất rõ.

“Em đây. Anh đang ở đâu vậy? Hãy gọi cho em khi có thể nhé. Yêu anh nhiều”.

Dừng.

“Không trùng hồ sơ nào cả”.

“So với giọng âm chưa xác định số 572/B”.

“Anh chờ chút”. Sau đó lại là một kết quả khả quan. “Trùng khớp”.

“Vui lòng ghi lại, đối tuợng của mã âm trên là Mimi Ferrere. Địa chỉ là 24 đường Brazil, căn hộ số 6A, Cairo”.

“Tôi đã ghi vào hồ sơ. Thời gian của cuộc gọi này là bốn phút ba mươi hai giây. Anh còn điều gì khác nữa không?”

“Tôi nhờ cô chuyển một tin nhắn cho Ezekiel”.

Ezekiel là mã điện thoại quốc tế cho ban Giám đốc điều hành.

“Lời nhắn là gì?”

“Người bạn của chúng ta đang ở Mác-xây. Chính là địa chỉ cô đã cho tôi”.

“Số 56 đại lộ Rémy phải không?”

“Đúng vậy“, Gabriel nói. “Tôi cần chỉ dẫn của Ezeikiel về nơi hành động”.

“Anh đang gọi từ sân bay Frankfurt phải không?”

“Phải”.

“Tôi sẽ kết thúc cuộc gọi này. Anh hãy chuyển sang một vị trí khác và gọi lại trong vòng năm phút nữa. Tôi sẽ có chỉ dẫn cho anh sau”.

Gabriel gác điện thoại. Anh đến sạp báo và mua một tạp chí tiếng Đức, sau đó đi một quãng ngắn qua sân bay đến một quầy điện thoại khác. Cũng cùng một số, cùng những tiếng lách cách, cùng một cô gái ở Tel Aviv.

“Ezekiel muốn anh trở về Rome”.

“Rome? Tại sao lại là Rome?”

“Anh biết là tôi không thể trả lời câu hỏi đó của anh mà”.

Không vấn đề gì. Gabriel đã biết câu trả lời là gì.

“Tôi nên đến đâu?”

“Căn hộ gần quảng trường Piazza di Spagna. Anh biết nó không?”

Gabriel biết căn hộ đó. Đó là một căn phòng an toàn và xinh xắn nằm không xa nhà thờ Trinità dei Monti là mấy.

“Có một chuyến bay từ Frankfurt đến Rome trong hai giờ nữa. Chúng tôi đã đặt vé cho anh”.

“Cô có muốn biết số thẻ khách hàng thường xuyên của tôi không?”

“Gì cơ?”

“Thôi bỏ đi”.

“Chúc chuyến đi an toàn “, cô gái nói và đường dây hoàn toàn mất tín hiệu.

Chú thích

________________________________________

1. Feluc: loại thuyền buồm nhỏ thường xuất hiện ở vùng Địa Trung Hải
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15


MÁC-XÂY

Lần thứ hai trong vòng mười ngày Paul Martineau lái xe từ Aix-en-Provence tới Mác-xây. Một lần nữa hắn bước vào quán cà phê trên con đường nhỏ Rue de Convalescents và trèo lên những bậc thang chật hẹp để đến căn phòng trên lầu một, và một lần nữa hắn được chào đón bởi một người mặc áo choàng dài chỉ trao đổi với hắn rất khẽ bằng tiếng Arập. Họ ngồi trên những chiếc gối may bằng vải lụa, dưới sàn căn phòng nhỏ. Gã đàn ông từ tốn nhồi thuốc lá ha-sít vào một tẩu thuốc và châm que diêm đang cháy vào bầu tẩu. Ở Mác-xây y được biết đến dưới cái tên Hakim el-Bakri, một người di dân mới đến từ Algiers. Martineau biết y qua một cái tên khác, Abu Saddiq. Martineau không gọi y bằng cái tên đó, cũng như Abu Saddiq không gọi Martineau bằng cái tên mà cha ruột hắn đã đặt cho hắn.

Abu Saddiq hút mạnh đầu ngậm của chiếc tẩu, rồi chìa nó về phía Martineau. Martineau hút một hơi dài và thở khói ra hai hàng mũi. Rồi hắn uống nốt tách cà phê. Một người phụ nữ đeo mạng che mặt tiến đến dọn cái tách không và đề nghị mang cho hắn một tách cà phê khác. Khi Martineau lắc đầu, người phụ nữ âm thầm bước ra khỏi phòng.

Hắn nhắm mắt tận hưởng làn sóng khoái cảm đang trào dâng trong cơ thể mình. Đúng theo kiểu của người Arập, hắn nghĩ - một hơi thuốc lá, một tách cà phê pha ngọt, cung cách phục vụ của một người đàn bà biết thân biết phận. Mặc dù đã được nuôi nấng để trở thành một quý ông người Pháp chân chính, dòng máu Arập vẫn chảy trong huyết quản của hắn và tiếng Arập vẫn là ngôn ngữ khiến hắn cảm thấy dễ chịu nhất. Đó là ngôn ngữ của thi ca, ngôn ngữ của chinh phạt và của sự chịu đựng khổ đau. Cuộc sống lưu vong, xa lìa đồng bào đôi khi trở thành nỗi đau không sao chịu nổi. Ở Provence, hắn sống giữa rất nhiều người giống như mình, nhưng hắn không thể giao thiệp với họ. Như thể hắn đã bị kết án phải sống vật vờ giữa họ, như một linh hồn vất vưởng ở giữa thế giới của con người. Chỉ có ở đây, trong căn phòng nhỏ của Abu Saddiq, hắn mới có thể xử sự đúng như con người thật của mình. Abu Saddiq hiểu điều này, và đó là lý do y không vội đi vào công việc. Y nhồi thêm thuốc lá vào tẩu thuốc và đánh một que diêm khác.

Martineau hút một hơi thuốc nữa, lần này sâu hơn lần trước, và giữ khói thuốc lại trong phổi cho tới khi phổi của hắn dường như sắp bị thiêu cháy. Lúc này tâm trí hắn đang bay bổng. Hắn thấy Palestine, không phải bằng mắt mà qua lời kể của những người đã thực sự nhìn thấy đất nước này. Martineau, giống như cha hắn, chưa bao giờ đặt chân về quê cha đất tổ. Những cây chanh và những bụi ô-liu - đó là hình ảnh trong trí tưởng tượng của hắn. Những dòng suối ngọt ngào và những đàn dê tràn xuống từ những ngọn đồi màu vàng nhạt của vùng Galilee. Phần nào giống vùng Provence, hắn nghĩ, trước khi người Hy Lạp kéo đến đây.

Những hình ảnh vỡ tan thành muôn ngàn mảnh, và hắn thấy mình lang thang qua những di tích đổ nát của các nền văn hóa Celtic và La Mã. Hắn đến một ngôi làng, một ngôi làng nằm trên thảo nguyên của Palestine - Beit Sayeed, như người ta vẫn gọi. Giờ đây chẳng còn lại gì ngoài một dấu chân trên lớp đất khô cằn. Martineau, trong ảo giác của mình, quỳ xuống và dùng thuổng đào lớp đất đó. Hắn chẳng thu được gì, không một dụng cụ hay một thứ đồ gốm, không một đồng xu hay một mảnh xương người. Có vẻ như dân tộc hắn đã hoàn toàn biến mất khỏi trái đất này.

Hắn cố mở mắt ra. Ảo ảnh biến mất. Sứ mệnh của hắn sẽ sớm được hoàn tất. Những kẻ đã sát hại cha và ông nội hắn sẽ phải đền tội; quyền thừa tự của hắn sẽ được phục hồi. Martineau luôn tin rằng mình sẽ không sống những ngày cuối đời dưới lốt của một người Pháp ở Provence nữa, mà sẽ là một người Arập ở Palestine. Đồng bào hắn, những người đang phải tha phương cầu thực ở khắp nơi trên thế giới, sẽ được trở về quê hương, và Beit Sayeed sẽ một lần nữa hồi sinh từ nấm mồ lạnh lẽo. Ngày tàn của bọn Do Thái đã tới gần. Chúng sẽ phải cuốn gói như những kẻ đã đến Palestine trước chúng - người Hy Lạp và người La Mã, người Ba Tư và người Assyria, người Thổ và người Anh. Martineau tin chắc rằng một ngày rất gần đây, hắn sẽ tìm kiếm những di tích cổ giữa đống đổ nát của một khu định cư Do Thái.

Abu Saddiq vừa kéo tay áo hắn và gọi hắn bằng tên thật. Martineau từ từ quay đầu lại và phóng ánh mắt như một lưỡi gươm vào Abu Saddiq. “Hãy gọi tôi là Martineau”, hắn nói bằng tiếng Pháp. “Tôi là Paul Martineau. Giáo sư Paul Martineau”.

“Vì lúc nãy anh thả hồn đi đâu xa quá”.

“Tôi thả hồn ở Palestine”, Martineau lẩm bẩm, giọng nói nhừa nhựa vì chất thuốc. “Beit Sayeed”.

“Tất cả chúng ta sẽ sớm được về đó thôi”, Abu Saddiq nói.

Martineau nở một nụ cười - không phải là một nụ cười kiêu ngạo mà là nụ cười của sự tự tin. Buenos Aires, Istanbul, Rome - ba vụ tấn công, tất cả đều được lên kế hoạch và thực hiện một cách hoàn hảo. Các nhóm hành động của hắn đã đưa chất nổ đến mục tiêu và biến mất mà không để lại bất kỳ dấu vết nào. Trong mỗi chiến dịch, Martineau đều ngụy trang bằng công việc khảo cổ và điều khiển chiến dịch thông qua một thiết bị ngắt mạch. Abu Saddiq được giao thực hiện chiến dịch Paris. Martineau đã thai nghén và lập kế hoạch; Abu Saddiq, từ quán cà phê ở quận Belsunce, chỉ là kẻ điều động những quân cờ theo lệnh của Martineau. Khi xong việc Abu Saddiq sẽ chịu chung số phận với những tên khủng bố khác mà Martineau đã sử dụng. Hắn đã rút ra bài học từ những sai lầm của cha ông hắn. Hắn sẽ không bao giờ để mình bị hạ trong tay một tên Arập phản bội.

Abu Saddiq lại đưa tẩu thuốc mời Martineau. Martineau nhấc tay ra hiệu từ chối. Rồi, với một cái gật đầu chậm rãi, hắn chỉ thị cho Abu Saddiq báo cáo kế hoạch lần cuối. Trong nửa giờ tiếp theo, Martineau ngồi im nghe Abu Saddiq nói: địa điểm bố trí các nhóm, các địa chỉ ở Paris nơi những trái bom đang được chuẩn bị, tình trạng tâm lý của ba shaheed. Abu Saddiq ngừng nói khi người phụ nữ đeo mạng che mặt vào rót thêm cà phê. Khi cô ta đi khỏi, Abu Saddiq báo cáo rằng thành viên cuối cùng trong nhóm sẽ đến Mác-xây trong hai ngày nữa.

“Cô ấy muốn gặp hắn”, Abu Saddiq nói. “Trước khi tiến hành chiến dịch”.

Martineau lắc đầu. Hắn biết cô gái này - họ đã từng là tình nhân của nhau - và hắn biết lý do cô ta đòi gặp hắn. Tốt nhất họ không nên gặp nhau vào lúc này. Nếu không Martineau có thể sẽ do dự về kế hoạch mà hắn đã sắp đặt cho cô ta.

“Chúng ta sẽ theo đúng kế hoạch ban đầu”, hắn nói. “Tôi sẽ gặp cô ta ở đâu?”

“Quán cà phê Internet nhìn ra cảng. Anh biết quán đó không?”

Martineau không lạ gì chỗ đó.

“Cô ấy sẽ tới lúc 12 giờ 30”.

Đúng lúc này, từ tòa tháp của một nhà thờ Hồi giáo gần đó, vị giáo sĩ báo giờ cất cao tiếng kêu gọi các tín đồ cầu nguyện. Martineau nhắm mắt khi những lời quen thuộc gột rửa tâm trí hắn.

Allah là đấng vĩ đại nhất. Con xin xác tín rằng không có thượng đế nào khác ngoài Allah. Con xin xác tín rằng Đức Muhammad là Tiên Tri của Allah. Hãy đến đây để cầu nguyện. Hãy đến đây để thành công. Allah là đấng vĩ đại nhất. Không có thượng đế nào khác ngoài Allah.

Khi lời kêu gọi cầu nguyện kết thúc, Martineau đứng dậy và chuẩn bị ra về.

“Hadawi đang ở đâu?” hắn hỏi.

“Zurich”.

“Hắn phải chịu một số trách nhiệm, phải không?”

Abu Saddiq gật đầu. “Tôi có nên thuyên chuyển hắn không?”

“Không”, Martineau đáp. “Giết hắn đi”.

Đầu óc Martineau đã được thanh tẩy khi hắn về tới Place de la Préfecture. Mọi thứ thật khác biệt ở phía bên này của Mác-xây, hắn nghĩ. Đường phố sạch sẽ hơn, các cửa hiệu phong phú hơn. Nhà khảo cổ Martineau không thể không suy nghĩ về bản chất của hai thế giới tồn tại sát bên nhau trong thành phố cổ kính này. Một bên tập trung vào lòng mộ đạo, bên kia tập trung vào niềm đam mê tiêu thụ. Một bên có nhiều trẻ con, bên kia coi trẻ con là một gánh nặng tài chính. Người Pháp, Martineau biết, chẳng bao lâu nữa sẽ trở thành thiểu số trên đất nước của chính họ, những lệ dân trên đất đai của chính họ. Trong tương lai không xa, một thế kỷ, có thể hơn một chút, nước Pháp sẽ trở thành một quốc gia Hồi giáo.

Hắn rẽ vào đại lộ Rémy. Có ba làn xe và được phân cách bởi một hàng chỗ đậu xe ở giữa, con đường hơi lên dốc hướng về một công viên nhỏ nhìn ra bến cảng cũ. Các tòa nhà hai bên đường đều được xây bằng đá xám và có chiều cao đều nhau. Những chấn song sắt bảo vệ các cửa sổ tầng trệt. Đa số những tòa nhà này là văn phòng làm việc của các luật sư, bác sĩ, nhà môi giới địa ốc. Xa hơn nữa về phía cuối đường là hai, ba nhà băng và một trung tâm thiết kế nội thất. Ở đầu đường, ngay tại rìa khu Place de la Préfecture là một cặp ki-ốt đối diện nhau - một bên bán báo, bên kia bán bánh xăng-uých. Ban ngày, có một cái chợ nhỏ hoạt động trên lề đường, nhưng lúc này, khi trời đã nhá nhem tối, những người bán hàng đều đã thu dọn phô-mai và rau tươi để trở về nhà.

Tòa nhà Số 56 hoàn toàn là nhà ở. Đại sảnh sạch sẽ, cầu thang rộng rãi có lan can gỗ và một tấm thảm trang trí mới. Căn hộ hoàn toàn trống rỗng ngoại trừ một chiếc trường kỷ đơn màu trắng và một máy điện thoại trên sàn nhà. Martineau cúi xuống, nhấc ống nghe, và quay số. Giọng nói của máy trả lời tự động vang lên, đúng như hắn mong đợi.

“Tôi đang ở Mác-xây. Gọi cho tôi nếu được”.

Hắn gác máy và ngồi xuống chiếc trường kỷ. Hắn cảm thấy khẩu súng của mình cồm cộm sau lưng. Hắn cúi người về phía trước và rút nó ra từ lưng quần jeans. Một khẩu Stechkin chín ly - khẩu súng của cha hắn. Trong nhiều năm sau khi cha hắn qua đời ở Paris, khẩu súng này nằm đóng bụi trong một kho tang vật của cảnh sát, chứng cứ của một vụ án sẽ không bao giờ được xét xử. Một nhân viên tình báo Pháp đã cuỗm khẩu súng mang sang Tunis vào năm 1985 và dùng nó làm quà tặng A’one. A’one trao lại nó cho Martineau.

Chuông điện thoại reo. Martineau nhấc máy.

“Ông Véran phải không?”. Giọng một phụ nữ đầy ngọt ngào.

“Mimi, tình yêu của tôi”, Martineau nói. “Thật hạnh phúc khi được nghe giọng nói của nàng”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16


ROME

Chiếc máy điện thoại đánh thức Gabriel. Cũng như mọi căn hộ an toàn bí mật khác, điện thoại trong căn hộ này không đổ chuông, chỉ có một ngọn đèn nhấp nháy, đỏ rực trong bóng tối như đèn hiệu xe cứu thương, nó biến mí mắt anh thành màu đỏ thẫm. Anh với tay cầm ống nghe đưa lên tai.

“Dậy đi”, tiếng Shimon Pazner vang lên ở đầu dây bên kia.

“Mấy giờ rồi?”

“Tám rưỡi”.

Gabriel đã ngủ mười hai tiếng.

“Mặc đồ vào. Nhân tiện anh đến đây, tôi muốn cho anh xem qua một thứ”.

“Tôi đã phân tích các tấm ảnh chụp, tôi đã đọc tất cả các bản báo cáo. Tôi không cần xem hiện trường tại chỗ”.

“Có đấy”.

“Tại sao?”

“Nó sẽ khiến anh nổi cơn thịnh nộ”.

“Thế thì được ích lợi gì?”

“Đôi khi chúng ta cần cơn thịnh nộ”, Pazner nói. “Tôi sẽ gặp anh ở cầu thang Galleria Borghese trong một giờ nữa. Đừng để tôi đứng đó một mình như thằng ngố đấy”.

Pazner gác máy. Gabriel trèo ra khỏi giường và đứng dưới vòi sen một lúc lâu, anh tự tranh luận về việc có nên cạo râu hay không. Cuối cùng anh quyết định chỉ tỉa lại nó. Anh mặc một trong những bộ com-lê đen của ngài Klemp và đến quán Via Voneto uống cà phê. Một tiếng đồng hồ sau khi kết thúc cuộc điện đàm với Pazner, anh đã bước dọc theo con đường rải sỏi dành cho người đi bộ dẫn tới cầu thang của tòa nhà viện triển lãm nghệ thuật nổi tiếng. Gã katsa ở địa bàn Rome đang ngồi hút thuốc lá trên một băng ghế làm bằng đá hoa cương ở vườn trước tòa nhà.

“Râu đẹp đấy”, Pazner nói. “Lạy Chúa, trông anh tởm quá”.

“Tôi đã tìm ra một lý do để có thể nằm lỳ một chỗ trong khách sạn ở Cairo”.

“Anh đã làm thế nào?”

Gabriel đáp. Bằng một dược phẩm thông thường mà nếu được sử dụng bằng cách tiêm thay vì uống, nó sẽ gây ra rối loạn tiêu hóa nặng, nhưng chỉ trong một khoảng thời gian ngắn”.

“Anh phải tiêm mấy liều?”

“Ba”.

“Đúng là một ông già tội nghiệp!”

Họ đi bộ về hướng bắc, băng qua các khu vườn. Pazner đi như đang dự lễ duyệt binh. Anh ta bước đều theo một tiếng trống tưởng tượng; Gabriel đi bên cạnh, mệt mỏi vì phải di chuyển và lo lắng quá nhiều. Trên vành đai của công viên, gần các khu vườn bách thảo là lối vào khu vực bị phong tỏa. Bốn ngày sau vụ đánh bom, giới truyền thông quốc tế vẫn cắm trại ở đây. Mặt đất ngổn ngang những đầu mẩu thuốc lá và ly cà phê giấy bị bóp nát. Gabriel thấy cảnh tượng này giống như một mảnh ruộng sau vụ thu hoạch hàng năm.

Họ tiến theo đường dốc của quả đồi, cho tới khi gặp một hàng rào phong tỏa tạm thời bằng thép được cảnh sát Ý và nhân viên an ninh Israel canh gác. Pazner cùng với người đồng hành có bộ râu kiểu Đức của anh lập tức được cho vào.

Vừa vượt qua hàng rào phong tỏa, họ đã thấy những dấu hiệu thiệt hại đầu tiên: cây thông tạc bằng đá đã bị quét sạch lá; các ô cửa sổ vỡ nát trong các ngôi biệt thự xung quanh đó; những mảnh kính vụn quăn queo như góc của một tờ giấy bị đốt. Thêm vài bước chân nữa, họ đã nhìn thấy hố bom, nó sâu ít nhất là ba mét và được bao quanh bởi một bờ nhựa đường cháy. Những tòa nhà ở gần tâm vụ nổ nhất chẳng còn lại gì nhiều; những cấu trúc móng sâu bên dưới vẫn đứng vững, nhưng các bề mặt nằm trong tâm vụ nổ đều bị cắt cụt, tưởng chừng như chúng chỉ là những ngôi nhà búp bê. Gabriel nhìn lướt qua một văn phòng vẫn còn đứng vững với những khung ảnh nguyên vẹn trên bàn và một phòng tắm có chiếc khăn bông vẫn còn treo trên mắc. Không khí nặng mùi hôi của tàn tro và, Gabriel nghĩ rằng có cả mùi da thịt cháy còn đọng lại. Từ sâu bên trong hiện trường, những chiếc máy xúc và xe ủi đất chạy ra, xích nghiến ken két và động cơ gầm rú. Hiện trường tội ác, cũng giống như xác chết của một nạn nhân trong vụ án giết người, đã cung cấp cho các nhà điều tra những manh mối cuối cùng nhưng lại vô cùng quan trọng. Bây giờ là lúc xoá dấu vết của hiện trường.

Gabriel ở lại lâu hơn dự tính. Không một tổn thương hay mối thù nào trong quá khứ, dù là thực tế hay tưởng tượng, không một mối bất hòa hoặc bất đồng chính trị nào có thể bào chữa cho một tội ác sát nhân man rợ như thế này. Pazner nói đúng - cảnh tượng này khiến anh phẫn nộ mãnh liệt. Nhưng còn có một thứ khác, nó còn hơn cả cơn giận. Đó là sự căm ghét. Gabriel quay trở ra và bắt đầu leo ngược lên đồi. Pazner im lặng theo sau.

“Ai bảo anh đưa tôi đến đây?”

“Đó là ý của tôi”.

“Ai?”

“Ông già”, Pazner nói khẽ.

“Tại sao?”

“Tôi không biết”.

Gabriel dừng bước. “Tại sao, Shimon?”

“Đêm qua Varash đã họp sau khi anh đặt vé máy bay ở Frankfurt. Hãy trở về căn hộ an toàn. Và chờ ở đó để nhận lệnh mới. Sẽ có người liên lạc sớm thôi”.

Nói dứt lời, Pazner băng qua đường và biến mất vào khu biệt thự Borghese.

Nhưng Gabriel không về căn hộ an toàn. Thay vì vậy, anh đi theo hướng ngược lại, đến vùng dân cư phía bắc của thành phố Rome. Anh gặp đường Via Trieste và đi theo nó về phía tây, cho tới khi thấy một quảng trường nhỏ và nhếch nhác mang tên Piazza Annabaliano.

Gabriel nhận thấy nó thay đổi rất ít so với ba mươi năm trước, khi nhìn thấy nó lần đầu tiên - vẫn những hàng cây u sầu đứng ở trung tâm quảng trường, vẫn những cửa hiệu tồi tàn nhắm vào thành phần khách hàng thuộc tầng lớp lao động. Và ở rìa phía bắc, nằm vắt ngang giữa hai con đường, vẫn là tòa nhà đó, có hình dạng như một miếng bánh ngọt, với đầu nhọn hướng về quảng trường và quán bar Trieste ở tầng trệt. Zwaiter từng dừng chân trong quán bar này để gọi điện trước khi lên lầu về phòng của y.

Gabriel băng qua quảng trường, luồn lách qua những chiếc xe hơi và xe gắn máy đậu bừa bãi ở khu vực trung tâm, anh bước vào tòa nhà qua một khung cửa có hàng chữ “Lối vào C”. Đại sảnh lạnh lẽo chìm trong bóng tối. Những ngọn đèn, Gabriel nhớ lại, được hoạt động dựa trên một bộ định giờ để tiết kiệm điện. Nhân viên giám sát tòa nhà ghi nhận rằng các cư dân của nó, bao gồm Zwaiter, hiếm khi bật đèn lên đây là một chi tiết rất quý báu đối với Gabriel, vì nó gần như đảm bảo cho anh có lợi thế là có thể làm việc trong bóng tối.

Bây giờ anh dừng chân trước thang máy. Bên cạnh thang máy là một tấm gương. Nhân viên giám sát đã cẩu thả bỏ qua, không đề cập đến chi tiết này. Đêm hôm đó, Gabriel, khi nhác trông thấy bóng mình trong gương, suýt nữa đã rút khẩu Beretta ra và bắn vào mình. Nhưng anh đã kịp trấn tĩnh lại. Lúc đó anh thò tay vào túi áo khoác, lấy ra một đồng xu và khom mình giả vờ nhét vào khe trả tiền của thang máy khi Zwaiter, mặc áo choàng len và ôm một chai rượu vang gói trong tờ giấy báo, bước qua Lối vào C lần cuối cùng trong đời y.

“Xin lỗi, ông có phải là Wadal Zwaiter?”

“Không! Xin đừng!”.

Gabriel để đồng xu rơi qua kẽ ngón tay. Trước khi nó chạm đất, anh đã rút khẩu Beretta ra và bắn được hai phát đạn đầu tiên. Một trong hai viên đạn xuyên qua gói giấy báo, làm vỡ tan chai rượu trước khi cắm vào ngực Zwaiter. Máu và rượu hòa vào nhau chảy tràn dưới chân Gabriel khi anh trút đạn vào tấm thân đang đổ gục của gã đàn ông người Palestine.

Lúc này anh đang nhìn vào tấm gương và thấy hình ảnh của chính mình trong đêm hôm đó, một thanh niên với gương mặt thiên thần trong chiếc áo khoác da, một nghệ sĩ trẻ không hề ý thức được rằng hành động mà anh ta sắp thực hiện sẽ thay đổi vĩnh viễn cuộc đời của mình. Anh đã trở thành một người khác. Kể từ đó anh sẽ mãi mãi là một người khác. Shamron đã quên báo trước với anh về điều đó. Ông dạy Gabriel cách rút súng và bắn trong vòng một giây đồng hồ, nhưng ông không chuẩn bị gì để anh đón nhận những điều sẽ xảy ra sau đó. Công việc đương đầu với bọn khủng bố trên mặt trận phải trả bằng một cái giá rất đắt. Nó làm thay đổi những người thực hiện nó, cùng với cộng đồng đã phái họ đi. Đó là vũ khí tối thượng của bọn khủng bố. Đối với Gabriel, sự thay đổi còn bộc lộ ngay trên khuôn mặt. Đến lúc cấp tốc trở về Paris để nhận nhiệm vụ mới, tóc ở hai bên thái dương anh đã bạc.

Anh nhìn vào gương lần nữa và thấy ngài Klemp với bộ râu rậm đang nhìn lại mình. Những hình ảnh của sứ mệnh hiện tại lấp loáng hiện lên trong tâm trí anh: một tòa đại sứ bị san phẳng, hồ sơ của chính anh, Khaled... Shamron đúng hay sai? Có phải Khaled đang gửi cho anh một thông điệp? Có phải hắn chọn Rome vì điều mà Gabriel đã làm ba mươi năm về trước, chính tại nơi này?

Anh nghe tiếng chân bước nhẹ nhàng sau lưng - một phụ nữ lớn tuổi, mặc trang phục đen của người góa chồng, tay ôm một túi nhựa chứa hàng tạp phẩm. Bà nhìn thẳng vào mặt anh. Gabriel, trong một giây, thoáng sợ rằng bằng cách nào đó bà đã nhận ra mình. Anh chúc bà một buổi sáng tốt lành và trở ra quảng trường chan hòa ánh nắng.

Đột nhiên Gabriel cảm thấy bồn chồn. Anh đi bộ theo đường Via Trieste, rồi vẫy tắc xi và bảo tài xế về quảng trường Piazza di Spagna. Bước vào căn hộ an toàn, anh thấy một tờ nhật báo La Repubblica số ra sáng hôm đó nằm trên sàn tiền sảnh. Ở trang sáu có một mẩu quảng cáo lớn in hình một chiếc xe thể thao của Ý. Gabriel nhìn kỹ mẩu quảng cáo và thấy rằng nó được cắt ra từ một số khác của tờ báo này và dán lên trang tương ứng. Anh tách các cạnh của trang báo được dán ra và phát hiện một mảnh giấy chứa đoạn văn bản đã được mã hóa của một thông điệp, được giấu giữa hai trang báo. Sau khi đọc xong, anh đốt mảnh giấy trong bồn rửa bát ở nhà bếp và lại đi ra ngoài.

Trên đường Via Condotti, anh mua một chiếc vali mới và dành một giờ kế tiếp cho việc mua sắm trang phục phù hợp với điểm đến tiếp theo. Anh trở về căn hộ an toàn vừa đủ thời gian để gói ghém hành lý vào chiếc vali mới, rồi đi ăn trưa ở nhà hàng Nino trên đường Via Borgognona. Đúng hai giờ anh đón tắc xi đến phi trường Fiumicino, và đúng năm giờ ba mươi, anh lên máy bay đi Sardinia.

Trong khi máy bay của Gabriel rời khỏi phi trường, Amira Assaf dừng xe trước cổng bệnh viện Stratford và trình thẻ nhân viên với người bảo vệ. Anh ta xem xét nó kỹ lưỡng, rồi vẫy tay ra hiệu cho cô ta đi tiếp. Cô ta vặn tay ga của chiếc môtô và chạy tiếp một phần tư dặm đường rải sỏi hướng về khu nhà chính của bệnh viện. Bác sĩ Avery vừa kết thúc ca trực, ông đang phóng nhanh về phía cổng trên chiếc Jaguar màu bạc đồ sộ của mình. Amira bấm còi và vẫy tay, nhưng ông không ngó ngàng gì đến cô ta mà chỉ cắm đầu chạy thẳng vào giữa lớp bụi mù.

Khu đậu xe dành cho nhân viên nằm ở sân sau. Cô ta chống xe, lấy giỏ xách ra khỏi ngăn chứa đồ dưới yên xe và đặt chiếc mũ bảo hiểm vào. Có hai nữ nhân viên vừa tan ca đang trên đường ra về. Amira chúc họ ngủ ngon, và dùng thẻ của mình để mở khóa lối vào giành cho nhân viên. Một chiếc đồng hồ lớn được treo trên tường ở đại sảnh. Cô ta tìm thấy thẻ chấm công của mình, thứ ba từ dưới lên, và bấm thẻ vào lúc 5 giờ 56 phút chiều.

Phòng thay quần áo cách đại sảnh vài bước chân. Amira vào trong và thay bộ đồng phục bao gồm quần trắng, giày trắng, và áo màu hồng đào mà bác sĩ Avery tin rằng nó có tác dụng giúp bệnh nhân có cảm giác yên tâm. Năm phút sau cô ta trình diện ở cửa sổ phòng điều dưỡng trưởng. Ginger Hall, tóc nhuộm vàng và môi đỏ thẫm, ngước lên nhìn và mỉm cười.

“Mới cắt tóc à, Amira? Trông hấp dẫn lắm. Lạy Chúa, tôi sẵn sàng đổi bất cứ thứ gì để có được mái tóc dày, đen nhánh của cô”.

“Chị có thể lấy nó, cùng với nước da nâu, đôi mắt đen, và tất cả những thứ chết tiệt khác đi kèm với nó”.

“Chớ nói nhảm, cưng à. Ở đây tất cả chúng ta đều là điều dưỡng, đều chỉ làm công việc của mình và cố gắng sống tử tế thôi”.

“Có thể, nhưng ở ngoài kia thì khác. Hôm nay chị có gì cho tôi?”

“Lee Martinson. Bà ấy đang ở trong nhà tắm nắng. Hãy đưa bà ấy trở về phòng. Chăm sóc bà ấy hết đêm nay”.

“Gã to con vẫn quanh quẩn bên bà ấy chứ?”

“Anh chàng vệ sĩ hả? Vẫn. Bác sĩ Avery đã cho phép anh ta ở đây một thời gian”.

“Tại sao một người như bà Martinson lại cần đến vệ sĩ?”

“Bí mật, cưng ạ. Tuyệt mật”.

Amira đi dọc theo hành lang. Giây lát sau cô ta bước qua cửa nhà tắm nắng. Ngay khi cô ta bước vào trong, hơi nước trong không khí quấn lấy cô ta như một chiếc chăn ướt. Bà Martinson đang ngồi trên chiếc xe lăn của bà, nhìn thẳng vào bức tường đen. Người vệ sĩ đứng bật dậy khi nghe thấy tiếng bước chân của Amira. Anh là một người đàn ông cao lớn, cơ bắp cuồn cuộn, tuổi trạc ngoài hai mươi, tóc cắt ngắn và có đôi mắt xanh. Anh nói bằng giọng Anh, nhưng Amira nghi ngờ anh không phải là người Anh chính gốc. Cô ta nhìn xuống bà Martinson.

“Trễ rồi, thưa bà. Đã đến lúc lên lầu và chuẩn bị đi ngủ”.

Cô ta đẩy chiếc xe lăn ra khỏi nhà tắm nắng, rồi đi dọc theo hành lang đến khu vực thang máy. Người vệ sĩ bấm nút gọi thang. Giây lát sau họ bước vào một khoang thang máy và lặng lẽ đi lên đến phòng của bà Martinson ở tầng bốn. Trước khi bước vào, Amira dừng lại và nhìn anh vệ sĩ.

“Tôi sẽ tắm cho bà ấy. Sao anh không đợi ở đây đến khi nào tôi xong việc?”

“Bà ấy đi đâu, tôi theo đó”.

“Tối nào chúng ta cũng tranh cãi về chuyện này. Người phụ nữ đáng thương này cũng xứng đáng được hưởng một chút riêng tư chứ?”

“Bà ấy đi đâu, tôi theo đó”, chàng vệ sĩ lặp lại.

Amira lắc đầu và đẩy chiếc xe lăn chở bà Martinson vào phòng. Người vệ sĩ im lặng theo sau.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17


BOSA, SARDINIA

Gabriel chờ họ liên lạc trong hai ngày. Khách sạn của anh nhỏ, nó được sơn màu hoàng thổ và tọa lạc trong một khu bến cảng cổ gần cửa biển, nơi con sông Temo đổ ra biển. Phòng của anh nằm ở tầng trên cùng và có một ban công nhỏ cùng với một hàng rào sắt. Anh ngủ dậy muộn nên quyết định ăn sáng tại phòng ăn, và dành hết buổi sáng cho việc đọc. Bữa trưa anh ăn món pasta với cá ở một nhà hàng trong khu cảng, rồi đi bộ dọc theo con đường dẫn ra bãi biển phía Bắc thành phố và trải chiếc khăn bông trên cát ấm để nằm ngủ thêm một chút. Sau hai ngày, ngoại hình của anh được cải thiện rõ rệt, lên cân, lấy lại sức, và phần da bên dưới đôi mắt trông không còn vàng vọt nữa. Thậm chí anh bắt đầu thích diện mạo mới của mình với hàm râu mà anh đã từng cho là đáng ghét.

Vào buổi sáng thứ ba, chuông điện thoại reo. Anh lắng nghe chỉ thị rồi gác máy mà không nói nửa lời. Anh tắm, thay quần áo và thu dọn hành lý, rồi xuống lầu để ăn sáng. Sau bữa sáng, Gabriel thanh toán tiền phòng, anh đặt chiếc túi xách vào cốp chiếc xe đã thuê ở Cagliari và lái về phía bắc, khoảng ba mươi dặm, đến thành phố cảng Alghero. Anh để chiếc xe lại trên đường ở nơi được chỉ thị, và đi bộ dọc theo một con hẻm tối dẫn thẳng ra mé nước.

Dina đang ngồi uống cà phê trong một quán trên bến cảng. Nàng đeo kính râm, mang xăng-đan, và mặc một chiếc áo đầm sát nách; mái tóc đen nhánh dài ngang vai của nàng lấp lánh dưới ánh sáng lung linh phản chiếu lên từ mặt nước. Gabriel đi xuống một cầu thang bằng đá và bước lên một chiếc xuồng máy có sơn chữ Fidelity, khởi động động cơ Yamaha chín mươi mã lực, và cởi dây cột chiếc xuồng. Giây lát sau Dina lên xuồng với anh và, bằng thứ tiếng Pháp khá sõi, bảo anh hướng về một chiếc du thuyền lớn màu trắng đang neo trên mặt biển màu lam ngọc, cách bờ biển khoảng nửa dặm.

Gabriel cho chiếc xuồng máy chầm chậm rời cảng. Sau đó, khi đã ra vùng nước rộng hơn, anh tăng tốc, lái xuồng như bay trên những gợn sóng nhẹ hướng về chiếc du thuyền. Khi anh tiến lại gần, Rami xuất hiện trên boong tàu, mặc quần soóc may bằng vải ka-ki và một chiếc áo sơ-mi trắng. Anh leo xuống bậc bơi và bàn tay chìa ra khi Gabriel đến nơi.

Cabin chính trông giống một bản sao thu nhỏ của đại bản doanh của nhóm ở tầng hầm đại lộ King Saul. Các bức vách treo đầy bản đồ cỡ lớn, những thiết bị điện tử trên tàu đã được tăng cường công nghệ liên lạc mà Gabriel chưa từng biết đến kể từ vụ ám sát Abu Jihad. Yaakov nhìn lên từ một màn hình máy tính và giơ tay chào. Shamron, trong trang phục quần ka-ki dài và một chiếc sơ-mi ngắn tay, đang ngồi bên bàn bếp. Ông đẩy cặp kính lão lên trán và nhìn Gabriel như nhìn một tài liệu hoặc một tấm bản đồ mới. “Chào mừng đến với Fidelity”, ông nói, “sự kết hợp độc đáo giữa Sở chỉ huy và căn hộ an toàn”.

“Ông kiếm đâu ra chiếc du thuyền này vậy?”

“Từ một người bạn bên Văn phòng. Tình cờ nó đang neo ở Cannes. Chúng tôi đưa nó ra biển và bổ sung thêm những thiết bị mà chúng ta cần cho chuyến đi của mình. Chúng tôi cũng đã đổi tên cho nó”.

“Ai chọn tên thế?”

“Tôi chọn đấy”, Shamron đáp. “Nó có nghĩa là lòng trung thành và chung thủy…”

“Và hết lòng với nhiệm vụ, hoặc nghĩa vụ, hoặc lời thề của mình”, Gabriel nói. “Tôi biết ý nghĩa của nó. Tôi còn biết lý do ông chọn nó. Nó có cùng một lý do với việc ông sai Shimon Pazner đưa tôi đến xem đống đổ nát của tòa đại sứ”.

“Tôi nghĩ việc anh được tận mắt chứng kiến quang cảnh ở đó là điều rất quan trọng. Đôi khi, lúc mà con người ta đã quá quen với chiến tranh và khủng bố, kẻ thù có thể trở thành một thứ gì đó trừu tượng, không còn đáng sợ nữa. Lúc đó ta sẽ rất dễ quên bản chất của chúng. Tôi cho rằng có thể anh cần được nhắc nhở một chút”.

“Tôi làm công việc này lâu rồi, Ari. Tôi biết bản chất kẻ thù của tôi, và tôi biết ý nghĩa của từ “trung thành“. Gabriel ngồi xuống bên bàn, đối diện với Shamron. “Tôi nghe nói Varash đã họp sau khi tôi rời khỏi Cairo. Tôi cho rằng quyết định của họ là điều hoàn toàn dễ hiểu”.

“Khaled đã để lộ tung tích”, Shamron nói, “và Varash đã tuyên án”.

Gabriel luôn là người thực hiện những bản án đó, nhưng anh chưa bao giờ hiện diện tại phiên tòa. Người ta có xét xử đàng hoàng, nhưng những phán quyết hầu như luôn luôn nghiêng về phía công tố, và phiên tòa được tổ chức dưới những điều kiện bí mật đến nỗi bị cáo không hề biết rằng y đang bị xét xử. Bị cáo không có luật sư bào chữa; số phận của y được định đoạt không phải bởi một bồi thẩm đoàn đồng hương với y mà bởi những kẻ thù không đội trời chung. Chứng cứ phạm tội không bao giờ bị bác bỏ. Còn chứng cứ ngoại phạm không có cơ hội được đưa ra. Không có biên bản tòa án nào được lập và bị cáo không có quyền kháng án. Chỉ có một mức án duy nhất, và nó không thể thay đổi.

“Vì tôi là nhân viên điều tra, ông không phiền nếu tôi trình bày quan điểm của mình về vụ án chứ?”

“Nếu cậu muốn thế”.

“Toàn bộ vụ án chống lại Khaled chỉ dựa trên sự suy diễn, nếu có sự thật, thì nó cũng vô cùng mỏng manh”.

“Chứng cứ phạm tội đã quá rõ”, Shamron nói. “Và chúng ta lần ra chứng cứ đó từ thông tin của một người Palestine”.

“Đó chính là điều khiến tôi lo lắng”.

Yaakov ngồi vào bàn cùng họ. “Mahmoud Arwish là một trong những tài sản quý nhất của chúng ta trong hàng ngũ chính quyền Palestine từ nhiều năm qua. Mọi điều hắn nói với chúng ta từ trước đến giờ đều là sự thật”.

“Nhưng ngay cả Arwish cũng không dám chắc gã đàn ông trong tấm ảnh đó là Khaled. Vụ án này giống như một bộ bài đồng hoa. Chỉ cần một lá bài không đúng, toàn bộ vụ án sẽ sụp đổ - và chúng ta sẽ kết thúc với một xác người nằm trên đường phố của nước Pháp”.

“Có một chi tiết mà chúng ta đã biết về ngoại hình của Khaled, đó là hắn giống ông nội hắn như đúc”, Shamron nói. “Tôi là người duy nhất trong căn phòng này từng đối diện với đương sự bằng xương bằng thịt, và tôi đã nhìn thấy y trong một hoàn cảnh mà tôi không thể nào quên”. Shamron giơ bức ảnh lên cho mọi người thấy. “Gã đàn ông trong bức ảnh này có thể là anh em song sinh của Sheikh Asad”.

“Điều đó vẫn chưa chứng minh được hắn là Khaled. Chúng ta đang nói về việc giết một con người đấy”.

Shamron đưa bức ảnh hướng trực tiếp về phía Gabriel. “Thế cậu có công nhận là nếu gã đàn ông này bước vào tòa nhà số 56 đại Lộ Rémy, thì hắn chính là Khaled al-Khalifa không?”

“Điều đó thì tôi công nhận”.

“Vậy thì chúng ta chỉ việc giám sát tòa nhà đó rồi chờ đợi. Và hy vọng rằng hắn sẽ chường mặt ở đó trước khi hắn kịp thực hiện cuộc tàn sát tiếp theo. Nếu hắn xuất hiện, chúng ta sẽ chụp ảnh khi hắn bước vào tòa nhà. Nếu các chuyên gia của chúng ta khẳng định hắn là kẻ mà ta đang tìm, chúng ta sẽ loại hắn ra khỏi cuộc chơi”. Shamron khoanh hai tay trước ngực. “Dĩ nhiên là còn có một phương pháp nhận diện khác - phương pháp mà chúng ta đã áp dụng trong chiến dịch Cơn thịnh nộ của Chúa”.

Một hình ảnh lóe lên trong ký ức của Gabriel.

“Xin lỗi, ông có phải là Wadal Zwaiter?”

“Không! Xin đừng!”

“Đối phương phải rất lạnh lùng mới có thể không phản ứng khi nghe gọi tên thật của mình trong một tình huống như thế”, Shamron nói. “Và còn phải lạnh lùng hơn để không thò tay rút súng khi đối diện với kẻ sắp giết mình. Dù cách nào chăng nữa, nếu đó đúng là Khaled, hắn sẽ tự xác nhận danh tính, và cậu sẽ không phải đắn đo gì nữa khi bóp cò”.

Shamron lại đẩy cặp kính lên trán. “Tôi muốn Fidelity thả neo ở Mác-xây vào lúc chập tối. Anh sẽ có mặt trên tàu chứ?”

“Chúng ta sẽ áp dụng mô hình Cơn thịnh nộ của Chúa”, Shamron bắt đầu. “Aleph, Bet, Ayin, Qoph. Nó có hai ưu điểm. Nó quen thuộc với cậu và rất hiệu quả”.

Gabriel gật đầu.

“Cố nhiên chúng ta sẽ phải có một số điều chỉnh nhỏ và kết hợp một số chi tiết lại với nhau nhưng một khi chiến dịch đã bắt đầu, cậu sẽ cảm thấy rất quen thuộc. Cậu, dĩ nhiên, sẽ là Aleph, người nổ súng, tay sát thủ. Các đội Ayin, tức những nhân viên theo dõi, đã bắt đầu vào vị trí. Nếu Khaled đến căn hộ đó, hai trong số các nhân viên theo dõi sẽ chuyển sang vai trò Bet và bảo vệ đường thoát thân của cậu”.

“Còn Yaakov?”

“Hình như hai người đã phát triển một mối quan hệ khá tốt. Yaakov sẽ là đội phó của cậu. Trong đêm hành động, nếu chúng ta gặp may, cậu ta sẽ là tài xế của cậu”.

“Còn Dina thì sao?”

“Qoph”, Shamron đáp. “Liên lạc. Cô ấy sẽ tham khảo ý kiến đại lộ King Saul về việc nhận diện mục tiêu. Cô ấy cũng sẽ đóng vai trò bat leveyha của Yaakov. Cậu sẽ giấu mặt trên thuyền cho tới lúc ra tay. Khi Khaled đã bị hạ, mọi người sẽ rời khỏi hiện trường theo các lộ trình khác nhau và nhanh chóng ra khỏi nước Pháp. Cậu và Yaakov sẽ đến Geneva và từ đó bay về nhà. Dina sẽ đưa chiếc tàu ra khỏi cảng. Một khi cô ấy đã ra khơi, chúng ta sẽ đưa một nhóm nhân viên lên tàu và đưa nó về nhà”.

Shamron trải tấm bản đồ khu vực trung tâm thành phố Mác-xây lên mặt bàn. “Chúng ta đã đặt sẵn một chỗ cho anh ở đây” - ông gõ gõ lên tấm bản đồ bằng ngón tay trỏ mập mạp - “ở phía đông khu cảng cũ, dọc theo bờ kè Rive-Neuve. Đại lộ Rémy nằm ở đây”, một cú gõ nữa, “cách sáu dãy phố về phía đông. Nó chạy từ Place de la Préfecture về phía nam, đến Jardin Pierre Puget - Vườn Pierre Puget”.

Shamron đặt một bức không ảnh vệ tinh chụp con đường lên trên tấm bản đồ.

“Nói thật, nó là con đường lý tưởng cho chiến dịch của chúng ta. Tòa nhà số 56 nằm ở đây, trên lề đường phía đông. Nó chỉ có một lối vào duy nhất, và điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ không thể đón hụt Khaled nếu hắn mò đến. Như cậu đã thấy trên bức ảnh, con đường này rất đông đúc, nó lắm xe cộ, nhiều người trên các lối đi bộ, còn các cửa hiệu và văn phòng. Có thể nhìn thấy lối vào ngôi nhà số 56 từ bãi đất rộng phía trước Palais de Justice. Công viên này là nhà của những người vô gia cư. Hiện nay chúng ta đã có hai nhân viên theo dõi ở đó”.

Shamron điều chỉnh góc độ của bức ảnh.

“Nhưng đây mới là điểm quan sát lý tưởng nhất, bãi đậu xe payage nằm ngay giữa lộ. Vị trí này hiện nay đang thuộc về chiếc xe thuê của một nhân viên theo dõi. Chúng ta có năm chiếc xe khác. Tất cả đều được trang bị máy quay phim mi-ni độ nét cao. Các máy quay sẽ truyền hình ảnh về bằng tín hiệu vô tuyến mã hóa. Bộ giải mã duy nhất nằm trong tay các anh”.

Shamron gật đầu với Yaakov, và anh bấm nút. Một màn ảnh truyền hình plasma lớn từ từ mọc lên từ dưới sàn khu vực giải trí.

“Chúng ta sẽ theo dõi lối vào tòa nhà từ đây”, Shamron nói. “Các nhân viên theo dõi sẽ xoay vòng những chiếc xe theo thứ tự lộn xộn để đề phòng Khaled hoặc người của hắn để mắt đến khu payage. Họ sẽ tính toán thời gian rất kỹ và phối hợp thật hoàn hảo để khi một chiếc xe rời khỏi vị trí, chiếc xe tiếp theo sẽ lập tức trám chỗ”.

“Thật tài tình”, Gabriel lẩm bẩm.

“Thật ra đó là đề nghị của Yaakov. Cậu ta từng thực hiện nhiệm vụ này ở những nơi khó ngụy trang các đội theo dõi hơn rất nhiều”. Shamron đốt một điếu thuốc lá. “Cho cậu ấy xem chương trình máy tính đi”.

Yaakov ngồi xuống trước một chiếc máy tính xách tay và gõ một lệnh. Một phiên bản hoạt hình của Đại lộ St. Rémy và các đường xung quanh xuất hiện trên màn hình.

“Vì chúng đã biết mặt cậu nên cậu sẽ không thể rời khỏi tàu cho tới lúc ra tay. Điều đó có nghĩa là cậu không thể tự mình làm quen với địa điểm hành động. Nhưng ít nhất cậu có thể làm quen với nó tại đây. Công nghệ mới đã tạo ra thứ này, nó sẽ cho phép cậu đi bộ qua đại lộ Rémy ngay tại đây, trong phòng khách của tàu Fidelity”.

“Không hoàn toàn giống nhau đâu”.

“Công nhận”, Shamron nói, “nhưng chúng ta phải hài lòng với nó”. Ông lại chìm vào một khoảnh khắc im lặng trầm ngâm. “Vậy điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta nhìn thấy một gã đàn ông Arập, khoảng ba mươi lăm tuổi, bước vào tòa nhà Số 56?”. Ông bỏ lửng câu hỏi trong vài giây, rồi tự trả lời. “Cậu và Dina sẽ quyết định đó có phải là hắn hay không. Nếu có, cậu sẽ gửi tín hiệu về đại lộ King Saul theo một đường truyền bảo mật. Sau đó cậu truyền đoạn video về. Nếu hài lòng, chúng tôi sẽ ra lệnh hành động. Cậu và Yaakov sẽ rờiFidelity và di chuyển về phía Place de la Préfecture bằng xe môtô - tất nhiên là Yaakov lái xe, cậu ngồi phía sau. Cậu sẽ tìm một nơi nào đó để đợi hắn trở ra. Có thể là ngồi ngay trong công viên hoặc uống bia trong một quán cà phê trên lối đi bộ. Nếu hắn ở trong đó lâu, cậu sẽ phải đi tiếp. Đó là một khu dân cư bận rộn có thói quen thức khuya. Cả hai cậu đều là những người dày dạn kinh nghiệm. Các cậu biết phải làm gì. Khi Dina thấy Khaled bước ra khỏi ngưỡng cửa cô ấy sẽ phát tín hiệu cho cậu bằng vô tuyến. Cậu phải trở lại đại lộ Rémy trong thời gian không quá ba mươi giây”.

Shamron từ tốn dụi điếu thuốc.

“Tôi không quan tâm liệu hành động này có diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật hay không”, ông nói bằng giọng đều đều. “Tôi không quan tâm nếu hắn có bạn đi cùng. Tôi cũng không quan tâm nếu có đông người chứng kiến vụ ám sát này. Khi Khaled al-Khalifa bước ra khỏi tòa nhà đó, tôi muốn cậu hạ hắn ngay lập tức”.

“Còn đường thoát?”

“Đi lên theo đại lộ Notre-Dame, qua đường du Prado. Chạy về hướng đông với tốc độ cao. Nhóm Ayin sẽ chuẩn bị sẵn một chiếc xe hơi cho các cậu trong bãi đậu xe của sân vận động Vélodrome. Sau đó chạy sang Geneva nhanh nhất có thể. Chúng tôi sẽ đưa cậu tới một căn hộ an toàn ở đó và cậu sẽ phải tiếp tục di chuyển đến khi nào mọi việc đã yên ổn”.

“Bao giờ chúng tôi rời khỏi Sardinia?”

“Ngay bây giờ”, Shamron nói. “Hãy đi lên phía bắc, hướng về đảo Corsica. Ở góc tây nam của hòn đảo là cảng Propriano. Từ đó có phà đi Mác-xây. Các cậu sẽ bám theo nó qua biển Địa Trung Hải. Đó là một hành trình chín giờ đồng hồ từ Propriano. Các cậu sẽ cập cảng sau khi trời tối và đăng ký với ban quản lý cảng. Sau đó liên lạc với các nhân viên theo dõi và thiết lập đường truyền với các máy quay giám sát”.

“Còn ông?”

“Điều mà cậu không cần nhất ở Mác-xây là một ông già như tôi. Rami và tôi sẽ chia tay cậu ở đây. Tối mai chúng tôi sẽ trở về Tel Aviv”.

Gabriel nhặt bức ảnh vệ tinh chụp đại lộ Rémy và nghiên cứu nó một cách cẩn trọng.

“Aleph, Bet, Ayin, Qoph”, Shamron nói. “Sẽ giống hệt vụ ám sát trước đây thôi”.

“Phải”, Gabriel đáp. “Làm gì có trục trặc nào xảy ra được?”

Yaakov và Dina ở lại chờ trên tàu Fidelity trong khi Gabriel đưa Shamron và Rami lên bờ. Rami nhảy lên cầu tàu và giữ chặt chiếc xuồng để Shamron từ từ leo lên.

“Chỉ một lần này nữa thôi”, Gabriel nói. “Lần cuối cùng. Sau lần này là chấm hết”.

“Tôi tin là cả hai chúng ta sẽ được hoàn toàn nghỉ ngơi sau vụ này”, Shamron đáp. “Anh sẽ về nhà, chúng ta sẽ cùng chào đón tuổi già”.

“Chúng ta đã già rồi”.

Shamron nhún vai. “Nhưng chưa quá già cho một trận chiến cuối cùng”.

“Tôi không nghĩ vậy”.

“Nếu cậu có cơ hội bóp cò, đừng do dự. Hãy làm tròn bổn phận của mình”.

“Với ai?”

“Tất nhiên là với tôi”.

Gabriel cho xuồng quay đầu và rời khỏi cảng. Anh ngoái đầu nhìn lại và thấy Shamron đang đứng bất động trên cầu tàu với một cánh tay giơ cao thay cho lời chào tạm biệt. Khi anh ngoái lại lần thứ hai, ông già đã biến mất. Fidelity đã nhổ neo. Gabriel mở hết tốc lực phóng theo chiếc du thuyền ấy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18


MÁC-XÂY

Trong vòng hai mươi bốn giờ sau khi Fidelity cập cảng Mác-xây, Gabriel đã hình thành một cảm giác căm thù cùng cực đối với tòa nhà số 56 đại lộ Rémy. Anh ghét những cánh cửa, then cửa và cả khung cửa. Anh căm thù những tảng đá xám đã tạo nên ngôi nhà và những chấn song sắt trong các khung cửa sổ tầng trệt. Anh hận tất cả những ai đi ngang qua ngôi nhà đó, nhất là những gã đàn ông trạc ba mươi tuổi có vẻ là người Arập. Nhưng hơn hết, anh căm ghét tất cả khách trọ trong tòa nhà: gã đàn ông lịch lãm mặc chiếc áo ngắn tay mang nhãn hiệu Cardin hành nghề luật sư tại một văn phòng cũng nằm trên con đường này; bà già tóc bạc sáng nào cũng dắt chó đi dạo trên lề đường; và người phụ nữ trẻ tên Sophie luôn lấy việc mua sắm làm lẽ sống. Người phụ nữ này khiến anh liên tưởng đến Leah thời còn xuân sắc.

Họ thay phiên nhau theo dõi màn ảnh. Họ cứ quan sát một giờ lại nghỉ hai giờ. Mỗi người trình diễn một tư thế riêng độc đáo trong khi theo dõi. Yaakov liên tục hút thuốc và cau mày nhìn trừng trừng vào màn ảnh, dường như anh có thể làm cho Khaled xuất hiện bằng sức mạnh của ý chí. Dina thì ngồi trên trường kỷ trong tư thế thiền, hai chân xếp bằng, hai bàn tay đặt trên đầu gối, hoàn toàn bất động ngoại trừ ngón tay trỏ bên phải của nàng thỉnh thoảng gõ nhịp. Còn Gabriel, người đã quen với việc đứng hàng giờ trước biểu tượng mà anh tôn thờ, thì chậm rãi đi qua đi lại trước màn hình, bàn tay phải chống cằm, bàn tay trái đỡ khuỷu tay phải, đầu ngoẹo về một bên. Nếu Francesco Tiepolo xứ Venice đột ngột ghé thăm tàu Fidelity, chắc hẳn ông sẽ nhận ra tư thế của Gabriel, vì đó chính là tư thế của ông khi cân nhắc xem một bức tranh đã hoàn tất hay chưa.

Việc đổi chỗ của những chiếc xe theo dõi tạo ra một khoảng lặng nhẹ nhõm giữa những giờ theo dõi nặng nề và căng thẳng. Đội Ayin phối hợp với nhau hoàn hảo với độ chính xác của một bản ba-lê. Chiếc xe thế chỗ tiến vào khu đậu xe từ phía nam. Chiếc xe cũ lùi ra và chạy đi, trong khi chiếc xe mới lập tức lướt nhẹ vào chỗ trống. Có lần hai nhân viênAyin còn cố tình va quẹt vào nhau và cãi cọ lớn tiếng nhằm tăng thêm sức thuyết phục đối với những tay quan sát của phía bên kia. Luôn luôn tồn tại vài giây căng thẳng khi chiếc máy quay phim cũ vụt tắt và chiếc máy quay mới chưa kịp truyền tín hiệu về. Gabriel chỉ cần ra lệnh điều chỉnh góc độ và tiêu cự của máy quay khi cần và mệnh lệnh sẽ được thực hiện ngay tức khắc.

Mặc dù phải đóng vai tù nhân của tàu Fidelity, Gabriel vẫn ra lệnh cho Dina và Yaakov sinh hoạt như những du khách bình thường. Anh ghép hai hoặc ba phiên theo dõi làm một để họ có đủ thời gian ăn trưa ở một nhà hàng nào đó trong khu cảng hoặc có thể viếng thăm những thắng cảnh của thành phố bằng xe môtô. Yaakov tận dụng cơ hội này để thử lái xe theo lộ trình đào tẩu tại nhiều thời điểm khác nhau trong ngày nhằm làm quen với mật độ giao thông ở đây. Dina mua sắm trang phục ở một trong những khu phố chợ dành cho người đi bộ hoặc diện một bộ áo tắm và nằm tắm nắng trên boong tàu. Cơ thể nàng còn in đậm những dấu ấn của đêm ác mộng tại quảng trường Dizengoff, một vết sẹo dày màu đỏ nằm vắt ngang trên nửa bụng bên phải của nàng, một vết sẹo khác, dài và nhăn nheo, chạy dọc theo phần đùi phía trong bên phải. Trên các đường phố Mác-xây nàng che đậy chúng bằng quần áo, nhưng trên boong tàu Fidelity, nàng chẳng buồn che giấu chúng trước ánh mắt của Gabriel và Yaakov.

Ban đêm, Gabriel ra lệnh chia mỗi phiên theo dõi dài ba giờ để những người không theo dõi được giấc ngủ nhiều hơn. Nhưng anh sớm hối hận về quyết định này, vì ba giờ dường như dài vô tận. Đường phố ban đêm vắng lặng như tờ. Mỗi hình nhân thoáng xuất hiện trên màn ảnh đều có vẻ vô cùng khả nghi. Để thoát khỏi sự buồn chán, Gabriel thì thầm vài lời chào các nhân viên Ayin đang trực theo dõi trong công viên phía trước Palais de Justice - hoặc nhắn với nhân viên trực ở phòng Trực ban chiến dịch tại đại lộ King Saul rằng anh cần thử đường truyền qua vệ tinh, chỉ để được nghe một giọng nói từ quê hương.

Dina là người thay ca cho Gabriel. Sau khi cô đã yên vị trong tư thế ngồi thiền trước màn ảnh, anh trở về phòng và cố ngủ, nhưng trong đầu lúc nào cũng lởn vởn hình ảnh cảnh cửa; hoặc Sabri đang đi bộ đọc theo đại lộ Germain với bàn tay thọc vào túi quần tình nhân của y; hoặc những người Arập ở làng Beit Sayeed bỏ nhà cửa chạy tháo thân; hoặc Shamron, đứng trên cầu tàu ở Sardinia, nhắc nhở anh về bổn phận. Và đôi khi anh tự hỏi liệu ông còn có đủ sự lạnh lùng cần thiết để bước đến bên một gã đàn ông đang đứng trên đường và trút vào cơ thể hắn những mẩu kim loại lạnh lẽo. Trong những khoảnh khắc tự ám ảnh như vậy, anh thấy mình hy vọng Khaled không bao giờ đặt chân lên đại lộ Rémy. Rồi anh lại nhớ đến hình ảnh đống đổ nát của tòa đại sứ ở Rome, và mùi da thịt cháy đọng lại trong không khí như những linh hồn chết chóc, và anh thấy cái chết của Khaled, rực rỡ và vinh quang, trong dáng vẻ bất động yêu kiều như một tác phẩm của Bellini. Anh sẽ giết Khaled. Khaled không cho anh sự lựa chọn nào khác, và vì vậy, Gabriel căm ghét hắn.

Đêm thứ tư Gabriel trằn trọc không thể ngủ được. Lúc bảy giờ bốn mươi lăm phút sáng, anh trở dậy để chuẩn bị cho phiên theo dõi lúc tám giờ của mình. Anh uống cà phê trong bếp và nhìn trân trối tờ lịch treo trước cửa tủ lạnh. Mai là kỷ niệm ngày Beit Sayeed bị hủy diệt. Hôm nay là ngày cuối cùng. Anh bước vào phòng khách. Yaakov, chìm trong khói thuốc lá, đang nhìn trừng trừng vào màn hình. Gabriel vỗ vai Yaakov và bảo anh đi ngủ vài giờ. Anh đứng yên trong vài phút, uống nốt tách cà phê, rồi trở về với tư thế quen thuộc của mình - bàn tay phải chống cằm, bàn tay trái đỡ khuỷu tay phải - và đi qua đi lại trên tấm thảm trước màn ảnh. Tay luật sư bước ra khỏi cửa vào lúc tám giờ mười lăm. Mười phút sau bà lão đi ra. Con chó nhỏ của bà ị ngay trước máy quay của Gabriel. Sophie, hóa thân của Leah, là người cuối cùng ra khỏi nhà. Nàng dừng lại trước cửa một lát để lấy cặp kính râm từ trong xắc tay ra đeo lên mắt và uyển chuyển lướt ra khỏi ống kính một cách đẹp mắt.

“Trông anh kinh khủng quá”, Dina nói. “Nghỉ đêm nay đi. Yaakov và em sẽ trực thay cho anh”.

Lúc này trời mới chạng vạng tối; bến cảng yên ắng ngoại trừ tiếng trống dồn dập của nhạc techno-pop Pháp phát ra từ một chiếc du thuyền khác. Gabriel vừa ngáp dài vừa thú nhận với Dina rằng anh bị mất ngủ nên chỉ ngủ rất ít kể từ khi họ đến Mác-xây. Dina đề nghị anh uống thuốc ngủ.

“Thế nếu Khaled xuất hiện khi tôi đang nằm bất tỉnh nhân sự trong phòng thì sao?”

“Có lẽ anh nói đúng”. Cô ngồi xếp bằng trên trường kỷ và dán mắt vào màn ảnh. Lối đi bộ của đại lộ Rémy thật nhộn nhịp vào đầu buổi tối với rất đông khách bộ hành. “Thế tại sao anh không ngủ được?”

“Cô có thực sự cần tôi giải thích không?”

Cô vẫn không rời mắt khỏi màn ảnh. “Vì anh lo hắn sẽ không đến? Vì anh lo anh sẽ không có cơ hội bắn hắn? Vì anh sợ tất cả chúng ta sẽ bị phát hiện và bị bắt?”

“Tôi không thích công việc này, Dina. Chưa bao giờ thích cả”.

“Chẳng có ai trong chúng ta thích nó cả. Nếu chúng ta thích, người ta sẽ loại chúng ta ra khỏi lực lượng ngay. Chúng ta làm công việc này vì chúng ta không có sự lựa chọn nào khác. Chúng ta phải làm vì bọn chúng buộc chúng ta làm. Nói em nghe nào, Gabriel. Điều gì sẽ xảy ra nếu ngày mai bọn chúng quyết định ngừng đánh bom, đâm chém và bắn giết? Sẽ có hòa bình, đúng không? Nhưng chúng không muốn hòa bình. Chúng muốn tiêu diệt chúng ta. Điểm khác biệt duy nhất giữa POL và Hitler là POL thiếu quyền lực và phương tiện để thực hiện một cuộc tận diệt người Do Thái. Nhưng chúng đang tìm cách thay đổi điều đó”.

“Có một sự khác biệt rõ rệt về luân lý giữa người Palestine và bọn Quốc Xã. Động cơ của Khaled chứa đựng một mức độ công lý nhất định. Chỉ có phương tiện mà hắn lựa chọn là sai trái và phi đạo đức thôi”.

“Công lý à? Khaled và dân tộc của hắn đã có rất nhiều cơ hội để đạt được hòa bình, nhưng bọn chúng không muốn. Động cơ của hắn là sự tuyệt diệt của chúng ta. Nếu anh tin rằng hắn muốn hòa bình, là anh đang tự lừa dối mình đấy”. Nàng trỏ vào màn ảnh. “Nếu hắn mò đến con phố đó, anh có bổn phận đúng đắn, chính xác hơn là hợp đạo lý, đảm bảo rằng hắn sẽ không bao giờ rời khỏi được nơi đó để tiếp tục giết chóc và gây thương tật cho những người vô tội. Anh phải làm việc đó, Gabriel, nếu không thì, xin Chúa giúp sức, em sẽ làm thay anh”.

“Thật ư? Cô thật sự nghĩ rằng cô có thể giết hắn một cách lạnh lùng, ngay tại đó, giữa đường phố ư? Cô có thể bóp cò súng một cách dễ dàng đến thế sao?”

Cô im lặng một lúc, mắt dán chặt vào những hình ảnh nhấp nháy trên màn hình. “Bố em đến từ Ukraine”, cô nói. “Kiev. Ông là thành viên duy nhất trong gia đình ông còn sống sót sau chiến tranh. Những người còn lại đã bị lùa đến Babi Yar và bị bắn chết cùng với ba mươi ngàn người Do Thái khác. Khi chiến tranh kết thúc, ông đến Palestine. Ông lấy tên Do Thái là Sarid, nghĩa là phần còn sót lại. Ông cưới mẹ em, và họ sinh được sáu đứa con, mỗi đứa đại diện cho một triệu người đã bị giết hại ở Shoah. Em là con út. Họ đặt tên em là Dina: báo thù”.

Tiếng nhạc đột ngột lớn lên, rồi tắt hẳn. Sau khi nhạc tắt, tất cả những âm thanh còn lại là tiếng sóng vỗ vào mạn tàu. Mắt Dina đột nhiên nhắm lại, như thể cô đang nhớ về một nỗi đau thể chất. Ánh mắt cô vẫn đóng khung hình ảnh đại lộ Rémy, nhưng Gabriel có thể thấy rằng đường Dizengoff mới là nơi đang chiếm lĩnh tâm trí cô.

“Sáng ngày 19 tháng 10 năm 1994, em đang đứng ở góc đường Dizengoff và Queen Esther cùng mẹ và hai người chị gái. Khi chiếc xe buýt Số 5 đến, em hôn mẹ và các chị và đứng nhìn họ leo lên xe. Trong lúc cửa xe vẫn còn chưa đóng lại, em nhìn thấy hắn”. Nàng dừng lời và ngoảnh lại nhìn Gabriel. “Hắn ngồi ngay sau lưng người tài xế, với một cái giỏ xách đặt giữa hai chân. Hắn nhìn em. Hắn có khuôn mặt thật ưa nhìn. Không, em nghĩ, điều đó không thể xảy ra. Không phải chiếc xe buýt Số 5 trên đường Dizengoff. Bởi vậy em đã không nói gì. Cánh cửa đóng lại, và chiếc xe bắt đầu lăn bánh”.

Đôi mắt cô giờ đây đã chứa chan dòng lệ. Cô úp hai bàn tay lên vết sẹo trên chân nàng.

“Thằng bé ấy đã mang theo thứ gì trong túi xách, em đã nhìn thấy nhưng không nói gì? Hắn mang theo một quả mìn Ai Cập, đó là thứ hắn đựng trong túi xách. Hắn có hai mươi kilôgam chất nổ quân sự TNT và những cây đinh cài bên trong quả mìn đều được nhúng trong thuốc diệt chuột. Ánh chớp lóe lên trước, và theo sau là tiếng nổ. Chiếc xe buýt văng lên cao vài mét rồi rơi trở lại xuống mặt đường. Em ngã lăn ra đất. Em nhìn thấy mọi người đang la hét xung quanh em, nhưng không nghe thấy gì - sóng chấn động đã làm tổn thương hai màng nhĩ của em. Em thấy một cẳng chân người nằm ngay bên cạnh em, trên mặt đường. Em tưởng nó là của em, nhưng rồi em nhìn thấy cả hai chân em vẫn còn dính liền với thân mình. Cẳng chân đó là của một người trên xe buýt”.

Gabriel, trong khi lắng nghe câu chuyện của cô, đột nhiên nghĩ về Rome; khi anh đứng cạnh Shimon Pazner và chứng kiến đống đổ nát đã từng là tòa đại sứ Israel. Anh tự hỏi không biết sự hiện diện của Dina trên tàu Fidelity có phải là một trùng hợp ngẫu nhiên, hay Shamron đã cố tình phái cô đến đây như một lời nhắc nhở sống về tầm quan trọng của sứ mệnh mà anh phải thực hiện?

“Những người cảnh sát đầu tiên đến hiện trường đã không chịu nổi cảnh tượng máu me tung tóe khắp nơi và mùi khét của da thịt cháy. Họ khuỵu gối xuống và nôn thốc nôn tháo. Trong khi em nằm đó, chờ người đến giúp, những giọt máu bắt đầu nhỏ giọt xuống người em. Em nhìn lên và thấy máu cùng những mảnh thịt da lủng lẳng trên cây xoan. Sáng hôm đó đã có mưa máu trên đường Dizengoff. Rồi các giáo sĩ ở nhà thờ Hevra Kadisha xuất hiện. Họ thu nhặt những mảnh xác người lớn nhất bằng tay, kể cả những mảnh vụn trên cây. Rồi họ dùng nhíp gắp những mảnh nhỏ nhất. Em đã tận mắt theo dõi các giáo sĩ nhặt những mảnh còn sót lại của mẹ và hai chị của em bằng nhíp và cho chúng vào một túi nhựa dẻo. Đó là thứ mà gia đình em đã chôn cất. Những mảnh vụn. Những phần còn sót lại”.

Cô vòng tay quanh hai chân và kéo đầu gối về dưới cằm. Gabriel đến ngồi cạnh cô bên trường kỷ và chăm chú quan sát màn ảnh để đảm bảo rằng họ không bỏ lỡ điều gì. Bàn tay anh với sang tay cô. Cô nắm lấy nó khi những giọt nước mắt đua nhau lăn xuống hai gò má.

“Em tự trách mình. Nếu em biết thằng bé dễ thương đó là Abdel Rahim al-Souwi, thành viên của Lữ Đoàn Izzedine al-Qassam của POL, em đã có thể cảnh báo cho mọi người. Nếu em biết anh ruột của Abdel đã bị hạ trong một cuộc đọ súng với IDF vào năm 1989, em đã có thể hiểu lý do hắn leo lên chiếc xe buýt Số 5 của khu vực Bắc Tel Aviv với một cái túi xách đặt dưới chân. Em đã quyết định rằng em sẽ đánh trả bọn chúng, không phải với một khẩu súng, mà là với bộ óc của em. Em đã thề rằng lần sau khi nhìn thấy bọn chúng, em sẽ nhận ra, và em sẽ cảnh báo mọi người trước khi quá trễ. Đó là lý do em tình nguyện gia nhập vào các hoạt động của Văn phòng. Và đó cũng chính là lý do em có thể xác lập mối liên hệ giữa Rome và Beit Sayeed. Em biết bọn chúng còn rõ hơn bọn chúng tự biết mình”.

Một dòng nước mắt nữa tuôn xuống. Lần này Gabriel lau khô nó.

“Tại sao hắn giết mẹ và các chị của em, anh Gabriel? Có phải vì chúng ta đã chiếm đất đai của hắn? Có phải vì chúng ta là những kẻ chiếm đóng? Không, đó là vì chúng ta muốnhòa bình. Nếu em căm thù chúng, anh phải hiểu cho em. Nếu em cầu xin anh ra tay không chút khoan dung đối với Khaled, anh phải thông cảm cho tội lỗi ấy. Em là Dina Sarid, phần còn sót lại để báo thù. Em là một triệu nạn nhân. Và nếu tối nay Khaled tìm đến đây, anh không được để hắn thoát lên chiếc xe buýt đó”.

Lev đề nghị Shamron sử dụng một căn hộ tuyệt đối an toàn ở Jerusalem nhưng ông lịch sự từ chối. Thay vào đó, ông ra lệnh cho Tamara tìm một cái giường xếp trong nhà kho và yêu cầu Gilah gửi tới một vali quần áo sạch và dao cạo râu. Cũng như Gabriel, trong tuần qua ông ngủ rất ít. Nhiều lần ông đã suốt đêm đi tới đi lui trên các hành lang hoặc ngồi bên ngoài hút thuốc với các vệ sĩ Shabak. Nhưng chủ yếu ông nằm trên chiếc giường xếp, mắt dán chặt vào những con số màu đỏ của chiếc đồng hồ điện tử trên bàn và nhẩm tính số phút còn lại trước ngày kỷ niệm thời điểm Beit Sayeed bị phá hủy. Ông lấp đầy những giờ chờ đợi trống rỗng bằng cách nhớ lại những chiến dịch đã qua. Chờ đợi. Luôn luôn là chờ đợi. Một số điệp viên đã phát điên vì nó. Với Shamron, chờ đợi có tính chất gây nghiện, giống như những nỗi đau đầu tiên của một tình yêu mãnh liệt. Những khoảnh khắc như lên cơn sốt, những cơn ớn lạnh bất thình lình, cảm giác quặn thắt của dạ dày - ông đã vô số lần trải qua tất cả những thứ đó trong bao nhiêu năm qua. Trong những con hẻm tối tăm ở Đamát và Cairo, trên những đường phố nhộn nhịp của Châu Âu, và trên một khu đất hoang ở vùng ngoại ô Buenos Aires, nơi ông đã chờ đợi Adolf Eichmann, kiến trúc sư trưởng của Holocaust - chiến dịch tận diệt người Do Thái của Đức Quốc Xã, bước ra khỏi chiếc xe buýt, vào giữa vòng vây của những người mà y đã ra sức thủ tiêu. Đây là thời điểm thật thích hợp để kết thúc mọi chuyện, Shamron nghĩ. Một đêm thức trắng cuối cùng. Một khoảnh khắc chờ đợi cuối cùng để nghe chuông điện thoại reo. Cuối cùng, khi nó reo, thứ âm thanh điện tử chói tai đó tưởng chừng như một bản nhạc du dương rót vào tai ông. Ông nhắm mắt lại và để chuông reo thêm một hồi nữa. Rồi ông với tay vào trong bóng tối và nhấc ống nghe đưa lên tai.

Đồng hồ điện tử trên màn ảnh truyền hình cho biết lúc này là không giờ hai mươi bảy phút sáng. Lẽ ra đây là ca trực của Yaakov, nhưng không ai ngủ được trong đêm cuối cùng này. Tất cả họ cùng ngồi trên trường kỷ trong phòng khách, Yaakov cau mày với dáng vẻ đối đầu như thường lệ, Dina trong tư thế ngồi thiền, còn vẻ mặt của Gabriel như thể đang chờ đợi một lời phán quyết về một cái chết được báo trước. Đêm nay đại lộ Rémy yên ắng hơn mọi ngày. Đôi tình nhân lướt qua cánh cửa lúc 0 giờ 27 phút là những người đầu tiên xuất hiện dưới ống kính trong gần mười lăm phút qua. Gabriel ngoảnh lại nhìn Dina, người có ánh mắt như đã bị khóa chặt vào màn ảnh.

“Cô thấy cảnh vừa rồi chứ?”

“Em thấy rồi”.

Gabriel đứng dậy và đi tới bộ điều khiển, lấy cuộn băng video ra khỏi máy thu và đặt một cuộn băng mới vào thế chỗ. Rồi anh cho cuộn băng quay cảnh vừa rồi vào máy phát lại và trả băng, bấm nút PLAY trong khi Dina nhìn qua vai anh. Đôi tình nhân bước vào khung hình và đi qua cánh cửa mà không liếc mắt nhìn qua nó.

Gabriel bấm nút STOP.

“Hãy xem cách hắn dìu cô gái đi về phía bên phải của hắn, hướng ra đường. Hắn sử dụng cô ta như một lá chắn sống. Và hãy nhìn bàn tay phải của hắn. Nó thọc vào túi quần sau của cô gái, giống hệt như Sabri”.

REWIND. PLAY. STOP.

“Lạy Chúa”, Gabriel nói, “hắn di chuyển giống hệt như cha hắn”.

“Anh chắc chứ?”

Gabriel bước tới máy điện đàm và gọi cho nhân viên theo dõi bên ngoài Palais de Justice./p>

“Anh có thấy đôi tình nhân vừa đi qua tòa nhà không?”

“Có”.

“Bây giờ họ đang ở đâu?”

“Chờ chút”. Một khoảnh khắc im lặng trong khi người nhân viên Ayin thay đổi vị trí. “Đi dọc theo con đường, về phía các khu vườn”.

“Anh theo họ được không?”

“Đường dưới đó vắng lắm. Tôi nghĩ là không nên”.

“Chết tiệt thật”.

“Chờ chút đã”.

“Sao?”

“Chờ chút”.

“Có chuyện gì vậy?”

“Họ đang quay lại”.

“Anh chắc chứ?”

“Có vẻ thuận lợi đấy. Họ đang đi ngược trở lại”.

Gabriel nhìn lên màn ảnh đúng lúc cặp tình nhân tái xuất hiện trong khung hình, lần này từ hướng ngược lại. Người phụ nữ vẫn đi phía ngoài, gần với con đường, và bàn tay gã đàn ông vẫn thọc trong túi quần jeans của cô ta. Họ dừng lại trước cửa tòa nhà số 56. Gã đàn ông rút từ trong túi ra một chiếc chìa khóa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
610,854
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19


SURREY, ANH QUỐC

Tại bệnh viện Stratford, đồng hồ chỉ hơn mười giờ tối khi Amira Assaf bước ra khỏi thang máy và đi dọc theo hành lang tầng bốn. Vòng qua khúc quanh thứ nhất, ả thấy người vệ sĩ, đang ngồi trên một chiếc ghế bên ngoài phòng của bà Martinson. Anh ta nhìn lên khi Amira tiến lại và gấp cuốn sách mà anh đang đọc.

“Tôi cần kiểm tra lại xem bà ấy ngủ có được thoải mái không”, Amira nói.

Người vệ sĩ gật đầu và đứng dậy. Anh không ngạc nhiên về yêu cầu của Amira. Trong suốt một tháng qua đêm nào ả cũng ghé qua phòng này.

Ả mở cửa phòng và bước vào trong. Người vệ sĩ theo sau và đóng cửa. Một ngọn đèn ngủ được mở ở mức tối nhất tỏa ra một thứ ánh sáng dịu dàng. Amira bước đến bên giường và nhìn xuống. Bà Martinson đang ngủ say. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên - Amira đã cho bà sử dụng gấp đôi liều thuốc an thần bình thường. Bà sẽ thiếp đi trong nhiều giờ.

Amira sửa lại cái chăn, rồi mở ngăn kéo trên cùng của chiếc bàn đặt bên cạnh giường. Khẩu súng, một khẩu Walther chín ly đã được gắn sẵn ống hãm thanh, nằm chính xác tại vị trí mà ả đã đặt nó vào hồi chiều, khi bà Martinson còn ở trong nhà tắm nắng. Ả cầm chặt báng súng, rồi quay phắt lại và chĩa nòng súng vào ngực người vệ sĩ. Anh ta thò tay vào bên trong áo khoác bằng một động tác nhanh như tia chớp. Nhưng trước khi anh ta rút được bàn tay và khẩu súng ra ngoài, Amira đã bắn hai phát, theo đúng kỹ năng bắn đúp của một tên sát nhân được đào tạo bài bản. Cả hai phát đạn đều trúng vào phần ngực trên. Người vệ sĩ bật ngửa và ngã vật xuống sàn phòng. Amira bước tới và bắn thêm hai phát nữa.

Ả hít sâu nhiều hơi để đè nén cảm giác say sóng đang tràn qua cơ thể. Rồi ả bước tới máy điện thoại và gọi một số nội bộ trong bệnh viện.

“Phiền anh nhắn Hamid đến phòng bà Martinson được không? Có một tấm trải giường cần được dọn trước khi xe tải lên đường”.

Ả gác máy, rồi xốc nách người đàn ông vệ sĩ đã chết và kéo anh ta vào phòng tắm. Tấm thảm ướt đẫm máu. Amira không lo ngại về chuyện này. Dự định của ả không phải là che giấu tội ác, mà chỉ là trì hoãn việc phát hiện ra nó thêm vài giờ.

Có tiếng gõ cửa.

“Ai đấy?”

“Hamid đây”.

Ả mở khóa và mở cửa. Hamid đẩy vào một chiếc xe đẩy của bộ phận giặt ủi.

“Cô không sao chứ?”

Amira gật đầu. Hamid đẩy chiếc xe đến bên giường trong khi Amira giở chăn và tấm trải giường ra. Bà Martinson nằm bất động, phô bày tấm thân yếu ớt đầy sẹo. Hamid nâng thân mình, còn Amira nắm hai chân bà, và chúng cùng nhau đặt bà lên chiếc xe đẩy một cách nhẹ nhàng. Amira giấu bà dưới một lớp tấm trải giường.

Ả bước ra hành lang để đảm bảo là không có ai bên ngoài, rồi ngoái lại nhìn Hamid và ra hiệu cho hắn đi theo. Hamid đẩy chiếc xe ra khỏi phòng và tiến về phía thang máy. Amira đóng cửa phòng, rồi nhét chìa khóa vào lỗ khóa và bẻ gãy nó.

Ả theo kịp Hamid ở thang máy và bấm nút gọi thang. Khoảnh khắc chờ đợi dường như kéo dài vô tận. Khi cuối cùng cánh cửa mở ra, chúng đẩy chiếc xe vào khoang thang máy trống rỗng. Amira bấm nút xuống tầng trệt, và chúng từ từ đi xuống.

Đại sảnh ở tầng trệt không có ai. Hamid đẩy xe ra trước và rẽ phải, hướng về cửa ra sân sau. Amira bám theo sau. Bên ngoài, một chiếc xe tải đang chờ sẵn với cửa khoang chở hàng phía sau mở toang. Bên hông xe có sơn tên một công ty giặt ủi địa phương. Người tài xế mọi khi đang nằm dưới một rặng cây sồi cách bệnh viện hai dặm với một viên đạn nằm trong cổ họng.

Hamid nâng cái giỏ đựng đồ giặt lên khỏi chiếc xe đẩy và nhẹ nhàng đặt nó vào khoang phía sau xe, rồi đóng cửa và leo lên ghế hành khách phía trước. Amira nhìn chiếc xe lăn bánh, rồi trở vào trong và đi bộ đến phòng điều dưỡng trưởng. Ginger đang trực ở đó.

“Ginger, tối nay tôi thấy không được khỏe lắm. Chị có thể lo liệu mọi chuyện giúp tôi không?”

“Không thành vấn đề, cưng à. Cô cần người đưa về không?”

Amira lắc đầu. “Tôi vẫn chạy xe được. Tối mai gặp lại chị nhé”.

Amira bước vào phòng thay quần áo dành cho nhân viên. Trước khi trút bỏ bộ đồng phục, ả giấu khẩu súng vào balô. Rồi ả thay quần jeans với một chiếc áo len dày và một chiếc áo khoác da. Giây lát sau ả đã đi bộ băng qua sân sau với cái balô khoác trên lưng.

Ả trèo lên chiếc môtô và đề máy, rồi tăng ga chạy qua sân. Khi vòng qua sau lưng tòa nhà cổ, ả ngước nhìn cửa sổ phòng bà Martinson: một ngọn đèn ngủ tỏa ánh sáng dịu dàng, không hề có một dấu hiệu khả nghi nào cả. Ả phóng dọc theo con đường và dừng lại trước trạm kiểm soát. Người nhân viên bảo vệ trực trạm chúc ả ngủ ngon, rồi mở cổng. Amira rẽ ra đường và kéo mạnh tay ga. Mười phút sau ả chạy dọc theo đường môtô A24, hướng về phía nam để ra biển.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom