Cập nhật mới

Dịch Khúc Cầu Hồn

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Khúc Cầu Hồn

Khúc Cầu Hồn
Tác giả: John Hart
Tình trạng: Đang cập nhật




Thể loại: Trinh Thám 
Nguyên tác: The Last Child
Dịch giả: Phạm Thiện 
Công ty phát hành Alphabooks  
Nhà xuất bản: NXB Thời Đại  
Trọng lượng vận chuyển (gram): 660 
Kích thước: 14.5 x 20.5 cm  
Ngày xuất bản: 04-2011  

Chứng kiến người mẹ biến thành cái xác không hồn, kiệt quệ vì người em gái bé nhỏ mất tích là Johnny Merrimon mười hai mười hai tuổi đã quyết định dùng tấm bản đồ cỏ của toàn bang truy tìm tung tích người em gái.

Câu sẽ đi tìm em bất chấp sự kiểm soát của một nhân viên cảnh sát trong thị trấn - viên thám tử cảnh sát Clyde Hunt. Ông dành mọi tâm sức và thời gian để tìm kiếm cô em gái của Johnny và biết được những chỗ nào ám muội có vẻ là nơi khả nghi dẫn tới manh mối vụ án. Nhưng có lẽ thám tử Hunt không thể hình dung được Johnny đã đi xa đến mức nào để khám phá ra sự thật về vụ mất tích của em gái - Alyssa. Và ông Hunt cũng không mường tượng nổi ông tìm thấy gì khi tìm ra nơi cất giấu bí mật vụ án...

Khi đọc Khúc Côn Cầu độc giả sẽ bắt gặp rất nhiều hình ảnh gây ám ảnh cho người đọc. Bằng ngôn ngữ của mình John Hart đã vẽ nên bức tranh phong cảnh vùng Đông nam nước Mỹ, với những đường chân trời xa tít, choáng ngợp và đẹp mê người. Bên cạnh đó, nội tâm của từng tuyến nhân vật cũng được tác giả soi rọi dưới góc nhìn nhân ái và đầy yêu thương để rồi tạo nên một tuyệt tác trầm hùng và đầy sức ám ảnh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1-1: Mở đầu


Nhựa đường cắt ngang miền đồng quê như một vết sẹo dài do vệt lẹm sắc ngọt của cái dao cạo gây ra. Hơi nóng chưa xoắn quyện vào trong không khí, nhưng người tài xế biết chẳng mấy chốc điều đó sẽ xảy ra, ánh nắng nóng rát như đổ lửa, ở một nơi xa ánh sáng như một vệt xanh bị nén xuống. Ông chỉnh lại cặp kính mát, liếc mắt nhìn lên gương chiếu hậu lớn ở tít phía trên kính chắn gió. Chiều dài chiếc xe bus và toàn bộ hành khách đều hiện ra. Ba mươi năm qua, ông đã thấy vô khối loại người qua cái gương ấy: từ những cô nàng xinh xắn tới những gã đàn ông khánh kiệt, những gã say khướt và những kẻ điên rồ, cả những cô nàng ngực bự nóng bỏng và những đứa trẻ nhăn nhúm. Người tài xế có thể tiên liệu vấn đề cả dặm từ xa, ông có thể phân biệt ai bình thường và kẻ bỏ nhà đi hoang.

Ông nhìn một thằng nhóc.

Cậu nhóc này trông như kẻ bỏ nhà đi hoang.

Da bong tróc khỏi mũi cậu, nhưng dưới lớp da sạm nắng là vẻ xanh xao vàng bủng do thiếu ngủ hoặc suy dinh dưỡng, hoặc cả hai. Xương gò má nhô cao dưới lớp da bị kéo dãn hết cỡ. Cậu bé còn nhỏ, độ mười tuổi, mái tóc hoang dại mọc đen trên đầu. Mái tóc cắt không đều lởm chởm, như thể cậu tự cắt cho mình. Quần áo sờn rách từ cổ áo sơ mi và từ đầu gối quần jeans. Đôi giày gần như mòn vẹt. Trên đùi, cậu kẹp chặt cái ba lô màu xanh, và không biết những gì chứa đựng trong đó, cũng không nhiều lắm.

Cậu nhóc trông khá kháu khỉnh, nhưng điều gây ấn tượng nhất với người tài xế là đôi mắt cậu. To và đen thẫm, chúng di chuyển liên tục như thể cảnh giác cao độ với mọi người xung quanh, với cái xe bus cà khổ đầy ích các thể loại người vào một buổi sáng nóng nực của vùng đồi cát Bắc Carolina: nửa tá là người lao động tha phương, vài tay cãi nhau nhìn giống cựu quân nhân, một hoặc hai gia đình, vài người lớn tuổi, một vài tay anh chị choai choai xăm trổ đầy mình tụ họp ở xóm nhà lá tít phía đằng sau.

Đôi mắt cậu bé thường chú ý vào gã đàn ông ngồi hàng ghế đối diện, một người buôn bán chào hàng đầu tóc bóng mượt trong bộ vest nhăn nhúm và đôi giày lười nứt nẻ. Chỗ đó cũng có một người da đen với quyển Thánh Kinh quăn mép và hộp soda kẹp giữa đùi, có vẻ ông ta cũng bắt được cái nhìn của cậu nhóc. Đằng sau ghế cậu là một bà cụ mặc bộ váy da cừu. Khi bà vươn người về phía trước hỏi câu gì đó, cậu bé chỉ khẽ lắc đầu và trả lời cẩn trọng:

Thưa bà không.

Lời của cậu lan nhẹ lên cao như khói tỏa, và bà già an vị trở lại, những ngón tay với đường gân xanh sờ soạng trên sợi dây xích giữ cặp mắt kính. Bà nhìn qua cửa sổ và tròng mắt kính loé chớp, rồi chuyển sang đen thẫm khi chiếc xe rẽ vào con đường rợp bóng cây với những hàng thông xanh vút. Cũng ánh sáng này rọi vào trong xe bus, và người tài xế quan sát người đàn ông mặc bộ vest nhăn dúm. Da ông ta xanh xao và mồ hôi vã ra do chưa tỉnh rượu, đôi mắt nhỏ hí lạ thường và một sự bồn chồn căng thẳng của hắn làm người tài xế chột dạ. Cứ mỗi một hoặc hai phút, ông ta lại cựa quậy trong ghế. Ông ta ngồi bắt chéo chân rồi lại bung đôi chân ngồi bình thường trở lại, chồm người lên trước, rồi ngả ra phía đằng sau. Những ngón tay của ông ta gõ nhịp trên bộ vest luộm thuộm và ông ta luôn nuốt nước bọt mỗi khi hướng cái nhìn lờ đờ về phía cậu trai, rồi lại quay đi chỗ khác, lờ đờ và nấn ná.

Người tài xế mệt nhoài vì công việc, nhưng ông giữ mọi chuyện tươm tất trên xe bus. Ông không chấp nhận sự say xỉn, thác loạn hay những tiếng nói ồn ào. Mẹ ông nuôi dạy ông trưởng thành như vậy hơn năm mươi năm về trước và ông không có một thôi thúc nào cần thiết phải thay đổi. Do vậy ông để ý cậu trai trẻ, và gã đàn ông hào nhoáng với cặp mắt hau háu, bụng dạ đứng ngồi không yên. Ông quan sát cách gã nhìn cậu nhóc, thấy gã buông người trên chiếc ghế nhầy nhụa mỡ màng khi con dao được móc ra. Cậu nhóc thờ ơ chuyện này. Cậu lôi nó ra từ túi quần và bung lưỡi dao ra bằng một ngón tay cái. Cậu cầm nó một chốc, rõ ràng ai cũng thấy, rồi lôi ra một quả táo từ trong túi xách và gọt nó bằng thao tác bén, gọn. Mùi táo thoảng bay lên cao hơn cả những chiếc ghế ám mùi du khách và sàn xe nhuốm đầy bụi bẩn của đường phố. Vượt lên mùi hôi nồng của dầu cặn diesel, người tài xế ngửi được hương vị gắt, ngọt của nó. Cậu nhóc nhìn một lần vào gã đàn ông bảnh bao có đôi mắt to rộng, khuôn mặt nhợt nhạt, sau đó cậu gấp con dao và nhét nó trở vào trong túi quần.

Người tài xế buông người và chú tâm vào con đường, tâm trí không bị quấy rầy trong vài phút. Ông ta thấy cậu nhóc này có vẻ quen quen, nhưng cái cảm giác ấy đi biến. Ba mươi năm dài. Ông chùng cơ thể to béo sâu chặt hơn vào ghế.

Ông từng thấy quá nhiều cậu trai trẻ.

Quá nhiều dân bụi đời đi hoang.

***

Mỗi lần người tài xế nhìn mình, cậu bé đều cảm nhận được điều đó. Nó là một thiên bẩm cậu có, một biệt tài. Ngay cả khi đôi kính râm đen thẫm đeo trên mắt ông ta và đường cong lớn trên bề mặt cái gương ngăn cản, cậu bé vẫn có thể biết. Đây là chuyến thứ ba đi bằng xe bus trong nhiều tuần. Cậu ngồi ở những ghế khác nhau và mặc quần áo khác nhau, nhưng đoán chừng trước sau gì cũng có người sẽ hỏi cậu làm trò gì trên chuyến xe bus ngang dọc tiểu bang vào lúc bảy giờ sáng trong ngày, cái giờ lẽ ra học trò phải đến trường học. Cậu đoán chừng câu hỏi này sẽ đến từ người tài xế.

Nhưng chuyện này chưa xảy ra.

Cậu bé xoay ra nhìn cửa sổ và xoay nghiêng đôi vai để không ai khác có thể nói chuyện được với mình. Cậu nhìn sự phản chiếu trong cửa kính, sự chuyển dịch và những khuôn mặt. Cậu nghĩ về những cái cây cao ngút trời và những bộ lông nâu đuôi màu trắng.

Con dao cộm lên trong túi quần cậu.

Bốn mươi phút sau, chiếc xe bus lựng khựng dừng lại ở một cây xăng ẩn nấp trong một khoảng trống của rừng thông, bụi rậm và nóng bức, đất cát. Cậu nhóc đi xuống hàng ghế chật hẹp và bước xuống bậc cuối cùng trước khi người tài xế có thể nhắc nhở chẳng có gì ngoài những chiếc xe kéo nằm ụ trong bãi đậu, hay không có người lớn nào ở đây để đón nhận cậu, một cậu bé mười ba tuổi nhìn dáng người không quá tuổi thứ mười. Ánh nắng mặt trời như nung đỏ cổ cậu. Cậu xốc cái balô sau lưng, và đám khói đen dầu cặn bốc lên cao; chiếc xe bus sau đó gầm gừ và lăn bánh xuôi xuống phía Nam. Trạm xăng có hai đầu bơm, một băng ghế dài, và một ông lão gầy gò trong bộ quần áo màu xanh dính đầy dầu mỡ. Ông ta gật đầu chào từ đằng sau tấm kính lem luốc nhưng không buồn ra bên ngoài trời hừng hực nóng. Máy bán nước lon tự động đặt ở trong chỗ có bóng râm của trạm xăng, quá cũ kỹ đến nỗi chỉ đòi hỏi năm mươi cent cho một lon. Cậu nhóc thọc tay vào túi quần, ngón tay lục lọi tìm năm đồng hào mỏng dính và mua lon nước nho tuột bung ra dưới cái phễu đổ xuống trong cái chai thủy tinh lạnh. Cậu bật nắp lon nước, xoay người về phía chiếc xe bus ban nãy trờ đến, và bắt đầu bước bộ xuống con đường bụi mù mịt, đen ngòm như rắn bò.

Sau ba dặm đường và hai lần rẽ, con đường biến mất, nhựa đường trở thành đá, đá càng ngày càng mỏng đi. Cái bảng không hề thay đổi từ lần sau cùng cậu thấy nó. Nó cũ kỹ và bị bỏ hoang, những thớ sơn bong tróc để lòi thịt gỗ ở phía dưới: SÔNG CÁ SẤU RỪNG BẢO TỒN CHIM ĂN THỊT. Phía bên trên các mẫu tự, một con đại bàng tung cánh bay, và trên đôi cánh của nó, những cọng lông dính đầy sơn bong tróc.

Cậu nhóc nhổ kẹo gum vào tay và đập dính miếng gum vào tấm bảng khi cậu bước ngang qua.

Phải mất hai giờ đồng hồ để tìm một cái tổ chim, hai giờ của mồ hôi, những bụi gai góc và muỗi rừng làm da cậu sưng đỏ ửng. Cậu tìm thấy một bụi cành nhánh đan nhau to khủng khiếp trên những cành cao của loài thông lá dài mọc thẳng đứng và cao ngồng trên nền đất ẩm dọc bờ sông. Ánh nắng mặt trời xuyên thấu cánh rừng, bầu trời sáng rực và xanh ngắt làm chói đau cả mắt. Tổ chim là một chấm nhỏ.

Cậu nhún vai hất bỏ balô và bắt đầu trèo lên cây, vỏ cây xù xì làm đau buốt làn da bỏng nắng của cậu. Thận trọng và sợ hãi, cậu trông chừng chim đại bàng khi leo lên cây. Có một con chim nhồi bông ngồi trên kệ trong viện bảo tàng ở Raleigh, và cậu nhớ tới sự hung tợn của nó. Đôi mắt bằng thủy tinh, nhưng đôi cánh của nó xoãi dài hơn một mét rưỡi từ đầu cánh bên này qua đầu cánh bên kia, móng vuốt của nó dài bằng ngón tay giữa của một cậu bé. Chỉ nội mỏ của nó đủ mổ đứt vành tai một người lớn. Cái mà cậu cần là cọng lông của nó. Cậu thích một cọng lông đuôi màu trắng, sạch sẽ, hay một cọng lông thật to màu nâu; nhưng rốt cục, nó có thể là một cọng lông nhỏ nhất từ những chỗ bồng bềnh mềm mại nhất, một cọng lông kim, có thể, hoặc một cọng lông măng mềm dưới cánh.

Nhưng nó không thực sự là vấn đề.

Ma lực là ma lực.

Cậu càng leo cao bao nhiêu thì cành càng cong bấy nhiêu. Gió quật cành cây và quật cả vào người cậu. Khi gió giật, cậu ép mạnh mặt mình vào vỏ cây, tim đập thình thịch, và những ngón tay bám chặt chuyển màu trắng bệch. Thông là vua của các loài cây, cao đến mức đứng từ trên nhìn xuống, con sông thu nhỏ lại ở phía dưới như một chấm đen.

Cậu gần leo lên đến ngọn cây. Leo gần cỡ này, tổ chim dang rộng như cái bàn ăn và có lẽ cân nặng khoảng chín kilogram. Tuổi đời của nó phải hàng thập kỷ, hôi thối với những thứ mục rữa, cứt đái và xương cốt thỏ. Cậu mở tung cõi lòng đón nhận cái mùi, và cái quyền năng của nó. Cậu di chuyển một tay, chạm chân trên một cành xám tro vì năm tháng và trơ trọi không còn vỏ cây. Phía dưới cậu, rừng thông trùng trùng điệp điệp tít tận những ngọn đồi xa thẳm. Con sông uốn mình, đen, tối và bóng loáng như than đá. Cậu đu người lên trên cao khỏi tổ chim và thấy những con chim con, hai con cả thảy, xanh xao và lốm đốm màu, trong lòng chảo của cái tổ. Chúng ngoác mở to cái mỏ bén nhọn, nài nỉ thức ăn, và cậu nghe một âm thanh như con diều mắc trên dây khi gió tốc mạnh hơn. Cậu liều lĩnh nhòm ngó, đột nhiên một con đại bàng đâm bổ xuống từ bầu trời tuyệt đẹp. Trong giây phút tích tắc, cậu chỉ thấy toàn lông, rồi sau đó đôi cánh đập vỗ xuống và móng vuốt vươn ra. Con chim gào thét.

Cậu vươn tay lên trong khi móng vuốt của nó phập sâu vào trong da thịt; rồi cậu rơi xuống, và con chim - đôi mắt vàng sáng rực, móng vuốt móc dính vào da thịt và áo của cậu - rớt xuống cùng cậu.

Vào lúc 3:47, một chiếc xe bus lăn bánh cũng vào cái bãi đậu xe ở trạm xăng một gian nhà đó. Lần này trực chỉ đi về hướng bắc, nó là chiếc xe bus khác, tài xế khác. Tiếng cửa xe lọc xọc mở và một dúm người bệnh thấp khớp xuống xe. Người tài xế gầy còm, gốc Tây Ban Nha, hai lăm tuổi và dáng dấp mệt mỏi. Anh ta không buồn nhìn cậu bé gầy còm đứng lên từ cái ghế dài và cà nhắc đến cửa xe bus. Anh ta cũng không để ý quần áo rách nát hoặc sự tuyệt vọng cùng cực trên khuôn mặt cậu. Và nếu nó là vết máu trên bàn tay đưa tờ vé xe bus, rõ ràng không phải việc của một tài xế xe bus để mà bàn luận về nó.

Cậu nhóc buông tờ vé xe bus. Cậu cố gắng lôi mình lên những bậc bước và cố gắng giữ cho những mảnh vải áo liền với nhau. Cái balô cậu đeo trông nặng nề, nhồi nhét đến mức gần như sắp vỡ tung, và một cái gì đó thấm đỏ ở mí ghép dưới đáy túi. Người cậu bốc mùi, mùi của bùn sình, con sông và một cái gì đó sống nhăn; nhưng chuyện đó cũng không phải việc liên can đến tay tài xế. Cậu đi vào sâu hơn trong lòng xe bus. Cậu ngã, một lần va vào lưng một chiếc ghế, rồi sau đó đi đến cuối tận cùng, nơi cậu ngồi một mình trong góc. Cậu ôm chặt cái túi vào ngực và gác hai chân lên trên ghế. Những lỗ sâu hoắm găm sâu vào trong da thịt và cổ của cậu bị rách toạc; nhưng không ai nhìn cậu, không ai quan tâm. Cậu ôm chiếc túi chặt hơn, cảm thấy cái nóng còn lưu lại, cơ thể gãy vụn, như một cành cây gãy nát. Cậu mường tượng hai con chim nhỏ còn lông măng, một mình trong tổ chim. Một mình trong tổ và bị bỏ đói.

Cậu rung người trong bóng tối.

Cậu rung người trong bóng tối và lau những giọt nước mắt nóng ấm, đắng cay.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1-2


Johnny học được một điều từ tấm bé. Nếu ai đó hỏi cậu tại sao cậu quá khác người, tại sao cậu có thể vững vàng đến như vậy và tại sao cặp mắt của cậu dường như nuốt chửng được ánh sáng, cậu sẽ trả lời họ rõ ràng. Từ nhỏ cậu đã biết rằng chẳng nơi nào ngoài kia là nơi an toàn, không phải sân vườn hoặc sân chơi sau nhà, cũng không phải con đường tĩnh lặng bọc quanh vòng đai thị xã. Không một nơi chốn nào ngoài đời là nơi an toàn, và không ai có thể bảo bọc cho đời sống của cậu.

Tuổi trẻ là những tháng ngày ảo tưởng.

Cậu vừa choàng tỉnh khoảng một giờ đồng hồ, chờ cho những tiếng động đêm khuya vắng xa, chờ đợi ánh bình minh ló rạng để bắt đầu một ngày mới. Hôm nay là thứ Hai, trời vẫn còn tù mù tối, nhưng Johnny ngủ rất ít. Cậu thức dậy đi rà soát một vòng các cửa sổ. Cậu rung lắc nhẹ các ổ khóa hai lần mỗi tối, dõi mắt trông ra con đường vắng ngắt và cái xe bẩn thỉu nhìn như phủ phấn bụi dưới ánh sáng đêm trăng. Cậu kiểm tra mẹ cậu, ngoại trừ khi nào có ông Ken ở nhà. Ông Ken là kẻ nóng tính cộc cằn và trên tay có đeo một cái nhẫn vàng to mà khi đấm vào ai có thể để lại một vết bầm to tướng.

Đó lại là một bài học khác.

Khoác vào người chiếc áo thun và chiếc quần jeans tơi tả, cậu bước về hướng cửa phòng ngủ và lách cánh cửa mở ra. Ánh sáng hắt xuống hành lang chật hẹp, không khí ẩm thấp. Mùi thuốc lá và rượu bourbon đổ ra sàn nhà xộc vào mũi. Chỉ trong một thoáng, Johnny nhớ lại mùi vị của những buổi sáng, mùi của trứng rán, cà phê và hơi nồng từ thuốc cạo râu của bố. Nó là những kỷ niệm đẹp, cậu cố gạt chúng đi, phải quên đi quá khứ. Hồi tưởng về dĩ vãng chỉ làm cõi lòng thêm tan nát.

Trên hành lang, thảm trải nhà cũ kỹ, nhăn nhúm lùng bùng dưới giầy của cậu. Cánh cửa phòng mẹ cậu trơ trọi chênh vênh treo trên bản lề. Nó là cánh cửa rỗng ruột, không sơn phết gì, và cũng không tiệp với khung sườn. Cánh cửa đầu tiên nằm chỏng trơ ở ngoài sân sau vườn, tua tuả những dăm gỗ nham nhở, nó bị đạp tung ra khỏi khung cửa khi mẹ cậu và ông Ken cãi cọ sau cơn say. Mẹ cậu không hề tiết lộ họ cãi cọ nhau về chuyện gì, nhưng cậu đoán chừng ít nhiều liên quan đến cậu. Chỉ mới một năm trước đây, người như ông Ken không bao giờ với được tới gần một người phụ nữ như mẹ cậu, và Johnny không bao giờ để ông ta quên chuyện đó; nhưng đó là chuyện của một năm về trước. Xa vời dường như cả một đời người.

Họ biết quá rõ về ông Ken đã nhiều năm, và cũng có thể những điều họ nghĩ là đúng. Bố của Johnny là một tay thầu khoán, cùng với ông Ken, họ xây dựng cả khu phố. Họ cùng nhau hợp tác làm việc vì bố Johnny nhanh nhẹn và tháo vát, và một phần cũng do ông Ken thông minh khi biết tôn trọng bố cậu. Bởi lẽ đó, ông Ken lúc nào cũng dễ chịu và cởi mở, ngay cả sau vụ bắt cóc, cho đến khi bố Johnny cảm thấy sự dằn vặt và nỗi uất hận đã vượt quá sức chịu đựng. Sau khi bố cậu bỏ nhà đi xa, ông Ken bắt đầu thường xuyên lai vãng tới nhà. Bây giờ thì ông ta điều hành mọi công việc. Ông ta buộc mẹ cậu luôn ở trong tình trạng bị khống chế và cô độc, đặt mẹ cậu luôn trong trạng thái hoặc say thuốc hoặc say rượu. Ông ta sai phái công việc và mẹ cậu chỉ thi hành. Rán thịt bò bít-tết. Đi vào phòng. Khóa cửa lại.

Johnny uất ức, bực dọc về những chuyện này, và cậu thường loanh quanh ở góc bếp vào buổi tối, đặt ba ngón tay lên trên cán con dao to nằm trong kệ dao, tưởng tượng đến những vùng da thịt mềm trên ngực gã Ken, trầm ngâm suy nghĩ về nó.

Gã đàn ông ấy là loài lang sói, rất đơn giản là như vậy; và mẹ của Johnny dường như chỉ còn là cái bóng mờ không trọng lượng. Bà chỉ nặng có hơn năm mươi kilôgam, thân hình còm cõi, nhưng Johnny từng nhìn thấy ánh mắt của gã đàn ông ăn tươi nuốt chửng bà, cặp mắt thủ đắc của lão Ken mỗi khi bà ra ngoài đường. Nước da của bà xanh xao nhưng không một tì vết, đôi mắt bà to, sâu và ánh mắt hàm chứa tâm trạng của một con thú bị trọng thương. Khi ấy bà ba mươi ba tuổi, có dáng dấp như một thiên thần nếu sự thực điều ấy có thật, mái tóc đen tuyền, mong manh, không có cái vẻ của hồng trần. Cánh đàn ông bỏ dở công việc khi có bóng dáng bà bước vào phòng. Họ trố mắt kinh ngạc như thể da thịt bà tỏa ra hào quang, và bà có thể cất cánh bay về trời bất cứ lúc nào.

Bà cũng chẳng quan tâm chuyện này. Ngay cả trước khi cô con gái của bà mất tích, bà gần như không quan tâm đến diện mạo của mình nữa. Áo thun và quần jeans. Tóc đuôi gà và đôi khi trang điểm. Bà sống trong một thế giới nhỏ bé, hạnh phúc, nơi bà thương yêu chồng con, chăm sóc vườn tược, tham gia việc đạo ở nhà thờ, và ca hát giải khuây trong những ngày mưa bão; nhưng bây giờ tất cả đã là quá khứ. Hiện tại chỉ còn lại sự câm lặng, trống vắng và đau khổ, hoàn toàn tương phản với con người một thời của bà; nhưng nét đẹp vẫn còn vương vất đâu đây. Johnny mục kích điều này hàng ngày, và mỗi ngày cậu nguyền rủa cái sắc nước hương trời phủ lên người mẹ mình. Nếu bà ấy xấu xí, ông Ken có lẽ sẽ không dùng đến bà. Nếu bà đừng sinh hạ những đứa trẻ kháu khỉnh, có lẽ em gái của cậu vẫn còn ngủ ở phòng ngủ cạnh phòng cậu. Nhưng bà đẹp như búp bê hoặc một hình bóng nào đó không như hiện thực, lẽ ra phải được trang hoàng trong tủ kính khoá chặt. Bà là người phụ nữ đẹp tuyệt vời mà Johnny từng biết. Và cậu ghét bà thậm tệ ở điểm này.

Ghét cay đắng.

Cuộc đời cậu đã thay đổi quá nhiều.

Johnny quan sát cánh cửa phòng mẹ cậu. Biết đâu ông Ken có mặt ở đây, có thể không. Tai cậu ép sát vào mặt gỗ, nín thở. Bình thường, cậu có thể phán đoán, nhưng nhiều ngày không ngủ đã khiến cậu đổ vật xuống, khi giấc ngủ đến, cậu liền ngủ say như chết. Cứng đờ và hôn mê. Khi tỉnh giấc, cậu chồm người bật dậy khi cảm giác nghe thấy tiếng kính vỡ. Lúc ấy là ba giờ sáng.

Cậu lùi bước khỏi cánh cửa, không biết phải làm gì, sau đó rón rén bước về cuối hành lang, bóng điện phòng tắm vang tiếng u u khi cậu bật công tắc. Tủ đựng thuốc mở tung và cậu thấy các loại thuốc: Xanax, Prozac, nhiều viên màu xanh, nhiều viên màu vàng. Cậu cầm một lọ thuốc và đọc nhãn ghi trên lọ. Vicodin. Chai này mới. Lọ Xanax đang mở, những viên thuốc nằm trên mặt bàn, trong lòng Johnny dấy lên cơn tức giận. Thuốc Xanax giúp lão Ken lấy lại sự trầm tĩnh sau một đêm ăn hàng thành công.

Cậu hiểu như thế.

Ăn hàng thành công.

Cậu đóng nắp lọ thuốc và bước ra khỏi phòng tắm.

Căn nhà bừa bộn như cái bãi rác, và cậu tự trấn an, mình cũng chẳng còn là chủ sở hữu của nó. Căn nhà trước đây ngăn nắp và gọn ghẽ. Nóc nhà mới lợp và cậu là người phụ một tay lợp mái. Cậu leo lên từng bậc thang mỗi ngày trong dịp nghỉ lễ lập xuân, chuyển các tấm lợp lên cho bố cậu, giúp bố đóng đinh với túi đồ nghề đeo trên lưng có khắc tên của mình trên túi. Nó là một căn nhà tươm tất, với tường đá núi và sân sau nhà vun xới gọn đẹp không chỉ có trơ trọi đất cát và cỏ dại. Nó chỉ cách đây vài dặm đường, nhưng cảm giác xa xôi hơn, trong một khu phố với nhiều căn nhà ngăn nắp trên những thửa đất to và mướt màu xanh cây cỏ. Nơi đó bây giờ chỉ còn trong trí nhớ, và đang bị nhà băng xiết nợ. Người ta gửi cho mẹ cậu vài tờ báo, và cắm bảng phát mãi ở ngoài sân.

Căn nhà này là nhà cho thuê của ông Ken. Ông ta có khoảng một trăm căn, và Johnny cho rằng có lẽ đây là căn nhà tệ nhất, như một cái thùng rác đúng nghĩa ở tít tận cùng của thành phố. Phòng bếp thì nhỏ hẹp, với những mảnh sắt màu xanh và sơn bong tróc ở nhiều góc. Một cái bóng đèn cháy sáng ngay trên đầu bếp lò và Johnny chậm rãi quay một vòng tròn. Một nơi quá bẩn thỉu với toàn những đầu lọc thuốc lá vứt đầy trong chảo, chai lọ ngổn ngang, và những ly rượu dang dở. Chiếc gương nằm trên mặt bàn và Johnny thấy những vệt bột trắng còn vương vãi dưới ánh đèn. Hình ảnh này khiến hơi lạnh như xâm chiếm và lan dần trong lồng ngực cậu. Một tờ giấy bạc một trăm đô-la vấn tròn rơi xuống gầm bàn. Johnny lượm nó lên, duỗi phẳng nó ra. Cả tuần nay cậu không có được một bữa cơm nào tử tế trong khi lão Ken hít bạch phiến bằng tờ giấy bạc một trăm đô-la.

Cậu nhặt tấm gương lên, lau nó bằng khăn ướt, và treo trở lại trên tường. Bố cậu thường ngắm mình trong gương, và Johnny vẫn có thể hình dung ông thắt cà-vạt mỗi sáng Chủ nhật, những ngón tay của ông to và thô cứng, không dễ gì thắt nút cà-vạt một cách gọn ghẽ. Ông chỉ mặc đồ vest khi đi lễ nhà thờ, và ông cảm thấy ngượng ngùng khi biết con trai quan sát mình. Trong ký ức, Johnny có thể nhớ mặt ông bỗng đỏ bừng và nụ cười không hề tạo nếp nhăn. Ông nói, "Cảm ơn Thượng đế đã ban tặng cho ta mẹ của con," và sau đó bà kéo thắt chặt nút cà-vạt cho ông.

Hai tay ông đặt sau lưng của bà.

Tiếp theo là nụ hôn và cái nheo mắt.

Johnny lau chiếc gương một lần nữa, sửa nó ngay ngắn, chỉnh cho đến khi tươm tất.

Cánh cửa mở ra ngoài sân trước dịch chuyển một cách nặng nề, và Johnny bước ra ngoài sân vào một buổi sáng ẩm ướt, tối tù mù. Một ngọn đèn đường chập chờn chớp tắt khoảng năm mươi mét về hướng cuối con đường. Những ngọn đèn pha xe ô tô chiếu sáng trên đỉnh ngọn đồi ở một khoảng cách khá xa. Xe gã Ken không còn đậu ở sân, và Johnny cảm thấy một sự khoan khoái tội lỗi và mãn nguyện. Gã Ken sống ở phía bên kia khu phố trong một căn nhà to lớn được sơn phủ đẹp đẽ, nhiều cửa sổ to rộng và nhà đậu xe chứa được bốn ô tô. Johnny hít một hơi thật sâu vào đáy buồng phổi, liên tưởng đến mẹ của cậu chồm người lấy chiếc gương, và tự nhủ chính mình rằng bà cũng chưa đi quá xa. Đó là những hệ luỵ của gã Ken, đâu phải của bà ấy. Cậu cố gắng buông tay giãn nắm đấm ra. Không khí buổi sáng trở nên trong lành. Cậu tự nhủ với chính mình hôm nay là một ngày mới, và những chuyện tử tế có thể đến với cậu; nhưng với mẹ cậu buổi sáng là một cực hình. Có một lúc nào đó, trong giây phút ngắn ngủi, đôi mắt của bà mở ra, đó là trước khi bà nhớ ra rằng họ sẽ không bao giờ tìm được tung tích cô con gái duy nhất của mình.

Em gái của Johnny.

Người em song sinh.

Allyssa chào đời chỉ sau Johhny ba phút, và hai đứa trẻ song sinh khác giới tính giống nhau như hai giọt nước. Cả hai giống nhau ở mái tóc và khuôn mặt, cùng giọng cười như nhau. Đúng, nó là con gái, nhưng ở khoảng cách khoảng sáu mét, rất khó có thể phân biệt ai với ai. Cả hai cao bằng nhau, bước chân y chang nhau. Nhiều buổi sáng cả hai dậy sớm cùng lúc, mặc dù ngủ ở hai phòng khác nhau. Mẹ Johnny cho biết cả hai có ngôn ngữ riêng của mỗi đứa khi còn rất bé, nhưng Johnny không hề nhớ điều này.

Cậu chỉ nhớ quãng đời sống tươi đẹp trước kia của mình, chẳng bao giờ cậu đơn độc; có một ý tưởng hai ta là của nhau mà chỉ có hai đứa trẻ mới hiểu được điều này. Nhưng Alyssa đã đi xa, và tất cả những gì liên quan đến nó cũng đội nón ra đi. Điều này là sự thật, không thể nào chối cãi, và nó đã hằn sâu vào tâm trí mẹ cậu. Johhnny đã làm những gì cậu có thể.

Cậu khóa trái cửa mỗi tối và dọn dẹp bãi chiến trường. Hôm nay cậu dọn dẹp hết hai mươi phút, sau đó đặt cốc cà phê lên bàn và nghĩ đến tờ giấy bạc vo tròn. Một trăm đô-la.

Ăn uống và quần áo.

Cậu kiểm tra căn nhà lần chót. Không còn bóng dáng chai lọ. Sạch sẽ dấu tích của xì ke thuốc sái. Cậu mở cửa sổ để gió bên ngoài tràn vào nhà, sau đó kiểm tra tủ lạnh. Hộp đựng sữa tươi kêu lọc cọc khi cậu lắc nó. Một quả trứng nằm trong hộp sữa. Cậu mở ví của mẹ ra. Trong có chín đồng và một ít bạc cắc. Johnny không động đến tiền của mẹ và đóng ví lại. Cậu rót đầy cốc nước và lắc lấy hai viên aspirin ra khỏi lọ.

Cậu bước dọc xuống hành lang và mở cửa phòng mẹ.

Những ánh sáng đầu ngày ép sát mặt kính cửa sổ, một khối đỏ ửng phía đằng xa lấp ló sau những rặng cây đen mun. Mẹ cậu nằm nghiêng, tóc xõa trên mặt. Tạp chí và sách vở phủ đầy trên mặt bàn cạnh giường. Cậu gạt sách ra tìm chỗ để cốc nước và đặt hai viên aspirin lên mảnh gỗ hằn vết. Trong giây lát, cậu lắng nghe hơi thở của mẹ, sau đó nhìn vào đống tiền giấy ông Ken bỏ lại cạnh giường. Vài tờ hai mươi đồng, một tờ năm mươi đồng.

Khoảng vài trăm bạc, những tờ bạc nhàu nát và lem luốc.

Xé một cuộn giấy đựng bạc cắc.

Vứt bỏ giấy bọc.

Chiếc ô tô đậu trên thềm xi măng đã cũ kỹ, một loại xe có thùng phía sau mà bố cậu mua nhiều năm về trước. Nước sơn còn mới, bóng loáng, hơi vỏ bánh xe được kiểm tra hàng tuần, nhưng đó chỉ là những gì Johnny biết để làm. Khói xanh vẫn bì bọp xịt ra khỏi ống bô khi cậu đề máy, cửa kính phía bên hành khách không thể nào quay lên sát mép. Cậu chờ cho đến khi khói chuyển qua màu trắng, vào số và lăn bánh xuống cuối con đường xi măng. Cậu chưa đến tuổi lấy bằng lái, và phải quan sát thật kỹ trước khi cho xe lăn bánh vào đường nhựa. Cậu giữ xe chạy ở vận tốc vừa phải và chỉ chạy trên những con đường mòn vắng người qua lại. Cửa hiệu tạp hoá gần nhất chỉ cách nhà hai dặm đường, nhưng nó là một tiệm lớn, nằm trên con đường chính yếu, và Johnny biết người ta có thể nhận ra cậu. Vì thế, cậu đi xa thêm ba dặm đường đến một cửa hiệu tạp hóa nhỏ chỉ cung cấp những hàng hoá rẻ tiền. Vừa phải tốn tiền mua xăng xe, vừa phải chịu cảnh thực phẩm đắt đỏ, nhưng cậu cũng không còn lựa chọn nào khác. Sở xã hội đã đến thăm nhà cậu hai lần.

Chiếc ô tô hoà vào những chiếc đã đậu ở đó, phần lớn là xe cũ, dòng xe Mỹ. Một chiếc ô tô sậm màu trờ lên sát phía đằng sau xe cậu và dừng lại ngay cổng ra vào. Ánh sáng mặt trời hắt dội lên từ kính xe và một người đàn ông khuôn mặt đanh lạnh ngồi đằng sau tay lái. Gã cũng chẳng buồn bước xuống xe, Johnny quan sát người đàn ông đó khi gã bước vào trong cửa hiệu.

Johnny có một nỗi sợ hãi với bất kỳ kẻ nào đơn độc trong những chiếc xe dừng lại.

Chiếc xe đẩy đựng hàng chòng chành khi cậu rảo bước từ kệ hàng này qua kệ hàng khác. Cậu quyết định chỉ mua những thứ cần thiết: sữa, nước trái cây, trứng, bánh mì, và trái cây. Cậu mua thêm aspirin cho mẹ. Nước ép cà chua dường như hữu ích với bà.

Một viên cảnh sát chặn cậu lại ở kệ hàng thứ tám. Ông ta to cao, tròng mắt nâu đen dường như quá mềm mại so với những lằn ngang dọc trên khuôn mặt, với góc cằm cắt gãy khúc. Viên cảnh sát không có xe đẩy, đứng yên, hai tay thọc trong túi quần, và Johnny nhìn thoáng qua đã biết ông ta theo cậu vào trong tiệm. Cái nhìn của ông ta thong thả, nhẫn nại. Và Johnny lúc ấy chỉ muốn ù té chạy.

"Anh bạn Johnny," ông ta gọi lớn. "Cậu vẫn khoẻ chứ?"

Tóc ông ta dài hơn so với lần Johnny từng gặp trước đó, vẫn đồng màu nâu với cặp mắt ông, buông dài và xoăn tít ngay phía trên cổ áo pha điểm một ít trắng bạc hai bên thái dương. Khuôn mặt ông trông có vẻ gầy đi, và Johnny nhận thấy năm tháng trôi qua tăng thêm phần khắc khổ trên gương mặt đó. Khổ người to lớn mang dáng dấp một sĩ quan cảnh sát, trông ông ta dường như bị gò ép, tinh quái, nhưng với Johnny cả thế giới này nhìn vào đều có cùng một tạng. Cậu cũng không rõ lắm. Giọng của ông ta trầm ấm và ân cần. Nó gợi lại nhiều kỷ niệm đau thương và trong giây phút đó làm cho Johnny không thể cất bước hoặc cất lên tiếng nói. Viên cảnh sát tiến lại gần, vẫn cái nhìn cảm thông mà Johnny thường thấy, cùng ánh mắt ưu tư lo lắng. Một phần nào đó trong tâm khảm, Johnny cảm thấy thân thiện và tin tưởng nơi ông; nhưng ông ta vẫn là kẻ duy nhất đã để em gái Alyssa của cậu biến dạng biệt tăm. Ông ta vẫn là kẻ làm mất cô bé.

"Tôi vẫn khoẻ," Johnny trả lời viên cảnh sát. "Ông cũng biết mà, cũng phải cố gắng để sống."

Ông cảnh sát nhìn đồng hồ, sau đó hướng tia nhìn vào áo quần lếch thếch và mái tóc đen, bù xù của Johnny. Bây giờ là 6:40 phút và là ngày tất cả học sinh đều đến trường học. Ông hỏi, "Thế có tin tức gì từ bố cậu không?"

"Dạ không." Johnny trả lời, cố che đậy đi sự xấu hổ. "Hoàn toàn không một manh mối gì."

"Tôi rất lấy làm tiếc."

Thời gian kéo dài ra, nhưng viên cảnh sát vẫn không hề chuyển dịch. Cặp mắt nâu vẫn chăm chú nhìn cậu, cho đến khi ông ta tiến gần lại phía Johnny, có thể thấy ông ta là một người cao lớn và thâm trầm, cũng tương tự như lần đầu tiên Johnny gặp ông ta ở nhà cậu. Nhưng đó lại là một ký ức khác, Johnny nhìn chòng chọc vào cổ tay to khoẻ của người đàn ông, với móng tay được tỉa gọn sạch sẽ, thô xoè. Cậu run run cất tiếng: "Mẹ tôi nhận được thư đúng một lần. Bà nói ông ấy ở Chicago, và có thể đang chuyển đến California." Dừng lại chút, cặp mắt di chuyển từ bàn tay xuống nền nhà. "Bố sẽ trở về với chúng tôi."

Johnny ngồi xuống với vẻ tự tin. Viên cảnh sát gật đầu đúng một lần và xoay mặt đi hướng khác. Ông Spencer Merrimon đã bỏ nhà ra đi chỉ hai tuần sau khi con gái bị bắt cóc. Quá đau khổ. Quá nhiều uất hận. Vợ ông không bao giờ để ông quên điều lẽ ra ông phải đón con, không bao giờ để cô bé một mình đi xuống đường khi trời tối, và nếu ông làm đúng như vậy thì đã không hề có chuyện gì xảy ra.

"Bố tôi không có lỗi gì cả," Johnny nói.

"Tôi có bao giờ bảo ông ấy có lỗi lầm gì đâu."

"Ông bận rộn với công việc. Ông quên mất thời gian. Đó không phải lỗi ở ông ấy."

"Tất cả chúng ta ai cũng một lần mắc lỗi. Tất cả mọi người chúng ta. Bố cậu là một người cha tuyệt vời. Đừng bao giờ nghi ngờ điều ấy."

"Tôi thì không." Giọng của Johnny bất ngờ tỏ ra bực bội.

"Không sao."

"Tôi sẽ không bao giờ." Johnny cảm thấy sắc diện của cậu thay đổi. Cậu không thể nhớ lần sau cùng cậu nói chuyện với người lớn, nhưng có điều gì đó về viên cảnh sát. Trông ông ta khá già so với tuổi bốn mươi tuổi, và không bao giờ hấp tấp bộp chộp, khuôn mặt lúc nào cũng đậm đà, toát ra một phong thái ung dung tự tại không hề giả dối hoặc toan tính điều gì khiến bọn trẻ con đặt niềm tin vào ông. Cặp mắt ông luôn giữ độ trầm tĩnh, và Johnny có chút gì hy vọng ông ta là một viên cảnh sát giỏi để có thể giải quyết thoả đáng mọi công việc. Nhưng một năm đã trôi qua, và vẫn chưa có tin tức gì về người em gái. Johnny lo lắng về chuyện đang xảy ra trước mắt, và ngay giây phút này viên cảnh sát không phải người bạn đồng minh.

Sở xã hội luôn rình rập để chờ cơ hội ra tay hành động; và những chuyện Johnny đã làm, những nơi cậu lui tới khi trốn học đi hoang, những rủi ro rình rập mỗi khi trốn ra khỏi nhà giữa đêm khuya. Nếu cảnh sát biết những chuyện Johnny đang làm, họ sẽ ra tay hành động. Nhà nuôi dưỡng tạm thời. Tòa án.

Ông ta có thể bắt giữ Johnny nếu ông ta muốn.

"Mẹ cậu sao rồi?" Viên cảnh sát hỏi. Mắt ông ta chăm chú, tay vẫn để trên xe đẩy của Johnny.

"Mệt mỏi," Johnny trả lời. "Bệnh Lupus, ông biết không. Bà rất dễ bị mệt."

Lần đầu tiên viên cảnh sát sững sờ. "Lần trước gặp cậu ở đây, cậu nói với tôi bà ấy bị bệnh Lyme."

Ông ta nói đúng. "Không. Tôi nói bà bị Lupus."

Mặt ông ta chùng xuống và nhấc tay khỏi xe đẩy. "Ngoài kia có những người muốn giúp đỡ cậu. Có người hiểu ngọn ngành câu chuyện."

Bất thình lình Johnny trở nên giận dữ. “Chẳng ai hiểu chúng tôi, không hề có ai giúp đỡ. Chưa bao giờ. Mẹ tôi yếu đuối tơi tả. Không còn chút nghị lực nào."

Viên cảnh sát làm ngơ lời nói dối, nhưng mặt ông vẫn đau khổ buồn bực. Johnny theo dõi cái nhìn chằm chặp của ông xuống chai thuốc aspirin, nước cà chua. Ánh mắt ông ta vương vấn, rõ ràng ông ta biết không chỉ đơn giản như những thành phần nghiện ngập và xì ke. "Johnny. Không chỉ có mình cậu đau khổ. Cậu không hề cô đơn."

"Tôi không chỉ cô đơn đâu."

Viên cảnh sát thở dài, dáng dấp mệt mỏi. Ông rút một tấm danh thiếp từ trong túi áo, viết số điện thoại vào mặt sau tờ giấy rồi trao tấm danh thiếp cho cậu bé. "Gọi tôi bất cứ khi nào nếu cậu cần bất kỳ điều gì." Cái nhìn của ông dứt khoát. "Ban ngày hoặc giữa đêm khuya. Tôi nói thật đấy."

Johnny liếc sơ qua tấm danh thiếp, nhét nó vào túi quần jeans. "Chúng tôi không sao cả," cậu nói, và đẩy chiếc xe đi vòng qua viên cảnh sát. Một tay ông đặt trên vai cậu.

"Chuyện đó sẽ không bao giờ xảy đến với cậu một lần nữa..."

Johnny đanh cứng lại.

"Hoặc xảy ra với mẹ cậu..."

Johnny lắc nhẹ thoát khỏi bàn tay viên cảnh sát. "Chúng tôi không sao," cậu nhắc lại. "Tôi phòng thủ rất kỹ rồi."

Cậu đẩy xe đi quá viên cảnh sát, run sợ ông ta sẽ chặn giữ cậu, sợ ông ta sẽ hỏi vặn vẹo hoặc gọi điện báo đến các bà cán sự xã hội có khuôn mặt lạnh lùng. Chiếc xe được đẩy tới chỗ bàn tính tiền, người phụ nữ to con ngồi trên chiếc ghế đẩu sờn cũ cúi nhìn soi mói. Bà này mới làm ở cửa hiệu, và Johnny thấy câu hỏi hiển hiện trên khuôn mặt của bà. Cậu mười ba nhưng nhìn còn rất trẻ con. Cậu móc tờ một trăm đô-la ra khỏi túi, đặt nó nằm ngửa trên băng chuyền cuốn. "Bà có thể làm ơn nhanh tay dùm được không?"

Bà ấy thổi vỡ bong bóng kẹo cao su và cau mặt. "Không có gì em cưng. Ta sẽ bắt đầu."

Ông cảnh sát đứng hờ hững sau lưng chừng ba mét, và Johnny cảm giác ông ấy ngay gần bên, cậu liếc mắt trông chừng phía sau lưng khi bà béo mập đang tính tiền từng món. Johnny khó nhọc hít hơi, và sau chừng một phút ông cảnh sát bỏ đi, lướt qua mặt cậu "Nhớ giữ tấm danh thiếp," ông ấy nói.

"Dạ vâng." Johnny không tài nào dám nhìn vào mắt ông ấy.

Viên cảnh sát quay cổ lại, với nụ cười gượng gạo trên khuôn mặt. "Tôi rất vui được gặp cậu, Johnny."

Ông ta rời cửa hiệu, sau tấm cửa kính lớn vẫn nhìn rõ hình dáng viên cảnh sát. Ông đi quá chiếc ô tô của Johnny, quay gót trở lại và đứng tần ngần một lúc. Ông nhìn xuyên qua cửa kính xe, sau đó đi một vòng ra sau đuôi xe kiểm soát biển số. Khi đã hài lòng, ông đi về hướng ô tô của mình, mở cửa xe. Lách người vào, ông ngồi thu mình lại.

Ông chờ đợi.

Johnny cố nín thở giữ nhịp tim đập chậm, cậu với tay nhận tiền lẻ thối lại từ bàn tay ẩm ướt và thô xù của bà thu ngân siêu thị.

Viên cảnh sát là thám tử Clyde Lafayette Hunt. Tên in rõ trên danh thiếp. Johnny có một bộ sưu tập danh thiếp cất kỹ trong ngăn kéo trên cùng, giấu dưới những chiếc tất và bức ảnh chụp bố cậu. Cậu nghĩ về số điện thoại trên tấm danh thiếp; nhưng sau đó lại liên tưởng đến những cô nhi viện và nhà tạm dung. Cậu nghĩ về người em gái mất tích, về đoạn ống nước cậu thủ dưới gầm giường và bức tường toả hơi lạnh toát. Cậu nghĩ đến sự thành tâm trong lời nói của ông thám tử. Có thể ông ấy là người tin cậy được. Nhưng cậu không tài nào nhìn chính mình trong gương mà không nhớ đến cô em gái Alyssa, và cứ mỗi lần nhớ đến chuyện đó lại đòi hỏi sự tập trung tinh thần. Cậu mường tượng trong đầu một cô bé tràn đầy nhựa sống, tươi cười, không thể nào một cô bé như thế lại bị giam cầm dưới nền đất của một hầm rượu nào đó hoặc đằng sau thùng hàng xe ô tô. Lần sau cùng cậu nhìn thấy em gái khi cô mới mười hai tuổi. Một con bé mười hai tuổi với mái tóc đen sẫm, cắt ngắn như con trai. Người đàn ông chứng kiến sự việc cho biết cô tiến đến gần chiếc ô tô, vẫn tươi cười khi cánh cửa bật mở.

Vẫn tươi cười cho đến khi họ bắt cóc cô đi.

Johnny nghe mãi những câu này. Tươi cười. Nó dường như chết dính trong đầu của cậu, nó bám chặt không thể nào hất văng ra khỏi. Nhưng cậu thấy hình ảnh của em gái trong giấc ngủ. Cậu thấy đứa em gái của mình nhìn về phía đằng sau khi những căn nhà càng ngày càng thu nhỏ lại. Cậu thấy nỗi lo sợ trên khuôn mặt cô, và cô bé thét lên trong sợ hãi.

Johnny biết người đàn bà thu ngân đang nhìn mình chăm chú, một tay cậu vẫn chìa ra, tay kia nắm chặt tiền thối lại, các thứ lỉnh kỉnh đã được bỏ vào trong túi. Một bên chân mày của bà ta dựng ngược lên, hàm răng vẫn nhai đều kẹo cao su.

"Cậu em có cần thêm gì không?"

Johnny chống chế. Cậu vơ tóm những tờ bạc và nhét nó vào túi. "Không, tôi không cần thứ gì khác."

Phóng cái nhìn vượt qua cậu, bà ta nhìn về hướng ông quản lý đứng đằng sau quầy cửa kính. Cậu dõi theo cái nhìn của bà ta, vơ tay túm lấy những chiếc túi. Bà ta nhún vai, và cậu ra về, bước ra phía cửa dưới bầu trời trong xanh. Mắt cậu nhìn về hướng chiếc ô tô của mẹ, không buồn để ý đến thám tử Hunt. Những cái túi nhựa cọ xát vào nhau phát ra âm thanh sột soạt. Hộp sữa sóng sánh, thõng nặng ở phía tay phải. Cậu đặt các túi hàng vào ghế ngồi phía sau và chần chừ. Ông thám tử theo dõi cậu từ chiếc xe đậu thẳng góc, khoảng cách không đầy sáu mét. Ông chạm mắt khi cậu de thẳng ô tô.

"Tôi biết lái ô tô," Johnny nói.

"Tôi không nghi ngờ điều này." Câu trả lời làm cậu ngạc nhiên. Như là ông ấy đang mỉm cười. "Tôi biết anh bạn trẻ rất cứng cỏi," ông nói và nụ cười tắt ngúm. "Tôi biết anh bạn trẻ có thể đương đầu với bất cứ thử thách nào, nhưng luật là luật. Johnny cũng không vừa. "Tôi không thể để ông lái xe."

Johnny nói, "Tôi không thể để ô tô ở đây. Nó là đôi chân duy nhất tôi có."

"Tôi sẽ chở cậu về nhà."

Johnny không nói thêm gì. Cậu đang băn khoăn không rõ ở nhà hơi rượu bourbon còn không. Cậu đã dọn dẹp sạch sẽ những lọ thuốc vương vãi.

"Tôi sẽ cố gắng giúp cậu." Viên thám tử ngừng. "Có nhiều người muốn làm những việc như vậy, cậu hiểu chứ hả?"

Giọng nói cay đắng tuôn trào: "Hạng người nào?"

"Không sao," thám tử Hunt nói. "Bình tĩnh đi. Cậu cho tôi biết địa chỉ nhà cậu."

"Ông biết tôi cư ngụ ở đâu mà. Tôi đã thấy ông đôi khi tuần tra trước nhà tôi, tôi thấy ông rõ ràng cho xe chạy chậm lại. Ông đừng giả đò ông không biết gì cả."

Thám tử Hunt nghe những lời nói đầy vẻ nghi kỵ. "Tôi không có ý gạt gẫm gì cậu. Tôi muốn biết chính xác địa chỉ nhà cậu để tôi gọi hẹn một chiếc xe tuần tiễu ở đó. Tôi cần ai đó chở tôi trở lại đây để tôi lấy xe của tôi về".

Johnny trầm ngâm nhìn ông thám tử. "Tại sao ông cứ tuần tra quanh nhà tôi thường xuyên vậy?"

"Thì như tôi đã nói với cậu rồi đó. Có nhiều người thực sự muốn giúp đỡ cậu."

Johnny chưa chắc mình tin tưởng ông ấy, nhưng cậu vẫn đọc cho ông thám tử địa chỉ nhà và quan sát ông ấy gọi điện đàm yêu cầu gửi một chiếc xe tuần tra tới địa chỉ ấy. "Mau chân lên anh bạn." Hunt bước ra khỏi chiếc ô tô công vụ không gắn huy hiệu, rảo bước qua bãi đậu xe hướng về phía chiếc ô tô của Johnny. Cậu mở cửa phía bên hành khách và ông thám tử trườn người vào ghế tài xế. Johnny đeo dây an toàn, ngồi cứng đờ trong xe. Không hề nhúc nhích một quãng thời gian khá lâu. "Tôi xin lỗi về tai nạn liên quan đến em gái cậu," thám tử Hunt nói. "Tôi rất tiếc tôi không thể mang cô ấy về với gia đình cậu. Cậu hiểu điều này chứ hả?"

Johnny nhìn chăm chú về phía đằng trước, hai bàn tay ghì chặt trên đùi. Mặt trời vươn cao quá ngọn cây và tỏa những tia nắng nóng bỏng qua lớp cửa kính.

"Cậu có thể nói điều gì đó không?" Hunt hỏi.

Johnny quay lại, giọng trầm đều. "Hôm qua là tròn một năm." Cậu biết giọng của mình lí nhí. "Ông có biết chuyện đó không?"

Thám tử Hunt bối rối. "Có, tôi biết chuyện ấy."

Johnny nhìn đi chỗ khác. "Ông làm ơn chỉ lái xe thôi

được không?"

Chiếc xe nổ máy, khói xanh bốc lên bay toả vượt quá cửa kính phía bên Johnny ngồi. "Được, Johnny," ông thám tử nói.

Ông gài số xe. Họ đi trong yên lặng đến khu ven bìa thị xã. Không một lời nói nhưng Johnny có thể ngửi được hơi của ông ấy. Người ông toát ra một mùi như của xà phòng và dầu lau súng, và có thể là mùi khói thuốc lá ám vào quần áo. Phong cách ông lái ô tô cũng như bố Johnny, nhanh lẹ và vững vàng, mắt quét nhìn mặt đường rồi nhìn lên kính chiếu hậu. Môi của cậu bậm chặt khi xe về đến gần nhà, một lần chót cậu lại có ý nghĩ mình phải mang em gái Alyssa về nhà. Cậu đã tự hứa như vậy, một năm trước đây.

Một chiếc ô tô tuần tra đang nổ máy chờ ở sân nhà khi xe họ đến nơi. Johnny trèo ra khỏi xe và mở thùng xe mang những túi đồ vào nhà. "Tôi có thể giúp cậu những chuyện này," thám tử Hunt lên tiếng. Johnny chỉ nhìn ông ta. Ông ta còn muốn gì nữa? Ông ta đã để em ấy bị bắt đi.

"Tôi tự làm được rồi," Johnny nói.

Thám tử Hunt lặng nhìn vào đôi mắt Johnny cho đến khi biết chắc cậu không có điều gì để nói.

Cuối cùng ông nói: "Ngoan nhé", và rút người nhanh vào bên trong chiếc ô tô tuần tra. Cậu ôm chặt lấy những túi đồ và không nhúc nhích khi chiếc ô tô quay trở ra con đường. Cậu không phản ứng gì với cái vẫy tay của thám tử Hunt, chỉ đứng bên con đường mù mịt bụi bặm, nhìn chiếc xe ô tô tuần tra leo lên trườn dốc ngọn đồi phía xa, và mất dạng. Cậu đứng thẫn thờ cho đến khi trống ngực không còn đánh thình thịch, rồi xách túi trở vào trong nhà.

Những món đồ lỉnh kỉnh mua ngoài cửa hiệu nằm trên mặt bàn trông thật nhỏ bé, nhưng cảm giác về nó thì vô cùng to lớn: một chiến thắng. Cậu cất chúng vào trong tủ, pha cà phê, rán quả trứng gà trong chảo nhỏ. Ngọn lửa xanh reo tí tách trên bếp, cậu trông chừng cho đến khi lòng trắng trứng chuyển màu vàng nâu. Cậu trở trứng một cách khéo léo, và xúc trứng bỏ vào đĩa. Điện thoại reo vang khi cậu với tay lấy tờ giấy lau. Liếc qua số điện thoại hiển thị trên máy, cậu có thể biết được ai gọi. Cậu trả lời trước khi chuông reo tiếng thứ hai. Giọng nói của cậu trai trẻ ở đầu dây bên kia lanh lảnh. Cậu nhóc ấy cũng mười ba tuổi nhưng đã uống rượu và phì phèo thuốc lá như người lớn. "Hôm nay có đi bụi không anh bạn? Tụi mình đi."

Mắt Johnny hướng về hành lang, giọng trầm xuống. "Chào Jack."

"Tớ ngắm mấy căn nhà khu hướng tây thị xã. Khu đó cực kỳ kinh hoàng. Rất tệ. Nhiều thành phần có tiền án cư ngụ ở đó. Và cứ nghĩ đến nó thì lại thấy có lý."

Vẫn một điệp khúc cũ. Jack hiểu những gì Johnny làm khi cậu ấy trốn học hoặc trốn nhà đi hoang khi trời tối. Jack muốn phụ giúp một tay, một phần vì cậu ấy là đứa trẻ ngoan, phần cũng vì cậu ấy là đứa trẻ ngỗ nghịch.

"Đây không phải là trò chơi," Johnny lên tiếng.

"Cậu có hiểu khi người ta nói về của trời cho không hả? Tớ giúp cậu không điều kiện. Đừng có coi thường tớ như vậy."

Johnny hoảng hốt thở dốc. "Xin lỗi Jack. Sáng hôm nay tớ có chút vấn đề."

"Mẹ cậu à?"

Cổ họng Johnny thít lại, cậu gật đầu. Jack là người bạn cuối cùng, kẻ duy nhất vẫn chơi rất thân với cậu, không vì thương hại hoặc xem cậu là kẻ dị kỳ. Cả hai đều có nhiều điểm giống nhau. Jack chỉ là đứa trẻ mới lớn cũng như Johnny, và cả hai đều đang đối diện với những vấn đề cá nhân. "Tớ cũng nên ra khơi hôm nay."

"Đến ngày phải nộp bài luận lịch sử rồi," Jack nói. "Cậu làm xong bài chưa?"

"Tớ nộp bài hồi tuần rồi."

"Ôi chết. Thật vậy sao? Tớ chưa bắt đầu trang nào."

Jack là kẻ luôn chậm trễ, và thầy giáo cũng làm ngơ luôn chuyện này. Mẹ của Johnny có lần gọi Jack là đồ nhãi ranh, và điều đó quá chính xác. Nó lấy cắp thuốc lá từ phòng giáo sư, bôi kem mỡ làm mái tóc bóng loáng ngày thứ Sáu. Nó uống rượu mà lẽ ra con nít không ai được phép, và nói dối thì như dân chuyên nghiệp; nhưng được cái nó giữ bí mật tuyệt đối khi đã hứa, và trông chừng sau lưng bạn bè khi cần thiết. Nó là người dễ gần, thành thực chân chất, và trong một giây phút nào đó, Johnny cảm thấy rất cao hứng; nhưng chuyện xảy ra vào buổi sáng phủ chụp lên niềm cảm hứng của cậu.

Ông thám tử Hunt.

Những đồng bạc nhớp nhúa ở cạnh giường mẹ cậu.

Johnny nói, "Tớ có việc phải đi."

"Chuyện trốn học thì sao?"

"Tớ phải đi." Johnny cúp điện thoại. Sợ rằng cậu bạn sẽ bị tổn thương, nhưng Johnny không làm gì khác hơn được. Cậu cầm đĩa thức ăn lên, ngồi trước hiên nhà ăn sạch trứng với ba lát bánh mì và uống sữa. Cậu vẫn còn đói khi ăn xong, nhưng chỉ còn bốn tiếng nữa là đến giờ ăn trưa.

Cậu có thể chờ.

Rót sữa vào tách cà phê, Johnny đi về phía phòng ngủ của mẹ. Ly nước đã cạn, các viên thuốc aspirin không còn nữa.Tóc bà xoã xuống má, một vệt nắng nằm vắt ngang trên vùng mắt. Johnny đặt ly cà phê trên mặt bàn và mở cửa sổ. Gió lạnh thốc vào từ hướng bóng mát bên hông nhà, Johnny đứng quan sát mẹ. Bà trông xanh xao, mệt mỏi hơn, và thất thần. Bà không buồn tỉnh giấc nhấm nháp cà phê, nhưng cậu cứ để ly cà phê ở đấy phòng chừng. Để đấy cho bà an tâm.

Cậu quay gót, bà rên nhỏ và bỗng nhiên quặt người thật mạnh. Bà lẩm bẩm điều gì đấy và duỗi thẳng chân hai lần, sau đó bà vùng chồm dậy trên giường, hai mắt trừng trừng và kinh hãi. "Ối Chúa ơi! Ối Chúa ơi!" Bà kêu lên.

Johnny đứng trước mặt nhưng bà không trông thấy cậu. Điều làm bà sợ hãi vẫn còn quanh quẩn đâu đây. Cậu nghiêng người đến gần, nói với bà nó chỉ là một giấc mơ, và chỉ trong tích tắc cặp mắt bà nhận ra được cậu con trai. Bà đưa cao hai tay lên rờ nắn khuôn mặt của cậu. "Alyssa," bà gọi nhỏ và chìm sâu trong giọng nói là một câu hỏi.

Johnny cảm nhận được cơn bão sắp đổ ập đến gần. Cậu nói với mẹ, "con Johnny đây ạ."

"Johnny sao?", mắt bà chớp và dường như chợt bừng tỉnh sau cơn mê sảng. Nỗi hy vọng sụp đổ, bàn tay rũ xuống, bà gục người đổ ập, cuộn gọn trong chăn. Johnny chờ vài giây đồng hồ, nhưng bà không mở mắt trở lại. Cuối cùng cậu hỏi mẹ, "Mẹ có sao không?"

"Giấc mộng hãi hùng."

"Con mang cà phê vào đây. Mẹ có muốn ăn điểm tâm gì không?"

"Sư nhà nó." Bà tung người ra khỏi chăn và bước ra khỏi phòng mà không hề quay nhìn trở lại. Johnny nghe tiếng cánh cửa phòng tắm đóng sập.

Cậu bước ra sân trước và ngồi dưới hàng hiên. Năm phút sau, một chiếc xe bus đón học sinh tiến đến mép cạnh con đường bụi bặm. Johnny không đứng dậy, cậu không hề lay động. Cuối cùng chiếc xe bus lăn bánh.

***

Mãi một giờ sau mẹ cậu mới mặc xong quần áo và tìm thấy cậu ngồi ngoài hàng hiên. Bà ngồi xuống bên cạnh, choàng cánh tay gầy yếu ôm chặt lấy hai đầu gối. Nụ cười của bà héo tắt, và Johnny còn nhớ như in nụ cười ấy đã một thời làm căn phòng bừng sáng.

"Mẹ xin lỗi con," bà nói và hích vai chạm vào con. Johnny nhìn lên hướng con đường. Bà hích cậu một lần nữa. "Xin lỗi. Con hiểu mà... một lời xin lỗi."

Cậu cũng không biết nói gì, không sao giải thích cái cảm xúc hiểu được mẹ đau khổ như thế nào khi nhìn thấy cậu. Cậu nhún vai. "Không sao đâu."

Cậu cảm nhận bà đang tìm một từ ngữ nào đó thích hợp. Nhưng rồi bà ấy cũng không tìm được. Bà nói, "con nhỡ chuyến xe bus rồi đấy."

"Cũng chẳng sao."

"Với trường học thì lại là chuyện khác."

"Con được điểm giỏi. Không ai quan tâm con có mặt ở trường hay không."

"Con vẫn gặp giám thị của trường chứ?"

Cậu phóng tia nhìn không dung thứ về hướng mẹ. "Con không gặp ai sáu tháng nay rồi."

"Vậy à."

Johnny phóng tầm mắt trở lại con đường và cảm nhận mẹ đang nhìn mình. Có một thời việc gì bà cũng tỏ tường. Hai mẹ con cậu thường đi bộ bên nhau. Khi bà lên tiếng, giọng bà đầy chắc chắn. "Bố con sẽ không bao giờ trở lại."

Johnny nhìn mẹ mình chất vấn. "Mẹ nói gì?"

"Con cứ nhìn tít về phía cuối con đường. Con làm việc ấy rất thường xuyên, chừng như con mong đợi bố xuất hiện từ trên đỉnh đồi." Johnny há hốc miệng, nhưng giọng bà lấn át cậu. "Chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra."

"Sao mẹ biết được điều này."

"Mẹ chỉ muốn cố gắng..."

"Mẹ không biết điều đó!"

Johnny đứng vững trên đôi chân của mình. Dường như cậu không còn nhớ tại sao cậu có thể làm vậy. Hai bàn tay nắm chặt vào nhau lần thứ hai trong buổi sáng, một sức mạnh vô hình nóng bỏng nào đó ép mạnh trong lồng ngực. Mẹ cậu ngả người về phía sau, hai tay vẫn ôm chặt đầu gối. Mắt bà lạc thần đi, Johnny biết điều gì sắp xảy đến. Bà chìa một bàn tay quá ngắn không đụng tới được Johnny. "Bố con bỏ mẹ con mình. Và không phải lỗi ở con."

Bà gượng đứng dậy. Môi bà mềm đi và khuôn mặt bà chuyển qua thể dạng cảm thông một cách đau khổ, một biểu hiện cảm xúc mà người lớn dành riêng cho trẻ em ở cái tuổi mà chúng chưa làm sao hiểu được thế giới này vận hành như thế nào. Nhưng Johnny hiểu điều này. Cậu hiểu cái nhìn đó và không ưa chút nào.

"Mẹ không bao giờ nên nói những điều này."

"Nhưng Johnny à..."

"Bố con không có lỗi gì khi em con bị bắt đi. Mẹ không bao giờ nên nói những gì mẹ đã nói." Bà bước về hướng cậu. Johnny làm ngơ cử chỉ ấy. "Bố con bỏ đi biền biệt tại vì mẹ."

Bà đứng chết trân, giọng bà khô lạnh. Môi bà không còn dáng dấp của sự cảm thông. "Ông ấy có lỗi," bà nói. "Lỗi là ở ông ấy, không ai vào đây cả. Bây giờ thì con bé mất rồi và mẹ hoàn toàn trắng tay."

Johnny cảm nhận luồng điện địa chấn co giật phía sau đôi chân. Chỉ trong giây lát, cậu run lẩy bẩy. Vẫn những lập luận cũ rích trong những lần tranh cãi, và nó như con dao sắc bén băm vằm sợi dây tình mẫu tử.

Bà đứng thẳng và trở gót quay đi. "Con lúc nào cũng về phe ông ấy," bà nói và bỏ vào trong nhà, tránh xa thế giới và cũng là nơi chốn dung dưỡng đứa con cuối cùng. Johnny thẫn thờ ném cái nhìn về phía cánh cửa bạc phếch, rồi cúi xuống đôi tay. Cậu nhìn chúng đang lẩy bẩy, và cố tự trấn tĩnh, đè nén cảm xúc. Cậu ngồi bệt xuống nhìn từng luồng gió thổi tung cát bụi hai bên đường. Cậu nhớ lại những lời nói của mẹ, rồi lại nhìn lên phía ngọn đồi. Nó cũng không có vẻ gì thơ mộng. Trên ngọn đồi, lỗ chỗ những cụm cây nham nhở, đây đó là những căn nhà với đường đất ngoằn ngoèo, những đường dây điện thoại thõng xuống như chiếc võng giữa các cột điện thoại, mang một dáng dấp đặc biệt trên nền trời xanh buổi sớm. Không một dấu tích nào ở đấy đánh dấu sự khác biệt của ngọn đồi, nhưng cậu vẫn ngồi dõi mắt nhìn ngắm hàng giờ. Cậu suy tư ngắm nhìn cho đến khi cổ mỏi nhừ, và đi vào bên trong nhà trông chừng mẹ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2


Lọ thuốc Vicodin mở nắp đặt trên mặt bàn trong phòng tắm; cánh cửa phòng ngủ mẹ cậu đóng kín. Johnny đẩy hé cánh cửa, nhìn vào trong bóng tối lờ mờ và thấy mẹ cậu nằm thu mình dưới chăn, cứng đờ. Cậu nghe tiếng thở mong manh của bà, ẩn bên trong là sự yên lặng sâu thẳm. Cậu đóng cửa và trở về phòng mình. Chiếc vali nằm dưới gầm giường có những chỗ nứt nẻ trên bề mặt của lớp da bao bọc, bản lề sét rỉ. Một bên quai da đã bị đứt, nhưng Johnny vẫn giữ miếng quai da đó vì chiếc vali là tài sản ông kỵ cậu để lại. Trong chiếc vali to lớn vuông cạnh có một tờ điện tín đã phai mờ, nhưng cậu vẫn có thể đọc được chữ nếu để nghiêng tờ giấy ngoài ánh sáng. Trên đó ghi hàng chữ JPM, John Pendleteon Merrimon, trùng với tên của Johnny.

Cậu lôi chiếc vali ra, kéo nó đặt lên trên giường, tháo dây quai. Nắp vali được giở lên vẹo vọ nằm dựa vào thành tường. Bên trong nắp vali có dán nhiều ảnh. Phần lớn là ảnh cô em gái, và trong đó có hai bức ảnh chụp hai anh em cậu, nhìn y chang nhau với nụ cười như hai giọt nước. Cậu sờ tay vội vã lên một bức ảnh, sau đó tiếp tục ngắm nhìn các ảnh khác, những tấm có bố cậu. Spencer Merrimon là người đàn ông cao lớn với hàm răng to đều và nụ cười thân thiện. Bàn tay thô xù của người làm nghề xây dựng, vóc dáng tự tin và mực thước nơi ông khiến Johnny luôn cảm nhận mình rất may mắn được là con trai ông. Ông đã dạy Johnny khá nhiều: lái ô tô, hãnh diện ngẩng cao đầu, có những quyết định đúng đắn. Ông dạy cho cậu sự vận hành của thế giới xung quanh, dạy cậu những gì đáng tin tưởng và những nơi có thể đặt niềm tin vào: Thượng đế và cộng đồng. Tất cả những gì Johnny được rèn luyện để sống xứng đáng như một người đàn ông, dĩ nhiên đến từ bố cậu.

Nhưng rốt cùng, bố cậu lại bỏ nhà đi xa.

Giờ phút này Johnny phải nghi vấn tất cả những điều ấy, tất cả mọi thứ cậu đã được dạy với niềm tin mãnh liệt. Thượng đế đã không quan tâm gì đến nỗi đau khổ của con người. Ngay cả đến những sinh linh bé nhỏ. Hoàn toàn không có cái gọi là công lý, công bằng, hay cộng đồng; hàng xóm không ai giúp đỡ ai và kẻ hiền thì chẳng bao giờ gặp lành trên cõi đời này. Tất cả những điều bố nói đều là dối trá. Nhà thờ, cảnh sát, mẹ cậu... chẳng ai làm được điều gì ra hồn, chẳng ai có tài cán gì. Cả năm trời, Johnny sống với một sự thật phũ phàng khi cậu buộc phải tự lực cánh sinh.

Nhưng cuộc đời là vậy. Hôm nay chắc chắn như xi măng, ngày mai có thể vỡ tan như cát vụn; sức mạnh chỉ là ảo tưởng; niềm tin chỉ là con số không. Rồi thì sao? Cái thế giới huy hoàng một thời của cậu trở nên lạnh giá, sương mù ẩm ướt. Cuộc sống là như vậy, một trật tự mới. Johnny không còn điều gì để bám víu ngoài chính bản thân mình, và đó là lẽ sống cậu tự định đoạt trong đầu - đường đi, chọn lựa, và không quay lưng trở lại.

Cậu ngắm nhìn kỹ những tấm hình của bố: một tấm chụp ông đứng đằng sau chiếc bánh xe tải, đeo kính râm và mỉm cười; một tấm chụp cảnh ông đứng rón rén trên nóc nhà, cái túi da đựng kìm, búa, đinh đeo thõng xuống một bên hông. Vóc dáng của ông tráng kiện: bờ vai lực lưỡng, ria mép đen thẫm. Johnny quan sát tìm xem có điểm nào giống bố không, nhưng trông cậu quá mong manh, làn da lại quá mỏng. Cậu không có vẻ ngoài mạnh mẽ, nhưng nó chỉ là những gì trên bề mặt.

Cậu là người mạnh mẽ.

Rồi tự nhắn nhủ mình: Mình sẽ mạnh mẽ.

Có nhiều điều khó biểu lộ, cho nên cậu không nói. Cậu làm ngơ giọng nói nho nhỏ trong tiềm thức, tiếng nói của một đứa trẻ. Cậu nghiến chặt xương hàm và sờ những tấm ảnh lần chót; sau đó nhắm nghiền mắt lại, và khi cậu mở bừng đôi mắt, cảm xúc bỗng dưng biến mất.

Cậu không còn cô độc nữa.

Trong chiếc vali đựng tất cả những gì Alyssa mong nhớ nhất, những món mà cô bé sẽ muốn có chúng khi trở về nhà. Cậu bắt đầu mang chúng ra: nhật ký của cô, chưa hề đọc; hai con thú bông mà cô luôn mang bên mình; ba cuốn album ảnh; sổ học bạ; những CD cô yêu thích; một cái hộp nhỏ đựng những bài kiểm tra cô được điểm cao trong lớp mà cô lưu giữ chúng như báu vật.

Hơn một lần mẹ cậu hỏi về những đồ vật đựng trong vali, nhưng Johnny thừa khôn ngoan để không hề tiết lộ. Nếu bà ấy trộn nhầm thuốc và uống thì chuyện gì cũng có thể xảy ra. Bà sẽ vứt chúng đi hoặc thiêu đốt chúng ở vườn sau nhà, đứng giữa trời như con ma trơi hoặc gào thét nói lên sự đau khổ của bà như thế nào mỗi khi nhớ về đứa con gái. Đó là những gì đã xảy ra với các tấm hình của bố cậu và những đồ vật nhỏ bé, linh thiêng một thời chất chứa đầy trong phòng em gái cậu. Chúng đã lụi tàn trong màn đêm hoặc biến thành tro bụi trong bão lửa khi mẹ cậu lên cơn thịnh nộ.

Dưới đáy vali là một tập bìa cứng màu xanh. Bên trong bìa cứng là một xấp bản đồ và một tấm ảnh Alyssa cỡ 8x10 cm. Johnny để bức ảnh qua một bên và giở tung những tấm bản đồ. Một bản đồ tỷ lệ lớn, trong đó vẽ vị trí quận hạt nằm trải rộng bên trong vùng viễn đông Bắc Carolina, không hẳn nằm trong các cồn cát, ở Piedmond hoặc vùng đầm lầy; mất hai tiếng đồng hồ đi từ Raleigh, và có lẽ cách bờ biển khoảng một giờ đồng hồ. Vùng phía bắc của quận hạt hầu hết đều là đồng quê: rừng, đầm lầy và rặng đá granite dài ba mươi dặm, nơi đây một thời người ta đã đào hầm sâu vào lòng đất để tìm vàng. Một dòng sông chảy xuống từ phía bắc chia đôi quận hạt, chỉ cách thị xã vài dặm đường. Phía tây là vùng đất thịt đen, rất tốt cho việc trồng nho và dựng nông trại, phía đông là những đồi cát với một chuỗi những sân gôn sang trọng, và xa hơn nữa là hàng loạt những thị xã nhỏ bé, nghèo khó vất vả mưu sinh hàng ngày. Johnny đã từng đến vài nơi ở vùng đất nghèo đó, cậu nhớ cỏ dại mọc cả trên rãnh nước, nhiều cửa hiệu và nhà máy đóng cửa không còn hoạt động, những người đàn ông gầy yếu ngồi dưới bóng cây uống những chai nước to đựng trong các túi giấy màu nâu. Đi quá những thị trấn hoang tàn khoảng năm mươi dặm sẽ đến Wilmington và bờ biển Đại Tây Dương. Bang Nam Carolina lại là một vùng đất xa lạ ở đâu đâu vượt ra ngoài tấm bản đồ.

Johnny xếp tờ bản đồ lớn vào trong tập bìa. Những tấm bản đồ còn lại vẽ chi tiết đường phố trong thị xã. Mực đỏ đánh dấu số nhà trên đường, các dấu X nhỏ đánh dấu những địa chỉ riêng biệt. Những dòng ghi chú viết tay ở góc bìa tờ bản đồ. Một số khu phố hoàn toàn chưa ghi chép gì; một số trong đó bị gạch chéo như những vùng đất cấm lai vãng. Cậu nhìn kỹ khu vực phía tây thị xã, thắc mắc không biết khu vực mà Jack đề cập đến là khu nào. Cậu phải hỏi lại Jack. Sau này.

Johnny nghiên cứu bản đồ thêm vài giây nữa, rồi xếp nó lại đặt qua một bên. Những thứ liên quan đến Alyssa được bỏ gọn vào vali, chiếc vali được cất xuống gầm giường. Cậu nhặt tấm ảnh lớn lên và nhét một cây bút mực đỏ vào trong túi. Cậu vừa đi ra phía ngoài cửa chính và định khoá trái cửa thì một chiếc xe bán tải rẽ vào con đường xi măng dẫn vào nhà. Sơn xe loang lổ đầy trên nóc tạo thành những mảng to bé bừa bãi; thành xe phía trước bên phải bị móp méo, sét rỉ. Chiếc xe trườn vào con đường dẫn vào nhà, động cơ co giật, và linh tính Johnny báo trước có chuyện chẳng lành. Cậu quay người lại, cuộn tròn tấm bản đồ và nhét nó vào trong túi cùng cây bút đỏ. Cậu giữ tấm ảnh trên tay để nó không bị nhàu nát. Khi chiếc xe dừng hẳn, Johnny thấy một vệt xanh chói sáng qua lớp kính; sau đó cửa kính hạ xuống. Khuôn mặt người bên trong xe xanh xao và húp híp.

“Lên đi,” người đàn ông giục.

Johnny bước xuống bậc rồi phóng nhanh qua những mảng cỏ và cỏ dại. Cậu dừng ngay tại bờ kè đường xi măng dẫn vào nhà. “Steve, ông làm gì ở đây vậy?”

“Chú Steve.”

“Ông mà chú cháu với tôi cái gì.”

Cửa xe kẽo kẹt mở bật ra, người đàn ông bước xuống. Ông ta mặc bộ áo liền quần màu xanh, trên cầu vai có đeo huy hiệu màu vàng. Thắt lưng to dày màu đen tuyền. “Tôi là anh em họ với bố cậu, là họ hàng thân thuộc của nhau. Hơn nữa, cậu đã từng gọi tôi là chú Steve khi cậu lên ba.”

“Chú có nghĩa là thân tộc, và điều đó có nghĩa chúng ta phải giúp đỡ lẫn nhau. Tôi không gặp ông sáu tuần lễ nay, và tính cả tháng trước đó. Ông trốn biến đâu mất tiêu vậy?”

Steve móc hai ngón cái vào thắt lưng làm cho sợi dây to cứng kia cọ quẹt kẽo kẹt. “Mẹ cậu dạo này qua lại với những người giàu có đấy Johnny. Của trên trời rơi xuống.” Ông ta vẫy một tay. “Nhà ở miễn phí. Không phải làm việc. Quá đã con trai ơi, tôi không thể làm gì hơn để giúp bà ấy trong khi bạn trai bà ấy có thể làm hơn tôi gấp ngàn lần. Ông ta làm chủ thương xá, rạp ciné. Ông ta làm chủ cả một nửa cái thị trấn này rồi, lạy Chúa. Ông ta đâu cần những người như tôi đây đứng làm kỳ đà cản mũi.”

“Kỳ đà cản mũi?” Johnny không tin những điều chính tai mình nghe.

“Không phải...”

“Ông sợ ông ta thì có,” Johnny nói với giọng khinh miệt.

“Ông ta ký tên vào chi phiếu trả lương cho tôi và khoảng bốn trăm gã khác. Nếu ông ấy bạc đãi mẹ cậu, hoặc làm những gì tương tự như vậy, nó là một chuyện. Nhưng ông ấy đang giúp bà ta. Có đúng thế không? Nếu đúng vậy thì tại sao tôi lại làm kỳ đà cản mũi. Bố của cậu hiểu điều này mà.”

Johnny quay mặt đi chỗ khác. “Không phải ông đang trễ giờ làm việc ở thương xá à?”

“Đúng rồi. Lên xe mau đi.”

Johnny không nhúc nhích. “Ông đến đây làm gì vậy ông Steve?”

“Mẹ cậu gọi điện thoại và hỏi liệu tôi có thể giúp chở cậu đi học không. Bà ấy nói cậu nhỡ xe bus.”

“Tôi sẽ không đi học.”

“Cậu phải đi học.”

“Không tôi không đi đâu cả.”

“Lạy chúa, Johnny. Tại sao cậu cứ phải làm cho tất cả mọi chuyện trở nên quá khó khăn vậy? Hãy lên xe đi.”

“Sao ông không nói với bà ấy là ông đã đón tôi đi và làm lơ luôn chuyện này?”

“Tôi đã nói với bà ấy tôi sẽ đón cậu, cho nên tôi phải đón cậu. Tôi sẽ không đi đâu cho đến khi cậu lên xe. Tôi sẽ bắt cậu nếu tôi buộc phải làm như vậy.”

Johnny chùng giọng. “Ông đâu phải cảnh sát. Ông chỉ là nhân viên an ninh. Ông đâu được phép bắt tôi làm bất cứ điều gì.”

“Dẹp chuyện này đi,” Steve nói. “Cậu hãy chờ ngay tại đây.” Ông ta bực tức lách người khỏi Johnny và tiếng kêu của kim loại va chạm phát ra từ thắt lưng ông. Đồng phục của ông ta ủi hồ thẳng nếp và từ hai bên đùi chúng phát ra âm thanh sột soạt.

“Ông đang toan tính chuyện gì vậy?”

“Nói chuyện với mẹ cậu.”

“Bà ấy đang ngủ,” Johnny nói.

“Tôi sẽ đánh thức bà ta. Đừng có đi đâu. Tôi nói thật.” Ông ta đi vào bên trong, căn nhà nhỏ bé hăng hắc mùi bia rượu đổ và xà phòng lau nhà. Johnny nhìn dõi theo cánh cửa đã đóng hẳn, rồi liếc qua chiếc xe đạp. Cậu có thể phóng lên và biến mất trước khi chú Steve trở ra, nhưng điều này không nên với kẻ trượng phu. Sau đó Johnny lôi tấm bản đồ ra khỏi túi, vuốt nó thẳng ra trên ngực áo. Cậu hít một hơi thở tự tin, đi vào bên trong nhà, sẵn sàng đương đầu với vấn đề.

Trong nhà yên lặng như tờ, đèn vẫn tối mù. Johnny rẽ vào hành lang ngắn và dừng lại. Cửa phòng mẹ cậu mở to, Steve đứng trước cửa, không nhúc nhích. Johnny nhìn thoáng vài giây đồng hồ, nhưng Steve không nói cũng không có động tĩnh gì. Khi Johnny đến gần hơn, cậu có thể trông thấy một khoảng không gian trống trong phòng ngủ mẹ cậu. Bà vẫn ngủ, nằm ngửa, một tay vắt ngang che hai mắt. Cái chăn đắp kéo tụt xuống tận bụng, và Johnny thấy mẹ mình không mảnh vải che thân, nằm bất động, còn Steve thì đứng chết trân ngắm nhìn. Sau đó Johnny hiểu ra. “Thế này là thế nào?” Sau đó lớn tiếng hơn: “Thế này là thế nào ông Steve?”

Steve lúng túng trong tội lỗi. Ông ta đưa tay lên, những ngón tay xua ra. “Không phải như cậu nghĩ đâu.”

Nhưng Johnny dường như không nghe điều gì cả. Cậu bước năm bước nhanh chóng và kéo sập cửa phòng mẹ lại. Bà ấy không hề cựa mình. Johnny xoay lưng về phía cánh cửa, cậu cảm thấy lửa bốc ngùn ngụt lên hai mắt. “Steve, ông là kẻ bệnh hoạn! Bà ấy là mẹ tôi.” Johnny đảo mắt nhìn quanh như thể đang tìm kiếm một cây gậy hoặc khúc chày vồ, nhưng không tìm thấy gì. “Ông bị làm sao vậy hả?”

Đôi mắt Steve phát một dấu hiệu chống chế hiếm thấy. “Tôi chỉ mới mở cửa. Tôi có chủ ý gì đâu. Tôi thề trước thượng đế đấy, Johnny! Tôi không phải hạng người như vậy. Tôi thề đó. Giơ tay lên trước Chúa.”

Một lớp mồ hôi nhễ nhãi bóng láng trên da mặt Steve. Gã quá sợ hãi, trông thật thảm hại và tội nghiệp. Johnny chỉ muốn phóng cho ông ta một cước vào hạ bộ. Cậu chỉ muốn vật gã xuống sàn nhà, lấy đoạn ống nước cất giấu dưới gầm giường đánh cho hạ bộ của gã dập nát. Nhưng cậu nghĩ đến bức ảnh của em gái Alyssa và những việc cần phải làm. Và những gì cậu đã tích luỹ được trong suốt một năm qua. Cậu học được điều cần thiết phải xếp hạng cảm xúc ưu tiên của mình. Giọng nói của cậu trở nên lạnh lùng và điềm đạm. Cậu còn có việc phải làm, và gã Steve sẽ phải giúp cậu. “Chú nói với bà ấy chú đã chở cháu đến trường học.” Johnny gật gù bước đến gần hơn. “Nếu mẹ cháu có hỏi, chú chỉ nói bao nhiêu đó.”

“Và cháu sẽ không làm lớn chuyện này?”

“Không, nếu chú làm đúng những gì cháu yêu cầu.”

“Thề nhé?”

“Đi đi chú Steve. Hãy đi làm đi.”

Steve biến ra khỏi nhà, hai tay vẫn giơ lên. “Tôi không có ý gì khác thật mà.”

Nhưng Johnny cũng không có gì khác để nói. Cậu đóng cửa lại, trải tờ bản đồ trên mặt bàn nhà bếp. Cây bút đỏ trơn tuột giữa các ngón tay. Cậu vuốt bàn tay trên tờ giấy co nhàu, sau đó hướng ngón tay về khu phố mà cậu điều nghiên trong suốt ba tuần qua.

Cậu chọn ngẫu nhiên một con đường.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3


Thám tử Hunt ngồi ở dãy bàn làm việc trong văn phòng. Những chồng hồ sơ rơi xuống từ nóc tủ và mấy cái ghế không sử dụng. Những cốc đựng ca phê cáu bẩn, những thông báo mà ông cũng chưa hề đọc. Bây giờ là 9:45. Văn phòng bừa bộn, nhưng ông cũng không còn hứng khởi để đương đầu với chúng. Ông xoa hai tay lên mặt, dụi hốc mắt cho đến khi ông thấy những vệt trắng và đốm sáng loé lên. Mặt ông sần sùi, không cạo râu, và ông cũng thừa biết diện mạo của ông đúng nghĩa của một gã bốn mươi mốt tuổi đời. Ông sụt mất khá nhiều cân, ốm bớt nên bộ quần áo vest mặc trên người như thể treo trên cái giá xương thịt. Trong suốt sáu tháng ông cũng không hề lai vãng tới phòng tập thể thao hoặc sân tập bắn. Ông rất hiếm khi ăn hơn một bữa trong ngày, và chuyện này cũng không có gì quan trọng với ông.

Trước mặt, ông trải đều tập hồ sơ của Alyssa Merrimon. Còn một bộ photo ông cất trong ngăn kéo bàn làm việc ở nhà. Ông lật cẩn thận từng trang, đọc tất cả những từ ngữ trong đấy: tường thuật, phỏng vấn, báo cáo tóm lược. Khuôn mặt của Alyssa phóng lớn từ bức ảnh chụp trong trường học nhìn ông đăm đăm. Cũng một màu tóc đen như cậu anh ruột. Cũng cùng một tạng mặt, cùng màu mắt đen đậm. Kiểu cười đầy bí ẩn. Thánh thiện, như bà mẹ cô, một cái gì thanh tao, cao thượng mà chính ông cũng không tài nào nhìn ra được. Có thể do kiểu mắt nghiêng của cô bé ấy? Tai cuốn gọn về phía sau và nước da nâu vàng? Sự ngây thơ hồn nhiên? Và cũng là điều thám tử Hunt thường trở đi trở lại. Cô bé có cái nhìn như cô chưa từng có những ý nghĩ kém lành mạnh hoặc làm điều gì không tử tế suốt cuộc đời. Rồi đến hình ảnh mẹ cô, anh trai cô. Họ có những điểm tương tự, ít nhiều gì đó, nhưng không ai như cô bé.

Thám tử Hunt xoa mặt một lần nữa.

Ông đã dấn quá sâu, ông biết điều này; nhưng vụ án này có một ma lực bám chặt lấy ông. Đảo quanh một vòng trong văn phòng thì hiểu vì sao. Nhiều vụ án cần thời gian điều tra. Nhiều người khác. Người bằng da bằng thịt và cũng đau khổ như trường hợp của gia đình Merrimon; nhưng những vụ án này bị phớt lờ, coi nhẹ, và ông cũng không hiểu tại sao. Cô bé ấy không biết bằng cách nào đã theo ông đi vào giấc mơ khi ngủ. Cô vẫn mặc bộ quần áo như ngày cô mất tích: quần vàng nhạt, áo trắng. Cô chập chờn trong giấc mơ của ông. Tóc ngắn. Nặng gần bốn mươi kilogram. Một ngày xuân ấm áp. Không một dấu hiệu nào báo trước cho đến khi xảy ra vụ án; giấc mơ bắt đầu như một phát súng đại bác, nổ tung trời, đầy đủ màu sắc và âm thanh. Một cái gì đó lôi cô bé vào một nơi âm u ám chướng dưới những cây to, lôi kéo cô bé xuyên qua những đám lá cây ấm nóng và mục rữa. Cánh tay dang rộng, hàm răng trắng đều. Ông lao chụp theo bàn tay, hụt, và cô bé gào thét khi những ngón tay dài kéo cô mất hút vào một nơi chốn nào đó tối thẳm, mênh mông.

Mỗi lần giấc mơ đó xảy ra, ông lại choàng dậy, người đẫm mồ hôi, hai tay chới với vô vọng cứ như ông đang cào bới qua đống lá cây. Giấc mơ theo ông vào giấc ngủ hai hoặc ba đêm hàng tuần, và lần nào cũng mơ y như lần trước. Ông bật tung ra khỏi giường đôi khi đến ba lần trong đêm, run lật bật, sau đó hắt nước lạnh lên mặt và đờ người nhìn vào đôi mắt đỏ ngầu của mình trong gương trước khi đi xuống nhà dưới để lục lọi mò tìm trong chồng hồ sơ không biết bao nhiêu canh giờ trước khi con trai của ông thức giấc và một ngày mới phủ chụp những ngón tay của nó lên da thịt của ông.

Giấc mơ trở thành cõi địa ngục riêng tư của cá nhân ông, chồng hồ sơ như một tập tục, một tôn giáo; và nó dường như đang ăn tươi nuốt sống ông.

“Chào sếp.”

Thám tử Hunt giật mình, ngước nhìn lên. Đứng trong cửa là thám tử John Yoakum, cộng sự và cũng là bạn thân của ông, “Ô kìa, John, chào ông.”

Yoakum sáu mươi ba tuổi, mái tóc nâu thưa thớt và hàm râu quai nón mỏng điểm những cọng bạc. Ông ấy gầy nhưng rắn chắc, thông minh một cách nguy hiểm và đa nghi đến đáng sợ. Cả hai cộng tác với nhau được bốn năm, làm việc chung khoảng một chục vụ án, và thám tử Hunt hài lòng với Yoakum. Ông ta là kẻ kín đáo và rất thông minh, nhưng ông ta có những đức tính thích hợp với công việc đòi hỏi không thể bớt đi lạng nào. Ông làm việc cần mẫn ngày đêm khi công việc đòi hỏi, sống chết bên cạnh người cộng sự của mình; và nếu ông ta có một chút xíu gì mờ ám, một chút xíu riêng tư không muốn ai can dự việc của riêng mình, thì thám tử Hunt cũng thông cảm được với ông ở điểm này.

Yoakum lắc đầu. “Tôi cũng muốn sống thử một đêm xem vì sao mà ông trông lại thảm thế này.”

“Không nên, đừng mơ ước điều đấy.”

Yoakum ngừng đùa cợt và lời nói chắc nịch. “Tôi hiểu điều đó, Clyde ạ. Tôi đùa ông một tí thôi.” Ông nói, lắc đầu qua sau vai. “Tôi có nhận một cú điện thoại. Có lẽ ông muốn nghe.”

“Thế à. Tại sao lại thế?”

“Vì nó liên quan đến cậu nhỏ Johnny Merrimon.”

“Thật vậy hả?”

“Một bà nào đó muốn nói chuyện với cảnh sát. Tôi nói với bà ấy tôi là viên cảnh sát duy nhất trực ngày hôm nay. Bà ta bảo bà ta đang rất hoang mang. Tôi nói, vậy sao, tôi nghe rõ. Ép buộc tra hỏi quá đáng đúng kiểu cách một gã cớm.”

” Đường dây số mấy, gã kiêu ngạo kia?”

Yoakum nhe hàm răng giả trắng đều. “Số ba,” ông ta nói và quay lưng bỏ đi với điệu bộ ngạo mạn. Hunt nhấc ống nghe và bấm nút nhấp nháy đường dây số ba. “Đây là thám tử Hunt.”

Trước tiên là sự yên lặng, tiếp sau là giọng người phụ nữ. Giọng người lớn tuổi. “Thám tử sao? Tôi cũng không chắc tôi có cần một vị thám tử không nữa. Không có gì quan trọng lắm. Tôi nghĩ ai đó nên biết điều này.”

“Không sao, thưa bà. Làm ơn cho tôi biết danh tánh của bà?”

“Louisa Sparrow, như một loài chim.”

Giọng nói nghiêm nghị. “Có chuyện gì vậy, thưa bà Sparrow?”

“Nó liên quan đến chú bé tội nghiệp. Ông có biết không, chú bé có cô em gái bị mất tích ấy.”

“Johnny Merrimon.”

“Đúng rồi đó. Cậu bé tội nghiệp đó...” Bà ta xởi lởi trong giây lát, sau đó nghiêm giọng: “Cậu ta mới có mặt ở nhà tôi... mới đây thôi.”

“Với bức ảnh cô em gái cậu ấy,” Hunt ngắt lời.

“Đúng vậy. Làm sao ông biết điều đó?”

Thám tử Hunt làm ngơ câu hỏi. “Làm ơn cho tôi xin địa chỉ nhà bà, thưa bà?”

“Cậu ấy không bị rắc rối chứ hả, đúng không? Cậu ấy đã khổ sở lắm rồi, tôi biết điều này. Hôm nay là ngày học sinh đến trường, nhìn thấy bức ảnh cô bé gái như vậy, và nhìn cậu ấy giống y như cô bé, dường như cậu ấy cũng không lớn lên được chút nào khiến tôi rất buồn; và những câu cậu ấy hỏi tôi cứ như thể tôi ít nhiều liên can đến chuyện cô em cậu ấy mất tích vậy.”

Thám tử Hunt liên tưởng đến lúc ông gặp Johnny ở siêu thị. Đôi mắt sâu thẳm. Sự bạc nhược. “Thưa bà Sparrow...”

“Dạ tôi đây.”

“Tôi rất cần địa chỉ nhà bà.”

Thám tử Hunt tìm được Johnny Merrimon chỉ cách nhà bà Louisa Sparrow một dãy nhà. Cậu ngồi trên vỉa hè, hai chân vắt chéo trên rãnh nước. Áo ướt đẫm mồ hôi và tóc tai dính bết trên vầng trán. Chiếc xe đạp cũ kỹ nằm lăn lóc trên sân cỏ của nhà nào đó. Cậu đang nhai đuôi bút và cúi gằm người xuống tấm bản đồ phủ lên đùi cậu như một tấm chăn. Cậu hoàn toàn tập trung, chỉ giật mình ngẩng lên khi thám tử Hunt đóng sầm cửa xe ô tô. Trong khoảnh khắc đó trông cậu như một con thú bị làm kinh động, nhưng sau đó đã định thần trở lại. Hunt thấy được trong đôi mắt của cậu sự quyết chí và một điều gì đó sâu thẳm hơn.

Chấp nhận.

Sau đó ranh mãnh.

Mắt cậu định lượng khoảng cách, như thể cậu có thể phóng lên xe đạp và trốn chạy ngay. Cậu liếc nhìn nhanh về cánh rừng sát cạnh bên, nhưng thám tử Hunt bước đến gần hơn, và cậu rũ người ra. “Chào ông Thám tử.”

Hunt tháo bỏ mắt kính râm. Bóng của ông phủ chụp lên đôi chân cậu. “Chào cậu Johnny.”

Johnny bắt đầu gấp tấm bản đồ. “Tôi biết những gì ông sắp nói, nên ông không cần thiết phải nói.”

Hunt chìa bàn tay ra. “Tôi có được phép xem tấm bản đồ ấy không?” Johnny cứng lạnh, cái dáng dấp của con thú bị săn đuổi một lần nữa hiện lên trên khuôn mặt cậu. Cậu nhìn xuống con đường dài, sau đó nhìn vào tấm bản đồ. Hunt tiếp tục: “Tôi có nghe nói về tấm bản đồ ấy, cậu biết đó. Ban đầu tôi cũng không tin chuyện đó, nhưng nhiều người nói với tôi về điều này.” Đôi mắt Hunt nghiêm khắc nhìn thẳng vào cậu bé. “Lần này là lần thứ bao nhiêu rồi, Johnny? Tôi đã nói với cậu chuyện này bao nhiêu lần rồi? Bốn? Hay năm lần?”

“Bảy lần.” Giọng cậu lí nhí. Những ngón tay trắng bệch trên bản đồ.

“Tôi sẽ trả nó lại.”

Cậu nhìn lên, đôi mắt đen long lanh, ý tưởng ranh mãnh tiêu tan. Cậu chỉ là một đứa trẻ. Cậu sợ hãi. “Ông hứa như vậy nhé?”

Cậu thật bé nhỏ. “Tôi hứa với cậu, Johnny.”

Johnny đưa tay lên và những ngón tay của Hunt đón lấy tờ bản đồ. Tờ giấy mềm nhũn, những nếp gấp gẫy tưa ra thớ giấy trắng. Ông ngồi xuống lề đường sát bên cậu, giở tung bản đồ ra, hai tay dang rộng. Nó to rộng, mực in màu tím trên nền giấy trắng. Ông nhận ra nó là bản đồ thuế thổ trạch, với nhiều tên và địa chỉ của gia chủ. Nó chỉ vẽ một phần của thành phố, khoảng chừng một nghìn bất động sản. Gần một nửa đã được gạch chéo bằng mực đỏ. “Cậu lấy bản đồ này ở đâu vậy?” Ông hỏi.

“Phòng thuế vụ. Nó cũng không đắt đỏ lắm.”

“Cậu có tất cả không? Toàn quận hạt?” Johnny gật đầu, và thám tử Hunt hỏi: “Còn những dấu đỏ này?”

“Những nhà tôi đã gõ cửa, những người tôi đã nói chuyện với họ.”

Hunt hớ to. Ông không thể nào tưởng tượng nổi con số những căn nhà đã được gõ cửa, những dặm đường mà chiếc xe đạp cũ kỹ kia đã đi qua. “Còn những căn nhà đánh dấu hoa thị?”

“Đàn ông sống độc thân. Những nơi khiến tôi cảm thấy ớn lạnh xương sống.”

Hunt gấp tờ bản đồ, trả lại. “Những tấm bản đồ kia có đánh dấu không?”

“Một số thì có.”

“Chuyện này phải được chấm dứt.”

“Nhưng mà...”

“Không, Johnny. Chuyện này phải được chấm dứt. Những người đó là cư dân thành phố. Họ gọi điện thoại than phiền với chúng tôi.”

Johnny đứng dậy. “Nhưng tôi đâu làm điều gì vi phạm pháp luật!”

“Cậu là kẻ trốn học, cậu còn nhỏ tuổi. Hôm nay cậu lại trốn học. Hơn nữa, chuyện này rất nguy hiểm. Cậu không hề biết ai là người sống trong những căn nhà kia.” Ông ta búng một ngón tay trên bản đồ; ngón tay bật xuống tờ giấy và Johnny kéo nó đi. “Tôi không thể để mất thêm một đứa trẻ nữa.”

“Tôi tự lo cho bản thân mình được.”

“Đúng, cậu nói với tôi điều này sáng hôm nay.”

Johnny quay mặt nhìn đi hướng khác, thám tử Hunt dò xét khuôn mặt gầy gò của cậu. Ông bắt gặp một cái lông chim được buộc vào sợi dây đeo trên cổ. Nó màu xám trắng trên nền áo màu bạc phếch. Hunt chỉ tay, nhằm thay đổi bầu không khí. “Cậu có cái gì đó?”

Johnny giơ tay cao lên cổ. Cậu nhét cái lông xuống bên dưới lớp áo. “Nó chỉ là cái lông chim.”

“Một cái dây có đính lông chim?”

“Để cầu may mắn.”

Hunt thấy những ngón tay cậu bé chuyển sang màu trắng, và thấy một cái lông khác buộc vào chiếc xe đạp. Cái lông này lớn hơn, toàn màu nâu. “Còn cái lông này thì sao?” Ông chỉ vào nó. “Lông chim ưng? Hay cú?”

Khuôn mặt cậu bé không phản ứng, cậu yên lặng. “Cái lông này cũng để cầu may?”

“Không.” Johnny dừng lại, nhìn về hướng khác. “Cái đó khác.”

“Johnny...”

“Cậu có theo dõi tin tức tuần qua không? Người ta tìm thấy một cô gái bị bắt cóc ở Colorado. Cậu có biết cô ấy không?”

“Tôi biết cô ấy.”

“Cô ta biến mất gần một năm và người ta tìm thấy cô chỉ cách nhà cô ấy ba dãy nhà. Suốt năm ấy cô ta chỉ ở cách nhà chưa đầy một dặm đường. Chỉ khoảng dặm đường, họ nhốt cô ấy dưới hầm đất được đào dưới hầm rượu. Bịt kín mít và trong ấy chỉ có cái thùng và miếng nệm.”

“Johnny... ”

“Họ đăng những hình ảnh đó trong mục tin tức. Một cái thùng. Cây nến. Tấm nệm bẩn thỉu. Trần nhà chỉ cao một mét hai. Nhưng họ đã tìm thấy cô ấy.”

“Đó mới chỉ là một vụ án thôi đấy, Johnny”

“Tất cả đều giống như nhau.” Johnny quay đầu trở lại, đôi mắt cậu vẫn tối đen trong hố thẳm. “Kẻ đó là một người hàng xóm hoặc người bạn, một kẻ nào đó mà cô ấy biết mặt hoặc có thể là căn nhà mà cô ấy đi qua hằng ngày. Và khi chúng ta tìm đến họ, họ luôn cửa đóng then cài. Ngay cả khi họ qua đời rồi, họ vẫn đóng kín.”

“Chuyện không phải lúc nào cũng là như vậy.”

“Nhưng đôi khi. Đôi khi nó là như vậy.”

Thám tử Hunt cũng đứng dậy, giọng của ông nhỏ nhẹ. “Đôi khi như vậy.”

“Chỉ vì ông bỏ cuộc không có nghĩa tôi cũng phải làm điều đó.”

Nhìn cậu trai trẻ và niềm tin mãnh liệt của cậu ta, Hunt cảm thấy buồn bã. Ông là vị thám tử của sở cảnh sát chuyên giải quyết những vụ án nghiêm trọng, và cũng vì lẽ này ông phụ trách điều tra trường hợp mất tích của cô bé Alyssa. Hunt làm việc cật lực ngày đêm hơn bất cứ nhân viên công lực nào ngõ hầu đoàn tụ cô bé bất hạnh đó trở về với gia đình. Ông đã vất vả nhiều tháng trời, bỏ bê luôn cả gia đình mình cho đến khi người vợ của ông, tuyệt vọng và ngấm ngầm thịnh nộ, rời bỏ ông. Để được gì? Cô bé Alyssa biến mất, mất luôn hy vọng mong manh nếu họ may mắn tìm được thi thể của cô. Chuyện xảy ra ở Colorado không ảnh hưởng gì. Hunt hiểu một điều rằng: Phần lớn bị thiệt mạng ngay trong ngày khi màn đêm buông phủ. Nhưng điều này cũng không giúp công việc dễ dàng tí nào. Ông vẫn muốn mang cô bé ấy về đoàn tụ với gia đình. Bằng cách này hay cách khác. “Hồ sơ vụ án vẫn mở, Johnny. Chưa người nào bỏ cuộc.”

Johnny dựng chiếc xe đạp lên. Cậu cuốn tờ bản đồ và nhét vào sau túi quần. “Tôi phải đi đây.”

Thám tử Hunt nắm chặt lấy gi-đông xe. Tay ông cảm nhận những vết rỉ sét và hơi nóng bức xạ từ ánh mặt trời. “Tôi đã nhân nhượng nhiều với cậu. Tôi không thể làm như vậy mãi được. Chuyện này phải chấm dứt.”

Johnny lôi chiếc xe đạp lại từ tay Hunt nhưng cũng không làm sao dịch chuyển được nó. Cậu hét to. Chưa bao giờ Hunt nghe thấy tiếng hét to như vậy. “Tôi có thể tự lo liệu mọi chuyện.”

“Nhưng chuyện đâu chỉ có đơn giản như vậy, Johnny. Tự lo cho mình không phải công việc của cậu. Đó là bổn phận của mẹ cậu, và sự thật thì, tôi không chắc bà ấy có lo được cho bản thân bà ta không nữa, nói chi đến đứa trẻ mười ba tuổi.”

“Có thể điều ông nói là đúng, nhưng có nhiều chuyện ông không biết gì cả.”

Viên thám tử đứng yên định thần. Ông ta quan sát sự việc đi từ phẫn nộ đến sợ hãi, ông hiểu cậu bé này cần niềm hy vọng ở ông hơn bao giờ hết. Nhưng thế giới này không phải một nơi chốn tử tế đối với con trẻ, và sự kiên nhẫn chịu đựng của Hunt đã đến điểm giới hạn với Johnny Merrimon.

“Nếu cậu vén áo cậu lên ngay bay giờ, thử hỏi trên thân thể cậu có bao nhiêu vết bầm?”

“Tôi có thể tự lo cho chính tôi.”

Giọng nói như một phản xạ và yếu ớt, Hunt hạ giọng. “Tôi đâu thể giúp cậu được điều gì nếu cậu không chịu nói chuyện với tôi.”

Johnny đứng thẳng, buông chiếc xe đạp ra. “Tôi đi bộ,” cậu nói, và quay bước.

“Johnny.”

Cậu bé vẫn rảo bước.

“Johnny!”

Khi cậu dừng bước, Hunt dắt chiếc xe đạp trao cho cậu. Những cái nan hoa kêu tíc tắc khi bánh xe xoay tròn. Johnny cầm lấy gi-đông khi Hunt giao trả chiếc xe đạp lại cho cậu.

“Cậu vẫn giữ danh thiếp của tôi chứ?” Johnny gật đầu, thám tử Hunt thở hắt ra. Ông không thể nào giải thích sự cảm thông của ông dành cho người bạn trẻ này, ngay chính cả cho ông. Có thể ông thấy được một điều gì đó ở cậu bé. Có thể ông cảm nhận nỗi đau dữ dội hơn cậu bé. “Giữ nó nhé, được không. Gọi tôi bất cứ lúc nào.”

“Được rồi.”

“Tôi không muốn nghe về chuyện cậu làm như thế này nữa.”

Johnny không nói câu nào.

“Cậu đi thẳng đến trường học chứ hả?”

Yên lặng.

Thám tử Hunt nhìn lên bầu trời trong xanh, rồi nhìn cậu bé. Tóc cậu đen và ướt đẫm, hàm răng nghiến chặt. “Cẩn thận nhé, Johnny.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4


Người đời nói không đúng. Cảnh sát tiên liệu đúng phần này. Johnny đã thám sát quá nhiều hàng rào và cửa sổ mà cậu không thể nào đếm hết được. Cậu gõ quá nhiều cửa ở bất cứ giờ khắc nào và qua đó chứng kiến nhiều chuyện khó có thể chấp nhận. Những chuyện người đời làm ở nơi người ta tưởng chỉ có họ và không ai nhòm ngó. Cậu từng thấy nhiều nhóc tì hít xì-ke và người lớn ăn thức ăn rớt xuống nền nhà. Có lần cậu thấy một ông mục sư trong bộ quần áo lót, mặt mũi đỏ phừng phừng hét mắng bà vợ trong lúc bà đang khóc. Một bức tranh xã hội đảo lộn. Nhưng Johnny không phải kẻ ngớ ngẩn. Cậu biết những kẻ khùng điên khoác ra ngoài bộ mặt giống như bất kỳ ai. Do vậy cậu âm thầm hoạt động. Cậu luôn buộc chặt dây giầy và thủ một con dao gấp trong túi. Cậu luôn cẩn thận.

Cậu là đứa trẻ thông minh.

Johnny không quay đầu ngó lại cho đến khi cậu đi được hai dãy phố. Khi quay đầu nhìn, cậu thấy thám tử Hunt vẫn đứng trên đường, một đốm màu sắc ở xa tít giữa các xe ô tô sậm màu và đám cỏ xanh. Trong một khoảnh khắc, ông cớm đứng yên như pho tượng, sau đó đưa tay lên vẫy chậm rãi, nhưng Johnny đạp xe nhanh mất dạng, cẩn thận không dám quay đầu nhìn lại phía sau. Ông ta làm cậu sợ hãi, và Johnny ngạc nhiên không hiểu làm sao ông ấy biết những chuyện như vậy. Năm.

Con số bỗng dưng nảy lên trong đầu cậu.

Năm vết bầm.

Cậu đạp nhanh hơn, dồn hết sức lực lên đôi chân cho đến khi lưng ướt đẫm và cái áo bám chặt da thịt như lớp da thứ hai. Cậu lao nhanh về hướng bắc, tít tận cùng ngoài rìa thị xã, đến cái nơi mà con sông luồn chảy dưới cây cầu và lan rộng ra cho đến khi dòng chảy không còn siết nữa. Cậu phóng xe lao xuống bờ sông và vứt chiếc xe lăn lóc. Máu bơm mạnh trong hai lỗ tai và lưỡi cậu mặn chát. Hai mắt cay xè, cậu đưa cổ tay áo bẩn thỉu lên chùi quẹt. Nơi đây cậu từng ngồi câu cá với bố. Cậu biết rất rõ cá vược nương náu ở đâu và những con cá phi lau to lớn chui lủi dưới đáy bùn một mét rưỡi nước, nhưng những chuyện này bây giờ không thành vấn đề. Cậu sẽ không bao giờ câu cá ở chốn này, nhưng cậu vẫn đến đây.

Nơi đây vẫn là nơi của cậu.

Johnny ngồi trong bóng râm tháo dây giày. Những ngón tay run lẩy bẩy và cậu cũng không hiểu tại sao. Đôi giầy được tháo ra, cậu sờ soạng tìm cái lông, quét nó trên gò má của mình và sau đó nhét nó vào trong lớp áo. Ánh nắng mặt trời hắt những tia nóng gay gắt trên da thịt, cậu nhìn những vết bầm trên da thịt, vết lớn nhất to và có hình dạng như đầu gối người lớn. Nó ôm trọn những cái xương sườn bên trái và cậu nhớ rất rõ lão Ken từng ghì người cậu xuống bằng đầu gối ông ta, dồn hết sức nặng cơ thể của gã lên người cậu bất cứ khi nào Johnny cố vùng vằng thoát ra.

Johnny xoay vai, cố quên chúng đi, đầu gối ghì trên ngực, ngón tay tì trên mặt.

Mày sẽ phải làm những cái chết tiệt mà tao nói...

Những cái tát tai nẩy lửa trên khuôn mặt Johnny, trước tiên bên này, rồi đến bên kia, mẹ của cậu bất tỉnh ở phòng sau nhà.

Mày... cái thứ nhóc tì chết bầm...

Thêm một cái tát, mạnh hơn.

Thằng bố mày hiện giờ ở đâu?

Vết bầm giờ đã chuyển màu vàng ở ngoài viền, ở giữa ngả qua màu xanh lục; và đau nhói mỗi khi cậu dùng ngón tay ấn vào nó. Da thịt ở vùng vết bầm chuyển sang màu trắng một vài giây - tạo thành một vòng ô-van - và tiếp đó màu sắc biến đổi trở lại. Johnny lau nước mắt mặn chát trên mắt của cậu, và khi đi xuống dòng sông, cậu lại vấp ngã. Cậu bước xuống sông, đất lèn vào giữa các ngón chân. Khi cậu lặn chúi xuống, một dòng nước ấm bao phủ lấy cơ thể. Nó phủ chụp, cuộn tròn lấy cậu, tách rời thế giới và bảo bọc cậu vô điều kiện.

Cậu lang thang hai giờ ở con sông, quá lo lắng về thám tử Hunt nên không thể mạo hiểm tiếp tục công cuộc tìm kiếm, nhưng cũng do quá ngờ vực về trường học nên việc đi học không còn đáng với thì giờ. Cậu bơi ngang dòng sông và bơi ngược trở lại, nhảy lặn xuống dòng nước từ những phiến đá phẳng nung nóng bởi ánh nắng mặt trời. Gỗ trôi xếp hàng hàng lớp lớp và gió lộng lướt trên mặt nước. Đến gần trưa, người mệt lả, cậu duỗi thẳng người, nằm trên phiến đá phẳng cách cây cầu mười hai mét về hướng hạ lưu, khuất đằng sau cây liễu phủ quét những chiếc lá dài trong dòng nước đen. Xe ô tô qua lại làm cho cây cầu rung lên. Bỗng một hòn sỏi được ném chạm vào mõm đá ngay bên cạnh đầu. Cậu ngồi bật dậy thì thêm một viên nữa bay trúng bả vai. Cậu nhìn xung quanh không thấy ai. Một viên đá thứ ba chọi trúng chân và văng ra. Cục sỏi khá lớn gây đau điếng. “Liệng thêm một cục nữa là mày sẽ chết.”

Im lặng.

“Tớ biết đó là cậu mà, Jack.”

Johnny nghe tiếng cười, Jack từ bìa rừng bước ra. Cậu mặc cái quần jeans cắt cụt ngang và đôi giày bẩn thỉu. Áo sơ mi màu trắng ngà, với hình ảnh ca sĩ Elvis trắng đen lộn ngược in trên đó. Cậu đeo balô trên vai, tay cầm một nắm sỏi. Một bên mồm nhếch lên, tóc bôi kem chải ngược ra sau. Johnny quên bẵng đi hôm nay là thứ Sáu.

“Cậu đi bụi mà không rủ tớ đi cùng.” Jack bước đến. Cậu ta nhỏ người, tóc hung vàng, mắt nâu, một tay bị thương tật khá nặng. Tay phải bình thường, nhưng khó mà không nhận ra cánh tay bên trái. Nó ngắn lại và nhỏ, chừng như ai đó đóng đinh cánh tay của đứa trẻ lên sáu vào cơ thể đứa trẻ tuổi gấp đôi vậy.

Johnny hỏi, “cậu giận lắm phải không?”

“Đúng vậy.”

“Tớ đứng yên để cậu đấm một cú là mình huề.”

Jack cười gượng gạo. “Phải ba đấm,” hắn nói.

“Ba đấm bằng cánh tay con gái.”

“Hai đấm bằng cái búa.” Jack nắm bàn tay lành lặn, và cười nhạt. “Đừng có thách.” Hắn bước lại gần hơn và Johnny co tay lên, kéo về thủ chặt vai. Jack đứng xoạc chân, co cánh tay với nắm đấm. “Đấm thế này sẽ đau đớn lắm đấy.”

“Đấm đi, đồ gà mái.”

Jack đấm vào cánh tay của Johnny hai lần. Cậu ta đấm thật mạnh, và khi rút chân về, mặt mũi cậu hân hoan. “Sức tàn của cậu chỉ còn bao nhiêu thế thôi sao!”

Johnny cong cánh tay lên, quăng một hòn sỏi và Jack né người tránh. “Làm sao cậu biết tớ có mặt ở đây?”

“Chuyện đó đâu khó khăn gì.”

“Vậy tại sao đến giờ này cậu mới thò mặt đến?”

Jack ngồi xuống phiến đá cạnh Johnny. Bỏ ba lô ra và cậu cũng cởi phăng chiếc áo sơ mi. Da thịt cậu đỏ ửng, bung tróc từng mảng trên cả hai vai. Sợi dây chuyền bé tí đeo trên cổ, mặt dây là cây thánh giá bạc. Nó lúc lắc vung mạnh khi cậu mở cái balô, ánh sáng bạc lấp lánh trong nắng. “Tớ phải về nhà lấy thêm tiếp tế. Bố tớ vẫn ở đó.”

“Ông ta không thấy cậu chứ, đúng không?” Ông bố của Jack là người nghiêm khắc, một ông cớm khó tính, và Johnny tránh né ông ta như tránh hủi.

“Cậu thấy tớ có giống thằng ngáo không?” Cánh tay lành lặn của Jack biến mất vào trong ba lô. “Vẫn còn lạnh,” cậu nói, và lôi ra một lon bia. Cậu đưa cho Johnny, sau đó lấy ra lon khác.

“Bia lấy trộm à.” Johnny lắc đầu quầy quậy. “Cậu sẽ bị đốt cháy dưới hỏa ngục cho xem.”

Jack nhanh chóng cười ruồi. “Thượng đế sẽ thông cảm cho những tội lỗi nhỏ bé.”

“Đó không phải những điều mẹ cậu nói.”

Jack cười vang. “Mẹ tớ là con chiên ngoan đạo và sợ trời hơn sợ rắn mà, Johnny. Cậu cũng biết mà. Bà ấy cầu nguyện cho linh hồn của tớ cứ như thể tớ sẽ bốc lên cháy bùng như ngọn đuốc bất cứ lúc nào. Bà cầu nguyện ở nhà. Bà còn cầu nguyện giữa nơi công cộng nữa.”

“Thôi đi.”

“Cái lần mà tớ bị bắt quả tang gian lận? Nhớ không?”

Chuyện đó đã trôi qua ba tháng. Johnny hồi tưởng. “Nhớ chứ. Giờ học môn lịch sử.”

“Tụi mình có một buổi họp với thầy hiệu trưởng, đúng không? Trước khi buổi họp chấm dứt, mẹ tớ buộc tớ quỳ gối, nguyện cầu Thượng đế chỉ cho đường ngay lẽ thẳng.”

“Nhảm nhí quá.”

“Không nhảm tí nào. Ông ta quá sợ hãi bà ấy. Lẽ ra cậu nên nhìn khuôn mặt ông ấy, thảm não tím tái, một mắt liếc trộm xem chừng bà ấy có đang nhìn ông ta khi ông ta nhìn bà hay không.” Jack khui lon bia, nhún vai. “Dẫu sao cũng không trách ông ta được. Bà ấy đã chìm đắm quá sâu và bà ấy cũng cố gắng lôi kéo ông ta đi theo. Tuần rồi bà ấy thỉnh mục sư đến nhà cầu nguyện cho tớ.”

“Tại sao?”

“Đề phòng trường hợp tớ tự thủ dâm.”

“Tớ chẳng tin một tí nào.”

“Đời sống nó cứ như một vở hài kịch,” Jack nói, nhưng không thể nào còn sức để cười. Mẹ cậu là người sợ hãi đến cuồng tín, hãnh diện tái sinh và không chấp nhận bất cứ thoả hiệp nào. Bà luôn canh cánh bên mình Jack với những đe dọa bị thiêu cháy trong hỏa ngục và trừng phạt. Cậu giả mù sa mưa, nhưng những rạn nứt bắt đầu hiển hiện.

Johnny khui lon bia. “Bà ấy có biết bố cậu vẫn uống không?”

“Bà ấy nói Thượng đế không chấp nhận như vậy, sau đó bố phải mang tủ lạnh chứa bia ra ngoài nhà để xe, cả rượu của ông luôn. Điều này dường như giải quyết được vấn đề.”

Jack tu chai bia. Johnny uống một ngụm. “Bia gì mà tệ quá Jack.”

“Ăn mày mà còn đòi xôi gấc. Đừng làm tớ nổi giận mà thụi cậu vài quả đấm nữa.” Jack tu ừng ực một hơi hết lon bia, sau đó nhét lon không vào túi và lôi lon khác ra.

“Cậu làm xong bài luận môn Lịch sử chưa?”

“Tớ đã nói sao với cậu về những tội lỗi nhỏ bé?”

Mắt Johnny đảo một vòng đằng sau lưng Jack. “Chiếc xe đạp của cậu đâu rồi?”

“Tớ cũng không biết.”

“Không biết tức là sao?”

“Tớ cũng không cảm thấy hứng thú đi xe đạp.”

“Nó là chiếc xe hiệu Trex trị giá sáu trăm bạc đấy.”

Jack nhìn ra xa, nhún vai. “Tớ chỉ nhớ chiếc xe cũ. Vậy thôi.”

“Vẫn chưa có dấu hiệu gì sao?”

“Bị mất cắp rồi, tớ nghĩ vậy. Mất luôn không bao giờ tìm lại được.”

Ma thuật của cảm tính, Johnny nghĩ. Chiếc xe đạp cũ của Jack là loại ba số, yên ghế ngu xuẩn, màu vàng khè. Bố cậu mua cũ lại từ ai đó và ít nhất nó cũng phải mười lăm năm tuổi đời rồi. Nó đã được sử dụng khá lâu. “Bộ cậu nhảy tàu hoả đấy à?”

Mắt Johnny nheo lại nhìn cánh tay teo nhỏ của Jack. Jack đã té văng ra khỏi xe tải khi hắn mới lên bốn và bị chấn động gãy cánh tay, xương tay khi ấy chỉ là xương rỗng. Bác sĩ phải mổ để ghép xương bò vào phần xương rỗng. Ông bác sĩ chắc tài nghệ phải rất kém nên sau đó cánh tay gần như ngừng phát triển. Những ngón tay cũng không cử động đúng nghĩa của nó. Cơ bắp hoạt động rất yếu ớt. Johnny chẳng màng quan tâm chuyện này vì nó không quan trọng gì đến tình bạn hai đứa. Nhưng đó chỉ là chuyện khoả lấp. Khi đề cập đến nó, Jack dễ bị kích động. Johnny nhìn thấy ánh mắt bạn liếc nhìn.

“Cậu nghĩ tớ không có khả năng nhảy tàu hỏa?” Jack giận dữ.

“Tớ mới chỉ nghĩ đến một anh chàng, cậu biết anh ta mà.”

Cả hai biết rõ câu chuyện, một cậu bé mười bốn tuổi cũng học ở một trường học trong quận đã nhảy tàu hỏa và tay chân không biết lúng túng thế nào. Cậu ấy rơi xuống dưới bánh xe và bị nghiến đứt hai chân: một bên ở đùi, bên kia dưới đầu gối. Cậu ấy trở thành tấm gương mà người như Jack cần phải cẩn thận.

“Thằng nhóc đó là đồ chết nhát.” Jack lục lọi bên trong một cái túi phía ngoài của ba lô và mò được gói thuốc lá hương bạc hà. Cậu ta rút ra một điếu bằng cánh tay tật nguyền và kẹp nó giữa hai ngón tay bé xíu và mồi lửa. Hắn rít vào một hơi và nhả khói tròn chữ O.

“Bố cậu cũng mua thuốc lá loại thường sao?”

Jack nhìn lên bầu trời xanh thẳm và rít thêm một hơi thuốc. Điếu thuốc lá trên bàn tay nhỏ bé của hắn bỗng dưng to lớn lạ thường. “Cậu làm một điếu không?” hắn hỏi.

“Tại sao không?”

Jack đưa cho Johnny một điếu và để cậu mồi lửa từ đầu điếu thuốc cậu ta đang hút dở. Johnny rít vào một hơi và ho sặc sụa. Jack cười vang. “Cậu chưa phải dân hút thuốc.”

Johnny búng đầu thuốc xuống dòng sông. Nhổ nước miếng xuống đất. “Thuốc tệ quá,” cậu nhắc lại. Khi ngước mắt nhìn lên, cậu bắt gặp đôi mắt của Jack trố nhìn những vết bầm mới trên ngực và xương sườn cậu.

“Mấy vết đó mới.” Jack nói.

“Cũng không hẳn là mới.” Johnny quan sát dòng chảy đang kéo một khúc gỗ trôi qua tảng đá. “Cậu kể lại tớ nghe lần nữa đi.” Johnny nói.

“Kể chuyện gì?”

“Về chiếc xe bán tải.”

“Trời ơi, Johnny. Cậu thật biết cách làm mất hết hứng thú của một ngày vui vẻ. Tụi mình sẽ còn phải mất bao nhiêu thời gian nói đi nói lại chuyện này. Chẳng có gì thay đổi kể từ lần sau cùng. Hay thời gian trước đó.”

“Hãy nói cho tớ nghe đi.”

Jack rít một hơi thuốc và quay mặt nhìn đi hướng khác. “Nó chỉ là chiếc xe bán tải.”

“Màu gì?”

“Cậu cũng biết màu gì mà.”

Jack thở dài, “Màu trắng.”

“Còn chuyện những chỗ móp? Trầy xước? Cậu còn nhớ gì khác nữa?”

“Chuyện đã một năm rồi Johnny.”

“Còn gì khác nữa?”

“Quỷ thần ơi, anh bạn. Nó là chiếc xe màu trắng. Màu trắng. Như tớ đã nói với cậu. Như tớ đã khai với cảnh sát.”

Johnny chờ đợi và một lúc sau Jack lấy lại bình tĩnh. “Nó là một chiếc xe bán tải màu trắng trơn,” cậu nói.

“Như là loại mà dân thợ sơn hay dùng.”

“Cậu chưa bao giờ nói về chi tiết này.”

“Tớ có nói mà.”

“Không. Cậu diễn tả nó: màu trắng, không cửa sổ đằng sau. Cậu chưa bao giờ nói nó trông giống như xe của dân thợ sơn. Tại sao giờ này cậu mới nói ra? Hai bên hông xe có sơn tràn, văng ra ngoài không?”

“Không.”

“Thang trên mui xe? Có giá để thang trên mui không?”

Jack hút xong điếu thuốc và búng đầu thuốc xuống dòng sông. “Nó chỉ là chiếc xe bán tải thôi Johnny. Cô bé ấy đứng cách xa hai trăm mét khi chuyện này xảy ra. Tớ cũng không biết chắc đó là cô ấy cho đến khi tớ biết đích xác cô ấy bị mất tích. Tớ đang trên đường từ thư viện về nhà, cũng như cô ấy. Một đám chúng tớ ở thư viện ngày hôm đó. Tớ thấy một chiếc xe tải trườn tới từ trên đỉnh đồi và dừng lại. Một bàn tay thò ra ngoài cửa xe và Alyssa bước đến cạnh bên. Cô ấy không có dấu hiệu sợ hãi hay gì cả. Cô ấy đơn giản bước đến gần.” Hắn dừng lại. “Sau đó thì cánh cửa mở ra và ai đó vồ lấy cô bé. Một người đàn ông da trắng. Áo thun đen. Như tớ đã nói hàng trăm lần rồi. Cánh cửa đóng sầm lại và chiếc xe lao vút đi. Toàn bộ sự việc chỉ diễn ra khoảng mười giây... Tớ không nhớ được chi tiết nào khác nữa.”

Johnny nhìn xuống đất, đá vào tảng đá.

“Tớ xin lỗi. Tớ ước gì tớ đã làm một cái gì đó, nhưng tớ đã không làm điều gì cả. Cứ như thể đó không phải chuyện thật xảy ra.”

Johnny đứng im lặng, mắt nhìn xuống dòng sông. Sau một phút, cậu gật đầu. “Cho tớ lon bia khác.”

Hai người uống bia và sau đó bơi dưới sông. Jack hút thuốc lá. Sau một giờ, Jack hỏi: “Cậu có muốn đi xem một vài căn nhà không?”

Johnny ném lướt viên đá và lắc đầu. Jack hứng thú với trò chơi này, một cuộc mạo hiểm. Hắn ưa thích cái trò lọ mọ rình rập và khám phá nhìn ngắm những thứ mà lẽ ra con nít chưa được phép nhìn thấy. Đối với Jack, nó là trò chơi tìm cảm giác mạnh. “Hôm nay thì không,” Johnny nói.

Jack bước bộ đến chiếc xe đạp của Johnny, tờ bản đồ được kẹp vào giữa những căm xe. Cậu lôi tờ bản đồ ra, cầm nó lên. “Cái này là gì đây?” Johnny nhìn cậu bạn, sau đó nói cho hắn biết cậu chạm trán với thám tử Hunt. “Ông ta đánh phủ đầu tớ mọi chuyện.”

Jack nghĩ cậu bạn mình nói dóc. “Ông ta chỉ là ông cớm chứ có gì.”

“Bố cậu cũng là cớm mà.”

“Ừ, và tớ lấy trộm bia từ tủ lạnh của ông ấy. Điều này nói lên điều gì?” Jack nhổ toẹt nước bọt xuống đất, một dấu hiệu chung khinh tởm giữa hai cậu con trai. “Thôi nhanh lên. Phải làm một cái gì chứ. Nó sẽ giúp cậu cảm thấy thoải mái hơn. Cả hai chúng ta đều biết chuyện này. Và tớ cũng không thể suốt ngày ngồi chôn chân ở đây.”

“Không được.”

“Sao cũng được,” Jack nói, và nhét tấm bản đồ trở lại giữa các cây căm xe. Hắn thấy cái lông gắn chặt trên xe đạp của Johnny. Nó được treo tòng teng trên một cọng dây thắt nút vào cây cốt yên xe. Hắn cầm lên. “Ê, đây là cái gì vậy?”

Johnny trừng mắt nhìn bạn mình. “Chả là cái gì hết,” cậu nói.

Jack vân vê cái lông giữa các ngón tay. Ánh sáng khiến cái lông lấp lánh. Hắn nghiêng nó về hướng ánh sáng. “Quá đã,” hắn nói.

“Tớ đã nói rồi, đừng có động đến nó.”

Jack thấy bạn nghiêng vai, buông cái lông xuống. Cái lông đu đưa trên sợi dây. “Trời ơi. Tớ chỉ hỏi một câu thôi mà.”

Johnny buông thõng ngón tay, thả nắm đấm. Jack là Jack. Hắn cũng không có ý định xấu gì. “Tớ nghe nói anh cậu chọn chơi bóng cho Clemson.”

“Cậu nghe được tin ấy à?”

“Tin tức loan tải khắp nơi.”

Jack lượm hòn đá lên, lăn hòn đá từ bàn tay lành lặn qua bàn tay bị tai nạn. “Anh ấy đã được đội bóng nhà nghề săn đón. Anh ta phá kỷ lục hồi tuần qua.”

“Kỷ lục gì?”

“Chạy bóng về đích.”

“Cho đội bóng của trường?”

Jack lắc đầu. “Cho tiểu bang.”

“Tớ nghĩ bố cậu hãnh diện lắm,” Johnny nói.

“Con trai ông ấy sẽ nổi tiếng.” Nụ cười của Jack nhìn rất thật, nhưng Johnny thấy Jack lại giấu đi cánh tay bị tai nạn của hắn thật chặt sau lưng. “Dĩ nhiên ông ấy hãnh diện.”

Cả hai tiếp tục uống. Mặt trời lên cao hơn, nhưng ánh sáng dường như tối đi. Không khí trở nên lạnh hơn, như là nước sông tự nó đông đá. Johnny tu nửa lon thứ ba, cậu đặt lon bia xuống.

Jack xỉn.

Cả hai không bàn tán gì thêm về người anh trai của Jack.

Đến giữa trưa, cả hai cùng nghe tiếng động cơ ô tô hãm máy trên đường quốc lộ. Chiếc xe ngừng ở giữa cầu, sau đó rẽ vào con đường mòn dẫn đến bờ sông ngay bên trên nơi hai đứa đang có mặt. “Chết rồi.”

Jack giấu biến những lon bia. Johnny choàng vội áo vào để che giấu những vết bầm tím, và Jack giả vờ như mọi chuyện bình thường. Từ lâu, cả hai đã thống nhất với nhau xem nên nói hoặc không điều gì.

Một cái vỉ sắt to cao lù lù đẩy dạt những cây cỏ dại mọc um tùm giữa con đường mòn, và Johnny thấy một chiếc xe tải đánh bóng. Kền mạ bóng loáng phản chiếu ánh sáng và kính trước xe bóng như gương soi. Khi xe dừng, động cơ rú ầm ĩ, rồi im bặt. Ba trong bốn cánh cửa mở rộng. Jack đứng thẳng người lên.

Quần jeans xanh. Giầy ủng. Những bắp thịt tay cuồn cuộn. Johnny thấy hết khi những gã tráng niên lớn tuổi hơn bu quanh phía đằng trước của chiếc xe tải. Cậu biết và từng gặp những người này. Họ là học trò trung học. Mười bảy, mười tám tuổi. Những gã đàn ông, hoặc cũng gần như đàn ông. Một người cầm một xị bourbon trên tay. Cả ba đều phì phèo thuốc lá. Họ đứng ngay sát mép đường nơi mà bờ đất rơi thẳng xuống dòng nước. Họ nhìn xuống, thấy Johnny. Một người cao, tóc vàng có cái bớt màu tím than ở cổ, thúc cùi chỏ vào gã tài xế. “Nhìn dưới kia kìa,” hắn nói. “Hai thằng nhóc cấp II.”

Khuôn mặt gã tài xế không hề biểu lộ cảm xúc... Gã tay cầm chai bourbon nhấp một ngụm. Jack ở dưới hét lên, “Cút đi Wayne.”

Gã có bớt trên cổ ngưng ngay tiếng cười.

“Đúng vậy đó,” Jack nói. “Tao biết chúng mày mà.”

Gã tài xế dùng lưng tay thúc vào ngực gã có bớt trên cổ. Gã người cao ráo, tướng tá khoẻ mạnh, đẹp trai như hình ảnh in trong postcard. Gã xem Wayne là kẻ biết xử sự, sau đó chỉ tay xuống Jack.

“Hắn là em của Gerald Cross, cậu nên tôn trọng hắn một tí.”

Wayne trêu ghẹo. “Thằng nhóc ranh kia à? Tớ không thể tin nổi.” Gã bước lên một bước, nghiêng người qua bờ kè và to giọng. “Anh của cậu lẽ ra phải ký hợp đồng chơi cho Carolina,” gã nói. “Cậu về nói với hắn là chỉ có đám gà mái mới chơi cho Clemson.”

Johnny hỏi: “Có phải anh cũng sẽ chơi cho bọn ấy không?”

Gã tài xế cười. Anh chàng ôm chai bourbon cũng cười. Khuôn mặt của Wanye tối sầm, nhưng gã tài xế bước đến phía trước can ngăn. “Tôi cũng biết cậu,” gã nói với Johnny, ngưng một lúc gã rít một hơi thuốc lá. “Tôi xin chia buồn về cô em gái của cậu.”

“Chờ một chút,” Wayne nói và chỉ tay. “Cái thằng đấy đó hả?”

“Đúng, nó đấy.”

Lời nói phát ra không một cảm xúc, cơn nóng giận tràn lên đến đỉnh điểm. “Tôi không biết anh là ai,” Johnny nói.

Jack khều cánh tay của Johnny. “Hắn là con Hunt. Con ông thám tử. Tên hắn là Allen, học lớp mười hai.”

Johnny nhìn lên thì thấy một sự trùng hợp giữa ông thám tử Hunt với cậu con trai. Mái tóc khác nhau nhưng tạng người như nhau. Cùng một ánh mắt mềm dịu. “Đây là chỗ của chúng tôi,” Johnny nói. “Chúng tôi đến đây trước.”

Con trai thám tử Hunt nghiêng người ra phía ngoài mép sông, nhưng gã không màng gì đến lời đuổi khéo của Johnny. Gã nói với Jack. “Đã lâu tôi không gặp cậu.”

“Sao lại gặp tôi?” Jack nói. “Chúng ta chẳng có gì để nói với nhau. Đến cả Gerald cũng vậy.”

Johnny nhìn về hướng Jack. “Hắn biết anh trai của cậu sao?”

“Một thời xa xưa.”

Allen đứng thẳng. “Một thời xa xưa,” hắn nói, không một cảm xúc trong lời nói. “Chúng mình đi tìm một nơi khác thôi.” Hắn xoay người, dừng lại, nói với Jack.

“Nhắn với ông anh của cậu, tôi gửi lời chào.”

“Tự tìm gặp anh ta mà nói.”

Allen khựng lại, sau đó cười nhạt. Hắn ra hiệu với đám bạn, sau đó cùng leo trở lại xe tải, rồ máy. Họ lùi xe ngược trở lên con đường đất và biến mất dạng; chỉ còn lại duy nhất dòng sông, ngọn gió.

“Tay đó là con ông Hunt sao?” Johnny hỏi.

“Đúng rồi.” Jack nhổ bãi nước bọt xuống đất.

"Có chuyện gì giữa cậu và ông anh của cậu vậy?"

“Gái,” Jack nói, phóng mắt nhìn ra phía bờ sông. “Nước chảy dưới gầm cầu.”

Không khí trở nên chua chát sau đó. Chúng bắt được con rắn nước và thả nó đi, dùng dao khoét gỗ thả trôi sông, nhưng không giải quyết được chuyện gì. Johnny muốn nói ra hết những gì trong bụng và Jack cảm nhận được điều này, cho nên khi tiếng còi tàu xe hỏa xuôi nam vang vọng, Jack buộc dây giầy và nhét mọi thứ vào balô. “Tớ phải chia tay với cậu.”

“Cậu có chắc không?”

“Ngoại trừ cậu muốn đèo tớ ngồi trên gi-đông về phố.” Johnny theo Jack lên trên bờ sông. “Cậu có muốn gặp lại tớ không?” Jack hỏi. “Xem một bộ phim? Chơi trò chơi điện tử?”

Tiếng còi tàu vang lên lần nữa, gần hơn. “Cậu thôi đi là vừa,” Johnny nói.

“Gọi tớ sau nhé.”

Johnny chờ cho đến khi Jack khuất bóng, cậu tháo cái lông kim cất vào trong áo và đeo sợi dây qua cổ. Thọc hai tay xuống dưới dòng nước, hất nước lên mặt, sau đó vuốt cái lông trên yên xe đạp. Nước làm cho nó lấp lánh, trơn tuột giữa các ngón tay, mới toanh, đẹp mắt và hoàn hảo.

Johnny ném thêm vài viên đá xuống dòng nước, sau đó leo lên nằm trên phiến đá. Mặt trời ấm áp, không khí là tấm chăn phủ, và ở một thời khắc nào đó, cậu thiếp đi. Khi bừng tỉnh, cậu chồm dậy. Trời đã xế bóng: đã năm giờ chiều, có thể là năm giờ rưỡi. Những đám mây đen kéo xuống cuối chân trời. Một cơn gió lạnh mang theo mùi vị của trận mưa từ khoảng cách xa.

Johnny phóng vội vã khỏi tảng đá và đi lùng kiếm đôi giầy. Khi cầm giầy trên tay, cậu nghe thấy từ xa văng vẳng tiếng gào rú của động cơ nổ máy 2-thì. Chiếc xe từ hướng Bắc tiến lại gần, nhanh chóng. Tiếng rít to dần thành tiếng gào rú, một chiếc xe gắn máy đang phi hết tốc lực. Khi cái xe gần đến cây cầu, Johnny nghe thấy tiếng gầm rú của một động cơ khác. Chiếc này to hơn, chạy băng băng trên đường. Johnny rướn cổ lên, thấy cột bê tông chạy dọc theo cầu và tít đằng xa là khoảng lá xanh và bầu trời trên nền màu xám. Chiếc cầu bắt đầu rung lên bần bật, và Johnny biết cậu chưa từng nghe bất cứ thứ gì đụng phải cây cầu với vận tốc nhanh như vậy.

Cả hai vượt qua khoảng giữa cầu, sắt thép bỗng nhiên va chạm vào sắt thép. Johnny thấy kim loại nóng đỏ văng tứ tung, nóc mui xe, và một chiếc xe gắn máy xoay tròn tung bổng trên trời trước khi hất văng nạn nhân qua khỏi lan can cầu. Một cái chân cong gập tưởng chừng như không thể nào cong hơn được, hai cánh tay hất tung lên, và Johnny biết đây là một lỗi lầm nghiêm trọng, một người đàn ông hét vang.

Nạn nhân bị phóng văng rơi xuống chân của Johnny kêu vang một tiếng, có tiếng kêu răng rắc của xương cốt gẫy lìa. Người đàn ông mặc chiếc áo dính đầy bùn đất và chiếc quần màu nâu. Một cánh tay bị bẻ quặt nằm sau lưng, những góc độ giết người, ngực của gã bị lõm sâu vào trong. Hai mắt gã mở trừng trừng với màu xanh biếc lạ lùng.

Tiếng thắng rít trên đường nhựa. Johnny bước đến gần người đàn ông bị nạn, da mặt người ấy bị bong hết một bên, mắt bên phải đầy máu. Mắt còn lại nhìn Johnny như thể cậu có thể cứu được mạng ông ta.

Ở trên đường nhựa, động cơ máy gầm rú. Vỏ bánh xe rít lên khi bị gài số de. Johnny cảm nhận sự rung chuyển khi chiếc xe lùi lại lên trên cầu.

Quai hàm người đàn ông bị thương khó nhọc cử động. “Hắn sẽ trở lại.”

“Không sao đâu,” Johnny nói. “Chúng tôi sẽ giúp ông.” Cậu quỳ dưới đất. Người đàn ông chìa tay và Johnny với tới. “Mọi chuyện sẽ ổn thôi.”

Nhưng gã đàn ông làm ngơ lời nói của Johnny. Với sức mạnh rất kinh ngạc, gã kéo cậu lại gần hơn. “Tôi đã tìm thấy cô bé.”

Johnny tập trung nhìn vào đôi môi người đàn ông. “Ông đã tìm thấy ai?”

“Cô bé bị bắt cóc.”

Johnny run bắn người. Thân thể người đàn ông co cứng, máu tuôn trào ra từ mồm bắn vào áo của Johnny. Johnny cũng không để ý chuyện này. “Ai?” Cậu hỏi lần nữa, và lớn tiếng hơn. “Ai?”

“Tôi đã tìm thấy cô ấy...”

Bên trên, động cơ ô tô đứng máy ù ù. Người đàn ông bị nạn nhướng mày mở mắt, sự sợ hãi của gã hiển hiện rất rõ. Gã kéo Johnny đến gần hơn và cậu ngửi thấy mùi máu và nhìn rõ nội tạng người đàn ông bị vỡ nát. Hai mắt gã gấp nếp ở nhiều góc, và Johnny nghe thấy tiếng thì thào.

“Chạy đi...”

“Cái gì?”

Người đàn ông nắm chặt tay hơn. Johnny nghe thấy tiếng máy nổ động cơ ầm ầm phành phạch, sau đó một thứ gì như sắt thép va chạm trên nền xi măng. Tay người đàn ông bám quá chặt, móng tay ông ta cắt vào da thịt Johnny.

“Vì Chúa...”

Cơ thể ông ta lại co giật một lần nữa, xương sống co chặt, cánh tay gãy vặn vẹo.”

“Chạy đi.”

Johnny nhìn xuống, thấy một chiếc đế ủng đạp trên nền đất, và điều gì đó nhanh chóng đến trong đầu.

Đây không phải một tai nạn.

Johnny nhìn về hướng cây cầu và thấy một cái bóng to lớn đang di chuyển: cái đầu, cái vai, một người đàn ông di chuyển ở phía đằng trước chiếc ô tô. Cái bóng người đàn ông như một mảnh giấy cắt ngược. Johnny cảm nhận được máu trên hai bàn tay mình, ướt dính và mỗi lúc một lạnh ngắt.

Không phải một tai nạn.

Thi thể người đàn ông co cứng, đầu va vào đất, gót chân dẫm thình thịch. Johnny cố gắng kéo tay gã ra, cậu phải giật nó ra với tất cả sức lực. Tiếng ồn trên cây cầu. Sự chuyển động. Sự sợ hãi như một lưỡi dao nhọn đâm vào phần dưới và cắm sâu vào bên trong. Cả đời Johnny chưa bao giờ sợ hãi như lúc này, ngay cả cái ngày khi cậu thức dậy và biết bố mình đã bỏ đi xa, những lúc mẹ thiếp đi và ông Ken với ánh mắt nhìn lập loè kinh sợ. Lúc này Johnny thật sự khiếp sợ.

Run cứng.

Sau đó cậu xoay người và chạy dọc theo con sông, lao xuống con đường mòn. Cậu chạy cho đến khi cổ họng khô cháy, cho đến khi quả tim trong lồng ngực cào cấu muốn sổ cũi phóng ra ngoài. Cậu chạy thục mạng và chạy trong nỗi sợ hãi. Cậu chạy cho đến khi con ác quỷ khổng lồ từ trong bóng tối thình lình bước ra và tóm lấy cậu. Johnny gào thét.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5


Levi Freemantle vác một thứ quý giá trên vai của gã. Đó là một cái thùng nặng, bọc hai lần trong lớp nhựa đen và dán kỹ lại bằng băng keo bạc. Rất ít người có thể vác nó đi xa như Levi, nhưng Levi không như những kẻ khác. Hắn phớt lờ sự đau đớn thể xác, lờ luôn cảm giác nó đang ở trên vai. Hắn cứ thế bước chân trên con đường mòn và chỉ mở mồm khi chuyện muốn nói dâng tràn lên trên đầu. Hắn lắng nghe lời huấn thị của Chúa trong đầu và đi dọc theo con sông như đã được mẹ dạy từ khi còn tấm bé. Con sông là con sông, chẳng bao giờ thay đổi, và có lẽ Levi đã đi bộ trên con đường mòn này cả trăm lần. Không phải hắn đếm giỏi như vậy, nhưng con số hàng trăm có nghĩa là nhiều lắm.

Hắn đi bộ rất nhiều lần.

Levi trông thấy một cậu bé da trắng trước khi nghe tiếng của nó. Cậu ta phóng nhanh thẳng vào hắn, lao xuống xé toạc con đường mòn như ma quỷ đuổi theo sát gáy và đói khát muốn ăn thịt nó. Đầu thằng bé rụt vào đôi bờ vai gầy gò, khuôn mặt đỏ tía, hai chân nhảy qua những tảng đá và ổ gà trong khi những cành cây đập mạnh vào mặt thằng bé. Thằng bé không nhìn lại phía đằng sau, chưa từng một lần, và cảnh tượng hệt như một con thú đang bị săn đuổi.

Levi muốn nhường đường để thằng bé vượt trước mình, nhưng không còn một chỗ nào để tránh. Chỉ có con sông và những cái cây, nhưng Levi cao tới gần hai mét và nặng hơn một trăm ba mươi kilogram. Những người có súng đều tìm kiếm gã. Cảnh sát với còng tay dắt trên thắt lưng, nhân viên an ninh với gậy gộc và nụ cười ác hiểm. Do đó Levi cầu nguyện Chúa gã phải làm thế nào, và Chúa bảo với gã giữ lấy cậu bé. Không được làm điều gì hại đến cậu ta, Chúa nói như thế. Chỉ giữ lấy nó.

“Thật vậy sao?” Levi thì thầm hỏi, nhưng Chúa không trả lời; do đó Levi nhún vai, bước một chân ra khỏi cái cây to và nắm lấy thằng bé bằng cánh tay to lớn. Thằng bé hét lên kinh hãi, nhưng Levi giữ lấy nó nhẹ nhàng hết sức có thể. Gã ta ngạc nhiên, khi Chúa nhắn với gã nói với thằng bé những gì.

“Chúa nói...,” hắn bắt đầu.

Nhưng Levi đã không nói đủ nhanh. Thằng bé cắn mạnh vào những ngón tay của Levi cho đến khi da thịt nứt vỡ ra như quả nho. Răng thằng bé cắn sâu xuống tận xương tuỷ, và máu bắt đầu tuôn ra xối xả. Quá đau đớn, Levi hất văng thằng bé xuống đất. Hắn mặc cảm tội lỗi khi làm như vậy, như thể hắn làm cho Chúa thất vọng về hắn. Nhưng vết cắn quá đau.

Cậu bé lăn ra và bật đứng dậy trên hai chân, cậu biến mất như con thỏ, nhưng Levi không hề nghĩ gã cần thiết phải đuổi theo. Hắn không thể chạy với cái thùng quá nặng trên vai, và hắn cũng không thể nào bỏ chạy để chiếc thùng ở lại, cho dù chỉ là một vài giây phút. Do đó hắn ôm ngón tay đầy máu và ước cơn đau sẽ ngừng ngay như khi bắt đầu. Sự đau đớn làm hắn nghĩ đến vợ hắn, và quả chưa cái đau nào như cái đau này, do đó hắn dùng một tay giữ chặt ngón tay đẫm máu và lắng nghe lời của Chúa. Khi Chúa nói chuyện được với hắn, Người bảo thật tốt nếu biết được chuyện gì khiến cậu bé kia cắm đầu chạy thục mạng.

Levi nhún đôi vai khổng lồ.

“Chúa nói và Levi bước đi.”

Chuyện thật là buồn cười.

Phải mất hai mươi phút để đi đến cây cầu. Máu loang trên các phiến đá đen thẫm, và Levi lắng nghe rất kỹ trước khi đặt chiếc thùng xuống đất rồi bước ra phía bên ngoài cây dương liễu. Hắn muốn ai đó nói cho hắn biết phải làm gì và Chúa thì hoàn toàn biệt tăm. Một ngọn gió nóng thổi ngang đôi má hắn và sấm chớp đì đùng từ hướng tây. Không khí mang nặng mùi khô ngột ngạt dâng lên từ cát bụi dưới gầm cầu và có cảm giác nó đang tĩnh điện.

Levi nghe thấy âm thanh trên dòng sông. Hắn nghiêng đầu, lắng nghe cả phút đồng hồ trước khi quyết định nó chỉ là tiếng nước xuôi dòng. Hoặc có thể là âm thanh của rắn bò trong cỏ. Hoặc cua ghẹ trong các hốc đá dọc theo bờ con sông.

Nhưng không phải Chúa.

Khi Chúa lên tiếng, Levi cảm nhận được không khí đè nặng trên người; gã cảm thấy bình an, ngay cả khi hắn nhớ lại những chuyện xấu xa hắn đã làm.

Cho nên đây không phải là Chúa.

Hắn đứng trước một thi thể và đầu hắn không suy nghĩ rõ ràng được. Không phải hắn sợ hãi - mặc dù hắn cảm giác đang có nhiều cây đinh nhỏ, bén nhọn đâm tua tủa đằng sau gáy của hắn - Levi cảm thấy đau buồn cho số phận người đàn ông hình thù biến dạng này. Bất hạnh cho cái thân hình bầm dập và máu me lênh láng chảy này. Cứng đơ, mắt mở trợn trừng, vô hồn.

Levi bồn chồn hết đứng đổi chân bên này lại đến chân bên kia. Hắn rờ vuốt những vết sẹo trên khuôn mặt mình, làn da phía bên phải dường như muốn chảy nhão xuống. Hắn không biết làm gì hơn, đành ngồi xuống chờ đợi lời phán của Chúa.

Chúa sẽ biết.

Chúa lòng lành vô cùng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6


Johnny về đến con đường quen thuộc khi mặt trời vừa lặn và ánh sáng chuyển qua màu tím. Âm thanh của ban đêm bắt đầu vang lên từ khu rừng. Cậu cà nhắc trong đau đớn, nhưng trong lòng tràn đầy hy vọng. Hừng hực phấn khích.

Tôi tìm thấy cô bé.

Ông tìm thấy ai?

Cô bé bị bắt cóc.

Johnny lặp đi lặp lại những chữ đó trong đầu, tìm kiếm một lý do nào phủ nhận thứ cảm xúc đã giúp cậu vượt qua được sự đau đớn lan tỏa từ đôi chân. Tám dặm đường, phần lớn chạy bộ, và hoàn toàn không giầy dép. Đôi chân của cậu bị rách nát đầy vết cắt, chân phải nguy ngập hơn, bị mảnh ve chai cắt một vết sâu trong lúc chạy trốn gã khổng lồ với cái thùng trên vai toan tính vồ chụp cậu. Miệng Johnny vẫn vương mùi máu, đất cát bám trên da thịt cậu. Cậu cố gắng xua đi những ý nghĩ về gã đó. Thay vào đó, cậu nghĩ về em gái và mẹ của mình.

Johnny vượt lên đỉnh ngọn đồi sau cùng, gió ẩm thổi ép ngược mạnh vào người. Cậu thấy đèn đường vươn ra ngoài lề đường. Cửa sổ. Nhà cửa. Tất cả trông thật bé nhỏ dưới bầu trời màu tím, tất thảy cánh rừng đen thẫm như bị đẩy ép về phía đường quốc lộ màu đen. Thêm một dặm đường nữa, cậu tự nhắc nhở mình. Thêm một ngọn đồi nữa.

Mẹ cậu muốn nghe điều cậu đã được nghe.

Cậu lao xuống dốc, và không nghe thấy tiếng xe chạy trên lưng đồi đằng sau. Cậu mường tượng không biết tin này sẽ tác động như thế nào đến mẹ. Giúp bà ra khỏi giường. Giúp bà không còn lệ thuộc vào thuốc. Nó có thể là một bước khởi đầu hoàn toàn mới mẻ. Cả hai mẹ con, và em gái Alyssa. Bố của cậu sẽ trở về đoàn tụ.

Họ có thể trở về căn nhà cũ.

Bóng đèn pha xe ô tô chiếu vào Johnny và cậu dạt vào lề đường. Bóng của cậu đổ về hướng trái, rồi chao đảo khi chiếc xe lấy lại thăng bằng và dừng hẳn lại. Johnny dấy lên nỗi kinh sợ, sau đó nhận ra xe ô tô của gã Ken. Nó là chiếc Cadillac to lớn màu trắng, với những cạnh bén và chữ vàng ghi rõ chữ Escalade. Cửa kính bên phía người tài xế hạ xuống. Làn da nâu vàng đủ để che giấu bọc mỡ dưới hai bên mắt. “Chú mày biến đâu mất vậy?” Johnny lắc đầu, thở dốc. “Lên xe, Johnny. Ngay bây giờ.”

Johnny khum người xuống. “Tôi không...” Cậu thủ nắm đấm sẵn bên hông. Gã Ken kéo cần số xe vào vị trí đỗ, tống cánh cửa mở tung. “Đừng có cãi lời tôi, anh nhãi kia. Hãy lên xe ngay lập tức. Ở nhà mẹ cậu đang tan nát cõi lòng vì cậu đấy. Cả thị xã đang rúng động.” Gã Ken leo ra ngoài xe. Ông ta cao và nặng nề, bộ dạng không giống ai mà Johnny cho rằng chỉ có những người đàn ông trung niên mới như vậy. Ông ta đeo chiếc đồng hồ vàng, tóc thưa, và nét cười trên khuôn mặt đối với Johnny không mang một ý nghĩa gì.

Giọng nói Johnny trở nên khó khăn. “Tan nát cõi lòng vì chuyện gì?”

Gã Ken ra lệnh bằng bàn tay to béo. “Lên xe. Ngay bây giờ.”

Johnny leo vào xe và trườn người ngang qua chiếc ghế bọc da êm ái. Ken kéo cần số, và Johnny nghĩ đến người đàn ông bị giết.

Tôi đã tìm thấy cô bé.

***

Ngôi nhà đèn đuốc sáng choang như lễ Noel: đèn bên trong, đèn bên ngoài, xe cảnh sát đậu chéo góc trong sân và sân vườn như được quét sơn với ánh sáng đèn chớp xanh. Cảnh sát trong đồng phục đứng dưới bầu trời tối đen, Johnny thấy súng, máy điện đàm, và dùi cui láng cóng đeo tòng teng ở thắt lưng họ.

“Chuyện gì xảy ra vậy?”

Gã Ken mở cửa xe, dùng tay chộp lấy cổ Johnny. Những ngón tay bám sâu vào bắp thịt mỏng và Johnny giãy giụa.

“Ông làm tôi đau.”

“Lẽ ra nó phải đau hơn nữa.” Gã Ken kéo cậu ngang qua ghế và ra hẳn khỏi xe. Tay ông ta buông ra và ông ta nhoẻn cười khi bắt gặp cái nhìn của những viên cảnh sát. “Tôi tìm được cậu nhóc rồi,” ông ta tuyên bố, và họ dừng lại ở đường vào nhà khi mẹ của Johnny bước ra sân trước. Bà mặc chiếc quần jeans và áo sơ mi màu nâu nhạt như màu sôcôla sữa. Steve bước ra đứng bên cạnh bà. Johnny bước thêm bước nữa, và mẹ cậu lao nhanh xuống khỏi bậc thềm, tóc tai bù xù, mắt ướt đẫm và điên loạn. Bà dang rộng cánh tay ôm chầm lấy cậu, giọng yếu ớt: “Chúa ơi. Con đã đi những nơi đâu vậy?”

Johnny không sao hiểu được. Nhiều lần cậu đã về nhà khi trời tối. Nhiều ngày bà cũng không hề biết cậu con trai mình có ở trên giường hay không. Nhìn qua bờ vai mẹ, Johnny thấy một viên cảnh sát đưa máy liên lạc lên. “Tổng đài. 20 - 7. Làm ơn báo cho thám tử Hunt chúng tôi tìm được Johnny Merrimon. Cậu ấy đang ở nhà.”

Giọng nói è è trong máy ghi nhận rõ những gì viên cảnh sát vừa báo cáo. Vài giây đồng hồ sau, tiếng rè rè của máy lại vang lên. “20-7, xin lưu ý. Thám tử Hunt đang trên đường đến vị trí của bạn.”

“10-4, tổng đài.”

Johnny cảm nhận vòng tay ôm của mẹ nới lỏng ra dần. Bà đẩy cậu lùi về phía sau, và bất thình lình bà lắc mạnh người cậu, gào thét lên: “Con không bao giờ được làm điều ấy nhớ không! Không bao giờ! Con có nghe mẹ nói không? Con có nghe không? Nói là con nghe mẹ! Nói đi!” Sau đó bà lại nắm lấy cậu một lần nữa. “Chúa ơi, Johnny. Mẹ lo cho con quá!.”

Johnny bị lắc và siết chặt, sự rung quá mạnh khiến cậu phải rất khó khăn mới thốt được lên lời. Cảnh sát di chuyển xuống khỏi bậc tam cấp, và Johnny gặp Steve. Ông ta van lơn bằng ánh mắt. Khi đó Johnny hiểu tại sao. “Trường học gọi điện thoại ạ?”

Mẹ cậu gục đầu vào cổ cậu. “Trường học họ đóng cổng ngay sau giờ ăn trưa. Họ gọi đến nhà và nói họ không tìm thấy con, do đó mẹ gọi chú Steve; nhưng chú ấy bảo đã thả con xuống trường. Chú ấy thề như vậy. Và con không trở về nhà, và mẹ nghĩ rằng...”

Johnny kéo mình thoát ra khỏi vòng tay mẹ. “Tại sao trường học lại khoá cổng?”

Mẹ cậu mơn trớn một bên má. “Ồ, Johnny.” Những ngón tay của bà run lẩy bẩy, nóng ấm. “Nó lại xảy ra nữa rồi đó.”

“Chuyện gì xảy ra?”q

Mẹ cậu suy sụp. “Thêm một cô bé khác bị bắt cóc. Ngay ở sân chơi trường học, họ nghĩ vậy. Một học sinh lớp bảy. Tiffany Shore.”

Johnny chớp mắt. Lời nói như phản xạ tự nhiên. “Con biết Tiffany.”

“Mẹ cũng biết nó.”

Giọng của bà lạc đi, Johnny biết mẹ mình suy nghĩ đến chuyện gì. Tiffany Shore đang học lớp bảy. Trạc tuổi như Alyssa khi cô bé bị bắt cóc. Johnny lắc đầu. Cậu nghĩ đến lời trăn trối của gã đàn ông. Khi ông ta nói ông ta tìm thấy cô bé, hẳn ý chỉ cô em gái của Johnny, cô bé Alyssa. Không phải Tiffany. Không phải cô bé nào khác. “Chuyện đó không thể đúng,” Johnny nói; nhưng mẹ cậu nức nở khóc, và Johnny cảm giác niềm hy vọng đang đóng băng. Cậu có cảm giác nó sụp đổ thành tro bụi. “Chuyện đó không thể đúng,” cậu nói một lần nữa. Mẹ cậu lấy lại thăng bằng trên đôi chân, tìm kiếm lời lẽ đúng; nhưng một viên cảnh sát bước tới trước khi bà tìm được lời. “Cậu trẻ,” ông ấy nói, và Johnny ngẩng lên, “Có phải trên áo sơ mi của cậu dính máu không?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7


Mặt trời lặn, ngoài trời tối sẫm, Levi chờ đợi trong cái thân thể thương tích. Gã bực mình với lũ ruồi bu kín và ngón tay đau nhức tột độ làm gã tần ngần không biết có phải Chúa muốn thử thách mình hay không. Gã từng đi xem lễ nhà thờ và biết Chúa làm những chuyện như thế này; nhưng Levi chẳng là một con người đặc biệt. Gã quét dọn sàn nhà để mưu sinh. Cái thế giới này chỉ làm cho gã thêm ngờ vực. Nhưng ơn gọi của Thiên Chúa đã đến với gã trong bảy ngày nay. Nó đến như lời thì thào mong manh và nó mang lại sự bình an khi thế giới ngoài kia dường như tăm tối và nghiêng về bên tội lỗi. Một tuần lễ thì thào tạo ra một lỗ hổng to lớn trong đầu gã đàn ông khi những lời nói mong manh đó chấm dứt, và Levi không sao hiểu được tại sao giờ này Chúa lại yên lặng. Gã là một tên tù trọng án vượt ngục đang ngồi bệt dưới đất chỉ cách thi thể người đàn ông ba mét. Gã đi lang thang không mục đích trong bảy ngày qua.

Tôi đi vòng quanh thế giới trong bảy ngày.

Tiếng nói thổi vào Levi như cơn hồng thuỷ, nhưng nó mang âm hưởng khác biệt. Nó lung linh đi vào, mờ dần lúc đi ra, và làm cho sự suy tư không trọn vẹn. Levi nín thở, xoay đầu, nhưng tiếng nói không trở lại. Levi biết gã không phải người thông minh - vợ gã nói với gã như vậy - nhưng gã cũng không hẳn ngu muội. Kẻ có tiền án hình sự đứng sớ rớ gần thi thể thì chỉ thêm rắc rối. Con đường quốc lộ nằm ngay phía trên đầu của gã. Do đó Levi quyết định là Chúa cũng phải chờ. Chỉ một lần này.

Gã quỳ bên cạnh tử thi kẻ xấu số, lục lọi các túi. Gã tìm thấy chiếc ví và lấy hết tiền mặt trong ví vì gã đói bụng. Gã xưng tội với Chúa, sau đó vứt chiếc ví xuống đất và sắp xếp ngay ngắn tử thi gã đàn ông. Gã kéo trở lại cánh tay gẫy bị quặt ra sau lưng và sắp xếp hai cánh tay đan vào nhau trước ngực cho người xấu số. Gã thọc ngón tay vào vũng máu đặc quánh và làm dấu thánh giá trên vầng trán xám xịt, láng bóng, và sau đó vuốt một mắt còn mở của nạn nhân. Gã cầu nguyện Chúa cứu rỗi đón nhận linh hồn kẻ xấu số.

Xin đón nhận.

Xin cứu rỗi.

Gã thấy ánh chớp sáng loè khi gã đứng lên.

Trên bàn tay của kẻ xấu số, một miếng vải vụn nghẽn giữa hai ngón tay. Levi kéo nó tuột ra dễ dàng. Bạc màu và te tua, nhìn giống như miếng vải của áo sơ mi bị cắt rời hoặc xé rách ra. Nó dài khoảng bằng chiếc giầy của em bé, bạc phếch và bẩn thỉu, có thêu tên trên đó. Levi không thể đọc chữ, cho nên chữ viết trên đó hoàn toàn không có nghĩa gì, nhưng miếng vải màu trắng và kích cỡ vừa đủ thì hữu dụng. Gã cuốn nó vòng quanh ngón tay bị chảy máu và dùng răng thắt nút, kéo thật chặt.

Ở dưới bóng cây dương liễu, gã dừng lại ngay cạnh kiện hàng nặng nề bọc trong nhựa plastic. Gã dùng tay vuốt dọc kiện hàng, và sau đó vác nó trên vai. Với bất kỳ người đàn ông nào khác, nó có thể rất nặng nề, và chỉ nghĩ về nó thôi đã làm người ta chùn bước. Nhưng với Levi thì không như vậy. Gã khoẻ mạnh, có mục đích; và khi nhựa plastic cọ sát vào vành tai, gã nghe được lời răn dạy của Chúa. Lời nói. Lời khuyến khích hãy làm tốt công việc, và lời khuyên hãy tiếp tục cất bước.

Gã đi khuất năm mươi phút sau thì cảnh sát có mặt.

Xe của thám tử Hunt dừng lại ở trên cầu. Ở đây không có đèn đường, không có nhà. Bầu trời đen mù, lằn chân trời tím thẫm về hướng tây. Ở phía trên, những cụm mây giông trĩu xuống, và tiếng uỳnh uỳnh khô khan dộng hai lần trước khi sấm chớp đánh. Một hàng dọc xe ô tô mang huy hiệu với đèn chớp tắt, trờ tới đậu sát đằng sau xe của thám tử Hunt. Nhiều đèn rọi bật lên chiếu sáng cả cây cầu. Hunt quay qua Johnny đang ngồi ghế đằng sau cùng với mẹ cậu. Khuôn mặt họ đen sạm, và ông thấy những sợi tóc của họ dựng đứng trên phông nền của đèn pha chiếu tới từ những chiếc ô tô phía đằng sau. “Cậu không sao chứ hả?” ông hỏi. Không có câu trả lời. Mẹ cậu ôm chặt con trai. “Đây đúng là chỗ ấy phải không, Johnny?”

Johnny nuốt nước bọt. “Đúng là đây.” Cậu chỉ tay. “Phía bên đó của cây cầu. Thẳng xuống dưới.”

“Nói cho tôi nghe thêm một lần nữa gã ấy nói gì. Từng chữ một.”

Giọng của Johnny nghe như chết rồi. “Tôi đã tìm thấy cô ấy. Cô bé bị bắt cóc.”

“Còn gì khác không?”

“Ông ta nói với cháu hãy chạy đi. Ông ta nói về người đàn ông trong xe.”

Hunt gật đầu. Họ đã nói đi nói lại chuyện này sáu hoặc bảy lần. Tất cả những gì đã xảy ra. “Không có điều gì khác để cháu nghĩ ông ấy nói về cô em gái của cháu à? Ông ta không hề nói đến tên của cô bé hoặc diễn tả bất cứ điều liên quan à?”

“Ông ta nói về em Alyssa.”

“Johnny...”

“Ông ta có mà!”

Đầu của Johnny nghiêng về phía ánh sáng gắt của đèn pha, và Hunt muốn vỗ lên vai chàng trai trẻ, an ủi cậu mọi chuyện sẽ không sao; nhưng nhiệm vụ của ông không phải là cứu độ tất cả chúng sinh, cho dù ông muốn đến mức nào chăng nữa. Ông liếc mắt qua bà Katherine Merrimon. Bà ngồi đó, nhỏ thó và bất động, ông cũng muốn an ủi vỗ về bà; nhưng những tình cảm thật là tế nhị. Bà ta thật đẹp, thật mong manh và suy sụp, nhưng bà ta là một nạn nhân, và có những điều lệ quy định về vấn đề này. Do vậy Hunt tập trung vào vụ án, giọng của ông cứng gắt. “Hy vọng rất mong manh, Johnny ạ. Cậu nên chuẩn bị tâm lý. Chuyện đã xảy ra một năm rồi. Rất có thể người đàn ông ấy nói đến cô bé Tiffany Shore.”

Johnny lắc đầu, nhưng vẫn im lặng. Khi mẹ cậu lên tiếng, giọng của bà nghe như giọng đứa trẻ. “Tôi biết Tiffany,” bà nói.

Bà đã nói như vậy hai lần, nhưng không ai để ý điều này. Johnny chớp mắt và thấy hình bóng của cô gái mất tích. Tiffany là cô gái nhỏ, tóc vàng, mắt xanh, có vết sẹo trên cánh tay trái, và cô sẵn sàng kể một câu chuyện hài hước ngu ngơ cho bất cứ ai muốn nghe. Câu chuyện về ba con khỉ, một con voi và một con gà trống. Cô là một cô bé ngoan. Luôn luôn như vậy.

“Gã đàn ông trên cây cầu,” Hunt bắt đầu. “Cậu có nhớ điều gì khác không? Cậu có thể nhận diện được gã không?”

“Ông ta chỉ là một hình bóng. Một cái gì đó di chuyển. Cháu không thấy rõ mặt ông ta.”

“Còn chiếc xe thì sao?”

“Không. Như cháu đã nói.”

Thám tử Hunt nhìn xuyên thấu qua cửa kính khi nhiều cảnh sát ra khỏi xe tuần tra và nhiều bóng người được ánh sáng đèn đường hắt lên thành cầu. Ông không vui vẻ cho lắm. “Ngồi yên ở đây,” ông nói. “Đừng ra khỏi xe.”

Ông trèo ra khỏi xe, đóng sầm cánh cửa lại phía sau lưng, và cảm nhận không khí hiện trường. Mùi không khí ẩm thấp, nặng nề từ dòng sông. Bóng đêm bao trùm gầm cầu, thám tử Hunt dõi mắt về hướng bắc như thể ông có thể thấy đường vạt cắt thật to của miền đồng quê đè mạnh xuống quận hạt đen tù mù: cách hai mươi dặm đầm lầy kéo dài ra dòng sông, dưới chân những ngọn đồi là rừng sồi. Một giọt mưa lạnh rớt xuống gò má, ông cho gọi viên cảnh sát gần nhất. “Kéo đèn pha chiếu xuống phía dưới thành cầu,” ông nói. “Dưới đó.” Ông di chuyển về hướng lan can cầu trong khi cảnh sát kéo đèn pha từ xe tuần tra và rọi ánh sáng như mũi tên bắn sâu vào màn đêm. Khi họ rọi đèn xuống bờ kè con sông, ánh sáng chiếu thẳng vào một tử thi nằm dưới đất.

Chiếc xe đạp của Johnny Merrimon nằm trên mặt đất cách thi thể khoảng một mét rưỡi.

Lạy Chúa.

Cậu bé nói đúng.

Các nhân viên dưới quyền di chuyển qua lại xung quanh Hunt. Dưới quyền điều động của ông là bốn viên cảnh sát và nhân viên điều tra hiện trường. Ông nghe một loạt âm thanh lộp độp ngắt đoạn trên kính trước ô tô, cảm nhận những hạt mưa nặng vỡ tung trên đỉnh đầu. Mưa bắt đầu trút xuống, và rất nặng hạt. Ông dùng tay ra hiệu. “Lấy tấm bạt che phủ thi thể. Nhanh chóng lên. Tôi cũng muốn có bạt che lên thành cầu, ngay chỗ này.” Ông liên tưởng ngay đến những vết cào của sơn, và những mảnh kính vỡ văng vãi trên thành cầu. “Đâu đó gần đây là chiếc xe gắn máy. Hãy cố tìm nó. Và ai đó đi kiếm một cái lều đi!” Sấm sét nổ vang trời, ông ngước mắt lên nhìn. “Tình hình này chỉ càng lúc càng tệ hơn.”

***

Bên trong xe, Johnny cảm thấy mẹ cậu bắt đầu run lên bần bật. Bắt đầu từ cánh tay của bà, rồi di chuyển lên hai bả vai.

“Mẹ?”

Bà làm ngơ cậu và lục lọi túi xách. Phía dưới xe tối mù, bà đưa chiếc túi xách lên cao, hướng về phía ánh sáng bóng đèn. Johnny nghe thấy tiếng lọc cọc của những viên thuốc trong lọ nhựa. Bà lắc lấy vài viên vào lòng bàn tay, ngửa đầu về phía sau và nuốt không cần nước. Chiếc túi xách rơi trở lại vào bóng tối âm u và đầu bà đập mạnh vào thành ghế, bật lại. Giọng của bà trống rỗng cảm xúc. “Đừng bao giờ làm điều ấy nữa,” bà nói.

“Trốn học?” Johnny hỏi.

“Không.”

Giây phút yên lặng ngột ngạt. Lồng ngực Johnny buốt giá lạnh cóng.

“Đừng làm mẹ hy vọng.” Bà xoay đầu qua. “Đừng bao giờ làm như vậy với mẹ nữa.”

***

Họ dựng xong căn lều trước khi trời đổ mưa như trút nước. Hunt ngồi xuống bên cạnh tử thi trong khi chiếc lều rung chuyển và lắc mạnh. Vải bạt đập vào nhau tạo thành những tiếng động mạnh khiến ông phải hét to mọi người mới nghe được tiếng ông. Hai viên cảnh sát cầm đèn chiếu; một nhân viên điều tra hiện trường và bác sĩ khám nghiệm quỳ gối cạnh tử thi. Đứng phía trên Hunt, một viên cảnh sát nói: “Nước sẽ chảy ở phía dưới trong thời gian ngắn.” Hunt đồng ý. Giông bão những ngày giáp hè thường nặng hạt và kết thúc nhanh chóng, nhưng lượng nước có thể trút xuống rất lớn. Một cơn giông tầm tã.

Thám tử Hunt nghiên cứu khuôn mặt bê bết máu, sau đó là đoạn xương gãy vỡ đôi với mảnh nhọn đâm tua tủa khi cánh tay bị bẻ quặt góc. Cáu ghét đóng tảng trên quần áo của tử thi; nó đen, gần như xanh lục, bết vụn vào quần áo và vào đế giầy. Mùi gì đó vương vãi, một thứ gì đó hữu cơ, một thứ gì đó vượt xa mùi vị của dòng sông và cái chết mới đây. “Có biết thêm được điều gì không?” Hunt hỏi người bác sĩ khám nghiệm tử thi.

“Gã ta là người cường tráng. Bắp thịt săn chắc. Ngoài ba mươi, tôi có thể nói vậy. Một nhân viên của ông đang giữ ví của người này.”

Hunt nhìn thám tử Cross, người đang giữ cái ví đựng trong túi nylon tang vật. Cross cao lớn, khuôn mặt có nhiều nếp nhăn và nặng nề đằng sau đèn pha sáng rực. Ông ta năm nay ba tám tuổi và đã mười năm tùng sự ở sở cảnh sát. Ông ta nổi tiếng là một thượng sĩ tuần tra thực dụng, đảm lược dưới áp lực công việc và trở thành thám tử điều tra chưa được sáu tháng thâm niên công vụ. Cross lên tiếng khi trao lại chiếc ví.

“Bằng lái xe ghi tên ông ta là David Wilson. Hiến tạng. Không đeo kính. Cư ngụ ở khu khá giả, mang trong người một thẻ thư viện và một tập dày biên lai nhà hàng: một số ở Raleigh, một số ở Wilmington. Không đeo nhẫn cưới. Không có tiền mặt. Hai thẻ tín dụng vẫn còn trong ví.”

Hunt nhìn chiếc ví. “Ông đã chạm vào nó hả?”

“Phải.”

“Tôi là thám tử chỉ huy trong vụ án mạng này, Cross. Ông có hiểu điều này không?” giọng ông chắc nịch, thực quyền.

Cross nhún nhường. “Thưa ông, vâng.”

“Ông là lính mới trong việc này. Tôi hiểu. Nhưng là thám tử chỉ huy trong vụ án mạng có nghĩa tôi là người chịu trách nhiệm trong việc chúng ta có bắt được hung thủ hay không, chúng ta tìm được cô bé hay không.” Cặp mắt ông rực lửa. Một ngón tay giơ lên. “Vụ án này kết thúc như thế nào, tôi sẽ phải sống đời với nó. Đêm này qua đêm khác, tôi là người chịu trách nhiệm. Ông có hiểu không?”

“Thưa vâng.”

“Đừng bao giờ sờ mó vào tang chứng ở hiện trường vụ án tôi phụ trách mà không được phép của tôi. Nếu tái phạm một lần nữa tôi sẽ cho ông biết tay.”

“Tôi chỉ muốn giúp một tay.”

“Ông hãy ra khỏi căn lều này ngay.” Hunt run lên giận dữ. Như chừng ông vừa mất thêm một nạn nhân...

Thám tử Cross bỏ đi với những bước chân ân hận. Hunt hít một hơi thật sâu, rồi quay trở lại tập trung vào thi thể nạn nhân. Áo mặc chỉ là áo thun, màu xám và bốc mùi mồ hôi hôi hám, máu và đất cát bẩn thỉu xanh đen; thắt lưng chỉ màu nâu đơn giản không rõ nhãn mác, với khoá thắt lưng đồng thau có nhiều dấu vết cạo xước. Quần nạn nhân là loại vải cotton cứng, bạc mòn. Một mắt mở hí, nhìn thất thần và mờ đục dưới ánh sáng rọi vào.

“Trong lều nóng như nung.” Bác sĩ khám nghiệm tử thi tên là Trenton Moore. Người nhỏ con và vóc dáng cân đối, tóc dày, lỗ chân lông to, và đôi môi gây sự chú ý mạnh mẽ hơn mỗi khi anh ta nói to. Anh còn trẻ tuổi, thông minh, có tài hùng biện trước công đường. “Tôi nghĩ gã ta là tay leo núi chuyên nghiệp.”

“Xin lỗi, tôi chưa nghe rõ anh nói.”

Bác sĩ Moore hất hàm chỉ. “Nhìn đôi tay của hắn ta kìa.”

Thám tử Hunt nghiên cứu bàn tay của David Wilson. Nó có dấu hiệu chai xạm, nhiều vết cắt, vết cọ xước. Các móng tay được cắt đều nhưng bẩn. Nó có thể là bàn tay của bất cứ ông thợ nề nào ông từng gặp. “Còn những cái này thì sao?”

Bác sĩ khám nghiệm kéo thẳng một trong những ngón tay. “Ông có thấy những vết chai tay không?” Hunt nhìn vào đầu ngón tay, một mảng da chai dầy. Bác sĩ Moore duỗi thẳng những ngón tay khác; chúng đều có vết chai tương tự. “Tôi có một anh bạn chung phòng nội trú hồi còn đi học, một tay leo núi. Hắn ta hít xà đơn bằng đầu ngón tay bám trên khung cửa. Đôi khi hắn treo người tòng teng trên đó và nói chuyện. Tôi muốn phát bệnh với anh chàng đó. Đây, rờ xem nè.”

Bác sĩ Moore đưa bàn tay và Hunt sờ vào miếng thịt chai. Nó có cảm giác như da đóng giầy.

“Các đầu ngón tay của anh bạn chung phòng với tôi cũng y chang như vậy.” Anh ta nói. “Bắp thịt to căng của phần ngực thì phù hợp. Bắp thịt cánh tay to chắc. Khá nhiều vết sẹo trên bàn tay. Dĩ nhiên chúng ta chỉ mới kết luận sơ khởi ở đây. Tôi không thể kết luận chính thức cho đến khi gã này được đưa lên bàn mổ.”

Hunt nghiên cứu vị trí của hai bàn tay, vắt chéo ngang ngực của tử thi. Hai chân được xếp thẳng và nằm song song. “Ai đó đã đụng đến hắn ta,” ông nói.

“Có thể. Chúng ta không thể biết bất cứ điều gì chắc chắn cho đến khi giải phẫu tử thi.”

Những nếp nhăn hiện trên vầng trán của thám tử Hunt. Ông chỉ vào tử thi. “Anh cũng đâu nghĩ hắn rơi xuống và nằm ở vị trí như vậy, đúng không?”

Bác sĩ khám nghiệm cười, tự dưng nhìn như mới vừa tròn hai lăm. “Tôi đùa chút, thám tử. Tôi muốn không khí đỡ căng thẳng hơn chút.”

“Ồ, vậy thì không nên.” Hunt chỉ vào cánh tay vỡ nát và cái chân vặn vẹo. “Anh nghĩ chúng bị gãy khi xe ô tô đâm vào gã hay khi gã rơi xuống dưới cầu?”

“Ông có biết chắn chắn gã ta bị đâm ở trên cầu không?”

“Xe gắn máy của gã ta chắc chắn chuyển dịch sau khi bị đâm phải. Ai đó đẩy nó rớt xuống bờ sông. Cành cây bị bẻ khỏi cây và vất che phủ lên trên. Ai đó rồi cuối cùng cũng sẽ tìm thấy. Chúng tôi tìm thấy vết sơn bị trầy dính trên thành cầu cùng màu với bình xăng của xe máy. Tôi nghi ngờ khi thử nghiệm hoá học sẽ ra cùng một loại sơn. Và còn cậu bé nữa. Cậu ấy thấy mọi việc.”

“Cậu ta đang có mặt ở đây sao?” Bác sĩ Moore hỏi.

Hunt lắc đầu. “Tôi cho một nhân viên công lực hộ tống cậu ấy về nhà rồi. Cả hai mẹ con cậu bé. Họ không cần phải có mặt ở đây cho những việc này.”

“Cậu ấy bao nhiêu tuổi?”

“Mười ba.”

“Tin tưởng được không?”

Hunt suy nghĩ một lúc. “Tôi không biết. Tôi nghĩ có thể. Cậu ta là một đứa trẻ khá nhạy bén. Hơi rắc rối một chút nhưng bén nhạy.”

“Diễn tiến thời gian theo cậu ấy thì như thế nào?”

“Cậu ta nói thi thể này bị vứt qua thành cầu hai tiếng, có thể hai tiếng rưỡi trước.”

Bác sĩ khám nghiệm xoay đôi vai. “Điều này khá trùng khớp. Da thịt chưa tái nhợt.” Anh tập trung xem xét lại thi thể, cúi xuống thật thấp trên khuôn mặt tử thi. Anh chỉ vào dấu hiệu thánh giá bằng máu trên trán nạn nhân. “Tôi không mấy khi gặp điều này.”

“Anh nghĩ nó có ý nghĩa gì?”

“Tôi chỉ lo về thi thể, không liên quan gì đến động cơ. Trên mí mắt cũng có máu. Ông có thể lấy được vân tay.”

“Làm sao anh biết được?”

“Một vết bầm. Vừa đủ kích thước, vừa đủ hình dạng.” Bác sĩ Moore nhún vai lần chót. “Kẻ giết gã này, tôi không nghĩ hắn thông minh lắm đâu.”

Khi thám tử Hunt ra khỏi căn lều, mưa ướt đẫm áo quần, tóc tai. Ông nhìn cây cầu và thử hình dung kim loại bị cong vặn, thân xác bị gãy gập, và không biết cậu con trai cảm thấy thế nào khi định mệnh chọn cậu bé làm nhân chứng. Hunt dừng lại cạnh chiếc xe đạp của Johnny khi nó bị nghiêng qua một bên lúc dựng căn lều lên. Âm thanh hút chân không được tạo ra khi ông kéo nó ra khỏi bùn đất. Nước nâu đỏ chảy ra từ những hốc kim loại và ông dắt nó đến một nơi khô ráo dưới gầm cầu. Một nhóm cảnh sát đang trú mưa ở đây, một số phì phèo thuốc lá, và chỉ một người trong đám họ trông có vẻ bận rộn. Thám tử Cross. Ông ta đứng tách khỏi đám đông, tay cầm đèn pin, tay kia cầm tờ bản đồ của Johnny Merrimon. Hunt bước đến gần, vẫn còn bực tức về chuyện chiếc ví, nhưng Cross nói trước.

“Tôi xin lỗi,” ông ta lên tiếng, “và ông nhìn đây này.”

Hunt nghĩ đến chuyện đã một năm trôi qua từ ngày ông liên quan đến vụ án Alyssa: những cơn ác mộng, những tuyệt vọng không kết quả. Ông đã không công bằng khi lớn tiếng với Cross. Ông ta còn lạ lẫm với công việc, và sẽ có ngày ông ta sẽ gặp phải những vấn đề của riêng mình. Hunt cố gắng cười gượng. Nó không được tươi lắm, nhưng tài ông ta chỉ được đến đấy.

“Ông tìm cái này ở đâu vậy?” Ông chỉ vào tấm bản đồ.

Cross có khuôn mặt cằm vuông và tóc hớt cao. Ông ta hạ thấp tấm bản đồ và rọi đèn pin xuống phía dòng sông. “Nó nằm cùng với chiếc xe đạp của cậu nhóc.” Cross tần ngần. “Nó không phải là tang chứng, đúng không?”

“Nó đấy”, nhưng Hunt trấn an Cross bình tĩnh lại. “Tôi cần ông trả lại nó cho tôi.”

“Không có gì hết.” Hunt quay gót đi, nhưng Cross ngăn ông lại. “Thám tử...”

Hunt dừng gót, quay lại. Trước bóng đèn, Cross nhìn cao lớn, da xanh màu ô-liu, cặp mắt nhìn chăm chú.

“Tôi nói để ông biết,” Cross nói. “Điều này không ăn nhập gì với nhau, nhưng ông cũng nên biết về nó. Ông biết thằng con trai của tôi chứ hả?”

“Gerald hả? Anh chàng chơi bóng phải không? Có, tôi biết cậu ta.”

Miệng Cross trề xuống. “Không, không phải Gerald. Thằng khác. Jack. Thằng nhỏ nhất của tôi.”

“Không. Tôi không biết Jack.”

“Thì, hôm nay nó có mặt ở chính nơi này với anh nhóc nhà Merrimon còn gì. Nó cũng trốn học. Nhưng ông xem, nó đã rời khỏi nơi này từ lâu trước khi những chuyện này xảy ra. Trường học gọi cho tôi sau khi họ đóng cửa. Tôi tìm thấy cậu nhóc ở nhà, đang xem phim hoạt hình.”

Hunt suy nghĩ về chuyện này. “Tôi có cần thiết nói chuyện với cậu nhóc không?”

“Nó chẳng biết gì đâu, nhưng ông cứ tự nhiên nói chuyện với nó.”

“Dường như không liên quan gì”, Hunt nói.

“Tốt. Bởi vì nó nói với tôi là con trai của ông cũng có mặt ở đây.”

Hunt lắc đầu. “Tôi không nghĩ như vậy.”

“Giờ trưa hoặc vào khoảng đó. Con trai của ông và vài người bạn.” Khuôn mặt Cross vẫn bí hiểm. “Tôi nghĩ ông nên biết chuyện này.”

“Và Jack thì chắc chắn là...”

"Con của tôi chỉ có tội lười biếng, nhưng không ngu si."

“Được rồi Cross. Cảm ơn.” Hunt vừa định quay đi nhưng Cross chặn ông lại.

“Này ông, nói về việc liên quan đi. Cái gã tấn công cậu bé nhà Merrimon, gã người da đen với những vết sẹo trên khuôn mặt.”

“Gã đó thì sao?”

“Ông cho rằng gã ta không liên quan gì đến chuyện xảy ra ở đây? Với nạn nhân này? Điều đó có đúng không?”

“Với vụ án mạng này à?”

“Đúng thế.”

“Không thể,” Hunt nói. “Tôi không tin gã da đen có thể làm chuyện đó. Gã ta cách chỗ này khoảng chừng một dặm về hướng cuối sông khi chuyện này xảy ra.”

“Ông có chắc chắn về chuyện này không?”

“Ý ông muốn nói là?”

“Chúng ta giả thuyết rằng có ba người đàn ông tiếp xúc với Johnny Merrimon. Nạn nhân - Wilson, ai đó lái chiếc ô tô tông vào Wilson hất gã bay xuống khỏi cầu, và gã da đen to lớn với khuôn mặt dị dạng. Điều này chính xác không?”

“Đó là giả thuyết chúng ta đang điều tra, đúng rồi.”

“Nhưng Johnny đã không thấy mặt tài xế lái chiếc ô tô. Cậu ta thấy một hình dạng, một cái bóng, nhưng cậu ta không thể nhận diện được tài xế, cậu ta cũng không thể nói chắc hung thủ là kẻ da đen hay không.” Cross đưa tấm bản đồ lên. “Đây là bản đồ thuế cho khu vực này, và những chi tiết nằm ở đây. Thị xã. Đường phố. Nhưng ngay đây, phía trên cùng bên phải, ngay tại rìa. Đây là con sông và đây” - ông ta chỉ: “Chúng ta đang đứng ở đây. Ông thấy cây cầu không?”

“Tôi thấy rõ.”

“Bây giờ đi dọc theo con sông.”

Thám tử Hunt thấy ngay lập tức. Ngay về hướng nam của cây cầu, con sông uốn cong thành một vòng tròn; nó cuộn tròn mảnh đất chỉ to khoảng cái móng tay có đường kính khoảng một dặm. Hunt cảm thấy một luồng điện giận dữ giật bắn, không phải nhằm vào Cross, mà giận chính mình. “Con đường mòn chạy dọc theo dòng sông,” Hunt nói.

“Nếu cậu bé nhà Merrimon ở trên con đường mòn, cậu ấy phải đi một khoảng cách khá xa đến nơi mà cậu ta bị bắt chộp, khoảng chừng mười đến mười lăm phút cắm cổ chạy.”

Cross gõ một ngón tay trên bản đồ. “Nếu tôi rời khỏi con đường mòn và đi tắt ngang ở chỗ này, tôi có thể đi đến cũng chỗ ấy chỉ trong năm phút.”

“Đi xuyên qua rừng, và nó rất gần.”

“Thực sự gần.”

Hunt nhìn căn lều mờ nhạt đi sau làn mưa. Gã đàn ông bị hất văng khỏi đường cái, tan tành. “Nếu David Wilson bị giết vì ông ta biết được điều gì...”

“Biết điều gì đó liên quan đến cô bé bị bắt cóc...”

Hunt trầm ngâm. “Gã đàn ông giết Wilson cũng sẽ muốn giết luôn cả Johnny. Và nếu hắn ta biết được dòng chảy của con sông...”

“Gã ta chỉ việc cắt ngang ở chỗ này và chờ cậu bé. Johnny chạy thục mạng cũng mất mười hai đến mười lăm phút. Gã sát thủ đi bộ chỉ năm phút, và hắn ta đứng đây khi Johnny xuất hiện ngay sau khúc cua.”

“Trời đất!” Hunt đứng thẳng lên. “Liên lạc ngay. Tôi muốn truy nã một người đàn ông da đen to lớn, tuổi từ bốn mươi đến sáu mươi, với vết sẹo dị dạng ghê hãi phía bên phải khuôn mặt. Xe ô tô của gã có dấu hiệu bị hư hại, có thể bên phía dè trái đằng trước. Thông báo cho trung tâm gã ta có liên quan đến án mạng David Wilson và có thể liên can đến vụ bắt cóc Tiffany Shore. Cẩn thận khi bắt giữ. Chúng ta cần tra hỏi hắn. Gửi thông báo đó đi ngay bây giờ!”

Cross lôi máy điện đàm ra và gọi trung tâm.

Hunt chờ đợi, và thêm một cơn nóng giận lại bừng bừng kéo đến. Cả năm qua đã làm cho ông bơ phờ, làm ông vụng về. Ông phải thấy được yếu tố dòng chảy của con sông - nó uốn cong như vậy - chứ không phải nghe giải thích từ một thám tử mới ra nghề. Nhưng chuyện đã rồi. Chuyện quan trọng ở đây là cô bé, cho nên phải làm như vậy. Ông bỏ qua chuyện ấy, tập trung vào vấn đề trước mắt. Tiffany bị bắt cóc chưa đến một ngày - tám tiếng, gần chín tiếng đồng hồ. Lần này, ông sẽ mang đứa trẻ về đoàn tụ với gia đình. Ông ghì chặt nắm đấm và hứa chắc như vậy.

Lần này sẽ phải khác.

Ông nhìn chiếc xe đạp của Johnny, giọng nói cậu bé vẳng lên trong đầu của ông. “Ông hứa nhé?”

Ông với tay đến cái lông lớn màu nâu treo dưới yên xe đạp. Nó rách tả tơi và nhìn thiểu não, lộm cộm giữa các ngón tay của ông. Ông vuốt cho nó mềm phẳng ra. “Tôi hứa”.

Phía đằng sau, Cross hạ máy điện đàm. “Hoàn tất,” ông ta nói.

Hunt gật.

“Ông đang cầm vật gì trên tay vậy?”

Hunt buông cọng lông ra. Nó vung qua một bên, đụng trên sắt ướt. “Không có gì,” ông nói. “Cái lông thôi.”

Cross bước lại gần hơn và cầm cái lông lên.

“Đây là lông của con đại bàng.”

“Làm sao ông biết lông đại bàng?”

Cross nhún vai, dáng điệu lúng túng. “Tôi sinh trưởng ở vùng núi. Bà của tôi lai người da đỏ Cherokee. Bà tin tưởng vào những linh vật.”

"Linh vật?"

“Ông biết đấy. Những lễ nghi và những vật linh thiêng.” Ông giơ một cánh tay chỉ về hướng dòng sông. “Dòng sông chủ sự trong sạch. Con rắn chủ sự khôn ngoan. Những chuyện đại khái như vậy.” Ông ta nhún vai. “Tôi luôn nghĩ nó chỉ là những chuyện tào lao.”

“Linh vật?” Hunt nhắc lại.

“Đúng rồi.” Ông ta chỉ vào cái lông. “Nó có ma lực thần kỳ.”

"Ma lực gì vậy?"

“Sức mạnh. Quyền năng.” Sấm chớp rền vang và ông ta để cái lông rơi xuống. “Chỉ có tù trưởng mới mang lông đại bàng.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8


Ở băng ghế phía sau xe tuần tra, mẹ Johnny đổ người gục xuống vai của cậu. Đầu bà lăn qua lăn lại khi chiếc xe cua quá nhanh, như bị hất tung khi bánh xe nhảy chồm trên con đường gập ghềnh. Họ bỏ lại sau lưng con sông cùng gã đàn ông thiệt mạng, và cả niềm tin của Johnny vào sự khôn ngoan của cảnh sát. Hunt khước từ không chấp nhận việc này liên quan gì đến Alyssa, và điều này khiến Johnny bực tức.

Có thể!

Cậu nói lớn tiếng, rồi nhắc lại khi cặp mắt Hunt dịu xuống.

Có thể là nó!

Nhưng Hunt rất bận rộn và có những tính toán riêng trong đầu. Ông không còn đủ kiên nhẫn trước sự khăng khăng nài nỉ của Johnny, rồi từ chối thảo luận chi tiết việc này và yêu cầu nhân viên đưa hai mẹ con họ về nhà.

Đừng bận tâm chuyện này, ông nói. Đây không phải là vấn đề của cậu.

Nhưng cảnh sát đã phán đoán sai. Johnny cảm nhận từ tận đáy lòng cậu. Nó là vấn đề của cậu.

Xe tuần tra đỗ trên đường dẫn vào nhà. Mưa rơi lộp độp trên mui xe và Johnny quan sát căn nhà, ngọn đèn chập chờn trong chiếc sân nhỏ bé, bùn sình. Những bóng người đi vào bên trong. Xe ông Ken đậu ngoài đường vào nhà; xe của chú Steve cũng vậy. Những viên thuốc đã khống chế mẹ Johnny. Hai mắt bà nhắm nghiền, hơi thở nhè nhẹ. Johnny ngần ngại, và ông cảnh sát xoay người trên ghế, khuôn mặt ông ta biến dạng sau lớp kính dày ngăn cách đầy những vân tay và nước dãi khô quánh. “Mẹ cháu không sao chứ?” ông hỏi.

Johnny gật đầu.

“Đến nhà rồi cậu bé.” Ông ngần ngừ, hai mắt vẫn dòm chừng mẹ cậu. “Bà ấy có cần giúp đỡ gì không?”

Bản năng tự vệ của Johnny trỗi dậy. “Mẹ cháu không sao.”

“Vậy thì xuống xe.”

Johnny lắc vai mẹ cậu. Đầu bà gục xuống và cậu lắc mạnh hơn. Khi bà mở mắt, cậu siết tay bà. “Mình phải xuống xe mẹ ạ,” cậu nói. “Mình về đến nhà rồi.”

“Nhà.” Bà lặp lại chữ ấy.

“Đúng. Nhà. Mình xuống xe thôi.” Johnny mở cửa xe. Mưa đập liên hồi trên nóc ô tô. Mưa rơi như trút nước xuống nền đất ẩm ướt đầy lá rụng. Hơi nóng tràn ngập chiếc ô tô. “Đừng quên túi xách,” ông nói. Johnny dìu mẹ ra khỏi xe và vào trú mưa ở hàng hiên đằng trước trong khi ông cảnh sát lùi xe ra khỏi vũng bùn, bánh xe trơn tuột trên mặt sân rải nhựa. Cậu đứng ở hàng hiên, nhận thấy mẹ không đứng cùng cậu. Bà đứng giữa trời mưa, ngửa mặt lên trời, hai bàn tay giơ lên. Túi xách của bà nằm dưới bùn sình nơi bà buông nó xuống. Nước rơi xuống đen thẫm xung quanh bà.

Johnny phóng vội đến bên cạnh bà, nước mưa như kim đâm rơi từ trên cao xuống. “Mẹ!”

Cậu giằng lấy tay mẹ một lần nữa. “Nhanh lên. Mẹ vào nhà đi.” Bà giữ mắt nhắm nghiền nhưng lên tiếng, giọng của bà nhỏ đến mức khó nghe. “Mẹ nói gì?” Johnny hỏi.

“Mẹ muốn đi xa.”

“Mẹ...”

“Mẹ muốn như nước hòa tan vào lòng đất và biệt tăm khỏi nơi chốn này.”

Johnny lượm túi xách của bà, bóp chặt cánh tay. “Đi vào trong. Ngay bây giờ.” Giọng cậu như gã Ken; nhưng bà theo cậu vào nhà.

Bên trong nhà, ngọn đèn tỏa ánh sáng vàng. Ông Steve ngồi ở bàn nhà bếp, những lon bia xếp hàng ngang trước mặt. Gã Ken bước qua lại, ly bourbon kẹp giữa những ngón tay to xù. Cả hai ngước lên khi Johnny dìu mẹ cậu vào nhà. “Vừa đúng lúc,” gã Ken nói. “Cái gã cớm ngông nghênh đó dám lên giọng bảo rằng tôi không được đi cùng. Gã nói với tôi là tôi có thể về nhà ngồi chờ hoặc chờ ở đây với gã.” Ông ta hướng về Steve với thái độ khinh mạn rõ ràng trong lời nói. Đầu Steve rụt xuống giữa vai. “Tôi sẽ nói chuyện với ai đó về vấn đề này. Hắn sẽ biết tôi là ai.”

“Ông ấy biết ông là ai. Ông ấy chỉ không quan tâm tới chuyện đó.” Lời nói buột khỏi miệng Johnny trước khi cậu kịp suy nghĩ. Gã Ken dừng lại và trừng mắt nhìn, và Johnny biết chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng sau đó mẹ cậu bước vào từ phía sau. Mắt bà thất thần, người ướt đẫm; quần áo dính chặt trên người bà. Johnny cầm cánh tay bà trong khi gã Ken trố mắt nhìn.

“Mau lên,” cậu nói. “Con sẽ đưa mẹ về phòng.”

“Để tôi dắt bà ấy đi.” Ông Ken bước tới gần họ, và Johnny cảm thấy một cái gì đó bùng phát. “Không,” cậu nói. “Ông hãy lùi lại đi ông Ken. Mẹ tôi không cần ông bây giờ. Bà chỉ cần vào phòng nghỉ ngơi. Bà cần nghỉ ngơi, yên tĩnh và không ai quấy rầy cả.”

Mặt gã Ken nóng bừng. “Quấy rầy bà ta...”

Johnny nhanh chóng nghĩ tới con dao bấm trong túi. Cậu đứng chắn ngang giữa gã Ken và mẹ. Thời khắc kéo dãn ra cho đến khi gã ta quyết định nở nụ cười với hàm răng thẳng đều và trắng tinh. “Katherine?” Ông ta nhìn bà mẹ Johnny. “Nói cho con của em hiểu mọi chuyện không sao.”

“Mọi chuyện không sao, Johnny.” Những chữ vang vọng đến từ một nơi rất xa. Bà lay người, rồi nói, “Mẹ không sao.” Bà quay người khỏi con trai và kéo lê những bước chân trên hành lang ngắn và tối om. “Hãy đi ngủ đi.” Bà đặt một tay trên tường, dừng ở đó khoảng ba giây đồng hồ, và Johnny quan sát nước nhỏ xuống khuôn mặt của bà. Khi bà quay người, giọng bà không còn chút sinh khí. “Về nhà đi Steve.”

Ông Ken theo bà đến cuối hành lang, nhìn trở lại một lần, và đóng cửa phòng. Johnny không nghe tiếng khoá chốt, nhưng cậu biết nó đã được khóa. Cậu chỉ muốn đấm vỡ bức tường; thay vào đó, cậu nhìn chú Steve, ông ta đang gom dọn những lon bia trong yên lặng. Ông vứt chúng vào thùng rác và thu tóm chùm chìa khoá có thể mở được tất cả các cửa ở thương xá. Thiên đàng đối với bất cứ đứa trẻ nào. Nhưng chỉ là kim loại với Johnny. Chú Steve dừng lại ở cửa. Hai mắt của ông bất bình, và nhìn Johnny khác thường. Ông đặt một cánh tay lên khung cửa. “Chuyện này là như vậy hay sao?” Ông hỏi, rồi giang tay ra vẻ thiện ý.

“Gần như vậy.”

“Khỉ thật.” Chú Steve gật đầu, mà Johnny nghĩ đó là tất cả những gì ông có thể làm.

“Về chuyện sáng hôm nay...”

“Chuyện sáng nay thì sao?” Johnny hỏi.

“Bà ta tuyệt đẹp.” Johnny quay người đi. “Cám ơn đã giữ kín miệng.”

Johnny chẳng nói chẳng rằng. Cậu đi về phòng mình và ngồi bên cạnh giường ngủ. Cậu nhìn chiếc đồng hồ trên bàn và quan sát cây kim gió nhảy từ đốm dạ quang này sang đốm kế tiếp. Cậu đếm từng giây một cho đến khi đầu chiếc giường ngủ ở phía bên kia hành lang bắt đầu những tiếng huỳnh huỵch tội lỗi; sau đó cậu đi tìm chìa khoá của mẹ. Chín mươi tư, cậu suy nghĩ, và khoá trái cửa nhà trước.

Chín mươi tư giây đồng hồ.

Cậu nhảy tung toé qua vũng bùn và đề máy chiếc ô tô của mẹ. Đến cuối con đường rẽ vào nhà, cậu mở cửa xe, chồm ra ngoài, lượm một cục gạch bằng kích thước một trái banh tennis. Khi ô tô bỏ căn nhà ở lại phía sau lưng, Johnny lái xe cẩn thận. Kính trước xe đóng dày hơi nước và chỉ có một đèn pha chiếu sáng. Cậu thấy mặt đường ướt, một dấu hiệu của mương rãnh. Cậu lau kính trước bằng tay và quan sát tìm khúc cua rẽ vào phía bên khu nhà giàu của thị xã.

Cậu chạy thật chậm khi rẽ vào con đường nhà gã Ken. Căn nhà nổi bật lên, lùi sâu trên một sân cỏ to rộng. Những đường đi bộ dài uốn lượn bắc qua cỏ nhung và cửa bảo vệ đường xe ra vào, cổng sắt đen làm cho nó nhìn lạnh lẽo. Johnny tắt đèn pha trước khi bánh xe cao su nghiến vào lề đường. Cậu để máy nổ. Chỉ mất một giây. Cục gạch rất vừa vặn trong tay.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9


Thám tử Hunt lái xe nhanh xuống con đường ướt, hẹp. Hiện trường tai nạn đã ở xa sau lưng ông ba dặm đường, bác sĩ khám nghiệm y khoa đang thu dọn tử thi, thuộc cấp của ông vẫn còn ở hiện trường. Nhiều chuyện thay đổi sau khi Cross chỉ cho ông tấm bản đồ. Những mảnh tư duy chuyển dịch trong đầu ông: những khả năng, biến số. David Wilson bị thảm sát, Hunt tin lý do chỉ vì hắn ta phát hiện ra Tiffany Shore.

Tôi tìm thấy cô gái, gã nói với cậu bé, và giờ gã bị thảm sát.

Nhưng gã tìm thấy cô bé ở đâu? Trong điều kiện như thế nào? Và quan trọng nhất, ai đã giết gã? Hunt tập trung vào chiếc xe hất văng gã ra khỏi đường, người đàn ông lái chiếc xe ấy. Nó là điều hợp lý, nhưng chỗ con sông uốn khúc đã tác động đến suy luận lô-gíc ấy. Hunt đưa ra giả thuyết có ba người đàn ông khác nhau đứng tại hoặc gần cây cầu khi án mạng xảy ra: Wilson, đã chết; tài xế xe giết gã; gã da đen ngẫu nhiên nào đó cách hai dặm theo hướng dòng sông. Bây giờ ông ta phải hỏi điều ấy. Có thể kẻ khổng lồ mà Johnny trông thấy chỉ là kẻ có mặt không đúng nơi và đúng lúc. Có thể hắn lái chiếc ô tô gây tai nạn giết David Wilson. Có thể không.

Hai người hoặc ba?

Tổ cha!

Hunt cần nói chuyện với Johnny, không phải sau này, mà là ngay giờ phút này. Ông có những câu hỏi mới. Ông gọi điện đàm cho trung tâm yêu cầu được tiếp xúc với đơn vị tuần tra mà ông đã chỉ định họ chở Johnny và Katherine về nhà. Ông nhìn đồng hồ và chửi thề trong khi đường dây đang được nối tiếp. Gần mười tiếng đồng hồ, đó là thời gian Tiffany bị bắt cóc, và thống kê thì lạnh lùng và chính xác như chỉ những con số mới đạt được điều đó. Chỉ một vài người bị bắt cóc còn sống qua ngày đầu tiên; chuyện đời nó là như vậy.

Nhanh chóng.

Mọi chuyện cuối cùng tập trung ở sự nhanh chóng.

Tôi đã tìm thấy cô bé.

Hunt cần hỏi Johnny về người đàn ông với khuôn mặt đáng sợ, về những gì cậu ấy thấy trên cầu. Hunt cần biết hai kẻ ấy có phải là một hay không. Không phải suy đoán hay giả thuyết, mà là sự thật thực tế.

“Kết nối bây giờ,” trung tâm nói với ông.

Giọng nói thứ hai lè nhè trên làn sóng điện đàm. Hunt tự nhận diện mình và chất vấn viên cảnh sát về Johnny.

“Tôi vừa rời nhà cậu ấy. Lúc tôi đi, cậu ấy đứng ở đường dẫn vào nhà.”

“Chính xác là bao lâu rồi?”

Ngưng giây lát. “Hai mươi phút.”

“Hai mươi phút. Nghe rõ.” Hunt gác máy. Thêm năm phút nữa ông sẽ có mặt ở căn nhà. Nhanh lên, nhanh lên. Ông tăng tốc cho đến khi chiếc xe có dấu hiệu bốc lên khỏi mặt đất, quẹo với vận tốc nguy hiểm trên đường ướt trơn trượt.

Hơn ba giờ đồng hồ từ khi chiếc xe gắn máy bị đụng. Kẻ đâm David Wilson có thể đang lẩn trốn ở bất cứ nơi nào trong lúc này, hắn có thể ra khỏi quốc gia, khỏi tiểu bang, nhưng Hunt không tin như vậy. Thực sự mạo hiểm khi vượt thoát đi xa cùng với đứa trẻ bắt cóc. Khi lệnh báo động đã được khởi phát, công chúng ngoài kia sẽ để ý. Phần lớn những thành phần đồi bại chỉ muốn bắt cóc đứa trẻ và trốn tránh dưới lòng đất. Johnny Merrimon đúng ở điểm này. Và nhiều vụ bắt cóc được dàn dựng cẩn thận, phần lớn chỉ là cơ hội. Một đứa trẻ để trong xe ô tô hoặc không người trông nom trong một cửa hiệu đông đúc. Một đứa trẻ đi bộ một mình.

Như trường hợp Alyssa Merrimon.

Cô bé đang đi bộ về nhà lúc trời tối, một mình trên quãng đường vắng. Không ai có thể biết cô bé có mặt nơi đấy. Không ai có thể toan tính cho chuyện đó. Tương tự như trường hợp Tiffany Shore. Cô bé nấn ná gần bãi đậu xe sau khi chuông reo. Nó chỉ là vấn đề cơ hội. Và dục vọng.

Hunt thắng xe chỗ đèn đỏ, sau đó rẽ trái, cảm giác thắng xe không bám đường. Ông điều chỉnh xe, giữ cho xe thẳng lại. Ông ta nghĩ về cái ác và khẩu súng trong bao súng dưới cánh tay của ông.

Khi nhận được tin tức về vụ bắt cóc Tiffany, Hunt đã ra lệnh với phản ứng dữ dội. Ông gửi xe tuần tra đến kiểm tra lại tất cả địa điểm cư trú của những người có tiền án liên quan đến tình dục. Phần lớn được xem xét với xác xuất thấp: kẻ xem ảnh khiêu dâm, kẻ phô diễn dâm tục; nhưng cũng nhiều cá nhân có tiền án về hiếp dâm hay bạc đãi trẻ em hoặc những hành động man rợ. Hunt giữ một danh sách ngắn những thành phần tối nguy hiểm: những kẻ loạn trí, ác dâm thuộc thành phần có thể làm bất cứ điều gì. Những loại đàn ông này không bao giờ tự khống chế được con quỷ dục vọng sai khiến họ. Không có cách chữa trị, không sửa đổi. Và với những thành phần đốn mạt này, nó chỉ là vấn đề thời gian, cho nên ông cần đi trước họ một bước. Ông biết họ cư trú ở đâu, sử dụng ô tô loại gì; ông biết thói quen của họ và những ham chuộng. Ông chứng kiến nhiều hình ảnh, nói chuyện với nạn nhân và chính mình nhìn những vết thẹo. Những kẻ đốn mạt đó không có lý do gì được ra khỏi nhà tù.

Giờ thì không.

Không bao giờ.

Phần lớn được điểm danh; họ đã được xác định nơi cư trú và thẩm vấn. Phần lớn trong họ đều đồng ý gia cư được lục soát, và tất cả những cuộc lục soát như vậy không tìm ra manh mối gì. Những ai từ chối đều bị theo dõi liên tục và Hunt nhận báo cáo thường xuyên. Ông biết họ ăn gì và ăn khi nào; họ chỉ có một mình hoặc không, và nếu không, ai đang ở gần họ. Ông biết nơi cư trú, sinh hoạt của họ. Thức hay tỉnh. Ở yên một chỗ hay đang di chuyển. Hunt liên lạc với nhân viên thuộc quyền đang bám đường bám chợ và giữ họ ở mức cảnh giác cao độ trong khi họ tiếp tục rà soát danh sách.

Hunt nhẩm tính những tên tuổi trong đầu ông. Không ai trong danh sách ấy cao hai mét. Không ai có sẹo như cậu bé nhà Merrimon mô tả. Nếu Cross đúng, điều này có nghĩa là họ đang đương đầu với lính mới, ai đó lọt ra khỏi danh sách. Và nếu dự đoán của Cross sai... khả năng không bao giờ chấm dứt.

Hunt lấy từ trong túi áo khoác tấm ảnh của Tiffany Shore và liếc nhanh. Ông đã lấy tấm ảnh này từ người mẹ quẫn trí chỉ vài giờ trước đây. Nó là bức ảnh chụp ở trường học, trong đó Tiffany cười tươi và sinh động. Ông tìm kiếm những điểm giống Alyssa, nhưng chỉ một vài điểm giống nhau. Alyssa có mái tóc đen và dáng dấp mong manh; cô bé nhìn trẻ trung, nhỏ bé và ngây thơ, có cùng đôi mắt đen sậm như cậu anh trai. Tiffany có đôi môi dày, cái mũi hoàn hảo, và mái tóc thì như lụa vàng. Tấm ảnh một người con gái có cái cổ quý phái, bộ ngực mới nhú, và nụ cười hiểu biết gợi mở hình ảnh một người phụ nữ quyến rũ sau này. Hai cô gái thoáng nhìn thì không có vẻ có những điểm tương đồng, nhưng họ có. Cả hai đều ngây thơ, và cả hai đều là trách nhiệm của ông.

Của ông.

Không ai khác.

Suy nghĩ đó âm ỉ trong đầu thám tử Hunt khi điện thoại của ông reo vang. Ông liếc sơ qua màn ảnh hiển thị số của người gọi. Cảnh sát trưởng. Ông sếp. Ông để máy rung chuông bốn lần, sau đó, làm ngược với sự quyết định sáng suốt, ông nhấc máy trả lời.

“Ông đang ở đâu đó?” Cảnh sát trưởng không phí phạm một giây phút thời gian. Chỉ chưa đầy mười hai tháng từ khi Alyssa mất tích, giờ lại có thêm trường hợp một bé gái mất tích. Ông ta đang bị áp lực bởi chính ông, thám tử Hunt biết: Gia đình Tiffany, chính quyền thành phố, báo chí.

“Tôi đang trên đường đến nhà bà Katherine Merrimon. Tôi sẽ có mặt ở đó ít phút.”

“Ông là chỉ huy. Lẽ ra ông phải có mặt ở nhà David Wilson hay ở hiện trường vụ án. Tôi có cần thiết phải nhắc những cái đó cho ông không?”

“Không.”

Nhưng cảnh sát trưởng nói rõ. “Nếu chúng ta cho rằng Wilson tìm thấy Tiffany Shore - và nếu nó là chuyện chúng ta nghĩ - thì lẽ ra ông phải điều tra những hoạt động của người này. Gã ta đi những đâu. Gã ta nói chuyện với ai. Bất cứ chọn lựa nào của gã ngày hôm nay, bất cứ ngõ ngách nào có thể liên đới đến cô bé Tiffany Shore...”

“Tôi biết tất cả những điều đó,” Hunt đột ngột ngắt lời. “Tôi đã phái Yoakum đến nhà hắn ta. Chút xíu nữa đây tôi sẽ gặp ông ấy ở đó, nhưng chuyện này cần làm trước.”

“Tôi có thể biết tại sao ông đang đi đến nhà bà Katherine Merrimon không?” Hunt nghe rõ một giọng hoài nghi, một sự mất tin tưởng bất thình lình.

“Con trai bà ấy có thể có thông tin.”

Hunt tưởng tượng hình ảnh cảnh sát trưởng: sang trọng ngồi trong văn phòng, mồ hôi ướt đầm áo sơ mi. Giọng của ông ta là giọng của một chính trị gia.

“Tôi muốn biết ông có đang chú tâm vào vụ án này không, Hunt? Ông có đang chú tâm không?”

“Đó là một câu hỏi tào lao.” Hunt biết rất rõ nguồn căn dẫn đến sự hoài nghi của cảnh sát trưởng, nhưng ông không thể kìm hãm được sự bực tức trong lòng. Nếu ông dồn thời gian cho vụ án Merrimon. Rồi thì sao? Có thể ông cảm thông hơn là phần lớn cảnh sát ngoài kia. Nó là vụ án quan trọng; nhưng Cảnh sát trưởng thì không nhìn sự việc như vậy. Không. Ông ta nghe chuyện về Hunt đêm nào cũng thức đến khoảng ba giờ sáng; có mặt lúc hừng đông sáng chủ nhật xem duyệt những tang chứng mà ông đã xem cả trăm lần; làm phiền thẩm phán ký trát truy nã mà không bao giờ mang lại kết quả gì; làm thêm giờ, và sau đó làm không lương; tác động tới những cảnh sát khác, nhân lực mà lẽ ra cần dùng cho các vụ án khác. Ông ta nhìn Hunt hành xác chính mình. Ông ta nhìn thấy làn da xanh xao và cơ thể xuống cân, đôi mắt thiếu ngủ và những chồng hồ sơ dưới đất trong văn phòng Hunt. Và nhiều vấn đề khác.

Những tin đồn.

“Nó không chỉ là câu hỏi, Hunt. Nó là lời yêu cầu, một mệnh lệnh.”

Hunt nghiến chặt hàm răng, lời nói không làm sao thoát ra cửa miệng khi ông đang nuốt nỗi bực dọc. Ông điều hành khối trọng án. Thám tử chỉ huy. Nó là công việc của ông, nó là đời sống của ông. “Tôi đã nói, là tôi chú tâm đến nó.”

Hunt nghe tiếng thở trên đường dây, rồi giọng nói như bị bàn tay che miệng. Khi Cảnh sát trưởng lên tiếng, lời nói của ông ta vang lên rành mạch. “Tôi không chấp nhận cho việc cá nhân, Hunt. Vụ án này không dung chứa điều đó.”

Hunt nhìn trừng trừng về phía trước. “Nghe rõ. Không vì cá nhân.”

“Vụ án này liên quan đến Tiffany Shore. Gia đình cô bé. Không phải Alyssa Merrimon. Không phải cậu anh cô ấy. Và không phải mẹ cô ấy. Mọi chuyện rõ ràng chứ?

“Như pha lê.”

Ngừng một giây lát, sau đó là giọng nói hàm chứa một chút hối hận. “Làm việc vị cá nhân sẽ khiến ông bị sa thải, Clyde. Nó sẽ làm ông bị thổi bay ra khỏi nha cảnh sát của tôi. Đừng buộc tôi phải làm như vậy.”

“Tôi không cần một bài giáo huấn.” Ông bỏ dở phần còn lại không nói: Tôi không muốn nghe từ mồm một gã cớm béo phì, chính trị sa-lông.

“Ông đã đánh mất vợ ông. Đừng để mất luôn công việc của ông.”

Hunt nhìn vào trong gương và thấy sự thịnh nộ trong chính đôi mắt của mình. Ông hít một hơi thật dài vào tận đáy buồng phổi. “Hãy tránh xa đường tôi đi,” ông nói, và vẫn giữ ôn hoà như một người bình thường có thể. “Hãy để tôi chứng tỏ tôi có thể tin tưởng được.”

“Ông đang đốt cây nến tin tưởng trong suốt một năm trường, và nó cháy rất chậm chạp. Ngày mai, tôi muốn thấy bức ảnh bé gái Tiffany Shore ngồi trên lòng bà mẹ cô bé. Trang nhất. Đó là cách làm sao chúng ta giữ được công việc đang làm của chúng ta.” Một thoáng yên lặng, Hunt không tin tưởng lắm vào tiếng nói của mình và do đó giữ im lặng. “Hãy mang đến cho tôi một kết cục có hậu, Clyde. Mang đến cho tôi điều ấy, và tôi sẽ làm ngơ như ông vẫn là ông cớm một thời oanh liệt như một năm trước đây.”

Cảnh sát trưởng cúp máy.

Hunt đấm mạnh lên nóc mui xe, sau đó rẽ xe vào đường dẫn vào nhà Johnny. Ông để ý thấy chiếc ô tô thùng thường đậu ở sân đã biến đâu mất. Khi gõ cửa trước, một âm thanh khô khốc vang lên gây cảm giác ngôi nhà bị rỗng bên trong. Hunt nhìn thấu qua cửa sổ nhỏ thì thấy ông Ken Holloway xuất hiện từ hành lang tối đen. Ông ta đi đôi giầy bóng loáng, phía dưới quần tây hơi nhàu nát, và đang nhét áo vào trong quần. Ông ta cài chặt chiếc thắt lưng da cá sấu, sau đó dừng lại trước gương vuốt thẳng tóc và kiểm tra hàm răng. Trên tay phải cầm cây súng rulô.

“Cảnh sát, ông Holloway. Buông súng xuống và mở cửa.”

Ken Holloway co giật người, bất thình lình biết được người từ bên ngoài cửa sổ có thể nhìn thấy ông. Một nụ cười bất bình hiện lên trên khuôn mặt ông ta. “Ai là cảnh sát?”

“Thám tử Clyde Hunt. Tôi cần nói chuyện với Johnny.”

Nụ cười biến mất. “Tôi xin phép được xem thẻ hành sự?”

Hunt ép tấm thẻ hành sự vào cửa kính, sau đó lùi ra xa khỏi cửa và hạ tay xuống chạm báng súng. Ông Holloway đóng góp tiền bạc cho nhiều chương trình từ thiện. Ông ta có tên trong nhiều hội đồng giám đốc và chơi đánh gôn với những nhân vật tai mắt.

Nhưng Hunt biết ông ta.

Một năm trông chừng Katherine và Johnny, Hunt đã có những lần gặp gỡ kỳ cục, như lần gặp ở cửa hiệu tạp hoá; những điều đã nói và không nói; một chân đi cà nhắc hay một vết thâm tím trên người cậu bé; đôi mắt tròn xoe của cậu khi cậu nghĩ cậu đang được dạy dỗ. Hunt cố cảnh báo, nhưng bà Katherine phần lớn đầu óc mơ màng ở tận đâu, ở nơi nào đó xa thăm thẳm, và Johnny thì sợ hãi. Hunt không có một cái gì chắc chắn. Nhưng ông linh cảm thấy điều tồi tệ.

Lùi thêm một bước nữa, khoảng cách giữa Hunt và cánh cửa đã là một mét. Xuyên qua lớp kính cửa sổ, thấy rõ vùng ngực tối đen của Holloway. Người ông ta nhìn đẫy đà, nước da nâu, bộ ngực to rộng ở trên cái bụng to béo. Mặt ông ta hiện lên đằng sau lớp kính. “Giờ này đã giữa đêm rồi Thám tử.”

“Mới chín giờ thôi thưa ông Holloway. Một đứa trẻ vừa bị bắt cóc. Làm ơn mở cửa.”

Tiếng khoá mở và cánh cửa hé mở. Nhiều nếp nhăn hiện trên khuôn mặt Ken Holloway. Cho dù ông ta có làm ra vẻ bảnh bao, Hunt vẫn nhìn thấy những vết bẩn ướt nhoẹt ngay chỗ chân tóc của ông ta. Hai tay ông ta trống trơn. “Sự mất tích của Tiffany Shore liên quan gì đến Johnny?”

“Ông có thể làm ơn bước ra khỏi cửa được không?” Hunt giữ giọng mình điềm đạm, và điều này không dễ dàng. Rất có thể ông sẽ bắn Kent Holloway đồng thời nhìn thẳng vào ông ta.

“Được.” Ken Holloway đẩy cánh cửa mở toang và xoay người, hai tay ông ta vỗ vào hai bên đùi.

Hunt bước vào trong nhà, cặp mắt quét trái phải cho đến khi ông tìm thấy được vũ khí, cây rulô A.38. Thép không rỉ. Nó được đặt trên đỉnh chiếc tivi, nòng súng hướng vào bức tường.

“Nó đã được đăng bạ,” Ken Holloway nói.

“Tôi biết. Tôi cần nói chuyện với Johnny.”

“Nó có liên quan gì đến chuyện xảy ra hôm nay không?”

Hunt ngửi thấy mùi cồn. “Bộ ông thật sự quan tâm chuyện này sao?”

Ken Holloway cười gượng. “Xin chờ trong chốc lát.” Ông ta lên giọng gọi. “Johnny.” Không trả lời. Ông ta gọi lần nữa, sau đó lẩm bẩm chửi thề. Hành lang nuốt chửng ông ta và Hunt nghe tiếng cửa mở, sau đó đóng sầm. Khi trở lại, ông ta chỉ có một mình.

“Cậu bé không có ở đây.”

“Thế cậu ta đâu?”

“Tôi hoàn toàn không biết.”

Sự bực dọc dâng lên trong giọng nói Hunt. “Cậu ta mới mười ba tuổi. Ngoài kia trời tối và mưa tầm tã. Chiếc ô tô không có trong nhà và ông không biết cậu bé ở đâu? Theo chỗ tôi biết thì đó là sự xao lãng bỏ bê đấy.”

“Và theo sự hiểu biết luật pháp của tôi, thưa ông Thám tử, đó là vấn đề của mẹ thằng bé đó. Tôi chỉ là khách của gia đình.”

Họ chằm chằm nhìn nhau, và Hunt bước gần hơn. Kent Holloway là người hai mặt, khôn khéo và hoà hoãn, nhưng chỉ khi nó phục vụ những nhu cầu của ông ta. Có thể ngoài kia có nhiều cao ốc thuộc các viện đại học được đặt tên ông ta, nhưng Hunt không giấu được sự không ưa của mình. “Ông cần phải cẩn thận với tôi.”

“Đó có phải là lời hăm doạ không?”

Hunt không nói gì.

“Ông chắc không biết tôi là ai,” Holloway nói.

“Nếu có mệnh hệ nào xảy ra với cậu bé...”

Kent Holloway cười lạnh lùng. “Một lần nữa tên ông là gì? Tôi có một buổi họp với thị trưởng và ủy viên hội đồng thành phố sáng ngày mai. Tôi muốn biết rõ ràng tên của ông.”

Hunt đánh vần tên cho ông ta, rồi nói, “Về cậu bé ấy...”

“Nó là đứa ngổ ngáo. Ông muốn tôi làm gì trong việc này? Nó không phải con của tôi hoặc thuộc về trách nhiệm của tôi. Bây giờ ông có muốn tôi đi gọi mẹ của nó không? Tôi có thể đánh thức bà ấy. Bà ta sẽ không biết giờ này nó ở đâu, nhưng tôi sẽ lôi bà ấy ra đây nếu điều này làm ông vui lòng.”

Hunt từng ngưỡng mộ mẹ của Johnny ngay từ lần đầu tiên gặp gỡ. Vóc dáng bé nhỏ nhưng tràn đầy sức sống, bà chứng tỏ nghị lực can đảm và niềm tin mãnh liệt trong những tình huống khó có thể chịu đựng nổi. Bà cương nghị đứng thẳng cho đến ngày bà quỵ ngã và chẳng còn hy vọng phục hồi. Có thể nó là sự đau buồn, có thể là sự ân hận, nhưng trông bà thật thảm thương và mất phương hướng, trôi dật dờ trong một tình huống kinh hãi rất ít người làm cha mẹ nào có thể hình dung ra. Chỉ nghĩ về bà ta và kẻ lợi dụng như Ken Holloway đã thậm tệ rồi. Trông thấy bà bị lôi ra khỏi giường bởi gã ta thì còn tồi tệ hơn, là một sự sỉ nhục.

“Tự tôi sẽ đi tìm cậu bé.” Hunt trở ra hướng cửa.

“Chúng ta chưa xong đâu, ông Thám tử.”

“Đúng.” Hunt nói. “Chưa xong đâu.”

Tay của ông vừa đặt trên cánh cửa thì điện thoại của Holloway reo vang. Ông đứng tần ngần khi Holloway trả lời: “Phải.” Ken Holloway quay lưng về phía Hunt. “Ông có chắc không? Tốt lắm. Phải, gọi cảnh sát. Tôi sẽ có mặt ở đó trong mười phút nữa.” Ông ta tắt điện thoại và nhìn Hunt.

“Công ty báo động nhà tôi có trộm,” ông ta nói. “Nếu ông vẫn muốn tìm Johnny, ông có thể bắt đầu tìm kiếm ở nhà tôi.”

“Tại sao ông lại nói như vậy?”

“Bởi vì cái anh nhóc ranh mãnh đó vừa ném cục gạch qua cửa sổ phía trước nhà tôi.”

“Điều gì làm ông nghĩ đó là Johnny?”

Ken Holloway lượm chìa khoá của ông ta. “Lúc nào cũng là thằng nhóc Johnny.”

“Luôn luôn?”

“Đây là lần thứ năm rồi đó.”

***

Johnny lái ô tô đi trên những con đường tối mù, trời mưa tạo ra những vệt kéo long lanh trên kính trước. Bố mẹ Tiffany Shore thuộc thành phần giàu có, họ cư ngụ cách nhà ông Ken ba dãy phố. Johnny đã từng một lần tham dự tiệc tùng ở đấy. Cậu lái xe chậm rãi khi gần đến nhà Tiffany, sau đó dừng hẳn. Cậu thấy xe tuần tra của cảnh sát và những cái bóng di chuyển đằng sau màn cửa sổ. Cậu quan sát căn nhà một lúc lâu, sau đó nhìn hàng xóm ở hai bên. Ánh sáng ấm áp tỏa ra từ những căn nhà đó, và trong bóng tối tù mù của con đường cái, Johnny cảm thấy cô đơn vô cùng vì chẳng ai biết đến cậu. Không một ai có thể hiểu chuyện gì đang xảy ra đằng sau những bức tường nhà Tiffany, gia đình cô ấy đang đau khổ như thế nào: sự sợ hãi và bực tức, hy vọng tan biến từ từ và sự chấm dứt của tất cả mọi thứ. Không ai biết những điều Johnny biết.

Ngoại trừ cha mẹ cô ấy, cậu nghĩ như vậy.

Cha mẹ cô ấy biết.

***

Hunt ngồi trong xe và quan sát Kent Holloway ra khỏi căn nhà. Ông ta ném cái nhìn lạnh lùng về phía Hunt, nhưng Hunt vui vẻ đáp lại, rồi Kent Holloway ngồi yên vị trong xe. Động cơ khổng lồ nổ máy và chiếc Escalade lao vút trên đường phố. Hunt nghe tiếng mưa rơi trên thành ô tô và nhìn ánh sáng hắt ra từ phía nhà của Johnny. Chắc bà Katherine đang ngủ trong đó, và ông ta hình dung bà ấy vùi mình dưới lớp chăn, lưng cong dựa vào bóng đêm. Ông mở laptop và gõ tên Johnny Merrimon vào máy. Gã Ken làm nhiều đơn cớ, nhưng không có hồ sơ bất cứ vụ bắt bớ nào. Không có lệnh truy nã. Cho dù Ken Holloway tin rằng Johnny liên quan đến chuyện tư gia của ông ta bị liên tục đập phá, ông ta không có một chứng cớ nào.

Hunt nghĩ đến việc tại sao Johnny lại ném đá vào cửa sổ nhà Kent Holloway. Chỉ có một điều hợp lý. Johnny muốn gã đàn ông đó ra khỏi nhà của cậu ấy, rời xa khỏi mẹ cậu, và cậu khám phá ra một biện pháp hữu hiệu để làm điều này. Người như Holloway không thể nào để mặc nhà ông ta không ai chăm sóc. Không thể qua đêm. Năm lần bị đập phá mà không bắt được ai. Hunt lắc đầu và cười gượng. Ông thực sự có cảm tình với cậu bé ấy.

***

Thêm hai phút, Hunt ngồi trong xe lục lọi hồ sơ của Tiffany Shore. Tập hồ sơ mỏng dính. Ông biết rõ trang phục của cô bé vào lần sau cùng được nhìn thấy. Ông có danh sách những điểm nhận dạng. Một dấu bớt to bằng đồng tiền phía đằng sau bả vai; vết sẹo hình lưỡi câu vẫn còn đỏ hồng trên bắp chân trái. Cô bé mười hai tuổi, tóc vàng, chưa từng chỉnh hàm răng, không có dấu vết mổ xẻ. Ông nắm rõ chiều cao, cân nặng, ngày tháng năm sinh của cô. Cô có điện thoại di động nhưng trong điện thoại không lưu cuộc gọi đi nào từ hôm qua. Không có nhiều. Chỉ có vài em nhỏ làm nhân chứng nghe tiếng kêu la của cô bé nhưng không đồng ý chung về màu sắc chiếc xe bắt cóc cô bé. Hunt cũng đã thẩm vấn nhiều bạn thân của cô. Tất cả họ chỉ biết, Tiffany không có bạn trai bí mật, không hề có vấn đề gì với gia đình. Học bạ cô bé điểm khá, cô bé thích ngựa, và có thể từng hôn một cậu trai nào đó. Một cô gái tiêu biểu.

Ông ghi chú vào trong hồ sơ: Có phải Tiffany và Alyssa là bạn với nhau? Có thể cả hai cùng biết một gã thuộc thành phần bất hảo.

Ông nghĩ về những thứ mình không có. Ông không có chi tiết về kẻ xấu, không ai gọi điện thoại nói về những hành động đáng ngờ, và không ai biết hình dạng chiếc xe ô tô. Căn bản là không có gì hết. Điều ông có là cậu bé Johnny Merrimon và những gì gã David Wilson nói với cậu trước khi tắt thở. Gã xác nhận đã tìm được cô bé bị bắt cóc. Tìm cô ấy ở đâu? Tìm như thế nào? Còn sống hay đã chết? Người nào đã tông xe khiến David văng khỏi đường là có dụng ý. Nhưng có phải gã ta là gã khổng lồ như Cross đã nghi ngờ? Hay là ai khác? Hunt cần tìm cậu bé ngay.

Ông gọi đến sở làm việc, nói chuyện với một thám tử thuộc quyền. “Hunt đây. Ông có manh mối gì không?”

“Không có gì tốt cả. Cả Myers và Holiday đều vẫn đang làm việc với cha mẹ của Tiffany.”

“Họ có chịu đựng nổi không?” Hunt ngắt lời.

“Bác sĩ đang có mặt ở đó. Bà mẹ, ông biết đấy, họ phải chích thuốc giữ cho bà ta bình tâm.”

“Có tin gì liên quan đến điện thoại của Tiffany?”

“Không có gì. Tín hiệu GPS cũng không có.”

“Yoakum có đang theo dõi hành tung của David Wilson không?”

“Giờ ông ta đang ở nhà hắn.”

“Chúng ta có tin gì mới chưa?”

“Chỉ có thông tin Wilson là giáo sư đại học. Ngành Sinh vật gì đó.”

“Dấu vết lăn tay thì sao?” Hunt hỏi.

“Chúng tôi lấy được vân tay ngón cái từ mí mắt nạn nhân. Chúng tôi đang điều tra. Sẽ có tin tức trong thời gian ngắn.”

“Còn các tình nguyện viên thì sao?”

“Cho đến giờ này có hơn một trăm. Chúng ta đang tổ chức để bắt đầu thật sớm. Sẽ bắt tay điều tra ở ngoại thành khoảng lúc sáu giờ.” Một khoảng yên lặng giữa hai người đàn ông, cả hai đều có chung ý nghĩ: Nó là một miền quê đồng cỏ rộng lớn.

“Chúng ta cần thêm nhân lực,” Hunt nói. “Lôi kéo các nhà thờ tham gia, các câu lạc bộ cộng đồng. Chúng ta có hàng trăm sinh viên đại học giúp sức khi Alyssa mất tích. Gọi cả ông hiệu trưởng.”

Hunt cố lục tìm số điện thoại trong trí nhớ. “Ông ấy là người dễ cảm thông. Để xem ông ta có thể làm được điều gì. Tôi cũng muốn rà quét trường học của Tiffany một lần nữa vào ngày mai. Gửi đến đó những sĩ quan cảnh sát có dáng vẻ hiền lành nhất mà ông có thể chọn được. Những sĩ quan trẻ tuổi. Nữ sĩ quan. Ông biết điều gì phải làm mà. Tôi không muốn bỏ sót một điều gì chỉ vì một em học sinh nào quá sợ hãi không dám nói chuyện với chúng ta.”

“Rõ. Tôi có thể làm gì nữa?”

“Chờ một chút.” Hunt tìm hồ sơ của bà Katherine Merrimon trong laptop. “Viết những thông tin này ra giấy và gửi đến cho tất cả các đơn vị tuần tra.” Ông đưa thông tin, hãng sản xuất, biển số. “Anh nhóc này đang lái xe của mẹ cậu ta. Chiếc xe cũ rích. Tìm nó không khó khăn gì lắm. Tuần tra đường Tate trước, sau đó là nhà gã Ken Holloway.Tôi không nghĩ cậu ta có mặt ở đó, nhưng nên kiểm tra. Nếu bất cứ ai thấy chiếc xe này, tôi muốn biết ngay lập tức. Dừng xe và tạm giữ đương sự. Gọi ngay cho tôi khi chuyện đó xảy ra.”

“Tôi sẽ bắt tay ngay vào công việc.”

“Tốt. Cho tôi xin địa chỉ nhà ông David Wilson.” Hunt với tay lấy cây bút, nhưng thấy ở hiên đằng trước nhà Johnny có người. Một bàn tay xanh xao thò ra ngoài.

Cái gì đây hả trời?

Ông nghe một tiếng thét, âm thanh bị bóp nghẽn bởi mưa giông. Các ngón tay của ông mò mẫm tìm đèn chiếu, và tia sáng đèn quét xuyên màn mưa. “Thánh thần ơi.”

“Thám tử...”

Hunt đè mạnh điện thoại vào tai. “Tôi có việc phải đi,” ông nói.

“Nhưng...”

Hunt tắt điện thoại. Ông đưa tay ra kéo cánh cửa, và ông thốt lên một lần nữa, ngay cả lúc đó trời mưa đập vào mặt.

“Thánh thần ơi.”

Nhưng một tiếng thét nữa nhấn chìm đi tiếng nói.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10


Johnny ẩn mình trên những con đường nhỏ vắng người qua lại và lái xe từ bên này thị trấn qua phía bên kia. Jack sống trong khu phố có những căn nhà nhỏ và mảnh vườn tươm tất, nhiều cư dân ở đó thuộc thành phần cớm, buôn bán lẻ và vận chuyển hàng hóa. Đó đây trên các sân cỏ vườn nhà là những xích đu và đồ chơi. Trong những ngày chủ nhật, trẻ con thường chơi cút bắt trên đường phố. Thật yên bình khi sinh sống ở đây. Johnny quan sát thấy có nhiều ô tô kỳ dị nổi bật đang đậu ở đó, nên cậu đỗ xe cách hai dãy phố và đi bộ trong trời mưa. Đèn trong phòng Jack còn sáng. Johnny nhìn trộm vào bên trong qua khe cửa sổ và thấy bạn cậu. Hắn nằm dài ngang giường, xung quanh vứt bừa bãi truyện tranh. Hắn vừa đọc truyện vừa gãi. Johnny vừa định gõ nhẹ cửa kính thì cửa phòng mở ra. Gerald bước vào trong. Cao lớn và bắp thịt cuồn cuộn, anh ta mặc quần jeans và cởi trần, trên đầu đội chiếc mũ Clemson quặt ngược ra phía đằng sau. Anh ta nói điều gì đó chọc giận thằng em, vì Jack chọi mạnh cuốn truyện tranh, sau đó đẩy ông anh của hắn ra và đóng cửa phòng lại.

Johnny gõ nhẹ cửa kính, nhìn thấy Jack ngước đầu lên. Cậu gõ một lần nữa và bạn cậu bước đi ngang phòng. Cửa sổ kéo lên cao vài phân. Jack quỳ xuống chỗ khe hở. “Chúa ơi, Johnny. Cậu không sao chứ? Tớ nghe về chuyện xảy ra. Chán thật. Tớ bị nhỡ chuyến tàu. Một cái thây ma ngay trước mắt chúng ta.”

Johnny kiểm tra cánh cửa phía trên vai Jack. “Cậu có thể ra ngoài được không?”

“Không được đâu.” Jack nhìn với gương mặt xấu hổ. “Cậu biết về chuyện đóng cửa, đúng không? Vụ Tiffany Shore ấy?”

“Mình biết chuyện đó.”

“Trường học gọi điện cho bố tớ khi ông ấy không tìm thấy tớ.”

“Mẹ tớ cũng vậy.”

“Ừ. Thì, bố tớ bắt gặp tớ lấy cắp bia và tớ vẫn còn xỉn. Tớ trong tình trạng rất kẹt. Mẹ tớ đang ở nhà thờ, cầu nguyện cho tính mạng của Tiffany và linh hồn bất diệt của tớ.” Jack đảo mắt rồi ngéo ngón tay cái móc vào cửa. “Thằng anh ba trợn điều hành mọi chuyện. Hắn là người trông chừng tớ.” Jack ép sát gần khe hở. “Nhưng cái gã chết rồi đó. Chắc chắn phải ghê gớm lắm. Mọi chuyện bây giờ như thế nào? Tớ nghe một số chuyện bố tớ nói. Gã đó có liên quan gì đến Tiffany không?”

“Em gái tớ chứ?”

“Tớ nghi ngờ điều này lắm.”

“Có thể là em gái tớ lắm chứ.”

“Chuyện xảy ra đã cả năm rồi Johnny. Cậu cũng nên thực tế. Rất có thể...”

"Đừng nói với tớ về chuyện rất có thể.” Xấu nhất thì...

Jack ngần ngại. “Cậu sẽ đi bụi chứ hả, có đi không?”

“Tớ phải đi.”

Jack lắc đầu, mặt nghiêm nghị. “Đừng có đi, bạn ơi. Đêm nay không phải là đêm trốn nhà đi hoang. Tất cả cớm của thị trấn đều có mặt ngoài kia. Ai đó làm cái chuyện này sẽ ngó trước nhìn sau. Gã ta sẽ cẩn thận tối đa đấy.”

Johnny lắc đầu. “Tiffany bị bắt cóc hôm nay. Giờ này còn sớm lắm. Lúc này là lúc người ta sẽ phạm lỗi lầm.”

“Vậy cậu dự định đi đâu?”

“Cậu biết tớ đi đâu mà.”

“Đừng đi, bạn ơi. Tớ nói thật. Tớ có cái cảm giác không ổn.”

Johnny không hề nao núng. “Tớ muốn cậu đi với tớ.” Jack nghiêng đầu nhìn qua vai của hắn. Cửa phòng vẫn đóng. Johnny đặt những ngón tay lên cửa sổ. “Tớ cần sự trợ giúp.”

“Tớ không bao giờ đồng ý đi vào những căn nhà đó. Đó luôn luôn là quy tắc đầu tiên của tớ. Cậu biết mà.”

“Nhưng cái này khác.”

“Cậu sẽ bị giết. Một kẻ điên khùng nào đó sẽ tóm cổ cậu, và hắn sẽ làm thịt cậu.” Khuôn mặt của Jack xám xịt và hắn van nài bằng cả cơ thể. “Đừng làm chuyện đó.”

Johnny nhìn đi chỗ khác, vào cõi tối tù mù của những nhà hàng xóm xung quanh. “Tớ đã chết lặng người đi, Jack ạ.”

“Ý cậu là sao?”

“Gã đàn ông đó bị gãy chân. Tớ nghe tiếng xương cốt gãy vụn. Máu me vung vãi khắp nơi. Một con mắt sắp sửa lòi văng ra ngoài.”

“Thôi đi cậu. Thật không đấy?”

“Gã biết cô bé ở đâu. Cậu có hiểu không? Ai đó tống văng gã ra khỏi đường với chủ đích để gã không bao giờ nói nữa.” Johnny giơ nắm đấm lên. “Tớ có mặt ngay tại chỗ đó.”

“Thì sao?”

“Tớ quá sợ hãi. Tớ bỏ chạy.”

“Thì cậu bỏ chạy. Rồi sao?”

Johnny không nghe Jack nói. Cậu vẫn có thể hình dung được sự việc diễn ra. “Gã kia đi vòng ra sau xe.” Cậu lắc đầu. “Tớ nghe tiếng kim loại, y như gã kéo lê một cái ống nước. Động cơ lớn, tiếng máy gầm rú. Và cái gã đàn ông sắp chết, trời ơi, gã quá sợ hãi đến nỗi vãi ra quần. Gã nói tớ chạy đi.”

“Lại cậu nữa. Gã nói với cậu à?”

“Cậu không hiểu sao? Gã biết cô bé ấy ở đâu và tớ cắm đầu chạy. Cô bé là em gái tớ. Bọn tớ là anh em song sinh.”

“Đừng, Johnny.”

“Tớ phải làm sáng tỏ chuyện này.” Khuôn mặt Johnny lấp đầy khe hở bên dưới cửa sổ.

“Và phải là tối hôm nay. Đây là cơ hội của tớ, Jack. Tớ có thể làm, nhưng tớ không chắc tớ có thể làm một mình. Tớ cần cậu đi với tớ.”

Jack bồn chồn, nhìn trừng trừng vào cánh cửa đang đóng. “Đừng yêu cầu tớ, Johnny. Tớ không thể giúp cậu. Đêm nay thì không.”

Johnny ngả người về phía sau, thất vọng và bực tức. “Cậu bị sao vậy Jack? Hồi sớm hôm nay, điều duy nhất cậu muốn là phóng ra ngoài kia và tìm kiếm. Cậu không thể trở thành kẻ phạm pháp được.”

Jack van nài. “Nhưng đây đâu phải chuyện chơi, đúng không? Chuyện này mới xảy ra. Chuyện này còn mới mẻ. Chuyện thật. Thí dụ nếu cậu tìm được gã này... cậu sẽ bị giết toi mạng.”

“Đây là lúc đó. Bây giờ. Ngay giây phút này.”

“Johnny... ”

“Chơi hay không, Jack?”

“Bạn ơi...” Câu trả lời quá rõ ràng.

Johnny thấy nó, rõ như ban ngày. “Không sao,” Johnny nói, và sau đó cậu biến mất.

Katherine Merrimon loạng choạng vấp bậc cuối cùng và ngã vào trời mưa. Bà cong gập người, cắm đầu chúi nhủi trong sân. “Johnny!” Môi bà nhợt nhạt. Bà đi chân không, đôi mắt hoang dại, đồng tử giãn. Bà lại vấp lần nữa, té nhào vào vũng bùn. Chiếc áo thun quá cỡ dài lê thê đến đầu gối, và chỉ trong giây lát nó ướt sũng nước. Bùn lầy bóng trên hai chân.

Bà hốt hoảng, có thể do say thuốc, vì thế Hunt di chuyển thận trọng. Ông từng chứng kiến những trường hợp suy sụp thần kinh, và trong trường hợp này cũng giống như vậy, như chừng mép vải áo của bà đã bị xé rách. Ông chìa đôi tay, các ngón tay xoè ra. “Bà Merrimon.”

“Johnny. Thật là phi lý!” Mặt bà ngửa lên trời khi mưa tầm tã trút xuống. Hunt đoán chừng vụ bắt cóc Tiffany Shore đã cào tung đất cát cái huyệt mộ mà bà tưởng tượng ra cho định mệnh của cô con gái. Bà tỉnh giấc trong ngôi nhà trống vắng trên một chiếc giường trống trơn.

“Bà Merrimon,” Hunt gọi nhẹ nhàng.

Bà nhìn lên, và cho dù ánh đèn thắp sáng khuôn mặt của bà, đôi mắt bà vẫn hoang dại và tối mù. “Con trai của tôi đâu?”

Hunt quỳ xuống và đặt hai tay lên đôi vai bà. “Không có gì cả,” ông nói. “Mọi chuyện sẽ ổn thôi.”

Giây phút đó, bà yên lặng; rồi khuôn mặt của bà như rạn vỡ, và khi lên tiếng, giọng bà quá yếu ớt đến mức không tài nào nghe được gì. “Alyssa đang ở đâu?” Bà hỏi, nhưng Hunt không có câu trả lời. Ông nhìn nỗi vật vã đổ ập lên người bà, như bẻ gãy vùng thắt lưng bà. Bà quờ quạng dang rộng đôi tay dưới đất, đào sâu những ngón tay vào đất mềm. “Làm cho nó chấm dứt đi,” bà thều thào.

Trách nhiệm của Hunt thật rõ ràng. Bà ta cần sự giúp đỡ. Johnny cần được mang ra khỏi ngôi nhà này và sống trong một môi trường ổn định. Lẽ ra ông phải gọi điện nói chuyện với Sở xã hội; ông biết điều này. Nhưng ông cũng biết những điều khác. Nếu ông mang đứa con trai của bà đi, điều đó sẽ tàn phá những gì còn sót lại trong bà, và ông cũng không thể làm như vậy. Bà ta quay cuồng trong đống bùn.

“Làm ơn làm cho nó chấm dứt.”

“Katherine...”

“Các con tôi...”

Hunt ngồi tì trên gót chân, đặt một tay lên vai bà. “Hãy tin tôi,” ông nói. Khi bà ngước nhìn lên, đôi mắt như bị tra tấn và lạc lõng, ông lặp lại tên bà, cầm tay và giúp bà đứng dậy.

Hai mươi phút sau, mưa ngừng hẳn. Một chiếc xe tuần tra gắn huy hiệu rẽ vào đường vào nhà. Hunt thấy một bóng tóc vàng khi đèn trong xe bật sáng và cảnh sát Laura Taylor bước vào hiên nhà. Cô gần ba mươi tuổi, thân hình to lớn nhưng khuôn mặt hẹp. Cô ta đã từng có một thời có mối quan hệ với Hunt, nhưng bây giờ chuyện đó chẳng khác nào lịch sử cổ đại. Hiện tại cô yêu một anh quái xế xe đua NASCAR ở Charlotte. Anh chàng quái xế không hề biết cô là ai, nhưng điều này không làm phiền lòng cô. Tính khí bền bỉ, với Taylor, là một đức hạnh. Cô bước lên bậc thềm và cau mày khi lên tiếng. “Hunt, trông anh rất bảnh trai.”

“Ý cô là sao?”

Cô chỉ vào quần áo của ông. “Quần áo ướt. Bùn văng trên áo vest.” Ngón tay giơ lên ám chỉ luôn cả đầu tóc ông. “Anh làm gì vậy, trượt ván à?”

“Trượt ván?” Hunt rờ tóc. Ướt đẫm.

“Tôi có thể cắt tóc cho anh.”

“Không sao đâu.”

“Tùy anh.” Cô đi lên vượt qua ông để nhìn vào bên trong cửa mở. “Anh nói rất mơ hồ trong điện thoại.”

Taylor là mẫu người theo sát nội quy, nhưng Hunt chọn cô vì một lý do. Đằng sau tất cả các vỏ bọc cảnh sát, điều lệ, thái độ vượt quyền, Taylor là người nhẹ nhàng. Hunt tin tưởng cô sẽ làm những điều phải. “Tôi chỉ cần cô để ý bà ấy,” ông nói. “Cố gắng giữ cho bà ấy đừng làm bất cứ điều gì ngu xuẩn.”

“Tình hình tệ như thế nào?”

“Bà ta đang nằm trên giường, tạm ổn trong lúc này; nhưng bà ta đang dùng cái gì đó, có thể là thuốc. Bà ta đã một lần buông xuôi tất cả. Có thể dở chứng lần nữa. Nhưng bà ta là một người tử tế và ngày mai là một ngày khác. Tôi nghĩ bà ấy cần thêm một cơ hội.”

Khi Taylor ngả người lại, có vẻ không xúc động gì. “Ở cái thị trấn này người ta đồn đại là bà ta rất lộn xộn.”

“Lộn xộn, như thế nào?

“Đừng có phản ứng như vậy.”

“Tôi đâu có.”

Một nụ cười dưới đôi mắt long lanh. “Tào lao. Nhìn anh kìa. Môi trắng dã, mạch máu nổi trên cổ. Anh nhìn tôi như thể tôi đang nói về mẹ của anh không bằng. Hoặc bà xã của

anh vậy.”

Hunt hạ giọng xuống, tự ép mình bớt căng thẳng. “Lộn xộn như thế nào?”

Taylor nhún vai không thông cảm và nghiêng đầu hướng vào nhà. “Bà ta đến trường một lần để đón cô con gái. Lúc đó đã bốn tháng sau ngày con gái bà ta bị bắt cóc. Khi nhà trường cho biết con gái bà ta không có ở đó, bà ta từ chối không chịu ra về, yêu cầu phải được gặp con. Bắt đầu gào thét khi họ cố gắng giải thích. Chuyện náo loạn đến mức một cảnh sát viên phải hộ tống bà rời khỏi trường. Bà ấy ngồi trên xe cảnh sát ba giờ đồng hồ, khóc. Và anh có biết cảnh sát Daniels không?”

“Nhân viên mới vào nghề?”

“Anh ta được phái đến để giải quyết vụ bà ta gọi điện báo có phá cổng đột nhập khoảng sáu tuần trước và thấy bà ta nằm ngủ trong một ngôi nhà cũ, nằm co quắp trên ghế sofa. Nằm như hài nhi mới sinh, anh ta nói lại.” Taylor nhìn xung quanh căn nhà xác xơ. “Lộn xộn quá.”

Hunt yên lặng trong giây lát, khi nói, ông cố gắng giải thích cho cô hiểu. “Cô có mấy cháu rồi, Laura?”

“Anh biết là tôi không có con mà.” Cô nói. “Con cái sẽ làm ảnh hưởng đến công việc.”

“Vậy cô phải tin tôi ở điểm này. Bà ấy cần sự cảm thông.” Taylor đón cái nhìn chằm chằm của ông, và ông biết cô đang tính toán. Taylor là cảnh sát tuần tra, không phải người giữ trẻ; và yêu cầu của Hunt không phải kênh cấp hay thủ tục. “Một người nào đó cần có mặt ở đây trong trường hợp con trai bà ấy trở về. Điều này là hợp lý.”

"Và những chuyện khác thì sao?"

“Chỉ cần giữ cho bà ta đừng đi lang thang ngoài đường hoặc uống thêm thuốc.”

“Anh đang lấy chỉ mành treo mạng anh lên vì chuyện này đấy Hunt, và anh đang yêu cầu tôi giơ cái lưng trần của tôi ra đỡ cho anh nữa.”

“Tôi biết.”

“Nếu bà ta tệ như thế này - rượu, thuốc, cái gì nữa - thì cậu con trai phải được tiểu bang chăm sóc. Chuyện gì sẽ xảy ra với cậu bé nếu anh từ chối không làm tròn trách nhiệm của anh...”

“Đó là sự mạo hiểm của tôi.”

Cô nhìn ra ngoài trời mưa, và sự lo lắng hiện rõ. “Ngoài kia người ta đang xì xào bàn tán. Về anh và bà ấy.”

“Những lời xì xào nhảm nhí.”

“Thật không?”

“Bà ấy là nạn nhân,” Hunt nói lạnh lùng. “Và bà ấy đã có gia đình. Tôi không có tham vọng nào khác ngoài công việc chuyên môn.”

“Tôi nghĩ anh đang nói dối,” Taylor nói.

“Có thể,” ông trả lời. “Nhưng không với cô.”

Taylor gõ nhịp những ngón tay lên thắt lưng trơn láng giữ súng, còng, hơi cay. “Anh lún quá sâu. Quá sâu rồi.” Những lời nói kém tử tế phát ra.

“Cô sẽ giúp tôi chứ?”

“Tôi là bạn anh. Đừng mang tôi vào chuyện gì nhớp nhúa.”

“Bà ta là người phụ nữ tử tế và tôi đánh mất đứa con của bà ấy. Chỉ có vậy thôi.” Thời gian như kéo dài ra. “Johnny Merrimon,” Hunt hỏi. “Cô có biết cậu bé không?”

“Có một cậu bé nào đó xuất hiện, tôi cho rằng đó là cậu ta.”

Hunt gật đầu. “Tôi nợ cô.”

Ông quay đi nhưng cô chặn ông lại. “Bà ta phải có gì đó đặc biệt.”

Hunt ngập ngừng, nhưng không có lý do nào để nói dối. “Cả hai người họ,” ông nói. “Bà ấy và con trai bà ấy.”

“Không lấy bất cứ một thứ gì từ những người này, nhưng tại sao?”

Hunt hình dung cậu trai trẻ, cái kiểu cậu ta hiểu những điểm yếu của mẹ và đã làm những gì để bảo vệ bà ấy khi không một ai muốn. Hunt thấy cậu ta mua đồ lúc sáu giờ sáng, ném đá vào cửa sổ nhà Ken Holloway, không phải một lần, mà năm lần, chỉ để lôi gã ta rời xa mẹ của cậu. “Tôi thường trông thấy họ ở trong thị trấn trước khi chuyện này xảy ra. Họ bao giờ cũng đi cùng nhau, cả bốn người họ. Nhà thờ. Công viên. Những buổi ca hát ngoài công viên. Họ là một gia đình tuyệt vời.” Ông nhún vai, và cả hai đều biết những điều còn lại chưa nói ra hết. “Tôi không thích thảm kịch.”

Taylor cười không đùa cợt.

“Sao cô lại cười?” Hunt hỏi.

“Anh là cảnh sát,” cô nói. “Mọi chuyện với anh luôn là một thảm kịch.”

“Có thể.”

“Đúng rồi, phải.” Giọng cô ta hoài nghi. “Có thể.”

Johnny quan sát xe ô tô ông Hunt rời khỏi căn nhà cậu từ khoảng cách chín mươi mét. Cậu hụp người xuống khi chiếc xe phóng qua, nhưng một chiếc xe khác vẫn đậu đúng chỗ xe mẹ cậu thường đỗ. Johnny vừa thấy chiếc ô tô này đúng lúc, chiếc ô tô bốn chỗ ngồi của Hunt, chiếc xe có gắn huy hiệu cùng dàn đèn trên nóc mui. Cậu cắn móng tay, nếm mùi đất bẩn. Cậu chỉ muốn kiểm tra mẹ cậu. Chỉ một chốc. Nhưng còn cảnh sát...

Tổ cha!

Một cặp vợ chồng già sống trong căn nhà nơi Johnny đậu xe. Những ngày trời ấm, ông chồng ngồi bên hàng hiên, hút thuốc lá rê và quan sát bà vợ làm vườn trong bộ váy rách bạc màu phía đằng trước, lộ ra làn da trắng và những gân máu xanh chằng chịt nhiều hơn những gì Johnny nghĩ cơ thể nên có. Nhưng họ luôn vẫy tay và cười khi cậu đạp xe đi ngang qua, người đàn bà với đôi tay bẩn, người đàn ông với hàm răng bẩn.

Johnny trèo ra khỏi xe và đóng cửa. Cậu nghe thấy tiếng xào xạc của lá và nước nhỏ giọt róc rách, tiếng ếch kêu ộp oạp và tiếng rít của bánh xe khi chiếc xe khác đổ dốc xuống ngọn đồi và hắt ánh sáng đèn pha rọi vào những căn nhà thấp lè tè. Cúi mình, cậu lò mò vào hướng bên hông nhà và bắt đầu tiến dần qua khoảng sân sau ngăn cách giữa chiếc xe và nhà cậu. Cậu đi ngang qua nhà kho nặng mùi cỏ cắt và lá mục, tấm bạt lò xo bị rỉ sét chỗ những góc buộc và tròng trành rất nguy hiểm. Cậu khom người tránh dây phơi quần áo, phóng qua hàng rào, và thoắt thấy bóng những người hàng xóm mà cậu chỉ biết lờ mờ.

Cậu chậm rãi khi đến gần cửa sổ phòng mẹ. Đèn trong phòng tỏa ánh sáng vàng vọt, và khi thò đầu lên nhìn, cậu thấy mẹ đang ngồi ở cạnh giường. Mặt đẫm nước mắt và bùn sình bắn lên, bà ủ rũ như thể những dây chằng đời sống đã bị cắt đứt. Bà cầm một bức ảnh trong khung, môi mấp máy khi bà đặt một ngón tay trên mặt kính và xoay lưng như thể có một lực nào đè nặng. Nhưng Johnny không cảm được mối thương cảm. Ngực cậu thình lình trào lên nỗi uất hận. Bà làm như thể Alyssa đã ra đi mãi mãi, như thể không còn một hy vọng nào nữa.

Bà quá yếu đuối.

Nhưng khi khung ảnh được xoay ngang, Johnny thấy không phải hình chụp cô em gái Alyssa của cậu đã làm bà suy sụp.

Đó là bức ảnh bố cậu.

Johnny hạ người xuống dưới đáy cửa sổ. Bà đã từng đốt chúng. Johnny nhớ rõ buổi trưa rực nắng với lửa cháy phừng phừng sau sân vườn hôm đó và cái mùi đắng khét của tranh ảnh cháy rụi không còn gì. Cậu thấy như vừa mới hôm qua, khi cậu lấy cắp được ba tấm ảnh từ chính tay mẹ cậu và chạy cuồng loạn vòng quanh khi bà ta vấp ngã và gào thét đòi cậu trả lại cho bà. Cậu biết rõ ba tấm ảnh hiện đang cất ở đâu: một trong ngăn kéo đựng tất, hai tấm cậu cất trong rương cho em Alyssa. Tấm ảnh mẹ cậu đang cầm trong tay là cái khác. Trong đó bố cậu còn trẻ, hai môi mở và mắt rực sáng. Ông mặc đồ vest với cà-vạt. Ông nhìn như một minh tinh điện ảnh. Trong một giây phút, hình ảnh mờ dần trong trí óc cậu, sau đó Johnny dụi hơi ẩm trong mắt phải và đi qua sân vườn đến hàng cây thấp lè tè. Cậu lao nhanh trong bóng đêm, cố gắng quên đi cảnh tượng mẹ mình với tấm ảnh. Điều đó khiến cậu buồn, và sự buồn phiền làm cậu yếu đuối.

Johnny nhổ nước bọt xuống đất.

Đêm nay không phải là đêm cho kẻ yếu đuối.

Một con đường mòn dẫn cậu đi dưới lùm cây. Nó cào lên bầu trời đêm với cái tàng quá lớn và dày đặc, đem đến cảm giác hoàn toàn mới về bóng tối. Ngoài xa là một nông trại trồng thuốc lá đã đi vào quên lãng. Những cây cao to biến mất. Dây leo độc bò đầy trên mặt đất trơ và cỏ dại mọc cao quá đầu của cậu. Đi khoảng chín mươi mét, cậu phóng qua một con lạch nước dâng cao màu nâu vàng. Gai tầm xuân xé toạc da thịt hai cánh tay cậu. Khi đi đến nhà kho thuốc lá cũ, cậu dừng lại và lắng nghe. Cậu có lần phát hiện hai gã thanh niên lớn tuổi hơn ở bên trong hút xì-ke. Chuyện xảy ra đã nhiều tháng qua, nhưng Johnny không bao giờ quên cuộc rượt đuổi của họ. Cậu đặt một tay lên nhà kho. Những khúc gỗ vuông cạnh giờ xiêu vẹo vì năm tháng, và phần lớn các kẽ hở nứt nẻ đã nát vụn khiến nhà kho có khả năng sụp đổ, nhưng trông nó vẫn cứng cáp. Johnny dán mắt vào khe hở và nhìn thấu vào bên trong. Đen đặc. Yên lặng. Cậu đi đến cánh cửa.

Cậu bước chân lên một cái xô cũ và vươn tay lên phía bên trên cửa sổ. Mất cả chiều dài cánh tay mới với chạm được, nhưng cậu cảm thấy nó ở đó, ngay đúng chỗ cậu đã để nó. Cái túi được kéo ra và phân chuột rơi đầy xuống đất. Nó màu xanh và ẩm mốc, vẫn dính vết bẩn màu nâu đỏ dọc theo mép dưới đáy. Johnny hít thở mùi của nó, mùi thối của đất, của chim chóc và cây cối chết. Cậu nhảy xuống và cảm thấy hơi thở mình yếu ớt. Johnny nhìn vào trong bụi và nghe thật rõ. Sau đó kéo gỗ khô từ nhà kho và đốt lửa.

Một đám cháy lớn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11


Thám tử Hunt lái xe vào con đường dẫn vào nhà ông David Wilson như một cơn gió mạnh thổi những đám mây của cơn giông. Khi nhìn xuống, ông thấy phần nhỏ bé đó của thế giới đã chuyển sang màu trắng bạc: một vũng nước trên đường xi-măng dẫn vào nhà, nhiều giọt mưa đọng trên nắp capo xe ô tô. Con đường cụt dẫn vào phía sau những tòa cao ốc không có mặt tiền, đánh dấu chu vi vòng ngoài của viện đại học. Những căn nhà tươm tất là nơi cư ngụ của gia đình các giáo sư và một số sinh viên có bố mẹ khá giả không chịu nổi cảnh thuê mướn ở nhà tạm bợ. Những miếng đất hẹp, những hàng cây cao và to xù. Những mảng hẹp xanh rờn đánh dấu các khe rãnh trên đường xi-măng đi bộ. Cỏ dại. Rêu. Không khí đậm mùi những thứ đang sinh sôi phát triển.

Trời mưa khiến hàng xóm láng giềng ở riết trong nhà, cũng khiến cho sự có mặt của cảnh sát bớt ồn ào, nhưng Hunt biết điều này sẽ sớm chấm dứt. Một người đàn ông đứng ở lề đường cách đó bốn căn nhà, nhìn chằm chằm, một cái túi xách treo trên tay ông ta. Ngang bên đường, một điếu thuốc làm loé lên ánh sáng trong bóng tối. Hunt lầm bầm chửi thề và quay ra cửa. Căn nhà kiểu Tudor nhỏ với những cây kèo đánh dầu bóng cũ kỹ gác lên tường gạch sậm màu. Một dọc cỏ xanh phân cách nó với các nhà hàng xóm; một căn nhà đậu xe biệt lập ở góc sân sau. Thám tử Hunt thấy Yoakum trèo qua cái cửa sổ không che màn và đi ra ngoài cửa. Bên trong, sàn gỗ có nhiều vết trầy xước chứng tỏ nó đã được sử dụng nhiều năm nhưng rất ít khi được tu sửa. Cầu thang đi lên lầu ở phía tay phải, thành cầu thang đậm màu và trơn láng. Nhà bếp ở phía sau, ánh sáng của thép không rỉ phản chiếu dưới ánh đèn sáng gắt. Một viên cảnh sát mặc đồng phục gật đầu chào trong phòng khách và Hunt chào đáp lại. Thêm một lần rẽ, và lần thứ ba. Không ai nhìn thẳng vào mắt ông, nhưng ông hiểu.

Tất cả dường như rất quen thuộc.

David Wilson là giáo sư đại học, và căn nhà cho một cảm giác như vậy: gỗ sậm màu, gạch trơ, thoảng mùi thuốc lá tươi hay là chậu cũ. Yoakum bước vào từ phòng ăn với nụ cười chiếu lệ và vô nghĩa. “Tôi không phải là kẻ mang đến tin vui,” ông nói.

Hunt nghiên cứu nội thất căn nhà. “Bắt đầu đi.”

“Căn nhà thuộc quyền sở hữu của viện đại học. Ông Wilson được cư trú ở đây như một đặc ân. Ông ta đã sống ở đây ba năm.”

“Chơi quá đẹp.” Hunt suy nghĩ lại về căn nhà, chú ý đến sự dòm ngó nhanh chóng bởi các thuộc cấp khác.

Yoakum cũng thấy điều đó, và hạ giọng. “Họ lo lắng cho ông.”

“Lo lắng?”

“Ngày hôm qua là tròn một năm Alyssa mất tích. Chưa ai quên chuyện này.”

Hunt nhìn xung quanh căn phòng, mắt nhắm chặt, không nói câu nào. Yoakum nhún vai, sự bất an và lo lắng cũng hiện rõ trong đôi mắt của ông. “Chỉ nói với tôi về David Wilson,” Hunt nói.

“Ông ấy là trưởng khoa Sinh học. Được mọi người kính trọng, tôi có thể nói như vậy. Từng xuất bản nhiều công trình. Sinh viên khâm phục ông. Ban giám hiệu cũng khâm phục ông.”

“Ông có nói thẳng với viện đại học ông Wilson không phải là nghi can chứ? Tôi không muốn làm hoen ố danh tiếng của ông ta một cách vô nguyên cớ.”

“Nhân chứng thực thể, tôi đã nói với họ như vậy. Thấy một điều gì đó và vì vậy mà bị giết.”

“Tốt. Cho tôi biết điều gì khác về David Wilson.”

“Ông có thể bắt đầu với những thứ này.”

Yoakum bước ngang qua tấm thảm Á Đông có lẽ cũ kỹ hơn tuổi thọ căn nhà. Ông dắt thám tử Hunt đến bức tường treo nhiều ảnh trong khung, mỗi cái đều có nội dung na ná như nhau: David Wilson đi với một người phụ nữ tuyệt đẹp. “Chưa vợ sao?” Hunt hỏi.

“Đồ phụ tùng máy ô tô trên bàn ăn. Thịt bò bít-tết và bia trong tủ lạnh, và không gì nhiều khác. Mười bảy cái bao cao su trong ngăn kéo bàn cạnh giường ngủ.”

“Ông đếm chúng?”

Yoakum nhún vai. “Nó cùng nhãn hiệu tôi dùng.”

“À, vui nhỉ.”

“Ai đùa cợt với ông?”

“Có dấu hiệu nào cho thấy ông ta có thể gặp gỡ Tiffany Shore không?”

“Nếu có một dấu hiệu nào rõ ràng ở đâu đó trong căn nhà này, thì tôi chưa khám phá ra. Nếu ông ta phát hiện được cô ấy, tôi nghĩ chỉ là do tình cờ.”

“Được rồi,” Hunt nói. “Chia ra thành nhiều phần nhỏ. Chúng ta biết ông ta sống ở đây đã ba năm. Ông ta là người ưa thể thao, có thu nhập cao, và thông minh.”

“Thể thao?”

“Bác sĩ khám nghiệm tử thi nghĩ rằng ông ta có thể là dân leo núi.”

“Một người thông minh, bác sĩ Trenton Moore.”

“Vậy sao?”

“Đi theo tôi,” Yoakum nói, và luồn lách đi qua nhà bếp đến cánh cửa hẹp đằng sau nhà. Ông mở cánh cửa và gió ấm tràn vào. “Qua sân sau là đến ga-ra.”

Họ bước bộ ra sân cỏ ướt. Hàng rào kín đáo bao bọc phần lớn sân vườn, ga-ra to, vuông và thô, ở góc tít đằng xa. Xây bằng cùng loại gạch với căn nhà, đủ rộng để chứa ít nhất hai chiếc xe. Yoakum đi vào trước tiên và mở công-tắc đèn. “Xem này.”

Những kèo nhà giăng ngang phía dưới nóc nhà dựng đứng. Những vết dầu bẩn trên sàn nhà xi-măng xám xỉn mờ đục. Hai bức tường được dựng lên bằng ván có móc, và trên những cái móc treo đủ dụng cụ leo núi: những bó dây, móc dây, khoen thép móc vào đá, đèn treo đầu, và mũ sắt.

“Tôi có thể nói ông ta là dân leo núi.”

“Với một vài đôi giầy trông ngớ ngẩn,” Yoakum nói, và Hunt quay đầu lại. Đó là những đôi giầy cao cổ, da bên trên với đế giầy bằng cao su đen láng, uốn cong lên ở phía trước và hai bên. Ba đôi treo lên các móc khác nhau. Hunt nhấc một đôi lên. “Giầy ma sát,” ông nói. “Chúng rất tốt cho việc leo trên đá.”

Yoakum chỉ lên kèo nhà. “Ông này cũng không hề sợ nước.”

“Xuồng kayak.” Hunt chỉ vào chiếc xuồng kayak dài nhất. “Chiếc này dùng đi biển.” Ông chỉ vào chiếc ngắn. “Chiếc đó dùng để đi sông.”

“Không có chiếc ô tô nào đăng ký dưới tên của ông ta,” Yoakum nói.

“Nhưng các vết dầu dơ dưới sàn nhà.” Thám tử Hunt dùng chiếc đinh dở một chùm chìa khoá có nhựa đen treo ở cửa. “Tôi đoán là chìa khoá sơ-cua. XeToyota.” Ông nhìn dấu vết bánh xe trên nền xi-măng. “Vỏ cỡ lớn. Có thể xe tải hoặc Land Cruiser. Hãy xác minh với viện đại học. Rất có thể nó được đăng ký dưới tên của khoa Sinh học.”

“Chúng tôi tìm được thông tin một chiếc rơ-móc đăng ký dưới tên David Wilson.”

“Rất có thể nó dùng để kéo xe gắn máy chạy đường đất của ông ta. Chiếc xe gắn máy ông ta sử dụng khi bị thảm sát không hợp pháp để lưu thông trên đường lộ, có thể ông ta lấy nó xuống khỏi rơ-móc. Câu hỏi đặt ra là ông ta làm gì ở vùng bị nghiêm cấm nhất của quận hạt. Ông ta đã làm gì và ông ta làm điều đó ở đâu.”

Họ rời ga-ra ô tô và kéo cánh cửa đóng lại, dõi mắt nhìn ra phía sau sân vườn. “Trên đó là vùng đồng quê hoang dã. Nhiều cây rừng. Nhiều đường mòn.”

“Một nơi tuyệt vời để chạy xe gắn máy.”

“Ông có nghĩ xe ô tô của ông ta vẫn ở đâu đó ngoài kia?” Yoakum hỏi. Cả hai bước đến cánh cửa sau nhà, đi vào bên trong, đi xuyên qua nhà bếp.

“Chắc chắn là như vậy.” Hunt mường tượng quận hạt trong đầu. Nó cách thủ phủ tiểu bang cả trăm dặm, sáu mươi dặm từ bờ biển. Có những nguồn lợi tức trong thị trấn: kỹ nghệ, du khách, sân gôn; khác hẳn với phía bắc quận hạt là nơi hoang dã, nhiều đầm lầy và rãnh núi hẹp, những cánh rừng già và gai ngạnh đá granite. Nếu David Wilson chạy xe gắn máy lên hướng đó thì xe ô tô của ông ta có thể ở bất cứ nơi nào: đường nhỏ, đường mòn, ruộng. Bất cứ nơi nào. “Chúng ta cần gửi vài đơn vị khoanh vùng lên trên đó.” Hunt tính toán vài con số trên đầu. “Gửi lên trên đó bốn xe tuần tra. Cho họ lên ngay bây giờ.”

“Trời rất tối.”

“Hãy làm ngay bây giờ,” Hunt nói. “Và báo bảng số rơ-móc cho lực lượng Tuần tra xa lộ.”

Yoakum búng tay và một cảnh sát mặc đồng phục xuất hiện. “Nhớ nhắc cho cảnh sát tiểu bang biển số ô tô của ông Wilson. Cho họ biết nó liên quan đến vụ án Shore. Họ đã có lệnh báo động.” Viên cảnh sát bỏ đi gọi điện. Yoakum quay lại nhìn Hunt. “Giờ sao?”

Hunt xoay một vòng chậm rãi, nghiên cứu những tấm ảnh của David Wilson với một lô các cô bạn gái xinh đẹp. “Phòng ngủ. Tầng hầm. Trần nhà. Dắt tôi đến tất cả mọi nơi.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12


Levi di chuyển cẩn thận qua sình lầy và những tảng đá trơn trượt. Con sông phản chiếu ánh sáng làm gã nhớ lại một chút gì đó khi gã còn là đứa trẻ. Nó như một nhịp điệu, một khuôn mẫu, như cái ống nhòm phản chiếu bố hắn một năm trước khi ông ấy qua đời vì ung thư. Con đường mòn rẽ vào vùng dốc thoải và Levi dùng cánh tay còn lại kéo rễ cây và cây con để gã có thể leo lên đường đất sét trơn trượt. Gã chống mạnh những cạnh giày để bám vào mặt đường. Khi leo lên đến đỉnh, đường phẳng, gã dừng lại lấy hơi; và khi gã bắt đầu cất bước, ánh sáng phản chiếu từ con sông lấp lánh đằng sau những cành liễu và thông tro, sồi và thông dài ngón. Trời tối sầm lại, và đó là lúc gã nhìn thấy những khuôn mặt. Gã thấy vợ gã cười gã và sau đó bất thình lình ngưng cười, khuôn mặt trở nên tối mù, đỏ và ướt đẫm, tự nó như vậy. Gã thấy người đàn ông và vợ gã, và thế nào đó, mặt người đàn ông ấy cũng trở nên sai lạc, đỏ lựng lên.

Và những âm thanh.

Levi cố gắng ngừng suy nghĩ; gã muốn gột rửa đi những hình ảnh ra khỏi đầu mình, bơm nước vào một bên tai súc rửa những bẩn thỉu tràn ra phía bên kia. Gã muốn trống rỗng, muốn dọn mình đón nhận lời Chúa. Sau đó gã vui mừng, cho dù nó chỉ là một chữ lặp đi lặp lại nhiều lần. Một cái tên vang trong đầu hắn như chuông nhà thờ.

Sofia.

Levi nghe lại lần nữa.

Tên cô bé.

Gã tiếp tục bước đi và cảm thấy dòng nước ấm trên mặt. Phải mất cả dặm đường trước khi gã hiểu được mình đang khóc. Gã không quan tâm. Chẳng ai thấy gã ở ngoài này, vợ gã không, hàng xóm cũng không, không ai giễu cợt gã khi người ta nói những điều mà gã không hiểu, hay cười nhạo gã vì sự yên lặng khi gã tìm thấy những con thú vật bị chết dọc đường. Cho nên gã cứ để những giọt lệ tuôn trào. Gã lắng nghe lời Chúa, và để những dòng lệ nóng tuôn rơi trên khuôn mặt kinh dị của mình.

Gã cố nhớ đêm sau cùng mà gã được ngủ, nhưng không thể nhớ ra. Tuần lễ vừa qua là một chuỗi đủ chuyện chắp thành những hình ảnh mờ nhoè. Đào bới trong đất cát. Đi bộ.

Những gì gã làm...

Những gì.

Levi nhắm nghiền đôi mắt, quá mệt mỏi; và khi chân của gã quỵ xuống, gã ngã gục trên nền đất sét trơn trượt. Gã trơn trượt xuống trườn dốc qua những tảng đá xé rách da thịt gã. Gã đập đầu vào một cái gì đó cứng, thấy vùng ánh sáng chợt loé lên, và cảm thấy nỗi đau điếng bùng nổ một bên người. Nó đâm xuyên người gã, kinh khủng, gai tua tủa và trơ sống. Gã cảm thấy một cái gì đó như văng bể ra, lộn nhào hung tợn, và phát hiện ra cái thùng đã bay mất tiêu. Hai tay gã đập níu, một lần chạm phải nhựa dẻo và cảm thấy nó tụt đi mất.

Nó ở dưới dòng sông.

Ôi Thượng đế, nó biến mất trong tăm tối.

Levi trố mắt nhìn vào dòng nước đen ngòm và ánh sáng yếu ớt long lanh. Đôi tay to lớn của gã ghì chặt. Levi không biết bơi.

Gã lo lắng trong khoảng một giây đồng hồ, nhưng rồi cũng lao xuống nước trước khi Chúa bảo gã nhảy. Gã rơi xuống, chân doãi ra, hai tay dang ra, và cảm thấy nước bẩn đang thốc vào mồm gã. Gã trồi người lên nhổ toé ra, rồi lại ngụp lặn trong làn nước, hai tay ầm ầm dưới nước, nước chảy siết và lạnh cóng giữa các ngón tay. Gã vùng vẫy, sặc nước và sợ hãi rằng mình có thể toi mạng, rồi sau đó nhận ra nước chỉ cao ngang ngực gã. Gã đứng dậy và lội bì bõm xuôi dòng nước, xé qua những tia sáng mong manh cho đến khi tìm được kiện hàng xoay vòng hờ hững đằng sau một cái cây đổ.

Gã vất vả khổ sở mang nó vào bờ, bò ngược lên bờ sông trên cao, mặc kệ sự đau đớn có thể làm gã tàn phế. Một lần nữa gã lại nghĩ về vợ gã.

Lẽ ra cô ta không nên làm những gì đã làm.

Gã ôm cứng lấy kiện hàng. Đau đớn hành hạ thân xác. Một điều gì đó không bình thường đang diễn ra trong cơ thể của gã.

Cô ta lẽ ra không nên làm như vậy.

Cuối cùng, Levi nằm vật xuống, vẫn co quắp vòng quanh kiện hàng, rên la quằn quại.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13


“Chẳng có gì.” Hunt đứng dưới tầng hầm trong nhà David Wilson. John Yoakum thất vọng đứng bên cạnh anh. Hai bóng đèn xoáy vào chiếc gá đèn sét rỉ được bắt ốc vào kèo nhà trơ gỗ; cái lò sưởi đen vẫn nguội lạnh ở góc xa. Hunt kéo lê một chân xuống nền nhà, một đám mốc và bụi bặm bốc lên rồi lắng xuống. Không khí trong phòng vương mùi đất cát và xi-măng ẩm ướt.

“Ông đợi cái gì thế?” Yoakum hỏi.

Hunt nhìn vào trong khoảng không gian lửng thấp hẹp ở dưới phòng khách và phía sau nhà. “Một tia hy vọng may mắn. Chỉ một lần.”

“Chẳng có cái gì gọi là may mắn, tốt hoặc xấu.”

“Nói điều đó cho Tiffany ấy.”

Đã mười lăm giờ trôi qua từ lúc kẻ nào đó chưa rõ danh tính lôi cô bé này vào xe, và họ cũng chưa đi tới đâu trong nỗ lực tìm kiếm cô. Họ đã xem xét từng góc của căn nhà và vườn tược, nhưng cũng chưa tìm được manh mối nào. Hunt đập mạnh tay vào thành gỗ trơ của cầu thang dưới tầng hầm, bụi rớt xuống tung tóe. “Tôi phải kiểm tra cậu con trai tôi.”

Hunt nói. “Tôi quên nói với nó là tôi sẽ về trễ.”

“Gọi nó đi.”

Hunt lắc đầu. “Nó không nhấc máy.”

“Tệ vậy à?”

“Tôi không muốn nói về chuyện này.”

“Ông muốn tôi làm gì bây giờ?” Yoakum hỏi.

Hunt chỉ lên trên cầu thang. “Thu dọn. Đóng cửa. Tôi sẽ gặp ông ở đồn trong vòng nửa tiếng nữa.”

“Và khi nào chúng ta đến đấy?”

“Chúng ta sẽ làm việc từ mọi ngóc ngách. Cầu nguyện một chút may mắn.” Hunt đặt một ngón tay lên mặt Yoakum.

“Và ông đừng có nói gì.”

Yoakum giơ hai tay. “Chuyện gì?”

“Không nói một tiếng.”

Ở bên ngoài, Hunt thấy số đông hàng xóm tụ tập ở vỉa hè. Hai cảnh sát mặc đồng phục giữ họ ở một khoảng cách xa, nhưng ông phải đi qua đám đông để đến nơi đậu xe. Ông đến gần xe thì một người đàn ông gầy trông giận dữ hỏi: “Chuyện này có liên quan gì đến Tiffany Shore?” Ông ta lớn tiếng. “Không một ai nói cho chúng tôi bất cứ điều gì.” Hunt đi quá người đàn ông, và người đó chỉ tay về hướng nhà Wilson, nói to hơn. “Ông ấy có liên quan gì không?”

Chút xíu nữa Hunt dừng lại, nhưng ông không dừng.

Chẳng điều gì ông nói ra có thể làm cho tình hình bớt căng thẳng đi.

Vào bên trong ô tô, ông vặn điều hoà lên mức cao nhất và lèo lái ra khỏi đám đông. Ông cần phải tạt qua nhà, kiểm tra cậu con trai, nhưng rồi anh lại lang thang dọc theo rìa ngoài cùng thị trấn, sau đó nhìn xuống con đường dài, dốc đứng, dẫn đến nhà Katherine Merrimon. Cảnh sát Taylor mở cửa trước khi ông gõ. Cô có vẻ cảnh giác cao độ, hai môi mím chặt. Hunt để ý tay của cô đặt trên bao súng. Cô bớt căng thẳng khi biết người đến nhà là ai, sau đó bước ra hàng hiên và đóng cửa lại sau lưng.

Hunt gật đầu. “Có dấu hiệu gì không?”

“Về anh nhóc à? Không. Còn cái gã chết tiệt Ken Holloway, thì có đấy.”

“Chuyện gì vậy?”

“Gã ta tìm kiếm Johnny. Trông gã rất bực, mặt đỏ ửng lên, lải nhải mãi về cây đàn piano bị phá hỏng. Cây đàn Steiman hay Steibeck gì đó.”

“Steinway.”

“À, nó đó. Cục đá ném qua cửa sổ cũng văng trúng vào cây đàn piano.” Taylor cười. “Tôi nghĩ có lẽ nó đắt giá lắm.”

Một cái gì đó kéo căng mồm thám tử Hunt. “Có thể. Gã ấy có làm phiền cô gì không?”

“Có chứ. Bắt đầu gào thét đòi gặp bà mẹ cậu bé khi tôi từ chối không cho gã vào bên trong. Tôi nói gã bình tĩnh, gã nói gã sẽ làm cho tôi bị sa thải.” Hunt cảm nhận được nỗi bực dọc của cô. “Tôi nói cho anh nghe, nếu cậu con trai đó có mặt ở đây, tôi nghĩ cậu ta sẽ bị ăn đòn.”

“Bao lâu rồi?” Hunt thoáng nhìn ra đường.

“Khoảng chừng một giờ. Gã nói gã sẽ trở lại với luật sư của gã.”

“Cô không nói đùa chứ?”

Cô nhún vai. “Gã muốn vào nhà và bằng mọi giá phải vào.”

“Nếu gã trở lại,” Hunt nói, “và nếu gã bịa ra lý do này nọ, tôi sẽ nhốt gã.”

“Thật vậy sao?”

“Tôi không thể để gã dọa nạt nhân chứng hoặc gây rối loạn cuộc điều tra của tôi.”

“Và đó là lý do duy nhất?”

Hunt trầm ngâm, nhìn căn nhà phía đằng sau. Ông ngửi được mùi mục nát của viền nóc và vách áp tường, thấy những vết rách ở lưới cửa sổ, những vạch nứt nẻ ở các ô cửa kính. Ông nhớ căn nhà bà Katherine sinh sống khi con gái Alyssa bị bắt cóc, nhớ đôi mắt tối thẫm và niềm tin đứt ruột rằng Chúa sẽ mang trả lại cho bà đứa con gái mất tích. Bà thường cầu nguyện bên cạnh cửa sổ hướng về hướng nam, ánh sáng trinh nguyên trên da thịt hoàn hảo khiến bà nhìn như một thiên thần. Và Ken Holloway luôn có mặt trong suốt thời gian đó, cười với bà, chu cấp tiền bạc cho bà. Chuyện đó chỉ kéo dài một tháng. Một khi bà bị nghiền nát thành cát bụi, gã sẽ buông tha bà như con kên kên. Bây giờ thì bà tàn tạ tả tơi. Hunt chắc chắn biết rõ kẻ làm bà tả tơi.

“Tôi ghét gã ấy,” Hunt nói, đôi mắt ông dõi về cõi xa xăm. “Tôi ghét hắn tới mức tôi có thể giết hắn.”

Taylor liếc đi chỗ khác. “Không thể nào tin tôi vừa nghe câu nói đó.”

Hunt cảm nhận hai vai mình vươn lên cao, máu chạy rần rần trên mặt. “Thôi quên chuyện đó đi.”

Taylor nhìn chằm chằm vào ông. “Anh có chắc không?”

“Chắc.”

“Anh chắc như vậy?”

“Ừ đúng. Chắc như vậy.”

“Tốt lắm.” Cô gật đầu.

Ông nhìn ra con đường và nói, “Chắc gã đang đùa giỡn với tôi.”

Chiếc Escalade màu trắng của Ken Holloway chạy chậm trên đường, bỗng một bánh xe lăn xuống rãnh nước khi chiếc xe rẽ vào con đường dẫn vào nhà. Trong giây phút, chiếc xe chết máy; rồi tiếng máy rú lên và bánh xe phóng lên khỏi rãnh. Một mảng đất đen ngòm ở cạnh rãnh nước. Những tảng bùn và cỏ đeo dính trên lườn xe phía bên phải. Qua cửa sổ, Hunt có thể thấy khuôn mặt Holloway: cằm nghiêm nghị, mặt đỏ ửng. Ngồi cạnh ông ta là người đàn ông nhìn cam phận mà Hunt nhớ đã từng gặp đôi lần ở tòa án, một luật sư gì đó. Khuôn mặt gã bóng nhợt và ẩm ướt. Gã ta kéo gạt cần mở cửa xuống xe, sau đó ghê tởm nhìn mọi thứ bên ngoài: căn nhà, bùn sình và cớm. Bộ dạng của gã lúc ra khỏi xe là hình ảnh đĩ thoã nhất Hunt từng chứng kiến.

Hunt bước xuống sân và Taylor sát cánh bên cạnh ông. Gã ta mặc chiếc quần jeans mới tinh, chiếc áo sơ mi màu hồng sơ vin, đôi ủng của gã đi còn đắt tiền hơn cây súng của Hunt. Gã to lớn, phải hơn một tạ nhiều. Trông gã đầy giận dữ và đe doạn khi lôi cổ ông luật sư qua đống bùn. “Nói với họ,” gã chỉ tay, chiếc vòng bằng đồng lúc lắc trên cổ tay. “Nói với họ trình tự mọi chuyện như thế nào.”

Ông luật sư giũ thẳng áo vest. Da mặt ông ta láng bóng, móng tay được cắt kỹ lưỡng, và giọng nói gắng gượng. “Tôi cũng không rõ tại sao tôi có mặt ở đây,” ông luật sư nói. “Tôi đã giải thích cho ông...”

Holloway cắt ngang lời nói. “Ông là luật sư của tôi. Tôi đã trả tiền cho ông. Bây giờ, nói với họ.”

Ông luật sư hết nhìn Holloway lại nhìn sang viên cảnh sát. Ông kéo dài cổ tay áo như khi đang ở ngoài tòa án.

“Holloway là chủ nhân của mảnh đất này. Ông ấy muốn được ra vào tự do trong mảnh đất của ông ấy.”

“Đòi hỏi quyền ra vào,” Holloway ngắt lời. “Nó là nhà của tôi.”

Hunt giữ giọng bình tĩnh. “Lúc nãy khi tôi ở đây, ông nói ông là khách của căn nhà này.”

“Nói cho đúng nghĩa. Tôi là chủ sở hữu của nó.”

“Nhưng bà Katherine Merrimon là người thuê nhà hợp pháp.”

“Ông Holloway lấy của bà ta một đô-la mỗi tháng,” ông luật sư nói. “Khó mà nói bà ta là người thuê nhà.”

“Thuê nhà là thuê nhà,” Hunt nói, nhìn thẳng vào mắt ông luật sư. “Ông biết điều ấy mà.”

“Cho dù vậy, ông ta có quyền xem xét căn nhà.”

“Vào lúc thích hợp và có giấy thông báo,” Taylor sửa lại lời. “Không phải giữa đêm. Nếu ông ta muốn gọi điện cho bà Merrimon, ông ta vẫn có thể gọi cho bà ấy.”

“Bà ta không trả lời điện thoại,” ông luật sư nói.

Holloway bước tới trước. “Tôi muốn gặp anh nhóc tì đó. Nó làm hư cả một tài sản tư nhân có giá trị và cần phải chịu trách nhiệm về việc làm đó. Tôi chỉ muốn nói chuyện với nó.”

“Thật vậy sao?” Hunt không thể giấu đi sự không ưa và kinh tởm.

“Dĩ nhiên rồi. Còn điều gì nữa?”

“Và nếu tôi nói với ông thằng bé không có mặt ở đây?” Hunt hỏi, bước lên phía trước cho đến khi khoảng cách giữa hai người đàn ông chỉ vừa đủ hai mét. Ông biết Holloway là kẻ dễ nổi nóng. Biết rõ. Bây giờ ông muốn thấy nó.

Kiên nhẫn để thấy nó.

Hai mắt Holloway nghiến chặt, và Hunt nhận thấy sự rạn nứt đầu tiên trong cái vỏ bên ngoài. Gã đàn ông này không thích bị dồn ép, không thích bị thách đố, do đó Hunt nghiêng người gần hơn. Ông chứng tỏ cho Holloway thấy sự khinh mạn trong đôi mắt mình, và thấy gã cắn mồi. Ngay vào phút chót, ông luật sư cũng nhận ra chuyện gì sắp xảy ra. Ông ta mở miệng:

“Ông Holloway... ”

“Anh có biết tôi là ai không?” Holloway giơ ngón tay lên và đặt thẳng vào ngực của Hunt. Và chỉ cần bao nhiêu đó. Chỉ một chuyển động êm ái và tinh tế, Hunt nắm lấy cổ tay gã, xoay người gã lại, bẻ quặt cánh tay của hắn ra đằng sau tít lên bả vai. Holloway bước tới trước để giảm bớt áp lực, và Hunt vẫn giữ nhịp điệu. Ông lôi Holloway đến chiếc Escalade và nén mặt ông ta xuống nắp capô chiếc xe.

“Ông vừa hành hung một cảnh sát viên, ông Holloway. Ngay trước mặt nhân chứng.”

“Đó đâu phải là hành hung.”

“Hãy hỏi luật sư của ông.”

Holloway xoè phẳng một bàn tay trên chiếc xe và cố gắng đẩy mình đứng dậy. Hunt phải đè người lên gã, và nói một lần nữa như ông đã nói. “Và đó là chống đối người thi hành công vụ.” Cái còng được bung ra. Ông khóa cái còng vòng quanh cổ tay tròn đầy, phập thật chặt vòng thép, bóp mạnh nó cho đến tiếng click cuối cùng. Holloway vùng vằng kêu gào, và Hunt giật cánh tay còn lại bẻ quặt ra sau lưng. Ông dùng hết sức nặng ghì chặt người Holloway trên chiếc xe, và bóp chặt chiếc còng thép. “Đó là những cáo buộc nghiêm trọng, ông Holloway. Luật sư sẽ giải thích cho ông sau.”

Hunt lôi Holloway đứng thẳng. Sự ngạo mạn đã biến mất, nhưng sự giận dữ vẫn bừng bừng trên khuôn mặt gã. “Ông không được đụng đến tôi,” gã nói.

Hunt nắm sợi xích của chiếc còng, lôi gã Holloway vào chiếc xe của cảnh sát Taylor và mở cửa xe. Ông đặt một tay lên trên đầu Holloway. “Không có gì cá nhân ở đây cả,” ông nói, và nhét gã vào băng ghế đằng sau. Khi ông bắt gặp ánh mắt Taylor, không có nụ cười và sự hài hước trong giọng nói của ông. “Sĩ quan cảnh sát Taylor, cô làm ơn giải ông Holloway về đồn và tống giam ông ta!”

Taylor giữ khuôn mặt nghiêm trang, nhưng không giấu được cảm xúc. “Thưa vâng.” Hunt quan sát họ ra đi: chiếc xe tuần tiễu với khuôn mặt đỏ ửng của Holloway dính vào cửa kính, chiếc Cadillac to lớn với ông luật sư gà mái ngồi lái đằng sau vô-lăng bằng da. Họ leo lên ngọn đồi và biến mất khỏi tầm nhìn. Cơn tức giận nguôi ngoai, tia lửa của hài lòng nhen lên. Ông đứng một mình trong sân nhà, nghĩ đến bà Katherine, và sau đó trở vào nhà. Bên trong căn nhà, ông ép tai vào cánh cửa. Ông xoè những ngón tay trên gỗ đánh nhẵn và trong một giây phút tưởng tượng chính mình bước vào phòng. Bà ta vẫn nhỏ bé và xanh xao, vẫn nằm yên trên giường, nhưng bà sẽ mỉm cười, tay bà sẽ vươn lên.

Hunt liên tưởng giây phút đó trải dài ra như một dặm đường cát ấm, nhưng nó chỉ là vậy, trong một giây phút. Một ảo giác. Ông là viên cảnh sát thất bại trong việc mang đứa con gái của bà trở về nhà. Ông không thể nào thay đổi được sự thật cũng như bà ấy không thể quên con gái. Điều đó thật không công bằng.

Tay buông thõng xuống, ông bước vào phòng của Johnny. Cánh cửa mở và ngọn đèn nhỏ in dấu một vòng tròn vàng trên cái giường ngăn nắp cạnh bên. Căn phòng khác nhiều so với căn phòng của những cậu con trai. Quá trống trải. Hunt không thấy đồ chơi, trên tường không treo áp-phích phóng lớn. Một cuốn sách mở nằm úp trên giường. Nhiều cuốn dựng trên tủ áo, một hàng dài sách ép giữa hai cục gạch. Một tấm ảnh mẹ cậu, ba tấm ảnh của Alyssa. Hunt lật tấm ảnh gần nhất của cô bé lên. Cô bé cười mỉm, nụ cười bí hiểm. Tóc đen che phủ mắt phía bên trái, nhưng mắt phải hàm chứa một thứ ánh sáng; trông cô như thể cô biết một điều gì đặc biệt, như là cô đang chờ đợi ai đó đặt câu hỏi và nổ tung vì sự trông đợi. Nghị lực sống của cô bé làm Johnny dường như lạnh lẽo và cô đơn, và Hunt không biết có phải cậu ấy vẫn luôn như vậy. Hay cậu mới thay đổi gần đây?

Chỉ có vậy.

Hunt lắc đầu trước sự vô lý của thế giới. Chẳng có gì mơ hồ về việc chàng thiếu niên Johnny đã trưởng thành. Tang chứng ở tất cả mọi nơi: hành động và thái độ của cậu, trong căn phòng tường trống trơn và ngay cả những cuốn sách cậu giữ. Không cuốn sách nào dành cho lứa tuổi thiếu niên. Johnny có những sách về lịch sử và tôn giáo cổ đại, sách về những tập tục săn bắn của người Da đỏ. Một cuốn về truyền thuyết võ sĩ nặng khoảng một cân rưỡi. Hai cuốn về tôn giáo người Cherokee. Nhiều cuốn sách mượn của thư viện, đóng dấu với miếng giấy trắng bên gáy sách. Hunt cầm cuốn sách mở tung trên giường lên và thấy Johnny mượn cuốn sách mười bốn lần liên tục. Chưa bao giờ trả trễ hạn. Không một lần. Hunt mường tượng Johnny trên chiếc xe đạp, đi tám dặm đường mỗi chiều để xuất trình thẻ thư viện và ký tên vào nơi họ yêu cầu.

Ông xem xét tựa sách - Minh họa Lịch sử Quận Hạt Raven - sau đó nhìn vào trang đang mở dở dang. Phía bên phải là tấm ảnh đen trắng một người đứng tuổi trong bộ đồ vest thẳng nếp. Bộ râu trắng che trước cổ áo và cặp mắt của ông chứa nhiều nét cương nghị. Hàng ghi chú ở dưới: “John Pendleton Merrimon, Bác sĩ phẫu thuật và Theo chủ nghĩa bãi nô. Năm 1858.”

Hunt nhận ra người ấy là họ hàng của Johnny. Ông ta có cái nhìn giống bố của Johnny, và không giống cậu bé tí nào. Ông lật thêm vài trang, đặt cuốn sách trở lại trên giường, và không biết mẹ của Johnny đang đứng ở hành lang cho đến khi ông trở ra. Hai chân bà thò ra khỏi cái áo sơ mi không đủ che bọc thân thể bà, chân đi đất, một tay đè vào tường khi đôi vai của bà cắt một vòng ô-van nhỏ trong không khí. Đôi mắt của bà là vết thương không băng bó, giọng nói của bà bình lặng đến kinh ngạc. “Làm ơn làm giúp mẹ chuyện này, Johnny.” Một bàn tay xoay bắt ánh đèn vàng. “Nói với Alyssa mẹ muốn nói chuyện với em khi nó về.”

“Katherine...” Hunt ngừng lại, chưa rõ.

“Đừng cãi lời mẹ Johnny. Con bé lẽ ra phải về nhà giờ này.”

Bà quay đi, trượt một tay dọc theo bức tường và đóng cửa lại. Những chiếc lò xo nệm giường khua lạo xạo và sự yên lặng bao trùm căn nhà.

Trước khi Hunt đi khỏi, ông vặn đèn lên và kiểm soát các cánh cửa. Ở ngoài sân vườn, ông cố gắng tập trung. Vụ án Tiffany Shore và sự suy sụp của bố mẹ cô vẫn còn đó; gã khổng lồ với khuôn mặt sáp có thể hoặc chưa thể đi mất trong lúc này. Ông cần gặp anh con trai, lại còn gã Ken Holloway, và Johnny, ở đâu đó ngoài kia làm điều gì đó chỉ có Chúa mới biết. Hunt linh cảm được tất cả, một vòng xoáy, một sức nặng ngàn cân, nhưng ông gạt tất cả qua một bên và lấy cắp thêm một khoảnh khắc. Tất cả trước giờ chỉ có thế, và ông chiếm đoạt nó một cách ích kỷ. Ông đứng dưới màn đêm, bầu trời tối sầm, và ông nghĩ về Katherine Merrimon, về đôi mắt thâm tím và sự trống vắng của bà.

Không còn thứ gì khác quan trọng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14


Cách đó chưa đầy một dặm đường, ngọn lửa bùng cháy ép mạnh không khí trời đêm; lửa cong vòng vàng cam bắn tung toé tàn than lên trời cao. Cậu ngồi chồm hỗm bên cạnh đống lửa, chân không giầy, cởi trần. Những lằn màu vàng xâm thực mồ hôi trên ngực cậu, nhọ nồi vẽ trên mặt khi cậu quệt những ngón tay dính than đen từ gò má xuống quai hàm. Cái bóng của cậu là kẻ khổng lồ cúi rạp trên tường nhà kho phía đằng sau. Cậu với tay lấy chiếc túi màu xanh bốc mùi máu chim, mùi ẩm mốc và cây cỏ khô. Khóa dây đai bị ăn mòn, rin rít dưới ngón tay, và một sợi đai bắt đầu mục rã. Cậu mở cái túi và lôi ra một xấp giấy nhàu nát. Chữ chi chít hai mặt giấy, nhưng cậu không nhìn những chữ đó. Chuyện đó tính sau, cậu đặt những tờ giấy lên mặt đất và chèn chặt chúng bằng cục đá sỏi to bằng quả trứng cút.

Kế tiếp là sợi dây da sậm màu treo lủng lẳng những chiếc lục lạc và một cái đầu lâu rắn hổ mang. Những cái lục lạc cậu mua từ một cậu nhóc ở trường học. Cậu đã tự giết lấy con rắn và lấy đầu nó. Cậu lang thang bốn ngày trong rừng săn tìm con rắn, sau đó tìm thấy nó đang tắm nắng trong một cái hộp kẽm cũ kỹ chỉ vài chục mét sau nhà. Ông trời sắp đặt như vậy, cậu nghĩ. Con rắn này muốn bị phát giác. Cậu giết nó bằng một khúc gỗ giòn, và sau đó cắt đầu con rắn bằng con dao mà bố cậu tặng nhân ngày sinh nhật lần thứ mười. Một sợi dây da thứ hai buộc năm cái lông chim đại bàng. Nó to gấp đôi cái lông cậu treo ở sau yên xe đạp: ba cái lông cánh nâu vàng, hai cái lông hoàn hảo màu trắng, cuống lông dày cỡ ngón tay áp út. Nó vẫn còn vương mùi thân thể con chim, và ba cái lông còn dính máu khô trộn đều: máu đại bàng, máu của cậu.

Cậu nhắm mắt và tròng sợi dây da qua đầu. Những cái lông kêu sột soạt. Những cái lục lạc kêu lanh canh va chạm trên da thịt.

Sau đó cậu lấy ra cuốn thánh kinh.

Nó màu đen và đầy dấu vân tay. Tên của Johnny được thiếp vàng trên bìa sách, sáng lấp lánh. Nó là quà thuở ấu thơ, được trao tặng trong một cái hộp trắng bởi một mục sư Tin lành ‒ người đã nói Johnny rằng những lời kinh bên trong là quà từ Chúa.

Một món quà, cậu bé ạ.

Lặp lại điều đó.

Cũng ông mục sư này đã đến ngay sau khi Alyssa bị bắt cóc. Ông đã không nao núng ngập ngừng khi hứa với Johnny rằng, đúng, Chúa vẫn yêu thương tất cả con cái của ngài, và điều duy nhất cậu cần làm là cầu nguyện. Cầu nguyện chăm chỉ, ông ấy nói, và Chúa sẽ mang cô bé trở về nhà. Cho nên Johnny đã cầu nguyện với tất cả tâm huyết và bằng tất cả linh hồn. Cậu hứa sẽ hiến dâng thân xác đến Chúa nếu ngài mang cô em gái trở về.

Đã thề.

Tất cả mọi thứ.

Johnny nhớ một đêm dài cầu nguyện, và những móng tay của mẹ nóng bỏng trên cánh tay của mình. Cậu nhớ giọng bà ấy, và sức mạnh phi thường của bà mà cậu từng chứng kiến.

Cầu nguyện với mẹ, Johnny.

Tuyệt vọng, đói khát tâm linh.

Cầu nguyện cho em gái của con.

Lần kế tiếp ông mục sư đến, những ngón tay bóng loáng và khuôn mặt béo phì nhẵn thín, ông nói với Johnny rằng cậu chưa cầu nguyện đủ. “Con hãy làm tốt hơn,” ông nói. “Tin tưởng hơn.”

Johnny bước chân trên nền đất ẩm, nhích gần hơn đến đống lửa. Cậu xé tờ bìa cuốn Thánh kinh, ánh lửa phản chiếu ánh sáng vàng trên những mẫu tự đánh vần tên cậu. Cậu cảm thấy sự sợ hãi mê tín vỡ bùng, sau đó đặt tờ bìa trên lửa và nhìn nó cháy. Cậu nhìn cho đến khi nó chỉ còn là tro tàn, rồi với một tay, cậu giơ cao cái túi và đổ hết những thứ gì trong túi xuống đất. Những chiếc lá khô rơi xuống như mưa, những cành và nhánh bó lại thành đống. Tùng, thông, vân sam và nguyệt quế.

Hình ảnh một đứa trẻ khắc từ vỏ cây bu-lô.

Một sợi dây ruy băng đỏ của Alyssa.

Cậu buộc sợi dây ruy băng xung quanh cổ tay, sau đó nhìn từ cây cỏ khô cho đến cuốn Thánh kinh vẫn đang cầm trong tay. Cậu nhấc lên, sau đó đặt nó trên nền đất, và giở từng trang trong cái nóng của lửa như thể biết rằng nó cũng sẽ được đốt cháy.

Khung cảnh này mang đến cho Johnny một sự hài lòng khó lay chuyển.

Cậu cần Chúa lớn tuổi hơn.

***

Sự cần thiết này khởi đầu nhiều tháng trước, và nó bắt đầu bằng một lời cầu nguyện. Lúc ấy là mùa đông, lò sưởi bị hỏng, trong nhà không có hơi nóng, và cái lạnh đốt những lời nói thành khói khi cậu cầu nguyện mong em gái sớm về đoàn tụ. Cậu thức giấc lúc bốn giờ sáng, gió rít đằng sau cổ, và cầu nguyện cho mẹ. Cậu cầu nguyện mong cho mẹ chấm dứt cảnh thuốc thang, và cho bố sớm trở về với mẹ. Cậu cầu mong cho Ken Holloway sẽ có một cái chết từ từ, đau đớn. Cậu khắc ghi những điều đó, như một sự cứu rỗi tâm hồn và quyết tâm báo thù. Một giờ sau, khi mặt trời đang kéo dài ở đường chân trời xa thẳm, gã Ken đánh mẹ cậu bật máu vì lý do gì cậu không bao giờ hiểu. Johnny cố can ngăn ông ta dừng tay, và cậu trở thành nạn nhân tiếp theo. Đó là khởi điểm của mọi chuyện: sự cô độc và máu, lời cầu nguyện không được đáp trả, và một cuốn sách mạ vàng nói lên sự ngoan ngoãn và phục tùng.

Những thứ đó không mang đến cho Johnny sức mạnh.

Những thứ đó không cho Johnny quyền năng.

Cậu đặt củi tùng trên đống lửa, tiếp đó là gỗ thông, gỗ cây vân sam và nguyệt quế. Cậu đứng gần đống lửa và để khói phủ quyện vào mình. Hai mắt đầm đìa nước và phổi cháy khé, nhưng cậu hít khói vào trong và đẩy nó ra ngoài, thổi lên trời và xuống mặt đất, rồi sau thổi ra bốn hướng chân trời. Cậu nắm bàn tay nhằm hứng khói, đoạn thổi hiu hiu khói ngang mặt. Cậu lâm râm những từ học được trong cuốn sách, sau đó vò nát lá cây bách xù trong lòng bàn tay và thoa quét nước cốt lên ngực. Cậu nhét đuôi rắn vào trong túi, nhấc hình nộm đứa trẻ khắc trên vỏ cây bu-lô và ném nó vào trong đống lửa. Nó bắt hơi lửa bùng cháy nhợt nhạt, khói trắng, và cậu không nhìn đi đâu khác cho đến khi khói trắng bay hết lên trời. Sau đó cậu vứt toàn bộ cuốn Thánh kinh của cả thời tuổi trẻ vào trong đống lửa. Trong thoáng chốc, cậu nhận ra mình có thể lấy nó trở lại, giật cuốn sách từ những lưỡi lửa đói khát, chạy thoát về nhà, vẫn là đứa con của mẹ, vẫn yếu đuối; nhưng cậu để phút giây đó trôi vụt đi. Những trang giấy cong cuộn lại, một đóa hồng đen trải ra, và xong mọi chuyện.

Cậu sẵn sàng.

Chiếc xe vẫn đậu trong sân vườn tối om của ông bà già hàng xóm cách đó vài căn nhà. Johnny có thể thấy nó khi cậu băng ngang qua sân nhà hàng xóm. Mùi khói ám vào da thịt ẩm ướt và người cậu đen thui với nước dâu và bồ hóng. Cậu phóng qua hàng rào và rơi xuống sát bên một thửa đất đã được cày bừa và cây non đang nhú dần trên đó. Cậu nhắm vào hướng chiếc xe, định lao đến nhưng đứng chết lặng khi nhìn thấy ánh chớp trong cửa sổ sau của ngôi nhà. Một phụ nữ đã già đứng trong đó, bàn tay gầy guộc đầy mạch máu không nhúc nhích trên mặt bàn nhà tắm màu vàng. Bà ta dìm đầu xuống nước và nước mắt tuôn trào. Khi ông chồng bà xuất hiện phía đằng sau, ông chạm tay vào phía cổ bà và nói thì thào vào tai bà. Chỉ trong một thoáng ngắn, một cái gì đó nhẹ nhàng hơn di chuyển trên khuôn mặt bà ta, cái gì đó như một nụ cười. Bà ta dựa lưng vào lồng ngực mong manh của ông, và họ đứng lặng như vậy, yên bình. Johnny rờ lên ngực cậu, cảm thấy được mồ hôi, tro bụi và tiếng đập thình thịch của trái tim. Ngay lúc đó, cậu không biết người phụ nữ khóc về chuyện gì và chồng bà ấy nói điều gì mà mang ngay lại nụ cười cho bà. Cậu nghĩ về bố mình, và cái cách ông ấy luôn biết phải làm gì và nói gì. Nhìn cặp vợ chồng già, có cái gì đắng nghét như mắc nghẽn bên trong ruột gan cậu, nhưng cậu đã nghiền nát nó bằng ý chí. Chỉ một giây, hàm răng trắng toát loé lên, sau đó cậu lặn qua cửa sổ và biến mất. Họ không bao giờ thấy cậu.

Chẳng bao giờ có người nhìn thấy.

Chiếc xe có mùi cũ kỹ và ẩm mốc. Dựa lưng vào lớp da khô cứng của ghế ngồi, cậu nhét một tay vào túi quần. Những trang giấy bị đè bẹp và nhàu nát, tỏa ra thứ mùi gợi nhắc đến mùi gỗ thông và lửa cháy. Cậu vuốt thẳng nó trên đùi và bật đèn pin. Những cái tên được chính tay cậu viết, cả các địa chỉ cũng vậy. Những ghi chú ngày tháng được viết ngoài lề.

Sáu người đàn ông. Sáu địa chỉ. Danh tính những kẻ có tiền án về tình dục. Những gã đàn ông bất hảo. Johnny sợ những kẻ này, và Johnny nghĩ rằng rất có thể cùng một kẻ đã bắt cóc cả Tiffany Shore và Alyssa. Đây là những thành phần đáng sợ nhất mà Johnny có thể truy tìm được, và cậu săn lùng rất kỹ. Cậu biết những thói quen thường ngày và công ăn việc làm của họ, chương trình truyền hình họ thích xem và giờ giấc đi ngủ. Nếu kẻ nào hành động khác thường, Johnny sẽ biết.

Cậu xua đẩy sự sợ hãi ra ngoài và đặt ngón tay lên chìa khóa xe. Đôi mắt, trong gương chiếu hậu, hiện lên những tia đỏ và mí mắt đen ngòm. Sẽ không kẻ nào bắt được mình, cậu tự nhủ, mình là một chiến binh.

Động cơ mở máy, và cậu gài số xe.

Cậu là tù trưởng Da đỏ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15


Hunt gọi Yoakum trong lúc lái xe. Đã nửa đêm, đường phố vắng lặng và được lau chùi sạch sẽ sau cơn mưa.

Điện thoại reo hai tiếng. Tiếng thứ ba.

Sau vài giây phút yếu lòng, Hunt buộc phải dẹp bỏ những ý nghĩ về bà Katherine Merrimon. Ông đứng trong sân nhà bà chưa đầy một phút, nhưng lại cảm thấy tội lỗi. Tiffany vẫn đang mất tích, ông phải tập trung tất cả năng lực cho vụ án: những câu hỏi đặt ra, những giải pháp hành động phải làm. Họ còn điều gì thiếu sót? Có thể làm gì hơn nữa? Chuông điện thoại lại reo vang.

Nhanh lên, Yoakum.

Yoakum nói lời xin lỗi. “Mọi thứ ở đây thật điên khùng!” Ý của ông là đồn cảnh sát.

“Cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra.”

“Chúng tôi đang thi hành những gì ông đã yêu cầu.”

“Trình bày cho tôi nghe.”

“Dấu vân tay chúng tôi lấy được từ mí mắt David Wilson đã được đưa vào hệ thống. Chưa tìm được dấu vân tay trùng hợp, nhưng vẫn còn sớm. Chúng tôi có bốn xe tuần tra lùng sục ở những con đường làng hẻo lánh để tìm kiếm chiếc Land Cruiser của ông Wilson, mà nó, như ông đã đoán, được đăng ký bởi viện đại học. Chúng tôi đang tiến hành lập một danh sách bạn bè và họ hàng của ông Wilson, bất cứ ai có thể cho chúng tôi biết ông ta đã ở đâu và làm gì trong ngày hôm nay. Chúng tôi đã dò xét tỉ mỉ các đồng sự của ông ấy ở đại học, nhưng đều vô dụng. Một số ít những kẻ có tiền án mà chúng tôi chưa thể dò tìm tông tích, nhưng chúng tôi có những đơn vị đảm trách việc ấy. Hai kẻ chúng tôi đang tìm dường như không có mặt ở trong thị trấn. Nhà họ khoá trái cửa, đèn đuốc tối mù. Báo chí chất đống trước nhà. Tôi được báo cáo một tay đang bị nhốt ở Wilmington, và tôi sẽ nhận được xác minh chuyện này sớm. Thêm hai cảnh sát phụ sẽ tham gia tìm kiếm từng dãy nhà sáng ngày mai...”

“Từng dãy nhà một.”

“Như ông nói. Chúng ta sẽ áp dụng kế hoạch lùng soát y như với trường hợp của Alyssa Merrimon. Ngày trước logic thế nào, bây giờ logic như vậy. Cái chúng ta cần là nhân sự.” Yoakum ngừng lại. “Này Clyde. Ông biết tất cả những chuyện này. Ông đã đưa ra mệnh lệnh. Ông cũng nên về nhà và nằm nghỉ đi. Giờ này là khoảng hai giờ sáng rồi nhỉ? Ông kiểm tra cậu con trai của ông chưa?”

Im lặng.

“Chúa ơi, Hunt. Ông cũng chưa gọi điện cho nó sao?”

“Tôi đang trên đường đến chỗ ông,” Hunt nói.

“Tôi nói điều này như một người bạn của ông. Ông nên về nhà. Ngủ một ít đi.”

“Ông đùa đấy à?”

“Thực sự không. Tôi không đùa. Buổi sáng trông ông có vẻ tả tơi lắm rồi và tôi không tin giờ này ông khá hơn tí nào. Chuyện gì đang xảy ra ở đây, đây là công việc của lính tạp dịch. Chúng tôi không cần ông làm việc này, cho nên về nhà ngủ một chốc đi. Tôi cần ông tỉnh táo sáng ngày mai. Tiffany cần ông tỉnh táo.”

Hunt lắng nghe tiếng bánh xe chạm trên mặt đường. Ánh đèn pha ô tô quét qua những hàng cây đen sẫm. “Có lẽ bây giờ khoảng một giờ,” ông nói.

“Có thể hai giờ,” Yoakum đáp lời. “Mẹ kiếp! Chơi đẹp và làm luôn ba giờ. Tôi sẽ gọi điện nếu có tin tức gì mới.”

“Được. Công bằng.” Hunt định cúp máy thì Yoakum nói, “Này Clyde, ông là chuyên gia trong vấn đề này. Ý tôi là công việc. Nhưng ông cũng cần giữ mọi thứ nguyên vẹn.”

“Ông muốn nói chuyện gì vậy?”

Yoakum thở hắt ra, và âm thanh nói lên tất cả. “Ráng mà giữ nó thật chặt, ông bạn.”

Yoakum cúp máy và Hunt đổi hướng cho xe chạy về nhà. Ông biết ông sẽ không bao giờ ngủ, nhưng ông cũng biết Yoakum nói đúng. Ông cũng phải thử. Và cậu con trai của ông...

Mẹ kiếp!

Nó lại là một vấn đề hoàn toàn khác.

Ông đậu xe ở đường dẫn vào nhà và tắt máy. Hàng xóm yên lặng, ông nghe tiếng nhạc khi mở cửa vào nhà. Một sự câm lặng dồn dập. Tiếng réo rắt kinh động của dây đàn. Ông vào nhà và đi lên tầng, áp vai vào giấy dán tường nhợt nhạt và trơn láng. Ở cửa phòng cậu con trai, ông gõ cửa, nghi ngờ tiếng gõ sẽ át được tiếng nhạc. Cuối cùng, ông mở cửa phòng.

Ấn tượng đầu tiên là nước da xanh xao, một chút lấp lánh của mái tóc vàng trắng và đôi mắt nhìn giống ông phần nào. Hai tuần nữa anh con trai sẽ tròn mười tám tuổi. Cậu to lớn, cơ bắp. Cậu là học sinh giỏi suốt cuộc đời học sinh. Một đứa trẻ ngoan. Nhưng những chuyện đó thay đổi chỉ trong năm vừa qua. Cậu trở nên bất kính và cố chấp. Cậu ngồi ngay cạnh giường, chân đi tất thể thao, quần ngắn màu vàng, và chiếc áo có dòng chữ KẸO NGON TUYỆT NHƯNG TÌNH DỤC KHÔNG LÀM BẠN BỊ SÂU RĂNG. Cậu cầm cuốn tạp chí về ô tô và chân đập nhịp khi tiếng nhạc gào thét.

Ông vào phòng và tắt máy nhạc. Cậu con trai nhìn lên, và trong giây phút ấy Hunt thấy một điều mà rất dễ dàng xác định đó là nỗi căm ghét.

“Bố có thể gõ cửa được không?”

“Bố đã.”

Cậu lật trang báo, hai mắt nhìn trở lại tờ báo. “Bố muốn gì?”

“Con có biết chuyện gì xảy ra hôm nay không?”

“Có. Con đã nghe. Nhưng không phải từ bố, cảm ơn. Con nghe như tất cả mọi người nghe”.

Hunt bước sâu vào trong phòng. “Con có mặt ngoài đó không? Ở dòng sông?” Con trai ông im lặng. Một trang nữa được lật. “Có phải con lại trốn học nữa? Chúng ta đã nói về chuyện này rồi mà.”

“Bố để con yên đi.”

Hunt như đang nhìn một gã không quen.

“Con đã nói, để con yên.”

Hunt ngần ngại, và anh con trai đứng dậy. Những bắp thịt vặn vẹo và lăn tròn dưới da của cậu ta. Trong một chốc, Hunt cảm thấy muốn nổi cáu. Có một sự thách thức sống sượng qua dáng điệu của gã con trai. Nhưng ấn tượng đó chỉ tồn tại trong khoảnh khắc vài giây đồng hồ. Hunt chớp mắt và thấy anh con trai của ông có cái kiểu mà anh chàng này chưa hề có trong thời gian gần đây. Một chàng trai trẻ rụt rè, rất tò mò và ngây thơ nhiệt tình. Một chàng trai trẻ thức dậy lúc sáu giờ sáng và tự sửa soạn bữa điểm tâm cho riêng mình, làm con diều bằng gỗ thùng và giấy thùng. Hunt buông thõng người. “Bố xuống nhà dưới. Chúng ta cần phải nói chuyện, hãy dành ra vài phút và suy nghĩ những gì con muốn nói với bố.”

Gã con trai làm ngơ ông bố. Cậu ta bước ngang phòng mở nhạc và tiếng nhạc theo Hunt xuống tận dưới nhà bếp.

Hunt ngồi ở ghế ngay bàn nhà bếp và gọi điện cho Yoakum. “Có gì thay đổi không?”

“Mình mới nói chuyện với nhau mà?”

“Phải. Và tôi muốn biết có gì thay đổi từ lúc ấy đến giờ không.”

“Không có gì. Con trai ông sao rồi?”

Hunt thò tay với chai Scotch. “Tôi nghĩ nó muốn giết tôi.”

“Cậu ta có cần chứng cớ vắng mặt không? Nói hắn gọi cho tôi.”

Hunt nhúng hai ngón tay vào trong ly rượu, ngồi xuống. “Cái nó cần là mẹ của nó. Tôi không còn có thể hiểu và nói chuyện được với nó nữa.” Hunt nhấp một ngụm. “Lẽ ra nó nên đi cùng với mẹ nó.”

“Anh nhóc đó thực sự không có sự chọn lựa, Clyde. Bà ấy đã ra đi và tôi không nhớ bà ta đưa cho cậu ấy thiệp mời đi cùng.”

“Lẽ ra tôi có thể tạo áp lực về việc đó,” Hunt nói.

“Nó sẽ không như vậy nữa.”

“Nó đã bắt đầu nghe toàn thứ nhạc điên loạn và sẵn sàng tay đôi với ông già của nó.”

“Nhạc điên loạn. Wow. Ai lại gọi chương trình tin tức buổi tối như thế?”

“Ha ha.” Không phải chuyện cười.

“Ông hãy ở nhà,” Yoakum nói. “Chăm sóc cậu nhóc nhà ông.”

“Đồng hồ đang điểm từng giây, John. Tôi sẽ có mặt ở đó đúng mười giờ.”

“Đừng làm chuyện này nữa.”

“Làm gì?” Hunt nghe thấy sự giận dữ trong lời nói của ông. Yoakum cũng nhận thấy.

“Ông mất mát bấy nhiêu chưa đủ sao, Clyde? Thật đấy.”

“Ý ông là sao?”

“Lạy Chúa tôi. Hãy đặt quyền lợi con ông lên trước dùm đi.”

Hunt muốn đáp lời. Ông muốn nói điều gì đó hung tợn và gay gắt, nhưng Yoakum đã cúp điện thoại. Hunt gác ống nghe vào máy, nhâm nhi thêm ngụm Scotch, sau đó đổ hết vào bồn rửa. Yoakum chỉ cố gắng làm điều nên làm. Hunt hiểu chuyện, do đó ông trầm ngâm suy nghĩ kỹ về vấn đề thực sự. Ông đắm chìm trong công việc, nhưng đó không phải tất cả vấn đề. Trong cái tĩnh lặng và tối mù của nhà bếp, Hunt thú nhận, một lần, rằng ông không ưa thích anh con trai mình lắm. Ông yêu cậu ta, dĩ nhiên, nhưng không ưa nó. Không ưa thái độ, niềm tin và những chọn lựa của nó.

Anh con trai này đã thay đổi.

Hunt xúc ly rượu, và khi ông trở lại, Allen đang đứng ở cánh cửa. Cả hai chằm chằm nhìn nhau, và cậu con trai là người nhìn đi chỗ khác trước. “Thì con trốn học. Rồi sao?”

“Trước tiên, điều đó bất hợp pháp.”

“Bố có thể làm ơn tắt máy đi được không?” Hắn chùi một tay dọc theo cái gá đỡ tay của ghế ngồi. “Tại sao lúc nào bố cũng phải đóng vai ông cò? Tại sao bố không thể làm một ông bố bình thường?”

“Bộ ông bố bình thường không quan tâm gì chuyện con trai trốn học sao?”

Allen quay đầu. “Bố hiểu ý con mà.”

“Một người đàn ông bị giết ở trên cầu. Con biết điều đó. Bị giết ngay cái chỗ con có mặt.”

“Vài giờ sau khi con có mặt ở đó.”

“Chuyện gì sẽ xảy ra với con? Bố phải ăn nói với mẹ con như thế nào nếu có bất cứ điều gì không may xảy đến với con?”

“Thì, có chuyện gì xảy ra đâu, cho nên bố không bị liên luỵ.”

“Con có thấy Johnny Merrimon ngoài đó không? Cả Jack Cross nữa?”

“Bố biết con gặp, bằng không bố cũng chẳng hỏi. Đó là chuyện cớm làm mà, đúng không? Đó là cách mà họ thẩm cung nghi can.”

“Ngoài chuyện xảy ra hôm nay, con có bao giờ gặp Johnny Merrimon không?”

“Nó học trường cấp II. Còn con học lớp mười hai.”

“Bố biết,” Hunt nói. “Nhưng con có bao giờ gặp nó đâu đó không? Có bao giờ con nói chuyện với nó?”

“Chẳng ai nói chuyện với nó cả. Nó là thằng lập dị.”

Hunt đứng thẳng, hòn than tức giận bừng bừng trong đôi mắt của ông.

“Lập dị thế nào?”

“Nó chẳng bao giờ nói chuyện, bố biết mà; và nó có đôi mắt chết người.” Allen xoay tròn hai vai. “Đầu óc nó lung tung. Ý con là, sinh đôi, bố biết không. Làm sao một người có thể quên đi được những chuyện như vậy?”

“Còn Tiffany Shore thì sao?” Hunt hỏi. “Con có biết nó không?”

Anh con trai xoay đầu trở lại, hai con mắt hắn ta không tha thứ. “Chuyện này không bao giờ dừng lại với bố, đúng không?”

“Sao?”

“Cái công việc thổ tả đó.” Giọng hắn rít lên. “Cái công việc thổ tả, chết tiệt ấy!”

“Con trai...”

“Con rất mệt mỏi khi phải nghe mãi về chuyện Alyssa và Johnny và những gì liên quan đến cái bi kịch hãi hùng đó. Con mệt mỏi thấy bố với chồng hồ sơ đó, nhìn hình ảnh cô gái, lật đi lật lại hết đêm này qua đêm khác.” Hắn trỏ ngón tay về hướng bàn làm việc của Hunt, nơi bản sao hồ sơ Merrimon ngự trị vĩnh viễn trong ngăn kéo trên cùng ở bàn làm việc có khóa. “Con mệt mỏi với cái kiểu hai con mắt bố mây mù giăng phủ và bố không bao giờ nghe con nói. Con mệt mỏi nghe bố ngồi ở đây lúc ba giờ sáng, bước nhịp và lẩm bẩm càu nhàu. Mệt mỏi với tội lỗi của bố, cơm hàng cháo chợ và con phải tự giặt quần áo. Mẹ bỏ đi xa vì sự ám ảnh của bố.”

“Nào, chờ một chút.”

“Nó là chữ đúng mà, đúng không?”

“Mẹ con hiểu sự đòi hỏi công việc của bố.”

“Con không nói về công việc. Cái mà con nói là những thứ mà bố mang về nhà hàng đêm. Con đang nói về sự mê hoặc ám ảnh của bố với mẹ của thằng Johnny.”

Hunt cảm thấy tim ông đập dồn dập.

“Đó là lý do tại sao mẹ bỏ đi.”

“Con sai rồi,” Hunt nói.

“Mẹ bỏ đi vì bố chết mê chết mệt mẹ của thằng nhóc đó!”

Hunt bước tới trước và nhận ra rằng bàn tay phải của ông đang nắm thành đấm. Anh con trai cũng thấy điều đó, và đưa tay lên thủ thế. Hai vai cậu ta vồng lên, và Hunt cảm nhận anh nhóc này đủ lớn có thể ăn thua đủ với ông.

“Bố đánh con đó hả?” Allen quẹt nắm đấm ngang qua một bên mồm. “Bắt đầu đi! Đánh đi! Con thách bố!”

Hunt lùi bước, buông thõng tay. “Không ai đánh ai cả.”

“Gia đình đó là tất cả những gì bố quan tâm đến. Alyssa. Johnny. Người đàn bà ấy. Và bây giờ là cô bé Tiffany Shore, và mọi chuyện một lần nữa sẽ lại bắt đầu từ đầu.”

“Những đứa trẻ ấy...”

“Con biết tất cả những đứa trẻ ấy! Và nó sẽ không bao giờ ngừng.”

“Đó là việc của bố,” Hunt nói.

“Và con là con của bố.”

Giọng nói của y dịu xuống. Cả hai nhìn nhau chằm chằm, bố và con; sau đó điện thoại Hunt reo vang trong yên lặng. Máy hiển thị cú gọi cho biết đó là Yoakum. Hunt giơ một ngón tay lên. “Bố phải nhận cú gọi này.” Ông mở điện thoại. “Chắc chắn phải là tin vui.”

Yoakum nói ngắn gọn. “Chúng tôi đã lấy được vân tay trên mí mắt của David Wilson.”

“Xác nhận được danh tánh chưa?”

“Được, và tiến triển tốt hơn vậy nữa?”

“Tốt cỡ nào?”

“Ông không thể nào tin được đâu.”

Hunt nhìn đồng hồ đeo tay, rồi quay qua anh con trai. Y trừng cặp mắt và thách đố từng lời nói khi chúng thoát ra khỏi cửa miệng ông. “Tôi sẽ có mặt ở đó trong mười phút.” Ông tắt điện thoại, đưa tay lên. “Allen...”

Nhưng anh con trai đã quay lưng. Y dậm từng bước chân trên cầu thang và đóng sầm cửa phòng. Hunt chăm chăm nhìn lên trần nhà, lẩm bẩm chửi thề, sau đó rời khỏi nhà khi nút âm lượng được vặn lớn lên và cậu con trai đang chơi bản nhạc cuồng loạn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16


Đồn cảnh sát nằm trong một đường nhỏ ở trên phố. Cao ốc hai tầng, gạch đỏ, tiện dụng. Hunt lao vào trong đồn và tìm thấy Yoakum trên tầng hai, đang cúi xuống trên một tấm bản đồ thành phố. “Nói tôi biết,” Hunt nói.

“Vân tay rất rõ ràng. Levi Freemantle. Bốn mươi ba tuổi. Da đen. Cao gần hai mét. Nặng hơn một tạ.”

“Tổ cha. Tôi cứ tưởng anh nhóc đó phóng đại.”

“Không đâu. Gã này to lớn thật.”

“Cái tên đó dường như quen thuộc lắm?”

“Freemantle à?” Yoakum dựa người vào ghế. “Chưa bao giờ tôi nghe cái tên đó.”

“Chúng ta có hình ảnh gì không?”

“Từ nha lộ vận thì không. Hắn không có bằng lái xe. Không có thẻ tín dụng hoặc trương mục ngân hàng. Tôi không tìm được gì.”

“David Wilson bị ép tung xuống cầu bởi một chiếc xe ô tô.”

“Có thể hắn ta có bằng lái xe từ một tiểu bang khác. Có thể hắn ta cóc cần.”

“Chúng ta còn biết gì khác nữa?” Hunt hỏi.

Yoakum lục lọi soạn đống giấy tờ. “Hắn ta xuất hiện trên màn ảnh radar cách đây vài năm. Trước đó không có gì. Chưa từng bị bắt. Không hồ sơ nhà băng hoặc điện nước hoặc dịch vụ điện thoại. Gã này là ma. Rất có thể gã mới dạt tới đây từ vùng khác. Từ ngày đó, trong hồ sơ cho thấy gã nhiều lần bị bắt, vài lần bị kết án. Gã từng ở tù, nhưng không gì hệ trọng. Một tháng ở đây. Hai tháng ở kia. Nhưng nghe này, gã vừa bỏ trốn khỏi nhóm lao động công ích hồi tuần rồi.”

“Gã ta là tù trốn trại sao? Tại sao tôi chưa hề hay biết về chuyện này?”

“Nó được đăng trên nhật báo hồi tuần rồi, nhưng tít tận ở trang số chín. Gã ta thuộc diện ưu tiên thấp, thành phần tội phạm không hung tợn. Không bị liệt vào hạng nguy hiểm. Hơn nữa, nó là vấn đề của quận hạt.”

“Loại lao động công ích gì vậy?”

“An ninh tối thiểu. Làm việc kiều lộ trên con đường hai làn xe chạy ở vùng đồng quê. Nhặt rác. Tỉa cỏ dại. Gã ta bỏ trốn vào trong rừng.”

“Khó tin nhỉ.”

Yoakum cười, hàm răng của ông rất mịn và trắng như được sơn. “Ông có sẵn sàng nghe tin tức chấn động chưa?”

“Chuyện gì?”

“Gã từng ngồi tù, đúng không? Đúng. Vào tù ra khám. Nghe rõ này. Gã được tha tù về một tội khác từ địa phận khác chỉ ba ngày trước khi Alyssa Merrimon bị bắt cóc.”

Hunt linh cảm thấy một cây đinh kích động. “Đừng có giỡn với tôi, Yoakum.”

“Chúng tôi có địa chỉ. Ở địa phương này.”

“Còn trát xét nhà thì sao?”

“Tôi đã cử Cross đến đánh thức thẩm phán dậy.”

“Ông thẩm phán đã ký tờ trát xét nhà chưa?”

“Ông ta sẽ làm.”

“Ông có chắc không?”

“Cô bé người da trắng. Bố mẹ cô ấy giàu có.” Yoakum nhún vai. “Chỉ là vấn đề thời gian.”

Hunt nhìn xung quanh phòng, định loại từng khuôn mặt. “Không được, Yoakum. Ông không thể nói những chuyện như vậy được. Mình đã bàn về chuyện này.”

Yoakum vươn hai vai, và giọng ông ta hằn học một cách ngạc nhiên. “Cái thế giới này nó là như vậy đó, bất công, bi thảm và đầy những tiếng gào thét xấu hổ. Đừng có ghét bỏ gì tôi về những chuyện đó.”

“Một ngày nào đó cái mồm của ông sẽ gây khó khăn cho ông đấy. Cho nên cố mà giữ cho những thứ rác rưởi đó khóa chặt.”

Yoakum thổi vỡ bong bóng kẹo cao su trong mồm và nhìn đi chỗ khác. Hunt bắt đầu duyệt những thông tin họ thu thập được. Levi Freemantle cư ngụ ở đường Huron với Ronda Jeffries, một phụ nữ da trắng, ba mươi hai tuổi. Hunt gõ tên bà ta vào máy. Bị bắt hai lần vì có hành vi bán dâm. Không bị kết án. Một lần bị bắt vì tàng trữ thuốc phiện loại A. Bị thụ án tù bảy tháng cho án mười tám tháng. Hạnh kiểm tốt. Một lần kết án tù vì tội công xúc tu sỉ. Hành hung. “Ronda Jeffries,” Hunt nói, “bà ấy có quan hệ gì với gã Freemantle?”

“Chúng ta chỉ biết họ cư ngụ cùng địa chỉ. Có thể người ở chung nhà. Có thể hơn thế nữa.”

Hunt nghiên cứu tờ giấy ghi những lần bị bắt của Levi Freemantle. Nó dường như chưa hoàn tất. “Đó là những bắt bớ tào lao. Xâm phạm gia cư. Lảng vảng. Ăn cắp siêu thị, lạy Chúa tôi. Không có bạo hành. Không có tình dục.”

“Nó có sao thì là vậy.”

Tờ giấy nhìn giống như hàng trăm tờ giấy khác, một cách mơ hồ, Hunt cảm tưởng như ông biết gã ta, như ông biết hàng ngàn kẻ như thế; nhưng cao gần hai mét và nặng hơn một tạ không phải là thứ dễ quên. Ông kiểm tra lại ngày tháng và xác minh Levi Freemantle được phóng thích khỏi nhà tù ba ngày trước khi Alyssa Merrimon bị bắt cóc. Gã bỏ trốn khỏi đội lao động đường phố một tuần trước khi Tiffany Shore mất tích. Nếu nó là sự trùng hợp, phải là trường hợp rất hy hữu. Sau đó thì David Wilson bị giết - người cho rằng đã tìm được cô bé bị bắt cóc. Vân tay của Freemantle có ở trên tử thi. Những gì Johnny nói đều trùng hợp. Yếu tố thời gian. Thế cong của con sông. Hunt đặt tờ giấy xuống. “Gọi Cross. Hỏi xem mọi chuyện thế nào.”

“Ông ta biết rõ những gì phải làm.”

“Gọi điện cho ông ta, John.”

Yoakum bấm máy gọi Cross và hỏi bao lâu nữa mới lấy được trát xét nhà. Khi gác máy, giọng ông ta xìu xuống. “Ông ta nói không biết. Ông thẩm phán sẽ không chịu để bị hối thúc.”

“Tổ cha.” Hunt đứng phắt dậy. “Hãy đi đến đó trước đã.”

Yoakum chụp vội cái áo khoác và choàng vội vào người khi ông tất tả chạy theo sau Hunt. “Tụi mình sẽ không xông vào nhà khi chưa có trát xét nhà chứ hả?”

“Làm chuyện đó chỉ chứng tỏ sự ngu xuẩn.”

“Đó không phải câu trả lời.”

Hunt bỏ mặc làm ngơ, bước chân dậm to vang trên bậc thang cứng, thô nhám đi xuống dưới. Yoakum nói lớn hơn. “Tổ cha, Clyde, cái đó không phải câu trả lời.”

Ñường Huron là con đường quặt trái từ con đường chính, và chấm dứt ở phía bên đường ray xe hỏa ngược từ quảng trường thành phố. Vùng đất này của thị trấn nằm gần cạnh đầu của những đồi cát; bạn có thể biết như vậy qua nhiệt độ và cây cỏ. Cát giữ nhiệt độ, làm cho không khí nóng hơn. Cây cối phát triển chậm trên vùng thổ nhưỡng yếu. Con đường chật hẹp và ngắn, với nhiều sân nhà đầy cỏ dại và cát bụi và những con chó cột vào xích sắt to tướng. Hunt biết rất rõ cần phải cẩn thận. Hai năm trước đây, ông giải quyết hiện trường một vụ án mạng ba dãy phố từ đường cái: một phụ nữ bị đâm thiệt mạng ở trong bồn tắm nhà bà. Chuyện vỡ lẽ ra con trai bà ta là thủ phạm vì bà từ chối không cho hắn vay tiền. Bà ta bị thiệt mạng vì năm mươi đồng.

Những con người đáng gờm.

Một con đường đáng sợ.

Hunt dạt xe về bên trái và chạy chậm từ căn nhà thứ hai. Ông tắt đèn pha, lướt nhẹ qua những mảnh chai vỡ, và dừng lại. Con đường kéo dài ra, con sông đen ngòm, hàng rào chắn bạc chấm dứt sự nghèo khổ và dẫn đến nhiều nơi đời sống khá hơn. Một khe sáng hẹp màu xanh thoát ra từ rèm cửa căn nhà phía bên trái. Tiếng dế rỉ rích gáy trong đám cỏ dại.

“Đây là ý kiến dại dột,” Yoakum nói.

Hunt hất hàm. “Dãy nhà cuối cùng. Phía bên phải.”

Yoakum quay ra nhìn. Hai môi bặm chặt khi ông dõi mắt nhìn xuống đoạn đường tối om.

“Lạy Chúa.”

Hunt cũng nghiên cứu con đường. Ông thấy những sân nhà với những con đường đất mòn chạy từ hàng hiên ra đến đường lộ, một miếng nệm vứt ở lề đường, mấy chiếc ghế sô pha xếp ở hàng hiên. Những chiếc xe ô tô hư hỏng được kê cao trên những tảng đá cục. Ngay cả bầu trời trên cao dường như cũng nặng nề hơn.

Ở hai nhà phía dưới, con chó ngao chạy hùng hục từ bên hông nhà này sang bên hông nhà kia và trực diện khiêu chiến ở khúc cuối sợi xích.

“Sao mà tôi chán ghét cái trò này thế!” Yoakum nói.

“Hãy đi sâu xuống dưới một tí.”

“Tại sao?”

“Tôi muốn thấy liệu có xe đậu ở nhà gã Freemantle không. Hay là có đèn thắp sáng.”

Hunt vẫn giữ đèn pha tắt tối om và gài số chiếc xe. Họ lăn bánh thêm khoảng sáu mét và con chó ngao không còn hùng hục rượt đuổi. Yoakum tựa lưng vào thành ghế ngồi. “Chơi dại,” ông nói, và con chó phóng người hết sợi dây xích cột cổ, sủa vang trời, khạc nọc độc với sự giận dữ tưởng chừng như nó đang ở trong xe. Hàng chục sợi dây xích khua vang cả dãy phố khi những con chó khác cùng sủa um lên. Đèn vụt bật sáng ở hai căn nhà.

“Chơi dại,” Hunt đồng ý, và cài số de. Ông de quặt vòng quanh góc đường và chuyển qua số tới.

Sau một phút yên lặng, Yoakum nói: “Nó có thể là vấn đề.”

“Đám chó à?”

“Chúng nghe thấy chúng ta tiến đến từ cách đây bốn

dãy phố.”

Hunt nhìn đồng hồ. “Có thể không.”

“Sao lại không?”

“Tin tôi đi.”

Yoakum nhìn ra ngoài cửa kính. Hunt lấy điện thoại bấm số gọi Cross, và ông ta trả lời ngay tiếng chuông đầu tiên. “Tôi cần cái trát xét nhà đó,” Hunt nói. “Tôi cần nó trong hai mươi phút nữa.”

“Tại cái ông thẩm phán này.” Sự bực bội của Cross hiện rõ. “Ông ta đọc kỹ lại tờ bản khai xin trát tới lần thứ ba.”

“Cái gì? Bản khai đó rõ ràng như pha lê. Trong đó là lý do chính đáng viết đi viết lại đầy đủ. Tạo áp lực lên ông ấy đi.”

“Tôi đã cố gắng rồi.”

“Ông thẩm phán nào đó?” Hunt hỏi, và Cross nói cho ông ấy rõ. “Đưa điện thoại cho ông ấy.”

“Ông ta sẽ không nói chuyện.”

“Ông làm đi.”

Hunt chờ. Yoakum nhìn ngang. “Ông đang gây áp lực lên ông thẩm phán đó à?”

“Tôi sẽ đe dọa gã ta.”

Thẩm phán lên tiếng trên đường dây. “Chuyện này không thích đáng, thám tử.”

“Bản khai xin ban hành trát toà có những vấn đề gì không?” Hunt hỏi.

“Tôi đã có tờ khai của ông, và tôi sẽ đưa ra phán quyết một khi tôi có đủ cơ hội... ”

Hunt ngắt lời thẩm phán. “Đứa trẻ mười hai tuổi bị thảm sát trong khi thẩm phán đùa cợt về việc ban hành trát xét nhà. Đó sẽ là tít lớn trên tờ nhật báo nếu chúng ta quá trễ. Tôi có những chỗ quen biết với toà soạn, những người còn mang nợ ân oán. Chắc chắn tôi sẽ nhớ điều đó.”

“Ông sẽ không dám làm chuyện đó.”

“Có ngon thì cứ thử.”

Ba mươi phút sau, cảnh sát tập trung ở một bãi đậu xe trống sau lưng một nhà băng địa phương. Họ có trát toà xét nhà. Lúc đó là 3:10 sáng, trời tối sầm và yên lặng. Trên đầu, ngọn đèn đường chớp tách và cháy rực lên, sau đó cháy ngúm với tiếng cắc nghe rõ. Năm ông cớm, sáu nếu tính luôn cả Hunt. Ông trùm chiếc áo vest qua đầu, vuốt dây dính Velcro vào đúng vị trí và kiểm tra vũ khí lần thứ hai. Yoakum gặp ông ở phía đằng sau chiếc xe tải xanh sậm màu với huy hiệu nhỏ màu vàng trên cửa sau. “Ông sẵn sàng chưa?”

Yoakum vẻ mặt lo lắng. “Chúng ta nên chờ.”

“Không.”

“Xông vào trong bóng tối là mạo hiểm một cách không cần thiết. Nhà lạ, đường phố bất ổn. Gã sẽ nghe tiếng chó sủa khi chúng ta còn cách xa bốn dãy phố.”

“Chúng ta phải di chuyển ngay bây giờ.”

Yoakum lắc đầu. “Ông sẽ khiến cho ông em bị thiệt hại.”

“Bất cứ ai có mặt ở đây đều hiểu họ ký giấy tình nguyện cho cái gì. Đây không phải là trò chơi Hướng Đạo.”

“Và đây không phải một ông thẩm phán cù lần nào chọc ghẹo gì ông. Đây là đường phố. Đây là việc ông đặt cớm giỏi vào tình thế nguy hiểm, trong khi chờ thêm một vài tiếng đồng hồ có thể là một thế giới khác biệt. Cảnh sát trưởng đang tìm kiếm một lý do nào đó để gây khó dễ cho ông, và làm cho ai đó bị thương tật là món quà tốt nhất ông có thể trao cho ông ấy.”

“Hãy thông minh, Clyde. Chỉ một lần thôi. Phải thực tế, suy nghĩ kỹ lưỡng.”

Hunt chộp lấy cánh tay bạn mình. Ông bóp thật chặt và khiến Yoakum đau thấu xương. “Nếu đây là con gái của ông thì sao? Em gái ông? Đó là viễn cảnh, và ông cần phải nghĩ đến chuyện đó.”

Hunt buông cánh tay và cố gắng quay đi hướng khác, nhưng Yoakum cũng chưa xong.

“Ông đang làm việc bằng cảm tính.”

Hunt nhìn kỹ ông bạn mình, hai mắt đen ngòm trong trời đêm, mặt nhợt nhạt và hàm răng nghiến chặt. “Đừng chống lại tôi trong vấn đề này, John. Tôi sẽ tìm được cô bé và thấy cô ấy còn sống.”

“Ông sẽ phải chịu trách nhiệm nếu ai đó bị thương tích gì.”

“Và ông phải chịu nếu cô bé thiệt mạng trong khi chúng ta đang nhởn nhơ tào lao ở cái bãi đậu xe này. Bây giờ, ông xong chưa?”

Bộ dạng Yoakum dịu lại. Ông bẻ những đốt ngón tay và gật đầu. “Tôi mệt mỏi hết muốn nói chuyện rồi."

Hunt búng tay và những cảnh sát khác đứng tụ lại thành một vòng tròn: Yoakum, Cross, và ba người mặc đồng phục trang bị đầy đủ áo giáp. “Đây là nhân vật chúng ta muốn.” Ông đưa lên bản sao của tấm hình Levi lúc bị bắt lấy ra từ hồ sơ cũ. “Gã ta có vết thẹo kinh hãi phía bên phải mặt. Cậu bé nhận diện gã nói là nó nhìn như chảy xệ xuống, như sáp. Gã ta cao gần hai mét và nặng hơn một tạ. Tôi không nghĩ mình sẽ tìm thấy nhiều người với thông số trên, cho nên mọi chuyện cũng sẽ dễ dàng.”

Một vài giọng cười lo lắng. Hunt để họ tự nhiên. “Căn nhà nằm ở dãy phố cuối cùng trước đường ray, cuối cùng phía bên phải. Nó cách đường lộ với mảnh đất trống đằng sau, một bên là đường ray, phía bên kia là một căn nhà khác. Tôi muốn cả ba phía được trông chừng trước khi chúng ta xông vào bên trong. Những ngọn đèn đường phần lớn bị đập phá, cho nên trời rất tối. Sân vườn toàn là cỏ chết và đất phẳng, ngoại trừ những nơi có rễ cây và rác rưởi. Cho nên cẩn thận khi bước. Khi chiếc xe tải dừng lại, Yoakum ra quân trước. Ông ta sẽ mang theo hai người.” Hunt chỉ hai cảnh sát mặc đồng phục. “Các anh sẽ trông chừng đằng sau và bên hông nhà trong trường hợp gã ta tháo chạy. Tôi sẽ chỉ huy tất cả còn lại và xông vào từ phía cửa trước. Cross sẽ thủ cây búa tạ, nhưng tôi sẽ là người đầu tiên xông vào. Gã này rất to lớn, do vậy không nên gây náo loạn hàng ngũ. Vây bắt hắn và bắt thật nhanh chóng. Cô bé có thể đang bị nhốt ở đâu đó, cho nên phải kiềm chế khai hỏa. Chúng ta cần bắt sống hắn và chúng ta cần hắn nói chuyện.”

"Những con chó thì sao?" Yoakum ngắt lời.

Hunt nhìn đồng hồ đeo tay. “Thây kệ chúng.” Ông mở cửa sau xe tải; một viên cảnh sát mặc đồng phục cầm tay lái. Bên trong xe tỏa ra mùi dầu súng và mồ hôi. Những gã đàn ông ngồi vai sát vai. “Tôi ghét cái trò này,” Yoakum nói, và hai cảnh sát mặc đồng phục cười.

Yoakum luôn nói như vậy.

Động cơ nổ máy và chiếc xe quay tròn trong một bán kính hẹp trước khi đổ ra đường không một bóng người. Qua cửa sổ đằng sau xe, mặt đường cái bóng bẩy và đen tuyền, nhìn như gương nham thạch. Hunt nói với tài xế. “Ngừng xe một dãy phố trước khúc cua. Có một cửa hiệu tạp hóa. Nó đóng cửa.”

Chín mươi giây sau, chiếc xe tải lăn bánh vào bãi đậu xe không một bóng người và lồng lộn dừng bánh cách cái thùng rác rỉ sét khoảng hơn ba mét. Hunt nhìn đồng hồ. “Ba phút nữa.”

“Tại sao phải chờ?” Yoakum hỏi.

Hunt làm ngơ câu hỏi. “Ba phút.”

Những ngón tay siết chặt rồi buông thõng. Những người đàn ông ngó nhìn giày của họ. Cross sờ soạng ngón tay trên cây búa tạ. “Đúng giờ,” Hunt nói. “Tránh đường để tôi đi.”

Cross gật đầu. Hai phút sau, Yoakum thúc khuỷ tay. “Nhạc điên loạn, hử?”

“Bây giờ không, Yoakum.” Thêm một phút trôi qua. Dấu hiệu đầu tiên của đoàn tàu hỏa sắp đến như cơn thủy triều, sau đó tiếng bé dần.

“Ông có cảm thấy không?” Yoakum hỏi.

Hunt nhìn xung quanh khoảng không gian tối mù. “Ta sẽ đi.” Ông đập nhẹ tay lên vai người tài xế. “Khi tôi nói.”

Tài xế gật đầu, không khí trời đêm bắt đầu căng phồng lên. Tiếng ầm ầm tiến đến từ hướng nam, rồi rõ rệt hơn, to lớn hơn. Sự rung chuyển leo nhanh lên thành một âm thanh kinh động, và khi còi tàu hú vang trời, một người trong đám đàn ông đó co giật.

“Ông quả là một thiên tài,” Yoakum nói.

Hunt đặt một tay lên vai tài xế. “Đi thôi.”

Chiếc xe lao nhanh ra khỏi bãi đậu, rẽ trái và quẹo một lần nữa, đâm vào đúng trung tâm đường Huron và xé gió lao xuống cuối con đường khi lũ chó chồm đến trước, tru tréo sủa và mắc nghẹn trong những sợi xích cổ nghiến cứng. Rồi họ có mặt ở đó. Hunt thấy một chiếc xe đậu trên đường dẫn vào nhà, một cửa sổ có ánh đèn bên trong. Chiếc xe tải lồng lộn dừng lại. Cửa xe mở rộng và cảnh sát xuất hiện đầy trên đường. Yoakum và lính của ông ta chạy tủa ra hai bên hông nhà, vũ khí sẵn sàng, những đôi ủng đen chìm lẫn trong màu đất tối khiến họ tưởng chừng như đang lơ lửng.

Cách xa hơn chín mét, đoàn tàu xe hỏa xé qua màn đêm, tiếng động kinh hoàng rung chuyển trời đất. Hunt chờ tài xế một giây để theo đuổi kịp, cảm thấy không khí xé rách cuống họng khi ông ra sức chạy. Cross xuất hiện ngay cạnh ông, họ chạy một quãng dài qua khỏi sân trước, ngốn hết đất cát và cỏ chết cho đến khi nền hiên trước nhà lún xuống vì sức nặng của họ. Hunt chỉ vào khoảng không gian giữa khoá cửa và khung cửa, rồi lùi lại, một tay cầm đèn pin, tay kia cầm vũ khí. Ông gật đầu một lần và không hề nghe tiếng búa tạ ra đòn. Nó mở tung cánh cửa với vụn gỗ sấy khô bắn tung toé và mảnh kim loại loé sáng, tơi tả. Đoàn tàu lao nhanh phóng qua, mang theo lực hút chân không và những tiếng lách cách nhỏ dần; đoạn, Hunt đi vào bên trong.

Bên trong, một ngọn đèn cháy sáng trên đầu một cái ghế rách nệm; ánh sáng trắng từ chiếc đèn neon hắt ra từ cuối hành lang. Hunt kiểm tra bên phải, rồi xoay súng hướng qua bên trái. Lỗ hổng trong tường đánh dấu những phòng tối đen và những ụ đồ nội thất. Một cái gì rít phía bên trái, tiếng lạo xạo từ loa phát thanh, tiếng thầm thập của cây kim ở vòng cuối đường rãnh dài. Hunt bước qua một bên và Cross tiến lên phía trước, theo sau là người tài xế. Trong phòng nóng bức và chật hẹp. Những cái bóng nhảy múa trên bức tường màu thuốc lá nhưng không có gì khác chuyển dịch.

Mùi dầu cháy xộc đầy vào xoang mũi Hunt. Cross bắt gặp ánh mắt của ông khi người tài xế nhăn nhó hai lần và chôn chặt mũi của ông ta vào khúc gập của cánh tay. “Bình tĩnh,” Hunt nói gió, rồi chỉ vào căn phòng tối đen phía bên tay trái và hướng các cảnh sát khác về hướng đó. Hunt vung đèn vào hành lang chật hẹp, kiểm tra bước chân của ông ở cánh cửa, sau đó bước vào một khoảng tối mù. Không gian chật hẹp và tạo cảm giác dài hơn. Phía đằng trước, cạnh sắc của ngọn đèn trắng cắt một hình tam giác trên tấm thảm. Hunt kêu to:

"Cảnh sát đây. Chúng tôi có án lệnh xét nhà."

Yên lặng. Bất động. Hunt di chuyển xuống dưới hành lang và rẽ vào nhà bếp phía bên phải. Một bóng đèn trắng dài nhấp nháy trên một chậu rửa đầy chén đĩa. Ông kiểm tra căn phòng, thấy một chai rượu cạn sạch, và một cánh cửa sổ mở với lưới bị rách. Ông quay lưng, di chuyển sâu hơn vào căn phòng, và thấy máu văng vãi trên bức tường thạch cao. Ông bước qua cánh cửa mở, quét đèn pin vào căn phòng, và một rừng ruồi tung bay toán loạn khỏi các thi thể.

Người đàn bà da trắng, ở độ tuổi vào khoảng ba mươi, có thể là Ronda Jeffries. Khó mà nói chính xác vì phần lớn khuôn mặt cô ta đã biến mất. Cô ta mặc bộ quần áo lót mỏng đóng vảy vì máu. Một bên vú lộ ra bên ngoài, làn da xám nhiều hơn trắng. Mặt của cô ta bị nát vụn, quai hàm bị gãy ở hai hoặc nhiều nơi, mắt bên trái bị sưng phồng khi văng ra khỏi hốc mắt gẫy vụn. Mình cô ta nằm vắt dài hướng về phía hành lang, hai chân gần giường ngủ. Một tay bẻ góc qua đầu, và cánh tay đó có hai ngón rõ ràng bị gẫy.

Thi thể người đàn ông da đen thì không bị biến dạng kinh dị. Khi còn sống hắn ta phải là người to lớn; nhưng bây giờ thì không. Bây giờ hắn ta bị rút nhỏ đi. Khí ém trương phồng bao tử hắn, làm cho hai tay và chân nhìn nhỏ bé khác thường. Đầu hắn ta cong về phía bên phải, làm khuôn mặt chùng xuống, tướng mạo không hoàn chỉnh. Hắn ta trần truồng, gục người trong một chiếc ghế to xù như thể đơn giản hắn ta chỉ muốn ngồi.

Hunt với tay vào công tắc trên tường và bật sáng đèn trên trần nhà. Ánh sáng khiến cho mọi thứ nhìn kinh dị hơn, cảnh tượng kinh khủng này hoàn hảo hơn. Hunt thấy cảnh sát đang theo vào phía sau ông. “Không ai được vào,” Hunt nói.

Ông quỳ gối bên cạnh người đàn bà, cẩn thận đặt đôi chân khi ngồi xuống. Ông quan sát thi thể từ đầu đến chân. Cô ta dũa móng tay, hạt nhựa đính trên móng tay sơn đỏ chót. Lòng bàn chân có nhiều vết chai. Lông chân cạo sạch đến đầu gối. Móng tay giả, dài hơn hai phân, tạo thành que nhọn ở mỗi ngón. Không có vết thẹo hoặc xâm mình dễ thấy. Tuổi chính xác vào khoảng hai mươi hai.

Ông làm tương tự với thi thể người đàn ông, ngồi xổm bên cạnh cái ghế và quan sát hắn ta. Da đen. Bốn mươi. Khoẻ mạnh. Có thể cao gần hai mét. Hắn có những vết sẹo mổ cũ ở cả hai đầu gối. Không đồ trang sức. Có trám răng bằng vàng. Râu ria lởm chởm.

Hunt đứng dậy. Liếc sơ qua thấy đôi ủng làm việc đặt bên cạnh tủ đựng áo quần, quần jeans, quần lót sa-tin màu kẹo táo. Ông thấy cục gạch lớn bên cạnh giường ngủ. "Yoakum." Hunt gọi và Yoakum đi ngang qua căn phòng. Hunt chỉ vào cục gạch lớn. Một bên cục gạch be bét máu khô dính. "Tôi nghĩ đây là hung khí gây án mạng."

"Nhìn đúng là nó."

Hunt đứng thẳng lên. "Chờ chút." Ông bước xung quanh đôi chân của tử thi nam và bước qua cánh tay của tử thi nữ. Những cảnh sát khác dựa vào cánh cửa mở như thể Hunt làm ngơ họ. Ông quỳ xuống cạnh cánh cửa, ngón tay của ông lướt qua tấm thảm nơi dấu lõm chạy song song dọc theo chiều dài của cục gạch. Khi đứng lên, ông thấy Cross đang đứng ở cánh cửa.

"Tôi giúp ông được chuyện gì không?" Cross hỏi.

"Lấy dây nhựa quây chặt sân nhà và ngoài đường. Gọi hình sự hiện trường và bác sĩ pháp y đến đây.” Hunt vuốt mặt mình. "Và tìm cho tôi một lon Coke." Ông nắm cánh tay áo Cross khi ông ấy quay đi. "Không phải từ tủ lạnh của căn nhà này. Và dọn dẹp hành lang."

Hunt nhìn hành lang trống trơn, linh cảm Yoakum đằng sau mình, bèn quay người lại. Bị đặt vào tình huống chết chóc và thảm khốc này, bạn ông trông có vẻ xúc động. Hunt nhìn qua ông ta, và giữ giọng thấp khi nói. "Còn sớm để kết luận, tôi biết, nhưng tôi không nghĩ án mạng này có chủ mưu cố sát.”

“Bởi vì?”

Hunt búng một ngón tay đến đáy cánh cửa. “Vết lõm trên thảm. Dường như họ dùng cục gạch đó làm đồ chặn cửa.” Ông nhún vai. “Kẻ giết người nếu có chủ mưu thường thường mang theo vũ khí.”

“Có thể. Có thể gã ta biết trước cục gạch sẽ có sẵn ở đó.”

“Quá sớm,” Hunt đồng ý. “Ông đúng.”

“Bây giờ ông định thế nào?”

Hunt ám chỉ căn phòng với lòng bàn tay xoè ra. “Rào kín khu vực này cho đến khi hình sự hiện trường đến đây. Tảo thanh tội phạm trên đường phố. Yêu cầu chó đánh hơi tử thi đến đây, nhỡ trong trường hợp...” Hunt dừng nói và quay vào trong hành lang. “Tổ cha!” Ruột gan ông như nổ tung. Ông đấm mạnh vào trong tường, rồi dậm mạnh vào phòng khách. Khi Yoakum bước vào trong phòng, Hunt đè mạnh hai bàn tay vào khung cửa ra vào. Ông đập trán uỳnh uỳnh vào khung gỗ.

“Chết tiệt!” Ông bạng đầu của ông mạnh hơn.

“Nếu ông muốn phun máu đầu,” Yoakum nói. “Có nhiều cách khác dễ hơn đấy.”

Hunt quay lại, lưng tựa vào cánh cửa dăm gỗ đâm tua tủa. Ông biết khuôn mặt ông trơ ra. “Cái này không phải.”

“Án mạng thì không bao giờ.”

“Lẽ ra cô bé phải có ở đây, John.” Hunt thình lình cảm thấy cần thở không khí trong lành. Ông xé mở cửa trước, văng ném những chữ qua vai ông với một chút hằn học. “Lẽ ra mọi chuyện phải được chấm dứt ngay hôm nay.”

“Tiffany?”

“Tất cả. Mọi thứ.”

Yoakum không hiểu, nhưng sau đó ông hiểu.

Cái địa ngục mà Hunt đang ngụp lặn trong đó.

Đời sống của Hunt, như ông biết.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17


Chiếc xe thùng cũ kỹ trờ tới và dừng lại ở đoạn cong con đường đen chật hẹp. Đường vắng tanh, tối um, một đoạn đơn độc xa tít ngoài rìa thị trấn, nằm xen kẽ giữa rừng cây và sự tĩnh lặng. Johnny để ý căn nhà, nơi ánh sáng lờ mờ hắt ra ngoài cửa sổ. Đã hai tuần trôi qua kể từ lần sau cùng cậu có mặt ở đây, nhưng những chiếc xe vẫn đậu rỉ sét dưới những cái cây, vẫn lon bia ấy đứng không đổ trên thùng thư.

Căn nhà tự nó tiết lộ một gợi ý: một tia sáng vàng lập loè và nhiều góc sắc cạnh xem chừng không song hàng với ranh giới mảnh đất. Một thứ nước độc hôi thối thâm trầm xâm thực từ bãi rác cả dặm ở đằng xa. Ban ngày, hàng đàn quạ bay đến tề tựu và tiếng súng nổ vang từ phương xa khi người bán đồng nát bắn lũ chuột và nhặt nhạnh lon đồ hộp. Ban đêm, tiếng dế nỉ non; nhưng đôi khi, không vì một lý do gì, chúng hoàn toàn im bặt. Như thể cái thế giới này bất thình lình bịt mồm bọn chúng. Johnny luôn chết lặng người trong cái tĩnh lặng ấy, và không khí xung quanh cậu trở nên ngột ngạt và lạnh lẽo. Johnny mơ về cái cảm giác ấy nhiều hơn là cậu dám thừa nhận, nhưng cậu đã làm.

Giữa đêm. Hừng đông.

Sáu lần.

Hàng chục lần.

Burton Jarvis có tên trong danh sách vì hắn ta là kẻ tái phạm. Nó là từ quan trọng nhất mà Johnny hiểu: nó có nghĩa dữ dằn, một kẻ vô lại bệnh hoạn và rất có thể sẽ tái phạm. Gã ta là kẻ có tiền án về tình dục và phải trình diện địa phương nơi gã cư trú, gã sinh kế bằng nghề nhồi bông những con nai bị bắn tung ruột và kéo rác đi đổ bằng rơ-móc. Biệt danh của gã là Jar, chẳng hạn người ta nói: “Nhìn kích cỡ con nai khổng lồ này, Jar. Ông nghĩ có thể nhồi bông con thú to như vậy được không?”

Jar không có những điểm Johnny có thể xem như là bạn, nhưng có vài người đàn ông nhiều lần tạt ngang nhà gã. Họ trao đổi đĩa máy tính từ những bàn tay bẩn thỉu và nói chuyện về việc làm thế nào mà Thái Lan vẫn là nơi tuyệt vời nhất để thoả mãn tình dục. Johnny cũng đã tìm những kẻ đó. Họ cư trú ở đâu. Họ làm việc ở đâu.

Họ có tên trong danh sách của cậu.

Một gã đến nhiều lần hơn tất cả những gã khác. Đôi khi gã mang theo vũ khí, đôi khi không. Cao lớn, mình dây và già, gã có đôi mắt sáng, hau háu, những ngón tay dài. Gã và Jar nốc rượu từ cùng một chai và nói những chuyện cả hai đã từng làm tại làng quê nào đó ở Việt Nam. Mắt cả hai đờ đi khi họ nói về một người con gái nhỏ họ gọi là Út Vàng. Hai gã đã sống ba ngày với cô bé trong một cái chòi bị oanh kích, nơi toàn bộ gia đình cô bé chết thảm trong trận đó. Út Vàng, họ gọi, dốc ngược cái chai, một cái đầu lúc lắc. Ô nhục.

Tiếng cười đểu cáng.

Johnny mất hai chuyến thám sát mới nảy sinh nghi ngờ về cái chòi đằng sau nhà của Jar. Nó nằm ở cuối con đường mòn qua rừng cây rậm rạp, khuất khỏi đường lộ và căn nhà. Tường đúc bằng những khối bọt đá, cửa sổ đóng đinh chặt và nhồi nhét với gòn cách nhiệt màu hồng và nylon đen. Johnny không thể nhìn vào bên trong. Ánh sáng không bao giờ lọt ra ngoài. Cái khóa to cỡ một nửa cái đầu của Johnny.

Cậu bắt đầu từ đó.

Cái chòi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18


Lúc sáu giờ sáng, hai thi thể đã được bỏ vào trong túi đựng tử thi. Hunt đứng ở hàng hiên khi những cái cáng khua lọc cọc qua cánh cửa, nhựa đen nhìn khác thường và trơn láng. Ông nhìn ra đường và sân nhà, cả hai nơi không màu sắc dưới bầu trời u xám, tối đen. Mặt trời chưa mọc, nhưng ông cảm giác nó đang đến gần. Ánh sáng xám tập trung ở trên đỉnh ngọn cây xa vượt đường ray xe lửa và bầu trời phía đông gợi nhắc mơ hồ một điều gì mới mẻ. Xe tuần tiễu của cảnh sát đậu khắp mọi nơi, chặn đứt con đường, đâm đầu đủ các góc độ vào lề đường. Chiếc xe khám nghiệm tử thi đậu ở góc sân, phía đằng sau ngáp to mở rộng cửa. Một nhóm phóng viên báo chí đứng đằng sau dây băng nhựa vàng, nhưng những người hàng xóm mới là đối tượng Hunt soi mói họ kỹ nhất. Con đường còn in một dấu chân hẹp. Những mảnh đất nhỏ đẩy những căn nhà lại gần với nhau. Ai đó biết một điều gì. Họ phải biết. Mắt ông đảo ngược đảo xuôi, dừng lại ở người đàn ông lớn tuổi mặc chiếc áo sơ mi vàng, một anh nhóc da đen với cặp mắt láo liên, trông có vẻ băng đảng, và vết xâm tự làm. Ông theo sát người phụ nữ có khuôn mặt rộng với cặp vú treo lủng lẳng và mỗi bên tay là một đứa trẻ con. Bà ta cư ngụ sát cạnh bên và nói rằng không biết gì hết.

Không hề nghe gì hết.

Mắt đầy vẻ ganh ghét.

Không hề thấy gì hết.

Một cảnh sát quân khuyển xuất hiện, đồng phục ông ta bám đầy thứ bẩn thỉu, mặt ông ta cau lại. Con chó, giống lai đen tuyền, đứng ép sát đùi ông ta. Lưỡi nó thè ra khỏi mõm khi nó trố mắt nhìn, không chớp mắt vào hai túi đựng thi thể. Chủ chó lắc đầu. “Không có gì ở tầng hầm lửng. Nếu còn thi thể, nó phải ở chỗ khác.”

“Ông chắc chắn điều đó chứ?” Hunt hỏi.

“Tuyệt đối.” Ông ta vỗ đầu con chó bằng lòng bàn tay. Hunt cảm thấy như trút được gánh nặng, nhưng không ưa đặt quá nhiều tin tưởng vào sự cảm nhận. Tiffany Shore không có ở đây không có nghĩa cô bé còn sống. Trong thâm tâm ông không quên hai thi thể đằng sau lưng mình. “Có lý do gì thứ kia lại đánh lạc hơi con chó được không?” Ông chỉ hai cái túi.

“Không đời nào.”

Hunt gật đầu. “Được rồi, Mike. Cám ơn đã kiểm tra.”

Chủ chó chép miệng gọi chó và con chó theo ông ta đi ra. Không có gì. Họ không tìm được gì. Hunt nghĩ về điều Johnny Merrimon nói về chuyện đứa con gái được tìm thấy ở Colorado: bị nhốt suốt một năm trời trong một căn hầm đào sâu bên cạnh hầm rượu, với một tấm nệm, một cái xô và một cây nến. Sự kinh tởm chứa chất trong ruột gan Hunt. Ông càng nghĩ đến chuyện đó, cái nội tạng kinh tởm càng hoạt động hăng hái hơn. Ông từng cố gắng tưởng tượng nếu ông là viên cảnh sát tìm được cô con gái đó, ông sẽ làm điều gì trước tiên: bế cô bé ra khỏi tấm nệm bẩn thỉu đó hay tống sáu viên đạn vào mặt kẻ đốn mạt? Ông không biết liệu ông có thể làm được chuyện đó không, quên đi mười bảy năm làm cớm và chỉ đơn giản bóp cò súng.

Có thể.

Còn hơn là có thể.

Hunt nhìn bác sĩ Trenton Moore cột chặt thi thể đằng sau xe. Ông ta trông mệt mỏi và xám xịt, người dẹt đét như ánh sáng buổi sớm. Khi bác sĩ Moore bước trở lại hàng hiên, ông ngửi thấy mùi cà phê và phoóc-môn, mùi nhà xác. “Xin lỗi phải giao cho anh thêm hai mạng nữa quá nhanh,” Hunt nói với ông ta. Bác sĩ Moore khoát tay. “Tôi cũng đã định gọi cho ông,” ông nói. “Tôi đã hoàn tất khám nghiệm sơ khởi trường hợp David Wilson.”

“Nhanh chóng quá.”

“Tôi biết nói gì bây giờ? Tôi yêu thích công việc của tôi.”

Hunt bước ra xa hiên nhà, xa khỏi cánh cửa và chỗ đi ra đi vào. Bác sĩ Moore đi theo. “Nói cho tôi nghe.”

“Ông ta còn sống khi bay qua thành lan can cầu. Cậu bé nói với chúng ta điều này, và kết quả điều tra của tôi trùng khớp. Phần lớn những chấn thương hiển nhiên, ông đã thấy. Gãy chân và tay; sự thực thì gãy nhiều chỗ. Thông tin chi tiết sẽ nằm trong bản báo cáo kết luận. Mài sát nặng nề do tiếp xúc với xi măng và mặt đất. Vỡ hốc mắt phía bên trái. Gãy bảy cái xương sườn, và cũng phía bên trái, nội tạng bị chấn thương rất nặng, xuất huyết nội tạng, thủng phổi; nhưng không có cái nào kể trên giết chết ông ta.”

“Giải thích thế nào?”

“Tôi tìm thấy một vết dập lớn trong cổ ông Wilson.” Bác sĩ Moore chỉ phía trước cổ mình, ở ngay phía trên xương ức cổ. “Khí quản và thực quản bị đè bẹp nát. Một sức nặng khá lớn đè lên trên cho đến khi toàn bộ khí quản bị hư hại đến mức hoàn toàn tắc nghẽn.” Ngừng lại một lúc. “Thám tử, ông ta bị chết ngạt.”

“Nhưng ông ta vẫn còn sống khi Johnny bỏ chạy trốn. Còn thở, vẫn nói được.”

“Vết dập trong cổ họng ông ta có một khuôn dạng. Nó rất mờ, chỉ thấy được dưới kính phóng đại và không đủ để có thể lấy mẫu hoặc tìm bất cứ dạng trùng hợp nào, nhưng chắc chắn là nó có ở đó.”

“Một khuôn dạng?”

Nét mặt bác sĩ Moore đau đớn. “Khuôn dạng dấu chân.”

Hunt cảm thấy mồ hôi cóng lạnh trên cổ ông.

“Thám tử, ai đó đã đạp lên cổ của ông ta. Ai đó đã đứng trên cổ của ông Wilson cho đến khi ông ta tắt thở.”

Báo cáo của bác sĩ Moore làm thay đổi nhịp điệu sáng nay của Hunt. Nó ngụ ý một sự độc ác xem chừng lạnh lùng hơn, một cái gì đó hung tợn hơn và mang tính cá nhân.

Hunt bước vào trong căn nhà, tâm trạng bất ổn và bực tức. Hai thi thể đã được mang đi, nhưng buổi hừng đông đen ngòm càng trở nên tăm tối hơn. Điện thoại Hunt reo vang. Con trai ông bên kia đường dây. Ông nhận ra số gọi và ngần ngại. Với tất cả những gì đang xảy ra, ông không còn thần trí nghĩ đến anh con trai. Dù chỉ là một lần. “Chào con, Allen.”

“Bố đã không về nhà.”

Ông trở vào bên trong hàng hiên. Ông nhìn bầu trời xám xịt, tẻ nhạt, mường tượng khuôn mặt anh con trai. “Bố biết,” ông nói. “Bố xin lỗi.”

“Bố có về nhà ăn sáng không?”

Mặc cảm tội lỗi của Hunt gia tăng. Cậu con trai đang cố hàn gắn tình cảm giữa đôi bên. “Bố không thể.”

Sau đó im lặng. “Dĩ nhiên là không rồi.”

Những ngón tay của Hunt ghì chặt máy điện thoại. Ông có cảm giác như anh con trai đang từ từ tuột xa khỏi vòng tay, nhưng cũng không biết phải làm gì. “Con ơi. Về chuyện tối hôm qua... ”

“Sao ạ?”

“Bố không hề có ý muốn đánh con.” Ông nghe tiếng thở ở phía bên kia đầu dây, sau đó anh con trai cúp máy. Chết tiệt. Hunt nhét điện thoại vào trong túi và hai mắt lại dõi theo đám người hiếu kỳ. Họ quan sát chiếc xe với sự mê hoặc; tất cả ngoại trừ một người. Một ông già mặc chiếc áo lem luốc đứng trên đường ray, tay kia nắm lấy thắt lưng đeo trên chiếc quần tả tơi. Hai mắt ông ta rũ xuống đủ để thấy làn da đỏ ở đáy mí mắt, và tay kia của ông ta run lẩy bẩy khi ông ta cố rít điếu thuốc ẩm mốc. Ông ta chằm chằm nhìn Hunt, rồi khều gọi bằng những ngón tay co lại.

“Yoakum,” Hunt nói, và Yoakum thò đầu ra khỏi cửa. “Tôi sẽ trở lại.”

Hunt chỉ người đàn ông đứng trên đường ray, và Yoakum quan sát bóng dáng lụ khụ của ông ta.

“Ông có cần yểm trợ không?”

“Dẹp đi, Yoakum.”

Dốc đất nát vụn dưới chân Hunt khi ông leo lên đường ray. Khói thuốc cuộn tròn xung quanh lỗ mũi tối đen của gã đàn ông, và sát gần, Hunt thấy rõ chứng tê liệt ảnh hưởng đến gần hết cơ thể của người đàn ông. Gã cao khoảng một mét bảy nhăm có khuynh hướng đổ về phía phải, như thể chân phía bên đó ngắn đi. Tóc bạc phơ dựng đứng lên trong gió mát. Gã chìa bàn tay ra, và giọng nói của gã làm Hunt liên tưởng đến bánh quy nhạt. “Có thể cho tôi xin một đô-la được không?”

Hunt quan sát bàn tay, thấy một vết xăm mờ phía đằng sau. “Năm đồng được không?”

Ông già theo dõi từng tờ giấy bạc lấy ra khỏi ví, gã lấy chúng, và nhét vào túi. Gã liếm đôi môi nứt nẻ và chớp mắt nhìn xuống bờ kè phía bên kia đường ray xe hỏa. Dò theo cái nhìn, Hunt thấy một tấm bạt xanh lục rách tả tơi treo trong một bụi rậm thấp lè tè bên ngoài đám sắn dây. Nó mờ lẫn vào trong những lùm cây, gần như không thể thấy được nữa. Ông thấy lon không chất một đống, một ụn đất đen thui. Gã này là dân vô gia cư. Một sự sợ hãi thực sự và bất thình lình chớp lên trên đôi mắt của gã. Sự căng thẳng tạo nên những nếp gấp trên hai gò má. “Mọi chuyện không sao,” Hunt nói với gã. “Không có gì phải lo.” Hunt lôi ra một tờ giấy bạc và đầu gã gật gù khi gã ho khé, một mớ âm thanh chấm dứt bằng một tiếng ho khô khan. Một cái gì đó màu nâu chọi trúng đường ray sáng loáng. Hunt nhìn đi hướng khác, và ông thấy nhiều chai lọ rải rác dưới triền dốc. Rượu rẻ tiền, lon bia bốn mươi ao-xơ, vài chai rượu rẻ tiền bourbon nhỏ. “Ông có thấy chuyện gì xảy ra ở đây không?” Hunt hỏi và trỏ tay về hướng căn nhà.

Gã già nhìn trống rỗng, rồi ngớ ngẩn và sợ hãi. Gã ta quay đi và Hunt chộp lấy khung tay của gã. Ông giữ giọng ôn hòa. “Thưa ông. Ông gọi tôi. Nhớ không?”

Gã già vùng vằng tại chỗ, ngón tay cong và vàng khè ở đầu ngón. “Cô... Cô... Cô ta thích trần truồng đi vòng quanh đó đây.” Gã chỉ về hướng cửa sổ nhà tắm. “Cô ta cười tôi.” Một con mắt co giật. “Tổ cha cái con chó cái.”

Hunt nói với giọng ân cần. “Ông đang nói đến Ronda Jeffries?”

Cằm của gã đàn ông vặn vẹo dữ dội, nhưng gã ta dường như không hiểu câu hỏi.

“Ông không sao chứ hả?” Hunt hỏi.

Cả hai cánh tay gã giơ lên. “Không phải tôi là chúa tể muôn loài sao?” Gã ta làm như thể muốn bỏ đi, và Hunt đặt hai ngón tay lên chỗ xương cứng trên bả vai gã.

“Thưa ông, ông có thể nói cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra

ở đây?”

Mắt trái gã đàn ông nhắm nghiền. “Tôi chỉ thấy cái xẻng,” gã ta nói, và đứng bằng một chân, gãi bắp chân bằng cạnh mũi giày. “Hắn ta có cái xẻng.” Gã chỉ. “Lấy nó ra từ cái chòi đó.”

“Có phải ý ông là Levi Freemantle? Gã đàn ông da đen. Nặng hơn một tạ.” Hunt nhìn vào cái chòi. Khi ông nhìn trở lại, khuôn mặt gã đàn ông nhu nhược trở lại. “Thưa ông, ông nói tiếp được không?”

“Ông muốn gì?” Gã vẫy bàn tay như đang đuổi ruồi khỏi khuôn mặt. “Tôi không biết ông.” Gã quay người và lê bước về hướng cuối đường ray, ngoái nhìn lại một lần, rồi đập những con ruồi tưởng tượng.

Hunt thở dài. “Cross,” ông gọi, và vẫy ông ta lên sườn dốc.

“Vâng thưa ông?” Cross có mặt trên đường ray.

“Xuống tóm lấy gã,” Hunt nói. “Gã có thể đã thấy chuyện gì đó. Có thể không. Xem xem ông có khai thác được gì không, nhưng nhẹ nhàng thôi. Khi xong việc với gã, hãy gọi Sở xã hội và Bệnh viện Cựu chiến binh. Gọi họ ra đây giúp đỡ người đàn ông đó.”

“Bệnh viện Cựu chiến binh?”

Hunt chỉ vào lưng bàn tay phải. “Ông ta có một vết xâm. USN. Là cựu hải quân. Tôn trọng ông ta một chút.”

“Vâng thưa ông.”

Khi Hunt trở lại hàng hiên trước nhà, Yoakum thò đầu ra lần nữa. “Tôi nghĩ ông cần phải xem cái này,” ông nói.

“Chuyện gì đấy?”

“Ông có nhớ căn phòng trống ở góc tây nam không?”

“Phòng ngủ à?” Hunt hỏi, hình dung nó trong đầu. Nó là cái phòng nhỏ, trống trơn. Mành che cửa sổ màu vàng. Dấu vết băng keo dán trên tường. Đáng chú ý ở chỗ bức tường hoàn toàn trống trải. “Căn phòng đó làm sao?”

Giọng Yoakum hạ xuống. “Ông cần phải xem nó.”

Hunt đi theo Yoakum xuyên qua căn nhà. Ông đi ngang qua những chuyên viên đang sưu tập vân tay, một phó nhòm khoác áo cảnh sát. Hai cảnh sát nhường chỗ khi ông đến gần căn phòng. “Nó ở trong tủ.” Yoakum mở cửa tủ và bật công-tắc đèn. Ánh sáng tràn ra ngoài, phủ ngập cái tủ, làm cho những bức tường trắng sáng hơn ban đầu. Một bức tranh vẽ bằng bút chì sáp trên tường phía sau, con nít vẽ và méo dạng. Bức tranh vẽ người đàn ông với viền ngoài màu đen, có đôi môi đỏ, quần tây rộng màu tím. Đôi mắt nâu vòng tròn hoàn hảo, như thể nó được đồ theo cái đáy chai. Một hàng nhiều đường kẻ vẽ ngang phía bên phải mặt của ông ta, nhưng nhìn ngoằn ngoèo và không đe dọa. Ông ta bế một cô bé trên ngực và một tay vẫy, như thể vẫy một người bạn ở xa. Cô bé có khuôn mặt trái xoan và một cái nơ thắt trên tóc, một đốm nhỏ màu hồng gần như mất hút trên bộ ngực rộng của người đàn ông. Cô bé giơ một tay lên và mặc chiếc váy màu vàng. Nụ cười cô bé như một vết khắc sâu hung bạo màu đỏ.

“Cái trời đất gì vậy?”

“Chính xác,” Yoakum trả lời. “Đó là chính xác những gì tôi nói.”

Hunt quét một vòng hết căn phòng. “Không còn hình vẽ nào khác?”

“Không.”

“Ai đó phải biết điều gì chứ.”

“Chúng tôi đã đi lùng soát hàng xóm, nhưng họ không nói chuyện với cớm. Con đường này không có ai.”

“Có dấu hiệu nào cho thấy một cô gái bị giam giữ trong căn nhà này không?”

“Căn phòng đã được thu dọn sạch sẽ,” Yoakum nói. “Điều này rất quái lạ. Toàn bộ căn nhà rất kinh tởm.”

Hunt dõi hai mắt trên những bức tường trơ, để ý những điểm mà băng keo được tháo gỡ. Những dấu băng keo nghiêng góc, như thể chúng được dán để giữ một tờ giấy ở bốn góc. Hunt di chuyển chậm rãi dọc theo các bức tường. Ông quan sát vết bẩn trên tường thạch cao và sàn nhà. Ông tìm thấy những vết chì sáp trên tường. Không có một bức ảnh nào khác, không một thiết kế. Ông tìm thấy những dòng ngoằn ngoèo ngẫu nhiên và những đường ngắn, cứng, như ai đó vẽ ra ngoài lề giấy. Ông nhìn phía đằng sau cái chụp đèn màu vàng, sau đó dừng lại khi thấy một cái gì đó ở góc phía xa. Ông nhặt nó lên, và Yoakum bước qua xem xét nó. “Nó có phải cái nút áo không?” ông hỏi.

Hunt cầm nghiêng nghiêng, liếc mắt nhìn. “Nó rơi ra từ con thú nhồi bông.”

“Cái gì?”

Hunt nhìn gần hơn. “Tôi nghĩ nó là con mắt.” Ông đưa lên bàn tay. “Cho tôi xin cái túi.”

Yoakum chuyền qua một túi nhựa. Hunt đặt con mắt nhựa vào trong túi và niêm lại. “Tôi muốn căn phòng này được lấy vân tay.” Hunt đi ra ngoài.

“Ông định đi đâu đó?” Yoakum hỏi.

“Tôi mệt mỏi với những thứ tào lao này.”

Hunt hầm hầm lao ra khỏi căn nhà ra ngoài hiên trước. Nhiều người vẫn đứng tụ tập thành các nhóm nhỏ, hiếu kỳ trước sự hiện diện của số đông cảnh sát. Nhìn họ, thấy sự ngạo mạn và bất cần, Hunt cảm thấy sự bực tức của ông sôi lên đến mức thịnh nộ. Ông nói bằng âm lượng to hơn để có thể vọng ra xa: “Tôi muốn nói chuyện với ai đó biết được những gì xảy ra trong căn nhà này.” Đấm đông đông cứng. Sự rỗng tuếch rớt lên trên từng khuôn mặt. Ông đã nhìn thấy cảnh này hàng triệu lần. “Người ta bị thiệt mạng. Một cô bé bị mất tích. Có ai đó có thể cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra trong căn nhà này không?”

Đôi mắt Hunt tìm thấy đôi mắt của người phụ nữ giận dữ với hai đứa trẻ hai bên hông. Ông tập trung nhìn bà ta vì bà ta là mẹ con nít, và bởi vì bà ấy cư ngụ ở căn nhà sát cạnh bên. “Bất cứ điều gì cũng có thể giúp chúng tôi.” Người phụ nữ ấy nhìn chăm chăm, khuôn mặt lạnh lùng xa lạ. Hunt dõi mắt quét vào đám đông, thấy sự giận dữ và bất tín. “Một cô bé bị mất tích!”

Nhưng Hunt là cảnh sát trên một con đường đầy tội lỗi. Ông thấy thùng đựng sơn ở góc hàng hiên, nhãn hiệu bên ngoài bạc trắng, nắp đóng rỉ sét. Với sự kích động dữ dội làm chính ông ngạc nhiên, Hunt đá chiếc thùng. Nó bay cong vòng vào sân nhà, lăn trên cát bụi, rồi nổ tung như miệng núi lửa phun màu xám. Hunt chăm chú vào vết sơn tung toé, và khi nhìn lên, ông thấy cảnh sát trưởng đứng ở lề đường. Ông ta mới đến hiện trường; xe ông ta vẫn đang nổ máy cầm chừng. Ông ta đứng ở chỗ cánh cửa mở, hai tay khoanh lại, cau mày khó chịu, chằm chằm nhìn Hunt. Hai đôi mắt của họ khóa vào nhau một giây dài, sau đó cảnh sát trưởng lắc đầu. Chậm rãi. Phó mặc.

Hunt đếm được hai nhịp tim đập, sau đó ông quay lưng mở cánh cửa.

Mùi tử khí tràn ngập người ông.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom