Cập nhật mới

Dịch Khúc Cầu Hồn

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39


Hunt và Yoakum chờ ở sảnh lầu một của một cao ốc lớn dưới phố. Văn phòng gã Ken Holloway nằm ở lầu năm, nhưng người tiếp tân, một phụ nữ có khuôn mặt sắt đá tuổi trên năm mươi, gây khó khăn. Bên ngoài, bầu trời càng ngày càng tối sầm đi. Rác rưởi bị gió cuốn bay ngang sân xi măng, sau đó tốc lên và quay vòng trong gió. “Chúng tôi không cần xin hẹn.” Thẻ hành sự của Hunt nằm gọn trong lòng bàn tay. Người phụ nữ đứng đằng sau cái quầy gỗ tếch to lớn, hệ thống điện thoại đặt ở một bên, những nút chớp đỏ và xanh. Công ty của gã Holloway chiếm cứ toàn bộ cao ốc. Nhìn sơ qua danh bạ cũng thấy phần nào tầm cỡ của nó. Môi giới Địa ốc, Phát triển, Xây dựng Thương mãi, Tư vấn, Quản trị Địa ốc. Holloway làm chủ thương xá, vài cao ốc ở phố trung tâm, ba rạp hát, hai sân gôn; và đó mới chỉ ở thành phố này. Tài sản gã ta trải dài khắp nơi trong tiểu bang.

“Đây là vấn đề hình sự,” Hunt nói. “Tôi có thể trở lại trong vòng hai mươi phút với trát đòi và lệnh khám xét.”

Điện thoại của người phụ nữ reo vang và bà ta trả lời. Khi cúp máy, giọng bà ta lạnh lùng và cô đọng, khuôn mặt không hề nhượng bộ. “Ông Holloway là một trong những người tử tế nhất của thành phố này, và tất cả mọi người ở đây đều rõ chuyện ông gây xách nhiễu. Không thiếu người sẵn sàng làm nhân chứng khai trước toà chống lại ông nếu những trò đó vẫn tiếp diễn ở đây ngày hôm nay.”

Nét mặt bà ta thay đổi và bà mỉm cười. “Ông Holloway sẽ gặp ông bây giờ.” Bà trỏ một cánh tay. “Thang máy ở phía bên tay phải của ông.”

Họ đi ngang qua sàn nhà lát đá cẩm thạch và bước thẳng vào thang máy. Yoakum bấm nút và hai cánh cửa đóng khít lại. “Quá tuyệt,” ông nói.

“Bà tiếp tân à?”

“Một phụ nữ có duyên.”

Văn phòng Holloway chiếm dụng toàn bộ tầng lầu. Hunt thấy một phòng họp, vài văn phòng phụ trợ, toàn bộ còn lại là không gian mở. Holloway đứng đằng sau bàn làm việc. Đứng ngay bên phải là ông luật sư; đứng bên trái, một nhân viên bảo vệ mặc đồng phục, đeo súng. Ba bờ tường lát kính cho một cái nhìn bao quát gần hết dưới phố, cả nha cảnh sát thành phố, nhìn bé tẻo teo và dơ bẩn. Từ độ cao này có thể thấy cơn giông đang ầm ầm kéo đến với một bức tường màu tím thẫm và đen đúa.

“Thám tử,” Holloway nói.

Hunt bước vào tấm thảm Á Đông và đi quá chiếc bàn phòng họp mà giá trị của nó hơn cả chiếc ô tô của ông. Ông dừng lại trước bàn làm việc. Nụ cười của Holloway gượng gạo, những ngón tay của ông ta trắng dã trên mặt bàn nơi chúng chịu lực cơ thể của ông ta. “Ông chắc vẫn còn nhớ ông luật sư của tôi. Đây là ông Bruce.” Ông chỉ vào tay bảo vệ.

Hunt nhìn chằm chằm từ trên xuống dưới Bruce. Gã ta trạc bốn mươi, cao lớn và đen đủi trong bộ đồng phục xanh ủi hồ thẳng tắp với huy hiệu vàng đeo trên ngực áo và huy hiệu tương tự may trên vai áo. Nét mặt gã không hề biểu lộ sắc thái. Súng đeo loại bán tự động. “Ông có mang theo giấy phép giữ súng không, Bruce?”

“Ông ta có,” Holloway nói.

“Ông ta không tự trả lời được sao?”

“Không.”

“Ông ta là người trưởng thành rồi.”

“Ông ta đang làm việc cho tôi.”

Hunt nhướng mày nhìn Bruce, nghiêng đầu và nhún vai. “Chúng tôi đang điều tra về khả năng có sự liên đới giữa một vụ án hình sự với một trong các nhân viên của ông. Chúng tôi cần tên và hồ sơ nhân viên của tất cả các nhân viên bảo vệ, đặc biệt là những người làm việc tại thương xá.”

“Vụ án hình sự loại gì vậy?”

“Chúng tôi muốn lấy tên các nhân viên.”

Ông luật sư nghiêng người qua cái bàn. “Tôi đã cố vấn thân chủ của tôi trả lời ‘Không’ với tất cả các câu hỏi khi chưa có lệnh tòa án.”

Holloway giơ hai tay để chứng tỏ ông ta không có chọn lựa, và Hunt gặp đôi mắt dò xét của tay luật sư. “Đó có phải quyết định tối hậu không?”

“Đúng,” tay luật sư nói.

“Ông cũng đã cố vấn thân chủ của ông không được cản trở cuộc điều tra của chúng tôi?”

“Dĩ nhiên.”

“Ông ta sẽ không được báo động cho ai về cuộc thăm viếng này. Cuộc điều tra đang diễn tiến.”

Holloway nở một nụ cười giao tế. “Chúng ta không có gì để thảo luận bên ngoài toà án, Thám tử Hunt. Không về nhân viên của tôi, về cuộc điều tra của ông, hay sự lựa chọn sai trái khác thường. Không về bà Katherine Merrimon hay đứa con trai ngổ ngáo của bà ấy.”

Hunt nhìn đối mắt, sau đó quay gót.

“Ồ, nhưng trước tiên,” Holloway nói. “Tôi nghĩ ông nên biết rằng Katherine Merrimon đã từ chối không gặp tôi nữa. Thay đổi khoá cửa. Kích động. Chuyện bình thường.”

Hunt dừng bước, trở lại cái bàn. “Chuyện thật vậy sao?”

“Chúng tôi đã tống đạt đơn xin trục xuất khỏi gia cư sáng hôm nay. Bà ta sẽ phải dọn ra đường trong vòng ba mươi ngày.”

“Bà ta sẽ tự lo liệu được,” Hunt nói.

“Bà ta có làm được không?”

Tầm nhìn của Hunt bị thu hẹp lại cho đến khi ông thấy nụ cười trên cặp môi như bôi mỡ của gã Holloway. Ông cảm thấy áo jacket của ông bị giật và biết Yoakum gọi khéo. “Thôi đi, Clyde.”

Yoakum quay đi nhưng Hunt chưa chịu bỏ cuộc. Ông nhìn gã Bruce, rồi Holloway. “Có phải các nhân viên an ninh của ông đều mang vũ khí?” Ông hỏi.

“Tôi sẽ không trả lời câu hỏi của ông,” Holloway nói. “Tôi nghĩ tôi đã rõ ràng trong vấn đề này.” Hunt nhìn gã bảo vệ. “Hắn ta cũng sẽ không nói với ông bất cứ điều gì.”

Bruce giữ kín mồm miệng, đứng thẳng lưng; nhưng khi ông Holloway không nhìn gã nữa, gã đặt một ngón tay trên báng súng.

Ông luật sư nghiêng đầu. “Một ngày tốt lành, thám tử. Người tiếp tân sẽ vui vẻ xác nhận tích kê đậu xe của ông.”

Họ bước ngang căn phòng, tiếng giầy nhẹ nhàng trên sàn trải thảm, kêu to khi chúng chạm vào sàn gỗ. Cánh cửa thang máy mở, rồi đóng. “Văn phòng lịch sự nhỉ,” Yoakum nói. Hunt giữ yên lặng, những móng tay cấu vào lòng bàn tay. “Tầm nhìn tuyệt vời.”

Họ đi ngang qua người tiếp tân, bà ta liếc họ nhưng họ làm ngơ. Bên ngoài đường đi bộ, cao ốc vươn cao và tối đen bên trên hai người. Tĩnh điện đầy trong không khí, và giọng Hunt dường như chứa đầy mức năng lượng thô đó. “Ông thấy không?”

“Tôi thấy.”

“Nhân viên an ninh của gã ta mang súng.”

“Không phải tất cả như vậy.”

“Nhưng một người.”

“Đúng vậy.”

“Một người đeo súng.”

Họ bước ra xe và gió làm cho ống quần của họ quất phần phật. Đồng phục, huy hiệu, và cây súng. Một đứa trẻ mười ba tuổi có thể nhầm lẫn người đó là cớm.

Dễ dàng như bất cứ thứ gì.

Dễ như ăn kẹo.

Ở ngoài xe ô tô, Yoakum đặt hai tay lên mui xe. Hunt đứng ở phía bên kia xe, con đường lộ sau lưng họ vắng ngắt. “Tôi cần nói vài điều,” Yoakum nói. “Và tôi không muốn ông nhảy múa về chuyện này.”

“Chuyện gì đó?”

“Chúng ta không cần phải sưu tra hồ sơ nhân viên.”

“Chúng có thể có ích.”

“Nhưng chúng ta không cần chúng.”

Hunt nhún vai. “Tôi muốn gặp gã ta. Tôi muốn gã ta biết rằng tôi đang lùng sục.”

“Nhưng lý do đó chưa đủ.”

“Có lẽ ông đúng.”

“Vậy thì tại sao lại đến đây làm gì? Tại sao lại liên can Holloway nếu chuyện đó không cần thiết? Ông biết gã sẽ không trả lời câu hỏi của ông. Gã căm ghét ông.”

Hunt nhìn trả lại, hai mắt nhắm nghiền.

“Thôi chết rồi.”

“Vào xe,” Hunt nói.

Cả hai chui vào trong xe; tiếng ồn ào của gió biến mất. “Gã sẽ gọi điện cho người của gã,” Yoakum nói. “Thì gã trước giờ vẫn vậy.” Hunt đề máy xe. “Có lẽ giờ này gã đang nói chuyện trên điện thoại.”

“Có thể.” Hunt gài số xe, kiểm tra xe cộ trên đường lộ, và lao xe lướt đi khỏi lề đường.

“Ông đã giăng bẫy gã ta,” Yoakum tiếp tục. “Gã sẽ gọi điện cho người của gã và ông sẽ buộc gã tội cản trở điều tra.”

Hunt im lặng không nói gì.

Ông lái xe đến thương xá.

Thương xá là một tảng xi-măng nguyên khối và trát vữa, trông ảm đạm và vươn trên bầu trời tối sẫm. Cửa kính chớp chiếu từ màu xám qua tím khi người ta ra khỏi, tất tả về nhà trước khi cơn giông đến. Hunt luồn lách qua đám đông xe cộ. Ông rẽ góc và vài hạt mưa to rơi lộp độp trên kính trước. Họ đi qua những thùng rác, bệ lên xuống hàng hoá và những chiếc xe cũ kỹ.

Họ đang đi giữa đường xuống bức tường phía đằng sau thì thám tử Hunt thắng gấp. Cửa phía bên ông bung mở và ông ra khỏi xe trước khi Yoakum gọi. “Ông đang làm trò gì vậy?”

Nhưng Hunt đã lên đường. “Thưa bà?” Hunt gọi người phụ nữ đang đứng khom người chỗ ngoài cùng của một bệ lên xuống hàng hoá gần đấy nhất. “Thưa bà?” Người phụ nữ trạc tuổi sáu mươi, đẹp lão. Tóc bạc trắng bồng bềnh ở cổ, vận chiếc áo đầm sang trọng. Hunt cười nụ cười khả dĩ nhất. “Chào bà. Tôi là Thám tử Hunt.” Ông chìa thẻ hành sự. “Xin lỗi làm phiền bà.”

“Tôi giúp được ông điều gì?” Bà là người phụ nữ mảnh khảnh và thanh lịch. Hạt kim cương đen ở cổ phải vào khoảng hai cara và hàng thật.

Vài giọt mưa rơi xuống mặt đường trải đá dăm. “Tôi không tài nào không để ý đến...” Hunt trỏ vào cái mà bà đang cầm ở tay.

“Cá ngừ.” Bà nghiêng cái lon, ngượng ngập. Nắp hộp đã khui, cá ngừ bốc mùi thiu. Bà trỏ vào góc của bệ lên xuống hàng hoá, nơi bà vừa đặt một hộp cá tươi mới khui. “Con mèo khôn ngoan. Tôi không tài nào có thể ngồi nhìn nó quanh quẩn kiếm ăn ở thùng rác.”

“Con mèo mệt mỏi chán cá ngừ rồi hả bà?” Ông nghiêng đầu và nhìn vào lon cá.

“Tôi không thấy nó đã mấy hôm rồi.”

“Con mèo hình dáng như thế nào?” Sự bối rối của bà hiện rõ trên khuôn mặt, do vậy Hunt nở nụ cười khả dĩ nhất. “Nếu bà không ngại, tôi cũng là người yêu quý mèo.”

Bà tươi cười, bước lại gần hơn. “Con mèo nâu với đôi mắt vàng và hai chân trắng.”

Bà giơ cao cả hai tay, cười rạng rỡ. “Nó khôn lắm!”

Hunt bước lên vào cái bệ lên xuống hàng hoá. “Chúng tôi được phép vào cửa hiệu của bà không?”

“Tôi không biết...”

“Tôi phải yêu cầu như vậy.”

Cửa hiệu bán quần áo. Hunt và Yoakum đi vào qua nhà kho, sau đó qua phòng thử quần áo. Các bà nhìn lên, kinh ngạc, nhưng Hunt làm ngơ họ, tiến thẳng đến thang máy. “Clyde. Chậm lại một chút.”

Vẫn còn nhiều người ở đó, mặc dầu trời đang giông gió. Gia đình, con nít - tràn ngập màu sắc và tiếng ồn ào.

“Clyde!”

Hunt vượt nhanh qua đám đông, Yoakum theo sát phía đằng sau. “Đúng là gã này.”

“Gã này là gã nào? Ông đang nói chuyện gì vậy?”

“Cùng là con mèo vứt ở nhà Johnny. Mèo nâu với hai chân trắng. Gã này là người chúng ta đang lùng.”

“Ai?”

“Gã nhân viên an ninh nào đó đeo súng.”

“Gã cớm của Johnny.”

Hunt bước vào thang máy và bấm thang máy chạy lên trên đó. Ông xuất hiện ở khu vực bán hàng ăn, vượt qua một nhóm người mua sắm và tiến đến cánh cửa đánh dấu AN NINH. Cửa đóng. Hunt bấm chuông.

“Bộ phận an ninh đây.”

Hunt nhận giọng nói. “Ông Steve. Tôi là Thám tử Hunt. Mở cửa ngay.”

“Có vấn đề gì không?”

Hunt đập tay trên tấm kim loại lạnh tanh. “Bấm mở cánh cửa này ngay lập tức.”

Cánh cửa mở và Hunt nhảy hai bậc cầu thang lao lên phía bên trên. Yoakum chạy theo huỳnh huỵch phía sau. Cả hai phóng lên bệ đỡ cầu thang, vũ khí rút ra cầm tay. Ông Steve gặp họ ở trên đầu cầu thang, cánh cửa mở ngay đằng sau ông ta. “Bước qua một bên, ông Steve.”

“Ui trời. Ê.” Hai tay ông Steve giơ lên khi ông trông thấy súng.

Trong văn phòng an ninh, gã nhân viên an ninh béo ngồi nhìn màn ảnh vô tuyến, một người khác đứng ngay trước cửa sổ bằng kính nhìn xuống khu vực bán đồ ăn. Cả hai kinh ngạc, sợ hãi. Không ai trong họ mang vũ khí. “Văn phòng,” Hunt nói, sau đó nhìn cánh cửa đóng, cửa sổ có rèm che kín. “Ông.” Ông trỏ một tay vào người nhân viên an ninh đang đứng. “Ngồi xuống.”

Gã nhân viên an ninh chạy vội đến chiếc ghế gần nhất. Hunt di chuyển đến cánh cửa văn phòng và Yoakum kèm chặt một bên. Steve nhìn sững sờ.

“Có ai trong đó không?” Hunt hỏi.

“Ông Meechum? Ông ta đi rồi.”

“Meechum là ai?”

“Ông sếp.”

Hunt ra hiệu cho Steve tránh xa cửa, sau đó nhìn Yoakum và đếm ngược từ ba. Cánh cửa mở dễ dàng, và họ tràn vào, bên trong văn phòng trống rỗng.

“Tôi đã nói...” Steve đứng che lấp cánh cửa mở. “Ông Meechum vừa rời khỏi.”

“Khi nào?”

“Năm phút, có lẽ.”

“Miêu tả ông ta xem,” Hunt nói.

“Tôi không biết. Sáu mươi lăm tuổi. Ốm nhách nhưng khoẻ mạnh. Tóc mỏng, mũi gãy. Tính tình khó ưa.”

“Y có đeo súng không?” Hunt hỏi. “Y mặc đồng phục?”

“Thường ông ta mặc quần jeans, áo sơ mi kaki. Nhưng ông ta đeo súng ở thắt lưng. Ông ta là người duy nhất được phép đeo súng.”

“Loại gì?”

“Hả?”

“Cây súng. Kích cỡ nào?”

“Bốn lăm, tôi nghĩ vậy.”

Hunt chạm mắt Yoakum, và cả hai đều hiểu. Cùng kích vỡ với vỏ đạn tìm thấy ở trong xe của David Wilson.

“Y có mang còng không?” Yoakum hỏi.

“Tất cả chúng tôi đều mang.”

“John.” Hunt trỏ vào cái bàn trong văn phòng. Nó cũ kỹ và nhiều dấu vết, không có gì đặc biệt. Một hàng đầu máy vô tuyến đặt trên mặt bàn, đấu dây vào hệ thống theo dõi của thương xá. Ba đầu máy vô tuyến đấu vào camera thu hình ảnh khu vực bán đồ ăn. Mỗi cái hiện cùng một cảnh: một cái bàn toàn con gái trẻ, có thể tuổi mười bốn, có thể trẻ hơn. Hình ảnh được thu vào. Hunt có thể thấy niềng răng, mụn trên mặt, nụ cười, tóc chải. “Gã này là người chúng ta tìm.”

Yoakum nghiêng người vào. “Đồ chó má.”

“Tại sao Meechum đi khỏi đây?” Hunt hỏi, và có một điều gì đó rất chắc chắn gã này chính là người họ đang truy tìm. Steve không ngần ngại. “Ông ta nhận một cú điện thoại gọi từ ông Holloway. Tôi không biết họ nói với nhau chuyện gì, nhưng chính tôi chuyển cú điện thoại ấy.”

“Khi nào?”

“Vừa mới đây. Ngay trước khi các ông đến đây.”

“Steve,” Hunt nói. “Chúng tôi cần địa chỉ nhà của gã Meechum.”

“Tôi không biết địa chỉ nhà gã, nhưng ông có thể đi bộ đến nhà gã trong vòng hai phút.”

“Đi bằng cách nào?” Hunt hỏi.

“Y sống ngay đằng sau thương xá. Qua vài bụi cỏ dại, một hoặc hai cái mương, là ông đến ngay sau cửa nhà gã.”

“Chỉ cho tôi,” Hunt nói.

“Ngay bây giờ?”

“Ngay giây phút này.”

Steve liếm môi, sợ hãi nhìn xung quanh căn phòng. “Thật vậy sao?”

“Thật.” Tay Hunt đập mạnh trên vai ông ta. “Thật vậy.”

Mưa lạnh hắt mạnh vào mặt Hunt khi ông mở cánh cửa phía đằng sau thương xá; mưa quất xuống các góc, vỡ tan thành màn che mờ trên nóc xe màu đen. Tầm nhìn xa gần như không, như thể ánh sáng bị hút mất khỏi không khí. Một cái xe phóng vèo qua, kính trước xe mờ mịt, gạt nước hất văng nước theo hình vòng cung. “Ở đâu?” Hunt lên cao giọng.

Steve trỏ tay. Cánh cửa nặng đóng sầm đằng sau ông ta. “Đằng kia. Giữa những cái cây.” Hunt thấy những cái cây, hai bụi tuyết tùng vươn cao từ bờ viền của con mương vắt ngang bãi đậu xe. “Có con đường mòn. Không dài lắm đâu.”

“Tôi muốn ông chỉ cho tôi.”

“Ôi trời.” Steve nhìn lên trời mưa. “Ông sẽ làm tôi ướt sũng và bị đuổi việc đấy.”

Không ai cười.

“Ngay bây giờ,” Hunt nói.

Họ lao nhanh ngang qua mặt đường ngập nước, len lỏi giữa một chiếc Suburban đang đậu và chiếc Ford cũ rích với băng keo dán che kín một bên cửa sổ. Đằng sau những chiếc xe, con mương đã bắt đầu ngập nước. Nước đen ngòm cuốn theo giấy gói đồ ăn nhanh, túi nhựa, những loại hộp thuốc lá xuống chỗ thấp. Con đường mòn bắt đầu chỗ hàng cây, chật hẹp và thẳng tắp qua những bụi cỏ dại mọc cao và những lô đất còn trống. Tay Yoakum rơi trúng vào vai Hunt. “Có cần tiếp viện không?” Ông đưa máy liên lạc lên.

“Chúng ta không chờ đợi.”

“Tốt.” Yoakum nhét máy liên lạc vào trong túi và lên đạn cây súng. “Tôi ghét chờ đợi.”

“Căn nhà nào?”

Steve nghiêng về phía trái để nhìn giữa hai cây tuyết tùng. Một dãy nhà bé nhỏ ở phía đằng sau những lùm cỏ dại. Hunt thấy những hàng hiên chật hẹp và lò nướng thịt vỡ bể, một vài chiếc xe đạp. Steve chỉ một lần nữa. “Thấy căn nhà màu xám có chiếc xe đạp đỏ trong hàng hiên sau nhà không?”

“Thấy.”

“Căn nhà thứ ba phía bên trái của căn nhà đấy.”

Hunt đếm về phía trái, thấy một căn nhà thấp với những vết sơn loang lổ và một bụi cây nhựa ruồi chết khô ở một góc. Không đèn điện. Không có sự chuyển dịch. Ông chỉ cho Yoakum.

“Ông ta sống một mình?” Hunt hỏi.

“Tôi nghĩ vậy.”

“Ông ở ngay tại đây.” Hunt dò chừng Yoakum. “Ông sẵn sàng chưa?”

“Không chê vào chỗ nào!”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39-2


Họ nhảy qua con mương và chui vào những bụi cỏ, cong gập người, súng ngắn rút ra nòng hạ xuống. Cỏ dại mọc cao ngất ngưởng và thò những cành lá dài ẩm ướt đụng vào họ khi họ di chuyển. Sấm chớp ầm ĩ. Con đường mòn ướt đẫm và trơn trượt.

Họ dừng ở một mái che nhỏ trước cái sân trơn bao quanh nhà gã Meechum. Một mùi gì đó vương trong không khí, mùi nồng nặc hoá chất không rõ xuất xứ từ đâu.

Họ lao nhanh một đoạn ngắn chừng bảy mét cuối cùng, tựa lưng vào bức tường dưới cái cửa sổ to nhất. Nước ào thoát xuống từ những máng xối bị nghẽn. Mùi hóa chất nồng nặc, cái gì đó đang cháy. Hunt thò đầu ngó vào trong cửa sổ. Rèm cửa kéo đóng kín nhưng có một khoảng hở ở giữa. Đó là phòng khách, một khoảng không gian tăm tối với bàn ghế cũ kỹ và trần nhà thấp lè tè. Thảm màu vàng cam, tường ốp gỗ thông rẻ tiền. Meechum hệt như Steve diễn tả. Mình dây và khòm khòm, y ngồi cong người trước máy tính, áo sơ mi ướt đẫm mồ hôi. Trong lò sưởi, nhiều đĩa máy tính xếp thành chồng và đang bốc cháy. “Gã ta đốt huỷ tang chứng,” Hunt nói, khom người xuống, lao nhanh ra cửa sau. “Anh ra cửa trước. Chúng ta sẽ xông vào trong sáu mươi giây.”

Yoakum di chuyển ra phía đằng trước, để Hunt một mình trong trời mưa. Ông mạo hiểm nhìn một lần nữa xuyên qua cửa sổ. Tóc tai dựng đứng hoang dại trên đầu Meechum. Y đập tan bàn phím, rồi đập mạnh vào thành máy tính, đập một lần nữa. Hunt không thấy cây rìu cho đến khi Meechum với lấy nó. Nó dựa vào bàn, cán gỗ mại châu và lưỡi rìu rỉ sét đen ngòm ngoại trừ dọc phần lưỡi sáng lấp lánh. Cây rìu được giơ lên và mặt Meechum đanh lại, môi trề ra, hai mắt nhắm nghiền; sau đó cái rìu rơi xuống cái rầm, nhựa vỡ, và kính bay tung toé.

Máy tính.

Tổ cha.

Hunt tụt xuống khỏi cửa sổ, lao nhanh đến cửa ra vào. Ông thử núm vặn cửa. Khóa cứng. Ông kê vai vào gỗ, cảm thấy nó mỏng mảnh và rẻ tiền. Khung cửa bật tung dằm đâm tua tủa dưới sức nặng của ông, và ông lao vào trong nhà bếp, sàn nhựa trơn trượt dưới đôi chân đầy bùn của ông. Một dấu hiệu chuyển động qua cánh cửa vào phòng khách và súng của Hunt đưa lên khi ông lao vào phòng. “Cảnh sát! Cảnh sát đây. Mẹ kiếp!”

Máy tính bị chọc thủng trên đỉnh, Meechum đứng trên nó, rìu vung lên và đông cứng người khi y nhìn chòng chọc vào cái nòng súng đang chĩa về hướng mình. Ông thấy sự thất kinh trong đôi mắt của y. “Đứng im!” Hunt bước sâu vào bên trong căn phòng, đường bắn vuông góc với đối tượng. Căn phòng hôi nồng nặc mùi nhựa cháy. Meechum lắc đầu, lưỡi thò ra như lưỡi kỳ nhông.

“Hãy buông cây rìu xuống.” Hunt tìm kiếm Yoakum, sau đó nghe tiếng kính vỡ ở ngoài cửa trước.

“Hãy buông cây rìu xuống,” Hunt nói.

Khuôn mặt gã đàn ông co giật. Lồng ngực y phập phồng khi khói đen ngòm bốc lên từ ống khói. Hunt nhìn thấy sự quả quyết hằn rõ trên khuôn mặt của Meechum, ngay cả khi đằng sau cánh cửa y đứng phát ra tiếng lục đục. Hunt thấy ánh lên sắc kim loại, và Yoakum với khẩu súng giữ trên cao lao vào trong căn phòng.

Cái đầu rìu nâng lên khi xương sống của Meechum cong gập.

“Đừng,” Hunt hét lên, nhưng lúc đó đã quá trễ.

Meechum vung cái rìu, và Yoakum bắn gã xuyên thấu tim. Thi thể rớt mặt úp xuống, một cái giật nhẹ ở hai ngón tay cong. Hunt bước ngang phòng đến lò sưởi và đá những cái đĩa nhựa văng ra xa khỏi ngọn lửa. Chụp cái cây khều lửa, ông đào bới sâu hơn, xổ tung mớ nhựa đang cháy dở dang và cố gắng cứu vãn được cái nào có thể. Cuối cùng, Yoakum giúp ông ta. Năm đĩa không bị thiệt hại gì, một chục cái khác bị cháy xém. Mười cái đĩa bị cháy toàn bộ không còn cơ hội cứu vãn.

Hunt lùi bước. Giầy của ông đen ngòm, cổ họng đắng khét. Ông nhìn Yoakum, khuôn mặt ông ấy điềm tĩnh. “Ông có cần thiết phải giết gã không?” Hunt hỏi. Yoakum nhìn thi thể. “Gã định bửa ông bằng cây rìu.”

“Gã định bửa cái máy tính.”

Khuôn mặt Yoakum không hề có biểu hiện hối hận hoặc nhận lỗi. “Góc nhìn quá tệ. Tôi không nhìn thấy ông. Tôi không thể thấy ông rút súng ra đưa lên hay không. Khi tôi vừa vào phòng thì lưỡi rìu vung xuống. Tôi nghĩ gã ta bửa ông.”

“Tôi ước gì ông không giết gã.”

“Phát đạn bắn đúng lẽ.”

Hunt ngừng, rất yên lặng. “Tôi chưa bao giờ nói nó không hợp lý.”

“Nó là phát đạn đúng lẽ.” Mùi máu bốc lên trong căn phòng. Yoakum tra súng trở vào bao, hai mắt đen và bóng loáng như kính. “Hết chạy,” ông nói, và quay đi.

Năm phút sau, tiếp viện đổ đến, đi chung trong đám họ có ông Cảnh sát trưởng, và những câu hỏi, không câu nào dễ dàng. Cớm tràn ngập căn nhà. Cơn giông vẫn nặng hạt. Khi mặt trời lặn, thi thể đã được chuyển đi, những cái đĩa nhựa được gói chặt và chuyển giao cho chuyên viên kỹ thuật máy tính thượng thặng thuộc nha cảnh sát. Cảnh sát trưởng gọi thám tử Hunt và Yoakum vào trong nhà bếp. “Một lần chót. Cho tôi biết đây có phải là hắn không?”

“Chúng tôi nghĩ hắn ta có liên can với Burton Jarvis.”

“Tại sao?”

“Biển số ăn cắp. Mèo chết từ thương xá. Tờ ghi chú của Johnny Merrimon...”

“Đừng nói với tôi về tờ ghi chú của anh nhóc đó.”

“Những điểm nhận diện của gã trùng hợp,” Hunt cả quyết. “Tuổi tác, chiều cao, màu tóc. Chúng ta đã từng trải qua chuyện này ba lần.”

“Nói lại một lần nữa.”

Và Hunt giải thích mọi chuyện. Cảnh sát trưởng không hề ngắt lời. Ông ta hiếm khi chớp mắt.

“Chúng tôi thu giữ được vài cái đĩa,” Hunt kết luận. “Ổ cứng nhìn còn nguyên. Nó sẽ cho chúng ta biết nhiều hơn.”

Ông Cảnh sát trưởng nhìn từ người này đến người kia. “Tôi muốn hai ông trở về sở cảnh sát,” ông nói. “Tôi muốn cả hai ông viết báo cáo. Ngoài chuyện đó, tôi không muốn bất cứ ai trong hai ông nói một lời nào cho bất cứ ai về chuyện này, cả giữa hai ông, cả bạn gái các ông hoặc những cảnh sát khác - cho đến khi nào tôi có trong tay bản báo cáo của hai ông. Chúng ta rõ ràng rồi chứ?”

“Nghe rõ.”

Cảnh sát trưởng chỉ cái cửa. “Báo cáo. Ngay bây giờ.”

“Tôi đang muốn đi uống bia,” Yoakum đáp lời. “Chúng tôi làm báo cáo ngày mai được chứ?”

Cảnh sát trưởng không hề thích thú. “Báo cáo,” ông nói. “Từ cả hai ông. Riêng biệt. Sau đó tôi muốn hai ông về nhà và ngủ vài tiếng. Ngày mai tôi cần phải nghĩ đến chuyện làm sao giải quyết cái đống xà bần này.”

“Đống xà bần,” Yoakum nhắc lại, giọng không bằng lòng.

“Vậy theo ông phải gọi là gì?” Cảnh sát trưởng không hề lùi bước.

“Phát súng chính đáng.”

Cảnh sát trưởng chống nạnh hai tay, hếch cái cằm nhẵn thín, cong môi. “Một gã đàn ông bị bắn gục ở ngay phòng khách nhà ông ta. Nó thực sự chính đáng hơn cả lý và lẽ.”

Hunt lái xe riêng của ông nhưng Yoakum bị buộc phải đi cùng với một cảnh sát trên xe tuần tiễu. “Tôi không thích cái cảm giác này chút nào,” Yoakum nói và cả hai ông đều hiểu. Cảnh sát trưởng không muốn họ bàn bạc về bản báo cáo khi họ lái xe. Ông ta muốn họ bất ngờ và không chuẩn bị tinh thần. Hunt không thấy Yoakum khi ông đến. Ông được đón ngay tại cổng bởi một sĩ quan an ninh nội vụ tên là Matthews. Ông ta là người mới được chuyển đổi phụ trách khu vực, do vậy Hunt chỉ biết ông ta qua hình dáng và danh tiếng. Ông ta hẳn là người thông minh, tử tế. Ông ta có đôi mắt mệt mỏi và cái mồm phản đối; chân đi hơi cà nhắc khi ông ta dắt thám tử Hunt vào một căn phòng họp khác thường. Trước tiên là những câu hỏi bình thường, loại câu hỏi đặt ra sau một lần liên quan đến súng nổ, và nếu nó dài hơn bình thường, chi tiết hơn, là vì hành động nổ súng gây tử vong. Hunt tiếp nhận câu hỏi dễ dàng. Ông đã từng qua cửa ải này trước đây.

Những câu hỏi bất thình lình khác thường sau ba mươi phút.

“Ông và Thám tử Yoakum là bạn, điều đó đúng không?”

“Chúng tôi là cộng sự.”

“Câu trả lời không đáp ứng, Thám tử.”

“John Yoakum là bạn tôi.”

“Ông có bao giờ thấy Thám tử Yoakum rút súng bắn trong cơn bực tức không?”

“Không. Dĩ nhiên là không.”

“Ông ta có bao giờ dùng vũ lực quá mức không?”

“Vũ lực áp dụng như thế nào là chuyện giải pháp tình huống. Thám tử Yoakum là người luôn cẩn thận phán đoán không chê trách vào đâu được.”

“Theo nhận định của ông?”

“Đúng.”

“Như là bạn ông ta.”

“Là thám tử chỉ huy trong những vụ án lớn.” Hunt cảm thấy sức nóng dưới lớp áo. “Là một sĩ quan với mười bảy năm kinh nghiệm. Chúng ta xong chưa?”

“Thêm vài câu hỏi nữa.”

“Bắt đầu đi.”

Matthews gõ nhịp đầu bút chì xuống bàn và bật ngửa người trên ghế.

“Thám tử Yoakum có mặt ở văn phòng ông hồi sớm hôm nay?”

“Đúng.”

“Các ông thảo luận chuyện gì?”

Sự kiên nhẫn của Hunt bốc hơi. “Gần đây chúng tôi có hơn một vài thứ để thảo luận.”

Đôi môi Matthews mấp máy, nhưng nụ cười không đồng bộ với ánh mắt. “Dĩ nhiên.” Cây bút chì gõ nhịp. “Tiffany Shore. Những đứa trẻ bị thảm sát.” Ông có thể nói về một gã đầu nậu xì ke hoặc cái bẫy tốc độ bắt người.

“Tôi sẽ cho ông đúng một phút,” Hunt nói. “Sau đó tôi sẽ bước ra khỏi đây.”

Matthews nghiêng người về phía trước. “Trong khi ở văn phòng của ông ngày hôm nay, Thám tử Yoakum có nói ai đó phải đền mạng cho những gì đã xảy ra với những đứa trẻ không?”

Hunt không hề nói gì.

“Ông ta có nói như vậy không?”

“Tôi nghĩ chúng ta xong rồi.” Hunt đứng dậy.

“Ông chưa trả lời câu hỏi của tôi.”

Hunt gằn giọng. “Những gì đã nói hoặc không nói ở văn phòng tôi không liên can gì đến chuyện xảy ra ngày hôm nay. Meechum cầm cây rìu. Yoakum đã làm những gì ông ta nghĩ ông ta phải làm.”

“Ông có chắc về điều đó không, Thám tử?” Matthews ngả cái ghế ra đằng sau tựa vào tường, và Hunt không thấy điều gì vui vẻ trên khuôn mặt của gã đàn ông. “Hãy nghĩ về điều đó.”

Hunt không nói chuyện với ai khi ông rời văn phòng nha cảnh sát. Đồng hồ của ông chỉ bảy giờ khi ông bước ra ngoài văn phòng và đụng phải một cơn giông nặng hạt. Ông bước bộ, không cảm giác gì, đến xe ô tô của ông. Bên trong, không khí ẩm ướt, ngột ngạt, hai tay tìm vô-lăng, ổ khóa. Ông nhìn quanh tìm các nhóm phóng viên săn tin tức nhưng không gặp ai. Có lẽ vì thời tiết.

Ai đó đã nghe được.

Mặc dầu ông đóng cửa, nhưng ai đó đã nghe những gì Yoakum nói.

Hunt ôm chặt vô-lăng và nhớ lại cú bắn xuyên tim của Yoakum. Cây rìu vung cao, Yoakum lăn xả vào căn phòng khi lưỡi rìu vung xuống. Nhìn thì giống nhau, nhưng cảm giác thì khác biệt.

Hay cảm giác cũng giống nhau?

Sau một phút, Hunt gọi anh con trai ở nhà. Bảy tiếng chuông reo, sau đó tiếng nhạc cất lên. Hunt cố gắng che giấu sự mệt mỏi cùng tính bồn chồn tự nhiên của ông. “Này, Allen.”

“Chuyện gì đó?”

“Con ăn cơm tối chưa?”

“Con đang hút thuốc và xem phim trần truồng. Bố quan tâm gì ba chuyện này?”

Hunt cắn răng che giấu cảm xúc. “Bố sẽ về nhà trong chốc lát. Muốn bố mua gì mang về không?”

Bên ngoài, Yoakum xuất hiện sau cánh cửa trước nha cảnh sát. Ông nhìn Hunt một lần, rồi giơ một tay và làm ám hiệu cây súng bằng hai ngón tay. Hunt chớp đèn. Yoakum kéo cò súng, rồi bước về xe riêng của ông, không thèm để ý đến trời đang mưa như Hunt.

“Đồ Tàu,” Allen nói, “nhưng một giờ nữa bố hãy về nhà.”

Yoakum mở cửa xe, chui vào, đóng cửa. Cả hai ở hai đầu bãi đậu xe. Đối nghịch nhau.

“Tại sao lại một giờ nữa?”

“Bởi vì con đang bận làm việc.”

Hunt mệt mỏi bởi bức tường giữa họ, sự vững chắc của nó, cái kiểu nó mọc cao hơn mỗi ngày.

Yoakum chui vào trong xe và Hunt cảm nhận được lúc động cơ khởi động. “Bố con mình xem phim sau khi ăn nhé? Như chúng ta vẫn thường làm ấy.”

“Con không nghĩ vậy.”

“Vậy đó hả?”

“Dạ. Thì như vậy đó.”

Yoakum lái xe rời khỏi bãi đậu cùng lúc anh nhóc cúp máy. Hunt cúp điện thoại và nhìn Yoakum lao đi. Họ cần nói chuyện, nhưng Hunt không sẵn sàng. Chưa. Cũng chẳng cần gấp. Ông có một giờ. Katherine chỉ ở cách đây mười phút lái xe. Ông nghĩ về chuyện này, rồi đề máy xe. Ông lái năm dặm dưới vận tốc quy định, chiếc ô tô bám chắc mặt đường trơn bóng như kính, nhưng khi đến gần vùng ven thị xã, ông phóng xe nhanh hơn. Ông muốn tìm gặp bà, ông nhận ra như vậy. Trong giờ phút đó, mưa rơi xuống mặt đường và hắt lên như một dòng sông nước đen ngòm, ông muốn gặp bà hơn bất kì điều gì khác.

Ô tô của ông leo lên ngọn đồi sau đó tụt dốc, đèn xe chiếu xuống, những ngôi nhà nhỏ bé hiện ra ở phía dưới. Khoảng cách giữa chúng được chia đều, ánh đèn đường hắt ra và sắc màu buồn tẻ cuộn vào trong những hàng cây; nhưng căn nhà của Katherine lại khác hẳn. Hunt cho xe chậm lại và hụp đầu xuống nhìn qua kính trước bị hơi nước phủ một lớp màng nhẹ. Đường dẫn vào nhà bà trống rỗng, xe của bà vẫn còn đang bị tạm giam, nhưng những xe tải săn tin tức đậu đầy hai bên đường. Chín chiếc. Chục chiếc.

Hunt quay đầu khi ông lái xe ngang họ. CNN. FOX. WRAL. Cả đống khác. Ông rẽ xe vào đường dẫn, vượt qua sát một chiếc xe tải gần nhất, và cửa mở tung khi một đám đông phóng viên túa ra đường trong cơn giông. Họ dầy dạn kinh nghiệm không tràn vào trong sân nhà bà Katherine, nhưng hò hét đặt câu hỏi trên đường phố ngay sau khi Hunt bước xuống giữa cơn mưa.

Ông tìm được Johnny chưa?

Sự thật có phải cậu ấy dẫn dắt ông tìm được kẻ sát nhân hàng loạt những đứa trẻ?

Những máy thu hình đã chuẩn bị hoạt động trong thời tiết xấu. Giới truyền thông thượng thặng mặc áo mưa nhưng nhanh chóng bị ẩm ướt và dơ bẩn. Những câu hỏi tiếp tục. Không thứ tự. Không rườm rà nghi thức. Họ chờ đợi từ lâu trong cơn mưa, và Hunt sẵn sàng đi vào căn nhà.

Thám tử, sự thật có phải con số tử thi bây giờ là bảy mạng không?

Đó là Băng tần số chín. Hunt biết gã ấy.

Cô bé Alyssa Merrimon có mặt trong con số tử thi không?

Tiếng nói lớn hơn.

Thám tử? Thám tử?

Những câu hỏi đến nhanh hơn, hét vang xuyên qua trời mưa tầm tã. Hunt quay lưng. Katherine mở cửa ở tiếng gõ cửa lần thứ hai, bé nhỏ, xanh xao và xinh đẹp.

Bà Merrimon...

Náo động. Hunt đứng giữa bà và những máy camera ghi hình. Nụ cười của bà không gượng ép như Hunt lo ngại nó sẽ thế. “Tôi được phép vào chứ?” Ông hỏi.

Bà để ông vào nhà, đóng cửa. “Johnny sao rồi?”

“Chưa.”

Bà bước qua một bên và Hunt trút bỏ chiếc áo khoác ướt đẫm. Chỉ một ngọn đèn cháy sáng trong căn nhà. Bà hé tấm rèm cửa và nhìn ra ngoài. Một tách cà phê nguội lạnh trên cái bàn cạnh ghế sofa. “Điều đó có thật không?” Bà nhìn ông bằng một con mắt đen thẫm, sau đó nhìn ra bên ngoài. “Họ nói những gì?”

“Họ nói những gì?”

“Rằng ông tìm được một hố chôn tập thể. Mà nó không thể nào phát hiện được nếu không nhờ Johnny.”

“Điều đó đúng.”

“Tôi không thể nào hỏi câu ấy.”

“Chúng tôi không có lý do nào tin rằng thi thể của Alyssa nằm ở đấy. Nhưng...”

“Nhưng sao?” Bà xoay người khỏi cửa sổ, đôi mắt mong manh, cằm nghiêng.

“Chúng tôi chưa hoàn tất tìm kiếm tất cả các thi thể. Cơn giông buộc chúng tôi phải ngưng tạm thời.”

“Vậy thì ngày mai?”

“Ngày mai, chúng tôi sẽ xem sao.”

Bà khoanh tay ôm lấy cơ thể. “Tôi lấy cho ông tách cà phê nhé? Hay trà? Tôi không có món gì nặng hơn.”

“Cà phê thì rất tuyệt vời.” Giọng bà thiểu não, Hunt nghĩ, nhưng bà cố gắng giữ vững mọi chuyện tươm tất hơn ông hy vọng bà có thể. “Tôi chỉ được phép có vài phút.”

“Cà phê.” Bà xoay người.

“Cảm ơn, Katherine.”

Bà rót cà phê vào tách và trao cho ông. “Vậy thì không có gì cả? Không một lời nào cả?”

Bà hỏi về Johnny. “Không,” ông nói. “Tôi xin lỗi.” Bà nhìn ra cửa sổ và cơn giông tít đằng xa, rồi sau đó ngồi xuống ghế sofa và Hunt ngồi cạnh bên. “Cậu bé là đứa trẻ cứng cỏi,” Hunt nói. “Chúng tôi đang tìm kiếm.”

“Ông có thể làm gì hơn được không? Bất cứ điều gì? Lệnh báo động chẳng hạn?”

“Những cái đó không bao giờ áp dụng ngoại trừ có chứng cớ rõ ràng là một vụ bắt cóc, và chúng tôi không tin cậu bé bị bắt cóc. Tất cả những chứng cớ cho thấy cậu bé tự ý bỏ đi. Ở một nơi nào đó. Căn cứ trên những gì đã từng làm trong quá khứ...”

Bà nhắm mắt, vỗ tay trên đùi. “Johnny...” Bà lắc đầu. “Tổ cha, Johnny. Giờ này con ở đâu?”

“Cậu bé là đứa trẻ thông minh, Katherine. Cậu bé sẽ không sao. Chúng tôi sẽ tìm được cậu bé.”

Khi bà mở mắt, mặt bà bóng như gương soi, và Hunt thấy rằng bà sẵn sàng chuyển hướng câu chuyện sang đề tài mới. “Gã Ken đến đây ba lần trong hôm nay.”

Hunt giấu sự lo lắng bất thình lình. “Tôi lại nghĩ gã ta bỏ qua rồi. Gã nói như vậy mà.”

“Đó không phải là chuyện Ken Holloway làm. Nếu gã nói với ông như vậy, gã nói láo.”

“Có đe dọa gì không?” Hunt hỏi.

“Gã đập cửa, thều thào nói những lời xấu xa.”

“Gã có nói bất cứ lời đe dọa nào không?” Hunt gặng hỏi. Ông có thể truy tố Holloway về chuyện buông lời hăm dọa. Nó sẽ rất hợp với việc truy tố về cản trở công lý. Chúng chỉ là những truy tố quá tầm thường đối với người như gã Holloway, nhưng sẽ khiến gã bị tống giam ngay dù chỉ là một thời gian ngắn. Chúng sẽ giúp cách ly gã khỏi Katherine.

“Chúng ta có thể ngồi không?” Bà hỏi. “Chúng ta có thể chỉ ngồi trong yên lặng được không?”

Hunt bỏ qua sự bực tức và lo lắng. “Được,” ông nói, và họ ngồi trong khi tách cà phê của ông nguội dần, và nhóm phóng viên săn tin tức buông tay và trèo trở vào trong xe. Sau một lúc, Hunt để ý bà ta ôm chặt cái gì ở giữa hai tay, ép hai bàn tay vào với nhau và nhét vào giữa cặp đùi.

“Tôi ở trong phòng Johnny hồi sớm ngày hôm nay. Ông biết...”

Bà bỏ lửng và Hunt có thể thấy bà vào trong ấy, sờ mó đồ vật của con trai, khó khăn vất vả dìm nén nỗi sợ hãi và nghi ngờ.

“Tôi tìm thấy những cái này.” Bà mở lòng bàn tay và Hunt thấy một xấp danh thiếp. Chúng nhăn nhúm và ẩm ướt. Bà nhìn lên, chạm ánh nhìn của ông. “Cả thảy mười chín cái.”

Một cú sốc rõ ràng hiện trên khuôn mặt bà và Hunt cảm thấy một sự ngượng ngùng bất thình lình và lạ kỳ. “Tôi muốn Johnny biết có ai đó để gọi điện thoại,” Hunt nói. “Nếu chuyện trở nên tồi tệ.”

Bà gật đầu, không ngạc nhiên. “Sau khi tìm được chúng, tôi tìm quanh nhà và tìm tất cả danh thiếp ông đã đưa cho tôi. Tôi đã vứt đi khá nhiều, tôi biết điều đó, nhưng tôi vẫn tìm thấy cả chục cái.”

“Đó là công việc của tôi,” Hunt nói.

Sự rõ ràng không hề do dự. “Thật vậy sao?” Hunt nhìn đi chỗ khác. “Ông lúc nào cũng có mặt bên cạnh chúng tôi.”

“Bất cứ người cảnh sát tử tế nào cũng làm tương tự như vậy.”

“Tôi không nghĩ như vậy.” Một lần, vai của bà chạm vào người Hunt, và ông cảm được một luồng xung điện, một luồng lửa xanh thẫm phập mạnh và đau. “Cảm ơn,” bà nói, và họ ngồi trong yên lặng, hai người, cạnh bên nhau. Bà kéo chân mình lên, đặt hai tay vào trong đùi và tựa đầu bà vào bờ vai của ông. Hunt cảm nhận được cánh tay nhỏ bé của bà ép mạnh vào ông, hơi ấm làn da của bà khi mưa lạnh đang rơi vần vũ ngoài cửa sổ. “Cảm ơn,” bà nói một lần nữa.

Và Hunt ngồi lặng lẽ như tượng đá.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 40


Cơn giông gió tối sầm trời đất làm Johnny không còn nhìn thấy ánh mặt trời khi nó lặn xuống đằng sau vòng cong của trái đất. Mưa rơi lạnh rát da thịt, và nhiệt độ cũng giảm xuống phần nào. Không khí chuyển từ xám đến xanh đến gần đen sẫm, nhưng Johnny không hề di chuyển, ngay cả khi sấm sét rạch đôi bầu trời bằng một ánh chớp chói loà với tiếng nổ như chém vỡ đôi gạch đá. Cậu co gập người. Cậu dựa lưng vào bức tường và nhìn Levi Freemantle xúc bới những bệt đất cát sũng nước cuối cùng xuống mộ huyệt, rồi sau đó làm nhẵn bề mặt mộ phần bằng chiếc xẻng và ngồi xuống. Nước xối xả tuôn xuống người gã, và gã hoà cùng với đất ướt cứ như là bùn đất dâng lên cao xung quanh gã. Cảm giác không có gì là thật. Johnny không hề động đậy khi Jack chồm người qua bức tường và gọi, “Johnny.”

Vài giây trôi qua. “Cậu bỏ tớ,” Johnny nói.

Jack chồm người xa hơn qua bức tường, đầu hắn thật gần. “Cậu sẽ bị giết ở ngoài này.”

“Sấm chớp đánh.”

“Điều đó có nghĩa là gì?”

“Không có gì. Tớ không biết.” Bầu trời loé sáng. Johnny trỏ vào cây sồi cũ. “Đó là cái cây mà họ treo cổ người ta.”

Jack nhìn cái cây xương xẩu, những cành khổng lồ của nó xoè ra và ngả nghiêng, đen ngòm khi sấm chớp đánh. “Làm sao cậu biết?”

Johnny xoay vai. “Cậu không cảm nhận được sao?”

“Không.”

“Nghĩa trang xây dựng xung quanh nó. Ba cái bia đặt ngay gốc cây.” Cậu giơ ngón tay lên. “Thấy nó nhỏ bé như thế nào. Thấy nó được đục đẽo nham nhở như thế nào không?”

“Tớ chẳng thấy cóc nhái gì ráo.”

“Nó nằm ngoài đó.”

“Cậu quẫn trí mất rồi, Johnny.”

Johnny không nói gì.

“Có cái bếp lò ở nhà kho nông trại. Tớ nhóm lửa rồi đó.”

Johnny nhìn chằm chằm vào gã Freemantle. “Tớ không thể rời chỗ này.”

“Cậu đã ở ngoài này nhiều giờ lắm rồi. Gã ta chẳng đi đâu cả. Nhìn gã đi.”

“Tớ không thể liều mạng như vậy.”

“Cậu suy nghĩ kỹ về chuyện này chưa? Suy nghĩ thật kỹ về nó chưa? Gã ta chôn đứa con của gã, trời ơi, và nhìn dáng dấp cái quan tài, tớ dám nói gã chôn con bé đó lần thứ hai. Có nghĩa gã đào bới con bé từ mộ phần ở nơi nào đó. Cậu có biết con bé chết vì sao không? Hay tại sao gã lại mang con bé ra tít tận ngoài này để chôn cất mà chẳng có ai xung quanh nhìn thấy gì?”

“Chúng ta thấy.”

“Chúng ta cũng không hề biết con bé có thực sự là con gã hay không.”

Ánh sáng chan hoà từ đám mây thật xa. “Nhìn gã đi.” Cả hai cậu con trai nhìn gã Freemantle đổ ụp xuống, rã rời tan hoang bởi sự đau khổ rất thật không thể nào nhầm lẫn được. Jack hạ giọng xuống. “Cậu có tự hỏi tại sao gã lại máu me đầy mình và bị thương tật đến như vậy không? Cái lý do chính mà gã nhấc bổng cậu lên hôm nọ là gì?”

“Chúa sai khiến gã làm như vậy.”

“Đừng có làm cái giọng tài lanh với tớ đi. Khi gã này trở vào từ ngoài trời mưa, chúng ta phải nghĩ ra cách làm gì gã ta. Tớ không muốn là người duy nhất suy nghĩ về chuyện này.”

“Tớ chỉ có một câu hỏi, và khi gã vừa xong việc này” - Johnny chỉ trời mưa, nghĩa địa và bùn lầy - “Tớ sẽ hỏi gã.”

“Và nếu gã không trả lời?”

“Tớ đã giúp chôn cất con gái của gã.”

Giọng Jack to hơn. “Nếu gã không chịu trả lời?”

“Đưa cây súng cho tớ,” Johnny nói.

“Cậu dọa gã, gã sẽ giết chúng ta.”

Johnny chìa cánh tay ra. Jack nhìn gã khổng lồ ngồi trong bãi sình, rồi thả cây súng vào lòng Johnny. Nó lạnh, ướt và nặng nề.

“Tớ sẽ làm,” Johnny nói.

Nhưng Jack đã biến mất.

Johnny quan sát người đàn ông, trời mưa, bùn đất và sự tĩnh lặng, bùn dâng cao. Sau một phút, cậu thọc tay vào túi. Khi lôi tay ra khỏi, tay cậu cầm một cọng lông, bé nhỏ, màu trắng và bị đè nát. Cậu cầm nó một lúc thật lâu, nhìn nó tàn tạ ủ rũ trong trời mưa tầm tã. Cậu suy nghĩ thật kỹ về chuyện vứt bỏ nó đi, nhưng vào giây phút cuối cậu đóng gập những ngón tay lại, súng một tay, cọng lông cuối cùng ở tay bên kia.

Nhiều giờ sau đó, sấm chớp yếu dần về hướng bắc. Nước mưa nhỏ xuống qua những tán cây. Gã Freemantle nhìn lên những đám mây đang bay, dấu hiệu trăng ở ngay đằng sau. Đó là lần đầu tiên gã chuyển dịch kể từ khi làm trơn láng phần mộ phía bên trên cho con gái của gã. Không có dấu hiệu nào về Jack, không còn sự van nài xuất phát trong trời mưa. Một cuộc thao dượt chậm rãi hàng giờ, ánh chớp và tiếng nổ, cơn giông trút nước lạnh xuống. Có tảng đá cứng sau lưng Johnny, hai tảng như vậy, cách xa sáu mét và nằm bất động. Điều đó vẫn không hề thay đổi.

Johnny nhét cọng lông trở vào túi quần sau, nhét cây súng dưới áo.

Freemantle đẩy người lên và trố mắt nhìn sau trận giông bão. “Tôi nghĩ trời đánh tôi rồi.” Trong bóng tối, mắt gã như bình mực bị đổ tràn, mồm của hắn rách toang hoác giữa ngạc nhiên và thất vọng. Trời quá nửa đêm, đoạn đường khó khăn vất vả đã ở đằng sau lưng họ. Freemantle nhặt cái xẻng và đôi giầy vứt bỏ của gã. Dùng cái xẻng như nạng chống, gã bước bộ đi quá Johnny. “Không có gì phải lưu tâm. Công việc đã xong.”

“Tôi cần nói chuyện với ông.”

“Tôi xong công việc rồi.”

Cánh cửa trắng bung mở trên những bản lề yên lặng. Freemantle di chuyển chậm chạp và Johnny theo sát đằng sau gã. “Làm ơn.”

“Tôi mệt mỏi lắm.”

Mệt, Johnny nghĩ. Và ốm. Cậu có thể ngửi được mùi nhiễm trùng trong không khí đến từ gã khổng lồ. Gã vấp một lần khi cái nhà kho mỗi lúc một gần. Da của gã chai cứng và nóng. Gã tí xíu nữa là ngã lăn. “Mệt,” Freemantle nói, và sau đó họ có mặt ở cái nhà kho. Bên trong, Johnny thấy bụi bặm và rơm rạ và những dụng cụ kim loại, hai cái đèn bão lớn treo trên sợi dây xích. Hơi nóng cuộn lấy họ khi cả hai bước qua cánh cổng. Ở góc xa, một cái lò gang nung đứng trên nền gạch. Khung lò hình tròn, và than đỏ hồng đằng sau những thanh sắt gá. Jack nằm dài trên một đống rơm, áo jacket của hắn được cuộn tròn làm gối. Hắn nhảy dựng lên khi Freemantle đóng cửa.

“Không có gì,” Johnny nói, bước đến gần hơn. Đôi mắt của Jack phản chiếu ánh than hồng trong lò.

“Cậu khóc à?” Johnny hỏi.

“Không.”

Nó là lời nói láo, nhưng Johnny làm ngơ bỏ qua. Trong không gian hẹp của nhà kho, bóng người kéo dài ra. Freemantle nhìn to lớn và nguy hiểm. Johnny cất giữ cây súng vào chỗ khuất. “Tôi là Johnny. Đây là Jack.”

Freemantle trố mắt nhìn. Hai mắt của gã màu vàng tối, đôi môi nứt nẻ sâu đến nỗi lòi cả thịt. “Levi.” Gã tuột cái áo ra và treo nó lên cây đinh gần cái bếp. Ngực và cánh tay của gã to lớn với bắp thịt cuồn cuộn. Một cái sẹo mỏng dài, nhìn như là vết thương dao chém, một nếp nhăn dúm dó có thể do đạn bắn. Cành cây bên hông gã ta lởm chởm và đen ngòm.

“Vết thương đó nhìn nặng lắm,” Johnny nói.

“Nó chỉ đau nếu tôi cố gắng lôi nó ra.”

Mùi bốc lên, ướt và sình đất. Nơi Levi đứng, nước nhỏ xuống gạch, tan biến còn một vết tối mù, và biến thành hơi nóng. Mí mắt của gã rũ xuống. “Gần đến rồi đấy,” gã nói.

“Cái gì?”

Gã mở mắt ra. “Quên mất tôi đang ở đâu.”

Johnny mở mồm, nhưng Jack nói trước. “Tại sao ông mang chiếc quan tài ra ngoài này?”

Gã Freemantle buồn bã với cặp mắt màu vàng đang lên cơn sốt. “Tại sao tôi mang nó?”

“Tôi chỉ hỏi.”

“Tôi không lái được ô tô. Mẹ tôi nói lái xe là chuyện của người khác.” Mắt gã lơ mơ khép và cơ thể nghiêng về bên trái; gã lảo đảo loạng choạng một lần để không ngã. “Mẹ nói...”

“Ông không sao chứ hả, ông?”

Mắt gã chớp mở. “Ai muốn biết?”

“Tên tôi là Johnny, nhớ chứ?”

“Tôi không biết người nào tên Johnny.”

“Ông cần đi nhà thương. Ông cần gặp bác sĩ.”

Freemantle làm lơ cậu và cà nhắc bước vào chỗ cái kệ ở bức tường đằng xa. Johnny thấy dầu máy, thuốc chuột, những đồ dùng kim loại treo trên móc, và giẻ rách khô đét lại vì năm tháng. Freemantle lượm con dao lam cắt hộp rỉ sét và một chai nhựa vương đầy tơ nhện. Gã ngồi bên đống lửa và cắt bỏ đi hai ống quần, vứt mảnh vải xuống đất cạnh cái lò bếp. Nắp chai được bật mở và gã đổ thứ nước lỏng màu nâu vào vết thương trên đầu gối. Jack xuất hiện sát cạnh Johnny. “Thứ đó cho súc vật mà,” hắn thì thào.

“Tào lao.”

“Nó ghi là chỉ để bác sĩ thú y sử dụng.” Hắn chỉ và hai anh nhóc nhìn. Không biết nó là thứ gì, nó gây đau đớn khi gã đổ lên đầu gối.

“Ông không sao chứ hả?” Cuối cùng Johnny cũng hỏi. Freemantle gật đầu, sau đó nghiêng cái chai vào vết thương bên hông. “Ông cần thuốc kháng sinh.”

Freemantle bỏ lơ. Gã cố gắng kéo miếng vải buộc ở ngón tay, nhưng thịt chỗ đó sưng tấy to tướng làm mảnh vải cắn chặt vào như dây kẽm. Gã cắt bỏ miếng vải, và Johnny thấy vết thương tơi thịt do răng cậu cắn vào. Cậu quay mặt đi chỗ khác khi Freemantle đổ thêm chất lỏng vào ngón tay. Hai lần. Ba lần. Bắp thịt của gã cứng đờ, giãn ra, và sau đó gã nằm trên tảng đá. “Mấy đứa nhóc tụi bay lẽ ra không nên ra ngoài này làm gì.”

“Tôi chỉ muốn nói chuyện.”

“Tôi xong công việc rồi,” Freemantle nói.

“Làm sao con gái ông bị thiệt mạng?”

“Chúa ơi, Jack. Im mồm.” Johnny bực tức rít trong cuống họng. Cậu đang có mặt ở đây, và bây giờ, và Jack sẽ làm hỏng hết mọi chuyện.

“Họ nói ông giết những người đó.” Giọng Jack như đóng đinh. “Nếu ông có một lý do chính đáng, thì tôi không phải lo lắng nhiều về chuyện ông sẽ giết chúng tôi.” Jack đã chuẩn bị tẩu thoát. Hắn đã chuẩn bị tư thế ở góc độ lao ra cửa.

Levi Freemantle ngồi dậy chậm rãi. Hai mắt gã càng vàng đậm hơn, da gã như tro bụi.

“Giết những người nào?”

Gã biết người nào. Johnny thấy nó rõ ràng như ban ngày. Một sự cảnh giác hiện lên trong ánh mắt gã ta. Một sự căng thẳng mới trên đôi vai của gã. Những ngón tay của Johnny nằm trên cây súng lận dưới áo. Freemantle thấy sự chuyển động, và mắt họ nhìn nhau. Gã nhớ có cây súng. Johnny cũng thấy điều đó.

Bất thình lình tất cả mọi chuyện đổ ập. Freemantle quỵ người xuống. “Họ có thể bắt tôi bây giờ. Bắn tôi đi. Tôi cóc cần.”

Tay của Johnny buông cây súng ra. “Bởi vì ông đã chôn cô bé.”

“Bởi vì con bé không còn nữa.”

“Vì sao cô bé thiệt mạng?”

Freemantle lôi một chiếc phong bì ướt đẫm từ túi quần trước. Nó nhàu nát, quá ẩm ướt gần như hoá bột. Phần lớn mực đã nhoè, nhưng Johnny nhận ra được tên của Freemantle. Địa chỉ là Nha Cải Huấn. Freemantle vứt cái phong bì và Johnny nhặt nó lên. Bên trong là bài báo được cắt từ tờ nhật báo. Những mảnh vụn giấy báo tơi ra trên ngón tay của Johnny. “Ai đó đọc hộ những chữ đó cho tôi,” Freemantle nói.

“Cái gì vậy?” Jack hỏi.

Nhưng Johnny đang cố gắng đọc. Tít lớn tờ nhật báo rõ ràng. “Đứa trẻ thiệt mạng trong xe nóng.”

“Trẻ con là một món quà.” Gã Freemantle nghiêng đầu và con mắt hỏng bốc cháy. “Sự thật cuối cùng.”

“Họ đã bỏ rơi con gái của gã trong xe ô tô.” Johnny liếc. “Họ bỏ đi uống rượu ở một quán rượu trên bờ biển, và họ bỏ con bé trong xe.”

“Vợ tôi,” Freemantle nói. “Và nhân tình của bà ta.”

“Có một cuộc điều tra. Cớm đưa ra phán quyết là tai nạn.”

“Họ mai táng con bé không có mục sư, chỉ bỏ nó xuống lòng đất với những người không có tên hoặc gia đình. Vợ tôi chưa bao giờ nói với tôi chuyện này. Tôi không có mặt ở đó để nói lời từ biệt.” Gã dừng lần nữa, rồi giọng của gã nức nở. “Sofia đi vào lòng đất không có bố con bé ở đấy nói lời giã biệt.”

“Ai gửi cái này đến cho ông?” Johnny đưa tờ báo cắt lên. Nó là một tờ nhật báo của phố biển.

Nhưng Freemantle lại đi lạc đề lần nữa, hai mắt thất thần, hai tay đặt trên đầu gối. “Tôi để lại cho con bé nhà tôi một bức ảnh để nó không thiếu vắng tôi. Tôi vẽ nó trong tủ quần áo của nó để nó có thể thấy mỗi ngày và không đau buồn khi cha nó không có nhà. Nó thích chơi đùa trong tủ áo. Nó có một con búp bê với đôi giầy bé tí xíu màu trắng.” Gã giơ lên hai ngón tay, cách khoảng ba phân. “Con bé có một ít bút chì sáp để tô màu, một ít giấy tôi mang về nhà từ cửa hiệu. Đó là lý do tại sao tôi vẽ trong tủ áo, bởi vì con bé cảm thấy thích hợp, bởi vì đó là chỗ chơi đùa của nó.” Gã nghiêng cái đầu to lớn. “Nhưng một bức ảnh không thể giúp được ai điều gì. Bức ảnh không thể giữ an toàn cho một đứa bé gái.”

“Tôi rất tiếc.” Johnny thành thực.

“Ai gửi cho ông tờ giấy cắt từ nhật báo?” Jack hỏi.

Freemantle chùi những ngón tay của gã ngang khuôn mặt. “Một bà hàng xóm có hai đứa con. Bà ta không bao giờ ưa vợ tôi. Bà ta biết được chuyện và gửi phần cắt tờ nhật báo đến nhà tù cho tôi. Đó là lý do tại sao tôi trốn tù, để tôi có thể đứng ngay trên huyệt mộ con gái tôi và chắc chắn mọi nghi thức được làm đúng và tươm tất, nhưng nó chỉ là đất trơ rồi đụn lên cái mô ở giữa. Không có hoa, không có bia đá. Tôi ngồi xuống và thọc tay vào đất. Đó là khi Chúa nói với tôi.”

“Nói với ông điều gì?”

“Ngài nói với tôi giết chúng đi.”

Hai anh nhóc nhìn nhau và cả hai có cùng ý nghĩ.

Mất trí.

Điên cuồng mất trí hết cỡ.

“Chúa nói với tôi mang con gái tôi đến đây.” Freemantle nhìn lên, và một đời sống mới khuấy động trên sa mạc của khuôn mặt gã. “Trẻ con là quà tặng.” Gã bụm hai bàn tay khổng lồ dập nát. “Điều đúng đắn cuối cùng. Đó là lý do tại sao Chúa nói với tôi nhấc bổng cậu lên.”

“Cái gì?”

“Đời sống là một vòng tròn. Đó là điều Ngài dặn tôi nói với cậu.”

“Johnny...” Đó là Jack, tiếng kêu thật nhỏ nhẹ. Johnny đưa một bàn tay lên.

“Chúa nói ông nói với tôi điều đó?”

“Giờ thì tôi nhớ rồi.”

“Cái đó có ý nghĩa gì?”

“Johnny...” Giọng của Jack thúc bách hoảng sợ. Johnny rời mắt khỏi Levi Freemantle. Thằng bạn của cậu xanh nhợt và cứng đờ. Johnny dõi theo ánh mắt của Jack đến cái đống vải vóc bẩn thỉu bên cạnh cái lò. Vải quần bị xé rách. Mảnh băng vặn vẹo từ ngón tay bị nhiễm trùng. Jack trỏ và Johnny thấy nó. Một bảng tên may vào trong miếng vải gã Freemantle dùng làm băng gạc. Một bảng tên. Một cái tên.

Alyssa Merrimon.

Đầy máu và loang lổ.

Johnny nhìn Freemantle, gã vẽ một hình dạng trên không trung bằng một ngón tay.

“Vòng tròn,” gã nói.

Và Johnny móc cây súng ra.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 41


Hunt về nhà trễ hơn dự định. Bữa ăn tối nguội lạnh đựng trong cái túi, nhưng Allen không ý kiến. Họ ăn ở nhà bếp, ăn chung trong yên lặng, và sự căng thẳng giữa hai bố con được tháo bỏ từng đợt một. Ở cánh cửa vào phòng anh con trai, Hunt xin lỗi. “Chỉ vì vụ án này,” ông nói.

“Được rồi.”

Hunt nhìn anh con trai cởi bỏ, đá văng đôi giầy bẩn thỉu. “Vụ án này cũng sắp chấm dứt nay mai.”

“Đại học sẽ khai giảng trong ba tháng tới.” Hắn lột áo thun và vứt nó theo sau đôi giầy. Ngực hắn đầy lông măng, nhú lên từ chỗ lõm ở đáy cổ. Anh con trai của ông đã trưởng thành, Hunt nhận ra như vậy, hắn trổ mã như một người đàn ông nhưng vẫn là anh con trai trong tâm khảm của ông. Hunt ngừng lại, biết rằng chẳng có lời nói nào thốt ra có thể làm cho tình hình khá hơn.

“Con trai...”

“Bà ấy không bao giờ gọi.”

“Ai?”

“Mẹ con,” hắn nói, và không có biểu hiện gì trên khuôn mặt anh con trai.

“Bố không biết phải nói gì.”

“Không cần phải nói bất cứ điều gì.”

Anh con trai đau khổ, bực tức.

“Allen, bố...”

“Đóng cửa lại đi.”

Hunt không thể cử động.

“Làm ơn,” Allen nói, và cái nhìn trên khuôn mặt của hắn là một cú đấm vào trong phủ tạng, như là búa bổ. Một tảng đá nằm đè lên trên trái tim của Hunt và nó mang sức nặng của hàng triệu sự hoài vọng sụp đổ, có một điều chắc chắn là lẽ ra nó không nên như thế này đối với con trai của ông.

“Làm ơn,” Allen lặp lại lần nữa, và Hunt không có chọn lựa.

“Ngủ ngon, con trai.”

Hunt đóng cửa, đi thẳng xuống cầu thang. Ông nhét thùng các tông và những túi giấy vào thùng rác, rồi rót một ly Scotch mà ông biết sẽ không thể uống cạn ly. Chuyện của cả một ngày đổ ập lên ông: cái chết và những kẻ đáng khinh miệt, đời sống của những đứa trẻ bị cắt cụt, và một chuỗi những câu hỏi vẫn chưa có câu trả lời. Ông muốn tắm mát và mười tiếng nghỉ ngơi. Dưới những ngón tay của ông, cảm giác khuôn mặt như của một gã già khụ nào đó. Ông bước vào phòng đọc sách, mở khóa ngăn kéo và lôi ra tập hồ sơ vụ án của Alyssa Merrimon. Ông nhìn tấm ảnh của cô bé một hồi lâu, đọc sơ qua những ghi chú, những câu hỏi được ghi, nhưng đầu óc ông nghĩ đến Yoakum. Ông hồi tưởng giây phút gã Meechum bị thiệt mạng, mùi thuốc súng và đôi tay vững chắc của Yoakum, đôi mắt ông ta, bóng như gương và không động tĩnh. Cú điện thoại gọi vào lúc mười hai giờ rưỡi. “Ông vẫn còn thức chứ?” Yoakum hỏi.

“Ừ.”

“Xỉn chưa?”

Hunt đóng hồ sơ Alyssa. “Không.”

“Tôi say rồi.”

“Chuyện gì vậy John? Ông muốn nói chuyện gì?” Hunt biết câu trả lời.

“Bọn mình làm nghề này bao năm rồi?” Yoakum hỏi.

“Lâu quá rồi.”

“Cộng sự?”

“Và bạn bè.”

Một quãng yên lặng, hơi thở Yoakum trên đường dây. “Ông nói với họ những gì?” Cuối cùng ông ta cũng hỏi.

“Tôi nói với họ những gì đã xảy ra.”

“Đó không phải là chuyện tôi muốn hỏi và ông biết mà.”

Hunt hình dung ông bạn mình, thấy ông ta trong căn nhà nhỏ, một cái ly cầm trong tay, trong phòng khách, nhìn vào đống tro tàn của đống lửa đã nguội lạnh từ lâu lắm. Yoakum đã sáu mươi ba tuổi. Ông ta làm cớm đã hơn ba mươi năm; đó là tất cả những gì ông ta có. Hunt không trả lời câu hỏi.

“Ông là bạn của tôi, Clyde. Gã ta toan tính bủa ông bằng cái rìu. Tôi phải làm gì lúc ấy?”

“Đó có phải lý do mà ông bắn xuyên tim gã không?”

“Dĩ nhiên.”

“Nó không phải sự tức giận? Trả thù à?”

“Cho cái gì?” Một sự bực dọc khác nào đó đang bước tới.

“Ông biết cho cái gì mà.”

“Nói tôi nghe, Clyde. Ông nói tôi nghe cho cái gì?”

“Cho những đứa trẻ. Cho bảy nấm mồ trong cái khoảnh rừng đầy bùn sình. Cho những năm tháng của rác rưởi xà bần nằm ngay trong sân nhà ông.”

“Không.”

“Tất cả những năm tháng qua, Yoakum. Những năm tháng qua tôi chưa hề thấy ông làm điều gì có tính cá nhân. Hôm nay nó là chuyện cá nhân.”

“Một gã giết người sắp sửa bủa rìu xuống cộng sự của tôi. Hắn bủa rìu xuống bạn tôi. Ông có thể gọi nó là chuyện cá nhân, nhưng ông cũng có thể gọi đó là chuyện nghề nghiệp. Bây giờ, ông đã nói gì với bên an ninh?”

Hunt ngần ngại.

“Ông có nói với họ phát súng đó chính đáng không?”

“Chúng ta dựa trên sự kiện. Họ có hỏi về ý kiến của tôi, nhưng tôi không phát biểu.”

“Nhưng ông sẽ.”

“Ngày mai,” Hunt nói. “Ngày mai tôi sẽ.”

“Và ông sẽ nói với họ những gì?”

Hunt với tay cầm ly rượu Scotch. Trong cái ly lùn, pha lê cắt góc, một ánh sáng nhỏ lóng lánh trong rượu. Ông cho chạy lại khoảng thời gian trong đầu, cái rìu bủa xuống, Yoakum bước vào phòng. Ở góc độ của ông ta nó nhìn như thế nào? Ông ta có cần thiết phải bắn tử thương đối tượng hay không? Cái máy vi tính nằm khuất một bên, nhưng khuất thế nào? Hunt đặt mình vào thế của Yoakum. Ông nghĩ ông có thể thấy nó, cái kiểu nó có thể được nhìn thấy như vậy. Nhưng Yoakum lên tiếng trước khi Hunt có thể. “Ông đã truy tố gã Ken Holloway về tội cản trở công lý chưa?”

Sau vụ bắn thiệt mạng Meechum, Hunt hầu như quên béng cú điện thoại của Holloway. “Chưa,” ông nói.

“Nhưng ông sẽ làm chứ hả?”

“Tôi sẽ.”

Yên lặng trên đường dây, và nó là những giây phút tồi tệ. Hunt nốc cạn ly Scotch. Ông biết chuyện này sẽ đi về đâu, và cầu nguyện nó sẽ không xảy ra.

“Những chuyện như thế này sẽ không bao giờ xảy ra nếu chúng ta không lôi gã Holloway can dự,” Yoakum cuối cùng lên tiếng. “Chúng ta sẽ bắt giữ gã Meechum ở thương xá. Không bắn hạ. Không đốt tang chứng. Kế hoạch do ông, Clyde, ông là người hoạch định. Đó là chuyện cá nhân.”

Chiếc điện thoại dường như kêu o o trong tay Hunt. “Chào ông, Yoakum.”

Giây phút yên lặng nặng nề. “Chúc ngủ ngon, Clyde.”

Đường dây điện thoại im bặt.

Hunt đổ thêm một ly Scotch.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 42


Gã Freemantle trố mắt nhìn cây súng. Nó run run trên tay Johnny. Giọng Johnny cũng lập cập.

“Con bé ở đâu?”

Jack đẩy gần hơn, lo lắng. “Johnny, cậu làm trò gì vậy?”

“Em gái của tôi đang ở đâu?”

“Tôi không biết em gái cậu.” Than nổ lách tách trong lò sưởi. “Tôi không biết cậu.”

Johnny cúi lượm mảnh vải rách có tên của Alyssa thêu trên đấy. Cậu giơ nó lên. “Đây là em gái tôi. Tên nó là Alyssa Merrimon. Đây là tên con bé.” Freemantle nhìn chằm chằm vào gương mặt Johnny. “Nhìn nó đi,” Johnny nói.

Freemantle nhún vai và nhìn. “Tôi không biết đọc.”

“Con bé bị bắt cóc một năm trước đây. Đó là tên con bé.”

“Tớ không nghĩ gã ta biết,” Jack nói.

“Gã phải biết.”

“Tôi sẽ nói cho cậu nếu tôi biết.”

“Gã không biết đâu,” Jack nói.

“Ông có cái này ở đâu vậy?” Johnny dí mảnh vải đẫm máu vào Freemantle. “Ở đâu? Khi nào?”

Đôi vai khổng lồ lắc lư, những bắp thịt săn chắc dưới lớp da. “Tôi lấy nó từ gã bị nạn. Ngay sau khi cậu cắn tôi.”

“Ai?”

“Gã bị nạn.” Gã nói nó như thể nó là cái tên. “Gã bị nạn nằm dưới chân cầu. Tôi lấy nó từ tay gã ta. Gã lúc ấy đang cầm nó.”

Cây súng buông xuống. “Sau khi ông nhấc bổng tôi lên?”

“Chúa nói với tôi hãy nhìn xem cậu chạy vì chuyện gì, cho nên tôi nhấc cậu lên.”

“David Wilson,” Johnny nói. “Ông ta có còn sống khi ông tìm thấy ông ta không?”

Đầu Freemantle nghiêng đi, và gã nhắm nghiền đôi mắt, suy nghĩ. “Bỏ súng xuống,” Jack thều thào. Johnny ngần ngại. “Cậu thật sự nghĩ gã đàn ông này đang cầm giữ Alyssa? Cậu sẽ gây thiệt mạng cho ai đó đấy.”

Johnny hạ nòng súng xuống cho đến khi nó chĩa xuống sàn nhà bụi bặm. “Gã đàn ông bị nạn còn sống hay không?”

Đôi mắt Freemantle nhắm nghiền. “Có những giọng nói trong dòng sông. Thều thào. Những chữ bay đi trong gió.” Gã làm động tác nổi trên mặt nước bằng các ngón tay. “Tôi lúc đó quá mệt...”

“Những tiếng nói?” Johnny xoáy vào chữ ấy. “Gã bị nạn có nói gì không? Bất cứ điều gì?”

“Tôi không nhớ.”

“Ông phải nhớ.”

Hai bàn tay to lớn lật ngửa lên. “Đàn quạ kéo đến. Tôi sợ chúng.” Họ chỉ còn cách nhau một bước chân, Johnny và gã đàn ông. “Tôi sẵn sàng nói cho cậu nếu tôi có thể.” Freemantle nằm xuống tảng đá ấm. “Có thể tôi sẽ biết khi trời sáng. Đôi khi chuyện đó xảy ra.” Gã nhắm mắt. “Tôi xin lỗi về cô em gái của cậu. Công việc tôi đã xong.”

Johnny nhìn gã Freemantle. Cậu nhìn cho đến khi đôi chân cậu tê chồn. Cậu cảm thấy tuyệt vọng, như kẻ đói cơm, và cuối cùng khi cậu xoay người, gã Freemantle đã ngáy ro ro. Johnny đặt cây súng trên kệ. Cậu nhìn những cái kèo nhà, cột nhà và những dụng cụ kim loại bên cạnh. Cậu ngẩng mặt nhìn nóc nhà như một cái hang sâu thẳm mở ra trên ngực của cậu. Cậu lúng túng giằng co, và sau đó là trống rỗng. Cái hang là một sức hút vô hình.

Jack là người phá vỡ bầu không khí yên lặng. “Tại sao gã lại sợ quạ?”

“Tớ nghĩ gã nghe thấy tiếng nói ma quỷ khi đám quạ đến gần.”

“Ma quỷ?”

“Gã nghe được một giọng nói. Tại sao giọng kia lại không?”

“Nếu chuyện đó thật thì sao?” Jack lấy hai tay ôm gối. Hắn gật gù trên cái thân cây và không nhìn thấy mắt Johnny. “Nếu thực sự gã nghe được lời Chúa thì sao? Nếu thực sự gã nghe... cậu biết mà.”

“Không đâu.”

“Nhưng nếu mà?”

“Chẳng ai nghe được.”

Jack kéo đầu gối vào chặt hơn. Cát bụi đóng viền trên mặt hắn. “Tớ cũng chẳng ưa gì quạ. Chúng làm tớ sợ hãi từ khi tớ còn bé. Nếu mà đó là lý do thì sao nhỉ?”

“Thôi đi, Jack.”

“Cậu có biết họ gọi một bầy quạ là gì không?” Giọng của hắn nhỏ nhẹ và căng thẳng. Johnny biết câu trả lời. “Kẻ giết người,” cậu nói. “Một đàn quạ.”

“Có thể có một lý do cho chuyện đó.” Jack nhìn Freemantle. “Nếu mà Chúa gửi gã đến đây để thi hành một sứ mạng gì đó?”

“Nè, Jack. Gã này giết hai mạng người vì họ để con gái gã thiệt mạng trong chiếc xe nóng nực. Nếu suy nghĩ Chúa bảo gã làm như vậy để khiến cho đời sống với sự thật ấy dễ hơn chút nào, thì tớ nghĩ đó là chuyện gã phải làm. Bầy quạ, những giọng nói khác... đó chỉ là lương tâm tội lỗi đuổi theo hắn thôi.”

“Vậy sao?”

“Vậy đó.” Cả hai cùng nhìn. “Nhưng gã biết một điều gì đó.”

“Tớ sợ quá, Johnny.”

Đôi mắt Johnny long lanh. Cậu nhìn Freemantle nằm bên đống lửa, gật đầu trong khi đêm khuya ngắn dần.

“Gã biết điều gì đó.”

Jack rơi vào giấc ngủ chập chờn khi gió lùa vào qua những khe hở, một giọng nói nhỏ, hai lần, bùng lên một điều gì đó hãi hùng. Lửa cháy âm ỉ. Johnny đi từ phẫn nộ đến sầu khổ và đến một giấc mộng kinh hoàng. Cậu mơ thấy khúc gỗ hôi thối và bén nhọn, những con mắt vàng khè, một cú ngã thật mạnh vào những nhánh cây gãy vỡ và nụ cười tràn ngập hy vọng của cô em gái. Cô ngồi bệt xuống nền đất của một hầm rượu: da bẩn thỉu, quần áo rách rưới. Một cây nến duy nhất đang cháy, và cô bé nhìn lên, hốt hoảng. Có phải anh đấy không? Cô hỏi, và Johnny nhảy dựng lên với tiếng thét dồn nén sau hàm răng. Ngay giây phút ấy, cậu không biết cậu đang ở đâu và chuyện gì đang xảy ra, nhưng cậu biết có một điều gì đó không phải. Cậu cảm nhận được nó trong cái không khí nóng, đóng kín. Một điều gì đó không phải.

Levi Freemantle ngồi dưới đất, chân khoanh lại, không xa quá ba bước. Gã ta cũng ướt đẫm mồ hôi như vậy, những cái bóng màu xám phủ trên màu da đen của gã. Hai bàn tay úp trên đùi, súng nằm trong lòng bàn tay. Gã trố mắt nhìn cây súng, nghiêng nó về hướng bếp lò. Ngón tay để trên cò súng.

“Súng có đạn đấy,” Johnny nói.

Khi Freemantle nhìn lên, Johnny linh cảm bệnh tình của gã đã phát tán, một chút xíu nhận thức ấy còn vương lại đằng sau đôi mắt trống vắng. Gã xoay cây súng lại và thò mắt nhìn vào trong nòng súng. Giây phút kéo dài ra. Johnny đưa tay ra. “Cho tôi xin cái đó được không?”

Freemantle làm ngơ cậu. Bàn tay của gã nuốt chửng lấy báng súng. “Tôi từng bị bắn một lần.” Johnny khó khăn lắm mới nghe được lời gã. Freemantle sờ cái sẹo trên bụng của gã. “Con nít không nên có súng.”

“Ai bắn ông?”

“Vợ tôi.”

“Tại sao?”

Gã nhìn cây súng. “Chỉ vì.”

“Cho tôi xin cây súng?” Johnny nghiêng người gần hơn khi Freemantle trao cậu cây súng. Nó có thể là một trái táo. Hay một ly nước. Johnny cầm cây súng, chĩa nó vào mặt Freemantle. Cậu sợ hãi. Giấc mộng vẫn quanh quẩn. “Em gái của tôi đang ở đâu?”

Nòng súng cách đôi mắt của Freemantle chỉ bốn tám phân.

“Em gái tôi ở đâu?” Gần hơn. Ba mươi phân. Mười. Cây súng, lần này, vững vàng chết người, nhưng Freemantle không quan tâm gì như con bò đứng trước cây súng gõ mổ bò.

“Khi bà ta bắn tôi.” Giọng gã nhỏ. “Bà ta nói vì tôi ngu xuẩn quá.”

Mười lăm phân. Một tay chụp vào tay kia, ngón tay kềm chặt trên cò súng.

“Cậu không nên gọi người khác ngu xuẩn,” Freemantle nói. “Gọi người ta bằng những thứ này thứ khác là có ác ý.”

Johnny ngần ngại, và Freemantle nằm xuống. Cây súng vẫn chĩa vào cái chỗ trống trải trước đó là nơi ngự trị con mắt của gã, hai con mắt vàng đục, đỏ đầy gân máu, như trong lò sát sinh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 43


Hunt thức giấc lúc năm giờ, không nghỉ ngơi được, vẫn còn mệt. Ông tắm táp và cạo râu, đi quanh căn nhà bé nhỏ, dừng chân ở cửa phòng anh con trai và lắng nghe âm thanh tiếng thở của hắn sâu và liên tục. Một ngày đầy căng thẳng đang chờ. Ông linh cảm được nó trong từng thớ thịt, từng khúc xương. Để ngày như hôm nay kết thúc tốt đẹp, ông nghĩ, cần phải có một sự nhiệm màu. Dưới nhà, phòng bếp nóng ấm quá mức và nồng nặc mùi rượu Scotch. Hunt hiếm khi uống rượu. Ông còn vương cơn say và thất vọng với chính mình.

Mặc thây thằng cha Yoakum.

Mặc thây cú điện thoại tào lao.

Nhưng như vậy thì không công bằng. Dẫu cho ông không ưa gì nghe câu chuyện, nhưng Yoakum nói đúng. Hunt dựng lại câu chuyện trong đầu từ giây phút ông đặt chân vào thang máy và vào văn phòng gã Holloway. Cái chết của Meechum là do lỗi ở ông. Rất có thể ông cũng phải bóp cò. Hunt tách rèm cửa và nhìn ra ngoài. Không có ngôi sao nào tỏa sáng, nhưng thời tiết dự đoán cũng không có mưa. Bác sĩ thuộc phòng khám nghiệm y khoa cũng sẽ trở lại khu rừng trong vòng vài giờ. Họ sẽ trục bới thi thể cuối cùng ra khỏi nơi đó ngày hôm nay. Rất có thể một trong những tử thi sẽ là Alyssa. Có thể không. Có thể Johnny sẽ xuất hiện. Nhưng lần nữa...

Cậu đang ở đâu vậy Johnny?

Hunt mở cửa sổ để hơi lạnh tràn ngập vào tay chân ông. Một hơi thở ẩm ướt liếm khuôn mặt ông, và trong một lát chuyện chưa tỉnh rượu mờ nhạt đi. Ông nhìn một lần nữa vào đám cỏ sũng nước, nước đọng thành những vũng nông, phản chiếu như gương. Sau đó ông pha cà phê và ngồi chờ cho mặt trời tự tìm lấy vị trí trên bầu trời đầy trắc trở của quận hạt Raven. Anh con trai của ông vẫn còn ngủ say khi ông rời nhà.

Sương mù mỏng tích tụ trên những rặng cây đen ngòm.

Cảnh sát trưởng ấn định cuộc họp lúc chín giờ sáng - khá muộn đối với cớm - nhưng Hunt không thể chờ đợi lâu như vậy. Mặt trời vẫn còn nằm ở dưới nóc pháp đình khi ông lái ô tô trên đường chính, rồi rẽ trái và đi quá nha cảnh sát. Sẵn sàng đậu dọc theo lề đường là xe tải của các hãng thông tấn. Chuyên viên quay hình đứng vững vào vị trí. Phóng viên truyền hình kiểm tra lại son phấn. Họ biết cớm sẽ xuất phát sớm. Từng hàng xe kéo nhau chậm rãi, dài thườn thượt đến cánh rừng đen thẫm ở ngoài vùng ven thị xã, nơi mà những thi thể cuối cùng sẽ được trục bới ra khỏi vùng đất sình lầy ẩm ướt, rít chặt.

Câu chuyện sẽ bùng nổ.

Một ngày trĩu nặng đầy cơ hội.

Hunt lái vòng qua khu phố đến bãi đậu xe nhỏ ở phía đằng sau. Lúc đó chưa đến bảy giờ, nhưng Yoakum đã có mặt ở đó, chờ đợi. Ông ta ngồi ở mép thanh barrier bằng bê tông tít ở góc phía nam của bãi đậu xe. Lưng ông tựa vào hàng rào lưới và khiến nó cong vòng ra phía ngoài. Đằng sau ông ta, những gã đàn ông lam lũ đội mũ công trường uống cà phê và ăn điểm tâm bánh quy trong khi xe ủi đất và cần cẩu nổ máy xình xịch chờ đợi, ẩm ướt và xám xịt trong ánh nắng yếu ớt, đất xới lên nhìn như đông cứng. Một nhà băng sẽ mọc lên, Hunt nghĩ. Có thể là cao ốc văn phòng. Có thể là của gã Holloway. Và bánh xe thương mãi sẽ quay vòng. Yoakum luộm thuộm, không cạo râu; một điếu thuốc lá treo thõng trên mép. Ông rít một hơi và búng điếu thuốc cháy dở bay qua hàng rào khi Hunt bước trong không khí ấm áp và đi chặng cuối sáu mét.

“Chào ông, John.” Hunt trung dung, đề phòng. Tình bạn giữa họ là chuyện hiểu biết lẫn nhau, và sự nghi ngờ này giữa họ là vùng đất chưa từng khai phá.

“Clyde.” Yoakum lục lọi tìm ra một điếu thuốc mới, loay hoay với nó giữa các ngón tay. Ông chưa đốt thuốc, và khó khăn vất vả nhìn thẳng vào mặt Hunt. Mắt ông ta nhìn vào nóc nhà văn phòng nha cảnh sát, rồi nhìn xuống đôi giầy vẫn còn đang dính sình lầy từ phía đằng sau căn nhà của Meechum.

Hunt chờ đợi.

“Về chuyện khuya hôm qua,” Yoakum bắt đầu. “Tôi say quá. Tôi có lỗi.”

Hunt giữ khuôn mặt bất động. “Chỉ vậy thôi sao?”

Yoakum mồi điếu thuốc lá. “Lúc đó tôi không còn là tôi.”

Đôi mắt thép. Nghi ngờ. Hunt không nói gì, và Yoakum đổi chủ đề câu chuyện. “Ông thấy cái này chưa?” Ông ta nhấc một xấp nhật báo gấp lại từ thanh barrier nơi ông đang ngồi.

“Tệ lắm sao?”

Yoakum nhún vai, trao tay tờ nhật báo. Hunt nhanh chóng giở lướt qua tờ báo. Tít hàng đầu rất giật gân. Có những tấm ảnh của xe khám nghiệm y khoa chụp ở cánh rừng sâu thẳm và bí mật, những tấm ảnh chụp các túi đựng xác mỏng được mang lên xe qua chiếc cửa đôi rộng. Phóng viên suy đoán về con số thi thể phát hiện, nói bóng gió về sự bất lực của cảnh sát. Họ nói về người nhân viên an ninh bị bắn thiệt mạng bởi một cảnh sát chưa nêu tên. Họ tổng kết câu chuyện làm sao cô bé Tiffany Shore được tìm thấy, và họ hỏi một câu tương tự: Cậu bé Johnny Merrimon giờ này ở đâu?

“Họ biết chúng ta đã phát lệnh tìm Johnny.” Hunt lắc đầu.

“Cậu nhóc là anh hùng thứ thiệt.”

Có một điều gì trong giọng nói của Yoakum, và Hunt không thể quyết định nó là cay đắng hay chỉ là cơn say chưa tỉnh hẳn. “Anh nhóc mất tích rồi.”

“Tôi không có ý nghĩ gì xấu về chuyện đó.” Yoakum chỉ tờ nhật báo. “Chỉ là cuối cùng rồi chúng ta cũng như những thằng ngốc.”

“Nguy hiểm dồn dập trong những ngày tháng gần đây.”

“Tổ cha, thì đó.”

“Họ đã bu đông như kiến ở phía trước. Cả chục chiếc xe tải. Ông thấy họ không?”

“Họ chưa biết đến tên của tôi.” Yoakum nói về vụ án Meechum, về vụ nổ súng. “Ông không thể ngăn tôi đi vào qua cổng trước.”

Hunt không trách ông ta. Câu chuyện này sẽ bùng nổ. Yoakum sẽ bị nghiền nát trong guồng máy. “Họ sẽ biết đến tên tuổi ông nay mai,” ông nói.

Yoakum gật đầu, nhìn về phía đằng sau nha cảnh sát, một bức tường bê tông tấy bẩn với hơi ẩm. “Hãy giải quyết chuyện này cho xong.”

Họ cùng nhau băng ngang qua bãi đậu xe, nhưng căng thẳng vẫn còn giữa hai người, cú điện thoại gọi giữa đêm khuya, về chuyện đã nói và chưa nói. Ngay tại cửa, Yoakum dừng chân. “Đêm hôm qua, Clyde.” Ông ta nhìn ngượng ngập. “Tôi rơi vào một nơi tối thẫm. Ông hiểu chứ hả?” Hunt bắt đầu lên tiếng, nhưng Yoakum ngắt lời ông, mở cánh cửa, và len một vai vào bên trong. “Hãy làm những gì ông cần phải làm,” ông ta nói, rồi sau đó quay đi.

Bên trong, không khí tràn ngập năng lượng; Hunt thấy nó qua những chuyển động nhanh lẹ, những con mắt nhảy múa theo nhịp điệu của nó. Yoakum được đối đãi như anh hùng. Những cái bắt tay. Vỗ lưng. Cớm đều ghét phường ấu dâm, và nhà gã Meechum có một bộ sưu tập đầy những chứng cớ chết người, ghê rợn nhất là một bó dầy cộm những hình ảnh ghi lại từ những camera theo dõi ở thương xá. Những đứa bé gái trong độ tuổi khoảng từ mười đến mười lăm, khuôn mặt tươi rói và chớm lớn. Chúng ngồi ở khu vực ăn uống hay đi trên thang máy. Meechum ghi chú đậm nét bằng bút lông đen: Rachel, Jane, Christine. Gã ta không rõ lắm về những cái tên. Những cái tên đi kèm dấu chấm hỏi: Carly? Simone? April? Một số hình ảnh có ghi chú địa chỉ ở góc dưới. Chúng cư ngụ trên những con đường yên tịnh, con đường của gia đình. Những hình ảnh khác với số tuổi được viết bằng bút lông đen, gạch dưới tên, khuôn mặt: Rachel, mười hai. Christine, mười một. Chúng được cất giấu dưới đáy ngăn kéo dưới cùng khoá chặt ở bàn làm việc của Meechum, và nó làm Hunt phát ốm, khi ông xem chúng, ốm và điên tiết. Hơn nữa - cái cảnh đó làm ông muốn trở thành kẻ giết người. Đúng hay sai, giết gã vô lại đó đi là điều tốt. Thực sự thì, nó là một kết cục tuyệt vời cho vụ án này. Burton Jarvis chết thảm trên đường lộ, trần truồng nửa người và van xin tha mạng, bị giết bởi chính một trong những nạn nhân của hắn ta. Meechum bị bắn hạ ngay trong nhà gã ta, bắn xuyên tim bởi một thám tử tùng sự thâm niên nhất của nha cảnh sát.

Đẹp đẽ.

Công lý.

Phần lớn cớm đều mỉm cười, nhưng cảnh sát trưởng thì không. Khuôn mặt ông ta trắng nhởn với những điểm sáng đỏ tươi trên tâm điểm của gò má đầy thịt. Ông ta đứng ở cửa phòng làm việc, nhìn trông chừng ra ngoài. 7:15 sáng, và người đã ướt đẫm mồ hôi. Đằng sau ông ta, những chiếc bóng chuyển dịch. Hunt thấy bóng dáng đàn ông trong văn phòng Cảnh sát trưởng. Những kẻ lạ mặt trong bộ vest sậm màu. Đàn ông nhìn giống y chang cớm.

“Năm phút,” cảnh sát trưởng nói, sau đó đóng cửa.

“Chúng ta còn sớm,” Hunt nói.

Yoakum quay vai. “Tôi ra ngoài hút điếu thuốc.”

Thám tử Cross nhìn Yoakum len lỏi qua căn phòng chật cứng người, sau đó đứng lên từ bàn làm việc và tiến đến gần Hunt. “Tôi có thể nói chuyện riêng với ông được không?”

Hunt dẫn Cross vào văn phòng và đóng cửa. Cross tơi tả, áo sơ mi của ông dính cà phê và nhăn dúm. Ông không cạo râu, và Hunt để ý phần lớn ria mép của ông bạc trắng. “Ông muốn nói chuyện gì?”

“Có tin tức gì về anh nhóc con nhà Merrimon không?”

“Chúng ta đang hy vọng.”

“Nhưng chưa có gì?”

“Có vấn đề gì không?” Hunt hỏi.

“Con trai của tôi, Jack. Tôi không tìm thấy nó đâu cả.”

“Điều đó có nghĩa là sao, ông không thể tìm được nó?”

Cross luồn những ngón tay thô qua mái tóc. “Chúng tôi cãi vã. Nó trốn ra khỏi nhà.”

“Khi nào?”

“Đêm hôm qua.” Ngưng một tí. “Có thể là hai đêm trước rồi.”

“Có thể?”

“Tôi không chắc về đêm đầu tiên. Có thể nó bỏ đi từ lúc ấy, có thể là sáng ngày hôm sau. Tôi rời nhà từ sáng sớm và tôi không gặp nó. Với tất cả mọi chuyện đăng trên nhật báo, ông biết, vợ tôi lo lắng ghê lắm. Hơn cả những lúc bình thường lo lắng. Cô ấy chịu đựng nỗi sốt ruột không được giỏi lắm.”

“Bà ta lo lắng, nhưng ông thì không.”

Cross bồn chồn, và Hunt thấy rõ ràng ông ta còn hơn là chỉ lo lắng. Ông ta thực sự hoảng sợ. “Ông có biết nhà tôi không, thám tử?”

“Tôi gặp cô ấy vài năm trước đây.”

Đầu Cross di chuyển. “Cô ấy đã thay đổi. Vài năm gần đây...” Ông dừng một đỗi, khó khăn. “Cô ấy trở nên rất cuồng tín. Cô ta ở lỳ trong nhà thờ phần lớn thời gian trong ba mươi tiếng vừa qua, không thực sự ăn uống hay nghỉ ngơi gì cả, chỉ cầu nguyện, phần lớn là cho thằng Jack. Cô ấy lo sợ nó có thể trốn ra ngoài đi với anh nhóc nhà Merrimon. Nếu tôi có thể nói với cô ấy rằng nó không như vậy...”

“Tại sao chuyện đó làm cô ấy lo lắng? Tại sao Johnny?”

Cross buông cái nhìn lo ngại dọc ngang căn phòng. Ông hạ giọng xuống. “Cô ấy cho rằng cô ấy thấy được một sự đen tối trong tâm hồn của Johnny. Một vết nhơ.” Ông khép nép khi nói những điều này, ra vẻ ăn năn. “Tôi biết, tôi biết; nhưng nó là vậy đó. Cô ấy nghĩ Johnny làm hư Jack. Cô ấy lo lắng về chuyện đó hơn bất cứ việc gì khác. Cô ấy không đúng, ông hiểu chứ.” Ông liếc nhìn, nghiêng đầu. “Cô ấy đang vật vã giằng co.”

“Tôi rất lấy làm tiếc khi nghe chuyện đó.” Hunt ngừng. “Ông có lo lắng về Jack không?”

“À, nó từng làm trò này trước đây. Chuyện khùng điên bình thường của trẻ con mới lớn. Nhưng hai đêm, nếu nó là hai đêm... Điều ấy không bình thường.”

“Thế cuộc cãi vã về vấn đề gì?”

“Jack tôn thờ anh nhóc nhà Merrimon. Ý tôi là, tôn thờ thực sự. Như là thằng anh lớn. Thậm chí như là ông thánh. Tôi không tài nào dứt nó ra khỏi thằng nhóc đó.”

“Và đó là lý do tại sao anh cãi vã?”

“Jack là đứa trẻ nhẹ dạ, giống mẹ hắn nhiều hơn thằng anh của hắn. Hắn hoảng sợ và dễ dàng bị dẫn dắt. Bỏ chuyện dị hợm khác đời của nhà tôi qua một bên, Johnny là kẻ gây ảnh hưởng xấu. Kẻ coi thường kỷ cương. Hư hỏng, ông biết đấy. Tôi nói Jack tránh xa nó ra.”

“Johnny là đứa trẻ ngoan, nhưng cậu ta bị phân tâm vì tất cả những chuyện này.”

“Chính xác. Nó làm be bét hết mọi chuyện.”

“Cậu ta bị kích động.”

“Tôi chỉ muốn nói vậy thôi.”

Hunt chôn giấu sự thất vọng của ông. Không phải ai cũng thấy Johnny như những gì cậu ta làm. “Tôi giúp được ông điều gì Cross? Ông có muốn tên của thằng Jack nhà ông kèm thêm vào lệnh tìm kiếm không?”

“Không. Chúa ơi, không. Chỉ cho tôi biết nếu ông nghe ngóng được điều gì. Mẹ nó bực dọc, không còn suy nghĩ chín chắn. Cô ấy đổ lỗi lên tôi. Tôi nói cho cô ấy biết thằng con tôi không sao chừng nào...”

“Tôi hiểu.”

“Cảm ơn, Hunt. Tôi nợ ông.”

Cross ra khỏi phòng. Hunt đứng ở cửa và thấy Yoakum trở vào bên trong. Mặt ông ta còn nguyên sự bực tức. Ông ta vừa mới bước vào bên trong thì cánh cửa văn phòng Cảnh sát trưởng mở tung ra. “Hunt. Yoakum.”

Cảnh sát trưởng đi trước họ qua cánh cửa. Ông đi vòng qua bàn làm việc nhưng vẫn đứng. Hunt vào trước. Ở phía bên phải, ông thấy hai người đàn ông lạ mặt. Cả hai đều quá năm mươi, cao, khuôn mặt vuông đầy nếp nhăn và không dễ dàng hoà hoãn. Một người tóc bạc, người kia tóc nâu. Không có dấu hiệu béo phì. Tay to. Chai sạn. Huy hiệu cài ở thắt lưng. Súng. Hunt bước sâu vào trong văn phòng, nhìn huy hiệu gần hơn. Cục Điều tra Nam Carolina SBI. Từ cái nhìn của họ cho thấy họ là những sĩ quan thâm niên của Cục, chuyên nghiệp, dày dạn.

Yoakum vào theo sau Hunt. Ông ta qua phía tay phải, đứng giữa Hunt và cớm tiểu bang. Không khí trong phòng ấm, đóng kín. Cả năm người thuộc típ cao lớn. Cả năm đều biết có một điều gì đó không phải. Vấn đề ở đây là một số người biết nhiều hơn người khác. Cảnh sát trưởng giới thiệu. “Thám tử Hunt, Yoakum. Đây là những nhân viên mật vụ Barfield và Oliver...”

“Mật vụ đặc biệt,” ông Oliver cải chính.

Không ai bắt tay ai. Trên mặt bàn là bản báo cáo photo của Hunt về vụ nổ súng ngày hôm qua. Báo cáo của Yoakum cũng có mặt ở đó. “Mật vụ đặc biệt Barfield và Oliver từ văn phòng Raleigh. Họ tử tế đến đây từ sáng sớm hôm nay.”

“Sáng hôm nay?” Barfield nói, không cười. “Điều đó thật buồn cười.”

“Tại sao lại buồn cười?” Hunt lạnh lùng hỏi.

“Nó gần như là khuya ngày hôm qua hơn là sáng hôm nay,” Barfield nói. Hunt nhìn cảnh sát trưởng. Nếu họ đến từ Raleigh, họ phải lên đường trước khi mặt trời lặn. “Tại sao chúng ta lại liên lạc với Cục Điều tra?”

“Bình tĩnh,” cảnh sát trưởng nói. “Tất cả các ông. Chúng ta sẽ làm việc này nghiêm chỉnh.” Ông ta nhìn hai người thám tử. Hunt có vẻ nghi ngờ. Yoakum trông chán nản. “Tôi cần súng của các ông.”

Lời nói phát ra trong yên lặng, nhưng rớt vào trong phòng như lựu đạn. Chúng có quyền năng, bốn chữ đó, quyền năng làm tiêu tan đời sống. Không ai di chuyển. Giây phút này kéo dài cho đến khi Yoakum phá vỡ bầu không khí yên lặng. “Tôi xin lỗi?”

“Tôi cần súng của các ông.” Cảnh sát trưởng đặt một ngón tay trên bàn. “Và tôi cần chúng ngay bây giờ.”

“Chuyện này tào lao.” Yoakum không còn giả đò không quan tâm.

“Thi hành đi.” Hunt nhìn chằm chằm vào ông cảnh sát trưởng, nhưng rút súng ra và đặt trên bàn. Một cách miễn cưỡng, Yoakum làm tương tự. Ông cảnh sát trưởng nhìn hai ông cớm tiểu bang, hai gã vẫn bình chân như vại và phớt lờ. “Bây giờ là chuyện gì nữa?”

Cảnh sát trưởng lấy hai khẩu súng và đặt chúng ở kệ gá trên bức tường phía sau. Nó là giây phút gây ấn tượng. Hai cây súng ngoài tầm tay với. Quay trở lại, cảnh sát trưởng rõ ràng không vui trong bụng. “Chúng tôi đã đọc bản báo cáo của các ông,” ông ta nói. “Tất cả đều hợp lý. Tất cả không một giọt máu. Nhưng tôi muốn biết việc nổ súng đó có chính đáng không.” Ông ta nhìn thẳng vào mắt Hunt. “Và tôi cần ông nói cho tôi biết.”

Hunt cảm được sự chú tâm bất thình lình của Yoakum. Căn phòng yên lặng. “Chuyện này rất khác thường.” Hunt nhìn từ hai ông cớm tiểu bang đến cảnh sát trưởng. “Đây không phải cung cách làm việc.”

“Làm ơn đi.” Giọng nói của cảnh sát trưởng mềm mỏng một cách ngạc nhiên.

Hunt cố gắng suy nghĩ rõ ràng, để nhớ lại tất cả những chi tiết về vụ nổ súng: làm sao nó xảy ra, tại sao nó xảy ra. Nhưng điều đến với ông là cảm xúc về ông John Yoakum. Hơn ba mươi năm tùng sự nhiệm sở. Bốn năm sát cánh trợ lực bên nhau. Họ là cộng sự, bạn và đồng nghiệp

Và gã Meechum xứng đáng nhận cái chết.

Cảnh sát trưởng chờ đợi, khuôn mặt ủ rũ và khổ sở, trong khi Yoakum nhìn vào một điểm duy nhất ở trên tường. “Vụ nổ súng này chính đáng,” Hunt nói.

Sự hà khắc biến mất khỏi Yoakum. Dấu hiệu nụ cười trên đôi môi.

“Ông chắc như vậy chứ?” cảnh sát trưởng hỏi. “Ông không có câu hỏi nào sao?”

“Từ vị trí nơi Yoakum đứng, gã Meechum như thể đang cầm cái rìu bủa xuống tôi. Ông ta phải quyết định trong chớp mắt. Nó là quyết định đúng.”

Mật vụ đặc biệt Barfield nói: “Chúng tôi vẫn phải làm chuyện này.”

“Ông ta đang nói gì vậy?” Hunt hỏi.

Cảnh sát trưởng lắc đầu, nhắm mắt lại trong chốc lát. Dù ý của ông mật vụ là gì đi chăng nữa, Hunt có thể thấy cảnh sát trưởng đồng ý. “Thám tử Yoakum, tôi cần yêu cầu ông tháp tùng hai ông mật vụ này.”

“Cái gì?” Yoakum giận giữ đáp trả.

“Đi Raleigh. Họ có một số câu hỏi. Tốt hơn là họ không truy vấn ông ở đây.”

Yoakum lùi một bước. “Tôi sẽ không đi Raleigh.”

Ông Barfield giơ hai tay lên, những ngón tay xòe ra. “Không có lý do nào để chúng ta không thể làm chuyện này một cách êm ái. Kín đáo.”

“Kín đáo với cái mông của tôi đây này!” Yoakum nói. “Tôi sẽ không đi đâu cả cho đến khi ai đó nói cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra.”

Cảnh sát trưởng nói, “Những câu hỏi đó cần được hỏi bởi một người không liên can đến nha cảnh sát này. Tôi đã mời Cục Điều tra Tiểu bang trợ lực.”

“Giải độc,” Hunt nói giọng kinh tởm.

Cảnh sát trưởng lắc đầu. Barfield đặt một tay lên vai Yoakum. Nó không phải là một cử chỉ đe doạ, gây hấn. Yoakum vung vai gạt văng ra. “Đừng có động đến tôi.”

“Không ai bắt ông.”

“Bắt tôi! Mẹ k...”

“Bình tĩnh, John.”

“Tổ cha ông, Clyde. Những câu hỏi gì?”

Barfield với tay ra, dừng lại trước khi đụng bất cứ thứ gì. Ông ta nghiêng người, chỉ cánh cửa. Yoakum hất văng cánh tay đi chỗ khác. “Không đi đâu cho đến khi tôi biết những câu hỏi kia liên quan đến chuyện gì.”

Barfield buông thõng tay ông ta. “Súng ngoài giờ trách nhiệm của ông là cây Colt.45.” Nó không phải là một câu hỏi.

“Thì sao?”

“Cây súng đó hiện giờ ở đâu?”

“Đó không phải là việc của ông.”

“Thám tử Hunt thâu lượm được một vỏ đạn.45 trong chiếc xe lao xuống vực của ông David Wilson.”

“Rồi sao?”

Hunt liều lĩnh liếc nhìn cảnh sát trưởng. Trên khuôn mặt ông ta hiện lên một sự giả dối.

Khuôn mặt Barfield không hề có cảm xúc. “Nó có dấu vân tay của ông trên đó. Chúng tôi muốn nói chuyện với ông về chuyện này.” Một lần nữa Barfield giơ một tay lên, ra hiệu rằng Yoakum nên theo sau ông ta ra khỏi cửa. “Chúng ta có thể giữ chuyện này êm ả.” Nhưng Yoakum đập văng cánh tay đó đi, một cú đập rát mạnh; và bất thình lình, tất cả vào thế chuyển động. “Đủ rồi,” Barfield nói. Ông ta và ông Oliver ùa nhau xáp vào cùng lúc. Họ kềm cứng Yoakum và khống chế ông ta ngang trên bàn, mặt úp xuống, tay phải bị bẻ quặt ra phía đằng sau. Hunt lao đến phía trước, hai tay giơ lên và với nắm vải áo jacket của Oliver. Nó là phản xạ tư nhiên, đơn giản và thuần tuý.

“Tránh ra khỏi chuyện này, Hunt.” Vang to. Uy nghiêm.

Hunt nhìn cảnh sát trưởng và chết lặng, cảm nhận được sự uất giận trên khuôn mặt. Barfield đang vặn ngược cánh tay, còng lôi ra. Oliver đè cả sức nặng của ông ta lên trên hai bả vai Yoakum. Barfield phập cái còng vào cổ tay Yoakum, và Youkum chống cự, một ít máu lem rỉ ra ở môi trên.

“Cảnh sát trưởng!”

“Im đi, Hunt.” Rồi ông ta nói với hai mật vụ đặc biệt SBI, “Chuyện này có thực sự cần thiết không?”

“Ông ta tấn công nhân viên công lực tiểu bang.”

Còng khóa, họ lôi Yoakum đứng dậy. Hunt bước ra giữa họ và cánh cửa. “Dù cho chuyện gì đang xảy ra, cũng cần có lời giải thích. Không nên lôi ông ta đi như thế này. Ngoài kia là những đồng nghiệp của ông ta. Phóng viên truyền thông đầy ngoài đường.”

“Đứng qua một bên, Thám tử.” Mặt Barfield đỏ bừng. Oliver là bức tranh của sự thản nhiên.

“Chúng tôi chỉ làm nhiệm vụ của chúng tôi. Chính cảnh sát trưởng của ông yêu cầu chúng tôi đến đây.”

Yoakum đứng giữa hai mật vụ SBI. Áo ông ta bị kéo tung ra khỏi thắt lưng. Một cái nút áo bị bung và cơn thịnh nộ của ông ta rất rõ ràng. “Bỏ cánh tay vô lại của chúng mày khỏi tao!” Ông nói.

Hunt nhìn cảnh sát trưởng. “Ông để họ lôi Yoakum ra khỏi chỗ này với còng trên tay?”

“Ông cũng từng bắt gã Ken Holloway với tội nhẹ hơn.”

“Cái đó khác chứ.”

“Vậy sao?” Cảnh sát trưởng sẽ không can thiệp.

“Chúng tôi có đủ chỗ cho hai người đấy,” Oliver nói, và sự hăm doạ ngấm ngầm. Yoakum nói, “Chuyện này tào lao thôi, Clyde.”

“Tránh qua một bên, Thám tử. Tôi sẽ không yêu cầu ông lần nữa.”

“Cảnh sát trưởng! Tổ cha!”

“Họ có việc phải làm, chúng ta cũng vậy.”

Hunt đứng nguyên. “Tôi sẽ không để chuyện này như vậy.”

“Tránh qua một bên, Hunt,” cảnh sát trưởng nói. “Bằng không tôi thề trước Chúa, tôi sẽ yêu cầu họ bắt luôn cả ông.”

“Ông sẽ không làm vậy.”

“Tránh đường.”

Hunt nhìn bạn mình, ông ta hất tóc và nhổ nước bọt trên sàn nhà văn phòng Cảnh sát trưởng.

“Đừng nhọc công, Clyde.” Hunt từ chối tránh đường. “Hãy tránh qua một bên.”

“John...”

“Một ngày đẹp trời được chở đi chơi,” Yoakum nói, và Hunt thấy mình bước qua bên trái. Cửa mở và họ lôi đồng sự của ông đi, hai tay bị còng.

Qua chuồng cọp.

Ra bằng cửa chính.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 44


Johnny nhìn mặt trời vươn lên từ cánh cửa gác lửng. Hai chân cậu tòng teng trên không gian tối um nồng nặc mùi bùn và cỏ bị giẫm nát. Cậu khát nước và toàn thân đau nhức. Chưa có ai thức, đống lửa đã tàn. Mặt trời xuất hiện trước tiên như một lằn màu hồng, sau đó là một bờ cạnh vàng nhô lên khỏi rặng cây. Johnny chồm ra xa hơn và nhìn xuống.

“Đừng có nhảy.” Jack cất tiếng, ngay sau lưng cậu.

Johnny quay lại. “Haha.”

Jack đi ngang cái gác lửng, ngồi xuống cạnh thằng bạn. Rơm rạ vướng vào tóc hắn. Gót chân hắn gõ xuống gỗ, rồi sau đó cũng chồm ra ngoài. “Tớ cứu mạng cậu. Cậu nợ tớ.”

“Nợ cái này này.” Johnny đấm vào bờ vai hắn.

“Khỉ.” Jack nhìn ngang dọc cánh đồng cỏ dại bị nghiền phẳng. Cánh rừng vẫn đen ngòm dưới những tàng lá cây. Âm thanh của đầm lầy vọng lên theo một cơn lạnh bất thình lình thổi tới. “Tớ đói quá.”

“Đói vã.”

“Chúng ta nên về nhà.”

Johnny liếc cái thang, cánh cửa mở dẫn xuống dưới. “Vẫn nghĩ gã đang nói chuyện với Chúa à?”

“Tớ nghĩ gã đang hấp hối.”

“Thật vậy sao?”

“Ừ. Thật vậy.”

Johnny đứng dậy, phủi hai tay vào quần jeans. “Tớ nghĩ tớ nên nói chuyện với gã.”

Jack cũng đứng. “Ở dưới đó hôi thối lắm.”

Hắn nói đúng. Gã Freemantle nằm nghiêng một bên, đầu gối co lên. Gã bốc mùi như xác chết. Cánh tay bị thương xoải dài ra trong đất, và khi Johnny sờ vào da gã, cảm giác nóng bừng như giấy khô. Johnny nhìn vết thương ở bên hông đến cánh tay sưng tấy lên. Lớp da trên ngón tay gã đã nứt bung ra vì áp suất. “Tớ chỉ có cắn gã.”

“Mồm miệng con người là nơi chốn kinh tởm.”

“Cậu hôn bằng cái gì vào-mặt-một-cô gái?”

“Cái đó khác. Đằng này, cậu cắn gã thấu xương, và đã nhiều ngày liền. Gã phải ôm theo cái xác chạy trong rừng. Và gã đổ thuốc thú y vào đấy. Điều đó thật là ngu.”

“Tớ không nghĩ gã ngu.”

“Không?”

“Nó không phải một từ ngữ thích hợp.”

Jack thở ra. “Chúng ta cần rời khỏi đây, ngay bây giờ, trước khi gã thức giấc và giết chúng ta.”

Và như thể gã Freemantle nghe được lời hắn nói.

Đôi mắt gã bừng mở, to, tối sẫm, và hoang dại. Một tay gã vung mạnh ra và chộp lấy cổ Jack. Giọng điệu gã bi ai và gã kéo Jack lại gần. “Chúa biết.” Johnny cảm được sức lực của từ ngữ và chộp cánh tay gã, nhưng da thịt Freemantle nóng sốt hừng hực, những ngón tay của gã xoáy sâu vào vùng thịt mềm nơi cổ Jack. “Chúa biết,” gã nói một lần nữa, những ngón tay gã buông mở ra và Jack hoảng hốt lùi bước.

“Đừng để gã lại gần!” Jack thét lên. “Lạy Chúa. Đừng để gã khùng điên đó chạm vào người tớ.”

Johnny chết lặng. Cậu trố mắt nhìn cho đến khi sự khùng điên biến mất khỏi khuôn mặt của Freemantle. “Chuyện gì vậy?” Freemantle nhìn bối rối, đôi mắt bây giờ sốc và sợ hãi, trống ngực đánh thình thịch. Gã giơ cánh tay bị thương tật lên và nhìn nó như thể gã chưa từng thấy nó trước đây. Gã thả nó xuống, và quay người nghiêng qua một bên. Gã làm lơ hai cậu trai, kéo co đầu gối lên gần ngực. “Tôi đang ở đâu vậy?”

Khi Johnny xoay người, cậu tìm thấy Jack ở tít phía bên kia nhà kho, lưng tựa vào tường, cánh tay nhỏ đưa lên cổ, cánh tay lành lặn làm dấu thánh giá. Đôi môi tái nhợt, mắt sáng rực.

“Mình phải đi. Mình phải đi ngay bây giờ.”

“Cậu không sao chứ, Jack?”

Nhưng Jack tái nhợt và rối loạn, chữ nghĩa chết nghẽn trong cổ họng. Hắn mở mồm, đóng lại và cả hai anh con trai nhìn Freemantle chằm chằm, đôi mắt gã tuôn đẫm nước mắt trong khi gã co giật trên sàn đá lạnh. Đôi môi gã mấp máy không tri giác, và một âm thanh khô khan, dư thừa vọt qua giữa họ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 45


Khi Hunt trở vào văn phòng của cảnh sát trưởng, ông giận run người và không chắc có thể kìm hãm. Ông vẫn thấy sự điên loạn của nhóm phóng viên và Yoakum từ chối bằng cách chớp mắt hoặc cúi đầu khi họ bu kín ông ta. Hunt vung mạnh cánh cửa, nghe nó đập rầm vào trong khung, nhưng cảnh sát trưởng chỉ có một ít kiên nhẫn cho sự bực tức của ông. Ông ta ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế, với ra đằng sau lấy khẩu súng của Hunt và để trên bàn. Ông ta đẩy nó ra phía trước. “Chuyện đó lẽ ra có thể làm suôn sẻ hơn.”

Hunt nhìn cây súng. “Tôi nên cầm nó và bắn ông.”

“Đừng có bi kịch nhão quá như vậy, Hunt. Nếu đây là văn phòng của ông, ông cũng sẽ làm tương tự.”

Hunt cầm súng lên và tra súng trở vào bao da. “Đó là một cú phục kích, thuần tuý và đơn giản.”

Cảnh sát trưởng vỗ một tay. “Chính ông là người đưa ra giả thuyết có một gã cớm liên can.”

“Liên can với cái gì.”

“Gã Jarvis. Gã Meechum.”

Hunt chỉ vào cánh cửa. “Đó là những gì họ nghĩ sao? Đó là những gì họ muốn truy vấn ông ta sao?”

“Chúng ta cần phải tự bảo vệ. Chúng ta cần phải bảo vệ cuộc điều tra và uy tín của nha cảnh sát. Để làm việc đó, chúng ta phải mời ai đó từ bên ngoài, ai đó công tâm, cách biệt. Tôi cũng không thích thú gì, nhưng nó là vậy đó. Đây là cách giải quyết công việc.”

“Ông đang thuyết phục ai vậy? Tôi hay là ông?”

“Đừng có nói với tôi cái giọng đó, con người tự mãn cao ngạo. Những chuyện này sẽ không cần thiết nếu ông bịt họng được bọn truyền thông. Hãy yêu cầu thuộc cấp của ông yên lặng.”

“Thuộc cấp của tôi đâu có ai nói gì.”

“Ông là thám tử chỉ huy, Hunt. Bất cứ ai liên can đến vụ điều tra này đều thuộc trách nhiệm của ông.”

“Chuyện này tào lao.”

“Có phải chính ông là người tranh cãi, từ trước đến giờ, rằng một tay cớm liên can với Burton Jarvis? Đó là những gì anh nhóc thấy, đúng không? Có trong tờ giấy ghi chú của anh nhóc. Một ông cớm ở nhà Burton Jarvis.”

“Một tay nhân viên an ninh. Không phải cớm. Chúng tôi đã xác minh điều đó hôm qua, ngay giây phút chúng tôi bắn hạ gã Meechum.”

“Ông làm hả?”

“Tôi làm gì?”

“Ông xác minh rằng tay nhân viên an ninh có mặt ở nhà Jarvis?”

“Rõ ràng như vậy.”

Cảnh sát trưởng dựa người vào ghế. “Ai đưa ra ý kiến đi đến thương xá?”

“Yoakum.”

“Ai nảy ra ý kiến rằng một tay nhân viên an ninh có thể bị nhầm lẫn với một sĩ quan cảnh sát?”

“Yoakum. Cả hai chúng tôi.”

Cảnh sát trưởng gõ những ngón tay nặng trịch trên mặt bàn giấy đầy vết trầy xước.

“Bà Katherine Merrimon thấy chiếc xe đậu trên đường gần nhà bà ta. Bà ta nghĩ ai đó rình rập nhà mình. Bà ta nghĩ nó có thể là xe của cảnh sát.”

“Đó phải là Meechum. Gã ta lái chiếc ô tô bốn cửa.”

“Bà ta có cảm giác thế. Chỉ vậy thôi.”

Cảnh sát trưởng đứng dậy khỏi ghế, hai mắt nhắm chặt, da nhăn nheo ở khóe mắt. “Ông sẽ không bao giờ tìm được gã Meechum mà không có sự dàn xếp suy diễn của Yoakum. Có đúng vậy không? Yoakum đã khơi ý kiến dẫn dắt ông đến thương xá.”

“Ông ta lẽ ra phải được nhận huy chương.”

“Ngoại trừ, nếu nó không đúng như thế. Nếu ông ta biết thì saoo?”

“Biết chuyện gì?”

“Nếu mà ông ta liên can với Jarvis và Meechum từ đó đến giờ? Không phải chỉ có hai gã hợp tác với nhau, mà là ba?”

“Điều đó hoang đường quá,” Hunt nói.

“Ông lúc nào chẳng vậy.”

“Chúng ta cần tìm anh nhóc Johnny Merrimon. Cậu ta sẽ giúp làm sáng tỏ chuyện này trong vòng vài giây đồng hồ.”

“Nếu hắn chịu nói chuyện với ông.”

“Cậu ta sẽ nói,” Hunt nói. “Lần này thì cậu ta sẽ.”

“Vậy thì đi tìm anh nhóc, và gọi điện báo tôi biết khi nào ông tìm được. Gọi cho tôi ngay cái giây phút mà anh nhóc tì đó xuất hiện. Ngay cái lúc anh nhóc tì nói không phải Yoakum có mặt ở nhà gã Jarvis, tôi sẽ gọi văn phòng Cục Điều tra SBI. Trong lúc chờ đợi, Yoakum sẽ như ngồi trên đống lửa.”

Hunt lắc đầu. “Chuyện này vẫn không đúng.”

“Dừng lại một giây và suy nghĩ. Burton Jarvis đã chết. Meechum biết chúng ta sát đằng sau lưng gã bởi vì Holloway gọi gã và báo gã biết. Gã trốn chạy sợ hãi. Nếu chúng ta bắt sống Meechum, gã sẽ khai báo. Khai ra một gã cớm tha hoá sẽ rất có lợi khi mặc cả với văn phòng Biện lý. Yoakum biết điều đó, cho nên ông ta có lý do muốn giết Meechum.” Cảnh sát trưởng cuối cùng đứng dậy. “Bây giờ, tôi sẽ hỏi ông một lần nữa. Phát súng nổ có chính đáng hay không?”

“Tôi biết Yoakum.”

“Tôi đã nói với ông những gì về chuyện nổ súng vì lý do

cá nhân?”

“Tôi biết con người John Yoakum.”

“Ông biết? Ông biết sao, thật không?” Cảnh sát trưởng chờ đợi. “Ông ta làm gì vào những ngày nghỉ cuối tuần? Ông ta đi đâu những lần nghỉ phép?”

Hunt phải thú nhận. “Tôi không biết. Ông ta không bao giờ nói chuyện đó.”

“Ông ta chưa từng lập gia đình. Tại sao vậy?”

“Chuyện này liên quan như thế nào?”

“Ông biết mà,” cảnh sát trưởng tuyên bố. “Quỷ thần, tất cả chúng ta đều biết. Ông ta từng nói nhiều lần lắm mà.”

Hunt biết những chữ đó. Yoakum nói nó bất cứ khi nào vụ án đặc biệt dã man và sự phản bội ghê rợn nhất.

Độc ác là căn bệnh ung thư của trái tim con người.

“Cho nên, ông ta là con người hay nhạo báng. Phần lớn cớm đều như vậy.”

Cảnh sát trưởng nhún vai. “Có thể ông ta ám chỉ về mình như vậy.”

Chuồng cọp râm ran những tiếng xì xào mà chúng tịt ngòi nhanh chóng khi Hunt hừng hực cơn giận lao ra khỏi văn phòng Cảnh sát trưởng. Cánh cửa vung nhanh đóng ập vào tường, dộng mạnh khiến một bức tranh lệch khỏi tâm. Ông cảm thấy những ánh mắt nhìn, suy đoán; nó nặng nề như tảng sắt thép, nhưng không ai nói lời nào, không ai chất vấn, do đó Hunt tự biên tự diễn. Ông dừng lại ở giữa căn phòng, giơ hai tay lên. “Những gì vừa xảy ra là chuyện tào lao. Nếu bất cứ ai hỏi đến - truyền thông, gia đình, bất kể là ai - quý vị hãy nói với họ như thế.” Ông quay một vòng tròn và nói thật to. “Tào lao!”

Lời nói lơ lửng trên không trung. Không một ai ngoại trừ Cross nhìn vào mắt ông, và đến cả ông ấy cũng lắc đầu. Hunt nuốt những lời nói tức giận. Yoakum chưa từng dựa dẫm bạn bè trong nha cảnh sát, chưa hề toan tính. Ông ta là người cô độc, dân chuyên nghiệp. Chuyện đó thì sao? Có điều gì sai trái đây? Ông hoàn thành nhiệm vụ. Ông sống một đời sống riêng.

Hunt bỏ đi ra bằng cửa sau.

Hơi ẩm bốc lên ngoài bãi đậu xe, trên các tán lá to lớn, rũ xuống của một cái cây cô độc nằm cạnh đường lộ. Phía xa ngoài hàng rào, những cỗ máy nặng nề gầm rú và nhả khói. Bãi đậu xe đầy mùi dầu cặn, bùn sình và sắt thép nóng bỏng. Hunt ôm lấy vô-lăng, để hơi gió lạnh thổi mồ hôi đọng trên mặt, và hình dung Yoakum bị lôi ra ngoài trụ sở, hai tay bị còng. Rồi ông nghĩ đến Johnny. Mẹ của Johnny. Ông nghĩ đến Yoakum nhìn như thế nào khi đứng ở cái nơi ẩm thấp, tối mù bên cạnh dòng sông khi những thi thể được mang ra. Ông ta phẫn nộ như thế nào. Kinh tởm thế nào.

Yoakum không thể nào can dự vào chuyện như vậy.

Hoàn toàn không thể nào như vậy.

Ông gài số de chiếc xe to lớn, đánh vèo quất ngược chiếc xe ra khỏi chỗ đậu, sau đó giật cần hộp số vào số tới. Phải có một sự giải thích, một lý do nào đó cho cái vỏ đạn tìm thấy trong chiếc Land Cruiser bị lật trong khe núi có dấu vân tay của Yoakum. Nếu sự giải thích đó có ở bất cứ nơi nào, nó phải ở nhà Yoakum. Hunt cố gắng không muốn lật nhìn mặt phía sau của cùng một đồng xu: Nếu Yoakum liên can đến sự mất tích của các trẻ em, chứng cớ chuyện này rất có thể cũng sẽ được tìm thấy ở đó. Hunt không có trát xét nhà hoặc chìa khoá, nhưng ông không cần biết. Một cục đá ném qua cửa sổ cũng giải quyết được việc. Cây xà-beng nạy cửa trước. Đây không phải là chuyện làm của cớm. Đây là vì tình bạn. Là chuyện trung thành, sự tin cậy và sự nhức nhối khi nghĩ đến sự phản bội của Cảnh sát trưởng. Ông ta đã bán đứng Yoakum để gây thanh gây thế cho nha cảnh sát, để làm cho mọi chuyện nhìn ngon lành trong khi vụ án mỗi ngày một rơi sâu hơn vào bãi bốc mùi. “Tào lao.” Hunt lẩm bẩm.

Nhưng dấu vân tay...

Ông lắc đầu.

Dấu vân tay thì quả thật gay go.

Hunt cắt ngang dòng xe cộ, ôm sát làn xe bên trái của con đường bốn làn xe chạy vắt ngang thị xã. Khu phố nhà Yoakum là khu cũ kỹ, đầy những căn nhà nhỏ một tầng xây trên đất nền vun cao hơn lòng đường bộ, xi-măng bị đội nứt nẻ bởi những rễ cây to cỡ bắp chân đàn ông. Hàng xóm là nơi kẻ đến người đi nhưng được giữ tươm tất, mát mẻ và yên lặng. Hunt quyết định dùng tới xà-beng.

Ông nhanh chóng rẽ phải, đi qua ba dãy phố, rồi rẽ trái. Nhà Yoakum một tầng với nóc nhà vươn tít lên cao và mái lợp bằng gỗ tùng theo năm tháng xuống màu bạc phếch. Những vườn hoa rực rỡ khoe sắc. Bụi cây được tỉa gọn, cây cối được chăm sóc chu đáo.

Một chiếc xe tải với thùng sơn màu xanh đỗ trên đường dẫn vào nhà. Những chữ màu trắng trên nền xanh hiện rõ. Cục Điều tra SBI.

Hunt nhẹ nhàng cho xe đậu sát bờ lề, vẫn còn ở xa nửa dãy phố. Hàng xóm đổ túa ra sân nhà: phụ nữ sồn sồn mặc váy màu sáng, những ông già, một vài đứa nhóc tì tóc tai dài thượt lẽ ra phải đang làm những chuyện vui nhộn hơn. Tất cả khuôn mặt họ cùng một cảm xúc: ngạc nhiên, lo lắng. Ở nhà Yoakum, đàn ông mặc áo gió có ép những mẫu tự trên áo di chuyển ra vào cổng trước. Hunt không thấy Oliver hoặc Barfield đâu, nhưng chuyện này không quan trọng. Cục Điều tra SBI đã viếng thăm nhà Yoakum.

Họ có trát toà án.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 46


“Gã định giết tớ,” Jack nói. “Cậu thấy mà. Chúa ơi. Cái gã khổng lồ hung tợn đó muốn giết tớ!”

“Nếu gã muốn cậu chết, cậu đã toi mạng rồi.” Johnny quỳ bên cạnh Freemantle. “Đừng có như con gái vậy chứ!”

“Đừng đụng đến gã, Johnny. Cậu làm gì vậy hả?”

“Tớ không có đụng gã. Bình tĩnh đi.” Johnny tựa người gần hơn đến gã Freemantle. “Gã ta chỉ bị ốm.”

Đôi môi Freemantle mấp máy, và có những lời nói gì đó, Johnny nghĩ vậy. Cậu tựa người gần hơn.

“... Nhà đang bốc cháy... Mẹ bị bỏng lửa...”

Johnny nghe rõ.

“... Nhà đang bốc cháy...Mẹ bị bỏng lửa...”

Lời nói được buông ra. Johnny ngước nhìn lên. “Cậu có nghe thấy không?”

“Không.”

“Đến đây giúp tớ.”

“Dẹp đi.”

“Gã cần thuốc men hoặc vào nhà thương.”

“Được,” Jack nói. “Tụi mình sẽ về nhà và gọi xe cứu thương, để họ lo ba cái chuyện này.”

“Nếu mình gọi xe cứu thương, họ sẽ gọi cho cớm và tớ sẽ không biết được những gì gã biết.”

“Vậy cứ để cớm truy hỏi gã đi. Đó là việc của họ.”

“Cớm muốn kết tội hắn giết người. Họ nghĩ Alyssa chết rồi. Họ sẽ không điều tra chuyện gì ở hắn. Mà cũng không kịp nữa.” Johnny ấn ấn vào vai Freemantle nhưng gã đàn ông không hề đụng đậy.”

“Vậy bây giờ cậu tính sao?”

“Tớ không biết, bạn ơi. Được chưa? Tớ giải quyết chuyện này đến đâu hay đến đó. Tớ chỉ cần thêm một cơ hội. Đôi khi, đó là tất cả. Tổ cha, Jack, giúp tớ một tay.”

“Được. Cậu muốn tớ làm chuyện gì bây giờ?”

“Trông chừng gã. Tớ đi lấy chiếc xe tải.”

“Việc đó mất hai mươi phút.”

Nhưng Johnny đã biến mất. Jack nhìn xuống đôi môi nứt nẻ của gã Freemantle, đôi mắt trợn ngược đằng sau mí mắt mỏng như tờ giấy. “Đau đớn quá,” hắn nói, sau đó cầm cây súng. Hắn chĩa nòng súng vào gã Levi Freemantle, rồi ngồi bệt xuống đất.

Levi bị đốt cháy trong lửa đen. Hắn biết đó là lửa bởi vì hắn đã từng bị đốt trước đây. Hắn từng bị thiêu trong căn nhà bốc cháy, mẹ hắn trong vòng tay của hắn, đầu tóc bà ấy bốc cháy ngùn ngụt như ngọn đuốc. Hắn không biết tại sao căn nhà bốc cháy hoặc tại sao hắn lại ở trong đó. Dường như chuyện này đã từng xảy ra từ hồi lâu lắm rồi.

Nhưng hắn đang bốc cháy.

Cơn đau đớn khủng khiếp vì nó nằm ở dưới lớp da.

Hắn nghe những giọng nói, ở nơi xa lắm; và hắn cố gắng nói với họ.

“... Nhà đang cháy... Mẹ đang bị cháy...”

Nhưng họ không nghe được tiếng của hắn. Và không ai đến cứu giúp.

Không ai đến.

Da thịt nóng bỏng.

Bốc cháy...

Johnny bỏ chạy thục mạng, cậu đang nuốt gió khi cậu chạy đến chiếc xe tải. Cậu leo lên xe, đóng cửa lại. Chiếc chìa khoá trơn tuột giữa các ngón tay, nhưng máy nổ. Khói xanh cuộn vào trong không khí. Lời hát nhạc phúc âm đang vang lên trong radio. Johnny lái chiếc xe tải đến nhà kho và để động cơ nổ. Jack đứng ở cửa và nhìn thảm não.

“Làm sao cậu vực được gã ta dậy?”

Johnny không trả lời. Cậu phóng ra khỏi xe tải, đi vào bên trong nhà kho, và quỳ cạnh bên Freemantle. Cậu gọi tên gã, rồi sờ vào tay gã và ngước lên trên. “Người gã nóng như lửa ấy.”

“Còn phải nói nữa.”

“Không. Bệnh tình của gã ngày càng tệ hơn. Gã ta đang bốc cháy.”

“... Mẹ đang cháy... Nhà đang bốc cháy...”

“Cái gì vậy trời?” Jack tựa vào gần hơn. “Cậu có nghe thấy không?”

Johnny chỉ về hướng cái nhà bị cháy. “Tớ nghĩ mẹ gã bị thiệt mạng trong vụ hoả hoạn đó.”

Johnny đẩy vai gã một lần chót, lắc gã thật mạnh. Gã lăn trở lại. “Chúng ta không thể vác gã bỏ lên xe tải.”

“Gã đã tỉnh lại một lần rồi.”

“Mình nên hắt nước lên mặt gã.”

“Cái đó chỉ có tác dụng trong phim ảnh.”

“Khỉ thật!” Johnny nói.

“Tớ đã bảo cứ bỏ gã ở đây và biến ra khỏi đây cho xong việc mà lại.”

Johnny lắc đầu. “Chúng ta sẽ chờ.”

“Thế là đủ rồi, Johnny.”

“Tớ đã ăn cắp chiếc xe tải. Tớ là người quyết định.”

Vậy là họ chờ, khói xanh bay tỏa vào không gian, tiếng nhạc phúc âm trên radio vẫn đều đều.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 47


Hunt lượn hai lần qua khu phố nhà Yoakum, nhưng mỗi lần ông đi qua con đường nhà Yoakum, chiếc xe bán tải của Cục Điều tra SBI vẫn đậu ở đường ra vào nhà, cho nên ông bỏ đi. Ông gọi Cross kiểm tra tình hình ở hiện trường nhà Jarvis. Cross trả lời điện thoại sau khi chuông reo bốn tiếng. “Dạ. Bác sĩ khám nghiệm y khoa đang có mặt tại đây. Thi thể đầu tiên sẽ được trục lên trong giờ này. Ông ta nghĩ tất cả các thi thể sẽ được mang đi trong nội ngày hôm nay. Có thể khoảng giữa trưa sẽ xong. Cùng lắm là chiều tối.”

“Còn giới truyền thông thì sao?”

“Thì như ông mong đợi vậy. Ông có ra ngoài này không?”

“Có gì để nhìn ngắm không?”

Cross ngưng. Giọng ông ta nghẹt lại. “Chưa.”

“Gọi cho tôi ngay khi có tin gì mới.”

Hunt tắt máy. Ông đang ở một ngã tư thuộc khu vực nghèo nhất của thị xã. Nhà cửa cũ kỹ, với những đường rạn nứt ở ván áp tường. Những áo thun xám treo trên hàng dây phơi quần áo. Ông thấy những bồn chứa dầu rỉ sét, những khối đá granite dùng để nâng giữ kèo sàn nhà lên khỏi mặt đất ẩm ướt. Nhiều năm tháng đất cát rác rưởi tồn đọng ở phía bên dưới căn nhà gần nhất, và Hunt thấy một điểm đất trơn bóng nơi chó chạy ra chạy vào. Cách đây hàng trăm năm, đây là nơi định cư của những người tá điền thất cơ lỡ vận, và nó hiển lộ sự nghèo khó ra. Hunt đỗ xe cách xa nghĩa trang dành cho người nô lệ được tự do khoảng một dặm đường, bao bọc xung quanh là sự nghèo đói và tuyệt vọng, vương vấn hình bóng những bất công của một thời quá khứ.

Đèn đường chuyển qua màu xanh.

Hunt không hề di chuyển.

Một điều gì đó chuyển dịch sâu thẳm trong đầu. Một chiếc xe bóp còi ở ngay đằng sau ông, nên ông lái xe qua ngã tư và tấp sát vào lề trong khi gã tài xế đằng sau ông rú máy inh ỏi và lao nhanh qua mặt. Hunt thấy đèn neon dưới gầm xe, đĩa quay trên mâm bánh xe, và màu sắc băng đảng treo tòng teng ở phía sau. Cặp mắt bất tín nhìn chằm chằm từ một khuôn mặt cảnh giác, tiếng base đập huỳnh huỵch từ các thùng loa, nhưng Hunt tống khứ hình ảnh này ra ngoài. Đầu óc ông đang suy toan chuyện quá khứ.

Tá điền. Quần áo ướt đẫm.

Cái lưỡi hồng của con chó lai trong bóng râm...

Ông nhớ lại những hình ảnh cuối cùng.

Và sau đó ông nghĩ ông tìm ra đáp số.

Ông với cái điện thoại và gọi cho Yoakum, nhưng sau đó ông chực nhớ rằng Yoakum đang ngồi trên băng sau của xe tuần tiễu cảnh sát tiểu bang trên đường đi Raleigh. Thay vào đó, ông gọi cho bà Katherine Merrimon. Bà trả lời, tràn đầy hy vọng nhưng giọng mệt mỏi. “Tôi cần biết bà có ở nhà hay không,” Hunt nói.

Bất thình lình đời sống vươn trỗi dậy. “Chuyện Johnny hả?”

“Chưa. Tôi đang trên đường đến nhà bà.”

Mất hai mươi ba phút len lách qua dòng xe cộ trên đường phố, Hunt mới tới được nơi. Katherine mặc chiếc quần jeans bạc màu, cắt ngắn, di dép xăng-đan, và chiếc áo sơ mi nhăn dúm treo trên đôi vai gầy guộc như cái giá xương của bà. “Bà nhìn mệt mỏi quá,” Hunt nói với bà. Và bà mệt. Đôi mắt bà rút sâu vào trong hốc mắt. Bà không còn lung linh sắc màu như bình thường.

“Gã Ken xuất hiện lúc ba giờ sáng. Tôi không tài nào chợp mắt trở lại.”

“Ở đây? Gã ta đến đây?”

“Tôi không để gã vào nhà hoặc bất cứ gì. Gã đập cửa, nói những lời nói xấu xa. Gã say rượu. Gã chắc cần chỗ để sủa.”

Sự tức giận được chế ngự trong đôi mắt Hunt. Ông biết cái nhìn của một người phụ nữ bị bạo hành tự lừa dối chính họ. “Bà đừng đứng ra bào chữa cho gã ta.”

“Tôi có thể đương đầu với gã.”

Hunt buộc mình phải bình tĩnh. Bà ta bắt đầu rút vào cố thủ, và có nhiều cách khác tốt hơn để kiểm soát vấn đề. “Tôi cần vào phòng cậu Johnny.”

“Được.” Bên trong, bà dắt ông xuống hành lang dẫn đến phòng của Johnny. Hunt bật công tắc đèn và nhìn giường ngủ của Johnny. Khi không thấy cuốn sách mà ông muốn, ông chuyển qua hàng sách nằm trên tủ áo của Johnny. Ông dò tìm gáy từng cuốn sách. “Nó không có đây.”

“Cái gì không có?”

“Johnny có cuốn sách về lịch sử quận hạt Raven. Như thế này.” Ông tạo hình dáng cuốn sách bằng đôi tay, ám chỉ kích thước cuốn sách. “Nó nằm trên giường ngủ cậu ấy vài ngày trước. Bà có biết gì về nó không?”

“Không. Không biết gì. Nó quan trọng lắm không?”

“Tôi không biết. Có thể.” Ông bắt đầu bước đi.

“Ông ra về đấy hả?”

“Tôi sẽ giữ liên lạc với bà.”

Ngoài cửa, bà đặt một bàn tay trên cánh tay ông. “Nghe này. Về gã Ken. Tôi cảm ơn ông đã đứng ra bảo vệ. Nếu gã ta trở nên hung hãn hoặc đe dọa hoặc bất cứ trò gì giống vậy, tôi sẽ gọi cho ông. Được chứ?” Bà bóp cánh tay ông nhẹ nhàng. “Tôi sẽ gọi.”

“Bà nên làm như vậy,” ông nói, nhưng những bánh nhông đã chuyển động trong đầu ông. Katherine vẫn đứng bên cánh cửa khi ông đi, và không trở vào bên trong cho đến khi xe ông trở ra đường lộ. Nhà bà vẫn còn nằm trong kính chiếu hậu xe của Hunt khi ông gọi liên lạc với sĩ quan cảnh sát Taylor. “Tôi ở nhà bà Katherine Merrimon,” ông nói.

“Tại sao tôi lại không ngạc nhiên nhỉ?”

“Tôi cần cô giúp tôi một việc.”

“Anh hết cờ để cắm rồi sao?”

“Về chuyện gã Ken Holloway. Kiểm tra văn phòng của gã. Kiểm tra nhà của gã. Tôi muốn cô tìm gã ta, và tôi muốn cô tống giam gã ta.”

Giây phút yên lặng theo sau. Hunt biết cô đang nhớ lại lần vừa rồi, suy nghĩ về vụ kiện và bằng cách nào cô cố gắng giữ tên mình không có trong tờ giấy kế tiếp đệ nạp lên văn phòng Thư ký Toà án. “Và lý do là gì?”

“Cản trở. Y bắn tin cho gã Meechum rằng chúng tôi đang trên đường đến hỏi chuyện gã. Tôi sẽ hoàn tất thủ tục giấy tờ trưa hôm nay, nhưng tôi muốn y bị tống giam bây giờ, ngay bây giờ. Bất cứ chỉ trích nào, tôi sẽ chịu trách nhiệm; nhưng tôi muốn gã vô lại đó bị nhốt cái đã.”

“Sự bắt giữ này có chính đáng không?”

“Một tuần trước, cô không bao giờ hỏi tôi như vậy.”

“Một tuần trước, tôi không hề có cảm giác cần thiết như vậy.”

“Hãy thi hành đi.”

Hunt tắt máy, rồi gọi tổng đài và hỏi số điện thoại Thư viện Công cộng Quận hạt Raven. Nhân viên tổng đài cho ông số điện thoại, và nối đường dây.

“Bàn quản thư nghe.” Giọng nói của một người đàn ông. Hunt nói với ông ta những gì ông cần và nghe tiếng gõ lọc cọc trên bàn phím. “Cuốn sách đó đã được mượn rồi.”

“Tôi biết như vậy. Ông còn bản nào khác không?”

“Tôi đang kiểm tra. Có, chúng tôi còn một quyển nữa.”

“Giữ nó cho tôi,” Hunt nói. “Và cho tôi xin tên của ông.”

Hunt cúp máy và rẽ xe về hướng thư viện. Chuyện của Yoakum ngoài tầm tay với của ông. Hiện trường nhà gã Jarvis giờ nằm trong tầm kiểm soát. Chỉ còn lại Johnny. Một anh nhóc đầu óc lung tung và quá rắc rối. Kẻ trốn nhà đi hoang với cây súng lấy cắp.

Nô lệ tự do.

Freemantle.

Hunt biết cái tên vì ông thấy nó trong cuốn sách của Johnny. Chỉ là một lần liếc qua, nhưng bây giờ ông vẫn nhớ cảm giác về nó: “John Pendleton Merrimon, Bác sĩ giải phẫu và Người theo chủ nghĩa bãi nô.” Có một bức ảnh khác trên trang tiếp theo. Ông không hề để ý nó lần trước, nhưng giờ thì ông biết.

Isaac Freemantle.

Và có một tấm bản đồ.

Hunt tống ga, lưng ông ép chặt vào ghế da nóng. Johnny biết nơi tìm Freemantle, và Freemantle là kẻ đào thoát khi đang thọ án, một kẻ giết người. Xe Hunt trờ đến đèn đường. Ông lao nhanh xuống Phố chính chạy bảy mươi lăm km/giờ, tạt xe vào bãi đậu, tắt máy. Hai phút sau, ông trở ra với cuốn sách. Ông lật những trang sách cho đến khi tìm đúng trang ông cần. Ông nghiên cứu bức ảnh chụp John Pendleton Merrimon: đầu to, nặng cân, những đặc điểm nam tính. Ông ta mặc bộ vest đen may gọn chật và nhìn không giống Johnny, ngoại trừ đôi mắt, có thể. Đôi mắt ông ta màu đen.

Hunt đọc về Isaac, người đã chọn cái tên Freemantle để biểu tượng cho sự tự do mới của ông ta. Và cũng có một bức ảnh về ông ta, một người đàn ông to lớn trong bộ áo quần xuềnh xoàng và chiếc mũ rủ. Ông ta có bàn tay rất to và hàm râu lởm chởm đốm trắng. Johnny từng nói với Hunt rằng Freemantle là cái tên Mustee, và Hunt nghĩ ông có thể thấy được phần nào vết tích của người Da đỏ trong dáng nét của Isaac Freemantle. Một cái gì đó trong đôi mắt, có thể. Hay trên phần góc cạnh của đôi gò má.

Bản đồ tràn sang trang tiếp theo. Trong đó có dòng sông, đầm lầy, một dải đất thò ra với nước bao bọc ở ba phía.

Rừng Vĩnh hằng.

Hunt so sánh bản đồ trong cuốn sách với bản đồ ông có trong hộc trên táp-lô. Rừng Vĩnh hằng, hoặc là cái gì đi chăng nữa, nằm ở vùng đất hoang vu nhất quận hạt. Ngoài ấy không có gì ngoại trừ cây rừng, đầm lầy và con sông. Không có hồ sơ danh bạ về việc Freemantle từng dùng dịch vụ điện thoại hoặc điện nước ở Quận hạt Raven, cho nên thông tin có thể không mang ý nghĩa gì, ngày tháng ghi chép đã một thế kỷ rưỡi, nhưng Hunt cần anh nhóc. Vì cả chục lý do, ông cần anh nhóc.

Ông gài số chiếc xe ô tô.

Rừng Vĩnh hằng ở hướng tây bắc.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 48


Cảnh sát Taylor đi đến văn phòng làm việc của Ken Holloway trước tiên. Cô lái xe xuống phố và rẽ vào một bãi đậu xe lớn ép chặt hai bên cao ốc của Holloway. Cô đi chậm rãi, tìm kiếm chiếc xe Escalade màu trắng chữ vàng. Không tìm thấy nó. Đậu chiếc xe tuần tiễu của cô ngay trước toà nhà, Taylor kiểm tra thắt lưng, sau đó bước qua hai cánh cửa kính lớn. Cô hài lòng với cái thắt lưng đeo trên hông. Kim loại chắc chắn. Thiết bị cứng cáp. Taylor yêu thích nghiệp làm cớm. Quyền năng đi theo huy hiệu. Bộ đồng phục xanh không bao giờ nhăn dúm. Cô thích phóng xe thật nhanh. Cô thích bắt bớ thành phần bất hảo. Đôi giầy của cô tạo ra âm thanh nhỏ trên sàn nhà ngọc thạch đánh bóng. Một người phụ nữ ngồi đằng sau cái quầy tiếp tân to lớn, và Taylor cảm thấy được cặp mắt của bà ta từ đằng xa trong không gian bao quát. Người phụ nữ ăn mặc gọn gàng và sang trọng, bà ta có cái nhìn phán xét và giọng nói uy nghiêm. “Cô tìm ai?” bà ta nói, và Taylor không ưa bà ta ngay lúc đó.

“Tôi đến đây để nói chuyện với ông Ken Holloway.” Cô dùng giọng nói của cớm, cái giọng thể hiện ra, đừng buộc tôi phải nhắc lại lời tôi vừa nói.

Người tiếp tân nhíu một bên chân mày. Đôi môi bà ta gần như không di chuyển. “Chuyện này liên quan đến việc gì?”

“Nó liên quan đến chuyện tôi muốn gặp ông ta.”

“Tôi hiểu.” Bà ta mím đôi môi mỏng. “Ông Holloway không đến đây hôm nay.”

Taylor lôi ra cuốn sổ ghi chú và bút mực. “Tên của bà là gì?” Người ta không ưa thích gì sổ ghi chú và bút mực. Họ không thích bị cớm ghi chép. Bà tiếp tân lừng khừng cho tên và Taylor viết xuống giấy. “Và bà nói ông Holloway không có ở văn phòng?”

“Phải. Ý tôi là không. Ông ta không đến.”

Bà tiếp tân sợ hãi quy phục, nhưng Taylor không bao giờ cười khi cô áp dụng uy quyền. Cô giảm tối đa lời nói và giữ bộ mặt chung chung. “Lần sau cùng bà gặp và nói chuyện với ông Holloway là khi nào?”

“Ông ta đã không đến đây từ hôm qua.”

“Và những người khác trong cao ốc này sẵn sàng xác nhận chuyện này?”

“Tôi tin như vậy.”

Taylor chậm rãi quan sát căn phòng: những bức tranh treo trên tường, những cuốn danh bạ điện thoại, những cái thang máy. Cô đặt tấm danh thiếp lên mặt quầy. “Làm ơn nhắn ông Holloway gọi số điện thoại này khi ông ấy đến đây.”

“Vâng, thưa cô.”

Taylor giữ mắt nhìn, rồi trở ra như lúc cô vào toà nhà, chậm rãi và vững chắc, một tay đặt trên dây thắt lưng nhựa to bản. Trở vào xe tuần tra, cô mở laptop và kiểm tra hồ sơ đăng bộ với Nha Lưu thông những xe cộ sở hữu bởi ông Ken Holloway. Bên cạnh chiếc Escalade, ông ta làm chủ chiếc Porsche 911, chiếc Land Rover, và chiếc Harley-Davidson. Taylor đảo mắt quét một vòng bãi đậu xe và không tìm thấy một trong những chiếc xe kể trên. Cô viết vào cuốn sổ tay, cạnh tên của người tiếp tân: có vẻ nói thật.

Nhà của Holloway nằm ở một trong những sân gôn về phía khu nhà giàu của thị xã. Sân gôn tư nhân, thiết kế bao bọc xung quanh một câu lạc bộ bằng đá và dây leo um tùm nguy nga như cung điện. Không căn nhà nào trên khu phố của ông ta giá trị kém hơn hai triệu đô-la, và nhà Holloway là căn to lớn nhất, một tòa nhà màu trắng xây trên mảnh đất bốn mẫu tây với vườn cỏ được chăm sóc tươm tất. Trên nửa đường vào nhà, Taylor đi qua một bức tượng người da đen cầm cây đèn bão miệng cười toe toét. Cô ra khỏi xe và bước bộ trên hành lang xa thăm thẳm. Cửa trước mở ra trên sàn nhà bằng đá phiến tráng sơn mài. Thoạt, chỉ có sự yên lặng, tiếng một con chim hót; tiếp theo là tiếng ai đó đang khóc.

Một phụ nữ.

Ở bên trong.

Tay Taylor buông xuống nằm trên báng súng. Cô bật bung đai da, bước đến cánh cửa mở. Cô thấy cây rìu trên nền nhà sát bên cạnh một đống gẫy vụn mà trước đó là cây dương cầm. Phần đỉnh bị gẫy vỡ, dăm gỗ đâm tua tủa. Những cú bủa làm vỡ tan bàn phím và những phím ngà văng tứ tung trên thảm. Mọi thứ khác trông đều hoàn hảo. Taylor bấm máy liên lạc, gặp tổng đài. Cô thông báo vị trí và yêu cầu tiếp viện; sau đó rút súng, hô to chức nghiệp, và bước qua bậc cửa. Cô ngửi thấy mùi rượu và thấy vài chai mở dở đặt trên bàn cà phê. Một chai cạn sạch, chai kia cạn một nửa.

Tiếng khóc đến từ nơi nào đó sâu tít trong nhà. Có thể trong nhà bếp. Hay phòng ngủ. Taylor bước qua khung cửa hình bán nguyệt vào trong phòng khách. Nhìn qua hướng phải, cô thấy một chiếc gương trên ghế sofa, những vệt dài của thứ bột trắng nhìn giống như bạch phiến cắt theo hàng thẳng.

Dây đàn bung chằng chịt từ ổ bụng chiếc đàn dương cầm.

“Cảnh sát đây,” tiếng cô vang lên một lần nữa. “Tôi có súng.”

Cô tìm thấy người con gái trong một hành lang ngắn bên ngoài phòng khách. Cô ta trẻ, có lẽ chỉ mười chín, chân tóc đen đậm, nhuộm bạch kim, da dẻ mịn màng. Hàm răng khểnh nhưng trắng, hai bàn tay thô và đỏ. Cô ta ngồi trên sàn nhà, khóc, và Taylor thấy đôi mắt cô ta rất xanh. “Gã ta không làm gì cả. Tôi không sao.” Âm giọng cho biết cô ta là người miền Đông Nam. Taylor lớn lên vất vả ở miền đồi cát và biết cả chục cô gái như cô ta, thất học và đẹp gái, tuyệt vọng tìm một nơi nào đó khả dĩ hơn.

“Cô đứng được không?” Taylor chìa bàn tay ra. Người con gái mặc đồng phục người ở, phía bả vai bên phải bị rách, những nút áo trước ngực bị bật tung. Một bên gò má đỏ ửng, và có dấu hiệu những dấu tay giận dữ trên phần thịt mềm của cánh tay. “Cô chỉ có một mình thôi sao?”

Cô gái không trả lời.

“Có phải Ken Holloway làm chuyện này với cô không?”

Cô ta gật đầu. “Gã gọi tôi là Katherine. Đó đâu phải là tên của tôi.”

“Tên cô là gì?”

“Janee.Với hai vần E.”

“Được rồi, Janee. Cô sẽ không sao, nhưng tôi muốn cô cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra ở đây.” Taylor nhìn chiếc áo bị kéo rách, những nút áo bị kéo bật tung. Giọng cô từ tốn. “Gã ta có hiếp dâm cô không?”

“Không.”

Có một cái gì đó trong giọng trả lời của cô ta. Ngần ngại. Lẩn tránh. “Cô có qua lại với ông Holloway không?”

“Ý cô là gì?”

Taylor không nói gì, và Janee gật đầu. “Đôi khi. Gã ta cũng có lúc lịch sự, cô biết đấy. Và gã ta, hình như, rất là giàu có.”

“Cô có quan hệ tình dục với ông ta không?”

Cô ta gật đầu, bắt đầu khóc trở lại.

“Và ông ta đánh cô?”

“Sau khi làm chuyện đó,” cô ta nói.

“Tiếp tục đi.”

“Đôi khi gã ta cho tôi những thứ đẹp đẽ; và gã có những lời lẽ tử tế ngọt ngào.” Cô ta nức nở. “Cô có hiểu ý của tôi không? Như một người đàn ông lịch thiệp.” Cô ta lắc đầu, lau nước mắt. “Tôi không nên nói với cô là gã ta gọi tôi bằng tên của người khác. Gã nói gã không tin tưởng tôi, nhưng tôi nghĩ gã không muốn tôi bắt quả tang gã như vậy. Gã không muốn tôi biết chuyện.”

“Ông ta gọi cô là Katherine. Ông ta có gọi họ không?”

“Tôi không nghe cái đó. Cô thấy cây đàn dương cầm không?”

“Có.”

“Gã đàn ông đó điên cuồng như vậy. Dường như cái tên đó làm cho gã nổi cơn thịnh nộ. Gã nói nếu tôi nói chuyện này cho bất cứ ai, tôi sẽ là người tiếp theo.” Cô ta mím chặt môi và những sợi tóc nhộm vàng rơi phủ qua đôi mắt của cô ta. “Một lần gã cho tôi cái iPod.”

“Janee...”

“Gã ta là một thằng đàn ông tệ bạc.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 49


Levi đang bốc cháy. Tóc tai mẹ gã đang cháy và ngọn lửa như móng vuốt nóng rực cấu chặt khuôn mặt của gã khi gã chạy ra ngoài cửa. Nó gây đau đớn, và gã gào thét khi cả hai bổ nhào ra khỏi cửa lưới và rơi ra ngoài hàng hiên, căn nhà đổ ập đằng sau lưng họ, tất cả mọi thứ đen ngòm, và những gì không đen ngòm, thì đang bốc cháy. Levi nghĩ có thể gã đang bốc cháy dưới hỏa ngục. Gã biết gã đã làm điều gì sai trái, nhưng chuyện đó là sau này. Phải vậy không? Không phải bây giờ, cũng không phải mẹ gã đang bốc cháy. Gã hoang mang rối bời và sợ hãi.

Nóng như dưới hỏa ngục.

Bùng cháy khổng lồ như chưa từng xảy ra vậy.

Nhưng đó là căn nhà bốc cháy, và Levi biết đó là nơi duy nhất gã sống. Gã sống cả đời người ở đấy và chưa hề một ngày rời xa. Mẹ gã nói là ngoài kia chẳng có gì ngoài sự đau khổ, không phải là nơi chốn cho người như gã. Cho nên gã ở nguyên. Và đó là nơi gã ở. Gã đang ở nhà. Gã đang bốc cháy ở ngoài sân...

.... đang chết dần mòn.

Gã mở hai mắt để nhìn xem có bầy quạ hay không.

Ánh sáng mặt trời trong nhà kho.

“Gã tỉnh lại rồi.” Johnny cúi xuống nhìn khuôn mặt gã Freemantle khi đôi mắt gã chớp mở. Cậu thấy hỗn loạn, sợ hãi. “Không sao,” Johnny nói. “Tôi chỉ cần mang ông lên xe tải. Ông có thể ngồi dậy được không?”

Freemantle chớp mắt. Bùn đất ăn sâu vào những mương rãnh trên khuôn mặt sẹo của gã. Gã nhìn lên kèo nhà, rồi qua cánh cửa mở. “Không sao,” Johnny nói. Cậu nắm cánh tay lành lặn của Freemantle và cố gắng giúp gã ngồi dậy.

o O o

Những lời nói hoà quyện vào nhau, chẳng mang một ý nghĩa gì, nhưng cậu nhóc da trắng có đôi mắt quyến rũ, đen và sâu thẳm. Levi nhìn chằm chằm vào đôi mắt ấy, ngạc nhiên tại sao nó làm cho gã cảm thấy dễ chịu hơn. Như thể gã đã từng thấy chúng trước đây, như thể gã nên tin tưởng vào chúng. Gã ngồi dậy, và hơi nóng đục khoét qua người gã, sự đau nhức. Gã vẫn rối mù và vẫn sợ hãi; sau đó thì một luồng hơi lạnh xoáy xuống từ trên cao, một nơi lạnh lẽo, và gã lại nghe thấynó một lần nữa. Giọng nói.

Lời của Chúa.

Quá rõ ràng và quyền uy. Suýt chút nữa gã thổn thức.

“Tại sao gã lại mỉm cười như vậy?” Đôi mắt của Freemantle nhắm chặt, đôi môi gã kéo rộng ra và nhìn như thể chỗ da thịt nứt nẻ bắt đầu chảy máu. Jack bước ra xa.

“Có thể gã thích nhạc phúc âm. Ai mà biết được? Hãy mang gã ta vào trong xe tải.” Johnny giúp gã đứng trong khi Jack dạt ra xa. Johnny hạ tấm bửng xe và Freemantle ngồi xuống, ngã ngửa ra sau. “Vào tít trong đó,” Johnny nói.

“Vào tít bên trong.” Một lời thầm thì, một tiếng vang.

“Nụ cười đó chẳng thích hợp chút nào,” Jack nói.

Freemantle nằm ngửa, hai đầu gối co quắp, hai tay thu trước ngực. Nụ cười toét miệng và sung sướng. Vô tội. Chữ bung vào trong đầu của Johnny. Thuần túy. “Lên xe đi,” cậu nói, và Jack trèo lên xe. Hắn đóng cửa và tựa lưng vào tay kéo của cánh cửa, xoay người để hắn có thể quan sát gã Freemantle qua cửa kính sau của thùng xe tải. Johnny phóng lên ngồi đằng sau vô-lăng.

“Đôi môi của gã mấp máy,” Jack nói.

“Gã đang nói gì vậy?”

Jack mở chốt cửa sổ phía sau và kéo nó mở ra. Hắn vặn nhỏ radio để có thể nghe giọng nói của Freemantle.

“Không có con quạ nào.”

“Đóng cửa sổ lại đi,” Johnny nói, nhưng cả hai vẫn nghe giọng gã.

“Không có con quạ nào.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 50


Hunt đang đi tít về hướng Bắc của thị xã thì Cross gọi điện. Ông trả lời máy khi chuông reo tiếng thứ hai.

“Ông có tin gì mới đó?”

Một phút yên lặng trên đường dây, tiếng ì èo, sau đó Cross nói, “Ông phải nhanh chân đến đây.” Vài giây im lặng trôi qua. Nhiều giọng nói yếu ớt phía đằng sau.

“Chuyện gì vậy?” Hunt hỏi.

“Thi thể đầu tiên mới trục ra khỏi đất.”

“Không phải Alyssa.” Hunt cảm thấy bóng tối bao trùm.

“Không phải Alyssa.”

“Thế...”

“Đó là ông bố của Alyssa.” Một hơi thở. “Bố của Johnny.”

Hunt tạt xe vào lề đường. Các bánh xe rơi xuống khỏi mặt đường lộ và thế giới nghiêng ngửa. “Ông có chắc không?”

Cross không nói gì. Hunt nghe thấy những giọng nói vang to, hò hét, rồi Cross cũng hò hét. “Phóng viên không được vào, không có phóng viên! Tống cổ gã kia ra. Ngay bây giờ. Lôi cổ gã ra!”

“Cross?”

Cross trở lại đường dây. “Ông nghe cái đó chứ hả?”

“Ừ.”

“Ông phải đến đây ngay.”

Hunt nhìn xuống con đường chật hẹp. Hơi nóng ma quỷ bốc lên cao và ông thấy một chiếc xe tải te tua tơi tả rẽ bánh lên con đường nhựa. Dường như nó đứng nguyên không nhúc nhích, phần đuôi xe tan biến vào trong làn hơi nước lờ mờ lung linh.

“Thám tử Hunt...”

Bố của Johnny.

“Thám tử?”

“Phong toả khu vực,” Hunt nói. “Tôi đang trên đường đến.”

Hunt cho xe lăn bánh trở lại trên đường. Những gì ông được báo cáo không làm sao hiểu nổi. Ông Spencer Merrimon đã chết.

Chồng của bà Katherine.

Chết.

Hunt chớp mắt dưới ánh nắng mặt trời. Không chuyện nào mang ý nghĩa gì cả, nhưng sau đó, bất thình lình, nó lại trở nên có lý. Hunt hiểu, và cảm thấy sự thương tiếc dâng lên trong cổ họng, đau buồn và chắc chắn. Ông lắc đầu, trong khi đằng sau lưng ông, mặt đường nhựa mờ dần, trở thành khối mù sương màu bạc sáng, chiếc xe tải ở một khoảng xa dường như nổi bồng bềnh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 51


Freemantle vẫn nói chuyện, âm giọng vút cao át cả tiếng gió lẫn tiếng động cơ. Vẫn những chữ giống nhau. Trở đi trở lại. “Gã này làm tớ lạnh giò.” Jack vặn radio to hơn và bắt đầu bấm nút trên radio. Mỗi đài hắn dò bắt được đều là nhạc phúc âm hoặc rao giảng giáo lý liên tục. Hắn vặn nút dò đài, lẩm nhẩm nói trong tiếng thở; và Johnny nghe hắn nói, “... Im đi, im đi...” Hắn nói nó điên khùng, và nó gây sợ hãi. Hắn lẩn thẩn với nút dò đài cho đến khi hắn vặn hết từ đầu này sang đến đầu bên kia của dãy tần số. “Ở tít tận ngoài này không thể tìm một đài nào để nghe.” Hắn tắt radio, ngửa người ra đằng sau, và Johnny bẻ lái vào con đường mòn dẫn ra ngoài. Họ theo con đường mòn cho đến khi nó dẫn ra đường cái. Jack mở cánh cổng, rồi sau đó đóng lại đằng sau. Hắn để mắt tới gã Freemantle, nhưng gã khổng lồ cuối cùng cũng nằm bất động và yên lặng, những ngón tay co lại. “Gã lại thăng một lần nữa.”

Johnny nhìn trở ra sau một lần, sau đó gài số xe tải. Xe họ lăn bánh trên đường nhựa đen láng, một con đường ngoằn ngoèo với độc nhất một lằn vạch màu vàng cũ mòn trơ ra lớp nhựa đường đen ở dưới. Trước mặt, một chiếc xe đậu ở ven lề đường. Nó hầu như mất hút trong cái nóng hầm hập, nhưng Johnny thấy nó leo chồm lên đường nhựa, bẻ cua chữ U ngang con đường và lao đi. “Cậu có muốn tớ thả cậu xuống chỗ nào không?”

Jack nhìn như muốn thế, do vậy Johnny cố gắng làm ngơ khuôn mặt thằng bạn cậu đang co giật, cái kiểu tay phải của hắn gõ nhịp thật mạnh phía bên trong cánh cửa. Jack run sợ. Nếu hắn muốn chuồn về, hắn nên chuồn; nhưng cuối cùng khi Jack lên tiếng, nó chỉ là một cái nhún vai. “Còn sớm mà,” hắn nói.

Và chỉ có thế.

Jack chơi luôn.

Hai anh nhóc trên đường trở về thị xã, ra khỏi nơi trống vắng, đi quá những biệt thự cũ và sân gôn, rồi rẽ hướng tây đến đoạn đường kéo dài vắng vẻ áp sát sau lưng nhà Johnny. Johnny tìm thấy ngã rẽ hẹp trong hàng thông dài và cho xe đi vào con đường đất. Jack mở cánh cửa khác, đóng nó, và họ lái xe vào nông trại thuốc lá bỏ hoang. Họ đi qua những hàng cây mỏng và rẽ về hướng trái khi con đường phân nhánh. Nó tụt dốc hụp xuống một lần, rồi trèo lên và rẽ về hướng phải, đến nơi mà nhà kho thuốc lá xây dựng trong một bụi rậm. Johnny đi vòng theo đường cua và dừng xe tải.

Một con quạ đơn độc đậu trên đỉnh nóc nhà. Nó ngoác mỏ và thêm ba con quạ nữa hạ cánh xuống sát bên. Johnny cảm nhận được Jack đang căng thẳng bên cạnh cậu, thấy những ngón tay của hắn sờ áo sơ mi ngay nơi cây thánh giá bạc nằm sát da thịt. “Bớt căng thẳng một chút đi.” Jack chồm tới và trố mắt nhìn qua kính trước xe tải. Con quạ thứ năm đập cánh ở trên nóc. “Đồng ruộng ngoài này có nhiều hạt kê dại,” Johnny nói. “Cũng có cả dâu xanh. Rất nhiều dâu. Nó cũng chẳng mang ý nghĩa gì.”

“Cậu có bao giờ thấy chúng như thế này trước đây không? Kia kìa? Tất cả vẫn như vậy à?”

Johnny quan sát đám quạ. Cậu chưa từng thấy quạ ở nhà kho trước đây, không như thế này. Chúng quá yên lặng, tất cả chúng, những đôi mắt như cẩm thạch nhìn chết dí vào chiếc xe tải, lông bóng mượt như kính đen. “Chúng chỉ là loài chim,” cậu nói, và mở cửa xe. Cậu nhặt một hòn đá lên và ném lướt lên nóc nhà. Nó khua loảng choảng vài chục phân. Đám quạ tho ló mắt nhìn thêm vài giây, và khi cậu cúi xuống lượm hòn đá khác, chúng bốc cánh thành một bầy và hạ cánh xuống ở những rặng cây thật xa. “Thấy không?”

Jack trèo ra khỏi xe. Họ hạ bửng sau xe xuống và khều Freemantle đủ để lôi gã xuống xe và vào trong nhà kho. Phải mất một lúc lâu, nhưng họ giúp được gã nằm duỗi chân duỗi tay trên nền nhà. “Gã bốc mùi tệ hơn,” Jack nói.

“Cơn sốt vẫn leo thang.”

“Bây giờ làm gì?”

Họ đứng ở bên ngoài, gió quật mạnh những cành cây nghiêng ngả, mặt đất trơ than đen thui nơi đống lửa đốt hai đêm trước đây. Johnny trỏ. “Căn nhà ở quá tảng đá lớn, giữa những rặng cây. Nhảy qua con suối và cậu sẽ thấy.”

Giọng nói của Freemantle phát ra từ bên trong nhà kho. “Nhảy qua con suối và cậu sẽ thấy...”

Hai cậu con trai chờ nhưng Freemantle không nói gì khác. Gã nằm bất động trong bóng tối ảm đạm của nhà kho. “Cậu sẽ nói chuyện với mẹ cậu chứ?”

Johnny nhìn vào trong về hướng Freemantle. “Tớ không thể nghĩ bất cứ chuyện gì khác để làm. Mẹ tớ có thể nói chuyện với thám tử Hunt. Tớ không biết. Nếu bà ta không có ở đó, tớ sẽ mang thêm nước sạch và thức ăn. Thuốc men nữa. Tớ chỉ cần một phút. Một phút khi gã nói chuyện với tớ.”

“Cái đó đâu có trong kế hoạch, Johnny.”

Cậu nhún vai. “Nếu tớ không thể làm điều gì khả dĩ sớm, chúng ta sẽ gọi xe cứu thương, cớm, hoặc bất cứ thứ gì.”

Jack dụi mũi một chiếc giầy vào lòng đất ẩm. “Nếu gã thiệt mạng thì sao? Cái này to chuyện, trời ơi.”

Johnny nhìn vào bên trong xám xịt, không nói gì.

“Còn tớ thì sao?” Jack nói. “Bây giờ tớ phải làm gì?”

“Ai đó cần phải ở đây.”

“Tớ muốn đi với cậu.”

“Không.”

“Gã đằng nào chẳng ngủ mê, Johnny. Nếu cậu gặp rắc rối thì sao? Ngoài kia không có ai để giúp cậu đâu.”

Jack nói có lý, nhưng Johnny biết, sự thật, rằng thằng bạn của cậu đang sợ hãi. Cậu lôi cây súng ra khỏi xe tải, giơ ra, và Jack lấy cây súng. “Chỉ cần ở xa khỏi tầm với của gã,” Johnny nói.

Jack nhìn vào trong nhà kho và nuốt xuống thật khó khăn. “Cậu nợ tớ,” hắn nói. “Tớ muốn cậu nhớ điều đó.” Nhưng Johnny đã bắt đầu bước đi. Jack nhìn cậu lặn vào trong tàng cây và biến mất, sau đó hắn quay vào nhà kho và bước vào bên trong. Hai phút sau đó, một con quạ đơn độc hạ cánh xuống nóc nhà.

Rồi thêm một con khác.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 52


Hunt len lỏi qua hàng rào nhóm phóng viên mà không để xảy ra chuyện gì nghiêm trọng đáng tiếc. Có một điều gì đó trên nét mặt ông ta. Có thể bức tường xanh đồng phục cảnh sát làm gia tăng thêm sự chú ý khi ông ào ào bước qua. Một phóng viên đã vượt quá hàng rào ngăn chặn, và đó là chuyện bất chấp quy luật. Thêm một lần nữa, và ai đó sẽ bị đuổi. Không cần hỏi. Hunt sẽ chính tay làm việc này.

Ánh nắng mặt trời yếu ớt chạm mặt đất trong khu rừng, mặt đất vẫn mềm xốp và ẩm thấp. Không khí ướt đẫm sương đêm. Hunt rảo bước xuống triền dốc.

Dừng lại ở mép đầm lầy, ông có thể cảm nhận được sự khác biệt trong không khí. Khám phá một nạn nhân lớn tuổi là chuyện không lường trước, và không ai biết phải đối phó như thế nào. Tìm được thi hài bố của Johnny nâng mọi chuyện lên một một mức độ cao hơn.

Mọi người đang bắt tay vào công việc.

Hunt thấy hai bác sĩ khám nghiệm từ văn phòng Chapel Hill túm tụm trên một ngôi mộ vừa mới khai quật ở khoảng giữa lòng chảo. Đó sẽ là thi hài kế tiếp. Ông bỏ lơ họ. Phía bên phải, một nhóm người căng thẳng đứng bên cạnh một cái bàn dài hai mét nghiêng một xíu theo độ dốc của địa hình. Cross. Cảnh sát trưởng. Trenton Moore, bác sĩ khám nghiệm tử thi quận hạt Raven. Cả ba người nhìn về hướng Hunt, chờ đợi. Cái túi đựng xác đặt dưới đất dường như dài hơn những túi khác.

Kích cỡ người lớn.

Hunt bước bộ đến, dừng lại cách cái túi gần hai mét, và ngồi chồm hỗm xuống. Ông nhớ ông Spencer Merrimon, phong thái ông cứng cáp bảo bọc bà vợ, cung cách ông tự dồn nén cảm giác tội lỗi và làm ngơ như thể nó không hề giết dần giết mòn ông từ trong ra ngoài. Dường như ông ta lúc nào cũng có một bàn tay đặt trên đôi vai của anh con trai, một lời cảm ơn không kèn trống với cánh đàn ông đang tận tuỵ lùng sục để giúp mang con gái ông trở về đoàn tụ với gia đình. Hunt thán phục người đàn ông ấy, có thể là ngưỡng mộ ông ta. “Ông ta đây hả?”

Mọi con mắt quay nhìn cái túi. “Chúng tôi nghĩ vậy.”

“Làm sao quý vị có thể xác định?”

“Qua bên này đi,” cảnh sát trưởng nói.

Hunt đứng lên và mọi người tập trung vào chiếc bàn ngoài trời. Nó làm bằng kim loại đánh giấy nhám bóng, gắn bản lề ở giữa. Trang thiết bị gom từng đống trên bàn: máy laptop, túi đựng máy ảnh và chân chống, vài cuốn sổ tay, một hộp găng tay latex. Vài thứ đựng trong túi nhựa tang vật. Cảnh sát trưởng trỏ vào cái bóp lấm lem. “Cái này tìm thấy trong túi quần của ông ta. Nó làm từ sợi nylon có dây kéo Velcro bít kín. Nó giúp giữ những thứ bên trong không bị ẩm ướt.” Bên cạnh cái bóp, những thứ trong bóp được bày ra bàn, mỗi thứ nằm trong mỗi túi đựng tang vật. Bằng lái xe. Thẻ tín dụng. Vài tờ hoá đơn bị lấm bẩn, vài tờ biên nhận. Một thẻ nhận hàng tiệm giặt ủi. Vài tờ giấy, từng được gấp lại, bây giờ mở bung. Hunt nhìn thấy ảnh của Katherine và hai nhóc. Nó cũng bị lem lấm, nhưng khuôn mặt có thể nhận ra được. Johnny nhìn e thẹn, nhưng Katherine rạng rỡ. Alyssa cũng vậy. “Chúa ơi,” Hunt nói.

“Chúng ta sẽ để bác sĩ khám nghiệm đối chứng hồ sơ răng hàm để xác nhận, nhưng tôi không thấy bất cứ lý do nào để nghi ngờ thi thể này là ông ta.”

“Bác sĩ?” Hunt nhìn Trenton Moore.

“Thi thể là đàn ông, tuổi tác tương xứng.”

Hunt nhìn ra phía ngoài chỗ những lá cờ đánh dấu còn lại, những người đàn ông đang khom người trên một thi hài được đào lên được một nửa của một ai đó chưa biết tên. Đến giờ phút này rất có thể một trong những thi hài đó là Alyssa Merrimon. Ông quay trở lại chiếc bàn và xem xét những món lấy ra từ chiếc ví. Ông nhìn qua những biên nhận - không mang ý nghĩa gì - sau đó là hai tờ giấy đã gấp đi gấp lại nhiều lần đến nỗi cái gáy gấp mòn rách. Tờ đầu tiên là hình vẽ của một đứa trẻ, vẽ hình ảnh một người đàn ông cầm tay một đứa trẻ. “Con yêu bố của con,” là chữ viết tay ngượng nghịu. Góc dưới cùng có chữ, “Alyssa, sáu tuổi.”

Hunt giở qua tờ thứ hai.

“Những địa chỉ,” Cross nói. “Chúng tôi sẽ kiểm tra chúng khi chúng tôi trở về văn phòng.”

Hunt thấy chín địa chỉ. Chữ viết tay xấu, nhưng đọc được. Chúng không có tên, không có số điện thoại. Chỉ là những địa chỉ. Nhưng Hunt cảm thấy luồng điện lạnh sau gáy nói với ông rằng ông đã phán đoán đúng về người đàn ông Spencer Merrimon, việc tại sao thi thể ông ta lại ở đây và tại sao ông ta bị thiệt mạng, nếu không biết được chính xác bằng cách nào. Hunt biết những địa chỉ đó. Ông biết cả những cái tên liên quan đến những địa chỉ đó.

Những kẻ có tiền án tình dục trình diện.

Những thành phần bất hảo.

Cross hướng về cái túi đựng xác. Ông ta chưa cạo râu, đôi môi trễ xuống. “Tôi nghĩ gã Merrimon này bỏ nhà đi hoang.”

“Không.” Hunt đặt tờ giấy trên bàn.

“Tôi nghĩ bà vợ đổ tội cho ông ta quá nghiêm khắc, ông ta bỏ thành phố đi luôn.”

Hunt nhìn một lần nữa ra phía cánh đồng của những nấm mồ nông cạn. Ông nhấc hình vẽ của đứa trẻ lên. Bút chì sáp màu đỏ. Trái tim treo lơ lửng giữa không gian. “Không,” ông nói một lần nữa.

“Người đàn ông này đã gõ nhầm cửa.” Một sự yên lặng tuyệt hảo, tim Hunt tràn ngập niềm trân trọng. “Người đàn ông này thiệt mạng vì tìm kiếm con gái của ông ta.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 53


Johnny bước vào trong cánh rừng và bất thình lình cảm thấy cạn kiệt sức lực. Sự thay đổi chỉ xảy ra trong vài giây. Cậu đang tự tin và tập trung, rồi sau khi Jack và cái nhà kho mờ dần đằng sau lưng, cậu cảm thấy đói và mệt mỏi, mất phương hướng một cách lạ lùng. Cậu bước bộ trên con đường mòn dẫn vào những nơi không ngờ, nó như dốc thẳng đứng lên ở cái nơi lẽ ra phải bằng phẳng. Đây đúng là con đường mòn, nhưng nhìn không phải. Johnny cảm thấy nóng, rồi lạnh. Những nhánh cây đâm cào và dòng suối chảy siết. Cậu thụt chân hai lần xuống bùn sình, sau đó dừng chân ở bờ nước. Cậu nhúng tay vào và giữ nó, ướt đẫm, trên khuôn mặt.

Cậu cảm thấy khoẻ khoắn hơn khi đứng dậy.

Căn nhà thấp thoáng với màu sơn dơ bẩn xa xa ngoài rặng cây.

Thám tử Hunt đi được một nửa đường leo lên dốc thì điện thoại reo. Đầu dây bên kia là cảnh sát Taylor. Cô báo cáo với ông về Ken Holloway: cây đàn dương cầm của gã ta bị đập vỡ, cô người ở nhà gã bị hành hạ thể xác. “Có phải cây đàn dương cầm đó bị anh chàng Johnny cầm cục gạch chọi vào không?”

“Đúng rồi.”

“Vậy là bây giờ nó hỏng hoàn toàn.”

Hunt thở khó khăn, không khí dồn nén và ẩm ướt, hai buồng phổi thít chặt. “Cô người làm sao rồi? Cô ta thương tích có nặng lắm không?”

“Không,” Taylor nói. “Chuyện kỳ cục lắm. Ông nên xem nơi này.”

“Tệ lắm sao?”

“Gã này điên hết biết rồi. Bia rượu và bạch phiến, nhìn như vậy. Gã gọi cô giúp việc là Katherine.”

“Và?”

“Đó không phải là tên của cô ta.”

“Ồ, vậy thì chết rồi.”

“Chính xác như vậy.”

“Truy tố thêm tội hành hung và tung tin ra ngoài báo chí, càng sớm càng tốt. Hãy tìm gã trước khi gã gây thương tích cho ai khác. Và giúp tôi làm một chuyện nữa, gọi điện cho bà Katherine Merrimon và nói với bà ta rời ngay ra khỏi nhà. Nói với bà ta lái xe đến nha cảnh sát. Tôi sẽ gặp bà ta ở đấy. Nói với bà ta tôi cần nói chuyện với bà. Nói với bà ta rằng chuyện này quan trọng.”

“Vấn đề là ở chỗ....”

“Chuyện gì?”

“Tôi đã thử rồi.”

Hunt cảm thấy nó đang cận kề.

“Không có tiếng trả lời ở nhà bà ấy.”

Johnny bước ra khỏi cánh rừng và dẫm lên miếng tôn kẽm cũ kỹ nằm trong sân sau nhà. Miếng kim loại dưới chân cậu bị nung nóng, quá nóng đến mức cậu có thể cảm nhận được sức nóng xuyên qua đế nhựa của đôi giầy. Cậu bước ra khỏi đó và mảnh kim loại vang lên tiếng động cùm cụp bung ngược trở lại. Tiến đến gần sân sau nhà, cậu kiểm tra những cửa sổ. Phòng của cậu trống rỗng, cửa sổ khoá. Phòng mẹ cậu tương tự. Trong bóng tối, chiếc giường là một đống chằng chịt ga nệm. Cậu thấy hành lang qua cửa phòng mẹ, đèn mờ, ván ốp tường vỡ bể. Cậu hụp người quanh quẩn ở góc, tiến ra phía đằng trước.

Chiếc xe Escalade của gã Ken đậu ở trong sân nhà. Không phải ở trên đường dẫn vào nhà, mà trong sân. Cậu phóng qua những hàng cây gai bụi và liếc qua cái cây đơn độc trong sân. Dè xe phía trước bị gập lại, sáu mươi phân nước sơn bị tuột lột ở một bên xe. Cửa xe phía bên tài xế mở tung; bánh xe bên phải chạm vào bậc thềm dưới cùng của hàng hiên. Johnny chạm tay vào nắp capô. Vẫn còn nóng.

Nhà đóng cửa im ỉm, nhưng cậu nghe rõ mồn một: một tiếng thét.

Mẹ của cậu.

Johnny bước hai bước một.

***

Jack giữ cánh tay bị tật trên nòng súng, tay lành lặn ôm chặt báng súng. Hắn trông chừng Freemantle, gã nằm sõng xoài trên sàn nhà, cử động trong giấc ngủ, nói lảm nhảm trong hơi thở khi ngực gã phập phồng. Hắn là một khối thịt đen ngòm trong không khí nóng bức, ngột ngạt. Một kẻ giết người, sợ hãi đàn quạ.

Một gã điên khùng, nói chuyện trong giấc ngủ.

Chúa mới biết.

Ngay cả trong giấc ngủ, gã cũng không ngừng nói lảm nhảm.

Jack ép sát thép súng ấm vào gò má. Johnny đang ở đâu? Tại sao cậu ta chưa trở lại?

Có Chúa mới biết.

Hắn không ngừng nói như vậy.

Tay Johnny tìm núm vặn cửa và cánh cửa bị giật mở bung vào bên trong. Lực kéo thật bất ngờ và mạnh bạo. Nó lôi Johnny qua ngưỡng cửa và vào bên trong nhà. Cậu thấy mẹ nằm dưới sàn nhà, hai tay bị trói ngược ra sau lưng. Bà gọi tên con trai, đoạn, gã Holloway nắm lấy cổ của cậu. Tay gã to lớn, ngón tay cứng dày. Johnny không thở nổi. Cậu không nói được.

Holloway đá cánh cửa đóng sập, rồi vừa lôi Johnny ngang căn phòng, gã vừa giật cho màn cửa đóng ập lại. Johnny kéo co tất cả các ngón tay. Mặt cậu đỏ bừng, áp suất gia tăng trong đôi mắt. Mẹ cậu gọi tên con lần nữa. Holloway nhấc bổng cậu lên khỏi sàn nhà và Johnny thấy được sự căm ghét. “Tao bắt được mày rồi, cái đồ nhãi ranh.”

Bàn tay to lớn co ra phía đằng sau, rồi bật mạnh đến phía trước, và thế giới của Johnny tối sầm. Khi mắt mũi sáng trở lại, gã Holloway thả cậu xuống. Cậu lăn người nằm sấp, thấy một mảnh thảm trải sàn, đôi giầy đánh xi bóng loáng hoàn hảo của gã Holloway.

Mẹ cậu lại thét lên lần nữa.

Levi đứng ở mép sông. Mẹ gã vừa mới được chôn cất, cát bụi trên nấm mồ của bà vẫn còn vương dưới móng tay của gã, và trong những lằn chai sạm, sâu hoắm cắt ngang dọc trong lòng bàn tay. Người gã ướt đẫm mồ hôi, nóng bừng vì đào bới và thương tiếc, nóng bừng vì vết bỏng nằm dưới lớp gạc trên khuôn mặt. Gã đã đi bộ vào thị xã hôm trước đó và đặt mua bia đá để đặt trên nấm mồ của bà.

Creola Freemantle, tấm bia khắc như vậy.

Thượng Đế Biết Vẻ Đẹp Linh Hồn của Bà.

Levi xem xét đất cát dính trên tay gã. Nó là đất cát của Chúa, đen ngòm và màu mỡ. Đất của Rừng Vĩnh hằng. Đất gia đình. Gã xoa những ngón tay vào với nhau, rồi bước xuống dòng nước. Nước dâng lên mát lạnh hai đầu gối, rồi đến ngực của gã.

“Chúa biết,” gã nói.

Và dòng nước nâng bổng gã lên.

Levi ngồi bật dậy trong nhà kho. Cây súng chĩa ngang tầm với mặt gã, anh con trai đằng sau cây súng sợ hãi. Nhìn hắn rất quen, nhưng mắt Levi không còn nhìn thấy rõ. Thế giới lờ mờ, chao đảo. Gã thấy làn da trắng và tóc tai hoang dại. Cặp mắt thất kinh. Levi không biết gã đang ở đâu, nhưng gã linh cảm sự thay đổi như thể gã biết nó đang xảy đến. Gã cảm được không khí chồng chất ở trên người gã, cái mát lạnh của nó đè ập xuống. Rồi giọng nói bơm phồng gã lên. Một chuyện chót, nó nói; và hàm răng của Levi lóe sáng trong màu trắng lờ mờ.

Gã đứng dậy, và sự đau đớn trở thành chuyện xa vời ở nơi chốn nào đó.

Sự đau đớn chỉ còn là ký ức.

Jack chống mạnh chân xuống nền nhà, đẩy người dựa vào tường. Đôi mắt của gã đàn ông chứa đựng một thứ ánh sáng điên dại, và Jack chỉ còn có thể nghĩ đến hai mạng người đã thiệt mạng dưới tay của gã. Máu, như sơn, Johnny đã nói như vậy.

Như nước sơn văng vãi.

Jack chĩa cây súng thẳng về phía trước và nó rung lên bần bật. Hắn không tài nào giữ được bình tĩnh. Hắn lẩm bẩm cầu nguyện: Xin cho con không phải giết gã ta, xin cho con không phải giết gã ta...

Nhưng Freemantle không hề có hành động xâm hại đến hắn. “Đi quá tảng đá lớn, giữa những hàng cây.” Những chữ đó đến chậm rãi và khó nhọc. “Phóng qua con suối và cậu sẽ thấy.” Gã trố đôi mắt đỏ ngầu, rồi cà nhắc bước ra ngoài. Gã dựa vào cánh cửa, nói một điều cuối cùng gì đó với Jack, rồi cánh cửa trống rỗng.

Một lúc sau, Jack vẫn không tài nào cử động, quá kinh động và sợ hãi để có thể nghĩ ngợi lớp lang. Khi hắn hoàn hồn và bước ra bên ngoài, hắn thấy Freemantle đang đứng ngay ở bìa rừng. Sợ hãi và đứng với dáng điệu co gập, gã không đi giầy, không mặc áo, những bắp thịt trên người vặn vẹo và rung chuyển dưới làn da xọc dưa với máu me và cáu bẩn. Một tay của gã sưng tấy sắp sửa hư thối và một khúc cây lởm chởm dài khoảng mười lăm phân đen ngòm thò ra từ miệng vết thương ở bên hông. Nhưng gã Freemantle dường như lãng quên. Gã xoay lưng lại, đầu gã nghiêng nghiêng, con mắt còn tốt nhướng lên và trố nhìn. Jack nhìn theo ánh mắt của gã và cảm giác cánh cửa mở ra đến một nơi lạnh lẽo trong lồng ngực của hắn.

Mặt trời rực lửa treo cao trên bầu trời trong xanh không vẩn đục.

Trên nóc nhà bu đen kín cả bầy quạ.

Bên tai Johnny vẫn vang vọng giọng của mẹ khi cái dây da liên tiếp quất vào người. Cậu cảm nhận được chân gã Holloway đá vào tấm lưng bé bỏng, rồi vào cánh tay mình. Johnny co người tròn như trái banh, cố gắng bảo vệ mạng sống, nhưng gã Holloway tiếp tục tung cước, và trong khi gã đấm đá, mồm gã liên tục nói: “Không ai được phép chọc giận Ken Holloway!”

Gã nắm tóc Johnny.

“Đừng có đi đâu.”

Gã xô Johnny xuống sàn nhà và biến mất vào trong hành lang, đi vào phòng của Johnny. Có tiếng cào quẹt, một cái gì đó nặng nề; và khi gã quay trở lại, gã cầm trên tay cái ống chì mà Johnny cất giấu dưới giường ngủ.

“Mày nghĩ tao không biết gì về chuyện này sao? Đây là nhà của tao.” Gã đánh Johnny lần nữa, cái ống chì đánh vào phần thịt mềm trên đùi cậu. “Nhà của tao,” gã nói. “Không ai được chọc giận tao trong nhà của tao!”

Gã Ken đứng thẳng người lên và Johnny quan sát gã. Gã bước ngang phòng, cầm cuộn băng keo bạc để trên bàn và xé một khúc dài khoảng hai mươi lăm phân. Gã nắm tóc lôi đầu mẹ Johnny, và bà cựa quậy vẫy vùng khi gã dán khúc băng keo lên mồm bà. “Đáng lẽ chuyện này phải làm từ hồi tuần trước,” gã nói, rồi bỏ mặc bà. Cái gương đặt nằm trên tivi. Gã cầm tờ giấy bạc cuộn tròn như ống hút lên, bịt một bên mũi và hít vào hai hàng bạch phiến trên cái gương. Khi quay trở lại, mắt gã mở thao láo và đen ngòm.

“Thằng bố mày bây giờ ở đâu?”

Holloway bước ngang phòng, cầm cái ống lên, và Johnny thình lình đá vào ống quyển của gã, rồi đá tiếp vào xương bánh chè.

Mẹ cậu đập bổ người xuống khi gã nhấc cái ống lên.

Johnny hét toáng lên.

Và sau đó cánh cửa trước nhà văng tung ra. Nó đập bật ngược trở lại, chơi vơi trong bản lề, và gã Levi Freemantle đứng chắn trong khung cửa. Đôi mắt vàng đầy tia máu đỏ, hơi thở nặng nhọc, hai bờ vai của gã quá rộng chạm vào khung gỗ hai bên cửa. Gã nhìn cái ống chì giơ lên cao, rồi bước qua chân cửa. Gã Holloway thu người dưới bóng của Levi, lùi ra đằng sau, đôi giầy hoàn hảo của gã chạm vào xương sườn của Johnny.

Freemantle di chuyển vào trong phòng và mùi cơ thể của gã ngập tràn trong không khí. Bước chân của gã không chập choạng, không ngần ngại. “Những đứa trẻ nhỏ là quà tặng,” gã nói, và gã Holloway quật mạnh cái ống chì vào người gã khổng lồ đang tiến dần đến gã. Nhưng cho dù tướng tá gã Ken cao lớn đến mấy, gã chỉ là một thằng nhóc tì đối với Freemantle.

Như một đứa nhóc tì.

Freemantle chụp lấy cái ống bằng một tay, xoay vặn giật nó văng ra, và từ bên hông quất ngược một phát, vung cái ống chì nặng gần bốn kilogram vào cổ họng gã Holloway. Gã Holloway loạng choạng, rồi quỵ gục xuống trước mặt Johnny. Hai tay gã đưa lên ôm lấy cổ họng, và khi gã ngã gục, mắt của hai người chỉ cách nhau vài phân. Johnny nhìn gã đang cố gắng rít vào hơi thở, và biết cảm giác của gã lúc ấy thế nào. Cậu thấy ý thức dâng cao, sự chắc chắn, và theo sau là nỗi kinh hãi. Gã Holloway cào cấu cái cổ bị thương. Gót chân gã giãy đành đạch đập vào tường, nền nhà, rồi không còn cựa quậy. Ánh sáng cuối cùng đã bị thổi tắt khỏi đôi mắt gã, và thay vào đó, dấy lên bóng tối, ánh sáng lung linh, sự phản chiếu của đôi cánh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 54


Hunt thắng xe, quẹo gấp về phía tay phải và cảm nhận được đuôi xe lết mạnh trên đường. Chiếc xe nặng nề, vẫn lao như tên bắn. Nó trượt bánh trên đường đá sỏi, rồi chồm lồng lộn qua dẻo đất bụi lồi lõm. Hunt quan sát chiếc xe Escalade với má dè trước méo mó, cửa trước mở bung. Ông tống cần số trả về đậu và lao mình phóng ra khỏi xe vào sân nhà, súng rút ra khỏi bao da và lên đạn. Cách cánh cửa ba mét, một luồng gió nóng chạm vào da mặt của ông. Những chiếc bóng chờn vờn qua lại dưới mặt đất.

Ông đạp tung cánh cửa và thấy bà Katherine bị trói nằm dưới sàn nhà. Băng keo bạc dán trên mồm bà, và bà đang vất vả hít hơi thở qua mũi. Johnny nằm dưới nền đất, bẩn thỉu, trắng bệch. Cậu ta cũng bị chảy máu, bầm dập, và cái nhìn trên khuôn mặt hoàn toàn kinh hãi. Gã Holloway chỉ còn là một đống xương bên cạnh cậu, hoặc là đã chết hoặc cũng gần như vậy. Gã Freemantle đứng ngay bên trên họ, cái ống kim loại dài bảy mươi phân lăm le trên tay gã. Người ngợm tả tơi, máu me be bét và hung tợn, gã nhìn giống một kẻ cùng đường quẫn kế hơn là kẻ giết người. Với Hunt, không cần phải tính toán nhiều, bài toán đơn giản.

Ống chì. Tảng gạch.

Giống nhau.

Nòng súng hướng về phía bên phải.

“Đừng bắn,” Johnny nói.

Nhưng Hunt đã bóp cò. Ông bắn một phát đạn trúng vào phía bên phải ở tít bên trên. Nó không phải là phát súng bắn hạ. Hunt muốn gã ngã gục nhưng vẫn giữ được tính mạng.

Phát súng làm Freemantle loạng choạng. Nó hất ngược gã văng ra phía đằng sau, nhưng gã vẫn đứng. Hunt bước lại gần hơn, súng chĩa thẳng vào mục tiêu, nhưng Freemantle không hề có cử chỉ công kích. Một cảm xúc lạ lùng thoảng qua khuôn mặt gã, bối rối, theo sau là cái gì đó như vui sướng - ánh sáng chan hoà, nếu điều đó là có thực. Tay gã đưa lên, những ngón tay xoè ra. Gã nhìn ra xa tít phía ngoài Hunt, nhìn vào bầu trời xanh thẫm và mặt trời chói lòa trên cao. Gã đứng đủ lâu để thốt lên một chữ duy nhất.

“Sofia.”

Rồi gã đổ quỵ người xuống, tắt thở trước khi chạm xuống sàn gạch.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 55


Hunt gọi điện về trình báo, không có cách nào giữ yên lặng chuyện này. Ông cần cớm, y tế cấp cứu, bác sĩ khám nghiệm tử thi. Tin lan truyền như cháy rừng, và cánh phóng viên ào ạt di tản khỏi con đường trước hiện trường căn nhà của Jarvis. Một gã có tiền án trốn tù bị thiệt mạng, và một gã giàu có nhất thị xã cùng số phận tương tự. Thi thể của họ hiện đang ở trong nhà của Johnny Merrimon.

Johnny Merrimon.

Một lần nữa.

Hunt phải cô lập phong tỏa con đường. Ông chiếm cứ một phần tư dặm đường mỗi bên nhà và bố trí xe tuần tiễu xoay ngang ở hai đầu đường. Ông cũng yêu cầu dựng rào chắn. Ngày chuyển sang buổi trưa.

Hunt thẩm tra vài câu hỏi cần thiết, rồi sau đó chuyển giao bà Katherine và Johnny cho nhân viên cấp cứu. Họ bị đánh đập, cả hai người. Johnny loạng choạng không đứng vững, nhưng nhân viên cấp cứu nghĩ họ sẽ bình phục. Sẽ đau đớn một thời gian dài, nhưng không sao. Hunt bình tâm kìm hãm cảm xúc của mình: sự lo lắng và giải tỏa của ông, có những cảm xúc mạnh hơn mà ông chưa sẵn sàng đương đầu. Ông kiểm tra để chắc chắn khu vực phong toả được thiết lập an ninh, sau đó lại trở vào bên trong căn nhà.

Gã Holloway đã tắt thở.

Gã Freemantle đã chết.

Hunt liên tưởng đến Yoakum, và ông muốn hỏi Johnny xem có phải Yoakum là gã đàn ông mà cậu từng thấy ở nhà gã Jarvis. Nhưng ông không có ảnh của Yoakum, và anh nhóc vẫn còn trong tình trạng chấn động, do vậy ông để cậu được nghỉ ngơi. Ông điều phối các tay thợ ảnh, chuyên viên hiện trường, và lần đầu trong cuộc đời cảnh nghiệp của mình, ông cảm thấy mình hoàn toàn bị áp đảo. Ronda Jeffried, Clinton Rhodes, David Wilson. Những đứa trẻ vùi thây đằng sau căn nhà của gã Jarvis. Ngay cả gã Jarvis. Meechum. Bây giờ đến lượt Freemantle và Holloway. Quá nhiều cái chết, quá nhiều nghi vấn. Khi cảnh sát trưởng đến, trước tiên ông ta nhìn thi thể Holloway, đôi môi gã ta co rụt lại dưới đôi mắt to mở trừng trừng, rồi nhìn đến Freemantle, ngay cả lúc chết, thân xác gã vẫn to lớn và không có lực nào ngăn cản nổi.

“Lại một vụ nổ súng gây tử thương khác,” cảnh sát trưởng nói.

“Tôi không bắn gã ta vào chỗ hiểm. Gã lẽ ra không thể mất mạng.”

“Nhưng gã chết rồi.”

“Thì ông sa thải tôi đi.”

Cảnh sát trưởng đứng bất động một phút. “Thêm một kẻ có tiền án bị thiệt mạng.”

“Nhưng gã Holloway thì sao?”

Cảnh sát trưởng nhìn những nơi sưng tấy trên thi thể Holloway. “Gã ta đánh đập cậu con trai à?”

“Và mẹ cậu ta.”

Khuôn mặt Cảnh sát trưởng lộ rõ vẻ buồn rầu, thất vọng. “Tôi nghĩ có thể Yoakum nói đúng.”

“Đúng sao?”

“Có lẽ sự độc ác là phần ung thối trong trái tim con người.”

“Không phải lúc nào cũng vậy,” Hunt nói. “Và không phải với ai cũng vậy.”

“Có lẽ ông đúng.” Cảnh sát trưởng quay mặt đi chỗ khác. “Hoặc là không.”

Một tiếng sau, Hunt báo tin tức liên quan đến ông bố của Johnny. Ông nói với bà Katherine trước tiên, vì ông nghĩ nó là việc hợp lẽ. Bà ta cần phải trấn tĩnh tinh thần về cái chết của ông chồng ngõ hầu giúp cậu con trai đối phó tương tự. Bà ta cần có mặt để an ủi vỗ về cậu con trai. Ông báo tin cho bà ở ngoài sân, khi cảnh sát và nhân viên y tế hối hả chạy xung quanh. Bà chấp nhận bình thản. Không nước mắt hay khóc gào ầm ĩ. Sự yên lặng kéo dài năm phút; rồi một câu hỏi bật ra, giọng bà mong manh khiến ông khó khăn lắm mới nghe được.

“Ông ấy có đeo chiếc nhẫn cưới trên tay không?”

Hunt không hề biết. Ông gọi điện cho bên khám nghiệm tử thi và nói chuyện thầm thì trong khi bà Katherine trông nom cậu con trai, khi cậu vẫn đang được chăm sóc ở phía đằng sau một xe cứu thương. Khi Hunt lại gần, bà trực diện với ông lần nữa, người bà gầy xọp như tấm kính.

“Có,” Hunt nói, và ông nhìn bà cúi xuống.

Khi Johnny có vẻ bình phục, bà và Hunt dẫn cậu ra phía sân sau nhà, đến một nơi yên lặng xa khỏi con mắt nhòm ngó của bất cứ ai. Bà ngồi bên cạnh con trai trên một thảm cỏ và giữ tay con khi Hunt nói cho Johnny biết những gì họ tìm được trong cánh rừng đằng sau căn nhà của Jarvis.

“Lúc ấy bố cậu cũng đang tìm kiếm Alyssa,” Hunt nói, rồi ngừng, giây phút đầy ý nghĩa. “Cũng như cậu.”

Johnny không nói gì, đôi mắt to đen thẫm và lặng thinh.

“Ông ấy là người can trường,” Hunt nói.

“Và gã Jarvis đã thảm sát ông ấy?”

“Chúng tôi nghĩ vậy.” Hunt nhìn từ mẹ đến con. Quá giống nhau. “Nếu bất cứ việc gì tôi có thể làm...”

“Ông có thể cho chúng tôi ít phút được không?” bà Katherine yêu cầu.

“Dĩ nhiên,” Hunt nói, và bỏ đi.

Họ nhìn theo bóng ông đi khuất sau nhà, và bà Katherine nhích lại gần con trai hơn. Johnny nhìn vào điểm trống không trước mặt. Bà luồn tay vào mái tóc bê bết của con trai, và mất một phút cậu mới nhận ra mẹ cậu rơi lệ. Cậu nghĩ cậu hiểu, nhưng cậu đã lầm.

“Bố con không bỏ rơi chúng ta,” bà thì thào.

Bà lau nước mắt, tự nhắc lại, và sau đó Johnny hiểu được. Ông ấy không bỏ rơi chúng ta.

Một cái gì đó to tát và không nói ra được lấn cấn giữa hai người, và họ chia sẻ sự yên lặng cảm thông đó cho đến khi có những bước chân lạo xạo trong rừng cây và Jack bước ra khỏi con đường mòn. Người hắn đầy bùn đất, như thể hắn vừa té ngã xuống dòng suối. Hắn nhìn nhỏ thó, và con mắt hắn đảo nhanh từ căn nhà đến bầu trời trên cao trước khi hắn nhìn thấy họ, ngồi yên như những pho tượng trong bóng râm. Hắn vấp ngã khi bước bộ, rồi dừng lại ở xa một mét rưỡi. Johnny mở mồm, nhưng Jack đưa tay lên, rồi xoè hai lòng bàn tay ra.

“Tớ biết cô bé ấy ở đâu,” hắn nói.

Không ai động đậy, và Jack nuốt xuống vất vả.

“Tớ biết cô bé ấy ở đâu.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 56


Hunt nghi ngờ. Ông nhìn chằm chằm xuống, nhưng Jack vẫn kiên trì. “Nó là lời nói cuối cùng mà gã Freemantle thốt ra.”

“Nói cho tôi nghe một lần nữa.” Hunt khoanh tay. Họ vẫn ở phía đằng sau sân nhà, khuất tầm nhìn gần cánh rừng. Bà Katherine sửng sốt. Johnny lúng túng, mặt cậu đỏ bừng.

“Gã đang ngủ trong nhà kho, sau đó tỉnh giấc và đi ra ngoài. Tôi theo sau gã.”

Jack nhìn Johnny, sau đó nhanh chóng nhìn đi chỗ khác. “Tôi theo sau gã.”

“Nhưng không phải đi về phía ngôi nhà,” Hunt nói.

“Tôi đã quá sợ hãi.” Jack không nói gì về bầy quạ bu kín trên nóc nhà kho, kiên quyết và không hề chuyển dịch. Sự sợ hãi của hắn về đàn quạ quá lớn, quá cá nhân.

Hunt lắc đầu. “Gã ta có thể nói về bất cứ chuyện gì.”

Bà Katherine giữ chặt cậu con trai, nhưng Johnny vùng vẫy. “Gã ta có tấm vải thêu tên cô bé khi chúng tôi tìm được gã. Nó từ chiếc áo cô bé mặc khi cô bé bị mất tích. Tên cô bé thêu trên đó.”

“Cậu đã nói cho tôi biết câu chuyện của cậu,” Hunt nói. “Ngay giây phút này, tôi đang nói chuyện với cậu Jack.” Ông quay qua hướng Jack. “Gã ta có nhắc gì đến tên tuổi của cô bé Alyssa không?”

“Không.”

“Nói tôi nghe chính xác gã nói gì.”

Jack thăm dò từ Hunt đến Johnny, rồi đảo mắt trở lại. Hắn nuốt khan giọng khó khăn. “Giếng mỏ Bắc Crozet. Đó là những gì gã nói.”

“Chính xác từng chữ, Jack. Tôi muốn nghe như vậy.”

Jack lắp bắp một lần, rồi sau nói rành rẽ. “Xác cô ta nằm trong Giếng mỏ Bắc Crozet.”

“Và cậu biết chắc chắn điều này...”

“Gã nói về Alyssa,” Johnny ngắt lời. “Trước đây chúng tôi có hỏi gã về cô bé. Đó là ý của gã. Chắc chắn ý của gã là như vậy.”

Hunt cau mày. “Cậu cũng nói là gã ta nghe lời nói của Chúa vang vọng trong đầu gã. Cậu có hiểu nỗi khổ tâm của tôi không.”

“Chúng ta phải thử.”

Hunt biết về Giếng mỏ Bắc Crozet. Tất cả họ đều biết. Nó là giếng mỏ khoan đào cuối cùng của vùng mỏ vàng danh tiếng, hầm mỏ với trữ lượng giàu nhất từng được khai thác ở Quận hạt Raven. Được đào vào những năm đầu của thế kỷ mười chín bởi người đàn ông gốc Pháp tên Jean Crozet, nó là giếng mỏ thẳng đứng, khoan đào thẳng đứng xuống khoảng hơn hai trăm mét, thẳng tuột trước khi chia cắt ra những nhánh nhỏ chạy ngang dọc. Nó nằm ở vùng đất cằn cỗi của cánh rừng ở khu vực xa tít phía bắc của quận hạt. Hunt từng đi thăm viếng khu vực này một lần và nhớ rõ những hàng cây cao và những thềm đá granite, những phòng chất nổ xây dựng trong sườn đồi, và giếng mỏ, rất nhiều giếng mỏ. Trong tất cả các giếng mỏ - có khoảng vài chục - Bắc Crozet là giếng mỏ sâu nhất và có nhiều giai thoại nhất. Hoạt động liên tục trong suốt hai thập niên, nó gây tử nạn cho bốn thợ mỏ và sản xuất một sản lượng lớn nhất đào lên từ đất thuộc tiểu bang Bắc Carolina. Ông Jean Crozet là một thần tượng của địa phương. Nhiều con đường mang tên ông, cả một nhánh thư viện.

Toàn bộ khu vực này một thời mở rộng cho công chúng tham quan như là một di tích lịch sử, nhưng chính quyền tiểu bang đóng cửa khu vực khi những giếng mỏ bắt đầu đổ sụp và một chuyên viên địa chất từ Chapel Hill tuyên bố toàn bộ khu vực mất an toàn. Giếng mỏ Bắc Crozet không xa lắm so với nơi thi thể ông David Wilson được phát hiện. Từ giếng mỏ đến cây cầu đi nhanh mất khoảng mười hai phút. Có thể mười lăm. Hunt nhìn lên bầu trời. Mặt trời sẽ lặn trong vòng bốn giờ đồng hồ nữa. “Trễ rồi,” ông nói.

Nhưng bà Katherine đặt một bàn tay lên cánh tay của ông. “Làm ơn đi.”

Hunt ngần ngừ.

“Làm ơn.”

Ông quay đi chỗ khác, tránh cặp mắt tuyệt vọng của bà. Ông thấy bác sĩ khám nghiệm tử thi rời khỏi căn nhà, bèn nói, “Chờ ở đây.” Ông chặn bác sĩ Trenton Moore ở khoảng bóng râm ánh sáng mặt trời bên hông nhà. “David Wilson,” ông bắt đầu. “Ông có nói ông ấy là một tay leo núi.”

Bác sĩ Moore nheo mắt, chuyển sự chú ý từ vụ án mạng này sang vụ án mạng khác. “Mọi chứng cớ đều phù hợp với chuyện ấy.”

“Ông ta có những đặc tính thể lực về thám hiểm hang động không? Những đầu ngón tay? Bắp thịt?”

“Thám hiểm hang động ư? Chắc chắn. Nhiều tay leo núi tham gia thám hiểm hang động. Thế giới khác, thử thách khác.” Ông nhún vai. “Kẻ leo núi trèo lên trên, người khám phá hang động tuột xuống dưới. Tất cả đều là leo trèo.”

Hunt trở lại với đám người bồn chồn đang đứng gần hàng cây. Ông nhìn lên bầu trời, rồi nhìn đồng hồ. Ông có thể thấy bà Katherine đang cố gắng van nài. Johnny nhìn như có vẻ sẵn sàng lao đầu chạy vào rừng nếu Hunt nói không. “Chỉ xem xét sơ qua,” ông nói. “Đó là tất cả những gì tôi có thể hứa.”

“Còn tôi thì sao?” Jack hỏi.

“Tôi đã gọi bố cậu. Ông ta đang trên đường đến đây.”

“Tôi không muốn nhìn mặt ông bố tôi.”

“Tôi không trách cậu,” Hunt nói. “Ông ta rất giận dữ. Mẹ cậu từng quẫn trí về chuyện này.”

“Ông không hiểu đâu.” Jack cố một lần nữa.

“Tôi sẽ tống cậu vào trong xe tuần tiễu nếu tôi buộc phải làm như vậy. Tôi có cần thiết phải làm điều đó không?”

Jack chuyển từ trạng thái khiếp sợ qua ủ rũ. “Không.”

“Vậy thì cứ ở đây.”

Ông nói như thể đang nói chuyện với một con chó.

Jack nhìn họ ra đi. Johnny quay đầu nhìn lại một lần và giơ một tay lên. Jack làm tương tự, sau đó Hunt sắp xếp mọi người ngồi ghế sau xe của ông. Hunt nghiêng người vào bên trong xe, nói điều gì đó, và Jack thấy Johnny và mẹ cậu ta nằm sát rạp người xuống, có lẽ để tránh sự soi mói của cánh phóng viên. Hắn nhìn chiếc xe rẽ về hàng rào chắn hướng bắc rồi biến mất. Chiếc xe di chuyển chậm rãi, ánh nắng mặt trời phản chiếu lớp sơn sáng rực. Jack thấy hình bóng ông bố của hắn qua lớp kính, sau đó hắn lủi ngay vào bìa rừng và mất dạng. Hắn biết chuyện gì đang xảy đến và không đủ sức đương đầu.

Không phải ngay bây giờ.

Lúc đang không tỉnh táo.

Johnny ngồi chung ghế sau với mẹ cậu. Bà giữ thẳng lưng và đờ đẫn. Hai bàn tay trắng bệch. Hunt lái xe về hướng bắc và chệch một xíu về hướng tây. Gió lạnh thổi vào qua ngách thông gió và ông trông chừng cặp mắt bà Katherine khi có thể. Giếng mỏ sâu thẳm thẳng dựng đứng hơn hai trăm mét, dưới đáy giếng mỏ đầy nước đen ngòm, lạnh giá. Cơ hội để có một kết cục có hậu rất mong manh.

Ông cho xe chạy chậm khi họ đi ngang cây cầu nơi David Wilson bị thảm sát. Johnny nhìn ra phía bên ngoài cửa sổ. Con sông phản chiếu bầu trời cao xanh; bờ sông đầy bùn sình và xum xuê cây cỏ. Thêm một dặm đường và con đường bắt đầu leo dốc. Nó uốn khúc xa dần khỏi dòng sông, đi lên những con đồi thấp nơi những cánh đồng xa dần và cây cối mỗi lúc một um tùm thành cánh rừng già rậm xanh thẫm. Phần đất thuộc quận hạt này không có nhiều thông. Trong rừng là gỗ cứng mọc trên đất đá núi, trống rỗng và không hề được khai phá. Không phải là nó không đẹp đẽ gì - nó đẹp - nhưng mạch nước ngầm nằm sâu dưới lớp đá granite, và những giếng đào rất đắt đỏ. Vậy mà, có một ít người sinh sống ở đây. Xe đi qua vài căn nhà nằm khuất trong lùm cây, một vài căn nhà tiền chế, nhưng chỉ trong chốc lát những ngôi nhà trở nên hiếm hoi. Hunt rẽ vào một con đường tiểu bang hẹp và đi qua cây cầu một làn xe chạy bắc ngang con lạch nhỏ. Đi sâu vào trong rừng, bầu trời thu hẹp lại chỉ còn một dải nhỏ hẹp. Gần năm giờ chiều. Mặt trời sẽ lặn vào khoảng tám giờ.

“Gần đến nơi rồi,” ông nói.

Bà Katherine ghì chặt cậu con trai.

Họ đi qua cái bảng gãy chỏng trơ ghi dòng chữ: HẦM MỎ QUẬN HẠT RAVEN, DI TÍCH LỊCH SỬ, HAI DẶM. Ai đó thổi sơn chữ “Đóng cửa” màu trắng ngang phía trước tấm bảng. Những lỗ đạn lỗ chỗ trên bề mặt.

Con đường đi ngang qua một cây cầu nhỏ, sau đó trở thành đường đất. Phía bên tay phải, một căn nhà tiền chế cũ nát được xây cất bằng những tảng gạch dưới tàng cây. Nó là nhà một gian, cũ, với một chiếc xe tải tàn tạ đỗ trước cửa. Một bình gas gắn ở phía trước căn nhà. Ghế vườn đặt ở chỗ đất phẳng sát bên con lạch. Một gã trai trẻ tựa người vào nắp sau của xe tải. Gã vào khoảng hai mươi, không cạo râu, người gầy mảnh khảnh và da sạm nắng. Một tay gã cầm lon bia; thùng xe tải trống rỗng không có gì. Johnny giơ một tay lên khi họ đi qua và gã đàn ông cũng giơ tay lên, nheo mắt nhưng thân thiện. Một người phụ nữ trẻ bước ra hàng hiên phía đằng sau gã. Mặt bà ta dữ tợn và người to béo. Johnny đưa tay lên một lần nữa, nhưng bà ta làm ngơ và nhìn chằm chằm cho đến khi khúc cua của con đường lôi kéo bà ta trở vào trong cánh rừng.

“Một số người không thích người lạ,” Hunt nói. “Và một số người ra tít tận ngoài này sinh sống. Đừng suy nghĩ nhiều về chuyện này.”

Đi được thêm một dặm, họ đến một bãi đậu xe bỏ hoang. Cỏ dại vươn lên từ nền sỏi đá. Có một cái bản đồ lớn ở dưới khu vực có mái che và Johnny bước đến gần nó. “Tôi biết giếng mỏ ở đâu,” Hunt nói. “Con đường mòn chính dẫn chúng ta đi thẳng đến đó.”

Họ bước bộ khoảng mười phút, chậm rãi, rồi đi qua một dọc các bảng khuyến cáo trước khi mặt đất mở rộng ra. Mỏ giếng rộng khoảng bốn mét chiều ngang. Những đường ray hoang phế kéo dài tít vào tận trong rừng. Đường ray nhỏ hẹp và rỉ sét, cỏ hoang dại mọc um tùm. Họ tụ tập trên một tà-vẹt mục nát vẫn còn vương mùi hoá chất crezot và dầu tẩm. Johnny bước đến gần miệng giếng hơn. Những vùng đất đá đổ sụp xung quanh miệng giếng. Mặt đất đầy sỏi đá và trơn tuột lỏng lẻo dưới chân.

“Đừng.”

Cậu nhìn mẹ, chồm ra ngoài. Không khí đập vào mặt lạnh và ẩm thấp. Cậu thấy những vụn đá tảng rơi xuống sâu thẳm vào trong đen tối. “Trường con từng đến đây tham quan,” cậu nói. “Hồi đó còn có dây thừng. Để giữ an toàn cho những học trò từ đằng xa.”

Những cây cột vẫn còn đó, trồng vào bệ bê tông; nhưng dây thừng thì biến dạng, hoặc là bị lấy cắp hay mục rữa. Cậu nhớ ngày ấy. Trời có mây. Mát mẻ. Các giáo viên buộc học trò nắm tay nhau và không đứa con gái nào chịu nắm bàn tay của Jack. Johnny có thể thấy điều ấy. Học trò chồm người qua hàng rào dây thừng an toàn, chờ đợi khi giáo viên quay đi chỗ khác, rồi ném đá xuống miệng giếng.

Jack đứng ở phía bên kia.

“Johnny.” Giọng bà Katherine lo ngại. Bà thu mình, lo lắng. Johnny lùi bước và để tầm mắt của cậu đi hoang đến cái nơi mà Jack từng đứng, bị tẩy chay. Nó gần bìa rừng, xa khỏi những đứa học trò khác. Jack quay lưng về phía lũ học trò, hắn nhìn vào cái bảng sắt vuông nhỏ rỉ sét đóng đinh ri-vét vào tảng đá trơ trọi. Hắn đứng nhìn mãi vào tấm bảng, giả bộ như không khóc. Hunt bước gần hơn đến miệng giếng và Johnny bước đến tấm bảng. Những ký tự đóng khắc vào trong kim loại. Jack đứng lần mò những chữ này bằng ngón tay teo nhỏ của hắn. Johnny còn nhớ những ngón tay đó đã tấy bẩn với rỉ sét đỏ thế nào.

“Tôi thấy những đinh móc sắt.” Hunt chồm người ra, và Johnny nhận biết cậu cũng từng thấy chúng: khoảng chín mét sâu ở dưới, đầu đinh sắt vẫn còn sáng choang vì bị búa đập vào. Nhưng sự hiểu biết thì xa xôi, như âm giọng của Hunt.

Johnny nhìn vào cái bảng. Cậu thấy những mẫu tự khắc vào trong kim loại, rỉ sét, ngón tay teo rút của Jack, vết tấy đỏ trên đầu ngón tay. Cậu cảm thấy gió thổi phía sau lưng. Hunt đang nói chuyện điện thoại.

“Đúng là nơi này,” Johnny nói, nhưng không ai nghe giọng cậu.

Cậu nhìn tấm bảng và thò chính ngón tay của cậu chạm vào nó. Những mẫu tự khắc trên tấm bảng. Tấm bảng đánh dấu giếng mỏ.

“Em gái tôi ở đây.”

Tên của giếng mỏ được viết tắt, và Johnny lần mò theo từng mẫu tự. Không. Croz.

Đầu ngón tay của cậu tấy đỏ.

Không có một con quạ đen nào.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 57


Hunt gọi điện yêu cầu được yểm trợ vì sự nể tình và khả năng giữ yên lặng của họ. Chưa đầy một giờ đồng hồ hai nhân viên sở cứu hỏa đang ngoài giờ tùng sự xuất hiện trên ô tô cá nhân với đầy đủ trang thiết bị. Bác sĩ Trenton Moore cũng có mặt, với tư cách cá nhân. Hunt đi bộ ngược trở lại sân bãi và dùng kìm cộng lực để trong thùng xe cắt sợi dây cáp ngăn chặn con đường mòn. Một nhân viên sở cứu hỏa lái chiếc xe tải Dodge Ram sậm màu. Anh ta lao xe trên con đường mòn, những cành cây cào sướt lớp sơn bên ngoài, rồi trở đầu và lùi xe sát cạnh miệng giếng mỏ. Người thứ hai lái chiếc xe Jeep. Họ đang xuống dây thừng khi bác sĩ khám nghiệm tử thi đậu xe và bước ra ngoài chiếc xe thùng đủ hẹp để không bị cành cây cào xước lớp sơn. Hunt nhìn Katherine để chờ xem phản ứng của bà khi có mặt của bác sĩ khám nghiệm tử thi, nhưng bà ta đã vượt xa ngoài lo lắng. Bà nhìn người lính cứu hoả to lớn gài gá nai nịt an toàn và buông thòng cuộn dây thừng lớn qua miệng giếng mỏ. Rồi bà ngồi xuống cạnh cậu con trai.

Hunt đứng chung với hai nhân viên sở cứu hỏa ngay miệng giếng. Họ là những tráng niên khoẻ mạnh; nhưng ánh mặt trời nhanh chóng tắt dần. “Xuống dưới và lên ngay,” Hunt nói. “Chúng ta không biết rõ chuyện gì ở đây, cho nên đừng có rồ dại làm anh hùng.”

Người lính cứu hỏa cao tuổi hơn trạc khoảng ba mươi. Anh ta gài chốt móc sau cùng vào dây nịt an toàn. Anh đeo ngọn đèn chiếu trên đầu và mang theo ngọn đèn thứ hai cài móc vào trong dây nịt. Những sợi dây thừng của họ neo buộc vào phía đằng sau xe Dodge. Anh ta đu ghì người chặt vào cả hai sợi dây kiểm tra độ an toàn. “Cũng như đi dạo bộ trong công viên thôi, Thám tử.”

“Giếng sâu hai trăm mười lăm mét đấy.”

“Tôi biết rồi.”

“Dưới đáy giếng ngập nước.”

Anh lính cứu hỏa gật đầu. “Một cuộc dạo bộ thôi mà.”

Hunt lùi bước, và sau đó họ vượt qua miệng giếng, tụt sâu xuống lòng giếng mỏ. Họ gọi tên lẫn nhau khi tụt xuống, những âm thanh nhỏ dần như gợi ý, rồi mất hẳn. Hunt chồm ra và theo dõi những ngọn đèn rơi xuống xa dần. Chúng chiếu sáng lòng giếng mỏ bằng những lằn chiếu rọi nhỏ hẹp thắt lại trong khi giếng mỏ nuốt chửng lấy họ.

Hunt nhìn Johnny. Cậu lắc lư. Đôi mắt cậu đờ đẫn và mẹ cậu đang ngồi khóc sùi sụt. Cậu nhìn họ tụt dây thừng xuống đáy giếng. Cũng không mất bao nhiêu lâu.

Máy liên lạc của Hunt kêu rè rè. Ông vặn âm thanh nhỏ xuống và quay lưng trở lại. “Lên tiếng đi.”

“Chúng tôi phát hiện được cái gì đó ở dưới đây.”

Tiếng nói đó là của người lính cứu hỏa lớn tuổi. Hunt nhìn bà Katherine một lần. “Hãy nói cho tôi biết.”

“Trông giống như một thi thể.”

Johnny nhìn đám mây khi thám tử Hunt đứng phía trên họ trong không khí ảm đạm quy tụ và nói về những gì những người lính cứu hỏa phát hiện được. Đám mây có màu vàng cam ở dưới đáy và mang hình dáng như một chiếc tàu ngầm. Màu cam chuyển đổi qua màu đỏ. Gió lôi đám mây thành một cái gì đó không hình dạng và phẳng đơ.

“Johnny?”

Đó là Hunt, nhưng Johnny không tài nào nhìn được vào ông ta. Cậu lắc đầu, và ông tiếp tục nói thêm. Johnny nhìn đám mây chuyển mình. Cậu nghe chuyện gì đó về cái giếng bị đất sụp đổ ba mươi bảy mét ở dưới, về điểm nghẽn cổ chai và đá chèn. Cái giếng trong tình trạng không an toàn. Cậu hiểu đến đó. Đầu cậu chuyển dịch khi Hunt nói về một thi thể bị nghẽn chẹt ở trên vị trí cổ chai. Người ta bàn chuyện trục vớt thi thể lên.

Nhưng nó có thể không phải là Alyssa. Không thể nào như vậy, không như chuyện đã xảy ra với bố cậu. Đó không phải là kết cục của một đời người. Rồi Hunt nói, “Chúng tôi chưa thể xác định được danh tánh của nạn nhân.”

Điều này tốt. Nó mang lại một chút hy vọng.

Nhưng Johnny biết.

Và mẹ của cậu cũng hiểu như vậy.

Cậu thôi nhìn đám mây và bà mẹ bóp chặt tay cậu. Johnny đứng đó. Cậu nhìn sợi dây thừng, và sức nặng treo trên nó như thế nào từ một nơi sâu thẳm dưới lòng đất. Trên xe tải là cái máy trục kéo dây, nó xoay cuốn chậm rãi với tiếng động nhỏ của động cơ điện. Hunt cố gắng thuyết phục họ ngồi chờ trong xe của ông, để ai đó chở họ về nhà. Tay ông ấm nóng lạ thường trên cánh tay của Johnny; nhưng Johnny từ chối không cất bước. Cậu nghe tiếng nghiến chậm rãi của bánh nhông máy kéo dây; và âm giọng của Hunt nghe cũng giống như vậy, ậm ừ. Mẹ của Johnny chắc cũng nghe thấy thế, bởi vì cả hai đều có mặt ở đó khi chuyện diễn tiến.

Cả hai.

Cùng với nhau.

Thi thể được trục lên khi đường viền cuối cùng của mặt trời vừa khuất dạng dưới tàng cây cao nhất. Nó là cái túi nhựa đen nhìn giống như chứa xác của một con người. Hunt để họ đến gần hơn, nhưng ông đứng giữa họ và cái túi, ngay cả khi nó được đặt lên đằng sau chiếc xe thùng. Một người đàn ông hướng đôi mắt cảm thông về họ, rồi sau đó đóng bửng xe và nổ máy để giữ nhiệt độ bên trong xe mát lạnh. Johnny cảm thấy chóng mặt và phát ốm. Những bóng người kéo dài ra. Mẹ cậu để Hunt đưa bà vào trong một chiếc xe khác và Johnny biết bà không thể làm gì nữa cả. Bà đang chống chọi hít vào từng hơi thở.

Nhưng Johnny thì không. Cậu bị tê cứng. Cậu trố mắt nhìn vào cái giếng khi sợi thừng lại được thòng xuống dưới đó. Nó được xả ra từ cái máy kéo dây, rồi sau đó dừng lại. Hunt vẫn ở trong xe ô tô với bà mẹ Johnny khi chiếc xe đạp được trục lên. Nó rỉ sét và cong dúm, nhưng Johnny nhận diện ra nó. Nó có nước sơn màu vàng và chiếc yên xe quả chuối. Nếu nhìn kỹ, cậu sẽ thấy nó có ba líp số. Nhưng Johnny không cần nhìn; cậu biết chiếc xe đạp này.

Chiếc xe của Jack.

Mà hắn nói rằng đã bị mất cắp rồi.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom