Cập nhật mới

Dịch Full Không Có Ngày Mai

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


TÔI BẮT CHUYẾN TÀU CHẠY TỪ GA PENN. Tiếp tục dùng phương tiện giao thông công cộng. Đến được ga thật căng thẳng. Chỉ phải đi bộ qua các đám đông hết ba khối nhà song tôi phải theo dõi những người đang xem hình chụp các khuôn mặt trên điện thoại di động của họ, và dường như cả thế giới đều có một dạng thiết bị điện tử rút ra rồi bật mở lên. Tôi đến đó an toàn và mua vé bằng tiền mặt.

Tàu hỏa đầy người và rất khác tàu điện ngầm. Tất cả hành khách quay mặt về phía trước, họ đều khuất sau những hàng ghế cao. Những người duy nhất tôi trông thấy được là những người ngồi hai bên. Một phụ nữ ngồi ghế sát tôi, hai đàn ông phía bên kia lối đi. Tôi đoán cả ba đều là luật sư. Không phải những nhân vật chủ chốt. Có lẽ là những nhân vật cỡ AA hoặc AAA, những phụ tá cấp cao có cuộc sống bận rộn. Dù sao cũng không phải kẻ đánh bom tự sát. Hai người đàn ông mới cạo râu, cả ba người đều khó chịu cả, nhưng ngoài ra thì chẳng có gì đáng lưu tâm. Dù gì thì hệ thống đường sắt quốc gia đi đến thủ đô cũng không mấy thu hút các tay đánh bom tự sát. Thay vào đó, nó được thiết kế phù hợp cho một chiếc va li chứa bom. Ở Penn, số đường ray được thông báo vào phút cuối cùng. Đám đông xoay tròn trong phòng đợi lớn và rồi vội vã đi xuống, lên tàu. Không an ninh. Những va li màu đen có bánh lăn giống hệt nhau xếp đầy trên các giá hành lý. Đủ dễ cho một gã xuống tàu ở Philadelphia và bỏ lại chiếc túi của mình, rồi ít lâu sau nó nổ tung, kích bằng điện thoại di động, trong lúc con tàu chạy vào ga Union mà không chở gã đó, ngay giữa trung tâm thủ đô.

Nhưng chúng tôi tới đó an toàn và tôi lên được đại lộ Delaware mà không hề hấn gì. Washington cũng nóng như New York, và ẩm ướt hơn. Các vỉa hè phía trước tôi rải rác các nhóm du khách. Hầu hết là các nhóm gia đình, từ khắp nơi xa xôi. Những bậc cha mẹ đầy trách nhiệm, những đứa con sưng sỉa, tất cả đều mặc áo phông, quần soóc lòe loẹt, bản đồ trên tay, máy ảnh sẵn sàng. Nói thế không phải bảo tôi là người ăn mặc lịch sự hay là một du khách thường xuyên. Trước đây thi thoảng tôi làm việc ở khu vực này, nhưng luôn ở phía tả ngạn sông. Nhưng tôi biết mình đang đi đâu. Đích đến của tôi không thể lẫn được và nằm ngay phía trước tôi. Trụ sở Quốc hội Hoa Kỳ. Nó được xây lên để tạo ấn tượng. Nghe nói các nhà ngoại giao nước ngoài đã đến thăm nơi này hồi chế độ Cộng hòa còn non trẻ, và khi ra đi họ tin rằng nước Mỹ mới là một cường quốc. Kiểu thiết kế tòa nhà đã thành công. Qua tòa nhà này, phía bên kia đại lộ Độc lập là các văn phòng của Nhà trắng. Một thời tôi đã nắm được thông tin cơ bản về những trò chính trị trong Quốc hội. Đôi lúc các cuộc điều tra dẫn thẳng tới các ủy ban. Tôi biết rằng tòa nhà Rayburn đầy những lão già kiêu căng có mặt ở Washington từ thời cha căng chú kiết. Tôi cho là những tay tương đối mới như Sansom thay vào đó sẽ được bố trí chỗ trong tòa nhà Cannon. Danh giá đấy, nhưng không phải hàng cao nhất.

Tòa nhà Cannon nằm trên đại lộ Độc lập và đại lộ số 1, ẩn phía đối diện góc xa của tòa nhà Quốc hội như thể nó đang bày tỏ lòng tôn kính hoặc tạo ra một mối đe dọa. Cửa tòa nhà này có mọi hình thức bảo vệ an ninh. Tôi hỏi một tay mặc sắc phục xem ông Sansom từ Bắc Carolina ở trong đó hay không. Anh này kiểm tra danh sách và nói có. Tôi hỏi liệu tôi có thể chuyển một mẩu thư nhỏ tới văn phòng của ông ta không. Anh ta nói có, tôi có thể chuyển được. Anh ta đưa cho tôi một chiếc bút chì, một mảnh giấy ghi đặc biệt của Quốc hội và một phong bì. Ngoài phong bì tôi ghi người nhận là Thiếu tá John T, Sansom, Quân đội Hoa Kỳ, đã nghỉ hưu, rồi ghi ngày tháng. Trên mẩu giấy tôi viết: Sáng sớm nay tôi thấy một phụ nữ chết với cái tên của ông trên môi. Không đúng, nhưng cũng khá đúng. Tôi thêm: Bậc thềm Thư viện Quốc hội trong vòng một giờ nữa. Tôi ký thư là Thiếu tá Jack-none-Reacher[29], Quân đội Hoa Kỳ, đã nghỉ hưu. Phía dưới cùng có một ô để đánh dấu trả lời. Câu hỏi: Quý vị có phải cử tri ở khu vực của tôi không? Tôi đánh dấu vào đó. Không hoàn toàn đúng. Tôi không sống ở quận của Sansom, cũng chẳng sống ở đâu trong số 434 quận còn lại. Song tôi đã từng phục vụ ở Bắc Carolina, ba lần riêng rẽ. Thế nên tôi cảm thấy mình có đủ quyền trả lời như vậy. Tôi dán phong bì, gửi vào và trở ra chờ đợi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


TÔI CUỐC BỘ TRONG CÁI NÓNG trên đại lộ Độc lập tới Bảo tàng Hàng không Vũ trụ rồi quay ngược lại hướng về phía thư viện. Tôi ngồi xuống các bậc thềm khi còn cách thời gian hẹn năm mươi phút. Các bậc đá ấm nóng. Phía sau những cánh cửa phía bên trên tôi có những người mặc đồng phục, nhưng chẳng ai bước ra. Chắc hẳn các bài diễn tập đánh giá những mối đe dọa đã coi thư viện thuộc dạng nguy cơ thấp.

Tôi chờ đợi.

Tôi không đợi Sansom xuất hiện. Tôi nghĩ rằng thay vào đó tôi sẽ gặp nhân viên. Có lẽ là những nhân viên vận động tranh cử. Bao nhiêu người, tầm nào tuổi, tôi không thể đoán được. Có lẽ là từ một tới bốn người, trình độ từ đại học tới chuyên gia. Tôi thích thú muốn tìm ra. Nếu là một tay trẻ tuổi thì chứng tỏ Sansom chẳng coi trọng lắm lá thư của tôi. Bốn người có tuổi thì sẽ cho thấy ông ta nhạy cảm với vấn đề này. Và có lẽ còn có điều gì đó để che giấu.

Hạn hẹn sáu mươi phút đã tới và trôi qua, tôi chẳng gặp nhân viên văn phòng hay nhân viên vận động tranh cử nào, dù trẻ hay già. Thay vào đó, tôi gặp vợ Sansom và chỉ huy an ninh của ông ta. Mười phút sau khi thời gian hẹn trôi qua, tôi trông thấy một cặp đôi không tương xứng bước ra khỏi một chiếc Town Car, dừng ở chân bậc thềm rồi ngó quanh. Tôi nhận ra người phụ nữ nhờ những bức ảnh trong cuốn sách của Sansom. Ngoài đời, bà ta trông hoàn toàn giống dung mạo nên có ở vợ của một triệu phú. Bà ta có mái tóc được chăm sóc trong cửa hàng thẩm mỹ loại đắt tiền, có cốt cách, phong thái, và có lẽ cao hơn chồng khoảng năm phân. Nếu tính cả guốc thì cao hơn mười phân. Người đàn ông đi theo bà ta trông giống một cựu binh Delta mặc com lê. Anh ta trông nhỏ song rắn chắc, dẻo dai và gan lì. Cùng kiểu người với Sansom, song thô hơn Sansom trong ảnh. Bộ com lê của anh ta cắt may bằng chất vải đắt tiền theo kiểu kín đáo, nhưng anh ta đã khiến nó xếp nếp và nhăn nhúm như quần áo dã chiến sờn nát.

Hai người đứng cạnh nhau, liếc nhìn những người trong khu vực xung quanh và lần lượt loại trừ từng trường hợp. Khi chỉ còn sót lại mỗi tôi thì tôi giơ một tay lên chào. Tôi không đứng dậy. Tôi cho rằng họ sẽ bước tới và dừng phía dưới tôi, thế nên nếu đứng dậy thì tôi sẽ cao hơn họ chừng một mét. Ngồi yên sẽ có vẻ ít đe dọa hơn. Dễ khiến người ta muốn nói chuyện hơn. Và làm thế sẽ thực tế hơn, nếu xét về mặt tiêu hao năng lượng. Tôi đang mệt.

Họ tiến về phía tôi, bà Sansom đi đôi giày xịn, tiến từng bước uyển chuyển và chính xác, tay cựu binh Delta nhấc từng bước chân bên cạnh bà ta. Họ dừng phía dưới tôi hai bậc thềm và tự giới thiệu. Bà Sansom tự xưng là Elspeth còn gã kia tự giới thiệu là Browning, còn thêm rằng cách đánh vần cái tên ấy giống như hiệu của một loại súng trường tự động, mà tôi đoán là được nói ra hàm ý răn đe nào đó. Anh ta là người bây giờ tôi mới biết. Browning không có trong cuốn sách của Sansom. Anh ta tiếp tục liệt kê toàn bộ các giai đoạn trong lý lịch của mình, bắt đầu bằng việc phục vụ quân đội bên cạnh Sansom, rồi tới công việc ngoài quân đội với vai trò chỉ huy an ninh trong suốt những năm Sansom làm ăn kinh doanh, và rồi chỉ huy an ninh trong cả nhiệm kỳ Sansom làm Hạ nghị sĩ, rồi dự kiến cũng giữ cương vị đó trong suốt nhiệm kỳ Thượng nghị sĩ và những năm tiếp theo. Toàn bộ sự phô bày này nói lên sự trung thành. Bà vợ và kẻ hầu cận trung thành. Tôi nghĩ rằng mình không được có bất cứ nghi ngờ nào về chuyện họ đặt hết quan tâm của họ vào đâu. Có thể là hành động quá mức cần thiết. Mặc dù tôi cảm nhận rằng, về mặt chính trị, phái vợ đi ngay từ giai đoạn đầu là một hành động khôn ngoan. Hầu hết các vụ bê bối bị vỡ lở khi một kẻ xử lý một vấn đề mà vợ tay đó chẳng biết gì. Cho cô ta biết ngay từ đầu chính là một lời tuyên bố.

Bà ta lên tiếng, “Từ trước tới giờ chúng tôi đã thắng nhiều cuộc bầu cử và chúng tôi sẽ thắng thêm nhiều nữa. Người ta đã vài chục lần cố làm điều ông đang cố làm. Họ đã không thành công và ông cũng sẽ không thành công đâu.”

Tôi nói, “Tôi chẳng cố làm gì cả. Và tôi cũng chẳng quan tâm xem ai thắng cử. Một người phụ nữ đã chết, chỉ thế thôi, còn tôi muốn biết vì sao.”

“Người phụ nữ nào?”

“Một nhân viên của Lầu Năm Góc. Đêm qua cô ấy đã tự bắn vào đầu mình, trên tàu điện ngầm New York.”

Elspeth Sansom liếc Browning, Browning gật đầu và nói: “Tôi đã đọc tin đó trên mạng. Tờ New York Times và Washington Post. Chuyện đó xảy ra quá muộn nên các báo in không kịp đăng.”

“Sau hai giờ sáng một chút,” tôi nói.

Elspeth hướng ánh mắt trở lại phía tôi và hỏi, “Ông liên can thế nào?”

“Nhân chứng,” tôi nói.

“Và cô ta đã nhắc tới tên chồng tôi à?”

“Đó là điều tôi sẽ cần bàn với ông ấy. Hoặc là với New York Times hay Washington Post.”

“Đó có phải lời đe dọa không thế?” Browning hỏi.

“Tôi đoán là có,” tôi đáp. “Các ông sẽ làm gì với nó?”

“Hãy luôn nhớ,” anh ta nói. “Người ta sẽ không làm những việc mà John Sansom đã làm trong đời nếu họ mềm yếu. Và tôi cũng không mềm yếu đâu. Cả bà Sansom cũng vậy.”

“Tuyệt vời,” tôi nói. “Chúng ta đều đã thống nhất rằng chẳng ai trong số chúng ta mềm yếu. Thực ra tất cả chúng ta đều rắn như đá hết. Giờ thì hãy tiếp tục. Khi nào tôi sẽ gặp sếp của ông?”

“Khi còn trong quân đội ông là gì?”

“Là loại mà thậm chí các ông cũng nên sợ. Dù có thể các ông đã không thấy sợ. Nhưng điều đó không quan trọng. Tôi không tìm cách hại ai cả. Nghĩa là, trừ phi ai đó muốn bị hại.”

Elspeth Sansom nói: “Bảy giờ tối nay.” Bà ta xướng tên một nơi mà tôi cho là nhà hàng, ở Vòng xoay Dupont. “Chồng tôi sẽ dành cho ông năm phút.” Rồi bà ta nhìn tôi lần nữa và nói, “Đừng đến mà ăn mặc như thế, nếu không ông sẽ chẳng vào được đâu.”

Họ trở vào chiếc Town Car và chạy đi. Tôi có ba tiếng đồng hồ để giết thời gian. Tôi bắt taxi tới góc phố giữa phố 18 và đại lộ Mass, tìm một cửa hiệu và mua một chiếc quần trơn cùng một chiếc sơ mi kẻ ca rô màu xanh nước biển. Rồi tôi cuốc bộ tới một khách sạn tôi thấy xuôi về phía Nam hai tòa nhà trên phố 18. Đó là một nơi to lớn hoành tráng, nhưng những nơi to lớn hoành tráng thường là nơi tốt nhất cho những tiện ích lậu. Tôi gật đầu chào khi đi qua các nhân viên trực sảnh rồi vào thang máy lên một tầng bất kỳ và đi bộ dọc theo hành lang cho tới khi gặp một nhân viên buồng đang dọn phòng trống. Lúc này đã hơn 4 giờ chiều. Thời gian nhận phòng là 2 giờ. Vì vậy đêm nay phòng này sẽ trống. Có lẽ đêm mai cũng vậy. Các khách sạn lớn rất hiếm khi kín phòng. Và các khách sạn lớn không bao giờ đãi ngộ tốt các nhân viên buồng. Thế nên cô này thấy vui khi nhận ba mươi đô la và nghỉ ba mươi phút. Tôi cho là cô sẽ chuyển sang phòng tiếp theo trong danh sách buồng của mình và sẽ trở lại sau.

Lúc này cô vẫn chưa dọn tới phòng tắm, nhưng trên giá vẫn có hai chiếc khăn tắm sạch. Chẳng ai có thể sử dụng toàn bộ số khăn một khách sạn lớn cung cấp. Vẫn còn một bánh xà phòng nguyên trong bọc đặt cạnh chậu rửa và nửa chai dầu gội đầu trên kệ. Tôi đánh răng và tắm một lúc lâu. Tôi lau khô người rồi mặc bộ quần áo mới vào. Tôi lấy lại các thứ đồ trong túi của mình rồi ném quần áo cũ của tôi vào thùng rác trong phòng tắm. Ba mươi đô la cho tiền sử dụng phòng. Rẻ hơn một lần chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp. Và nhanh hơn. Tôi đã trở lại đường phố trong vòng hai mươi tám phút.

Tôi cuốc bộ lên Dupont và dò ra nhà hàng. Nhà hàng Afghanistan, các bàn ngoài trời đặt ở sân trước, các bàn trong nhà nằm sau một cánh cửa gỗ. Nó trông giống một nơi sẽ đầy những kẻ quyền lực sẵn sàng ném hai mươi đô cho một món khai vị chỉ đáng hai xu trên đường phố Kabul. Tôi chấp nhận được đồ ăn chứ không chấp nhận được giá cả. Tôi nghĩ mình sẽ nói chuyện với Sansom rồi đi ăn ở một nơi khác.

Tôi đi bộ theo phố P về phía Tây tới Công viên Rock Creek và leo xuống gần mép nước. Tôi ngồi trên một phiến đá phẳng rộng lắng nghe tiếng nước chảy phía dưới và dòng xe cộ phía trên mình. Dần dần tiếng xe cộ lớn dần lên và tiếng nước chảy lặng dần đi. Khi đồng hồ trong đầu tôi điểm bảy giờ kém năm, tôi leo trở lại và hướng về phía nhà hàng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


VÀO BẢY GIỜ TỐI WASHINGTON ĐANG TỐI DẦN và tất cả những căn nhà ở Dupont đều sáng đèn. Nhà hàng Afghanistan treo đèn lồng giấy khắp sân. Vỉa hè đầy những chiếc limousine. Hầu hết các bàn ngoài sân đều đã đầy người. Nhưng không có Sansom và người của ông ta. Tất cả những người tôi thấy đều là nam giới trẻ mặc com lê và phụ nữ trẻ mặc váy. Họ tập trung từng đôi, nhóm ba hay nhóm bốn người, trò chuyện, gọi điện thoại di động, đọc thư điện tử bằng thiết bị cầm tay, lấy giấy tờ trong cặp ra rồi lại nhét vào cặp. Tôi đoán là Sansom ở bên trong, phía sau cánh cửa gỗ.

Có một bục dành cho tiếp viên tiếp khách mới vào cạnh vỉa hè nhưng tôi chưa kịp bước tới đó thì Browning đã lách qua một đám đông và bước tới phía trước tôi. Anh ta gật đầu hướng về một chiếc Town Car màu đen cách đấy chừng hai chục bước và nói, “Ta đi thôi.”

Tôi nói, “Đi đâu? Tôi nghĩ Sansom ở đây kia.”

“Nghĩ lại đi. Ông ấy không dùng bữa ở một nơi như thế này đâu. Và chúng tôi sẽ không để ông ấy làm thế dù cho ông ấy có muốn. Thành phần phức tạp, quá mất an toàn.”

“Vậy sao lại đưa tôi tới đây?”

“Chúng tôi phải đưa ông tới đâu đó chứ.” Anh ta đứng đấy như thể việc tôi đi cùng hoặc bỏ đi nơi khác tuyệt đối chẳng có nghĩa gì với anh ta vậy. Tôi nói, “Vậy ông ta đâu?”

“Gần đây. Ông ấy phải họp. Ông ấy có thể dành cho ông năm phút trước khi cuộc họp bắt đầu.”

“OK,” tôi nói. “Ta đi thôi.”

Một tài xế đang ngồi trong chiếc Town Car. Máy đã nổ sẵn. Browning cùng tôi leo vào băng ghế sau và tài xế đánh xe đi, vòng gần hết vòng xoay thì rẽ về phía Nam rồi chạy về phía Tây theo đại lộ New Hampshire. Chúng tôi chạy qua Bảo tàng Lịch sử. Theo trí nhớ của tôi về đại lộ New Hampshire thì phía trước chúng tôi không có gì nhiều ngoài một chuỗi khách sạn rồi tới Đại học George Washington.

Chúng tôi không dừng ở khách sạn nào cả. Chúng tôi không dừng ở Đại học George Washington. Thay vào đó chúng tôi ngoặt gấp về bên phải vào đại lộ Virginia và chạy vài trăm mét rồi rẽ vào Watergate. Khu nhà cũ nổi tiếng, hiện trường của tội ác. Các phòng khách sạn, căn hộ, văn phòng, dòng sông Potomac tối đen chầm chậm chảy phía xa. Tài xế dừng xe phía ngoài một tòa nhà văn phòng. Browning ngồi yên trên ghế. Anh ta nói, “Đây là quy tắc cơ bản. Tôi sẽ đưa ông lên. Ông sẽ đi một mình. Nhưng tôi sẽ ở ngay ngoài cửa. Chúng ta hiểu nhau rồi chứ?”

Tôi gật đầu. Chúng tôi đã rõ. Chúng tôi ra khỏi xe. Có một nhân viên an ninh mặc sắc phục ngồi bên bàn phía sau cửa, nhưng anh ta chẳng để tâm gì tới chúng tôi. Chúng tôi vào thang máy. Browning bấm số 4. Chúng tôi im lặng trong khi thang chạy lên. Cả hai ra khỏi thang máy và bước ngang một tấm thảm màu xám chừng sáu mét tới một cánh cửa gắn biển Nghiên cứu chung. Một cái tên nhạt nhòa trên một phiến gỗ chẳng có gì nổi bật. Browning mở cửa và đẩy tôi vào trong. Tôi trông thấy một phòng đợi, trang trí ở mức trung bình. Một bàn lễ tân không có người, bốn chiếc ghế da thấp, các văn phòng phía trong nằm cả bên trái lẫn phải. Browning trỏ phía trái cho tôi mà nói, “Gõ cửa và vào trong. Tôi sẽ đợi ông ở đây.”

Tôi bước về phía cánh cửa bên trái, gõ cửa, bước vào.

Có ba người đàn ông đang đợi tôi ở văn phòng phía trong.

Chẳng ai trong số đó là Sansom.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


CĂN PHÒNG LÀ KHÔNG GIAN DỰ PHÒNG trống trải hầu như không có thứ đồ nội thất nào. Ba người đàn ông chính là ba nhân viên điều tra liên bang từng tới Đồn Cảnh sát Khu vực 14 ở thành phố New York. Họ không có vẻ gì hài lòng khi gặp tôi một lần nữa. Thoạt tiên họ không nói gì cả. Thay vào đó, tay cầm đầu lấy ra khỏi túi một vật nhỏ bằng bạc. Một máy ghi âm. Máy kỹ thuật số. Loại dùng trong văn phòng, hiệu Olympus. Ông ta bấm một nút, có một khoảng lặng ngắn và tôi nghe thấy giọng ông ta hỏi, “Cô ta có bảo gì ông không?” những từ này eo éo không rõ và đùng đục tiếng vang, nhưng tôi vẫn nhận ra. Trích từ cuộc thẩm vấn, vào lúc năm giờ sáng hôm đó, khi tôi ngồi trên ghế, trong trạng thái buồn ngủ, họ tỉnh táo và đứng, mùi của mồ hôi, lo lắng và cà phê cháy trong không khí.

Tôi nghe chính mình đáp lời, “Không gì cụ thể.”

Tay cầm đầu bấm một nút khác và các âm thanh được ghi lại tan biến. Ông ta đút chiếc máy vào lại trong túi áo và lôi từ trong túi còn lại ra một tờ giấy gập. Tôi nhận ra nó. Đó là một mảnh giấy ghi đặc biệt của Quốc hội mà nhân viên an ninh đã đưa cho tôi ở cửa tòa nhà Cannon. Tay này mở ra đọc to, “Sáng sớm nay tôi thấy một phụ nữ chết với cái tên của ông trên môi.”

Ông ta chìa tấm giấy về phía tôi để tôi có thể trông thấy nét chữ của chính mình.

Ông ta nói, “Cô ta đã nói cho ông một điều cụ thể. Ông đã nói dối với nhân viên điều tra liên bang. Người ta phải đi tù vì việc ấy đấy.”

“Nhưng không phải tôi,” tôi nói.

“Ông nghĩ thế hả? Điều gì khiến ông đặc biệt?”

“Chẳng gì khiến tôi đặc biệt. Nhưng điều gì khiến các ông trở thành nhân viên điều tra liên bang?”

Tay này không trả lời.

Tôi nói, “Các ông không thể chơi trò hai mặt được đâu. Các ông muốn chơi trò bí mật và không chịu trưng giấy tờ tùy thân, thế thì làm thế nào tôi biết các ông là ai? Có thể các ông là nhân viên hồ sơ của NYPD đến làm việc sớm, tìm cách giết thời gian. Và chẳng có luật nào về việc nói dối người dân. Nếu không sếp của các ông đã vào tù cả lũ rồi.”

“Chúng tôi đã nói với ông chúng tôi là ai.”

“Người ta tự nhận mình là đủ mọi thứ.”

“Chúng tôi trông có giống các nhân viên hồ sơ không?”

“Rất giống. Và dù gì đi nữa, có lẽ tôi đã không nói dối các ông. Có lẽ tôi đã nói dối Sansom.”

“Vậy đúng ra là gì?”

“Đó là việc của tôi. Tôi vẫn chưa trông thấy giấy tờ tùy thân.”

“Chính xác thì ông đang làm gì ở Washington? Với Sansom?”

“Đó cũng là việc của tôi.”

“Ông muốn hỏi ông ta một số câu hỏi à?”

“Các ông có luật cấm người ta đặt các câu hỏi sao?”

“Ông đã là một nhân chứng. Bây giờ ông đang điều tra hả?”

“Đất nước tự do,” tôi đáp.

“Sansom không thể nói cho ông bất cứ điều gì.”

“Có thể thế,” tôi nói. “Có thể không thế.”

Tay cầm đầu ngừng một chút rồi nói, “Ông có thích tennis không?”

Tôi đáp, “Không.”

“Ông có nghe nói về Jimmy Connors không? Bjorn Borg? John McEnroe?”

Tôi nói, “Các tay vợt tennis, từ thời trước.”

“Chuyện gì sẽ diễn ra nếu họ dự giải Mỹ mở rộng năm tới?”

“Tôi không biết.”

“Họ sẽ bị đá đít khắp sân. Họ sẽ bị cắt đầu đưa lên đĩa. Thậm chí các tay vợt nữ cũng sẽ đánh bại họ. Là những tay vô địch vĩ đại trong thời của họ, nhưng giờ họ đã là các ông già và họ xuất phát từ một thời đại hoàn toàn khác. Thời gian vẫn trôi. Cuộc chơi đã thay đổi. Ông hiểu điều tôi đang nói với ông chứ?”

Tôi đáp, “Không.”

“Chúng tôi đã xem hồ sơ của ông. Thời tiền sử thì ông là ngôi sao. Nhưng bây giờ đây là thế giới mới. Ông đã hết thời rồi.”

Tôi ngoái lại và liếc ra cửa. “Browning vẫn ở ngoài đó chứ? Hay ông ta bán đứng tôi rồi?”

“Browning là ai?”

“Tay đã đưa tôi tới đây. Người của Sansom ấy.”

“Ông ta đi rồi. Mà tên ông ta không phải Browning. Ông là con bé giữa rừng già đấy.”

Tôi chẳng nói gì. Chỉ nghe tới từ con bé là nghĩ về Jacob Mark cùng đứa cháu trai Peter của anh. Một cô gái gặp ở quán bar. Một con bé hết sức ngon lành. Peter đã rời quán cùng nó.

Một trong hai tay còn lại trong phòng nói, “Chúng tôi cần ông quên hoàn toàn chuyện làm một điều tra viên, được chứ? Chúng tôi cần ông cứ hãy là một nhân chứng. Chúng tôi cần biết làm thế nào mà tên của Sansom có liên hệ tới người phụ nữ đã chết. Ông sẽ không rời khỏi căn phòng này chừng nào chúng tôi chưa tìm ra.”

Tôi nói, “Tôi sẽ rời khỏi phòng này đúng lúc nào tôi quyết định làm thế. Phải cần nhiều hơn ba nhân viên hồ sơ để giữ tôi ở nơi nào đó mà tôi không muốn ở.”

“Mạnh miệng đấy.”

Tôi nói, “Dù sao tên của Sansom cũng được nhắc tới ngoài kia rồi. Tôi đã nghe thấy cái tên ấy từ miệng bốn tay điều tra thuê ở thành phố New York.”

“Bọn họ là ai?”

“Bốn gã mặc com lê cùng một tấm danh thiếp giả.”

“Ông có thể làm tốt nhất là từng đó hay sao? Đó là một câu chuyện quá nghèo nàn. Tôi nghĩ ông đã nghe cái tên ấy từ chính Susan Mark kia.”

“Tại sao các ông thậm chí cũng quan tâm? Một nhân viên HRC có thể biết điều gì sẽ gây hại cho một người như Sansom chứ?”

Không ai nói gì, song sự im lặng hết sức kỳ lạ. Dường như nó mang theo một câu trả lời không thành tiếng đang điên cuồng xoắn xít và phồng to lên trên, phồng cả bên ngoài, kiểu như: Không chỉ Sansom làm chúng tôi lo ngại mà là cả quân đội, cả quân sự, cả quá khứ, cả tương lai, cả đất nước, cả chính phủ, cả toàn bộ thế giới rộng lớn, cả vũ trụ chết tiệt này.

Tôi hỏi, “Các ông là ai?”

Không có câu trả lời.

Tôi nói, “Hồi ấy Sansom đã làm cái quái gì thế?”

“Hồi nào?”

“Trong suốt mười bảy năm quân ngũ của ông ta.”

“Ông nghĩ ông ấy đã làm gì?”

“Bốn phi vụ bí mật.”

Căn phòng trở nên yên lặng.

Tay cầm đầu hỏi, “Làm thế nào ông biết về các phi vụ của Sansom?”

Tôi nói, “Tôi đã đọc cuốn sách của ông ta.”

“Chúng không có trong sách của ông ấy.”

“Nhưng các huy chương và những lần thăng cấp của ông ta thì có. Mà không có lời giải thích rõ ràng nào về nguồn gốc khác của chúng.”

Chẳng ai nói gì.

Tôi nói, “Susan Mark không biết gì cả. Cô ta không thể biết. Chỉ là không thể. Có thể cô ta đã lục tung cả HRC lên suốt cả năm để tìm mà không thấy nhắc tới chuyện ấy dù chỉ chút xíu.”

“Nhưng kẻ nào đó đã hỏi cô ta.”

“Thế thì sao? Không tai hại, không tội lỗi.”

“Chúng tôi muốn biết kẻ đó là ai, chỉ thế thôi. Chúng tôi muốn theo dõi những việc như vậy.”

“Tôi không biết đó là ai.”

“Nhưng rõ ràng ông muốn biết. Nếu không tại sao ông có mặt ở đây?”

“Tôi đã thấy cô ta tự sát. Không dễ chịu gì.”

“Chẳng bao giờ dễ chịu. Nhưng chẳng có lý do gì để xúc động cả. Hoặc để gặp rắc rối.”

“Các ông lo lắng cho tôi à?”

Chẳng ai trả lời.

“Hay các ông lo lắng rằng tôi sẽ phát hiện ra điều gì đó?”

Tay thứ ba nói, “Điều gì khiến ông nghĩ rằng hai mối lo đó là khác nhau? Có thể chúng cùng là một. Ông phát hiện ra gì đó, ông sẽ bị gông cổ đến hết đời. Hoặc bị vướng một viên đạn lạc.”

Tôi không nói gì. Căn phòng lại chìm trong im lặng.

Tay cầm đầu nói, “Cơ hội cuối cùng. Chỉ làm một nhân chứng. Cô kia có nhắc tới tên Sansom hay không?”

“Không,” tôi nói. “Cô ta không nhắc.”

“Nhưng dù sao ngoài kia cũng đã nhắc tới tên ông ấy.”

“Đúng,” tôi nói. “Đúng như vậy.”

“Và ông không biết rằng ai đang hỏi.”

“Không,” tôi nói. “Tôi không biết.”

“Được rồi,” tay này nói. “Giờ thì hãy quên tất cả những gì về chúng tôi mà tiếp tục sống đi. Chúng tôi chẳng hề muốn gây phức tạp cho cuộc sống của ông.”

“Nhưng sao?”

“Chúng tôi sẽ làm thế nếu buộc phải vậy. Nhớ chuyện rắc rối ông có thể gây ra cho nhân dân hồi ở đơn vị điều tra tinh nhuệ 10 chứ? Giờ thì đã tồi tệ hơn nhiều. Tồi tệ gấp trăm lần. Thế nên hãy hành động khôn ngoan. Nếu ông muốn chơi, hãy đi mà chơi bóng chày. Tránh xa chuyện này. Cuộc chơi đã thay đổi rồi.”

Họ để cho tôi đi. Tôi theo thang máy xuống, đi qua tay ngồi ở cửa và đứng trên một khu lát gạch rộng rãi nhìn dòng sông đang lững lờ chảy. Những ánh đèn phản chiếu đang chảy cùng với dòng nước. Tôi nghĩ về Elspeth Sansom. Cô ta đã khiến tôi thấy ấn tượng. Đừng đến mà ăn mặc như thế, nếu không ông sẽ chẳng vào được đâu. Chỉ dẫn sai một cách hoàn hảo. Cô ta đã hoàn toàn lừa được tôi. Tôi đã mua một chiếc sơ mi mà tôi không cần hay muốn có.

Không mềm yếu.

Chắc chắn là thế chứ còn gì nữa.

Trời đêm ấm áp. Bầu không khí nặng nề và nồng nặc mùi mà dòng nước mang lại. Tôi quay trở lại phía Vòng xoay Dupont. Tôi nghĩ là chừng 1,25 dặm. Đi bộ mất hai mươi phút, có thể ít hơn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


CÁC BỮA ĂN TRONG NHÀ HÀNG ở Washington hiếm khi diễn ra ngắn hơn một tiếng hoặc dài hơn hai tiếng đồng hồ. Đó đã là kinh nghiệm của chính tôi. Thế nên tôi hy vọng tìm ra Sansom lúc ông ta đang kết thúc món khai vị hoặc đang gọi đồ tráng miệng. Có thể đã đang uống cà phê và nghĩ tới một điếu xì gà.

Khi tôi quay lại nhà hàng, khoảng một nửa số bàn ngoài sân đã đổi khách. Các khách hàng mới là những thanh niên trẻ mặc com lê và các cô gái mặc váy. Nhiều đôi hơn là các toán ba, bốn người, tình tự nhiều hơn là công việc. Nhiều chuyện tán gẫu tưng bừng để gây ấn tượng với đối phương hơn, ít lướt thiết bị điện tử hơn. Tôi bước qua bục của nhân viên phục vụ, cái cô đứng đó gọi với theo, tôi liền nói, “Tôi đi cùng ngài nghị sĩ.” Tôi đẩy cánh cửa gỗ, bước vào, nhìn lướt qua phòng bên trong. Đó là một không gian thấp hình chữ nhật đầy ánh sáng mờ và đủ thứ mùi gia vị cùng tiếng nói chuyện ồn ào, thi thoảng vài tiếng cười lớn.

Sansom không có trong đó.

Chẳng có dấu hiệu nào của ông ta, không có dấu hiệu nào của vợ ông ta, cũng không có dấu hiệu của tay tự xưng là Browning, không có nhóm nhân viên văn phòng hào hứng hay các tình nguyện viên hỗ trợ tranh cử nào.

Tôi quay trở ra, cái cô ở bục dành cho nhân viên phục vụ nhìn tôi với vẻ dò xét rồi hỏi, “Ông đi cùng với ai?”

Tôi đáp, “John Sansom.”

“Ông ấy không ở đây.”

“Rõ ràng thế rồi.”

Một thằng nhóc ngồi tại bàn ngay cạnh cùi chỏ tôi lên tiếng, “Bắc Carolina thứ mười bốn phải không? Ông ấy rời thành phố rồi. Ngày mai ông ấy có bữa sáng gây quỹ ở Greensboro. Ngành ngân hàng và bảo hiểm, không có ngành thuốc lá. Tôi đã nghe ông ấy nói cho người của tôi tất cả về chuyện ấy.” Câu cuối cùng của cậu ta hướng về phía cô gái ngồi đối diện chứ không phải tôi. Có lẽ trọng tâm cả bài diễn thuyết ấy là, Người của tôi. Rõ ràng thằng nhóc này là một tay hết sức quan trọng, hoặc đang muốn được như thế.

Tôi trở lại vỉa hè, đứng yên một giây, rồi lên đường tới Greensboro, Bắc Carolina.

Tôi đến đó bằng một chuyến xe buýt muộn theo lịch trình sẽ dừng ở chặng đầu tiên là Richmond, Virginia rồi ở Raleigh, rồi ở Durham, rồi ở Burlington. Tôi không chú ý đến lịch trình. Tôi ngủ suốt cả chặng đường. Chúng tôi tới Greensboro lúc gần 4 giờ sáng. Tôi cuốc bộ qua các văn phòng cho đóng tiền bảo lãnh, hiệu cầm đồ cửa sắt cuốn và bỏ qua vài tiệm ăn nhỏ rẻ tiền cho tới khi tìm được hàng ăn tôi muốn. Tôi đang chọn không phải căn cứ vào thức ăn. Với tôi thì mọi đồ ăn trong nhà hàng đều như nhau cả. Tôi đang tìm các danh bạ điện thoại và các giá báo địa phương miễn phí nên phải đi bộ dài dài mới kiếm ra. Nhà hàng tôi chọn vừa mới mở cửa. Một anh chàng mặc áo lót đang rưới mỡ lên vỉ. Cà phê nhỏ giọt xuống một chiếc bình. Tôi vơ lấy cuốn Các trang vàng niên giám, vào một bàn và tìm khách sạn ở trong ấy. Greensboro có đầy khách sạn. Nơi đây có diện tích tương đối. Dân số có lẽ tầm một phần tư triệu người.

Tôi suy luận rằng một bữa sáng gây quỹ sẽ diễn ra ở một địa điểm tương đối sang. Các nhà tài trợ thuộc hạng giàu có, họ sẽ chẳng tới Nhà trọ Red Roof[30] để ăn một món có giá tới năm trăm đô la. Sẽ không thể như thế nếu họ làm trong ngành ngân hàng và bảo hiểm.

Tôi đoán là khách sạn Hyatt hoặc Sheraton. Greensboro có cả hai khách sạn này. Khả năng là năm mươi-năm mươi. Tôi gập cuốn niên giám và bắt đầu lướt qua các trang báo miễn phí, để khẳng định suy đoán của mình. Các báo miễn phí đăng tải tất cả những sự kiện đáng chú ý ở địa phương.

Tôi tìm được một bài viết về bữa sáng này ở tờ báo thứ hai mà tôi mở ra. Nhưng nhận định của tôi về khách sạn đã sai. Không phải Hyatt cũng chẳng phải Sheraton. Thay vào đó, Sansom đã chốt một nơi là khách sạn O. Henry, tôi đoán nó được đặt tên theo nhà văn nổi tiếng của Bắc Carolina. Địa chỉ được cung cấp. Dự kiến sự kiện sẽ bắt đầu lúc bảy giờ sáng. Tôi xé lấy bài báo, gập nhỏ lại đút vào túi. Tay thanh niên sau quầy đã chuẩn bị xong mọi thứ và mang cho tôi một cốc cà phê mà không hề hỏi gì. Tôi nhấp một ngụm. Chẳng gì tốt hơn là thưởng thức khi đồ uống vừa được pha. Rồi tôi gọi một suất combo[31] lớn nhất có trong thực đơn rồi ngả người xem anh chàng chế biến món ấy.

Tôi bắt taxi tới khách sạn O. Henry. Lẽ ra có thể cuốc bộ, mà công tìm taxi còn mất nhiều thời gian hơn thời gian ngồi xe, nhưng tôi muốn đến bằng phương tiện sang một chút. Tôi tới nơi lúc 6 giờ 15 phút. Khách sạn này là bản sao thời hiện đại của một khách sạn cổ kiểu cách. Nó trông như một công trình độc lập, nhưng có lẽ không phải thế. Rất ít khách sạn như vậy. Sảnh trang trí kiểu cọ, mờ ảo, đầy những ghế bành bọc da sang trọng. Tôi bước qua chúng tới quầy tiếp tân với vẻ tự tin và bảnh bao bằng hết khả năng của một gã mặc chiếc sơ mi nhăn nhúm giá mười chín đô la. Có một phụ nữ trẻ trực ở quầy. Cô trông ngập ngừng, như thể vừa mới vào làm và còn chưa quen hẳn. Cô ta nhìn lên tôi, tôi nói, “Tôi đến đây dự bữa sáng của ông Sansom.”

Cô gái trẻ không nói gì. Cô chật vật tìm cách đáp lại, như thể tôi đã cung cấp quá nhiều thông tin khiến cô lúng túng. Tôi nói, “Họ phải để vé của tôi ở đây.”

“Vé của ông à?”

“Giấy mời của tôi ấy.”

“Ai mời?”

“Elspeth,” tôi đáp. “Ý tôi là bà Sansom. Hoặc người của họ.”

“Người nào?”

“Người chỉ đạo an ninh.”

“Ông Springfield phải không?”

Tôi mỉm cười với mình. Springfield là một nhà sản xuất súng trường tự động, cũng như Browning. Tay này thích chơi chữ, quả là vui nhưng dại. Những cái tên giả sẽ hiệu quả hơn nếu chúng hoàn toàn không có mối liên hệ nào với thực tế.

Tôi hỏi, “Sáng nay cô đã gặp họ chưa?” Đây là câu ướm lời tinh tế. Tôi cho rằng Greensboro không nằm trong quận bầu cử nghị sĩ của chính Sansom. Một chiến dịch tranh cử ghế Thượng nghị sĩ cần phô trương và gây quỹ trên quy mô toàn bang. Tôi đoán là khu vực của Sansom đã đảm bảo chắc chắn thắng lợi, và đến lúc này ông ta sẽ quăng lưới ra xa hơn. Vì thế có lẽ ông ta đã ở khách sạn qua đêm, sẵn sàng để khởi sự sớm sủa. Nhưng tôi không thể chắc chắn. Tôi mà hỏi ông ta đã xuống khỏi phòng hay chưa thì tôi sẽ trông như một kẻ đần độn nếu như chỗ ông ta ở cách đây vài phút đi bộ. Hỏi Sansom đã tới hay chưa thì tôi cũng sẽ trông đần độn không kém nếu như ông ta ở cách xa đến hai trăm dặm. Thế nên tôi chọn phương án trung lập.

Cô kia nói, “Theo như tôi biết thì họ vẫn còn trên gác.”

Tôi bảo, “Cảm ơn,” rồi bước lại sảnh, cách xa thang máy để cô ta không có gì phải lo lắng. Tôi chờ cho tới khi điện thoại chỗ cô kia đổ chuông và cô ta bắt đầu gõ bàn phím, tập trung vào màn hình máy tính, đoạn tôi nhanh chân vòng qua sát mé cuối phòng và bấm nút thang lên.

Tôi nghĩ rằng Sansom sẽ ở trong khu phòng lớn, và các khu phòng lớn sẽ nằm ở tầng trên cùng, thế nên tôi bấm nút tầng cao nhất ở thang máy. Một lúc lâu sau tôi bước từ thang máy ra một hành lang yên tĩnh trải thảm, có một cảnh sát mặc sắc phục đứng nhàn nhã bên ngoài một cánh cửa đôi bằng gỗ gụ. Một cảnh sát tuần tra, từ Phòng cảnh sát Greensboro. Không trẻ. Một cảnh sát lâu năm, kiếm những đồng thu nhập thêm đầu tiên bằng thời gian làm ngoài giờ mà chẳng phải cố gắng gì. Hiện diện cho có lệ. Tôi bước về phía ông ta với nụ cười thể hiện sự tiếc nuối, kiểu như Này, ông bạn đang làm việc, tôi đang làm việc, một gã đàn ông phải làm gì? Tôi đoán là chắc chắn ông ta đã phải tiếp vài vị khách rồi. Cà phê uống mang lên phòng, các nhân viên văn phòng có những lý do phù hợp để tới, có lẽ cả nhà báo. Tôi gật đầu với ông ta và nói, “Jack Reacher tới gặp ông Sansom,” rồi rướn người qua ông ta mà gõ cửa. Viên cảnh sát không phản ứng gì. Không phàn nàn gì. Chỉ đứng đó, hệt như một món hàng trưng bày. Dù sau này có làm gì đi nữa thì lúc này Sansom vẫn chỉ là nghị sĩ từ một vùng xa xôi, còn lâu ông ta mới được bảo vệ nghiêm ngặt.

Có một khoảng ngừng ngắn, rồi cửa khu phòng mở ra. Vợ Sansom đứng đó, bàn tay đặt trên tay nắm cửa phía trong.

Cô ta đã ăn mặc chỉnh tề, đã làm chải tóc, trang điểm xong, sẵn sàng cho một ngày mới.

“Xin chào, Elspeth,” tôi nói. “Tôi vào được chứ?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


TÔI NHẬN THẤY SỰ TÍNH TOÁN NHANH CHÓNG, đầy chuyên nghiệp kiểu vợ của chính trị gia thoáng lướt qua đôi mắt của Elspeth Sansom. Bản năng đầu tiên: đuổi cổ kẻ phá thối đi. Nhưng: có một cảnh sát ngoài hành lang, có lẽ có cánh truyền thông trong tòa nhà, lại gần như chắc chắn là nhân viên khách sạn trong cự ly có thể nghe được. Và người dân địa phương bàn tán. Thế nên cô ta nuốt cục tức xuống mà nói, “Thiếu tá Reacher, thật vui khi gặp lại ông,” và lùi lại nhường chỗ cho tôi bước qua.

Khu phòng rộng và tối bởi các cửa sổ kéo rèm và rất nhiều đồ nội thất nặng nề có gam màu thẫm. Có một phòng khách đặt quầy bar để ăn sáng và một cánh cửa mở chắc chắn là dẫn tới một phòng ngủ. Elspeth Sansom đưa tôi tới giữa nơi này thì dừng lại, như thể không biết phải làm gì kế tiếp với tôi. Rồi John Sansom bước ra khỏi phòng ngủ để xem tất cả chuyện ồn ào này là thế nào.

Ông ta mặc quần dài, áo sơ mi, thắt cà vạt, đi tất. Không đi giày. Viên nghị sĩ trông bé, như một người thu nhỏ. Tạng người rắn chắc, từ vai trở xuống đều hẹp. Đầu ông hơi quá to so với phần còn lại của cơ thể. Tóc ông ta cắt ngắn, chải gọn gàng. Da ông ta rám nắng nhưng theo kiểu hơi nhăn, năng động, do hoạt động ngoài trời. Khỏe khoắn. Tay này không dùng đèn tắm nắng. Sansom ngời ngời sự giàu có, quyền lực, sức sống, vẻ oai phong. Thật dễ hiểu làm thế nào ông ta đã thắng trong nhiều cuộc bầu cử. Thật dễ hiểu vì sao các tuần san tin tức lại phải lòng ông ta. Ông ta nhìn tôi rồi nhìn vợ và hỏi, “Springfield đâu?”

Elspeth đáp, “Anh ta xuống gác kiểm tra mọi thứ. Chắc hẳn họ đã qua mặt nhau trong thang máy.”

Sansom gật đầu, không nhiều hơn là một lần đưa mi mắt lên xuống nhanh lẹ. Một tay ra quyết định từng trải, một người thực tế, không bận tâm nhiều tới những chuyện đã rồi. Ông ta liếc tôi nói, “Anh không chịu bỏ cuộc.”

Tôi nói, “Tôi chưa bao giờ thế cả.”

“Anh không nghe lời những chàng điều tra liên bang ở Washington à?”

“Chính xác thì họ là ai?”

“Những tay đó à? Anh biết cơ chế thế nào mà. Tôi có thể nói cho anh, nhưng sau đó tôi sẽ phải giết anh. Nhưng dù là gì, nhiệm vụ của họ là cảnh báo để anh tránh ra.”

“Nghe không có lý.”

“Họ đã chuyển cho tôi tất cả những gì anh đã khai. Tôi bảo họ rằng họ sẽ thất bại.”

“Họ nói chuyện với tôi như thể tôi là thằng mọi ấy. Và họ nói rằng tôi quá già. Nói thế khiến ông cũng trở nên quá già.”

“Tôi cũng quá già. Dù sao thì cũng quá già cho hầu hết cái trò vớ vẩn này.”

“Ông có mười phút phải không?”

“Tôi có thể dành cho anh năm phút.”

“Ông có cà phê không?”

“Anh đang phí thời gian đấy.”

“Chúng ta có nhiều thời gian mà. Dù gì thì cũng nhiều hơn năm phút. Thậm chí hơn mười phút. Ông cần thời gian để buộc dây giày và mặc áo khoác. Làm việc đó mất bao lâu?”

Sansom nhún vai, bước về quầy bar ăn sáng, rót cho tôi một tách cà phê. Ông ta mang lại, đưa cho tôi rồi nói, “Đi thẳng vào vấn đề đi. Tôi biết anh là ai và vì sao anh tới đây.”

“Ông biết Susan Mark không?” Tôi hỏi ông ta.

Ông ta lắc đầu. “Chưa bao giờ gặp cô ta, thậm chí tính tới đêm qua thì tôi còn chưa bao giờ nghe nói tới cô ta.”

Tôi đang quan sát hai mắt Sansom và tin ông ta. Tôi hỏi, “Vì sao một nhân viên HRC lại bị ép kiểm tra thông tin về ông?”

“Đó là điều đang diễn ra sao?”

“Nhận định sát nhất là thế.”

“Thế thì tôi không biết rồi. HRC là vỏ mới của PERSCOM, đúng không? Anh đã từng có được gì từ PERSCOM? Bất kỳ ai từng có được gì? Họ đã kiếm được gì ở đó? Các ngày tháng và các đơn vị, tất cả chỉ có thế. Và dầu gì thì đời tôi cũng trở thành hồ sơ công khai rồi. Tôi đã lên CNN cả trăm lần. Tôi đã gia nhập quân đội, đã học trường sĩ quan dự bị, đã được phong hàm sĩ quan, đã được thăng cấp ba lần, rồi tôi xuất ngũ. Chẳng có bí mật nào ở đó hết.”

“Các phi vụ của ông trong lực lượng Delta là bí mật.”

Căn phòng trở nên yên lặng hơn một chút. Sansom hỏi, “Làm thế nào anh biết?”

“Ông đã nhận được bốn huy chương. Ông không giải thích vì sao.”

Sansom gật đầu.

“Cuốn sách khốn nạn ấy,” ông ta nói. “Các huy chương cũng là thứ được ghi lại. Tôi không thể từ bỏ chúng. Làm thế là thiếu tôn trọng. Chính trị là một bãi mìn. Làm là chết, không làm cũng chết. Có tránh kiểu nào thì chúng có thể luôn mò được ra ta.”

Tôi không nói gì. Sansom nhìn tôi hỏi, “Bao nhiêu người sẽ biết kết nối chuyện ấy? Ý tôi là ngoài ông ra.”

“Khoảng ba triệu,” tôi đáp. “Có thể hơn. Tất cả những người trong quân đội, và tất cả các cựu binh còn đủ thị lực để đọc. Họ biết cơ chế hoạt động ra sao.”

Ông ta lắc đầu. “Không nhiều đến thế. Hầu hết mọi người không có tư duy thắc mắc. Mà dẫu có đi nữa, hầu hết cũng đều tôn trọng tính bí mật của những vấn đề như thế. Tôi không nghĩ là sẽ có rắc rối.”

“Có một rắc rối ở đâu đó. Nếu không thì tại sao Susan Mark lại bị tra hỏi chứ?”

“Có thực sự là cô ta đã nhắc tới tên tôi không?”

Tôi lắc đầu. “Nói thế để thu hút sự chú ý của ông thôi. Tôi nghe cái tên ấy từ miệng một nhóm mà tôi cho là được thuê bởi kẻ đang đặt ra các câu hỏi.”

“Và chuyện này có ích gì cho anh?”

“Chẳng có gì hết. Nhưng cô ấy trông có vẻ là người tốt, bị kẹt vào thế tiến thoái lưỡng nan.”

“Và anh quan tâm sao?”

“Cả ông nữa, dù chỉ là chút ít. Ông không tham gia chính trị chỉ để giành được những gì cho riêng ông. Ít nhất tôi cũng thực lòng hy vọng rằng ông không như vậy.”

“Anh có thực sự là cử tri của tôi không?”

“Tôi không là cử tri của ông tới khi nào người ta bầu ông làm Tổng thống.”

Sansom im lặng một lát rồi nói, “FBI cũng đã tóm lược cho tôi. Tôi đang ở vị thế có thể giúp đỡ được họ, thế nên họ làm rõ rằng họ sẽ luôn cung cấp thông tin đầy đủ cho tôi. Họ bảo là bên NYPD cảm thấy anh phản ứng trước toàn bộ chuyện này với cảm giác tội lỗi. Như thể lúc trên tàu anh đã gây sức ép quá mức. Mà tội lỗi chưa bao giờ là cơ sở đúng đắn để ra các quyết định hợp lý.”

Tôi nói, “Đó chỉ là quan điểm của một phụ nữ.”

“Và cô ta đã sai sao?”

Tôi chẳng nói gì.

Sansom bảo, “Tôi sẽ không nói cho anh nghe cái khỉ khô nào về các phi vụ đâu.”

Tôi nói, “Tôi không mong đợi ông làm thế.”

“Nhưng sao?”

“Có bao nhiêu thứ sẽ quay trở lại mà gây hại cho ông?”

“Chẳng gì trên đời này hoàn toàn đen hay trắng. Anh biết điều đó. Nhưng không có tội ác nào đã được gây ra. Và dù sao thì chẳng ai có thể đến được sự thật thông qua một nhân viên HRC. Đây là một vụ thăm dò. Tệ nhất thì đây là trò bới lông tìm vết tay mơ gà mờ của đám báo chí.”

“Tôi không nghĩ thế,” tôi nói. “Susan Mark rất sợ hãi và con trai cô ấy đang mất tích.”

Sansom liếc vợ. Rồi liếc lại tôi. Ông ta nói, “Chúng tôi không biết việc đó.”

“Thông tin đó chưa được thông báo. Nó là một cầu thủ ở USC. Cách đây năm ngày thằng bé đã rời quán bar với một cô gái. Từ đó tới nay chưa ai trông thấy nó. Nó được cho là đang tạm vắng mặt không phép, đang tận hưởng những thời khắc tuyệt nhất trong đời.”

“Anh biết chuyện này bằng cách nào?”

“Qua em trai của Susan Mark. Cậu của thằng bé.”

“Và anh không tin câu chuyện đó à?”

“Quá trùng hợp.”

“Không hẳn thế. Lúc nào chẳng có chuyện bọn con trai rời quán bar với các cô gái.”

“Ông là một người cha,” tôi nói. “Điều gì khiến ông tự bắn vào đầu mình, điều gì khiến ông không làm thế?”

Căn phòng còn trở nên im lặng hơn nữa. Elspeth Sansom thốt lên, “Chết tiệt.” Trong mắt Sansom hiện lên ánh nhìn xa xăm mà trước đây tôi từng thấy ở các sĩ quan chiến trường tài ba khi phản ứng trước một trở ngại chiến thuật. Tư duy lại, triển khai lại, tổ chức lại, tất cả diễn ra trong một hai giây ngắn ngủi. Tôi thấy ông ta lướt lại quá khứ và đi đến một kết luận chắc chắn. Sansom nói: “Tôi lấy làm tiếc về hoàn cảnh của gia đình Mark. Tôi thực sự lấy làm tiếc. Và tôi sẽ giúp đỡ nếu có khả năng, nhưng tôi không thể. Không gì trong quãng đời hoạt động ở lực lượng Delta của tôi có thể được tiếp cận thông qua HRC. Không gì hết. Hoặc chuyện này liên quan tới một vấn đề hoàn toàn khác, hoặc kẻ nào đó đang nhòm lầm chỗ.”

“Họ sẽ nhòm ngó chỗ nào khác đây?”

“Anh biết là chỗ nào mà. Và anh biết rằng họ sẽ thậm chí không thể mon men tới gần. Và ai đó biết nhiều đến mức muốn có những hồ sơ về Delta thì sẽ biết chỗ nào để tìm chúng, chỗ nào không, chắc chắn là thế. Như vậy chuyện này không liên quan tới Lực lượng Đặc biệt. Không thể.”

“Vậy nó sẽ liên quan tới vấn đề nào khác?”

“Chẳng gì cả. Tôi chẳng có tì vết nào hết.”

“Thật thế sao?”

“Hoàn toàn như vậy. Một trăm phần trăm. Tôi đâu phải thằng ngu. Tôi đã không nhảy vào hoạt động chính trị nếu tôi có điều nhỏ nhặt nhất cần che giấu. Sẽ không nhảy vào đâu một khi mọi chuyện thời nay là thế. Thậm chí tôi chưa bao giờ bị nhận vé phạt do đỗ xe sai luật nữa kìa.”

“Được rồi,” tôi nói.

“Tôi rất tiếc về người phụ nữ trên tàu điện ngầm.”

“Được rồi,” tôi nói lần nữa.

“Nhưng bây giờ chúng tôi thực sự phải đi rồi. Chúng tôi phải thực hiện cái trò trịnh trọng xin xỏ đây.”

Tôi hỏi: “Ông đã bao giờ nghe cái tên Lila Hoth chưa?”

“Lila Hoth à?” Sansom nói. “Chưa, tôi chưa bao giờ nghe thấy cái tên đó.”

Tôi đang quan sát mắt Sansom, và cảm thấy ông ta đang nói lên sự thật tuyệt đối. Và đang nói dối trắng trợn. Cả hai cùng một lúc.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


LÚC TRỞ RA QUA SẢNH, tôi đi qua Springfield. Khi ấy tôi đang hướng về cửa dẫn ra phố, anh ta từ một phòng ăn bước ra. Phía sau anh ta, tôi thấy những bàn tròn phủ khăn trắng muốt, ở giữa đặt những cụm hoa trang trí lớn. Springfield nhìn tôi, mặt chẳng lộ chút ngạc nhiên nào. Cứ như thể anh ta đang đánh giá năng lực của tôi và thấy rằng cũng đáng hài lòng. Cứ như thể tôi đến với chủ của anh ta vào đúng khoảng thời gian anh ta trông đợi. Không nhanh, không chậm, mà ngay chính xác thời hạn anh ta đã cho phép, Springfield dành cho tôi một cái nhìn đánh giá đầy chuyên nghiệp và tiếp tục bước mà không hề mở miệng.

Tôi trở lại New York đúng như cách đã rời khỏi đó nhưng theo chiều ngược lại. Bắt taxi tới bến xe Greensboro, đi xe buýt về Washington, rồi tới tàu hỏa. Chuyến đi kéo dài cả ngày và một phần của buổi tối. Lịch chạy xe buýt và lịch tàu hỏa không thuận nhau lắm, hai chuyến tàu đầu tiên chạy từ Washington lại bán hết sạch vé. Tôi dành thời gian di chuyển để suy nghĩ, trước tiên về những điều Sansom đã nói, và đã không nói. Chẳng gì trên đời này hoàn toàn đen hay trắng. Nhưng không có tội ác nào đã được gây ra. Và dù sao thì chẳng ai có thể đến được sự thật thông qua một nhân viên HRC. Không có phủ nhận nào về hoạt động đáng ngờ. Hầu như ngược lại. Thực tế là một lời thú tội. Nhưng ông ta cảm thấy rằng mình vẫn chưa đi quá đà. Không tội ác nào. Và Sansom tuyệt đối tin tưởng rằng các chi tiết được khóa chặt vĩnh viễn. Tóm lại, đó là một quan điểm thường thấy trong đám cựu quân nhân thuộc lực lượng mũi nhọn. Có vấn đề là một từ có ý nghĩa to tát đối với tất cả chúng tôi. Bảy chữ cái, nhưng nội hàm của nó đủ bằng cả một cuốn sách giáo khoa. Chắc chắn sự nghiệp của tôi không phải chịu sự dò xét quá mức. Tôi không mất ngủ vì nó. Nhưng nhìn chung tôi thấy hạnh phúc khi các chi tiết bị khóa chặt. Và rõ ràng Sansom cũng vậy. Tôi biết những chi tiết của mình. Còn của ông ta là gì? Rõ ràng là thứ gì đó tổn hại cho ông ta. Hoặc gây hại cho cá nhân, hoặc cho nỗ lực tranh cử của ông ta. Hoặc cả hai, không thể tránh khỏi. Mấy tay nhân viên điều tra liên bang đã khiến điều đó trở nên cực kỳ rõ ràng. Sansom không thể nói cho ông bất cứ điều gì. Nhưng nguy hại cũng còn ở quy mô lớn hơn, nếu không thế thì tại sao mấy tay nhân viên điều tra liên bang lại nhảy vào ngay từ đầu?

Và Lila Hoth là kẻ quái quỷ nào chứ?

Tôi tự hỏi mình những câu hỏi ấy suốt chặng đường chạy xe buýt xóc nảy, và suốt chặng nghỉ dài ở ga Union, rồi tôi đầu hàng khi con tàu tôi ngồi chạy về hướng Bắc xuyên qua Baltimore. Tôi chẳng đi tới đâu với mấy câu hỏi ấy, và dù sao thì đến lúc ấy tôi cũng lại đang nghĩ về một vấn đề khác. Tôi đang nghĩ về địa điểm chính xác ở thành phố New York mà Susan Mark hướng tới. Cô đã lái xe từ phía Nam và đã có kế hoạch bỏ lại xe, tới đích cần tới bằng tàu điện ngầm. Xét về mặt chiến thuật thì làm thế là khôn ngoan, và có lẽ không có lựa chọn nào khác. Hẳn là cô đã không mặc áo khoác khi chạy xe. Quá nóng. Có lẽ cô đã để nó ở ghế sau, nhiều khả năng hơn là trong cốp, cùng chiếc túi và khẩu súng, nơi khẩu súng sẽ được an toàn trước những con mắt tọc mạch. Vì thế cô đã chọn đỗ xe, ra khỏi xe và chuẩn bị cho mình sẵn sàng bước vào trận đánh khi khuất mắt người ngoài và tương đối bí mật.

Nhưng khuất mắt mà cũng không xa quá. Không quá xa so với đích cuối cùng cô hướng tới. Vì Susan đã bị chậm. Cô đã quá muộn rồi. Vì thế, nếu cần phải đến tuốt mạn trên thành phố, cô hẳn đã đậu xe ở mạn giữa thành phố. Nhưng Susan đã đậu ở mạn dưới thành phố. Ở khu SoHo. Có lẽ đã lên tàu ở phố Spring, trước tôi một ga. Cô vẫn ngồi yên khi tàu chạy qua phố 33. Rồi mọi thứ ào tới. Nếu không, tôi cho là cô sẽ ngồi trên tàu đi suốt ga Trung tâm và ra khỏi nhà ga ở phố 51.

Có thể là phố 59. Nhưng chắc chắn không thể xa hơn. Phố 68 là điểm dừng quá xa. Sâu vào khu Upper East. Một khu hoàn toàn mới. Nếu cần phải lên tuốt phía đó thì hẳn cô đã đi theo đường hầm Lincoln chứ không phải đường hầm Holland, và cô đã lái xa hơn về hướng Bắc trước khi đậu xe. Bởi cô đang rất gấp. Vậy nên ga ở phố 59 là giới hạn trần của cô. Nhưng dù biết được cô đi đâu chăng nữa, tôi vẫn có cảm giác rằng cô muốn thoái lui, dù chỉ chút ít. Tâm lý học nghiệp dư. Tiếp cận từ hướng Nam, vượt qua điểm định tới, rồi từ hướng Bắc quay trở về. Và hy vọng rằng kẻ thù của cô đi sai đường.

Thế nên trong đầu tôi vẽ ra một ô, từ phố 42 tới phố 59, và từ đại lộ Năm tới đại lộ Ba. Sáu mươi tám khối nhà hình vuông. Chứa những gì?

Chừng tám triệu thứ khác nhau.

Tôi ngừng đếm trước khi tàu đến Philadelphia. Đến lúc này tôi bị phân tâm bởi cô gái phía bên kia lối đi. Cô chừng hai tư hai lăm tuổi và cực kỳ ấn tượng. Có lẽ là người mẫu, có lẽ là diễn viên, có lẽ chỉ là một luật sư hay nhà vận động hành lang xinh đẹp. Một con bé hết sức ngon lành, có lẽ một vận động viên của Đại học Nam Carolina nói thế. Điều đó khiến tôi một lần nữa nghĩ tới Peter Molina, và sự mâu thuẫn rõ ràng ở một kẻ đủ chuyên nghiệp để sử dụng cậu ta làm công cụ khống chế một nguồn tin vô giá trị.

Ông chủ chúng tôi sẽ điều cả một đội. Thành phố New York có sáu đầu mối giao thông công cộng chính: Newark, LaGuardia, sân bay JFK, cộng thêm ga Penn, Ga Trung tâm, cộng thêm bến xe buýt Port Authority. Newark có ba cổng, LaGuardia có ba, cộng thêm cổng dành cho xe buýt nội thành, JFK có tám, ga Penn rộng lớn, Ga Trung tâm khổng lồ, Port Authority thì đông đúc. Nhân lực cần để có thể dò xét hiệu quả sẽ lên tới gần bốn chục người. Từ tám mươi người trở lên, để đảm bảo thực hiện liên tục. Và tám mươi người đã là cả một đoàn quân chứ không phải một đội nữa. Thế nên tôi xuống tàu với mức cảnh giác không cao hơn mức thông thường.

Mà may mắn làm sao, cảnh giác như thế là đủ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


TÔI LẬP TỨC TRÔNG THẤY kẻ theo dõi. Hắn đang dựa vào một cây cột giữa không gian rộng lớn của ga Penn, đứng yên, với kiểu cơ thể bất động hoàn toàn do ở yên một chỗ vì phải trực lâu. Tay này đứng yên như tượng, cả thế giới bận rộn xoay quanh hắn, như một dòng sông chảy xung quanh tảng đá. Tay hắn cầm một điện thoại di động kiểu nắp gập đang mở ra, tì xuống đùi. Hắn là một tên cao nhưng gầy. Còn trẻ, chừng ba mươi. Nhìn ban đầu không thấy ấn tượng. Hắn có nước da mai mái, đầu cạo trọc, lớp râu mỏng hung hung. Trông không hay lắm. Có lẽ đáng sợ hơn một tay săn chữ ký, song không nhiều. Hắn mặc sơ mi in hoa, bên ngoài là một áo khoác da ngắn và chật có lẽ màu nâu, nhưng dưới ánh đèn chuyển thành màu cam nhờ nhờ. Hắn đang chằm chằm nhìn đám đông liên tục di chuyển với đôi mắt đã trở nên mệt mỏi từ lâu, rồi chuyển sang chán chường.

Sân ga đầy người là người. Tôi di chuyển cùng dòng người. Chậm chạp, bị bó cứng. Tôi bị cuốn theo dòng chảy. Kẻ theo dõi cách chừng mươi mét, ở bên trên, phía trái tôi. Hai mắt hắn không di chuyển. Hắn đang cho dòng người di chuyển qua một góc nhìn cố định. Tôi còn cách góc đó khoảng ba mét. Sẽ giống như là bước qua cổng dò kim loại ở sân bay.

Tôi bước chậm lại một chút và ai đó đâm sầm vào lưng tôi. Tôi vụt quay lại, để chắc chắn rằng đó không phải kẻ bám đuôi tôi. Không phải. Người đằng sau tôi là một phụ nữ với một cái xe đẩy to đùng chẳng khác xe hơi trong đó có hai đứa trẻ, có lẽ là một cặp sinh đôi. Thành phố New York có đầy cặp sinh đôi. Nhiều bà mẹ luống tuổi, vậy nên có rất nhiều ca thụ tinh trong ống nghiệm. Cả hai đứa trẻ sinh đôi phía sau tôi đều đang khóc, có lẽ bởi trời đã muộn và chúng mệt mỏi, hoặc chỉ là chúng thấy hoang mang bối rối trước cả rừng chân bao quanh mình. Âm thanh của chúng hòa lẫn vào tiếng ồn ã chung quanh. Sân ga lát gạch, đầy tiếng vọng.

Tôi lách sang trái, định là trong tổng số ba mét tiếp theo sẽ có sáu bước chếch về phía bên. Tôi tới gần rìa của dòng người và đi qua điểm tập trung của kẻ theo dõi. Hai mắt hắn xanh sáng song nhuốm vẻ mệt mỏi. Hắn không phản ứng gì. Ban đầu thì không. Rồi, sau một giây dài chậm trễ, hai mắt hắn mở to hơn và hắn đưa điện thoại lên, bật nắp cho màn hình bật sáng. Hắn liếc màn hình. Liếc trở lại tôi.

Miệng gã mở ra với vẻ ngạc nhiên. Vào lúc này, tôi còn cách hắn chỉ hơn một mét.

Rồi hắn xỉu đi. Tôi lao người về phía trước, tóm được người và nhẹ nhàng hạ hắn xuống sàn. Một quý nhân, ra tay giúp đỡ một trường hợp đột ngột cần cấp cứu. Dù sao đó cũng là những gì người ta trông thấy. Nhưng chỉ bởi vì người ta trông thấy những gì họ muốn thấy. Nếu họ tái hiện trong đầu mình một đoạn ngắn rồi quan sát cho thật cẩn thận, có thể họ sẽ nhận ra rằng tôi đã lướt về trước hơi sớm hơn một chút trước khi gã đàn ông bắt đầu đổ xuống. Có thể họ đã nhận thấy rằng tuy đúng là tay phải tôi đưa ra nắm lấy cổ áo gã này, song nó chỉ di chuyển một phần tích tắc sau khi tay trái của tôi xỉa vào mỏ ác hắn, thật mạnh, nhưng tay tôi nằm rất sát cơ thể của cả hai, bị che khuất và được thực hiện hết sức kín đáo.

Nhưng người ta trông thấy những gì họ muốn thấy. Họ đã luôn và sẽ luôn thế. Tôi cúi người xuống gã đàn ông đúng với dáng vẻ một công dân đầy trách nhiệm mà tôi đang vờ thực hiện, người phụ nữ cùng chiếc xe đẩy va vào phía sau tôi. Sau đó một đám đông hình thành, đầy quan tâm lo lắng. Cái tiếng thiếu thân thiện của New York quả là oan. Nhìn chung người ta rất sẵn lòng giúp đỡ. Một người phụ nữ cúi xuống bên cạnh tôi. Những người khác đứng gần ngó xuống. Tôi có thể nhìn thấy chân và giày họ. Gã đàn ông mặc áo khoác da nằm thẳng cẳng trên sàn, người giật giật cùng với những đợt co thắt của ngực, miệng há ra tuyệt vọng đớp không khí. Một cú thúc mạnh vào mỏ ác sẽ khiến người ta như thế. Nhưng một cơn đau tim và một số biến cố sức khỏe khác cũng thế.

Người phụ nữ bên cạnh tôi hỏi, “Có chuyện gì vậy?”

Tôi nói, “Tôi không biết. Anh ta chỉ lăn quay ra. Hai mắt thì trợn lên.”

“Ta nên gọi cấp cứu.”

Tôi nói, “Tôi đánh rơi mất điện thoại rồi.”

Người phụ nữ bắt đầu lập cập lục ví. Tôi nói, “Đợi đã. Có thể anh ta bị lên cơn. Ta cần kiểm tra xem anh ta có mang theo thẻ gì đó không.”

“Lên cơn à?”

“Một kiểu đột quỵ. Như là tai biến. Dạng như động kinh hay gì đó.”

“Loại thẻ gì?”

“Người ta vẫn mang mà. Kèm theo các chỉ dẫn. Có thể chúng ta phải ngăn anh ta cắn lưỡi. Và có thể anh này mang theo thuốc ấy chứ. Kiểm tra các túi anh ta xem.”

Người phụ nữ với tay ra vỗ vào các túi ngoài áo khoác của gã đàn ông. Cô ta có hai bàn tay nhỏ, các ngón dài đeo đầy nhẫn. Các túi ngoài của hắn rỗng không. Chẳng có gì hết. Người phụ nữ lật bên trong áo khoác ra kiểm tra bên trong. Tôi theo dõi rất cẩn thận. Chiếc sơ mi chẳng giống với bất cứ thứ gì tôi từng thấy. Chất vải tổng hợp, vẽ hoa, các màu nhợt nhạt chẳng có trật tự nào. Chiếc áo khoác cứng đơ, thuộc loại rẻ tiền. Lót nylon. Có một nhãn may trong áo, thật bay bướm, có viết mấy chữ bằng ngôn ngữ Xlavơ.

Các túi trong của gã này cũng rỗng không.

“Thử quần anh ta xem,” tôi nói. “Nhanh lên.”

Người phụ nữ bảo, “Tôi không làm được.”

Thế là một tay quản lý có xu hướng lãnh đạo thụp xuống cạnh chúng tôi, thọc các ngón tay vào túi quần trước của gã đàn ông.

Chẳng có gì trong đó. Ông ta dùng các nắp túi để xoay gã thanh niên về một phía rồi sang phía còn lại để kiểm tra các túi sau. Trong đó cũng chẳng có gì.

Chẳng chỗ nào có gì cả. Không ví, không giấy tờ tùy thân, không gì hết.

“Được rồi, chúng ta nên gọi cấp cứu,” tôi nói. “Cô có trông thấy điện thoại của tôi không?”

Người phụ nữ ngó quanh rồi thọc tay vào phía dưới cánh tay gã đàn ông rút ra với chiếc điện thoại gập. Nắp được đẩy ra và màn hình sáng lên. Ảnh của tôi nằm ngay trên đó, to và rõ. Chất lượng tốt hơn tôi nghĩ. Tốt hơn hình mà tay bán hàng ở hiệu Radio Shack đã thử chụp. Người phụ nữ liếc nó. Tôi biết người ta lưu ảnh trên điện thoại của mình. Tôi từng trông thấy chúng. Vợ chồng, chó, mèo, con cái của họ. Kiểu như trang chủ hoặc hình nền. Có lẽ người phụ nữ nghĩ tôi là một kẻ tự cao tự đại ghê gớm sử dụng ảnh của chính mình. Nhưng dù gì thì cô ta cũng đưa chiếc điện thoại cho tôi. Đến lúc đó tay quản lý có xu hướng lãnh đạo đã bấm số gọi cấp cứu. Thế nên tôi lùi ra và nói, “Tôi sẽ đi tìm cảnh sát.”

Tôi lại dấn mình vào dòng người một lần nữa, để cho nó cuốn đi, ra khỏi cửa, lên vỉa hè, hòa vào bóng tối, rồi đi xa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


GIỜ THÌ TÔI KHÔNG CÒN LÀ GÃ ĐÀN ÔNG ĐÓ NỮA. Không còn là gã đàn ông duy nhất trên thế giới không có điện thoại di động nữa. Tôi dừng lại trong bóng tối nóng bức khi còn cách đại lộ Bảy ba khối nhà và nhìn phần thưởng của mình. Nó mang nhãn Motorola. Làm bằng nhựa xám, được xử lý và đánh bóng kiểu nào đó cho trông giống kim loại. Tôi lướt qua hết danh mục song không tìm thêm được tấm ảnh ngoài tấm chụp mình. Ảnh chụp thật tốt. Con phố cắt ngang nằm ở Tây đại lộ Tám, mặt trời buổi sáng rực rỡ, tôi cứng người đúng lúc đang ngoái lại vì có người gọi to tên mình. Từ đầu tới chân có rất nhiều chi tiết. Rõ ràng là độ phân giải rất cao. Tôi có thể phân biệt khá rõ các đặc điểm của mình. Và tôi nghĩ mình trông cũng khá bảnh, xét theo chỗ trước đó tôi hầu như không ngủ. Có xe hơi và hơn chục người gần đó, để tạo bố cục đo lường, giống như chiếc thước kẻ sơn trên tường nền trong một tấm ảnh của cảnh sát chụp các nghi phạm. Dáng điệu của tôi trông đúng như tôi thấy trong gương. Rất đặc trưng.

Tôi đã bị tóm gọn, nhưng may là chỉ bị tóm hình ảnh.

Điều đó thì chắc quá rồi.

Tôi trở lại phần quản lý cuộc gọi, xem các số đã gọi đi. Không có cuộc nào được ghi lại. Tôi kiểm tra các cuộc gọi tới và chỉ tìm thấy ba cú, tất cả trong vòng ba giờ vừa qua, tất cả xuất phát từ một số máy. Tôi cho là kẻ theo dõi được quy định phải thường xuyên xóa thông tin, có lẽ thậm chí phải xóa ngay sau mỗi cuộc gọi, nhưng chừng ba tiếng đồng hồ trước hắn đã trở nên lười, điều này chắc chắn khớp với hành vi và thời gian phản ứng của hắn. Tôi nghĩ rằng số máy thực hiện cuộc gọi đến đại diện cho một loại kẻ tổ chức hoạt động hay điều vận. Có lẽ thậm chí chính là ông chủ lớn của hắn. Nếu đó là số máy di động thì chẳng có ích cho tôi chút nào. Không ích lợi gì hết. Điện thoại di động có thể nằm ở bất kỳ đâu. Đó là cái lợi của máy di động.

Nhưng đó không phải số máy di động. Nó có đầu số 212.

Một số máy cố định ở Manhattan.

Nghĩa là có địa điểm cố định. Đó là bản chất của các số máy cố định.

Phương pháp tốt nhất để lần ngược lại một số điện thoại phụ thuộc vào vị trí quyền lực của ta cao đến đâu. Nhân viên cảnh sát và thám tử tư có các danh bạ điện thoại tra ngược. Xem số, lấy một cái tên, thế là có địa chỉ. FBI có tất cả các dạng cơ sở dữ liệu tinh vi. Cũng một loại cả, nhưng tốn kém hơn. Bên CIA thì có lẽ sở hữu luôn các công ty điện thoại.

Tôi chẳng có loại nào trong số đó. Thế nên tôi dùng phương pháp kỹ thuật thấp.

Tôi gọi số đó rồi xem ai nghe máy.

Tôi bấm phím xanh, điện thoại liền hiện số ấy lên cho tôi. Tôi bấm phím xanh lần nữa và máy bắt đầu gọi. Có chuông. Nó ngắt tương đối nhanh và giọng một phụ nữ vang lên, “Đây là khách sạn Four Seasons, tôi có thể giúp gì cho quý vị?”

Tôi nói, “Khách sạn à?”

“Vâng, tôi sẽ chuyển cuộc gọi của ông thế nào đây?”

Tôi bảo, “Xin lỗi, tôi nhầm số.”

Tôi bấm nút kết thúc cuộc gọi.

Khách sạn Four Seasons. Tôi đã thấy nó. Tôi chưa bao giờ ở đó. Khách sạn này vượt quá khả năng chi trả hiện nay của tôi một chút. Nó nằm trên phố 57, giữa đại lộ Madison và đại lộ Park. Ngay ở đó, trong cái ô sáu mươi tám khối nhà, hơi chếch về phía Tây và lệch hẳn về hướng Bắc so với trung tâm. Nhưng với người xuống tàu tuyến số 6 ở phố 59 thì chỉ cần cuốc bộ một quãng ngắn. Vài trăm phòng, vài trăm máy lẻ, tất cả đều thông qua tổng đài chính, tất cả đều hiện số của tổng đài chính.

Có ích, nhưng không đáng là bao.

Tôi nghĩ ngợi một lúc và quan sát xung quanh cẩn thận rồi quay ngược lại, hướng về phía Đồn Cảnh sát Khu vực 14.

Tôi không biết khi nào một thám tử NYPD sẽ có mặt để trực ca đêm, nhưng mong rằng Theresa Lee sẽ ở đó trong vòng một giờ nữa. Tôi mong sẽ phải chờ cô trong sảnh tầng dưới. Điều tôi không mong đợi là thấy Jacob Mark đã ở đó, trước tôi. Anh đang ngồi trên một chiếc ghế thẳng dựa vào tường, gõ gõ ngón tay lên hai đầu gối. Anh ngước nhìn tôi mà chẳng bộc lộ chút ngạc nhiên nào và nói, “Peter đã không có mặt để tập luyện.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


NGAY TẠI ĐÂY, TRONG SẢNH CỦA ĐỒN CẢNH SÁT Khu vực 14, Jacob Mark nói một mạch chừng năm phút, với sự liên tục nhưng thiếu mạch lạc rất đặc trưng của người thực sự lo lắng. Anh bảo rằng người của đội bóng Đại học Nam Carolina đã đợi bốn tiếng đồng hồ, sau đó gọi cho cha của Peter, sau đó cha của Peter gọi cho anh. Anh nói rằng đối với một ngôi sao là sinh viên năm cuối đang hưởng học bổng toàn phần, bỏ tập là điều không thể tưởng tượng. Trên thực tế, bất kể chuyện gì khác đang diễn ra thì vẫn cứ tập luyện, đó là một phần quan trọng của nguyên tắc huấn luyện. Dù xảy ra động đất, bạo động, chiến tranh, người thân qua đời, bệnh hiểm nghèo, mọi người vẫn có mặt. Việc này khẳng định với thế giới tầm quan trọng của bóng bầu dục, qua đó cho thấy các cầu thủ quan trọng thế nào đối với trường. Bởi vận động viên được hầu hết mọi người tôn trọng, nhưng bị một vài người không tôn trọng. Và có một lệnh bất thành văn là phải tuân theo lý tưởng của đa số, thay đổi tư tưởng của thiểu số. Và có vấn đề rõ ràng về vai trò của đấng trượng phu. Bỏ tập thì cũng như lính cứu hỏa không chịu chữa cháy, như cầu thủ bóng chày ở vị trí đánh bóng đứng xoa tay khi bị ném bóng trúng người, như một tay súng bá vàng lại ở lì trong quán rượu. Không thể được. Chưa bao giờ nghe nói. Không xảy ra. Say xỉn, gãy xương, rách cơ, thâm tím, chẳng thành vấn đề. Anh phải có mặt. Thêm vào đó, Peter sắp dự giải quốc gia, và các đội ngày càng chuyên nghiệp cần tìm cầu thủ. Họ đã bị lừa quá nhiều lần. Thế nên bỏ tập cũng đồng nghĩa với việc vứt bỏ suất ăn của mình. Không thể giải thích được. Không thể hiểu nổi.

Tôi nghe mà không để tâm nhiều. Thay vào đó tôi đang tính giờ. Đã gần bốn mươi tám giờ kể từ khi Susan Mark không kịp hạn chót. Tại sao người ta vẫn chưa tìm thấy thi thể của Peter?

Rồi Theresa Lee xuất hiện cùng những thông tin mới.

Nhưng trước tiên Lee phải xử lý tình hình của Jacob Mark. Cô đưa chúng tôi lên phòng họp ở tầng hai, nghe anh ta trình bày rồi hỏi, “Người ta đã chính thức báo là Peter mất tích chưa?”

Jake nói, “Tôi muốn làm việc đó ngay bây giờ.”

“Anh không làm được đâu,” Lee nói. “Ít nhất là không làm việc đó với tôi. Cậu ấy mất tích ở LA, chứ không phải ở New York.”

“Susan đã bị giết tại đây.”

“Cô ấy đã tự sát ở đây.”

“Người của USC không tiếp nhận thông báo về người mất tích. Còn LAPD sẽ không để tâm. Họ không hiểu.”

“Peter đã hai mươi hai tuổi rồi. Cậu ấy có phải trẻ con đâu.”

“Nó đã mất tích hơn năm ngày rồi.”

“Lâu bao nhiêu không quan trọng. Cậu ấy không sống ở nhà. Và ai nói là cậu ấy mất tích? Ai có quyền nói nếp sinh hoạt bình thường của cậu ấy là như thế nào? Có thể là cậu ấy đi đâu đó một thời gian dài mà không liên lạc với gia đình.”

“Lần này khác.”

“Vậy cách xử lý của các anh ở Jersey thì thế nào?”

Jake không trả lời.

Lee nói, “Cậu ấy là người trưởng thành độc lập. Có thể thể cậu ấy đã lên máy bay đi nghỉ. Có thể bạn bè cậu ấy đã ở sân bay và trông thấy cậu ấy đi. Tôi có thể hiểu LAPD sẽ nhìn nhận vụ này từ góc độ nào.”

“Nhưng nó đã bỏ buổi tập bóng bầu dục. Thường chuyện đó không xảy ra.”

“Nhưng rõ ràng là nó đã xảy ra rồi.”

“Susan bị đe dọa,” Jake nói.

“Bởi ai?”

Jake nhìn tôi, “Nói cho cô ấy nghe đi, Reacher.”

Tôi nói, “Chuyện gì đó liên quan tới công việc của cô ấy. Đòn áp lực có sức mạnh ghê gớm. Phải là thế. Tôi nghĩ có một mối đe dọa nhằm vào con trai cô ấy là cách lý giải có sức thuyết phục.”

“Được rồi,” Lee nói. Cô nhìn quanh phòng và trông thấy đồng sự của mình, Docherty. Anh ta đang làm việc ở một bàn đôi nằm phía góc kia phòng. Cô nhìn lại Jake và nói, “Hãy đi làm một bản tường trình đầy đủ. Mọi điều anh biết, và mọi điều anh nghĩ là anh biết.”

Jake gật đầu vẻ biết ơn và hướng về phía Docherty. Tôi đợi cho tới khi anh ta đi khỏi rồi hỏi, “Bây giờ cô sẽ mở lại vụ án phải không?”

Lee đáp, “Không. Vụ án đã khép lại và nó sẽ vẫn như thế. Mọi chuyện thế này thì chẳng có gì đáng lo. Nhưng cái anh kia là cảnh sát, chúng ta cần phải tôn trọng. Và tôi muốn anh ta đi chỗ khác trong khoảng một giờ.”

“Sao lại không có gì đáng lo?”

Thế là Lee cho tôi biết thông tin.

Cô nói, “Chúng tôi biết vì sao Susan Mark tới đây.”

“Bằng cách nào?”

“Chúng tôi đã nhận được thông báo người mất tích,” cô nói. “Rõ ràng Susan đang giúp ai đó có nhu cầu tìm hiểu, và khi cô ấy không ló mặt, người kia đâm lo nên đã đến đây trình báo việc cô ấy mất tích.”

“Tìm hiểu kiểu gì?”

“Tôi nghĩ là điều gì đó liên quan tới cá nhân. Khi ấy tôi không ở đây. Mấy cậu làm ca ngày nói mọi chuyện nghe cũng khá là trong sáng. Mà chắc hẳn là phải thế rồi, nếu không tại sao người ta lại tới đồn cảnh sát kia chứ?”

“Và vì sao Jacob Mark không nên biết chuyện này?”

“Chúng tôi cần thêm nhiều chi tiết. Làm việc đó sẽ dễ dàng hơn nếu như không có mặt anh ta. Anh ta liên đới nhiều quá. Người trong gia đình mà. Anh ta sẽ hét um lên. Trước đây tôi từng chứng kiến cảnh đó rồi.”

“Người có liên quan là ai?”

“Một người nước ngoài ghé qua thành phố này một thời gian ngắn nhằm mục đích tiến hành cuộc nghiên cứu mà Susan đang giúp đỡ.”

“Đợi chút,” tôi nói. “Ghé thành phố một thời gian ngắn à? Ở khách sạn hả?”

“Đúng,” Lee nói.

“Khách sạn Four Seasons phải không?”

“Đúng,” Lee nói.

“Tên ông ta là gì?”

“Là phụ nữ, không phải nam giới,” Lee nói. “Cô ta tên là Lila Hoth.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


ĐÃ RẤT KHUYA SONG LEE VẪN CỨ GỌI ĐIỆN và Lila Hoth đồng ý gặp chúng tôi ở khách sạn Four Seasons ngay, không chút do dự. Chúng tôi đi bằng chiếc xe không sơn phù hiệu của Lee và đậu xe trong khu bốc dỡ hàng cạnh lề đường phía khách sạn. Sảnh thật tráng lệ. Tất cả sa thạch sáng nhợt, đồng, màu son nâu vàng và đá cẩm thạch vàng, nằm lửng lơ giữa vẻ kín đáo huyền hoặc và nét hiện đại tươi sáng. Tại bàn lễ tân Lee giơ phù hiệu, nhân viên lễ tân gọi lên trên gác và chỉ cho chúng tôi thang máy. Chúng tôi được đưa lên một tầng cao khác và cách nói của nhân viên lễ tân khiến tôi có cảm giác rằng phòng của Lila Hoth không phải loại nhỏ nhất hay có giá rẻ nhất trong khách sạn này.

Thực ra phòng của Lila Hoth chính là một khu phòng khác. Nó có cửa đôi, giống như phòng của Sansom ở Bắc Carolina, nhưng bên ngoài không có cảnh sát. Chỉ là một hành lang yên tĩnh không người. Đây đó rải rác các khay chứa đồ phục vụ tại phòng đã được dùng, một số tay nắm cửa có biển Xin đừng làm phiền hoặc phiếu yêu cầu phục vụ bữa sáng. Theresa Lee dừng lại, kiểm tra số phòng lần nữa rồi gõ cửa. Trong một phút chẳng thấy gì. Rồi cánh cửa bên phải ra, chúng tôi trông thấy một phụ nữ đứng phía trong, ngay đằng sau là ánh sáng vàng nhạt. Bà ta chừng sáu mươi tuổi, có khi hơn, người thấp, đậm và nặng nề, mái tóc màu xám ánh thép cắt kiểu chân phương đơn giản. Đôi mắt sẫm màu, có nếp nhăn và sụp xuống. Một bản mặt trắng dày thịt, bất động, lạnh lẽo. Một thái độ đầy cảnh giác không đọc ra được. Bà già mặc chiếc váy trong nhà màu nâu xấu xí may từ chất liệu dày làm bằng tay.

Lee hỏi, “Bà là bà Hoth phải không?”

Người phụ nữ cúi đầu, chớp mắt và xua xua hai tay rồi phát ra âm thanh tỏ ý xin lỗi mà trong mọi trường hợp đều áp dụng được. Một cử chỉ vụng về cả thế giới đều dùng để thể hiện rằng mình không hiểu.

Tôi nói, “Bà ấy không nói được tiếng Anh.”

Lee nói, “Cách đây mười lăm phút bà ấy đã nói tiếng Anh.”

Ánh sáng phía sau người phụ nữ xuất phát từ một chiếc đèn bàn nằm sâu trong phòng. Nó mờ đi một thoáng khi bóng người thứ hai bước về phía trước đèn, hướng về chúng tôi. Một phụ nữ khác. Nhưng trẻ hơn nhiều. Có lẽ tầm hai lăm, hai sáu tuổi. Rất tao nhã. Và đẹp, rất đẹp. Hiếm có, gợi cảm. Như người mẫu. Cô nở nụ cười hơi bẽn lẽn và lên tiếng, “Là tôi nói tiếng Anh cách đây mười lăm phút. Tôi là Lila Hoth. Đây là mẹ tôi.”

Cô cúi người và nói nhanh bằng tiếng nước ngoài, ngôn ngữ vùng Đông Âu, thật khẽ, gần như thẳng vào tai bà già. Giải thích, hoàn cảnh, kết luận. Gương mặt bà già sáng lên và bà mỉm cười. Chúng tôi tự giới thiệu tên. Lila Hoth dịch lại cho mẹ. Bà ta xưng tên mình là Svetlana Hoth. Tất cả chúng tôi bắt tay nhau, bên này rồi tới bên kia, thực sự trang trọng, tay người này chéo qua tay người kia, hai người chúng tôi phía này, hai người họ phía kia. Lila Hoth thật là đẹp mê hồn. Và rất tự nhiên. Cô khiến tôi thấy cô gái trên tàu mà tôi nhìn thấy so với cô là một trời một vực. Cô cao nhưng không cao quá, mảnh mai nhưng không quá gầy. Cô có nước da sẫm màu, kiểu như làn da nhuốm nắng biển hoàn hảo. Cô có mái tóc đen dài. Không hề trang điểm. Đôi mắt to đầy mê hoặc, đôi mắt xanh nhất tôi từng thấy. Như thể chúng được đốt sáng từ bên trong. Cô cử động đầy mềm mại, uyển chuyển. Đôi khi cô trông trẻ trung, cao ráo và bụi đời, lúc khác thì trông cô hoàn toàn trưởng thành và tự chủ. Nửa thì cô có vẻ không ý thức mình đẹp nhường nào, nửa thì cô có vẻ hơi e lệ về điều đó. Cô mặc một chiếc váy dự tiệc đơn giản màu đen có lẽ xuất xứ Paris và có giá trị hơn một chiếc xe hơi. Nhưng cô không cần tới nó. Cô có thể mặc bất kỳ thứ gì chắp vá từ bao bố cũ mà cũng không hề làm vẻ đẹp suy suyển chút nào.

Chúng tôi theo cô vào trong và mẹ cô theo sau chúng tôi. Khu phòng này gồm ba phòng. Một phòng khách ở giữa, hai phòng ngủ hai bên. Phòng khách có đủ các thứ đồ nội thất, kể cả bàn ăn. Trên đó có những thứ còn lại của một bữa ăn đêm phục vụ tại phòng, ở góc phòng có những túi đựng đồ mua sắm. Hai chiếc từ cửa hiệu Bergdorf Goodman, hai chiếc từ cửa hiệu Tiffany. Theresa Lee lấy phù hiệu ra còn Lila Hoth bước tới cái tủ thấp dưới một tấm gương rồi trở lại với hai cuốn sách mỏng đưa cho Lee. Hộ chiếu của họ. Cô nghĩ các vị khách là công chức nhà nước ở New York muốn xem giấy tờ. Hai cuốn hộ chiếu màu hạt dẻ, bìa mỗi cuốn đều in hình con đại bàng màu vàng ở giữa, phía trên có những chữ kiểu Nga còn bên dưới có dòng chữ giống như NACNOPTYKPAIHA bằng tiếng Anh. Lee lật lật cả hai cuốn rồi mang để lại trên cái tủ thấp.

Rồi tất cả ngồi xuống. Svetlana Hoth chằm chằm nhìn thẳng về trước, vô hồn, bị loại khỏi cuộc nói chuyện vì rào cản ngôn ngữ. Lila Hoth nhìn chúng tôi một cách cẩn thận, trong đầu hình thành nhân dạng của cả hai. Một cảnh sát từ đồn khu vực, một là nhân chứng trên tàu. Cuối cùng cô nhìn thẳng vào tôi, có lẽ vì cô nghĩ tôi đã bị các sự kiện tác động nghiêm trọng hơn. Tôi không kêu ca. Tôi không thể rời mắt khỏi cô.

Cô bảo, “Tôi rất tiếc về chuyện đã xảy ra với Susan Mark.”

Giọng cô thấp. Phát âm của cô chuẩn. Hoth nói tiếng Anh rất tốt. Hơi nhấn nhá, hơi trang trọng. Như thể cô học tiếng Anh từ những bộ phim đen trắng, cả giọng Mỹ và Anh.

Theresa Lee không nói gì. Tôi lên tiếng, “Chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra với Susan Mark. Không hẳn là biết. Ý tôi nói là ngoài những dữ kiện đã rõ ràng.”

Lila Hoth gật đầu, đầy lịch thiệp, nhẹ nhàng và một chút hối hận. Cô nói, “Các vị muốn hiểu về sự liên can của tôi.”

“Vâng, đúng thế.”

“Chuyện thì dài. Nhưng trước tiên hãy cho tôi nói rằng trong đó chẳng gì có thể lý giải cho các sự kiện đã diễn ra trên tàu điện ngầm.”

Theresa Lee nói, “Vậy chúng ta hãy nghe câu chuyện.”

Vậy là chúng tôi nghe. Phần đầu tiên là thông tin về bối cảnh. Tuyền là thông tin tiểu sử. Lila Hoth hai mươi sáu tuổi. Cô là người Ukraine. Cô lập gia đình với một người Nga năm mười tám tuổi. Người này đã tham gia sâu vào hoạt động kinh tế theo kiểu những năm 1990 ở Moscow. Ông ta đã giành được hợp đồng cho thuê các giếng dầu, quyền khai thác than và uranium từ nhà nước đang sụp đổ. Ông ta đã trở thành tỷ phú hàng dưới chục. Bước tiếp theo là trở thành tỷ phú hàng trên chục. Nhưng ông ta không làm được việc đó. Đó là nút cổ chai rất hẹp. Mọi người đều muốn len qua, nhưng không có đủ chỗ để ai cũng thành công. Cách đây một năm, bên ngoài một hộp đêm, một đối thủ cạnh tranh đã bắn vào đầu tỷ phú người Nga này. Cái xác nằm trong tuyết trên vỉa hè suốt cả ngày hôm sau. Đó là một thông điệp theo phong cách Moscow. Người vợ vừa trở thành bà góa, Lila Hoth, hiểu được nội dung thông điệp, liền nhanh chóng vét hết tiền bạc rồi chuyển tới London cùng mẹ. Cô thấy thích London và dự định sẽ sống mãi ở đó, ngập trong tiền bạc mà chẳng có việc gì nhiều để làm.

Cô nói, “Người ta thường cho là những người trẻ tuổi trở nên giàu có sẽ làm nhiều việc cho cha mẹ họ. Lúc nào các vị cũng thấy điều đó ở các ngôi sao nhạc pop, các ngôi sao điện ảnh và vận động viên nổi tiếng. Và việc ấy thể hiện một tinh thần rất đặc trưng Ukraine. Cha tôi mất trước khi tôi lọt lòng mẹ. Mẹ là tất cả những gì còn lại của tôi. Thế nên dĩ nhiên tôi dành cho bà tất cả những gì bà muốn. Nhà cửa, xe cộ, nghỉ ngơi, du lịch. Bà từ chối tất cả. Bà chỉ muốn tôi giúp cho bà một việc thôi. Bà muốn tôi giúp bà tìm ra một người đàn ông trong quá khứ của bà. Như là bụi đã lắng dịu sau một cuộc đời dài đầy biến động, và cuối cùng bà cũng được tự do để tập trung vào điều có ý nghĩa nhất đối với mình.”

Tôi hỏi, “Người đàn ông ấy là ai?”

“Một người lính Mỹ tên John. Đó là tất cả những gì tôi biết. Ban đầu mẹ tôi nói ông ấy chỉ là người quen biết. Nhưng dần dần mới thấy rằng ông ấy đã rất tốt với bà, ở một thời điểm và một địa điểm cụ thể.”

“Ở đâu và khi nào?”

“Ở Berlin, trong một giai đoạn ngắn đầu thập niên 80.”

“Thế thì mơ hồ quá.”

“Đó là khi tôi chưa sinh. Vào năm 1983. Riêng tôi thì tôi nghĩ cố gắng tìm người đàn ông này là việc vô vọng. Tôi nghĩ mẹ đang trở thành một bà già lẩm cẩm. Nhưng tôi thấy hạnh phúc khi đáp ứng mong muốn của bà. Mà các vị đừng lo, bà không hiểu được những gì chúng ta đang nói đâu.”

Svetlana Hoth mỉm cười và gật đầu chẳng vì điều gì cụ thể.

Tôi hỏi, “Tại sao mẹ cô có mặt ở Berlin?”

“Bà ấy tham gia Hồng quân,” con gái của bà già đáp.

“Khi ấy làm gì?”

“Bà ấy thuộc một trung đoàn bộ binh.”

“Với chức vụ gì?”

“Bà ấy là chính trị viên. Tất cả các trung đoàn đều có một người. Trên thực tế, mọi trung đoàn đều có nhiều chính trị viên.”

Tôi hỏi, “Cô đã làm gì để tìm người Mỹ kia?”

“Mẹ tôi biết rõ rằng người bạn John của mình thuộc lực lượng lục quân chứ không phải thủy quân lục chiến. Đó là điểm khởi đầu của tôi. Thế nên từ London tôi gọi điện đến Bộ Quốc phòng nước ông hỏi xem tôi nên làm gì. Sau nhiều lần giải thích, người ta chuyển tôi tới Cục Nhân lực. Họ có văn phòng báo chí. Người tiếp chuyện tôi thực sự xúc động. Ông ấy nghĩ đó là một câu chuyện ngọt ngào. Có thể ông ấy thấy được khía cạnh quan hệ công chúng, tôi chẳng biết. Cuối cùng có vài tin vui, có lẽ thay cho những tin xấu. Ông ấy bảo ông ấy sẽ tìm hiểu. Riêng tôi thì nghĩ ông ấy đang phí thời gian, John là cái tên rất phổ biến. Và theo tôi hiểu, hầu hết lính Mỹ đều được luân chuyển qua Đức, hầu hết có viếng thăm Berlin. Thế nên tôi nghĩ số trường hợp như vậy rất lớn. Mà rõ là thế thật. Điều tiếp theo tôi biết là sau đó vài tuần, một nhân viên tên Susan Mark gọi điện cho tôi. Khi ấy tôi không ở nhà. Bà ấy để lại lời nhắn. Bà bảo mình đã được giao nhiệm vụ trên. Susan nói với tôi rằng một số cái tên nghe giống như John thực ra là rút gọn của Jonathan, đánh vần thiếu chữ H. Bà muốn biết liệu mẹ tôi đã bao giờ trông thấy cái tên đó viết ra chưa, có thể trên một mẩu thư. Tôi hỏi mẹ rồi gọi lại cho Susan Mark bảo bà ấy rằng chúng tôi chắc chắn là John có chữ H. Cuộc nói chuyện với Susan hóa ra rất dễ chịu và chúng tôi đã có thêm nhiều cuộc như thế. Tôi nghĩ chúng tôi đã hầu như trở thành bạn bè, theo kiểu đôi khi ta có thể tâm sự qua điện thoại. Giống như bạn quen qua thư, nhưng nói thay cho viết. Susan kể cho tôi nghe nhiều về bản thân. Bà là một phụ nữ rất cô đơn, tôi nghĩ nhờ nói chuyện với chúng tôi mà cuộc sống của bà trở nên tươi sáng hơn.”

Lee hỏi, “Rồi đến chuyện gì?”

“Cuối cùng tôi nhận được tin từ Susan. Bà bảo rằng bà đã đi đến một số kết luận sơ bộ. Tôi gợi ý là chúng tôi sẽ gặp nhau ở đây, tại New York, gần như một cách để hoàn thiện tình bạn giữa hai bên. Các vị biết đấy, một bữa ăn rồi thì có thể đi coi một buổi biểu diễn. Là một cách cảm ơn những cố gắng của bà ấy, chắc chắn thế rồi. Nhưng chẳng bao giờ bà ấy đến.”

Tôi hỏi, “Cô đợi cô ấy tới lúc mấy giờ?”

“Khoảng 10 giờ. Bà ấy bảo làm việc xong sẽ đi.”

“Quá muộn để đi ăn bữa tối và xem biểu diễn.”

“Bà ấy dự định ở qua đêm. Tôi đã đặt phòng cho bà ấy mà.”

“Cô tới đây khi nào?”

“Cách đây ba ngày.”

“Bằng phương tiện gì?”

“Bay hãng British Airways từ London.”

Tôi nói, “Cô đã thuê một đội là người bản xứ.”

Lila Hoth gật đầu.

Tôi hỏi: “Khi nào?”

“Ngay trước khi chúng tôi tới đây.”

“Tại sao?”

“Theo kế hoạch,” Lila đáp. “Và đôi lúc có ích.”

“Cô tìm được họ ở đâu?”

“Họ quảng cáo. Trên các báo của Moscow, và trên các báo dành cho ngoại kiều ở London. Với họ là một nghề tốt, với chúng tôi là một hình thức kiểm tra thân thế. Nếu ra nước ngoài mà không được trợ giúp, ông sẽ trông yếu thế. Không nên để như vậy.”

“Họ bảo tôi rằng cô sẽ điều cả một đội của riêng cô.”

Hoth trông có vẻ ngạc nhiên.

“Tôi không có đội nào của riêng mình cả,” cô đáp. “Thế quái nào mà họ lại nói vậy nhỉ? Tôi không hiểu nổi.”

“Họ bảo rằng cô mang tới đây một số thành phần rất đáng sợ.”

Trong một giây Hoth trông bối rối và hơi khó chịu. Rồi vẻ hiểu ra xuất hiện trên mặt cô. Có vẻ đây là một người có khả năng phân tích nhanh. Cô nói, “Về mặt chiến lược, có lẽ họ có óc sáng tạo. Khi Susan không tới, tôi đã điều họ đi tìm. Tôi nghĩ mình đã trả tiền cho họ thì họ cũng nên làm một số việc. Và mẹ tôi đã đặt rất nhiều hy vọng vào việc này. Thế nên tôi không muốn mất công lặn lội cả quãng đường dài tới đây để rồi thất bại ở phút cuối cùng. Vậy nên tôi đặt mức thưởng cho họ. Chúng tôi lớn lên với niềm tin rằng ở nước Mỹ này tiền có ảnh hưởng mạnh nhất. Do vậy có lẽ những tay ấy đã bịa ra một câu chuyện cho ông nghe. Có lẽ họ bịa ra một câu chuyện khác đáng sợ. Để đảm bảo rằng họ sẽ kiếm được thêm tiền. Như thế ông sẽ muốn nói chuyện với họ.”

Tôi không nói gì.

Rồi một điều khác hiện lên mặt Hoth. Nhận ra một điều khác. Cô nói, “Tôi không có đội nào như cách gọi của ông cả. Chỉ có một người. Leonid, một trong những người trong đội cũ của chồng tôi. Anh ta không thể kiếm việc mới. Anh ta là dạng sắp hết thời, tôi e là thế. Thế nên tôi giữ lại. Ngay lúc này anh ta đang ở ga Penn. Anh ta đang đợi ông. Cảnh sát bảo tôi rằng nhân chứng đã đi Washington. Tôi nhận định là ông sẽ đi tàu hỏa và trở lại cũng bằng cách đó. Ông không trở về bằng tàu hỏa sao?”

Tôi nói, “Có, tôi đã trở lại bằng tàu hỏa.”

“Thế thì chắc chắn Leonid đã bỏ sót mất ông rồi. Anh ta có ảnh của ông. Anh ta có nhiệm vụ đề nghị ông gọi điện cho tôi. Anh chàng tội nghiệp, chắc chắn anh ta vẫn đang ở đó.”

Hoth đứng dậy đi về phía cái tủ thấp. Để dùng điện thoại trong phòng. Việc đó tạm thời gây cho tôi một rắc rối về mặt chiến thuật. Bởi điện thoại di động của Leonid đang nằm trong túi tôi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


VỀ NGUYÊN TẮC, TÔI BIẾT cách tắt một chiếc điện thoại di động. Tôi đã thấy người ta làm việc đó, và tự tôi cũng đã làm việc này hơn một lần. Với hầu hết các mẫu máy, bạn chỉ cần giữ phím màu đỏ trong hai giây. Nhưng chiếc điện thoại lại nằm trong túi tôi. Không có khoảng trống để mở máy ra, và không có cơ hội tìm được phím màu đỏ chỉ bằng cách sờ vào máy. Lấy máy ra bật tắt đi khi mọi người nhìn thấy rõ ràng thì sẽ quá khả nghi.

Lila bấm số 9 để xin đường truyền và nhấn số.

Tôi thò tay vào túi, dùng ngón cái tìm lấy lẫy, tháo pin ra. Tách nó khỏi máy và xoay sang bên để tránh mọi khả năng vô tình khiến nguồn điện được tiếp xúc trở lại.

Lila Hoth chờ đợi, rồi thở dài và gác máy.

“Chẳng hy vọng gì được ở anh ta,” cô nói. “Nhưng rất trung thành.”

Đầu tôi cố gắng hình dung những bước đi có thể của Leonid. Cảnh sát, cấp cứu, có lẽ buộc phải đến phòng cấp cứu của bệnh viện St Vincent, không giấy tờ, có thể không biết tiếng Anh, có thể những lo ngại, những câu hỏi và rồi bị giữ lại. Rồi chuyến đi trở lại thành phố.

Bị giữ bao lâu, tôi không biết.

Chuyến đi nhanh chừng nào, tôi không thể đoán trước.

Tôi lên tiếng, “Đội người bản xứ đã nhắc tới tên John Sansom.”

Lila Hoth thở dài lần nữa và lắc đầu, thoáng biểu hiện lo lắng. Cô nói, “Tôi đã tóm tắt cho họ khi chúng tôi đến, rõ là thế rồi. Tôi đã kể cho họ nghe câu chuyện. Và chúng tôi có quan hệ khá tốt. Tôi nghĩ tất cả chúng tôi đều cảm thấy mình đang lãng phí thời gian để làm vừa lòng mẹ tôi. Nói thật, chúng tôi cùng nhau đùa cợt về vấn đề đó. Một trong mấy người của tôi đọc báo nói về Sansom. Anh ta bảo đây là một lính Mỹ tên John, khá gần với thời đó. Anh ta bảo có thể Sansom chính là người cô đang tìm. Trong một hay hai ngày câu đó trở thành một câu quen tai. Tôi cho ấy chỉ là chuyện đùa trong nhóm mà thôi. Chúng tôi nói, ta hãy gọi cho John Sansom đi và thế là xong việc. Dĩ nhiên là tôi chỉ đùa thôi, bởi khả năng xảy ra là bao nhiêu chứ? Có lẽ một phần triệu. Và họ cũng nói đùa thật, nhưng sau đó họ trở nên nghiêm túc một chút về chuyện ấy. Có lẽ do ảnh hưởng nó sẽ gây ra, vì ông ta là một chính trị gia nổi tiếng thế mà.”

“Ảnh hưởng nào? Mẹ cô đã làm gì với người đàn ông tên John này?”

Svetlana Hoth chăm chăm nhìn vào khoảng không, không hiểu gì. Lila Hoth lại ngồi xuống. Cô nói, “Mẹ tôi chưa bao giờ nói cụ thể về chuyện đó. Chắc chắn không thể là chuyện làm gián điệp. Mẹ tôi không phải kẻ phản quốc. Tôi nói điều này không phải với tư cách một đứa con gái trung thành, mà với tư cách một người có đầu óc thực tế. Bà vẫn còn sống. Vì vậy có nghĩa chưa bao giờ bà bị nghi ngờ. Và người bạn Mỹ của bà cũng không phải kẻ phản quốc. Móc nối với những kẻ phản bội nước ngoài là chức năng của KGB[32], không phải của quân đội. Và cá nhân tôi nghi ngờ rằng mối quan tâm của bà mang tính tình cảm. Nhiều khả năng đó là sự giúp đỡ kiểu nào đấy, giúp đỡ cá nhân, hoặc về tài chính hoặc chính trị. Có thể là bí mật. Hồi đó là thời kỳ tệ hại của Liên Xô. Nhưng có khả năng là mang tính tình cảm. Tất cả những gì mẹ tôi từng nói là người đàn ông này rất tốt với mẹ. Bà ấy bí mật lắm.”

“Hỏi bà ấy đi, ngay bây giờ ấy.”

“Ông có tưởng tượng được tôi đã hỏi bà bao nhiêu lần rồi không? Bà cứ lưỡng lự không nói.”

“Nhưng cô nghĩ là Sansom thực sự không liên quan à?”

“Không, không hề. Đó là một trò đùa vượt khỏi tầm kiểm soát. Chỉ thế thôi. Tất nhiên trừ trường hợp đó thực sự là trường hợp một trên một triệu. Nếu thế thì thật là phi thường, ông không nghĩ thế sao? Nói đùa về một chuyện rồi thì thấy nó biến thành sự thật!”

Tôi chẳng nói gì.

Lila Hoth nói, “Giờ tôi có thể hỏi ông một câu được không? Susan Mark đã cung cấp cho ông thông tin cô ấy định mang tới cho mẹ tôi hay không?”

Svetlana Hoth mỉm cười và gật đầu lần nữa. Tôi bắt đầu nghi rằng bà đã nhận ra hai từ mẹ tôi. Giống như con chó vẫy đuôi khi nghe gọi tên nó. Tôi nói, “Tại sao cô nghĩ Susan Mark cung cấp thông tin cho tôi?”

“Bởi những người tôi thuê ở đây bảo tôi là ông có nói với họ cô ấy đã làm thế. Thông tin số hóa, trong một chiếc USB. Họ chuyển cho tôi thông điệp đó, gửi cho tôi ảnh của ông, rồi từ bỏ nhiệm vụ của họ. Tôi không chắc vì sao. Tôi trả cho họ rất hậu đấy.”

Tôi cựa người trên ghế và nhét tay vào túi.

Lần xuống dưới, qua chiếc điện thoại đã bị tháo pin và tìm thấy chiếc USB mua ở Radio Shack. Tôi cảm nhận được lớp bọc cao su hồng cọ vào các ngón tay. Tôi lôi nó ra, giơ lên và quan sát đôi mắt của Lila Hoth rất cẩn thận.

Cô ta quan sát nó đúng kiểu mèo quan sát một con chim.

Lila Hoth hỏi, “Đó có thực là nó không?”

Theresa Lee cựa quậy trên ghế và nhìn tôi. Như thể cô đang hỏi. Ông sẽ nói ra điều đó, hay tôi nói? Lila Hoth bắt được ánh nhìn ấy liền hỏi, “Chuyện gì thế?”

Tôi nói, “Tôi e là với tôi toàn bộ câu chuyện có vẻ rất khác. Lúc trên tàu Susan Mark đã rất khiếp sợ. Cô ấy gặp rắc rối lớn. Cô ấy không có vẻ gì giống người tới thành phố gặp một người bạn để ăn tối và xem một buổi biểu diễn.”

Lila Hoth nói, “Tôi đã nói với ông từ đầu rồi. Tôi không thể giải thích điều đó.”

Tôi nhét chiếc USB trở lại túi. Rồi nói, “Susan không mang theo chiếc túi để ngủ qua đêm.”

“Tôi không thể lý giải điều đó.”

“Và cô ấy đã bỏ xe hơi rồi tới bằng tàu điện ngầm. Đó là điều kỳ lạ. Nếu cô đã chuẩn bị và đặt phòng sẵn cho cô ấy, tôi chắc rằng cô đã bố trí dịch vụ đậu và lấy xe cho khách.”

“Bố trí à?”

“Thanh toán ấy.”

“Tất nhiên rồi.”

“Và cô ấy mang theo một khẩu súng đã nạp đạn.”

“Cô ấy sống ở Virginia. Tôi nghe nói ở đó thì mang súng là việc bắt buộc.”

“Ở đó việc ấy là hợp pháp,” tôi nói. “Không phải việc bắt buộc.”

“Tôi không thể giải thích. Tôi xin lỗi.”

“Và con trai cô ấy hiện mất tích. Lần cuối cùng người ta trông thấy nó là khi rời quán bar, cùng một phụ nữ trạc tuổi cô, hình dáng giống cô.”

“Mất tích à?”

“Biến mất.”

“Một phụ nữ có hình dạng như tôi?”

“Một con bé hết sức ngon lành.”

“Thế nghĩa là sao?”

“Một phụ nữ trẻ đẹp.”

“Quán bar nào?”

“Một nơi ở LA.”

“Los Angeles à?”

“Ở California.”

“Tôi chưa bao giờ tới Los Angeles. Đời tôi chưa bao giờ tới. Tôi chỉ mới ở New York.”

Tôi không nói gì.

Lila Hoth nói: “Nhìn quanh ông xem. Tôi đã ở New York này ba ngày bằng thị thực du lịch và thuê ba phòng của một khách sạn thương mại. Tôi không có đội nào như cách ông gọi. Tôi chưa bao giờ tới California.”

Tôi chẳng nói gì.

Cô nói: “Quan điểm thường mang tính chủ quan. Và tôi không phải người phụ nữ duy nhất ở lứa tuổi bây giờ. Thế giới này có sáu tỷ người. Một nửa trong số đó mười lăm tuổi hoặc trẻ hơn. Thế nghĩa là vẫn có tới ba tỷ người từ mười sáu tuổi trở lên. Theo biểu đồ, có lẽ mười hai phần trăm số đó nằm trong độ tuổi từ hai tư tới hai sáu. Như thế là ba trăm sáu mươi triệu người. Chừng một nửa là phụ nữ. Thế là một trăm tám mươi triệu. Ngay cả khi chỉ một phần trăm trong số này có thể được đánh giá là đẹp, trong một quán bar ở California, thì khả năng John Sansom là người bạn của mẹ tôi còn cao gấp mười lần khả năng tôi có gì đó liên quan tới con trai của Susan Mark.”

Tôi gật đầu. Về mặt số học thì Lila Hoth đúng phóc. Cô nói, “Và dù sao cũng có thể đúng là Peter đang ở một nơi xa nào đó cùng một cô gái. Đúng, tôi biết tên anh ta. Thực ra tôi biết hết mọi điều về anh ta. Susan đã kể cho tôi nghe. Qua điện thoại. Chúng tôi đã nói chuyện về tất cả những vấn đề của mình. Cô ấy ghét con trai mình. Cô ấy ghét con người anh ta. Peter là tất cả những gì cô ấy không thích. Anh ta chỉ là một cậu sinh viên nông cạn với những quan điểm chưa trưởng thành. Anh ta không công nhận Susan vì anh ta ngả về cha. Mà ông biết tại sao không? Vì anh ta bị ám ảnh bởi nguồn gốc của mình. Và Susan là con nuôi. Ông thậm chí biết điều đó chứ? Con trai cô ấy nghĩ về cô chỉ với tư cách một đứa con ngoài giá thú. Anh ta căm ghét cô ấy vì điều đó. Tôi biết về Susan nhiều hơn bất kỳ ai khác. Tôi đã nói chuyện với Susan rất nhiều lần. Tôi đã lắng nghe cô ấy. Cô là một phụ nữ cô đơn, bị cô lập. Tôi là bạn của cô ấy. Cô ấy rất hào hứng tới đây gặp tôi.”

Vào lúc này tôi cảm nhận được rằng Theresa Lee cần phải đi, và chắc chắn tôi cần ra khỏi đây trước khi anh chàng Leonid trẻ tuổi lại xuất hiện. Thế nên tôi gật đầu, nhún vai như thể tôi chẳng có gì thêm để nói và không còn vấn đề nào nữa để bàn. Lila Hoth hỏi liệu tôi có thể đưa cho cô chiếc USB mà Susan Mark đã trao cho tôi không. Tôi không đồng ý mà cũng không từ chối. Tôi không hề trả lời. Tất cả bắt tay nhau thêm một lượt, rồi hai chúng tôi đi ra. Cánh cửa khép lại sau lưng và tôi cùng Lee bước theo hành lang tĩnh lặng rồi cửa thang máy mở ra. Chúng tôi bước vào, nhìn nhau qua vách thang máy bọc gương, Lee nói: “Này, ông nghĩ sao?”

“Tôi nghĩ cô ta đẹp,” tôi nói. “Một trong những phụ nữ đẹp nhất tôi từng thấy.”

“Ngoài điều đó.”

“Đôi mắt tuyệt vời.”

“Ngoài đôi mắt của cô ta.”

“Tôi nghĩ là cô ta cô đơn nữa. Cô đơn và bị cô lập. Cô ta nói về Susan, nhưng có thể cô ta cũng nói về chính mình.”

“Còn về câu chuyện của cô ta?”

“Có phải những ai có nhan sắc thì tự khắc khiến ta tin tưởng hơn không?”

“Tôi thì không đâu nhé, ông bạn. Mà thôi, bỏ qua đi. Sau ba mươi năm nữa cô ta sẽ trông hệt như bà mẹ mình. Ông có tin cô ta không?”

“Cô thì sao?”

Lee gật đầu. “Tôi tin cô ta. Bởi xác minh một câu chuyện như thế dễ như chơi. Chỉ một kẻ ngốc mới tạo cho chúng ta nhiều cơ hội như thế để chứng minh rằng hắn sai. Ví dụ như, quân đội thực sự có nhiều sĩ quan báo chí không?”

“Vài trăm.”

“Thế nên tất cả những gì ta phải làm là tìm ra người đã nói chuyện với cô ta rồi hỏi. Thậm chí ta có thể lần ra những cú điện thoại từ London. Tôi có thể liên lạc với Tổng Hành dinh Cảnh sát Anh. Tôi thích làm việc ấy. Ông có thể tưởng tượng được không? Docherty phá đám tôi, tôi liền bảo Lượn đi anh bạn, tôi đang nói chuyện điện thoại với Tổng Hành dinh Cảnh sát Anh. Đó là giấc mơ của mọi thám tử đấy.”

“NSA[33] sẽ có các cuộc gọi ấy,” tôi nói. “Một cú điện thoại từ nước ngoài gọi vào Bộ Quốc phòng sao? Mấy cuộc gọi ấy đã thành một phần phân tích tin tình báo ở đây đó rồi ấy chứ.”

“Và chúng ta có thể tìm được những cú điện thoại Susan Mark gọi ra từ Lầu Năm Góc. Nếu họ đã nói chuyện thường xuyên như Lila đã nói, ta có thể dễ dàng tìm thấy chúng. Những cuộc gọi quốc tế tới Anh, có lẽ họ đã đánh dấu riêng rồi.”

“Vậy thì làm tới thôi. Xác minh đi.”

“Tôi nghĩ mình sẽ làm,” Lee nói. “Và ắt hẳn cô ta biết rằng tôi có thể làm được. Ấn tượng cô ta để lại ở tôi là một phụ nữ thông minh. Cô ta biết rằng hãng British Airways và Bộ An ninh Nội địa có thể nắm được những lần cô ta vào và ra khỏi nước Mỹ. Cô ta biết chúng ta có thể nắm được cô ta từng bay tới LA bao giờ chưa. Cô ta biết chúng ta chỉ cần tiến tới hỏi Jacob Mark xem có phải chị anh ta là con nuôi hay không. Tất cả chuyện đó đều dễ xác minh. Nói dối về những chuyện đó có mà điên. Cộng thêm chuyện cô ta tới đồn cảnh sát khu vực và tự khiến mình dính dáng tới chuyện này. Và cô ta vừa mới cho tôi xem hộ chiếu của mình. Việc đó trái ngược hoàn toàn với hành vi khả nghi. Đó là những điểm lớn có lợi cho cô ta.”

Tôi lấy điện thoại di động ra khỏi túi, lắp pin vào. Tôi bấm nút khởi động, màn hình liền sáng lên. Nó hiển thị một cuộc gọi nhỡ. Chắc là Lila Hoth, từ phòng của cô, cách đây mười phút. Thấy Lee đang nhìn chiếc điện thoại, tôi bảo: “Điện thoại của Leonid đấy. Tôi đã lấy nó từ hắn.”

“Thực tế là hắn đã tìm thấy ông à?”

“Tôi đã tìm thấy hắn. Đó là lý do tôi đã biết sâu đến tận khách sạn này.”

“Giờ hắn ở đâu?”

“Có thể đang cuốc bộ từ bệnh viện St Vincent về.”

“Đây là điều ông thực sự muốn nói cho một thám tử NYPD sao?”

“Hắn ngất. Tôi đã giúp hắn. Chỉ có thế. Cứ nói chuyện với các nhân chứng thì biết.”

“Dù là gì thì việc đó cũng sẽ không hay ho gì với Lila đâu.”

“Cô ta nghĩ rằng ở Virginia sở hữu súng là điều bắt buộc. Có lẽ cô ta nghĩ rằng ở New York cướp bóc là điều bắt buộc. Cô ta đã lớn lên trong những luận điệu tuyên truyền.”

Chúng tôi ra khỏi thang máy ở sảnh và hướng về phía cửa giáp mặt phố. Lee hỏi, “Nhưng nếu như toàn bộ chuyện này không có vấn đề, tại sao có các nhân viên điều tra liên bang nhảy vào?”

“Nếu câu chuyện có thật, một lính Mỹ đã gặp một chính trị viên Hồng quân hồi Chiến tranh lạnh. Các nhân viên điều tra liên bang muốn chắc chắn tuyệt đối rằng điều đó trong sáng. Đó là lý do việc trả lời của HRC bị trì hoãn lại nhiều tuần. Họ đang bận tìm hướng xử lý và tổ chức sắp xếp theo dõi.”

Chúng tôi vào xe của Lee. Cô nói, “Ông không nhất trí với tôi về toàn bộ câu chuyện, đúng không?”

Tôi đáp, “Nếu chuyện gia đình nhà Hoth là trong sáng thì nói làm gì. Nhưng có gì đó không trong sáng. Điều đó thì quá chắc chắn. Và chúng ta nói rằng có điều gì đó khác đã đưa Susan Mark tới một địa điểm chính xác vào một thời điểm chính xác. Quả là một sự trùng hợp lạ lùng quá thể.”

“Rồi sao?”

“Đã bao nhiêu lần cô biết đến người có cơ hội một phần triệu trở thành người chiến thắng chưa?”

“Chưa bao giờ.”

“Tôi cũng chưa. Nhưng tôi nghĩ chuyện ấy đang diễn ra ở đây. Khả năng đấy không phải John Sansom là một triệu trên một, nhưng tôi nghĩ ông ta có liên quan.”

“Tại sao?”

“Tôi đã nói chuyện với ông ta.”

“Ở Washington à?”

“Thực tế là tôi đã phải theo ông ta tới Bắc Carolina.”

“Ông không chịu bỏ cuộc, phải không?”

“Đó là điều ông ta nói. Rồi tôi hỏi Sansom đã bao giờ nghe nhắc cái tên Lila Hoth chưa. Ông ta bảo chưa. Khi ấy tôi quan sát nét mặt ông ta. Tôi tin tay nghị sĩ này, và tôi cũng nghĩ là khi ấy ông ta nói dối. Cả hai việc diễn ra đồng thời. Và có lẽ ông ta thế thật.”

“Như thế nào kia chứ?”

“Có thể ông ta đã nghe thấy cái tên Hoth chứ không có Lila. Vậy thì thực tế là không, ông ta đã không nghe thấy cái tên Lila Hoth. Nhưng có lẽ ông ta đã nghe cái tên Svetlana Hoth. Có lẽ ông ta rất quen với cái tên này.”

“Điều đó nghĩa là sao?”

“Có thể nhiều hơn chúng ta nghĩ. Bởi nếu Lila Hoth đang nói sự thật thì ở đây đang diễn ra một dạng logic kỳ quặc. Tại sao Susan Mark lại dồn quá nhiều tâm sức cho một vụ thế này?”

“Vì cô ấy có sự thông cảm.”

“Tại sao lại đúng là cô ấy?”

“Tôi không biết.”

“Vì cô ấy là con nuôi. Con ngoài giá thú, có thể đôi khi cô ấy tự hỏi về nguồn cội thực của mình. Thông cảm với những người khác cùng hoàn cảnh. Có thể giống Lila Hoth. Một tay nào đó từng rất tốt với mẹ cô ấy trước khi cô ấy ra đời sao? Có rất nhiều cách hiểu một câu như vậy.”

“Chẳng hạn?”

“Trường hợp tốt nhất là ông ta đã cho bà ấy một chiếc áo khoác ấm trong mùa đông.”

“Còn xấu nhất?”

“Có thể John Sansom là cha của Lila Hoth.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


TÔI VÀ LEE QUAY THẲNG VỀ ĐỒN CẢNH SÁT KHU VỰC. Jacob Mark đã xong việc của mình với Docherty. Điều đó thì rõ rồi. Và có gì đó đã thay đổi. Điều đó thì cũng rõ. Họ đang ngồi đối diện nhau qua bàn làm việc của Docherty. Không nói chuyện thêm nữa. Jake trông có vẻ phấn khởi hơn. Khuôn mặt Docherty có nét kiên nhẫn, như thể anh ta vừa lãng phí một giờ đồng hồ. Anh không có vẻ ấm ức về chuyện ấy. Cảnh sát quen với việc lãng phí thời giờ mà. Thống kê ra thì hầu hết những việc họ làm chẳng dẫn tới đâu cả. Lee và tôi bước tới chỗ họ, Jake nói: “Peter đã gọi cho huấn luyện viên của nó.”

Tôi hỏi, “Lúc nào?”

“Cách đây hai giờ. Huấn luyện viên đã gọi cho Molina và Molina gọi cho tôi.”

“Vậy nó đang ở đâu?”

“Nó không nói. Nó phải để lại lời nhắn. Huấn luyện viên của nó không bao giờ nghe máy trong lúc ăn tối. Thời gian dành cho gia đình mà.”

“Nhưng Peter ổn chứ?”

“Nó bảo nó sẽ không trở về sớm. Có lẽ không bao giờ. Nó đang nghĩ tới chuyện bỏ bóng bầu dục. Trong máy điện thoại có tiếng con gái cười khúc khích.”

Docherty nói, “Chắc hẳn là cô nào khá lắm đây.”

Tôi hỏi Jake, “Anh thấy thoải mái với điều đó chứ?”

Jake nói, “Trời đất ạ, không hề. Nhưng đó là đời nó. Và dù sao nó cũng sẽ thay đổi ý định thôi. Câu hỏi duy nhất là nhanh chừng nào.”

“Ý tôi là anh thấy vui vì lời nhắn có thực chứ?”

“Huấn luyện viên biết giọng của nó. Có lẽ là biết rõ hơn tôi.”

“Có ai thử gọi lại cho nó không?”

“Tất cả bọn tôi. Nhưng điện thoại nó lại tắt rồi.”

Theresa Lee nói, “Thế là chúng ta hài lòng chứ?”

“Tôi đoán là thế.”

“Cảm thấy thoải mái hơn không?”

“Nhẹ người.”

“Tôi có thể hỏi anh một câu về chủ đề khác chứ?”

“Hỏi đi.”

“Chị anh là con nuôi phải không?”

Jake ngừng lặng. Chuyển tâm trạng. Gật đầu. “Cả hai chúng tôi đều là con nuôi. Từ bé. Nhận về riêng rẽ, cách nhau ba năm. Susan trước.” Rồi anh hỏi, “Sao cô lại hỏi thế?”

Lee nói, “Tôi đang xác minh một số thông tin mới thu nhận được.”

“Thông tin mới nào?”

“Có vẻ Susan đã lên đây để gặp một người bạn.”

“Người bạn nào?”

“Một phụ nữ Ukraine tên là Lila Hoth.”

Jake liếc nhìn tôi. “Chúng tôi đã rà lại toàn bộ chuyện này. Tôi chưa bao giờ nghe thấy cái tên đó từ miệng Susan.”

Lee hỏi anh, “Anh có mong là nghe thấy không? Chị em anh gần gũi tới mức nào? Mối quan hệ đó có vẻ như tình bạn tương đối mới.”

“Chúng tôi không gần gũi nhau lắm.”

“Lần cuối cùng chị em anh nói chuyện là khi nào?”

“Tôi nghĩ là cách đây vài tháng.”

“Thế là anh không hoàn toàn cập nhật được thông tin mới nhất về các mối quan hệ xã hội của cô ấy.”

Jake nói, “Tôi nghĩ là không.”

Lee hỏi, “Bao nhiêu người biết rằng Susan là con nuôi?”

“Tôi nghĩ chị ấy không đi khoe khoang về chuyện ấy đâu. Nhưng cũng không phải là bí mật.”

“Một người bạn mới sẽ biết được sớm chừng nào?”

“Có lẽ là khá sớm. Bạn bè nói về những chuyện như thế.”

“Anh mô tả thế nào về quan hệ của Susan với con trai cô ấy?”

“Câu hỏi này là kiểu gì thế?”

“Một câu hỏi quan trọng.”

Jake lưỡng lự. Anh im bặt và quay người đi chỗ khác, như thể đang lảng tránh vấn đề này thật. Như thể anh đang né một cú đòn. Có lẽ vì anh lưỡng lự không muốn phơi bày chuyện không hay trước thiên hạ, trong tình huống này, ngôn ngữ cơ thể của Jake thực sự là toàn bộ nội dung câu trả lời chúng tôi cần. Nhưng Theresa Lee muốn nó biểu hiện bằng lời cụ thể. Cô nói, “Hãy nói với tôi, Jake. Giữa cảnh sát với nhau. Đây là vấn đề tôi cần biết.”

Jake im lặng một lát. Rồi anh nhún vai nói: “Tôi nghĩ cô có thể gọi đó là mối quan hệ yêu-ghét.”

“Chính xác là theo kiểu nào?”

“Susan yêu Peter, Peter ghét chị ấy.”

“Tại sao?”

Tiếp tục lưỡng lự. Thêm một cái nhún vai. “Chuyện phức tạp lắm.”

“Phức tạp thế nào?”

“Peter trải qua một thời kỳ giống như hầu hết đám trẻ. Kiểu như bọn con gái muốn làm những nàng công chúa bị lãng quên từ xửa từ xưa, hoặc lũ con trai muốn ông mình từng là đô đốc, tướng lĩnh hay mấy nhà thám hiểm nổi tiếng. Một lúc nào đó trong đời mọi người muốn mình là gì đó không phải họ. Cơ bản thì Peter muốn sống trong một quảng cáo của Ralph Lauren. Nó muốn mình là Peter Molina Đệ tứ hoặc ít nhất cũng Đệ tam. Nó muốn bố mình có một dinh cơ ở Kennebunkport, mẹ nó có những gì còn lại của một gia sản thời xưa. Susan không xử lý tốt vấn đề đó. Chị tôi là con của một gái điếm thiếu niên nghiện ngập quê Baltimore, và chị ấy chẳng giấu gì chuyện ấy. Chị nghĩ rằng thành thật là phương thức tốt nhất. Peter đã chấp nhận điều này thật tồi. Cả hai không bao giờ vượt qua được chuyện đó, và rồi xảy ra vụ ly hôn, Peter lựa chọn phía có vị thế cao hơn, và họ không bao giờ vượt qua nổi chuyện ấy.”

“Anh cảm thấy thế nào về chuyện đó?”

“Tôi có thể hiểu cả hai quan điểm. Tôi không bao giờ tìm hiểu về người mẹ thực sự của mình. Tôi không muốn biết. Nhưng tôi từng trải qua một giai đoạn chỉ ước gì bà ấy là một mệnh phụ trên người đeo toàn kim cương. Tôi đã vượt qua. Nhưng Peter thì không. Thật ngu ngốc, tôi biết là thế, nhưng cũng dễ hiểu thôi.”

“Susan có quý Peter với tư cách một người bình thường, khác với yêu nó với tư cách một đứa con trai không?”

Jake lắc đầu. “Không. Điều đó làm mọi chuyện thậm chí tồi tệ thêm. Susan không có sự thông cảm đối với giới vận động viên và những kẻ mặc áo có số cũng như tất cả những vấn đề liên quan. Tôi đoán là hồi học phổ thông và đại học chị đã có kỷ niệm không vui với những người kiểu ấy. Chị ấy không thích con trai mình trở thành một trong những người như thế. Nhưng điều ấy lại có ý nghĩa quan trọng với Peter, ban đầu chỉ là vì nó thích thôi, nhưng rồi sau này nó trở thành vũ khí chống lại mẹ. Đó là một gia đình rệu rã, đây là điều chẳng phải bàn cãi.”

“Những ai biết chuyện này?”

“Ý cô là một người bạn liệu có biết hay không hả?”

Lee gật đầu.

Jake nói, “Có thể bạn thân thì sẽ biết.”

“Một người bạn thân mà cô ấy mới gặp chưa được lâu lắm sao?”

“Chẳng có thời hạn nào cả. Vấn đề là lòng tin, phải không?”

Tôi nói: “Anh đã bảo tôi rằng Susan không phải người bất hạnh.”

Jake nói, “Đúng thế. Tôi biết rằng nói thế nghe có vẻ kỳ quặc. Nhưng những người là con nuôi có quan điểm khác về gia đình. Họ có những kỳ vọng khác nhau. Tin tôi đi, tôi biết mà. Susan bình thản về chuyện đó. Đó là một thực tế trong cuộc sống, chỉ thế thôi.”

“Cô ấy cô đơn không?”

“Tôi chắc chắn là có.”

“Cô ấy có cảm thấy bị cô lập không?”

“Tôi chắc chắn là có.”

“Cô ấy có thích buôn chuyện qua điện thoại không?”

“Hầu hết phụ nữ như vậy cả.”

Lee hỏi Jake, “Anh có con không?”

Một lần nữa Jake lắc đầu.

“Không,” anh nói. “Tôi không có con cái. Tôi thậm chí không lập gia đình. Tôi cố gắng rút được bài học được từ kinh nghiệm của chị mình.”

Lee im lặng một chút rồi lên tiếng, “Cảm ơn Jake. Tôi thấy vui vì Peter ổn. Và tôi xin lỗi bởi tôi phải xới lại tất cả những điều không vui.” Rồi cô bước đi. Tôi đi theo, cô bảo, “Tôi cũng sẽ xác minh lại những chuyện khác, song sẽ mất thời gian, bởi các kênh đó luôn chậm, nhưng ngay lúc này phán đoán của tôi là thực tế sẽ cho thấy Lila Hoth là người tốt. Cho tới nay cô ấy nói chính xác về cả hai vấn đề, chuyện con nuôi và mối quan hệ giữa mẹ và con trai. Cô ấy biết những điều mà chỉ một người bạn đúng nghĩa mới biết.”

Tôi gật đầu đồng ý. “Cô quan tâm tới vấn đề còn lại không? Bất cứ điều gì khiến Susan sợ hãi đến vậy?”

“Chẳng quan tâm nếu tôi không thấy bằng chứng thực sự về một tội ác diễn ra ở thành phố New York, ở một nơi giữa đại lộ Chín và đại lộ Park, và giữa phố 30 và phố 45.”

“Đó chính là khu vực này hả?”

Lee gật đầu. “Bất kỳ chuyện gì khác đều sẽ là công việc tình nguyện.”

“Cô quan tâm tới Sansom không?”

“Không một chút nào. Ông quan tâm à?”

“Tôi cảm thấy như mình nên cảnh báo cho ông ta, có lẽ vậy.”

“Về vấn đề gì? Về xác suất một phần triệu à?”

“Thực ra xác suất cao hơn một phần triệu nhiều. Ở Mỹ có năm triệu đàn ông tên John. Xét về tính phổ biến thì chỉ sau cái tên James. Như thế là cứ ba mươi người thì có một. Vậy hồi năm 1983 có thể có ba mươi ba ngàn chàng John trong quân đội Mỹ. Có lẽ trừ đi mười phần trăm cho thống kê quân số, khả năng là khoảng một phần ba mươi ngàn.”

“Như thế xác suất vẫn là quá thấp.”

“Tôi nghĩ Sansom nên biết, thế thôi.”

“Tại sao?”

“Hãy gọi đó là tình anh em giữa các chiến hữu đi. Có thể tôi sẽ quay lại Washington.”

“Không cần đâu. Ông khỏi tốn một chuyến rồi. Ông ta đang tới đây. Trưa mai, để dự bữa trưa gây quỹ ở khách sạn Sheraton. Cùng với tất cả những tay quyền lực nhất của phố Wall, đại lộ Bảy và phố 52. Chúng tôi đã được nhắc nhở rồi.”

“Tại sao? Khi ở Greensboro ông ta không được bảo vệ chặt.”

“Ở đây ông ta cũng không được bảo vệ chặt. Thực tế là ông ta sẽ chẳng được bảo vệ gì. Nhưng chúng tôi được lưu ý về mọi chuyện. Đó là cơ chế bây giờ. Đó là NYPD mới.” Rồi Lee bỏ đi, để tôi lại một mình giữa phòng họp trống không. Và để lại tôi với cảm giác hơi lo lắng. Có thể Lila Hoth trong sáng như pha lê, nhưng tôi không thể nào bỏ được cảm giác rằng Sansom đang bước vào một cái bẫy, chỉ bằng việc đến thành phố này.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33


THỜI TA CÓ THỂ NGỦ NGON Ở NEW YORK với năm đô một đêm đã qua lâu lắm rồi, nhưng bây giờ vẫn có thể làm điều đó với năm đô nếu như ta biết cách, vấn đề mấu chốt là bắt đầu ngủ muộn. Tôi đi bộ tới khách sạn trước đây từng sử dụng, gần Madison Square Garden. Đó là một nơi to lớn, một thời tráng lệ, song bây giờ chỉ là một tòa nhà cũ đã bạc phếch, mãi mãi gần với mức cần duy tu hoặc phá hủy nhưng không bao giờ thực sự được như vậy. Sau nửa đêm, lượng nhân viên trực chỉ còn lại một nhân viên vác đồ duy nhất chịu trách nhiệm làm mọi việc kể cả trực lễ tân. Tôi bước tới chỗ anh ta hỏi xem có phòng nào trống hay không. Tay nhân viên trình diễn màn gõ bàn phím và nhìn màn hình máy tính rồi nói có, có một phòng. Anh ta ra giá một trăm tám mươi lăm đô, cộng thêm thuế. Tôi hỏi liệu mình có thể xem phòng trước khi đăng ký ở không. Đó là kiểu khách sạn mà lời đề nghị như vậy có vẻ hợp lý. Và khôn ngoan. Thậm chí là bắt buộc kia. Anh chàng ra khỏi bàn lễ tân, đưa tôi theo thang máy lên tầng và đi dọc theo một hành lang. Anh ta mở một cánh cửa bằng một chiếc thẻ buộc vào thắt lưng bằng một sợi dây nhựa quăn queo rồi lùi lại để tôi bước vào.

Căn phòng này ổn. Nó có một cái giường và một phòng tắm. Là mọi thứ tôi cần, không có gì tôi không cần. Tôi lấy trong túi ra hai tờ hai mươi đô và bảo, “Coi như chúng ta không lo ngại về toàn bộ quy trình đăng ký dưới kia nhé?”

Tay này chẳng nói gì. Ở mức ấy họ không bao giờ nói. Tôi lấy thêm tờ mười đô và bảo, “Cho nhân viên buồng ngày mai.”

Anh chàng né người một chút như thể đang bị tôi ngắm làm mục tiêu, nhưng rồi tay anh ta chìa ra, anh chàng cầm lấy tiền. Anh ta nói, “Hãy rời khỏi đây lúc 8 giờ,” rồi bước đi. Cánh cửa khép lại sau lưng anh chàng. Có thể một máy tính trung tâm sẽ cho thấy rằng chiếc thẻ mở cửa của anh ta đã mở khóa của căn phòng cũng như thời điểm thực hiện việc ấy, song anh ta sẽ nói rằng anh ta đã cho tôi xem phòng, và tôi không thấy thích phòng ấy nên rời khỏi đó ngay. Có lẽ đó là việc anh ta làm khá đều đặn. Có khi tôi là tay thứ tư anh ta cho ở lén trong tuần này. Có khi là người thứ năm hay thứ sáu ấy chứ. Đủ thứ trò xảy ra ở các khách sạn trong thành phố, sau khi các nhân viên làm ban ngày đã nghỉ.

Tôi ngủ ngon, tỉnh dậy với cảm giác sảng khoái và ra khỏi khách sạn lúc 8 giờ kém 5. Tôi chật vật chen qua đám đông ra vào ga Penn rồi ăn sáng ở một ô nằm phía cuối một cửa hiệu ở phố 33. Cà phê, trứng, thịt muối, bánh kếp, rồi thêm cà phê, tất cả mất sáu đô, cộng thêm thuế, tiền boa. Đắt hơn ở Bắc Carolina nhưng chỉ hơn chút ít. Pin điện thoại di động của Leonid vẫn còn chừng một nửa. Một cột hiển thị cho thấy một số vạch mờ và một số vạch sáng lên. Tôi cho là mình có đủ pin cho vài cuộc gọi. Tôi bấm 600 và rồi chuẩn bị bấm 82219 nhưng chỉ mới thực hiện được một nửa thao tác thì loa trong máy đã vang lên một tín hiệu ba tiếng một lượt đổ khá dồn, với thanh điệu nằm giữa tiếng còi hụ và tiếng mộc cầm. Một giọng nói cất lên cho tôi biết rằng nếu bấm số như vậy thì cuộc gọi của tôi không thể thực hiện được. Nó yêu cầu tôi kiểm tra và thử lại. Tôi thử 1-600 và nhận được kết quả đúng như cũ. Tôi bấm 011 để gọi quốc tế rồi bấm 1 chọn khu vực Bắc Mỹ, rồi tới 600. Quy trình dài, song kết quả cũng chẳng khá hơn. Tôi thử 001 để gọi quốc tế, đề phòng cái điện thoại vẫn nghĩ rằng nó vẫn đang ở London. Chẳng có kết quả nào. Tôi thử 8**101 - mã gọi quốc tế từ Đông Âu sang Mỹ, phòng trường hợp cái điện thoại đã được lôi tận từ Moscow sang cách đây một năm. Cũng không có kết quả. Tôi nhìn bàn phím điện thoại và nghĩ đến việc bấm số 3 thay cho ký tự D, nhưng trước khi tôi làm điều đó, hệ thống đã phát tín hiệu báo cho tôi.

Vậy là 600-82219-D không phải là số điện thoại, dù là của Canada hay nước khác. Là điều chắc chắn FBI đã biết. Có lẽ họ đã tính toán khả năng này trong một phút, sau đó loại bỏ nó. FBI thì nhiều tật, nhưng dốt nát không phải một trong số đó. Thế là, lúc ở phố 35, họ đã giấu những câu hỏi thật sự dành cho tôi sau một màn khói.

Họ đã hỏi tôi những gì khác ấy nhỉ?

Họ đã đánh giá mức độ quan tâm của tôi, họ đã hỏi một lần nữa xem Susan đã trao gì cho tôi hay không, rồi họ khẳng định rằng tôi sẽ rời thành phố. Họ muốn tôi không còn tò mò, trong tay không có manh mối nào, rồi đi khuất mắt.

Tại sao?

Tôi không biết.

Và 600-82219-D chính xác là gì, nếu đó không phải một số điện thoại?

Tôi ngồi thêm mười phút với tách cà phê cuối cùng, từ từ nhấm nháp, hai mắt mở nhưng không thấy gì nhiều, cố gắng khéo léo lôi câu trả lời lên. Như Susan Mark đã dự định khôn khéo lách ra khỏi tàu điện ngầm. Đầu tôi vẽ ra những con số, tách ra, đặt riêng rẽ, ghép lại, thử nhiều cách tổ hợp khác nhau, thêm vào những dấu cách, những dấu gạch nối, các nhóm.

Cụm 600 gọi lên một chút gì đó hơi lờ mờ.

Susan Mark.

600.

Nhưng tôi không thể nhớ ra.

Tôi uống nốt chỗ cà phê và đút điện thoại di động của Leonid vào túi rồi đi theo hướng Bắc về phía khách sạn Sheraton.

Khách sạn là một cột trụ khổng lồ xây bằng kính có màn hình plasma ở sảnh liệt kê toàn bộ các sự kiện diễn ra trong ngày. Phòng khiêu vũ chính đã được đặt riêng cho bữa trưa của một nhóm tự gọi là FT, Fair Tax (Thuế Công bằng), hoặc Free Trade (Thương mại Tự do), hoặc thậm chí có thể chính là Financial Time[34]. Vỏ bọc đầy thuyết phục cho một nhóm cá bự ở phố Wall đang tìm cách mua thêm ảnh hưởng. Dự kiến chương trình của họ bắt đầu lúc trưa. Tôi nghĩ là Sansom sẽ cố gắng có mặt lúc 11 giờ. Trước khi diễn ra sự kiện, ông ta cần chút thời gian, không gian riêng và sự tĩnh tâm để chuẩn bị. Đây là một cuộc họp lớn đối với Sansom. Đây là đối tượng của ông ta, họ lại có hầu bao lớn. Ít nhất Sansom cần tới sáu mươi phút. Như vậy là tôi có hai tiếng đồng hồ giết thời gian. Tôi cuốc bộ sang Broadway và tìm thấy một cửa hiệu quần áo cách đó hai khối nhà về phía Bắc. Tôi muốn mua một chiếc sơ mi mới nữa. Tôi không thích chiếc mình từng mặc. Đó là biểu tượng của sự thất bại. Đừng đến mà ăn mặc như thế, nếu không ông sẽ chẳng vào được đâu. Nếu chuẩn bị gặp lại Elspeth Sansom, tôi không muốn mình đeo chiếc phù hiệu ghi dấu thất bại của tôi và thành công của bà ta.

Tôi chọn một chiếc bình thường làm bằng vải ka ki poplin và trả mười một đô. Rẻ, và nên rẻ như vậy. Nó không có túi, tay áo dài tới nửa cánh tay. Gập gấu tay áo lại, nó chạm vào hai khuỷu tay tôi. Nhưng tôi cũng khá thích chiếc áo này. Đó là một sản phẩm may ưng ý. Và ít ra nó cũng được mua một cách tự nguyện.

Đến 10 giờ 30 tôi trở lại sảnh khách sạn Sheraton. Tôi ngồi vào một cái ghế xung quanh đầy người. Họ mang cặp. Một nửa đang hướng ra phía ngoài, chờ xe tới. Một nửa hướng vào phía trong, chờ nhận phòng.

Đến 10 giờ 40, tôi đoán được 600-82219-D nghĩa là gì.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34


TÔI ĐỨNG LÊN KHỎI GHẾ và theo các biển chỉ dẫn bằng đồng tới trung tâm tiện ích văn phòng của khách sạn Sheraton. Tôi không thể vào được, cần có chìa khóa cửa. Tôi đứng loanh quanh ở cửa ba phút thì một tay khác xuất hiện. Anh ta mặc com lê và trông mất hết kiên nhẫn. Tôi ra vẻ loay hoay lục hết các túi quần, sau đó bước sang một bên và ngỏ lời xin lỗi. Tay kia bước thẳng lên trước mặt tôi, tra chìa khóa của mình vào và mở cửa, tôi bước theo sau anh ta.

Trong phòng có bốn ô làm việc giống hệt nhau. Mỗi ô đều có một bàn, một ghế, một máy tính và một máy in. Tôi ngồi cách khá xa ông bạn kia và chấm dứt chế độ chờ của máy tính bằng cách gõ vào phím cách. Đến giờ thì vẫn ổn. Tôi nhìn các biểu tượng trên màn hình và chẳng hiểu ý nghĩa của chúng là mấy. Nhưng tôi phát hiện ra rằng khi di con trỏ lên phía trên chúng, như thể ta đang lưỡng lự hay suy tính, một bảng sẽ hiện lên bên cạnh đó. Bằng cách ấy tôi tìm được chương trình vào Internet và bấm đúp chuột. Ổ cứng trả lời nhanh chóng và trình duyệt mở ra. Nhanh hơn nhiều so với lần gần đây nhất tôi dùng máy tính. Có lẽ công nghệ đang thực sự phát triển. Ngay trên trang chủ là một đường dẫn tắt tới Google. Tôi bấm vào đó, trang tìm kiếm của Google hiện ra. Một lần nữa, rất nhanh. Tôi gõ Điều lệnh quân đội vào hộp thoại và bấm phím nhập dữ liệu. Màn hình ẩn đi một lát rồi cho tôi cả một trang đầy những tùy chọn.

Trong năm phút tiếp theo, tôi bấm chuột, kéo trang và đọc.

Tôi trở lại sảnh lúc 11 giờ kém 10. Ghế của tôi đã có người ngồi. Tôi đi ra vỉa hè, đứng trong nắng. Tôi nghĩ là Sansom sẽ đến bằng chiếc Town Car và đi vào bằng cửa trước. Ông ta không phải ngôi sao nhạc rock. Ông ta cũng chẳng phải Tổng thống. Ông ta sẽ không vào qua bếp hay nơi bốc dỡ hàng. Mục đích của ông ta là được người khác nhìn thấy. Nhu cầu vào các nơi một cách bí mật là giải thưởng ông ta chưa giành được.

Ngày nóng. Nhưng đường phố sạch sẽ. Không bốc mùi. Ở góc phố phía Nam tôi có hai cảnh sát, ở góc phố phía Bắc có một cặp khác. Triển khai lực lượng đúng quy chuẩn NYPD, ở mạn giữa thành phố. Tích cực và có tác dụng trấn an. Nhưng không hẳn hữu ích, nếu như tính đến tính đa dạng của các mối đe dọa tiềm tàng. Bên cạnh tôi, các khách rời khách sạn đang chui vào xe taxi. Nhịp sống của thành phố diễn ra không ngừng nghỉ. Dòng xe cộ trên đại lộ Bảy trôi đi, dừng lại ở cột đèn giao thông, rồi lại trôi tiếp. Dòng xe cộ trên đường cắt ngang trôi đi, dừng, và lại tiếp tục. Khách bộ hành dồn lại ở các góc phố rồi ào về phía vỉa hè đối diện. Còi kêu, xe tải gầm, ánh mặt trời đập vào các tấm kính trên cao rồi bắn mạnh xuống dưới.

Sansom đến bằng một chiếc Town Car lúc 11 giờ 05. Biển địa phương, nghĩa là ông ta đã đi phần lớn chặng đường bằng tàu hỏa. Kém tiện lợi hơn cho ông ta nhưng cũng thải ít carbon hơn so với chạy xe hoặc bay chừng ấy quãng đường. Trong một cuộc vận động tranh cử, mọi chi tiết đều có ý nghĩa. Chính trị là một bãi mìn. Springfield leo ra khỏi ghế bên cạnh tài xế thậm chí trước khi xe dừng hẳn, rồi Sansom cùng vợ leo ra từ băng ghế sau. Họ đứng trên vỉa hè một giây, sẵn sàng tỏ vẻ lịch sự khi có người chào đón, sẵn sàng không tỏ ra thất vọng nếu không có. Họ lướt qua các gương mặt rồi trông thấy tôi, Sansom trông hơi bối rối còn cô vợ trông hơi lo lắng, Springfield tiến về phía tôi, song bằng một cử chỉ nhỏ Elspeth ngăn anh ta lại. Tôi đoán là đối với trường hợp của tôi bà ta tự giao cho mình chức danh sĩ quan hạn chế tổn thất. Elspeth bắt tay tôi như thể tôi là một người bạn cũ. Bà ta không bình phẩm gì về chiếc sơ mi của tôi. Thay vào đó bà ta ghé người sát lại hỏi, “Ông cần nói chuyện với chúng tôi sao?”

Đó là một ngón điều tra hoàn hảo của một vợ chính trị gia. Bà ta dồn vào từ cần tất cả mọi hàm ý. Cách nhấn mạnh của bà ta phân loại tôi vừa trở thành một đối thủ vừa là một kẻ hợp tác. Bà ta đang nói rằng, Chúng tôi biết rằng ông có những thông tin có thể gây hại cho chúng tôi, và chúng tôi căm ghét ông vì điều đó, song chúng tôi thực sự cảm kích nếu ông đủ tốt để bàn với chúng tôi trước tiên, trước khi công bố chúng.

Thực tế là cả một bài luận, chứa đựng chỉ trong một âm tiết ngắn. Tôi nói, “Vâng, chúng ta cần nói chuyện.” Springfield cau có song Elspeth mỉm cười với tôi như thể tôi vừa hứa dành cho bà ta cả trăm ngàn phiếu bầu, rồi nắm lấy cánh tay tôi đưa tôi vào trong. Nhân viên khách sạn chẳng biết hay chẳng quan tâm Sansom là ai trừ việc ông ta là diễn giả của một nhóm đang thanh toán một khoản lớn tiền thuê phòng khiêu vũ, thế nên họ huy động toàn bộ sự nhiệt tình giả tạo và đưa chúng tôi tới một phòng đợi riêng rồi xăng xái chạy quanh với những chai nước có ga âm ấm, các bình chứa cà phê loại loãng. Elspeth đóng vai trò chủ nhà. Springfield không nói gì. Sansom nghe một cú điện thoại do người đứng đầu văn phòng ở Washington gọi vào máy di động. Họ nói chuyện trong bốn phút về chính sách kinh tế, rồi thêm hai phút về chương trình làm việc buổi chiều. Từ đó có thể thấy rõ rằng Sansom sẽ trở lại thẳng văn phòng sau bữa trưa, chuẩn bị cho một buổi chiều đầy công việc. Sự kiện diễn ra ở New York là một buổi chạy sô nhanh gọn, không hơn. Kiểu như một chạy xe qua rồi cướp.

Đám người của khách sạn đã xong việc, Sansom bấm phím kết thúc cuộc gọi và căn phòng trở nên yên lặng. Khí nén rì rì qua các van vào trong phòng giữ cho nhiệt độ thấp hơn mức tôi thích. Trong một khoảng thời gian ngắn chúng tôi im lặng nhấp nước và cà phê. Rồi Elspeth Sansom mở đầu cho màn mặc cả. Bà ta nói, “Có thông tin gì về cậu bé mất tích không?”

Tôi nói: “Có một chút. Nó đã bỏ buổi tập bóng, điều rõ ràng là hiếm khi xảy ra.”

“Ở USC à?” Sansom hỏi. Ông ta có trí nhớ tốt. Tôi đã nhắc tới USC chỉ một lần mà chỉ thoáng qua. “Đúng, chuyện đó thì hiếm.”

“Nhưng rồi nó đã gọi cho huấn luyện viên và để lại lời nhắn.”

“Khi nào?”

“Đêm qua. Vào giờ ăn tối bên bờ Đông.”

“Và sao?”

“Rõ ràng là nó đang ở cùng một phụ nữ.”

Elspeth nói, “Thế thì ổn rồi.”

“Tôi thì tôi mong đó là cuộc nói chuyện diễn ra trực tiếp. Hoặc một cuộc gặp trực diện.”

“Một lời nhắn không đủ tốt cho ông sao?”

“Tôi là người đa nghi.”

“Vậy ông muốn nói chuyện về vấn đề gì?”

Tôi xoay qua Sansom hỏi, “Năm 1983 ông ở đâu?”

Ông ta ngừng lại, chỉ một chút, rồi điều gì đó lướt qua đôi mắt. Không phải sốc, tôi nghĩ. Không phải ngạc nhiên. Có lẽ là cam chịu. Ông ta nói, “Năm 1983 tôi mang hàm đại úy.”

“Đó không phải điều tôi hỏi ông. Tôi hỏi là ông ở đâu.”

“Tôi không thể nói cho anh.”

“Ông có ở Berlin không?”

“Tôi không thể nói cho anh.”

“Ông bảo tôi rằng ông không có chút tì vết nào mà. Ông vẫn giữ nguyên ý kiến đó chứ?”

“Hoàn toàn thế.”

“Có điều gì về ông mà vợ ông không biết không?”

“Rất nhiều điều. Nhưng không gì mang tính riêng tư.”

“Ông chắc không?”

“Chắc.”

“Ông đã bao giờ nghe cái tên Lila Hoth chưa?”

“Tôi đã bảo anh là tôi chưa từng mà.”

“Ông đã bao giờ nghe cái tên Svetlana Hoth chưa?”

“Chưa bao giờ,” Sansom nói. Tôi đang quan sát nét mặt ông ta. Rất bình thản. Ông ta trông hơi khó chịu, nhưng ngoài cái đó ra thì ông ta không thể hiện gì.

Tôi hỏi ông ta, “Trước tuần này ông đã biết về Susan Mark chứ?”

“Tôi đã bảo anh rằng tôi không biết mà.”

“Năm 1983 ông được tặng một huy chương phải không?”

Sansom không trả lời. Căn phòng một lần nữa yên lặng. Rồi điện thoại di động của Leonid trong túi tôi đổ chuông. Tôi cảm thấy rung rồi một âm thanh điện tử lớn vang lên. Tôi lật đật lôi điện thoại ra nhìn vào màn hình nhỏ phía trước. Một số có đầu 212. Đúng số đã có trong mục quản lý cuộc gọi. Khách sạn Four Seasons. Chắc là Lila Hoth. Tôi tự hỏi liệu Leonid vẫn mất tích hay anh ta đã trở về kể chuyện cho cô nghe và bây giờ Lila đang gọi cho chính tôi.

Tôi giữ đại các phím cho tới khi chuông ngừng rồi cho điện thoại vào lại túi. Tôi nhìn Sansom nói, “Tôi xin lỗi.”

Ông ta nhún vai, như thể những lời xin lỗi là không cần thiết.

Tôi hỏi, “Năm 1983 ông được tặng một huy chương phải không?”

Ông ta nói, “Tại sao điều đó lại quan trọng?”

“Ông biết 600-8-22 là gì không?”

“Có lẽ là một điều lệnh của quân đội. Tôi không biết nội dung chính xác của chúng.”

Tôi nói, “Cho tới giờ chúng ta cho rằng chỉ một kẻ đần độn mới trông chờ một nhân viên HRC có được thông tin có ý nghĩa về các chiến dịch của lực lượng Delta. Và tôi nghĩ ta đúng phần lớn. Nhưng cũng có một chút sai. Tôi nghĩ một người thực sự khôn ngoan cũng có thể trông đợi điều đó một cách có cơ sở, nếu tư duy khác bình thường một chút.”

“Bằng cách nào?”

“Hãy giả sử một kẻ nào đó biết chắc chắn rằng một chiến dịch của Delta đã diễn ra. Coi như họ biết chắc rằng nó đã thành công.”

“Thế thì họ sẽ không cần thông tin, bởi họ đã có nó rồi.”

“Giả sử họ muốn khẳng định danh tính của sĩ quan chỉ huy chiến dịch đó thì sao?”

“Họ sẽ không có được điều đó từ HRC. Chỉ vì không thể. Các mệnh lệnh và tài liệu về triển khai quân cũng như báo cáo sau khi kết thúc chiến dịch đều được xác định độ mật và giữ ở Fort Bragg một cách cẩn mật.”

“Nhưng chuyện gì xảy ra với các sĩ quan chỉ đạo các chiến dịch thành công?”

“Anh nói cho tôi nghe đi.”

“Họ được tặng huy chương,” tôi nói. “Chiến dịch càng lớn thì huy chương càng cao. Điều lệnh 600-8-22, mục 1, đoạn 9, tiểu mục D, yêu cầu Cục Nhân lực duy trì việc ghi lại chính xác mỗi một trường hợp đề nghị khen thưởng, và các quyết định xuất phát từ những khen thưởng đó.”

“Có thể,” Sansom nói. “Nhưng nếu đó là một phi vụ của Delta, tất cả các chi tiết sẽ bị xóa bỏ. Bản tuyên dương sẽ được chỉnh sửa, địa điểm sẽ được thay đổi, hành động được khen thưởng sẽ không được mô tả.”

Tôi gật đầu. “Tất cả hồ sơ ghi lại sẽ là một cái tên, một ngày, một phần thưởng. Không có gì khác.”

“Chính xác thế.”

“Đó là tất cả những gì một người khôn ngoan suy nghĩ theo kiểu khác thường đôi chút thực sự cần, đúng không? Một phần thưởng chứng tỏ một điệp vụ đã thành công, thiếu bản tuyên dương chứng tỏ đó là một phi vụ bí mật. Lấy ngẫu nhiên một tháng, coi như đầu năm 1983 đi. Có bao nhiêu huy chương đã được ban tặng?”

“Vài ngàn. Tính riêng Huy chương Thành tích tốt đã có tới vài trăm rồi.”

“Bao nhiêu chiếc hạng Sao Bạc?”

“Không nhiều lắm.”

“Nếu như có,” tôi nói. “Đầu năm 1983 không diễn ra nhiều sự kiện. Có bao nhiêu DSM[35] đã được trao tặng? Bao nhiêu DSC[36]? Tôi dám cá là hồi đầu năm 1983 loại này hiếm hơn vàng.”

Elspeth Sansom cựa người trên ghế, nhìn tôi mà nói, “Tôi không hiểu.”

Tôi xoay người về phía bà ta nhưng Sansom nhấc một bàn tay lên và ngắt lời tôi. Ông ta trả lời thay tôi. Giữa họ không có bí mật nào cả. Không có sự cảnh giác. Ông ta nói, “Đó là một dạng cửa sau. Thông tin trực tiếp hoàn toàn không có, song thông tin gián tiếp thì có đầy ngoài kia. Nếu ai đó biết rằng một phi vụ của Delta đã diễn ra và thành công, biết thời điểm diễn ra, thì người nào nhận huy chương cao nhất trong tháng đó mà không có lời giải thích có lẽ đã chỉ huy phi vụ ấy. Tìm kiểu ấy sẽ không hiệu quả trong thời chiến, bởi các huy chương cao quý quá phổ biến. Nhưng trong thời bình, khi chẳng có chuyện gì khác diễn ra, một phần thưởng lớn sẽ lòi ra ngay thôi.”

“Chúng ta đánh chiếm Grenada năm 1983,” Elspeth nói. “Delta có ở đó.”

“Tháng Mười,” Sansom nói. “Việc đó gây thêm chút nhiễu cho giai đoạn cuối năm. Nhưng chín tháng đầu năm thì cực kỳ yên ổn.”

Elspeth Sansom nhìn đi chỗ khác. Bà ta không biết chồng mình làm gì trong chín tháng đầu năm 1983. Có lẽ bà ta sẽ không bao giờ biết. Elspeth nói, “Vậy ai đang là người tìm hiểu?”

Tôi nói, “Một cựu chiến binh già tên Svetlana Hoth, tự xưng từng là chính trị viên Hồng quân. Không có những chi tiết thực, nhưng bà ta nói rằng bà ta biết một lính Mỹ tên John ở Berlin năm 1983. Bà này nói rằng người lính đó rất tốt với bà ta. Và việc tìm hiểu chuyện ấy thông qua Susan Mark chỉ có lý nếu như có sự liên quan tới một phi vụ, tay John đó đã chỉ huy và được tặng huy chương vì phi vụ ấy. FBI đã tìm thấy một mẩu giấy trong xe của Susan. Kẻ nào đó đã cung cấp cho cô ấy điều lệnh, mục, đoạn ấy để biết chính xác nơi cần tìm.”

Elspeth liếc Sansom, vẻ miễn cưỡng, trên mặt hiện lên câu hỏi mà bà ta biết sẽ không bao giờ nhận được câu trả lời: Anh đã nhận được một huy chương cho một việc anh đã thực hiện ở Berlin năm 1983 phải không? Sansom không trả lời. Thế nên tôi thử. Tôi hỏi thẳng ông ta, “Ông đã tham gia một điệp vụ ở Berlin năm 1983 phải không?”

Sansom nói: “Anh biết là tôi không thể nói cho anh điều ấy.” Rồi có vẻ ông ta mất kiên nhẫn với tôi, ông ta nói: “Anh có vẻ giống một kẻ khôn ngoan. Hãy nghĩ về điều ấy. Vì Chúa, loại chiến dịch nào Delta có thể thực hiện ở Berlin năm 1983 chứ?”

Tôi nói, “Tôi không biết. Như tôi nhớ thì hồi ấy đám các ông rất cố gắng ngăn chặn những người như tôi tìm hiểu việc các ông làm. Và dù sao thì tôi cũng không thực sự quan tâm. Đây tôi chỉ cố giúp ông một việc. Chỉ thế thôi. Giữa anh em sĩ quan với nhau. Vì tôi cho rằng chuyện gì đó sẽ bị xới lại mà gây hại cho ông, tôi nghĩ có thể ông sẽ đánh giá cao một lời cảnh báo.”

Sansom bình tĩnh lại rất nhanh. Ông ta hít thở vài lần rồi nói, “Tôi thực sự cảm kích về lời cảnh báo. Và tôi chắc rằng anh hiểu tôi không thực sự được phép phủ nhận bất kỳ điều gì. Bởi, xét về mặt logic, phủ nhận một điều đồng nghĩa với khẳng định một điều khác. Nếu tôi phủ nhận Berlin và tất cả những nơi khác mà tôi không có mặt, thì cuối cùng bằng phương pháp loại trừ anh sẽ tìm ra nơi tôi đã ở. Nhưng tôi sẽ mạo hiểm một chút, bởi tôi nghĩ ở đây chúng ta đều cùng phe cả. Thế nên hãy lắng nghe, chiến hữu ạ. Tôi không có mặt ở Berlin vào bất kỳ thời điểm nào trong năm 1983. Tôi không hề gặp một phụ nữ Nga nào trong năm 1983. Tôi không nghĩ rằng mình đã rất tốt với ai, trong suốt cả năm đó. Có rất nhiều tay trong quân đội mang tên John. Berlin là một điểm du lịch có tiếng. Người mà anh đang nói tới đang tìm kiếm một người nào đó khác. Chuyện đơn giản là thế.”

Bài nói ngắn của Sansom đọng lại trong không khí một lúc. Tất cả chúng tôi nhấp đồ uống và ngồi im lặng. Rồi Elspeth Sansom nhìn đồng hồ đeo tay, ông chồng thấy bà ta làm thế liền nói, “Giờ anh phải thứ lỗi cho chúng tôi. Hôm nay chúng tôi có buổi quyên góp rất quan trọng cần thực hiện. Springfield sẽ rất vui được tiễn anh.” Tôi nghĩ đây là một đề nghị kỳ quặc. Đây là khách sạn công cộng. Là nơi của tôi cũng như của Sansom. Tôi có thể tìm đường ra, và tôi có quyền làm việc ấy. Tôi sẽ không đánh cắp thìa, và dù cho tôi có làm việc ấy đi nữa, đó cũng chẳng phải thìa của Sansom. Nhưng rồi tôi cho rằng ông ta muốn sắp xếp chút thời gian yên tĩnh cho Springfield và tôi, ở một hành lang tách biệt nào đó. Có lẽ để bàn bạc thêm, hoặc để trao một thông điệp. Thế nên tôi đứng dậy đi thẳng phía cửa. Không bắt tay hay chào tạm biệt. Có vẻ kiểu chia tay ấy không hợp.

Springfield theo tôi ra sảnh. Anh ta không nói gì. Dường như anh ta đang nhẩm lại gì đó. Tôi ngừng lại đợi, anh ta bắt kịp tôi liền nói: “Ông cần từ bỏ toàn bộ chuyện này.”

Tôi hỏi, “Tại sao, nếu như ông ta đã không ở đó?”

“Bởi để chứng minh rằng ông ấy không có mặt ở đó, ông sẽ bắt đầu hỏi rằng không ở đó thì ở đâu. Tốt hơn là không bao giờ ông biết.”

Tôi gật đầu. “Đối với ông thì đây cũng là chuyện riêng, phải không? Bởi ông cũng ở đó cùng ông ta. Ông đã tới bất kỳ nơi nào ông ta tới.”

Springfield cũng gật. “Hãy để cho nó qua đi. Ông không thể lật được tảng đá không vừa với sức ông đâu.”

“Sao lại không?”

“Bởi nếu ông làm thế thì ông sẽ bị xóa bỏ. Ông sẽ không tồn tại thêm chút nào nữa. Ông sẽ chỉ biến mất, cả về thể xác lẫn trên giấy tờ. Bây giờ chuyện đó có thể xảy ra, ông biết mà. Đây là một thế giới hoàn toàn mới. Tôi rất muốn nói rằng tôi sẽ tham gia vào quy trình ấy, nhưng tôi sẽ chẳng có cơ hội. Thậm chí gần có cũng không. Bởi một đám người khác có mặt trước để túm ông. Tôi sẽ tụt lại xa đến mức thậm chí giấy khai sinh của ông sẽ trắng trơn trước khi tôi đến được bất kỳ chỗ nào đó gần ông.”

“Đám người khác nào?”

Anh ta không trả lời.

“Chính phủ à?”

Anh ta không trả lời.

“Đám nhân viên điều tra liên bang ấy à?”

Anh ta không trả lời. Chỉ quay người bước về phía thang máy. Tôi bước ra vỉa hè đại lộ Bảy và trong túi tôi điện thoại của Leonid lại đổ chuông lần nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35


TÔI ĐỨNG TRÊN ĐẠI LỘ BẢY, xoay lưng lại dòng xe cộ và nhận cú gọi vào máy di động của Leonid. Tai tôi nghe giọng nói mềm mại của Lila Hoth. Dùng từ chính xác, ngắt câu hay. Cô nói, “Ông Reacher à?”

Tôi đáp, “Đúng.”

Cô nói, “Tôi cần gặp ông, thực sự khẩn đấy.”

“Về chuyện gì?”

“Tôi nghĩ mẹ tôi đang gặp nguy hiểm. Có thể cả chính tôi cũng thế.”

“Vì cái gì?”

“Có ba người đàn ông dưới tầng, đang hỏi này hỏi nọ ở bàn lễ tân. Lúc chúng tôi ra ngoài. Tôi nghĩ phòng của chúng tôi cũng bị lục soát rồi.”

“Ba người nào?”

“Tôi không biết họ là ai. Rõ ràng là họ không nói rồi.”

“Tại sao nói với tôi về chuyện đó?”

“Bởi họ cũng hỏi về ông nữa. Xin hãy tới gặp chúng tôi.”

Tôi hỏi, “Cô không giận về chuyện Leonid sao?”

Cô nói, “Vì hoàn cảnh như vậy nên không giận. Tôi nghĩ đó chỉ là sự hiểu lầm không may. Xin hãy tới đây.”

Tôi không trả lời.

Lila nói, “Tôi sẽ rất cảm kích trước sự giúp đỡ của ông.” Cô ta nói một cách lịch sự, khẩn khoản, một chút quỵ lụy, thậm chí thiếu tự tin, như một kẻ cầu cạnh. Nhưng bất chấp tất cả những nét ấy, có thêm gì đó trong giọng nói của Hoth khiến tôi hoàn toàn ý thức rằng cô ta đẹp tới mức lần cuối cùng có gã đàn ông nào nói không với cô chắc cũng cách đây cả chục năm rồi. Giọng cô ta nghe phảng phất như ra lệnh, như thể mọi thứ đều được nhất trí cả rồi, như thể hỏi là có. Hãy để cho nó qua đi, Springfield đã bảo thế, và tất nhiên tôi nên nghe lời anh ta. Nhưng thay vì thế tôi bảo Lila Hoth, “Tôi sẽ gặp cô ở sảnh khách sạn, mười lăm phút nữa.” Tôi nghĩ rằng tránh phòng khách sạn của cô ta là đủ để đề phòng rồi, trước bất kỳ rắc rối nào có thể nảy sinh. Rồi tôi gập điện thoại và bước thẳng về dãy xe taxi của khách sạn Sheraton.

Sảnh khách sạn Four Seasons được chia thành một số khu vực riêng rẽ ở hai cấp. Tôi tìm thấy Lila Hoth và mẹ cô ở bàn trong góc của một khu ốp gỗ tối lờ mờ dường như ban ngày là phòng uống trà còn đêm trở thành bar. Chỉ có hai người. Leonid không ở đây. Tôi cẩn thận kiểm tra xung quanh song không thấy người nào đáng ngại. Không có nhân vật nào không thể giải thích mặc com lê mức giá trung bình, không có người nào lập lờ với tờ báo buổi sáng. Không có hoạt động theo dõi nào rõ ràng cả. Thế nên tôi chuồi vào một ghế, cạnh Lila, đối diện mẹ cô ta. Lila mặc váy đen và sơ mi trắng. Giống như một nữ phục vụ tiệc cocktail, trừ chất liệu, kiểu cắt may ôm vừa vặn lấy người thì không giống bất kỳ thứ gì một nữ phục vụ tiệc cocktail có thể chi trả. Hai mắt cô là hai điểm sáng trong khoảng tối mờ, xanh như biển nhiệt đới. Svetlana mặc một chiếc váy ở nhà khác chẳng có kiểu dáng rõ ràng, lần này màu bùn đỏ. Hai mắt bà lờ đờ. Khi tôi ngồi xuống, bà già gật đầu lơ đễnh. Lila chìa tay ra bắt tay tôi thật trang trọng. Sự đối lập giữa hai người phụ nữ này thật vô cùng lớn, xét theo mọi khía cạnh, về tuổi tác và dung mạo thì rõ rồi, nhưng cả về sức sống, sự năng động, phong thái và khí chất nữa.

Tôi ổn định chỗ và Lila đi thẳng vào chuyện. Cô ta hỏi, “Ông có mang theo chiếc thẻ nhớ không?”

Tôi nói “Không”, dù có mang theo. Nó nằm trong túi tôi, cùng với chiếc bàn chải của tôi và điện thoại của Leonid.

“Vậy nó ở đâu?”

“Một nơi khác.”

“Nơi nào đó an toàn chứ?”

“Hoàn toàn an toàn.”

Lila hỏi, “Tại sao đám người đó tới đây?”

Tôi đáp, “Bởi cô đang thò mũi vào chuyện gì đó vẫn còn là bí mật.”

“Nhưng sĩ quan báo chí ở HRC rất nhiệt tình về chuyện đó mà.”

“Bởi cô đã nói dối ông ta.”

“Xin lỗi?”

“Cô bảo ông ta rằng chuyện đó diễn ra ở Berlin. Nhưng không phải. Berlin năm 1983 không phải chỗ để giỡn chơi, nhưng ổn định. Nó là một hoạt cảnh của Chiến tranh Lạnh, ngưng đọng với thời gian. Có thể có chút qua lại giữa CIA và KGB cũng như giữa người Anh và lực lượng an ninh chính trị Đông Đức, nhưng không có sự tham gia thực sự của quân đội Mỹ. Đối với các chàng trai của chúng tôi, đó chỉ là một điểm du lịch. Bắt tàu hỏa, xem Bức tường Berlin. Các quán bar tuyệt vời, những cô gái điếm tuyệt đỉnh. Có lẽ cả chục ngàn chàng trai tên John đã qua đó, nhưng họ không làm gì ngoài việc tiêu tiền và dính bệnh lậu. Chắc chắn họ đã không chiến đấu và không được thưởng huy chương. Thế nên truy ra một trong số họ gần như là điều không thể. Có thể HRC đã sẵn sàng lãng phí chút thời gian, song chỉ để phòng có khi moi ra được điều gì đó hay ho. Nhưng ngay từ đầu đó đã là một nhiệm vụ ngớ ngẩn. Thế nên không thể có chuyện các cô đã thu được kết quả tích cực từ Susan Mark. Không thể có chuyện cô ấy đã kể cho cô nghe điều gì đó về Berlin đáng để cô lặn lội tới đây. Không thể xảy ra được.”

“Vậy tại sao chúng tôi đã tới?”

“Vì trong những cuộc điện thoại đầu tiên cô đã làm mềm lòng cô ấy, kết bạn với cô ấy và rồi tới lúc cô nhận định rằng đã đến thời điểm chín muồi thì cô nói cho cô ấy điều cô thực sự muốn. Và cách chính xác để tìm ra nó. Chỉ nói với cô ấy. Không phải Berlin. Là chuyện gì đó hoàn toàn khác.”

Một người không cảnh giác không có gì để che giấu thì hẳn đã phản ứng ngay lập tức và thẳng tuột rồi. Có thể là giận dữ, có thể với cảm giác bị tổn thương. Một tay lừa đảo nghiệp dư thì đã giả bộ thế rồi, bằng cách quát tháo, gây ầm ĩ. Lila Hoth chỉ ngồi yên lặng một lát. Hai mắt cô cũng thể hiện kiểu phản ứng rất nhanh hệt như mắt John Sansom lúc ở trong phòng khách sạn O. Henry. Tư duy lại, triển khai lại, tổ chức lại, tất cả diễn ra trong một hai giây ngắn ngủi.

Cô ta nói, “Chuyện rất phức tạp.”

Tôi không trả lời.

Lila Hoth nói, “Nhưng hoàn toàn trong sáng.”

Tôi nói, “Hãy nói điều đó với Susan Mark.”

Cô ta cúi đầu. Cũng là cử chỉ tôi từng thấy. Nhã nhặn, nhạy cảm và hơi có chút ăn năn. Lila nói: “Tôi đã đề nghị Susan giúp đỡ. Cô ấy đã đồng ý, rất sẵn lòng. Rõ ràng những hành động của cô đã gây khó khăn cho quan hệ giữa cô với các bên khác. Thế nên, đúng, tôi cho rằng tôi là nguyên nhân gián tiếp dẫn tới những rắc rối của Susan. Nhưng không phải nguyên nhân trực tiếp. Và tôi rất ân hận về chuyện đã xảy ra, rất tiếc, tiếc lắm. Xin hãy tin tôi, giá biết trước thế này thì tôi đã từ chối đề nghị của mẹ rồi.”

Svetlana Hoth gật đầu và mỉm cười.

Tôi nói, “Các bên khác nào?”

Lila Hoth đáp, “Chính phủ của cô ấy, tôi nghĩ thế. Chính phủ của ông.”

“Tại sao? Mẹ cô thực sự muốn gì?”

Lila bảo trước hết cô cần giải thích bối cảnh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36


LÚC LIÊN XÔ TAN RÃ THÌ LILA HOTH mới lên bảy tuổi, thế nên cô ta trình bày với kiểu nắm lịch sử không được rõ cho lắm. Cô ta cũng có cái kiểu xa rời với thực tiễn thời trước cũng như tôi về cái thời nước Mỹ phân biệt đối xử với người da đen. Cô bảo tôi rằng thời ấy Hồng quân triển khai các chính trị viên ở diện rất rộng. Mỗi đại đội bộ binh đều có một người. Lila nói rằng quyền chỉ huy và kỷ luật được chia sẻ không lấy gì làm êm thấm giữa chính trị viên và chiến sĩ thực địa. Cô bảo rằng sự cạnh tranh diễn ra phổ biến và gay gắt, không hẳn giữa hai cá nhân với nhau, mà cả giữa kinh nghiệm chiến thuật thực tiễn và tính trong sạch về hệ tư tưởng. Lila đảm bảo rằng tôi đã hiểu được bối cảnh chung, rồi mới chuyển sang các vấn đề cụ thể.

Svetlana Hoth là chính trị viên được chỉ định cho một đại đội bộ binh. Đại đội của bà ta đã tới Afghanistan không lâu sau khi Liên Xô đưa quân vào nước này năm 1979. Những chiến dịch lúc ban đầu khá là khả quan cho lực lượng bộ binh. Nhưng rồi chúng trở nên khủng khiếp. Mất mát tiêu hao sinh lực trở nên nặng nề và diễn ra liên tục. Ban đầu người ta phủ nhận. Rồi thì Moscow phản ứng, một cách chậm trễ. Tổ chức mặt trận được sắp xếp lại. Các đại đội được sáp nhập. Kinh nghiệm chiến thuật thực tiễn đề xuất rút quân. Nhưng hệ tư tưởng đòi hỏi phải mở đợt tấn công mới. Đạo đức đòi hỏi sự thống nhất của các sắc tộc và quê quán. Các đại đội được bố trí lại để bao gồm những đội bắn tỉa. Các thiện xạ đeo mặt nạ được điều tới, cùng với người phát hiện mục tiêu luôn đi kèm. Thế là các cặp vốn quen sống lẩn lút nay xuất đầu lộ diện.

Tay bắn tỉa của Svetlana là chồng bà.

Người phát hiện mục tiêu là em trai Svetlana.

Tình hình được cải thiện, cả về mặt quân sự lẫn về mặt riêng tư. Quan hệ giữa Svetlana với mọi người khác dù theo quan hệ gia đình hay theo quan hệ vùng miền đều êm xuôi mát mái. Các đại đội đã hội nhập tốt, ổn định và đạt được mức an toàn cũng như an ninh có thể chấp nhận được. Những yêu cầu về tấn công được các hoạt động bắn tỉa thường xuyên vào ban đêm đáp ứng. Kết quả tuyệt vời. Từ xưa, các tay bắn tỉa Xô viết đã xếp hàng đầu thế giới. Lực lượng Du kích Hồi giáo Afghanistan không có cách nào chống đỡ. Cuối năm 1981, Moscow củng cố thế chiến thắng bằng cách chuyển đến các loại vũ khí mới. Một loại súng trường kiểu mới ra đời. Nó mới được phát triển và vẫn còn thuộc hàng tuyệt mật. Loại súng này được gọi là Súng Bắn Tỉa Không Tiếng Động VAL.

Tôi gật đầu. Và nói, “Tôi từng trông thấy một khẩu.”

Lila Hoth mỉm cười, chỉ thoáng qua, với một chút bẽn lẽn. Và thoáng chút tự hào dân tộc, có lẽ vậy, về một đất nước không còn tồn tại nữa. Có lẽ chỉ là cái bóng của lòng tự hào mà mẹ cô đã cảm thấy, tận hồi ấy. Bởi VAL là loại vũ khí tuyệt vời. Nó là súng trường bán tự động được giảm thanh và cực kỳ chính xác. VAL bắn ra những viên đạn hạng nặng loại chín milimét với tốc độ gần bằng âm thanh, có thể xuyên thủng tất cả các xe quân sự vỏ mỏng cũng như các loại áo giáp chống đạn hồi ấy trong khoảng cự ly chừng bốn trăm mét. Súng có kèm theo kính ngắm cực mạnh dùng cho ban ngày hoặc kính điện tử dùng cho ban đêm. Nó là một cơn ác mộng, theo quan điểm của kẻ đối lập. Anh có thể bị giết mà không có một chút dấu hiệu báo trước nào, một cách im lặng, đột ngột, bất kỳ lúc nào, dù là khi đang ngủ trên giường trong lều, lúc đang đi vệ sinh, đang ăn, đang mặc đồ, đi dạo, dưới sánh sáng ban ngày, trong bóng tới ban đêm.

Tôi nói, “Đó là loại súng tốt.”

Lila Hoth mỉm cười lần nữa. Nhưng rồi nụ cười ấy tan biến. Bắt đầu những tin xấu. Tình hình ổn định kéo dài chừng một năm rồi chấm dứt. Phần thưởng không thể tránh khỏi dành cho thành tích tốt của đơn vị bộ binh Xô viết là được giao những nhiệm vụ còn nguy hiểm hơn. Trên cả thế giới này đều vậy, xuyên suốt lịch sử cũng thế. Ta không nhận được cái vỗ vai kèm theo một chuyến xe trở về nhà. Thay vào đó, ta nhận được một tấm bản đồ. Đại đội của Svetlana là một trong số nhiều đại đội được lệnh tiến về phía Bắc và lên phía Đông thung lũng Korengal. Thung lũng này dài mười dặm. Nó là tuyến đường chạy xe duy nhất dẫn ra khỏi Pakistan. Dãy núi Hindu Kush dựng lên bên trái, cao vô cùng và cằn cỗi vô cùng, còn dải Abas Ghar chắn toàn bộ sườn phải. Con đường mòn dài sáu dặm giữa hai dãy này là đường tiếp tế chính yếu của lực lượng du kích Hồi giáo cho mặt trận Tây Bắc, và nó cần phải được cắt đứt.

Lila nói, “Cách đây hơn trăm năm, người Anh đã viết một cuốn sách về các chiến dịch ở Afghanistan. Vì đế chế của họ. Họ nói rằng khi tính toán một cuộc tấn công, điều trước tiên ta phải dự kiến là cuộc thoái lui không thể tránh. Và họ nói rằng ta phải dành viên đạn cuối cùng cho bản thân mình, bởi ta không muốn bị bắt sống, nhất là lọt vào tay những phụ nữ bộ tộc. Các chỉ huy đại đội đã đọc cuốn sách đó. Các chính trị viên được yêu cầu không đọc. Người ta nói với họ rằng người Anh thất bại chỉ vì bản lĩnh chính trị kém. Tư tưởng Xô viết hoàn toàn trong sáng, vì vậy nên chắc chắn thành công. Cùng với cái ảo tưởng đó, cuộc chiến Việt Nam của chính chúng tôi bắt đầu.”

Việc đẩy lực lượng lên thung lũng Korengal được hỗ trợ bởi hỏa lực pháo binh và không quân và đã thành công ở ba dặm đầu tiên. Dặm thứ tư giành được một cách khó khăn từng thước đất một khi phải chiến đấu chống một kẻ địch mà đối với cánh lính thì vô cùng tàn bạo nhưng đối với các sĩ quan thì im lặng một cách lạ lùng.

Các sĩ quan nghĩ đúng.

Đó là một cái bẫy.

Du kích Hồi giáo đợi tới khi đường tiếp tế của quân Xô viết kéo dài ra bốn dặm thì mới bắt đầu ra tay. Tiếp tế bằng trực thăng phần lớn bị ngăn chặn bởi những loạt phóng không ngừng tên lửa đất đối không vác vai do Mỹ cung cấp. Các đợt tấn công phối hợp đã bẻ gãy mũi quân tiên phong ngay từ gốc. Cho đến cuối năm 1982 vài ngàn nhóm Hồng quân về thực chất đã bị bỏ mặc trong một chuỗi trại dài, mỏng, đói ăn thiếu thốn, dựng được chăng hay chớ. Thời tiết mùa đông khủng khiếp. Những cơn gió lạnh cóng không ngừng gào rú dọc theo con đường nằm giữa các dãy núi. Và nơi nào cũng có những bụi nhựa ruồi xanh suốt cả năm. Quả là đẹp và nên thơ, nhưng với cánh lính bị buộc phải chiến đấu giữa các bụi ấy thì không hề như vậy. Chúng cọ vào nhau ồn ĩ trong gió, hạn chế khả năng cơ động, cứa toạc da và xé rách cả quân phục.

Rồi các cuộc đột kích quấy rối bắt đầu.

Có những người bị bắt làm tù binh, mỗi lượt một, hai người.

Số phận của họ thật khủng khiếp.

Lila trích vài dòng của nhà thơ Anh Rudyard Kipling trong một bài thơ sầu thảm về những cuộc tấn công thất bại, những binh lính bị thương bị bỏ mặc trên chiến trường đang rên la và những phụ nữ bộ lạc Afghanistan tàn bạo tay cầm dao: Khi bạn bị thương và bị bỏ lại trên đồng bằng Afghanistan, những người phụ nữ này hiện ra và cắt bỏ những gì còn sót lại, hãy kéo súng lại tự bắn vào đầu mình đi, đến với Chúa như một người lính. Và cô bảo rằng những điều có thật ngay vào thời đỉnh cao quyền lực của Đế chế Anh đến bây giờ vẫn có thật, và còn tệ hơn. Các lính bộ binh Xô viết mất tích và vài giờ sau, trong bóng tối, những cơn gió mùa đông sẽ mang lại tiếng la hét của họ từ những trại của kẻ địch gần đó song không thể nhìn thấy. Tiếng hét bắt đầu bằng âm điệu tuyệt vọng rồi dâng lên từ từ, vững chắc để rồi trở thành tiếng gào rống điên loạn của kẻ cận kề với cái chết. Đôi khi tình trạng ấy kéo dài mươi mười hai tiếng. Hầu hết các thi thể đều không được tìm thấy. Nhưng đôi khi các xác chết được trả về trong tình trạng thiếu bàn tay, bàn chân hay toàn bộ tay chân, hoặc thiếu đầu, tai, mắt, mũi, bộ phận sinh dục.

Hoặc không còn da.

“Một số bị lột da sống,” Lila nói. “Mí mắt họ bị cắt bỏ và đầu họ bị kẹp vào một cái khung giữ cho gập xuống để họ không có lựa chọn nào ngoài việc theo dõi da của chính mình bị lột ra, trước tiên lột khỏi mặt, rồi lột khỏi cơ thể. Cái lạnh khiến vết thương của họ tệ đến một mức nào đó và ngăn họ chết quá sớm vì sốc. Đôi khi quá trình này diễn ra trong thời gian dài. Hoặc đôi khi họ bị quay sống. Vài gói thịt nướng sẽ xuất hiện gần nơi đóng của quân chúng tôi. Ban đầu cánh lính tưởng đó là quà đồ ăn do người dân địa phương có lòng cảm thông đưa tới. Nhưng rồi họ nhận ra.”

Svetlana Hoth chằm chặp nhìn vào phòng, không trông thấy gì có vẻ còn lạnh lẽo hơn cả trước đây. Có lẽ giọng điệu của cô con gái đang khơi lại những ký ức của bà. Rõ ràng rất thuyết phục. Lila chưa từng sống qua hoặc chứng kiến các sự kiện cô đang mô tả, song nghe như thể cô đã sống qua, đã chứng kiến. Nghe như thể cô mới chứng kiến nó ngày hôm qua. Cô không còn mơ hồ về lịch sử. Ấn tượng để lại nơi tôi là cô sẽ trở thành một người kể chuyện giỏi. Cô có năng khiếu thuật chuyện.

Lila nói, “Họ muốn bắt được các tay bắn tỉa của chúng tôi nhất. Họ căm ghét các tay bắn tỉa của chúng tôi. Tôi nghĩ những người bắn tỉa luôn bị căm ghét, có lẽ bởi cách họ giết đối phương. Mẹ tôi rất lo cho cha, cái đó thì rõ rồi. Còn em trai của bà nữa. Hầu như đêm nào họ cũng đi, vào những ngọn đồi thấp, mang theo kính ngắm điện tử. Không quá xa. Có lẽ khoảng một nghìn mét, để tìm góc ngắm. Có lẽ xa hơn thế một chút. Đủ xa để đạt hiệu quả, đủ gần để cảm thấy an toàn. Nhưng chẳng nơi nào thực sự an toàn. Mọi nơi đều có thể bị tấn công. Nhưng họ phải đi. Mệnh lệnh của họ là bắn vào kẻ thù. Ý định của họ là bắn các tù nhân. Họ nghĩ rằng như thế là nhân đạo. Thời ấy thật đáng sợ. Và lúc đó thì mẹ tôi đã mang bầu. Mang bầu tôi. Tôi được thụ thai trong một chiến hào đá đào ở thung lũng Korengal, dưới một chiếc áo khoác dã chiến có từ thời cuối Thế chiến thứ hai và trên hai chiếc khác có thể còn cũ hơn thế. Mẹ tôi bảo rằng mấy chiếc áo đó mang những vết đạn cũ, có thể ở Stalingrad.”

Tôi chẳng nói gì. Svetlana vẫn nhìn đăm đăm. Lila đặt hai tay lên bàn, đan hờ hững vào nhau. Cô nói, “Trong khoảng một tháng đầu tiên sáng nào cha và cậu tôi cũng trở về, an toàn. Họ là một đội giỏi. Có lẽ giỏi nhất.”

Svetlana vẫn nhìn đăm đăm. Lila bỏ hai tay khỏi bàn và ngừng nói một chút. Rồi cô ngồi thẳng lên ưỡn thẳng hai vai. Thay đổi nhịp độ. Thay đổi chủ đề. Cô nói, “Hồi ấy có những người Mỹ ở Afghanistan.”

Tôi hỏi, “Có hả?”

Cô gật đầu.

Tôi nói, “Những người Mỹ nào?”

“Những người lính. Không nhiều nhưng có một số. Không phải luôn luôn nhưng đôi lúc có.”

“Cô nghĩ thế sao?”

Cô gật đầu lần nữa. “Chắc chắn quân đội Mỹ đã ở đó. Liên Xô là kẻ thù của họ, và du kích Hồi giáo là đồng minh của họ. Đó là Chiến tranh Lạnh một cách gián tiếp. Làm suy yếu Hồng quân là điều Tổng thống Ronald Reagan rất muốn. Đó là một phần chiến lược chống cộng của ông ta. Và ông ta tranh thủ cơ hội ấy để chiếm một số vũ khí mới của chúng tôi nhằm phục vụ mục đích tình báo. Thế nên có các đội được phái đi. Lực lượng Đặc biệt. Họ đến và đi đều đặn. Và một đêm tháng Ba năm 1983, một trong số đội này đã phát hiện ra cha cùng cậu tôi và đánh cắp khẩu súng trường VAL của họ.”

Tôi không nói gì.

Lila nói: “Để mất khẩu súng là một thất bại, tất nhiên là thế. Nhưng điều tệ hại hơn là những người Mỹ đã trao cha và cậu tôi cho các phụ nữ bộ tộc. Không cần thiết phải làm thế. Rõ ràng là phải bịt miệng họ lại, vì sự hiện diện của người Mỹ hoàn toàn bí mật và phải được che giấu. Nhưng người Mỹ lẽ ra đã có thể tự tay giết cha và cậu tôi, nhanh chóng, im lặng và dễ dàng. Nhưng họ đã chọn không làm thế. Mẹ tôi nghe tiếng họ gào thét suốt cả ngày cho tới tận đêm hôm sau. Chồng và em trai bà. Mười sáu, mười tám tiếng đồng hồ. Bà bảo thậm chí cho dù gào thét thảm tới mức ấy bà vẫn có thể phân biệt của ai, qua âm giọng của từng người.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37


TÔI LIẾC QUANH PHÒNG TRÀ lờ mờ sáng của khách sạn Four Seasons, nhúc nhích trên ghế rồi nói, “Xin lỗi, nhưng tôi không tin cô.”

Lila Hoth nói, “Tôi đang kể cho ông sự thật.”

Tôi lắc đầu. “Tôi đã từng trong quân đội Mỹ. Tôi từng là quân cảnh. Nói chung thì tôi biết những nơi người ta đã tới cũng như không tới. Và không có dấu giày của quân Mỹ trên đất Afghanistan. Hồi ấy thì không. Trong suốt cuộc xung đột ấy thì không. Đó thuần túy là vấn đề nội bộ.”

“Nhưng các ông đã đứng sau đạo diễn.”

“Tất nhiên là thế. Như các cô đã làm hồi chúng tôi có mặt ở Việt Nam. Hồi ấy Hồng quân có mặt ở nước đó không?”

Đó là câu hỏi chỉ để hỏi, để khẳng định lại, nhưng Lila Hoth tiếp nhận một cách nghiêm túc. Cô nhoài người qua bàn nói chuyện với mẹ mình, nhỏ và nhanh, bằng thứ tiếng nước ngoài mà tôi cho là tiếng Ukraine. Hai mắt bà hé ra một chút, rồi bà nghiêng đầu về một bên như thể bà đang nhớ lại một phần nhỏ của chi tiết lịch sử đầy bí hiểm. Bà già nói lại với con gái, nhỏ và nhanh, lâu, rồi Lila ngừng lại chừng một giây để chuẩn bị cho việc dịch lại, đoạn cô nói, “Không, chúng tôi đã không điều quân tới Việt Nam, bởi chúng tôi tin rằng những người anh em xã hội chủ nghĩa sẽ hoàn thành công việc của mình mà không cần trợ giúp. Điều này, mẹ tôi bảo, rõ ràng là họ đã làm được, một cách huy hoàng. Những con người nhỏ bé mặc áo nâu đã đánh thắng cỗ máy lớn màu xanh.”

Svetlana Hoth mỉm cười gật đầu.

Tôi nói, “Cũng như là một đám chăn dê đá đít đội quân của bà ấy.”

“Không thể phủ nhận điều đó. Nhưng với rất nhiều sự giúp đỡ.”

“Không có chuyện đó.”

“Nhưng ông thừa nhận rằng có sự hỗ trợ vật chất, chắc chắn thế. Dành cho lực lượng du kích Hồi giáo. Tiền và vũ khí. Đặc biệt là tên lửa đất đối không, những thứ loại đó.”

“Cũng như ở Việt Nam, chỉ là ngược lại thôi.”

“Và Việt Nam là một điển hình rõ ràng. Bởi vì theo như ông biết, đã bao giờ Mỹ cung cấp viện trợ quân sự cho bất kỳ nơi nào trên thế giới mà không gửi đến cái họ gọi là các cố vấn quân sự chưa?”

Tôi không nói gì.

Cô hỏi, “Chẳng hạn ông đã phục vụ ở bao nhiêu nước?”

Tôi không nói gì.

Cô hỏi, “Ông nhập ngũ năm nào?”

“Năm 1984,” tôi đáp.

“Vậy những sự kiện này của năm 1982 và 1983 đều diễn ra trước thời ông phục vụ.”

“Chỉ vừa mới xong,” tôi nói. “Và có thứ gọi là kiến thức được lưu truyền.”[37]

“Sai,” cô nói. “Các bí mật được giữ lại còn kiến thức lưu truyền được xóa bỏ một cách dễ dàng. Có một lịch sử lâu dài về sự dính líu quân sự phi pháp của Mỹ trên khắp thế giới. Nhất là thời kỳ Ronald Reagan làm tổng thống.”

“Cô học được điều đó ở trường trung học hả?”

“Vâng, đúng thế. Và hãy nhớ rằng, những người cộng sản đã ra đi khá lâu trước khi tôi lên trung học. Một phần là nhờ ông Reagan đấy.”

Tôi nói, “Dù cô có đúng đi nữa, nhưng tại sao lại cho rằng người Mỹ đã dính líu vào cái đêm cụ thể ấy? Cứ cho là mẹ cô đã không chứng kiến việc xảy ra. Tại sao không giả thiết rằng cha và cậu cô bị chính các du kích Hồi giáo bắt?”

“Bởi không bao giờ tìm được khẩu súng của cha tôi. Bởi chưa bao giờ vị trí của mẹ tôi bị một tay bắn tỉa tấn công vào ban đêm. Trong ổ đạn của cha tôi có hai mươi viên, ông ấy còn mang thêm hai mươi viên dự phòng. Giả sử lực lượng du kích Hồi giáo bắt được cha tôi thì họ đã dùng khẩu súng bắn tỉa của ông để chống lại chúng tôi rồi. Thì họ đã, hoặc đã cố tiêu diệt bốn chục người của chúng tôi rồi, và họ sẽ hết đạn mà bỏ khẩu súng đi. Dần dà thì đại đội mẹ tôi cũng sẽ tìm thấy nó. Có nhiều cuộc giao tranh nhỏ giữa hai bên lắm. Phía chúng tôi đã tràn sang vị trí của họ và ngược lại. Nó như một cuộc săn đuổi vòng tròn điên rồ. Cánh du kích Hồi giáo thật thông minh. Họ có thói quen rút về những vị trí mà trước đó chúng tôi đã gạch đi, coi như các vị trí đã bị bỏ. Nhưng sau một thời gian chúng tôi thấy được toàn bộ vị trí của họ. Họ hẳn đã tìm ra khẩu VAL không đạn, gỉ sét, thậm chí có khi được dùng làm cọc hàng rào nữa. Họ kê khai tất cả các loại vũ khí thu được như thế. Nhưng không có khẩu VAL. Kết luận logic nhất là nó đã được đưa thẳng về Mỹ, bởi những người Mỹ.”

Tôi không nói gì.

Lila Hoth nói, “Tôi đang kể cho ông sự thật.”

Tôi bảo, “Có lần tôi đã trông thấy một khẩu súng bắn tỉa không tiếng động VAL.”

“Ông đã nói điều đó với tôi rồi mà.”

“Tôi trông thấy nó năm 1994,” tôi nói. “Người ta nói với chúng tôi rằng nó vừa được thu giữ. Tận mười một năm sau thời điểm cô nói rằng nó bị thu giữ đấy. Hồi ấy người ta kinh hoảng, khi thấy khả năng của loại súng này. Quân đội không phải đợi tới mười một năm mới kinh hoảng đâu.”

“Sẽ phải thế đấy,” Lila nói. “Nếu để lộ ra khẩu súng ngay sau khi thu được nó thì có thể đã gây ra Thế chiến thứ Ba rồi. Làm thế là trực tiếp thừa nhận rằng lính của các ông đã trực tiếp đối mặt với người của chúng tôi mà không hề có tuyên bố thù địch nào. Ít nhất cũng bị coi là trái luật, mà xét về góc độ địa-chính trị thì thật khủng khiếp. Nước Mỹ sẽ mất vị thế thượng phong về đạo đức. Sự ủng hộ trong nội bộ Liên bang Xô viết sẽ được tăng cường. Sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản sẽ bị làm chậm lại, có lẽ nhiều năm.”

Tôi chẳng nói gì.

Lila nói: “Hãy nói cho tôi nghe, chuyện gì đã xảy ra trong quân đội ông năm 1994, sau cơn kinh hoảng ấy?”

Tôi ngừng lại, đúng như Svetlana Hoth đã ngừng. Tôi nhớ lại những chi tiết lịch sử. Thật đáng ngạc nhiên. Tôi kiểm tra đi kiểm tra lại. Rồi tôi nói, “Thực ra không có nhiều chuyện xảy ra.”

“Không có áo giáp chống đạn mới à? Không có loại ngụy trang mới nào à? Không có phản ứng chiến thuật bằng bất kỳ hình thức nào sao?”

“Không.”

“Liệu điều đó có logic, ngay cả đối với một quân đội không?”

“Không thật logic.”

“Trước thời điểm ấy, lần cuối cùng thiết bị được nâng cấp là khi nào?”

Tôi ngừng lại. Tìm kiếm thêm các chi tiết lịch sử. Nhớ lại PASGT, được giới thiệu trong niềm phấn khích phô trương và lắm lời ca ngợi trong những năm đầu tôi mặc áo lính. Personal Armor System, Ground Troops. Hệ thống áo giáp cá nhân dành cho bộ binh. Một loại mũ Kevlar hoàn toàn mới, được đánh giá đủ sức chịu mọi loại đạn của súng cỡ nhỏ. Một loại giáp chống đạn dày kiểu mới mặc trong hoặc ngoài áo dã chiến, được đánh giá đảm bảo an toàn ngay cả trước đạn súng trường. Theo tôi nhớ cụ thể thì nó được đánh giá là đảm bảo an toàn trước các viên đạn cỡ chín milimét. Cộng thêm những họa tiết ngụy trang mới, được thiết kế cẩn thận nhằm nâng cao hiệu quả và có hai loại, dùng cho vùng rừng núi và sa mạc. Lính thủy đánh bộ có lựa chọn thứ ba, màu xanh nước biển và xám, dùng cho địa hình thành phố.

Tôi chẳng nói gì.

Lila Hoth hỏi, “Việc nâng cấp được thực hiện khi nào?”

Tôi đáp, “Cuối những năm 1980.”

“Ngay cả với những cơn kinh hoảng như vậy, mất bao lâu để hoàn thành việc thiết kế và thực hiện đợt nâng cấp như thế?”

Tôi đáp, “Vài năm.”

“Vậy hãy xem lại những gì ta biết. Vào cuối những năm 1980 ông nhận được trang bị nâng cấp, được thiết kế chủ yếu để bảo vệ cá nhân tốt hơn. Ông có nghĩ rằng có thể đó là kết quả của tác động trực tiếp xuất phát từ một nguồn không công bố năm 1983 không?”

Tôi không trả lời.

Tất cả chúng tôi ngồi yên lặng một lúc. Một nhân viên phục vụ im lặng và kín đáo bước tới mời chúng tôi dùng trà. Ông ta nêu một danh sách dài các nhãn mang tên nước ngoài lạ lẫm. Lila gọi một vị tôi chưa bao giờ nghe tới, rồi cô ta dịch cho mẹ, bà ta cũng chọn tương tự. Tôi chọn cà phê đen thông thường. Nhân viên này cúi đầu một chút, tầm nửa xăngtimet, như thể khách sạn Four Seasons sẵn lòng đáp ứng bất kỳ yêu cầu nào, dù yêu cầu ấy có mạt rệp đến đâu. Tôi đợi cho tới khi ông ta đi khỏi lần nữa rồi hỏi: “Các cô đã suy luận ra người mình cần tìm kiếm bằng cách nào?”

Lila nói: “Thế hệ của mẹ tôi trông đợi một cuộc chiến trên bộ với các ông ở châu Âu, và họ hy vọng mình sẽ thắng. Hệ tư tưởng của họ tốt đẹp, của các ông thì không. Sau một chiến thắng chắc chắn và chóng vánh, họ cho rằng sẽ bắt được nhiều người bên các ông làm tù binh, có thể lên đến vài triệu. Trong giai đoạn ấy, một phần nhiệm vụ của chính trị viên là phân loại các binh sĩ của kẻ thù, lựa ra những kẻ không thể cải tạo tư tưởng. Để giúp họ thực hiện nhiệm vụ đó, họ được làm cho quen với cơ cấu quân đội của các ông.”

“Ai làm cho quen?”

“KGB. Đó là chương trình được thực hiện liên tục. Có rất nhiều thông tin sẵn có. Họ biết ai đảm nhiệm cương vị gì. Đối với các đơn vị tinh nhuệ nhất, họ thậm chí biết cả tên. Không chỉ các sĩ quan đâu, cả lính nghĩa vụ nữa. Như một tay hâm mộ bóng đá thực thụ biết rõ về nhân sự và điểm mạnh điểm yếu của tất cả các đội tham gia giải, kể cả cầu thủ dự bị. Đối với các vụ thâm nhập vào thung lũng Korengal, mẹ tôi lập luận rằng chỉ có thể khoanh ở ba lực lượng. Hoặc lực lượng SEAL[38] của hải quân, hoặc Recon Marines từ Corps, hoặc Delta của bộ binh. Thông tin tình báo hồi ấy không ủng hộ cho giả thuyết đấy là lực lượng lính thủy đánh bộ hay SEAL. Không có cả bằng chứng suy diễn về sự liên quan của họ. Không có thông tin cụ thể. KGB có người cài khắp mọi tổ chức của các ông, song họ không báo cáo gì. Nhưng có những tín hiệu vô tuyến quan trọng phát ra từ các căn cứ của Delta ở Thổ Nhĩ Kỳ và các điểm tập hợp ở Oman. Ra đa của chúng tôi phát hiện những chuyến bay không thể cắt nghĩa. Kết luận những chiến dịch trên do Delta thực hiện là hợp logic.”

Nhân viên phục vụ đã trở lại cùng một chiếc khay. Ông ta là một người cao, đen, khá già, có lẽ người nước ngoài. Ông có nét gì đó rất riêng. Có lẽ khách sạn Four Seasons đã đưa ông ra vị trí mặt tiền và trung tâm vì điều đó. Phong thái của ông cho thấy có thể một thời ông đã là chuyên gia về trà ở một nơi tráng lệ nào đó tại Vienna hay Salzburg. Trên thực tế có thể ông đã là kẻ thất nghiệp ở Estonia. Có thể ông đã bị gọi nhập ngũ cùng phần còn lại của thế hệ Svetlana. Có khi ông đã phải chịu đựng những cơn gió mùa đông ở thung lũng Korengal cùng bà ta, tại một nơi vào thời điểm nào đó cùng với nhóm sắc tộc của mình. Ông ta điệu nghệ rót trà và sắp xếp những lát chanh trên đĩa. Cà phê của tôi đựng trong một chiếc tách đẹp. Ông đặt nó xuống trước mắt tôi với vẻ bất bình được che giấu một cách lịch thiệp. Khi người phục vụ đã đi khỏi, Lila Hoth nói, “Mẹ tôi đánh giá rằng vụ đột kích được một viên đại úy chỉ huy. Nếu là trung úy thì quá thấp còn thiếu tá thì lại quá cao so với nhiệm vụ đó. KGB có danh sách nhân sự. Hồi ấy có rất nhiều đại úy được điều vào Delta. Nhưng còn có các bản phân tích sóng vô tuyến. Một người đã nghe được cái tên John. Điều đó giúp khoanh vùng lại.”

Tôi gật đầu. Hình dung ra một chảo ăng ten lớn ở một nơi nào đó, có thể là Armenia hay Azerbaidjan, một gã ở trong lều, đeo tai nghe, hai miếng ốp cao su ép chặt vào hai tai, lướt qua các tần số lăng nghe tiếng rít và loẹt xoẹt của các kênh liên tục đổi tần, vớ được một mẩu đối thoại không dùng mật hiệu, rồi viết từ John lên một mẩu giấy thô màu nâu. Có rất nhiều thứ được túm từ không trung.

Hầu hết vô dụng. Một từ ta có thể hiểu cũng giống như một cục vàng trong chiếc rây, hoặc một viên kim cương trong tảng đá. Và một từ họ hiểu được chẳng khác gì một viên đạn găm vào lưng ta.

Lila nói: “Mẹ tôi hiểu hết về các huy chương của quân đội các ông. Chúng được coi là yếu tố quan trọng, là tiêu chí phân loại tù binh. Huy hiệu vẻ vang, khi bị bắt sẽ ngay lập tức trở thành huy hiệu nhục nhã. Bà biết rằng khẩu VAL xứng đáng giành được một phần thưởng quan trọng. Nhưng phần thưởng nào? Hãy nhớ rằng khi ấy không hề có tuyên bố thù địch. Và hầu hết các phần thưởng quan trọng của các ông đều dành cho lòng can đảm hay anh dũng trong hành động chống lại một quân đội là kẻ thù của Mỹ. Xét về nguyên tắc, dù kẻ nào đoạt được khẩu VAL từ tay cha tôi đi nữa thì cũng không đủ tiêu chuẩn tặng thưởng bất kỳ phần thưởng nào trong đó, bởi về nguyên tắc Liên Xô không phải kẻ thù của nước Mỹ. Xét về mặt quân sự thì không. Xét về mặt chính trị chính thức thì không. Không hề có tuyên bố chiến tranh mà.”

Tôi một lần nữa gật đầu. Chúng tôi chưa bao giờ xảy ra chiến tranh với Liên Xô. Ngược lại, trong suốt bốn năm dài, chúng tôi là đồng minh trong cuộc chiến tuyệt vọng chống một kẻ thù chung. Chúng tôi đã hợp tác, rất chặt chẽ. Chiếc áo khoác dã chiến của Hồng quân thời Thế chiến thứ hai mà Lila Hoth nói là đã che chắn nơi cô được thụ thai chắc chắn đã được sản xuất ở Mỹ, là một phần của chương trình Lend-Lease[39]. Chúng tôi đã chuyển một trăm triệu tấn đồ len và vải bông cho người Nga. Cộng thêm mười lăm triệu đôi giày da, bốn triệu lốp xe bằng cao su, hai ngàn đầu máy xe lửa và mười một ngàn toa xe vận tải, cũng như các món đồ nặng bằng kim loại như mười lăm ngàn máy bay, bảy ngàn xe tăng và 375.000 xe tải quân sự. Tất cả cho không, miễn phí, chẳng đổi lại gì. Winston Churchill gọi đó là chương trình ít vụ lợi nhất trong lịch sử. Đã có những giai thoại sinh ra quanh chương trình này. Người ta bảo rằng người Liên Xô đề nghị cung cấp bao cao su, và để cố gây ấn tượng cũng như sự thân mật, họ nói cụ thể rằng họ bao cao su cần dài bốn lăm phân. Người Mỹ đã chuyển hàng cho họ đúng hẹn, trong các thùng carton đóng dấu: Cỡ: Trung bình.

Chuyện là thế.

Lila hỏi, “Ông vẫn nghe đấy chứ?”

Tôi gật đầu. “Huy chương Thành tích xuất sắc sẽ là lựa chọn thích hợp. Hoặc Huy chương Công trạng, hoặc Huy chương Người lính.”

“Không đủ tầm.”

“Cảm ơn cô. Tôi đã được tặng cả ba loại đó.”

“Thu được khẩu VAL là một cuộc đảo chính thực sự vĩ đại. Một sự kiện chấn động. Đó là thứ vũ khí hoàn toàn chưa được biết tới. Việc lấy được nó cần được tặng thưởng một huy chương thực sự có giá.”

“Nhưng loại nào chứ?”

“Mẹ tôi kết luận rằng đó sẽ là Huy chương Thành tích Đặc biệt. Loại này quý nhưng có nét khác. Tiêu chuẩn xét tặng là đóng góp đặc biệt đáng khen ngợi đối với chính phủ Mỹ khi thi hành một nhiệm vụ có trách nhiệm rất nặng nề. Nó hoàn toàn độc lập với các hoạt động quân sự chính thức được tuyên bố. Thông thường nó được trao tặng cho các nhân vật mềm dẻo về chính trị từ cấp tướng trở lên. Khi ấy mẹ tôi được lệnh trừ khử lập tức tất cả những kẻ từng được trao tặng DSM. Rất hiếm người dưới cấp tướng được tặng thưởng huy chương này. Nhưng chỉ có nó là loại huy chương giá trị mà một đại úy Delta có thể đã được tặng nhờ cái đêm hôm ấy ở thung lũng Korengal.”

Tôi gật đầu. Tôi đồng ý. Tôi thấy rằng Svetlana Hoth là một người phân tích rất tốt. Rõ ràng bà đã được đào tạo tốt và có kiến thức rộng sâu. KGB đã thực hiện được một công việc thật hiệu quả. Tôi nói, “Vậy nên cô đi mà tìm một tay tên John là một đại úy Delta và giành được một DSM, cả hai việc này diễn ra vào tháng Ba năm 1983.”

Lila gật đầu. “Và để chắc chắn, DSM ấy phải được tặng thưởng mà không có tuyên dương.”

“Và các cô đã buộc Susan Mark giúp đỡ.”

“Tôi không buộc cô ấy. Cô ấy vui lòng giúp đỡ.”

“Tại sao?”

“Bởi cô ấy cảm động vì câu chuyện của mẹ tôi.”

Svetlana Hoth mỉm cười gật đầu.

Lila nói, “Và cô ấy cũng xúc động một chút vì câu chuyện của tôi. Tôi là đứa con không cha, cũng như cô ấy.”

Tôi hỏi, “Làm thế nào mà tên của John Sansom xuất hiện thậm chí trước khi Susan thông báo? Tôi không tin rằng nó xuất phát từ một nhóm điều tra thuê của New York chỉ ngồi một nơi đọc báo và tán phét.”

“Đó là sự kết hợp rất hiếm thấy,” Lila nói. “John, Delta, DSM, nhưng chưa hề là viên tướng một sao. Chúng tôi nhận thấy điều đó qua tờ Herald Tribune, khi các tham vọng của ông ta đối với Thượng nghị viện được thông báo. Khi ấy chúng tôi ở London. Ông có thể mua tờ đó trên khắp thế giới. Nó là một phiên bản của tờ New York Times. Có thể John Sansom là kẻ duy nhất trong lịch sử quân đội các ông hoàn toàn khớp với các tiêu chí ấy. Nhưng chúng tôi muốn chắc chắn tuyệt đối. Chúng tôi cần có sự khẳng định cuối cùng.”

“Trước điều gì? Các cô muốn làm gì với tay đó?”

Lila Hoth trông ngạc nhiên.

“Làm à?” Cô hỏi. “Chúng tôi chẳng muốn làm gì cả. Chúng tôi chỉ muốn nói chuyện với ông ta, thế thôi. Chúng tôi muốn hỏi ông ta vì sao? Vì sao ông ta lại làm thế, đối với hai con người?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38


LILA HOTH UỐNG NỐT CHỖ TRÀ và đặt tách xuống đĩa. Chất sứ chạm nhẹ vào nhau kêu lách cách. Cô hỏi, “Ông sẽ đi lấy thông tin của Susan cho tôi chứ?”

Tôi không trả lời.

Cô nói, “Mẹ tôi đợi đã lâu rồi.”

Tôi hỏi, “Vì sao sao bà ấy phải đợi?”

“Thời gian, khả năng, phương tiện, thời cơ. Tôi cho rằng chủ yếu do tiền. Khả năng của bà rất hạn hẹp cho đến tận gần đây.”

Tôi hỏi, “Vì sao chồng cô bị giết?”

“Chồng tôi?”

“Khi ở Moscow ấy.”

Lila ngừng một thoáng rồi nói, “Do thời cuộc.”

“Đối với chồng của mẹ cô cũng như thế.”

“Không. Tôi đã nói với ông rồi, nếu Sansom đã bắn vào đầu ông ấy, như đã xảy ra với chồng tôi, hoặc thọc dao vào não, hay bẻ gãy cổ, hoặc làm bất kỳ điều gì khác như các lính Delta được huấn luyện thực hiện, thì mọi việc đã khác rồi. Nhưng ông ta đã không làm thế. Thay vào đó ông ta lại nhẫn tâm. Vô nhân tính. Cha tôi thậm chí chẳng thể với tay tới khẩu súng trường của mình, bởi Sansom đã cướp mất nó.”

Tôi không nói gì.

Cô nói, “Ông muốn có một con người như thế trong Thượng viện nước mình không?”

“Con người như thế là so với gì?”

“Ông sẽ trao cho tôi thông tin của Susan chứ?”

“Không ích gì,” tôi nói.

“Tại sao lại không?”

“Bởi cô sẽ chẳng thể mon men được tới chỗ nào gần John Sansom. Nếu bất kỳ điều gì trong những điều cô nói đã thực sự diễn ra, nó là một bí mật, và sẽ là bí mật trong một thời gian dài. Và các bí mật được bảo vệ, đặc biệt là bây giờ. Đã có hai cơ quan liên bang đảm nhận việc này. Cô mới có ba người đi đặt các câu hỏi. May mắn nhất là cô bị trục xuất. Chân cô sẽ không chạm được tới đất trên suốt quãng đường ra sân bay. Cô sẽ bị đưa lên máy bay hai tay nằm trong còng. Bằng xe loại lớn. Sang bên kia, cảnh sát Anh sẽ lôi cô khỏi máy bay và cô sẽ sống phần đời còn lại bị người ta giám sát.”

Svetlana Hoth chằm chằm nhìn vào khoảng không.

Tôi nói, “Và tệ nhất, cô sẽ chỉ biến mất. Ngay ở đây. Phút này cô có mặt trên đường phố, phút sau cô không còn như thế. Cô sẽ chết dần chết mòn ở Guantanamo, hoặc cô sẽ tới Syria hay Ai Cập để họ khử cô ở đó.”

Lila Hoth không nói gì.

“Lời khuyên của tôi thế nào à?” tôi nói. “Hãy quên chuyện đó đi. Cha và cậu cô bị giết trong chiến tranh. Họ không phải những người đầu tiên, cũng sẽ không phải những người cuối cùng. Chuyện khốn nạn vẫn thường xảy ra mà.”

“Chúng tôi chỉ muốn hỏi ông ta vì sao.”

“Cô đã biết vì sao rồi mà. Không có tuyên bố thù địch, vì vậy ông ta đã không thể giết người nhà cô. Đó là nguyên tắc can dự. Trước mỗi phi vụ đều có buổi nhắc nhở, thống nhất rất kỹ.”

“Vậy nên ông ta để người khác làm thay mình.”

“Đó là thời cuộc. Giống như cô nói, lẽ ra nó đã có thể khơi mào cho Thế chiến thứ Ba. Tránh được nó là mối quan tâm của mọi người.”

“Ông đã từng xem tệp tin chưa? Susan đã thực sự có sự khẳng định chứ? Hãy chỉ cho tôi biết, có hoặc không. Tôi sẽ không làm gì nếu không tận mắt trông thấy nó. Tôi không thể.”

“Cô sẽ chẳng làm gì cả, chấm hết.”

“Làm thế là không phải.”

“Đánh chiếm Afghanistan đã là việc không phải ngay từ đầu. Lẽ ra phía cô đã nên ở nhà mới phải.”

“Thế thì các ông cũng vậy, đối với tất cả các nơi các ông đã đặt chân đến.”

“Tôi không có gì tranh cãi cả.”

“Thế còn tự do thông tin thì sao?”

“Tự do thông tin thì sao nào?”

“Mỹ là đất nước của luật pháp.”

“Đúng. Nhưng cô có biết bây giờ luật ra sao không? Cô cần đọc tờ Herald Tribune cẩn thận hơn đấy.”

“Ông sẽ giúp chúng tôi chứ?”

“Tôi sẽ yêu cầu nhân viên khách sạn gọi cho cô một chiếc taxi ra sân bay.”

“Chỉ thế thôi sao?”

“Đó là điều tốt nhất bất kỳ ai có thể dành cho cô.”

“Có điều gì tôi có thể làm để ông đổi ý không?”

Tôi không trả lời.

“Bất kỳ điều gì ấy?”

“Không,” tôi đáp.

Sau đó tất cả chúng tôi im lặng. Chuyên gia về trà mang hóa đơn lại.

Nó đặt trong một tấm bìa bằng da. Lila Hoth ký vào đó. Cô nói, “Cần xem xét trường hợp Sansom.”

“Nếu như đó là ông ta,” tôi nói. “Nếu là bất kỳ ai.” Tôi lấy điện thoại của Leonid ra khỏi túi thảy lên bàn. Tôi đẩy ghế ra sau và đứng dậy, chuẩn bị đi.

Lila bảo, “Làm ơn giữ lấy chiếc điện thoại.”

Tôi hỏi, “Tại sao?”

“Vì mẹ tôi và tôi còn ở đây. Chỉ thêm vài ngày. Và tôi muốn liên lạc được với ông nếu tôi muốn.” Cách Hoth nói không phải kiểu thả câu. Không phải lả lơi. Không cụp mắt xuống, không chớp chớp mi. Không đặt tay lên tay tôi, không cố gắng quyến rũ, không cố gắng làm tôi đổi ý. Đó chỉ là một tuyên bố đơn thuần, được nói ra không hàm chứa thái độ nào.

Rồi cô nói, “Ngay cả khi ông không phải bạn,” và tôi nghe thấy âm điệu cực nhỏ của sự đe dọa rít lên trong giọng của Lila. Chỉ một tia cay nghiệt lờ mờ, một dấu hiệu nhỏ của sự nguy hiểm, gần như không nghe thấy được khuất sau ngôn từ, đi cùng với sự lạnh lẽo có thể cảm nhận được trong đôi mắt xanh tuyệt đẹp của cô ta. Như biển ấm áp mùa hè chuyển sang nước đá mùa đông có ánh nắng chiếu vào. Cũng một màu cả, nhưng nhiệt độ khác hẳn.

Hoặc có thể cô ta chỉ buồn, hoặc lo lắng, hoặc quyết tâm.

Tôi bình thản nhìn Lila rồi đút chiếc điện thoại vào túi, đứng dậy bước đi. Trên phố 57 có rất nhiều taxi nhưng chẳng chiếc nào không chở khách. Thế nên tôi cuốc bộ. Khách sạn Sheraton nằm cách ba dãy nhà về phía Tây và năm dãy về phía Nam. Tối đa là hai mươi phút. Tôi cho là mình có thể tới đó trước khi Sansom ăn xong bữa trưa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39


TÔI KHÔNG CÓ MẶT Ở KHÁCH SẠN Sheraton trước khi Sansom ăn xong bữa trưa, phần vì vỉa hè đầy chật những người bước đi chậm chạp trong cái nóng, phần vì đó là bữa trưa ngắn ngủi. Tôi nghĩ điều này có thể hiểu được. Đám khán giả phố Wall của Sansom muốn dành tối đa thời gian để kiếm tiền và tối thiểu để cho tiền. Tôi cũng không kịp lên cùng chuyến tàu liên bang với ông ta. Tôi chậm mất chuyến tàu đi Washington chỉ năm phút, nghĩa là tôi đến thủ đô sau ông ta tới một tiếng rưỡi.

Cũng chính tay gác hôm trước đang trực ở cửa tòa nhà Cannon. Anh ta không nhận ra tôi. Nhưng anh ta vẫn cho tôi vào, chủ yếu nhờ Hiến pháp. Nhờ Tu chính án đầu tiên của Tuyên ngôn Nhân quyền. Quốc hội sẽ không ban hành đạo luật nào tước đi quyền của người dân được đưa đơn thỉnh nguyện lên Chính phủ. Những thứ đồ linh tinh trong túi tôi chầm chậm lướt qua máy chiếu X-quang, rồi tôi bước qua máy phát hiện kim loại và được vỗ kiểm tra từ trên xuống dưới dù tôi biết rằng thiết bị dò đã nháy xanh. Một đám nhân viên lao xao phục vụ Quốc hội đang dùng loa gọi người từ trong sảnh, một trong số đó gọi rồi đưa tôi vào khu của Sansom. Các hành lang rộng, thoáng và ngóc ngách lung tung. Các văn phòng cá nhân có vẻ nhỏ nhưng đẹp. Có thể một thời chúng to và đẹp, song bây giờ đã được chia nhỏ thành phòng chờ dùng làm nơi tiếp tân và nhiều khoảng nhỏ bên trong mà tôi nghĩ là một phần cho các nhân viên cao cấp dùng, còn một phần để sao cho rốt cuộc được đặt chân vào nơi của kẻ tai to mặt lớn có vẻ như là một đặc ân hơn là thực chất.

Chỗ làm việc của Sansom trông hệt như mọi chỗ khác. Một cửa dẫn từ hành lang, rất nhiều cờ, rất nhiều đại bàng, vài bức sơn dầu vẽ những lão già đeo tóc giả, một bàn tiếp tân có một cô gái trẻ ngồi sau. Có thể là nhân viên, có thể là một cô tập sự. Springfield đang tựa vào góc bàn cô ta. Anh ta trông thấy tôi, gật đầu không thèm nở một nụ cười, ẩy người rời khỏi bàn, bước ra cửa đón tôi và trỏ ngón cái xuôi theo hành lang.

“Căng tin,” anh ta nói.

Chúng tôi đi qua vài bậc cầu thang tới chỗ đó. Đó là một căn phòng thấp và rộng chứa đầy bàn ghế. Sansom chẳng ngồi chỗ nào trong này. Springfield cằn nhằn như thể anh ta chẳng hề ngạc nhiên và kết luận rằng Sansom đã trở lại văn phòng mình trong lúc chúng tôi tìm ông ta, theo một lối khác, có thể qua văn phòng của một đồng nghiệp. Anh ta bảo rằng nơi này lắm hang cùng ngõ hẻm, khi nào cũng có các cuộc nói chuyện cần được trao đổi, các ơn huệ cần được tìm kiếm, các thỏa thuận cần được ngã giá và các đầu phiếu cần được bán buôn. Chúng tôi trở lại theo đúng đường đã đi, Springfield thò đầu vào một cửa rồi lùi lại ra hiệu cho tôi bước vào.

Phòng làm việc bên trong của Sansom là một khoảng không gian hình chữ nhật chỉ lớn hơn một chiếc tủ và nhỏ hơn một phòng nhà nghỉ có giá ba mươi đô la một đêm. Phòng có cửa sổ, tường ốp gỗ treo những ảnh đóng khung, tít báo đóng khung, trên giá có đồ lưu niệm. Sansom ngồi sau bàn, trên một ghế da màu đỏ, trong tay là một cây bút máy, rải đầy trước mặt là cả lô giấy tờ. Ông ta đã bỏ áo khoác ra. Sansom có dáng vẻ mệt mỏi, thiếu dưỡng khí của một người đã ngồi yên suốt thời gian dài. Ông ta đã không ra ngoài. Trò đi vòng qua căng tin là trò câu giờ, chủ yếu được sắp đặt để cho phép người nào đó đi ra mà không bị tôi nhìn thấy. Ai, tôi không biết. Tại sao, tôi cũng không biết. Nhưng tôi ngồi xuống ghế dành cho khách và thấy nó vẫn còn ấm hơi của người khác. Phía sau đầu Sansom chính là bức ảnh lớn mà tôi đã thấy trong cuốn sách của ông ta được đóng khung. Donald Rumsfeld và Saddam Hussein, ở Baghdad. Đôi khi bạn bè của chúng ta trở thành kẻ thù, và đôi khi kẻ thù trở thành bạn bè của chúng ta. Bên cạnh là một chuỗi ảnh nhỏ hơn chụp Sansom đứng với nhóm này nhóm nọ, vài tấm chỉ chụp ông ta bắt tay và cười với một người khác. Vài tấm ảnh chụp nhóm đầy trang trọng, vài tấm chụp những cái cười rộng mở và sân khấu đầy hoa giấy sau những đợt thắng cử. Trong hầu hết số đó tôi đều thấy mặt Elspeth. Trong những năm qua tóc bà ta đã đổi kiểu rất nhiều. Tôi thấy Springfield trong vài bức khác, dáng người nhỏ và cảnh giác của anh ta rất dễ nhận ra dù các bức ảnh bé xíu. Những bức ảnh chụp đôi là thứ cánh phóng viên ảnh thời sự gọi là ảnh nghiến-chặt-nhe-răng. Tôi nhận ra một số nhân vật trong đó, một số thì không. Một số đã ký tên vào ảnh với những lời lẽ quá mức cần thiết, một số thì không.

Sansom nói, “Thế nào đây?”

Tôi nói, “Tôi biết về DSM vào tháng Ba năm 1983.”

“Bằng cách nào?”

“Nhờ súng bắn tỉa không tiếng động VAL. Cựu chiến binh mà tôi đã nói cho ông nghe là vợ góa của người mà ông đã tước khẩu súng. Đó là lý do ông phản ứng trước cái tên ấy. Có thể ông chưa bao giờ nghe thấy cái tên Lila Hoth hay Svetlana Hoth, nhưng hồi ấy ông đã gặp một người khác có tên Hoth. Điều đó thì quá chắc rồi. Rõ ràng rồi. Có thể ông đã lấy thẻ tên của ông ta và cho dịch ra. Có lẽ ông vẫn còn giữ nó, để làm kỷ niệm.”

Chẳng thấy sự ngạc nhiên. Chẳng có sự phủ nhận. Sansom chỉ nói, “Không, thực ra cái thẻ tên đã bị khóa kỹ cùng với các báo cáo sau khi hành động, và mọi thứ khác cũng thế.”

Tôi không nói gì.

Sansom nói, “Tên ông ta là Grigori Hoth. Hồi ấy ông ta trạc tuổi tôi. Có vẻ ông ta giỏi. Tay phát hiện mục tiêu không giỏi lắm. Lẽ ra hắn đã phải nghe thấy tiếng chúng tôi đang tiếp cận mới phải.”

Tôi không đáp lại. Im lặng một lúc lâu. Rồi tình huống ấy dường như tác động đến cảm xúc khiến hai vai Sansom sụm xuống, ông ta thở dài mà nói: “Đúng là cách bị lần ra thật lạ, phải không? Huy chương được dùng để thưởng chứ không phải phạt. Lẽ ra chúng không phải là để chơi anh. Lẽ ra chúng không phải là để theo anh đến hết đời như một trở ngại khốn nạn.”

Tôi chẳng nói gì.

Sansom hỏi, “Anh sẽ làm gì?”

Tôi đáp, “Chẳng làm gì cả.”

“Thật sao?”

“Tôi chẳng quan tâm chuyện gì xảy ra năm 1983. Và họ đã nói dối tôi. Trước tiên là chuyện về Berlin, và giờ họ vẫn đang dối tôi. Họ tự nhận là mẹ và con gái. Nhưng tôi không tin. Kẻ được nhận là con gái là con bé xinh nhất ông từng thấy. Kẻ tự nhận là mẹ là một mụ già xấu đau xấu đớn. Đầu tiên tôi gặp họ cùng một cảnh sát NYPD. Cô ta bảo rằng sau ba mươi năm nữa đứa con gái sẽ trông giống hệt mẹ cô ta bây giờ. Nhưng cô ta lầm. Con bé sẽ không bao giờ trông giống bà già. Cả triệu năm sau cũng không.”

“Vậy họ là ai?”

“Tôi đã sẵn sàng chấp nhận rằng bà già là người thật việc thật. Bà ta là chính trị viên Hồng quân đã mất chồng và em trai ở Afghanistan.”

“Em trai bà ta?”

“Tay phát hiện mục tiêu đó.”

“Nhưng người phụ nữ trẻ thì đang đóng kịch hả?”

Tôi gật đầu. “Trong vai vợ góa tha hương của một tỷ phú, từ London tới. Cô ta nói chồng cô ta là doanh nhân không thành công.”

“Và cô ta không có sức thuyết phục à?”

“Cô ta bịa đặt. Cô ta diễn giỏi. Có lẽ cô ta đã mất chồng vào thời điểm nào đó trong thời gian ấy.”

“Nhưng sao? Thực sự cô ta là gì?”

“Tôi nghĩ cô ta là nhà báo.”

“Tại sao?”

“Cô ta biết nhiều. Cô ta có đầu óc điều tra đúng đắn. Cô này giỏi phân tích. Cô ta theo dõi tờ Herald Tribune. Đây là tay kể chuyện tài khủng khiếp. Nhưng cô ta nói quá nhiều. Cô ta say mê với ngôn từ và thêu dệt các tình tiết. Cô ta không kiềm chế nổi mình.”

“Chẳng hạn như?”

“Cô ta làm ra thống thiết thái quá. Cô ta bảo rằng các chính trị viên ở cùng chiến hào với cánh lính trơn. Lại còn tự nhận rằng mình được thụ thai trên một nền đá, dưới một chiếc áo dã chiến của Hồng quân. Đó là điều vớ vẩn. Chính trị viên là bọn hèn nhát có cỡ với cấp bậc dưới. Chúng đóng cách nơi chiến đấu rất xa. Đám ấy toàn tụ lại với nhau phía sau chiến tuyến ở sở chỉ huy để viết sách, tờ rơi. Thi thoảng chúng có đi thăm chiến tuyến, nhưng có dính tí nguy hiểm nào chăng thì không hề.”

“Mà làm thế nào anh lại biết chuyện này?”

“Ông biết tôi biết bằng cách nào mà. Chúng ta đã trông đợi một cuộc chiến trên bộ với họ ở châu Âu. Chúng ta hy vọng mình sẽ thắng. Chúng ta cho rằng sẽ bắt nhiều triệu người bên đó làm tù binh. Quân cảnh được đào tạo để xử lý tất cả số đó. Đơn vị 110 sẽ thực hiện chỉ huy hành động. Ảo tưởng, có lẽ thế thật, nhưng Lầu Năm Góc coi trọng điều này. Chúng ta được dạy về Hồng quân nhiều hơn về quân đội Mỹ. Chắc chắn chúng ta đã được chỉ chính xác nơi cần tìm ra các chính trị viên. Chúng ta được lệnh trừ khử toàn bộ số đó ngay lập tức.”

“Loại nhà báo nào?”

“Có lẽ là truyền hình. Nhóm người địa phương mà cô ta thuê có quan hệ với ngành truyền hình. Mà ông đã bao giờ xem truyền hình của Đông Âu chưa? Tất cả người dẫn chương trình đều là phụ nữ, tất cả đều trông rất bốc lửa.”

“Nước nào?”

“Ukraine.”

“Mảng nào?”

“Điều tra, lịch sử, đan xen chút tình cảm con người. Có lẽ cô ta đã nghe câu chuyện của bà già và quyết định làm chương trình về câu chuyện đó.”

“Như kênh Lịch sử bằng tiếng Nga à?”

“Bằng tiếng Ukraine,” tôi đáp.

“Tại sao? Thông điệp là gì? Giờ họ muốn làm mất mặt chúng ta à? Sau hơn hai mươi lăm năm à?”

“Không, tôi nghĩ là họ muốn làm mất mặt người Nga. Hiện có nhiều vấn đề căng thẳng giữa Nga và Ukraine. Tôi nghĩ họ coi sự xấu xa của Mỹ là điều tất yếu, và nói rằng lẽ ra anh bạn lớn Nga tệ bạc không nên đưa thằng em Ukraine tội nghiệp không đủ khả năng tự bảo vệ vào con đường khốn khổ.”

“Vậy tại sao chúng ta vẫn chưa được xem câu chuyện đó?”

“Bởi họ thực hiện sau khi các giai đoạn lịch sử kia đã kết thúc từ lâu rồi,” tôi nói. “Họ đang tìm sự khẳng định. Dường như ở bên đó họ vẫn còn chút gì đạo đức nghề báo đấy.”

“Họ sẽ có sự khẳng định chứ?”

“Chắc không phải từ ông. Và không ai khác biết điều gì một cách chắc chắn. Susan Mark sống không đủ lâu để nói có hoặc không. Thế nên nắp lại đậy vào. Tôi đã khuyên họ quên hết mọi chuyện đi và trở về nhà.”

“Tại sao họ đóng vai mẹ và con gái?”

“Vì đó là một trò bịp tài tình,” tôi nói. “Có sức hút lớn. Giống như truyền hình thực tế. Hoặc các loại tạp chí họ bán trong siêu thị. Rõ ràng họ đã nghiên cứu kỹ nền văn hóa của ta.”

“Tại sao lại đợi lâu đến vậy?”

“Cần nhiều thời gian để xây dựng ngành truyền hình trưởng thành. Có lẽ họ đã lãng phí nhiều năm cho những vấn đề quan trọng.”

Sansom khẽ gật đầu, rồi nói, “Nói không ai biết gì một cách chắc chắn thì không đúng. Anh có vẻ biết rất nhiều.”

“Nhưng tôi sẽ không nói gì cả.”

“Tôi có thể tin anh chuyện đó không?”

“Tôi đã phục vụ quân đội mười ba năm. Tôi biết tất cả mọi chuyện. Tôi không nói về chúng.”

“Tôi không vui về chuyện họ lại tiếp cận được Susan Mark dễ đến thế. Tôi cũng không vui vì chúng ta đã không biết về cô ấy ngay từ đầu. Trước buổi sáng xảy ra sự kiện, chúng tôi thậm chí còn chưa bao giờ nghe nói về cô ấy. Toàn bộ chuyện này cứ như một vụ phục kích. Chúng tôi luôn đằng sau khúc quanh.”

Tôi đang nhìn các bức ảnh trên tường phía sau Sansom. Nhìn các hình người nhỏ xíu. Hình dáng, điệu bộ, bóng hình của họ. Tôi nói, “Thật sao?”

“Lẽ ra chúng tôi phải được thông báo rồi.”

Tôi bảo, “Hãy có ý kiến với Lầu Năm Góc ấy. Và với đám người từ Watergate nữa.”

Sansom bảo, “Tôi sẽ nói.” Rồi ông ta im lặng, như thể ông ta đang nghĩ lại, đánh giá lại, một cách bình tĩnh hơn và chậm rãi hơn so với kiểu nhanh chóng thường thấy như sĩ quan chiến trường. Nắp lại đậy vào. Dường như ông ta nghiên cứu tuyên bố ấy một lúc, từ mọi góc độ khác nhau. Rồi ông ta nhún vai, mặt hiện vẻ hơi ngượng ngùng, và hỏi, “Vậy bây giờ anh nghĩ về tôi thế nào?”

“Điều đó có quan trọng không?”

“Tôi là chính trị gia. Tìm hiểu theo phản xạ thôi.”

“Tôi nghĩ hồi ấy ông nên bắn vào đầu họ.”

Sansom im một chút rồi nói, “Chúng tôi không có súng giảm thanh.”

“Có chứ. Khi ấy các ông vừa tước được một khẩu từ họ.”

“Nguyên tắc can dự.”

“Lẽ ra ông nên lờ chúng đi. Hồng quân không hành quân mang theo phòng thí nghiệm pháp y đâu. Họ sẽ không biết ai bắn ai.”

“Vậy anh nghĩ thế nào về tôi?”

“Tôi nghĩ hồi ấy ông không nên trao họ đi. Làm vậy không đúng. Quả thực, đấy sẽ là tâm điểm của câu chuyện, trên truyền hình Ukraine. Ý tưởng là đưa bà già đến bên ông và để cho bà ta hỏi ông vì sao ông làm thế.”

Sansom lại nhún vai. “Tôi ước là bà ta có thể làm thế. Bởi sự thật là chúng tôi đã không trao họ cho bên khác. Thay vào đó chúng tôi thả họ đi. Đó là mạo hiểm có tính toán. Một kiểu đánh lừa bằng chính sự thật. Họ đã mất khẩu súng. Mọi người sẽ đều nhận định rằng đám du kích Hồi giáo đã lấy nó. Đó là hậu quả đáng tiếc và rất nhục nhã. Khi ấy tôi thấy rõ ràng là hai người đó rất sợ các sĩ quan chỉ huy và chính trị viên của mình. Thế nên họ sẽ hạ mình để nói sự thật rằng thủ phạm là người Mỹ, không phải người Afghanistan. Đó sẽ là một kiểu chứng minh mình vô tội. Nhưng đám sĩ quan chỉ huy và chính trị viên của họ vốn biết rằng hai người sợ họ đến mức nào, nên sự thật ấy sẽ nghe có vẻ như một câu chuyện nhảm nhí. Như một lời bào chữa thảm hại. Nó sẽ bị loại trừ ngay lập tức, như một câu chuyện hoang đường. Thế nên tôi cảm thấy đủ an toàn khi thả họ ra. Sự thật sẽ được kể ra sờ sờ như thế, nhưng sẽ không được nhìn nhận.”

Tôi nói, “Vậy đã xảy ra chuyện gì?”

Sansom nói, “Tôi nghĩ họ đã sợ hơn cả tôi tưởng. Quá sợ nên chẳng hề dám quay lại. Tôi nghĩ là họ chỉ lang thang, cho tới khi bị đám dân bộ tộc bắt được. Grigori Hoth là chồng một chính trị viên. Ông ta sợ bà ta. Đó là điều đã xảy ra. Và đó là điều đã giết chết ông ta.”

Tôi không nói gì.

Sansom nói, “Tôi không trông đợi bất kỳ ai tin tôi điều ấy.”

Tôi không đáp.

Ông ta nói, “Anh nói đúng về sự căng thẳng giữa Nga và Ukraine. Nhưng cũng có sự căng thẳng giữa Nga và chính chúng ta. Hiện giờ có rất nhiều chuyện căng thẳng. Nếu phần về đồi Korengal của câu chuyện lộ ra, mọi thứ có thể bùng nổ lớn. Như Chiến tranh Lạnh nổ ra lần nữa. Trừ một điều là khác đi. Ít nhất thì Liên Xô cũng còn tỉnh táo, theo cách của riêng họ. Còn đám này à, không tỉnh táo lắm đâu.”

Sau câu này chúng tôi ngồi im lặng một lúc mà cảm giác như một khoảng thời gian dài, rồi thì điện thoại bàn của Sansom đổ chuông. Nhân viên tiếp tân gọi. Tôi nghe thấy giọng cô ta qua tai nghe và qua cả cửa nữa. Cô ta điểm một danh sách những việc cần được chú ý ngay. Sansom gác máy và nói, “Tôi phải đi đây. Tôi sẽ gọi một nhân viên phục vụ Quốc hội tiễn anh ra.” Ông ta đứng dậy, vòng qua bàn đi ra khỏi phòng. Hệt như một người vô tội chẳng có gì để che giấu. Ông ta bỏ tôi lại một mình, vẫn ngồi trên ghế, cửa vẫn mở. Springfield cũng đã đi khỏi. Tôi có thể thấy là chẳng có ai ở văn phòng bên ngoài trừ người phụ nữ ở bàn tiếp tân. Cô ta mỉm cười với tôi. Tôi mỉm cười đáp lại. Chẳng có nhân viên phục vụ Quốc hội nào xuất hiện.

Chúng tôi luôn nằm đằng sau khúc quanh, Sansom đã nói thế. Tôi đợi cả một phút rồi bắt đầu vặn vẹo ngó quanh như thể đang sốt ruột. Rồi sau một khoảng thời gian hợp lý tôi rời ghế ngồi. Tôi bước quanh, hai tay đan vào nhau sau lưng, hệt như một người đàn ông vô tội chẳng có gì để che giấu, chỉ đang chờ đợi trong lãnh địa không phải của anh ta. Tôi hướng về bức tường sau chiếc bàn, như thể đó là một đích đến hoàn toàn ngẫu nhiên. Tôi xem kỹ các bức ảnh. Tôi đếm những gương mặt mình biết. Con số tổng cộng ban đầu là hai mươi tư. Bốn tổng thống, chín chính trị gia khác, năm vận động viên điền kinh, hai nam diễn viên, Donald Rumsfeld, Saddam Hussein, Elspeth, và Springfield.

Cộng thêm một người khác.

Tôi biết hai mươi lăm gương mặt.

Trong tất cả những ảnh mừng chiến thắng vào đêm bầu cử, ngay cạnh chính Sansom, là một tay cũng nở nụ cười toe toét, như thể ông ta đang hài lòng trong ánh hào quang của công việc đã được hoàn thành tốt, như thể ông ta đang tuyên bố phần đóng góp của mình mà chẳng hề khiêm tốn tí nào. Một chiến lược gia. Một nhà chiến thuật. Một tay dàn xếp chính trị đứng ở hậu trường.

Có lẽ là tay chỉ huy bộ tham mưu của Sansom.

Người này trạc tuổi tôi. Trong tất cả các ảnh, ông ta đều bị phủ hoa giấy hay mắc đầy những băng giấy màu hay ngập trong bong bóng tới tận gối, ông ta cười nhe răng như tên thộn, song hai mắt lại lạnh lẽo. Trong đôi mắt ấy chứa sự hiểu biết, khôn ngoan đầy tính toán.

Chúng khiến tôi nhớ tới đôi mắt của một cầu thủ.

Giờ tôi biết vì sao họ dàn dựng trò câu giờ đi qua căng tin. Giờ tôi biết rằng trước tôi kẻ nào đã ngồi ở chiếc ghế dành cho khách của Sansom.

Chúng tôi luôn nằm đằng sau khúc quanh.

Kẻ dối trá.

Tôi biết tay chỉ huy bộ tham mưu của Sansom.

Trước đây tôi từng trông thấy hắn.

Tôi đã thấy hắn mặc quần cô tông chéo, áo sơ mi đánh gôn, đi chuyến tàu khuya tuyến 6 ở thành phố New York.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom