Cập nhật mới

Dịch Khúc Cầu Hồn

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 58


Cơ thể của Johnny suy sụp. Lồng ngực cậu không còn biết chuyển động lên xuống và mọi thứ bỗng nhiên đen ngòm trước mắt. Cậu trố mắt nhìn chiếc xe đạp và nhớ lại những lúc thấy Jack ngồi trên nó, hắn ta càm ràm như thế nào vì nó chỉ có ba líp số, hắn phải ngồi nheo mắt để bù lấp cho cánh tay teo nhỏ của mình. Hắn gọi nó là chiếc xe đạp nước đái, vì cái màu của nó. Nhưng hắn thích chiếc xe ấy.

Hunt đứng túm tụm với những người khác bên cạnh mấy chiếc xe. Không ai nhìn, do vậy Johnny sờ mó chiếc xe đạp. Nó nhỏ bé, màu vàng. Cậu sờ phần kim loại lạnh sét rỉ, hai lốp xe bằng cao su nứt nẻ vì mục rữa.

Chiếc xe đạp là thật.

Johnny xoay người và nôn oẹ vào đống cỏ dại.

Tất cả những thứ này đều là sự thật.

Hunt nghe lời tả của một người lính cứu hỏa. “Chiếc xe đạp được vứt xuống trước và mắc nghẽn vào chỗ cổ chai. Và dường như thi thể được vứt xuống tiếp theo sau đó. Nếu không có chiếc xe đạp, nó có thể đã rớt xuống tận đáy giếng mỏ. Rơi thêm một trăm tám mươi mét nữa, với nước nôi lênh láng dưới đó.” Anh lính cứu hỏa lắc đầu. “Chúng ta sẽ không bao giờ tìm được.”

“Có phải đó là Alyssa không?” Hunt nhìn bác sĩ khám nghiệm tử thi.

“Thi thể là xác con gái,” bác sĩ Moore nói. “Tuổi tác tương xứng. Tôi sẽ đối chiếu hồ sơ răng hàm đêm nay. Công việc trước tiên.”

“Anh sẽ gọi điện cho tôi khi anh biết đích xác chứ hả?”

“Chắc chắn.”

Hunt gật đầu. Ông tìm kiếm Johnny, nhưng không thấy cậu đâu cả, rồi ông tìm thấy. Cậu đang quỳ gối trong bụi cây.

“Thôi chết rồi!”

Hunt lau người Johnny và mang cậu vào trong xe. Ông để bác sĩ khám nghiệm tử thi chở xác đi và nhờ hai anh lính cứu hỏa gói chiếc xe đạp vào trong tấm bạt và đặt vào bên trong thùng sau xe. Nó bây giờ nằm trong đó, khi xe lái qua ổ gà phát ra tiếng động rổn rảng, một câu hỏi hiện lên trong đầu của Hunt. Ông lắc đầu trong khi đang lái xe.

“Lẽ ra tôi không nên để cậu theo tôi đến đây,” ông nói, nhưng không ai trả lời. Ông biết lý do của ông, và biết, đó là một sai lầm. Ông đã quá gần gũi họ. Cảm xúc ngự trị. Đầu ông lại lắc lư. “Lẽ ra tôi không nên để cậu theo tôi ra đây.”

Họ đi một nửa quãng đường trở lại thị xã thì Johnny lên tiếng. Cậu nghe tiếng gió, tiếng vỏ bánh xe chạm vào mặt đường trơn láng. “Đó là chiếc xe đạp của thằng Jack,” cậu nói. Hunt quay đầu lại. Johnny và bà Katherine là hai hình bóng đen ngòm ngồi ở ghế sau xe của ông. Con đường vắng teo không một bóng người. “Cậu nói gì vậy, Johnny?”

Johnny nhìn ra bên ngoài cửa sổ. Một cánh đồng trải dài ra bên dưới bầu trời với những vì sao lẻ tẻ nhỏ bé, mờ nhạt. Cỏ cây không hề di chuyển và có màu tím thẫm. Chẳng điều gì có lý cả. “Chiếc xe đạp là của thằng Jack.”

Hunt dạt xe vào lề đường và dừng lại. Ông trả cần số về đậu và tắt máy. Johnny thò tay tìm cái cần mở cửa xe, nhưng không có cái cần nào.

“Mở cửa,” cậu nói, rồi sau đó ráng sức một lần nữa. Nhưng hoàn toàn cạn kiệt. Thân xác cậu bị rút sạch, trống rỗng. Hunt dìu cậu ra ngoài và bước cùng cậu đến cạnh lề đường. “Thở đi,” Hunt nói. “Hãy thở.”

Sau khoảng một phút, Johnny lấy lại sức lực.

“Cậu sẽ không sao đâu, mọi chuyện sẽ ổn,” Hunt nói với cậu, và giọng nói của ông vỗ về. Ông đi cùng với Johnny xuống con đường và trở lại. Ông giữ một tay trên cánh tay của cậu, tay kia trên cổ cậu.

“Cậu sẽ không sao. Được chứ? Cậu sẽ không sao.”

Johnny run lẩy bẩy, nhưng cậu gật đầu. “Tôi không sao.” Cả hai trở vào trong xe và Hunt mở máy điều hoà cho Johnny. Johnny thò mặt gần sát lỗ thông gió.

“Đỡ hơn chứ?”

“Vâng.”

“Nói cho tôi biết về chiếc xe đạp nhé.”

Johnny ngồi dưới ánh đèn trong khoang xe và nhìn vào cái bóng từ khuôn mặt của Hunt. Ánh sáng mạnh mẽ nhưng nhỏ bé, bóng của nó chiếu thành những đường viền góc cạnh. “Jack có chiếc xe đạp đó từ lâu lắm rồi. Hắn dùng cho đến khi nó cũ kỹ, tàn tạ. Nó biến mất cùng thời gian Alyssa bị bắt cóc. Hắn nói là nó bị mất cắp. Tôi không hề nghĩ gì về chuyện đó, ý tôi là sự trùng hợp thời gian.”

“Cậu có chắc chắn đây là chiếc xe đạp của Jack?”

“Chắc,” Johnny nói. “Tôi chắc chắn.”

Hunt nhìn từ Johnny đến bà Katherine. “Jack là người duy nhất chứng kiến Alyssa bị lôi vào trong xe bán tải. Hắn là nhân chứng duy nhất cho vụ bắt cóc này. Bây giờ, chúng tôi có chiếc xe đạp của hắn...”

“Ý ông là gì vậy?” Bà Katherine bị kéo căng đến gần điểm đứt gẫy. Johnny chạm vào cánh tay của bà và thấy nóng rực.

“Có thể nó không phải là một vụ bắt cóc.”

Gió ngoài kia liếm trên cửa kính xe đang mở.

“Có thể Jack nói láo.”

Hunt tắt đèn sáng trong xe và cho xe chạy trở lại trên đường lộ. Ông cho kính cửa quay lên và âm thanh của nó giống y chang cái máy cuốn dây. Khi chuông điện thoại của ông reo vang, ông nhìn thật lâu vào màn ảnh. Chân ông vẫn liên tục đạp ga. “Đó là Thám tử Cross,” ông nói, và hạ thấp điện thoại khi đôi mắt của ông hướng lên nhìn vào giương chiếu hậu. “Ông bố của Jack.”

“Ông định sẽ làm gì?” bà Katherine hỏi.

Chiếc xe vẫn lăn đều bánh. “Công việc của tôi.”

Hunt trả lời điện thoại. Ông nghe máy vài giây đồng hồ. “Không. Tôi đang làm vài chuyện lặt vặt. Không có gì quan trọng.”

Johnny thấy đôi mắt Hunt trong gương. Ông ta đang nhìn con đường. Bình tĩnh.

“Không,” Hunt nói. “Tôi không có thông tin gì về chuyện đó. Thằng bé ở nhà gia đình Merrimon lần sau cùng tôi thấy hắn.”

Một chút ngưng lại. Johnny nghe tiếng Cross qua máy điện thoại. Lờ mờ. Một lần nữa ậm ờ.

“Chắc chắn rồi,” Hunt nói. “Tôi sẽ báo cho ông biết ngay.” Hunt nói tạm biệt và gác máy điện thoại. Hai mắt trên gương chiếu hậu. Đèn trần ở một bên khuôn mặt. Ông đối mặt với ánh nhìn của Johnny. “Ông ta đang tìm thằng Jack,” Hunt nói. “Hình như là thằng bạn của cậu tự dưng biết mất dạng.”

Mẹ Johnny ngẩng đầu lên, đặt một tay lên trên ghế ngồi. “Chuyện này có nghĩa như thế nào? Tôi không hiểu chuyện này có nghĩa như thế nào?”

“Tôi cũng chưa biết, nhưng tôi sẽ tìm ra.”

Bà yên lặng và họ đi trong yên lặng một thời gian thật lâu. Johnny cố gắng thích nghi với ý nghĩ mới này, ý nghĩ rằng bởi một lý do nào đó mà Jack nói láo, rằng hắn ta biết một điều gì đó, bất cứ chuyện gì. Johnny cảm thấy bị phản bội. Cậu cảm thấy giận dữ, và rồi nghi ngờ. Không thể nào, cậu nghĩ. Gần đây Jack đang che giấu một điều gì đó, kinh động bởi hành động của Freemantle và Johnny, kinh động với đàn quạ, tổ cha cái thằng. Nhưng Jack là thằng Jack. Hắn là thằng nhóc có mái tóc mượt mà và là kẻ ăn cắp thuốc lá. Hắn là thằng bạn thân nhất của Johnny, tràn ngập lòng trung thành, những nỗi đau, và những nỗi nhục nhã bí mật, nhưng là một thằng bạn hiểu rõ thế nào là tình bằng hữu. Hắn giúp Johnny tìm kiếm Alyssa cả trăm lần. Trốn học. Trốn nhà đi cả đêm. Chuyện liên can của Jack không thể nào thật được.

Nhưng chiếc xe đạp.

Chúa ơi, chiếc xe đạp.

Johnny quan sát một bên khuôn mặt của Hunt. Ông ta là kẻ hào hiệp nhưng ông ta là cớm; và Johnny cũng biết phải như thế nào mới là bạn bè. Cho nên cậu không nói gì về cái nhà kho nông trại thuốc lá hoặc chiếc xe tải đậu trước nhà kho. Johnny cần nói chuyện với Jack trước tiên. Xe Hunt về đến thị xã, đèn đường vươn cao hai bên, những ngôi sao mờ dần. Mật độ xe cộ lưu thông càng lúc càng dày đặc. “Nhà chúng tôi đi trở ngược về phía đằng kia,” Johnny nói.

“Nó là hiện trường một vụ án. Căn nhà đã bị phong tỏa.”

Đường lộ rộng thêm ra và Hunt rẽ xe vào con đường bốn làn xe chạy dọc theo vòng đai thị xã. Ông rẽ xe vào bãi đậu của một khách sạn mạt hạng và Johnny thấy chiếc xe thùng của mẹ cậu đậu gần phía trước. “Tôi đã yêu cầu lấy nó ra khỏi nơi giam xe,” Hunt nói. “Chìa khóa xe để ở quầy lễ tân. Nha cảnh sát đã đặt giữ một phòng. Ông bẻ tay lái đến cổng và những hàng cửa kính. Một bảng hiệu neon đỏ hiện chữ Còn Trống. “Bà sẽ trở về nhà của bà trong vòng vài ngày.”

“Tôi không muốn trở về nơi đó. Dù chỉ một lần. Không bao giờ.”

“Chúng ta sẽ dàn xếp một cách nào đó,” Hunt nói.

“Sở Xã hội thì sao?” Giọng của bà yếu ớt.

Hunt gài số đậu xe và tắt máy. Đèn neon đỏ rực trên cửa kính, không khí bên trong xe yên lặng. Hunt xoay người trên ghế ngồi, nhìn vào mặt bà mẹ của Johnny.

“Đợi đến ngày mai hãy lo nghĩ tới ba cái chuyện này.”

Bà gật đầu.

“Hai người sẽ không sao chứ hả?” Hunt nhìn từ khuôn mặt này đến khuôn mặt kia và Johnny cảm nhận được sự ân cần làm cậu ngạc nhiên. Cậu không muốn Hunt ra về. Cậu không muốn tạm trú trong một khách sạn mạt hạng. Cậu muốn về nhà. Không phải nhà của gã Ken. Nhà. Cậu muốn Hunt nói, thêm một lần nữa, rằng điều đó sẽ làm được.

“Chuyện gì xảy ra bây giờ vậy?” Johnny hỏi.

“Tôi cũng chưa rõ. Tôi sẽ ghé qua trong ngày mai. Tôi sẽ biết rõ ràng hơn.”

“Thôi được.” Johnny với tay mở cánh cửa.

Hunt chặn cậu lại. “Tôi cần cây súng, Johnny.”

“Súng gì?” Nó là phản xạ tự nhiên.

Hunt nói nhỏ nhẹ. “Cây súng của ông chú cậu. Cây súng mà cậu lấy ra khỏi xe tải của ông ấy. Cậu không được mang nó trong người hay lẽ ra tôi phải hỏi cậu sớm hơn. Nó cần phải được kiểm định rõ ràng.”

Johnny chút nữa nói láo, nhưng cậu không làm như vậy. “Jack giữ cây súng.”

“Cậu chắc chắn chứ hả?”

“Chắc chắn.”

“Thật xui xẻo!”

“Hắn sẽ không làm điều gì ngu xuẩn đâu.”

Hunt gật đầu, nhưng không phải cái gật hài lòng. “Chào cậu, Johnny. Chào bà Katherine.”

Họ bước ra khỏi xe ô tô, đơn độc trong ánh đèn neon.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 59


Sở cảnh sát gần như không còn ai khi Hunt trở về. Lực lượng tuần tiễu ban đêm đang tuần hành trên đường phố. Số nhân viên trực văn phòng giữ ở mức tối thiểu. Thượng sĩ trực thường vụ là người đàn ông lớn tuổi tên Shields, gã đàn ông chán đời và cộc cằn. Ông ta chẳng buồn đặt những câu hỏi mà những ông thượng sĩ khác thường hỏi, không quan tâm về những chuyện đã xảy ra hồi sớm trong ngày. Hunt yêu cầu xem sổ lưu điện thoại và ông Shields đưa sổ cho ông. Hunt mất ba mươi phút tìm kiếm trong sổ lưu điện thoại nhưng không tìm được điều ông cần. Ông đang ngồi ở bàn làm việc, dự định ra về thì Yoakum bước vào. Ông ta vẫn mặc nguyên bộ áo quần lúc trước, dáng điệu trông mệt mỏi. “Nhìn con mèo lôi cái gì vào đây này,” Hunt nói. Yoakum ngồi đối diện với Hunt và khui nắp lon nước Pepsi. “Họ bãi nại không khởi tố tội tấn công.”

“Vậy thì tốt.”

“Nó cũng chỉ là chuyện vớ vẩn thôi.”

“Họ đã khám xét nhà ông,” Hunt nói với ông ta. “Họ mang đến cả một tiểu đội lùng sục. Sáu người, có thể hơn nữa.”

“Rồi họ có dọn dẹp không?”

“Chỉ hy vọng vậy thôi.”

Yoakum nhún vai. “Trong nhà tôi có gì đâu để mà tìm kiếm.”

Hunt nghĩ đến buổi sáng ngày khi Yoakum bị phiền nhiễu: lôi hai tay bị còng đi, thẩm vấn. Bạn của ông. Cớm. “Rồi câu chuyện diễn tiến ra làm sao?”

Yoakum uống từng ngụm, thong thả. “Raleigh là một thành phố không chê vào đâu được.”

“Tôi cũng nên đi thăm viếng thường xuyên.”

“Nhiều cô gái mặn mà.”

“Tôi dám cá như vậy.”

“Sao,” Yoakum nhìn xung quanh. “Tôi có nhỡ chuyện gì không?”

“Cũng không nhiều.”

Yoakum thấy sự dối trá. “Thật vậy sao?”

“Tôi nghĩ tôi biết tại sao dấu vân tay của ông lại có ở trên vỏ đạn trong xe ô tô của David Wilson.”

“Ông nghĩ?”

“Cứ gọi đó là một giả thuyết.”

“Lúc này là lúc cần có một giả thuyết.”

“Đúng.”

“Có phải ông đang đùa cợt với tôi không?”

Hunt đứng dậy. “Mình lên xe đi một vòng đi.”

Yoakum cũng đứng dậy. “Tôi nổi da gà khi nghe ông nói như vậy.”

Mọi thứ trong phòng khách sạn đều xấu xí và xoàng xĩnh: ga trải giường, màn cửa, hơi lạnh thổi ra từ máy điều hòa. Thảm trải sàn màu tối sậm và thêu hoa văn, ám mùi hơi người. Cả hai người lấy phòng và không nói với nhau lời nào. Bà hôn lên trán con trai một lần, rồi khoá mình trong phòng tắm. Nước từ vòi hoa sen tuôn chảy.

Chùm chìa khoá xe ô tô của bà đặt trên bàn.

Johnny đứng trong dẻo ánh sáng đỏ xuyên qua khe hở của hai tấm rèm cửa. Cậu nhìn chùm chìa khóa và nghĩ đến Jack. Cậu nghĩ đến những thứ mà hai đứa từng chia sẻ, và nghĩ về chiếc xe đạp của Jack. Sắt thép lạnh tanh và rỉ sét. Cao su mục nát nứt nẻ. Johnny nhìn ra bên ngoài. Trăng bán nguyệt treo trên bầu trời đêm trong vắt. Đèn neon đỏ nhấp nháy. Bố cậu sẽ làm gì nếu ông ấy là cậu? Hunt thì sao?

Chuyện gì xảy ra nếu họ không biết tìm kiếm Jack ở đâu?

Một thằng bạn.

Một kẻ dối trá.

Cậu nghe tiếng nước chảy từ vòi hoa sen. Cậu viết mảnh giấy để lại cho mẹ, rồi lẻn ra ngoài và khoá cửa lại.

Chùm chìa khoá xe nặng chịch trên tay.

Hunt nói chuyện trong khi đang lái xe. Thị xã lùi dần về phía sau lưng họ và màn đêm toả ra khi ông hướng xe về phía khu giếng mỏ. Ông nói cho Yoakum biết tất cả mọi chuyện và Yoakum nghiền ngẫm. Chuyện xảy ra ở nhà của Johnny. Thi thể tìm thấy ở giếng mỏ. Chiếc xe đạp của Jack. Tất cả mọi chuyện. Rồi ông đưa ra giả thuyết của mình. Khi ông nói xong, Yoakum nói, “Có khá nhiều lỗ hổng trong những gì ông nói.”

“Không nhiều lắm, và cũng không lâu lắm đâu.”

“Nó thuần túy là sự suy đoán.”

“Nhưng muốn kiểm tra cũng dễ dàng.” Hai người đi qua dòng sông quen thuộc, cây cầu quen thuộc. “Tôi mệt mỏi với những trò này lắm rồi.”

Yoakum cau mày. “Gã Cross là cớm. Tôi không tin chuyện này.”

Hunt lái xe trong yên lặng. “Khi thi thể của David Wilson được phát hiện, Cross là người chỉ tôi về hướng gã Levi Freemantle. Ông ta đứng dưới cây cầu với tấm bản đồ và chỉ cho tôi biết chính xác cái tôi cần thấy. Tôi lao vào một cuộc rượt đuổi ngỗng hoang tìm bắt một gã trọng án trốn tù mà gã ta không hề liên quan gì đến chuyện này.”

“Ông có chắc gã Freemantle không liên can gì đến vụ án này? Gã ta chính là người nói cho nhóc tì nhà Cross cái nơi tìm thấy thi thể. Gã nói với Jack về cái giếng mỏ.”

Hunt nhìn hai bên. “Gã ta ư? Chúng ta không biết chuyện gì xảy ra giữa hai người đó.”

“Vậy, chẳng lẽ Jack tự biết?”

Vỏ bánh xe bạng mạnh vào một điểm xấu trên mặt đường. “Chiếc xe đạp của hắn,” Hunt nói. “Tôi đoán hắn biết.”

“Nhưng tại sao hắn lại nói ra? Hắn tự thắt thòng lọng vào cổ mình à?”

Hunt không có câu trả lời.

“Ông nghĩ Cross giết ông David Wilson?” Yoakum hỏi. “Ông thật sự tin là Cross ủi ông ta vào bửng xi-măng? Hất văng ông ta xuống cầu, rồi sau đó đứng trên cổ họng ông ta? Đó là những chuyện kinh dị, Clyde, án mạng có chủ mưu. Cross không phải gã tôi ưa thích gì, nhưng gã ta dẫu sao cũng là cớm.”

“Wilson có trang thiết bị leo lúi và chiếc xe gắn máy chạy đường núi. Tôi nghĩ cả ngày hôm đó ông ta rong ruổi cưỡi xe trên những con đường mòn và khám phá những khu vực hầm mỏ. Có lẽ ông ta để dành cái giếng mỏ lớn nhất, sâu nhất sau cùng. Tôi nghĩ ông ta tìm được thi thể của cô bé Alyssa, và việc phát hiện ra thi thể này khiến ông ta bị thảm sát.”

“Chuyện mơ hồ quá, Clyde.”

“Ai phát hiện ra chiếc xe Land Cruiser của Wilson?”

“Cross.”

“Đúng rồi. Ông ta nói một gã say rượu nào đó vào rừng soi nai. Gã say đó gọi điện thoại báo từ một trạm điện thoại công cộng và gặp Cross. Không xác định được danh tánh người gọi. Điện thoại công cộng. Thật tiện lợi, ông có nghĩ vậy không?”

“Cảnh sát thường gặp may mắn. Điều này giúp cho công việc trôi chảy gần một nửa. Tôi chưa hề nghe ông càm ràm khi chính ông gặp may mắn.”

“Ông có bao giờ gặp Cross ở sân tập bắn không?”

“Dĩ nhiên là có.”

“Ông có bao giờ bắn súng cá nhân của ông ở sân tập

bắn không?”

“Ồ, mẹ kiếp.”

“Nếu ông ta nhặt một trong những vỏ đạn của ông thì sao?”

Yoakum không có câu trả lời dễ dàng. Ông hình dung bối cảnh ở ngoài sân tập bắn: đeo đồ chụp bảo vệ thính giác, kính an toàn, sự tập trung hạn hẹp, bia bắn, và không thứ gì khác. Hunt tiếp tục, giọng sắc bén. “Tin đồn xì ra rằng tôi đang tìm kiếm một tay cảnh sát. Do vậy Cross cung cấp cho tôi một tay. Ông ta cũng mồi tôi chiếc xe của ông David Wilson và một cái vỏ đạn với dấu vân tay của ông ở trên đó. Ông ta mồi tôi bằng chính ông.”

Yoakum không nói gì. Đôi khi ông im lặng trước chuyện cá nhân của mình.

“Chúng ta gần đến nơi rồi.”

Yoakum nhìn ra bên ngoài cửa sổ. “Ông biết lai lịch gì về những người mà chúng ta sắp sửa gặp không?”

Hunt rẽ phải và con đường thu hẹp lại. Trước mặt là cái bảng sơn trắng in chữ “Đóng Cửa.” “Chúng tôi lái xe đi ngang qua nhà họ trên đường vào giếng mỏ, một người đàn ông và một phụ nữ. Ông ta thích uống bia. Bà ta thì xấu xí hãi hùng. Họ sinh sống trong một căn nhà tiền chế tồi tàn gần cổng ra vào hầm mỏ. Trước đây có một chiếc xe đậu khi tôi đến nơi này. Tôi có thể nói, họ là những người duy nhất sinh sống gần hầm mỏ. Những chuyện khác,” Hunt nói, “tôi hoàn toàn không biết gì.”

“Không một điều gì?”

“Ngay cả tên của họ.”

“Vậy chúng ta tìm đến đây để làm gì?”

“Địa lý.” Hunt lái ô tô băng qua cây cầu hẹp gác qua con suối. “Nó là lý do duy nhất có lý lẽ.” Con đường chuyển qua đất đá. Đá dăm văng lên kêu lạo xạo và lùng bùng dưới gầm xe. “Đến rồi đó,” Hunt nói.

“Cảnh sát trưởng vẫn còn giữ súng của tôi.”

“Trong hộc đựng trên táp-lô.”

Yoakum mở hộc trên táp-lô và lôi ra cây súng cá nhân của Hunt. Ông lên đạn, kiểm tra súng. “Ngon lành.”

“Cố gắng đừng bắn tử thương ai lần này.”

Hunt thấy căn nhà tiền chế cũ nát, chiếc xe tải chứa đầy vỏ lon bia. Đèn cháy sáng đằng sau những ô cửa sổ dơ bẩn. Bên trong căn nhà có ai đó chuyển động. Ông tắt đèn xe và chạy trờ đến, rồi dừng xe đằng sau chiếc xe tải. Mắt ông dính chặt vào chiếc xe tải, ông gõ vào bàn phím biển số của nó. “Đăng ký dưới tên chủ quyền xe Patricia Defries. Vài lần bị kết án phạm luật vi cảnh. Tiểu tiện ngoài công cộng. Say rượu và gây rối.”

“Quá đẹp.”

“Hai tội đại hình.”

“Tội gì?”

“Ký chi phiếu khống không tiền bảo chứng và lường gạt. Thêm một tội đại hình nữa thì bà ta sẽ nằm tù khá lâu. Lần thứ ba gây án. Điều này có thể cho Cross lợi điểm nếu ông ta bắt được bà ta làm chuyện gì đó bất chính.”

“Kế hoạch chúng ta sẽ như thế nào?”

“Dễ dàng.” Hunt mở cửa xe ô tô. “Chúng ta nói dóc.”

Yoakum lận cây súng kỹ vào trong khi họ bước vào hàng hiên nhỏ hẹp. Xuyên qua cửa sổ, họ thấy chiếc ghế sofa dài, thấp, người đàn ông nằm trên ghế, chân đưa lên cao. Gã ta nhìn giống Hunt. Gầy gò và râu ria không cạo. Bẩn thỉu. Ngực gã ta teo lép và đôi chân gầy khẳng khiu, tay gã cầm cái gì đó như là lon bia. Người đàn bà mặc váy ngắn. Khuôn mặt dữ tợn. Từ cái kiểu bà ta đang đứng, cho thấy bà ta đang giận dữ về một chuyện gì đó. Hai tay chống nạnh. Mồm lép nhép liên tục. Bà ta đứng trước tivi và gã đàn ông nghiêng về phía bên trái. “Gia đình hạnh phúc,” Yoakum nói. Hunt gõ cửa và vô tuyến vụt tắt. Ông lùi bước và bước chân nặng nề của người đàn bà làm rung chuyển cả một cái khung căn nhà rẻ tiền. Khuôn mặt bà ta che kín cửa sổ nhỏ: răng nâu, nước da xấu xí.

“Bình tĩnh nào,” Yoakum thì thào.

Hunt đưa thẻ hành sự của ông áp sát vào mặt kính. Chốt cửa mở ra từ phía bên trong và người đàn bà xuất hiện đằng sau cánh cửa lưới bị rách. “Giơ nó lên lần nữa,” bà ta nói. Hunt đưa thẻ hành sự lên. “Thám tử Cross biệt phái chúng tôi đến đây.”

Người đàn bà mồi điếu thuốc, nhả khói. Cặp mắt bà ta đảo nhìn Hunt, rồi đưa lên nhìn Yoakum và trở xuống. “Bây giờ ông ta muốn gì nữa?”

“Chúng tôi được phép vào trong chứ?”

Bà ta nhìn qua họ một lần nữa, rít thêm một hơi thuốc lá. “Nhớ chùi chân các ông.”

Chiếc xe tải không còn đậu trước nhà kho thuốc lá. Không có Jack. Trong ánh sáng yếu ớt phát ra từ một chiếc đèn pha ô tô duy nhất, Johnny thấy một ánh sắc lóe lên, chiếc ba-lô xanh của cậu. Nó bẩn thỉu, dấu vết tấy bẩn vẫn còn ở dưới đáy. Jack đặt nó gọn gàng ngay ở giữa cánh cửa nhà kho. Johnny ra khỏi xe ô tô, nhưng vẫn để động cơ nổ máy. Vầng trăng to lớn và thấp lè tè, màu trắng bạc. Không khí đượm mùi xăng và dầu máy bị đốt cháy.

Johnny cầm chiếc ba-lô lên, cảm giác bên trong trống rỗng. Mở nó ra, cậu ngửi thấy luồng hơi của con chim chết. Dưới đáy là lời nhắn viết ở mặt sau của tờ hoá đơn có tên chú Steve. Chữ viết tay của Jack.

Gặp tớ ở đó.

Những năm vừa qua có quá nhiều nơi chốn, nhưng Johnny biết một nơi. Nó là nơi hai đứa vẫn uống bia và kể chuyện, nơi cả hai cùng đến để tiêu sầu. Đó là nơi ông David Wilson tử nạn trở về với đất. Nơi mà tất cả những chuyện này bắt đầu. Johnny quay đầu xe trong bụi rậm và lườn chiếc xe cán sát đường.

Cậu lái xe đến con sông.

Cậu qua mặt vài chiếc xe. Trời bắt đầu tối. Những con côn trùng to lớn va đập vào kính trước xe và mắt nhìn của cậu nhạt nhoà đôi lần. Cậu đuối sức, căng thẳng đến mức tối đa làm cậu suýt chút nữa nhỡ ngã rẽ ở con đường chính. Con đường mòn cỏ dại mọc um tùm và chằng chịt dấu vết bánh xe, những cây cỏ dại vẫn còn cong oằn từ các xe tuần tiễu của cớm khi họ có mặt tại hiện trường vụ án mạng ông David Wilson. Nó đổ dốc về phía dòng sông, cây cầu vươn lên ở bên phía tay trái. Đoạn đường đất xói lở làm chệch bánh lái khỏi tay của cậu khi chiếc xe tiến vào con đường mòn. Cậu thấy chiếc xe tải ở trong sâu mười hai mét, một bóng ma trong bụi rậm. Khoang xe tối om và không có người. Johnny tắt đèn xe và lao ra bên ngoài. Cậu bước bộ quá chiếc xe tải và nhìn xuống dòng sông. Ánh trăng hắt lên từ mặt nước và những phiến đá phẳng màu xám bạc. Bóng tối bao trùm phía dưới chân cầu. Johnny tuột mình xuống dưới bờ kè dòng sông, đụng trúng một đụn cát, rồi sau đó bước lên một tảng đá to lớn bằng phẳng. Dòng nước di chuyển, và một cái gì đó đen ngòm trôi nổi đi qua. Hàng liễu ở phía bên phải, cây cầu nằm ở hướng trái. Cậu không tìm thấy Jack.

“Tớ ở bên này, Johnny.”

Âm thanh phát ra từ phía dưới cây cầu. Giọng nói của Jack. Tiếng của kẻ say rượu. Khi xuống dưới gầm cầu, Johnny có thể thấy hắn. Hắn ngồi ngay cạnh mép sông. Một cây trụ cầu đổ xuống từ cây cầu; nó có vỏ bọc xi-măng hẹp bên ngoài và Jack đang ngồi trên đó, hai chân thõng xuống dòng nước. Johnny dừng lại cách chỗ Jack chừng sáu mét. Jack xỉn. Hắn đưa chai rượu lên và Johnny nghe tiếng òng ọc của rượu. “Uống không?”

“Cậu đang làm cái trò gì ngoài này vậy, Jack?” Johnny muốn giữ bình tĩnh, nhưng cậu không còn kiềm chế nổi nữa. Alyssa đã thiệt mạng và Jack đang ngồi nốc bourbon. Jack tuột xuống trụ cầu xi-măng. Hắn bì bõm lội ra khỏi chỗ nước ròng, vấp ngã một lần, và té quỵ đầu gối xuống. “Bước ra ngoài để tớ còn thấy cậu.” Johnny bước ra ngoài từ dưới gầm cầu. Một phần trong Johnny muốn nói chuyện. Một phần thì chỉ muốn đấm một phát vào mặt thằng bạn duy nhất.

“Tớ xin lỗi cậu.” Giọng nói của hắn lè nhè khiến Johnny rất khó khăn mới hiểu được.

“Johnny.” Jack bước ra ngoài dưới ánh trăng. Hắn mặc chiếc áo jacket mượn của Johnny. Quần hắn ướt đẫm đến thắt lưng. Hắn lại vấp ngã và văng mất cái chai. Nó va vào tảng đá và mùi rượu bốc lên hoà quyện với bùn đất. Jack ngồi cạnh bên cái chai vỡ. “Tớ thực lòng rất muốn xin lỗi.”

“Xin lỗi chuyện gì?” Johnny quay lại. “Nói tớ nghe xin lỗi vì chuyện gì?”

Jack lắc đầu, vùi mặt vào lòng hai bàn tay. “Sự hèn nhát là tội lỗi.”

Johnny trố mắt nhìn thằng bạn, giọng hắn lựa nhựa gần như thổn thức.

“Cậu có nói những điều tốt về tớ nếu có ai hỏi không?” Jack chùi cánh tay vào mũi. “Chỉ là nếu mà thôi, Johnny. Nếu ai đó có hỏi? Cậu có nói với họ tớ là thằng bạn tốt không? Tớ đã cố gắng, cậu biết mà. Những đêm tớ đi với cậu. Những đêm lùng sục tìm kiếm. Tớ bọc hậu cho cậu vì tớ biết cậu sẽ không bỏ cuộc. Tớ cố gắng lôi cậu ra xa những căn nhà tồi tệ, những nơi thật sự mất mạng như chơi. Tớ sẽ không sống nổi nếu cậu có mệnh hệ nào. Tội lỗi dằn vặt sẽ giết tớ, Johnny. Nó sẽ giết tớ một cách thẳng thừng.”

“Còn những tội lỗi khác thì sao, Jack? Còn Alyssa thì sao? Cậu biết em gái của tớ ở đâu đúng không? Trong suốt thời gian qua, đúng không?”

“Sự dối trá và yếu đuối. Nó cũng là những tội lỗi.”

“Jack.”

“Chúa sẽ tha thứ cho những tội lỗi vụn vặt.”

“Trong suốt thời gian qua.”

“Tớ đã cố gắng giữ an toàn cho cậu.” Jack lúng túng đứng trên tảng đá. “Cô ấy đã chết.” Hắn lắc đầu. “Cô ấy đã chết rồi.”

“Chuyện gì đã xảy ra với em gái tớ?” Johnny đứng trên Jack, hai tay co nắm đấm. Cậu không còn kiềm chế. Cậu không giữ được sự kiềm chế nữa. “Chuyện gì đã xảy ra, Jack?”

Jack hít vào một hơi thở sâu, nặng nhọc, hai mắt vẫn dán chặt xuống dòng sông. “Tớ cho cô ấy mượn chiếc xe đạp của tớ. Tớ chỉ có làm bấy nhiêu đó. Tớ chỉ muốn giúp. Cậu phải tin tớ.”

“Nói cho tớ biết toàn bộ sự việc đi!”

“Bọn tớ đang ở thư viện, một đám bọn tớ. Cậu có biết cái đề tài mà bọn tớ phải làm không?”

Johnny không nói gì, Jack gật đầu. “Bọn tớ ở chung một nhóm với nhau, Alyssa và tớ. Núi lửa. Bọn tớ làm một báo cáo về núi lửa. Lúc đó trời đã tối, vừa chợp tối, cậu biết đấy. Mọi người đều nói đã đến giờ đi về.” Hắn lờ đờ một lúc. “Tớ cho cô bé mượn chiếc xe đạp của tớ vì bố cậu quên không đến đón cô bé. Ông quên đón con gái và màn đêm đang buông xuống dần. Thằng anh Gerald của tớ mới có một chiếc xe tải mới toanh và loay hoay tìm kiếm một cái cớ để lái nó đi, do vậy tớ cho cô bé mượn chiếc xe đạp và gọi thằng anh tớ xin quá giang về nhà. Tớ chỉ có làm bấy nhiêu đó thôi Johnny. Cậu thấy không, không có chuyện gì xấu xa có thể xảy ra, đúng không? Tớ cố gắng sống tốt mà. Điều đó cũng đáng kể, đúng không? Đáng kể.”

Jack che mắt. Bàn tay nhỏ. Bàn tay bình thường. Cả hai bàn tay co cụm và rung bần bật.

“Hắn nói hắn muốn hù doạ cô ấy.”

“Ai?”

“Lẽ ra đây chỉ là một trò đùa cợt.”

“Gã Gerald hả?” Johnny hỏi.

“Cô ấy ra sức đạp lao đi.”

“Trời ơi!”

“Ngay sát cạnh lề đường.” Ngừng lại. “Thằng đó chỉ muốn hù doạ cô bé.”

“Chuyện gì xảy ra, Jack?”

“Thằng anh tớ uống rượu.”

Johnny nắm lấy cổ áo của Jack. Cậu kéo mạnh và làm rách cái áo. “Chuyện chết tiệt gì đã xảy ra?”

“Cô ấy quay cổ nhìn lại, và tớ đoán là cái đèn pha xe tải − nó quá gần. Tớ cũng không biết. Cô ấy loạng choạng. Té ngã. Chui tọt vào trong gầm xe tải. Thằng anh Gerald của tớ hoảng loạn. Hắn gọi ông bố tớ.” Jack gào khóc. “Cô ấy đã chết rồi, Johnny.”

“Tớ không hiểu.”

“Chết và không còn nữa. Tớ muốn nói lắm, nhưng Gerald đã được đội banh nhà nghề tuyển chọn ký hợp đồng.”

“Chuyện đó thì liên quan gì?”

“Bố tớ nói nếu chuyện này lọt ra ngoài, hắn sẽ phải hôn nụ hôn giã từ tất cả những thứ đó.”

“Cậu dối trá chỉ vì sự nghiệp chơi bóng chày của Gerald.” Johnny gào thét, Jack lắc đầu. “Rồi sao nữa?” Johnny nói. “Chuyện gì nữa?”

“Tớ muốn nói ra chuyện này.”

“Nhưng cậu đã không nói.”

Bây giờ thì Jack thút thít khóc. “Johnny.”

“Trong suốt thời gian qua.”

Jack đứng loạng choạng ngả nghiêng. Hắn đưa một bàn tay ra, nhưng Johnny đập nó văng xuống.

“Tớ đã cố gắng.”

“Cậu cố gắng như thế nào?”

“Cậu có nhớ tớ nói với cậu là Gerald đánh gãy cánh tay của tớ không?” Jack run lập cập, đôi mắt van nài. “Đó là ông bố của tớ, Johnny. Tớ nói với ông ta tớ sẽ nói hết mọi chuyện và ông ta đánh gẫy tay tớ. Ông ấy làm gẫy cánh tay của tớ ở bốn chỗ. Lão đè tớ xuống đất và buộc tớ phải thề.” Bàn tay của Jack nắm lấy cánh tay của Johnny. “Lão bắt tớ phải thề.”

“Vì sự nghiệp của thằng Gerald?”

“Nó là chuyện duy nhất họ bàn tính với nhau.” Johnny nhìn đăm đăm. “Gerald và bố tớ.”

Johnny cảm thấy bao tử của cậu quặn thắt. Cậu co gập người xuống và xoay mặt đi chỗ khác. Tay cậu với được cành cây nào đó và cậu tựa mình vào nó. “Cậu nói Levi Freemantle nói với cậu nơi giấu xác của con bé.”

“Lại thêm một sự dối trá khác.”

“Vậy thì tại sao bây giờ, Jack? Tại sao bây giờ lại nói hết ra?”

“Bởi vì gã Freemantle được gửi đến đây vì một lý do.”

“Lý do gì?”

Jack kinh hãi. “Chúa biết rõ.”

Không có đàn quạ, Johnny nghĩ. Chúa biết.

“Gã cứ nói đi nói lại chuyện ấy. Ngay cả trong giấc ngủ, gã cũng nói. Không có đàn quạ. Chúa biết. Cậu nhớ cái tên của giếng mỏ không. No Croz. Tớ không làm sao xua đuổi nó ra khỏi đầu óc tớ, Johnny. Chúa biết, cậu có thấy không? Chúa biết những gì tớ đã làm.” Jack ngưng bất thình lình. “Điều cuối cùng Freemantle nói với tớ... điều cuối cùng gã nói... Ôi, mẹ kiếp!”

“Chuyện gì vậy?”

Jack ngồi xuống tảng đá. “Chúa biết vẻ đẹp thánh thiện trong linh hồn của cô ấy.” Jack đưa cánh tay nhỏ lên. “Tớ sẽ bị đốt cháy dưới hỏa ngục, Johnny.” Cánh tay rớt xuống, và Jack van nài. “Nếu ai đó hỏi, cậu sẽ nói một điều gì đó tốt chứ hả?”

Hắn thút thít khóc.

“Johnny?”

Johnny quay lưng và trèo lên trên bờ sông. Giọng của Jack với theo cậu, nhỏ, rồi càng nhỏ hơn.

“Johnny?”

Không còn gì. Gió thổi đùa dưới cỏ.

“Johnny?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 60


Hunt lao ô tô vút đi, những ngọn đèn xanh chớp tắt trong vỉ trước đầu xe. Yoakum, ngồi sát cạnh bên, khuôn mặt đanh lạnh như thép. Đồng hồ trên táp-lô chỉ 1:10 sáng. Hunt đã dàn xếp một cuộc họp khẩn cấp với biện lý và thẩm phán tòa sơ thẩm. Mất hết một giờ đồng hồ, nhưng ông có trát bắt xếp bên trong túi áo khoác và hai cảnh sát mặc đồng phục được chọn lựa đi theo yểm trợ. Không một ai khác biết chuyện. Kể cả cảnh sát trưởng. Kể cả tất cả các cớm khác. Họ tiến hành công chuyện trong bóng tối, nhỡ trong trường hợp Cross có bạn bè nào đó có thể đến nhà mách nước trước. “Năm phút,” Hunt nói.

Lần thứ ba, Yoakum kiểm tra băng đạn trong cây súng mượn tạm. Điện thoại của Hunt reo vang. Ông liếc màn hình hiển thị số điện thoại người gọi rồi trả lời. Cú điện thoại ngắn gọn, và khi nói xong, ông không nhìn Yoakum. “Bác sĩ khám nghiệm tử thi,” ông nói. “Hồ sơ răng hàm trùng hợp. Tử thi chính là Alyssa.”

Yên lặng. Bánh xe cao su lăn trên mặt đường nhựa.

“Tôi rất lấy làm tiếc, Clyde.”

“Bốn phút.”

Ba mươi giây sau, điện thoại Hunt lại reo vang. Ông không nhận ra được số điện thoại hiển thị, nhưng vẫn trả lời cú gọi. “Cậu đang ở đâu đó, Johnny? Bình tĩnh. Tôi đây. Không. Không. Cứ thong thả.”

Hunt nghe cả phút dài, không nói lời nào. Khi Johnny nói xong, mảnh ghép cuối cùng được ráp vào đúng chỗ và Hunt hoàn tất bức tranh. Tất cả chúng. Xếp vào gọn gàng chặt chẽ. “Được rồi, Johnny. Tôi đã hiểu và tôi sẽ dàn xếp chuyện này. Không, tôi sẽ dàn xếp nó ngay đêm nay. Ngay lúc này. Cậu đang ở đâu?” Một phút yên lặng. “Không. Tôi không muốn cậu ở ngoài tiền sảnh. Tôi muốn cậu trở về phòng, ngay bây giờ. Tôi đã dàn xếp hết mọi chuyện. Chúng ta sẽ nói chuyện vào ngày mai.”

Ông cúp máy lần nữa và Yoakum chờ mười giây đồng hồ. “Lại chuyện gì thế?”

Hunt thuật lại câu chuyện bằng những câu cộc lốc, hằn học. Alyssa chết thế nào. Làm sao thi thể cô bé ở dưới đáy giếng mỏ.

Yoakum tiêu hoá chuyện này khoảng một đỗi. “Cô bé thiệt mạng vì tai nạn?”

“Thằng Gerald say rượu. Cross giấu biến xác nạn nhân để bảo vệ anh con trai. Ông ta vất xác cô bé xuống dưới giếng mỏ. Một mình dưới đó.” Ông hít một hơi thở nặng nhọc. “Lạy Chúa tôi.”

“Ông không sao chứ?”

“Chúng ta cũng sẽ tóm cổ Gerald.”

“Chúng ta không có trát bắt Gerald.”

“Tình nghi ngộ sát. Bao nhiêu đó đủ để thẩm tra hắn.”

“Johnny quả là một nhóc tì cứng cựa,” Yoakum nói.

“Đúng vậy.”

“Cross sẽ bị tóm cổ.”

“Một phút nữa.”

Hunt rẽ xe vào khu hàng xóm nhà Cross.

Johnny mở cửa phòng khách sạn bằng thẻ khoá. Hai ngọn đèn đang cháy. Mẹ cậu ngồi cạnh chiếc giường gần nhất. Trông bà mệt mỏi nhưng hai mắt khô cong.

“Mẹ không thể gọi Hunt,” bà nói, và đứng dậy. “Ông ta sẽ không bao giờ để con trở về bên mẹ.”

Johnny bước vào phòng và đóng cửa.

“Con đã bỏ mẹ,” bà nói, và Johnny thấy người bà đông cứng như thế nào.

“Con sẽ không bao giờ làm như vậy nữa.”

“Làm sao mẹ tin được điều đó?”

“Con hứa.”

Bà đi ngang căn phòng và quàng tay ôm choàng lấy cậu. “Hứa với mẹ một lần nữa đi.”

Johnny ngửi thấy mùi xà phòng và tóc tai sạch sẽ. “Con hứa.”

Bà ôm ghì lấy con, và khi bà lùi bước, Johnny nói với bà những gì cậu biết được. Không dễ dàng tí nào, và phải mất một thời gian. Alyssa chết rồi, nhưng đó là một tai nạn. Cậu giải thích chuyện ấy hai lần, và vài lời lăn ra khỏi cửa miệng của bà.

Một tai nạn.

Sau đó cả hai yên lặng một lúc thật lâu.

Yên lặng, nhưng ở cạnh bên nhau.

Hunt nhận cú điện thoại khi họ chỉ còn cách hai dãy phố. “Xin chú ý, hàng xóm trình báo có vũ khí ở hiện trường.”

“Mẹ kiếp!”

Hunt rú còi và chiếc xe tuần tiễu theo sát ngay sau lưng cũng làm tương tự. Hai lần quẹo nhanh chóng và căn nhà của Cross hiện ra ngay bên phải. Đèn cháy sáng dọc theo đường biên nóc nhà, nhiều ngọn đèn chiếu lớn ở các góc, nhiều ngọn đèn treo trên cột dọc theo đường bộ hành. Chiếc xe tải trắng lao mũi vào trước tiên và đổ sụp xuống bên hông nhà. Cỏ dưới sân bị cày nát đằng sau, những bụi cây bị ủi sạch. Một ngọn đèn sau xe chớp tắt, chớp tắt. Đỏ. Đỏ. Đỏ. Thám tử Cross ở trong sân nhà; cả bà vợ và anh con trai Gerald. Cross đang gào thét. Vợ ông ta quỳ gối, Thánh kinh cầm trên tay, ghì siết cầu nguyện.

Jack có cây súng trên tay.

Hắn chĩa nòng súng vào ông bố.

Hunt và Yoakum lao ra khỏi ô tô cùng lúc với hai cảnh sát viên mặc đồng phục. Súng rút ra khỏi bao. “Kềm chế hoả lực,” Hunt nói. “Tôi biết anh nhóc. Tôi không muốn hắn bị thương tích.”

Những cớm khác nghe lời ra lệnh của ông, nhưng súng vẫn chĩa. Hunt giữ súng của ông trong vỏ súng. Ông đi nhẹ vào trong sân cỏ, hai tay đặt hai bên hông. Jack đỏ ửng người và run rẩy. Mặt đầm đìa nước mắt. Cross đóng vai người cha nghiêm khắc. “Jack, con đưa bố cây súng ngay bây giờ! Ngay giây phút này! Bố không đùa đâu!” Cross thấy Hunt đến gần và đưa một tay ra. “Tôi làm được chuyện này,” ông nói. “Sẽ ổn thôi.” Trở lại với anh con trai. “Jack, con thấy chuyện này không? Ai đó gọi cảnh sát rồi. Bây giờ là lúc chấm dứt chuyện này. Đưa bố cây súng.”

Đằng sau Jack, mẹ hắn rung người trên hai đầu gối. Jack nhìn về hướng bà, và một tay mò tìm được cây thánh giá bạc đeo trên cổ. Giọng của bà vươn cao và như thể bà ta đang nói chuyện trong lưỡi. “Đừng, mẹ.” Khuôn mặt của Jack co giật. “Đừng làm vậy.” Hắn giật phăng cây thánh giá và vứt nó về hướng bà.

“Đưa cho bố cây súng, Jack.”

Jack rời mắt khỏi mẹ hắn. Ông bố hắn tiến đến gần hơn. Một mét rưỡi. Một mét hai. “Đây là lỗi của bố.” Giọng của Jack thì thào.

“Con trai.”

Hắn chĩa cây súng vào ông bố. “Con sẽ đi xuống hoả ngục, và đây là lỗi của bố.”

Jack bước lại gần hơn trong khi bà mẹ của hắn gào khóc. Cross đưa hai tay lên. “Con trai...”

“Chúa tha thứ cho những lỗi lầm nhỏ.”

Hunt thấy cò súng chuyển dịch, nhưng ông ở cách đó khá xa. “Đừng.” Ông lao đến chụp lấy Jack. Cò súng hướng lên cao và rơi xuống; Cross gào lên trong khi cò súng rơi xuống kêu một tiếng cạch khô khan. Jack lại bóp cò một lần nữa, nhưng không có chuyện gì xảy ra.

Hunt quật ngã cậu nhóc.

Cây súng văng ra khỏi tay hắn và Cross với tay lượm súng. “Đừng động đến nó,” Hunt nói với ông ta. Ông ta nằm sõng soài trên sân cỏ, Jack bị chẹt phía dưới người ông. “Đừng động đến cây súng và không được động đậy!”

“Ý ông là sao?”

“Tất cả các người không ai được động đậy.” Hunt lôi Jack đứng dậy và giao hắn cho Yoakum.

“Nhẹ nhàng thôi nhé,” ông nói, và Yoakum dắt cậu con trai đi chỗ khác, khóc bù lu bù loa và mũi dãi lòng thòng.

“Tôi muốn nói chuyện với Johnny.” Jack chống chọi ở ngay cửa xe ô tô. Hắn vùng vẫy và hét lên, “Tôi muốn nói chuyện với Johnny.” Tay của Yoakum đặt trên đầu Jack. “Johnny! Tôi muốn nói chuyện với Johnny!”

Cánh cửa đóng sầm, ngắt quãng tiếng gào của hắn, và hắn bạng mạnh đầu mình vào cánh cửa kính bốn lần. Hunt nhặt cây súng lên và tháo trái khế. Trống rỗng. Ông bỏ cây súng vào trong túi áo khoác. Cross mạo hiểm bước một bước, hai tay chìa ra. “Thằng nhóc ấy say rượu. Nó có vấn đề. Chúng tôi sẽ mang nó đi cai nghiện và tìm sự giúp đỡ.”

“Ông cần đi theo tôi,” Hunt nói. “Về trụ sở nha cảnh sát.”

“Nó là con trai của tôi, Hunt. Tôi sẽ không yêu cầu khởi tố hắn.” Cross cố gắng cười gượng. Khuôn mặt Hunt vẫn không hề biểu lộ cảm xúc, điều này cũng phải vất vả tập dượt mới có được. “Ông và anh con trai Gerald,” Hunt nói, tay để rất gần bao da đựng súng. “Lời yêu cầu của tôi vì phép lịch sự.” Ông chỉ qua sân những nhà hàng xóm, vài người đứng ngoài sân và theo dõi diễn tiến sự việc. Hunt bước gần hơn nhưng không hề hạ thấp giọng. “Tôi nghe câu chuyện từ Jack. Chuyện đã xảy ra với Alyssa. Sự liên can của Gerald. Tất cả mọi thứ.” Hunt bồi cho ông ta một cú giật thót tim. “Chúng tôi tìm thấy thi thể cô bé vài giờ trước đây.”

Cross nhìn anh con trai, bà vợ vẫn còn đang sụt sùi khóc.

“Hãy hành động cho tử tế,” Hunt nói.

Khi Cross quay nhìn trở lại, cái mặt nạ rơi xuống. Khuôn mặt ông ta hoàn toàn là sự tính toán. “Tôi không hiểu ông đang nói chuyện gì.”

“Ông David Wilson tìm được thi thể của Alyssa. Trước tiên, tôi nghĩ việc ông ta gọi nha cảnh sát và nói chuyện với ông hoàn toàn do ngẫu nhiên, nhưng không có dấu tích nào trong sổ lưu các cú gọi điện thoại, và không có ai may mắn như thế cả.”

“Ông nhầm rồi.”

“Cứ bình tĩnh. Tôi đã nói chuyện với bà Patricia Defried tối hôm nay. Bà ta nói với tôi tất cả mọi chuyện.” Và bà ta nói hết. Cross bắt quả tang bà ta trong một vụ gian lận chi phiếu. Vụ bắt bớ đó là trọng tội lần thứ ba, cú vấp ngã thứ ba. Nếu bị kết án, bà ta sẽ ngồi tù ít nhất mười hai năm. Do đó Cross tạo điều kiện dễ dàng cho bà ta. Ông ta muốn biết bất cứ người nào lai vãng gần giếng mỏ. Bất cứ ai. Bất cứ lúc nào. Bà nói bà không biết vì sao Cross quan tâm về những giếng mỏ, và Hunt tin lời nói của bà ta. Ông muốn bà ta nói ra bí mật, và muốn trông thấy vẻ sợ hãi của bà ta hiện lên trên mặt. Hunt nói, “Tôi giải thích với bà ta gian lận chi phiếu chỉ là chuyện rất nhỏ so với liên đới hình sự đến giết người. Tôi nói cho bà ta biết tôi đang rất nghiêm túc, và rằng bà ta sẽ chung xuồng đi tù với ông. Bà ta khai hết và bà sẽ ra khai trước toà. Bà ta sẽ nói ông xuất hiện như thế nào ở giếng mỏ sau khi bà ta gọi điện thoại cho ông, làm sao năm phút sau đó, ông Wilson chạy thục mạng trên chiếc xe gắn máy của ông ta bị chính ông đuổi theo sát sạt sau đuôi. Bà ta ghi chú ngày giờ. Johnny Merrimon thấy ông Wilson rơi xuống qua lan can cầu mười lăm phút sau.”

“Bà ta là kẻ lừa gạt và nát rượu. Không phải là nhân chứng tử tế.”

Hunt sục sạo tìm kiếm xe ô tô đậu dọc theo lề đường. “Xe ô tô của ông đâu?” Ông hỏi. “Chiếc Dodge Charger đúng không? Tôi sẽ phải gọi bao nhiêu tiệm làm đồng trước khi tôi tìm thấy nó? Dĩ nhiên không phải tiệm nào ở trong thị xã. Nhưng có thể ở Wilmington? Raleigh? Một trong những thành phố lớn, tôi nghĩ vậy. Nhưng chúng tôi sẽ tìm nó. Hư hỏng bẹp nát phía dè trước. Nước sơn trùng hợp với nước sơn chúng tôi thâu lượm được ở cây cầu.”

“Tôi cần một luật sư.”

Hunt ra hiệu cho hai cảnh sát viên đồng phục. “Ông bị bắt vì liên quan đến vụ án mạng giết ông David Wilson. Ông có quyền giữ yên lặng...”

“Tôi biết quyền lợi của tôi.”

“Bất cứ điều gì ông nói có thể và sẽ được dùng để truy tố chính ông.”

“Chờ một chút. Chờ một chút.” Cross liếm môi. “Tôi muốn nói chuyện với ông. Chỉ với ông. Chỉ một giây đồng hồ.” Hunt chần chừ. “Ông muốn làm điều phải, đúng không? Đó là những gì ông muốn thế, đúng không? Con bà Hướng Đạo Sinh.” Hunt đưa lên một tay ra hiệu và cảnh sát đồng phục lùi bước. “Ông nên suy nghĩ về chuyện ông đang làm. Ông nên suy nghĩ cho thật kỹ.”

“Tôi không cần thiết phải suy nghĩ. Tôi có trát bắt của toà án.”

Cross nghiêng người vào. Hai mắt của ông chớp chớp ở hai người cảnh sát đồng phục qua bờ vai của Hunt và lời thầm thì của ông ta thổi hơi thở nóng bỏng vào trong không khí. “Con trai của ông cũng có mặt trên chiếc xe tải.”

Hunt bước ra chỗ khác. “Hắn ta không hề.”

“Hắn ngồi ở ghế đằng trước khi Alyssa bị cán dưới bánh xe.”

“Tôi không tin ông.”

“Hắn như thế nào trong suốt năm vừa qua? Thằng con trai của ông? Bình thường? Có phải cũng thằng con trai của ông như cách đây một năm qua? Ồ, để tôi đoán. Buồn rầu ủ rũ? Bồn chồn lo lắng? Đoạn giao với ông, đúng không? Hãy làm điều phải đi Hunt. Với gã đàn ông, không có gì quan trọng hơn gia đình. Tất cả mọi chuyện này cũng từ đó mà ra cả."

Hunt nhìn xung quanh sân nhà. Jack là một vết bẩn đỏ phía đằng sau ghế ngồi trên xe ô tô của cớm. Gerald trong trạng thái gần khóc. Vợ Cross hai mắt nhắm nghiền khi bà lắc lư và van nài than vãn. “Tôi không nghĩ gia đình ông chịu đựng nổi chuyện này, Cross.”

“Hắn là đứa con trai duy nhất của ông, đúng không?”

Hunt tiếp ánh mắt nhìn của ông ta trong ba giây đồng hồ.

“Hãy làm theo lẽ phải,” Cross nói.

Hunt lùi bước và ra hiệu cho hai viên cảnh sát đồng phục. “Ông có quyền đại diện bởi luật sư.”

Cặp còng được lôi ra.

Cross chống cự, rồi bị vật ngã, gào thét. Ông ta mất cả hai chiếc dép khi họ lôi kéo ông ta ra xe.

Gần sáu giờ sáng khi Hunt rời nha cảnh sát. Cross từ chối không khai báo, nhưng mọi chuyện từ Gerald được tuôn ra ào ạt như nước thủy triều dâng. Nó tuôn ra từ mặc cảm tội lỗi. Đơn giản và thuần tuý. Thằng con trai bị dày vò từ bên trong.

Mặt trời tạo một chấm đỏ nhạt nhoà khi con đường dốc ngược lên, nhưng nhà Hunt vẫn còn chìm đắm trong màn đêm. Ông mở cửa vào nhà và đứng lặng lẽ trong nhà bếp. Tiếng tủ lạnh u u vang đều. Một cánh cửa ga-ra mở ra ở đâu đó cuối con đường.

Hunt đặt cây súng và thẻ hành sự lên mặt quầy. Những bậc thang thở dài kẽo kẹt dưới bước chân của ông và ông cảm thấy luồng gió nóng khi ông mở cửa phòng thằng con trai. Hắn ta cuộn mình trong chăn, tóc hanh vàng, và tuổi hồn nhiên đã mất.

Quá khứ.

Quá nhiều kỷ niệm êm đềm.

Hunt kéo cái ghế cạnh giường và ngồi xuống. Ông ấn các đầu ngón tay vào hai mắt và thấy những đốm lóe điên khùng quen thuộc. Chuyện này không thể là kết cục được. Vẫn còn có quyền năng trong sự chọn lựa. Hunt tin tưởng như vậy. Không bao giờ quá trễ để làm theo lẽ phải. Đôi môi ông mấp máy trong yên lặng.

Không bao giờ quá trễ.

Hunt nhìn anh con trai ngủ, và đôi môi của ông mấp máy trở lại.

Nhắc lại nó.

Một lời cầu nguyện của chính ông.

Phải mất hai mươi phút Allen mới tỉnh giấc, và đó là hai mươi phút dài nhất trong cuộc đời Hunt. Hai lần ông đứng lên, nhưng cả hai lần ông đều ngồi lại, cho đến khi ánh sáng nhạt và hồng chạm da mặt con trai của ông. Đôi mắt của hắn rất ngây thơ khi chúng mở ra. “Ủa, bố. Chuyện gì xảy ra vậy?” Hắn dụi mắt và ngồi lên trên những cái gối.

“Con biết bố thương yêu con, đúng không?”

“Đúng. Chắc chắn. Chuyện gì...”

Hunt giữ thái độ nghiêm trang. “Con có đang bị vướng mắc vấn đề gì không, con trai?”

“Chuyện gì ạ? Không.”

Hunt chồm nghiêng người. “Có điều gì con muốn nói cho bố nghe không? Bất cứ điều gì. Bố về cùng phe với con. Con và bố. Được không?”

“Không, bố. Không có chuyện gì. Chuyện gì xảy ra vậy?”

Hunt chết điếng người. Ông đặt một bàn tay trên cánh tay anh con trai. “Bố nằm nghỉ một lúc.” Ông đứng lên, rồi nhìn xuống. “Hôm nay là một ngày quá nhiều chuyện xảy đến, Allen.”

“Ý bố là sao?”

Hunt dừng lại ở cửa. “Bố sẽ thức giấc nếu con cần bố.”

Hunt băng qua hành lang và nằm doãi người trên giường. Trong một phút giây, cả căn phòng quay cuồng, nhưng ông cố sức chống chọi.

Tiếng gõ cửa đến sớm hơn ông dám hy vọng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 61


Johnny ngủ liên tục bảy giờ đồng hồ, thức một đỗi để ăn lót dạ, rồi lăn quay ra ngủ tiếp. Cậu nghe giọng của mẹ, một lần, nói chuyện với Hunt, nhưng cảm giác như một giấc mơ. Cậu nghe những âm giọng bực tức và tiếng của cái gì đó gãy vỡ. Câu chuyện liên quan đến em gái Alyssa và anh con trai của Hunt.

“Tôi không biết phải nói điều gì, Katherine.”

Đó là giọng Hunt.

Một đỗi yên lặng thật lâu. “Tôi cần ra ngoài cho khuây khoả.”

“Katherine...”

“Ông sẽ trông chừng Johnny chứ hả?”

Cánh cửa đóng và Johnny tỉnh giấc. Không phải giấc mơ. Hunt đứng ở cửa sổ nhìn mẹ cậu bước đi. Johnny ngồi dậy và giấc mơ lại đến với cậu. “Có thật là Allen cùng ngồi trên chiếc xe tải với Gerald không?”

“Cậu đã nghe về chuyện đó à?”

“Có thật vậy không?”

“Allen không cầm lái.”

“Nhưng hắn biết mọi chuyện xảy ra mà lại không khai báo.”

“Bố của Gerald là ông cò và Allen lúc ấy quá sợ hãi, nhưng tôi không thể chạy tội cho hắn ta, Johnny. Hắn đã sai lầm.” Ngưng một lúc. “Hắn đã tự đi nộp mình rồi. Hắn đã bị câu lưu. Hắn sẽ bị trừng phạt. Cả Jack cũng vậy.”

“Trừng phạt, như thế nào?”

“Chuyện đó còn tuỳ vào toà án vị thành niên. Bọn họ sẽ phải đi xa một thời gian.”

“Nhà tù?”

“Không hẳn là như vậy.”

Johnny ra khỏi giường ngủ. “Tôi đi tắm cái đã,” cậu nói.

“Được rồi, Johnny.”

Nước chảy yếu ớt nhưng ấm nóng. Johnny tắm hai lần, sau đó dò dẫm những vết khâu trên ngực cậu. Da thịt đỏ ửng và dúm dó lại; vết sẹo sẽ mãi mãi ở đó. Cậu chải tóc bằng cái lược của mẹ. Hunt vẫn ở trong phòng khi Johnny bước ra khỏi phòng tắm.

“Dễ chịu hơn chưa?” Hunt hỏi.

“Mẹ tôi vẫn chưa quay trở lại sao?”

“Bà ấy đang cố gắng quyết định xem bà ấy có nên căm ghét tôi không.”

Johnny gật đầu. Nó là một chuyện rất người lớn. “Tôi được phép hỏi ông một chuyện hay không?”

“Được.”

Họ ngồi bên nhau trên chiếc giường. Những ngón tay của Johnny run lạnh sau khi tắm quá lâu. Lòng bàn tay của cậu bong tróc da nơi các mụn nước vỡ tung. “Thằng Jack tin rằng nhiều chuyện xảy ra đều có lý do.”

“Có phải cậu đang nói về Alyssa?”

Johnny không chắc cậu có thể nói những gì theo ý của cậu, cậu nhún vai. Cậu linh cảm được sự căng thẳng của Hunt, rồi giãn ra, như thể ông ta đã quyết định.

“Chúng tôi tìm được bảy thi thể chôn giấu ở khu rừng đằng sau nhà gã Jarvis. Toàn là trẻ em. Cậu có biết điều đó không?”

“Mẹ tôi có nói với tôi về chuyện này.”

Hunt lại ngần ngại một lần nữa, sau đó lôi ra tấm ảnh từ túi áo khoác. Nó là tấm ảnh chụp hình khám nghiệm tử thi của gã Meechum. Hình chụp gã ta từ phần ngực trở lên, trần truồng nằm trên chiếc bàn inox. “Đây có phải là gã đàn ông mà cậu thấy ngồi chung với gã Jarvis?”

Khuôn mặt gã ta trống rỗng lúc chết và không có thần khí màu sắc gì cả, nhưng Johnny nhận diện được gã. Cậu gật đầu.

“Tại sao cậu nghĩ gã ta là cớm?”

“Gã ta mang còng và đeo súng trên thắt lưng. Cớm thường làm như vậy mà.”

Hunt cất bức ảnh đi chỗ khác. “Gã ta là nhân viên an ninh ở thương xá. Gã và Jarvis tùng sự trong quân ngũ cùng nhau ở Việt Nam. Cả hai bị giải ngũ với hạnh kiểm xấu cùng một lúc. Có nhiều tin đồn đại...”

“Tin đồn loại gì?”

“Toàn tin động trời.”

Johnny nhún vai. Cậu đã từng nghe nhiều chuyện tương tự.

“Chúng là những kẻ thuộc thành phần bất hảo, Johnny. Chúng làm những chuyện tồi bại vì những lý do đốn mạt và sẽ tiếp tục làm như vậy nếu cậu không có mặt và làm những chuyện như cậu đã làm.”

“Tôi không hề cứu mạng cô bé Tiffany. Tôi đã nói với ông điều đó.”

Hunt nhìn qua cửa sổ. “Nếu gã Jarvis không bận rộn với cậu trên đường phố, Tiffany sẽ không thể đi xa quá căn nhà. Gã sẽ bắt được cô bé và giết chết. Cô ấy sẽ bỏ xác ở trong cánh rừng như những người khác. Jarvis và Meechum sẽ tiếp tục dấn sâu vào tội ác giết người. Có thể chúng sẽ giết thêm vài mạng nữa. Có thể chúng sẽ giết nhiều hơn vậy nữa. Điều tôi được biết là hai gã bị chặn đứng bởi sự có mặt của cậu trên con đường khi cậu ở đó.”

Johnny cảm nhận được cặp mắt của Hunt trên đỉnh đầu mình, nhưng cậu không thể nhìn lên.

“Cậu sẽ không có mặt trên con đường đó nếu Alyssa không bị thiệt mạng.” Hunt đặt một tay trên vai của Johnny. “Có thể đó là lý do, Johnny. Có thể, Alyssa chết đi để những đứa trẻ khác không phải chết.”

“Jack nghĩ Freemantle xuất hiện bởi vì Chúa sai phái gã đến.”

“Jack có những vấn đề lẽ ra không đứa trẻ nào ngoài kia phải đương đầu.”

“Hắn nghĩ Chúa gửi thiên sứ là đàn quạ đến để hù doạ hắn, và sai phái Freemantle đến để buộc hắn phải đương đầu với thực tế hắn đã làm.”

“Tôi không biết gì về chuyện đó, Johnny.”

“Lần cuối cùng tôi cầu nguyện, tôi đã cầu xin Chúa ba điều. Tôi xin Ngài chấm dứt những viên thuốc sái, và cho gia đình tôi được đoàn tụ. Những chuyện đó đã xảy ra.”

“Đó mới chỉ là hai điều.”

Johnny nhìn lên, và mặt cậu đanh lạnh như ngọc thạch. “Tôi cầu nguyện cho gã Ken Holloway chết đi. Tôi cầu nguyện cho gã chết một cách chậm rãi và khủng khiếp.” Cậu ngừng lại, cặp mắt đen long lanh. “Tôi cầu nguyện gã chết trong sợ hãi.”

Hunt mở mồm, nhưng Johnny đã nói trước khi ông ta có thể nói bất cứ điều gì. Cậu hình dung đôi mắt của gã Ken Holloway khi ánh sáng đời người tắt ngúm đi trong đó. Cậu thấy chiếc bóng của con quạ vươn lên, sự rung chuyển của bóng tối. “Gã Levi Freemantle đã trao tặng điều đó cho tôi,” Johnny nói. Tôi nghĩ đó là lý do tại sao Chúa sai phái gã đến.”

Hunt có một buổi gặp mặt trễ trong ngày với luật sư của anh con trai, sau đó ông đỗ xe trước cửa trại tạm giam, một khối bê-tông thô xù, nhớp nhúa chiếm đóng cả một dãy phố không xa lắm từ toà án. Allen bị giam giữ trong đó. Hắn thích nghi cũng tạm ổn, Hunt nghĩ; nước mắt hắn đầm đìa khi hắn thú tội với ông bố ‒ hối hận và tủi thẹn và tội lỗi ‒ rồi can đảm khi cả hai cùng đi đến nha cảnh sát. Ký ức cuối cùng của ông về anh con trai là khuôn mặt của con khi cánh cửa bằng sắt đóng sầm giữa ông và con.

Ông tắt máy và bước vào cổng chính của trại giam. Ông cất gửi vũ khí và vào bên trong. Ông biết những nhân viên cải huấn trong này, và họ cũng biết ông. Một người vỗ lưng ông, vài người gật đầu thông cảm, cũng có người nhìn ông lạnh lùng. “Tôi cần gặp nó.”

Ông nhân viên cải huấn ngồi đằng sau bàn làm việc nói nhỏ nhẹ và dứt khoát. “Ông biết tôi không thể làm được điều này.”

Hunt biết như vậy. “Ông có thể gửi cho nó một lời nhắn được không?”

“Chắc chắn rồi.”

“Ông nói với nó rằng tôi có đến đây nhé?”

Người sĩ quan cải huấn ngả người ra phía sau. “Tôi chắc chắn hắn sẽ nhận được lời nhắn.”

“Nói với nó ngay bây giờ,” Hunt yêu cầu. “Không phải tôi đã đến đây. Nói với nó rằng tôi đang có mặt ở đây.”

“Chuyện quan trọng như vậy sao?”

“Có sự khác biệt trong đó,” Hunt nói. “Tôi sẽ chờ.”

Khi Hunt rời trại giam, ông ngồi ở hàng ghế đá cách đó hai dãy phố. Bầu trời cao vời vợi không một vì sao. Gia đình là lớp vỏ bọc. Sau vài phút đi qua, điện thoại của ông reo vang. Bác sĩ Trenton Moore ở đầu giây bên kia. “Tôi có đánh thức ông không vậy?” ông ta hỏi.

“Cái cơ hội đó không có đâu.”

Ngưng một đỗi. “Tôi đã nghe về chuyện con trai ông. Tôi rất tiếc.”

“Cảm ơn, bác sĩ. Tôi trân trọng điều này. Anh gọi tôi có lý do nào khác không?”

“Sự thật thì đúng, đúng như thế.” Ông ta hắng giọng và dường như ngần ngại một cách lạ lùng.

“Ừm. Ông có rảnh không?”

Bác sĩ khám nghiệm tử thi làm việc ở tầng hầm của một bệnh viện. Hunt chẳng bao giờ thích thú gì đi viếng thăm nơi chốn ấy, đặc biệt là ban đêm. Đèn thắp sáng rời rạc trong hành lang thật dài. Tường bê-tông dường như muốn toát mồ hôi. Hunt đi quá phòng quan sát, dãy ngăn kéo lạnh chứa xác, những căn phòng hiu quạnh tịch mịch, và sự lặng thinh của cái chết. Bác sĩ Moore đang ghi âm trong phòng làm việc khi Hunt gõ cửa. Bác sĩ Moore nhìn lên, sự vui sướng toát lộ trong ánh mắt của ông. “Vào đây, vào đây.” Ông ta buông cái máy ghi âm xuống và với tay lấy bình cà phê trên chiếc bàn nhỏ phía sau mình. “Ông uống cà phê chứ?”

“Được. Đen. Cảm ơn.”

Ông rót cà phê vào hai ly nhựa xốp nhỏ, đưa một ly cho Hunt. “Trước tiên,” bác sĩ Moore nói, “tôi nên đưa cho ông những thứ này.” Ông lôi ra một túi nhựa đựng tang vật từ ngăn kéo và quẳng nó lên bàn. Nó rơi xuống nặng nề và toát ánh sáng kim loại. Hunt cầm nó lên, thấy nó được dán kín và ghi ngày tháng, ký tên bởi bác sĩ khám nghiệm tử thi. Ông lăn chiếc túi trên lòng bàn tay và đếm được sáu viên đạn với vỏ thép không rỉ và lỗ dùi ở đầu mũi đạn. “Để tôi đoán xem, đạn.32 đầu rỗng?”

“Từ túi phải phía trước của gã Freemantle. Ngoại trừ quần áo, đó là tài sản duy nhất gã ta có trong người lúc chết.”

“À, điều này trả lời một câu hỏi.”

“Câu hỏi gì?”

“Tại sao một gã cớm vẫn còn hạnh phúc hít thở khí trời, và quan trọng hơn cả, có thể, tại sao thằng con mười ba tuổi của gã không bị truy tố về tội cố sát.” Hunt nhét túi tang vật vào trong túi áo khoác. “Cảm ơn.”

“Đừng nhắc đến chuyện đó.” Họ nhâm nhi cà phê và những giây phút yên lặng kéo dài ra. “Nói về chuyện câu hỏi.” Bác sĩ Moore lăn bánh xe ghế ngồi tiến về phía đằng trước. Người ông ta nhỏ thó và chắc nịch, tràn đầy năng lượng khiến ông ta khó lòng mà ngồi yên. “Có một vài điều bí ẩn trong công việc tôi làm, Thám tử. Những câu hỏi không có câu trả lời? Đúng, lúc nào cũng thế. Nhưng mà không có chuyện gì bí ẩn cả. Cơ thể con người, trời ơi, là một thiết bị rất dễ đoán trước được. Cứ lần mò theo chỗ bị hư hỏng và nó sẽ dẫn dắt mình đến những nơi chốn, dẫn mình đi đến kết luận, xác định được nguyên do và hậu quả.” Năng lượng lại một lần nữa bừng sáng trong ánh mắt của bác sĩ Moore. “Ông có biết tôi đã từng khám nghiệm tử thi bao nhiêu ca không?”

“Không.”

“Đến cả tôi cũng không nhớ rõ, nhưng nhiều lắm. Hàng trăm. Có thể nhiều hơn vậy. Thật sự một ngày nào đó tôi cũng nên đếm lại tất cả.”

Hunt nhâm nhi ly cà phê. Bình thường ông sẽ khó chịu, nhưng lúc này ông cũng không có nơi nào để đi. Bác sĩ Moore gõ nhịp ngón tay xuống mặt bàn, cặp mắt ngời sáng, da dẻ ửng hồng. “Ông có tin tưởng vào những chuyện huyền bí không, Thám tử?” Hunt mở miệng nhưng bác sĩ Moore khoát tay. “Không phải những thứ bí ẩn mà ông phải đương đầu hàng ngày đâu.” Ông nghiêng qua bàn làm việc và bụm hai bàn tay lại với nhau như thể bồng bế cả cái thế giới nhỏ bé ở giữa trong đó. “Chuyện huyền bí to lớn, Thám tử ạ. Chuyện thực. Chuyện động trời.”

“Tôi không hiểu ý anh lắm.”

“Tôi muốn chỉ cho ông thấy vài chuyện.” Bác sĩ Moore giở một tập hồ sơ và đứng lên. Ông bước ngang căn phòng và bật công tắc máy đọc phim X−quang. Ánh sáng nhấp nháy, rồi sau đó ổn định.

“Bên cạnh một ghi chú nhỏ trong bản báo cáo, tôi đắn đo chia sẻ chuyện này.” Một nụ cười dè chừng. “Tôi còn phải suy nghĩ về tiếng tăm của tôi nữa.” Bác sĩ Moore lấy tờ phim chụp tia X−quang trong tập hồ sơ và đẩy phập nó dính vào máy rọi. Hunt nhận ra cấu trúc của phần thân trên con người. Những khúc xương xẩu dường như toả sáng. Những chỗ không định dạng được chỉ phần tế bào mềm. “Levi Freemantle,” Moore nói. “Đàn ông trưởng thành. Bốn mươi ba tuổi. Cơ thể to lớn. Nhiễm trùng rất nặng. Suy dinh dưỡng ở mức độ báo động. Thấy chỗ này không?” Ông chỉ vào tấm phim. “Đây là nơi ông bắn gã. Đầu đạn đi vào chỗ này. Xương vai bị gãy ngay lỗ ra của đầu đạn. Thấy không?”

“Tôi không hề có ý định giết gã.”

“Ông đã không giết gã.”

“Ý bác sĩ là như thế nào?”

Bác sĩ Moore làm ngơ câu hỏi. “Xem này.” Ông ta lần mò ngón tay út trỏ theo một lằn trắng thô xù. “Đây là một cành cây, một loại gỗ cứng nào đó. Sồi, phong. Không phải chuyên môn của tôi. Nạn nhân bị vật này đâm vào người bằng cách nào đó. Khúc cây này giòn, không mục rữa. Lởm chởm. Thấy những góc cạnh bén nhọn không? Chỗ này và chỗ này. Rất khó nói từ tấm phim này, nhưng đường kính của nó gấp đôi ngón tay áp út của ông. Có thể gấp rưỡi ngón tay cái. Nó đâm vào từ chỗ này, ngay dưới cái xương sườn thấp nhất phía bên tay phải, rồi trổ góc xuyên thủng qua lá gan từ bên này qua bên kia. Nó làm hư hỏng nhiều nội tạng và làm rách một lỗ ba phân trong đại tràng.”

“Tôi không hiểu.”

“Đây là chấn thương rất nặng, Thám tử.”

“Được rồi.”

Bác sĩ Moore quay bước đi chỗ khác, rồi trở lại. Ông giơ cao cả hai tay và Hunt cảm nhận được sự hoang mang tuyệt vọng của ông. “Cái này...” Ông di chuyển hai tay ông qua tấm phim X‒quang, rồi dừng lại. “Đây là vết thương chí mạng. Nếu không giải phẫu ngay lập tức, nạn nhân sẽ tử vong. Gã ta lẽ ra phải chết nhiều ngày trước khi ông bắn gã.” Bác sĩ Moore lại giơ cả hai tay lần nữa. “Tôi không làm sao giải thích được.”

Dường như có một cơn rùng mình chạm vào Hunt giữa hai bả vai. Cả bệnh viện đè ập xuống. Ông hình dung cặp mắt háo hức của bác sĩ Moore, những câu chất vấn của ông ta về những chuyện huyền bí to tát. “Có phải ý anh muốn nói đó là điều kỳ diệu không?”

Bác sĩ Moore nhìn tấm phim X‒quang, và ánh sáng máy rọi phóng chụp một lớp ánh sáng trắng nhợt trên khuôn mặt của ông. Ông đặt ba ngón tay lên hình ảnh cành gỗ lởm chởm xuyên thủng vào hông của Freemantle. “Tôi nói rằng tôi không làm sao giải thích được.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 62


Sở Xã hội đến đòi mang Johnny đi ngay ngày hôm sau. Cậu bám chặt lấy tay mẹ khi hai cán sự xã hội đứng bên cạnh cửa xe đang mở. Hơi nóng bốc lên khỏi bãi đậu xe. Những chiếc xe lao nhanh trên con đường bốn làn xe. “Mẹ làm những ngón tay của con bị đau,” Johnny thì thào. Mẹ cậu buông lơi níu kéo khi bà nói chuyện với Hunt. “Không còn cách nào khác sao?”

Hunt cũng đành phải chấp nhận. “Sau tất cả những gì đã xảy ra, bạo lực, truyền thông, họ cũng không còn chọn lựa nào khác.” Ông dừng lại và nhìn vào đôi mắt của Johnny. “Chuyện này chỉ trong một thời gian ngắn. Tôi sẽ thay mặt mẹ cậu lên tiếng. Chúng tôi sẽ dàn xếp ổn thoả chuyện này.”

“Ông hứa nhé?”

“Ừ.”

Johnny nhìn vào chiếc ô tô và một phụ nữ nở nụ cười. Cậu ôm choàng lấy mẹ. “Con sẽ không sao đâu,” cậu nói. “Cũng giống như đi xa một thời gian thôi.”

Cậu leo vào trong xe. Và câu chuyện trong tháng tới là như vậy. Như một chuyến đi xa. Gia đình bảo trợ tạm dung của cậu thật tử tế nhưng giữ khoảng cách. Họ đối xử với cậu như thể lời nói nặng có thể làm cậu tổn thương, thay vào đó họ đóng kịch cứ y như không có chuyện gì khác thường xảy ra. Họ lịch sự không hề khiếm khuyết chỗ nào; nhưng cậu thường bắt gặp họ vào buổi tối, theo dõi chương trình tin tức, đọc nhật báo. Họ lắc đầu ngao ngán và tự hỏi lẫn nhau: “Những chuyện như vậy sẽ ảnh hưởng như thế nào đến một thằng nhóc?” Johnny nghĩ có lẽ họ ngủ trong ngôi nhà khoá chặt cửa. Cậu nghĩ đến cái nhìn của họ sẽ như thế nào nếu, chỉ một lần, vào một đêm khuya, cậu lắc cái núm vặn khoá cửa.

Toà án yêu cầu Johnny phải đến gặp bác sĩ tâm lý, và cậu đã làm như vậy, nhưng gã đó là một kẻ ngớ ngẩn. Johnny nói với gã những gì gã cần nghe. Cậu diễn tả những giấc mơ tưởng tượng về sự nhàm chán trong nhà và nói rằng cậu ngủ ngon giấc suốt đêm đến sáng. Cậu thề không còn tin tưởng vào quyền năng của những thứ không thấy được, không có linh vật hay ma thuật hay đàn chim đen sậm lấy cắp linh hồn người chết. Cậu không còn tha thiết đến bắn giết ai, không tha thiết tự làm hại chính mình hay người khác. Cậu nói lên cảm xúc chân thật về cái chết của ông bố và cô em gái cậu. Nó là nỗi đau khổ tiếc thương, thuần tuý một sự mất mát đau quặn thắt ruột gan. Cậu yêu quý mẹ mình. Điều đó cũng là sự thật. Người ta quan sát cậu và đưa ra những nhận xét. Sau đó cậu không còn phải điều trị tiếp nữa.

Thì như vậy đó.

Họ cho phép Johnny gặp mẹ một lần mỗi tuần có sự giám sát. Hai mẹ con đi ra công viên, ngồi xuống dưới bóng mát. Tuần nào bà cũng mang thư của Jack đến. Hắn viết ít nhất một lá mỗi ngày, đôi khi nhiều hơn. Hắn không bao giờ nói về cái nơi họ gửi hắn đến tồi tệ như thế nào. Không bao giờ nói về giờ giấc, ngày tháng của hắn. Jack nói phần lớn về ân hận và tủi nhục và chỉ Johnny là điều tốt nhất đối với cuộc đời của hắn. Hắn nói về những chuyện chúng từng làm cùng với nhau, những dự định hai đứa toan tính cho tương lai. Và hắn van nài xin được tha thứ. Hắn kết thúc tất cả những lá thư của hắn đều cùng một điệp khúc như vậy.

Johnny, làm ơn.

Nói với tớ tụi mình là bạn đi.

Johnny đọc tất cả thư, nhưng không bao giờ đáp lời. Chúng nằm gọn trong chiếc hộp đựng giầy ở dưới gầm giường nhà gia đình tạm dung của cậu.

“Con nên viết thư trả lời Jack,” mẹ cậu có lần nhắc nhở như vậy.

“Sau khi những chuyện đã xảy ra? Sau khi những gì hắn đã làm?”

“Nó là thằng bạn tốt nhất của con. Bố nó đánh gẫy tay nó. Hãy nghĩ về chuyện đó.”

Johnny lắc đầu. “Có cả triệu lần hắn có thể nói với con. Cả triệu cách khác nhau.”

“Nó còn trẻ, Johnny. Cả hai đứa con còn quá trẻ.”

Johnny đăm đăm nhìn người giám thị do toà án chỉ định trong khi ý tưởng chạy lòng vòng trong trí óc của cậu. “Con đã tha thứ cho anh con trai của Thám tử Hunt chưa?”

Bà mẹ nhìn theo ánh mắt nhìn của Johnny. Người giám thị ngồi ở cái bàn picnic gần bên. Bà ta trông nóng bức trong bộ vest màu xanh quá dày cho thời tiết mùa này. “Con trai Hunt thì sao?” Bà hỏi, âm giọng từ xa. “Hắn dường như cũng còn rất trẻ.”

“Mẹ đang hẹn hò với Thám tử Hunt à?”

“Đám tang của bố con là ngày mai, Johnny. Làm sao mẹ có thể hẹn hò ai?”

“Chuyện đó không sao mà, con nghĩ vậy.”

Mẹ cậu bóp nhẹ cánh tay cậu và đứng dậy. “Đến giờ rồi con.” Người giám thị toà án đang đến gần. “Con có bộ đồ vest đúng không?” bà hỏi. “Cả cà-vạt nữa?”

“Vâng.”

“Con thích chúng không?”

“Con có.”

Họ còn được bên nhau vài giây ngắn ngủi. Lần kế tiếp họ gặp gỡ sẽ là lúc mai táng cho người họ yêu kính nhất. Người giám thị dừng ở khoảng cách chừng vài mét. Bà ta trỏ vào chiếc đồng hồ, và khuôn mặt phản ảnh một cái gì đó như là ân hận.

Mẹ Johnny quay đi chỗ khác, đôi mắt ngời sáng. “Mẹ sẽ đón con sớm.”

Johnny nắm lấy tay bà và bóp nhẹ. “Con sẽ sẵn sàng.”

Hai tang lễ cùng một lúc. Bố và con gái, hai quan tài cạnh nhau. Hunt gọi điện thoại can thiệp, và trong sự nể tình, nghĩa trang được phong tỏa để bảo vệ gia đình khỏi nhiều người tò mò và giới truyền thông. Linh mục không phải là ông linh mục béo phì, mặt đỏ ửng như Johnny nhớ rõ trong bóng tối tù mù. Ông này ở tuổi tráng niên, dáng người mực thước và nghiêm trang, khăn choàng làm lễ của ông linh mục màu trắng, áo khoác lóng lánh. Ông giảng về sự lựa chọn và quyền năng của tình yêu Thiên chúa.

Quyền năng.

Ông làm cho chữ nghĩa cất cao lời hát, do vậy Johnny cúi đầu khi ông làm lễ.

Quyền năng của tình yêu Thiên chúa.

Johnny cúi đầu nhưng mắt vẫn dán chặt lên hai cỗ quan tài và thỉnh thoảng ngước lên bầu trời xanh cao.

Bầu trời cao vời vợi, trống rỗng.

Ba tuần sau tang lễ, bà Katherine đứng trong sân của một căn nhà hai phòng ngủ được chăm sóc tươm tất. Nó có hàng hiên mái che đằng trước, hai phòng tắm, và sân vườn lớn nhất, xanh nhất bà có thể tìm được. Nhà bếp mới vừa được trùng tu lại. Cuối con đường là căn nhà mà Johnny từng sống trong suốt cuộc đời cậu, trừ đi khoảng thời gian năm vừa qua. Bà hy vọng sẽ mua lại căn nhà đó, nhưng số tiền bồi thường bảo hiểm nhân thọ của chồng bà phải đủ tiêu dùng cho đến khi bà xoay sở xác định sẽ làm gì với cuộc đời của chính bà. Làm thế nào để kiếm kế sinh nhai cho bà và con trai bà. Bà nhìn về phía cuối con đường, rồi sau đó buông trôi suy nghĩ. Căn nhà này có một cái chòi cất trên cây, một con rạch chạy ngang qua sân sau nhà.

Như vậy là tươm tất.

Khi Hunt ra khỏi căn nhà, áo ông ướt đẫm mồ hôi. Một chùm bông gòn chất cách nhiệt dính bám phía đằng sau đầu ông. Ông xoay người và nhìn căn nhà. “Nó chắc chắn đấy,” ông nói. “Một căn nhà tuyệt đẹp.”

“Anh có nghĩ Johnny sẽ thích nó không?”

“Anh nghĩ vậy. Chắc chắn nó sẽ thích đấy.”

Bà Katherine lóng ngóng dụi đầu bà. “Johnny sẽ về nhà vào ngày mai. Hai mẹ con em cần một thời gian, anh biết mà. Chỉ riêng hai mẹ con. Thời gian sẽ giúp mẹ con em ổn định và tìm được một mẫu số chung cho nhịp điệu của đời sống.”

“Anh hiểu.”

“Nhưng trong khoảng một tháng hay gì đó, em nghĩ có thể anh nên đến đây dùng cơm tối với mẹ con em.”

“Chuyện đó thật tuyệt.”

Bà Katherine gật đầu, lo lắng, sợ hãi và không chắc chắn. Bà quay lại và nhìn căn nhà. “Nó trông thật sự tươm tất chứ hả?”

Hunt nhìn mãi khuôn mặt bà. “Nó tuyệt vời.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 63: Vĩ thanh


Cái nắng nóng của mùa hè chỉ còn là ký ức nhạt nhoà khi Johnny và mẹ cậu lái xe ô tô đến Rừng Vĩnh hằng. Hôm đó là Thứ bảy, trời ngả về chiều. Những hàng cây cao vút che khuất chiếc xe khi bà lái. Trước mặt, ánh sáng mặt trời xuyên qua lỗ chỗ, và họ có thể thấy những cột đá granite và những bụi dâu đen. “Mẹ không thể tin con đã từng ra ngoài này.”

“Bình tĩnh đi mẹ.”

“Chuyện gì cũng có thể xảy ra ngoài này.”

Johnny trỏ tay. “Nghĩa trang ở phía đằng kia.” Bà lái xe nhanh nhất có thể, sau đó họ ra khỏi xe. Johnny dẫn bà đi xuyên qua chỗ cắt trong lùm cây. “Thám tử Hunt nói gã được chôn cất ở đây hồi tuần rồi. Một vài người bạn của mẹ gã chung tiền mai táng.” Họ bước bộ xa hơn. Nước sơn trên hàng rào vẫn màu trắng. Cỏ mọc dài thậm thượt và bắt đầu đơm hạt. “Đôi khi con cũng nên ra ngoài này và cắt cỏ.”

“Thôi đừng, con,” bà nói, nhưng Johnny đã suy nghĩ về chuyện này. Họ bước bộ đến nơi Levi Freemantle được chôn cất. Đất cát đào còn mới. Con gái gã được chôn ngay phía đằng sau gã, và cả cô bé cũng được đặt bia mộ mới toanh. “Sofia,” Johnny nói. “Đó là tên của cô bé.” Họ nhìn vào tấm bia của Freemantle. Trên đó ghi ngày tháng năm sinh và năm mất. Chữ khắc trên bia đơn giản.

Levi Freemantle

Hậu duệ cuối cùng của Isaac.

“Con đã đếm những bia mộ,” Johnny nói. “Cái đêm mà con ở ngoài này. Có ba người trong họ bị xử giảo.” Johnny trỏ vào những tấm bia mộ nhỏ, lởm chởm ở ngay gốc cây sồi to lớn. “Và bốn mươi ba hậu duệ của Isaac Freemantle. Bây giờ là bốn mươi lăm.”

Họ nhìn hàng bia mộ bằng đá nằm chỏng trơ dãi dầu năm tháng. “Nếu mà Isaac cũng bị giết, bị xử giảo như những người khác, thì không một ai trong họ sinh ra, được sống hoặc chết đi.”

“Ông cố tổ của con là một người đàn ông tuyệt vời.” Một đỗi yên lặng. “Và bố con cũng vậy.”

Johnny gật đầu, không tài nào cất tiếng thành lời. Bà tiếp tục, “gã Ken Holloway là con người tệ bạc, ngày hôm đó, cũng như những ngày trước đây. Bà xoa cổ tay, nơi mà những vết sẹo vẫn còn hằn dấu vết cắt sâu của dây đàn dương cầm. “Chúng ta rất có thể đã chết nếu không có Levi Freemantle.”

Yên lặng. Ánh sáng mặt trời chiếu trên mặt đá cẩm thạch mới cắt.

“Gã nói với con đời sống là một vòng tròn.”

Mẹ cậu nhìn hàng cây, rồi những hàng bia mộ. Bà đặt tay trên vai Johnny.

“Có thể là như vậy.”

Ñêm hôm đó, Johnny viết thư cho Jack. Cậu kể cho hắn nghe mọi chuyện xảy ra trong suốt cả tháng trời từ ngày hắn đi xa. Phải mất mười trang để kể hết sự tình. Cậu ghi xuống địa chỉ gửi đến: Jack Cross, Bạn Tôi.

HẾT
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom