Cập nhật mới

Dịch Full Phía Đông Mặt Trời

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 40


Sau bữa trưa, Viva và Frank lên xe của ông bà Mallinson quay trở về nhà. Vừa chui vào chiếc xe, Viva đã kéo chiếc ghế ngăn giữa chỗ ngồi của hai người xuống.

Điều khiến cô cảm thấy bối rối chính là cảm giác xúc động mãnh liệt khi ngồi bên anh như thế này, cảm nhận được từng bắp cơ rắn rỏi giấu mình dưới hai ống quần của anh, cánh tay anh vắt hờ trên chỗ dựa lưng của chiếc ghế nơi cô đang ngồi. Cảm giác bức bối, nóng ran đang lan nhanh khắp cơ thể cô, rất mới mẻ, đầy sai lầm và lộn xộn, bởi ý nghĩ có thể Guy đã chết đang giằng xé trong cô, và rằng sẽ tốt hơn nhiều nếu cô và anh khoác lên mặt vẻ đau thương tang tóc, hơn là để những khao khát ham muốn đầy ắp dục tính trào dâng trong lòng.

"Có khối việc đang chờ em, gia đình ông Jamshed sống ở đấy, nhìn xem", khi chiếc xe rẽ vào đường Nữ hoàng, cô chỉ tay ra con phố yên tĩnh, với những thân cọ vươn mình trong nắng chiều, và biển hiền hòa ở ngoài xa. "Mọi thứ lại trở về với vẻ thanh bình đến hoàn hảo. Cứ như thể những cuộc bạo động chưa bao giờ xảy ra".

Cô nghe thấy tiếng thở dài của anh rơi xuống sàn xe, Frank ngoảnh mặt sang nhìn cô, rồi lại ngoảnh ra ngoài cửa sổ, liên tục như thế.

"Anh muốn được gặp lại em", anh nói. "Anh phải gặp lại em. Những gì đã xảy ra không hề liên quan đến những cuộc bạo động hay Guy. Em biết điều đấy là thật, đúng không nào?".

Cô im lặng, bởi như vậy Viva cảm thấy an toàn.

Cô cố bám chặt lấy suy nghĩ, rằng cái đêm hôm ấy chỉ là những khoảnh khắc rồ dại tạm thời, một sai lầm, một sự mất tự chủ của bản thân. Không có gì khiến người ta phải đau đớn như tình yêu, đấy là điều cô cần phải nhớ.

"Không hẳn", cuối cùng thì cô cũng lên tiếng. "Vẫn còn quá sớm để khẳng định điều gì đấy, và...".

Chưa nói hết câu, cảm giác ghê tởm lại ùa về trong cô, mơ hồ. Điều cô muốn làm ngay bây giờ là tắm rửa sạch sẽ, lên giường đánh một giấc thật sâu, chấm dứt suy nghĩ nặng đầu trong vài tiếng đồng hồ.

"Em đang lo sợ anh sẽ tìm đến nơi em ở?".

Khi Frank nghiêng đầu đến gần đến cô, Viva có thể cảm nhận được mùi tóc, mùi thịt da của anh.

"Đúng thế".

"Anh nghĩ em chẳng bao giờ quan tâm đến việc người khác sẽ nghĩ gì về mình. Anh thích em vì điều đấy".

Cô run rẩy khi nhìn thấy nụ cười của anh dành 

cho mình.

"Có chứ, em có quan tâm", cô trả lời anh. Chiếc xe dừng trước một cột đèn giao thông, gần cổng một nhà thờ. Trên vỉa hè, cách chỗ chiếc xe đang đậu chừng mười mét, hai người đàn ông đang thản nhiên tắm gội, cả hai dùng những chiếc gáo múc nước từ một chiếc xô lớn rồi dội ào ào lên đầu. "Mọi người đều quan tâm đến kết cục, trừ phi họ là những kẻ điên hay những người yếu ớt".

"Còn bao xa nữa thì đến bệnh viện?", Viva buột miệng, đột nhiên cô muốn anh biến mất khỏi cuộc đời mình, sự hiện diện của anh đang là nguyên nhân gây ra nỗi bối rối trong cô.

"Qua hai phố nữa thôi".

"Bắt đầu có cảm giác giống như đang hát bài "Mười chiếc chai xanh" cùng với sự trở về của Tor và ông bà Mallinson".

Viva biết anh đang cố gợi chuyện với cô. "Cả em cũng rời khỏi đây chứ?", Frank hỏi.

"Em chýa biết", cô trả lời. "Thế còn anh?".

"Anh được đề nghị một công việc ở Lahore", Frank nói. "Công việc nghiên cứu mà trước đây anh đã từng có lần kể với em ấy".

"Và anh đồng ý?". Viva nhìn về phía trước, xa xăm.

"Anh vẫn chưa quyết định".

Tâm trí cô nửa lặng lẽ quan sát những người bán hàng rong đang tất tả thu dọn quầy hàng trên phố, đèn quanh khu vực vòi phun trong vườn hoa đã được thắp sáng, những dải mây mỏng tang vắt nhẹ ngang qua bầu trời nhuốm màu cầu vồng rạng rỡ lúc cuối chiều, nửa kia miên man với suy nghĩ liệu rồi đây cô có phải hối tiếc với cả phần đời còn lại nếu cứ để yên cho anh lần mò những đầu ngón tay cô như thế. Người tài xế đỗ xe vào hè đường, cô theo chân Frank bước về phía cổng chính.

"Có lẽ em nên cảm ơn anh vì đã đến Ooty để đưa bọn em về", Viva nói, "nhưng thực tình em không biết phải nói gì cả. Em không nghĩ mình đã nắm bắt được vấn đề".

Frank dừng tay trên nắm đấm cửa. "Về chúng ta hay về chuyện của Guy? Làm ơn đừng quên đấy chỉ là tin đồn - anh đã nói với em rồi mà".

"Cả hai".

Trông anh như một kẻ kiệt sức, cô nhủ thầm, xanh xao nhợt nhạt quá. Anh nhìn cô bằng ánh mắt thăm dò."Đừng nói bất kỳ điều gì mà em chưa chắc chắn", anh nói, "nhưng hãy hứa với anh là em sẽ không lấy làm xấu hổ. Nhé?".

"Em không xấu hổ", cô nói. "Em chỉ có cảm giác giống như mình vừa trải qua một trận động đất".

Ánh mắt anh vẫn nhìn cô, kiên định. "À, giờ thì anh đã hiểu", Frank thốt lên. Anh định nói với cô thêm một điều gì đấy, nhưng Viva đã đưa tay lên miệng anh.

"Không", cô thì thầm. "Đừng. Làm ơn. Không phải lúc này".

Người tài xế chở Viva về nhà, có vẻ những vụ bạo động không hề xuất hiện ở Byculla. Vẫn những con phố lồi lõm ổ gà, những ngôi nhà xiêu vẹo loang lổ tíờng rêu cũ kỹ, những chợ cóc chợ tạm thậm thụt xen lẫn giữa những quầy hoa tíõi đầy màu sắc.

Cô nhanh nhẹn bước đến trýớc ngôi nhà quen thuộc - mọi thứ vẫn không có gì thay đổi: những chiếc xe đạp nép mình dọc lối đi chật chội trong tiền sảnh, mùi cà ri tỏa ra từ phòng bếp của gia đình ông Jamshed phảng phất quanh khuôn viên ngôi nhà.

Ông Jamshed đang thành kính cầu nguyện trong căn phòng đầu tiên của ngôi nhà, khuôn mặt ông hướng về phía mặt trời, khoác lên mình sudreh, chiếc áo vẫn thường được Jamshed mặc cùng sợi thắt lưng bằng vải kusti quấn ba vòng thật chặt quanh thân để nhắc nhở chính bản thân mình, như đã có lần ông giải thích với cô, rằng ba vòng dây tượng trưng cho ba nguyên tắc tôn chỉ trong cuộc sống: "Nói những lời tốt đẹp, nghĩ những điều tốt đẹp, làm những việc tốt đẹp".

Cô đứng chờ trước ngưỡng cửa. Mỗi khi cầu nguyện, khuôn mặt vui vẻ hàng ngày của Jamshed vụt trở nên nghiêm nghị đến lạ thường, hệt như một tín đồ bước ra từ kinh Cựu ước. 

Tiếng kẽo cọt phát ra từ cánh cửa khiến Jamshed bừng tỉnh, đôi mắt ông hé mở. "Cô Viva".

"Xin thứ lỗi vì đã quấy rầy ông, nhưng mọi người vẫn ổn chứ?", cô hỏi. "Tôi đã rất lo lắng cho gia đình ông".

"Chúng tôi vẫn ổn", Jamshed nói với cô. Rồi ông nhìn Viva, nhã nhặn. "Ơn Chúa, không có bạo loạn ngoài đường phố, và tôi cũng không nghe bất kỳ thông tin đáng tiếc nào về trung tâm hay mái ấm hay trường tình thương hay bất kỳ cái gì cô vẫn gọi tên ở cái nơi cô đang làm việc ấy".

"Ôi, thật tốt quá. Nhẹ cả người".

"Ừm, nhưng thực ra không phải là không có chuyện". Ông nhìn cô bằng ánh mắt khác lạ.

"Có vài chuyện đã xảy ra và tôi rất lấy làm tiếc, không vui vẻ một chút nào cả. Đến đây". Ông phác tay hướng đến cánh cửa đang mở rộng. "Tốt hơn hết tôi nên tự mình chỉ cho cô thấy".

Ông xỏ chân vào đôi dép rồi cẩn thận khóa cửa nhà, điều Viva chưa bao giờ thấy Jamshed làm trước đây.

"Cô biết không", Jamshed giải thích khi cả hai tất tả bước lên cầu thang, "trong lúc cô đi vắng, một toán người khá vô tổ chức kéo đến đóng trong nhà của chúng ta. Chúng bày đủ trò ma quỷ trong căn phòng của cô. Ban đầu tôi cứ nghĩ chúng là những kẻ du côn, nhưng giờ thì tôi lại nghĩ chúng có thể là bạn bè cô".

"Bạn tôi?".

"Khoan đã". Jamshed đột ngột dừng lại trước ngưỡng cửa, giơ tay ra hiệu. "Tôi sẽ giải thích cho cô hiểu sau".

Khi ông mở cửa, Viva choáng váng. Những tấm rèm đã được thả xuống, nhưng trong bóng tối chập choạng cô vẫn nhìn thấy chiếc máy đánh chữ của mình nằm chỏng chơ giữa sàn nhà, váy áo, quần chẽn cùng tranh ảnh vương vãi khắp căn phòng. Một chiếc quần lót của cô tòng teng trên chiếc khung ảnh trống trơn treo trên vách tường. 

"Ôi không!". Cô chạy đến bên chiếc tủ ly bằng gỗ thông nho nhỏ kê đầu giường ngủ, nơi cô cất những trang bản thảo đầu tiên của cuốn sách. Ơn Chúa, nó vẫn còn trong đấy.

Những tiếng rít rợn người vang lên khi Jamshed kéo những tấm rèm che cửa.

"Chưa phải là tất cả", ông nói. "Nhìn kia xem". Ông già chỉ tay vào vách tường. Căng mắt nhìn về phía Jamshed chỉ tay, đập vào mắt Viva là bức chân dung của cô đang đứng dựa lưng vào thành lan can trên boong tàu Kaiser - i - Hind, đứng bên cạnh là Nigel, một viên chức nhà nước trẻ tuổi. Trong bức ảnh, mái tóc của cô đang tung bay trước gió, và Nigel, chiếc áo cộc tay hoa hòe hoa sói khoác trên người, đang cù cùi chỏ vào mạng sườn cô. Một bức ảnh khác được đóng đinh trên bức tường đối diện chụp cảnh cô đang rời khỏi bữa tiệc được tổ chức tại nhà Daisy, đôi giày lủng lẳng trên tay, với những bước chân loạng choạng của một người say, khuôn mặt rạng ngời hạnh phúc. Hai chữ "Con đĩ", nguệch ngoạc dưới góc. Trong bức ảnh thứ ba, chụp cảnh cô và Frank đang rời khỏi tiệm cà phê Moustafa’s. Trên giýờng, bên cạnh chiếc búa và một nhúm đinh, một bức ảnh chụp Tor và Guy đang ngồi trên hai chiếc ghế tựa sát bên nhau.

Viva rón rén bước những bước nhỏ quanh căn phòng của mình, tiếng vỡ thủy tinh lạo xạo dưới đế dày, những ngọn nến cháy dở nằm vương vãi trên sàn nhà.

"Trên mỗi bức ảnh đều có một ngọn nến đang được thắp sáng khi tôi vào đây", Jamshed nói. "Ngôi nhà bé nhỏ của tôi có thể bị thiêu trụi".

Viva đến ngồi bên đống quần áo bầy hầy giữa giýờng, khẽ lắc đầu. 

"Tôi biết kẻ nào gây ra chuyện này", cô nói với Jamshed. "Nhưng có thể nó đã chết. Tôi vẫn chưa biết thực hư ra sao".

Dứt lời, Viva chợt nhận ra những gì vừa thốt ra từ miệng cô mới kỳ lạ làm sao. "Chắc hẳn ông sẽ nghĩ tôi bị điên", cô nói.

"Thưa cô", giọng Jamshed đột nhiên trịnh trọng, "tôi không nghĩ cô bị điên, nhưng tôi không cho phép cô mang hiểm nguy và những thứ khác vào nhà mình".

"Ý ông là gì?".

Jamshed khịt mũi, vẻ phẫn nộ: "Cô hiểu tôi đang nói gì. Làm thế nào mà bố cô hay anh chị em của cô lại đồng ý để cô sống như thế?".

"Tôi không có bố hay anh chị em gì cả", Viva trả lời.

"Tôi không biết gì về cô cả", Jamshed nói. Ông đang đứng trước một bức ảnh chụp cảnh cô, Frank và Tor đang ngả ngớn cười đùa trong một bữa tiệc, những ly rượu hãy còn sóng sánh trên tay từng người. "Tôi chưa bao giờ nói với cô về đức tin của mình, nhưng giờ thì tôi sẽ nói cho cô biết vài điều. Đấng tối thượng mà tôi vẫn cầu nguyện khi cô bước chân vào nhà, tên của ngài là Ahura Mazda. Mọi diễn biến trong cuộc đời tôi đều xảy ra thông qua sự kiểm soát của ngài. Khi tận mắt nhìn thấy chúng", ông khoát tay về phía những bức ảnh, chiếc quần lót, "tôi hiểu mình đành phải để ngài ra đi. Tôi như một đứa trẻ đã mang về nhà một món đồ chơi nguy hiểm. Không! Không!". Jamshed giơ hai tay lên trời khi cô cố gắng thốt ra mấy câu phản đối. "Hãy để tôi kết thúc những gì mình cần phải nói. Chuyện này hoàn toàn do lỗi của tôi, chỉ vì mấy đứa con của tôi muốn trở thành những cô gái hiện đại giống như cô, cả tôi nữa, tôi cũng muốn chúng được học hành đến nơi đến chốn, nhưng ai mà ngờ được, chuyện này lại khá nguy hiểm. Trong tôn giáo của chúng tôi, sự trong sạch chính là những điều xuất phát từ trái tim mình, chúng tôi hành động theo những lời mách bảo của trái tim, và đấy là...", ông không thể tìm được ngôn từ thích hợp để diễn tả, bất lực buông thõng hai tay, khuôn mặt đầy đau khổ. "Chúng khiến ngôi nhà của tôi trở nên bẩn thỉu".

"Họ là bạn của tôi". Mặt đất như chao đảo dưới chân cô, Viva không biết phải làm gì. "Ông đã nhìn thấy chúng tôi ở bữa tiệc rồi đấy, thậm chí ông còn rất thích bọn họ cơ mà".

Jamshed nhún vai: "Tôi không biết gì về bọn họ. Cả cậu ta nữa". Ông già chọc mạnh ngón tay vào tấm ảnh chụp chân dung Nigel. "Cậu ta là ai? Đây nữa?". Ông chỉ vào bức ảnh chụp chân dung Guy. "Phải đây là người đàn ông đã có lần vào phòng cô không?".

"Nó chỉ là một cậu bé. Tôi là bảo mẫu của cậu ta khi còn ở trên tàu. Tôi được trả tiền để làm việc đấy. Thậm chí trước đấy tôi còn chẳng biết nó là ai".

"Cô không hề biết cậu ta", Jamshed nói. "Và một cô gái còn trẻ như cô, lại được trả tiền để dẫn cậu ta sang đây? Không, tôi không tin. Ngay cả ở nước Anh, người ta cũng không để cho những chuyện như thế này xảy ra được".

Hai mắt ông trợn tròn, đau khổ, vầng trán ông hằn sâu những vết nhăn.

"Thưa quý cô, tôi chỉ là một tín đồ Bái hỏa giáo bình thường, chúng tôi là những con người có tư tưởng khoáng đạt, nhưng tôi đã tìm thấy những chai rượu được giấu kín trong phòng cô. Đấy! Tôi rất lo lắng cho mối an nguy của gia đình mình. Tôi đã phải mất khá nhiều thời gian và công sức để giải thích với những người láng giềng vì đã cho phép hai cô con gái của mình theo học ở trường đại học - chúng khiến tôi cảm thấy xấu hổ. Cả những đứa trẻ mà cô đang giúp đỡ ở cái trung tâm tình thương kia nữa?". Jamshed vụt đánh bốp vào một bên đầu của ông ta như muốn báo cho Viva biết chuyện này là không thể.

Cô cúi đầu. Những khác biệt về văn hóa đầy cuốn hút trước đây bỗng chốc trở thành vực sâu ngăn cách không thể nào vượt qua nổi.

"Ông Jamshed", cô từ tốn nói, "tôi hiểu tâm trạng của ông lúc này, nhưng tôi tha thiết muốn hỏi ông một vấn đề. Ông có nhìn thấy cậu bé ấy xuất hiện trong ngôi nhà này không?". Cô chỉ tay về phía bức ảnh chụp chân dung Guy.

"Cậu bé ấy?". Jamshed đến gần quan sát kỹ bức ảnh. "Ông bạn láng giềng Bizwaz của tôi từng miêu tả về một đứa trông giống như thế này. Ông ấy bảo thằng bé trông giống như một người Anh. Nó lao ra đường và cởi phăng áo khoác cùng đôi giày của mình rồi châm lửa đốt. Bizwaz đã la hét và đuổi theo nó nhưng thằng bé đã bỏ chạy trước khi ông ấy bắt kịp".

"Đúng là nó chỉ cởi áo khoác và giày thôi chứ?". 

"Chỉ áo khoác và giày thôi".

Im lặng. Viva mải mê với thông tin vừa nhận được 

từ Jamshed.

"Ông có chắc không?".

"Bizwaz không bao giờ nói dối". Ánh mắt ông già liếc cô sắc lẹm khi trả lời.

"Ôi lạy Chúa", cô gần như gào lên. "Nhưng có thể như thế lại hay. Chúng tôi đều cho rằng thằng bé đã chết".

"Cô nghĩ thằng bé đã chết?". Jamshed đưa tay lên gãi đầu như thể những ý nghĩ tồi tệ đang chạy dồn sang ông hệt như những con gián bẩn thỉu. "Cô Daisy Barker từng bảo với tôi, rằng cô là một quý cô người Anh trẻ tuổi nhưng rất mực đứng đắn, và giờ đúng là như thế thật". Ông già ngừng gãi đầu, nhìn thẳng vào mắt cô. "Thứ lỗi cho tôi, cô Viva", ông nói. "Tôi không thể để cô tiếp tục ở lại đây nữa. Không phải bây giờ, bởi ngoài kia trời đã tối, nhưng sáng mai thì cô phải đi. Cô không thể ở lại đây được nữa".

"Ông Jamshed", cô năn nỉ. "Làm ơn hãy để tôi giải thích tất cả chuyện này, ngày mai tôi sẽ mời chị Barker đến đây để trình bày với ông, chị ấy...".

"Thứ lỗi cho tôi, thưa cô". Ông già giơ tay, cương quyết. "Cả hai cô đều là người ngoại quốc, nên các cô không hiểu được đâu. Tôi chỉ có thể nhắc lại cho cô hiểu: quanh đây có những kẻ rất cuồng tín. Bọn họ luôn nghĩ những cô gái kiểu như cô là..." Jamshed dừng lại, không thể thốt nổi thành lời những điều ông đang nghĩ trong đầu. "Không trong sáng", cuối cùng ông cũng lên tiếng. Đã nhiều lần tôi phải bảo vệ cho cô trước sự lên án gay gắt của bọn họ. Nhưng giờ thì tôi không thể. Chuyện này quá nguy hiểm".

"Tôi hiểu", Viva có thể cảm nhận được hơi nóng bốc từ dưới cổ lên mặt. "Tôi không phải là một con ngốc".

Jamshed đột nhiên tuôn một tràng: "Tất nhiên, cô không phải là một con ngốc, và tôi cảm thấy đau lòng khi phải nói với cô những điều chướng tai gai mắt ấy, nhưng thực tình tôi không lấy làm lo lắng cho cô, mà bởi tôi đang lo lắng cho mái ấm tình thương của bọn trẻ. Cô không thể biết được những người dân bình thường quanh đây nhìn cô với ánh mắt thế nào đâu. Bọn họ có thể mỉm cười với cô nhưng ngay lập tức trở nên bối rối. Cô không có gia đình, không chồng, không con, không tiền bạc. Cô là ai? Cô là cái gì? Tin tôi đi, thưa cô, thật kinh khủng khi phải nói ra những lời này với một người xa lạ trên đất nước của mình, nhưng tôi vẫn phải nói". Ông già cương quyết gật đầu rồi bước về phía cửa ra vào.

"Tôi có thể chào tạm biệt bà Jamshed, Dolly và Kaniz được không?" Gia đình ông đã đối xử rất tốt với tôi".

"Không", Jamshed dứt khoát. "Tôi xin lỗi. Hai đứa con gái của tôi ở nhà nhưng tôi không muốn chúng gặp cô thêm một lần nào nữa".
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 41


Viva từng có lần nghe nói đến hiện tượng xuất hiện ở một số người - những kẻ nhu nhược, cô luôn quả quyết như thế - sẽ tự kết tội chính bản thân để có cảm giác mình là những kẻ phạm tội thực thụ. Ngày hôm sau, khi vừa bước chân qua ngưỡng cửa trung tâm nuôi dạy trẻ tình thương, Viva chợt hiểu được điều đấy: cô có cảm giác như thể đang mang trong mình một quả bom trĩu nặng.

Viva đẩy cánh cửa cổng được chạm trổ cầu kỳ, bước vào trong. Cảm giác nhẹ nhõm ùa về trong lòng cô khi mọi thứ vẫn nguyên vẹn như mấy ngày trước. Vẫn những căn phòng với những cánh cửa chớp đóng im ỉm, vẻ tăm tối gợi lên trong cô những hình ảnh tồi tàn quen thuộc của dãy nhà, vẫn những chú chim mỗi sáng lại kéo nhau về chí chóe trên cành me giữa sân. Băng ngang khoảng sân nhỏ, tiến đến trước hàng hiên rợp bóng, cô nghe thấy tiếng Bowden đang tập đọc cho đám trẻ tham gia vào lớp thêu thùa của bà những vần thơ trích trong cuốn sách yêu thích bằng giọng điệu mênh mông truyền cảm của xứ Yorkshire - Những vẫn thơ dành cho các cô gái xứ Ấn.

Giọt nước bé nhỏ, đám nữ sinh nhịp nhàng đọc theo, lên trầm xuống bổng như hát.

Những hạt cát bé nhỏ 

Thành đại dương bao la, 

Và những miền đất hứa. 

Những việc làm cao cả 

Cùng những lời yêu thương 

Biến tinh cầu bé nhỏ 

Thành địa đàng trần gian. 

Viva chậm rãi bước dọc hành lang im ắng, mờ tối dẫn đến trước văn phòng Daisy, cô cảm thấy căng thẳng tột độ, cảm giác chóng mặt ùa về. Điều gì sẽ xảy ra nếu Daisy không tin vào cô và Guy cùng những bức ảnh vương vãi trong căn phòng của cô tối hôm qua, về vụ tự tử giả mạo của Guy và tại sao Frank lại đột nhiên xuất hiện ở Ooty? Thậm chí Viva còn có cảm giác những gì vừa xảy ra với cô chỉ là những chuyện cường điệu.

Cuối cùng cô cũng tìm thấy Daisy trong văn phòng, cô đơn và nhỏ bé sau chiếc bàn, những lá thư xếp thành chồng truớc mặt. Daisy vẫn cặm cụi chúi đầu vào công việc, cần mẫn và tập trung như một chú ong. Khi nhìn thấy Viva, Daisy nhanh nhẹn đứng dậy niềm nở.

"Ôi, xin chào! Rất vui khi gặp lại em. Kỳ nghỉ thú vị chứ?". Daisy vồn vã đến độ đãng trí gài cả cây bút chì trong tay lên búi tóc sau đầu.

"Rất thú vị, chị Daisy". Viva quyết định sẽ dũng cảm đương đầu với những khó khăn trước mắt. "Nhưng em e là sẽ phải báo cho chị biết một vài tin rất tồi".

Daisy chăm chú lắng nghe trong khi Viva kể lại câu chuyện của cô, thỉnh thoảng lại tròn mắt thốt lên vài từ "tuyệt vời" hay "thật thú vị".

"Thật đáng tiếc khi Jamshed không cho phép Dolly và Kaniz tiếp tục đến trường" là phản ứng đầu tiên của Daisy sau khi nghe toàn bộ câu chuyện. "Chúng là hai cô bé thông minh và rất hiếu học. Nhưng còn vấn đề khác của Guy là gì?". Viva nhìn thấy một nốt phát ban xuất hiện trên khuôn ngực của Daisy, nhưng khuôn mặt của Daisy vẫn bừng sáng rạng rỡ. "Em có nghĩ ông ấy sẽ tiếp tục thổi bùng những tin đồn về chúng ta không? Nếu quả thật như thế thì chuyện này khá nghiêm trọng đây".

"Ôi Daisy". Cả hai cùng cúi xuống nhặt chiếc bút chì vừa rơi trên búi tóc của Daisy xuống sàn nhà. "Em xin lỗi, rất xin lỗi", Viva nói. "Nếu em không ở đây, chắc chắn trung tâm sẽ không rơi vào tình cảnh này".

"Không, chị không chấp nhận như thế. Chỉ là những lời đồn đại vô căn cứ", Daisy kịch liệt phản đối. "Ông Jamshed nói đúng - bọn gián điệp có mặt ở khắp nơi và không một người dân địa phương nào thực sự hiểu được những điều chúng ta đang làm: tại sao bọn họ nên như thế? Từ trước đến nay người ta chưa bao giờ nhìn thấy những nguời phụ nữ như chúng ta".

"Còn nữa, đường lối của ngài Gandhi là không ủng hộ bạo lực, nhưng những gì ông ta đã làm được cho người nghèo và phụ nữ, những giai cấp bị áp bức bóc lột thậm tệ đến tận hôm nay, nhưng giờ thì họ có thể tạo ra sự khác biệt. Đã trút sự giận dữ lên người Anh, cơn giận dữ bởi nghèo đói, họ nổi giận vì chúng ta dám giáo dục dạy dỗ phụ nữ. Chúng ta đã mắc kẹt giữa hai cuộc cách mạng và sớm hay muộn, cơn giận dữ sẽ lên đến đỉnh điểm, tất cả sẽ nổ tung, và tất nhiên, những tin đồn đang lan rộng kiểu như tin đồn về Guy của em sẽ chẳng giúp được gì nhiều. Nhưng em cũng đừng có để trí tưởng tượng của mình đi quá xa khi cho rằng thằng bé chính là tác giả của những tin đồn ấy".

"Thế thì chúng ta có thể làm gì với những tin đồn liên quan đến nó?", Viva thắc mắc.

"Câu hỏi rất hay. Em không thể tóm cổ một kẻ vì đã quẳng áo khoác của mình vào lửa". 

"Nhưng nó đã xới tung cả phòng em lên".

"Thế em định làm gì?".

"Em nghĩ nên báo cho cảnh sát biết".

"Có lẽ thế". Daisy lưỡng lự. "Nhưng nếu chúng ta làm như thế, nghĩa là chúng ta lại tiếp tục chuốc thêm những phiền toái mới. Đám cảnh sát, như em biết đấy, đều làm việc dưới áp lực từ những kẻ hấp tấp nóng vội trong Quốc hội mới, những kẻ đang nỗ lực tìm cách để đóng cửa những mái ấm tình thương như của chúng ta. Vả lại chúng ta cũng chỉ chịu đựng được đến một giới hạn nhất định nào đấy mà thôi".

"Thế còn những đồng nghiệp của chúng ta thì sao? Họ nghĩ gì?".

Daisy tung tẩy với mớ giấy tờ trong tay. "Lần cuối cùng một quan chức chính phủ đến đây, ông ấy đã công nhận là chúng ta đang làm những công việc có ích nhưng vẫn nghĩ chúng ta nên đóng cửa chỗ này. Ông ấy còn nói sẽ không đảm bảo cho sự an nguy của chúng ta nữa. Chuyện này diễn ra cũng khá lâu rồi, trước khi em làm việc tại đây. Có lẽ chị nên nói điều này cho em biết".

Daisy và Viva cùng đưa mắt nhìn nhau.

"Khi chị nói với đám người làm công và bọn trẻ, tất cả đều nức nở cầu xin chúng ta đừng bỏ đi. Thật kinh khủng, đau đớn lắm. Bọn trẻ, Viva ạ, chúng chẳng có gì cả. Chị không nói tất cả bọn chúng đều muốn được ở trong mái ấm này, chúng không thể cứ mãi ở lại trong không gian chật chội và thiếu thốn, nhưng nếu chúng ta bỏ đi, chúng sẽ chết hoặc kết thúc đời mình ngoài đường phố. Ai đấy phải hiểu điều này".

Daisy gỡ đôi tròng kính ra khỏi cặp mắt, trông cô già thêm vài tuổi khi không đeo kính, già dặn và đầy lo âu.

"Chị cần bọn trẻ nhiều như chúng cần chị", giọng Daisy chan chứa tình cảm. "Đấy là sự thật. Nhưng cũng là điều chúng ta hướng tới". Đôi tròng kính được Daisy đeo lên mắt trở lại. Hãy thử đi đến tận cùng của tình thế tiến thoái lưỡng nan đặc biệt này. Em có nghĩ cái cậu tên Guy Glover ấy sẽ lại tiếp tục giáng những đòn chí mạng vào mình, hay đấy chỉ là một trò đùa ngớ ngẩn của cậu ta?".

"Em không biết", Viva thiểu não. "Giá mà em có thể, điều duy nhất em biết chính xác lúc này là em ghét phải trở thành người khiến trung tâm này phải đóng cửa".

Im lặng. Có tiếng chảo kêu loảng xoảng từ ngoài vọng vào, ngay sau đấy là tiếng bọn trẻ vỡ òa bên hiên nhà, chúng đang đánh vần một câu thơ vẫn thường được dạy trong các nhà trẻ, Mary, ơi Mary bướng bỉnh, mảnh vườn cô xanh tốt đến nhường nào?

Tám ngày sau cuộc trò chuyện với Daisy, Viva chuyển đến ở trong một căn phòng dưới tầng trệt của trung tâm cùng bọn trẻ, một căn phòng nghèo nàn đến xơ xác, hệt như buồng tu khổ hạnh khép kín dành cho các vị nữ tu: một chiếc giường sắt, một chiếc tủ quần áo cũ kỹ, và một chiếc bàn gỗ xiêu vẹo - được tạo thành từ hai tấm ván khá rộng ghép trên những chiếc va li hành lý - tất cả chỉ có thế. Nhưng Viva thích căn phòng hơn bao giờ hết. Trông giống như một phòng làm việc, thậm chí chỉ dành cho việc sám hối. Cô lại bắt đầu phác thảo cuộc đời mình thêm một lần nữa. Khi Viva rời khỏi chiếc bàn, đến bên cánh cửa mở tung những chớp cửa mòn vẹt, từ đây cô có thể nhìn thấy những tán me xanh mướt rủ bóng ngoài hàng hiên. Có lần Daisy bảo với cô, ở miền Bắc Ấn Độ, người dân quan niệm bóng râm của những cây me thuộc về thần Krishna, vị thần là hiện thân của tình yêu được lý tưởng hóa. Thần Krishna đã ra ngồi dưới bóng cây me sau khi xa rời tình nhân của mình, thần Radha, và chiêm nghiệm niềm khoái cảm mãnh liệt của linh hồn người yêu dấu đang xâm chiếm trong lòng người.

Nhưng Talika lại kể cho cô nghe một câu chuyện khác, ảm đạm hơn câu chuyện của Daisy nhiều. Con bé bảo những cây me đã bị ma ám, nó chỉ cho cô thấy những lá me đã tự thu mình cụp tán rủ bóng mỗi khi màn đêm buông xuống, và rằng đấy chính là chỗ trú ngụ của những hồn ma bóng quế. Mọi người đều biết rõ điều đấy. 

Sau cuộc nói chuyện với Daisy, cả hai đã thống nhất với nhau về giờ giấc làm việc của cô. Buổi sáng cô sẽ lên lớp bốn tiếng đồng hồ, sau đấy sẽ nghỉ ăn trưa, đến chiều cô sẽ bắt tay vào viết về những câu chuyện của bọn trẻ. Một công việc đau lòng, cô gần như đã nhận thấy được điều đấy. Hôm qua, cô dành hai tiếng đồng hồ để trò chuyện với Prem, một cô bé người Gujarati nhỏ nhắn với đôi mắt lúc nào cũng buồn rười rượi. Prem kể cho cô nghe về trận động đất ở thị trấn quê hương của nó, Surat. Cả gia đình cô bé đã bị quét sạch trong cơn động đất như thế nào, rồi chuyện Prem may mắn được một người phụ nữ tốt bụng cứu vớt, người đã bảo nó gọi bằng dì, cả việc nó được người dì tốt bụng ấy dắt lên Bombay trên một chuyến tàu chật chội, kiếm cho nó một công việc mà mọi người vẫn gọi là gái điếm - cái công việc được Prem thốt ra kèm theo một nụ cười nửa miệng đầy chua chát và gọi bằng hai tiếng "gái đĩ" - chuyện nó bị đánh đập, dày vò trong bàn tay của đủ loại đàn ông ở nhà thổ như thế nào trước khi Prem chạy trốn và lê thân đến với trung tâm này.

Sau hai tiếng lắng nghe, cuối câu chuyện, Viva đề nghị được đổi tên cô bé trong câu chuyện mà nó vừa kể.

"Không", Prem dứt khoát. "Đây là lần đầu tiên cháu kể lại câu chuyện của mình với người khác. Hãy cứ giữ nguyên tên Prem trong đấy".

Ngày hôm sau, có thêm hai cô bé lớn tuổi hơn Prem dắt díu nhau cuốc bộ từ Dhulia đến trung tâm để kể cho Viva nghe câu chuyện của họ. Hai cô bé đã bỏ trốn khi bị ép buộc làm vợ lẽ cho hai ông già độc ác trong làng mình. Khi cả hai từ chối, bọn họ đã bị những ông bố bà mẹ đánh đập tàn nhẫn không thương xót.

"Bọn cháu chỉ là những đứa con gái nhà quê, nhưng bọn cháu đang thay đổi", cô bé lớn tuổi hơn, trông khá tự tin với chiếc mũi hếch, nói với Viva. "Bọn cháu không đáng bị đối xử như lũ bò cái hay như những con ngựa cái".

Vài ngày sau, một hôm khi Viva đang ngồi bên bàn làm việc, nhanh nhẹn gõ như múa trên bàn phím của chiếc máy đánh chữ, cố gắng ghi lại câu chuyện của Prem trước khi bữa tối bắt đầu, bỗng có tiếng gõ cửa nhè nhẹ từ bên ngoài vọng vào.

"Có một quý cô đến thăm, thưa cô", Seema, một cô bé mồ côi thò đầu vào thông báo. "Tên của cô ấy là Victoria".

Dứt lời, đã thấy Tor ào vào như một cơn lốc, cuống cuồng ôm chặt lấy Viva.

"Viva", Tor hấp tấp, "em phải nói chuyện này với chị ngay lập tức. Em nghĩ mình sắp phát điên đến nơi rồi".

"Chúa ơi", Viva dừng công việc, ngẩng đầu hỏi. "Có chuyện gì đang xảy ra với em vậy?".

Tor lột phăng chiếc mũ trên đầu, ném mình ngồi phịch xuống ghế, thở phì phì. "Chị có gì để uống không?", cô hỏi. "Em không biết phải bắt đầu từ đâu cả".

Viva rời khỏi bàn viết rót cho Tor một ly nước lọc.

"Bắt đầu từ đầu", cô nói.

"Ừm", Tor bắt đầu, "chị còn nhớ cái bữa trưa kinh khủng ở nhà bà Mallinson hôm nào nữa không? Khi Geoffrey bảo với chúng ta có thể gia đình của ông ấy sẽ rời khỏi đất nước này ấy? Lúc ấy em cứ nghĩ ông ấy chỉ nói đùa cho vui, nhưng không phải như thế, chuyện ra đi là thật. Sau khi chị ra về, Ci Ci đã nốc cạn chai sâm banh mở dở, rồi tiếp tục thêm vài chai nữa, bà ta cứ nốc như thế đến mức không thể dừng lại được. Thật kinh khủng, Viva. Thực sự bà ta đã khiến em kinh hoàng suốt nhiều tháng qua, nhưng đúng là cái ngày hôm ấy mới là tận cùng của khủng khiếp đối với em".

Tor nhanh chóng uống hết một nửa ly nước trong tay.

"Về chuyện gì kia?".

"Ừm, buổi sáng Ci Ci đã đến câu lạc bộ, bà ta cùng bà bạn độc địa Percy Booth đã nổ ra một cuộc cãi vã om sòm về chiếc áo khoác mà Ci Ci đã cho Percy mượn từ đời tám hoánh nào đấy, và giờ đây bà ta muốn lấy lại nó - đúng kiểu của Ci Ci".

"Nhưng tuần tới em đã đi rồi còn gì! Bà ta còn có ý nghĩa gì với em nữa đâu?", Viva nói.

"Không! Nhưng mà đúng thế, đấy chính là vấn đề". Khuôn mặt Tor đột nhiên rạng rỡ. "Bây giờ đến phần bất ngờ nhất đây, chị còn nhớ chàng trai tên là Toby Williamson? Chàng trai đã gọi điện cho em khi chúng ta đi nghỉ ở Ooty để hỏi thăm xem liệu em có ổn không ấy. Em gần như đã quên béng mọi thứ liên quan đến anh ấy, ngoài việc ăn mặc lôi thôi và tính cách có vẻ hơi lập dị - bởi trong buổi tối bọn em gặp nhau, anh ấy đã mặc chiếc áo khoác mượn của bố - thế nên trông anh ấy giống như một ông bố bận rộn ấy. Viva, đừng có cười như thế, chuyện này nghiêm túc đấy.

Sau ít ngày bị Ci Ci đẩy đến Coventry, em đã rất tuyệt vọng, một hôm em đã gọi cho anh ấy hẹn gặp ở câu lạc bộ Willoughby. Lúc bấy giờ em nghĩ mình chẳng còn gì để mất nữa, thêm bức thư của mẹ liệt kê một danh sách dài dằng dặc những món đồ mà em cần phải mua về nhà, em hiểu mình cần phải mang về cho bà ấy thật nhiều quà. Nhưng với sự ra đi của Pandit và Ci Ci luôn ém mình trong căn phòng ở ngay trên đầu, em phải cuốn gói khỏi đấy càng sớm càng tốt.

Anh ấy xuất hiện ngay lập tức. Cùng với chiếc xe xập xệ của mình - chất đầy quần áo và sách vở - và Ci Ci, kẻ luôn hy vọng sẽ có trò mới trong những ngày tẻ nhạt cuối cùng, đã nhìn anh ấy bằng ánh mắt kinh tởm.

Toby bối rối, im lặng trong thoáng chốc, còn em thì giận đến tím cả mặt. Chị biết em trông thế nào rồi đấy, Viva, như một con ngốc. Em đã thầm so sánh mình với những nhân vật mà chị vẫn gặp trên tạp chí Tatler ấy - thực sự là những kẻ ngốc, trong những bộ quần áo hào nhoáng, trong những chiếc xe cáu cạnh - những điều đấy hết sức bình thường.

Ban đầu anh ấy muốn đưa em đến một nơi gọi là Bangangla. Mới nghe qua đã thấy ngán đến tận cổ - một không gian hiu quạnh như nghĩa địa, có một cái hồ ở đấy. Rồi bọn em ăn trưa ở nhà hàng ven hồ, sau đấy lại kéo nhau ra ngồi trên những bậc thang viền quanh mép hồ, nói chuyện thâu trưa suốt chiều, bắt đầu từ công việc của anh ấy - Toby là một nhà sinh vật học, hình như là một nhà điểu học hay đại loại cái gì giống như thế, nhưng hiện tại anh ấy đang làm việc trong một trường nội trú dành cho nam sinh để kiếm sống - và rồi câu chuyện bắt đầu tiến xa hơn, trở về với thời thơ ấu của hai đứa, về bố mẹ, về những chuyện vụn vặt tưởng chừng rất bình thường mà trước đây em không bao giờ muốn tâm sự với những chàng trai kiểu như Frank hay Ollie, có lẽ bởi em thấy bọn họ mới đẹp đẽ và bóng bẩy làm sao, hơn nữa trong tâm trí em luôn lởn vởn những lời chỉ vẽ của Ci Ci hay của mẹ mình, rằng "phải thật nhanh nhạy", khi em trở nên quá nhiệt tình và chân thành, hoặc những khi em không hề nghĩ mình lại thích hợp với những người như bọn họ. Chị có thuốc chống đau đầu không Viva? Em xin lỗi, nãy giờ em huyên thuyên nhiều quá, nhưng chờ chút, em sẽ đi thẳng vào vấn đề ngay đây".

Gói thuốc bột chống đau đầu được hòa tan vào nước uống. Tor nằm ngửa mặt với một chiếc khăn ướt đắp hai bên thái dương, im lặng trong chốc lát, rồi lại ngồi dậy.

Đây mới là chuyện hay ho nhất", cô nói. "Trong suốt cuộc trò chuyện, em chợt nhận ra nếu Toby cắt tóc gọn hơn một chút, chăm chút đến mình một chút thì anh ấy cũng đẹp trai không kém gì ai. Rồi anh ấy đọc cho em nghe mấy câu thơ, rồi em nói: "Nghe này! Em phải cảnh báo anh - em chỉ là một đứa con gái u tối, chỉ thuộc duy nhất một bài thơ có tên "Ithaka", đúng là lúc đấy nom em thật tầm phào".

Viva bật cười. "Rồi cậu ta nói gì?".

"Anh ấy hỏi, "tại sao?" và em đã trả lời như sau: Bởi vì đấy chỉ là một lời nói dối. Nó chỉ nói về cuộc hành trình tìm kiếm kim cương ngọc ngà châu báu với hy vọng trở thành một kẻ giàu có, nhưng nếu không đặt chân đến Ấn Độ, em sẽ chỉ là một kẻ nghèo kiết xác; bởi vì nếu em không đến đây, em sẽ không thể biết được cuộc sống quanh mình thú vị đến nhường nào.

Rồi anh ấy im lặng, không nói một lời nào nữa. Bọn em cứ ngồi như thế bên nhau trong im lặng. Một đoàn người đưa tang chậm rãi xuất hiện ven hồ, bọn em im lặng nhìn người đàn ông cởi chiếc khố quấn quanh mình, cẩn thận kỳ cọ cơ thể của ông ta rồi vãi tro cốt của người cha đã quá cố xuống mắt hồ. Không khí lúc bấy giờ thật trầm buồn, Toby giải thích với em rằng người đàn ông đang thực hiện nghi lễ từ biệt người chết. Thật thú vị, đúng không nào? Rồi em kể cho anh ấy nghe toàn bộ câu chuyện về Pandit, nghe xong Toby thực sự lấy làm kinh tởm.

Trên đường lái xe trở về, anh ấy bảo không đồng ý với suy nghĩ của em về "Ithaka", rằng bài thơ không chỉ đề cập đến niềm vui được khám phá những miền đất mà chúng ta chưa bao giờ được đặt chân đến, mà đấy còn là những vần thơ giúp chúng ta tìm lại chính con người mình, hay đại loại là những gì giống như thế.

Sau đấy Toby dừng xe ven bãi biển Chowpatty. Mặt trời đã bắt đầu nhạt nắng, rồi anh ấy hôn em. Ôi, Viva, có phải em đã điên không nhỉ?". Đôi mắt xanh lơ to tròn của Tor vụt sáng long lanh. 

"Tiếp tục đi! Kể tiếp đi!". Viva lúc này đã gần như nhổm người ra khỏi ghế ngồi, còn Tor trông như đang bị thôi miên.

"Anh ấy bảo: "Anh có một kế hoạch có lẽ hơi ngớ ngẩn đối với em. Em thì không muốn quay về nhà, còn anh lại muốn kết hôn, vậy tại sao chúng ta không kết hôn với nhau nhỉ? Đấy sẽ là một cuộc phiêu lưu". Những gì anh ấy vừa nói khiến em cười lăn lộn".

"Ôi, không, không, không!", Viva đưa hai tay lên ôm đầu. "Không thể như thế được".

"Có đấy". Tor cuộn hai tay đặt lên vạt áo rồi cúi đầu nhìn xuống đất.

"Tor, em mới chỉ ở bên anh ta đúng một buổi chiều. Em không thể quyết định như thế. Em không thể".

"Nhưng không phải như vậy". Tor vắt tấm khăn ướt lên trán. "Chuyện này khá thú vị đấy chứ. Chị biết là đôi khi chúng ta vẫn tỏ ra thông thái đến thế nào kia mà".

"Không, chị không biết", Viva dứt khoát. "Chuyện này không đơn giản như thế đâu".

"Toby bảo nó giống như một cuộc hôn nhân ở Ấn Độ, ngoại trừ chuyện bọn em tự dàn xếp với nhau".

"Nhưng không có ai như thế cả, Tor". Viva phản đối. "Em không biết gì về cậu ta cả, rồi bố mẹ, gia đình của cậu ta nữa, bọn họ cũng chẳng biết gì về em".

"Em biết bố mẹ anh ấy đang sống ở Hampstead, mẹ của anh ấy là kiến trúc sư, ngoài ra bà ấy còn làm thơ, và mỗi sáng vẫn thường bơi trong một cái hồ nhỏ ở Hampstead với một chiếc ấm đun nước trong tay".

"Ôi, tốt". Viva nói, "giờ thì mọi chuyện đã rõ ràng".

"Để nước ấm hơn ấy mà", Tor giải thích.

"Rất tuyệt".

"Ôi Viva", Tor vỗ mạnh hai tay vào nhau như một đứa trẻ. "Cố hiểu em đi. Em không muốn quay trở về miền trung Wallop trong tình cảnh này. Em sẽ có một mái ấm của riêng mình. Anh ấy bảo với em cuộc đời của hai đứa sẽ là một cuộc hành trình đầy rẫy những khám phá - giống như những tu sĩ đạo Phật vẫn thẳng hướng rừng sâu để tìm được hát-man của bọn họ hay đại loại cái gì như thế".

"Atman", Viva chỉnh sửa cho Tor. "Nó có nghĩa là bản ngã bên trong, và những gì thuộc về các vị tu hành ấy rất xa lạ với cuộc sống của chị".

"Ôi, Viva", Tor đột nhiên nhăn nhó. "Sao mỗi lúc em càng thấy đau đầu dữ dội. Chị có gói thuốc nào nữa không?".

Viva hòa tan một ít muối Epsom vào ly nước rồi đưa cho Tor.

"Cậu ta bao nhiêu tuổi, Tor?", cô nhẹ nhàng hỏi. Rồi bỗng thấy ngạc nhiên với giọng điệu cảnh giác của mình.

"Hai mươi bảy tuổi rưỡi, lương giáo viên của anh ấy ở trường nội trú nam sinh thánh Bart đóng tại Amritsar là một ngàn rưỡi bảng một năm. Bọn em cũng sẽ có một ngôi nhà của riêng mình ở đấy".

"Chị nhớ em từng nói cậu ta trông già hơn em rất nhiều".

"Đúng là em có nói như thế, là bởi hôm ấy Toby mặc chiếc áo khoác của bố anh ấy - chiếc áo khiến anh ấy trở nên to lớn, khuỳnh khoàng - nhưng thực ra trông anh ấy rất mảnh dẻ".

"Và cậu ta đã thực sự cầu hôn em chưa?".

Tor úp mở. "Ừm...".

"Thôi nào, Tor, nói đi".

Sau những phút im lặng, Tor trả lời: "Em đã đính hôn". Rồi cô vén cổ tay áo, chìa cho Viva thấy chiếc vòng xuyến bằng bạc quanh cổ tay. "Anh ấy tặng em - theo tín ngưỡng Hindu, nó có nghĩa là "dành cho người yêu dấu".

"Nhưng em đâu phải là người Hindu, Tor".

"Em biết, nhưng em không thể cứ há miệng chờ sung mãi được. Hôm qua bọn em đã đến Văn phòng hộ tịch Bombay để đăng ký kết hôn, và em nhận được cái này". Tor cho Viva thấy dải băng vàng được cô thắt trên một chiếc dây chuyền đeo trong lần váy. "Tối nay bọn em sẽ đi khỏi đây. Em đã để lại cho Ci Ci một bức thư, cả gửi điện cho mẹ mình nữa, và điều tuyệt vời nhất trong chuyện này, Viva", đôi mắt Tor long lanh, "chính là đã quá muộn đối với bất kỳ kẻ nào có ý định ngăn cản em".

_________________
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 42


Khi Tor bỏ đi, nhanh như khi cô bé xuất hiện, còn lại một mình, Viva đến ngồi trên chiếc giường bé nhỏ, rụng rời với câu chuyện Tor vừa kể. Quyết định liều lĩnh mà Tor đã chọn khi dâng tặng cuộc đời cô ấy cho người đàn ông tên Toby khiến cô bé tiến gần hơn đến ranh giới của cái gọi là điên rồ, là mất trí. Ý nghĩ chỉ ít tiếng đồng hồ nữa thôi là Tor sẽ vi vu trên chiếc xe rách nát ngược lên phương Bắc cùng vị hôn phu của cô khiến Viva rùng mình kinh hãi. Cô bé đã đưa ra quyết định hết sức chóng vánh. Điều duy nhất khiến Viva cảm thấy dễ chịu lúc này ấy là khi Tor mải mê tiết lộ với cô về quyết định liều lĩnh của mình, Tor đã không hỏi cô bất kỳ điều gì về Frank. 

Viva không muốn nói về anh nữa. Tất cả đã chấm dứt.

Một tuần trước, cô đã gửi cho Frank một bức thư để báo cho anh biết, rằng Guy vẫn còn sống, có vẻ như "cái chết" của thằng bé giống một trò chơi khăm đã cùng lúc đánh lừa được cả hai người, nhưng kết quả của trò chơi ấy, cô đã phải cuốn gói khỏi căn phòng ấm cúng trong ngôi nhà của ông Jamshed.

"Anh thật tốt bụng khi đã nỗ lực hết mình để trở thành chàng hiệp sĩ của bọn em trong bộ giáp sáng ngời", cô đã viết như thế trong bức thư gửi Frank, sau đấy cô lại nghĩ những lời vừa viết ra có vẻ hơi mỉa mai, rồi Viva thêm vào, "đến hộ tống bọn em về nhà an toàn, nhưng em nghĩ sẽ tốt hơn nếu chúng ta không còn gặp lại nhau nữa". Trong trang bản thảo đầu tiên, cô viết, "ít nhất trong một quãng thời gian dài dằng dặc", rồi lại gạch xóa những gì mình vừa viết, cô đã nghĩ đến thủ pháp đột ngột kết thúc sẽ tốt hơn so với chấm dứt từ từ trước khi đặt dấu chấm hết cho tất cả.

"Ông Jamshed và chị Daisy" cô viết tiếp, "đã giúp em nhận thức được vấn đề, hai người bọn họ đã chỉ cho em thấy tốt hơn hết trong những thời điểm như thế này, em không nên làm điều gì tổn hại đến danh tiếng của trung tâm tình thương". Viết đến đây lòng cô chợt nao núng, ngòi bút ngập ngừng - nếu hai người không cuốn vào nhau trong cái đêm mưa gió bão bùng ở Ooty ấy, có lẽ giờ đây cô đang viết kể cho anh nghe về sự báng bổ đối với căn phòng của mình, cả những lời buộc tội đau đớn của Jamshed dành cho cô nữa, nhưng giờ đã khác, cảm giác xấu hổ đang ám ảnh trong cô.

"Giờ đây em chỉ muốn hoàn thành cuốn sách của mình, khi đã viết xong, em sẽ đi Simla để nhận lại chiếc rương của bố mẹ mình để lại", cô định dừng lại ở đây, nhưng sau một hồi đắn đo cân nhắc, Viva viết tiếp. "Chúc anh gặp nhiều may mắn trong tương lai. Trân trọng, Viva".

Những dòng cuối cùng, mấy dòng ngắn ngủi đề cập đến chuyện đi Simla để nhận lại chiếc rương, có vẻ chứa đựng khá nhiều can đảm trong từng nét bút, và có thể (cô không hề có ý nghĩ ấy khi viết ra những lời này) khiến cô cảm thấy được an ủi phần nào bởi bức thư chiếm hết của cô hơn một tiếng đồng hồ đắn đo cân nhắc từng câu từng chữ, đã khiến cơ thể cô ướt đẫm mồ hôi, và tâm trạng cô rối bời như búi tơ. Sau khi bỏ bức thư vào phong bì, dán kín, Viva mở cuốn sổ tay, quyết định tiếp tục với công việc còn dang dở. Nhưng cô không thể tập trung tâm trí khi ngồi vào bàn viết, cô đứng dậy thơ thẩn bước quanh căn phòng chật chội, vòng tay ôm lấy cơ thể nhỏ bé, Viva gần như rã rời vì cảm giác đau đớn đang quặn thắt trong lòng.

Khuya muộn, khi đã nằm trên giường, cô vẫn không thể chợp mắt nổi. Những hình ảnh đau đớn trong cái đêm mưa gió ở nhà nghỉ bé nhỏ Ooty ấy lại ùa về trong cô, Viva hận chính mình. Cô đáng được tưởng thưởng bởi những gì đã làm, và giờ đây những ý nghĩ nhuốm đầy nước mắt của cô, cả những tiếng rên rỉ than vãn bi ai của cô, cả cái cách cô mất hết can đảm khi bám chặt lấy anh, cự tuyệt chính bản thân mình. Tự trong sâu thẳm trái tim mình, Viva chỉ ước giá cô có thể giữ khoảng cách nhất định với anh trong cái đêm mưa gió ấy. Giữ khoảng cách không phải là điều gì quá khó khăn đối với cô. Sau sự ra đi của Josie và bố mẹ, Viva đã học được một điều - và cô đã rất thành công cho đến khi nỗi ê chề trong cuộc tình đầu thất bại và cay đắng với William - rằng không nên trao hết niềm tin vào bất kỳ ai, cả không hy vọng, và trên tất cả, không được bộc lộ hết bản chất trong con người mình. Như vậy cuộc sống sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.

Hai ngày sau, cô nhận được thư trả lời của Frank.

Viva thân mến,

Cảm ơn vì đã báo cho anh biết thông tin về Guy. Quả thật anh đã cảm thấy nhẹ nhõm khi biết thằng bé còn sống. Không còn nghi ngờ gì nữa, bây giờ thì em đã có thừa khả năng để ứng phó với những tình huống khó khăn trong cuộc sống mà không cần đến những cảnh báo của anh nữa. Về phần mình, anh cũng đã quyết định sẽ nhận công việc ở Lahore, tuần sau anh sẽ đến đấy. Anh có linh cảm em sẽ nhớ về anh, nhưng em sẽ không cố liên lạc với anh trước khi anh ra đi.

Thân mến,

Frank.

Viva ngồi trên giường, chậm rãi đọc không sót một từ trong bức thư của Frank. Sau đấy, cô vò bức thư trong tay, ném thẳng vào thùng rác, rồi cô nhảy khỏi giường, vớ lấy chiếc chổi trong góc phòng, cuống cuồng quét những nhát dài dọc sàn nhà, mỗi nhát chổi vung lên là tâm trạng cô thêm một lần xáo động. Sau khi quét sạch căn phòng, cô lôi nước xà phòng ra lau sạch mặt ngoài chiếc tủ quần áo to lớn, dùng những tờ giấy to bản làm lớp lót dưới đáy tủ, đoạn lôi mớ quần áo của mình ra sắp xếp tỉ mỉ thật gọn gàng. Xong xuôi cô đến bên bàn viết, sắp lại đống giấy tờ, những chiếc bút và cái máy đánh chữ, xếp chồng sổ tay của mình theo thứ tự ngày tháng, cuối cùng cô ghim tờ giấy ghi lịch làm việc lên bức tường cạnh bàn viết. Tốt, cuộc đời cô đã lại trở về với những trình tự nhất định. Hãy bắt tay vào công việc.

Khuya muộn, mệt nhừ và gần như tê dại, cô nằm im trên chiếc giường sắt kê gần cửa sổ. Dật dờ trôi vào cơn ngủ, co quắp hai tay ôm chặt cơ thể, âm thanh cuối cùng lọt vào tai Viva giữa đêm vắng là tiếng của con chim cú non đang khóc khan đòi mẹ trong chiếc tổ vắt vẻo trên cây me ngoài sân. Có lần Talika đã bảo với cô, tiếng cú kêu nghĩa là điềm báo về tai ương sắp giáng xuống đầu những ai nghe thấy chúng. Viva thấy mừng vì đã không tin vào những lời con bé nói.

_________________
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 43


Bức điện Tor gửi về nhà chỉ vẻn vẹn mấy chữ: XIN LỖI. THAY VÌ VỀ NHÀ, CON ĐÃ KẾT HÔN. SẼ VIẾT THƯ VÀ GIẢI THÍCH SAU. ĐANG RẤT HẠNH PHÚC. YÊU NHIỀU. VICTORIA xuất hiện ngay sau khi hàng loạt bức thư và điện tín trao đổi qua lại giữa Ci Ci Mallinson và mẹ của cô được thực hiện - cả hai đều đổ lỗi cho nhau trong chuyện bỏ trốn của Tor.

Bà Jonti Sowerby mở màn bằng một loạt câu hỏi nhắm vào Ci Ci, bắt đầu bằng chuyện tại sao một con bé như Tor lại có thể tự do bỏ trốn dấn thân trên cái đất nước Ấn Độ hoang dã rộng mênh mông như thế được. Liệu Ci Ci có biết gì về cái người tên là Toby ấy? Có ai biết đến nghề nghiệp của bố anh ta không? Sowerby yêu cầu Ci Ci đề xuất ý kiến cho biết liệu nên làm gì với tấm vé một chiều mà bà đã mua trước cho Victoria, ở tình cảnh mà gia đình bà gần như không thể có đủ khả năng để trang trải cho nó. Phí tổn, "trong trường hợp nó thực sự quan tâm", lên đến sáu mươi bảng.

Sau đấy Jonti viết thư cho mẹ của Rose, than vãn về chuyện bỏ nhà theo trai của đứa con gái, nó đã khiến "trái tim của người mẹ một đời tận tụy vì con phải tan nát".

"Chỉ những người làm mẹ mới hiểu được tâm trạng của tôi lúc này, mới hiểu được tình cảm mà tôi dành cho Victoria yêu dấu của mình nhiều đến thế nào". Những lời lẽ trong thư của Jonti nghe ra đầy cay đắng.

Bà Wetherby, người đã đón Tor về ở cùng Rose suốt những kỳ nghỉ hè thời thơ ấu của hai con bé, đọc bức thư mà lòng như xát muối, nhưng bà cũng kịp viết vài dòng an ủi Jonti và hứa sẽ viết thư cho Rose để thông báo tình hình.

"Rose", bà Wetherby viết, "gần đây đã cùng chồng chuyển lên khu vực biên giới gần Bannu. Chúng tôi đã cố thuyết phục con bé ở lại Poona, bởi ở đấy sẽ an toàn hơn, nhưng con bé vẫn cứng đầu, dứt khoát ra đi. Mà chị biết đấy, chỉ còn chưa đầy một tháng nữa là Rose sẽ ở cữ, chắc chắn chị sẽ sớm nhận được thư trả lời của con bé.

Vài tuần nay bọn em đã không còn nhận được bất kỳ thông tin nào về nó nữa, bề ngoài vẫn che đậy bằng vẻ hạnh phúc, nhưng kể từ khi chồng em đổ bệnh, cả nhà vẫn đang cố giấu con bé tình trạng sức khỏe tồi tệ của ông ấy - Cần phải tạo tâm lý thật thoải mái cho Rose trước khi con bé vượt cạn. Dù sao thì em cũng ghi cho chị địa chỉ mới của nó: số nhà 312, khu tập thể dành cho những người đã kết hôn, doanh trại Bannu, biên giới Tây Bắc, Ấn Độ".

Phải mất ba tuần sau đấy, bức thư của Jonti mới đến được Bannu, thị trấn bé nhỏ tiềm ẩn nhiều mối hiểm họa nơi Rose và Jack đang sinh sống được quân đội gọi bằng cụm từ "khu vực dành cho những kẻ đã kết hôn khẩn cấp". Sau nhiều tháng chờ đợi, cuối cùng thì Jack và hai mươi đồng đội trong Trung đoàn kỵ binh số 3 được lệnh điều động chuyển đến đồn trú tại một vị trí mà quân đội còn chưa xây dựng doanh trại canh giữ thuộc khu vực biên giới Tây Bắc, sau khi nơi đây xảy ra một vụ đụng độ khiến năm binh sĩ thuộc lực lượng bộ binh thiệt mạng. Jack đã năn nỉ cầu xin Rose đừng theo anh đến đây. Tất cả mọi người đều biết đến những mối hiểm nguy đang chực chờ ở mảnh đất này, là những sườn núi dốc đứng tiếp nối những hẻm núi sâu hun hút, những băng đảng tội phạm hiếu chiến, Bannu là một trong những vùng đất nguy hiểm nhất trên thế giới. Ấy thế mà Rose vẫn khăng khăng đòi đến Bannu bằng được. Ban đầu cả hai mong muốn được ở trong khu vực doanh trại Peshawar, bởi một nhẽ ở đấy gần bệnh viện quân sự. Nhưng hai tuần trước khi Rose và Jack chuyển đến Bannu, một cơn lũ quét đã bất ngờ cuốn trôi khoảng năm mươi căn hộ trong khu vực doanh trại, biến nơi này thành vùng đất chết. Chỉ có một lựa chọn duy nhất, đúng như viên sĩ quan trực ban đã nói, là Jack đến ở cùng đồng đội trong nhà tập thể, còn Rose quay trở về Poona.

"Cô ấy sẽ ở lại nơi đây", Jack vụng về trả lời. "Nếu ngài có thể tìm được cho chúng tôi một ngôi nhà". Anh biết sẽ vô ích khi tranh cãi chuyện đi ở với cô.

Trong một ngày oi bức cuối tháng Tám, đôi vợ chồng son được trao tận tay chùm chìa khóa của ngôi nhà cấp bốn bằng gỗ nằm trong một khu vực hiu quạnh, bao quanh là bụi đỏ và những tán cây dại lúp xúp đến hút tầm mắt. Rose choáng váng như thể vừa mới nhận một nhát búa vào đầu khi vừa bước chân ra khỏi xe và nhìn thấy ngôi nhà. Cô im lặng nhìn ra ngoài xa, nơi đường chân trời đang bừng lên thứ ánh sáng huy hoàng diệu kỳ của ngày, và rồi Rose có cảm giác quầng sáng lung linh khổng lồ phía xa xa ấy đang chuyển động theo từng nhịp bước chân cô. Mồ hôi túa ra ướt đầm khuôn ngực lúc bấy giờ đã căng phồng như hai trái dưa đến kỳ chín mọng của Rose.

Tâm trạng Rose bỗng chốc rối loạn: trong đầu cô bắt đầu hiện lên những hình ảnh đầy máu me của chiến tranh. Có lẽ cô không nên đến đây, là lỗi của cô chứ không phải của Jack, chẳng phải anh đã nhiều lần cảnh báo và ngăn cản ý định của cô đấy thôi.

Khi vừa nhìn thấy tổ ấm mới của mình, Jack đã thốt lên: "Trời ơi, trông như một cái lò mổ bẩn thỉu". Đấy là lần đầu tiên cô chứng kiến anh chửi thề, ngay cả khi hai người đã từng có với nhau vài trận cãi vã kịch liệt khi anh thú nhận với cô về Sunita, nhưng chưa bao giờ Jack thốt lên với cô dù chỉ một từ bậy bạ. Anh tảng lờ mọi cố gắng của Rose để đùa cợt với cô vì đã không hề mong đợi ở anh sẽ đưa cô thoát khỏi tình cảnh khó khăn trong thời điểm này.

Nếu cô không đến sống ở đây, cái liếc mắt của anh như muốn nói với cô điều đấy, thì anh có thể sẽ được tự do làm bất cứ điều gì mình muốn, tự do sống cùng đồng đội trong khu lưu trú tập thể. 

Mười phút sau, có tiếng gõ cửa dè dặt từ ngoài vọng vào, rồi một người đàn bà Pathan xuất hiện, nhìn hai người bằng ánh mắt ngạc nhiên và một thái độ hết sức hống hách. Bà ta mặc một bộ shalwar kameez màu xanh đen, trên cánh mủi xỏ một chiếc khuyên bằng vàng. Trao đổi với Jack bằng ngôn ngữ Pushto, bà giới thiệu tên của mình, Laila, đến từ ngôi làng bên cạnh. Bà sẽ giúp việc nhà cho Jack và Rose, giống như một lời tuyên bố hơn là một yêu cầu xin việc. Đứng bên cạnh là chồng của bà ta, tên là Hasan, diện mạo không khác gì bà vợ, với đôi mắt xanh sắc lẹm. Ông ta bảo sẽ là tài xế và người làm vườn cho hai người, dẫu mảnh đất lổn nhổn đá cuội bao quanh ngôi nhà gỗ tồi tàn không hề có bất kỳ một dấu hiệu nào được gọi là vườn. Khi Jack hỏi thăm về gia đình, con cái của người đàn bà, bà ta trả lời mình có đến sáu đứa con nhưng ba đứa đã chết. Khi nghe lời chia buồn của Jack, người đàn bà lập tức đáp lại, rằng đấy là ý Chúa.

Rose và Laila phải mất bốn ngày kỳ cọ bằng xà phòng cùng vô số nước nóng để biến ngôi nhà mốc thếch thành một nơi có thể tạm gọi là chốn nương thân lâu dài.

Khi ngôi nhà đã sạch sẽ, hai đứa con trai của Laila tên gọi Baz và Imad, đang là thợ mộc ở Bannu, đến tận nơi lắp đặt giá gỗ, sửa lại mộng cho chiếc giường và lắp lại bản lề cho chiếc hộp gỗ được mua để đựng quần áo của đứa bé sắp chào đời.

Và hôm nay, khi chỉ còn hai tuần nữa là đến ngày đứa bé chào đời, Rose ngồi trong căn phòng nhỏ bé được dành cho đứa con thân yêu của mình, cố gắng sắp xếp lại mớ quần áo bé xíu của nó. Đã một tuần nay cô ở nhà một mình - Jack đang hành quân tuần tra ở một ngôi làng giáp ranh với Mamash, một khu vực nơi những người dân tộc thiểu số từng có lần giết chết một người lính của quân đội. Anh hy vọng cuộc hành quân lần này sẽ chỉ kéo dài trong vài ngày, nhưng có Chúa mới biết được chuyện gì sẽ xảy ra.

Kể từ cái đêm nghe Jack thú nhận về Sunita, Rose đã không tiết lộ bất kỳ điều gì cho bố mẹ mình ở quê nhà biết. Trong những bức thư gửi cho hai người, cô chỉ vờ ra vẻ than vãn về con người mới mà mình đang trở thành: to béo và ì ạch, da dẻ căng mọng, đầu óc lúc nào cũng lơ mơ về mọi chuyện đang diễn ra quanh mình.

Cô bước xuống giường tìm giấy viết thư. Cô phải sớm viết thư về cho mẹ. Rose lôi nỗi tủi hổ xót xa của mình trên chiếc giá gỗ kê đầu bàn viết xuống, là một chiếc hộp bằng gỗ xinh xắn đựng những bức thư của bà con, bạn bè... Những bức thư đều có chung một nội dung, ca ngợi tài lanh lợi khéo léo của cô khi đã sớm đậu thai ngay sau ngày cưới, cả những lời chúc tụng về cảm giác hạnh phúc vui sướng mà Jack và cô hẳn đang dào dạt trong lòng. Hầu như Rose chưa bao giờ phúc đáp những bức thư từ quê nhà gửi sang. Kể từ khi Jack thú nhận về mối tình trong quá khứ của anh, đã gieo vào trong cô vết thương lòng tưởng không bao giờ hàn gắn nổi, cả cái cảm giác mất phương hướng đến chơ vơ cũng theo nhau kéo về giăng kín trong cô. Ít ra thì Jack cũng đã rất can đảm khi thú nhận với cô sự thật. Anh đã hứa với cô, rằng sẽ không bao giờ gặp lại Sunita. Có chắc lòng cô dịu đi đôi chút khi nghe những gì anh hứa?

Chưa một lần cô lên tiếng oán trách anh về điều đấy. Cuộc sống của cô giờ đây có quá nhiều điều phải lo lắng và Rose đã quyết định sẽ phải tự mình vượt qua nỗi đau để mạnh mẽ đương đầu với những sóng gió của cuộc đời.

Rose đã lên kế hoạch cho buổi sáng của mình. Cô sẽ ngồi bên chiếc bàn kê cạnh cửa sổ, sẽ không đi đâu cả cho đến khi trả lời xong bốn bức thư, bắt đầu từ đấy đã.

Mẹ kính yêu,

Cho con lời khuyên nhanh nhé, làm ơn đi. Cô Jonti Sowerby đã viết thư sang cho con để hỏi về Tor. Tất nhiên là con hiểu được cô ấy đang lo lắng đến thế nào, nhưng vấn đề nằm ở chỗ, con hầu như chẳng nghe được bất kỳ chút thông tin nào về Tor kể từ khi cô ấy bỏ đi cả.

Ý con là, cô ấy có viết cho con đôi dòng để kể về tuần trăng mật ở Kashmir và đang sinh sống cùng Toby trong một ngôi nhà gỗ ở đâu đó gần Amritsar, hai người bọn họ đang chuẩn bị chuyển lên khu vực rừng núi để bắt tay vào công việc quan sát nhận dạng và nghiên cứu các giống chim. Giọng điệu của Tor trong bức thư gửi cho con nghe ra rất hồ hởi và hạnh phúc, nhưng con không chắc cô ấy có kể những điều ấy cho mẹ mình hay không và con không muốn tiết lộ chuyện riêng tư thầm kín của Tor. Từ khi sang đây, tâm trí con khá hoang mang, thế nên mẹ yêu dấu, xin thứ lỗi cho con, nếu mẹ thấy thư con viết ngắn quá, thì con hứa sẽ sớm viết cho mẹ một bức thật dài. Thư sau mẹ nhớ đừng quên cho con biết bố thân yêu dạo này thế nào. Lâu nay mẹ không kể gì về bố cả, và điều này khiến con có thể tưởng tượng ra đủ tình huống tồi tệ đang xảy ra với bố!!!

Mẹ thương yêu,

Con rất nhớ mẹ, nhưng mẹ không phải lo lắng điều gì cho con cả. Chúng con đã đánh bại lũ kiến đói ăn và giờ đây cả hai đứa đều trở nên thông minh hơn trước rất nhiều. Tuần trước chúng con cũng đã mua một cái tủ nhiều ngăn khá vừa vặn. Jack nhờ con gửi đến mẹ tình yêu của anh ấy. Giờ đây con đã phát tướng thành một chú hà mã, các bác sĩ thăm khám đều bảo cả mẹ và bé rất ổn, đừng lo nữa mẹ nhé.

Con sẽ sớm viết thư khác dài hơn về cho mẹ.

Tình yêu lớn nhất của mẹ,

Rose.

Khi cô vừa định dán kín bì thư, đột nhiên đứa bé trong bụng quẫy đạp một cú thật mạnh. Rose gập người vì đau đớn, dứt cơn đau, bao lo âu vụt ùa về trong cô. Cảm giác mệt mỏi trào lên, nhưng cô không muốn biến mình thành một con ngốc khi một thân một mình bụng mang dạ chửa lê thân đến nằm tại bệnh viện quân đội gần Peshawar quá sớm. Tuần trước cô đã đến nhờ bác sĩ đồn trú trong trung đoàn kỵ binh của Jack thăm khám, cô đã đặt ra cho bác sĩ một danh sách dài dằng dặc những câu hỏi liên quan đến thai nhi và người mẹ. Liệu có bình thường không khi đứa bé thường quẫy đạp khá mạnh về đêm? Tuần trước cô rất khó ngủ. Có bất thường không khi mà thỉnh thoảng cô lại cảm thấy choáng váng và rất chóng mặt? Hai hôm trước, cô đã lả đi trong nhà bếp, lúc bấy giờ Rose đang nói chuyện với Laila, đến khi mở mắt cô đã thấy mình nằm trên chiếc tràng kỷ ngoài phòng khách.

Còn ba bức thư chưa trả lời, chỉ ba bức thư thôi, rồi cô có thể lên giường nằm nghỉ, nhưng đứa bé lại quẫy đạp, những cơn đau lại cuộn lên, đều đặn như nhịp phách trống, và buồn nôn. Rose loạng choạng đến trước tấm gương, lau khô những dòng mồ hôi đang đầm đìa trên mặt.

Khi đứa bé trong bụng ngừng quẫy đạp, Rose hít một hơi thật sâu rồi tiếp tục ngồi xuống trước bàn viết, cố gắng tĩnh tâm để giảm bớt cảm giác căng thẳng trong đầu, bất cứ điều gì bình thường đều mang dấu ấn của thời buổi tân tiến. 

Hai trang giấy trên cùng ươn ướt và ẩm mùi rêu mốc. Cô thẳng tay xé nát và ném chúng vào sọt rác.

Cô Sowerby yêu quý, cô Sowerby yêu quý, cô Sowerby yêu quý. Cảm ơn vì đã viết thư cho cháu. Cháu... Nếu cô cứ lặp đi lặp lại kiểu như thế chắc hẳn sẽ nhanh chóng dẫn đến lời thư tiếp theo. 

Cô Sowerby yêu quý,

Cháu rất vui khi nhận được thư của cô. Gần đây Tor chỉ viết cho cháu vài dòng, nhưng giọng điệu của bạn ấy nghe ra rất hạnh phúc. Cháu biết lúc này cô đang rất đau khổ, nhưng cháu nghĩ cô không nên lo lắng quá nhiều cho Tor.

Cháu cũng cảm ơn cô về những lời khuyên chân thành về chuyện sinh nở của cháu. Bác sĩ khám cho cháu hy vọng đứa bé sẽ chào đời trong hai tuần nữa, cháu sẽ nằm ổ tại một bệnh viện quân đội ở Peshawar, rất gần chỗ ở và khá tiện nghi, hơn hẳn các bệnh viện địa phương ở quê nhà. Cháu rất ổn, cảm ơn cô rất nhiều.

Nhà mới của vợ chồng cháu nằm ở một nơi khá tách biệt và yên tĩnh. Cháu có thể nhìn thấy những...

Rose ngừng viết, đặt bút xuống bàn. Phía cuối đường chân trời, ánh sáng lung linh mờ ảo đã bắt đầu xuất hiện trên nền trời nhập nhòa bóng tối, những giọt mồ hôi lại lấm tấm xuất hiện trên trán Rose. Cái nóng cuối hè mỗi lúc một ngột ngạt đến nỗi nếu Jack không phải xa nhà làm nhiệm vụ, hẳn cô sẽ ra ngủ ngoài hiên, nhưng thực tình hôm nay thì cô không đủ can đảm, chỉ cần nghĩ đến mùi hôi của đám bọ xít và tiếng ộp ộp của lũ ếch cũng đủ khiến cô rùng mình.

"Thưa bà chủ", Laila mang cho cô một ly nước chanh.

"Cảm ơn, Laila. Tôi nghĩ hôm nay chúng ta nên mở bộ tách đĩa dùng để uống trà ra dùng, được không nhỉ?".

Cô chỉ về phía chiếc thùng đã được gói ghém cẩn thận nằm ngay ngắn trong một góc hiên nhà. "Viết xong mấy bức thư, tôi sẽ ra giúp bà".

Laila không hề hiểu dù chỉ một từ trong những gì Rose vừa nói, nhưng vẫn mỉm cười, lắng nghe hết sức chăm chú. Lát sau, Rose đã ra ngoài hiên giúp Laila một tay dọn bộ đồ uống trà. Khi cô đang ngồi xổm gỡ chiếc tách sứ ra khỏi lớp giấy gói, đột nhiên Rose cảm giác như đang có một chiếc nút đóng đầu nắp chai bị bật tung ra ngoài giữa hai chân mình.

Rồi cảm giác ướt át do nước chảy tuôn đầy dọc trên hai chân, thấm ướt cả đôi giày của cô. Xấu hổ chưa! Cô tè dầm ra sàn nhà ngay trước mặt Laila. Phải nhanh chóng lau chùi ngay lập tức, ý nghĩ tiếp theo vụt đến trong đầu, cô muốn thở phào nhẹ nhõm - ơn Chúa vì Jack đã không chứng kiến cảnh tượng bẽ bàng này.

Nhưng có vẻ Laila đã hiểu chuyện gì đang xảy ra với cô. Bà ân cần đỡ lấy tay cô, nụ cười trên miệng bà tươi rói.

"Đứa bé đang chào đời", Laila bập bẹ nói với cô bằng thứ tiếng Anh không thể nào tệ hơn. "Ổn rồi, ổn rồi". Rồi bà âu yếm vỗ nhẹ vào lưng cô.

Rose hổn hển bởi cơn choáng váng trong lần sinh nở đầu tiên, vẫn cố hít hà thều thào với Laila: "Laila, gọi bác sĩ ngay đi, làm ơn. Daktar, Daktar".

Ít phút sau cô nhìn thấy Hassan đang vút roi đen đét lên mông chú ngựa già nua của ông ta, phi như tên bắn về phía thị trấn.

"Ngồi xuống nào, thưa bà". Laila đã lót cho Rose một cái tổ bằng những tấm nệm ngồi mềm mại, kê đầu lên một súc thân mây của hiên nhà, bên cạnh chiếc thùng đựng đồ sứ uống trà. 

"Chắc đây chỉ là tín hiệu báo động sai", Rose thều thào nói với Laila, rồi nhoẻn miệng mỉm cười. "Tôi không được sắp đặt thời gian nhiều hơn hai tuần cho chuyện sinh nở". Rồi cô chỉ tay về phía mớ tách đĩa bằng sứ đang mở gói dở. "Cứ tiếp tục, tiếp tục đi", cô nói với Laila bằng chút vốn liếng ngôn ngữ Pushto ít ỏi của mình. "Tôi không sao đâu, cảm ơn bà".

Sau khi Laila đã hoàn tất công việc với đống ly tách thìa đĩa bằng sứ dùng để uống trà, bà bê tất cả vào bếp. Còn lại mình Rose nằm bên hiên nhà, dưới chân núi lắng nghe tiếng gầm gào của dòng sông và tiếng chiêm chiếp của lũ chim non đang học hót trên những tán cây. Cô kéo tấm chăn lên che tận cằm, cứng rắn tự nhủ lòng không được sợ hãi, ngay cả khi đứa bé bất ngờ đạp một cú thật mạnh vào thành bụng khiến cô nghiến răng rú lên đầy đau đớn. Nếu đứa bé chào đời sớm hơn dự định, thì đấy không phải là chuyện gì lớn lao đáng để buồn lòng. Bác sĩ sẽ đến và cô sẽ khiến Jack tròn mắt ngạc nhiên khi đón anh trở về với đứa con xinh đẹp, khỏe mạnh trong tay.

Mọi chuyện giữa hai người trở nên tồi tệ kể từ khi anh thú nhận với cô về mối quan hệ với Sunita. Cô có cảm giác giữa anh và cô chỉ còn được neo lại với nhau bằng một sợi dây hết sức mỏng manh, mỏng manh đến nỗi nếu cô đưa tay giật nhẹ một chút, nó sẽ đứt phựt và rồi tất cả sẽ chấm hết. 

Rose nằm bên hiên nhà, bắt đầu quen dần với cảm giác nhói đau dịu nhẹ bởi những cơn co bóp dạ con mang lại. Cô đã nằm đấy gần một tiếng đồng hồ, chờ đợi tách trà đang được Laila lục đục pha cho mình trong nhà bếp, vu vơ tự hỏi tại sao bác sĩ Patterson ở Poona lại không nói với cô chi tiết những điều dù nhỏ nhặt nhất cần phải chuẩn bị trước khi sinh nở, thậm chí cả trong cuốn sách Vẻ đẹp người phụ nữ hiện đại và các cách vệ sinh đúng đắn mà cô đã ngấu nghiến từ nhiều tháng trời qua, không hề có lấy một dòng đề cập đến vấn đề cô đang gặp phải. Nhưng điều cô đang bấn cấn trong đầu lúc này lại là, tại sao người ta cứ phải om sòm vì những chuyện như thế này? Nó thực sự chẳng tệ hơn chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ là bao. 

Điều quan trọng là phải giữ được bình tĩnh, cô tự dặn lòng. Những cơn đau thắt đang cuộn lên trong dạ con được Rose ví như những ngọn sóng, rất dễ dàng nhón chân nhảy qua, và khi những ngọn sóng ấy theo nhau cuốn ra xa, chúng để lại trong cô cảm giác êm mượt mịn màng như bờ cát trắng.

Khi Laila bước ra hiên nhà với một đĩa bánh quy trong tay, cô trấn an bà bằng nụ cười rạng rỡ, bằng sức chịu đựng dẻo dai của mình. Laila đang khoác trên mình bộ shalwar kameez màu xanh nhạt, Rose sẽ mãi khắc ghi hình ảnh ấy đến suốt cuộc đời. Cô ngửi thấy mùi hương thoang thoảng dịu dàng của hoa hồng, mùi thơm nồng nàn của gia vị. Mười đầu móng tay của cô trắng hồng, sạch sẽ.

Cô uống cạn tách trà, nhắm mắt thiếp đi trong chốc lát, rồi cơn đau thắt lại dựng cô dậy. Mặt trời đang từ từ chìm khuất sau dãy núi trập trùng cuối tầm mắt, tiếng dòng sông gầm gào và đổ thác từ ngoài xa vọng đến. "Hassan về nhà chưa?", cô hỏi. "Daktar". Cô không chắc Laila hiểu được những gì mình nói, thầm trách cứ bản thân mình bởi đã không cố gắng học cho được thứ ngôn ngữ của bà ta. 

Laila khẽ cong người dịu dàng xốc nách cô thận trọng dìu Rose bước quanh hiên nhà. Khi cô bất ngờ gập người vì cơn đau, Laila nhẹ nhàng xoa tay sau lưng Rose. Mặt trời vẫn là đà chìm khuất sau đường chân trời, Rose tiếp tục nằm xuống bên hàng hiên. Lũ chim đã bặt tiếng hót. Laila mang ra cho cô một ít mơ khô, một lát bánh mì phết bơ, rồi bà động viên cô uống hết tách trà lúc này đã bắt đầu nguội lạnh trong tay. Cô cố gắng để không rên rỉ thành tiếng trước mặt Laila. Hassan sẽ sớm trở về, cũng có thể là Jack hay bác sĩ.

"Ôiiii! Ốiiiii!". Cô gào lên như một con vật. "Xin lỗi, xin lỗi", rồi cô hổn hển xin lỗi Laila khi bà chạy đến bên cạnh âu yếm vỗ về cô. "Ôiiiii. Cứu với!".

Cô nhìn đồng hồ. Đã bảy giờ, bóng tối đã bao trùm lên khắp không gian, cơn mưa rào bất chợt ập đến rào rào ngoài cửa sổ. Nỗi cô đơn giăng mắc lại dâng lên trong lòng, Rose chưa bao giờ cảm thấy cô đơn nhiều đến thế. "Hasan đâu rồi? Daktar? Cả ngài đại úy Chandler nữa?". Cô mím môi cố không gào lên, nhưng Laila đã nhún vai đầy thờ ơ, khẽ giơ tay như thể cả hai đang dắt nhau đến trước một hẻm núi hiểm trở.

"Giúp tôi với", Rose thều thào, vẫn gồng mình cố để không gào lên. "Tôi nghĩ đứa bé sắp chào đời".

Laila dìu cô vào trong phòng ngủ, giúp cô ngồi xuống chiếc ghế kê gần cửa sổ, từ đây cô có thể phóng tầm mắt ra ngoài nhìn thẳng lên dãy núi mờ xa trước mặt, sau đấy lôi bộ quần áo ngủ may bằng vải kẻ sọc của Jack từ dưới gối lên vắt lên thành ghế. Bà lột tấm chăn đang trải trên giường xuống, lót một tấm vải dầu lên, sau đấy lấy một tấm chăn khác trải lên trên. 

"Đừng lo lắng gì cả". Ngồi trên ghế, Rose sốt ruột nhìn Laila. Không còn thấy đau, những gì cô muốn lúc này chỉ là được nằm duỗi thẳng người trên chiếc giường êm ái. "Bác sĩ sẽ đến ngay thôi".

"Bà chủ, tôi xin lỗi, xin lỗi", Laila bối rối.

Không kịp mở cúc váy, Rose ngã vật ra giường.

Cô gào lên từng chặp không ngớt. Sao trước đây không có ai nói cho cô biết chuyện này lại có thể đau đớn đến thế.

"Ổn thôi, không sao đâu Laila", cô dịu giọng khi cơn đau lắng xuống. "Cảm ơn bà rất nhiều". Thật kinh khủng khi bị người khác chứng kiến trong hoàn cảnh này.

Một giờ trước khi bình minh ló rạng, khi mà Rose bắt đầu lờ mờ cảm thấy mình sắp chết, đứa bé đã chào đời và một người phụ nữ khác xuất hiện, có lẽ là bà mụ trong làng - cô không bao giờ biết bà ấy là ai - ào đến bên cô cắt dây rốn cho đứa bé.

Giữa những tiếng xì xầm, Rose lờ mờ nhận thấy Laila đang nhẹ nhàng đặt đứa bé vào vòng tay cô. Rose thốt lên: "Con của mẹ! Con trai của mẹ!". Giọng cô nghẹn ngào, thậm chí cô ngỡ ngàng như không muốn tin vào những lời đầy xúc động mình vừa thốt ra. Điều kì diệu đầu tiên của cô. Cơn đau vẫn còn âm ỉ trong Rose, nhưng trong đôi mắt rạng ngời niềm vui của cô, nó trở thành vô nghĩa. Rose nhìn ra ngoài cửa sổ, mặt trời buổi sáng như một khối cầu khổng lồ đỏ rực đang bứt mình bay lên khỏi những đỉnh núi, cảm giác hân hoan hồ hởi trào lên trong cô, tràn ngập, đầy bất ngờ. Cô muốn uống trà, muốn được ăn gì đấy, cô muốn ôm hôn mọi người, ôm hôn vạn vật quanh mình. Khi Laila ẵm đứa bé khỏi giường để lau rửa và bọc nó trong bộ quần áo sơ sinh bằng vải bông mềm mại, Rose nhìn bà chà những vết bẩn dính trên da đứa bé bằng một mẩu chà và mà Laila đang nhỏm nhẻm trong miệng, cô không thể hiểu tại sao Laila lại làm như thế, nhưng giờ thì cô hoàn toàn tin tưởng vào bà.

"Trao đứa bé lại cho tôi nào Laila". Rose mỉm cười. Bầu trời bên ngoài cửa sổ ngập tràn ánh nắng, một tách trà nghi ngút khói đặt trên chiếc khay để bên cạnh giường. Trên sàn nhà là chiếc thảm vẫn được Laila mang ra quỳ gối cầu nguyện mỗi khi đêm xuống, bộ quần áo ngủ của Jack vắt hờ trên chiếc ghế bên cạnh.

"Trao đứa bé cho tôi, trao đứa bé lại cho tôi nào". Giọng cô ngân nga, đôi mắt như cười loáng nước, hai người đàn bà, một già một trẻ chìm ngập trong niềm hạnh phúc vô biên.

Một chỏm tóc vàng hoe mịn như tơ mọc trên đỉnh đầu đứa bé, mềm mại như một nhúm lông vũ mọc trên mình lũ chim. Làn da của đứa bé hãy còn đôi vết hằn nhăn do những nỗ lực điên cuồng của Rose trong cơn đau đẻ suốt cả đêm qua, đôi mắt đứa bé lờ đờ trong cơn ngái ngủ nhưng lập tức phản ứng, trở nên nhanh nhạy khi Rose vỗ nhẹ lên cằm nó.

Laila kê đứa bé sát bầu vú căng tròn của Rose. Cảm giác khá buồn cười, nhưng cô thích mê tiếng chụt chụt nghe sao mà đáng yêu đến thế do đứa bé phát ra khi nó mải miết ngậm nụ hoa cô mút lấy mút để dòng sữa ngọt ngào tuôn chảy từ đấy. Rose sẽ không bao giờ cảm thấy mệt mỏi vì nó, cô dám chắc điều đấy.

"Ngủ đi, thưa bà", Laila nhẹ nhàng nói với cô khi đứa bé miên man thiếp đi trên bầu vú cô. Bà tắt đèn, vuốt phẳng tấm chăn cho Rose, cô muốn hôn chúc bà ngủ ngon, nhưng Rose biết cô không nên làm như thế, bởi nếu cô hôn Laila, chắc chắn bà sẽ phải mất bốn ngày trời kỳ cọ tắm rửa để tẩy sạch cơ thể. Người Ấn không thích được hôn, ít nhất không phải nụ hôn của những bà chủ dành cho họ. 

"Cảm ơn, Laila". Cô nói. "Tôi không biết phải cảm ơn bà bao nhiêu mới đủ".

Laila chắp hai tay vào nhau, khẽ cúi đầu, mỉm cười với Rose, một nụ cười dịu dàng và đầy ắp niềm hạnh phúc.

Mười giờ tối hôm ấy, Jack nhẹ nhàng bước vào phòng khi cả hai mẹ con Rose đang say sưa chìm trong giấc ngủ. Anh cầm ngọn đèn đến bên cạnh chiếc giường, đứa con trai đầu lòng của anh chỉ là một nhúm bé tí nằm lẩn khuất giữa một mớ quần áo, im lìm trong những cuộn vải. Rón rén đến gần hơn, Jack nhìn thấy một vòng hoa cúc vạn thọ quấn quanh cổ đứa bé, những bông hoa màu đỏ tía hệt như khuôn mặt của một ngài đại tá thống lĩnh già nua với áp lực chém giết đang đè nặng trên vai, hay giống như màu trái cà chua cuối mùa chín rục. Rose nhợt nhạt nằm bên cạnh ấp ủ đứa bé, những quầng thâm xuất hiện dưới mắt cô. 

"Em yêu", Jack lay nhẹ cô. "Em yêu". Anh âu yếm vuốt nhẹ chỏm tóc trên đầu đứa bé, bàn tay Jack chuyển sang vuốt nhẹ mái tóc ẩm ướt vì mồ hôi của Rose. Anh mê mải ngắm những ngón tay bé tí như những mầm cây mới nhú, cong cong giữa lần vải áo.

Rose mở mắt, Jack đứng đấy, cao lớn trước mắt cô, chiếc quần đi ngựa ướt sũng vẫn còn vận trên người, hai hàng nước mắt lã chã chạy dài trên đôi gò má. Cô nhẹ nhàng dùng vạt váy lau dòng nước mắt cho anh, Jack cúi xuống hôn lên trán cô.

"Thằng bé kháu khỉnh quá", cuối cùng anh cũng thì thầm với cô.

Cô đặt ngón tay lên môi anh, nhoẻn miệng mỉm cười, rạng rỡ.

"Con trai của chúng ta đây", cô thì thầm, rồi nhẹ nhàng bế đứa bé trao vào tay anh. "Điều tuyệt vời nhất trên đời".

Jack không tìm thấy bộ quần áo ngủ của mình, anh đành mặc mỗi chiếc quần đùi rồi nằm xuống bên cạnh hai mẹ con Rose.

"Bác sĩ sẽ sớm đến kiểm tra cho cả hai mẹ con", anh âu yếm nói với cô. "Ông ấy đang trên đường đến đây. Có một vụ lở đất trên đường, nhưng đã được dọn sạch. Anh không thể tin được sao em lại có thể dũng cảm đến nhường ấy".

Bàn tay anh nắm chặt tay cô, cả hai cùng nằm im trong bóng tối. Đứa bé nằm im lìm trên đầu hai người, một thiên thần đang ngủ.

"Anh đã có con trai", Jack lảm nhảm trong bóng tối. "Anh không xứng đáng với con trai mình".

Đứa bé khẽ ngọ nguậy, chỏm tóc mượt mà mịn như tơ trên đầu con trai khẽ cọ nhẹ vào tay anh.

Rose siết chặt những ngón tay Jack. "Có đấy, anh xứng đáng với con trai của chúng ta".
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 44


Viva đang vui vẻ chơi tennis cùng cô bạn thân Eleanor thì một bà xơ xuất hiện thông báo với cô mẹ đã mất. Chị Patricia, một cô gái người Ai-len gầy gò khẽ vẫy tay ra hiệu cho cô rời khỏi sân chơi, cả hai bước dọc lối mòn dẫn đến trường học. Những gì còn đọng lại trong tâm trí Viva lúc này chỉ là cảm giác căng thẳng cố gắng không bước chân vào những vết nứt trên mặt đường, và cảm giác trống rỗng giăng kín tâm can, lèn chặt và lạnh băng như tuyết.

Viva chỉ thoáng lấn cấn trong lòng một chút rồi thôi - những ngày này cô không muốn suy nghĩ nhiều về những điều ẩn sâu bên trong con người cô - nhưng hai ngày trước, mọi thứ bỗng chốc đổ vỡ, khi đám nữ sinh trường dòng được dẫn ra ngoài thưởng thức vở kịch Nàng Bạch Tuyết ở Chester. Viva ngồi trong lòng nhà hát kín bưng, với một túi kẹo cam thảo hiệu Liquorice Allsorts trong tay, say mê với những trường đoạn đang diễn ra trên sân khấu, cho đến khi hoàng tử xuất hiện, ngồi trên một cành cây được trang trí bằng những dây kim tuyến sáng lấp lánh, say mê hát cho Bạch Tuyết nghe "Một thiếu nữ xinh đẹp giống như một giai điệu". Bài hát yêu thích của bố cô. Kết thúc buổi biểu diễn, Viva rời khỏi nhà hát cùng một nữ tu sĩ sống trong tu viện, cả hai hãy còn phấn khích bởi vở kịch rất hiếm hoi mới được thưởng lãm. Nữ tu sĩ cho cô mượn chiếc khăn tay đã dùng của mình, im lặng nhìn cô đứng dưới vầng ánh sáng đầy màu sắc của dây đèn màu trang trí đêm Giáng sinh bên ngoài trung tâm thương mại Debenhams, hổn hển và nức nở, ánh mắt vờ dán vào mấy người mẫu bằng hình nộm đứng sau ô cửa kính, cho đến khi Viva trấn tĩnh trở lại và quay ra nhập vào đoàn nữ sinh đang đứng chờ cách đấy không xa.

Mọi người đều nghĩ tốt hơn hết nên tảng lờ cơn xúc động mãnh liệt vừa rồi của Viva, trên xe buýt quay trở về trường, cảm giác xấu hổ chợt trào lên trong lòng Viva, và cô tự dặn lòng sẽ không bao giờ để chuyện này xảy ra thêm một lần nào nữa. Thế giới này giăng đầy những chiếc bẫy, và từ bây giờ trở đi cô phải biết cách tránh không để mình dính vào chúng, và cách tốt nhất để không dính bẫy, ấy là cô phải biết kiềm chế cảm xúc, phải thật lạnh lùng trước mọi chuyện, và đến tận giờ này, quyết định ấy luôn giúp cô an toàn trước sóng gió của cuộc đời. Chuyện này giống như một bài hát được viết từ những lời ca ủy mị và những giai điệu sướt mướt mà cô phải thật thận trọng mỗi khi quyết định ngân nga.

Giờ đây sau những bài học, những trải nghiệm thực tế đã thuyết phục được Viva mỉm cười với cuộc đời sau khi Frank rời xa cô, yên lòng sau sự ra đi của anh. Viva vui mừng vì Frank đã không cố liên lạc trở lại với mình. Có lần Daisy đã tình cờ nói với cô, rằng chị nghe nói Frank đã chuyển đến làm việc tại Lahore, một công việc với những kế hoạch đầy hấp dẫn. Sốt rét là căn bệnh khủng khiếp và nhân loại phải nhanh chóng tìm ra thuốc chữa, càng sớm càng tốt.

Ngày ra đi, Frank thậm chí còn không gọi cho cô để nói lời tạm biệt. Như thế cũng tốt.

Giờ đây chỉ còn lại công việc. Mỗi đêm khi bọn trẻ đã lên giường đi ngủ, cô lại đến ngồi bên chiếc bàn nhỏ kê cạnh cửa sổ, lắng nghe tiếng róc rách trong đường ống dẫn nước cũ kỹ, tiếng cú kêu lạnh người trên những tàng cây bên ngoài cửa sổ, tiếng bọn trẻ ú ớ gọi nhau trong cơn mê, sau đấy cô sẽ cầm bút tiếp tục công việc viết lách hãy còn dang dở. Cô miệt mài viết đến tận một, hai giờ sáng, ghi lại những câu chuyện chân thực về cuộc đời của bọn trẻ. Những đứa trẻ dưới ngòi bút của cô hiện lên đầy can đảm và kiên cường - như chính cô đã có lần như thế - nhưng tất cả rồi sẽ phải học cách để không bước lên vết xe đổ đầy rạn vỡ của quá khứ.

Cuốn sách có vẻ khó viết hơn cô tưởng. Ngay cả khi Daisy đã nhiều lần cố gắng động viên, hâm nóng nguồn cảm hứng của cô, đâu đó giữa những mớ hỗn độn trong tâm trí cô, Viva vẫn mường tượng rằng, được sống dưới mái ấm tình thương Tamarind, chắc hẳn với đại đa số những đứa trẻ nơi đây, phải là niềm hạnh phúc vô biên, giống như một ý niệm thoáng qua trong cuộc đời mà hẳn mọi đứa trẻ nơi đây đều từng có lần mơ mộng đến. Giờ đây cô nhìn quan niệm ấy như một điều gì đấy ủy mị xen lẫn chút gì như ngạo mạn, kiêu căng. Một số đứa, đúng là như thế, đã rất mãn nguyện với đồ ăn thức uống hàng ngày cùng giường êm chăn ấm mỗi khi đêm về, những đứa còn lại đầy ắp âu lo khi phải sống ở một nơi là sự giao thoa giữa hai thế giới. Chúng nhớ cái nóng như thiêu như đốt, nhớ cuộc sống chật vật và hoang dại trong những khu ổ chuột. Chúng lo sợ đồng bào của mình vẫn mỗi ngày lê la trên phố ở ngoài kia sẽ nghĩ chúng là những kẻ "bán mình cho Chúa vì chút lợi lộc vật chất tầm thường", sẵn sàng bán cả linh hồn mình cho một bữa ăn nóng sốt. Một số cậu bé đã thẳng thừng tuyên bố với Viva, rằng có thể lúc này chúng sống nhờ mái ấm của trung tâm này, nhưng chúng sẽ là những cậu bé đầu tiên của ngài Gandhi.

Nhưng bất cứ điều gì bọn trẻ kể ra đều được Viva quyết định ghi chép lại một cách trung thực, từng câu từng chữ một, góp nhặt ngày này qua ngày khác, những trang bản thảo mỗi ngày một dày lên trên bàn viết của cô. Daisy cũng từng gửi một số câu chuyện của bọn trẻ nơi đây cho một người bạn của cô là chủ một tòa soạn báo ở Macmillan, bạn của Daisy đã trả lời nếu cô có thể viết thêm được vài chương nữa và trau chuốt ngôn từ cho nuột nà, chắc chắn tòa soạn sẽ sử dụng chúng.

Giờ đây cô đã hết sức chú tâm vào công việc viết lách, cô đã xác định sẽ làm chuyện này thật nghiêm túc, và rồi khi cô ghé mắt lướt qua tờ Thư tín tiền phong đọc được mẩu thông cáo về Rose, vợ của ngài đại úy Jack Chandler đã sinh hạ một cậu con trai được đặt tên là Frederick, Viva thực sự kinh ngạc và choáng váng - ừm, chuyện này là như thế nào? Cô lập tức viết thư chúc mừng Rose đã mẹ tròn con vuông, gửi kèm một chiếc tã trẻ em cực kỳ xinh xắn, do một cô bé trong trung tâm tình thương làm. Cô quay trở lại với công việc, còn rất nhiều điều để viết trong cuốn sách trước khi cô đủ tự tin để gửi cho các nhà xuất bản. Tháng Chín trượt qua, rồi tháng Mười cũng nhanh chóng rơi lại sau lưng, rồi mùa đông kéo đến ngang qua trời Bombay, mang theo những ngày nắng đẹp, ấm áp, bầu trời trong sáng đến tinh khiết, cùng những buổi chiều tà hoàng hôn buông xuống nhanh đến không ngờ, cả những đêm liu riu gió lạnh quét từ trên dãy Himalaya xuống, cuốn qua đồng bằng Deccan rộng lớn để rồi giúp Viva có thêm một tấm chăn dày nữa đắp trên mình trong những đêm nổi gió. 

Đầu tháng Mười một, bọn trẻ bắt đầu háo hức bởi thời điểm trăng tròn sẽ sớm xuất hiện ở Kartika, điều đấy có nghĩa lễ hội lớn nhất mà chúng đang chờ đợi đang đến gần: Lễ hội Diwali, lễ hội ánh sáng của người Hindu. Diễn ra trong đêm tối trời nhất của năm, đánh dấu thời điểm bắt đầu của mùa đông, sự trở lại của hai vị thần Hindu, Sita và Sam, thời điểm đón mừng sự trở lại của ánh sáng sẽ xua tan màn đêm tăm tối.

Thứ Ba, ngày 3 tháng Mười một, đêm trước thời điểm lễ hội chính thức khai cuộc, một cậu bé tên Vijay được chọn đóng vai thần Ram, được kiệu vòng quanh căn phòng ngủ tập thể chật chội, với một thanh gươm làm từ giấy bìa cứng nắm chắc trong tay; China, một cô bé mồ côi đến từ Bandra, được chọn đóng vai nữ thần Sita.

Ít phút sau, có tiếng gõ cửa phòng Viva. Talika xuất hiện, lộng lẫy trong chiếc váy hội: bộ sari màu hồng đào, cánh tay nó đeo đầy những chiếc vòng được tết từ những nhánh cỏ, một lớp phấn côn đen nhánh đánh quanh mí mắt con bé. Đôi tai bé nhỏ của con bé trĩu nặng bởi những chiếc vòng gián dấy vàng chen nhau đeo kín trên mình. Khuôn mặt Talika rạng rỡ, đầy tự hào xen lẫn đôi chút thẹn thùng, Viva tiến tới định ôm con bé vào lòng nhưng nó đã lùi lại, nhất định giữ khoảng cách với cô. Tuần trước, có lần Viva hỏi Talika có nhớ chút gì đến vòng tay ôm ấp của mẹ nó nữa hay không, con bé đã trả lời cô như sau, đầy quả quyết, rằng "mẹ chưa bao giờ ôm cháu vào lòng cả. Mỗi lần từ nhà máy trở về, mẹ rất mệt mỏi". Talika như một chú mèo hoang cô đơn bước đi trên đời.

Đứng cạnh Talika là Savit bé bỏng, cậu bé có một chân bị bỏng khá nặng, hôm nay Savit mặc một chiếc kurta mới tinh, một chiếc vương miện vàng chói đội trên đầu, Neeta đứng bên cạnh mặc một bộ sari màu tím cùng một sợi dây trang sức hình lưỡi liềm được kết từ những hạt nhựa màu đỏ giả hồng ngọc vấn trên đầu thõng xuống đung đưa ngang trán. 

"Trông cháu thế nào?", Savit hỏi cô.

"Rất tuyệt", Viva trả lời. "Giống hệt thần Ram".

Thằng bé cười tít mắt, rồi nặng nề lê chiếc chân tật nguyền bước đi, trông nó có vẻ đang rất phấn khích.

Viva cùng bọn trẻ lang thang giữa những quầy hàng chất đầy kẹo ngọt, mứt cà rốt tẩm mật ong và những chiếc bánh ngọt điểm hạnh nhân thơm phức. Chiếc vương miện bằng giấy bìa cứng trên đầu Savit tả tơi sau một hồi chen lấn, nhưng thằng bé vẫn không chịu cởi ra khỏi đầu. Trong lúc tập tễnh bước bên Viva xuyên qua một đám đông huyên náo, Savit hổn hển thông báo với cô rằng Uma Ooma, vị thần nữ ánh sáng, đã hiện thân.

"Nữ thần ánh sáng xuất hiện xua tan bóng tối", thằng bé tỏ vẻ hiểu biết.

Tiếng trống chợt dậy lên râm ran khắp mọi nẻo đường, tiếp theo là tiếng kèn trum-pet chói tai vút lên, rồi bất ngờ từ giữa biển người đang đu đưa lúc lắc đầu theo điệu nhạc xuất hiện một pandal gần như nghiêng hẳn sang một bên với một vị thần được trang trí cực kỳ lộng lẫy ngồi trên một chiếc kiệu, những vòng hoa mộc lan quấn dài quanh cổ, điểm xuyết thêm những cánh hoa hồng và hoa nhài thơm ngát. 

Một người đàn ông kiệu một đứa bé mập mạp trên vai chen lên phía trước đã cản tầm nhìn của Viva cùng những người đứng sau, không còn ai nhìn thấy thần Savit nữa, bọn trẻ vẫn kiên nhẫn chờ đợi.

Talika giật mạnh tay áo của Viva. ""Mamji, Mamji", giọng con bé hào hứng. Mỗi khi phấn khích, Talika vẫn gọi cô bằng tiếng mẹ đầy trìu mến. "Lakshmi xuất hiện tối hôm nay".

Lakshmi được xem là nữ thần tài của những người Hindu. Viva biết tối nay mọi cánh cửa ở Byculla đều mở rộng, chào đón sự viếng thăm của nữ thần Lakshmi. Rồi những chùm pháo hoa bất chợt vút lên giữa trời đêm ngập tràn ánh sáng: những vòng pháo hoa bừng nở ngập tràn không gian về đêm đậm màu da cam, tiếp đến là tiếng đạn pháo nổ tung giữa tầng không, soi sáng khuôn mặt của những đứa trẻ đang đứng quanh cô ngửa cổ say mê nhìn lên trời, từng khuôn mặt ngây thơ biến đổi theo sắc màu của những màn pháo hoa đang bừng nở trên trời cao; xanh, vàng rồi chuyển sang hồng tươi, đám đông khổng lồ trên phố cùng nghệt mặt há hốc miệng sững sờ trước màn pháo hoa ngập tràn màu sắc.

"Vui chứ?", Daisy xuất hiện bên Viva từ bao giờ, lên tiếng. Một sợi kim tuyến quấn trên mũ của cô. "Chị hy vọng em sẽ đến dự bữa tiệc do chị tổ chức sau buổi tối hôm nay".

"Chị thử cố ngăn không cho em đến đấy xem, Daisy", cô trả lời, nhoẻn miệng mỉm cười. Sau một quãng thời gian dài vật lộn với công việc, trong buổi tối hôm nay, cô chợt thấy phấn khích, niềm hứng khởi tràn ngập trong cô, Viva có cảm giác cô đã sẵn sàng để tận hưởng niềm vui cuộc sống. 

Đến nửa đêm thì không khí lễ hội trên đường phố đã lắng xuống, cô dẫn bọn trẻ quay về trung tâm và đôn đốc chúng lên giường đi ngủ. Sau khi bọn trẻ đã ngoan ngoãn lên giường, còn lại một mình, Viva bước ra ngoài phố, từng tốp từng tốp người đang dật dờ kéo nhau quay về nhà trong làn khói mỏng tang mơ hồ bởi những màn pháo hoa đã bắn lên trời từ mấy tiếng trước hãy còn lẩn khuất trong lòng thành phố. Một con chó hoang cụp đuôi luồn lách sục sạo giữa một đống tạp nham bầy hầy dưới một chiếc bàn kê trên niễng.

Vừa bước chân từ trên hè xuống lòng đường, Viva nghe thấy tiếng chuông từ góc đường đối diện vọng lại, tiếp theo là tiếng bánh xe rệu rã nghiến trên đường, rồi một bàn tay khẽ chạm nhẹ vào cánh tay cô.

"Thưa quý cô", một ông già nhỏ thó với đôi mắt mờ đục hình quả hạnh chỉ vào chiếc xe của ông ta. "Cô Barker sai tôi đánh xe đến đón cô. Xin mời lên xe".

Ông già đánh xe lên đường, làn da nhăn nheo của ông khẽ cựa quậy, Viva lúc bấy giờ đã thấm mệt sau một buổi tối vui chân theo lễ hội cùng bọn trẻ, dựa lưng vào thành ghế, khép mắt mơ màng ngủ. Khi tỉnh giấc, cô khẽ kéo tấm vải mành che ô cửa sổ bé tí bên mình chiếc xe, nhìn ra ngoài đường. Chiếc xe đang lao vùn vụt trên con đường chật chội bẩn thỉu, hai bên đường phơi dày những áo quần đã được giặt sạch.

"Không phải lối này", Viva đập cửa. "Cô Barker ở gần bệnh viện Mái ô kia mà. Làm ơn dừng lại".

Nhưng chiếc xe vẫn vùn vụt lao về phía trước, ông già đánh xe vẫn ngồi im.

"Dừng lại!", cô hét lên, đáp lại lời cô vẫn chỉ là tiếng bánh xe nghiến lên mặt đường rít rói. Tiếp theo là những tiếng động chói tai vang lên bởi va đập, tim cô đập rộn ràng khi nhìn ra ngoài, không một bóng người. "Xin lỗi! Xin lỗi". Cô hiểu lúc này mình cần phải tỏ ra nhã nhặn với ông già đánh xe. "Đây không phải là nơi tôi muốn đến. Ông nhầm đường rồi".

Viva cố nhổm người về phía trước, nhưng ngay lập tức cô đã bị ngã dúi về phía sau bởi ông già đánh xe lại thúc ngựa tăng tốc.

Chiếc xe tiếp tục chao đảo rẽ vào một con đường chật chội khác, bánh xe lăn lóc cóc trên những viên sỏi khiến hai hàm răng của Viva liên tục lập cập va vào nhau. Cô nhìn sang bên phải, chiếc xe đang băng qua khu ổ chuột mà người dân địa phương vẫn gọi bằng cái tên chawls, gồm những khu nhà xập xệ tạm bợ nơi đám công nhân lưu động vẫn thường trú ngụ. Ngoại trừ một ngôi nhà hãy còn le lói ánh đèn dầu tù mù hắt ra, còn lại đều chìm trong bóng tối đặc quánh. Một cú giật mạnh kèm theo một cú xóc đến chao đảo, chiếc xe ngoặt sang bên phải, tại một góc đường Viva nhìn thấy hai cô gái mặc sari đang đứng lẩn khuất trong quầng sáng vàng vọt hắt ra từ những ô cửa sổ có lưới sắt bao bên ngoài của tòa nhà sau lưng. Những cô gái điếm, Viva nhủ thầm.

Chiếc xe đột ngột dừng lại, đôi mắt trắng dã lờ đờ dán vào tấm màn cửa sổ, Viva nhìn thấy rõ cả hàm răng xỉn màu trầu đang nhăn nhở ngoài cửa xe.

Một luỡi dao sắc lạnh dí vào thái dương Viva.

"Ra ngoài", một giọng nói lạnh lùng vang lên.

Không có dấu hiệu nào cho thấy lễ hội Diwali từng tồn tại ở đây, không một chút màu mè trang điểm nào xuất hiện, chỉ bầu trời nhạt nhòa màu da cam bao trùm lên những ngôi nhà ổ chuột xiêu vẹo im lìm trong bóng tối.

Người đàn ông ép cô đi vào một ngõ hẹp, Viva bước phía trước ông ta. Bên tay phải là một cống thoát nước dậy mùi hôi thối của chất thải, giữa những đống rác cao ngất là những mảnh vỡ của một chiếc xe đạp nằm chỏng chơ, thêm những khúc xương của một loài vật nào đấy có kích thước trung bình nằm vương vãi xung quanh, có lẽ là xương lừa. Viva bắt gặp những ánh mắt sắc lạnh ẩn nấp sau những vách cửa dán vào mình khi cô bước ngang qua.

Viva dỏng tai, cố gắng lắng nghe những âm thanh lộn xộn phát ra sau những ô cửa sổ xập xệ hai bên ngõ hẹp: tiếng trẻ con khóc, tiếng leng keng của chai lọ va vào cạnh bàn, tiếng nhạc dậm dật... Người đàn ông liên tục thúc mũi dao vào sau lưng cô, đau điếng, miệng không ngớt lầm bầm, "Gora", - đồ ngoại quốc - ngôn từ tục tĩu cô vẫn thường nghe mấy đứa trẻ bụi đời lang thang ngoài đường phố thốt lên với những người nước ngoài.

Cuối con ngõ, ông già đánh xe dừng lại trước một ngôi nhà chật chội, cánh cửa chắc nịch đóng kín. Mấy ô cửa chớp trên đầu nhờ nhờ bụi bám, bên trong căn nhà tối như bưng.

"Dừng lại", người đàn ông nói.

Cửa nhà được mở. Một cánh tay lôi tuột cô dọc hành lang chật chội lúc bấy giờ đã được một ngọn đèn dầu tù mù thắp sáng. Có tiếng bước chân nhè nhẹ lọt vào tai Viva. Ai đấy túm lấy tóc cô giật ngược trở lại, trước khi cô kịp hét lên, một búi giẻ đậm mùi dầu máy tống thẳng vào miệng Viva.

Một cánh cửa được mở ra, cô bị dúi một cách thô bạo vào khoảng không tối sầm và ẩm ướt bên trong, đầu cô va phải vật gì đấy cứng như gỗ, có thể là một chiếc ghế hay một cánh cửa sổ. Viva nghe thấy giọng của một người đàn ông hét lên, tiếng ghế nghiến kèn kẹt lên nền nhà khi cô ngã xuống. Điều cuối cùng cô lờ mờ nhận thấy là cảm giác thắt chặt bởi sợi dây thừng buộc cứng quanh cổ tay rồi lồng lên tận cổ, rồi một cú đập mạnh vào đầu, trước khi chìm dần vào bóng tối, Viva mơ hồ cảm nhận được mùi vị lạnh tanh của kim loại xộc vào mũi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 45


Khi Viva tỉnh dậy, một người đàn ông trung tuổi, trên đầu đội một chiếc mũ vải với những hoa văn thêu thùa khá cầu kỳ đang nhìn chằm chằm vào cô. Đôi mắt ông ta mở to, vàng vọt. Hơi thở sặc mùi tỏi.

"Cô ả tỉnh rồi". Người đàn ông nói bằng tiềng Hindi với kẻ nào đấy mà Viva không thể nhìn thấy.

Cô thấy lạnh. Cổ tay cô hằn lên những vết dây thắt bầm đỏ. Mảnh vải lanh quấn sau lưng cô có mùi cây gai dầu xen lẫn mùi ẩm mốc.

"Tên tôi", người đàn ông đội mũ thêu giới thiệu, "là Anwar Azim".

Một gã thấp bé nhưng khá rắn rỏi, với một chiếc mũi khá lớn ngự chính giữa khuôn mặt, những chiếc răng vàng lổn nhổn trong khuôn miệng với môi dưới hơi trề khiến người đối diện có cảm giác gã từng bị dính một dao vào miệng và được khâu lại bởi một viên bác sĩ có tay nghề cực tệ. Giọng gã lạnh lùng, khào khào kiểu của những kẻ nghiện thuốc nặng, nhưng tiếng Anh của gã khá chuẩn, không hề tỏ ra chút dấu hiệu thiện chí nào. "Tôi đã muốn được diện kiến cô từ lâu".

Gã khịt mũi, âm thanh do gã phát ra khiến cô sợ cứng cả người. Sau khi đã nhổ sạch thứ dớt dãi trong miệng vào ống nhổ bằng đồng dựng trong góc nhà, gã dửng dưng nhìn Viva.

Đầu cô đau như búa bổ khiến Viva không thể tập trung quan sát kỹ khuôn mặt người đàn ông trước mặt cũng như không gian chật chội của căn phòng nơi cô đang bị giam giữ. Cô chỉ lờ mờ nhận thấy đây là một căn phòng khá nhỏ, chỉ rộng chừng mười mét vuông, vách tường bao quanh chi chit những vết nhơ hoen ố, tấm thảm trải nhà rách như xơ mướp. Trong góc phòng, một chiếc bàn bên trên đặt một bàn thờ đầy màu sắc thờ thần Ganesh, vị thần mình người đầu voi; dưới chân bàn vương vãi những mẩu đọt thuốc lá. Một vòng hoa cúc vạn thọ đã héo rũ quấn quanh cổ vị thần, và, thật khó hiểu, một chiếc ô tô đồ chơi màu đỏ nằm gọn trong lòng bàn tay của thần Ganesh.

Đôi mắt của nguời đàn ông chăm chú dõi theo ánh mắt của Viva. "Đây không phải là phòng tôi", gã giải thích với cô.

Ngay chính giữa trán gã là một vết chàm nâu và một vệt lõm khá nông, dấu hiệu của những tín đồ Hồi giáo mộ đạo, những kẻ thường xuyên sụp đầu quỳ gối cầu nguyện vài lần mỗi ngày.

Đầu óc cô mơ màng, không còn ý thức được thế giới xung quanh. Khi cô tỉnh lại lần thứ hai, một gã trai trẻ với hàm râu lún phún trên khuôn mặt rỗ chằng rỗ chịt nhưng nom khá thân thiện đang chăm chú quan sát cô. Gã trai trẻ đang nằm duỗi người trên một chiếc chõng kê trước một cánh cửa đóng im ỉm. Đầu cô nhói đau khi Viva quay người lại nhìn gã.

"Tôi khát nước", cô nhũn nhặn hỏi. "Cho tôi chút gì để uống được không?".

Thật ngạc nhiên, gã trai trẻ lập tức bật dậy.

"Tất nhiên", gã nói, rồi nhanh nhẹn chụp lấy chiếc bình đựng thứ nước nhờ nhờ màu gỉ sắt lên rót đầy một cốc. 

Gã trai trẻ nâng cốc nước lên ngang miệng cô, lập tức Viva uống ừng ực một hơi cạn cốc nước. Gã thanh niên quay mặt đi như thể Viva đang ném ánh mắt đầy giận dữ của cô vào gã.

"Tôi xin lỗi", gã trai trẻ nhẹ nhàng nói với cô, "chỗ này hơi xập xệ. Tôi không biết chỗ này lại mất vệ sinh đến thế".

Cô có cảm giác mình đang há hốc miệng khi nghe những lời gã thanh niên vừa thốt ra.

"Tại sao tôi lại bị bắt đến đây? Tôi phải làm gì?".

"Tôi không thể nói cho cô biết lý do vì sao", gã trai trẻ vẫn nhã nhặn. "Đấy không phải là trách nhiệm của tôi. Ông Azim sẽ quay lại. Trong lúc chờ đợi, cô có muốn ăn chút gì không?".

"Tôi muốn về nhà", giọng cô thiểu não. "Tôi không làm chuyện gì sai trái cả".

Đầu cô vẫn nhức nhối những cơn đau, cảm giác choáng váng lại ùa về trong Viva, mặc dù một phần trong tâm trí cô vẫn cảm nhận được tình thế nguy hiểm mà mình đang dính vào, nhưng cảm giác mệt mỏi bải hoải đang cuộn lên trong cô như một màn sương mù đặc quánh khiến Viva chỉ muốn nằm xuống, nhắm mắt và chìm sâu vào giấc ngủ, mặc kệ chuyện gì xảy ra vào lúc này.

Khi Viva tỉnh giấc trở lại, cô đưa mắt nhìn về phía cửa sổ, một vệt sáng mỏng manh lọt qua kẽ hở giữa những ô cửa chớp rọi thẳng vào căn phòng. Sợi dây buộc trên tay cô đã biến mất, hai cánh tay của Viva được xếp ngay ngắn trên vạt áo, một vết phồng rộp nổi lên trên vòng dây da đeo quanh cổ tay cô.

Một người đàn bà đẫy đà mặc một bộ sari cáu bẩn đứng trước mặt cô, hai tay bê một chiếc khay bên trên đựng hai chiếc bánh ngọt và một hũ nhỏ đậu lăng rang. Gã trẻ tuổi lún phún râu đã trò chuyện với cô tối hôm qua bằng thứ tiếng Anh khá lịch thiệp xuất hiện trước ngưỡng cửa, ra lệnh cho người đàn bà mang bức tượng thần đầu voi bằng thạch cao đi khỗ khác. Người đàn bà ngoan ngoãn ôm bức tượng trong tay, bước ra ngoài đi xuống phía dưới.

Viva không có cảm giác đói bụng nhưng cô vẫn ép mình ăn một chút với hy vọng sẽ giúp tâm trí cô minh mẫn trở lại. Trong lúc nhẩn nha nhai, hai tai Viva vẫn dỏng lên nghe ngóng mọi động tĩnh xung quanh: tiếng ống bơ leng keng lăn lông lốc ngoài đường phố, tiếng đóng cửa sầm sầm, tiếng lóc cóc của chiếc xe ba gác, cả tiếng kêu thảm thiết của một chú chim lạc đàn.

Cô nhìn đồng hồ đeo tay - chín giờ kém hai lăm phút sáng. Giờ này chắc hẳn mọi người đang sốt ruột chờ cô ở trung tâm tình thương. Daisy đã tràn trề hy vọng cô sẽ đến tham dự bữa tiệc, cô đã hứa sẽ không để Daisy thất vọng, nhưng rồi những ý nghĩ tiêu cực lại ập đến. Nếu hôm nay là thứ Tư, cô gần như chắc chắn như thế, Daisy đã dạy xong một lớp buổi sáng ở trường đại học, và những người khác có thể sẽ nghĩ cô ấy đang ở cùng cô. Vả lại, làm thế nào mà mọi người sẽ tìm thấy cô ở đây được? Một căn phòng kín mít ở một xó xỉnh nào đấy trong một khu ổ chuột giữa muôn ngàn khu ổ chuột giống nhau trong lòng thành phố rộng mênh mông này. 

Trong khi Viva ăn, gã thanh niên thơ thẩn bên chiếc chõng, ánh mắt vẫn dán chặt vào cô. Một khẩu súng để bên cạnh gã, cùng hai chiếc dao găm còn nhét trong vỏ bọc da.

Khi cô vừa kết thúc bữa ăn, gã trẻ tuổi đột ngột bước ra khỏi căn phòng, thò đầu xuống dưới cầu thang gào lên mấy câu, rất nhanh chóng người đàn bà lúc nãy xuất hiện, mang theo một chiếc xô dậy mùi chất thải. Trong lúc đi vệ sinh, Viva lờ mờ nhớ lại có lần ai đấy đã nói với cô, rằng đàn ông Ấn Độ sẽ cảm thấy nhục nhã với ý nghĩ về những người đàn bà chỉ dùng để thực hiện các chức năng thỏa mãn thân xác.

Người đàn bà lượn tới lượn lui chờ cô xong việc, ngay lập tức thô lỗ tiếp tục quấn dây trói quặt hai tay cô ra sau. Ném vào cô một cái nhìn xa lạ xen lẫn hiếu kỳ, một chút độc ác, nhưng khi nghe những tiếng bước chân thậm thịch của đám đàn ông bước lên cầu thang vọng đến, cả hai cùng cứng đờ cả người, những động tác của người đàn bà lập tức quýnh quáng, vội vàng và hấp tấp, rõ ràng bà ta cũng đang sợ hãi đến rúm ró cả người.

Cánh cửa xịch mở, Anwar Azim bước vào.

"Xin chào, cô Viva", giọng gã đàn ông trung tuổi nhẹ nhàng, đôi mắt gã lướt từ trên cổ xuống ngực, rồi chạy thẳng xuống giữa hai chân cô. "Tối qua cô thế nào?", gã khẽ nuốt nước bọt, vẻ thèm muốn.

"Rất khó chịu", cô trả lời gã. "Tôi không hiểu tại sao mình lại bị giữ ở đây". Cô quyết định nhìn thẳng vào mắt gã.

Gã ngoác miệng ra ngáp, răng lợi gã phơi bày trước mặt cô, mồn một. "Tôi xin lỗi nếu cô thấy bất tiện. Tôi có thể giúp được gì cho cô?".

"Có chứ", Viva trả lời, "tôi muốn có một tấm chăn, tôi thấy lạnh".

"Có lạnh bằng nước Anh không?", gã chòng ghẹo cô, không khí trong căn phòng lúc này khá ấm.

Rồi gã đứng dậy, kéo ghế ra sau. "Đừng lo", gã nói. "Cô chỉ cần trả lời vài câu hỏi rất đơn giản của tôi, rồi cô có thể về nhà".

Gã quay đầu lại nói điều gì đấy với gã trẻ tuổi lúc bấy giờ đang đứng cách đấy không xa với một chồng vải màu đen trên tay. Gã trai trẻ nghe xong lập tức rũ chồng vải choàng lên những ô cửa sổ, ánh sáng lập tức bị chặn đứng ở bên ngoài, một ngọn đèn dầu nhanh chóng được châm lửa, mang ra đặt giữa bàn.

"Xin lỗi vì những phiền phức đã gây ra với cô". Khi Azim tiến gần đến trước mặt và nhìn thẳng vào mắt cô, Viva chợt nhận ra đôi mắt của gã mới yếu ớt làm sao, tròng trắng mờ đục, nhợt nhạt như lòng trắng trứng gà.

Gã lôi từ trong túi áo ra một chiếc hộp bằng ngọc, rút ra một điếu thuốc rồi nhét vào giữa đôi môi dày chằng chịt vết sẹo, dùng một chiếc bật lửa khá sang trọng, cô nhận ra đấy là một chiếc bật lửa hiệu Dunhill, cực kỳ đắt tiền - loại bật lửa vẫn được bà Driver sử dụng để châm điếu xì gà xén tày hai đầu vào mỗi sáng sớm.

"Vậy thì", gã đàn ông trung tuổi tiếp tục sau khi nhả ra một ngụm khói màu xanh lờ đờ cuộn lên uốn éo vây quanh đầu gã. "Thực ra chuyện này khá đơn giản. Thứ nhất, tôi muốn cô cho tôi biết Guy Glover đang ở đâu, sau đấy tôi muốn được nghe từ chính miệng cô kể lại những gì cô đã làm trong buổi tối thứ Sáu tại mái ấm tình thương của các cô".

Yêu cầu của gã khiến Viva kinh ngạc. "Ông muốn biết những gì?".

"Thằng nhãi Glover đã theo dõi mọi động tĩnh của cô ở đấy bao lâu nay, ít nhất là cho đến khi chúng tôi mất dấu nó. Dẫu sao", gã đột ngột dịu dọng trở lại, "cho tôi biết cô đã làm gì".

"Ừm, không có gì nhiều", cô trả lời. "Chúng tôi ăn tối cùng bọn trẻ, sau đấy đọc sách cho chúng nghe rồi yêu cầu chúng lên giường đi ngủ".

"Cô đọc chuyện gì cho bọn trẻ nghe?".

"Nhiều chuyện: phiêu lưu mạo hiểm, thần thoại, điển tích trong kinh thánh, trong sử thi Ramayana".

"Còn gì nữa không?".

"Không. Chúng tôi cố tạo ra một đêm đặc biệt trong tuần, nhưng chỉ với cảm giác tất cả nhân viên cùng ăn tối với bọn trẻ. Chúng tôi đều mong muốn điều đấy".

"Vậy thì những lời đồn kiểu như ở trung tâm tình thương các cô bắt các cậu bé tắm cùng các bé gái là không đúng?". Gã dừng lại, gỡ mấy sợi thuốc lá dính trên môi xuống. "Thế còn lời đồn xoay quanh chuyện các cô thường tắm rửa một cách lộ liễu nhằm mục đích khiêu gợi trước mặt bọn trẻ thì sao?". Giọng của gã đàn ông đột ngột trở nên lạnh lùng như trước.

Cảm giác sợ hãi trào lên trong lòng Viva. "Phải Guy Glover nói với ông chuyện này không?".

Azim không trả lời, gã nhìn thẳng vào mắt cô.

"Nếu đúng như thế, thì nó đã nói dối", cô nói. "Chúng tôi tôn trọng bọn trẻ và chúng rất tôn trọng chúng tôi. Nếu muốn, ông có thể đến để chứng kiến, lúc bấy giờ ông sẽ hiểu".

"Chúng tôi luôn có tai mắt của mình ở khắp nơi", gã trả lời rồi đưa tay quẹt ngang miệng, tiếp tục dán mắt vào cô. "Và chúng tôi đã chứng kiến tận mắt và nghe thấy những điều hết sức tồi tệ".

"Câu hỏi tiếp theo. Tại sao cô lại chọn sống tại Byculla?".

Cô nhìn gã, hít một hơi thật sâu. Cô thầm nhẩm tính, hẳn phải có đến mười hay mười hai vết khâu trên môi gã, có vẻ là những vết thương do dao gây ra, mỗi khi gã nhoẻn miệng mỉm cười, môi dưới lại méo mó đến thảm hại.

"Bởi vì tôi thích mảnh đất ấy. Tôi có việc làm ở đấy".

"Tại sao cô liên tục hỏi bọn trẻ về những câu chuyện xảy ra trong cuộc đời chúng rồi đưa cả họ tên thật của bọn trẻ vào trong cuốn sách của mình?".

Gã nhặt lấy chiếc áo khoác, cuốn sổ tay của Viva ló ra sau lớp vải nhung lót bên trong.

"Nó là của tôi". Khi cô vừa chớm nhổm người về phía gã, lập tức Viva nghe thấy tiếng lên đạn rôm rốp ngoài cửa. Gã bảo vệ đứng phắt dậy.

"Ngồi xuống". Gã đàn ông trung niên ngồi trước mặt đột nhiên hét lên với cô như một con chó dại. "Trả lời câu hỏi của tôi".

Cố lấy lại tự chủ, cô trả lời gã: "Tôi đang viết những câu chuyện về bọn trẻ".

"Tại sao?". Đôi mắt gã mở to.

"Bởi vì đấy là những câu chuyện rất thú vị".

"Chẳng có gì thú vị cả; chúng chỉ là những đứa trẻ bụi đời, với những cuộc đời rác rưởi". Dứt lời, gã phác một cử chỉ đặc sệt Ấn Độ, giơ tay phác lên một bên mặt như thể đang xua một con côn trùng chuẩn bị bám vào người. "Còn nhiều chủ đề hay ho hơn cho cô viết. Thế cô có những cuốn sách nào đã từng xuất bản? Tôi có thể mua chúng ở đâu?".

"Không", Viva trả lời gã, "đấy là cuốn sách đầu tiên của tôi".

"Tiếng Anh của ông rất tốt", cô lên tiếng khen ngợi gã sau một hồi lâu im lặng. Cô quyết định sẽ nói vài câu nịnh bợ gã, chí ít cô cũng phải thử hót vài câu đã. "Ông học ở đâu thế?".

"Đại học Oxford, giống như anh trai tôi thôi", đầu gã khẽ đung đưa nhè nhẹ cho thấy gã đang tỏ ra hài lòng với mấy lời tán dương vừa rồi của Viva. "trước đấy là ở trường thánh Crispin".

Cô đã từng nghe nói về ngôi trường ấy, một trong những trường công ở Ấn Độ được ca ngợi là "Eton của nước Ấn". Ở đấy người ta thừa hưởng phong cách giáo dục của phương Tây, dạy những giá trị thuộc về cuộc sống, những chuẩn mực và phong cách của người Anh cho con trai của các ông hoàng xứ Ấn, hoặc giả là con trai của bất kỳ ai có đủ khả năng tài chính để trang trải cho con cháu mình.

"Phải đấy là nơi các ông tổ chức những buổi lễ kỷ niệm sự kiện đêm Guy Fawkes?".

Gã đứng phắt dậy, cau mặt khó chịu. "Đừng có hỏi tôi", gã nói. "Chúng ta không có nhiều thời gian đâu".

Khi gã hấp tấp rời khỏi căn phòng, Viva phỏng đoán chắc hẳn gã đang vội vã đến với lễ cầu nguyện buổi trưa. Ít phút sau cô nghe thấy tiếng nước nhỏ từng giọt tong tong lên sàn nhà, rồi tất cả lại rơi vào im lặng, Viva tưởng tượng hình ảnh gã đang phủ phục thực hiện salah, lễ cầu nguyện bắt buộc mà những đứa trẻ Hồi giáo ở trung tâm tình thương của cô vẫn thường thực hiện mỗi ngày năm lần, vào lúc bình minh, khi mặt trời đứng bóng, vào giữa chiều, lúc hoàng hôn và sau khi bóng tối đã bao trùm lên vạn vật.

Trong lúc chờ đợi, gã trẻ tuổi làm nhiệm vụ canh gác trước cửa liên tục chĩa họng súng về phía cô.

Khoảng nửa giờ đồng hồ sau, Azim quay trở lại phòng giam.

"Vừa rồi ông đi cầu nguyện à?".

"Không", gã trả lời. "Tôi không phải là người mộ đạo. Không ai trong số chúng tôi là những người ngoan đạo cả".

Điều đấy có nghĩa cô đã đoán nhầm, Viva nhìn kỹ vết hằn trên trán gã, chính giữa hai mắt, hóa ra chỉ là một nếp nhăn chứ không phải là một vết lõm bởi những năm tháng dập đầu sát đất cầu nguyện tạo nên.

Gã tiến đến trước mặt cô, rất gần. "Tôi sẽ giải thích cho cô hiểu vì sao chúng tôi lại giam giữ cô tại đây", gã nói, ánh mắt lạnh lùng. "Mọi động tĩnh xảy ra trong trung tâm của bọn cô đều được giám sát chặt chẽ. Mục đích chính của chúng tôi là tìm cho ra gã bạn Guy Glover của cô".

"Nó không phải là bạn tôi".

"Không phải?", Azim cao giọng hỏi lại, nhổ mẩu thuốc lá ra khỏi miệng. "Cô từng chung buồng với nó trên con tàu Kaiser-i-Hind kia mà".

"Tôi không ở chung buồng với nó", cô dứt khoát. "Tôi chỉ là bảo mẫu của thằng bé".

Vẻ mặt Azim vụt trở nên bối rối.

"Tôi được người ta trả tiền để trông nom giám sát nó trên đường sang Ấn Độ", cô giải thích.

Azim bắt đầu đưa tay lên gãi, từ cổ đến cằm như thể những lời Viva vừa thốt ra biến thành mấy nốt phát ban bám lên mặt gã.

"Đừng có nói dối để đánh lừa tôi, cô Viva ạ", gã cảnh cáo cô. "Tôi không muốn làm cô đau đâu".

Cảm giác buồn nôn chợt cuộn lên trong dạ dày, lan dần lên thực quản và dợm lên trong miệng cô.

"Nó chỉ là một học sinh trung học", cô lắp bắp trả lời, "hay ít nhất tôi nghĩ nó chỉ dừng lại ở đấy. Tôi cần việc làm. Và tôi đã ở đấy để chăm sóc thằng bé".

"Ừm, thế thì cô đã không tận tụy với công việc của mình cho lắm nhỉ", giọng gã vẫn nhẹ nhàng.

Azim lôi từ trong túi áo ra một bức ảnh chụp một thanh niên ăn bận khá bảnh bao, mái tóc đen nhánh bóng mượt lượn sóng đầy nghệ sĩ. Trong bức ảnh, gã thanh niên đang mặc một chiếc áo sơ mi buổi tối, ngồi trên chiếc ghế đặt trong một buồng tàu khá sang trọng. Đôi môi gã sưng phồng, một bên mắt khép hờ bóng loáng. Một chiếc áo khoác buổi tối trải dài trên chiếc giường sau lưng gã trông giống như xác của một con chim cánh cụt khổng lồ. Một đôi giày trắng tinh nằm chỏng chơ trên sàn tàu.

"Đấy là em trai tôi", Azim nói. "Tác phẩm của Guy bạn cô đấy".

"Tôi biết chuyện này", cô thừa nhận. "Nhưng tôi không liên quan gì cả".

"Thế tại sao cô không báo cho cảnh sát? Bởi vì nó là một thằng đần?". Gã mỉm cười nhìn cô, một nụ cười không chút thiện cảm.

"Không". Cô nhìn thẳng vào mắt gã. "Đấy là một từ khá xúc phạm. Tôi không bao giờ sử dụng kiểu ngôn ngữ như thế bao giờ cả. Những gì tôi được kể lại lúc ấy chỉ là một tình huống xảy ra trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt, ai cũng muốn vấn đề trở nên đơn giản và được dàn xếp trong hòa bình".

"Thế hoàn cảnh đặc biệt lúc bấy giờ là gì?".

Cô cúi đầu nhìn xuống bàn tay mình. "Tôi không biết", giọng Viva nhẹ bẫng, gần như thì thầm.

"Thế cô có biết Guy Glover là một kẻ cắp?".

"Tôi có biết". Cảm giác khô khốc trong miệng lại ùa về, Viva gần như không thể thốt nổi thành lời. "Cả em trai của ông nữa. Tại sao cậu ta lại không đòi bồi thường?".

Azim đưa mấy ngón tay lên khẽ lướt nhẹ trên môi gã rồi nhìn cô chằm chằm.

"Bởi vì", gã nói, "thay vì đòi bồi thường, chúng tôi có thể thuyết phục Guy làm việc cho mình, nhưng giờ chúng tôi đang rất giận dữ với nó vì đã nuốt lời, bỏ trốn. Chúng tôi nghe nói nó đang chuẩn bị quay về nước Anh. Thậm chí có thể giờ này nó đã trên đường về đấy rồi cũng nên. Ngay khi cô giúp chúng tôi tìm ra nó, chúng tôi sẽ để cô đi".

Dứt lời, Azim bước ra khỏi phòng, gã trẻ tuổi làm nhiệm vụ canh gác lập tức bước đến bên cạnh Viva dùng một dải lụa bịt chặt mắt cô. Viva kịp nghe tiếng đế giày của Azim nện thình thịch lên những bậc cầu thang dẫn xuống tầng dưới, tiếp theo là tiếng hơi nước rít qua kẽ nắp của chiếc nồi hơi đang sôi, tiếng vi vu của những tán thông từ ngoài xa vọng vào. Mệt mỏi vì phải lắng nghe những âm thanh hỗn loạn từ ngoài phố vọng đến, Viva cố gắng tập trung vào tiếng bánh xe rệu rã nghiến trên mặt đường, tiếng rao mời chào thiểu não của ông già gánh nước thuê. Nhưng cô vẫn đủ sáng suốt để không gào toáng lên cầu cứu. Giờ thì cô đã thấy khiếp sợ trước Azim. Gã là một kẻ rất lạnh lùng và quyết đoán.

Tuy khiến cô hoảng sợ nhưng Viva bắt đầu nhận thấy cảm giác bất an, thiếu tự tin mà gã đang cố che giấu trong lòng. Azim kể cho cô nghe câu chuyện về một người bất ngờ bị đẩy ra giữa sân khẩu mà không hề có một ý niệm rõ ràng nào về yêu cầu liên quan đến vai diễn anh ta phải đóng. Chủ đề của những buổi thẩm vấn của gã không thể nào dự đoán được, và Viva bắt đầu hướng tâm trí cô đến chuyện quần áo, những thứ thường mang biểu tượng của vật chất, những biểu hiện bên ngoài của chứng rối loạn tinh thần. Đôi khi gã nhẹ nhàng giáo huấn cô bằng những lời ngập ngụa đức tin cá nhân: "Trước hết tôi là một tín đồ Hồi giáo, sau đấy mới là một người Ấn Độ", một hôm gã nói với cô. "Kinh Cô-ran dạy rằng chúng tôi có quyền được thừa hưởng và thực thi công lý, quyền được bảo vệ danh dự của chính mình, quyền được kết hôn, quyền được có lòng tự trọng và không bị báng bổ hay xúc phạm bởi bất kỳ ai". Hôm khác gã lại nói với cô, rằng gã thuộc kiểu người chỉ tin tưởng vào duy nhất một tiến trình, không phải tôn giáo: ấy là cải cách. Đấy là thời điểm, gã nói với cô, mà người dân Ấn Độ bắt đầu thôi không còn tỏ lòng biết ơn sâu sắc trước những cắc lẻ được người đời thửa xuống dưới chân họ, là thời điểm để người dân Ấn Độ đứng dậy chống lại lũ người Anh khốn khiếp. Đấu tranh để không còn làm thân phận tôi tớ: "ôi vâng, thưa ông chủ", gã bắt chước giọng điệu của một người đầy tớ. "Tôi đang chạy, đang nhảy, đang hết sức tìm nó về cho ngài đây".

Đến sáng thứ Tư, Azim quay trở về với nỗi ám ảnh quen thuộc của gã. 

"Các cô làm gì vào mỗi tối thứ Sáu ở cái trung tâm tình thương ấy?".

"Không làm gì đặc biệt cả", Viva trả lời gã. "Chúng tôi ăn tối với bọn trẻ, sau đấy đọc sách cho chúng nghe trước khi lên giường đi ngủ".

"Các cô đọc những loại sách gì cho bọn trẻ nghe?", giọng Azim đầy nghi ngờ.

"Tôi đã nói với ông rồi, thơ, điển tích trong Kinh thánh, thỉnh thoảng bọn trẻ kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện trong Mahabharata, hoặc vài câu chuyện cổ tích mà chúng biết - đấy là cách dễ dàng nhất để trao đổi giữa các nền văn hóa khác nhau".

Gã ném vào cô một cái nhìn đầy phẫn nộ. "Thế cô giải thích những chuyện này với bọn trẻ như thế nào?". Gã dí một cuốn sách sát mắt cô. "Cô có biết đây là gì không?". Cả cơ thể gã run rẩy bởi những cảm xúc đang dồn nén trong lòng.

"Tôi hiểu. Đấy là một cuốn sách rất thiêng liêng - một cuốn kinh Cô-ran".

"Và đây nữa", bàn tay gã run rẩy khi lật giở những trang sách. "Đây là một sự xúc phạm, một sự lăng mạ kinh khủng đối với một tín đồ Hồi giáo". Gã túm chặt lấy mái tóc của Viva và dúi đầu cô sát rạt vào những trang sách đang được mở tung trước mặt. Lúc này Viva mới nhận ra vài trang trong cuốn kinh Cô-ran đã bị xé nham nhở từ bao giờ.

"Tôi biết".

Miệng cô khô khốc, Viva không thể thốt nổi thành lời. Lần đầu tiên ý nghĩ cuốn gói rời khỏi đất nước này ngay sau khi sống sót thoát khỏi căn phòng này ùa về trong đầu Viva.

"Chúng tôi tìm thấy cuốn sách này trong phòng cô".

"Tôi... chúng tôi không làm chuyện này, ông Azim", giọng cô run rẩy, cố gắng giữ bình tĩnh có thể. "Không ai trong số chúng tôi.... Chúng tôi không phải là những kẻ cực đoan".

"Đừng có lấy vải thưa che mắt thánh, cô Viva". Gã hét lên, nước bọt từ trong miệng gã văng tung tóe, bám lên mặt cô. "Bố tôi đã chết trong cuộc bạo loạn năm 1922 ở Bombay nên tôi thừa biết điều gì sẽ xảy ra khi người Anh các người can dính vào tôn giáo của chúng tôi, không có việc gì cho các người trong chuyện này - ôi, những kẻ bản địa tởm lợm". Giọng gã rít lên the thé, đầy kích động. "Hoang dại và không tự chủ được bản thân, nhưng các người đã chứng minh cho chúng tôi thấy chúng tôi đã cần các người nhiều đến thế nào. Các người đã làm gì với em trai tôi - vẫn kiểu đối xử ấy! Các người đang làm gì ở cái trung tâm nuôi dạy trẻ tình thương của các người - không gì khác! Hẳn các người đang nghĩ mình là điều kỳ diệu vĩ đại đang chìa tay giúp đỡ cứu vớt người dân Ấn Độ khốn khổ ngoài kia".

"Tôi không hề như thế bao giờ cả", cô hét lên, rồi bằng một nỗ lực phi thường, Viva kiềm chế được cơn giận vừa bùng lên trong mình, bình tĩnh ngồi yên trên ghế.

"Ông Azim này", cô nhỏ nhẹ, sau khi gã đã ngồi xuống ghế, "tôi thực sự lấy làm tiếc về chuyện của bố ông".

"Đừng có nhắc đến ông ấy nữa", gã rít lên. "Cô làm ô uế đến tên của ông ấy đấy".

"Và chuyện của em trai ông nữa", cô vẫn tiếp tục, bởi Viva hiểu có thể đấy là cơ hội duy nhất dành cho cô. "Thực tình tôi không hề làm cậu ấy đau một chút nào, và tôi không phải là một gián điệp".

Azim khẽ khịt mũi và liếm môi.

"Có thể ông không tin", cô tiếp tục, "nhưng ở trung tâm, tất cả chúng tôi đều dành tình cảm hết sức to lớn cho Gandhi; chúng tôi tin rằng đã đến lúc Ấn Độ dành lấy tự chủ cho riêng mình. Chúng tôi biết chúng tôi đã gây ra những sai lầm nghiêm trọng nhưng cũng đã làm được những điều tốt đẹp cho đất nước của các ông".

"Tôi không thích Gandhi", gã nói với cô. "Ông ta chỉ dành cho người Hindu thôi".

"Ừm, còn chuyện khác nữa tôi cũng muốn kể cho ông nghe", cô nói tiếp. "Bố tôi mất ở Cawnpore vào năm 1913. Lúc ấy tôi mới chín tuổi. Ông đến đấy để xây dựng một tuyến đường ray xe lửa. Không liên quan gì đến chuyện chính trị cả. Người ta kể lại với tôi là ông ấy bị bọn cướp sát hại. Ít tháng sau thì mẹ tôi cũng qua đời. Đâu chỉ riêng người Anh mới là người chịu trách nhiệm chính về cái chết của ai đấy".

Sự im lặng bao trùm lên khắp căn phòng. Đôi mắt gã nhìn cô trống rỗng, Viva tự hỏi không biết nãy giờ gã có lắng nghe những gì cô nói, có lẽ Azim đang nghĩ về người bố quá cố của gã. 

"Tôi quên cách cầu nguyện như thế nào rồi", gã vu vơ, lẩm bẩm với chính mình.

Lập tức Viva vớ được một vỏ bọc khá hoàn hảo, như thể một con côn trùng có cánh tìm được một chiếc tổ bằng hổ phách tuyệt diệu, hoặc giả như một miếng mỡ nước được lưu giữ trong một tảng băng cực kỳ vuông vắn. 

Gã rướn người tiến gần hơn trước mặt cô, chiếc ghế nghiến lên sàn nhà phát ra một tràng âm thanh chói tai. Đôi mắt gã nhắm nghiễn, khẽ nhíu mày suy nghĩ trước khi tiếp tục nói với cô.

"Tôi là một thành viên của tổ chức Liên đoàn Hồi giáo toàn Ấn", gã giới thiệu. "Một số đồng bào của cô, những người Anh ấy, đang cộng tác với chúng tôi rất chặt chẽ. Tôi cũng đã cho gã Guy bạn cô một cơ hội để giúp đỡ tổ chức. Cô Barker bạn cô ở mái ấm tình thương rất nổi tiếng trong tổ chức của chúng tôi với vai trò là người ủng hộ thân cận của Gandhi - chúng tôi nghĩ cô ấy có thể làm được nhiều việc hơn thế. Cô giúp chúng tôi nhé?".

"Tôi không hiểu ông đang nói gì", Viva nghi ngại.

"Không?".

"Không".

Gã đứng phắt dậy. "Thật đáng tiếc", gã nói. "Tối nay là đêm cuối cùng của lễ hội Diwali. Cũng chính là thời điểm chúng tôi sẽ đưa ra quyết định phải làm gì với cô". 

"Tôi không phải là gián điệp", giọng cô thiểu não, ngay cả khi Viva thực sự chẳng buồn quan tâm đến điều gì sẽ xảy ra với cô sắp tới. "Không ai trong số chúng tôi là gián điệp cả".

"Đừng có cố đánh lừa bọn tôi, cô Viva ạ", gã rít lên với cô rồi quầy quả bước ra ngoài, cánh cửa đóng sầm sau lưng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 46


Viva cố ru mình vào giấc ngủ hòng quên đi cảm giác sợ hãi nhưng chỉ sau hơn nửa tiếng đồng hồ chợp mắt, cô lại tỉnh giấc, cảm giác lạnh lẽo trào lên trong lòng, mấy đốt xương cổ mỏi nhừ, vẹo vọ. Những thời khắc cuối cùng của lễ hội Diwali đang đến gần. Giờ thì cô chỉ còn một ham muốn duy nhất, là sống sót thoát khỏi nơi giam giữ tăm tối này. Nếu Guy từng theo dõi bọn cô hàng tháng trời ròng rã để tìm cách tống tiền, có Chúa mới biết được những gì nó đã nói với Azim và đồng bọn về cô. Liệu ai sẽ nhớ đến mình nếu đêm nay là đêm cuối cùng của đời mình? Cô tự hỏi. Còn có ai trên cõi đời này quan tâm đến mình? Cô tưởng tượng đến đám tang của mình: Daisy sẽ có mặt ở đấy, có thể cả Talika và Suday nữa; thêm vài đồng nghiệp tình nguyện làm việc tại mái ấm tình thương, có thể là bà Bowden, Clara, nữ y tá người Ai-len lúc nào cũng nghi ngờ và ghét bỏ cô, bởi trong mắt của cô ta, Viva chỉ là một con chiên không bao giờ ngoan đạo. Tor, cô chắc con bé sẽ hành động như thế, nó sẽ đi từ Amritsar đến, cả Rose nữa, tận Bannu xa xôi cách trở cũng sẽ bế con ra ga bắt tàu đến tiễn đưa cô lần cuối. Giờ đây Viva hiểu hơn bao giờ hết tình cảm của những người bạn thân thiết sẽ dành cho cô trong cuộc đời đầy bấp bênh và mong manh này. Ngay lúc này đây cô nhớ đến nhường nào một tiếng cười, cô cần biết bao tình yêu của bọn họ.

Và Frank! Thật đau đớn khi hình ảnh anh lại ùa về choán hết tâm trí cô vào lúc này. Anh sẽ đến. Cô biết chắc chắn anh sẽ đến. Cô biết anh đã nỗ lực nhiều đến thế nào để xích lại gần bên cô. Những kẻ từng bị tổn thương sâu sắc như cô hay Azim luôn xù lông để bảo vệ bản thân mình trước cuộc đời, bảo vệ gia đình, tôn giáo, niềm kiêu hãnh, và che đậy vết thương tinh thần bí mật của chính mình. Frank đã mở rộng tấm lòng anh với cô, không hề giấu giếm cảm xúc của anh trước cô. Anh quả là một chàng trai dũng cảm.

Nằm bất động giữa bóng tối đặc quánh vây quanh, cô mơ màng nhớ về những ngày êm đềm ở Cairo, cô và những người bạn thân yêu của mình đã vui vẻ biết nhường nào, đến nỗi quên béng cả cơn giông bão đang tích tụ mây đen vần vũ trên đầu con tàu. Cô nhớ ngôi nhà nghỉ đơn sơ ở Ooty. "Xin em đừng ngượng ngùng về chuyện đã xảy ra ở đấy", về sau anh đã năn nỉ cô, gần như khẩn cầu.

Cô nhớ tiếng mưa rào rạt ngoài cửa sổ, cảm giác ẩm ướt trên từng thớ da khi được ủ trong những chiếc khăn tắm đã được vắt nước. Thật lâu về sau, trước khi cô có đủ thời gian để cảm nhận được nỗi ngượng ngùng cùng cơn choáng váng trong mình, cô và anh đã ngồi dậy, nhìn nhau rồi chợt phá lên cười như không thể tin vào những gì vừa xảy ra. Anh ôm cô vào lòng, trong ánh sáng tờ mờ của tia sáng lọt qua khe cửa, bàn tay anh dịu dàng áp trọn khuôn mặt thanh tú của cô, ánh mắt anh nhìn cô say đắm. Khẽ trở mình trong bóng đêm, cô mơ màng nhớ lại nụ cười bắt đầu từ tia sáng có phần láu lỉnh lóe lên trong đôi mắt xanh biếc của anh, rồi nhanh như điện xẹt, lan xuống đôi lúm đồng tiền trên hai má, rồi khiến cô sững sờ, đông cứng cả cơ thể bởi vẻ đẹp hút hồn của nụ cười đậu lại trên khóe môi. Cả sự cố gắng ghê gớm, khi cô bắt đầu nhìn thấy hậu quả của cô giữa những giằng xé đau đớn hòng che giấu và kiềm chế những cơn bão lòng đang chực chờ bùng cháy trong cô. Hãy để cô gái khác rơi vào vòng xoáy đam mê ấy cùng anh; cô, một Viva Holloway già dặn, thừa hiểu điều đấy.

Nghĩ đến đây, bất giác cô nhăn mặt, căm phẫn. Mình đúng là một con ngốc, cô nhủ thầm. Cuối cùng thì một kẻ khốn khổ như cô đã phạm phải những sai lầm gì, ngoài việc tiếp tục bước chân lên vết xe đổ mà mình đã gây ra thủa nào, để giờ đây vật vã với những day dứt giằng xé đớn đau trong lòng?

Đầu óc cô vẫn mơ màng. Đúng thế, đúng thế, đúng thế, vấn đề nằm ở chỗ: trên đời này không có gì là tuyệt đối cả. Anh đã đến, trút bỏ áo quần và vứt chúng lại trên sàn nhà, anh đã ào vào cô như cơn đói, cả cô cũng thế. Tại sao cô lại phũ phàng nói không trong buổi sáng hôm ấy?

"Frank", cô thì thầm gọi tên anh trong bóng tối đặc quánh. Lúc này cô chỉ muốn được ôm chặt lấy anh. Cô đã để cơ hội tuột khỏi tầm tay.

Sáng hôm sau, khi Azim xuất hiện, Viva đã quyết định sẽ hành động.

"Tôi chợt nghĩ ra", cô nói với gã. "Có thể Guy đang lẩn nấp trong một ngôi nhà ở Byculla".

Ánh mắt gã nhìn cô đầy nghi ngờ. "Tại sao bây giờ cô mới nói với tôi?". Những quầng thâm xuất hiện dưới mí mắt gã cho thấy đêm qua Azim cũng chập chờn mộng mị, không yên giấc như cô.

"Tối qua tôi đã nghĩ rất nhiều đến em trai ông", cô nói với gã. "Hẳn ông đã mong đợi lâu đến nhường nào để được gặp lại cậu ấy, và cảm giác choáng váng khi nhìn thấy gương mặt méo mó của em trai sau bao ngày xa cách. Đúng là kinh khủng".

"Chính xác", gã nói. "Nó không đáng bị như thế".

Cô rướn đầu về phía trước, tiến gần hơn tới Azim, nhìn thẳng vào mắt gã. 

"Tôi cũng nghĩ đến bọn trẻ ở mái ấm tình thương nữa. Tôi không phải là một kẻ ngoan đạo đặc biệt, vậy nên chắc chắn tôi không có gì để làm với Chúa, nhưng tôi cũng đã tự hỏi mình, rằng cảm giác của tôi sẽ thế nào nếu một ngày đẹp trời, trên đất nước xinh đẹp của mình bỗng nhiên xuất hiện những toán người Ấn Độ, đến để cố gắng dạy dỗ bọn trẻ của mình theo cách của riêng họ. Chắc hẳn tôi cũng sẽ lấy làm nghi ngờ và giận dữ...". Liệu cô có huyên thuyên nhiều quá? Ánh mắt Azim đang nhìn cô đầy hoài nghi. Gã đang đùa nghịch xoay xoay chiếc nhẫn đeo trên ngón út. Gã vẫn im lặng kiên nhẫn lắng nghe cô nói. "Nhưng sự thật là, tôi đang mệt", cô nói. "Tôi hy vọng sau khi dẫn ông tới chỗ nghi ngờ thằng bé đang ẩn nấp, ông sẽ trả tự do cho tôi".

"Nó sẽ trút sự giận dữ lên cô đấy. Nó không phải là một quý ông lịch thiệp biết cư xử đúng mực đâu".

"Tôi không quan tâm. Tôi muốn ra khỏi nơi này".

Gã nhìn cô, bĩu môi.

"Không phải là cô được giải thoát", sau một hồi lâu im lặng, gã nói. "Mà là sự tha thứ dành cho tôi".

"Tất nhiên", cô đáp lại lời gã, sau khi đã cố gẳng nở một nụ cười trên môi. "Tôi chỉ nghĩ đơn giản là mình có thể giúp chuyện này không trở nên ngớ ngẩn hơn thêm mà thôi".

"Nó đang trốn ở đâu tại Byculla?".

"Trong một căn hộ gần chợ trái cây", cô trả lời. "Tôi không nhớ chính xác địa chỉ, nhưng nếu ông dẫn tôi đến đấy, tôi sẽ dễ dàng tìm thấy khu nhà".

Gã nhíu mày ra chiều suy nghĩ, rồi nhìn xoáy vào cô, đầy nghi ngờ.

"Tôi sẽ quay lại lúc năm giờ rưỡi", gã nói.

Đúng năm giờ rưỡi, gã bước vào.

"Thời gian đang cạn kiệt". Gã ngồi xuống ghế, chống hai tay lên đùi rướn đầu cúi sát mặt cô.

"Chúng ta sẽ đi đâu?". Giọng Viva run rẩy, sao mà cô chán ghét bản thân mình đến thế, sao trong những thời điểm như thế này, lúc nào cô cũng run rẩy sợ hãi.

"Ra ngoài để xem trí nhớ của cô có mai một chút nào không".

Cô nhìn thẳng vào mắt gã. "Tôi nghĩ đấy là một ý hay", cô nói. "Tôi sẽ cố hết sức".

Gã nhìn cô bằng ánh mắt nghi ngờ. "Thế sao cô không cố từ bây giờ? Điều gì khiến cô thay đổi vậy?".

"Tôi mệt", giọng cô rầu rĩ. "Tôi không hiểu tại sao mình lại ra thế này".

Gã vẫn không tin những lời cô nói. "Thằng nhãi sẽ bắt cô phải trả giá cho chuyện này".

"Tôi không quan tâm. Tôi muốn đi ngay bây giờ".

"Tôi vẫn phải nói cho cô biết điều này", gã nói. "Đấy không phải là vấn đề tha thứ cho cô: là do tôi quyết định. Khi được ra ngoài, có thể cô sẽ chạy thẳng đến đồn cảnh sát. Nhưng những lời của tôi sẽ chống lại cô, và cứ thử xem ai sẽ thắng".

"Tất nhiên", cô từ tốn. "Tôi chỉ nghĩ có thể giúp được chút gì đấy cho ông, cũng chính là cơ hội dành cho tôi vậy".

Azim khịt mũi, như thể đang cố gắng xua tan những nghi ngờ đang cuộn lên trong đầu gã. "Nhắc lại cho tôi biết thằng nhãi đang lẩn trốn ở đâu tại Byculla", cuối cùng gã nói.

Cô nhắm mắt, ra vẻ đăm chiêu suy nghĩ.

"Trong một căn hộ chật chội gần chợ trái cây, sát ngay bên đền Jain tại hẻm Tình nhân", cuối cùng cô nói. "Tôi là một gora", cô sử dụng từ Hindi chỉ người ngoại quốc để nói với gã, "nên ông phải kiên nhẫn với tôi - mọi thứ đều thay đổi trong suốt thời điểm diễn ra lễ hội Diwali".

Ánh mắt gã lạnh lẽo xoáy vào cô. "Không khác gì cả", gã cảnh cáo. "Và Byculla không phải là một nơi rộng lớn gì cho cam. Nếu cô cố tìm cách chạy trốn, tôi sẽ không ngần ngại giết chết cô đâu". Rồi gã lẩm bẩm điều gì đấy bằng tiếng Urdu mà cô không thể hiểu, có lẽ là một câu chửi rủa hoặc cũng có thể là một lời cầu nguyện.

"Đối với tôi", gã nói tiếp, "giết cô không phải tội lỗi mà là danh dự. Tôi không ưa gì loại đàn bà con gái như cô. Chính các người đã mang nhục nhã và xấu xa đến với chúng tôi và bọn trẻ của mình".

Viva cố gắng không run rẩy hay nao núng trước lưỡi dao sáng quắc trong tay gã đang chĩa về phía cô.

Sợi dây thừng quấn chặt để lại ba dấu thắt lằn đỏ trên cổ tay cô.

"Không được động đậy", gã ra lệnh khi thấy cô cố xoa bóp hòng xua tan mấy vết bầm nơi cổ tay. Những vờ vịt ra vẻ thân ái đã biến mất. Gã nhét con dao vào lại bao da đeo bên thắt lưng.

Khi gã bước ra khỏi căn phòng, người đàn bà đẫy đà mấy ngày qua vẫn mang đồ ăn cho cô bước vào giám sát cô thay quần áo bằng đôi mắt vô hồn, không hề biểu lộ chút cảm xúc, Viva cảm thấy bực mình, mất bình tĩnh. Sau đấy cô được đưa cho một chút bánh nướng để ăn kèm theo một chút nước có vị lợ lợ cực kỳ khó chịu để uống, và rồi, bất ngờ cô bị đẩy ra khỏi căn phòng, dẫn xuống cầu thang và nhanh chóng bước ra ngoài, tắm mình dưới ánh sáng chói lòa của ngày.

Ngay khi vừa bước chân ra ngoài phố, lập tức Viva bị nhét lên một chiếc xe kéo có mui che kín mít. Ngồi sát bên cô là Azim, khuôn mặt lạnh lùng vô cảm của gã càng khiến nỗi hoảng sợ trong cô mỗi lúc một lớn thêm. Trước khi bước chân ra ngoài, gã còn chìa cho cô thấy khẩu súng giắt bên mình rồi nói: "Nếu cô gây khó khăn cho chúng tôi, chắc chắn cô sẽ thành vật hiến tế". Lời hăm dọa ngắn gọn của gã khiến Viva nhớ đến hình ảnh chú dê già nua tội nghiệp bị trói bên ngoài hàng thịt tại phố Trung tâm chờ đến thời điểm được đưa lên bàn mổ. Thực sự, cô cũng có thể rơi vào tình cảnh như chú dê tội nghiệp ấy, không mấy khó khăn.

Đã sáu giờ, không còn cảm giác lạnh lẽo nhưng không khí vẫn còn váng vất hơi ẩm, bầu trời tràn ngập ánh sáng. Cô nhìn thấy ánh đèn hắt ra từ những ô cửa sổ còn tươi màu sơn trổ bên mình mấy ngôi nhà tồi tàn, có vẻ không khí lễ hội Diwali chỉ lác đác lùa qua ngóc ngách nghèo nàn này của thành phố.

"Thường thì tôi vẫn chủ động lái xe", Azim nói với cô, vẻ sốt ruột lộ rõ trên khuôn mặt gã. "Nhưng lần này ngồi sau với cô sẽ tốt hơn cho cả hai chúng ta". Đôi giày chuyên dụng dành cho những người đi núi dưới chân gã liên tục dập lên sàn xe. Rõ ràng gã không thích thú gì khi phải ở trong những ngôi nhà tồi tàn ấy. Gã liến láu thốt vài mệnh lệnh với người tài xế lúc bấy giờ nom có vẻ rất khúm núm và sợ hãi trước thị uy của gã, sau đấy Azim quay sang cô.

"Giờ thì cô nhớ ra chỗ lẩn trốn của thằng nhãi rồi chứ?".

"Tôi nghĩ nó đang ở gần đền Jain". Viva cố giữ bình tĩnh để không phải lắp bắp khi trả lời gã. "Làm ơn kiên nhẫn với tôi một chút đi. Tôi mới chỉ đến đấy hai lần thôi".

Gã ném vào cô một cái nhìn sắc lẹm rồi buông một tiếng thở dài, đoạn rút khẩu súng trong người ra, để vào lòng rồi khẽ vén vạt áo của bộ kameez lên che khẩu súng. 

Con đường gập ghềnh đầy ổ gà mà chiếc xe đang lao qua trống trơn, phía xa xa trước hiên một ngôi nhà là một người mẹ đang quỳ chân xuống đất, bên cạnh bà là hai cô bé đang nhấp nhổm chổng mông vẽ những hình thù gì đấy trông giống như những hình mẫu của lễ hội Diwali trước ngưỡng cửa.

"Trước khi bước ra khỏi xe, cô nhớ kéo khăn lên trùm kín đầu đấy", gã ra lệnh cho cô. "Và nếu tôi có hỏi cô điều gì, thì hãy trả lời một cách bình thường nhất. Tôi nhắc cho cô nhớ, tối nay thần tài Lakshmi sẽ xuất hiện ở Byculla. Có thể chúng ta sẽ gặp may đấy". Gã cười phá lên, đầy giả tạo, Viva cũng vờ nhoẻn miệng mỉm cười với gã. 

Đây là những gì mà một bà vợ bị bạo hành hẳn phải lấy làm thích thú, cô thầm nghĩ, phải nhận thức được mọi động thái, mọi cử chỉ, cân nhắc từng câu từng chữ. Nhưng cô buộc phải tham gia vào cuộc chơi: giữ bình tĩnh, cố gắng vui vẻ nói chuyện với gã theo cách thân thiện nhất có thể. Nếu cô manh động, chắc chắn sẽ phải trả giá bằng chính mạng sống của mình.

Chiếc xe băng ngang một ngã tư tiến vào phố Trung tâm, bầu trời lúc này đã chuyển sang màu tím thẫm báo hiệu màn đêm sắp sụp xuống. Bên tay phải, chính giữa một dãy nhà xiêu vẹo, cô nhìn thấy một điện thờ ngập tràn ánh sáng đang tỏa bóng lung linh như một hộp châu báu đượm mùi cổ tích thần thoại, với hàng trăm ngọn nến được thắp sáng cắm quanh điện thờ.

Cô hít một hơi thật sâu.

"Ông Azim", cô hỏi gã, "lễ hội sẽ diễn ra trong bao lâu?". 

Ánh mắt gã xoáy vào cô, gã khẽ nhấc một chân sang vị trí khác.

"Ở đây thì rất lâu", gã trả lời. "Diwali là lễ hội dành cho những kẻ luôn có ý nghĩ, rằng bọn họ yêu thích trẻ con".

Đường phố lúc này đã nhanh chóng tràn ngập đám đông xuống đường vui chơi lễ hội. "Nó chỉ dành cho trẻ con", gã lẩm bẩm, đưa mắt nhìn đám trẻ giữa phố.

Viva từng thấm thía tận tâm can nỗi cô đơn, giờ đây cảm giác ấy lại ùa về trong cô. Gã cũng như cô, chỉ là những kẻ xa lạ cô đơn giữa đám đông náo nhiệt trên phố.

"Thằng nhãi ở đâu?", gã đột ngột hỏi cô.

"Tôi vẫn chưa xác định được vị trí cụ thể", cô trả lời. "Ông có thể cho tôi biết ta đang ở đâu không?".

"Chợ trái cây ở kia", gã nói, chỉ tay về phía dãy nhà mọc lộn xộn kéo dài hun hút, rất khó để nhận ra sự nhếch nhác xiêu vẹo thường ngày bởi những dãy nhà đều được trang trí lộng lẫy bằng những ngọn đèn đủ màu sắc, xen kẽ giữa một rừng dây kim tuyến lóng lánh. Biển người mỗi lúc một dày lên thêm, giờ thì cô có thể nghe rất rõ, ban đầu chỉ mơ hồ vọng đến rồi mỗi lúc một rõ ràng hơn, âm thanh của tiếng la hét, tiếng cười nói đầy phấn khích của đám đông người chơi hội xen lẫn giữa tiếng kèn trum-pét đinh tai nhức óc. Một thằng bé bụi đời rách rưới cuống quýt chạy theo bên hông chiếc xe cố mời chào mua mấy chiếc kẹo bâu đầy ruồi nhặng của nó. Khi Azim quát vào mặt nó, lập tức thằng bé chùn chân tránh khỏi chiếc xe.

Chiếc xe bị biển người cuốn đi dọc phố Trung tâm, hai bên đường những cửa hiệu đã sáng đèn, bầu trời bắt đầu rực rỡ bởi ánh sáng hắt lên từ hàng triệu hàng triệu cây nến. Một đám đông đang đội trên đầu chiếc kiệu được trang hoàng hết sức lộng lẫy, bên trong là hình nộm bằng giấy bồi của một vị thần có khuôn mặt tái mét nom rõ khủng khiếp chậm rãi nhích từng bước một trước mặt khiến chiếc xe không thể đi nhanh, Azim bắt đầu tỏ thái độ giận dữ.

Cô nhìn thấy những ngón tay của gã miết quanh báng súng.

"Gandhi sẽ tàn sát chúng tôi", gã nói. "Cùng với lòng tốt của ông ta. Chúng tôi đã im lặng ngoan ngoãn phục tùng quá lâu". Khi gã quay sang nhìn thẳng vào mắt cô, Viva bỗng trào lên nỗi căm giận uất nghẹn khi phải nhìn vào đôi mắt trắng dã mờ đục như màn sương mù ấy của gã.

"Chuyện xảy ra với em trai ông chỉ là sự hiểu nhầm xích mích vụn vặt", cô nói với gã, cố giữ giọng mình sao thật bình tĩnh, bởi Viva hoàn toàn ý thức được tình trạng nguy hiểm mà cô đang mắc phải, gã có thể bắn chết cô ngay lập tức nếu muốn.

"Đây là những gì tôi vừa nhớ ra", cô làm ra vẻ chợt nhớ. "Hai lần trước, khi tôi đến căn hộ của nó, tôi nhớ mình phải đi qua một lối tắt bên hông chợ trái cây và rồi... tôi xin lỗi". Cô lắc đầu. "Tôi phải được nhìn thấy tận mắt kia". Khi gã quay đầu sang nhìn cô, Viva chắc mẩm gã đang đi guốc trong bụng cô, cơ thể gã bất động, khuôn mặt đăm chiêu ra chiều suy nghĩ, rồi đôi mắt gã vụt lóe sáng, đoạn gã nhún vai ra vẻ thờ ơ.

"Tôi sẽ kẹp sát ngay bên cạnh cô", gã nói, "nếu cô có ý định bỏ chạy, tôi sẽ bắn chết cô ngay lập tức, không phải bây giờ mà lát nữa kia, lúc đấy thì không ai biết chuyện gì đã xảy ra với cô cả. Hiểu không?".

"Tôi hiểu".

Gã lớn tiếng quát người lái xe, lập tức chiếc xe dừng lại.

"Ra ngoài", gã ra lệnh cho cô.

Ngay khi Viva vừa bước chân xuống đường, một quả pháo hoa từ đâu đó giữa đám đông chíu víu bay vút lên không trung tỏa sáng rạng rỡ một góc đường. Azim khẽ đẩy nhẹ vào lưng cô, cả hai bước qua cửa tiến vào trong chợ, tiếng cừu, dê the thé gào lên từng đợt không ngớt hòa cùng tiếng đập cánh phành phạch và tiếng kêu khản đặc của lũ chim bị nhốt trong những chiếc lồng kín xoáy vào tai cô nhức nhối.

Cô bắt đầu hoảng sợ. Mùi tanh lạnh lùng của kim loại trào lên trong miệng cô mỗi khi Viva sợ hãi. Những âm thanh hỗn loạn trong khu chợ khiến cô nghẹt thở, cô kín đáo quét mắt qua những gương mặt xa lạ, dỏng tai lắng nghe tìm trong mớ âm thanh đặc quánh quanh mình cơ hội mong manh để chạy trốn khỏi Azim đang hết sức cảnh giác sau lưng mình.

Hai cô gái đang đủng đỉnh bước đi trước mặt Viva, cả hai đều khoác trên mình bộ sari lộng lẫy cùng những chuỗi trang sức lóng lánh. Có vẻ hai cô gái đang rất hãnh diện với bộ sari mới tinh trên người, mồm miệng cả hai liến thoắng chào hỏi đưa đẩy với bất kỳ ai í ới với mình. Khi hai cô gái choán hết đường của Viva dẫn vào lối đi dọc giữa các gian hàng trong chợ, cô muốn nhào lên bóp nghẹt lấy cổ của hai cô gái. Azim không thể nhìn thấy cảm giác cáu bẳn đang hiện lên trên khuôn mặt cô, gã còn bận thúc họng súng vào xương sống của cô từ phía sau. "Jaldi, jaldi". Gã rít vào tai cô. 

"Tôi không đi nhanh được", cô vặc lại.

Một đám đông đang kiệu một điện thờ lộng lẫy loạng choạng cuốn nhanh về phía cô, tiếng kèn nhạc vang lên inh ỏi. Giữa không khí hỗn độn chen lấn trong chợ trái cây, đám đông lèn chặt như những đợt sóng người cuốn trôi Viva tiến về phía trước, nòng súng cứng đanh vẫn gí sát sau lưng cô như cảnh báo Viva không được manh động, nhưng đến giờ phút này cô không còn sự lựa chọn nào khác, cả gã cũng thế. Một tràng cười lảnh lót vang lên, tiếp theo cô nghe thấy những tiếng gào thét thất thanh cuộn lên, cô ngửi thấy mùi khói phảng phất trong không khí, ai đấy hét lên với cô, "jaldi!", rồi một chiếc giày da từ đâu bay đến đập thẳng vào miệng cô, một tiếng rắc gãy gọn khô khốc vang lên. Viva cảm nhận được cơn đau buốt nhói trào lên trong đầu, như thể đang có hàng ngàn hàng vạn bàn chân dẫm đạp trong đầu cô, và rồi cô lịm dần, lịm dần, không còn cảm nhận được bất cứ động tĩnh nào quanh mình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 47


Cô tỉnh giấc, cảm giác đầu tiên Viva cảm nhận được là mùi trái cây thối váng vất trong miệng, tiếp theo là ý nghĩ hàm răng của mình đã gãy khỏi khoang miệng bởi cảm giác mềm nhão dưới hai vành môi. Cô đang nằm dưới một chiếc bàn, cánh tay trái mắc kẹt trong một chiếc bu gà hãy còn dính vài vệt phân cùng mấy chiếc lông vũ bạc màu dính lại trên những nan tre. Những bước chân vẫn rầm rập trên đầu cô, chỉ cách vài gang tay - đủ loại, từ những bàn chân xỏ dép cài quai đến chân trần, từ những bàn chân được nhuộm màu chàm bằng thuốc nhuộm tóc với những hoa văn hình mẫu chạm trổ chi chít đến những đôi giày da đen trũi của đám đàn ông, nhiều đôi còn không được thắt dây. Nhìn những bàn chân vội vã ngang qua mặt, đầu óc cô lại choáng váng, cô ngã vật giữa vũng lầy nhớp nhúa, rồi cuống cuồng chui đầu vào một chiếc bao tải rách lẩn trốn.

Trong lúc hấp tấp lồm cồm chui nhủi dưới gầm bàn, đầu cô va vào một vật cứng, lập tức một cơn đau buốt óc nhói lên. Cô đưa tay lên xoa nhẹ vào vết thương, thản nhiên nhìn vệt máu tươi nguyên dính trên đầu ngón tay như thể đấy là máu của một kẻ xa lạ nào đấy chứ không phải của mình.

Những bước chân vẫn rầm rập bước qua chỗ cô nằm, tiếng cười nói huyên náo xoáy vào đầu cô chao đảo, miệng cô đắng nghét, dợm mùi tởm lợm.

Cô dặn lòng cố nằm im chờ đợi, lúc đầu chỉ năm phút, rồi mười phút trôi qua. Giữa những tiếng huyên náo, cô thầm đoán chắc hẳn đám đông đã tách cô ra khỏi tầm kiểm soát của Azim vẫn còn ken dày trên đầu, nhưng cô không thể mạo hiểm ló mình ra lúc này để lại rơi vào tay gã thêm một lần nữa. Chờ đợi, chờ đợi, kiên nhẫn chờ đợi, cô mệt mỏi lầm bầm với chính mình, mơ màng thấy bóng mình lồm cồm chui ra khỏi đống bàn ghế ngổn ngang rồi đứng dậy bước đi.

Khi cô tỉnh dậy, chỉ có bóng tối vây quanh chỗ nằm. Cô đang ở đâu đó, trên một tấm nệm lổn nhổn ruột vải. Cô đưa tay sờ nhẹ vào đầu, đầu cô được bó chặt bởi một băng vải, chân răng cô nhức nhối như thể chúng đã bị ai đấy dùng kềm nhổ đi một cách thô bạo không hề thương tiếc. Cô hé mắt, nhưng ánh sáng của ngọn đèn vừa được thắp lên lập tức khiến mắt cô đau nhói. Một cô gái Ấn Độ trẻ măng với gương mặt phúc hậu đang nhẹ nhàng lau vầng trán cô bằng một chiếc khăn ướt.

"Mi kuthe ahe? Tôi đang ở đâu thế này?". Cô hỏi. Khi đôi mắt đã quen với ánh sáng, cô nhận ra mình đang nằm trong một căn phòng có trần ghép bằng những giát gỗ nhỏ nhắn, một ô cửa sổ cáu bẩn trổ trên bức vách phía đầu giường. Hẳn cô đang ở trong một khu nhà ổ chuột nào đấy hay trong một gian tập thể cũ nát.

"Kai zala? Chuyện gì xảy ra với tôi vậy?", cô tiếp tục hỏi.

"Cô bị đánh đập và bị chà đạp rất dã man", cô gái Ấn Độ trẻ tuổi giải thích. "Đừng lo", cô gái nói với Viva bằng tiếng Marathi, "giờ thì cô đã ổn, họ đang đến đưa cô về nhà".

Đưa cô về nhà. Mấy tiếng cuối cùng thoát ra từ miệng cô gái khiến cô có cảm giác như mình đang ngả người xuống một tấm nệm êm ái. Mình sẽ sớm được về nhà, mình sẽ sớm được về nhà. Daisy sắp đến đây đón mình.

Cô mở mắt, trần nhà với những tấm gỗ mỏng tang lúc này lại biến thành một màu vàng nhạt, nhớp nhúa. Trên đầu cô lủng lẳng một bóng đèn không có chụp, xác mấy con thiêu thân hãy còn dính bên ngoài bóng đèn, một thanh xà gồ bám đầy mạng nhện. Khi cô đưa tay lên ôm đầu, Viva cảm nhận được lớp máu khô thấm ra tận mặt ngoài băng vải. Những chân răng trong miệng vẫn còn nhói buốt tận tim óc, nhưng khi cô thận trọng thử dùng đầu lưỡi nhẹ nhàng kiểm tra, Viva thở phào khi biết hàm răng của cô vẫn còn nguyên trong khoang miệng.

Cô nghe thấy tiếng mở cửa ngay đầu chỗ nằm, rồi tiếng người nói lao xao vọng đến, cả tiếng ván sàn kẽo cọt.

"Daisy?", cô mệt nhọc cất tiếng hỏi.

Không ai trả lời cô.

"Daisy, phải chị đấy không?".

Khi vừa định gượng ngồi dậy, cô nhận thấy một bàn tay đang nắm cổ tay mình. Một khuôn mặt đang dịch chuyển sát vào mặt cô, gần đến nỗi cô có thể ngửi thấy mùi hương ngọt ngào xen lẫn mùi iu thôi tỏa ra từ nó.

"Là Guy", chiếc miệng gắn trên mặt người đang cúi sát nhìn vào mắt cô thì thầm.

Cô nhắm nghiền mắt, chặt đến nỗi có thể cảm nhận được dòng máu đang rỉ ra từ vết thương thấm qua lớp băng vải trên đầu. 

"Guy", cô thều thào, "sao cậu lại ở đây?". 

"Tôi không biết". Nó gằn giọng, cộc lốc. "Tôi không giúp được gì cho cô cả. Tôi không hiểu tại sao mình lại có mặt ở đây".

"Chuyện gì đã xảy ra với tôi?". Cô ráng hết sức nhổm người ngồi dậy, mấy bóng đèn đung đưa trên đầu.

"Mấy thằng điên ngoài chợ thấy cô bị chèn đẩy xô ngã giữa đám đông". Miệng cô há hốc như thể đang bị một cuộn bông căng phồng nhét chặt bên trong. "Những gì cậu cần phải làm là hãy cố quay về mái ấm tình thương và báo cho Daisy Barker biết, cô ấy sẽ giúp được tôi".

Cô nghe một tiếng thở dài đánh thượt đến não nề của Guy, rồi tiếng bình bịch khi nó đưa tay đấm mạnh vào đầu.

"Tôi không thể, bọn chúng sẽ tóm được tôi. "Chỉ riêng bản thân tôi thôi đã quá nhiều phiền toái rồi".

"Guy, làm ơn đi, đấy là tất cả những gì cậu cần phải làm lúc này".

"Sáng mai tôi sẽ biến khỏi đây, nói cho cô biết. Hãy nhờ người khác giúp đi", nó lầm bầm. 

Những đầu ngón tay của nó đều đặn gõ lên mặt bàn, miệng lẩm bẩm những lời không rõ ràng giống hệt như những ngày còn trên tàu, khi nó rơi vào trạng thái xúc động tột độ. Tâm trí cô rối bời, nhưng cô buộc vẫn phải lên tiếng.

"Guy, tại sao tất cả những chuyện này lại xảy ra với tôi? Cậu đã làm gì?".

Im lặng. Nó không trả lời. Trong khi chờ đợi, cô cố giữ tâm trí mình thật tỉnh táo.

"Không làm gì cả", nó trả lời.

"Có đấy, cậu có làm", cô nói. "Giờ thì tôi biết cậu đã làm gì đấy với tôi".

"Tôi muốn cô rời khỏi cái trung tâm ấy", cuối cùng nó cũng dịu giọng, thì thầm. "Nó không hợp với cô, rất tệ là khác".

Cô lắc đầu, khẽ rên rỉ: "Không".

Đầu nó lại cúi xuống sát mặt cô, Viva ngửi thấy mùi khói thuốc hăng hắc lẫn trong hơi thở của nó. "Nghe này", nó thì thầm. "Nghe cho kỹ nhé". Tay nó thoa nhẹ lên thái dương cô. "Cô là mẹ tôi. Tôi đã chọn cô cho mình". Màn nước bọt phun ra từ miệng khi nó nói bám đầy lên hai má cô.

"Không! Guy, không! Tôi không phải là mẹ cậu!".

"Có đấy". Hơi thở Guy trở nên gấp gáp, có vẻ nó đang chuẩn bị phát hỏa. "Cô đã nhìn thấy ngôi trường ấy. Bọn chúng đã dùng dây thừng treo tôi trên cửa sổ. Mẹ đã chọn ngôi trường ấy cho tôi. Bà ấy muốn tôi ở đấy".

"Guy, nghe tôi này. Điều đấy là không đúng".

"Con yêu mẹ". Nhịp thở của nó gấp gáp, hổn hển, cô cứng đờ cả người vì sợ hãi.

Một ý nghĩ vụt lóe lên trong đầu Viva, nó đang hận mình, cô nghĩ thầm. 

"Tôi có thể kể cho cô nghe câu chuyện về mẹ mình", Guy nói. Nó đứng thẳng người, giọng nó vụt trở nên giận dữ. "Khi tôi tròn mười hai tuổi, cả hai người bọn họ trở lại nước Anh. Tôi đã không gặp lại họ từ lâu, rất lâu rồi. Bố tôi bảo để mang lại bất ngờ thú vị cho bà ấy, tôi sẽ ăn mặc như một gã bồi bàn và mang bữa sáng vào cho mẹ. Một sự ngạc nhiên thú vị. Tôi bê khay đựng đồ ăn vào phòng và gọi Mẹ rồi tôi cố hôn bà". Khuôn mặt của nó vụt trở nên nhăn nhó, méo mó. "Bà hét gọi bố tôi lúc bấy giờ đang ở căn phòng bên cạnh. Đúng là một trò đùa khốn nạn. Bà yêu tôi nhiều đến nỗi thậm chí còn không biết tôi đã hóa trang thành một thằng bồi bàn khốn khiếp kia đấy".

"Đấy là lỗi của bố mẹ cậu", Viva nói. Mồ hôi bắt đầu túa ra trên trán cô. Khi cô rướn người định nắm lấy tay nó, Guy đã nhanh nhẹn xoay người sang hướng khác. "Một trò đùa ngớ ngẩn".

"Tôi chỉ muốn bóp chết bà ấy", giọng nó bình thản. "Bà ấy đã làm nhiễu sóng âm thanh của tôi. Đừng có nhìn tôi bằng ánh mắt ấy", nó ra lệnh cho cô khi Viva trở người tránh không nằm đè lên cánh tay mình. "Cô đang sợ hãi. Tôi không thích nhìn thấy cô trong bộ dạng này một chút nào".

"Nghe này", cô nói. "Cứ quay lưng lại với tôi nếu cậu không muốn nhìn thấy vết băng trên đầu tôi, nhưng hãy lắng nghe tôi thật kỹ. Tôi biết chính xác cậu phải làm gì".

"Ừm". Nó quay lưng lại với cô, hai vai nó chùng xuống, hai đầu mũi giày hướng vào nhau. Nó đưa tay làm động tác bật chiếc công tắc vô hình sau tai. "Cái gì?".

"Tôi biết bao năm qua cậu đã lo lắng đến thế nào", cô nói. Tim Viva nhói đau khi phải thốt ra những lời trần trụi ấy, nhưng cô buộc phải nói với nó. "Đến lúc này thì cậu cần phải dừng lại, cậu phải được nghỉ ngơi". Cô nhìn cơ thể bất động rũ rượi của thằng bé.

"Tôi không thể", nó trả lời. "Chúng đang bám sát sau lưng tôi. Đấy là lý do vì sao tôi phải quay về Anh".

"Thế cậu đã nói gì với bọn họ về tôi?".

"Rằng cô không thể làm việc ở cái trung tâm nuôi dạy trẻ tình thương ấy được. Rằng tôi cần cô".

"Còn nhiều điều khác nữa", cô nói.

"Tôi không nhớ, chúng đã làm mọi chuyện rối tung. Lão Azim đang cố làm tổn thương tôi - rõ ràng lão đang sợ tôi". 

"Những gì cậu phải làm lúc này là tìm cách trở lại mái ấm tình thương, báo cho mọi người biết chúng ta đang ở đây".

"Tôi không thể", giọng nó nghẹn ngào. "Bọn chúng sẽ tóm được tôi, chúng sẽ tra tấn tôi".

"Vậy thì tìm ai đấy rồi nhờ họ đến báo cho trung tâm", cố gom chút sức mạnh ít ỏi còn lại trong người, Viva nói với nó. "Như thế sẽ tốt hơn cho hai chúng ta. Hãy bảo ai đấy đến nhờ họ đón Viva, Guy, rồi sau đấy, nếu muốn, cậu có thể đến ở với chúng tôi tại mái ấm tình thương, chúng tôi sẽ tìm người chăm sóc cho đến khi cậu ổn định tinh thần trở lại".

Guy vòng tay ôm ngang hông nó, bước quanh căn phòng chật chội ra chiều suy nghĩ, rồi nói: "Cô thấy đấy, tôi vẫn rất ổn, tôi không muốn lại làm rối tinh rối mù căn phòng của cô lên". 

"Tôi biết, tôi nghĩ chỉ là cậu đang mệt mỏi một chút thôi".

"Không hẳn thế", nó nói. "Đang có nhiều người dò tìm tần số của tôi lúc này. Cả bố tôi cũng đang tìm kiếm tôi". Im lặng. Nuốt ực một cái, nó tiếp tục: "Ông ấy đang nổi giận. Ông ấy đã nện tôi một trận nên thân sau khi tôi rời khỏi con tàu. Ông ấy bảo tôi đã vô lễ với ông".

"Rồi nhé". Cô rướn người đưa tay ra sau tai nó vờ làm động tác tắt phụt cái công tắc vô hình mà thằng bé đang tưởng tượng trong đầu. "Tắt nó đi nếu cậu không muốn nghe ông ấy. Không ai ngoài cậu có thể kiểm soát được bản thân mình, nhưng cậu vẫn có thể trả lời đồng ý hay không. Những gì tôi muốn ở cậu là hãy để tôi được giúp đỡ cậu. Tôi sẽ không khiến cậu thất vọng đâu".

"Mọi người đều khiến tôi thất vọng. Không ai thích tôi cả".

"Tôi biết cậu đang nghĩ như vậy, nhưng điều đấy là không đúng, đã đến lúc cậu không thể cứ nổi giận với những người khác được nữa". Nó chăm chú lắng nghe như nuốt từng lời của cô, vẫn với đôi mắt vô hồn trống rỗng ấy, bất giác trong lòng Viva trào lên cảm giác xa lạ đến tột cùng khi cô nhìn vào đôi mắt nó, trống rỗng và hoàn toàn vô cảm. Nhưng cô vẫn sáng suốt lắng nghe cảm xúc của mình bằng đôi mắt của người khác - rất tỉnh táo, kiên quyết đấu tranh để tồn tại.

"Đã đến lúc cuộc đời cậu bắt đầu với việc bước chân ra khỏi giường là tiến về phía trước, nếu không những gì cậu làm chỉ đem lại nỗi thất vọng. Tôi hiểu hơn ai hết chuyện này, tôi đã đấu tranh không nghỉ suốt bao năm trời ròng rã kể từ khi bố mẹ qua đời".

"Đừng có lải nhải chuyện ấy nữa", nó co rúm toàn thân, rùng mình. "Kinh khủng quá".

"Mọi người sẽ yêu thương cậu nếu cậu cho phép họ làm như vậy", cô tiếp tục.

Nó quay đầu lại đối diện với cô, một bên tai vẫn dỏng lên nghe ngóng.

"Cô không thể", nó rầu rĩ. "Tôi đã hỏi cô".

Im lặng. "Tôi nghĩ chúng ta có thể làm bạn với nhau", cuối cùng Viva cũng lên tiếng phá vỡ bầu không khí ngột ngạt trong phòng.

"Cùng dắt nhau tha thẩn dưới bóng hoàng hôn", nó giễu cợt cô. "Tay trong tay".

"Không, đừng có ngớ ngẩn như thế. Ý tôi là tôi sẽ lắng nghe cậu. Tôi nghĩ cậu đã thấm mệt vì chạy trốn và cậu cần phải dừng lại để nghỉ ngơi".

Cô thầm cầu xin Chúa trời, mong cho mấy lời mình vừa thốt ra đã nhắm đúng mục tiêu, nhưng sau những nỗ lực thuyết phục, cô đã mệt lử, đã cạn kiệt sức sống. Viva ngã vật ra giường, đầu rơi lên chiếc gối, cô nhanh chóng chìm vào giấc ngủ trước khi kịp nghe câu trả lời của thằng bé.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 48


Trường thánh Bartholomew, Amritsar tháng mười hai, năm 1929

Trước lễ Giáng sinh, Daisy có vài lần viết thư cho Tor buồn bã thông báo với cô, rằng Viva vừa trải qua "một tai nạn đầy rủi ro" trong dịp lễ hội Diwali, nhưng hiện tại cô ấy đã bình phục, và đã sẵn sàng để tiếp tục du ngoạn trở lại. Bản thân Daisy cũng chuẩn bị quay về nước Anh một thời gian, cô chưa chắc là trong bao lâu, trung tâm nuôi dạy trẻ tình thương đã gần như đóng cửa, liệu Viva có thể đến ở cùng Tor trong dịp lễ Giáng sinh được không?". Cô ấy đang cần thay đổi không khí", trong thư Daisy viết. Viva sẽ kể chi tiết mọi chuyện với Tor khi cả hai gặp lại nhau.

Một ý nghĩ bất chợt lóe lên trong đầu Tor: Nếu Viva đến chơi với cô trong dịp lễ Giáng sinh, tại sao Rose và Jack lại không thể nhỉ? Nhưng trước hết cô cần phải bàn chuyện này với Toby đã.

"Sao em lại bảo ở đây quá chật chội?", anh ngạc nhiên hỏi cô. "Còn cả đống phòng ốc trống trơn trong trường học nếu nhà mình không đủ chỗ kia mà".

"Nhà mình", cứ mỗi lần nghe anh thốt lên hai tiếng ấy là cô lại thấy đáng yêu đến lịm người. Căn nhà cấp bốn bằng gỗ với ba phòng ngủ của cô được cất lên dựa trên mô hình thu nhỏ của trường Thánh Bart’s, vẫn được mọi người tếu táo gọi đùa là trường học, thực ra là một tổ hợp gồm những dãy nhà hổ lốn với kiến trúc kỳ cục với những mái vòm tò vò mang đậm phong cách Ba Tư, với những thanh xà rầm theo lối kiến trúc Tudor, những cửa sổ phong cách triều đại nữ hoàng Victoria, những hàng hiên được tô trét chạm trổ khá công phu, với những mái nhà dốc tuột như những chiếc mũ của các bà phù thủy trong những câu chuyện cổ tích, đầy phô trương và kiêu hãnh. 

Ngôi nhà cấp bốn nhỏ nhắn của vợ chồng cô nằm nép mình giữa một vườn xoài xanh um màu lá, hai bên nhà giáp với đường biên sân cric-kê của trường học và một khu vườn bỏ hoang. Chủ trước của ngôi nhà đã nghỉ không làm nông từ năm năm trước và để mặc những dàn nho mọc hoang như những lọn tóc khổng lồ mặc sức bám mình uốn éo leo lên tận những ô cửa sổ của ngôi nhà. Rêu mốc dàn thành thảm rộng lớn trên mặt sàn ngoài hàng hiên.

May thay, nét cũ kỹ hỏng hóc của ngôi nhà đập vào mắt cô trong lần đầu tiên nhìn thấy ấy chỉ là vẻ bề ngoài. Gạt chuyện dỡ mớ sắp xếp đồ đạc sang một bên, Tor hăm hở tràn đầy nhiệt huyết, dành hẳn một ngày cùng với sự giúp đỡ của hai người làm mới: Jai và Benarsi, hai cậu bé mặt mũi khá sáng sủa đến từ thị trấn bên cạnh, tôn kính Toby hết mực chỉ vì anh có thể nói thành thạo tiếng Hindi và lúc nào cũng có thể khiến cả hai đứa cười lăn cười lộn với những trò đùa của mình.

"Đã đến lúc em có thể mời bọn họ đến được chưa?", cô nhìn anh dò hỏi. Nhiều khi thật khó tin là cô đang sở hữu sự tự do kiểu thế này. Toby cúi đầu hôn nhẹ lên mũi cô.

Rất nhanh chóng, Rose đã ngay lập tức viết thư phúc đáp, cô bảo sẽ đến và Jack - đang trong đợt hành quân cùng đồng đội thực thi một số chiến dịch nguy hiểm ở khu vực miền núi hẻo lánh - sẽ cố gắng thu xếp và đến sau, ít nhất anh ấy sẽ lưu lại nhà Tor một, hai hôm gì đấy. Liệu cô có được phép ở lại lâu hơn? Lúc bấy giờ Tor đừng có xem cô như một con cá ươn trong nhà cần phải nhanh chóng thải loại ngay lập tức, Rose tếu táo trong bức thư gửi bạn. Cô đang nóng lòng để khoe với Tor về Freddie bé bỏng của mình.

Đầu tháng Mười hai, Tor bảo Toby tạm gác công việc nghiên cứu sách vở cần mẫn của anh sang một bên, dành cho cô một ngày quỷ tha ma bắt cũng được. Từ ba tuần nay, Toby đã dốc hết công sức vào công trình dang dở của anh, với hy vọng cuốn sách sẽ hoàn thành trước Giáng sinh. Anh kéo cô ngồi vào lòng, nựng nịu, "anh xin lỗi, cưng", bằng giọng điệu của đức ông chồng bị vợ dắt mũi, rồi hôn nhẹ lên trán cô và nói. "Một ý tưởng tuyệt vời".

Ngày hôm sau hai vợ chồng cô dắt nhau đến cửa hàng tạp hóa ở Amritsar để mua nguyên liệu làm bánh Giáng sinh. Toby vui vẻ trò chuyện với người chủ cửa hàng, sau đấy người bán hàng đưa ra một danh sách dài dằng dặc đủ thứ nguyên liệu, Toby chọn nho khô không hạt, bột quế và hạt nhục đậu khấu cùng một gói lớn đồ gia vị đủ màu sắc bắt mắt. Chủ tiệm dùng một chiếc cân bằng đồng cũ kỹ cân chính xác những nguyên liệu đã được chọn, khéo léo trút vào trong những mẩu giấy gói hàng sạch sẽ.

Trên đường đến quán bar Murphy’s nằm trên khu phố trung tâm để nhấm nháp vài ly giải khát, Toby dừng lại rút gọng kính trong túi áo ra đeo lên mắt, rồi giữa một đám đông huyên náo kẻ mua người bán những đồng tiền xu cổ và những chiếc kính vỡ, anh chọn được một chiếc hộp chứa bốn quả cầu thủy tinh, mỗi quả cầu có kích thước bằng một quả trứng vịt với những hoa văn trang trí cực kỳ tinh xảo trên bề mặt. "Hãy còn mới nguyên, trông như những quả trứng Fabergé", anh hồ hởi quay ra khoe với cô, rồi đưa tay áo lau sạch lớp bụi bám bên ngoài chiếc hộp, sau đấy giơ một quả cầu ra xoay xoay giữa ánh nắng, khuôn mặt Toby lập tức nhuốm đầy màu sắc từ đỏ đến tím rồi chuyển sang xanh, nom rõ vui mắt. 

"Rất hoàn hảo", anh kết luận, "phải không cưng?".

"Chúng ta có đủ tiền không?", cô nghi ngại. Toby đã chẳng có lần nói với cô, rằng cuốn sách về loài chim sắp xuất bản của anh sẽ chẳng giúp hai người giàu thêm được chút nào.

"Tất nhiên", anh trả lời cô. "Vì Giáng sinh đầu tiên của hai đứa, chúng ta có thể rộng tay mua chúng, cả rượu sâm banh nữa".

Cô nhìn anh, nghe lòng mình phơi phới, đầy ắp niềm vui và hạnh phúc.

Những yêu thương thuần khiết.

Cô có Toby, người đàn ông mà cô hằng ao ước bao đêm trường dằng dặc, cô có một ngôi nhà của riêng mình - và trên tất cả - là cuộc đời còn nhiều điều mới mẻ thú vị đang chờ đón cô ở phía trước, dường như ngần ấy vẫn chưa đủ, bởi ít ngày nữa thôi, Rose và Viva sẽ đến thăm cô trong mùa Giáng sinh năm nay.

Tâm trạng vui vẻ ấy chưa phải là điềm tốt cuối cùng: cách đây năm hôm, cô đã bắt đầu rơi vào cuộc vật lộn với cơn khủng hoảng nội bộ thực thụ. Cái bà già xấu xa Margaret Allsop đã viết một đoạn lưu ý ngăn ngắn in trong cuốn sách dạy nấu ăn mà cô đang gối đầu giường, rằng các bà nội trợ nên bọc chiếc bánh Giáng sinh trong một gói giấy phết mỡ lợn trước khi đặt vào chiếc hộp kín bằng thiếc ngay từ giữa tháng Mười một.

Jai và Benarsi dán mắt vào cô khi Tor khuấy đều mớ hỗn hợp nguyên liệu làm bánh, ánh mắt chúng vụt sáng như đang nhẩm đếm mỗi khi cô bỏ vào tô một chút bột quế, một chút vỏ nhục đậu khấu thái nhỏ, tiếp theo là trứng gà và bơ, rồi chúng khẽ rùng mình khi thấy Tor dùng đầu móng tay của cô bóc vỏ mấy quả cam chín mọng, trong khi mắt vẫn dán vào cuốn sách hướng dẫn nấu ăn bày trước mặt. Chiếc bánh được làm mượt rồi đem gói trong một lớp giấy màu nâu. Jai cẩn trọng bê chiếc bánh bằng hai tay đến đặt trong lò nướng rồi châm lửa. Toby quay trở lại với công việc viết lách của anh, tiếng lách cách phát ra từ chiếc máy đánh chữ bay qua bãi cỏ bên ngoài khu vườn, rơi vào gian bếp chật chội sao nghe ra như những thanh âm của sự động viên, như cổ vũ cho Tor đảm đang của anh. Còn ba tiếng đồng hồ nữa mới đến thời điểm lấy bánh ra khỏi lò, Tor định bụng sẽ ra ngoài cưỡi ngựa đi dạo một chút cho khuây khỏa. Hôm nay là một ngày đẹp trời, biết đâu có thể đây là cơ hội cuối cùng để cô lang thang trên lưng ngựa trong một buổi sáng ngập tràn ánh nắng của một ngày trước Giáng sinh như ngày hôm nay.

Sau khi cưỡi ngựa trở về, Tor đứng nói chuyện với Elsa Chambers, một nữ thư ký ở trường học. Elsa là một cô gái khá to lớn đến từ Norfolk, sang Ấn Độ làm vú em cho một gia đình thượng lưu người Ấn, hào hứng kể với Tor, rằng cô đã được đi máy bay từ Bombay đến London chỉ trong vòng có hai ngày, câu chuyện đi máy bay của Elsa khiến Tor cảm thấy hết sức nể phục cô gái này, quả là một cô gái dũng cảm. Sau đấy Tor đi đến chỗ người giữ ngựa lúc bấy giờ đang gân cổ gọi cô đến xem một chú ngựa con cực kỳ dễ thương vừa mới được chuyển đến cho một trong những đứa con của ông hoàng địa phương trong xứ. Tor vuốt nhẹ vành tai của chú ngựa con và chuyện trò với nó trong lúc chú ngựa vẫo không ngớt phát ra những tiếng kêu the thé đến đến rợn người, rồi cô quay về nhà, băng qua mảnh sân con bước vào phòng bếp.

"Ôi trời, cái gì thế này?", Toby xuất hiện trước ngưỡng cửa, run giọng hỏi.

Tor dán đôi mắt tròn xoe xanh biếc của cô vào anh rồi nhìn sang chiếc bánh lúc bấy giờ đang nằm trên mặt bàn, giữa nghi ngút khói đen cuồn cuộn vây quanh.

"Ôi trời, ôi trời". Toby đánh đổ những quả lý chua đã cháy đen ra sàn nhà khi anh vụng về nhấc chiếc bánh lên bằng một chiếc khăn sạch trong tay. "Ôi trời, Kurtz, ông ấy đã chết", anh đột ngột la lên ầm ĩ.

Không ai hiểu Toby đang nói gì - chỉ là cách nhìn nhận vấn đề bằng con mắt hài hước của anh nhằm mục đích tạo không khí vui vẻ trước những sai lầm ngớ ngẩn thường nhật của những người thân trong gia đình. Ban đầu chỉ Jai và Benarsi ré lên cười, rồi đến lượt Toby hòa theo cùng hò reo với cả hai đứa, đôi tay không ngớt dụi vào mắt. "Xin lỗi, xin lỗi em yêu". Anh vờ lắp bắp. "Tối nay anh sẽ giúp em làm một chiếc bánh khác, sau đấy chúng ta có thể viết một bức thư nặc danh gửi đến Margaret Allso...". Anh không thể dừng trò đùa của mình lại. Tor cười lăn lộn, đến nỗi cô phải ngồi xuống ghế, vòng hai tay ôm chặt lấy mình. Tor cứ cười rũ rượi cho đến khi cô dừng lại, dứ dứ chiếc thìa gỗ về phía chủ tớ nhà Toby. "Anh đúng là một kẻ hậu đậu", rồi cô âu yếm hạ giọng, đưa tay gạt dòng nước mắt đang từ từ rỉ xuống gò má. "Cả hai cậu bé ngốc nghếch kia nữa. Memsahib tum ko zuroor kastor ile pila dena hoga".

Tor hy vọng khi Viva và Rose đến chơi, hai người sẽ được chứng kiến một Toby, chồng cô lúc nào cũng như hôm nay: rất tâm lý và cực kỳ hài hước, không chỉ có thế, anh còn ứng xử thông minh đến không ngờ - chẳng phải lúc nào anh cũng ngốn ngấu đủ mọi thể loại sách đấy thôi. Tất nhiên là Viva và Rose có thể sẽ nghi ngờ Toby. Việc anh chóng vánh cầu hôn cô đã khiến hai người nghĩ Toby là một kẻ liều lĩnh, hoặc thậm chí, có thể Viva và Rose đã nghĩ anh là một tội phạm, hoặc giả là một kẻ tự tin thái quá. Hoàn toàn sai lầm, Toby không giống như những gì mọi người vẫn nghĩ. Thậm chí anh là một chàng trai khá nhút nhát, thường lúng túng đến vụng về trước những người lạ. Tor là cô gái đầu tiên anh yêu.

Sau ngày cả hai dắt nhau đến phòng đăng ký kết hôn ở Bombay, tâm trạng vô âu vô lo đến phởn phơ trước đây của Tor bỗng chốc chìm nghỉm. Toby lái chiếc Talbot xộc xệch của anh chở cô ngược lên phía Bắc, ngồi trong xe, bằng giọng đều đều đến mức tẻ nhạt, anh huyên thuyên với cô hàng giờ liền về chuyện áo quần và mua sắm. Về sau Toby thú nhận với cô, rằng có lần mẹ đã nói với anh cách ngắn nhất để chiếm được trái tim của một cô gái chính là hãy khiến cô ấy nghĩ rằng mình có chung sở thích, chung niềm đam mê với cô ta, và anh tuyệt đối tin vào bà. Nhưng hôm ấy, khi anh huyên thuyên hỏi cô thích loại mũ chụp hình quả chuông hay mũ đính hoa, rồi cô thích màu nào nhất, hồng hay xanh lá cây... thì nỗi khiếp đảm bắt đầu gợn lên trong Tor. Toby chỉ là một kẻ ba phải! Và cô đã phạm phải sai lầm tồi tệ nhất cuộc đời mình.

Chiếc xe vẫn lịch bịch lăn trên đường, Bombay mỗi lúc bị bỏ lại một xa thêm ở sau lưng, băng qua những sa mạc bao la, những con đường chật chội đầy bụi bặm, những thành phố thị trấn lụp xụp và nhếch nhác đến những cánh đồng xám xịt, không khí trong khoang xe mỗi lúc một nóng nực, Tor mơ màng chìm vào giấc ngủ.

Tỉnh giấc, Tor nhìn thấy một chiếc nhẫn vàng ngự trên ngón tay mình, cô định bụng sẽ yêu cầu anh giải thích thật chi tiết công việc Toby đang làm. Lập tức khuôn mặt anh vụt trở nên vui vẻ. Anh đã sẵn sàng kể cho cô nghe về công việc giảng dạy bộ môn lịch sử và khoa học ở trường Thánh Bart’s nhưng rồi Toby lại bảo với cô, rằng anh đang viết một cuốn sách về công việc của mình, cuốn sách về các loài chim hoang dã ở Ấn Độ, rất nhiều trong số chúng cực kỳ quý hiếm và được người dân địa phương tôn thờ như chim thần chim thánh. Rồi Toby liếc mắt nhìn trộm cô, ngập ngừng dò hỏi liệu Tor có phiền không nếu anh kể cho cô nghe một bí mật.

"Không sao đâu", cô nói, thấy nhẹ nhõm bởi cuối cùng không khí căng thẳng giữa hai người cũng được giải tỏa. "Em rất thích những bí mật".

Câu chuyện bí mật của Toby như thế này: Một buổi sáng, khi anh đang thơ thẩn tản bộ ngang qua sân trường, anh nhìn thấy một quả trứng nằm chơ vơ trên thảm cỏ. Có lẽ chim mẹ đã bỏ rơi quả trứng sau khi đẻ. Sáu tuần sau đấy, anh đã ấp quả trứng trong lòng mình cho đến một ngày, vỏ trứng rạn nứt, rồi một cái đầu nhỏ xíu với nhúm lông tơ mượt mà nhú ra, không được cứng cáp cho lắm. "Thế nên anh hiểu cảm giác có con là như thế nào", giọng anh dịu dàng, đầy tình cảm. Tor đưa mắt nhìn anh trong chiếc xe chật chội.

"Chúa ơi", cô nói, "anh đúng là một người chồng ngọt ngào". Nhưng trong đầu cô lại nghĩ, cái quái quỷ gì khiến anh kể ra câu chuyện ấy thế nhỉ? "Một câu chuyện rất tuyệt", cô khen ngợi, rồi nhủ thầm, sao mà giọng điệu của mình giống mẹ đến thế.

Tối hôm ấy, Tor cố an ủi mình, rằng cô cần phải nhìn nhận cuộc hôn nhân với Toby giống như một thỏa thuận thiết thực: theo cái cách mà ai đấy vẫn nghĩ, rằng mình đang dốc tiền cho một kỳ nghỉ đúng vào những giây phút cuối cùng, hoặc đang tốn tiền để mua một món đồ gia dụng trong một tiệm đồ cũ: nếu không tràn trề hy vọng, thì sao có thể để xảy ra sai lầm tồi tệ được?

Giờ đây nhớ lại quãng thời gian đầu khi cô nhìn anh như một món hời nhuốm đầy phong vị thực tế, đã đối xử với anh khá lạnh nhạt, Tor lại nhói đau. Câu chuyện về quả trứng bị bỏ rơi trên sân trường đã cho cô thấy trái tim nhân hậu của anh, nó khiến cô mủi lòng. Giờ đây cô yêu biết nhường nào mái tóc mềm mại suôn đều như lụa của anh chảy dài trong tay cô mỗi khi Tor lùa tay lên đầu Toby vào mỗi buổi sáng. Cả cái cách anh chìm vào giấc ngủ khi cánh tay vẫn ôm chặt quanh người cô. Những câu chuyện khôi hài anh kể, tách trà mỗi sáng anh vẫn mang đến tận giường cho cô. Cả đam mê đeo đuổi đến cùng công việc của anh, những cuốn sách anh vẫn đọc hằng đêm để ru cô vào giấc ngủ: Joseph Conrad, Dickens, T. S. Eliot - những cuốn sách mà cô từng có lần nghĩ bụng mình sẽ không bao giờ hiểu được những gì người ta viết trong đấy.

Cô hy vọng anh sẽ không sớm kể cho Viva và Rose nghe câu chuyện về chú chim non chào đời từ quả trứng được ấp ủ trong lòng anh. Cần phải có thời gian để hiểu hết một con người.

Chiều muộn ngày hôm ấy, sau khi chiếc bánh Giáng sinh mới đã hoàn thành, hai vợ chồng cô cùng bắt tay vào trang trí nhà cửa. Hai tiếng sau, mọi ngóc ngách trong ngôi nhà đều được trang hoàng bằng nến, đèn điện và những sợi dây kim tuyến lóng lánh.

"Anh có nghĩ chúng ta đã hơi vung tay quá trán không?", Tor hỏi. 

"Không đâu cưng". Toby đang quấn một vòng dây kim tuyến quanh nút vặn chiếc máy hát quay ra nói với cô. "Nguyên tắc của Giáng sinh là không bao giờ được xem là đủ".

Cô ôm chầm lấy anh và hôn lên tai Toby.

"Anh thấy thế nào?", cô hỏi, khi cả hai âu yếm ôm chầm lấy nhau im lặng ngắm nghía căn phòng của mình.

"Thật lộng lẫy", anh thì thầm với cô. "Một không gian tràn ngập niềm hạnh phúc".

Trái tim cô đập rộn ràng, cảm giác yêu thương trào lên trong Tor. Toby chính là món quà quý giá nhất mà cuộc đời đã mang đến cho cô. Tor hy vọng Viva và Rose cũng sẽ mến anh khi hai người đến đây.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 49


Kể từ ngày bố cô qua đời, Viva đã trải qua những mùa Giáng sinh tại gia đình của những người bà con mà cô gần như không hề quen biết: những bà dì, ông chú, bà thím họ hàng xa. Có năm, khi không còn tìm được một người bà con xa nào đấy để xin đến ở cho qua mùa Giáng sinh, cô đã buộc phải đón những ngày Giáng sinh lạnh lẽo với gia đình người làm vườn ở trường học. Trong suốt bữa trưa ảm đạm, bà vợ với khuôn mặt sưng sỉa đã rất rạch ròi với Viva khi thông báo với cô, rằng bà ta hy vọng sẽ được thanh toán cho chú gà tây mà mình đã phục vụ cô trong bữa tiệc hôm nay.

Khi nhận được bức thư kèm theo lời mời của Tor - được viết trên mẩu giấy cứng màu xanh nhạt, vẻn vẹn mấy chữ "Giáng sinh ở Amritsar - hãy đến!" - phản ứng tức thì của cô là từ chối. Cô căm ghét tận xương tủy lễ Giáng sinh cùng những bản thánh ca, những câu kinh thuật lại nỗi khổ hình của Chúa Giêsu, ngay cả khi không có những âm thanh rền rĩ ấy, cô vẫn thấy kinh hoàng mỗi khi nghĩ đến.

Cuộc chạy trốn khỏi Azim đã để lại trên mặt cô một vết rách sát mắt với năm mũi khâu, một chiếc xương sườn bị gãy, những cơn đau đầu và triền miên mất ngủ. Những vết thương đã tác động sâu sắc đến sự tự tin của cô. Không dừng lại ở đấy, cô còn mất hàng tiếng đồng hồ đằng đẵng để viên trung sĩ Barker thẩm vấn. Barker, một gã gốc Xcốt-len với khuôn mặt lúc nào cũng cáu kỉnh, mồ hôi túa ra thấm ướt cả một mảng lưng áo đồng phục, đã có ý nhắc nhở cô, rằng nếu Viva, một cô gái độc thân, chọn sống ở khu vực ngoại ô Bombay, nơi không lấy gì đảm bảo về mặt an ninh và gạt qua những khuyến cáo của chính phủ Anh, thì chuyện vừa xảy ra với cô là hết sức bình thường, thậm chí cô phải lấy làm may mắn vì còn giữ được mạng sống.

Nhưng cuối cùng, Daisy và cô cũng đã cố gắng xoay xở để thuê cho Guy một căn phòng nhỏ tại một nhà khách ở Bombay. Bác sĩ Ratcliffe, chủ nhà khách, một người đàn ông lịch lãm, với khuôn mặt dữ tợn bởi từng có lần suýt chết trong một vụ tai nạn rò rỉ khí ga, đã rất đồng cảm và từng chữa trị thành công cho nhiều bệnh nhân có vấn đề về thần kinh. Ratcliffe cho Viva và Daisy mượn một cuốn sách có đề cập đến bệnh thần kinh do bác sĩ Boyla viết. Trong cuốn sách của ông, bác sĩ Boyla đã cho biết một trong những dấu hiệu đầu tiên thường xuất hiện ở những người bệnh tâm thần chính là những hành động quá khích, họ luôn có những phản ứng thái quá, thậm chí một số người còn có những hành động đầy lòng trắc ẩn. "Nhưng ngần ấy chưa đủ để kết luận", Ratcliffe nói trong lúc dẫn hai người đi một vòng quanh ngôi nhà để giới thiệu, "để viết lên hồ sơ bệnh án của người bệnh hai chữ "tâm thần" như nhiều đồng nghiệp của tôi đã làm, chúng ta phải tìm ra bản chất của vấn đề ngay cả khi không có thuốc chữa".

Guy được sắp xếp ở trong một căn phòng thoáng đãng, chan hòa ánh nắng sát bên một khoảnh sân nho nhỏ. Ban đầu ông lên cho Guy một khẩu phần ăn hàng ngày khá bổ dưỡng đi kèm những bài luyện tập đặc biệt. Căn phòng của Guy nhìn ra một khu vườn nho nhỏ đầy màu xanh, luôn tạo cho nó cảm giác thích thú và dễ chịu.

Khi những vết thương trên mình Viva đã gần bình phục, cô đến thăm Guy. Hai người ngồi giữa sân nhấm nháp ly nước chanh mát rượi, lần cuối cùng cô đến, Guy đã nói: "Tôi xin lỗi vì đã làm cô bị tổn thương. Thực tình tôi không hề muốn như thế". Lần đầu tiên nó nói với cô bằng giọng điệu bình tĩnh nhất từ trước đến giờ, rất tự chủ và tràn ngập niềm hạnh phúc.

Nhưng bốn ngày sau, bố của Guy đã từ Assam đến gặp Daisy và Viva để nói với các cô rằng điều cuối cùng Guy cần là sự quấy rầy phiền phức từ đám đàn bà con gái trút lên nó, rằng ông đã đặt sẵn cho thằng bé tấm vé một chiều quay trở về nước Anh. Một người bạn cũ của ông ta đang ở trong quân đội đã hứa sẽ tìm cho Guy một công việc thích hợp ở trung đoàn của ông ấy. Mặc kệ những gì đã xảy ra, khi Guy, trong lần cuối cùng đến thăm cô với bộ dạng gầy yếu xanh xao, niềm thương cảm chợt trào lên trong lòng Viva, cô thấy mủi lòng; khuôn mặt Guy đầy đau khổ như thể nó biết một lần nữa mình sẽ lại bị ném vào giữa bầy sói không hề thương tiếc. Hôm ấy Guy đã nhờ bác sĩ Ratcliffe đưa nó đến mái ấm tình thương để chào tạm biệt Viva. Hai người lặng lẽ ngồi bên nhau trên băng ghế dài đặt ngoài văn phòng Daisy, đột nhiên Guy ngả đầu lên vai cô như một đứa trẻ.

"Tôi không muốn quay về một chút nào", giọng nó rầu rĩ. "Cô có thể làm gì được không?".

"Không", cô nhẹ nhàng, và chợt nhận ra, cuối cùng thì điều đấy cũng trở thành sự thật. Cô không phải là mẹ hay người giám hộ của thằng bé. Bố mẹ Guy đã không tin tưởng cô, thậm chí bọn họ còn không tin vào những gì bác sĩ Ratcliffe đã nói, trong mắt bọn họ, ông chỉ là một tên lang băm không hơn không kém. Guy đã bị đẩy ra khỏi tầm kiểm soát của cô. Giờ đây Viva không thể làm được gì để hàn gắn những vết thương trong tâm hồn thằng bé.

Nó vòng tay ôm chặt lấy cô thêm một lần nữa.

"Cô đẹp quá", những lời cuối cùng nó dành cho cô nghe sao nghẹn đắng. "Rồi có ngày tôi sẽ cưới cô làm vợ". Mấy lời cuối cùng của Guy khiến đầu óc cô quay cuồng.

Mấy hôm sau, Daisy trước khi quay về Anh trong kỳ nghỉ Giáng sinh, đã cố năn nỉ Viva dành chút thời gian ít ỏi cho một kỳ nghỉ ở đâu đấy. Daisy bảo với cô sẽ chỉ còn lại sáu đứa trẻ ở lại mái ấm tình thương trong dịp lễ Giáng sinh, bà Bowden và Vaibhavi cũng đã vui vẻ ở lại chăm sóc tụi nhỏ.

"Hãy dành hai tuần ấy cho nghỉ ngơi, em cần phải thế - và cần phải tránh không để đầu óc mình phải bận tâm lo lắng cho thằng bé nữa, cũng như tạm thời dẹp cuốn sách chứa đầy những phận đời bất hạnh của em lại. Lên đường!".

Và rồi hai tuần trước Giáng sinh, khi chuyến tàu đưa cô đến sân ga Amritsar, Viva chợt nhận ra Tor luôn ở trong tâm trí cô. Cô không cần phải tìm đến với một người mới nào khác.

"Viva!", nụ cười bừng sáng trên khuôn mặt rạng rỡ hân hoan chào đón của Tor. Cô gái dang rộng cánh tay siết chặt lấy Viva rồi tỉ mỉ xem xét đôi mắt được Viva giấu kỹ dưới vành mũ rộng của mình.

"Chúa ơi!", Tor thốt lên. "Nhìn mắt chị này! Chuyện gì xảy ra với nó vậy?".

"Ôi, không có gì cả, thực sự không có gì nghiêm trọng đâu". Viva co rúm người sợ hãi mỗi khi nhớ lại chuyện ấy. Nỗi tủi hổ xót xa dường như vẫn đang đeo bám đóng thành quách thành lớp trên mắt cô, mặc dù phải sống với nỗi ám ảnh mang tên Azim nhưng cô vẫn từng ngày cố gắng để che giấu vết thương trên khuôn mặt cùng câu chuyện dài phía sau nó. "Một lần chị đi dã ngoại, rồi chẳng may trượt chân. Lúc ấy nhìn chị còn thê thảm hơn thế này nhiều. Chị sẽ kể cho em nghe chuyện này trong bữa tối".

"Ôi không, Tor, chị không thể tin được mình lại ở đây". Viva nắm chặt tay Tor. "Vào một ngày đẹp trời như hôm nay".

Bầu trời trong xanh không một gợn mây, lồng lộng như một tấm gương khổng lồ.

"Ừm, Toby và em đã kiên quyết không để bất kỳ chút ánh nắng mặt trời nào phá hỏng lễ Giáng sinh của mọi người", Tor tếu táo khi cả hai tay trong tay dắt nhau đi ra khu vực đỗ xe. "Anh ấy đã bảo với em sẽ vo những cuộn bông thành từng viên tròn rồi dàn lên tầng thượng để mọi người có cảm giác như mình đang ở nhà.

"Viva, em không thể chờ đến lúc giới thiệu anh ấy với chị được nữa", Tor siết nhẹ bàn tay Viva. "Chị sẽ thích anh ấy. Chị sẽ thích ngay thôi".

Viva hy vọng thế. Liệu Toby có biết chuyện cô đã kịch liệt phản đối Tor đến thế nào khi cô ấy quyết định sẽ kết hôn với cậu ta không nhỉ? Viva - chuyên gia lão luyện trong tình trường và hôn nhân! Nhưng đôi khi cô còn thấy sợ cho chính bản thân mình.

Trong khi Tor lái chiếc Talbot quay về trường, Viva rủa thầm bản thân mình. Một trong những kết quả sau những ngày bị Azim giam cầm là giờ đây cô đã nếm trải cảm giác lo sợ sẽ bị giam giữ. Khi ngồi trên tàu, cảm giác ấy lại ùa về trong cô: tim đập rộn rã, mồ hôi túa ra ướt đẫm lòng bàn tay, cảm giác chao đảo lộn nhào đến nghẹt thở. Khi cô đưa mắt nhìn ra ngoài cửa xe, cảm giác lo âu sợ hãi lập tức cuộn lên trong cô như một màn sương mù xám xịt. Cô căng mắt cố tập trung vào ngôi làng nhếch nhác mà chiếc xe đang lạch bạch bò ngang qua, một người đàn ông cưỡi trên lưng một chú ngựa trắng gầy trơ xương, một bà già đang run rẩy bước trên đường với một bó củi trên đầu.

Nửa tiếng đồng hồ sau, Tor dừng xe trước một cánh cổng với một chiếc huy hiệu trường học khổng lồ đính trên đỉnh.

"Đến nơi rồi", Tor hồ hởi. "Tổ ấm của bọn em đây". 

Lần đầu tiên, Viva thấy lòng mình chộn rộn đến thế, không chỉ có vậy, cảm giác hào hứng còn đọng lại khá lâu trong cô. Cứ như thể cô đang dấn thân vào một câu chuyện cổ tích dành cho đám trẻ con. Một ông già Nô-en ngồi bên lò sưởi; những ô cửa sổ lấp lánh ánh nến; những bình hoa giấy treo lúc lỉu trên cột băng, những bức tranh bằng giấy đầy màu sắc với những nét vẽ ngây ngô của trẻ con được treo trên những khoảng trống dọc hai bên hành lang. Một bức vẽ chân dung một người đàn ông khá hồng hào với khuôn mặt sáng sủa, đầu đội một chiếc khăn xếp đính đầy đá quý; bức khác vẽ cảnh một đứa bé đang ngồi trên xe trượt được kéo bởi một đám thú dữ từ hổ, báo đến rắn rít...

Trên cánh cửa, phía ngang đầu, những chữ cái bay bướm được cắt dán từ loại giấy bạc sáng lấp lánh ghép lại với nhau thành dòng "Chúc Mừng Giáng Sinh" nom khá bắt mắt.

"Vẫn còn hơi sớm khi trang hoàng vào lúc này", Tor phân trần, "nhưng bọn em không thể chờ thêm được nữa".

"Tuyệt quá, Tor", Viva cười lớn. "Thiên thần nào sống ở nơi này?".

"Tất cả thần linh - rất nhiều đấy nhé". Toby xuất hiện trước ngưỡng cửa, hai chú bé người hầu ăn bận lịch sự, kính cẩn bê hai khay đồ ăn thức uống gồm một chai sâm banh và những đĩa pho mát vàng nhạt.

"Xin chào người bạn của Tor", anh hồ hởi, vụng về chìa tay về phía Viva.

"Không, không, khoan! Khoan đã!", Tor lao về phía chiếc bàn, vặn nút máy hát, ngay lập tức căn phòng tràn ngập giọng ca của Ivor Novello hân hoan với bài "Nhịp chuông ngân mãi trên cao".

"Tôi đã phải ngăn không cho cô ấy thắp lửa đấy", Toby nói. "Về đêm nhiệt độ xuống chỉ còn 180C". Nhìn khuôn mặt rạng ngời của Toby xắn nắn bên Tor, Viva chợt nhận ra cậu ta mới trẻ trung đến nhường nào - mái tóc rối bù, những ngón tay hãy còn lấm lem vết mực, vạt áo sau còn chưa kịp nhét gọn vào quần - và mới ngây thơ làm sao: cô nghĩ hẳn cậu ta phải là một chàng trai hết mực dịu dàng và cực kỳ nhân hậu.

"Anh". Tor vòng tay ngang eo Toby. "Để em giới thiệu một chút trước khi chúng ta nhập cuộc vui nhé. Đây là chị Viva, người mà em đã kể rất nhiều cho anh nghe đấy. Chị ấy sẽ kể cho chúng ta nghe về vết thương gần mắt của mình sau, thế nên anh đừng có hỏi gì về nó ngay bây giờ nhé".

"Chào mừng đến với tổ ấm của chúng tôi, Viva". Toby bắt tay Viva, rất nhiệt tình. "Chúng ta làm một ly sâm banh nhé?".

"Rất sẵn sàng", cô vui vẻ trả lời.

"Ôi, chết tiệt!". Khi Toby dốc chai sâm banh đổ ra những chiếc ly, đám bọt rượu trắng xóa sủi tăm tràn ra khỏi miệng ly, Viva chợt nghĩ, cậu ta cũng thuộc kiểu người dễ bị kích thích giống như mình.

Khi ly rượu được trao vào tay, cô hít một hơi thật sâu rồi đưa lên miệng nhấp môi. Xem nào! Cô đã chẳng nói trước là có những điều luôn khiến cô sợ hãi mỗi khi nghĩ đến đấy thôi. Để xem - có ba điều đáng để chúc mừng: thứ nhất cô đã thực hiện được một cuộc hành trình đến tận đất nước xa xôi này với chỉ một mình; thứ hai, Toby nom có vẻ không giống một kẻ nghiện ngập hay một ông chồng vũ phu; thứ ba, đến giờ phút này vẫn không có ai hỏi han gì đến Frank, con người mà cô đã không còn muốn nhắc đến tên của anh ta nữa. Thế nên ngay cả khi mọi thứ đã diễn ra sớm hơn so với sự mong đợi của cô, hãy để Giáng sinh bắt đầu mang lại niềm vui. Không rên rỉ, không ủ ê, không sợ hãi, không ngoái đầu nhìn lại, không ngẩng đầu nhìn lên.

Cô nâng ly sâm banh sóng sánh lên ngang tầm mắt, hướng về phía Tor. "Mừng Giáng sinh", cô nói.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 50


Ngày hôm sau, khi Rose xuất hiện cùng Freddie bé bỏng mới bốn tháng tuổi trên tay, Toby đã trêu chọc các cô gái, rằng cả ba đang dần trở thành những bà già lẩm cẩm. Nhưng quả thật Freddie đáng yêu vô cùng, thừa hưởng mái tóc vàng óng mượt mà của Rose, lúm đồng tiền xinh xắn trên gò má bụ bẫm, đôi mắt xanh biếc sáng ngời nom rõ thông minh. Khi Viva ôm thằng bé trong tay, cô choáng váng với luồng cảm xúc đang dào dạt tuôn trào trong mình - không phải là những cảm giác kiểu như ghen tị, cô có thể làm gì với một đứa bé đáng yêu như thế? - nhưng đúng là cô nể phục Rose bởi đã làm được một điều kỳ diệu đến thế, chuyện này thật hoàn hảo, thật phi thường và cô ấy thật mạnh mẽ.

"Ôi Chúa ơi", Toby vờ rền rĩ với các cô gái khi cuối cùng anh cũng được phép bế Freddie trên tay. "Bà chủ nhà này cũng đang muốn sinh hạ một cậu nhóc như thế này ngay lập tức đây", và rồi, đúng như Tor đã dự đoán, Toby bắt đầu kể cho Viva và Rose nghe câu chuyện về quả trứng, câu chuyện có ý nghĩa với anh biết nhường nào.

"Chuyện gì đã xảy ra với chú chim non?", Viva dịu dàng hỏi.

"Hai tháng sau thì chú chim qua đời, tôi đã bất cẩn giẫm chân lên nó. Lúc bấy giờ tôi mải chạy nhanh ra ngoài để lấy thư. Anh xin lỗi, cưng", Toby quay sang Tor, "vì đã không kể cho em nghe điều này. Rất khó khăn để kể lại chuyện này". Giọng Toby không hề có ý đùa cợt chút nào. 

"Thật kinh khủng", giọng Viva vẫn nhẹ nhàng. "Hẳn cậu phải yêu chú chim ấy đến nhường nào".

"Cô nói đúng", Toby xa xăm, "tôi đã yêu chú chim non ấy biết nhường nào".

Mặt trời đang cháy hết mình rót những tia nắng rực rỡ cuối cùng lên khoảng sân chơi rộng mênh mông trước ngôi trường, những vạt nắng kéo dài tận cánh rừng phía ngoài xa, nơi những đàn chim đang vần vũ quay tròn trên bầu trời, những ngọn cây đang vươn mình mạnh mẽ như muốn chạm tay đến chúng. Ít phút sau, bóng tối nhanh chóng ùa về, những vì sao mọc sớm đã nhấp nháy ẩn hiện phía cuối đường chân trời. Toby bước ra ngoài hiên, ngồi xuống cạnh Viva.

"Ở đây cô thấy ổn chứ?", anh nhẹ nhàng hỏi. "Ý tôi là, nơi này quá hoang vu hay cần phải có thêm nhiều người nữa nhập cuộc?".

"Không hoang vu chút nào đâu", cô nói dối. "Thật bình yên khi không phải váng vất với những chuyện lộn xộn chốn phồn hoa đô hội. Có vẻ Tor rất...".

"Rất...".

Cả hai cùng phá lên cười.

"Cô nói trước đi", dứt cơn cười, Toby nói. "Cô là khách mà".

"Ừm, tôi chỉ muốn nói, chưa bao giờ tôi thấy Tor hạnh phúc như lúc này".

"Ôi, tôi hy vọng là thế! Thậm chí tôi còn không thể tin được chuyện này là thật". Trông điệu bộ của Toby lúc này như một đứa trẻ lên tám. "Tôi biết là cô vẫn còn vài điều hoài nghi giấu kín trong lòng". Nụ cười nhăn nhở của Toby vụt lóe sáng trên khóe miệng trong bóng tối nhập nhoạng lúc hoàng hôn càng khiến khuôn mặt của anh trở nên láu lỉnh.

Viva cười, ngượng ngùng. "Ừm, công nhận là thế - chiếu theo những chuẩn mực của người Ấn thì sự kết hợp của hai người quả là chóng vánh đến bất ngờ, và rất dễ thương đấy chứ".

"Tôi biết", anh nói. "Hai chúng tôi đã dấn thân vào cuộc rủi ro lớn nhất đời người khi quyết định khá chóng vánh, nhưng chuyện này đúng là điều tuyệt vời nhất đấy chứ, cô có nghĩ thế không?".

"Tôi không biết. Tôi không được can đảm đến thế".

Một tràng cười từ phòng trẻ trong nhà vọng ra khiến cả hai bất giác cùng ngẩng đầu lên nhìn. Có tiếng nước bì bõm vọng ra, rồi giọng Tor và Rose cùng hát vang: "Daisy, Daisy, hãy trả lời tôi đi...".

Ít phút sau, Tor bế Freddie ra ngoài hiên, khuôn mặt cậu bé đỏ au sau màn tắm nước nóng, mùi xà phòng thơm quyện với hương phấn rôm thoa trên làn da mỏng manh của cậu tỏa khắp hiên nhà. "Chào chú Toby và cô Viva nào, chúc hai người ngủ ngon nhé".

Viva hôn lên trán Freddie. Làn da mịn màng trên trán đứa bé thoảng mùi cỏ non. Những ngón tay tí hon hồng hào của nó ngọ ngoạy chạm vào phía dưới mắt Viva, nơi vết sẹo đã bắt đầu lên da non. Cô khẽ chùng người xuống, rồi lại rướn cổ hôn nhẹ lên trán cậu bé. "Chúc ngủ ngon, Freddie yêu quý", Viva thì thầm, "ngủ ngon nhé, bé yêu".

"Chỉ cần các cô được vui vẻ, đấy là điều tôi quan tâm", Toby nói. "Thực lòng, thì cũng xấu hổ một chút khi anh bạn bác sĩ của cô không thể đến đây dịp này. Từ Lahore đến đây thực tình không xa xôi gì cho cam, tôi thực sự muốn được trao đổi với anh ta về căn bệnh sốt rét. Một trong những căn bệnh kinh khủng nhất. Năm ngoái ở đây đã có dăm học sinh lìa đời vì căn bệnh quái ác này".

"Bạn bác sĩ nào kia?", cô rướn cặp mắt nghi ngại vào Toby. "Tôi không biết anh ta cũng được mời đến đây". Viva đặt ly rượu xuống. "Ai mời anh ta tới vậy?".

"Ôi Chúa ơi", Toby vờ rên rỉ. "Tôi lại khiến cô phiền lòng rồi ư?".

"Không, không, không, không sao đâu", cô tuôn một tràng, nhanh đến nỗi chính cô cũng không nhận ra mình đang nói gì. "Anh ta là bạn của tất cả mọi người từng đi trên chuyến tàu. Tôi rất ít khi nghĩ đến anh ta, nhưng...". Cô nhìn đồng hồ đeo tay. "Tôi phải về phòng nghỉ, tắm rửa rồi thay quần áo - bữa tối sắp đến rồi. Cảm ơn cậu vì đã trò chuyện với tôi hôm nay".

"Ôi khốn nạn thật!", vẻ mặt Toby đầy đau khổ. "Tôi lại huyên thuyên những chuyện không đâu mất rồi. Đúng là ngớ ngẩn quá".

Bước vào phòng, Viva khóa cửa, giam mình trong bóng tối. Cô ngồi xổm trên giường. Cuối cùng thì điều ấy cũng đến: anh cũng được mời, nhưng đã không muốn đến. Cô còn muốn nghe điều gì rõ ràng hơn nữa? Lòng cô chợt nhói đau, cảm giác bất lực ùa về, cô không thể làm gì khác với nỗi đau đang quặn thắt trong tâm can, cứ như thể cô vừa nhận được một cú bồi như trời giáng vào hai bên mạng sườn. Đã rõ, tất cả đã kết thúc, cô nhủ thầm, anh được mời đến, nhưng đã từ chối. 

Hãy nhớ lấy ngày hôm nay, cô nổi giận, nguyền rủa bản thân, mày phải nhớ không được phá hỏng một mùa Giáng sinh chỉ vì những chuyện không đâu.

Trong suốt bữa tối, Toby tiết lộ với các vị khách, rằng anh đang học nghề chạm trổ, cái nghề mà với anh giống như một gã sát nhân với đồ đạc hành nghề là những chiếc rìu, rồi anh sẽ kiếm được một công việc tử tế, Toby nhồm nhoàm nói sau khi bỏ vào miệng một khoanh thịt bò nướng. Jai bước ra thắp sáng hàng hiên bằng những ngọn đèn dầu đỏ quạch, rồi Rose mở nút chai vang loại đặc biệt mà cô đã cất công mang theo từ nhà đến đây, rất nhanh chóng, cả hội cùng nâng ly chúc mừng.

Những câu chuyện rôm rả nổ ra bên bàn ăn, bằng tất cả mọi nỗ lực của mình, Viva cố gắng nhập cuộc.

"Em sẽ không bao giờ chọn anh làm người đồng hành", Tor chọc Toby. "Bởi anh sẽ lại lom khom quỳ gối lăn lê bò toài để rình mò theo dõi đám sẻ ngô lông đốm hay những loài nấm quý hiếm hay đại loại những động thực vật bạt ngàn trong đấy, rồi chúng ta sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi cánh rừng rậm rịt ấy được. Không, em sẽ chọn Viva làm bạn đồng hành".

"Sao lại là chị?", Viva thực sự muốn biết lý do.

"Chị là một cô gái can đảm, chị không bao giờ mất thì giờ với những thứ như em vừa nói. Ý em là, chị sẽ mang theo câu chuyện bí mật đã xảy ra với mình ở Bombay mà chị định sẽ kể suốt cuộc hành trình trong rừng sau, lúc bấy giờ sẽ không còn tẻ nhạt nữa. Nếu em có vài vết chỉ khâu dưới mắt như chị, hoặc giả từng bị hạ nốc ao đến xây xát mặt mày như thế, em sẽ phải ăn ngoài tiệm hàng tháng trời mất".

"Ôi, vết thương này", Viva khẽ đưa tay chạm nhẹ vào một bên mắt. Mình đã dính bẫy. "Ừm... không có gì nghiêm trọng cả; thực ra thì có, nhưng không đến nỗi tồi tệ như thế".

Suốt trên chuyến tàu tới đây, cô đã lẩm nhẩm kể lại chuyện đã xảy ra theo cách nhẹ nhàng nhất, nhưng phiên bản hơi ngả sang hướng hài hước của câu chuyện Viva bị bắt cóc ấy lại đang khiến cô trở nên sáng chói như một ngôi sao, hệt như câu chuyện về một nàng trinh nữ phải trải qua những điều hãi hùng trong một chiếc váy lụa đỏ chói, và Azim là một kẻ ác độc đóng vai nhân vật phản diện trong một vở kịch câm, tạo ra những nhịp thở hổn hển gấp gáp nhuốm đầy màu sắc kinh hoàng từ phía khán giả là những người đang quây quần quanh bàn ăn.

Câu chuyện chỉ kết thúc khi Tor đưa ngón tay lên môi và nhìn về phía cửa phòng nơi Freddie đang ngon giấc khẽ ra hiệu với mọi người. "Nghe nào", cô thì thầm. Có tiếng khóc từ trong phòng vọng ra, chỉ ò è và dè dặt, không có gì nghiêm trọng. Tất cả cùng im lặng chăm chú lắng nghe cho đến khi tiếng nôi đu lách cách đều đặn vang lên, sợi dây nối từ cánh nôi tới chân của người vú em khẽ đung đưa, một bài dân ca được người vú em khe khẽ ngân nga theo điệu hát ru.

"Cô ấy đang hát cái gì vậy?", Viva hỏi Toby.

"Ơi cậu chủ nhỏ, ơi ông vua con, cái ngủ hãy ngủ đi nào, cái ngủ mày ngủ cho ngoan", Toby lẩm nhẩm hát theo. "Thật thú vị khi biết có những phụ nữ từ một nơi nào đấy lại tỏ lòng tôn trọng những giai điệu dân gian của dân tộc mình". Toby liếc ba cô gái bằng ánh mắt của một vị chỉ huy.

Trong lúc Toby rót vang đỏ vào ly, Viva để tâm trí mình thư giãn trong chốc lát. Câu chuyện về vụ bắt cóc đã được dàn xếp ổn thỏa, hết sức thành công, không một ai bên bàn ăn trong buổi tối hôm nay muốn biết chi tiết về cảm giác đau đớn trong những ngày bị giam hãm đã gây ra cho cô, rồi cảm giác ngớ ngẩn đang trĩu nặng trong cô, cả niềm kiêu hãnh đã bị tước đoạt một cách không thương tiếc, niềm kiêu hãnh cần thiết để có thể tạo ra sự khác biệt cho đời sống của những con người tại một đất nước cách xa hàng ngàn dặm đường so với những chuẩn mực đúng đắn mà bạn từng được dạy dỗ.

"Nhưng Viva này", Toby đột nhiên quay sang cô, "cuối câu chuyện của cô. Chuyện gì đã xảy ra với cậu nhóc tên Guy ấy?".

Viva tiếp tục kể cho mọi người nghe về bác sĩ Ratcliffe cùng ngôi nhà nghỉ kiêm nơi điều trị bệnh nhân của ông ấy. Cả chuyện Guy đã có những tiến triển khá tốt đẹp trong việc điều trị cho đến khi thằng bé ra đi.

"Giờ thì nó đã quay về nước Anh. Đấy là điều đáng tiếc nhất. Bố thằng bé đã xin được cho nó một công việc trong quân đội. Nó sẽ sớm trở thành một chiến sĩ. Mọi người có thể tưởng tượng được điều gì là ít thích hợp với nó không? Người ta sẽ nhìn thấy gì khi quan sát nó?".

"Chúng ta sẽ không thấy những điều mà mọi người vẫn thấy ở nó, nhưng đúng là chúng ta đã thấy", giọng Toby chùng xuống. "Những điều đến từ Talmud". 

"Tôi nhận ra mình đã sai lầm trong chuyện ấy", cô nói.

Viva nhìn hai vợ chồng Toby, cảm giác khao khát được như họ chợt bùng lên trong cô. Vòng tay ôm chặt của Tor đang quấn quanh cổ Toby ấy, cả cặp mắt khép hờ của cậu ta trước khi ngả đầu vào ngực Tor.

Rose đứng dậy đi vào phòng kiểm tra giấc ngủ của Freddie, còn lại một mình Viva ngồi giữa ngổn ngang bàn ghế li tách chén đĩa, nỗi buồn hòa cùng niềm cô đơn thắt quặn trong tim cô. Lẽ ra cô không nên đến đây, cô vẫn chưa sẵn sàng.

"Viva", Rose đã quay lại từ bao giờ, đang đứng sau lưng cô, thì thầm, "chị nghĩ sao nếu bọn em mời Frank đến đây thêm một lần nữa, không ở lại dài ngày mà chỉ cùng mọi người thưởng thức bữa tiệc Giáng sinh vào buổi trưa thôi? Anh ấy từng là bác sĩ trên tàu tốt bụng nhất", cô giải thích với Toby. "Cả ba bọn em đều từng phải lòng anh ấy".

Cảm giác giận dữ chợt trào lên trong lòng Viva - thật tầm thường khi thốt ra những lời vớ vẩn ấy.

"Chắc chắn Toby cũng sẽ thích anh ấy", Tor đế vào. 

Ba cô gái đưa mắt nhìn nhau, Viva nuốt nước bọt.

"Đúng hơn thì em không phải lòng anh ta", cô nói. "Chưa bao giờ anh ta nói như thế cả".

Câu chuyện bên bàn ăn kết thúc ở đây.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 51


Sáng hôm sau, Tor đề nghị Rose và Viva nên cưỡi ngựa một vòng thăm thú cảnh quan quanh đây.

Thực sự là một chuyến cưỡi ngựa thú vị. Cảm giác hào hứng cồn cào trong ruột gan cuộn lên khi Viva nghĩ đến chuyện cưỡi ngựa.

Khoảng một tiếng đồng hồ sau, cô và Rose đã thúc ngựa phi nước kiệu trên con đường hai bên ken dày những hàng dương xanh ngát dẫn ra ngoài bìa rừng. Chú ngựa của Viva, một chú ngựa giống Ả-rập với bộ dây cương màu hồng, tỏ vẻ hiếu động khi luôn dán cặp mắt to tròn ốc nhồi của chú vào muôn vật dịch chuyển quanh mình: những chú vẹt sặc sỡ, những chiếc lá rụng, những giọt nắng lọt qua kẽ lá rơi xuống mặt đường.

Cơ thể cô căng cứng vì sợ hãi.

Chỉ mấy phút trước đây thôi, khi cả hai chú ngựa bất ngờ khựng người sợ hãi trước một con chim cút đột ngột sà xuống mặt đường, suýt chút nữa thì cô ngã lộn nhào khỏi mình ngựa trong khi Rose vẫn điềm tĩnh giữ được thăng bằng và đường bệ như một nữ hoàng trên yên ngựa, cứ như thể cô ấy và chú ngựa là một.

Một trong những ký ức rõ ràng nhất mà cô còn lưu lại trong tâm trí ấy là kỷ niệm về lần cưỡi ngựa cùng bố ở Simla. Lúc bấy giờ cô lên ba hay bốn tuổi gì đấy. Ông rạp mình trên yên, quất những cú đen đét như xé gió vào mình ngựa rồi bất ngờ bế thốc cô từ dưới đất lên, nhẹ như không, cứ như thể cô là một món đồ chơi hay một chiếc lông chim mỏng manh, ông đặt cô ngồi trong lòng mình, ngay phía trước yên rồi thúc ngựa cho phi nước kiệu nhắm hướng đường chân trời thẳng tiến, cô có cảm giác toàn bộ năng lượng tồn tại trong mình chú ngựa đang bùng nổ, ông giữ chặt cô trong tay cứ như thể cô là trung tâm của chiếc guồng quay tơ đầy vững chãi.

Chút ký ức đẹp đẽ nhất của cô.

"Chị đang nghĩ gì thế?", Rose lớn giọng cố bắt chuyện với cô. Ánh mắt Rose ẩn hiện dưới vành mũ bảo hiểm cố liếc sang phía Viva.

"Không có gì".

"Ôi!". Cái nhìn của Rose đầy hoài nghi. 

Cả hai thong dong cưỡi ngựa qua một cánh cổng đan bằng những sợi liễu gai; một đàn vẹt lông xanh sà xuống cánh rừng trước mặt. Viva lờ mờ nhìn thấy con đường ngoằn ngoèo dẫn đến một con dốc thoai thoải ẩn hiện giữa những tàng cây mờ bóng. Một nơi lý tưởng để phi nước đại, Rose hào hứng.

"Sẵn sàng chưa?".

"Sẵn sàng".

Rose biến mất trong đám bụi mịt mờ.

Khi Viva giật dây cương, chú ngựa của cô xé gió vun vút lao về phía trước như một viên hỏa tiễn, bất chợt Viva cảm thấy sợ hãi. Mình có cảm giác như đang bay, gió mạnh quật vào mặt cô, tiếng vó ngựa dồn dập ngay dưới chân cô. Những bụi cây dại hai bên đường vèo vèo rít qua tầm mắt, sau khi vượt qua những rặng cây có mùi thơm như mùi quế, đến đoạn đường lầy lội, vài khúc gỗ chắn ngang lối đi buộc phải vượt qua, và rồi khi Viva và Rose ghìm cương dừng lại trên đỉnh dốc phía cuối cung đường, hai chú ngựa ướt đẫm mồ hôi, bất giác hai cô gái cùng nhìn nhau cười vang, chưa bao giờ Viva thấy sảng khoái như lúc này.

"Ôi, thích quá!", Rose, đôi gò má ửng hồng, mái tóc dài vàng rực xõa tung trong gió, khuôn mặt tràn ngập niềm hạnh phúc hệt như một cô bé vừa chạm ngõ tuổi dậy thì. "Không thể tả xiết niềm vui như hôm nay". Vẫn ngồi trên yên, Rose cầm dây cương điều khiển chú ngựa hồng của mình nhịp nhàng nhảy lách tách những bước ngắn đầy hứng khởi, cả người lẫn ngựa đều rạng ngời trong nắng. Cô ấy mới xinh đẹp làm sao, Viva nhủ thầm, và rất can đảm.

Nghỉ ngơi trong chốc lát, tiếng nước chảy róc rách rót vào tai du dương như hát, tiếng thậm thịch của móng ngựa đang giẫm lên lớp bùn dày đỏ quạch ven suối. Viva và Rose dắt ngựa xuống lòng suối, để mặc chúng thỏa thuê vục đầu xuống làn nước mát rượi. Một con chim diệc đang kiếm ăn ở bờ bên kia giật mình bay vút lên cao. Bàn tay Rose nhẹ nhàng chạm vào tay áo của Viva.

"Trông chị khá hơn rất nhiều rồi đấy, Viva".

"Thật sao?". Viva nắm lấy sợi dây cương. Cảm giác phòng thủ lại ùa về trong cô khi nhìn thấy nụ cười thoảng chút lo âu trên môi Rose.

"Chị đã thực sự thấy ổn chưa, Viva?".

"Rồi, tất nhiên, hôm nay thật tuyệt". Viva vuốt nhẹ lên cổ chú ngựa. "Chị thấy vui vì em đã quan tâm đến mình".

"Thực sự em không có ý đấy".

"Ôi", Viva thốt lên, "cho dù có chuyện gì đi nữa, chị vẫn không sao cả. Còn em thế nào?".

Rose nhìn Viva, lạ lẫm. "Chị muốn em nói thật hay cứ vòng vo tam quốc?".

"Nói thật đi".

"Em không biết phải bắt đầu từ đâu", Rose nói. "Có quá nhiều thay đổi trong một năm qua".

"Thật sao! Như thế nào?".

Một lọn tóc vàng rực rơi xuống khuôn mặt xinh đẹp của Rose. Cô khẽ vén mũ nhét lọn tóc vào lại trên đầu.

"Hành trình đến với mảnh đất này. Đến với Ấn Độ. Mọi thứ. Em đã đến đây mà không hề đắn đo cân nhắc, dẫu chỉ một lần".

"Rose! Điều đấy là không đúng. Em là cô gái nhạy cảm nhất trong ba chị em mình".

"Ôi không, thôi nào Viva. Chị thừa biết em trẻ con đến nhường nào". Hai vệt mồ hôi từ từ lăn xuống hai bên thái dương Rose. "Như một đứa trẻ con ấy".

Bất giác Viva trở nên thận trọng. Có vẻ Rose đang rơi vào tâm trạng kích động.

"Em có nghĩ mọi thứ thực sự đã được chuẩn bị sẵn cho em ở Ấn Độ không?", Viva hỏi. "Chuyện này giống như một củ hành khổng lồ ấy: sau mỗi lớp vỏ được em bóc tách sẽ cho em thấy những điều mới mẻ khác mà trước đấy chưa bao giờ em biết đến, hay thậm chí là hiểu về chính con người mình".

"Em không nói về Ấn Độ", Rose trở nên lạnh lùng. "Em đang nói đến chuyện kết hôn với Jack kia. Ban đầu đúng là kinh khủng".

Viva choáng váng, cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng lên đến đỉnh đầu. Từ trước đến giờ cô luôn có ý nghĩ Rose sẽ không bao giờ tâm sự với mọi người về Jack bởi cô ấy không muốn kể về người chồng đẹp trai của mình trước mặt Tor.

"Rất kinh khủng", Rose quả quyết. "Em đã từng là một con bé cực kỳ nhút nhát, lúc nào cũng đau đáu nỗi nhớ nhà, đã thế lại dốc tuốt tuồn tuột ruột gan mình cho anh ấy thấy, tất cả".

"Chúa ơi, Rose", sau một hồi im lặng Viva cũng lên tiếng. "Thế bây giờ thì sao?". Cũng giống như Rose, cô luôn căm ghét những điều như thế trong cuộc đời mình.

"Ừm", Rose vu vơ nghịch với sợi dây cương trong tay, "đã tốt hơn - ít nhất là không còn khoảng cách khi ở trong phòng ngủ nữa - trước đây chuyện này có vẻ rất khiếm nhã".

Tiếng cười của hai cô gái náo động cả mặt suối yên tĩnh, mấy con gà gô đang im thin thít ấp tổ trong đám lau lách ven bờ giật mình quang quác đập cánh cắm đầu lủi sâu vào rừng.

"Nhưng hiện tại đã tốt hơn chưa?", Viva thận trọng hỏi. "Ý chị là, mọi chuyện ấy".

"Không hẳn - ừm, chỉ một số thôi...", Rose ấp úng. "Chị biết đấy, thậm chí còn tệ hơn, tệ hơn rất nhiều".

"Như thế nào?".

"Ừm", Rose hít một hơi thật sâu. "Chị có phiền không khi em tâm sự những chuyện này?".

"Tất nhiên là không", Viva nói dối. Những chuyện như thế này rất kinh khủng, cô biết rồi Rose sẽ thấy hối hận vì đã tin tưởng vào cô. 

"Đã có chuyện xảy ra, chuyện rất kinh khủng". Im lặng, rất lâu sau đấy giọng Rose mới trở lại bình thường. "Dạo còn ở Poona, một hôm em đến câu lạc bộ, một mình. Hôm ấy Jack phải trực ở doanh trại. Câu lạc bộ hôm ấy chỉ có em và vài bà già cùng mấy quý cô ưa hóng hớt. Một trong số bọn họ, bà Henderson, nổi tiếng với những câu chuyện thậm thụt hóng hớt đời tư của người khác, đã hào hứng bắt đầu giọng điệu dơ dáy về những chuyện thường ngày: từ nỗi bực mình với đám người hầu đến chuyện tiêu khiển giải trí của bà ta, thôi thì đủ thứ. Một nơi cực kỳ tẻ nhạt, em gần như không để lọt vào tai những câu chuyện kiểu như thế, rồi bà ta đột nhiên trở nên thận trọng, hạ giọng gần như thì thầm lái chủ đề cùng đám đàn bà con gái hướng về cánh đàn ông, cùng những hành động chẳng khác lũ súc vật của bọn họ. Không khí đột nhiên chùng xuống, em cảm nhận được những ánh mắt đầy ái ngại đang lén lút nhắm vào mình, bỗng chốc em thấy bối rối. Một lúc sau, giọng bà H. thốt lên: "Chúa ơi, tôi có nhét vừa đôi chân cỡ sáu của mình vào đấy không nhỉ?". Bà ta quả là một mụ già xảo quyệt, làm ra vẻ như mình là một kẻ chính trực giàu lòng hào hiệp không bằng. Rồi mọi người lại chuyển chủ đề".

"Em chỉ là một con bé rất non nớt trong những chuyện kiểu như thế, nên em đã quyết định gạt phắt sang một bên, hoặc tự huyễn hoặc mình rằng bà H. chỉ là một mụ già ngốc nghếch đần độn. Nhưng ít hôm sau, một buổi tối em bước vào phòng khách và thấy Jack đang ngồi đấy đọc một lá thư, đôi mắt anh ta đỏ hoe, ngấn lệ. Khi em hỏi Jack tại sao, ừm, chị biết Jack rồi đấy, ừm, thực ra chị không thể hiểu được đâu, anh ta thuộc kiểu người đôi khi trung thực một cách tởm lợm". Rose buông một tiếng thở dài. "Anh ta thú nhận tất cả".

"Về chuyện gì kia?".

"Về người phụ nữ khác".

"Ôi không". Viva nắm lấy tay Rose. "Kinh khủng quá. Em nói thật đấy chứ?".

Cô đã không cần phải hỏi gì nhiều - Rose khẽ cúi đầu như đang tự thú.

"Chính xác. Anh ta đã không kể với em từ trước. Thực lòng, em vẫn nghĩ như thế sẽ tốt hơn. Cho dù anh ta đã chấm dứt chuyện đi lại với cô gái ấy sau khi kết hôn với em, nhưng ngay cả khi chúng ta đang đi trên tàu, anh ta vẫn đến gặp cô ấy. Jack lý sự rằng rất khó khăn để dứt ra khỏi cô ấy một sớm một chiều. Ban đầu khi biết chuyện em đã choáng váng, đến nỗi em chỉ mong cho đứa bé trong bụng chết quách đi cho xong, sau đấy em sẽ tự tử. Em biết như thế quả có hơi bi kịch thật nhưng đúng là em đã rất sợ, bởi em hiểu mình không còn ở bên cạnh gia đình như trước nữa".

"Em có biết cô gái ấy không?".

"Không". Rose hít một hơi thật sâu, run rẩy. "Tên cô ấy là Sunita. Cô ấy là người Ấn Độ. Một cô gái Bombay xinh đẹp, có học thức. Khi em hỏi liệu Jack có còn yêu cô ấy nữa không, anh ta chỉ trả lời rằng trong thâm tâm, anh ta biết ơn cô ấy vô ngần, rằng cô ấy đã dạy anh nhiều điều, rằng Sunita là một cô gái tốt. Nói trắng ra thì, anh ta đã rất yêu cô ấy".

"Ôi Rose, chắc gì đã thế".

"Chắc chắn". Rose vuốt mạnh bờm ngựa, hít vào thở ra liên tục. "Đấy là chuyện tồi tệ nhất mà em gặp phải từ trước đến nay, và em thấy nhẹ nhõm vì đã tâm sự được với chị".

Hai chú ngựa thong dong chạy những bước ngắn xuyên qua những rặng cây, vài giọt hoa nắng rọi qua kẽ lá nhảy nhót trên khuôn mặt xinh đẹp của Rose.

Đấy là lý do vì sao dạo ấy em cứ khăng khăng đến Ooty cùng chị bằng được. Nhưng khi đến đấy, em lại có cảm giác mình giống như một kẻ dối trá. Em đã khóc bao đêm ròng, và thật may mắn là em đã không bị sẩy thai, đúng là chị đã khiến em rất xúc động".

"Ôi Rose". Viva bỗng thấy mủi lòng. "Em nên tâm sự với bọn chị. Đấy là lý do vì sao người ta cần bạn bè".

""Viva này", Rose nhìn cô, lạ lẫm, "đấy là điều tốt đẹp mà chị đã làm được cho em".

Viva tảng lờ. "Thế em đã làm gì?".

"Ừm, chưa bao giờ em thấy đau khổ đến thế. Đúng là em đã ghê tởm anh ấy, từ trước đến nay chưa bao giờ em có cảm giác ghê tởm một ai, ngoại trừ một con bé chung trường lúc nào cũng lẳng lơ tục tĩu với mọi người từ hồi còn đi học. Điều khiến em nổi điên hơn cả là cái cách anh ta xin lỗi em, rất bất cần, ra dáng bề trên". Rose nhại giọng Jack. "Nhìn này, xin lỗi, Rose, nhưng đàn ông vẫn chỉ là đàn ông và những chuyện như thế vẫn thường diễn ra thôi mà". Rồi anh ta lại trở mặt hờn dỗi như thể chuyện này hoàn toàn là lỗi của em vậy. Ôi, em tức đến tím gan bầm ruột. Em không cần anh ta phải phủ phục dưới chân mình quỳ gối van xin tha thứ, nhưng đúng là em đã đau đớn biết nhường nào, và điều tồi tệ nhất là em chợt nhận ra mình đã thực sự yêu anh ta. Không giống như trong tiểu thuyết, hay như những trò chơi tình ái, em đã yêu anh ta thực lòng chỉ từ những điều tưởng chừng nhỏ nhặt nhất: là vòng tay rắn chắc của anh ta ôm em vào lòng khi cả hai cùng nằm trên giường, em quan tâm đến cả những điều Jack căm ghét, thậm chí em còn lo lắng cho cả chứng bệnh táo bón mà anh ta đang mắc phải nữa kia - Jack là một trong số ít người em quen ở Ấn Độ mắc phải bệnh này - đừng cười, Viva, chuyện này là thật đấy". Rose đưa tay gạt mấy giọt mồ hôi đọng trên cổ ngựa xuống bãi cỏ.

Khi cả hai đến bên bờ hồ, ba chú diệc nước đang kiếm ăn ven bờ vỗ cánh vút nhẹ lên cao.

"Em hy vọng chị không lấy làm phiền khi nghe chuyện của em". Trông khá Rose nhợt nhạt khi cả hai ngồi bên nhau trên thảm cỏ ven hồ.

"Chị nghĩ em đã rất dũng cảm", Viva nói. Nếu là mình, cô không bao giờ có đủ can đảm để tâm sự với bất kỳ ai những chuyện như thế. 

"Không có gì gọi là can đảm hay dũng cảm trong chuyện ức chế dồn nén tình cảm cả". Rose cởi mũ ra khỏi đầu, khẽ rũ nhẹ mái tóc của cô. "Em còn lựa chọn nào khác? Quay trở về Hampshire, ly hôn và chờ đợi ngày đứa bé chào đời? Bố mẹ em hẳn sẽ đau khổ đến nhường nào nếu biết chuyện? Hơn nữa, trong những bức thư gửi về nhà trước đấy, em luôn kể cho mọi người nghe về quãng thời gian hạnh phúc kể từ ngày đặt chân sang đây. Đã có nhiều sai lầm và đau khổ ập đến với mẹ em kể từ sau chiến tranh, là cái chết của anh trai em, và rồi đến lượt bố em ngã bệnh, em nghĩ mình phải trở thành niềm vui, niềm an ủi của mẹ lúc này". Hai hàng mi của Rose khép chặt, đau đớn. "Jack không hề biết anh ấy đã độc ác đến nhường nào".

"Thế anh ta có kể gì về cô gái ấy không?".

"Không, ừm, thực ra là có, chỉ một lần duy nhất khi em cứ khăng khăng đòi biết bằng được. Anh ta không hề nói xấu cô ấy dẫu chỉ một lời. Thực lòng, em đã rất nể anh ta về chuyện này. Chỉ cần nhìn vào mắt Jack là em biết anh ta có yêu cô ấy hay không, có lẽ anh ta vẫn còn yêu cô ấy".

Viva ngạc nhiên nhìn Rose. Cô gái mới thật ngay thẳng làm sao.

"Trong em bùng lên cảm giác ghen tuông dữ dội - nếu không nghĩ đến Freddie, thì giờ này em không thể biết chuyện gì đã xảy ra với mình. Chuyện sinh nở đúng là kinh khủng - em sẽ kể cho chị và Tor nghe sau. Nó xảy ra tại nhà bởi một sai lầm nho nhỏ trong tính toán và do chỗ bọn em ở quá xa bệnh viện. Tối hôm ấy Jack về nhà muộn, khi anh ấy bước qua ngưỡng cửa thấy hai mẹ con em đang thiêm thiếp trên giường, Freddie nằm im trong vòng tay em, ngay lập tức anh ấy sụp xuống và khóc. Rồi Jack leo lên giường, thì thầm nói lời xin lỗi, hứa hẹn sẽ che chở mẹ con em đến trọn đời. Đúng là hơi lạc hậu khi thốt ra những lời cũ rích như thế, nhưng lại có ý nghĩa hết sức to lớn vào lúc ấy - nhưng em cũng chẳng màng", mấy từ cuối được Rose thốt ra nhẹ như không, "lúc bấy giờ em chẳng màng gì sất. Mọi thứ lại thay đổi. Anh ấy leo lên giường và âu yếm vòng tay ôm lấy người em, Fred nằm trên đầu. Em mở mắt nhìn ra ngoài trời đêm, ôi em không biết nữa, và chợt nhận ra thế giới này mới rộng lớn làm sao - ánh trăng, những vì sao nhấp nháy tỏa sáng trên cao - em biết mình sẽ không bao giờ có được cảm giác như thế nữa. Nếu em rời xa Jack, nghĩa là em sẽ để lại một nửa cuộc đời mình, một nửa con người mình nơi đây".

"Chúa ơi". Viva kinh ngạc, lòng đầy hoang mang, trông Rose lúc này lại rạng ngời hạnh phúc. Hẳn cô ấy đã gạt những khổ đau ưu phiền do Jack gây ra sang một bên, nhẹ nhàng và đầy thanh thản.

Sau bữa trưa, Rose nằm trên tấm thảm dã ngoại, thiếp đi trong chốc lát với một mẩu bánh quy trong tay. Có vẻ như sự thú nhận vừa rồi đã hút hết sức lực trong cô. Viva ra bờ suối kiểm tra hai chú ngựa lúc bấy giờ đang thảnh thơi nhai cỏ ven bờ, sau đấy cô quay trở lại chỗ Rose nằm, nhẹ nhàng thả người nằm xuống bên cạnh, thầm trách mình đã không đủ nhạy cảm để nhận ra nỗi khổ đau mà Rose phải chịu đựng trong quãng thời gian cả ba cùng đi nghỉ ở Ooty. Bao giờ chẳng thế, cô luôn nhầm lẫn trong những chuyện kiểu như thế, và rằng thế gian này còn ối kẻ hạnh phúc chán, như Jack và Rose chẳng hạn - được Chúa để mắt cứu rỗi, hoặc dư giả, hay ít ra cũng đủ đầy cả bố lẫn mẹ chăm nom hỏi han - những kẻ thỉnh thoảng lại trượt dài trong cuộc sống mà không cần phải đưa ra những quyết định như những người khác vẫn làm. Nhưng có vẻ không phải vậy. Mọi người đều chịu đựng những khổ đau mất mát như nhau, có điều những sắc thái đau khổ ấy chỉ không giống nhau mà thôi.

Vết sẹo trên khuôn mặt của Viva khẽ giật. Những gì đã xảy ra quá phức tạp. Nếu cô có thể thay đổi được những điều Rose đã tâm sự với mình thành những ý nghĩ dễ chịu - những ý nghĩ về những điều mà Viva có thể gửi trọn niềm tin của cô vào chúng, rất hoan nghênh, đúng là thật phiền lòng.

Những ngày thơ ấu, lối tư duy có khoa học của bố cô đã khiến Viva luôn rơi vào cảm giác bối rối khi ông thường xuyên trả lời câu hỏi của cô bằng một câu hỏi khác. Cô còn nhớ rất rõ, một hôm đã hỏi ông, rằng "làm thế nào để bố chế tạo được một chiếc máy bay?". 

Ông trả lời cô: "Mục đích của một chiếc máy bay là gì?".

Cô trả lời: "để bay". Chỉ chờ có thế, lập tức ông giải thích cho cô nghe một lô một lốc những điều cần thiết để bay: cánh, trọng lượng nhẹ, tốc độ, vân vân và vân vân.

Vậy thì sự kết hợp của một người đàn ông với một người đàn bà để nhằm mục đích gì - ngoài điều cũ mèm muôn thủa là để tạo ra những đứa trẻ? Để nương tựa? Để chở che? Quyền được đi bầu cử của phụ nữ đã thay đổi nhiều phép tắc quy định trong cuộc sống. Vậy thì để giúp người ta thỏa mãn? Để tăng cường sự hiểu biết của bạn về tình yêu bằng cách mở rộng tấm lòng mình? Nhưng nếu chỉ như thế thì nghe có vẻ lãng mạn và cao thượng quá - nhiều người đã phạm phải những sai lầm kinh khủng dẫn đến những tổn thất lớn lao cho người khác - nhưng làm thế nào mà bạn có thể thực sự biết được trước khi những tổn thương xảy ra với mình? Chuyện này giống như một ván cờ vĩ đại của cuộc đời.

Cô đã hằng cố để nghĩ về những ẩn ý đầy khó hiểu sau nụ cười của Frank - đôi lúm đồng tiền quyến rũ chết người trên má anh - khiến cơ thể cô gần như đông cứng, khiến đôi mắt cô nhắm nghiền mê mệt. Cô không nên nhớ về anh như thế nữa. Cô đã để tuột khỏi tầm tay cơ hội của đời mình. Mọi chuyện đã kết thúc.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 52


Khi Rose thức dậy, cô nhìn thấy Viva đang nằm bên cạnh, đôi mắt mở to, thao thức.

"Chị đang nghĩ gì thế, Viva?", Rose hỏi. 

"Có lẽ chúng ta nên quay về nhà sớm, không Tor sẽ nghĩ chúng ta đã làm mồi cho lũ cá sấu trong hồ".

Đột nhiên Rose nổi giận. Cả cô và Tor đã choáng váng và lo lắng đến nhường nào khi nhìn thấy vẻ tiều tụy của Viva. Không phải là đôi mắt thâm quầng, cả cô và Tor đều đã đồng ý với nhau; mà chính là sự nhiệt tình, vẻ hoạt bát tràn đầy sự sống trong con người Viva dường như đã biến mất. Ngay cả mái tóc của Viva nữa, cũng thôi không còn sáng bóng như ngày nào. 

Cô hít một hơi thật sâu. "Thế chị không định kể với em chuyện gì à?". Mấy lời vừa thốt ra còn chưa kịp xuất hiện trong ý nghĩ của Rose.

"Về cái gì kia?". Dưới ánh nắng rạng rỡ, những vết thâm nhợt nhạt dưới mắt Viva hiện rõ mồn một, thậm chí Rose còn nhìn thấy những mũi khâu bé tí dọc theo vết thương đã kín miệng gần đuôi mắt.

"Về chị".

"Nhưng chị nghĩ chúng ta đang tâm sự về chuyện của em kia mà, Rose. Chị xin lỗi".

Viva rút chiếc bút chì ra khỏi túi áo rồi kẹp giữa hai đầu ngón tay, xoay tít một cách nhịp nhàng.

"Chị thực sự không hiểu sao?".

"Chị không hiểu em đang nói đến chuyện gì, Rose".

"Về việc tâm sự, chia sẻ với em chuyện đã xảy ra". Rose bước về phía trước vài bước, xa khỏi chỗ Viva đang đứng. "Chị biết đấy, bạn bè bằng hữu. Em đã kể cho chị nghe những chuyện quan trọng và bí mật của mình. Cái đấy được gọi là giãi bày tâm sự sẻ chia". Rose choáng váng khi cô nghe ra những cảm giác bực bội đến nghẹn lời trong giọng nói của mình.

"Rose!", Viva lập tức quay người sang phía Rose, nhanh đến nỗi cô sơ ý đánh rơi chai rượu nhỏ nhắn dắt bên mình. "Chị vẫn kể cho em nghe nhiều chuyện đấy thôi. Thỉnh thoảng".

"Ôi, toàn chuyện vớ vẩn", Rose gào lên. "Cực kỳ vớ vẩn".

"Chuyện này không giống như ta đang chơi một ván quần vợt", Viva cũng gào lên. "Tại sao chị lại phải tâm sự với em chỉ vì em đã kể cho chị nghe chuyện riêng tư của mình?".

"Thôi bỏ qua đi, Viva", Rose dịu giọng. Hai con thiên nga đang là đà lướt ngang mặt hồ, những đôi cánh trắng muốt dang rộng như những cánh buồm; hai chú ngựa đang thong dong gặm cỏ ven bờ giật mình ngẩng đầu, nháo nhác nhìn quanh. Nhưng Rose không thể bỏ qua chuyện này được; cô không thể nhẹ lòng khi vờ làm ra vẻ. "Thôi bỏ qua đi. Em sẽ tảng lờ đi sự thật là gần đây chị rất xanh xao, rằng suýt chút nữa thì chị đã bỏ mạng ở Bombay, và rằng chị không muốn kể về những điều ấy; cả Frank nữa, rõ ràng anh ấy đã phát điên lên vì chị, nhưng lại phũ phàng bị gạt phắt sang một bên mà không hề biết lý do vì sao, hoặc giả không phải chị muốn nói về chuyện này. Hãy cứ nói về lũ ngựa, về những chiếc bánh Giáng sinh - rằng chỉ mình con bé Rose khờ khạo đã gây ra mọi sai lầm, và Viva, một kẻ cao thượng, vẫn đầy uy quyền đến tuyệt trần".

"Sao em có thể thốt ra những lời như thế được", lần đầu tiên Viva tỏ ra bối rối.

"Thế em muốn chị kể những gì?".

Cả hai đưa mắt nhìn nhau.

"Ừm, chị có thể bắt đầu từ Frank. Đa số những người bạn cuối cùng cũng sẽ tâm sự với nhau chuyện đã xảy ra với mình".

"Không có chuyện gì xảy ra cả", Viva ngắn gọn. Khi cô vừa mở miệng, lập tức đã khiến Rose cảm thấy sợ hãi. "Chúng ta đã có một cuộc chuyện trò ngắn, hay bất cứ là gì nếu em muốn, nhưng chị phải làm việc, phải hoàn thành cuốn sách của mình, để tiếp tục kiếm sống. Chị không có bố mẹ bên cạnh để hỗ trợ mình những lúc khốn khó cả".

"Không, đúng là chị không có những người thân bên cạnh", Rose dịu giọng. "Nhưng như thế không có nghĩa là chị có thể nói dối về bản thân mình".

"Nói dối chuyện gì?", giọng Viva lạnh băng.

"Về cảm xúc của chị". Rose có cảm giác miếng bánh xăng-đuých vừa nuốt khỏi cổ đang đông cứng trong dạ dày. Chưa bao giờ cô tranh cãi kịch liệt như thế với một người bạn.

"Em đang phán xét chị đấy à?". Đôi mắt của Viva vụt đen nhánh như hai hòn than.

"Em không phán xét chị, em chỉ đang cố gắng trở thành một người bạn tốt của chị thôi. Viva, làm ơn", Rose khẽ chạm tay vào vai Viva, "ngồi xuống đi".

Viva ngồi lên một đầu tấm thảm, mắt nhìn xa xăm ra phía lòng hồ.

"Nghĩ xem", sau một hồi im lặng, Rose lên tiếng, "đây hoàn toàn không phải là chuyện giận dỗi của đám đàn bà con gái, nhưng bọn em vẫn phải quan tâm. Bọn em đã cùng chị ở Ooty - bọn em đã nhìn thấy chị và Frank, hai người gần như phát điên lên vì nhau".

Viva khẽ duỗi chân, lắc đầu lia lịa, rồi nói: "Thôi được, nếu như nó thực sự khiến em cảm thấy dễ chịu hơn, thì chị đã rơi vào một mớ bòng bong rối rắm không thể tưởng tượng nổi. Giờ thì em đã thấy tốt hơn rồi chứ?".

"Không tất nhiên là không", giọng Rose chùng xuống. "Chỉ là chuyện thường tình thôi". Cô chìa tay về phía Viva, nhưng Viva tảng lờ.

Đột nhiên Viva vụt đứng dậy. "Chị xin lỗi, nhưng chị hoàn toàn không hy vọng gì trong chuyện này. Thực sự chị rất cảm kích vì em đã cố chia sẻ, nhưng chị nghĩ chúng ta nên quay về nhà".

"Nói gì đi, Viva", Rose khẩn khoản. 

"Chị không thể. Thực ra chuyện chẳng có gì để kể cả. Giống như một vũng lầy trong tâm trí chị".

Tiếng thở dài não nề của Viva hệt như tiếng nức nở nghẹn ngào bật ra từ sâu thẳm trong cõi lòng cô. Im lặng. Hai hình bóng mảnh mai ngồi bất động trong nắng chiều.

"Thôi được". Viva xoay lưng về phía Rose, giọng cô nghẹn ngào. "Em còn nhớ cái đêm Frank đến Ooty để cảnh báo với chúng ta về Guy không? Sau khi bọn em về phòng ngủ, anh ta đã đến phòng chị. Anh ta ở lại cùng chị đêm ấy. Em có thấy choáng váng không?".

"Tất nhiên là không". Rose khẽ dúi nhẹ vào cánh tay Viva. "Mọi chuyện xảy ra ở Ấn Độ không giống như ở quê nhà, vả lại, chúng ta đều mù quáng trong tình yêu!".

"Thật không?", Viva miễn cưỡng ngẩng đầu nhìn lên.

"Hẳn rồi".

"Thật kinh khủng".

"Sao lại kinh khủng".

"Bởi vì, nó thật bí ẩn".

"Hai người bọn chị rất khác biệt, giống như đang bị bỏ bùa nhau ấy. Em nhớ cảm giác ghen tị, đã hy vọng mình cũng được nếm trải cảm giác ấy trong tuần trăng mật".

"Chị lại chẳng thấy giống như đang say mê mê mẩn tẹo nào, chị cảm thấy, ừm, mà giờ đây chẳng quan trọng nữa. Chỉ là một mớ bòng bong".

"Nhưng", Rose tỏ ra khó hiểu, "thứ lỗi cho em, nhưng có gì không phải đã xảy ra sao?".

"Không", Viva thì thầm, gần như không thể nghe thấy. "Một đêm tuyệt vời". Hơi thở cô đầy ắp niềm đau xót.

"Thế thì chị đã bỏ rơi anh ấy chỉ vì mọi chuyện rất tuyệt vời".

"Chị thấy dằn vặt, thấy day dứt với chính bản thân mình - bởi vì Frank đến để cảnh báo với chị rằng Guy có thể đã bị giết chết trong cuộc bạo loạn. Lúc ấy chị tin chắc Guy đã chết".

"Không phải lỗi của chị khi Guy làm những gì nó muốn".

"Nghĩ mà xem, Rose". Khuôn mặt của Viva nhợt nhạt, không một chút thần sắc. Vết sẹo gần mắt chợt đỏ rần như một đóa hoa nhỏ bé đang nổi giận. "Chị đã bảo không muốn nói đến nó nữa, dừng lại được không?". Cô hấp tấp chạy về phía những chú ngựa, suýt chút nữa thì Viva vấp phải một hòn đá ven đường. "Thực sự chị chỉ muốn về nhà, ngay bây giờ". Cô nói.

Tor đang ở trong bếp khi Viva bước vào nhà. Cánh cửa được cô đóng sầm sau lưng khiến một vòng hoa trang trí rơi xuống hiên nhà. Tor nghe thấy tiếng đế giày của Viva lộc cộc nện mạnh lên hành lang, tiếp theo là tiếng cửa phòng đóng mạnh.

Ngoài hành lang, Rose đang treo chiếc mũ đi ngựa lên móc, đôi mắt cô nhìn về phía cửa phòng đóng kín.

"Rose, có chuyện gì xảy ra vậy?", Tor hỏi. Tim cô đập thình thịch.

"Thảm họa", Rose thì thầm. "Chị ấy đang giận tím gan bầm ruột. Chị ấy nổi cơn khi phải nói về chuyện ấy".

"Tớ có nên vào đấy không?", Tor buột miệng. "Tớ sẽ mang cho Viva một tách trà". Tor vờ phác một cử chỉ tưởng tượng đang nâng tách trà lên ngang miệng hướng về phía Rose.

"Tớ sẽ không vào đấy đâu, cứ để chị ấy một mình", Rose nói. "Tớ nghĩ chị ấy đang muốn được ở một mình. Tớ bế Freddie đi tắm nhé?". Cô lớn tiếng cốt để Viva nghe thấy. "Freddie yêu quý nên được tắm rửa một chút sau khi cưỡi ngựa".

Một vòng hoa giấy rơi lả tả trên sàn nhà, Tor cúi xuống nhặt chúng lên và đeo vào cổ như một vành khăn sặc sỡ, cảm giác nặng nề bỗng chốc ùa về trong cô. Trong lúc Viva và Rose đi chơi ở ngoài, Jack đã gọi điện đến và cho biết anh đã quay về, tạm thời sẽ ở tại Peshawar, nhưng không chắc là anh có thể về kịp trong mùa Giáng sinh hay không. Khi anh vừa bắt đầu giải thích thì đường dây điện thoại lại rào lên rít rói như một cánh rừng bắt lửa. Rose sẽ bối rối. Cuộc đời và tâm hồn của Viva sao mà nghiệt ngã đến thế, và trong tám ngày trước lễ Giáng sinh, Tor lặng lẽ mệt phờ với những kế hoạch nấu nướng cho các bữa tiệc, một bà chủ sắp kiệt sức đến nơi. Những món đồ trang trí màu mè lấp lánh mấy ngày trước còn khiến cô phấn khích, giờ trong mắt Tor bỗng chốc trở nên ngây ngô ngớ ngẩn như mấy món đồ chơi của trẻ con - một cú thọc tay không mong muốn vào mạng sườn sẽ nhắc nhở mọi người quay trở về với niềm vui mùa lễ hội.

Toby (ôi, sao bỗng nhiên trở nên ngọt ngào và giản dị đến thế) hẳn sẽ băn khoăn tự hỏi tại sao cô lại trở nên phấn khích khi đánh điện mời những con người đầy phức tạp đến chơi trong mùa Giáng sinh năm nay.

Những tiếng ríu rít lảnh lót như tiếng chim vọng ra từ phòng của Freddie bất chợt cắt đứt dòng suy nghĩ ảm đạm trong cô, tiếp theo là tiếng cười nói ríu ran ùa lên như chim vỡ tổ. Tor vui chân bước nhanh về phía căn phòng, đưa tay mở cửa. Trong tấm màn buông trên giường, Rose đang nâng Fred lên cao âu yếm đùa nghịch với cậu bé. Đôi mắt của Freddie mở to khi nhìn thấy Tor, miệng nhoẻn cười, những ngón tay tí hon hiếu động liên tục ngọ nguậy.

Tor theo Rose vào phòng tắm. Rose nhẹ nhàng mở cúc áo cho Freddie, cẩn thận nhúng tay vào nước kiểm tra trước khi đặt Freddie vào chậu.

"Freddo, ôi ngài McFred yêu quý, bé yêu xinh xắn của mẹ", vừa ngân nga, Rose nhẹ nhàng vẩy nước rửa đôi chân bụ bẫm của cậu bé. Đôi mắt Freddie vụt sáng, miệng nhoẻn cười thích thú, rồi bất ngờ đạp mạnh chân vào màn nước quẫy tung tóe ra sàn nhà. Sao mà đáng yêu đến thế, Tor nhủ thầm, rồi nhanh nhẹn bước đến quỳ gối một bên chậu nước, xắn tay áo, để rồi ít nhất thêm một người nữa cảm nhận được niềm vui dưới mái nhà bé nhỏ này. 

"Cậu có nghĩ giờ này Viva đã trấn tĩnh lại chưa?", cô hạ giọng hỏi Rose.

"Hy vọng là thế", Rose thì thầm. "Nhưng thỉnh thoảng chị ấy không bình thường, dễ nổi điên. Ý tớ là, bọn tớ đã nói đôi chút về Frank, nhưng chuyện ấy với Viva thực sự giống như đang nhổ răng ấy, rồi đột nhiên chị ấy - ừm, cậu chứng kiến tiếng giậm chân của Viva rồi đấy".

"Vậy phải làm gì bây giờ?", Tor khẽ xuýt xoa. "Tớ sẽ phát điên nếu không một ai hé miệng nói nửa lời trong những ngày Giáng sinh ở đây mất".

"Không thể có chuyện ấy được", giọng Rose bình thản. "Đấy, đưa cho tớ chiếc khăn vải nào Tor. Tớ sẽ cho Fred vào nôi. Cậu để tấm khăn kia lên đùi đi, thế, tớ sẽ chuyển Fred qua cho cậu bế. Cẩn thận đấy nhé, người Fred rất ướt, này".

Cậu bé ướt sũng được nhấc lên khỏi chậu nước, chuyền từ tay mẹ sang tay cô bạn, nằm yên trên đùi Tor.

"Con đúng là cậu bé hiếu động", Tor âu yếm hôn nhẹ lên những ngón chân bé xíu hồng hào của Freddie, "và là một kỵ sĩ hoàn hảo". Cô chắt lưỡi rồi nhẹ nhàng ấp Freddie trong vạt áo. "Đấy là kiểu cưỡi ngựa của một quý cô nhé, lộp cộp, lộp cộp, lộp cộp".

Khi Tor cúi đầu định hôn Fred, một dòng nước tiểu từ người cậu bé bắn ra dây vào mắt cô. Lập tức những tiếng la hét phất khích đinh tai nhức óc rộn lên khắp phòng tắm chật chội, những hơi thở hổn hển, những tràng cười lảnh lót. Cậu bé đã đưa cả hai về lại thời thơ ấu, thủa lên năm lên sáu. Trong lúc Tor và Rose đang cười lăn lộn, Viva bước vào phòng và ngồi lên chiếc ghế đẩu bọc mút cạnh bồn tắm.

"Vui vẻ quá", cô nói.

"Hẳn rồi", Tor hào hứng. Cô đặt một tấm khăn bông lên lòng Viva rồi nhẹ nhàng đặt Freddie lên đấy. "Cậu bé này có khả năng nhắm bắn chính xác đến chết người. Vừa mới tặng cho em một dòng nước tiểu vào mắt đấy".

Viva mỉm cười, đùa nghịch với những ngón tay bé xíu của cậu bé. Khuôn mặt cô trông như đang muốn hòa chung tiếng cười với mọi người, nhưng có vẻ Viva đã kiệt sức.

"Tor này", cuối cùng thì cô cũng lên tiếng. "Bệnh viện nơi Frank đang làm việc cách đây bao xa?".

Tor rạng rỡ, cô lập tức chấm dứt cơn đùa cợt cùng Rose. "Ôi, gần thôi, rất gần - khoảng nửa tiếng đồng hồ, có lẽ chỉ khoảng ba bốn khu phố gì đấy". 

Rose đứng sau lưng Viva dùng tay ra hiệu với cô, "bình tĩnh".

"Ừm...", lần đầu tiên Tor nhìn thấy vẻ thẹn thùng trên khuôn mặt của Viva, "... Toby đã kể cho chị nghe về Giáng sinh cuối cùng của anh ta tại câu lạc bộ, chỉ có những chiếc mũ giấy bụi bặm, với rượu vang đã cũ, nghe thật kinh khủng - tất nhiên có thể giờ này Frank đã có kế hoạch khác", Viva tiếp tục tiến xa hơn, "nhưng chị không nghĩ sẽ chẳng ảnh hưởng gì đến ai nếu mình đến đấy và nói với anh ta một lời chúc mừng Giáng sinh vui vẻ - ngay cả khi chị không thể đi được nữa, thì cũng nên gửi lời chúc mừng đến anh ta".

Cô ôm Freddie vào sâu hơn trong lòng mình, âu yếm vỗ về cậu bé.

"Bọn em nghĩ sao?", cô nhìn Rose rồi quay sang nhìn Tor. Run rẩy.

Tor bước đến bên cạnh Viva, hôn nhẹ lên đầu cô. "Em nghĩ đấy là ý định tuyệt vời", cô nhẹ nhàng nói.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 53


Ngày hôm sau, cả ba cùng trèo lên chiếc Talbot cổ lổ sĩ của Toby nhắm hướng Lahore thẳng tiến, Tor cầm lái, Rose ngồi bên cạnh, tấm bản đồ kẹp chặt giữa hai đùi, Viva ngồi ở băng ghế sau. 

Tiếng máy xe gào thét khiến Viva không thể bắt chuyện được với hai cô gái ngồi ở hàng ghế trên, ý tưởng bất ngờ đến thăm Frank mà không hề báo trước của các cô gái có vẻ hơi ngớ ngẩn, và Viva cảm thấy khó chịu khi Tor đề nghị cô đi cùng. Gần một tiếng đồng hồ qua, tâm trí cô bắt đầu miên man tưởng tượng đến hình ảnh của Frank - không biết giờ này anh đang cạo râu hay chuẩn bị mặc quần áo, đang bận rộn kiểm tra bệnh nhân hay đang thảnh thơi nhấm nháp tách trà nghi ngút khói - bất giác Viva thấy miệng mình khô khốc, đắng nghét.

Để thoát khỏi những ý nghĩ về Frank, cô hướng tâm trí mình vào Toby và những con chim trong cuốn sách khoa học của anh ta. Trong bữa tối ngày hôm qua, Toby đã say sưa kể với mọi người về chúng. Ban đầu, khi mới tiếp xúc, cô cho rằng Toby là một người đàn ông tốt bụng, nhưng đồng thời còn là một kẻ ưa ba hoa khoác lác, kiểu đàn ông mà nếu anh ta là một người phụ nữ, chắc hẳn mọi người sẽ gán cho Toby cụm từ "người đẹp lẩm cẩm". Nhưng giờ đây, sau mấy ngày tiếp xúc trò chuyện, Viva phát hiện ra Toby còn là một người đàn ông khá hài hước, những câu chuyện của anh ta luôn chứa đựng những thông tin quý giá. Suốt mấy tuần qua, Toby luôn lặm cụi với công trình nghiên cứu những loài chim di cư, giống nhạn biển Bắc cực và những đàn vịt trời, những giống chim hệt như các cô nàng trong Phi đội Buông câu, đã di cư sang Ấn Độ để tránh những ngày đông tháng giá rét mướt. Toby kể cho Viva nghe chuyện những chú chim mồ côi thỉnh thoảng vẫn nhận những con chim mái trưởng thành khác trong đàn làm mẹ kế của chúng - chỉ cần một chiếc áo len chui đầu, một cốc nước nóng, một chỗ trũng dưới nách kín đáo chở che, hay thậm chí chỉ là một chiếc tàu bay giấy - bất kể là gì còn hơn chẳng có gì.

Ngả đầu ra thành ghế, cô bắt đầu mơ màng miên man về William, như một người mẹ kế, hẳn anh ta từng có nhiều tàu bay giấy hơn những chai nước nóng. William đã bước vào đời cô trong những tuần đầu tiên khi cô còn ngơ ngác giữa London rộng lớn, cô đơn và tràn trề tuyệt vọng bởi không một người họ hàng thân thích, thậm chí cô còn không có nổi một người bạn nơi đây. Anh ta đã xuất hiện, và lịch lãm giới thiệu với Viva, rằng mình là bạn thân của bố mẹ cô, và rằng anh ta sẽ rất hân hạnh được dẫn cô đến nhà hát Covent Garden để cùng thưởng thức vở nhạc kịch Turandot nổi tiếng. Trong nhà hàng nơi anh ta dẫn cô đến, Viva đã sốt ruột đến thế nào để chờ đợi được lắng nghe câu chuyện về bố mẹ mình, về Josie, nhưng rồi cô chợt nhận ra, những cái tên của những người thân yêu đã rời khỏi cõi nhân gian dường như đã trở thành điều cấm kỵ.

Và William không giống như một người kể chuyện chuyên nghiệp vẫn thế: anh ta thích thú với sự thật, những sự thật hoàn toàn chắc chắn. Anh ta mang đến cho cô một mớ hổ lốn những lời khuyên về vấn đề tiền bạc, làm thế nào để kiểm soát chúng, cô nên sống ở đâu, những loại người tốt hơn hết là nên tránh cho xa. Và cuối cùng, khi anh ta đã dắt được cô lên giường, khi thân hình của anh ta đổ ập lên người cô, thì những lời khuyên chân thành trước đây bỗng chốc hóa thành trò lộn sòng lập lờ đánh lận con đen, sau cái đêm anh ta biến cô thành đàn bà ấy, cả hai đều cố làm ra vẻ bình thản như không hề có chuyện gì xảy ra, nó đã khiến cô bối rối, cảm giác trống rỗng xâm chiếm toàn bộ tâm can. Chưa bao giờ William thực sự tỏ ra muốn tìm hiểu cô, ngoại trừ việc anh ta chỉ xem cô như một kế hoạch, một dự án, một vấn đề khó xử mà anh ta cần giải quyết.

Nhưng Frank thì khác, rất khác. Giờ thì cô hoàn toàn nhận ra điều đấy. Cái đêm ở Ooty, anh đã đối xử với cô như một người đàn ông thực thụ, không một lời xin lỗi, không cả một nụ cười dù chỉ là một cái nhếch mép hờ hững, không nhiều nhặn gì nhưng hoàn toàn tự nhiên, đầy bản năng. Nhưng điều khiến cô co mình lại ấy là khi Viva phát hiện ra cả anh và cô thực sự thấy đồng cảm khi ở bên nhau, anh đã quan tâm tới cô nhiều đến thế nào, và đấy không phải là kinh nghiệm hẹn hò của cô với hầu hết đám đàn ông. Dường như Frank muốn tìm hiểu cô theo cách riêng biệt. Điều đấy khiến cô sợ hãi - sự thật, thì đấy chính là tất cả những gì đã khiến cô phải chạy trốn bao năm qua - nhưng không kém phần kinh ngạc. 

Trên băng ghế trước, Rose và Tor đang sôi nổi tranh cãi về kỹ thuật nhả số kép khi lái xe. 

"Không, Rose. Nhầm cơ bản rồi", Tor nói, tăng tốc rồi lái chiếc xe vọt lên phía trước. "Đấy là những gì cậu cần phải làm. Giậm chân xuống, nâng chân lên, giậm chân xuống, thẳng tiến".

"Ta đang nói về việc lái xe, chứ không phải chơi trò cà kheo, Tor", Rose cãi, đôi mắt tròn xoe nhìn vào mảnh gương chiếu hậu trước mặt, "nhưng mà tùy cậu, muốn làm gì thì làm".

"Viva", Tor ngoái ra sau, "chú ý nhé, làm ơn đấy. Khi chúng ta đến Lahore, chị muốn bọn em ở cùng hay biến đi đâu đấy? Chỉ là để ủng hộ tinh thần thôi, tất cả chỉ có thế".

"Không", Viva nhanh chóng phản đối. "Đừng ở lại". Cô không thể chịu nổi ý nghĩ sẽ có kẻ thứ ba chứng kiến sự thất bại sắp tới của mình. "Đi đâu đấy rồi quay lại đón chị lúc bốn giờ chiều, như thế là dư thời gian rồi. Chị sẽ đi dạo một vòng nếu anh ấy không ở đấy", im lặng thoáng chốc, rồi cô nói tiếp, như thể đây chỉ là một chuyến du ngoạn ngắm cảnh nhân dịp rỗi rãi. "Sẽ vui vẻ cả thôi. Tất nhiên, hẳn Frank cũng nhận được khối lời mời đến dự tiệc Giáng sinh vào dịp này", cô nói, "Nhưng ít nhất chúng ta cũng sẽ mời anh ấy một tiếng xem sao".

Cô thấy Tor kín đáo trao đổi với Rose một cái nhìn thật nhanh, rồi khe khẽ lắc đầu. Cô còn nghe được tiếng thở dài nhè nhẹ của Rose.

Phải mất hơn ba mươi phút la hét và bóp còi inh ỏi xin đường giữa biển người đông đúc qua những con phố chật chội, cuối cùng chiếc xe lọt vào một con phố chi chít cửa hàng tạp hóa, băm bổ lao thẳng về phía tòa nhà xám xịt, cũ kỹ với những vòm cửa mang đậm kiến trúc Mughal và những ô cửa sổ chớp kính khổng lồ trổ bên mình, một hàng xương rồng thẳng tắp bám đầy bụi đỏ được trồng dọc hai bên lối mòn dẫn đến bậc thang phía ngoài tiền sảnh tòa nhà.

"Đến nơi". Tor nhấn bàn đạp phanh. "Chúng ta đang đứng trước khách sạn thánh Patrick, nơi Frank làm việc. Giờ thì chị có chắc không cần bọn em ở lại không, Viva?".

Cả hai cô gái cùng đồng thanh dán những đôi mắt đầy lo âu vào Viva, chờ đợi.

"Hoàn toàn chắc chắn", cô trả lời, ngay cả khi Viva bắt đầu nhận thấy tim mình đang đập rộn ràng trong lồng ngực. "Các em biết đấy, đây thực sự chỉ là chuyện đơn giản thôi mà".

"Tất nhiên là thế", Rose nhẹ nhàng nói. "Bọn em hiểu điều đấy".

Tor ngoái đầu chồm ra sau đặt một nụ hôn nồng ấm lên đầu Viva.

"Chỉ là một trò đùa", cô nói. "Nhưng dẫu sao cũng chúc chị may mắn".

Trong lúc hai cô gái dán mắt vào lối mòn dẫn vào bệnh viện, Viva kín đáo liếc nhìn mình qua tấm gương nho nhỏ được cô mang theo trong túi xách. Khuôn mặt cô nhợt nhạt, hơi run rẩy. Cô đưa chiếc gương sát gần đến mắt rồi chăm chút săm soi: những vết khâu đã cắt chỉ bắt đầu mờ dần nhưng hãy còn những vết thâm tím nhạt nhòa gần khóe mắt. Nếu đứng ngược sáng, cô khẽ nghiêng mái đầu mình sang một bên, rất khó để nhìn thấy chúng.

Khi Viva ngẩng đầu lên, Tor đang nhìn cô mỉm cười. "Chị sẽ hành động cho những mục đích đã được xác định từ trước", cô nói.

Viva mở cửa xe, đặt một chân xuống đất. "Ừm, tiến lên nào", cô nói. "Phải thể hiện cho mọi người thấy được chí khí của mình".

"Chính xác", Rose phụ họa. "Đối diện với chính nó, đấy là cách tốt nhất".

"Không sao đâu", Viva khẽ xốc lại vai áo, "chị rất ổn, sẽ giải quyết mọi chuyện liên quan đến đời mình. Chị hoàn toàn có thể sống hạnh phúc mà không cần đến nó", nhưng chiếc xe đã nhanh chóng rồ ga vọt lên phía trước, bỏ lại cô trơ trọi giữa bụi đỏ mịt mù cuộn tung ngang trời.

Bên trong khuôn viên bệnh viện, một người đàn ông với hàng ria mép được tỉa tót bôi sáp cẩn thận mặc đồng phục đang ngồi sau một chiếc bàn, phía trước bàn là một sợi dây thừng vắt thõng ngăn cách với không gian bên ngoài. Khi Viva bước đến trước chiếc bàn, người đàn ông dừng việc viết lách lại, đặt bút lên cuốn sổ ghi lịch hẹn, ngẩng đầu nhìn cô.

"Tôi có thể giúp được gì cho cô? Tôi là người giám sát ở bệnh viện".

"Tôi đến tìm bác sĩ Frank Steadman", cô nói, nhưng khi cô vừa dứt lời, người đàn ông lập tức lắc đầu.

"Không có ai tên là bác sĩ Frank ở đây cả. Anh ta hẳn đang ở một nơi nào đấy". Người đàn ông giơ tay phát một cú nhẹ nhàng lên vai mình.

"Nghe đây". Cô vụt đứng dậy và nhìn thẳng vào mắt ông ta. "Tôi không phải như ông nghĩ, đến đây để xin được điều trị". Cô dằn từng chữ một, bằng tiếng Hindi. "Bác sĩ Frank là bạn tôi".

"Ôi, ôi". Khuôn mặt của người đàn ông đột nhiên giãn ra, một nụ cười xuất hiện trên khóe miệng của ông ta. "Một sự hiểu lầm ngớ ngẩn, xin lỗi, tôi rất xin lỗi thưa quý cô. Làm ơn ký tên vào đây giùm tôi một chút".

Người đàn ông rút ra một tờ đơn, nhanh chóng dập mạnh con dấu lên trên rồi lớn giọng ra lệnh cho một cậu bé, lúc bấy giờ đang đứng sau lưng ông ta. "Dẫn quý cô đây đến văn phòng của bác sĩ Steadman", ông ta nói. "Nhanh lên".

"Cẩn thận đấy, thưa quý cô", cậu bé ngoảnh đầu ra sau nói với Viva khi cả hai đã đi được nửa hành lang. Một người bị thương nặng nề lê bước ngang qua cô: một ông già, rên rỉ trong lớp băng vết thương bẩn thỉu. Khi ông già chống khuỷu tay lên vách và bắt đầu nôn ra một dòng nhớt dãi xanh đỏ tím vàng, Viva cảm thấy miệng cô ướt nhoẹt những nước. Sao Frank có thể chịu đựng nổi những cảnh tượng như thế?

"Ở đây ạ". Cậu bé mở cánh cửa phía cuối hành lang, trổ ra một mảnh sân con bẩn thỉu. Một hàng dải băng màu xám treo lơ lửng trên dây phơi. "Thưa cô", cậu bé chỉ về phía ngôi nhà màu trắng nho nhỏ với những vách tường trát vữa tróc nham nhở phía cuối sân. "Bác sĩ Steadman ở đấy".

Viva nhét vào lòng bàn tay đang mở to của cậu bé vài xu lẻ, chờ cho bóng cậu bé khuất sau hành lang, cô bước đến trước cửa ngôi nhà.

"Frank". Cô gõ nhẹ vào cánh cửa. "Frank, là em đây. Em vào được chứ?".

Cửa xịch mở, Frank hiện ra trước mắt cô, hãy còn ngái ngủ, mái tóc màu kẹo bơ của anh dựng đứng như một đứa trẻ. Anh đưa tay dụi mắt. Chân trần, bộ quần áo ngủ màu xanh khoác trên người.

"Viva?", anh trợn mắt nhìn cô. "Em làm gì ở đây?".

Có tiếng sột soạt sau cánh cửa ngoài hành lang, tiếng cành cây khô lắc rắc gãy đổ. Cậu bé đang ngây người dán mắt vào Viva và Frank. Khi nghe thấy tiếng Frank cao giọng mắng mỏ, cậu bé lập tức lẩn nhanh vào bóng tối, còn lại hai người đứng nhìn nhau.

"Tốt hơn hết em nên vào nhà", giọng anh hờ hững. "Em sẽ không chịu được khi cứ đứng ở ngoài này mãi đâu".

Khi cánh cửa khép sau lưng, Frank nhìn cô rồi nói. "Em bị thương".

Viva xua tay. "Chỉ là một vết bầm thôi", cô nói. 

"Sao em lại đến đây?".

Cô cố dằn lòng, tỏ ra cao thượng. "Em hy vọng chúng ta có thể nói chuyện với nhau".

"Trước hết anh phải thay quần áo đã".

Frank lồng hai ống quần dài vào bộ đồ ngủ, Viva quay mặt sang hướng khác.

Một căn phòng chật chội, đúng kiểu phòng của một kẻ lưu hương. Hai chiếc va ly to sụ còn dính nhãn vận tải hàng hải của hãng P&O bên mình được nhét trên nóc tủ quần áo.

Viva còn nhớ như in giây phút đầu tiên ánh mắt cô bắt gặp anh đang thong dong xách những chiếc vali bước trên cầu tàu hướng về phía Kaiser - những bước dài đầy kiêu hãnh, vẫn nụ cười nhếch mép đầy ngạo mạn ấy, chắc chắn đang khiến các quý bà cô đơn trên boong tàu để hồn phách đổ rạp theo từng bước chân anh qua (hoặc giả đấy chỉ là cảm nhận của cô tại thời điểm ấy). Không có chút manh mối nào được thể hiện thông qua vẻ bề ngoài của một người đàn ông trong những sự kiện như tang lễ hay trong những thời điểm tuyệt vọng với sự khởi đầu mới của chính anh ta, và Viva, người hiểu hơn ai hết về nghệ thuật cải trang, đã đánh giá Frank ở chính giá trị của những điều đang hiển hiện trên khuôn mặt anh.

Những chiếc vali trên nóc tủ mang đến cho cô cảm giác an ủi đến ngậm ngùi, đượm mùi trống trải đến hoang vắng. Frank là người đàn ông của những chuyến đi; rồi anh sẽ lại sớm từ bỏ nơi này mà đi. 

Frank châm đèn, đẩy một chiếc ghế về phía cô.

"Tại sao em lại đến đây?", giọng anh thản nhiên, nhẹ như không.

Cô hít một hơi thật sâu. Anh đến ngồi trên chiếc ghế đối diện với cô, Viva có thể nhìn kỹ khuôn mặt anh: làn da, mái tóc, vành môi. Có điều gì đấy như nghẹn ngào, như đau đớn len lén ùa về trong cô, Viva có cảm giác mình sắp khóc đến nơi trước khi cô bắt đầu mở miệng.

"Sao cửa sổ phòng anh lại có chấn song?", cô buột miệng hỏi.

"Ở đây có nhiều trộm", anh đáp.

Cô tiếp tục hít một hơi thật sâu, choáng váng, run rẩy, đánh mất vẻ bình tĩnh một cách dễ dàng.

"Uống chút gì thay vì những câu hỏi được không?", sau một hồi im lặng, cô thu hết can đảm hỏi anh.

"Tất nhiên", giọng Frank vẫn lịch sự, nhẹ nhàng. "Một chút rượu mạnh nhé?".

"Vâng, cảm ơn".

Anh rót rượu vào hai chiếc ly, lẩm bẩm rủa nhẹ khi sơ ý rót tràn ra mặt bàn.

"Mắt em bị sao vậy?", anh hỏi sau khi ngồi xuống ghế.

Trong một giây thoáng qua, cô định sẽ vin vào vết thương nơi khóe mắt là lý do duy nhất để giải thích với anh về mục đích xuất hiện của cô nơi đây. Bằng cách cầu xin một chút niềm kiêu hãnh chuyên nghiệp trong anh, mối quan hệ giữa hai người có thể sẽ được hàn gắn và Frank sẽ không bao giờ biết được lý do thực sự tại sao cô lại có mặt ở đây.

"Em bị ngã", cô nói, "trong chợ, ở Bombay, dập mặt xuống lề đường. Nhưng giờ đã tốt hơn".

Anh rướn thẳng người về phía trước, gần với cô, những ngón tay của anh nhẹ nhàng kiểm tra phía trên hàng lông mày của cô, ánh mắt anh vẫn nhìn thẳng vào cô.

"Daisy bảo với anh em bị bắt cóc", Frank nói.

"Chị ấy đã kể với anh?". Cảm giác xấu hổ trào lên trong Viva, như một ngọn lửa thiêu cháy lòng cô.

"Cô ấy đã rất đau đớn", anh nói. "Daisy đã nghĩ em đã chết, và đấy là lý do vì sao cô ấy liên lạc với anh". Khi Frank ngẩng đầu lên, khuôn mặt anh thất thần, đau đớn. "Em có thể dễ dàng bị giết chết".

Những tia sáng vàng vọt từ bên ngoài hắt vào căn phòng qua ô cửa sổ có chấn song, tiếng bánh xe đẩy tay nghiến lên mặt đường hòa cùng tiếng nước bắn tung tóe vọng từ ngoài xa vào, mồn một.

"Anh đã gửi hai bức thư về mái ấm tình thương, nhưng không hề nhận được bất kỳ một hồi âm nào từ phía Daisy cũng như từ em. Sau những chờ đợi, anh đã thôi không muốn biết nữa. Nhìn xem", Frank bỗng trở nên giận dữ, bàn tay anh xòe ra như một tấm chắn nhắm thẳng vào cô. "Anh đã chấm dứt thôi không còn suy nghĩ như thế nữa. Anh không muốn như thế một chút nào. Thậm chí anh còn không hiểu tại sao em lại đến đây".

Cô nghe thấy tiếng mình bập bẹ: "Em không hề nhận được những lá thư của anh, em thề đấy. Mọi liên lạc đều bị cắt đứt, khu vực ấy bây giờ chỉ còn lại một mớ lộn xộn. Cả mái ấm tình thương giờ đây cũng trở nên hỗn loạn - Daisy đã tính đến chuyện đóng cửa trung tâm, và thực sự chuyện ấy đã diễn ra", đột nhiên cùng với cảm giác phẫn nộ, hai hàng nước mắt lăn dài trên đôi gò má gầy gò của Viva, "khoảng một nửa trong số bọn trẻ không thích được ở trong đấy nữa".

Im lặng. Một lúc sau Frank hỏi: "Thế em đã viết xong cuốn sách chưa?".

"Chưa", cô trả lời. "Gần như những trang đã đánh máy đều bị xé nát. Ôi, em vẫn còn giữ cuốn sổ tay của mình, nhưng em không nghĩ mình lại có thể đánh máy lại được nữa. Chúng ta lại gặp nhau. Em xin lỗi nếu điều đấy khiến anh choáng váng".

Cô hổn hển thở như thể có ai đấy đang thụi mạnh trong ngực mình.

Đấy là lần đầu tiên cô kể với người khác về cuốn sách, khi cô bị giữ ở ngôi nhà của Azim, gần như toàn bộ những trang bản thảo đã đánh máy của cuốn sách đều bị xé nát, những trang nào không bị xé thì bị tẩy xóa bôi đen đến không thể nhận được mặt chữ. Cuốn sách trở thành một đống giấy lộn vô giá trị nằm chờ cô trên tủ ly sau khi cô trở về phòng mình. Tối hôm ấy cô đã phải nói dối Toby về chuyện cuốn sách, thực sự quá đau lòng khi phải kể về chuyện này.

Không khí im lặng bao trùm khắp căn phòng.

"Em đang ở nhà Tor gần Amritsar", cuối cùng cô lên tiếng. "Em không biết anh đã biết được bao nhiêu phần, Tor đã kết hôn với một chàng trai tên là Toby. Rose cũng đến đấy cùng nhóc tỳ của cô ấy. Hai người họ muốn em thuyết phục anh đến nhà Tor chơi nhân dịp lễ Giáng sinh".

"Anh biết", Frank trả lời. "Tor là người đầu tiên cho anh biết em không sao". Những thớ thịt trên khuôn mặt anh bắt đầu động đậy. "Cô ấy cũng đã mời anh, nhưng anh từ chối".

"Anh sẽ đi đâu?".

"Anh không biết".

Cảm giác buồn bã lại trào lên trong cô. Mình đã mất anh, cô thầm nghĩ, tất cả là lỗi của mình. 

"Em không trách anh đâu", cô nói.

"Anh cũng không chịu đựng nổi ý nghĩ ấy. Thật đấy!". Frank cố mỉm cười, rồi đưa mắt nhìn đồng hồ đeo tay như thể anh không muốn cô ở lại thêm một phút giây nào nữa.

Căn phòng chìm ngập trong nỗi đau, trĩu nặng và đặc quánh đến không thể thốt nổi thành lời. Cô đứng dậy, vòng tay ôm chặt hai bên hông mình.

"Em có thể nói gì để anh thay đổi ý định của mình được không?", cô nói. "Chúng ta vẫn còn thời gian".

"Không", Frank dứt khoát. "Anh nghĩ không còn gì nữa đâu. Em biết đấy, anh không thích những kẻ giả vờ, sống không thật với lòng mình".

Cảm giác nhói đau trào lên hai bên mạng sườn của Viva. "Em không hề giả vờ".

"À, ừm, giờ đây mọi chuyện cũng đã trở nên tốt đẹp hơn", giọng anh lạnh lùng.

"Thôi được. Nghe này", cô gần như gào lên, "em xin lỗi. Như thế đã khiến anh cảm thấy tốt hơn chưa?".

"Không", giọng anh buồn bã, cô hiểu Frank hoàn toàn thật lòng, anh không cố để cay nghiệt với cô. "Đủ lạ thôi, chứ chưa đủ tốt hơn được".

Cô nắm lấy tay anh. "Nghe này, em đã không thành thật khi ở Ooty. Chuyện ấy khiến em hoảng sợ".

"Cái gì?", anh lắc đầu.

"Anh không hiểu sao?".

"Không".

Khi cô ngẩng lên nhìn anh, Viva chợt nhận ra Frank gầy gò hơn nhiều so với mấy tháng trước. Những nếp nhăn bắt đầu hiện ra lờ mờ hai bên khóe mắt, quanh miệng anh. Mình đã mang đến cho anh những thứ này, cô thầm nghĩ. Mình đã khiến anh già dặn hơn trước, và anh trở thành một con người đầy thận trọng.

Tiếng nước rào rạt tung tóe lên nền đất khô cứng từ bên ngoài vọng vào. Có tiếng một con chó đang dè dặt sủa. Nhìn vào mắt anh, Viva chợt hiểu, nếu cô không đứng dậy, mọi chuyện sẽ trở nên quá muộn.

"Hãy đến với bọn em trong mùa Giáng sinh năm nay, Frank", cô khẩn khoản. "Em không thể kể với anh mọi chuyện cùng một lúc được". 

Frank đứng dậy, khẽ chạm đầu vào chấn song cửa sổ.

"Không", anh dứt khoát. "Anh không thể thay đổi tất cả chỉ vì ý thích bất chợt như trước đây được nữa. Anh còn những bệnh nhân của mình, nhiều việc để làm".

Nỗi đau trong cô đã được chuyển sang anh. Cô hiểu rõ điều đấy khi chứng kiến cái cách Frank căng mình cố kìm chế nỗi xúc động trong lòng, cô cảm nhận được nỗi đau đớn giằng xé trong anh khi nhìn vào mắt Frank. Chưa bao giờ cô cảm nhận rõ ràng đến thế. 

"Frank này", cô hít một hơi thật sâu rồi quyết định đột ngột thay đổi, "Em không muốn sử dụng những điều sau đây như một lời biện hộ, em không thể, nó vượt quá khả năng chịu đựng của em, sẽ khiến em thấy ghê tởm, nhưng anh còn nhớ khi chúng ta ở trên chuyến tàu Kaiser, có lần em đã kể với anh, rằng gia đình em đã tử nạn trong mộ vụ tai nạn xe hơi không? Điều đấy là không đúng. Những người thân trong gia đình em đều không qua đời cùng lúc". 

Cô nắm chặt thành ghế để không run rẩy hơn được nữa.

"Chị gái em chết vì bệnh viêm ruột thừa. Nếu bọn em sống gần bệnh viện chắc hẳn chị ấy sẽ không chết. Chị ấy lớn hơn em mười ba tháng tuổi, bọn em như một cặp chị em sinh đôi".

Ánh mắt anh buồn bã nhìn cô, rất lâu sau đấy, anh lên tiếng: "Anh hiểu được nỗi đau ấy như thế nào. Em còn nhớ những gì chúng ta đã nói trên chuyến tàu?".

"Em hiểu".

Khuôn mặt anh nhợt nhạt khi nhớ lại những giờ phút ấy.

"Viva", Frank vụt trở nên giận dữ, "lẽ ra em nên kể với anh, anh thừa sức hiểu những chuyện như thế này".

"Em không thể".

"Anh không nghĩ em có thể hiểu được khi làm như vậy, nghĩa là em đã khép chặt lòng mình đến thế nào với mọi người. Nó giống như việc em xây một tường hào vững chãi vây quanh mình. Nhưng không sao, tiếp tục đi, còn bố em thì sao?". Anh chăm chú lắng nghe cô. "Giờ thì kể với anh được chứ?".

Cô tiếp tục hít một hơi thật sâu. "Không lâu sau đấy, bố em bị giết chết, xác của ông được tìm thấy trên đường ray xe lửa gần Cawnpore cùng với bảy người đồng nghiệp khác. Tất cả đều bị cắt cổ đến chết. Cảnh sát nghi ngờ những tên cướp đã làm chuyện này".

"Ôi Chúa ơi! Kinh khủng quá".

"Đúng thế. Có thể là điều tồi tệ nhất ấy chứ. Rất hiếm khi bố con em gặp nhau, ông ấy là một người tham công tiếc việc, nhưng em rất yêu ông ấy. Bố luôn ở trong trái tim em. Ông ấy là một người đàn ông thông minh, ông đã nỗ lực hết mình để trở thành một người bố tốt". Ánh mắt cô nhìn anh hoang dại. "Điều kinh khủng là, giờ đây em không thể nhớ chính xác khuôn mặt của ông trông như thế nào nữa. Nếu Josie không qua đời, bọn em sẽ nhắc nhở nhau, cùng nhau nhớ về ông mỗi ngày, nhưng những ký ức đang dần dần phai nhạt trong tâm trí em. Em ghét điều đấy".

"Thế còn mẹ thì sao?".

"Không, không, mẹ em qua đời một năm sau đấy". Cô nhắm nghiền cặp mắt.

"Nhiều người đã đề cập đến cảm giác nghẹn ngào, tan nát trong trái tim - phải chăng đấy thực sự là một dạng bệnh lý y khoa có thật?", cô chua chát mỉm cười, nhưng Frank không hề hưởng ứng. "Vả lại, dẫu sao thì hai chúng ta cũng chưa bao giờ thực sự gần gũi nhau", cô tiếp tục. "Và em không thể nhớ nổi tại sao - có thể đấy là điều hết sức đơn giản - hẳn bà đã dành hết ưu tiên cho chị gái em".

"Không lâu sau cái chết của bố, mẹ dẫn em ra nhà ga xe lửa ở Simla, đẩy em lên một chuyến tàu trở về trường nội trú ở nước Anh. Em không hiểu tại sao bà lại không muốn em ở bên cạnh. Kể từ đấy, không bao giờ em còn có thể gặp lại mẹ mình thêm một lần nào nữa".

"Nhẽ ra em nên tâm sự những chuyện này từ trước".

"Em không thể".

"Tại sao?".

Cô cảm thấy mệt lử. "Em không biết - có lẽ em không muốn mọi người nhìn mình bằng ánh mắt thương hại".

"Thế em có nghĩ cái lần anh quan hệ với em ở Ooty là bởi anh thấy thương hại em hay không?".

"Không". Cô gần như thều thào. Kỷ niệm ùa về tràn ngập tâm trí cô, đau đớn và mong manh, cả cảm giác giận dữ khi nhớ lại cái ngày mẹ gửi cô về lại nước Anh.

Khi cô ngẩng đầu lên nhìn, anh lập tức quay mặt sang hướng khác.

"Làm ơn", cô nói, "anh hãy đến chung vui cùng mọi nguời trong Giáng sinh năm nay. Tất cả bọn em đều muốn anh đến".

Anh nốc cạn ly rượu trong tay.

"Không", Frank dứt khoát. "Anh thấy vui vì cuối cùng em cũng đã chia sẻ với anh. Nhưng anh không thể".

Im lặng, cả hai lặng lẽ bên nhau trong căn phòng chật chội.

"Nghe này", cuối cùng anh lên tiếng, "khi em biến mất, anh đã ngẫm nghĩ lại tất cả mọi chuyện. Ngay cả vết thương này". Frank giận dữ chỉ ngón tay vào đôi mắt cô. "Em cũng không hề thành thật, phải vậy không? Và anh cảm thấy mệt mỏi".

"Em...", cô vừa mở miệng định nói điều gì đấy nhưng anh đã nhanh chóng đặt ngón tay của mình lên môi ngăn cô lại, rồi vội vã rụt tay về như thể cô đang bốc cháy.

"Em đừng nói gì cả", anh nói. "Hãy để anh kết thúc. Chuyện xảy ra trong đêm mưa ở Ooty không hề khiến anh phải ngạc nhiên. Anh biết điều đấy sẽ xảy ra và anh nghĩ em cũng hiểu điều này, nhưng sau đấy em lại khiến anh có cảm giác, em đã khiến anh có cảm giác...", giọng anh vỡ òa, "... mình giống như một kẻ phạm tội hiếp dâm khi anh hoàn toàn yêu em thực lòng".

"Không, không, ôi không", cô hốt hoảng. "Không phải thế".

Anh kéo cô sát lại bên mình, rồi vội vã đẩy cô ra xa.

"Em đã có hàng tháng trời để liên hệ với anh, thậm chí ngay cả khi em không hề nhận được bất kỳ một lá thư nào của anh. Anh đã chờ đợi, rất lâu, rồi anh nghĩ, mình sẽ chết dần chết mòn bởi hình bóng của cô gái ấy nếu cứ mãi sống như thế này".

Hai bàn tay cô âu yếm áp vào khuôn mặt anh, rồi nhanh chóng rời ra. Bên ngoài cửa sổ, cô nhìn thấy Tor và Rose đang được cậu bé chỉ đường dẫn qua khoảng sân con.

"Không còn hy vọng gì nữa", cô thì thầm. Chỉ ít phút nữa thôi, Rose và Tor sẽ bước chân vào căn phòng này, mọi thứ sẽ lại thay đổi. "Nghe em này", cô nói nhanh, tiếng bước chân lạo xạo trên đá sỏi bắt đầu vọng vào mồn một. "Em đã quyết định rồi, trước Giáng sinh, em định ngược lên phía Bắc đi Simla. Bố mẹ em được chôn ở đấy. Em nhận được một bức thư của một người phụ nữ trung tuổi đang sống ở Simla. Một chiếc rương do bố mẹ để lại em định đã đến nhận từ nhiều năm qua. Em phải đối diện với điều đấy, có lẽ...".

Anh định trả lời cô thì cửa phòng vụt mở.

"Frank!", Tor ào đến ôm choàng lấy anh. Rose theo sau với hai gói đồ trên tay. "Chúa ơi, chị không sao chứ Viva?", Tor cuống quýt hỏi han, bằng tất cả sự tế nhị quen thuộc của mình. "Trông mặt chị trắng bệch như một tờ giấy ấy".

Frank đề nghị hai cô gái mới đến uống một chút gì đấy, khuôn mặt anh giãn ra, cảm thấy bớt căng thẳng khi cả hai cùng đồng thanh từ chối. Rose, người hiểu rõ không khí căng thẳng đang ngự trị trong ngôi nhà, bước đến bên cạnh cửa sổ, hào hứng nói cô đã nhìn thấy mấy ngôi sao mọc sớm trên bầu trời tím thẫm. Như thế sẽ an toàn hơn cho cả ba cô gái khi lái xe về nhà trước khi màn đêm ập đến.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 54


Chuyện là thế.

Sáng hôm sau, khi Viva thông báo với Tor và Rose rằng cô dự định sẽ bắt tàu đi Simla để nhận lại chiếc rương của bố mẹ mình, cô cố giữ giọng thật bình thản, do đó không một ai trong hai cô gái nhận thấy cô đang hoảng loạn đến nhường nào. Khi Tor và Rose đề nghị sẽ cùng đi với cô đến đấy, Viva dứt khoát từ chối, rằng cô sẽ sớm trở về để kịp đón Giáng sinh với mọi người, rằng tốt hơn hết Tor và Rose nên ở nhà để chuẩn bị.

Viva có cảm giác chuyến đi lần này thực sự giống như một thử thách của trẻ con: một cú đột kích nghẹt thở vào sào huyệt của quái vật và nhanh chóng thoát ra ngoài. Phải làm thật nhanh và nhẹ nhàng, đừng để phải đau đớn, cô tự nhủ, đừng biến mình thành miếng mồi ngon lành cho nó.

Cô ngồi trên chiếc ghế bên cạnh cửa sổ của chuyến tàu mang tên Nữ hoàng Himalaya, chính bố cô đã góp tay xây dựng con tàu và hệ thống đường ray quanh co chạy men theo những chân núi dưới dãy Himalaya năm nào, xuyên qua những cánh rừng bán nhiệt đới, nhắm hướng những rặng núi chót vót quanh năm trắng xóa tuyết phủ. Con tàu nhỏ bé như một món đồ chơi trẻ em xuyên qua hết tầng hầm này đến tầng hầm khác, từ miền ánh sáng rạng rỡ rơi tõm vào khoảng không gian tối sầm sau những vách đá. Cô cố giữ lòng thật bình tĩnh. Mái ấm chỉ là một thuật ngữ. Nó không có nghĩa gì với mình nếu cô không hề muốn nó.

Một cuốn sách nho nhỏ in những vần thơ của nhà thơ Tagore nằm im trong lòng Viva, cuốn sách được cô chọn ngẫu nhiên từ giá sách của Toby - kể từ sau lần bị bắt cóc, có vẻ sự tập trung trong cô gần như đã biến mất.

Viva đặt đôi bàn chân của mình trên chiếc vali cũ kỹ của mẹ để lại. Cô rất thích chiếc va-li nhếch nhác này, chiếc vali với những dây đai da chắc dày cùng những nhãn hiệu đã mờ vết mực bởi thời gian, cùng những đường chỉ may nổi đã gần như mòn vẹt - có lẽ cô nên sớm thay mới nó. Bên trong, cô để chùm chìa khóa của chiếc rương, một ít áo quần và một mẩu giấy ghi địa chỉ của Mabel Waghorn: "Nhà tôi ở đằng sau một tiệm giày Trung Hoa", được bà ghi cho cô bằng những con chữ run rẩy của người già. "Rất gần Lower Bazaar - cô không thể để lỡ dịp gặp tôi được".

Tất nhiên, đấy là một khả năng hoàn hảo, Viva nghĩ, trong lúc dựa đầu vào thành cửa sổ toa tàu, rằng Waghorn đã chết sau khi bà viết cho cô bức thư này. Khi còn là một đứa bé, cô đã một, hai lần gặp bà, chút ký ức ít ỏi về Waghorn đọng lại trong cô lúc này chỉ là một người đàn bà cao lớn, hơi đường bệ, một người phụ nữ già hơn mẹ cô.

Nếu quả thực bà Waghorn đã chết, có lẽ sẽ không còn gì chờ đợi cô ở phía trước. Ý nghĩ ấy bất giác khiến cô cảm thấy choáng váng, nhưng nó khá quan trọng trong việc giữ cho niềm hy vọng trong cô không trào dâng đến đỉnh điểm, cho dù niềm hy vọng ấy không hề đại diện cho nỗi hoảng sợ cuối cùng đang mỗi lúc một dâng cao trong cô khi con tàu vẫn rùng mình lao về phía trước.

Đoàn tàu tiếp tục bò qua những cánh rừng dày đặc hướng đến dưới chân những ngọn núi trong dãy Himalaya. Cách chỗ cô ngồi mấy ghế, giọng Anh trầm ấm của một người đàn ông chợt vang lên giải thích điều gì đấy - có lẽ cho vợ của anh ta hiểu - rằng đường ray xe lửa chỉ rộng đúng 60,6 cm và 6 mm; và điều thần kỳ nằm ở khâu thiết kế chế tạo, rằng một cách ngắn gọn thì hệ thống đường ray này chạy xuyên qua một trăm lẻ hai đường hầm được nổ mìn xuyên qua những rặng núi đá khổng lồ. "Một trăm lẻ hai! Ôi Chúa ơi", một giọng người tẻ nhạt, hơi giả tạo phụ họa theo. "Thật không thể tin được".

Và rồi niềm hãnh diện của một đứa con gái thôi thúc trong cô, Viva muốn nhào đến mà khoe khoang rằng, "Đường ray xe lửa này từng có phần đóng góp công sức của bố tôi. Ông ấy là một trong những kỹ sư ngành hỏa xa giỏi nhất ở Ấn Độ".

Nhưng giọng nói của hai con người ngồi cách chỗ cô không xa, chỉ vài ghế kia đã gần như mất hút giữa tiếng động cơ gầm rú của con tàu khi nó rung mình băng qua một đường hầm tối đen và lại nhanh chóng chui ra ngoài giữa ánh sáng ban ngày chói lòa.

Cô đã yêu biết nhường nào những tháng ngày rong ruổi trên những nẻo đường thời thơ ấu ấy. Cô thấy tiếc cho những đứa trẻ không bao giờ có được cảm giác khám phá những ngôi nhà mới, những đứa trẻ không bao giờ có được những hàng cây mới cho mình trèo lên tụt xuống mỗi ngày, không có những con vật nuôi mới, những bạn bè kết nghĩa trong chốc lát. Những năm tháng ấy, cô là một công chúa, cô có thể thấy rõ điều đấy khi giờ đây nhớ lại.

Thêm những dòng ký ức ùa đến trong cô. Tổ ấm của cô, ấy là nơi có mọi người, là bố, mẹ, chị Jesie, và cô đã bay đi từ đấy.

Bố, mẹ, Jesie - lâu, thật đã lâu lắm rồi cô mới đủ can đảm thì thầm cùng lúc gọi những cái tên ấy trong lòng mình. Cô xòe bàn tay gồm những ngón khẳng khiu ra trước mặt nhẩm tính: ấy là năm cô lên tám, không, có lẽ là chín, khi lần cuối cùng cô ngồi trên chuyến tàu này cùng mọi người. Thật kỳ lạ nhường nào khi cô một mình lưu giữ những kỷ niệm cũ kỹ ấy mà không có một ai bên cạnh. Mẹ đã chuẩn bị gói ghém những món đồ quen thuộc dành cho một chuyến dã ngoại đặc biệt: nước chanh, bánh sữa, thừa thãi bánh ngọt và bánh xăng-đuých. Trong chuyến đi cuối cùng bên nhau ấy, Josie ngồi sát bên mẹ, còn cô ngồi cạnh bố, đối diện với hai người, một vuông nắng lọt qua ô cửa sổ đậu xuống chỗ cô ngồi. Giờ đây cô cảm nhận được những lọn nắng đang đậu trên mái tóc mình, cả niềm vui sướng âm ỉ khi được ngồi bên cạnh bố trong chuyến đi lần ấy. Người đàn ông mảnh khảnh lúc nào cũng kiệm lời mà cô gọi bằng bố ấy, với đôi tay dịu dàng và khuôn mặt sáng sủa chưa bao giờ nói với cô rằng ông yêu cô, thể hiện tình yêu dành cho những cô con gái bằng ngôn từ không phải là cách của ông, nhưng rõ ràng ông yêu chúng rất nhiều, và cô hiểu hơn ai hết điều đấy, luôn là thế; giống như việc ta chuyển động trong vùng không gian từ trường vô hình. 

Hình bóng ông lại ùa về nơi đây. Khi ánh mắt cô xa xăm nhìn ra ngoài cửa sổ toa tàu hướng đến những ngôi làng bụi bặm, những thị trấn xiêu vẹo, những cánh đồng cằn cỗi nứt nẻ dấu chân chim, cô muốn ông trở về với vẻ ngoài nhiệt tình đã nhiều năm qua cô không hề nhìn thấy. Để được chuyện trò cùng ông về tuyến đường ray mà con tàu đang rung rung chạy dưới chân cô. Trong ngôi nhà nơi ông đang góp tay xây dựng với những chi tiết phức tạp trong công tác tu di bảo dưỡng, ông sẽ kéo một cái hộp bằng gỗ khá lớn, nhãn hiệu "Nữ Hoàng", ra khỏi tủ quần áo. Ông sẽ pha chế những nguyên liệu lên trên một tấm thảm bằng cỏ theo cách mà ông đã học được: lớp vữa được tán mịn, loại vữa người ta vẫn thường sử dụng để xây nên những cây cầu ở Paris, những tảng đá, những thân cây, cả những viên đá cuội. Trong mắt cô, những thao tác khéo léo mà ông đang tạo dựng thành cuộc đời mình nhẹ nhàng như một trò chơi. Cả cái nhiệm vụ tuyệt vọng trên cung đường đầy tham vọng này cũng thế, với những vách núi dựng đứng, những đường hầm hun hút xuyên qua những thân núi khổng lồ.

Viva buông một tiếng thở dài não nề đến nỗi sau đấy cô phải xin lỗi người đàn bà ngồi sát bênh cạnh mình. Tại sao người ta lại làm như thế khi tan nát cõi lòng? Ngoại trừ Frank, có lẽ anh không thực sự hiểu được điều đấy, anh sẽ nguyền rủa nếu đến ga tiếp theo cô quyết định bước chân xuống khỏi con tàu, quay trở về Amritsar? Mọi dấu vết về tổ ấm ngày nào có thể sẽ được cô tống khứ khỏi đời mình bằng cách viết cho Mabel Waghorn một bức thư, ném chùm chìa khóa mở chiếc rương ra khỏi ô cửa sổ của con tàu đang lao vùn vụt ngoài kia.

Con tàu vẫn rùng rùng lao về phía trước, tiếng động cơ vẫn rền rĩ vang lên từng chặp bất tận. Ở Kalka, một ga xép nhỏ bé dựa lưng vào một vách núi, một người đàn ông với một giỏ đồ ăn tiếp cận tới bên hông toa tàu, rồi hối hả vừa rao vừa cuống quýt chạy như thể ống quần của ông ta đang bắt lửa: "Nước uống, bánh trái cây đây". Nhưng cô không thể nuốt, cô không muốn ăn gì cả.

Cô lặng lẽ quan sát chàng trai trẻ ngồi đối diện mình nhảy khỏi toa tàu, băm bổ chạy vụt vào sân ga, đến trước một quán cóc mua hai đĩa đậu lăng. Cô vợ trẻ vẫn kiên nhẫn ngồi chờ trong im lặng, đôi mắt của cô dán chặt vào người chồng trên sân ga.

Cuối cùng, thật đơn giản, Viva nghĩ, mình sẽ để lòng thật thanh thản khi anh quay lại.

Tổ ấm mà cô đang nghĩ đến ấy đã từng là trung tâm thế giới của một người nào khác. Cô đã đánh mất sự an toàn ấy khi bố mẹ cô qua đời. Không một ai đối xử tàn nhẫn với cô kể từ ngày bố mẹ ra đi - cô không hề bị đánh đập hay bị tống cổ vào trại tế bần, cô không cần đến tiếng vĩ cầm nức nở - điều thay đổi ấy chính là cô bắt đầu cảm thấy - khái niệm ấy là gì nhỉ? - thừa thãi những yêu cầu đòi hỏi.

Trong gia đình của những người bà con họ hàng, cô từng ngủ trên những chiếc giường dành cho những đứa trẻ mới lớn; từ trên nóc tủ quần áo, những con búp bê cũ kỹ và xơ xác cùng những đoàn tàu hỏa mô hình bằng gỗ của chúng giương mắt nhìn chằm chằm vào cô. Trong suốt kỳ nghỉ lễ, khi trường học đóng cửa, cô đã ở trong khuôn viên kín mít của tu viện, ở đấy cô được người ta sắp xếp cho ngủ trong viện điều dưỡng, nơi luôn khiến cho bất kỳ ai từng ở đấy có cảm giác nỗi cô đơn giống hệt như triệu chứng đặc biệt của một chứng bệnh bứt rứt đầy khó chịu. Ý nghĩ cuối cùng rồi cũng sẽ đủ lớn để tự tay thu vén đời mình, để lần đầu tiên sở hữu một căn buồng bé tin hin gần quảng trường Nevern Square luôn khiến cô mê lịm. Cuối cùng cô cũng được một mình, hoàn toàn tự do và không phải đau đáu trong lòng cảm giác biết ơn bất kỳ ai.

Trong nửa giấc mơ cũ kỹ ấy, cô dành cho Josie. Rồi cô chợt kinh hoàng khi nhận ra những ký ức về Josie trong cô đang dần dần phai nhạt giống như những giai điệu rời rạc của một bản nhạc được chơi đầy cảm xúc và hào hứng ngay từ những nốt đầu tiên, nhưng đã yếu dần, yếu dần và gần như tắt lịm ở những nốt cuối cùng. Những lọn tóc đen, đôi mắt xanh thẳm, cặp chân dài miên man bước đi như một cô dê núi lướt trên tảng đá này đến tảng đá khác. "Nhanh lên, chậm thế cô nàng, nhảy đi!".

Ký ức rõ ràng nhất còn lại trong cô là kỷ niệm về đợt cắm trại cùng Jesie dưới những chân núi của dãy Himalaya. Cả gia đình cô cưỡi trên lưng những chú ngựa hai bên lèn chặt những đồ đạc lỉnh kỉnh nào là giường, ghế xếp, lều bạt... cùng những người hầu cần mẫn theo sau. Cả gia đình cô ngủ trong những túp lều dưới trời đêm sáng quắc lấp lánh ánh sao, lắng nghe tiếng nhai cỏ nhóp nhéo của những chú ngựa buộc bên ngoài lều, tiếng thác nước ào ạt từ trên cao vọng xuống, bố mẹ cô nhóm một đống lửa bên ngoài túp lều, bắt đầu kể cho nhau nghe những câu chuyện cuộc đời kéo dài đến bất tận. Câu chuyện hư cấu yêu thích của bố cô là câu chuyện về Puffington Blowfly: một cậu bé mạnh mẽ và dũng cảm, và không bao giờ kêu ca phàn nàn về bất cứ khó khăn nào trong cuộc đời.

Sau đấy, gia đình cô chuyển đến Kashmir, tên chính xác của thị trấn đã bị lãng quên, cũng như bao ngôi nhà, những mái trường, bạn bè của cô đã từng rơi vào quên lãng. Cô chỉ còn nhớ có một cây cầu ở đâu đấy đột nhiên đổ sụp, và người ta cần đến sự giúp đỡ của bố cô trong việc sửa chữa lại nó. Gia đình cô kết thúc kỳ nghỉ tại một cái hồ ở Srinagar, nơi bố mẹ cô đã thuê một cái nhà thuyền. Cô và Josie (cô hãy còn nhớ như in chuyện này) đã phấn khích đến nhường nào khi nhìn thấy những tấm rèm cửa may bằng vải hoa sặc sỡ và những chiếc lồng đèn bằng giấy đặt trên mặt bàn, cả những phòng ngủ với những chiếc giường xinh xắn hãy còn mới tinh màu sơn. Nhưng Viva còn mang máng nhớ cả cái lần cô khóc lóc thảm thiết đến thế nào - hình như bởi cô đã bỏ quên chú chó của mình ở nơi cũ - chú chó thân yêu bởi bản tính ham chơi sơ suất của cô chủ nhỏ nên Viva đã không bao giờ có thể gặp lại chú thêm một lần nào nữa. Để an ủi cô, mẹ cho phép hai chị em có thể ngủ trên mặt bàn nếu muốn. Cô và Jesie đã ngồi dựa lưng trong chiếc màn tránh muỗi say sưa nhìn ngắm ánh mặt trời đỏ rực đang từ từ chìm xuống, rồi cuối cùng để lại một vết loang khổng lồ rạng rỡ trên mặt hồ sau khi mất hút cuối đường chân trời, xa tít bên kia hồ. 

Có phải có lần, trong đêm yên tĩnh, Josie, cô chị gái có đầu óc tính toán nhanh nhạy hệt như bố mình, đã tính toán được sự kiện thảm họa sẽ xảy ra và một trong hai chị em cô sẽ chết trẻ, bỏ lại người kia cô đơn trên cõi đời hoang vắng?

"Cứ một trong bốn người ở Ấn Độ", Josie đã nói với cô như thế. "Chúng ta có thể sẽ không thể sống đến lúc dầu bạc răng long", chị gái đã cảnh báo với cô.

Và Viva đã trả lời: "Nếu chị chết, em sẽ chết cùng chị".

Cô đã không làm như thế, thêm những cơn choáng váng nhuốm đầy màu sắc bội phản - cô có thể sống mà không cần có chúng.

Sau cái chết của Josie, chị gái cô được chôn cất trong một nghĩa trang quân đội, suốt nhiều tháng trời, Viva bị ám ảnh bởi ý nghĩ rồi Josie sẽ biến thành một bộ xương khô trong nấm mồ hoang lạnh ấy. Cô đã nhìn thấy tận mắt những ụ đất mới tinh đắp quanh những tấm mộ chí nho nhỏ. Cô đã khiến mẹ phải bực mình khi quấy rầy bà bằng những câu hỏi kiểu như có bao nhiêu đứa trẻ đã qua đời được chôn trong nghĩa trang này. Có một cậu bé, cô nhớ lại, đã bị một con rắn độc cắn chết sau khi cố chìa tay về phía nó để hỏi han kết thân, thêm một đứa bé qua đời sau ngày Josie ra đi đúng một hôm bởi căn bệnh thương hàn quái ác.

Phải chăng cô đã hỏi quá nhiều? Cô phải hỏi. Hoặc giả mẹ cô không thể chịu được hình ảnh đứa con gái còn lại giống hệt đứa con gái đã lìa trần của bà, nhưng khuôn mặt ấy, nụ cười ấy lại không phải là Josie yêu quý, cũng có thể bởi bà đã cương quyết từ chối chấp nhận sự thật rằng Josie đã mãi mãi ra đi. Bà đã thì thầm triệu triệu lời nguyện cầu. Bà mang theo chiếc váy ngủ của Josie lên giường hằng đêm, nhét một chiếc bánh quy xuống dưới tấm chăn trải giường để khi Josie quay về, chị ấy có cái bỏ bụng; rồi bà lại tất tả đến với đền chùa miếu mạo, dâng tặng cơm và hoa trước các thánh thần, cho đến khi bà buông xuôi, từ bỏ niềm tin vào họ.

Không lâu sau đấy, cô bị gửi vào tu viện. Trong ký ức nhập nhòa của mình, cô nhớ cô đến đấy một mình - nhưng liệu có chắc chắn là không? Cô mới mười tuổi. Hẳn phải có một người đi kèm chứ. Tại sao mẹ lại không đến đấy cùng cô? Bà có hôn lên trán cô lúc từ biệt? Có những kỷ niệm đóng kén trong tâm trí bạn từ bao năm qua, bỗng một ngày trào lên biến bạn thành một kẻ dối trá trước chính mình và trước mọi người. Frank đã đúng trong chuyện này, nhưng giờ thì cô bỗng chốc thấy nổi giận với anh vì đã đâm đầu - chính xác, đâm đầu là hai tiếng đúng đắn nhất trong hoàn cảnh ấy - vào những chuyện kinh hoàng, rất chính xác.

Khi chuyến tàu chỉ còn cách ga cuối chừng hai mươi dặm, cô chợt nhận ra lòng mình đang nức nở đến nghẹn ngào. Lẽ ra cô không nên đến đấy, cô hiểu điều đấy, cô hiểu điều đấy hơn ai hết. Cô còn một ít thời gian để bình tĩnh trở lại, để kiểm soát bản thân, để lau khô dòng lệ, để xua tan những cơn nức nở bằng cách vờ làm ra vẻ mình đang bị những cơn hen hành hạ. Bỗng nhiên cô thấy buồn ngủ, khi tỉnh dậy, người đàn bà ngồi đối diện đang vỗ nhẹ vào cánh tay cô để đánh thức. Con tàu đã đến ga cuối. Cô đã trở về Simla.

Bước chân xuống khỏi con tàu, cô đứng lặng giữa những vết bùn đọng lại trên sân ga. Ánh mắt cô dán vào những rặng cây trĩu nặng truyết phủ, một chú ngựa còm cõi khoác trên mình những lớp bao bố tả tơi đứng lặng dưới gốc cây chờ đợi khách đi xe. Mảnh đất duy nhất cô không bao giờ quên lãng.

Những bông tuyết nhẹ nhàng rơi xuống đậu lại trên mái tóc cô. Viva dõi theo bóng dáng nguời đàn ông gốc Anh lúc bấy giờ vẫn còn khoa chân múa tay truyền đạt kiến thức với vợ, cho đến khi anh ta mất hút trong chiếc taxi đang từ từ biến mất sau những rặng núi.

Phía trước mặt cô, ngay trên sân ngoài nhà ga, một người xà ích chạy xe ngựa hai bánh đang dõi theo cô chờ đợi. Người xà ích lắc chiếc chuông bằng bạc trong tay để thu hút sự chú ý của cô.

"Cô đang chờ đợi quý ngài của mình à?", anh ta hỏi.

"Không", cô trả lời, "tôi đi một mình. Tôi muốn đến địa chỉ này", cô đưa cho người xà ích xem mẩu giấy ghi địa chỉ của Mabel Waghorn, "sau đấy tôi muốn đến khách sạn Cecil".

Khẽ cau mặt, người xà ích chăm chú nghiên cứu tấm bản đồ chỉ đường đến nhà Mabel Waghorn, khuôn mặt của anh ta tái xanh vì lạnh.

"Khách sạn Cecil thì được", anh ta nói. "Còn nơi này không tốt cho cô tí nào". Người xà ích trả lại cho cô tấm bản đồ. "Khu vực Lower Bazaar - không có người Anh nào sinh sống ở đấy cả đâu".

"Tôi không quan tâm". Cô nói, rồi nhấc chiếc va-li của mình lên quẳng vào trong thùng xe trước khi người xà ích kịp thay đổi ý định. "Tôi cần phải đến đấy. Ngôi nhà nằm trên con phố phía sau một tiệm giày Trung Hoa", cô nói tiếp, nhưng người xà ích đã cầm sẵn giây cương trong tay, vụt mạnh roi da vào mông ngựa. Chiếc xe lao về phía trước.

Chiếc xe ngựa chở cô chạy dọc con phố chật chội, tiếng thì thầm của khách bộ hành văng vẳng khắp không gian: một người phụ nữ da trắng to béo, khoác trên mình bộ váy áo bằng vải len với hai màu nâu trắng chủ đạo nom khá hợp mốt cùng một chiếc khăn lông cáo ấm áp quấn quanh cổ, một nhóm sĩ quan quân đội đang túm tụm bên nhau, nhưng đến giữa ngày, cô bỗng ngạc nhiên khi chợt nhận ra không khí trở nên im ắng lạ thường.

Đến ngã tư kế tiếp, chiếc xe ngựa đột ngột dừng lại. Một con bò lang với một chiếc chuông đồng lủng lẳng trên cổ đang thản nhiên dạng chân trên đường thoải mái tống những đống chất thải trong mình ra ngoài. Viva rướn đầu ra khỏi thùng xe, đập vào mắt cô là những biển hiệu ghi tên của những cửa hàng hai bên đường: Hệ thống cửa hiệu Hoàng đế, Tiệm may nhà Ram, Cửa hàng quân đội, Hiệu may đồng phục công sở, cửa hiệu Himalaya.

"Dừng lại!", cô đã nhìn thấy một hiệu giày đề biển "Tiệm giày Trung Hoa Ta-Tung và Co". Trên cửa sổ ken dày những đôi giày leo núi và những đôi ủng cưỡi ngựa xinh xắn, những đôi giày chơi polo, những đôi dép lê quai nhung êm mượt, đầu mũi dép đính những chùm lông cáo tua rua bắt mắt. "Vui lòng khách đến", trên một thân cây trước cửa hiệu là một tấm biển ghi câu đối. "Vừa lòng khách đi", tấm biển đính trên thân cây đối diện ghi rõ vế còn lại.

Cô cẩn thận quan sát tấm bản đồ thêm một lần nữa.

"Tôi có thể xuống đây", cô nói với người xà ích, móc ví trả tiền cho anh ta. "Nhà bạn tôi nằm trên con ngõ phía sau hiệu giày này".

Người xà ích lẩm bẩm câu gì đấy trong miệng rồi khẽ lắc đầu như thể cô sẽ sớm phát hiện ra sai lầm của mình khi tìm đến địa chỉ theo lời chỉ dẫn trong tấm bản đồ vẽ tay kia.

Cô đứng lặng giữa đường, cố gắng xác định phương hướng. Bên phải cô là một con phố mang đậm kiến trúc châu Âu khang trang, được chăm chút quét dọn sạch sẽ, với những bồn hoa nho nhỏ trồng dọc hai bên hè đường. Phía cuối những bồn hoa, dọc theo những bậc thang uốn lượn là khu phố của người dân địa phương, với những ngôi nhà cũ kỹ mọc xiêu vẹo trên những ngõ ngách chật chội chi chít những cửa hiệu ngập tràn ánh sáng.

Cô bước dọc theo dãy bậc thang đầu tiên.

Mình vừa phạm phải sai lầm ngớ ngẩn, cô tự nhủ, ngó nghiêng nhìn vào một cái hố bẩn thỉu nơi một ông già đang ngồi bên cạnh nhướn mắt nhìn ra giữa đường. Cô tiếp tục tiến về phía trước, bước qua một cửa hàng bán len tồi tàn với những bao tải căng phồng những cuộn len sáng màu để bảo vệ con người trước giá lạnh của băng tuyết. Cô cẩn thận nghiên cứu tấm bản đồ thêm một lần nữa, run rẩy và lóng ngóng bởi cơn lạnh thấu xương đang bủa vây quanh mình.

Mabel Waghorn, cô khá tự tin vào trí nhớ của mình trong chuyện này, từng là một giáo viên, hình như bà là hiệu trưởng thì phải. Có lẽ thông tin trong tấm bản đồ không chính xác. Đường phố quá xuống cấp, cũ kỹ, dậy mùi hôi hám. Bối rối, cô ngồi xuống một bậc thềm, bất chợt từ đây, cô nhìn thấy một ngôi nhà nhô lên khỏi những mái nhà lợp tôn xiêu vẹo, có thể đấy là ngôi nhà cô đang tìm kiếm.

Tiến gần hơn, cô dừng chân trước một ngôi nhà hai tầng nằm dựa lưng vào chân một ngọn núi, cẩn thận quan sát. Có lẽ không phải. Mặt tiền của ngôi nhà hướng thẳng lên những ngọn núi ở phía ngoài xa, tường vách trát vữa đã cũ kỹ, tróc lở nham nhở, ban công bằng sắt phía trên tầng thượng ken dày những thùng xô, túi quần áo, lồng chim, có cả một cái động cơ đã hỏng hóc của một thiết bị nào đấy bị thải loại nằm chỏng chơ giữa những vật dụng không rõ hình hài.

Cô tiến gần hơn đến trước của ngôi nhà, vẫn chưa tin lắm vào quyết định của mình, nhưng rõ ràng, dòng chữ "số nhà 12" được viết bằng sơn xanh trên cánh cửa được bọc bên ngoài bằng một lớp lưới hoen rỉ, trông giống hệt như cánh cửa dẫn vào phòng của những vị giáo sĩ thuộc dòng tu Carmelite ngày nào. Bên phải tấm lưới là một chiếc chuông đồng thò ra một mẩu giây giật, phía dưới chiếc chuông là dòng chữ "Tôi ở tầng một" với những nét run rẩy của Mabel Waghorn. Cô mạnh dạn giật chuông, không có ai trả lời.

Viva đứng chờ bên ngoài chừng năm phút, liên tục nhún nhảy hai chân, trời càng về chiều càng buốt giá. Những đỉnh núi phía ngoài xa đã gần như biến mất trong màn sương mù dày đặc, bóng một con chim đại bàng sải cánh lượn trong câm lặng ngang trên đầu cô, Viva nhìn rõ cả mẩu bánh mì bị quắp chặt trong chiếc mỏ sắc nhọn của con chim, trong khoảnh khắc tĩnh lặng đến hoàn hảo ấy, cô chợt có cảm giác như đang chìm dần vào dòng thời gian chợt đứng lặng quanh mình.

"Xin chào". Ánh mắt của bà già xuất hiện trước ngưỡng cửa mơ hồ nhìn cô như thể bà ta vừa mới dứt mình ra khỏi cơn ngủ miên man. Chân trần không có tất xỏ trong đôi dép lê, một cơn gió khẽ lùa qua, chiếc áo choàng len đang khoác trên mình bà già lay nhẹ để lộ ra vạt váy ngủ mỏng manh bên trong. Hai người đưa mắt nhìn nhau, mất vài giây lưỡng lự, cuối cùng Viva bất đắc dĩ đành tin bà già bạc nhược đang đứng trước mặt cô là Mabel Waghorn cần tìm. Không hiểu sao trong lần đầu tiên nghe đến cái tên của bà, trong đầu Viva đã mường tượng ra hình ảnh về một người đàn bà khỏe khoắn với chiếc vợt tennis trong tay, với đôi giày bằng da dê đầy sinh lực dưới chân, và một trí nhớ tuyệt vời luôn sẵn sàng tồng tộc với cô từng chi tiết nhỏ nhặt nhất mà Viva đang háo hức muốn được tường tận.

"Lạy Chúa lòng lành!". Bà già lảo đảo bước ra ban công và nhìn xuống dưới đường. Khi một chiếc dép tụt ra, Viva nhìn thấy một cẳng chân khẳng khiu với những chiếc móng màu hồng quắp chặt vào những thanh sắt chạy dọc rào chắn.

"Lạy Chúa lòng lành!". Hai người vẫn đưa mắt nhìn nhau.

"Không!". Bà giá há hốc miệng, trợn mắt nhìn cô, đầy xúc động.

"Không! Không! Không!". Cô gào lên, để tránh một kết cục bi thảm. "Tên cháu là Viva - cháu là con gái của bà ấy".

Lập tức thần thái của bà Waghorn thay đổi. Bà già bỗng nhiên câm lặng. Có lẽ bà vừa có cảm giác mình đã bị đánh lừa, những tưởng đã nhìn thấy người bạn quá cố của mình, hoặc giả cũng có thể bà đã quá già để ứng biến nhanh nhạy với những việc bất ngờ vượt ra khỏi thông lệ của cuộc sống.

Bà gạt gạt chiếc dép còn lại dưới chân cho đến khi nó tuột ra ngoài.

"Tôi thành thật xin lỗi", bà già lên tiếng, "nhưng tôi đã mời cô đến đây sao?".

Vạt áo khoác của bà già khẽ lay động, để lộ đôi chân khẳng khiu như chân chim và hai ống quần buộc túm cũ kỹ. Viva thoáng rùng mình.

"Lẽ ra cháu nên viết thư trước khi đến đây", Viva rối rít xin lỗi. "Bác đã bảo cháu đến đây từ nhiều năm trước". Bà già trước mặt đột nhiên đưa hai tay lên che lấy tai, Viva buộc lòng phải hét lên, "bác có phiền nếu cháu vào trong? Cháu không ở lại đây lâu đâu. Cháu xin lỗi vì đã làm bác sợ".

Đôi mắt bà Waghorn vẫn chằm chằm dán vào cô, cứ như thể bà đang nhìn một bóng ma.

"Vào đi", bà già tiếp tục mở miệng sau một hồi lâu im lặng. "Tôi sẽ bảo Hari xuống đón cô".

Vài giây sau, Hari, một cậu bé với nụ cười dễ thương với chiếc áo choàng thắt ngang lưng kiểu Ca-sơ-mia khẽ kéo tấm cửa cọt kẹt sang một bên, vẫy tay ra hiệu cho cô vào trong nhà. Cậu bé xách va-li của Viva lên rồi dẫn cô đi dọc hành lang chật chội chua lòm mùi phân mèo.

"Làm ơn bước theo cháu", cậu bé thì thầm với cô bằng giọng điệu của chủ nhà, những âm thanh vừa phát ra từ miệng Hari lập tức vang vọng khắp hành lang chật chội. "Bà Waghorn đang ở trên gác nghiên cứu".

Cầu thang dẫn lên tầng trên được thắp sáng bởi những ngọn nến đang leo lét cháy trên những chân đèn treo dọc vách tường, hệt như lối vào một nhà ngục thời Trung cổ, Viva nhủ thầm. Khi bàn chân vừa chạm vào bậc thang trên cùng, cô nghe thấy tiếng sủa ăng ẳng của một chú chó con, xen lẫn giữa những tiếng sột soạt của một cây gậy đang di di trên sàn nhà.

"Hari?". Có tiếng gọi vang lên phía sau cánh cửa. "Phải cô ấy không? Ta ở trong này".

Hari trao cho cô một cái nhìn bí ẩn, láu lỉnh như muốn nói, "cô đang chuẩn bị được thiết đãi". "Vào đi", cậu bé nói. "Bà ấy đang chờ cô ở trong".

Vừa bước chân vào, cảm giác đầu tiên trong cô là căn phòng hơi tối, Viva nhầm chồng quần áo trên chiếc ghế trong góc là bà Waghorn. Sau một lúc điều chỉnh, khi đôi mắt cô đã quen dần với bóng tối, Viva mới nhìn thấy bà già đang ngồi lù lù trước chiếc lò sưởi chạy bằng dầu hỏa. Phủ phục trong lòng bà già là một chú chó bé tí, nhăn nheo như một con dơi với đôi mắt ướt nhoẹt đang thảm thiết nhìn cô.

"Mời vào", bà già ra hiệu cho Viva. "Và ngồi xuống chỗ nào tôi có thể nhìn thấy cô ấy". 

Bà chỉ tay vào chiếc tràng kỷ cũ mèm đã võng xuống, một chồng giấy tờ sổ sách chất ở một đầu ghế. Giọng nói của bà già, dẫu đã hổn hển, nhưng vẫn đầy quyền uy. 

Hai người đàn bà đưa mắt nhìn nhau, im lặng.

Viva dặn lòng cố giữ bình tĩnh, tránh không kích động. "Cháu là con gái của Alexander và Felicity Holloway. Bác còn nhớ cháu nữa không? Bác thật tốt bụng khi nhiều năm trước đã viết thư thông báo cho cháu biết về chiếc rương mà bố mẹ đã để lại. Cháu xin lỗi vì đã lâu lắm rồi mới đến đây nhận nó".

Ánh mắt bà già nhìn cô, thoáng sợ hãi, hệt như cái nhìn đầu tiên khi bà trông thấy cô từ trên ban công. Bàn tay bà khẽ vỗ nhẹ lên vòng cổ chú chó tí hon đang gầm gừ trong lòng như thể tìm kiếm sự chở che từ nó.

Viva nhìn chằm chằm vào đôi mắt ầng ậng những nước của bà già, trong cô chợt trào lên cảm giác hào hứng muốn khơi gợi để bà già trước mặt kể cho cô nghe về công việc giáo viên của bà ta nơi đây, sau đấy cô cũng sẽ kể lại cho bà nghe về mái ấm tình thương của mình ở Bombay, nhưng ý nghĩ vừa chớm dậy lên trong đầu lập tức vụt biến mất.

"Cô có lạnh không?", ánh mắt đầy khiêu khích của bà Waghorn từ lúc Viva đặt chân vào đây đến giờ đã bớt dữ dằn hơn một chút. "Nếu thấy lạnh, cô có thể vặn lớn sợi bấc trên chiếc bếp dầu, hoặc vỗ vỗ vào nó vài cái. Thực ra, cô có thể tỏ rõ thiện ý của mình. Sợi bấc cần được xén tỉa lại cho gọn gàng, gần chỗ bếp dầu có mấy cây kéo đấy".

Viva quỳ gối trên sàn nhà, cô cảm nhận được những hạt sạn vương vãi trên sàn nhà qua lớp tất xỏ dưới chân. Chiếc bếp dầu đầy cặn và liên tục nổ lép bép, bắn ra ngoài những cuộn khói đen kịt cay xè.

"Cháu cũng có một chiếc như thế này ở London". Cô nhấc chiếc chụp đèn thủy tinh ra ngoài và thò kéo cắt đứt phần bấc đèn đen xỉn cũ kỹ, sau đấy vặn nút cho lửa nhỏ lại. "Việc này đòi hỏi phải khéo léo một chút. Của bác xong rồi đây". Sau đấy cô vặn bấc cho sáng như cũ, một vòng lửa vàng rộm vụt trỗi dậy, rạng rỡ và ấm cúng. "Nên làm như thế".

"Ôi, cảm ơn rất nhiều, cô gái". Đôi mắt của bà Waghorn lại rưng rưng, rớm nước. "Cái loại khói dầu khủng khiếp. Cô gái mới tốt bụng làm sao. Tôi xin lỗi vì đã khiếm nhã với cô từ đầu. Cô biết đấy, người ta liên tục cử cánh đàn bà con gái ở câu lạc bộ đến đây thuyết phục tôi".

Viva quay người lại đối diện với bà già.

"Bác có chắc là không còn nhớ cháu nữa không?", cô hỏi. "Cháu là con gái của Felicity. Bố cháu là ông Alexander Holloway, một kỹ sư hỏa xa. Lần đầu tiên bác cháu mình gặp nhau là năm cháu lên tám hay chín tuổi gì đấy. Cháu nhớ - dạo ấy cháu hơi sợ bác bởi bác là hiệu trưởng".

"Chính xác. Cô gái nói đúng. Tôi từng là hiệu trưởng ở đây bao nhiêu năm qua". Nhắc đến trường học, đôi mắt bà già vụt sáng long lanh, thần thái của Waghorn trở nên hoạt bát hơn hẳn. "Chồng tôi, ông Arthur ấy, hai chúng tôi đã thay nhau quản lý tất cả: bốn mươi học sinh nội trú, ba mươi học sinh ngoại trú, bao gồm cả trẻ Anh lẫn Ấn. Ngôi trường có tên là Wildhern. Một nơi tuyệt vời. Đấy cũng là nơi tôi gặp Hari.". Đột nhiên bà im lặng, đưa tay chống cằm ra chiều suy tư, đôi mắt bà già vẫn dán chặt vào cô, đăm đăm. Một lúc sau, bà nhắm nghiền cặp mắt, mơ màng. "Cô biết không, tôi không nghĩ mình còn nhớ cô. Tôi xin lỗi. Có quá nhiều học trò".

"Không sao đâu ạ", Viva nói. "Là lỗi của cháu. Tất cả là lỗi của cháu".

Khuôn mặt của bà già tội nghiệp bỗng chốc trở nên đau khổ, Viva hiểu nếu cô không giúp Waghorn kiềm chế bản thân, bà già sẽ òa khóc nức nở, lúc bấy giờ không khí trong căn phòng bé nhỏ này chắc chắn sẽ không thể chịu đựng nổi.

"Bác đã cố gắng hết sức, bác đã viết thư cho cháu. Lẽ ra cháu phải đến đây sớm hơn".

"Ôi trí nhớ tồi tệ của tôi", bà già rên rỉ, "nhưng Felicity thì tôi nhớ. Một phụ nữ đáng yêu. Tôi sẽ kể cho cô nghe về cô ấy khi tôi hết mệt, được không?".

Con chó của bà già bắt đầu sục sạo tìm kiếm dưới chồng nệm ngồi. Sau một hồi chúi mũi, nó lôi ra một chiếc áo nịt ngực màu hồng nhàu nhĩ, một cái chuôi dao bám đầy bụi và một miếng mút độn ngực. Viva nhét những món đồ xuống lại dưới tấm nệm, hoan hỉ vì bà già có vẻ không nhìn thấy hành động vừa rồi của cô.

"Cháu e mình đã khiến bác mệt mỏi", cô nói. "Có lẽ cháu sẽ quay lại vào ngày mai".

Bà già liếc cô rồi đưa mắt nhìn chiếc đồng hồ đeo tay được bà cài trên túi áo. "Không", bà xua tay. "Ở lại đây dùng với tôi tách trà, tí nữa Hari sẽ quay vào, nó đi đâu rồi nhỉ?".

Waghorn bắt đầu ho rũ rượi, những âm thanh đau đớn. Viva nhìn quanh chỗ bà già ngồi, một chồng sách báo cũ, những chiếc đĩa nhạc bám đầy bụi bặm, một chiếc gạt tàn xỉn màu. Chiếc bếp dầu đã thôi không nhả khói mù mịt như trước.

"Xin lỗi cô gái". Bà già đã dứt cơn ho, lắp bắp. Run rẩy lau miệng bằng một chiếc khăn tay khá rộng, lốm đốm những vết bẩn bám trên mình, đoạn nở với cô một nụ cười đôn hậu. "Chuyện này giống như một trò đùa thú vị của số phận, một cô gái xinh đẹp xuất hiện trước ngưỡng cửa trong một buổi chiều u ám. Thú thật với tôi đi nhé, có phải cô đang rất kẹt tiền?". Dứt lời, bà già xoáy mắt vào cô như thể đang chăm chú đếm từng lỗ chân lông trên khuôn mặt của Viva. "Giờ tôi mới nhìn kỹ lại cô", sau một hồi im lặng, bà già tiếp tục, "trông cô chẳng giống Felicity như tôi vẫn nghĩ, cô giống bố nhiều hơn".

Viva gần như nín thở, đúng lúc ấy cánh cửa bật mở, Hari xuất hiện với một khay trà trĩu nặng trên tay, bà Waghorn lập tức bị sao nhãng, đánh mất dòng suy nghĩ vừa chớm nhen lên trong đầu. "Scrummy!", giọng bà già hơi cáu. "Đặt nó ở kia". Bà chỉ về phía chiếc ghế đẩu có thành ghế hình bướu lạc đà.

"Ta vừa nói chuyện với cô gái trẻ này", bà già quay sang giải thích với cậu bé, "rằng ta đã dạy cậu ở Wildhern. Giờ thì ta không thể sống mà không có cậu bé", bà nói với Viva. "Nó là một quý ngài thuộc về tự nhiên".

Hari bắt hai tay vào nhau, khẽ cong đầu hướng về phía bà Waghorn.

"Bà ấy là cô giáo của cháu", cậu bé nói với Viva. "Cô giáo trọn cả cuộc đời".

"Ôi, trà cậu bé mang cho chúng ta nom mới tuyệt vời làm sao". Bà Waghorn có vẻ khá xúc động trước những chiếc bánh kẹp mứt, hai miếng bánh ngọt trái cây, một bình trà lớn bằng bạc đã xỉn màu cùng hai chiếc tách bằng sứ màu ngà. "Và nhắc cậu nhớ", bà già nghiêm nghị, "bỏ vào khay con dao cắt bánh nữa".

"Xin lỗi vì thiếu sót". Bà già run rẩy rót trà vào tách rồi chuyển cho Viva. Lớp sữa lập tức tan rã thành những giọt béo ngậy. "Tôi ghét cay ghét đắng sữa trâu", bà già nói. "Một niềm khao khát đơn giản dành cho một tách trà tao nhã. Giờ thì nói cho tôi biết vấn đề của cô đi", bà già lên tiếng sau khi Hari rời khỏi căn phòng, chỉ còn lại hai người. "Cô đứng về phía nào trong vấn đề Ấn Độ? Nhưng trước hết tôi phải nói với cô điều này". Bà già đặt tách trà của mình xuống, đưa ngón trỏ lên ngang mặt làm ra vẻ những gì sắp được bà nói ra sau đấy hết sức quan trọng. "Cô đã thấy Hari. Cô thấy nó là một thằng bé trong sáng, một gia đình tốt đẹp... Nó từng là một học sinh xuất sắc, một trong những đứa xuất sắc nhất mà chúng tôi từng đào tạo, thế nhưng công việc thích hợp mà nó nhận được kể từ khi rời khỏi trường học chỉ là nghề xà ích hoặc làm một kẻ tôi tớ - cô biết đấy, gia đình nó không có tiền". Đôi mắt của bà Waghorn lại rớm nước. "Nó trấn an tôi là nó không lấy làm phiền lòng, nhưng trong thâm tâm, tôi thấy mình bị xúc phạm bởi điều đấy, cô có thấy thế không?".

"Tất nhiên là cháu cũng thế", Viva trả lời. "Đấy là sai lầm".

"Ừm, tốt. Đồng ý với tôi trong chuyện này. Cô có thể ở lại dùng bữa tối với chúng tôi nếu thích. Tôi đã đề cập chuyện này với những bà già ở câu lạc bộ từ nhiều năm trước. Những bà già khủng khiếp. Bọn họ nghĩ tôi mới từ trong rừng ra, giờ thì bọn họ bắt đầu cho người từ bệnh viện đến thuyết phục tôi cơ đấy".

Có vẻ như bà Waghorn bắt đầu bị xúc động trở lại.

"Cháu không liên quan gì đến bọn họ cả", Viva dịu dàng nói. "Cháu hứa với bác, và cảm ơn nhiều về lời mời ở lại dùng bữa tối, nhưng hôm nay thì không được. Cháu phải quay về khách sạn để tắm rửa, trời đã sắp tối rồi".

Cô nhìn qua ô cửa sổ trên đầu Mabel Waghorn, bầu trời đã chuyển sang màu tím sẫm, tuyết bắt đầu rơi dày, trắng xóa bên ngoài.

Cô rướn người về phía trước, khẽ nắm lấy bàn tay của bà già. Bàn tay nhăn nheo nhẹ bẫng như một chiếc lá, đượm mùi khói thuốc.

"Nếu có thể, sáng mai cháu sẽ quay lại".

Bà già nhìn cô.

"Đừng đến sớm quá", bà nhắc. "Tôi và Hari còn phải đọc sách vào buổi sáng".

"Cháu không hề muốn gây xáo trộn thói quen hằng ngày của bác". Khi Viva đứng dậy và thọc tay vào túi áo khoác, cô chạm phải chùm chìa khóa lạnh ngắt rổn rảng kêu trong đấy. "Nhưng cháu không ở Simla lâu, nên cháu rất muốn được nhận lại chiếc rương của bố mẹ mình. Đấy là lý do vì sao cháu đến đây". Cô nhìn thấy vẻ bối rối xen lẫn ngượng ngập cuộn lên trong đôi mắt mờ đục của bà già".

"Ôi Chúa ôi, tất nhiên, tất nhiên rồi. Chúa ơi! Để tôi nghĩ xem".

Bà già đặt tách trà xuống, rồi đưa ngón tay khẳng khiu lên thái dương của mình ra chiều suy nghĩ, Viva tự hỏi không biết liệu cái bản tính hay quên vừa được Waghorn thể hiện có phải là chiến thuật của bà già hay không. "Tôi hy vọng mình có thể tìm thấy cái vật chết tiệt ấy", cuối cùng bà già nói. "Tôi đã nói với cô về dịch kiến lửa kinh hoàng xảy ra hồi năm ngoái chưa nhỉ?".

Có thể lũ kiến lửa đã gặm nhấm toàn bộ chiếc rương, nơi lưu giữ hàng chục năm trời kỷ niệm, nơi cất giấu cả cuộc đời bố mẹ cô.

"Tối nay cháu ở tại khách sạn Cecil". Viva cố giữ bình tĩnh, chừng mực. "Mười một giờ sáng mai cháu quay lại có được không?".

Không có câu trả lời. Mái đầu của bà già nghiêng ngả dụi vào cửa tủ, đôi mắt nhắm nghiền. Khi Viva đứng dậy, Hari đã chờ sẵn trước cửa phòng để dẫn cô ra ngoài.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 55


"Cô có thể giết một người nhưng cô không thể giết chết một cuộc đời", bà Waghorn đã nói với cô như vậy vào lúc mười một giờ mười trong buổi sáng hôm sau, không lâu sau khi Viva xuất hiện trở lại trong căn phòng chật chội của bà. "Tôi và Hari", bà già nói với cô, "vừa mới đọc xong vài chương trong cuốn sử thi Mahabharata, cuốn sách hai người vẫn cùng nhau đọc vào mỗi buổi sáng".

"Cô có biết cuốn sách đấy không?", bà già hỏi Viva. "Đầy ắp những tư tưởng quý giá nhất trên cõi đời này. Không phải là chân lý của cuộc sống", bà Waghorn nói tiếp, "nhưng nhất định là một trong những chân lý".

Rõ ràng cuốn sách có vẻ đang gây phấn khích cho bà. Trong buổi sáng mùa đông xám xịt như hôm nay, bà già khoác lên người một chiếc áo xuềnh xoàng loại vẫn thường mặc ở nhà màu da cam sặc sỡ, không quên thoa lên người vài giọt hổ phách thoảng hương xưa cũ. Thậm chí, bà già còn đánh nhẹ một lớp phấn hồng lên đôi má nhăn nheo của mình. 

"Hôm nay tôi phải nhanh nhẹn lên mới được", bà già nói với Viva khi tất tả tiến ra ngoài phòng khách được trang trí giản dị với một nhành hoa giấy đậu trên chiếc ghế tựa có lưng hình bướu lạc đà. "Hôm qua tôi đã huyên thuyên quá nhiều về bản thân mình. Hôm nay tôi muốn được nghe chuyện của cô".

Bà già vòng hai tay trước ngực, Viva đọc được những cảm xúc bình tĩnh pha lẫn bối rối đang cuộn lên trong ánh mắt của bà Waghorn. 

"Hẳn hôm qua bác đã rất choáng váng", Viva nói với bà Waghorn. "Chuyện đã xảy ra cũng là bởi sự thôi thúc của tình thế".

Bởi sự thôi thúc của tình thế. Phải chăng đấy là lối diễn đạt tuyệt vời nhất trong hoàn cảnh này? Có phải đấy là lời của Shakespeare? Bà già khẽ hếch một bên đầu lên hệt như một chú chim đang chăm chú quan sát. "Xát muối vào vết thương, bóp nghẹn trái tim người khác, khiến mọi chuyện trở nên quá xa. Liệu hôm nay cô còn muốn nó nữa không?". Đôi mắt bà già vụt trở nên mơ màng, lờ đờ một màu khói. "Chính là điều xấu xa bẩn thỉu nhất nơi đấy".

"Muốn gì kia ạ?".

"Ôi Chúa ơi, tôi quên không nói với cô à?", giọng bà Waghorn ngập ngừng. "Chúng tôi đã tìm thấy nó. Chiếc rương ấy. Hay ít nhất thì Hari cũng cho rằng nó chính là chiếc rương cô cần tìm. Tên của mẹ cô khắc trên thân rương".

Tim Viva đập rộn ràng. "Bác có chắc đấy chính là nó không? Bác đã mở nó chưa?".

"Không. Tất nhiên là chúng tôi không mở. Đấy không phải là trách nhiệm của chúng tôi".

"Thế bây giờ nó ở đâu?".

"Trong phòng chứa rương hòm thùng thiếc dưới kho. Cả ngày hôm qua tôi đã rất lo lắng, Hari đã phải mất hàng tiếng đồng hồ - tất cả mọi nguời trong ngôi nhà này đều quẳng rác rưởi của bọn họ vào đấy. Nhưng Hari đúng là một cậu bé tuyệt vời, nó kông hề hé miệng phàn nàn. Chiếc rương hơi dơ dáy một chút, tôi e là vậy".

"Không sao đâu", Viva nói. Lúc này cô còn chẳng biết mình nên vui hay nên buồn.

"Cứ đến thời điểm gió mùa về là phòng chứa đồ lại bị ngập, tôi đã không xuống đấy từ nhiều năm nay". Bà già thở hắt.

"Làm ơn", Viva mềm mỏng, "cháu không trách cứ gì bác - bác đã rất tốt bụng khi vẫn còn giữ chiếc rương đến tận bây giờ".

Bà già ngồi xuống ghế, khẽ di di đôi dép xỏ dưới chân trên sàn nhà, tiếp tục chìm sâu vào cõi mộng của riêng bà.

"Nếu cô không phiền", sau một hồi lâu im lặng, bà già tiếp tục lên tiếng, "tôi sẽ không xuống đấy cùng cô. Hari sẽ dẫn cô đi, sau đấy nếu thích cô có thể ở lại dùng bữa trưa với hai chúng tôi".

Nghe bà già nói, Viva bỗng thấy cồn cào trong bụng. "Để cháu xem chuyện này sẽ mất bao lâu đã", cô nói. Cô nghe thấy tiếng những que diêm sột soạt trong chiếc hộp, đôi mắt mờ đục của bà Waghorn chợt long lên rồi từ từ chìm vào cõi xa vắng.

"Tất nhiên", bà già lẩm bẩm. "Chúc may mắn".

Viva theo chân Hari bước ra khỏi ngôi nhà, cô ngẩng đầu nhìn lên bầu trời bàng bạc một màu ngọc trai hoang lạnh, bóng những con quạ đen kịt vụt chao qua trong tầm mắt. "Hôm nay có vẻ trời lại tiếp tục lạnh lẽo", cô hờ hững nói. Cô đang run rẩy, và Viva không muốn cậu bé nhìn thấy điều đấy.

Hari nhẹ nhàng giải thích cho cô hiểu về căn phòng chứa đồ. "Rất nguy hiểm khi bước chân vào đây", cậu bé nói, nhanh nhẹn bước chân qua một chiếc xe đạp. Thực ra trong khuôn viên ngôi nhà cũng có một căn phòng với chức năng tương tự. Hari dẫn cô tiến đến trước một lối mòn nham nhở ổ gà vòng quanh ngôi nhà. 

Một gian nhà kho xiêu vẹo, mỏng manh xuất hiện trước mắt Viva, những tấm bản lề to bản bằng sắt chắc chắn đính trên cánh cửa, một tấm đã rơi đinh, treo lủng lẳng. Hari nâng sợi dây quấn quanh thắt lưng lên, lần tìm đến chiếc chìa khóa buộc chặt trên đấy và mở khóa cửa. Không gian u ám mờ tối bên trong gian nhà kho chật chội thum thủm như mùi bùn tận cùng dưới đáy ao.

"Xin lỗi, làm ơn chờ một chút", Hari nói với cô rồi quay ra đóng chặt cánh cửa sau lưng hai người. Xong xuôi, cậu bé quẹt diêm châm ngọn đèn dầu mang theo trong tay. "Trong này khá tối, và nhan nhản những người bạn lông thú ẩn náu".

"Cái gì kia?", Viva ngớ ngẩn hỏi lại.

"Chuột", Hari gọn lỏn.

Từ khi đặt chân vào nhà kho, Viva đã hắt hơi mấy lần. Khi cậu bé giơ cao ngọn đèn trong tay, cô nhìn thấy những cuộn rơm khô nhờ nhờ màu vàng nhạt nằm lăn lóc giữa sàn, những cuộn rơm đổ ngổn ngang vẫn còn nối với nhau bởi một sợi dây thừng đã mục. Một luồng ánh sáng yếu ớt từ bên ngoài lọt vào qua lỗ hổng trên trần nhà, khi đôi mắt đã quen dần với bóng tối trong nhà kho, Viva nhìn thấy một cái thang gãy chân được chất trên đống cỏ khô phía trong góc nhà, cả những gói đen đen trông giống như những bọc quần áo.

"Làm ơn bước theo cháu". Ngọn đèn dầu trong tay Hari đã khuất sau đống cỏ khô, tiến gần tới nửa sau của gian nhà, Viva bắt đầu có cảm giác nhầy nhụa ướt át không rõ ràng ở dưới chân, cuối cùng cô nhìn thấy những vật hình khối màu trắng hiện ra trong bóng tối, có lẽ là những món đồ nội thất cũ kỹ, bên trên đống đồ là mấy chiếc va-li nằm chỏng chơ.

"Phải những chiếc kia không?", cô buột miệng. "Tôi được thông báo chỉ là một chiếc rương thôi mà".

"Làm ơn". Hari chỉ tay lên phía những chiếc va-li. "Cháu phải bỏ chúng xuống".

Cậu bé đứng im chờ cho cô bước qua một bó cần câu, vài chiếc vợt tennis cũ kỹ nằm lăn lóc bên cạnh. Phải mất vài phút để mắt Viva điều chỉnh cho thích hợp với ánh sáng tù mù trong góc phòng. Khi đã nhìn rõ mọi vật, Viva đột nhiên thấy khó thở, cô hổn hển. Chiếc rương lớn xộc xệch trước mặt cô như một cỗ quan tài vừa được moi lên từ lòng đất, nằm im lìm trên chiếc bàn chân thấp đóng bằng gỗ thông hay gỗ tùng gì đấy, bụi bặm lẫn rêu mốc bám dày bên ngoài chiếc rương, trên nắp, ai đấy - hẳn là Hari tốt bụng, để tạo ra đôi chút cảm giác giống như một nghi thức - đã đặt một bông cúc vạn thọ còn tươi nguyên màu nắng.

Khi Hari đặt cây đèn lên nắp rương, cô nhìn thấy lớp rêu bám bên ngoài mặt rương lấm tấm ướt, nom giống hệt như một vật thể sống.

Hari lùi xuống đứng bên cạnh cô, lịch sự, bình thản. Viva hít một hơi thật sâu.

"Cuối cùng thì cũng tìm thấy", cô nói với cậu bé. "Phải mất một thời gian rất lâu tôi mới chạm chân vào khoảnh khắc này".

Ôi mẹ! Cả Josie yêu quý nữa - con đã để mọi người lại nơi này quá lâu.

Cô nghẹn ngào, nhịp thở cuống quýt rối loạn như có gió lùa qua những kẽ hở giữa các tế bào phổi. Cô không hề muốn cảm giác mình giống như một kẻ trộm mộ trào lên trong lòng mình. 

Viva lôi chùm chìa khóa ra khỏi túi áo. Vật gì nom giống như một mẩu que hay phân chím đã đóng khô dính trên ổ khóa, khi cô vừa đút chiếc chìa vào ổ, ngay lập tức nó mắc kẹt trong đấy. Cô nhấn tay đẩy mạnh chiếc chìa vào sâu trong ổ, có vẻ ổ khóa chứa đầy gỉ sắt và mạt giũa.

"Tôi cần cậu giúp, Hari", cô nói. "Ổ khóa bị kẹt".

Có tiếng kim loại xào xạc mỏng manh vang lên trong bóng tối khi cậu bé tiến lên phía trước.

"Chuột đúng là một lũ động vật chỉ mang lại phiền hà", Hari mềm mỏng nói với cô. "Làm ơn, thưa quý cô, cầm giúp ngọn đèn, tôi sẽ mở nó hộ cho cô".

Cậu bé hết lắc chiếc chìa khóa sang phải rồi lại sang trái, rồi bất ngờ nhấn mạnh tay.

"Lùi lại, thưa cô chủ, làm ơn lùi lại", cuối cùng cậu bé nói. Hari rút con dao nhọn đang giắt trong vỏ da áp chặt bên túi áo ra ngoài rồi thọc vào dưới nắp rương. Một chân cậu bé duỗi ra sau dấn vào vách tường, Hari rướn người hướng về phía chiếc rương. Cả hai đồng thanh kêu lên khi nắp rương bật mạnh bay khỏi chiếc bàn.

Đưa mắt nhìn vào lớp áo quần cũ kỹ trong chiếc rương, Viva cố giữ lòng mình thật nhẹ nhàng và thanh thản. Cuối cùng cô cũng tìm thấy nó, sau bao nhiêu lặn lội xa xôi: chiếc rương thừa kế cũ kỹ của gia đình. Cánh chim hải âu khổng lồ của riêng cô.

"Tôi chắc là chẳng có gì ở trong này", cô cáu kỉnh nói với Hari. "Tôi sẽ tìm xem ở dưới có gì rồi đóng lại, nhanh thôi".

Viva muốn cậu bé để cô lại một mình trong này, nhưng Hari vẫn im lặng đứng ngay bên cạnh. Tim Viva đập rộn rã khi những ngón tay cô chạm phải vật gì ươn ướt bên trong chiếc rương. Một chiếc áo len dài tay nhớp nháp, mấy chiếc tã đôi, một cặp quần chơi cric-kê rách tả tơi, một chiếc chăn lông vịt với những họa tiết hình cánh hoa vương vãi phân chuột trên mình. Cô thọc tay sâu hơn xuống dưới, mùi ẩm mốc lẫn với mùi long não xộc lên tận mũi, tiếp theo là mùi xú uế - mùi chuột chết? - bốc lên nồng nặc. Tay cô chạm phải vật gì đấy cứng cứng và lạnh. Là một cái túi đeo sau yên xe đạp - của bố cô, Viva thầm đoán, ngay cả khi trước đây chưa bao giờ cô nhìn thấy nó. Bên trong chiếc túi chứa một cái cuốc chim tí hon đã hoen rỉ, loại vẫn thường được dùng để cậy đất đá mắc kẹt giữa móng ngựa, một chuỗi hạt và một ít đồng xu đã xỉn mờ màu bạc. Bên dưới cái túi là một tấm bảng Parcheesi, ẩm ướt và mòn vẹt quanh bốn góc. Khi Viva đưa tay lên, lập tức tấm bảng vỡ vụn thành từng mẩu trong tay cô.

Ôi gia đình thân yêu, con vẫn cố hết sức để không phải phiền lòng hay khắc khoải mỗi khi nghĩ về người. Đã quá muộn! Quá muộn mất rồi.

Hari nhìn cô, ánh mắt đầy lo âu.

"Cậu có thể ra ngoài để mặc tôi ở lại một mình được không?", cô hỏi.

"Tất nhiên", Hari trả lời. Cậu bé đã cảm thấy bớt căng thẳng. Hẳn nó phải biết, hay ít nhất cũng cảm nhận được, điều gì đang xảy ra trước mắt mình. "Cháu sẽ để đèn lại cho cô, sau đấy ra ngoài và khóa cửa lại, cô có thể an toàn ở trong này. Khi nào thì cháu có thể vào lại?".

"Khoảng nửa giờ thôi, cảm ơn cậu, Hari", cô trả lời. Có gì đấy trong cô như thôi thúc, như giục giã Viva thốt lên những lời: để cảm ơn Hari vì thái độ lịch thiệp của cậu, vì bản tính thâm trầm ít nói của cậu, vì đôi mắt đầy ắp âu lo mà cậu bé đã dành cho cô... nhưng cánh cửa đã nhanh chóng khép chặt sau lưng Hari, tiếng đế giày của cậu bé mỗi lúc một nhẹ dần trên những bậc thang hướng lên trên.

Còn lại một mình trong bóng tối, cô tiếp tục đấu tranh với nỗi sợ hãi đang bóp nghẹn trong lòng. Cô đã rời xa đủ lâu để không còn thấy hoảng loạn, nhưng mùi chua nồng đang dậy lên quanh mình, những lớp quần áo ẩm ướt từng khoác trên mình những người thân yêu giờ đang chảy dài trong tay cô khiến Viva cảm thấy kinh hoàng. Những chiếc quần cưỡi ngựa với những hàng cúc sút chỉ, chiếc mũ bấc đi nắng ngả màu, chiếc áo khoác thêu chỉ kim tuyến màu xanh tuyệt đẹp với một vết ố vàng dính trên cổ áo; chiếc váy ngủ của Josie, chiếc váy ngủ may từ loại vải sa tanh đã biến chất cứng đờ trong tay cô, một hộp thiếc nho nhỏ vẫn còn một mẩu nùi bông thoa phấn nằm im lìm bên trong, một gói giấy chứa những bức thư, nét mực đã ngả màu nhòe nhoẹt bởi hơi ẩm.

"Chỉ là một mớ hổ lốn", cô gần như gào lên với chính mình.

Những ngón tay cô lướt quanh vật gì tròn tròn, mềm mại hệt như một xác ướp, có lẽ là một cái khăn lau khô bát đĩa. Cảm giác mềm mại trong tay gợi cho cô nhớ lại cái lần đầu tiên Viva mở lớp quần áo mặc bên ngoài Susie, con búp bê yêu thích của Josie. Josie đã yêu đến nhường nào món đồ chơi nhếch nhác với đôi chân bó chặt thò ra dưới vạt váy dài may bằng loại vải bông kẻ sọc ấy, Viva nhớ lại. Cô đã từng có lần ghen tị với nó: Josie chỉ suốt ngày huyên thuyên chuyện trò với con búp bê yêu của mình, thậm chí còn cãi vã và đánh mạnh vào đầu nó, rồi lại dỗ dành đặt nó lên toa xe đồ chơi bé tí tẹo, âu yếm đặt nó lên giường khi màn đêm buông xuống, trước khi lui gót còn kịp buông chiếc màn bé xíu che muỗi cho Susie, cứ như thể con búp bê nhàu nhĩ ấy là em gái của mình chứ không phải là cô.

Một lần Josie đã bỏ quên Susie trên xe lửa, cả gia đình cô phải chờ trên sân ga hầm hập nóng hàng tiếng đồng hồ trong khi một người hầu quay trở lại toa xe để tìm con búp bê cho chị cô. Hôm ấy, một cuộc khẩu chiến đã nổ ra giữa bố mẹ cô cũng chỉ vì Susie của Josie.

Viva tần ngần cầm con búp bê bé nhỏ trong tay, có những vết rách lơ xơ trên cổ tay của Susie, có lẽ là vết răng chuột cắn xé. Gần như toàn bộ lớp bông gạo lót bên trong đã chảy dồn xuống dưới hai đầu gối của Susie. Khi cô bóp chặt tay, có tiếng lép bép nổ ra kéo theo một mùi hôi thối xộc lên mũi. Thật kinh khủng. Nước bọt túa ra trong khoang miệng cô. Vào cái đêm Josie về trời, Susie vẫn nằm gọn trong cánh tay chị cô. đến giờ này cô vẫn còn ám ảnh bởi tiếng thét phát ra từ trên giường của Josie, tiếng thét lanh lảnh tưởng chừng kéo dài đến bất tận, xoáy vào tai người nghe, khiến ta cảm thấy buồn nôn, tiếng thét như muốn nói "Làm gì đi, mẹ! Cứu con". Suốt cả buổi tối hôm ấy, những bước chân rầm rập tất tả lên xuống những bậc cầu thang, đến tờ mờ sáng hôm sau, tất cả đều bơ phờ đến rũ rượi. Người vú em đã đánh vật cả đêm để ngăn không cho những âm thanh giằng xé ruột gan thoát ra từ phòng Josie lọt vào tai Viva bằng cách đưa tay bịt chặt hai tai cô, nhưng rồi Viva sau một hồi giãy giụa phản đối cuối cùng đã chui tọt vào trốn trong chiếc tủ quần áo kê sát vách tường kế bên phòng ngủ của Josie. Sau này, có nhiều lúc giữa đêm khuya, cô lại văng vẳng nghe thấy những tiếng thét yếu ớt nhạt nhòa vọng đến, tiếp theo là những tiếng chút chít nghe giống như tiếng thỏ xoáy vào tai, rồi không gian lại im ắng đến nao lòng. Vì Chúa, ai đấy hãy làm gì đi! Tiếng thét gào của mẹ cô xé tan màn đêm sâu thẳm, hệt như những tiếng gào thét đau đớn của loài vật hoang vẫn đêm đêm vọng ra từ trong rừng già, những âm thanh hãi hùng, đắng đót đến quặn lòng. Cuối cùng chỉ còn lại tiếng đóng sầm đanh gọn của cánh cửa gỗ khép chặt sau lưng.

Josie, ôi Josie yêu dấu. Con búp bê thõng thượt chảy dài trên tay cô, cọ nhẹ vào vạt áo để lại một vệt bụi mờ bên ngoài chiếc áo choàng của Viva. Ôi chị tôi, chị Josie thương yêu của em. 

Cô gạt con búp bê sang một bên. Hẳn phải có thứ cô đang mong chờ ở trong này. Tiếp tục thọc tay vào đào bới sâu hơn xuống dưới, cô tìm thấy một chồng thư giấy đã ngả màu, một xấp hóa đơn, và một cuốn sổ ghi chi tiêu trong gia đình. Viva căng mắt cố đọc những nét chữ viết bằng bút chì hết sức gọn gàng của mẹ cô: Kem lạnh hiệu Daggett và Ramsdell 2/6. Kem cạo râu 3/6, hai đôi tất dài bằng len 6/6. Trong một chiếc hộp thiếc đựng một bức ảnh chụp nữ hoàng Victoria, cô lật tấm ảnh lên, phía dưới đáy hộp là một mảnh cầu kính màu hồng với hai chiếc răng giả trên đấy. Của bố cô. Viva nhặt lấy nhét vào túi áo của mình. Liều thuốc gây mê đã hết tác dụng, cô bắt đầu cảm nhận được những cơn đau đang cắn xé trong lòng. Những chiếc răng của bố cô. Phải chúng không?

Một cây nấm màu đỏ khá lớn mọc từ dưới đất đâm qua lỗ thủng dưới đáy rương. Lớp quần áo cuối cùng - một chiếc áo khoác tuyệt đẹp, một chiếc váy may từ loại vải sa tanh bóng mượt, ẩm ướt và dậy mùi mốc, hoàn toàn vô giá trị, không thể mặc được nữa. Hẳn Hari sẽ nhóm được một đống lửa rất to đây.

Tất cả chỉ có thế. Một sự sỉ nhục, chuyện khôi hài, một sự lãng phí thời gian kinh khủng và khốn nạn. Cô đóng sập nắp rương, đưa tay vịn vào thành rương, dựa đầu vào một góc rương, lắng nghe những lời khuyên vô ích vò vè ong ong trong đầu cô. Không có gì xảy ra cả, là câu đầu tiên cô an ủi bản thân mình. Không có gì xảy ra cả. Giả dụ như có điều gì xảy ra, thì đấy chỉ là những vết thương tinh thần đang bừng sống dậy nỉ non dày vò trong lòng Viva. Cô đã mong đợi điều gì sau bao tháng ngày đằng đẵng qua? Một khoảnh khắc mới mẻ rạng rỡ vụt lóe sáng trong cuộc đời mình? Chỉ là những bọc quần áo cũ kỹ ẩm mốc thay vì dăm ba chỉ dẫn tài khoản cất gửi tại ngân hàng quý báu? Những bức thư của bố mẹ giờ đây đã trở thành những người thiên cổ gửi lại cho cô đầy rẫy những lời khuyên chân tình tràn trề niềm xúc động, những lời khuyên mách bảo cho cô làm thế nào để tiếp tục sống nốt những ngày còn lại của cuộc đời. Cô đã lãng phí quá nhiều năng lượng cho một đống quần áo mục nát cũ kỹ - một câu chuyện hài hước của thời đại nếu ai đấy thực sự nghĩ về nó.

Một đôi giày da rắn của mẹ cô rơi ra ngoài nằm lăn lóc bên cạnh chiếc rương. Cô cúi xuống nhặt lên một chiếc, giơ lên ngang tầm mắt. Một đầu tàu hỏa mô hình của bố cô mắc kẹt đầu mũi giày. Đầu tàu bằng gỗ với dòng chữ "Nữ hoàng Himalaya" được viết bằng sơn màu một cách cẩn thận dọc bên mình. Cô nhét đoàn tàu mô hình bé xíu vào túi áo khoác, đè lên những chiếc răng giả của bố cô.

"Viva? Cô Holloway". Cô giật bắn cả mình bởi tiếng gọi bất ngờ vang lên từ ngoài cửa. "Cô ở trong đấy không?", bà Waghorn đang đứng trước ngưỡng cửa với một chiếc đèn bão trong tay, bóng bà già xiêu vẹo đổ lên bức vách hệt như một mụ phù thủy già nua trong những câu chuyện cổ tích. "Cô không sao chứ?".

Viva nghe thấy tiếng hắt hơi phát ra khi bà già lê chân bước qua đống cỏ khô.

"Không sao, cảm ơn". Giọng cô lạnh lùng. Cô ghét bị ai đấy nhìn thấy trong những hoàn cảnh như thế này. Hai người đứng đối diện đưa mắt nhìn nhau.

"Làm ơn, đừng khóc". Cô cảm nhận được bàn tay mỏng manh yếu ớt của bà già đang chạm vào mình. "Là lỗi của tôi, tôi đã tìm thấy món đồ nhẽ ra phải đưa cho cô trước đã".

Bà già chìa tay đưa vật gì đấy về phía Viva.

"Cháu không nhìn rõ", giọng Viva lanh lảnh. "Trong này tối quá. Sàn nhà ẩm thấp và trơn tuột, cẩn thận kẻo bác có thể ngã đấy".

"Ừm, chúng ta xem nó sau vậy". Giọng nói phát ra từ hình hài u ám mờ tối trước mặt cô không hề tỏ ra phật ý. "Lên phòng và uống với tôi chút gì đi. Tôi nghĩ sáng nay cô đã làm việc quá nhiều rồi".

"Tôi không biết nhiều chuyện để có thể kể cho cô nghe", Waghorn lên tiếng sau khi cả hai quay trở lại căn phòng lộn xộn của bà già. Bà W. ngồi xoay lưng về phía cửa sổ, Viva ngồi trên chiếc ghế đối diện với bà già. Hari nhẹ nhàng đặt vào tay mỗi người một ly rượu mạnh.

"Bố cháu đã chết như thế nào?", Viva hỏi, "kể cho cháu nghe những gì bác biết đi".

Đôi mắt bà Waghorn lộ vẻ kinh ngạc.

"Chắc chắn cô phải biết rồi chứ".

"Không. Không chắc lắm, thông tin rất lộn xộn".

"Ông ấy chết vì làm việc quá sức", giọng bà già bình thản. "Ông ấy xoay như chong chóng quanh đất nước này để xây dựng những nhà ga, những hệ thống đường ray xe lửa, một buổi sáng người ta tìm thấy ông ấy tại một câu lạc bộ ở Quetta. Ông ấy đã chết".

"Bác chắc chứ?", Viva có cảm giác như cô đang trò chuyện với bà già từ dưới nấm mồ. "Cháu nghe người khác kể lại rằng ông ấy bị bọn cướp đường giết chết, cổ họng ông bị chúng cắt đứt".

"Ai nói với cô điều đấy?", khuôn mặt bà già vụt đanh lại. "Rác rưởi, bịa đặt, hoàn toàn bịa đặt. Ông ấy chết trong lúc đang đi giày vào chân, rất nhanh".

"Cháu không nhớ ai đã nói với mình như thế", Viva trả lời. "Lúc ấy cháu đang ở trường học... giờ cháu không thể nhớ được nữa, nhưng đúng là có ai đấy đã nói với cháu như thế".

"Không cần thiết. Nhiều khi người lớn bịa chuyện ngay cả với những sự thật đơn giản nhất trong cuộc sống khi phải trả lời bọn trẻ. Nhẽ ra bọn họ nên nói với cháu rằng ông ấy đã ngồi trên một đám mây với một thiên thần hay đại loại gì như thế. Hoặc giả bọn họ có thể nói Chúa đã thả yên cương của Người xuống rồi đặt ông ấy lên trên và kéo lên thiên đường".

"Làm ơn", Viva hối bà già, "kể cho cháu nghe tất cả đi. Mọi chuyện đang trôi qua, cháu không thể chịu đựng được thêm nữa. Cháu cần phải biết sự thật và mình đã bị lừa dối như thế nào".

"Chắc chắn những người bà con họ hàng của cô ở Anh hẳn đã phải kể cho cô nghe điều gì đấy". Bà già vẫn tỏ vẻ khá thận trọng.

"Không, hay ít nhất cháu cũng chẳng nhớ nữa. Bố mẹ cháu hầu như không bao giờ quan hệ với bọn họ".

Im lặng. Thời gian vẫn chầm chậm trôi qua trong căn phòng chật chội.

"Nghe này. Tôi không biết nhiều về bố mẹ cô", giọng bà W. trở nên thận trọng. "Nhưng chúng tôi rất thân thiết với nhau". Những ngón tay của bà già khẽ vạch những đường vô định lên lòng bàn tay bên kia, rõ ràng bà W. đang hết sức xúc động. "Tôi không biết phải nói thế nào về họ, tôi không bao giờ làm tốt chuyện này".

"Làm ơn". Viva nắm lấy cánh tay run rẩy của bà già, siết nhẹ. "Đừng sợ. Điều tồi tệ nhất đối với cháu lúc này chính là cảm giác hụt hẫng nếu bác đột ngột kết thúc câu chuyện".

"Ừm". Bà W. nghịch vớ vẩn với mấy điếu thuốc trong tay rồi đưa lên môi một điếu, châm lửa. "Tôi đã nghĩ về chuyện này rất nhiều lần, bây giờ tôi sẽ kể về mẹ cô. Tất nhiên, ban đầu cô sẽ cảm thấy hoang mang, tâm trí cô sẽ không ngớt tìm kiếm những lý do".

"Tôi sẽ bắt đầu từ đây. Mẹ cô là một phụ nữ xinh đẹp, như cô đã thấy trong các bức ảnh rồi đấy. Bố cô xem bà ấy là tài sản quý giá nhất của đời ông, nhưng tôi thì luôn nhớ về bà với hình ảnh của một đứa trẻ của ngày thứ Bảy, hoặc giả bà ấy nên như vậy. Cô biết đấy, ai cũng phải làm việc cật lực để kiếm sống, nhưng việc mưu sinh càng trở nên nặng nề hơn khi bố cô cứ phiêu du quanh năm suốt tháng như thế. Và ông ấy tất nhiên", bà W. nuốt ực một cái rồi nhìn xoáy vào cô, "và tất nhiên ông ấy là một con người phi thường. Tất cả chúng tôi đều phải lòng bố cô như điếu đổ".

Đôi mắt đục mờ của bà W. mơ màng nhìn Viva. Bà yêu ông ấy, cả bà cũng yêu ông ấy.

"Tất nhiên với ông ấy chỉ có công việc là trên hết, đấy là điều hết sức bình thường trong những năm tháng ấy trên mảnh đất này. Nhưng mẹ cô vẫn có những niềm vui của riêng bà. Bà rất có khiếu thẩm mĩ, và tất nhiên, có thể như cô đã biết, bà đã sáng tác ra một số tác phẩm rất thú vị. Cô đã bao giờ nhìn thấy chúng chưa?".

Bà già rướn thẳng người về phía trước, dúi một vật nho nhỏ, khá cứng vào lòng bàn tay của Viva. Thoạt nhìn cô những tưởng món đồ đang nằm im trong lòng bàn tay mình chỉ là một chiếc cúc áo màu xanh hải quân ngoại cỡ: một chiếc cúc áo hình then cài được thiết kế hết sức tinh xảo. Nhìn kỹ hơn, Viva mới nhận ra hình dáng một cô gái được quấn trong một bọc vải liệm hay một tấm khăn choàng và được chạm trên một hòn đá cẩm thạch màu xanh thẫm.

Cô nghi ngại nhìn món đồ nhỏ nhắn trong tay, tự hỏi không biết đấy có phải là một giải thưởng an ủi được bà già dành cho cô sau những vật lộn tìm kiếm giữa một đống áo quần ẩm ướt và mốc thếch. Món đồ lưu niệm phảng phất bóng dáng một con người bé nhỏ ấy nằm gọn trong lòng bàn tay, không lớn hơn ngón tay cái của cô là bao, có vẻ đã từng trải qua những tháng ngày huy hoàng của cuộc đời. Viva cảm nhận được sự quan trọng của món đồ trong tay. 

"Cháu nhớ mang máng ngày xưa mẹ thường tạo ra những món đồ thủ công hết sức tinh xảo", cuối cùng cô cũng lên tiếng. Ký ức mơ hồ gần như biến mất trong tâm trí cô lại là điều hết sức quan trọng để giữ cho bà Waghorn tiếp tục câu chuyện với bất kỳ thông tin nào mà bà già có thể hãy còn nhớ, Viva lật món đồ trong tay. "Nhưng cháu không thể tìm thấy bất kỳ một tác phẩm nào của bà để lại. Nhưng bác có chắc vật này là do một tay mẹ cháu làm không? Trông nó giống như một món đồ vẫn thường thấy trong viện bảo tàng".

"Khi bà ấy tặng cho tôi...", bà già lấy lại món đồ trên tay Viva, âu yếm vuốt ve như thể đấy là đồ vật hết sức quan trọng đối với mình. "... bà ấy không để tôi được cảm ơn. Bà ấy nói, "đấy là một tặng vật từ thần lửa". Cô biết không, một hôm, tôi bất ngờ bước chân vào xưởng điêu khắc của bà ấy mà không hề thông báo trước. Ừm, đấy hoàn toàn là một xưởng điêu khắc thực thụ, một túp lều dựng trên sân trường. Lúc bấy giờ bà ấy đang quỳ gối trên mặt đất, mắt nhòe nước trước lò nung của mình. Nhiệt độ trong lều rất cao, hàng tiếng, hàng tiếng đồng hồ miệt mài làm việc với kết cục là một sản phẩm trông giống như một loạt những chiếc bánh nướng cháy xém. Hai chúng tôi ngồi nhâm nhi một ít trà, và tôi đã nói với bà ấy - tôi không còn nhớ chính xác mình đã nói những gì, nhưng kết quả thành ra thế này, "như thế chẳng phải rất vui vẻ, tại sao lại phải bực mình?"".

"Ngay sau đấy mẹ cô đã say sưa giải thích cho tôi nghe với tất cả niềm đam mê của bà ấy những điều tôi đã nghe bà nói không biết bao nhiêu lần trước đấy, rằng thỉnh thoảng khi bạn mở nắp lò nung, bạn sẽ nhìn thấy trong đấy những điều kỳ diệu, một chiếc bình, một món đồ thủ công mỹ nghệ, chúng xinh đẹp hơn nhiều so với những đồ vật mà bạn đã háo hức tưởng tượng sau bao chờ đợi".

"Háo hức!", Bà Waghorn cười phá lên, đầy phấn khích. "Bà ấy bảo với tôi rằng những người thợ làm gốm gọi những tạo vật ấy - những sai lầm linh thiêng ấy - là tặng vật của thần lửa. Lý lẽ biện hộ cho lỗi lầm ngớ ngẩn đầy xấu hổ của bà ấy, phải không?".

"Cháu không biết". Cảm giác trống rỗng trào lên trong lòng Viva, cả cảm giác bị lừa dối về những điều cô chưa bao giờ biết đến. "Thực ra cháu không chú ý nhiều đến chuyện ấy. Nhưng sao mẹ cháu lại dừng lại? Có phải sau khi bố qua đời không? Hay sau sự ra đi của chị Josie?".

"Tôi không nhớ, tôi thực sự không nhớ, nhưng điều gì khiến một người ngừng công việc yêu thích của họ lại? Chồng, con, lang thang hết nơi này đến nơi khác. Những gì tôi có thể nói với cô chính là bà ấy đã nhận ra giá trị của nhiều điều, và mẹ cô đã làm việc hết mình cho những điều ấy".

Viva vẫn còn đôi chút nghi ngờ: Bà Waghorn đột nhiên tỏ ra trôi chảy một cách bất ngờ, và những gì cô vừa được nghe có vẻ như đã được chuẩn bị sẵn từ trước, một câu chuyện bịa đặt, một điều ngọt ngào dễ chịu trước khi dội những thác nguồn chua chát lên đầu cô con gái của người quá cố.

"Trong ký ức của cháu, mẹ không như bác kể", cô nói, "những khi cháu còn là một cô công chúa bé xíu của bố. Cháu chỉ nhớ mẹ, cô biết không, mẹ là người giải quyết những điều vặt vãnh trong cuộc sống của mình: nấu ăn, lên lịch, chuẩn bị đồ đạc trước mỗi cuộc hành trình".

Rất ngắn gọn. Thật bất ngờ khi cô nhớ ra những điều ấy. Cả những cây bút chì mới tinh và những cuốn sách thú vị luôn xuất hiện bên cạnh những món đồ thiết yếu trong những lần dã ngoại, xin thề thật lòng, những kỷ niệm ngày ấy đã khiến cô mê mẩn đến quên cả thời gian đang trôi trên đầu mình.

"Bà ấy đã dốc hết sức lực của mình vào công việc - những món đồ gốm thủ công mỹ nghệ, những bức tượng điêu khắc nhỏ nhắn, cả công việc trang trí họa tiết nữa - và rồi mẹ cô lại thấy hối hận với cái công việc mà bà ấy đang làm", Bà W. tiếp tục câu chuyện, "Mẹ cô bắt đầu cố gắng chạy trốn khỏi nó. Lúc bấy giờ không phải là không có việc để làm. Vẫn còn nhiều việc dành cho bà, nhưng tình hình mỗi lúc một tồi tệ. Với cánh đàn bà con gái chúng ta thì như vậy, còn đám đàn ông thì khác, bọn họ không bao giờ chùn bước".

"Rồi bà ấy không thích nghi được với hoàn cảnh mới. Cả tôi cũng thế, tôi cũng không dễ dàng gì để thích nghi với công việc ở trường học, có lẽ vì vậy mà hai chúng tôi trở nên thân thiết với nhau". Bà già đột nhiên cười nắc nẻ, hệt như một cô gái ranh mãnh. "Bà ấy nhìn nhận và giải quyết mọi vấn đề với con mắt hài hước đến thú vị. Một người có tài bắt chước đến kinh ngạc. Một trong những điều tuyệt vời nhất ở mẹ cô chính là không bao giờ bà để bản thân mình rơi vào những ý nghĩ nghiêm trọng, lúc nào cũng xem nhẹ mọi chuyện. Nhưng chỉ đến khi bà ấy hoàn toàn suy sụp, giá mà cô có thể hiểu được những gì tôi vừa nói". 

Không, Viva đang cố không tỏ ra ngạc nhiên khi nghe câu chuyện bà W. kể. Cuộc trò chuyện đã diễn ra trong năm phút, và cả hai đang đề cập đến một con người hoàn toàn xa lạ.

Chút ký ức ít ỏi trong cô về mẹ chỉ vỏn vẹn gói gọn trong hai hình ảnh - là tiếng sột soạt của vải lụa bóng hay của tấm váy may bằng lụa nõn, hương thơm dịu nhẹ tỏa ra từ bà, và vệt sáng lấp lánh của đôi hoa tai phản chiếu trên gương mặt của mẹ mỗi khi bà ra ngoài vào buổi tối, đến giao lưu tại một câu lạc bộ nào đấy dành cho người lớn hay trong những buổi sáng sớm, lúc nào cũng tất tả đến quýnh quáng, thường xuyên mệt mỏi và luôn núp sau chiếc bóng của bố cô.

"Tôi có đang nói linh tinh không nhỉ?", bà W. bất chợt hỏi cô. "Cứ nói nếu cô muốn tôi dừng lại".

Không, không, không, không. 

"Làm ơn, xin bác đừng dừng lại".

"Ừm". Chú chó tí hon nhảy phốc lên lòng bà già, cuộn mình giữa hai đầu gối. Bà W. âu yếm vỗ nhẹ lên mình nó, hình ảnh về một bà già lẩm cẩm đến ngớ ngẩn lại hiện lên trong mắt Viva, thờ ơ, miệng làu bàu những điều chỉ mình bà già hiểu, cặp mắt mờ khói vẫn lờ đờ dán vào cô.

"Cô gái, tôi muốn hỏi cô điều này", bà Waghorn hỏi, đôi mắt nhòe nước vẫn không rời khỏi khuôn mặt cô. "Thực ra cô đang làm gì?".

Suýt nữa thì Viva gào lên vì sốt ruột. Cô kể ngắn gọn cho bà già nghe về công việc ở mái ấm tình thương, về bọn trẻ, cả những cố gắng trong suốt một năm qua của cô để viết một cuốn sách về chúng.

"Quả là một ý tưởng cực kỳ thú vị", đôi mắt bà Waghorn vụt sáng long lanh. Nhưng rất nhanh chóng, bà già lại quay về với thái độ cảnh giác như ban đầu. "Tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc sẽ có ai đấy để những đứa trẻ Ấn Độ được nói lên tiếng nói của chúng ngay từ đầu. Quả là một ý tưởng rất hay. Bao giờ thì chúng tôi có thể đọc được cuốn sách ấy của cô?".

"Cháu đã thôi không viết nữa".

"Không viết nữa". Mấy từ cuối cùng được bà già lặp lại như một cú vỗ vào mặt cô. "Vì cái gì vậy?".

"Ôi, nhiều lý do lắm".

"Cô không nên dừng lại, đấy là một ý tưởng rất đặc biệt. Tôi sẽ chắc chắn gần như mất trí nếu tôi không tiếp tục nghề dạy học kể từ sau sự ra đi của Arthur".

Viva không còn đủ sức lực để giải thích cho bà già hiểu về những chuyện phiền toái đã xảy ra với cô và trung tâm tình thương, cả những chuyện liên quan đến Azim và Guy.

"Đấy là cả một câu chuyện rất dài", cô não nề. "Kể cho cháu nghe về ngôi trường đi. Bác còn nhớ nữa không?".

"Thật kinh khủng", bà già nói. "Tìm được một công việc mình yêu thích cũng giống như việc chúng ta đào được một kho báu ấy, phải không? Nhưng liệu có cơ hội nào để cô bắt tay trở lại viết tiếp cuốn sách của mình không? Hẳn bọn trẻ sẽ thích thú biết bao nếu được đọc những con chữ chứa đựng những ý nghĩ của chúng".

"Có thể cháu sẽ viết tiếp. Một số bản thảo đã bị hỏng".

"Ừm, chắc chắn cô sẽ viết tiếp chứ?", Bà già nhìn xoáy vào cô. "Khi cô cười, trông cô rất giống bà ấy", bà già nói. "Tôi hy vọng mọi người đều nói với cô như thế".

"Không, không ai nói với cháu điều đấy cả", Viva trả lời. "Không một ai mà cháu từng quen biết còn nhớ đến họ".

"Ôi", giọng bà Waghorn não nề, "thật kinh khủng". Bà già châm một điếu thuốc, khuôn mặt của bà nhanh chóng tan biến trong làn khói trắng xóa. "Khi già đi, cô sẽ thấy cuộc sống trở nên nặng nề hơn", giọng bà già nhẹ tênh, mơ màng. "Cô sẽ sống nhiều hơn với quá khứ, giữa những ký ức".

"Và điều khiến tôi đặt hết tâm trí của mình vào lúc này: quá khứ lúc nào cũng ùa về và tôi luôn phải cố gắng để quên chúng".

"Tôi đã tích lũy được một kinh nghiệm quý giá từ chính mẹ mình", giọng bà Waghorn vụt trở nên sôi nổi, "không bao giờ tôi quên được cả. Khi bố tôi chuyển đến đóng quân ở Calcutta, cứ hai năm một lần, tôi mới được gặp lại bố mẹ mình. Bà trở về nhà khi tôi cứ đinh ninh là mình đã trưởng thành, tôi cắt tóc ngắn, ra ga Thánh Pancras đứng chờ trước cửa phòng vé, mang theo một chiếc túi xách trong tay. Rồi mẹ tôi bất ngờ xuất hiện trước mặt, bước vội vã như chạy về phía tôi. Tôi vui sướng đến nghẹn ngào. Bà vẫn bước dọc theo đường ray tiến về phía tôi, đôi mắt bà hờ hững lướt qua khuôn mặt tôi rồi nhanh chóng bước qua chỗ tôi đang đứng. Tôi đã không bao giờ tha thứ cho bà về điều đấy, tôi không hiểu vì sao lại như vậy. Thật không công bằng với tôi khi cô nghĩ như thế, nhưng có cái gì đấy đã vỡ òa chết nghẹn trong tôi kể từ ngày ấy".

Bà già vỗ nhẹ vào mình chú chó trong lòng rồi ngẩng đầu lên nhìn cô. Im lặng. Viva bỗng thấy lúng túng - bà già vẫn tiếp tục quan sát và đánh giá con người cô, chờ đợi thời cơ để chui tọt vào cái vỏ bọc mà bà không biết chắc là mình có muốn ở trong đấy hay không. Và rồi thời điểm ấy cũng đã đến.

"Tôi muốn uống thêm một ly rượu nữa", bà W. lên tiếng sau một hồi lâu im lặng. "Cô cũng nên làm thêm một ly nữa. Giờ thì, cô có phải là người thích nghe sự thật?".

"Vâng", Viva trả lời, "cháu muốn được nghe sự thật". Tim cô đập loạn xạ.

"Cô chắc chứ?".

"Vâng".

"Cô biết đấy, hôm qua tôi đã choáng váng. Tôi đã kinh ngạc đến nhường nào khi nhìn thấy cô, đến nỗi tôi đã không biết phải làm gì cả".

"Cháu hiểu".

"Ôi cô gái". Bàn tay của bà Waghorn âu yếm vuốt nhẹ lên khuôn mặt cô. "Cô gái yêu quý, làm ơn đừng khóc. Không phải lỗi của cô".

"Là lỗi của cháu". Hai hàng nước mắt vẫn lăn dài trên đôi gò má của Viva. "Lẽ ra cháu nên tới đây sớm hơn".

"Cô gái không cần phải cảm thấy hối lỗi như thế". Cuối cùng bà W. cũng khó nhọc thốt lên mấy lời an ủi với Viva.

"Cô có hiểu không? Tội lỗi chính là niềm vui của gã tá điền và đấy hoàn toàn không phải lỗi của cô. Bố mẹ cô gửi cô trở về nước Anh là bởi họ không muốn cô biết".

"Biết chuyện gì?", Viva có cảm giác cơ thể cô đang dần hóa đá.

Bà Waghorn lại rơi vào trạng thái lẩn thẩn, lầm bầm trong miệng những điều chỉ mình bà hiểu.

Viva rót thêm rượu vào ly của mình.

"Nói cho cháu biết", cô đưa tay lau mắt, căng người cố gắng tỏ ra thật bình tĩnh. Bà Waghorn vẫn không ngừng lầm bầm trò chuyện với chính mình.

Đột nhiên bà già đưa ly rượu lên miệng nhấp một ngụm thật lớn rồi đặt xuống bàn.

"Mẹ cô đã tự tử", bà già nói nhanh. "Tôi tưởng cô đã biết chuyện này".

Tim Viva nhói đau. "Không", cô rên rỉ. "Không".

"Đúng thế". Đôi mắt bà già nhòe lệ. "Nhưng tôi phải nói với cô điều này: bà ấy là người cuối cùng trên thế gian này làm điều ấy. Mẹ cô đã đứng dậy sau những thất bại, tất nhiên là bà đã làm được điều ấy, bà đã từng là một người phụ nữ nhiệt tình với cuộc sống, và quan trọng hơn cả, bà ấy rất yêu cô, nhưng vẫn có những sai lầm. Những điều tôi nói ra ấy không phải để an ủi cô, nhưng nó đã xảy ra với rất nhiều người nơi đây. Mọi người đều cảm thấy mất mát lớn lao sau cái chết của bà ấy".

"Ôi Chúa ơi". Viva gục đầu vào hai tay, mơ hồ thấy hồn mình trôi dạt quanh căn phòng chật chội.

"Bà chắc chắn về những gì mình vừa kể chứ?".

"Chắc chắn", bà Waghorn quả quyết. "Tôi là người duy nhất tìm thấy mẹ cô".

"Tôi sẽ kết thúc câu chuyện ở đây", sau vài giây im lặng, bà W. lên tiếng. Đôi mắt bà già chuyển sang màu xanh nhợt nhạt, có lẽ bà đã bắt đầu ngấm rượu. "Nhưng tự trong thâm tâm, tôi nghĩ một cuộc hôn nhân mĩ mãn không chỉ giống như một đóa hoa mà cần phải có cả người làm vườn để chăm sóc nó, giữ cho nó... từ gì nhỉ?... từ đấy là gì nhỉ?... luôn nở bừng rạng rỡ. Tôi sẽ không bao giờ có thể điều hành được ngôi trường của mình nến không có Arthur bên cạnh - thực tế đúng là như vậy; không đủ niềm tin trao cho những người khác. Cô phải gánh vác chia sẻ những công việc nặng nề với mọi người".

Nói đến đây, hai mí mắt của bà già sụp xuống. "Một nhiệm vụ hết sức mệt mỏi", đột nhiên bà già bừng tỉnh. "Ngày mai cô có thể tiếp tục đến đây với tôi không? Chúng ta sẽ lại nói về những ký ức đã thành tàn tro, cả những chuyện khác nữa".

Bà già gần như đã kiệt sức: một cái túi giấy nhàu nhĩ, trống rỗng, nhỏ thó đến ảm đạm, một tay vẫn nắm chặt ly rượu.

Viva kéo chăn đắp lên người bà già, nhẹ nhàng gỡ ly rượu ra khỏi bàn tay của bà Waghorn. Khi cô nhón chân đi vòng quanh chỗ bà già đang nằm, tâm trạng hãy còn choáng váng gần như mê sảng, trong cô chợt trào lên những thôi thúc mạnh mẽ muốn được cúi xuống hôn nhẹ lên trán của bà già, nhưng những thói quen xưa cũ đã ngoan cố phản đối đến cùng trong lòng cô, chúng khiến cô gần như mệt lả đến không thể lê nổi bước chân mình. Cô vặn nhỏ ngọn đèn dầu rồi bước ra ngoài, khép hờ cánh cửa sau lưng, nói với Hari, rằng đã đến giờ bà chủ của cậu bé đi ngủ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 56


Quay trở về khách sạn, cô đổ sập thân mình xuống giường, đau đớn, mệt mỏi và choáng váng. Khi nỗi đau đã lắng dịu, cô bắt đầu nức nở từng đợt không ngớt. Bao lâu nay cô đã mang trong mình nỗi uất hận nghẹn ngào về mẹ mình mà không một lần ngồi lại và nghĩ về bà với vai trò là một người vợ, người mẹ riêng biệt có đời sống hết sức phức tạp của riêng bà. Bỗng chốc cô thấy xót xa, cả cảm giác hổ thẹn xen lẫn ghê tởm cho sự ngu dại suốt bao nhiêu năm qua của mình. Sao cô có thể vấp phải sai lầm ấy lâu đến thế - mơ mộng vẽ cho mình một viễn cảnh đầy kịch tính về cái chết của bố cô, chôn vùi mẹ cô xuống sâu dưới những hận thù xưa cũ chất ngất được nuôi dưỡng hết sức cẩn thận trong cô?

Khi cô bình tâm trở lại, kiệt sức, hai mắt đỏ hoe, bóng tối đã bao trùm lên khắp không gian, những ngôi sao bàng bạc đã lập lòe trên cao bên ngoài ô cửa sổ đầu giường ngủ trong căn phòng khách sạn nơi cô ở. Đã gần mười giờ tối.

Cô lê bước vào phòng tắm, vặn vòi nước. Cả cơ thể cô cứng đờ như thể cô vừa hứng trọn những trận đòn nặng nề buổi chiều nay, mùi ẩm mốc hòa cùng mùi long não phảng phất xen lẫn với mùi vải vóc đã đến kỳ phân hủy từ trong chiếc rương vẫn còn ám trên hai cánh tay cô.

Viva trừng mắt nhìn những bụi bặm bám trên cơ thể mình trôi tuột theo dòng nước xuống sàn nhà tắm, cảm giác như cô đang bị chôn sống. Cô nghiến răng kỳ sạch cổ, xuống đôi bầu vú, đến cánh tay và hai chân, gội xong đầu, cô nằm dưới vòi nước cho đến khi run lên vì lạnh, đầu óc cô miên man về mẹ.

Đôi khi Viva có cảm giác cô vừa được giải thoát khỏi bóng tối dày đặc quanh mình. Một cảm giác dịu êm len lén xua tan những cơn đau thắt trong lòng - trống rỗng và nhẹ bẫng.

Cuối cùng cô cũng đã chạm tay vào sự thật. Trước đây, cô luôn đổ lỗi cho mẹ, thậm chí nhiều khi trong cô còn trào lên cảm giác căm thù sâu sắc: bởi bà đã không giữ bố yêu quý lại cho cô, bởi bà không hề muốn giữ cô lại bên cạnh, bởi đã tống cô khỏi Ấn Độ với bao kỷ niệm thời ấu thơ, và sự thật là sợi dây liên hệ giữa bà và hai điều quan trọng nhất của đời mình đã bị cắt đứt - là công việc và đứa con của bà. 

Viva tắt vòi nước, với tay nhặt lấy chiếc khăn lau. Qua tấm gương nhòe hơi nước, khuôn mặt cô trở nên mờ ảo và nhạt nhòa. Có thể bao nhiêu năm qua cô chỉ là một hồn ma bóng quế vất vưởng trên cõi nhân gian mà không hề ý thức được thân phận của mình. Câu thơ cô đọc được từ những ngày còn mài đũng quần trên ghế nhà trường bất chợt trở về lởn vởn trong cô, câu thơ về "một nửa tình yêu ta thanh thản đi vào cõi chết". 

Một nửa tình yêu ta thanh thản đi vào cõi chết, nửa còn lại hẳn đang phiêu dạt đâu đó không có trong con người cô, lang thang trong bóng tối trôi dạt như một cánh buồm dập dềnh trên sóng nước, tìm về nơi có Josie và bố mẹ cô đang mòn mỏi ngóng chờ.

Cô trèo lên giường, đặt món đồ mỹ nghệ trong hình hài người đàn bà màu xanh mà mẹ cô đã tạo nên trên chiếc bàn con kê đầu giường ngủ. Trước khi chìm vào giấc mộng mị trên chiếc ghế bành cũ kỹ, bà Waghorn đã kịp dúi kỷ vật ấy vào tay cô.

"Giữ nó". Bà già cẩn thận ép chặt những ngón tay của Viva vào món đồ. "Nó là của cô. Tôi muốn đây sẽ là vật đầu tiên cô nhìn thấy khi tỉnh giấc vào sáng ngày mai".

Cô bần thần quan sát thật kỹ món đồ của mẹ: chiếc khăn trùm đầu được chạm trổ hết sức khéo léo, đôi mắt thông thái pha chút giễu cợt như thể bà vừa pha trò với ai đấy. Càng nhìn, nỗi đau mỗi lúc một quặn lên trong cô, khiến cô rùng mình - sao món đồ bé nhỏ này lại có thể chứa đựng bao thăng trầm chìm nổi của cả một đời người?

Cô tắt đèn, nằm trong bóng tối suy nghĩ về những lời cuối cùng cô đã nói với bà Waghorn.

"Lần cuối cùng bên nhau, giữa cháu và mẹ đã nổ ra một cuộc cãi vã hết sức căng thẳng", Viva thú nhận sau tuần trà. "Đến bây giờ cháu vẫn không thể nào nhớ nổi tại sao lúc ấy mình lại như thế, tại sao cháu lại nổi giận. Có lẽ lúc ấy cháu đã hét lên với mẹ, rằng cháu ghét bà ấy. Con không thể chờ đến ngày quay trở lại trường học được. Cháu muốn mẹ phải cảm thấy đau đớn như bà đã làm với cháu. Đấy là lần cuối cùng cháu còn nhìn thấy bà".

"Lúc ấy cô mới mười tuổi. Những đứa trẻ ở tuổi cô đôi khi vẫn phạm phải những lỗi lầm đáng ghét như vậy đấy", bà Waghorn nói. "Đặc biệt khi chúng buộc phải rời khỏi gia đình. Chắc mẹ cô hiểu điều ấy".

"Bác không biết được đâu".

"Có đấy".

"Thôi nào, bác không cần phải nói như thế để khiến cháu cảm thấy nhẹ lòng hơn".

"Tôi chỉ nói sự thật".

Bà già trao cho cô một cái nhìn sắc như dao, tưởng chừng thấu tận tâm can khi thốt ra những lời vừa rồi với cô. Bà đưa tay che miệng như thể đang được chứng kiến một tai nạn thảm khốc diễn ra trước mắt mình. 

"Bà ấy đã rất đau khổ".

"Không - đừng nói thế, bác không cần phải nói với cháu điều ấy".

"Tôi vẫn phải nói. Sau khi chia tay cô, bà ấy quay trở về trường học và lôi rượu ra uống cùng tôi. Lúc bấy giờ mẹ cô đang bối rối đến cùng cực. Bà ấy biết mình đã có có hành động không phải với cô, rằng bà đã để tuột tay phanh. Tôi nhớ rất rõ điều ấy bởi mẹ cô đã nói với tôi, "thậm chí tôi còn không thể hôn tạm biệt con bé được", và rồi bà như chết lặng, gần như hóa đá - khuôn mặt bà ấy buồn bã đến thê lương. Quá sức chịu đựng của một con người; nhưng tại sao cô lại đổ lỗi vì những chuyện như thế?".

Lúc bấy giờ rõ ràng bà Waghorn đang rất xúc động. Hai bàn tay bà già siết chặt vào nhau, mấy lần cố gắng nuốt cơn nghẹn ngào đang chực tuôn trào. "Cô biết không, ông ấy đã dạy tôi rất nhiều điều", bà già bắt đầu huyên thuyên, "và ông ấy muốn mẹ cô làm việc, nhưng bà ấy đã lẩn trốn quá nhiều và làm việc đến kiệt sức, và rồi khi ông ấy qua đời - ôi chuyện này thật ngớ ngẩn", bà già nghẹn lời, đưa tay đấm nhẹ lên ngực trái.

Viva gần như đông cứng cả cơ thể, bất động ngồi nhìn hai hàng nước mắt đang từ từ lăn trên đôi gò má nhăn nheo của bà Waghorn rồi thấm dần vào cổ áo. Cô có cảm giác những tình cảm đớn đau xa xót riêng tư che giấu bao lâu nay đang bị xâm phạm, chút tình cảm mà cô đã dành cho những bí mật đang được chôn chặt trong lòng tưởng chừng không bao giờ tìm được lối thoát, tìm được lời giải thích.

Khi cô đã bình tĩnh trở lại, bà W. lê chân đến bên cạnh một chiếc tủ gỗ khóa kín, lấy ra cho Viva thấy những món đồ gốm thủ công do chính tay mẹ cô tạo nên. Một chiếc ấm trà men xanh màu ngọc bích, một chiếc đĩa, một cái bát. Những món đồ cực kỳ xinh xắn và tinh xảo.

Viva say mê nhìn ngắm những món đồ kỷ niệm của mẹ để lại, những cơn xúc động không ngớt cuộn lên trong lòng cô.

"Sao bà ấy lại để những món đồ này lại cho bác?", cô hỏi.

"Chúng là cả gia tài của mẹ cô, và bà ấy đã thất lạc khá nhiều món đồ sau những lần di chuyển - thế nên bà ấy muốn tôi giữ chúng".

Không khí nặng nề trong căn phòng vụt biến mất khi bà W. liên tục rung bần bật hai cánh tay trong khi cố cầm tách trà, tiếng ly tách lách cách chạm nhau nghe rõ vui tai. Dồn tất cả sức lực trong mình, bà cố gắng giơ tách trà và chiếc đĩa lót nhỏ bé lên ngang tầm mắt, hứng chút ánh sáng phập phồng tỏa ra từ ngọn đèn đặt trên chiếc bàn kê cạnh cửa sổ. Cảm giác buồn cười tắt lịm trong lòng Viva. "Tại sao lại là những chiếc bình mà không phải là cháu?". Cô muốn cho bà già biết cảm giác hoang mang cùng cực đang gợn lên trong mình, nhưng rồi Viva vẫn không thể thốt nổi thành lời. Có vẻ câu hỏi suýt chút nữa thì bật ra từ miệng cô đầy ắp nỗi xót xa thương cảm đến trần trụi cho chính số phận của mình.

"Cháu vẫn không hiểu tại sao mẹ lại gửi mình về lại nước Anh?", cô bật ra một câu hỏi khác. "Cháu đã làm điều gì sai phải không?".

"Không, không, không, không phải thế", bà Waghorn chợt ủ rũ, khẽ cúi đầu, suy ngẫm. Sau một hồi im lặng, bà già ngẩng đầu lên nhìn cô. "Tôi sẽ nói cho cô biết lý do vì sao. Đấy hoàn toàn là lỗi của tôi, tôi sợ. Tôi đã nói, "hãy gửi con bé về lại nước Anh". Có lẽ lúc đấy tôi đã dùng những lý lẽ như không khí trong lành, bạn bè, không phát âm đúng giọng quê hương xứ sở để thuyết phục bà ấy. Những điều tôi vẫn thường sử dụng để tác động lên những ông bố bà mẹ đang rơi vào tâm trạng lo âu, băn khoăn về tương lai của những đứa con. Sai lầm khủng khiếp nhất của đời tôi. Tất nhiên là tôi có nghĩ đến một lúc nào đấy, rồi hai mẹ con cô sẽ lại hội ngộ nhau. Tôi đã không hề biết bà ấy đã tuyệt vọng đến thế. Tôi xin lỗi", giọng bà già trở nên lí nhí.

Viva đưa mắt nhìn ra sau mái đầu đang rũ xuống của bà già, những lọn tóc trắng xóa lưa thưa còn lại trên làn da đầu màu hồng nhạt. Cô siết chặt bàn tay của Waghorn, nhẹ nhàng nói với bà già, rằng đấy không phải là lỗi của bà, rằng bà chỉ đã tuân thủ những nguyên tắc của cuộc sống... Cô cũng không quên tỏ thái độ sẵn lòng tha thứ, nhưng tự sâu thẳm trong con người mình, Viva biết trái tim cô đang tan nát.

Tâm trí cô quay về với cái ngày nổ ra cuộc cãi vã kịch liệt giữa hai mẹ con, cái ngày mà cô và mẹ bỗng chốc tan đàn xẻ nghé: những vòng tay ôm nhẹ hờ hững, những câu nói chọc cười nhàn nhạt, cả những tiếng gào thét nghẹn ngào trong đau đớn của cô ngay sau đấy khi Viva trốn trong căn buồng vệ sinh chật chội tại một nhà ga xe lửa mà cô đã quên tên trên đường trở về trường học. Phải chi ngày ấy mẹ con cô không bao giờ cách xa nhau nghìn trùng đến thế. Tất cả đều là thực, rất đơn giản mà thật kinh hoàng.

Cuối cùng thì tất cả cũng sẽ trở về với cát bụi, không phải cùng lúc, mà từ từ từng người một, bằng cách làm tổn thương chút ít đến chính bản thân mình. Trong nỗi kinh hoàng đến cùng cực, giữa kiệt cùng tình yêu.

Bên ngoài tấm màn khẽ lay nhẹ bên ô cửa sổ, những ngôi sao đang trở mình nhấp nháy, mảnh trăng lưỡi liềm bàng bạc xanh như đứng lặng giữa trời đêm sâu thẳm. Có tiếng nhạc mơ hồ từ tầng dưới vọng lên, mang theo cả tiếng cười nói lả lơi của đám thực khách. Hẳn bố mẹ cô từng có lần đến nơi này dự tiệc. "Mẹ cô rất thích khiêu vũ", bà Waghorn đã tiết lộ với cô.

Cô mơ màng nghe thấy tiếng cười của mẹ văng vẳng vọng đến, cả hình dáng mơ hồ của bà hiện lên trong chiếc váy lụa màu xanh đầy quyến rũ, đôi giày da rắn tinh tế vừa khít đôi chân, mái tóc dài đen óng của bà mơ màng ôm gọn khuôn mặt, cô nhìn rõ cả chiếc áo váy hẹp thân thẳng nuột bó quanh người bà. Giờ đây cô đã hiểu nhiều điều, và có những điều cô không bao giờ được phép quên lãng. Ấy chính là khoản tiền trong nhà băng.

Dẫu cuộc đời mẹ cô kết thúc giữa mênh mông buồn tủi, nhưng tự trong sâu thẳm tâm hồn, hẳn bà đã rất hài lòng và thanh thản: một người chồng mà bà hết mực yêu thương và kính trọng, công việc yêu thích mà bà dành hết tâm huyết vào đấy, những đứa con xinh xắn. Bà Waghorn cười vang, đầy sảng khoái như một thiếu nữ khi nhớ lại quãng thời gian vui vẻ bên mẹ cô. Khi bà già kể với Viva về công việc của mẹ, trước mặt cô không còn là một Waghorn già nua héo rũ, bà già vụt trở nên tràn trề sức sống, và hình ảnh về mẹ hiện lên đầy sống động, trẻ trung - như một người phụ nữ không có tuổi, đầy ắp sinh lực với đôi bàn tay khéo léo cùng tài năng hiếm có đã tạo nên những tác phẩm tuyệt đẹp mà bà đã để lại trên cõi đời này. Tất cả những điều ấy là thực.

Khi cô tiến đến bên cạnh tấm màn cửa, Viva nhìn thấy một đám mây mỏng tang đang lững lờ kéo đến che ngang mảnh trăng, bầu trời vụt trở nên lung linh như những vân đá cẩm thạch. Một cơn gió hiu hiu thổi đến, những tấm màn trong căn phòng khẽ lay động, cô dùng tay giữ chặt tấm màn, rồi nhanh chóng đóng kín cửa sổ.

Những dự định vụt đến trong cô, rõ ràng và dứt khoát. Cô phải kể với Frank về tất cả những gì đã xảy ra trong ngày hôm nay. Nếu cô không nhanh chóng tâm sự với anh, cô sẽ tìm cách che đậy chúng và rồi sự thật sẽ nhanh chóng phai nhạt và mịt mờ như những dấu chân trần lưu trên cát mịn, và rồi cô và anh sẽ lại tiếp tục đi trên cuộc đời mà không cần sẻ chia tâm sự về những bí mật thầm kín trong trái tim mỗi người. Sẽ rất nguy hiểm. Thậm chí có thể dẫn đến một thảm họa. "Một chi tiết yếu ớt", hẳn bố cô sẽ nói như vậy nếu ông còn sống.

Cô hối hả mặc quần áo, lồng nhanh đôi tất vào hai chân, chải lia lịa chiếc lược lên đầu tóc. Những gì cần làm sẽ phải làm ngay bây giờ, khi mà nỗi đau trong cô đang rất thật hơn bao giờ hết - nếu chần chừ, có thể cô sẽ đánh mất tinh thần.

Viva nhìn đồng hồ đeo tay. Mười một giờ kém hai mươi. Hẳn giờ này lễ tân khách sạn đã đi nghỉ, cả người gác cổng dưới tiền sảnh cũng đã hết nhiệm vụ từ lâu. Cô lao ra khỏi phòng mình, hối hả chạy dọc hành lang vắng lặng, quăng mình vào trong thang máy. Tim cô đập rộn ràng khi cánh cửa bằng đồng thau nhanh chóng đóng chặt sau lưng.

Chiếc thang máy lờ đờ trôi xuống dưới, phải mất khá lâu cô mới xuống được mặt đất. Khi chiếc thang máy khựng lại, cô có cảm giác mình sắp gào lên. Khi cánh cửa chưa kịp mở hết, cô lách mình ra ngoài hấp tấp chạy dọc sàn nhà ốp gỗ tuyết tùng bóng loáng nước sơn hướng về phía người đàn ông chít khăn đang ngồi sau bàn lễ tân.

"Tôi muốn gửi điện tín", cô nói với ông ta, chụp lấy chiếc bút chì trên tay người đàn ông. "Đến Lahore, ngay trong tối nay".

Người đàn ông đưa cho cô một mẫu khai.

"Mọi chuyện đã kết thúc", cô viết. "Hết. Đã xong. Hết". Tim cô đập rộn rã trong lồng ngực như một chú cá còn sống giãy trên thớt. "Làm ơn đến trong dịp Giáng Sinh".
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 57


Bởi Tor là cô gái không bao giờ giữ được bí mật quá vài phút nên cô đã bị Rose và Toby cấm không cho ra ga đón Viva. Cuối cùng, hai người cũng phải mủi lòng nhượng bộ - xét cho cùng thì toàn bộ những chuyện này (Tor không ngần ngại nói thẳng) cũng đều là ý tưởng của cô và sẽ là không công bằng khi loại trừ cô ra khỏi những chuyện ồn ào đầy kích động.

"Đã có chuyện gì xảy ra với chị?", cô lập tức vồn vã ngay khi nhìn thấy Viva bước đi như chạy dọc theo đường ray xe lửa. "Trông chị rất khác".

"Chị có cảm giác mình đang thay đổi", lần đầu tiên Viva không hề tỏ vẻ lưỡng lự khi quàng tay qua vai Tor.

"Chị kể đi". Tor phớt lờ cái nháy mắt của Rose nhắm vào cô. "Chiếc rương lèn chặt những báu vật? Chị có gặp người quen nào ở đấy không?".

Viva cố nhoẻn miệng mỉm cười, rồi giả vờ nhăn mặt than mệt mỏi và đói bụng đến không thể thốt nổi thành lời lúc này, cả bọn lục tục kéo nhau đi ra bãi đậu xe. được vài bước chân, cô buột miệng làm ra vẻ tình cờ hỏi: "Ôi, quên mất, có ai để lại lời nhắn gì cho chị không nhỉ?".

"Không", cả ba cùng đồng thanh trả lời.

"Chị không nghĩ họ lại im lặng như thế", Viva lẩm bẩm, rồi cô cao giọng, "không thể tin được chỉ còn hai ngày nữa là đến Giáng Sinh", cứ như thể đấy mới là chủ đề mà mọi người sẽ nói tới.

"Xin lỗi". Tor không muốn phải chứng kiến vẻ mệt mỏi và bối rối trên khuôn mặt Viva, trong khi cô vẫn tiếp tục bước dọc đường ray, nhỏ bé và mong manh đến ngỡ ngàng.

Mái tóc của cô bám đầy bụi bặm, một lỗ thủng xuất hiện trên chiếc tất dưới chân.

Tor liếc mắt sang Rose. "Nhưng bọn em có một bất ngờ dành cho chị đấy. Một món quà Giáng sinh đến sớm".

"Thành thật mà nói, Tor ạ". Rose lắc đầu. "Nhiều khi tớ nghĩ chắc mình sẽ hạnh phúc đến nhường nào nếu được dán băng keo vào miệng cậu đấy". 

"Vì sao?", Tor phản ứng. "Tớ đã nói gì sai à?".

Không một ai đề cập đến điều bất ngờ thêm một lần nào nữa cho đến khi trở về nhà, và Viva đã tắm gội sạch sẽ, cả ba kéo nhau ra ngồi quây quần trước hiên nhà, bên những tách trà bốc khói. Khi mọi người đang im lặng nhâm nhi, đôi mắt Tor đột nhiên đảo quanh đầy khả nghi nom rõ ngớ ngẩn, rồi cô nhanh chóng đề nghị cả bọn nên kéo nhau ra chuồng ngựa xem người ta cho chúng ăn. Tor còn hào hứng bảo đấy là một trong những điều thú vị nhất mà cô muốn được chứng kiến vào thời điểm này.

Viva, hãy còn nhợt nhạt, miễn cưỡng than phiền rằng hai chân cô vẫn còn tê dại sau những tiếng đồng hồ ngồi bất động trên tàu, có lẽ ra ngoài tản bộ trong không khí thoáng đãng và mát mẻ sẽ tốt hơn. Từ lúc trở về đến giờ, cô vẫn chưa kể với mọi người một từ nào về chuyến đi đến Simla của mình, cả Tor và Rose thừa hiểu bản tính kín đáo của Viva trong những chuyện như thế này nên không ai muốn hỏi han gì nhiều gây áp lực lên cô.

Sau khi đã bàn giao Freddie lại cho người vú em, cả ba bảo với Toby sẽ ra ngoài đi dạo một chút. Trời cuối chiều đã chuyển dần sang màu tím thẫm, những vết son màu vàng, da cam, đào phía cuối chân mây quyện vào nhau choáng ngợp. Ba chị em tay trong tay dắt nhau bước dọc con đường nhỏ, cả ba say mê hướng mặt đón những tia sáng yếu ớt cuối cùng của ngày, bất giác cả ba cùng cười lớn khi nhìn thấy mái tóc vàng hươm của Rose vụt biến thành màu tím mờ dưới ánh sáng ma mị của trời chiều.

Phía cuối con đường bụi đỏ, cả ba dắt nhau bước sang phải hướng về phía lối mòn ken dày những hàng dương hai bên đường dẫn tới sân polo. Xa xa sau sân bóng là ngôi trường, những cánh rừng mờ mờ màu khói, một đàn vẹt ồn ào kéo nhau về tổ, những cánh chim đủ màu sắc vần vũ cuối bóng hoàng hôn hệt như những vệt cầu vồng tí hon. 

Thơ thẩn đến cuối sân polo, cả ba dừng lại im lặng dõi theo những cánh chim dật dờ lên trên nền trời đỏ thẫm. Mấy người đàn ông chơi polo bắt đầu giăng hàng cho ngựa chạy nước kiệu dọc đường biên.

Rose nhoẻn miệng mỉm cười.

"Ấn Độ quả là mảnh đất của những điều kỳ lạ nhất trên trái đất này, phải không?", cô buột miệng hỏi khi cả ba kéo nhau vào sân trong của dãy chuồng ngựa.

"Ý em là, trung thực nhé, đã bao giờ chị để lỡ bất kỳ điều gì ở đất nước này chưa, Viva? Thậm chí là điều tệ hại cũng được. Chị có thấy thế không?".

"Không. Ý chị là có". Viva gần như không thể hiểu mình đang nói điều gì. "Chị không biết". Tim cô bắt đầu loạn nhịp, rộn rã. Hai con bé đang bày ra chuyện gì mà chúng cứ quả quyết là một sự ngạc nhiên dành cho cô thế này?

Cả ba tiến vào khu chuồng ngựa. Mọi thứ ở đây đều cực kỳ ngăn nắp: những bức tường quét vôi trắng tinh sạch sẽ, những vòng dây thòng lọng vắt gọn trên những chiếc móc đồng đóng bên ngoài những ô chuồng ngựa. Cảnh vật thanh bình quá đỗi, tiếng lũ ngựa nhóp nhép cỏ khô hòa cùng tiếng áo quần sột soạt của người giữ ngựa đang lẩn khuất đâu đó trong góc chuồng văng vẳng quanh không gian im vắng.

Bóng hoàng hôn mỗi lúc một đậm dần, hơn một chục chú ngựa màu hồng đang đứng trong chuồng bất giác ngẩng đầu nhìn ba cô gái bằng những ánh mắt tò mò đầy hiếu kỳ; mấy cánh chim bồ câu lượn lờ trên đầu của những chú ngựa. "Một buổi chiều kỳ diệu làm sao!", Rose thốt lên khi cả ba cùng nhau tiến gần hơn đến trước lũ ngựa. "Ngày mai trước bữa sáng em phải ra đây chọn một chú cưỡi một vòng mới được".

Đôi mắt Tor vụt sáng long lanh. "Tớ cũng đang hào hứng chờ đến sáng mai đây", giọng Tor đầy phấn khích.

Rose cười vang. Hai cô gái bắt đầu đọc lớn tên của từng chú ngựa được in trên tấm thẻ bài bằng đồng đóng trên cửa chuồng: Jezri, Treasure,Ruth, Sanya... Ở ô cuối cùng của dãy chuồng, một chú ngựa đực giống Ả-rập tuyệt đẹp, hãy còn những nét hoang dã vương vấn trong từng ánh nhìn, trên mỗi cái gõ móng đứng sau một hàng rào sắt, đôi mắt trắng dã nhìn chằm chằm vào các cô gái. Những móng chân phía trước liên tục gõ lọc cọc lên nền nhà bằng xi măng rắn chắc. Có vẻ chú ngựa không thích bị quấy rối trong những lúc như thế này.

Tor vẫn thản nhiên thơ thẩn hết góc này đến góc khác trong dãy chuồng ngựa, đôi lúc cao hứng cô còn dừng lại thì thầm điều gì đấy với vài chú ngựa sau chuồng, không quên nhét vào miệng chúng mấy viên đường.

Đột nhiên Tor đứng lại, quay người đối mặt với Viva.

"Đã đến lúc rồi, Viva", cô nói. "Hãy quan sát và lắng nghe cẩn thận nhé".

Có tiếng chuông mơ hồ thoảng qua tai Viva rồi biến mất, nhanh như khi xuất hiện, chỉ còn lại tiếng nhóp nhép nhai cỏ khô của lũ ngựa hòa cùng tiếng chổi tre quét dọn của người giữ ngựa sột soạt vọng vào tai cô.

"Lâu quá", Rose xen ngang.

"Đủ lâu để cậu đánh được một giấc".

"Vẫn chưa đến, bởi vì...", Tor đột nhiên đưa tay bịt kín hai mắt của Viva, "... và đây là điều ngạc nhiên dành cho chị". Tor đẩy cô đến trước một ngăn chuồng ngựa "nhìn xem", Tor thì thầm vào tai cô. "Cuối cùng thì cũng đã xuất hiện".

Tim Viva như muốn nhảy khỏi lồng ngực, những âm thanh rít rói đến nhức óc xoáy vào tai cô, nhưng khi cô mở mắt và nhìn thấy điều ngạc nhiên dành cho mình hiện ra trước mặt, nỗi thất vọng tràn trề bỗng chốc trào lên tràn ngập trong lòng Viva.

Chỉ là một chú ngựa con. Không có gì hết ngoài một chú ngựa con mới chào đời - hãy còn ướt nhẹp sau những tháng ngày nằm trong bụng mẹ, run rẩy giữa đống rơm nhuốm đầy máu tươi. Phía trên đầu nó là một con ngựa cái gần như đã kiệt sức, đứng bất động, mình mẩy ướt đẫm mồ hôi.

Những tưởng sau phút giây thơ thẩn rong ruổi dưới bóng hoàng hôn, với tâm trạng hồi hộp và đầy phấn kích, cô đã tưởng tượng đến điều ấy - ôi, không có gì nghiêm trọng nếu đấy chỉ là điều cô tưởng tượng trong đầu - rằng anh sẽ xuất hiện ở nơi đây, đúng vào những phút giây cuối cùng, và rồi cô sẽ tâm sự với anh, sẽ trải lòng với anh về những chuyện đã xảy ra ở Simla, cô sẽ không quên nói với anh về những điều mà mình đã học được sau vài ngày ngắn ngủi tìm về mảnh đất với những kỷ niệm nghẹn ngào xưa cũ ấy. Nỗi khát khao được chia sẻ với anh những thông tin mới mẻ về cuộc đời mình mà cô vừa tìm hiểu được đang tràn ngập trong lòng Viva. Cô đã tưởng tượng ra hình ảnh anh im lặng lắng nghe từng lời cô kể, rồi anh sẽ thấu hiểu và tha thứ cho cô, và rồi hai người sẽ có một mùa Giáng sinh ấm áp và vui vẻ bên nhau. Ngớ ngẩn, khờ khạo, và ngu ngốc làm sao. 

Có cuộc đời như nó vẫn thế và cả cuộc đời như chính chúng ta đang sống, mà cô thì lúc nào cũng ngơ ngác trước cả hai.

Chú ngựa con có bộ lông ướt mượt màu kem với đôi mắt to tròn, đen nhánh. Chiếc đuôi lông xù trông như một cái nùi bông thoa phấn nom rõ buồn cười. Cô cố nhoẻn miệng mỉm cười, một nụ cười đầy gượng ép, dành cho Tor và Rose - trông họ mới trẻ trung làm sao - khi cả hai cùng túm chặt lấy tay cô nhảy tưng tưng quanh mẹ con nhà ngựa trên đống rơm khô trong góc chuồng.

Chú ngựa con lúc bấy giờ mới run rẩy đứng dậy, lảo đảo thân mình trên bốn chân yếu ớt, hếch mũi hít hà những bàn tay của các cô gái. Tor vuốt ve cánh mũi tí hon với những nếp nhăn thừa hưởng từ bố mẹ của chú ngựa con, rồi hào hứng bảo với Viva và Rose, rằng cảm giác mượt như nhung ấy.

"Ngựa mẹ đã không còn đủ sức để cho ra đời đứa con cuối cùng của nó, thế nên chú ngựa ấy giờ đã ở trên thiên đường", Tor thì thầm. "Ngựa mẹ cũng đã vượt cạn hết sức ngoạn mục - Toby nói dòng giống của ngựa đực chỉ xuất hiện trở lại sau rất nhiều thế kỷ".

Viva căng mình cố gắng kiềm chế cơn bão lòng. Nếu khóc lúc này, chắc chắn cô sẽ không bao giờ dừng lại và rồi mọi chuyện với cô sẽ chỉ còn lại bẽ bàng trong xa xót.

Những cổ chân khẳng khiu như những cái que thông điếu của chú ngựa con sụm xuống. Ngựa mẹ âu yếm dùng đầu mũi của nó nâng ngựa con dậy, miệng rít lên những tiếng rên rỉ nhè nhẹ. Chú ngựa con nép mình dưới bụng mẹ, cái đầu cong cong hướng về phía những cô gái trao cho cả ba một cái nhìn đầy mê hoặc, rồi thản nhiên dụi mõm vào bầu vú mẹ nó mút lấy mút để. Ngựa mẹ nhìn các cô gái bằng ánh mắt xa lạ, đầy cảnh giác xen lẫn đôi chút kiêu hãnh. "Của tôi", đôi mắt như muốn nói. "Của tôi, của tôi, của tôi đấy. Các cô cứ ngắm nghía thỏa thuê nhưng cấm được đến gần hơn nữa".

"Nó chào đời tối hôm qua", Tor nói, "nhưng đúng là bọn em đã bất cẩn khi buổi sáng còn để cho Tourmaline, là tên của ngựa mẹ ấy, rong ruổi vài vòng quanh trường. Không ai nhận ra biểu hiện sắp lâm bồn của ngựa mẹ, kể cả những người giữ ngựa cũng thế - bởi ngựa mẹ có vẻ không muốn để cho con người biết. Đến khuya muộn hôm qua, khi em ra chuồng để đưa cho nó mấy quả táo, em đã nhìn thấy bọc nhau thai đang gần được giải phóng hoàn toàn ra khỏi bụng ngựa mẹ từ phía sau mông - ừm, chính xác thì không phải từ trên mông, hai người hiểu ý em chứ".

"Nó không sợ hãi gì hết sao?", Viva rùng mình. Cô có cảm giác đôi chân mình đang run rẩy hệt như chú ngựa con. Ngớ ngẩn, ngớ ngẩn, thật ngớ ngẩn. Cô phải chấm dứt chuyện này lại, không để đầu óc phải bận tâm đến nó nữa.

"Không, bọn em chẳng sợ hãi chút nào cả". Ánh mắt Tor nhìn cô đầy xa lạ. 

"Bọn em thật may mắn khi có một chuyên gia xuất hiện đúng vào thời điểm ấy". Những đầu móng tay của Rose bấm nhẹ vào lòng bàn tay Viva. Khi cô quay đầu lại, Frank đã đứng sau lưng tự bao giờ.

Trong chớp mắt, Viva đã làm cái việc không hề giống với cô chút nào, cái việc mà Tor và Rose đã không ngớt trêu chọc cô suốt cả mấy tháng trời sau đấy. "Anh", cô gần như hét toáng lên. Cô vòng tay ôm chầm lấy anh, siết chặt. Hai hàng nước mắt tuôn trào trên khuôn mặt nhợt nhạt của Viva. Hình bóng anh cao lớn, bất động trong ánh sáng diệu kỳ chợt bừng lên lúc cuối ngày, hình ảnh tuyệt đẹp đến ngỡ ngàng mà cô chưa bao giờ được chứng kiến ấy mãi mãi không bao giờ có thể phai nhạt trong tâm trí Viva. Đôi khi bạn chợt nhận ra, rất nhanh chóng, rằng những khoảnh khắc như thế có thể khiến bạn hoảng sợ. Tâm trí bạn quay cuồng giữa một mớ lộn xộn, cố gắng để có thể xác định được tình cảm của mình dành cho chúng.

Vẫn chiếc áo khoác may bằng vải lanh sờn cũ khoác trên mình, anh mỉm cười với cô, lắc đầu như thể anh không tin vào những gì đang xảy ra trước mắt mình.

Tạ ơn Người, cô nhủ thầm khi ngả đầu và ngực anh. Ngàn lần tạ ơn Người. Cảm nhận vòng tay anh đang siết chặt quanh lưng cô, nước mắt Viva lại lã chã tuôn rơi.

Bất giác cả bốn người cùng bật cười khi nhìn thấy cảnh tượng Tourmaline đang dẫm mạnh chân trước của nó xuống nền bê tông, nghiêng người che chở cho chú ngựa con đang run rẩy chui sâu vào lòng. 

"Anh nghĩ chúng ta đang khiến lũ ngựa hoảng sợ", anh nói. Trái tim cô muốn nhảy ra khỏi lồng ngực khi anh nhoẻn miệng trao cho cô một nụ cười tưởng chừng có thể khiến Viva tan chảy trong tay anh.

Cảm giác ngượng nghịu chợt ùa về, bởi Viva biết Tor và Rose đang im lặng nhìn cô và anh, cả những người giữ ngựa cũng đã dừng chổi thôi không quét dọn, ngẩng đầu nhìn hai người. Ngượng nghịu, e thẹn và líu hết cả lưỡi.

"Anh nhận được điện của em", anh nói. Lúc này cô mới nhận thấy vạt áo của anh đã xổ tung ra ngoài quần từ bao giờ. Một vết xước mỏng manh hãy còn lưu lại phía dưới cằm của anh do bất cẩn trong khi cạo râu. Hẳn anh đã phải cuống cuồng quơ tạm xống áo rồi phi nhanh đến đây ngay sau khi nhận được bức điện của cô. 

"Anh đã định đi Simla, nhưng rồi lại nghĩ có thể em đã rời khỏi đấy, thế nên cuối cùng anh quyết định đến đây".

"Anh ấy lái xe như điên để đến đây đấy", Tor nước mắt lưng tròng mỉm cười hùa vào.

"Chị có thề là mình đã không phỏng đoán gì không nhỉ?", Rose rạng rỡ. "Em nghĩ quý cô Tor của chúng ta cũng khá tinh tế khi nghĩ ra chuyện này đấy chứ".

"Chị không hề phỏng đoán gì hết. Không". Viva nghẹn lời - ngần ấy thôi cũng đã quá đủ với cô.

Tor nhìn đồng hồ đeo tay. "Em có ý tưởng thế này", cô nhanh nhảu. "Chừng hai tiếng nữa mới đến bữa tối. Sao hai người không đi dạo bên ngoài một chút nhỉ? Nếu muốn hai người có thể đi xa đến chừng nào cũng được", cô thốt lên đầy ngây thơ. "Bữa tối sẽ lại muộn như thường lệ".

Khi chỉ còn lại hai người, anh và cô nhìn nhau rồi bất giác cười vang, bởi cả hai vừa nghe thấy giọng Tor tự hào nói với Rose khi cả hai kéo nhau rời khỏi khu vực chuồng ngựa: "đấy cậu thấy chưa, tớ cũng biết cách cư xử sao cho khéo léo và lịch thiệp ấy chứ".

Frank dịu dàng nắm lấy cánh tay cô.

"Chúng ta sẽ đi dạo", anh thì thầm với cô rồi quay sang nói với hai người giữ ngựa lúc bấy giờ đang chống tay vào cán chổi, trố mắt nhìn chằm chằm vào họ. "Chee apbu lamkea? Làm ơn cho chúng tôi mượn một cây đèn được không?

Đón cây đèn dầu từ tay người giữ ngựa, Frank quay sang cô thì thầm: "Có một ngôi nhà mùa hè bên cạnh dòng sông - chúng ta có thể đi bộ đến đấy. Em có theo anh không?".

"Có", cô bẽn lẽn trả lời anh. "Đấy là điều em muốn".

Cô theo anh bước dọc lối mòn hướng ra bờ sông. Đến trước một cầu tàu nho nhỏ nơi những con thuyền đang neo đậu dập dềnh theo sóng nước, những tia sáng yếu ớt cuối cùng trong ngày đang dát vàng giữa dòng sông. Cô nép mình vào vai anh, cả hai im lặng ngắm nhìn đám cỏ hương bồ đang nhạt màu dưới ánh sáng vàng vọt, một đàn vịt trời bóng loáng thả mình trôi lững thững theo con nước, âu yếm ríu rít bên nhau. Chỉ trong chốc lát nữa thôi, những cảnh tượng như mơ trước mắt cô sẽ biến mất, bóng tối sẽ xóa nhòa tất cả.

"Em có lạnh không?", anh hỏi, bởi cô đang run rẩy trong vòng tay anh.

"Em không lạnh", cô thì thầm, khép hờ hàng mi. "Em đang hạnh phúc...".

Cô nghĩ mình phải nói điều gì đấy thật mơ hồ, một điều gì đấy thật hợp lý để giúp cô có thời gian bình tâm trở lại.

"Hạnh phúc bởi tất cả chúng ta lại có thể đón Giáng sinh bên nhau...", nhưng vòng tay anh đã siết chặt quanh lưng cô, nhấc bống cô lên khỏi mặt đất và xoay tròn trên không.

"Không", anh nói. "Không giống như em nghĩ đâu. Suốt bao ngày qua, anh đã luôn nghĩ về em, lúc nào anh cũng mường tượng đến hình ảnh, ở một nơi nào đấy em đang cô đơn đến cùng cực, cứ nghĩ đến điều đấy là anh lại thấy quặn lòng, không thể chịu đựng nổi".

"Đừng nói như thế, anh". Cô đưa tay bịt kín miệng anh, cảm nhận được vành môi mềm mại của anh đang chạm vào thịt da cô, ngọt lịm. "Chờ đến khi chúng ta vào trong lều", cô nói, "em sẽ cho anh biết mình đã trải qua những gì".

Cả hai vội vã chạy về phía cây cầu gỗ được ghép từ những thanh gỗ mỏng manh, anh nắm lấy tay Viva dìu cô bước qua cây cầu. Phía bên kia cấy cầu, một điện thờ nho nhỏ lập lòe ánh nến nằm im lìm dưới một gốc sồi già với những cành cây xoắn xuýt vào nhau. Một đĩa đồ cúng đựng mấy quả cam và một ít trái cây khác đặt trước điện thờ, vài lát trái cây vương vãi dưới mặt đất, có lẽ lũ sóc đã ăn chúng. Phía sau điện thờ là một bãi cỏ mơn mởn, bên kia bãi cỏ là ngôi nhà nghỉ mùa hè được làm từ những tấm ván gỗ sơn trắng.

"Nhanh lên". Anh kéo cô vào trong ngôi nhà rồi đóng chặt cánh cửa sau lưng, cô có cảm giác máu nóng đang dồn lên mặt. 

Ngôi nhà nhỉnh hơn túp lều một chút, thoang thoảng mùi thơm đặc trưng của gỗ thuyết tùng và mùi hương trầm dịu nhẹ. Một chiếc bàn đặt chính giữa căn phòng, một xấp giấy và vài chiếc bút chì nằm im lìm trên mặt bàn, một cái chõng cũ kỹ kê sát vách tường, một chồng đệm đã sờn màu vải xếp chồng trên chõng, một bó cán gậy cric-kê dựng ngay ngắn trong góc nhà. 

"Mấy thứ này thuộc về một người chủ nào đấy", Frank nói. "Ông ấy đã đi nghỉ xa. Tor bảo với anh nơi này rất 

an toàn".

Khi anh châm ngọn đèn, vặn thấp sợi bấc, lúc bấy giờ cô mới nhìn rõ những ngón tay rám nắng xương xương của anh, mái tóc màu đồng hun khẽ lay động. Chưa bao giờ cô có cảm giác mất bình tĩnh đến thế.

"Ngồi xuống đi em", anh dịu dàng nói với cô. "Ở đây, ngay bên cạnh anh". Anh âu yếm kéo tay cô đến ngồi trên chiếc chõng kê bên cạnh cửa sổ.

"Anh đã lo cho em đến nhường nào", anh thì thầm. "Gần như phát điên lên được, anh đã có cảm giác mình sẽ chết. Anh...".

Những ngón tay của anh lùa vào mái tóc mượt mà của cô, rồi anh hôn nhẹ lên môi cô, ban đầu hãy còn rụt rè rồi bỗng chốc vụt trở nên cuồng nhiệt hơn bao giờ hết - một nụ hôn dài và sâu hut hút, đầy ắp niềm khao khát. Cô thở dốc, đôi giày tuột khỏi chân cô, cơ thể cô căng cứng, từng tế bào trong con người cô như đang nhảy múa, như đang reo vui. Một cảm giác đê mê đến tê dại.

Anh ngả đầu nằm xuống bên cô, khoảnh khắc của sự khuất phục trước những điều từng sợ hãi, từng mong muốn nhất.

"Khoan", đột nhiên anh dừng lại. "Hãy kể với anh. Chuyện gì đã xảy ra ở Simla?".

Cô hít một hơi thật sâu, chậm rãi kể cho anh nghe về chiếc rương - cố gắng kể câu chuyện liên quan đến nó trước tiên.

"Ý em là, chỉ là chuyện khôi hài - chỉ một ít đồ đạc ẩm ướt cũ kỹ và một chiếc răng sâu của bố em trong đấy. Và rồi em nhớ lại quãng thời gian dài dằng dặc mà mình đã trì hoãn không đến nhận lại nó".

Cô kể với anh về ngôi nhà xưa cũ nơi gia đình cô từng chung sống năm nào - Hari dẫn cô đến đấy trên đường ra ga tàu lửa quay trở về nhà Tor. Chỉ còn lại một mái nhà nhỏ bé ẩn mình trong sương sớm, mọi thứ đều nhuốm màu xưa cũ, đìu hiu và hoang vắng đến chạnh lòng, những rừng cây cao vút bao bọc quanh ngôi nhà, hàng hiên xập xệ, trơ mòn khung gỗ. Cô đã không kể cho anh nghe về cây đu vẫn còn vắt vẻo thòng lọng từ trên một chạc cây xuống gần mặt đất ngoài sân nhà, một gia đình nhà chim đã đóng tổ trên đấy từ bao giờ, cây đu nơi cô và Josie đã đung đưa bên nhau hàng tiếng đồng hồ mỗi ngày; cả căn phòng ngủ dùng chung của hai chị em với những lớp giấy dán tường lỗi mốt, về lũ chim, vườn cây ăn trái... tất cả đã tan tác, xơ xác đến tội nghiệp, nhưng vẫn còn phảng phất lưu dấu trong khu vườn bạc màu. Trên lối mòn phủ đầy cỏ dại giữa vườn, hai thân cây đổ gục chắn ngang lối đi; bên ngoài mái nhà, hệ thống máng xối chỗ thì gãy vụn, chỗ thì tắc nghẽn lèn chặt lá khô mục rữa.

Tất cả chỉ có thế. Không còn bất kỳ một người quản gia từ những tháng năm xưa cũ ấy xuất hiện để kể cho cô nghe những câu chuyện về gia đình cô trong quá khứ, không cả những người láng giềng vẫn sớm tối có nhau nhớ đến gia đình cô, không một chút manh mối, chỉ còn lại cánh rừng mịt mù dày đặc vây quanh ngôi nhà cũ nát, như thể đấy là kết cục tất yếu dành cho nó.

Cô kể về cái ngày cuối cùng trước khi cô rời khỏi Simla, bà Waghorn đã dẫn cô ra nghĩa trang Sanjauli, ở đấy lần đầu tiên cô được tận mắt nhìn thấy ba nấm mồ của bố, mẹ và chị Josie nằm sát bên nhau. Cảnh vật yên bình đến nao lòng. Hàng thông vi vút vẫy gọi mỗi khi có cơn gió lùa qua, bầu trời trắng mờ màu ngọc trai. Cô nhổ cỏ dại mọc đầy trên ba nấm mộ, cắm hoa vào một chiếc bình được cô chuẩn bị từ trước, rồi múc nước từ một dòng suối nho nhỏ chảy ngang qua nghĩa trang tưới lên những ngôi mộ.

Người khắc chữ đã khắc nhầm tên mẹ cô trên mộ chí, gọi bà là Josie Josephine, cái tên mà kể từ đấy đến nay chưa bao giờ cô gặp lại một ai như thế.

Anh chăm chú lắng nghe như nuốt từng lời của cô, đôi mắt xanh biếc của anh dán chặt vào cô. Khi vòng tay anh ôm chặt cô vào lòng, tim cô đập rộn ràng, và Viva đã thôi không còn cảm giác xấu hổ ngượng ngùng như trước đây nữa. 

"Vậy", anh lên tiếng sau khi cô kết thúc câu chuyện, "có thể cuối cùng đấy là điều tốt đẹp dành cho em. Có thể nó sẽ giúp tâm trí em bình lặng trở lại, em sẽ được nghỉ ngơi - một chút thôi", anh ngập ngừng. 

Nói đến đây khuôn mặt anh thoáng chút lo âu, cô biết đã đến thời điểm quyết định. Một phần trong con người cô như muốn nói, làm ơn hãy giữ kín chuyện ấy cho riêng mình, đừng bao giờ tiết lộ với bất kỳ ai, nhưng nửa kia chợt nhận ra, rằng nếu lần này cô tiếp tục lảng tránh sự thật, cửa lòng cô sẽ khép chặt, mãi mãi.

Cô nhìn thẳng vào mắt anh. "Mẹ em đã tự tử".

Trước khi chia tay, bà Waghorn còn tiết lộ thêm với cô nhiều chi tiết về cái chết của mẹ. Giờ đây, cô thấy lòng mình thanh thản khi kể lại với anh toàn bộ câu chuyện. "Năm em lên chín hay mười tuổi gì đấy, mẹ mắc bệnh sốt rét. Bà đã được cứu sống, nhưng sau cơn thập tử nhất sinh, tinh thần bà trở nên bệ rạc đến thê thảm, đầu óc lúc nào cũng miên man nhớ nhung quê nhà. Giờ đây nghĩ lại những ngày ấy, em chợt nhận ra hẳn mẹ đã gục ngã sau cái chết của Josie, nỗi đau chưa nguôi ngoai thì nỗi đau lại đầy lên thêm trong lòng mẹ khi phải chứng kiến sự ra đi của người chồng yêu quý. Trước đây em chưa bao giờ nghĩ đến điều này.

Bà đã một mình một ngựa trèo lên đỉnh núi, ở đấy người ta dựng sẵn một túp lều tạm, ngọn núi ấy cách Wildflower chừng nửa dặm về phía Bắc - một nơi tuyệt đẹp, từ đây có thể nhìn thấy dãy Himalaya ẩn hiện trong màn mây, dưới chân là hai dòng sông mềm mại như hai dải lụa. Bà vẫn thường đến đấy để vẽ. Đã vài lần em được mẹ dắt lên đấy. Vào mùa xuân, anh sẽ được chứng kiến đủ loại kỳ hoa dị thảo: từ cúc vạn thọ tháng Ba, anh thảo dại, dâu tây dại... chen nhau nở kín triền núi. Tại đây bà để lại một bức thư trăn trối, rằng bà rất yêu bọn em, nhưng cuộc sống hiện tại dường như quá sức chịu đựng của bà. Thực ra, "có thể chịu đựng được" có lẽ là cụm từ mà bà định sử dụng. Hẳn mẹ đã ở lại trên đỉnh núi cho đến khi cơ thể bà đông cứng lại và chìm dần vào cõi chết. Bà còn cẩn thận mang theo mấy bó cỏ khô cho chú ngựa, để nó có cái lót bụng chờ đến khi có người tìm đến đấy". Ai đấy sẽ tìm thấy bà, về sau khi đã bình tĩnh trở lại, Viva nghĩ hẳn đấy sẽ là một con hổ hoặc một con kền kền thay vì một con người. Sau rốt thì chúng chỉ là những con vật vẫn thấy nhan nhản ở Ấn Độ.

Frank vòng một tay qua người Viva, tay kia khẽ vuốt ve mái tóc cô.

"Em không biết", cô tiếp tục câu chuyện, đôi mắt cô trở nên hoang dại. "Em đã hận bà ấy suốt bao nhiêu năm qua. Mọi chuyện không may xảy ra em đều đổ hết lỗi cho mẹ, và hầu như những gì em đã kể về bà trước đây hoàn toàn chỉ là bịa đặt. Anh đã đúng khi khuyên em nên trở về nơi ấy".

"Thế em không nghĩ hầu hết mọi nguời đều kính trọng bố mẹ hay sao?", anh hỏi. "Khi còn là một đứa trẻ, em đã chẳng thích thú gì khi ở bên họ, rồi sau đấy, khi đã trưởng thành nếu có đôi lần kể về họ, thì đấy cũng chỉ là những điều tồi tệ mang đậm dấu ấn sai lầm. Ôi tình yêu của tôi". 

Anh nhổm người dậy âu yếm gạt dòng nước mắt đang lã chã tuôn rơi trên đôi gò má của cô.

"Em không cần phải kể cho anh nghe tất cả trong buổi tối hôm nay nếu chuyện ấy khiến em đau đớn đến thế", anh dịu dàng nói với cô. "Hãy cứ chia sẻ từng chút một".

Cô đồng ý với anh. Sẽ còn thời gian để cô sẻ chia tâm sự, cuối cùng thì, cô có thể nói ra sự thật. Về sau, khi chỉ còn lại một mình trong phòng, đầu váng vất trong khi hai mắt vẫn mở to thao láo, cô miên man suy nghĩ: nếu bạn may mắn, phải thật là may mắn, có được một vài người đi bên cạnh cuộc đời mình đủ tin cậy đến mức bạn có thể thổ lộ cho họ tất cả những bí mật, những sự thật về cuộc đời mình - tất tần tật. Những người như Frank, như Rose và Tor, chính họ sẽ giúp Viva giữ kín những bí mật của cuộc đời cô, như bà Waghorn đã đào sâu chôn chặt sự thật về mẹ cô trong lòng bao nhiêu năm qua. Điều cuối cùng cô cần phải làm là kể với Tor và Rose toàn bộ sự thật khi màn đêm buông xuống, hoặc cô sẽ kể khi bữa tối kết thúc.

"Quay qua đây với anh nào", anh thì thầm khi cô kết thúc câu chuyện. Anh siết chặt lấy cô, khe khẽ lắc lư.

"Nhưng vấn đề nằm ở chỗ", cô đột nhiên trở nên sôi nổi, "không một ai thực sự hiểu được tại sao mẹ em lại xử sự như thế. Em chỉ muốn được nghe một lời giải thích, dẫu chỉ là một lời giải thích đơn giản cũng được. Điều gì sẽ xảy ra nếu không có ai biết được bí mật ấy để nói cho em biết? Điều gì sẽ xảy ra nếu tất cả mọi người đều nói với em, rằng trong cuộc đời này, đôi khi người tốt vẫn gặp phải những điều tồi tệ? Em nghĩ cứ buông tay sẽ tốt hơn là nỗ lực hết mình để thanh toán tất cả nợ đời".

"Em có muốn anh kể chuyện mình với Rose và Tor không?", anh hỏi. "Hai người đã rất lo lắng cho chuyến đi đến Simla của em, bọn họ đều có cảm giác em sẽ gặp những chuyện khó khăn như thế ở đấy".

"Làm thế nào họ biết được điều đấy?", cô thốt lên đầy kinh ngạc.

"Anh không biết", Frank trả lời. "Bạn bè luôn là những điều bí ẩn".

"Không hẳn thế", cô nói, nỗi xúc động trào dâng trong lòng khiến cô cảm thấy chóng mặt, lảo đảo. "Em muốn cho anh thấy vật này trước. Nhìn xem".

Cô nhẹ nhàng đặt bức tượng tí hon tạc hình người phụ nữ vào lòng bàn tay anh, trên khoảng trống giữa đường chỉ tay số mệnh và ngón tay cái.

"Còn những bí mật về mẹ mà em chưa bao giờ biết đến - bà còn là một nhà điêu khắc. Chính tay mẹ đã tạc ra nó đấy".

Và rồi, cô chợt nhận ra khoảnh khắc tạo thành bước ngoặt trong cuộc đời mình, ấy là khi anh giơ cao bức tượng bé nhỏ trước tầm mắt, nói với cô mấy câu lịch thiệp trong vô thức, cô không thể chịu được ý nghĩ chấp nhận đấy là những cảm giác kiêu hãnh, những cảm xúc mạnh mẽ giúp cô có thể ngẩng cao đầu trong cuộc sống.

Anh vẫn giữ bức tượng tí hon trong tay, mái tóc màu đồng hun của anh ánh lên như một tấm màn che giữa cô và bức tượng người đàn bà màu xanh bí ẩn. 

Nhìn cái cách anh chăm chú quan sát bức tượng, cô biết anh đã hiểu, và rằng chừng nào còn có người thực sự bình yên trên cõi đời này, người ấy hẳn phải là cô đang bình yên trong vòng tay anh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 58


Cô và Frank quay về khi bóng tối đã tràn ngập không gian. Ánh sáng tỏa ra từ cây đèn dầu trong tay anh lướt qua những hàng dương loang loáng, bập bùng trên đỉnh điện thờ, cả một khúc sông bừng lên như dát bạc. Tay trong tay, cả hai dắt nhau trên con đường đất đỏ trở lại nhà Tor nơi mọi người đang chờ họ cùng chung vui trong bữa tối. Đến gần cây cầu gỗ, anh dừng lại kéo cô vào sau một bụi hoa nhài, đặt lên môi cô một nụ hôn ngọt ngào kéo dài tưởng chừng đến bất tận, ngay cả giờ đây mỗi lần nhớ lại khoảnh khắc ấy, cô vẫn còn nguyên vẹn cảm giác run rẩy nơi đầu gối, gần như quỵ ngã trong vòng tay anh.

Khi cả hai dắt nhau về đến nhà, ngôi nhà lúc này đang bừng sáng bởi hàng trăm ngọn đèn Giáng sinh được thắp lên trên mọi ngóc ngách. Có tiếng nhạc xung quanh ngôi nhà, trong ánh sáng lung linh đêm Giáng sinh và dưới tiếng nhạc dìu dặt, ngôi nhà trông giống như một con tàu thường được dùng để du ngoạn đó đây đang chuẩn bị xuyên qua màn đêm đặc quánh với những rừng cây mơ bóng lặng im phăng phắc vây quanh.

Mọi người dùng bữa tối trong phòng ăn nho nhỏ, Tor và Rose đã khéo léo trang trí bằng những cây nến cùng một giỏ hoa tươi trên bàn ăn. Với những người bạn vây quanh, ly sâm banh sóng sánh trong tay và Frank rạng ngời dưới ánh nến ngồi sát bên cạnh, niềm hạnh phúc trào dâng trong lòng cô.

Thật kỳ lạ, trong chính phút giây ấy, cô chợt nhận ra một điều, rằng có thể nguồn năng lượng đang tuôn trào trong thời khắc ấy chính là một phần của cô để dành cho cả quãng đời còn lại. Nó sẽ ở đấy vì cô, tất nhiên không phải lúc nào cũng sẵn sàng, nhưng đấy chính là điều mà cô có thể quay đầu nhìn lại và vững tin ở nó. Những điều mà cô hoàn toàn hiểu được trong con người mình - cô cảm nhận được sức mạnh mãnh liệt của yêu thương đang trào dâng trong lòng mình. 

Ba tuần sau, cô cùng Frank chuyển đến một căn hộ ở Colaba. Một căn hộ ba phòng nhỏ với giá thuê một trăm ru pi, khoảng mười bảng một tháng. Có một ban công lắp kính ở phía trước, đứng ở đây nếu nhón chân nhìn sang bên phải cô có thể nhìn thấy biển, với những cánh buồm và cả hòn đảo có hình thù của một con voi mờ mờ ẩn hiện trong màn sương phảng phất.

Đấy là hòn đảo nơi có những hang động hãy còn lưu giữ gần như nguyên vẹn những bức tượng thần Shiva và Parvati được chạm khắc trên vách đá có từ thế kỷ thứ VI mà Tor đã có lần gọi bằng hai tiếng "cực sốc" khi kể cho cô nghe. Khổng lồ, tráng lệ, những bức chạm trổ các vị thần đang ở các tư thế giao hoan, chơi trò xúc xắc, đang cãi vã và đang ngửa đầu cười lớn. Ngay chính giữa hang là một bức tượng dương v*t bằng đá khổng lồ và đầy ắp sinh khí, đã được xác nhận, không một chút ngượng ngùng xấu hổ: rằng đấy chính là sự sống, là nơi chúng ta xuất hiện trên cõi đời này. Tại đây những người huớng dẫn đã cho đặt một cái giường khá rộng, rất nhiều người biết ý nghĩa của nó, ngay cả cánh đàn bà con gái đến từ nước Anh vốn dĩ rất tế nhị trong những vấn đề nhạy cảm.

Đến với hệ thống hang động trên hòn đảo, du khách sẽ được trải nghiệm một số hành trình: leo núi, vượt thác và thám hiểm hang động. Không dễ dàng chút nào, nhưng cô và anh đã hai lần đến đấy, một bữa trưa ngoài trời, ngay trên đảo. Trong men say tình yêu ửng hồng đôi gò má, cô âu yếm chuẩn bị đồ ăn cho anh, cô là ủi quần áo cho anh, hôn nhẹ lên những chiếc cổ áo, nom cô rõ buồn cười trong men say tình yêu.

Những ngày trời nóng, Viva ngồi trên ban công, dưới bóng mát của một khóm tre, dõi mắt ra xa qua biển nước lấp lánh ánh nắng như dát vàng nhìn về phía hòn đảo. Vừa gõ bàn phím máy chữ vừa quan sát, đôi mắt cô lướt qua hòn đảo, qua bến cảng, những con tàu tấp nập vào ra.

Hoàn thành cuốn sách gần như là điều kiện của cuộc hôn nhân của cô. Cô đã bắt tay viết lại từ đầu kể từ khi ở Amritstar trở về bởi hầu hết bản thảo của cuốn sách đã bị xé nát. Anh động viên cô thử viết thêm một lần nữa.

Vài ngày sau, khi quay trở lại với công việc dang dở ở mái ấm tình thương, cô tìm thấy xấp bản thảo với những trang giấy rách nát và nhàu nhĩ nằm trong ngăn kéo của chiếc bàn kê trong phòng ngủ của cô, Daisy đã cẩn thận lựa những trang bản thảo đã bị xé nát và những trang bị gạch xóa nhòe nét chữ đặt vào trong một chiếc phong bì để cô có thể dễ dàng tìm thấy chúng.

Khi bọn trẻ được thông báo những câu chuyện cuộc đời của chúng sẽ tiếp tục được viết thành sách, niềm háo hức phấn khích lập tức sống lại trong chúng, bọn trẻ lại bắt tay vào vẽ những bức tranh minh họa cho cuốn sách và miệt mài làm thơ ca ngợi. Chúng giúp cô dán lành những trang bản thảo đã rách, điền vào những chỗ trống bị khuyết chữ. Có tay bọn trẻ giúp đỡ, công việc trở nên nhẹ nhàng hơn bao giờ hết.

Đến ngày 12 tháng Tư năm 1930, cô đã đánh xong những chữ cuối cùng trong cuốn sách. Chuyện kể ở phố Hàng me: Mười đứa trẻ mồ côi ở Bombay kể chuyện đời mình.

Frank, thời điểm này đã quay lại làm việc theo ca ở bệnh viện Gokuldas Tejpal chờ dự án nghiên cứu mới của anh bắt đầu khởi động, đang nằm ngủ trong nhà khi cô đánh xong những chữ cuối cùng của cuốn sách. Cô đứng dậy vặn vẹo cơ thể cho giãn xương cốt sau quãng thời gian ngồi làm việc dài dằng dặc. Ôm gọn xấp bản thảo mới trong lòng, cô bước vào nhà, đặt cuốn sách lên bàn và leo lên giường nằm xuống cạnh anh.

"Đã xong", cô nói. "Em đã hoàn thành cuốn sách".

"Tuyệt", anh khen ngợi. Frank ôm gọn lấy cô trong vòng tay rắn chắc của anh. "Tuyệt", anh tiếp tục thì thầm với cô.

Đôi mắt anh ươn ướt, mắt cô lại dâng lên những lệ. Anh hiểu sau bao thăng trầm, cuốn sách hoàn thành có ý nghĩa với cô đến nhường nào.

Nằm gọn trong vòng tay chở che của anh, cô nghe lòng mình nhẹ bẫng. Thực sự, đấy quả là một điều kỳ diệu. Cứ như thể lồng ngực cô vừa được giải thoát khỏi sức đè trĩu nặng của một tảng đá. Có quá nhiều thay đổi đã đến trong cuộc đời cô.

Sáng hôm sau, Frank phải vào ca ở bệnh viện. Cô thức giấc cùng anh lúc năm rưỡi sáng, xuống bếp chuẩn bị bữa sáng gồm mấy quả trứng bác cho anh. Sau bữa sáng, cả hai kéo nhau ra ban công ngồi nhâm nhi những tách cà phê ngút khói, im lặng ngắm những đoàn thuyền đánh cá đang lặc lè trở về neo đậu trên bến cảng sau một đêm miệt mài đánh bắt. Phía sau đoàn thuyền đánh cá, ngay trước đường chân trời, bóng dáng con tàu chở khách khổng lồ của hãng vận tải P&O đang rẽ sóng lướt những hải lý cuối cùng trong hành trình đến Ấn Độ của nó. Cứ hai tháng một lần, con tàu lại xuất hiện mang theo những hành khách mới. Bóng dáng con tàu mỗi lúc một rõ dần, cô nhớ lại cái ngày đã đứng trên boong tàu cùng với những người bạn đồng hành: Tor và Rose, Frank và Guy, cả Nigel khờ khạo nữa, chàng công chức trẻ tuổi đã đọc cho mọi người nghe những vần thơ hừng hực sức sống trong bài "Ithaka", giờ này đang phiêu dạt đâu đó rất xa - Nigel đã tự tử vào một ngày buồn thảm trong mùa mưa hiu hắt đến tê tái ở Chittagong, một kết cục đúng như chàng trai đã có lần dự đoán về số mệnh của mình. "Ôi xấu hổ quá, ôi thật ngượng ngùng", hôm ấy trên boong tàu, mọi người đều đồng thanh gào toáng lên để trêu chọc Nigel.

Cô nhớ bài thánh ca mơ hồ mà cô đã hát, những âm thanh nghẹn ngào của cây đàn đạp hơi, khuôn mặt xanh xao hãy còn đậm nét thơ ngây của Rose, cô nhớ cả Guy đáng thương - thật khó có thể tưởng tượng được giờ này nó đang trải qua những tháng ngày luyện tập trên thao trường ở nước Anh xa xôi.

"Anh đã chọn ra một số trang bản thảo tốt nhất để riêng trên bàn mình", Frank nói với cô. Hai người đã trao đổi với nhau để tìm ra cách an toàn nhất gửi cuốn sách của cô về London. "Anh sẽ giúp em gói ghém cẩn thận và nếu em đồng ý, chúng ta có thể gửi qua Thomas Cook".

"Vâng", cô trả lời anh. Niềm hân hoan tràn ngập lòng cô, cảm giác hoan hỉ khuây khỏa bởi vừa hoàn thành xong cuốn sách. Anh nhìn thấy những gì cô cần, những điều mà cô không hề mường tượng ra được. 

Ba tuần sau, cả hai đi đăng ký kết hôn ở Văn phòng đăng ký Bombay. Tất cả các nhà thờ đều đã được đặt chỗ trước vào cuối tuần, điều ấy cũng không ảnh hưởng đến hai người bởi dẫu sao thì cả anh lẫn cô đều không phải là những người theo đạo một cách chính thức. Cả hai quyết định sẽ đón tiếp khách mời tại mái ấm tình thương Tamarind, nơi vẫn tiếp tục hoạt động, bởi một phép lạ nào đấy, trước những lời đe dọa đóng cửa được đưa ra từ tháng Sáu năm ngoái của các thế lực đen tối. 

Buổi sáng trước lễ thành hôn, đầu óc nửa tỉnh nửa mơ, nỗi đau đớn quặn thắt quen thuộc ngày nào chợt trào lên trong cô: nhẽ ra trong ngày vui của cô, Josie và bố mẹ cô phải có mặt để chứng kiến, nhưng những khoảnh khắc đáng nhớ nhất của đời người đang trôi qua trong tĩnh lặng. Những gì đã khiến cô phải đến tận đây để tìm hiểu, những gì mà Ấn Độ kỳ diệu đã giúp cô tìm thấy, ấy chính là niềm thương xót tiếc nhớ không bao giờ được xem là một tội ác. Đấy không phải là cảm giác đang nhặng xị tiếc nuối cho chính mình trong con người cô lúc này, hay trở thành một kẻ chỉ biết quan tâm đến bản thân mình một cách thái quá, đấy chính là những điều mà bạn phải làm để tiếp tục trên cõi đời này.

Và cô hiểu hơn bao giờ hết, trong suốt quãng đời còn lại của mình sẽ có những khoảnh khắc - như ngày hôm nay chẳng hạn, hoặc khi những đứa con của hai người chào đời, hoặc những khi mẹ con cô quây quần bên nhau và cô kể cho những đứa con thân yêu của mình nghe về những câu chuyện vụn vặt đã xảy ra trong cuộc đời mẹ chúng - ấy là khi yêu thương trong cô đang trào dâng đến bất tận, cô sẽ yêu những đứa trẻ của mình bằng tất cả máu thịt trong con người cô.

Ngoài cô và anh, còn có thêm ba người nữa đi cùng đến Văn phòng đăng ký kết hôn: Daisy, đội một cái mũ màu tía và đôi giày lỗi mốt, vợ chồng Tor và Toby đã bắt xe lửa từ Amritstar đến bởi chiếc Talbot già nua cuối cùng cũng đã biến thành một khối sắt gỉ vô dụng, vả lại bọn họ cũng chẳng đủ tiền để lấy một chiếc xe khác khá khẩm hơn. Tor là người đầu tiên bước xuống xe ngựa, lập tức nhảy cẫng lên khi nhìn thấy Viva từ xa. Khi trao cho cô một vòng tay ôm siết chặt đầy chân tình, Tor thì thầm vào tai cô tin vui, rằng hai vợ chồng đã có em bé từ dạo tháng Mười. 

Rose không thể có mặt. Trong thư phúc đáp lời mời dự lễ thành hôn của Viva, Rose cho biết cô phải lên tàu trở về nước Anh, bố cô đã lìa trần trước lễ Giáng sinh vài ngày. Khi Rose nhận được tin từ quê nhà thì người bố thân yêu của cô đã ra đi được sáu tuần. Sáu tuần! Hẳn Rose phải đau đớn đến nhường nào khi nghĩ đến cảnh mẹ cô một mình gánh chịu nỗi buồn thương suốt ngần ấy ngày. 

"Em ở lại vài tháng để giúp mẹ gói ghém dọn dẹp cửa nhà", trong thư Rose viết, "và để bà làm quen với Freddie".

Jack, thư Rose viết, sẽ ở lại Ấn Độ. Rose cũng cho biết có thể anh sẽ thu xếp để đến chung vui cùng cô và Frank.

"Chắc cậu ấy sẽ không đến được", Viva nói với Frank. "Bannu cách đây cả ngàn dặm, vả lại cậu ấy lúc nào cũng bận rộn với nhiệm vụ".

"Em không bao giờ hiểu được đâu", Frank nói với cô. "Cậu ấy đang rất cô đơn khi không có chúng ta bên cạnh". Thực lòng, Viva không dám chắc về điều Frank vừa nói với cô.

Nhưng khi cô và anh dắt nhau đến buổi tiệc tiếp đón khách khứa tại mái ấm tình thương trên phố Hàng Me, Jack đã có mặt ở đấy từ bao giờ. Gầy gò và trông già dặn hơn trước, Jack đứng tách biệt khỏi bọn trẻ và hai vợ chồng nhà Toby và Tor, lúc bấy giờ đang xăng xái tung liệng những cánh hoa giấy lả lướt lên đầu đôi tân nương tân lang. Khi cô đưa tay khẽ vẫy chào Jack, anh bẽn lẽn đưa tay chạm nhẹ vào vành mũ chào lại, niềm vui trong lòng Viva như được nhân đôi khi cô nhìn thấy Jack tại lễ thành hôn của mình.

Không còn thời gian để trò chuyện, Talika, Suday và bọn trẻ ríu rít nói cười kéo tay cô đi về căn phòng cũ cô đã ở trong những tháng ngày khó khăn nhất kể từ khi trở về Ấn Độ, nơi có ô cửa sổ nhìn ra tán me xanh mướt phía ngoài sân. Đám bé gái diện cho cô chiếc váy màu xanh lá non, râm ran dành nhau giải thích với Viva, rằng màu xanh luôn là màu hy vọng của các cô gái đến từ xứ sở Maharashtra trong ngày trọng đại của đời mình. Chúng đeo lên cổ tay cô những xâu vòng được kết từ những hạt thủy tinh màu xanh như ngọc, nhẹ nhàng cởi đôi giày kiểu phương Tây đang đi dưới chân cô, giúp cô kỳ cọ từng hạt bụi còn bám trên bàn chân rồi thận trọng đeo lên ngón chân cái của cô một chiếc nhẫn bạc xinh xắn. Sau đấy chúng cẩn thận chải mái tóc vàng mượt của cô, náo nhiệt đuổi bắt nhau chạy quanh chỗ cô đang ngồi. Viva cảm thấy nhẹ lòng trở lại, như thể cô và bọn trẻ được nhấc bổng khỏi mặt đất là đà trên những tàng cây chót vót phía ngoài xa, chao liệng như những cánh diều, tự do như những cánh chim, nghe lòng phơi phới niềm vui. 

Ngoài sân tiếng trống bắt đầu nổi lên, xen lẫn là những âm thanh réo rắt trầm bổng của tiếng sáo. Một đống lửa được nhóm trong lò than mang ra đặt giữa những hàng đá lát.

Talika chạy ra phía cửa sổ nhìn ra ngoài. "Mọi người đang chờ chúng ta đấy", con bé hối hả giục.

Viva nhìn con bé, nhớ lại một Talika bé tẹo gầy yếu đến thê thảm khi cô cô tắm cho nó trong ngày thứ hai con bé ở nhà tình thương. Con bé đáng thương, vào cái ngày mà tấn thảm kịch đổ xuống, nó đã phải gồng mình đến thế nào để gánh vác nỗi bất hạnh to lớn gấp đôi cơ thể nhỏ bé đang đè nặng lên đôi vai mảnh mai của nó, cũng chính từ khoảnh khắc ấy, cô đã xác định mình phải làm điều gì đấy giúp chúng. 

Đôi mắt Talik vụt rạng rỡ khi con bé nhẹ nhàng nâng cao vạt sari của cô. Trên đường dẫn cô dâu ra ngoài, con bé phải nói nhanh cho cô biết thông tin mới. Talika tiết lộ với Viva, rằng nó đã bí mật tiến hành một buổi cầu nguyện thần Shiva và mong cho Viva có thể tìm được một người chồng tốt bụng, sẽ yêu thương cô suốt đời, cả chuyện nó đã vẽ một bức tranh dành tặng cô và hy vọng bức tranh sẽ được cô đưa vào trong cuốn sách. Nhìn sâu vào đôi mắt đầy ắp niềm háo hức mong đợi ấy, trong phút giây thoáng qua, Viva chợt nhận ra, cô nợ bọn trẻ nơi đây nhiều đến nhường nào, dưới mái ấm đơn sơ này, cô đã học được những bài học cuộc đời quý giá từ chúng.

Thêm một ngạc nhiên nữa dành cho Viva khi cô bước chân ra ngoài sân: Ông Jamshed, trông hồng hào hơn trước, xúng xính trong chiếc áo khoác dài khuyết tay thêu thùa hoa văn sặc sỡ từ trong đám đông khách khứa bước ra tiến về phía trước, trao tặng cô một bó hoa cùng một hộp quà gói theo phong cách Thổ Nhĩ Kỳ nom rõ vui mắt. Đứng bên cạnh ông là bà Jamshed đang kính cẩn bê trên tay một đĩa đồ ăn trông giống như một đĩa cơm thập cẩm được chuẩn bị hết sức cầu kỳ, nấp sau lưng bà là hai cô con gái Dolly và Kaniz, mái tóc mới tỉa đầy sức sống, xinh đẹp như những người mẫu vừa bước chân từ trên trang bìa của tạp chí Vogue xuống trong những chiếc váy lụa và những đôi giày khuy bấm tao nhã. Hai cô gái rướn đầu về phía trước, miệng cười toe toét.

Không hiểu vì lý do nào đấy, gia đình ông bà Jamshed đã tha thứ cho cô. Hơn cả sự tha thứ. Daisy tiết lộ với Viva, sáng hôm nay bà Jamshed đã có mặt ở mái ấm từ rất sớm để giúp cô giám sát công việc bếp núc: món cá tẩm bột cà ri dọn trên những khoanh lá chuối tươi xanh như ngọc, đầy đủ các loại bánh pakwan, các món ngọt, modak và bánh bao cùng cơm dừa, tất cả được bày biện trên một dãy bàn kéo dài đến tận cuối sân. 

Bữa tiệc kéo dài suốt hai tiếng đồng hồ, kết thúc bữa tiệc, phía sau tấm mành trúc mỏng manh che hờ trước hiên chợt vang lên tiếng cười nói khúc khích xen lẫn với tiếng cãi cọ xôn xao, rồi Talika nhanh chóng xuất hiện trước đông đủ khách mời, rạng rỡ trong bộ sari màu vỏ quýt.

Con bé khẽ hắng giọng.

"Thưa cô Wiwa, sau đây là món quà bọn cháu dành tặng riêng cô, một điệu múa tập thể đã được bọn cháu bí mật luyện tập suốt mấy ngày qua". Talika nghiêm sắc mặt khẽ liếc mắt vào trong cánh gà, nơi nhóm múa gồm những cô bé trạc tuổi nó đang sẵn sàng bước ra sân khấu biểu diễn. Các cô bé xúng xính trong những bộ sari màu đỏ tươi, màu hổ phách hay màu da cam. Hàng chục chiếc chuông nhỏ xíu đeo quanh cổ chân chúng đồng thanh ngân lên tạo thành những tràng âm thanh lảnh lót đến lạnh sống lưng khi bọn trẻ dàn hàng rồi quây tròn quanh khoảng trống dưới một gốc me. Các cậu bé đi phía trước mở đường cho đội múa. Âm nhạc chợt nổi lên: Suday mũm mĩm chơi trống cơm, một nhạc công chơi kèn trum-pét được mời từ Byculla đến. Rất nhanh chóng, tiếng nhạc và những bước chân rộn rã như muốn nổ tung cả khoảng sân chật chội, các cô gái bắt đầu nhún nhảy và xoay tròn theo điệu nhạc, những bàn tay búp măng thon dài cong cong khẽ vờn trong gió. Khi tiếng nhạc nhỏ dần, tiếng hát non nớt của Talika ngân lên mang theo bao kỷ niệm ùa về trong lòng Viva:

Aaja Sajan, ơi Aaja.

Aaja Sajan, ơi Aaja. 

Hãy đến bên anh, người yêu dấu hỡi

Hãy đến bên anh, người yêu dấu hỡi

Hãy đến bên anh...

Bàn tay Frank tìm đến nắm chặt bàn tay cô, Viva biết anh đang muốn trao cho cô một nụ hôn chan chứa yêu thương, nhưng cả hai đành dặn lòng kiềm chế, bởi không muốn bọn trẻ nhìn thấy những hình ảnh thuộc về người lớn và rồi chúng có thể choáng váng. Chân trần, cả hai sánh bước bên nhau quanh đống lửa linh thiêng bốn lần, thầm nguyện cầu cho nhau về một cuộc đời bình an, vững bền, thanh bình và đầy ắp yêu thương.

Sau nghi lễ, Viva định bụng sẽ đến bên Jack, lúc bấy giờ đang ngồi tách biệt khỏi đám đông, vẻ mặt đầy thận trọng, để hỏi thăm anh chàng vài câu. Nhưng khi cô vừa ngồi xuống bên cạnh Jack, cô chợt nhận ra chàng quân nhân người Anh trước mặt mình thực sự đang gồng mình cố gắng kiểm soát những cảm xúc mạnh mẽ chực bùng lên trong lòng. Không ngớt nuốt nước bọt và hắng giọng liên tục, hai cánh tay rắn rỏi của Jack vặn chặt vào nhau, mồ hôi túa ra ướt đầm cả vạt lưng áo rộng lớn. 

"Rất tốt", Jack nghiến răng nói với cô. "Hạng nhất đấy nhé".

"Tôi ước gì hôm nay Rose có thể có mặt ở đây", cô phớt lờ mấy lời vừa thốt ra từ miệng Jack. "Tôi không nghĩ mình lại có thể có ngày hôm nay mà không có mặt Rose chung vui".

"À, tốt". Jack liếc nhanh sang cô. "Cô có nhận được thông tin gì về cô ấy không?", Jack hỏi. Miếng bánh mì nướng vỡ vụn trong lòng bàn tay anh.

"Không nhiều nhặn gì", cô trả lời. "Chỉ vài dòng ngắn ngủi đến từ tuần trước". Với những nét chữ nghuệc ngoạc, hấp tấp, lấm lem màu mực.

Viva yêu quý. Em thấy mừng và hạnh phúc cho chị. Em nhớ tất cả mọi người. Yêu nhiều. Rose. Một bức thư theo kiểu cho tròn trách nhiệm, không tin tức, khiến Viva có cảm giác Rose vẫn bình thường và đã thực sự trở lại với vỏ bọc ngày nào của cô.

"Cô ấy không kể gì nhiều". 

"Không". Jack dán mắt vào chấm đên trên đầu cô. "Giai đoạn khó khăn. Tôi nghĩ thời điểm này mẹ của Rose đang rất cần cô ấy ở bên cạnh, mà nhiệm vụ ở trung đoàn mỗi ngày một nặng nề, thế nên tôi gần như không thể thu xếp để quay về nước Anh một thời gian. Thế...", Jack nhìn thẳng vào mắt cô. "Còn cô thì sao? Vợ chồng cô định sẽ sống ở đâu?".

Cô kể với Jack về dự định chuyển đến sống tại Lahore - ngay sau khi tiền bản quyền cuốn sách của cô được gửi sang, dự án nghiên cứu căn bệnh sốt rét của Frank sẽ tiếp tục được tiến hành trở lại trong mùa hè này. "Tôi đã", Viva quả quyết, "xác định sẽ theo Frank đến đấy" - giờ thì cô có thể làm việc ở bất cứ nơi đâu. 

"Ừ, hãy cứ đi", Jack lẩm bẩm, đôi mắt anh nhìn cô đầy ngạc nhiên. "Sẽ là vô nghĩa khi mỗi người một nơi. Hai người phải sống bên nhau. Tôi đã không làm được điều ấy. Tôi...", mấy lời cuối cùng Jack lung búng trong miệng nên Viva không thể nghe rõ. Tiếng trống đột ngột dậy lên khiến cả hai sao nhãng. Giữa sân Suday bắt đầu quay cuồng với chiếc trống cơm trong tay; bọn trẻ đồng thanh phùng mang trợn mắt ghé miệng thổi mạnh vào những ống tiêu trong tay để phụ họa cho thằng bé, mấy đứa còn lại túm tụm quanh chú ngựa hình nộm làm bằng giấy bồi bình phẩm, thậm chí có đứa còn lôi một chiếc lược ra chải bờm cho chú ngựa giấy. Frank tiến về phía cô, anh cười lớn, đặt một tay quanh eo cô, tim Viva lại bừng dậy đập rộn ràng trong lồng ngực, cô cảm nhận được nguồn sống mạnh mẽ đang trào dâng trong lòng mình.

Ánh nắng phản chiếu lấp lóa trên cặp mắt kính của Daisy, cô đang đứng trên một chiếc hộp gỗ được trang trí bởi những hoa văn bằng giấy kếp đủ màu sắc sặc sỡ. Khuôn mặt Daisy bừng lên rạng rỡ, cô gõ nhẹ chiếc thìa quấy trà trong tay lên chiếc ly thủy tinh theo nhịp trống của Suday. Tor đứng bên cạnh Daisy khẽ nháy mắt với Viva.

"Xin lỗi mọi người, cho phép tôi được làm phiền một chút". Daisy, đầu ngẩng cao, kêu váng lên rồi im lặng chờ cho đám đông khách khứa ổn định trở lại. "Hôm nay là một ngày tràn ngập những tin tốt", Daisy tiếp tục nói lớn. "Bác sĩ Frank và cô Viva chính thức trở thành vợ chồng, mặt trời rạng rỡ hơn bao giờ hết, chúng ta đang được thưởng thức bữa tiệc của cuộc đời. Thời điểm khó khăn rồi sẽ đến". Dứt lời, Daisy nhắm nghiền hai mắt, mọi người đều hiểu cô đang dành hết tâm trí của mình cho số phận của mái ấm. "Nhưng chúng ta sẽ không bao giờ đơn độc trong cuộc đời".

"Yên nghe! Nghe nào!", Toby la lớn.

"Chúng ta mắc nợ nhau nhiều lắm", giọng Daisy đột nhiên chùng xuống. "Chúng ta nợ các cháu rất nhiều", cô hướng về phía bọn trẻ. 

Và Talika, sau khi nhận được vài cú thúc khích lệ từ sau lưng của bà Bowman, rụt rè đứng dậy bước chân lên chiếc hộp gỗ lúc bấy giờ đã được Daisy nhường chỗ.

"Tiếp theo cháu xin đọc một bài thơ bằng tiếng Phạn", con bé nói, rồi rướn cổ hít một hơi thật sâu.

Hãy nhớ ngày hôm nay, giọng Talika lảnh lót vang lên.

Vì tình yêu cuộc sống.

Giữa những lời dối trá

Về sự thật cuộc đời.

Vì hôm qua chỉ còn là kỷ niệm

Vì ngày mai, những viễn cảnh của tương lai.

Một cơn gió bất ngờ thốc từ trên những tán me xanh um xuống cuốn bài thơ của Talika đi xa, chỉ còn lại tiếng hàng me xạc xào trong nắng, vài giây sau chợt dậy lên những tiếng rống inh tai của một chú lừa từ ngoài phố vọng vào, bất giác bọn trẻ cùng cười vang.

"Hãy nhớ ngày hôm nay". Talika cố rướn cổ ngân dài câu thơ cuối cùng với hy vọng mọi người có thể nghe rõ những gì nó nói, không gian trong sân chợt chùng xuống, im ắng đến nao lòng.

Tất cả chợt vỡ òa, mọi người đồng thanh dành tặng Talika những tràng pháo tay vang dội. Con bé nhảy khỏi chiếc hộp, nhét đôi cánh tay khẳng khiu vào trong vạt sari, đôi má vụt ửng hồng, mái đầu con gái khẽ lắc lư thẹn thùng.

Viva đưa mắt nhìn Tor lúc bấy giờ đang liếc về phía cô, miệng nhoẻn cười hạnh phúc. Hình ảnh những con sóng duềnh dàng cuộn lên giữa biển nước mênh mang, bầu trời trong xanh lồng lộng trên cao chợt ùa về trong cô. Những tháng ngày kỷ niệm đã trôi qua không bao giờ trở lại, bất chợt Talika từ phía sau chạy đến rụt rè nắm lấy những ngón tay cô giật nhẹ. Mọi người tiếp tục ào ra sân nhảy múa, cuộc vui chỉ mới bắt đầu. 

Hết.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom