Cập nhật mới

Dịch Khúc Cầu Hồn

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19


Burton Jarvis rời cái chòi lúc sáu giờ hai mươi phút. Gã ta thức cả đêm, uống rượu tequila và phê thuốc lắc, bây giờ một cái cầu chì cháy đỏ trong đôi mắt gã, một cái gì đó nóng bỏng và sáng rực. Cái gì như là sự sợ hãi. Gã ta giận dữ và không hài lòng, lòng đầy những ân hận gay gắt không liên quan gì đến sai trái. Trong đầu gã quay cuồng những ý tưởng của hệ luỵ và rủi ro, sự hiểu biết về những việc lẽ ra gã không nên làm. Những việc có thể dẫn đến chuyện gã bị bắt bớ.

Nhưng vẫn...

Gã lắc lư trong cái không gian ẩm thấp dưới những tàng cây, cảm thấy vết cắt của sự nhăn nhở lan toả trên khuôn mặt.

Nhưng vẫn...

Nụ cười méo xệch khi gã hì hục với chiếc khóa lớn, chết cứng khi mồ hôi vã trên da thịt. Gã loạng choạng dưới con đường mòn từ cái chòi về căn nhà. Mắt gã ngứa ngáy, và cảm giác như ai đó đổ sáp nến vào xoang mũi của gã. Jar không phải gã đàn ông tử tế. Gã biết rõ điều này, nhưng không quan tâm. Sự thực, gã hãnh diện một cách quái gở khi đứng nhìn những bà mẹ trẻ lôi con mình đi xuống đường cái xe cộ qua lại chỉ vì tránh không muốn chạm mặt gã trên lề đường dành cho khách bộ hành. Sau chín lần bị bắt và mười ba năm tù ngục, quan tâm đến nhu cầu cá nhân trở thành thứ tôn giáo của gã. Gã sáu tám tuổi, mái tóc rễ tre, hai chiếc răng lung lay, và cặp mắt nhìn như những con hàu sống. Một ngày ba gói thuốc lá giúp gã giữ mình; xì ke và bia rượu giúp gã không phải nằm tù. Nó giúp làm nhụt đi khí thế, tạt nước lạnh vào nguồn cảm hứng mỗi khi cái đầu của gã toan tính đi hoang. Với đủ liều thuốc sái, gã có thể sống qua một ngày. Bình thường.

Jar giữ căn nhà tồi tàn trên mảnh đất rộng mười hai mẫu tây ở ngay bờ rìa thị trấn. Con đường hai làn xe chạy ngang qua nhà hướng ra khu bãi rác. Trước nhà là cây cối và phân súc vật, chiếc xe Pontiac mười chín tuổi đời, và một chiếc xe tải xịt khói đen ngòm. Đằng sau nhà là nhiều thùng phi chứa vỏ chai và con lạch đầy ắp rác rưởi.

Và gã có cái chòi. Nó cất ở phía đằng sau mảnh đất, trong cái dẻo rừng khá rậm rạp và sâu. Rất có thể chính gã để cây cối um tùm như vậy cho một mục đích: giấu biến đi cái chòi. Nó không nằm trên bất cứ bản đồ thuế má hoặc bản đồ địa dư nào. Không có giấy phép xây dựng. Nó là cái chòi, hai dặm rừng rậm và một dòng sông.

Trước đây Jar từng trông thấy con nít, dĩ nhiên: một cái bóng vụt hiện ở cửa sổ, một chấm màu nhỏ sâu tận trong rừng. Gã cũng không hiểu những đứa nhóc tì đó muốn gì, xém một lần gã bắt được một anh nhóc. Gã thấy cậu nhóc ở cửa sổ phía đằng sau, và gã chui tọt ra ngoài cửa trước, tiến đến gần, yên lặng và nhẹ nhàng. Gã nắm chặt được mớ tóc nhưng chú nhóc tì vùng vẫy vượt thoát được trước khi gã có thể chộp lấy phần da thịt nào. Jar rượt theo thằng bé khoảng một phần tư dặm đường trước khi hai lá phổi của gã đình công. Gã nhớ giây phút đó: cả hai đầu gối gã quỵ xuống đất, hét vang trời với tất cả sức bình sinh: Trở lại đây một lần nữa tao sẽ giết mày. Tao sẽ... tổ cha... giết mày.

Nhưng chú nhóc đã trở lại, Jar biết thằng bé trở lại hai lần. Gã không hề định sẽ gặp tên nhóc tì như thế này. Không phải giữa thanh thiên bạch nhật.

Chiếc ô tô đỗ đập vào mắt gã trước tiên. Nó đỗ bên cạnh con đường, hai bánh xe phía bên trái nằm gần như hoàn toàn dưới mương rãnh. Jar thấy một mảng thép mạ sáng chói xuyên qua những cái cây và bước ra hàng hiên trước nhà. Gã đang mặc chiếc quần lót, cũ kỹ và che phủ hạ bộ quanh hai chân, nhưng gã cóc quan tâm. Đây là con đường cằn cỗi, nhà hàng xóm gần nhất cũng phải hơn một phần tư dặm đường. Những chiếc xe ô tô nằm ngang trên đường đến bãi rác, đám nhóc tì kéo lê những chiếc xe cũ kỹ ồn ào vang trời, và chỉ có thế. Nơi đây là một mảng thiên đàng của gã, và gã muốn tác oai tác quái như thế nào tuỳ ý. Hơn nữa, giờ này còn sớm. Mặt trời vẫn chưa vượt quá rặng cây. Chiếc ô tô đậu trước nhà gã để làm cóc gì. Phần lớn ai qua lại đây biết điều này rõ hơn.

Gã thò tay vào bên trong và chộp được cây bóng chày dựng đứng dựa vào khung cửa. Nó có nhiều chỗ móp sứt sẹo từ cái lúc gã dùng nó đập tan tành cái tivi khi đội của gã bị mất bóng trong một trận tranh vào vòng bán kết. Jar chập choạng khi gã bước xuống bậc cuối cùng ở hàng hiên, vùng dưới lưng của gã đau nhức khắp nơi và đau nhói như vết kim đâm sắc bén lạ kỳ. Những cái cây nghiêng về phía gã khi gã bước bộ. Một cành cây quét vào mặt và lột một ít da trên gò má của gã.

Tổ cha cái cây.

Gã nện cái cây bằng cây chày, chút xíu nữa té nhào.

Chiếc ô tô là loại xe thùng cũ kỹ: sơn vàng, nội thất bằng gỗ. Vỏ xe đã mòn gai và cao su chắn nước đã bung ra khỏi ở hai cửa sổ. Nó nhìn trống trơn. Jar dừng ở cuối con đường đất dẫn vào nhà gã và dõi cặp mắt mệt mỏi nhìn cả hai hướng của con đường. Không có ai trờ đến. Không có gì trên đường cái ngoại trừ chiếc xe thùng. Phía đầu cầm cây gậy bóng chày ấm và trơn bóng, phần thân chày tơi tả đầy những dăm gỗ tua tủa. Nó cào vào chân gã và đâm xóc dằm vào da gã. Gã dừng chân và thấy những giọt máu nhìn như những giọt mật sáng chói trên bắp thịt trắng không lông của gã.

Cái chày thổ tả.

Các cửa kính của chiếc xe được hạ xuống, thằng bé co người ngồi ở ghế đằng trước. Cậu ta mặc chiếc quần jeans bẩn thỉu và đôi giày rách nát, lông chim hay thứ gì đó đeo trên cổ. Thật là quái gở. Lồng ngực và hai vai trơ ra những lằn nhìn giống như bồ hóng. Mặt cậu ta giống như khuôn mặt mà Jar thấy ở cửa sổ nhà gã, dơ bẩn, gầy ốm và toan tính dở trò. Cậu nằm nghiêng người, ngủ, và Jar có thể mường tượng những ngón tay của gã bóp xung quanh cái cổ xương xẩu của cậu nhóc.

Đây chính là thằng bé lén lút rình mò làm cho Jar phải cẩn thận trông chừng hàng đêm. Jar vút cái nhìn của gã tới con đường, rồi nhìn trở vào chiếc xe. Gã thấy ống nhòm dưới gầm xe, chai nước uống dở còn một nửa và cái máy chụp hình thổ tả. Cái máy chụp hình đó để làm cóc gì? Thằng bé cầm con dao trên tay, con dao loại bỏ túi, mở bung lưỡi.

Jar lẽ ra đã phá lên cười, nhưng gã quá bận rộn lo nghĩ chuyện thanh toán mục tiêu. Không có ai trong tầm nhìn. Ba mươi giây lôi cổ thằng nhóc ra khỏi xe, và khoảng một phút xách nó ra phía đằng sau căn nhà.

Chuyện này thực hiện được.

Nhưng gã đang say rượu và vụng về, kiệt quệ; và người như gã không thọ lâu trong nhà tù. Hơn nữa, lại phải lo thêm chiếc xe. Gã phải nhanh chóng phi tang chiếc xe để không ai dò tìm được tung tích. Nếu anh nhóc vùng vẫy chống cự, chuyện sẽ tồi tệ. Jar là kẻ nóng tính - gã chẳng phủ nhận chuyện này. Có một điều mạo hiểm là sẽ có ai đó trên đường: một tài xế ngẫu nhiên nào đó. Với con đường bẻ cua kiểu này, xe cộ có thể xuất hiện rất nhanh chóng. Nếu ai đó thấy gã lôi anh nhóc ra khỏi xe, họ chắc chắn sẽ gọi báo cớm. Và cớm thì đang điên tiết lên về chuyện một đứa con gái bị bắt cóc.

Và may mắn chỉ đến một mức giới hạn nào đó.

Một trận giao tranh bùng nổ trong đầu Jar. Thằng nhóc này biết điều gì đó. Chắc chắn là như vậy. Nếu không, tại sao nó xuất hiện trở đi trở lại làm gì? Chỉ thấy mặt nó đã làm da của Jar nổi ngứa. Phải có điều gì đó về thằng nhóc này...

Nhưng Jar đang có cuộc sống tốt đẹp. Gã có rượu và không gian, nhiều đêm dài nằm tưởng nhớ ngày tháng tuyệt vời. Gã có cái chòi và đôi khi là thời cơ. Hai dặm rừng trống rỗng.

Nhưng chỉ được như vậy nếu gã cẩn thận.

Gã tần ngần nửa muốn ra tay nửa muốn không, và sự sợ hãi bắt đầu thắng thế. Nhiều chuyện lu bu quá. Gã đang say rượu và không được bình tâm cho lắm.

Nhưng anh nhóc này chính là thằng nhóc đó.

Jar nhận ra gã bắt đầu nhìn chòng chọc vào thằng nhóc hơn một phút, đứng trố mắt nhìn vào cái quần lót thằng nhóc giữa nơi công cộng. Điều đó giúp gã quyết định những gì đang diễn ra trong đầu. Suy nghĩ của gã đập nhịp chậm rãi, và như vậy thì chỉ lành ít dữ nhiều. Gã học bài học đó một cách cay đắng. Chín lần bị bắt và mười ba năm tù tội chỉ vì những sơ hở ngu xuẩn. Quên nó đi. Gã ghi lại biển số xe và sẽ tìm thằng nhóc này sau.

Nhưng thằng nhóc mở choàng đôi mắt, chớp mắt một lần và bắt đầu hét lên kinh hãi. Jar phóng nhào qua cửa sổ như con chuột chui tọt vào lỗ cống.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


Johnny choàng tỉnh sau cơn ác mộng đẫm màu xám. Cậu thấy bầu trời qua lớp kính, sau đó là đôi mắt kèm nhèm vương dính máu, các đầu ngón tay lẫn với vữa vàng. Cậu biết đây là cơn ác mộng vì cậu đã từng thấy nó trước đây - cùng khuôn mặt, cùng những móng tay gẫy. Johnny chớp mắt, nhưng không có gì thay đổi. Gã đàn ông bẩn thỉu đứng đó, những ngón tay càng lúc càng siết chặt, và Johnny nhận ra được cậu đang ở đâu. Tiếng gào thét xé nát cuống họng của cậu và Burton Jarvis lao qua cửa xe quá nhanh. Johnny chỉ vừa đủ thời gian phản ứng. Cậu tự đẩy mình ra xa, nhưng những ngón tay trơ xương chộp vào cổ chân cậu. Johnny một lần nữa la gào, còn Jar lẩm bẩm, âm thanh đến cũng từ một nơi sâu thẳm, kinh tởm như trong giấc mơ của Johnny. Một bàn tay nữa túm chặt cổ chân, Johnny bay ngang qua ghế ngồi. Cậu vung con dao ra, chém một cánh tay và sau đó cánh kia. Những lằn máu đỏ xuất hiện, túa ra, Johnny cố gắng chém vào gã lần nữa; gã quất Johnny quá mạnh, đầu của cậu đập mạnh vào vô lăng. Cánh cửa loảng xoảng, và Johnny rơi xuống đường cái. Đầu cậu đập vào mặt đường. Một bàn chân dậm mạnh xuống, con dao văng ra xa kêu lách cách.

Cậu cố gắng chui xuống gầm xe, nhưng Jar chộp được cổ và lật ngửa người cậu ra. Sỏi đá đập mạnh vào thành xương sọ. Các ngón tay gã bóp chặt và Johnny cảm thấy một lằn dài băng đá in trên ngực cậu. Trong giây phút đó, nó lạnh ngắt, nhưng theo sau là hơi nóng, sự đau đớn, và Johnny biết mình đã bị chém bởi chính con dao của mình. Jar gào thét vào mặt cậu, những chữ tục tĩu và điên loạn, những sợi nhớt dài của nước dãi dính vào mặt cậu. Thêm một lằn lạnh lẽo nữa bung ra và cảm giác như là lửa đốt. Johnny đang chết dần chết mòn, cậu biết như vậy. Gã già chó má này đang giết cậu ngay trên đường cái. Con dao lại chém vào người cậu. “Mày thích vậy phải không?”

Gã chém Johnny một phát nữa.

Và nữa.

“Mày thích vậy phải không, đồ nhãi ranh?”

Gã điên cuồng, giận dữ; sau đó thì trời đất bỗng sấm chớp vang rền và gã nảy người lên, một luồng máu đỏ phụt ra từ ngực gã. Âm thanh ép vào màng nhĩ Johnny, tiếng sấm và tiếng bịch ướt đẫm của thi thể Jar khi rơi xuống lòng đường. Johnny nhắm mắt và không hiểu tại sao gã già lại phóng được lên khỏi mặt đất, đầu cổ co giật mạnh để lại một vệt dài nước dãi trên không trung. Không sao giải thích nổi chuyện gì đang xảy ra, nhưng nó sờ sờ ra như vậy - lớp sơn còn mới trong trí nhớ của Johnny - sau đó cơn đau ập đến. Johnny ngồi dậy và đau đớn che ngực. Tay cậu đưa lên nhức nhối. Cậu nhìn những ngón tay của mình, rồi nhìn nơi khác. Cậu thấy bàn chân gã Jar. Chân của gã co giật một cái.

Chuyện gì xảy ra vậy?

Tiếng đá lạo xạo trên con đường sau lưng Johnny. Đầu tiên cậu thấy cây súng, to và đen, rồi những ngón tay run trắng lẩy bẩy bóp chặt. Đó là những ngón tay nhỏ bé, đất bẩn bám vào chúng. Cánh tay của cô ta gầy guộc, bắp thịt căng ra và khó khăn lắm mới giữ được khẩu súng. Nòng súng xoay vòng tròn vụng dại trên không trung. Một chiếc áo sơ mi màu xanh kéo dài thõng xuống hai đầu gối. Tên của gã Jar được đính ở bảng tên ngay trên túi áo. Cái còng loảng xoảng trên hai cổ tay của cô. Đôi môi xanh tím nơi cô cắn chặt. Cô không nhìn Johnny khi cô bước bộ đi quá cậu. Cô nhìn gã Burton Jarvis, hai chân gã quẫy đập mạnh, những ngón tay co quắp. Johnny hiểu. “Tiffany.”

Cô làm ngơ cậu. Cậu thấy những vết hằn trên hai chân cô bé, những vết cắt sâu giận dữ dưới cái còng sáng chói.

“Tiffany, đừng!”

Ngón tay cái của cô tìm được cò súng. Tiếng kim loại lách cách hai lần và chân của Jar cứng đơ. Khi Johnny đứng dậy, cậu thấy đôi mắt gã mở to và trắng dã. Tay gã già giơ cao. “Đừng,” gã nói.

Máu lăn xuống từ một bên mũi và run lẩy bẩy ở khóe môi Tiffany. Cô ấy sẽ ra tay.

“Tôi cần nói chuyện với y.” Johnny giơ hai bàn tay. “Y biết em gái của tôi ở đâu.”

Tiffany chần chừ. Máu chảy từ môi cô bé xuống một chiếc răng hoàn hảo. Tay cô giơ thẳng ra.

“Đừng,” Johnny nói.

Nhưng cô bé đã kéo cò. Viên đạn xé rách bàn tay của Jar và xuyên phá qua hàm răng y. Cái đầu tung bổng dậy và bật lên bật xuống. Hai chân không động đậy.

Tiffany ngồi xuống đường nhựa và dõi mắt nhìn vào không gian. Cô đặt cây súng bên cạnh trong khi máu của Jar đọng thành vũng dưới chân cô. Johnny chạy đến bên cạnh hông gã già và buông thõng hai đầu gối quỳ xuống. Cậu chộp lấy cái đầu vỡ tan như thể cậu có thể giữ chặt được những gì chảy ra từ bên trong, nhưng hai con mắt mờ đục và trống rỗng, ánh sáng bạc chuyển qua màu xám chì. Trong giây phút, Johnny thấy màu đen, và sau đó thét lên. “Em gái tôi đâu?” Cậu gào thét câu hỏi, tiếp tục la gào, sau đó dập mạnh đầu gã Jar xuống đường, đập thùm thụp cho đến khi âm thanh đi từ khô khốc chuyển sang ướt nước. Cuối cùng Johnny dừng tay.

Đã quá trễ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Levi tỉnh dậy, mất phương hướng, tầm nhìn mờ đi, và tiếng súng nổ đánh thức hắn. Gã không nghĩ nó ở gần đây, nhưng âm thanh vọng lên từ hướng sông. Tiếng súng có thể đến từ bất cứ nơi nào.

Gã chớp mắt cho đến khi mắt sáng rõ trở lại. Gã nhớ là gã bị đau, và khi gã cố ngồi, sự đau đớn cũng bị đánh thức. Một cái gì cưa đứt bụng gã, và khi gã đặt tay lên bụng, bàn tay đỏ máu. Gã nhìn và thấy một cành cây gẫy thò ra khỏi bao tử. Nó dày cỡ cây gậy đánh bi-a, một khúc rễ gì đó sắc cạnh thò ra phía bên phải, ngay dưới miếng xương sườn cuối cùng. Gã thọc ngón tay vào một đầu lởm chởm và cảm nhận được nó thọc sâu vào bên trong nội tạng. Gã chớp mắt để không khóc và cố gắng kéo khúc cây gãy ra ngoài.

Lần thứ hai tỉnh giấc, gã khôn ngoan hơn, gã để yên vậy. Nó gây đau đớn khi gã chuyển động nhưng không quá tệ đến mức gã không thể nhúc nhích được tí nào. Gã phải cố không nghĩ về nó nữa - do vậy gã nghĩ đến chuyện không suy nghĩ về nó. Gã cố gắng quỳ lên, tì trán lên cái thùng, và dang rộng cánh tay. Gã van nài Chúa để có sức mạnh sống thêm một ngày, để làm chuyện cần làm. Gã tin chắc Chúa sẽ nói chuyện với gã, nhưng khi gã mở mắt, gã gặp con quạ đậu trên cành cây. Mắt đen và không nhúc nhích, nó chằm chằm nhìn cái thùng, và Levi chờn rợn một nỗi sợ hãi. Gã không tin những con chim. Chúng nó quá điềm tĩnh, quá chăm chú vào việc con người làm. Và có nhiều chuyện về quạ đen, chuyện từ ông bà cụ kỵ từ thời xa xưa kể về quạ đen và linh hồn người mới chết.

Những truyện cổ tích về linh hồn bị xoắn chặt và đốt cháy trên đoạn đường dài thăm thẳm rớt xuống hỏa ngục.

Levi dang rộng hai tay và dựa vào cái hộp ngay bên trên kiện hàng. Trong giây phút dài, con quạ để ý gã, sau đó vỗ cánh bay lên một ngọn cây khác. Thân cây cháy xém đen vì bị sét đánh trúng, và cái chạc cây ở phía nhánh sông chết khô chuyển qua màu trắng. Con quạ hạ cánh giữa hàng chục con cùng loài, ngoác mỏ kêu một tiếng, rồi im bặt. Không một cái lông chuyển dịch. Chúng nó nhìn Levi, tim gã lạnh cóng. Nó là những con quạ giết người trên đỉnh một cái cây chết khô. Gã nghe như một lời thì thào.

Đàn quạ.

Giọng nói vang lên làm gã giật nẩy mình. Không phải giọng của Chúa. Giọng nói này êm ái và ngọt ngào, làm ấm trái tim gã và làm dịu ngọt vị nếm trong mồm gã. Gã cố đứng dậy, sự đau nhức lan tỏa khắp người làm mắt cá chân gã ngã quỵ. Gã cắn môi trong đau đớn tột cùng, sau đó lăn người nằm ngửa ra. Hơi nóng bốc lên xung quanh, và khi gã nhìn lên trên, đàn quạ đập cánh xào xạc và phần phật làm cho cái cây chết khô cũng phải cựa mình rên rỉ. Levi nắm mắt cá chân và cảm thấy có điều gì không ổn, da thịt gã sưng tấy lên như quả dưa. Gã bị bong gân, có thể gãy xương, và gã đoán chừng nó xảy ra khi gã vội vã chạy xuống lòng sông. Lúc ấy gã không hề hay biết. Nhưng bây giờ thì cảm nhận được; gã đứng lên và cảm thấy nhức nhối trong những tế bào thần kinh, đột ngột xảy ra khiến gã bật khóc.

Gã nhìn lên đường rạch của bầu trời đen màu thép súng và nghe giọng nói lạ lùng quen thuộc thì thào.

Đàn quạ.

Giọng nói làm gã sợ. “Ngài đang ở đâu đấy?” Gã van lạy, và gã vừa nói chuyện với Chúa. Nhưng không ai trả lời. Trên bầu trời không còn con quạ nào, và khúc gỗ mục vẫn di chuyển, lên và xuống, từ bên này qua bên kia, một thời gian khá lâu sau khi đàn quạ đã bay đi.

Phải mất một giờ đồng hồ để gã tìm lại can đảm thử bước một lần nữa. Khi sự nhói đau quay trở lại hành hạ hai mắt cá chân, gã quyết định gã phải bò. Và gã làm thế, dọc theo bờ sông, lên phía trên cao, rấm rứt khóc trong khi gã kéo lê cái kiện hàng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


Bãi đỗ xe nhà thương không còn chỗ chứa tất cả các xe tải mới. Chúng đậu sát khít vào nhau mà Charlie phải to mồm mới giữ được một làn xe trống đề phòng trường hợp xe cứu thương cần chở bệnh nhân nhập viện. Đó là công việc của Charlie, nhân viên an ninh bãi đậu xe, kiểm soát cổng và giữ cho người lạ không xâm nhập. Y đứng dưới cái cổng xây, chớp đèn dưới ánh sáng gay gắt. Đây là lần phỏng vấn thứ năm của y.

Y giơ một cánh tay lên, không chú ý đến đám đông, mắt hướng vào cô phóng viên đứng băng tần số bốn. Ngoài đời, cô ấy đẹp tuyệt vời chẳng khác nào khi cô xuất hiện trên truyền hình. Trông cô như minh tinh màn bạc.

“Ngay chỗ ấy,” Charlie chỉ. “Chiếc xe lái đến cổng vào, chập chà chập choạng. Tông vào cái tảng xi-măng, bật ngược ra, rồi lao vào đây.” Charlie chỉ vào nơi y đang đứng. “Thật may là tôi nhảy kịp.”

Cô phóng viên gật đầu, mặt cô không hề có dấu hiệu nghi ngờ. Bụng dạ Charlie có thể tin tưởng bằng ba người thường. “Ông nói tiếp đi,” cô nói.

Charlie gãi chỗ da mỏng trên đầu. “Thì chỉ có như vậy thôi,” y tiết lộ. Cô phóng viên cười tươi, Charlie cảm thấy người nóng ran. “Cậu bé Johnny Merrimon ngồi sau vô-lăng tay lái phải không?”

“Đúng rồi. Tôi nhớ mặt cậu ta từ hồi năm ngoái. Khó mà quên được, thật đấy. Họ dán hình cô em sinh đôi của cậu ta khắp nơi. Hai người nhìn như hai giọt nước. Cậu ta người đầy vết chém, và dơ bẩn. Chiếc xe toàn máu.”

Cô phóng viên ngó mắt vào ống kính máy thu hình. “Johnny sẽ mười ba...”

“Không có lý do gì ngồi đằng sau vô-lăng tay lái...”

“Nhưng cô con gái ngồi chung xe với cậu ta là Tiffany Shore.”

Charlie gật đầu. “Cái cô mà bị bắt cóc. Phải rồi. Cô ta đấy. Mặt cô ta cũng được đăng tải trên nhật báo.”

“Cô Tiffany trông có vẻ bị thương không?” Đôi mắt cô phóng viên toát ra sự khích thích nhẹ nhàng. Đôi môi tô son để lộ hàm răng lóng lánh đầy đặn.

Charlie buông tay khỏi đầu. “Không biết thương tật như thế nào. Cô bé bị còng tay và còng được tháo ra. La mắng om sòm. Bắt đầu hét lên khi chúng tôi cố lôi cô bé ra khỏi ô tô. Cô ấy không chịu buông cánh tay của Johnny ra.”

“Còn cậu Johnny Merrimon thì sao. Cậu ta bộ dạng như thế nào?”

“Bộ dạng cậu ta? Tổ cha. Cậu ấy nhìn y như người Da đỏ hoang dã.”

“Người Da đỏ hoang dã?”

Cô phóng viên đẩy micro gần hơn. Charlie nuốt nước miếng, rời mắt khỏi môi cô phóng viên. “Phải đó. Cậu ta có mái tóc hất ngược phía sau, cô biết không, và đôi mắt đen láy. Cậu ta mình dây, ốm như con chồn, và không mặc áo. Trên cổ có đeo lông chim và xương xẩu - Tôi thấy cái xương sọ, thề trước Chúa, xương sọ - và khuôn mặt của cậu ta bôi vẽ toàn những sọc đen tuyền và đỏ, như là sọc dưa.” Y diễn tả bằng cách dùng hai ngón tay bung ra quẹt trên mặt y. “Cô hiểu không, như quẹt sơn trên mặt vậy đó.”

Cô phóng viên hứng khởi. “Vẽ mặt như những chiến binh?”

“Với tôi, cậu ta nhìn bẩn thỉu, dơ dáy, mắt trắng dã và hoang dã, thở hổn hển cứ y như mới vừa chạy bộ mười dặm đường.”

“Cậu ta có bị thương tích gì không?”

“Phần lớn là những vết chém. Xẻ thịt, tôi có thể nói như vậy. Bị xẻ thịt, người đầy máu và bùn đất. Rất khó khăn cậu ta mới buông tay khỏi vô-lăng. Họ phải kéo cậu ta ra khỏi xe. Cảnh tượng rất hỗn loạn, tôi nói cho cô nghe.” Y gật đầu. “Hỗn loạn.”

Cô phóng viên tiếp tục đẩy micro gần hơn. “Ông có nghĩ Johnny Merrimon đã cứu mạng cô bé Tiffany Shore khỏi kẻ bắt cóc cô bé không?”

“Tôi không rõ về chuyện đó.” Y ngưng và chằm chằm nhìn vào cô phóng viên. “Nhìn hai người họ không thấy rõ người nào cứu người nào.”

Hunt đứng trong căn phòng sáng, bóng ông là một vòng cong vặn dưới nền nhà được đánh bóng kỹ lưỡng. Một động mạch đập mạnh trên thái dương của ông, và một liều axít nóng bỏng dâng lên từ lồng ngực ông. Ông đang nói chuyện với sếp, cảnh sát trưởng, và ông cố gắng hết mình để không vung tay đấm một phát hạ đo ván gã.

“Làm thế chó nào mà ông bỏ sót đối tượng này?” Ông Cảnh sát trưởng có đôi vai xệ và vòng bụng càng ngày càng phát phì, nổi tiếng khắt khe, và bản năng mưu sinh của một chính trị gia. Bình thường, ông ta tránh dẫm chân xen vào chuyện của Hunt, nhưng hôm nay không phải một ngày bình thường. “Lạy Chúa tôi, Hunt, gã đó thuộc thành phần ấu dâm có tiền án.”

Hunt đếm đến ba trong yên lặng. Một bác sĩ đi qua, sau đó một y tá gầy gò đẩy chiếc giường trống. “Chúng tôi đã hai lần thẩm vấn gã. Gã cho phép chúng tôi lục soát nhà và chúng tôi đã tiến hành khám xét. Không tìm thấy gì trong nhà. Đâu phải chỉ mình gã là kẻ duy nhất có tiền án. Nhiều kẻ khác được liệt kê vào danh sách đáng nghi ngờ hơn. Nhân sự thì chỉ có giới hạn.”

“Lý do đó không đủ.”

Hunt tính toán trên đốt ngón tay. “Lần cuối cùng gã phạm tội là mười chín năm trước. Gã ta không còn bị quản thúc đã mười sáu năm, và chúng tôi không hề hay biết về cái chòi. Không có giấy phép xây dựng hoặc hoá đơn điện nước. Không dấu hiệu gì trên bản đồ thuế khoá. Nó không dùng điện công cộng, hoàn toàn tối um. Ngoài kia có khoảng mười ngàn cái chòi như vậy ở trong quận hạt và chúng ta sẽ không bao giờ biết hết. Rồi còn Levi Freemantle nữa chứ. Tôi chưa bao giờ gặp một dấu hiệu điều tra nào chắc chắn như vậy. David Wilson nói ông ta tìm thấy cô con gái. Vân tay của Freemantle tìm thấy trên thi thể Wilson...”

“Tôi đang bị đóng đinh trên thập tự giá ngoài kia.” Ông Cảnh sát trưởng phóng ngón tay chỉ về hướng nhà thương. “Trên truyền hình quốc gia.”

“Thì, chuyện đó ngoài tầm kiểm soát của tôi.”

Mắt ông Cảnh sát trưởng hẹp lại. Giọng nói ông ta nguy hiểm. “Ông thích thú chuyện này lắm có phải không?”

“Thôi đừng có ngớ ngẩn!”

“Họ đều muốn biết làm sao anh nhóc đó tìm được Tiffany Shore trong khi chúng ta không thể. Cậu nhóc đó mới có mười ba tuổi, lạy Chúa tôi, họ muốn biến nhóc tì đó thành anh hùng.”

“Chúng ta đâu biết rõ chuyện gì xảy ra ngoài kia.”

“Nhìn tôi ngu lắm hả! Nói về chuyện anh nhóc, cảm ơn luôn, ông cho gã Ken Holloway một cơ hội nhai ngấu nghiến phao câu tôi. Tôi nhận bốn cú điện thoại gọi từ toà thị sảnh. Bốn cú gọi, hai cú trong đó từ thị trưởng thành phố. Holloway đang đưa ra những lý lẽ nghiêm trọng. Gã hăm doạ sẽ kiện.”

Sự giận dữ của Hunt tăng lên một nấc. “Gã ta hành hung một viên cảnh sát của ông. Ông cũng nên quan tâm vấn đề đó.”

“Thôi ông làm ơn im dùm tôi đi Hunt. Gã ta lấy ngón tay trỏ lên ngực của ông thôi.”

“Gã ta cản mũi kỳ đà cuộc điều tra của tôi.”

“Cản trở cái gì.” Khuôn mặt ông Cảnh sát trưởng chứng tỏ còn những điều bỏ lửng.

Hunt sửng cồ. “Điều đó có nghĩa là gì?”

“Gã Holloway cho rằng ông có một sự quan tâm cá nhân với bà Katherine Merrimon. Một sự quan tâm tình cảm.”

“Chuyện đó thật vớ vẩn.”

“Vậy sao? Gã nói rằng ông vẫn hay quấy rầy gã. Gã nói ông phản kích gã.”

“Gã trở thành kẻ gây hấn. Tôi hành động như tôi thấy thích hợp.”

“Cảnh sát viên Taylor xác nhận lập luận của gã ta.”

“Cô ấy sẽ không bao giờ nói như vậy.”

“Cô ta không cần phải nói như vậy, đồ ngốc. Trong cuộc đời ngắn ngủi của cô ta, cảnh sát viên Taylor không bao giờ có thể che dấu một cảm xúc chân thật nào. Tôi chỉ việc đặt câu hỏi.”

Hunt bước ra xa, và ông Cảnh sát trưởng tiếp tục. “Cái tôi quan tâm là hành động của ông ảnh hưởng như thế nào đến tôi, cho nên tôi sẽ hỏi thẳng thừng với ông: Ông có tình ý gì với bà Katherine Merrimon?”

“Ông cứ nói thẳng ông muốn tôi làm như thế nào.”

“Tôi muốn ông trả lời câu hỏi đó.”

“Câu hỏi đó hèn hạ quá.”

Thời gian kéo dài. Hơi thở của Cảnh sát trưởng nặng nề. “Có thể ông nên nghỉ việc một thời gian.”

“Đâu có được.”

Ông Cảnh sát trưởng thở hắt, và trong giây lát trông ông ta có vẻ biết thông cảm.

“Này, Clyde. Chúng ta chưa hề tìm ra Alyssa. Và vụ án này chưa kết thúc... mọi người đưa ra các câu hỏi.”

“Về chuyện gì?”

Vẫn cái nhìn thông cảm. “Về năng lực của ông. Trước đây tôi đã từng nói với ông, ông nhìn nhận sự việc này quá cá nhân.”

“Không quá so với bất cứ nhân viên cảnh sát nào.”

“Sáng hôm nay, ông hò hét trước đám đông những người hiếu kỳ. Ông đã đá văng một thùng sơn tại hiện trường án mạng của chính ông phụ trách.” Cảnh sát trưởng quay mặt đi hướng khác, rồi lắc đầu. “Chuyện đã kéo dài cả năm trời. Tôi nghĩ ông cần một thời gian nghỉ ngơi.”

“Ông sa thải tôi đấy à?”

“Tôi yêu cầu ông nghỉ việc vài tuần lễ. Tối đa một tháng.”

“Không.”

“Như vậy đó sao?”

“Như vậy đó.”

Sự thông cảm biến mất. Phẫn nộ bùng phát. “Vậy thì để tôi nói cho ông những gì cần phải làm. Trước tiên, ông sẽ phải đứng ra nhận lãnh bất cứ mũi dùi chỉ trích nào từ toàn bộ công việc be bét ông làm. Nếu báo giới muốn một gã nào để đấm đá, tôi sẽ giao ông cho họ, và chờ xem lúc ông nhận những cú đấm đá. Tương tự với toà đô chánh. Tương tự với bố mẹ Tiffany Shore.”

“Tại sao tôi phải đồng ý những điều đó?”

“Bởi vì tôi đã bảo bọc ông trong suốt thời gian qua.”

“Tào lao.”

“Thứ hai.” Ông ta lên giọng, đập hai ngón tay vào lòng bàn tay mở. “Tôi muốn ông tránh xa gã Ken Holloway. Gã đàn ông ấy có nhiều tiền hơn cả Thượng đế, nhiều bạn bè ở những vị trí quan trọng hơn cả hai chúng ta có thể mơ nổi, và tôi không muốn những cái nhức đầu đó. Ngoài chuyện lên giường với một người phụ nữ mà ông đặc biệt quan tâm, gã ta chưa hề làm một điều gì tồi bại trong cuộc đời gã, như tôi có thể biết. Không được bắt bớ. Không có bất cứ truy tố nào. Do đó nếu gã muốn đặt ngón tay của gã lên ngực của ông, ông hãy chấp nhận chuyện đó như một thằng đàn ông. Và nếu gã ta muốn tằng tịu với ả Katherine Merrimon” ‒ Cảnh sát trưởng trỏ một ngón tay trên ngực Hunt, đẩy mạnh nó - “hãy để gã ta tự nhiên.”

Hunt nhìn Cảnh sát trưởng trút cơn bực dọc. Ông ta là kẻ nhỏ mọn, với những ưu tiên nhỏ mọn, và Hunt có những quan tâm to lớn hơn; cho nên ông chôn thật sâu cuộc đối thoại, quên phăng nó đi như giật nước bồn cầu. Quên nó đi. Tào lao. Không biết ông ta hù dọa ai?

Len lỏi đi qua những dãy phòng ốc lắt léo, cuối cùng ông đến khu bệnh nhi nơi họ đang điều trị Johnny. Hunt không được phép gặp cậu bé, nhưng ông hy vọng sẽ tìm được vị bác sĩ nào đó thay đổi ý định. Thật không may, ông thấy một phụ nữ khắc khổ đang ngồi đó, hai đầu gối chập vào nhau, trên một cái ghế dài cuối dãy hành lang từ phòng bệnh của Johnny. Mái tóc bà ấy màu xám, chải hất ngược, và bộ đồ vest cắt ngắn quá cỡ. Hunt nhận ra bà ta.

Sở Xã hội.

Con bà nó.

Người phụ nữ bắt gặp ánh mắt của ông và bắt đầu đứng dậy, nhưng ông quay mặt đi trước khi bà ta có thể nói điều gì. Ông đi ra ngoài đến sảnh trước, nhưng dừng bước khi nghe giọng bà Katherine.

“Thám tử Hunt?”

Đứng bên cạnh một dãy những thang máy, bà ta nhìn rất thảm não. Hunt bước tới bên bà, và cả hai nhận thấy họ cô đơn một cách khác thường trong căn phòng đông cứng người. “Bà Katherine,” Hunt nói. “Johnny sao rồi?”

Bà xoa dọc một cánh tay, sau đó gỡ rối tóc tai khỏi hai mắt và Hunt thấy bà ta đang đứng bên bờ vực thẳm của sự suy sụp. “Không khá. Nó bị chém bảy nhát dao, hai nhát khá sâu.” Bà ta dụi một ngón tay vào hai mắt trước khi nước mắt trào ra. “Phải mất hai trăm linh sáu mũi khâu để đóng vết thương. Những vết thẹo sẽ theo nó suốt đời.”

Hunt nhìn ra phía đằng xa.

“Johnny tỉnh chưa?”

“Bây giờ thì chưa. Có lúc nó tỉnh, nhưng chỉ một chốc.”

“Cậu bé có nói điều gì không?”

“Nó hỏi về em gái Alyssa. Nó muốn biết liệu chúng ta có tìm được cô bé không.” Hunt nhìn chỗ khác, nhưng bà đặt tay lên cánh tay của ông. “Gã đó có phải cùng một người không?”

Bà ta hỏi liệu có phải Burton Jarvis cũng là kẻ bắt cóc con gái bà ta không. “Lúc này quá sớm để kết luận.”

“Phải không?” Bà bóp mạnh tay, và Hunt thấy niềm hy vọng và sự kinh sợ tràn ngập trong bà.

“Tôi không biết,” ông nói. “Chúng tôi đang điều tra vụ này. Chúng tôi đang kiểm tra. Tôi biết điều gì, bà sẽ biết điều đó. Tôi hứa.”

Bà gật đầu. “Tôi phải trở lại... nhỡ khi nó tỉnh giấc.”

Bà toan đi và Hunt chặn bà lại. Ông nghĩ thật kỹ trước khi lên tiếng.

“Bà Katherine.”

“Sao?”

“Sở Xã hội muốn nói chuyện với bà.”

“Sở Xã hội ư? Tôi không hiểu.”

“Johnny bỏ đi cả đêm. Bằng xe ô tô của bà. Một chút xíu nữa thì cậu ấy đã bị giết bởi kẻ ấu dâm có tiền án.”

Hunt dừng. “Tôi không nghĩ họ sẽ để Johnny sống chung với bà.”

“Tôi không hiểu.” Bà vội nói, “Tôi không cho phép như vậy.”

“Cậu bé đeo lông chim. Cậu bé có đuôi rắn chuông và đầu lâu xỏ của rắn hổ mang trên dây đeo cổ. Tôi không biết ông thẩm phán nào sẽ để cậu bé sống với bà. Bà có thấy báo chí truyền hình ngoài kia không? Họ là truyền thông quốc gia. CNN. FOX. Họ gọi cậu bé là Tù trưởng nhí, mọi Da đỏ Hoang dã. Bây giờ nó đã thành chuyện, và người ta chính trị hóa vấn đề. Sở Xã hội sẽ can thiệp bởi vì họ không còn chọn lựa nào khác.”

Sự bất chấp dịu xuống. “Tôi có thể làm gì?”

“Tôi không biết.”

“Làm ơn.” Móng tay bà cấu chặt cánh tay ông. “Làm ơn.”

Hunt nhìn lên và nhìn xuống căn phòng. Trong mười bảy năm, ông chưa từng vi phạm điều lệ bước qua lằn ranh - như nó đây, rõ ràng như bất cứ sợi dây nào ông từng thấy. Hoàn toàn làm chủ bản thân, Hunt bước qua lằn ranh. Tại sao? Bởi vì có nhiều thứ quan trọng hơn.

“Họ sẽ thẩm tra toàn bộ,” ông nói. “Bắt đầu bằng một cuộc thanh tra tư gia không thông báo trước.”

“Tôi không...”

“Bà cần đi về nhà ngay bây giờ. Bà cần dọn dẹp.” Tay bà đưa lên cao, chạm vào một cọng tóc rũ xuống. Hunt ngừng lại, nhưng một điều gì đó đau khổ nhoi nhói trong ông. “Bà cần phải vứt hết những thứ thuốc sái đi.”

“Tôi không...”

Hunt chặn bà. “Làm ơn đừng nói dối tôi, Katherine. Ngay lúc này, tôi là bạn của bà, không phải là cớm. Tôi là một người bạn đang cố sức giúp một người bạn khác.”

Bà nhìn đăm đăm vào mắt ông hồi lâu, sau đó nhìn xuống.

“Katherine, nhìn tôi này.” Bà ta nghiêng mặt, và nó trống rỗng dưới ánh sáng gắt.

“Tin tôi đi.”

Bà chớp mắt gạt những giọt lệ long lanh, và lời lẽ phải cố gắng lắm mới thốt ra được. “Tôi cần quá giang.”

Hunt phóng mắt nhìn qua những lớp cửa kính, quan sát đám đông. Phóng viên. Phó nhòm. Rồi tay ông đan trong tay Katherine. “Hướng này.” Ông dẫn bà đi xuống những hành lang, vào một thang máy, và thoát ra ngoài qua một cửa đôi, đằng sau cửa in dòng chữ DÀNH RIÊNG CHO GIAO HÀNG. “Xe tôi hướng này.”

“Còn xe của tôi thì sao?”

“Tạm giam giữ. Tang vật.”

Đi khoảng bảy, tám mét trong nắng gắt, bà giật tay lại. “Tôi có thể tự lo liệu.” Nhưng khi đến xe, Hunt thấy rõ ràng bà ta không thể. Hai gò má bà đỏ ửng và những ngón tay bà trắng bệch. Bà đứng ép người vào cửa xe và đầu gục xuống. Về đến nhà bà, Hunt cho xe đỗ gần cửa nhà nhất có thể. “Bà có tiền đi taxi để trở lại bệnh viện không?” Bà gật đầu. “Bà biết số điện thoại của tôi chứ?”

Bà vén tóc khỏi khuôn mặt, gặp phải ánh mắt nhìn, và một chút hãnh diện nào đó hừng lên trong ánh mắt ông.

“Tôi có vài tấm danh thiếp của ông.” Bà mở cửa, hơi nóng tràn vào nhà. Ông nhìn đôi chân của bà xoay đi, tay bà đặt trên cánh cửa. Khi bà dựa vào, giọng bà ngắt quãng. “Tôi yêu con trai tôi, thám tử.”

“Tôi biết.”

“Tôi là một người mẹ tốt.”

Bà cố gắng tự thuyết phục chính mình, nhưng độ giãn mở giữa đôi mắt bà làm cho lời nói trở nên giả dối. Johnny đang nằm trong nhà thương, và bà vẫn chai đá. “Tôi hiểu bà,” Hunt nói; nhưng đó không phải những gì ông ấy tin.

Tôi biết bà từng là một người mẹ tốt.

Tôi hy vọng bà sẽ là vậy.

Hunt cài số de.

Bà đứng dưới sân đất nhìn ông lái đi.

***

Ba mươi phút sau, Hunt có mặt ở căn chòi, điều tra hiện trường cùng với thám tử Yoakum và vài chuyên viên. Ông đứng quay lưng về phía căn nhà. “Nhìn kìa,” Yoakum nói với ông.

“Chuyện gì?”

“Cảnh sát trưởng.”

Hunt nhìn xuống con đường mòn thì thấy ông Cảnh sát trưởng đi xuyên qua lớp bụi cây thấp lè tè. Hai người phụ tá theo sau ông ta. Một cảnh sát mặc quân phục giữ những cành cây không để va vào người ông. “Tôi vừa làm chuyện này,” Hunt nói.

“Hàng tốt gói ghém trong những kiện hàng to.”

Hunt đứng khoanh tay trước ngực. Nếu ông Cảnh sát trưởng muốn kiểm tra, chuyện này bình thường, nhưng ông không vui vẻ đón nhận. Ông Cảnh sát trưởng dừng ở khoảng xa hơn năm mét và xem xét khung cảnh xung quanh, hai tay đặt trên hông, cằm hếch lên.

“Gã ta có từng xem cảnh này trong phim không nhỉ?” Yoakum thì thào.

“Im đi, John.”

“Giống y chang trong phim Patton. Con bà nó. Gã ta tưởng mình là ông tướng George C. Scott à?”

Ông Cảnh sát trưởng tiến về phía trước, thu dần khoảng cách, phái đoàn tuỳ tùng của ông kè kè sát cạnh bên. Ông ta gật đầu chào Yoakum và nhìn Hunt với ánh mắt nghiêm trọng. “Đi với tôi.”

Hunt nhìn về phía những bụi rậm hoang dã. “Ở đâu?”

Ông Cảnh sát trưởng nghiên cứu rừng lá um tùm. “Chờ chúng tôi một chốc.” Những phụ tá của ông ta giãn dần ra.

“Ông cũng vậy, ông Yoakum.”

“Tôi?” Tay đặt trên ngực. Hai mắt kinh ngạc.

“Đi.”

Yoakum đi theo sau lưng Cảnh sát trưởng trước khi ông ta bắt đầu duyệt binh, nhưng Hunt tâm trạng rối bời, không có tâm trí đâu vui đùa. Ông chằm chằm nhìn Cảnh sát trưởng, và Cảnh sát trưởng cũng vậy. Sự căng thẳng gia tăng, cuối cùng Cảnh sát trưởng lên tiếng trước. “Về chuyện hồi nãy. Có lẽ tôi hơi quá đáng.”

“Có thể vậy.”

“Nhưng cũng có thể không.”

Cảnh sát trưởng nhìn hàng cây cao giống như bức tường thành của cánh rừng. Cái chòi chỉ là một điểm bé nhỏ trong rừng xanh bạt ngàn. “Nếu ông nói với tôi ông chưa lần mò đến gần đây, tôi sẽ chấp nhận nó.”

Họ nhìn nhau chằm chằm. “Nó là một vụ án mạng khác.”

“Được.” Một cái gật nhẹ. “Cứ tạm coi là như vậy, nhưng hãy coi như đây là cơ hội cuối cùng cho ông. Bây giờ, trước khi tôi đổi ý và tống cổ ông vì sự bất tín không có cơ sở, nói tôi nghe ông khám phá được điều gì ngoài này.”

Hunt chỉ về hướng căn nhà nằm khuất tít phía sau lùm cây. “Chúng tôi tìm được nơi gã Jarvis đấu nối dây điện. Cáp ngầm chôn dưới đất năm phân. Cái chòi này hoàn toàn không dùng điện của sở điện. Và ông cũng đã thấy con đường mòn dẫn vào đây. Nó không một vết chân bước. Những thứ này không tài nào quan sát được từ căn nhà hoặc từ đường cái. Không giấy phép. Không điện nước. Nó chỉ là cái vỏ bọc. Một không gian chết.”

“Những đứa trẻ có khai thác được gì không?”

“Chúng đang được chăm sóc trong phòng yên tĩnh. Bác sĩ không cho phép tôi gặp chúng.”

Ông Cảnh sát trưởng bước vào căn chòi và Hunt theo sau. Ông cảm giác da dẻ nổi gai ớn lạnh. “Như ông thấy đó, những bức tường được chèn bằng những tấm nệm, có lẽ để hãm âm thanh. Cửa sổ được nhồi bông cách nhiệt làm từ sợi thủy tinh và nhựa và che đậy kín bằng nhựa công nghiệp thêm một lần nữa để hãm âm thanh, nhưng cũng có thể để giữ không gian này tối om. Nhìn chỗ này đi.” Hunt bước tới bức tường ở phía xa và chỉ vào một cái lỗ nhỏ, nham nhở. “Đây là nơi cô bé giật tung cái móc sắt xích chiếc còng tay của cô vào tường.” Móc sắt đã được cho vào túi tang vật và đánh số. Hunt nhặt lên và cảm nhận được cái lạnh của kim loại xuyên qua bao nhựa. Ông chìa nó ra cho ông Cảnh sát trưởng, ông ta sờ nó một lần, sau đó quỳ xuống và nhét một ngón tay vào trong tường. Nó là một cái lỗ nông. Xi-măng khô rang và vỡ vụn. “Một đứa trẻ cứng cỏi,” Hunt nói.

“Thế làm sao cô bé ấy thoát ra khỏi cái chòi?”

Hunt dẫn Cảnh sát trưởng đến cánh cửa và bước ra ngoài. Ông chỉ vào cái ổ khoá. Nó là ổ khoá Yale, bằng thau to và chắc chắn. “Gã ta khóa ổ khoá lại nhưng đã quên khoá cửa.”

“Tai nạn?” Ông Cảnh sát trưởng nhấc ổ khóa lên, buông nó rớt xuống và lúc lắc. “Hay là chủ quan?”

“Chuyện đó quan trọng lắm không?”

Một cái nhún vai. “Còn cây súng?”

“Không rõ. Nó có thể vẫn ở trong chòi từ đầu. Cô bé có thể tìm thấy nó trong nhà. Nó cũng không có khóa.” Cả hai một lần nữa đều nhìn về hướng căn nhà. Không thể nhìn thấy gì qua rừng cây. Nhưng trước bình minh, khi đèn đuốc còn sáng, Tiffany có thể thấy nó. “Tôi đoán gã ta say rượu. Chúng tôi tìm thấy rượu và xì-ke. Kết quả khám nghiệm tử thi sẽ cho biết.”

“Có dấu hiệu nào có thể liên quan đến những trẻ em khác không?” Cảnh sát trưởng giữ giọng nói một cách chuyên nghiệp.

“Ông đang hỏi về vụ án Alyssa Merrimon?”

“Không hẳn như vậy.”

Ông Cảnh sát trưởng không hề nao núng, cặp mắt ông ta không hề nguôi ngoai, trong khi Hunt phóng mắt nhìn sâu

vào rừng.

“Chúng ta cần chó đánh hơi,” Hunt nói. “Nếu cô bé bị chôn vùi ngoài kia, tôi muốn tìm thấy cô bé.”

“Trời sắp tối rồi.”

Giọng Hunt lạnh lẽo. “Tôi đã quyết định như vậy.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Đằng sau những bức tường mỏng của căn nhà thuê, Katherine Merrimon đờ người nhìn vào gương phòng tắm. Bà nhận ra sự dối trá của mình trước mặt ông cảnh sát, cảm thấy nó như một cái tát tai. Bà tự hỏi chính mình câu hỏi nặng nề.

Bà có phải một người mẹ mẫu mực hay không?

Da thịt bà bị kéo căng ngang qua những phần xương xẩu của khuôn mặt mòn mỏi và quá mức xanh xao. Mái tóc trên đầu nặng nề hơn thường lệ, và những ngón tay của bà run rẩy khi bà đưa nó lên tận gò má. Bà thấy móng tay bà trở nên dòn, dễ gẫy vụn, đôi mắt thâm quầng. Bà tìm kiếm một cái gì đó quen thuộc, nhưng đôi mắt lại dối trá.

Hình ảnh Johnny hằn sâu trong đầu bà. Cậu được băng bó trắng toát; và bà nhớ trước tiên đến cô con gái song sinh.

Alyssa.

Cái tên rớt qua đôi môi của bà, chút xíu nữa làm bà ngã quỵ. Bà bấu chặt bồn rửa mặt, rồi một tay đưa lên. Bà tìm tấm gương, và với tất cả sự kinh tởm, bà mở nắp tủ. Những chai lọ đựng thuốc chất đầy ba ngăn kệ. Nhựa màu cam. Nhãn chai trắng. Bà cầm bừa một chai: Vicodin. Bà mở nắp, đổ ba viên vào lòng bàn tay. Chúng có thể làm tan biến đi, những hồi ức lung linh, những mất mát.

Mồ hôi chảy xuống lưng. Miệng bà khô quánh một cách đau đớn và bà có thể cảm được nó như thế nào trên đầu lưỡi - nuốt khan, rất khó khăn, những viên thuốc đắng nghét ứ đọng trong cổ họng. Nhưng khi ngẩng đầu lên nhìn vào trong gương, bà thấy đôi mắt chẳng khác nào mắt giấy cắt bằng kéo, và chúng mờ nhạt như thể bản sao sau nhiều lần sao đi sao lại. Chúng trông giống như đôi mắt Johnny. Không phải lúc nào trông cũng như vậy. Cả hai mắt.

Bà nghiêng bàn tay để những viên thuốc rơi xuống, tạo ra những âm thanh nhỏ như chạm phải gạch tráng men. Bất thình lình trong cơn hoảng loạn, bà lôi hết những chai thuốc ra, cào chúng rớt xuống chậu rửa mặt. Từng lọ một, bà mở nắp, đổ hết thuốc xuống bồn cầu. Một lọ. Hai mươi lọ. Bà đổ tất cả chúng đi và kéo nước bồn cầu. Chớp nhoáng.

Phải hành động chớp nhoáng.

Bà mang hết những chai lọ rỗng, vứt hết vào giỏ rác và lôi bọc rác ra ngoài. Thời gian trôi qua mau khi bà dọn dẹp và chùi rửa. Sàn nhà. Tủ lạnh. Cửa sổ. Giờ giấc trở thành hơi nóng mờ nhoà của mồ hôi và thán khí. Bà nhồi nhét khăn trải giường vào máy giặt, đổ rượu xuống bãi cỏ dại và vứt chai lọ thuỷ tinh vào cái thùng khiến chúng vỡ toang và nổ tung khi bà quay lưng đi vào nhà khuân thêm ra. Cuối cùng, bà nhìn vào tấm gương. Máu bầm tụ ở phần thịt mềm dưới cằm. Bà mở vòi nước nóng, chùi rửa khuôn mặt cho đến khi da bỏng rát, nhưng đôi mắt nhìn vẫn có vấn đề. Bà cởi bỏ áo quần và bước vào bồn tắm; nhưng như vậy vẫn không đủ.

Bụi bặm bám mãi tận bên trong.

Johnny thức giấc một mình trong căn phòng xa lạ. Cậu nghe thấy tiếng chân bước ở xa bên ngoài cánh cửa, âm thanh câm nín. Một bác sĩ được gọi trên hệ thống loa liên lạc, và nhiều mảng ký ức của cậu được phục hồi. Cậu sờ lớp băng trên ngực, thấy đau đớn, sau đó cố ngồi dậy khi cơn nôn hành hạ. Mắt nảy đom đóm: màu đỏ nhạt xuyên qua cửa sổ, trắng trơ dưới cánh cửa. Cậu tìm kiếm mẹ cậu giữa những bức tường chao đảo. Khi ngồi dậy, cậu thấy dấu vết bồ hóng dưới móng tay, gợi nhắc nước dâu và vết máu khô trên những ngón tay. Những cái lông không còn, nhưng nó cũng không còn cần thiết nữa. Cậu nhắm mắt và hình dung cú vồ hụt của gã Jar. Cậu ngửi thấy mùi nệm da ô tô, cảm được mặt đường lạnh lẽo khi Jar đè nát cổ cậu và chém bằng chính con dao của cậu.

Johnny kéo hai tay dưới tấm ga trải giường, nhưng vẫn cảm nhận được cái lỗ sau đầu của gã Jar nóng ấm, sũng nước. Cậu nghe thấy âm thanh chuyển từ nặng nề sang mềm mại và nhớ là gã Jar đã chết. Johnny lăn người qua bên hông và đóng cửa lại. Cánh cửa quá nhẹ khiến Johnny không hề nghe thấy tiếng động. Cậu linh cảm thấy có sự chuyển dịch của không khí và sự xuất hiện của ai đó bên cạnh giường cậu. Cậu mở mắt và thấy Thám tử Hunt, trông dáng điệu bơ phờ, nụ cười gượng gạo. “Tôi lẽ ra không được phép có mặt ở đây,” ông nói, chỉ về hướng cái ghế. “Cậu cho phép tôi chứ hả?”

Johnny duỗi thẳng người trên gối. Cậu cố nói nhưng cả thế giới này được gói chặt trong bông băng.

“Cậu cảm thấy sao rồi?” thám tử Hunt hỏi.

Hai mắt Johnny nhìn vào cây súng mà báng của nó đội lên dưới áo khoác ngoài của ông thám tử.

“Tôi bình thường.” Những chữ nặng trịch, chậm rãi và giả dối.

Hunt ngồi. “Chúng ta có thể nói chuyện được không?” Johnny không trả lời, và thám tử Hunt ngả người về phía trước. Ông chụm các ngón tay làm thành cái tháp chụp và đặt hai cùi chỏ lên hai đầu gối. Cái áo khoác hé mở, và Johnny có thể thấy bao súng sờn cũ, sơn đen bóng bao bọc bên ngoài lớp thép. “Tôi cần biết chuyện gì đã xảy ra.”

Johnny không trả lời. Cậu không nhúc nhích.

“Cậu có thể nhìn thẳng vào tôi không, con trai?”

Johnny gật đầu, nhưng cậu cảm thấy đôi mắt dường như quá nặng nề để ngước lên.

“Johnny?”

Johnny nhìm chằm chằm vào cây súng. Báng súng sọc ca-rô. Đầu ruồi của khoá an toàn màu trắng. Tay cậu di chuyển, và ông cớm vẫn ngồi yên, ngay cả khi Johnny với tay chộp khẩu súng. Cậu chỉ muốn cầm nó, để biết nó có nặng như dáng dấp của nó không, nhưng cây súng biến dần thành một quả cầu ánh sáng. Một sức nặng đè lên trên ngực Johnny. Nó ép chặt cậu xuống nệm giường và cậu nghe giọng ômg cớm ở một nơi nào đó rất xa. “Johnny. Tỉnh dậy đi. Johnny.”

Sau đó cậu rơi xuống, và ai đó đóng những cây cọc đen vào hai mắt của cậu.

Bà Katherine ủi áo quần và đồ đầm. Bà phải cố gắng để giữ vững các ngón tay, nhưng những cái cúc áo dường như rất bé nhỏ. Bà sấy khô mái tóc, chải những gút trên tóc, và đắn đo về chuyện trang điểm. Cuối cùng, bà trông giống như một người phụ nữ bình thường trong thân xác của một người nào đó đang ốm nặng. Khi gọi taxi, bà phải suy nghĩ mãi mới nhớ ra số nhà; sau đó bà ngồi chờ ở rìa chiếc ghế sofa. Chiếc đồng hồ gõ nhịp trong nhà bếp.

Bà giữ thẳng lưng.

Mồ hôi bắt đầu rịn thành giọt ở giữa hai bả vai. Bà tưởng tượng hơi men của một ly rượu và nghe lời ru vỗ đứa trẻ vào giấc ngủ của một ngày quá khứ quên rồi.

Chuyện đó quá dễ.

Quá dễ, quá dễ.

Ý quyết cầu nguyện bao phủ lên bà như một cái bóng. Như thể nếu bà chớp mắt, sau đó mở mắt ra, sẽ không còn ánh sáng khác thường. Sự cám dỗ dâng trào từ một nơi nào sâu thẳm trong tiềm thức, bầu nhiệt huyết một thời biết sợ hãi bây giờ bị dồn ép chỉ còn là chút gì đó tối đen và lạnh lẽo. Bà chống chọi sự cám dỗ, nhưng ngã gục, và khi quỳ xuống, bà thấy mình như một kẻ giả dối, một sự nguỵ tạo, như một lữ hành đi lạc trong một đêm mưa gió không ngừng.

Chữ nghĩa, trước tiên, chối từ xuất hiện, và cảm giác như chính Chúa đóng sầm cổ họng bà. Nhưng bà cúi cằm xuống và cố nhớ lại cảm giác như thế nào. Trơ trọi. Tin cậy. Cúi mình van nài. Và đó là những gì bà đã làm. Bà van xin Chúa ban thêm nghị lực, và cho con trai sớm bình phục. Bà van xin Chúa che chở giúp đỡ trong yên lặng nhưng rất mãnh liệt. Bà van xin giữ được những gì đang có: con trai, cuộc sống thường ngày với con. Khi đứng dậy, bà nghe như có tiếng bánh xe trên sỏi đá, âm thanh lạo xạo như tiếng mưa rơi. Và sau đó âm thanh chấm dứt. Ken Holloway gặp bà ở ngoài cửa.

Quần áo vest ủi hồ thẳng tắp, cà vạt màu tím đậm, buông thõng trên cổ. Bà Katherine chết lặng khi thấy vẻ mặt bực bội của ông ta, mồ hôi thấm trên cổ áo. Bà hướng mắt nhìn vào mớ lông măng bao phủ cổ tay của gã.

“Em làm gì thế?” Gã bụm cằm bà bằng ngón tay cứng như thép. “Em chưng diện vì ai vậy?” Bà không thể trả lời. Gã bóp mạnh cằm bà. “Tôi nói, em chưng diện vì ai?”

“Tôi đi đến bệnh viện,” giọng bà nhỏ nhẹ.

Ken nhìn đồng hồ đeo tay. “Giờ thăm bệnh nhân sẽ chấm dứt trong khoảng một tiếng nữa. Hay là em kiếm cho chúng ta mỗi người một ly gì đó uống và em có thể đi vào ngày mai?”

“Họ sẽ thắc mắc tại sao tôi không có mặt ở đó.”

“Ai sẽ thắc mắc?”

Bà nuốt giọng. “Sở Xã hội.”

“Quan chức. Họ đâu làm phiền em được.”

Bà ngẩng cao đầu. “Tôi phải đi.”

“Pha cho tôi ly rượu.”

“Trong nhà không còn gì hết.”

“Cái gì?”

“Hết rồi. Tất cả mọi thứ.” Bà cố lách mình qua khỏi gã ta. Gã dùng cánh tay hộ pháp chặn bà lại.

“Giờ này trễ rồi.” Gã lần một tay xuống tấm lưng nhỏ bé.

“Tôi không thể.”

“Tôi bị giam suốt cả đêm.” Gã vồ chặt tay bà. “Lỗi là do thằng Johnny. Tại thằng con của em đấy. Nếu nó đừng ném cục đá xuyên qua cửa sổ nhà tôi...”

“Ông đâu biết nó làm điều đó.”

“Có phải em đang chống đối lại tôi?”

Tay bà bùng lên đau nhói. Bà nhìn những ngón tay của gã. “Buông tay tôi ra.”

Gã cười, và bà cảm thấy gã đang lấn át bà, ngực gã ép vào bà khi gã chắn lối đi ở cửa. Gã bắt đầu đẩy lùi bà vào nhà. “Buông ra,” bà nói. Nhưng gã đẩy bà vào nhà, cặp môi mỏng của gã mím lại dưới con mắt không tha thứ. Hình ảnh cậu con trai bỗng ẩn hiện trong bà, chiếc cằm bé nhỏ tựa trên cánh tay bất động khi cậu bé ngồi ở hàng hiên nhìn lên trên ngọn đồi chờ ngóng dấu hiệu cha nó trở về. Bà đã trừng phạt cậu về chuyện này, nhưng giờ thì bà thấm thía niềm hy vọng mà cậu bé trông ngóng. Ánh mắt bà lướt từ cánh tay gã Ken ngước lên, bà nhìn về hướng ngọn đồi quen thuộc. Bà hình dung chiếc xe tải của ông chồng nhấp nhô, nhưng ngọn đồi vắng lặng, con đường là một chuỗi dài tĩnh lặng. Gã Ken phát ra âm thanh từ trong cuống họng, và khi bà nhìn lên, bà thấy nụ cười trên khuôn mặt gã. “Ngày mai,” gã nói. “Johnny. Chuyện đầu tiên.”

Bà lại nhìn lên đỉnh đồi, thấy ánh chớp của kim loại khi một chiếc xe vượt qua trên đỉnh đồi. Bà nín thở, sau đó nhận ra chiếc xe ô tô. “Taxi của tôi,” bà nói.

Ken lùi bước khi chiếc taxi chậm bánh. Bà Katherine giằng mạnh cánh tay của mình, nhưng cảm nhận được sự giận dữ của gã đàn ông cao lớn đang đứng đó. “Tôi phải đi,” bà nói, sau đó vượt qua người gã và nhìn thấy chiếc taxi trên đường dẫn vào nhà.

“Katherine.” Nụ cười của gã bất ngờ rạng rỡ, và bất kì ai cũng có thể nghĩ nó rất thành thật.

“Chúng ta sẽ nói chuyện vào ngày mai.”

Bà quăng mình vào trong taxi, cảm nhận chiếc ghế sau lưng ám mùi khói thuốc lá, quần áo không giặt giũ và keo xịt tóc. Ông tài xế da nhăn nheo gấp nếp và một vết sẹo trên cổ. “Bà đi đâu?”

Bà Katherine vẫn nhìn trông chừng Ken Holloway.

“Thưa bà?”

Gã Ken vẫn đứng cười.

“Đến bệnh viện,” bà nói.

Ông tài xế nhìn bà qua kính chiếu hậu. Bà biết ông nhìn mình và nhìn đáp trả. “Bà không sao chứ?” Ông ta hỏi.

Bà toát mồ hôi và run rẩy tay chân. “Tôi không sao,” bà nói.

Nhưng bà nhầm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Johnny đứng ở cánh rừng phía sau lưng, trước mặt là một trảng cỏ được dọn sạch sẽ. Nó chỉ là một vệt cào trong một biển cây rừng, một vệt lỗi; nhưng từ cái nơi Johnny đứng, nó là tất cả, một thảm cỏ tranh xanh rờn uốn cong trong cơn gió nhẹ yên bình.

Alyssa đứng ở giữa trảng cỏ nhìn cậu. Cô giơ tay lên, và Johnny bước tới, cỏ mọc cao đến mắt cá chân, rồi đến đầu gối. Alyssa nhìn giống y chang lần sau cùng cậu gặp cô bé: quần ngắn vàng bạc màu, áo trắng. Tóc cô đen như mực xạ, làn da rám nắng. Cô giữ một tay sau lưng, và nghiêng đầu làm cho nhiều sợi tóc rơi xuống phủ lên hai mắt. Cô đứng trên một cái hộp ép xuống cỏ phẳng dưới đất. Johnny có thể ngửi thấy mùi cỏ bị dẫm nát, và cái chín tới của mùa hè.

Con rắn cuộn tròn dưới chân cô. Nó là con rắn hổ mang mà cậu giết được. Dài một mét rưỡi, trên người có những khoanh màu nâu và vàng, nó nằm yên lặng. Nó nếm hương vị không khí bằng lưỡi, và khi Johnny dừng lại, nó ngẩng cao đầu.

Johnny nhớ nó lao đến mổ cậu như thế nào cái ngày cậu giết nó. Cái chết cận kề như thế nào.

Vài phân.

Có thể ít hơn.

Alyssa cúi người bắt con rắn, và ngón tay của cô gần thân con rắn. Cái đuôi nó quấn quanh cổ tay cô bé. Đầu con rắn vươn cao hơn khi cô bé đứng thẳng người, và con rắn nhìn cô. Lưỡi của nó lè ra. “Đây không phải sức mạnh,” cô nói. Con rắn mổ mặt cô, và khi nó rút đầu về, hai lỗ xuất hiện, theo sau là những giọt máu nhìn giống như những trái táo nhỏ. Cô giơ con rắn lên cao hơn, bước một bước và chiếc hộp sắt chuyển dịch dưới chân cô. “Đây là sự yếu đuối.”

Con rắn mổ, cảnh mờ và chậm lại khi cặp răng nanh găm vào mặt cô. Cô chập choạng, và con rắn mổ cô lần nữa. Hai lần. Một lần trên chân mày, một lần ở môi dưới. Thêm lỗ. Thêm máu. Cô ngừng bước, và bất thình lình hai mắt cô rực sáng, màu nâu tối chuyển qua đen, cô đứng chết lặng mà như là trống vắng. Đó là con mắt của Johnny, đôi mắt của mẹ cô. Tay cô bé ghì chặt vào con rắn, và Johnny thấy cô không hề sợ hãi. Vẻ mặt của cô toát ra sự hung tợn và giận dữ. Hai môi cô nhợt đi và con rắn bắt đầu vùng vẫy. Cô bóp chặt tay và giọng nói của cô tăng thêm sinh lực.

“Sự yếu đuối,” cô nhắc lại, những ngón tay trắng bệch, con rắn vùng vẫy khi cô bóp chặt nó. Nó mổ tay cô, mặt cô. Nó ngoạm cổ và ghì chặt nanh, tiếp tục bơm nọc độc ngay cả khi nó đang quằn quại. Alyssa phớt lờ, di chuyển cánh tay còn lại từ phía sau lưng. Trong tay, cô cầm cây súng, đen tuyền và bóng nhẫy dưới ánh sáng nóng gắt.

“Quyền năng,” cô nói.

Và kéo văng con rắn ra khỏi cổ.

Johnny giật mình tỉnh giấc. Thuốc mất dần tác dụng, nhưng giấc mơ vẫn chưa buông tha: cô em gái mất tích, và cô cười khi Johnny đặt những ngón tay lên thứ kim loại ấm, sáng trong tay cô. Cậu sờ chỗ băng bó trên ngực, rồi thấy mẹ cậu. Bà ngồi một mình trong cái ghế cạnh tường. Vết chì kẻ mắt lem nhem ở vùng da dưới mắt. Đầu gối co giật.

“Mẹ.”

Bà quay đầu và giọng thảng thốt. “Johnny.” Bà lập tức đứng dậy, bước ngang căn phòng và đứng trước con trai. Bà chải tóc cho con, đoạn, bà ôm chầm lấy con. “Con yêu của mẹ.”

Thám tử Hunt vào phòng Johnny sau bữa điểm tâm hai giờ. Ông xuất hiện ở cánh cửa, cười mỉm với Johnny, sau đó khều tay bà Katherine và lùi vào trong hành lang.

Johnny nhìn họ qua tấm kính. Những gì thám tử Hunt nói, mẹ cậu không hài lòng. Họ cãi nhau kịch liệt. Bà lắc đầu, trừng mắt nhìn qua cửa kính hai lần, rồi sau đó gục cằm xuống. Hunt chạm vào vai bà một lần, nhưng bà lắc văng ra. Khi cánh cửa được mở ra, thám tử Hunt vào trước, mẹ Johnny theo vào sau ông. Bà cười nụ cười gượng gạo, sau đó ngồi ở mép chiếc ghế bọc nhựa, bóng nhẫy ở góc phòng. Nhìn bà như có vẻ sắp sửa nôn oẹ.

“Anh bạn Johnny.” Hunt kéo chiếc ghế lại gần giường. “Cháu cảm thấy trong người thế nào?”

Johnny nhìn mẹ rồi nhìn ra tia phản chiếu ánh sáng kim loại ngay dưới cánh tay thám tử Hunt, thép đen và chói sáng. “Tiffany không sao chứ?”

Hunt kéo áo khoác lại. “Chú nghĩ cô bé ấy sẽ không sao.”

Johnny nhắm mắt lại và thấy cô bé ngồi trên vũng máu của gã đàn ông đã chết; cậu cảm được làn da khô và nóng của tay cô khi cậu ra sức kéo cô vào trong ô tô. “Cô ấy không biết tôi là ai. Chúng tôi học cùng trường suốt bảy năm học.” Cậu lắc đầu. “Trên nửa đường đi đến bệnh viện, cuối cùng cô bé cũng nhận ra tôi. Cô ấy không buông tôi ra. Khóc. Gào.”

“Chú sẽ tìm hiểu tình trạng cô bé ấy thế nào. Trước tiên là vậy.” Thám tử Hunt ngừng, giọng nghiêm trang. “Cháu đã làm một việc thật can đảm.”

Johnny chớp mắt. “Tôi đâu có cứu được ai.”

“Có thật vậy không?”

“Đó là những điều họ nói ngoài kia, đúng không?”

“Một số người nói như vậy. Đúng thế.”

“Gã ta sẽ giết tôi. Tiffany là anh hùng. Họ không nên kể lại câu chuyện khác đi.”

“Người của truyền thông thôi, Johnny. Đừng quá quan tâm.”

Johnny nhìn bức tường trắng và một tay sờ vào những chỗ băng bó trên ngực.

“Gã ta sẽ giết tôi.”

Bà Katherine tạo tiếng ồn nghe như thổn thức, và Hunt xoay người trên ghế. “Bà không cần phải có mặt ở đây.”

Bà đứng bật dậy khỏi chiếc ghế. “Ông không thể bắt tôi đi ra.”

“Không có ai nói như vậy...”

“Tôi không đi đâu cả.” Giọng bà cao lên, hai tay run run.

Hunt quay trở lại với Johnny, và ông nở nụ cười dường như thành thật, nhưng phiền muộn. “Cháu có khoẻ để trả lời vài câu hỏi không?” Johnny gật đầu. “Chúng ta sẽ bắt đầu lúc khởi đầu. Tôi muốn cháu nhớ lại gã đàn ông cháu thấy trên cầu, cái gã lái chiếc ô tô tông vào chiếc xe gắn máy. Cháu hiểu chứ?”

“Dạ.”

“Bây giờ, hãy nhớ lại gã đàn ông hành hung cháu sau khi cháu chạy đi.”

“Gã không hành hung tôi. Gã chỉ vác bổng tôi lên, như là giữ tôi vậy.”

“Giữ cháu à?”

“Như gã ta đang chờ đợi một cái gì.”

“Có trường hợp nào cả hai là một người không? Gã đàn ông trên cầu. Gã nhấc bổng cháu lên.”

“Họ là hai người hoàn toàn khác.”

“Cháu lờ mờ thấy gã đàn ông trên cầu. Cháu nói gã ta là một cái bóng?”

“Khác hình dạng, khác kích cỡ. Họ khác nhau cả dặm, có thể hai dặm.”

Hunt giải thích điểm cong của con sông. “Có thể cùng là một người đàn ông.”

“Tôi hiểu dòng chảy của con sông, khoảnh đất ở giữa khúc cong đó là một đầm lầy. Nếu ông thử đi tắt ngang nó, ông sẽ sa lầy tận lưng quần. Con đường mòn uốn theo dòng sông là có lý do. Bọn họ là hai người khác nhau, hãy tin tôi. Gã đàn ông trên cầu không to lớn đủ để có thể vác kiện hàng đó.”

“Kiện hàng gì?”

“Như cái rương,” Johnny nói. “Bọc trong nhựa. Gã vác nó trên vai và trông nó rất nặng.”

“Cháu có thể miêu tả nó không?”

“Nhựa đen. Băng keo bạc. Dài. Dày. Như cái rương. Gã giữ tôi bằng một tay, tay kia giữ cái rương. Chỉ đứng đó, như tôi đã nói, và sau đó gã nói với tôi.”

“Cháu không hề nói với tôi điều này trước đây. Gã ta nói gì?”

“Chúa nói.”

“Điều đó có nghĩa gì?”

“Tôi không biết.”

Hunt đứng dậy và bước đến cửa sổ. Ông nhìn qua cửa kính mất cả phút. “Cái tên David Wilson có ý nghĩa gì với

cháu không?”

“Không.”

“Còn Levi Freemantle thì sao?”

“David Wilson là người đàn ông bị tông văng khỏi cầu. Levi Freemantle là gã đàn ông nhấc bổng tôi.”

“Cháu nói những cái tên đó không có ý nghĩa gì với cháu.”

Johnny xoay vai. “Không. Nhưng Freemantle là tên của người Mustee, do đó phải là gã to lớn. Điều đó cho thấy David Wilson là người bị giết.”

“Mustee?”

“Dạ.”

“Mustee là gì?”

“Dân Da đỏ lai với người Phi châu.” Thám tử Hunt nhìn trống rỗng. “Lumbee, Sapona, Cherokee, Catawba. Họ cũng là nô lệ Da đỏ. Ông biết điều đó không?”

Hunt thăm dò cậu con trai, không biết có nên tin hay không. “Làm sao cháu biết Freemantle là cái tên Mustee?”

“Người nô lệ đầu tiên được phóng thích ở quận hạt Raven là người Mustee có cái tên Isaac. Khi được trả tự do, ông ta chọn Freemantle làm họ của mình. Ánh sáng của sự tự do. Cái tên mang ý nghĩa như vậy.”

“Trước vụ án này, tôi chưa bao giờ nghe đến cái tên Freemantle ở quận hạt Raven.”

Johnny nhún vai. “Họ ở đây lâu đời rồi. Tại sao ông lại nghĩ Levi Freemantle lại là cùng một người với gã ở trên cầu?”

“Hãy nói về Burton Jarvis.”

“Không,” Johnny nói.

“Sao?”

“Ông trả lời câu hỏi của tôi đã. Thế mới công bằng.”

“Đây không phải sân chơi con nít, Johnny. Không phải là chuyện công bằng.”

“Thằng bé rất cứng đầu,” bà Katherine nói.

“Được,” Hunt nói. “Một câu hỏi. Một lần.”

Johnny hạ cằm xuống, mắt cậu không hề rời mặt Hunt. “Tại sao ông cho rằng Levi Freemantle với gã đàn ông trên cầu là một?”

“Freemantle để lại vân tay trên tử thi ông David Wilson. Nó khiến chúng tôi thắc mắc liệu có phải Freemantle là người lái ô tô tông ông ta văng khỏi cầu hay không. Nếu cháu có thể nói với chúng tôi cả hai là một người, Freemantle và người cháu thấy trên cầu, nó sẽ giúp giải toả điều này.” Hunt không hề nhắc đến hai thi thể tìm thấy ở nhà Freemantle, hình vẽ một kẻ cao lớn giữ đứa bé gái mặc chiếc áo đầm vàng và mồm đầy máu. Johnny ngồi dậy thẳng người lên, và một cái gì đó kéo lên ở dưới mảnh bông băng. “David Wilson vẫn còn sống khi Freemantle bắt ông ta?”

“Tôi không biết.”

“Nhưng có thể.”

Hunt mường tượng những vân tay đẫm máu trên mí mắt của tử thi. “Tôi nghi ngờ là vậy,” ông nói.

“Có thể ông ta nói cho Freemantle biết cô bé ở đâu.”

“Tôi không nghĩ như vậy, Johnny.”

“Chuyện gì xảy ra nếu ông ta nói về Alyssa. Có thể ông ta nói với Freemantle ông ta tìm thấy em gái tôi ở đâu.”

“Không.”

“Nhưng, có thể...”

“Khó mà tin ông ta nói về Alyssa, và cũng rất nghi ngờ việc ông ta còn sống khi Freemantle đến chỗ ông ta.” Hunt dòm chừng cậu trai trẻ, quan sát cậu đang tính toán. “Đừng bao giờ nghĩ như vậy,” ông nói.

“Nghĩ về chuyện gì?”

Mắt cậu to tròn và ngây thơ, bất cứ ông cớm nào cũng tin ngay. “Những ngày tháng chơi trò chơi giả cớm chấm dứt rồi Johnny. Không có bản đồ nữa. Không có thám hiểm nữa. Tôi nói như vậy rõ ràng không?”

Johnny quay đầu hướng khác. “Ông hỏi về Burton Jarvis. Ông muốn biết điều gì?”

“Bắt đầu từ đầu. Sao cậu tìm được nhà gã? Cậu đến đó với mục đích gì? Cậu thấy những gì? Chuyện gì đã xảy ra? Tất cả. Mọi thứ.”

Johnny hình dung lại những lần cậu đến căn nhà: bóng tối và cái chòi, căn nhà nhìn như thế nào qua lùm cây và tiếng động của những con vật trong rừng. Cậu nghĩ đến những móng tay dính đầy thạch cao và nhiều tháng vật vã trong ác mộng, gã bạn hãi hùng của Jar và chuyện họ nói với nhau về Út Vàng. Trận cười làm đôi chân Johnny rụng rời. Cậu không tài nào kìm được nỗi băn khoăn và mẹ cậu linh cảm được điều này. Bà đứng dậy và bước đi, lo lắng, và sự di chuyển làm Thám tử Hunt bực mình. “Bà có thể vui lòng ngồi xuống được không, Katherine?”

Bà làm ngơ ông.

“Katherine!”

“Làm sao tôi có thể cứ ngồi đó và xem mọi chuyện như vẫn bình thường?” Bà co giật và mắt sáng lên. “Sở Xã hội.” Bà cay cú nhìn Hunt. “Tôi sẽ không cho phép như vậy!”

Hunt hạ giọng. “Chúng ta đã đồng ý tạm thời trong lúc này không lôi Johnny vào chuyện này.”

“Tôi không thể chấp nhận chuyện đó.”

“Tôi đang làm tất cả những gì có thể, Katherine. Bà phải tin tôi.”

“Ông nói với tôi ông sẽ mang con bé Alyssa về nhà. Ông cũng đã nói tôi phải tin điều đó.”

Hunt tái mặt. “Điều này không giúp ích được gì.”

“Các người đang nói về vấn đề đó hả?” Johnny hướng về hành lang. “Sở Xã hội?”

“Sở Xã hội quan tâm về phúc lợi của cậu, Johnny. Qua những sự việc đã xảy ra, họ buộc phải thẩm tra toàn bộ. Điều đó có nghĩa họ sẽ phỏng vấn, thanh tra tư gia. Họ sẽ nói về học hành. Nhưng tất cả những chuyện đó sẽ phải mất một thời gian. Trong lúc này, họ muốn mang cậu ra khỏi quyền giám hộ của mẹ cậu. Tạm thời. Vì muốn bảo vệ cho cậu.”

“Bảo vệ?”

“Họ nghĩ cậu đang nguy hiểm.”

“Từ tôi,” bà Katherine nói.

“Không ai nói như vậy!” Hunt mất kiên nhẫn.

“Điều này không đúng,” Johnny nói.

“Bình tĩnh, con trai.” Hunt nhìn mẹ Johnny, bà gần như muốn khóc, sau đó tập trung vào cậu bé. “Tôi đang nói chuyện với chú Steve của cậu. Tôi nghĩ tôi có thể sắp xếp để cậu tạm trú với ông ta trong khi chuyện này được giải quyết.”

“Steve là gã đàn ông khiếm nhã.”

“Johnny!”

“À, ông ta là hạng người đó, mẹ ạ.”

Hunt cúi sát Johnny hơn. “Hoặc là ông Steve hoặc là người giám hộ được chỉ định bởi toà án. Với ông Steve, mẹ cậu có thể thăm cậu bất cứ lúc nào bà muốn. Cậu vẫn sống với người trong gia đình, ít nhất cũng phải đến khi có quyết định chung cuộc. Nếu chuyện này đến tay toà án, nó vượt ra khỏi tầm tay của tôi. Ông thẩm phán sẽ quyết định và cậu phải chấp nhận những gì phán quyết. Không phải lúc nào cũng tuyệt vời.”

Johnny nhìn mẹ, nhưng bà đang ôm mặt. “Mẹ?” Bà lắc đầu.

“Tôi xin lỗi,” Hunt nói. “Nhưng chuyện này là kết quả của một thời gian dài. Hy vọng sau này mọi chuyện sẽ tốt đẹp.”

“Chúng tôi cần tìm bố tôi,” Johnny nói.

Cậu không hề nghe thấy tiếng chân bước của mẹ cậu. Bất thình lình, bà có mặt ở đó, ngay cạnh giường. Mắt bà long lanh, mở lớn, thăm thẳm và buồn. “Không ai biết tìm bố con ở đâu cả, Johnny.”

“Nhưng mẹ nói bố đã viết thư về. Mẹ bảo bố ở Chicago, hay California mà?”

“Bố chưa bao giờ viết thư.”

“Nhưng... ”

“Mẹ nói dối.” Bà xoay một bàn tay, và nó trắng bệch. “Bố con chưa bao giờ viết thư về nhà.”

Cặp mắt Johnny mờ đi. “Con muốn về nhà,” cậu nói, nhưng Hunt không nhượng bộ.

“Sẽ không có chuyện đó đâu.”

Bà Katherine bước tới cạnh cậu. Bà ngẩng lên, và Hunt thấy sự bảo bọc, một sự hãnh diện mong manh. “Mẹ xin con,” bà nói, và nắm lấy tay cậu con trai.

“Con muốn về nhà,” Johnny nhắc lại.

Trong khoảnh khắc đó, Hunt lịch sự nhìn đi chỗ khác; nhưng đây là công việc. Ông ngưỡng mộ nhiều điều ở cậu trai trẻ, nhưng cái thế giới thần tiên mà cậu đang ngụp lặn, bây giờ là lúc cần phải chấm dứt, trước khi ai đó bị thiệt hại hay chính cậu bị thiệt mạng.

Hunt đi ngang qua phòng và cầm cái túi đựng lông chim, khúc đuôi rắn chuông, và chiếc đầu lâu rắn hổ mang của Johnny. Ông lôi ra sợi dây đeo cổ và xoay vòng nó ngay tầm mắt của cậu. “Cậu muốn nói gì với tôi về những thứ này?”

“Cái đó là gì vậy?” Bà Katherine hỏi.

“Johnny đeo những thứ đó khi cậu bé nhập viện. Cậu bé thoa đầy người bồ hóng và nước dâu, cởi trần, trong túi chứa đầy những thứ mà họ nói với tôi như đuôi của rắn chuông, hoặc cái gì đi chăng nữa. Sở Xã hội sẽ hỏi bà về cái này, về tất cả những thứ đó. Họ sẽ soi mói, rất kỹ, và tôi nghĩ có thể Johnny nên bắt đầu nói cho tôi biết.”

Johnny nhìn chằm chằm vào mớ lông chim, thấy Jar đã chém đứt gọn một cái lông ra làm đôi. Cậu cảm nhận không có gì thay đổi. Ông cớm vẫn là nỗi đe dọa, mẹ cậu vẫn yếu đuối. Không ai hiểu cả.

“Nó không bình thường,” Hunt nhấn mạnh.

“Tôi không muốn nói về chuyện đó.”

“Nói cho tôi biết về Burton Jarvis.”

“Không.”

“Làm sao cậu tìm được gã ta? Cậu đã đến đó bao nhiêu lần rồi?”

Johnny nhìn ra ngoài cửa sổ.

Hunt buông sợi dây xuống, gom lượm những trang giấy có ghi chú của Johnny.

“Những tờ ghi chú này có chính xác không? Cái này chứng tỏ cậu đã có hơn chục lần viếng thăm. Và những nơi khác cũng vậy. Không chỉ tại tư gia gã Jarvis.”

Johnny liếc qua những tờ ghi chú. “Những cái đó chỉ là giả định.”

“Sao?”

“Như một trò chơi.”

“Johnny... ” Sự thất vọng hiện lên rất rõ.

Johnny không hề chớp mắt. “Đêm hôm qua là lần đầu tiên.”

“Tôi hiểu tại sao cậu cần phải nói dối, con trai, nhưng tôi cần biết cậu thấy những gì. Cậu có năm cái tên ở đây, những kẻ mà chúng tôi biết, những kẻ có tiền án mà chúng tôi đang theo dõi. Rồi đến kẻ thứ sáu. Cái gã thường hay đến chơi nhà của Burton Jarvis.” Hunt nghiên cứu trang giấy. “Có nguyên trang ghi chú về gã đàn ông này. Cậu có ghi diện mạo tổng quát: chiều cao, cân nặng, màu tóc. Cậu có ghi hãng xe ô tô của gã và ba biển số khác nhau, tất cả những số này đã được báo mất cắp đâu đó trong năm vừa qua. Tôi muốn biết gã này là ai. Tôi nghĩ cậu có thể giúp tôi.”

“Không.”

“Út Vàng là ai? Nó có nghĩa gì?”

“Ông làm việc như những người ở Sở Xã hội.”

“Mẹ kiếp.” Lòng kiên nhẫn của Hunt bốc hơi, và bà Katherine bước vào giữa con trai bà và ông cớm. Bà doãi những ngón tay mảnh khảnh, và lời nói của bà biểu lộ sự tin tưởng một cách hiếm có.

“Đủ rồi,” bà nói.

“Một nửa những ghi chú không đọc được. Có những thông tin quan trọng mà Johnny chưa hoàn toàn hiểu. Cậu ta cần nói chuyện với tôi.”

Bà Katherine nhìn chữ viết của con trai. Bà quan sát những tờ giấy, rồi đọc nó cẩn thận hơn. Phải mất một thời gian, nhưng Hunt chờ đợi. Khi đọc xong, trông bà có vẻ sợ hãi. “Nếu nó trả lời những câu hỏi của ông, chuyện đó sẽ giúp chúng tôi thoát khỏi Sở Xã hội? Hay gây bất lợi cho chúng tôi?”

“Bà phải tin tưởng vào tôi.”

“Không có gì quan trọng hơn việc giữ con trai tôi,” bà nói.

“Không bằng mang Alyssa trở về sao?”

“Có phải ông muốn nói chuyện đó có thể xảy ra?”

“Con trai bà, tôi tin rằng, đã khám phá ra một kẻ ấu dâm chưa từng được biết hiện đang hoạt động trong vùng. Một kẻ gian ngoan. Một kẻ cẩn trọng. Có thể có một mối nối nào đó.”

“Chuyện đó có thực không?”

Sự nghi ngờ của Hunt biểu lộ trong lời nói. “Tôi không rõ.”

“Vậy tôi phải nghĩ đến đứa con tôi vẫn còn.”

“Tôi lo lắng về cậu con trai của bà.”

Bà nhìn chằm chằm vào ông, giọng bà sắc bén và dễ vỡ như tiếng vỡ của thủy tinh. “Ông muốn chúng tôi tin tưởng nơi ông?”

“Đúng.”

“Tin tưởng cảnh sát?”

“Đúng.”

Bà Katherine bước tới trước, đẩy xấp giấy vào Hunt. “Ông muốn nói về cái gã ấu dâm chưa rõ danh tánh này. Kẻ gian ngoan. Kẻ cẩn trọng. Kẻ đồng lõa với gã đàn ông mà chút xíu nữa đã thảm sát con trai tôi...”

Hunt nghiêng đầu, và bà dùng một ngón tay chỉ vào vệt mực mà chỉ có người mẹ mới có thể đọc. Mặt của bà nhợt nhạt, tái mét như cái mặt nạ bằng sứ che đậy sự giận dữ và sợ hãi. “Chữ đó,” bà nói, “không phải ‘ly’ hoặc ‘nắp’ hay bất cứ cái gì an toàn. Nó là ‘cớm’. Nó nói cái gã đàn ông giao du với Burton Jarvis là cớm.” Bà đẩy xấp giấy vào ngực Hunt và bước lại gần con trai hơn. “Cuộc phỏng vấn này xong rồi.”

Sau khi Hunt đi khỏi, bà Katherine đứng cạnh giường con trai. Bà nhìn cậu con trai thật lâu nhưng không hề hỏi về lông chim hoặc những tờ ghi chép hoặc những gì Hunt nói. Sắc diện rớt ra khỏi hai má, nhìn bà bình tâm. “Cầu nguyện với mẹ, Johnny.”

Cậu nhìn mẹ quỳ xuống, cảm thấy một chút bực tức khuấy động ở nơi sâu thẳm. Trong giây phút, trông bà cứng cỏi, và thêm một giây nữa, cậu hãnh diện về bà. “Cầu nguyện ạ?” Cậu hỏi.

“Đúng.”

“Bắt đầu từ khi nào ạ?”

Bà lau hai bàn tay vào quần jeans. “Mẹ nghĩ mẹ quên mất cảm giác nó tốt như thế nào rồi.”

Johnny nghe những chữ đó như thể từ một người xa lạ nói với cậu. Bà vốn dễ bỏ ngang, giơ hai tay đầu hàng và để cảm thấy dễ chịu hơn.

“Người không nghe chúng ta,” Johnny nói.

“Có lẽ chúng ta cần cho Người thêm một cơ hội nữa.”

Johnny nhìn bà chằm chằm, sự kinh thường và thất vọng không thể che giấu được nữa. Cậu nắm chặt thanh giường và cảm giác cậu có thể bẻ cong kim loại bằng những ngón tay. “Mẹ có biết con cầu nguyện chuyện gì không? Con đã làm thế hàng đêm cho đến khi con nhận ra rằng Chúa không đoái hoài! Rằng Ngài sẽ không bao giờ. Mẹ có biết không?”

Giọng của cậu hằn học, và bà lắc đầu, cả hai mắt buồn bã và kinh ngạc.

“Chỉ có ba điều,” Johnny nói. “Con cầu nguyện cho cả nhà mình được đoàn tụ. Con cầu nguyện mẹ sẽ ngừng uống thuốc.” Bà há hốc mồm, nhưng Johnny nói lấn át giọng bà. Lời lẽ đến mau chóng và lạnh lùng. “Con cầu nguyện cho gã Ken chết đi.”

“Johnny!”

“Hàng đêm, con cầu nguyện những điều ấy. Gia đình đoàn tụ. Chấm dứt thuốc sái. Gã Ken Holloway chết một cách chậm rãi và đau đớn.”

“Làm ơn, đừng nói những điều đó.”

“Phần nào? Cho gã Ken chết đi? Chậm rãi và đau đớn?”

“Đừng!”

“Con muốn gã ta chết trong sợ hãi như gã đang áp đặt lên chúng ta. Con muốn gã biết cái cảm giác không tự lo liệu và sợ hãi nó như thế nào, và sau đó con muốn gã ta đi một nơi nào khác mà gã không thể làm phiền chúng ta được nữa.” Ngón tay của bà lần trong tóc của cậu - đôi mắt buồn phiền đẫm lệ - và cậu đẩy bàn tay của bà ra chỗ khác. “Nhưng Chúa không phải là vậy, có đúng không?” Johnny ngồi cao hơn, cơn giận dữ trở thành phẫn nộ, sự phẫn nộ làm cậu mau chóng rớm nước mắt. “Lời cầu nguyện không giúp mang em Alyssa trở về nhà. Hay bố. Nó không thể sưởi ấm căn nhà hoặc ngăn chặn gã Ken hành hạ mẹ. Chúa đã quay lưng với mẹ con mình. Chính mẹ đã nói với con điều này. Mẹ nhớ không?”

Bà đã nói như vậy. Một đêm lạnh lẽo trên sàn nhà trong căn nhà khánh kiệt, máu tuôn ra từ hai hàm răng bà và âm thanh gã Ken rót rượu ở phòng bên cạnh. “Mẹ nghĩ có lẽ mẹ đã sai lầm.”

“Làm sao mẹ có thể nói vậy sau khi chúng ta đã mất tất cả?”

“Những gì Chúa ban cho chúng ta không thể tuyệt đối, Johnny. Người không thể ban cho chúng ta tất cả những gì ta muốn. Ngài không làm việc như vậy. Chuyện đó quá dễ dàng.”

“Không có cái gì đến dễ dàng cả!”

“Con không thấy sao?” Bà van xin bằng ánh mắt. “Nhiều lúc chúng ta luôn thiệt thòi hơn người khác.” Bà với tay ra cầm lấy tay con trai nhưng cậu giật phăng đi. Thay vào đó, bà nắm chặt thành giường bằng cả hai tay và ánh sáng lấp lánh trên mái tóc bà. “Cầu nguyện với mẹ, Johnny.”

“Cho cái gì?”

“Cho chuyện chúng ta sẽ chung sống cùng nhau. Cho quên đi muộn phiền.” Những ngón tay của bà cũng trở nên trắng bệch trên thành giường. “Cầu nguyện cho sự tha thứ.” Bà nhìn cậu con trai một lúc lâu, nhưng từ chối chờ đợi một câu trả lời. Đầu bà cúi xuống, lời cầu nguyện tuôn ra trong yên lặng. Không hề một lần bà nhìn xem Johnny có nhắm mắt không, và cậu có thực cùng bà cầu nguyện; và chuyện là như vậy.

Khuôn mặt của Johnny không có dấu hiệu của sự tha thứ.

Không có gì như là bỏ qua.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


Đầu Hunt lùng bùng khi bước ra khỏi căn phòng: suy nghĩ lộn xộn và nghi ngờ về chuyện bà Katherine cả quyết những gì đọc trong tờ ghi chép của Johnny; giận dữ và bực dọc vì cậu bé không chịu nói chuyện với ông; nhẹ cả người khi cậu còn sống, và Tiffany cũng thoát hiểm. Hunt dựa hai vai vào bức tường lạnh và làm ngơ những người đi qua đi lại, làm ngơ những ánh mắt của họ. Ông mệt mỏi và lo lắng, nhưng hy vọng cái chết của Burton Jarvis là khởi đầu cho sự chấm dứt, và cái chết bi thảm của gã già cũng sẽ là bước đầu tiên giúp ông lần mò ra sự mất tích của Alyssa. Ông cố gắng tự thuyết phục mình là gã đốn mạt bệnh hoạn hành động đơn thương độc mã; nhưng có một điều lo lắng nhớp nhúa cứ lẩn quất trong đầu ông.

Một gã cớm?

Chuyện này có thể không?

Hunt cố gắng một lần nữa để giải mã những nét chữ lí nhí trong ghi chép của Johnny. Một số trong đó viết bằng bút chì, loè nhoè. Nhiều phần bị nhoè nước, những chỗ khác lem luốc bởi bồ hóng và nhựa thông và nhiều chỗ rách trên giấy. Hunt có thể biết còn nhiều điều bí mật trong đó. Ông chỉ muốn đạp sập cánh cửa và vắt từng câu trả lời ra khỏi cậu nhóc.

Mẹ kiếp!

Cậu bé biết nhiều chuyện. Hunt chắc chắn điều này. Ông hình dung một lần nữa, như nhiều lần đã làm thế, đôi mắt đen và sự cảnh giác, sự thâm thúy trong chiều sâu tĩnh lặng và cách suy nghĩ cẩn thận. Johnny đã bị làm hỏng người theo nhiều cách khác nhau, nhưng rõ ràng cậu bé đã nhận ra điều gì đó...

Lòng trung thành. Sự dữ dội. Sự xác quyết.

Những đặc tính ấy khiến cho cậu trai gặp nhiều trở ngại. Nhưng chúng khiến Hunt cảm thấy hãnh diện và ra sức bảo bọc. Lẽ ra Johnny nên biết những điều ấy hiếm hoi như thế nào, quý giá đến mức nào trong thế giới này. Hunt muốn vòng tay ôm chặt cậu, làm cho cậu hiểu, và, cùng lúc ấy, ông muốn cậu phải dừng bước.

Hunt đi ra bãi đậu xe, ánh nắng chan hòa, không khí rất đỗi trong lành. Cỏ xanh và nắng đẹp không có ý nghĩa gì cho một ngày như thế này. Ông nhìn lên tầng sáu. Phòng bệnh của Johnny nằm ở cuối dãy, Tiffany nằm ở góc đối diện. Tòa cao ốc tỏa sắc trắng, và những ô cửa kính hắt màu xanh tuyệt hảo.

Ông đi về nơi hướng xe của ông đậu và được nửa đoạn đường, ông thấy một người đàn ông mặc veston. Cao như cây sậy, hai bả vai to gù, y di chuyển từ một góc khuất của tòa cao ốc, ẩn mình giữa hai chiếc ô tô, và tiến đến phía bên phải ông. Tự nhiên Hunt để ý đến người đàn ông đó. Nụ cười nhã nhặn, một tay y cầm tệp giấy gấp. Nhân viên quản trị bệnh viện, ông đoán. Hoặc người nhà bệnh nhân.

“Thám tử Hunt?”

Khoảng ba mươi, tóc búi, da hơi sần sùi. Hàm răng trắng đều.

“Phải.”

Nụ cười người đàn ông rạng rỡ và một ngón tay giơ lên. Y nhìn như muốn thể hiện một bộ mặt quen thuộc. “Thám tử Clyde Lafayette Hunt?”

“Đúng rồi.”

Y trao cho Hunt xấp giấy tờ và nụ cười biến mất khi Hunt cầm xấp giấy.

“Ông đã nhận trát toà.”

Hunt nhìn y bỏ đi, sau đó đọc đống giấy. Ông bị kiện, bởi gã Ken Holloway.

Mẹ kiếp!

Viên sĩ quan cải huấn phụ trách hồ sơ của Levi Freemantle làm việc trong một dãy lúc nhúc những văn phòng mất hút ở lầu ba tòa án quận hạt. Hành lang sàn nhà dán keo bong tróc và trong tám mươi năm trời, nhựa nicotine ám vào bức tường trát vữa. Những cánh cửa văn phòng làm từ gỗ sồi đậm màu phản chiếu màu xanh tuyệt hảo. Đủ thứ âm thanh thoát ra đằng sau cánh cửa: tranh cãi, giải thích, khóc than. Những lời lẽ ông đã từng nghe trước đây. Hàng trăm lần. Hàng triệu lần. Sự dối trá ầm ập đến như nước lũ, làm sĩ quan cải huấn là một cái nghề phải phán đoán tất cả những mánh khoé, gian ngoan nhất của con người mà Hunt từng chứng kiến.

Ông tìm văn phòng sĩ quan cải huấn phụ trách hồ sơ Freemantle ở phòng thứ chín. Bảng tên gắn trên cửa phòng ghi Calvin Tremont, và cửa rộng mở. Những chồng hồ sơ chất trên ghế và dưới sàn nhà. Một cái quạt đặt trên tủ hồ sơ bằng sắt đầy những vết xước thổi hơi nóng. Người đàn ông ngồi sau bàn làm việc quen biết Hunt. Người tầm thước, bụng to, gần sáu mươi, tóc hoa râm và cảm giác như có những nếp gấp trên làn da sậm màu của ông. Hunt gõ cửa.

Khi ông Tremont nhìn lên, ông ta cau mày, nhưng không lâu. Cả ông và Hunt có mối thân tình mật thiết. “Chào Thám tử,” ông nói. “Chuyện gì mang ông đến đây?”

“Một gã người của ông.”

“Mời ông ngồi, nhưng...” Ông ta xoè ngón tay ám chỉ những chồng hồ sơ đầy trên hai chiếc ghế.

“Tôi không làm mất thời gian của ông đâu.” Hunt bước vào phòng. “Tôi có để lại lời nhắn hôm qua. Đây cũng là cùng một việc.”

“Ngày đầu tiên trở lại sau khi nghỉ ngơi.” Ông ta ra hiệu lần nữa. “Tôi cũng chưa đọc hết các e-mail.”

“Đi chơi vui chứ?”

“Cả nhà ở bãi biển.” Ông ta nói cái kiểu nó có thể ngụ ý bất cứ thứ gì. Hunt gật đầu và không hỏi thêm. Viên sĩ quan cải huấn cũng như cớm; họ hiếm khi tiết lộ chuyện đời tư.

“Tôi cần nói về vụ Levi Freemantle.”

Khuôn mặt ông Tremont nở nụ cười rạng rỡ mà trước nay Hunt chưa từng bắt gặp. “Levi? Thằng bạn thân tôi sao rồi?”

“Bạn thân ông à?”

“Hắn là đứa trẻ ngoan.”

“Hắn bốn ba tuổi rồi.”

“Tin tôi đi, hắn chỉ là đứa trẻ con.”

“Chúng tôi nghĩ bạn thân ông giết hai người. Có thể ba.”

Đầu ông Tremont di chuyển tưởng như cổ ông ta được bôi trơn dầu mỡ. “Tôi nghi ngờ ông nhầm lẫn.”

“Ông nói cứ như chắc chắn lắm...”

“Levi Freemantle nhìn thì giống như một gã đàn ông sừng sỏ nhất ngoài giang hồ, như hắn có thể giết ông chỉ vì một đồng năm xu, mà thực sự cũng không tệ lắm khi ông không có xu nào dính túi. Nhưng để tôi nói thẳng với ông, thám tử, hắn sẽ không giết ai. Không thể nào. Ông nhầm người rồi đó.”

“Ông có địa chỉ của gã không?” Hunt hỏi.

Ông Tremont gật đầu và lục lọi từ trong trí nhớ. “Hắn cư ngụ ở đó khoảng ba năm.”

“Chúng tôi phát hiện thấy hai tử thi ở địa chỉ đó,” Hunt nói. “Một phụ nữ da trắng, chớm giữa ba mươi. Người đàn ông da đen, khoảng bốn mươi lăm tuổi. Chúng tôi phát hiện ra họ ngày hôm qua. Họ đã bị giết khoảng một tuần lễ.” Hunt để một khoảng thời gian lắng đọng. “Ông có biết Clinton Rhodes không?”

“Gã là người bị giết hả?”

Hunt gật đầu.

“Tôi không phụ trách hồ sơ đó,” ông Tremont nói. “Nhưng gã ta từng ra vào chốn này một thời gian khá dài. Thứ dữ. Hung hãn. Bây giờ tôi có thể xem gã ta là kẻ giết người. Không phải Levi.”

“Chúng ta đều tin như vậy.”

Ông Tremont dịch chuyển trên chiếc ghế. “Levi Freemantle đang thọ án tù ba tháng cho một lần vi phạm án treo. Hắn sẽ không ra khỏi nhà tù chín tuần nữa.”

“Hắn đã trốn cách đây tám ngày.”

“Tôi không tin như vậy.”

“Hắn trốn biệt và không ai biết hành tung của hắn, ngoại trừ một gã nghiện ngập mà chính tên mình cũng không rõ, và một cậu trai trẻ gần hiện trường một vụ án mạng. Chuyện đó xảy ra cách đây hai ngày. Cho nên ông thấy đó, tôi có ba thi thể, mỗi người liên quan ít nhiều đến con trai ông.”

Ông Tremont lấy hồ sơ Freementle và giở ra. “Levi chưa từng bị kết án liên quan đến bạo hành. Hắn chưa hề bị tố lấy một lần. Xâm nhập gia cư, ăn cắp cửa hiệu.” Ông ta đóng sấp hồ sơ. “Ông xem,” ông nói. “Levi không phải con dao cái kéo bén nhất trong thùng đồ nghề. Phần lớn những vụ án đó, nếu ai đó nói, Levi, đi vào trong đó và lấy cho tao một chai rượu, hắn chỉ đơn giản bước vào tiệm và lấy. Hắn hoàn toàn không biết gì về hậu quả.”

“Thì những kẻ giết người cũng tương tự.”

“Không phải như vậy. Levi...” Ông ta lắc đầu. “Hắn chỉ là đứa con nít.”

“Tôi có một xác chết phụ nữ da trắng. Mới chớm đến giữa ba mươi. Ông có ý kiến gì về chuyện này không?”

“Hắn có qua lại với Ronda Jeffries. Cô ta da trắng, thích tiệc tùng. Được biết đôi khi hành nghề tay trái mãi dâm. Chỉ là vui chơi, cô ta thích đàn ông to lớn, thứ dữ. Đặc biệt cô ta chuộng đàn ông da đen to lớn. Cô ta qua lại với Levi vì tướng mạo hắn, một kẻ giang hồ anh chị trên đường phố. Cô ta sử dụng hắn bởi vì hắn dễ sai bảo và làm những gì cô ta sai khiến. Hắn làm được vài đồng là đưa cả cho cô ta. Hắn lo toan mọi việc trong nhà. Làm cho cô ta nhìn có vẻ hợp pháp. Khi cô ả muốn chơi hoang, hay một nhân tình mới, cô ả thường tìm một cớ gì đó để Levi bị bắt nhốt trong một thời gian ngắn. Nó cũng như tôi nói, hắn sẵn sàng làm bất cứ điều gì ả ta sai khiến. Lần đầu tiên hắn bị bắt liên quan đến trộm cắp siêu thị. Cô ả lấy cắp một lọ nước hoa khỏi kệ hàng và bảo hắn cầm lấy nó; sau đó cô ta dẫn gã đi qua nhân viên an ninh và ra cổng trước.”

“Họ có hôn thú với nhau không?”

“Không, nhưng Levi nghĩ là họ có.”

“Tại sao?”

Ông ta cười. “Bởi vì họ ngủ chung giường, và bởi vì...” chữ nghĩa bặt âm.

“Ồ, chết rồi.”

“Chuyện gì?”

“Ai chăm lo đứa con của họ?”

Hunt cảm thấy lạnh người. “Con của họ?”

“Đứa bé gái. Hai tuổi.”

Hunt với tay chộp điện thoại của ông.

“Nó có nụ cười có thể làm tan chảy trái tim ông.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


Bệnh viện buộc bà Katherine phải rời phòng Johnny vào ban đêm. Một đằng, thật khổ sở với bà, đằng khác, đây lại là điều may. Ken Holloway gọi điện đến phòng bệnh bốn lần, không chịu gác máy cho đến khi bà đồng ý gặp mặt. Ông ta khăng khăng cần gặp và bà cứng cỏi, từ chối mỗi lần, giải thích rằng bây giờ, bà ta phải đặt ưu tiên của con lên trước tiên. Cuối cùng, bà buộc phải cúp máy điện thoại. Sau đó, bà giật mình sợ hãi mỗi khi cửa mở hoặc tiếng ồn vang lên quá lớn trong hành lang.

Và rồi sự thiếu vắng tràn vào tâm hồn bà. Bà cố gắng cứng cỏi, nhưng cảm giác đó cứ lan vào từng tế bào trong cơ thể.

Nhu cầu.

Bà tần ngần bên cạnh giường bệnh giây phút. Con trai bà đang ngủ, khuôn mặt nó, như thường lệ, cùng tạng như cô em gái. Cũng cái miệng đấy. Cũng những đường nét đấy. Bà hôn mái tóc cậu, sau đó gặp taxi ở cổng vào phía sau bệnh viện.

Trên chuyến xe về nhà, bà phải gồng mình chống trả. Xe đi qua các cửa hiệu quảng cáo bia rượu, hai quầy rượu khác nhau. Bà nghiến chặt hàm răng và bấu chặt móng tay vào lòng bàn tay. Khi đèn đường dưới phố mờ dần, bà cho phép mình được hít thở. Con đường tối mù, tiếng ù ù liên tục của bánh xe cao su lướt trên mặt đường. Không sao. Bà nhắc lại. Tôi không sao.

Chiếc taxi đổ dốc xuống ngọn đồi cuối cùng, bà trông thấy căn nhà cả nửa dặm đường từ phía xa. Ánh đèn hắt ra từ mọi cửa sổ, làm cho sân vườn có hình dạng loang lổ như loài ong thợ đen và vàng.

Lúc ra khỏi nhà, bà đã tắt hết đèn đóm.

Trèo ra khỏi xe, bà đi đến cánh cửa, sau đó ngần ngại. Tay bà tìm thấy điện thoại trong túi xách. Bà vào đến hiên nhà, thay đổi ý định và lùi bước. Mọi thứ vẫn nguyên trạng: sân nhà, cánh rừng, đường cái. Khi đó bà thấy một chiếc ô tô. Nó đậu ở cuối con đường cách bà khoảng bảy mươi mét, đậu sát vào mép đường. Trời quá tối để có thể biết được màu sơn chiếc ô tô. Đen, có thể. Một chiếc xe bốn cửa lớn mà bà không nhận ra. Bà nhìn chằm chằm, bước một bước đến gần và nhận ra tiếng động cơ đang nổ.

Bà đi thêm hai bước thì đèn xe bật sáng. Cát sỏi văng ra phía sau, chiếc xe quẹo gắt, gào rú và phóng lên trên đường, ánh đèn sau xe nhỏ dần, rồi biến mất nơi con đường cái hụp xuống.

Bà Katherine cố gắng thở chậm lại. Chỉ là một chiếc ô tô. Một người hàng xóm. Bà quay gót trở vào nhà và thấy cửa trước hé mở, bóng ánh sáng vàng lan rộng ra khi bà đẩy cửa.

Bên trong nhà, tiếng nhạc đang mở.

“Bạn hãy có một mùa Giáng sinh bé nhỏ hạnh phúc...”

Bây giờ là cuối tháng Năm.

Bà tắt máy nhạc và đi xuống cuối hành lang. Căn nhà trống vắng, lời nhạc làm bà ớn lạnh. Nó là bài nhạc để ở chế độ phát đi phát lại. Bà kiểm tra phòng ngủ trước tiên, không tìm thấy gì khác lạ. Phòng tắm cũng bình thường. Bà thấy chai thuốc trong nhà bếp.

Chai thuốc màu cam nằm ngay chính giữa cái bàn dán formica có nhiều chỗ bong tróc. Nó sáng choang và bóng loáng, nhãn hiệu trên chai trắng tinh. Bà Katherine nhìn vào nó, cảm thấy lưỡi mình dày lên. Những viên thuốc khua lách cách khi bà cầm cái chai lên đọc nhãn hiệu. Trên đó ghi tên bà và ngày hôm nay.

Bảy mươi lăm viên.

Oxycontin.

Trong cơn phẫn nộ, bà giật phăng cánh cửa và quẳng mạnh cái chai ra ngoài sân. Chiếc khoá cửa xoay trong ngón tay khi bà gài chốt. Bà kiểm tra mọi cửa sổ, mọi cửa ra vào, sau đó ngồi ở ghế sofa bên cạnh cửa sổ trước nhà. Bà giữ thẳng lưng, và cảm nhận cái chai thuốc ở ngoài sân, một món quà trong bóng tối. Bà nghiến răng và nguyền rủa gã Ken Holloway.

Sẽ chẳng dễ dàng như vậy.

Trưa hôm sau, Johnny rời bệnh viện. Họ dìu cậu đến lề đường và cậu đứng đó cẩn thận. “Cháu không sao chứ?” Cô y tá hỏi.

“Cháu nghĩ vậy.”

“Hãy thong thả vài phút.”

Cách đó mười một mét, máy ảnh chớp nháy liên hồi. Các phóng viên hò hét đặt câu hỏi, nhưng cảnh sát giữ họ ở một khoảng xa. Johnny dựa vào thân xe, một tay đặt trên nóc xe tải của ông Steve. Cậu thấy những chiếc xe tải mới của các hãng thông tấn từ Charlotte, những chiếc xe của Raleigh.

“Cháu sẵn sàng rồi,” cậu nói, và cô y tá giúp cậu ngồi vào trong xe.

“Đừng làm việc gì quá sức nhé,” cô nói. “Hai vết chém ăn khá sâu vào thịt cháu đấy.” Cô nở nụ cười rồi đóng cửa xe lại. Ngồi đằng sau vô-lăng tay lái, Steve xem xét các máy ghi hình. Ngồi bên cạnh ông, mẹ Johnny dùng một tay che mặt. Hunt bước đến cửa xe khi Johnny ngồi cẩn thận ở ghế đằng sau. Khi ông lên tiếng, đã có sự dàn xếp giữa ông và Sở Xã hội. “Chuyện này chỉ có thể tiếp tục nếu tất cả quý vị chấp hành theo quy định.” Ông di chuyển ánh mắt từ mặt người này qua người kia, dừng trước Steve. “Tôi muốn biết ông có khả năng đảm trách chuyện này không.”

Steve liếc nhanh Johnny qua gương chiếu hậu. “Tôi nghĩ là được. Cứ cho rằng cậu nhóc sẽ vâng lời tôi.”

Thám tử Hunt nhìn Johnny. “Đây là một món quà, Johnny. Với tất cả những gì đã xảy ra.”

“Con tôi phải xa nhà bao lâu?” Bà Katherine hỏi.

“Tùy vào Sở Xã hội.”

“Đúng là tào lao,” Johnny lẩm bẩm.

“Cậu nói gì đó?”

Johnny đá tấm thảm trải sàn xe. “Không có gì.”

Hunt gật đầu. “Tôi cũng nghĩ như vậy.” Ông lùi bước, nói với Steve. “Theo sau đèn đuôi xe của tôi. Đi về tới nhà.”

Chặng đường đi hết mười hai phút, và không ai nói một lời nào. Về đến nhà, Hunt đậu xe ở bãi cỏ. Johnny và mẹ cậu leo xuống khỏi xe. Bà chằm chằm nhìn ngọn đèn đường ở tít đằng xa, sờ cổ họng mình một lần, và đi vào trong nhà. Johnny đi theo bà vào phòng cậu. Quần áo của cậu đặt trên giường, gấp cẩn thận. Giọng bà đầy vẻ ăn năn. “Mẹ xếp hết chúng ra giường tối hôm qua. Mẹ không biết những món nào con muốn mang theo.”

“Con sẽ gói chúng vào túi.”

“Con chắc không?” Bà chỉ vào bộ ngực băng cứng bông băng.

“Con làm được.”

“Johnny...”

Cậu nhìn mẹ, thấy bà căng thẳng quá mức. Trước kia, bà luôn cứng cỏi, và rồi, sau chuyện con gái bị bắt cóc, mọi chuyện đã hoàn toàn trái ngược. Khuôn mặt bây giờ của bà rất khác biệt, như thể hai bên mặt của bà đang trong một cuộc tranh chấp kinh hoàng. “Lẽ ra mẹ không nên nói dối con,” bà nói. “Lẽ ra mẹ không nên nói dối con về chuyện bố con viết thư.”

“Con hiểu.”

“Mẹ không muốn con biết con chỉ có một mình. Mẹ nghĩ...”

“Con đã nói con hiểu rồi.”

Bà luồn tay vào tóc của con trai. “Thật cứng cỏi,” bà nói. “Rất độc lập.”

Johnny cứng đờ người vì đã có lần bà nói những từ đó để diễn tả bố cậu. Vô tình Johnny nghe được một trận cãi nhau hiếm có, lý do đi đến cãi vã cậu cũng không được rõ. Nhưng đó là những lời lẽ của bà: Anh không cần lúc nào cũng phải độc lập thế đâu! Ông chỉ mỉm cười và hôn bà, và cuộc cãi vã chấp dứt. Bố Johnny là người tuyệt vời như vậy. Khi ông nở nụ cười trên môi, không ai có thể bực dọc gì ở ông được nữa. Với Johnny, đến ngay cả bây giờ, sự tự lập và cương nghị đều là một và giống nhau. Không than vãn. Cố làm cho xong việc. Cậu có tất cả những yếu tố đó. Cái cậu thiếu là một nụ cười thỏa hiệp như bố. Hoặc là cậu thực sự không bao giờ có nó, hoặc là cậu đã đánh mất cảm giác đó, cậu không thể nói gì được. Đời sống, đối với Johnny, trở thành vấn đề của sự độc lập. Cậu nhặt bộ quần jeans, nhét nó vào túi. “Con phải làm việc này cái đã.”

Bà rời phòng và cậu nghe thấy tiếng khoá cửa phòng bà, tiếng lò xo nệm giường khua lạch cạch. Cậu không rõ cuối cùng phía bên nào của mẹ mình thắng trận, sự mềm yếu hay cứng rắn, nhưng kinh nghiệm cho cậu biết mẹ cậu đang đóng kịch, cậu nhắm nghiền mắt. Bất thình lình bà xuất hiện ở cửa, một lúc sau, làm cậu vô cùng ngạc nhiên. Bà cầm một khung ảnh, ảnh màu chụp bà trong ngày cưới. Lúc ấy bà mới hai mươi, cười rạng rỡ, ánh nắng tràn trên khuôn mặt tạo thành gam màu tuyệt đẹp. Bố Johnny đứng cạnh bên bà, cũng với nụ cười không chút ưu tư. Johnny nhớ tấm ảnh này. Cậu nghĩ bà đã đốt nó cùng tất cả những thứ khác. “Con cầm lấy bức ảnh đi,” bà nói.

“Con sẽ trở về mà.”

“Cầm lấy đi.”

Và Johnny cầm.

Sau đó bà ôm cậu với sự trìu mến vô tận; và khi bà trở về phòng ngủ của mình, cửa phòng đóng kín.

Johnny dừng ở phía đằng sau cửa lưới, cái túi vải nặng trịch một bên vai. Bên ngoài, cành cây oằn mình trong cơn gió mạnh. Hunt đứng cúi đầu, hai tay thọc sâu vào túi quần. Ông nhìn chằm chằm căn nhà với cặp mắt sâu hoắm. Ông không trông thấy Johnny; ông nhìn vào một cái cửa sổ, rồi cái kế tiếp, đầu không nhúc nhích, những nếp nhăn hằn giữa trán. Ông di chuyển khi trông thấy Johnny đá nhẹ cánh cửa bằng một chân. “Cậu không nên mang vác cái túi nặng như vậy.” Ông đỡ cái túi từ vai của Johnny. “Cậu sẽ làm bung chỉ khâu các vết thương đấy.”

“Không sao mà.” Johnny bước xuống sân cỏ và Hunt dừng bước ngay bên cạnh cậu.

“Trước khi chúng ta đi.”

“Sao?”

“Khi cậu gặp gã Levi Freemantle...” Hunt ngần ngại. “Cậu có thấy ai khác đi với gã không?”

Johnny cân nhắc câu hỏi, tìm kiếm dấu hiệu nguy hiểm. Cậu từ chối tất cả những câu hỏi của thám tử Hunt, nhưng không thấy câu này có thể gây trở ngại với Sở Xã hội. Cậu thấy tia hy vọng trên mặt ông thám tử, và rồi tiêu tan khi cậu lắc đầu. “Chỉ có cái rương.”

Đôi mắt thám tử Hunt như bị tra tấn, giọng ông ta đanh lại. “Không có ai sao?” Hunt không thể hỏi hết toàn bộ câu hỏi: Không có con nít? Không có đứa trẻ nào có thể làm mềm con tim?

Johnny lắc đầu.

Hunt ngừng, sau đó đằng hắng để làm trơn cuống họng. “Đây.” Ông chìa ra tấm danh thiếp, và Johnny cầm lấy nó. “Cậu có thể gọi tôi bất cứ lúc nào. Không cần phải có lý do.” Johnny nghiêng tấm danh thiếp, sau đó nhét nó vào túi quần sau. Hunt nhìn căn nhà lần cuối, rồi gượng cười một tiếng. Tay ông đặt lên vai Johnny. “Ngoan nhé,” ông nói, và quẳng cái túi của Johnny vào phía đằng sau xe ô tô.

Johnny nhìn xe thám tử Hunt quặt vào đường, rồi rẽ bánh. Cánh cửa xe tải của Steve kêu rít khi cậu mở nó. Cậu leo lên xe, đôi môi Steve vặn vẹo miễn cưỡng một cử chỉ thân thiện. “Bây giờ thì chỉ có hai ta.”

“Chuyện này vớ vẩn quá,” Johnny nói.

Nụ cười Steve rớt xuống. Ông ta đề máy, lùi xe ra khỏi đường dẫn. Ông liếm môi, nháy mắt phải. “Cháu có thể nói tôi nghe chuyện gì xảy ra được không?”

Ý ông ta muốn nói về chuyện Tiffany Shore.

“Cháu đâu có cứu mạng được ai.” Johnny nói một cách máy móc. Johnny giữ mắt không nhìn vào căn nhà. Cậu sợ mình sẽ phản ứng nếu nhìn vào cái vỏ bọc mà cậu bỏ lại mẹ trong đó, sự vô nghĩa được gói ghém trong lớp sơn bong tróc và gỗ mục nát.

Steve tăng tốc. “Dù vậy, bố cháu sẽ hãnh diện.”

“Có thể.”

Johnny đánh liều nhìn thoáng ngôi nhà lần chót khi ngôi nhà càng lúc càng nhỏ bé phía đằng sau. Nóc nhà võng ngược dường như thẳng ra, những chỗ hư hỏng mờ đi, và trong giây phút ngắn ngủi, căn nhà sáng choang như đồng tiền mười xu. “Chúng ta sẽ ổn với sự xếp đặt thế này chứ?” Johnny hỏi. “Tôi ở với chú? Đây không phải ý kiến của tôi, chú biết đấy.”

“Chỉ cần cháu đừng đụng đến đồ đạc của tôi.” Chiếc xe leo lên đỉnh đồi, và ông Steve vặn vẹo xương hàm như thể nó bị nhảy ra khỏi khớp. Con đường đổ dốc xuống khu vực có bóng râm. “Cháu có muốn mua kẹo bánh hay truyện tranh gì không?”

“Kẹo á?”

“Bọn trẻ vẫn thích mà, đúng không.”

Johnny không nói gì.

“Cảm giác như cháu mắc nợ chú.”

“À, không phải thế đâu.”

Steve nghiêng đầu về phía ngăn đựng bao tay, bớt căng thẳng hơn. “Tôi cần lấy bao thuốc lá.”

Giấy tờ nhà và nhiều thứ linh tinh được nhét trong hộc đựng trên táp-lô. Thuốc lá gói. Biên nhận. Vé sổ xố. Johnny lôi ra nửa gói thuốc lá Lucky Strikes nhàu nát dúm dó và đưa cho ông chú. Sau đó cậu thấy cây súng. Nó được nhét vào góc bên trong, giấu kỹ dưới cuốn cẩm nang sử dụng xe và tấm bản đồ Myrtle Beach lem lấm đầy cà phê. Báng súng bằng gỗ nâu, mạ kền, cò súng xanh đen mạ bạc. Nhiều vết nứt làm đổi màu bao súng da. Cạnh bên cây súng, một hộp đạn bằng giấy bạc màu ghi chữ.32 khoét rỗng đầu.

“Đừng đụng vào nó,” Steve nói.

Johnny đóng hộc đựng trên táp-lô. Cậu nhìn hàng cây hai bên đường lao nhanh vun vút phía sau lưng họ, những khoảng không gian tối đen giữa nó như hình bóng một người đàn ông khổng lồ màu khói. “Chú sẽ dạy tôi bắn súng chứ?”

“Khó gì đâu.”

“Chú sẽ chỉ cho tôi chứ?”

Steve nhìn hai bên đường, xác định, sau đó búng tàn thuốc lá ra ngoài cửa sổ. Johnny giữ vẻ mặt trầm ngâm tư lự, và cậu hãnh diện điều này, bởi vì thực ra cậu không hẳn là như vậy. Cậu đang suy nghĩ về cô em gái song sinh và gã khổng lồ với khuôn mặt chảy xệ có cái tên gốc Mustee.

“Để làm gì?” Steve hỏi, và Johnny tròn xoe đôi mắt ngây thơ nhất của cậu.

“Chỉ đề phòng hờ thôi.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


Steve lèo lượn chiếc xe tải đi ngang qua thị xã. Ông đi qua nhiều cửa hiệu và những dinh thự cột trụ, quảng trường thị trấn với vòm mái là những cây sồi uốn lượn và bức tượng dựng lên hơn một trăm năm trước để vinh danh những người chiến sĩ vong trận thời nội chiến. Johnny thấy một bụi tầm gửi trên một cái cây, và nghĩ đến người con gái một lần cậu dám hôn nàng, cho đến giờ cậu không tài nào hình dung lại được khuôn mặt cô nữa.

Một cuộc đời khác.

Khi đã đi qua quảng trường và khuôn viên viện đại học địa phương ngập tràn ánh nắng, Steve rẽ xe vào con đường bốn làn xe dẫn đến thương xá. Nó là khu thương xá của ông Ken. Ông ta làm chủ. “Chú đi đâu vậy?” Johnny hỏi.

“Tôi phải ghé ngay chỗ làm. Sẽ không mất thời gian đâu.”

Johnny trồi xuống cái ghế ngồi. Steve hiểu ý. “Gã Holloway sẽ không có mặt ở đây đâu,” ông ta nói. “Chẳng bao giờ.”

“Tôi đâu có sợ gì gã Ken.”

“Tôi có thể chở cháu đến nhà tôi trước.”

“Tôi đã nói tôi không sợ.”

Cười nửa miệng. “Sao cũng được.”

Johnny gượng người ngồi dậy. “Tại sao ông ta quan tâm quá nhiều đến mẹ tôi?”

“Gã Holloway đó hả?”

“Gã đối xử với mẹ tôi như đồ bỏ.”

“Bà ấy là người phụ nữ đẹp nhất ở tiểu bang này, hay là cháu không để ý đến điều này?”

“Còn nhiều hơn thế ấy chứ.”

Steve nhún vai. “Gã Holloway không thích bị mất.”

“Mất gì?”

“Bất cứ thứ gì.” Sự bối rối của Johnny thể hiện rõ, và Steve thấy điều đó. Ông ta chau mày và rít một hơi thuốc. “Cháu không biết, có đúng vậy không?” Ông ta lắc đầu. “Chúa ơi, thánh cả của muôn loài.”

“Gì vậy?”

“Ngày trước mẹ cháu hay hẹn hò cặp kè với gã Ken Holloway.”

“Tôi không tin.”

“À, cháu nên tin.” Steve tần ngần, kéo dài thêm thời gian. “Lúc đó bà ta mười tám tuổi, có thể mười chín. Chỉ là một cô gái, thật vậy.” Ông ta lắc đầu, mím chặt hai môi. “Mẹ cháu bốc lửa hơn cả cây súng ba đô-la. Lẽ ra bà ấy có thể đến Hollywood, có thể. New York, chắc chắn. Bà ấy không hề đi, dĩ nhiên, nhưng có thể.”

“Tôi vẫn không tin.”

“Gã ta lớn tuổi hơn, nhưng ở thời điểm ấy gã đã là người đàn ông giàu nhất vùng. Không giàu như bây giờ, cháu không màng chứ, nhưng đủ giàu có. Một cô gái trẻ đẹp khó mà cự tuyệt sự chú ý đầy áp lực một khi gã đã quyết định tấn công, và mẹ cháu không khác gì so với phần lớn các cô gái. Hoa. Quà. Những bữa ăn tối thịnh soạn. Bất cứ cái gì gã ta có thể nghĩ ra được để làm bà ấy cảm thấy mình quan trọng.”

“Mẹ tôi không phải hạng người như vậy.” Johnny giận dữ.

“Bây giờ thì không. Nhưng người trẻ thích có cái cảm giác huênh hoang hơn nơi chốn họ xuất thân. Nó kéo dài khoảng vài tháng, tôi đoán vậy. Nhưng sau đó bố cháu trở về thị trấn.”

“Trở về từ đâu?”

“Quân đội. Bốn năm. Ông ấy lớn hơn mẹ cháu sáu tuổi. Bảy tuổi thì phải? Thì, bà ta chỉ là một cô con gái bé nhỏ khi ông ấy nhập ngũ, nhưng mọi chuyện đã thay đổi.” Steve cười và huýt sáo nhẹ nhàng. “Cậu bé, mọi chuyện thay đổi làm sao!” Johnny dõi mắt nhìn ra cửa sổ, Steve tiếp tục. “Bố cháu rơi xuống chân bà ấy như khối sắt nặng ngàn cân.”

“Mẹ tôi cũng vậy chứ? Ý tôi là mẹ tôi cũng thế với bố tôi?”

“Mẹ cháu như một con bướm, Johnny ạ. Xinh đẹp, nhẹ nhàng và mong manh. Bố cháu yêu cái vẻ đó của bà và trân trọng nó. Ông ấy nhẹ nhàng và kiên nhẫn, cháu cũng cần phải có đức tính này để con bướm đậu xuống bàn tay cháu.”

“Còn gã Holloway?”

Steve dụi tắt điếu thuốc lá, nhổ nước bọt ra cửa sổ. “Gã Holloway chỉ muốn nhốt bà ta vào cái lọ.”

“Và bà ấy khám phá ra dụng ý của gã?”

“Cháu phải nhìn khuôn mặt của gã khi mẹ cháu tuyên bố sẽ bỏ gã để theo bố cháu.”

“Thịnh nộ?”

“Thịnh nộ. Ghen tức. Gã theo đuổi bà rất dữ, cố gắng thay đổi ý định trong đầu bà, nhưng ba tháng sau bố mẹ cháu làm đám cưới. Cháu ra đời một năm sau đó. Nó là cú đá hồi mã thương ác liệt nhất mà tôi từng chứng kiến, và tôi cũng không biết gã Holloway có bao giờ nguôi được vết thương lòng không.”

“Nhưng bố tôi làm việc cho gã Holloway. Tất cả những căn nhà bố tôi xây, lúc nào cũng thấy mặt gã Holloway ở đó.”

“Bố cháu chỉ thấy cái tốt trong bụng dạ con người. Nó là đức tính tạo nên con người đôn hậu của ông. Nhưng gã Holloway chỉ chờ có cơ hội là ra tay chôn sống ông.”

“Bố tôi không biết sao?”

“Chú có nói nhiều với ông ấy, nhưng bố cháu luôn nghĩ ông ấy có thể cầm trịch gã ta. Ông ta hãnh diện như vậy.”

“Tự tin,” Johnny nói.

“Kiêu ngạo.”

Chiếc xe bon bon trên mặt đường đen thui. Sợi dây curoa bất thình lình rít lên. “Chú làm việc cho gã Holloway.”

“Đâu phải tất cả chúng ta đều có sự chọn lựa, Johnny. Đó là một bài học về đời sống cho cháu. Không tốn tiền.”

Steve dừng chiếc xe tải trước bảng đèn giao thông. Từ phía đằng xa, thương xá của gã Holloway vươn lên sừng sững như chiếc pháo hạm. Johnny nhìn mặt Steve, và cậu nói, một điều liên quan đến mẹ cậu. “Có phải chú muốn hẹn hò với mẹ tôi?”

Đôi mắt Steve dứt khoát như mắt rắn. “Quỷ thần, con trai ơi.” Đèn giao thông bật xanh. “Ai cũng muốn như vậy.”

Bãi đậu xe kín bưng nhắc Johnny hôm nay là thứ Bảy. Steve đậu xe gần chỗ ra vào của nhân viên ở phía đằng sau. Khi ông ta mở cửa xe, kính chiếu hậu phía bên ông ta hắt ánh nắng mặt trời vào mắt Johnny. “Đi thôi!” ông ta nói.

“Tôi có thể chờ trong xe được không?”

“Phía đằng sau này quá nguy hiểm. Vô gia cư. Nghiện ngập. Chúa mới biết còn thứ gì nữa.” Johnny nhìn khi Steve sờ những thứ gắn trên thắt lưng: Hơi cay, điện đàm, còng. “Nhanh lên. Tôi sẽ chỉ cho cháu những thứ hấp dẫn.”

Bên trong, thẻ vào cửa cho phép đi vào một cánh cửa hẹp, cầu thang kim loại, và hành lang lầu ba dẫn đến văn phòng ghi chữ AN NINH. Steve quẹt thẻ và dựa vai vào cánh cửa văn phòng. “Con nít không bao giờ có cơ hội xem những thứ này.”

Văn phòng an ninh là căn phòng to lớn và phức tạp, với hàng loạt đầu truyền hình lắp kín các bức tường. Hai người nhân viên an ninh ngồi ở ghế đen có bánh xe xoay, tay đặt trên bàn phím và cần điều khiển, thay đổi hình ảnh trên màn hình, phóng to, thu nhỏ, quan sát. Cả hai đều quay lại khi Johnny bước vào, đoạn tỏ vẻ ngạc nhiên, rồi sau lại quay đầu lại nhìn kỹ một lần nữa.

Một người trạc hai mươi mấy, to béo, với mái tóc húi cua ngắn và khuôn mặt cạo trơ nhẵn nhụi. Nụ cười của y vừa thán phục vừa bất cần. “Đây là anh nhóc đó hả?”

Steve đặt một tay lên lưng Johnny, đẩy cậu vào sâu hơn trong văn phòng. “Cháu tôi. Đại loại vậy.”

Người nhân viên an ninh to béo đưa bàn tay chắc nịch, và Johnny quan sát bàn tay thật kỹ trước khi bắt nó.

“Làm tốt lắm, nhóc. Ước gì tôi cũng có mặt ở đó.”

Johnny nhìn ông chú, ông ta thốt ra hai chữ. “Tiffany Shore.”

Người nhân viên an ninh đưa bàn tay như thể bóp cò súng. “Pằng.”

“Tôi không muốn nói về chuyện đó,” Johnny nói.

Nhưng người đó sốt sắng. “Cậu xem cái này chưa?” Y lôi ra tờ báo từ quầy. “Trang nhất. Đọc cho biết.”

Bức ảnh chụp Johnny, chụp qua cửa kính khi cậu ngồi cầm lái chiếc ô tô của mẹ cậu. Hai tay ôm chặt vô-lăng. Miệng há hốc, khuôn mặt kinh ngạc và trống rỗng. Máu thấm ra mọi thứ, những nơi máu khô đã sậm màu, còn tươi nơi nó thấm ướt vết thương trước ngực. Những lông chim và đuôi rắn chuông ánh sắc đen trên da, cái đầu lâu màu mỡ gà như hòn đá nhúng vào trong mật ong. Tiffany nằm dài người trên băng ghế ngay phía đằng sau, ánh nắng gay gắt chiếu trên khuôn mặt làm vỡ tan cặp mắt của cô. Những người đàn ông đóng bộ sạch sẽ với những cánh tay dài với xuyên qua cửa sổ kéo cô ra ngoài, nhưng cô đang chống cự, mồm cắn chặt, những ngón tay tuyệt vọng bám chặt vào cánh tay của Johnny.

Dòng chữ ghi dưới tấm ảnh: “Trẻ mất tích được tìm thấy, kẻ ấu dâm bị giết.”

Giọng Johnny nghẹn ngào thì thào. “Họ lấy tấm ảnh này từ đâu vậy?”

“Gã bảo vệ ở bệnh viện chụp nó bằng di động của ông ta. Họ cũng dùng bức ảnh này trên hệ thống CNN.” Gã nhân viên an ninh béo lắc đầu. “Có thể phải chi cho gã ta một số tiền lớn.”

Steve bước tới trước Johnny và đẩy tờ nhật báo đi chỗ khác. “Cậu ta không cần thiết nhìn thứ đó.”

Anh nhân viên an ninh xoay người khi y quan sát khuôn mặt của Johnny, thấy bóng tối xâm chiếm nhiều hơn ở những chỗ lõm. “Tôi không hề có ý gì.”

“Ông chủ có trong phòng không?” Steve ngắt lời.

Anh nhân viên an ninh gõ một ngón cái vào cánh cửa văn phòng nhưng mắt vẫn dán vào Johnny. Johnny dõi theo cái nhìn chằm chằm của Steve và trông thấy một cánh cửa sổ với rèm trắng phủ đầy bụi bặm. Một con mắt nhìn ra bên ngoài và cái rèm đóng ngay. “Chết rồi,” Steve lẩm nhẩm. “Không biết có phải gã đang đi kiếm mình?”

“Có phải thế không?”

Steve nhún vai, nhưng trông bồn chồn. “Có gì hấp dẫn không?”

“Một tên khách hàng ăn cắp. Hai D-và-D.”

Steve giải thích. “Say rượu và gây rối.” Ông ta đập nhẹ lên vai Johnny và bước ngang qua phòng. “Lại đây,” ông nói, và Johnny theo sau lưng ông ta đi qua những dãy đầu truyền hình đến một bức tường kính cao ba mét và dài gấp đôi. Từ đây nhìn được xuống khu vực bán hàng ăn uống. Steve gõ nhẹ vào tấm kính. “Sự phản chiếu”, ông ta nói.

Johnny nhìn xuyên thấu qua cửa sổ và có thể thấy tất cả mọi thứ dàn bày ra ở phía dưới: các cửa hiệu và hàng ăn, thang máy, người đi mua sắm. Anh nhân viên an ninh to béo nhẹ nhàng bước tới, bụm hai bàn tay lại và thở ra nặng nề. “Đây phải là điều mà Chúa cần thấy.” Johnny muốn cười vang ở lời nói ngớ ngẩn và sự ti tiện trong nó. Nhưng ngay lúc đó cậu thấy Jack.

Mặt đỏ bừng, xấu hổ, dạng điệu khác thường.

Hắn đứng ở ngoài rìa đám đông, một cậu trai nhỏ người, da ngăm với một cánh tay teo lại và không có ý nghĩa gì so với toàn cơ thể. Hắn đứng, chịu đựng, bởi vì có chống chọi cũng không giúp hắn đi đến đâu, và vì nếu bỏ đi chỉ nói lên một điều hắn thực sự quan tâm về chuyện sự sỉ nhục đang được phủ chụp lên hắn. Những kẻ hành hạ hắn già đầu hơn hắn, những đứa trẻ thì cười tự tin.

Johnny cúi hụp người xuống khi cậu thấy nước dãi nhổ xuống phía đằng sau áo sơ mi của Jack; nhưng sự giận dữ của cậu lên tới đỉnh điểm khi cậu thấy anh của Jack, đứng cách xa khoảng ba mét và không làm gì để can thiệp. Hắn ta đang được các cô gái nịnh bợ bu quanh, ít nhất là bốn cô.

Johnny chỉ. “Chú thấy chuyện đó không?”

Steve chồm người về phía trước. “Geral Cross? Thấy, tôi thấy. Những đứa con gái vẫn vậy kể từ khi y ký giao kèo chơi cho Clemson. Y sẽ chơi chuyên nghiệp trong vòng một năm. Giao kèo của y sẽ trị giá ít nhất chục triệu đô.”

“Không phải y.”

“Chứ chuyện gì?”

“Tôi xuống dưới đó được không?”

Steve nhún vai. “Đi. Ở. Tôi không phải bố của cậu.”

***

Johnny lao nhanh xuống cầu thang, qua cửa an ninh và lao vào đám đông. Cậu ngửi thấy mùi bánh pizza và thịt bò nướng cháy, mùi mồ hôi trên những cơ thể quá nóng và, đâu đó, mùi tã trẻ con chưa thay. Cậu phóng ngang đến chỗ Jack và nghe thấy tiếng thì thào gọi tên cậu. Nhiều ngón tay chỉ trỏ.

Nó đấy.

Mất cả phút để Johnny hiểu ra, cậu đã hiểu.

Nơi đâu cũng lào xào câu chuyện.

Khi Johnny vượt ngang qua khu vực ăn uống, hàng chục người dõi theo bước chân cậu, nhưng cậu không thèm quan tâm. Một gã lớp trên đấm vào cánh tay tật nguyền của Jack, chạm vào khu vực dưới bả vai nhiều thịt, ngay chỗ xương rỗng không có chức năng bảo vệ. Jack cố gắng giấu sự đau đớn, nhưng Johnny thấy bạn của mình sắp sửa khóc.

Johnny lồng lộn lao vào nhóm người và đấm gã lớp trên một cú bằng hết sức bình sinh. Tay cậu chạm vào mồm gã, cảm nhận được râu ria, răng, và cặp môi dày bầy hầy. Gã chúi về bên trái, lấy thăng bằng, hai tay vung lên, giơ nắm đấm. Y co tay định tung quả đấm, thì nhận ra Johnny. “Ui trời,” y nói. Johnny nhìn đôi mắt nâu kinh ngạc của y, hàm răng ngả màu, và mái tóc dài thậm thượt xịt keo đâm nhọn. Gã trai nhổ ra đống máu rồi bỏ đi. “Tổ cha cái đồ lập dị.”

Johnny tức giận run người, với tất cả những gì tiêu biểu cho con người mình khi bước vào bệnh viện ướt đẫm máu và cả năm trời yên lặng. Gã trai hiểu nhầm cái run người là do sợ hãi và bắt đầu mỉm cười, rồi nhìn qua đầu Johnny hướng về đám đông đang đứng nhìn. Gã hạ tay xuống, cố gắng gượng cười. “Thường thôi, Pocahontas.”

Không một ai cười. Johnny là người nổi tiếng dị thường, một đứa trẻ quái gở, hoang dã với cặp mắt đen hoang dại. Cậu từng chứng kiến những chuyện mà lẽ ra không cậu bé nào đồng trang lứa được biết. Cậu mất người em song sinh, tìm được Tiffany Shore, và có thể đã giết một gã đàn ông.

Cậu là sơn và lửa của chiến tranh.

Cuồng trí.

Johnny giơ một ngón tay lên, sau đó nhìn vào đôi mắt sáng rực, long lanh của bạn cậu.

“Hãy đi ra khỏi đây.”

Cậu bắt đầu đi, thì thấy Gerald, đứng phía sau ba hàng, cao lớn to con, mái tóc vàng nâu và da dẻ có màu như gạch ngói nung. Johnny kéo Jack đi theo cậu, và đám đông giải tán. Cậu dừng trước Gerald và thấy đám đông các cô gái lùi bước thế nào, trông Gerald trơ trụi làm sao khi không đứng cùng bọn họ.

Johnny lôi Jack ra khỏi cái bóng của cậu và bá tay vào cổ bạn. Cậu không thấy người bạn của cậu hạ mắt xuống và buông thõng người, cũng không thấy sự tủi hổ, sợ hãi và sự co quắp, bồn chồn ở bạn. Gerald như toà lâu đài phủ bóng lên Johnny, cao hơn cậu hai mươi lăm phân, nặng hơn bốn lăm cân. Hắn là sức sống ngày hè và cỏ xanh, một thần tượng đầy triển vọng đang lên, nhưng những người đang nhìn không ai không hiểu người nào đang làm chủ tình hình. Johnny giơ ngón tay, đâm nó vào phần ngực đầy thịt của Gerald. “Hắn là em trai của anh, đồ mắc dịch. Anh mắc cái chứng gì vậy?”

Hai cậu bé dõi mắt quan sát đám đông yên lặng. Johnny nhìn thẳng phía đằng trước và cố gắng tránh chạm mắt, nhưng cậu nhận ra một người, một kẻ lớp trên khác, cao lớn với mái tóc hung vàng và hai mắt mở rộng. Y là Allen - con trai của Thám tử Hunt. Ở dòng sông. Đứng riêng lẻ một mình, đi ủng mũi thép và mặc áo khoác jeans, y đứng dựa lưng vào một cái cột tít phía đằng sau đám đông. Cây tăm xỉa răng lăn tròn giữa hai hàm răng, cặp mắt chăm chú trông chừng. Khi Johnny nhìn thẳng vào y, y không buồn chớp mắt hoặc chuyển dịch. Chỉ có cây tăm. Từ bên này mồm qua bên kia mồm.

Cánh cửa an ninh nhận thẻ chìa khoá mà Steve đưa cho cậu. Cửa tách mở và Johnny đi vào, bên trong là khoảng không gian mát lạnh, mùi xi măng và mùi ẩm ướt. Cầu thang nằm bên tay phải và dưới gầm là khoảng không gian thấp, xám xịt. Jack ném người xuống sàn nhà, lưng tựa vào tường, hai chân kéo lên. Johnny ngồi cạnh bên hắn. Bã kẹo gum nhả ra lấm tấm mảng đen dưới thảm trải sàn. Một chiếc giầy của Jack bị bung dây. Quần jeans của cậu, nơi đầu gối, vấy bẩn đầy vệt cỏ.

“Ừm,” Johnny nói. “Tệ quá.”

Jack giấu mặt vào đầu gối còn Johnny nhìn lên trên. Ngón tay của cậu lần mò ra một chiếc đinh tán, rồi cả một hàng đinh trên tường. Khi Jack ngẩng đầu lên, Johnny thấy những điểm ướt làm cho những chỗ bị vấy bẩn vệt cỏ biến thành màu đen.

“Cậu tìm ra chỗ này thế nào đấy?”

“Chú Steve.”

Jack rít nhanh hai hơi thở, quẹt nước mũi dọc theo phía đằng sau cánh tay tật nguyền.

“Bọn chó chết!” Johnny nói.

Jack hít. “Đồ cá tra.”

“Phải rồi. Đồ chùi háng.”

Jack cười, một sự giải toả trong lo sợ, và Johnny dễ chịu phần nào. “Chuyện gì xảy ra ngoài đó vậy?”

“Hắn muốn tớ nói điều gì đó,” Jack giải thích. “Tớ không làm.” Johnny nhìn nghi vấn và Jack nhún vai. “Kẻ mạnh làm cha. Thằng tật nguyền rớt dãi thèm.”

“Tổ cha thằng Gerald. Tay cậu sao rồi?”

Jack xoay vòng cánh tay, rồi ép mạnh nó trên ngực mình. Hắn chỉ vào ngực Johnny. Băng hiện rõ qua những nút áo. “Cậu chảy máu kìa.”

“Tớ làm rách vài mũi khâu.”

Jack trố mắt nhìn những chỗ băng bó. “Có phải cậu bị tối hôm nọ không?”

Những miếng băng đen dần. Johnny kéo áo sơ mi gần lại.

“Lẽ ra tớ phải đi theo cậu, Johnny. Khi cậu yêu cầu trợ giúp, lẽ ra tớ phải đi với cậu.”

“Chẳng thay đổi được gì đâu,” Johnny nói.

Jack đấm vào chân mình. “Tớ là thằng bạn tồi.” Cú đấm tạo âm thanh nghe như búa đấm trên da thịt. “Tớ là - hắn ngưng, rồi đấm tiếp - “thằng bạn tồi.”

“Ngưng chuyện này dùm cái.”

“Tớ chẳng làm được gì cho Alyssa.”

“Cậu cũng không thể.”

“Tớ thấy chuyện đó xảy ra mà.”

“Cậu cũng đâu thể làm gì khác hơn được, Jack.”

Nhưng Jack làm ngơ. “Tớ đã không giúp được cậu điều gì.” Hắn lại đấm mạnh.

“Thôi đi Jack.”

Jack ngừng tay. “Chuyện đó có thật không?” Hắn nhìn Johnny. “Những thứ người ta nói về cậu? Cậu biết mà?” Hắn làm điệu bộ, những ngón tay lúc lắc. Johnny hiểu ý hắn. “Tớ nghĩ một vài thứ đúng.”

“Chuyện gì vậy Johnny?”

Johnny nhìn cậu bạn, và biết, không chút nghi ngờ gì, rằng Jack sẽ không bao giờ hiểu được cần phải tin tưởng mạnh mẽ vào sự liều lĩnh của Johnny hơn chính đôi tay của cậu ta. Jack không bao giờ cảm nhận được sự mất mát hoặc nỗi sợ hãi. Hắn chưa bao giờ sống trong cơn ác mộng đã trở thành một phần trong đời sống của Johnny, nhưng hắn cũng không phải hạng người quá ngu đần. Johnny cũng phải nói với hắn một vài điều.

“Cậu có nhớ cuốn sách tụi mình đọc trong giờ Văn học không? Chúa ruồi? Về những cậu nhóc trên một hoang đảo và bọn nhóc ấy sống cuộc đời rừng rú thế nào khi không có người lớn đứng ra hướng dẫn. Bọn nhóc sáng chế gươm giáo và thuốc màu máu. Bọn nhóc sống hoang dã trong rừng, săn bắn heo, đánh trống. Cậu nhớ không?”

“Nhớ. Rồi sao?”

“Họ sống yên ổn, rồi một ngày những quy luật không còn ý nghĩa gì nữa. Họ tự tạo quy luật riêng của họ, niềm tin riêng của họ.” Cậu ngừng. “Đôi khi tớ có cảm giác mình giống những anh nhóc đó.”

“Những anh nhóc đó cố gắng tiêu diệt lẫn nhau. Bọn họ trở nên điên loạn.”

“Điên?”

“Ừ.”

Johnny nhún vai. “Tớ thích cuốn sách ấy.”

“Cậu là thằng ngốc.”

“Có thể.”

Jack nhặt sợi chỉ trên chiếc quần jeans, nhìn thềm xi măng và cầu thang ở xung quanh. “Tớ nghĩ cậu thù ghét chú Steve của cậu.”

Johnny giải thích về Sở Xã hội, Thám tử Hunt. “Đó là lý do tại sao.”

“Tớ sẽ không làm bất cứ điều gì cho gã cớm ấy,” Jack nói.

“Ý cậu là sao?”

Hắn vẫy một tay. “Những chuyện tớ nghe từ bố tớ. Chuyện cớm.”

“Như là?”

“Như chuyện ông ấy ngọt ngào với mẹ cậu. Rằng họ từng... cậu biết mà.”

“Tào lao.”

“Đó là những gì bố tớ nói.”

“Thì, bố cậu là đồ tào lao.”

“Có lẽ vậy.”

Một thoáng yên lặng. Lần đầu tiên hai đứa trái nghịch nhau. “Cậu muốn ngủ ở đây qua đêm không?” Johnny hỏi. “Nó chỉ là nhà ông Steve, nhưng, cậu biết...”

“Bố tớ không muốn tớ giao du với cậu.”

“Tại sao không?”

“Là vì Chúa ruồi. Ông ta nghĩ cậu nguy hiểm.” Jack ngả đầu về hướng bức tường. Johnny cũng làm tương tự. “Nguy hiểm,” Jack nói. “Nguy hiểm mới hay.”

“Nhưng chẳng hay ho nếu chúng ta không chơi chung với nhau.”

Cả hai rơi vào im lặng một lúc lâu. “Tớ thực sự thích bố cậu,” Jack nói. “Ông ấy làm tớ cảm nhận cánh tay tật nguyền không phải là vấn đề.”

“Chẳng là gì cả.”

“Tớ chán ghét gia đình tớ.”

“Không đâu, sao vậy được!”

Jack quàng hai cánh tay vòng quanh đầu gối và những ngón tay trở nên trắng bệch khi hắn bóp chặt. “Cậu nhớ hồi năm ngoái không? Khi tớ bị gãy tay ấy?”

Cánh tay đã yếu, nó bị gãy một cách dễ dàng. Johnny nhớ ít nhất ba lần Jack phải bó bột. Nhưng lần gãy tay hồi năm ngoái là lần nặng nhất, nó gãy đến bốn chỗ. Để chữa lành cần phải giải phẫu thêm: thêm vào nhiều ốc vít, chốt và những mảnh kim loại khác. “Tớ nhớ.”

“Gerald là tác giả chuyện này.” Bàn tay nhỏ bé nhảy múa ở điểm cuối của xương cổ tay hẹp. Giọng của Jack cũng trầm xuống. “Đó là lý do tại sao ông bố tớ mua cho tớ chiếc xe đạp mới toanh.”

“Jack...”

“Đó cũng là lý do tại sao tớ chưa bao giờ dùng nó.”

“Tào lao quá đi.”

“Tớ chán ghét gia đình tớ.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


Hunt đứng trong văn phòng Cảnh sát trưởng. Những lá cờ phủ một góc căn phòng, và trên một bức tường treo nhiều hình ảnh ông sếp với nhiều chức nhiệm hành chính khác nhau: phó Thống đốc tiểu bang, cựu Thượng Nghị sĩ, một gã tài tử vô danh tiểu tốt có vẻ mặt hao hao giống. Ảnh các con ông được chia đều treo trên tường. Tờ nhật báo địa phương đặt trên bàn. Các tờ nhật báo từ Wilmington, Charlotte, và Raleigh cũng đặt ở đó. Hình ảnh của Johnny ngay ở trang đầu các tờ nhật báo. Khuôn mặt được sơn vẽ, lông chim, máu và xương.

Một người Da đỏ hoang dã.

Ông Cảnh sát trưởng ngồi trên ghế, ngửa người ra đằng sau, hai tay vắt chéo trên bụng. Sự bực bội khắc nhiều đường hằn sâu nơi hai mí mắt. Ông ta mệt mỏi, với mái tóc chưa gội sáng bóng bết trên vầng trán. Quận trưởng cảnh sát đứng dựa vào tường, người đàn ông rắn chắc đó tầm tuổi sáu mươi, với làn da nứt nẻ trên những khớp xương tay và hai bọng mỡ ở dưới hai mí mắt. Ông đảm trách chức vụ Quận trưởng cảnh sát đã gần ba mươi năm và những nhân viên dưới quyền rất sợ hãi vì tính bốc đồng hơn là kính trọng vì khả năng của ông. Ông ta dò chừng thám tử Hunt khá kỹ bằng cặp mắt sẫm màu, xuyên phá và trông cũng chẳng vui vẻ gì hơn ông Cảnh sát trưởng.

Hunt không hề nao núng.

“Ông có biết,” Cảnh sát trưởng bắt đầu, “có bao nhiêu người làm việc cho nha cảnh sát? Bao nhiêu sĩ quan, bao nhiêu tập sự không?”

“Tôi biết rõ.”

Cảnh sát trưởng xoay qua Quận trưởng cảnh sát. “Và ty cảnh sát quận hạt? Có biết không?”

“Nhiều lắm, tôi chắc vậy.”

“Và ông nghĩ những người đó sẽ cảm thấy thế nào nếu chúng tôi cho phép ông lục lọi hồ sơ nhân viên của họ? Hồ sơ bảo mật cá nhân của họ?”

“Tôi có lý do để tin rằng...”

“Chúng tôi đã thấy lý do của ông.” Giọng nói ông Quận trưởng cảnh sát cắt ngang. Ông ta chuyển động nhưng vẫn giữ vai tựa trên tường, hai ngón tay cái móc vào dây thắt lưng màu đen, nặng trịch. “Và không một ai trong chúng ta có thể chắc chắn chữ viết trong đó nói gì. Có thể nó là “cớm,” nhưng cũng có thể là điều gì khác. Có thể thằng bé này nhầm lẫn.”

Ông Cảnh sát trưởng chồm tới trước. “Hay là toàn những thứ...”

“Hay là điên như con chuột chuồng chồ.”

Hunt nhìn chằm chằm ông Quận trưởng cảnh sát. “Tôi tôn trọng sự bất đồng quan điểm.”

“Bây giờ ông là một loại chuyên viên nào đó sao?” ông Cảnh sát trưởng chỉ mạnh một ngón tay vào tờ nhật báo. “Nhìn cậu ta này.”

Tấm ảnh kết tội cậu bé và sẵn sàng đi đến phán quyết: lông chim, tóc tai hoang dã, Tiffany run cứng người vì sợ hãi, hai con mắt cậu trai kinh ngạc đến mức trống rỗng tột độ.

“Tôi hiểu những thứ đó trông thế nào, nhưng đây là một đứa trẻ thông minh. Nếu nó nghĩ nó trông thấy một ông cớm, chắc phải có lý do.”

Ông Quận trưởng cảnh sát cắt ngang. “Anh nhóc đó cho rằng nó dựng lên chuyện ấy. Chính ông cũng nói như vậy. Bây giờ, đó là tất cả những gì tôi muốn nghe.”

“Cậu ta lo ngại rằng Sở Xã hội sẽ lôi cậu ta ra khỏi gia đình duy nhất mà cậu ta còn sót lại để bám víu. Cậu ta nghĩ một gã cớm dính dáng với Burton Jarvis.” Hunt không thể giữ mãi sự bực dọc trong lòng. “Cậu ta kinh sợ. Cậu ta phải tự bảo vệ lấy chính mình.”

“Ông có bất cứ một lý do nào khác, vượt xa ngoài anh nhóc tì này, để nghĩ rằng một kẻ trong chúng ta, một gã cớm, lạy Chúa tôi, có thể liên quan đến cái đống xà bần kinh tởm này không?”

“Chiếc còng trên cổ tay của Tiffany là loại còng dùng trong ngành cảnh sát.”

“Có thể tìm mua ở bất cứ cửa hàng quân dụng nào,” ông Quận trưởng cảnh sát nói.

“Chắc chắn nó là tang vật có liên quan, đặc biệt khi dính dáng đến sự quan sát của Johnny.”

“Chúng ta đã xong phần thảo luận về sự quan sát của anh nhóc,” ông Cảnh sát trưởng nói.

“Có gì đó liên quan giữa cái còng trên tay của Tiffany Shore với nha cảnh sát không?” Bộ dạng ông Quận trưởng cảnh sát không hề thay đổi. “Số hiệu dãy số? Bất cứ dấu tích gì?”

“Không.”

“Bất cứ cái gì ở hiện trường? Trong quá khứ của Jarvis? Trong chu vi bất động sản của gã?”

“Không. Nhưng ít nhất, anh nhóc đã xác định có một thành phần nguy hiểm cho đến giờ này vẫn còn lẩn tránh chưa bị khám phá. Hồ sơ cá nhân là chỗ hợp lý nhất để bắt đầu. Nếu cậu ta đúng, thì chúng ta sẽ loại trừ được một phần tử nguy hiểm ra khỏi xã hội. Nếu cậu ta sai lầm, cũng không thiệt thòi gì đến ai.”

“Không thiệt thòi gì? Lạy Chúa tôi, Hunt.” Ông Cảnh sát trưởng xoè rộng bàn tay đầy thịt trên bàn. “Cho phép ông sưu tra những hồ sơ đó sẽ chọc giận tất cả các nhân viên. Cá nhân tôi có thể vi phạm nhiều luật lệ về nhân sự. Đó là chưa kể đến vấn đề hình ảnh mà Sở Cảnh sát chúng ta phải đương đầu khi chuyện này xì ra ngoài.”

“Chuyện này đã xảy ra rồi” Quận trưởng cảnh sát nói.

“Anh nhóc này khiến tôi bị nhìn như một con lừa trên truyền hình quốc gia, và ông - người thám tử chỉ huy của tôi, cánh tay phải của tôi, hay là vậy mà tôi được biết - ông đã lèo lái tôi, nha cảnh sát của tôi vào một vụ kiện với gã doanh thương được tôn trọng bậc nhất của thành phố.”

Ông Cảnh sát trưởng đếm những điểm bị lôi ra toà trên đầu ngón tay ông. “Cảnh sát hành hung. Quấy nhiễu. Cố ý gây áp lực tâm lý. Bắt giữ trái phép. Còn gì khác nữa không? Tôi cũng sắp hết ngón tay rồi.”

“Có thể ngoài kia một kẻ ấu dâm đeo bảng hành sự đang tự tung tự tác tại quận hạt này. Đó là vấn đề, và hai ông nên lưu tâm vấn đề này. Làm ngơ khả năng này sẽ đặt các em gái vào tình thế nguy hiểm hơn. Ông” - Hunt nhấn mạnh chữ, nhắc lại - “ông sẽ đặt trẻ em vào tình trạng nguy hiểm nhiều hơn.”

Ông Cảnh sát trưởng bật dậy khỏi ghế ngồi. “Nếu ông nhắc lại bất cứ điều gì tương tự như vậy ở bên ngoài văn phòng này, tôi sẽ tóm đuôi ông và đốt trụi nó.”

“Làm ngơ chuyện này sẽ không khiến nó tự biến mất đâu.”

“Đủ rồi.”

“Nếu thêm một đứa trẻ bị bắt cóc vì sự lo lắng của dư luận công chúng gây bất lợi cho chính quyền lợi cá nhân...”

“Tại sao chúng ta lại lắng tai nghe thằng cha mắc dịch này?” ông Trưởng ty cảnh sát yêu cầu. “Nếu thêm một trẻ em gái nữa bị bắt cóc, đó là do sự bất tài của gã. Đó là điều căn bản mà ai cũng biết. Nhìn gã đi, lạy Chúa tôi.”

Hunt nóng gáy và ông Cảnh sát trưởng cố gắng dàn xếp mọi người ngồi xuống. “Gã Jarvis đã chết. Tiffany về nhà an toàn. Điều này quan trọng hơn cả.”

Ông Trưởng ty cảnh sát cười vang. “Cảm ơn một đứa bé gái mười hai tuổi và một cậu nhóc mười ba tuổi.”

“Tôi sẽ lo chuyện của anh em chúng tôi,” ông Cảnh sát trưởng nói và nhìn chằm chằm vào ông Trưởng ty cảnh sát. “Điều này rõ ràng chứ?”

Ông Trưởng ty cảnh sát trở về chỗ đứng của ông ta ở bờ tường và trỏ một ngón tay vào Hunt. “Thì, ông nói với người hùng của ông là nên lo nhìn kỹ vào trái bóng. Bởi vì tôi nghĩ ông ta sắp mất banh tới nơi rồi. Tôi nghĩ ông ta đang cố gắng đánh bóng tên tuổi ngon lành hơn và lôi cổ những cớm khác qua bãi bùn. Anh em tôi. Anh em ông. Chúng ta, tôi có thể nói chung là như vậy.”

Cảnh sát trưởng giơ một tay lên và nói với Hunt, cổ ông ta đỏ ửng khi nói.

“Chúng ta đã rõ ràng trong vấn đề cớm ấu dâm này rồi chứ? Tôi không muốn nghe thêm bất cứ một tiếng nào về chuyện này.”

“Tôi nghĩ lập trường của ông rõ ràng một cách rất đau khổ.”

“Tốt. Bởi vì ông nên điều tra về những gì liên quan đến cái chết của David Wilson, Levi Freemantle, những thành phần giao du với Burton Jarvis. Không bịa đặt. Không có thể. Được biết, như là sự thật. Nếu ai đó liên quan tới Jarvis, đó là cách để tìm hắn ta. Tôi muốn tất cả những cây đinh còn lỏng lẻo được đóng chặt xuống gỗ. Chúng tôi sẽ xem xét lại yêu cầu giám định hồ sơ nhân sự cá nhân của ông chỉ khi nào Johnny Merrimon quyết định nói về những gì cậu ta thấy.”

“Nếu cậu ta thấy nó,” ông Trưởng ty cảnh sát thêm vào.

“Nếu cậu ta thấy nó,” ông Cảnh sát trưởng đồng ý. “Cậu ta thấy gì. Làm sao chuyện đó xảy ra. Tất cả những chuyện bình thường mà chúng ta, những cảnh sát, muốn nghe trước khi kéo cò súng xuống vị trí bán sẵn sàng. Điều này rõ chưa, thám tử?”

“Rõ.”

“Thế thì đi ra đi.”

Hunt không nhúc nhích. “Còn một chuyện nữa, tôi nghĩ.”

“Ông nghĩ?” ông Trưởng ty cảnh sát khinh khỉnh nói.

“Vụ án Freemantle.”

“Ông bắt được gã chưa?” ông Cảnh sát trưởng hỏi.

“Chưa.”

“Rồi giờ chuyện gì?”

“Chúng tôi đã xác định được thi thể: bạn gái của Freemantle và gã đàn ông có lẽ ngủ chung giường với cô ta. Chúng tôi tin chắc Freemantle đã ra tay hạ thủ. Không có dấu hiệu đột nhập vào nhà. Nhìn như vẻ nhanh-tiện-lợi. Có thể tội ác do ghen tuông. Chúng tôi nghĩ ông ta vô tình phát hiện cả hai khi trở về nhà.”

“Nhanh-tiện-lợi,” ông Quận trưởng cảnh sát nói. “Một chữ đao to búa lớn.”

“Freementle bỏ trốn khỏi đội lao động công ích sáng hôm đó. Có thể gã đã đi thẳng về nhà và bắt quả tang đôi gian phu dâm phụ. Sĩ quan cải huấn của gã cho biết người bạn gái của gã gần như là gái mại dâm.”

“Được. Một vụ án ngon lành, gọn ghẽ. Tôi thích vậy.”

Hunt thở hắt ra. “Họ có với nhau một đứa con gái.”

“Và?” Cơ thể của ông Cảnh sát trưởng như bị thổi trương phồng lên.

“Cô bé ấy hiện giờ mất tích.”

“Không.” Ông Cảnh sát trưởng đứng lên. “Không phải thế.”

“Cái gì?”

Ông Cảnh sát trưởng giữ giọng bình lặng và cân bằng, nhưng ẩn bên trong là sự cương quyết. “Chưa có ai làm tờ biên bản mất con. Không có ai gọi điện yêu cầu chúng ta trợ giúp.”

“Điều đó đâu có nghĩa chuyện này không có thật.”

“Cô bé ấy rất có thể đang ở với họ hàng, ông bà, hay người dì. Levi Freemantle có thể có một đứa con. Gã ta là cha, đúng không? Gã chưa mất quyền nuôi dưỡng con.”

Thám tử Hunt giận dữ. “Ông sẽ làm ngơ chuyện này ư?”

“Làm ngơ cái gì?” Ông Cảnh sát trưởng trở bàn tay phẳng. “Đâu có gì để làm ngơ. Ở đây không có vụ án nào cả.”

“Tôi biết rõ,” Hunt nói.

“Ông biết rõ rồi à?” Sự xung đột kịch liệt dẫn đến mối đe dọa tàng ẩn.

“Không ai muốn thêm một đứa trẻ bị bắt cóc, vì thế ông nên chôn chuyện này đi. Ông chui đầu xuống cát và cứ giả bộ ngoài kia không có vấn đề gì hết.”

“Nếu mà ông nói thêm từ nào về một đứa trẻ bị bắt cóc...”

“Tôi cũng mệt mỏi với những lời de doạ của ông.”

Ông Trưởng ty cảnh sát đứng thẳng người. “Bao nhiêu thức ăn đó chưa bày đủ trên đĩa ăn của ông sao?”

“Tôi muốn hai ông suy nghĩ thật kỹ về chuyện này,” Hunt nói.

“Và nếu tôi không thì sao?”

Hunt nhìn về phía Quận trưởng cảnh sát và ông Cảnh sát trưởng. “Tôi nghĩ điều đó rất xấu cho tất cả chúng ta.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Hunt đứng trong văn phòng Cảnh sát trưởng. Những lá cờ phủ một góc căn phòng, và trên một bức tường treo nhiều hình ảnh ông sếp với nhiều chức nhiệm hành chính khác nhau: phó Thống đốc tiểu bang, cựu Thượng Nghị sĩ, một gã tài tử vô danh tiểu tốt có vẻ mặt hao hao giống. Ảnh các con ông được chia đều treo trên tường. Tờ nhật báo địa phương đặt trên bàn. Các tờ nhật báo từ Wilmington, Charlotte, và Raleigh cũng đặt ở đó. Hình ảnh của Johnny ngay ở trang đầu các tờ nhật báo. Khuôn mặt được sơn vẽ, lông chim, máu và xương.

Một người Da đỏ hoang dã.

Ông Cảnh sát trưởng ngồi trên ghế, ngửa người ra đằng sau, hai tay vắt chéo trên bụng. Sự bực bội khắc nhiều đường hằn sâu nơi hai mí mắt. Ông ta mệt mỏi, với mái tóc chưa gội sáng bóng bết trên vầng trán. Quận trưởng cảnh sát đứng dựa vào tường, người đàn ông rắn chắc đó tầm tuổi sáu mươi, với làn da nứt nẻ trên những khớp xương tay và hai bọng mỡ ở dưới hai mí mắt. Ông đảm trách chức vụ Quận trưởng cảnh sát đã gần ba mươi năm và những nhân viên dưới quyền rất sợ hãi vì tính bốc đồng hơn là kính trọng vì khả năng của ông. Ông ta dò chừng thám tử Hunt khá kỹ bằng cặp mắt sẫm màu, xuyên phá và trông cũng chẳng vui vẻ gì hơn ông Cảnh sát trưởng.

Hunt không hề nao núng.

“Ông có biết,” Cảnh sát trưởng bắt đầu, “có bao nhiêu người làm việc cho nha cảnh sát? Bao nhiêu sĩ quan, bao nhiêu tập sự không?”

“Tôi biết rõ.”

Cảnh sát trưởng xoay qua Quận trưởng cảnh sát. “Và ty cảnh sát quận hạt? Có biết không?”

“Nhiều lắm, tôi chắc vậy.”

“Và ông nghĩ những người đó sẽ cảm thấy thế nào nếu chúng tôi cho phép ông lục lọi hồ sơ nhân viên của họ? Hồ sơ bảo mật cá nhân của họ?”

“Tôi có lý do để tin rằng...”

“Chúng tôi đã thấy lý do của ông.” Giọng nói ông Quận trưởng cảnh sát cắt ngang. Ông ta chuyển động nhưng vẫn giữ vai tựa trên tường, hai ngón tay cái móc vào dây thắt lưng màu đen, nặng trịch. “Và không một ai trong chúng ta có thể chắc chắn chữ viết trong đó nói gì. Có thể nó là “cớm,” nhưng cũng có thể là điều gì khác. Có thể thằng bé này nhầm lẫn.”

Ông Cảnh sát trưởng chồm tới trước. “Hay là toàn những thứ...”

“Hay là điên như con chuột chuồng chồ.”

Hunt nhìn chằm chằm ông Quận trưởng cảnh sát. “Tôi tôn trọng sự bất đồng quan điểm.”

“Bây giờ ông là một loại chuyên viên nào đó sao?” ông Cảnh sát trưởng chỉ mạnh một ngón tay vào tờ nhật báo. “Nhìn cậu ta này.”

Tấm ảnh kết tội cậu bé và sẵn sàng đi đến phán quyết: lông chim, tóc tai hoang dã, Tiffany run cứng người vì sợ hãi, hai con mắt cậu trai kinh ngạc đến mức trống rỗng tột độ.

“Tôi hiểu những thứ đó trông thế nào, nhưng đây là một đứa trẻ thông minh. Nếu nó nghĩ nó trông thấy một ông cớm, chắc phải có lý do.”

Ông Quận trưởng cảnh sát cắt ngang. “Anh nhóc đó cho rằng nó dựng lên chuyện ấy. Chính ông cũng nói như vậy. Bây giờ, đó là tất cả những gì tôi muốn nghe.”

“Cậu ta lo ngại rằng Sở Xã hội sẽ lôi cậu ta ra khỏi gia đình duy nhất mà cậu ta còn sót lại để bám víu. Cậu ta nghĩ một gã cớm dính dáng với Burton Jarvis.” Hunt không thể giữ mãi sự bực dọc trong lòng. “Cậu ta kinh sợ. Cậu ta phải tự bảo vệ lấy chính mình.”

“Ông có bất cứ một lý do nào khác, vượt xa ngoài anh nhóc tì này, để nghĩ rằng một kẻ trong chúng ta, một gã cớm, lạy Chúa tôi, có thể liên quan đến cái đống xà bần kinh tởm này không?”

“Chiếc còng trên cổ tay của Tiffany là loại còng dùng trong ngành cảnh sát.”

“Có thể tìm mua ở bất cứ cửa hàng quân dụng nào,” ông Quận trưởng cảnh sát nói.

“Chắc chắn nó là tang vật có liên quan, đặc biệt khi dính dáng đến sự quan sát của Johnny.”

“Chúng ta đã xong phần thảo luận về sự quan sát của anh nhóc,” ông Cảnh sát trưởng nói.

“Có gì đó liên quan giữa cái còng trên tay của Tiffany Shore với nha cảnh sát không?” Bộ dạng ông Quận trưởng cảnh sát không hề thay đổi. “Số hiệu dãy số? Bất cứ dấu tích gì?”

“Không.”

“Bất cứ cái gì ở hiện trường? Trong quá khứ của Jarvis? Trong chu vi bất động sản của gã?”

“Không. Nhưng ít nhất, anh nhóc đã xác định có một thành phần nguy hiểm cho đến giờ này vẫn còn lẩn tránh chưa bị khám phá. Hồ sơ cá nhân là chỗ hợp lý nhất để bắt đầu. Nếu cậu ta đúng, thì chúng ta sẽ loại trừ được một phần tử nguy hiểm ra khỏi xã hội. Nếu cậu ta sai lầm, cũng không thiệt thòi gì đến ai.”

“Không thiệt thòi gì? Lạy Chúa tôi, Hunt.” Ông Cảnh sát trưởng xoè rộng bàn tay đầy thịt trên bàn. “Cho phép ông sưu tra những hồ sơ đó sẽ chọc giận tất cả các nhân viên. Cá nhân tôi có thể vi phạm nhiều luật lệ về nhân sự. Đó là chưa kể đến vấn đề hình ảnh mà Sở Cảnh sát chúng ta phải đương đầu khi chuyện này xì ra ngoài.”

“Chuyện này đã xảy ra rồi” Quận trưởng cảnh sát nói.

“Anh nhóc này khiến tôi bị nhìn như một con lừa trên truyền hình quốc gia, và ông - người thám tử chỉ huy của tôi, cánh tay phải của tôi, hay là vậy mà tôi được biết - ông đã lèo lái tôi, nha cảnh sát của tôi vào một vụ kiện với gã doanh thương được tôn trọng bậc nhất của thành phố.”

Ông Cảnh sát trưởng đếm những điểm bị lôi ra toà trên đầu ngón tay ông. “Cảnh sát hành hung. Quấy nhiễu. Cố ý gây áp lực tâm lý. Bắt giữ trái phép. Còn gì khác nữa không? Tôi cũng sắp hết ngón tay rồi.”

“Có thể ngoài kia một kẻ ấu dâm đeo bảng hành sự đang tự tung tự tác tại quận hạt này. Đó là vấn đề, và hai ông nên lưu tâm vấn đề này. Làm ngơ khả năng này sẽ đặt các em gái vào tình thế nguy hiểm hơn. Ông” - Hunt nhấn mạnh chữ, nhắc lại - “ông sẽ đặt trẻ em vào tình trạng nguy hiểm nhiều hơn.”

Ông Cảnh sát trưởng bật dậy khỏi ghế ngồi. “Nếu ông nhắc lại bất cứ điều gì tương tự như vậy ở bên ngoài văn phòng này, tôi sẽ tóm đuôi ông và đốt trụi nó.”

“Làm ngơ chuyện này sẽ không khiến nó tự biến mất đâu.”

“Đủ rồi.”

“Nếu thêm một đứa trẻ bị bắt cóc vì sự lo lắng của dư luận công chúng gây bất lợi cho chính quyền lợi cá nhân...”

“Tại sao chúng ta lại lắng tai nghe thằng cha mắc dịch này?” ông Trưởng ty cảnh sát yêu cầu. “Nếu thêm một trẻ em gái nữa bị bắt cóc, đó là do sự bất tài của gã. Đó là điều căn bản mà ai cũng biết. Nhìn gã đi, lạy Chúa tôi.”

Hunt nóng gáy và ông Cảnh sát trưởng cố gắng dàn xếp mọi người ngồi xuống. “Gã Jarvis đã chết. Tiffany về nhà an toàn. Điều này quan trọng hơn cả.”

Ông Trưởng ty cảnh sát cười vang. “Cảm ơn một đứa bé gái mười hai tuổi và một cậu nhóc mười ba tuổi.”

“Tôi sẽ lo chuyện của anh em chúng tôi,” ông Cảnh sát trưởng nói và nhìn chằm chằm vào ông Trưởng ty cảnh sát. “Điều này rõ ràng chứ?”

Ông Trưởng ty cảnh sát trở về chỗ đứng của ông ta ở bờ tường và trỏ một ngón tay vào Hunt. “Thì, ông nói với người hùng của ông là nên lo nhìn kỹ vào trái bóng. Bởi vì tôi nghĩ ông ta sắp mất banh tới nơi rồi. Tôi nghĩ ông ta đang cố gắng đánh bóng tên tuổi ngon lành hơn và lôi cổ những cớm khác qua bãi bùn. Anh em tôi. Anh em ông. Chúng ta, tôi có thể nói chung là như vậy.”

Cảnh sát trưởng giơ một tay lên và nói với Hunt, cổ ông ta đỏ ửng khi nói.

“Chúng ta đã rõ ràng trong vấn đề cớm ấu dâm này rồi chứ? Tôi không muốn nghe thêm bất cứ một tiếng nào về chuyện này.”

“Tôi nghĩ lập trường của ông rõ ràng một cách rất đau khổ.”

“Tốt. Bởi vì ông nên điều tra về những gì liên quan đến cái chết của David Wilson, Levi Freemantle, những thành phần giao du với Burton Jarvis. Không bịa đặt. Không có thể. Được biết, như là sự thật. Nếu ai đó liên quan tới Jarvis, đó là cách để tìm hắn ta. Tôi muốn tất cả những cây đinh còn lỏng lẻo được đóng chặt xuống gỗ. Chúng tôi sẽ xem xét lại yêu cầu giám định hồ sơ nhân sự cá nhân của ông chỉ khi nào Johnny Merrimon quyết định nói về những gì cậu ta thấy.”

“Nếu cậu ta thấy nó,” ông Trưởng ty cảnh sát thêm vào.

“Nếu cậu ta thấy nó,” ông Cảnh sát trưởng đồng ý. “Cậu ta thấy gì. Làm sao chuyện đó xảy ra. Tất cả những chuyện bình thường mà chúng ta, những cảnh sát, muốn nghe trước khi kéo cò súng xuống vị trí bán sẵn sàng. Điều này rõ chưa, thám tử?”

“Rõ.”

“Thế thì đi ra đi.”

Hunt không nhúc nhích. “Còn một chuyện nữa, tôi nghĩ.”

“Ông nghĩ?” ông Trưởng ty cảnh sát khinh khỉnh nói.

“Vụ án Freemantle.”

“Ông bắt được gã chưa?” ông Cảnh sát trưởng hỏi.

“Chưa.”

“Rồi giờ chuyện gì?”

“Chúng tôi đã xác định được thi thể: bạn gái của Freemantle và gã đàn ông có lẽ ngủ chung giường với cô ta. Chúng tôi tin chắc Freemantle đã ra tay hạ thủ. Không có dấu hiệu đột nhập vào nhà. Nhìn như vẻ nhanh-tiện-lợi. Có thể tội ác do ghen tuông. Chúng tôi nghĩ ông ta vô tình phát hiện cả hai khi trở về nhà.”

“Nhanh-tiện-lợi,” ông Quận trưởng cảnh sát nói. “Một chữ đao to búa lớn.”

“Freementle bỏ trốn khỏi đội lao động công ích sáng hôm đó. Có thể gã đã đi thẳng về nhà và bắt quả tang đôi gian phu dâm phụ. Sĩ quan cải huấn của gã cho biết người bạn gái của gã gần như là gái mại dâm.”

“Được. Một vụ án ngon lành, gọn ghẽ. Tôi thích vậy.”

Hunt thở hắt ra. “Họ có với nhau một đứa con gái.”

“Và?” Cơ thể của ông Cảnh sát trưởng như bị thổi trương phồng lên.

“Cô bé ấy hiện giờ mất tích.”

“Không.” Ông Cảnh sát trưởng đứng lên. “Không phải thế.”

“Cái gì?”

Ông Cảnh sát trưởng giữ giọng bình lặng và cân bằng, nhưng ẩn bên trong là sự cương quyết. “Chưa có ai làm tờ biên bản mất con. Không có ai gọi điện yêu cầu chúng ta trợ giúp.”

“Điều đó đâu có nghĩa chuyện này không có thật.”

“Cô bé ấy rất có thể đang ở với họ hàng, ông bà, hay người dì. Levi Freemantle có thể có một đứa con. Gã ta là cha, đúng không? Gã chưa mất quyền nuôi dưỡng con.”

Thám tử Hunt giận dữ. “Ông sẽ làm ngơ chuyện này ư?”

“Làm ngơ cái gì?” Ông Cảnh sát trưởng trở bàn tay phẳng. “Đâu có gì để làm ngơ. Ở đây không có vụ án nào cả.”

“Tôi biết rõ,” Hunt nói.

“Ông biết rõ rồi à?” Sự xung đột kịch liệt dẫn đến mối đe dọa tàng ẩn.

“Không ai muốn thêm một đứa trẻ bị bắt cóc, vì thế ông nên chôn chuyện này đi. Ông chui đầu xuống cát và cứ giả bộ ngoài kia không có vấn đề gì hết.”

“Nếu mà ông nói thêm từ nào về một đứa trẻ bị bắt cóc...”

“Tôi cũng mệt mỏi với những lời de doạ của ông.”

Ông Trưởng ty cảnh sát đứng thẳng người. “Bao nhiêu thức ăn đó chưa bày đủ trên đĩa ăn của ông sao?”

“Tôi muốn hai ông suy nghĩ thật kỹ về chuyện này,” Hunt nói.

“Và nếu tôi không thì sao?”

Hunt nhìn về phía Quận trưởng cảnh sát và ông Cảnh sát trưởng. “Tôi nghĩ điều đó rất xấu cho tất cả chúng ta.”

Johnny theo về căn chung cư hai phòng ngủ của chú Steve. Nó như cái thùng rác, ngay cả từ bên ngoài. Ông Steve mở cửa và nhìn thẹn thùng. “Thế này không sao chứ?” Ông ta hỏi.

Johnny ngửi mùi bia và quần áo dơ bẩn. “Không sao.”

Steve chỉ cho Johnny phòng của cậu và đóng cánh cửa khi Johnny yêu cầu. Căn phòng có một chiếc giường đơn, một cái bàn và một chiếc đèn. Một tủ đứng. Một tủ quần áo. Không gì khác. Johnny buông túi xuống và mở ra. Cậu đặt bức ảnh chụp bố mẹ lên trên bàn, sau đó cởi áo và kiểm tra bông băng. Nhiều vết đỏ thấm xuyên qua lằn băng chéo dài hai mươi phân. Nó là vết chém tệ nhất, nhưng vệt máu đã khô và Johnny đoán chừng sẽ không sao. Cậu cài nút trở lại. Lúc hoàng hôn, Steve gọi đặt mua pizza và họ vừa ngồi ăn vừa xem chương trình giải trí mà Steve giải thích là có tính giáo dục. Xong xuôi, Steve đặt hai tay lên hai đầu gối, vẻ lúng túng. “Tôi có một người bạn gái...” Những ngón tay của ông ta vân vê lớp vải trên chiếc quần sợi tổng hợp.

“Tôi sẽ ở trong phòng của tôi. Hoặc chú có thể đi ra ngoài chơi nếu chú thích. Tôi không bận tâm chuyện đó.”

“Đi ra ngoài chơi?”

“Ừ.”

“Còn Sở Xã hội thì sao?”

“Nếu họ đến, tôi sẽ không thèm mở cửa. Chúng ta có thể nói cả hai chúng ta đi ra ngoài ăn tối.”

Ông Steve nhìn cái điện thoại, rồi cánh cửa. Johnny tạo điều kiện dễ dàng cho ông ta. “Tôi đã từng sống một mình quá nhiều lần. Chú không phải lo lắng.”

Steve thở phào nhẹ nhõm. “Tôi chỉ đi khoảng vài tiếng đồng hồ thôi.”

“Tôi mười ba tuổi rồi.”

Steve đứng dậy và trỏ. Những móng tay nứt rạn của ông ta màu nâu. “Đừng lục lọi đồ đạc của tôi,” ông ta nói.

“Dĩ nhiên.”

“Và đừng để bất cứ ai vào trong này.”

Johnny gật đầu nghiêm trang và thấy chú Steve vẫn cần sự giúp đỡ. “Có lẽ tôi chỉ đọc sách thôi. Bài tập ở nhà, chú biết đấy.”

“Bài tập. Ý kiến hay.”

Steve rời khỏi nhà và Johnny quan sát ông ta ra tít tận đường cái. Sau đó cậu lục lọi tung đồ đạc của ông. Lớp lang, thứ tự. Cẩn thận. Cậu không cảm thấy tội lỗi, không ăn năn. Nếu chú Steve bị ném đá hoặc say rượu, Johnny muốn biết. Tương tự với súng, dao và cây gậy bóng chày.

Johnny muốn biết chúng ở đâu.

Nếu súng đã có đạn sẵn sàng.

Cậu tìm thấy rượu vodka trong tủ đá, một túi cần sa trong cái nồi hầm. Máy tính được cài mật khẩu, tủ hồ sơ được khóa. Cậu phát hiện ra con dao săn trên sàn nhà trong phòng ngủ và một cuốn cẩm nang tình dục trên kệ. Một cánh cửa dẫn từ nhà bếp đến ga-ra, nơi cậu tìm thấy một chiếc xe bán tải với những vỏ xe mòn nhẵn và nhiều vết lõm lỗ chỗ trên nền trắng bẩn thỉu. Johnny đứng dưới ngọn đèn sáng và rà hai bàn tay dọc theo nắp ca-pô, cái chắn bùn bị dính bùn đóng cứng. Chiếc xe tải cũ kỹ, te tua, nhưng bánh xe còn hơi và kim đồng hồ xăng nhảy lên khỏi chốt khi cậu vặn chìa khóa kiểm tra lượng xăng. Cậu đứng trong ga-ra ngửi mùi và suy nghĩ thật kỹ về những chuyện lẽ ra không nên làm; nhưng hai phút sau cậu đã ngồi trong cái bàn ở nhà bếp, chìa khoá xe bán tải trước mặt, cuốn niêm giám điện thoại mở tung.

Chỉ có một danh mục có Levi Freemantle.

Johnny biết con đường đó.

Cậu cầm chìa khoá lên nhưng giật thót mình, nhảy dựng lên khi chuông điện thoại reo. Đầu bên kia là mẹ cậu, và bà đang phát cuồng lên vì sợ hãi. “Con vẫn ngoan đấy chứ?”

Johnny cầm chiếc chìa khoá lên, nghiêng nó trong ánh sáng đèn. “Dạ có.”

“Chuyện này chỉ tạm thời thôi, con yêu. Con cần phải tin điều đó.”

Johnny nghe một tiếng động qua đường dây điện thoại, một cú va chạm. “Con tin điều đó.”

“Mẹ yêu con, cưng ạ.”

“Con cũng yêu mẹ.” Thêm tiếng động.

“Mẹ phải cúp máy đây,” bà nói.

“Mẹ không sao chứ hả?”

“Ngoan nhé con trai.” Bà cúp máy.

Johnny nhìm chằm chằm cái điện thoại, rồi đặt nó xuống. Chiếc chìa khóa ấm nóng trong tay cậu.

Không ai cần phải biết.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


Bà Katherine đặt điện thoại xuống nền nhà, ngay cạnh chân bà. Lưng bà tựa vào cửa chính, cánh cửa cứng và lạnh lẽo. Bà đẩy ngược cánh cửa, cùng lúc với một nắm đấm đập vào nó từ bên ngoài. “Ông đi đi, Ken!”

Phía trên bà, cái khóa chốt giữ chặt. Thêm một cú dộng, lần này ở dưới thấp. Một cú đá. “Em là bạn gái của tôi. Đây là nhà của tôi.”

“Tôi đã đổi ổ khóa!”

“Mở ngay cửa ra!”

“Tôi sẽ gọi cảnh sát. Tôi thề tôi sẽ làm.”

Cánh cửa rung bần bật do bị dộng liên tục; khóa cửa bị vặn vẹo nhưng vẫn được giữ chặt. “Tôi chỉ muốn nói chuyện!”

“Tôi gọi điện đấy.” Nói dối.

Im lặng, bất thình lình và hoàn toàn. Katherine nín thở và lắng nghe. Bà tưởng tượng lỗ tai của gã đang kề sát vào cửa, đầu ngón tay đổi màu trắng bệch ép sát vào màu sơn dơ bẩn. Sự yên lặng chồng chất. Mười giây. Một phút. Bà rú lên khi gã đá cánh cửa lần chót. Đoạn bà cảm nhận được sự rung động của không gian khi gã bước xuống bậc thềm. Xe của gã nổ máy và cặp đèn pha đâm thẳng xuyên qua tấm màn ren cũ kỹ khi gã quẹo xe trong sân và rú máy lao nhanh trên đường.

Bà đổ sụp xuống cánh cửa, run dữ dội đến nỗi xương hàm tê nhức. Chắc hẳn gã phải đang say rượu hoặc đang phê thuốc. Nhưng bà đã quyết định. Johnny phải là trên hết. Không rượu, không thuốc. Và điều đó có nghĩa không chứa chấp gã Ken Holloway.

Katherine cắn chặt vào cổ tay. Ít ra Johnny không có ở đây. Ít ra nó được an toàn.

Bà chờ cho đến khi tim bà đập chậm lại và hơi thở của bà bình tâm. Năm phút. Có thể mười phút. Bà toan đứng dậy khi nghe thấy tiếng di chuyển thật đều ngoài sân: tiếng sỏi đá dưới chân, tiếng động xào xạc của mặt đất. Sự sợ hãi đến tê liệt trầm trọng khiến bà hầu như không còn khả năng tự thở. Bên ngoài, một khúc cây già cỗi cong oằn với âm thanh của gió xuyên qua một thân cây đã chết. Sức nặng đè trên hàng hiên. Một tiếng thụp đập vào cánh cửa, khô khốc. Bà Katherine nghe tiếng bậc thang dưới cùng rên rỉ và sau đó là yên lặng.

Hoàn toàn yên lặng. Sự yên lặng kinh hoàng.

Bà cầm điện thoại trên tay nhưng quyết định 911 chưa đủ tin cậy. Bà muốn nói chuyện với Hunt, tin tưởng nơi ông ta. Giữ yên lặng, bà đi vào nhà bếp. Danh thiếp ông ta nằm trong ngăn kéo cao nhất. Ông trả lời ngay tiếng chuông reo đầu tiên. Bà nói giọng thều thào.

“Đừng mở cửa,” ông nói. “Dù làm gì cũng không được mở cửa. Tôi sẽ có một xe tuần tiễu ở đó ngay.”

Bà vẫn giữ điện thoại trong tay ngay cả sau khi họ đã cúp máy. Bà dò dẫm đến cửa sổ và mạo hiểm thò mắt nhìn ra ngoài. Bà thấy bóng tối và cây cối, một sự ma sát giữa ánh sáng và bóng tối khi những tầng mây thấp rượt đuổi nhau qua mặt trăng đang lên. Không có gì trên đường. Không có gì ở trong sân. Bà nghiêng đầu về phía bên tay phải, ép sát gò má vào tấm kính. Bà thấy một phần nào của hiên trước nhà. Một lần nữa ở ngoài cửa, bà lắng nghe và nghe thấy tiếng cào sột soạt, như cái nĩa khều trên giấy ráp. Bà nghe hai lần, mong manh, sau đó là âm thanh không thể nào nhầm lẫn. Tiếng khóc nấc nghẹn. Mong manh. Có cái gì đó quen thuộc.

Bà nghe tiếng ấy một lần nữa. Nó vẳng lên từ bên ngoài cánh cửa. Trên hàng hiên.

Bà Katherine nhìn chiếc điện thoại, và nghe tiếng khóc ấy một lần nữa. Trong một giây phút hoang dã, bà nghĩ đó là tiếng khóc của một đứa trẻ. Ai đó đã bỏ rơi đứa trẻ ở hàng hiên nhà bà; nhưng điều này điên rồ quá, bà biết thế; nhưng âm thanh ấy lại trở lại, và bà thấy những ngón tay mình đặt trên ổ khoá chết, một tay ở trên núm vặn.

Bà lạnh run người, nghĩ về chuyện gã Ken.

Đằng xa, một chiếc xe nổ máy. Tiếng máy rú to sau đó chìm dần về hướng nam. Tiếng khóc trở lại và bà cảm nhận luồng khí lùa vào hai gò má khi bà mở hé cánh cửa chỉ một khoảng hẹp bằng sợi dây xích an ninh. Bà quyết định mở cánh cửa.

Trên hàng hiên có một chiếc thùng giấy dán kín bằng băng keo bạc. Một chiếc phong bì đặt ở bên trên. Cái thùng chuyển dịch và âm thanh xuất phát từ trong thùng nghe rõ ràng hơn. Tên của Johnny được viết trên phong bì. “Lạy Chúa tôi.” Bà quan sát kỹ sân nhà, không tìm thấy gì lạ, rồi bước ra hàng hiên. Cái phong bì không dán kín, bên trong có một tấm giấy. Thông điệp được đánh máy và không ký tên.

Không thấy ai. Không nghe gì. Khóa mồm lại.

Bà Katherine nhìn chằm chằm kinh hãi vào cái thùng. Bà quỳ xuống và xé bỏ lớp băng keo sáng loáng dán bên ngoài. Nó tróc bung ra với những tiếng sột soạt. Bên trong là con mèo. Còn sống. Lưng của nó bị gẫy.

Bà Katherine vội đi ngược trở vào bên trong nhà, chân tay run cứng, và trong đầu bà chỉ có một ý nghĩ duy nhất. Johnny.

Bà bấm số điện thoại chung cư của ông Steve nhưng bấm nhầm số. Bà thử một lần nữa, những ngón tay lập cập. “Làm ơn, Chúa ơi,” bà nói.

Điện thoại đổ chuông sáu lần, mười lần; nhưng không ai trả lời. Trong nỗi lo sợ tột cùng, bà cúp điện thoại. Sau đó bà gọi lại cho Hunt.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


Johnny mở cửa ga-ra và đề máy chiếc xe tải. Máy nổ không ngọt, cà khựt cà khựt và xịt khói xanh, nhưng lái được. Cậu đi trên những con phố nhỏ cho đến khi chuyển qua con đường bốn làn xe, sau đó cậu tăng ga và chiếc xe tải lồng lộn lao trên đường. Cậu lái chậm lại khi đến gần đường chính, sau đó rẽ phải đi vào con đường một chiều để tránh xe cộ qua lại.

Cậu lái xe chậm rãi. Nhà cửa gần đường ray xe lửa sập sệ. Johnny nghe thấy tiếng nhạc và những giọng nói thét gào, tiếng kẽo kẹt của cánh cửa so le bị đóng ập. Cậu tìm thấy đường Huron và rẽ trái. Nhiều xe đậu san sát trên con đường chật hẹp và những mảnh kính chớp loé dưới mương rãnh. Cỏ dại mọc cao từ những chỗ xi-măng nứt nẻ trên lề đường và một con chó điên cuồng sủa về hướng cậu từ trong bóng tối. Cậu chỉ nhìn thấy một mảng nâu trên nền đen, một đường viền răng cưa bị giật khựng lại ở cuối sợi xích. Johnny tiếp tục lái, nhưng có những con chó ở sân nhà khác. Cậu tưởng tượng những ngón tay trên màn cửa mỏng, người ta che khuất đi màn ảnh truyền hình xanh khi họ khom lưng dõi mắt nhìn qua những cánh cửa sổ bẩn thỉu. Và nó không chỉ là tưởng tượng. Phía bên trái, một người đàn ông bước ra khỏi cửa, đứng trong hàng hiên. Đôi chân gã xanh xao, gã cởi trần, mặc chiếc quần jeans, và phì phèo điếu thuốc lá kẹp giữa cặp môi. Johnny làm ngơ gã và tiếp tục lái.

Căn nhà của Freemantle nằm lù lù trước mặt phía bên phải. Trông nó như một gã khổng lồ không đèn đuốc cắm vào trong một miếng đất tối om. Đằng sau nhà, sỏi đá xanh xám đổ xuống trườn dốc dẫn đến đường ray xe lửa. Johnny ngửi thấy mùi thuốc khử trùng, bụi đá và dầu. Cậu tạt xe vào sát lề đường và tắt máy. Sau lưng cậu, trong căn nhà sơn màu vàng mù-tạt, một đứa trẻ đang khóc. Johnny bước xuống đường, tiếng khóc đứa trẻ ngừng. Lũ chó không còn sủa inh ỏi. Bước chân vào sân nhà gã Freemantle, Johnny thấy băng nhựa vàng treo giữa những cây cột chống nhà. Cúi rạp dưới băng nhựa, cậu khum tay ôm mặt và cố nhìn vào bên trong. Không có gì. Tối hơn bên ngoài. Johnny kéo những băng nhựa vàng xuống. Cánh cửa trước nhà mở tung khi cậu mới đụng đến. Johnny bước vào bên trong, nhưng không ai trong đấy. Căn nhà trống trọi. Cậu mở công tắc đèn và thấy vết máu trên tường. Điều này làm cậu sợ hãi.

Đó là sự thật.

Máu chảy thành vệt và đen thẫm. Bột xám phủ đầy trên công tắc đèn và tay nắm nắm đấm cửa. Căn phòng đằng sau nhà có những vệt máu ghê rợn hơn. Mùi tương tự. Mùi dầu đặc quánh, ám vào trong cuống họng. Máu khô như là sa mạc trên sàn nhà. Cuộn băng keo đánh dấu nơi thi thể ngã xuống.

Hai thi thể.

Một sa mạc máu.

Johnny quay đầu và chạy ra ngoài cửa trước. Hành lang chật hẹp và hình bóng của cậu vặn vẹo khi cậu chạy. Cửa vẫn mở, vững chắc, đen ngòm trống trải với những cuộn băng nhựa màu vàng đập vào cánh tay cậu. Cậu nhảy phóng khỏi hàng hiên, rơi xuống đau điếng, da hai bàn tay bị kéo rách. Cậu vấp thêm một lần nữa, sau đó nổ máy xe tải và thoát hiểm. Những con chó đồng vùng dậy sủa vang cả xóm tiễn cậu đi.

Thám tử Hunt lái xe bạt mạng trên đường phố. Ông leo lên đỉnh ngọn đồi cuối cùng với vận tốc tám mươi cây số một giờ, cảm tưởng chiếc xe vươn lên từ những ống nhún; sau đó ông lao xuống dốc, chân đạp mạnh khi cây kim đồng hồ leo lên 90km/h. Ông thắng gấp ở ngay đường dẫn vào nhà bà Katherine, tạt sát vào lề đường bên phải.

Trong nhà đèn điện sáng choang. Bóng tối phủ dày trên những lùm cây. Không một chiếc xe tuần tiễu.

Hunt lao ra khỏi xe, ánh sáng màu xanh xuyên thủng mặt sau kính xe. Ông đảo mắt nhìn cây cối và sân vườn, một tay sẵn sàng đặt trên báng súng vẫn còn nằm nguyên trong bao da. Không gian tĩnh lặng không một tiếng động; hành lang trống trải. Ông đập ầm ầm vào cánh cửa, đoán chừng có sự chuyển động bên trong, ông quay bước, kiểm tra sân nhà phía sau lưng ông thêm một lần nữa. Khóa cửa bật chốt và cánh cửa mở hé, rồi sau đó vung mạnh mở toang hoác ra. Bà Katherine Merrimon đứng trong ánh sáng, khuôn mặt đẫm lệ, dáng hình nhỏ bé, một con dao chặt thịt dài hai mươi phân được cầm chặt giữa các ngón tay bóp mạnh thấu tận xương.

“Katherine... ”

“Có tin tức gì của Johnny không?”

Hunt bước qua cánh cửa. “Tôi đã phái một xe tuần tiễu đến căn hộ chung cư của ông Steve. Có lẽ giờ này họ đang có mặt ở đó.” Hunt chìa ra một bàn tay. “Xin bà cho tôi con dao?”

“Tôi xin lỗi.” Bà đưa nó cho ông và ông đặt nó lên trên mặt kệ.

“Bà ổn cả chứ,” ông nói. “Tôi tin chắc Johnny cũng như vậy.”

“Nó không thể ổn được.”

“Chúng ta chưa biết gì hết.”

“Tôi muốn đến nhà Steve.”

“Tôi sẽ đưa bà đến. Tôi hứa. Hãy ngồi xuống đây một tí.” Ông dắt bà vào trong ghế sofa và ngồi xuống. Cái hộp đặt trên bàn. “Cái này đó hả?” Hunt hỏi. Bà gật đầu. “Tôi nghĩ giờ nó đã chết.”

Hunt tiến gần đến chiếc hộp, thấy cái băng bằng bạc đã được xé ra, và bên cạnh cái hộp là phong bì và một tờ giấy. “Tôi không thể nào để nó ở ngoài,” bà Katherine nói. Hunt dùng cây bút giở nắp hộp lên. Một thước phim phủ trên mắt con mèo. Lưỡi nó thò ra.

“Nó chết rồi.” Hunt đóng nắp hộp, sau đó đọc thông điệp: Không thấy ai. Không nghe gì. Khóa mồm lại.

Bà Katherine bước ngang qua phòng và đứng đằng sau ông, nhìn xuống. Bà run cầm cập. “Ông có nghĩ gã Ken làm không? Nó được đặt trước cửa sau khi gã bỏ đi mười phút.”

“Tôi nghi là không.”

“Có vẻ ông rất quả quyết.”

“Không phải, nhưng tôi cảm thấy không như vậy. Tại sao lại phải bỏ đi rồi trở lại? Tại sao lại gào lên cho mọi người biết mình? Và tại sao không làm liền ngay lúc đầu?”

“Điều này có nghĩa là gì?” Bà Katherine hỏi.

Thám tử Hunt đọc hàng chữ một lần nữa. “Tôi nghĩ nó liên quan đến Burton Jarvis.”

“Cái gì?”

“Báo chí nói rất nhiều về vụ án này.” Ông nhìn vào mắt bà. “Bà thấy tờ ghi chú của Johnny chưa?”

“Dĩ nhiên.”

“Cậu bé có mặt ở đó, Katherine, ở nhà gã Jarvis. Không cần biết cậu ấy muốn tôi tin kiểu gì, Johnny có mặt ở đó rất nhiều lần.”

“Ai đó nghĩ Johnny thấy hắn ta?”

“Johnny xác nhận năm trong sáu người đàn ông đến đó thường xuyên. Chỉ có năm.”

“Và số sáu thì?”

“Số sáu rất cẩn thận. Chúng tôi được biết gã đổi biển số xe ba lần. Gã ta lo lắng Johnny có thể nhận diện được gã.”

“Ông đang nói về gã cớm đó hả?”

“Chúng ta không biết có phải gã đó là cớm không.”

“Johnny nghĩ gã ấy là cớm.”

“Cậu ta nhầm. Nhất định cậu ta nhầm lẫn.”

“Nhưng nếu nó không nhầm thì sao?”

Hunt không có câu trả lời. Thay vào đó, ông chìa một bàn tay ra. “Đi tìm con trai bà thôi!”

Khi Johnny rẽ xe vào khu chung cư nhà ông Steve, trời đã khuya khoắt. Cậu lạng quạng giữa những dãy nhà, rẽ hướng trái lần chót, và dừng lại vài trăm mét ở tít đằng xa. Chiếc xe tải của ông Steve đã trở về. Những xe tuần tiễu của cớm đậu trước căn hộ chung cư. Xe ông Hunt cũng có mặt ở đó. Có nghĩa Sở Xã hội đang ở đó.

Johnny tự chửi thề. Lẽ ra cậu phải trở về nhanh chóng hơn. Lẽ ra cậu không nên đi mới phải. Họ sẽ lôi cổ cậu đi vĩnh viễn. Chắc như đinh đóng cột. Chắc như bất cứ thứ gì. Cậu tắt máy và mở cửa. Bên phải đường, một hàng thông vươn lên. Johnny tựa vai trên tấm kim loại ấm, luồn lách giữa các xe đậu cho đến khi đến thật gần hàng cây, sau đó cậu chạy ù kiếm chỗ ẩn náu. Cậu lao người vào một bụi lá kim, tự kéo mình dậy, và ù té kiếm một góc nào tối nhất có thể.

Jack cũng đã có mặt ở đó.

“Mẹ kiếp, Johnny! Cậu làm tớ thót cả ruột.”

Johnny ngửi mùi rượu bourbon từ thằng bạn, thấy cái chai được giữ chặt trong ngực.

“Cậu làm trò gì ở đây vậy Jack?”

Jack di chuyển, ngồi thẳng lưng dựa vào gốc một cây thông. “Còn nơi nào khác để tớ có mặt nữa?”

“Cậu có biết chuyện gì đang xảy ra không?”

Jack chỉ vào chiếc xe tuần tra cảnh sát. “Khi tớ đến đây, tớ đã thấy nó rồi.”

“Cậu làm sao đến được đây?”

“Tớ cuốc bộ.”

“Đường dài đến bốn dặm.”

Jack nhún vai.

“Cậu có say không?” Johnny hỏi.

“Cậu đang giảng đạo đấy hả?”

“Không.”

“Cứ như cậu đang giảng đạo cho tớ nghe.”

Johnny làm ngơ lời chỉ trích. “Mẹ tớ có trong ấy không?”

“Tớ nghĩ tớ thấy bà ấy một lần. Sự thật thì, tớ cũng không rõ. Tớ chỉ nằm đây chờ cậu.”

Johnny trườn người bò lại gần hơn ở phía ngoài rìa bụi cây. Jack rít lên. “Đừng chơi dại như vậy. Tớ biết ông bô của tớ cũng có trong đó. Tớ không đủ tài đương đầu với ông ấy vào lúc này.”

“Bố cậu?”

“Ông ta đang lấy điểm. Làm thêm giờ phụ trợ và những gì liên quan. Ông ta muốn được thăng cấp thám tử hạng ưu khi Gerald chơi bóng cho đội chuyên nghiệp.” Hắn làm một ngụm rượu. “Cứ như là chuyện này quan trọng lắm ấy.”

Johnny chui ngược vào trong bụi rậm. Jack bắt đầu lè nhè nói, văng ra khỏi gốc cây thông. Khó khăn lắm hắn mới ngồi thẳng lưng được. “Cậu bị sao vậy?” Johnny hỏi.

“Không có gì.” Rầu rĩ. Johnny quay sự chú tâm vào chuyện xảy ra bên trong căn hộ. “Nếu cậu phải biết...” Jack nói bằng giọng khá lớn.

“Im mồm đi, Jack! Lạy Chúa tôi.”

Jack hạ giọng xuống. “Nếu cậu phải biết, tớ vừa mới tay đôi với ông bố của tớ một trận. Ai đó gọi điện cho ông ấy về chuyện xảy ra ở ngoài thương xá.”

“Để tớ đoán xem. Và ông ấy về phe với Gerald.”

Jack lắc đầu. “Tớ cũng nghĩ như vậy. Chuyện này liên quan đến cậu. Ông ta bảo chúng ta không thể làm bạn với nhau được nữa, và ông ta nói đây là lời khuyến cáo chính thức. Lời khuyến cáo cuối cùng.” Jack xua một tay và lắc lư đứng lên đôi chân của mình. “Nhưng đừng có lo. Tớ nói ông ấy hãy biến đi.”

“Cậu đã không làm vậy.”

Cái chai đưa lên. “Gần như vậy.”

Johnny nhìn đăm đăm về phía cánh cửa sổ. “Nếu tớ vào trong đó, họ sẽ mang tớ đi vĩnh viễn.”

“Ai?”

“Sở Xã hội. Họ sẽ lôi cổ tớ ra khỏi nhà chú Steve và giam cầm tớ với một người nào đó áp dụng kỷ luật thép, họ sẽ bắt tớ một ngày tắm ba lần và cấm chỉ không cho ra khỏi nhà.”

“Hoặc vậy hoặc ai đó ăn lương nhà nước. Họ sẽ nuôi cậu bằng nước uống và bánh mì. Bắt cậu ngủ trên sàn đất. Bắt cậu là nô lệ.”

“Im đi, Jack.”

“Tớ không nói đùa.”

“Thôi đi!”

Jack loạng choạng bò lại gần hơn và liếc mắt ghé nhìn vào trong cửa sổ. Lần này khi lên tiếng, giọng hắn ta rất nghiêm trọng. “Họ đang lo lắng. Mẹ cậu và mọi người.”

“Tớ không thể nghĩ về chuyện này bây giờ.”

“Tại sao không?”

Johnny nắm áo lôi Jack đứng dậy. “Đi,” cậu nói.

“Đâu?”

“Hãy đi cái đã.”

Cậu lôi Jack ra chỗ chiếc xe bán tải. “Chờ ở đây.”

“Ê ông bạn...”

Nhưng Johnny không thèm nghe. Làm lơ luôn cả những xe tuần tra của cớm, cậu cố mở cánh cửa xe tải của chú Steve. Khóa. Trong sân, cậu cạy lấy một hòn gạch từ cạnh của đường xi măng. Bước bộ trở lại chiếc xe tải, giơ cao tay phải lên, cậu đập vỡ nát cửa sổ xe, thọc tay vào bên trong và mở hộc đựng trên táp-lô.

Trở về xe tải, cậu giật phăng cái chai ra khỏi tay của Jack và vứt nó vào trong bóng tối. Cậu đưa cho Jack cái hộp đựng đạn. “Cầm cái này.”

“Cái gì vậy?”

“Và cái này.” Cậu nhét cây súng vào trong tay Jack.

“Ôi trời đất ơi.”

Johnny mở cửa xe và nhìn thật kỹ anh bạn. “Lần này thì cậu đi với tớ chứ hả?”

“Ồ, con bà nó,” Jack nói, và Johnny nổ máy chiếc xe tải.

Johnny lái xe đúng vận tốc quy định, rồi tàng tàng đỗ chiếc xe tải trên đỉnh đồi. Dưới đó, con đường kéo dài chạy đến nhà của Johnny.

“Cậu làm trò gì vậy?”

“Tớ cần phải lấy vài món.”

“Cậu nghĩ có ai ở trong đó không?”

“Chỉ có một cách duy nhất để biết.”

Johnny cho xe chạy xuống con dốc và căn nhà hiện ra phía bên tay phải. Một vài ngọn đèn bị tắt. Không có gì trên đường dẫn vào nhà. Cậu cho xe trờ vào bên trong và tắt máy đi. Không khí buổi đêm trì chịch. Không một cái gì chuyển dịch bên trong nhà. “Nhìn trống không.” Johnny leo ra khỏi cửa và thử chìa khóa của cậu mở cửa trước. “Chiếc chìa này không mở được,” cậu nói.

“Có đúng chìa không?”

Johnny thử một lần nữa. “Mẹ tớ chắc chắn phải đổi ổ khóa rồi.”

“Tại sao?”

“Vì gã Holloway, tớ nghĩ thế.”

“Điều đó tốt, đúng không?”

“Nếu nó mang ý nghĩa như vậy.”

“Thì...” Jack nhìn xung quanh, và Johnny chọi một cục đá qua cửa sổ. “Lạy Chúa, Johnny! Làm gì thì làm, lần tới làm vậy nhớ nói cho tớ biết trước cái.”

“Xin lỗi.”

“Đứa nào lại chọi đá vào đúng cửa sổ phòng của nó?”

Johnny quay lại, giọng căng hơn. “Cậu không hiểu sao?” Cậu chỉ lên con đường dốc đứng, trở về chỗ hai đứa xuất phát. “Đám cớm biết tớ bỏ chạy khỏi chung cư của chú Steve, họ sẽ gọi Sở Xã hội. Chắc chắn như vậy. Họ sẽ nhét tớ vào một chỗ nào đó mà tớ cũng không dám nghĩ tới. Họ sẽ khóa trái cánh cửa lại và chấm dứt câu chuyện. Trò chơi chấm dứt.”

“Hả?” Jack say rượu rồi.

Johnny nắm chặt đôi vai của hắn và bóp thật mạnh. “Đây là cơ hội cuối cùng của tớ để tìm em gái tớ. Cậu nghĩ tớ quan tâm củ khoai gì về cửa sổ nhà gã Ken? Xe tải ông Steve? Mấy cái đó không ý nghĩa gì hết.”

Johnny buông thằng bạn ra với một lực tống làm Jack nghiêng ngả. Johnny nhặt lên một cành cây gãy và dùng nó để đập văng hết những mảnh thủy tinh bén còn vương vấn dính vào khung cửa sổ. Khi cậu vứt khúc cây gãy đi, cậu chắc chắn cho Jack biết ai làm chủ tình hình ở đây. “Chờ ở đây,” cậu nói. “Dòm chừng mọi thứ.”

Cậu trèo vào nhà qua cái cửa sổ bị đập bể, mở công tắc ngọn đèn trên đầu. Chỗ này nhìn cũng y như cũ, nhưng cảm giác thì khác biệt. Một sự đau nhói mất mát đâm trúng vào giữa tim, nhưng cậu bỏ mặc. Vào phòng mẹ trước tiên, cậu kéo cái ngăn kéo tủ cạnh giường và vét hết tiền mặt có ở đấy. Hai trăm đồng bạc, hơn kém chút đỉnh. Cậu lấy hai tờ hai chục và cất tất cả trở lại. Trong phòng cậu, cậu mở ba lô đeo vai và nhét cả quần áo lẫn chiếc chăn vào. Từ trong tủ đựng quần áo, cậu lấy hai cái áo jacket, một cái làm bằng vải denim, cái kia bằng sợi bông. Xoay qua giường ngủ, cậu vơ cuốn sách Lịch sử Đại cương Quận hạt Raven. Nó rớt xuống và mở toang ở trang đặc biệt viết về John Pendleton Merrimon, Nhà giải phẫu và Bãi nô lệ. Trong một giây, cậu sờ bức ảnh người mang cái tên giống cậu, sau đó lật qua trang khác. Trong có hàng tít lớn: “Ngọn đèn của tự do: Người Nô lệ được tự do đầu tiên ở Quận hạt Raven.” Có một câu chuyện về ông Isaac Freemantle, và có một tấm bản đồ.

Trên bản đồ là một con sông và con đường mòn.

Con đường mòn dẫn đến một nơi.

Johnny gấp cuốn sách lại và nhét nó vào ba lô. Cây súng đặt ở trên cùng.

Trong nhà bếp, cậu tìm thấy thức ăn đóng hộp và bơ đậu phộng, một cây đèn pin lớn và một hộp diêm. Cậu lấy bánh mì khỏi ngăn kệ, lấy hai lon nước nho từ tủ lạnh. Trong giây phút cậu nghĩ đến việc viết cho mẹ vài dòng, nhưng giây phút đó đi vèo mất hút. Nếu bà biết cậu toan tính chuyện gì, bà chỉ lo lắng thêm. Cậu bước ra bên ngoài và ném cái áo jacket vải bông cho Jack. “Đây.” Johnny khoác chiếc áo jean jacket. Jack bắt đầu tỉnh rượu. Johnny thấy trên khuôn mặt ẩm ướt và khổ não của Jack, hiện lên sự thận trọng khi Jack nhìn xuống con đường đơn độc dài thăm thẳm. “Cậu không phải đi với tớ,” Johnny nói. “Tớ có thể tự mình làm chuyện này.”

“Johnny. Tớ không tài nào hiểu nổi cậu đang làm trò gì.”

Johnny nhìn vào cánh rừng rậm sau nhà. Cậu nghĩ đến cây súng nặng trịch trong ba lô. “Tớ sẽ nói với cậu khi nào cậu giã rượu. Đến lúc đó nếu cậu vẫn còn muốn đi theo, cậu cũng có thể đi.”

“Bây giờ tụi mình đi đâu đây?”

“Cắm trại.”

Jack nhìn ngẩn tò te, và Johnny đặt một tay lên trên vai của hắn. Miệng cậu mím lại sắc bén, hai mắt sáng quắc. “Cứ nghĩ chuyện này như là một chuyến thám hiểm.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


Hunt đứng ngay ở lò sưởi, mắt vẫn để ý Katherine Merrimon. Bà ta ngồi trên ghế sofa trong phòng khách nhà ông Steve, run cầm cập và mặt đỏ bừng. Cứ mỗi phút bà lại đứng dậy và dõi mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Yoakum đang trong nhà bếp. Cross cũng vậy. Steve bồn chồn ruột gan và ném cái nhìn sợ hãi về hướng Hunt. Ông ta cố gắng nói chuyện với bà Katherine, nhưng bà tát vào mặt ông ta. “Đây là do lỗi ở ông,” bà nói.

“Cái thằng trời đánh.”

Bà lại tát ông ta.

“Tôi đi ra ngoài đây,” Steve nói. “Tôi cần hút điếu thuốc lá.”

“Đừng có trở lại.” Bà không thèm nhìn ông.

“Katherine...”

Bà nhìn vào khoảng tối và Hunt bước tới trước. “Ra ngoài hút thuốc đi ông Steve. Cho chúng tôi ít phút.”

Ông ta mở cửa. “Được. Sao cũng được.”

Hunt chờ cho đến khi cánh cửa khép lại, sau đó cầm cánh tay bà Katherine và dắt bà vào sofa.

“Chúng tôi sẽ tìm thấy cậu ta.”

“Ông đâu biết điều ấy.”

“Tôi sẽ làm bất cứ điều gì có thể để mang con trai bà trở về nhà. Đó là lời hứa.” Cả hai đều nhận ra tính trống rỗng của lời hứa. Bà Katherine nhét tay vào trong đùi. “Không thứ gì có ý nghĩa hơn đối với tôi, ngay bây giờ. Bà có tin tôi không?”

“Tôi không biết.”

“Tôi hứa, Katherine. Tôi thề.”

Bà gật đầu, hai vai thõng xuống, hai bàn tay vẫn gấp gọn thành một gói nhỏ, hoàn hảo. “Ông có nghĩ ai đó bắt cóc nó không?”

Hunt vất vả lắm mới nghe được tiếng bà. “Không,” ông nói. “Tuyệt đối không.”

“Có thể ai đó quyết định một lời đe dọa suông là chưa đủ.”

Hunt xoay người về phía ghế sofa. “Không có dấu hiệu cạy cửa vào nhà, không có dấu hiệu chống cự. Chiếc xe bán tải của ông Steve bị lấy đi. Johnny biết lái xe. Cậu ta có chìa khóa trong tay.”

“Tôi cần nó trở về. Ông có hiểu không?”

“Hiểu.”

“Tôi cần con trai tôi trở về nhà.”

Hunt nhìn xuyên qua cửa kính. Yoakum xuất hiện ở cửa nhà bếp.

“Clyde,” ông nói, và dùng một ngón tay ra hiệu.

Hunt bước vào nhà bếp. “Chuyện gì đó?”

Yoakum dẫn Hunt vào trong nhà bếp và dừng lại trước một cái bàn nhỏ. “Ông có thấy bất cứ cái gì ở đây làm phiền ông không?” Hunt nhìn vào bàn. Vài cuốn tạp chí, vài lá thư, tờ nhật báo ngày hôm qua và một cuốn niên giám điện thoại đang mở. Ông đang định lắc đầu thì Yoakum nói: “Cuốn niêm giám điện thoại.”

Chỉ mất một giây để thấy. Levi Freemantle, 713 đường Huron.

“Ồ, chết rồi.”

“Tại sao thằng bé lại quan tâm tới gã Levi Freemantle?”

“Nó nghĩ Freemantle biết Alyssa đang ở đâu.”

“Tại sao nó lại có cái ý nghĩ như vậy?”

“Nó nghĩ rằng ông David Wilson có thể nói với gã chuyện đó trước khi chết.” Hunt đóng cuốn sách. “Đây là lỗi ở tôi.”

“Không ai có thể tiên đoán cậu ta sẽ làm những chuyện như thế này.”

“Tôi có thể.” Hunt xoa hai tay lên mặt. “Anh nhóc đó có khả năng làm bất cứ chuyện gì. Tôi thật quá đỗi ngu ngơ khi nghĩ rằng cậu ta sẽ bỏ qua chuyện này.”

“Thế thì phải mau chân lẹ tay lên.”

Họ trở lại phòng khách, nhưng ông Steve sầm sập chạy vào. Ông ta chỉ một tay về hướng bà Katherine, sau đó đóng bàn tay thành một nắm đấm. Hai môi co lại, mặt đỏ bừng. Ông ta khoa chân múa tay, như thể đang cố gắng tự kiểm soát nỗi bực dọc trong người.

“Chuyện gì vậy?” Hunt hỏi.

Steve ném cái nhìn về phía Hunt. Lời lẽ của ông ta bị cắt ngọn, và ông ta lụi mạnh một ngón tay hướng ra ngoài đường. “Cái thằng nhãi ranh lấy cắp luôn cây súng của tôi.”

Mười phút sau, Hunt đã kiểm tra hết các phòng trong căn nhà của gã Freemantle. Ông gọi điện cho Yoakum từ phía phòng khách. “Tôi hụt chân thằng bé rồi.”

“Có dấu hiệu nào cho thấy nó có mặt ở đấy không?”

Hunt bước vào hàng hiên trước nhà và dùng tay sờ cuộn băng nhựa vàng, rách. Phía xa trên con đường vọng lại tiếng chó tru. “Băng nhựa bị kéo rách xuống. Cửa mở.”

“Ta có cần gửi lệnh báo động mọi nơi về chiếc xe bán tải không?”

Hunt cân nhắc. “Nếu Johnny đúng thì sao? Nếu mà gã đàn ông thứ sáu thực sự là cớm?”

“Tôi không nghĩ làm sao chuyện ấy có thể xảy ra được.”

“Nhưng nếu xảy ra thì sao? Chuyện gì xảy ra nếu chúng ta phát lệnh báo động mọi nơi và gã cớm ấy chặn bắt được cậu ta?”

“Ông nghĩ chúng ta nên giữ yên lặng chuyện này?”

“Tôi không biết. Suy nghĩ cái kiểu này thì có hai chục điều sai trái.”

“Tôi cũng nghĩ như ông. Chờ một chút nhé. Cái gì?” Im lặng. Hunt nghe điện, sau đó Yoakum nói tiếp. “À, tổ cha nó.”

“Chuyện gì?”

“Cross nói rằng ông ta đã gọi báo về đồn.”

“Không ai cho phép chuyện đó.”

“Ông ta nói một anh nhóc bỏ nhà đi hoang trong một chiếc xe tải ăn cắp thủ theo cây súng thì không cần suy nghĩ nhiều. Nói thật, tôi cũng không bất đồng ý kiến với ông ta, đặc biệt kể từ khi...”

Yoakum dừng lại và Hunt mường tượng ông ta đi tránh xa khỏi bà Katherine. “Từ khi chuyện gì?”

Tiếng cửa đóng. Ông Yoakum nói giọng thì thào. “Từ khi cậu ta lao ra ngoài kia tìm kiếm kẻ giết người lạnh lùng.”

***

Johnny phải đi hết hai con đường để tìm lối vào nông trại thuốc lá bỏ hoang. Cửa không khóa, đường mòn đầy cỏ dại cao ngất ngưởng và những bụi cỏ gai dại thấp. Jack đóng cánh cửa phía sau họ. Hắn chưa bao giờ đến nhà kho cũ kỹ này. “Tụi mình đi đâu vậy?”

“Cậu sẽ thấy.” Đèn pha xe tải cắt vào trong màn đêm đen thẫm. Những chiếc lá thông chuyển màu từ đen qua xanh lục. Nhựa thông từ những mắt gốc sần sùi phản chiếu sáng bóng, rồi biến mất dạng khi họ đi qua.

Họ đi qua những mương rãnh và suối sâu thành hình sau những trận mưa mùa xuân. Khi họ ra khỏi cánh rừng và đi đến cánh đồng bỏ hoang, bầu trời đêm mở ra trên đầu: cao vút, những vì sao cô độc và vương vấn chút hình bóng trăng khuya đằng sau những tầng mây mỏng. “Hồi trước nơi đây một thời là đồn điền,” Johnny nói. “Sau đó nó chỉ còn là những nông trại.” Con đường rẽ hướng phải, thẳng ra, rồi chia đôi. Johnny đi về hướng trái. “Cậu vẫn có thể thấy cái nơi mà căn nhà lớn cháy rụi.” Cậu lắc mạnh đầu. “Bên kia kìa. Những hòn đá tảng cột ống khói giờ chỉ còn một đống. Miệng ra vào của hầm mỏ cũ.”

“Vậy sao?”

“Bây giờ thì cỏ dại mọc điên khùng. Tớ tìm thấy nó sáu tháng trước đây.”

Cái nhà kho xuất hiện lù lù trước mặt, một bức tường gỗ trên nền nhà đá granite. Cỏ sữa vươn cao, màu xanh và hồng, và dây thường xuân giăng chằng chịt một đoạn dài góc phía đằng sau. Màu đen ngòm xuất hiện nơi những vết nứt tan vỡ thành vôi bụi. Johnny lái xe qua phía bên kia và dừng hẳn. Đường dẫn vào cửa chính nứt nẻ. Gỗ cháy nám và tro than đánh dấu lò sưởi. Johnny gài số để đỗ chiếc xe tải. “Đưa cái ba lô cho tớ.” Jack nhún vai ném ba lô. “Đừng tắt máy xe cho đến khi nào tớ yêu cầu.” Johnny thả cái túi xuống dưới đất và lôi ra chiếc đèn pin. Cậu biến mất vào trong nhà kho, tìm được một cái ba lô mốc meo màu xanh và ba gốc nến. “Được rồi,” cậu nói.

Jack tắt máy động cơ xe tải và ánh đèn pha của xe cũng tắt ngúm. Màn đêm đổ ụp xuống, chỉ còn những tia sáng lấp lóa trên lớp da trắng, những con mắt mở to và áo quần dơ bẩn.

“Nhà gã Ken ở hướng đó.” Johnny trỏ tay với cây đèn pin. “Xuyên qua đám cây. Không xa lắm.”

“Làm sao cậu khám phá ra những thứ này?”

Johnny ngồi bệt xuống và lục lọi tìm hộp diêm trong túi. “Trốn thoát khỏi nhà khi mọi chuyện trở nên tồi tệ. Đi tìm bắt rắn.”

“Về chuyện rắn...”

“Cầm cái này đi.” Johnny đưa cây đèn pin cho Jack, sau đó đặt đèn cầy trên phiến đá granite và thắp sáng lên. Jack nhìn và không nói gì, nhưng Johnny cảm thấy hắn có mặt ở đấy. “Tớ ngủ ngoài này vài lần. Không tệ lắm. Bên trong thì toàn nhện. Muỗi ngoài này khủng khiếp nhất.”

“Tớ chọn đám muỗi.”

“Tớ cũng vậy.”

Jack bỏ cây đèn pin trở lại vào cái túi xanh. “Cái gì đó?”

“Hãy đốt lửa lên.” Johnny đứng dậy và bắt đầu gom củi khô. Mãi về sau, Jack phụ một tay. Cả hai gom những que củi và cành cây rơi. Đám lửa phập phù khi Jack nhặt được một cuốn Thánh kinh cháy dở. Nó được bọc da nhám, màu đen; một phần gáy dài năm phân bị cháy xém. Một số chữ vàng vẫn còn có thể đọc được. Jack cầm nó tần ngần cả phút, và Johnny có thể nói cậu biết nó là cái gì. Cậu nhìn những ngón tay nhỏ bé của Jack lần mò từng con chữ, sau đó cậu đứng dậy, giật phăng nó khỏi tay Jack và vứt vào trong đống lửa. Đứng khom người trở lại, Johnny nhìn thằng bạn mình. Jack không phải là kẻ mà phần lớn mọi người cho là đứa trẻ ngoan, nhưng Johnny biết sự thật rõ ràng hắn tin tưởng vào ma quỷ.

“Tớ sẽ không bị thiêu cháy trong hỏa ngục, nếu đó là điều cậu đang suy nghĩ."

Cánh tay nhỏ của Jack chuyển động. Hắn chỉ vào đống lửa. “Cậu đang làm trò gì vậy Johnny?” Đầu hắn ta ngẩng lên và hai mắt đỏ hoe. “Tớ là đứa trẻ ngoan và tớ vẫn giữ yên lặng. Về tất cả những gì liên quan.” Hắn di chuyển những ngón tay qua mặt một lần nữa. “Những gì họ nói trong tờ nhật báo. Những chuyện cậu giữ bí mật không cho tớ biết. Rắn và may mắn và ba cái lăng nhăng bùa chú.” Hắn lắc đầu. “Nhưng chuyện này thì không đúng chút nào. Cho dù nó là cái gì đi chăng nữa, cậu cũng đâu thể đốt Thánh kinh được. Ngay cả tớ cũng biết điều này.”

“Nó chỉ là một cuốn sách thôi mà.”

“Cậu sẽ hối hận khi nói câu ấy.”

Johnny lên cao giọng. “Nó chỉ là một cuốn sách và nó không giúp ích chuyện gì. Nó không thể làm xoay chuyển tình thế được.” Jack há hốc mồm, nhưng Johnny dộng tiếp những lời nói xuống cổ hắn. “Gã giáo sĩ nói là nó sẽ, nhưng gã ta sự thật cũng chỉ là hạng người tào lao.”

“Chắc tớ phát nôn mất.”

“Thì, đi qua bên kia nếu cậu sẽ làm trò đó.” Johnny đâm một ngón tay vào màn đêm đen thẳm. “Tớ sẽ ăn qua loa buổi tối và tớ không cần thiết phải ngửi mùi ói mửa của cậu.”

Jack nhắm mắt, nhưng khi hắn mở mắt, trông hắn có vẻ đỡ xanh xao hơn. Khi hắn lên tiếng, Johnny biết hắn đã quyết định quên đi mọi thứ. “Cái gì vậy?” Jack hỏi và trỏ tay vào cái túi.

Một làn khói cuộn quấn xung quanh khuôn mặt của Johnny và cậu nheo mắt. “Cậu thực sự muốn biết?”

“Tớ có hỏi mà, đúng không?”

Johnny cởi dây buộc và đổ tung những thứ bên trong túi ra nền đất. Cậu phân chia thành những bó cây cành hoa lá. Trong đó có bốn bó, mỗi bó được cột bằng một sợi dây. Cậu dàn chúng ra hàng ngang, bắt gặp mắt nhìn của Jack. “Tuyết tùng,” cậu nói. “Thông. Vân sam. Nguyệt quế.”

“Rồi sao?”

“Đó là những gì linh thiêng.” Cậu sờ vào chúng, từng bó một. “Khôn ngoan. Quyền năng. Can đảm. Kiên trì. Cậu phải đốt chúng đi.”

“Có phải những thứ của người Da đỏ không?”

“Da đỏ. Và những thứ gì khác.” Johnny gom hết những bó cây và vứt chúng vào màn đêm, xa khỏi đám lửa. Chúng rớt xuống kêu tiếch oạch, và Johnny vỗ xuống mặt đất. “Cậu đói không?” Johnny hỏi. “Tớ đói rồi.”

Cả hai ngồi ăn bánh mì kẹp bơ đậu phộng và uống nước nho lon. Jack liếc nhìn thằng bạn mình và nhìn đi chỗ khác khi Johnny bắt gặp ánh mắt nhìn của hắn. Johnny làm ngơ. Cậu không muốn nói về những chuyện cậu đã làm và chắc chắn không để Jack phán đoán con người của mình. Cậu chùi ngón tay dính bơ đậu phộng vào quần jeans và lượm cây súng lên. Nó nặng và trơn nhẵn. Cậu bật bung trái khế và thấy trong súng nạp đầy đạn.

“Nó không có chốt an toàn,” Jack nói. “Cẩn thận những nơi nào cậu chĩa nòng súng đến.”

Johnny phập mạnh đóng trái khế. “Cậu biết về súng?”

Jack nhún vai. “Bố tớ là ông cò.”

“Cậu biết bắn súng không?”

“Đủ thẳng, tớ nghĩ vậy.”

Johnny tra súng vào bao súng. Cả hai yên lặng và những âm thanh đêm khuya bao bọc xung quanh. Những con thiêu thân bay lượn xung quanh ánh nến đèn cầy và bóng của chúng xà dưới đất. Jack vứt lon nước vào đống lửa để xem liệu nó có cháy bùng lên; bỏng rát đau đớn và nổ tung hay không. “Nè Johnny?”

“Gì đó.”

Jack giữ đôi mắt nhìn vào đống lửa. “Cậu có nghĩ hèn nhát là tội lỗi không?”

“Cậu sợ hay sao hả?”

“Cậu có nghĩ nó là tội lỗi không?” Khăng khăng. Quai hàm mỏng cắn chặt.

Johnny vứt cái lon của cậu vào trong đống lửa. Nhiều giây phút trôi qua và cậu không hề chớp mắt cho đến khi cả hai mắt khô rang. “Gã đàn ông ở con sông, David Wilson. Gã ta biết em gái tớ ở đâu. Gã biết, và tớ bỏ chạy thục mạng trước khi gã có thể nói cho tớ biết.” Johnny nhìn thằng bạn của cậu. “Cho nên, đúng vậy. Tớ nghĩ hèn nhát là hành động tội lỗi.”

“Chúa hoặc không có Chúa.” Hai mắt của Jack mở to và

bất động.

“Điều đó đúng.”

Jack nhìn vào màn đêm và quấn hai tay ôm lấy đầu gối. “Tụi mình làm trò gì ngoài này vậy Johnny?”

Johnny dùng cái cây khều đống lửa. “Nếu tớ nói với cậu, tớ không muốn cậu lạnh cẳng rút lui. Bây giờ cậu cần cho tớ biết là cậu chơi hay không chơi?”

“Nó quá khó để chơi nếu tớ không biết chúng ta đang nói chuyện gì đây.”

Johnny vươn cao vai. “Tớ sẽ chở cậu về nhà ngay bây giờ, nhưng sẽ không làm thế một khi cậu biết tớ đang toan tính làm gì.”

“Chúa ơi, Johnny. Tớ sẽ không nói với ai hết.”

“Chơi hay không chơi?”

Ngang đống lửa, qua màn khói và không khí đốt cháy, Jack chùi cánh tay của hắn ngang mũi. Màu vàng cam ánh lên trên đôi mắt cho đến khi hắn quay đầu, sau đó màu sắc biến mất và hắn chỉ là một đứa trẻ dơ bẩn với màu da nâu bạc phếch và mái tóc dựng đứng chĩa khắp mọi nơi. “Thực sự cậu là tất cả những gì có giá trị với tớ, Johnny. Tớ không nghĩ có một sự hối hận nào đâu.” Hắn xoay trở lại và đôi mắt thật giản đơn. Màu nâu của mắt làm cho Johnny liên tưởng đến đôi mắt con chó. “Nói tớ biết đi.”

“Lại đây.” Johnny lục lọi trong ba lô mang theo từ nhà. Cậu lôi ra cuốn sách về Quận hạt Raven nhưng không mở sách ra. Jack đi xuyên ngang qua đống lửa, ngồi dưới đất, và Johnny giải thích mọi chuyện từ đầu: David Wilson bị hất văng xuống dưới cầu và những gì ông ấy nói; Levi Freemantle, làm sao gã ta nhấc bổng Johnny ở sát mé sông; những vết máu Johnny tìm thấy ở nhà Freemantle.

Jack gật gù. “Trời ơi, Johnny. Những thứ đó cũng đã đăng trên nhật báo. Cùng ngày cậu bị nạn. Không phải tên của gã ta, tớ nhớ là như vậy, nhưng người ta tìm thấy nhiều thi thể trong căn nhà đó. Hai xác người đầu của họ bị đập nát.”

“Tớ cũng đoán ai đó bị giết khi tớ thấy máu me khắp nơi.”

Khuôn mặt của Jack co rúm. “Bộ nhiều máu lắm hả?”

“Chỗ nào cũng máu me, ý tớ là nó như sơn trên tường.”

Cả hai anh nhóc yên lặng trong khoảng một phút.

Như là sơn.

Sau đó Jack lắc đầu. “Tớ không hiểu ba cái chuyện này ăn nhập gì đến bọn mình.”

Johnnny bật công tắc đèn pin và dở ra trang nói về Isaac Freemantle. Cậu chỉ vào tấm bản đồ. “Đây là thị xã.” Cậu di chuyển ngón tay về hướng bắc, khoanh một vòng tròn. “Nơi đây phần lớn là đầm lầy.” Cậu di chuyển ngón tay nhẹ nhàng. “Đây là nơi những khối đá granite trổ dựng lên và có một cánh rừng bạt ngàn nơi những hầm mỏ cũ được khai thác. Cậu nhớ không?”

“Nhớ. Hồi đi thăm mỏ khi còn học lớp bốn, họ bắt tất cả bọn mình nắm tay nhau để không ai đi lạc và rơi xuống hố.” Hắn lúng túng ngượng nghịu, Johnny biết, qua những hồi ức. Không ai chịu nắm cánh tay bị tật nguyền của Jack. Có những lúc chen lấn và xô đẩy, mấy đứa con gái nói thật là kinh hãi!

Johnny kéo tay về hướng nam, đến con đường mòn bên cạnh con sông. “Đây là nơi tớ đụng đầu gã ta, ngay nơi này nè. Còn bên đây là cây cầu.”

“Hiểu chứ.”

Johnny tiếp tục lần theo con đường mòn chạy dọc dòng sông. Ngón tay của cậu dừng ngay gần bờ rìa của đầm lầy. Ở đấy có ba chữ: Rừng Vĩnh Hằng. “Đây là nơi gã ta sẽ đi đến. Đây là nơi chúng ta sẽ tìm được gã.”

“Cậu nói xa vời quá tớ hết hiểu nổi rồi.”

Johnny gấp cuốn sách. “Chuyện này nó đi ngược lại. Ngược lại thời nô lệ.”

“Cái gì?”

“Thời kỳ nô lệ. Tập trung nghe đi. Cậu thấy không, những người nô lệ đến xứ sở này mang theo tôn giáo tín ngưỡng của họ. Những chuyện Phi Châu. Chuyện bộ lạc. Thánh thần súc vật, linh hồn trong nước, mê tín, bùa lú. Họ gọi nó là bùa rễ. Hình nhân. Nhưng những chuyện đó tốt cho người da trắng, bởi vì chẳng ai ở đây muốn họ học hỏi về Giê-su, Chúa và những thứ đó. Họ không muốn một bầy nô lệ nghĩ rằng họ bình đẳng trước con mắt của Chúa. Cậu thấy không? Nếu bạn bình đẳng, thì đâu ai có quyền làm chủ nhân đời bạn. Đó là suy nghĩ nguy hiểm nếu cậu làm chủ một bầy người nô lệ.”

“Cho nên, người da trắng không muốn người nô lệ học chữ.”

“Nhưng họ đã học. Nô lệ Phi châu, nô lệ Da đỏ. Họ học đọc và học Thánh kinh; nhưng họ phải học trong lén lút, bởi vì chính họ cũng hiểu sự nguy hiểm của việc làm này. Họ thông minh hơn những ông chủ nô lệ tưởng. Họ biết họ sẽ bị trừng phạt vì tín ngưỡng của họ. Bị bán đi. Có thể bị giết. Cho nên họ cầu nguyện trong rừng rậm, trong đầm lầy. Những nơi bí mật. Giấu kín. Cậu hiểu không?”

“Không.”

“Cứ nghĩ những nơi đó là nơi ẩn náu an toàn của nhà thờ. Họ gọi những nơi đó là “Rừng Vĩnh hằng,” và họ đến tụ tập ở những nơi đó để cầu nguyện trong bí mật, để che giấu tín ngưỡng của họ từ những người da trắng mà không muốn chia sẻ tín ngưỡng của họ.”

“Rừng Vĩnh hằng? Như cái nơi trên bản đồ.”

Johnny gật đầu. “Họ quá thông minh để xây dựng một nhà thờ bởi vì họ biết ai đó sẽ tìm ra nó. Nhưng trong rừng thì chỉ có gỗ, đầm lầy thì chỉ có bùn đất, nước và rắn rết và những thứ tào lao khác. Cho nên đó là những nơi họ đến quy tụ. Họ ca hát những bài ca ngợi Chúa, nhảy múa trên nền đất, và biểu lộ tín ngưỡng mới của họ.”

“Những chuyện đó có trong cuốn sách?”

Johnny nhìn đi nơi khác, ngần ngại. “Một số trong đó. Nhưng không phải tất cả.”

“Không phải tất cả những gì?”

“Có một người nô lệ tên là Isaac, một người kiểu như ông mục sư. Ông ta dạy dỗ những ai không biết đọc. Ông ta khai phóng chữ nghĩa, mặc dù ông hiểu sự nguy hiểm của nó.” Johnny đập một con muỗi vo ve trên cổ cậu và bóp văng máu bằng ngón cái và ngón trỏ. “Rồi cuối cùng họ cũng bị phát hiện, và ba người nô lệ bị xử giảo ngay tại Rừng Vĩnh hằng, treo cổ lên những cái cây mà họ dùng để làm nhà thờ. Họ cũng sẽ treo cổ Isaac, nhưng ông chủ của ông ta can thiệp. Ông ta cầm chân đám đông với súng trên một tay và cuốn Thánh kinh trên tay kia. Họ nói là ông ta đã gọi Chúa xuống từ trời và doạ nạt sẽ bắn bỏ gã đàn ông nào nhúc nhích một bước. Không ai đủ can đảm thay đổi chuyện đó. Và ông ta đã cứu mạng người nô lệ.”

Jack mê mệt nghe câu chuyện. “Chuyện diễn tiến như thế nào?”

“Ông ta mang ông Isaac về nhà và giấu biến ông trong ba tuần lễ, chờ cho đám đông điên loạn ngoài kia nguôi ngoai, chờ cho một sự ân hận nào đó thấm sâu vào, tớ nghĩ thế. Sau đó ông trả tự do cho người nô lệ đó, và cho ông ta mảnh đất nơi mà những người cùng tín ngưỡng với ông ta vẫn cầu nguyện.”

“Và bị xử giảo.”

“Cả chuyện đó.”

“Và cậu muốn tìm gã này ở đó?”

“Isaac Freemantle sống ở nơi đó suốt cuộc đời ông ta. Có thể Freemantle vẫn vậy. Con đường mòn đi thẳng đến đó. Có lẽ nó là con đường mà họ đi ra thị xã và trở ngược lại.”

Jack cau mày. “Làm sao mà cậu biết được những điều này? Cậu nói nó không có trong sách mà.”

“Ông kỵ của tớ tên là John Pendleton Merrimon. Cùng tên với tớ.”

“Rồi sao?”

“Ông chính là người một tay cầm súng, tay kia cầm cuốn Thánh kinh.” Johnny vứt một khúc cây vào đống lửa. “Chính ông là người đã giải phóng cho Isaac.”

“Thôi đi.”

“Sự thật.”

“Và cậu muốn đi vào khu đầm lầy, để tìm người cháu chắt hay gì đó của ông ta, một gã giết người, để cậu hỏi thăm gã ta về Alyssa?” Johnny gật đầu một cách quả quyết, và Jack lắc đầu. “Cậu nghĩ gã ta mang nợ nần gì cậu sao?”

“Tớ không nghĩ gã ta biết tớ là ai.”

“Cậu là thằng ngốc. Ý tớ là, cậu thì khùng điên hết nước rồi.”

“Điên hết thuốc chữa.” Giọng của Johnny cay đắng. “Thật là khôi hài!”

“Không phải chuyện đùa cợt đâu. Cái này ngu xuẩn lắm Johnny. Thần kinh!”

“Không làm tớ thay đổi ý định. Đó là những gì cậu đã nói.”

Jack luống cuống đứng lên, tiếng nổ của củi than trong đống lửa kêu tí tách. “Chúa ơi, Johnny. Gã này mới giết hai mạng người. Gã sẽ giết luôn cả chúng ta. Chắc chắn không chạy vào đâu.”

Johnny cũng đứng dậy. “Đó là lý do tại sao tớ mới vồ cái này.” Cậu lôi ra cây súng của ông chú Steve từ bao súng, và những quỷ sống đầu trâu mặt ngựa của lửa nhảy múa trên kim loại.

“Cậu điên mất rồi.”

“Và cậu sẽ chơi chúng với tớ chứ?”

Jack nhìn quanh quẩn như thể tìm kiếm hỗ trợ; nhưng xung quanh không có ai. Bóng tối bao trùm và bầu trời phủ chụp xuống. Jack dang rộng đôi tay và cặp mắt năn nỉ cậu. “Chuyện đã một năm rồi Johnny.”

“Đừng có nói như vậy!”

Jack nuốt nước bọt, nhìn một cách tuyệt vọng về phía đằng xa ngoài đống lửa; và buông lời nói. “Con em gái của cậu chết toi mất rồi.”

Johnny vung mạnh hết sức bình sinh. Cú đấm trúng vào một bên mặt của Jack và hắn lăn đùng ra đất. Johnny đứng ngay trên người của Jack, hơi thở của cậu như là có kính vỡ trong thanh quản, cây súng là một vật mang sức nặng trên tay cậu. Trong giây phút đó, thằng bạn lớn tuổi nhất không phải là bạn, mà là kẻ thù của cậu; Johnny kinh ngạc tại sao cậu lại nghĩ Jack có thể hơn như vậy. Sau đó cậu nhìn thấy sự kinh hãi trên khuôn mặt của thằng bạn.

Sự nóng giận vụt thoát ra khỏi cơ thể của Johnny, và cậu bỗng nhiên nhận thấy bầu trời bất thình lình đen thẫm và to lớn. Cậu thấy chính cái bản lai diện mục của cậu qua cặp mắt của Jack, và biết, biết rất rõ, cậu là một thằng điên khùng. Nhưng điều ấy cũng không thay đổi được chuyện gì.

“Tớ phải đi đây.”

Nắm tay đấm của Johnny buông thõng. Jack đẩy người đứng lên từ dưới đất.

“Làm ơn, đừng bắt tớ phải đi một mình.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33


Hunt chở bà Katherine Merrimon trở về căn nhà nhỏ ở ngoài rìa thị xã. Ông cố gắng một lần khơi mào câu chuyện, nhưng bà ta không hề phản ứng. Dừng xe trên đường dẫn vào nhà, ông nhìn xuyên qua lớp cửa kính và cau mày. “Khi bà thấy chiếc xe lạ trên đường phố đêm khuya hôm nọ, nó đậu ở chỗ nào?”

Bà Katherine chỉ và Hunt nhìn lên hướng con đường, qua ngọn đèn ở phía xa. “Nó đậu lù lù ở đằng kia. Máy nổ. Tôi chưa từng bao giờ thấy nó trước đây.”

“Nó thuộc loại xe gì?”

“Tôi nghĩ nó là một xe tuần tiễu của cảnh sát.”

“Tại sao lại là xe cảnh sát? Điều gì khiến bà cả quyết như vậy?”

“Trông nó như thế. Một chiếc xe to bốn cửa. Nó có cái hình dáng đó. Nhìn như là xe tuần tiễu của cảnh sát.”

“Trên nóc xe có dàn đèn không?”

“Không. Chỉ là hình dạng như vậy.” Bà trỏ vào chiếc ô tô mà cả hai đang ngồi. “Như chiếc này đây.”

“Chiếc xe đời Crown Victoria?”

“Nó nhìn y chang chiếc xe này. Xe Mỹ. To lớn. Tôi không biết. Trời tối mù. Tôi không quan tâm về ô tô. Tôi không biết về chúng.”

“Và nó chạy khi nào?”

“Khi tôi đi bộ gần về hướng của nó.”

“Nó chạy đi hướng nào?

Bà chỉ, và Hunt một lần nữa cau mày. “Tôi nghĩ bà không nên cư trú ở đây, không nên khi những chuyện như thế này xảy ra.”

“Vậy tôi ở nơi nào khác bây giờ?” Bà ta chờ đợi một câu trả lời. “Nhà ông ư?”

“Tôi không phải hạng người như vậy, bà Katherine.”

“Tất cả đàn ông đều như vậy.” Bà không thể giấu giếm sự cay đắng. Bà nhìn thẳng vào ông và Hunt bị choáng bởi cường độ của nó. Đôi mắt màu xanh ngọc bích. Quá mệt mỏi, rã rời. Tổ cha gã Ken Holloway, Hunt nghĩ. Tổ cha hắn đã làm cho Katherine như ngày hôm nay.

“Tôi đang nghĩ đến một khách sạn. Một nơi chốn ẩn danh.”

Bà ta chắc phải nghe được nỗi ai oán trong giọng nói của Hunt. “Tôi xin lỗi,” bà nói. “Điều đó không công bằng. Ông là người không có gì ngoài sự toàn hảo tuyệt đối."

“Như vậy có nghĩa bà sẽ làm chứ?”

“Johnny có thể trở về nhà. Tôi cần phải có mặt ở đây vì chuyện đó.”

“Bà Katherine...”

“Không.”

“Như vậy tôi sẽ chỉ thị một xe tuần tiễu đậu trên đường phố.”

“Điều đó cũng không.”

“Ở đây không an toàn,” Hunt nói. “Nhiều chuyện xảy ra mà chúng tôi không làm sao hiểu nổi.”

“Một chiếc xe tuần tiễu sẽ làm Johnny kinh sợ. Nếu nó bỏ nhà đi hoang, tôi muốn nó biết nó có thể trở về nhà không. Làm sao nó có thể biết được điều đó nếu cớm đậu xe ngay trước nhà?”

Bà Katherine mở cánh cửa xe phía bên bà. “Cảm ơn ông đã đưa tôi về, ông Thám tử. Tôi sẽ ổn thôi.”

Thám tử Hunt bước ra ngoài xe và đặt hai tay của ông trên nóc xe. “Tôi muốn kiểm tra ngôi nhà.”

“Tôi muốn được ở yên một mình.”

Hunt dò xét con đường bởi sự đau khổ của bà đang giết ông chết dần chết mòn. Ông từng thấy sự can đảm của bà trước đây, và ông cũng thấy sự can đảm ấy suy sụp. Nó cũng giống như ngồi nhìn một cây gỗ đổ sụp hay một dòng sông cạn nước. Ông nhìn căn nhà tối đen, rồi nhìn bà. “Làm ơn,” ông nói.

“Nếu ông yêu cầu.”

Hunt phát hiện cửa sổ bị đập vỡ chỉ ba giây sau. “Bà hãy trở vào xe,” ông nói, và rút súng ra. “Vào ngay trong xe và khóa cửa lại.”

Bà chạy ùa về hướng cánh cửa nhà.

“Bà Katherine!”

“Tôi đã đổi ổ khóa. Ông không thấy sao? Đó là Johnny.”

Hunt nắm được tay bà trên các bậc thềm và kéo ngược bà trở lại. “Chờ một chút,” ông nói. “Chờ ngay tại đây.” Sau đó ông gọi lớn tiếng. “Johnny.” Ông thử cửa trước. Nó mở dễ dàng. “Johnny. Đây là Thám tử Hunt và mẹ của cậu.” Không lời đáp. Hunt giơ một tay lên. “Đứng ở đây.”

Bên trong, Hunt bật công tắc các bóng đèn. Những mảnh kính vỡ lóng lánh trên nền thảm. Ông kiểm tra các phòng phía sau nhà, mở hết đèn đuốc lên. Khi ông trở xuống hành lang, ông thấy bà Katherine trong phòng khách. Ông tra súng trở về bao. “Không có ai. Nhà trống không.”

Bà ngồi trên ghế sofa và giữ thân mình yên lặng.

“Có thứ gì mất không?” Bà nói không, và Hunt bước lại gần hơn. “Có thứ gì bị mất cắp không?”

Bà nhìn lên, hai mắt ướt đẫm và trống rỗng.

“Tôi sẽ kiểm tra sân vườn,” Hunt nói. “Tôi muốn bà nhìn xung quanh và nói cho tôi biết bà thấy mất những gì.”

“Không giải quyết được việc gì đâu. Tôi đã không thấy bất cứ thứ gì cả năm trời nay rồi. Tôi sẽ không biết được nếu thứ gì đó biến mất.”

Hunt hiểu, nhưng bỏ qua. “Kiểm tra phòng ngủ của Johnny. Bắt đầu từ chỗ đó.”

“Được rồi.”

Bà đi về hướng hành lang. Đèn phòng Johnny sáng. Bà nghe thấy tiếng chân Hunt rời khỏi căn nhà, sau đó đứng ở cửa ra vào phòng Johnny. Bà nhận ra, đứng từ ngoài nhìn vào, căn phòng này quá xa lạ với bà. Bao nhiêu lần bà đã từng vào căn phòng này, bà tự hỏi. Ba lần? Năm lần? Và bao nhiêu lần tỉnh táo? Không lần nào, bà nghĩ. Cả năm vừa qua là những ngày mù mờ trôi qua. Bà ăn. Bà ngủ. Gã Ken Holloway đến rồi đi. Phòng con trai bà là chỗ xa lạ với bà.

Con trai bà, bà nhận ra, là một kẻ xa lạ với bà.

Bà kiểm tra tủ quần áo, nhưng không thể biết những gì lẽ ra phải có ở trong đó. Tương tự với ngăn kéo và ngăn kệ. Bà không nhớ có bao giờ bà mua quần áo cho con, hay giặt giũ chúng. Johnny đã làm những chuyện này, bà nhận ra. Cậu nấu nướng. Cậu giặt giũ. Bà lấy tay che miệng, thổn thức, tràn ngập nỗi xúc động.

Con trai bà đâu rồi?

Bà tìm thấy một cái vali hành lý dưới gầm giường. Nó là cái túi cũ kỹ và tơi tả, không có dấu hiệu nào quen thuộc. Bà lôi nó ra và khiêng vất nó lên trên giường. Bà mở vali ra và chết lặng. Khuôn mặt của Alyssa.

Johnny và ông chồng của bà.

Những tấm ảnh nằm ngay trong nắp vali. Nó là tập hợp của ánh sáng ban mai và con cái bà; đời sống, như là lời hứa hẹn. Hai mắt bà cháy bừng lên, cổ họng bà thít chặt, và bà sờ vào một trong những tấm ảnh đó.

Alyssa.

Con bé một tay ôm choàng lấy cổ của thằng anh. Hai đứa nhe hai hàm răng nham nhở như quỷ quái ranh con.

Johnny.

Trong vali, bà tìm thấy một tấm ảnh khổ 8x10 của chồng bà. Ông mặc chiếc áo thun màu xanh và quanh bụng là cái thắt lưng da có túi da đựng đồ sửa chữa. Ông đứng nghiêng người về hướng ống kính, khoẻ mạnh và nụ cười rạng rỡ, mái tóc đen tuyền toả sáng... Mắt kính râm che giấu đôi mắt ông, nhưng bà biết chúng như thế nào, xanh đậm, sáng quắc và không hề biết chùn bước. Trong giờ phút này, bà ngập tràn niềm ân hận vì những trách mắng mà bà bủa xuống đầu ông, vì những điều cay độc bà quát mắng ông. Sau đó sự bực tức phóng vút lên đỉnh điểm: Nó là lỗi ở ông ta! Lẽ ra ông ta không bao giờ nên để cho con bé đi bộ một mình về nhà.

Nhưng giận dữ chỉ phí thời gian. “Bây giờ anh ở đâu, Spencer?”

Không có câu trả lời cho câu hỏi đó. Ông ta đã bỏ đi.

Những ngón tay của bà chạm vào từng món trong cái vali đó, đồ của Alyssa. Những con thú nhồi bông, cuốn nhật ký của con bé.

Làm thế nào?

Bà đã đốt hết những thứ này, tất cả chúng. Đốt tất cả trong ba tuần lễ điên loạn vì thuốc sái. Bà nhấc con cừu bông ở dưới đáy vali lên và ép mặt bà vào nó, cố gắng tìm kiếm đâu đó một ít hương xưa còn vương vấn.

“Katherine.”

Giọng Hunt chỉ còn là thứ gì đó ở nơi thật xa xôi. Con thú nhồi bông ướt đẫm nước mắt. “Hãy đi đi,” bà nói.

“Đất đai nhà cửa tảo thanh sạch sẽ.” Ông ta ở trong hành lang. Những bước chân của ông làm rung động sàn gỗ và sự rung động ấy chạm vào hai đầu gối của bà.

“Đừng có vào đây.”

Ông dừng ngay ở cửa.

“Đừng vào phòng.” Bà cảm thấy một sự sụp đổ, ở đâu đó sâu thẳm, dòng chảy của tiềm thức quá cuồng nhiệt và kịch liệt làm sụp đổ bất cứ thành quách nào mà bà dựng lên. Không có thuốc sái, bà như trần truồng giữa dòng sông.

“Bà Katherine...”

“Hãy để cho tôi yên.” Con cừu mềm mại trong bàn tay bà. “Tôi van lạy ông.”

Hunt lùi ra xa, và bà nghe tiếng cánh cửa đằng trước đóng lại. Bà nhìn con cừu: hai mắt đen, sáng, lông trắng quá đỗi như một đám mây trong một ngày nắng tuyệt vời. Bà ôm mặt và hít một hơi, nhưng không còn sót lại chút hương xưa của đứa con gái. Chỉ có cái mùi ngai ngái của chiếc vali cũ kỹ và không gian không sạch sẽ dưới một cái giường trống vắng.

Bà chờ cho đến khi xe Hunt rời khỏi nhà, sau đó đứng dậy trên đôi chân tê cứng và mở cửa. Sương mù dần xâm lấn toàn bộ không trung. Bà bước ngang qua đường dẫn xi-măng đến tận ngoài bờ rìa của sân nhà, đến cái nơi cỏ dại mọc cao ngất ngưởng, cuối cùng thấy một thứ nhấp nhánh màu trắng và cam. Mất vài phút để bà tìm ra chai thuốc oxycotin và mang nó vào trong nhà. Bà khóa cửa. Bà lắc cái hộp và những viên thuốc rơi ra ngoài. Bà chọn lấy bốn viên, cho vào mồm và nuốt khô chúng. Sau đó bà đi vào giường ngủ của Johnny, cắp con cừu dưới một cánh tay và nằm lên trên tấm chăn trải giường. Bà nhìn chằm chằm những bức ảnh, và trong suốt mười phút dài bà chịu đựng nỗi đau; đoạn, tuồng như có một bàn tay mềm mại dẫn bà đến nơi trú ẩn, nơi bà có thể chịu đựng cái cảm giác chạm tay vào những bức ảnh mà cậu con trai đã giấu quá kỹ và quá lâu. Bà có thể nói tên từng người mà không đau khổ, và trong tâm trí bà, bà có thể thấy họ đang dần đi về một nơi rất xa.

***

Hunt lái thật chậm xung quanh khu vực. Ông kiểm tra những con đường nhỏ và các đường dẫn vào nhà, nhưng không phát giác được điều gì bất thường. Những căn nhà yên lặng và tĩnh mịch, những con đường dẫn vào nhà đậu kín xe bán tải, xe tải chở hàng, và những chiếc xe mệt mỏi. Không có chiếc xe to lớn nào với động cơ đang nổ máy. Không hình bóng nào thập thò đứng sau cửa sổ.

Khi vòng trở lại con đường đến nhà bà Katherine, ông chọn một nơi thật cẩn thận: đủ xa với những căn nhà để không quấy rầy ai, nhưng đủ gần để thấy nếu ai đó lai vãng. Bà ta không muốn có chiếc xe tuần tiễu nào trên đường phố. Không sao. Nhưng ông từ chối để bà lại một mình, ở ngay cái nơi bờ rìa tối thẫm của đủ thứ này. Ông cho xe rẽ ra khỏi đường lộ, hạ cửa kính xuống và tắt máy. Ông xem giờ. Muộn rồi.

Đè nén sự cắn rứt của tội lỗi, ông gọi điện cho cậu con trai và nói với hắn khoá cửa nhà, khởi động hệ thống báo động.

“Bố sẽ không về nhà đêm hôm nay?”

“Bố xin lỗi, Allen. Đêm nay thì không thể. Con ăn tối chưa?”

“Con không đói.”

Hunt nhìn đồng hồ lần nữa. Ông chửi thề bà vợ đã bỏ ông đi, sau đó nhớ lại những gì anh con trai nói. Có thể là do lỗi ở ông. Ngay tại đây, lại một lần nữa, lại thêm một đêm ông xa gia đình vì nghiệp dĩ. Ông ngừng xe ở đây là do ông tự nguyện.

Không liên quan gì đến công việc.

Hoàn toàn không như vậy.

Ông nhìn xuống con đường dẫn vào nhà bà Katherine. Đá dăm văng vãi trên mặt đường đen ấm. Ông thấy đèn đuốc xuyên qua cây cối, và tự hỏi nếu ông có mặt tại đây, trông chừng liệu nạn nhân có thể là bất kỳ ai khác hay không. Nạn nhân có thể là bất cứ ai hay chỉ bà ta.

“Nghe này Allen...”

Nhưng điện thoại đã cúp. Không có ai ở đầu dây bên kia.

Hunt cúp máy và nằm thấp người xuống ghế. Ông trông chừng những chiếc xe lạ, và gã Ken Holloway. Ông nghĩ về bà giờ đang cô độc trong căn nhà lọt thỏm ngoài kia, và khi, nhiều giờ sau đó, ông chợp mắt, ông mơ màng mang bà ra khỏi nơi chốn ấy. Cả hai ngồi trong một chiếc ô tô, cửa sổ hạ xuống, và ông thấy bà phong thái như xưa. Gió thốc lồng lộng vào mái tóc của bà. Bà đặt một tay lên mặt ông, gọi tên ông, và ánh sáng ban ngày hiện rõ, những dòng nước mắt ngọt ngào chảy từ đôi mắt bà. Nó là một giấc mơ thần tiên, nhưng khi tỉnh giấc, ông bị vọp bẻ và không vui vẻ gì. Mặt trời mới chớm mọc, nắng chiếu vào mặt ông, và giấc mơ cũng chỉ phản trắc như sự đùa cợt của ánh sáng. Điện thoại của ông reo vang.

“Ừ.” Hunt dụi giấc ngủ khỏi hai mắt và ngồi cao hơn.

“Tôi Yoakum đây.”

Ánh mặt trời cắt vào mặt không thương tiếc. Ông hạ tấm chắn nắng mặt trời xuống. “Chuyện gì đó John?” Hunt liếc nhìn đồng hồ. 7:21 sáng.

“Tôi vừa mới ra khỏi hiện trường chỗ nhà Burton Jarvis.” Yoakum ngừng một lát và Hunt nghe một giọng nói ở đằng sau. Một con chó sủa inh ỏi hai lần. “Ông cần phải ra ngoài này.”

Tay Hunt tìm mớ chìa khoá trên cổ tay lái. “Nói tôi nghe.”

“Chúng tôi tìm được một tử thi.”

“Có phải là Alyssa Merrimon?”

Yoakum đằng hắng lấy giọng. “Tôi nghĩ chúng ta tìm được khá nhiều tử thi.”

Căn nhà của Jarvis tối sầm và yên lặng như tờ khi Hunt cho xe chạy vào đường dẫn. Không có xe tuần tiễu. Không có thám tử nào khác. Chỉ có Yoakum, xanh xao và chưa cạo râu, nhai lép nhép kẹo bạc hà đựng trong hộp sắt. Đôi giầy ông ta dính đầy bùn đất, quần ông ướt đẫm từ đầu gối trở xuống. Đứng kế bên ông là Mike Caulfield, một trong số rất ít sĩ quan của sở cảnh sát được biệt phái về đơn vị quân khuyển. Một sĩ quan thâm niên ba mươi năm phục vụ, ông ta cao và gù lưng, với đôi bàn tay lo lớn, chai sạm và một chỏm tóc đen tuyền chắc chắn phải được nhuộm. Ông ta mặc bộ quần áo vải gai, cũng ướt đẫm và dính đầy bùn đất. Kế bên ông ta là con chó lai đang bị buộc dây xích mà ông ta đã từng dùng nó để tảo thanh khu nhà đất của gã Levi Freemantle. Cả hai gặp Hunt khi ông bước ra khỏi xe.

“Yoak.” Hunt gật, nhìn ông sĩ quan quân khuyển. “Mike.” Trông họ mệt mỏi căng thẳng, cả hai. Con chó không hề nhúc nhích hoặc chớp mắt. Nó nhìn ông chủ nó. “Ông chưa gọi điện về xin yểm trợ sao?”

Yoakum đóng cái nắp đậy trên hộp sắt đựng kẹo bạc hà. “Tôi muốn ông nhìn cái này trước đã.” Họ bước về hướng cánh rừng phía đằng sau nhà. “Nói cho ông ta nghe đi, Mike.”

Ông Mike gật gù. “Tôi thức giấc sớm sáng hôm nay. Thông thường, khi tôi dậy sớm như vậy, tôi thích đi săn; nhưng tôi quyết định thử tảo thanh nơi này một lần chót.” Ông ta chỉ về hướng đằng trước. “Tôi vẫn làm việc theo ô bàn cờ, thấy không, trong lộ trình từ căn chòi. Nhưng tôi quyết định dẹp trò đó, chỉ một lần này thôi, chỉ để giãn bắp thịt hai chân. Tôi đến đây lúc năm giờ sáng và đi một đường thẳng tuột ra bờ sông. Xa khoảng chừng hai dặm.”

Ba người đi bộ quá căn chòi vẫn còn quấn chặt trong băng nhựa màu vàng. Mike bước đi không ngần ngại, hụp tránh những cây cành, vừa đi vừa nói chuyện. “Tôi đi xa khoảng hơn một dặm khi con Tom bắt đầu vểnh tai lên. Đi thêm một trăm mét nữa thì nó điên khùng như đười ươi.” Mike lại hụp đầu né cành cây một lần nữa, xấu hổ. “Đại khái là như vậy.”

“Tôi đến đồn hồi sớm tinh mơ,” Yoakum nói. “Và tôi nhận cú điện gọi.”

Họ phá đường xuyên qua một bụi cây, bước qua một dòng suối hẹp nước chảy gắt và đáy suối trơ đá granite. Mặt trời chếch giữa các gốc cây da xám. Nhiệt độ gia tăng. Yoakum trượt chân một lần và ngã chúi đầu gối xuống.

“Mùi gì vậy?” Hunt hỏi. Nó ngọt ngào một cách bệnh hoạn và ngấm ngầm. Một chút thoang thoảng trong giây phút, và tiếp sau là mùi tanh hôi nồng nặc.

“Bãi rác nằm ở hướng đó.” Ông Mike chỉ. “Khoảng một hoặc hai dặm. Ông có thể ngửi mùi của nó khi gió giật mạnh.”

Họ đi bộ xa hơn, và Hunt thấy đôi tai con chó dựng đứng lên. Đầu nó ngẩng cao, mũi đưa lên và hít hà; sau đó nó dìm mũi xuống sát dưới đất và bắt đầu kéo căng dây xích. Chủ chó bắt gặp ánh mắt Hunt. “Ông hiểu ý tôi như thế nào rồi chứ?”

Họ đi qua bụi rậm sau cùng rồi bước vào một lòng chảo to rộng và nông. Những cây họ gỗ cứng cao ngất ngưởng như bia mộ. Lá cây chết, ẩm thấp và mục rữa, làm thành tấm thảm cho sàn nhà rừng rậm. Ba lá cờ màu cam trổ lên từ lòng đất. Chúng bé nhỏ, gắn chặt trên một cây căm sắt cứng. Ngoài ra, mặt đất không hề có dấu hiệu đào bới. “Ông chắc những chỗ đó là thi thể?” Hunt hỏi.

Mike đưa tay ra hiệu cho con chó và nó ngồi xuống, hai mắt chăm chú, mũi nở rộng, nhưng ngoài ra tuyệt đối yên lặng. “Ba mươi năm, Thám tử Hunt, và đây là con chó thông minh nhất mà tôi chăm sóc. Ông sẽ tìm thấy thi thể người dưới những lá cờ màu cam ấy.”

Hunt gật đầu và nhìn dõi theo những lá cờ, sáng rực và bé nhỏ trong cái lòng chảo to rộng, đã từng được vỡ đất khai hoang. Chúng cách nhau một khoảng cách khá xa, có thể khoảng hai mươi mét. “Thêm ba cái xác nữa. Tổ cha.”

Mike và Yoakum trao đổi cái nhìn với nhau. Hunt bắt gặp. “Chuyện gì đấy?”

“Tôi chỉ có ba lá cờ,” Mike nói.

“Có nghĩa là?”

Mike vỗ về con chó. “Có nghĩa, tôi cần thêm cờ.”

Hunt nhìn chằm chằm vào khuôn mặt của ông chủ chó. Hai tai ông ta ông rũ xuống với những khúc gân xụn, mũi ông ta khoằm dài và ửng đỏ. Đôi môi ông ta trễ ra trơ trơ không tự nhiên, và Hunt biết ông ta đang chờ đợi một câu hỏi. “Ý ông muốn nói rằng ngoài kia còn nhiều thi thể nữa?”

Mike hỉ một hơi vào trong khăn tay. Ông gật đầu một lần, và lớp da trên cổ của ông ta gấp nếp. “Tôi nghĩ như vậy.”

Hunt nhìn Yoakum. “Gã Jarvis làm chủ mảnh đất này bao lâu rồi?”

Khuôn mặt Yoakum lạnh lẽo. “Hai mươi tư năm.”

“Chúa Jesus.”

“Ông muốn tôi làm gì?” Yoakum hỏi.

Hunt nhìn lên, thấy lá cây chuyển động và lộ ra những mảng trời xanh nham nhở đủ mọi hình thù. “Gọi về đồn. Huy động tất cả nhân sự ra ngoài này.”

Yoakum bước ra chỗ khác và mở điện thoại. Ông Mike hỉ mũi của mình một lần chót, sau đó nhét khăn vào túi quần sau. “Còn tôi thì sao?” Ông hỏi.

“Cho chó làm việc,” Hunt nói. “Chúng ta sẽ tự tạo một ít cờ đánh dấu.”

“Vâng, thưa ông.” Ông Mike ra hiệu bằng tay và con chó phóng nhanh không chần chừ. Mũi chúi xuống, đuôi vươn cao, nó bắt đầu một con đường thẳng, định sẵn. Hunt cảm thấy một làn gió nhẹ thổi ở cổ.

Mùi nồng nặc của bãi rác dâng lên.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34


Mặt trời lên cao gần đọt cây khi Johnny lay nhẹ Jack bằng chân. Đống lửa đã tàn và xám xịt, cái mền nặng trịch với sương đêm. “Đến giờ rồi,” Johnny nói.

Jack chớp mắt nhìn Johnny, cậu ta đã chỉnh tề áo quần và sẵn sàng. Hắn gãi cổ. “Tớ bị chúng nó ăn sống.”

“Tớ cũng vậy.” Johnny chìa ra một cánh tay và lôi Jack đứng dậy. “Muốn ăn cái gì lót dạ không?”

“Tụi mình có gì?”

“Xúc xích hộp hoặc bơ đậu phộng. Mình hết bánh mì rồi.”

“Còn nước nho lon không?”

“Không.”

Jack lắc đầu. “Tớ không ăn đâu.”

Johnny giũ bụi khỏi tấm mền, sau đó đứng tè bên trong căn nhà kho. Hai tay của cậu lem lấm đầy bồ hóng từ đống lửa. Cậu nghĩ về những chuyện linh thiêng mà không hề linh thiêng chút nào, và cây súng nhét dưới áo jacket. Cậu đã ngồi rất khuya, xoay khẩu súng theo vòng trái khế, nghiêng nòng súng ngược lại với ánh sáng. Cậu xoa ngón tay cái ướt bên hông cây súng, nhắm nòng vào đống lửa và cố gắng giữ vững đôi tay mình dưới sức nặng của súng. Cậu nghĩ về Levi Freemantle và tự nhủ rằng cậu biết mình đang làm trò gì, rồi quyết định chuyện đó cũng không là vấn đề. Cuối cùng, chỉ có Jack là có sự lựa chọn.

“Cậu không phải đi với tớ.”

Jack nhún vai dưới cái áo jacket. “Cậu là bạn thân nhất của tớ.”

“Tớ nói thật đấy,” Johnny nói.

“Và tớ cũng vậy.”

Johnny nhét tấm mền vào trong cái túi, sau đó ghì chặt những cái đai. “Cám ơn, bạn J.”

“Đừng có trở thành gà mái là được.”

“Tớ không. Tớ chỉ nói vậy...”

“Tớ biết cậu nói gì.”

Johnny mở cánh cửa xe tải. “Sẵn sàng chưa?”

“Lên đường.”

Johnny lái xuyên qua cánh đồng trơ gốc rạ và dưới những tàng cây lớn. Ra khỏi cánh rừng, họ đi qua cánh cổng, sau đó theo con đường hai làn xe đi về hướng bắc đến vùng ven quận hạt. Johnny giữ tay lái trên những con đường cậu biết rõ, sau đó rẽ hướng đông, đi xuyên qua khu vực nhà tiền chế, đến một con đường lạ dốc thoai thoải, xa dần thị xã và những nhóm gia cư bao quanh nó. Họ lái xe qua những ruộng nho và những bức tường đá, đi thật sâu vào vùng đồng quê bát ngát đây đó vẫn còn những căn nhà to lớn của thời kỳ nội chiến vươn cao trên những cánh đồng dập dờn. Một lần cậu dừng xe. Cậu so sánh bản đồ trong sách và bản đồ đường phố của Quận hạt Raven. “Cậu có biết bọn mình đang ở đâu không?” Jack hỏi.

Nhưng Johnny không trả lời. Cậu trố mắt nhìn xuống con đường, sau đó lùi xe vào một đoạn đường cũ, nứt nát trông càng ngày càng hẹp đi. Cậu kiểm tra bảng chỉ đường hai lần, sau đó rẽ trái vào con đường một làn xe đen thẫm đổ dốc xuống khoảng vài dặm cho đến khi nó quặt hướng phải và kết thúc bằng một con đường trải sỏi. Johnny dừng xe. Ngoại trừ những con quạ đen đậu trên dây kẽm gai, không có thứ gì xung quanh chuyển dịch. “Cậu ngửi thấy gì không?” Johnny hỏi.

“Không.”

“Con sông. Nó chảy uốn khúc về hướng đông ngay ngoài vùng ven đô, sau đó cắt trở lại. Tớ nghĩ bọn mình đang ở khoảng mười hai dặm về hướng bắc của thị xã. Có thể chếch về hướng đông một chút.” Cậu chỉ xuống con đường đá dăm. “Tớ nghĩ nó đây rồi.”

Jack nhìn xung quanh những cành cây, cánh đồng và tiếng gió thổi trong không gian yên lặng. “Cậu nghĩ đây là cái gì?”

“Để xem.” Johnny rẽ xe qua hướng phải và bánh xe bắn rào rào đá dăm. Đi xa hơn khoảng nửa dặm, xe cậu vượt qua tấm bảng màu vàng ghi hàng chữ: CHẤM DỨT ĐỊA PHẬN TIỂU BANG. Ngay lập tức sau đó, rừng già phủ chụp tứ bề. Mùi vị dòng sông gia tăng. Con đường lại rẽ lên hướng bắc một lần nữa. Johnny chỉ về hướng phải. “Con sông phía bên kia. Tụi mình đang đi song song.” Cậu lái xe khoảng một dặm nữa và qua cánh cổng đầu tiên. Cổng mở, nhưng bảng báo không thể nhầm lẫn. ĐẤT TƯ NHÂN. CẤM XÂM PHẠM.

Johnny phớt lờ.

Cánh cổng thứ hai đóng, nhưng không khoá. Nó là cánh cổng nhôm đã gỉ sét theo thời gian, thõng ở giữa như thể bị một chiếc xe tải nào de lại và va vào. Nó treo trên cây cột trụ làm bằng tuyết tùng, và một phần thấp hơn của cánh cổng nằm tựa lên trên con đường nơi nó oằn xuống. “Mở cổng ra!”

Jack phóng ra khỏi xe và kéo cánh cổng mở. Cỏ ở mép đường cong rạp dưới nó, và Johnny lái chiếc xe đi qua cổng. Jack đóng cổng sau khi xe đi qua.

Họ lọt thỏm vào trong vùng nước mênh mông, thấy con sông đen ngòm và chậm rì như dầu chảy, Johnny chỉ vào khoảnh đất cỏ bị san phẳng nơi con sông tràn ngập bờ kè trong trận bão vừa qua. “Chỗ này sẽ là đầm lầy.”

Con đường uốn cong xa dần với dòng sông, và đầm lầy bắt đầu ép vào từ hai phía. Con đường nâng cao lên gần một mét, cho đến khi nó là một dải đất cao trên nền đất mềm và nước đen ngòm sóng sánh ánh lên qua những thân cây. Johnny cua xe và tí xíu cán phải con rùa nằm phơi nắng ở ngay giữa đường. Mai của nó rộng khoảng sáu mươi phân chiều ngang, đen đúa, đầy rong tảo khô bám vào. Cậu bẻ lái tránh con rùa và nó ngoác rộng cái mồm khi cả hai đã đi qua.

Con đường dốc xuống một lần chót, sau đó vươn lên cao trở thành đoạn cầu dài bắc ngang đầm lầy. Họ lái vào một nơi trống hoác, sau đó ngóc lên trên một mô đất. Hai bên đường, nước hum húp kéo dài xa thăm thẳm, bề mặt phẳng lỳ của nước bị làm hỏng bởi những cây đổ, một nửa chìm dưới nước, và những bụi cỏ vươn lên khỏi mặt nước khi lòng đất vươn lên cao thành cồn. Phía bên kia cây cầu, đất khô bám chặt vào đầm lầy. Johnny dừng xe tải. Trước cồn đất, sỏi đá ít đi, rồi sau đó không còn nữa khi con đường chỉ còn lại vết xe cũ chằng chịt, đất đen cán ngang bãi lầy và biến mất trong rừng thẳm. Những cành cây khổng lồ la đà trên mặt đất và những rễ cái kéo dài như chiều cao một con người trước khi chìm vào lòng đất.

Johnny cho xe chạy vượt qua cây cầu bắc ngang đầm lầy, dừng lại ở cái thõm cuối cùng có ánh nắng mặt trời và tắt máy xe. Không gian yên tĩnh, rồi sau đó âm thanh của đầm lầy trở lại. Ban đầu là những tiếng nho nhỏ, rồi gia tăng như những nốt nhạc phát ra từ cây sáo. Ở ngay rìa nước, một con cò đâm mỏ xuống vũng bùn rồi kéo lên trống trơn. Nó rình mò một quãng, sau đó đứng chết trân, một con mắt ngó nghiêng nhìn xuống nước. Hai anh con trai trèo ra khỏi xe tải. Johnny thấy tấm bảng từ đằng xa ba mét. Một nửa đã bị che phủ bởi cây kim ngân và những thứ dây leo kinh hãi khác, dường như nó cũ kỹ như tất cả mọi thứ xung quanh, một tấm bảng qua năm tháng mưa gió cũ kỹ đóng đinh vào cái cây. Johnny giật bung những đám dây leo. Chữ được khắc sâu vào trong gỗ, những vết cắt sâu, đen ngòm như thể bị đốt cháy.

RỪNG VĨNH HẰNG, 1853.

“Nó là chỗ này.” Johnny lùi bước.

“Chỗ mà người ta xử giảo những người đó.”

“Chuyện đó đã lâu lắm rồi.”

“Chỗ này là chỗ chết, Johnny. Tụi mình không nên đến đây.”

“Đừng để sự tưởng tượng của cậu chạy trốn mất khỏi cậu.”

“Nó bay lên cao và biến mất rồi.”

Johnny lờ đi lời nói của cậu bạn một lúc lâu. Dây leo kim ngân tiết ra mùi đường trong không khí, và cậu đặt hai ngón tay vào hàng chữ khắc đẽo thô nhám. “Chỉ là một địa danh,” Johnny nói dối. Con cò mổ trúng con ếch, xé xác nó ra trong bùn đất. “Chỉ là một địa danh.”

Johnny lia một hòn đá và tạo những vòng sóng loang trên mặt nước đen thẫm. Con cò đập cánh bay lên, con ếch vẫn ngọ nguậy tuyệt vọng trong mỏ con cò. “Cậu có thực sự nghĩ ai đó sống ở ngoài này không?”

Johnny nhìn lên trên cao, xoay đầu. “Không có đường dây điện. Không dây điện thoại. Có thể là không.”

“Đó là tin tốt nhất mà tớ nghe được trong suốt ngày hôm nay.”

Johnny nhìn quanh dưới những tàng cây. Cậu di chuyển dưới các nhánh cây và cảm nhận được nhiệt độ đang hạ xuống. Tàng cây vươn lên cao như vương cung thánh đường tĩnh lặng.

“Còn chiếc xe bán tải thì sao?”

Johnny quay nhìn trở lại. Thằng bạn cậu đang níu lấy ánh sáng mặt trời, một bàn tay đặt trên vỏ kim loại nóng bỏng. “Quá ồn ào. Mình bỏ nó.”

“Thật sao?”

“Chứ sao nữa.”

Jack bước vào trong bóng râm. “Bây giờ thì yên lặng,” Johnny nói. Và cánh rừng nuốt chửng bọn họ.

Cớm đổ bộ xuống hiện trường nhà Jarvis: cớm thành phố, cớm quận hạt. Ai đó nhắc nhở cục cảnh sát tiểu bang, nhưng Hunt bác bỏ đề nghị. Trong suốt mười bảy năm, ông từng thấy toàn những tranh chấp và xâu xé khi quá nhiều ngón tay thò vào cùng một cái bánh. Giữ nó là chuyện của địa phương. Giữ chặt nó. Nhưng đến giờ phút này họ đã cắm bảy cây cờ, quá tải với một văn phòng khám nghiệm y khoa địa phương. Bác sĩ Moore tiến đến gần Hunt với ánh mắt buồn rầu, sự hồ hởi thường ngày tiêu tan. Ông đeo găng tay bám dính đầy những thứ đen đúa. Đã gần hai giờ đồng hồ ông đào bới qua nhiều tầng lớp đất chỉ ở một khu vực duy nhất, rồi đánh dấu bằng cờ. Ông tìm thấy mẫu xương và răng, một ít mảnh vụn áo quần bị phân hủy. Hunt giữ tất cả mọi người ngoại trừ Yoakum ở một khoảng cách xa. Họ đi quanh khu vực ngoài rìa, nói chuyện thì thào khi mặt trời leo cao.

“Bác sĩ.” Thám tử Hunt nhìn đầy nghi vấn.

Bác sĩ Moore lắc đầu, sau đó lau mặt bằng khăn tay dính đầy bùn đất. “Nó là một đứa trẻ,” ông nói. “Gái. Chín đến mười hai tuổi, tôi phỏng đoán như vậy.”

Hunt bắt được ánh mắt của Yoakum. “Bao lâu rồi?”

“Cô bé ấy chết bao lâu rồi?”

“Nhiều năm. Tôi chưa thể nói chắc chắn. Lúc này thì chưa.”

“Nguyên do tử vong?”

Vị bác sĩ co rụt người lại. Hai vai ông rũ xuống. Đôi môi trề xuống. “Có một cái lỗ trên xương sọ.” Ông chỉ vào phần xương cong ngay đằng sau lỗ tai. “Hiện giờ quá sớm để có thể nói nhiều hơn như vậy.”

“Súng bắn?” Yoakum hỏi. “Vật tày đập vào?”

“Cả hai. Hoặc có thể không phải cái nào. Hiện giờ quá sớm.”

“Còn những khu vực hiện trường khác thì sao?”

Bác sĩ Moore dõi ánh mắt buồn rầu nhìn những lá cờ đánh dấu. “Tôi cần thêm trợ giúp. Tôi đã gọi giám đốc khám nghiệm tử thi ở Chapel Hill. Ông ta đang biệt phái người đến.”

“Chúng tôi có thể làm gì khác cho ông?” Hunt hỏi.

Bác sĩ Moore hất đầu, chỉ về hướng những nhân viên công lực quy tụ ngoài vùng ven hiện trường. “Hãy mang họ đi hết chỗ khác.”

“Họ làm ông vướng chân bận tay?”

“Chẳng giúp ích được gì.”

Hunt gật đầu. Bác sĩ Moore nói đúng. “Tôi sẽ thi hành lời yêu cầu.”

“Cảm ơn.” Bác sĩ Moore giơ một tay lên, sau đó mệt nhọc lê bước trở về khu mộ.

“Muốn tôi làm chuyện đó không?” Yoakum hỏi, nhìn chằm vào Cảnh sát trưởng.

Hunt nhỉnh mép cười ruồi. “Bộ ông nghĩ tôi không dám sổ cựa với ông ta sao?”

“Tôi nghĩ ông ta đang tìm một cái cớ để bãi nhiệm ông và mang lực lượng cớm tiểu bang vào. Điều đó sẽ giữ mọi chuyện êm đẹp, giải toả áp lực đè nặng lên ông ta, nha cảnh sát.” Yoakum quay về hướng cả cánh đồng đầy cờ đánh dấu. “Không ai có thể khiển trách ông ta. Chuyện này lớn, quá lớn để có thể giữ trong nội bộ địa phương. Ông là thám tử chỉ huy của ông ta. Bãi nhiệm ông sẽ cho ông ta một cái cớ rất hợp lý để phủi tay và mang vào Cục Điều Tra Tiểu bang SBI. Chính trị, Clyde. Một ngành doanh nghiệp bỉ ổi. Ông nên để tôi ra nói chuyện với ông ta.”

“Không,” Hunt trỏ tay về hướng bác sĩ khám nghiệm y khoa. “Ở yên tại đây. Hãy chắc chắn ông bác sĩ nhận được bất cứ sự hỗ trợ cần thiết nào.”

"Đó là việc của ông."

Hunt để Yoakum ở lại với những thi thể của các nạn nhân chưa biết danh tánh và bước đến chỗ ông Cảnh sát trưởng. Da dẻ ông ta nhăn nheo và đỏ ửng. Ngay tại cánh rừng, ngay tại hiện trường và ra ngoài những nơi chốn bình thường, ông ta nhìn càng giống một chính trị gia hơn là một ông cò. Khi Hunt bước lại gần, những sĩ quan cảnh sát mặc quân phục bước dạt ra tạo thành một lối đi. Ông Cảnh sát trưởng mở lời trước khi Hunt nói.

“Bên khám nghiệm y khoa nói những gì?”

Hunt nhìn từ ông Cảnh sát trưởng đến ông Trưởng ty cảnh sát quật hạt. Cả hai người đàn ông nhìn o ép khổ sở, và Hunt đoán chừng khuôn mặt của ông cũng mang tâm trạng tương tự. Ký ức về cuộc gặp gỡ sau cùng giữa họ vẫn còn làm cho bầu không khí ngột ngạt khó thở. “Ông bác sĩ muốn tất cả những người này rời khỏi khu vực.”

“Tôi muốn nói về thi thể. Ông ta nói gì về chuyện đó?”

“Con gái. Chín đến mười hai tuổi. Thời gian và nguyên do tử vong chưa được xác định.”

“Có phải là Alyssa Merrimon?”

Hunt nhìn ông Trưởng ty cảnh sát và lắc đầu. “Thi thể này đã nằm dưới lòng đất nhiều năm.”

Ông Cảnh sát trưởng dõi mắt nhìn ngang vùng đầm lầy. Vùng da nhăn nheo dưới mắt bị kéo giật ngược trở lại tạo thành những vũng sâu hoắm. “Ngoài ấy còn sáu tử thi nữa. Có thể chúng ta sẽ gặp may.”

“Tôi không gọi chuyện đó là may mắn,” Hunt nói.

Ông Trưởng ty cảnh sát khẽ nhếch mép. “Ông vẫn nghĩ sẽ tìm được cô bé còn sống.”

Hunt đáp trả bằng cái trừng mắt. “Có thể.”

Ông Trưởng ty cảnh sát nói: “Ông đúng là một Hướng đạo sinh, Hunt. Tôi thề trước Chúa.”

“Tôi đã chán ngấy với những...”

“Đủ rồi,” Cảnh sát trưởng nói. “Cả hai ông.”

Hunt buộc phải tạo một bộ dạng căng thẳng. “Ông sẽ cho phép tôi giải tán những người đó ra khỏi khu vực này chứ?”

Cảnh sát trưởng gật gù. “Giữ những ai ông cần giữ, yều cầu tất cả về đồn.”

“Tôi không cần bất cứ ai từ văn phòng Ty cảnh sát quận hạt.”

Hunt chờ phản ứng từ ông Trưởng ty cảnh sát. Căn nhà của Jarvis nằm bên trong địa phận thành phố, nhưng ngoài này, tít tận trong rừng thẳm, họ thực sự đang đứng trên ranh giới địa phận. Nếu ông ta muốn khoanh vùng trách nhiệm, ông ta có thể. Ông Trưởng ty cảnh sát đi trước. “Perkins.” Ông ta búng tay và một sĩ quan phụ tá lạ lẫm bước đến bên cạnh ông. “Triệt thoái người chúng ta. Yêu cầu họ ra khỏi đây.” Ông ta mỉm cười với Hunt, đẩy chiếc mũ ngược trở lại trên đầu, và nói giọng trầm tĩnh. “Khi mà ông làm hỏng cuộc điều tra này và đã bị tống đi thật xa, tôi vẫn nắm quyền điều hành quận hạt này.”

“Khoan vội đếm gà trong chuồng.”

Thêm nụ cười lạnh lùng. “Một ngày vui vẻ, Thám tử.”

Hunt nhìn gã đi. Ông Cảnh sát trưởng đang chờ khi ông xoay lại, nhưng khuôn mặt ông ta không có dấu hiệu oán hận như Hunt trông đợi. Thay vào đó, ông ta nhìn ủ rũ, bực dọc. Ông ta cởi mũ khỏi đầu và lau tay áo ngang vầng trán. Đầu ông ta chúi về hướng những lá cờ đánh dấu và nói nhẹ nhàng. “Nếu những thi thể nọ đều là trẻ con...”

Ông đứt quãng. “Chúa cứu rỗi chúng ta.”

“Có thể Ngài đã làm vậy. Gã Jarvis đã chết.”

“Ông nghĩ Jarvis chủ mưu chuyện này?” Ông ta chỉ một lần nữa vào những lá cờ đánh dấu. “Tất cả những cái này?”

Hunt nhìn bác sĩ Trenton Moore bắt đầu khai quật địa điểm thứ hai. “Có thể.” Dừng một lúc. “Có thể ai đó giúp hắn ta.”

“Ông vẫn tin có một gã cớm liên quan đến vụ này?”

“Ông có biết chuyện con mèo chết không? Lời khuyến cáo đe dọa Johnny Merrimon không được nói?”

“Tôi biết.”

“Mẹ cậu ta nói là trước khi chuyện ấy xảy ra, bà ta trở về nhà từ bệnh viện và gặp một chiếc xe đậu gần nhà. Vào đêm khuya. Máy vẫn nổ. Gã ta chỉ ngồi đó.”

“Không hề làm gì vi phạm pháp luật.”

“Ngoài đó không có gì. Vài căn nhà, một dãy đường dài trống rỗng. Không có lý do chính đáng gì để ai đó có mặt ngoài đó. Khi bà đến gần chiếc xe, nó phóng vọt đi. Chuyện này xảy ra ngay sau khi Johnny được xác nhận trong vụ án Burton Jarvis. Tên cậu ấy xuất hiện trên mọi tờ nhật báo, trên mọi băng tần truyền hình. Hình ảnh cậu ta, như ông biết. Cũng không khó khăn gì lắm để tìm cậu ta.”

Ông Cảnh sát trưởng xoay lòng bàn tay, dáng bộ mất kiên nhẫn. “Vậy thì sao?”

“Bà ta nói nó giống như xe tuần tra cảnh sát.” Khuôn mặt ông Cảnh sát trưởng chuyển màu, nhưng Hunt làm ngơ. “Ai đó mà Johnny thấy cùng với Jarvis...”

“Nếu cậu ta thấy bất cứ ai.”

Hunt lên cao giọng. “Ai đó mà Johnny thấy ngoài kia đủ đầu óc tỉnh táo gắn biển số giả trên ô tô của hắn ta. Nếu tên cớm giấu giếm chuyện gì, đó là chuyện gã ta sẽ phải làm.”

“Đó là chuyện bất cứ ai cũng làm.”

“Tôi muốn được phép sưu tra hồ sơ nhân viên.”

“Tôi không thể cho phép ông làm việc đó.”

“Tôi muốn ông suy xét lại.”

Ông Cảnh sát trưởng ngần ngại. “Tôi sẽ suy nghĩ về chuyện này.”

“Khi nào tôi sẽ biết?”

“Cho tôi một ngày. Được không? Cho tôi một ngày và một ít bình tâm trong đầu.”

“Tôi cần một vài thứ khác. Nếu đó là những thi thể dưới các cây cờ đánh dấu, và tất cả chúng đều là trẻ con...”

“Nói đi.”

“Không thể nào toàn bộ nạn nhân là người của quận hạt Raven. Không thể kéo dài một quãng thời gian hai thập kỷ.” Ông lắc đầu. “Chúng ta phải biết.”

“Đồng ý.”

“Tôi cần vài người liên lạc với những quận hạt xung quanh, những khu vực đô thị gần đây.”

Ông Cảnh sát trưởng đã gật gù. “Chúng ta cần tìm những đứa trẻ khác bị mất tích.”

Cả hai yên lặng, mỗi người mỗi suy nghĩ riêng tư. Hunt mường tượng hình ảnh các bậc cha mẹ đau khổ bên trong những “bảo tàng” phòng ngủ, xung quanh là những con thú màu hồng, quần áo đẹp, và những tấm ảnh lồng trong khung bị phủ bụi. Ông hy vọng mang đến cho họ sự kết thúc chung cuộc, một chút gì gọi là bình yên. Ông muốn mang những mảnh xương tàn cốt nhục đó trở về nhà với cha mẹ của chúng, nói với họ con quỷ tác giả của những chuyện động trời này đã đền mạng, bị tống cổ ra khỏi thế giới đời sống này không phải bởi thời gian, bệnh tật, hay cảnh sát, mà bởi một nạn nhân của hắn ta, một cô gái yếu đuối với đủ sức mạnh bóp cò cây súng. Hunt tìm thấy chút thi vị trong đó. Có thể họ cũng tìm thấy. Suy nghĩ của ông Cảnh sát trưởng đơn giản hơn. “Giới truyền thông sẽ tiêu hóa những thứ này. Tôi mong ông sẽ đủ sức đương đầu với chuyện này. Không xì tin ra ngoài. Không có nguồn trích dẫn vô danh. Giữ mồm miệng mọi người. Khóa thật kỹ cái đống xà bần này.”

“Để Yoakum và hai cảnh sát ở đây. Tung vài đơn vị tuần tra trên đường làm nản lòng báo giới truyền thông hoặc ai đó tò mò.”

Ông Cảnh sát trưởng cau mày và dùng tay vuốt mồ hôi đổ trên trán. “Nó sẽ như một gánh xiếc.”

“Một lý do để yêu cầu mọi người ra khỏi nơi này.”

Hunt nghe tiếng chân người lại gần và xoay đầu đúng lúc nhìn thấy Cross di chuyển nhanh chóng xuống triền đồi. Ông ta liếc sơ vùng đất cô lập, sau đó đi thẳng đến chỗ Hunt và ông Cảnh sát trưởng. Khuôn mặt ông ửng đỏ, cổ áo đen ướt đẫm mồ hôi. “Hunt,” ông nói. “Cảnh sát trưởng.” Ông ta hăm hở, kích động.

“Ông đang làm gì ở đây vậy?” Hunt hỏi.

“Đi tìm ông.”

“Thì, ông tìm được tôi rồi. Chuyện gì đó?”

“Chúng tôi có tin về vị trí chiếc xe tải của David Wilson,” ông ta nói.

“Ở đâu?”

“Hướng bắc. Vứt bỏ trong một khe vực.”

“Chỉ cho tôi thấy.”

Hunt bỏ ông Cảnh sát trưởng lại một mình trong khoảng không gian hình ống với ánh nắng vàng rọi xuống, đầu cúi xuống, những ngón tay đang chỉnh trang viền ngoài của chiếc mũ. Hunt ngoái đầu nhìn lại hai lần, dáng hình ông Cảnh sát trưởng nhỏ và không thay đổi cho đến khi từng hàng cây san sát tưởng không bao giờ dứt ở hai bên đường hiện ra. Họ trèo ra khỏi cánh rừng và đi quá cái chòi cùng căn nhà trống rỗng. Hunt không buồn nhìn vào cả hai. “Làm thế nào chúng ta tìm được nó?”

“Ai đó gọi điện báo.”

“Ai?”

“Không cho biết danh tánh. Gã tìm thấy nó sáng sớm hôm nay, một giờ trước khi mặt trời mọc, có thể. Giọng gã nghe như say rượu. Khi tôi hỏi, gã công nhận rằng gã đi đêm rọi đèn nai. Gã nói rọi đèn vào và nó hiện lên rất rõ.”

“Ta có người có mặt ở hiện trường chưa?”

“Tôi đến thẳng đây tìm ông. Tôi biết ông muốn nghe nó.”

“Chúng ta có chắc đó là chiếc xe tải của ông ấy?” Hunt hỏi.

“Người gọi điện có biển số xe. Đăng ký trong trường đại học. Phải là nó.”

“Ta có số điện thoại của người gọi không?”

“Điện thoại công cộng ở một cửa hàng tạp hóa.”

“Vậy thì quá tiếc. Có ý kiến gì về chuyện gã sờ mó chiếc xe tải không? Một gã say rượu đi rọi nai lúc năm giờ sáng... Tôi ngờ rằng hắn ta do dự cuỗm cái gì đó”.

“Không biết. Gã ta cho biết vị trí, sau đó cúp máy khi tôi đang nghe.”

Cả hai ra khỏi cánh rừng và bước vào vùng ánh sáng chan hòa của mặt trời buổi sáng. Hunt dừng lại ở ngay mép đường. “Anh có thể gọi điện cho tôi.”

“Tôi hy vọng ông sẽ cho phép tôi đi cùng.”

Hunt quan sát chàng trai trẻ. Khuôn mặt anh ta cương nghị, quyết chí. “Anh bạn đáo hạn thăng cấp. Điều đó đúng không?”

“Một lời nói châm chước từ ông sẽ giúp đỡ rất nhiều.”

Hunt trầm ngâm. “Tôi không được ngủ nhiều lắm,” ông nói. “Anh bạn lái xe đi.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35


Hai anh nhóc di chuyển chậm rãi. Đất mềm nhũn dưới chân, trên cây chan hoà sức sống của chim muông và những tia nắng nhảy nhót. Những dây leo rơi chằng chịt xuống đất, xám xịt, trơn nhẵn và to dày cỡ cổ tay người đàn ông. Cách đó không bao xa, chim gõ kiến tòng tọc lên cây cho bữa điểm tâm buổi sáng.

“Chỗ này làm tớ lạnh da gà,” Jack nói.

“Ráng mở banh mắt mà đi.”

Rừng già tối dần, và tiếng ồn cũng biến mất theo ánh sáng mặt trời.

“Tiếng thét oan hồn kinh hãi.”

“Im giùm cái đi Jack.”

Họ đi khoảng hai mươi phút. Tuyệt không có dấu vết bánh xe mới lún trên mặt đường, nhưng điều đó không có nghĩa gì. Gã Freemantle đi bộ khi Johnny nhìn thấy gã lần cuối. Băng qua những hàng cây, con đường trải rộng ra, bằng phẳng, và cánh rừng cũng bắt đầu thưa thớt. Họ đi qua một vườn cây ăn quả um tùm, những cây táo nở đầy hoa. Các nhánh dây nho bò tràn trên dàn lưới mắt cáo đổ sụp.

“Chúng ta gần đến rồi đó,” Johnny nói.

“Đến gần cái gì?”

“Cái gì đó ngoài kia.”

Con đường dẫn đến một cánh cổng đổ sụp, sau đó quặt qua phải và biến mất xung quanh những bụi gai và cây cỏ mọc như rừng. Súng được rút ra khỏi bao và Johnny cầm nghiêng nó ở một góc độ quái gở. “Cái này có khóa an toàn không?”

“Không. Tớ đã nói với cậu rồi. Chúa ơi, cẩn thận nơi mà cậu chĩa nòng súng vào.”

“Xin lỗi.” Johnny nhắm nòng súng xuống đất. Gió thổi tung những chiếc lá làm lộ ra mặt sau cánh lá bạc màu, xám xịt. Ở quãng cong của con đường, có những cây cột đá granite chỗ cánh cổng đổ sụp. Cánh cổng nằm vật dưới đất, cỏ mọc giữa các khung hổng, những thớ gỗ mềm mại của cánh cổng từ từ mục rữa. Sơn trắng vẫn còn thấy trên các vân gỗ.

Johnny thò đầu qua cột đá granite, sau đó rụt đầu trở lại.

“Chuyện gì vậy?” Jack hỏi.

“Không có gì.” Cậu đứng lại. “Đi thôi.”

Họ đi qua những cột đá granite và cánh rừng cong cong về phía xa. Họ thấy vỏ bọc bên ngoài của những căn nhà, một căn nhà bị thiêu rụi không còn gì. Có những tảng gỗ đen thui và khung sườn của ống khói lò sưởi. Một bậc thang bằng đá granite nằm ở cái chỗ hồi trước là cửa trước căn nhà. Một cái bồn tắm bốn chân nằm chỏng gọng nghiêng một bên, tro than vương vãi và mọc đầy chồi xanh của cây dại, bát đĩa sành sứ vỡ nát, một cái nồi, cần bơm tay bằng thép rỉ sét của cái máy bơm nước. Johnny nhặt lên một cái bản lề của một cánh cửa và thấy dấu hiệu búa đóng vào trong kim loại.

“Một đống rác vương vãi.” Jack nói thay lời cho cả hai đứa.

Nhà kho vẫn đứng vững, cũng như nhà hun khói với cánh cửa mở và những cái móc sắt treo trên sợi dây rỉ sét đỏ. Johnny thấy cái khoá trên cửa căn chòi. Một cái nhà xây ngay cạnh bên. Có độc một cửa ra vào, vài cái cửa sổ nhỏ hẹp, và hai ống khói nhỏ. Như căn nhà chính, một tảng đá làm bậc ra vào ngay cánh cửa. Nó mòn nhẵn ở chính giữa. Nhìn xuyên qua cửa kính, họ thấy một lò sưởi và một lò nấu ăn xây bằng gạch. Một cái bàn đơn giản và nồi niêu bằng gang đúc. “Chỗ này là nhà bếp,” Johnny nói.

“Họ thường thiết kế chúng biệt lập khỏi căn nhà để giảm thiểu rủi ro hoả hoạn.”

“Điều đó thật khôi hài.”

Johnny lùi bước và nhìn vào căn nhà cháy. “Ngoài này không có điện, cho nên nguyên nhân hoả hoạn phải là từ nến đèn cầy.”

“Hay sét đánh?”

“Có thể.”

“Nhìn cái kia kìa.” Jack trỏ tay.

Johnny xoay đầu. Cậu thấy một cây cột cao khoảng hai mét rưỡi, và cái chuông đồng thau chuyển sang màu xanh lục. “Quái lạ thật.”

“Cái gì?”

Johnny sấn bước vào chỗ cỏ dại cao ngất ngưởng đến lưng bụng. “Nó là cái chuông nô lệ. Tớ đã thấy một cái y chang vậy ở Viện Bảo tàng Nhân quyền ở Wilmington. Họ rung những cái chuông ấy để gọi nô lệ trở về từ ngoài đồng áng.”

“Tại sao nô lệ đã được giải phóng lại giữ cái chuông nô lệ?”

Johnny nhìn dưới cái chuông. “Tớ không biết. Một cái gì để nhắc nhở?”

“Tiếng thét oan hồn kinh hãi đó.” Lời nói bật ra như một tiếng thầm thì.

Johnny kiểm tra bên trong nhà kho. Ngoại trừ những nông cụ mà cậu nghĩ sẽ thấy bên trong - tất cả đều phủ đầy bụi và không dùng đến - bên trong hoàn toàn trống rỗng. Cậu lắc chiếc khóa trên cái chòi và nhìn vào bên trong xuyên qua những khe hở trên cửa. “Xà bần.”

“Tụi mình đi được chưa?”

Johnny điều nghiên toàn bộ khu vực. Mọi thứ hiển hiện trong ánh sáng lồ lộ. Những cây xanh làm thành một bức tường xung quanh bãi đất trống. “Chưa.” Cậu trỏ vào chỗ thật xa của bãi đất trống, nơi một vết toác phân cách rừng cây. “Băng qua chỗ đó,” Johnny nói.

Hai anh nhóc di chuyển thật cẩn thận. Rừng cây vươn lên cao, và họ đi dưới nó. Một con đường bộ đạo khoảng bốn mươi lăm mét dẫn sang một bãi trống khác. Ở điểm cuối đường, ánh sáng mặt trời chiếu sáng bức tường đá cao khoảng lưng bụng, và xa hơn nữa có dấu hiệu của cỏ xanh. Đằng sau bức tường đá là một cái cửa gỗ khác. Cửa này được tu sửa tử tế. Nước sơn sáng, trắng và hoàn hảo.

“Tớ chưa bao giờ thôi buồn bã khi nhìn thấy lớp sơn mới,” Jack thì thào. Họ bò gần hơn, nghe chim phóng uế, sau đó xoay hướng, cảm thấy lá cây bị ép xào xạc dưới chân bước.

“Cái đó là gì vậy?”

Âm thanh ướt, tiếng thụp thụp.

Johnny lắc đầu. “Tớ không biết.”

Cả hai hụp xuống thấp, chạy thục mạng vài mét, và ngồi thụp người dưới bức tường. Gạch ấm nóng, âm thanh phát ra gần đây. Nó phát ra từ phía bên kia bức tường. Johnny nhìn xuyên qua khe hở của cánh cổng. Cậu thấy cỏ được tỉa và nhiều hàng bia mộ đá. Thụp đầu trở lại, cậu nói: “Nó là cái nghĩa trang.”

“Cái gì?”

Johnny cầm sát cây súng vào lồng ngực và nghe tiếng tim đập thùm thụp trên sắt thép. Hơi thở ngắt quãng ở cuống họng. “Nó là một cái nghĩa trang kinh dị.”

“Gã ta có trong đó không?”

Mắt mở to gật đầu, giọng thì thào bé nhất. “Có.”

Jack liếm đôi môi trắng bệch như phấn. “Tụi mình phải biến khỏi nơi này.”

“Gã ta chỉ ngồi yên một chỗ.”

“Làm trò gì?”

Johnny thò đầu lên khỏi bức tường đá. Nghĩa trang nhỏ. Có lẽ khoảng bốn mươi bia mộ. Một cây sồi to hãi hùng nằm ở giữa nghĩa trang, những cây quỳnh trồng ở mỗi góc phía đằng sau. Những tấm bia đá nằm theo hàng ngang, một ít màu xám bạc, một vài cái màu đen, tất cả đều bao phủ bởi rong rêu và tảo.

Levi Freemantle ngồi ngay ở trung tâm, hai chân rộng bẹt ngay phía trước gã. Quần áo gã bẩn thỉu và rách rưới. Những vết máu có thể thấy ở hai đầu gối và trong những nếp gấp của lòng bàn tay, một vết máu nằm ở phía áo bên phải và ống quần phải. Đôi giầy được cởi ra, tung vào thảm cỏ sáng, sạch sẽ. Bàn chân và cổ chân gã sưng tấy lên đến mức dường như nó là một và được hàn lại với nhau. Ngón tay của hắn đang bị nhiễm trùng nặng vì bị Johnny cắn. Nó được quấn bằng miếng vải bẩn thỉu màu vàng. Lớp da bị kéo căng quá mức. Gã ta đặt một chiếc xẻng trên đùi. Bên cạnh gã là chiếc quan tài.

“Gã đang làm trò gì vậy?”

Johnny không trả lời câu hỏi ngay lập tức. Ánh sáng quá tuyệt vời giúp cậu có thể thấy từng chi tiết: từng hàng băng keo bạc trơ màu biến thành màu chì; bùn khô đóng mảng trên cỗ quan tài, những vết xước trên gỗ, vết nước thấm. Hai đầu gối Freemantle bị nạo gần đến xương. Hơi ẩm lóng lánh trên khuôn mặt kinh hãi của gã. Một cái gì đó nhô ra từ bên trong. Johnny tuột xuống khỏi bức tường và ép sát lưng vào đá. “Gã ta đang chôn một thi thể.”

“Thế thì bỏ mẹ.”

“Và gào khóc như một đứa con gái lớp năm.”

Jack nhắm nghiền đôi mắt. Johnny đưa cây súng lên cao để trái khế ép mạnh vào trán của cậu. Cậu ngửi mùi dầu lau súng và đôi môi chuyển động mấp máy không phát ra âm thanh: Cây súng là quyền năng. Tôi có cây súng. Cây súng là quyền năng.

Tôi có cây súng.

Cậu bắt đầu đứng dậy, nhưng Jack lôi cậu xuống. “Đừng đi.” Jack bóp chặt hơn, van xin. “Đừng đi.”

“Cậu bị sao vậy Jack?” Johnny kéo cánh tay mình ra khỏi tay Jack. “Bộ cậu nghĩ đây là trò chơi sao? Cậu nghĩ cả năm trời nay là trò chơi sao? Đây là lý do tại sao chúng ta đến đây.”

Sự kinh hãi hiện rõ trên khuôn mặt Jack. Toàn bộ cơ thể hắn run bần bật, nhưng hắn gật đầu và hạ tay xuống. “Được, Johnny.”

“Tớ không có lựa chọn.”

“Tớ đã nói là được mà.”

Trong giây phút, Johnny bị kiềm lòng bởi sự yên lặng và kinh hãi tột cùng trên khuôn mặt thằng bạn cậu, sau đó cậu đứng lên và cầm cây súng y như kiểu tài tử đóng trong phim ciné: hai tay trên báng súng, nòng thẳng và vững như có thể. Levi Freemantle đang đứng, trên tay cầm cái xẻng, nhưng không hề để ý đến Johnny. Đầu cúi xuống mặt đất, gã bắt đầu đào cái huyệt mộ nông mà gã đang làm dở dang. Freemantle giữ cái chân bị thương khỏi mặt đất, do đó chiếc xẻng phải chịu lực của cả thân hình gã. Nước mắt rơi lã chã không ngừng, và Johnny quan sát gã cố sức đào một huyệt mộ cho cái quan tài. Gã đứng bằng cái chân còn lành lặn và dùng bên chân bị thương tống cái xẻng cắm sâu xuống đất, nhưng sự đau đớn vặn vẹo trên khuôn mặt của gã. Gã chuyển sức nặng cơ thể qua phía bên chân kia, nhưng mắt cá chân gã gẫy sụp.

Gã ngã.

Lóp ngóp lết đứng lên trên hai chân.

Cố lần nữa.

Johnny mở cánh cổng nghĩa trang và bước vào bên trong. Cách xa bốn mét rưỡi, ba mét sáu, Freemantle không buồn chú ý. Johnny mạo hiểm nhìn vào cái quan tài. Nó nhỏ bé, loại quan tài cho con nít. Cậu bước lại gần hơn và Freemantle ngẩng lên nhìn. Đôi mắt ướt nhèm của gã nhảy từ khuôn mặt Johnny xuống cái nơi trơ trọi trong lòng đất. Gã lò cò một bước, giơ cao lưỡi xẻng, sau đó sụp trở lại nơi lòng đất. Johnny thấy sự buồn bã và đau đớn, đất cát và máu me, một cái gì giống như một miếng gỗ trổ ra bên hông của gã. “Dừng tay,” Johnny nói. Freemantle làm như được yêu cầu, sau đó giơ một tay lên, lòng bàn tay đưa lên và phẳng lỳ. Gã trỏ vào cái nơi gã đã cố gắng đào vét đất cát, sau cùng nhìn cây súng. Gã nhìn vào nó một lúc lâu, như thể gã không rõ nó là cái gì hay tại sao nó lại nhắm vào ngực của gã. Khi gã lên tiếng, giọng của gã dày nặng. “Có phải cậu đến đây để giúp tôi không?”

“Cái gì?”

“Tôi đã yêu cầu giúp đỡ nhiều lần, nhưng Ngài không nói chuyện với tôi.”

“Ai?”

“Có phải Ngài đang nói chuyện với cậu không?”

“Tôi không hiểu ý ông muốn nói gì.”

Những cái thẹo co giật trên khuôn mặt gã ta. Một mắt kéo cườm đục như sữa ở ngay giữa thủy tinh thể. “Tôi không đào nổi huyệt mộ.”

Johnny liều lĩnh nhìn vào bức tường. Jack lắc cái đầu. Johnny nhìn cái quan tài.

“Ông có nhớ tôi không?”

Một cái gật. “Cậu đang chạy và tôi nhấc cậu lên.”

“Tại sao?”

“Chúa nói.”

“Chúa nói nhấc tôi lên?” Thêm một cái gật. “Tại sao?”

“Ngài không nói.”

“Johnny.”

Jack gọi nhưng Johnny làm ngơ hắn. “Chúa còn nói với ông điều gì khác?”

“Cô bé là con của tôi.” Freemantle trỏ vào chiếc quan tài. Trên khuôn mặt dị dạng của gã, nước mắt dâng lên và rớt xuống. “Tôi không thể đào nổi huyệt mộ.”

Johnny nhìn một lần vào Jack.

Sau đó hạ cây súng xuống.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36


Cross lái khéo léo ven theo viền ngoài thị xã, sau đó chuyển hướng bắc. Hunt quan sát làng xóm trôi lướt qua, theo sau là khu kỹ nghệ nhẹ. Những ý nghĩ trong đầu của ông bây giờ không phải là sự phát hiện ra chiếc xe hoặc về ông David Wilson, mà về bảy chiếc cờ nhỏ đánh dấu, và về Alyssa Merrimon. Ông không thể nào xua đuổi cái ý nghĩ cô bé nằm dưới lớp đất sình ẩm ướt. Đời sống ngắn ngủi của cô đã chấm dứt, gia đình cô tan nát. Những suy nghĩ đó cũng lan truyền xuống địa ngục riêng tư của Hunt: cả năm trời với nhiều đêm không ngủ và khổ tâm, mười hai tháng thất bại, chính gia đình của ông cũng suy sụp. Trong suốt thời gian ấy, và ông không thể nào quên nó đi để vui sống. Công việc là gì? Đời sống riêng tư là gì?

Khi chuông điện thoại reo vang, ông nhìn vào số máy hiển thị và cảm giác như có nhà tiên tri báo trước. “Chào bà Katherine.”

“Có tin tức gì về Johnny không?” Giọng của bà thảm não.

“Không. Không có gì.”

“Lẽ ra giờ này nó phải gọi. Johnny lẽ ra phải gọi.”

“Chúng tôi có đơn vị tuần tra đi tìm kiếm cậu bé. Nó là đứa trẻ thông minh. Chúng ta sẽ tìm được cậu bé.” Ông ngừng, biết rõ có Cross trên xe. “Tôi xin lỗi vì chưa thể ghé ngang để thảo luận chuyện này. Tôi lẽ ra đã, nhưng...”

“Nó lẽ ra đã gọi.”

“Bà Katherine?” Giọng ông quan tâm. Katherine lấy trớn bắt chuyện.

“Đêm qua kinh khủng quá,” bà nói.

“Bà không sao chứ?”

“Tôi đỡ hơn nhiều rồi, nhưng tôi cần thằng con trai tôi trở về nhà.”

“Chúng tôi sẽ tìm được cậu ấy,” Hunt nói.

Bà ngần ngại, và khi bà nói, giọng bà nhẹ nhàng như hương phấn. “Nếu ông hứa với tôi, tôi sẽ tin ông.”

Hunt hiểu sự tuyệt vọng trong ý nghĩa của những chữ ấy. Ông nhắm mắt và mường tượng bà trong căn nhà đó. Bà ta ngồi trên giường ngủ của Johnny, cặp môi mím chặt giữa những chiếc răng ngà. Bà ta đang nín thở, những ngón tay ghì chặt, lông mi dài và lớp da dưới mắt thâm quầng. “Tôi hứa,” Hunt nói.

“Thề đi.”

“Chúng tôi sẽ tìm cậu ấy.”

“Cảm ơn, Thám tử.” Hơi thở bà ấy đi theo đường dây điện thoại. “Cám ơn, Clyde.” Bà cúp máy, và Hunt gấp cái điện thoại. Ông dụi mắt và cảm thấy cát sạn ở dưới mí mắt.

Cross vượt mặt một chiếc xe, rồi tấp vào bên phải. “Mẹ của Johnny?” ông hỏi.

“Đúng.”

Họ tiếp tục lái, bỏ khu phố thương mại ở phía sau, và đi vào địa phận vùng đồng quê rộng mở. Cross giữ tay vững trên vô-lăng tay lái. Ông tằng hắng giọng. “Ông cũng nên biết những tin đồn đang bay ì xèo ngoài kia.” Hunt nhìn chằm chằm. “Ở văn phòng nha cảnh sát,” Cross tiếp tục. “Người ta đang bàn tán.”

“Tin đồn gì?”

“Rằng ông nghĩ một tay cớm nào đó liên can với Burton Jarvis. Liên can với những đứa trẻ bị giết. Có thể với Alyssa Merrimon.”

“Tin đồn có thể là những điều nguy hiểm.”

“Tôi chỉ nói vậy thôi...”

“Tôi hiểu ý anh muốn nói gì.”

Chiếc xe đi thêm một trăm mét nữa. Khi Cross nói, cách nói của ông ta rất cẩn thận. “Ông Cảnh sát trưởng ra lệnh cho nhân viên văn phòng không được phép bất cứ ai đến gần hồ sơ nhân viên. Đặc biệt là anh. Đó là nơi tin đồn bắt đầu. Tôi chỉ nghĩ anh cũng nên biết điều này.”

Hunt nhìn cỏ cây, bầu trời. Ông nghĩ nhiều cách ông muốn trừng phạt tay Cảnh sát trưởng. “Chúng ta có cắt cử ai canh gác chiếc xe của ông David Wilson không?”

“Nó thuộc vùng trách nhiệm của quận hạt, cho nên chúng ta phải lôi ty cảnh sát quận hạt vào. Một cảnh sát thuộc ty đang có mặt ở địa điểm. Ông ta biết rõ hơn chuyện sờ mó vào tang chứng.”

“Tôi hy vọng ông nói đúng.”

“Không quá mức đó.”

Chiếc xe là loại đời mới, Toyota Land Cruiser, màu đen. Đầu nó đâm chúi xuống, trong một khe núi đầy bụi cây, vách đá, ở dưới độ sâu khoảng mười mét. Cái rơ-moóc vẫn gắn chặt đằng sau xe, mặc dầu nó bị vặn vẹo nghiêng một bên và gấp gập lại ở trên nóc xe. “Có ai xuống dưới đó chưa?”

Ông cảnh sát lắc đầu. “Trưởng ty cảnh sát yêu cầu chúng tôi hợp tác, cho nên việc tôi đang làm là hợp tác. Chưa có ai từng xuống dưới đấy.”

Hunt nghiên cứu đường tuột xuống dưới. Nó là những tảng đá rời và đất mỏng. Những cái cây mọc lên từ miệng khe, cỏ dại và bụi dại. “Ông có dây thừng trong thùng xe không Cross?”

“Có.”

“Lấy mang lại đây.”

Hunt buộc đầu dây và thả nó xuống triền dốc. Ông và Cross tụt dốc, đá sét lăn tuột dưới chân họ. Hunt xuống trước. Một dòng suối nước lượn ngoằn ngoèo tít dưới đáy và dưới lườn xe. Nóc xe sụp xuống dưới trọng lượng của chiếc rơ-moóc đè lên. Phía căng trước bị hư hỏng, sơn bong tróc khỏi hai bên má dè. Một mạng nhện những vết nứt kéo dài ngang kính trước. “Đừng đụng vào bất cứ thứ gì.”

Cross nhìn qua cửa sổ. “Chìa khóa vẫn còn trong ổ đề.” Ông ta di chuyển. “Nó vẫn còn lái được.”

Hunt dùng khăn tay mở cánh cửa phía bên hành khách. Hơi nóng bên trong tràn ra ngoài. Mùi xe ẩm mốc. Nệm ghế da phía bên tài xế mòn bóng loáng. Những ghế hàng phía sau đặt nằm rạp xuống, khu vực chứa hành lý chất đầy thiết bị leo núi. Hunt thấy một chiếc áo jacket và đôi ủng dính đầy bùn đất. Một thùng đựng xăng bị mắc nghẽn nằm ngay sau lưng ghế tài xế. Không có dấu hiệu máu me do tai nạn. “Có vẻ như ai đó cố tình cho nó lao xuống vực.”

“Nơi này quá tốt để làm chuyện đó,” Cross nói.

Hunt dùng cái khăn tay ban nãy mở hộc đựng trên táp-lô. Ông xăm xục giấy tờ bằng cây bút máy, sau đó đóng hộc lại. Ông nghiên cứu sàn xe, và sau đó nhìn xuống dưới gầm ghế. “Này,” ông nói.

“Chuyện gì vậy?”

Hunt thò cây bút vào dưới ghế, ông lôi ra ngoài một vỏ đạn bằng thau. Ông đứng thẳng và Cross nhoài lại gần hơn. “Bốn mươi lăm.” Hunt kéo túi tang chứng và nhét vỏ đạn vào trong đó. Ông giơ nó ra ánh sáng. “Hãy gọi thêm người ra ngoài này.”

Hunt và Cross chờ đợi chuyên viên điều tra hiện trường đến. Họ đứng trên lề đường trải sỏi, ngó vào chiếc xe bị va chạm trầy xước. Hai mươi phút sau, hai chiếc xe bán tải điều tra hiện trường có mặt cùng với bốn chuyên viên điều tra. “Tôi muốn khám xét nó ngay tại đây. Vân tay, sợi xơ. Tất cả những gì các ông có thể làm ở đây và ngay bây giờ, tôi muốn các ông làm ngay. Thời gian là vấn đề. Khi xong việc, các ông có thể kéo nó ra khỏi đây và mang nó về nơi giam xe.”

Ông chỉ huy nhóm điều tra nghiên cứu chiếc xe, trườn dốc. “Ông thực sự muốn như vậy?”

“Có sẵn dây thừng. Tùy các anh định liệu.” Hunt nhìn lên trời cao. Những cụm mây đen đùn lên cao từ hướng nam. “Cố gắng lôi nó ra khỏi đây trước khi trời mưa. Tôi không muốn có một ngày nữa như hôm trước.” Hunt trông chừng các chuyên viên bắt tay vào công việc, sau đó gọi Yoakum và báo cáo tình hình.

“Đó là tin rất đáng khích lệ,” Yoakum nói.

“Còn phía bên đó thì sao?”

“Bác sĩ Moore xác nhận một thi thể thứ hai.”

“Và?”

“Một đứa trẻ khác. Không phải Alyssa Merrimon.”

Hunt buộc những ngón tay của ông giãn ra. “Sắp mưa rồi.”

“Tôi biết. Họ nói ba, có thể bốn giờ nữa.”

“Có hãng thông tấn nào không?”

“Chưa.”

Hunt nhìn chiếc xe Toyota bẹp nát, đắn đo nơi nào sự có mặt của ông là hữu dụng nhất. Các chuyên viên điều tra hiện trường đang thu thập chứng cứ trong chiếc xe. Bác sĩ khám nghiệm y khoa đang có những thi thể. “Tôi có cảm giác chúng ta đang thiếu vắng một cái gì đó.”

“Không đùa đâu.”

“Một cái gì đó rất hiển nhiên.”

“Ông muốn làm việc gì?” Yoakum hỏi.

“Ở yên đấy. Tôi đến ngay chỗ ông.” Hunt cúp máy.

Một giọng nói vang vọng lên từ dưới vực. “Thám tử.”

Ông chuyên viên đứng ở đáy của khe suối núi, ngay cạnh bên cánh cửa tài xế mở tung. Hunt nói vọng xuống. “Gì đấy?”

“Có vẻ chiếc xe này đã được lau sạch sẽ.” Ông ta trỏ vào bên trong. “Vô-lăng sạch sẽ, tay cầm cửa xe, cần số xe cũng thế.” Ông vươn vai đứng lên. “Tôi nghĩ chúng đã được lau sạch sẽ.”

“Còn cái vỏ đạn thì sao?”

Ông chuyên viên trỏ một tay về hướng chiếc xe bán tải. “Michaels đang giữ cái vỏ đạn.” Hunt nhìn về hướng đó. Hai cửa sau của xe bán tải mở tung. Thiết bị gắn ở bên trong, một cái bàn nhỏ bắt ốc vào thành xe. Một chuyên viên đặt cái vỏ đạn trong một mảnh giấy trắng, sạch sẽ.

“Ông là Michaels?”

“Cho tôi một giây.” Ông ta tiếp tục làm việc. Khi ông ta ngồi thẳng người lên, ông nói, “Chúng tôi có vân tay.”

Hunt để lại Cross trên phố, và trở về khu nhà Jarvis ngay lúc bác sĩ khám nghiệm bắt đầu cạo đất tìm kiếm thi thể thứ ba. Yoakum đứng bên cạnh, hai tay chống nạnh, đôi môi mấp máy. Tạng người ông ta to lớn, cổ cong, nhưng trong vùng trũng bóng râm che phủ, ẩm ướt, nhìn ông ta như nhỏ đi và suy nhược. “Số ba,” ông nói.

Hunt nhìn hai gói nhựa đựng thi thể trải dài và sẵn sàng để đưa đi. Trông ông mệt mỏi và gần như kiệt sức. “Hãy ra khỏi chỗ này.” Ông quay đi, nhưng Yoakum không theo sau. Ông ta nhìn vào những cái túi xác, những ngôi mộ nghi ngờ có thi thể nhưng chưa được bốc lên.

“Ai đó phải đền mạng cho chuyện này,” Yoakum nói.

Hunt bước trở lại. Trong những năm tháng làm việc chung với Yoakum, ông chưa hề thấy có dấu hiệu rạn nứt vỏ áo giáp bên ngoài của ông ta. Yoakum là người có năng lực một cách đáng sợ. Yoakum kể chuyện khôi hài. Ông ta không hề để lộ cảm xúc. “Có người đã chết,” Hunt nói.

Dưới ánh sáng của rừng, khuôn mặt người đàn ông được soi rọi đủ mọi góc cạnh. “Ông nghĩ gã Jarvis đơn thân độc mã trong chuyện này?”

“Tôi không biết.”

“Chúng mới chỉ là những đứa trẻ.”

“Thôi đi, John. Chúng ta có công việc để làm.”

Yoakum lắc đầu, và Hunt hiểu ông ta đang nghĩ gì trong đầu.

Ai đó phải đền mạng.

Họ ì ạch leo dốc và ra khỏi khu rừng. Trên đường, động cơ của hai chiếc xe bán tải hãng thông tấn chạy cầm hơi rù rì. Nó đậu đâm ngang với một chiếc xe tuần tiễu gắn huy hiệu và một xe bán tải của khám nghiệm y khoa. Yoakum thấy họ trước tiên. “Dân đóng phim,” ông nói.

“Tổ cha.”

Ông Cảnh sát trưởng để lại hai sĩ quan mặc quân phục trên đường lộ. Họ đứng dang hai tay, cố gắng làm ngơ những máy thu hình và micro xỉa vào mặt họ. Khi một phóng viên truyền hình thấy Hunt, họ bắt đầu hướng những câu hỏi về phía ông. “Có đúng là ông đã xác định được thêm thi thể không?”

“Miễn bình luận.”

“Tại sao ông lại có mặt trong vụ khám nghiệm y khoa tại hiện trường?”

Hunt và Yoakum đẩy qua hai cảnh sát mặc quân phục. Hunt lớn giọng.

“Không ai được phép đi qua,” ông nói.

“Thám tử Hunt...” Người đó là phóng viên đài truyền hình băng tần bốn. “Thám tử...”

Hunt không dừng bước. Ông ra đến xe và cô phóng viên chặn bước chân ông, theo sau cô là nhóm quay phim ghi hình. “Có thật là ông đang tìm kiếm Johnny Merrimon?” Hunt quay người và bất thình lình nổi cáu. Cô phóng viên đẩy cái micro về phía trước, khuôn mặt cô ở góc trắc diện với ống kính máy quay, hai mắt sáng rực và háo hức. “Có đúng là cậu ta bị thất lạc?”

Ông nhìn quá cô phóng viên. Thêm một chiếc xe bán tải hãng thông tấn trờ tới từ tít cuối con đường. “Miễn bình luận.” Ông đặt tay lên cánh cửa xe, mở nó.

“Còn chuyện giả định có sự liên đới của cảnh sát với gã Burton Jarvis thì sao?”

“Cô nói sao?” Cô phóng viên nhắc lại câu hỏi, và Hunt cảm thấy mặt ông từ từ mất máu, xanh rờn. “Yêu cầu thêm các đơn vị tuần tiễu ra ngoài này,” ông nói với Yoakum. “Cô” - ông trỏ vào cô phóng viên - “đi với tôi.” Nụ cười của cô ta rạng lên và cô trỏ hướng về nhóm ghi hình. “Chỉ có cô thôi,” Hunt nói. Ông không chờ nghe câu trả lời. Ông bước bộ sáu mét xuống con đường, biết rằng cô phóng viên sẽ theo sau. Khi ông quay lại, cô ta chỉ cách sau ông ba bước chân, tóc tai thanh lịch và hoàn hảo trong cái áo len đỏ, vừa khít. Đằng sau cô, một nhóm tin tức thứ ba mới đến và chuẩn bị quay hình ảnh. “Tại sao cô lại hỏi câu hỏi đó?”

Cô ta không hề chùn bước. “Điều đó có thật không?”

“Tôi không thể bình luận về vụ án đang trong vòng điều tra. Tại sao cô lại hỏi câu hỏi đó?”

“Nguồn tin của tôi được bảo vệ.” Cô ta ngẩng cao cái cằm đầy đặn, đặt hai tay lên hông. Bóng Hunt to lù lù che khuất cô. “Tôi mong cô không nên lan truyền loại tin đồn như vậy.” Ông nhìn chằm chằm vào đôi mắt đói tin của cô. “Nó gây bất lợi.”

“Vậy thì ông phủ nhận chuyện này?”

Hunt nghĩ về tờ giấy ghi chú của Johnny Merrimon, lệnh của ông Cảnh sát trưởng về hồ sơ nhân viên, cái còng cảnh sát dùng để cầm giữ Tiffany Shore, con mèo bị giết với xương sống của nó bị dập nát. Sự đe doạ này không ngoài mục đích ép Johnny giữ yên lặng. “Nguồn thông tin của cô nhầm lẫn rồi.”

“Tôi được phép mở ngoặc kép câu nói của ông không?”

“Cô có thể xăm luôn câu đó trên trán của cô.” Hunt bỏ đi và cô phóng viên theo sau. Một chiếc xe bán tải lăn bánh rồi dừng khi Hunt gặp lại Yoakum. Chiếc xe từ Văn phòng Giám đốc Khám nghiệm Y khoa ở Chapel Hill.

Những tay phóng viên bu quanh, hò hét câu hỏi.

Các nhóm ghi hình tiêu hóa những câu hỏi.

Hunt ném mình đằng sau vô-lăng và Yoakum chui vào ngồi cạnh. Động cơ lớn nổ máy và Hunt chờ cho đến khi các phóng viên dạt đường trước đầu xe rồi ông lao vút đi. Yoakum nhận thấy tâm trạng bất thường của Hunt. “Chuyện gì vậy?”

“Họ biết về Johnny.”

“Bằng cách nào?”

“Họ biết một gã cớm có thể liên quan.”

“Sao lại có chuyện này?”

Hunt giữ mắt quan sát đường phố. “Ai đó mở mồm tiết lộ.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37


Yoakum theo sau Hunt vào văn phòng nha cảnh sát. Nhân viên ngừng làm việc khi cả hai cùng vào chuồng cọp. Sự yên lặng phủ trùm và Hunt sấn tới trước những ánh mắt nhìn, sự căng thẳng gia tăng, và Yoakum theo sát đằng sau. Họ vào văn phòng Hunt và Yoakum đóng cánh cửa. “Chuyện đó thật quái lạ.”

“Khó mà đổ lỗi cho bọn họ. Kênh truyền hình Court TV đỗ xe ở đường Main.”

Yoakum nhìn xuyên qua cửa sổ nhoè nhoẹt, và hàm râu én của ông chuyển màu vàng trắng trong ánh nắng bẩn thỉu. “Chuyện đó không hẳn là như vậy.”

“Không? Chúng ta đi từ bắt cóc đến án mạng hàng loạt trong vòng vài giờ đồng hồ. Chúng ta có tử thi con nít và giới truyền thông quốc gia. Người ta nói chuyện và người ta sợ hãi. Chúng ta đang ngụp lặn ở trong đó, tôi và ông. Tại sao họ lại không trố mắt nhìn?”

“Đó mới chỉ là hai chuyện.”

“Thật vậy sao?” Hunt giận dữ, bực dọc, nhưng Yoakum từ chối lùi bước.

“Nó liên quan đến chuyện ông đang săn lùng một tay cớm - một trong số họ - và nó liên quan đến chuyện ông sẽ thất bại.”

“Thất bại vì lẽ gì?”

“Johnny Merrimon.”

Lần này Hunt nhìn ra ngoài cửa sổ. “Đâu có ai nói bất cứ điều gì... ”

“Họ sẽ nói nếu anh nhóc đó không trồi lên sơm sớm. Giới truyền thông bây giờ đã nhào vào. Họ biết anh nhóc đó bị mất tích. Cuối cùng họ cũng sẽ lần mò ra anh là người can thiệp cách ly Bộ Xã hội ra khỏi chuyện này, và ai cũng biết về chuyện anh và mẹ anh nhóc đó.”

“Làm gì có chuyện đó.”

“Ông có thể tin như vậy, nhưng tôi thì không. Nó chẳng ảnh hưởng gì đến mọi chuyện. Giữ Johnny khỏi vòng tay của Sở Xã hội là quyết định của ông. Sẽ chẳng ai xem xét các lý do của ông nếu chuyện gì đó xảy đến với cậu ta. Họ sẽ treo ông lên thập tự giá.”

“Tôi nghĩ ông nhầm rồi.”

“Bởi vì ông biết cậu nhóc đó. Người khác thì không. Họ biết đời sống của cậu nhóc đang xuống tận cùng địa ngục. Họ biết cậu nhóc mất một đứa em gái song sinh và ông bố. Họ biết mẹ cậu nhóc là một đống xà bần, và họ biết những gì họ đọc trên nhật báo. Ông có thấy tấm ảnh không? Johnny xuất hiện như một kẻ mất trí, như bất cứ một người bình thường nào cũng phải giữ con cái của họ ở trong nhà vì muốn bảo vệ chúng.”

“Để chống chế cho việc gì?”

“Để chống chế giao hắn đến một cái chuồng chồ, một kẻ họ hàng làm bảo vệ nhưng chính hắn cũng không tự lo được đời sống cho bản thân. Tổ cha, Clyde, ông không thấy sao? Không có cái gì làm cho quyết định của ông trở nên bình thường hợp lý nếu chuyện gì đó thật tệ xảy đến cho cậu nhóc đó. Gã Ken Holloway sẽ chắc chắn điều đó. Ông Cảnh sát trưởng, báo chí, tổng trưởng tư pháp cũng tương tự.” Yoakum giơ một ngón tay thô nhám, chai sạn lên. “Ông nên cầu nguyện cho cậu nhóc đó xuất hiện còn nguyên vẹn.”

Hunt quan sát ông bạn mình. Gã nhìn già nua, nhàu nhĩ. “Lo lắng không thích hợp với ông đâu, John.”

“Tôi trông chờ điều thậm tệ nhất, và những chuyện tồi tệ nhất ít khi gây thất vọng. Ông biết điều đó chứ. Đó là lý do tại sao ba mươi năm qua, những thứ tào lao này chưa bao giờ làm phiền được tôi.”

“Và vụ án này?” Hunt linh cảm được sự bất đồng quan điểm của ông bạn, sự giận giữ bị đè nén như cái lò xo.

Một phút yên lặng. “Vụ án này hoàn toàn khác.”

“Vì nạn nhân là các em gái vị thành niên?”

“Bởi vì đem cộng tất cả tuổi đời bọn nhóc cũng chưa bằng tuổi của tôi. Và bởi vì nó xảy ra nhiều năm nay ngay tại sân sau nhà của chính ông. Tôi nói ông nghe, Clyde. Tôi chưa bao giờ có cảm giác như thế này.”

“Thế này là thế nào?”

“Ai đó phải đền mạng cho chuyện này. Vì chuyện này...” Nét đặc trưng của Yoakum bộc lộ ra ngoài và ông đâm một ngón tay xuống mặt bàn, nói lớn giọng. “Ai đó phải đền mạng.”

“Làm ơn nhỏ giọng xuống giùm.”

“Đấy là sự thật.”

“Theo sự hiểu biết của tôi, họ vẫn duy trì mức án tử hình ở bang North Carolina.”

“Còn luật sư biện hộ?” Lời Yoakum phát ra đầy vẻ đáng khinh.

Im lặng bao trùm. Khi Hunt lên tiếng, ông giữ giọng nhẹ nhàng. “Nếu Johnny đúng thì sao? Chuyện gì xảy ra nếu một gã cớm liên can với Burton Jarvis? Nếu gã cớm bao năm tháng nay bảo kê cho hắn ta? Giúp đỡ hắn ta?”

“Không thể nào.”

“Bảy đứa trẻ.”

“Tôi không thể thấy được điều này.”

“Ai đó đã nói chuyện với giới truyền thông, John. Nếu tôi là một gã cớm bỉ ổi và muốn gây chệch hướng điều tra, đó cũng là một phương cách khởi đầu rất độc: Gieo rắc tin đồn và tung hỏa mù, gây náo loạn những người đang săn lùng chính mình.”

Yoakum nghĩ về chuyện đó. “Cứ cho là có một gã thứ hai, ai đó liên can với Jarvis, với những đứa trẻ kia. Johnny có thể nhận diện được gã không?”

“Có thể. Nhưng cậu ta sẽ không chịu nói chuyện với tôi.”

“Còn Tiffany Shore thì sao?”

“Không có lý do gì để nghĩ có kẻ thứ hai liên quan đến vụ bắt cóc cô bé, nhưng có thể có kẻ ấy. Lúc này cô bé đang được gây mê, vẫn trong tình trạng lơ mơ. Có hy vọng. Có thể là ngày mai.”

“Cô bé có được bảo vệ không?”

“Không.”

“Có thể cô bé cần được canh chừng. Nếu kẻ ấy là cớm.”

“Nên là như vậy.”

Hunt nhìn xuống dưới bàn làm việc. Hồ sơ của Alyssa vẫn nằm trong góc, ngay sát bên hồ sơ của Tiffany Shore. Ông lật mở hồ sơ đầu tiên và thấy bức ảnh của Alyssa, đôi mắt đen và tóc đen, khuôn mặt rất giống người anh song sinh. “Chuyện đó có thể không? Một kẻ nào trong hàng ngũ chúng ta?”

“Sự hiểm độc là một khối u của trái tim con người, Clyde. Anh biết tôi tin điều ấy.”

Hunt dở tập hồ sơ thứ hai và nghiên cứu những điểm đặc trưng trên khuôn mặt nhỏ xương của Tiffany Shore. Ông sờ một bức ảnh, rồi bức khác. “Tôi không thể cứ ngồi như vậy.”

“Chuyện gì?”

“Ông không phải liên can vào.”

“Vào cái gì?” Yoakum hỏi, nhưng Hunt làm lơ. Ông rời khỏi văn phòng và rẽ vào hành lang nhỏ hẹp dẫn ra cửa sau của toà nhà. Người ta nhìn ngó, quay mặt chỗ khác, và rồi ông đứng một mình trên hành lang. Đẩy qua cánh cửa thoát khi hoả hoạn, Hunt bước bộ xuống cầu thang, nhảy hai bậc mỗi bước. Dưới tầng hầm có một sàn nhà trải xi-măng và cánh cửa sắt chệch với hành lang chính. Nhà kho. Phòng chứa tang vật. Một căn phòng ở tít đằng sau là nơi cất giữ hồ sơ nhân viên. Cớm. Nhân viên yểm trợ. Bảo mật. Những xấp hồ sơ được cất khoá trong tủ chứa hồ sơ đặt bên trong một cái cửa không khóa. Di chuyển thật nhanh, Hunt dừng lại một lần để lôi bình cứu hỏa ra khỏi cái gá móc trên tường. Phòng chứa hồ sơ có kích thước 3 x 4 mét, sàn xi-măng trắng dưới ánh sáng bóng đèn huỳnh quang. Chiếc tủ hồ sơ ông muốn nằm ngay giữa trung tâm bức tường phía sau. Hunt nhìn cái khóa ngăn kéo trên cùng. Rẻ tiền. Nó sẽ bung ra. Hunt nhấc bổng cái bình cứu hỏa, nhưng dừng lại khi Yoakum bước vào phòng ngay sau lưng ông. “Tôi đã nói ông đừng can dự vào việc này.”

“Không.” Yoakum kéo cánh cửa, đóng lại. “Đó không phải lời anh nói.”

Hunt nhìn trở lại cái ngăn kéo, ngần ngại.

“Đập đi,” Yoakum nói.

Hunt quay đầu lại, một mắt nhìn vào người bạn cộng sự. Một cơn bốc hỏa khiến mặt Yoakum đỏ bừng và ánh sáng đèn huỳnh quang điểm lỗ trên con ngươi của ông.

“Đập đi,” Yoakum nói một lần nữa. “Mặc kệ gã Cảnh sát trưởng. Mặc kệ hệ thống quân giai.” Hunt hạ chiếc bình cứu hỏa xuống, và Yoakum đứng sát ngay phía đằng sau. “Làm đi vì Alyssa.”

“Ông đang xúi giục tôi hay sao vậy?” Hunt hỏi.

“Đập đi vì Johnny. Đập đi vì mẹ anh nhóc.”

Yoakum bước lại gần hơn. “Nhắc nhở với ông rằng nó có một sự khác biệt giữa đập vì công việc và đập vì chuyện cá nhân.”

“Đôi khi công việc lại là chuyện cá nhân.” Hunt nhìn chằm chằm người bạn cộng sự cho đến khi Yoakum lùi một bước. “Đừng có thử xách động tôi.”

Trước khi Yoakum có thể đáp trả, cánh cửa ở hành lang mở ra và một nữ sĩ quan bàn giấy còn trẻ bước vào, và dừng lại khi cô thấy họ. Đôi mắt cô nhìn thấy cái bình cứu hỏa trên tay Hunt và sự căng thẳng giữa hai gã đàn ông. “Tôi sẽ trở lại sau,” cô nói, và sau đó bỏ đi.

Trong sự yên lặng bất thình lình, Yoakum giơ một ngón tay và một ngón cái lên, khoảng cách giữa chúng ít hơn ba phân. “Đôi khi nó gần dã man như thế này.”

“Chuyện gì?”

“Bị đuổi việc vì một chuyện gì đó thật ngu xuẩn.”

Họ nhìn nhau nhiều giây đồng hồ, sau đó Hunt, vẫn còn bực tức, quay về phía hành lang. Ông gài cái bình cứu hỏa trở lại gá giữ, và khi ông quay lại, Yoakum đang chờ.

“Đừng ghét bỏ gì tôi chỉ vì lòng tốt của tôi,” Yoakum nói, và Hunt cảm thấy sức nặng không còn ở trên đôi vai của ông nữa.

“Tại sao Johnny nghĩ người đó là cớm?” Hunt hỏi.

“Bởi vì nó là vậy?”

“Tại sao một đứa trẻ nghĩ ai đó là cớm? Điều gì đã làm cậu con trai mười ba tuổi tin như vậy? Thẻ hành sự? Gã đàn ông đã nói gì? Gã đã làm gì?” Hunt vân vê cái còng trên thắt lưng. “Cái còng? Cây súng?”

“Đồng phục?”

Họ đứng ở một nơi nồng nặc mùi xi măng ẩm thấp, nghĩ về chuyện này. Johnny là một đứa trẻ lạ lùng, nhưng cậu ta có thiên hướng tốt, và cậu là đứa trẻ thông minh. Đó là điều dường như không ai nhận ra được. Nếu Johnny nghĩ một gã cớm có liên can, phải có lý do. Hunt cố gắng hình dung: một đêm khuya tối trời, hai gã đàn ông trong ngôi nhà như cái thùng rác, và Johnny rình rập ở ngoài cửa sổ...

“Ông có đọc báo cáo về những biển số xe bị mất cắp?” Hunt hỏi.

“Cái gì?”

“Bảng số.”

“Tôi đã đọc nó. Rồi thì sao?”

“Johnny thấy kẻ nào đó ở nhà gã Jarvis dùng biển số ăn cắp gắn trên xe của gã. Chúng ta biết được ba số. Trong ba biển số bị mất cắp, một người chủ của nó hoàn toàn không hề hay biết bị mất cắp khi nào hoặc ở đâu. Hai người kia thì rất tự tin.”

Một cái gì đó nhá lên trong đầu Hunt và Yoakum thấy được điều đó.

“Chuyện gì?”

“Hai biển số bị mất cắp từ những chiếc xe đậu ngoài thương xá.”

“Nó là một nơi tuyệt vời để tháo cắp biển số.”

“Thì những nơi như phi trường, nhà thương, hay một chục cái thương xá khác cũng là những nơi tương tự.”

Con mắt của họ nhìn nhau, cả hai đều có chung ý nghĩ cùng một lúc. Còng. Súng. Đồng phục.

Nhân viên an ninh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38


Johnny đào đất. Cậu cảm nhận được chỉ khâu vết thương bị kéo đứt, nhưng cậu làm ngơ sự đau đớn. Cậu làm việc này vì một lý do. Cậu đã tự nói với chính mình. Nhắc lại nó. Levi Freemantle ngồi đó, đôi môi trề ra, một tay phủ trên quan tài gỗ thông, đôi mắt gã chăm chú nhìn Johnny, và mỗi xẻng xúc đất hất văng ra khỏi huyệt mộ. Gã gật đầu khi Johnny xúc đụng tảng đá, rồi nạy nó ra và nâng lên trên mặt đất.

“Cảm ơn.”

Johnny khó mà nghe được, nhưng chuyện đó không thành vấn đề. Cậu đã nghe nó khoảng hai mươi lần, những lời cảm ơn nhỏ bé thốt ra tới tấp khi cậu làm việc. Cậu gật đầu và đào đất. Mặt trời phủ ập sức nóng xuống trong khi mây giông đang chồng chất lên từ hướng nam. Johnny nhìn Jack và đưa hắn chiếc xẻng.

“Cậu có muốn thay phiên không?”

“Không, cảm ơn.”

Trong khoảng mười phút, Jack đứng, giơ nòng súng lên cao. Khi hắn hạ nó xuống, chỉ có Johnny để ý chuyện này. Bây giờ Jack ngồi trên bức tường đá, súng đặt trên đùi. Hắn ngồi đập muỗi và trông chán nản.

Một đằng, Johnny mừng vì Jack từ chối đào huyệt. Johnny không hề biết một điều gì về Levi Freemantle, không biết tại sao gã lại có mặt ở đấy và con gái gã tại sao bị chết, nhưng cậu hiểu nỗi đau khổ mất mát của gã đàn ông và Jack không bao giờ hiểu được điều đó.

Cho nên cậu đào và cảm thấy đau đớn. Cậu nghĩ về những lời David Wilson nói ở cây cầu: Tôi đã tìm thấy cô bé. Đứa con gái bị bắt cóc. Johnny phải bỏ chạy trong hốt hoảng và sợ hãi tột cùng trước khi Wilson có thể nói với cậu ý ông ấy như thế nào. Nhưng Freemantle đến sau đó. Johnny nhìn gã đàn ông to lớn, cái xẻng rơi xuống, sau đó đưa lên cao nặng trịch.

Gã đến sau đó.

Nếu Freemantle tìm thấy David Wilson khi ông ta còn sống, có thể Wilson sẽ nói với gã cái nơi ông tìm được cô bé. Có thể Freemantle biết.

Johnny xúc đất hất lên, và Freemantle cúp rạp đầu né.

Có thể.

Johnny nghe chữ ấy khi cậu đào đất.

Có thể.

Sau hơn một giờ, hai con quạ hạ cánh xuống nhánh thấp của cây sồi được trồng ngay giữa nghĩa trang. Johnny chỉ để ý khi gã Freemantle trở nên bất động, sau đó nằm tựa ngang cái quan tài. Gã nhìn những con quạ, nỗi sợ hãi và căm ghét hiện lên trên khuôn mặt của gã. Một con quạ hạ cánh xuống một cái bia đá, một con chim nhỏ đen tung cánh vào giây phút chót. Nó ngẩng cao đầu đậu trên cái quan tài, sau đó vươn những cái lông thấm dầu ra rỉa. Bất thình lình, gã Freemant đứng lên. Gã rượt con chim, vấp ngã, gào thét. Jack giật mình và giơ súng lên.

Có những lời lẽ trong tiếng gào thét, Johnny chắc như vậy, nhưng không ai tài nào hiểu được những chữ ấy. Con chim tung cánh bay sang một cây khác, và gã Freemantle trở về chỗ gã ngồi. Gã nhìn chằm chằm con chim thật lâu, sau đó nhắm mắt và làm dấu thánh giá.

Johnny nhìn Jack, hắn lắc đầu, mặt trắng bệch, và ghì chặt cây súng như thể buông ra là chết.

Thêm hai con quạ nữa đậu xuống những cành cây, rồi thêm ba con. Johnny trở lại tiếp tục đào xới và thời gian như kéo dài ra khi gió thổi mạnh hơn. Đất cát tơi ra và đào bới dễ dàng, nhưng Johnny đào sâu. Cậu làm ngơ sự đau đớn trên hai bàn tay, lớp da trơn mỡ, bong tróc ứa ra thứ nước trong, mùi ngọt. Cậu làm ngơ cái lưng đau, sự co kéo làm chỉ khâu bung đứt, mồ hôi chảy ra làm mắt cay xè. Cậu có cả ngày để đạt được mục đích đặt ra, do vậy cậu vạch kế hoạch, phương cách tiếp cận khả dĩ nhất, những câu hỏi cậu sẽ hỏi một khi đứa con của gã khổng lồ đã nằm dưới lòng đất.

Johnny liếc nhìn gã Freemantle.

Lưỡi xẻng cắm vào đất.

Cậu xúc đất cát nóng khi mây đen kéo vần vũ trên những cái cây đầy quạ.

Khi Johnny trèo lên khỏi lỗ huyệt, mặt trời tù mù sau đám mây mang cơn giông đến. Những ngọn cây bị gió quật quẫy đập. Mùi của tầng ozone phảng phất trong không khí. “Mưa tới nơi rồi đấy,” Jack nói. Lỗ huyệt không sâu như có thể, nhưng kích thước vừa phải, hình dạng cũng vừa phải.

“Đó là những gì tôi có,” Johnny nói. “Tất cả những gì tôi có thể làm được.”

“Tôi có thừng.” Freemantle chỉ về chiếc quan tài.

“Được rồi.”

Họ di chiếc quan tài cạnh sát bên huyệt mộ. Khi đến đấy, họ luồn sợi dây thừng xuyên qua cái quai kim loại và hạ áo quan xuống huyệt mộ. Trông thật tội nghiệp dưới cái lỗ nham nhở, sống sượng. Sợi thừng kéo lên kêu kẽo kẹt, và gã Freemantle cuộn nó lại, đôi tay to nần khéo léo nhưng chậm chạp. “Tôi muốn chính tôi làm phần cuối cùng.” Gã cúi đầu. “Nhà kho chứa rơm khô ráo nếu con muốn đi nằm.” Freemantle nhìn bầu trời tím, chì chiết, lá cây biến thành màu bạc. “Con bé chẳng bao giờ thích giông tố.” Gã xoay trở lại, kéo cái xẻng lên và một tia chớp vàng loé lên trong bụng những đám mây.

“Sấm chớp,” Johnny nói.

Nhưng gã khổng lồ không buồn vội vã. Gã thả từng nắm đất xuống huyệt mộ. Những lá cây xào xạc trong gió. “Sấm chớp giáng xuống.” Gã thả thêm đất phủ trên quan tài con gái gã. Gió tốc mạnh hơn. Jack đã bước ra ngoài cổng nghĩa trang, nhưng Johnny không hề có ý định theo sau. Freemantle trố mắt nhìn xuống quan tài, không hề chuyển dịch. “Chúa nói chuyện nghe như giọng bố tôi.”

“Thật vậy sao?”

Freemantle gật đầu. “Không giống giọng nói khác.”

“Giọng nói khác?”

“Như sô-cô-la mềm nhũn dưới ánh nắng mặt trời. Ngọt dính răng. Khó mà nuốt được.” Gã nhìn về phía cơn giông. “Tôi nghe tiếng Ngài khi đám quạ đến gần.”

Freemantle nhấc hòn đá lên và ném nó vào đám quạ đậu trên những cành sồi thấp. Gã ném thật gần, sau đó ngưng một đỗi thật lâu, và Johnny không hề thúc ép gã. Gã đàn ông điên cuồng quẫn trí. Johnny nhìn quanh quẩn tìm Jack, nhưng hắn bỏ đi đâu mất. “Tôi sợ hãi khi trời sấm sét,” Freemantle nói. Gã ngửa mặt nhìn thẳng vào cơn giông nhưng không hề có dấu hiệu sợ hãi, trái ngược với những gì gã nói. “Chúa không nói chuyện với tôi nữa.”

Nỗi tiếc thương là có thực. Sự mất mát.

“Đây. Chờ chút.” Johnny giằng cái xẻng từ gã Freemantle và bước đến chỗ cây sồi. Những con quạ kêu cà quác khàn đục, rồi bay đi, và Johnny dùng lưỡi xẻng khoét một vòng tròn trong vỏ cây. “Nó sẽ bảo vệ ông khỏi bị sét đánh. Nhưng chỉ có cây sồi thôi. Những cây khác thì không ý nghĩa gì cả.”

Gã đàn ông to lớn đứng lặng, nghiêm trang và căng thẳng, đôi mắt di chuyển từ chỗ vỏ cây bị đục khoét đến cậu con trai. “Ma thuật đen.”

“Không.”

“Thế ai nói?”

“Người Trung Âu cổ. Họ chết hết cả rồi. Chết từ lâu lắm rồi.”

“Làm sao cậu biết phép thuật của nó nếu tất cả họ đều đã chết?”

“Tôi đọc nó ở đâu đó. Chuyện đó không quan trọng.”

Freemantle lắc đầu, khuôn mặt bị tra tấn của gã đầy nghi ngờ. “Sấm chớp đánh,” gã nói một lần nữa. “Cậu chỉ làm được một điều là cầu nguyện Chúa cho sét đừng đánh trúng cậu.” Gã nhìn vào núi đất còn tươi mới đào. “Con bé lẽ ra phải được nghe những lời cầu nguyện khi đất lấp xuống huyệt mộ.” Gã xoay người, khuôn mặt đầy vẻ hy vọng và niềm tin tưởng không làm sao giải thích được. “Cậu có cuốn Thánh kinh không?”

“Tôi không có.” Bất thình lình, Johnny cảm thấy hổ thẹn. “Nhưng tôi thuộc phần nào.” Johnny không thấy lý do nào để chia sẻ đức tin của cậu cho chuyện này, dĩ nhiên là không với một kẻ xa lạ và sự sợ hãi của gã với quạ đen và sấm chớp cùng giọng nói ngọt như đường. “Tôi sẽ đọc kinh giúp ông.”

Cơn mưa trút rào rào tít trên ngọn cây. Khuôn mặt Freemantle chuyển sang yên tâm khi Johnny bước đến gần hơn và cảm nhận được chiều cao của gã đàn ông ngay bên cạnh cậu. Những vết thẹo dúm dó và xám xịt, con mắt hỏng lấp lánh khi ánh sáng vàng loé chớp lên. Johnny nghĩ ngợi về những đêm dài đọc Thánh kinh, những giờ mẹ cậu cầu nguyện phát sốt lên và sự tìm kiếm về ý niệm của chính cậu. Một quãng thời gian khá lâu, đầu óc cậu trống rỗng, sau đó cậu nói những lời duy nhất cậu có thể nhớ nổi. “Lạy Cha của chúng con đầy quyền năng ở trên trời...”

Mưa lạnh rơi nặng hạt.

“... thần thánh vinh danh.”

Levi Freemantle lau nước mắt khi gã chôn cất cô con gái.

Johnny đứng trong trời mưa và chờ đợi sấm chớp đánh ụp xuống.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom