Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Ấn Tượng Sai Lầm

Ấn Tượng Sai Lầm
Tác giả: Jeffrey Archer
Tình trạng: Đã hoàn thành




Với cách kể chuyện tài hoa, Jeffrey Archer giống như đang chơi trò mèo vờn chuột với độc giả. Siêu phẩm của ông, vì thế đã trở thành một trong những cuốn sách bán chạy hàng đầu New York.

“... Sau khi ra khỏi trung tâm thành phố, anh dừng lại để nhìn bản đồ. Anh quyết định vẫy một chiếc tắc xi, bởi vì anh sợ là sẽ khó kiếm tắc xi ở khu Berceni, khi anh cần phải cơ động. Một chiếc tắc xi cũng sẽ giúp anh cắt đuôi dễ dàng hơn, bởi vì nếu có một chiếc tắc xi nào đó đuổi theo anh, nó phải có màu vàng, và sẽ không thể lẫn vào đâu được một khi ra đến vùng ngoại ô. Anh xem bản đồ một lần nữa, rẽ trái ở góc phố tiếp theo, không ngoảnh nhìn lại, thậm chí cũng chẳng liếc nhìn vào các cửa hiệu hai bên đường. Nếu cô ta là một kẻ chuyên nghiệp, việc anh ngoảnh nhìn lại phía sau sẽ là một sai lầm nghiêm trọng, bởi vì nó báo cho cô ta biết rằng anh đã đề phòng. Anh vẫy một chiếc tắc xi...”
 
Sửa lần cuối:

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1


Victoria Wentworth ngồi một mình bên chiếc bàn nơi Công tước Wellington đã từng ngồi ăn tối với 16 sỹ quan chiến trường của ngài vào cái đêm trước ngày ngài lên đường tới Waterloo.

Tướng Harry Wentworth ngồi bên phải ngài Công tước Thép vào tối hôm đó, và được giao nhiệm vụ chỉ huy cánh trái trong cuộc đọ sức. Khi kẻ thất trận là Napoleon tháo chạy khỏi chiến địa để rơi vào một kiếp sống lưu đầy, nhà vua Anh quốc đã tỏ lòng biết ơn đối với viên tướng bằng cách phong ông làm Bá tước xứ Wentworth, một tước hiệu vốn là niềm tự hào của cả dòng họ này kể từ năm 1915.

Những ý nghĩ đó lướt qua đầu Victoria khi bà đọc lại bản báo cáo của Bác sỹ Petrescu, lần này là lần thứ hai. Khi đọc hết trang cuối cùng, bà thở phào nhẹ nhõm. Một giải pháp cho mọi vấn đề của bà đã được tìm ra, rất rõ ràng vào lúc mười một giờ đêm.

Cánh cửa phòng ăn mở ra và Andrews, quản gia, trước kia vốn là một người hầu, một người đã phục vụ qua ba thế hệ nhà Wentworth, bước vào và thu dọn thìa dĩa.

“Cảm ơn”, Victoria nói, và đợi cho đến khi ông ta đã bước ra tới cửa, bà mới nói tiếp, “và mọi thứ đã được thu xếp để chuyển bức tranh ấy đi rồi chứ?” Bà không muốn nhắc đến tên của tác giả bức tranh.

“Vâng, thưa Phu nhân”, Andrews quay lại nhìn bà chủ của mình rồi trả lời. “Bức tranh ấy sẽ được chuyển đi trước khi Phu nhân xuống dùng bữa sáng”.

“Và mọi thứ đã được chuẩn bị chu đáo để đón tiếp Bác sỹ Petrescu rồi chứ?”

“Vâng, thưa Phu nhân”, Andrews nói. ‘Theo hẹn, Bác sỹ Petrescu sẽ tới vào lúc gần trưa ngày thứ Tư, và tôi đã báo cho đầu bếp biết rằng bà ấy sẽ dùng bữa trưa cùng Phu nhân ở nhà kính”.

“Cảm ơn, Andrews”, Victoria nói.

Viên quản gia cúi chào rồi nhẹ nhàng đóng chiếc cánh cửa sồi nặng nề sau lưng mình lại.

Khi Bác sỹ Petrescu tới Lâu đài Wentworth thì một trong những món đồ gia truyền quí giá nhất đang trên đường tới Mỹ, và dù kiệt tác ấy sẽ không bao giờ còn xuất hiện tại lâu đài này nữa, không ai ngoài những người thân thích có quan hệ huyết thống trực hệ với bà cần được biết về sự thật này.

Victoria gấp chiếc khăn ăn lại rồi đứng dậy và rời khỏi chiếc bàn. Bà cầm bản báo cáo của Bác sỹ Petrescu lên rồi rời khỏi phòng ăn và bước ra đại sảnh. Tiếng gót giày của bà vọng dọc theo hành lang lát đá hoa cương. Bà dừng lại tại chân cầu thang để ngắm bức tranh chân dung toàn thân khổ lớn của Catherine, Phu nhân Wentworth, do Gainsborough vẽ. Người phụ nữ trong tranh trông thật lộng lẫy. Bà ta mặc một chiếc váy dài bằng lụa, đeo một chuỗi hạt kim cương và những bông hoa tai bằng đá quý. Victoria sờ lên rái tai mình và mỉm cười trước ý nghĩ rằng kiểu ăn mặc như thế thời đó hẳn bị coi là quá khêu gợi.

Victoria nhìn thẳng về phía trước khi bà leo lên cầu thang để về phòng ngủ của mình trên tầng hai. Bà cảm thấy không đủ sức để nhìn thẳng vào mắt những vị tổ tiên của mình trong các bức chân dung sống động do các hoạ sỹ nổi tiếng như Romney, Lawrence, Reynolds, Lely và Kneller vẽ, vì bà hiểu rõ việc làm của mình là một hành động hạ nhục họ. Victoria thuyết phục mình rằng trước khi đi ngủ, bà phải viết thư cho em gái để báo cho bà ta biết về quyết định của bà.

Arabella quá thông thái và nhạy cảm. Giá mà người em sinh đôi thân yêu ấy của bà ra đời trước bà vài phút chứ không phải sau vài phút, bà ta chắc chắn đã trở thành người thừa kế của khu đất này, và chắc chắn đã biết giải quyết vấn đề một cách khôn khéo hơn nhiều. Và tệ hơn là, khi Arabella biết chuyện này, bà ta sẽ không trách cứ, cũng không la lối, bà ta chỉ mím chặt môi theo cái kiểu đã được thừa kế từ dòng họ.

Victoria đóng cửa phòng ngủ lại, đi qua căn phòng và đặt bản báo cáo của Bác sỹ Petrescu lên bàn làm việc. Bà tháo búi tóc, và để cho mái tóc xoã xuống vai. Bà dành vài phút để chải tóc, trước khi bà cởi bộ quần áo đang mặc trên người ra rồi khoác lên mình một chiếc váy ngủ bằng lụa mà chị hầu phòng đã đặt ở cuối giường. Cuối cùng, bà xỏ chân vào đôi dép lê đi trong nhà. Không thể lảng tránh việc này thêm nữa, bà ngồi xuống bên bàn và cầm chiếc bút máy lên.

LÂU ĐÀI WENTWORTH

Ngày 10 tháng Chín năm 2001

Arabella yêu quý của chị,

Chị đã trì hoãn việc viết bức thư này quá lâu, bởi chị muốn em sẽ là người cuối cùng phải đón nhận tin tức không lấy gì làm tốt đẹp này.

Khi người cha thân yêu của chúng ta qua đời và chị được thừa hưởng gia sản này, phải một thời gian sau chị mới nắm hết được những khoản nợ nần của cha. Chị e rằng chính sự non nớt của chị đã làm cho các vấn đề trở nên tồi tệ hơn.

Chị nghĩ giải pháp tốt nhất để giải quyết là phải đi vay thêm, nhưng chuyện đó càng làm cho mọi chuyện thêm xấu đi. Rồi đến một lúc chị sợ rằng vì sự ngây thơ của chị mà chúng ta có thể sẽ phải bán khu đất này. Nhưng chị vui mừng báo cho em biết là cho đến giờ thì một giải pháp đã được tìm ra.

Thứ Tư này, chị sẽ gặp.

Victoria nghĩ rằng mình nghe thấy tiếng cánh cửa căn phòng ngủ mở ra. Bà băn khoăn không hiểu sao lại có một người nào đó trong số những kẻ ăn người ở có thể bước vào phòng bà mà không gõ cửa.

Khi Victoria ngoảnh lại để xem đó là ai, người đó đã tiến tới sát bên bà. Victoria ngước nhìn chằm chằm người phụ nữ mà bà chưa hề gặp này. Cô ta còn trẻ, mảnh mai và lùn hơn cả bà. Cô ta nở một nụ cười ngọt ngào khiến cô ta trông có vẻ dễ bị tổn thương. Victoria đáp trả lại cô ta cũng bằng một nụ cười, rồi bà nhận thấy cô ta đang cầm một con dao làm bếp trên tay phải.

“Ai” Victoria vừa lên tiếng thì một bàn tay vươn ra, túm chặt lấy tóc bà, kéo giật đầu bà ra sau ghế. Victoria cảm thấy cái lưỡi dao sắc lẹm như lưỡi dao lam đang chạm vào da cổ bà.

Chỉ trong tích tắc, lưỡi dao đã cắt đứt cổ họng bà như thể bà là một con cừu đang bị giết thịt trong lò mổ. Vài giây trước khi Victoria chết, kẻ sát nhân cứa đứt tai trái bà.

11/9
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2


Anna Petrescu bấm vào cái nút trên đỉnh chiếc đồng hồ để bàn. Mặt đồng hồ sáng lên hiện rõ con số 5:56. Chỉ còn 4 phút nữa là nó sẽ đánh thức cô dậy với tin tức buổi sáng. Nhưng hôm nay thì không. Đầu óc cô đã suy nghĩ mông lung suốt đêm, và cô chỉ ngủ chập chờn được một lát. Đến lúc phải thức dậy, Anna đã đi đến quyết định sẽ làm gì nếu vị chủ tịch công ty không nhất trí với những đề xuất của mình. Cô tắt chuông báo thức, tránh để cho bất kỳ tin tức nào có thể làm mình mất tập trung suy nghĩ, rồi cô nhảy ra khỏi giường và đi thẳng vào nhà tắm. Anna đứng dưới vòi nước lâu hơn thường lệ, hy vọng nước lạnh sẽ làm cô hoàn toàn tỉnh táo trở lại. Người yêu sau cùng của cô - chỉ có Chúa mới nhớ là cô đã chia tay anh ta khi nào - cho rằng việc cô thường tắm trước khi chạy tập thể dục là một chuyện thật tức cười.

Sau khi lau khô người, Anna mặc một chiếc áo phông màu trắng và một chiếc quần soóc thể thao màu xanh. Mặc dù ông mặt trời vẫn chưa mọc, chẳng cần phải kéo rèm phòng tắm lên, cô cũng biết rằng hôm nay sẽ lại là một ngày đẹp trời, nắng ấm. Cô kéo khoá chiếc áo thể thao, chiếc áo ấy vẫn còn một chữ P hiện lên mờ mờ ở những chữ thêu màu xanh đậm đã bị tháo ra. Anna không muốn cho nhiều người biết chuyện cô đã từng là một thành viên trong đội thi đấu điền kinh của trường đại học Pennsylvania. Suy cho cùng thì cũng đã chín năm rồi. Cuối cùng Anna xỏ chân vào đôi giày thể thao hiệu Nike và cúi xuống buộc chặt dây giày. Chẳng có gì làm cô khó chịu bằng việc phải dừng lại giữa đường chạy buổi sáng để buộc lại dây giày. Thứ duy nhất mà cô mang theo trong buổi chạy sáng hôm đó là chiếc chìa khoá cửa trước, được buộc vào một sợi dây bạc mỏng mà cô đeo trên cổ. Anna khoá cửa trước của căn hộ bốn phòng của cô bằng hai lần khoá, bước qua hành lang và nhấn nốt thang máy. Trong khi chờ đợi cái buồng thang máy cằn nhằn đi lên tầng mười, cô bắt đầu một loạt các động tác khởi động bằng cách co duỗi chân tay; những động tác đó kết thúc khi chiếc thang máy xuống đến tầng trệt.

Anna bước ra ngoài sảnh và mỉm cười với người gác cổng mà cô rất quý. Ông già vội mở chiếc cửa trước để cô không phải dừng lại đẩy cánh cửa ra.

“Chào Sam”, cô vừa nói vừa đi nhanh ra khỏi toà nhà Thorton xuống phố East 54 và thẳng tiến tới công viên Central Park.

Vào tất cả các ngày trong tuần, cô đều chạy quanh đường chạy Southern Loop một vòng. Vào các ngày nghỉ cuối tuần, cô chạy lâu hơn một chút trên một đường chạy dài 6 dặm, khi chuyện muộn vài phút không gây ảnh hưởng gì. Hôm nay thì có.

***

Bryce Fenston hôm đó cũng thức dậy vào lúc 6 giờ sáng, bởi vì ông ta cũng có một cuộc hẹn. Fenston vừa tắm vừa lắng nghe bản tin buổi sáng: một kẻ đánh bom liều chết đã cho nổ tung một quả bom trên mình tại khu Bờ Tây - một chuyện đã trở nên quen thuộc như bản tin thời tiết, hoặc như bản tin tài chính - không khiến ông ta phải tăng âm lượng.

“Một ngày đẹp trời, nắng ấm, gió đông nam nhẹ, nhiệt độ cao nhất 77, thấp nhất 65”, giọng cô gái đọc bản tin thời tiết cất lên khi Fenston bước ra khỏi phòng tắm. Tiếp theo là một giọng nghiêm trang cho ông ta biết chỉ số Nikkei ở Tokyo đã tăng mười bốn điểm, và chỉ số Hang Seng của Hồng Kông giảm một điểm. Chỉ số FTSE của London vẫn chưa xác định xu hướng. Ông ta nghĩ rằng cổ phiếu của công ty tài chính Fenston Finance không thể có biến động mạnh, bởi vì chỉ có hai người khác biết được về việc làm táo bạo này của ông ta. Fenston hẹn ăn sáng với một trong hai người đó vào lúc 7 giờ, và ông ta sẽ sa thải người kia vào lúc 8 giờ.

Đến 6:40, Fenston đã tắm và mặc quần áo xong. Ông ta liếc nhìn mình trong gương; giá mà ông ta cao thêm được hai insơ và gầy đi một chút. Chẳng có gì mà một thợ may giỏi và một đôi giày có đế trong do Cuba sản xuất lại không thể chỉnh sửa được. Ông ta cũng muốn tóc mình mọc lại, nhưng không phải vào lúc có quá nhiều người đồng hương lưu vong của ông ta ở đây, những người có thể vẫn còn nhận ra ông ta nếu ông ta để tóc.

Dù cha ông ta từng là một người lái xe điện ở Bucharest, bất cứ ai mới nhìn qua người đàn ông ăn mặc chỉnh tề vừa bước ra khỏi toà nhà bằng đá nâu trên phố East 79 và ngồi vào chiếc xe hơi sang trọng có tài xế riêng của mình đều sẽ nghĩ rằng ông ta sinh ra trong một gia đình thuộc tầng lớp thượng lưu, giàu có và quyền quý. Chỉ những ai nhìn thật kỹ mới phát hiện thấy ông ta đeo một viên kim cương trên tai trái - một kiểu làm dáng màu mè mà ông ta cho rằng sẽ khiến mình nổi bật so với những đồng nghiệp bảo thủ của mình. Không ai trong số nhân viên của ông ta dám nói điều ngược lại. Fenston ngồi vào ghế sau chiếc limousine. “Văn phòng”, ông ta ra lệnh cộc lốc trước khi ấn một chiếc nút trên chỗ để tay. Một tấm kính màu khói được nâng lên, ngăn cách ông ta với tài xế. Fenston cầm tờ Thời báo New York trên chiếc ghế bên cạnh lên xem. Ông ta giở nhanh qua các trang để xem có tít báo nào bắt mắt không. Thị trưởng Guiliani có vẻ đã thất bại trong âm mưu của mình. Bằng việc cài cắm vợ mình vào Gracie Mansion, ông ta đã đặt bà ta vào một vị trí quá thuận lợi để lên tiếng với bất kỳ những ai muốn lắng nghe. Lần này là với tờ Thời báo New York. Fenston đang mải mê với các trang tài chính khi tài xế cho xe chạy vào đường FDR Drive, và ông ta vừa giở đến trang cáo phó khi chiếc limousine dừng lại bên ngoài toà Tháp đôi New York. Sẽ không có ai đưa tin cáo phó về cái chết duy nhất mà ông ta quan tâm, nhưng, công bằng mà nói, chưa một ai ở nước Mỹ này biết về cái chết đó.

“Tôi có một cuộc hẹn tại Phố Wall vào lúc 8:30”, Fenston nói với người tài xế của mình khi anh ta mở cửa sau cho ông ta. “Vì vậy đón tôi vào lúc 8:30”. Người tài xế gật đầu, trong khi Fenston đã sải những bước dài về phía đại sảnh. Cho dù có tới 99 chiếc thang máy trong toà nhà này, chỉ có một chiếc duy nhất chạy thẳng lên nhà hàng trên tầng 107.

Khi Fenston bước ra khỏi thang máy một phút sau đó - ông ta đã từng nhẩm tính rằng khoảng thời gian ông ta phải đi thang máy trong cả đời mình cộng dồn lại sẽ là một tuần - chủ nhà hàng nhận ra vị khách quen thuộc liền cúi đầu chào và đưa ông ta tới một chiếc bàn trong góc nhìn ra Tượng thần Tự do. Có một lần, khi vừa bước ra khỏi thang máy và nhìn thấy chiếc bàn quen thuộc của mình đã có người ngồi, ông ta liền bước lùi trở lại trong thang máy. Từ đó, chiếc bàn ở góc ấy luôn chẳng có ai được ngồi, đề phòng ông ta bất ngờ xuất hiện.

Fenston chẳng hề ngạc nhiên khi thấy Karl Leapman đang đợi mình. Leapman chưa bao giờ chậm một phút trong suốt mười năm ông ta làm việc cho công ty Fenston Finance. Fenston băn khoăn không hiểu Leapman đã ngồi ở đó bao lâu, chỉ để đảm bảo rằng vị chủ tịch công ty không thể đến sớm hơn mình. Fenston nhìn xuống con người đã luôn cố chứng tỏ rằng vì ông chủ của mình, ông ta sẵn sàng nằm xuống mọi cống rãnh nếu cần. Nhưng Fenston là người duy nhất đem lại công ăn việc làm cho Leapman sau khi ông ta ra tù. Những luật sư bị khai trừ khỏi luật sư đoàn với một án tù chung thân vì tội lừa đảo thì rất khó có cơ hội được tin dùng. Fenston bắt đầu nói, thậm chí trước khi ngồi xuống. “Bây giờ chúng ta đang tham dự đám rước của Van Gogh”, ông ta nói nhanh, “sáng nay chúng ta chỉ còn phải thảo luận một chuyện duy nhất. Làm thế nào để có thể thoát khỏi Anna Petrescu mà không khiến cô ta ngờ vực?”

Leapman mở một tập hồ sơ trước mặt mình và mỉm cười.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3


Những chuyện xảy ra sáng hôm ấy đều không có trong kế hoạch. Andrews đã nói với đầu bếp rằng ông ta sẽ xuống lấy chiếc khay đựng đồ ăn sáng của Wentworth để bê lên cho bà chủ ngay sau khi bức tranh được chuyển đi. Đầu bếp bị đau đầu, vì vậy người giúp việc của bà ta, một cô gái không đáng được tin cậy cho lắm, được giao nhiệm vụ chuẩn bị bữa sáng cho bà chủ. Chiếc xe thùng chống cướp đến muộn 40 phút, và viên tài xế non choẹt không chịu cho xe chạy nếu không được mời cà phê và bánh quy. Đầu bếp sẽ không bao giờ chịu đựng được những chuyện vớ vẩn như vậy, nhưng người giúp việc của bà ta đã nhượng bộ. Nửa giờ sau, Andrews thấy hai người bọn họ đang ngồi tán gẫu với nhau bên bàn ăn trong bếp.

Điều duy nhất khiến Andrews cảm thấy nhẹ nhõm là bà chủ chưa thức dậy trước khi viên tài xế cho xe chạy. Ông ta kiểm tra khay thức ăn, gấp lại chiếc khăn ăn và ra khỏi bếp để đưa bữa sáng lên tầng hai cho bà chủ. Andrews đỡ khay thức ăn trên một lòng bàn tay và gõ nhẹ lên cánh cửa trước khi mở nó ra bằng tay còn lại. Khi trông thấy bà chủ của mình nằm giữa một vũng máu đã đông lại trên sàn, ông ta há hốc miệng, rồi hét lên, đánh rơi chiếc khay và chạy đến bên cái xác.

Cho dù rõ ràng Phu nhân Victoria đã chết từ nhiều giờ trước đó, Andrews không muốn gọi điện báo cho cảnh sát trước khi người thừa kế tiếp theo của lâu đài Wentworth được thông báo về thảm kịch này. Ông ta nhanh chóng rời khỏi căn phòng, khoá cửa lại và lần đầu tiên chạy xuống cầu thang thay vì đi thong thả như mọi khi.

***

Arabella Wentworth đang phục vụ một vị khách khi Andrews gọi điện tới.

Bà đặt ống nghe xuống rồi xin lỗi vị khách, với lý do bà có việc gấp phải đi. Bà chuyển nốt báo hiệu Mở sang Đóng và khoá cửa tiệm đồ cổ nhỏ của mình lại, chỉ vài giây sau khi nghe thấy Andrews lắp bắp mấy từ khẩn cấp trong điện thoại, không theo cái cách nói năng quen thuộc của ông ta với bà trong suốt bao năm qua.

Mười lăm phút sau, Arabella đã đỗ chiếc xe mini của mình trên đám sỏi trước đại sảnh của lâu đài Wentworth. Andrews đang đứng trên bậc thềm cao nhất chờ bà.

“Tôi rất lấy làm tiếc, thưa bà chủ”, là tất cả những gì ông ta nói, trước khi dẫn chủ nhân mới của mình vào nhà và đi lên chiếc cầu thang bằng đá cẩm thạch. Khi thấy Andrews nắm chặt lan can để cố đứng cho vững, Arabella biết rằng chị mình đã chết. Arabella thường băn khoăn tự hỏi không hiểu mình sẽ phản ứng như thế nào trong những trường hợp khủng hoảng. Bà cảm thấy dường như có phần yên tâm khi phát hiện ra rằng dù bà như muốn khuỵu xuống khi nhìn thấy xác chị mình, bà đã không bị ngất đi. Tuy nhiên, chuyện đó vẫn rất khủng khiếp và gây chấn động mạnh đối với bà. Bà đưa tay nắm lấy cột giường để khỏi bị ngã trước khi quay mặt đi.

Máu phun khắp nơi, từng vệt đông lại trên thảm, trên tường, bàn làm việc và thậm chí cả trần nhà. Bằng một nỗ lực phi thường, Arabella buông chiếc cọc giường ra và loạng choạng bước về phía chiếc máy điện thoại trên chiếc bàn ở đầu giường. Bà đổ sụp xuống giường, cầm ống nghe lên và quay số 999. Khi nghe câu trả lời “Khẩn cấp, dịch vụ nào?” bà trả lời, “Cảnh sát.”

Arabella đặt ống nghe xuống. Bà quyết tâm đi ra cửa mà không ngoảnh lại nhìn xác chị mình. Bà đã thất bại. Chỉ một cái liếc nhìn, và lần này ánh mắt bà bắt gặp bức thư trên bàn. Bức thư ấy bắt đầu bằng “Arabella yêu quý của chị”. Bà chộp lấy tờ giấy, và vì không muốn chia sẻ những suy nghĩ cuối cùng trong đời của chị gái với cảnh sát, bà nhét bức thư vào túi và loạng choạng bước ra khỏi phòng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4


Anna chạy chậm dọc theo phố East 54, qua Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại, vượt Đại lộ 6 trước khi rẽ phải vào Đại lộ 7. Cô hoàn toàn không để ý đến những cái mốc quen thuộc như tác phẩm điêu khắc mang tên Tình yêu ngự trị ở góc phố East 55, hay tòa nhà Carnegie khi cô vượt qua phố East 57. Phần lớn sự tập trung và sức lực của cô là để tránh va vào những người đi làm theo vé tháng khi họ đâm sầm vào cô hay cắt ngang đường cô bằng những bước chân vội vã. Đối với Anna, việc chạy chầm chậm tới công viên Central Park chỉ là bước khởi động để cho người ấm lên, và cô không khởi động chiếc đồng hồ bấm giờ trên cổ tay trái cho đến khi cô qua Artisar’s Gate và chạy vào trong công viên.

Khi đã ổn định tốc độ như mọi ngày, cô tập trung suy nghĩ vào cuộc hẹn với vị chủ tịch công ty vào lúc 8 giờ sáng hôm đó.

Anna đã từng cảm thấy ngạc nhiên và nhẹ nhõm khi Bryce Fenston mời cô về làm việc tại công ty Fenston Finance chỉ vài ngày sau khi cô bị sa thải khỏi vị trí Phó phòng Ấn tượng của nhà đấu giá Sotheby.

Người chủ trước của cô đã gần như nói thẳng với Anna rằng cô không còn đường tiến ở hãng nữa khi cô đã nhận về mình cái tội đánh mất một khách hàng quan trọng và để việc bán đấu giá một bộ sưu tập lớn lọt sang tay đối thủ cạnh tranh của họ là nhà đấu giá Christie. Anna đã bỏ ra hàng tháng để thuyết phục, tán tỉnh, phỉnh phờ người khách hàng đặc biệt này để ông ta nhờ nhà đấu giá Sotheby đưa ra bán hộ mình bộ sưu tập của gia đình, và khi chia sẻ chuyện này với người tình, cô đã ngây thơ tin rằng anh ta sẽ giữ bí mật cho mình. Suy cho cùng, anh ta là một luật sư.

Khi tên vị khách hàng kia xuất hiện trên tờ Thời báo New York, Anna mất cả công việc lẫn người tình. Cũng chẳng có ích gì khi vài ngày sau, lại chính tờ báo này đưa tin rằng Tiến sỹ Anna Petrescu đã rời hãng Sotheby vì bị “chơi bẩn”, và nói thêm rằng chắc chắn cô sẽ có một công việc tốt ở hãng Christie nếu cô muốn. Bryce Fenston là người luôn có mặt tại tất cả các cuộc đấu giá lớn của phòng Ấn tượng, và chắc chắn là ông ta thấy rõ Anna luôn đứng trên chiếc bục cạnh người điều khiển đấu giá, ghi chép và làm công việc phát hiện người ra giá. Cô luôn bực mình khi nghe thấy ai đó bàn tán rằng sở dĩ cô được nhà đấu giá Sotheby thường xuyên đặt vào những vị trí nổi bật là vì cô xinh đẹp và có dáng thể thao chứ không phải vì cô được việc hơn người khác.

Anna nhìn đồng hồ khi khi cô chạy qua Playmates Arch: 2 phút 18 giây. Cô thường đặt ra mục tiêu kết thúc vòng chạy trong vòng 12 phút. Cô biết như thế là không nhanh, nhưng mỗi khi có ai đó vượt mình, cô vẫn cảm thấy bực, và thậm chí phát điên nếu đó là một phụ nữ. Anna về thứ 97 trong cuộc đua maratông ở New York hồi năm ngoái, vì vậy trên đường chạy ở công viên Central Park, ít có sinh vật hai chân nào có thể vượt được cô.

Những suy nghĩ của cô lúc này lại quay trở về với Bryce Fenston. Từ lâu trong giới nghệ thuật và ăn theo nghệ thuật - những nhà đầu giá, những phòng tranh và các nhà buôn - người ta đã biết rõ rằng Fenston đang sưu tầm tranh của các hoạ sỹ theo trường phái Ấn tượng, ông ta, cùng với Steve Wynn, Leonard Lauder, Anne Dias và Takashi Nakamura thường là những người tranh mua sau cùng mỗi khi có một bức tranh nào đó của trường phái này được đem ra đấu giá. Với những nhà sưu tầm như vậy, thứ ban đầu chỉ là một sở thích vô hại sẽ nhanh chóng trở thành một chứng nghiện, ngày càng nặng giống như nghiện ma tuý. Với Fenston, người sở hữu những mẫu tranh của mọi hoạ sỹ thuộc trường phái Ấn tượng và hậu Ấn tượng trừ Van Gogh, thậm chí ý nghĩ về việc sẽ được sở hữu một tác phẩm của hoạ sỹ bậc thầy người Hà Lan này cũng giống như được tiêm một liều hêrôin, và một khi đã mua được tác phẩm mà mình đang khao khát, ông ta lại khao khát một tác phẩm mới, giống như một con nghiện dật dờ đi tìm kẻ cung cấp ma tuý để cắt cơn. Anna Petrescu là người có thể cắt cơn cho ông ta.

Khi Fenston đọc được trên tờ Thời báo New York rằng Anna bị sa thải khỏi nhà đấu giá Sotheby, ngay lập tức ông ta đề nghị cô về làm việc cho mình với một mức lương thể hiện mức độ nghiêm túc của ông ta trong công việc xây dựng bộ sưu tập của mình. Anna đi đến quyết định nhận lời mời của ông ta khi cô biết thêm rằng Fenston vốn là người gốc Rumania giống cô, và cũng giống như cô, đã chạy trốn khỏi chế độ Ceausescu và xin tị nạn tại Mỹ.

Chỉ vài ngày sau khi Anna về làm việc tại ngân hàng của ông ta, Fenston đã tìm cách thử thách kiến thức nhà nghề của cô. Phần lớn những câu hỏi mà ông ta đặt ra tại cuộc gặp đầu tiên của hai người trong bữa ăn trưa đều liên quan tới những bộ sưu tập lớn đang còn trong tay những gia đình thuộc thế hệ thứ hai hay thứ ba. Sau sáu năm làm việc tại Sotheby, hầu như không có bức tranh nào của các hoạ sỹ Ấn tượng được đem ra bán mà không qua tay Anna, hoặc ít nhất cũng phải qua mắt cô và nằm trong kho dữ liệu của cô.

Một trong những bài học đầu tiên mà Anna tiếp thu được sau khi vào làm cho Sotheby là tiền cũ thường là người bán và tiền mới thường là người mua, đó là lý do tại sao cô tiếp xúc với Phu nhân Victoria, con gái của Bá tước xứ Wentworth, đệ thất-tiền cũ, rất cũ-thay mặt cho Bryce Fenston-tiền mới, rất mới.

Anna cảm thấy ngạc nhiên trước việc Fenston luôn bị ám ảnh bởi những bộ sưu tập của người khác, cho đến khi cô phát hiện ra rằng chính sách của công ty là chấp nhận tài sản thế chấp bằng các tác phẩm nghệ thuật khi cho vay những khoản tiền lớn. Ít có ngân hàng nào chấp nhận “nghệ thuật”, dù là dưới hình thức nào, làm tài sản thế chấp. Bất động sản, cổ phiếu, trái phiếu, thậm chí nữ trang đều được, nhưng hiếm khi là nghệ thuật. Các chủ ngân hàng không hiểu gì về thị trường tranh và rất ngại nhận những tác phẩm nghệ thuật, vì việc cất giữ, bảo vệ và thường là phải đem bán những bức tranh ấy vừa tốn kém thời gian vừa không mang tính thực tế. Fenston Finance là một ngoại lệ hiếm hoi. Chẳng cần phải mất nhiều thời gian để Anna phát hiện ra rằng Fenston thực tế không có tình yêu đích thực dành cho nghệ thuật, và cũng không hiểu gì về nghệ thuật, ông ta là hình mẫu để Oscar Wilde đưa ra câu cách ngôn: Người biết giá cả của mọi thứ là người chẳng biết giá trị của bất cứ thứ gì. Nhưng phải mất nhiều thời gian Anna mới khám phá ra mục tiêu đích thực của ông ta.

***

Một trong những nhiệm vụ đầu tiên của cô là bắt tàu thủy sang Anh quốc để thẩm định giá trị gia sản của Phu nhân Victoria Wentworth, một khách hàng tiềm năng, người vừa xin vay một khoản tiền lớn từ công ty tài chính Fenston Finance. Bộ sưu tập tranh ở Lâu đài Wentworth hoá ra có rất nhiều tranh của các hoạ sỹ người Anh, bắt đầu được sưu tập từ đời Bá tước Wentworth đệ nhị. Ông ta là một nhà quý tộc lập dị rất giàu có, có khiếu nghệ thuật đủ để các thế hệ sau trong dòng họ này gọi ông ta là một hoạ sỹ nghiệp dư thiên tài. Trong đời mình, ông ta đã sưu tầm tranh của nhiều hoạ sỹ nổi tiếng như Romney, West, Constable, Stubb và Morland, cùng một tác phẩm kiệt xuất của Turner, bức Hoàng hôn ở Plymouth.

Bá tước đệ tam chẳng quan tâm gì tới nghệ thuật, và để cho bụi phủ kín bộ sưu tập cho đến khi con trai của ông ta, Bá tước đệ tứ, thừa kế gia tài và cùng gia tài ấy là con mắt nghệ thuật của ông mình.

Jamie Wentworth bỏ ra gần một năm để thực hiện một cái gọi là Chuyến đi Vĩ đại. Ông ta tới Paris, Amsterdam, Rome, Florence, Venice và St Petersburg trước khi quay trở lại Lâu đài Wentworth cùng với những bức tranh của Raphael, Tintoretto, Titian, Rubens, Holbein và Van Dyck, đấy là chưa kể đến một cô vợ người Ý. Tuy nhiên, Bá tước đệ ngũ, Charles Wentworth, mới là một tay chơi đích thực, cả theo nghĩa đen và nghĩa bóng. Ông ta không chỉ sưu tầm tranh mà còn sưu tầm cả gái. Trong một lần vui chơi ở Paris-chủ yếu là ở trường đua tại Longchamp, nhưng cũng có những lúc ở trên một chiếc giường tại khách sạn Crillon-cô bồ non của ông bá tước thuyết phục ông ta mua một bức tranh của một hoạ sỹ không tên tuổi tại chỗ ông bác sỹ của mình. Charles quay trở về Anh sau khi đã vứt bỏ cô nhân tình nhưng không quên bức tranh đó.

Ông ta gần như lãng quên nó trong phòng ngủ dành cho khách, dù ngày nay những phần lớn những người yêu thích tranh đều đánh giá bức Chân dung người cụt tai là một trong những kiệt tác của Van Gogh.

Anna đã nói với Fenston là phải hết sức thận trọng khi mua một tác phẩm nào đó của Van Gogh, bởi vì chuyện gian lận trong nghề này còn nhiều hơn chuyện gian lận trong giới chủ nhà băng-một lối nói nhiều ẩn ý mà Fenston chẳng thèm quan tâm. Cô nói với ông ta rằng có rất nhiều tranh giả được treo ở các phòng trưng bày tư nhân hoặc trong các bộ sưu tập cá nhân, thậm chí ở cả một vài bảo tàng lớn, kể cả bảo tàng quốc gia Oslo. Tuy nhiên, sau khi Anna xem xét kỹ những tài liệu liên quan đến bức Chân dung của Van Gogh, trong đó có một bức thư của Tiến sỹ Gachet có nhắc đến Charles Wentworth, một tấm biên lai cho khoản tiền 800 phờrăng từ vụ mua bán ngày xưa, một giấy chứng thực của Louis van Tilborgh, người phụ trách phòng tranh ở Bảo tàng Van Gogh tại Amsterdam, cô cảm thấy đủ tự tin để nói với vị chủ tịch rằng bức tranh ấy đích thực là do bàn tay của vị hoạ sỹ thiên tài vẽ nên.

Với những người nghiện tranh Van Gogh, bức Chân dung người cụt tai là đỉnh cao mơ ước của họ. Dù bậc thầy hội hoạ này vẽ tới 35 bức chân dung trong suốt cuộc đời mình, chỉ có hai bức là được vẽ sau khi ông cắt tai trái của mình. Điều khiến các nhà sưu tập đều khao khát có được tác phẩm này là ở chỗ tác phẩm còn lại đang nằm ở Viện Courtauld ở London. Anna ngày càng lo lắng về mức độ nghiêm túc của Fenston trong việc giành bằng được bức tranh này.

Anna đã có 10 ngày vui vẻ ở Lâu đài Wentworth. Trong thời gian đó, cô lập danh mục và thẩm định giá trị của từng bức tranh trong bộ sưu tập. Khi quay trở lại New York, cô đã nói với ban giám đốc-chủ yếu gồm toàn bạn chí thân của Fenston hoặc các chính trị gia có quan hệ thân tình với ông ta-rằng bộ sưu tập đó thừa đủ để thế chấp cho một khoản vay trị giá 30 triệu đôla.

Cho dù Anna không quan tâm tới lý do tại sao Victoria Wentworth lại cần vay một khoản tiền lớn như vậy, cô thường nghe Victoria nói về nỗi đau buồn của mình trước cái chết yểu của người cha, sự từ chức của viên quản lý và nhiều chuyện khác. “Giá mà Arabella sinh trước mấy phút có phải là tốt hơn không...” là câu nói mà Anna nghe thấy nhiều nhất trong mười ngày cô sống ở Lâu đài Victoria Wentworth.

Trở về New York, Anna vẫn có thể nói rõ đến từng chi tiết của mỗi bức tranh trong bộ sưu tập mà không cần phải nhìn vào bất cứ tài liệu nào. Một khả năng thiên bẩm giúp cô luôn nổi bật so với chúng bạn tại đại học Penn và các đồng nghiệp tại nhà đấu giá Sotheby là trí nhớ kiểu đồ hoạ của cô. Một khi đã nhìn thấy một bức tranh nào đó, cô sẽ không bao giờ quên những hình ảnh được thể hiện trong tranh cũng như vị trí và lai lịch của nó. Vào các ngày chủ nhật thư nhàn, cô lại đem tài năng của mình ra thử bằng việc tới thăm một phòng tranh mới hay đảo qua các bảo tàng.

Khi trở về căn hộ của mình, cô sẽ viết lại tên của tất cả những bức tranh mà cô đã ngắm, trước khi kiểm tra lại trong các cuốn catalog. Kể từ khi tốt nghiệp đại học, Anna đã bổ sung bảo tàng Louvre, bảo tàng Prado, bảo tàng Uffizi, Phòng tranh Quốc gia ở Washington, bộ sưu tập Phillips và bảo tàng Getty vào ngân hàng trí nhớ của mình. Ba mươi bảy bộ sưu tập cá nhân và vô vàn các cuốn catalog cũng được lưu trữ trong đầu cô, và đó chính là thứ tài sản mà vì nó Fenston sẵn sàng trả cô một khoản tiền lương trên cả hậu hĩnh.

Trách nhiệm của Anna không vượt quá việc kiểm định giá trị các bộ sưu tập cá nhân của các khách hàng tiềm năng và viết báo cáo gửi lên ban giám đốc. Cô không bao giờ liên quan đến việc soạn thảo bất cứ một hợp đồng nào. Tất cả chuyện đó được giao vào tay một người duy nhất là Karl Leapman. Tuy nhiên, Victoria đã tiết lộ với cô rằng ngân hàng Fenston Finance bắt bà ta phải trả một khoản lãi kép là 16 phần trăm một năm. Anna nhanh chóng nhận ra rằng nợ nần, sự cả tin, sự ngây thơ và sự non nớt trong lĩnh vực tài chính của người khác là môi trường sống của Fenston Finance. Đây là một ngân hàng chỉ mong cho khách hàng của mình không trả được nợ. Anna chạy những bước dài hơn khi qua khu đu quay. Cô liếc nhìn đồng hồ - quá 12 giây. Cô chau mày, nhưng ít nhất thì cũng không có ai vượt cô. Những suy nghĩ của cô lại quay trở về với bộ sưu tập của gia đình Wentworth, và kiến nghị mà cô sẽ đưa ra với vị chủ tịch vào sáng hôm đó. Anna đã quyết định là sẽ từ chức nếu vị chủ tịch cảm thấy không thể chấp nhận lời khuyên của cô, bất chấp việc cô nhận thấy mình không hề muốn quay trở lại làm việc cho Sotheby hay đầu quân cho Christie sau khi đã từng làm việc cho Fenston Finance.

Trong suốt gần một năm làm việc cho công ty của Fenston, cô đã học được cách sống chung với thói tự phụ của ông ta, thậm chí đã quen với những cơn giận dữ bất thường của con người đó, nhưng cô không thể tha thứ cho việc lừa dối khách hàng, đặc biệt là những khách hàng ngây thơ như Phu nhân Wentworth. Rời bỏ Fenston Finance sau một thời gian làm việc ngắn như vậy không tốt cho lý lịch của cô, nhưng một cuộc điều tra gian lận hẳn sẽ tồi tệ hơn nhiều.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5


“Khi nào thì chúng ta sẽ biết rằng bà ta đã chết?” Leapman nhấp một ngụm cà phê rồi hỏi.

“Tôi đang chờ sự khẳng định chắc chắn vào sáng nay”, Fenston nói.

“Bởi vì tôi phải liên hệ với luật sư của bà ta để nhắc ông ta rằng” - ông ta dừng lại - “khi có một cái chết đáng ngờ nào đó-” ông ta dừng lại lần thứ hai “mọi chuyện sẽ thuộc thẩm quyền của Luật sư đoàn New York”.

“Lạ là không có ai trong bọn họ thắc mắc về điều khoản đó trong hợp đồng”, Fenston vừa nói vừa cho một miếng bánh xốp vào miệng.

“Tại sao họ lại phải thắc mắc?” Leapman nói. “Suy cho cùng, họ làm sao biết được rằng mình sắp chết”.

“Và liệu cảnh sát có lý do gì để nghi ngờ chúng ta có liên quan đến chuyện này hay không?”

“Không”, Leapman trả lời. “Ngài chưa bao giờ gặp Victoria Wentworth, ngài không ký hợp đồng gốc, và ngài cũng chưa từng thấy bức tranh”.

“Chẳng có ai ngoài gia đình Wentworth và Petrescu”, Fenston nhắc. “Nhưng điều tôi vẫn muốn biết là còn bao nhiêu thời gian trước khi tôi có thể”.

“Khó nói lắm, nhưng có lẽ phải nhiều năm trước khi cảnh sát thừa nhận là họ thậm chí còn không biết phải nghi cho ai, đặc biệt là trong những vụ liên quan tới các nhân vật nổi tiếng”.

“Vài năm là đủ”, Fenston nói. “Đến lúc đó, khoản tiền lãi đủ để tôi giữ lại bức tranh của Van Gogh và bán hết các bức còn lại mà không hao mất một đồng vốn nào”.

“May mà tôi đã đọc được báo cáo của Petrescu”, Leapman nói, “bởi vì nếu bà ta nghe theo lời khuyên của cô ta, chúng ta sẽ chẳng thể làm gì”.

“Đúng thế”, Fenston nói, “nhưng bây giờ phải tìm cách rũ bỏ cô ta”.

Một nụ cười nửa miệng xuất hiện trên khuôn mặt của Leapman. “Dễ thôi”, ông ta nói, “chúng ta sẽ tấn công vào điểm yếu của cô ta”.

“Đó là gì vậy?” Fenston hỏi.

“Sự trung thực”.

Arabella ngồi một mình trong phòng khách, hoàn toàn không biết đến những gì đang diễn ra xung quanh mình. Chén trà Earl Grey trên chiếc bàn bên cạnh bà đã nguội lạnh, nhưng bà không để ý đến điều đó. Tiếng kêu duy nhất trong phòng là tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo tường. Đối với Arabella, thời gian dường như đã dừng lại.

Một chiếc xe cứu thương và vài chiếc xe cảnh sát đang đỗ trên đám sỏi trước đại sảnh. Mọi người đều vội vã với công việc của mình, những con người mặc đồng phục, áo khoác trắng, complê đen và thậm chí có người còn đeo cả mặt nạ, đến rồi đi mà không buồn để ý tới bà.

Có tiếng gõ cửa nhẹ. Arabella ngẩng lên và nhìn thấy một người bạn cũ đang đứng giữa cửa. Viên chánh thanh tra cảnh sát bỏ chiếc mũ đồng phục ra rồi bước vào phòng. Arabella đứng dậy khỏi ghế sô pha, đôi mắt đỏ ngầu, khuôn mặt tái nhợt. Người đàn ông cao lớn cúi xuống và hôn nhẹ lên cả hai má bà, rồi đợi cho Arabella ngồi xuống trước khi ông ta cũng ngồi xuống một chiếc ghế bọc da đối diện với bà. Stephen Renton đưa ra những lời an ủi. Đó là những lời an ủi thực lòng, ông ta đã quen biết với Victoria trong nhiều năm. Arabella cảm ơn ông ta, rồi ngồi thẳng người lên và hỏi khẽ, “Kẻ nào có thể làm một chuyện khủng khiếp như vậy, đặc biệt lại là đối với một người hiền lành như Victoria?”

“Dường như không có một câu trả lời đơn giản hay hợp lý cho câu hỏi đó”, viên sỹ quan cảnh sát nói. “Và việc truy tìm thủ phạm càng khó khăn hơn khi phải nhiều giờ sau xác chết mới được phát hiện. Kẻ sát nhân đã có đủ thời gian để trốn thoát”, ông ta dừng lại. “Bà có thể trả lời một vài câu hỏi được không?”

Arabella gật đầu. “Tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để giúp ông tìm ra kẻ sát nhân”. Bà ta nói lên cụm từ kẻ sát nhân bằng một giọng thể hiện sự căm hờn.

“Thông thường, câu hỏi đầu tiên của tôi trong các cuộc điều tra án mạng là bà có biết chị gái của mình có kẻ thù hay không, nhưng tôi phải thú thật rằng vì tôi biết quá rõ bà ấy nên tôi cho rằng chuyện bà ấy có kẻ thù là điều không thể xảy ra. Nhưng tôi muốn hỏi là bà có biết rõ những vấn đề mà Victoria đang phải đối mặt không, bởi vì” - ông ta ngập ngừng - “đã có nhiều lời đồn đại rằng từ khi cụ nhà mất, bà ấy đã phải gánh chịu nhiều khoản nợ”.

“Tôi không biết có phải như vậy không”, Arabella nói. “Sau khi lấy Angus, tôi chuyển đến sống ở Scotland và chúng tôi chỉ về thăm Lâu đài mỗi năm vài tuần vào mùa hè, vào dịp Lễ giáng sinh thì hai năm một lần. Mãi đến khi ông nhà tôi mất, tôi mới chuyển đến sống ở Surrey”- viên chánh thanh tra cảnh sát gật đầu, nhưng không ngắt lời - “và cũng nghe được những lời đồn đại đó. Người ta thậm chí còn đồn rằng nhiều đồ đạc trong cửa hàng đồ cổ của tôi vốn là đồ gia bảo, để Victoria có tiền trả cho nhân viên”.

“Và có chút sự thật nào trong những lời đồn ấy hay không?” Stephen hỏi.

“Không, chẳng có chút sự thật nào”, Arabella trả lời. “Khi Augus chết và tôi bán trang trại của mình ở Perthshire, tôi có thừa tiền để quay trở về Wentworth, mở một cửa hiệu nhỏ như mọi người thấy và biến một sở thích lâu nay của tôi thành một thứ giúp tôi kiếm tiền. Nhưng đúng là thi thoảng tôi cũng hỏi chị Victoria xem những lời đồn về tình hình tài chính của Cha có đúng hay không. Chị ấy nói chẳng có gì đáng phải lo và luôn khẳng định mọi chuyện đều trong vòng kiểm soát. Nhưng cũng không biết được, chị ấy rất ngưỡng mộ Cha, và trong con mắt của chị ấy, Cha không thể mắc sai lầm”.

“Liệu bà có thể nghĩ đến bất cứ điều gì có thể giúp tìm ra đầu mối...”

Arabella đứng dậy khỏi ghế sô pha, rồi không giải thích gì mà đi thẳng tới chiếc bàn làm việc ở góc phòng phía xa. Bà cầm bức thư dính đầy những vết máu được tìm thấy trên bàn làm việc của Victoria lên, quay trở lại chỗ ngồi của mình và đưa nó cho Stephen Renton.

Viên chánh thanh tra cảnh sát đọc bức thư đang viết dở giữa chừng đó hai lần trước khi hỏi, “Bà có hiểu Victoria định nói gì trong câu “một giải pháp đã được tìm ra” hay không?”

“Không”, Arabella thừa nhận, “nhưng có thể tôi sẽ trả lời được câu hỏi này nếu tôi nói chuyện với Arnold Simpson”.

“Tôi không dám tin là như vậy”, Stephen nói.

Arabella không trả lời. Bà ta biết bản năng của một chánh thanh tra cảnh sát nhắc nhở ông ta phải nghi ngờ tất cả các luật sư, những người không thể che dấu được việc họ luôn cho rằng mình ăn đứt bất kỳ một sỹ quan cảnh sát nào.

Viên chánh thanh tra cảnh sát đứng dậy, bước vòng qua bàn lại gần Arabella và ngồi xuống cạnh bà ta. Stephen cầm tay Arabella rồi nhẹ nhàng nói, “Gọi cho tôi bất cứ khi nào bà cần. Đừng giữ bí mật với tôi, bởi vì tôi cần biết mọi thứ và tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để tìm ra thủ phạm đã sát hại chị gái của bà”.

“Chết tiệt”, Anna chửi thầm khi một người đàn ông có mái tóc màu đen và dáng thể thao chạy vượt qua cô, giống như anh ta đã làm như vậy vài lần trong mấy tuần vừa qua. Anh ta không ngoảnh lại nhìn - những người chạy nghiêm túc không bao giờ nhìn lại kẻ chạy sau mình. Anna biết mình sẽ chẳng thể nào đuổi kịp anh ta, bởi vì nếu cố thì chỉ trong vòng 100 yard nữa, cô sẽ bị “rụng chân”. Đã có lần cô thoáng nhìn thấy khuôn mặt của tay cao thủ này, nhưng rồi anh ta lướt qua và tất cả những gì cô có thể thấy rõ là lưng chiếc áo phông màu xanh của anh ta trong khi anh ta tiếp tục chạy về phía strawberry Fields. Anna cố gạt bỏ hình ảnh anh ta ra khỏi đầu và lại tập trung suy nghĩ về cuộc gặp sắp tới với Fenston.

Anna đã gửi bản sao báo cáo của mình tới văn phòng của chủ tịch công ty, trong đó cô đề nghị ngân hàng nên bán bức chân dung càng nhanh càng tốt. Cô biết một nhà sưu tầm ở Tokyo rất say mê tranh của Van Gogh và có rất nhiều tiền để theo đuổi thú sưu tầm của mình. Và với bức tranh đó, cô còn phát hiện ra một điểm nữa có thể lợi dụng mà cô đã trình bày rõ trong báo cáo của mình. Van Gogh luôn ngưỡng mộ nền hội hoạ của Nhật Bản, và ở mặt sau tấm chân dung, ông đã vẽ lại bức tranh Nàng Geishas ngắm cảnh, điều mà Anna cho rằng sẽ khiến cho bức tranh càng trở nên hấp dẫn đối với Takashi Nakamura.

Nakamura là chủ tịch công ty thép lớn nhất ở Nhật Bản, nhưng gần đây ông ta đã dành rất nhiều thời gian để xây dựng bộ sưu tập nghệ thuật của mình. Ông ta đã phao lên rằng bộ sưu tập ấy sẽ là một phần của một quỹ mà cuối cùng ông ta sẽ hiến cho Nhà nước. Anna cũng cho rằng việc Nakamura là một con người đặc biệt kín đáo cũng là một lợi thế. Ông ta luôn giữ kín những chi tiết về bộ sưu tập của mình với kiểu cẩn thận điển hình của người Nhật Bản. Một vụ mua bán như vậy sẽ giúp Victoria Wentworth giữ thể diện - một điều mà người Nhật Bản luôn hiểu rõ. Anna đã từng có lần mua được một tác phẩm của Degas có tên là Lớp khiêu vũ của quý bà Minette. Trong vụ mua bán đó, người bán muốn được giữ bí mật và những nhà đấu giá lớn thường có sẵn dịch vụ như vậy dành riêng cho những người muốn tránh những cặp mắt tò mò của cánh nhà báo luôn đeo bám tại các phòng bán tranh. Cô hoàn toàn tin rằng Nakamura sẵn sàng bỏ ra ít nhất là 60 triệu đôla để có được bức tranh quý của hoạ sỹ bậc thầy người Hà Lan này. Vì vậy nếu Fenston chấp nhận đề nghị của cô - tại sao lại không? - mọi người đều sẽ hài lòng với kết quả mà điều đó đem lại. Khi Anna chạy qua quán Tavern ở khu Green, cô lại liếc nhìn đồng hồ.

Cô sẽ phải tăng tốc nếu cô vẫn hy vọng quay trở lại Artisan’s Gate trong vòng 12 phút. Khi cô tăng tốc chạy xuống chân đồi, cô nghĩ đến chuyện nhẽ ra cô không nên để cho tình cảm cá nhân của một khách hàng làm ảnh hưởng đến nhận định của mình. Nhưng thành thật mà nói, Victoria cần phải được giúp đỡ. Khi Anna chạy qua Artisan’s Gate, cô bấm vào nút dừng trên chiếc đồng hồ của mình: 12 phút 4 giây. “Chết tiệt!”. Anna chạy chầm chậm theo hướng về nhà mà không biết rằng mình đang bị người đàn ông mặc áo phông xanh bám theo sát gót.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6


Jack Delaney vẫn chưa biết chắc Anna Petrescu có phải là một kẻ tội phạm hay không.

Đặc vụ Jack Delaney của FBI nhìn theo Anna khi cô biến vào đám đông trên đường quay trở lại Thornton House, rồi anh chạy chầm chậm qua Sheep Meadow về phía hồ. Anh nghĩ về người phụ nữ mà anh đang điều tra trong sáu tuần qua. Cô ta không biết rằng một cuộc điều tra nữa cũng đang nhằm vào sếp của cô, một kẻ mà Jack tin chắc rằng đích thực là một tên tội phạm.

Đã gần một năm trôi qua kể từ khi viên sỹ quan phụ trách của Jack gọi anh tới văn phòng của ông ta và giao cho anh một đội điều tra gồm 8 nhân viên với một nhiệm vụ mới. Jack phải điều tra ba vụ án mạng khủng khiếp tại ba châu lục và cả ba vụ này đều có cùng một điểm chung: nạn nhân bị giết chết sau khi vay một khoản tiền lớn từ ngân hàng Fenston Finance. Jack nhanh chóng đi đến kết luận rằng các vụ giết người này đều được lên kế hoạch từ trước và được thực hiện bởi cùng một kẻ sát thủ chuyên nghiệp.

Jack chạy ngang qua Shakespeare Garden trên đường quay trở lại căn hộ nhỏ của anh tại West Side. Anh vừa hoàn chỉnh hồ sơ về một người mà Fenston mới tuyển dụng gần đây, dù anh chưa biết chắc cô ta là tòng phạm hay chỉ là một người ngây thơ vô tội.

Jack bắt đầu bằng lý lịch gia đình của Anna Petrescu và phát hiện ra rằng bác của cô ta, George Petrescu, đã rời bỏ Romania và di cư tới Mỹ vào năm 1968, và định cư tại Danville, bang Illinois. Chỉ vài tuần sau khi Ceausescu tự phong mình làm tổng thống, George đã viết thư cho em trai và khuyên em mình sang Mỹ. Khi Ceausescu tuyên bố biến Romania thành một nước xã hội chủ nghĩa và phong vợ mình làm Phó Tổng thống, George lại viết thư cho em và giục giã ông này mang cả cô con gái Anna di cư sang Mỹ.

Cho dù cha mẹ của Anna không chịu rời bỏ quê hương, họ đã thu xếp để đưa cô con gái 17 tuổi của mình vượt biên trái phép sang Mỹ vào năm 1987. Tại đây, cô sống với bác và được hứa hẹn là sẽ trở về Romania ngay sau khi Ceausescu bị lật đổ.

Anna đã không chịu trở về nước nữa. Cô thường xuyên viết thư về nhà, nài nỉ cha mẹ sang Mỹ với mình, nhưng chẳng mấy khi cô nhận được hồi âm. Hai năm sau, cô được biết là cha mình đã bị bắn chết trong một cuộc giao tranh ở biên giới, khi ông ta tham gia vào một cuộc binh biến nhằm lật đổ kẻ độc tài. Mẹ cô ta nhắc đi nhắc lại rằng bà ta sẽ không bao giờ rời bỏ quê hương, với lý do là, “Ai sẽ chăm sóc phần mộ của cha con?”

Tất cả những thông tin này đã được đội điều tra của Jack phát hiện thấy trong một bài luận của Anna được đăng trên tạp chí của trường trung học nơi cô ta theo học ngày trước. Một bạn học của cô ta cũng đã viết về cô bạn gái dịu dàng có mái tóc vàng và đôi mắt xanh, một cô gái đến từ một xứ sở nào đó gọi là Bucharest và gần như chẳng nói được một từ tiếng Anh nào. Đến cuối năm thứ hai ở trường, Anna đã trở thành một biên tập viên của tạp chí nội bộ của nhà trường. Và tờ tạp chí ấy đã cung cấp cho đội điều tra của Jack những thông tin quý giá đó.

Sau khi tốt nghiệp trung học, Anna đã giành được một suất học bổng để tới trường đại học Williams ở bang Massachusetts nghiên cứu về lịch sử nghệ thuật. Tiếp đến, cô ta tới trường đại học Pennsynvania để tiếp tục nghiên cứu và làm luận án tiến sỹ. Đề tài mà cô ta lựa chọn là Phong trào Fauve. Jack đã tra từ điển Webster để tìm hiểu về ý nghĩa của cụm từ này. Cuốn từ điển cho anh biết cụm từ ấy có liên quan tới một nhóm hoạ sỹ do Matisse, Derain và Vlaminck đứng đầu. Các hoạ sỹ thuộc phong trào này muốn xoá bỏ những ảnh hưởng của trường phái Ấn tượng và hướng tới việc sử dụng những màu sắc tươi sáng và đối lập nhau. Qua việc tìm hiểu này, anh cũng được biết thêm khi còn trẻ, Picasso đã rời Tây Ban Nha để gia nhập nhóm này tại Paris ra sao. Những bức tranh của hoạ sỹ trẻ Picasso đã khiến công chúng bị sốc và được tờ Paris Match mô tả là “Sự tỉnh táo đã trở lại”. Điều đó càng khiến Jack muốn tìm đọc thêm về Vuillard, Luce và Camoin - những hoạ sỹ mà anh chưa từng nghe nói đến. Nhưng phải chờ đến lúc rảnh rỗi đã, trừ phi điều đó có thể giúp anh lần ra bằng chứng để tóm cổ Fenston.

Sau khi bảo vệ thành công luận án tiến sỹ tại đại học Penn, tiến sỹ Petrescu vào làm cho nhà đấu giá Sotheby. Bắt đầu từ đây, những thông tin mà Jack thu thập được chỉ còn mang tính phác hoạ bởi vì anh chỉ có thể cho phép các đội viên trong nhóm điều tra tiếp xúc một cách hạn chế với các đồng nghiệp cũ của cô ta. Tuy nhiên anh cũng đã được biết về trí nhớ đồ hoạ của Anna, sự làm việc nghiêm túc của cô ta, cũng như việc cô ta được tất cả mọi người yêu mến, từ người khuân vác tới chủ tịch công ty. Nhưng không ai biết rõ tại sao cô ta lại bị sa thải, cho dù anh đã phát hiện ra rằng ban giám đốc mới của Sotheby cũng không sẵn lòng đón cô ta trở lại làm việc. Và Jack cũng không hiểu tại sao cô ta lại quyết định đầu quân cho công ty Fenston Finance, về mảng này trong cuộc điều tra của mình, anh phải dựa vào tài suy đoán, bởi vì anh không dám mạo hiểm tiếp cận bất kỳ ai đang làm việc cùng cô ta tại ngân hàng này, mặc dù rõ ràng Tina Forster, thư ký của chủ tịch công ty, đã trở thành người bạn thân nhất của cô ta.

Trong một khoảng thời gian ngắn làm việc tại công ty Fenston Finance, Anna đã tới thăm nhiều khách hàng mới, những người vừa vay những khoản tiền lớn từ ngân hàng này. Tất cả những khách hàng đó đều sở hữu những bộ sưu tập nghệ thuật lớn.

Jack e ngại rằng việc một trong những khách hàng đó phải chịu chung số phận với ba nạn nhân trước đó của Fenston chỉ còn là vấn đề thời gian.

Jack chạy vào phố West 86. vẫn còn ba câu hỏi cần được trả lời. Thứ nhất, Fenston đã biết Petrescu bao lâu trước khi cô ta về làm việc cho ngân hàng này? Thứ hai, gia đình hai người này có biết nhau tại Romania không? Thứ ba là cô ta có phải là kẻ ám sát đã được Fenston thuê hay không?

***

Fenston ngoáy chữ ký của mình trên tờ hoá đơn thanh toán tiền ăn sáng, đứng lên và không chờ cho Leapman uống hết ly cà phê, bước nhanh ra khỏi tiệm ăn. Ông ta bước vào một thang máy đang mở sẵn, nhưng chờ để Leapman ấn nốt để xuống tầng 83. Một nhóm người Nhật Bản mặc complê đen và đeo caravát lụa bước vào cùng với họ. Những người này cũng vừa ăn sáng tại nhà hàng Windows on the World Fenston không bao giờ đề cập đến chuyện làm ăn khi đang ở trong thang máy, vì ông ta hiểu rõ rất nhiều đối thủ của mình đang chiếm cứ những tầng trên lẫn những tầng dưới trụ sở công ty của ông ta.

Khi cửa thang máy mở ra tại tầng 83, Leapman bước theo ông chủ ra ngoài, nhưng rồi rẽ theo lối khác và đi thẳng tới phòng Petrescu. Ông ta mở cửa phòng cô mà không thèm gõ để tìm Rebecca, trợ lý của Anna và yêu cầu cô ta chuẩn bị những hồ sơ mà Anna sẽ phải cần cho cuộc gặp với vị chủ tịch. Leapman tuôn ra một tràng những câu mệnh lệnh bằng một giọng không cho phép hỏi lại. Rebecca ngay lập tức đặt những hồ sơ đó lên bàn làm việc của Anna và tiếp tục lục lọi trong một chiếc thùng các tông lớn.

Leapman bước dọc hành lang rồi đi vào văn phòng của chủ tịch công ty. Họ bắt đầu bàn bạc chi tiết về chiến thuật để rũ bỏ Petrescu. Cho dù họ đã làm những chuyện này ba lần trong 8 năm qua. Leapman cảnh báo vị chủ tịch rằng lần này có thể sẽ khác.

“Ý ông là gì?” Fenston hỏi.

“Tôi không nghĩ Petrescu lại đầu hàng một cách dễ dàng”, ông ta nói. “Suy cho cùng thì cô ta sẽ không dễ dàng gì để kiếm được một công việc mới”.

“Tất nhiên là cô ta sẽ không chịu đi nếu tôi không muốn cô ta phải ra đi”, Fenston vừa nói vừa xoa hai tay vào nhau.

“Nhưng có lẽ trong trường hợp này, thưa chủ tịch, sẽ tốt hơn nếu tôi”.

Một tiếng gõ cửa làm ngắt quãng cuộc trao đổi của họ. Fenston ngẩng lên và trông thấy Barry Steadman, trưởng ban an ninh của công ty đang đứng giữa cửa.

“Xin lỗi vì đã làm phiền ngài, thưa ngài chủ tịch, nhưng có một nhân viên của hãng chuyển phát nhanh FedEx ở đây, nói rằng anh ta có một gói hàng trong này và không ai được ký nhận thay”.

Fenston vẫy người chuyển hàng vào và không thèm nói một lời, ký vào biên lai giao nhận. Không ai nói một lời nào cho đến khi người chuyển hàng đã ra khỏi phòng và Barry đã đóng cửa lại sau lưng anh ta.

“Có phải là bức thư chúng ta đang đợi không?” Leapman hỏi khẽ. “Chúng ta sẽ biết ngay thôi”, Fenston vừa nói vừa mở gói hàng và đổ những gì chứa trong gói hàng đó lên mặt bàn.

Cả hai đều nhìn chằm chằm xuống chiếc tai trái của Victoria Wentworth trên mặt bàn.

“Ông hãy lo việc trả nốt cho Krantz nửa triệu đôla còn lại”, Fenston nói.

Leapman gật đầu. “Và cô ta thậm chí còn gửi cho chúng ta một phần thưởng”, Fenston vừa nói vừa nhìn chiếc nhẫn kim cương cổ đính trên chiếc tai.

***

Anna gói ghém xong đồ đạc lúc vừa sau 7 giờ. Cô để chiếc va li lại trong đại sảnh với ý định là sẽ quay trở lại lấy nó trên đường tới sân bay ngay sau giờ làm việc. Chuyến bay của cô tới London theo lịch trình sẽ cất cánh vào lúc 5 giờ 40 phút chiều hôm đó, và sẽ hạ cánh xuống sân bay Heathrow ngay trước lúc bình minh vào ngày hôm sau. Anna thích bay đêm bởi vì cô có thể ngủ mà vẫn có đủ thời gian để chuẩn bị trước khi cùng ăn trưa với Victoria tại Lâu đài Wentworth. Cô chỉ hy vọng rằng Victoria đã đọc bản báo cáo của cô và đồng ý bán bức tranh của Van Gogh một cách bí mật để giải quyết tất cả những vấn đề của bà ta.

Anna rời tòa nhà chung cư của mình vào lúc 7:30, lần này là lần thứ hai. Cô vẫy một chiếc tắc xi - một sự vung tay quá trán, nhưng cô muốn trông mình thật phong độ trong cuộc gặp sắp tới với vị chủ tịch. Cô ngồi ở hàng ghế sau trong chiếc tắc xi và ngắm nghía mình trong một chiếc gương nhỏ. Bộ complê hiệu Anand Jon và chiếc áo cánh lụa mà cô vừa mua gần đây chắc chắn đủ để khiến nhiều người phải ngoái nhìn, cho dù chắc cũng có người ngạc nhiên vì đôi giày đế mềm màu đen của cô. Chiếc tắc xi rẽ phải vào đường FDR Drive và tăng tốc trong khi Anna kiểm tra lại điện thoại cầm tay của cô. Có ba tin nhắn, tất cả đều sẽ được cô giải quyết sau cuộc gặp này: một tin nhắn của cô thư ký Rebecca muốn gặp cô ngay và đây là một chuyện khá lạ bởi vì họ sẽ gặp nhau trong vài phút nữa; một tin nhắn khẳng định chuyến bay của cô từ BA, Hãng hàng không Anh quốc, và một tin nhắn mời cô tới ăn tối cùng Robert Brooks, chủ tịch mới của hãng Bonhams.

Chiếc tắc xi đỗ lại bên ngoài lối vào tòa Tháp Bắc 20 phút sau đó. Cô trả tiền cho tài xế rồi rời khỏi tắc xi và hoà vào dòng người đang đổ vào tòa nhà. Cô đi thang máy cao tốc, và chỉ không đầy một phút sau cô đã đặt chân lên tấm thảm màu xanh đậm của tầng quản trị. Có lần trong thang máy Anna đã nghe lỏm thấy người ta nói rằng mỗi một tầng có diện tích là một mẫu Anh, và có khoảng năm mươi nghìn người làm việc trong tòa nhà không bao giờ đóng cửa này, tức là gần gấp đôi dân số của thị trấn Danville, bang Illinois, quê hương thứ hai của cô.

Anna đi thẳng vào phòng làm việc của mình và ngạc nhiên khi thấy Rebecca không chờ cô, đặc biệt là khi cô ta đã biết rằng cuộc gặp vào lúc 8 giờ của cô rất quan trọng. Nhưng cô cũng cảm thấy nhẹ nhõm khi thấy tất cả các hồ sơ liên quan đều đã được xếp gọn gàng trên bàn làm việc của mình. Cô kiểm tra lại một lần nữa xem những hồ sơ ấy đã được sắp xếp theo đúng thứ tự mà cô yêu cầu hay chưa. Anna vẫn còn vài phút nữa, vì vậy cô mở tập hồ sơ mang tên Wentworth ra rồi đọc lại bản báo cáo của mình. “Bộ sưu tập của Lâu đài Wentworth có thể chia thành nhiều chủng mục. Mối quan tâm duy nhất của chúng ta là ...”

***

Mãi tới hơn 7 giờ Tina Forster mới thức dậy. Cuộc hẹn của chị với bác sỹ nha khoa phải đến 8:30, và Fenston đã nói rõ rằng chị không cần phải đi làm đúng giờ vào sáng hôm đó. Điều này bao giờ cũng có nghĩa là ông ta có một cuộc hẹn bên ngoài thành phố, hoặc là ông ta sắp đuổi việc một ai đó. Nếu đấy là chuyện đuổi việc, ông ta không muốn thấy Tina lảng vảng quanh văn phòng và tỏ ý thông cảm với người vừa bị sa thải. Chị biết rằng người bị đuổi không thể là Leapman, bởi vì Fenston sẽ không thể sống sót nếu thiếu con người đó, và dù chị rất muốn thấy Barry Steadman bị tống khứ khỏi nơi này, chị không dám mơ đến điều đó, bởi vì anh ta chưa bao giờ bỏ lỡ cơ hội nào để nịnh hót vị chủ tịch, một con người thích những lời nịnh hót chẳng khác gì một miếng bọt biển nằm trên bãi biển chờ đợi những con sóng triều.

Tina nằm trong bồn tắm - một sự xa xỉ mà chị thường chỉ dám ban tặng cho mình vào những kỳ nghỉ cuối tuần - và băn khoăn tự hỏi khi nào thì sẽ đến lượt mình bị đuổi việc. Chị đã làm trợ lý riêng cho Fenston được hơn một năm, và cho dù chị khinh bỉ con người này cũng như tất cả những gì mà ông ta theo đuổi, chị vẫn cố để ông ta không thể thiếu được mình. Tina biết chị không thể tính đến chuyện bỏ công ty này trước khi...

Chuông điện thoại đổ trong phòng ngủ của chị, nhưng chị chẳng vội trả lời. Chị đoán chắc là Fenston gọi để hỏi xem một hồ sơ nào đó được cất ở đâu hoặc cũng có thể là hỏi số điện thoại của ai đó. Thường thì câu trả lời sẽ là “trên bàn làm việc trước mặt ngài”. Chị băn khoăn không hiểu đó có thể là điện thoại của Anna không. Đó là người bạn duy nhất của chị kể từ khi chị chuyển từ West Coast đến đây. Không thể nào, chị kết luận, bởi vì Anna sẽ phải trình bày báo cáo của mình trước vị chủ tịch vào lúc 8 giờ và có thể là ngay lúc này đây đang giải thích rõ từng chi tiết đến lần thứ hai mươi.

Tina mỉm cười khi chị bước ra khỏi buồng tắm và choàng quanh mình một tấm khăn tắm. Chị đi qua hành lang rồi vào phòng ngủ của mình.

Mỗi khi có một vị khách nào đó ngủ lại qua đêm trong căn hộ chật chội của Tina, họ phải ngủ chung giường với chị hoặc ngủ trên ghế sô pha. Không còn lựa chọn nào khác, bởi căn hộ của chị chỉ có một phòng ngủ. Gần đây chẳng có mấy ai ở lại, không phải vì thiếu lời mời. Nhưng sau những gì mà chị đã trải qua trong quá trình làm việc với Fenston, Tina cảm thấy mình không còn có thể tin cậy được ai nữa. Gần đây chị đã muốn tâm sự chuyện này với Anna, nhưng rồi nó vẫn là một bí mật mà chị không dám chia sẻ cùng ai.

Tina vén rèm lên cho dù đang vào tháng Chín, một buổi sáng trong lành với những tia sáng rực rỡ khiến chị nghĩ rằng mình có thể mặc một bộ váy mùa hè. Nó thậm chí có thể sẽ giúp chị cảm thấy thoải mái hơn khi phải nhìn vào chiếc khoan của vị nha sỹ.

Sau khi mặc xong quần áo và ngắm nhìn lại mình trong gương, Tina vào bếp và pha cho mình một ly cà phê. Chị không được phép ăn sáng, dù chỉ là một mẩu bánh mỳ - đó là mệnh lệnh của người trợ lý phòng khám nha khoa - rồi chị bật ti vi lên để xem tin tức buổi sáng. Chẳng có gì đặc biệt. Một vụ đánh bom liều chết ở khu Bờ Tây, tiếp đến là chuyện một phụ nữ nặng ba trăm hai mươi pao đang kiện hãng McDonald vì đã hủy hoại cuộc sống tình dục của bà ta.

Khi chị vừa định tắt ti vi thì một cầu thủ bóng đá nổi tiếng xuất hiện trên màn hình.

Hình ảnh ấy khiến chị nghĩ đến người cha của mình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7


Jack Delaney tới văn phòng của mình tại 26 Federal Plaza vào lúc 7 giờ sáng hôm đó. Anh cảm thấy đau đầu khi nhìn thấy từng chồng hồ sơ dầy chất đầy trên bàn làm việc của mình. Tất cả các hồ sơ đó đều có liên quan tới cuộc điều tra của anh nhằm vào Bryce Fenston, và sau hơn một năm điều tra, anh vẫn chưa thu thập đủ chứng cứ để sếp mình có thể yêu cầu tòa án cho lệnh bắt giam nhân vật này.

Jack mở tập hồ sơ về Fenston với một hy vọng mong manh rằng biết đâu anh sẽ tình cờ bắt gặp một đầu mối nhỏ nhoi nào đó, một dấu vết mơ hồ nào đó hoặc là một nhầm lẫn nào đó giúp anh truy tìm ra mối quan hệ trực tiếp của Fenston với ba án mạng khủng khiếp xảy ra ở Marseille, Los Angeles và Rio de Janeiro.

Vào năm 1984, Nicu Munteanu, ba mươi hai tuổi, đã tới đại sứ quán Mỹ ở Bucharest và khẳng định mình có thể vạch mặt hai điệp viên đang làm việc ở trung tâm đầu não của Washington, và muốn đổi những thông tin này để lấy một tấm hộ chiếu sang Mỹ. Hàng tuần, đại sứ quán Mỹ nhận được hàng chục lời tuyên bố như vậy và gần như tất cả những lời tuyên bố đó đều được chứng minh là vô căn cứ, nhưng với trường hợp của Munteanu, thông tin cung cấp lại đặc biệt chính xác. Chỉ trong vòng một tháng, hai quan chức ngoại giao cao cấp của Liên xô tại Mỹ đã bị buộc phải lên máy bay để trở về Moscow, và Munteanu nhận được một tấm hộ chiếu sang Mỹ.

Nicu Munteanu hạ cánh xuống New York vào ngày 17 tháng Hai năm 1985. Jack hầu như không tìm được mấy thông tin về những hoạt động của Munteanu trong năm tiếp theo, nhưng con người này bỗng chốc có đủ tiền để tiếp quản công ty Fenston Finance, một ngân hàng nhỏ đang trên bờ vực phá sản ở Manhattan.

Nicu Munteanu đổi tên thành Bryce Fenston - đây không phải là một tội - nhưng không ai biết người đứng đằng sau ông ta là kẻ nào, chỉ biết rằng trong mấy năm tiếp theo đó, ngân hàng này bắt đầu nhận những khoản tiền gửi lớn từ những công ty dấu tên ở Đông Âu gửi sang. Rồi vào năm 1989, dòng tiền mặt bỗng nhiên cạn kiệt, cũng là năm mà Ceausescu và vợ của ông ta là Elena chạy khỏi Bucharest sau cuộc nổi dậy của dân chúng. Chỉ vài ngày sau vợ chồng nhà độc tài này đã bị bắt, bị đưa ra xét xử và lãnh án tử hình.

Jack nhìn qua cửa sổ ngắm nhìn cảnh Manhattan ở bên dưới và nhớ lại câu châm ngôn của FBI: đừng bao giờ tin vào những sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng cũng đừng bao giờ bỏ qua những chuyện đó.

Sau cái chết của Ceausescu, ngân hàng này dường như phải trải qua một vài năm khó khăn cho đến khi Fenston gặp được Karl Leapman, một luật sư bị đuổi khỏi nghiệp đoàn, một kẻ vừa được ra khỏi tù sau khi phải ngồi bóc lịch mấy năm vì tội lừa đảo. Chẳng bao lâu sau, ngân hàng này đã lấy lại phong độ và bắt đầu kiếm được những khoản lợi nhuận khổng lồ.

Jack nhìn xuống mấy bức ảnh của Bryce Fenston, người thường xuất hiện trong các cuộc đàm tiếu trên mặt báo với một trong những phụ nữ sành điệu nhất của New York trong vòng tay mình, ông ta khi thì được mô tả là một chủ nhà băng sáng giá, lúc thì là một nhà tài chính hàng đầu, cũng có khi lại là một nhà từ thiện hào phóng, và mỗi khi tên của ông ta được nhắc tới thì bộ sưu tập khổng lồ của ông ta cũng không bị bỏ qua. Jack gạt những bức ảnh ấy sang một bên. Anh vẫn chưa thể quen với việc một người đàn ông lại đeo khuyên tai, và anh thậm chí còn cảm thấy ngạc nhiên hơn trước việc một người khi đặt chân tới Mỹ có một mái tóc dầy đầy đặn lại quyết định cạo trọc đầu mình. Ông ta đang lẩn trốn ai?

Jack đóng tập hồ sơ mang tên Munteanu/Fenston lại và mở tập hồ sơ về Pierre de Rochelle, nạn nhân đầu tiên ra.

Rochelle cần vay 70 triệu phờ răng để lấy tiền trả cho phần đóng góp của mình tại một vườn nho. Kinh nghiệm duy nhất của ông ta về ngành rượu vang là công việc rửa sạch các chai đựng rượu. Chỉ cần nhìn qua cũng thấy rằng kế hoạch đầu tư của ông này không phù hợp với phương châm của ngân hàng là mọi dự án phải “khả thi”. Tuy nhiên, điều thu hút sự chú ý của Fenston khi ông ta nhìn thấy hồ sơ vay tiền của Rochelle là người đàn ông này vừa được thừa kế một Lâu đài tại Dordogne, mà trong đó mọi bức tường đều được treo kín những bức tranh của các hoạ sỹ theo trường phái Ấn tượng, trong đó có một bức của Degas, hai bức của Pissarros và một bức của Monet.

Vườn nho đó đã không cho thu hoạch trong suốt 4 năm và trong thời gian ấy, tòa lâu đài bắt đầu bị móc ruột đến khi chỉ còn lại những vết treo tranh trên các bức tường. Đến lúc Fenston đưa bức tranh cuối cùng tới New York và cho vào bộ sưu tập cá nhân của ông ta thì khoản tiền vay ban đầu của Pierre đã tăng lên gấp đôi. Khi tòa lâu đài của ông này cuối cùng bị đưa ra đấu giá, Pierre đến sống ở một căn hộ nhỏ tại Marseille, nơi tối nào ông ta cũng uống đến say khướt. Mọi chuyện cứ thế diễn ra cho đến khi một phụ nữ trẻ đẹp vừa tốt nghiệp trường luật nói với Pierre, trong một giây phút tỉnh táo hiếm hoi của ông ta, rằng nếu Fenston Finance bán các bức tranh của Degas, Monet và Pissarros, ông ta không những có thể trả hết nợ nần mà còn có thể chuộc lại tòa lâu đài và thu hồi về toàn bộ phần còn lại của bộ sưu tập. Lời gợi ý đó không ăn nhập với các kế hoạch dài hạn của Fenston.

Một tuần sau đó, người ta phát hiện thấy cái xác say xỉn của Pierre de Rochelle bị vứt tại một thung lũng ở Marseille với cổ họng bị cắt đứt.

Bốn năm sau, cảnh sát Marseille phải khép vụ này lại với dòng chữ “KHÔNG DẤU VẾT” đóng trên bìa hồ sơ.

Khi vụ vay mượn được đưa ra tòa, Fenston đã bán tất cả các tác phẩm trừ các bức của Degas, Monet và Pissarros; và sau khi tính hết các món lãi kép, phí ngân hàng và tiền thuê luật sư, em trai của Pierre là Simon de Rochelle được thừa kế căn hộ ở Marseille của anh mình.

Jack đứng dậy khỏi bàn làm việc, vươn vai và ngáp một cách mệt mỏi, trước khi anh xem lại hồ sơ về Chris Adams Jr, dù anh gần như đã thuộc lòng những gì được viết trong đó. Chris Adams Senior từng quản lý một phòng tranh rất thành công ở Los Angeles, ông ta tập trung vào dòng tranh Trường phái Mỹ, vốn rất được các ngôi sao ở Hollywood ưa chuộng. Cái chết của ông ta trong một vụ tai nạn giao thông đã để lại cho con trai ông ta là Chris Adams Junior một bộ sưu tập lớn gồm tranh của Rothkos, Pollocks, Jasper Johnses, Rauschenbergs và Warhol, trong đó có bức Black Marilyn.

Một bạn học cũ của Chris khuyên ông ta rằng cách tốt nhất để nhân đôi số tiền mà ông ta có là đầu tư vào cuộc cách mạng chấm com (Internet). Chris Jr nói rằng mình không có sẵn tiền mặt mà chỉ có phòng trưng bày tranh, bộ sưu tập tranh và chiếc du thuyền cũ Christina do cha mình để lại, và một nửa những thứ đó là phần của cô em gái. Fenston Finance đã ra tay giúp đỡ bằng cách cho anh ta vay 12 triệu đôla, theo các điều khoản thông thường. Cũng giống như trong nhiều cuộc cách mạng khác, nhiều kẻ phải bỏ mạng trên chiến trường và trong số đó có Chris Jr.

Fenston Finance để mặc cho khoản tiền kia đẻ mãi mà không hề có ý định làm khó khổ chủ của mình. Chuyện này cứ thế diễn ra cho đến khi Chris Jr đọc thấy trên tờ Los Angeles Times rằng bức Shot Red Marilyn của Warhol gần đây đã bán được hơn 4 triệu đôla. Anh ta ngay lập tức liên lạc với nhà đấu giá Christie ở LA, và được đảm bảo rằng những bức tranh của Rothkos, Pollocks, và Jasper Johnses có thể đem lại cho anh ta những khoản tiền không kém. Ba tháng sau đó, Leapman lao vào văn phòng của vị chủ tịch với một cuốn catalog mới nhất của nhà đấu giá Christie, ông ta đã đánh dấu vào bảy lô khác nhau sắp được đưa ra đấu giá. Fenston gọi một cú điện thoại, rồi đặt chỗ trên chuyến bay tiếp theo tới Rome.

Ba ngày sau, người ta phát hiện thấy Chris Jr trong toa lét của một quán bar dành cho người đồng tính với cổ họng bị cắt đứt.

Lúc bấy giờ Fenston đang đi nghỉ ở Italy và Jack đã có được bản sao hoá đơn thanh toán khách sạn, vé máy bay và thậm chí cả những hoá đơn thanh toán bằng thẻ tín dụng cho các khoản chi tiêu của ông ta ở một số cửa hiệu và nhà hàng.

Những bức tranh ngay lập tức bị đưa ra khỏi danh mục đấu giá của Christie trong khi cảnh sát Los Angeles tiến hành những cuộc điều tra của họ. Sau mười tám tháng không tìm ra bằng chứng mới và đi vào ngõ cụt, hồ sơ về vụ này được ném vào tầng trệt cùng với những vụ việc bế tắc khác ở sở cảnh sát Los Angeles. Tất cả những gì mà em gái của Chris được thừa hưởng sau cái chết của người anh là mô hình chiếc tàu Christina, chiếc du thuyền yêu dấu của người cha.

Jack gạt tập hồ sơ về Chris Jr sang một bên, và nhìn chằm chằm xuống cái tên Maria Vasconcellos, một quả phụ người Brazil, vốn là chủ nhân của một tòa nhà với một bãi cỏ đầy những bức tượng. Moore, Giacometti, Remington, Botero và Calder là một vài tác giả trong số tác giả của những tác phẩm điêu khắc mà chồng của Senora Vasconcellos để lại. Thật không may, bà ta phải lòng một kẻ chuyên lừa gạt những người phụ nữ giàu có và khi hắn gợi ý - Chuông điện thoại trên bàn làm việc của Jack đổ chuông.

“Đại sứ quán của chúng ta ở London gọi điện tới”, thư ký của anh thông báo.

“Cảm ơn Sally”, Jack nói. Anh biết rằng đó chỉ có thể là Tom Crasanti, bạn của anh, người đã gia nhập FBI cùng ngày với anh.

“Thế nào, Tom, cậu khoẻ chứ?” anh hỏi trước cả khi nghe thấy giọng nói trong điện thoại.

“Cũng tạm”, Tom đáp. “Ngày nào cũng chạy, cho dù tớ không được khoẻ như cậu”.

“Thế thằng con nuôi của tớ thì sao?”

“Nó đang học chơi môn crikê”.

“Tên phản bội. Có tin tốt lành gì không?”

“Không”, Tom nói. “Đó là lý do tại sao tớ gọi cho cậu. Cậu sẽ phải mở một hồ sơ nữa”.

Jack cảm thấy toàn thân mình nổi gai ốc. “Lần này là ai vậy?” anh hỏi khẽ. “Một phụ nữ, một Phu nhân, tên là Victoria Wentworth”.

“Bà ta chết như thế nào?”

“Giống hệt như ba trường hợp trước, bị cắt đứt họng, chắc chắn là bằng một con dao làm bếp”.

“Điều gì khiến cậu nghĩ rằng Fenston có liên quan đến vụ này?”

“Bà ta nợ ngân hàng này 30 triệu đôla”.

“Và lần này hắn muốn gì?”

“Một bức chân dung của Van Gogh”.

“Giá trị?”

“Có thể là 70 triệu đôla”.

“Tớ sẽ đi chuyến máy bay tiếp theo tới London”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8


Vào lúc 7:56, Anna gấp tập hồ sơ mang tên Wentworth lại rồi cúi xuống mở đáy ngăn kéo bàn làm việc của cô ra. Cô cất đôi giày đế mềm vào đó và lấy ra một đôi giày cao gót màu đen. Cô đứng dậy khỏi ghế, sắp xếp lại các tập hồ sơ và liếc nhìn vào gương - những sợi tóc đều nằm đúng vị trí.

Anna ra khỏi phòng làm việc và đi tới văn phòng lớn ở góc cuối hành lang. Một vài nhân viên của công ty chào cô, và cô đáp lại họ bằng một nụ cười. Một tiếng gõ nhẹ lên cánh cửa - cô biết Fenston đã ngồi chờ sẵn bên bàn làm việc của ông ta. Nếu cô chậm vài giây, ông ta sẽ không nhìn cô mà sẽ nhìn chăm chăm vào chiếc đồng hồ đeo tay của mình. Anna chờ để được gọi vào phòng, và cảm thấy ngạc nhiên khi cửa mở ra và trước mặt cô là Karl Leapman. Ông ta mặc một bộ complê giống hệt bộ complê mà Fenston đang mặc, dù chất vải thì hơi khác.

“Chào ông Karl”, cô chào ông ta với một nụ cười tươi tắn, nhưng không được đáp lại.

Vị chủ tịch ngước nhìn lên từ chỗ ngồi sau bàn làm việc và ra hiệu cho Anna ngồi đối diện với mình. Ông ta cũng không chào hỏi gì cô, nhưng ông ta vốn ít khi chào hỏi ai bao giờ. Leapman ngồi xuống chiếc ghế bên phải vị chủ tịch, hơi lùi về phía sau một chút, giống như một viên Hồng y Giáo chủ đang hầu cận đức Giáo hoàng. Thân phận đã được xác lập. Anna đoán rằng chỉ vài giây nữa, Tina sẽ xuất hiện với một ly cà phê đen trên tay, nhưng cửa phòng cô thư ký của vị chủ tịch vẫn đóng im. Anna ngước nhìn lên bức tranh vẽ cảnh Argenteuil của Monet treo trên bức tường sau lưng ghế của vị chủ tịch. Dù Monet nhiều lần vẽ phong cảnh thanh bình trên bờ sông này, đây là một trong những bức đẹp nhất. Anna đã có lần hỏi vị chủ tịch xem ông ta có được bức tranh này từ đâu, nhưng ông ta lảng tránh câu hỏi của cô, và cô cũng không truy tìm được bất kỳ tài liệu nào về nguồn gốc của bức tranh.

Cô nhìn Leapman. vẻ ngoài gầy gò và đói khát của ông ta khiến cô liên tưởng tới nhân vật Cassius[1] . Dù là vào thời gian nào trong ngày, trông ông ta vẫn có vẻ như cần phải được cạo râu. Cô nhìn sang Fenston, một người chắc chắn không giống Brutus, và khẽ xoay mình một cách khó chịu trên ghế, cố để không tỏ ra rằng mình bị sự yên lặng làm cho bối rối. Sự yên lặng đó cuối cùng bị phá vỡ bằng một cái gật đầu của Fenston.

[1] Gaius Cassius Longinus, một vị tướng của La mã và là một trong những người chủ mưu ám sát Julius Caesar. Vào năm 49 trước công nguyên, ông ta đã chống lại Caesar trong một cuộc nội chiến dưới quyền chỉ huy của Pompey, một vị tướng và đồng thời là một chính khách quyền uy của La mã. Dù được Caesar ân xá, Cassius sau đó đã trở thành nhân vật chủ chốt trong một âm mưu ám sát nhằm vào Caesar. Sau khi Caesar bị giết chết, ông ta lại xây dựng một đội quân để chống lại Mark Antony, tổng tư lệnh quân đội của Caesar và Tam đầu chế, bộ tam cai quản Rome sau khi Caesar bị ám sát. Cùng với người đồng mưu là Marcus Junius Brutus, một chính khách của La mã, Cassius bao vây quân thù của ông ta tại Philippi ở Macedonia nhưng sau đó đã bị đánh bại. Cassius tự sát để tránh bị kẻ thù của mình bắt sống (ND).

“Tiến sỹ Petrescu, có thông tin đáng buồn khiến ngài chủ tịch phải lưu tâm”, Leapman vào đề. “Có vẻ như”, ông ta tiếp tục, “cô đã gửi một trong những tài liệu riêng tư và bí mật của ngân hàng chúng ta cho một vị khách hàng, trước khi ngài chủ tịch có đủ thời gian để cân nhắc vấn đề”.

Ban đầu, Anna bị bất ngờ, nhưng rồi cô nhanh chóng lấy lại được sự bình tĩnh và đáp lại một cách từ tốn. “Ông Leapman, nếu ông đang muốn nói đến bản báo cáo của tôi, liên quan đến khoản tiền mà Wentworth định vay, thì ông đã nói đúng. Đúng là tôi có gửi một bản báo cáo cho Phu nhân Victoria Wentworth”.

“Nhưng ngài chủ tịch không có đủ thời gian để đọc kỹ bản báo cáo đó và để cân nhắc trước khi cô gửi nó cho khách hàng”, Leapman vừa nói vừa nhìn xuống mấy dòng ghi chú trên tờ giấy trước mặt.

“Không phải như vậy, thưa ông Leapman. Cả ông và ngài chủ tịch đều nhận được một bản sao báo cáo của tôi vào ngày 1 tháng Chín, trong đó tôi đề nghị nên tư vấn cho Phu nhân Victoria trước kỳ thanh toán tới”

“Tôi không nhận được bản báo cáo đó”, Fenston nói một cách cộc cằn. “Nhưng thực tế”, Anna nói, mắt vẫn không rời khỏi Leapman, “ngài chủ tịch đã xác nhận việc đã nhận được bản báo cáo của tôi, khi văn phòng chủ tịch gửi lại tôi mẫu đánh giá mà tôi gửi kèm cùng bản báo cáo”.

“Tôi chưa nhìn thấy bản báo cáo ấy”, Fenston nhắc lại.

“Có chữ ký tắt của ngài chủ tịch ở đây”, Anna vừa nói vừa lấy tờ mẫu đánh giá ra rồi đặt lên bàn trước mặt Fenston. Ông ta phớt lờ không thèm nhìn.

“Ít nhất thì cô cũng phải chờ ý kiến của tôi”, Fenston nói, “trước khi chuyển bản sao một tài liệu nhạy cảm như vậy ra khỏi nơi này”.

Anna vẫn chưa hiểu tạo sao bọn họ lại giở trò này ra với cô.

“Tôi đã đợi một tuần, thưa ngài chủ tịch”, cô trả lời. “Trong thời gian đó ngài đã không có ý kiến gì về những kiến nghị của tôi, cho dù theo lịch thì tối nay tôi sẽ bay đi London để gặp Phu nhân Victoria vào chiều mai. Tuy nhiên”, Anna tiếp tục trước khi vị chủ tịch phản ứng, “hai hôm trước tôi cũng đã gửi giác thư tới ngài”. Cô lại mở tập hồ sơ của mình ra, và đặt tờ giấy thứ hai lên bàn, trước mặt vị chủ tịch. Một lần nữa, ông ta phớt lờ. “Nhưng tôi chưa đọc báo cáo của cô”, Fenston nhắc lại. Rõ ràng là ông ta đang bám theo một kịch bản được dựng sẵn.

Bình tĩnh, cô bé, bình tĩnh, Anna nghe thấy tiếng nói của cha mình vang lên bên tai.

Cô hít một hơi dài trước khi tiếp tục. “Báo cáo của tôi chỉ là kiến nghị, không hơn không kém, gửi lên ban giám đốc. Và tôi cũng là thành viên của ban giám đốc. Tôi chỉ muốn nói rằng nếu chúng ta bán bức Van Gogh, dù là bí mật hay thông qua một nhà đấu giá nào đó thì khoản tiền thu được cũng thừa đủ để thanh toán khoản tiền vay cho ngân hàng này, cả gốc lẫn lãi”.

“Nhưng có thể tôi không có ý định bán bức tranh đó”, Fenston nói, rõ ràng là sai với kịch bản.

“Ngài cũng không thể làm gì khác, nếu đó là yêu cầu của khách hàng”.

“Nhưng tôi có thể tìm ra một giải pháp khác tốt hơn cho vấn đề Wentworth”.

“Nếu quả thật là thế, thưa ngài chủ tịch”, Anna nói bằng một giọng không cảm xúc, “tôi thực sự ngạc nhiên khi ngài không hỏi ý kiến trưởng phòng nghiệp vụ phụ trách việc này, để chúng ta có thể thảo luận về bất kỳ sự khác biệt nào trong nhận thức và quan điểm trước khi tôi lên đường sang Anh quốc vào tối nay”.

“Thật là một ý nghĩ xấc láo”, Fenston cao giọng. “Tôi không cần phải báo cáo với ai”.

“Tôi không nghĩ rằng như thế là xấc láo, thưa ngài chủ tịch, chỉ là chuyện tuân thủ luật pháp mà thôi”, Anna nói bằng một thái độ bình tĩnh. “Theo quy định của pháp luật, ngân hàng có trách nhiệm phải thông báo cho khách hàng biết về những giải pháp thay thế. Tôi tin là ngài hiểu rõ rằng theo những quy định mới về hoạt động ngân hàng, do IRS đề xuất và mới được Quốc hội thông qua”.

“Và tôi tin là cô hiểu rõ rằng cô có trách nhiệm phục vụ tôi trước tiên”.

“Không, nếu tôi tin rằng một ai đó đang vi phạm luật pháp”, Anna đáp lại, “bởi vì tôi không bao giờ chấp nhận những chuyện như vậy”.

“Cô thách tôi đuổi việc cô à?”

Fenston quát lên.

“Không, nhưng có vẻ như ông đang ép tôi phải từ chức”, Anna nói bằng một giọng điềm đạm.

“Dù gì thì”, Fenston vừa nói vừa xoay ghế và nhìn ra cửa sổ, “rõ ràng cô đã không còn vai trò gì trong ngân hàng này, đơn giản vì cô không có tinh thần đồng đội-một điều mà người ta đã cảnh báo tôi khi cô bị đuổi khỏi Sotheby”.

Đừng nổi giận, Anna nghĩ. Cô mím môi và nhìn chằm chằm vào bộ mặt nhìn nghiêng của Fenston. Cô vừa chuẩn bị lên tiếng thì nhận thấy có một cái gì đó khang khác trên bộ mặt ấy. Đó chính là một chiếc khuyên tai mới. Điệu đà, phù phiếm là bản chất của con người này, không thể nói khác đi. Vị chủ tịch xoay ghế lại và nhìn thẳng vào mặt cô. Cô nhìn trả lại.

“Thưa ngài chủ tịch, tôi biết cuộc nói chuyện này được ghi âm, vì vậy tôi phải làm rõ một điều. Có vẻ như ngài không hiểu gì về những quy định của ngành ngân hàng, và chắc chắn ngài không biết gì về bộ luật lao động, bởi vì ép buộc một đồng nghiệp lừa đảo một phụ nữ ngây thơ để chiếm đoạt gia sản của người ấy là một tội ác, và tôi nghĩ rằng ông Leapman đây, với những kinh nghiệm của mình, về cả hai khía cạnh của luật pháp, có thể giải thích cho ngài hiểu”.

“Cút ngay, trước khi tôi tống cô ra ngoài”, Fenston thét lên, đồng thời đứng bật dậy và nhoài người về phía Anna. Cô chầm chậm đứng lên, quay lưng lại phía Fenston và bước ra cửa.

“Và điều đầu tiên cô có thể làm là dọn bàn làm việc của mình đi vì tôi muốn cô phải cuốn xéo khỏi nơi này trong vòng mười phút. Nếu sau đó cô vẫn còn lảng vảng ở đây, tôi sẽ gọi bảo vệ quẳng cô ra ngoài”.

Anna không nghe thấy những lời cuối cùng của vị chủ tịch bởi vì lúc đó cô đã khép cánh cửa lại sau lưng mình.

Người đầu tiên cô nhìn thấy khi bước ra hành lang là Barry; rõ ràng anh ta đã nhận được chỉ thị phải đứng chực sẵn ở đó. Giờ thì cô có thể khẳng định rằng toàn bộ tấn trò này đã được dàn dựng từ rất lâu trước khi cô bước vào văn phòng chủ tịch. Anna bước theo hành lang và cố giữ bình tĩnh. Barry theo sát gót cô, đôi khi gã chạm cả vào khuỷu tay cô. Cô bước qua một thang máy đã mở sẵn và băn khoăn không hiểu nó đang chờ ai, chắc chắn là không phải chờ cô. Anna trở lại phòng làm việc của mình sau khi rời khỏi đó trong vòng chưa đầy 15 phút. Lần này Rebecca đang chờ cô. Cô ta đang đứng sau bàn làm việc của cô và đặt tay lên một chiếc thùng các tông lớn màu nâu. Anna bước qua phòng lại phía chiếc bàn, và khi cô vừa định bật chiếc máy tính lên thì nghe thấy một giọng nói sau lưng mình, “Không được đụng vào bất cứ thứ gì. Đồ đặc riêng của cô đã được đóng gói rồi, vì vậy đi đi thôi”. Anna quay lại và thấy Barry đang đứng ở giữa cửa.

“Em xin lỗi”, Rebecca nói. “Em đã cố gọi điện để báo trước cho chị, nhưng”.

“Không được nói chuyện với cô ta”, Barry quát lên, “đưa chiếc thùng cho cô ta đi. Cô ta không còn là người của công ty nữa”. Barry đặt tay lên cán chiếc dùi cui bên hông gã. Anna tự hỏi không hiểu gã có biết trông gã lố bịch đến mức nào không. Cô quay lại nhìn Rebecca và mỉm cười. “Không phải lỗi tại em”, cô nói với người thư ký của mình khi cô ta chuyển cho cô chiếc thùng.

Anna đặt chiếc thùng xuống bàn, ngồi xuống và kéo ngăn tủ ra.

“Không được sờ đến những tài sản của công ty”, Barry nói.

“Tôi nghĩ ngài chủ tịch sẽ không cần đến đôi giày đế bằng của tôi”, Anna vừa nói vừa cởi đôi giày cao gót ra và cho vào chiếc hộp. Rồi cô đi đôi giày đế bằng vào chân, buộc chặt dây lại, nhấc chiếc thùng lên và đi thẳng ra hành lang. Cô không thể giữ được vẻ điềm tĩnh nữa. Mọi người đều biết rằng tiếng quát tháo trong văn phòng chủ tịch và việc cô bị Barry theo sát chỉ có thể, có nghĩa là cô đã bị tống khứ khỏi nơi này. Lần này những người có mặt trong hành lang đều vội chui vào phòng mình, tránh phải chào hỏi và nói chuyện với cô.

Gã trưởng ban an ninh đưa người mà gã có nhiệm vụ giám sát tới một căn phòng rộng ở phía cuối hành lang mà Anna chưa từng đặt chân tới. Khi cô đã bước vào trong, Barry lại đứng chắn giữa cửa. Rõ ràng là những người trong phòng này đã được báo trước, bởi vì chẳng có ai dám chào cô; họ sợ chuyện đó sẽ bị báo lại với vị chủ tịch. Một anh chàng đưa cho cô một tờ giấy có con số 9116 in đậm. Tiền lương hàng tháng của Anna. Cô ký vào tờ giấy, không nói một lời.

“Tiền sẽ được chuyển vào tài khoản của chị cuối chiều nay”, anh ta nói, mắt vẫn nhìn xuống.

Anna ngoảnh lại và thấy kẻ giám sát mình vẫn đứng đó với một bộ mặt đầy hăm doạ. Khi cô rời khỏi phòng kế toán, Barry theo sát cô trong hành lang không người.

Khi tới thang máy, Barry ấn nút có mũi tên chỉ xuống, trong khi Anna chuyển tay ôm chiếc thùng.

Cả hai đang chờ buồng thang máy mở ra, và đúng vào lúc đó thì chiếc máy bay thuộc chuyến bay số 11 của hãng hàng không American Airlines đâm vào tầng thứ 94 của tòa Tháp Bắc.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9


Ruth Parish nhìn lên chiếc bảng điện tử báo giờ khởi hành của các chuyến bay được trên tường trước mặt bà. Bà thở phào nhẹ nhõm khi thấy chuyến bay 107 của hãng United tới sân bay JFK cuối cùng cũng đã khởi hành vào lúc 1:40 chiều. Chậm hơn lịch trình 40 phút.

Ruth và chồng mình là Sam đã sáng lập nên công ty Art Locations gần mười năm trước, và khi ông ta bỏ rơi bà để chạy theo một phụ nữ trẻ đẹp, bà được tiếp quản công ty này. Ruth vùi đầu vào công việc với những chuyến máy bay, tàu hỏa và tàu chở hàng chẳng bao giờ đúng lịch trình. Vận chuyển những tác phẩm nghệ thuật vĩ đại và không vĩ đại từ nơi này đến nơi khác giúp bà có thể kết hợp khiếu tổ chức với niềm đam mê cái đẹp của mình, dù nhiều khi bà chỉ được nhìn thoáng qua những tác phẩm nghệ thuật mà bà chuyên chở. Ruth đi lại khắp nơi trên thế giới để nhận tiền hoa hồng của những chính phủ đang muốn tổ chức các cuộc triển lãm quốc gia, đồng thời bà cũng làm ăn với các chủ phòng tranh, các nhà buôn và các nhà sưu tầm cá nhân, những người thường chẳng quan tâm tới chuyện gì ngoài việc chuyển những bức tranh quý từ ngôi nhà này sang ngôi nhà khác. Theo năm tháng, nhiều khách hàng đã trở thành những người bạn thân của bà. Nhưng Bryce Fenston thì không. Từ lâu Ruth đã rút ra kết luận rằng những cụm từ như “cảm ơn” và “xin mời” không có trong vốn từ vựng của ông ta, và rõ ràng bà cũng không có tên trong danh sách những người được nhận thiệp mừng giáng sinh của nhân vật này. Yêu cầu gần đây nhất của Fenston là chuyển một bức tranh của Van Gogh từ Lâu đài Wentworth thẳng tới văn phòng của ông ta tại New York, không được chậm trễ một phút nào.

Việc kiếm một giấy phép xuất khẩu cho một kiệt tác như vậy không phải là khó, bởi vì hiếm có bảo tàng hay viện nghiên cứu nào có đủ 60 triệu đôla để ngăn chặn việc đó. Đặc biệt là sau khi Phòng tranh Quốc gia của Scotland đã không kiếm đủ 7,5 triệu bảng Anh để ngăn chặn việc đưa bức tranh Người đàn bà lúc bình minh ra khỏi nước này. Bức tranh ấy hiện nay đã thuộc về một nhà sưu tầm cá nhân ở Mỹ.

Khi một người có tên là Andrews, quản gia của Lâu đài Wentworth, gọi điện vào hôm trước để báo rằng bức tranh đã được chuẩn bị sẵn sàng, Ruth đã thu xếp để đưa một chiếc xe tải chống cướp có độ an toàn cao tới Lâu đài đó vào lúc 8 giờ sáng. Bà đi đi lại lại trong khi suốt ruột chờ đợi chiếc xe. Nó quay trở lại và đỗ trước văn phòng của bà lúc sau 10 giờ sáng.

Sau khi bức tranh đã được đưa xuống, Ruth giám sát kỹ lưỡng việc đóng gói để chuyển nó tới New York, một công việc mà bà thường giao cho các nhân viên quản lý của mình. Bà đứng cạnh người thợ đóng hàng già dặn nhất của mình trong khi ông ta cẩn thận bọc bức tranh một cách chuyên nghiệp bằng giấy không thấm nước và chống a xít rồi đặt nó vào một chiếc thùng lót xốp mà ông ta đã thức cả đêm để đóng cho kịp. Các đinh vít được vít chặt khắp quanh chiếc thùng, và chỉ những ai có dụng cụ chuyên dụng mới có thể mở được. Những đèn báo đặc biệt được gắn lên thùng; các đèn báo này sẽ hiện màu đỏ nếu có ai đó tìm cách mở chiếc thùng ra trong chuyến đi. Người thợ đóng hàng viết dòng chữ HÀNG DỄ VỠ lên hai bên hông thùng và con số 47 lên cả bốn góc thùng. Người nhân viên hải quan nhướng mày khi kiểm tra giấy tờ vận chuyển, nhưng vì đã có giấy phép xuất khẩu kèm theo, anh ta lại hạ mày xuống.

Ruth lái xe tới chỗ chiếc máy bay 747 đang nằm chờ và tiếp tục công việc giám sát cho đến chiếc thùng đã biến vào trong khoang hành lý khổng lồ.

Bà chờ cho đến khi chiếc cánh cửa nặng nề đã nằm an toàn vào chỗ của nó rồi mới lái xe quay trở lại văn phòng của mình. Bà kiểm tra đồng hồ và mỉm cười. Chiếc máy bay cất cánh vào lúc 1:40 chiều.

Ruth bắt đầu nghĩ đến bức tranh sắp được đưa từ bảo tàng Rijksmuseum ở Amsterdam tới vào tối hôm đó để kịp tham dự cuộc triển lãm Những người phụ nữ của Rembrandt do Học viện Hoàng gia tổ chức. Nhưng bà phải gọi điện tới Fenston Finance để báo cho họ biết rằng bức tranh của Van Gogh đang trên đường tới đích trước đã.

Bà quay số của Anna tại New York và chờ tín hiệu trả lời.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10


Một tiếng nổ khủng khiếp vang lên, và tòa tháp bắt đầu chao đảo từ bên này sang bên kia.

Anna bị ném dọc theo hành lang và cuối cùng cô nằm bẹp xuống sàn như vừa bị một võ sỹ hạ gục. Các cánh cửa thang máy mở ra, và cô nhìn thấy một quả cầu lửa cuồn cuộn tìm kiếm những con mồi. Những luồng hơi nóng đập vào mặt cô như thể cánh cửa của một chiếc lò khổng lồ vừa bị bật ra. Anna nằm bẹp dưới sàn, choáng váng.

Ý nghĩ đầu tiên của cô là tòa nhà chắc đã bị sét đánh, nhưng rồi cô ngay lập tức gạt bỏ ý nghĩ đó bởi vì bầu trời hôm ấy không có lấy một gợn mây. Một sự yên lặng kỳ quái bao trùm tòa nhà và Anna tự hỏi phải chăng cô đã chết, nhưng rồi sự yên lăng kỳ quái ấy nhanh chóng bị phá tan bởi những tiếng la hét “Chúa ơi!”, trong khi kính vỡ, bàn ghế và những thanh kim loại bay qua những chiếc cửa sổ trước mặt cô.

Chắc chắn là một quả bom, đó là ý nghĩ thứ hai của cô. Những ai đã từng có mặt trong tòa nhà đó vào năm 1993 đều kể lại những gì đã xảy đến với họ vào cái buổi chiều tháng Hai buốt giá ấy. Nhiều câu chuyện được kể lại hoàn toàn là sản phẩm của óc tưởng tượng, nhưng sự thật thì rất giản đơn. Một chiếc xe tải chất đầy thuốc nổ được đưa vào gara ngầm bên dưới tòa nhà. Khi nó phát nổ, sáu người bị thiệt mạng và hơn một nghìn người khác bị thương. Năm tầng hầm bị phá hủy hoàn toàn, và phải mất nhiều giờ người ta mới có thể sơ tán hết những người đang có mặt trong tòa nhà. Kể từ đó, tất cả những ai làm việc trong Trung tâm Thương mại Thế giới đều phải tham gia luyện tập cứu hỏa thường xuyên. Anna cố nhớ lại những gì mà người ta đã căn dặn cô phải làm trong những tình huống như thế này.

Cô nhớ đến những lời chỉ dẫn màu đỏ được in đậm dán trên cửa thoát hiểm dẫn vào cầu thang bộ tại tất cả các tầng: “Trong trường hợp khẩn cấp, không nên quay trở lại bàn làm việc, không được sử dụng thang máy, thoát ra ngoài bằng cầu thang bộ theo lối thoát hiểm gần nhất”. Nhưng trước hết Anna phải thử xem cô có thể đứng dậy được không đã. Cô nhận thấy một mảng trần đã rơi đè lên người mình và tòa nhà vẫn đang lắc lư. Cô cố gắng lấy lại bình tĩnh và gượng đứng dậy. Mặc dù trên người cô có nhiều vết thương, dường như không có vết thương nào đặc biệt nguy hiểm, và không có một chiếc xương nào bị gẫy. Cô thử làm vài động tác khởi động, giống như những khi cô chuẩn bị tập chạy.

Anna bỏ lại chiếc thùng các tông và loạng choạng đi về phía cầu thang C ở giữa tòa nhà. Một vài đồng nghiệp của cô cũng đã lấy lại được bình tĩnh, vài một vài người thậm chí còn quay trở lại phòng làm việc để lấy đồ đạc và tài liệu.

Khi đi dọc hành lang, Anna gặp một số người và được chào hỏi bằng những câu hỏi mà cô không có câu trả lời.

“Chúng ta phải làm gì?” cô thư ký hỏi.

“Chúng ta nên đi lên hay đi xuống?” chị lao công quét dọn vệ sinh hỏi. “Chúng ta có nên đợi người ta đến cứu không?” một thương gia tóc vàng hỏi.

Đây là những câu hỏi dành cho trưởng ban an ninh, nhưng không thấy Barry đâu.

Khi tới cầu thang bộ, cô nhập vào một nhóm người đang trong trạng thái hoảng loạn, một số thì yên lặng, một số khác thì gào thét; họ gần như chẳng biết phải làm gì tiếp theo. Không ai biết nguyên nhân của tiếng nổ và lý do tại sao tòa nhà vẫn còn lắc lư. Dù một số bóng đèn ở cầu thang đã bị tắt, dải dạ quang dọc theo viền các bậc cầu thang vẫn đủ để cô nhìn rõ mọi người.

Một số người quanh cô đang cố liên lạc với bên ngoài qua điện thoại di động, nhưng hầu như chẳng có mấy ai thành công. Một anh chàng đang nói chuyện với vợ quay sang nói với những người xung quanh: “Một chiếc máy bay đã đâm vào tòa tháp”. “Nhưng ở đâu, ở đâu?” nhiều giọng nói cùng lên tiếng. Anh ta chuyển câu hỏi đó cho vợ mình. “Ở phía trên, tầng thứ chín mươi mấy gì đó”, anh ta vừa nghe điện thoại vừa nói với những người xung quanh.

“Nhưng chúng ta phải làm gì bây giờ?” viên kế toán trưởng, người vẫn đứng yên ở bậc cầu thang trên cùng từ nãy tới giờ, hỏi. Anh chàng kia lại chuyển câu hỏi đó cho vợ, và chờ đợi câu trả lời. “Thị trưởng khuyên mọi người phải ra khỏi tòa nhà càng nhanh càng tốt”.

Nghe thấy vậy, tất cả mọi người đang có mặt trong cầu thang đều vội ào xuống tầng 82. Anna ngoái nhìn lại qua các cửa sổ bằng kính và ngạc nhiên khi thấy nhiều người vẫn ngồi yên tại bàn làm việc của họ, như thể họ đang trong nhà hát và đang chờ đợi màn tiếp theo.

Anna nghe theo lời khuyên của ông thị trưởng. Cô bắt đầu đếm các bậc cầu thang trong khi đi xuống. Mỗi tầng mười tám bậc. Điều đó có nghĩa là còn ít nhất một nghìn năm trăm bậc nữa trước khi cô xuống đến đại sảnh. Cầu thang ngày càng đông người hơn khi hàng đoàn người từ các tầng đang đổ dồn về đó, khiến cho nó có vẻ giống như một chuyến tàu điện ngầm vào giờ cao điểm. Anna ngạc nhiên khi thấy mọi người gần như đã lấy lại được vẻ bình thản.

Dòng người trong cầu thang nhanh chóng chia thành hai làn, một làn chuyển động chậm ở mé trong, và một làn chuyển động nhanh ở mé ngoài. Nhưng cũng giống như trên mọi con đường cao tốc, luật lệ không phải lúc nào cũng được tuân thủ, vì vậy đôi khi dòng người nghẽn lại một lúc rồi mới lại tuôn xuống một cách khó nhọc. Mỗi khi xuống đến một chiếu nghỉ ở cầu thang lại có người dừng lại, trong khi những người khác vẫn cố cất bước.

Anna vượt một ông già đội mũ nỉ đen. Cô nhớ là đã từng gặp ông ta nhiều lần trong mấy năm qua, và lần nào ông ta cũng đội chiếc mũ đó. Cô quay lại mỉm cười chào ông ta và ông ta nhấc mũ ra.

Tiến lên, tiến lên, tiến lên, cô rẽ dòng người để lao xuống, đôi khi chỉ mất không đầy một phút để xuống hết một tầng, nhưng thường thì cô bị cản lại bởi những người vừa xuống được vài ba tầng đã kiệt sức. Làn bên ngoài ngày càng đông khiến cô khó có thể bứt phá tốc độ.

Anna nghe thấy một mệnh lệnh rõ ràng đầu tiên khi cô xuống đến tầng thứ 68.

“Tránh sang bên phải, giữ đều tốc độ”, một giọng nói vang lên ở đâu đó bên dưới cô. Cho dù mệnh lệnh đó ngày càng nghe rõ hơn sau mỗi bậc cầu thang mà cô đi qua, phải xuống mấy tầng nữa Anna nhìn thấy người lính cứu hỏa đầu tiên đang chầm chậm tiến về phía cô. Anh ta mặc một bộ quần áo chống cháy rộng thùng thình, và mồ hôi chảy ròng ròng sau chiếc mũ cứu hỏa mang số hiệu 28 của anh ta. Anna không hiểu anh ta sẽ ra sao sau khi leo lên 30 tầng nữa. Đồng thời có vẻ anh ta phải mang theo quá nhiều thứ trên mình: những cuộn dây thừng trên một bên vai và hai bình ô xy trên lưng, giống như một nhà leo núi đang tìm cách chinh phục đỉnh Everest. Một người lính cứu hỏa nữa xuất hiện ngay phía sau anh ta, vác theo một chiếc vòi phun dài lòng thòng, sáu chiếc sào và một bình nước uống. Anh lính cứu hỏa này đổ nhiều mồ hôi đến mức chốc chốc anh ta lại dừng lại, tháo chiếc mũ ra và đổ một ít nước lên đầu.

Những người tiếp tục rời bỏ bàn làm việc và hoà vào dòng người đang di tản xuống dưới hầu hết đều câm lặng, cho đến khi một ông già trước mặt Anna bị vấp ngã vào một người phụ nữ. Người phụ nữ bị cạnh bậc cầu thang cứa đứt chân và quay lại trách mắng ông già.

“Không sao đâu”, một giọng nói cất lên sau lưng Anna. “Tôi đã trải qua chuyện này hồi năm 1993, và tôi có thể nói với chị rằng như thế này chưa là gì cả”.

Anna cúi xuống đỡ ông già dậy, giảm tốc độ và tránh sang bên để nhường chỗ cho vài người khác vượt qua.

Cứ mỗi khi xuống đến một chiếu nghỉ mới, Anna lại nhìn chằm chằm những người còn ngồi nán lại bàn làm việc qua các ô cửa kính. Dường như họ hoàn toàn không để ý đến dòng người đang tuôn xuống trước mặt mình. Cô thậm chí còn nghe lỏm được những mẩu đối thoại qua những chiếc cánh cửa rộng mở. Một người ở tầng 62, một nhà môi giới, đang cố thực hiện một giao dịch trước khi thị trường mở cửa vào lúc 9 giờ. Một người khác thì nhìn cô chằm chằm, như thể ô cửa sổ bằng kính là một chiếc màn hình ti vi và ông ta đang tường thuật một trận bóng đá. Ông ta đang tường thuật lại mọi chuyện với một người bạn ở Tháp Nam.

Ngày càng có nhiều lính cứu hỏa xuất hiện trèo ngược lại hướng di tản của dòng người, biến cầu thang thành một xa lộ hai chiều với những câu mệnh lệnh không ngớt của họ, “Tránh sang bên phải, giữ đều tốc độ”. Anna tăng tốc, nhưng một số người dường như không đi nổi nữa, và chính họ luôn làm chậm bước tiến của cô. Cho dù tòa nhà không còn lắc lư nữa, nét kinh hoàng vẫn hiện rõ trên khuôn mặt những người quanh cô. Họ không biết chuyện gì đã diễn ra trên đầu họ, và cũng không biết cái gì đang chờ họ bên dưới. Anna cảm thấy như mình có tội khi cô vượt qua một bà cụ đang được hai thanh niên khiêng xuống bằng một chiếc ghế da. Hai chân bà cụ sưng phồng, và bà cụ thở một cách khó nhọc.

Tiến lên, tiến lên, tiến lên, hết tầng này đến tầng khác, Anna cố giữ vững tốc độ, nhưng rồi đến lúc cô thấm mệt.

Cô nghĩ tới Tina và Rebecca, và cầu nguyện cho cả hai người ấy được an toàn. Cô thậm chí còn hình dung thấy cảnh Fenston và Leapman vẫn còn ngồi lại trong văn phòng chủ tịch với niềm tin rằng họ là những người hoàn toàn bất khả xâm phạm trước bất kỳ một mối hiểm nguy nào.

Anna bắt đầu cảm thấy tự tin rằng giờ đây cô đã được an toàn và cuối cùng sẽ thoát khỏi cơn ác mộng này.

Cô thậm chí còn mỉm cười trước ý nghĩ về việc cô sẽ thuật lại chuyện này như thế nào, vừa lúc ấy có ai đó la lên ngay sau lưng cô, “Một chiếc máy bay nữa đã lao vào Tháp Nam!”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11


Jack giật mình vì một tiếng nổ giống tiếng bom ở phía bên kia phố. Sally chạy vào phòng và nói với anh rằng một chiếc máy bay đã đâm vào Tháp Bắc của Trung tâm Thương mại Thế giới.

“Hy vọng là nó đâm thẳng vào văn phòng của Fenston”, anh nói.

Những suy nghĩ tiếp theo của anh trở nên nghiêm túc hơn và được anh thể hiện rõ khi cùng bàn bạc với Dick Macy, chỉ huy trưởng, và những nhân viên mật vụ cao cấp khác tại chỉ huy sở. Trong khi các nhân viên khác ôm lấy điện thoại để tìm hiểu xem đích thực chuyện gì đang diễn ra ở cách đó một dặm, Jack nói với viên chỉ huy trưởng rằng anh tin chắc đó là một vụ tấn công khủng bố đã được lên kế hoạch tỉ mỉ. Khi chiếc máy bay thứ hai lao vào Tháp Nam vào lúc 9:03, tất cả những gì Macy nói là, “Đúng, nhưng là tổ chức khủng bố nào?”

Suy nghĩ tiếp theo của anh đến một cách bất chợt. Anh đã hy vọng rằng Anna Petrescu sẽ bình yên vô sự, nhưng khi Tháp Nam đổ sụp xuống 56 phút sau đó, anh đoán rằng Tháp Bắc cũng sẽ chung số phận.

Anh quay trở lại bàn làm việc và bật máy tính lên. Thông tin đổ về như thác từ văn phòng tiền tiêu của họ ở Massachusetts. Các báo cáo cho biết hai chiếc máy bay đó cất cánh từ bên ngoài Boston, và còn hai chiếc nữa đang bay trên bầu trời. Những cuộc gọi điện thoại của hành khách cho thấy hai chiếc máy bay này cũng đã bị bọn khủng bố chiếm giữ. Một trong hai chiếc đang bay về phía New York.

Tổng thống George Bush đang thăm một trường học ở Florida khi vụ tấn công thứ nhất xảy ra, và ông ta ngay lập tức được đưa tới căn cứ không quân Barksdale ở Louisiana. Phó Tổng thống Dick Cheney đang ở Washington, ông ta đã ra lệnh bắn hạ hai chiếc còn lại. Mệnh lệnh của ông ta đã không được thực hiện.

Cheney cũng muốn biết tổ chức khủng bố nào đã thực hiện các vụ tấn công này, bởi vì tối hôm đó Tổng thống sẽ phải lên truyền hình để trấn an dân chúng, và ông ta phải có câu trả lời. Jack vẫn ngồi tại bàn làm việc, nhận những cú điện thoại của đồng nghiệp tại hiện trường, và báo cáo lại cho Macy. Một trong số các nhân viên mật vụ, Joe Corrigan, báo cáo rằng có người trông thấy Fenston và Leapman bước vào một tòa nhà ở Phố Wall ngay trước khi chiếc máy bay thứ nhất đâm vào Tháp Bắc. Jack nhìn chồng hồ sơ trên bàn và chia tay với mong ước của mình về một “Vụ việc đã được khép lại".

“Thế còn Petrescu?” anh hỏi.

“Không biết”, Joe đáp. “Tất cả những gì tôi có thể nói với anh là người ta thấy cô ấy bước vào tòa tháp lúc 7 giờ 46 phút, và chưa thấy bước ra”. Jack trông lên màn hình tivi. Chiếc máy bay thứ ba đã lao vào Lầu Năm góc. Nhà trắng sẽ là mục tiêu tiếp theo, anh nghĩ.

***

“Một chiếc máy bay thứ hai đã đâm vào Tháp Nam”, một phụ nữ ở bậc cầu thang ngay phía trên Anna lặp lại câu nói. Anna không tin rằng loại tai nạn khủng khiếp như vậy lại có thể xảy ra hai lần trong một ngày.

“Không phải là tai nạn”, một giọng nói phía sau cô cất lên như đọc được suy nghĩ của cô. “Chiếc máy bay duy nhất đâm vào một tòa nhà ở New York là vào năm 45. Bay vào tầng thứ 79 của tòa nhà Empire State Building. Nhưng hôm đó sương mù dầy đặc, và thời đó cũng chưa có những thiết bị định hướng và điều khiển hiện đại như ngày nay. Và đừng quên là vùng trời trên thành phố này là vùng cấm bay, vì vậy đây là một âm mưu đã được lên kế hoạch kỹ lưỡng. Tôi cá rằng chúng ta không phải là những nạn nhân duy nhất.

Mọi người bắt đầu nói về đủ thứ âm mưu, những vụ tai nạn kỳ quái hay những câu chuyện về các vụ tấn công khủng bố. Nếu di chuyển nhanh hơn, họ sẽ tạo nên một tình trạng hỗn loạn. Anna nhận thấy mọi người tranh nhau nói vì muốn che dấu sự sợ hãi tột cùng của họ.

“Tránh sang bên phải, giữ đều tốc độ”, là tiếng la không ngớt phát ra từ những bộ đồng phục đang đi ngược chiều với dòng người. Một số người trong dòng di tản dừng lại vì quá mệt, tạo cơ hội cho Anna vượt lên phía trước. Cô cảm thấy biết ơn những giờ luyện tập tại công viên Central Park và những mũi adrenalin đã giúp cô giữ vững phong độ.

Khi xuống đến khoảng tầng thứ 40, Anna bắt đầu ngửi thấy mùi khói, và cô có thể nghe thấy ai đó ở tầng dưới đang ho rũ rượi. Khi cô xuống đến chiếu nghỉ tiếp theo, khói trở nên dầy đặc hơn ùa vào lồng phổi cô. Cô lấy tay che mắt và gập người lại vì ho. Anna nhớ lại cô đã đọc thấy ở đâu đó rằng 90 phần trăm những ca tử vong trong các vụ hỏa hoạn là do hít phải khói. Nỗi sợ hãi của cô ngày càng gia tăng khi cô thấy dòng người ở đằng trước mình đi chậm lại rồi dừng hẳn, Chứng ho đã trở thành một đại dịch. Phải chăng họ đã bị kẹt vào bẫy, lên cũng không xong mà xuống cũng không được?

“Tiếp tục đi đi”, một lính cứu hỏa đi ngược chiều ra lệnh. “Vài tầng dưới còn tệ hơn nữa, nhưng rồi mọi người sẽ thoát khỏi đám khói này”, anh ta an ủi những người còn lưỡng lự. Anna nhìn chằm chằm vào khuôn mặt người lính cứu hỏa vừa đưa ra mệnh lệnh ấy. Cô quyết định nghe theo lời anh lính, và tin tưởng rằng những gì tồi tệ nhát đã ở lại phía sau. Cô tiếp tục vừa che mắt vừa ho và dò dẫm đi xuống. Người lính cứu hỏa nói đúng, khi cô xuống được thêm ba tầng nữa, khói đã tan hết.

Anna quyết định chỉ nghe theo lời những người lính cứu hỏa đang đi ngược chiều và không thèm để ý đến bất cứ nhận định nào của những kẻ nghiệp dư đang di tản xuống dưới. Một cảm giác nhẹ nhõm xâm chiếm những người vừa thoát ra khỏi đám khói, và họ ngay lập tức cố tăng tốc. Nhưng dòng người không thể tiến nhanh được vì bị một số người chậm chân ngáng đường. Anna cố giữ bình tĩnh khi cô phải đi sau một ông già mù được một con chó dẫn đường. “Đừng sợ khói, Rosie”, ông già nói. Con chó ve vẩy đuôi.

Xuống, xuống, xuống, tốc độ là do người đi trước quyết định. Khi Anna xuống đến quán cà phê không người ở tầng thứ 39, dòng lính cứu hỏa đông nghịt được tiếp viện thêm những nhân viên của Cảng vụ và các sỹ quan cảnh sát của Đơn vị Cứu trợ Khẩn cấp, những viên sỹ quan được yêu mến nhất ở New York vì họ chỉ xuất hiện để cứu người, không vé phạt, không bắt bớ. Anna cảm thấy như mình có lỗi. Trong khi cô tìm mọi cách để đi xuống cho nhanh thì lại có biết bao nhiêu người đang cố làm điều ngược lại.

Khi Anna xuống đến tầng thứ 24, một số người đi trước cô dừng bước để thở, một số khác thậm chí còn dừng lại để tán chuyện, trong khi một số khác nữa thì vẫn chưa chịu rời khỏi bàn làm việc vì không tin rằng chuyện xảy ra ở tầng thứ 94 lại có thể ảnh hưởng tới họ. Anna nhìn quanh, cố tìm kiếm một khuôn mặt quen thuộc, Tina, Rebecca, hoặc thậm chí là Barry, nhưng chẳng có ai, cô đang ở trong một miền đất lạ.

“Tôi đang rà soát tất cả các tầng”, cô trông thấy một viên sỹ quan đang nói trên bộ đàm. Anna nhìn theo viên sỹ quan trong khi anh ta đi kiểm tra từng phòng. Đó không phải là một chuyện có thể làm xong trong chốc lát, bởi vì mỗi một tầng rộng bằng cả một sân bóng đá.

Ở tầng thứ 21, một người vẫn ngồi lỳ ở bàn làm việc của mình; ông ta vừa thực hiện một vụ giao dịch tiền tệ trị giá một tỉ đôla và đang chờ câu trả lời xác nhận.

“Ra ngoài ngay”, viên sỹ quan quát lên, nhưng người đàn ông ăn mặc bảnh bao kia phớt lờ mệnh lệnh của anh ta và vẫn tiếp tục gõ lên bàn phím. “Tôi nói RA NGOÀI NGAY”, viên sỹ quan chỉ huy cứu hỏa lại quát lên, trong khi hai lính cứu hỏa dưới quyền của anh ta nhấc người đàn ông ra khỏi ghế và khiêng ông ta ra ngoài cầu thang. Nhà môi giới tiền tệ miễn cưỡng gia nhập vào dòng người.

Khi Anna xuống đến tầng thứ 20, cô gặp phải một vấn đề mới. Giờ đây cô phải lội qua những vũng nước và đi dưới những dòng nước đang đổ lên đầu mình từ những bình phun và những đường ống nước vỡ ở khắp các tầng. Cô thận trọng bước qua những tấm kính vỡ và những mẩu nhiên liệu đang cháy. Dòng người đi chậm lại. Cô cảm thấy mình giống như một cổ động viên bóng đá đang tìm cách len ra khỏi sân vận động đen đặc toàn người là người và chỉ có một cổng mở. Khi xuống đến gần tầng 10, tốc độ của cô tăng lên đáng kể. Tất cả những tầng bên dưới đều đã được sơ tán hết, và ngày càng có ít người cản đường cô.

Tại tầng 10, Anna nhìn vào một căn phòng không người qua chiếc cửa mở toang. Màn hình vi tính vẫn nhấp nháy, và những chiếc ghế như đang chờ chủ nhân quay trở lại từ phòng vệ sinh. Những ly cà phê và những lon Coke uống dở vẫn còn đó. Giấy vương vãi khắp nơi, nhưng một bức ảnh gia đình vẫn nằm nguyên chỗ. Một ai đó phía sau va vào cô, vì vậy cô lại vội đi tiếp.

Khi Anna xuống đến tầng 7, nước và những đồ vật nổi lềnh bềnh bao lấy cô. Khi cô đang thận trọng bước qua những mảnh vỡ đủ loại quanh mình thì nghe thấy một giọng nói cất lên từ một chiếc loa đâu đó bên dưới. Ban đầu cô không nghe rõ, nhưng rồi tiếng nói trên loa to dần, thúc giục cô tiến bước, “Tiến lên, không được nhìn lại phía sau, không được sử dụng điện thoại di động làm cản đường người khác”.

Thêm ba tầng nữa và Anna đã xuống đến đại sảnh. Cô lội bì bõm trong nước, và đi qua chỗ chiếc thang máy vừa đưa cô lên văn phòng của mình vài giờ trước đó. Nước ở đâu bỗng nhiên dội ào ào xuống đầu cô, nhưng dù sao thì cô cũng đã ướt như chuột lột từ đầu đến chân.

Những mệnh lệnh phát ra từ chiếc loa ngày càng rõ hơn và thúc ép hơn. “Tiến lên, ra khỏi tòa nhà ngay, càng nhanh càng tốt”. Không dễ như thế đâu, Anna muốn nói với họ như vậy. Khi ra đến chiếc cửa quay mà cô vừa đi qua ban sáng, cô thấy nó đã bị bẹp dúm. Chắc là nó đã bị những làn sóng lính cứu hỏa đập vỡ để lấy lối mang những dụng cụ của họ vào tòa nhà.

Anna cảm thấy mất phương hướng và không biết phải làm gì tiếp theo.

Cô có nên đứng đây chờ đồng nghiệp của mình không? Cô đứng gần như bất động, nhưng chỉ trong vài giây, trước khi cô nghe thấy một mệnh lệnh gấp gáp khác gần như đang chĩa thẳng vào một mình cô.

“Đi tiếp đi, thưa quý bà, không được sử dụng điện thoại di động, đừng nhìn lại phía sau”.

“Nhưng đi đâu?” một ai đó la lên.

“Qua thang cuốn, xuống khu mua bán, và rời khỏi tòa nhà càng nhanh càng tốt”.

Anna hoà vào đoàn người mệt mỏi bước về phía cầu thang cuốn. Cô để mặc chiếc thang cuốn đưa mình xuống khu phòng chờ trước khi bước lên một chiếc thang cuốn khác để đi lên khu dạo chơi, nơi cô vẫn thường cùng Tina và Rebecca ăn trưa và nghe hoà nhạc ngoài trời. Không còn không khí trong lành nữa và tát nhiên là cũng chẳng có tiếng đàn viôlông, chỉ còn tiếng loa vang lên, “Đừng nhìn lại phía sau, đừng nhìn lại phía sau”. Anna phớt lờ mệnh lệnh ấy, và chuyện đó chẳng những làm cô chậm bước lại mà còn khiến cô bị ngã. Đầu gối cô đập mạnh xuống nền nhà. Cô trông thấy một người, người đầu tiên, rồi một người nữa, chắc là những người bị kẹt lại trên những tầng từ thứ 90 trở lên, nhảy ra khỏi cửa sổ để chọn một cái chết tức thì thay vì phải chịu đau đớn trong biển lửa. “Đứng dậy đi, thưa bà và đi tiếp đi”.

Anna cố gượng dậy và loạng choạng đi về phía trước, thình lình cô nhận ra rằng những viên sỹ quan đang làm nhiệm vụ di tản đều cố tránh không nhìn vào mắt những người đang chạy ra khỏi tòa nhà và không chịu trả lời bất kỳ một câu hỏi cá nhân nào. Cô cho rằng họ phải làm thế vì không muốn làm chậm lại quá trình di tản và cản đường những người còn đang mắc kẹt trong tòa nhà.

Khi Anna đi qua cửa hàng sách Border, cô liếc nhìn vào cửa kính và trông thấy trên giá một cuốn sách đang bán rất chạy có tựa đề Valhalla Rising.

“Đi tiếp đi, thưa bà”, một giọng nói nhắc lại, lần này thậm chí còn to hơn. “Tới đâu”, cô hỏi một cách tuyệt vọng.

“Tới đâu cũng được, nhưng cứ đi đi”.

“Theo hướng nào?”

“Hướng nào cũng được, miễn là rời xa tòa nhà này càng nhanh càng tốt”. Anna nôn ra tất cả những gì còn sót lại trong dạ dày rồi lại tiếp tục cất bước.

Khi tới lối ra vào khu Plaza, cô đi qua những chiếc xe cứu hỏa và trông thấy rất nhiều những chiếc xe cứu thương đang chăm sóc những người bị thương và những người kiệt sức không còn nhấc nổi chân. Anna không muốn họ phải lãng phí thời gian vì mình. Khi ra tới đường, cô nhìn lên và trông thấy một biển chỉ dẫn có một mũi tên màu đen. Cô căng mắt nhìn và chỉ trông thấy dòng chữ “Tòa thị chính”. Anna bước nhanh. Cô bắt đầu chạy và chẳng mấy chốc đã vượt qua những người thoát ra khỏi tòa nhà trước cô vì họ làm việc ở những tầng dưới. Rồi cô nghe thấy một tiếng động lạ phía sau mình. Nó giống một tiếng sấm đang ngày càng to dần, từng giây một. Cô quay đầu lại nhìn, dù không muốn. Anna đứng như trời trồng. Trước mắt cô là tòa Tháp Nam đang đổ sụp xuống như nó chỉ là một mô hình được làm bằng tre. Chỉ trong vài giây, toàn bộ phần còn lại của tòa tháp đều vỡ tan và rơi xuống, bụi và những mảnh vỡ tung lên phủ kín cả khu vực, kèm theo đó là một núi lửa và khói dày đặc lơ lửng trên bầu trời một lúc, rồi bắt đầu luồn qua những con phố đông nghẹt người, nhấn chìm bất kỳ ai trên đường đi của nó. Anna chạy như chưa từng chạy bao giờ, nhưng cô biết chuyện đó chẳng có ích gì. Chỉ vài giây nữa, con mãng xà màu xám kia sẽ đuổi kịp cô và bóp nghẹt cô bằng hơi thở chỉ toàn lửa và khói của nó. Anna tin chắc rằng mình sắp chết. Cô chỉ mong sao không phải chịu đựng sự tra tấn quá lâu.

***

Từ một căn phòng an toàn trên Phố Wall, Fenston nhìn chằm chằm vào tòa tháp đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới.

Ông ta không dám tin vào mắt mình khi thấy chiếc máy bay thứ hai đâm thẳng vào Tháp Nam.

Trong khi phần lớn người dân New York đang nghĩ cách cứu giúp bạn bè, đồng nghiệp và người thân vượt qua bi kịch này, một số người khác nghĩ cách đưa nước Mỹ ra khỏi đau thương này, Fenston chỉ nghĩ đến một điều duy nhất.

Ông ta và Leapman tới Phố Wall để gặp một khách hàng chỉ vài giây trước khi chiếc máy bay thứ nhất lao vào Tháp Bắc. Fenston hủy cuộc hẹn, và suốt một tiếng đồng hồ sau đó, ông ta tìm cách liên lạc bằng điện thoại công cộng với văn phòng của mình. Không có ai trả lời. Leapman cũng cố làm theo chủ mình bằng điện thoại di động.

Khi Fenston nghe thấy tiếng động thứ hai giống như một vụ phun trào núi lửa, ông ta quẳng ống nghe và lao ra phía cửa sổ. Leapman cũng vội vã chạy theo. Cả hai cùng đứng yên lặng nhìn cảnh tòa Tháp Nam đang đổ xuống.

“Chẳng bao lâu nữa Tháp Bắc cũng sẽ đổ”, Fenston nói.

“Và Petrescu chắc sẽ không thể sống sót”, Leapman nói.

“Tôi không quan tâm tới đồ khỉ gió ấy”, Fenston nói. “Vấn đề là nếu Tháp Bắc đổ, tôi sẽ mất tiền, và lượng tiền đó chưa được bảo hiểm”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12


Anna chạy hết tốc lực, và cô nhận thấy mọi thứ quanh mình đang trở nên tĩnh lặng hơn sau mỗi bước chạy của cô. Những tiếng la hét lắng dần, và cô biết mình phải tiếp tục chạy nữa. Dường như phía sau cô không còn ai, lần đầu tiên trong đời, cô mong có người vượt mình trên đường chạy, ai cũng được, để cô không phải cảm thấy mình là người duy nhất còn lại trên trái đất. Giờ thì cô hiểu được cảm giác của những người bị tuyết lở rượt đuổi với tốc độ gấp hàng chục lần tốc độ tối đa của con người. Cô cũng đang chạy trốn tuyết lở, một trận tuyết lở màu đen. Anna hít những hơi thở sâu trong khi bắt cơ thể mình phải đạt tới một tốc độ mà cô chưa từng biết đến. Cô kéo chiếc áo cánh bằng lụa màu trắng- giờ đã chuyển thành màu đen và ướt sũng-lên che miệng, chỉ một tích tắc trước khi cô bị con rồng màu đen bắt kịp.

Một dòng không khí cuồng nộ quật cô xuống đất và quăng cô về phía trước, nhưng cô cố đứng dậy và chạy tiếp. Chỉ được vài bước, cô cảm thấy nghẹt thở như sắp bị ngất đi. Cô cố lao lên vài bước nữa, vài bước nữa, cho đến khi cô đập đầu vào một vật cứng. Anna đặt tay lên bề mặt một bức tường và bắt đầu dò dẫm tìm đường đi. Nhưng cô đang tránh xa hay đang xông vào giữa luồng khói? Tro và bụi xộc đầy vào miệng, mắt, tai, mũi cô và bám vào da cô. Cô có cảm giác như mình sắp bị thiêu sống. Cô nghĩ tới hình ảnh những người nhảy ra khỏi tòa nhà. Một cái chết như vậy nhẹ nhàng hơn rất nhiều so với việc bị khói và lửa tra tấn đến chết. Giờ thì cô đã hiểu cảm giác của họ, nhưng cô đâu có ở trên một tòa nhà cao tầng nào để có thể nhảy xuống. Cô chỉ còn có thể nghĩ đến một điều là bao lâu nữa mình sẽ chết ngạt. Cô bước lên một bước nữa, quỳ xuống và bắt đầu cầu nguyện.

Đức Chúa trời... Cô cảm thấy lòng nhẹ nhõm, và khi cô vừa chuẩn bị nhắm mắt để buông mình vào một giấc ngủ vĩnh hằng thì trông thấy ánh đèn pha của xe cảnh sát. Người ở trên thiên đường... Cô thu hết tàn lực đứng lên và loạng choạng bức về phía ánh đèn. Tên Người là linh thiêng... nhưng chiếc xe chạy nhanh quá, và không nhận thấy tiếng kêu cứu yếu ớt của cô. Vương quốc của Người... Anna lại ngã xuống và bị mép đường cứa rách đầu gối, Người là đấng tối thượng, nhưng cô chẳng cảm thấy gì. Dưới trần thế, cũng như trên thiên đường. Cô bám vào mép hè đường và không hiểu bằng cách nào đó, cô tiến lên được một vài insơ nữa. Cô vừa sắp tắc thở thì cảm thấy mình chạm vào một cái gì đó âm ấm. Còn sống không? “Cứu”, cô kêu lên một cách yếu ớt và hoàn toàn không hy vọng nhận được câu trả lời.

“Đưa tay cho tôi”, câu trả lời đến ngay lập tức. Cánh tay của anh ta rất rắn chắc. “Cố đứng lên nào!”

Với sự giúp đỡ của anh ta, bằng một phép màu nào đó, Anna đã đứng dậy được. “Cô có trông thấy ánh đèn ở đằng kia không?” giọng nói hỏi cô, nhưng cô thậm chí chẳng trông thấy anh ta đang chỉ tay về hướng nào. Anna xoay một vòng, và nhìn chằm chằm vào không gian tối đen đang bao phủ quanh mình. Bỗng cô hét lên một tiếng kêu vui sướng khi cô nhìn thấy một tia nắng đang xuyên qua màn khói dầy đặc. Cô nắm chặt tay người lạ và cả hai cùng nhích dần về phía luồng sáng mỗi lúc một lớn dần, cho đến khi cô bước ra khỏi địa ngục và trở về với New York.

Anna quay sang nhìn người vừa cứu cô. Một hình người phủ đầy tro bụi. Nếu không có chiếc mũ và phù hiệu, cô sẽ không thể nhận ra đó là một viên cảnh sát. Anh ta mỉm cười và đôi hàm răng trắng bóng của anh ta hiện ra trên khuôn mặt đen như bồ hóng. “Cứ nhằm hướng ánh sáng mà đi”, anh ta nói, và biến vào màn khói đen kịt trước khi cô kịp nói lời cảm ơn. Amen.

***

Fenston chỉ dừng tìm cách liên lạc với văn phòng của mình khi tòa Tháp Bắc đổ sụp xuống trước mắt ông ta. Ông ta để ống nghe xuống rồi chạy dọc theo hành lang để tìm Leapman. Gã đang nguệch ngoạc dòng chữ “ĐÃ BÁN” lên cánh cửa một văn phòng không có người.

“Ngày mai sẽ có mười nghìn người tới thuê chỗ này”, gã nói. “ít nhất thì chúng ta cũng đã giải quyết được một chuyện”.

“Ông có thể thay thế một văn phòng, nhưng thứ ông không thể thay thế là tiền của tôi”, Fenston nói một cách bực bội. Ông ta dừng lại. “Và nếu tôi không sờ được vào bức Van Gogh.”

Leapman nhìn đồng hồ. “Chắc đã bay qua được một nửa Đại Tây Dương”.

“Hy vọng là thế, bởi vì bây giờ thậm chí chúng ta chẳng còn tài liệu nào để chứng minh bức tranh đó thuộc về mình”, Fenston vừa nói vừa nhìn ra ngoài cửa sổ. Ông ta nhìn chằm chằm vào đám mây xám xịt đang lơ lửng trên khu vực nơi trước đó tòa Tháp đôi vẫn vươn lên kiêu hãnh.

Anna nhập vào một nhóm người tả tơi khi họ thoát ra khỏi bóng tối. Mọi người quanh cô trông đều rã rời như thể họ vừa kết thúc một cuộc chạy maratông, nhưng vẫn chưa đến đích. Thoát ra khỏi bóng đen kinh hoàng đó, Anna nhận thấy mình không dám nhìn thẳng vào ông mặt trời; thậm chí việc mở mí mắt ra cũng đã là một khó khăn đối với cô. Đi tiếp, đi tiếp, cô loạng choạng, từng ly một, từng bước một và sau mỗi bước lại gập người ho ra bụi và tro. Cô tự hỏi không hiểu còn bao nhiêu thứ chất lỏng đen đặc ấy đọng lại trong người cô. Đi tiếp được vài bước nữa, cô khuỵu gối xuống, rồi tiếp tục ho và khạc nhổ. Khi ngẩng nhìn lên, cô thấy một đám người đang nhìn mình một cách kinh ngạc, như thể cô vừa hạ cánh xuống từ một hành tinh khác.

“Chị đã có mặt ở một trong hai tòa tháp đó à?” một người hỏi cô. Anna không còn sức để trả lời, và cô quyết định tránh xa những cặp mắt tò mò ấy càng nhanh càng tốt. Đi được vài bước nữa, Anna đụng phải một du khách Nhật Bản đang cúi khom người để chụp ảnh cô. Cô bực mình xua tay. Ông ta lại cúi thấp mình hơn nữa và xin lỗi.

Khi tới ngã tư tiếp theo, cô ngã ngồi xuống bên vỉa hè và nhìn lên biển chỉ đường-cô đang ở giao lộ giữa phố Franklin và phố Nhà thờ. “Mình chỉ còn cách nhà Tina vài khu nhà nữa” là ý nghĩ đầu tiên của cô. Nhưng Tina vẫn còn ở đâu đó sau cô, làm sao cô ấy có thể sống sót? Không một tín hiệu cảnh báo, một chiếc xe buýt đỗ lại ngay sát bên cô. Cho dù trên xe đã chật cứng người, giống như những toa xe điện ở San Francisco vào giờ cao điểm, mọi người vẫn cố mở một đường cho cô lên. Chiếc xe buýt dừng lại ở mọi góc phố, để đón một số người lên và thả một số người khác xuống, và không có ai hỏi thu tiền. Dường như mọi người dân New York đang đoàn kết lại để vượt qua thảm kịch này.

“Chúa ơi”, Anna thì thầm khi ngồi trên xe buýt, hai tay ôm lấy mặt. Lần đầu tiên cô nghĩ tới những người lính cứu hỏa đi ngược chiều với mình nơi cầu thang bộ, tới Tina và Rebecca, những người chắc có lẽ là đã thiệt mạng. Một thảm kịch không chỉ còn là một bản tin khi một nạn nhân của nó là người mà ta quen biết.

Khi chiếc xe buýt dừng lại tại một ngôi làng gần công viên Quảng trường Washington, Anna gần như ngã ra khỏi xe. Cô loạng choạng đi lên vỉa hè, ho ra những cục bụi đen kịt. Cô đã cố nhịn để không ho trên xe buýt. Một người phụ nữ cúi xuống và đưa cho cô một chai nước. Anna súc miệng và nhổ ra một bãi nước đen nhờ. Cô tiếp tục súc miệng hết chai nước mà không dám uống lấy một giọt. Người phụ nữ chỉ về phía một khách sạn nơi những người thoát nạn đang vào ra từng đoàn. Chị ta nắm lấy tay Anna, rồi đưa cô tới khách sạn đó và dẫn cô tới tận toa lét dành cho nữ giới ở tầng trệt. Trong toa lét đầy người, cả nam lẫn nữ. Anna nhìn mình trong gương và hiểu tại sao những người đi đường lại nhìn cô một cách tò mò như vậy. Trông cô như thể vừa bị ai đó dội mấy thùng nước tro lên đầu. Cô rửa tay dưới vòi nước cho đến khi chỉ còn những vết đen bám ở móng tay. Rồi cô bắt đầu tìm cách gột rửa lớp bụi bám trên mặt-một công việc đầy khó khăn. Cô quay lại để cảm ơn người phụ nữ lạ, nhưng chị ta, cũng giống như viên cảnh sát kia, đã biến mất.

Anna khập khiễng đi ra đường, cổ họng khô rất, đầu gối rớm máu, chân phồng rộp và đau nhức. Vừa loạng choạng đi dọc khu Waverly Place, cô vừa cố nhớ số nhà của Tina. Cô đi qua nhà hàng Waverley Diner không một bóng người, rồi dừng lại trước số nhà 273.

Anna nắm lấy thanh thép quen thuộc ở bao lơn như nắm một sợi dây cứu mệnh và khập khiễng đi lên những bậc thềm tới cánh cửa trước. Cô lấy tay lần theo những cái tên gắn trên một tấm bảng cạnh cửa: Amato, Kravits, Gambino, O’Rourke, Forster... Forster, Forster, cô lặp lại cái tên một cách sung sướng, trước khi ấn cái chuông nhỏ. Nhưng làm sao Tina có thể trả lời tiếng gọi chuông của cô, khi mà chắc chắn là cô ta đã chết, là ý nghĩ duy nhất của Anna lúc đó. Cô bỏ tay ra khỏi bảng tên như thể điều đó có thể làm cho Tina sống lại. Cuối cùng cô quay mình bước đi, nước mắt chảy dàn dụa trên khuôn mặt bám đầy tro bụi, rồi thình lình một giọng nói bực bội lên tiếng hỏi, “Ai đấy?”

Anna khuỵu xuống bậc thềm.

“Ôi, Chúa ơi”, cô kêu lên, “cậu vẫn còn sống, vẫn còn sống”.

“Nhưng cậu không thể”, một giọng nói đầy ngờ vực cất lên.

“Mở cửa ra”, Anna nói, “và cậu sẽ thấy mình vẫn còn đây”.

Tiếng chốt cửa được rút ra là âm thanh tuyệt vời nhất mà Anna được nghe ngày hôm ấy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13


“Cậu vẫn còn sống ư?” Tina vừa nói vừa mở toang cánh cửa và ôm chầm lấy bạn. Anna trông giống một người vừa chui ra từ ống khói, nhưng điều đó không ngăn cản Tina ôm chặt lấy cô.

“Mình đang nghĩ lại chuyện cậu lúc nào cũng làm mình bật cười và đang tự hỏi không hiểu từ giờ trở đi mình có còn được cười nữa hay không, vừa lúc ấy thì có tiếng chuông”.

“Còn mình thì nghĩ rằng dù cậu có tìm cách thoát được ra khỏi tòa nhà, cậu cũng khó mà sống sót khi tòa tháp đổ xuống”.

“Nếu có một chai sâm banh, tớ sẽ mở để chúng ta ăn mừng”, Tina nói và buông bạn ra.

“Mình chỉ cần một cốc cà phê, và thêm một cốc nữa, rồi mình sẽ đi tắm”.

“May quá, mình có cà phê”, Tina nói rồi nắm lấy tay bạn mình và dẫn Anna tới căn bếp nhỏ ở cuối hành lang. Anna để lại phía sau cô những dấu chân xám xỉn trên thảm.

Anna ngồi xuống chiếc bàn tròn nhỏ bằng gỗ và để tay vào lòng trong khi chiếc tivi không tiếng đang chiếu những hình ảnh liên quan tới câu chuyện. Cô cố ngồi yên vì biết rằng bất kỳ thứ gì bị cô chạm vào đều vấy bẩn. Tina dường như không để ý đến chuyện đó.

“Mình biết chuyện này nghe có vẻ kỳ cục”, Anna nói, “nhưng mình thực sự không biết chuyện gì đang xảy ra”. Tina vặn to chiếc tivi.

“Chỉ 15 phút”, Tina vừa nói vừa rót cà phê, “và cậu sẽ biết hết mọi chuyện”.

Anna nhìn hình ảnh quay đi quay lại cảnh một chiếc máy bay đang đâm vào Tháp Nam, những người nhảy ra khỏi cửa sổ từ các tầng trên cao để chọn một cái chết ít đau đớn, và sự sụp đổ của Tháp Nam rồi đến Tháp Bắc.

“Và một chiếc máy bay nữa đâm vào Lầu Năm góc à?” cô hỏi. “Vậy có tất cả bao nhiêu chiếc?”

“Còn một chiếc thứ tư nữa”, Tina vừa nói vừa đặt hai cốc cà phê lên bàn, “nhưng không ai biết chắc nó đang hướng tới đâu”.

“Nhà Trắng, chắc là thế”, Anna nói, vừa lúc cô trông thấy Tổng thống Bush trên màn hình. Ông ta đang nói từ căn cứ không quân Barksdale ở Louisiana: “Hoa Kỳ sẽ truy tìm và tiêu diệt những kẻ đã thực hiện những hành động hèn nhát này”.

Tivi lại chuyển sang những hình ảnh về chiếc máy bay thứ hai đang lao vào Tháp Nam.

“Ôi, Chúa ơi”, Anna thốt lên. “Mình thậm chí còn chưa nghĩ tới những hành khách vô tội trên những chiếc máy bay đó. Kẻ nào đã gây nên tất cả những chuyện này?” cô hỏi, trong khi Tina rót thêm cà phê cho cô.

“Bộ Ngoại giao khá thận trọng”, Tina nói. “Và tất cả những đối tượng khả nghi nhất-Nga, Triều Tiên, Iran, Iraq- đều vội lên tiếng, “Không phải tôi”, và thề rằng họ sẽ làm tất cả để giúp truy tìm những kẻ phải chịu trách nhiệm”.

“Nhưng các cơ quan truyền thông nói gì, bởi vì họ chẳng có lý do gì để phải giữ mồm giữ miệng”.

“CNN thì nói thẳng thủ phạm là nhóm khủng bố Al-Qaeda ở Afghanistan - mình nghĩ mình đã đánh vần chính xác cái tên đó, nhưng cũng không dám chắc vì chưa bao giờ chúng ta nghe nói đến tổ chức này”, Tina vừa nói vừa ngồi xuống chiếc ghế đối diện với Anna.

“Mình nghĩ bọn chúng là một lũ cuồng tín tôn giáo, những kẻ mà theo mình chỉ muốn nuốt chửng Arập Xêút để chiếm đoạt nguồn dầu lửa ở đó”. Anna nhìn lên màn hình tivi và lắng nghe bình luận viên đang nói về cảm giác của những người trong Tháp Bắc khi chiếc máy bay đầu tiên đâm vào đó. Làm sao ông biết được cảm giác ấy, Anna muốn hỏi ông ta. Một trăm phút thu lại thành vài giây, rồi quay đi quay lại giống như một mẩu quảng cáo quen thuộc. Khi trên tivi hiện ra hình ảnh Tháp Nam đang đổ sụp xuống và khói bụi bốc lên cuồn cuộn, Anna ho rũ rượi và làm tro bụi bay khắp xung quanh.

“Cậu không sao chứ”, Tina vừa hỏi vừa đứng bật dậy và nhoài người về phía bạn.

“Không sao đâu”, Anna nói rồi uống một ngụm cà phê. “Mình tắt tivi được không, mình không thể chịu được cảnh ấy thêm nữa”.

“Tất nhiên là được”, Tina vừa nói vừa đưa tay với chiếc điều khiển từ xa. Những hình ảnh trên màn hình liền tan biến.

“Mình không thể không nghĩ đến những người bạn của chúng ta trong tòa tháp”, Anna nói, trong khi Tina rót thêm cà phê vào cốc của cô. “Mình băn khoăn không biết liệu Rebecca...”

“Không thấy tin tức gì từ cô ấy”, Tina nói. “Barry là người duy nhất đã lên tiếng cho đến giờ phút này”.

“Ừ, mình cũng tin rằng Barry là người đầu tiên thoát ra khỏi tòa tháp. Anh ta sẽ xô ngã tất cả những ai cản đường. Nhưng anh ta đã gọi cho ai?” Anna hỏi.

“Fenston, bằng điện thoại di động”.

“Fenston?” Anna hỏi. “Làm sao ông ta có thể thoát ra khi mà mình vừa rời văn phòng của ông ta được vài phút thì máy bay đâm vào tòa tháp?”

“Lúc đó ông ta đã tới Phố Wall rồi - ông ta có hẹn với một khách hàng tiềm năng. Tài sản duy nhất của khách hàng đó là một bức tranh của Gauguin. Đời nào ông ta chậm trễ trong những chuyện như vậy”.

“Thế còn Leapman?” Anna nhấp một ngụm cà phê rồi hỏi.

“Sau ông ta một bước, như mọi khi”, Tina nói.

“Và đó là lý do tại sao cửa thang máy lại mở sẵn”.

“Cửa thang máy à?” Tina hỏi lại. “Chuyện đó không quan trọng”, Anna nói. “Nhưng tại sao sáng nay cậu lại không đi làm?”

“Mình có hẹn với nha sỹ”, Tina nói. “Cuộc hẹn ấy đã được mình ghi vào nhật ký từ mấy tuần nay rồi”. Tina dừng lại, nhìn qua bàn rồi nói tiếp, “Từ khi nghe tin, mình liên tục gọi điện cho cậu, nhưng chỉ nghe thấy tiếng chuông. Vậy cậu đã ở đâu?”

“Bị tống ra khỏi phòng”, Anna nói.

“Lính cứu hỏa lôi đi à?” Tina hỏi.

“Không”, Anna đáp, “con vượn Barry ấy hộ tống mình”.

“Nhưng tại sao?” Tina ngạc nhiên hỏi tiếp.

“Bởi vì Fenston vừa đuổi việc mình”, Anna nói.

“Đuổi việc cậu?” Tina hỏi lại một cách ngờ vực. “Tại sao ông ta lại đuổi cậu, vô lý thế?”

“Vì trong bản báo cáo mà mình gửi lên ban giám đốc, mình có kiến nghị rằng Victoria Wentworth nên bán bức Van Gogh, vì điều đó sẽ cho phép bà ấy không những thanh toán được nợ mà còn giữ lại được toàn bộ những tài sản khác”.

“Nhưng bức Van Gogh ấy là lý do duy nhất khiến Fenston đồng ý cho Victoria vay tiền”, Tina nói. “Mình nghĩ là cậu biết rõ điều đó. Ông ta đã săn tìm một bức như vậy trong nhiều năm trời. Chẳng đời nào ông ta chịu bán nó đi và giải thoát cho Victoria. Nhưng không thể vì chuyện đó mà ông ta sa thải cậu. Cái cớ mà-”

“Mình cũng gửi một bản sao báo cáo đó cho khách hàng, mà mình nghĩ đó chỉ là chuyện đạo đức nghề nghiệp”.

“Fenston thì có bao giờ nghĩ đến đạo đức nghề nghiệp. Nhưng đó cũng không phải lý do khiến ông ta phải đuổi việc cậu ngay lập tức như thế”.

“Bởi vì mình sắp bay đi Anh quốc để báo cho Victoria Wentworth biết là mình thậm chí đã tìm được một khách hàng tiềm năng cho bà ấy. Một nhà sưu tầm nổi tiếng người Nhật Bản tên là Takashi Nakamura, một người mà mình nghĩ sẽ rất vui sướng nếu vụ mua bán diễn ra nhanh gọn, nếu chúng ta biết cách ra giá”.

“Cậu thật sai lầm khi đề cập đến cái tên Nakamura”, Tina nói. “Dù là giá cao đến mấy, Fenston cũng không bao giờ chịu bán cho Nakamura, bởi vì cả hai người bọn họ đều đã cố tìm cho bằng được một bức tranh của Van Gogh trong nhiều năm trời, và cũng là hai người luôn theo đến cùng trong mọi cuộc bán đấu giá tranh của các hoạ sỹ Ấn tượng”.

“Tại sao ông ta không nói với mình điều đó?” Anna nói.

“Bởi vì Fenston không mấy khi muốn cho ai biết mình đang theo đuổi cái gì”, Tina nói.

“Nhưng chúng ta cùng một đội mà”.

“Cậu ngây thơ quá, Anna ạ. Cậu không biết là trong đội của Fenston chỉ có một người duy nhất thôi sao?”

“Nhưng ông ta không thể bắt Victoria giao bức tranh trừ phi-”

“Mình không dám chắc về điều đó”, Tina nói.

“Tại sao?”

“Hôm qua Fenston đã gọi cho Ruth Parish và lệnh cho bà ta chuyển bức tranh tới New York ngay lập tức. Mình nghe rõ ông ta lặp lại cụm từ “ngay lập tức””.

“Trước khi Victoria có cơ hội được làm theo lời khuyên của mình”.

“Đó cũng là lý do tại sao ông ta sa thải cậu trước khi cậu kịp lên máy bay và làm vỡ kế hoạch của ông ta. Cậu phải nhớ là”, Tina nói thêm, “cậu không phải là người đầu tiên phải chịu cảnh này”.

“Cậu muốn nói gì?” Anna hỏi.

“Nếu có ai đó biết được việc làm của Fenston, người đó sẽ ngay lập tức bị đuổi ra khỏi cửa”.

“Thế tại sao ông ta chưa sa thải cậu?”

“Bởi vì mình chưa bao giờ đưa ra một kiến nghị mà ông ta không muốn nghe theo”, Tina nói. “Mình nghĩ mình vẫn an toàn nếu cứ làm theo nguyên tắc ấy, ít nhất là trong lúc này”.

Anna đập tay xuống bàn vì giận dữ, làm một đám mây bụi nhỏ bay lên.

“Mình ngốc quá”, cô nói. “Nhẽ ra mình đã phải hiểu ra chuyện đó, bây giờ thì mình chẳng thể làm gì nổi”.

“Mình không chắc là như thế”, Tina nói. “Chúng ta còn chưa biết liệu Ruth đã tới Lâu đài Wentworth lấy bức tranh ấy và gửi đi hay chưa. Nếu chưa, cậu vẫn còn đủ thời gian để gọi cho Victoria và khuyên bà ấy giữ lại bức tranh cho đến khi cậu thoả thuận xong với Nakamura-cách đó có thể giúp bà ấy trả hết nợ cho Fenston và ông ta chẳng thể làm gì được”, Tina nói thêm, vừa lúc chuông điện thoại cầm tay của chị vang lên. Chị kiểm tra mã số người gọi: Sếp. Chị đặt tay lên môi. “Fenston đấy”, chị cảnh báo. “Có lẽ ông ta muốn kiểm tra xem cậu đã liên lạc với mình chưa”, chị vừa nói vừa bấm nút nghe.

“Cô có biết là ai đang còn nằm trong đống đổ nát không?” Fenston hỏi trước khi Tina kịp lên tiếng.

“Anna à?”

“Không”, Fenston nói. “Petrescu đã chết rồi”.

“Chết rồi ư?” Tina vừa nhắc lại vừa nhìn bạn mình qua bàn. “Nhưng-”

“Đúng thế đấy. Khi Barry báo cáo, anh ta khẳng định đã trông thấy cô ta nằm trên sàn, vì vậy cô ta không thể sống sót được”.

“Tôi nghĩ ông sẽ thấy-”

“Đừng lo gì về Petrescu nữa”, Fenston nói. “Tôi đã có kế hoạch thay thế cô ta, nhưng thứ mà tôi không thể thay thế là tiền của tôi”.

Tina cảm thấy bị sốc đến mức gần như không thể lên tiếng, và chị vừa định nói cho Fenston biết ông ta đã nhầm thì chợt nghĩ rằng chị có thể biến sự nhầm lẫn của Fenston thành lợi thế của Petrescu.

“Như thế cũng có nghĩa là chúng ta đã mất bức tranh Van Gogh à?”

“Không”, Fenston nói. “Ruth Parish đã báo lại rằng bức tranh đang trên đường từ London tới đây. Tối nay sẽ tới sân bay JFK, và Leapman sẽ đi nhận về”.

Tina ngồi bịch xuống ghế với một cảm giác thất vọng.

“Nhớ là 6 giờ sáng mai cô phải có mặt”.

“Sáu giờ?”

“Đúng vậy”, Fenston nói. “Và đừng có phàn nàn. Hôm nay cô đã được nghỉ cả ngày rồi còn gì”.

“Thế tôi phải báo cáo ở đâu?” Tina hỏi, chẳng buồn tranh luận với ông ta.

“Tôi đã thuê văn phòng mới trên tầng 32 của tòa nhà Trump Building ở số 40 Phố Wall, vì vậy chúng ta vẫn có thể hoạt động bình thường”, ông ta dập điện thoại.

“Ông ta nghĩ rằng cậu đã chết”, Tina nói, “và ông đang cuống lên vì bị mất tiền”, chị nói thêm và đậy nắp điện thoại lại.

“Ông ta sẽ nhanh chóng phát hiện ra là mình đã nhầm”, Anna nói.

“Chỉ khi cậu muốn cho ông ta biết”, Tina nói. “Có ai nhận ra cậu khi cậu thoát ra khỏi tòa nhà ấy không?”

“Cứ nhìn mình đây thì biết”, Anna nói.

“Thế thì cứ im tiếng đã, trong khi đó bọn mình sẽ nghĩ cách xem cần phải làm gì. Fenston nói bức Van Gogh đang trên đường tới đây và Leapman sẽ tới sân bay JFK để nhận ngay khi máy bay hạ cánh”.

“Thế thì chúng ta có thể làm gì?”

“Mình sẽ tìm cách làm cho ông ta bị chậm giờ, trong khi đó cậu đi lấy bức tranh”.

“Nhưng mình biết làm gì với nó”, Anna hỏi, “trong khi chắc chắn Fenston sẽ cho người đi tìm mình”.

“Cậu có thể lên chuyến bay đầu tiên tới London, và gửi trả lại bức tranh cho Victoria”.

“Mình không thể làm thế nếu không được sự cho phép của Victoria”, Anna nói.

“Lạy Chúa, Anna, cậu lớn lên ở đâu vậy? Cậu phải thôi cái kiểu suy nghĩ của một bà hiệu trưởng ấy đi và bắt đầu nghĩ xem Fenston sẽ làm gì nếu ông ta ở vào địa vị của cậu”.

“Ông ta đã biết mấy giờ máy bay sẽ hạ cánh”, Anna nói. “Vì vậy việc đầu tiên mình phải làm là-”

“Việc đầu tiên cậu phải làm là đi tắm, trong khi mình kiểm tra giờ hạ cánh của máy bay và đồng thời kiểm tra lịch trình của Leapman”, Tina vừa nói vừa đứng dậy. “Bởi vì có một điều chắc chắn là trong bộ dạng như thế này, họ sẽ chẳng cho cậu nhận bất cứ thứ gì ở sân bay”.

Anna uống hết cốc cà phê rồi theo bạn bước ra hành lang. Tina mở cửa phòng tắm và nhìn bạn mình thật kỹ. “Gặp lại cậu sau-” chị ngập ngừng – “một tiếng nữa”.

Lần đầu tiên trong ngày, Anna cười phá lên.

***

Anna chầm chậm cởi hết quần áo ra rồi vứt thành một đống trên nền nhà tắm. Cô liếc nhìn vào gương, và thấy trong đó một người hoàn toàn xa lạ. Cô cởi chiếc dây chuyền bằng bạc quanh cổ ra và đặt nó lên thành bồn tắm, gần một chiếc du thuyền mô hình. Cuối cùng cô cởi đồng hồ ra. Chiếc đồng hồ đã dừng chạy lúc 8 giờ 46 phút. Chỉ chậm vài giây nữa là cô đã bước vào thang máy.

Đứng dưới vòi nước hoa sen, cô bắt đầu nghĩ đến kế hoạch táo bạo của Tina. Cô vặn to cả hai vòi và để cho nước xối lên người một lúc trước khi bắt đầu kỳ cọ. Cô nhìn dòng nước chuyển dần từ màu đen sang màu xám, nhưng dù có kỳ mạnh đến đâu, dòng nước chảy từ người cô xuống vẫn có màu xám. Anna kỳ mãi cho đến khi da cô đỏ ửng lên và đau rất, trước khi cô chú ý đến lọ dầu gội đầu. Anna gội đầu ba lần trước khi bước ra khỏi vòi nước, nhưng chắc phải còn lâu mọi người mới nhận ra rằng mái tóc cô vốn có màu vàng tự nhiên. Anna chẳng buồn lau khô người; cô cúi xuống, cắm phích bồn tắm và vặn vòi nước. Nằm trong bồn tắm đầy bọt xà phòng, cô nhớ lại tất cả những gì vừa diễn ra trong ngày hôm đó.

Cô nghĩ đến những người bạn và những đồng nghiệp chắc còn bị mắc kẹt trong đống đổ nát, và thấy mình thật may mắn. Nhưng bây giờ chưa phải là lúc để than khóc. Cô còn phải cứu Victoria thoát khỏi một cái chết từ từ.

Những suy nghĩ của Anna bị gián đoạn vì tiếng gõ cửa của Tina. Chị bước vào và ngồi lên thành bồn. “Trông khá lên nhiều rồi”, chị vừa nói vừa mỉm cười sau khi ngắm nhìn thân thể vừa được kỳ cọ kỹ của Anna.

“Mình đã nghĩ về ý kiến của cậu”, Anna nói, “và giá mình có thể-”

“Thay đổi kế hoạch”, Tina nói. “FAA vừa thông báo rằng mọi chuyến bay trên bầu trời nước Mỹ đều phải hạ cánh ngay và không một chiếc máy bay nào được bay vào nước Mỹ trước khi có thông báo mới, vì vậy vào lúc này bức Van Gogh đang trên đường quay trở lại sân bay Heathrow”.

“Vậy thì mình phải gọi điện cho Phu nhân Victoria ngay”, Anna nói, “và nói với bà ấy yêu cầu Ruth Parish đưa bức tranh trở lại Lâu đài Wentworth”.

“Đồng ý”, Tina nói. “nhưng mình vừa phát hiện ra rằng Fenston còn mất một thứ quan trọng hơn cả tiền bạc”.

“Đối với ông ta thì cái gì là quan trọng hơn tiền?” Anna hỏi.

“Hợp đồng với Victoria, và tất cả các tài liệu chứng minh rằng bức Van Gogh là của ông ta, cùng với toàn bộ tài sản của Lâu đài Wentworth trong trường hợp Phu nhân Wentworth không trả được nợ”.

“Nhưng ông ta không giữ các tài liệu sao lưu à?”

Tina ngập ngừng. “Có”, chị nói, “trong một chiếc két ở văn phòng của ông ta”.

“Nhưng đừng có quên là Victoria cũng có những tài liệu đó”.

Tina lại ngập ngừng. “Không, nếu bà ấy chấp nhận hủy bỏ chúng”.

“Victoria sẽ không bao giờ làm chuyện đó”, Anna nói.

“Sao cậu không gọi điện cho bà ấy thử xem? Nếu bà ấy chấp nhận, cậu sẽ có thêm thời gian để thu xếp bán bức tranh giúp bà ấy thanh toán nợ cho Fenston Finance, trước khi ông ta kịp giở trò”.

“Chỉ còn một vấn đề”.

“Gì vậy?” Tina hỏi.

“Mình không có số điện thoại của bà ấy. Tài liệu về bà ấy nằm trong văn phòng của mình và mình đã mất mọi thứ, kể cả điện thoại di động và ví”.

“Mình tin chắc tổng đài quốc tế có thể giúp giải quyết chuyện này”, Anna nói. “Tại sao cậu không lau khô người đi và mặc một chiếc áo ngủ của tớ vào. Sau đó chúng ta sẽ tìm xem có bộ nào hợp với cậu không”.

“Cảm ơn cậu”, Anna vừa nói vừa nắm lấy tay bạn.

“Cậu sẽ không cảm ơn mình nếu cậu biết mình cho cậu ăn trưa bằng món gì. Mình đâu có nghĩ là sẽ được đón tiếp cậu, và vậy cậu sẽ phải ăn món mỳ thừa của Trung Quốc”.

“Nghe có vẻ tuyệt đấy”, Anna nói và đứng dậy bước ra khỏi bồn tắm rồi với một chiếc khăn quấn quanh mình.

“Gặp cậu sau vài phút nhé”, Tina nói, “lúc đó lò vi sóng đã hoàn thiện món sở trường của mình”. Chị quay mình bước ra khỏi phòng tắm.

“Tina, mình hỏi cậu một chuyện được không?”

“Bất cứ chuyện gì”.

“Tại sao cậu vẫn tiếp tục làm việc cho Fenston, trong khi rõ ràng là cậu ghét cay ghét đắng ông ta, chẳng khác gì mình?”

Tina lưỡng lự. “Chuyện gì cũng được, trừ chuyện đó”, cuối cùng đáp và nhẹ nhàng khép cánh cửa phòng tắm lại sau lưng mình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14


Ruth Parish cầm ống nghe lên.

“Chào Ruth”, một giọng nói quen thuộc vang lên. “Ken Lane ở hãng hàng không United đây, báo cho bà biết là chuyến bay 107 của chúng tôi tới New York đã được lệnh quay trở lại, và chúng tôi tính rằng máy bay sẽ hạ cánh xuống sân bay Heathrow sau một giờ nữa”.

“Nhưng tại sao?” Ruth hỏi.

“Mọi chi tiết lúc này đều chưa rõ”, Ken thừa nhận, “chỉ biết là các thông báo phát đi từ sân bay JFK cho thấy dường như tòa tháp đôi ở New York đã bị khủng bố tấn công. Tất cả các sân bay của Mỹ đều cấm máy bay lên xuống, và không một máy bay nào được bay vào Mỹ cho đến khi có thông báo mới”.

“Chuyện đó xảy ra khi nào?”

“Vào lúc khoảng 1:30 theo giờ London, lúc ấy chắc bà đang ăn trưa. Bà có thể biết thêm chi tiết về vụ này trên tất cả các kênh”.

Ruth cầm lấy chiếc điều khiển từ xa rồi chĩa vào màn hình tivi.

“Bà có muốn đưa bức tranh vào nhà kho không?” Ken hỏi, “hay bà muốn chúng tôi trả nó về Lâu đài Wentworth?”

“Tất nhiên là bức tranh ấy sẽ không trở lại Wentworth”, Ruth nói. “Tôi sẽ để bức tranh ấy lại qua đêm tại một trong những nhà kho phi hải quan, và sẽ đưa nó lên chuyến bay đầu tiên tới New York sau khi JFK dỡ bỏ lệnh cấm”. Ruth dừng lại. “Ông có thể báo cho tôi 30 phút trước khi máy bay hạ cánh để tôi thu xếp xe tải của tôi tới chờ ở sân bay không?”

“Tôi sẽ gọi”, Ken nói.

Ruth gác ống nghe rồi nhìn lên màn hình tivi. Bà bấm số 501 trên chiếc điều khiển từ xa. Hình ảnh đầu tiên mà bà trông thấy là một chiếc máy bay đang lao vào Tháp Nam.

Giờ thì bà hiểu tại sao Anna lại chưa gọi cho bà.

***

Trong khi lau khô người, Anna bắt đầu suy đoán lý do tại sao Tina vẫn tiếp tục làm việc cho Fenston. Cô lắc đầu. Suy cho cùng, Tina hoàn toàn có thể kiếm được một công việc khá hơn.

Cô khoác chiếc áo lên người và xỏ chân vào đôi dép lê, rồi đeo chiếc dây chuyền lên cổ và đeo chiếc đồng hồ vào tay. Cô ngắm nhìn mình trong gương; vẻ ngoài đúng là đã khá hơn nhiều, nhưng Anna vẫn còn cảm thấy choáng váng khi nghĩ lại những gì mà cô vừa trải qua vài giờ trước. Cô băn khoăn không hiểu cơn ác mộng này sau bao nhiêu năm tháng mới thôi ám ảnh cô.

Cô mở cửa phòng tắm và đi dọc theo hành lang, tránh những dấu chân đầy tro mà cô đã để lại trên thảm trước đó. Khi cô bước vào trong bếp, Tina dừng bày biện bàn ăn và đưa cho cô chiếc điện thoại di động của mình.

“Đã đến lúc gọi cho Victoria và nói với bà ấy về việc cậu sắp làm”.

“Mình sắp làm gì?” Anna hỏi.

“Đầu tiên là hỏi xem bà ấy có biết hiện giờ bức Van Gogh đang ở đâu không”.

“Được khoá kín ở một phòng phi hải quan tại sân bay Heathrow, mình cá là như thế, nhưng chỉ có một cách để biết chính xác”. Anna quay số 00. “Tổng đài quốc tế xin nghe”.

“Tôi cần một số điện thoại ở Anh quốc”.

“Văn phòng hay nhà ở?”

“Nhà ở”.

“Tên?”

“Wentworth, Victoria”.

“Địa chỉ?”

“Lâu đài Wentworth, Surrey”.

Một hồi yên lặng kéo dài trước khi Anna nhận được câu trả lời, “Xin lỗi bà, số máy nằm ngoài danh bạ”.

“Thế có nghĩa là gì?”

“Có nghĩa là tôi không thể cho bà biết số máy này”.

“Nhưng đây là trường hợp khẩn cấp”, Anna nài nỉ.

“Xin lỗi, thưa bà, dù vậy tôi vẫn không thể cho bà số máy này”.

“Nhưng tôi là một người bạn thân”.

“Dù bà là Nữ Hoàng thì cũng vậy, tôi xin nhắc lại, tôi không thể cho bà biết số điện thoại này”. Đầu kia đã dập máy. Anna chau mày.

“Thế kế hoạch B là gì?” Tina hỏi. “Chẳng còn cách nào khác mà đích thân mình sẽ phải sang Anh và tìm cách gặp Victoria để trao đổi với bà ấy và báo cho bà ấy biết ý định của Fenston”.

“Tốt. Vậy thì vấn đề tiếp theo là cậu định vượt qua biên giới nước nào?”

“Làm sao mình có thể ra khỏi nước Mỹ một khi mình còn không thể quay về căn hộ của mình để lấy đồ đạc, trừ phi mình nói cho cả nước Mỹ biết là mình còn sống và đang đùa cợt họ?”

“Chẳng gì có thể ngăn cản được cậu nếu cậu muốn đi”, Tina nói. “Hãy nói cho mình biết cậu cần gì và mình sẽ gói gém vào một túi đồ-”

“Không cần”, Anna nói. “Tất cả những gì mình cần là chuẩn bị sẵn sàng và chờ cậu ở đại sảnh. Đừng quên là mình đã chuẩn bị để tối nay bay đi London”.

“Vậy thì tất cả những gì mình cần là chìa khoá phòng cậu”, Tina nói.

Anna cởi chiếc dây chuyền bạc đeo trên cổ ra và đưa chiếc chìa khoá cho Tina.

“Làm sao mình có thể qua mặt người gác cổng?” Tina hỏi. “ông ta sẽ hỏi mình muốn gặp ai”.

“Không thành vấn đề”, Anna nói.

“Ông ấy tên là Sam. Nói là cậu tới thăm David Sullivan, ông ta sẽ cười và bấm thang máy cho cậu”.

“David Sullivan là ai?” Tina hỏi.

“Anh ta có một căn hộ trên tầng 4, và hiếm khi đưa một cô gái nào đó về nhà hai lần. Anh ta trả Sam vài đôla mỗi tuần để tất cả các cô gái đến với anh ta đều nghĩ rằng mình là bạn gái duy nhất của anh ta”.

“Nhưng như thế vẫn chưa giải quyết được vấn đề tiền nong”, Tina nói. “Đừng quên là cậu đã bị mất ví và thẻ tín dụng, và tất cả những gì mang trên mình chỉ còn 70 đôla”.

“Hôm qua mình vừa rút 3.000 đôla”, Anna nói. “Khi vận chuyển một bức tranh quý, cậu không thể để xảy ra chuyện một nhân viên kiểm soát dở người nào đó chặn cậu lại. Mình cũng còn 500 đôla nữa để trong ngăn kéo cạnh giường ngủ”.

“Và cậu sẽ phải dùng đến đồng hồ của mình”, Tina nói.

Anna cởi đồng hồ ra và đổi cho Tina. Tina nhìn kỹ chiếc đồng hồ của Anna. “Cậu sẽ không được quên thời điểm chiếc máy bay lao vào tòa nhà”, Tina nói, vừa lúc chiếc lò vi sóng kêu bíp bíp.

“Chưa chắc còn ăn được”, Tina vừa nói vừa đặt lên bàn một tô mỳ gà và một bát cơm rang còn thừa từ hôm trước. Họ vừa ăn vừa bàn về những phương án khác nhau để thoát ra khỏi thành phố, cũng như những địa điểm thích hợp để vượt biên giới ra khỏi nước Mỹ.

Khi họ đã vét hết không còn sót một mẩu thức ăn thừa nào, cũng là lúc họ đã cân nhắc tất cả những con đường có thể ra khỏi Manhattan, cho dù Anna vẫn còn lưỡng lự chưa biết nên đi theo hướng Nam hay hướng Bắc. Tina cho bát đĩa vào bồn và nói, “Tại sao cậu không tính xem đi đường nào thì nhanh nhất, trong lúc mình tìm cách vào và ra khỏi phòng cậu mà không bị Sam nghi ngờ?”

Anna ôm chặt lấy bạn. “Cẩn thận nhé”, cô nói, “ngoài kia là địa ngục đấy”.

***

Tina đứng trên bậc thềm cao nhất trước cửa nhà và nhìn quanh. Có chuyện gì đó không bình thường. Và chị đã nhận ra đó là chuyện gì. New York đã thay đổi!

Đường phố không còn tấp nập với những con người không-có-thời- gian-để-nói-chuyện, những con người vội vã nhất và cũng giàu sức sống nhất trên trái đất này. Tina cảm thấy thành phố yên ắng giống như một ngày Chủ nhật. Nhưng Chủ nhật cũng không yên ắng đến thế. Mọi người đứng tụm lại thành từng nhóm và cùng nhìn về khu Trung tâm Thương mại Thế giới. Thứ âm thanh nền duy nhất là tiếng còi hú không ngớt như muốn nhắc nhở mọi người rằng thảm kịch xảy ra chỉ cách chỗ họ vài tòa nhà.

Tina xuống phố đón tắc xi, nhưng màu vàng quen thuộc của những chiếc xe tắc xi đã bị thay thế bằng màu đỏ, trắng, xanh của xe cứu hỏa, cứu thương và xe cảnh sát đang chạy về mọi hướng. Từng nhóm người tụ tập tại các góc phố và vỗ tay cổ vũ khi một chiếc xe của một trong ba sắc màu này chạy qua, như thể đó là những tân binh đang rời xa tổ quốc để chiến đấu chống lại kẻ thù. Bây giờ thì kẻ thù đã ở ngay đây, Tina nghĩ.

Tina cứ đi, đi mãi, qua hết tòa nhà này đến tòa nhà khác, và chị hiểu rằng cũng giống như vào những ngày Chủ nhật, dân sống trong nội đô thành phố phải tự sửa đường ống nước cho nhà mình. Lúc này chị lại trông thấy một đoàn người kỳ dị đang đi quanh thành phố trong trạng thái thất thần. Trong hơn một thế kỷ qua New York luôn đón nhận những con người thuộc mọi sắc tộc, mọi màu da và giờ đây nó có thêm những công dân mang một màu da mới-màu xám tro. Chủng tộc mới này dường như vừa từ lòng đất chui lên và đang đi quanh khu Manhattan giống như những vận động viên maratông khập khiễng lê bước về nhà sau khi đã bị những vận động viên nhanh chân hơn bỏ rơi. Nếu có ai đó nhìn lên bầu trời New York vào buổi tối mùa thu hôm ấy hẳn sẽ nhận thấy một điều khác thường nữa. Bầu trời New York không còn lung linh với những tòa nhà chọc trời rực sáng một cách kiêu hãnh nữa mà đã bị một đám mây bụi khổng lồ bao phủ. Rồi lần đầu tiên chị nhìn thấy những thanh thép nhô lên khỏi mặt đất-đó là tất cả những gì còn sót lại của một trong những tòa tháp cao nhất thế giới. Ông nha sỹ đã cứu mạng chị. Tina bước qua những cửa hiệu và những nhà hàng không người trong một thành phố vốn chưa bao giờ đóng cửa. New York sẽ bình phục, nhưng mọi chuyện sẽ không bao giờ còn như xưa nữa. Những kẻ khủng bố sống ở những vùng đất xa xôi: Trung Đông, Palestine, Israel, thậm chí ở cả Tây Ban Nha, Đức, Bắc Ailen. Chị nhìn lên bầu trời. Bọn khủng bố đã đến cướp đi mạng sống của những người dân New York vô tội, và chúng đã để lại địa chỉ của mình.

Tina trông thấy một chiếc tắc xi hiếm hoi chạy qua, và chị vội vẫy một cách tuyệt vọng. Chiếc tắc xi phanh két một tiếng và dừng lại sát bên chị.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15


Anna quay vào trong bếp và bắt đầu rửa bát đĩa. Cô cố gắng để bắt trí óc đừng nghĩ đến những khuôn mặt đi ngược chiều với mình trong cầu thang, những khuôn mặt mà cô sợ sẽ đọng lại trong kí ức của cô suốt cuộc đời. Cô phát hiện ra mặt trái của khả năng thiên bẩm đặc biệt của mình.

Cô tập trung nghĩ đến Victoria Wentworth và những phương cách để ngăn chặn Fenston hủy hoại cuộc sống của người khác. Liệu Victoria có tin rằng Anna đã không biết một sự thật là Fenston đã lên kế hoạch để chiếm đoạt bức Van Gogh và hút cạn máu của bà ta? Làm sao bà ta tin được điều đó khi mà Anna, với tư cách là chuyên gia trong nghề và là một thành viên của ban giám đốc, lại để mình bị đánh lừa một cách dễ dàng như vậy?

Anna rời khỏi căn bếp và đi tìm một tấm bản đồ. Cô tìm thấy hai tấm trong giá sách treo phía trên bàn làm việc của Tina: một tấm Đường phố Manhattan và một tấm Địa đồ Bắc Mỹ xếp cạnh một cuốn sách viết về John Adams, vị tổng thống thứ hai của Mỹ. Cô dừng lại để ngắm nhìn tấm áp phích có ảnh của Rothko treo ở phía đối diện với giá sách - không phải thời đại của cô, nhưng cô biết Tina rất hâm mộ nghệ sỹ này, bởi vì trong văn phòng của Tina cũng có một tấm như thế. Chuyện ấy đã trở thành chuyện của quá khứ, Anna nghĩ và bắt đầu óc mình quay trở về với hiện tại. Cô quay trở lại căn bếp và trải tấm bản đồ New York lên mặt bàn.

Sau khi đã quyết định về việc cô sẽ ra khỏi Manhattan theo lối nào, Anna gấp tấm bản đồ đó lại và mở tấm Địa đồ Bắc Mỹ ra với hy vọng nó sẽ giúp cô chọn được điểm vượt biên thích hợp.

Anna nhìn chỉ mục về Mehico và Canada, và rồi bắt đầu ghi chú tỉ mỉ như thể cô đang chuẩn bị một báo cáo để trình lên ban giám đốc; bao giờ cô cũng đưa ra hai phương án để lựa chọn, và bao giờ cũng kết thúc các bản báo cáo bằng một lựa chọn và cô cho là tối ưu nhất. Khi gấp tấm bản đồ lại, cô đã biết chắc mình cần đi theo hướng nào để tới được Anh quốc một cách kịp thời nhất.

***

Ngồi trong tắc xi trên đường tới Thornton House, Tina nghĩ cách làm thế nào để vào trong căn hộ của Anna, lấy hành lý ra mà không bị người gác cổng nghi ngờ. Khi chiếc tắc xi dừng lại bên ngoài tòa nhà, Tina định thò tay vào túi áo khoác.

Chị không mặc áo khoác. Chị đỏ mặt. Chị đã rời khỏi nhà mình mà không đem theo tiền. Chị nhìn chằm chằm vào tấm thẻ nhựa của người tài xế tắc xi: Abdul Affridi-một chuỗi tràng hạt đung đưa sát gương chiếu hậu. Anh ta nhìn quanh, nhưng không cười. Hôm nay không có ai cười.

“Tôi quên mang tiền rồi”, Tina nói và chờ đợi những lời chửi thề.

“Không sao”, người tài xế lẩm bẩm rồi nhảy ra khỏi xe và mở cửa cho chị. Mọi thứ ở New York đều đã thay đổi.

Tina cảm ơn anh ta rồi vừa hồi hộp đi về phía cổng ra vào tòa nhà vừa nhẩm lại kịch bản. Nhưng kịch bản ấy thay đổi khi chị trông thấy Sam đang ngồi sau buồng gác và ôm mặt khóc.

“Có chuyện gì vậy”, Tina hỏi. “Bác có bạn làm trong Trung tâm Thương mại Thế giới à?”

Sam nhìn lên. Trên bàn, trước mặt ông già là bức ảnh của Anna đang chạy trong một cuộc thi maratông. “Cô ấy vẫn chưa về”, ông già nói. “Tất cả những người trong khu nhà này đều đã về cách đây hàng giờ rồi”.

Tina ôm lấy ông già. Lại một nạn nhân nữa. Chị rất muốn nói cho ông già biết là Anna còn sống. Nhưng không phải vào lúc này.

Sau 8 giờ, Anna mới xong việc và bắt đầu lướt qua các kênh tivi. Chỉ có một câu chuyện duy nhất. Cô thấy mình không thể xem những hình ảnh ấy mà không nghĩ đến những điều kinh hoàng mà cô đã trải qua. Cô vừa định tắt tivi thì nghe thông báo là Tổng thống Bush sắp có bài phát biểu trước toàn dân. “Xin kính chào tất cả các bạn. Hôm nay, nhân dân Mỹ...” Anna chăm chú nghe, và gật đầu khi vị Tổng thống nói tiếp: “Các nạn nhân là những hành khách trên máy bay, những người làm việc trong các văn phòng, những doanh nhân, những nhân viên thư ký...” Anna lại nghĩ tới Rebecca. “Không ai trong chúng ta có thể quên ngày hôm nay...” vị Tổng thống kết luận, và Anna thấy có thể đồng ý với ông ta. Cô tắt tivi khi trên đó lại hiện ra hình ảnh tòa Tháp Nam đang sụp đổ, giống như đỉnh điểm của một thảm hoạ.

Anna lại trải tấm bản đồ New York ra và kiểm tra lại một lần nữa, rồi một lần nữa, tuyến đường mà cô đã chọn để ra khỏi thành phố. Khi cô đang chăm chú ghi lại từng chi tiết những gì mà cô cần làm trước khi lên đường vào sáng hôm sau thì cánh cửa trước mở toang và Tina loạng choạng bước vào-chiếc máy tính xách tay đeo một bên vai, còn chiếc va li được kéo lê phía sau. Anna chạy ra hành lang đón bạn. Tina trông như sắp ngất đi.

“Xin lỗi vì đã để cậu phải sốt ruột”, Tina vừa nói vừa để mọi thứ xuống sàn đại sảnh rồi đi theo hành lang đã được Anna hút sạch bụi bẩn tới căn bếp. “Không có mấy xe buýt chạy trên đường”, chị nói thêm, “đặc biệt là khi ta không mang theo tiền”, rồi chị ngồi bịch xuống ghế. “Mình sợ là mình đã ăn bớt tiền của cậu, món 500 đôla ấy, nếu không thì chắc phải đến nửa đêm mình mới về tới đây”. Anna cười. “Bây giờ đến lượt mình pha cà phê cho cậu”, cô đề nghị.

“Mình chỉ bị chặn lại có mỗi một lần, một anh cảnh sát rất dễ thương kiểm tra hành lý của cậu, và hoàn toàn tin rằng mình là một hành khách từ sân bay trở về vì tất cả các chuyến bay đều đã bị hoãn. Mình thậm chí còn đưa vé cho anh ta xem”.

“Có rắc rối gì chỗ căn hộ của mình không?” Anna vừa hỏi vừa rót cà phê cho bạn.

“Chỉ có mỗi một chuyện là phải an ủi Sam. Ông ấy chắc là quý cậu lắm. Có vẻ như ông ấy đã khóc nhiều giờ liền. Mình thậm chí còn chẳng cần phải nhắc đến cái tên Sullivan, bởi vì tất cả những gì Sam muốn là kể cho mình nghe về cậu. Đến khi mình vào trong thang máy, thậm chí ông ấy cũng chẳng để ý xem mình đi đâu”.

Tina nhìn quanh bếp. Chưa bao giờ chị thấy nó sạch như lúc này. “Vậy là cậu đã lên xong kế hoạch rồi chứ?” chị vừa hỏi vừa nhìn xuống tấm bản đồ đang trải trên mặt bàn ăn.

“Ừ”, Anna nói. “Có lẽ tốt nhất là đi phà tới New Jersey rồi thuê một chiếc xe, bởi vì tin mới nhất cho biết tất cả các cây cầu và đường hầm đều đã bị đóng cửa. Cho dù tới biên giới Canada còn hơn bốn trăm dặm, mình nghĩ chẳng có lý do gì mà mình không tới sân bay Toronto vào tối mai, và như thế mình sẽ tới London vào sáng ngày kia”.

“Cậu có biết chuyến phà sớm nhất vào buổi sáng khởi hành lúc mấy gờ không?” Tina hỏi.

“Về lý thuyết, dịch vụ này phục vụ 24 trên 24 giờ”, Anna nói, “nhưng trên thực tế, sau năm giờ sáng thì phà mới chạy, và cứ 15 phút có một chuyến. Nhưng ai mà biết được ngày mai phà có chạy không, chưa nói gì đến chuyện có chạy đúng giờ không”

“Dù gì thì”, Tina nói, “cậu cũng nên đi nghỉ sớm, và cố gắng ngủ cho ngon giấc. Mình sẽ đặt đồng hồ báo thức vào lúc 4:30”.

“4 giờ đi”, Anna nói. “Nếu phà khởi hành vào lúc 5 giờ, mình muốn là người đứng xếp hàng đầu tiên. Mình nghĩ việc ra khỏi New York có lẽ là chặng đường khó khăn nhất trong cả chuyến đi sắp tới”.

“Vậy thì cậu phải ngủ trong phòng ngủ”, Tina vừa cười vừa nói, “còn 31936 mình sẽ ngủ trên ghế bành”.

“Cậu vất vả quá”, Anna vừa nói vừa rót đầy cốc cà phê cho bạn. “Hôm nay cậu làm được quá nhiều chuyện”.

“Như thế này thì ăn thua gì”, Tina nói.

“Nếu Fenston biết cậu đã làm gì, ông ta sẽ đuổi cậu ngay lập tức”.

“Đó là điều mình ít bận tậm nhất”, Tina trả lời nhưng tránh đưa ra lời giải thích.

***

Jack ngáp dài một cái ngoài chủ ý. Một ngày quá dài, và anh có cảm giác đêm sẽ còn dài hơn.

Không ai trong đội của anh tính đến chuyện về nhà, và dáng vẻ cũng như giọng nói của họ cho thấy họ đều đã kiệt sức. Điện thoại trên bàn làm việc của anh đổ chuông.

“Tôi nghĩ là phải báo cho sếp biết”, Joe nói, “rằng Tina Forster, thư ký của Fenston, đã có mặt tại Thorton House vài giờ trước. Bốn mươi phút sau, cô ta ra khỏi tòa nhà, mang theo một chiếc va li và một chiếc máy tính xách tay, rồi đem tất cả về nhà cô ta”. Jack ngồi thẳng đứng. “Vậy thì Petrescu chắc chắn vẫn còn sống”, anh nói.

“Và cô ta không muốn chúng ta nghĩ như vậy”, Joe nói thêm.

“Nhưng tại sao?”

“Có lẽ cô ta muốn chúng ta nghĩ rằng cô ta bị mất tích hoặc đã chết”, Joe nói.

“Không phải chúng ta”, Jack nói.

“Vậy thì ai?”

“Fenston, tôi cuộc đấy”.

“Tại sao?”

“Tôi cũng chưa biết”, Jack nói, “nhưng tôi chắc chắn sẽ tìm ra nguyên nhân”.

“Và anh định làm điều đó bằng cách nào, sếp?”

“Bằng cách cho một đội theo dõi nhà của Tina Forster cho đến khi Anna Petrescu rời khỏi đó”.

“Nhưng chúng ta đâu có biết chắc là cô ta đang ở trong đó”, Joe nói.

“Tôi biết chắc cô ta đang ở trong đó”, Jack nói và đặt ống nghe xuống.

12/9
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16


Suốt đêm hôm đó, Anna chỉ chợp mắt được vài phút. Cô suy nghĩ về tương lai của mình. Cô đi đến kết luận rằng có lẽ cô sẽ trở về Danville để mở một phòng tranh trưng bày các tác phẩm của những hoạ sỹ trong vùng, bởi vì chắc chắn Fenston sẽ kể cho tất cả các nhà tuyển dụng tiềm năng về câu chuyện của cô theo cách mà ông ta muốn. Cô bắt đầu cảm thấy rằng hy vọng sống sót duy nhất của cô là vạch mặt Fenston, và cô hiểu rằng cô sẽ không thể làm được điều đó nếu không có được sự hợp tác toàn diện của Victoria, và một phần trong sự hợp tác ấy là đốt bỏ toàn bộ các tài liệu liên quan đến vụ giao dịch, kể cả bản báo cáo của cô.

Anna ngạc nhiên thấy mình vẫn hoàn toàn mạnh khoẻ khi Tina gõ cửa phòng cô vào lúc 4 giờ sáng.

Cô đi tắm, rồi gội đầu và cảm thấy gần như đã lấy lại hoàn toàn sức sống.

Bên bàn ăn sáng với cà phê và bánh mỳ, Anna cùng Tina rà soát lại toàn bộ kế hoạch. Họ thống nhất với nhau một số nguyên tắc mà cả hai phải tuân thủ trong lúc cô đi xa. Anna không còn điện thoại di động và thẻ tín dụng, vì vậy cô thống nhất chỉ liên lạc với Tina bằng số điện thoại nhà của Tina, và phải luôn gọi từ máy điện thoại công cộng-không bao giờ gọi từ cùng một số máy. Anna sẽ xưng tên là “Vincent”, và không được sử dụng bất kỳ một cái tên nào khác.

Mỗi cú điện thoại không được kéo dài quá một phút.

Anna rời căn nhà của Tina lúc 4:52. Cô mặc quần bò, áo phông, áo khoác mỏng và đội mũ lưỡi trai. Cô không biết chắc điều gì đang đợi mình khi cô bước đi trên vỉa hè vào buổi sáng tinh mơ đó. Trên phố chẳng có mấy người, và tất cả đều cúi đầu-ánh mắt nhìn xuống của họ thể hiện thành phố này đang có tang. Không ai liếc nhìn Anna lần thứ hai khi cô bước nhanh trên hè phố với một chiếc va li phía sau và một chiếc máy tính đeo ở một bên vai. Dù nhìn theo hướng nào, cô vẫn trông thấy một đám mây khổng lồ xám xịt phủ trên thành phố. Đám mây khói bụi dầy đặc kia đã tan, nhưng giống như một căn bệnh, nó đã lây lan đến những vùng khác của Cơ thể. Không hiểu sao lúc mới thức dậy, Anna lại nghĩ là nó đã tan biến, nhưng giờ đây cô nhận ra rằng nó sẽ còn ở đó rất lâu nữa.

Anna đi qua một hàng người đang đứng xếp hàng để chờ được cho máu với hy vọng người ta sẽ tìm được thêm những người còn sống sót. Cô là một người sống sót, nhưng lúc này cô không muốn ai phát hiện ra điều đó.

Fenston ngồi bên bàn làm việc của mình trong văn phòng mới của ông ta trên Phố Wall. Lúc này là 6 giờ sáng. Ở London là 11 giờ. Cú điện thoại đầu tiên trong ngày của ông ta là gọi cho Ruth Parish.

“Bức Van Gogh của tôi đâu?” ông ta hỏi mà chẳng thèm chào hỏi cũng chẳng thèm xưng danh.

“Chào ông Fenston”, Ruth nói. “Chắc ông cũng biết là mọi chuyến bay đều bị hoãn, và chiếc máy bay chở bức tranh của ông đã phải quay trở lại sau khi đã bay được nửa đường. Vì thảm kịch xảy ra hôm qua”.

“Thế bây giờ nó ở đâu?” Fenston lại hỏi.

“Đã được cất an toàn tại một trong những phòng được đảm bảo an ninh tuyệt đối ở khu vực phi hải quan. Tất nhiên, chúng ta sẽ phải làm lại thủ tục khai báo hải quan và xin lại giấy phép xuất khẩu. Nhưng chẳng cần phải bận tâm tới những chuyện đó trước khi-”

“Làm ngay hôm nay đi”, Fenston nói.

“Sáng nay tôi có kế hoạch chuyển bốn bức của Vermeers từ-”

“Vermeer cái cục c... Nhiệm vụ đầu tiên của bà là đảm bảo rằng bức tranh của tôi đã được bọc gói cẩn thận và sẵn sàng lên đường”.

“Nhưng công việc giấy tờ cũng phải mất vài ngày”, Ruth nói. “Chắc ông cũng biết là hiện nay có rất nhiều đơn hàng bị tồn đọng vì-”

“Vì cái chết tiệt”, Fenston nói. “Ngay khi FAA dỡ bỏ lệnh cấm, tôi sẽ cho Karl Leapman tới nhận bức tranh ngay”.

“Nhưng nhân viên của tôi cũng đang phải làm suốt ngày đêm để giải quyết những chuyện phát sinh do”

“Tôi cho bà biết nhé”, Fenston nói. “Nếu bức tranh đã sẵn sàng khi máy bay của tôi hạ cánh xuống sân bay Heathrow, tôi sẽ trả gấp ba tiền công cho bà”.

Fenston đặt ống nghe xuống, và tin chắc rằng những từ duy nhất mà Ruth ghi nhớ là “gấp ba”, ông ta đã lầm. Ruth ngạc nhiên khi thấy ông ta không đề cập gì đến những cuộc tấn công vào tòa Tháp đôi, và cũng không nhắc gì đến Anna. Cô ấy có còn sống không? Và nếu cô ấy còn sống thì tại sao người đi nhận bức tranh lại không phải là cô ấy?

Tina đã nghe lỏm được mọi chi tiết của cuộc nói chuyện giữa Fenston với Ruth Parish từ máy nhánh trong văn phòng của cô mà Fenston không hề hay biết. Tina ước chị có thể liên lạc với Anna để báo tin cho Anna biết - một sự việc mà hai người không tính đến. Có lẽ tối nay Anna sẽ gọi về cho chị.

Tina tắt nút chuyển đường dây điện thoại, nhưng vẫn để nguyên màn hình camera theo dõi trên góc bàn làm việc của chị. Điều đó cho phép chị quan sát mọi thứ, và quan trọng hơn là có thể biết những ai ra vào văn phòng chủ tịch. Fenston không hay biết gì về chuyện này, bởi vì ông ta chẳng bao giờ hỏi. Ông ta cũng chẳng bao giờ thèm bước chân vào phòng chị, một khi ông ta có thể triệu tập chị bằng cách ấn một chiếc nút. Còn nếu Leapman bước vào phòng mà không gõ cửa, chị sẽ tắt màn hình ngay lập tức.

Khi Leapman thuê trụ sở mới trên tầng 32 của tòa nhà này, ông ta không để ý gì đến phòng làm việc của thư ký. Dường như mối quan tâm duy nhất của ông ta là làm thế nào để vị chủ tịch có được một không gian rộng rãi nhất trong điều kiện cho phép, trong khi chính ông ta thì chiếm một phòng ở cuối hành lang. Tina không nói gì với ông ta về những thiết bị an ninh và điện tử đặc biệt trong phòng làm việc của chị. Chị hiểu rằng đến một lúc nào đó sẽ có người phát hiện ra chuyện này, nhưng chị hy vọng đến khi đó chị đã thu thập đủ thông tin cần thiết để khiến Fenston phải chịu một số phận tồi tệ hơn cả những gì mà ông ta đã gây ra cho chị.

Sau khi đặt ống nghe xuống, Fenston ấn một chiếc nút ở cạnh bàn làm việc của ông ta. Tina cầm bút chì, sổ ghi chép và đi sang văn phòng chủ tịch.

“Việc đầu tiên tôi muốn cô phải làm”, Fenston bắt đầu, trước cả khi Tina kịp khép cửa lại, “là tìm hiểu xem tôi còn lại bao nhiêu nhân viên. Hãy thông báo với họ về địa điểm mới của chúng ta, và yêu cầu họ đi làm ngay”.

“Tôi thấy trưởng ban an ninh là người đầu tiên đã có mặt ở đây sáng nay”, Tina nói.

“Đúng, anh ta có tới”, Fenston nói, “và anh ta khẳng định đã ngay lập tức yêu cầu tất cả các nhân viên của công ty sơ tán sau khi chiếc máy bay đầu tiên đâm vào Tháp Bắc”.

“Và anh ta đã làm gương cho mọi người”, Tina nói mỉa.

“Ai nói thế với cô?” Fenston hỏi mà không thèm ngửng đầu lên.

Tina ngay lập tức hối hận vì đã trót nói ra những lời đó. Chị nói, “Tới trưa tôi sẽ gửi danh sách cho ngài”, và vội quay mình bước ra ngoài.

Suốt buổi sáng hôm ấy, chị tìm cách liên lạc với 43 nhân viên của Fenston Finance từng làm việc trong Tháp Bắc. Đến 12 giờ trưa, chị liên lạc được với 34 người trong số đó. Chị đặt danh sách chín người mất tích, có lẽ là đã chết, lên bàn của Fenston trước khi đi ăn trưa.

Anna Petrescu là cái tên thứ sáu trong danh sách đó.

***

Khi Tina đặt danh sách những người mất tích lên bàn của Fenston cũng là lúc Anna tới được Cầu tàu 11 bằng tắc xi, xe buýt, đôi chân, rồi lại tắc xi.

Một hàng người dài đang kiên nhẫn chờ phà đi New Jersey. Cô đứng vào cuối hàng, rồi đeo một cặp kính đen lên, và kéo sụp mũ lưỡi trai xuống che gần kín mắt. Cô đứng khoanh tay trước ngực, cổ áo khoác dựng lên, đầu cúi xuống, và như thế thì chỉ những ai không biết giữ ý mới bắt chuyện với cô.

Cảnh sát kiểm trả thẻ căn cước của tất cả những ai rời khỏi Manhattan. Cô nhìn theo khi một anh chàng tóc đen, da ngăm đen bị lôi sang một bên. Anh ta có vẻ kinh ngạc khi thấy có tới ba nhân viên cảnh sát vây quanh mình, một người hỏi, hai người lục soát.

Phải mất gần một giờ đồng hồ, Anna mới tiến đến đầu hàng. Cô bỏ chiếc mũ lưỡi trai ra, để lộ mái tóc vàng và làn do mịn màng của mình.

“Cô tới New Jersey vì việc gì?” một viên cảnh sát hỏi khi kiểm tra thẻ căn cước của cô.

“Một người bạn của tôi làm việc ở Tháp Bắc, và chị ấy vẫn còn mất tích”. Anna dừng lại. “Và tôi nghĩ tôi nên tới thăm bố mẹ chị ấy”.

“Xin lỗi cô”, viên cảnh sát nói. “Tôi hy vọng họ sẽ tìm thấy cô ấy”.

“Cảm ơn anh”, Anna nói rồi nhanh chóng xách hành lý lên cầu thang xuống phà. Cô đã nói dối và cô xấu hổ vì chuyện đó tới mức cô không dám nhìn lại phía sau. Cô đứng tựa vào lan can phà và ngước nhìn đám mây xám xịt vẫn còn lơ lửng trên khu Trung tâm Thương mại Thế giới và những tòa nhà cạnh đó. Cô băn khoăn không hiểu phải mất bao nhiêu ngày, bao nhiêu tuần thì đám mây ấy mới tan biến. Rồi họ sẽ làm gì với khu đất tan hoang đó, và họ sẽ làm gì để tưởng nhớ những người đã thiệt mạng? Cô nhìn lên bầu trời trong xanh trên đầu mình. Thiếu vắng một cái gì đó. Dù nơi đây chỉ cách JFK và La Guardia vài dặm, trên trời không có bóng một máy bay nào, như thể tất cả các máy bay trên trái đất này đều đã bất ngờ di tản đến một thế giới khác mà không hề báo trước.

Động cơ nổ phành phạch, và chiếc phà già nua chầm chậm rời khỏi cầu tàu bắt đầu hành trình vượt qua Hudson để tới New Jersey.

Đồng hồ trên tháp cầu tàu điểm một giờ. Nửa ngày đã trôi qua.

“Ít nhất phải vài ngày nữa máy bay mới được phép cất cánh từ sân bay JFK” Tina nói.

“Kể cả máy bay tư nhân à?” Fenston hỏi.

“Không có ngoại lệ”, Tina đáp.

“Hoàng gia Arập được phép rời vào ngày mai”, Leapman, lúc này đang đứng bên cạch vị chủ tịch, nói xen vào, “nhưng có vẻ đó là trường hợp ngoại lệ duy nhất”.

“Trong khi đó, tôi sẽ cố gắng để ngài có tên trong danh sách mà báo giới gọi là ưu tiên”, Tina nói, mặc dù chị biết rằng cơ quan cảng vụ sẽ không bao giờ xếp việc ông ta muốn đi lấy bức Van Gogh vào danh sách những trường hợp khẩn cấp.

“Chúng ta có bạn ở JFK không?” Fenston hỏi.

“Có vài người”, Leapman đáp, “nhưng tất cả bọn họ đều thình lình có rất nhiều mối quan hệ với những nhân vật cỡ bự”.

“Có cách nào khác không?” Fenston vừa hỏi vừa nhìn cả hai người.

“Có lẽ ông nên lái xe đến Mêhicô hoặc Canada”, Tina nói, “và đi máy bay hạng thương gia tới đó”. Chị thừa biết rằng ông ta sẽ không bao giờ chọn cách đó.

Fenston lắc đầu và quay sang nói với Leapman, “Hãy cố tìm lấy một người bạn, một ai đó đang cần một thứ gì đó. Bao giờ cũng có những người như vậy”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17


“Tôi sẽ lấy bất cứ chiếc xe nào mà các anh có”, Anna nói.

“Bây giờ chúng tôi không còn chiếc nào”, chàng thanh niên trông có vẻ mệt mỏi ngồi sau chiếc bàn làm việc trong cửa hiệu cho thuê xe mang tên Happy Hire nói bằng một giọng phân bua. “Và có lẽ phải đến sáng mai mới có xe về”, anh chàng đeo tấm thẻ mang tên Hank ấy nói thêm. Anh ta đã hoàn toàn quên câu phương châm của cửa hàng đặt trên mặt bàn tiếp tân, Không ai rời khỏi cửa hiệu Happy Hire của chúng tôi mà không mang theo một nụ cười hạnh phúc. Anna không che dấu nổi vẻ thất vọng.

“Tôi không nghĩ là chị muốn đi xe tải?” Hank ướm thử. “Không phải là mô đen mới nhất, nhưng nếu chị vội”.

“Tôi sẽ thuê”, Anna nói và nghĩ đến hàng người dài dằng dặc xếp hàng sau cô ở bến phà. Chắc chắn họ đều muốn cô nói không thuê. Hank đặt một mẫu đăng ký lên mặt bàn và bắt đầu điền vào những ô trống. Anna đưa bằng lái xe cho anh ta để anh ta điền tiếp vào một số chỗ trống còn lại trong mẫu đăng ký. “Chị muốn thuê trong bao lâu?” Hank hỏi.

“Một ngày, có thể là hai - tôi sẽ để nó lại sân bay Toronto”.

Sau khi đã điền đầy đủ các ô trống nhỏ trên mẫu đăng ký, Hank xoay ngược tờ giấy lại để Anna ký.

“Hết 60 đôla, và tôi cần 200 đôla tiền đặt cọc”.

Anna chau mày, rồi đưa cho anh ta 260 đôla.

“Và tôi cần thẻ tín dụng của chị”. Anna đẩy một tờ 100 đôla về phía anh ta qua mặt bàn. Lần đầu tiên cô biết đến hành động hối lộ.

Hank cho tiền vào túi. “Đó là chiếc xe tải trong ô ba mươi tám”, Hank vừa nói vừa đưa chìa khoá cho cô.

Khi Anna tìm thấy ô ba mươi tám, cô hiểu tại sao đây là chiếc xe cuối cùng còn sót lại. Cô mở cửa sau rồi cho chiếc va li và chiếc máy tính lên xe. Sau đó cô đi về phía trước xe và ngồi vào chiếc ghế lái bọc nhựa. Cô kiểm tra các đồng hồ. Chiếc xe đã chạy được 98617 dặm, và vận tốc tối đa là 90 dặm một giờ. Cô nghĩ may ra thì chiếc xe có thể chạy với vận tốc bằng một nửa con số đó. Rõ ràng chiếc xe này đã đi đến chặng cuối cùng của cuộc đời nó, và bốn trăm dặm tiếp theo sẽ làm nó tắt thở. Cô băn khoăn không hiểu nó có còn bán được nổi 360 bảng hay không.

Anna khởi động chiếc xe và tập trung tâm trí để đưa nó ra khỏi lô đỗ xe. Cô trông thấy một người đàn ông trong gương chiếu hậu ở cửa xe; anh ta vội nhảy tránh sang một bên. Chỉ vài trăm mét sau đó, cô đã phát hiện ra rằng chiếc xe này không phải sinh ra để đua tốc độ hay để đem đến cho ta sự thoải mái. Cô liếc nhìn xuống tấm bản đồ về các tuyến đường mà cô đã trải ra trên chiếc ghế còn lại bên cạnh mình, và bắt đầu tìm kiếm những biển chỉ đường dẫn tới Jersey Turnpike và Del Water Gap. Cho dù từ sáng tới giờ cô chưa có gì vào bụng, Anna quyết định phải cho xe chạy vài chục dặm trước khi nghĩ đến chuyện ăn uống.

***

“Anh nói đúng, sếp ạ”, Joe nói, “cô ta không tới Danville”.

“Vậy cô ta tới đâu?”

“Sân bay Toronto”.

“Xe hơi hay xe lửa?”

“Xe tải”, Joe đáp.

Jack thử tính xem chuyến đi sẽ mất bao nhiêu thời gian, và kết luận rằng phải tới cuối chiều ngày hôm sau Petrescu mới tới Toronto.

“Tôi đã gắn thiết bị định vị toàn cầu lên thanh ba đờ sốc sau xe của cô ta”, Joe nói thêm, “vì vậy chúng ta có thể theo dõi cô ta suốt ngày đêm”.

“Và hãy bố trí một nhân viên theo dõi cô ta ở sân bay”.

“Anh ta đã được thông báo chi tiết”, Joe nói, “với yêu cầu là phải báo cho tôi biết cô ta định bay tới đâu”.

“Cô ta sẽ bay đi London”, Jack nói.

Đến 3 giờ chiều hôm đó, Tina đã có thể loại thêm bốn cái tên khỏi danh sách những người mất tích. Ba người trong số đó đang tham gia bỏ phiếu vòng đầu để bầu thị trưởng, người còn lại bị nhỡ tầu.

Fenston nhìn qua danh sách. Leapman đứng cạnh và đặt một ngón tay lên cái tên duy nhất mà ông ta quan tâm. Fenston gật đầu và mỉm cười.

“Đỡ mất công”, Leapman bình luận. “Có tin gì mới từ JFK không?” Fenston hỏi.

“Ngày mai họ cho phép một vài chiếc cất cánh”, Leapman nói, “các nhà ngoại giao khách mời, các đội cứu thương của bệnh viện, và một số chính khách cao cấp do Bộ Ngoại giao bảo lãnh. Nhưng tôi đã thu xếp để chúng ta được cất cánh vào sáng sớm ngày thứ Sáu”, ông ta dừng lại. “Có người cần một chiếc xe mới”. “Mô đen nào?” Fenston hỏi.

“Một chiếc Ford Mustang”, Leapman trả lời.

“Tưởng là Cadillac”, Fenston mỉm cười.

***

Vào lúc 3 giờ chiều hôm đó, Anna đã tới ngoại ô của thành phố Scraton, nhưng cô quyết định cho xe chạy tiếp thêm vài giờ nữa. Trời quang đãng, không khí khô hanh, và con đường cao tốc ba làn xe đông nghịt xe cộ chạy theo hướng bắc, và hầu hết mọi chiếc xe khác đều vượt xe của cô. Anna thư giãn một chút khi những tòa nhà cao tầng đã được thay thế bằng những hàng cây to hai bên đường. Hầu hết các xa lộ đều có vận tốc tối đa là 55 dặm một giờ và vận tốc như vậy là phù hợp với cô.

Nhưng cô vẫn phải nắm chặt vô lăng để chiếc xe tải không dạt sang làn khác. Anna liếc nhìn bảng đồng hồ. Cô tính sẽ tới Baffalo vào lúc 7 giờ, và có thể cô sẽ phải nghỉ một lát tại đó.

Cô nhìn vào gương chiếu hậu, bỗng nhiên cô có cảm giác của một kẻ tội phạm đang trên đường chạy trốn. Ta không được sử dụng điện thoại di động hay thẻ tín dụng, và tiếng hú của xe cảnh sát làm nhịp tim ta tăng gấp đôi. Một cuộc sống phải luôn dè chừng những người xa lạ, và cứ chốc chốc lại phải ngoái nhìn qua vai. Ngay lúc này, Anna ước gì được trở lại New York, được sống giữa bạn bè và được làm công việc mà cô yêu thích. Cha cô đã từng nói - “ôi, Chúa ơi”, Anna nói to một mình. Nếu mẹ cô nghĩ cô đã chết thì sao? Còn bác George và gia đình ở Danville thì sao? Cô có nên liều gọi điện cho họ không? Tệ thật, cô không thích hợp với hoàn cảnh của một kẻ tội phạm.

Leapman bước vào phòng Tina mà không thèm gõ cửa. Chị vội vàng tắt chiếc màn hình bên cạnh bàn làm việc của mình.

“Anna Petrescu có phải là bạn của cô không?” Leapman hỏi mà không giải thích lý do.

“Phải”, Tina nói mà không ngửng đầu lên.

“Phải à?” Leapman hỏi lại.

“Đã từng”, Tina chữa lại.

“Vậy cô chưa có thêm tin gì về cô ta à?

“Nếu có, sao tôi lại phải đưa tên chị ấy vào danh sách mất tích?”

“Sao lại không?” Leapman nói.

“Tôi không nhận được tin gì về chị ấy”, Tina nhìn thẳng vào mặt Leapman. “Nếu ông biết được tin gì về chị ấy, làm ơn cho tôi biết”, chị nói thêm.

Leapman cau mày và bước ra khỏi phòng.

***

Anna đánh xe vào một quán ăn vắng khách. Cô yên lòng khi thấy chỉ có hai chiếc xe khác đang đỗ trong bãi để xe, và khi cô bước vào trong quán, chỉ có ba vị khách đang ngồi gần quầy thu tiền. Anna tìm một chỗ ngồi quay lưng lại với quầy thu tiền, kéo sụp mũ xuống và đọc qua thực đơn. Cô gọi món xúp cà chua và món gà rán.

Mười đôla và ba mươi phút sau, cô lại lên đường. Cho dù từ sáng tới giờ cô không uống gì ngoài cà phê, chỉ một lúc sau cô đã thấy buồn ngủ. Cô đã cho xe chạy một mạch suốt 8 giờ và đi được hơn ba trăm dặm trước khi dừng lại để ăn tối, và bây giờ thì cô phải cố gắng để mi mắt đừng sụp xuống.

NẾU CẢM THẤY MỆT, HÃY DỪNG LẠI ĐỂ NGHỈ NGƠI, dòng chữ in đậm ấy trên một tấm biển bên đường càng khiến cô ngáp nhiều hơn. Cô phát hiện thấy một chiếc xe tải mười hai bánh đang dạt vào điểm tạm nghỉ phía trước mặt cô. Anna liếc nhìn đồng hồ - hơn mười một giờ. Cô đã ở trên đường gần chín tiếng. Cô quyết định phải nghỉ ngơi vài giờ trước khi đi hết chặng đường còn lại. Suy cho cùng, cô còn khối thời gian để ngủ trên máy bay.

Anna cũng bắt chước chiếc xe tải, cô đánh xe vào điểm tạm nghỉ và cho xe dừng lại ở đầu xa nhất. Cô đỗ xe của mình sau một chiếc đại xa khác rồi nhảy ra khỏi xe, kiểm tra tất cả các cửa xe trước khi trèo lên thùng sau. Cô yên tâm vì phía sau cô không có một chiếc xe nào. Anna cố gắng tạo một chỗ nằm thoải mái, và lấy chiếc máy tính xách tay làm gối. Chưa bao giờ cô phải nằm trong một tư thế khó chịu như thế này, nhưng chỉ vài phút sau cô đã ngủ thiếp đi.

***

“Petrescu vẫn làm tôi lo lắng”, Leapman nói.

“Sao một mụ đàn bà đã chết lại có thể doạ được ông?” Fenston hỏi.

“Bởi vì tôi không tin rằng cô ta đã chết”.

“Làm sao cô ta có thể sống sót?” Fenston vừa nói vừa nhìn đám mây vẫn chưa chịu tan đang lơ lửng trên khu Trung tâm Thương mại Thế giới bên ngoài cửa sổ.

“Cũng giống như chúng ta đã sống sót”, Leapman nói.

“Những chúng ta đã kịp rời khỏi tòa nhà ngay”, Fenston nói.

“Có thể cô ta cũng đã kịp rời khỏi tòa nhà. Chính ngài đã ra lệnh cho cô ta phải rời khỏi đó trong vòng mười phút”.

“Barry lại nghĩ khác”.

“Barry vẫn sống”, Leapman nhắc nhở ông ta.

“Cho dù Petrescu có sống sót, cô ta cũng chẳng làm được gì”, Fenston nói.

“Cô ta có thể tới London trước tôi”, Leapman nói.

“Nhưng bức tranh đã được cất an toàn tại Heathrow”.

“Nhưng tất cả mọi giấy tờ chứng minh bức tranh đó là của ngài đều được cất trong chiếc két ở văn phòng ngài tại Tháp Bắc, và nếu Petrescu có thể thuyết phục-”

“Thuyết phục ai? Victoria Wentworth thì đã chết rồi, đừng có quên là Petrescu đang mất tích, và chắc là cũng đã chết rồi”.

“Nhưng nếu thế thì cũng tiện lợi cho cô ta nếu cô ta thực sự còn sống”, Leapman nói.

“Vậy thì hãy làm cho điều đó trở nên bất tiện đối với cô ta”.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18


Tiếng đập cửa ầm ầm làm Anna giật mình tỉnh dậy. Cô dụi mắt và nhìn qua cửa kính. Một người đàn ông bụng phệ mặc quần bò đang đấm thình thình lên cốp xe. Trên tay kia của ông ta là một can bia không nắp đang sùi bọt. Anna vừa định la lên thì phát hiện thấy còn một người nữa đang cố gắng cậy bật cửa xe sau. Một xô nước lạnh cũng không làm cô tỉnh nhanh hơn thế.

Anna bò vào ghế lái và xoay khoá khởi động. Cô nhìn vào gương biên và giật mình khi thấy một chiếc xe tải hạng bốn mươi tấn đang đỗ ngay sau xe cô, khiến cô gần như không có đường thoát. Cô ấn tay lên còi xe, và điều đó chỉ càng khích lệ gã đàn ông đang cầm can bia trèo lên cốp xe và bò về phía cô. Anna nhìn rõ mặt gã, và gã nhìn cô bằng một ánh mắt dâm dật qua kính xe. Cô cảm thấy lạnh toát người và bủn rủn hết chân tay. Gã bò lại gần hơn nữa, rồi há chiếc miệng không răng ra và thè lưỡi liếm lên cửa kính, trong khi đồng bọn của gã vẫn tiếp tục tìm cách cậy bật cửa sau. Cuối cùng động cơ cũng khởi động.

Anna đánh mạnh tay lái, nhưng khoảng không giữa hai chiếc xe tải chỉ cho phép cô tiến lên được vào mét trước khi cho xe lùi lại. Cô nghe thấy một tiếng la to khi gã đàn ông đằng sau xe nhảy sang một bên. Anna gài số một và đạp mạnh lên chân ga. Khi chiếc xe lao về phía trước, gã đàn ông bụng phệ trượt khỏi cốp xe và ngã uỵch xuống đất. Anna gài số lùi, và cầu nguyện lần này sẽ có đủ chỗ để thoát ra. Nhưng trước khi xoay hết vòng vô lăng, cô liếc nhìn thấy gã đàn ông thứ hai lúc này đang nhìn cô chằm chằm qua cửa kính. Gã bám hai bàn tay hộ pháp lên nóc xe và bắt đầu lắc mạnh. Cô đạp mạnh lên chân ga, và chiếc xe chầm chậm kéo gã về phía trước, nhưng nó vẫn không thoát được ra ngoài. Anna lại cài số lùi lần thứ ba và kinh hoàng khi thấy hai bàn tay của gã đàn ông thứ nhất lại xuất hiện trên cốp xe trong khi gã đang cố đu người đứng lên. Gã lảo đảo tiến về phía trước và gí sát mũi vào kính xe, rồi làm một cử chỉ xoay ngón tay trỏ hướng xuống dưới. Sau đó gã nói to với tên đồng bọn của mình, “Tuần này tao làm trước đấy nhé”. Tên đồng bọn ngừng lắc xe và phá lên cười hô hố.

Anna toát mồ hôi lạnh khi thấy gã đàn ông bụng phệ đang khật khưỡng tiến về phía trước. Cô liếc nhìn vào gương biên và thấy tên còn lại đang trèo lên cabin chiếc xe của gã.

Ngay lập tức Anna hiểu rõ bọn chúng đang nghĩ gì. Cô sẽ trở thành món mồi ngon của chúng. Anna đạp mạnh chân ga đến mức xe của cô đâm vào chiếc đại xa phía sau vừa lúc gã lái xe bật đèn pha lên. Cô gài trở lại số một, cũng là lúc chiếc xe tải phía trước nổ máy và xả một luồng khói đen kịt vào kính xe cô. Anna đánh mạnh tay lái xoay một vòng và lại đạp mạnh vào chân ga. Chiếc xe tải nhỏ của cô nhảy về phía trước, vừa lúc chiếc đại xa phía trước xe cô bắt đầu lùi. Xe cô đâm vào chắn bùn bánh trước của chiếc đại xa, và thanh ba đờ sốc cùng chắn bùn bánh trước của xe cô bị xé toạc. Rồi cô cảm thấy mình bị xô mạnh từ phía sau khi chiếc đại xa còn lại đâm mạnh vào đít xe cô và làm bật thanh ba đờ sốc phía sau. Chiếc xe tải nhỏ của cô lao ra khỏi khe trống trong gang tấc và xoay tròn đủ ba trăm sáu mươi độ trước khi dừng lại. Anna nhìn sang bên vừa khi hai chiếc đại xa, vì không phản ứng kịp, đâm sầm vào nhau.

Cô tăng tốc cho xe chạy qua bãi đỗ, vượt qua một vài chiếc xe tải khác và lao lên xa lộ. Cô nhìn vào gương chiếu hậu và thấy hai chiếc đại xa đang xoay xở để thoát khỏi nhau.

Một tiếng phanh rít lên cùng một loạt tiếng còi cất lên giận dữ khi cô suýt lao vào một dòng xe đang chạy trên đường. Người tài xế trên chiếc xe đầu tiên ấn còi rất lâu để Anna hiểu rõ thái độ của anh ta. Anna vẫy vẫy tay thể hiện thái độ biết lỗi khi chiếc xe đó vượt qua cô, nhưng mắt cô vẫn không rời gương chiếu hậu; cô chỉ sợ lại trông thấy hai chiếc đại xa kia đuổi theo. Anna đạp mạnh chân ga cho đến khi nó chạm sát sàn xe; cô quyết tâm thử xem chiếc xe có thể chạy với vận tốc tối đa là bao nhiêu. Sáu mươi tám dặm một giờ là câu trả lời.

Anna nhìn vào gương biên. Một chiếc đại xa mười tám bánh đang gần đuổi kịp cô trên làn xe bên cạnh. Cô giữ vững tay lái và đạp mạnh chân ga hơn nữa, nhưng chiếc xe của cô không thể cố hơn. Chiếc đại xa phía sau đang mỗi lúc tiến lại gần hơn, từng mét một và cô biết chẳng mấy chốc nữa nó sẽ biến thành một chiếc xe ủi. Anna ấn mạnh lòng bàn tay trái lên còi, nhưng nó chỉ phát ra những tiếng kêu khò khè chẳng đủ để doạ mấy con sáo trong tổ. Một tấm biển lớn xuất hiện bên vệ đường; nó cho biết còn một dặm nữa là đến điểm rẽ vào đường I-90.

Anna đánh xe sang làn đường ở giữa và chiếc đại xa bám theo cô như một cục nam châm. Chiếc xe giờ đã gần tới mức Anna có thể trông thấy rõ gã tài xế trên xe. Một cái cười trơ lợi và tiếp theo là tiếng còi bấm liên hồi đuổi theo cô.

Một tấm biển khác hiện ra cho biết rằng chỉ còn nửa dặm nữa là tới chỗ rẽ. Cô cho xe chạy vào làn tốc độ cao, khiến cho một loạt xe đang lao lên phải phanh gấp và chạy chậm lại. Còi lại vang lên liên hồi, nhưng cô phớt lờ và giảm tốc độ xuống còn 50, và những tiếng còi giờ đã trở thành một dàn hợp xướng.

Chiếc đại xa mười tám bánh vượt lên và chạy song song với xe cô. Cô giảm tốc độ, chiếc xe kia cũng giảm tốc độ; còn một phần tư dặm nữa, một tấm biển khác cho biết. Cô nhìn thấy chỗ rẽ phía xa xa và thầm cảm ơn Chúa khi những tia nắng đầu tiên hiện ra sau những đám mây, bởi vì giờ đây không một chiếc đèn nào trên xe cô còn hoạt động.

Anna biết cô chỉ có một cơ hội duy nhất và cô phải chọn thời điểm thật chuẩn xác. Cô nắm chặt tay lái khi tới chỗ rẽ vào đường I-90 và cho xe lao qua bãi cỏ xanh hình tam giác ngăn cách hai xa lộ. Rồi cô thình lình dậm mạnh chân ga, và dù chiếc xe của cô lần này không nhảy chồm về phía trước, nó chạy lên và tiến thêm được vài yard. Đã đủ chưa? Gã tài xế trên chiếc đại xa phản ứng ngay tức thì và cũng bắt đầu tăng tốc. Khi gã chỉ còn cách xe của cô một thân xe nữa, Anna thình lình đánh tay lái sang phải, trượt qua làn đường ở giữa và làn đường bên trong trước khi lao qua bờ cỏ. Chiếc xe của cô nhảy chồm chồm qua bãi cỏ mấp mô hình tam giác tới làn đường rẽ ngoài cùng. Một chiếc xe hơi đang chạy trên làn đường phía trong phải quặt tay lái để tránh đâm vào cô, trong khi một chiếc khác dạt ra phía ngoài. Khi Anna đã cho xe chạy ổn định ở làn đường trong cùng, cô nhìn sang bên và thấy chiếc đại xa mười tám bánh tiếp tục lao đi trên con đường cao tốc rồi mất hút.

Cô giảm tốc độ xuống còn 50 dặm một giờ, cho dù tim cô vẫn còn đập nhanh gấp ba lần bình thường. Cô cố gắng thư giãn. Cũng giống như đối với một vận động viên, tốc độ hồi phục là tối quan trọng. Rồi cô nhìn vào gương biên. Nhịp tim cô ngay lập tức tăng lên 150 khi cô trông thấy chiếc đại xa thứ hai đang đuổi theo. Đồng bọn của gã bụng phệ đã không lặp lại sai lầm của bạn mình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,467
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19


Khi người lạ mặt bước vào đại sảnh, Sam ngửng đầu lên nhìn ông ta từ phía sau bàn làm việc của mình. Làm một người gác cổng, ta phải có khả năng đưa ra những quyết định ngay tức thì về những con người bước vào tòa nhà của ta. Cần phải đưa họ vào nhóm “Xin chào ngài” hay “Tôi có thể giúp được gì cho bà?” hay chỉ đơn giản là “Xin chào?” Sam nhìn kỹ người đàn ông cao lớn, trung tuổi vừa mới bước vào. Ông ta mặc một bộ complê hàng hiệu nhưng đã khá cũ, chỗ vải hai bên khuỷu tay đã mòn đến mức sáng bóng lên, và cổ ống tay áo sơ mi cũng đã bị mòn xơ ra. Ông ta đeo một chiếc caravát mà Sam nghĩ rằng đã được đeo đến lần thứ một nghìn.

“Xin chào ông”, Sam quyết định xếp ông ta vào nhóm này.

“Chào ông”, người đàn ông trả lời. “Tôi là người của Sở Nhập cư”.

Điều này làm Sam lo lắng. Cho dù ông sinh ra tại Harlem, ông nghe người ta nói rằng có một số người bị trục xuất do nhầm lẫn.

“Tôi có thể giúp gì cho ông?” Sam hỏi.

“Tôi kiểm tra danh sách những người vẫn còn mất tích, và được cho là đã chết, sau vụ tấn công khủng bố vào hôm thứ Ba”.

“Có cụ thể là ai không?” Sam hỏi một cách thận trọng.

“Có”, người đàn ông nói. Ông ta đặt chiếc cặp của mình lên mặt bàn, mở cặp và lấy ra một danh sách, ông ta rê ngón tay dọc theo danh sách và dừng lại tại cái tên Ps. “Anna Petrescu”, ông ta nói. “Đây là địa chỉ cuối cùng của cô ta mà chúng tôi có”.

“Từ khi cô ấy đi làm vào sáng hôm thứ Ba tới nay, tôi chưa hề trông thấy cô ấy”, Sam nói, “cho dù có một số người khác cũng đã hỏi thăm về cô ấy, và một người bạn của cô ấy có đến lấy đi mấy thứ”.

“Cô ta lấy đi những gì?”

“Tôi không biết”, Sam nói. “Tôi chỉ nhận ra chiếc vali”.

“Ông có biết tên cô ta không?”

“Ông cần biết làm gì?”

“Có thể có ích nếu chúng ta liên lạc được với cô ta. Mẹ của Anna rất lo lắng”.

“Không, tôi không biết tên cô ta”, Sam thú nhận.

“Liệu ông có thể nhận ra cô ta nếu tôi đưa cho ông một tấm ảnh của cô ta không?”

“Có thể”, Sam đáp.

Một lần nữa, người đàn ông lại mở cặp ra. Lần này ông ta lấy ra một tấm ảnh rồi đưa cho Sam. Ông già nhìn kỹ tấm ảnh một lúc.

“Đúng, chính là cô ta. Một cô gái khá xinh”, ông già dừng lại, “nhưng không bằng Anna. Anna là một cô gái đẹp”.

***

Anna nhận thấy tốc độ tối đa theo quy định trên đường I-90 là 70 dặm một giờ. Cô sẽ rất sung sướng nếu được chạy quá tốc độ quy định, nhưng dù cô có đạp mạnh chân ga tới đâu, chiếc xe cũng không thể chạy quá tốc độ 68 dặm một giờ.

Cho dù chiếc đại xa kia còn cách cô khá xa, nó đang nhanh chóng rút ngắn khoảng cách, và lần này cô không có chiến lược thoát thân. Cô cầu Chúa cho một biển báo đường hiện ra. Khi chiếc xe tải chỉ còn cách cô khoảng 50 yard, và sắp đè nát cô, thì Anna nghe thấy tiếng hú của xe cảnh sát.

Cô thở phào nhẹ nhõm trước ý nghĩ mình sẽ bị cảnh sát giao thông chặn lại, và cô không quan tâm tới việc họ có tin lời cô hay không khi cô giải thích với họ lý do tại sao cô lại cho xe lao qua hai làn đường cao tốc và bờ dốc ngăn cách hai xa lộ, chưa nói đến chuyện tại sao xe của cô lại mất cả hai thanh ba đờ sốc, mất chắn bùn trước và không một chiếc đèn nào hoạt động. Cô vừa định cho xe giảm tốc độ thì thấy chiếc xe tuần tra của cảnh sát vượt lên qua chiếc đại xa và chạy ngay sau xe của cô. Viên sỹ quan thanh tra giao thông nhìn lại sau và ra hiệu cho gã tài xế trên chiếc đại xa cho xe dừng lại. Anna quan sát qua gương biên khi cả hai chiếc xe kia chạy chậm lại rồi dừng hẳn bên vệ đường.

Phải hơn một giờ sau cô mới lấy lại được bình tĩnh để không phải cứ chốc chốc lại nhìn vào gương biên. Thêm một giờ nữa, Anna bắt đầu cảm thấy đói và cô cho xe dừng lại tại một quán cà phê bên đường để ăn sáng. Khi bước vào quán, cô chọn một chỗ ngồi ở góc trong. Cô đọc kỹ thực đơn trước khi gọi một suất “cỡ đại” - trứng, thịt muối, xúc xích, bành mỳ, bánh kếp, và cà phê. Không phải là suất ăn thông thường của cô, nhưng tất cả những gì vừa diễn ra trong 48 giờ qua đều bất thường.

Vừa ăn, Anna vừa xem lại bản đồ. Hai gã say rượu kia đã giúp cô giữ đúng lịch trình. Anna tính rằng cô đã đi được 380 dặm, nhưng còn phải đi ít nhất là 50 dặm nữa thì cô mới tới được biên giới Canada. Cô xem tấm bản đồ kỹ hơn. Điểm dừng tiếp theo, Tháp Niagra và Anna tính rằng để tới đó cô cần phải mất thêm một giờ đồng hồ nữa.

Chiếc tivi phía sau quầy thu ngân đang đưa tin buổi sáng. Hy vọng tìm thấy thêm những người sống sót ngày càng tan biến. New York đã bắt đầu để tang những người thiệt mạng và bắt tay vào công việc dọn dẹp đầy khó khăn vất vả. Một buổi lễ tưởng niệm, có cả Tổng thống tham dự, sẽ được tổ chức ở Washington DC như là một phần của quốc tang. Tổng thống có dự định sẽ bay tới New York và thăm Bãi Trống. Tiếp theo là Thị trưởng Giuliana xuất hiện trên màn hình, ông ta mặc một chiếc áo phông mang những chữ cái NYPD, và đội một chiếc mũ lưỡi trai có in những chữ cái NYFD một cách đầy tự hào. Ông ta ca ngợi tinh thần của người dân New York, và cam kết sẽ làm hết sức mình để thành phố có thể đứng dậy càng sớm càng tốt.

Lúc này hình ảnh sân bay JFK hiện ra, với một phát ngôn viên của sân bay khẳng định rằng những chuyến bay thương mại đầu tiên sẽ được cất cánh vào sáng hôm sau. Câu nói đó đã quyết định thời trình của Anna. Cô biết mình phải tới London trước khi Leapman có mặt ở đó nếu cô muốn có cơ hội thuyết phục Victoria...

Anna liếc nhìn ra cửa sổ. Hai chiếc xe tải đang chạy vào bãi đỗ. Cô cứng người, và không dám nhìn khi hai người tài xế ra khỏi ca bin. Khi họ bước vào quán cũng là lúc cô đang nhìn quanh để tìm cửa thoát hiểm. Hai người tài xế ngồi ngay tại quầy tiếp tân, họ mỉm cười với cô hầu bàn và không thèm đưa mắt nhìn Anna. Trước kia cô chưa bao giờ hiểu tại sao lại có người mắc chứng hoang tưởng.

Anna nhìn đồng hồ: 7.55. Cô uống cạn cốc cà phê, để 6 đôla lên mặt bàn và bước lại buồng điện thoại công cộng ở góc xa trong quán. Cô quay số 212...

***

“Chào sếp, tôi là đặc vụ Roberts”.

“Xin chào, đặc vụ Roberts”, Jack vừa trả lời vừa ngả người ra sau ghế, “anh có gì để báo cáo không?”

“Tôi đang đứng ở một trạm dừng xe, một nơi nào đó giữa New York và biên giới Canada”.

“Và anh đang làm gì ở đó, đặc vụ Roberts?”

“Tôi đang cầm một thanh ba đờ sốc”. “Để tôi đoán xem nhé”, Jack nói, “thanh ba đờ sốc ấy từng được gắn trên một chiếc xe tải nhỏ màu trắng do kẻ tình nghi lái”.

“Đúng thế, thưa sếp”.

“Thế chiếc xe bây giờ ở đâu?” Jack hỏi bằng một giọng cố tỏ ra bình tĩnh.

“Tôi không biết, thưa sếp. Khi kẻ tình nghi đánh xe vào trạm nghỉ, thú thật là tôi cũng chợp mắt một lát. Khi tôi tỉnh dậy, chiếc xe tải của kẻ tình nghi đã biến mất, chỉ còn lại thanh ba đờ sốc có gắn thiết bị định vị toàn cầu trên đó .

“Vậy thì hoặc là cô ta quá khôn ngoan, hoặc là cô ta đã gặp tai nạn”, Jack nói.

“Chắc là thế”. Roberts dừng lại, rồi nói thêm, “Bây giờ tôi phải làm gì, sếp?”

“Đầu quân cho CIA”, Jack đáp.

***

“Xin chào, Vincent đây, có tin gì không?”

“Đúng như cậu tiên đoán, Ruth Parish đã cất bức tranh tại một phòng an toàn ở khu phi hải quan của sân bay”.

“Thế thì mình phải lấy nó ra”, Anna nói.

“Không dễ như thế đâu”, Tina nói, “bởi vì sáng mai Leapman sẽ bay đi London để lấy bức tranh, vì vậy cậu chỉ còn 24 giờ nữa trước khi ông ta bắt gặp cậu”. Chị ngập ngừng. “Và cậu gặp một khó khăn lớn”.

“Chuyện gì nữa thế?” Anna hỏi. “Leapman không tin là cậu đã chết”.

“Tại sao ông ta lại nghĩ thế?”

“Bởi vì ông ta liên tục hỏi chuyện về cậu, vì vậy cậu phải hết sức cẩn thận. Đừng bao giờ quên phản ứng của Fenston khi Tháp Bắc sụp đổ. Dù hàng chục nhân viên của ông ta có thể vẫn còn mắc kẹt trong đó, thứ duy nhất ông ta quan tâm là tiền của ông ta. Chỉ có Chúa mới biết ông ta sẽ làm gì khi mất bức tranh Van Gogh đó. Những hoạ sỹ đã chết đối với ông ta còn quan trọng hơn tất cả những người còn sống”.

Anna có thể nhận thấy những giọt mồ hôi đang lăn trên trán mình khi cô gác ống nghe. Cô nhìn đồng hồ: 32 giây.

“Người bạn của chúng ta ở JFK thông báo đã thu xếp để chúng ta cất cánh vào lúc 7:30 sáng mai”, Leapman nói. “Nhưng tôi chưa báo cho Tina”.

“Vì sao chưa?” Fenston hỏi.

“Bởi vì ông già gác cổng tại chung cư của Petrescu cho biết một người trông giống Tina đã tới căn hộ của Petrescu vào tối hôm thứ Ba”.

“Tối thứ Ba?” Fenston nhắc lại. “Nhưng điều đó có nghĩa là-”

“Và cô ta lấy đi một chiếc vali”. Fenston cau mày nhưng không nói gì- “Ngài có muốn tôi làm gì đó không?”

“Ông đang có gì trong đầu?” Fenston hỏi.

“Đầu tiên là phải đặt máy nghe trộm trong phòng cô ta. Rồi nếu Petrescu liên lạc với cô ta, chúng ta sẽ biết rõ ả đang ở đâu và đang định làm gì”. Fenston không trả lời, và điều đó đối với Leapman hàm nghĩa một sự đồng ý.

***

Biên giới Canada 4 dặm, một tấm biển bên đường thông báo. Anna mỉm cười - và nụ cười tắt ngấm ngay khi cô trông thấy một đoàn xe dài hút tầm mắt trước mặt mình.

Cô bước xuống đường và duỗi chân tay cho đỡ mỏi. Anna nhăn mặt khi nhìn lại chiếc xe tã nát của mình.

Làm sao cô có thể giải thích với công ty Happy Hire? Cô không hề muốn phải mất thêm tiền cho chiếc xe cà tàng này - 500 đôla cho bất kỳ hỏng hóc đầu tiên nào, nếu cô nhớ không lầm. Trong khi vận động tay chân, Anna vẫn để ý thấy phía đường bên kia không có một ai. Dường như không còn ai dám đặt chân đến Mỹ. Trong suốt 20 phút sau đó, Anna chỉ tiến thêm được 100 yard, và dừng lại trước một trạm xăng. Cô nhanh chóng đưa ra một quyết định - phá vỡ một thói quen lâu năm khác. Cô đánh xe qua đường tới sân trước trạm xăng, qua các máy bơm xăng, và đỗ chiếc xe lại bên một thân cây to, ngay phía sau một tám biển đề dòng chữ Rửa Xe Siêu Hạng. Anna lấy vali và chiếc máy tính phía sau xe và bắt đầu đi bộ trên chặng đường dài bốn dặm từ đó tới biên giới.

 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom