Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 60


Spencer Craig rời tòa án lúc năm giờ, vì hôm nay đến lượt gã chủ trì bữa tối thường kỳ hàng quý của nhóm Những người lính ngự lâm. Bọn họ vẫn tụ tập bốn lần mỗi năm bất chấp việc Toby Mortimer không còn nữa. Bữa tối thứ tư giờ đây được đặt tên là Bữa tối Tưởng nhớ.

Craig luôn thuê mang đồ ăn từ bên ngoài đến, như thế gã không phải lo chuẩn bị bữa ăn hay dọn dẹp sau khi tàn cuộc, mặc dù gã thực sự thích tự mình lựa chọn rượu vang cũng như nếm thử thức ăn trước khi vị khách đầu tiên xuất hiện. Gerald đã gọi điện cho gã trong ngày cho biết mình có một vài tin cực kỳ hấp dẫn muốn chia sẻ cùng cả hội, một thứ có thể sẽ giúp cả bọn đổi đời.

Craig không bao giờ quên được lần gặp gỡ gần nhất của Những người lính ngự lâm đã làm thay đổi cuộc đời bọn họ, nhưng vì Danny Cartwright đã tự treo cổ mình lên, chưa từng có ai đả động đến chủ đề đó nữa. Craig suy nghĩ về đám bạn Ngự lâm quân của mình trong khi lái xe về nhà. Gerald Payne đang đi từ thành công này tới thành công khác trong công ty của mình, và giờ đã được chọn giữ một ghế thường trực của phe Bảo thủ tại vùng Sussex, và anh chàng có lẽ chắc chắn sẽ trở thành nghị sĩ vào bất cứ thời điểm nào mà thủ tướng lựa chọn để tổ chức cuộc bầu cử tiếp theo. Larry Davenport gần đây có vẻ đã dễ thở hơn, và thậm chí đã trả lại mười nghìn bảng Craig cho vay mấy năm trước, một khoản tiền mà gã chưa bao giờ hy vọng có ngày được gặp lại; có thể cả Larry cũng sẽ có điều gì đó để nói với cả nhóm. Craig đã có sẵn phần tin tức của mình dành để chia sẻ cho nhóm Những người lính ngự lâm vào tối hôm nay, và mặc dù như vậy cũng chẳng nhiều hơn gã từng dự kiến, nhưng dù sao cũng khiến gã cảm thấy hài lòng.

Những vụ biện hộ trở lại ngày một nhiều khi gã tiếp tục thắng các vụ kiện, và lần xuất hiện tại phiên tòa xử Danny Cartwright dần trở thành một ký ức mờ nhạt mà phần lớn đồng nghiệp của gã cũng hầu như không thể nhớ ra nữa - với một ngoại lệ. Cuộc sống riêng tư của gã vẫn chắp vá tạm bợ, cho dù là nói một cách nhẹ nhàng: một mối quan hệ một đêm thỉnh thoảng lại diễn ra, nhưng ngoài cô em gái của Larry, không có người đàn bà nào gã muốn nhìn mặt đến lần thứ hai. Tuy nhiên, Sarah Davenport đã thể hiện ra không thể rõ ràng hơn rằng cô không mảy may quan tâm đến gã, nhưng ít nhất gã vẫn chưa từ bỏ hy vọng.

Khi Craig về đến nhà mình ở Hambleton Terrace, gã đi kiểm tra lại giá để rượu vang và phát hiện ra mình chẳng còn lại thứ gì đáng mặt cho một bữa tối của Những người lính ngự lâm. Gã đi bộ ra cửa hàng quen ở góc King’s Road chọn lấy ba chai Merlot, ba chai từ một hầm Sauvignon sản xuất tại Australia và một chai magnum(1) của Laurent Perrier(2). Nói gì thì nói, gã cũng có một điều đáng để chúc mừng.

Trong khi rảo bước về nhà, mang theo hai túi đầy chai, gã nghe thấy tiếng còi xe cảnh sát từ xa vẳng lại, âm thanh khiến cho những hồi ức về đêm hôm đó chợt thức dậy. Có vẻ như thời gian không tài nào xóa mờ được chúng, giống như mọi hồi ức khác. Gã đã gọi cho hạ sĩ Fuller, rồi chạy thẳng về nhà, lột sạch đồ đang mặc trước khi lao vào tắm nhanh dưới vòi hoa sen nhưng tránh không làm ướt tóc, thay trang phục gần như y hệt cũ, từ bộ đồ mặc ngoài cho tới áo sơmi và cà vạt, sau đó quay lại ngồi đàng hoàng ở quầy bar sau đó mười bảy phút.

Nếu Redmayne kiểm tra khoảng cách giữa Dunlop Arm và căn nhà của Craig trước ngày khai mạc phiên tòa, rất có thể anh ta đã gieo được nhiều nghi ngờ hơn vào đầu bồi thẩm đoàn. Tạ ơn Chúa rằng lần đó mới chỉ là vụ thứ hai anh ta bào chữa chính, bởi vì nếu muốn chiếm thế thượng phong trước Arnold Pearson đáng ra anh ta cần phải kiểm tra từng viên gạch trên con đường dẫn về nhà gã với một chiếc đồng hồ bấm giây trên tay.

Craig không hề ngạc nhiên về việc hạ sĩ Fuller đã phải mất bao nhiêu thời gian trước khi đặt được chân vào trong quán rượu, vì gã biết viên cảnh sát còn có nhiều việc quan trọng hơn phải bận tâm ngoài con đường hẻm: một người đàn ông đang hấp hối, một kẻ tình nghi hiển nhiên người vẫn còn bê bết máu. Anh ta cũng sẽ không có bất cứ lý do nào để nghi ngờ một người hoàn toàn xa lạ có liên quan tới vụ việc, nhất là khi còn ba nhân chứng khác cũng thống nhất với lời khai của gã. Người phục vụ quầy bar đã ngậm miệng, nhưng dù gì đi nữa trước đó anh chàng này từng có rắc rối với cảnh sát, và rõ ràng lời khai của một nhân chứng như thế sẽ khó được tin tưởng tại tòa, dù cho anh ta có ngả về bên nào đi nữa. Craig đã tiếp tục mua tất cả rượu vang của mình tại Dunlop Arms, và khi hóa đơn thanh toán được gửi tới vào cuối mỗi tháng không hoàn toàn ăn khớp, gã cũng không bình phẩm gì.

Về đến nhà, Craig để rượu vang lên bàn ăn trong bếp và cất champagne vào tủ lạnh. Sau đó gã leo lên lầu tắm rửa và thay một bộ đồ thoải mái hơn. Gã vừa quay xuống bếp và đang bắt tay vào mở nút một chai rượu vang thì chuông cửa reo.

Gã không nhớ lần cuối cùng trông thấy Gerald phấn khởi đến thế là từ bao giờ, và đoán nguyên nhân chắc hẳn là tin tức mà ông bạn đã nhắc tới hồi chiều.

“Chuyện bầu cử vui vẻ chứ?” Craig hỏi trong khi treo áo khoác của Payne lên mắc và dẫn ông bạn vào phòng khách.

“Cực kỳ vui luôn, tôi chỉ mong tổng tuyển cử sớm được tổ chức, như thế tôi có thể danh chính ngôn thuận dành một chỗ ở Hạ viện.” Craig rót cho gã một ly champagne và hỏi gần đây gã có tin gì từ Larry không. “Tuần trước, một buổi tối tôi có rẽ qua chỗ hắn, nhưng hắn không cho tôi vào trong nhà, chuyện này tôi thấy hơi lạ.”

“Lần cuối tôi đến thăm nhà hắn, nơi đó đang ở trong tình trạng thật kinh khủng,” Craig nói. “Có thể lý do chỉ có vậy thôi, hoặc có thể là một anh bạn trai nữa mà hắn không muốn anh gặp.”

“Chắc là hắn đang làm việc gì đó,” Payne nói. “Hắn gửi cho tôi một tấm séc tuần trước để hoàn lại khoản vay mà tôi đã từ bỏ hy vọng đòi lại được từ lâu.”

“Cả anh cũng vậy?” Craig nói vừa đúng lúc chuông cửa reo lên lần thứ hai.

Khi Davenport thong thả bước vào để hội họp với hai người bạn, toàn bộ dáng vẻ nghênh ngang và sự tự tin dường như đã quay trở lại. Gã ôm hôn Gerald vào cả hai má như thể mình là một viên tướng người Pháp đang duyệt đội ngũ. Craig mời gã một ly champagne, đồng thời không khỏi thầm nghĩ Larry trông trẻ ra đến mười tuổi so với lần cuối hai người gặp nhau. Có lẽ ông bạn của gã sắp nói ra điều gì đó khiển cả hội phải sững sờ.

“Hãy cùng bắt đầu tối hôm nay bằng cách nâng cốc,” Craig nói. “Vì những người bạn vắng mặt.” Cả ba cùng nâng ly và hô lớn, “Toby Mortimer.”

“Tiếp theo chúng ta sẽ uống vì ai đây?” Davenport hỏi.

“Sir Nicholas Moncrieff,” Payne nói ngay không chút do dự.

“Hắn ta là gã quái nào thế?” Craig hỏi.

“Người sắp sửa thay đổi vận may của tất cả chúng ta.”

“Bằng cách nào?” Davenport hỏi, không muốn tiết lộ rằng chính Moncrieff là lý do khiến gã có khả năng hoàn lại những khoản đã vay từ cả hai người, cũng như vài món nợ khác.

“Tôi sẽ kể chi tiết cho các anh trong bữa tối,” Payne nói. “Nhưng tối nay tôi nhất định sẽ là người tiết lộ tin tức của mình sau cùng, bởi vì lần này tôi tin rằng các vị sẽ không thể qua mặt được tôi.”

“Tôi không chắc vậy đâu, Gerald,” Davenport nói, trông có vẻ hài lòng về mình hơn nhiều so với thường lệ.

Một người phụ nữ trẻ xuất hiện trên ngưỡng cửa. “Chúng tôi sẵn sàng phục vụ khi ông muốn, ông Craig.”

Cả ba người cùng bước vào phòng ăn cùng ôn lại những ngày họ cùng trải qua ở Cambridge, những câu chuyện được kể ra ngày càng được cường điệu lên theo năm tháng.

Craig ngồi xuống đầu bàn trong khi những phần cá hồi hun khói được dọn ra trước mặt hai vị khách của gã. Sau khi đã nếm thử rượu vang và gật đầu ưng thuận, gã quay sang Davenport nói, “Tôi không đợi hơn được nữa rồi, Larry. Hãy để chúng ta cùng nghe tin mới của anh trước. Hẳn là anh vừa đổi vận.”

Davenport tựa người vào ghế và đợi cho tới khi đã chắc chắn mọi sự chú ý đều đang dồn vào mình. “Mấy hôm trước tôi nhận được một cuộc điện thoại từ BBC, đề nghị tôi qua trụ sở của họ trao đổi một chút. Thường điều đó có nghĩa là họ muốn thí cho bạn một vai phụ trong một vở kịch truyền thanh với tiền công không đủ đi một cuốc taxi từ Quảng trường Redcliffe tới Portland Place. Nhưng lần này, tôi được một nhà sản xuất cao cấp của họ mời ăn trưa, ông ta cho tôi biết họ sắp đưa một nhân vật mới vào Holby City, và tôi là lựa chọn đầu tiên của họ. Có vẻ như bác sĩ Beresford đã phai mờ trong ký ức công chúng...”

“Nâng cốc vì ký ức,” Payne vừa nói vừa giơ ly lên.

“Họ đề nghị tôi diễn thử vào tuần tới.”

“Hoan hô,” Craig nói, đến lượt mình cũng giơ cao ly.

“Người đại diện của tôi cho hay bọn họ hiện chưa cân nhắc đến ai khác cho vai đó, vì thế ông ta đã có thể hoàn tất một hợp đồng ba năm với những khoản thù lao bổ sung cho mỗi lần phát lại cùng một điều khoản thương lượng kéo dài rất cứng rắn.”

“Không tồi chút nào, phải thừa nhận là vậy,” Payne nói, “nhưng tôi vẫn tin tưởng có thể đánh bại hai người. Vậy còn tin của anh là gì, Spencer?”

Craig rót đầy ly và nhấp một ngụm trước khi nói.

“Ngài Đại pháp quan đã đề nghị gặp tôi vào tuần tới.” Gã nhấp một ngụm nữa để cho phép tin sốt dẻo của mình có thời gian ngấm vào đầu hai ông bạn.

“Vậy là ông ta sẽ đề nghị anh đảm nhiệm công việc của mình?” Davenport hỏi.

“Rồi cũng sẽ đến lúc,” Craig nói, “nhưng lý do duy nhất để ông ta đề nghị gặp ai đó có địa vị khiêm tốn như tôi là khi ông ta chuẩn bị mời người đó mặc áo choàng nhung và trở thành một QC.”

“Và vô cùng xứng đáng,” Davenport nói, trong khi gã cùng Payne đứng dậy chúc mừng ông chủ nhà.

“Quyết định này vẫn còn chưa được công bố,” Craig nói, vẫy tay đề nghị hai vị khách ngồi xuống, “vì vậy dù có làm gì đi nữa, mong hai người đừng lộ ra dù chỉ một từ.”

Craig và Davenport cùng ngả người tựa vào ghế, quay sang Payne. “Đến lượt anh, ông bạn thân mến,” Craig nói. “Hãy nói xem cái gì sắp sửa làm thay đổi vận may của chúng ta?”

***

Có tiếng gõ cửa vang lên.

“Mời vào,” Danny nói.

Al Mập đứng trên ngưỡng cửa, cầm theo một gói hàng lớn. “Nó mới vừa được chuyển đến, ông chủ. Tôi phải để nó vào đâu đây?”

“Cứ để trên bàn,” Danny nói, tiếp tục đọc cuốn sách đang cầm trong tay như thể gói hàng vừa được chuyển đến chẳng có gì quan trọng. Ngay sau khi nghe tiếng cánh cửa đóng lại, anh đặt cuốn sách của Adam Smith về lý thuyết kinh tế thị trường tự do xuống và đứng dậy đi đến chỗ chiếc bàn. Anh nhìn gói hàng có ghi chú Nguy hiểm, thận trọng khi tiếp xúc một hồi trước khi lột lần giấy nâu bọc bên ngoài, để lộ ra một chiếc hộp các tông. Anh phải bóc thêm mấy lớp băng keo nữa trước khi mở được nắp hộp ra.

Anh lấy từ trong hộp ra một đôi ủng cao su đen, cỡ 9 1/2, và xỏ vào chân đi thử - vừa như in. Sau đó anh lấy ra một đôi găng cao su mỏng và một chiếc đèn pin lớn. Khi anh bật đèn lên, luồng sáng phát ra làm sáng bừng cả căn phòng. Món đồ tiếp theo được lấy ra khỏi hôp là một bộ áo liền quần bằng vải nylon màu đen và một chiếc mặt nạ cho phép che kín mũi và miệng. Anh đã được đề xuất lựa chọn giữa màu trắng và màu đen, và đã chọn màu đen. Thứ duy nhất Danny để lại trong hộp là một chiếc hộp nhỏ bằng nhựa được bọc trong một lớp màng bong bóng chống va đập có ghi chú “Nguy hiểm”. Anh không tháo lớp màng bọc ra vì đã biết rõ bên trong là thứ gì. Anh để đôi găng, đèn pin, bộ đồ và chiếc mặt nạ trở lại chiếc hộp các tông, lấy một cuộn băng dính dày từ ngăn kéo bàn làm việc ra để dán kín lại nắp hộp. Danny mỉm cười. Thêm một nghìn bảng nữa được đầu tư đúng chỗ.

***

“Và anh sẽ đóng góp bao nhiêu vào vụ làm ăn nhỏ này?” Craig hỏi.

“Khoảng một triệu tiền túi,” Payne nói, “trong đó tôi đã chuyển sáu trăm nghìn trước nhằm đảm bảo có được hợp đồng.”

“Như thế không khiến anh bị căng quá sao?” Craig hỏi.

“Đến mức gần như phá sản,” Payne thừa nhận, “nhưng tôi khó mà gặp lại được một cơ hội tương tự trong đời mình, và lợi nhuận thu được sẽ cho phép tôi có đủ để sống thoải mái sau khi trở thành nghị sĩ và buộc phải từ bỏ vị trí hội viên tại công ty.”

“Cho phép tôi cố gắng hiểu việc anh đang đề xuất,” Davenport nói. “Cho dù chúng tôi bỏ vào vụ này bao nhiêu đi nữa, anh đảm bảo sẽ làm sinh lãi gấp đôi chỉ trong vòng chưa tới một tháng.”

“Anh sẽ không bao giờ hoàn toàn chắc chắn được điều gì,” Payne nói, “nhưng đây là một cuộc đua chỉ có hai ngựa, và con chúng ta đặt cược rõ ràng đang được ưa chuộng. Nói cho đơn giản, tôi đang có cơ hội kiếm được một miếng đất với giá sáu triệu, và miếng đất đó sẽ có giá từ mười lăm đến hai mươi triệu một khi bà bộ trưởng công bố địa điểm nào được lựa chọn để xây sân đua xe đạp.”

“Với điều kiện bà ta chọn địa điểm anh định mua,” Craig nói.

“Tôi đã chỉ cho anh xem mục tin trong bản tin của Nghị viện tường thuật lại cuộc trao đổi của bà ta với hai nghị sĩ.”

“Phải, anh đã làm thế,” Craig nói. “Nhưng tôi vẫn thấy hoài nghi. Nếu đây thực sự là một món hời đến thế, tại sao gã Moncrieff này không tự mua lấy khu đất đó cho mình?”

“Trước hết, tôi không nghĩ ông ta đã không bao giờ có khả năng huy động đủ sáu triệu,” Payne nói. “Nhưng ông ta vẫn góp vào một triệu rút từ tiền túi ra.”

“Chỉ là tôi cảm thấy có điều gì đó không ổn,” Craig nói.

“Anh thật đúng là một lão già đa nghi, Spencer,” Payne nói. “Cho phép tôi nhắc lại chuyện gì đã xảy ra lần cuối cùng tôi đề nghị với Những người lính ngự lâm một cơ hội vàng tương tự thế này - Larry, Toby, và tôi đều đã kiếm được gấp đôi số vốn bỏ ra với khu trang trại ở Glouchestershire đó chỉ trong vòng gần hai năm. Giờ đây tôi đang đề xuất với anh một vụ còn an toàn hơn nhiều, chỉ khác ở chỗ lần này anh sẽ nhân đôi số tiền của mình bỏ ra chỉ trong vòng mười ngày.”

“OK, tôi sẵn sàng mạo hiểm hai trăm nghìn,” Craig nói. “Nhưng tôi sẽ giết anh nếu có chuyện gì bất trắc xảy ra.”

Khuôn mặt Payne tái nhợt không còn giọt máu, trong khi Davenport sững sờ. “Thôi nào, các chàng trai, chỉ đùa thôi mà,” Craig nói. “Vậy là tôi sẽ nhập cuộc với hai trăm nghìn. Còn anh thì sao, Larry?”

“Nếu Gerald sẵn sàng mạo hiểm một triệu, thì tôi cũng dám,” Davenport nói, nhanh chóng trấn tĩnh lại. “Tôi tin có thể huy động được số tiền đó từ ngôi nhà của mình mà không cần phải thay đổi lối sống.”

“Lối sống của anh sẽ thay đổi sau mười ngày nữa, ông bạn thân mến,” Payne nói. “Không ai trong chúng ta còn cần phải làm việc nữa.”

“Tất cả vì một người, một người vì tất cả,” Davenport nói, cố đứng dậy.

“Tất cả vì một người, một người vì tất cả,” Craig và Payne đồng thanh hô to. Cả ba cùng giơ cao ly của mình.

“Vậy anh sẽ huy động số tiền còn lại bằng cách nào?” Craig hỏi. “Rốt cục lại, cả ba chúng ta mới có được chưa đến một nửa.”

“Đừng quên một triệu của Moncrieff, và ông chủ tịch công ty của tôi cũng tham gia nửa triệu. Tôi cũng đã tiếp cận vài người bạn cũ mà tôi đã giúp phát tài trong nhiều năm qua, thậm chí cả Charlie Duncan cũng đang cân nhắc đến việc tham gia đầu tư, như vậy tôi có thể kiểm đủ số tiền cần thiết vào cuối tuần này. Và vì tôi sẽ là người chủ trì cho cuộc gặp tiếp theo của Những người lính ngự lâm,” gã nói tiếp, “tôi nghĩ tôi sẽ đặt một bàn tại Harry’s Bar.”

“Hoặc ở nhà hàng McDonald’s,” Craig nói, “nếu bà bộ trưởng lựa chọn địa điểm còn lại.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 61


Alex đang nhìn qua bên kia sông Thames, về phía Con Mắt London lúc nàng tới. Anh đứng dậy khỏi băng ghế tới chào nàng.

“Cô đã bao giờ ngồi trên Con Mắt chưa?” anh hỏi trong khi nàng ngồi xuống bên cạnh anh.

“Có, một lần,” Beth nói. “Tôi đưa bố tôi lên đó khi nó được khai trương. Trước đây từ trên đỉnh đu quay anh có thể nhìn thấy gara của chúng tôi.”

“Chỉ không bao lâu nữa cô sẽ lại có thể nhìn thấy Ngôi nhà Wilson,” Alex nói.

“Vâng. Nhà thầu thật tử tế khi đặt tên cho tòa nhà theo họ của bố tôi. Ông hẳn sẽ rất vui,” Beth nói.

“Tôi cần quay lại tòa lúc hai giờ,” Alex nói. “Nhưng tôi cần gặp cô gấp, vì tôi có một vài tin cho cô.”

“Anh thật tử tế khi chấp nhận bỏ ra cả giờ nghỉ ăn trưa thế này.”

“Sáng nay tôi vừa nhận được một bức thư từ văn phòng của ngài Đại pháp quan,” Alex nói, “ông đã đồng ý cho mở lại vụ án.” Beth ôm choàng lấy anh. “Nhưng với điều kiện chúng ta có thể đưa ra những bằng chứng mới.”

“Liệu cuộn băng ghi âm có được coi như một bằng chứng mới không?” Beth hỏi. “Cả hai tờ báo địa phương tại đây đều đề cập đến nó kể từ khi chúng ta phát động chiến dịch đề nghị ân xá Danny.”

“Tôi chắc lần này họ sẽ xem xét đến nó, nhưng nếu họ tin cuộc đàm thoại được ghi lại dưới sức ép, họ sẽ loại bỏ nó.”

“Nhưng làm cách nào ai đó có thể chứng minh rõ ràng được một trong hai khả năng đó?” Beth hỏi.

“Cô còn nhớ Danny và Al Mập ở cùng một buồng giam với một người tên là Nick Moncrieff không?”

“Tất nhiên,” Beth nói. “Họ đã là những người bạn tốt. Ông ấy đã dạy Danny đọc, viết, thậm chí còn dự tang lễ của anh ấy, mặc dù không ai trong chúng tôi được nói chuyện với ông ấy.”

“Được rồi, vài tuần trước khi Moncrieff được trả tự do, anh ta có viết cho tôi đề nghị giúp đỡ bằng bất cứ cách nào có thể, vì anh ta tin chắc Danny vô tội.”

“Nhưng vẫn có vô số người tin Danny vô tội,” Beth nói, “và nếu anh cảm thấy Al Mập có thể sẽ là một nhân chứng không có lợi, vậy thì Nick liệu có khác gì?”

“Bởi vì Danny từng có lần nói với tôi rằng Moncrieff viết nhật ký trong thời gian ở tù, vì thế rất có thể anh ta đã ghi lại gì đó liên quan tới sự kiện cuốn băng. Các tòa án đánh giá rất cao những bản nhật ký, vì chúng là các chứng cớ diễn ra cùng thời điểm.”

“Vậy thì tất cả những gì anh phải làm là liên hệ với Moncrieff,” Beth nói, không còn giấu được sự phấn khích của mình nữa.

“Không đơn giản vậy đâu,” Alex nói.

“Tại sao không? Nếu ông ấy nhiệt tình muốn giúp...”

“Không lâu sau khi được trả tự do, anh ta bị bắt vì vi phạm điều kiện tại ngoại.”

“Vậy là ông ấy bị đưa trở lại tù?” Beth hỏi.

“Không, đó mới là điều lạ lùng. Thẩm phán đã cho anh ta thêm một cơ hội cuối cùng. Hẳn là anh ta đã kiếm được một luật sư cự phách để bào chữa cho mình.”

“Vậy thì điều gì ngăn cản anh cố gắng có được cuốn nhật ký của ông ấy?” Beth hỏi.

“Rất có thể sau rắc rối mới nhất gặp phải với pháp luật, anh ta sẽ không hào hứng đón nhận một bức thư do một luật sư anh ta chưa bao giờ gặp mặt gửi tới, yêu cầu anh ta phải dính dáng đến tòa án trong một vụ án khác.”

“Danny nói anh luôn có thể trông cậy vào Nick, cho dù bất cứ chuyện gì xảy ra.”

“Nếu thế tôi sẽ viết thư cho anh ta ngay hôm nay,” Alex nói.

***

Danny nhấc máy.

“Payne đã chuyển sáu trăm nghìn bảng bằng điện báo sáng nay,” giọng nói vang lên, “như vậy nếu ông ta trả nốt năm triệu bốn trăm nghìn bảng còn lại vào cuối tuần này, địa điểm xây dựng sân đua xe đạp sẽ là của ông ta. Tôi nghĩ ông muốn được biết chúng ta vừa có một lời trả giá nữa sáng nay ở mức mười triệu, một đề nghị mà tất nhiên chúng tôi buộc phải từ chối. Tôi hy vọng ông biết rõ mình đang làm gì.” Đường dây im bặt. Đây là lần đầu tiên giọng nói ở đầu dây bên kia đưa ra một quan điểm.

Danny bấm số người quản lý tài khoản của anh tại Coutts. Anh chuẩn bị thuyết phục Payne rằng vụ làm ăn không thể thất bại.

“Chúc buổi sáng tốt lành, Sir Nicholas. Tôi có thể giúp gì được ông?”

“Xin chào, ông Watson. Tôi muốn chuyển một triệu bảng từ tài khoản hiện tại của tôi tới tài khoản khách hàng của Baker, Tremlett và Smythe.”

“Tất nhiên rồi, thưa ông.” Tiếp theo là một khoảng im lặng khá lâu trước khi ông Watson nói thêm, “Chắc ông cũng rõ giao dịch này sẽ khiến tài khoản của ông bị bội chi chứ?”

“Có, tôi biết,” Danny nói, “nhưng nó sẽ được bù lại vào mồng một tháng Mười khi ông nhận được séc chuyển tiền hàng tháng từ quỹ tín dụng của ông nội tôi.”

“Tôi sẽ thực hiện các giấy tờ thủ tục trong hôm nay và liên lạc lại,” ông Watson nói.

“Tôi không quan tâm ông sẽ thực hiện các giấy tờ lúc nào, ông Watson, miễn là toàn bộ số tiền được chuyển trước khi hết giờ giao dịch chiều nay.” Danny dập máy. “Chết tiệt,” anh rủa khẽ. Không phải là cách Nick sẽ xử sự trong hoàn cảnh này. Anh cần nhanh chóng quay lại với phong cách của Nick. Anh quay người lại, thấy Molly đang đứng trên ngưỡng cửa. Bà đang run bần bật, có vẻ như không nói nổi thành lời.

“Có chuyện gì thế, Molly?” Danny hỏi, đứng bật dậy khỏi ghế. “Bà không sao chứ?”

“Chính là anh ta,” bà thì thầm.

“Anh ta?” Danny nói.

“Anh chàng diễn viên đó.”

“Diễn viên nào?”

“Chính anh chàng bác sĩ Beresford đó. Ông biết đấy, Lawrence Davenport.”

“Thật thế sao?” Danny hỏi. “Tốt nhất bà hãy dẫn ông ta vào phòng khách. Mời ông ta dùng cà phê và nói tôi sẽ tiếp ông ta ngay.”

Trong khi Molly chạy xuống dưới nhà, Danny ghi thêm hai ghi chú mới vào cặp hồ sơ của Payne trước khi trả nó lên giá. Anh lấy cặp hồ sơ của Davenport xuống và nhanh chóng cập nhật.

Anh đang định đóng cặp hồ sơ lại thì chợt nhìn thấy một dòng ghi chú dưới đề mục “Cuộc sống trước đây” khiến anh bất giác mỉm cười. Anh cất cặp hồ sơ lên giá rồi xuống dưới nhà tiếp vị khách không mời.

Davenport đứng dậy khi Danny bước vào phòng khách, và lần này gã đã chịu bắt tay. Danny thoáng ngỡ ngàng trước vẻ bề ngoài của gã. Lúc này gã đã cạo râu nhẵn nhụi, mặc một bộ đồ cắt may rất có nghề cùng một chiếc áo sơmi cổ rộng khá sành điệu. Chẳng lẽ gã tới để trả lại ba trăm nghìn bảng?

“Rất xin lỗi đã đến làm phiền ông đường đột thế này,” Davenport nói. “Tôi sẽ không đời nào làm thế nếu không có chuyện khẩn cấp.”

“Xin đừng băn khoăn gì,” Danny nói trong khi ngồi xuống chiếc ghế đối diện với vị khách. “Tôi có thể giúp được gì?”

Molly đặt một chiếc khay lên mặt bàn kê bên cạnh, rót cho Davenport một tách cà phê.

“Ông dùng kem hay sữa, ông Davenport?” bà hỏi.

“Không gì cả, cảm ơn bà.”

“Ông dùng đường chứ, ông Davenport?”

“Không, cảm ơn bà.”

“Ông có muốn dùng bánh quy sô cô la không?”

“Không, xin cảm ơn,” Davenport vừa nói vừa vỗ vỗ nhẹ vào bụng.

Danny tựa người vào ghế mỉm cười. Anh tự hỏi không biết Molly có sững sờ đến thế không khi biết bà cũng vừa phục vụ con trai của một nhân viên trông coi bãi để xe của Hội đồng khu Grimsby Borough.

“Được rồi, hãy cho tôi biết nếu ông còn cần thêm gì khác, thưa ông Davenport,” Molly nói trước khi rời khỏi phòng, hoàn toàn quên biến việc đưa cho Danny tách sô cô la nóng quen thuộc của anh. Danny đợi cho tới khi cửa phòng khách đã đóng lại. “Thành thật xin lỗi ông,” anh nói. “Bình thường bà ấy bình tĩnh lắm.”

“Không sao đâu, ông bạn,” Davenport nói. “Chúng ta đành phải làm quen với những chuyện như thế.”

Cũng không còn phải cố thêm lâu nữa đâu, Danny thầm nghĩ. “Bây giờ vào việc, tôi có thể giúp được gì?”

“Tôi muốn đầu tư một khoản tương đối lớn vào một vụ làm ăn. Chỉ tạm thời thôi, chắc ông cũng hiểu. Không những tôi sẽ hoàn lại cho ông trong vòng vài tuần cùng với lãi suất hiện hành,” gã nói, ngước mắt nhìn lên bức họa của McTaggart treo phía trên lò sưởi, “mà tôi cũng đồng thời lấy lại những bức tranh.”

Danny chắc chắn sẽ rất buồn nếu phải mất những tác phẩm mới thu được, vì bản thân anh cũng phải ngạc nhiên khi trở nên nhanh chóng gắn bó với những bức tranh đó như vậy. “Tôi xin lỗi, tôi thật vô ý quá,” anh nói, đột nhiên ý thức được căn phòng đang treo đầy những bức tranh trước đây thuộc về Davenport. “Ông yên tâm, chúng sẽ được trả lại ngay khi khoản vay được hoàn lại.”

“Có lẽ việc đó sẽ diễn ra sớm hơn nhiều so với dự kiến ban đầu của tôi,” Davenport nói. “Đặc biệt là nếu ông có thể giúp tôi trong vụ làm ăn nhỏ này.”

“Ông đã có ý tưởng nào về khoản tiền cần thiết chưa?” Danny hỏi.

“Một triệu,” Davenport nói với vẻ thăm dò. “Vấn đề là ở chỗ tôi chỉ có một tuần để kiếm đủ khoản tiền này.”

“Lần này ông sẽ dùng thứ gì để thế chấp?” Danny hỏi.

“Ngôi nhà của tôi ở Quảng trường Redcliffe.”

Danny nhớ lại những lời Davenport đã nói lần cuối cùng hai người gặp nhau: Ngôi nhà của tôi? Không, không bao giờ. Không cần bàn thêm nữa, và cũng đừng bao giờ nghĩ tới chuyện đó. “Và ông nói là ông sẽ hoàn lại toàn bộ khoản tiền trong vòng một tháng, sử dụng ngôi nhà làm vật thế chấp?”

“Trong vòng một tháng, cam đoan như vậy - hoàn toàn chắc chắn.”

“Và nếu ông không thể hoàn trả được một triệu đúng hạn?”

“Khi đó thì, cũng giống như những bức tranh của tôi, ngôi nhà của tôi cũng thuộc về ông.”

“Vậy là chúng ta thỏa thuận,” Danny nói. “Và vì ông chỉ có vài ngày để tìm tiền, tốt hơn tôi cần liên lạc ngay với các luật sư của tôi và chỉ thị cho họ thảo hợp đồng.”

Khi hai người rời khỏi phòng khách ra ngoài tiền sảnh, họ bắt gặp Molly đang đứng trước cửa ra vào, cầm sẵn trên tay chiếc áo khoác của Davenport.

“Cảm ơn bà,” Davenport nói sau khi bà giúp gã mặc áo khoác rồi mở cửa.

“Tôi sẽ liên lạc với ông,” Danny nói, không bắt tay Davenport khi gã bước ra ngoài lối đi. Molly thiếu chút nữa đã cúi người chào.

Danny quay lại, đi lên phòng làm việc. “Molly, tôi cần gọi vài cuộc điện thoại, vì thế tôi sẽ ăn trưa muộn hơn vài phút,” anh vừa bước lên cầu thang vừa dặn với lại sau. Khi không nhận được câu trả lời, anh ngoảnh lại và thấy bà quản gia của mình đang đứng trên ngưỡng cửa nói chuyện với một người phụ nữ.

“Ông ấy có hẹn gặp bà không?” Molly hỏi.

“Không,” bà Bennett đáp. “Tôi chỉ tình cờ đi ngang qua.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 62


Chuông báo thức ngừng đổ lúc hai giờ sáng, nhưng Danny vẫn chưa ngủ. Anh bật dậy khỏi giường, nhanh chóng mặc quần, áo phông, đi tất và giày thể thao vào, tất cả đều được anh để sẵn trên chiếc ghế cạnh cửa sổ. Anh không hề bật đèn lên.

Anh xem đồng hồ: hai giờ sáu phút. Anh đóng cửa phòng ngủ và chậm rãi bước xuống cầu thang. Anh mở cửa trước và thấy chiếc xe của mình đã đỗ bên lề đường. Mặc dù không nhìn thấy, anh biết Al Mập đang ngồi sau tay lái. Danny nhìn quanh - xung quanh quảng trường chỉ còn một hai chỗ còn sáng đèn, nhưng không hề có một bóng người. Anh chui vào xe, không nói một lời. Al Mập nổ máy và lái xe đi chừng một trăm mét trước khi bật đèn.

Không ai trong hai người nói một lời trong khi Al Mập rẽ phải lái xe về hướng Embankment. Anh ta đã đi theo lộ trình này năm lần trong tuần vừa qua; hai lần vào ban ngày, ba lần vào ban đêm - những chuyến đi mà anh ta gọi là “trinh sát”. Nhưng những cữ tập dượt đã chấm dứt, và đêm nay toàn bộ chiến dịch sẽ được triển khai. Al Mập coi chuyện này tương tự như một hoạt động tác chiến, và chín năm quân ngũ của anh ta đã được đem ra sử dụng một cách hữu ích. Vào ban ngày, chuyến đi mất trung bình bốn mươi ba phút, nhưng vào ban đêm anh ta có thể thực hiện cùng lộ trình chỉ trong vòng hai mươi chín phút, mà không hề một lần vượt quá giới hạn tốc độ.

Khi họ chạy xe qua Tòa nhà Nghị viện và đi dọc bờ bắc sông Thames, Danny tập trung vào những gì cần làm khi đến mục tiêu. Họ đi vòng qua khu City sang khu East End. Danny chỉ bị mất tập trung giây lát khi họ đi qua một công trường xây dựng lớn với một bảng quảng cáo vẽ một bức phối cảnh huy hoàng của Ngôi nhà Wilson trong tương lai khi hoàn tất: nó hứa hẹn sẽ bao gồm sáu mươi căn hộ sang trọng, ba mươi căn hộ giá thấp, trong đó chín đã được bán, bao gồm căn penthouse. Danny mỉm cười.

Al Mập tiếp tục chạy dọc đường Mile End trước khi rẽ trái trước một tấm biển chỉ dẫn đề Stratford, Ngôi nhà của Olympic 2012. Mười một phút sau, anh ta rời khỏi đường đi vào một lối đi rải sỏi. Anh ta tắt đèn, vì đã biết rõ đến thuộc lòng mọi đường đi lối rẽ, gần như vị trí của từng tảng đá viên gạch từ chỗ này tới khu vực mục tiêu.

Ở cuối lối đi, anh ta lái xe đi qua một tấm biển đề, Đất sở hữu tư nhân: Không được vào. Anh ta cho xe đi tiếp, vì nói cho cùng khu đất này vẫn thuộc quyền sở hữu của Danny, ít nhất là trong tám ngày nữa. Al Mập dừng xe sau một đống đất nhỏ, tắt đèn và bấm vào một chiếc nút. Cửa sổ xe từ từ hạ xuống. Họ cùng ngồi im nghe ngóng, nhưng từ bên ngoài chỉ vọng lại những âm thanh quen thuộc của ban đêm. Trong một buổi thám thính thực địa vào buổi chiều, họ đã bắt gặp những người dắt chó đi dạo và một nhóm trẻ con đá bóng gần đó, nhưng lúc này thì không có gì hết, thậm chí một con cú đêm làm bạn đồng hành cùng họ cũng không.

Sau vài phút, Danny khẽ đụng vào khuỷu tay của Al Mập. Họ ra khỏi xe, đi vòng ra sau. Al Mập mở cốp xe ra trong khi Danny cởi đôi giày thể thao đang đi. Al Mập lấy chiếc hộp các tông ra khỏi cốp xe đặt xuống đất, đúng như họ đã làm tối hôm trước, khi Danny đã đi quanh một vòng để xem anh có thể tìm lại được vị trí của bảy mươi mốt hòn cuội trắng mà họ đã đặt vào các khe nứt, lỗ hổng và đường rãnh lúc ban ngày. Lúc đó anh tìm lại được năm mươi ba. Đêm nay anh đã làm tốt hơn thế. Một chuyến trinh sát thực địa vào lúc chiều đã cho phép anh có cơ hội tìm ra những hòn bị bỏ qua đêm trước.

Dưới ánh sáng ban ngày anh có thể kiểm tra cả ba mẫu đất chỉ trong hai giờ. Tối qua anh đã mất ba giờ và mười bảy phút, trong khi tối nay còn lâu hơn vì số lần anh phải dừng lại cúi người quỳ gối xuống.

Đó là một đêm quang mây, yên tĩnh, đúng như những người dẫn chương trình dự báo thời tiết đã hứa hẹn, bọn họ cũng đã tiên đoán những cơn mưa nhẹ sẽ xuất hiện vào buổi sáng. Như bất cứ nông dân giàu kinh nghiệm nào lên kế hoạch gieo hạt giống, Danny đã lựa chọn ngày, thậm chí cả giờ, rất cẩn thận. Al Mập lấy bộ áo liền quần màu đen ra khỏi hộp đưa cho Danny, anh mở khóa kéo ra và mặc bộ đồ lên người. Thậm chí cả thao tác đơn giản này cũng đã được tập dượt vài lần trong bóng tối. Sau đó Al Mập đưa cho anh đôi ủng cao su, rồi đôi găng tay, chiếc mặt nạ, đèn pin, và cuối cùng là chiếc hôp nhựa nhỏ có nhãn đề “Nguy hiểm”.

Al Mập đứng chờ ở phía sau chiếc xe trong khi ông chủ của anh ta bắt tay vào việc. Khi Danny tới được góc khu đất của mình, anh bước thêm bảy bước nữa trước khi tới vị trí hòn cuội màu trắng đầu tiên. Anh nhặt nó lên cho vào một túi áo đáy sâu. Anh quỳ gối xuống, bật đèn lên rắc một ít cọng rễ vào khe nứt trên mặt đất. Anh tắt đèn, đứng dậy. Ngày hôm qua anh đã làm thử thao tác này mà không có những cọng rễ. Thêm chín bước nữa, anh tới vị trí hòn cuội thứ hai, tại đây anh lặp lại cùng thao tác, rồi bước thêm một bước nữa trước khi gặp hòn cuội thứ ba, quỳ xuống bên một khe nứt nhỏ trước khi thận trọng nhét sâu một cọng rễ vào trong. Thêm năm bước nữa...

Al Mập thèm một điếu thuốc đến bứt rứt cả người, nhưng anh ta biết đó là một hành động mạo hiểm không được phạm phải. Đã có lần ở Bosnia, một anh chàng tân binh đã hút thuốc trong một lần tác chiến ban đêm, và chỉ ba giây sau đã lĩnh một viên đạn xuyên qua đầu. Al Mập biết ông chủ của anh ta sẽ cần đến ít nhất ba giờ, vì vậy anh ta không thể cho phép mình mất tập trung, dù chỉ một giây.

Hòn cuội thứ hai mươi ba nằm ở góc xa nhất của khu đất. Anh chiếu đèn xuống một chiếc hố lớn, trước khi ném vào trong một ít rễ cây. Lại thêm một hòn cuội nữa được thu hồi vào túi.

Al Mập vươn vai và bắt đầu chậm rãi đi vòng quanh chiếc xe. Anh ta biết họ dự kiến sẽ rời đi trước khi tia nắng đầu tiên xuất hiện vào lúc 6 giờ 48 phút sáng. Anh ta nhìn đồng hồ: bốn giờ mười bảy phút. Cả hai người cùng ngước lên nhìn khi một chiếc máy bay lao qua trên đầu, chuyến bay đầu tiên hạ cánh xuống Heathrow sáng hôm đó.

Danny thả hòn cuội thứ ba mươi sáu vào chiếc túi bên tay phải, chú ý để trọng lượng được phân bố đều hai bên. Anh lặp lại thao tác đã trở nên quen thuộc hết lần này tới lần khác: đi vài bước, quỳ xuống, bật đèn, ném vài cọng rễ vào khe nứt, nhặt hòn cuội thả vào túi, tắt đèn, đứng dậy, đi tiếp - có vẻ như lần này quá trình thực hiện còn tốn sức hơn so với đêm hôm trước.

Al Mập lạnh toát người khi một chiếc xe hơi chạy tới gần khu đất, đỗ lại cách đó chừng năm mươi mét. Anh ta không dám chắc liệu người ngồi trong chiếc xe nọ, dù là ai đi nữa, có trông thấy mình hay không. Anh ta nằm dán người xuống đất và bắt đầu trườn về phía đối phương. Một đám mây trôi qua để lộ mặt trăng, lúc này chỉ là những vạt sáng mờ mờ rải rác - thậm chí mặt trăng cũng đứng về phía họ. Đèn trước của chiếc xe kia đã tắt, nhưng bên trong xe vẫn sáng đèn.

Danny nghĩ anh vừa nhìn thấy ánh sáng của một chiếc xe hơi, và lập tức nằm dán người xuống đất. Họ đã thỏa thuận với nhau là Al Mập sẽ nháy đèn của anh ta ba lần để cảnh báo anh nếu có nguy hiểm xuất hiện. Danny nằm đợi hơn một phút, nhưng không có ánh đèn bấm nào nhấp nháy, vậy là anh đứng dậy đi tới chỗ hòn cuội tiếp theo.

Lúc này Al Mập chỉ còn cách chiếc xe đang đỗ gần khu đất có vài mét, và mặc dù các cánh cửa xe phủ đầy sương đêm, anh ta vẫn có thể trông thấy bên trong còn ánh sáng. Anh ta nhổm dậy trên hai đầu gối và nhìn qua khung cửa phía sau. Anh ta phải cố lấy hết sức kiềm chế để không phá lên cười khi trông thấy một người phụ nữ đang nằm dài ra trên băng ghế sau, hai chân dang rộng, không ngừng rên rỉ. Al Mập không trông thấy mặt gã đàn ông đang nằm đè lên cô ta, nhưng vẫn cảm thấy có cái gì đó vừa động đậy trong quần lót mình. Anh ta lại nằm dán xuống và bắt đầu cuộc hành trình trườn về vị trí cảnh giới của mình.

Khi Danny tới chỗ hòn cuội thứ sáu mươi bảy, anh bật rủa thầm. Anh đã rà soát toàn bộ khu đất, nhưng không hiểu sao vẫn thiếu mất bốn hòn. Khi anh chậm rãi quay về phía chiếc xe, mỗi bước đi đều trở nên khó khăn hơn. Một điều anh đã không lường đến trước là trọng lượng chẳng nhẹ nhàng gì của những hòn cuội.

Khi Al Mập đã trở về vị trí, anh ta vẫn tiếp tục cảnh giác để mắt tới chiếc xe lạ. Anh ta tự hỏi không rõ ông chủ có biết đến sự có mặt của nó không. Đột nhiên anh ta nghe thấy tiếng động cơ nổ, ánh đèn xe bật sáng trước khi chiếc xe nọ quay đầu, trở ra lối đi rải sỏi và biến mất vào màn đêm.

Khi Al Mập trông thấy Danny đang bước lại, anh ta lấy chiếc hộp rỗng từ trong cốp xe ra đặt xuống đất trước mặt mình. Danny bắt đầu moi những hòn cuội từ trong túi quần ra và bỏ cả vào hộp; một công việc rất khó khăn vì chỉ một tiếng động nhỏ nhất cũng có thể gây ra sự chú ý. Sau khi đã hoàn tất việc này, anh gỡ mặt nạ, tháo găng tay, cởi ủng và bộ áo liền quần ra. Anh đưa lại tất cả cho Al Mập, anh ta bỏ lại toàn bộ vào chiếc hộp, phía trên đống hòn cuội. Những thứ cuối cùng được cho trở lại vào hộp là chiếc đèn pin và chiếc hộp nhựa rỗng không.

Al Mập đóng cốp xe lại, leo lên ghế lái xe trong khi ông chủ của anh ta ngồi vào chỗ, cài dây an toàn. Anh ta xoay chìa khóa điện, quay xe lại, từ tốn lái xe về phía lối đi rải sỏi. Không ai trong hai người nói gì, thậm chí cả khi họ đã ra đến đường cái. Chiến dịch vẫn còn chưa hoàn tất.

Trong tuần trước đó, Al Mập đã tìm ra nhiều bãi tập kết phế thải và công trường xây dựng, nơi họ có thể phi tang mọi bằng chứng của phi vụ ban đêm này. Al Mập dừng xe đến bảy lần trong chuyến quay về kéo dài hơn một giờ đồng hồ so với bốn mươi phút lúc bình thường. Lúc họ về đến The Boltons thì đã bảy giờ rưỡi. Danny mỉm cười khi nhìn thấy vài giọt mưa rơi xuống kính chắn gió và những cần gạt nước tự động bật lên. Danny ra khỏi xe, thong thả bước theo lối đi và mở khóa cửa ra vào. Anh nhặt một bức thư nằm trên thảm chùi chân lên, xé phong bì ra trong lúc leo lên cầu thang. Khi trông thấy chữ ký phía dưới bức thư, anh vội đi thẳng vào phòng làm việc và khóa trái cửa lại.

Đọc xong bức thư, anh không biết rõ nên trả lời ra sao nữa. Nghĩ như Danny. Cư xử như Nick.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 63


“Nick, thật vui khi được gặp anh,” Sarah nói. Cô cúi người ra trước thì thầm, “Giờ cho tôi biết anh đã cư xử như một chàng trai tốt đi.”

“Cũng còn tùy xem tốt đối với cô có nghĩa là gì,” Danny nói trong khi ngồi xuống bên cạnh cô gái.

“Anh đã không bỏ lỡ một cuộc gặp nào với quý bà của lòng mình chứ?”

Danny chợt nghĩ tới Beth, dù anh biết Sarah đang ám chỉ về bà Bennett. “Không một lần nào,” anh nói. “Thực ra, mới đây bà ấy đã tới tận nhà thăm tôi và đánh giá rằng điều kiện hiện tại của tôi là chấp nhận được, rồi đánh dấu vào các ô xác nhận tương ứng.”

“Và anh thậm chí không nghĩ tới việc ra nước ngoài?”

“Không, trừ khi cô dự định tới Scotland thăm ông Munro.”

“Tốt. Vậy anh còn làm được thêm việc gì nữa có thể an toàn nói ra với luật sư của mình?”

“Cũng không nhiều lắm,” Danny nói. “Dạo này Lawrence thế nào?” anh hỏi, tự nhủ không biết gã đã nói cho em gái biết về khoản vay chưa.

“Chưa bao giờ tuyệt hơn. Anh ấy chuẩn bị thử vai cho xê ri Holby City vào thứ Năm tuần tới - một vai mới được viết riêng cho anh ấy.”

“Nhân vật đó là gì vậy? Nhân chứng án mạng chăng?” Danny hỏi, lập tức cảm thấy ân hận về những từ vừa nói ra.

“Không đâu,” Sarah bật cười nói. “Anh đang nghĩ về vai anh ấy đóng trong Nhân chứng cho vụ kiện, nhưng vai đó đã cách đây mấy năm rồi.”

“Chắc thế rồi,” Danny nói; “Đó là một nhân vật tôi khó lòng quên được.”

“Tôi không ngờ anh đã biết Larry lâu đến vậy rồi.”

“Chỉ từ xa thôi,” Danny nói. Anh cảm thấy nhẹ nhõm khi được giải thoát bởi một giọng nói quen thuộc vừa lên tiếng, “Xin chào, Sarah,” Charlie Duncan cúi xuống hôn lên má cô gái.

“Thật vui được gặp ông, Nick,” Duncan nói. “Hai người đã biết nhau, hẳn vậy rồi.”

“Tất nhiên,” Sarah nói.

Duncan thì thầm, “Hãy cẩn thận với những gì các vị nói, các vị đang ngồi sau lưng một tay phê bình sân khấu đấy. Tận hưởng vở diễn nhé,” ông ta lớn tiếng nói thêm.

Danny đã đọc qua kịch bản của Lấp lánh, nhưng vẫn chưa thể nắm bắt được diễn biến, vì thế anh rất tò mò muốn biết vở kịch sẽ ra sao trên sân khấu, cũng như biết được mình đã đầu tư mười nghìn bảng vào cái gì. Anh mở tờ chương trình ra và thấy vở kịch được quảng bá như “một cái nhìn trào lộng về nước Anh trong thời kỳ Blair.” Anh lật sang trang và bắt đầu đọc nội dung kịch bản, một nhân vật đối lập người Séc đã trốn thoát từ... Đèn trong rạp vụt tắt, màn sân khấu được kéo lên.

Không ai cười trong suốt mười lăm phút đầu tiên của vở diễn, một điều khiến Danny rất ngạc nhiên vì vở kịch vốn được xếp vào loại hài kịch nhẹ nhàng. Khi rốt cuộc ngôi sao của vở diễn bắt đầu xuất hiện trên sân khấu, vài tiếng cười vang lên đón chào anh ta, nhưng Danny không hoàn toàn tin chắc đó là điều kịch bản dự kiến. Khi màn buông xuống vào khoảng nghỉ giữa buổi diễn, Danny chợt nhận ra mình đang cố kìm không ngáp.

“Cô nghĩ thế nào?” anh hỏi Sarah, đồng thời tự hỏi không rõ mình có bỏ qua mất chi tiết nào chăng.

Sarah đặt một ngón tay lên môi và chỉ vào nhà phê bình sân khấu ngồi phía trước họ, lúc này đang cắm cúi viết lia lịa. “Ra ngoài uống chút gì đi,” cô nói.

Sarah cầm tay anh trong khi họ khoan thai bước theo lối đi giữa hai dãy ghế. “Nick, đến lượt tôi đang muốn tìm lời khuyên của anh đây.”

“Về việc gì?” Danny nói. “Bởi vì tôi cần báo trước là tôi không biết gì về sân khấu đâu.”

Cô mỉm cười. “Không, tôi đang nói về thế giới thực kia. Gerald Payne đã khuyên tôi nên đầu tư một ít tiền vào một vụ mua bán bất động sản anh ta đang tham gia vào. Anh ta có nhắc đến tên anh, vì thế tôi tự hỏi không biết anh có nghĩ đó là một vụ đầu tư an toàn không.”

Danny không biết nên trả lời ra sao nữa, vì mặc dù anh căm thù gã anh trai của cô đến mức nào đi nữa, anh vẫn không có thù oán gì với cô gái duyên dáng này, hơn nữa chính cô đã giúp anh không phải quay lại nhà tù.

“Tôi chưa bao giờ khuyên bạn bè của mình bỏ tiền vào thứ gì đó,” Danny nói. “Đó là một tình huống chẳng có lợi chút nào - nếu họ kiếm được lời, họ sẽ quên ngay chính cô là người khuyên họ làm vậy, còn nếu họ thua lỗ họ sẽ không bao giờ thôi trách móc cô. Lời khuyên duy nhất của tôi sẽ là đừng tham gia vào một canh bạc quá sức mình, và đừng bao giờ mạo hiểm một số tiền có thể khiến cô mất ngủ một đêm.”

“Lời khuyên tốt đấy,” Sarah nói. “Tôi rất biết ơn anh.”

Danny đi theo cô đến quầy bar. Khi họ bước vào gian phòng đông nghẹt người, Danny nhận ra Gerald Payne đang đứng bên một chiếc bàn, rót một ly champagne cho Spencer Craig. Anh tự hỏi không biết Craig có bị thuyết phục đầu tư một số tiền vào địa điểm ứng cử viên tham gia tổ chức Olympic của anh không, và hy vọng sẽ tìm hiểu được trong buổi tiệc ra mắt vở diễn.

“Hãy tránh họ,” Sarah nói, “Spencer Craig chưa bao giờ là người đàn ông tôi thích gặp.”

“Tôi cũng không,” Danny nói khi hai người hướng tới quầy bar.

“Này, Sarah, Nick! Bọn tôi ở đằng này,” Payne gọi to, ra sức vẫy tay về phía họ. “Lại đây uống một ly champagne nào.”

Danny và Sarah miễn cưỡng đi tới chỗ họ. “Anh chắc còn nhớ Nick Moncrieff,” Payne vừa nói vừa quay sang Craig.

“Tất nhiên,” Craig nói. “Người sắp sửa đem tới cho tất cả chúng ta một gia tài.”

“Hãy cùng hy vọng là vậy,” Danny nói - thêm một câu hỏi nữa của anh được trả lời.

“Chúng ta sẽ cần đến mọi sự cần thiết có thể tìm được sau buổi diễn đêm nay,”Payne nói.

“Ồ, nó đã có thể tệ hơn nhiều,” Sarah nói khi Danny đưa cho cô một ly champagne.

“Đúng là rác rưởi,” Craig nói. “Vậy là một trong các món đầu tư của tôi lại chui xuống cống rồi.”

“Tôi hy vọng là ông không bỏ ra quá nhiều cho nó,” Danny nói, bắt tay ngay vào chiến dịch moi thông tin.

“Không là gì so với khoản tôi đầu tư vào vụ làm ăn nhỏ của ông,” Craig nói, mắt không thể rời khỏi Sarah.

Payne thì thầm nói với Danny bằng giọng của một kẻ cùng hội cùng thuyền, “Tôi đã chuyển toàn bộ số tiền sáng hôm nay. Chúng tôi sẽ ký kết hợp đồng trong vài ngày tới.”

“Tôi rất vui được nghe tin này,” Danny thành thật nói, mặc dù ngân hàng Thụy Sĩ đã thông báo cuộc chuyển tiền cho anh trước khi anh đi tới nhà hát.

“Nhân tiện đây,” Payne nói thêm, “nhờ vào các mối quan hệ chính trị của mình, tôi đã kiếm được vài chiếc vé tham dự phiên chất vấn của Nghị viện vào thứ năm tuần tới. Vì vậy nếu ông muốn tới cùng tôi chứng kiến bà bộ trưởng công bố quyết định, tôi rất vui được mời ông.”

“Ông chu đáo quá, Gerald, nhưng tại sao ông không mời Lawrence hay Craig?” anh vẫn không thể ép mình gọi gã là Spencer được.

“Larry có buổi diễn thử chiều hôm đó, còn Spencer có cuộc hẹn gặp với ngài Đại pháp quan tại đầu đối diện của tòa nhà. Tất cả chúng tôi đều biết về việc gì,” gã vừa nói vừa nháy mắt đầy ngụ ý.

“Thật thế sao?” Danny hỏi.

“À, phải. Spencer sắp được bổ nhiệm làm QC,” Payne thì thào.

“Chúc mừng,” Danny nói, đồng thời quay sang đối thủ của mình.

“Việc này vẫn chưa chính thức,” Craig nói, thậm chí không buồn nhìn về phía anh.

“Nhưng nó sẽ diễn ra vào thứ năm tuần tới,” Payne nói. “Vậy Nick, hãy đến gặp tôi bên ngoài cổng St Stephen của tòa nhà Nghị viện vào lúc mười hai giờ ba mươi, như thế chúng ta có thể cùng nhau chứng kiến bà bộ trưởng công bố quyết định trước khi ra ngoài ăn mừng vận may của mình.”

“Tôi sẽ gặp ông tại đó,” Danny nói đúng lúc ba tiếng chuông vang lên. Anh liếc nhìn về phía Sarah, lúc này đang bị Craig dồn vào góc. Anh rất muốn giải thoát cho cô, nhưng lại bị đám đông cuốn đi trong khi mọi người đang chen nhau quay trở lại khán phòng.

Sarah về tới chỗ ngồi ngay trước lúc màn được kéo lên. Nửa thứ hai của vở kịch rốt cục cũng có khá hơn nửa đầu tiên đôi chút, nhưng Danny ngờ rằng như thế vẫn còn xa mới đủ để làm vừa lòng người đàn ông ngồi phía trước anh.

Khi màn hạ, nhà phê bình sân khấu là người đầu tiên đứng lên ra về, và trong thâm tâm Danny cũng cảm thấy muốn làm theo ông ta. Cho dù dàn diễn viên cũng phải quay ra sân khấu chào khán giả ba lần, nhưng lần này Danny đã không cần phải đứng lên, vì không có ai khác buồn mất công làm vậy. Cuối cùng, khi đèn trong khán phòng bật sáng trở lại, Danny quay sang Sarah và nói, “Nếu cô định tới dự buổi tiệc, tại sao không để tôi được đưa cô?”

“Tôi không định đi,” Sarah nói. “Và tôi không nghĩ sẽ có nhiều người tại đây sẽ tới đó.”

“Lần này đến lượt tôi tìm kiếm lời khuyên của cô,” Danny nói. “Tại sao?”

“Những người lão luyện trong nghề luôn có khả năng cảm nhận thấy một thất bại thảm hại, vì thế họ sẽ tránh trường mặt ra ở một buổi tiệc nơi người khác có thể nghĩ họ có dính dáng đến thất bại đó.” Cô ngừng lại. “Tôi hy vọng anh đã không đầu tư quá nhiều vào vở kịch này.”

“Chưa đủ nhiều để mất ngủ một đêm,” Danny nói.

“Tôi sẽ không quên lời khuyên của anh,” cô nói, đưa tay khoác tay anh. “Thế anh nghĩ sao về việc đưa một cô gái cô đơn đi ăn tối?”

Danny nhớ lại lần cuối cùng anh nhận được một lời đề nghị tương tự, cũng như buổi tối hôm đó đã kết thúc ra sao. Anh không muốn phải giải thích với một cô gái khác, và với cô lại càng không. “Tôi xin lỗi,” anh nói, “nhưng...”

“Anh kết hôn rồi sao?” Sarah hỏi.

“Tôi ước gì là vậy,” Danny nói.

“Tôi ước gì đã gặp được anh trước cô ấy,” Sarah nói, buông tay anh ra.

“Điều đó không thể nào xảy ra được,” Danny nói, không giải thích gì thêm.

“Lần sau hãy mang cô ấy đi cùng nhé,” Sarah nói. “Tôi mong được gặp cô ấy. Tạm biệt, Nick, và một lần nữa cảm ơn anh vì lời khuyên.” Cô hôn lên má anh rồi quay đi, tới chỗ anh trai.

Danny thiếu chút nữa đã cảnh cáo cô đừng đầu tư dù chỉ một xu vào cuộc phiêu lưu Olympic của Payne, nhưng anh biết với một cô gái thông minh như vậy hành động đó rất có thể là một mối nguy hiểm quá nhiều so với mức cho phép.

Anh gia nhập dòng khán giả lặng lẽ trong khi họ cố gắng rời khỏi nhà hát càng nhanh càng tốt, nhưng anh vẫn không tránh khỏi Charlie Duncan ủ ê đứng như trời trồng bên lối ra. Ông ta cười như mếu khi nhìn thấy Danny.

“Thế đấy, ít nhất tôi sẽ không phải bỏ tiền ra để tổ chức bữa tiệc hạ màn.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 64


Danny gặp Gerald Payne bên ngoài cổng St Stephen của Cung điện Westminster. Đây là lần đầu tiên Danny đến thăm trụ sở Hạ viện, và anh dự định đây cũng là lần cuối cùng Payne đặt chân tới nơi này.

“Tôi có hai vé tham dự cho khu vực công chúng,” Payne lớn tiếng thông báo với người cảnh sát đứng gác trước lối vào. Tuy thế hai người vẫn phải đợi một lúc lâu nữa mới xong thủ tục kiểm tra an ninh.

Sau khi đã bỏ hết mọi thứ trong các túi ra và đi qua máy dò kim loại, Payne dẫn Danny đi theo một hành lang dài lát cẩm thạch tới Đại sảnh Trung tâm.

“Bọn họ không có vé mời,” Payne giải thích trong khi đi ngang qua một nhóm người tham quan đang ngồi trên các băng ghế màu xanh lục, kiên nhẫn đợi đến lúc được cho phép vào khu dành cho công chúng. “Họ không thể vào trong được, hoặc nếu có thì cũng phải đợi tới tận cuối buổi chiều.”

Danny nhìn quanh để làm quen với quang cảnh của Đại sảnh Trung tâm trong khi Payne đến trình diện nhân viên cảnh sát ngồi ở bàn đăng ký và đưa ra hai chiếc vé của mình. Các nghị sĩ đang trò chuyện với những cử tri đến gặp gỡ họ, đám du khách đang ngửa cổ lên tròn mắt ngắm nhìn trần nhà khảm hoa văn, trong khi những người khác vốn đã quá quen thuộc với nơi này bước qua đại sảnh một cách có chủ đích trong khi đi thực hiện công việc.

Payne dường như chỉ quan tâm tới một thứ: đảm bảo để gã có được một chỗ ngồi tốt trước khi bà bộ trưởng đứng lên công bố quyết định của mình từ bục phát ngôn. Danny cũng muốn có được tầm nhìn tốt nhất để chứng kiến toàn bộ quá trình.

Viên cảnh sát chỉ tay về phía một lối đi nằm phía bên phải. Payne lập tức bước về phía đó, và Danny đã phải vội vã rảo bước theo để bắt kịp. Payne đi xuống lối đi được trải thảm màu xanh lục, leo lên một đoạn cầu thang tới lầu một như thể gã đã là nghị sĩ. Đến đầu cầu thang, một người dẫn đường tới gặp gã và Danny, kiểm tra vé của hai người trước khi dẫn họ vào khu hành lang dành cho công chúng vào tham quan. Điều đầu tiên khiến Danny ngỡ ngàng là khu hành lang này rất nhỏ, chỉ có vẻn vẹn một ít chỗ ngồi dành cho công chúng tham quan, điều này lý giải cho số lượng người phải chờ dưới tầng trệt. Người dẫn đường tìm cho họ hai chỗ ngồi ở hàng ghế thứ tư và đưa cho mỗi người một tờ chương trình nghị sự. Danny cúi người ra trước nhìn xuống phòng họp Hạ viện ở phía dưới, ngạc nhiên khi thấy mới chỉ có một số ít nghị sĩ lác đác có mặt, mặc dù lúc này đã gần giữa trưa. Rõ ràng không có nhiều nghị sĩ quan tâm tới chuyện sân đua xe đạp cho kỳ Olympic sẽ được tọa lạc ở đâu, mặc dù cũng có những người mà tương lai phụ thuộc hoàn toàn vào quyết định của bà bộ trưởng. Một trong số này đang đứng cạnh Danny.

“Hầu hết là các nghị sĩ của khu vực London,” Payne thì thầm trong khi giở tới trang có liên quan trong cuốn chương trình nghị sự. Bàn tay gã run rẩy khi gã cố thu hút sự chú ý của Danny lên dòng đầu trang: 12.30, công bố của Bộ trưởng Thể thao.

Danny cố dõi theo những gì đang diễn ra trong phòng họp bên dưới. Payne giải thích hôm nay là ngày dành cho phiên chất vấn Bộ trưởng Y tế, nhưng phiên chất vấn này sẽ kết thúc đúng vào lúc 12 giờ 30. Danny mừng thầm khi thấy Payne nóng ruột đến thế nào trong khi chờ đổi một chỗ ngồi trên hành lang dành cho công chúng lấy một vị trí trên những băng ghế màu xanh lục phía dưới kia.

Trong khi chiếc đồng hồ treo phía trên ghế của Chủ tịch Hạ viện nhích dần tới 12 giờ 30, Payne bắt đầu bồn chồn vo tròn cuốn chương trình nghị sự của gã, chân phải co giật liên tục. Danny vẫn bình thản, nhưng dẫu sao anh cũng đã biết trước điều bà bộ trưởng chuẩn bị công bố trước Hạ viện.

Khi ông Chủ tịch đứng dậy lúc 12 giờ 30 phút đúng và lớn tiếng, “Công bố của Bộ trưởng Thể thao,” Payne nhoài người ra trước để có tầm nhìn tốt hơn trong khi bà bộ trưởng đứng dậy khỏi băng ghế hàng đầu và đặt một cặp tài liệu màu đỏ lên bục phát ngôn.

“Thưa ngài Chủ tịch, với sự cho phép của ngài, tôi sẽ đưa ra công bố về địa điểm tôi đã lựa chọn cho việc xây dựng một sân đua xe đạp phục vụ Olympic trong tương lai. Các ngài nghị sĩ chắc vẫn còn nhớ cũng trong tháng này tôi đã thông báo với quý viện về việc lựa chọn hai địa điểm vào danh sách rút gọn cuối cùng để cân nhắc nhưng chưa đưa ra quyết định cuối cùng của mình cho đến khi đã nhận được báo cáo chi tiết của các điều tra viên về cả hai địa điểm.” Danny liếc nhìn sang Payne; một giọt mồ hôi đã xuất hiện trên trán gã. Danny cũng cố làm ra vẻ bận tâm. “Những báo cáo này đã được gửi tới văn phòng của tôi hôm qua, và các bản sao cũng đã được gửi tới Ủy ban các địa điểm tổ chức Olympic, cũng như tới hai vị nghị sĩ đại diện cho các khu vực bầu cử nơi hai địa điểm có liên quan tọa lạc, và tới ông Chủ tịch Liên đoàn xe đạp Anh quốc. Các vị nghị sĩ có thể lấy bản sao từ Phòng Văn thư ngay sau buổi công bố này.”

“Sau khi đã đọc hai bản báo cáo, tất cả các bên hữu quan đều nhất trí chỉ có thể có một địa điểm được lựa chọn cho dự án quan trọng này.” Một nụ cười thoáng hiện trên môi Payne. “Báo cáo của điều tra viên cho biết một trong hai địa điểm thật không may đã bị nhiễm một loài thực vật có hại và phát triển rất nhanh được biết dưới tên cây hổ trượng Nhật Bản (những tràng cười vang lên). Tôi có thể cảm thấy rằng các vị nghị sĩ, cũng giống như bản thân tôi, chưa bao giờ gặp phải vấn đề này trước đây, vì vậy tôi sẽ dành ra một chút thời gian để giải thích hậu quả nó gây ra. Hổ trượng Nhật Bản là một loài cây có khả năng xâm thực và phá hủy khủng khiếp, một khi đã bén rễ, chúng sẽ nhanh chóng lan rộng và khiến cho khu đất nơi chúng phát triển không còn thích hợp cho bất cứ dự án xây dựng nào. Trước khi đưa ra quyết định cuối cùng của mình, tôi đã tìm kiếm những ý kiến tư vấn để trả lời câu hỏi liệu có giải pháp đơn giản nào cho vấn đề này không. Các chuyên gia trong lĩnh vực này đều đảm bảo với tôi rằng trên thực tế có thể loại trừ hoàn toàn cây hổ trượng Nhật Bản bằng xử lý hóa chất.” Payne nhìn lên, đôi mắt thoáng hiện một tia hy vọng. “Tuy nhiên, những kinh nghiệm trong quá khứ đã cho thấy những lần xử lý đầu tiên không phải lúc nào cũng thành công. Thời gian trung bình cần thiết trước khi các khu đất thuộc quyền quản lý của hội đồng địa phương tại Birmingham, Liverpool và Dundee được làm sạch loại cây này và được đánh giá thích hợp cho các dự án xây dựng là trên một năm.”

“Các vị nghị sĩ hẳn cũng hiểu rõ sẽ là thiếu trách nhiệm về phần bộ của tôi nếu chấp nhận mạo hiểm chờ đợi thêm mười hai tháng nữa, mà cũng có thể lâu hơn, trước khi có thể bắt đầu công việc xây dựng tại địa điểm bị xâm nhiễm. Tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc lựa chọn địa điểm thay thế còn lại, phù hợp hoàn hảo cho dự án này.” Khuôn mặt Payne trắng bệch ra như phấn khi gã nghe thấy từ “thay thế”. “Do đó tôi có thể tuyên bố rằng bộ của tôi, với sự hậu thuẫn của Ủy ban Olympic Anh quốc và Liên đoàn xe đạp Anh quốc, đã lựa chọn địa điểm nằm ở khu vực Stratford South cho việc xây sân đua xe đạp.” Bà bộ trưởng trở về chỗ ngồi và đợi các câu hỏi chất vấn từ Hạ viện.

Danny nhìn sang Payne, lúc này đang đưa hai tay ôm lấy đầu.

Một người dẫn đường cho khách tham quan chạy xuống các bậc thang tới chỗ họ. “Bạn ông ổn chứ?” anh ta hỏi, vẻ mặt đầy lo lắng.

“Tôi e là không,” Danny nói với vẻ lạnh nhạt. “Chúng ta có thể đưa ông ấy vào nhà vệ sinh được không? Tôi có cảm giác ông ấy sắp nôn.”

Danny nắm lấy tay Payne giúp gã đứng dậy, trong khi người dẫn đường đưa cả hai người lên cầu thang ra khỏi hành lang. Anh ta chạy lên trước, mở sẵn cửa để Payne có thể lảo đảo bước vào phòng rửa mặt. Payne đã bắt đầu nôn thốc nôn tháo trước khi kịp lao tới một bồn rửa.

Gã nới cà vạt, tháo cúc cổ áo sơmi ra, rồi lại tiếp tục nôn ọe. Trong khi gã cúi gập người xuống, tựa người vào thành bồn rửa thở hổn hển, Danny giúp gã cởi áo khoác ra. Anh nhẹ nhàng lấy điện thoại di động của Payne từ một túi trong của áo khoác ra, bấm vào một nút để làm hiện ra một danh sách dài những cái tên. Anh trượt dọc danh sách cho đến khi tới “Lawrence”. Trong lúc Payne chúi đầu vào bồn rửa lần thứ ba, Danny nhìn đồng hồ. Davenport chắc đang chuẩn bị cho lần diễn thử của mình, liếc qua lời thoại lần cuối cùng trước khi hóa trang. Anh bắt đầu soạn một tin nhắn trong khi Payne khuỵu xuống hai đầu gối, khóc nức nở, đúng như Beth từng khóc khi nàng phải tận mắt chứng kiến cái chết của anh trai. Bộ trưởng không chọn địa điểm của chúng ta. Xin lỗi. Nghĩ là anh muốn biết. Anh mỉm cười bấm nút “Gửi”, trước khi quay lại danh bạ. Anh tiếp tục trượt xuống, lần này dừng lại khi cái tên “Spencer” xuất hiện.

***

Spencer Craig đang nhìn vào hình ảnh của mình trong một chiếc gương toàn thân. Gã đã mua một chiếc sơmi mới và một chiếc cà vạt lụa dành riêng cho dịp này. Gã cũng đặt trước một chiếc xe hơi đến đón tại tòa lúc 11 giờ 30 phút. Gã không thể mạo hiểm đến muộn cuộc gặp với ngài Đại pháp quan. Có vẻ như mọi người đều biết về cuộc hẹn của gã, vì gã liên tục nhận được những nụ cười và những lời thì thầm chúc mừng - từ ông chánh án cho tới bà nhân viên tạp vụ.

Craig ngồi một mình trong văn phòng của gã, làm ra vẻ đang đọc hồ sơ một vụ án mới được chuyển cho gã thụ lý sáng hôm đó. Gần đây gã nhận được không ít hồ sơ. Gã bồn chồn đợi cho đến khi đồng hồ chỉ sang mười một giờ ba mươi phút để gã có thể rời văn phòng tới cuộc gặp lúc mười hai giờ. “Đầu tiên ông ấy sẽ mời cậu một ly rượu sherry nguyên chất,” một đồng nghiệp cao cấp đã nói với gã. “Sau đó ông ấy sẽ chuyện gẫu vài phút về tình trạng thê thảm của cricket Anh mà ông quy lỗi cho nạn chửi bới nhục mạ đối thủ, thế rồi đột nhiên không một lời cảnh báo trước ông ấy sẽ nói với cậu một cách hoàn toàn chắc chắn rằng ông chuẩn bị đưa một đề xuất lên Nữ Hoàng - ông ấy thường rất phô trương khi nói đến đây - trong đó tên của cậu sẽ được đưa vào danh sách các luật sư tiếp theo được bổ nhiệm làm QC. Sau đó ông ấy sẽ huyên thuyên thêm vài phút về những trách nhiệm nặng nề mà quyết định bổ nhiệm đó đặt lên vai người mới được bổ nhiệm, vân vân và vân vân.”

Craig mỉm cười. Năm nay quả là một năm tốt lành, và gã dự tính sẽ ăn mừng việc bổ nhiệm thật đúng điệu. Gã mở một ngăn kéo ra, lấy cuốn séc và viết một tờ séc có khả năng thanh toán trị giá hai trăm nghìn bảng gửi tới Baker, Tremlett và Smythe. Đây là tờ séc có giá trị lớn nhất gã từng viết trong đời, và gã cũng đã đề nghị ứng trước một số tiền bội chi trong ngắn hạn. Nhưng nói gì thì nói, gã chưa bao giờ thấy Gerald tự tin đến thế về bất kỳ chuyện gì trước đây. Gã ngả người tựa vào lưng ghế mơ màng tận hưởng khoảnh khắc đó trong lúc suy nghĩ về những thứ gã sẽ mua bằng khoản lợi nhuận kiếm được: một chiếc Porsche mới, vài ngày nghỉ ngơi ở Venice. Thậm chí Sarah có khi còn thích một chuyến đi trên đoàn tàu Tốc hành Phương Đông.

Điện thoại trên bàn làm việc của gã đổ chuông.

“Xe của ông tới rồi, thưa ông Craig.”

“Nói với lái xe tôi sẽ xuống ngay.” Gã nhét tấm séc vào một chiếc phong bì, gửi tới Gerald Payne tại Baker, Tremlett và Smythe, để lại trên bàn viết rồi đi xuống dưới nhà. Gã sẽ có mặt sớm vài phút, vì không có chuyện bắt ngài Đại pháp quan phải chờ. Gã không nói gì với người lái xe trong suốt quãng đường ngắn đi xuống phố Strand, qua Whitehall tới Quảng trường Nghị viện. Chiếc xe dừng lại trước cổng vào Thượng viện. Người sĩ quan cảnh sát gác cổng kiểm tra tên của gã trên một danh sách rồi vẫy tay ra hiệu cho xe đi qua. Người lái xe rẽ trái qua một cổng vòm kiểu gô tích rồi dừng lại bên ngoài văn phòng của Đại pháp quan.

Craig vẫn ngồi yên tại chỗ, đợi người lái xe mở cửa cho gã, tận hưởng hương vị của từng khoảnh khắc. Gã rảo bước đi theo một lối đi nhỏ có trần vòm, lập tức một người đưa tin có đeo thẻ mang một cặp danh sách nữa bước tới chào gã. Anh ta kiểm tra lại tên gã trước khi từ tốn tháp tùng vị khách bước lên một cầu thang trải thảm đỏ dẫn tới văn phòng của Đại pháp quan.

Người đưa tin gõ nhẹ lên cánh cửa bằng gỗ sồi nặng nề, một giọng nói từ trong vọng ra. “Vào đi.” Anh ta mở cửa rồi đứng dẹp sang bên để Craig bước vào. Một phụ nữ trẻ đang ngồi sau chiếc bàn kê ở góc đối diện của căn phòng. Cô ngẩng lên nhìn và mỉm cười. “Ông Craig phải không ạ?”

“Vâng,” gã đáp.

“Ông đến hơi sớm, nhưng tôi sẽ kiểm tra xem ngài Đại pháp quan có rảnh không?”

Craig vừa định nói với cô gái gã sẵn lòng chờ, nhưng cô gái đã nhấc điện thoại lên. “Ông Craig đang ở đây, thưa ngài Đại pháp quan.”

Cô thư ký đứng dậy khỏi bàn, bước qua căn phòng tới mở một cánh cửa khác cùng làm bằng gỗ sồi và đưa ông Craig vào văn phòng của Đại pháp quan.

Craig có thể cảm thấy lòng bàn tay gã tứa mồ hôi trong khi gã bước vào căn phòng lộng lẫy lát ván gỗ sồi nhìn xuống sông Thames. Chân dung của các Đại pháp quan tiền nhiệm được treo trên khắp các bức tường, và thứ giấy gián tường màu đỏ và vàng có trang trí hoa văn hiệu Pugin khiến gã không thể nghi ngờ mình đang đứng trước mặt quan chức cao cấp nhất của hệ thống tư pháp quốc gia.

“Mời ông ngồi, ông Craig,” ngài Đại pháp quan nói, đồng thời mở một cặp tài liệu dày màu đỏ đang nằm giữa mặt bàn làm việc của ông. Không hề có lời mời một ly sherry nguyên chất trong khi ông xem qua một số giấy tờ. Craig nhìn chăm chăm vào người đàn ông lớn tuổi với vầng trán cao và đôi lông mày rậm đã đem lại cảm hứng sáng tác cho không ít họa sĩ biếm họa. Ngài Đại pháp quan chậm rãi ngẩng đầu lên, từ bên kia chiếc bàn làm việc rộng được chạm trổ cầu kỳ nhìn chăm chú vào vị khách vừa tới.

“Sau khi cân nhắc đến tình huống hiện tại, tôi nghĩ tốt hơn nên trao đổi riêng với ông thay vì để ông phải biết tới các chi tiết qua báo chí.”

Chẳng hề đả động đến tình hình cricket Anh quốc.

“Chúng tôi đã nhận được một đơn thỉnh nguyện,” ông tiếp tục với giọng nói đều đều khô khan, “xin ân xá hoàng gia cho trường hợp của Daniel Arthur Cartwright.” Ông ngừng lại một chút để Craig có thời gian ý thức được đầy đủ về điều ông sắp nói. “Ba thượng nghị sĩ của Ủy ban tư pháp, dẫn đầu là Huân tước Beloff, đã nói với tôi rằng, sau khi đã xem xét lại mọi bằng chứng, họ nhất trí đề xuất tôi nên khuyên Nữ hoàng chấp nhận thẩm tra lại vụ án này.” Ông ngừng lại một lần nữa, rõ ràng không muốn lựa chọn từ ngữ quá vội vã trước khi nói. “Vì ông là một nhân chứng trong phiên tòa xử vụ này trước đây, tôi cảm thấy nên báo để ông biết trước rằng các ngài thượng nghị sĩ dự định gọi ông tới trình diện họ, cùng với - “ông cúi xuống tìm kiếm trong tập hồ sơ của mình - “một ông Gerald Payne và ông Lawrence Davenport, nhằm thẩm vấn ba người các ông về những bằng chứng các ông đã đưa ra trong phiên tòa trước.”

Trước khi ngài Đại pháp quan kịp nói tiếp, Craig đã chen vào. “Nhưng tôi nghĩ trước khi các ngài thượng nghị sĩ thậm chí cân nhắc tới việc thẩm tra lại một vụ án, nhất thiết phải có bằng chứng mới được đệ trình để xem xét chứ?”

“Bằng chứng mới đã được đưa ra.”

“Cuộn băng ghi âm?”

“Trong báo cáo của Huân tước Beloff không đề cập gì tới một cuộn băng ghi âm. Tuy nhiên, có lời chứng từ một người bạn tù cũ của Cartwright - “một lần nữa ngài Đại pháp quan lại cúi xuống tập hồ sơ - “một người có tên Albert Crann, anh ta khẳng định đã có mặt chứng kiến khi ông Toby Mortimer, mà tôi tin ông cũng biết rõ, thừa nhận đã tận mắt chứng kiến vụ sát hại ông Bernard Wilson.”

“Nhưng đó chẳng qua chỉ là một lời nói vô căn cứ từ miệng một tên tội phạm đã bị kết án. Nó sẽ không thể đứng vững trước bất cứ tòa án nào tại quốc gia này.”

“Trong những bối cảnh thông thường tôi hẳn sẽ đồng ý với nhận định đó, ông Craig, và bác bỏ đơn thỉnh cầu nếu như không có một bằng chứng mới vừa được đệ trình lên các thượng nghị sĩ.”

“Một bằng chứng mới nữa?” Craig lặp lại, chợt cảm thấy đau nhói ở dạ dày.

“Phải,” ngài Đại pháp quan nói. “Có vẻ như Cartwright không chỉ chung phòng giam với Albert Crann, mà còn cả với một tù nhân khác, người này đã viết nhật ký hàng ngày, trong đó anh ta ghi chép lại hết sức chi tiết mọi thứ chứng kiến trong tù, kể cả nội dung các cuộc đàm thoại mà anh ta có tham dự.”

“Vậy là nguồn gốc duy nhất cho những lời cáo buộc này là một cuốn nhật ký mà một tên tội phạm bị kết án tù tuyên bố gã đã viết trong khi ngồi tù.”

“Không ai buộc tội ông về bất cứ điều gì, ông Craig,” ngài Đại pháp quan khẽ nói. “Tuy nhiên, tôi dự kiến sẽ mời nhân chứng trình diện trước các thượng nghị sĩ. Tất nhiên, ông sẽ được tạo mọi cơ hội để biện hộ cho mình trước tòa.”

“Nhân chứng đó là ai vậy?” Craig hỏi.

Ngài Đại pháp quan lật sang một trang khác của tập hồ sơ để kiểm tra lại tên, trước khi ngước lên và nói, “Sir Nicholas Moncrieff.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 65


Danny ngồi vào chiếc bàn trong góc quen thuộc của anh tại Dorchester, lấy tờ The Times ra đọc. Phóng viên chuyên mục đua xe đạp của tờ báo đã tường thuật lại lựa chọn đầy bất ngờ của Bộ trưởng Thể thao cho địa điểm xây dựng sân đua xe đạp. Bài báo kéo dài được vài inch của cột báo, kẹp giữa phần tin về đua ca nô và bóng rổ.

Danny đã kiểm tra các trang tin thể thao của hầu hết các tờ báo phát hành trên toàn quốc sáng hôm đó, và những tờ báo bỏ công ra thuât lại bản công bố của bà bộ trưởng đều nhất trí rằng bà không còn lựa chọn nào khác. Không một tờ báo nào, kể cả tờ Independent, có đủ chỗ trống để giải thích cho độc giả về cây hổ trượng Nhật Bản.

Danny nhìn đồng hồ. Gary Hall đã trễ vài phút và Danny chỉ có thể mường tượng ra những màn tố cáo chỉ trích nhau kịch liệt đang diễn ra tại văn phòng của Baker, Tremlett và Smythe. Anh quay trở lại trang nhất, và đang đọc qua những diễn biến mới nhất liên quan tới mối đe dọa hạt nhân của Bắc Triều Tiên thì Hall xuất hiện bên cạnh anh, hổn hển thở không ra hơi.

“Tôi xin lỗi đã đến muộn,” anh ta vừa nói vừa thở, “nhưng một hội viên cao cấp đã gọi tôi đến gặp đúng lúc tôi định rời khỏi văn phòng. Tiếp theo công bố của bà bộ trưởng là cả một trường hỗn chiến. Ai cũng đổ lỗi cho người khác.” Anh ta ngồi xuống đối diện với Danny và cố trấn tĩnh lại.

“Cứ bình tĩnh lại, và cho phép tôi mời anh một tách cà phê,” Danny nói khi Mario đi ngang qua.

“Và một sô cô la nóng nữa cho ông chứ, Sir Nicholas?” Danny gật đầu, đặt tờ báo xuống và mỉm cười với Hall. “Được rồi, ít nhất không ai có thể trách cứ anh, Gary,” anh nói.

“Ồ, thậm chí không ai nghĩ tôi có dính dáng đến vụ này,” Hall nói. “Đấy là lý do tôi được thăng chức.”

“Thăng chức?” Danny nói. “Xin chúc mừng.”

“Cảm ơn ông, nhưng chuyện này sẽ không thể xảy ra nếu Gerald Payne không bị sa thải.” Danny đã cố kìm được không mỉm cười. “Ông ta đã bị triệu lên văn phòng ngay đầu giờ sáng và bị yêu cầu dọn dẹp bàn làm việc và rời khỏi công ty trong vòng một giờ. Một hai người trong số chúng tôi vậy là được thăng chức trong vụ làm ăn thất bại này.”

“Nhưng chẳng lẽ họ không nhận ra anh và tôi mới là những người đầu tiên đem ý tưởng này nói lại với Payne?”

“Không phải vậy. Khi mọi người đều biết ông không thể huy động được toàn bộ số tiền cần thiết, bỗng nhiên chuyện này trở thành ý tưởng của Payne. Trên thực tế, ông được nhìn nhận như một khách hàng bị mất số tiền tham gia đầu tư, và thậm chí có thể kiện công ty.” Một điều Danny chưa từng nghĩ đến - cho tới lúc này.

“Tôi tự hỏi giờ Pyane đang làm gì?” Danny dò hỏi.

“Ông ta sẽ không bao giờ tìm được một công việc khác trong lĩnh vực làm ăn của chúng tôi,” Hall nói. “Hay ít nhất sẽ không thế nếu công việc đó liên quan tới hội viên cao cấp của công ty.”

“Vậy thì anh chàng tội nghiệp sẽ làm gì?” Danny tiếp tục moi thông tin.

“Thư ký của ông ta cho tôi biết ông ta đã tới Sussex ở lại chỗ mẹ mình vài ngày. Mẹ ông ta là chủ tịch hội đồng cử tri địa phương, và ông ta vẫn hy vọng trúng cử trong cuộc bầu cử tới.”

“Tôi chẳng thấy có điều gì có thể gây rắc rối cho chuyện đó cả,” Danny nói, thầm hy vọng điều ngược lại. “Tất nhiên trừ khi ông ta khuyên ai đó trong số cử tri của mình đầu tư vào cây hổ trượng Nhật Bản.”

Hall bật cười. “Ông ta là một người luôn biết cách sống sót,” anh ta nói. “Tôi dám cá là chỉ vài năm nữa ông ta sẽ trở thành thành viên Nghị viện và đến khi đó không còn ai nhớ tới chuyện lôi thôi này nữa.”

Danny cau mày, đột nhiên nhận ra rất có thể anh mới chỉ làm Payne bị thương, mặc dù anh không hề mong đợi Davenport hay Craig có thể phục hồi cũng dễ dàng như vậy. “Tôi có một việc khác dành cho anh,” anh nói, mở cặp của mình lấy ra một tập giấy. “Tôi cần anh đến nhận quyền sở hữu một tư gia ở Quảng trường Redcliffe; số nhà hai mươi lăm. Chủ sở hữu trước đây...”

“Xin chào, Nick,” một giọng nói vang lên.

Danny ngước nhìn lên. Một người đàn ông cao, lực lưỡng mà anh chưa từng gặp mặt đang đứng sừng sững bên cạnh anh như một tòa tháp. Anh ta mặc một chiếc váy kiểu Scotland, có mái tóc quăn màu nâu, nước da hồng hào khỏe mạnh, và cũng cỡ tuổi Danny. Suy nghĩ như Danny, xử sự như Nick. Hãy trở thành Nick. Danny đã hiểu rõ tình thế này sớm muộn cũng sẽ xảy ra, nhưng gần đây anh đã trở nên quá thoải mái với danh tính mới của mình đến mức không nghĩ còn có thể bị bất ngờ. Anh đã sai. Thứ nhất, anh cần phải tìm ra liệu người đàn ông này đã từng quen Nick ở trường học hay trong quân đội, bởi vì rõ ràng đáp án không phải là ở trong tù. Anh đứng dậy.

“Xin chào,” Danny nói, dành cho người lạ mặt một nụ cười vui vẻ và bắt tay anh ta. “Xin giới thiệu anh với một người bạn làm ăn của tôi, Gary Hall.”

Người đàn ông cúi người xuống bắt tay Hall và nói. “Rất vui được gặp anh, Gary. Tôi là Sandy, Sandy Dawson,” ông ta nói với giọng Scotland đặc sệt.

“Sandy và tôi quen nhau đã lâu,” Danny nói, hy vọng tìm ra chính xác lâu đến mức nào.

“Tất nhiên rồi,” Dawson nói. “Nhưng tôi chưa gặp lại Nick kể từ khi chúng tôi ra trường.”

“Chúng tôi đã học cùng nhau ở Loretto,” Danny mỉm cười nói với Hall. “Vậy sau đó anh đã làm gì, Sandy?” anh hỏi, cố hết cách moi ra một manh mối nữa.

“Giống như bố tôi, vẫn kinh doanh món thịt bò thôi,” Dawson nói. “Và thật may thịt bò của vùng Highland vẫn là món thịt được ưa thích nhất ở vương quốc này. Còn anh thì sao, Nick?”

“Tôi sống khá thoải mái kể từ khi...” Danny nói, thử tìm hiểu xem Dawson có biết Nick đã phải ngồi tù không.

“À vâng, phải rồi,” Sandy nói. “Một vụ việc khủng khiếp, thật sự bất công. Nhưng tôi rất vui thấy anh đã trải qua vụ việc đó mà không hề hấn gì.” Trên khuôn mặt Hall hiện lên vẻ lúng túng. Danny không thể nghĩ ra được một câu trả lời thích hợp. “Hy vọng thỉnh thoảng anh vẫn tìm được thời gian rảnh cho một trận cricket,” Dawson nói. “Người phát bóng nhanh xuất sắc nhất trong lứa chúng tôi ở trường,” anh ta vừa nói vừa quay sang Hall. “Tôi phải biết chứ - tôi là người đỡ bóng mà.”

“Và là một tay cừ khôi,” Danny nói, đồng thời vỗ vai anh ta.

“Rất xin lỗi đã làm gián đoạn hai người,” Dawson nói, “nhưng tôi không thể đi qua mà không chào một tiếng.”

“Làm rất đúng,” Danny nói. “Thật vui được gặp anh sau từng ấy thời gian, Sandy.”

“Cũng rất vui được gặp lại anh,” Dawson nói trong lúc quay người rời đi. Danny ngồi xuống ghế, hy vọng Hall không nghe thấy tiếng thở phào nhẹ nhõm của anh sau khi Dawson đi khỏi. Anh đang định lấy một số giấy tờ nữa từ trong cặp ra thì Dawson quay trở lại. “Tôi không biết đã có ai đó cho anh biết, Nick, rằng Squiffy Humphries qua đời rồi chưa?”

“Chưa, quả là một tin thật buồn,” Danny nói.

“Ông ấy bị một cơn đau tim ngay trên sân golf trong lúc đang chơi với ông hiệu trưởng. Đội rugby đã không bao giờ còn được như cũ nữa kể từ khi Squiffy về hưu.”

“Phải, Squiffy tội nghiệp. Một huấn luyện viên lớn.”

“Tôi sẽ không quấy rầy anh nữa đâu,” Dawson nói. “Tôi chỉ nghĩ anh cũng muốn biết tin. Toàn bộ Musselburg đã đến dự đám tang ông ấy.”

“Ông ấy xứng đáng được như thế,” Danny nói. Dawson gật đầu và bước đi.

Lần này Danny không rời mắt khỏi anh ta cho tới khi thấy tận mắt người đàn ông đã rời khỏi phòng.

“Rất xin lỗi anh về chuyện này,” anh nói.

“Lúc nào cũng thật phiền phức khi gặp lại đám bạn học cũ sau bao nhiêu năm,” Hall nói. “Có đến một nửa số lần như vậy tôi không tài nào nhớ ra tên của họ nữa. Ý tôi muốn nói là, sẽ khó mà quên được một người như vừa rồi. Quả là một người cá tính.”

“Phải,” Danny nói, nhanh chóng chuyển chủ đề sang chứng thư của ngôi nhà ở Quảng trường Redcliffe.

Hall nghiên cứu các giấy tờ một lúc trước khi hỏi, “Ông trông đợi tư gia có thể bán được ở mức giá nào?”

“Khoảng ba triệu,” Danny nói. “Có một khoản vay thế chấp hơn một triệu, tôi đã bỏ ra thêm một triệu nữa, vì vậy bất cứ mức giá nào cao hơn hai triệu hai, hoặc hai triệu ba cũng sẽ đem về lợi nhuận cho tôi.”

“Điều đầu tiên tôi sẽ thực hiện là thu xếp một cuộc đánh giá thực địa.”

“Tiếc là Payne đã không làm thế với khu đất ở Stratford.”

“Ông ta khẳng định là đã làm,” Hall nói. “Tôi dám cá là người thực hiện đánh giá chưa bao giờ nghe nói đến cây hổ trượng Nhật Bản. Nói cho công bằng, chẳng có ai tại văn phòng của chúng tôi từng nghe đến nó.”

“Tôi cũng vậy,” Danny nói. “Tất nhiên, cho mãi tận gần đây.”

“Có rắc rối nào với chủ sở hữu hiện tại không?” Hall hỏi trong khi lật sang trang cuối của bản chứng thư. Rồi nói thêm trước khi Danny kịp trả lời, “Có phải đó là người này không?”

“Phải, Lawrence Davenport, diễn viên,” Danny nói.

“Ông có biết anh ta là bạn của Gerald không?”

***

“Anh đang ở trên trang nhất của Evening Standard đấy, ông chủ,” Al Mập nói trong khi lái xe rời khỏi mặt tiền của Dorchester gia nhập vào dòng xe cộ hướng về phía Hyde Park Corner.

“Ý anh là gì?” Danny hỏi, lo sợ điều tồi tệ nhất.

Al Mập đưa tờ báo cho Danny. Anh tròn mắt nhìn vào hàng tít: Lệnh ân xá hoàng gia cho Cartwright?

Anh đọc lướt qua bài báo trước khi đọc lại lần thứ hai cẩn thận hơn.

“Tôi không biết anh định làm gì, ông chủ, nếu họ yêu cầu Sir Nicholas Moncrieff ra trước tòa để làm chứng cho Danny Cartwright.”

“Nếu mọi thứ diễn ra theo đúng kế hoạch,” Danny nói, nhìn vào bức ảnh chụp Beth, bao quanh là hàng trăm người tham gia vận động từ Bow, “người cần phải biện hộ cho mình sẽ không phải là tôi.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 66


Craig đã gọi mang đến bốn suất pizza, và sẽ không có nữ phục vụ nào phục vụ rượu vang lạnh cho cuộc tụ họp này của Những người lính ngự lâm.

Sau khi rời khỏi văn phòng của Đại pháp quan, gã đã dành ra toàn bộ thời gian rảnh để tìm hiểu mọi thứ có thể về Sir Nicholas Moncrieff. Gã đã có thể khẳng định được Moncrieff từng ở chung buồng giam với Danny Cartwright và Albert Crann trong khi cả ba đang thụ án ở Belmarsh. Gã cũng khám phá ra Moncrieff đã được phóng thích khỏi nhà tù sáu tuần sau cái chết của Cartwright.

Điều mà Craig không lý giải nổi là tại sao ai đó lại sẵn sàng dành toàn bộ cuộc sống của mình, như Moncrieff rõ ràng đã làm, để lùng tìm và sau đó tìm cách hủy diệt ba người anh ta chưa bao giờ biết mặt. Trừ khi... Lúc gã đặt hai bức ảnh của Moncrieff và Cartwright cạnh nhau cũng là lần đầu tiên gã bắt đầu xem xét tới khả năng này. Gã không phải mất nhiều thời gian để đi tới một kế hoạch nhằm khám phá xem khả năng đó có phải là thực tế hay không.

Có tiếng gõ vang lên ngoài cửa trước. Craig ra mở cửa, được chào mừng bởi khuôn mặt khổ sở tuyệt vọng của Gerald Payne, một tay nắm chặt một chai rượu vang rẻ tiền. Toàn bộ vẻ tự tin tại lần gặp trước đã biến mất không còn dấu tích.

“Larry có đến không?” gã hỏi, không buồn bắt tay với Craig.

“Tôi đang chờ hắn đây,” Craig nói trong lúc dẫn người bạn lâu năm vào phòng khách. “Vậy anh đã trốn vào xó xỉnh nào vậy?”

“Tôi ở lại Sussex với mẹ tôi cho tới khi mọi chuyện lắng xuống,” Payne trả lời, buông mình ngồi xuống một chiếc ghế bành thoải mái.

“Có rắc rối nào với cử tri không?” Craig hỏi trong lúc rót một ly rượu vang cho vị khách.

“Lẽ ra còn có thể tệ hơn,” Payne nói. “Đám Tự do đang tung tin đồn, nhưng may là họ làm vậy quá thường xuyên nên chẳng ai để tâm đến. Khi tay chủ bút tờ báo lá cải địa phương gọi điện đến, tôi đã nói với hắn tôi đã từ chức hội viên của Baker, Tremlett và Smythe vì tôi muốn dành nhiều thời gian hơn cho hoạt động vận động cử tri cho cuộc tổng tuyển cử. Hôm sau thậm chí hắn còn viết một bài ủng hộ.”

“Tôi hoàn toàn tin chắc anh sẽ vượt qua được,” Craig nói. “Thẳng thắn mà nói, tôi lo lắng nhiều hơn về Larry. Không những hắn trượt mất vai trong Holby City, mà hắn còn kể lể với cả bàn dân thiên hạ rằng chính anh đã nhắn tin cho hắn về quyết định của bộ trưởng đúng lúc hắn chuẩn bị diễn thử.”

“Nhưng không đúng vậy,” Payne nói. “Lúc đó tôi bị sốc đến nỗi không thể liên lạc được với bất cứ ai, kể cả anh.”

“Có kẻ nào đó đã làm,” Craig nói. “Và bây giờ tôi nhận ra nếu không phải anh là người gửi tin nhắn cho cả hai chúng tôi, chắc chắn phải có ai đó biết chuyện diễn thử của Larry cũng như cuộc gặp của tôi với ngài Đại pháp quan.”

“Cũng là kẻ có thể tiếp cận được điện thoại của tôi vào thời điểm đó.”

“Chính là cái gã Sir Nicholas Moncrieff luôn có mặt ở mọi chỗ đó.”

“Thằng con hoang khốn kiếp. Tôi sẽ giết hắn,” Payne nói, không kịp nghĩ xem gã vừa nói gì.

“Đó là điều chúng ta sẽ làm khi có cơ hội,” Craig nói.

“Ý anh là gì?”

“Anh sẽ biết vào thời điểm thích hợp,” Craig nói đúng lúc chuông cửa lại reo. “Chắc là Larry.”

Trong khi Craig ra mở cửa, Payne ngồi suy nghĩ về những tin nhắn mà chắc chắn Moncrieff đã gửi cho Larry và Spencer trong khi gã đang choáng váng trong phòng rửa mặt tại Nghị viện, nhưng gã vẫn không tiến thêm được bước nào trong việc hiểu ra lý do tại sao khi hai ông bạn đi vào phòng. Payne không tin nổi những thay đổi của Larry chỉ trong một thời gian ngắn như vậy. Gã mặc một chiếc quần jean bạc phếch và một chiếc áo sơmi nhàu nhĩ. Rõ ràng gã chưa hề cạo râu kể từ lúc biết được bản công bố. Gã mệt mỏi ngồi phịch xuống chiếc ghế gần nhất.

“Tại sao, tại sao, tại sao?” là những lời đầu tiên của gã.

“Anh sẽ biết ngay thôi,” Craig nói, đưa cho ông bạn một ly rượu vang.

“Rõ ràng đây là một âm mưu đã được bố trí chu đáo,” Payne nói sau khi Craig rót đầy ly cho gã lần nữa.

“Và không có lý do gì để tin rằng hắn đã kết thúc với chúng ta,” Craig nói.

“Nhưng tại sao?” Davenport lặp lại. “Tại sao cho tôi vay một triệu bảng tiền túi của chính mình nếu hắn biết tôi sẽ mất trắng đến đồng xu cuối cùng?”

“Bởi vì hắn đã có ngôi nhà của anh làm vật đảm bảo thế chấp cho khoản vay,” Payne nói. “Kiểu gì hắn cũng không thua lỗ.”

“Và anh tưởng tượng xem hắn đã làm gì ngay ngày hôm sau?” Davenport nói. “Hắn chỉ định công ty cũ của anh đến tịch thu nhà của tôi. Bọn họ đã treo biển bán nhà lên trước khu vườn và bắt đầu dẫn các khách mua tiềm năng đến xem nhà.”

“Hắn đã vậy sao?” Payne nói.

“Và sáng nay tôi nhận được một bức thư của luật sư cho hay nếu tôi không rời khỏi nhà vào cuối tháng này, họ không còn lựa chọn nào khác ngoài...”

“Vậy anh sẽ sống ở đâu?” Craig hỏi, hy vọng Davenport không đề nghị đến ở nhờ gã.

“Sarah đã đồng ý cho tôi đến ở nhờ cho tới khi vụ rắc rối này được giải quyết.”

“Anh chưa nói gì với cô ấy chứ?” Craig lo lắng hỏi.

“Không, chưa gì cả,” Davenport nói. “Mặc dù hiển nhiên em tôi biết có chuyện gì đó không hay đã xảy ra. Và nó liên tục hỏi tôi lần đầu tiên tôi gặp Moncrieff là khi nào.”

“Anh không thể cho cô ấy biết điều đó,” Craig nói, “nếu không tất cả chúng ta sẽ còn gặp nhiều rắc rối hơn.”

“Làm sao chúng ta có thể gặp nhiều rắc rối hơn nữa đây?” Davenport hỏi.

“Sẽ là thế nếu Moncrieff được phép tiếp tục thực hiện việc trả thù của hắn,” Craig nói. Payne và Davenport không hề lên tiếng phản đối gã. “Chúng ta biết Moncrieff đã chuyển nhật ký của hắn cho Đại pháp quan, và chắc chắn hắn sẽ được triệu đến trước các thượng nghị sĩ của ủy ban tư pháp Thượng viện khi họ xem xét thỉnh cầu xin ân xá cho Cartwright.”

“Ôi Chúa ơi,” Davenport kêu lên, khuôn mặt hiện rõ vẻ tuyệt vọng.

“Không cần hoảng hốt,” Craig nói. “Tôi nghĩ tôi đã tìm ra một cách để giải quyết dứt điểm vĩnh viễn Moncrieff.” Davenport vẫn chưa có vẻ cảm thấy thuyết phục. “Và hơn nữa, chúng ta vẫn có khả năng lấy về được tiền của mình, bao gồm cả ngôi nhà và những bức tranh của anh, Larry.”

“Nhưng làm sao chuyện đó có thể xảy ra?” Davenport hỏi.

“Kiên nhẫn, Larry, hãy kiên nhẫn, và tất cả sẽ được làm rõ.”

“Tôi hiểu rõ chiến thuật của hắn với Larry,” Payne nói, “vì hắn không mất gì cả. Nhưng tại sao lại góp một triệu của chính mình vào vụ làm ăn khi hắn biết trước đó là một tai họa.”

“Đó là một cú vô cùng khôn ngoan,” Craig thừa nhận.

“Hẳn là anh sẽ khai sáng cho chúng tôi,” Davenport nói.

“Bởi vì bằng cách đầu tư một triệu đó,” Craig nói, tảng lờ sự mỉa mai của ông bạn, “cả hai anh, cũng như tôi, sẽ hoàn toàn bị thuyết phục rằng chúng ta cầm chắc phần thắng.”

“Nhưng dù gì đi nữa hắn vẫn bị mất trắng một triệu,” Payne nói, “nếu hắn biết trước địa điểm thứ nhất sẽ bị loại bỏ.”

“Sẽ không phải thế nếu ngay từ đầu gã đã là chủ sở hữu của khu đất đó,” Craig nói.

Suốt một hồi lâu sau đó, không ai trong hai vị khách nói gì trong lúc bận bịu suy nghĩ về ý nghĩa những lời ông chủ nhà vừa nói.

“Chẳng lẽ anh muốn nói rằng chúng ta đã trả tiền cho hắn để mua lại chính bất động sản của hắn?” rốt cuộc Payne lên tiếng.

“Còn tệ hơn thế,” Craig nói, “vì tôi nghĩ rằng một lời khuyên chính anh, Gerald, đã nói với hắn cũng có nghĩa là hắn không phải chịu thua thiệt trong bất cứ trường hợp nào. Vậy nên cuối cùng hắn không chỉ đẩy chúng ta đến chỗ chết, mà bản thân hắn còn vớ bẫm.”

Chuông cửa lại reo.

“Ai vậy?” Davenport hỏi, gần như nhảy dựng lên khỏi ghế.

“Chỉ là bữa tối của chúng ta thôi,” Craig nói. “Tại sao hai người không cùng đi qua bếp luôn nhỉ? Tôi sẽ cho hai người biết trong khi chúng ta cùng ăn pizza về kế hoạch tôi đã chuẩn bị cho Sir Nicholas Moncrieff, bởi vì đã đến lúc chúng ta cần trả đòn.”

“Tôi không dám chắc muốn đối mặt với hắn ta thêm lần nữa,” Davenport thừa nhận khi gã và Payne cùng đi vào bếp.

“Có lẽ chúng ta không có nhiều lựa chọn,” Payne nói.

“Anh có biết ai sắp tới dùng bữa cùng chúng ta không?” Davenport hỏi, khi gã nhìn thấy bàn ăn được dọn cho bốn người.

Payne lắc đầu. “Tôi chịu. Nhưng chắc không phải là Moncrieff.”

“Anh có lý, mặc dù rất có thể đó chỉ là một ông bạn học cũ của hắn,” Craig nói khi gã gia nhập bọn ở trong bếp. Gã lấy những chiếc pizza ra khỏi hộp và cho vào lò vi sóng.

“Anh có định giải thích xem anh đang ám chỉ chuyện quái quỷ gì suốt tối hôm nay không vậy?” Payne hỏi.

“Chưa đến lúc,” Craig nói, đưa mắt xem đồng hồ. “Nhưng hai người chỉ còn phải đợi mấy phút nữa là biết câu trả lời.”

“Ít nhất cũng nói cho tôi biết anh có ý gì khi nói rất có thể Moncrieff đã vớ bẫm vì một lời khuyên nào đó tôi đã nói với hắn,” Payne yêu cầu.

“Chẳng phải chính anh đã khuyên hắn nên mua địa điểm thứ hai, như thế dù chuyện gì xảy ra hắn cũng không thể thua cuộc sao?”

“Phải, tôi có nói thế thật. Nhưng nếu anh còn nhớ, hắn thậm chí không có đủ tiền để mua địa điểm thứ nhất.”

“Hoặc đó chỉ là những gì hắn nói với anh,” Craig nói. “Theo tờ Evening Standard, địa điểm thứ hai đó giờ đây được kỳ vọng có thể bán được với giá mười hai triệu.”

“Nhưng tại sao lại bỏ ra một triệu tiền túi của hắn vào địa điểm thứ nhất,” Davenport hỏi, “nếu hắn đã biết rõ hắn sẽ vớ bẫm với địa điểm thứ hai?”

“Bởi vì hắn đã luôn dự định sẽ vớ bẫm từ cả hai địa điểm,” Craig nói. “Trừ một điều là với địa điểm thứ nhất chúng ta trở thành nạn nhân còn hắn chẳng mất xu nào. Nếu anh chịu nói với chúng tôi ngay từ đầu Moncrieff chính là người đã cho anh vay tiền,” gã nói với Davenport, “chúng tôi đã có thể khám phá ra âm mưu này.”

Davenport thần mặt ra tẽn tò, nhưng không dám nói gì biện hộ cho mình.

“Nhưng tôi vẫn chưa hiểu,” Payne nói, “tại sao hắn lôi tất cả chúng ta vào chuyện này. Không thể có chuyện chì vì hắn đã ở chung phòng giam với Cartwright.”

“Tôi đồng ý, chắc chắn phải có lý do gì khác,” Davenport nói.

“Có đấy,” Craig nói. “Và nếu lý do đó đúng là thứ tôi đoán, Moncrieff sẽ không thể làm phiền chúng ta lâu được nữa.”

Payne và Davenport đều có vẻ chưa bị thuyết phục.

“Ít nhất hãy cho chúng tôi biết,” Payne nói, “làm cách nào mà anh lại tình cờ gặp được một bạn học cũ của Moncrieff?”

“Đã bao giờ nghe nói tới Bạn Học Cũ chấm com chưa?”

“Vậy anh đã thử liên lạc với ai?” Payne hỏi.

“Bất cứ ai biết Nicholas Moncrieff trong trường học hay trong quân đội.”

“Đã có ai hồi âm lại cho anh chưa?” Davenport hỏi đúng lúc chuông cửa lại reo lên.

“Bảy người, nhưng chỉ có một có những phẩm chất cần thiết,” Craig nói trong lúc rời khỏi bếp ra mở cửa.

Davenport và Payne nhìn nhau, nhưng không nói gì.

Một lát sau, Craig quay trở lại cùng một người đàn ông cao lớn, vạm vỡ, vị khách mới tới thậm chí phải cúi đầu xuống khi đi qua cửa phòng bếp.

“Thưa quý vị, cho phép tôi được giới thiệu Sandy Dawson,” Craig nói. “Sandy ở cùng nhà nội trú với Nicholas Moncrieff tại trường Loretto.”

“Trong năm năm,” Dawson nói, đồng thời bắt tay Payne và Davenport. Craig rót cho anh ta một ly rượu vang trước khi mời vị khách mới tới ngồi xuống chiếc ghế còn trống tại bàn ăn.

“Nhưng tại sao chúng ta cần đến ai đó từng biết Moncrieff ở trường học?” Davenport hỏi.

“Tại sao anh không nói cho họ biết nhỉ, Sandy?” Craig nói.

“Tôi đã liên lạc với Spencer vì nghĩ rằng anh là người bạn cũ Nick Moncrieff mà tôi chưa từng gặp lại kể từ khi ra trường.”

“Khi Sandy hồi âm,” Craig chen ngang, “tôi đã nói với anh những nghi vấn của mình về người đàn ông tự xưng là Moncrieff, và anh đồng ý thực hiện một bài kiểm tra với người đàn ông này. Chính Gerald đã cho tôi biết Moncrieff có một cuộc hẹn với một đồng nghiệp của anh, Gary Hall, tại Dorchester vào buổi sáng hôm đó. Vậy là Sandy có mặt tại địa điểm này sau đó chừng vài phút.”

“Không khó để tìm ra anh ta,” Dawson nói. “Tất cả mọi người, từ nhân viên phục vụ ngoài tiền sảnh cho đến người quản lý khách sạn có vẻ đều biết Sir Nicholas Moncrieff. Anh ta ngồi tại một bàn riêng trong góc, đúng chỗ người phụ trách nhân viên phục vụ nói tôi sẽ tìm thấy anh ta. Lúc đầu, khi vừa nhìn thấy người này, tôi đã cảm thấy chắc chắn đó là Nick, nhưng vì đã gần mười lăm năm trôi qua kể từ khi tôi nhìn thấy anh ta lần cuối cùng, tôi nghĩ tốt hơn nên kiểm tra lại. Nhưng khi tôi tới gần bàn định chuyện trò vài câu với người đàn ông đó, anh ta không hề có biểu hiện cho thấy đã nhận ra tôi, cứ như thể tôi là mẫu người có thể dễ dàng quên được vậy.”

“Đó là một trong những lý do tôi chọn anh,” Craig nói. “Nhưng điều này chưa thể coi là một bằng chứng, nhất là sau từng ấy năm.”

“Chính vì thế tôi quyết định làm gián đoạn cuộc gặp của anh ta,” Dawson nói, “để xem liệu anh ta có thực sự là Nick không.”

“Và?” Payne hỏi.

“Rất ấn tượng. Cùng một dáng vẻ, cùng giọng nói, thậm chí cùng phong cách ứng xử, nhưng tôi vẫn chưa cảm thấy thuyết phục, vậy là tôi quyết định tung ra vài câu dò hỏi. Khi Nick học ở Loretto, anh ta là đội trưởng đội cricket, và là một người ném bóng nhanh rất cừ. Người đàn ông này cũng biết điều đó, nhưng khi tôi nhắc lại với anh ta rằng tôi là tay đỡ bóng số một trong đội hình chính thức, anh ta chẳng thèm nhướng mắt. Đó chính là sai lầm đầu tiên của anh ta. Tôi chưa bao giờ chơi cricket ở trường, thậm chí còn ghét môn đó. Tôi chơi cho đội rugby mười lăm người, ở vị trí trung phong tuyến hai - một lựa chọn hoàn toàn không đáng ngạc nhiên - vậy là tôi quay đi, nhưng vẫn băn khoăn không rõ liệu có phải anh ta đã quên hay không, vậy là tôi quay lại báo cho anh ta tin buồn Squiffy Humphries đã chết, và cả thị trấn đã tới dự tang lễ của ông. “Một huấn luyện viên lớn,” anh ta đã nói vậy. Đó là sai lầm thứ hai của anh ta. Squiffy Humphries là người quản lý khu nội trú của chúng tôi. Bà ta luôn cai quản các cậu nhóc bằng kỷ luật sắt; thậm chí cả tôi cũng bị bà ta làm cho chết khiếp. Không thể có chuyện anh ta có thể quên được Squiffy. Tôi không biết người đàn ông đã có mặt tại Dorchester là ai, nhưng tôi có thể nói cho các vị một điều chắc chắn, hắn ta không phải là Nicholas Moncrieff.”

“Vậy hắn ta là kẻ quái quỷ nào mới được chứ?” Payne hỏi.

“Tôi biết chính xác hắn là ai,” Craig nói. “Và hơn thế, tôi có thể chứng minh điều đó.”

***

Danny đã mang cả ba cặp hồ sơ ra cập nhật. Rõ ràng anh đã làm Payne trọng thương, thậm chí làm Davenport suy sụp, nhưng hầu như anh chưa gây tổn hại được gì tới Spencer Craig, ngoài việc rất có thể khiến chuyện bổ nhiệm gã làm QC bị chậm lại. Và giờ đây anh khi đã phá bỏ vỏ bọc của mình, cả ba người bọn chúng hẳn cũng hiểu ra ai phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại chúng gặp phải.

Khi Danny vẫn còn giữ được bí mật về mình, anh đã có thể tấn công riêng lẻ từng đối thủ một, thậm chí chọn trước nơi cuộc chiến sẽ diễn ra. Nhưng giờ đây anh không còn lợi thế đó. Giờ bọn chúng đã biết quá rõ về sự hiện hữu của anh, và lần đầu tiên anh ở vào vị thế bất lợi và bị bộc lộ. Chắc chắn chúng sẽ muốn báo thù, và anh không cần ai nhắc lại để nhớ chuyện gì đã xảy ra vào lần cuối cùng bọn chúng bắt tay nhau cùng hành động.

Danny đã hy vọng quật ngã được cả ba gã trước khi chúng tìm ra đối thủ đang phải đối đầu là ai. Giờ đây hy vọng duy nhất của anh là đưa chúng ra trước tòa. Nhưng điều đó cũng có nghĩa là phải tiết lộ sự thật Nick mới là người đã bị giết trong nhà tắm tại Belmarsh chứ không phải anh, và nếu anh muốn mạo hiểm làm điều này, anh cần phải lựa chọn thời điểm một cách hoàn hảo.

Davenport đã mất cả nhà lẫn bộ sưu tập tranh của gã, và bị loại khỏi Holby City thậm chí trước khi kịp hoàn tất buổi diễn thử. Gã đã chuyển về sống cùng em gái tại Cheyen Walk, chuyện này khiến Danny lần đầu tiên có cảm giác tội lỗi; anh tự hỏi không biết Sarah sẽ cảm thấy thế nào nếu cô khám phá ra sự thật.

Payne đã ở bên bờ vực phá sản, nhưng Hall đã nói có thể mẹ gã sẽ giúp gã thoát khỏi tình thế khó khăn hiện tại, và trong cuộc bầu cử sắp tới gã vẫn có cơ hội trở thành nghị sĩ đại diện cho khu vực Sussex Central.

Và Craig vẫn chưa hề sứt mẻ gì nếu so với hai bạn gã, và tất nhiên không hề có chút biểu hiện ân hận nào. Danny không bao giờ nghi ngờ về việc ai trong số Những người lính ngự lâm sẽ dẫn đầu cuộc phản công.

Danny đặt cả ba cặp hồ sơ lên giá. Anh đã lên kế hoạch cho bước đi tiếp theo của mình, mà anh tin tưởng sẽ khiến cả ba gã phải vào tù. Anh sẽ trình diện trước ba thượng nghị sĩ của Ủy ban tư pháp như ông Redmayne đã yêu cầu, và sẽ cung cấp những bằng chứng mới cần thiết để vạch trần Craig là kẻ giết người, Payne là đồng phạm, còn Davenport đã làm chứng gian khiến một người vô tội bị tống vào tù vì một tội ác anh không hề gây ra.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 67


Beth ra khỏi ga tàu điện ngầm Knightsbridge tối tăm. Đó là một buổi chiều đẹp trời đầy ánh nắng, vỉa hè các con đường nhộn nhịp đông nghịt những người đứng xem trước các cửa hàng cũng như các cư dân địa phương quay về sau khi ra ngoài ăn trưa.

Alex Redmayne đã luôn chu đáo hỗ trợ nàng đến mức không thể trông đợi nhiều hơn thế trong suốt tuần vừa qua, và khi nàng chia tay anh một giờ trước, nàng cảm thấy tràn đầy tin tưởng. Niềm tin đó giờ bắt đầu xẹp dần. Trong khi rảo bước về phía The Boltons, nàng cố nhớ lại trong đầu mọi thứ Alex đã nói với mình.

Nick Moncrieff là một người đứng đắn, anh ta đã trở thành một người bạn trung thành của Danny khi hai người cùng ở trong tù. Vài tuần trước khi được thả, Moncrieff đã viết cho Alex đề nghị làm bất cứ điều gì có thể để giúp Danny, người anh ta hoàn toàn tin là vô tội.

Alex đã quyết định mang lời đề nghị đó ra thử thách trên thực tế, và sau khi Moncrieff được thử, anh đã viết thư cho anh ta đề nghị được xem qua cuốn nhật ký anh ta đã viết trong tù, cũng như bất cứ ghi chép nào được ghi lại từ thời gian đó liên quan tới cuộc nói chuyện được ghi âm lại giữa Albert Crann và Toby Mortimer. Alex kết thúc bức thư bằng việc dò hỏi xem anh ta có chấp nhận xuất hiện trước tòa và làm chứng hay không.

Điều ngạc nhiên đầu tiên xảy ra khi cuốn nhật ký được chuyển tới văn phòng của Alex ngay sáng hôm sau. Điều ngạc nhiên thứ hai chính là người mang cuốn nhật ký tới. Albert Crann không những tỏ ra rất hợp tác, trả lời mọi câu hỏi Alex đặt ra và chỉ trở nên dè chừng khi được hỏi tại sau ông chủ của anh ta không chấp nhận xuất hiện trước các thượng nghị sĩ của Ủy ban tư pháp - thậm chí trên thực tế còn không chấp nhận gặp ông Redmayne tại tòa dù chỉ để trao đổi trong một cuộc gặp ngoài hồ sơ lưu trữ chính thức. Alex cho rằng lý do chắc hẳn có liên quan tới việc Moncrieff muốn tránh mọi dây dưa tới cảnh sát cho tới khi hết thời hạn chịu giám hộ. Nhưng Alex không chịu bỏ cuộc dễ dàng như vậy. Trong bữa trưa anh đã thuyết phục Beth rằng nếu nàng khiến Moncrieff thay đổi quan điểm và chấp nhận xuất hiện làm chứng trước các thượng nghị sĩ, điều này có thể trở thành nhân tố quyết định giúp trả lại sự trong sạch cho Danny.

“Tôi không hề cảm thấy sức ép,” Beth đã mỉm cười nói lúc đó, nhưng giờ đây nàng chỉ còn trông cậy được vào chính mình và cảm thấy sức ép mỗi lúc một nặng nề hơn theo từng bước chân.

Alex đã đưa cho nàng xem một bức ảnh của Moncrieff, đồng thời cảnh báo trước khi lần đầu tiên trông thấy anh ta, rất có thể nàng sẽ cho rằng mình đang đứng trước mặt Danny. Song nàng cần giữ được sự tập trung, không được cho phép mình bị phân tâm.

Alex đã lựa chọn ngày, thậm chí giờ, cho cuộc gặp: một buổi chiều Chủ nhật, vào quãng bốn giờ. Anh cảm thấy Nick sẽ ở vào tâm trạng thoải mái hơn vào thời gian đó và rất có thể sẽ dễ bị thuyết phục hơn bởi một cô gái trẻ đang trong tình trạng tuyệt vọng xuất hiện trên ngưỡng cửa nhà mình mà không báo trước.

Khi Beth rời khỏi con phố chính rẽ vào The Boltons, nhịp bước của nàng bắt đầu chậm lại. Chỉ có ý nghĩ phải trả lại sự trong sạch cho Danny giúp nàng có đủ can đảm để bước tiếp. Nàng đi vòng qua khu vườn hình bán nguyệt nằm bao quanh ngôi nhà thờ cho đến khi tới số nhà 12. Trước khi mở cửa nàng thầm ôn lại những lời mà nàng và Alex đã thống nhất trước. Tên tôi là Beth Wilson, tôi rất xin lỗi đã làm phiền ông vào chiều chủ nhật thế này, nhưng tôi nghĩ ông từng ở chung phòng giam với Danny Cartwright, người thực ra là...

***

Khi Danny đã đọc qua bài luận thứ ba mà giáo sư Mori đã tư vấn, anh bắt đầu cảm thấy tự tin hơn nhiều về việc đối diện với ông thầy của mình. Anh quay sang một bài viết ông đã viết cách đây vài năm về lý thuyết của J.K.Galbraith về một nền kinh tế chịu thuế thấp tạo ra... khi tiếng chuông cửa vang lên. Anh bật rủa thầm. Al Mập đã đi xem West Ham đấu với Sheffield United. Danny đã muốn đi cùng anh ta, nhưng cả hai đi đến nhất trí rằng anh không nên mạo hiểm. Liệu anh có thể tới Upton Park vào mùa sau không? Anh quay trở lại tập trung vào Galbraith với hy vọng người quấy rầy, dù là ai đi nữa, sẽ bỏ đi, thế nhưng chuông cửa lại reo lên lần nữa.

Anh miễn cưỡng đứng dậy, đẩy chiếc ghế đang ngồi ra sau. Ai có thể tới vào giờ này nhỉ? Một người truyền giáo cho Chứng nhân của Jehovah(1) hay một anh chàng bán kính chống ồn hai lớp? Cho dù có là ai đi nữa, anh cũng đã có câu trả lời đầu tiên sẵn sàng cho bất cứ kẻ nào quyết định tới quấy rầy anh vào chiều Chủ nhật. Anh chạy xuống cầu thang rồi vội vã bước theo lối đi, hy vọng sẽ tống khứ được kẻ quấy rối trước khi bị mất đi sự tập trung. Chuông cửa vang lên lần thứ ba.

Anh mở toang cửa.

“Tên tôi là Beth Wilson, và tôi rất xin lỗi đã làm phiền ông vào một buổi chiều Chủ nhật...”

Danny nhìn đăm đăm vào người phụ nữ anh yêu. Anh đã hình dung ra khoảnh khắc này mỗi ngày trong suốt hai năm qua, và những gì anh sẽ nói với nàng. Giờ anh đứng ngẩn ngơ ở đó, không nói nổi một lời.

Khuôn mặt Beth trắng bệch, cả người nàng bắt đầu run bần bật. “Không thể nào,” nàng nói.

“Đúng đấy, em yêu,” Danny trả lời trong khi ôm nàng vào lòng.

Một người đàn ông ngồi trong chiếc xe hơi đỗ bên kia đường tiếp tục chụp ảnh lia lịa.

***

“Ông Moncrieff?”

“Ai vậy?”

“Tên tôi là Spencer Craig. Tôi là luật sư, và tôi có một đề nghị với ông.”

“Đề nghị của ông là gì, ông Craig?”

“Nếu tôi có thể giúp ông lấy lại gia tài, gia tài thuộc về ông một cách hợp pháp, liệu điều đó có giá trị gì với ông không?”

“Hãy nói giá của ông.”

“Hai mươi lăm phần trăm.”

“Nghe có vẻ cao quá.”

“Để trả lại cho ông bất động sản ở Scotland, đá đít kẻ hiện tại đang chiếm giữ căn nhà ở The Boltons, hoàn lại cho ông toàn bộ số tiền đã được trả cho bộ sưu tập tem của bố ông, chưa kể tới quyền sở hữu một căn penthouse sang trọng ở London mà tôi ngờ ông còn chưa hề biết đến, cũng như lấy lại quyền sở hữu các tài khoản ngân hàng của ông ở Geneva và London? Không, tôi không nghĩ như thế là quá đắt, ông Moncrieff. Thực ra như thế là hoàn toàn chấp nhận được khi mà lựa chọn còn lại chỉ là một trăm phần trăm của một số không tròn trĩnh.”

“Làm thế nào có thể thực hiện được điều đó?”

“Chỉ cần ông chấp nhận ký hợp đồng giao ước, ông Moncrieff, gia sản của bố ông sẽ được trả lại cho ông.”

“Và sẽ không có chi phí hay hoa hồng ngoài hợp đồng nào khác?” Hugo Moncrieff hỏi với giọng ngờ vực.

“Không tính phí hay hoa hồng ngoài hợp đồng,” Craig cam đoan. “Thực ra tôi đã thêm vào thỏa thuận của chúng ta một món quà nhỏ mà tôi nghĩ thậm chí cả bà Moncrieff cũng sẽ thích.”

“Và đó là gì?”

“Ông ký hợp đồng mà tôi đề xuất, và giờ này tuần sau bà nhà sẽ trở thành Phu nhân Moncrieff.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 68


“Anh đã chụp ảnh được chân hắn chưa?” Craig hỏi.

“Chưa,” Payne đáp.

“Cho tôi biết ngay khi anh đã chụp được.”

“Đừng tắt máy,” Payne nói. “Hắn đang ra khỏi nhà.”

“Cùng với tay lái xe?” Craig hỏi.

“Không, với cô ả đã vào trong nhà chiều hôm qua.”

“Cô ta trông thế nào?”

“Chưa tới ba mươi, cao chừng mét bảy, thon thả, tóc nâu, chân hết xảy. Cả hai vừa chui vào phía sau xe.”

“Bám lấy bọn họ,” Craig nói, “và báo cho tôi biết chúng đi đâu.” Gã gác máy, quay sang máy tính của mình để lấy ra một bức ảnh của Beth Wilson, và không hề tỏ ra ngạc nhiên khi cô gái khớp hoàn toàn với lời mô tả. Tuy nhiên, gã vẫn ngạc nhiên về chuyện Cartwright sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm như vậy. Chẳng lẽ hắn nghĩ giờ hắn đã trở thành kẻ bất khả chiến bại sao?

Một khi Payne đã chụp được ảnh chân trái của Cartwright, Craig sẽ hẹn gặp hạ sĩ Fuller. Sau đó gã sẽ đứng sang một bên để mặc tay cảnh sát dành trọn vẹn thành tích bắt trở lại một gã sát nhân vượt ngục cùng kẻ đồng lõa.

***

Al Mập thả Danny xuống bên ngoài cổng trường đại học. Sau khi đã được Beth tặng một cái hôn, anh lao ra khỏi xe chạy vội lên bậc cấp vào trong tòa nhà.

Mọi kế hoạch của anh đã bị tung hê đi hoàn toàn với một cái hôn, theo sau là một đêm không ngủ. Khi mặt trời ló rạng vào sáng hôm sau, Danny biết anh không thể nào sống tiếp một cuộc sống không có Beth, cho dù điều đó có nghĩa là phải rời khỏi đất nước này và phải sống ở nước ngoài.

***

Craig lẻn ra khỏi tòa án trong khi bồi thẩm đoàn đang họp để đưa ra phán quyết. Gã đứng trên bậc thềm của Old Bailey gọi điện cho Payne bằng máy đi động.

“Bọn chúng tới đâu?” gã hỏi.

“Cartwright xuống xe bên ngoài Đại học London. Hắn đang học bằng Kinh doanh tại đó.”

“Nhưng Moncrieff đã có bằng đại học về Anh văn rồi mà.”

“Phải, nhưng đừng quên khi Cartwright còn ở Belmarsh hắn đã lấy chứng chỉ A-level về toán và kinh doanh.”

“Một sai lầm nhỏ nữa mà hắn cho rằng sẽ không ai phát hiện ra,” Craig nói. “Vậy tay lái xe đưa cô ả đi đâu sau khi đã thả Cartwright xuống xe?”

“Họ đi về phía East End và...”

“Số hai mươi bảy đường Bacon, Bow,” Craig nói.

“Làm sao anh biết được?”

“Đó là nhà Beth Wilson, bạn gái Cartwright - cô ả cũng đi cùng hắn đêm đó trong con hẻm, anh còn nhớ không?”

“Làm sao tôi quên được,” Payne cấm cẳn.

“Anh có chụp được bức ảnh nào của cô ta không?” Craig hỏi, tảng lờ cơn bực của ông bạn.

“Vài bức.”

“Tốt, nhưng tôi vẫn cần một bức ảnh chụp chân trái Cartwright ngay trên đầu gối trước khi có thể đến thăm thám tử Fuller.” Craig xem đồng hồ. “Bây giờ tôi phải quay vào tòa đây. Bồi thẩm đoàn sẽ không phải mất nhiều thời gian để nhất trí rằng thân chủ của tôi có tội. Anh đang ở đâu vậy?”

“Bên ngoài số hai mươi bảy đường Bacon.”

“Tránh để bị phát hiện,” Craig nói. “Cô ta có thể nhận ra anh từ xa cả trăm mét. Tôi sẽ gọi lại ngay khi bãi tòa.”

***

Trong giờ nghỉ ăn trưa, Danny quyết định đi bộ ra ngoài kiếm một chiếc sandwich trước khi dự giờ giảng của giáo sư Mori. Anh cố nhớ lại sáu lý thuyết của Adam Smith phòng khi ngón tay của giáo sư chỉ đúng mình. Anh đã không phát hiện ra người đàn ông đang ngồi trên một băng ghế bên kia đường, bên sườn đeo một chiếc máy ảnh.

***

Craig lấy điện thoại di động ra bấm số của Payne ngay sau khi bãi tòa.

“Cô ta không ra khỏi nhà trong vòng hơn một giờ đồng hồ,” Payne nói, “và khi ra ngoài, cô ta mang theo một chiếc vali lớn.”

“Cô ta đi đâu?” Craig hỏi.

“Cô ta được đưa tới văn phòng nơi cô ta làm việc tại phố Mason ở khu City.”

“Cô ta có mang chiếc vali theo không?”

“Không, cô ta để nó lại trong cốp xe.”

“Vậy là cô ả định tới The Boltons ở ít nhất qua một đêm nữa.”

“Có vẻ là vậy. Anh có nghĩ chúng định chuồn ra nước ngoài không?”

“Có lẽ chúng sẽ chưa làm thế cho tới sau buổi trình diện cuối cùng của hắn với người giám hộ vào sáng thứ năm, khi đó hắn đã kết thúc thời gian chịu giám hộ.”

“Có nghĩa là chúng ta chỉ còn ba ngày nữa để tập hợp tất cả các bằng chứng cần thiết,” Payne nói.

“Vậy hắn đã làm những gì cho đến giờ trong chiều nay?”

“Hắn rời trường đại học lúc bốn giờ, được xe đưa về The Boltons. Hắn vào trong nhà, nhưng tay lái xe lại phóng đi ngay. Tôi đã bám theo gã phòng khi gã đi đón cô ả.”

“Có đúng vậy không?”

“Đúng thế. Gã đón cô ả từ chỗ làm và đưa ả về ngôi nhà của ông chủ mình.”

“Thế còn chiếc vali?”

“Gã mang nó vào trong nhà.”

“Có lẽ cô ta nghĩ giờ đây đã có thể yên tâm chuyển tới đó sống. Hắn có đi chạy không?”

“Nếu có,” Payne nói, “thì hẳn là trong khoảng thời gian tôi đang bám theo cô ả.”

“Ngày mai đừng bận tâm tới cô ta nữa,” Craig nói. “Từ giờ hãy tập trung vào Cartwright, bởi vì nếu chúng ta muốn lột mặt nạ hắn, chỉ còn một thứ duy nhất có ý nghĩa.”

“Bức ảnh,” Payne nói. “Nhưng nếu hắn không đi chạy vào buổi sáng thì sao?”

“Càng có lý do để mặc kệ cô ả và bám chặt lấy hắn,” Craig nói. “Trong lúc đó, tôi sẽ cập nhật tình hình cho Larry biết.”

“Liệu hắn có làm gì để xứng đáng được như vậy không?”

“Không nhiều lắm,” Craig nói. “Nhưng chúng ta không thể làm hắn bất bình trong khi hắn vẫn đang sống với em gái.”

***

Craig đang cạo râu thì chuông điện thoại reo lên. Gã bực bội rủa.

“Bọn chúng lại cùng nhau rời khỏi nhà.”

“Vậy là sáng nay hắn không đi chạy?”

“Không, trừ khi vào trước lúc năm giờ sáng. Tôi sẽ gọi lại nếu có thay đổi gì trong lịch trình của hắn.”

Craig gập điện thoại lại rồi tiếp tục cạo râu. Gã cắt đứt da, và lại bật rủa lần nữa.

Gã cần có mặt tại tòa lúc mười giờ, khi thẩm phán tuyên án cho vụ đột nhập tư gia ăn trộm có tình tiết tăng nặng mà gã đang bào chữa. Thân chủ của gã chắc sẽ phải chịu án hai năm, bất chấp có tới hai mươi ba tội danh bị đưa ra xem xét.

Craig thoa một ít nước thơm dùng sau cạo râu lên cằm trong khi gã nghĩ về những tội danh mà Cartwright sẽ phải đối mặt: bỏ trốn khỏi Belmarsh trong khi mạo danh một tù nhân khác, đánh cắp một bộ sưu tập tem trị giá trên năm mươi triệu đô la, giả mạo chữ ký trên séc tại hai tài khoản ngân hàng, và ít nhất còn hai mươi ba tội danh nữa cũng sẽ được đưa ra xem xét. Sau khi thẩm phán đã lướt qua cả danh sách đó, Cartwright sẽ khó có cơ hội được thấy ánh sáng ban ngày cho tới khi hắn đã đủ tuổi để nhận trợ cấp dành cho người già. Craig tin rằng cả cô nàng cũng sẽ phải ngồi sau song sắt khá lâu với tội giúp đỡ và che giấu tội phạm. Và một khi người ta phát hiện ra chính xác những gì Cartwright đã làm kể từ khi vượt ngục, sẽ không ai nói đến chuyện ân xá cho hắn nữa. Craig thậm chí còn bắt đầu cảm thấy tin tưởng rằng ngài Đại pháp quan rồi sẽ lại gọi gã đến gặp lần nữa, và lần này gã sẽ được mời một ly sherry nguyên chất trong lúc hai người cám cảnh cho sự xuống dốc của cricket Anh quốc.

***

“Chúng ta bị bám đuôi,” Al Mập nói.

“Tại sao anh nghĩ vậy?” Danny hỏi.

“Tôi nhận ra chiếc xe đã bám theo chúng ta hôm qua. Giờ nó lại đang bám theo.”

“Rẽ trái ở giao lộ tiếp theo và để ý xem nó còn bám theo chúng ta không.”

Al Mập gật đầu, đột ngột ngoặt gấp sang trái mà không hề lên tiếng cảnh báo trước.

“Nó vẫn bám theo chứ?” Danny hỏi.

“Không, chiếc xe đó đi thẳng,” Al Mập nói, đưa mắt kiểm tra gương chiếu hậu.

“Chiếc xe đó loại gì?”

“Một chiếc Ford Mondeo màu xanh sẫm.”

“Anh có tưởng tượng được có bao nhiêu chiếc loại đó ở London không?” Danny hỏi.

Al Mập càu nhàu. “Nó đã bám theo chúng ta,” anh ta lặp lại trong khi lái xe rẽ sang The Boltons.

“Tôi đi chạy đây,” Danny nói. “Tôi sẽ cho anh biết ngay nếu có ai đó bám theo tôi.”

Al Mập không hề cười.

***

“Tay lái xe của Cartwright phát hiện ra tôi,” Payne nói, “vì thế tôi không còn cách nào khác ngoài việc tiếp tục lái xe đi thẳng và tránh mặt chúng suốt thời gian còn lại của ngày hôm nay. Tôi đang tới công ty cho thuê xe để đổi sang một kiểu xe khác. Tôi sẽ quay trở lại vị trí ngay sáng sớm mai. Nhưng từ giờ trở đi tôi sẽ phải thận trọng hơn vì tay lái xe của Cartwright rất thính mũi. Tôi dám cá tay này là cớm giải nghệ hoặc cựu binh, có nghĩa là tôi sẽ phải đổi xe hàng ngày.”

“Anh vừa nói gì cơ?” Craig hỏi.

“Rằng tôi sẽ phải đổi...”

“Không, trước đó cơ.”

“Tay lái xe của Cartwright chắc chắn từng được huấn luyện trong cảnh sát hoặc quân đội.”

“Tất nhiên là thế rồi,” Craig nói. “Đừng quên tay lái xe của Moncrieff cũng bị nhốt cùng buồng giam với anh ta và Cartwright.”

“Anh có lý,” Payne nói. “Crann. Albert Crann.”

“Thường được biết đến dưới tên Al Mập. Tôi có cảm giác rằng Thám tử Fuller sắp có cả một bộ đầy đủ - K, Q, và giờ là J.”

“Anh có muốn tôi quay lại ngay đêm nay để kiểm tra không?” Payne hỏi.

“Không. Crann rất có thể là một món hời ngoài dự kiến, nhưng chúng ta không thể mạo hiểm để hắn ta phát hiện ra chúng ta đang bám sát chúng. Hãy tránh xa khỏi tuyến đường chúng đi cho tới chiều ngày mai, bởi vì anh có thể yên tâm tin chắc Crann lúc này đang cảnh giác đề phòng anh. Sau khi hắn ta đã đưa Cartwright về nhà và quay đi đón cô bạn gái của ông chủ, tôi nghĩ đó chính là thời điểm anh sẽ thấy Cartwright đi chạy.”

***

Trong khi Danny đang rảo bước theo lối đi, anh bắt gặp giáo sư Mori đang đứng trò chuyện với mấy sinh viên đang dự thi, ông lập tức lên tiếng chào anh.

“Cũng ngày này sang năm thôi, Nick,” ông nói, “sẽ đến lượt cậu làm bài thi tốt nghiệp.” Danny gần như đã quên bẵng anh chỉ còn ít thời gian nữa trước khi tới kỳ thi, và cũng không có tâm trạng đâu để nói với giáo sư rằng anh không rõ ngày này năm tới mình sẽ đang ở đâu. “Khi đó tôi sẽ trông đợi được thấy những điều lớn lao từ cậu đấy,” giáo sư nói thêm.

“Hy vọng là tôi đáp ứng được kỳ vọng của giáo sư.”

“Không có gì sai với những kỳ vọng của tôi cả,” Mori nói, “mặc dù cậu là một ví dụ điển hình cho những người tự học ngoài con đường chính thống, rồi sau đó lại tưởng rằng mình vẫn còn nhiều thứ phải bắt kịp. Nick, tôi nghĩ cậu sẽ nhận ra khi đến lượt cậu ngồi thi, rằng cậu không có gì phải đuổi theo, mà ngược lại còn vượt lên trước phần lớn những người cùng trang lứa với mình.”

“Tôi thực sự rất hãnh diện, thưa giáo sư,” Danny nói.

“Tôi không hề tâng bốc đâu,” ông giáo sư nói trước khi chuyển sự chú ý sang một sinh viên khác.

Danny ra ngoài đường và thấy Al Mập đã mở sẵn cửa sau chiếc xe chờ. “Hôm nay có ai bám theo chúng ta không?”

“Không, ông chủ,” Al Mập nói, ngồi xuống trước tay lái.

Danny không muốn cho Al Mập biết suy nghĩ của anh, rằng rất có thể ai đó đang theo dõi họ. Anh tự hỏi mình còn bao nhiêu thời gian trước khi Craig khám phá ra sự thật, nếu không nói đến khả năng gã đã tìm ra chân tướng sự việc rồi. Danny chỉ cần thêm vài ngày nữa để thời gian chịu giám hộ kết thúc, đến khi đó cả thế giới này sẽ được biết sự thật.

Khi họ dừng xe bên ngoài ngôi nhà ở The Boltons, Danny xuống xe chạy ngay vào trong nhà.

“Ông dùng trà chứ?” Molly hỏi trong khi anh đang dợm bước định lao lên cầu thang.

“Không, cảm ơn bà. Tôi ra ngoài chạy đây.”

Danny cởi bộ đồ đang mặc ra, thay đồ tập chạy vào. Anh quyết định sẽ tập chạy một quãng dài vì anh cần thời gian để suy nghĩ về cuộc gặp với Alex Redmayne sáng hôm sau. Khi chạy qua cửa trước, anh trông thấy Al Mập đang đi xuống bếp, hẳn là để uống một tách trà với Molly trước khi đi đón Beth. Danny chạy xuống phố về hướng Embankment, một luồng sinh khí mới như được giải phóng ra trong con người anh sau khi phải ngồi nghiêng người nghe các bài giảng trong gần như suốt cả ngày.

Khi chạy qua Cheyen Walk, anh cố tránh không nhìn lên căn hộ của Sarah, nơi anh biết anh trai cô hiện đang sống. Nếu anh làm vậy, rất có thể anh đã phát hiện ra một người đàn ông nữa mà anh chắc chắn sẽ nhận ra ngay đang đứng bên một khung cửa sổ để mở chụp hình anh. Danny tiếp tục chạy về phía Quảng trường Nghị viện, khi chạy ngang qua cổng St Stephen dẫn vào Hạ viện, anh chợt nhớ đến Payne và tự hỏi không biết lúc này gã đang ở đâu.

Gã đang đứng bên kia đường chỉnh tiêu cự chiếc máy ảnh của mình, cố làm ra vẻ như một du khách đang chụp hình tháp Big Ben.

***

“Anh đã có được bức ảnh nào ra hồn chưa?” Craig hỏi.

“Đủ để lập một phòng triển lãm,” Payne đáp.

“Tuyệt lắm. Mang chúng đến chỗ tôi ngay, chúng ta sẽ cùng xem qua chúng vào bữa tối.”

“Lại pizza nữa à?” Payne nói.

“Sẽ không còn lâu nữa đâu. Một khi Hugo Moncrieff thanh toán tiền, chúng ta sẽ không chỉ kết thúc với Cartwright mà cùng lúc còn bỏ túi được một khoản kha khá, mà chuyện này tôi tin chắc không hề có trong kế hoạch dài hạn của hắn.”

“Tôi không nghĩ Davenport đã làm gì xứng đáng với cả triệu hắn sẽ được bỏ túi.”

“Tôi đồng ý, nhưng hiện tại hắn ta đang rất dễ suy sụp, và chúng ta không thể để hắn mở mồm không đúng lúc, nhất là trong khi hắn đang sống cùng Sarah. Gặp lại anh sau, Gerald.”

Craig tắt điện thoại, rót cho mình một lý và suy nghĩ về những gì gã sẽ nói trước khi bấm số gọi cho người mà gã đã chờ đợi có cơ hội nói chuyện cả tuần nay.

“Tôi có thể nói chuyện với hạ sĩ Fuller được không ạ?” gã nói khi đầu dây bên kia trả lời.

“Bây giờ là thanh tra Fuller,” giọng nói bên đầu dây chỉnh lại. “Tôi sẽ thông báo ai đang gọi đây ạ?”

“Spencer Craig. Tôi là luật sư.”

“Tôi sẽ nối máy cho ông ngay, thưa ông.”

“Ông Craig, đã lâu mới được nghe giọng nói của ông. Tôi khó mà quên được lần cuối cùng ông gọi điện tới.”

“Tôi cũng vậy,” Craig nói, “và đó là lý do cuộc gọi lần này của tôi, thưa thanh tra - chân thành chúc mừng ông.”

“Xin cảm ơn,” Fuller nói, “nhưng tôi thấy khó mà tin được đây là lý do duy nhất khiến ông bỏ công ra gọi điện cho tôi.”

“Ông hoàn toàn có lý,” Craig bật cười. “Nhưng tôi có một thông tin rất có thể sẽ giúp ông nhanh chóng trở thành Chánh Thanh tra.”

“Tôi xin sẵn sàng lắng nghe,” Fuller nói.

“Nhưng tôi muốn làm rõ ngay, thưa thanh tra, rằng ông không hề nhận được thông tin từ tôi. Tôi tin chắc ông hiểu tại sao khi ông biết được thông tin này liên quan đến ai. Và tôi cũng không muốn nói về nó qua điện thoại.”

“Tất nhiên,” Fuller nói, “vậy ông muốn chúng ta gặp nhau ở đâu, vào lúc nào?”

“The Sherlock Holmes, vào mười hai giờ mười lăm ngày mai, được chứ?”

“Rất tuyệt,” Fuller nói. “Tôi sẽ gặp ông tại đó, ông Craig.”

Craig gác máy, thầm nghĩ gã cần gọi một cuộc điện thoại nữa trước khi Gerald đến, nhưng vừa nhấc máy lên gã đã nghe thấy tiếng chuông cửa. Khi mở cửa, gã thấy Payne đứng dưới vòm cửa, cười nhăn nhở. Gã chưa từng thấy ông bạn khoan khoái đến thế suốt thời gian vừa qua. Payne bước qua trước mặt ông chủ nhà không nói không rằng, đi thẳng tới bếp và rải sáu bức ảnh ra trên mặt bàn.

Craig nhìn qua những bức ảnh và lập tức hiểu tại sao Payne lại tỏ vẻ kiểu cách như vậy. Ngay phía trên đầu gối chân trái của Danny hiện rõ một vết sẹo, kết quả từ vết thương Craig nhớ rõ chính gã đã gây ra, và mặc dù vết sẹo đã mờ đi, nó vẫn còn đủ rõ để thấy được bằng mắt thường.

“Đây là tất cả bằng chứng Fuller cần đến,” Craig nói trong khi gã nhấc chiếc điện thoại đặt trong bếp lên bấm một số ở Scotland.

“Hugo Moncrieff đây,” giọng ở đầu dây đáp.

“Không bao lâu nữa sẽ là Sir Hugo,” Craig nói.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 69


“Như anh cũng biết, Nicholas, đây là cuộc gặp cuối cùng của chúng ta.”

“Vâng, thưa bà Bennett.”

“Chúng ta không phải lúc nào cũng nhìn thẳng vào mắt nhau, nhưng tôi thực sự cảm thấy chúng ta đã cùng trải qua cuộc thử thách một cách êm đẹp.”

“Tôi hoàn toàn đồng ý với bà, bà Bennett.”

“Khi anh bước ra khỏi tòa nhà này lần cuối cùng, anh sẽ trở lại là một người tự do, sau khi đã hoàn thành thời gian giám hộ.”

“Vâng, thưa bà Bennett.”

“Nhưng trước khi tôi có thể ký xác nhận chính thức cho anh, tôi cần hỏi anh vài câu hỏi.”

“Tất nhiên rồi, bà Bennett.”

Bà cầm lấy một chiếc bút bi có cán bị cắn bẹp, rồi cúi xuống danh sách câu hỏi dài mà Bộ Nội vụ yêu cầu cần phải được trả lời trước khi một tù nhân được trả lại tự do hoàn toàn.

“Hiện tại anh có dùng bất kỳ loại ma túy nào không?”

“Không, thưa bà Bennett.”

“Gần đây anh có ý định phạm tội không?”

“Không, thưa bà Bennett.”

“Trong năm vừa qua anh có bao giờ có quan hệ gì với bất kỳ kẻ tội phạm nào từng bị pháp luật phát giác khác không?”

“Không phải là những kẻ tội phạm đã bị pháp luật phát giác,” Danny nói. Bà Bennett ngẩng lên. “Nhưng tôi đã ngừng mọi liên hệ với chúng, và không hề muốn gặp lại chúng, trừ khi ở trước tòa.”

“Tôi rất mừng được biết điều đó,” bà Bennett nói trong khi đánh dấu vào ô tương ứng. “Anh vẫn có nơi để sống chứ?”

“Vâng, nhưng tôi dự định sẽ sớm chuyển chỗ ở.” Chiếc bút ngừng lại. “Tới một nơi trước đây tôi chưa từng đến, lần này với sự chấp thuận chính thức.” Chiếc bút bi đánh dấu vào một ô nữa.

“Hiện ông đang sống với gia đình chứ?”

“Vâng.”

Bà Bennett lại ngẩng lên. “Lần trước khi tôi hỏi anh câu này, Nicholas, anh nói đang sống một mình.”

“Mới đây chúng tôi đã hàn gắn với nhau.”

“Tôi rất vui được biết vậy, Nicholas,” bà nói, một ô thứ ba được đánh dấu.

“Anh hiện có người phụ thuộc nào không?”

“Có, một con gái tên là Christy.”

“Vậy là hiện anh đang sống cùng vợ và con gái?”

“Beth và tôi đã đính hôn, và ngay sau khi tôi giải quyết xong một vài khúc mắc nữa, chúng tôi dự kiến sẽ làm đám cưới.”

“Tôi rất vui được nghe điều này,” bà Bennett nói; “Liệu cơ quan giám hộ có thể giúp đỡ được gì cho anh trong việc giải quyết những khúc mắc anh vừa nói đến không?”

“Bà thật tốt bụng đã quan tâm, bà Bennett, nhưng tôi không nghĩ vậy. Tuy nhiên, tôi có một cuộc hẹn với luật sư của mình vào sáng mai, và tôi rất hy vọng ông luật sư có thể giúp tôi giải quyết ổn thỏa mọi chuyện.”

“Tôi hiểu,” bà Bennett nói, quay lại với các câu hỏi của mình. “Bạn gái của ông hiện có việc làm chính thức không?”

“Có,” Danny nói, “cô ấy làm trợ lý phụ trách quan hệ với công chúng cho chủ tịch một công ty bảo hiểm có trụ sở ở khu City.”

“Vậy là khi anh tìm được việc làm, gia đình anh sẽ có hai nguồn thu nhập.”

“Vâng, nhưng trong giai đoạn trước mắt, có lẽ mức lương của tôi sẽ thấp hơn cô ấy rất nhiều.”

“Tại sao? Anh hy vọng tìm được công việc nào?”

“Tôi hy vọng sẽ được nhận vào làm thủ thư tại một học viện lớn,” Danny nói.

“Tôi cũng không nghĩ ra được vị trí nào thích hợp hơn,” bà Bennett nói, đánh dấu vào một ô nữa rồi chuyển sang câu hỏi tiếp theo. “Anh có nghĩ đến việc ra nước ngoài trong thời gian sắp tới không?”

“Tôi chưa có dự định nào như vậy,” Danny nói.

“Và cuối cùng,” bà Bennett nói, “anh có lo ngại đến lúc nào đó trong tương lai anh sẽ có thể lại phạm pháp không?”

“Tôi đã quyết tâm sẽ làm tất cả để biến chuyện đó thành không thể trong tương lai,” anh cam đoan với bà.

“Tôi rất vui được biết vậy,” bà Bennett nói trong khi đánh dấu vào ô cuối cùng. “Tôi đã kết thúc với những câu hỏi của mình. Cảm ơn anh, Nicholas.”

“Cảm ơn bà, thưa bà Bennett.”

“Tôi thành thật hy vọng,” bà Bennett nói trong khi đứng dậy, “rằng luật sư của anh có thể giải quyết những khúc mắc đang làm anh bận tâm.”

“Bà thật tốt quá, bà Bennett,” Danny nói khi hai người bắt tay. “Hãy cùng hy vọng là vậy.”

“Và nếu có lúc nào đó anh cần đến sự giúp đỡ hay lời khuyên, đừng quên chỉ cần gọi điện cho tôi.”

“Tôi tin rất có thể sẽ có ai đó liên lạc với bà trong thời gian tới,” Danny nói.

“Tôi sẵn sàng chờ đợi bất cứ liên lạc nào từ họ,” bà Bennett nói, “và tôi hy vọng mọi thứ sẽ tốt đẹp với anh và Beth.”

“Cảm ơn bà,” Danny nói.

“Tạm biệt, Nicholas.”

“Tạm biệt, bà Bennett.”

Nicholas Moncrieff mở cửa bước ra ngoài đường phố với tư cách một người tự do. Ngày mai anh sẽ trở lại là Danny Cartwright.

***

“Em vẫn thức chứ?”

“Vâng,” Beth nói.

“Em vẫn hy vọng anh sẽ đổi ý sao?”

“Vâng, nhưng em biết cố thuyết phục anh chỉ là vô ích, Danny. Anh lúc nào cũng cứng đầu như một chú lừa vậy. Em chỉ hy vọng anh hiểu nếu rốt cuộc đó là quyết định sai lầm, thì tối nay sẽ là đêm cuối cùng chúng mình được ở bên nhau.”

“Nhưng nếu anh đúng,” Danny nói, “chúng ta sẽ có cả mười nghìn đêm như đêm nay.”

“Nhưng chúng ta vẫn có thể bên nhau suốt đời mà anh không cần phải mạo hiểm.”

“Anh đã phải sống cùng với mối nguy cơ đó từng ngày kể từ khi rời khỏi nhà tù. Em không hiểu được đâu, Beth, cái cảm giác lúc nào cũng phải ngoái đầu nhìn lại phía sau, chờ đợi ai đó nói, “Trò chơi chấm dứt rồi, Danny, anh sẽ quay lại nhà tù trong suốt phần đời còn lại của mình.” Ít nhất theo cách anh định làm, vẫn có thể có ai đó sẵn lòng nghe câu chuyện mà anh muốn nói.”

“Nhưng điều gì thuyết phục anh rằng đây là cách duy nhất để chứng minh sự trong sạch của mình?”

“Chính là em đấy,” Danny nói. “Khi anh nhìn thấy em đứng trên ngưỡng cửa - “Tôi xin lỗi đã làm phiền ông, Sir Nicholas” - anh nhại lại câu nói của nàng - “anh nhận ra anh không còn muốn đóng vai Sir Nicholas Moncrieff nữa. Anh là Danny Cartwright, và anh yêu Beth Bacon ở đường Wilson(1).”

Beth cười ngặt nghẽo. “Em không nhớ nổi lần cuối cùng anh gọi em như thế là lúc nào nữa.”

“Khi em còn là một cô bé con hay hờn còn để tóc đuôi gà.”

Beth ngả đầu lên gối, không nói thêm gì suốt một lúc lâu. Danny tự hỏi không biết nàng đã ngủ thiếp đi chưa, cho tới khi nàng nắm chặt lấy tay anh và nói, “Nhưng rất có khả năng rốt cục anh vẫn sẽ phải ngồi tù suốt phần đời còn lại của mình.”

“Anh đã có quá đủ thời gian để suy ngẫm về chuyện đó,” Danny nói, “và anh tin chắc rằng nếu anh cùng đi với Alex Redmayne tới một đồn cảnh sát để tự thú - sẵn sàng chấp nhận mất tất cả, ngôi nhà này, những tài sản anh đang có và, quan trọng hơn tất thảy, cả em nữa, em không nghĩ sẽ có ai đó sẽ nghĩ rất có thể anh vô tội?”

“Hầu như không có mấy ai dám sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm như thế,” Beth nói, “Họ sẽ rất hài lòng được sống nốt phần đời còn lại dưới tên Sir Nicholas Moncrieff, cùng với tất cả những thứ gắn liền với cái tên đó.”

“Nhưng điều quan trọng chính là chỗ đó, Beth. Anh không phải là Sir Nicholas Moncrieff. Anh là Danny Cartwright.”

“Và em không phải là Beth Moncrieff, nhưng em thà chấp nhận cái tên đó còn hơn phải trải qua hai mươi năm tiếp theo đến thăm anh ở Belmarsh vào chủ nhật đầu tiên của mỗi tháng.”

“Nhưng rồi không có ngày nào trôi qua mà em không giật mình ngoái lại nhìn sau lưng, hiểu nhầm cả những lời nói bóng gió vu vơ nhất, đồng thời phải né tránh bất cứ ai có thể từng biết Danny, hay thậm chí Nick. Và em biết chia sẻ bí mật của mình với ai? Mẹ em chăng? Hay mẹ anh? Hay các bạn em? Câu trả lời là, chẳng ai hết. Và chúng ta sẽ nói gì với Christy khi nó đủ lớn khôn để hiểu tất cả? Không lẽ chúng ta mong đợi nó tiếp tục sống một cuộc sống giả dối, thậm chí không biết được tên thật của bố mẹ mình? Không, nếu đó là lựa chọn còn lại, anh muốn chấp nhận mạo hiểm hơn. Nói cho cùng, nếu ba vị thượng nghị sĩ của Ủy ban tư pháp tin rằng trường hợp của anh đủ căn cứ để xem xét cho hưởng ân xá hoàng gia, rất có thể họ sẽ cảm thấy anh còn có nhiều căn cứ để được như vậy hơn khi anh sẵn sàng từ bỏ nhiều thứ đến vậy để chứng minh sự trong sạch của mình.”

“Em biết anh đúng, Danny, nhưng mấy ngày vừa qua là những ngày hạnh phúc nhất trong đời em.”

“Và trong đời anh nữa, Beth, nhưng sẽ còn những ngày hạnh phúc hơn khi anh được trở lại làm một người tự do. Anh có đủ niềm tin vào bản chất con người để tin rằng Alex Redmayne, Fraser Munro và thậm chí cả Sarah Davenport nữa sẽ không chịu khoanh tay ngồi im cho tới khi họ thấy công lý đã được thực thi.”

“Anh cũng thích Sarah Davenport đúng không,” Beth hỏi trong lúc lùa các ngón tay vào mái tóc anh.

Danny mỉm cười nhìn nàng. “Anh phải thừa nhận đúng là Sir Nicholas Moncrieff có thích cô ấy, nhưng Danny Cartwright ư? Không bao giờ.”

“Tại sao chúng ta không ở bên nhau thêm một ngày nữa,” nàng nói, “và làm điều gì đó chúng ta sẽ không bao giờ quên. Và vì rất có thể đây sẽ là ngày tự do cuối cùng của anh, em sẽ để anh làm bất cứ điều gì anh muốn.”

“Hãy ở lại trên giường,” Danny nói, “và yêu nhau cả ngày.”

“Đúng là đàn ông,” Beth mỉm cười thở dài.

“Chúng mình có thể đưa Christy đến sở thú vào buổi sáng, sau đó cùng ăn trưa tại nhà hàng Ramsey với món cá và khoai tây chiên.”

“Sau đó thì sao?” Beth hỏi.

“Anh sẽ tới Upton Park cổ vũ cho Những chiếc búa(1), trong khi em đưa Christy về nhà mẹ em.”

“Thế còn buổi tối?”

“Em có thể chọn bất cứ bộ phim nào em thích... chừng nào đó là tập phim mới nhất về James Bond.”

“Sau đó thì sao?”

“Như mọi buổi tối khác trong tuần này,” anh nói trong khi ôm nàng vào lòng.

“Trong trường hợp đó em nghĩ tốt hơn chúng ta giữ nguyên kế hoạch A,” Beth nói, “và đảm bảo anh sẽ có mặt đúng giờ tại cuộc hẹn với Alex Redmayne sáng mai.”

“Anh rất nóng lòng được thấy mặt anh ấy,” Danny nói. “Anh ấy nghĩ mình có một cuộc gặp với Sir Nicholas Moncrieff để nói chuyện về cuốn nhật ký cùng khả năng thuyết phục được anh ta đổi ý và chấp nhận ra làm chứng trước tòa, trong khi trên thực tế anh ấy sẽ đối diện với Danny Cartwright, người muốn ra đầu thú.”

“Alex sẽ rất vui,” Beth nói. “Anh ấy luôn nói, “Giá như tôi có được cơ hội thứ hai”.”

“Được thôi, anh ấy sắp có nó rồi đấy. Và anh có thể nói với em, Beth, anh muốn cuộc gặp này đến thật nhanh, vì nó giúp anh có được cảm giác tự do lần đầu tiên sau nhiều năm qua.” Danny quay sang dịu dàng hôn lên môi nàng. Trong lúc nàng cởi chiếc áo ngủ ra, anh áp một bàn tay lên đùi nàng.

“Đây là một thứ nữa anh sẽ không có được trong vài tháng tới,” Beth thì thầm, đúng lúc một tiếng rầm rầm như sấm động vang lên ở tầng dưới.

“Chuyện quái quỷ gì vậy?” Danny nói, với tay bật chiếc đèn đầu giường lên. Anh nghe thấy tiếng bước chân nặng nề vang lên trên cầu thang. Anh vừa kịp đưa chân ra khỏi giường thì ba cảnh sát mặc áo giáp chống đạn mang dùi cui ập vào phòng ngủ, phía sau còn có thêm ba người nữa. Ba người đầu tiên tóm lấy Danny, quật anh xuống sàn, mặc dù anh không hề kháng cự. Hai người đè anh úp sấp mặt xuống tấm thảm trải sàn trong khi người thứ ba bập một chiếc còng vào hai tay anh. Hé mắt lên nhìn, anh thoáng thấy một nữ cảnh sát ấn Beth, vẫn hoàn toàn khỏa thân, úp mặt vào tường, trong khi một nữ cảnh sát khác còng tay nàng lại.

“Cô ấy không làm gì cả!” anh hét lớn, vùng dậy lao về phía bọn họ, nhưng trước khi anh kịp bước tiếp bước thứ hai, một cú dùi cui thẳng tay giáng xuống sau đầu anh, và anh đổ vật xuống sàn.

Hai cảnh sát đè lên người anh, một người tỳ một đầu gối vào giữa sống lưng anh, trong khi người kia ngồi đè lên hai chân anh. Khi Thanh tra Fuller bước vào phòng, hai viên cảnh sát dựng Danny đứng dậy.

“Lục soát chúng,” Fuller ra lệnh trong khi ngồi xuống cuối chiếc giường, châm cho mình một điếu thuốc lá.

Khi nghi thức thường lệ này hoàn tất, ông ta đứng dậy đi tới trước mặt Danny.

“Lần này, Cartwright,” ông ta nói, mặt hai người chỉ cách nhau vài inch, “Tôi sẽ đảm bảo chắc chắn rằng họ sẽ vứt chìa khóa đi. Còn về cô bạn gái của anh, sẽ không còn cuộc thăm nào vào chiều chủ nhật nữa, bởi vì cô ta sẽ được nhốt lại thật chắc chắn trong buồng giam riêng của mình.”

“Vì tội gì?” Danny gầm lên.

“Giúp đỡ và che giấu tội phạm sẽ rất phù hợp. Mức thông thường là sáu năm, nếu tôi nhớ không nhầm. Giải chúng đi.”

Danny và Beth bị lôi xềnh xệch xuống nhà dưới như hai tải khoai tây, rồi bị điệu ra trước cửa nhà, nơi ba chiếc xe cảnh sát, đèn hiệu vẫn nháy sáng, cửa sau đã mở, đang chờ sẵn. Ánh đèn trong phòng ngủ các nhà xung quanh quảng trường lác đác bật sáng khi các nhà láng giềng, bị dựng dậy giữa giấc ngủ say, ùa ra bên cửa sổ để xem chuyện gì đang xảy ra ở số nhà 12.

Danny bị tống vào phía sau chiếc xe đậu ở giữa, ngồi kẹp giữa hai nhân viên cảnh sát, chỉ có một chiếc khăn tắm để che thân. Anh có thể thấy Al Mập đang phải chịu sự chăm sóc tương tự trong chiếc xe phía trước. Những chiếc xe cảnh sát rời quảng trường thành một đoàn, không hề vượt quá giới hạn tốc độ hay rú còi. Thanh tra Fuller rất hài lòng vì toàn bộ cuộc đột kích chỉ diễn ra trong vòng chưa đến mười phút. Người cung cấp thông tin cho ông ta đã chứng tỏ sự đáng tin cậy của mình đến tận những chi tiết nhỏ nhất.

Chỉ có một ý nghĩ duy nhất hiện ra trong đầu Danny. Giờ đây ai sẽ tin anh nữa khi anh nói với họ chuẩn bị có một cuộc gặp với luật sư của mình ngay trong cùng buổi sáng tại đó anh dự định sẽ đầu thú trước khi trình diện đồn cảnh sát gần nhất?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 70


“Con đến không thể đúng lúc hơn được đâu,” bà nói.

“Tệ đến vậy sao?” Alex nói.

“Hơn nhiều,” mẹ anh đáp. “Đến lúc nào Bộ Nội vụ mới hiểu ra khi các thẩm phán nghỉ hưu, không những họ được cho về ở yên tại nhà suốt phần đời còn lại, mà đồng thời những kẻ duy nhất họ còn được phép phán xử là những bà vợ vô tội của họ?”

“Vậy mẹ có đề xuất nào không?” Alex hỏi khi hai mẹ con đi vào phòng khách.

“Rằng các ông thẩm phán cần bị bắn bỏ vào sinh nhật thứ bảy mươi của họ, những bà vợ của họ sẽ nhận được ân xá hoàng gia và trợ cấp từ một quốc gia đầy biết ơn.”

“Có lẽ con sẽ tìm ra một giải pháp dễ chấp nhận hơn,” Alex đề xuất.

“Là gì? Coi việc giúp vợ các thẩm phán tự sát là hành vi hợp pháp chăng?”

“Thứ gì đó đỡ khủng khiếp hơn,” Alex nói. “Con không biết ngài thẩm phán đã cho mẹ biết chưa, nhưng con sẽ gửi cho ngài các chi tiết của một vụ án mà con đang tham gia, và thành thực mà nói con có thể thắng kiện nếu có những lời khuyên của bố.”

“Nếu ông ấy dám từ chối con, Alex, mẹ sẽ không nấu ăn cho ông ấy nữa.”

“Vậy thì chắc là con có cơ hội rồi,” Alex nói trong khi bố anh bước vào phòng.

“Cơ hội làm gì cơ?” ông thẩm phán già hỏi.

“Cơ hội được giúp đỡ trong một vụ án mà-”

“Vụ Cartwright chứ gì?” bố anh hỏi, mắt chăm chú nhìn qua cửa sổ. Alex gật đầu. “Phải rồi, bố vừa mới đọc xong bản cáo trạng. Như bố thấy, dường như chẳng còn nhiều điều luật anh chàng này chưa vi phạm: giết người, vượt ngục, đánh cắp năm mươi triệu đô la, ký séc lấy tiền từ hai tài khoản ngân hàng không thuộc về anh ta, bán đi một bộ sưu tập tem mà anh ta không hề sở hữu, ra nước ngoài bằng hộ chiếu của người khác, thậm chí giả xưng một tước hiệu nam tước đáng ra thuộc quyền thừa kế hợp pháp của người khác. Con thực sự không thể trách cứ cảnh sát khi bọn họ hơi nặng tay với anh ta.”

“Như thế có nghĩa là bố không muốn giúp con?” Alex hỏi.

“Bố đâu có nói thế,” thẩm phán Redmayne nói, quay lại nhìn thẳng vào mặt con trai. “Ngược lại. Bố sẵn sàng giúp đỡ con, bởi vì có một điều bố hoàn toàn tin chắc. Danny Cartwright vô tội.”

Phần 5: Cứu rỗi
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 71


Danny Cartwright ngồi lên chiếc ghế gỗ nhỏ kê ở khu bị cáo đợi đến lúc đồng hồ điểm chuông mười giờ, cũng là lúc phiên tòa bắt đầu. Anh nhìn xuống dưới phòng xử án và thấy hai luật sư của mình đang chăm chú trao đổi với nhau trong khi chờ thẩm phán xuất hiện.

Danny đã trải qua một giờ đồng hồ cùng Alex Redmayne và bố anh trong một phòng thẩm vấn phía dưới phòng xử án sáng hôm đó. Họ đã làm tất cả để trấn an anh, nhưng anh biết quá rõ dù mình vô tội trong vụ Bernie bị sát hại, nhưng anh không có bất cứ lý lẽ nào để biện hộ cho mình trước các tội danh giả mạo, ăn cắp, lừa đảo và vượt ngục; một mức án tổng cộng từ tám đến mười năm có lẽ sẽ là sự đồng thuận cuối cùng giữa các công tố viên có phong cách trại lính đến từ Belmarsh và vị thẩm phán mặc áo pháp quan bằng lụa hành nghề tại Old Bailey.

Chẳng cần ai nói Danny cũng hiểu nếu bản án này được cộng dồn vào bản án trước của anh, thì lần tiếp theo anh rời khỏi Belmarsh sẽ là ngày diễn ra tang lễ của anh.

Khu vực báo chí ở phía tay trái Danny đông nghịt phóng viên, sổ ghi chép mở sẵn trên tay, bút đặt sẵn lên mặt giấy trong khi chờ đợi để làm dài thêm hàng nghìn cột báo mà họ đã viết ra về vụ án này trong sáu tháng qua. Câu chuyện về cuộc đời của Danny Cartwright, người duy nhất từng vượt ngục thành công khỏi nhà tù an ninh chặt chẽ nhất nước Anh, người đã nẫng đi hơn năm mươi triệu đô la từ một ngân hàng Thụy Sĩ sau khi bán một bộ sưu tập tem không thuộc về anh ta, và cuối cùng bị bắt tại The Boltons vào lúc tờ mờ sáng trong khi đang nằm trong vòng tay của vị hôn thê (theo tờ The Times), hay của cô bạn gái sexy quen từ thời đi học (theo tờ The Sun). Báo chí đã không thể đi đến nhất trí rằng nên coi Danny là Scarlett Pimpernel(1) hay Jack Kẻ Mổ Bụng(2) nữa. Câu chuyện đã hấp dẫn công chúng trong nhiều tháng liền, và ngày khai mạc phiên tòa được chú ý không kém gì ngày mở màn công diễn một vở mới tại West End, với những hàng dài người tò mò xuất hiện trước Old Bailey từ lúc bốn giờ sáng để tìm cơ hội có mặt trong một khán phòng chỉ có sức chứa chưa tới một trăm người và vốn không mấy khi kín chỗ. Phần lớn mọi người đều nhất trí Danny Cartwright có lẽ sẽ phải trải qua phần còn lại của đời mình tại Belmarsh thay vì The Boltons.

***

Alex Redmayne cùng cha anh, Sir Matthew Redmayne, QC, Hiệp sĩ dòng thánh Michael và thánh George, đã làm tất cả những gì có thể để giúp Danny trong suốt sáu tháng vừa qua, trong khi anh đã bị tống trở lại một căn buồng giam chỉ nhỉnh hơn một chút so với chỗ cất đồ lau nhà của Molly. Hai người dứt khoát không chịu lấy dù chỉ một xu lệ phí cho công sức họ bỏ ra, mặc dù Sir Matthew đã cảnh báo Danny rằng nếu họ thành công trong việc thuyết phục bồi thẩm đoàn rằng những khoản lợi tức anh thu được trong hai năm vừa qua thuộc về anh chứ không phải Hugo Moncrieff, anh chắc chắn sẽ nhận được một hóa đơn thanh toán cắt cổ cộng với các chi phí khác cho những khoản mà ông gọi là thù lao dành cho luật sư. Đó là một trong những dịp hiếm hoi mà cả ba cùng phá lên cười.

Beth đã được thả tự do dưới diện bảo lãnh ngay trong buổi sáng sau khi bị bắt. Nhưng không ai ngạc nhiên khi cả Danny và Al Mập đều không nhận được cách đối xử tương tự.

Ông Jenkins đã chờ sẵn tại Belmarsh để nhận lại hai người, còn ông Pascoe làm tất cả để đảm bảo hai người được ở chung buồng giam. Trong vòng một tháng, Danny trở lại vị trí thủ thư tại thư viện của nhà tù, đúng như anh đã nói trước đó với bà Bennett. Al Mập được cử vào một chỗ làm tại nhà bếp, và mặc dù chuyện nấu nướng ở đây khó mà so sánh được với tay nghề của Molly, ít nhất họ đều đã có được điều kiện tốt nhất trong hoàn cảnh tệ hại hiện tại.

Alex Redmayne không bao giờ nhắc lại với Danny rằng nếu trước đó anh làm theo lời khuyên của mình và tự nhận tội giết người ngay từ phiên tòa sơ thẩm, hẳn lúc này anh đã trở lại là người tự do, điều hành hoạt động của gara Wilson, thành hôn với Beth và giúp một tay vào việc chăm sóc gia đình. Nhưng một người tự do theo nghĩa nào đây? Alex chắc chắn sẽ phải nghe anh hỏi ngược lại.

Từ xưa đến nay đã luôn có những giây phút thắng lợi huy hoàng cận kề bên thảm họa. Các vị thần luôn thích sự đời diễn ra như thế. Alex Redmayne đã thành công trong việc thuyết phục tòa rằng về nguyên tắc Beth mắc phải những tội danh được đưa ra với nàng, nhưng nàng mới chỉ biết Danny còn sống từ trước đó bốn ngày, và họ thực ra đã ấn định một cuộc hẹn với Alex tại văn phòng luật sư của anh vào đúng buổi sáng mà nàng bị bắt. Thẩm phán tuyên phạt Beth sáu tháng án treo. Kể từ đó nàng luôn đều đặn tới Belmarsh thăm Danny vào ngày chủ nhật đầu tiên của mỗi tháng.

Thẩm phán đã không có được thái độ khoan hồng như vậy khi xem xét đến vai trò của Al Mập trong vụ âm mưu. Alex đã chỉ rõ trong phần biện hộ đầu tiên của anh rằng thân chủ anh bào chữa, Albert Crann, đã không thu được lợi ích nào về tài chính từ gia tài của Moncrieff ngoài việc nhận lương dành cho vị trí lái xe của Danny trong khi được phép ngủ lại tại một căn phòng nhỏ trên tầng thượng ngôi nhà của anh ở The Boltons. Sau đó ông Arnold Pearson, QC, Công tố viên đã tung ra một quả bom mà Alex không lường trước được.

“Liệu ông Crann có thể giải thích ra sao về khoản tiền mười nghìn bảng được chuyển vào tài khoản riêng của mình chỉ vài ngày sau khi ông ta được phóng thích khỏi nhà tù?”

Al Mập không có bất cứ lời giải thích nào, và thậm chí có, anh ta cũng sẽ không đời nào nói cho Pearson biết số tiền từ đâu tới.

Bồi thẩm đoàn không hề có ấn tượng với thái độ này.

Thầm phán gửi Al Mập trở lại Belmarsh thêm năm năm nữa - phần còn lại của bản án ban đầu. Danny làm tất cả để đảm bảo anh ta nhanh chóng được quan tâm, và anh ta đã cư xử rất mẫu mực trong suốt thời kỳ thụ án. Những báo cáo rất tích cực từ chánh giám thị Ray Pascoe, được đích thân giám đốc nhà giam xác nhận, cũng đồng nghĩa với việc Al Mập sẽ được thả tự do có điều kiện sau chưa đến một năm nữa. Danny sẽ rất nhớ anh ta, mặc dù anh biết chỉ cần anh để lộ ra điều đó, Al Mập sẵn sàng gây ra đủ rắc rối để ở lại Belmarsh cho tới khi Danny được thả.

Beth có một tin vui để báo cho Danny trong chuyến vào thăm chiều Chủ nhật của nàng.

“Em có thai rồi.”

“Chúa ơi, chúng ta mới chỉ có bốn đêm với nhau,” Danny nói trong khi nắm lấy tay nàng.

“Em không nghĩ đó là số lần chúng mình đã yêu nhau đâu,” Beth nói, trước khi nói thêm. “Hy vọng đó sẽ là một cậu em trai cho Christy.”

“Nếu đúng thế, chúng mình sẽ đặt tên cho nó là Bernie.”

“Không,” Beth nói, “chúng ta sẽ đặt tên con là...” tiếng còi báo hiệu hết giờ thăm vang lên che lấp mất những từ cuối cùng nàng nói.

“Tôi có thể hỏi ông một câu hỏi không?” Danny nói khi Pascoe dẫn anh về phòng giam.

“Tất nhiên,” Pascoe đáp. “Không có nghĩa tôi sẽ trả lời.”

“Ông đã biết ngay từ đầu, đúng không?” Pascoe mỉm cười, nhưng không trả lời. “Điều gì khiến ông biết chắc tôi không phải là Nick?” Danny hỏi khi họ về tới phòng giam của anh.

Pascoe tra chìa vào ổ khóa, đẩy mở cánh cửa nặng nề ra. Danny bước vào, cho rằng người giám thị sẽ không trả lời câu hỏi của anh, nhưng sau đó Pascoe hất hàm về phía bức ảnh của Beth mà Danny đã dán lên tường.

“Ôi Chúa ơi,” Danny lắc đầu. “Tôi đã không bao giờ lấy tấm ảnh của cô ấy khỏi tường.”

Pascoe mỉm cười, quay ra hành lang và đóng sập cửa phòng giam lại.

***

Danny ngước mắt nhìn lên khu hành lang dành cho công chúng để nhìn Beth, lúc này đã có mang sáu tháng, đang cúi xuống nhìn anh với cùng nụ cười mà anh vẫn còn nhớ như in từ khi họ cùng chơi với nhau ở trường dạy nghề Clement Attlee và anh biết, nụ cười đó sẽ mãi luôn ở đó cho tới giây phút cuối cùng của cuộc đời anh, cho dù thẩm phán có tuyên án anh lâu đến thế nào đi nữa.

Hai bà mẹ của Danny và Beth ngồi hai bên nàng, sẵn sàng động viên. Cũng ngồi trên khu công chúng còn có nhiều bạn bè và những người ủng hộ Danny đến từ khi East End, những người sẵn sàng làm tất cả để chứng minh sự vô tội của anh. Đôi mắt của Danny dừng lại khi anh nhìn thấy giáo sư Amirkhan Mori, một người bạn chân thành bất chấp tính khí chua chát, trước khi chuyển sang một người khác ngồi ở cuối dãy ghế, một người anh không hề trông đợi sẽ có dịp gặp lại. Sarah Davenport cúi người qua ban công mỉm cười với anh.

Dưới tòa, Alex và bố anh vẫn chăm chú bàn bạc. The Times đã dành trọn một trang để nói về hai bố con sẽ đồng thời xuất hiện với tư cách luật sư biện hộ cho bị cáo trong phiên tòa này. Đây mới là trường hợp thứ hai trong lịch sử một thẩm phán tòa án tối cao trở thành luật sư, và tất nhiên mới là lần đầu tiên một người con trai lại có phụ tá là bố mình.

Danny và Alex đã nối lại tình bạn trong sáu tháng vừa qua, và anh biết họ sẽ mãi gắn bó với nhau trong suốt phần đời còn lại. Bố Alex cũng thuộc về một nhóm người như giáo sư Mori - một con người hiếm có. Cả hai người đều đầy đam mê: giáo sư Mori theo đuổi học vấn, Sir Matthew phụng sự công lý. Sự có mặt của vị thẩm phán già trong phòng xử án đã khiến cả những luật sư lão luyện và những nhà báo đa nghi nhất cũng phải suy nghĩ cẩn trọng hơn về vụ án, nhưng họ vẫn bối rối không hiểu điều gì đã thuyết phục được ông tin rằng rất có thể Danny Cartwright vô tội.

Ông Arnold Pearson QC cùng phụ tá của mình đã ngồi xuống đầu đối diện của băng ghế dành cho luật sư biện hộ của hai bên, kiếm tra lại kỹ lưỡng bản cáo trạng của Công tố Hoàng gia và thực hiện những bổ sung nhỏ vào đôi chỗ. Danny đã được chuẩn bị kỹ lưỡng cho màn buộc tội gay gắt độc địa mà anh biết chắc sẽ được tung ra khi Pearson đứng dậy chứng minh với tòa không chỉ việc bị cáo là một tên tội phạm tàn ác và nguy hiểm, mà cả chuyện chỉ có một nơi duy nhất mà bồi thẩm đoàn có thể cân nhắc đến để dành cho bị cáo trong phần đời còn lại của y.

Alex Redmayne đã nói với Danny anh chỉ trông đợi ba nhân chứng đưa ra lời chứng: Chánh thanh tra Fuller, Sir Hugo Moncrieff và Fraser Munro. Nhưng Alex và bố anh đã chuẩn bị sẵn kế hoạch để đảm bảo một nhân chứng thứ tư cũng sẽ được triệu đến trước tòa. Alex đã cảnh báo trước với Danny rằng dù thẩm phán nào được chỉ định để điều khiển phiên tòa, người đó cũng sẽ làm tất cả để ngăn chặn điều đó xảy ra.

Sir Matthew không hề ngạc nhiên khi thẩm phán Hackett cho gọi đại diện luật pháp của cả hai bên vào văn phòng của mình trước khi phiên xử được tiến hành, để cảnh báo trước cả hai bên phải tránh tuyệt đối mọi liên hệ tới bản án xử vụ giết người ban đầu, phán quyết của phiến tòa đó đã được một bồi thẩm đoàn đưa ra, cũng như đã được ba thẩm phán của tòa phúc thẩm giữ nguyên. Ông thẩm phán sau đó nhấn mạnh rằng nếu bất cứ bên nào tìm cách đưa ra nội dung của một cuốn băng ghi âm để làm bằng chứng, hay đề cập đến tên của Spencer Craig, lúc này đã trở thành một QC, Gerald Payne, người đã trúng cử vào Hạ viện, hay diễn viên nổi tiếng Lawrence Davenport, họ sẽ phải đối mặt với sự trừng phạt của ông.

Trong giới tư pháp không ai không biết ngài thẩm phán Hackett và Sir Matthew Redmayne có quan hệ chẳng bình lặng gì từ ba mươi năm nay. Sir Matthew đã thắng quá nhiều vụ kiện ở các tòa cấp thấp khi cả hai còn là luật sư mới vào nghề, đến mức không ai còn có thể nghi ngờ về việc ai là luật sư xuất sắc hơn trong hai người. Báo giới đang hy vọng sự kình địch giữa hai người sẽ bị thổi bùng lên trở lại một khi phiên tòa bắt đầu diễn ra.

Bồi thẩm đoàn đã được lựa chọn xong vào hôm trước, lúc này đang đợi để được gọi vào phòng xử án, nơi họ sẽ lắng nghe các bằng chứng trước khi đưa ra phán quyết cuối cùng của vụ kiện Công tố Hoàng gia chống lại Daniel Arthur Cartwright.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 72


Thẩm phán Hackett nhìn quanh phòng xử án cũng kỹ lưỡng như một vận động viên cricket sắp ném quả bóng đầu tiên của trận đấu tìm kiếm xem những người chặn bóng đã được đối phương bố trí ở đâu để ngăn cú phát phóng của anh ta. Đôi mắt ngài thẩm phán dừng lại khi bắt gặp Sir Matthew Redmayne đang ngồi đợi phiên tòa bắt đầu. Không có ai khác trong số những người sắp tham gia vào phiên xét xử khiến ngài thẩm phán phải dè chừng, nhưng ông biết rõ mình không được phép lơi lỏng một khi Sir Matthew nhập cuộc.

Ngài thẩm phán chuyển sự chú ý sang phần đọc cáo trạng của đội chủ nhà, ông Arnold Pearson QC vốn không nổi tiếng về việc ra đòn ghi điểm sớm.

“Ông Pearson, ông đã sẵn sàng cho phần cáo trạng chưa?”

“Tôi đã sẵn sàng, thưa ngài thẩm phán,” Pearson đáp, đưa mắt lướt qua một lượt mười hai công dân đã được lựa chọn để đưa ra phán quyết trong phiên tòa này. “Tên tôi là Arnold Pearson, và tôi sẽ đại diện cho Công tố Hoàng gia trong phiên tòa này. Trợ lý của tôi là ông David Simms. Dẫn đầu bên biện hộ cho bị cáo là ông Alex Redmayne, cùng trợ lý của ông, Sir Matthew Redmayne.” Mọi con mắt trong phòng xử án đổ dồn vào vị thẩm phán già đang ngồi lừ đừ ở góc băng ghế, dường như đang ngủ gật.

“Thưa bồi thẩm đoàn,” Pearson nói tiếp, “bị cáo bị khởi tố với năm tội danh. Tội danh thứ nhất, bị cáo đã bỏ trốn một cách có chủ ý khỏi nhà tù Belmarsh, một cơ sở giam giữ an ninh nghiêm ngặt nằm ở đông nam London, nơi bị cáo đang thụ án do lần vi phạm pháp luật trước.”

“Tội danh thứ hai, bị cáo đã lừa đảo chiếm đoạt của Sir Hugo Moncrieff một lãnh địa ở Scotland, bao gồm một tòa dinh thự mười bốn phòng ngủ và mười hai ngàn mẫu đất canh tác.”

“Tội danh thứ ba, bị cáo đã sử dụng trái phép một ngôi nhà, cụ thể là nhà số mười hai The Boltons, London SW3, vốn không thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bị cáo.”

“Tội danh thứ tư liên quan đến việc đánh cắp một bộ sưu tập tem quý, sau đó bán bộ sưu tập này đi với giá trên hai mươi lăm triệu bảng.”

“Và tội danh thứ năm, bị cáo đã dùng séc để rút tiền từ tài khoản ngân hàng tại chi nhánh ngân hàng Coutt ở phố Strand, London, sau đó chuyển tiền vào một ngân hàng tư nhân ở Thụy Sĩ, cả hai giao dịch này bị cáo đều không được quyền thực hiện, và bị cáo đã thủ lợi từ các hành động trái phép này.”

“Công tố Hoàng gia sẽ chứng minh năm tội danh kể trên có liên hệ với nhau, cũng như đều được gây ra bởi cùng một người, chính là bị cáo, Daniel Cartwright, kẻ đã mạo nhận danh tính của Sir Nicholas Moncrieff, người thừa kế chính thức và hợp pháp trong di chúc của Sir Alexander Moncrieff đã quá cố. Để chứng mình điều này, thưa bồi thẩm đoàn, trước hết tôi cần đưa quý vị quay trở lại nhà tù Belmarsh để chỉ ra bằng cách nào bị cáo lại có thể tạo lập cho mình vị thế cho phép bị cáo thực hiện những hành vi phạm tội táo tợn kể trên. Để làm rõ quá trình đó, rất có thể tôi cần phải nói qua về hành vi phạm tội ban đầu mà Cartwright bị kết án.”

“Ông sẽ không được làm như thế,” thẩm phán Hackett nghiêm khắc can thiệp. “Tội trạng trước đây của bị cáo không có liên hệ gì tới các tội danh đang được xét xử trong phiên tòa này. Ông không được phép liên hệ với vụ án trước đây trừ khi chứng minh được mối liên hệ trực tiếp và có ý nghĩa giữa vụ án đó và vụ án hiện tại.” Sir Matthew ghi lại các từ, mối liên hệ trực tiếp và có ý nghĩa. “Tôi đã nói đủ rõ chưa, ông Pearson?”

“Tất nhiên rồi, thưa ngài thẩm phán, và tôi thành thật xin lỗi. Đây là sơ suất của tôi.”

Sir Matthew cau mày. Alex cần phải thật khéo léo xây dựng một lập luận cho thấy mối liên hệ giữa hai vụ án nếu con trai ông không muốn chọc giận thẩm phán Hackett và bị chặn ngang giữa lời biện hộ. Sir Matthew cũng đã để tâm suy nghĩ khá nhiều về vấn đề nan giải này.

“Tôi sẽ thận trọng hơn trong tương lai,” Pearson nói thêm trong khi lật sang trang tiếp theo của tập hồ sơ.

Alex tự hỏi không rõ có phải Pearson cố ý tỏ ra hớ hênh như vậy với hy vọng sau đó thẩm phán Hackett sẽ can thiệp với lời biện hộ của anh còn quyết liệt hơn, vì ông ta biết quá rõ vai trò điều hành phiên tòa của thẩm phán có lợi cho bên nguyên hơn nhiều so với bên bị.

“Thưa bồi thẩm đoàn,” Pearson nói tiếp, “tôi mong quý vị nhớ thật kỹ cả năm tội danh tôi vừa nêu, vì tiếp theo đây tôi sẽ chứng minh chúng có liên quan mật thiết với nhau, và do đó chỉ có thể được gây ra bởi cùng một người: bị cáo Daniel Cartwright.” Pearson lại kéo tay áo thụng lên lần nữa trước khi tiếp tục.”Ngày mồng bảy tháng sáu năm 2002 là một ngày có lẽ khó phai mờ trong ký ức của quý vị, vì đó là ngày đội tuyển bóng đá Anh đánh bại Argentina tại Cúp thế giới,” Ông ta mừng thầm khi thấy có bao nhiêu thành viên của bồi thẩm đoàn mỉm cười hồi tưởng lại sự kiện đó. “Vào ngày hôm ấy, một bi kịch đã xảy ra tại nhà tù Belmarsh, bi kịch đó chính là lý do khiến chúng ta có mặt tại đây hôm nay. Trong khi phần lớn tù nhân đang tập trung dưới tầng trệt theo dõi trận bóng đá trên truyền hình, một tù nhân đã lựa chọn đúng khoảnh khắc này để tự kết thúc đời mình. Người đàn ông đó là Nicholas Moncrieff, người đã treo cổ tự vẫn trong khu nhà tắm của nhà tù vào lúc khoảng một giờ mười lăm phút chiều. Trong hai năm trước đó, Nicholas Moncrieff đã ở chung phòng giam với hai phạm nhân khác, một trong hai người đó chính là bị cáo Daniel Cartwright.”

“Hai người đàn ông này có chiều cao xấp xỉ nhau, và về tuổi tác chỉ hơn kém nhau vài tháng. Trên thực tế, bề ngoài của họ giống nhau đến mức trong bộ đồng phục của nhà tù, họ thường bị tưởng lầm là hai anh em. Thưa ngài thẩm phán, với sự chấp nhận của ngài, đến đây tôi xin phép được trình lên bồi thẩm đoàn các bức ảnh chụp Moncrieff và Cartwright để bồi thẩm đoàn có thể tự chứng thực sự giống nhau giữa hai người này.”

Ngài thẩm phán gật đầu, và nhân viên của tòa tới nhận một tập ảnh từ người trợ lý của Pearson. Anh ta đưa hai bức ảnh cho ngài thẩm phán, sau đó phân phát số ảnh còn lại cho các thành viên bồi thẩm đoàn. Pearson tựa người lên ghế chờ đợi cho tới khi ông ta cảm thấy hài lòng về thời gian mỗi thành viên bồi thẩm đoàn đã có để xem xét các bức ảnh. Khi họ đã xem xong, ông ta nói, “Bây giờ tôi sẽ mô tả lại Cartwright đã lợi dụng sự giống nhau này như thế nào bằng cách cắt ngắn tóc và đổi giọng nói để lợi dụng cái chết bi thảm của Nicholas Moncrieff. Và thủ lợi theo đúng nghĩa đen trên thực tế là những gì bị cáo đã làm. Tuy nhiên, như với mọi tội ác đặc biệt táo tợn khác, ở đây cũng đòi hỏi một chút may mắn.”

“Điều may mắn đầu tiên là việc Moncrieff nhờ Cartwright cầm hộ một sợi dây chuyền bạc có gắn một chiếc chìa khóa, một chiếc nhẫn có cẩn con dấu riêng của gia đình anh ta, cùng một chiếc đồng hồ có chạm hình hai chữ cái đầu tên của Moncrieff mà anh này luôn đeo trên tay, trừ những lúc đi tắm. Điều may mắn thứ hai là Moncrieff có một kẻ đồng lõa đã tình cờ có mặt đúng chỗ vào đúng thời điểm.”

“Đến đây, thưa bồi thẩm đoàn, quý vị chắc hẳn đang muốn hỏi làm cách nào Cartwright, một kẻ đang thụ án hai mươi hai năm tù vì...”

Alex đứng bật dậy chuẩn bị phản đối thì ngài thẩm phán lên tiếng, “Không thêm một lời nào nữa theo hướng đó, ông Pearson, trừ khi ông muốn thử thách sự kiên nhẫn của tôi.”

“Tôi xin lỗi, thưa ngài thẩm phán,” Pearson nói, hiểu rõ rằng bất cứ thành viên nào của bồi thẩm đoàn đã không theo dõi những diễn biến được đăng tải trên báo chí có liên quan tới vụ án này trong sáu tháng vừa qua lúc này cũng không còn chút nghi ngờ nào về tội danh đã khiến Cartwright bị kết án ban đầu.

“Như tôi đã nói, quý vị có thể thấy khó hiểu tại sao Cartwright, người đang thụ án hai mươi hai năm tù, lại có thể hoán đổi danh tính của mình với một tù nhân khác vốn chỉ bị kết án tám năm và quan trọng hơn nữa, người này lại chuẩn bị được thả tự do sau đó sáu tuần. Tất nhiên ADN của họ sẽ không khớp, nhóm máu của họ rất có thể không hề trùng nhau, và hồ sơ nha khoa của hai người chắc chắn hoàn toàn khác biệt. Đây chính là lúc điều may mắn thứ hai diễn ra,” Pearson nói, “bởi vì những sự kiện tiếp theo không thể nào xảy ra được nếu Cartwright không có một kẻ đồng lõa đang thực hiện công việc quét dọn tại bệnh xá của nhà tù. Kẻ đồng lõa này là Albert Crann, người thứ ba cùng chung phòng giam với Moncrieff và Cartwright. Khi hắn nghe được tin về vụ treo cổ tự sát trong nhà tắm, hắn đã tráo tên của hai người trên nhãn hồ sơ y khoa tại bệnh xá, vì thế khi bác sĩ khám nghiệm tử thi, ông vẫn đưa ra kết luận sai lầm Cartwright là người đã tự vẫn, chứ không phải Moncrieff.”

“Vài ngày sau đó tang lễ diễn ra tại nhà thờ St Mary ở Bow, tại đó thậm chí cả gia quyến của bị cáo, bao gồm người mẹ đứa con của bị cáo, đều bị thuyết phục rằng thi thể được chôn dưới huyệt mộ là của Daniel Cartwright.”

“Quý vị có thể đang tự đặt cho mình câu hỏi, loại người nào có thể sẵn sàng lừa dối cả gia đình mình như vậy. Tôi sẽ trả lời cho các vị đó là loại người nào. Chính là người này,” ông ta nói, đồng thời chỉ về phía Danny. “Bị cáo còn có đủ lạnh lùng để xuất hiện tại tang lễ dưới lốt Nicholas Moncrieff để có thể tận mắt chứng kiến tang lễ của chính mình và đảm bảo chắc chắn âm mưu của mình đã trót lọt.”

Một lần nữa Pearson lại ngồi xuống tựa người vào ghế để ý nghĩa những lời ông ta vừa nói có thời gian ngấm vào những bộ óc của bồi thẩm đoàn. “Từ ngày Moncrieff chết,” ông ta nói tiếp, “Cartwright luôn đeo chiếc đồng hồ của Moncrieff cùng với chiếc nhẫn, sợi dây chuyền và chiếc chìa khóa nhằm đánh lừa nhân viên nhà tù cũng như các tù nhân khác tin rằng bị cáo chính là Nicholas Moncrieff, người chỉ còn phải thụ án thêm sáu tuần nữa.”

“Vào ngày mười bảy tháng bảy năm 2002; Daniel Cartwright bước ra khỏi cổng trước nhà tù Belmarsh như một người tự do, bất chấp việc bị cáo còn phải thụ án hai mươi năm nữa. Liệu vượt ngục trót lọt đã là đủ với bị cáo chưa? Xin thưa là chưa đủ. Bị cáo lập tức bắt chuyến tàu đầu tiên đi Scotland để đòi quyền sở hữu lãnh địa của gia đình Moncrieff, sau đó quay lại London để sống tại ngôi nhà của Sir Nicholas Moncrieff tại The Boltons.”

“Nhưng như vậy chưa phải đã hết, thưa bồi thẩm đoàn. Cartwright sau đó đã thản nhiên xúc tiến việc rút tiền mặt ra từ tài khoản của Sir Nicholas Moncrieff tại ngân hàng Coutts ở phố Strand. Tiếp theo, bị cáo bay tới Geneva để gặp chủ tịch Coubertin và Công ty, một ngân hàng hàng đầu tại Thụy Sĩ, đồng thời trình ra trước ông chủ tịch ngân hàng chiếc chìa khóa bằng bạc cùng hộ chiếu của Moncrieff. Những vật này cho phép bị cáo tiếp cận căn phòng cất giữ bộ sưu tập tem đã trở thành huyền thoại của người ông nội đã quá cố của Nicholas Moncrieff, Sir Alexander Moncrieff. Cartwright đã làm gì khi bị cáo chạm được tay vào món tài sản thừa kế quý giá của gia đình mà Sir Alexander Moncrieff đã phải bỏ ra hơn bảy mươi năm để tập hợp lại? Bị cáo đã bán đi ngay ngày hôm sau cho người đầu tiên xuất hiện và trả giá, thản nhiên bỏ túi một món hời hai mươi lăm triệu bảng.”

Sir Matthew nhướng một bên mày lên. Thật không giống Arnold Pearson khi khởi động bình thản như vậy.

“Nhờ đó giờ đây Cartwright đã trở thành một triệu phú,” Pearson tiếp tục, “quý vị có lẽ sẽ tự hỏi tiếp theo bị cáo sẽ làm gì. Tôi sẽ cho các vị biết ngay đây. Bị cáo bay trở lại London, mua cho mình một chiếc BMW loại đầu bảng, thuê một lái xe riêng và một người quản gia, định cư tại The Boltons và tiếp tục loan truyền truyện bịa đặt rằng bị cáo chính là Sir Nicholas Moncrieff. Và, thưa bồi thẩm đoàn, rất có thể bị cáo ngay lúc này đây vẫn đang tiếp tục sống dưới tấm bình phong bịa đặt đó nếu không có sự nhạy bén nghề nghiệp của Chánh thanh tra Fuller, người đã bắt giữ Cartwright khi bị cáo phạm tội lần đầu năm 1999, và cũng là người hôm nay đã một mình” - Sir Matthew ghi lại hai từ cuối cùng - “lần theo dấu vết, bắt giữ bị cáo và đưa ra trước công lý. Thưa bồi thẩm đoàn, đây là lý do khởi tố vụ án này. Nhưng tiếp theo đây tôi sẽ mời ra trước tòa một nhân chứng, người sẽ khiến quý vị không còn chút nghi ngờ nào về việc bị cáo Daniel Cartwright có tội với cả năm tội danh trong bản cáo trạng.”

Khi Pearson quay về chỗ ngồi, Sir Matthew quay sang phía đối thủ lâu đời của ông và đưa tay lên trán như thể đang nhấc một chiếc mũ vô hình. “Hoan hô,” ông nói.

“Xin cảm ơn, Matthew,” Pearson đáp.

“Thưa các vị,” ngài thẩm phán nói, đồng thời nhìn đồng hồ, “tôi nghĩ đã đến thời điểm thích hợp để tạm nghỉ ăn trưa.”

“Bãi tòa,” người mõ tòa hô lớn, tất cả chức sắc lập tức đứng lên, cúi chào. Thẩm phán Hackett cúi chào đáp lại rồi rời khỏi phòng xử án.

“Không tệ,” Alex thừa nhận với bố anh.

“Bố hoàn toàn đồng ý, mặc dù ông bạn già Arnold đáng mến đã phạm một sai lầm rất có thể sẽ khiến ông ta phải ân hận.”

“Đó là gì vậy?”Alex hỏi.

Sir Matthew đưa cho con trai mảnh giấy trên đó ông đã ghi lại hai từ, một mình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 73


“Chỉ có một thứ duy nhất con cần phải buộc nhân chứng này thừa nhận,” Sir Matthew nói. “Nhưng cùng lúc đó, chúng ta không nên để thẩm phán hay Arnold Pearson nhận ra con đang định làm gì.”

“Không gây áp lực,” Alex cười trong khi thẩm phán Hackett quay trở lại phòng xử án và tất cả mọi người đứng dậy.

Ngài thẩm phán cúi thấp đầu chào trước khi quay lại vị trí, ngồi xuống chiếc ghế có lưng cao bọc da màu đỏ. Ông mở cuốn sổ ghi chép ra để kết thúc những phân tích về bản cáo trạng của Pearson, giở sang một trang mới và ghi mấy từ, nhân chứng đầu tiên. Sau đó ông gật đầu về hướng ông Pearson, ông này lập tức đứng dậy nói, “tôi xin cho gọi Chánh thanh tra Fuller.”

Alex chưa gặp lại Fuller kể từ sau phiên tòa đầu tiên bốn năm trước, và anh có lẽ khó có thể quên được dịp đó, vì vị Chánh thanh tra lúc đó đã làm trò xiếc giỡn mặt anh hết lần này tới lần khác. Nếu có gì khác đi, thì có lẽ là dáng vẻ của ông ta giờ đây còn tự tin hơn nhiều so với dịp trước. Fuller đọc lời tuyên thệ mà thậm chí không cần liếc qua tấm thẻ ghi nội dung.

“Thám tử Chánh thanh tra Fuller,” Pearson nói, “trước hết mong ông vui lòng xác nhận danh tính của mình với tòa.”

“Tên tôi là Rodney Fuller. Tôi là sĩ quan trực thuộc Sở cảnh sát London, biên chế tại đồn Palace Green, khu Chelsea.”

“Liệu tôi có thể đưa vào hồ sơ rằng ông chính là người đã bắt giữ bị cáo khi Daniel Cartwright phạm tội lần trước, và tội ác đó đã khiến bị cáo phải nhận án tù?”

“Đúng vậy, thưa ngài.”

“Làm thế nào ông biết được có thể Cartwright đã trốn thoát khỏi nhà tù Belmarsh và đóng giả Sir Nicholas Moncrieff?”

“Vào ngày hai mươi ba tháng mười năm ngoái tôi nhận được một cuộc điện thoại từ một nguồn đáng tin cậy cho biết anh ta cần gặp tôi có chuyện gấp.”

“Lúc đó người này có đi vào bất cứ chi tiết nào không?”

“Không, thưa ngài. Anh ta không phải loại quý ông sẵn sàng nói tuột ra mọi chuyện qua điện thoại.”

Sir Matthew ghi lại từ quý ông, không phải một từ bình thường một cảnh sát sử dụng khi ám chỉ đến một kẻ chỉ điểm. Lần thứ hai ông bắt được một thoáng lỡ lời trong ngày đầu tiên của phiên tòa. Ông đã không trông đợi thu hoạch được nhiều đến thế trong khi Arnold Pearson đang tung ra một cú ném hơi trái tay đối với ông Chánh Thanh tra.

“Vậy là một cuộc gặp được dàn xếp,” Pearson nói.

“Đúng vậy, chúng tôi đồng ý gặp nhau ngày hôm sau với thời gian, địa điểm do anh ta chọn.”

“Và khi hai người gặp nhau ngày hôm sau người này đã cho ông biết anh ta có thông tin liên quan tới Daniel Cartwright.”

“Phải. Một tiết lộ khiến tôi khá ngạc nhiên,” Fuller nói, “vì lúc đó tôi vẫn còn tin rằng Cartwright đã treo cổ tự vẫn. Trên thực tế, một người trong số thuộc cấp của tôi đã dự tang lễ của hắn.”

“Vậy ông phản ứng ra sao với lời tiết lộ này?”

“Tôi nhìn nhận nó một cách nghiêm túc, bởi vì trong quá khứ quý ông này đã chứng tỏ mình là người đáng tin cậy.”

Sir Matthew gạch dưới từ quý ông.

“Sau đó ông đã làm gì?”

“Tôi cử một đội giám sát suốt hai mươi tư giờ số nhà mười hai The Boltons, và nhanh chóng phát hiện ra người đang sống tại đó và tự xưng là Sir Nicholas Moncrieff quả thực có ngoại hình giống Cartwright đến mức kỳ lạ.”

“Nhưng hiển nhiên chỉ từng đó không thể đủ để ông tập kích vào nhà bắt giữ anh ta.”

“Tất nhiên là không,” ông Chánh thanh tra đáp. “Tôi cần có bằng chứng vững chắc hơn thế.”

“Và bằng chứng vững chắc đó là gì?”

“Đến ngày thứ ba kể từ khi việc giám sát được thực hiện, kẻ tình nghi có một cô Elizabeth Wilson tới thăm, và cô gái này đã ở lại qua đêm.”

“Cô Elizabeth Wilson?”

“Phải. Cô gái này chính là mẹ đứa con gái của Cartwright, và thường xuyên đến thăm hắn khi hắn còn ở trong tù. Điều này khiến tôi hoàn toàn tin tưởng rằng thông tin tôi nhận được là chính xác.”

“Và đó cũng là lúc ông quyết định bắt giữ bị cáo?”

“Vâng, nhưng vì tôi biết chúng tôi đang phải đối mặt với một kẻ tội phạm nguy hiểm đã có tiền sử về các hành vi bạo lực, tôi đã yêu cầu đội cảnh sát chống bạo động hỗ trợ. Tôi không muốn có bất cứ rủi ro nào khi liên quan tới an toàn của cộng đồng.”

“Hoàn toàn có thể hiểu được,” Pearson ừ hữ tán đồng. “Ông có thể vui lòng cho tòa được biết ông đã thực hiện bắt giữ tên tội phạm nguy hiểm này như thế nào không?”

“Vào hai giờ sáng hôm sau, chúng tôi bao vây căn nhà ở The Boltons và đột kích vào trong. Khi bắt gặp Cartwright, tôi đã cho khống chế và bắt giữ hắn vì vượt ngục trái phép khỏi một nhà tù Hoàng gia. Tôi cũng bắt giữ Elizabeth Wilson vì giúp đỡ và che giấu tội phạm. Một tốp nữa trong đội của tôi tiến hành bắt giữ Albert Crann, người cũng đang có mặt tại hiện trường, vì chúng tôi có lý do để tin hắn là tòng phạm của Cartwright.”

“Vậy chuyện gì đã diễn ra với hai nghi phạm còn lại bị bắt cùng lúc đó?” Pearson hỏi.

“Elizabeth Wilson đã được bảo lãnh tại ngoại ngay trong cùng buổi sáng, và sau đó bị kết án sáu tháng tù treo.”

“Còn Albert Crann?”

“Hắn đang trong thời gian thử thách khi bị bắt, và bị chuyển lại Belmarsh để chịu nốt án tù.”

“Xin cảm ơn Chánh thanh tra. Hiện tại tôi không còn câu hỏi nào cần hỏi ông nữa.”

“Cảm ơn, ông Pearson,” ngài thẩm phán nói. “Ông có muốn đối chất với nhân chứng này không, ông Redmayne?”

“Chắc chắn rồi, thưa ngài thẩm phán,” Alex nói trong lúc đứng dậy.

“Ông Chánh thanh tra, ông đã nói với tòa rằng đã có một thành viên của cộng đồng tình nguyện cung cấp thông tin cho phép ông bắt giữ Daniel Cartwright.”

“Vâng, đúng thế,” Fuller nói, hai tay nắm lấy tay vịn của bục nhân chứng.

“Như vậy đây không phải là một việc được thực hiện dựa một mình vào sự sắc sảo nghề nghiệp của cảnh sát như người đồng nghiệp của tôi đã đề xuất, có đúng không?”

“Không phải. Nhưng tôi tin chắc rằng ông cũng ủng hộ việc cảnh sát dựa vào hệ thống người cung cấp thông tin, ông Redmayne, bởi vì nếu không có họ một nửa số kẻ tội phạm hiện đang phải thụ án trong tù rất có thể vẫn còn tự do lang thang ngoài phố để gây ra nhiều tội ác hơn nữa.”

“Vậy là quý ông này, như ông gọi người cung cấp thông tin của mình, đã gọi điện tới văn phòng cho ông?” Ông Chánh thanh tra gật đầu. “Và hai người đã thỏa thuận hẹn gặp tại một nơi phù hợp cho cả hai vào ngày hôm sau?”

“Phải,” Fuller trả lời, quyết tâm không để lộ điều gì.

“Cuộc gặp đã diễn ra ở đâu vậy, ông Chánh thanh tra?”

Fuller quay về phía ngài thẩm phán. “Thưa ngài thẩm phán, tôi không muốn tiết lộ địa điểm.”

“Có thể hiểu được,” thẩm phán Hackett nói. “Mời ông tiếp tục, ông Redmayne.”

“Vậy có lẽ cũng không có ý nghĩa gì nếu tôi muốn hỏi tên người bán tin cho ông, ông Chánh thanh tra?”

“Người này không hề được trả tiền,” Fuller nói, lập tức ân hận về những gì vừa nói ra.

“Tốt thôi, ít nhất chúng ta cũng biết đây là một quý ông làm việc chuyên nghiệp không cần trả tiền.”

“Làm tốt lắm,” bố Alex lớn tiếng như kiểu một nhân vật tự sự trên sân khấu. Ông thẩm phán cau mày.

“Ông Chánh thanh tra, ông đã cảm thấy cần huy động bao nhiêu nhân viên công lực để bắt giữ một người đàn ông và một phụ nữ đang nằm trên giường vào lúc hai giờ sáng?” Fuller do dự. “Bao nhiêu, ông Chánh thanh tra?”

“Mười bốn người.”

“Nhưng thực tế hình như gần với con số hai mươi hơn đúng không?” Alex nói.

“Nếu ông tính đến cả đội hỗ trợ, có thể đúng là khoảng hai mươi.”

“Nghe có vẻ hơi quá cường điệu cho một người đàn ông và một phụ nữ,” Alex đề xuất.

“Hắn có thể có vũ khí,” Fuller nói. “Đây là một nguy cơ tôi không muốn mạo hiểm.”

“Trên thực tế thân chủ của tôi có vũ khí không?” Alex hỏi.

“Không, hắn không...”

“Có lẽ đây không phải là lần đầu tiên - “Alex bắt đầu nói tiếp.

“Quá đủ rồi, ông Redmayne,” ông thẩm phán lên tiếng cắt ngang trước khi anh kịp nói hết câu.

“Thăm dò tốt lắm,” bố Alex nói, đủ to để mọi người trong phòng xử án đều nghe thấy.

“Ông muốn đề xuất ý tưởng gì chăng, Sir Matthew?” ông thẩm phán sẵng giọng.

Bố Alex mở mắt ra như thể một con thú hoang bị đánh thức dậy giữa giấc ngủ say. Ông chậm rãi đứng dậy và nói, “Ngài thật chu đáo khi đã hỏi, thưa ngài thẩm phán. Nhưng không, chưa phải lúc này. Có thể muộn hơn.” Ông ngồi trở lại xuống ghế của mình.

“Tiếp tục đi, Redmayne,” ông thẩm phán nói, nhưng trước khi Alex kịp trả lời, bố anh đã đứng dậy trở lại. “Tôi rất xin lỗi, thưa thẩm phán,” ông nói với giọng hết sức lễ phép, “nhưng ông muốn nói tới Redmayne nào?”

Lần này cả bồi thẩm đoàn cùng bật cười. Ngài thẩm phán không tìm cách trả lời, và Sir Matthew lại nặng nề ngồi xuống ghế, nhắm mắt lại thì thầm, “Đánh thẳng vào điểm yếu đi, Alex.”

“Ông Chánh thanh tra, ông đã nói với tòa rằng ông đã hoàn toàn bị thuyết phục rằng người đang sống trong ngôi nhà là Daniel Cartwright chứ không phải Sir Nicholas Moncrieff sau khi trông thấy cô Wilson bước vào căn nhà đó.”

“Vâng, chính xác là như vậy,” Fuller nói, vẫn nắm chặt lấy tay vịn của bục nhân chứng.

“Nhưng sau khi đã bắt giam thân chủ của tôi, ông Chánh thanh tra, không lẽ không có lúc nào ông lo ngại về việc liệu có bắt nhầm người hay không sao?”

“Không, ông Redmayne, không hề, sau khi tôi đã trông thấy vết sẹo trên...”

“Sau khi ông đã trông thấy vết sẹo trên - “

“-kiểm tra ADN của nghi phạm trên máy tính của cảnh sát,” ông Chánh thanh tra nói.

“Ngồi xuống,” bố Alex thì thầm. “Con đã có được mọi thứ con cần, và Hackett sẽ không thể nhận ra tầm quan trọng của vết sẹo.”

“Xin cảm ơn Chánh thanh tra. Tôi không còn câu hỏi nào khác, thưa ngài thẩm phán.”

“Ông có muốn đối chất thêm với nhân chứng này không, ông Pearson?” thẩm phán Hackett hỏi.

“Không, xin cảm ơn ngài thẩm phán,” Pearson nói, trong khi ghi lại những từ sau khi tôi đã trông thấy vết sẹo trên... và cố tìm ra ý nghĩa của những từ này.

“Xin cảm ơn Chánh thanh tra,” ngài thẩm phán nói. “Ông có thể rời khỏi bục nhân chứng.”

Alex cúi người sang phía bố anh trong khi ông Chánh thanh tra bước ra khỏi phòng xử án và thì thầm, “Nhưng con đã không ép được ông ta phải thừa nhận “quý ông chuyên nghiệp” nọ thực ra là Spencer Craig.”

“Anh chàng này sẽ không bao giờ tiết lộ tên người cung cấp tin cho mình, nhưng con cũng đã khiến ông ta phải sập bẫy hai lần. Và đừng quên, vẫn còn một nhân chứng nữa cũng biết ai đã bán Danny cho cảnh sát, và ông ta hiển nhiên không hề cảm thấy thoải mái trong một phòng xử án, vì thế con có thể dồn ông ta vào thế bí trước khi Hackett kịp hiểu ra mục đích thực sự của con. Đừng bao giờ quên chúng ta không thể để lặp lại sai lầm trước đây với thẩm phán Browne và cuốn băng ghi âm.”

Alex gật đầu trong khi thẩm phán Hackett chuyển sự chú ý sang băng ghế dành cho các luật sư. “Có lẽ đây là thời điểm thích hợp để tạm nghỉ.”

“Tất cả đứng lên.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 74


Arnold Pearson đang bận rộn trao đổi với trợ lý của mình khi thẩm phán Hackett hỏi lớn tiếng, “Ông đã sẵn sàng cho gọi nhân chứng tiếp theo chưa, ông Pearson?”

Pearson đứng dậy. “Vâng, thưa ngài thẩm phán. Tôi xin cho gọi Sir Hugo Moncrieff.”

Alex chăm chú quan sát kỹ Sir Hugo trong khi ông ta bước vào phòng xử án. Đừng bao giờ xét đoán quá hấp tấp về một nhân chứng, bố anh đã dạy anh điều này từ thuở mới vào nghề, nhưng lần này thì rõ ràng Hugo đang mất bình tĩnh. Ông ta lấy một chiếc khăn tay từ túi áo ra lau trán từ trước khi tới chỗ bục nhân chứng.

Nhân viên của tòa dẫn Sir Hugo lên bục nhân chứng, đưa cho ông ta một cuốn Kinh thánh. Nhân chứng đọc lời tuyên thệ được viết sẵn trên một tấm bảng để trước mặt mình, sau đó ngước mắt nhìn lên phía hành lang dành cho công chúng, tìm kiếm người mà ông ta ước gì sẽ đứng ra làm chứng thay mình. Ông Pearson dành cho ông ta một nụ cười khích lệ khi nhân chứng đã nhìn xuống dưới tòa.

“Sir Hugo, đề nghị ngài cho tòa biết tên, địa chỉ để đưa vào biên bản.”

“Sir Hugo Moncrieff, Manor House, Dunbroath, Scotland.”

“Sir Hugo, để bắt đầu, tôi xin phép được hỏi lần cuối cùng ngài gặp cháu mình, Sir Nicholas Moncrieff, là khi nào?”

“Vào ngày cả hai chúng tôi tham dự tang lễ của bố nó.”

“Ngài có điều kiện trò chuyện với cháu mình vào sự kiện đáng buồn đó không?”

“Thật bất hạnh là không,” Hugo nói. “Có hai giám thị của nhà tù giám sát cháu tôi, họ nói chúng tôi không được nói chuyện với nó.”

“Ngài có quan hệ ra sao với cháu mình?” Pearson hỏi.

“Thân tình. Tất cả chúng tôi đều yêu quý Nick. Nó là một chàng trai tốt, cả gia đình đều cho rằng nó đã bị đối xử không công bằng.”

“Vậy là không có bất cứ cảm giác đố kỵ nào khi ngài và anh trai biết anh ấy được thừa kế phần lớn gia sản từ bố ngài.”

“Tất nhiên là không,” Hugo nói. “Nick đương nhiên sẽ thừa kế tước vị khi bố nó qua đời, cùng với toàn bộ lãnh địa của gia đình.”

“Như thế chắc hẳn đối với gia đình sẽ là một cú sốc khủng khiếp khi biết người thân của mình đã treo cổ tự sát trong tù, và một kẻ mạo danh đã chiếm đoạt vị trí của anh ấy.”

Hugo cúi xuống một lát, trước khi lên tiếng, “Đó là một đòn trí mạng với Margaret, vợ tôi, cũng như bản thân tôi, nhưng nhờ vào sự chuyên nghiệp của lực lượng cảnh sát và sự ủng hộ của bằng hữu và gia đình, dần dần chúng tôi cũng tìm được cách chấp nhận thực tế.”

“Hoàn hảo,” Sir Matthew thì thầm.

“Sir Hugo, ngài có thể xác nhận việc Trưởng giáo dòng Garter đã khôi phục quyền thừa kế tước vị gia đình cho ngài chứ?” ông Pearson hỏi, lờ đi lời bình luận của Sir Matthew.

“Có, tôi có thể, thưa ông Pearson. Các giấy tờ chứng thực được gửi cho tôi cách đây vài tuần.”

“Vậy ngài có thể đồng thời xác nhận lãnh địa tại Scotland, cũng như ngôi nhà ở London và các tài khoản ngân hàng tại London và Thụy Sĩ đều đã được chuyển lại cho gia đình quản lý không?”

“Tôi e là không, ông Pearson.”

“Tại sao vậy?” thẩm phán Hackett hỏi.

Sir Hugo có vẻ hơi lúng túng khi quay về phía thẩm phán. “Đó là do chính sách của cả hai ngân hàng không xác nhận quyền sở hữu trong khi vẫn còn một vụ tranh tụng có liên quan đang diễn ra, thưa ngài thẩm phán. Họ đều cam đoan với tôi quá trình chuyển quyền sở hữu sẽ được thực hiện với phía nắm quyền sở hữu hợp pháp ngay sau khi vụ án này đi đến hồi kết và bồi thẩm đoàn đã đưa ra được phán quyết.”

“Ngài đừng lo,” ngài thẩm phán nói, đồng thời dành cho nhân chứng một nụ cười động viên. “Sự thử thách dành cho ngài sắp đi đến hồi kết rồi.”

Sir Matthew đứng dậy đúng vào khoảnh khắc đó.”Tôi xin lỗi phải ngắt lời ngài thẩm phán, nhưng không biết có phải câu trả lời ngài dành cho nhân chứng cũng có nghĩa là ngài đã có quyết định cuối cùng với vụ án này rồi chăng?” ông hỏi với nụ cười hiền hòa.

Đến lượt ngài thẩm phán tỏ ra lúng túng. “Không, tất nhiên là không, Sir Matthew,” ông trả lời. “Tôi chỉ muốn nói cho dù kết quả phiên tòa này ra sao, cuối cùng thời gian dài chờ đợi của Sir Hugo cũng sẽ đi đến hồi kết.”

“Tôi vô cùng biết ơn, thưa ngài thẩm phán. Thật nhẹ nhõm khi được biết ngài vẫn chưa đưa ra quyết định trước khi bị cáo được có cơ hội biện hộ cho mình.” Ông ngồi trở lại chỗ.

Pearson trừng mắt nhìn Sir Matthew, nhưng đôi mắt ông già đã nhắm lại. Quay sang nhân chứng, ông ta nói, “Sir Hugo, tôi xin lỗi vì ngài đã phải trải qua một thử thách không mấy dễ chịu, nhất là khi đây hoàn toàn không phải lỗi của ngài. Nhưng cần phải làm cho bồi thẩm đoàn hiểu những thiệt hại và đau khổ mà bị cáo Daniel Cartwright đã gây ra cho gia đình ngài. Như ngài thẩm phán đã làm rõ, thử thách đó cuối cùng cũng đã sắp đi tới hồi kết.”

“Tôi không dám chắc là vậy,” Sir Matthew nói.

Một lần nữa Pearson tảng lờ câu chen ngang. “Tôi không còn câu hỏi nào nữa, thưa ngài thẩm phán,” ông ta nói trước khi trở về chỗ.

“Từng lời vừa rồi đều đã được chuẩn bị trước,” Sir Matthew thì thầm, hai mắt vẫn khép. “Hãy dẫn kẻ khốn kiếp đó vào một con đường dài tối tăm, và khi hắn ta ít ngờ đến nhất, cho hắn một nhát dao vào đúng tim. Bố có thể hứa với con, Alex, sẽ không ai phải đổ máu, dù là xanh(1) hay đỏ.”

“Ông Redmayne, tôi xin lỗi phải ngắt lời ông,” ngài thẩm phán nói, “nhưng ông có định thẩm vấn nhân chứng này không?”

“Có, thưa ngài thẩm phán.”

“Bắt đầu đi, con trai. Đừng quên hắn mới là kẻ muốn thoát ra khỏi chuyện này,” Sir Matthew thì thầm trong khi nặng nề ngồi trở lại chỗ của mình.

“Sir Hugo,” Alex bắt đầu nói, “ngài vừa nói với tòa rằng mối quan hệ của ngài với cháu mình, Sir Nicholas Moncrieff, là một mối quan hệ gần gũi - thân tình là từ tôi nghĩ ngài đã dùng để mô tả mối quan hệ đó - và hẳn ngài sẽ trò chuyện cùng ông ấy tại tang lễ của bố ông ấy nếu không bị nhân viên của nhà tù cản trở.”

“Phải, đúng là vậy,” Hugo nói.

“Cho phép tôi hỏi ngài, vào thời điểm nào ngài bắt đầu khám phá ra trên thực tế cháu ngài đã chết, chứ không phải đang sống tại ngôi nhà ở The Boltons như ngài vẫn tin cho tới khi đó?”

“Vài ngày trước khi Cartwright bị bắt,” Hugo nói.

“Có nghĩa là chừng một năm rưỡi sau tang lễ tại đó ngài đã không được phép trò chuyện với cháu mình?”

“Phải, tôi nghĩ là vậy.”

“Trong trường hợp đó, Sir Hugo, tôi buộc phải hỏi ngài trong khoảng thời gian mười tám tháng đó ngài và cháu mình, một người ngài vốn có quan hệ rất gắn bó, trò chuyện với nhau qua điện thoại?”

“Nhưng điều đáng nói chính là ở chỗ đó, hắn không phải là Nick,” Hugo nói, có vẻ rất hài lòng về chính mình.

“Không, đó không phải là ông ấy,” Alex đồng ý.”Nhưng ngài vừa nói với tòa ngài chỉ biết được sự thật chỉ ba ngày trước khi thân chủ của tôi bị bắt.”

Hugo ngước nhìn lên hành lang dành cho công chúng, hy vọng tìm thấy sự chỉ dẫn. Đây không phải là một trong những câu hỏi Margaret đã dự kiến trước và bảo ông ta cần trả lời ra sao. “Thôi được, cả hai chúng tôi đều có cuộc sống rất bận rộn,” ông ta nói, cố gắng tự tìm ra lối thoát. “Cháu tôi sống ở London, trong khi phần lớn thời gian tôi sống tại Scotland.”

“Theo như tôi biết, ở Scotland hiện người ta cũng đã có điện thoại,” Alex nói. Một tràng cười vang lên trong phòng xử án.

“Thưa ông, người đã phát minh ra điện thoại chính là một người Scotland,” Hugo mỉa mai nói.

“Càng có lý do để nhấc một chiếc điện thoại lên,” Alex khơi gợi.

“Ông đang muốn ám chỉ điều gì?” Hugo hỏi.

“Tôi không định ám chỉ điều gì cả,” Alex trả lời. “Nhưng liệu ngài có thể phủ nhận thực tế là khi cả hai người tham gia một cuộc bán đấu giá tem tại Sotheby’s ở London vào tháng Chính năm 2002, và sau đó khi ngài lại trải qua mấy ngày tiếp theo tại Geneva trong cùng khách sạn với người mà ngài vẫn tin là cháu mình, ngài đã không hề tìm cách nói chuyện với anh ta?”

“Nó đáng ra phải tìm đến tôi chào hỏi,” Hugo cao giọng nói. “Đó là chuyện có đi có lại, ông biết đấy.”

“Có lẽ thân chủ của tôi không muốn nói chuyện với ngài vì biết quá rõ ngài có mối quan hệ như thế nào với cháu mình. Có lẽ thân chủ của tôi biết rằng ngài không hề viết một từ hay nói chuyện một lời với cháu mình trong suốt mười năm qua. Có lẽ ông ấy biết cháu ngài căm ghét ngài, và chính bố đẻ của ngài - cũng là ông nội ông ấy - đã gạch tên ngài khỏi di chúc của mình?”

“Tôi thấy rõ ông đã quyết định coi trọng lời nói của một tên tội phạm hơn của một thành viên trong gia đình.”

“Không, Sir Hugo. Tôi đã biết tất cả từ chính một thành viên trong gia đình.”

“Ai?” Hugo hỏi một cách thách thức.

“Cháu ngài, Sir Nicholas Moncrieff,” Alex đáp.

“Nhưng ông thậm chí còn không biết nó.”

“Không, tôi không hề biết cháu ngài,” Alex thừa nhận.”Nhưng khi đang ở trong tù, nơi ngài chưa từng đến thăm hay gửi một lá thư cho ông ấy trong suốt bốn năm trời, cháu ngài đã viết đều đặn nhật ký mỗi ngày, nội dung của cuộc nhật ký đã tiết lộ nhiều điều.”

Pearson đứng bật dậy. “Thưa ngài thẩm phán, tôi buộc phải phản đối. Những cuốn nhật ký mà đồng nghiệp của tôi vừa đề cập đến mới chỉ được đệ trình lên bồi thẩm đoàn một tuần trước, và mặc dù trợ lý của tôi đã làm hết sức mình để xem qua từng dòng nhật ký này, cần phải biết tập nhật ký này bao gồm hơn một nghìn trang.”

“Thưa ngài thẩm phán,” Alex nói, “trợ lý của tôi đã đọc qua từng từ của tập nhật ký đó, và để tòa tiện theo dõi, ông đã lọc ra những đoạn mà sau này có thể chúng tôi sẽ muốn bồi thẩm đoàn chú ý đến. Không thể nghi ngờ về tính hợp thức của tài liệu này.”

“Tài liệu này rất có thể hợp thức,” thẩm phán Hackett nói, “nhưng tôi không hề thấy chúng thích hợp ở đây. Người đang bị xét xử không phải là Sir Hugo, và mối quan hệ của ông với cháu mình không phải là trọng tâm của phiên tòa này, vì vậy tôi đề nghị ông chuyển sang câu hỏi khác, ông Redmayne.”

Sir Matthew giật nhẹ áo con trai. “Tôi có thể trao đổi một chút với trợ lý của mình được không?” Alex hỏi ngài thẩm phán.

“Nếu ông thấy cần,” thẩm phán Hackett trả lời, vẫn còn dè chừng sau cuộc chạm trán mới rồi cùng Sir Matthew. “Nhưng làm ơn khẩn trương cho.”

Alex ngồi xuống. “Con đã ghi được điểm cho mình rồi, con trai,” Sir Matthew thì thầm, “và trong bất kỳ trường hợp nào đi nữa, những dòng quan trọng nhất trong tập nhật ký cần dành lại cho nhân chứng tiếp theo. Thêm vào đó, ông già Hackett đang tự hỏi liệu có phải ông ta đã đi quá xa và để chúng ta có đủ lý lẽ để yêu cầu xử lại hay không. Ông ta sẽ muốn tránh không cho chúng ta cơ hội đó bằng mọi giá. Đây là lần cuối cùng ông ta xuất hiện tại Tòa án Tối cao trước khi nghỉ hưu, và ông ta không muốn người ta nhớ đến mình về một phiên tòa bị mang ra xử lại. Vì thế khi con tiếp tục, hãy nói con chấp nhận quan điểm của ngài thẩm phán mà không đặt ra bất cứ câu hỏi nào, nhưng vì rất có thể con sẽ cần phải viện dẫn tới một số phần trong tập nhật ký trong các diễn biến tiếp theo của phiên tòa, con hy vọng rằng người đồng nghiệp bên nguyên sẽ thu xếp thời gian để xem qua một số đoạn nhật ký mà trợ lý của con đã đánh dấu sẵn để ông ta tiện tìm hiểu.”

Alex đứng dậy khỏi chỗ ngồi và nói, “tôi xin chấp nhận quan điểm của ngài thẩm phán mà không đặt ra thêm câu hỏi nào, nhưng vì rất có thể tôi sẽ cần phải viện dẫn tới một số đoạn trong tập nhật ký vào một thời điểm muộn hơn trong phiên tòa này, tôi chỉ có thể hy vọng người đồng nghiệp của tôi sẽ thu xếp được thời gian cần thiết để đọc qua vài dòng đã được đánh dấu trước để ông tìm hiểu.” Sir Matthew mỉm cười. Ngài thẩm phán cau mày, trong khi Sir Hugo tỏ ra băn khoăn không hiểu.

Alex quay lại tập trung sự chú ý vào nhân chứng, trong lúc này đang chốc chốc lại phải rút khăn lau trán.

“Sir Hugo, liệu tôi có thể khẳng định rằng ý nguyện của bố ngài, như đã được thể hiện rõ ràng trong bản di chúc của ông ấy, mong muốn lãnh địa của gia đình tại Dunbroad được chuyển giao cho Hội bảo tồn di tích lịch sử Scotland kèm theo một khoản tiền đủ để sửa sang bảo quản.”

“Tôi cũng hiểu như vậy,” Hugo thừa nhận.

“Vậy ngài hẳn cũng sẽ xác nhận Daniel Cartwright đã tuân thủ đúng ý nguyện đó, và hiện tại lãnh địa đang nằm dưới quyền quản lý của Hội bảo tồn di tích lịch sử Scotland,”

“Phải, tôi có thể xác nhận chuyện này,” Hugo trả lời có vẻ hơi miễn cưỡng.

“Gần đây ngài đã thu xếp được thời gian tới thăm ngôi nhà số mười hai The Boltons và kiểm tra hiện trạng của nó chưa?”

“Có, tôi đã ghé qua. Tôi không thấy có nhiều khác biệt lắm so với trước kia.”

“Sir Hugo, ngài có muốn tôi gọi điện cho bà quản gia của Cartwright để bà có thể mô tả với tòa một cách cực kỳ sống động về tình trạng của ngôi nhà khi lần đầu tiên bà được thuê tới đó làm việc không?”

“Không cần thiết phải làm thế,” Hugo nói. “Có thể ngôi nhà phần nào đã bị sao nhãng, nhưng như tôi đã nói rõ từ trước, tôi sống phần lớn thời gian ở Scotland, và hiếm khi tới London.”

“Trong trường hợp đó, Sir Hugo, chúng ta hãy chuyển qua tài khoản của cháu ngài tại ngân hàng Coutts ở phố Strand. Ngài có thể cho tòa được biết có bao nhiêu tiền trong tài khoản đó vào thời điểm xảy ra cái chết bi kịch của ông ấy không?”

“Làm sao tôi biết được?” Hugo gay gắt đáp lại.

“Vậy cho phép tôi giúp ngài, Sir Hugo,” Alex nói, lấy một bản in tình hình tài khoản ngân hàng từ trong một cặp tài liệu ra. “Chỉ hơn bảy nghìn bảng.”

“Nhưng việc hiện tại trong tài khoản đó có bao nhiêu tiền thì có ý nghĩa gì?” Sir Hugo vặn lại với giọng đắc thắng.

“Tôi không thể không đồng ý với ngài,” Alex nói, lấy ra một bản in tình hình tài khoản thứ hai. “Kết thúc giờ giao dịch hôm qua, tài khoản đó có số dư hơn bốn mươi hai nghìn bảng một chút.” Hugo vẫn chăm chú nhìn lên khu vực dành cho công chúng trong khi lau trán. “Bây giờ, chúng ta sẽ xem xét đến bộ sưu tập tem mà bố ngài, Sir Alexander Moncrieff, để lại cho cháu nội, Nicholas.”

“Cartwright đã lén lút bán đi sau lưng tôi.”

“Sir Hugo, tôi cho rằng anh ta đã bán nó đi ngay trước mũi ngài.”

“Tôi sẽ không bao giờ đồng ý bán đi một thứ mà gia đình luôn coi như một tài sản thừa kế vô giá.”

“Tôi không rõ ngài có cần một chút thời gian để cân nhắc lại câu nói vừa rồi hay không,” Alex nói. “Tôi đang có trong tay một tài liệu pháp lý do luật sư của ngài, ông Desmond Galbraith, thảo ra trong đó đồng ý bán bộ sưu tập tem của bố ngài với giá năm mươi triệu đô la cho một ông Gene Hunsacker sống tại Austin, Texas.”

“Cho dù đúng thế đi nữa,” Hugo nói, “tôi cũng chưa từng nhìn thấy một xu trong số tiền này, bởi vì chính Cartwright là kẻ rốt cuộc đã bán bộ sưu tập cho Hunsacker.”

“Thân chủ của tôi có làm thế thật,” Alex nói, “với giá năm mươi bảy triệu rưỡi đô la - nhiều hơn mức ông thương lượng thành công đến bảy triệu rưỡi.”

“Tất cả chuyện này là gì vậy, ông Redmayne?” ngài thẩm phán hỏi. “Cho dù thân chủ của ông đã trông coi gia sản của Moncrieff tốt đến đâu đi nữa, ở điểm khởi đầu anh ta vẫn đánh cắp tất cả những thứ này. Không lẽ ông đang cố cho rằng thân chủ của ông vẫn luôn có ý định trả lại tài sản này cho những người chủ sở hữu hợp pháp chăng?”

“Không, thưa ngài thẩm phán. Tuy nhiên, tôi đang nỗ lực chứng minh rằng có lẽ Danny Cartwright không hẳn là một kẻ xấu xa như bên nguyên muốn tất cả chúng ta tin. Thực ra, nhờ vào năng lực quản lý của thân chủ tôi, Sir Hugo sẽ giàu có hơn nhiều so với những gì ông dám trông đợi.”

Sir Matthew thầm cầu nguyện.

“Không đúng!” Sir Hugo nói. “Tình hình của tôi sẽ trở nên tồi tệ đi rất nhiều.”

Sir Matthew mở mắt ra, ngồi thẳng người dậy. “Cuối cùng cũng có Chúa trên Thiên đường,” ông thì thầm. “Cừ lắm, con trai.”

“Tôi hoàn toàn không thể hiểu được,” thẩm phán Hackett nói. “Nếu có tới bảy triệu rưỡi đô la nhiều hơn so với dự kiến của ngài trong tài khoản, Sir Hugo, tại sao ngài có thể nói là tồi tệ đi?”

“Bởi vì mới đây tôi vừa ký một thỏa thuận có ràng buộc pháp lý với một bên thứ ba, người này chỉ sẵn sàng cung cấp chi tiết về những gì đã xảy ra với cháu tôi nếu tôi chấp nhận chia tay với hai mươi lăm phần trăm tài sản của mình.”

“Ngồi xuống, không nói gì hết,” Sir Matthew thì thầm.

Ngài thẩm phán lớn tiếng kêu gọi mọi người giữ trật tự, và Alex đợi đến khi phòng xử án đã im lặng trở lại trước khi đưa ra câu hỏi tiếp theo.

“Ngài đã ký thỏa thuận đó lúc nào, Sir Hugo?”

Hugo lấy một cuốn nhật ký nhỏ ra khỏi túi áo, lật giở các trang cho tới khi tìm ra ghi chú mà ông ta muốn tìm. “Ngày hai mươi hai tháng mười năm ngoái,” ông ta nói.

Alex kiểm tra các ghi chép của anh. “Một ngày trước khi một quý ông rất chuyên nghiệp nào đó liên hệ với Chánh thanh tra Fuller để dàn xếp một cuộc gặp mặt tại một địa điểm nào đó.”

“Tôi không hiểu ông đang nói gì,” Hugo nói.

“Tất nhiên là không rồi,” Alex nói. “Ngài làm sao có thể biết được những gì đã diễn ra sau lưng mình. Nhưng tôi buộc phải hỏi ngài, Sir Hugo, sau khi đã ký thỏa thuân đồng ý chia tay với hàng triệu bảng trong trường hợp gia tài của gia đình ngài được hoàn lại, về thứ quý ông rất chuyên nghiệp này đã mang ra để đổi lấy chữ ký của ngài.”

“Ông ta cho tôi biết cháu tôi đã chết từ hơn một năm trước, và vị trí của cháu tôi đang bị chiếm giữ bởi một kẻ mạo danh, chính là kẻ lúc này đang ngồi trên ghế bị cáo.”

“Vậy ngài đã phản ứng ra sao trước thông tin khó lòng tin nổi này?”

“Thoạt đầu tôi cũng không tin,” Hugo nói, “nhưng sau đó ông ta đưa cho tôi xem một số bức ảnh của Cartwright và Nick, và tôi buộc phải thừa nhận hai người rất giống nhau.”

“Tôi thấy thật khó tin, Sir Hugo, rằng chỉ chừng đó là đủ để một người thông minh như ngài chịu chia tay với hai mươi lăm phần trăm gia tài của gia đình mình.”

“Không, chừng ấy là chưa đủ. Ông ta cũng đưa cho tôi những tấm ảnh khác để chứng thực cho lời nói của mình.”

“Những tấm ảnh khác?”

“Phải. Một trong số chúng chụp chân trái của bị cáo, cho thấy rõ một vết sẹo ở ngay phía trên đầu gối chứng minh người này là Cartwright chứ không phải cháu tôi.”

“Chuyển chủ đề,” Sir Matthew thì thầm.

“Ngài đã nói với tòa, Sir Hugo, rằng người đã yêu cầu ngài phải đổi hai mươi lăm phần trăm tài sản hợp pháp của mình lấy những thông tin kể trên là một quý ông chuyên nghiệp?”

“Vâng, gần như chắc chắn là vậy,” Hugo nói.

“Có lẽ đã đến lúc, Sir Hugo, để ngài nói ra tên của quý ông chuyên nghiệp này.”

“Tôi không thể làm thế,” Hugo nói.

Một lần nữa, Alex lại phải đợi cho tới khi ngài thẩm phán lập lại trật tự trong phòng xử án trước khi có thể hỏi câu tiếp theo. “Tại sao lại không?” ngài thẩm phán hỏi.

“Hãy để Hackett làm việc đó,” Sir Matthew thì thầm. “Hãy cầu nguyện để ông ta không tự đoán trước ra được quý ông này là ai.”

“Bởi vì một trong những điều khoản của thỏa thuận,” Hugo nói, đồng thời lấy khăn lau trán, “là trong bất kỳ hoàn cảnh nào tôi cũng không được tiết lộ tên của ông ta.”

Ngài thẩm phán Hackett đặt chiếc bút đang cầm xuống bàn. “Giờ hãy nghe tôi nói, Sir Hugo, và nghe thật cẩn thận. Nếu ngài không muốn bị khởi tố vì tội chống đối lại tòa và một đêm trong xà lim để giúp trí nhớ ngài phục hồi, tôi khuyên ngài nên trả lời câu hỏi của ông Redmayne, và cho tòa biết tên quý ông chuyên nghiệp đã yêu cầu hai mươi lăm phần trăm gia sản của ngài trước khi sẵn sàng chứng tỏ bị cáo là kẻ mạo danh. Tôi đã nói đủ rõ chưa?”

Hugo bắt đầu run bần bật. Ông ta ngước nhìn lên khu dành cho công chúng, và thấy Margaret gật đầu. Ông ta quay lại phía ngài thẩm phán và nói, “Spencer Craig QC.”

Gần như lập tức tất cả mọi người có mặt trong phòng xử án bắt đầu nhao nhao đồng thời mở miệng.

“Con có thể ngồi xuống được rồi, con trai,” Sir Matthew nói, “bởi vì bố nghĩ đây chính là thứ mà ở khu Danny sống người ta gọi là ra một lúc hai cú thôi sơn. Giờ đây ngài thẩm phán đáng kính của chúng ta sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc cho phép con triệu tập Spencer Craig ra trước tòa, tất nhiên trừ trường hợp ông ta muốn có một phiên xử lại.”

Sir Matthew nhìn sang bên và thấy Arnold Pearson đang nhìn con trai ông. Ông ta cũng đang làm điệu bộ nhấc một chiếc mũ tưởng tượng lên.

“Hoan hô, Alex,” ông ta nói.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 75


“Bố có hình dung được Munro sẽ xử sự ra sao khi đối chất với Pearson không?” Alex hỏi.

“Một con bò tót già đời đối đầu với một tay matador già đời,” Sir Matthew đáp. “Kinh nghiệm và sự sắc bén sẽ cho thấy chúng quan trọng hơn lời buộc tội, vì thế bố cần phải đặt cược vào Munro.”

“Vậy khi nào con sẽ giơ tấm vải đỏ ra trước mặt con bò tót này?”

“Con sẽ không làm điều đó,” Sir Matthew nói. “Con nhường lại vinh dự này cho tay matador. Pearson sẽ không thể chống lại được sự thách thức, và hiệu quả đem lại sẽ còn lớn hơn khi nó xuất phát từ chính bên nguyên.”

“Tất cả đứng dậy,” người mõ tòa hô lớn.

Sau khi mọi người đã yên vị, ngài thẩm phán quay về phía bồi thẩm đoàn nói. “Chúc quý vị một buổi sáng tốt lành, thưa các thành viên bồi thẩm đoàn. Hôm qua, quý vị đã lắng nghe ông Pearson trình bày toàn bộ cáo trạng của bên nguyên, và đến lúc này bên bị sẽ có cơ hội đưa ra lời biện hộ. Sau khi đã trao đổi với cả hai bên, tôi sẽ đề nghị quý vị loại bỏ một trong các tội danh, cụ thể là tội danh lừa đảo chiếm đoạt lãnh địa của gia đình Moncrieff ở Scotland. Sir Hugo Moncrieff đã xác nhận thực tế không phải như vậy, đồng thời cũng xác nhận theo đúng ước nguyện của của bố ông, Sir Alexander, lãnh địa đã được chuyển sang cho Hội bảo tồn di tích lịch sử Scotland quản lý. Tuy vậy, bị cáo vẫn phải đối diện với các tội danh nghiêm trọng khác, về những tội danh này chính các vị, và chỉ có các vị, mới là người được giao trách nhiệm đưa ra phán quyết.”

Ngài thẩm phán mỉm cười hiền hòa với bồi thẩm đoàn trước khi chuyển sự chú ý sang Alex. “Ông Redmayne, mời ông cho gọi nhân chứng đầu tiên của mình,” ông nói với giọng điệu tôn trọng hơn nhiều so với hôm trước.

“Xin cảm ơn ngài thẩm phán,” Alex nói, đồng thời đứng lên khỏi chỗ ngồi. “Tôi xin cho gọi ông Fraser Munro.”

Việc đầu tiên Munro làm khi ông bước vào phòng xử án là mỉm cười với Danny đang ngồi trên ghế bị cáo. Ông đã tới Belmarsh thăm anh năm lần trong sáu tháng vừa qua, và Danny biết ông cũng đã có vài cuộc trao đổi cùng Alex và Sir Matthew.

Một lần nữa, không có hóa đơn thanh toán nào được yêu cầu cho những gì ông đã làm. Tất cả các tài khoản ngân hàng của Danny đã bị phong tỏa, vì vậy tất cả những gì anh có là khoản mười hai bảng một tuần anh được trả cho công việc thủ thư nhà tù, một món tiền thậm chí còn chưa đủ để trả tiền taxi cho Munro đi từ câu lạc bộ Caledonian tới Old Bailey.

Fraser Munro bước lên bục nhân chứng. Ông mặc một chiếc áo đuôi tôm màu đen và quần kẻ sọc, một chiếc áo sơmi trắng và đeo một chiếc nơ lụa màu đen. Trông ông giống một quan chức của tòa hơn một nhân chứng, đem đến cho ông uy thế từng có ảnh hưởng lớn tới không ít bồi thẩm đoàn Scotland. Ông hơi nghiêng người cúi chào trước khi đọc lời tuyên thệ.

“Xin ông vui lòng cho biết tên và địa chỉ để đưa vào biên bản,” Alex nói.

“Tên tôi là Fraser Munro, cư trú tại số 49 phố Argyll, Dunbroath, Scotland.”

“Nghề nghiệp của ông là gì?”

“Tôi là một luật sư của Tòa án tối cao Scotland.”

“Liệu tôi có thể nói ông là cựu chủ tịch Hiệp hội luật gia Scotland?”

“Đúng vậy, thưa ông.” Một điều mà Danny chưa từng biết.

“Và ông là một Công dân danh dự của thành phố Edinburgh?”

“Đúng là tôi có được vinh dự đó, thưa ông.” Một điều nữa Danny không biết.

“Ông Munro, ông có thể vui lòng trình bày rõ với tòa mối quan hệ giữa ông và bị cáo không?”

“Tất nhiên, ông Redmayne. Cũng giống như bố tôi trước đây, tôi đã có vinh hạnh được làm đại diện pháp luật cho Sir Alexander Moncrieff, người đầu tiên mang tước hiệu.”

“Và ông cũng là đại diện cho Sir Nicholas Moncrieff?”

“Đúng vậy, thưa ông.”

“Và ông cũng là người đảm nhiệm các công việc liên quan tới pháp lý cho thân chủ của mình trong khi ông ấy đang tại ngũ, và sau đó khi thân chủ của ông ở trong tù?”

“Vâng. Ông ấy vẫn thỉnh thoảng gọi điện thoại cho tôi trong khi đang ở trong tù, nhưng phần lớn công việc của chúng tôi được tiến hành thông qua trao đổi thư tín thường xuyên.”

“Ông có tới thăm Sir Nicholas khi ông ấy ở trong tù không?”

“Không. Sir Nicholas dứt khoát yêu cầu tôi không làm vậy, và tôi tôn trọng ý nguyện của ông ấy.”

“Ông gặp ông ấy lần đầu tiên khi nào?” Alex hỏi.

“Tôi biết ông ấy hồi nhỏ, khi ông ấy lớn lên ở Scotland, nhưng trước lần ông ấy quay về Dunbroath dự tang lễ của bố mình, tôi đã không gặp ông ấy suốt mười hai năm.”

“Ông có cơ hội nói chuyện với ông ấy vào dịp đó không?”

“Chắc chắn rồi. Hai giám thị của nhà tù đi giám sát đã tỏ ra rất thông cảm, và họ cho phép tôi trao đổi riêng với Sir Nicholas trong vòng một giờ.”

“Và lần tiếp theo ông gặp lại thân chủ của mình là vào bảy hay tám tuần sau đó, khi ông ấy tới Scotland ngay sau khi được thả ra khỏi nhà tù Belmarsh.”

“Đúng thế.”

“Ông có lý do nào để tin rằng người đến gặp ông khi đó không phải là Sir Nicholas Moncrieff không?”

“Không, thưa ông. Tôi mới chỉ gặp mặt ông ấy có một giờ trong suốt mười hai năm trước đó, và người đàn ông bước vào văn phòng của tôi không chỉ giống Sir Nicholas, mà còn mặc đúng những trang phục đã mặc lần trước khi chúng tôi gặp nhau. Người này cũng có trong tay tất cả thư từ chúng tôi đã trao đổi trong suốt thời gian trước đó, và đeo chiếc nhẫn vàng có cẩn hình con dấu của gia đình, cũng như một sợi dây chuyền bạc và chiếc chìa khóa mà ông nội ông ấy đã cho tôi xem vài năm trước.”

“Vậy người đàn ông đó, xét về mọi mặt, chính là Sir Nicholas Moncrieff?”

“Với mắt thường thì đúng vậy, thưa ông.”

“Hồi tưởng lại lúc đó với những gì ông đã biết hiện tại, liệu ông có bao giờ nghi ngờ rằng người ông vẫn tin là Sir Nicholas Moncrieff thực ra chỉ là một kẻ mạo danh không?”

“Không. Trong mọi lúc, anh ta luôn cư xử một cách lịch thiệp và dễ mến, một điều hiếm gặp với một chàng trai trẻ như vậy. Thực ra anh ta khiến tôi nhớ lại ông nội anh ta hơn bất cứ thành viên nào khác của gia đình.”

“Bằng cách nào cuối cùng ông biết được thân chủ của mình trên thực tế không phải là Sir Nicholas Moncrieff, mà là Danny Cartwright?”

“Sau khi anh ta bị bắt và buộc những tội danh đang được tranh tụng tại phiên tòa này.”

“Ông Munro, liệu tôi có thể khẳng định để đưa vào biên bản rằng kể từ ngày hôm đó, trách nhiệm quản lý gia sản của gia đình Moncrieff đã được giao lại cho ông không?”

“Đúng thế, thưa ông Redmayne. Tuy nhiên, tôi phải thừa nhận tôi đã không thể điều hành việc kinh doanh thường kỳ với cùng sự nhạy bén như Danny Cartwright đã luôn thể hiện.”

“Có đúng không khi nói rằng tình hình tài chính của gia sản này hiện tại đang vững chắc hơn nhiều so với vài năm trước đây?”

“Không nghi ngờ gì nữa. Tuy nhiên, quỹ tín dụng đã không thể duy trì được cùng mức tăng trưởng kể từ khi ông Cartwright bị đưa trở lại nhà tù.”

“Ông Munro, tôi thành thật hy vọng,” ngài thẩm phán chen vào, “rằng ông không định cho rằng điều đó làm giảm nhẹ mức độ nghiêm trọng của các tội danh?”

“Không, thưa ngài thẩm phán, tôi không hề có ý đó,” Munro nói. “Nhưng theo năm tháng, dần dần tôi đã khám phá ra hiếm khi có thứ gì đó hoàn toàn đen hay trắng, mà thường chỉ là các sắc độ xám đậm nhạt khác nhau mà thôi. Cách diễn đạt ngắn gọn tốt nhất mà tôi có thể tìm ra, thưa ngài thẩm phán, là được phục vụ Sir Nicholas Moncrieff đúng là một vinh dự, và được làm việc với ông Cartwright quả là một đặc ân. Cả hai đều là những cây sồi cứng cỏi, cho dù được trồng ở những khu rừng khác nhau. Nhưng biết làm sao được, thưa ngài thẩm phán, theo cách này hay cách khác chúng ta đều phải trả giá cho việc bị cầm tù bởi xuất thân của chính mình.”

Sir Matthew mở cả hai mắt ra nhìn chăm chú vào người đàn ông ông thầm ước được làm quen sớm hơn.

“Bồi thẩm đoàn không thể không nhận ra, thưa ông Munro,” Alex nói tiếp, “rằng ông luôn dành cho ông Cartwright sự tôn trọng và ngưỡng mộ sâu sắc. Nhưng cùng với ghi nhận đó, rất có thể họ sẽ cảm thấy khó lòng lý giải nổi tại sao cũng chính con người đó lại can dự vào một âm mưu lừa đảo bất chính như vậy.”

“Tôi đã đặt ra câu hỏi đó không biết bao nhiêu lần trong sáu tháng vừa qua, ông Redmayne, và đi đến kết luận là mục đích duy nhất của ông ấy chắc chắn phải nhằm tranh đấu với một sự bất công còn lớn hơn nhiều mà -”

“Ông Munro,” ngài thẩm phán nghiêm giọng cắt lời nhân chứng, “như ông hẳn biết rõ, đây không phải là địa điểm hay thời điểm thích hợp để bày tỏ quan điểm cá nhân của ông.”

“Thưa ngài thẩm phán, tôi rất biết ơn ngài về sự chỉ dẫn,” Munro nói, quay sang đối diện với ngài thẩm phán, “nhưng tôi đã tuyên thệ sẽ nói ra toàn bộ sự thật, và tôi đoán ngài cũng không mong muốn tôi làm khác đi?”

“Không, tôi không hề có ý đó, thưa ông,” ngài thẩm phán gằn giọng, “nhưng tôi nhắc lại, đây không phải là nơi thích hợp để thể hiện những quan điểm như vậy.”

“Ngài thẩm phán, nếu một người không thể trình bày những cảm nhận chân thành của mình tại Tòa Đại hình, có lẽ ông có thể cho tôi biết nơi có nào khác mà tại đó anh ta có thể tự do nói lên những gì anh ta tin là sự thật hay không?”

Một tràng vỗ tay hoan hô vang lên từ phía khu vực công chúng.

“Tôi nghĩ đã đến lúc chuyển sang câu hỏi khác, ông Redmayne,” thẩm phán Hackett nói.

“Tôi không còn câu hỏi nào khác cho nhân chứng này, thưa ngài thẩm phán,” Alex nói. Ngài thẩm phán có vẻ như trút được gánh nặng.

Khi Alex trở về chỗ ngồi, Sir Matthew cúi người lại gần thì thầm, “Bố thực sự hơi cảm thấy thương hại cho Arnold đáng mến. Ông ta chắc hẳn đang bị giằng co giữa việc chấp nhận đối mặt với đối thủ tầm cỡ này và chấp nhận nguy cơ bẽ mặt, hay chấp nhận né tránh hoàn toàn và để lại cho bồi thẩm đoàn một ấn tượng hấp dẫn đến mức chắc chắn họ sẽ dùng để đãi chuyện cho cháu chắt ở nhà.”

Ông Munro không hề tỏ ra nao núng trong khi nhìn chằm chằm đầy cương quyết vào Pearson, người đang bận bịu trao đổi với trợ lý của mình, cả hai đều lộ rõ vẻ bối rối.

“Tôi không hề muốn hối thúc ông, ông Pearson,” ngài thẩm phán nói, “nhưng ông có định thẩm vấn nhân chứng này không?”

Pearson đứng dậy còn chậm chạp hơn thường lệ, cũng không hề đưa tay kéo tay áo thụng hay chạm vào bộ tóc giả. Ông ta nhìn xuống danh sách câu hỏi đã phải mất trắng cả dịp cuối tuần để chuẩn bị, và thay đổi ý định.

“Có, thưa ngài thẩm phán, nhưng tôi sẽ không làm phiền nhân chứng lâu.”

“Chỉ cần đủ lâu thôi, tôi hy vọng là vậy,” Sir Matthew lẩm bẩm.

Pearson tảng lờ câu bình phẩm và nói, “tôi thực sự không hiểu nổi, thưa ông Munro, tại sao một người sắc sảo và giàu kinh nghiệm về luật pháp như ông lại không hề nghi ngờ, dù chỉ trong thoáng chốc, rằng thân chủ của mình là một kẻ mạo danh.”

Munro gõ ngón tay lên thành bục nhân chứng, và đợi một khoảng thời gian mà ông cảm thấy mình được phép. “Dễ lý giải thôi, thưa ông Pearson,” cuối cùng ông lên tiếng. “Danny Cartwright luôn hoàn toàn đáng tin cậy, mặc dù tôi phải thừa nhận có một khoảnh khắc duy nhất trong suốt hai năm của mối quan hệ giữa hai chúng tôi mà ông ấy đã để mất cảnh giác.”

“Và đó là thời điểm nào?” Pearson hỏi.

“Khi chúng tôi đang trò chuyện về bộ sưu tập tem của ông nội ông ấy và tôi đã bóng gió nhắc để ông ấy nhớ lại đã tham dự lễ khai mạc triển lãm trưng bày bộ sưu tập đó tại Học viện Smithsonian tại Washington DC. Tôi rất ngạc nhiên thấy ông ấy không có vẻ gì nhớ ra dịp đó, một điều tôi không tài nào hiểu nổi, vì ông ấy chính là thành viên duy nhất của gia đình Moncrieff nhận được giấy mời.”

“Ông đã không hỏi ông ấy về việc này sao?” Pearson hỏi.

“Không,” Munro nói. “Tôi cảm thấy làm thế không thích hợp tại thời điểm đó.”

“Nhưng nếu ông nghi ngờ, cho dù chỉ trong thoáng chốc, rằng người đó không phải là Sir Nicholas,” Pearson vừa nói vừa chỉ về phía Danny, nhưng không hề nhìn về phía anh, “chắc chắn ông phải có trách nhiệm điều tra việc đó chứ?”

“Tôi không cảm thấy như thế vào thời điểm đó.”

“Nhưng người đàn ông này lúc đó đang thực hiện một mưu đồ lừa đảo ghê gớm nhằm vào gia đình Moncrieff mà ông gắn bó như một thành viên.”

“Tôi không hề nhìn nhận như thế,” Munro đáp.

“Nhưng vì ông là người giám sát gia sản của gia đình Moncrieff, rõ ràng ông phải có bổn phận tố cáo Cartwright về hành vi lừa đảo của hắn.”

“Không, tôi không cho rằng đó là bổn phận của tôi,” Munro bình thản đáp.

“Ông không thấy đáng lo ngại sao, ông Munro, khi người đàn ông này nghiễm nhiên đến sống tại ngôi nhà của gia đình Moncrieff ở London trong khi hắn ta không hề có quyền làm như vậy?”

“Không, tôi không hề cảm thấy lo ngại,”

“Chẳng lẽ ông không hề kinh hoàng khi nghĩ đến việc kẻ lạ mặt này giờ đây đang nắm giữ gia tài của gia đình Moncrieff mà ông đã toàn tâm toàn ý trông coi thay mặt gia đình suốt nhiều năm qua?”

“Không, thưa ông, tôi không hề thấy kinh hoàng trước ý nghĩ đó.”

“Nhưng sau đó, khi thân chủ của ông bị bắt với các tội danh trong đó có giả mạo và lừa đảo, không lẽ ông không cảm thấy mình đã có phần xao nhãng trong việc thực thi bổn phận của mình sao?” Pearson hỏi.

“Tôi không yêu cầu ông khuyên bảo tôi về việc liệu tôi có xao nhãng hay không với bổn phận của mình, ông Pearson.”

Sir Matthew mở một mắt. Ngài thẩm phán vẫn cúi gằm mặt xuống.

“Nhưng người đàn ông này đã đánh cắp tiền bạc của gia đình, nếu muốn sử dụng một cách diễn đạt nữa của người Scotland, và ông đã không làm gì để ngăn chặn chuyện đó,” Pearson nói, giọng mỗi lúc một cao hơn.

“Không, thưa ông, ông ấy không hề đánh cắp tiền bạc của gia đình và tôi cảm thấy tin tưởng rằng Harold Macmillan lần này cũng sẽ đồng ý với tôi. Thứ duy nhất Danny Cartwright đã đánh cắp, ông Pearson, là họ của gia đình.”

“Hẳn là ông có thể giải thích với tòa,” ngài thẩm phán nói sau khi đã bình tâm trở lại sau đợt công kích trước của ông Munro,”tình trạng khó xử về mặt đạo đức mà giờ đây tôi phải đối diện với giả thiết của ông.”

Ông Munro quay sang đối diện với ngài thẩm phán, hiểu rõ mình đã thu hút được sự chú ý của tất cả mọi người đang có mặt tại phiên tòa, kể cả viên cảnh sát đang gác cửa. “Ngài thẩm phán không cần phải bận tâm về bất cứ điều khó xử nào về mặt đạo đức, vì tôi chỉ quan tâm tới sự đúng đắn về phương diện luật pháp của vụ án này.”

“Sự đúng đắn về phương diện luật pháp?” thẩm phán Hackett dò hỏi một cách thận trọng.

“Vâng, thưa ngài thẩm phán. Ông Danny Cartwright là người thừa kế duy nhất gia tài của gia đình Moncrieff, bởi vậy tôi không thể hiểu nếu có thì ông ấy đã vi phạm điều luật nào.”

Ngài thẩm phán ngả người ra sau, mừng thầm vì đã nhường cho Pearson trở thành người bị lún mỗi lúc một sâu vào bãi lầy Munro bày ra.

“Ông Munro, ông có thể giải thích với tòa ý ông muốn nói được không?” Pearson hỏi với giọng gần như nói thầm.

“Thực ra chuyện này rất đơn giản, thưa ông Pearson. Sir Nicholas Moncrieff đã quá cố có làm một di chúc trong đó để lại mọi thứ cho Daniel Arthur Cartwright sống tại số hai mươi sáu đường Bacon, London E3, với ngoại lệ duy nhất là một khoản trợ cấp hàng năm mười nghìn bảng mà ông dành cho người lái xe cũ của mình, ông Albert Crann.”

Sir Matthew mở nốt mắt còn lại, không rõ nên tập trung vào theo dõi Munro hay Pearson.

“Và di chúc này đã được soạn thảo và có nhân chứng chứng kiến theo đúng luật định?” Pearson hỏi, cố xoay xở tìm đường rút.

“Bản di chúc được Sir Nicholas ký trong văn phòng của tôi vào buổi chiều hôm diễn ra tang lễ của bố ông. Ý thức được sự nghiêm trọng của tình huống cũng như trách nhiệm của mình, với tư cách là người quản lý tài sản của gia đình - như ông đã luôn nhắc nhở, ông Pearson - tôi đã đề nghị các chánh giám thị Ray Pascoe và Alan Jenkins làm nhân chứng khi Sir Nicholas ký tên với sự có mặt của một thành viên khác từ công ty luật của tôi,” Munro quay về phía ngài thẩm phán. “Tôi đang có trong tay bản gốc, thưa ngài thẩm phán, nếu ngài muốn xem qua.”

“Không, cảm ơn ông, ông Munro. Với tôi lời nói của ông là đủ,” ngài thẩm phán đáp.

Pearson ngồi sụp xuống băng ghế dành cho luật sư, hoàn toàn quên bẵng mất câu, “Không còn câu hỏi nào khác, thưa ngài thẩm phán.”

“Ông có muốn thẩm vấn lại nhân chứng này không, ông Redmayne?” ngài thẩm phán hỏi.

“Chỉ một câu hỏi thôi, thưa ngài thẩm phán,” Alex nói. “Ông Munro, Sir Nicholas có để lại gì cho chú mình, Hugo Moncrieff, hay không?”

“Không,” Munro nói. “Không một xu.”

“Không còn câu hỏi nào khác, thưa ngài thẩm phán.”

Những tiếng thì thào cố kìm nén bắt đầu rì rầm vang lên khắp phòng xử án khi Munro bước xuống bục nhân chứng, đi tới bắt tay bị cáo.

“Thưa ngài thẩm phán, tôi không rõ có thể trao đổi với ngài về một điểm liên quan tới luật được không,” Alex yêu cầu trong khi Munro rời khỏi phòng xử án.

“Tất nhiên, ông Redmayne, nhưng trước hết tôi sẽ phải cho bồi thẩm đoàn tạm ra ngoài. Các thành viên của bồi thẩm đoàn, như các vị vừa nghe, luật sư bên bị yêu cầu được thảo luận một điểm liên quan tới luật với tôi. Rất có thể điểm này không có liên quan gì tới phiên tòa hiện tại, nhưng nếu có, tôi sẽ thuật lại đầy đủ khi các vị quay lại.”

Alex ngước nhìn lên hành lang dành cho công chúng đang đông chật người trong khi bồi thẩm đoàn ra ngoài. Cái nhìn của anh dừng lại ở một phụ nữ trẻ hấp dẫn mà anh phát hiện ra luôn ngồi ở góc trong cùng của hàng ghế đầu tiên mỗi ngày kể từ khi phiên tòa bắt đầu. Anh có ý sẽ hỏi Danny xem cô gái này là ai.

Một lát sau, người mõ tòa đến gần băng ghế và nói, “Mọi người đã ra hết, thưa ngài thẩm phán.”

“Xin cảm ơn, ông Hepple,” ngài thẩm phán nói. “Tôi có thể hỗ trợ gì cho ông, ông Redmayne?”

“Thưa ngài thẩm phán, sau những bằng chứng ông Munro đáng kính đưa ra, bên bào chữa cho rằng không cần phải biện hộ về các tội danh thứ ba, thứ tư và thứ năm, cụ thể là việc chiếm giữ ngôi nhà ở The Boltons, hưởng lợi từ việc bán bộ sưu tập tem, và dùng séc rút tiền từ tài khoản tại ngân hàng Coutts. Chúng tôi đề nghị các tội danh này được xóa bỏ, bởi vì thật khó lòng lấy cắp thứ gì đó vốn đã thuộc về chính mình.”

Ngài thẩm phán cân nhắc trong vài phút về đề xuất này trước khi trả lời, “Ông đã ghi được một điểm chính đáng, ông Redmayne. Ông nghĩ thế nào, ông Pearson?”

“Tôi cảm thấy mình cần chỉ ra, thưa ngài thẩm phán,” Pearson nói, “rằng mặc dù rất có thể đúng bị cáo là người thụ hưởng theo di chúc của Sir Nicholas Moncrieff, không có gì cho phép chứng minh bị cáo đã biết điều này vào thời điểm thực hiện những hành động đó.”

“Thưa ngài thẩm phán,” Alex đáp trả ngay lập tức, “thân chủ của tôi biết rõ về sự tồn tại của bản di chúc của Sir Nicholas, cũng như ai là người được thụ hưởng trong bản di chúc đó.”

“Làm sao có thể như vậy được, ông Redmayne?” ngài thẩm phán hỏi.

“Thưa ngài thẩm phán, trong khi ngồi tù Sir Nicholas có ghi nhật ký hàng ngày, như tôi đã chỉ ra trước đây. Ông ấy ghi lại trong đó mọi chi tiết về bản di chúc của mình một ngày sau khi trở lại Belmarsh sau khi dự tang lễ bố mình.”

“Nhưng điều đó không hề chứng mình Cartwright biết được những ý nghĩ riêng tư của ông ấy,” ngài thẩm phán chỉ ra một nghi vấn.

“Tôi sẽ hoàn toàn nhất trí với ngài, thưa ngài thẩm phán, nếu sự thực không phải là chính bị cáo đã chỉ ra những đoạn có liên quan trong nhật ký cho trợ lý của tôi xem xét,” Sir Matthew gật đầu.

“Trong trường hợp này,” Pearson nói gỡ bí cho ngài thẩm phán, “bên nguyên không có gì phản đối việc xóa bỏ các tội danh kể trên khỏi cáo trạng.”

“Tôi rất biết ơn sự can thiệp của ông, ông Pearson,” ngài thẩm phán nói, “và đồng ý rằng đó là giải pháp thích hơp. Tôi sẽ thông báo việc này với bồi thẩm đoàn khi họ quay lại.”

“Xin cảm ơn ngài thẩm phán,” Alex nói. “Tôi rất biết ơn ông Pearson về sự trợ giúp của ông trong vấn đề này.”

“Tuy vậy,” ngài thẩm phán nói, “tôi tin chắc ông không cần tôi phải nhắc lại, ông Redmayne, rằng tội danh nghiêm trọng nhất, tội vượt ngục trong khi đang bị giam giữ, vẫn được giữ nguyên trong cáo trạng.”

“Tôi hoàn toàn ý thức được điều này, thưa ngài thẩm phán,” Alex nói.

Ngài thẩm phán gật đầu. “Vậy tôi sẽ cho gọi bồi thẩm đoàn quay lại để thông báo cho họ diễn biến mới này.”

“Còn một vấn đề có liên quan, thưa ngài thẩm phán.”

“Vấn đề gì vậy, ông Redmayne?” ngài thẩm phán đặt bút xuống hỏi.

“Thưa ngài thẩm phán, theo chứng cớ của Sir Hugo Moncrieff, chúng tôi đã cho triệu tập ông Spencer Craig QC ra trước tòa với tư cách nhân chứng. Ông đã đề nghị ngài thẩm phán thông cảm vì hiện tại ông đang biện hộ tại một phiên tòa cũng diễn ra tại tòa nhà này, và chỉ có thể trình diện trước ngài thẩm phán vào sáng ngày mai.”

Một số phóng viên vội vã chạy ra ngoài phòng xử án để gọi điện về cho ban tin tức của họ.

“Ông Pearson?” ngài thẩm phán nói.

“Chúng tôi không có kháng nghị nào, thưa ngài thẩm phán.”

“Cảm ơn ông. Khi bồi thẩm đoàn quay trở lại, sau khi đã thông báo cho họ hai diễn biến vừa rồi, tôi sẽ giải tán bồi thẩm đoàn trong phần còn lại của ngày hôm nay.”

“Xin theo như ý ngài, thưa ngài thẩm phán,” Alex nói, “nhưng trước khi ngài làm những việc đó, tôi có thể thông báo trước để ngài biết một thay đổi nhỏ trong quá trình biện hộ diễn ra ngày mai được không?” Một lần nữa ngài thẩm phán lại đặt bút xuống và gật đầu.

“Thưa ngài thẩm phán, chắc ngài cũng rõ có một truyền thống đã được thừa nhận tại các tòa án Anh cho phép trợ lý của một luật sư tiến hành thẩm vấn một trong các nhân chứng trong một phiên tòa để họ thu thập thêm kinh nghiệm và có cơ hội phát triển sự nghiệp của mình.”

“Tôi nghĩ tôi đã hiểu ý ông muốn nói gì, ông Redmayne.”

“Vậy thì với sự chấp thuận của ngài, thưa ngài thẩm phán, trợ lý của tôi, Sir Matthew Redmayne, sẽ đại diện cho bên bào chữa khi chúng tôi thẩm vấn nhân chứng tiếp theo, ông Spencer Craig.”

Những phóng viên còn nán lại giờ cũng đổ dồn ra cửa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 76


Danny lại có thêm một đêm không ngủ nữa trong phòng giam của anh tại Belmarsh, và những tiếng ngáy như sấm của Al Mập không phải là thứ duy nhất khiến anh không tài nào chợp mắt được.

Beth ngồi thu lu trên giường cố đọc một cuốn sách, nhưng nàng thậm chí còn không buồn giở trang trong khi tâm trí đang để cả vào đoạn kết của một câu chuyện khác.

Alex Redmayne cũng không ngủ, vì anh hiểu nếu ngày mai họ thất bại, anh sẽ không có cơ hội thứ ba.

Sir Matthew Redmayne thậm chí không nghĩ đến chuyện quay về giường ngả lưng, mà xem đi xem lại danh sách câu hỏi ông đã chuẩn bị.

Spencer Craig trằn trọc trở mình trong khi gã cố hình dung ra những câu hỏi Sir Matthew có khả năng đặt ra nhất, cũng như cách để tránh không phải trả lời những câu hỏi đó.

Arnold Pearson không hề ngủ.

Thẩm phán Hackett ngủ rất say.

Phòng xử án số bốn đã đông chật người khi Danny ngồi vào ghế bị cáo. Anh đưa mắt nhìn quanh phòng xử án, và ngạc nhiên thấy một đám đông luật sư, kể cả các luật gia cao cấp, đang có mặt để tìm kiếm những điểm đáng học hỏi từ phiên xét xử sắp diễn ra.

Hàng ghế dành cho giới báo chí chật ních các phóng viên chuyên đưa tin hình sự vốn đã tung ra hàng trăm cột báo trong suốt tuần vừa qua, đồng thời báo trước chủ bút của họ hãy chờ đợi một câu chuyện nóng hổi cho trang nhất số ra ngày hôm sau. Họ nóng lòng được chứng kiến cuộc đối đầu giữa luật sư xuất chúng nhất kể từ sau F.E.Smith và thành viên trẻ tuổi của Hội đồng cố vấn Nữ hoàng, cũng là người nổi bật nhất trong thế hệ của mình (The Times), hay giữa Chồn và Rắn (Sun).

Danny nhìn lên khu vực dành cho công chúng và mỉm cười với Beth, lúc này đã ngồi vào vị trí quen thuộc bên cạnh mẹ nàng. Sarah Davenport ngồi ở góc trong cùng của hàng ghế đầu tiên, đầu cúi gằm. Trên băng ghế dành cho luật sư, ông Pearson đang trao đổi với trợ lý của mình. Ông ta có vẻ thoải mái hơn vào bất cứ thời điểm nào khác kể từ đầu phiên tòa; cũng dễ hiểu vì hôm nay ông ta chỉ là người dự khán chứ không phải người trong cuộc.

Những chỗ ngồi duy nhất còn trống trong phòng xử án nằm ở phía đối diện của băng ghế dành cho luật sư, đang đợi sự xuất hiện của Alex Redmayne cùng trợ lý của anh. Có thêm hai nhân viên cảnh sát được bổ sung trước cửa để giải thích với những người đến muộn rằng chỉ những người có chức phận mới được chấp nhận cho vào phòng xử án.

Danny ngồi ở giữa khu vực dành cho bị cáo, chỗ ngồi tốt nhất trong cả căn khán phòng này. Đây là một màn trình diễn anh thực sự ao ước được đọc qua kịch bản trước khi kéo màn.

Những tiếng rì rầm sốt ruột bắt đầu vang lên trong phòng khi mọi người chờ đợi sự xuất hiện của bốn nhân vật trong cuộc còn lại. Đến mười giờ kém năm phút, một cảnh sát mở cửa ra vào phòng xử án, một tràng trầm trồ vang lên trong đám đông có mặt tại phòng xử án khi những người không tìm được chỗ ngồi đứng dẹp sang bên nhường chỗ cho Alex Redmayne cùng trợ lý của anh đi qua để tới chỗ ngồi.

Sáng hôm nay, Sir Matthew không còn giả bộ ngồi thu mình vào một góc nhắm mắt lại nữa. Thậm chí ông còn không ngồi xuống ghế. Ông đứng thẳng người nhìn một lượt quanh phòng xử án. Đã nhiều năm trôi qua kể từ lần cuối cùng ông có mặt tại một tòa án với tư cách luật sư. Sau khi đã tìm lại cảm giác quen thuộc, ông lấy ra một chiếc kệ gỗ nhỏ gập được mà vợ ông đã moi từ trong nhà kho trên tầng áp mái ra tối hôm trước sau hơn một thập kỷ không còn được dùng đến, rồi mở nó ra. Ông đặt chiếc kệ lên bàn trước mặt mình, và lấy từ trong túi ra một tập giấy trên đó ông đã viết tay bằng nét chữ gọn ghẽ dễ đọc của mình các câu hỏi mà Spencer Craig đã trằn trọc cả đêm cố dự đoán trước. Cuối cùng, ông đưa cho Alex hai bức ảnh mà họ đều biết sẽ quyết định số phận của Danny Cartwright.

Sau khi mọi thứ đã được sắp đặt đâu vào đấy, Sir Matthew mới quay sang mỉm cười với đối thủ cũ của mình. “Một buổi sáng tốt lành, Arnold,” ông nói. “Tôi thực sự hy vọng hôm nay chúng tôi sẽ không làm phiền ông quá nhiều.”

Pearson đáp lại bằng một nụ cười. “Một cảm xúc mà tôi hoàn toàn có thể chia sẻ,” ông ta nói. “Thực ra, tôi sẽ phá vỡ thói quen của cả một đời, Matthew, và chúc ông may mắn, bất chấp sự thật là trong suốt những năm làm luật sư của mình tôi chưa một lần muốn đối thủ chiến thắng. Hôm nay là một ngoại lệ.”

Sir Matthew hơi cúi người. “Tôi sẽ làm tốt nhất có thể để hoàn thành ước nguyện của ông.” Sau đó ông ngồi xuống, nhắm mắt lại và bắt đầu tập trung tĩnh tâm.

Alex bận rộn chuẩn bị các tài liệu, văn bản, ảnh chụp và những tư liệu cần thiết khác thành những chồng gọn gàng để khi bố anh đưa tay phải ra, giống như trong một cuộc chạy tiếp sức Olympic, chiếc gậy sẽ lập tức được chuyển cho ông.

Tiếng ồn của những lời bàn tán vô thưởng vô phạt dừng lại khi thẩm phán Hackett xuất hiện. Ông thong thả đi tới chỗ ba chiếc ghế được kê ở chính giữa khu vực dành cho chủ tọa phiên tòa, cố ý tạo ra ấn tượng rằng sẽ không có chuyện gì bất thường sắp xảy ra tại tòa buổi sáng hôm đó.

Sau khi đường hoàng ngồi xuống chiếc ghế giữa, ông dành ra nhiều thời gian hơn thường lệ để chuẩn bị bút viết, kiểm tra sổ ghi chép trong khi đợi bồi thẩm đoàn yên vị.

“Chúc buổi sáng tốt lành,” ông lên tiếng sau khi họ đã ngồi vào chỗ với giọng hơi có vẻ bề trên. “Các thành viên của bồi thẩm đoàn, nhân chứng đầu tiên hôm nay sẽ là ông Spencer Craig QC. Các vị còn nhớ tên ông này đã được nhắc đến trong cuộc thẩm vấn Sir Hugo Moncrieff. Ông Craig không xuất hiện với tư cách là nhân chứng cho bên nguyên hay bên bị, mà đã được triệu tập tới phiên tòa này, có nghĩa là ông không ra trước tòa làm chứng một cách tự nguyện. Các vị cần nhớ rằng bổn phận duy nhất của mình là quyết định xem liệu bằng chứng ông Craig đưa ra có gì liên quan tới vụ án đang được xét xử tại phiên tòa này, cụ thể là liệu bị cáo có trốn khỏi nơi giam giữ một cách trái phép hay không? Trên cơ sở đó, và chỉ duy nhất trên cơ sở đó, các vị sẽ đưa ra phán quyết của mình.”

Thẩm phán Hackett đưa mắt nhìn xuống bồi thẩm đoàn trước khi chuyển sự chú ý sang vị trợ lý cho luật sư bên bị. “Sir Matthew,” ông nói, “ông đã sẵn sàng cho gọi nhân chứng chưa?”

Matthew Redmayne chậm rãi đứng lên.”Tôi đã sẵn sàng, thưa ngài thẩm phán,” ông trả lời, nhưng chưa làm vậy ngay. Ông rót cho mình một ly nước, sau đó đeo kính vào, rồi cuối cùng mở tập hồ sơ có bìa da màu đỏ của mình ra. Sau khi đã hoàn toàn hài lòng nhận thấy bản thân đã sẵn sàng cho cuộc đối đầu, ông nói, “Tôi xin cho gọi ông Spencer Craig,” từng từ trong câu nói của ông rung lên như những tiếng ngân của một hồi chuông báo tử.

Một người cảnh sát bước ra ngoài lối đi nói lớn tiếng, “Ông Spencer Craig!”

Sự chú ý của mọi người giờ đây dồn cả vào cửa phòng xử án, chờ đợi sự xuất hiện của nhân chứng cuối cùng. Một lát sau, Spencer Craig, mặc bộ trang phục chính thức của luật sư, bình thản bước vào phòng xử án như thể hôm đó chỉ là một ngày bình thường nữa trong cuộc đời của một luật sư bận rộn.

Craig bước lên bục nhân chứng, cầm cuốn Kinh thánh lên, quay mặt hướng về phía bồi thẩm đoàn đọc lời tuyên thệ một cách dõng dạc đầy tự tin. Gã biết rõ chính họ, và chỉ có họ, là người quyết định số phận của gã. Gã trả lại cuốn Kinh thánh cho người mõ tòa, rồi quay sang đối diện với Sir Matthew.

“Ông Craig,” Sir Matthew bắt đầu bằng giọng nhỏ nhẹ như ru ngủ, như thể ông muốn trợ giúp nhân chứng bằng mọi cách có thể. “Ông có thể vui lòng nói tên và địa chỉ để đưa vào biên bản không?”

“Spencer Craig, số bốn mươi ba Hambledon Terrace, London SW3.”

“Nghề nghiệp của ông là gì?”

“Tôi là luật sư và thành viên Hội đồng cố vấn

Nữ hoàng.”

“Vậy tôi không cần phải nhắc lại với một thành viên cao cấp như vậy của cộng đồng luật gia về ý nghĩa của lời tuyên thệ cũng như thẩm quyền của phiên tòa này.”

“Không hề cần thiết, Sir Matthew,” Craig đáp, “mặc dù có vẻ như ngài vừa làm điều đó xong.”

“Ông Craig, lần đầu tiên ông phát hiện ra Sir Nicholas Moncrieff trên thực tế là ông Daniel Cartwright là vào khi nào?”

“Một người bạn của tôi đã từng học cùng trường với Sir Nicholas đã bắt gặp bị cáo ở khách sạn Dorchester. Anh ta nhanh chóng nhận ra người đàn ông đó là một kẻ mạo danh.”

Alex đánh một dấu chữ V vào ô đầu tiên. Rõ ràng Craig đã lường trước câu hỏi này và đưa ra một câu trả lời được chuẩn bị chu đáo.

“Vậy tại sao người bạn này lại quyết định báo cho chính ông, chứ không phải ai khác, khám phá đáng chú ý này?”

“Anh ta không hề làm thế, Sir Matthew; nó chỉ tình cờ xuất hiện trong lúc chuyện trò bên bàn ăn một buổi tối mà thôi.”

Một dấu chữ V nữa.

“Vậy sau đó lý do nào đã khiến ông thực hiện hành động điều tra đầy mạo hiểm để đi đến kết luận người đàn ông đang tự nhận là Sir Nicholas Moncrieff trên thực tế là Daniel Cartwright?”

“Tôi đã không hề làm việc đó trong suốt một thời gian sau đó,” Craig nói, “cho tới khi tôi được giới thiệu với người tự nhận là Sir Nicholas vào một buổi tối tại nhà hát, và tôi thực sự kinh ngạc trước sự giống nhau về bề ngoài, nếu không nói đến phong cách, giữa người này và Cartwright.”

“Có phải đó chính là thời điểm ông quyết định liên lạc với Chánh thanh tra Fuller và báo cho ông ta biết về nghi ngờ của mình không?”

“Không. Tôi cảm thấy làm thế sẽ là thiếu trách nhiệm, vì thế trước hết tôi liên lạc với một thành viên của gia đình Moncrieff trong trường hợp, nói như cách diễn đạt của ngài, tôi thực hiện hành động điều tra đầy mạo hiểm.”

Alex đánh thêm một dấu chữ V nữa vào danh sách câu hỏi. Cho tới lúc này, bố anh vẫn chưa gây khó dễ được cho Craig.

“Ông đã liên lạc với thành viên nào của gia đình?” Sir Matthew hỏi, dù đã biết quá rõ câu trả lời.

“Ông Hugo Moncrieff, chú của Sir Nicholas, người cho tôi biết cháu ông đã không hề liên lạc với ông kể từ khi ra tù hai năm trước, điều này càng khẳng định thêm nghi ngờ của tôi.”

“Và lúc đó ông đã báo lại những nghi ngờ này với Chánh thanh tra Fuller?”

“Không, tôi vẫn cảm thấy tôi cần có thêm bằng chứng chắc chắn hơn.”

“Nhưng ông Chánh thanh tra có thể gánh đỡ cho ông gánh nặng đó, ông Craig. Tôi cảm thấy hơi khó hiểu vì sao một quý ông với nghề nghiệp bận rộn như ông lại chọn cách tiếp tục liên can vào?”

“Như tôi đã giải thích, Sir Matthew, tôi cảm thấy tôi có trách nhiệm cần đảm bảo mình sẽ không làm lãng phí thời gian của cảnh sát.”

“Một tinh thần vì cộng đồng thật gương mẫu.” Craig tảng lờ lời bình luận đầy châm biếm và tiếp tục mỉm cười với bồi thẩm đoàn. “Nhưng tôi buộc phải hỏi ông,” Sir Matthew nói thêm, “ai đã báo cho ông biết về những lợi ích đầy triển vọng nếu ông có thể chứng minh người tự nhận mình là Sir Nicholas Moncrieff trên thực tế đang mạo danh?”

“Những lợi ích?”

“Phải, những lợi ích, ông Craig.”

“Tôi không chắc có thực sự hiểu ý ông hay không,” Craig nói. Alex đánh dấu chéo đầu tiên vào danh sách của mình. Rõ ràng nhân chứng đang cố gắng kéo dài thời gian.

“Vậy hãy cho phép tôi trợ giúp ông,” Sir Matthew nói. Ông đưa tay phải ra và Alex chuyển cho ông một tờ giấy. Sir Matthew chậm rãi đưa mắt xuống dọc theo tờ giấy, để Craig có thời gian để tự hỏi tờ giấy này liệu đang ẩn chứa quả bom nổ chậm nào.

“Ông Craig, tôi có đúng không khi nói rằng,” Sir Matthew nói, “nếu ông có thể chứng minh người tự sát trong nhà tù Belmarsh là Nicholas Moncrieff chứ không phải Danny Cartwright, ông Hugo Moncrieff sẽ không chỉ được thừa hưởng tước vị của gia đình, mà cả một gia sản lớn đi kèm với nó.”

“Tôi không hề biết đến chuyện này vào thời điểm đó,” Craig nói, không chút nao núng.

“Vậy là ông đã hành động hoàn toàn từ lòng vị tha?”

“Phải, đúng vậy, cũng như mong muốn được thấy một tên tội phạm nguy hiểm và bạo lực bị tống vào tù.”

“Ông Craig, lát nữa tôi sẽ đề cập tới tên tội phạm nguy hiểm và bạo lực cần bị tống vào tù này, nhưng trước đó cho phép tôi được hỏi ông vào thời điểm nào ý thức sâu sắc về nghĩa vụ với cộng đồng của ông đã bị vượt qua bởi khả năng nhanh chóng kiếm được một khoản tiền lớn?”

“Sir Matthew,” ngài thẩm phán ngắt lời ông, “đây khó có thể coi là thứ ngôn ngữ tôi chờ đợi từ một trợ lý luật sư khi nói với một thành viên của Hội đồng cố vấn Nữ hoàng.”

“Tôi xin lỗi, thưa ngài thẩm phán. Tôi sẽ đặt lại câu hỏi của mình. Ông Craig, vào thời điểm nào ông bắt đầu ý thức được cơ hội kiếm được hàng triệu bảng cho mẩu thông tin ông đã tình cờ thu lượm được từ người bạn của mình bên bàn ăn tối?”

“Khi Sir Hugo đề nghị tôi hành động nhân danh ông ta một cách kín đáo.”

Alex đánh một dấu chữ V nữa vào bên cạnh một câu hỏi, mặc dù anh biết Craig đang nói dối.

“Ông Craig, ông có nghĩ sẽ là hợp đạo lý với một QC hay không khi đòi tới hai mươi lăm phần trăm tài sản thừa kế của một người nào đó chỉ để đổi lấy một mẩu thông tin nghe lại được?”

“Sir Matthew, ngày nay việc các luật sư được trả thù lao theo kết quả là việc rất bình thường,” Craig bình thản đáp. “Tôi biết hình thức này mới chỉ xuất hiện sau thời của ông, vì thế có lẽ tôi cần chỉ ra rằng tôi đã không hề đòi lệ phí hay bất cứ khoản chi phí nào khác, và nếu những nghi ngờ của tôi bị chứng minh là sai, tôi sẽ mất không ít thời gian và tiền bạc của mình.”

Sir Matthew nhìn gã mỉm cười. “Ông Craig, vậy ông sẽ rất vui được biết rằng khía cạnh đầy vị tha trong con người ông đã chiến thắng.” Craig không chộp lấy miếng mồi Sir Matthew thả ra, mặc dù gã đang vắt óc cố đoán xem ông có ý gì. Sir Matthew dành cho gã một khoảng thời gian trước khi nói thêm, “Như ông hẳn cũng đã biết, mới đây tòa đã được ông Fraser Munro, luật sư của Sir Nicholas Moncrieff đã quá cố, cho biết thân chủ của ông để lại toàn bộ tài sản cho người bạn thân của mình, ông Danny Cartwright. Như vậy, đúng như ông từng e ngại, ông đã mất không không ít thời gian và tiền bạc của mình. Nhưng bất chấp vận may của thân chủ tôi, tôi xin cam đoan với ông, thưa ông Craig, tôi sẽ không đòi hỏi thân chủ của mình phải trả hai mươi lăm phần trăm tài sản thừa kế cho sự phục vụ của tôi.”

“Và ông có muốn cũng không được,” Craig giận dữ gầm lên,”vì hắn sẽ phải ngồi tù ít nhất trong hai mươi lăm năm tới đây, và vì thế sẽ phải đợi một khoản thời gian dài khủng khiếp trước khi được hưởng lợi từ món hời từ trên trời rơi xuống này.”

“Rất có thể tôi sai, ông Craig,” Sir Matthew khẽ nói, “nhưng tôi có cảm giác rằng bồi thẩm đoàn mới là những người ra quyết định, chứ không phải ông.”

“Rất có thể tôi sai, Sir Matthew, nhưng tôi nghĩ rằng ông sẽ thấy bồi thẩm đoàn đã lựa chọn xong quyết định của mình rồi.”

“Điều này đưa tôi tới đúng cuộc gặp của ông với Chánh thanh tra Fuller, cuộc gặp mà ông rất muốn không ai khám phá ra.” Craig trông có vẻ như định trả lời, nhưng sau đó đã nghĩ lại và để Sir Matthew tiếp tục. “Ông Chánh thanh tra, đúng như một sĩ quan cảnh sát mẫn cán, đã cho tòa được biết ông cần nhiều chứng cớ hơn những bức ảnh cho thấy sự giống nhau về ngoại hình giữa hai người đàn ông trước khi ông có thể cân nhắc tới việc tiến hành bắt người. Để trả lời một trong những câu hỏi mà luật sư chính của tôi đã đặt ra, ông ấy xác nhận chính ông là người đã cung cấp cho ông ấy bằng chứng đó.”

Sir Matthew biết ông đang đi một nước cờ mạo hiểm. Nếu Craig trả lời rằng gã không hiểu ông đang nói về điều gì, và rằng gã chỉ đơn thuần báo lại toàn bộ nghi ngờ của mình cho viên Chánh thanh tra và để cho ông ta tự quyết định hành động nên làm tiếp theo, Sir Matthew sẽ không thể đặt ra tiếp câu hỏi nào nữa. Khi đó ông sẽ phải chuyển sang một chủ đề khác, và Craig rẩt có thể sẽ hiểu ra ông chỉ đang tìm cách moi thông tin - và đã không đạt được gì. Nhưng Craig không trả lời ngay, điều này khiến Sir Matthew có thêm tự tin để thực hiện một bước kế tiếp còn mạo hiểm hơn. Ông quay sang Alex và nói bằng giọng đủ lớn để Craig có thể nghe thấy, “Đưa cho bố những tấm ảnh chụp Cartwright đang chạy dọc Embankment, những tấm ảnh cho thấy rõ vết sẹo.”

Alex đưa cho bố anh hai tấm ảnh lớn.

Sau một hồi im lặng, Craig nói, “có lẽ tôi đã nói với ông Chánh thanh tra nếu người đàn ông đang sống trong ngôi nhà ở The Boltons có một vết sẹo trên đùi trái, ngay trên đầu gối, điều đó sẽ chứng tỏ hắn ta chính là Danny Cartwright.”

Khuôn mặt Alex không để lộ điều gì, mặc dù anh có thể nghe thấy tim mình đang đập thình thịch.

“Và ông đã đưa vài tấm ảnh cho ông Chánh thanh tra để chứng minh luận điểm của mình, đúng không?”

“Tôi có thể đã làm vậy,” Craig thừa nhận.

“Có lẽ nếu ông vui lòng xem qua bản chụp lại những tấm ảnh đó, chúng sẽ giúp ông nhớ ra chăng?” Sir Matthew đề xuất, đồng thời chìa những tấm ảnh về phía gã. Nước cờ mạo hiểm nhất.

“Không cần thiết,” Craig nói.

“Tôi muốn xem qua những tấm ảnh đó,” ngài thẩm phán nói, “và tôi cho rằng bồi thẩm đoàn cũng vậy, Sir Matthew.” Alex quay sang nhìn và thấy một số thành viên bồi thẩm đoàn cũng gật đầu.

“Tất nhiên rồi, thưa ngài thẩm phán,” Sir Matthew nói. Alex chuyển một tập ảnh cho người mõ tòa, người này đưa hai tấm cho ngài thẩm phán trước khi phân phát số ảnh còn lại cho bồi thẩm đoàn, Pearson và cuối cùng là nhân chứng.

Craig nhìn chằm chằm vào những bức ảnh, không tin nổi vào mắt mình. Đây không phải là những bức ảnh Gerald Payne đã chụp khi Cartwright ra ngoài chạy bộ vào ban đêm. Nếu vừa rồi gã không thừa nhận có biết đến vết sẹo bên bị chắc hẳn đã thất bại hoàn toàn, còn bồi thẩm đoàn cũng sẽ không biết thêm được điều gì. Gã nhận ra Sir Matthew vừa tung ra một cú đòn, nhưng gã vẫn trấn tĩnh lại được, và chắc chắn sẽ không để mắc bẫy thêm một lần thứ hai.

“Thưa ngài thẩm phán,” Sir Matthew nói, “ngài sẽ thấy vết sẹo mà nhân chứng đề cập đến trên đùi trái của ông Cartwright, ngay trên đầu gối. Nó đã mờ đi theo thời gian, nhưng vẫn còn đủ rõ để nhận ra bằng mắt thường.” Ông chuyển sự chú ý trở lại nhân chứng.

“Ông Craig, ông cần biết Chánh thanh tra Fuller đã xác nhận dưới lời tuyên thệ rằng đây chính là bằng chứng mà ông ấy đã dựa vào để đi đến quyết định bắt giữ thân chủ của tôi.” Craig không tìm cách bác bỏ. Sir Matthew cũng không dồn ép gã, vì ông cảm thấy điểm này đã được xác lập vững chắc. Ông dừng lời để bồi thẩm đoàn có thêm thời gian nghiên cứu các tấm ảnh, vì ông cần vết sẹo đó được ghi sâu vào trí nhớ của họ trước khi đưa ra một câu hỏi mà ông tin chắc Craig không thể lường trước được.

“Lần đầu tiên ông gọi điện cho Chánh thanh tra Fuller là khi nào?”

Một lần nữa lại là sự im lặng, vì Craig, giống như tất cả những người còn lại trong phòng xử án, ngoại trừ Alex, đều đang cố tìm ra ý nghĩa của câu hỏi.

“Tôi không chắc mình hiểu rõ câu hỏi của ngài,” cuối cùng gã lên tiếng.

“Vậy hãy cho phép tôi giúp ông nhớ lại, ông Craig. Ông đã gọi cho Chánh thanh tra Fuller vào ngày hai mươi ba tháng mười năm ngoái, một ngày trước khi ông gặp ông ấy tại một địa điểm bí mật để đưa ra những tấm ảnh cho thấy rõ vết sẹo của Cartwright. Nhưng lần đầu tiên ông liên hệ với ông ấy là khi nào?”

Craig cố nghĩ ra một cách có thể giúp gã tránh không phải trả lời câu hỏi của Sir Matthew. Gã nhìn về phía ngài thẩm phán, hy vọng có được chỉ dẫn. Gã không nhận được gì.

“Ông ấy chính là viên cảnh sát đã tới Dunlop Arm khi tôi gọi đến số 999 sau khi tôi chứng kiến Danny Cartwright đâm bạn hắn đến chết,” cuối cùng gã đành lên tiếng.

“Bạn hắn,” Sir Matthew nhanh chóng nhắc lại, đưa chi tiết này vào biên bản của phiên tòa trước khi ngài thẩm phán kịp can thiệp. Alex mỉm cười trước sự khôn ngoan của bố anh.

Ngài thẩm phán Hackett cau mày. Ông biết giờ không thể ngăn cản Sir Matthew tiếp tục đưa ra câu hỏi liên quan tới phiên tòa ban đầu một khi chính Craig đã vô tình đề cập tới chủ đề đó. “Bạn hắn,” Sir Matthew lặp lại trong lúc nhìn về phía bồi thẩm đoàn. Ông chờ đợi Arnold Pearson đứng bật dậy ngắt lời mình, nhưng không hề có cử động nào từ đầu bên kia của băng ghế luật sư.

“Bernard Wilson đã được mô tả như vậy trong biên bản của phiên tòa,” Craig tự tin nói.

“Đúng là như vậy,” Sir Matthew nói, “và tôi sẽ viện dẫn đến biên bản đó muộn hơn. Nhưng lúc này tôi muốn quay trở lại với Chánh thanh tra Fuller. Trong lần đầu tiên gặp ông gặp ông ấy, sau cái chết của Bernard Wilson, ông đã đưa ra lời khai.”

“Phải, tôi có làm vậy.”

“Trên thực tế, ông Craig, ông đã đưa ra ba bản lời khai: bản thứ nhất, ba mươi bảy phút sau khi vụ đâm người diễn ra; bản thứ hai, ông đã viết ngay trong đêm hôm xảy ra án mạng vì không sao ngủ được; và bản thứ ba được thực hiện bảy tháng sau đó, khi ông xuất hiện trên bục nhân chứng trong phiên tòa xử Danny Cartwright. Tôi có trong tay cả ba bản lời khai đó, và tôi phải thừa nhận, ông Craig, rằng chúng ăn khớp với nhau đến mức đáng khâm phục.” Craig không bình luận gì vì gã đã trông đợi trước cú khiêu khích này. “Tuy nhiên, điều khiến tôi không hiểu nổi chính là vết sẹo trên đùi trái của Cartwright vì ông đã nói trong lời khai đầu tiên của mình -” Alex chuyển cho bố anh một tờ giấy, ông cầm lấy và đọc “- tôi trông thấy Cartwright cầm lấy con dao trên quầy bar và đi theo người phụ nữ cùng người đàn ông kia ra ngoài con hẻm. Một lát sau tôi nghe thấy có tiếng kêu. Lúc đó tôi chạy ra ngoài hẻm và trông thấy Cartwright đâm liên tiếp vào ngực Wilson. Sau đó tôi quay lại quầy bar và lập tức gọi cảnh sát.” Sir Matthew ngước mắt lên. “Ông có muốn sửa đổi gì nội dung lời khai này không?”

“Không,” Craig nói với giọng kiên quyết, “đó chính xác là những gì đã xảy ra.”

“À, không hoàn toàn chính xác đâu,” ông Redmayne nói, “bởi vì báo cáo của cảnh sát cho biết ông đã gọi điện tới vào lúc mười một giờ hai mươi ba phút, vì vậy một người khác sẽ buộc phải đặt ra câu hỏi ông đã làm gì giữa -”

“Sir Matthew,” ngài thẩm phán ngắt lời ông, ngạc nhiên thấy Pearson không hề đứng dậy can thiệp mà vẫn ngồi yên vị tại chỗ của mình, hai tay khoanh vào nhau. “Ngài có thể chứng minh được chuỗi câu hỏi này có liên quan tới phiên tòa hiện tại hay không, nhớ rằng tội danh duy nhất còn lại liên quan tới việc thân chủ của ngài đào thoát khỏi nơi giam giữ?”

Sir Matthew đợi một khoảng thời gian đủ lâu để khiến bồi thẩm đoàn trở nên tò mò muốn biết nguyên nhân khiến ông không được hoàn tất nốt câu hỏi trước của mình rồi mới trả lời. “Không, tôi không thể, thưa ngài thẩm phán. Tuy vậy, tôi thực sự muốn đi theo một hướng thẩm vấn có liên quan tới vụ án này, cụ thể là tới vết sẹo ở chân trái của bị cáo.” Ông một lần nữa nhìn thẳng vào mặt Craig. “Ông Craig, liệu tôi có thể xác nhận rằng ông đã không chứng kiến việc Danny Cartwright bị đâm vào chân, khiến anh ta có một vết sẹo có thể thấy rất rõ trong các tấm ảnh mà ông đưa cho ông Chánh thanh tra, và cũng là bằng chứng ông ấy dựa vào để bắt thân chủ của tôi?”

Alex nín thở. Phải một lúc sau Craig mới trả lời, “Không, tôi không chứng kiến việc này.”

“Nếu vậy mong ông hãy dành cho tôi một chút thời gian, ông Craig, và cho phép tôi đưa ra ba kịch bản để ông xem xét. Sau đó ông có thể nói với bồi thẩm đoàn, từ kinh nghiệm vô cùng phong phú của ông về tâm lý tội phạm, xem kịch bản nào trong số đó ông coi là có lý hơn cả.”

“Nếu ngài cảm thấy trò chơi trong nhà này có thể giúp ích ít nhiều cho bồi thẩm đoàn, Sir Matthew,” Craig thở dài, “vậy thì xin mời ngài.”

“Tôi nghĩ ông sẽ thấy trò chơi trong nhà này sẽ giúp ích rất nhiều cho bồi thẩm đoàn,” Sir Matthew nói. Hai người đứng nhìn nhau chằm chằm một hồi trước khi Sir Matthew nói tiếp, “Cho phép tôi được đưa ra kịch bản thứ nhất. Danny Cartwright lấy con dao từ quầy bar đúng như ông đã nói, theo vị hôn thê của anh ta ra ngoài hẻm, dùng dao đâm vào đùi mình, rút dao ra, rồi đâm người bạn thân nhất của mình đến chết.”

Tiếng cười vỡ òa trong phòng xử án. Craig đợi những tiếng cười lắng xuống trước khi trả lời.

“Một giả thiết hoàn toàn lố bịch, Sir Matthew, và ngài cũng biết vậy.”

“Tôi thực sự vui mừng vì cuối cùng chúng ta cũng tìm thấy một điểm tương đồng, ông Craig. Cho phép tôi chuyển sang kịch bản thứ hai của mình. Trong kịch bản này, trên thực tế Bernie Wilson là người lấy con dao từ quầy bar, anh ta và Cartwright cùng đi ra ngoài hẻm, anh ta đâm vào chân Cartwright, sau đó rút dao ra và tự đâm mình đến chết.”

Lần này đến cả bồi thẩm đoàn cũng gia nhập tràng cười.

“Giả thiết này còn lố bịch hơn,” Craig nói. “Tôi không rõ ông đang tưởng tượng ra trò chơi chữ này sẽ chứng minh được điều gì.”

“Trò chơi chữ này đã chứng minh,” Sir Matthew nói, “rằng người đã đâm vào chân Danny Cartwright cũng chính là người đã đâm vào ngực Bernie Wilson, bởi vì chỉ có một con dao được sử dụng - con dao đã bị lấy đi từ quầy bar. Vì vậy tôi đồng ý với ông, ông Craig, rằng hai kịch bản đầu tiên của tôi hoàn toàn lố bịch, nhưng trước khi tôi đưa kịch bản thứ ba ra trình bày với ông, cho phép tôi được hỏi ông một câu hỏi cuối cùng.” Mọi con mắt trong phòng xử án giờ dồn cả vào Sir Matthew. “Nếu ông không tận mắt chứng kiến Cartwright bị đâm vào chân, làm cách nào ông biết được về vết sẹo?”

Mọi con mắt lập tức chuyển sang Craig. Gã không còn giữ được vẻ bình thản nữa. Gã có thể cảm thấy hai lòng bàn tay đang nhớp nháp mồ hôi khi gã nắm chặt lấy thành bục nhân chứng bằng cả hai tay.

“Hẳn tôi đã đọc được chi tiết này trong biên bản của vụ án,” Craig nói, cố làm ra vẻ tự tin.

“Ông biết không, một trong những vấn đề mà một con ngựa chiến già nua như tôi phải đối diện sau khi đã được mời về nghỉ hưu lĩnh trợ cấp,” Sir Matthew nói, “là anh ta chẳng có gì để làm trong thời gian rảnh rỗi của mình cả. Vì thế trong sáu tháng vừa qua, thứ tôi luôn đọc trước khi đi ngủ chính là tập hồ sơ này.” Ông giơ lên một tập hồ sơ dày chừng năm ich(1), rồi nói thêm, “từ đầu đến cuối. Không chỉ một lần, mà hai lần. Và một trong những điều tôi đã khám phá ra trong những năm phục vụ công lý là thường không phải những gì được đưa vào bằng chứng khiến một kẻ tội phạm bị phát giác, mà lại là những gì đã bị để sót lại. Cho phép tôi được cam đoan với ông, ông Craig, từ trang đầu tới trang cuối không hề đả động gì tới một vết thương ở chân trái của Cartwright.” Sir Matthew nói thêm, gần như thì thầm, “Và thế là tôi đi đến kịch bản cuối cùng của mình, ông Craig. Chính ông là người đã lấy con dao từ quầy bar trước khi chạy ra ngoài hẻm. Chính ông là người đã đâm con dao đó vào chân Danny Cartwright. Chính ông là người đã đâm vào ngực Bernie Wilson và để mặc anh ta chết trong tay bạn mình. Và chính ông là người sẽ phải trải qua phần còn lại của cuộc đời trong tù.”

Một tiếng ồ lớn vang lên trong phòng xử án.

Sir Matthew quay sang Arnold Pearson, người vẫn không hề làm gì để hỗ trợ đồng nghiệp của mình, thay vào đó tiếp tục ngồi cúi người trên góc băng ghế dành cho luật sư, hai tay khoanh vào nhau.

Ngài thẩm phán đợi cho tới khi người mõ tòa đã kêu gọi mọi người im lặng và khôi phục lại trật tự trước khi nói, “Tôi cảm thấy cần cho ông Craig cơ hội đưa ra câu trả lời cho lời buộc tội của Sir Matthew thay vì để chúng bị bỏ lửng như vậy.”

“Tôi rất vui lòng làm điều đó, thưa ngài thẩm phán,” Craig bình thản nói, “nhưng trước hết tôi muốn đề xuất một kịch bản thứ tư để Sir Matthew có thể xem xét, một kịch bản ít nhất cũng đáng tin cậy.”

“Tôi đang nóng lòng muốn biết đây,” Sir Matthew nói, ngả người ra sau.

“Nếu xét đến tiền sử thân chủ của ông, chẳng lẽ không có khả năng vết thương đó đã được gây ra vào một thời điểm nào đó trước đêm xảy ra án mạng?”

“Nhưng điều đó vẫn không thể giải thích được bằng cách nào ông biết được về vết sẹo.”

“Tôi không cần phải giải thích,” Craig nói với giọng thách thức, “bởi vì một bồi thẩm đoàn đã quyết định rằng thân chủ của ông không hề có cái chân nào đáng tin cậy để đứng trên đó cả(1).”

“Tôi không dám quá chắc chắn về chuyện đó đâu,” Sir Matthew nói, quay sang con trai ông, anh lập tức đưa cho ông một chiếc hộp các tông nhỏ. Sir Matthew đặt chiếc hộp lên rìa bàn trước mặt mình, chờ một lát trước khi lấy từ trong hộp ra một chiếc quần jean và giơ nó lên trước mặt bồi thẩm đoàn. “Đây là chiếc quần jean mà nhà tù đã trả lại cô Elizabeth Wilson khi người ta vẫn cho rằng Danny Cartwright là người đã treo cổ tự vẫn. Tôi tin chắc bồi thẩm đoàn sẽ cảm thấy quan tâm đến một vết rách còn dính máu trên ống quần bên trái ở vùng đùi, khớp hoàn toàn với...”

Tiếng ồn ào bùng lên sau đó che lấp hoàn toàn những lời còn lại của Sir Matthew. Tất cả mọi người đều nhìn vào Craig, muốn biết câu trả lời của gã là gì, nhưng gã không có cơ hội để trả lời, vì cuối cùng Pearson cũng đứng dậy.

“Thưa ngài thẩm phán, tôi cần nhắc Sir Matthew rằng không phải ông Craig là người đang bị xét xử,” Pearson tuyên bố, gần như phải lấy hết sức hét lên để ngài thẩm phán có thể nghe thấy, “và bằng chứng này” - ông ta chỉ vào chiếc quần jean Sir Matthew vẫn còn cầm trên tay - “không có liên quan gì tới việc xác định xem Cartwright có bỏ trốn khỏi nơi giam giữ hay không.”

Thẩm phán Hackett không còn giấu được sự tức giận của mình nữa. Nụ cười dễ mến của ông đã bị thay thế bằng một khuôn mặt đằng đằng sát khí. Khi phòng xử án đã yên lặng trở lại, ông nói, “Tôi không thể không đồng ý với ông, ông Pearson. Một vết rách dính máu trên chiếc quần jean của bị cáo chắc chắn không có liên quan gì tới phiên tòa này.” Ông ngừng lời giây lát trước khi nhìn xuống nhân chứng với vẻ khinh bỉ. “Tuy vậy, tôi cảm thấy tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài bãi bỏ phiên tòa này, giải tán bồi thẩm đoàn cho tới khi toàn bộ biên bản của phiên tòa này cũng như của phiên tòa trước đây đã được chuyển tới ngài Công tố viên trưởng để xem xét, vì theo tôi đã có một sai lầm nghiêm trọng trong việc thực thi công lý trong vụ án Công tố Hoàng gia chống lại Daniel Arthur Cartwright.”

Lần này ngài thẩm phán không còn tìm cách dập tắt những tiếng ồn ào vang lên sau đó khi đám nhà báo cùng bổ nhào ra phía cửa, một số người đã bắt đầu nói liên hồi vào điện thoại di động ngay cả khi còn chưa ra khỏi phòng xử án.

Alex quay sang để chúc mừng bố anh, thì thấy ông ngồi phịch xuống góc băng ghế, nhắm mắt lại. Ông hé mở một mắt ra, chăm chú nhìn con trai mình và nhận xét, “Vẫn chưa kết thúc đâu, con trai.”

Phần 6: Phán quyết
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 77


Dù ta nói với giọng của con người và thiên thần, và không...

Sau khi cha Michael đã ban phước lành cho cô dâu chú rể, ông bà Cartwright cùng gia nhập với những người khác khi họ cùng tập trung lại quanh ngôi mộ của Danny Cartwright.

Và dù ta có thể tiên đoán được tương lai và hiểu mọi bí ẩn và hiểu biết, và dù ta có đủ niềm tin để dịch chuyển núi non, và không...

Chính cô dâu đã đề nghị tưởng nhớ đến Nick theo cách này, và cha Michael đã đồng ý thực hiện một buổi lễ tưởng niệm con người mà cái chết đã giúp Danny chứng minh được sự trong sạch của mình.

Và dù ta dành mọi của cải của ta để cứu giúp những người nghèo khó, và dù ta cam lòng để thân thể mình bị thiêu đốt, và không...

Ngoài Danny, chỉ có hai người có mặt tại đây biết được ai là người đã được chôn cất ở nơi xa lạ này. Một người trong số đó đang đứng thẳng ở đầu kia của ngôi mộ, mặc một chiếc áo đuôi tôm màu đen, áo sơmi cổ bẻ và nơ lụa đen. Fraser Munro đã đi từ Dunbroath tới khu East End của London để đại diện cho người cuối cùng của dòng họ Moncrieff mà ông từng phục vụ. Danny đã tìm cách cảm ơn ông về sự sáng suốt và nghị lực mà ông luôn thể hiện, nhưng ông Munro chỉ đáp lại, “Tôi ước gì có được đặc ân phục vụ cả hai người. Nhưng ý Chúa đã không muốn như vậy,” người thầy cả trong giáo hội Scotland nói thêm. Một điều nữa Danny chưa từng biết về ông.

Khi tất cả họ cùng gặp mặt tại Ngôi nhà của Wilson trước khi lễ cưới được cử hành, Munro đã dành ra khá nhiều thời gian chiêm ngưỡng những bức tranh của Danny. “Danny, tôi không hề biết cậu cũng là người sưu tập tranh của McTaggart, Peploe và Lauder.”

Danny cười. “Tôi nghĩ ông sẽ tìm ra Lawrence Davenport mới là người sưu tập chúng. Tôi chỉ mua lại thôi, nhưng sau khi đã chung sống với chúng, tôi dự kiến sẽ bổ sung thêm những bức tranh thuộc trường phái Scotland cho bộ sưu tập của mình.”

“Thật giống ông nội cậu,” Munro nói. Danny quyết định không chỉ ra chuyện anh thực ra chưa bao giờ gặp Sir Alexander. “Nhân tiện đây,” Munro dè dặt nói thêm, “tôi phải thú nhận đã nện một trong những đối thủ của cậu vào dưới thắt lưng trong khi cậu đang bị nhốt kỹ lưỡng ở Belmarsh.”

“Ai vậy?”

“Sir Hugo Moncrieff, không ai khác. Và tệ hơn nữa là tôi làm thế mà không hề xin phép cậu, một hành động thật thiếu tính nhà nghề. Tôi đã muốn giải thoát mình khỏi nó lâu nay rồi.”

“Được rồi, bây giờ là cơ hội của ông đây, ông Munro,” Danny nói, cố giữ vẻ mặt nghiêm chỉnh. “Vậy ông đã làm những gì trong khi tôi vắng mặt?”

“Tôi phải thú nhận là tôi đã gửi toàn bộ các giấy tờ có liên quan tới tính xác thực của bản di chúc thứ hai của Sir Alexander tới văn phòng biện lý hạt, cho họ biết tôi cảm thấy có dấu hiệu phạm pháp.” Danny không nói gì. Anh đã học được ngay từ buổi đầu mối quan hệ của họ không cắt ngang Munro khi ông đang nói. “Vì đã nhiều tháng trôi qua mà chưa có gì xảy ra, tôi đoán ông Galbraith bằng cách nào đó đã tìm cách khiến cho toàn bộ vụ việc bị cho qua.” Ông dừng lại. “Cho tới khi tôi đọc được trên tờ Scotsman sáng nay trong khi bay xuống London.” ông mở chiếc cặp bất ly thân, lấy ra một tờ báo và đưa cho Danny.

Danny nhìn chăm chú vào hàng tít trên trang đầu. Sir Hugo Moncrieff bị bắt vì giả mạo và âm mưu lừa đảo. Đi kèm bài báo là một tấm ảnh lớn của Sir Nicholas Moncrieff mà theo ý Danny chưa thể hiện được chân thực con người anh ta. Khi Danny đã đọc xong bài báo, anh mỉm cười nói với Munro, “Được rồi, ông từng nói rằng nếu ông ta định gây rắc rối cho tôi lần nữa thì “mọi điều đã thỏa thuận coi như bỏ qua.”

“Chẳng lẽ tôi đã nói thế thực?” Munro nói với vẻ bất bình.

Vì chúng ta biết một phần, và chúng ta tiên đoán một phần.

Danny nhìn sang người duy nhất còn lại có mặt từng là một người bạn của Nick, và biết rõ về anh ta hơn nhiều so với cả anh lẫn Munro. Al Mập đứng tham dự giữa Ray Pascoe và Alan Jenkins. Ngài giám đốc nhà tù đã cho phép anh ta được ra ngoài để dự tang lễ người bạn của mình. Danny mỉm cười khi đôi mắt của họ gặp nhau, nhưng Al Mập vội vàng cúi đầu xuống. Anh ta không muốn những người lạ mặt còn lại thấy mình đang khóc.

Nhưng khi điều thực sự hoàn hảo tới, khi đó một phần của nó cũng đã bị xóa nhòa đi.

Danny chuyển sự chú ý sang Alex Redmayne, người không dấu được niềm vui khi Beth mời anh làm cha đỡ đầu cho con trai của họ, em của Christy. Alex đứng bên cạnh bố anh, người đã giúp Danny lấy lại tự do.

Khi tất cả họ gặp nhau tại văn phòng của Alex vài ngày sau khi phiên tòa bị bãi bỏ, Danny đã hỏi Sir Matthew ý ông là gì khi nói “Vẫn chưa kết thúc đâu.” Ông thẩm phán già đã kéo Danny sang bên để Beth không nghe thấy những gì ông nói, rồi cho anh biết mặc dù Craig, Payne và Davenport đều đã bị bắt và khởi tố về vụ sát hại Bernie Wilson, cả ba vẫn một mực khẳng định mình vô tội, và rõ ràng cả ba gã đang cùng phối hợp thành một đội. Ông cảnh báo Danny rằng anh và Beth sẽ phải trải qua thử thách trước tòa một lần nữa, tại đó cả hai người sẽ phải làm chứng về những gì thực sự đã xảy ra vào đêm hôm đó với một người bạn nữa giờ đang yên nghỉ trong nghĩa địa của nhà thờ St Mary. Trừ khi, tất nhiên...

Vì giờ chúng ta nhìn qua một tấm kính tối tăm; nhưng sau đó mặt đối mặt: giờ tôi biết một phần, nhưng sau đó tôi sẽ biết thậm chí cả tôi cũng được biết đến.

Danny không thể kìm mình không nhìn qua bên kia đường, nơi một tấm biển mới tinh vừa được lắp đặt: Gara Cartwright, dưới nhà điều hành mới. Sau khi anh hoàn tất việc thương lượng và đi đến nhất trí về giá với Monty Hughes, Munro đã thảo một bản hợp đồng cho phép Danny mua lại một cơ sở làm ăn mà anh có thể chỉ đạo mỗi buổi sáng từ bên kia đường.

Các nhà ngân hàng Thụy Sĩ đã thể hiện rõ ràng quan điểm cho rằng Danny đã trả một giá quá cao cho gara ở bên kia đường. Danny cũng không buồn bận tâm giải thích với Segat sự khác biệt giữa hai từ giá cả và giá trị, vì anh ngờ rằng cả ông ta lẫn Bresson đều chẳng có nhiều thời gian dành cho Oscar Wilde.

Và giờ đây tới đức tin, hy vọng, từ tâm, cả ba một lúc; nhưng thứ lớn lao nhất là sự từ tâm.

Danny nắm lấy tay vợ mình. Ngày mai họ sẽ bay tới Rome cho tuần trăng mật bấy lâu mong đợi, trong chuyến đi đó họ sẽ tạm quên khi quay trở về rất có thể họ lại phải đối diện với một phiên tòa kéo dài nữa trước khi mọi thử thách thực sự đi đến hồi kết. Cậu con trai mười tuần tuổi của hai người đã chọn đúng thời điểm đó để bày tỏ cảm xúc bằng cách khóc ré lên, không phải để tưởng nhớ tới Sir Nicholas Moncrieff, mà vì buổi lễ đã diễn ra quá lâu, và dù thế nào đi nữa, cậu cũng đã cảm thấy đói.

“Suỵt,” Beth nựng nịu, “Chỉ lát nữa là tất cả chúng ta được về nhà rồi,” mẹ cậu hứa trong khi ôm Nick trong vòng tay.

Nhân danh Cha và Con...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 78


“Đưa các tù nhân vào.”

Phòng xử án số bốn tại Old Bailey đã đông kín người từ lâu trước lúc mười giờ sáng hôm đó, nhưng cũng phải nói rằng không phải ngày nào cũng có một thành viên Hội đồng cố vấn Nữ hoàng, một Nghị sĩ và một diễn viên nổi tiếng đồng thời bị đưa ra xét xử về các tội danh giết người, ẩu đả ở nơi công cộng và cản trở công lý.

Băng ghế dành cho luật sư cũng đã góp mặt đầy đủ những nhân vật tên tuổi trong giới luật gia, lúc này đang kiểm tra hồ sơ, sắp xếp tài liệu, và, với một người, đang chỉnh lại lần cuối bản cáo trạng trong khi chờ các tù nhân được đưa lên khu vực dành cho bị cáo.

Cả ba bị cáo đều được bào chữa bởi những nhân vật tiếng tăm nhất mà luật sư riêng của họ có thể tìm ra, và những câu chuyện ngoài lề ở Old Bailey cho hay chừng nào tất cả bọn họ cùng bám chắc lấy lời khai ban đầu, khó có khả năng mười hai thành viên bồi thẩm đoàn đi tới được một phán quyết thống nhất. Những tiếng bàn tán lắng xuống khi Spencer Craig, Gerald Payne và Lawrence Davenport ngồi vào vị trí trên ghế bị cáo.

Craig ăn mặc rất nghiêm chỉnh trong bộ đồ kẻ sọc màu xanh sẫm, áo sơmi trắng cùng chiếc cà vạt ưa thích màu hoa cà khiến người ta có cảm giác như gã đang ngồi nhầm chỗ, và đáng ra gã phải là người đang ngồi ở băng ghế phía dưới chờ đọc bản cáo trạng.

Payne mặc một bộ đồ màu xám sẫm, cà vạt kiểu đồng phục sinh viên và sơ mi màu kem, hoàn toàn tương xứng với một nghị sĩ đại diện cho một vùng nông thôn. Gã trông có vẻ bình thản.

Davenport mặc một chiếc quần jean bạc phếch, một chiếc áo sơmi cổ mở và một chiếc áo cộc tay. Gã không cạo râu, một chi tiết mà sáng hôm sau báo giới mô tả như những gốc rạ chĩa lên lởm chởm; nhưng họ cũng thuật lại rằng có vẻ như đã nhiều đêm gã không hề ngủ. Davenport không hề chú ý gì đến đám nhà báo mà ngước mắt nhìn lên hành lang dành cho công chúng, trong khi Payne và Craig trao đổi với nhau như thể đang là hai thực khách chờ được phục vụ bữa trưa trong một quán ăn quá đông khách. Sau khi Davenport thấy cô gái đã ngồi ở chỗ thường lệ của mình, gã nhìn chăm chăm vô thức ra phía trước, chờ đợi ngài thẩm phán xuất hiện.

Tất cả những người tìm cách có được một chỗ ngồi trong phòng xử án chật như nêm đồng loạt đứng lên khi thẩm phán Armitage bước vào. Ông đợi họ cúi chào trước khi đáp lễ, rồi ngồi xuống chiếc ghế nằm ở giữa trong dãy ghế dành cho chủ tọa. Ông mỉm cười dễ mến như thể hôm đó chỉ là một ngày làm việc thường lệ nữa tại văn phòng. Ông ra lệnh cho người mõ tòa đưa bồi thẩm đoàn vào. Người mõ tòa cúi thấp người chào trước khi biến mất qua một cửa ngách, rồi xuất hiện trở lại một lát sau, đi theo là mười hai công dân được lựa chọn theo luật định để đưa ra phán quyết liên quan tới ba bị cáo.

Luật sư của Lawrence Davenport tự cho phép một nụ cười xuất hiện trên khóe miệng khi thấy bồi thẩm đoàn bao gồm bảy phụ nữ và năm người đàn ông. Ông ta cảm thấy tự tin rằng kết quả tồi tệ nhất cũng chỉ là việc bồi thẩm đoàn không đưa ra được lời tuyên án.

Trong khi các thành viên bồi thẩm đoàn ngồi vào chỗ, Craig quan sát họ một cách kỹ càng, hiểu rõ rằng chính những con người này, và chỉ họ mà thôi, sẽ quyết định số phận của gã. Gã đã dặn trước Larry hãy dùng mắt liên hệ với các thành viên nữ của bồi thẩm đoàn vì bọn họ chỉ cần ba người trong số này không chịu nổi ý tưởng Lawrence Davenport bị tống vào tù. Chỉ cần Larry hoàn thành được nhiệm vụ đơn giản đó, cả ba sẽ được tự do. Nhưng Craig thực sự lo lắng khi thấy thay vì làm theo chỉ dẫn đơn giản của gã, Davenport có vẻ như đang bận tâm suy nghĩ điều gì đó và chỉ đăm đăm nhìn ra phía trước mặt mình.

Sau khi bồi thẩm đoàn đã yên vị, ngài thẩm phán mời bên nguyên đọc các tội danh.

“Đề nghị các bị cáo đứng dậy.”

Cả ba người cùng đứng lên.

“Spencer Craig, ông bị buôc tội đã sát hại một người có tên Bernard Henry Wilson vào đêm mười tám tháng chín năm 1999. Ông trả lời ra sao, có tội hay vô tội?”

“Vô tội,” Craig nói đầy thách thức.

“Gerald David Payne, ông bị buộc tội đã can dự vào vụ ẩu đã dẫn tới cái chết của Bernard Henry Wilson vào đêm mười tám tháng chín năm 1999. Ông trả lời ra sao, có tội hay vô tội?”

“Vô tội,” Payne trả lời kiên quyết.

“Lawrence Andrew Davenport, ông bị buộc tội cản trở công lý, theo đó vào ngày hai mươi ba tháng ba năm 2000, ông đã đưa ra dưới tuyên thệ những bằng chứng mà ông biết rõ là sai sự thật. Ông trả lời ra sao, có tội hay vô tội?”

Mọi con mắt trong phòng xử án cùng đổ dồn vào người diễn viên, một lần nữa lại nhận ra mình đang đứng ở vị trí trung tâm trên sân khấu. Lawrence Davenport ngẩng đầu nhìn lên hành lang dành cho công chúng, nơi em gái gã đang ngồi ở góc trong cùng của hàng ghế đầu tiên.

Sarah dành cho anh trai cô một nụ cười động viên.

Davenport cúi đầu xuống, dường như do dự trong giây lát trước khi nói với giọng thì thầm hầu như khó lòng nghe rõ, “Có tội.”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom