Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 40


Trên chuyến tàu quay về London, Danny để tâm xem xét kỹ hơn chiếc phong bì ông nội Nick muốn giao lại cho anh ta mà không muốn bố anh ta biết. Nhưng tại sao?

Danny chuyển sự chú ý sang con tem. Đó là một con tem Pháp, trị giá năm franc, in hình năm vòng tròn biểu tượng của Olympic. Chiếc phong bì đóng dấu bưu điện Paris, có từ năm 1896. Từ nhật ký của Nick, Danny biết được ông nội anh ta, Sir Alexander Moncrieff, là một nhà sưu tập đam mê, như vậy con tem rất có thể thuộc loại hiếm và có giá trị, song anh không biết mình có thể hỏi ý kiến tư vấn của ai. Anh cảm thấy khó mà tin được tên và địa chỉ ghi trên bì thư lại có thể giúp ích nhiều: Nam tước de Coubertin, 25 phố Croix-Rouge, Geneve, Thụy Sĩ. Chắc hẳn vị nam tước đã qua đời từ lâu.

Từ King’s Cross, Danny lên tàu điện ngầm tới South Kensington - không phải là phần London anh quen thuộc. Với sự giúp đỡ của một cuốn chỉ dẫn mua tại một ki ốt nằm trong ga, anh đi bộ dọc đường Old Brompton theo hướng The Boltons. Mặc dù chiếc vali của Nick mỗi lúc một nặng hơn, anh cảm thấy không thể lãng phí số tiền dự trữ đang cạn đi nhanh chóng vào việc đi taxi.

Cuối cùng, khi đến được The Boltons, Danny dừng lại trước số 12. Anh không thể tin nổi chỉ có mỗi một gia đình sống tại đó; chỉ riêng chiếc garage kép đã lớn hơn cả ngôi nhà của anh ở Bow. Anh mở cánh cổng sắt kêu cót két ra và bước theo một lối đi dài phủ đầy cỏ dại dẫn tới cửa trước. Anh bấm chuông. Anh không biết tại sao, trừ việc anh không muốn tra chìa khóa vào ổ cho tới khi biết chắc ngôi nhà không có người ở. Không có ai trả lời.

Danny thử xoay chìa vài lần trong ổ khóa trước khi cánh cửa miễn cưỡng mở ra. Anh bật đèn tiền sảnh lên. Bên trong, căn nhà trông giống hệt những gì Nick đã mô tả trong cuốn nhật ký của anh ta. Một tấm thảm dày màu xanh lục đã phai; giấy dán tường với họa tiết màu đỏ, cũng đã phai màu; một tấm rèm thêu kiểu cổ buông dài từ trên trần xuống tận sàn nhà, tấm rèm có vẻ đã bị bỏ mặc cho nhậy cắn suốt nhiều năm qua. Trên tường không có bức tranh nào, chỉ còn lại những khoảng giấy dán tường hình vuông hay chữ nhật đỡ phai màu hơn những nơi khác cho thấy nơi các bức tranh từng được treo. Danny dễ dàng đoán ra ai đã tháo chúng đi, cũng như hiện giờ những bức tranh này đang được treo ở nhà ai.

Anh chậm rãi đi vòng quanh các căn phòng, cố gắng làm quen. Nơi này giống như một bảo tàng hơn nơi ở của một ai đó. Sau khi đã xem xét hết tầng trệt, anh leo lên cầu thang lên tầng trên, đi theo một lối đi khác trước khi bước vào một phòng ngủ lớn có kê giường đôi. Trong tủ quần áo treo một loạt bộ đồ sẫm màu hoàn toàn có thể đem cho thuê làm trang phục cho một vở kịch lấy bối cảnh thời xưa, bên cạnh đó là những chiếc sơmi cổ gấp, và trên một chiếc giá phía dưới chân có để vài đôi giày leo núi nặng trịch màu đen. Danny đoán chắc hẳn đây từng là phòng của ông nội Nick, và rõ ràng bố anh ta đã thích sống tại Scotland hơn. Khi Sir Alexander qua đời, ông chú Hugo hẳn đã mang đi các bức tranh cùng tất cả những thứ khác có giá trị khác không bị đóng đinh giữ chặt lại, trước khi cam kết với bố Nick về một triệu bảng cho vay thế chấp dựa vào ngôi nhà trong khi Nick được an bài êm thấm trong tù. Danny bắt đầu nghĩ có lẽ anh cần giải quyết ổn thỏa với Hugo trước khi nhắm vào Bốn gã ngự lâm quân.

Sau khi đã kiểm tra tất cả phòng ngủ - bảy cả thảy - Danny chọn một trong các phòng ngủ nhỏ hơn làm nơi trải qua đêm đầu tiên của mình trong ngôi nhà. Sau khi đã ngắm qua tủ quần áo và các ngăn kéo, anh đi đến kết luận hẳn đây là căn phòng cũ của Nick, bởi vì trong đó có một loạt bộ đồ cùng một ngăn kéo đầy ắp áo sơmi và một dãy giày vừa anh như in, song có vẻ như chúng đều từng được mặc bởi một người lính đã mặc quân phục hầu hết cuộc đời mình và không mấy quan tâm đến thời trang.

Sau khi Danny đã cất đồ xong, anh quyết định trèo lên cao hơn để xem trên tầng thượng có gì. Anh đi qua một phòng dành cho trẻ con dường như chưa bao giờ được dùng đến, bên cạnh là một phòng chơi đầy đồ chơi mà chưa đứa trẻ nào từng chơi qua. Suy nghĩ của anh lại hướng về Beth và Christy. Anh nhìn qua cửa sổ căn phòng chơi xuống một khu vườn rộng. Ngay cả trong ánh sáng tắt dần của lúc nhá nhem anh vẫn có thể nhìn thấy thảm cỏ đã mọc cao sau nhiều năm bỏ bê không được chăm sóc.

Danny quay về căn phòng của Nick, cởi quần áo đi tắm. Anh đứng dưới vòi sen, hoàn toàn chìm trong suy nghĩ, không hề nhúc nhích cho tới khi nước trở nên lạnh ngắt. Sau khi lau khô người, anh quyết định sẽ không mặc bộ pyjama lụa của Nick và leo thẳng lên giường. Chỉ sau vài phút anh đã chìm vào giấc ngủ. Tấm đệm ở đây đã giống nhiều hơn tấm đệm mà anh đã quen trong tù.

***

Danny rời giường sáng hôm sau, mặc quần, khoác lên người chiếc áo choàng lụa treo phía sau cánh cửa, rồi đi tìm nhà bếp.

Anh đi xuống một cầu thang không trải thảm xuống tầng trệt tối om, tìm thấy một phòng bếp rộng với một bộ bàn bếp Aga và những chiếc giá xếp đầy những chai thủy tinh lớn không rõ đựng thứ gì. Anh đặc biệt thú vị trước một dãy chuông nhỏ gắn trên tường, có ghi chú “Phòng khách lớn”, “Phòng ngủ ông chủ”, “Phòng chơi”, và “Cửa trước”. Anh bắt đầu tìm kiếm thức ăn, nhưng không thể tìm thấy thứ gì đã không hết hạn sử dụng từ vài năm trước. Lúc này anh bắt đầu hiểu ra thứ mùi tràn ngập trong nhà xuất phát từ đâu. Nếu còn chút tiền nào trong tài khoản của Nick, điều đầu tiên anh cần là thuê một người dọn dẹp. Anh mở toang một trong những khung cửa sổ rộng ra để một luồng không khí sạch lưu thông vào trong phòng, điều đã không được làm suốt một thời gian dài.

Không tìm thấy gì ăn, Danny quay lại phòng ngủ để thay quần áo. Anh chọn những món đồ có vẻ ít bảo thủ nhất tìm thấy được từ tủ quần áo của Nick, nhưng khi thay đồ xong trông anh vẫn chẳng khác gì một đại úy Cận vệ đang về phép.

Khi tiếng chuông báo tám giờ sáng vang lên từ đồng hồ nhà thờ trên quảng trường, Danny cầm lấy ví đang để trên chiếc bàn kê đầu giường rồi nhét vào túi áo jacket. Anh nhìn lại lần nữa chiếc phong bì ông nội Nick để lại cho mình, và tin chắc mọi bí mật đều nằm ở con tem. Anh ngồi xuống cạnh chiếc bàn viết kê bên cửa sổ, viết một tấm séc trị giá năm trăm bảng cho Nicholas Moncrieff. Liệu trong tài khoản của Nick còn năm trăm bảng không? Anh chỉ có một cách để tìm ra câu trả lời.

Khi rời khỏi nhà vài phút sau đó, anh khóa cửa ra vào lại, nhưng lần này đã nhớ rút chìa khóa mang theo mình. Anh rảo bước đến đầu con đường, rẽ phải đi theo hướng tới nhà ga South Kensington, dọc đường chỉ rẽ vào một cửa hàng bán báo để mua một tờ The Times. Khi ra khỏi cửa hàng, anh phát hiện thấy một bảng tin với những lời chào cung cấp dịch vụ đủ loại. “Mát xa, Sylvia sẽ tới tận nhà bạn, 100 bảng,”, “Bán máy cắt cỏ, mới dùng hai lần, 250 bảng, có thể thương lượng giá.” Anh sẽ không ngần ngại mua nếu biết chắc vẫn còn 250 bảng trong tài khoản của Nick.

Đến khi xuống tàu tại ga Charing Cross, Danny đã hình thành trong đầu hai kế hoạch hành động, tùy thuộc vào việc người điều hành chi nhánh ngân hàng tại Coutts đã quen mặt Sir Nicholas, hay chưa bao giờ gặp mặt anh ta.

Anh đi bộ dọc phố Strand tìm kiếm trụ sở ngân hàng. Trên trang bìa xám cuốn séc của Nick chỉ ghi Coutts&Co., Strand, London; rõ ràng đây là một ngân hàng quá lớn để phải bận tâm đến chuyện nó có số nhà hay không. Chưa đi được bao xa, anh đã nhìn thấy một ngôi nhà màu đồng có mặt tiền lớn lắp kính tọa lạc bên kia đường, trên tòa nhà có hai hình vương miện khiêm tốn nằm trên chữ Coutts. Anh băng qua đường, lách người qua những dòng xe đang xuôi ngược. Anh sắp biết rõ hiện tại mình giàu có cỡ nào.

Anh đi qua cánh cửa quay vào trong ngân hàng, lập tức cố gắng xác định phương hướng. Ngay phía trước, một cầu thang dẫn lên gian sảnh rộng nơi diễn ra các giao dịch ngân hàng. Anh đi lên cầu thang, tới một gian phòng rộng trần lắp kính, chạy suốt dọc theo một bên tường là một quầy giao dịch dài. Một vài nhân viên thu phát mặc áo choàng dài màu đen đang phục vụ khách hàng. Danny chọn một thanh niên trẻ măng trông có vẻ như vừa bắt đầu biết cạo râu. Anh bước tới trước cửa quầy của mình. “Tôi muốn rút tiền.”

“Thưa, ông cần bao nhiêu?” người nhân viên thu phát hỏi.

“Năm trăm bảng,” Danny trả lời, đưa cho cậu thanh niên tấm séc anh vừa viết hồi sáng.

Cậu nhân viên thu phát kiểm tra tên và số tài khoản trên máy tính, rồi tỏ ra ngần ngại. “Ông làm ơn chờ một chút được không, Sir Nicholas?” anh ta hỏi. Trong đầu Danny, dòng suy nghĩ bắt đầu tăng tốc. Không lẽ tài khoản của Nick đã bị rút quá giới hạn cho phép? Hay nó đã bị đóng? Hãy bọn họ không muốn dây dưa với một gã từng ngồi tù? Một lát sau, một người đàn ông đứng tuổi hơn xuất hiện, dành cho anh một nụ cười rất xởi lởi. Không lẽ Nick biết ông ta?

“Sir Nicholas phải không ạ?” anh ta dò hỏi.

“Phải,” Danny trả lời, một trong những câu hỏi của anh cũng đã được giải đáp.

“Tôi là Watson. Tôi là giám đốc điều hành ở đây. Rất vui được gặp lại ông sau suốt quãng thời gian vừa qua.” Danny nhiệt tình bắt tay vị giám đốc điều hành trước khi ông ta nói thêm. “Có lẽ chúng ta nên trao đổi một chút trong văn phòng của tôi?”

“Tất nhiên rồi, ông Watson,” Danny nói, cố tỏ ra tự tin. Anh đi theo viên giám đốc điều hành qua dọc sàn giao dịch tới một cánh cửa mở vào một văn phòng nhỏ ốp ván gỗ. Trên bức tường phía sau bàn làm việc có treo độc nhất bức chân dung sơn dầu của một quý ông mặc áo choàng dài màu đen. Dưới bức tranh là bảng chú thích John Campbell, Người sáng lập, 1692.

Ông Watson bắt đầu nói từ trước khi Danny kịp ngồi xuống. “Tôi thấy rằng ông đã không rút tiền lần nào trong bốn năm vừa qua, Sir Nicholas,” ông nói, mắt nhìn vào màn hình máy tính của mình.

“Đúng vậy,” Danny xác nhận.

“Có lẽ ông đã ra nước ngoài?”

“Không, nhưng trong tương lai tôi sẽ là một khách hàng thường xuyên hơn. Có nghĩa là nếu ông đã quản lý tài khoản của tôi một cách chu đáo khi tôi vắng mặt.”

“Tôi hy vọng ông sẽ nghĩ vậy, Sir Nicholas,” vị giám đốc điều hành trả lời. “Hàng năm chúng tôi đã trả lãi suất ở mức ba phần trăm mỗi năm vào tài khoản hiện tại của ông.”

Danny không tỏ ra cảm kích mà chỉ hỏi,”Vậy hiện tại trong tài khoản của tôi có bao nhiêu tiền?”

Vị giám đốc điều hành nhìn vào màn hình máy tính.”Bảy nghìn hai trăm mười hai bảng.”

Danny thở phào nhẹ nhõm, rồi hỏi. “Hiện tại ông có quản lý tài khoản, tài liệu hay tài sản nào khác đăng ký dưới tên tôi không?” Vị giám đốc tỏ ra hơi ngạc nhiên. “Chỉ là bố tôi mới mất gần đây.”

Ông giám đốc gật đầu. “Tôi sẽ kiểm tra ngay, thưa ông,” ông ta nói, rồi gõ vào một số phím trên bàn phím máy tính của mình. Rồi lắc đầu. “Có vẻ như tài khoản của bố ông đã được đóng hai tháng trước, và tất cả tài sản của ông đã được chuyển tới Clydesdale Bank ở Edinburgh.”

“À phải rồi,” Danny nói. “Chú Hugo của tôi.”

“Hugo Moncrieff đúng là người thụ hưởng,” vị giám đốc xác nhận.

“Đúng như tôi nghĩ,” Danny nói.

“Tôi có thể giúp gì được ông nữa, Sir Nicholas?”

“Có, tôi cần một thẻ tín dụng.”

“Tất nhiên rồi,” Watson đáp. “Chỉ cần ông vui lòng điền vào bản khai này,” ông ta nói thêm, đồng thời đưa ra một bản khai, “chúng tôi sẽ gửi một chiếc đến địa chỉ nhà ông sau vài ngày nữa.”

Danny cố gắng nhớ lại ngày sinh, nơi sinh cũng như tên lót của Nick; song anh không biết chắc nên viết gì dưới các mục “Nghề nghiệp” và “Thu nhập hàng năm”.

“Còn một việc nữa,” Danny nói sau khi điền xong bản khai. “Ông có biết nơi nào có thể giúp tôi định giá thứ này không?” Anh lấy chiếc phong bì nhỏ từ túi áo trong ra và đẩy qua mặt bàn.

Ông giám đốc xem xét chiếc phong bì một cách cẩn thận. “Stanley Gibbons,” ông ta trả lời không chút chần chừ. “Họ là những người xuất sắc nhất trong lĩnh vực này, và đã có danh tiếng ở quy mô quốc tế.”

“Tôi có thể tìm họ ở đâu?”

“Họ có một chi nhánh ngay trên đầu phố. Tôi khuyên anh nên nói chuyện với ông Prendergast.”

“Tôi thật may mắn vì ông được thông tin kỹ càng đến thế,” Danny nói với vẻ nghi ngờ.

“À, họ đã làm ăn với chúng tôi gần một trăm năm mươi năm nay.”

***

Danny ra khỏi ngân hàng với thêm năm trăm bảng nằm trong ví, bắt tay vào việc tìm kiếm Stanley Gibbons. Trên đường, anh đi ngang qua một cửa hàng bán điện thoại di động, vậy là anh tìm được thêm một món nữa trong danh sách những thứ cần mua của mình. Sau khi đã lựa chọn kiểu máy mới nhất, anh hỏi người bán hàng có biết chi nhánh Stanley Gibbons nằm ở đâu không.

“Cách đây năm mươi mét, về phía tay trái của ông,” anh ta trả lời.

Danny tiếp tục đi dọc phố cho tới khi tìm thấy cái tên anh cần tìm trên cánh cửa. Bên trong, một người đàn ông cao, gầy đang cúi mặt xuống quầy, chăm chú lật giở một cuốn catalô. Ông ta đứng thẳng người dậy khi Danny bước vào.

“Ông Prendergast phải không?” Danny hỏi.

“Phải,” người đàn ông đáp. “Tôi có thể giúp gì ông?”

Danny lấy chiếc phong bì ra đặt lên mặt quầy. “Ông Watson ở ngân hàng Coutts cho rằng ông có thể giúp tôi định giá thứ này.”

“Tôi sẽ làm hết sức,” ông Prendergast nói, lấy một chiếc kính lúp từ dưới quầy lên. Ông ta xem xét chiếc phong bì một hồi trước khi đưa ra ý kiến.”Con tem thuộc đợt phát hành đầu tiên giá trị năm franc đế quốc, được tung ra kỷ niệm ngày thành lập phong trào Olympic hiện đại. Bản thân con tem không mấy giá trị, không quá vài trăm bảng. Nhưng có hai chi tiết có thể nâng cao giá trị của nó lên.”

“Đó là những chi tiết nào vậy?” Danny hỏi.

“Dấu bưu điện ghi ngày 6 tháng 4 năm 1896.”

“Tại sao điều này lại có tầm quan trọng như vậy?” Danny hỏi, cố gắng không tỏ ra quá nôn nóng.

“Đó là ngày diễn ra lễ khai mạc kỳ Olympic hiện đại đầu tiên.”

“Thế còn chi tiết thứ hai?” Danny hỏi, lần này không đợi thêm nữa.

“Tên người mà phong bì được gửi tới,” Prendergast nói, hiển nhiên rất hài lòng về chính mình.

“Nam tước de Coubertin,” Danny nói, không cần phải nhắc nhở thêm.

“Đúng thế,” người đàn ông chuyên nghề buôn bán đồ sưu tập nói. “Vị nam tước này chính là người đã sáng lập ra phong trào Olympic hiện đại, và đây chính là chi tiết biến chiếc phong bì của ông thành một hiện vật sưu tập.”

“Ông có thể định giá được không?” Danny hỏi.

“Không dễ đâu, thưa ông, vì vật này quả là có một không hai. Nhưng tôi sẵn sàng trả cho ông hai nghìn bảng.”

“Xin cảm ơn, nhưng tôi cần chút thời gian để suy nghĩ đã,” Danny trả lời, quay người ra về.

“Hai nghìn hai trăm bảng thì sao?” Prendergast gọi với theo trong khi Danny nhẹ nhàng khép cánh cửa lại sau lưng mình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 41


D anny dành mấy ngày tiếp theo để ổn định cuộc sống tại The Boltons, mặc dù anh không hề nghĩ đến lúc nào đó có thể cảm thấy thực sự như đang ở nhà tại khu Kensington. Cho tới khi anh gặp Molly.

Molly vốn là người từ County Cork tới, và phải mất một thời gian Danny mới có thể hiểu bà nói gì. Người phụ nữ này thấp hơn Danny đến ba mươi phân, và gầy đến mức anh tự hỏi không biết bà có đủ sức làm việc nhiều hơn hai tiếng mỗi ngày không. Anh chịu không đoán ra được tuổi bà, mặc dù có vẻ như bà còn trẻ hơn mẹ anh và tất nhiên là lớn tuổi hơn Beth nhiều. Những lời đầu tiên bà nói với anh là, “Tôi lấy năm bảng mỗi giờ, tiền mặt. Tôi không định đóng thuế cho đám người Anh chết dẫm,” bà tuyên bố thêm với giọng chắc nịch sau khi biết Sir Nicholas cũng có xuất xứ từ phía bắc biên giới, “và nếu ông nghĩ tôi không xứng đáng với cái giá đó, tôi sẽ đi ngay cuối tuần này.”

Danny luôn để mắt theo dõi Molly trong vài ngày đầu, nhưng chẳng bao lâu sau anh đã có thể thấy bà cũng sở hữu những phẩm chất tương tự như mẹ anh. Đến cuối tuần đó, anh đã có thể ngồi nghỉ ngơi ở bất cứ chỗ nào trong ngôi nhà mà không cảm thấy dù chỉ một hạt bụi, bước vào một bồn tắm sạch bong không còn dấu ngấn nước, và thoải mái mở tủ lạnh vớ lấy thứ gì đó mà không hề phải lo bị ngộ độc.

Khi tuần thứ hai trôi qua, Molly đã bắt đầu nấu bữa tối cho anh, cũng như đảm nhiệm việc giặt giũ, là ủi quần áo của anh. Sau tuần thứ ba, anh bắt đầu tự hỏi làm sao mình có thể sống thiếu bà.

Sự có mặt của Molly cho phép Danny tập trung vào những mối bận tâm khác. Ông Munro đã viết thư cho anh hay ông đã gửi đơn kháng cáo chống lại chú anh. Luật sư của Hugo đã để cho toàn bộ hai mươi mốt ngày trôi qua trước khi chấp nhận.

Ông Munro cảnh báo Sir Nicholas rằng Galbraith nổi tiếng là một người không bao giờ hấp tấp, nhưng cũng đảm bảo với anh ông sẽ liên tục ra đòn với ông ta bất cứ khi nào có cơ hội. Danny tự hỏi liệu những cú ra đòn này sẽ tốn bao nhiêu. Anh tìm thấy câu trả lời khi lật sang trang sau. Kẹp vào lá thư của Munro là một hóa đơn bốn nghìn bảng, là chi phí cho tất cả những gì ông đã làm kể từ đám tang, bao gồm cả việc đưa kháng cáo.

Danny kiểm tra lại bản thông báo tài chính của anh, mới được ngân hàng gửi tới cùng thẻ tín dụng trong lượt giao thư buổi sáng. Bốn nghìn bảng sẽ gây ra sụt giảm nghiêm trọng con số tổng kết ở hàng cuối cùng, và Danny tự hỏi anh có thể cầm cự được bao lâu trước khi phải chịu giương cờ trắng; có thể hình ảnh ví von này thực sự quá nhàm, nhưng nó làm anh nhớ lại những ngày tháng hạnh phúc hơn ở Bow.

Trong tuần lễ trước đó, Danny đã mua một chiếc laptop và một chiếc máy in, một khung ảnh bằng bạc, vài cặp tài liệu, bút đánh dấu, bút chì và tẩy, cũng như một ram giấy. Anh đã thực sự bắt tay vào xây dựng một cơ sở dữ liệu về ba người chịu trách nhiệm về cái chết của Bernie, và anh đã dành ra phần lớn thời gian trong tháng đầu tiên để nhập vào máy tính tất cả những gì biết được về Spencer Craig, Gerald Payne và Lawrence Davenport. Cũng không nhiều lắm, nhưng Nick đã dạy anh sẽ dễ qua được kỳ thi hơn nếu chịu khó nghiên cứu tìm hiểu. Anh đang định khởi đầu quá trình tìm hiểu đó khi nhận được hóa đơn của ông Munro, tờ hóa đơn đã nhắc nhở anh hiện ngân quỹ của anh đang teo lại nhanh chóng đến thế nào. Rồi anh chợt nhớ tới chiếc phong bì. Đã đến lúc tìm kiếm một ý kiến đánh giá thứ hai.

Anh cầm tờ The Times - mà Molly mang tới mỗi sáng - và giở đến chỗ một bài viết anh đã nhìn thấy trong phần các trang Nghệ thuật. Một nhà sưu tập người Mỹ đã mua một Klimt với giá năm mươi mốt triệu bảng trong một cuộc đấu giá ở một nơi nào đó có tên gọi Sotheby’s.

Danny bật laptop lên, gõ từ Klimt vào Google và biết được đó là một họa sĩ Trừu tượng người Áo, sinh năm 1862, mất năm 1918. Sau đó, anh chuyển sự quan tâm sang Sotheby’s, đây hóa ra là một nhà bán đấu giá chuyên về tác phẩm nghệ thuật, đồ cổ, sách, đồ trang sức và những hiện vật sưu tập khác. Sau vài cú nhấp chuột, anh phát hiện ra những hiện vật được xếp vào diện sưu tập bao gồm cả những con tem. Những ai muốn được tư vấn có thể gọi tới Sotheby’s hoăc ghé qua văn phòng của họ ở phố New Bond.

Danny nghĩ anh sẽ dành cho họ một bất ngờ, nhưng không phải hôm nay, vì anh cần tới nhà hát, và không phải để theo dõi vở diễn. Vở diễn không phải là điều anh quan tâm.

***

Trước đây Danny chưa bao giờ đến một nhà hát ở khu West End, nếu không tính đến lần xem vở Những người khốn khổ tại Palace Theatre nhân dịp sinh nhật thứ hai mươi mốt của Beth. Anh cũng không thích vở diễn lắm, và không nghĩ sẽ lại bận tâm đến xem một vở nhạc kịch khác.

Ngày hôm trước, anh đã gọi điện tới Garrick đặt một chỗ cho suất diễn buổi sáng của vở Tầm quan trọng của sự chân thật. Họ đề nghị anh tới quầy vé lấy vé mười lăm phút trước giờ công diễn. Danny tới sớm hơn một chút, nhà hát vẫn còn vắng tanh. Anh lấy vé, mua một tờ chương trình, được một nhân viên nhà hát giúp dẫn tới khán phòng và tìm ra chỗ ngồi của mình ở cuối dãy ghế H. Chỉ có lác đác dăm người ngồi rải rác xung quanh.

Anh mở tờ chương trình và lần đầu tiên tìm hiểu về vở kịch của Oscar Wilde, từng là một thành công rực rỡ ngay từ lần công diễn đầu tiên năm 1895 tại nhà hát St James ở London. Anh liên tục phải đứng dậy để nhường đường cho những người khác vào chỗ của của họ dọc dãy ghế H khi một dòng khán giả đều đặn bước vào khán phòng.

Khi đèn tắt, khán phòng của Garrick hầu như đã chật kín, và đa số khán giả đều là các cô gái trẻ. Khi màn được kéo lên, Lawrence Davenport không hề có mặt trên sân khấu, nhưng Danny không phải đợi lâu, vì chỉ một lát sau gã đã xuất hiện trên sàn diễn. Một khuôn mặt anh không bao giờ có thể quên. Một vài khán giả lập tức vỗ tay. Davenport ngừng lại một chút trước khi bắt đầu câu thoại đầu tiên của mình, như thể gã luôn chờ đợi được chào đón như vậy.

Danny những muốn lao thẳng lên sân khấu, nói cho cả đám đông khán giả có mặt biết Davenport thực ra là loại người nào, và những gì đã xảy ra ở Dunlop Arms vào buổi tối thần tượng của bọn họ đứng nhìn Spencer Craig đâm người bạn thân nhất của anh đến chết. Người đàn ông bảnh bao đầy tự tin mà gã đang trình diễn lúc này thật khác xa với những gì gã từng thể hiện trong con hẻm lúc đó. Khi đó gã đã diễn vai của một tên hèn nhát đạt hơn nhiều.

Giống như các nữ khán giả trẻ tuổi, hai mắt Danny luôn theo sát Davenport. Khi vở kịch dần trôi qua, dường như đã rõ bất cứ chỗ nào có một chiếc gương để ngắm nhìn mình trong đó, Davenport chắc chắn sẽ tìm thấy nó. Khi rèm sân khấu buông xuống trong khoảng nghỉ, Danny cảm thấy anh đã thấy đủ nhiều về Lawrence Davenport để biết gã sẽ ưa thích một buổi chiều trong tù đến thế nào. Danny lẽ ra đã quay về The Boltons để cập nhật cho hồ sơ của mình nếu anh không thấy thích vở kịch đến thế, một phát hiện khiến anh phải ngạc nhiên về chính mình.

Anh đi theo đám đông khán giả tới chỗ quầy bar chật ních người, đứng vào một hàng dài những người đang chờ đợi, trong khi một người phục vụ quầy đang gồng hết sức bình sinh để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Cuối cùng Danny đành bỏ cuộc, quyết định dành thời gian nghỉ vào việc đọc qua tờ chương trình và tìm hiểu thêm về Oscar Wilde, một nhân vật anh ước gì được đưa vào chương trình học của kỳ thi A - level. Cuộc trò chuyện rôm rả của hai cô gái trẻ đứng ở góc quầy bar chợt khiến anh chú ý.

“Cậu nghĩ sao về Larry?” một cô hỏi.

“Anh chàng thật tuyệt,” cô kia đáp. “Chán nỗi anh ta lại gay.”

“Nhưng cậu thích vở kịch chứ?”

“Ồ, có chứ. Buổi tối hạ màn tớ sẽ lại đến.”

“Làm thế nào cậu xoay được vé?”

“Một người trong đám phục vụ sân khấu sống cùng phố với tụi mình.”

“Nghĩa là cậu sẽ đi dự bữa tiệc diễn ra sau đó?”

“Với điều kiện tớ chịu đi cùng hắn ta tối đó.”

“Cậu có nghĩ sẽ được gặp Larry không?”

“Đó là lý do duy nhất khiến tớ đồng ý hẹn hò với hắn.”

Tiếng chuông vang lên ba lần, một vài khách hàng vội vã uống nốt món đồ uống của mình trước khi quay lại chỗ ngồi trong khán phòng. Danny quay lại theo sau họ.

Khi màn được kéo lên, Danny dần trở nên chăm chú vào diễn biến vở kịch đến mức gần như quên mất mục đích thực sự khiến anh tới nhà hát. Trong khi các cô gái vẫn chăm chăm hướng sự chú ý vào bác sĩ Beresford, Danny ngả người ra sau chờ đợi giây phút biết được ai trong số hai người đàn ông thực sự là người Chân thật.

Khi vở kịch kết thúc và các diễn viên ra trước sân khấu cúi chào, đám đông khán giả đứng cả dậy hò hét lớn tiếng, cũng như Beth đã từng thét lên vào tối hôm đó, nhưng vì một nguyên do khác hẳn. Tiếng reo hò của đám người hâm mộ chỉ càng khiến Danny thêm quyết tâm cho họ thấy bộ mặt thật của kẻ họ thần tượng.

Sau khi màn che đã khép lại lần cuối, đám đông khán giả chuyện trò rôm rả từ nhà hát ùa ra phố. Vài người đi thẳng lên phía sân khấu, nhưng Danny lại tìm tới quầy vé.

Người phụ trách quầy vé mỉm cười.”Ông thích vở diễn chứ?”

“Rất tuyệt, cảm ơn ông. Không biết ông còn vé nào cho đêm diễn hạ màn không?”

“Tôi e là không, thưa ông. Vé đã bán hết rồi.”

“Chỉ một vé thôi không được sao?” Danny dò hỏi, “Tôi không quan tâm mình sẽ ngồi chỗ nào.”

Người phụ trách quầy vé kiểm tra trên màn hình, xem lại sơ đồ chỗ ngồi của đêm hạ màn. “Đúng là chúng tôi còn một ghế ở hàng W.”

“Tôi sẽ lấy chỗ đó,”Danny vừa nói vừa đưa thẻ tín dụng cho anh ta. “Như thế tôi sẽ được phép dự bữa tiệc diễn ra sau buổi diễn chứ?”

“Tôi e là không,” người phụ trách quầy vé mỉm cười đáp. “Bữa tiệc chỉ dành riêng cho khách mời.” Anh ta cầm lấy chiếc thẻ của Danny, “Sir Nicholas Moncrieff,” anh ta đọc, rồi ngước nhìn người chủ chiếc thẻ chăm chú hơn.

“Đúng vậy,” Danny nói.

Người phụ trách quầy vé in ra một chiếc vé, lấy một phong bì từ dưới quầy ra rồi nhét chiếc vé vào trong.

Danny tiếp tục đọc bản chương trình trên chuyến tàu điện ngầm quay trở lại South Kensington cho tới khi đã đọc hết mọi từ trong đó viết về Oscar Wilde cũng như các vở kịch ông từng viết, sau đó anh mở phong bì ra kiểm tra vé. C9. Hẳn có nhầm lẫn nào đó. Anh nhìn vào trong phong bì và lấy ra một tấm thiếp mời có ghi:

Nhà hát Garrick

kính mời ông tới dự bữa tiệc hạ màn của vở kịch

Tầm quan trọng của sự chân thật

tại nhà hàng Dorchester

Thứ bảy, ngày 14 tháng 9 năm 2002

Chỉ được vào cửa khi mang theo vé

Từ 11 giờ đêm trở đi

Danny chợt nhận ra tầm quan trọng của việc trở thành Sir Nicholas.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 42


"Thú vị làm sao. Thật thú vị làm sao,” ông Blundell thốt lên khi đặt kính lúp xuống bàn và mỉm cười với vị khách hàng tiềm tàng của mình.

“Nó có giá bao nhiêu?” Danny hỏi.

“Tôi không biết,” Blundell thừa nhận.

“Nhưng người ta nói với tôi ông là một trong những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực này.”

“Tôi rất muốn nghĩ như vậy về mình,” Blundell trả lời, “nhưng suốt ba mươi năm trong nghề tôi chưa bao giờ gặp thứ gì giống như vật này.” Ông lại cầm kính lúp lên, cúi người xuống nghiên cứu chiếc phong bì một lần nữa. “Bản thân con tem không phải quá quý hiếm, nhưng một con tem được đóng dấu bưu điện vào đúng ngày diễn ra lễ khai mạc của Olympic hiện đại đầu tiên thì hiếm hơn nhiều. Và phong bì lại được đề gửi cho Nam tước de Coubertin...”

“Người sáng lập ra các kỳ Olympic hiện đại,” Danny nói. “Chắc chắn còn hiếm hơn nhiều.”

“Độc nhất vô nhị,” Blundell nhận xét. Ông đưa kính lúp lướt qua phong bì một lần nữa. “Rất khó để đưa ra một giá cụ thể cho vật này.”

“Liệu ông có thể cho tôi một con số ước lượng không?” Danny hồi hộp hỏi.

“Nếu người mua chiếc phong bì này là một người buôn bán đồ cổ chuyên nghiệp, tôi đoán giá sẽ từ hai nghìn đến hai nghìn năm trăm; còn nếu là một nhà sưu tập say mê, có thể đến ba nghìn. Nhưng nếu có hai nhà sưu tập cùng khao khát có được nó như nhau, ai mà biết được? Cho phép tôi kể cho ông một ví dụ, Sir Nicholas. Năm ngoái, một bức tranh sơn dầu có tên Một giấc mơ của Fiammetta của Dante Gabriel Rossetti được Sotheby’s đưa ra đấu giá tại đây. Chúng tôi ước lượng giá của bức tranh vào khoảng hai triệu rưỡi tới ba triệu bảng, một mức giá rõ ràng thuộc hàng cao trên thị trường, và quả thực tất cả các tay buôn bán chuyên nghiệp có tiếng đều đã rơi đài trước khi giá được đưa lên giới hạn trên của mức ước lượng. Thế nhưng, vì cả Andrew Lloyd Webber và Elizabeth Rothschild đều muốn bổ sung bức tranh vào bộ sưu tập của họ, tiếng gõ búa phán quyết đã vang lên lần cuối cùng ở mức chín triệu bảng, gần như gấp đôi kỷ lục trước đó cho một bức tranh của Rossetti.”

“Ông muốn nói rằng chiếc phong bì của tôi có thể bán được hơn gấp đôi giá trị của nó?”

“Không, Sir Nicholas, tôi chỉ muốn nói tôi không rõ có thể bán được nó ở giá bao nhiêu.”

“Nhưng liệu ông có thể đảm bảo để Andrew Lloyd Webber và Elizabeth Rothschild tham gia đấu giá không?” Danny hỏi.

Blundell cúi đầu xuống, sợ rằng Sir Nicholas có thể nhận ra lời gợi ý vừa rồi khiến ông thấy buồn cười. “Không,” ông nói, “tôi không có lý do nào để tin rằng Lord Lloyd Webber hay Elizabeth Rothschild quan tâm đến những con tem. Song nếu ông quyết định đưa chiếc phong bì của mình vào phiên đấu giá tiếp theo của chúng tôi, nó sẽ được đưa lên catalô và gửi tới các nhà sưu tập hàng đầu trên toàn thế giới.”

“Phiên đấu giá tem tiếp theo của các ông diễn ra khi nào?” Danny hỏi.

“Mười sáu tháng chín,” Blundell đáp, “chỉ hơn sáu tuần nữa.”

“Lâu vậy sao?” Danny nói, anh vốn cho rằng người ta có thể bán chiếc phong bì của anh chỉ trong vòng vài ngày.

“Chúng tôi vẫn đang chuẩn bị catalô, và catalô này sẽ được gửi tới cho tất cả khách hàng của chúng tôi ít nhất hai tuần trước phiên đấu giá.”

Danny chợt nhớ lại cuộc gặp gỡ với ông Prendergast tại Stanley Gibbons, người đã đề nghị trả 2200 bảng cho chiếc phong bì, và chắc sẽ chấp nhận trả đến 2500 bảng. Nếu lúc đó chấp nhận đề nghị của ông ta, anh sẽ không phải chờ thêm sáu tuần. Bản kê ngân hàng mới nhất của Nick cho thấy anh chỉ còn 1918 bảng, như vậy đến ngày 16 tháng 9 anh rất có thể đã phải rút quá số tiền có trong tài khoản mà vẫn chưa có thêm triển vọng gì về bất cứ nguồn thu nhập nào khác.

Blundell không hối thúc Sir Nicholas, người rõ ràng đang suy nghĩ rất nghiêm túc về vấn đề hai người đang bàn bạc, và nếu anh chàng này là cháu nội của... đây có lẽ sẽ là khởi đầu cho một quan hệ làm ăn lâu dài và béo bở.

Danny biết rõ Nick sẽ lựa chọn khả năng nào trong hai cơ hội. Anh ta hẳn sẽ chấp nhận lời đề nghị 2200 bảng ban đầu của ông Prendergast, sau đó lập tức quay lại Coutts chuyển tiền vào tài khoản. Suy nghĩ này giúp Danny đi đến quyết định. Anh cầm chiếc phong bì lên, đưa cho ông Blundell và nói, “tôi trông cậy vào ông để tìm ra hai người muốn mua chiếc phong bì của tôi.”

“Tôi sẽ làm hết khả năng,” Blundell nói. “Gần đến ngày đấu giá, Sir Nicholas, tôi sẽ cho gửi một cuốn catalô tới cho ông, cùng giấy mời tham dự. Và tôi xin mạn phép nói thêm tôi đã luôn cảm thấy rất vinh hạnh được giúp đỡ ông nội của ông xây dựng nên bộ sưu tập tuyệt vời của ngài.”

“Bộ sưu tập tuyệt vời của ông nội tôi?” Danny lặp lại.

“Nếu ông muốn bổ sung cho bổ sưu tập đó, hay bán đi một phần của nó, tôi sẽ rất hân hạnh được phục vụ.”

“Cảm ơn ông,” Danny nói, “Có thể tôi sẽ sớm liên hệ với ông.” Anh rời khỏi Sotheby’s mà không nói thêm lời nào - anh không thể mạo hiểm hỏi ông Blundell những câu hỏi mà đáng ra bản thân anh phải rõ hơn ai hết câu trả lời. Nhưng nếu không làm cách nào anh có thể tìm ra bộ sưu tập tuyệt vời của Sir Alexander?

Chỉ vừa đặt chân ra tới phố Bond, Danny đã ước gì trước đây chấp nhận lời đề nghị ban đầu của ông Prendergast, bởi vì dù chiếc phong bì rốt cuộc có bán được đến sáu nghìn đi nữa, chừng đó vẫn còn xa mới đủ chi phí cho trận chiến tư pháp lâu dài với Hugo Moncrieff, và nếu anh muốn giải quyết xong vụ khiếu tố trước khi chi phí vượt khỏi tầm kiểm soát, anh vẫn còn đủ tiền để cầm cự thêm vài tuần nữa trong lúc tìm việc làm. Nhưng thật không may, Sir Nicholas Moncrieff không được dạy dỗ để làm một thợ cơ khí tại một gara của khu East End; nói thực lòng, Danny bắt đầu tự hỏi không rõ thân thế mới của mình đã được dạy dỗ để làm công việc gì.

Danny đi bộ dọc phố Bond vào Piccadilly. Anh suy nghĩ về ý nghĩa những lời Blundell đã nói, nếu thực sự chúng có ý nghĩa, về “bộ sưu tập tuyệt vời của ông nội ông”. Anh không hề phát hiện ra có một người lạ mặt đang đi theo mình. Nhưng cũng dễ hiểu, bởi gã này là một kẻ chuyên nghiệp.

***

Hugo nhấc điện thoại.

“Hắn mới ra khỏi Sotheby’s và đang đứng tại một bến xe bus ở Piccadilly.”

“Hẳn là nó sắp cháy túi rồi,” Hugo nói. “Nó đến Sotheby’s làm gì vậy?”

“Hắn để lại một chiếc phong bì ở chỗ ông Blundell, người phụ trách bộ phận sưu tập tem. Chiếc phong bì đó sẽ được đưa ra đấu giá trong sáu tuần nữa.”

“Có gì trên chiếc phong bì?” Hugo hỏi.

“Một con tem được phát hành nhân dịp kỳ Olympic hiện đại đầu tiên, được Blundell ước lượng giá trị vào khoảng từ hai nghìn đến hai nghìn năm trăm.”

“Khi nào phiên đấu giá diễn ra?”

“Mười sáu tháng chín.”

“Tôi sẽ có mặt ở đó,” Hugo nói, sau đó dập máy.

“Thật không giống ông bố anh chút nào khi mang một trong những con tem của ông đi bán. Trừ khi...” Margaret vừa gấp khăn ăn lại vừa nói.

“Anh không hiểu ý em, cô gái già. Trừ khi cái gì?” Hugo nói.

“Bố anh dành cả đời để gom góp lại một trong những bộ sưu tập tem quý giá nhất thế giới, mà bộ sưu tập đó không những đã biến mất đúng ngày ông chết, mà còn không hề được nói đến trong di chúc của ông. Nhưng trong đó lại nói đến một chiếc chìa khóa và một cái phong bì, hai thứ ông bố anh để lại cho Nick.”

“Anh vẫn chưa hiểu em muốn nói về cái gì, cô gái già?”

“Chiếc chìa khóa và cái phong bì chắc chắn có liên hệ nào đó với nhau,” Margaret nói.

“Điều gì khiến em nghĩ vậy?”

“Bởi vì em không tin con tem đó có gì quan trọng.”

“Nhưng hai nghìn bảng hẳn là một món không tồi với Nick vào thời điểm hiện tại.”

“Với bố anh thì không. Em ngờ rằng tên và địa chỉ trên phong bì quan trọng hơn nhiều, vì chúng sẽ dẫn chúng ta tới bộ sưu tập.”

“Nhưng chúng ta vẫn sẽ chưa có chiếc chìa khóa,” Hugo nói.

“Chiếc chìa khóa sẽ không còn quan trọng nữa nếu anh có thể chứng minh mình là người thừa kế hợp pháp gia tài của dòng họ Moncrieff.”

***

Danny bắt một chiếc bus tới Notting Hill Gate, hy vọng anh sẽ tới kịp giờ cuộc gặp hàng tháng với người giám hộ. Chờ thêm mười phút nữa thôi là anh buộc phải vẫy taxi. Bà Bennett đã viết thư cho anh nói rằng có điều gì đó quan trọng vừa xuất hiện. Những từ này đã khiến anh cảm thấy bất an, dù Danny biết nếu họ phát hiện ra thân thế thật của mình, sẽ không có chuyện anh được thông tin qua một lá thư từ người giám hộ, mà thay vào đó có lẽ anh hẳn đã phải bừng tỉnh giữa đêm khuya trong một ngôi nhà bị cảnh sát vây kín bốn bề.

Mặc dù càng ngày anh càng tự tin hơn với danh tính mới của mình, mỗi ngày trôi qua anh đều tự nhắc nhở bản thân mình là một tên tù vượt ngục. Bất cứ điều gì cũng có thể khiến anh bại lộ: một cái nhìn bất chợt, một nhận xét bị hiểu nhầm, một câu hỏi bâng quơ anh không biết câu trả lời. Ai là người chủ nhà của anh ở Loretto? Anh đã theo học trường nào ở Sandhurst? Anh cổ vũ cho đội rugby nào?

Hai người đàn ông cùng xuống bến khi chiếc xe bus dừng lại ở Notting Hill Gate. Một người rảo bước về phía văn phòng giám hộ địa phương; người kia theo sát đằng sau, nhưng không bước vào tòa nhà. Dù Danny đã trình diện ở bàn tiếp đón sớm mấy phút, anh vẫn phải đợi thêm hai mươi phút nữa trước khi bà Bennett có thể gặp anh.

Danny bước vài một văn phòng nhỏ, trống trải chỉ kê một chiếc bàn và hai chiếc ghế, không hề có rèm cửa, ngoài ra chỉ còn một tấm thảm mòn trơ chỉ thậm chí có mang ra chợ trời bán rẻ như cho không cũng chẳng ai buồn rước. Chẳng khá hơn mấy so với phòng giam của anh ở Belmarsh.

“Anh ổn chứ, Moncrieff?” bà Bennett hỏi khi anh ngồi xuống chiếc ghế nhựa đối diện với bà. Không “Sir Nicholas”, không “ngài”, chỉ đơn giản là “Moncrieff”.

Cư xử như Nick, suy nghĩ như Danny. “Tôi vẫn bình thường, cảm ơn bà, thưa bà Bennett. Còn bà?”

Người giám hộ không trả lời mà chỉ mở cặp tài liệu trước mặt mình ra, để lộ một danh sách các câu hỏi mà mỗi cựu tù đều phải trả lời mỗi tháng một lần trong thời gian chịu quản lý giám hộ. “Tôi chỉ muốn cập nhật tình hình,” bà nói. “Anh đã tìm được công việc dạy học nào chưa?”

Danny hoàn toàn quên khuấy Nick từng dự định quay về Scotland dạy học sau khi được ra tù.

“Chưa,” Danny trả lời. “Giải quyết chuyện gia đình đã mất nhiều thời gian hơn so với dự kiến ban đầu của tôi.”

“Chuyện gia đình?” bà Bennett hỏi lại. Đây không phải là câu trả lời bà chờ đợi. Chuyện gia đình có nghĩa là rắc rối. “Anh có muốn chúng ta bàn về vấn đề đó không?”

“Không, cảm ơn bà, thưa bà Bennett,” Danny nói. “Tôi chỉ muốn hoàn thành di chúc của ông nội tôi. Không có gì để bà phải bận tâm cả.”

“Tôi sẽ tự đánh giá về điều đó,” bà Bennett nghiêm khắc trả lời. “Điều này có nghĩa anh đang gặp khó khăn về tài chính?”

“Không, thưa bà Bennett.”

“Anh đã tìm được việc làm nào đó cho mình chưa?” người giám hộ hỏi, quay trở lại với danh sách câu hỏi của bà.

“Chưa, nhưng tôi dự định sẽ tìm một công việc trong tương lai gần.”

“Có lẽ là dạy học chăng?”

“Hy vọng là vậy,” Danny nói.

“Được rồi, nếu khả năng đó tỏ ra quá khó khăn, có lẽ anh nên cân nhắc tới các công việc khác.”

“Chẳng hạn?”

“À, tôi thấy anh từng làm thủ thư khi còn trong tù.”

“Chắc chắn tôi sẽ sẵn sàng xem xét tới khả năng đó,” Danny nói, tự tin rằng câu trả lời sẽ đem đến một dấu đánh giá tích cực vào một ô trả lời nữa.

“Hiện tại anh đã có nơi ở, hay vẫn ở lại nhà tạm trú do nhà tù bố trí?”

“Tôi đã có nơi ở.”

“Cùng với gia đình?”

“Không, tôi không có gia đình.”

Thêm một dấu đánh giá tích cực, một dấu gạch chéo và một dấu hỏi. Người giám hộ tiếp tục. “Anh đã thuê chỗ ở, hay sống chung cùng một người bạn?”

“Tôi sống trong nhà của mình.”

Bà Bennett có vẻ ngạc nhiên. Trước đây chưa có ai trả lời như vậy. Bà quyết định đánh một dấu tích cực. “Tôi chỉ còn một câu hỏi nữa cho anh. Trong tháng vừa qua, liệu anh đã từng có ý định tái phạm hành vi đã khiến anh bị phạt tù hay không?”

Có đây, tôi đã định giết Lawrence Davenport, Danny muốn nói với người giám hộ như vậy, nhưng Nick đã trả lời, “Không, thưa bà Bennett, không hề.”

“Lúc này vậy là xong, Moncrieff. Tôi sẽ gặp lại anh sau một tháng nữa. Từ giờ đến lúc đó, đừng ngần ngại liên lạc nếu anh cảm thấy tôi có thể giúp được gì.”

“Cảm ơn bà,” Danny nói, “nhưng trong lá thư bà đã nói có một điều quan trọng...”

“Tôi đã nói vậy thật sao?” bà Bennett hỏi trong khi đóng cặp hồ sơ trên bàn lại, để lộ ra một chiếc phong bì. “À phải rồi, anh nói đúng đấy.” Bà đưa cho anh một bức thư gửi cho N.A.Moncrieff, Phòng Giáo dục, Nhà tù Hoàng gia Belmarsh. Danny bắt đầu đọc một bức thư của Hội đồng Khảo thí Liên hiệp Vương quốc gửi cho Nick để xem điều bà Bennett coi là quan trọng là gì.

Kết quả kỳ thi A-level của ông được gửi kèm dưới đây:

Nghiên cứu Kinh doanh: A*

Toán: A

Danny đứng bật dậy, giơ thẳng nắm tay lên trời như thể anh đang có mặt tại Upton Park và West Ham vừa ghi bàn thắng quyết định vào lưới Arsenal. Bà Bennett không biết nên chúc mừng Moncrieff hay bấm chiếc nút dưới bàn làm việc để gọi an ninh. Khi hai chân anh đã chạm đất trở lại, bà nói, “Nếu anh vẫn còn ý định lấy một tấm bằng, Moncrieff, tôi sẽ rất vui được giúp anh xin trợ cấp.”

***

Hugo Moncrieff xem xét kỹ lưỡng cuốn catalô của Sotheby’s một hồi lâu. Ông ta buộc phải đồng ý với Margaret, chiếc phong bì đó chắc chắn chỉ có thể là lô 37: Một phong bì hiếm có dán một con tem thuộc đợt phát hành đầu tiên chào mừng sự khai sinh ra phong trào Olympic hiện đại, được gửi tới nhà sáng lập ra phong trào, Nam tước Pierre de Coubertin, giá trị ước tính 2200 - 2500 bảng.

“Có lẽ anh nên tham dự một trong những buổi trưng bày và xem xét nó kỹ lưỡng hơn chăng?” ông đề xuất.

“Anh sẽ không làm điều gì đại loại như vậy,” Margaret cương quyết phản đối. “Như thế chỉ đánh động Nick, và thậm chí nó có thể đoán ra thứ làm chúng ta quan tâm không phải là con tem.”

“Nhưng nếu anh xuống London hôm trước ngày diễn ra phiên đấu giá và tìm ra địa chỉ trên chiếc phong bì, chúng ta sẽ biết bộ sưu tập nằm ở đâu mà không cần tốn tiền mua lại chiếc phong bì đó.”

“Nhưng khi đó chúng ta sẽ không nắm được trong tay quân bài tẩy.”

“Anh không hiểu ý em lắm, cô gái già.”

“Có thể chúng ta không có trong tay chiếc chìa khóa, nhưng nếu người con trai duy nhất còn sống của bố anh xuất hiện với chiếc phong bì cũng như bản di chúc mới, chúng ta chắc chắn có cơ hội thuyết phục bất cứ ai đang trông coi bộ sưu tập nhân danh ông già rằng anh chính là người thừa kế hợp pháp.”

“Nhưng Nick có thể có mặt ở phiên đấu giá.”

“Nếu đến lúc đó nó chưa hiểu ra điều quan trọng nằm ở địa chỉ chứ không phải con tem, sẽ là quá muộn cho cậu cháu anh để làm bất cứ điều gì khác. Hãy biết ơn cậu ta vì một điều, Hugo.”

“Và đó là điều gì vậy, cô gái già?”

“Nick không suy nghĩ giống ông nội nó.”

***

Danny lại mở cuốn catalô ra. Anh giở đến lô 37 và đọc lời giới thiệu thật kỹ lưỡng thêm một lần nữa. Anh rất hài lòng khi tìm thấy một mô tả chi tiết đến vậy về chiếc phong bì của mình, mặc dù có hơi thất vọng khi, không như một số hiện vật khác, không hề có bức ảnh nào đi kèm lời mô tả.

Anh bắt đầu chuyển sang đọc các điều kiện bán và kinh hoàng nhận ra Sotheby’s lấy lại 10 phần trăm giá bán từ phía người bán, cũng như lấy một khoản hoa hồng 20 phần trăm từ phía người mua. Nếu rốt cuộc anh chỉ kiếm được 1800 bảng, chẳng thà bán luôn chiếc phong bì cho Stanley Gibbons - chính xác điều mà Nick hẳn đã làm.

Danny đóng cuốn catalô lại, chuyển sự chú ý sang bưu phẩm duy nhất còn lại anh nhận được sáng hôm đó: một cuốn sách nhỏ và một bản đăng ký của Đại học London để đăng ký theo học một trong các cua đào tạo có cấp chứng chỉ của trường. Anh để một khoảng thời gian cân nhắc giữa các lựa chon. Cuối cùng anh tìm đến phần có ghi chú các trường hợp đăng ký có trợ cấp, hoàn toàn ý thức được nếu anh tuân thủ lời hứa với Nick và Beth, điều đó sẽ có nghĩa là một thay đổi đáng kể về lối sống.

Hiện tại tài khoản của Nick đã tụt xuống chỉ còn 716 bảng, không hề có thêm một khoản bổ sung nào kể từ khi anh được ra tù. Anh sợ rằng điều đầu tiên cần hy sinh sẽ là Molly, nếu thế ngôi nhà sẽ nhanh chóng quay trở lại tình trạng anh đã tìm thấy nó khi lần đầu tiên mở cửa bước vào.

Danny cũng tránh không gọi điện cho ông Munro yêu cầu báo cáo về tiến triển của trận chiến pháp lý của anh với ông chú Hugo, sợ rằng điều đó chỉ mang đến thêm một hóa đơn nữa. Anh ngồi xuống, suy nghĩ về lý do đã khiến anh tình nguyện thế chỗ của Nick. Al Mập đã thuyết phục anh rằng nếu anh có thể thoát khỏi nhà tù, bất cứ điều gì khác cũng sẽ trở nên có thể. Trên thực tế, anh đã nhanh chóng hiểu ra một người đàn ông cô độc không xu dính túi sẽ không thể nào đối đầu được với ba kẻ thành đạt, cho dù bọn họ nghĩ anh đã chết và đã quên khuấy anh từ lâu. Anh nghĩ tới những kế hoạch đã bắt đầu triển khai, bắt đầu bằng việc đến dự buổi công diễn cuối cùng của vở Tầm quan trọng của sự chân thật vào tối nay. Mục đích thực sự nằm sau khi buổi diễn kết thúc, khi anh tham dự bữa tiệc chào mừng đêm hạ màn và lần đầu tiên mặt đối mặt với Lawrence Davenport.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 43


Danny đứng dậy khỏi chỗ ngồi, hòa vào đám đông đang đứng lên hoan hô nhiệt liệt, không chỉ vì nếu không anh sẽ trở thành một trong vài ngoại lệ trong nhà hát vẫn còn tiếp tục ngồi. Lần xem thứ hai này còn khiến anh hào hứng hơn với vở kịch, có lẽ vì lần này anh đã có cơ hội đọc qua kịch bản.

Được ngồi tại hàng ghế thứ ba giữa các thành viên gia đình cùng bạn bè của dàn diễn viên càng khiến anh hào hứng hơn. Ngồi cạnh anh, một bên là người thiết kế sân khấu, bên kia là vợ của nhà sản xuất. Họ mời anh cùng đi uống một ly với mình trong thời gian nghỉ kéo dài giữa các cảnh. Anh lắng nghe các câu chuyện về nhà hát, cảm thấy đủ không tự tin để đưa ra ý kiến. Song cũng chẳng quan trọng lắm, vì tất cả họ đều có những quan điểm bất di bất dịch về mọi thứ, từ diễn xuất của Davenport cho tới nguyên do vì sao khu West End lại trở thành lãnh địa của âm nhạc. Có vẻ như Danny chỉ có một điểm chung duy nhất với giới hoạt động sân khấu: có vẻ như không ai trong bọn họ biết công việc tiếp theo của mình là gì.

Sau khi Davenport đã quay ra sân khấu chào khán giả không biết bao nhiêu lần nữa, đám đông khán giả mới từ từ rời khỏi nhà hát. Vì hôm đó là một đêm đẹp trời, Danny quyết định đi bộ đến Dorchester. Vận động một chút sẽ có lợi cho anh, mà nói cho cùng, anh cũng không thể cho phép mình xa xỉ gọi taxi nữa.

Anh vừa bắt đầu rảo bước về hướng Piccadilly Circus thì có tiếng gọi, “Sir Nicholas?” Anh quay lại, trông thấy người phụ trách quầy vé đang vẫy tay gọi mình, trong khi tay kia giữa lấy cửa một chiếc taxi. “Nếu ông đang tới dự buổi tiệc, sao không đi cùng chúng tôi?”

“Cảm ơn anh,” Danny vừa nói vừa chui vào xe và thấy đã có hai phụ nữ trẻ ngồi trên băng ghế sau.

“Đây là Sir Nicholas Moncrieff,” người phụ trách quầy vé giới thiệu trong khi mở một chiếc ghế phụ ra ngồi đối diện với họ.

“Gọi tôi là Nick,” Danny đính chính trong khi ngồi xuống một chiếc ghế phụ khác.

“Nick, đây là bạn gái tôi Charlotte. Cô ấy phụ trách đồ trang trí sân khấu. Còn đây là Katie, diễn viên dự phòng. Tôi là Paul.”

“Cô dự phòng cho vai nào vậy?” Nick hỏi Katie.

“Tôi dự phòng cho Eve Best, người đóng vai Gwendolen.”

“Nhưng không phải tối nay,” Danny nói.

“Không,” Katie thừa nhận, đồng thời gác hai chân chéo lên nhau. “Thực ra, tôi mới chỉ diễn một buổi trong cả đợt công diễn. Một suất diễn sáng khi Eve phải thực hiện một cam kết với BBC.”

“Như thế chẳng phải hơi thất vọng sao?” Danny hỏi.

“Chắc rồi, nhưng so với thất nghiệp vẫn còn hơn.”

“Mọi diễn viên dự phòng đều sống trong hy vọng họ sẽ được khám phá khi diễn viên chính vắng mặt,” Paul nói. “Albert Finney diễn thay Larry Olivier khi anh ta đang đóng Coriolanus ở Stratford, và chỉ sau một đêm đã trở thành một ngôi sao.”

“Thế nhưng nó đã không diễn ra vào lần tôi được lên sân khấu,” Katie cảm khái. “Thế còn anh thì sao, Nick, anh làm gì?”

Danny không trả lời ngay, một phần vì chưa có ai, ngoài người giám hộ, hỏi anh câu hỏi đó. “Tôi từng là một người lính,” anh nói.

“Anh trai tôi cũng tại ngũ,” Charlotte nói. “Tôi rất lo anh ấy có thể bị điều tới Iraq. Anh đã từng phục vụ ở đó chưa?”

Danny cố nhớ lại những dòng nhật ký có liên quan của Nick. “Hai lần,” anh trả lời. “Nhưng không phải gần đây,” anh nói thêm.

Katie nhìn Danny mỉm cười khi chiếc taxi dừng lại bên ngoài Dorchester. Anh vẫn còn nhớ như in người phụ nữ trẻ cuối cùng từng nhìn anh như vậy.

Danny là người cuối cùng xuống taxi. Anh nghe thấy mình lên tiếng, “Để tôi thanh toán lần này,” trong khi trông chờ câu trả lời của Paul sẽ là, “Không đời nào”.

“Cảm ơn, Nick,” Paul nói, trong khi cùng Charlotte đi vào khách sạn. Danny rút ví ra chia tay với mười bảng một cách cực kỳ miễn cưỡng - một điều đã quá rõ ràng, đêm nay anh sẽ phải cuốc bộ về nhà.

Katie đứng lại chờ Nick đi cùng nàng. “Paul nói với tôi đây là lần thứ hai anh đến xem vở diễn,” nàng nói trong khi hai người đi vào khách sạn.

“Tôi đến với hy vọng tình cờ được xem cô diễn vai Gwendolen,” Danny vừa nói vừa cười hết cỡ.

Nàng mỉm cười, ghé môi hôn lên má anh. Một cảm giác đã lâu lắm Danny chưa được tận hưởng. “Anh dễ thương lắm, Nick,” nàng vừa nói vừa cầm tay anh dắt vào phòng tiệc.

“Tiếp theo đây em định sẽ làm gì?” Danny hỏi, gần như phải gào lên để át đi tiếng ồn trong phòng.

“Ba tháng tập vai với English Touring Company.”

“Lại làm diễn viên dự phòng nữa sao?”

“Không, họ không thể dành chỗ cho diễn viên dự phòng khi lưu diễn. Nếu ai đó bỏ cuộc, người bán chương trình sẽ lấy chỗ của bạn. Thế nên đây sẽ là cơ hội để em được lên sân khấu, và cơ hội của anh tới xem em diễn.”

“Em sẽ diễn ở đâu?” Danny hỏi.

“Anh tự lựa chọn đi - Newcastle, Sheffield, Birmingham, Cambridge hay Bromley.”

“Anh nghĩ sẽ là Bromley,” Danny trả lời trong lúc một người phục vụ mang champagne đến mời họ.

Anh nhìn quanh căn phòng đông nghẹt người. Dường như tất cả đều cùng nói chuyện một lúc. Những ai không nói gì, bận bịu uống champagne, trong khi có những người liên tục di chuyển bắt chuyện hết người này đến người khác với hy vọng tạo ấn tượng với các đạo diễn, nhà sản xuất và phụ trách tuyển diễn viên trong cuộc hành trình không ngừng nghỉ tìm kiếm công việc tiếp theo cho bản thân.

Danny buông tay Katie, nhớ ra rằng, không khác gì các vị diễn viên đang tìm việc kia, anh cũng có mục đích riêng của mình khi đến đây. Anh chậm rãi quan sát căn phòng, tìm kiếm Lawrence Davenport, nhưng không thấy tăm hơi gã đâu. Danny đành bằng lòng với suy đoán gã sẽ đến muộn hơn.

“Đã chán em rồi sao?” Katie hỏi, thuận tay nhấc một ly champagne nữa từ trên khay của một người phục vụ đi ngang qua.

“Đâu có,” Danny trả lời không được thuyết phục cho lắm, vừa đúng lúc một người đàn ông trẻ tuổi đến bên họ.

“Chào, Katie,” anh ta vừa nói vừa hôn lên má cô gái. “Em đã có công việc tiếp theo chưa hay vẫn đang nghỉ ngơi?”

Danny lấy một chiếc xúc xích từ một khay thức ăn được bê ngang qua, nhớ ra anh sẽ không có gì khác để ăn cho tối hôm đó. Một lần nữa anh lại nhìn quanh căn phòng tìm kiếm Davenport. Đôi mắt anh dừng lại khi bắt gặp một kẻ mà đáng ra anh phải lường trước rất có thể cũng sẽ có mặt tại đây đêm nay. Gã đứng giữa phòng tán chuyện với hai cô nàng, hai cô gái có vẻ như đang nuốt lấy từng lời gã nói. Gã không cao như Danny vẫn nhớ từ cuộc gặp mặt cuối cùng giữa họ, nhưng lần trước là một con đường hẻm tối tăm, chưa kể mối quan tâm duy nhất của anh lúc đó là cứu sống Bernie.

Danny quyết định lại gần hơn quan sát. Anh bước một bước về phía gã, rồi một bước nữa, cho tới khi chỉ còn cách vài bước chân. Spencer Craig đang nhìn thẳng vào anh. Danny rùng mình, rồi hiểu ra Craig đang nhìn ra phía sau anh, chắc hẳn nhắm tới một cô gái khác.

Danny nhìn chăm chăm vào kẻ đã giết chết người bạn thân nhất của anh nhưng đã nhẹ nhàng thoát tội. “Không đâu, chừng nào tao còn sống,” Danny bật lên thành tiếng, gần như đủ to để Craig cũng nghe thấy. Anh bước lên thêm một bước nữa, mỗi lúc một mạnh bạo hơn trước vẻ dửng dưng của Craig. Thêm một bước nữa, và một người đàn ông trong nhóm của Craig, trước đó vẫn quay lưng về phía Danny, như có linh tính quay lại nhìn xem kẻ xâm nhập lãnh địa của mình là ai. Danny đang đứng mặt đối mặt với Gerald Payne. Gã đã mập lên không ít kể từ phiên tòa, và Danny phải mất vài giây trước khi nhận ra gã. Payne quay lưng lại như cũ, hoàn toàn dửng dưng. Thậm chí ngay cả khi xuất hiện trên bục nhân chứng, gã cũng không thèm liếc nhìn Danny đến lần thứ hai - chắc hẳn đó là một phần trong các chiến thuật Craig đã khuyên gã sử dụng.

Danny lấy cho mình một miếng cá hồi hun khói trong khi vẫn lắng nghe cuộc trò chuyện giữa Craig với hai cô gái. Gã đang huyên thuyên một bài nói chắc chắn đã được thực hành nhuần nhuyễn không biết bao nhiêu lần, ví von tòa án với một nhà hát, chỉ có điều tại đó bạn sẽ chẳng bao giờ biết trước khi nào màn hạ. Cả hai cô gái nghiêm chỉnh bật cười đúng phép xã giao.

“Không sai chút nào,” Danny lớn tiếng nói chen vào. Cả Craig và Payne cùng quay lại nhìn anh, nhưng không hề có chút dấu hiệu nhận ra, bất chấp việc bọn họ từng nhìn thấy anh trên ghế bị cáo mới chỉ hai năm trước đây, nhưng lúc đó anh để tóc ngắn hơn nhiều, râu không cạo và lại mặc quần áo tù. Dù sao đi nữa, tại sao bọn họ phải bận tâm đến Danny Cartwright? Nói cho cùng, anh chàng khốn khổ đã tiêu đời và bị chôn sâu dưới đất.

“Buổi tiệc vui chứ, Nick?” Danny quay sang bên, nhìn thấy Paul đang ở ngay cạnh mình.

“Rất tuyệt, cảm ơn anh,” Danny nói. “Tuyệt hơn nhiều so với trông đợi của tôi,” anh nói thêm mà không giải thích gì. Danny bước thêm một bước lại gần Craig và Payne để bọn họ có thể nghe thấy giọng nói của anh, nhưng dường như không có gì khiến họ phân tâm khỏi cuộc trò chuyện với hai cô gái.

Một tràng vỗ tay hoan hô vang lên quanh căn phòng, mọi cặp mắt đều quay lại quan sát Lawrence Davenport khi gã bước vào. Gã mỉm cười vẫy tay chào như thể là một thành viên hoàng tộc. Gã thong thả đi vào phòng, nhận được những tràng vỗ tay hoan hô và những lời khen ngợi tới tấp đổ dồn lại theo mỗi bước chân. Danny chợt nhớ những câu văn đầy ám ảnh của Scott Fitzgerald: Khi người nghệ sĩ nhảy, anh ta không thể tìm thấy chiếc gương nào, vậy là anh ta cúi người ra sau để chiêm ngưỡng hình ảnh chính mình phản chiếu trên ngọn đèn chùm.

“Anh muốn gặp anh ta không?” Paul hỏi, nhận ra Danny không rời mắt khỏi Davenport.

“Có chứ,” Danny nói, tò mò muốn biết liệu anh chàng nghệ sĩ có nhìn anh dửng dưng giống như các đồng đội Ngự lâm quân của gã không.

“Vậy theo tôi.” Họ bắt đầu chậm chạp lách qua căn phòng đông đúc, nhưng trước khi đến được chỗ Davenport, Danny bất ngờ chững lại. Anh nhìn chăm chăm vào người phụ nữ gã đang trò chuyện, một người rõ ràng có quan hệ rất thân thiết với gã.

“Đẹp quá,” Danny nói.

“Anh ta quả là đẹp, đúng không nào,” Paul tán đồng, nhưng trước khi Danny kịp đính chính, anh ta đã nói tiếp. “Larry, tôi muốn anh gặp một người bạn của tôi, Nick Moncrieff.”

Davenport không buồn bắt tay Danny; anh chàng này cũng chỉ như bao kẻ khác trong đám đông hy vọng được một lần gặp gỡ thần tượng. Danny mỉm cười với cô bạn gái của Davenport.

“Xin chào,” cô gái nói. “Tôi là Sarah.”

“Nick. Nick Moncrieff,” anh đáp. “Chắc hẳn cô là một nghệ sĩ.”

“Ồ không, ít quyến rũ hơn nhiều. Tôi là luật sư.”

“Trông cô không hề giống một luật sư,” Danny nói. Sarah không trả lời. Chắc hẳn cô đã từng nghe qua câu trả lời ngớ ngẩn đó.

“Còn anh là diễn viên?” cô hỏi.

“Tôi sẽ là bất cứ điều gì cô muốn tôi trở thành,” Danny đáp, và lần này cô gái mỉm cười.

“Xin chào, Sarah,” một người đàn ông trẻ tuổi khác vừa lên tiếng chào vừa khoác tay qua eo cô gái. “Không nghi ngờ gì nữa, cô chính là người phụ nữ mê hồn nhất tại đây,” anh ta nói, rồi hôn lên cả hai bên má cô gái.

Sarah bật cười. “Tôi sẽ rất vui, Charlie, nếu tôi không biết rằng anh trai tôi mới thực sự là người anh mơ tưởng đến chứ không phải tôi.”

“Vậy cô là em gái Lawrence Davenport sao?” Danny hỏi với vẻ khó tin.

“Cũng phải có ai đó chứ,” Sarah đáp. “Nhưng tôi đã học được cách sống với nó rồi.”

“Thế còn anh bạn của cô thì sao?” Charlie vừa hỏi vừa mỉm cười với Danny.

“Tôi không nghĩ vậy,” Sarah nói. “Nick, đây là Charlie Duncan, nhà sản xuất vở kịch.”

“Tiếc quá,” Charlie nói, rồi chuyển sự chú ý sang những chàng trai trẻ đang vây quanh Davenport.

“Tôi nghĩ anh ta thích anh,” Sarah nói.

“Nhưng tôi đâu có...”

“Tôi mới vừa khám phá ra điều đó xong,”Sarah cười thật tươi.

Danny tiếp tục chuyện vãn với Sarah, ý thức được anh không cần phải bận tâm đến Davenport nữa khi em gái gã hẳn sẽ có thể nói cho anh biết tất cả những gì anh cần biết.

“Liệu chúng ta có thể...” Danny bắt đầu khi một giọng nói khác vang lên. “Chào, Sarah, tôi không rõ liệu...”

“Xin chào, Spencer,” cô gái lạnh lùng trả lời. “Anh có quen Nick Moncrieff không?”

“Không,” gã đáp, và sau một cái bắt tay xã giao, tiếp tục nói chuyện với Sarah. “Anh đang định đến chúc mừng Larry thì trông thấy em.”

“Vậy thì bây giờ là cơ hội của anh đấy,” Sarah nói.

“Nhưng anh cũng hy vọng có thể nói riêng vài lời với em.”

“Tôi đang định ra về,” Sarah vừa nói vừa xem đồng hồ.

“Nhưng bữa tiệc mới bắt đầu thôi mà, chẳng lẽ em không ở lại thêm một lát sao?”

“Tôi e là không, Spencer. Tôi cần xem qua một số giấy tờ trước khi báo cáo nhóm luật sư.”

“Chỉ là anh hy vọng...”

“Đúng như lần cuối chúng ta gặp nhau.”

“Anh nghĩ chúng ta đã chọn sai bước chân đầu tiên.”

“Còn tôi lại nhớ dường như việc đó liên quan đến chọn sai tay,” Sarah nói, quay lưng lại gã.

“Rất xin lỗi anh về chuyện này, Nick,” Sarah nói. “Một vài người đàn ông không hiểu khi nào cần chấp nhận một câu trả lời “Không”, trong khi có những người khác...” Cô mỉm cười với anh thật dịu dàng. “Tôi hy vọng chúng ta sẽ có dịp gặp lại.”

“Làm cách nào tôi...” Danny định hỏi, nhưng Sarah đã đi cách xa anh quá nửa căn phòng; loại phụ nữ cho rằng nếu bạn muốn tìm cô ta, bạn sẽ tìm được. Danny quay lại và thấy Craig đang nhìn anh chăm chú hơn.

“Spencer, thật hay là cậu đã đến,” Davenport nói. “Tối nay tớ được đấy chứ?”

“Chưa bao giờ tuyệt vời hơn,” Craig đáp.

Danny nghĩ đã tới lúc ra về. Anh không còn cần nói chuyện với Davenport nữa, và cũng như Sarah, anh có một cuộc gặp cần chuẩn bị. Anh dự định sẽ thật tỉnh táo khi người đấu giác mang lô 37 ra chào bán.

“Xin chào, anh chàng lạ mặt. Anh biến mất đi đâu vậy?”

“Gặp phải một kẻ thù cũ,” Danny nói. “Còn cô?”

“Vẫn những trò vè cũ rích. Chán không thể tả được,” Katie nói. “Em chán ngấy bữa tiệc này rồi. Anh thì sao?”

“Anh chuẩn bị về đây.”

“Ý kiến hay đấy,” Katie nói, nắm lấy tay anh. “Tại sao chúng ta không chuồn cùng nhau?”

Họ cùng đi qua căn phòng tiệc, hướng tới cánh cửa quay. Khi Katie đã ra đến hè đường, nàng vẫy một chiếc taxi.

“Về đâu, quý cô,” tay lái xe hỏi.

“Chúng ta đi đâu đây?” Katie hỏi Nick.

“Số mười hai The Boltons.”

“Tới liền, thưa quý vị,” tay lái xe đáp, câu trả lời gợi lại cho Danny những kỷ niệm đượm buồn.

Danny chưa kịp ngồi xuống đã cảm thấy một bàn tay đặt lên đùi mình. Cánh tay còn lại của Katie quàng lấy cổ anh, nàng kéo anh vào lòng mình.

“Em phát chán với việc làm diễn viên dự phòng rồi,” nàng nói. “Em sẽ chiếm phần chủ động để thay đổi.” Nàng cúi người ra trước và hôn anh.

Khi chiếc taxi dừng lại trước cửa nhà Nick, không còn mấy chiếc khuy chưa được cởi tung ra. Katie lao vụt ra khỏi xe, chạy lên trước cửa nhà trong khi Danny trả tiền taxi lần thứ hai tối hôm đó.

“Ước gì tôi còn ở tuổi anh bạn,” tay lái xe nhận xét.

Danny phá lên cười, đến bên Katie trước cửa nhà. Phải mất chút thời gian anh mới tra được chìa vào khóa, và trong khi hai người vừa quấn lấy nhau vừa bước vào tiền sảnh, nàng cởi phăng áo jacket của anh ra. Hai người để lại một dãy quần áo rải từ cửa trước đến tận phòng ngủ. Nàng kéo anh tới bên giường, lôi anh đè lên người nàng. Một điều nữa Danny đã lâu chưa được trải qua.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 44


Danny nhảy xuống xe bus, bắt đầu đi bộ ngược lên phố Bond. Anh có thể trông thấy một lá cờ màu xanh da trời phất phới trong làn gió nhẹ, kiêu hãnh trưng ra những chữ cái bằng vàng Sotheby’s.

Danny chưa bao giờ tham dự một phiên bán đấu giá, và bắt đầu ước gì đã ngồi dự một hai phiên trước khi lần đầu nhập cuộc. Viên cảnh sát mặc đồng phục đứng trước cửa đưa tay chào khi anh bước vào, như thể anh là một vị khách quen không hề nghĩ ngợi khi bỏ ra vài triệu cho một bức tranh nhỏ của trường phái Ấn tượng.

“Phiên đấu giá tem diễn ra ở đâu?” Danny hỏi người phụ nữ ngồi sau bàn tiếp tân.

“Trên gác,” người phụ nữ trả lời, chỉ tay về phía bên phải, “ở lầu một. Ông không nhầm được đâu. Ông có muốn một chiếc thẻ đấu giá không?” cô hỏi. Danny không hiểu rõ người phụ nữ muốn nói gì. “Ông có tham gia đấu giá không?”

“Không,” Danny nói. “Sưu tập, tôi hy vọng vậy.”

Danny leo lên cầu thang, bước vào một căn phòng rộng sáng choang, trong phòng chỉ có sáu người đang đi đi lại lại tất bật. Anh không dám chắc đã tới đúng chỗ cho đến khi trông thấy ông Blundell đang nói chuyện với một người đàn ông mặc một chiếc áo khoác màu xanh lục kiểu cách. Trong phòng kê đầy những hàng ghế, mặc dù mới chỉ có vài ghế có người ngồi. Phía trên hàng ghế đầu, nơi Blundell đang đứng, có một bệ tròn được đánh bóng sáng loáng, Danny đoán có lẽ đó là nơi cuộc đấu giá được thực hiện. Trên bức tường phía sau chiếc bục có một màn hình lớn hiển thị hệ số quy đổi của một số loại tiền tệ khác nhau, như vậy bất cứ khách hàng tham gia đấu giá nào tới từ nước ngoài cũng biết họ cần trả bao nhiêu, ở phía tay phải căn phòng có một dãy điện thoại màu trắng được đặt cách đều nhau trên một chiếc bàn dài.

Danny đi loanh quanh ở cuối căn phòng trong khi ngày càng nhiều người bắt đầu xuất hiện, ngồi vào chỗ. Anh quyết định ngồi xuống hàng ghế dưới cùng để có thể theo dõi được tất cả những người tham gia trả giá cũng như người điều khiển phiên đấu giá. Anh cảm thấy mình giống một quan sát viên hơn một người trong cuộc. Danny lần giở các trang của cuốn catalô, dù anh đã đọc đi đọc lại vài lần. Mối quan tâm thực sự duy nhất của anh là lô 37, nhưng anh nhận thấy lô 36, một con tem bốn penny màu đỏ phát hành năm 1861 có hình Mũi Hảo vọng, trị giá ước tính thấp nhất 40000 bảng, cao nhất 60000 bảng, mức giá khiến nó trở thành hiện vât đắt giá nhất được đấu giá.

Anh ngẩng lên, trông thấy ông Prendergast từ Stanley Gibbons bước vào phòng, gia nhập một nhóm nhỏ những người buôn bán hiện vật sưu tập đang thì thầm to nhỏ với nhau ở cuối căn phòng.

Danny cảm thấy bình tĩnh hơn khi ngày càng nhiều người mang theo thẻ đấu giá bước vào, ngồi xuống ghế. Anh xem đồng hồ - chiếc đồng hồ ông nội Nick đã tặng anh ta vào ngày sinh nhật thứ hai mươi mốt - đã mười giờ kém mười. Anh không khỏi chú ý khi có một người đàn ông phải nặng trên một trăm sáu mươi cân bước vào căn phòng, trên bàn tay phải cầm một điếu xì gà to chưa châm lửa. Người đàn ông chậm rãi đi dọc lối đi trước khi dừng lại ngồi xuống chiếc ghế nằm ở cuối hàng thứ năm, chỗ ngồi có vẻ đã được dành trước cho ông ta.

Khi Blundell nhận ra người đàn ông - mà chắc chắn ông không thể không để ý thấy người này - ông tách khỏi nhóm của mình và bước tới chào ông ta. Danny ngạc nhiên thấy cả hai cùng quay lại nhìn về phía mình. Blundell giơ cuốn catalô của ông lên ra hiệu đã thấy anh, và Danny gật đầu. Người đàn ông có điếu xì gà mỉm cười như thể nhận ra Danny, sau đó tiếp tục trò chuyện với người điều khiển phiên đấu giá.

Các chỗ ngồi trong phòng nhanh chóng chật kín vì các khách hàng quen chỉ xuất hiện ngay trước khi Blundell quay trở lại phía trước phòng đấu giá. Ông bước lên sáu bậc thang của chiếc bục, mỉm cười nhìn xuống các khách hàng tiềm năng của mình, rót một cốc nước trước khi kiểm tra lại giờ trên chiếc đồng hồ treo tường. Ông gõ nhẹ vào micro và nói, “Chúc buổi sáng tốt lành, thưa quý bà quý ông, và chào mừng quý vị đến với phiên đấu giá những con tem quý tổ chức mỗi năm hai lần của chúng tôi. Sau đây là lô số một.” Một hình ảnh phóng to của một con tem có mặt trong catalô xuất hiện trên màn hình bên cạnh ông.

“Chúng ta bắt đầu phiên đấu giá hôm nay với một con tem màu đen giá một penny, phát hành năm một nghìn tám trăm bốn mươi mốt, trong tình trạng gần như hoàn hảo. Tôi có thể thấy một lời đề nghị ở mức một nghìn bảng không ạ?” Một người buôn bán đứng trong nhóm của Prendergast ở cuối phòng giơ thẻ của mình lên. “Một nghìn hai trăm?” Lời chào giá được đáp lại lập tức từ một người trả giá ngồi ở hàng ghế thứ ba, người cuối cùng mua được con tem, sau sáu lần nâng giá nữa, ở mức 1800 bảng.

Danny rất phấn chấn khi thấy con tem trị giá một penny đã được bán ở mức giá cao hơn nhiều so với ước tính ban đầu, nhưng khi những lô hiện vật mới được đưa ra đấu giá, mức giá đạt được lại hoàn toàn trái ngược. Với Danny, dường như không thể lý giải được tại sao một số hiện vật vượt xa mức ước lượng tối đa, trong khi có món lại không đạt nổi mức ước lượng thấp nhất, mỗi lần như thế người điều khiển phiên đấu giá lại khẽ nói, “Không bán.” Danny không muốn nghĩ tới hậu quả sẽ xảy ra nếu một câu “Không bán” xuất hiện khi đến lượt lô 37.

Thỉnh thoảng Danny liếc nhìn sang người đàn ông có điếu xì gà, nhưng không hề có dấu hiệu nào cho thấy ông ta đang tham gia đấu giá cho bất cứ lô nào trong số những hiện vật đầu tiên. Anh hy vọng mối quan tâm của ông ta đều dành cho chiếc phong bì gửi Coubertin, nếu không tại sao Blundell lại chỉ cho ông ta thấy anh?

Khi người điều khiển chuyển sang lô 35, một bộ tem của Khối Thịnh vượng chung được bán trong vòng chưa tới 30 giây với giá 1000 bảng, Danny đã trở nên rất căng thẳng. Lô số 36 khiến cả căn phòng xôn xao bàn tán, và cũng khiến Danny giở catalô của mình ra xem lần nữa: con tem bốn penny màu đỏ phát hành năm 1861 có hình Mũi Hảo vọng, một trong số sáu con tem hiếm hoi loại này còn lại trên toàn thế giới.

Blundell bắt đầu đấu giá ở mức 30 nghìn bảng, và sau khi vài tay buôn bán chuyên nghiệp và mấy nhà sưu tập nhỏ đã bỏ cuộc, hai người trả giá còn lại gồm người đàn ông có điếu xì gà và một người trả giá qua điện thoại không lộ danh tính. Danny chăm chú quan sát người đàn ông có điếu xì gà. Ông ta không thể hiện bất cứ dấu hiệu nào cho thấy đang trả giá, nhưng khi cuối cùng Blundell nhận được một cái lắc đầu từ người phụ nữ trực điện thoại, ông quay về phía ông ta và nói, “Bán cho ông Hunsacker với giá bảy mươi lăm nghìn bảng.” Người đàn ông mỉm cười nhấc điếu xì gà ra khỏi miệng.

Danny đã chăm chú theo dõi cuộc chiến đấu giá vừa diễn ra đến mức anh giật mình khi Blundell thông báo, “Lô ba mươi bảy, một chiếc phong bì độc nhất vô nhị dán một con tem thuộc đợt phát hành đầu tiên của Chính phủ Pháp để chào mừng lễ khai mạc Olympic hiện đại đầu tiên. Phong bì được gửi tới người sáng lập ra phong trào Olympic hiện đại, Nam tước Pierre de Coubertin. Liệu tôi có được một đề nghị trả giá đầu tiên ở mức một nghìn bảng không ạ?” Danny thất vọng khi Blundell khởi đầu đấu giá ở mức thấp như vậy, cho tới khi anh thấy vài chiếc thẻ giơ lên trong phòng.

“Một nghìn năm trăm?” Gần như số thẻ vẫn giữ nguyên.

“Hai nghìn?”Đã có thêm người bỏ cuộc.

“Hai nghìn năm trăm?” ông Hunsacker vẫn giữ điếu xì gà chưa châm lửa trên miệng.

“Ba nghìn?” Danny nghển cổ lên nhìn quanh phòng, nhưng không nhìn ra ai là người trả giá.

“Ba nghìn năm trăm?” Điếu xì gà vẫn yên vị ở chỗ cũ.

“Bốn nghìn. Bốn nghìn năm trăm. Năm nghìn. Năm nghìn năm trăm. Sáu nghìn.” Hunsacker lấy điếu xì gà khỏi miệng, khẽ cau mày.

“Bán, cho quý ông ngồi trên hàng ghế đầu, với giá sáu nghìn bảng,” người điều khiển phiên đấu giá tuyên bố trong khi gõ búa xuống. “Lô ba mươi tám, một mẫu vật rất hiếm...”

Danny cố nhìn xem ai là người ngồi ở hàng ghế đầu, nhưng không thể tìm ra người đã mua chiếc phong bì của mình. Anh muốn cảm ơn họ vì đã trả giá cao hơn mức ước tính cao nhất. Bỗng anh cảm thấy có người vỗ vai, anh bèn quay lại và trông thấy người đàn ông với điếu xì gà đang đứng lừng lững bên cạnh mình.

“Tên tôi là Gene Hunsacker,” ông ta tự giới thiệu với giọng nói to không kém gì người điều khiển phiên đấu giá. “Nếu anh vui lòng cùng uống với tôi một tách cà phê, Sir Nicholas, có thể chúng ta có vài mối quan tâm chung cần thảo luận. Tôi là người Texas,” ông ta vừa nói vừa bắt tay Danny, “nên có thể sẽ đỡ ngạc nhiên hơn nếu chúng ta gặp nhau ở Washington. Tôi từng có vinh hạnh được làm quen với ông nội anh,” ông ta nói thêm trong lúc họ rời phòng đấu giá cùng nhau đi xuống cầu thang. Danny không nói một lời. Đừng bao giờ biến mình thành con tin, anh đã học được điều này từ khi bắt đầu vào vai Nick. Khi họ xuống tới tầng trệt, Hunsacker dẫn anh tới nhà hàng, ngồi xuống một chỗ hóa ra vốn được dành riêng cho ông.

“Hai cà phê đen,” ông nói với một người phục vụ đi ngang qua, không để cho Danny có lựa chọn. “Bây giờ, Sir Nicholas. Tôi thực sự không hiểu nổi.”

“Không hiểu nổi?” Danny nói, lần đầu tiên lên tiếng.

“Tôi không đoán ra được tại sao anh để chiếc phong bì của de Coubertin bị đem ra đấu giá, sau đó lại cho phép ông chú anh qua mặt tôi giành lấy nó. Trừ khi anh và ông ta hợp tác với nhau với hy vọng có thể ép tôi trả cao hơn nữa.”

“Chú tôi và tôi hiện không có được quan hệ tốt,” Danny nói, thận trọng lựa chọn từ ngữ của mình.

“Đó là một điểm chung giữa anh và ông nội đã quá cố của anh,” Hunsacker nói.

“Ông là một người bạn của ông nội tôi?” Danny hỏi.

“Nói là bạn bè thì hơi quá đáng,” người đàn ông Texas nói. “Học trò và đệ tử có lẽ là cách diễn đạt chính xác hơn. Có một lần ông đã thắng tôi trong cuộc đua giành một con tem hai penny rất hiếm màu xanh vào năm 1977, khi tôi vẫn còn là một tay sưu tập tem mới nhập môn, nhưng tôi đã học được rất nhanh từ ông và, nói cho công bằng, ông là một người thầy rất hào phóng. Tôi luôn đọc thấy người ta viết trên báo rằng tôi có trong tay bộ sưu tập tem quý giá nhất thế giới, nhưng không phải vậy. Vinh dự đó thuộc về người ông đã quá cố của anh.” Hunsacker nhấp một ngụm cà phê trước khi nói tiếp, “nhiều năm trước ông đã tiết lộ với tôi sẽ để lại bộ sưu tập cho cháu nội chứ không cho ai trong số hai người con trai của mình.”

“Bố tôi đã mất,” Danny nói.

Hunsacker tỏ vẻ ngạc nhiên. “Tôi biết - tôi đã đến dự tang lễ ông. Tôi nghĩ anh đã trông thấy tôi.”

“Tôi có trông thấy ông,” Danny nói, nhớ lại mô tả trong nhật ký của Nick về một người Mỹ hộ pháp. “Nhưng lúc đó người ta chỉ cho phép tôi nói chuyện với luật sư của mình,” anh vội giải thích thêm.

“Phải, tôi biết,” Hunsacker nói. “Nhưng tôi cũng kịp nói vài lời với chú anh để ông biết tôi sẵn sàng mua nếu anh muốn bán bộ sưu tập. Chú anh đã hứa sẽ liên lạc. Chính vào thời điểm đó tôi nhận ra chú anh không được thừa kế nó, và hẳn là ông nội anh đã giữ lời và dành bộ sưu tập cho anh. Thế nên khi ông Blundell gọi điện cho tôi biết anh đưa chiếc phong bì của de Coubertin ra đấu giá, tôi đã bay qua đại dương tới đây với hy vọng chúng ta có thể gặp gỡ.”

“Tôi thậm chí còn không biết bộ sưu tập hiện ở đâu,” Danny thừa nhận.

“Có thể điều này giải thích tại sao Hugo sẵn sàng trả nhiều đến thế cho chiếc phong bì của anh,” người đàn ông Texas nói, “bởi vì chú anh hoàn toàn không có hứng thú với những con tem. Ông ta kia rồi.” Hunsacker chĩa điếu xì gà về phía một người đàn ông đang đứng tại bàn tiếp tân. Vậy ra đó là ông chú Hugo, Danny nghĩ thầm, đồng thời chăm chú quan sát ông ta kỹ lưỡng hơn. Anh cũng chỉ biết tự hỏi tại sao ông ta lại nóng lòng muốn có chiếc phong bì đến mức sẵn sàng trả giá cao gấp ba mức ước lượng như thế. Danny quan sát Hugo đưa một tấm séc cho ông Blundell, trong khi ông này trao lại chiếc phong bì.

“Mi là một thằng ngốc,” Danny lẩm bẩm, đứng bật dậy.

“Anh nói gì vậy?” Hunsacker hỏi, điếu xì gà rơi khỏi miệng.

“Là tôi, không phải ông,” Danny vội nói. “Nó đã luôn sờ sờ trước mặt tôi suốt hai tháng qua. Ông ta muốn có địa chỉ, chứ không phải chiếc phong bì, bởi vì đó là nơi Sir Alexander cất giữ bộ sưu tập của mình.”

Gene trông càng có vẻ bối rối. Tại sao Nick lại gọi ông nội anh ta là Sir Alexander?

“Tôi phải đi đây, ông Hunsacker, tôi thành thật xin lỗi. Đáng ra tôi không bao giờ nên bán chiếc phong bì.”

“Tôi ước gì có thể hiểu được anh đang nói về chuyện quái quỷ gì,” Hunsacker vừa nói vừa lấy ví từ túi áo trong ra. Ông đưa một danh thiếp cho Danny. “Nếu có lúc nào đó anh quyết định bán bộ sưu tập, ít nhất hãy cho tôi quyền ra giá đầu tiên. Tôi sẽ trả cho anh một mức giá đàng hoàng, không hề kèm theo vụ chiết khấu mười phần trăm.”

“Và cả không có khoản hoa hồng hai mươi phần trăm,” Danny mỉm cười trả lời.

“Quả là ông nào cháu đó,” Gene nói. “Ông nội anh là một quý ông xuất chúng và tài năng, không giống như ông chú Hugo của anh, mà tôi chắc anh cũng đã nhận ra.”

“Tạm biệt, ông Hunsacker,” Danny vừa nói vừa cất tấm danh thiếp vào chiếc ví của Nick. Hai mắt anh vẫn không rời Hugo Moncrieff, lúc này vừa cất chiếc phong bì vào cặp. Ông ta bước ra tiền sảnh tới bên một người phụ nữ mà Danny đến lúc này mới để ý tới. Người phụ nữ khoác tay ông ta, và hai người nhanh chóng rời khỏi tòa nhà.

Danny đợi thêm vài giây trước khi đi theo họ. Khi đã ra đến phố Bond, anh đánh mắt tìm kiếm cả về hai phía, và khi nhìn thấy hai người anh cũng phải ngạc nhiên về quãng đường họ đã bỏ xa mình chỉ trong quãng thời gian đó. Rõ ràng họ đang rất vội. Cả hai rẽ phải khi vừa đi qua trước bức tượng Churchill và Roosevelt đang ngồi trên một băng ghế, sau đó lại rẽ trái khi tới phố Albemarle, tại đây họ băng qua đường và đi bộ thêm vài mét trước khi biến mất vào trong khách sạn Brown’s.

Danny dừng lại bên ngoài khách sạn một lát trong khi suy nghĩ về những lựa chọn của mình. Anh biết nếu bọn họ phát hiện ra anh họ sẽ nghĩ anh là Nick. Anh thận trọng đi vào trong khách sạn, nhưng không thấy bóng dáng ai trong hai người ngoài tiền sảnh. Danny ngồi xuống một chiếc ghế khuất sau một cây cột, nhưng tầm nhìn vẫn cho phép anh quan sát được thang máy cũng như khu tiếp tân. Anh không hề để ý đến một người đàn ông cũng mới vừa ngồi xuống phía đối diện khu tiền sảnh.

Danny đợi thêm ba mươi phút, và bắt đầu tự hỏi liệu có phải anh đã mất dấu họ. Anh đang định đứng dậy đến quầy tiếp tân dò hỏi thì cửa thang máy mở, Hugo và người phụ nữ từ trong bước ra, kéo theo hai chiếc vali. Hai người đi tới quầy tiếp tận, tại đó người phụ nữ thanh toán hóa đơn trước khi cả hai người hối hả rời khỏi khách sạn theo một cửa khác. Danny vội vã lao ra ngoài, nhìn thấy họ leo lên băng ghế sau của một chiếc taxi màu đen. Anh vẫy chiếc tiếp theo xuất hiện, và thậm chí chưa kịp đóng cửa đã lớn tiếng ra lệnh, “Theo sau chiếc taxi kia.”

“Tôi đã đợi cả đời để được nghe ai đó nói câu này,” anh chàng lái xe đáp trong khi rồ máy lao đi.

Chiếc taxi phía trước rẽ phải ở cuối phố và chạy tới Hyde Park Corner, đi qua đường hầm, chạy dọc đường Brompton tới Westway.

“Có vẻ như họ đang ra sân bay,” tay tài xế nói. Hai mươi phút tiếp theo đã chứng minh anh ta đoán đúng.

Khi hai chiếc taxi chui ra khỏi đường hầm Heathrow, anh chàng tài xế của Danny nói. “Nhà ga số hai. Vậy là bọn họ chắc sẽ bay đi đâu đó ở châu Âu.” Hai chiếc xe cùng dừng lại bên lối vào. Đồng hồ trên xe báo 34,5 bảng, và Danny đưa cho người lái xe bốn mươi bảng, song vẫn ở lại trong xe cho tới khi Hugo và người phụ nữ đã đi khuất vào trong nhà ga.

Anh đi theo họ vào trong, và quan sát trong khi hai người gia nhập hàng người đang xếp trước khu vực hành khách hạng thương gia. Màn hình phía trên quầy làm thủ tục hiện dòng chữ BA0732, Geneva, 13.55.

“Ngu quá,” Danny lại lẩm bẩm, cố nhớ lại địa chỉ trên chiếc phong bì. Nhưng chính xác là tại chỗ nào ở Geneva? Anh nhìn đồng hồ. Vẫn còn đủ thời gian để mua vé và lên kịp chuyến bay. Anh chạy tới quầy vé của British Airway, và phải đợi một lát trước khi đến lượt.

“Cô có thể cho tôi đi chuyến 13 giờ 55 tới Geneva không?” anh hỏi, cố gắng không tỏ ra vội vã.

“Ông có hành lý không, thưa ông?” người nhân viên ngồi sau quầy bán vé hỏi.

“Không,” Danny nói.

Cô gái kiểm tra trên máy tính của mình. “Họ vẫn chưa đóng cửa, như vậy ông vẫn có thể lên máy bay. Hạng thương gia hay phổ thông?”

“Phổ thông,” Danny trả lời, mong muốn tránh xa nơi Hugo và người phụ nữ sẽ ngồi.

“Cửa sổ hay lối đi?”

“Cửa sổ.”

“Hai trăm mười bảy bảng, thưa ông.”

“Cảm ơn cô,” Danny vừa nói vừa đưa thẻ tín dụng cho cô gái.

“Ông làm ơn cho tôi xem qua hộ chiếu được không?”

Danny chưa bao giờ có hộ chiếu trong đời. “Hộ chiếu của tôi?”

“Vâng, thưa ông, hộ chiếu của ông.”

“Ôi không, chắc tôi để quên ở nhà rồi.”

“Nếu vậy, tôi e ông không lên kịp chuyến bay rồi, thưa ông.”

“Ngu ngốc, ngu ngốc,” Danny nói.

“Ông nói gì cơ?”

“Tôi rất xin lỗi,” Danny nói. “Là tôi, không phải cô,” anh lặp lại. Cô gái mỉm cười.

Danny quay đi, chậm chạp bước trở ra, cảm thấy bất lực cùng cực. Anh không hề trông thấy Hugo và người phụ nữ đi qua cửa có ghi chú Cửa lên máy bay, chỉ dành cho hành khách, nhưng một người khác đã nhìn thấy, người này đã theo sát cả hai người lẫn Danny.

***

Hugo bấm vào nút màu xanh lục trên chiếc điện thoại di động của ông đúng lúc loa phóng thanh thông báo, “Lần gọi cuối cùng cho tất cả hành khách đi Geneva trên chuyến bay BA0732. Xin mời quý khách tới ngay cửa mười chín.”

“Hắn đã đi theo ông từ Sotheby’s tới khách sạn, rồi từ đó tới Heathrow.”

“Nó có đi cùng chuyến bay với chúng tôi không?” Hugo hỏi.

“Không, hắn không mang theo hộ chiếu.”

“Nick điển hình. Vậy nó đang ở đâu?”

“Đang trên đường quay về London, như vậy ông đã có lợi thế ít nhất hai mươi tư giờ so với hắn.”

“Hãy hy vọng chừng đó là đủ, nhưng đừng rời mắt khỏi nó một giây nào.” Hugo tắt điện thoại, rồi cùng Margaret rời chỗ ngồi lên máy bay.

***

“Có phải ông tìm thêm được một món đồ gia truyền nào nữa không, Sir Nicholas?” ông Blundell khấp khởi dò hỏi.

“Không, nhưng tôi cần biết ông có bản copy chiếc phong bì được đấu giá sáng nay không,” Danny nói.

“Có chứ, tất nhiên,” Blundell đáp. “Chúng tôi lưu lại một bức ảnh chụp mọi hiện vật được đấu giá phòng trường hợp sau này có tranh chấp.”

“Liệu có thể xem qua nó được không?” Danny hỏi.

“Có vấn đề gì sao?” Blundell hỏi lại.

“Không,” Danny đáp. “Tôi chỉ cần kiểm tra lại địa chỉ trên phong bì.”

“Tất nhiên rồi,” Blundell trả lời. Ông ta gõ lên vài phím trên bàn phím máy tính của mình, và một khoảnh khắc sau bức ảnh chiếc phong bì xuất hiện trên màn hình. Ông xoay màn hình lại để Danny có thể thấy.

Nam tước de Coubertin

25 phố Chữ Thập Đỏ

Geneve

Thụy Sĩ

Danny ghi lại tên và địa chỉ. “Không rõ ông có tình cờ biết liệu Nam tước de Coubertin có phải là một người sưu tập tem không?”

“Theo tôi được biết thì không,” Blundell nói. “Nhưng con trai ông là người sáng lập ra một trong những ngân hàng thành công nhất ở châu Âu.”

“Ngu ngốc,” Danny nói. “Ngu ngốc,” anh lặp đi lặp lại trong lúc đứng dậy ra về.

“Tôi thực sự hy vọng, Sir Nicholas, rằng ông không thấy không vừa lòng với kết quả đấu giá sáng nay.”

Danny quay lại. “Không, tất nhiên là không rồi, ông Blundell, tôi thành thật xin lỗi. Vâng, xin cảm ơn ông.” Lại thêm một khoảnh khắc nữa khi anh cần cư xử đúng như Nick, và chỉ được phép suy nghĩ như Danny.

***

Việc đầu tiên Danny làm khi về tới The Boltons là tìm hộ chiếu của Nick. Molly biết đích xác nó nằm ở chỗ nào. “À tiện đây,” bà nói thêm, “có một ông Fraser Munro gọi điện đến, yêu cầu anh gọi cho ông ta.”

Danny rút lui vào phòng làm việc, gọi cho Munro và kể cho ông mọi chuyện vừa xảy ra sáng hôm đó. Người luật sư già lắng nghe mọi điều khách hàng muốn nói, nhưng không đưa ra bình luận nào.

“Tôi rất vui ông đã gọi lại,” cuối cùng ông lên tiếng, “vì tôi có vài tin mới cho ông, mặc dù có lẽ sẽ không khôn ngoan nếu thảo luận về chúng qua điện thoại. Tôi không biết lần tới ông dự định tới Scotland là khi nào.”

“Tôi có thể bắt chuyến tàu đêm tối nay,” Danny nói.

“Tốt lắm, và có lẽ tốt hơn lần này ông nên mang theo hộ chiếu.”

“Để đi Scotland sao?” Danny hỏi.

“Không, Sir Nicholas. Để đi Geneva.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 45


Ông bà Moncrieff được thư ký của vị chủ tịch đưa vào phòng chờ.

“Ngài chủ tịch sẽ tới gặp ông bà ngay,” cô thư ký nói. “Ông bà có muốn dùng cà phê hay trà trong lúc chờ không ạ?”

“Không, cảm ơn cô,” Margaret nói, trong khi chồng bà bắt đầu đi đi lại lại quanh phòng. Bà ngồi xuống một trong số mười sáu chiếc ghế hiệu Charles Rennie Mackintosh kê quanh chiếc bàn dài bằng gỗ sồi, và điều này hẳn đã khiến bà cảm thấy như đang ở nhà. Các bức tường được sơn màu xanh Wedgwood nhạt, treo những bức chân dung sơn dầu toàn thân các đời chủ tịch trước ở mọi khoảng trống có thể, tạo ra một ấn tượng về sự bền vững và thịnh vượng. Margaret không nói gì cho tới khi cô thư ký đã rời khỏi phòng, đóng cửa lại.

“Bình tĩnh nào, Hugo. Điều cuối cùng chúng ta muốn là khiến ông chủ tịch nghĩ chúng ta không chắc chắn về điều anh yêu cầu. Giờ hãy tới đây ngồi xuống.”

“Tất cả đều rất tốt, cô gái già,” Hugo nói, tiếp tục đi đi lại lại, “nhưng đừng quên toàn bộ tương lai của chúng ta phụ thuộc vào kết quả cuộc gặp này.”

“Thêm một lý do nữa anh nên tỏ ra bình tĩnh và chừng mực. Anh phải tỏ ra như thể đến để yêu cầu thứ thuộc về anh một cách hợp pháp,” bà ta nói trong khi cánh cửa ở đầu đối diện của căn phòng mở ra.

Một người đàn ông đã có tuổi bước vào. Mặc dù ông đã hơi còng và phải chống một cây can bằng bạc, vẻ quyền uy của ông rõ ràng đến mức ai cũng có thể nhận ra ngay đây là vị chủ tịch ngân hàng.

“Chúc buổi sáng tốt lành, ông bà Moncrieff,” ông nói, và bắt tay cả hai người. “Tên tôi là Pierre de Coubertinm rất hân hạnh được gặp ông bà,” ông nói thêm. Tiếng Anh của ông hoàn hảo, không hề có chút giọng ngoại quốc. Vị chủ tịch ngồi xuống chiếc ghế ở đầu bàn, kê dưới chân dung của một quý ông cao tuổi có gương mặt không khác gì hình ảnh phản chiếu của ông trong gương, ngoại trừ bộ ria mép rậm màu xám. “Tôi có thể giúp gì cho quý vị?”

“Thực sự rất đơn giản,” Hugo đáp. “Tôi đến yêu cầu nhận lại tài sản thừa kế mà bố tôi để lại cho tôi.”

Trên khuôn mặt của vị chủ tịch không hề có biểu hiện đã nhớ ra điều gì đó. “Liệu ông có thể cho tôi biết tên bố ông được không?” ông hỏi.

“Sir Alexander Moncrieff.”

“Và điều gì khiến ông nghĩ bố ông đã tiến hành giao dịch nào đó với ngân hàng này?”

“Điều đó không hề là bí mật trong gia đình,” Hugo nói. “Ông cụ có nói với cả anh trai Augus của tôi và tôi nhiều lần về mối quan hệ lâu năm của ông với ngân hàng này, và quý ngân hàng, bên cạnh nhiều vai trò khác, chính là người bảo quản bộ sưu tập tem độc nhất vô nhị của ông.”

“Ông có bằng chứng nào để chứng thực cho yêu cầu của mình không?”

“Không, tôi không có,” Hugo nói. “Bố tôi nghĩ viết ra giấy những chuyện như thế là không khôn ngoan, nếu tính đến các luật thuế ở nước chúng tôi, nhưng ông cam đoan với tôi rằng ông biết rõ ý nguyện của bố tôi.”

“Tôi hiểu rồi,” de Coubertin nói. “Có lẽ bố ông đã cung cấp cho ông một số tài khoản?”

“Không hề,” Hugo đáp, bắt đầu cảm thấy hơi sốt ruột. “Nhưng tôi đã được luật sư của gia đình thông báo cho biết về quyền thừa kế của mình, và ông luật sư cam đoan tôi chính là người thừa kế duy nhất của bố tôi sau khi anh trai tôi qua đời, vậy nên ông không có lựa chọn nào ngoài trao lại cho tôi những gì hợp pháp thuộc về tôi.”

“Có thể là như vậy,” de Coubertin xác nhận, “nhưng tôi buộc phải hỏi liệu ông có trong tay bất cứ tư liệu nào chứng thực cho yêu cầu của mình không.”

“Có chứ,” Hugo nói, đặt chiếc cặp lên mặt bàn. Ông ta mở cặp, lấy ra chiếc phong bì vừa mua hôm trước ở Sotheby’s. Ông ta đẩy chiếc phong bì qua bên kia bàn. “Bố tôi đã để lại cho tôi thứ này.”

De Coubertin xem xét hồi lâu chiếc phong bì từng được gửi tới cho ông nội mình. “Thật hấp dẫn,” ông nói, “nhưng nó cũng không chứng minh được rằng bố ông có một tài khoản ở ngân hàng này. Đến đây tốt hơn tôi cần kiểm tra để biết chắc chắn điều đó. Có lẽ quý vị làm ơn vui lòng chờ tôi một lát chăng?” Vị chủ tịch già chậm chạp đứng dậy, cúi chào và rời khỏi căn phòng mà không nói thêm một lời nào.

“Lão ta biết rõ bố anh có làm ăn với ngân hàng này,” Margaret nói, “nhưng vì lý do nào đó lão đang câu giờ.”

***

“Buổi sáng tốt lành, Sir Nicholas,” Fraser Munro lên tiếng chào, đứng dậy từ sau bàn làm việc. “Tôi chắc ông đã có một chuyến đi thoải mái?”

“Đáng ra còn thoải mái hơn nhiều nếu tôi không bị hành hạ bởi ý nghĩ lúc này đây ông chú tôi đang ở Geneva tìm cách tước đoạt tài sản thừa kế của tôi.”

“Hãy yên tâm,” Munro đáp,”theo kinh nghiệm của tôi các chủ ngân hàng Thụy Sĩ sẽ không đưa ra những quyết định hấp tấp đâu. Không, chúng ta sẽ tới Geneva vào thời điểm thích hợp. Nhưng lúc này, chúng ta cần giải quyết một vấn đề trước mắt còn khẩn cấp hơn nhiều vừa xuất hiện.”

“Có phải đó là vấn đề ông cảm thấy không thể bàn qua điện thoại không?” Danny hỏi.

“Chính xác,” Munro nói, “và tôi e rằng tôi không phải là người mang lại tin tốt lành. Chú ông hiện tuyên bố rằng ông nội anh đã làm một bản di chúc thứ hai, chỉ vài tuần trước khi qua đời, trong đó ông đã tước quyền thừa kế của anh và để lại toàn bộ sản nghiệp cho cha anh.”

“Ông có một bản copy của di chúc đó không?” Danny hỏi.

“Có,” Munro đáp, “nhưng vì tôi không hài lòng với bản gửi qua fax, tôi đã tới Edinburgh gặp ông Desmond Galbraith tại văn phòng của ông ta để có thể tận mắt kiểm tra bản gốc.”

“Và kết luận của ông là gì?” Danny hỏi.

“Điều đầu tiên tôi làm là so sánh chứ ký của ông nội ông với chữ ký trên bản di chúc gốc.”

“Và?” Danny hỏi, cố tỏ ra không lo lắng.

“Tôi không dám đoan chắc, nhưng nếu đó là giả mạo, thì là một chữ ký giả mạo rất hoàn hảo,” Munro đáp. “Sau khi kiểm tra sơ qua, tôi cũng không tìm ra thấy điểm sai sót nào về loại giấy cũng như dây ruy băng, tất cả có vẻ đều cùng một loại đã được sử dụng cho bản di chúc đầu tiên ông ta từng thực hiện nhân danh anh.”

“Liệu còn có gì tồi tệ hơn không?”

“Tôi e là vậy,” Munro nói. “Ông Galbraith còn đề cập tới một lá thư dường như của ông nội ông gửi cho bố ông ít lâu trước khi ông mất.”

“Người ta có cho phép ông xem qua không?”

“Có. Lá thư được đánh máy, một điều khiến tôi ngạc nhiên, vì ông nội ông luôn viết tay các bức thư của mình; ông không ưa các loại máy móc. Ông từng mô tả máy chữ như một phát minh quỷ quái sẽ giết chết truyền thống viết chữ đẹp.”

“Lá thư đó nói gì?” Danny hỏi.

“Rằng ông nội ông đã quyết định tước quyền thừa kế của ông, và theo đó ông đã viết một di chúc mới, để lại mọi thứ cho bố ông. Vô cùng thông minh.”

“Thông minh?”

“Phải. Nếu bất động sản được chia cho cả hai người con trai, bức thư sẽ có vẻ đáng ngờ, vì có quá nhiều người biết rõ ông nội ông và chú ông có quan hệ rất tồi tệ trong nhiều năm.”

“Nhưng theo cách này,” Danny nói, “chú Hugo cuối cùng vẫn có được mọi thứ, vì bố tôi đã để lại toàn bộ bất động sản cho ông ta. Nhưng ông đã dùng từ “thông minh”. Chẳng lẽ như vậy có nghĩa là ông nghi ngờ việc liệu ông nội tôi có thực sự viết lá thư đó hay không?”

“Chắc chắn là vậy,” Munro nói, “và không chỉ vì nó được đánh máy. Lá thư được viết trên hai tờ giấy thuộc loại đồ dùng văn phòng cá nhân của ông nội ông, điều này tôi nhận ra ngay, nhưng vì một lý do không thể lý giải được nào đó, trang thứ nhất được đánh máy, trong khi trang thứ hai lại viết tay và chỉ có những từ sau, Trên đây là những ước nguyện cá nhân của bố và bố trông cậy vào hai con để chúng được thực hiện đúng từng chữ, bố yêu quý của các con, Alexander Moncrieff. Trang thứ nhất, chính là trang đánh máy, liệt kê chi tiết các ước nguyện cá nhân đó, trong khi trang thứ hai không chỉ viết tay, mà còn đúng từng chữ so với trang thuộc về bản di chúc đầu tiên. Quả là trùng hợp kỳ lạ.”

“Nhưng hẳn là chỉ riêng điều đó đã đủ làm bằng chứng...?”

“Tôi e là không,” Munro nói. “Dù chúng ta có mọi lý do để tin lá thư là giả mạo, sự thật vẫn là nó được viết ra trên loại giấy riêng của ông nội ông, chiếc máy chữ được sử dụng cũng đúng là loại của ông, và chữ viết tay trên trang thứ hai thì do chính tay ông nội ông viết ra, không nghi ngờ gì nữa. Tôi không tin có tòa án nào trên đất nước này ủng hộ kháng nghị của chúng ta. Và như thể vẫn còn chưa đủ,” Munro nói tiếp, “chú ông đã đâm đơn kiện chúng ta về xâm phạm tài sản cá nhân.”

“Kiện về xâm phạm tài sản cá nhân?” Danny hỏi.

“Không bằng lòng với việc di chúc mới xác nhận ông ta giờ đây là người thừa kế hợp pháp cả bất động sản ở Scotland lẫn ngôi nhà ở The Boltons, chú ông còn yêu cầu ông rời khỏi ngôi nhà trong vòng ba mươi ngày, nếu không ông ta sẽ đưa ra trát tòa yêu cầu thanh toán tiền thuê nhà tương ứng với mức thuê các bất động sản tương tự trong khu vực đó, bắt đàu tính từ ngày anh bắt đầu chuyển tới đó ở.”

“Vậy là tôi đã mất sạch mọi thứ,” Danny nói.

“Không hẳn vậy,” Munro nói. “Mặc dù tôi phải thừa nhận tại đây tình hình có vẻ khá u ám, nhưng nếu nói về Geneva, ông vẫn còn có chiếc chìa khóa. Tôi không nghĩ ngân hàng sẽ vui vẻ trao bất cứ thứ gì thuộc về ông nội ông cho một người không thể đưa ra chiếc chìa khóa.” Ông dừng lại một lát trước khi nói ra câu tiếp theo.”Và có một điều tôi dám đoán chắc. Nếu ông nội ông bị đặt vào tình thế này, ông sẽ không chịu buông xuôi.”

“Và tôi cũng không,” Danny nói. “nếu tôi có khả năng tài chính để theo kiện Hugo. Nhưng ngay cả sau khi bán chiếc phong bì hôm qua, chỉ vài tuần nữa là ông chú tôi có thể thêm trát hầu tòa vì phá sản vào danh sách dài những đòn tấn công chúng ta vốn đã phải chống đỡ.”

Lần đầu tiên trong buổi sáng hôm đó, ông Munro mỉm cười. “Tôi đã lường trước vấn đề này, Sir Nicholas, và chiều hôm qua tôi đã thảo luân với các đối tác của mình về những gì chúng ta nên làm trước tình thế của ông hiện nay.” Ông ho khẽ. “Họ đều thống nhất đưa ra quan điểm rằng chúng tôi cần chung vai sát cánh với một trong những khách hàng lâu đời nhất của mình, và không đưa ra hóa đơn thanh toán nào nữa cho tới khi vụ kiện này kết thúc một cách khả quan.”

“Nhưng nếu chúng ta thua kiện khi ra trước tòa - và tôi cam đoan với ông, ông Munro, là tôi đã có ít nhiều trải nghiệm về những chuyện tương tự - cuối cùng tôi sẽ mãi mãi mắc nợ ông.”

“Nếu chúng ta thua kiện,” Munro đáp, “sẽ không có hóa đơn nào được đưa ra, bởi vì công ty này mãi mãi mang nợ ông nội của ông.”

***

Vị chủ tịch quay trở lại sau vài phút, ngồi lại vào vị trí đối diện với những người có thể là khách hàng của mình. Ông mỉm cười. “Ông Moncrieff,” ông lên tiếng. “Tôi đã có thể xác nhận được Sir Alexander đúng là đã thực hiện một số giao dịch với ngân hàng này. Bây giờ chúng ta cần tìm cách xác nhận tuyên bố của ông là người thừa kế duy nhất với tài sản của bố mình.”

“Tôi có thể cung cấp bất cứ tài liệu nào ngài yêu cầu,” Hugo nói đầy tự tin.

“Trước hết, tôi cần biết liệu ông có mang theo hộ chiếu không, thưa ông Moncrieff?”

“Có chứ,” Hugo trả lời, mở cặp lấy hộ chiếu đưa qua bàn.

De Coubertin mở cuốn hộ chiếu ra, xem xét bức ảnh hồi lâu trước khi trả lại cho Hugo. “Ông có giấy chứng tử của bố ông không?” ông hỏi.

“Có,” Hugo trả lời, lấy ra một tờ giấy khác từ cặp tài liệu và đưa qua bàn.

Lần này vị chủ tịch xem xét cẩn thận hơn một chút trước khi gật đầu và trả lại. “Và ông có mang theo giấy chứng tứ của anh trai mình chứ?” ông hỏi. Hugo đưa tiếp cho ông một tài liệu thứ ba. Một lần nữa de Coubertin lại để thời gian xem xét trước khi trả lại. “Tôi cũng sẽ cần đến di chúc của anh trai ông, để xác nhận anh trai ông đã để lại toàn bộ tài sản cho ông.” Hugo đưa ra bản di chúc, đồng thời đánh dấu vào bản danh sách dài Galbraith đã chuẩn bị trước cho mình.

De Coubertin không nói gì một lúc lâu trong khi xem xét bản di chúc của Angus Moncrieff. “Có vẻ tất cả đều hợp lệ,” cuối cùng ông lên tiếng. “Nhưng quan trọng hơn cả, ông có trong tay di chúc của bố mình không?”

“Tôi không những có thể cung cấp cho ông di chúc và chúc thư cuối cùng của bố tôi,” Hugo nói, “được ký tên và đề ngay sáu tuần trước khi ông qua đời, mà tôi còn có trong tay một bức thư ông viết cho anh Angus và tôi, bức thư được đính kèm vào bản di chúc đó.” Hugo đẩy cả hai tài liệu qua bàn, nhưng de Coubertin không hề động đến bất cứ văn bản nào.

“Và cuối cùng, ông Moncrieff, tôi cần hỏi liệu trong số những thứ được để lại trong chúc thư có một chiếc chìa khóa hay không?”

Hugo ngần ngừ.

“Hầu như chắc chắn là có,” Margaret nói, lần đầu tiên lên tiếng, “nhưng thật không may nó đã bị thất lạc, dù tôi đã nhìn thấy nó nhiều lần trong quá khứ. Đó là một chiếc chìa khóa rất nhỏ, bằng bạc, và nếu tôi nhớ không nhầm, trên đó có dập một con số.”

“Bà có tình cờ nhớ lại được con số đó không, bà Moncrieff?” vị chủ tịch hỏi.

“Đáng tiếc là không,” cuối cùng Margaret đành thừa nhận.

“Trong trường hợp đó, tôi chắc hai vị cũng thông cảm với tình thế tế nhị của ngân hàng,” de Coubertin nói. “Như quý vị có thể hình dung, không có chiếc chìa khóa, chúng tôi ở vào vị thế rất khó xử. Tuy vậy,” ông nói tiếp trước khi Margaret kịp ngắt lời, “tôi sẽ đề nghị một trong số các chuyên gia của chúng tôi xem xét bản di chúc, một việc làm mà tôi chắc hai vị cũng rõ là một thủ tục thông thường trong những trường hợp như thế này. Nếu chuyên gia của chúng tôi xác nhận tính chân thực của di chúc, chúng tôi sẽ chuyển giao lại bất cứ tài sản nào chúng tôi đang nắm giữ dưới ủy thác của Sir Alexander.”

“Nhưng việc đó sẽ mất bao lâu?” Hugo hỏi, hiểu rõ Nick sẽ không mất nhiều thời gian để tìm ra bọn họ đang ở đâu, và đang làm gì.

“Một ngày, nhiều nhất là một ngày rưỡi,” vị chủ tịch trả lời.

“Khi nào chúng tôi có thể quay lại?” Margaret hỏi.

“Để thận trọng, có lẽ là ba giờ chiều mai.”

“Cảm ơn ông,” Margaret nói. “Chúng tôi hy vọng sẽ được gặp lại ông lúc đó.”

De Coubertin tiễn ông bà Moncrieff tới tận cửa trước của ngân hàng mà không nói gì thêm ngoài bình luận về thời tiết.

***

“Tôi đã đặt vé hạng thương gia cho ông trên một chuyến bay của British Airway tới Barcelona,” Beth nói. “Ông sẽ bay từ Heathrow vào tối chủ nhật, và ông sẽ ở tại khách sạn Arts.” Nàng đưa cho ông chủ một cặp hồ sơ chứa tất cả các tài liệu ông sẽ cần cho chuyến đi, bao gồm cả tên của một số nhà hàng được đánh giá cao cùng một cuốn hướng dẫn tìm hiểu thành phố. “Cuộc hội thảo khai mạc lúc chín giờ với bài diễn văn của chủ tịch Quốc tế, Dick Sherwood. Ông sẽ ngồi trên đoàn chủ tịch cùng bảy vị phó chủ tịch khác. Các nhà tổ chức đã yêu cầu ông có mặt ở vị trí của mình lúc tám giờ bốn mươi lăm phút.”

“Trung tâm hội nghị cách khách sạn bao xa?” ông Thomas hỏi.

“Ngay bên kia đường thôi,” Beth nói. “Còn điều gì ông cần biết nữa không?”

“Chỉ một mà thôi,” Thomas trả lời. “Cô có muốn đi cùng tôi không?”

Beth thực sự bất ngờ, một điều Thomas không thường xuyên thành công, và cô thừa nhận. “Tôi vẫn muốn tới thăm Barcelona.”

“Tốt, đây là cơ hội dành cho cô đấy,” Thomas nói, đồng thời dành cho cô một nụ cười ấm áp.

“Nhưng tôi biết làm gì khi ở đó?” Beth hỏi.

“Trước hết, cô có thể giám sát để đảm bảo tôi ngồi vào chỗ đúng giờ sáng thứ hai tuần tới,” Beth không trả lời. “Ngoài ra tôi cũng hy vọng cô có thể thư giãn đôi chút để thay đổi,” Thomas nói thêm. “Chúng ta có thể tới nhà hát opera, tới chiêm ngưỡng bộ sưu tập của Thyssen, xem các sáng tác thời kỳ đầu của Picasso, tới thăm nơi Miró chào đời, và người ta nói với tôi rằng thức ăn...”

Em cũng biết ông Thomas thích em mà. Những lời nói của Danny chợt vang lên, khiến Beth mỉm cười. “Ông thật tử tế, ông Thomas, nhưng tôi nghĩ tốt hơn tôi nên ở lại đây và đảm bảo mọi thứ hoạt động trôi chảy trong khi ông đi vắng.”

“Beth,” Thomas nói, ngồi lại xuống ghế, hai tay khoanh trước ngực, “cô là một cô gái trẻ giỏi giang, xinh đẹp. Cô không nghĩ Danny cũng muốn cô thỉnh thoảng vui vẻ một chút sao? Có Chúa chứng giám, cô đáng được như thế.”

“Ông thật chu đáo, ông Thomas, nhưng tôi vẫn chưa sẵn sàng để nghĩ đến...”

“Tôi hiểu,” Thomas nói, “tất nhiên tôi hiểu. Dù thế nào đi nữa, tôi sẵn lòng đợi đến khi cô sẵn sàng. Cho dù Danny sở hữu điều gì đi nữa, tôi vẫn còn chưa tính toán khoản hoa hồng cần thiết để bảo hiểm cho nó đâu.”

Beth bật cười. “Anh ấy giống như nhà hát opera, các gallery nghệ thuật và loại vang tuyệt vời nhất gộp lại,” nàng trả lời, “và thậm chí ngay cả như vậy ông vẫn chưa bắt kịp Danny Cartwright đâu.”

“Được thôi, tôi không có ý định bỏ cuộc,” Thomas nói. “Có thể tôi sẽ thuyết phục được cô vào năm tới, khi cuộc hội thảo hàng năm được tổ chức, và sẽ đến lượt tôi đóng vai chủ tịch.”

“Caravaggio(1),” Beth khẽ thở dài.

“Caravaggio?”Thomas lặp lại, vẻ khó hiểu.

“Danny và tôi đã lên kế hoạch đi tuần trăng mật ở St Tropez - cho đến khi người bạn cùng phòng giam Nick Moncrieff giúp anh làm quen với Caravaggio. Một trong những điều cuối cùng Danny hứa với tôi trước khi anh ấy chết” - Beth không bao giờ nói ra được hai từ “tự sát” - là anh ấy sẽ đưa tôi tới Rome, để tôi cũng được gặp Signor(2) Caravaggio.”

“Vậy là tôi không còn cơ hội, đúng không?” Thomas nói.

Beth không trả lời.

***

Danny và ông Munro hạ cánh xuống sân bay Geneva ngay tối hôm đó. Sau khi đã hoàn tất thủ tục hải quan, Danny chạy đi tìm taxi. Chuyến đi ngắn vào thành phố kết thúc khi người tài xế dừng xe bên ngoài khách sạn Les Armeurs, tọa lạc trong phần thành phố cũ gần nhà thờ chính - theo đề nghị cá nhân của anh.

Munro đã gọi điện cho de Coubertin trước khi rời văn phòng. Vị chủ tịch ngân hàng đã đồng ý gặp họ vào mười giờ sáng hôm sau. Danny bắt đầu nghĩ rằng ông già này hẳn đang rất khoái trá.

Trong bữa tối, ông Munro - Danny chưa bao giờ, dù chỉ một giây, nghĩ đến chuyện gọi ông là Fraser - cho Sir Nicholas xem qua danh sách các tài liệu mà ông dự kiến sẽ cần thiết cho cuộc gặp sáng hôm sau của họ.

“Liệu chúng ta còn thiếu thứ gì không?” Danny hỏi.

“Tất nhiên là không,” Munro nói. “Tất nhiên, với giả thiết là ông có mang theo chiếc chìa khóa.”

***

Hugo nhấc chiếc điện thoại đặt trên mặt bàn đầu giường lên. “Gì vậy?”

“Hắn đi tàu đêm tới Edinburgh, sau đó tới Dunbroath,” một giọng nói vang lên ở đầu bên kia.

“Hẳn là để gặp Munro.”

“Tại văn phòng ông ta lúc mười giờ sáng nay.”

“Sau đó nó có quay về London không?”

“Không, hắn và Munro cùng nhau rời văn phòng, đi ra sân bay lên một chuyến bay của British Airway. Có lẽ họ đã hạ cánh cách đây một giờ.”

“Anh có ở trên cùng chuyến bay với bọn họ không?”

“Không,” giọng nói đáp.

“Tại sao không?” Hugo sẵng giọng hỏi.

“Tôi không mang theo hộ chiếu.”

Hugo gác máy rồi nhìn qua phía vợ mình, lúc đó đã ngủ say. Ông ta quyết định không đánh thức vợ dậy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 46


O anny nằm thao thức, suy nghĩ về tình thế chông chênh hiện tại của mình. Không những chưa đánh gục được những kẻ thù cũ, dường như anh chỉ tạo ra cho mình thêm những kẻ thù mới đang tìm mọi cách đánh gục anh.

Anh dậy sớm, tắm dưới vòi hoa sen rồi mặc quần áo, sau đó xuống phòng ăn sáng và tìm thấy Munro đã ngồi sẵn ở đó tại một chiếc bàn kê trong góc, bên cạnh ông là một chồng hồ sơ. Họ dành bốn mươi phút sau đó để lược qua những câu hỏi Munro nghĩ de Coubertin có thể sẽ đưa ra. Danny ngừng lắng nghe người luật sư của mình khi một vị khách bước vào phòng, bước thẳng tới một chiếc bàn bên cửa sổ nhìn ra nhà thờ chính. Lại thêm một chỗ ngôi nữa mà rõ ràng ông ta coi như đã dành sẵn cho mình.

“Nếu de Coubertin hỏi ông câu hỏi đó, Sir Nicholas, ông sẽ trả lời ra sao?” Munro hỏi.

“Tôi nghĩ nhà sưu tập tem hàng đầu thế giới đã quyết định tới dùng bữa sáng với chúng ta,” Danny thì thầm.

“Ý ông muốn nói ông bạn của ông, ông Gene Hunsacker, đang có mặt ở đây?”

“Đúng thế. Tôi không tin đây là trùng hợp ngẫu nhiên khi ông ta có mặt ở Geneva cùng thời điểm với chúng ta.”

“Tất nhiên là không rồi,” Munro nói. “Và ông ta hẳn cũng biết chú ông hiện đang ở Geneva.”

“Tôi có thể làm gì bây giờ?” Danny hỏi.

“Không nhiều lắm, ít nhất vào lúc này,” Munro nói. “Hunsacker sẽ lượn lờ quanh đây như một con kền kền cho tới khi ông ta tìm ra ai trong số hai người được chọn làm kẻ thừa kế chính thức bộ sưu tập, và chỉ khi đó ông ta mới bổ nhào xuống vồ mồi.”

“Với một con kền kền thì ông ta có vẻ hơi quá khổ,” Danny nhận xét, “nhưng tôi đồng ý với ông. Tôi phải nói gì với ông ta nếu ông ta bắt đầu dò hỏi tôi?”

“Ông không nói gì hết cho tới khi chúng ta đã gặp de Coubertin.”

“Nhưng Hunsacker đã rất có ích và thân thiện trong dịp cuối cùng chúng tôi gặp nhau, và rõ ràng ông ta không quan tâm tới Hugo, và có sẽ thích đàm phán với tôi hơn.”

“Đừng tự huyễn hoặc mình. Hunsacker sẽ vui vẻ làm ăn với bất cứ ai được de Coubertin quyết định coi là người thừa kế hợp pháp bộ sưu tập của ông nội ông. Ông ta chắc chắn cũng đã ra giá với chú ông rồi,” Munro đứng dậy, rời khỏi phòng ăn mà không hề nhìn về phía Hunsacker. Danny đi theo ông ra tiền sảnh.

“Chúng tôi sẽ mất bao lâu để tới Ngân hàng de Coubertin bằng taxi?” Munro hỏi người gác cửa.

“Ba, hay bốn phút gì đó, tùy thuộc vào mật độ giao thông,” là câu trả lời.

“Thế nếu chúng tôi đi bộ?”

“Ba phút.”

***

Một người phục vụ khẽ gõ cửa. “Phục vụ phòng,” anh ta thông báo trước khi bước vào. Người phục vụ kê bàn ăn sáng ra giữa phòng và đặt một tờ Telegraph lên một chiếc khay bên cạnh; đó là tờ báo duy nhất Margaret Moncrieff muốn đọc trong trường hợp không có được tờ Scotsman. Hugo ký nhận bữa sáng trong khi Margaret ngồi vào chỗ, rót cà phê cho cả hai người.

“Em có nghĩ chúng ta thành công không, cô gái già, khi không có chiếc chìa khóa?”

“Nếu họ bị thuyết phục rằng bản di chúc là xác thực,” Margaret nói, “họ sẽ không có lựa chọn nào khác, trừ khi họ đã sẵn sàng dấn thân vào một cuộc chiến pháp lý. Và vì kín đáo luôn là tôn chỉ của giới ngân hàng Thụy Sĩ, họ sẽ tránh điều đó bằng mọi giá.”

“Họ sẽ chẳng thể tìm thấy gì không ổn với bản di chúc cả,” Hugo nói.

“Thế thì em cá rằng chúng ta sẽ có trong tay bộ sưu tập của bố anh vào tối nay, trong trường hợp đó tất cả những gì anh phải làm là thống nhất được một cái giá với Hunsacker. Vì ông ta đã đề nghị trả cho anh bốn mươi triệu đô la khi tới Scotland dự tang lễ của bố anh, em chắc ông ta sẽ sẵn sàng trả tới năm mươi,” Margaret nói. “Thực ra, em đã chỉ thị cho Galbraith soạn thảo một bản hợp đồng cho việc đó.”

“Với bất cứ ai trong chúng ta nắm giữ bộ sưu tập,” Hugo nói, “vì đến lúc này hẳn Nick đã hiểu ra vì sao chúng ta có mặt ở đây.”

“Nhưng nó chẳng thể làm gì được,” Margaret nói. “Không thể chừng nào nó vẫn còn bị giam chân ở Anh.”

“Chẳng có gì ngăn cản nó leo lên chuyến bay tiếp theo cả. Anh sẽ không ngạc nhiên nếu giờ này nó đã có mặt ở đây rồi,” Hugo nói thêm, không muốn thừa nhận mình đã biết Nick đang có mặt tại Geneva.

“Hugo, rõ ràng anh đã quên là nó không được phép ra nước ngoài trong khi còn đang chịu giám hộ.”

“Nếu là anh, anh sẽ sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm,” Hugo nói, “vì năm mươi triệu đô la.”

“Anh có thể,” Margaret nói, “nhưng Nick sẽ không bao giờ làm trái luật. Mà thậm chí nếu nó có làm thế, sẽ chỉ cần một cuộc gọi điện thoại để giúp de Coubertin quyết định xem ông ta muốn giao dịch với ai trong gia đình Moncrieff - người có thể đe dọa đưa ông ta ra tòa, hay người sẽ phải trải qua bốn năm tiếp theo sau song sắt.”

***

Mặc dù Danny và Fraser Munro tới ngân hàng sớm vài phút, thư ký của vị chủ tịch đã đợi sẵn ở quầy tiếp tân để đưa họ vào phòng họp lớn. Khi hai người đã ngồi xuống, cô mang đến mời mỗi người một tách trà kiểu Anh.

“Tôi không bao giờ dùng món trà Anh này của cô, cảm ơn cô,” Munro nói, dành cho cô thư ký một nụ cười thật ấm áp. Danny chỉ dám tự hỏi liệu cô gái có hiểu dù chỉ một từ những gì vị luật sư người Scotland vừa nói, chứ đừng nói đến chuyện hiểu được kiểu hài hước của ông.

“Cô làm ơn cho hai cà phê,” Danny nói. Cô thư ký mỉm cười rời khỏi phòng.

Danny đang ngắm nhìn một bức chân dung của người sáng lập ra phong trào Olympic hiện đại thì cánh cửa hé mở, và người hiện đang thừa kế tước vị bước vào.

“Chúc buổi sáng tốt lành, Sir Nicholas,” ông nói, đồng thời bước tới chỗ Munro, đưa bàn tay ra.

“Ồ không, tên tôi là Fraser Munro. Tôi là luật sư của Sir Nicholas.”

“Tôi xin lỗi,” ông lão nói, cố gắng che giấu sự bối rối của mình. Ông dè dặt mỉm cười khi bắt tay Danny. “Tôi xin lỗi,” ông lặp lại.

“Không có gì, thưa ngài nam tước,” Danny nói. “Một sự lầm lẫn có thể hiểu được.”

De Coubertin khẽ cúi người. “Giống như tôi, anh là cháu của một con người vĩ đại.” Ông mời Sir Nicholas và ông Munro tới ngồi cạnh mình tại bàn họp. “Tôi có thể làm gì cho các vị?” ông hỏi.

“Tôi từng có vinh dự được làm đại diện cho Sir Alexander Moncrieff đã quá cố,” Munro bắt đầu nói, “và giờ đây lại hân hạnh được làm người tư vấn cho Sir Nicholas.” De Coubertin gật đầu. “Chúng tôi đến đây để thu hồi tài sản thừa kế hợp pháp của thân chủ tôi,” Munro nói, đồng thời mở chiếc cặp của ông, lấy ra đặt lên bản một cuốn hộ chiếu, một giấy chứng tử và bản di chúc của Sir Alexander.

“Cảm ơn ông,” de Coubertin nói, không hề nhìn qua những giấy tờ vừa được đưa ra. “Sir Nicholas, xin hỏi không rõ anh có giữ chiếc chìa khóa mà ông nội để lại cho mình không?”

“Có, tôi có đây,” Danny trả lời. Anh tháo sợi dây chuyền đeo trên cổ ra, đưa chiếc chìa khóa cho de Coubertin, ông xem xét nó một lát rồi trả lại anh. Sau đó vị chủ tịch đứng dậy nói, “Xin mời hai vị làm ơn đi theo tôi.”

“Đừng nói gì hết,” Munro thì thầm trong khi họ đi theo vị chủ tịch rời khỏi phòng họp. “Rõ ràng ông ấy đang làm theo các chỉ dẫn của ông nội ông.” Họ đi theo một lối đi dài, đi qua trước vô số bức chân dung sơn dầu các đối tác của ngân hàng, cho tới khi đến trước một thang máy nhỏ. Khi cửa thang máy mở ra, de Coubertin tránh sang bên để hai vị khách có thể bước vào trong, sau đó vào theo họ và bấm vào nút có số -2. Ông không nói gì cho tới khi cửa thang máy lại mở ra lần nữa, lúc này ông bước ra và lặp lại, “Xin mời hai vị làm ơn đi theo tôi.”

Nước sơn màu xanh Wedgwood nhẹ nhàng của những bức tường căn phòng họp đã bị thế chỗ bởi màu nâu vàng nặng nề khi họ bước xuống một lối đi xây bằng gạch, trên tường cũng không còn bức chân dung nào của các vị lãnh đạo tiền bối của ngân hàng. Ở cuối lối đi là một cánh cửa thép lớn với bộ dạng khiến Danny nhớ lại những hồi ức chẳng vui vẻ gì. Một nhân viên bảo vệ mở cánh cửa ra khi thấy vị chủ tịch. Sau đó, anh ta đi cùng ba người cho tới khi họ dừng lại bên ngoài một cánh cửa thép dày với hai khóa. De Coubertin lấy một chiếc chìa khóa từ trong túi ra, cắm vào ổ khóa phía trên, chậm rãi xoay đi. Ông quay sang nhìn Danny gật đầu, anh liền cắm chiếc chìa khóa của mình vào ổ khóa bên dưới, rồi cùng xoay chìa. Người bảo vệ kéo tấm cửa thép nặng nề mở ra.

Một vạch kẻ màu vàng rộng chừng năm centimet đã được kẻ trên sàn nhà ngay đằng sau cánh cửa. Danny bước qua vạch sơn, đi vào một căn phòng nhỏ hình vuông, dọc các bức tường kê những giá cao chạm trần, trên các tầng giá ken đầy những cuốn sách dày bìa da. Trên mỗi tầng giá có gắn các nhãn in, chỉ rõ các năm từ 1840 đến 1992.

“Xin các vị cùng vào đây với tôi,” Danny lên tiếng trong lúc lấy một trong những cuốn sách bìa da dày cộp đó từ trên tầng giá trên cùng xuống và bắt đầu lật giở các trang. Munro bước vào căn phòng, nhưng de Coubertin không đi cùng.

“Tôi xin lỗi,” ông nói, “nhưng tôi không được phép bước qua vạch vàng - một trong rất nhiều quy định của ngân hàng. Hai người làm ơn báo nhân viên bảo vệ biết khi quý vị muốn rời khỏi đây, sau đó xin mời hai vị quay lại gặp tôi ở phòng họp.”

Danny và Munro dành ra nửa giờ sau đó lần giở các trang, từ cuốn album này tới cuốn album khác, và bắt đầu hiểu ra tại sao Gene Hunsacker lại cất công bay từ tận Texas tới Geneva.

“Tôi cũng chẳng thể khôn ngoan hơn,” Munro nói trong khi ngắm nhìn cả một tờ nguyên những con tem cổ màu đen mệnh giá bốn mươi tám penny từ thời còn chưa được xoi lỗ(1).

“Ông sẽ là vậy sau khi đã xem qua thứ này,” Danny nói, đưa cho ông cuốn sách bìa da duy nhất trong toàn bộ sưu tập không ghi thời gian.

Munro chậm rãi lật các trang giấy, nhìn lại nét chữ viết tay nắn nót, rõ ràng mà ông vẫn nhớ như in: hết cột này tới cột khác liệt kê rõ thời điểm, địa điểm và từ ai Sir Alexander đã mua mỗi hiện vật mới cũng như cái giá ông đã trả. Ông đưa lại bản thống kê tỉ mỉ cả cuộc đời của nhà sưu tập cho Danny và đề xuất, “Ông sẽ phải xem xét thật kỹ lưỡng từng ghi chú ở đây trước khi gặp lại ông Hunsacker.”

***

Ông bà Moncrieff được dẫn vào phòng họp lúc 3 giờ chiều đúng. Nam tước de Coubertin đang ngồi ở đầu đối diện của chiếc bàn, hai bên bàn mỗi bên có ba người đồng nghiệp của ông. Cả bảy người cùng đứng dậy khi vợ chồng Moncrieff bước vào phòng, và chỉ ngồi trở lại khi bà Moncrieff đã ngồi xuống.

“Xin cảm ơn hai vị đã cho phép chúng tôi kiểm tra bản di chúc của người bố đã quá cố của hai vị,” de Coubertin nói, “cũng như bức thư kèm theo.” Hugo mỉm cười. “Tuy nhiên, tôi cần thông báo cho hai vị biết theo quan điểm của một trong số các chuyên gia của chúng tôi, bản di chúc này không hợp lệ.”

“Ông không định nói bản di chúc là giả mạo chứ?” Hugo nói, giận dữ đứng bật dậy.

“Ông Moncrieff, vào lúc này chúng tôi không cho rằng chính ông cũng đã biết điều đó. Tuy nhiên, chúng tôi đã quyết định những tài liệu ông đưa ra không đáp ứng được các yêu cầu kiểm soát của ngân hàng này.” Ông đưa trả lại bản di chúc và bức thư qua bàn.

“Nhưng...” Hugo định nói.

“Liệu ông có thể cho chúng tôi biết chính xác điều gì đã khiến ông từ chối yêu cầu của chồng tôi không?” Margaret khẽ hỏi.

“Không, thưa bà, chúng tôi không thể.”

“Vậy thì ông có thể chờ gặp các luật sư của chúng tôi ngay trong hôm nay,” Margaret nói trong khi lấy lại các giấy tờ cất vào chiếc cặp của chồng và đứng lên ra về.

Cả bảy thành viên hội đồng quản trị cùng đứng lên khi ông bà Moncrieff được cô thư ký của vị chủ tịch dẫn ra khỏi phòng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 47


Sáng hôm sau, khi Fraser Munro tới gặp Danny tại phòng của anh, ông tìm thấy thân chủ của mình đang mặc áo ngủ ngồi xếp bằng trên sàn nhà, xung quanh bày bừa những tờ giấy, một chiếc laptop và một chiếc máy tính.

“Rất xin lỗi đã làm phiền ông, Sir Nicholas. Tôi có thể quay lại sau được không?”

“Không, không,” Danny vừa nói vừa đứng dậy, “mời ông vào.”

“Tôi chắc ông đã ngủ ngon?” Munro nói trong khi nhìn xuống đống giấy đang bày bừa trên sàn.

“Tôi thậm chí còn không lên giường,” Danny thừa nhận. “Tôi đã thức cả đêm qua để kiểm tra đi kiểm tra lại các con số.”

“Vậy ông đã trở nên thông thái hơn chưa?” Munro hỏi.

“Tôi hy vọng là vậy,” Danny nói, “vì tôi có cảm tưởng Gene Hunsacker chẳng hề phải mất ngủ để tự hỏi cả bộ sưu tập này đáng giá bao nhiêu.”

“Vậy ông đã có ý tưởng nào...?”

“Xem đây,” Danny nói, “bộ sưu tập bao gồm hai mươi ba nghìn một trăm mười một con tem, được mua về trong một khoảng thời gian hơn bảy mươi năm. Ông nội tôi đã mua con tem đầu tiên của mình vào năm 1920 khi mười ba tuổi, và ông tiếp tục sưu tập cho tới năm 1998, chỉ vài tháng trước khi qua đời. Tổng cộng, ông đã bỏ ra mười ba triệu, bảy trăm hai mươi chín nghìn bốn trăm mười hai bảng.”

“Không lạ khi Hunsacker nghĩ đó là bộ sưu tập quý giá nhất thế giới,” Munro nói.

Danny gật đầu. “Một số con tem thuộc loại hiếm đến khó tin. Có thể kể ra con tem mệnh giá một cent của Mỹ bị in ngược hình ở giữa phát hành năm 1901, một con tem Hawaii màu xanh da trời mệnh giá hai cent phát hành năm 1851, và một con tem Newfoundland mệnh giá hai penny màu đỏ sẫm phát hành năm 1857 mà ông đã trả 150 nghìn bảng vào năm 1978. Nhưng niềm tự hào của bộ sưu tập hẳn phải là con tem mệnh giá một cent của Guiana thuộc Anh in mực đen trên nền đỏ tươi phát hành năm 1856, mà ông đã mua tại một phiên đấu giá vào tháng Tư năm 1980 với giá 800 nghìn bảng. Đó là tin tốt,” Danny nói. “Tin không được tốt bằng là sẽ phải mất một năm, thậm chí lâu hơn, để định giá toàn bộ số tem. Tất nhiên Hunsacker biết rõ điều này, nhưng may mắn cho chúng ta là ông ta không muốn rình rang đợi thêm một năm nữa, bởi vì trong số những thứ khác tôi tìm hiểu được từ bài báo lạ lùng ông nội tôi giữ lại là Hunsacker có một đối thủ, một ông Tomoji Watanabe nào đó, một người mua bán hàng hóa ở Tokyo. Có vẻ,” Danny vừa nói vừa cúi xuống cầm lên một bài báo cũ cắt ra từ Time Magazine, “đây là vấn đề đánh giá xem bộ sưu tập nào trong số hai bộ sưu tập của hai người bọn họ chiếm vị trí thứ hai sau bộ sưu tập của ông nội tôi. Cuộc tranh cãi này sẽ đi đến hồi kết ngay khi một trong hai người có được thứ này,” Danny vừa nói vừa giơ cuốn danh sách của bộ sưu tập lên.

“Như vậy tôi có thể đoán rằng thông tin đó,” Munro nói, “đặt ông vào một vị thế rất thuận lợi.”

“Có thể,” Danny nói, “nhưng khi ta xem xét đến mức độ giá trị này - chỉ tính toán sơ sơ thôi cũng thấy bộ sưu tập chắc chắn phải trị giá vào khoảng năm mươi triệu đô la - sẽ có rất ít người trên cả trái đất này, mà trong trường hợp này tôi ngờ chỉ có hai người, có khả năng cân nhắc đến việc tham gia trả giá, vì thế tôi không thể làm giá quá mức.”

“Tôi không hiểu,” Munro nói.

“Hãy khi vọng tôi không rơi vào tình thế đó khi ván poker này đã bắt đầu, bởi vì tôi ngờ rằng nếu người tiếp theo gõ cửa không phải là người phục vụ mang bữa sáng tới, thì đó sẽ là ông Gene Hunsacker đang hy vọng mua được bộ sưu tập tem mà ông ta đã theo đuổi suốt mười lăm năm qua. Vì thế tốt hơn tôi cần tắm rửa mặc quần áo ngay. Tôi không muốn ông ta nghĩ tôi đã phải ngồi thức trắng cả đêm để tìm ra nên rao giá bao nhiêu.”

***

“Làm ơn cho gặp ông Galbraith.”

“Tôi phải nói là ai đang gọi ạ?”

“Hugo Moncrieff.”

“Tôi sẽ nối máy cho ngài ngay, thưa ngài.”

“Ông tiến triển ra sao ở Geneva?” là câu hỏi đầu tiên của Galbraith.

“Chúng tôi ra về tay không.”

“Cái gì? Tại sao lại có thể như vậy được? Ông đã có mọi giấy tờ cần thiết để chứng thực cho yêu cầu của mình, kể cả di chúc của bố ông.”

“De Coubertin nói bản di chúc là giả mạo, và gần như đã tống cổ chúng tôi ra khỏi văn phòng của lão.”

“Nhưng tôi không hiểu gì cả,” Galbraith nói, vẻ thực sự ngạc nhiên. “Tôi đã đem nó đến các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực để giám định, và nó đã vượt qua mọi hình thức kiểm tra đã được biết đến.”

“Thế ư, de Coubertin rõ ràng không đồng ý với vị chuyên gia hàng đầu của ông, vì thế tôi gọi điện để hỏi ông bước tiếp theo chúng ta nên làm gì.”

“Tôi sẽ lập tức gọi cho de Coubertin, và khuyên ông ta chuẩn bị đối mặt với một đơn kiện cả ở London và Geneva. Điều đó sẽ khiến ông ta phải suy nghĩ cẩn thận trước khi tính chuyện giao dịch với bất cứ ai khác trước khi tính xác thực của bản di chúc được phán xử trước tòa.”

“Có lẽ đã đến lúc chúng ta cần tiến hành công việc còn lại mà chúng ta đã trao đổi trước khi tôi bay đi Geneva.”

“Tất cả những gì tôi cần để làm điều đó,” Galbraith nói, “là số hiệu chuyến bay của cháu ông.”

***

“Ông có lý,” Munro nói khi Danny ra khỏi phòng tắm hai mươi phút sau đó.

“Về chuyện gì?” Danny hỏi.

“Người tiếp theo gõ cửa là người phục vụ,” Munro nói tiếp khi Danny ngồi vào bàn ăn sáng. “Một anh chàng trẻ tuổi sáng dạ rất sẵn lòng cung cấp cho tôi vô số thông tin.”

“Vậy thì anh ta không thể là người Thụy Sĩ rồi,” Danny vừa nói vừa mở khăn ăn ra.

“Có vẻ,” Munro nói tiếp, “ông Hunsacker đã đặt phòng tại khách sạn này từ hai ngày trước. Viên giám đốc đã cử một chiếc limousine ra sân bay đón ông ta từ máy bay riêng. Anh chàng trẻ tuổi nọ còn cho tôi biết thêm, để đổi lấy mười franc Thụy Sĩ, rằng thời gian thuê phòng được để mở.”

“Một món đầu tư khôn ngoan,” Danny nói.

“Còn đáng quan tâm hơn nữa là việc cũng chiếc limousine nọ đã chở Hunsacker tới Ngân hàng de Coubertin sáng hôm qua, tại đó ông ta đã gặp vị chủ tịch trong bốn mươi phút.”

“Chắc là để xem qua bộ sưu tập,” Danny đoán.

“Không,” Munro nói. “De Coubertin sẽ không bao giờ chấp nhận để bất cứ ai đến gần căn phòng đó nếu chưa được ông cho phép. Điều đó sẽ phá vỡ mọi nguyên tắc trong chính sách của ngân hàng. Mà dù sao đi nữa, điều đó cũng không cần thiết.”

“Tại sao không?” Danny hỏi.

“Chắc ông vẫn còn nhớ khi ông nội ông đưa toàn bộ bộ sưu tập ra trưng bày tại Học viện Smithsonian ở Washington để kỷ niệm sinh nhật thứ tám mươi của mình, một trong những người đầu tiên bước qua ngưỡng cửa trong buổi sáng khai mạc chính là Gene Hunsacker.”

“Anh chàng phục vụ còn cho ông biết gì thêm không?” Danny hỏi một cách bình thản.

“Lúc này ông Hunsacker đang dùng bữa sáng trong phòng mình, ở tầng sát trên tầng chúng ta, có lẽ chờ anh tới gõ cửa.”

“Vậy ông ta sẽ phải đợi lâu đấy,” Danny nói, “vì tôi không định trở thành người đi bước đầu tiên.”

“Tiếc quá,” Munro nói,”tôi vẫn nóng lòng được chứng kiến cuộc chạm trán. Tôi đã từng có dịp được tham dự một cuộc thương lượng có ông nội ông tham gia. Khi cuộc thương lượng kết thúc, tôi trở về cảm thấy cả người tả tơi như bị ai dần - và tôi đã ở cùng phía với ông ấy.” Danny bật cười.

Có tiếng gõ cửa vang lên.

“Sớm hơn tôi nghĩ,” Danny nói.

“Có thể đó là chú Hugo của anh đang giơ cao một tờ đơn kiện nữa,” Munro đoán.

“Hoặc chỉ là người phục vụ đến dọn bữa sáng. Dù thế nào đi nữa, tôi cần một chút thời gian để dọn dẹp đống giấy tờ này. Không thể để Hunsacker nghĩ tôi không biết bộ sưu tập trị giá bao nhiêu.” Danny quỳ xuống sàn, Munro cũng tới cạnh anh, và hai người bắt đầu thu dọn những tờ giấy vứt tung tóe khắp sàn.

Lại có tiếng gõ cửa vang lên, lần này có vẻ to hơn. Danny mang toàn bộ đống giấy tờ chạy vào trong buồng tắm, trong khi Munro ra mở cửa.

“Chúc buổi sáng tốt lành, ông Hunsacker, rất vui được gặp lại ông. Chúng ta đã từng gặp nhau ở Washington,” ông nói, đồng thời chìa tay ra, nhưng người đàn ông Texas đã lao qua trước mặt ông, rõ ràng muốn tìm Danny. Một tích tắc sau, cửa buồng tắm mở ra, và Danny xuất hiện trong chiếc áo choàng của khách sạn. Anh vươn vai ngáp dài.

“Một ngạc nhiên thú vị làm sao, ông Hunsacker,” anh nói. “Do đâu chúng tôi có được niềm vui bất ngờ này đây?”

“Vứt bộ mặt ngạc nhiên của anh đi,” Hunsacker nói. “Anh đã trông thấy tôi lúc ăn sáng hôm qua. Thật khó mà không nhận ra tôi. Và anh cũng có thể thôi diễn trò ngáp vặt được rồi, tôi biết anh đã ăn sáng xong,” ông ta nói, liếc nhìn một chiếc bánh mì ăn dở một nửa.

“Nhờ vào mười franc Thụy Sĩ, không nghi ngờ gì nữa,” Danny cười nói. “Nhưng hãy cho tôi biết điều gì đã đưa ông tới Geneva,” anh nói thêm trong khi ngồi xuống chiếc ghế tựa duy nhất trong phòng.

“Anh biết quá rõ điều chết tiệt nào tha lôi tôi đến Geneva,” Hunsacker vừa nói vừa châm xì gà.

“Đây là một phòng không hút thuốc,” Danny nhắc nhở.

“Vớ vẩn,” Hunsacker đáp, búng tàn thuốc xuống thảm. “Vậy anh muốn bao nhiêu?”

“Cho cái gì cơ, ông Hunsacker?”

“Đừng diễn kịch với tôi, Nick. Anh muốn bao nhiêu?”

“Tôi thú nhận tôi mới vừa thảo luận về chính chủ đề đó với cố vấn pháp luật của mình chỉ ít giây trước khi ông gõ cửa, và ông ấy đã khôn ngoan khuyên tôi nên đợi ít lâu trước khi lộ diện.”

“Tại sao phải đợi? Anh đâu có hứng thú gì với mấy con tem.”

“Phải,” Danny nói, “nhưng biết đâu người khác lại có hứng thú.”

“Chẳng hạn là ai?”

“Chẳng hạn như ông Watanabe,” Danny trả lời.

“Anh đang bốc phét.”

“Đó là những gì ông ta nói về ông.”

“Anh đã liên lạc với Watanabe rồi sao?”

“Chưa,” Danny thừa nhận, “nhưng tôi đang đợi ông ta gọi cho mình bất cứ lúc nào.”

“Hãy nói giá của anh đi.”

“Sáu mươi lăm triệu đô la,” Danny nói.

“Anh điên rồi. Chừng đó gấp đôi giá trị của nó. Và hẳn anh phải biết tôi là người duy nhất trên trái đất này chấp nhận mua bộ sưu tập. Anh chỉ cần một cuộc điện thoại là biết ngay Watanabe không đang trong cùng cuộc đua với tôi.”

“Thế thì tôi sẽ chia nhỏ bộ sưu tập ra,” Danny nói. “Nói cho cùng, ông Blundell đảm bảo với tôi Sotheby’s sẽ đảm bảo cho tôi một khoản thu nhập lớn trong suốt phần đời còn lại mà không cần phải làm tràn ngập thị trường. Như thế cả ông và ông Watanabe sẽ có cơ hội chọn riêng ra những con tem mà các vị đặc biệt ưa thích để bổ sung vào bộ sưu tập của mình.”

“Trong khi anh phải trả mười phần trăm lê phí của người bán cho mọi thứ trong bộ sưu tập,” Hunsacker nói, chĩa điếu xì gà của mình vào mặt Danny.

“Và đừng quên khoản hoa hồng hai mươi phần trăm phía người mua của ông,” Danny phản đòn. “Và hãy nhìn vào thực tế đi, Gene, tôi trẻ hơn ông ba mươi tuổi, vì vậy không phải tôi là người cần vội vã.”

“Tôi sẵn sàng trả năm mươi triệu,” Hunsacker nói.

Danny thực sự ngạc nhiên, vì anh đã chờ đợi Hunsacker bắt đầu trả giá ở mức quanh bốn mươi triệu, nhưng anh vẫn không nhượng bộ. “Tôi sẵn sàng hạ xuống sáu mươi.”

“Anh sẽ sẵn lòng hạ xuống năm mươi lăm,” Hunsacker nói.

“Không phải với một người đã bay nửa vòng trái đất trên máy bay riêng chỉ để tìm ra xem rốt cuộc ai là người nắm trong tay bộ sưu tập tem của Moncrieff.”

“Năm mươi lăm,” Hunsacker lặp lại.

“Sáu mươi,” Danny kiên quyết.

“Không, năm mươi lăm là giới hạn của tôi. Và tôi sẽ chuyển toàn bộ khoản tiền tới bất cứ ngân hàng nào trên thế giới, có nghĩa là nó sẽ nằm trong tài khoản của anh chỉ trong ít giờ nữa.”

“Tại sao chúng ta phải đôi co với nhau về năm triệu cuối cùng?”

“Bởi vì anh không thể thua theo cách như vậy. Năm mươi lăm là những gì tôi đã nói. Anh có thể chấp nhận hay bỏ qua.”

“Tôi nghĩ tôi sẽ bỏ qua,” Danny nói, đứng dậy khỏi ghế. “Chúc ông có chuyến bay dễ chịu trở lại Texas, Gene, và hãy gọi cho tôi nếu có con tem nào ông muốn trả giá trước khi tôi gọi điện cho ông Watanabe.”

“OK, OK. Tôi sẽ tung đồng xu với anh để quyết định năm triệu cuối cùng.”

Danny quay về phía luật sư của mình. “Ông vui lòng làm trọng tài chứ, ông Munro?”

“Người phân xử,” Hunsacker nói.

“Vâng, tất nhiên rồi,” Munro trả lời. Danny đưa cho ông một đồng xu một bảng, và rất ngạc nhiên thấy tay Munro run bần bật khi ông đặt nó lên đầu ngón cái. Ông hất đồng xu lên cao.

“Đầu người,” Hunsacker nói. Đồng xu rơi xuống tấm thảm dày trải bên lò sưởi. Nó đứng thẳng trên cạnh rìa.

“Hãy thống nhất ở mức 57 triệu năm trăm nghìn đô la,” Danny nói.

“Chấp nhận,” Hunsacker nói, cúi xuống nhặt đồng xu cho vào túi áo.

“Tôi nghĩ ông sẽ thấy đồng xu đó là của tôi,” Danny hỏi, đưa bàn tay ra.

Hunsacker trả lại đồng xu, cười nói. “Giờ đưa cho tôi chiếc chìa khóa, Nick, để tôi có thể kiểm tra hàng hóa.”

“Không cần thiết phải vậy,” Danny nói. “Nói cho cùng, ông đã nhìn thấy cả bộ sưu tập khi nó được trưng bày ở Washington. Tuy nhiên, tôi sẽ cho ông được cầm cuốn sổ danh sách của ông nội tôi,” anh nói, cầm cuốn sổ bìa da dành cộp từ một chiếc bàn lên đưa cho ông ta. “Còn về phần chiếc chìa khóa,” anh mỉm cười nói tiếp, “ông Munro sẽ trao lại cho ông khi tiền được chuyển vào tài khoản của tôi. Tôi nghĩ ông đã nói sẽ mất vài giờ.”

Hunsacker bắt đầu đi ra phía cửa.

“Và, Gene,” Hunsacker quay lại. “Cố làm chuyện đó trước khi mặt trời mọc ở Tokyo.”

***

Desmond Galbraith nhấc máy điện thoại trên bàn làm việc nối với đường dây riêng của mình.

“Tôi có thông tin đáng tin cậy từ một nhân viên khách sạn,” Hugo Moncrieff nói, “cho hay cả hai người bọn họ đều đặt vé trên chuyến bay 737 của British Airway sẽ cất cánh tại đây lúc 8 giờ 55 phút tối và hạ cánh xuống Heathrow lúc 9 giờ 45 phút tối.”

“Đó là tất cả những gì tôi cần biết,” Galbraith nói.

“Chúng tôi sẽ bay về Edinburgh trên chuyến bay đầu tiên sáng mai.”

“Như thế de Coubertin đã có quá đủ thời gian để cân nhắc xem nên giao dịch với thành viên nào của gia đình Moncrieff.”

***

“Ông có muốn một ly champagne không?” cô chiêu đãi viên hỏi.

“Không, cảm ơn,” Munro nói, “hãy cho tôi một scotch với soda.”

“Còn ông dùng gì, thưa ông?”

“Tôi sẽ dùng một ly champagne, cảm ơn cô,” Danny nói. Sau khi cô chiêu đãi viên đã quay đi, anh quay sang hỏi Munro, “Tại sao ông nghĩ ngân hàng sẽ không quan tâm đến yêu cầu của chú tôi? Nói gì thì nói, ông ấy hẳn đã cho de Coubertin xem bản di chúc mới.”

“Hẳn họ đã phát hiện ra điểm nào đó tôi đã bỏ qua,” Munro nói.

“Tại sao ông không gọi cho de Coubertin hỏi xem đó là gì?”

“Ông ta sẽ không bao giờ thừa nhận đã từng gặp chú ông, chứ chưa nói đến việc đã từng xem qua di chúc của ông nội ông. Tuy thế, bây giờ khi ông đã có gần sáu mươi triệu đô la trong tài khoản, tôi đoán ông sẽ muốn tôi kháng cáo lại mọi cáo buộc?”

“Tôi không rõ Nick sẽ làm gì,” Danny lúng búng trong khi ngủ thiếp đi.

Munro nhướng một bên mày, nhưng không hỏi dồn thân chủ của mình thêm nữa khi nhớ ra Sir Nicholas đã thức trắng cả đêm hôm trước.

Danny giật mình tỉnh dậy khi càng hạ cánh của máy bay tiếp đất tại Heathrow. Anh và Munro nằm trong số những hành khách đầu tiên rời máy bay. Khi xuống cầu thang, họ ngạc nhiên trông thấy ba cảnh sát đứng chờ dưới đường băng. Munro nhận ra họ không mang theo súng tiểu liên, vậy đây không phải là nhân viên an ninh sân bay. Danny vừa đặt chân xuống bậc thang cuối cùng, hai cảnh sát lập tức giữ lấy anh, trong khi người thứ ba bẻ quặt tay anh ra sau lưng và còng lại.

“Ông đã bị bắt, Moncrieff,” một trong ba người nói với anh trong khi họ giải anh đi.

“Vì lý do gì?” Munro hỏi, nhưng ông không có được câu trả lời vì chiếc xe cảnh sát đã rú còi lao đi.

Danny đã trải qua hầu như mỗi ngày kể từ lúc được thả tự hỏi mình đến khi nào người ta sẽ bắt được anh. Điều ngạc nhiên duy nhất là họ gọi anh là Moncrieff.

***

Beth không còn chịu đựng nổi nữa khi nhìn bố nàng, người nàng đã không nói chuyện nhiều ngày qua. Bất chấp những lời cảnh báo của bác sĩ, nàng vẫn không thể tin ông có thể trở nên tiều tụy như thế chỉ sau một thời gian ngắn.

Cha Michael đã đến thăm người con chiên của mình hàng ngày từ khi ông nằm liệt giường, và sáng hôm đó ông đã yêu cầu mẹ Beth tập hợp cả gia đình cũng như các bạn bè thân thiết đến bên giường buổi tối hôm đó, vì ông không thể trì hoãn tiến hành những nghi thức cuối cùng lâu hơn nữa.

“Beth.”

Beth giật mình ngạc nhiên khi bố nàng gọi. “Vâng, bố,” nàng nói, đưa tay nắm lấy tay ông.

“Ai đang trông coi gara?” ông hỏi bằng giọng phều phào hầu như không còn nghe rõ.

“Trevor Sutton,” nàng khẽ trả lời.

“Cậu ta không đủ khả năng. Con cần chỉ định người khác, và thật sớm.”

“Con sẽ làm, bố,” Beth ngoan ngoãn trả lời. Nàng không thể cho ông biết chẳng ai khác muốn đảm nhiệm công việc.

“Chỉ có con và bố thôi phải không?” ông hỏi sau khi im lặng hồi lâu.

“Vâng, bố. Mẹ đang ở phòng ngoài nói chuyện với bà...”

“Bà Cartwright?”

“Vâng,” Beth xác nhận.

“Cảm ơn Chúa vì lương tâm của bà ấy,” Bố nàng ngừng lại lấy hơi trước khi nói thêm, “mà con đã được thừa hưởng.”

Beth mỉm cười. Giờ đây thậm chí nói vài lời cũng đã là quá sức với ông. “Hãy nói với Harry,” đột nhiên ông nói, giọng ngày càng yếu dần, “bố ước gì được gặp cả hai trước khi bố chết.”

Beth đã không còn nói “Bố sẽ không chết” trước đó một thời gian, và chỉ nói thầm vào tai ông, “Tất nhiên con sẽ nói, bố.”

Một lúc lâu sau, ông lại cố gắng thở lấy hơn trước khi thì thầm, “Hãy hứa với bố một điều.”

“Bất cứ điều gì.”

Ông nắm chặt lấy tay con gái. “Con sẽ tranh đấu để lấy lại sự trong sạch cho nó.” Nắm tay của ông yếu dần, rồi tay ông buông ra.

“Con sẽ làm,” Beth nói, dù nàng biết ông không thể nghe thấy nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 48


Văn phòng của ông Munro đã gửi liền mấy tin nhắn vào điện thoại di động yêu cầu ông gọi lại ngay. Song lúc này trong đầu ông còn có việc khẩn cấp hơn nhiều.

Sir Nicholas đã bị tống lên xe cảnh sát và phải

qua đêm trong phòng tạm giam tại đồn cảnh sát ở Paddington Green. Khi ông Munro để anh lại đó, ông bắt taxi tới Caledonian Club ở Belgravia. Ông thầm tự trách mình đã không nhớ ra Sir Nicholas vẫn còn trong thời gian chịu giám hộ và không được phép rời khỏi đất nước. Có lẽ chỉ đơn giản là ông chưa từng nghĩ về thân chủ của mình như một kẻ tội phạm.

Khi Munro tới câu lạc bộ của mình ngay sau mười một giờ rưỡi đêm, ông tìm thấy cô Davenport đang đợi mình ngoài phòng khách. Điều đầu tiên ông cần đoán chắc, và thật nhanh, là liệu cô có đủ năng lực cần thiết cho công việc hay không. Việc này mất của ông năm phút. Ông hiếm khi gặp được một luật sư có khả năng nắm bắt các điểm mấu chốt của một vụ việc nhanh đến thế. Cô đã hỏi toàn những câu hỏi rất xác đáng, và ông chỉ còn biết hy vọng Sir Nicholas có tất cả những câu trả lời xác đáng. Khi hai người chia tay, ngay sau lúc nửa đêm, Munro hoàn toàn tin chắc thân chủ của mình đã được gửi gắm đúng người.

Sarah Davenport không cần phải nhắc lại với Munro về thái độ của tòa án với các tù nhân phá vỡ các điều kiện để được trả lại tự do dưới cam kết, nhất là với việc đi ra nước ngoài mà không xin phép người giám hộ. Cả cô lẫn Munro đều hiểu rõ một thẩm phán rất có thể sẽ gửi Nick trở lại nhà tù để hoàn thành nốt bốn năm còn lại trong án phạt. Cô Davenport hiển nhiên sẽ viện tới “các tình tiết giảm nhẹ”, song cô không hoàn toàn lạc quan về kết quả cuối cùng. Munro chưa bao giờ để tâm tới các vị luật sư lúc nào cũng lạc quan. Cô hứa sẽ gọi tới Dunbroath báo tin cho ông ngay khi thẩm phán ra phán quyết.

Khi Munro chuẩn bị bước lên cầu thang tới phòng của mình, người gác cổng cho ông biết vừa có một tin nhắn yêu cầu ông gọi điện cho con trai mình càng sớm càng tốt.

“Có chuyện gì khẩn cấp vậy?” là câu hỏi đầu tiên của Munro khi ông ngồi xuống cuối giường.

“Galbraith đã rút lại tất cả các đơn kiện,” Hamish Munro thì thào, không muốn đánh thức vợ, “cũng như lời khiếu nại về vi phạm tài sản cá nhân yêu cầu Sir Nicholas phải rời khỏi ngôi nhà của mình ở The Boltons trong vòng ba mươi ngày. Bố, liệu đây là đầu hàng vô điều kiện hay con đã bỏ qua điều gì?” anh hỏi sau khi đã khẽ đóng cửa phòng tắm lại.

“Bố sợ là khả năng thứ hai, con trai thân mến. Galbraith chỉ hy sinh những thứ vặt vãnh để chộp lấy con mồi đáng giá nhất.”

“Làm cho tòa án hợp pháp hóa bản di chúc thứ hai của Sir Alexander?”

“Con đã đoán đúng ngay lần đầu rồi,” Munro nói. “Nếu hắn có thể chứng minh di chúc mới của Sir Alexander để lại mọi thứ cho người anh trai Augus của ông ta bác bỏ bất kỳ di chúc nào trước đó, như thế Hugo Moncrieff, chứ không phải Sir Nicholas, mới là người thừa kế bất động sản, bao gồm một tài khoản ngân hàng ở Thụy Sĩ hiện đang có ít nhất 57 triệu năm trăm nghìn đô la.”

“Galbraith hẳn rất tự tin về tính xác thực của bản di chúc thứ hai này?”

“Hắn ta có thể, nhưng bố biết có một người khác sẽ không tự tin đến thế.”

“À còn nữa, bố, Galbraith vừa gọi lại ngay trước khi con rời văn phòng. Hắn muốn biết khi nào bố quay về Scotland.”

“Thật vậy sao?” Munro nói. “Điều đó khiến người ta phải đặt câu hỏi, làm thế nào hắn biết bố không có

ở Scotland?”

***

“Khi tôi nói với anh rằng tôi hy vọng chúng ta sẽ gặp lại,” Sarah nói, “quả thực tôi không nghĩ tới một phòng thẩm vấn tại đồn cảnh sát ở Paddington Green.” Danny rầu rĩ mỉm cười trong khi nhìn người luật sư mới của mình đang ngồi ở phía đối diện của chiếc bàn gỗ nhỏ. Munro đã giải thích ông không thể bào chữa cho anh ở tòa án Anh, tuy nhiên, ông có thể giới thiệu - “Không,” Danny đã trả lời, “tôi biết chính xác tôi muốn ai bào chữa cho mình.”

“Tôi rất vinh hạnh,” Sarah nói tiếp, “rằng khi anh cần đến giúp đỡ về pháp luật, tôi lại là lựa chọn đầu tiên.”

“Cô là lựa chọn duy nhất của tôi,” Danny thừa nhận. “Tôi không biết luật sư nào khác.” Vừa nói xong anh đã cảm thấy ân hận về những lời vừa nói.

“Và nếu nghĩ rằng tôi đã bị dựng dậy lúc nửa đêm...”

“Tôi xin lỗi,” Danny nói. “Tôi không có ý nói thế. Chỉ là ông Munro nói với tôi...”

“Tôi biết ông Munro đã nói gì với anh,” Sarah mỉm cười nói. “Bây giờ chúng ta không có thời gian để lãng phí nữa. Anh sẽ phải ra trước một thẩm phán lúc mười giờ, và mặc dù ông Munro đã nói cho tôi biết đầy đủ những gì anh đã làm trong mấy ngày vừa qua, tôi vẫn có một số câu hỏi riêng của mình cần anh trả lời, vì tôi không muốn bị bất ngờ khi chúng ta ra trước tòa. Vì thế hãy thẳng thắn - có nghĩa là hãy nói thật. Trong mười hai tháng vừa qua anh đã có lần nào ra nước ngoài chưa, ngoại trừ chuyến đi tới Geneva?”

“Không,” Danny đáp.

“Anh đã lần nào lỡ hẹn cuộc gặp với người giám hộ kể từ lúc ra tù chưa?”

“Không, chưa bao giờ.”

“Đã có lúc nào anh tìm cách liên hệ...”

***

“Chúc buổi sáng tốt lành, ông Galbraith,” Munro nói. “Tôi xin lỗi đã không thể liên lạc với ông sớm hơn, nhưng tôi có cảm giác ông cũng biết quá rõ điều gì đã khiến tôi chậm trễ.”

“Quả là vậy,” Galbraith trả lời,”và đó cũng chính là lý do tôi cần nói chuyện với ông gấp đến vậy. Ông sẽ được biết thân chủ của tôi đã rút lại mọi khiếu nại chống lại Sir Nicholas, vì vậy tôi hy vọng, tính tới hoàn cảnh hiện tại, rằng thân chủ của ông sẽ sẵn sàng đáp lại với cách thức tương tự, và rút lại đơn kháng cáo tranh cãi tính hợp pháp của bản di chúc cuối cùng mà ông nội anh ta để lại?”

“Ông không thể giả thiết điều gì tương tự,” Munro sẵng giọng đáp lại. “Điều đó chỉ có nghĩa là thân chủ của ông sẽ nhận được mọi thứ, kể cả cái chậu rửa trong nhà bếp.”

“Câu trả lời của ông không hề khiến tôi ngạc nhiên, Munro. Thực ra, tôi đã cảnh báo thân chủ của mình rằng thái độ của ông sẽ như thế này, và chúng tôi sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đối mặt với kháng cáo phiền phức của các vị. Tuy nhiên,” Galbraith nói tiếp trước khi Munro kịp trả lời, “liệu tôi có thể đề xuất rằng vì hiện chỉ còn một tranh cãi duy nhất giữa hai bên, cụ thể là việc liệu bản di chúc mới nhất của Sir Alexander có hợp pháp hay không, có lẽ sẽ tốt nhất cho lợi ích của các bên khi giải quyết khúc mắc bằng cách đảm bảo việc này sẽ được đưa ra trước tòa sớm nhất có thể hay không?”

“Với tất cả sự tôn trọng, có lẽ tôi cần nhắc ông, thưa ông Galbraith, rằng chính phía công ty này đã trì hoãn quá trình tố tụng. Tuy nhiên, tôi rất hoan nghênh sự thay đổi thái độ của ông, mặc dù nó đến tương đối muộn.”

“Tôi rất vui khi biết ông nghĩ vậy, ông Munro, và tôi chắc ông sẽ rất vui được biết trợ lý của ngài thẩm phán Sanderson đã gọi cho tôi sáng nay thông báo ngài có một ngày trống trong lịch làm việc vào thứ năm đầu tiên của tháng tới, và rất vui lòng làm thẩm phán cho phiên tòa phán xử vụ kiện này nếu cả hai bên có liên quan đều thấy ổn thỏa.”

“Nhưng như thế tôi chỉ còn chưa đến mười ngày để chuẩn bị cho phiên tòa,” Munro nói, nhận ra mình đã bị gài bẫy.

“Nói thẳng ra, ông Munro, hoặc là ông đã có trong tay bằng chứng khẳng định bản di chúc không hợp lệ, hoặc là không, “Galbraith nói. “Nếu ông có bằng chứng, ngài thẩm phán Sanderson sẽ phán quyết có lợi cho ông, và nếu thế, như ông vừa mới nói, có nghĩa là thân chủ của ông sẽ nhận được mọi thứ, kể cả cái chậu rửa trong nhà bếp.”

***

Danny từ trên ghế bị cáo nhìn xuống Sarah. Anh đã trả lời mọi câu hỏi cô đưa ra một cách thành thật, và cảm thấy nhẹ nhõm vì dường như cô chỉ quan tâm tới lý do khiến anh phải thực hiện chuyến đi ra nước ngoài. Nhưng, có thể nào cô lại biết gì đó về Danny Cartwright đã quá cố? Cô đã cảnh báo anh rằng rất có khả năng anh sẽ phải quay lại dùng bữa trưa ngày hôm đó ở nhà tù Belmarsh, và cần lường trước khả năng phải trải qua bốn năm tiếp theo sau song sắt. Cô khuyên anh hãy thừa nhận có tội, vì họ không có lý do nào để biện hộ trước lời buộc tội phá vỡ quy định giám hộ của anh, và do đó cô không thể làm gì hơn ngoài đề nghị xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ. Anh đã đồng ý.

“Thưa quý tòa,” Sarah bắt đầu nói trong khi đứng dậy đối diện với thẩm phán Callaghan. “Thân chủ của tôi không phủ nhận việc anh đã vi phạm quy định, nhưng anh đã làm vậy nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình trong một vụ tranh trấp tài chính quan trọng mà thân chủ của tôi dự kiến sẽ sớm được đưa ra xử trước Tòa án Tối cao tại Scotland. Tôi cũng cần chỉ ra, thưa quý tòa, rằng thân chủ của tôi được tháp tùng trong suốt thời gian chuyến đi bởi luật sư người Scotland danh tiếng Fraser Munro, người đại diện cho anh trong vụ kiện kể trên.” Ngài thẩm phán ghi lại cái tên vừa được nhắc đến lên một tờ ghi chú trước mặt ông. “Ngài cũng có thể thấy đáng ghi nhận, thưa quý tòa, là thân chủ của tôi đã ra khỏi đất nước trong vòng chưa đến bốn mươi tám giờ, và tự nguyện trở về London. Lời buộc tội thân chủ của tôi không thông báo tới người giám hộ là không hoàn toàn chính xác, vì thân chủ của tôi đã gọi điện cho bà Bennett, và khi không nhận được trả lời, đã gửi lại lời nhắn vào hộp thư thoại của bà. Lời nhắn đó đã được ghi lại và có thể được đưa ra trước tòa nếu ngài thẩm phán chấp nhận.”

“Thưa ngài thẩm phán, sai sót không mang tính điển hình này là trường hợp duy nhất thân chủ của tôi đã không tuân thủ chặt chẽ điều kiện tại ngoại trước thời hạn của mình, và thân chủ của tôi đã không bao giờ vắng mặt hay đến muộn trong bất cứ lần trình diện nào với người giám hộ. Tôi cũng xin bổ sung thêm,” Sarah nói tiếp, “rằng từ khi được ra tù, hành vi ứng xử của thân chủ của tôi, với ngoại lệ duy nhất là sai sót này, là hoàn toàn mẫu mực. Không chỉ luôn tuân thủ điều kiện tại ngoại của mình, thân chủ của tôi còn nỗ lực hoàn thiện mức độ giáo dục của mình. Mới đây anh đã được nhận vào học tại Đại học London, tại đây thân chủ của tôi hy vọng sẽ thu được một bằng cấp về kinh doanh.”

“Thân chủ của tôi thành thật xin lỗi về bất cứ phiền toái nào anh đã gây ra cho quý tòa và cơ quan giám hộ, và thân chủ của tôi đã cam đoan với tôi việc này sẽ không bao giờ tái diễn.”

“Tóm lại, thưa ngài thẩm phán, tôi thành thật hy vọng sau khi đã cân nhắc tới những tình tiết kể trên, ngài sẽ đồng ý rằng việc đưa người đàn ông này trở lại tù sẽ không đem lại bất cứ lợi ích nào.” Sarah gấp cặp tài liệu của cô lại, cúi chào và trở về chỗ.

Ngài thẩm phán tiếp tục ghi chép một lát trước khi ông đặt bút xuống. “Xin cảm ơn cô, cô Davenport,” cuối cùng ông lên tiếng. “Tôi cần có chút thời gian để cân nhắc lời biện hộ của cô trước khi đưa ra phán quyết. Có lẽ chúng ta sẽ tạm nghỉ một lát, và họp trở lại vào giữa trưa.”

Tòa đứng dậy. Sarah bối rối không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Tại sao một thẩm phán đầy kinh nghiệm như ngài Callaghan lại cần thời gian cân nhắc để đưa ra phán quyết cho một trường hợp vặt vãnh như thế này? Và rồi cô hiểu ra.

***

“Liệu tôi có thể nói chuyện với ngài chủ tịch không, thưa cô?”

“Tôi phải thông báo là ai đang gọi đây ạ?”

“Fraser Munro.”

“Tôi sẽ xem xem ngài chủ tịch có thể nhận điện thoại của ông không, ông Munro.” Munro không ngừng gõ ngón tay xuống bàn làm việc trong lúc chờ đợi.

“Ông Munro, rất vui lại được nghe giọng nói của ông,” de Coubertin nói. “Lần này tôi có thể giúp gì được ông đây?”

“Tôi nghĩ tôi cần báo để ông biết vấn đề có liên quan đến cả hai chúng ta sẽ đươc đưa ra xử vào thứ năm tuần tới.”

“Vâng, tôi vẫn biết rõ các diễn biến mới nhất,” de Coubertin trả lời, “vì tôi cũng nhận được một cuộc gọi từ ông Desmond Galbraith. Ông ta cam đoan với tôi thân chủ của ông ta đã đồng ý chấp nhận bất cứ phán quyết nào do tòa đưa ra. Vì vậy tôi cần phải hỏi xem thân chủ của ông có đồng ý điều tương tự không.”

“Có, cậu ấy đồng ý,” Munro đáp. “Tôi sẽ viết cho ông ngay trong hôm nay để xác nhận đó là quan điểm của chúng tôi.”

“Tôi vô cùng biết ơn,” de Coubertin nói, “và sẽ thông báo ngay cho bộ phận tư pháp của chúng tôi. Ngay khi chúng tôi được biết bên nào thắng kiện, tôi sẽ ra lệnh chuyển số tiền 57 triệu năm trăm nghìn đô la vào tài khoản của bên đó.”

“Xin cảm ơn ông về lời cam kết,” Munro nói. Ông ho khẽ. “Tôi không rõ có thể trao đổi vài lời với ngài ngoài ghi âm chính thức được không?”

“Đó không phải là một khái niệm người Thụy Sĩ chúng tôi đã chấp nhận,” de Coubertin đáp.

“Vậy có lẽ trên tư cách của tôi như là người được ủy thác quản lý bất động sản của Sir Alexander Moncrieff đã quá cố, tôi có thể tìm kiếm lời khuyên của ông.”

“Tôi sẽ làm hết khả năng có thể,” de Coubertin trả lời, “nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào tôi cũng sẽ không để lộ bí mật của khách hàng. Và nguyên tắc này được áp dụng dù khách hàng còn sống hay đã mất.”

“Tôi hoàn toàn hiểu vị thế của ông,” Munro nói. “Tôi có lý do để tin rằng ông Hugo Moncrieff đã tới gặp ông trước khi ông gặp Sir Nicholas, vì thế chắc chắn ông đã từng xem xét các giấy tờ được dùng làm bằng chứng trong vụ kiện này.” De Coubertin không hề đưa ra bình luận. “Từ sự im lặng của ngài,” Munro nói, “tôi có thể coi là ngài không phủ nhận.” De Coubertin vẫn không trả lời. “Trong số các giấy tờ đó hẳn phải có bản sao cả hai bản di chúc của Sir Alexander, sự hợp pháp của chúng sẽ quyết định kết quả vụ tranh tụng này.” De Coubertin vẫn không nói gì, khiến Munro tự hỏi liệu có phải đường dây đã bị ngắt hay không. “Ông vẫn ở đó chứ, chủ tịch?” ông hỏi.

“Vâng, tôi vẫn đang nghe,” de Coubertin đáp.

“Vì ông đã sẵn sàng gặp Sir Nicholas sau cuộc gặp với ông Hugo Moncrieff, tôi chỉ có thể đoán rằng lý do khiến ông từ chối yêu cầu từ chú cậu ấy là ngân hàng của ông, cũng như tôi, đã không bị thuyết phục về tính xác thực của bản di chúc thứ hai. Như thế chúng ta đã hoàn toàn hiểu nhau,” Munro nói thêm, “ngân hàng của ông đi đến kết luận di chúc đó là giả mạo.” Lúc này ông Munro có thể nghe thấy tiếng thở của vị chủ tịch. “Vậy nhân danh công lý, thưa ông, tôi cần hỏi ông điều gì đã thuyết phục ông rằng bản di chúc thứ hai không có giá trị pháp lý, nhưng tôi đã không nhận ra?”

“Tôi sợ rằng không thể giúp được ông, ông Munro, vì như vậy sẽ vi phạm bí mật khách hàng.”

“Liệu có ai khác tôi có thể tìm kiếm lời khuyên về việc này không?” Munro hỏi dồn.

Một hồi lâu im lặng trôi qua trước khi de Coubertin cuối cùng trả lời, “Tuân thủ chính sách của ngân hàng, chúng tôi đã tìm đến một quan điểm đánh giá thứ hai từ một nguồn bên ngoài.”

“Và ông có thể tiết lộ tên của nguồn đánh giá đó?”

“Không, tôi không thể,” de Coubertin trả lời. “Dù tôi rất muốn đi nữa, nhưng làm vậy cũng đi ngược lại chính sách của ngân hàng trong những trường hợp như thế này.”

“Nhưng...”Munro định lên tiếng.

“Tuy nhiên,” de Coubertin nói tiếp, hoàn toàn không để ý đến sự chen ngang, “quý ông đã đưa ra lời khuyên cho chúng tôi, không nghi ngờ gì nữa, là chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực của mình, và ông ta vẫn chưa rời Geneva trở về nước mình.”

***

“Tất cả đứng dậy,” người mõ tòa nói khi đồng hồ điểm chuông mười hai giờ, và thẩm phán Callaghan quay trở lại phòng xử án.

Sarah quay về phía Danny mỉm cười động viên, lúc này đang đứng dậy ở ghế bị cáo, với vẻ cam chịu trên khuôn mặt. Khi ngài thẩm phán đã ngồi vào chỗ, ông nhìn chăm chú về phía luật sư bào chữa. “Tôi đã suy nghĩ rất nhiều về lời biện hộ của cô, cô Davenport. Tuy nhiên, cô cần phải hiểu rằng trách nhiệm của tôi là đảm bảo các tù nhân ý thức được đầy đủ rằng khi họ đang ở trong thời kỳ tại ngoại dưới cam kết, họ vẫn còn đang tiếp tục thụ án, và nếu họ không tuân thủ các điều kiện được quy định trong lệnh tha có điều kiện, họ đang vi phạm pháp luật.”

“Tất nhiên,” ông nói tiếp, “tôi đã xem xét tới toàn bộ hồ sơ của thân chủ cô, kể từ khi phạm nhân được trả tự do, bao gồm cả cố gắng nâng cao trình độ giáo dục của phạm nhân. Điều này rất đáng khích lệ, song nó cũng không thay đổi đươc thực tế thân chủ của cô đã lạm dụng vị thế được tin tưởng của mình. Do đó, phạm nhân phải bị trừng phạt tương xứng.” Danny cúi gằm mặt xuống. “Moncrieff,” ngài thẩm phán nói, “tôi dự kiến sẽ ký lệnh ngay ngày hôm nay, trong đó đảm bảo rằng anh sẽ bị giam giữ thêm bốn năm nữa nếu vi phạm bất cứ điều gì trong các điều kiện tại ngoại dưới cam kết của anh. Trong thời kỳ chịu giám hộ, anh không được ra nước ngoài trong bất cứ hoàn cảnh nào, và anh sẽ tiếp tục trình diện người giám hộ của mình mỗi tháng một lần.”

Ông bỏ kính ra.”Moncrieff, lần này anh đã rất may mắn, và điều đã làm cán cân ngả về có lợi cho anh chính là tình tiết trong lần xuất ngoại bất hợp pháp này, anh được tháp tùng bởi một thành viên cao cấp của cộng đồng luật gia Scotland, một người có danh tiếng không thể chê trách ở cả hai bên biên giới.” Sarah mỉm cười. Thẩm phán Callaghan đã cần thời gian để gọi một hai cuộc điện thoại để xác nhận một điều Sarah đã biết rõ. “Anh được tự do rời khỏi tòa,” là những lời cuối cùng của ngài thẩm phán Callaghan.

Ngài thẩm phán đứng dậy, cúi chào thật thấp rồi rời khỏi phòng xử án. Danny vẫn đứng yên ở chỗ bị cáo, bất chấp việc hai cảnh sát viên đứng giám sát anh cũng đã rời đi. Sarah bước lại gần trong khi người mõ tòa mở cánh cửa nhỏ ra để anh có thể rời bục bị cáo đi xuống dưới sàn phòng xử án.

“Cô có thể đi ăn trưa cùng tôi không?” anh hỏi.

“Không,” Sarah nói, đồng thời tắt điện thoại di động. “Ông Munro vừa nhắn tin nói ông muốn anh lên chuyến bay tiếp theo tới Edinburgh - và làm ơn gọi điện cho ông trên đường ra sân bay.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 49


“Xử kín” là một khái niệm Danny còn chưa từng trải qua. Ông Munro giải thích một cách rất chi tiết tại sao ông cũng như Desmond Galbraith đã thống nhất sử dụng phương thức này để giải quyết tranh chấp giữa hai bên.

Cả hai bên đều đồng ý sẽ là không khôn ngoan khi để mối bất hòa bên trong gia đình bị trưng ra trước công chúng. Galbraith còn đi xa đến mức thừa nhận thân chủ của mình rất dị ứng với báo giới, còn Munro cũng đã cảnh báo Sir Nicholas nếu cuộc tranh chấp của họ bị đưa ra xử trong một phiên tòa công khai, thì kết cục sẽ là quãng thời gian ngồi tù của anh sẽ bị trưng lên các trang báo lá cải nhiều hơn bất cứ vụ tranh chấp nào liên quan tới di chúc của ông nội anh.

Cả hai bên cũng đã chấp nhận đưa tranh chấp ra phân xử trước một thẩm phán tòa án tối cao, và quyết định của vị thẩm phán này sẽ là phán quyết cuối cùng: một khi phán quyết đã được đưa ra, không bên nào có quyền kháng án. Sir Nicholas và ông Hugo Moncrieff đều ký một bản cam kết có giá trị ràng buộc pháp lý về việc này trước khi thẩm phán đồng ý tiến hành xét xử.

Danny ngồi bên cạnh ông Munro sau một chiếc bàn kê ở một phía của căn phòng, trong khi Hugo và Margaret Moncrieff ngồi cạnh Desmond Galbraith sau chiếc bàn kê ở phía bên kia phòng. Ngài thẩm phán Sanderson ngồi sau chiếc bàn của mình, đối diện với họ. Không ai trong số những người tham dự mặc trang phục chính thức của tòa án, vì vậy không khí trong phòng cũng bớt căng thẳng hơn. Ngài thẩm phán bắt đầu phiên tòa bằng cách nhắc lại cho cả hai bên rằng mặc dù vụ kiện được xét xử trong một phiên tòa kín, kết quả vẫn có toàn bộ giá trị pháp lý. Ông có vẻ hài lòng khi cả hai bên gật đầu.

Thẩm phán Sanderson đã không chỉ chứng tỏ ông là một người chấp nhận được với cả hai bên, mà, theo nhận xét của Munro, còn là “một con cú già khôn ngoan.”

“Thưa quý vị,” ngài thẩm phán bắt đầu. “Sau khi đã làm quen với các tình tiết của vụ tranh tụng này, tôi hiểu rõ nó có ý nghĩa như thế nào với cả hai bên. Trước khi tôi bắt đầu, tôi có trách nhiệm phải hỏi liệu hai bên đã tiến hành mọi nỗ lực có thể để đi đến một thỏa hiệp chưa?”

Desmond Galbraith đứng dậy tuyên bố Sir Alexander đã viết một bức thư không khoan nhượng, nói rõ ông muốn tước quyền thừa kế của cháu nội sau khi anh này đã bị đưa ra tòa án binh, và thân chủ của ông ta, ông Hugo Moncrieff, chỉ muốn thực hiện ước nguyện của bố mình.

Ông Munro đứng lên chỉ rõ thân chủ của mình không phải là người đâm đơn kiện đầu tiên, và cũng không phải là người khởi đầu tranh chấp pháp lý hiện tại, nhưng cũng như ông Hugo Moncrieff, thân chủ của ông cũng cảm thấy nhất thiết ước nguyện của ông nội anh phải được thực hiện. Ông dừng lại trước khi nói nốt, “đúng từng chữ.”

Ngài thẩm phán nhún vai, đành chấp nhận rằng ông không thể đạt được bất kỳ hình thức thỏa hiệp nào giữa hai bên. “Vậy chúng ta hãy bắt đầu từ điểm đó,” ông nói. “Tôi đã đọc tất cả các giấy tờ được trình lên và cũng đã cân nhắc tới bất cứ bằng chứng nào hai bên có thể đưa ra sau đây. Với ý thức như vậy, tôi dự định tuyên bố ngay từ đầu những gì tôi coi là có ý nghĩa trong vụ này, và những gì tôi coi là không có ý nghĩa. Không bên nào bàn cãi việc Sir Alexander Moncrieff đã thảo ra một di chúc vào ngày mười bảy tháng một năm 1997, trong đó ông để lại toàn bộ bất động sản của mình cho cháu nội Nicholas, lúc đó là sĩ quan đang phục vụ tại Kosovo.” Ông nhìn lên tìm kiếm sự xác nhận, và cả Galbraith lẫn Munro cùng gật đầu.

“Tuy nhiên, ông Galbraith, nhân danh thân chủ mình là ông Hugo Moncrieff, đã tuyên bố rằng đây không phải là di chúc và chúc thư cuối cùng của Sir Alexander, và rằng vào một thời điểm muộn hơn” - ngài thẩm phán cúi xuống xem lại các ghi chép của mình - “ngày một tháng mười một năm 1998, Sir Alexander đã thảo một bản di chúc thứ hai, để lại toàn bộ tài sản của cho con trai ông là Angus. Sir Angus đã qua đời ngày mười hai tháng năm năm 2002, và trong di chúc và chúc thư cuối cùng của mình đã để lại mọi thứ cho em trai mình, Hugo.”

“Ông Galbraith, nhân danh thân chủ của mình, cũng đã đưa ra bằng chứng là một bức thư do Sir Alexander ký tên, trong đó giải thích lý do ông thay đổi ước nguyện của mình. Ông Munro không bàn cãi về tính xác thực của chữ ký tại trang thứ hai của bức thư, nhưng cho rằng trang đầu tiên trên thực tế đã được tạo ra vào một thời điểm muộn hơn. Ông tuyên bố dù không thể đưa ra bằng chứng nào biện minh cho suy đoán này, sự thật đó sẽ trở thành hiển nhiên khi bản di chúc thứ hai bị chứng minh là không hợp pháp.”

“Ông Munro cũng đã cho tòa được biết ông không hề cho rằng Sir Alexander, nói theo thuật ngữ pháp lý, không ở trong tình trạng hoàn toàn tỉnh táo vào thời điểm chúng ta đang quan tâm đến. Ngược lại, hai người đã cùng ăn tối với nhau chỉ một tuần trước khi Sir Alexander qua đời, và sau bữa tối vị chủ nhà đã thắng ông một cách tuyệt đối khi hai người chơi cờ vua.”

“Như vậy tôi có trách nhiệm phải nói với hai bên rằng theo quan điểm của tôi câu hỏi duy nhất cần phán xét trong vụ tranh tụng này là giá trị pháp lý của bản di chúc thứ hai, mà ông Galbraith tuyên bố, nhân danh thân chủ của mình, là di chúc và chúc thư cuối cùng của Sir Alexander Moncrieff, trong khi ông Munro lại tuyên bố, mặc dù không thực sự nói ra một cách trực tiếp, rằng bản di chúc đó là giả mạo. Tôi hy vọng cả hai bên coi đây là một đánh giá khách quan vào thời điểm hiện tại. Nếu vậy, tôi sẽ yêu cầu ông Galbraith trình bày phần biện hộ của mình nhân danh ông Hugo Moncrieff.”

Desmond Galbraith đứng lên. “Thưa ngài thẩm phán, về phía mình, thân chủ của tôi và tôi chấp nhận rằng điểm bất đồng duy nhất giữa hai bên liên quan tới bản di chúc thứ hai, mà như ngài vừa nói chúng tôi hoàn toàn tin chắc là di chúc và chúc thư cuối cùng của Sir Alexander. Chúng tôi xin đưa ra đây bản di chúc cùng bức thư đính kèm làm bằng chứng cho tuyên bố của mình, và chúng tôi cũng muốn mời ra trước tòa một nhân chứng mà chúng tôi tin sẽ giúp phân xử dứt khoát vấn đề này.”

“Tòa chấp nhận,” thẩm phán Sanderson nói. “Hãy mời nhân chứng của ông vào.”

“Tôi xin mời giáo sư Nigel Fleming,” Galbraith nói, quay người nhìn ra phía cửa.

Danny quay sang hỏi Munro liệu ông có biết vị giáo sư này không. “Chỉ biết qua danh tiếng,” Munro đáp trong khi một người đàn ông cao ráo, dáng vẻ lịch lãm với mái tóc màu xám bước vào phòng. Khi vị giáo sư tuyên thệ, Danny chợt nghĩ ông ta làm anh nhớ tới những vị quan chức thường tới thăm Clement Attlee mỗi năm một lần để trao giải thưởng - dù không bao giờ cho anh.

“Giáo sư Fleming, xin mời ông ngồi,” ngài thẩm phán Sanderson nói.

Galbraith vẫn đứng như cũ. “Giáo sư, tôi cảm thấy được biết rõ hơn về năng lực chuyên môn và mức độ tin cậy ông có thể đem tới cho vụ tranh tụng này là rất quan trọng đối với tòa, vì vậy tôi hy vọng ông thứ lỗi nếu tôi hỏi ông một số câu hỏi có liên quan tới chuyên ngành của ông.”

Ông giáo sư khẽ cúi người.

“Vị trí hiện tại của ông?”

“Tôi là giáo sư hóa vô cơ tại Đại học Edinburgh.”

“Có phải ông đã viết một cuốn sách về mối liên hệ giữa chuyên ngành này với tội phạm, cuốn sách đã trở thành một công trình chuẩn mực về chủ đề kể trên và được đưa vào giảng dạy trong chương trình của các khóa học tư pháp tại hầu hết các trường đại học?”

“Tôi không thể khẳng định là ở hầu hết các trường đại học, ông Galbraith, nhưng tại Edinburgh thì đúng là như vậy.”

“Thưa giáo sư, có đúng là trong quá khứ đã có một số chính phủ tìm kiếm sự tư vấn của ông trong các vụ tranh chấp có tính chất tương tự như vụ này không?”

“Tôi không muốn cường điệu quá mức tín nhiệm của mình, ông Galbraith. Tôi từng ba lần được các chính phủ liên hệ để tư vấn cho họ về tính xác thực của các tài liệu khi có bất đồng xuất hiện giữa hai hay nhiều quốc gia.”

“Rất ấn tượng. Vậy cho phép tôi được hỏi, thưa giáo sư, đã bao giờ ông làm chứng trước tòa khi tính xác thực của một bản di chúc bị nghi ngờ chưa?”

“Có, thưa ngài, trong mười bảy trường hợp khác nhau.”

“Và ông hãy cho tòa biết, thưa giáo sư, bao nhiêu trường hợp trong số đó đã kết thúc với một phán quyết chứng tỏ tính chính xác của những gì ông tìm thấy.”

“Tôi chưa bao giờ cho rằng phán quyết được đưa ra trong những trường hợp đó chỉ hoàn toàn dựa vào lời chứng của mình.”

“Nói rất hay,” ngài thẩm phán lên tiếng với nụ cười châm biếm. “Tuy nhiên, thưa giáo sư, câu hỏi ở đây là bao nhiêu trong số mười bảy phán quyết phù hợp với quan điểm của ông?”

“Mười sáu, thưa ngài,” vị giáo sư trả lời.

“Xin mời tiếp tục, ông Galbraith,” ngài thẩm phán nói.

“Giáo sư, không biết ông đã có dịp nghiên cứu bản di chúc của Sir Alexander Moncrieff đã quá cố, điểm trung tâm của vụ tranh tụng này chưa?”

“Tôi đã xem qua cả hai bản di chúc.”

“Liệu tôi có thể hỏi ông một số câu hỏi về bản di chúc thứ hai được không?” Ông giáo sư gật đầu. “Thứ giấy được dùng để viết bản di chúc đó có phải là một loại giấy sẵn có vào thời gian đó không?”

“Chính xác là vào thời gian nào, ông Galbraith?” ngài thẩm phán hỏi.

“Tháng mười một năm 1998, thưa ngài thẩm phán.”

“Phải,” ông giáo sư trả lời. “Tôi tin tưởng, dựa trên các bằng chứng khoa học, rằng đó cũng chính là loại giấy được sử dụng cho bản di chúc đầu tiên, được viết vào năm 1997.”

Ngài thẩm phán hơi nhướng mày, nhưng không ngắt lời. “Có phải dải ruy băng đỏ được gắn vào bản di chúc thứ hai cũng thuộc cùng loại không?” Galbraith hỏi.

“Phải, tôi đã tiến hành các thí nghiệm trên cả hai dải ruy băng, và kết quả cho thấy chúng được sản xuất vào cùng thời gian.”

“Vậy ông có thể, thưa giáo sư, đi đến kết luận nào về chữ ký của Sir Alexander xuất hiện trên hai bản di chúc.”

“Trước khi tôi trả lời câu hỏi này, ông Galbraith, ông cần hiểu rằng tôi không phải là một chuyên gia về chữ viết, nhưng tôi có thể nói với ông rằng loại mực đen được dùng để ký tên được sản xuất trước năm 1990.”

“Có phải ông đang nói với tòa,” ngài thẩm phán lên tiếng, “rằng ông có thể xác định tuổi của một lọ mực với sai số chỉ trong vòng một năm so với thời điểm sản xuất?”

“Có những trường hợp, thậm chí là một tháng,” ông giáo sư nói. “Thực ra, tôi có thể cam đoan rằng loại mực được dùng để ký tên trong cả hai bản di chúc xuất phát từ cùng một lọ được Waterman sản xuất năm 1985.”

“Bây giờ tôi muốn xem xét tới chiếc máy chữ được sử dụng cho bản di chúc thứ hai,” Galbraith nói. “Chiếc máy chữ này thuộc về nhãn hiệu nào, và lần đầu tiên được đưa ra thị trường khi nào?”

“Đó là một chiếc Remington Envoy II, được tung ra thị trường năm 1965.”

“Như vậy có thể khẳng định,” Galbraith nói thêm, “giấy, mực, giải ruy băng và chiếc máy chữ đều có sẵn trước tháng mười một năm 1998.”

“Không nghi ngờ gì nữa, theo phán đoán của tôi,” ông giáo sư nói.

“Xin cảm ơn giáo sư. Nếu ông vui lòng đợi thêm một chút, tôi có cảm giác ông Munro sẽ có vài câu hỏi dành cho ông.”

Munro từ tốn đứng dậy. “Tôi không có câu hỏi nào cho nhân chứng, thưa ngài thẩm phán.”

Ngài thẩm phán không có phản ứng gì. Tuy thế, không thể nói tương tự về Galbraith, lúc này đang tròn mắt nhìn người đồng nghiệp của mình không tin nổi. Hugo Moncrieff hỏi vợ mình về ý nghĩa điều Munro vừa nói, trong khi Danny nhìn thẳng về phía trước, không thể hiện bất cứ cảm xúc nào, đúng như Munro đã chỉ đạo anh.

“Ông có triệu thêm nhân chứng nào không, ông Galbraith?” ngài thẩm phán hỏi.

“Không, thưa ngài. Tôi chỉ có thể hiểu rằng việc người bạn đồng nghiệp đầy hiểu biết của tôi không đối chất với giáo sư Fleming có nghĩa là ông đã chấp nhận lời chứng của giáo sư.” Ông ta dừng lại. “Mà không đặt câu hỏi.”

Munro không hề đứng dậy, theo đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của từ này.

“Ông Munro,” ngài thẩm phán nói, “ông có muốn bắt đầu phần biện hộ của mình không?”

“Một cách ngắn gọn, nếu ngài cho phép,”Munro nói. “Giáo sư Fleming đã khẳng định rằng bản di chúc và chúc thư đầu tiên của Sir Alexander, trong đó dành quyền thừa kế cho thân chủ của tôi, là hoàn toàn xác thực. Chúng tôi chấp nhận quan điểm này của giáo sư. Như ngài đã nói ở đầu phiên tranh tụng này, thưa ngài thẩm phán, câu hỏi duy nhất được đặt ra trước tòa hôm nay là giá trị pháp lý của bản di chúc thứ hai, mà...”

“Thưa ngài thẩm phán,” Galbraith đứng bật dậy. “Có phải ông Munro đang đề xuất với tòa rằng quan điểm chuyên môn của giáo sư dành cho bản di chúc thứ nhất có thể được loại bỏ, một cách rất thuận tiện cho ông, khi xem xét tới ý kiến của giáo sư với bản di chúc thứ hai?”

“Không, thưa ngài thẩm phán,” Munro nói. “Giá như người đồng nghiệp thông thái của tôi tỏ ra kiên nhẫn hơn một chút, ông sẽ thấy đó không phải là điều tôi muốn nói. Giáo sư đã nói với tòa rằng ông không phải là một chuyên gia về giám định chữ ký...”

“Nhưng thưa ngài thẩm phán, ông cũng đã xác nhận,” Galbraith lên tiếng, lại đứng dậy lần nữa, “rằng loại mực dùng để ký tên cho hai bản di chúc đều thuộc về một lọ.”

“Nhưng tôi dám cho rằng không phải từ cùng một bàn tay,” Munro nói.

“Vậy ông sẽ mời một chuyên gia giám định chữ viết?” ngài thẩm phán hỏi.

“Không, thưa ngài, tôi sẽ không làm vậy.”

“Ông có bằng chứng nào cho thấy chữ ký là giả mạo không?”

“Không, thưa ngài, tôi không có,” Munro lặp lại.

Lần này ngài thẩm phán thực sự nhướng mày lên. “Ông Munro, ông có định mời nhân chứng nào ra để hỗ trợ cho lời biện hộ của mình không?”

“Có, thưa ngài thẩm phán. Giống như người đồng nghiệp đáng kính của mình, tôi sẽ chỉ cho mời một nhân chứng duy nhất.” Munro dừng lại giây lát, ý thức được rằng ngoại trừ Danny, người thậm chí không nháy mắt, những người còn lại trong phòng đều tò mò muốn biết nhân chứng kia là ai. “Tôi muốn cho gọi ông Gene Hunsacker.”

Cánh cửa mở ra, và thân hình ngoại cỡ của người đàn ông Texas chậm chạp đi vào căn phòng. Danny cảm thấy có điều gì đó khác lạ, rồi nhận ra đây là lần đầu tiên anh thấy Hunsacker không mang theo điếu xì gà quen thuộc của mình.

Hunsacker đọc lời tuyên thệ, tiếng của ông ta vọng lại oang oang trong phòng.

“Xin mời ông ngồi, ông Hunsacker,” ngài thẩm phán nói. “Vì chúng ta chỉ có một nhóm tương đối nhỏ ở đây, có lẽ chúng ta nên trao đổi với nhau ở mức vừa đủ nghe hơn.”

“Tôi rất xin lỗi, thưa quý tòa,” Hunsacker nói.

“Không cần phải xin lỗi,” ngài thẩm phán nói. “Xin mời ông tiến hành, ông Munro.”

Munro đứng dậy mỉm cười với Hunsacker. “Để làm biên bản, ông có thể vui lòng nói rõ tên và nghề nghiệp của bản thân được không?”

“Tên tôi là Gene Hunsacker đời thứ ba, và tôi đã nghỉ hưu.”

“Vậy trước khi nghỉ hưu ông đã làm gì, ông Hunsacker?” ngài thẩm phán hỏi.

“Không nhiều lắm, thưa ngài. Ông cụ nhà tôi, giống như cụ thân sinh ra ông, là chủ trại chăn nuôi gia súc, nhưng tôi đã không bao giờ nối nghiệp cụ, nhất là từ khi người ta phát hiện ra dầu trên đất của tôi.”

“Vậy ông là người khai thác dầu mỏ,” ngài thẩm phán nói.

“Cũng không hẳn, thưa ngài, vì ở tuổi hai mươi bảy tôi đã bán tất cả cho một công ty Anh, BP, và từ đó trở đi tôi dành phần còn lại của đời mình theo đuổi sở thích cá nhân.”

“Thật lý thú. Tôi có thể hỏi sở thích đó là gì...” ngài thẩm phán định hỏi tiếp.

“Chúng ta sẽ bàn đến sở thích của ông trong giây lát nữa, ông Hunsacker,” Munro nghiêm chỉnh lên tiếng. Ngài thẩm phán ngồi thẳng người lên, khuôn mặt hiện vẻ xin lỗi. “Ông Hunsacker, ông vừa nói sau khi đã có được một tài sản đáng kể sau khi bán lại đất của mình cho BP, ông không tham gia kinh doanh dầu mỏ.”

“Đúng vậy, thưa ông.”

“Vì lợi ích của tòa, tôi cũng muốn xác định ông không phải là chuyên gia trong các lĩnh vực nào khác. Chẳng hạn, ông có phải là chuyên gia về giám định chúc thư không?”

“Không, thưa ông.”

“Ông có phải là chuyên gia về giấy và kỹ thuật sản xuất mực không?”

“Không, thưa ông.”

“Ông có phải là chuyên gia về ruy băng không?”

“Khi còn trẻ, tôi cũng từng cố gỡ vài cái khỏi mái tóc của các cô gái, nhưng quả thực tôi không khá lắm về khoản này,” Gene nói.

Munro đợi cho tiếng cười lắng xuống trước khi tiếp tục. “Vậy có lẽ ông là chuyên gia về máy chữ?”

“Không, thưa ông.”

“Hay về giám định chữ ký?”

“Không, thưa ông.”

“Tuy nhiên,” Munro nói, “tôi có đúng không khi cho rằng ông được coi là chuyên gia hàng đầu thế giới về tem thư?”

“Tôi nghĩ tôi có thể yên tâm nói rằng đó là tôi hoặc Tomoji Watanabe,” Hunsacker trả lời, “tùy thuộc vào việc ông hỏi ai trong hai chúng tôi.”

Ngài thẩm phán không còn nhẫn nại lâu hơn được nữa. “Ông có thể giải thích điều ông vừa nói được không, ông Hunsacker?”

“Cả hai chúng tôi đều trở thành nhà sưu tập từ hơn bốn chục năm nay, thưa ngài thẩm phán. Tôi có bộ sưu tập lớn hơn, nhưng nói một cách công bằng cho Tomoji, điều này có lẽ do tôi rủng rỉnh tiền nong hơn nhiều so với anh ta, và luôn đánh bại anh chàng tội nghiệp trong các cuộc đấu giá.” Thậm chí cả Margaret Moncrieff cũng không nhịn được cười. “Tôi tham gia vào hội đồng của Sotheby’s, còn Tomoji tư vấn cho Philips. Bộ sưu tập của tôi đã từng được trưng bày tại Học viện Smithsonian ở Washington DC, trong khi bộ sưu tập của anh ta được triển lãm tại Bảo tàng Hoàng gia Tokyo. Thế nên tôi không thể nói với quý vị ai là chuyên gia số một thế giới, nhưng cho dù ai trong chúng tôi là số một, thì gã kia chắc chắn là số hai.”

“Xin cảm ơn, ông Hunsacker,” ngài thẩm phán nói. “Tôi rất hài lòng được biết nhân chứng của ông là một chuyên gia trong lĩnh vực mà ông ta đã lựa chọn, ông Munro.”

“Xin cảm ơn ngài thẩm phán,”Munro nói. “Ông Hunsacker, ông đã từng nghiên cứu qua cả hai bản di chúc liên quan tới vụ tranh tụng này chưa?”

“Đã từng, thưa ông.”

“Vậy quan điểm của ông, quan điểm của một chuyên gia, về bản di chúc thứ hai, bản di chúc đã để lại tài sản của Sir Alexander cho người con trai Augus, là gì?”

“Đó là đồ giả mạo.”

Desmond Galbraith lập tức đứng bật dậy. “Được rồi, ông Galbraith,” ngài thẩm phán nói, ra hiệu cho ông ta ngồi xuống vị trí của mình. “Tôi thực sự hy vọng, thưa ông Hunsacker, là ông sắp đưa ra trước tòa một vài bằng chứng vững chắc ủng hộ cho nhận định vừa rồi. Nói tới “bằng chứng chắc chắn”, tôi không muốn có thêm một liều triết lý cây nhà lá vườn nữa của ông.”

Nụ cười hài hước của Hunsacker biến mất. Ông đợi một lát trước khi nói, “thưa ngài thẩm phán, tôi sẽ chứng minh, theo cách mà tôi tin tại đất nước này các ngài gọi là nằm ngoài mọi nghi ngờ có căn cứ, rằng bản di chúc thứ hai của Sir Alexander là giả mạo. Để làm được điều đó, tôi cần ngài có trong tay bản gốc của di chúc đó.” Ngài thẩm phán Sanderson quay về phía Galbraith, ông ta nhún vai, đứng dậy đưa bản di chúc thứ hai cho ngài thẩm phán. “Bây giờ, thưa ngài,” Hunsacker nói, “nếu ngài làm ơn lật sang trang thứ hai của tài liệu này, ngài sẽ thấy chữ ký của Sir Alexander được viết đè lên một con tem.”

“Có phải ông đang cho rằng con tem đó là giả mạo không?” ngài thẩm phán hỏi.

“Ồ không, thưa ngài, tôi không có ý đó.”

“Nhưng như ông vừa nói, ông Hunsacker, ông không phải là chuyên gia giám định chữ ký. Vậy chính xác là ông đang muốn nói gì?”

“Điều đó hoàn toàn rõ ràng với bất cứ ai, thưa ngài thẩm phán,” Hunsacker nói, “nếu ngài biết phải nhìn vào đâu.”

“Làm ơn hãy khai sáng cho tôi,” ngài thẩm phán nói, giọng đã có vẻ hơi bực bội.

“Nữ hoàng tại vị đã ngồi lên ngai vàng nước Anh vào ngày mồng hai tháng hai năm 1952,” Hunsacker nói, “và được làm lễ đăng quang tại Westminster Abbey vào ngày mồng hai tháng sáu năm 1953. Bưu điện Hoàng gia đã phát hành một con tem để đánh dấu sự kiện này - và quả thực tôi rất hãnh diện có được một tờ những con tem thuộc đợt phát hành đầu tiên. Con tem đó thể hiện chân dung nữ hoàng vẫn còn là một phụ nữ trẻ, nhưng do thời gian tại vị khá dài của nữ hoàng, Bưu điện Hoàng gia cứ vài năm lại phải phát hành một đợt tem mới để phản ánh đúng thực tế là nữ hoàng đã già đi vài tuổi. Con tem được dán vào bản di chúc này được phát hành tháng ba năm 1999.” Hunsacker quay sang bên, nhìn về phía Hugo Moncrieff, tự hỏi không biết ý nghĩa của những gì mình vừa nói đã được tiếp nhận chưa. Ông không dám chắc câu trả lời là có, mặc dù không thể áp dụng cùng câu trả lời với Margaret Moncrieff, vì đôi môi của bà ta đang tím ngắt lại trong khi khuôn mặt tái nhợt không còn giọt máu.

“Thưa ngài thẩm phán,” Hunsacker nói, “Sir Alexander đã qua đời ngày mười bảy tháng mười hai năm 1998 - ba tháng trước khi con tem đó được phát hành. Vì vậy một điều đã rõ ràng: chữ ký đè lên chân dung nữ hoàng trên con tem đó không phải là của ông.”

Phần 4: Báo thù
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 50


Báo thù là một món ăn ngon nhất khi dùng nguội.

Danny cất cuốn Những mối quan hệ nguy hiểm vào trở lại vào vali trong khi chiếc máy bay đang bắt đầu hạ cánh qua làn mây u ám bao phủ bầu trời London. Anh dự định sẽ báo thù tới nơi tới chốn cả ba kẻ đã gây ra cái chết của người bạn thân nhất anh từng có, đã khiến anh không thể cưới được Beth, đã tước đi của anh niềm vui được tự tay nuôi dạy cô con gái Christy, và đã khiến anh bị tống vào tù vì một tội ác anh không hề gây ra.

Giờ đây anh đã có trong tay nguồn tài chính cần thiết để từ từ triệt hạ chúng, từng đứa một, và đến khi cuộc báo thù của anh đã xong xuôi, cả ba gã sẽ phải coi cái chết như một sự giải thoát đáng mơ ước.

“Thưa ông, xin vui lòng thắt đai an toàn, chúng ta sẽ hạ cánh xuống sân bay Heathrow sau vài phút nữa.”

Danny mỉm cười nhìn cô chiêu đãi viên đã cắt ngang dòng suy nghĩ của mình. Ngài thẩm phán Sanderson đã không có cơ hội đưa ra phán quyết trong vụ Moncrieff chống lại Moncrieff, vì một trong hai bên đã rút lại đơn khiếu tố của mình ngay

sau khi ông Gene Hunsacker rời phòng xử kín của thẩm phán.

Ông Munro đã giải thích cho Nick trong khi ăn tối tại New Club ở Edinburgh rằng nếu ngài thẩm phán có lý do để tin rằng đã có một hành động mang tính tội phạm, ông sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài gửi toàn bộ giấy tờ có liên quan lên chưởng lý Fiscal. Tại một nơi khác trong thành phố, Desmond Galbraith đang cho khách hàng của ông ta hay, nếu chuyện đó xảy ra, cậu cháu trai của Hugo sẽ không phải là người duy nhất mang họ Moncrieff được nếm mùi vị ngồi sau song sắt.

Munro đã khuyên Sir Nicholas không nên tiếp tục truy tố, bất chấp việc Danny hiểu quá rõ ai là người chịu trách nhiệm về ba nhân viên cảnh sát đợi sẵn để bắt anh khi anh về tới Heathrow lần trước. Munro cũng nói thêm, trong một giây phút hiếm hoi ông buông lỏng sự thận trọng của mình, “Nhưng nếu trong tương lai ông chú Hugo của ông còn gây rắc rối nào nữa, thì mọi điều chúng ta vừa thỏa thuận coi như bỏ qua.”

Danny đã cố gắng cảm ơn Munro, dù khá vụng về, về những gì ông đã làm trong những năm qua - nghĩ như Nick - và anh thực sự ngạc nhiên khi nghe ông trả lời, “Tôi không biết mình cảm thấy thích thú vì đã đánh bại ai hơn, ông chú Hugo của ông hay gã Desmond Galbraith hợm hĩnh đó.” Sự thận trọng vẫn bị thả lỏng. Danny vẫn luôn nghĩ thật may mắn làm sao anh có được Munro trợ giúp cho mình, nhưng gần đây anh bắt đầu nhận ra điều đó cũng gần như trở thành đối thủ của ông.

Khi cà phê được mang tới, Danny đề nghị Fraser Munro trở thành người quản lý gia sản của gia đình, đồng thời đảm nhiệm vị trí người tư vấn pháp luật cho anh. Ông đã cúi đầu thật thấp và nói, “Nếu ông muốn vậy, Sir Nicholas.” Danny cũng nói rõ anh muốn Dunbroathy Hall cũng như vùng đất xung quanh được chuyển giao cho Hội bảo tồn di tích lịch sử Scotland, và anh dự kiến bỏ ra mọi chi phí cần thiết để tu bổ nó.

“Đúng như ông nội ông mong muốn,” Munro nói. “Mặc dù tôi không nghi ngờ việc chú Hugo của ông, với sự giúp đỡ của quý ông Galbraith, hẳn sẽ tìm ra một trò ma mãnh nào đó để né tránh cam kết đó.”

Danny bắt đầu tự hỏi không rõ có phải Munro đã hơi quá chén không. Anh không thể hình dung ra ông luật sư già này sẽ phải ứng ra sao nếu biết được dự định Danny đang có trong đầu cho một người đồng nghiệp của ông.

Máy bay hạ cánh xuống Heathrow ngay sau mười một giờ. Danny đã định bay chuyến 8 giờ 40, nhưng lần đầu tiên từ nhiều tuần qua anh đã ngủ quên.

Anh tạm thời bỏ Spencer Craig ra khỏi đầu khi chiếc máy bay dừng lại ở cửa trả khách. Anh tháo đai an toàn, đứng lên gia nhập vào các hành khách đang đứng trên lối đi chờ cửa máy bay mở. Lần này không có nhân viên cảnh sát nào đợi anh bên ngoài. Sau khi vụ tranh tụng đã kết thúc chóng vánh một cách bất ngờ, Hunsacker đã đến vỗ vai ngài thẩm phán và mời ông một điếu xì gà. Thẩm phán Sanderson sững sờ giây lát không biết nói gì, nhưng cuối cùng ông cũng kịp trấn tĩnh mỉm cười và từ chối một cách lịch thiệp.

Danny chỉ ra cho Hunsacker thấy nếu ở lại Geneva, ông ta cuối cùng vẫn sẽ có được bộ sưu tập của Sir Alexander, vì Hugo chắc chắn sẽ rất vui vẻ bán nó cho ông ta, mà gần như chắc chắn với một giá rẻ hơn.

“Nhưng như thế tôi sẽ không hoàn thành giao ước với ông nội anh,” Hunsacker đáp. “Giờ tôi đã làm được điều gì đó để đáp lại lòng tốt và những lời khuyên thông minh ông dành cho tôi trong suốt nhiều năm dài.”

Một giờ sau, Gene lên đường về Texas trên chiếc máy bay riêng, đem theo 173 quyển album bìa da, mà Danny biết rõ nội dung của chúng sẽ khiến ông ta vui sướng phát điên phát cuồng lên trong suốt chuyến bay, mà cũng có thể cả trong suốt phần đời còn lại.

Khi Danny bước lên chuyến tàu Heathrow Express, dòng suy nghĩ của anh chợt hướng về Beth. Anh khao khát được gặp lại nàng. Maupassant đã nói lên thật chính xác những gì anh đang cảm thấy: “Vinh quang để làm gì nếu ta chẳng có ai để cùng chia sẻ?” Nhưng anh có thể nghe thấy Beth đang hỏi, “Báo thù để làm gì khi anh còn nhiều lý do để sống đến thế?” Anh sẽ nhắc lại cho nàng nhớ, trước hết về Bernie, sau đó về Nick, người cũng đã có rất nhiều lý do để sống. Nàng sẽ nhận ra tiền bạc không có ý nghĩa gì với anh hết. Anh sẽ vui vẻ đánh đổi hết, đến đồng xu cuối cùng, để...

Giá như anh có thể khiến thời gian quay ngược lại...

Giá như họ đã đi lên khu West End vào buổi tối tiếp theo...

Giá như họ đừng bước vào đúng quán rượu đó...

Giá như họ rời khỏi đó theo cửa trước...

Giá như...

Chuyến tàu Heathrow Express về tới ga Paddington mười bảy phút sau đó. Danny xem đồng hồ; anh vẫn còn vài giờ rảnh rỗi nữa trước khi phải đến trình diện bà Bennett. Lần này anh sẽ đi bằng taxi, và sẽ đợi sẵn sàng từ lâu ngoài phòng tiếp đón trước khi đến lượt được gọi vào trình diện. Những lời nói của ngài thẩm phán vẫn còn văng vẳng bên tai anh: “Tôi dự kiến sẽ ký lệnh ngay ngày hôm nay, trong đó đảm bảo rằng anh sẽ bị giam giữ thêm bốn năm nữa nếu vi phạm bất cứ điều gì trong các điều kiện tại ngoại dưới cam kết của anh.”

Mặc dù tính sổ với ba gã Ngự lâm quân vẫn là ưu tiên hàng đầu của Danny, anh vẫn sẽ cần thu xếp đủ thời gian cho khóa học anh đã đăng ký, và làm tròn lời hứa với Nick. Thậm chí anh bắt đầu tự hỏi liệu Spencer Craig có dính líu đến cái chết của Nick không. Chẳng lẽ Leach, đúng như Al Mập đoán, đã sát hại nhầm người?

Chiếc taxi dừng lại trước cửa ngôi nhà của anh ở The Boltons. Lần đầu tiên Danny thực sự cảm thấy như thể đây là nhà của mình. Anh trả tiền taxi, mở cửa xe và trông thấy một kẻ lang thang đang ngồi thu lu trước bậc thềm nhà mình.

“Hôm nay là ngày may mắn của anh bạn đây,” Danny vừa nói vừa móc ví ra. Người đàn ông trông như đang ngủ gật mặc một chiếc áo sơ mi cổ rộng kẻ sọc xanh trắng, một chiếc quần jean đã cũ sờn và đi một đôi giày đen rõ ràng mới vừa được đánh xi kỹ càng sáng hôm đó. Anh ta cựa mình, ngẩng đầu lên.

“Chào, Nick.”

Danny ôm chầm lấy anh ta, đúng lúc Molly mở cửa. Bà đứng chống nạnh trên khung cửa. “Anh ta bảo mình là bạn ông,” bà nói, “nhưng tôi vẫn bảo anh ta đợi bên ngoài.”

“Anh ấy là bạn tôi,” Danny nói. “Molly, bà làm quen với Al Mập đi.”

Molly đã chuẩn bị sẵn một món ăn nấu theo kiểu Ireland cho Nick, và bởi vì lúc nào bà cũng nấu quá nhiều, nên vẫn có thừa đủ cho cả hai người.

“Kể cho tôi nghe mọi chuyện đi,” Danny nói khi hai người đã yên vị ngồi vào bàn ăn.

“Cũng chẳng có nhều thứ để kể, Nick,” Al Mập lúng búng trả lời giữa hai lần chén đầy mồm. “Giống như cậu, bọn họ thả tôi ra sau khi tôi đã thụ nửa án. Cảm ơn Chúa là họ đã cho tôi ra, nếu không chắc tôi phải ngồi trong đó suốt phần đời còn lại của mình.” Anh ta miễn cưỡng buông chiếc thìa xuống và mỉm cười nói thêm. “Và chúng ta biết kẻ nào phải chịu trách nhiệm về việc đó.”

“Vậy anh đã có kế hoạch gì chưa?” Danny hỏi.

“Giờ thì chưa, nhưng vì cậu đã nói hãy đến gặp cậu ngay khi tôi chuồn ra được.” Anh ta ngừng lại. “Tôi hy vọng cậu để tôi ở lại đây một đêm.”

“Cứ ở lại chừng nào anh muốn,” Danny nói. “Người trông coi nhà của tôi sẽ dọn dẹp phòng dành cho khách,” anh cười toe toét nói tiếp.

“Tôi không phải là người trông coi nhà của anh,” Molly đốp chát. “Tôi là người lau dọn nhà, và thỉnh thoảng nấu ăn.”

“Sẽ không như thế nữa, Molly, giờ đây bà là người trông coi nhà, kiêm chức đầu bếp, với giá mười bảng mỗi giờ.” Molly á khẩu. Danny tận dụng tình thế hiếm khi có được này nói thêm, “Và hơn nữa, bà sẽ cần phải thuê một người lau dọn giúp mình một tay, vì từ giờ Al Mập đến sống cùng chúng ta.”

“Không, không,” Al Mập nói. “Tôi sẽ biến khỏi đây ngay khi tìm được việc làm.”

“Anh từng lái xe trong quân đội, đúng không?” Danny hỏi.

“Tôi đã làm lái xe cho cậu tròn năm năm,” Al Mập thì thầm, vừa nói vừa nhìn về phía Molly gật đầu.

“Vậy anh sẽ có lại công việc cũ,” Danny nói.

“Nhưng anh đã có xe đâu,” Molly nhắc nhở.

“Vậy tôi sẽ phải sắm một cái,” Danny nói. “Và còn ai tốt hơn nữa để tư vấn cho tôi?” anh nói tiếp, nháy mắt với Al Mập. “Tôi vẫn luôn muốn có một chiếc BMW,” anh nói. “Từng làm việc ở gara, tôi biết chính xác đời xe...”

Al Mập đưa một ngón tay lên miệng.

Danny hiểu ra Al Mập có lý. Thắng lợi vang dội của ngày hôm trước chắc đã khiến anh bốc đồng, và anh đã quay lại cư xử như Danny - một sai lầm anh không thể cho phép mình thường xuyên mắc phải. Suy nghĩ như Danny, hành động như Nick. Anh bừng tỉnh, quay trở lại với thế giới kỳ quặc của mình.

“Nhưng trước hết anh cần đi mua một ít quần áo,” anh nói với Al Mập, “trước khi anh có thể nghĩ tới một chiếc xe.”

“Và một ít xà phòng nữa,” Molly nói, múc đầy đĩa cho Al Mập lần thứ ba.

“Sau đó Molly có thể kỳ lưng cho anh.”

“Tôi sẽ không làm việc gì đại loại như vậy,” Molly nói. “Nhưng tốt hơn tôi nên đi dọn dẹp lại một trong số các phòng ngủ dành cho khách nếu ông Al Mập đây sẽ ở lại với chúng ta - trong vài ngày.” Danny và Al Mập phá lên cười khi bà tháo tạp dề ra và rời khỏi phòng bếp.

Khi cánh cửa đã đóng lại, Al Mập cúi người ra phía trước. “Cậu vẫn định tóm cổ mấy gã con hoang đã...”

“Phải, tôi vẫn có ý đó,” Danny khẽ nói, “và anh đã xuất hiện không thể đúng lúc hơn.”

“Vậy khi nào ta bắt đầu?”

“Anh sẽ bắt đầu bằng việc đi tắm ngay lập tức, sau đó đi mua lấy cho mình dăm bộ quần áo,” Danny nói, lần thứ hai lại móc ví ra. “Trong khi đó, tôi còn có cuộc trình diện người giám hộ của mình.”

***

“Anh đã trải qua tháng vừa rồi ra sao, Nicholas?” Bà Bennett hỏi câu đầu tiên.

Danny cố giữ khuôn mặt có vẻ thẳng thắn. “Tôi đã khá bận rộn với việc giải quyết những vấn đề gia đình mà tôi đã nói đến trong lần gặp trước của chúng ta,” anh trả lời.

“Và mọi thứ diễn ra như dự kiến chứ?”

“Vâng, cảm ơn bà, bà Bennett.”

“Anh đã tìm được việc làm chưa?”

“Vẫn chưa, thưa bà Bennett. Hiện tôi đang tập trung vào khóa học kinh doanh của mình tại Đại học London.”

“À phải, tôi nhớ ra rồi. Nhưng chắc chắn khoản trợ cấp không thể đủ sống đúng không?”

“Tôi có thể tự cầm cự được,” Danny nói.

Bà Bennett quay trở lại với danh sách câu hỏi của mình. “Anh vẫn sống trong ngôi nhà đó chứ?”

“Vâng.”

“Tôi hiểu rồi. Tôi nghĩ có lẽ lúc nào đó tôi nên tới xem qua nơi anh đang ở, để biết chắc nó đáp ứng được tiêu chuẩn tối thiểu của Bộ Nội vụ.”

“Bà sẽ luôn được chào đón tới thăm vào bất cứ lúc nào,” Danny nói.

Người giám hộ chuyển sang câu hỏi kế tiếp. “Anh có tiếp xúc với người nào cùng ở trong tù với mình trước đây không?”

“Có,” Danny nói, hiểu rõ việc giấu giếm bất cứ điều gì với người giám hộ cũng sẽ bị coi là vi phạm điều kiện tại ngoại. “Người tài xế cũ của tôi cũng mới được thả tự do, và hiện đang sống cùng với tôi.”

“Trong nhà có đủ chỗ cho cả hai người không?”

“Thừa đủ, cảm ơn bà, thưa bà Bennett.”

“Anh ta có việc làm chứ?”

“Vâng, anh ta sẽ làm tài xế cho tôi.”

“Nicholas, tôi nghĩ không cần bỡn cợt anh cũng đã gặp đủ rắc rối rồi.”

“Nhưng sự thật là vậy, thưa bà Bennett. Ông nội tôi đã để lại cho tôi đủ tiền để cho phép tôi thuê tài xế riêng.”

Bà Bennett nhìn xuống danh sách câu hỏi Bộ Nội vụ yêu cầu bà phải hỏi trong các buổi trình diện hàng tháng. Có vẻ như không có câu nào đề cập đến chuyện thuê tài xế riêng. Bà thử lại lần nữa.

“Anh đã từng có ý định phạm tội kể từ lần gặp trước không?”

“Không, thưa bà Bennett.”

“Anh có dùng ma túy không?”

“Không, thưa bà Bennett.”

“Hiện tại anh có hưởng trợ cấp thất nghiệp không?”

“Không, thưa bà Bennett.”

“Anh có yêu cầu trợ giúp nào khác từ cơ quan giám hộ không?”

“Không, cảm ơn bà, thưa bà Bennett.”

Bà Bennett đã kết thúc danh sách câu hỏi, nhưng chỉ mới dùng hết một nửa lượng thời gian dành cho mỗi người đến trình diện. “Tại sao anh không kể cho tôi biết anh đã làm những gì trong tháng vừa rồi?” bà ngán ngẩm hỏi.

***

“Tôi sẽ buộc phải mời anh ra đi,” Beth nói, viện đến cách nói giảm nhẹ ông Thomas vẫn dùng mỗi khi sa thải nhân viên.

“Nhưng tại sao?” Trevor Sutton hỏi. “Nếu tôi đi, cô sẽ không có người quản lý. Trừ khi cô đã có sẵn ai đó chờ thay chỗ tôi.”

“Tôi không có kế hoạch nào về việc thay thế anh,” Beth nói. “Nhưng kể từ khi bố tôi mất, gara đã liên tục thua lỗ. Tôi không thể để tình trạng làm ăn như vậy kéo dài hơn nữa,” nàng nói thêm, sử dụng những câu trả lời mà ông Thomas đã chuẩn bị trước cho mình.

“Nhưng cô đã cho tôi đủ thời gian để khẳng định mình đâu,” Sutton phản đối.

Beth ước gì Danny mới là người ở vào vị trí của nàng lúc này - nhưng nếu Danny có mặt ở đây, rắc rối hiện tại đã chẳng bao giờ xảy ra.

“Nếu chúng ta có thêm ba tháng nữa giống như ba tháng vừa qua,” Beth nói, “chúng ta sẽ phá sản.”

“Vậy cô muốn tôi làm gì?” Sutton căn vặn, cúi người về phía trước, chống hai khuỷu tay lên mặt bàn. “Bởi vì tôi biết một điều, ông chủ sẽ không bao giờ cư xử với tôi như thế này.”

Beth cảm thấy bực mình vì anh chàng dám nhắc đến bố nàng. Nhưng ông Thomas đã khuyên nàng hãy cố đặt mình vào vị thế của Trevor, hãy mường tượng xem anh ta sẽ cảm thấy thế nào, nhất là khi anh ta chưa từng làm việc ở nơi nào khác kể từ ngày rời khỏi trường dạy nghề Clement Attlee.

“Tôi đã trao đổi với Monty Hughes,” Beth nói, cố tỏ ra bình thản, “và ông ấy cam đoan với tôi có thể tìm được cho anh một chỗ làm ở chỗ ông ấy.” Điều cô không nói nốt là ông Hughes chỉ có một chỗ làm cho thợ cơ khí bậc thấp, có nghĩa là mức lương của Trevor sẽ bị giảm đi đáng kể.

“Được lắm,” anh ta bực bội nói, “thế còn các khoản bồi thường thì sao? Tôi biết quyền lợi của mình.”

“Tôi sẵn sàng trả cho anh ba tháng lương,” Beth nói, “và cung cấp cho anh một giấy giới thiệu xác nhận rằng anh là một trong những người thợ làm việc chăm chỉ nhất.” Và một trong những người làm ngu ngốc nhất của cô, Monty Hughes đã nói thêm như vậy khi Beth tìm lời khuyên của ông ta. Trong khi chờ đợi câu trả lời của Trevor, nàng nhớ lại những lời Danny từng nói, nhưng chỉ vì cậu ấy không biết cộng. Beth mở ngăn kéo bàn làm việc của bố nàng, lấy ra một gói dày và một tờ giấy. Nàng mở gói, bày toàn bộ những gì chứa bên trong lên mặt bàn. Sutton tròn mắt nhìn chằm chằm vào những tờ năm mươi bảng, liếm môi trong khi cố tính toán xem trên bàn có bao nhiêu tiền. Beth đưa qua mặt bàn một bản hợp đồng ông Thomas đã chuẩn bị cho nàng chiều hôm trước. “Nếu anh đồng ý ký vào đây,” nàng nói, chỉ ngón tay vào một hàng kẻ nét đứt, “bảy nghìn bảng này sẽ là của anh.” Trevor ngần ngại, trong khi Beth cố không để lộ ra nàng đang cần anh ta ký vào bản hợp đồng đến mức khổ sở ra sao. Nàng đợi Trevor đếm xong tiền, mặc dù dường như cả thế kỷ đã trôi qua trước khi rốt cục anh ta cũng cầm lấy chiếc bút được đưa sẵn ra, rồi viết vào bản hợp đồng hai từ duy nhất anh ta có thể phát âm được một cách hoàn toàn tự tin. Anh ta vội vã vơ hết số tiền trên bàn lại rồi không nói thêm một lời nào, quay lưng lại với Beth và bước ra khỏi căn phòng.

Khi Trevor đã dùng chân đá cánh cửa đóng sập lại sau lưng anh ta, Beth thở một hơi nhẹ nhõm, mà nếu nghe thấy anh ta hẳn sẽ không nghi ngờ mình còn có thể yêu cầu nhiều hơn số tiền bảy nghìn bảng rất nhiều, cho dù trên thực tế, sau khi rút số tiền đó ra khỏi ngân hàng, tài khoản của gara cũng đã sạch trơn. Việc duy nhất Beth còn có thể làm lúc này là bán nó đi càng nhanh càng tốt.

Anh chàng môi giới nhà đất trẻ tuổi đã đến xem qua gara cam đoan với nàng nó đáng giá ít nhất hai trăm nghìn. Nói cho cùng, địa điểm này đã có quyền sở hữu đầy đủ, tọa lạc ở một vị trí rất đắc địa, giao thông tới khu trung tâm cực kỳ thuận tiện. Hai trăm nghìn bảng sẽ giải quyết ổn thỏa mọi rắc rối tài chính của Beth, và cũng đồng nghĩa với việc nàng sẽ còn đủ tiền để Christy có được nền giáo dục mà nàng cùng Danny luôn muốn dành cho con bé.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 51


Danny đang đọc cuốn Hạn chế của thuế, lạm phát và vai trò của chính phủ của Milton Friedman, đồng thời viết ghi chú về chương nói đến quay vòng tài sản và những ảnh hưởng của tài sản xấu khi chuông điện thoại vang lên. Sau hai giờ nghiền ngẫm, anh bắt đầu có cảm tưởng rằng bất cứ điều gì cũng có thể là một bước tiến so với ngài giáo sư Friedman. Anh nhấc máy và nghe thấy một giọng phụ nữ.

“Xin chào, Nick. Một giọng nói từ quá khứ của anh đây.”

“Xin chào, giọng nói từ quá khứ của tôi,” Danny nói, cố vắt óc nhớ ra một cái tên.

“Anh đã nói sẽ đến xem khi em đi lưu diễn. Thế đấy, em đã cố tìm mãi trong đám khán giả, nhưng anh chẳng bao giờ có mặt cả.”

“Vậy giờ em đang diễn ở đâu?” Danny hỏi, tiếp tục lục lọi trong đầu, nhưng vẫn chưa có cái tên nào xuất hiện.

“Cambridge, nhà hát Arts.”

“Tuyệt, vở nào vậy?”

“Một người phụ nữ không đáng để bận tâm.”

“Lại là Oscar Wilde,” Danny nói, hiểu rằng anh sắp tìm tới đích.

“Nick, anh thậm chí còn chẳng nhớ tên em nữa đúng không?”

“Đừng ngốc thế, Katie,” anh nói, vừa kịp lúc. “Làm sao anh quên được cô diễn viên dự phòng ưa thích của mình?”

“Được lắm, giờ em được diễn chính rồi, và em hy vọng anh sẽ tới xem em diễn.”

“Nghe hay đấy,” Danny vừa nói vừa lật giở cuốn lịch làm việc của mình, mặc dù anh biết mình hầu như luôn rảnh vào mọi buổi tối. “Thứ sáu thì sao nhỉ?”

“Không thể tuyệt hơn. Chúng ta có thể ở bên nhau dịp cuối tuần.”

“Anh phải quay về London có hẹn vào sáng thứ bảy,” Danny nói, nhìn vào một trang còn để trắng trong cuốn lịch.

“Vậy thì sẽ là một đêm bên nhau,” Katie nói. “Như thế với em là đủ.” Danny không trả lời. “Buổi diễn bắt đầu lúc bảy giờ ba mươi. Em sẽ để lại vé cho anh ở quầy vé. Hãy đến một mình, vì em không định chia sẻ anh với ai đâu.”

Danny gác máy, đưa mắt nhìn chăm chăm vào bức ảnh của Beth lồng trong khung bạc đặt ở góc bàn làm việc của anh.

***

“Có ba người đàn ông đi lên lối vào,” Molly nói trong khi nhìn qua cửa sổ phòng bếp. “Trông có vẻ như người nước ngoài.”

“Bọn họ vô hại thôi mà,” Danny trấn an bà. “Bà cứ đưa họ vào phòng khách và nói với họ tôi sẽ ra gặp ngay.”

Danny chạy lên gác, vào phòng làm việc cầm lấy ba cặp hồ sơ mà anh đã chuẩn bị trước cho cuộc gặp, sau đó hối hả quay xuống nhà dưới.

Ba người đang đợi anh trong phòng khách trông giống hệt nhau về mọi mặt trừ tuổi tác. Cả ba đều mặc những bộ đồ màu xanh sẫm cắt may rất đẹp, áo sơmi trắng và cà vạt không nhãn mác, mỗi người cầm theo một chiếc cặp da màu đen. Bất cứ ai cũng có thể đi ngang qua họ trên đường phố mà không buồn để ý nhìn đến lần thứ hai - một điều khiến họ rất vừa lòng.

“Rất vui được gặp lại ông, thưa nam tước,” Danny nói.

De Coubertin cúi người thật thấp.”Chúng tôi rất cảm kích khi được anh mời tới ngôi nhà xinh đẹp của mình, Sir Nicholas. Cho phép tôi giới thiệu ông Bresson, tổng giám đốc ngân hàng và ông Segat, người phụ trách các tài khoản quan trọng của chúng tôi.” Danny bắt tay ba vị khách trong khi Molly xuất hiện, mang theo chiếc khay đựng trà và bánh quy.

“Thưa các ông,” Danny nói trong khi ngồi xuống. “Có lẽ tôi có thể bắt đầu bằng việc đề nghị các vị cho tôi biết thông tin cập nhật về tình hình hiện tại của tài khoản của tôi.”

“Tất nhiên rồi,” ông Bresson lên tiếng, mở một cặp hồ sơ không ghi nhãn ra. “Tài khoản số một của ông hiện đang có số dư trên năm mươi bảy triệu đô la, hiện đang hưởng lãi suất ở mức 2,75 phần trăm mỗi năm. Tài khoản số hai của ông,” ông ta tiếp tục, “có số dư trên một triệu đô la. Tài khoản này được ngân hàng biết đến như tài khoản dùng để mua tem của ông nội ông, được ông sử dụng bất cứ khi nào ông muốn bổ sung ngay lập tức cho bộ sưu tập của mình.”

“Ông có thể nhập hai tài khoản lại,” Danny nói, “vì tôi sẽ không mua thêm con tem nào nữa.” Bresson gật đầu. “Và tôi cần phải nói thêm, thưa ông Bresson, rằng tôi thấy mức lãi suất 2,75 phần trăm dành cho tiền vốn của tôi là không chấp nhận được, và trong tương lai tôi sẽ sử dụng tiền của mình tốt hơn.”

“Ông có thể cho chúng tôi biết dự định của mình được không?” Segat hỏi.

“Có chứ,” Danny nói. “Tôi sẽ đầu tư vào ba lĩnh vực - bất động sản, cổ phần và cổ phiếu, có thể cả trái phiếu nữa, mà hiện tại đang đem về mức lãi suất tới 7,12 phần trăm cho toàn bộ các lĩnh vực. Tôi cũng sẽ để ra một lượng vốn nhỏ, không bao giờ vượt quá mười phần trăm tổng số tiền tôi có, cho các hoạt động đầu cơ.”

“Tính tới hoàn cảnh hiện tại,” Segat nói, “liệu tôi có thể đề xuất chúng ta chuyển tiền của ông vào ba tài khoản khác nhau không thể lần ngược lại tới ông được, đồng thời chỉ định các giám đốc làm đại diện cho ông.”

“Hoàn cảnh hiện tại?” Danny lặp lại.

“Kể từ sau vụ 11 tháng 9, người Mỹ và người Anh trở nên quan tâm hơn rất nhiều tới bất cứ ai luân chuyển những khoản tiền lớn. Sẽ không hay nếu ông để tên mình luôn xuất hiện trên màn hình radar của họ.”

“Suy nghĩ rất thấu đáo,” Danny nói.

“Giả sử rằng ông đồng ý để chúng tôi thiết lập những tài khoản đó,” Bresson nói thêm,”tôi muốn biết liệu ông có mong muốn sử dụng hiểu biết chuyên môn của ngân hàng trong việc điều hành các khoản đầu tư của ông không? Tôi đề cập đến điều này vì chẳng hạn, bộ phận bất động sản của chúng tôi có trong tay bốn mươi chuyên gia về lĩnh vực này - trong đó có bảy người ở London - hiện đang quản lý một tổng giá trị gần một trăm tỷ đô la, và bộ phận đầu tư của chúng tôi còn có quy mô lớn hơn nhiều.”

“Tôi sẽ tận dụng mọi thứ các ông có thể cung cấp,” Danny nói, “và đừng bao giờ chần chừ cho tôi biết nếu các ông nghĩ tôi đang có một quyết định sai lầm. Tuy nhiên, trong mấy năm vừa qua tôi đã bỏ ra không ít thời gian theo dõi tình hình làm ăn của hai mươi tám công ty cụ thể, và tôi đã quyết định đầu tư một phần vốn của mình vào mười một công ty trong số này.”

“Ông có chính sách riêng gì trong việc mua cổ phần của các công ty này không?” Segat hỏi.

“Tôi muốn các vị mua theo từng gói nhỏ bất cứ khi nào chúng được tung ra thị trường - không bao giờ mua vào ào ạt, vì tôi không muốn bị quy trách nhiệm đã gây ảnh hưởng tới thị trường, cho dù theo chiều hướng nào. Tương tự, tôi không bao giờ muốn nắm giữ nhiều hơn hai phần trăm của bất cứ công ty nào.” Danny đưa cho Bresson một danh sách các công ty anh đã theo dõi tình hình làm ăn trong suốt một thời gian dài trước khi ra tù.

Bresson đưa ngón tay lần theo danh sách, rồi mỉm cười. “Bản thân chúng tôi cũng đã để mắt tới một vài công ty trong số này, nhưng tôi rất ấn tượng khi nhận thấy ông đã tìm ra một hay hai công ty chúng tôi chưa từng xem xét đến.”

“Vậy làm ơn hãy kiểm tra lại những công ty đó, và nếu các vị có bất cứ ngờ vực nào, hãy cho tôi biết ngay,” Danny cầm lấy một trong những cặp tài liệu của anh. “Về phần bất động sản, tôi dự định hành động thật quyết liệt,” anh nói. “Và tôi trông đợi các ông cũng phản ứng thật mau lẹ nếu việc thanh toán ngay cho phép có được một mức giá thực tế hơn.”

Bresson đưa ra một tấm thiếp. Trên đó không có tên hay địa chỉ, mà chỉ có một số điện thoại in nổi màu đen. “Đây là đường dây riêng của tôi. Chúng tôi có thể chuyển bất cứ khoản tiền nào ông yêu cầu tới bất cứ quốc gia nào trên trái đất chỉ với một động tác bấm nút. Và khi ông gọi tới số này, ông không bao giờ cần nói ra tên mình, vì đường dây đã được cài đặt tự động nhận dạng giọng nói. “

“Cảm ơn ông,” Danny nói, cất tấm thiếp vào túi áo trong. “Tôi cũng cần đến sự tư vấn của các vị về một vấn đề cấp bách hơn nhiều, nói thẳng ra là chi tiêu hàng ngày của tôi. Tôi không muốn bất cứ thanh tra thuế nào nhúng mũi vào việc của mình, và vì tôi sống trong ngôi nhà này, thuê quản gia và tài xế riêng, trong khi về danh chính ngôn thuận không có bất cứ nguồn thu nhập nào ngoài khoản trợ cấp dành cho sinh viên, rất có thể tôi đang đánh động cơ quan Thuế vụ.”

“Tôi có thể đưa ra một đề xuất chăng?” de Coubertin nói. “Trước đây chúng tôi vẫn chuyển một khoản một trăm nghìn bảng mỗi tháng vào một tài khoản tại London cho ông nội anh. Khoản này xuất phát từ một tài khoản tín dụng chúng tôi thiết lập nhân danh ông. Ông đã trả thuế đầy đủ cho khoản thu nhập này, và thậm chí còn thực hiện một số giao dịch quy mô nhỏ thông qua một công ty đăng ký hoạt động ở London.”

“Tôi sẽ rất biết ơn nếu ông tiếp tục thu xếp như vậy,” Danny nói. “Giờ tôi cần làm gì?”

De Coubertin lấy ra một xấp tài liệu mỏng từ cặp của mình, lấy ra một tờ giấy và nói, đồng thời chỉ tay vào một hàng kẻ nét đứt, “Chỉ cần anh vui lòng ký vào đây, Sir Nicholas, tôi cam đoan với anh mọi thứ sẽ được thu xếp và thực hiện theo đúng những gì anh mong đợi. Và tôi sẽ cần biết địa chỉ ngân hàng nơi chúng tôi sẽ chuyển khoản tiền hàng tháng tới.”

“Coutt và Công ty, ở phố Strand,” Danny đáp.

“Giống như ông nội anh trước đây,” ông chủ tịch nói.

***

“Đi từ đây tới Cambridge hết bao lâu?” Danny hỏi Al Mập một lát sau khi ba người Thụy Sĩ đã ra về.

“Chừng một tiếng rưỡi. Nghĩa là chúng ta sẽ phải đi tương đối sớm đấy, ông chủ.”

“Được,” Danny nói. “Tôi sẽ lên phòng thay đồ và chuẩn bị một túi hành lý cho một chuyến qua đêm.”

“Molly đã làm xong xuôi rồi,” Al Mập nói. “Tôi sẽ cho vào cốp xe.”

Mật độ giao thông vào cuối buổi chiều thứ Sáu khá dày đặc, và chỉ đến lúc họ ra tới xa lộ M11 Al Mập mới có dịp đẩy chiếc kim đồng hồ tốc độ vượt quá vạch ba mươi dặm một giờ. Anh ta lái xe tới King’s Parade chỉ vài phút trước giờ công diễn.

Những tuần vừa qua đã quá bận rộn với Danny, thành thử đây là lần đầu tiên anh có dịp tới nhà hát kế từ sau khi xem Lawrence Davenport diễn xuất trong Tầm quan trọng của sự chân thật.

Lawrence Davenport. Mặc dù Danny đã bắt đầu hình thành nên các kế hoạch dành cho ba đối thủ của mình, song cứ mỗi lần anh nghĩ về Davenport, hình ảnh Sarah lại hiện lên trong đầu anh. Anh hiểu rõ nếu không có cô, rất có thể anh đã phải quay trở lại Belmarsh, cũng như việc anh cần phải gặp lại cô, vì cô có thể giúp mở ra những cánh cửa mà lúc này anh chưa có được chìa khóa trong tay.

Al Mập dừng xe bên ngoài nhà hát. “Lúc nào anh quay trở lại London, ông chủ?”

“Tôi vẫn chưa rõ,” Danny nói, “nhưng sẽ không trước nửa đêm.”

Anh qua quầy vé lấy chiếc vé dành sẵn cho mình, mua một tờ chương trình với giá ba bảng, rồi theo một nhóm khán giả đến muộn giống anh đi vào khán phòng. Sau khi tìm thấy chỗ ngồi, anh bắt đầu mở chương trình ra xem. Anh đã định xem qua nội dung vở kịch trước khi tới xem đêm diễn này, nhưng nó vẫn nằm yên trên bàn làm việc của anh không được động đến trong khi anh cố đánh vật với Milton Friedman.

Danny dừng lại ở một trang chương trình có in bức ảnh chân dung cỡ lớn lộng lẫy của Katie Benson. Không giống như một vài nữ diễn viên khác, đây không phải là một bức ảnh cũ đã chụp từ vài năm trước. Anh đọc phần tóm tắt các vai diễn của nàng. Một người phụ nữ không đáng để bận tâm rõ ràng là vai diễn quan trọng nhất trong sự nghiệp mới mẻ của cô gái.

Khi màn được kéo lên, Danny bị hút hồn vào một thế giới khác, và thầm cả quyết trong tương lai anh sẽ đến nhà hát thường xuyên hơn. Anh ước ao biết bao giá như Beth đang ngồi bên anh và cùng anh chia sẻ niềm vui. Katie đang đứng trên sân khấu, cắm mấy bông hoa vào lọ, nhưng trong đầu anh chỉ toàn nghĩ tới Beth. Thế rồi khi vở diễn dần trôi qua, anh cũng phải thừa nhận Katie diễn rất hay, và không bao lâu sau anh đã hoàn toàn bị cuốn vào câu chuyện của một người phụ nữ nghi ngờ chồng mình không chung thủy.

Trong giờ tạm nghỉ, Danny đã đi đến một quyết định, và khi màn hạ, ông Wilde(1) đã chỉ ra cho anh cần thực hiện quyết định đó ra sao. Anh chờ đến khi nhà hát đã vắng vẻ mới bước tới cửa dẫn vào khu hậu trường sân khấu. Người gác cửa nhìn anh ngờ vực khi anh yêu cầu được gặp cô Benson.

“Tên cậu là gì?” ông ta hỏi, đồng thời kiểm tra bảng ghi chú của mình.

“Nicholas Moncrieff.”

“À phải. Cô ấy đang đợi cậu. Phòng thay đồ số bảy, lầu một.”

Danny chậm rãi bước lên cầu thang, và đợi một lúc trước cửa phòng số bảy trước khi gõ cửa.

“Mời vào,” một giọng nói anh vẫn nhớ rõ vang lên.

Anh mở cửa bước vào, nhìn thấy Katie đang ngồi trước một chiếc gương, trên người chỉ mặc bộ đồ lót màu đen. Nàng đang tẩy trang sau khi diễn.

“Anh có thể đợi ở ngoài không?” anh hỏi.

“Đừng ngốc thế, anh yêu. Em chẳng có gì mới để cho anh xem đâu, và dù thế nào đi nữa, em hy vọng sẽ gợi lên vài ký ức,” nàng nói tiếp, quay lại nhìn anh.

Cô gái đứng dậy, mặc lên người một chiếc đầm màu đen khiến nàng trở nên còn đáng khao khát hơn đến lạ thường. “Em tuyệt quá,” anh miễn cưỡng nói.

“Anh có chắc không, anh yêu?” nàng hỏi, nhìn anh chăm chú hơn. “Nghe anh nói chẳng có tí thuyết phục nào cả.”

“À phải,” Danny nói. “Anh rất thích vở kịch.”

Katie nhìn anh chăm chăm. “Có điều gì đó không ổn.”

“Anh cần quay về London. Anh có công chuyện gấp.”

“Vào tối thứ sáu sao? Ồ, thôi nào, Nick, anh có thể làm khá hơn mà.”

“Chỉ là...”

“Là một người phụ nữ khác, đúng không?”

“Phải,” Danny thừa nhận.

“Vậy tại sao anh lại cất công đến đây làm gì?” cô gái giận dữ nói, quay ngoắt người lại.

“Anh xin lỗi. Anh rất xin lỗi.”

“Đừng bận tâm xin lỗi làm gì, Nick. Anh không thể khiến em thấy rõ hơn em là một người phụ nữ không đáng để bận tâm.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 52


"Xin lỗi ông chủ, nhưng tôi nghĩ anh đã nói không trước nửa đêm,” Al Mập nói, nhanh chóng hoàn tất chiếc hamburger của mình.

“Tôi đã đổi ý.”

“Tôi nghĩ đó là đặc quyền của một quý bà chứ?”

“Và cô ấy đã dùng đến nó,” Danny nói.

Mười lăm phút sau, khi họ ra tới xa lộ M11, Danny đã chìm vào giấc ngủ. Anh chỉ choàng tỉnh dậy khi chiếc xe dừng lại trước đèn giao thông ở đường Mile End. Nếu Danny thức dậy sớm hơn một chút, có lẽ anh đã yêu cầu Al Mập đi theo đường khác.

Đèn giao thông chuyển màu, sau đó họ nhẹ nhàng vượt qua hết đèn xanh này tới đèn xanh khác, như thể có ai khác biết rằng Danny không nên tới đó. Anh ngả người ra sau, nhắm mắt lại, dù anh biết có một số nơi chốn quen thuộc mà mỗi khi ngang qua anh không thể kìm mình ít nhất liếc nhìn thật nhanh: trường dạy nghề Clement Attlee, nhà thờ St Mary, và tất nhiên, cả gara của gia đình Wilson.

Anh mở mắt, trong khi thầm ước gì đã nhắm mắt nguyên như cũ. “Không thể nào,” anh nói. “Tạt vào lề đi, Al.”

Al Mập dừng xe lại, quay người nhìn xuống phía sau xem ông chủ của mình có ổn không. Danny đang nhìn chằm chằm qua bên kia đường, vẻ không tin nổi. Al Mập cố gắng tìm xem anh đang nhìn vào đâu, nhưng không phát hiện ra điều gì bất thường.

“Đợi ở đây,” Danny nói, mở cửa sau xe ra. “Tôi chỉ cần vài phút thôi.”

Danny băng qua đường, đứng trên vỉa hè nhìn chăm chăm vào một tờ thông báo dán trên tường. Anh lấy một cây bút và một mảnh giấy từ trong túi áo trong ra, ghi lại số điện thoại được ghi dưới dòng RAO BÁN. Khi nhìn thấy một số người địa phương đi từ trong một quán rượu gần đó ra, anh vội vã chạy trở lại bên kia đường, ngồi vào trong xe cạnh Al Mập trên hàng ghế trước.

“Chuồn khỏi đây thôi,” anh nói, không giải thích gì thêm.

***

Danny nghĩ đến việc yêu cầu Al Mập lái xe đưa anh trở lại khu East End vào sáng thứ bảy để anh có thể xem lại lần thứ hai, nhưng anh biết rõ mình không thể mạo hiểm để cho ai đó thậm chí chỉ nghĩ rằng họ đã nhận ra anh.

Một kế hoạch bắt đầu định hình trong đầu anh, và đến tối chủ nhật nó đã gần hoàn tất. Mọi chi tiết cần được tuân thủ đúng đến từng chữ cái. Chỉ một sai sót thôi là cả ba bọn họ sẽ biết ngay anh đang định làm gì. Nhưng các vai phụ và các diễn viên dự phòng cần phải có mặt sẵn sàng ở vị trí của họ từ lâu trước khi ba diễn viên chính được phép bước ra sân khấu.

Khi Danny thức dậy vào sáng thứ hai và xuống nhà ăn sáng, anh không hề động đến tờ The Times được để sẵn trên bàn ăn. Anh diễn lại trong đầu những gì cần làm, bởi vì anh không thể mạo hiểm viết bất cứ điều gì ra giấy. Nếu luật sư cố vấn Arnold Pearson có hỏi anh khi anh rời phòng bếp xem Molly đã dọn ra cho anh món gì cho bữa sáng, chắc hẳn anh sẽ chịu không cung cấp được câu trả lời. Anh quay trở lại phòng làm việc, khóa trái cửa lại và ngồi vào bàn. Anh nhấc điện thoại lên bấm số trên tấm thiếp.

“Tôi cần chuyển một khoản tiền nhỏ trong ngày hôm nay, và thật nhanh,” anh nói.

“Đồng ý.”

“Và tôi sẽ cần đến ai đó tư vấn cho mình về một vụ chuyển nhượng bất động sản.”

“Họ sẽ liên hệ với ông ngay hôm nay.”

Danny gác máy, nhìn đồng hồ. Không ai có mặt ở bàn làm việc trước chín giờ. Anh sải bước đi quanh phòng, tận dụng thời gian để nhẩm lại các câu sẽ hỏi, những câu hỏi phải không được có vẻ đã chuẩn bị trước. Đợi một phút trôi qua sau chín giờ, anh lấy mảnh giấy trong túi áo ra và bấm số.

“Douglas Allen Spiro xin nghe,” một giọng nói vẫn còn ngái ngủ vang lên.

“Ông có một thông báo rao bán một bất động sản ở đường Mile End,” Danny nói.

“Tôi sẽ chuyển máy cho ông tới ông Parker, ông ấy là người phụ trách các bất động sản ở khu vực đó.”

Danny nghe tiếng chuyển máy. “Roger Parker xin nghe.”

“Ông có một bất động sản rao bán ở đường Mile End?” Danny hỏi lại.

“Chúng tôi có một vài bất động sản ở khu vực đó, thưa ông. Ông có thể cụ thể hơn không?”

“Gara Wilson.”

“Ồ phải rồi, một bất động sản hạng nhất, quyền sở hữu đầy đủ. Nó đã thuộc về một gia định suốt hơn một trăm năm qua.”

“Nó được rao bán lâu chưa?”

“Mới đây thôi, và cũng đã nhiều người quan tâm đến.”

“Bao lâu rồi?”

“Năm, hay sáu tháng gì đó,” Parker thừa nhận.

Danny rủa thầm khi anh nghĩ tới những khó khăn gia đình Beth chắc chắn đã phải trải qua, mà anh chẳng làm được gì để giúp. Anh có rất nhiều điều muốn hỏi, những câu hỏi anh biết ông Parker không thể trả lời được. “Giá chào bán là bao nhiêu?”

“Hai trăm nghìn,” Parker nói, “hoặc gần như vậy, tất nhiên là bao gồm cả đồ đạc và trang thiết bị. Ông có thể cho biết tên được không, thưa ông?”

Danny gác máy. Anh đứng dậy bước tới một chiếc giá, trên để ba cặp tài liệu có ghi nhãn Craig, Davenport và Payne. Anh lấy cặp tài liệu về Gerald Payne xuống và tìm số điện thoại của thành viên trẻ nhất trong lịch sử của Baker, Tremlett và Smythe, như ông luật sư cố vấn Arnold Pearson đã chu đáo nhắc đi nhắc lại với bồi thẩm đoàn. Nhưng Danny không dự định nói chuyện với Payne hôm nay. Payne sẽ buộc phải tìm đến anh, cố sống cố chết để được tham gia vào cuộc chơi. Hôm nay sẽ là ngày dành riêng cho các tin nhắn. Anh bấm số.

“Baker, Tremlett và Smythe xin nghe.”

“Tôi có ý định mua một bất động sản ở đường

Mile End.”

“Tôi sẽ chuyển máy cho ông tới bộ phận phụ trách khu đông London.”

Có tiếng tách vang lên ở đầu dây bên kia. Liệu người nhấc máy, cho dù là ai đi nữa, có lúc nào đó nhận ra họ đã được lựa chọn một cách ngẫu nhiên để làm kẻ đưa tin, và sau này không đáng bị trách cứ khi cơn địa chấn xảy ra hay không? “Gary Hall xin nghe. Tôi có thể giúp gì được ông?”

“Ông Hall, tôi là Sir Nicholas Moncrieff, và tôi không rõ...”anh nói tiếp chậm rãi, thật chậm, “tôi có tìm đúng người hay không.”

“Xin hãy cho tôi biết ngài cần gì, thưa ngài, và tôi sẽ xem xem có thể giúp được không.”

“Có một bất động sản được rao bán ở đường Mile End mà tôi muốn mua, nhưng tôi không muốn giao dịch trực tiếp với đại lý nhà đất phụ trách bán.”

“Tôi hiểu, thưa ngài. Ngài có thể yên tâm về sự kín đáo của tôi,” Tôi hy vọng là không, Danny nghĩ thầm. “Nó ở số bao nhiêu đường Mile End thưa ngài?”

“Một bốn ba,” Danny đáp. “Đó là một gara - gara Wilson.”

“Ai là đại lý phụ trách bán, thưa ngài?”

“Douglas Allen Spiro.”

“Tôi sẽ trao đổi một chút với người đồng nghiệp của mình tại đó và tìm hiểu các chi tiết,” Hall nói, “sau đó tôi sẽ gọi lại cho ngài.”

“Trong ngày hôm nay tôi sẽ có việc đi qua gần chỗ ông,” Danny nói. “Không biết ông có thể uống một tách cà phê với tôi không?”

“Tất nhiên rồi, Sir Nicholas. Ngài muốn chúng ta gặp ở đâu?”

Danny chỉ có thể nghĩ tới nơi duy nhất anh từng đến nằm gần chỗ tọa lạc của văn phòng Baker, Tremlett và Smythe. “Dorchester,” anh nói. “Chúng ta có thể hẹn lúc mười hai giờ được chứ?”

“Tôi sẽ tới gặp ngài lúc mười hai giờ, Sir Nicholas.”

Danny vẫn ngồi nguyên trước bàn làm việc. Anh đánh dấu vào ba chỗ trên bản danh sách dài trước mặt mình, nhưng anh vẫn cần thêm vài vai phụ nữa có mặt trước trưa hôm đó nếu muốn chuẩn bị sẵn sàng để gặp mặt quý ông Hall. Chiếc điện thoại trên bàn làm việc của anh bắt đầu nổi chuông. Danny nhấc máy.

“Chúc buổi sáng tốt lành, Sir Nicholas,” một giọng nói vang lên. “Tôi là người điều hành bộ phận bất động sản của ngân hàng tại London.”

***

Al Mập lái xe đưa Danny tới Park Lane, tạt vào lề trước mặt lối vào Dorchester ngay sau lúc mười một giờ ba mươi. Một người gác cổng bước xuống bậc cấp tới mở cửa sau xe. Danny bước ra ngoài.

“Tên tôi là Sir Nicholas Moncrieff,” anh nói trong khi bước lên bậc cấp. “Tôi đang chờ một người khách đến gặp mình vào khoảng mười hai giờ - ông Hall. Anh có thể nói giúp với ông ta tôi đang chờ trong quán cà phê chứ?” anh lấy ví ra đưa cho người gác cửa một tờ mười bảng.

“Chắc chắn rồi, thưa ngài,” anh ta nói, nhấc chiếc mũ chóp cao của mình lên.

“Tên anh là gì?” Danny hỏi.

“George.”

“Cảm ơn anh, George,” Danny nói, và bước qua cánh cửa quay vào trong khách sạn.

Anh dừng lại ngoài tiền sảnh, giới thiệu mình với người phụ trách lễ tân. Sau vài câu trò chuyện với anh chàng Walter này, anh lại chia tay một tờ mười bảng nữa.

Theo lời khuyên của Walter, Danny đi tới quán cà phê và đợi người phụ trách nhân viên phục vụ đi qua chỗ anh. Lần này Danny lấy một tờ mười bảng ra khỏi ví trước khi đề xuất yêu cầu của mình.

“Chắc ngài sẽ cho phép tôi thu xếp cho ngài một góc riêng tư hơn chứ, Sir Nicholas? Tôi sẽ cho đưa ông Hall tới gặp ngài ngay khi ông ấy tới. Ngài có muốn dùng gì trong khi chờ đợi không?”

“Một tờ The Times và một sô cô la nóng,” Danny nói.

“Tất nhiên rồi, Sir Nicholas.”

“Tên anh là gì nhỉ?” Danny hỏi.

“Mario, thưa ngài.”

Vậy là George, Walter và Mario đã vô tình trở thành những thành viên trong nhóm của anh, với giá ba mươi bảng. Danny giở đến phần kinh doanh của tờ The Times để kiểm tra các khoản đầu tư của mình trong khi chờ đợi ông bạn Hall ngây thơ kia xuất hiện. Hai phút trước lúc mười hai giờ đúng, Mario đến đứng bên cạnh anh. “Sir Nicholas, khách của ngài đã tới.”

“Cảm ơn, Mario,” Danny nói như thể anh là khách quen.

“Rất hân hạnh được gặp ngài, Sir Nicholas,” Hall vừa nói vừa ngồi xuống chiếc ghế đối diện với Danny.

“Ông muốn dùng gì, ông Hall?” Danny hỏi.

“Chỉ một tách cà phê thôi, cảm ơn ngài.”

“Mario, làm ơn cho một cà phê và của tôi như thường lệ.”

“Tất nhiên rồi, Sir Nicholas.”

Anh chàng trẻ tuổi vừa đến gặp Danny mặc một bộ đồ màu be cùng một chiếc áo sơmi xanh lục và một chiếc cà vạt màu vàng. Gary Hall chắc hẳn sẽ không bao giờ có được một chỗ làm ở Ngân hàng de Coubertin. Anh ta mở cặp lấy ra một tập tài liệu. “Tôi nghĩ tôi đã có được đầy đủ thông tin ngài yêu cầu, Sir Nicholas, “Hall nói, đồng thời mở tập tài liệu ra. “Số 143 đường Mile End - từng là một gara, thuộc sở hữu của một ông George Wilson, mới qua đời gần đây.” Khuôn mặt của Danny tái nhợt đi khi anh nhận ra cái chết của Bernie đã để lại hậu quả đến đâu: chỉ một biến cố duy nhất đã làm thay đổi biết bao nhiêu cuộc đời.

“Ngài không sao chứ, Sir Nicholas?” Hall nói, với vẻ thực sự quan tâm.

“À tôi vẫn khỏe, không sao đâu,” Danny nói, nhanh chóng trấn tĩnh lại. “Anh đang nói gì nhỉ?” anh hỏi thêm khi người phục vụ bàn đặt một tách sô cô la nóng trước mặt anh.

“Sau khi ông Wilson nghỉ hưu, công việc làm ăn được tiếp tục thêm vài năm dưới sự phụ trách của một người có tên là...” Hall xem lại tập tài liệu, mặc dù Danny có thể nhắc cho anh ta phần còn lại. “Trevor Sutton. Nhưng trong thời gian đó gara của họ đã mang nợ đáng kể, vậy là người chủ sở hữu đã quyết định cắt bớt thua lỗ của cô ta và mang cơ sở đó rao bán.”

“Thua lỗ của cô ta?”

“Phải, chỗ đó hiện giờ thuộc quyền sở hữu của...” anh ta ngừng lại một lần nữa để xem tài liệu, “một cô Elizabeth Wilson, con gái của người chủ cũ.”

“Giá chào bán là bao nhiêu?” Danny hỏi.

“Diện tích của cơ sở này vào khoảng bốn trăm năm mươi mét vuông, nhưng nếu ngài định ra giá, tôi có thể thăm dò và tìm hiểu con số chính xác.” Bốn trăm ba mươi mốt mét vuông, Danny có thể cho anh ta biết lập tức. “Ở kế bên gara đó, một phía là hiệu cầm đồ, phía kia là một cửa hàng chuyên bán thảm Thổ Nhĩ Kỳ.”

“Giá chào bán là bao nhiêu?” Danny lặp lại câu hỏi.

“À vâng, xin lỗi ngài. Hai trăm nghìn, bao gồm cả đồ đạc và trang thiết bị, nhưng tôi tin rằng ngài có thể mua được với giá một trăm năm mươi nghìn. Vẫn chưa có nhiều người quan tâm đến bất động sản này, và bên kia con đường đó đang có một gara khác làm ăn phát đạt hơn nhiều.”

“Tôi không có nhiều thời gian để lãng phí,” Danny nói, “vì vậy hãy nghe thật kỹ đây. Tôi sẵn sàng trả theo giá chào bán, và tôi cũng muốn anh tiếp cận các chủ sở hữu của hiệu cầm đồ cũng như cửa hàng bán thảm, vì tôi cũng muốn mua lại bất động sản của họ.”

“Vâng, tất nhiên rồi, Sir Nicholas,” Hall nói, hối hả viết lại từng từ anh nói. Anh ta ngần ngừ một lát. “Tôi cần một khoản đặt cọc hai mươi nghìn bảng trước khi chúng tôi có thể xúc tiến giao dịch.”

“Khi anh quay về tới văn phòng, anh Hall thân mến, hai trăm nghìn bảng sẽ được chuyển vào tài khoản khách hàng của anh.” Hall có vẻ chưa cảm thấy thuyết phục, nhưng vẫn cố mỉm cười. “Chừng nào anh có được thông tin từ hai bất động sản kia, hãy gọi ngay cho tôi.”

“Vâng, Sir Nicholas.”

“Và tôi muốn làm rõ luôn một điều,” Danny nói. “Người chủ sở hữu gara không bao giờ được biết cô ta đang giao dịch với ai.”

“Ngài có thể tin tưởng vào sự kín đáo của tôi,

Sir Nicholas.”

“Tôi hy vọng là vậy,” Danny nói, “bởi vì tôi phát hiện ra mình đã không thể trông cậy vào sự kín tiếng của công ty trước tôi liên hệ, và đó là lý do họ mất mối làm ăn với tôi.”

“Tôi hiểu,” Hall nói. “Tôi có thể liên lạc với ngài bằng cách nào?” Danny lấy ví ra đưa cho anh ta một tấm danh thiếp còn mới cứng. “Và, một câu hỏi cuối cùng nữa, Sir Nicholas, ngài có thể cho biết văn phòng luật sư nào sẽ đại diện cho ngài trong vụ giao dịch này không?”

Đây là câu hỏi đầu tiên Danny đã không lường trước đến. Anh mỉm cười. “Munro, Munro và Carmichael. Anh chỉ được liên hệ với ông Fraser Munro, thành viên cao cấp của văn phòng, người đảm nhiệm mọi công việc của tôi.”

“Tất nhiên rồi, Sir Nicholas,” Hall nói, đứng dậy ra về sau khi đã ghi lại tên của vị luật sư. “Tốt nhất tôi nên quay về văn phòng ngay để liên hệ với văn phòng phụ trách bán.”

Danny nhìn theo Hall trong khi anh chàng hối hả đi ra, tách cà phê vẫn còn nguyên chưa kịp động đến. Anh tin chắc chỉ trong vòng một giờ nữa cả văn phòng kia sẽ biết về quý ông Sir Nicholas Moncrieff lập dị, một gã rõ ràng có nhiều tiền hơn trí khôn. Bọn họ hẳn sẽ giễu cợt anh chàng Hall về buổi sáng lãng phí vào việc không đâu, cho tới khi phát hiện ra hai trăm nghìn bảng được chuyển vào tài khoản khách hàng.

Danny lấy điện thoại di động ra bấm số.

“Vâng,” một giọng nói ở đầu bên kia vang lên.

“Tôi muốn chuyển hai trăm nghìn bảng vào tài khoản khách hàng của văn phòng Baker, Tremlett và Smythe ở London.”

“Vâng, thưa ngài.”

Danny ngắt máy và nghĩ đến anh chàng Gary Hall. Liệu anh ta sẽ phát hiện ra nhanh đến mức nào rằng bà Isaacs đã muốn ông chồng bán cửa hiệu cầm đồ từ nhiều năm nay, còn cửa hàng bán thảm cũng đã cận kề phá sản, trong khi ông bà Kamal cũng muốn quay về Ankara để có được nhiều thời gian bên con gái và các cháu ngoại hơn?

Mario tế nhị đặt tờ biên lai thanh toán lên bàn, ngay bên cạnh anh. Danny để lại một khoản hoa hồng hậu hĩnh. Anh cần được nhớ đến. Khi đi qua quầy lễ tân, anh dừng lại một lát để cảm ơn người phụ trách lễ tân.

“Rất hân hạnh được phục vụ ngài, Sir Nicholas. Sau này xin ngài cứ cho biết ngay nếu tôi có thể giúp gì được ngài.”

“Cảm ơn anh, Walter. Tôi sẽ trông cậy vào anh.”

Danny đi ra phía cánh cửa quay và bước ra ngoài thềm. George vội vã bước tới chiếc xe đang đợi sẵn và mở cửa sau ra. Danny rút ra thêm một tờ mười bảng nữa.

“Cảm ơn, George.”

George, Walter và Mario giờ đây đã trở thành những diễn viên được trả lương chính thức trong đoàn kịch của anh, mặc dù mới có cảnh đầu tiên được hạ màn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 53


Danny lấy cặp hồ sơ có ghi nhãn Davenport từ trên giá xuống đặt lên bàn làm việc. Anh lật trang đầu ra.

Davenport, Lawrance, diễn viên - trang 2 - 11.

Davenport, Sarah, luật sư - trang 12 - 16.

Duncan, Charlie, nhà sản xuất - trang 17 - 20.

Anh giở đến trang 17. Một diễn viên phụ nữa chuẩn bị tham gia vào vở diễn tiếp theo của Lawrence Davenport. Danny bấm số của nhà sản xuất.

“Charles Duncan Production xin nghe.”

“Vui lòng cho gặp ông Duncan.”

“Tôi cần thông báo người gọi là ai ạ?”

“Nick Moncrieff.”

“Tôi sẽ nối máy cho ông, thưa ông Moncrieff.”

“Tôi đang cố nhớ xem chúng ta đã gặp nhau ở đâu,” giọng tiếp theo ở đầu dây bên kia nói.

“Tại Dorchester, trong buổi tiệc hạ màn của Tầm quan trọng của sự chân thật.”

“À phải, tôi nhớ ra rồi. Vậy tôi có thể giúp gì được ông?” một giọng nói có vẻ hoài nghi vang lên.

“Tôi đang cân nhắc tới việc đầu tư vào chương trình tiếp theo của ông,” Danny nói. “Một người bạn của tôi đã bỏ ra vài nghìn bảng vào vở Sự chân thật và nói với tôi rằng anh ta đã kiếm được một món lời kha khá, vì thế tôi nghĩ bây giờ là thời điểm hợp lý để tôi...”

“Ông không thể chọn được thời điểm nào tuyệt hơn để gọi đâu,” Duncan nói. “Tôi đang có trong tay đúng thứ dành cho ông đây, ông bạn thân mến. Tại sao không tới Ivy cùng ăn trưa với tôi, như thế chúng ta có thể trao đổi một chút?”

Liệu có ai thực sự bị cắn câu bởi câu đó không, Danny thầm nghĩ. Nếu đúng là thế, chuyện này sẽ còn ngon lành hơn anh từng nghĩ. “Không, hãy để tôi được mời ông, ông bạn thân mến,” Danny nói. “Chắc ông đang rất bận, vì vậy vui lòng gọi điện cho tôi khi nào ông thu xếp được thời gian.”

“Chà, khéo làm sao,” Duncan nói. “Tôi mới vừa hủy một cuộc hẹn vào ngày mai, vì thế nếu ông rảnh...”

“Tôi hoàn toàn tự do,” Danny nói, trước khi hoàn tất chiếc bẫy. “Tại sao ông không đến gặp tôi tại quán quen của tôi nhỉ?”

“Quán quen của ông?” Duncan nói, nghe không có vẻ hào hứng lắm.

“Phải, đến Palm Court Room ở Dorchester. Một giờ được không?”

“À vâng, tất nhiên rồi. Tôi sẽ đến đó gặp ông lúc một giờ,” Duncan nói. “Ông là Sir Nicholas có phải không ạ?”

“Gọi tôi là Nick được rồi,” Danny nói, trước khi gác máy và ghi thêm một dòng vào lịch làm việc của mình.

***

Giáo sư Amirkhan Mori mỉm cười hiền hậu khi bước vào giảng đường đông chật người. Các bài giảng của ông luôn có đông người tới nghe, không phải chỉ vì ông truyền đạt tới người học nhiều kiến thức và hiểu biết, mà còn vì ông đã thành công trong việc chuyển tải chúng một cách hài hước. Phải mất một thời gian Danny mới nhận ra ông rất thích khuấy động lên các cuộc tranh biện và thảo luận bằng cách đưa ra những nhận định thái quá để xem phản hồi tạo ra từ các sinh viên.

“Rất có thể sẽ tốt hơn cho sự ổn định kinh tế của nước ta nếu John Maynard Keynes không bao giờ ra đời. Tôi không thể nghĩ ra bất cứ điều gì đáng giá ông ta từng đạt được trong đời mình.” Hai mươi cánh tay giơ lên.

“Moncrieff,” ông nói. “Anh có thể đưa ra một ví dụ nào về một di sản mà Keynes có thể tự hào không?”

“Ông ta đã thành lập nhà hát Arts của Cambridge,” Danny nói, hy vọng có thể đáp lại giáo sư bằng đúng trò chơi của ông.

“Ông ta cũng đã diễn vai Orsino trong Đêm thứ mười hai khi còn là một sinh viên ở King’s College,” Mori nói. “Nhưng đó là chuyện trước khi ông ta đi đến chứng minh với cả thế giới rằng việc các quốc gia giàu có đầu tư và ủng hộ các nước đang phát triển đem lại ý nghĩa về mặt kinh tế.” Chiếc đồng hồ treo trên tường sau lưng ông điểm một giờ. “Tôi đã có quá đủ với các vị rồi,” giáo sư nói, rồi bước xuống bục giảng rồi biến mất sau cánh cửa quay trong tiếng cười và những tràng vỗ tay.

Danny biết anh sẽ không có cả thời gian để ăn qua loa bữa trưa tại căng tin nếu không muốn đến muộn buổi trình diện với người giám hộ, nhưng khi hối hả bước ra ngoài giảng đường, anh bắt gặp giáo sư Mori đang đợi ngoài hành lang.

“Tôi không biết chúng ta có thể nói chuyện một chút được không, Moncrieff,” Mori nói, và không đợi câu trả lời đã lao đi dọc hành lang. Danny đi theo giáo sư vào văn phòng của ông, chuẩn bị bảo vệ quan điểm của anh về Milton Friedman, vì anh biết bài luận cuối cùng của mình đã không đồng điệu với những gì giáo sư thường nói về chủ đề đó.

“Ngồi xuống đi, chàng trai,” Mori nói. “Tôi rất muốn mời cậu một ly, nhưng nói thật tôi chẳng có thứ gì đáng uống cả. Nhưng giờ hãy nói về việc quan trọng hơn. Tôi muốn biết liệu cậu đã nghĩ đến chuyện đăng ký tham gia cuộc thi viết luận tranh giải Jennie Lee Memorial chưa?”

“Tôi chưa từng nghĩ đến điều đó,” Danny thừa nhận.

“Vậy thì cậu nên suy nghĩ đi,” giáo sư Mori nói. “Cậu là sinh viên xuất sắc nhất trong khóa của mình, điều đó chưa hẳn đã nói lên gì nhiều, nhưng tôi vẫn nghĩ cậu có thể đoạt giải. Nếu cậu có thời gian, cậu cần suy nghĩ nghiêm túc về điều đó.”

“Cuộc thi đó có yêu cầu cam kết gì không?” Danny hỏi, học hành vẫn chỉ là ưu tiên số hai của anh trong cuộc sống.

Ông giáo sư cầm một cuốn sách mỏng nằm trên bàn làm việc lên, giở trang đầu tiên ra và bắt đầu đọc thành tiếng. “Bài luận không được ngắn hơn một nghìn từ, và không quá hai mươi nghìn, viết về một chủ đề do người dự thi lựa chọn, và phải nộp bài vào cuối học kỳ kết thúc vào dịp lễ thánh Michael.”

“Tôi rất vui vì ông đã cho rằng tôi đủ trình độ để tham dự,” Danny nói.

“Tôi chỉ ngạc nhiên tại sao các thầy giáo của cậu tại Loretto lại không khuyên cậu đến học đại học ở Edinburgh hay Oxford thay vì nhập ngũ.”

Danny những muốn giải thích cho giáo sư rằng chưa có ai tại trường dạy nghề Clement Attlee từng đến học ở Oxford, kể cả ông hiệu trưởng.

“Có thể cậu sẽ muốn suy nghĩ thêm,” giáo sư nói. “Hãy cho tôi biết khi cậu đã quyết định xong nhé.”

“Chắc chắn tôi sẽ làm vậy,” Danny nói khi đứng dậy ra về. “Xin cảm ơn giáo sư.”

Quay trở ra hành lang, Danny cắm đầu cắm cổ chạy về phía lối ra. Khi lao qua cửa trước, anh nhẹ nhõm trông thấy Al Mập đang đợi bên chiếc xe.

Danny ngồi ngẫm nghĩ về những gì giáo sư Mori vừa nói trong khi Al Mập lái xe theo phố Strand, đi qua The Mall trên con đường tới Notting Hill Gate. Anh ta liên tục phá vỡ giới hạn tốc độ vì không muốn ông chủ của mình tới muộn cuộc trình diện. Danny đã nói rõ anh thà nộp tiền phạt chạy quá tốc độ còn hơn phải trải qua thêm bốn năm nữa ở Belmarsh. Thật không may, Al Mập vừa dạt xe vào lề đường thì bà Bennett cũng từ trên xe bus bước xuống. Bà nhìn chằm chằm qua cửa xe trong khi Danny cố thu mình lại nấp sau thân hình ngoại cỡ của Al Mập.

“Bà ta chắc sẽ nghĩ anh vừa đi cướp ngân hàng,” Al Mập nói, “và tôi là tay lái xe phụ trách việc đào tẩu.”

“Đúng là tôi vừa cướp một ngân hàng thật,” Danny nhắc lại với anh ta.

Danny phải đợi ngoài phòng tiếp đón lâu hơn thường lệ trước khi bà Bennett xuất hiện trở lại và ra hiệu gọi anh vào văn phòng của mình. Khi anh đã yên vị trên chiếc ghế nhựa kê đối diện với chiếc bàn mặt formica, bà nói, “Trước khi tôi bắt đầu, Nicholas, có lẽ anh nên giải thích chiều nay anh đã tới đây bằng xe của ai vậy?”

“Đó là xe của tôi,” Danny đáp.

“Vậy còn lái xe là ai?” bà Bennett hỏi.

“Anh ta là tài xế riêng của tôi.”

“Làm sao anh có khả năng sở hữu một chiếc BMW và có tài xế riêng trong khi nguồn thu nhập duy nhất mà anh khai báo là khoản trợ cấp dành cho sinh viên?” Bà hỏi.

“Ông nội tôi đã mở một tài khoản tín dụng cho tôi với mức chi trả thu nhập mỗi tháng là một trăm nghìn bảng và...”

“Nicholas,” bà Bennett nghiêm giọng, “những cuộc trình diện này là cơ hội để anh trình bày một cách chân thực và thẳng thắn về những khó khăn đang gặp phải để tôi có thể đưa ra lời khuyên và sự trợ giúp. Tôi sẽ cho anh một cơ hội nữa để trả lời thành thật câu hỏi của mình. Nếu anh tiếp tục xử sự một cách thiếu nghiêm túc như vậy, tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải đề cập đến việc này trong báo cáo tiếp theo của tôi gửi lên Bộ Nội vụ, và chúng ta đều biết hậu quả của nó ra sao. Tôi đã nói đủ rõ chưa?”

“Vâng, thưa bà Bennett,” Danny nói, nhớ lại những gì Al Mập đã nói với anh khi anh ta gặp phải tình huống tương tự với người giám hộ. “Hãy nói cho họ những gì họ muốn nghe, ông chủ thân mến. Như thế đời sẽ dễ thở hơn.”

“Tôi hỏi lại anh lần nữa. Ai là chủ sở hữu chiếc xe anh đã dùng để tới đây chiều nay?”

“Người cầm lái chiếc xe,” Danny nói.

“Người đó là bạn anh? Hay anh làm việc cho anh ta.”

“Tôi quen anh ta khi còn ở trong quân đội, và vì tôi đang bị muộn nên anh ta đã đề nghị đưa tôi đi.”

“Anh có thể cho tôi biết anh còn nguồn thu nhập nào khác ngoài khoản trợ cấp dành cho sinh viên không?”

“Không, thưa bà Bennett.”

“Nghe có vẻ giống sự thật hơn rồi đấy,” bà Bennett nói. “Anh có thấy chỉ cần anh hợp tác là mọi thứ sẽ trở nên suôn sẻ thế nào không? Bây giờ anh còn điều gì cần trao đổi với tôi không?”

Danny định kể cho bà về cuộc gặp của anh với ba nhà ngân hàng Thụy Sĩ, kể lại cho bà toàn bộ cuộc giao dịch bất động sản anh đang cố gắng thực hiện, hay tiết lộ cho bà ý định anh đã dành sẵn trong đầu cho Charlie Duncan. Rồi anh đi đến quyết định, “Giáo sư của tôi muốn tôi tham gia cuộc thi viết luận tranh giải Jennie Lee Memorial, và tôi không biết bà có thể cho tôi lời khuyên nào không.”

Bà Bennett mỉm cười. “Anh có nghĩ việc đó sẽ giúp củng cố cơ hội trở thành giáo viên của anh không?”

“Tôi nghĩ là có,” Danny nói.

“Vậy tôi khuyên anh nên tham gia dự thi.”

“Tôi rất biết ơn bà vì lời khuyên, bà Bennett.”

“Không có gì,” bà đáp. “Nói cho cùng, tôi có mặt ở đây để làm vậy mà.”

***

Chuyến ghé thăm đường Mile End không dự kiến trước vào lúc nửa đêm của Danny đã thổi bùng lên trở lại những hồi ức mà những kẻ bị tù chung thân thường gọi là những bóng ma ám ảnh của họ. Quay lại Old Bailey giữa ban ngày ban mặt có nghĩa là anh phải đối mặt với một thách thức còn lớn hơn nhiều.

Khi Al Mập lái xe rẽ vào St Paul’s Yard, Danny ngước mắt nhìn lên bức tượng đứng sừng sững trên đỉnh Tòa án Đại hình trung ương: một người phụ nữ đang cố cân nhắc nặng nhẹ giữa hai đĩa cân. Khi Danny lướt qua lịch công việc của mình để xem anh có thể ăn trưa cùng Charlie Duncan không, anh chợt nhớ ra mình đã có kế hoạch làm gì sáng hôm đó. Al Mập lái xe qua lối vào dành cho công chúng, rẽ phải ở cuối con đường và vòng ra phía sau tòa nhà, rồi đậu xe bên ngoài một cánh cửa có biển đề Lối vào cho khách tham quan.

Sau khi đã qua kiểm tra an ninh, Danny bắt đầu bước lên những bậc thang dốc bằng đá dẫn lên các dãy hành lang trông xuống các khoảng sân khác nhau của khu nhà. Khi anh leo lên tầng trên cùng, một nhân viên tòa án mặc áo choàng dài tới hỏi anh muốn tới dự tòa ở phòng xét xử nào.

“Số bốn,” anh nói với người nhân viên, anh này chỉ tay vào một lối đi dẫn xuống lầu hai ở bên phía phải. Danny đi theo chỉ dẫn của anh ta và tới được khu ghế ngồi dành cho công chúng. Một nhóm nhỏ người đến dự xét xử - gia đình và bạn bè của bị cáo, cùng một số kẻ tò mò - đang ngồi trên một băng ghế trên hàng đầu tiên nhìn xuống phía tòa. Anh không đến ngồi cạnh họ.

Danny không hề quan tâm đến kẻ bị xét xử. Anh đến để quan sát đối thủ của mình thể hiện bản thân trên lãnh địa sở trường của gã. Anh đi tới một chỗ ngồi ở góc hàng ghế sau. Như một gã sát thủ thiện nghệ, anh có được tầm nhìn hoàn hảo về phía con mồi của mình khi bắt tay vào việc, trong khi Spencer Craig buộc phải quay người lại sau và ngước mắt nhìn lên trên khu ghế ngồi của công chúng ở trên cao mới có cơ hội trông thấy anh, và ngay cả trong trường hợp đó, Danny sẽ chẳng khác gì một chiếc bóng thoáng qua không để lại chú ý nào.

Danny theo dõi từng cử chỉ của Craig, giống như một võ sĩ quyền anh thường làm trong khi đương đầu với đối thủ trên võ đài, tìm kiếm những sơ hở, phát hiện những điểm yếu. Craig bộc lộ ra rất ít chi tiết như vậy với một đôi mắt chưa qua đào luyện. Khi buổi sáng đó trôi dần đi, đã có thể thấy rõ gã là một kẻ khéo léo, thông minh và tàn nhẫn, những vũ khí tối cần thiết cho nghề nghiệp gã theo đuổi; nhưng gã cũng có vẻ sẵn sàng đẩy xa giới hạn tận dụng những điểm mềm dẻo của luật pháp đến sát giới hạn của việc phá vỡ khuôn khổ nếu điều đó có thể đem lại lợi thế cho mình, như Danny được biết với cái giá phải trả vô cùng đắt. Anh biết khi đến lúc phải đối đầu trực diện với Craig, anh cần phải đạt được mức độ sắc bén nhất của mình, vì kẻ thù này sẽ không chịu buông xuôi cho tới khi đã bị bóp nghẹt hết hơi thở cuối cùng.

Danny cảm thấy giờ đây anh đã biết gần như tất cả những gì cần biết về Spencer Craig, và điều này chỉ càng khiến anh thận trọng hơn. Trong khi Danny có lợi thế có chuẩn bị trước cũng như yếu tố bất ngờ, anh cũng có bất lợi khi dám bước chân vào đấu trường mà Craig có thể nói đã quen thuộc từ khi mới chào đời, trong khi anh mới chỉ làm quen được vài tháng. Với mỗi ngày anh trải qua trong vai diễn của mình, nó càng lúc càng trở thành một hiện thực, đến mức vào lúc này, không còn ai mà anh tiếp xúc còn nghi ngờ về việc anh chính là Sir Nicholas Moncrieff. Nhưng Danny luôn nhớ Nick từng viết trong nhật ký của mình rằng bất cứ khi nào bạn phải đối mặt với một kẻ thù khôn khéo, bạn cần lừa hắn rời khỏi địa bàn quen thuộc của hắn, khiến hắn không còn cảm thấy tự tin, vì đó chính là thời điểm bạn có cơ hội tốt nhất để khiến hắn bị bất ngờ.

Danny đã thử nghiệm những kỹ năng mới của mình hàng ngày, nhưng làm cho mình được mời tới một bữa tiệc hạ màn một vở kịch, tạo ra ấn tượng anh là một khách hàng quen thuộc tại Dorchester, dắt mũi một anh chàng môi giới nhà đất non choẹt đang cố sống cố chết tìm cho mình một hợp đồng, cũng như thuyết phục một nhà sản xuất sân khấu rằng anh có thể sẽ đầu tư vào chương trình sản xuất mới nhất của anh ta đều chỉ là những trận mở màn cho một giải đấu lâu dài trong đó chắc chắn Craig được coi là hạt giống số một. Nếu Danny để mất cảnh giác dù chỉ trong khoảnh khắc, kẻ đang ngạo nghễ thể hiện mình trước tòa dưới kia sẽ không ngần ngại ra đòn một lần nữa, và lần này gã sẽ đảm bảo chắc chắn Danny bị đưa trở lại Belmarsh trong suốt phần đời còn lại.

Anh cần phải dụ gã vào một bãi lầy, nơi gã không còn hy vọng thoát thân. Charlie Duncan có thể giúp được anh tước đi của Lawrance Davenport những khán giả vốn thần tượng gã; Gary Hall thậm chí có thể khiến Gerald Payne phải bẽ mặt trước đồng nghiệp và bạn bè; nhưng sẽ cần nhiều hơn thế rất nhiều để đảm bảo Spencer Craig phải chấm dứt sự nghiệp thực thi công lý của gã, để gã không còn được ngồi phán xét trên ghế chủ tọa phiên tòa, đội tóc giả và mặc áo choàng đỏ, được mọi người trân trọng thưa gửi bằng danh xưng “ngài”, mà thay vào đó phải đứng trên ghế bị cáo và bị tuyên án giết người bởi một bồi thẩm đoàn gồm những công dân cùng quốc tịch.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 54


“Một buổi sáng tốt lành, George,” Danny nói khi người gác cửa mở cửa sau xe ra cho anh.

“Một buổi sáng tốt lành, Sir Nicholas.”

Danny bước vào khách sạn và vẫy tay chào Walter khi đi qua quầy lễ tân. Khuôn mặt Mario vụt sáng lên vào khoảnh khắc anh ta nhìn thấy người khách hàng ưa thích của mình.

“Một sô cô la nóng và một tờ The Times, Sir Nicholas?” anh ta hỏi khi Danny đã yên vị tại chỗ ngồi trong góc của mình.

“Cảm ơn anh, Mario. Tôi cũng muốn có một bàn cho trưa mai lúc một giờ, ở chỗ nào đó không ai nghe thấy những gì tôi nói. “

“Không vấn đề gì, Sir Nicholas.”

Danny ngả người tựa vào ghế và suy nghĩ về cuộc gặp sắp diễn ra. Các nhà tư vấn của anh từ bộ phận bất động sản của de Coubertin đã gọi điện đến ba lần trong tuần vừa qua: không tên, không dài dòng, chỉ có thông tin và những khuyến cáo đã được cân nhắc kỹ. Họ không chỉ đi tới một mức giá thực tế cho cửa hiệu cầm đồ và tiệm bán thảm mà còn hướng sự chú ý của anh tới một dải đất trống nằm phía sau ba bất động sản thuộc quyền quản lý của hội đồng địa phương. Danny không hề nói với họ anh vốn biết rõ từng inch vuông của khoảng đất đó, vì khi còn là một cậu nhóc anh đã chơi tiền đạo ở khu đất đó, trong khi Bernie giữ vị trí thủ môn trong trận chung kết giành cúp giữa hai người.

Họ cũng đã cho anh biết từ vài năm qua ủy ban kế hoạch của hội đồng đã muốn xây dựng nhà ở “với chi phí chấp nhận được” trên khu đất đó, nhưng với một gara nằm ngay bên cạnh, ủy ban y tế và an toàn đã phủ quyết kế hoạch. Biên bản của cuộc họp ủy ban đáng chú ý kể trên đã được gửi tới trong một chiếc phong bì màu nâu vào sáng hôm sau. Danny đã có những dự kiến cho phép giải quyết ổn thỏa bất đồng giữa các ủy ban này.

“Xin chào ngài, Sir Nicholas.”

Danny ngước mắt khỏi tờ báo. “Chào anh, Hall,” anh nói trong khi anh chàng trẻ tuổi ngồi xuống ghế đối diện. Hall mở cặp lấy ra một tập tài liệu dày có ghi chú Moncrieff, sau đó lấy ra một tài liệu đưa cho Danny.

“Đây là các giấy tờ của gara Wilson,” anh ta giải thích. “Hợp đồng đã được ký kết khi tôi tới gặp cô Wilson sáng nay.” Danny cảm thấy tim mình dường như bỗng ngừng đập. “Một phụ nữ trẻ duyên dáng và có vẻ rất nhẹ nhõm khi chuyển được rắc rối sang tay người khác.”

Danny mỉm cười. Beth chắc sẽ chuyển toàn bộ hai trăm nghìn bảng vào chi nhánh địa phương của HSBC, hài lòng với việc nó tạo ra khoản lợi tức hàng năm 4,5 phần trăm, mặc dù anh biết chính xác ai sẽ là người hưởng lợi nhiều nhất từ món hời từ trên trời rơi xuống này.

“Còn hai ngôi nhà kế bên thì sao?” Danny hỏi. “Anh đã có được tiến triển gì với họ chưa?”

“Tôi thực sự kinh ngạc,” Hall nói, “Tôi nghĩ chúng ta có thể đi đến thỏa thuận với cả hai nơi.” Câu trả lời chẳng hề làm Danny bất ngờ. “Ông Isaac nói ông ta sẽ đồng ý nhượng lại cửa hiệu cầm đồ với giá hai trăm năm mươi nghìn, trong khi ông Kamal đòi ba trăm sáu mươi nghìn cho tiệm bán thảm. Tổng cộng lại, hai ngôi nhà đó làm tăng gần như gấp đôi diện tích ông sở hữu, và người của chúng tôi ở bên đầu tư ước tính chỉ riêng giá trị của chúng khi hợp nhất lại cũng đã gấp đôi lượng vốn ban đầu ngài phải bỏ ra.”

“Hãy trả cho ông Isaac mức ông ta đòi. Ra giá với ông Kamal ba trăm nghìn và đồng ý mua ở mức ba trăm hai mươi nghìn.”

“Nhưng tôi vẫn nghĩ tôi có thể giúp ngài có được mức giá tốt hơn,” Hall nói.

“Quên chuyện đó đi,” Danny nói. “Tôi muốn anh hoàn tất cả hai giao dịch trong cùng ngày, vì nếu ông Kamal tìm ra dự định của chúng ta, ông ta sẽ biết mình có cơ hội kiếm chác thêm.”

“Tôi hiểu,” Hall nói, trong khi tiếp tục ghi lại các chỉ dẫn của Danny.

“Sau khi đã hoàn tất cả hai giao dịch, hãy cho tôi biết ngay để tôi có thể bắt đầu thương lượng với hội đồng địa phương về dải đất phía sau ba lô bất động sản này.”

“Chúng tôi có thể thiết lâp cho ngài vài kế hoạch tổng thể trước khi ngài tiếp cận họ,” Hall nói. “Có thể đó sẽ là một địa điểm lý tưởng cho một khu văn phòng, thậm chí một siêu thị.”

“Không, sẽ không như vậy đâu, anh Hall,” Danny nghiêm giọng. “Nếu anh làm vậy, anh sẽ lãng phí cả thời gian của mình lẫn tiền bạc của tôi.” Hall có vẻ lúng túng. “Có một chi nhánh của Sainsbury chỉ cách đó chừng một trăm mét, và nếu anh nghiên cứu kỹ kế hoạch phát triển trong mười năm tới của hội đồng dành cho khu vực đó, anh sẽ thấy kiểu dự án duy nhất họ chấp nhận cấp giấy phép lên kế hoạch là những dự án xây dựng nhà ở có giá thành phải chăng. Kinh nghiệm mách bảo tôi rằng nếu anh khiến hội đồng nghĩ điều gì đó trước hết là ý tưởng của họ, anh sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn nhiều. Đừng tham lam quá, anh Hall. Hãy nhớ, đó cũng chính là một sai lầm nữa mà văn phòng đại diện trước đây của tôi phạm phải.”

“Tôi sẽ ghi nhớ,” Hall nói.

Những chuyên gia tư vấn của Danny đã làm công việc của họ xuất sắc đến mức anh chẳng gặp khó khăn nào trong việc khiến anh chàng Hall hoa mày chóng mặt.

“Nhân tiện đây, tôi sẽ chuyển năm trăm bảy mươi nghìn bảng vào tài khoản khách hàng của anh ngay hôm nay, như thế anh có thể hoàn tất cả hai giao dịch càng sớm càng tốt - nhưng đừng quên, trong cùng một ngày, và không để bất cứ bên nào biết được về vụ mua bán còn lại và tất nhiên không được để họ biết sự can dự của tôi.”

“Tôi sẽ không làm ngài phải thất vọng đâu,” Hall nói.

“Tôi hy vọng là không,” Danny nói. “Bởi vì nếu anh thành công trong thương vụ nhỏ này, tôi sẽ có thể thực hiện một điều còn thú vị hơn nhiều. Nhưng vì ở đây có một yếu tố rủi ro hiện diện, sẽ cần đến sự giúp sức của ai đó trong số đồng nghiệp của anh, tốt nhất là một người trẻ tuổi, can đảm và có trí tưởng tượng.”

“Tôi biết chính xác ai là người phù hợp,” Hall nói.

Danny không mất công nói gì thêm, và tôi cũng vậy.

***

“Dạo này cô ra sao, Beth?” Alex Redmayne hỏi trong khi anh đứng dậy khỏi bàn làm việc, dắt nàng đến ngồi xuống một chiếc ghế tựa kê bên lò sưởi.

“Tôi vẫn ổn, cảm ơn ông, ông Redmayne.”

Alex mỉm cười trong khi anh ngồi xuống một chiếc ghế bên cạnh cô. “Tôi chưa bao giờ làm Danny gọi tôi là Alex,” anh nói, “mặc dù tôi vẫn muốn nghĩ rằng ở giai đoạn cuối chúng tôi đã trở thành những người bạn. Có lẽ tôi sẽ thành công hơn với cô.”

“Sự thật, thưa ông Redmayne, là Danny còn rụt rè hơn tôi; rụt rè và bướng bỉnh. Ông không nên nghĩ vì anh ấy không gọi ông bằng tên mà anh ấy không coi ông như một người bạn.”

“Tôi ước gì anh ấy đang ngồi kia và nói với tôi như thế,” Alex nói, “mặc dù tôi rất vui khi nhận được thư của cô nói muốn gặp tôi.”

“Tôi muốn tìm kiếm lời khuyên từ anh,”Beth nói, “nhưng cho mãi tới tận gần đây tôi vẫn chưa thể làm được điều đó.”

Alex cúi người ra phía trước, nắm lấy tay nàng. Anh mỉm cười khi nhìn thấy chiếc nhẫn đính hôn mà nàng vẫn còn chưa đeo vào lần gặp trước. “Tôi có thể giúp bằng cách nào?”

“Chỉ là tôi nghĩ cần cho anh biết có một việc rất lạ lùng đã xảy ra khi tôi tới Belmarsh nhận lại các tư trang cá nhân của Danny.”

“Đó hẳn là một trải nghiệm khủng khiếp,” Alex nói.

“Về nhiều mặt còn khủng khiếp hơn cả một đám tang,” Beth trả lời. “Nhưng khi tôi ra về, tôi tình cờ gặp ông Pascoe.”

“Tình cờ gặp,” Alex nói, “hay ông ấy đã quanh quẩn bên ngoài với hy vọng gặp được cô?”

“Có thể là vậy, nhưng tôi cũng không dám chắc. Liệu điều đó có gì khác biệt không?”

“Rất khác biệt đấy,” Alex nói. “Ray Pascoe là một người nghiêm túc, công bằng, ông ấy chưa bao giờ nghi ngờ việc Danny vô tội. Có lần ông đã nói với tôi rằng trong đời mình ông từng gặp cả ngàn tên sát nhân, và Danny không phải là một trong số đó. Vậy ông ấy có gì muốn nói với cô vậy?”

“Đó chính là điều kỳ lạ,” Beth nói. “Ông ấy nói với tôi rằng ông cảm thấy Danny chắc hẳn muốn tên của anh ấy được trả lại sự trong sạch, chứ không phải chắc hẳn từng muốn. Anh không thấy lạ sao?”

“Có thể là một chút lỡ lời,” Alex nói. “Lúc đó cô có gặng hỏi thêm ông ấy về chuyện này không?”

“Không,” Beth nói. “Khi tôi kịp nghĩ về nó ông ấy đã đi rồi.”

Alex im lặng hồi lâu trong khi anh suy nghĩ về ngụ ý của những từ Pascoe đã nói. “Chỉ có một con đường duy nhất còn mở ra cho cô nếu cô vẫn còn hy vọng vào việc trả lại sự trong sạch cho Danny, đó là làm đơn thỉnh cầu gửi lên Nữ hoàng xin ân xá.”

“Xin ân xá của Nữ hoàng?”

“Phải. Nếu thuyết phục được các thượng nghị sĩ thuộc ủy ban tư pháp rằng đã có bất công xảy ra, ngài Chủ tịch thượng viện có thể khuyến nghị nên Nữ hoàng cho lật lại phán quyết của tòa phúc thẩm. Điều này xảy ra khá thường xuyên vào thời kỳ án tử hình vẫn còn được áp dụng, mặc dù hiện nay đã trở nên hiếm gặp hơn nhiều.”

“Và liệu có cơ hội nào cho việc xem lại bản án của Danny không?” Beth hỏi.

“Hiếm khi thỉnh cầu xin ân xá được chấp nhận, mặc dù có không ít người, trong đó có cả một số người ở vị trí cao, cho rằng Danny đã phải chịu bất công - trong đó có tôi.”

“Ông Redmayne, dường như ông đã quên rằng tôi cũng có mặt trong quán khi Craig khiêu khích, tôi cũng có mặt ở con hẻm khi hắn tấn công Danny, và tôi đã ôm Bernie trong tay khi anh ấy nói với tôi chính Craig đã đâm anh ấy. Lời chứng của tôi đã không bao giờ thay đổi - không phải vì tôi đã chuẩn bị kỹ càng từng chữ trước khi ra trước tòa, như ông Pearson lý luận, mà bởi vì tôi đã nói sự thật. Có ba người khác biết rõ tôi đã nói sự thật, và một người thứ tư - Toby Mortimer - đã xác nhận lời chứng của tôi chỉ vài ngày trước khi anh ta tự sát, nhưng bất chấp mọi nỗ lực của ông trong phiên phúc thẩm, ngài thẩm phán thậm chí còn không buồn nghe cuốn băng. Vậy tại sao lần này lại khác?”

Alex không trả lời ngay, vì anh phải mất một lát mới trấn tĩnh được sau lời chất vấn của Beth. “Nếu cô có thể thực hiện lại một cuộc vận động trong số bạn bè của Danny,” cuối cùng anh cũng tìm được câu trả lời, “giống như cô từng làm khi anh ấy vẫn còn sống, nếu các thượng nghị sĩ ở ủy ban tư pháp không chịu mở lại vụ án, họ sẽ phải chịu một làn sóng chỉ trích kịch liệt. Nhưng,” anh nói tiếp, “nếu cô thực sự quyết định theo đuổi con đường này, Beth, đó sẽ là một cuộc hành trình lâu dài và gian khổ, và mặc dù tôi sẵn lòng giúp đỡ cô vì lẽ công bằng, chi phí phải trả sẽ vẫn là không rẻ.”

“Giờ thì tiền không còn là vấn đề nữa,” Beth tự tin nói. “Tôi vừa bán được gara của gia đình với giá cao hơn nhiều so với mức tôi từng nghĩ có thể được. Tôi đã để riêng ra một nửa số tiền cho việc giáo dục Christy, vì Danny muốn con bé có được khởi đầu trong cuộc sống tốt hơn anh ấy, và tôi sẽ rất vui được dùng nửa số tiền còn lại để cố gắng vận động mở lại vụ án, nếu ông tin rằng có một cơ hội, dù là nhỏ nhất, để trả lại sự trong sạch cho anh ấy.”

Một lần nữa Alex lại cúi người ra trước nắm lấy tay nàng. “Beth, tôi có thể hỏi cô một câu hỏi cá nhân được không?”

“Bất cứ điều gì. Mỗi lần Danny nói về anh, anh ấy vẫn luôn nói “Ông ấy là một viên kim cương, em có thể nói tất cả với ông ấy.””

“Tôi coi đó là một lời khen ngợi rất quý giá, Beth. Nó đem lại cho tôi niềm tin để hỏi cô một điều đã ám ảnh trong đầu tôi lâu nay.” Beth nhìn lên, ngọn lửa trong lò sưởi khiến đôi má nàng ửng hồng ấm áp. “Cô là một phụ nữ trẻ xinh đẹp, Beth, với những phẩm chất hiếm có mà Danny đã nhận ra. Nhưng lẽ nào cô không nghĩ đã đến lúc tiếp tục sống? Đã sáu tháng trôi qua kể từ khi Danny ra đi rồi.”

“Bảy tháng, hai tuần và năm ngày,” Beth nói, đầu cúi xuống.

“Chắc chắn anh ấy không muốn cô khóc than anh ấy suốt phần đời còn lại đâu.”

“Không, anh ấy sẽ không muốn thế,” Beth nói. “Thậm chí anh ấy đã tìm cách chấm dứt mối quan hệ của chúng tôi sau khi phiên phúc thẩm thất bại, nhưng thực tâm anh ấy không hề muốn thế.”

“Làm cách nào cô có thể chắc như vậy?” Alex hỏi.

“Nàng mở túi xách, lấy ra bức thư cuối cùng Danny gửi cho nàng, đưa nó cho Alex.

“Gần như không thể nào đọc được,” anh nói.

“Và tại sao?”

“Cô biết câu trả lời quá rõ mà, Beth. Nước mắt cô...”

“Không, ông Redmayne, không phải nước mắt tôi. Mặc dù tôi đã lấy lá thư này ra đọc mỗi ngày trong tám tháng vừa rồi, song những giọt nước mắt đó không phải của tôi, mà của người đàn ông đã viết lá thư. Anh ấy biết tôi yêu anh ấy đến nhường nào. Chúng tôi đã có thể có cuộc sống chung dù mỗi tháng chỉ được ở bên nhau một ngày. Tôi sẵn lòng đợi hai mươi năm, thậm chí hơn nữa, mà vẫn hạnh phúc với hy vọng cuối cùng tôi sẽ được sống phần đời còn lại của mình bên người đàn ông duy nhất tôi từng yêu. Tôi tôn thờ Danny từ ngày đầu tiên gặp anh ấy, và sẽ không ai thay được vị trí của anh ấy. Tôi biết tôi không thể mang anh ấy trở lại nữa, nhưng nếu tôi có thể chứng minh anh ấy vô tội cho cả phần còn lại của thế giới này thấy, thế cũng là đủ, là quá đủ.”

Alex đứng dậy, đến bên bàn làm việc của anh và cầm lên một cặp tài liệu. Anh không muốn Beth trông thấy những giọt nước mắt đang lăn xuống trên má mình. Anh nhìn qua cửa sổ về phía pho tượng một người phụ nữ bị bịt mắt đứng trên nóc một tòa nhà, giơ cao hai đĩa cân cho cả thế giới cùng trông thấy. Anh khẽ nói, “Tôi sẽ viết thỉnh cầu gửi cho ngài Chủ tịch Thượng viện ngay hôm nay.”

“Cảm ơn anh, Alex.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 55


Danny đã sẵn sàng ngồi chờ tại một chiếc bàn trong góc mười lăm phút trước giờ hẹn với Charlie Duncan. Mario đã lựa chọn vị trí lý tưởng để đảm bảo hai người có thể nói chuyện mà không sợ bị nghe lén. Có rất nhiều câu hỏi Danny cần hỏi, tất cả đều đã được ghi nhớ kỹ trong đầu anh.

Danny cầm thực đơn lên nghiên cứu để làm quen với nó trước khi vị khách tới. Anh trông đợi Duncan sẽ tới đúng hẹn; nói cho cùng, ông ta đang rất trông chờ vào việc Danny đầu tư cho vở diễn mới của mình. Có lẽ đến lúc nào đó trong tương lai ông ta thậm chí sẽ hiểu ra lý do thực sự cho lời mời ăn trưa này...

Đúng một giờ kém hai phút, Charlie Duncan bước vào nhà hàng Palm Court, mặc một chiếc sơmi cổ mở phanh, miệng ngậm một điếu thuốc đang nhả khói - hệt như một nhân vật biếm họa của Bateman bằng xương bằng thịt. Người phụ trách nhân viên phục vụ lại gần nhắc nhở vài lời tế nhị với vị khách trước khi đưa cho ông ta một chiếc gạt tàn. Duancan dụi tắt điếu thuốc trong khi người phụ trách mở một ngăn kéo bàn lấy ra ba chiếc cà vạt kẻ sọc, tất cả đều chẳng ăn nhập gì với chiếc áo sơmi màu thịt cá hồi của Duncan. Danny cố nhịn cười. Nếu như đây là một trận tennis, có thể coi như anh đã khởi đầu séc đầu tiên bằng năm ván dẫn trước. Người phụ trách nhân viên phục vụ dẫn Duncan qua căn phòng tới bàn của Danny. Danny thầm ghi nhớ sẽ tăng gấp đôi tiền boa.

Danny đứng dậy bắt tay Duncan, lúc này hai má của ông ta đã nhuộm cùng một màu như chiếc áo sơmi đang mặc.

“Rõ ràng ông là khách quen ở đây,” Duncan vừa nói vừa ngồi xuống ghế. “Có vẻ như ai cũng biết ông.”

“Bố tôi và ông nội tôi luôn ở tại khách sạn này mỗi khi từ Scotland tới đây,” Danny nói. “Một kiểu truyền thống gia đình.”

“Vậy ông đang làm gì, Nick,” Duncan hỏi trong lúc xem thực đơn. “Tôi không nhớ trước đây từng gặp ông ở nhà hát.”

“Tôi từng phục vụ trong quân đội,” Danny đáp, “vì thế tôi thường xuyên ở nước ngoài. Nhưng từ khi bố tôi qua đời, tôi thừa kế việc quản lý quỹ tín dụng của gia đình.”

“Và trước đây ông chưa từng đầu tư vào lĩnh vực sân khấu?” Duncan hỏi trong khi nhân viên phục vụ rượu mang một chai vang đến cho Danny xem. Danny chăm chú nhìn nhãn hiệu một lúc, rồi gật đầu.

“Hôm nay ngài dùng gì, Sir Nicholas?” Mario hỏi.

“Tôi vẫn sẽ dùng như thường lệ,” Danny nói. “Và giữ nó chỉ hơi tái thôi,” anh nói thêm, nhớ lại Nick đã một lần nói như thế với người phục vụ bếp tại nhà ăn ở Belmarsh. Câu nói đó đã gây ra một trận cười để đời, đến mức suýt nữa nó đã bị ghi vào hồ sơ của anh ta. Người phục vụ rượu rót một chút vang vào ly của Danny. Anh đưa ly rượu lên ngửi trước khi nhấp thử, rồi lại gật đầu - một bài học nữa Nick đã dạy anh với Ribena(1), nước và một cái ca nhựa.

“Tôi cũng dùng món đó,” Duncan nói, đóng cuốn thực đơn lại trả cho người phục vụ. “Nhưng của tôi hãy làm chín vừa.”

“Câu trả lời dành cho câu hỏi của ông,” Danny nói, “là không, trước đây tôi chưa bao giờ đầu tư vào một vở kịch cả. Vì vậy tôi rất thích thú được biết cách mà thế giới sân khấu của ông hoạt động.”

“Việc đầu tiên một nhà sản xuất phải làm là tìm ra một vở kịch,” Duncan nói. “Hoặc là một vở mới, tốt nhất của một tác giả đã được khẳng định, hay dàn dựng lại một tác phẩm kinh điển. Vấn đề tiếp theo là phải tìm một ngôi sao.”

“Giống như Lawrence Davenport?” Danny nói, đồng thời cụng ly với Duncan.

“Không, đó là chuyện chỉ xảy ra một lần. Larry Davenport không phải là một nghệ sĩ sân khấu. Anh ta chỉ có thể xoay xở được với những vở hài kịch nhẹ nhàng, chừng nào được đỡ vai bởi một dàn diễn viên mạnh.”

“Thế nhưng anh ta vẫn có thể làm kín một nhà hát?”

“Chúng tôi đã dần mất đi khán giả vào cuối đợt công diễn,” Duncan thừa nhận, “một khi những người hâm mộ bác sĩ Beresford đã cạn dần. Nói thẳng ra, nếu anh ta không nhanh chân quay lại với truyền hình, không lâu nữa anh ta sẽ chẳng thể làm kín nổi cả một cái bốt điện thoại.”

“Vậy chuyện tài chính diễn ra như thế nào?” Danny hỏi, sau khi đã có được câu trả lời cho ba câu hỏi của mình.

“Ngày nay, để đưa một vở kịch ra công diễn ở West End sẽ tốn chừng bốn đến năm trăm nghìn bảng. Vì thế một khi nhà sản xuất đã lựa chọn được một vở kịch, ký được hợp đồng với ngôi sao và thuê được nhà hát - và không phải lúc nào cũng hoàn tất được cả ba việc nói trên cùng lúc - anh ta sẽ trông đợi vào những người góp vốn của mình để huy động vốn.”

“Lúc này ông có bao nhiêu người góp vốn như thế?” Danny hỏi.

“Mỗi nhà sản xuất đều có danh sách của mình, một danh sách anh ta giữ gìn như thể đó là báu vật của hoàng gia. Tôi có chừng bảy mươi nhà tài trợ thường xuyên đầu tư vào các vở diễn của mình,” Duncan nói trong khi suất bít tết được mang tới đặt trước mặt ông ta.

“Trung bình mỗi người trong bọn họ đầu tư bao nhiêu?” Danny hỏi, rót đầy ly cho Duncan một lần nữa.

“Với một vở diễn thông thường, mỗi khoản đầu tư thường vào khoảng mười nghìn bảng.”

“Vậy là ông cần tới năm mươi người góp vốn bảo trợ cho mỗi vở kịch.”

“Ông có vẻ rất sắc sảo với những con số thì phải?” Duncan nói trong khi bắt đầu tấn công món bít tết.

Danny rủa thầm. Anh không định để mất cảnh giác, và lập tức tiếp tục.” Vậy làm cách nào một người góp vốn, một nhà tài trợ, thu được lợi nhuận?”

“Nếu sáu mươi phần trăm số chỗ ngồi được bán hết trong toàn đợt công diễn, ông ta vừa đủ hòa vốn và lấy được lại số tiền bỏ ra. Cao hơn, ông ta có thể kiếm được một khoản khá. Thấp hơn, rất có thể ông ta không còn cả áo để mặc.”

“Vậy ngôi sao được trả bao nhiêu?” Danny hỏi.

“Câu trả lời là rất tệ, theo tiêu chuẩn đánh giá thông thường của họ. Có khi chỉ năm trăm bảng một tuần. Đó là lý do tại sao đa số họ thích làm việc trên truyền hình, đóng quảng cáo hay thậm chí đi lồng tiếng hơn là tự mình diễn xuất thực sự. Chúng tôi chỉ trả cho Larry Davenport một nghìn.”

“Một nghìn một tuần?” Danny nói. “Tôi thực sự ngạc nhiên là anh ta chịu bò ra khỏi giường vì số tiền đó.”

“Chúng tôi cũng vậy,” Duncan thừa nhận trong khi nhân viên phục vụ rượu rót nốt chai. Danny gật đầu khi anh ta cầm chai lên dò hỏi.

“Chai vang này tuyệt quá,” Duncan nói. Danny mỉm cười. “Vấn đề của Larry là gần đây anh ta không nhận được nhiều lời mời cho lắm, và ít nhất Tầm quan trọng của sự chân thật giúp tên của anh ta được lên bảng xếp hạng trong vài tuần. Các ngôi sao truyền thông đại chúng, cũng giống như các cầu thủ bóng đá, làm quen rất nhanh với việc kiếm được hàng nghìn bảng mỗi tuần, chưa nói đến lối sống đi kèm với mức thu nhập đó. Thế nhưng khi nguồn thu mất đi, cho dù họ đã dành dụm được một ít tài sản, nhưng họ vẫn có thể nhanh chóng hết sạch tiền mặt. Đó là vấn đề rắc rối với nhiều diễn viên, nhất là những người quá tin tưởng vào tiếng tăm của mình và không để dành đồng nào cho những ngày xấu trời, để rồi nhận ra đang phải đối diện với một khoản thuế kếch xù phải nộp.”

Thêm một câu hỏi nữa được giải đáp. “Vậy ông dự kiến làm gì tiếp theo?” Danny hỏi, không muốn tỏ ra quá quan tâm đến Lawrance Davenport để Duncan khỏi sinh nghi.

“Tôi đang nhắm vào một vở kịch của một tác giả mới có tên Anton Kaszubowski. Anh ta đã đoạt một số giải thưởng tại liên hoan Edinburgh năm ngoái. Vở kịch có tên Lấp lánh, và tôi có cảm giác đó chính là thứ West End đang tìm kiếm. Vài tên tuổi lớn đã ngỏ ý quan tâm, và tôi dự kiến sẽ tổ chức một buổi công bố trong vài ngày tới. Sau khi đã xác định được người đóng vai chính, tôi sẽ liên hệ với ông.” Ông ta cầm lấy chiếc ly mân mê. “Ông đã suy nghĩ về số tiền sẽ đầu tư chưa?”

“Tôi sẽ bắt đầu bằng một con số khiêm tốn,” Danny nói, “cụ thể là mười nghìn. Nếu khoản đầu tư này có lời, tôi hoàn toàn có thể trở thành người góp vốn thường xuyên.”

“Tôi sống sót nhờ những người góp vốn thường xuyên của mình,” Duncan nói và cạn ly. “Tôi sẽ liên lạc với ông ngay khi ký được hợp đồng với một diễn viên hàng đầu. Nhân tiện đây, tôi luôn tổ chức một buổi tiệc nhỏ cho các nhà đầu tư khi công bố một vở diễn mới, và những dịp như vậy chắc chắn sẽ thu hút sự chú ý của vài ngôi sao. Ông có thể gặp lại Larry. Hay em gái anh ta, tùy vào sở thích của ông.”

“Ngài còn dùng gì nữa không, Sir Nicholas?” người phụ vụ hỏi.

Danny rất có thể sẽ gọi thêm một chai thứ ba, nhưng Charlie Duncan đã trở lời xong mọi câu hỏi của anh. “Cảm ơn cậu, và làm ơn mang hóa đơn thanh toán tới cho tôi, Mario.”

***

Sau khi Al Mập đã đưa anh quay về The Boltons, Danny đi thẳng lên phòng làm việc và lấy cặp tài liệu về Davenport khỏi giá. Anh giành cả giờ đồng hồ tiếp theo để viết các ghi chú bổ sung. Sau khi đã ghi lại mọi thông tin quan trọng biết được từ Duncan, anh trả lại cặp tài liệu về chỗ, giữa các cặp tài liệu về Craig và Payne, rồi quay lại bàn làm việc.

Anh bắt đầu đọc qua bài viết mà anh định mang đi tranh giải, và chỉ sau vài đoạn mối nghi ngờ của anh rằng nó vẫn còn chưa đủ khá để gây ấn tượng cho giáo sư Mori, chứ đừng nói gì cả một hội đồng giám khảo, đã hoàn toàn được khẳng định. Điều tích cực duy nhất có được từ khoảng thời gian anh bỏ ra cho bài luận là lấp đi những khoảng thời gian chờ đợi dài dằng dặc trước khi anh có thể thực hiện bước đi tiếp theo. Anh cần phải tránh không trở nên nôn nóng, điều rất có thể sẽ khiến anh phạm phải một sai lầm vô phương cứu chữa.

Vài tuần đã trôi qua trước khi Gary Hall hoàn tất được việc mua lại hai bất động sản ở đường Mile End mà không ai trong số những người bán biết được ý định của anh ta. Như một tay câu cá cừ khôi, Danny thả mồi với một mục đích duy nhất: không phải để câu một con cá bé luôn lượn lờ sát mặt nước như Hall, mà tìm cách dụ con mồi lớn hơn, giống như Gerald Payne, trồi lên mặt nước.

Anh cũng cần phải đợi tới khi Charlie Duncan tìm ra một ngôi sao cho vở kịch mới của ông ta, trước khi anh có thể danh chính ngôn thuận gặp lại Davenport. Và anh cũng phải đợi - Chuông điện thoại reo lên. Danny nhấc máy. “Vấn đề mà ông đã đề cập đến,” một giọng nói vang lên. “Tôi tin chúng ta có thể đi đến một giải pháp. Chúng ta cần gặp nhau.” Đầu dây bên kia im bặt. Danny bắt đầu hiểu tại sao các nhà ngân hàng Thụy Sĩ vẫn tiếp tục giữ tài khoản cho những người giàu có đánh giá cao sự kín đáo.

Anh cầm bút lên, quay lại với bài luận của mình và cố nghĩ ra một câu mở đầu cuốn hút hơn. John Maynard Keynes chắc hẳn biết rõ bài hát quen thuộc, “Liệu chúng ta có được niềm vui” với câu hát đầy ám ảnh, “Chẳng có gì chắc hơn, người giàu cứ giàu còn người nghèo có thêm con.” Ông ta đáng ra đã có thể xem xét đến việc áp dụng nó cho các quốc gia tương tự như cho các cá nhân...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 56


“Cây hổ trượng Nhật Bản?”

“Vâng, chúng tôi tin rằng cây hổ trượng Nhật Bản là câu trả lời,” Bresson nói. “Mặc dù tôi phải nói rằng chúng tôi rất bối rối về câu hỏi được đưa ra.”

Danny không định giải thích gì thêm, vì anh mới vừa học được cần làm sao để đối phó với người Thụy Sĩ theo đúng cách của họ. “Vậy tại sao đó lại là câu trả lời?” anh hỏi.

“Nếu người ta phát hiện ra loài cây này tại mặt bằng của một dự án xây dựng, điều đó có thể làm chậm lại việc cấp giấy phép cho kế hoạch xây dựng ít nhất một năm. Một khi loài cây này bị phát hiện, cần phải mời chuyên gia tới để loại bỏ triệt để chúng, và quá trình xây dựng chỉ có thể bắt đầu khi ủy ban sức khỏe và an toàn địa phương xác nhận địa điểm đó đã đạt yêu cầu của những kiểm tra cần thiết.”

“Vậy làm thế nào để loại bỏ cây hổ trượng Nhật Bản?”

“Một công ty chuyên trách sẽ tới và đốt sạch toàn bộ khu vực. Sau đó ông cần phải đợi thêm ba tháng nữa để đảm bảo không còn lại dù chỉ một mẩu rễ của loài cây đó trước khi xin lại giấy phép.”

“Việc đó chắc là không rẻ.”

“Chắc chắn là không hề rẻ với vị chủ sở hữu khu đất. Chúng tôi đã gặp qua một vụ điển hình về chuyện này xảy ra tại Liverpool,” Segat nói thêm. “Hội đồng thành phố phát hiện ra cây hổ trượng Nhật Bản ở một khu đất rộng ba mươi mẫu đã được cấp phép lập kế hoạch xây dựng chừng một trăm căn nhà ở xã hội. Họ đã mất hơn một năm để loại bỏ chúng với phí tổn hơn ba trăm nghìn bảng. Cuối cùng, khi những ngôi nhà được xây xong, người chủ dự án phải may lắm mới hòa vốn.”

“Tại sao thứ cây đó lại nguy hiểm đến vậy?” Danny hỏi.

“Nếu ông không tận diệt chúng,” Bresson nói, “rễ của nó sẽ ăn sâu vào nền móng của bất cứ công trình xây dựng nào, kể cả bê tông cốt thép, và mười năm sau, không một dấu hiệu báo trước, toàn bộ công trình đổ sập xuống, để lại cho ông một hóa đơn thanh toán bảo hiểm đủ để làm hầu hết các công ty phá sản. Tại Osaka, cây hổ trượng Nhật Bản đã phá hủy hoàn toàn cả một khối nhà chung cư, và đó chính là nguồn gốc cho cái tên của nó.”

“Vậy làm cách nào tôi có thể tìm được vài cây này?” Danny hỏi.

“À, tất nhiên ông không thể tìm thấy chúng trên giá của trung tâm bán cây cảnh và đồ làm vườn gần nhà mình đâu,” Bresson nói. “Tuy nhiên, tôi cho rằng bất cứ công ty nào chuyên làm công việc tiêu diệt chúng cũng có thể chỉ cho ông đi đúng hướng.” Bresson ngừng lại giây lát. “Tất nhiên trồng chúng lên đất của người khác là bất hợp pháp,” ông ta nói, mắt nhìn thẳng vào Danny.

“Nhưng trên đất của chính ông thì không,” Danny đáp, câu trả lời làm cả hai nhà ngân hàng im lặng. “Các vị đã có được giải pháp nào cho vấn đề còn lại của tôi chưa?”

Segal là người lên tiếng trả lời. “Một lần nữa, yêu cầu của ông nói khiêm tốn ra cũng là bất bình thường, và chắc chắn được xếp vào hạng nguy cơ cao. Tuy nhiên, người của tôi cho rằng họ có thể tìm ra một đám đất ở khu đông London đáp ứng được tất cả những criterion(1) ông đưa ra.” Danny nhớ lại Nick đã có lần chỉnh anh về cách dùng đúng của từ criteria, nhưng quyết định sẽ không lên lớp Segat. “London, như ông hẳn cũng biết rõ,” Segat nói tiếp, “đang chạy đua đăng cai Olympic 2012, trong đó phần lớn các hoạt động quan trọng đều dự kiến diễn ra tại Stratford tại vùng khu đông London. Mặc dù vẫn chưa rõ việc chạy đua này có thành công hay không, nó đã tạo ra một thị trường đầu cơ quy mô lớn dành cho các địa điểm nằm ở khu vực đó. Trong số các địa điểm mà Ủy ban Olympic hiện đang cân nhắc đến có một nơi dành cho việc xây dựng sân đua xe đạp, nơi sẽ tổ chức toàn bộ các bộ môn thi đấu xe đạp trong nhà. Các mối liên hệ của tôi cho biết có sáu địa điểm tiềm năng nhất đã được xác định, trong đó chỉ có hai địa điểm có triển vọng được đưa vào danh sách cân nhắc cuối cùng. Ông đang ở vào một vị thế rất may mắn, có khả năng mua cả hai địa điểm đó, và mặc dù ban đầu chắc hẳn ông cần phải trả một khoản khá nặng, song vẫn có triển vọng thu về một khoản lợi nhuận không tồi.”

“Khoản trả ban đầu đó nặng đến mức nào?” Danny hỏi.

“Chúng tôi đã định giá hai địa điểm đó,” Bresson nói, “vào khoảng một triệu bảng cho mỗi địa điểm, nhưng cả hai chủ sở hữu hiện tại đều đang đòi một triệu rưỡi. Nhưng nếu như cả hai địa điểm đó đều lọt vào danh sách cân nhắc cuối cùng, rất có thể cuối cùng chúng sẽ có giá lên tới sáu triệu. Và nếu rốt cuộc một trong hai địa điểm trở thành nơi được chọn, con số đó còn có khả năng tăng gấp đôi.”

“Nhưng nếu không,” Danny nói, “tôi sẽ phải chịu lỗ ba triệu.” Anh ngừng lại. “Tôi sẽ phải cân nhắc rất kỹ lưỡng về báo cáo của các ông trước khi sẵn sàng mạo hiểm một khoản tiền như vậy.”

“Ông sẽ chỉ có một tháng để quyết định,” Bresson nói, “bởi vì đến lúc đó danh sách cân nhắc cuối cùng sẽ được công bố. Nếu cả hai địa điểm đều nằm trong danh sách, chắc chắn ông không thể có được chúng với giá đó nữa.”

“Ông sẽ tìm thấy mọi tư liệu cần thiết để giúp ông ra quyết định trong đây,” Segat nói thêm, đưa cho Danny hai cặp tài liệu.

“Cảm ơn các ông,” Danny nói. “Tôi sẽ cho các ông biết quyết định của mình vào cuối tuần này.” Segat gật đầu. “Bây giờ, tôi muốn biết tình hình mới nhất về tiến triển của cuộc thương lượng các ông tiến hành với Tower Hamlets về địa điểm gara Wilson ở đường Mile End.”

“Luật sư của chúng tôi tại London đã gặp Chủ tịch ủy ban kế hoạch của Hội đồng địa phương tuần trước,” Segat nói, “nhằm cố tìm ra xem những gì ủy ban của ông ta sẽ coi là chấp nhận được trong trường hợp ông nộp đơn xin giấy phép xây dựng. Hội đồng địa phương đã luôn dự kiến xây dựng một khu chung cư giá rẻ tại khu đất đó, nhưng họ chấp nhận thực tế bất cứ nhà thầu nào cũng phải kiếm được lãi. Họ đã đi tới một đề xuất nêu rõ nếu có bảy mươi căn hộ được xây lên ở khu đất đó, một phần ba trong số này bắt buộc phải thuộc hạng nhà ở giá rẻ.”

“Về mặt toán học điều này là không thể,” Danny nói.

Lần đầu tiên từ đầu cuộc gặp Segat mỉm cười. “Chúng tôi đã không nghĩ sẽ là khôn ngoan khi chỉ ra rằng đáng lẽ ra phải là sáu mươi chín hay bảy mươi hai căn hộ, như thế chúng ta sẽ còn chỗ để điều đình. Tuy nhiên, nếu chúng ta đồng ý về nguyên tắc với đề xuất của họ, họ sẽ bán cho chúng ta lô đất với giá bốn trăm nghìn bảng, đồng thời cấp giấy phép xây dựng ngay. Trên cơ sở đó, chúng tôi khuyên ông nên chấp nhận mức giá họ đưa ra, nhưng cố gắng thuyết phục Hội đồng chấp nhận để ông xây chín mươi căn hộ. Ông chủ tịch ủy ban kế hoạch nghĩ việc này có thể gây ra tranh cãi khá gay gắt tại văn phòng Hội đồng, nhưng nếu chúng ta chịu nâng mức giá mua lên, thành năm trăm nghìn chẳng hạn, ông ta sẽ tìm ra cách để ủng hộ đề xuất của chúng ta.”

“Nếu đề xuất này được Hội đồng thông qua,” Bresson nói, “ông sẽ sở hữu toàn bộ khu vực mà chỉ mất trên một triệu bảng.”

“Nếu chúng ta làm được điều đó, các ông có đề xuất gì cho bước tiếp theo tôi nên thực hiện không?”

“Ông có hai lựa chọn,” Bresson nói. “Ông có thể bán cho một nhà thầu, hay tự mình xây dựng và quản lý dự án đó.”

“Tôi không hề có hứng thú với việc bỏ ra ba năm tiếp theo ở một công trường xây dựng,” Danny nói. “Trong trường hợp đó, sau khi chúng ta đã thỏa thuận được các điều kiện giao dịch và có được giấy phép xây dựng tạm thời, hãy bán lại cho ai trả giá cao nhất.”

“Tôi nhất trí rằng đó là giải pháp sáng suốt hơn cả,” Segat nói. “Và tôi tin tưởng ông sẽ thu về vẫn tăng gấp đôi lượng đầu tư của mình trong một thời gian ngắn.”

“Các ông đã làm rất tốt,” Danny nói.

“Chúng ta đã không thể tiến hành chóng vánh đến thế,” Segat nói, “nếu không nhờ đến hiểu biết của ông về khu đất đó cũng như tiền sử của nó.”

Danny không hề phản ứng lại câu thăm dò. “Cuối cùng, có lẽ các ông có thể cho tôi biết tình hình tài chính hiện tại của mình.”

“Tất nhiên rồi,” Bresson nói, lấy một tập tài liệu nữa từ trong cặp ra. “Chúng tôi đã sát nhập hai tài khoản của ông làm một theo đúng yêu cầu và thành lập ba công ty thương mại, không công ty nào đứng tên ông. Tài khoản cá nhân của ông hiện có số dư năm mươi lăm triệu ba trăm bảy mươi ba nghìn tám trăm bảy mươi mốt đô la, hơi giảm đi so với ba tháng trước đây. Tuy nhiên, ông đã thực hiện một số hoạt động đầu tư trong thời gian đó, những hoạt động này chắc chắn cuối cùng sẽ đem lại một khoản thu nhập đáng kể. Chúng tôi cũng đã mua, nhân danh ông, một số cổ phần mà ông đã lựa chọn trong cuộc gặp trước của chúng ta, thực hiện một khoản đầu tư hơn hai triệu bảng nữa - ông sẽ tìm thấy các chi tiết ở trang chín của tập tài liệu màu lục. Cũng như vậy, theo chỉ thị của ông, chúng tôi đã chuyển mọi khoản dư ra vào các định chế được xếp loại AAA trên thị trường tiền tệ cho vay qua đêm, những khoản này hiện đem lại một lợi tức hàng năm xấp xỉ mười một phần trăm.”

Danny quyết định không bình phẩm về sự khác biệt giữa mức lãi suất 2,75 phần trăm ngân hàng đã đề xuất ban đầu và mức 11 phần trăm hiện anh đang có được. “Cảm ơn các ông,” anh nói. “Có lẽ chúng ta sẽ gặp lại sau một tháng nữa.” Segat và Bresson gật đầu và thu dọn các tập tài liệu của họ. Danny đứng dậy và đưa họ ra cửa trước, biết rõ không ai trong hai nhà ngân hàng này có nhu cầu chuyện vãn.

“Tôi sẽ liên lạc lại,” anh nói, “ngay khi tôi có quyết định về hai địa điểm Olympic kia.”

Sau khi hai người khách đã đi khỏi, Danny đi lên gác, vào phòng làm việc, lấy cặp tài liệu về Gerald Payne ra khỏi giá đặt lên bàn làm việc và dành phần còn lại của buổi sáng để bổ sung tất cả các chi tiết có thể giúp ích cho kế hoạch của anh nhằm hủy diệt gã. Nếu anh muốn mua hai địa điểm kia, vậy thì anh sẽ cần phải gặp Payne mặt đối mặt. Không biết gã đã bao giờ nghe nói đến cây hổ trượng Nhật Bản chưa?

***

Có phải những người làm cha làm mẹ lúc nào cũng đặt nhiều tham vọng vào những đứa con của mình hơn vào chính bản thân họ hay không, Beth thầm tự hỏi trong khi bước vào phòng làm việc của cô hiệu trưởng.

Cô Sutherland đứng dậy từ sau bàn làm việc, bước tới bắt tay Beth. Cô hiệu trưởng không hề mỉm cười khi mời nàng ngồi xuống một chiếc ghế, sau đó đọc lại tờ đơn xin đăng ký học. Beth cố không để lộ ra nàng đang lo lắng đến mức nào.

“Vậy tôi cần phải hiểu, cô Wilson,” cô hiệu trưởng nói, nhấn mạnh vào từ cô, “rằng cô hy vọng con gái mình được vào học lớp mẫu giáo của chúng tôi tại St Veronica vào học kỳ tới?”

“Vâng, đúng vậy,” Beth trả lời. “Tôi nghĩ Christy sẽ được hưởng lợi rất nhiều từ sự dạy dỗ mà ngôi trường của cô đem đến.”

“Không nghi ngờ gì nữa, con gái cô rất tiến bộ so với lứa tuổi của cháu,” cô Sutherland nói, trong khi xem xét hồ sơ xin học của cô bé. “Tuy nhiên, có một điều mà tôi chắc cô sẽ thông cảm, trước khi cháu được nhận vào học tại St Veronica, còn những khía cạnh khác mà tôi cần phải cân nhắc.”

“Tất nhiên rồi,” Beth nói, thầm lo sợ điều tồi tệ nhất.

“Chẳng hạn, tôi không thấy đề cập gì đến bố của cháu trong đơn xin học.”

“Không,” Beth nói. “Bố cháu đã mất năm ngoái.”

“Tôi rất tiếc phải biết điều này,” cô Sutherland nói, giọng chẳng hề có chút đồng cảm. “Tôi có thể biết nguyên nhân cái chết được không?”

Beth do dự, như nàng luôn cảm thấy mỗi khi phải nói ra những từ đó.”Anh ấy tự sát.”

“Tôi hiểu rồi,” cô hiệu trưởng nói. “Lúc đó cô đã thành hôn với bố của cháu bé chưa?”

“Chưa,” Beth thừa nhận. “Chúng tôi đã đính hôn.”

“Tôi rất xin lỗi phải hỏi câu này, cô Wilson, nhưng vị hôn phu của cô đã chết trong hoàn cảnh nào?”

“Lúc đó anh ấy đang ở trong tù,” Beth khẽ trả lời.

“Tôi hiểu rồi,” cô Sutherland nói. “Tôi có thể biết hôn phu của cô đã bị kết án về tội danh gì không?”

“Giết người,” Beth nói, lúc này nàng hiểu rõ cô Sutherland đã biết trước câu trả lời cho mọi câu hỏi của mình.

“Cô Wilson, tôi chắc cô cũng biết, với nhà thờ Thiên chúa, cả tự sát và giết người đều là tội trọng,” Beth không nói gì. “Tôi cũng cảm thấy có trách nhiệm phải chỉ ra,” cô hiệu trưởng nói tiếp, “rằng hiện tại không có đứa trẻ ngoài giá thú nào được đăng ký vào St Veronica. Tuy nhiên, tôi sẽ cân nhắc nghiêm túc tới trường hợp xin đăng ký học của con gái cô, và sẽ cho cô biết quyết định của tôi sau vài ngày nữa.”

Vào khoảnh khắc đó, Beth cảm thấy Slobodan Milosevic còn có nhiều cơ hội đoạt giải Nobel Hòa bình hơn so với cơ hội Christy được đặt chân vào St Veronica.

Cô hiệu trưởng đứng dậy, đi tới bên cửa ra vào phòng làm việc và mở cửa.

“Tạm biệt, cô Wilson,”

Khi cánh cửa đã đóng lại sau lưng nàng, Beth òa khóc. Tại sao lỗi lầm của người cha...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 57


Danny tự hỏi anh sẽ phản ứng ra sao khi gặp Gerald Payne. Anh không thể cho phép mình để lộ ra bất cứ cảm xúc nào, và biết chắc nếu anh để mất bình tĩnh tất cả những giờ đằng đẵng anh đã ngồi nung nấu kế hoạch hủy diệt Payne đều sẽ trở thành công cốc.

Al Mập lái xe tới bên ngoài văn phòng của Baker, Tremlett và Smythe sớm vài phút so với giờ hẹn, nhưng khi Danny đẩy cánh cửa quay bước vào trong, anh bắt gặp Gary Hall đã đứng bên quầy tiếp tân chờ sẵn để đón mình.

“Anh ta là một người thực sự hiếm có,” Hall nói với vẻ thán phục khi họ bước tới chỗ một dãy thang máy. “Hội viên trẻ nhất trong lịch sử của công ty,” anh ta nói thêm trong khi bấm vào chiếc nút sẽ đưa thẳng họ lên tầng cao nhất. “Và chỉ mới đây thôi anh ta đã giành được một ghế chắc chắn tại Nghị viện, vì thế tôi không nghĩ anh ta còn ở lại với chúng tôi lâu nữa.”

Danny mỉm cười. Kế hoạch của anh chỉ dự kiến làm cho Payne bị sa thải. Khiến gã phải ngậm ngùi từ bỏ cả một ghế trong Nghị viện nữa chắc chắn sẽ là một khoản lời bổ sung không tồi.

Khi hai người ra khỏi thang máy, Hall dẫn vị khách hàng quan trọng nhất của mình đi theo lối đi chạy dọc văn phòng của các hội viên cho tới khi họ tới trước cánh cửa có dòng chữ Gerald Payne mạ vàng. Hall khẽ gõ cửa, mở cửa ra rồi đứng tránh sang bên để Danny có thể bước vào. Payne đứng dậy khỏi bàn làm việc, vừa bước về phía họ vừa cố chỉnh lại chiếc áo jacket cho tươm tất, nhưng rõ ràng lần cuối cùng chiếc cúc giữa được cài chỉn chu vào khuyết cũng đã từ trước đó khá lâu. Gã đưa tay ra và dành cho Danny một nụ cười có vẻ hơi cường điệu quá đáng. Mặc dù đã cố hết sức, Danny cũng không thể đáp lại được một cách tương xứng.

“Chúng ta đã từng gặp nhau chưa nhỉ?” Payne hỏi trong khi nhìn Danny kỹ lưỡng hơn.

“Đã từng,” Danny nói. “Tại bữa tiệc hạ màn của Lawrence Davenport.”

“À phải rồi,” Payne nói trước khi mời Danny ngồi xuống phía đối diện của bàn làm việc. Gary Hall vẫn đứng.

“Tôi xin phép được bắt đầu, Sir Nicholas...”

“Nick,” Danny nói.

“Gerald,” Payne nói. Danny gật đầu.

“Như tôi vừa nói, tôi xin phép được bắt đầu bằng việc bày tỏ sự ngưỡng mộ cú ra tay ngoạn mục của ông với Hội đồng Tower Hamlets về khu đất ở Bow - một vụ giao dịch mà, theo đánh giá của tôi, sẽ cho phép ông thu lời gấp đôi trong vòng chưa đến một năm.”

“Ông Hall đây đảm nhiệm phần lớn những công đoạn khó khăn nhất,” Danny nói. “Tôi sợ rằng tôi đã bị sao nhãng đi bởi một mối bận tâm khác khắt khe hơn nhiều.”

Payne cúi người ra trước. “Và ông sẽ viện đến sự tham gia của công ty chúng tôi trong vụ làm ăn mới nhất đó của ông?” gã hỏi.

“Chắc chắn rồi, vào những giai đoạn cuối,” Danny nói, “mặc dù tôi đã hoàn tất phần lớn phần tìm hiểu tình hình. Nhưng tôi vẫn cần đến ai đó đại diện cho tôi vào thời điểm cần ra giá cho khu đất đó.”

“Chúng tôi sẽ rất hân hạnh được giúp đỡ bằng bất cứ phương cách nào có thể,” Payne nói, nụ cười đã quay trở lại trên mặt gã. “Liệu ông có thể chia sẻ thông tin với chúng tôi tại giai đoạn này không?” gã hỏi thêm.

Danny rất mừng khi phát hiện ra Payne rõ ràng chỉ quan tâm đến phần gã có thể kiếm chác được từ vụ làm ăn. Lần này anh đáp lại bằng một nụ cười. “Ai cũng biết nếu London được chọn đăng cai Olympic 2012, sẽ có vô khối cơ hội kiếm tiền trong quá trình chuẩn bị,” Danny nói. “Với ngân sách đã sẵn sàng lên tới mười tỷ, chắc chắn sẽ có đủ món hời rải rác đây đó cho tất cả chúng ta.”

“Thông thường ra tôi sẽ hoàn toàn đồng ý với ông,” Payne nói, trông có vẻ hơi thất vọng, “nhưng ông không nghĩ rằng thị trường này hiện đã quá chật chội rồi sao?”

“Phải, tôi cũng nghĩ vậy,” Danny nói, “nếu suy nghĩ của ông chỉ tập trung vào sân vận động chính, khu bể bơi, nhà thi đấu thể dục, khu làng vận động viên hay trung tâm đua ngựa. Nhưng tôi đã phát hiện ra một cơ hội cho tới lúc này vẫn chưa thu hút sự chú ý của giới báo chí hay công chúng.”

Payne cúi người ra trước, chống hai cùi tay lên mặt bàn trong khi Danny ngả người ra sau thoải mái lần đầu tiên từ đầu cuộc gặp. “Hầu như chưa ai nhận ra,” Danny nói tiếp, “rằng Ủy ban Olympic đã cân nhắc sáu địa điểm để xây dựng một velodrome1. Thậm chí có bao nhiêu người có thể cho ông biết những gì diễn ra tại một velodrome?”

“Các cuộc đua xe đạp,” Gary Hall nói.

“Tuyệt vời,” Danny nói. “Và trong nửa tháng nữa chúng ta sẽ biết hai địa điểm nào sẽ được Ủy ban Olympic đưa vào danh sách cân nhắc cuối cùng. Tôi dám cá rằng thậm chí ngay cả sau khi thông báo đã được đưa ra, nó sẽ chẳng được quan tâm đến nhiều hơn một đoạn tin ngắn ngủn trên tờ báo địa phương, và sau đó chỉ còn được nói đến ở những chuyên trang thể thao.” Cả Payne lẫn Hall đều không ngắt lời anh. “Nhưng tôi có một số thông tin từ nguồn nội bộ,” Danny nói, “mà tôi có được với giá bốn bảng chín mươi chín xu.”

“Bốn bảng chín mươi chín xu?” Payne lặp lại, trông có vẻ bối rối.

“Giá bán một cuốn Cycling Monthly1,” Danny nói, lấy một cuốn tạp chí từ trong cặp ra. “Trong số ra tháng này, họ đã cho biết chắc chắn hai địa điểm nào sẽ được Ủy ban Olympic đưa vào danh sách cân nhắc cuối cùng, và rõ ràng vị tổng biên tập của họ có ảnh hưởng đến bộ trưởng,” Danny đưa cuốn tạp chí cho Payne sau khi đã giở sẵn trang có liên quan.

“Và ông muốn nói rằng giới báo chí đã không theo sát sự kiện này?” Payne nói sau khi đã đọc xong đầu đề bài báo.

“Tại sao họ phải làm thế?” Danny nói.

“Nhưng một khi địa điểm đã được thông báo,” Payne nói, “sẽ có hàng tá nhà thầu đổ xô đến xin được nhận hợp đồng.”

“Tôi không quan tâm tới việc xây dựng cái velodrome đó,” Danny nói. “Tôi dự định sẽ kiếm xong món tiền của mình trước khi chiếc máy xúc đầu tiên ló mặt tới khu đất.”

“Và ông định làm vậy bằng cách nào?”

“Tôi phải thú nhận là việc này đã khiến tôi tốn nhiều hơn bốn bảng chín mươi chín xu, nhưng nếu ông nhìn vào bìa cuối của cuốn Cycling Monthly,” Danny nói, đồng thời lật tới bìa sau cuốn tạp chí, “ông sẽ thấy tên của nhà xuất bản in ở góc dưới bên tay phải. Số tiếp theo sẽ chưa xuất hiện trên sạp báo trong mười ngày nữa, nhưng bằng việc bỏ ra nhiều hơn một chút so với giá phát hành, tôi đã có được trong tay một bằng chứng sớm. Có một bài báo ở trang mười bảy của ông chủ tịch Liên đoàn xe đạp Anh quốc, trong đó ông này tuyên bố bộ trưởng đã đảm bảo với ông chỉ có hai địa điểm thực sự được cân nhắc đến một cách nghiêm túc. Bộ trưởng sẽ có công bố chính thức về vấn đề này trước Hạ viện một ngày trước khi số tạp chí mới lên sạp. Nhưng ông chủ tịch còn đi xa hơn tới mức chỉ ra địa điểm nào trong số hai ứng cử viên sẽ được liên đoàn của ông ta ủng hộ.”

“Tuyện hảo,” Payne nói. “Nhưng chắc chắn các chủ sở hữu của những khu đất này hẳn cũng phải biết họ đang ngồi trên mỏ vàng?”

“Chỉ khi nào họ có trong tay số tiếp theo của Cycling Monthly, bởi vì vào lúc này họ vẫn nghĩ mình nằm trong danh sách sáu ứng cử viên.”

“Vậy ông định làm gì?” Payne hỏi.

“Địa điểm được Liên đoàn xe đạp ủng hộ gần đây mới vừa đổi chủ với giá ba triệu bảng, mặc dù tôi chưa tìm cách xác định được danh tính người mua. Tuy nhiên, một khi bộ trưởng đã đưa ra thông báo của bà, địa điểm đó có thể sẽ trị giá mười lăm, thậm chí hai mươi triệu. Khi vẫn còn tới sáu địa điểm có khả năng được chọn, nếu ai đó chấp nhận ra giá với chủ sở hữu hiện tại ở mức bốn hay năm triệu chẳng hạn, tôi ngờ rằng họ rất có thể sẽ phải tìm cách đẩy khu đất đi thật nhanh còn hơn phải gánh lấy nguy cơ trắng tay lúc hạ màn. Vấn đề của chúng ta nằm ở chỗ chúng ta chỉ còn chưa tới nửa tháng nữa trước khi danh sách rút gọn hai địa điểm được công bố, và một khi quan điểm của ông chủ tịch Liên đoàn xe đạp được đưa ra công khai, đến lúc đó sẽ chẳng còn gì cho chúng ta nữa.”

“Tôi có thể đưa ra một đề xuất không?” Payne nói.

“Xin cứ tự nhiên,” Danny nói.

“Nếu ông đã chắc rằng chỉ có hai địa điểm được cân nhắc, tại sao không mua cả hai? Ông có thể thu được ít lợi nhuận hơn, nhưng ngược lại không thể thua cuộc được.”

Giờ đây Danny đã hiểu tại sao Payne có thể trở thành hội viên trẻ nhất trong lịch sử của công ty này.

“Ý kiến rất hay,” Danny nói, “nhưng không có nhiều ý nghĩa khi làm vậy cho tới khi chúng ta tìm ra địa điểm mà chúng ta thực sự quan tâm có thể mua được. Đó chính là chỗ ông nhập cuộc. Ông sẽ tìm ra mọi chi tiết cần thiết trong tập tài liệu này, ngoại trừ danh tính chủ sở hữu địa điểm; nói cho cùng, ông cũng cần phải làm gì đó để xứng đáng với khoản tiền được hưởng.”

Payne bật cười. “Tôi sẽ bắt đầu ngay từ đó, Nick, và sẽ liên lạc lại với ông ngay khi tìm ra được người chủ sở hữu.”

“Đừng mất quá nhiều thời gian,” Danny vừa nói vừa đứng dậy. “Phần thưởng sẽ chỉ lớn khi chúng ta hành động đủ nhanh.”

Payne lại trưng ra nụ cười giống như lúc trước khi gã đứng dậy bắt tay với vị khách hàng mới. Khi Danny chuẩn bị ra về, anh chợt nhận ra một thiếp mời quen thuộc đặt trên bệ lò sưởi. “Ông cũng sẽ có mặt tại buổi tiệc của Charlie Duncan tối nay sao?” anh hỏi với vẻ ngạc nhiên.

“Vâng, đúng thế. Thỉnh thoảng tôi cũng đầu tư vào các vở diễn của ông ta.”

“Vậy thì rất có thể tôi sẽ gặp lại ông ở đó,” Danny nói. “Nếu vậy ông có thể cập nhật tình hình cho tôi biết.”

“Sẽ như vậy, “Payne nói. “Tôi có thể kiểm tra lại một thứ trước khi bắt đầu không?”

“Tất nhiên rồi,” Danny nói, cố không để lộ ra tâm trạng lo lắng.

“Về khoản vốn đầu tư, ông sẽ đảm nhiệm toàn bộ chứ?”

“Đến đồng xu cuối cùng,” Danny nói.

“Và ông không định cho ai khác cùng hùn vốn sao?”

“Không,” Danny cương quyết trả lời.

***

“Tha lỗi cho con, thưa Cha, vì con đã phạm tội,” Beth nói. “Đã hai tuần trôi qua kể từ lần cuối cùng con xưng tội.”

Cha Michael mỉm cười ngay khi ông nhận ra giọng nói dịu dàng của Beth. Ông luôn cảm thấy thực sự xúc động trước những lời xưng tội của nàng, vì những gì nàng coi là một tội lỗi, phần lớn những con chiên khác của ông hẳn sẽ không nghĩ đáng đề cập đến.

“Ta sẵn sàng nghe lời xưng tội của con, con của ta,” ông nói, như thể không hề biết người đang ngồi bên kia khung cửa sổ nhỏ có gắn song kín là ai.

“Con đã nghĩ không tốt về một người khác, và muốn điều xấu xảy đến với họ.”

Cha Michael cựa mình. “Con có thể cho ta biết nguyên nhân nào đã khiến con có những ý nghĩ tội lỗi như vậy không, con của ta?”

“Con muốn con gái con có được một khởi đầu tốt hơn trong cuộc sống so với con trước đây, và con cảm thấy cô hiệu trưởng của ngôi trường con lựa chọn đã không lắng nghe con một cách công tâm.”

“Liệu có phải do con không thể nhìn nhận mọi thứ theo cách hiểu của cô hiệu trưởng hay không?” Cha Michael nói. “Nói cho cùng, rất có thể còn đã hiểu lầm dụng ý của cô hiệu trưởng.” Khi Beth không trả lời, ông nói thêm, “Con của ta, con cần luôn nhớ rằng, chúng ta không được phép phán xét ý chí của Chúa, vì rất có thể Người đã có dự định khác cho con gái của con.”

“Như thế con cần xin Người tha thứ,” Beth nói, “và chờ xem ý Người.”

“Cha nghĩ đó là con đường sáng suốt nhất nên đi theo, con của ta. Cho đến lúc đó, con cần cầu nguyện và tìm kiếm sự chỉ dẫn của Chúa.”

“Và con cần làm gì, thưa Cha, để sám hối về những tội lỗi của con?”

“Con cần học cách ăn năn, và tha thứ cho những người không thể hiểu được khó khăn của con,” cha Michael nói. “Con sẽ đọc một lần bài kinh ngợi ca Đức Chúa Cha và hai bài Kính chào Đức Mẹ Mary.”

“Con xin cảm ơn Cha.”

Cha Michael đợi cho tới khi nghe tới tiếng cánh cửa nhỏ khép lại và chắc chắn rằng Beth đã đi khỏi. Ông ngồi một mình hồi lâu suy nghĩ về khó khăn của Beth, cảm thấy nhẹ nhõm vì không bị quấy rầy bởi một con chiên khác. Ông ra khỏi buồng nghe xưng tội đi vào phòng họp của nhà thờ. Ông rảo bước đi ngang qua nơi Beth đang quỳ gối, đầu cúi xuống, trong tay là một chuỗi tràng hạt.

Vào tới phòng họp, cha Michael khóa cửa lại, đi đến bàn làm việc và bấm số điện thoại. Đây là một trong những trường hợp hiếm hoi ông cảm thấy ý chí của Chúa sẽ cần thêm chút trợ giúp của con người.

***

Al Mập thả ông chủ của mình trước cửa ra vào sau lúc tám giờ một vài phút. Khi Danny đã vào trong tòa nhà, anh không cần đến hướng dẫn để tìm ra văn phòng của Charlie Duncan. Tiếng cười nói trò chuyện râm ran vọng ra từ lầu một, và một vài người trong số khách mời đã tràn ra cả đầu cầu thang.

Danny leo lên chiếc cầu thang tồi tàn tranh tối tranh sáng, đi qua bên những tấm áp phích quảng cáo những vở diễn trước do Duncan sản xuất, trong số đó không có vở kịch nào Danny nhớ từng lọt vào danh sách đầu bảng. Anh bước qua bên một đôi trai gái đang quấn chặt lấy nhau và không buồn cả hé mắt nhìn mình. Anh bước vào căn phòng có vẻ là văn phòng của Duncan, và nhanh chóng hiểu ra tại sao dân tình lại phải đứng tràn cả ra đầu cầu thang. Bên trong đông chật người, đến nỗi khách khứa khó lòng đi lại được. Một cô gái trẻ đứng bên cửa vào đến mời anh chọn đồ uống, và Danny yêu cầu mang cho mình một ly nước - nói gì thì nói, anh vẫn cần phải tập trung nếu muốn món đầu tư của anh có lãi.

Danny nhìn quanh khắp phòng để tìm ra ai đó quen biết, và nhận ra Katie. Nàng quay ngay đi khi nhận ra anh. Cử chỉ của nàng chỉ khiến anh mỉm cười và nghĩ về Beth. Nàng luôn trêu anh vì tính rụt rè, nhất là khi anh bước vào một căn phòng toàn người lạ. Nếu Beth có mặt tại đây, hẳn lúc này nàng đã sôi nổi trò chuyện với một nhóm người trước đây chưa bao giờ gặp mặt. Anh nhớ nàng biết bao. Có ai đó vỗ nhẹ lên cánh tay anh làm gián đoạn dòng suy nghĩ, khi quay lại anh nhận ra Gerald Payne đang đứng bên cạnh mình.

“Nick,” gã nói như thể hai người là bạn thân lâu năm. “Tin tốt đây. Tôi đã lần ra ngân hàng đại diện cho người chủ sở hữu của một trong hai địa điểm.”

“Ông có mối liên hệ nào ở đó không?”

“Không may là không,” Payne thừa nhận, “nhưng vì ngân hàng này có trụ sở ở Geneva, rất có thể tay chủ sở hữu là một người nước ngoài không có chút ý tưởng nào về tiềm năng giá trị của địa điểm y đang nắm trong tay.”

“Hoặc y là một người Anh chính cống và biết quá rõ mọi sự.” Danny đã phát hiện ra ly của Payne lúc nào cũng đầy đến ba phần tư.

“Dù thế nào đi nữa,” Payne nói, “chúng ta sẽ tìm ra danh tính của y ngay ngày mai vì người của ngân hàng, một quý ông mang họ Segat, đã hứa sẽ gọi lại vào buổi sáng cho tôi biết liệu khách hàng của ông ta có sẵn lòng bán hay không.”

“Còn về địa điểm kia?” Danny hỏi.

“Không có nhiều lý do để theo đuổi hướng này nếu chủ sở hữu của địa điểm thứ nhất không bằng lòng bán.”

“Có lẽ ông đúng,” Danny nói, không buồn chỉ ra đó chính là điều anh đã đề xuất ban đầu.

“Gerald,” Lawrence Davenport nói, đồng thời cúi người xuống hôn vào cả hai má Payne.

Danny ngạc nhiên khi thấy Davenport không cạo râu, và mặc một chiếc áo sơmi rõ ràng đã được mang ra sử dụng không chỉ một lần trong tuần đó. Trong khi hai gã nói với nhau vài câu chào hỏi xã giao, anh cảm thấy căm hận cả hai đến mức không thể buộc mình tham gia vào cuộc trò chuyện.

“Cậu biết Nick Moncrieff chứ?” Payne hỏi.

Davenport không tỏ ra quen biết hay quan tâm.

“Chúng ta đã từng gặp mặt tại bữa tiệc hạ màn vở kịch của ông,” Danny nói.

“À, phải rồi,” Davenport nói, dành cho anh nụ cười gã vẫn dùng để tưởng thưởng cho đám người hâm mộ.

“Anh sẽ đóng vai chính trong vở diễn tới của Charlie chứ?” Danny hỏi.

“Không,” Davenport nói. “Mặc dù tôi rất vui được tham gia Thành thật, nhưng tôi vẫn không thể chỉ dành toàn bộ tài năng của mình cho sân khấu.”

“Tại sao vậy?” Danny hỏi với vẻ vô hại.

“Ông sẽ phải từ chối rất nhiều cơ hội khác nếu gắn với một cam kết dài hạn. Ông sẽ không thể biết trước khi nào có ai đó đề nghị mình đóng vai chính trong một bộ phim, hay trở thành ngôi sao trong một xê ri truyền hình.”

“Tiếc quá,” Danny nói. “Tôi sẽ còn đầu tư nhiều hơn rất nhiều nếu như có tên ông trong dàn diễn viên.”

“Tôi thật cảm kích khi được nghe những lời này của ông,” Davenport nói. “Có lẽ ông sẽ có một cơ hội khác vào thời điểm nào đó trong tương lai.”

“Tôi cũng rất hy vọng là vậy,” Danny nói, “vì ông quả là một ngôi sao đích thực.” Anh đã hiểu ra sẽ không có gì là quá lời với Lawrence Davenport, chừng nào bạn còn nói với Lawrance Davenport về Lawrence Davenport.

“Tuyệt lắm,” Davenport nói, “nếu ông thực sự muốn có một vụ đầu tư khôn ngoan, tôi có...”

“Larry!” một giọng nói vang lên. Davenport quay đi và ôm hôn một người đàn ông khác, anh chàng này còn trẻ hơn gã nhiều. Cơ hội đã trôi qua, nhưng Davenport vẫn để rộng cửa và Danny dự kiến sẽ thực hiện xâm nhập một cách kín đáo hơn vào một dịp thích hợp sau này.

“Thật đáng buồn,” Payne lên tiếng khi Davenport rời đi.

“Đáng buồn?” Danny dò hỏi.

“Anh ta chính là ngôi sao của lứa chúng tôi tại Cambridge,” Payne nói. “Tất cả chúng tôi đều cho rằng anh ta hẳn sẽ có một sự nghiệp chói sáng, nhưng thực tế lại không như vậy.”

“Tôi nhận thấy ông đã gọi ông ấy là Larry,” Danny nói. “Giống như với Laurence Olivier.”

“Đó là điểm chung duy nhất giữa anh ta và Olivier.”

Danny gần như cảm thấy thương hại cho Davenport khi anh nhớ lại những gì Dumas đã viết, Với những gã bạn như thế này... “Nhưng ít nhất thời gian vẫn còn ở về phía ông ta,” anh nói thêm.

“Nhưng với những rắc rối của anh ta thì không, đúng không nào?” Payne nói.

“Những rắc rối?” Danny lặp lại như thể vừa bị roi quất vào lưng.

“Xin chào, Nick,” lời chào vang lên từ phía Charlie Duncan, một người bạn tạm thời nữa được thu hút đến bởi sức hấp dẫn của đồng tiền.

“Xin chào, Charlie,” Danny đáp.

“Hy vọng ông thấy thích buổi tiệc,” Duncan nói, đồng thời rót đầy champagne vào chiếc ly đã cạn hết của Danny.

“Rất thích, cảm ơn ông.”

“Ông vẫn nghĩ tới việc đầu tư vào Lấp lánh chứ, ông bạn thân mến?” Duncan thì thầm.

“À, có chứ,” Danny nói. “Ông có thể ghi lại tên tôi cùng khoản hùn vốn mười nghìn bảng.” Anh không thêm gì, bất chấp đó là một kịch bản khó lòng hiểu nổi.

“Một anh chàng khôn ngoan,” Duncan nói, và lại vỗ vai anh. “Tôi sẽ gửi hợp đồng tới theo đường bưu điện vào ngày mai.”

“Có phải lúc này Lawrence Davenport đang đóng phim không?” Danny hỏi.

“Điều gì khiến ông hỏi vậy?”

“Khuôn mặt lởm chởm râu không cạo cùng bộ cánh nhàu nhĩ. Tôi nghĩ chúng là một phần của vai ông ta đang đóng.”

“Không đâu,” Duncan phá lên cười. “Anh ta chẳng đang đóng vai nào hết, chỉ là anh ta vừa chui ra khỏi giường mà thôi.” Một lần nữa ông ta lại hạ thấp giọng. “Tôi sẽ tránh thật xa anh ta vào thời điểm này, ông bạn thân mến.”

“Tại sao vậy?” Danny hỏi.

“Anh ta đang phải vay mượn khắp nơi. Đừng cho anh ta mượn gì hết, vì ông sẽ không bao giờ lấy lại được đâu. Có Chúa mới biết anh ta nợ những người đang có mặt trong căn phòng này bao nhiêu tiền.”

“Cảm ơn ông về lời cảnh báo,” Danny nói, đặt ly champagne còn đầy nguyên lên khay của một người phục vụ đi ngang qua. “Tôi phải về đây. Nhưng rất cảm ơn ông, buổi tiệc thật tuyệt.”

“Sớm vậy sao? Nhưng ông còn chưa gặp mặt những ngôi sao mà ông đang đầu tư vào mà.”

“Có đấy, tôi đã gặp rồi,” Danny nói.

***

Cô hiệu trưởng nhấc ống nghe chiếc điện thoại đặt trên bàn làm việc lên, và lập tức nhận ra giọng nói đang gọi tới.

“Một buổi tối tốt lành, thưa Cha,” cô nói. “Tôi có thể giúp gì được cha?”

“Không, cô Sutherland, chính tôi đang muốn giúp cô đây.”

“Ý cha là gì?”

“Tôi hy vọng có thể giúp cô đưa ra quyết định liên quan tới Christy Cartwright, một thành viên nhỏ tuổi trong cộng đồng con chiên của tôi.”

“Christy Cartwright?” cô hiệu trưởng nói. “Tôi nhớ từng nghe tới cái tên này.”

“Hẳn là thế rồi, cô Sutherland. Bất cứ cô hiệu trưởng tận tâm nào cũng không thể không nhận ra Christy là một mẫu học sinh đầy triển vọng trong thời buổi khắc nghiệt với những bảng xếp hạng học đường hiện nay.”

“Và bất cứ cô hiệu trưởng tận tâm nào cũng không thể không nhận ra bố mẹ đứa trẻ đó chưa kết hôn, một tình trạng vẫn còn khiến các ủy viên hội đồng quản trị của St Veronica cau mày không hài lòng, mà tôi chắc cha vẫn còn nhớ rõ từ những ngày cha còn làm việc trong hội đồng.”

“Và như thế là hoàn toàn đúng đắn, cô Sutherland,” cha Michael đáp. “Nhưng hãy cho phép tôi giúp cô được yên tâm bằng cách cam đoan rằng tôi đã đọc thông báo công bố hôn nhân của họ ba lần tại nhà thờ St Mary, và đồng thời ghi ngày tháng diễn ra đám cưới của họ trên bảng thông báo của nhà thờ cũng như trong hồ sơ của giáo khu.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 58


Đã vài tuần nay Danny tránh mặt giáo sư Mori. Anh sợ rằng những nỗ lực của mình dành cho việc tham dự cuộc thi viết luận sẽ khó lòng gây ấn tượng được với vị giáo sư có biệt tài về ăn nói này.

Nhưng khi anh rời khỏi giảng đường sau giờ học sáng, Danny trông thấy Mori đứng trước cửa phòng làm việc của mình. Chẳng còn cách nào thoát được ngón tay đang vẫy gọi đích danh. Như một cậu học sinh biết rõ sắp bị quạt cho một trận nên thân, Danny ngoan ngoãn theo ông vào trong phòng. Anh chờ đợi những lời nhận xét buốt như ong chích, những lời châm biếm gai góc, những mũi tên tẩm độc dành cho một tấm bia đứng im không đường né tránh.

“Tôi rất thất vọng,” giáo sư Mori bắt đầu lên tiếng trong khi Danny cúi gằm xuống. Tại sao anh có thể đối phó được với những tay ngân hàng Thụy Sĩ, những tay bầu sân khấu của khu West End, những hội viên cao cấp và các luật gia kỳ cựu của các văn phòng luật, nhưng lại run rẩy lóng ngóng trước mặt người đàn ông này? “Vậy là cậu đã biết,” ông giáo sư tiếp tục, “cảm giác của một người vào tới chung kết của một kỳ Olympic nhưng lại không được bước lên bục vinh quang?”

Danny ngước mắt nhìn lên, bối rối không hiểu gì nữa.

“Chúc mừng,” một giáo sư Mori tươi cười rạng rỡ nói tiếp. “Anh đứng thứ tư trong cuộc thi viết luận. Và vì nó có liên quan tới tấm bằng anh đang theo học, tôi trông đợi rất nhiều ở anh trong kỳ thi tốt nghiệp.” Ông đứng dậy, vẫn mỉm cười. “Xin chúc mừng,” ông lặp lại, nồng nhiệt bắt tay Danny.

“Xin cảm ơn giáo sư,” Danny nói, cố làm quen với tin vừa nhận được. Anh có thể nghe thấy Nick đang nói, Một cú tuyệt lắm, anh bạn, và anh chỉ ước gì có thể chia sẻ tin vui cùng Beth. Nàng hẳn sẽ rất tự hào. Liệu anh còn có thể chịu đựng thêm bao lâu nữa phải sống mà không được nhìn thấy nàng?

Anh cáo từ giáo sư và chạy dọc hành lang, lao qua cửa ngoài xuống các bậc cấp, và trông thấy Al Mập đang đứng cạnh cửa sau chiếc xe nhìn đồng hồ với vẻ lo lắng. Danny giờ đang sống cùng lúc trong ba thế giới khác nhau, và trong thế giới tiếp theo của mình anh không thể trễ buổi trình diện với người giám hộ.

***

Danny quyết định không nói cho bà Bennett biết anh sẽ làm gì trong phần còn lại của buổi chiều hôm đó, và anh dám chắc bà sẽ bác bỏ ý tưởng đó, coi nó là một suy nghĩ nhẹ dạ. Tuy nhiên, bà thực sự có vẻ hài lòng khi biết anh đã thành công đến mức nào trong cuộc thi viết luận.

Molly đã phục vụ ông Segat đến tách trà thứ hai khi Danny về tới nhà sau cuộc trình diện bà Bennett. Nhà ngân hàng Thụy Sĩ đứng dậy khi Danny bước vào phòng. Anh xin lỗi vì đã về trễ mất mấy phút, nhưng cũng không đưa ra lời giải thích.

Segat khẽ gật đầu trước khi ngồi xuống. “Giờ đây ông đã là chủ sở hữu của cả hai địa điểm đang cạnh tranh nghiêm túc để được chọn làm nơi xây sân đua xe đạp phục vụ Olympic,” ông ta nói. “Mặc dù ông còn khả năng trông đợi thu được một khoản lợi nhuận lớn như vậy, ông vẫn có thể thu về một khoản vượt xa mức đáng hài lòng cho lượng vốn đầu tư ban đầu.”

“Payne đã gọi lại chưa?” đó là tất cả những gì Danny muốn biết.

“Ông ta đã gọi lại sáng nay, và ra giá bốn triệu bảng cho địa điểm có nhiều khả năng được chọn nhất. Tôi giả thiết là ông muốn tôi từ chối lời đề nghị đó?”

“Đúng thế. Nhưng hãy nói với ông ta ông sẽ chấp nhận ở mức sáu triệu, với điều kiện hợp đồng được ký kết trước khi bà bộ trưởng công bố quyết định của mình.”

“Nhưng địa điểm đó sẽ trị giá ít nhất mười hai triệu nếu mọi việc diễn ra đúng kế hoạch.”

“Yên tâm đi, mọi thứ đang diễn ra đúng kế hoạch,” Danny nói. “Payne có tỏ ra quan tâm đến địa điểm còn lại không?”

“Không, mà tại sao ông ta phải làm thế,” Segat nói, “khi dường như mọi người đều đã biết nơi nào sẽ được chọn.”

Sau khi đã thu được những thông tin cần thiết, Danny thay đổi chủ đề. “Ai đã ra giá cao nhất cho khu đất của chúng ta ở đường Mile End?”

“Trả giá cao nhất là Fairfax Homes, một công ty hàng đầu từng làm việc với Hội đồng địa phương trong quá khứ. Tôi đã nghiên cứu đề nghị của họ,” Segat nói, đưa cho Danny một cuốn tờ gấp giới thiệu được in ấn bóng bẩy, “và chắc chắn rằng sau khi trải qua một vài điều chỉnh từ phía ủy ban kế hoạch, đề xuất này sẽ được bật đèn xanh chỉ trong vài tuần tới.”

“Họ trả bao nhiêu?” Danny hỏi, cố không tỏ ra sốt ruột.

“À vâng,” Segat nói, đồng thời xem lại con số. “Hãy nhớ rằng chi phí ông đã phải bỏ ra là hơn một triệu bảng. Tôi nghĩ ông có thể cảm thấy rất hài lòng vì Fairfax Homes đã ra giá một triệu tám trăm linh một nghìn một trăm năm mươi sáu bảng, đem đến cho ông lợi nhuận trên nửa triệu bảng. Một khoản thu nhập không tồi cho vốn đầu tư của ông, nếu nhớ rằng khoản tiền này mới bỏ ra chưa đến một năm.”

“Ông có thể giải thích gì về con số một triệu tám trăm linh một nghìn một trăm năm mươi sáu bảng không?” Danny hỏi.

“Tôi đoán ông Fairfax tính trước sẽ có nhiều đối thủ cũng ra giá quanh mức một triệu tám trăm nghìn bảng và thế là ông ta thêm vào đằng sau ngày sinh của chính mình.”

Danny bật cười trong khi bắt đầu xem xét bản kế hoạch của Fairfax về một khu nhà chung cư tuyệt vời được đặt tên là City Reach tại nơi anh từng làm công việc của một thợ cơ khí của gara sửa xe hơi.

“Liệu tôi có được phép gọi cho ông Fairfax để báo cho ông ta biết mình đã thành công hay không?”

“Được chứ, ông hãy làm đi,” Danny nói. “Và sau khi ông đã nói chuyện với ông ta, tôi cũng muốn trao đổi vài lời.”

Trong khi Segat gọi điện, Danny tiếp tục nghiên cứu bản kế hoạch rất ấn tượng của Fairfax về khu chung cư mới. Anh chỉ có một thắc mắc.

“Tôi sẽ chuyển máy để ông trao đổi với Sir Nicholas, thưa ông Fairfax,” Segat nói. “Ông ấy có vài điều muốn trao đổi với ông.”

“Tôi vừa xem qua bản kế hoạch của ông, ông Fairfax,” Danny nói, “và tôi thấy ông có một căn penthouse trên tầng thượng.”

“Đúng vậy,” Fairfax nói. “Bốn phòng ngủ, bốn phòng tắm, tất cả đều đồng bộ, tổng diện tích trên hai trăm bảy mươi mét vuông.”

“Nhìn xuống một gara ở bên kia đường Mile End.”

“Chỉ cách khu City chưa đầy một dặm,” Fairfax đáp trả. Cả hai cùng bật cười.

“Và ông đưa căn penthouse đó ra thị trường với giá sáu trăm năm mươi nghìn bảng, đúng không ông Fairfax?”

“Đúng vậy, đó là giá chào bán,” Fairfax xác nhận.

“Tôi sẽ chốt giá ở mức một triệu ba trăm nghìn,” Danny nói, “nếu ông đồng ý kèm thêm vào đó căn penthouse.”

“Một triệu hai trăm nghìn và ông sẽ có cho mình một món hời,” Fairfax nói.

“Với một điều kiện.”

“Điều kiện đó là gì?”

Danny nói với ông Fairfax thay đổi duy nhất anh muốn, và ông chủ thầu xây dựng lập tức đồng ý.

***

Danny đã chọn thời điểm một cách cẩn thận: mười một giờ trưa. Al Mập lái xe vòng quanh quảng trường Redcliffe hai vòng trước khi dừng lại bên ngoài số nhà 25.

Danny bước theo một lối đi có vẻ đã lâu chưa được lát sửa lại. Đến trước cửa, anh bấm chuông rồi đợi một lúc, nhưng vẫn không có ai trả lời. Anh cầm lấy chiếc vòng đồng dùng để gõ cửa và gõ mạnh hai lần, đến mức có thể nghe thấy tiếng gõ ngân vang bên trong nhà, nhưng vẫn chẳng có ai ra mở cửa. Anh bấm chuông thêm lần nữa trước khi chấp nhận bỏ cuộc, quyết định sẽ quay lại thử vận may vào buổi chiều. Anh đã gần ra đến ngoài cổng thì cánh cửa đột ngột mở tung, một giọng nói từ trong vọng ra. “Ông là gã quái quỷ nào vậy?”

“Nick Moncrieff,” Danny nói, quay người trở lại lối đi dẫn vào nhà. “Ông đã đề nghị tôi gọi điện cho ông, nhưng số điện thoại của ông lại không có trong danh bạ, và vì tôi tình cờ đi ngang qua...”

Davenport đang mặc một chiếc áo ngủ bằng lụa, chân vẫn còn đi dép. Rõ ràng đã vài ngày trôi qua mà gã chưa cạo râu, và lúc này gã bắt đầu nhấp nháy mắt dưới ánh mặt trời buổi sáng như một con thú vừa choàng tỉnh vào ngày mùa xuân đầu tiên sau kỳ ngủ đông dài. “Ông nói với tôi đang có một vụ đầu tư rất có thể sẽ khiến tôi quan tâm,” Danny nhắc lại cho gã nhớ.

“À phải, tôi nhớ ra rồi,” Lawrence Davenport nói, giọng nói đã dễ nghe hơn. “Phải rồi, mời ông vào.”

Danny bước vào một lối đi tối om, khiến anh nhớ lại tình trạng ngôi nhà ở The Boltons từng ra sao trước khi có bàn tay chăm sóc của Molly.

“Làm ơn ngồi đợi một lát trong khi tôi thay đồ,” Davenport nói. “Tôi sẽ xong ngay thôi.”

Danny không ngồi xuống. Anh đi quanh căn phòng, thầm tán thưởng những bức họa cùng các đồ bài trí tinh tế, thậm chí ngay cả khi chúng đang nằm dưới một lớp bụi. Anh nhìn qua khung cửa sổ phía sau và thấy một khu vườn rộng nhưng đã bị bỏ phế không được chăm sóc chu đáo.

Giọng nói vô danh từ Geneva gọi tới sáng hôm đó đã cho biết những ngôi nhà nằm quanh khu vực quảng trường gần đây thường được đổi chủ ở mức giá quanh ba triệu bảng. Ông Davenport đã mua ngôi nhà số 25 vào năm 1995, khi có tới tám triệu khán giả truyền hình theo dõi Đơn thuốc vào mỗi buổi tối thứ bảy để biết được tuần đó bác sĩ Beresford sẽ lên giường với cô y tá nào. “Ông ta có một khoản vay thế chấp trị giá một triệu bảng với Norwich Union,” giọng nói vô danh nói tiếp, “và trong ba tháng vừa qua ông ta đã chậm trễ trong việc hoàn trả.”

Danny rời khỏi khung cửa sổ khi Davenport quay trở lại căn phòng. Gã mặc một chiếc sơmi để mở cổ, quần jean và đi giày đế mềm. Danny đã từng nhìn thấy những người ăn mặc còn tươm tất hơn ở trong tù.

“Tôi có thể mời ông uống chút gì đó được không?” Davenport hỏi.

“Vẫn còn hơi sớm với tôi,” Danny nói.

“Không bao giờ là quá sớm,” Davenport nói trong khi rót cho mình một ly whisky đầy. Gã uống một ngụm lớn và mỉm cười.”Tôi sẽ đi thẳng vào vấn đề, vì tôi biết ông là người bận rộn. Đơn giản là lúc này tôi hơi kẹt tiền mặt - chỉ tạm thời thôi, ông hiểu chứ - cho tới khi ai đó ký hợp đồng với tôi cho một xê ri mới. Thực ra người đại diện của tôi vừa gọi điện tới sáng nay với một vài ý tưởng.”

“Ông cần một khoản vay?” Danny nói.

“Phải, chính xác là vậy.”

“Vậy ông có thể lấy gì ra đảm bảo?”

“Trước hết là những bức tranh của tôi,” Davenport nói. “Tôi đã phải trả cho chúng trên một triệu.”

“Tôi sẽ trả cho ông ba trăm nghìn cho cả bộ sưu tập,” Danny nói.

“Nhưng tôi đã trả trên...” Davenport phản đối, đồng thời rót cho mình một cốc whisky nữa.

“Đó là trong trường hợp ông đưa ra được bằng chứng cho thấy tổng số tiền ông đã trả thực sự vượt quá một triệu.” Davenport nhìn chằm chằm vào anh, trong khi cố nhớ ra lần cuối cùng họ từng gặp nhau là ở đâu. “Tôi sẽ chỉ thị cho luật sư của mình thảo hợp đồng, và ông sẽ nhận được tiền ngay sau khi ký vào bản hợp đồng.”

Davenport uống thêm một ngụm lớn whisky nữa. “Tôi sẽ suy nghĩ về chuyện này,” gã nói.

“Ông cứ suy nghĩ đi,” Danny nói. “Và nếu ông trả lại toàn bộ khoản tiền trong vòng mười hai tháng, tôi sẽ trả lại toàn bộ các bức tranh mà không lấy thêm một khoản phụ phí nào.”

“Thế còn điều khoản bồi thường?” Davenport hỏi.

“Không có khoản bồi thường nào hết, nhưng nếu ông không trả được tiền trong vòng mười hai tháng, những bức tranh sẽ là của tôi.”

“Thế thì không có chuyện tôi phải mất gì,” Davenport nói, một nụ cười sảng khoái nở rộng trên khuôn mặt.

“Hãy cùng hy vọng là không,” Danny nói, đứng dậy đi tới phía vị chủ nhà trong khi Davenport bắt đầu bước ra phía cửa.

“Tôi sẽ gửi bản hợp đồng tới cùng một tấm séc

ba trăm nghìn bảng,” Danny nói trong lúc đi theo Davenport ra tiền sảnh.

“Ông thật tử tế,” Davenport nói.

“Hãy cùng hy vọng người đại diện của ông đã tìm ra thứ gì đó tương xứng với tài năng đặc biệt của ông,” Danny nói trong khi Davenport mở cửa.

“Ông không cần phải bận tâm về chuyện đó,” Davenport nói. “Tôi dám cá rằng ông sẽ được nhận lại tiền của mình sau vài tuần.”

“Thật vui được nghe điều đó,” Danny nói. “À, nếu có lúc nào đó ông quyết định bán ngôi nhà này...”

“Ngôi nhà của tôi?” Davenport nói. “Không, không bao giờ. Không cần bàn thêm nữa, và cũng đừng bao giờ nghĩ tới chuyện đó.”

Gã đóng cửa lại như thể vừa tiễn một người giao hàng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
611,673
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 59


Danny đọc bài tường thuật trên tờ The Times trong khi Molly rót cà phê đen vào tách của anh.

Một cuộc trao đổi tại Nghị viện giữa bà Bộ trưởng Thể thao và Billy Cormack, nghị sĩ vùng Stratford South, đã được đưa vào phần cuối bài tường thuật tình hình Nghị viện của tờ báo.

Cormack(1): “Liệu bà bộ trưởng có thể xác nhận bà đã lựa chọn ra hai địa điểm ứng cử viên nơi dự kiến sẽ xây dựng sân đua xe đạp phục vụ Olympic không?”

Bộ trưởng: “Có, tôi có thể, và tôi chắc ngài nghị sĩ sẽ rất vui mừng được biết địa điểm nằm trên địa bàn mà ông là người đại diện tại Nghị viện là một trong hai nơi vẫn được cân nhắc đến.”

Cormack: “Tôi xin cảm ơn bà bộ trưởng vì câu trả lời của bà. Không rõ bà bộ trưởng có biết việc ông Chủ tịch Liên đoàn xe đạp Anh quốc đã viết cho tôi nói rõ rằng ủy ban của ông đã nhất trí bầu chọn cho địa điểm thuộc khu vực bầu cử của tôi không?”

Bộ trưởng: “Có, tôi đã biết, một phần vì người bạn đáng kính của tôi đã vui lòng gửi cho tôi một bản copy của bức thư (cười). Xin cho phép tôi được cam đoan với ông rằng tôi sẽ xem xét đến quan điểm của Liên đoàn xe đạp Anh quốc một cách nghiêm túc trước khi đưa ra quyết định cuối cùng.”

Andrew Crawford(1): “Không rõ bà bộ trưởng đã biết tin này sẽ không được hoan nghênh tại khu vực bầu cử của tôi, nơi có địa điểm còn lại lọt vào danh sách rút gọn, vì chúng tôi đã có kế hoạch xây dựng một khu vui chơi mới tại địa điểm đó, và ngay từ đầu đã không hề muốn đón nhận sân đua xe đạp.”

Bộ trưởng: “Tôi sẽ cân nhắc tới quan điểm của ngài nghị sĩ trước khi đưa ra quyết định cuối cùng.”

Molly mang hai quả trứng luộc đặt trước mặt Danny đúng lúc điện thoại di động của anh đổ chuông. Anh không hề ngạc nhiên khi thấy tên của Payne hiện lên trên màn hình nhỏ của chiếc điện thoại, mặc dù cũng không nghĩ gã sẽ gọi sớm đến vậy. Anh mở máy nói, “Chúc buổi sáng tốt lành.”

“Xin chào, Nick. Xin lỗi đã gọi vào giờ này, nhưng tôi không biết ông đã đọc bài tường thuật về Nghị viện trên tờ Telegraph chưa?”

“Tôi không đặt Telegraph,” Danny nói, “nhưng tôi đã đọc qua cuộc trao đổi với bà bộ trưởng trên The Times. Tờ báo ông vừa đọc đã nói gì?”

“Nó cho biết ông chủ tịch Liên đoàn xe đạp Anh quốc đã được mời tới phát biểu trước Ủy ban lựa chọn các địa điểm tổ chức Olympic vào tuần tới, bốn ngày trước khi bà bộ trưởng đưa ra quyết định cuối cùng. Có vẻ như đây chỉ là một thủ tục - một nguồn tin nội bộ đã tiết lộ với Telegraph rằng bà bộ trưởng chỉ còn chờ bản báo cáo của người phụ trách khảo sát thực địa trước khi khẳng định lại quyết định của mình.”

“Câu chuyện mà The Times kể cùng gần tương tự,” Danny nói.

“Nhưng đó không phải là lý do khiến tôi gọi cho ông,” Payne nói. “Tôi muốn ông biết là tôi đã nhận được một cuộc gọi từ những người Thụy Sĩ sáng hôm nay, họ đã từ chối lời đề nghị trả bốn triệu của ông.”

“Không hề ngạc nhiên, nếu tính đến tình thế hiện tại,” Danny nói.

“Nhưng,” Payne nói, “họ cũng khẳng định rõ ràng sẽ chấp nhận sáu triệu, với điều kiện toàn bộ khoản đó được trả trước khi bà bộ trưởng công bố quyết định cuối cùng sau mười ngày nữa.”

“Cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên,” Danny nói. “Nhưng tôi cũng vừa nhận được vài tin, và tôi sợ rằng những tin tôi vừa nhận được không tốt lắm. Ngân hàng của tôi không sẵn lòng ứng trước cho tôi toàn bộ số tiền cần thiết ngay lập tức.”

“Nhưng tại sao lại không?” Payne nói. “Chắc chắn họ có thể thấy rõ cơ hội này có nghĩa là gì chứ?”

“Có, tất nhiên họ thấy, nhưng họ vẫn coi đây là một cú tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Có lẽ đáng ra tôi cần báo cho ông biết trước lúc này tôi đang hơi gặp khó khăn trong huy động tiền mặt, khi mà một hay hai dự án đầu tư nữa của tôi đang không tiến triển thực sự thuận lợi như tôi hy vọng.”

“Nhưng tôi nghĩ ông đã thỏa thuận xong về khu đất ở đường Mile End rồi mà?”

“Cuối cùng thì vụ đó cũng không được tốt như tôi dự kiến,” Danny nói. “Tôi chỉ kiếm được hơn ba trăm nghìn. Và như tôi đã nói với Gary Hall cách đây không lâu, người đại diện trước đã đẩy tôi vào hoàn cảnh khá tệ hại, và lúc này tôi vẫn đang phải trả giá cho những nhận định sai lầm của ông ta.”

“Vậy ông có thể huy động được bao nhiêu?” Payne hỏi.

“Một triệu,” Danny nói. “Có nghĩa là chúng ta còn thiếu tới năm triệu, thế nên tôi e vụ làm ăn chắc sẽ khép lại tại đây.”

Tiếp theo là một khoảng im lặng khá dài, trong thời gian đó Danny uống cà phê và bóc vỏ trên đầu nhỏ hai quả trứng.

“Nick, tôi không rõ ông có cho phép tôi đề xuất vụ làm ăn này với các khách hàng khác của tôi hay không?”

“Tại sao lại không,” Danny nói, “hãy nhớ lại tất cả công sức mà ông đã bỏ ra. Tôi chỉ thấy bực vì không thể kiếm nổi lượng vốn cần thiết cho cơ hội làm ăn tuyệt nhất tôi từng bắt gặp suốt bao nhiêu năm qua.”

“Ông quả là người vô cùng hào hiệp,” Payne nói. “Tôi sẽ không quên điều đó. Lần này tôi nợ ông.”

“Chắc vậy rồi,” Danny nói trong khi tắt máy.

Anh vừa định quay sang tấn công hai quả trứng thì điện thoại lại đổ chuông. Anh nhìn màn hình kiểm tra xem có thể yêu cầu người gọi tới, cho dù hắn ta có là ai đi nữa, gọi lại sau được không, nhưng nhanh chóng hiểu ra không thể làm vậy khi từ Voice(1) xuất hiện trên màn hình. Anh mở máy lắng nghe.

“Chúng tôi đã nhận được vài đề nghị cho bất động sản của ông trong buổi sáng nay, bao gồm cả một lời đề nghị sẵn sàng trả tám triệu. Ông muốn tôi làm gì với ông Payne?”

“Ông sẽ nhận được một cú điện thoại từ ông ta đề nghị trả giá sáu triệu. Ông hãy chấp nhận lời đề nghị đó,” Danny nói trước khi giọng nói từ đầu bên kia kịp đưa ra bình luận, “với hai điều kiện.”

“Hai điều kiện,”giọng nói ở đầu bên kia lặp lại.

“Ông ta phải đặt cọc sáu trăm nghìn vào ngân hàng trước khi hết giờ giao dịch trong ngày hôm nay, và phải trả toàn bộ số tiền trước khi bà bộ trưởng ra thông báo chính thức sau mười ngày nữa.”

“Tôi sẽ gọi cho ông ngay sau khi ông ta đã liên lạc lại,” giọng nói đáp.

Danny nhìn xuống và phát hiện ra trước mặt mình là một quả trứng không khác gì thứ người ta thường được thưởng thức trong tù. “Molly, bà có thể luộc cho tôi hai quả trứng nữa được không?”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom