Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,745
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


Bản Tuyên ngôn Độc lập được đóng đinh ở bức tường phía sau ông.

Saddam tiếp tục hút xì gà trong lúc ông ngửa người vào lưng ghế. Tất cả mọi người ngồi chung quanh bàn, chờ ông lên tiếng. Ông liếc mắt sang phải.

- Em trai của tôi, chúng tôi tự hào về cậu. Cậu đã phục vụ đất nước chúng ta và đảng Baath với lòng danh dự. và khi tới lúc nhân dân ta được thông báo về những hành động dũng cảm của cậu, tên tuổi cậu sẽ được ghi vào lịch sử của đất nước chúng ta với tư cách một trong những vị anh hùng vĩ đại.

Al Obaydi ngồi ở đầu bàn đàng kia, lắng nghe những lời nói của vị lãnh tụ. Hai nắm tay của ông ta giấu bên dưới bàn, siết chặt lại để tự ngăn chân cơn run. Mấy lần trên đường trở về Baghdad, ông ta biết mình bị theo dõi. Họ đã lục soát hành lý của ông ta hầu như ở từng chặng, nhưng họ đã không tìm thấy gì, bởi vì không cô gì để tìm. Ông em cùng mẹ khác cha của Saddam đã bảo đảm điều đó. Sau khi bản tuyên ngôn đã đến nơi an toàn ở Geneve, ông ta vẫn không được phép chuyển nó đến tận tay vị đại sứ. Con đường được bảo đảm của nó theo lối ngoại giao khiến nó không thể bị ngăn cản ngay cả với những cố gắng kết hợp của người Mỹ và người Do Thái.

Người em trai cùng mẹ khác cha của Saddam lúc này ngồi phía bên phải tổng thống, tận hưởng lời khen ngợi của vị lãnh tụ.

Saddam từ từ xoay người lại và nhìn chằm chầm xuống đầu bàn đằng kia.

- Và tôi cũng chấp nhận - Ông nói tiếp - Vai trò đã do Hamid Al Obaydi đóng, người mà tôi đã bổ nhiệm làm Đại sứ ở Paris. Tuy nhiên, tên của ông ta không được kết hợp vào vụ này, để đừng gây tác hại cho những khả năng đại diện cho chúng ta trên đất nước ngoài.

Và như vậy những lời nói đó đã trở thành sắc lệnh. Người em trai cùng mẹ khác cha của Saddam phải được nhìn nhận là kiến trúc sư của chiến thắng này; trong lúc Al Obaydi phải làm phần phụ chú trên một trang giấy, được lật qua một cách nhanh chóng. Nếu Al Obaydi thất bại, người em trai một mẹ khác cha của Saddam sẽ được xem là không hay biết gì về cả ý niệm ban đầu, và đống xương của Al Obaydi thậm chí giờ đây đang mục rữa trong một nấm mồ không ai biết đến. Từ khi Saddam cất tiếng, không một ai quanh bàn, ngoại trừ vị Biện lý Chính phủ để mắt tới Al Obaydi. Mọi con mắt khác và các nụ cười đều dán vào người em trai cùng mẹ khác cha của Saddam.

Chính lúc đó, ngay giữa phiên họp của Hội đồng Lãnh đạo Cách mạng, Al Obaydi đã đi đến một quyết định.

° ° °

Dollar Bill ngồi uể oải trên một chiếc ghế đẩu, tựa người vào quầy rượu trong giờ không thích hợp, sung sướng nhấm nháp chất nước y thích nhất. Y là người khách hàng duy nhất của tiệm rượu, không kể một người đàn bà ngồi im lặng ở trong góc. Nhân viên phục vụ phỏng đoán cô ta say rượu, trong lúc cô ta không hề có một cử động nhỏ suốt tiếng đồng hồ vừa qua.

Thoạt tiên Dollar Bill không hay biết gì về người đàn ông chệnh choạng bước qua cánh cửa xoay, và chắc đã không để mắt đến gã, nếu gã không tự đến ngồi bên cạnh y. Người khách mới gọi một ly gin pha tonic. Dollar Bill vốn có ác cảm với bất cứ ai uống gin pha tonic, nhất là nếu kẻ đó ngồi bên cạnh y trong khi phần còn lại của quầy rượu vẫn còn trống. Y nghĩ đến việc bỏ đi nhưng lại quyết định không cần phải làm việc đó.

- Thế nào, ông bạn kỳ cựu? - giọng nói bên cạnh hỏi.

Dollar Bill không hề nghĩ mình là một dân "kỳ cựu" và không thèm trả lời người khách lạ.

- Làm sao thế, không có lưỡi trong đầu hay sao? - người đàn ông lại hỏi, giọng líu lại.

Nhân viên phục vụ quay lại nhìn thẳng vào họ khi anh ta nghe giọng nói cất cao, rồi quay lại với việc lau khô chiếc ly còn lại sau bữa trưa đông đúc.

- Có chứ, thưa ông, loại lịch sự đấy. - Dollar Bill trả lời nhưng vẫn không hề liếc nhìn người hỏi.

- Loại Ái Nhĩ Lan. Tôi đã biết ngay từ đầu. Một đất, nước đầy những kẻ say sưa, ngu đần, dốt nát.

- Tôi xin nhắc cho ông biết - Dollar Bill nói - rằng Ái Nhĩ Lan là đất nước của Yeats, Shaw, Wilde, O'Casey và Joyce 1

Rồi y ta nâng ly lên để tưởng nhớ tới họ.

- Tôi chưa bao giờ nghe bất cứ một cái tên nào trong số đó! Bạn nhậu của ông, phải khỏng?

Lúc này thì nhân viên phục vụ bỏ khăn lau xuống và bắt đầu chú ý hơn.

- Tôi chưa bao giờ được cái vinh dự đó - Dollar Bill trả lời - nhưng này ông bạn, sự việc ông đã không nghe nói về họ, chưa kể tới việc đọc các tác phẩm của họ, là phần mất mát của ông, chớ không phải của tôi.

- Ông đang buộc tội tôi ngu dốt phải không? - Gã khách lạ vừa nói vừa đặt một bàn tay thô bạo lên vai Dollar Bill.

Dollar Bill liền quay lại để nhìn thẳng vào mặt gã, nhưng ngay cả ở khoảng cách gần như thế, y vẫn không thể điều tiết một cách rõ ràng qua màn sương mù tạo nên bởi số rượu y đã uống suốt hai tuần lễ vừa qua. Tuy nhiên, y vẫn nhận thấy được rằng, mặc dầu gã hiện ra như là một phần của màn sương rượu đó, gã khách lạ hơi lớn con hơn chính y. Một sự xem xét như thế không bao giờ làm cho Dollar Bill lo ngại trong quá khứ.

- Không, thưa ông. Không cần phải buộc tội ông ngu dốt. Bởi vì ông đã bị kết tội bởi chính lời phát biểu của ông.

- Không ai được nói với tao bằng cái giọng đó, đồ Ái Nhĩ Lan say xỉn.

Vẫn để tay tên vai Dollar Bill, gã xoay người y lại và giáng một quả đấm vào hàm y. Dollar Bill lảo đảo người ra phía sau khỏi chiếc ghế đẩu cao, té xuống sàn nhà thành một đống.

Gã khách lạ chờ một lúc cho Dollar Bill đứng lên, mới tống một quả thứ hai vào bụng. Một lần nữa, Dollar Bill ngã quỵ lên sàn nhà.

Nhân viên phục vụ sau quầy đã bắt đầu quay số điện thoại mà chủ tiệm đã căn dặn anh ta phải gọi nếu một tình huống tương tự như thế xảy đến. Anh ta chỉ hy vọng người ta sẽ đến nhanh trong lúc anh ta quan sát người đàn ông Ái Nhĩ Lan không hiểu sao vẫn đứng dậy được. Lán này đến phiên y nhắm một quả đấm vào mũi người khách lạ, một quả đấm làm bật tung vai bên phải của kẻ tấn công ông ta lên không. Một quả đấm khác bay vào cổ họng của Dollar Bill. Ngã xuống một lần thứ ba, thời y còn là một võ sĩ quyền Anh nghiệp dư thì sẽ bị xem là bị đo ván về mặt kỹ thuật; nhưng bởi vì lúc này không có trọng tài nào để chủ toạ, y lại đứng lên một lần nữa.

Nhân viên phục vụ cảm thấy nhẹ nhõm khi nghe tiếng còi ở đằng xa, và đang ước mong cho họ không phải trên đường chạy đến một nơi gọi khác thì bỗng hiện bốn cảnh sát viên phóng mình qua cánh cửa xoay.

Người thứ nhất chộp lấy Dollar Bill, ngay trước khi y chạm đất lần thứ tư; trong lúc hai người kia tôm chặt gã khách lạ, vặn tréo hai cánh ta gã ra phía sau và còng tay gã lại. Cả hai người đàn ông bị đẩy ra khỏi tiệm rượu và ném vào bên trong phía sau chiếc xe thùng của cảnh sát đang chờ sẵn. Tiếng còi vẫn tiếp tục lanh lảnh vang lên trong lúc hai kẻ say rượu được đưa đi.

Nhân viên phục vụ vui mừng vì sự nhanh nhẹn mà Sở cảnh sát San Francisco đã đến giúp anh ta. Chỉ sau đó trong đêm hôm ấy, anh ta mới sực nhớ anh ta đã không cho họ địa chỉ.

° ° °

Cả hai người vẫn im lặng cho tới khi David Kratz kết thúc kế hoạch phác thảo của ông.

Dexter là người đầu tiên mở lời:.

- Tôi phải nhìn nhận ông Đại tá hết sức có lý. Việc có thể tiến hành ngay.

Scott gật đầu đồng ý, rồi quay sang người lãnh đạo Mossad chỉ mấy tuần trước đã ra lệnh cho Hannah rằng anh cần phải bị giết chết. Một phần tội lỗi đã tan biến từ khi họ làm việc hết sức kề cận với nhau, nhưng những nếp nhăn trên trán và mái tóc hoa râm sớm của nhà lãnh dạo Do thái vẫn còn mãi mãi nhắc nhở anh về những gì anh đã trải qua. Trong thời gian họ ở bên cạnh nhau, Scott đã phải khâm phục kỹ năng chuyên môn hoàn thiện của con người đã bổ nhiệm phụ trách chiến dịch.

- Tôi còn cần được trả lời cho một vài câu hỏi, - Scott nói, - và cần được giải thích mấy việc khác.

Vị uỷ viên Do thái về các vấn đề văn hoá trong Court of St. James 2 gật đầu.

- Ông có chắc chắn rằng họ dự kiến đặt tủ sắt trong trụ sở chính của đảng Baath?

- Chắc chắn thì không. Tự tin thì có. - Kratz nói - Một công ty Hà Lan đã hoàn tất một công trình xây dựng dưới tầng hầm của trụ sở chính cách đây gần ba năm và trong số các hoạ đồ cuối cùng của họ có một cấu trúc bằng gạch mà kích thước vừa khớp chiếc tủ sắt.

- Và chiếc tủ sắt này có phải vẫn còn ở Karmal 3 ?

- Nó đã ở đó cách đây ba tuần, - Kratz trả lời - khi một nhân viên của tôi thực hiện một cuộc kiểm tra thường lệ.

- Và nó thuộc quyền chính phủ Iraq phải không? - Dexter Hutchins hỏi.

- Phải, nó đã được trả đủ tiền, và giờ đây một cách hợp pháp nó là tài sản của người Iraq.

- Một cách hợp pháp đó có lẽ là tư thế, nhưng kể tử cuộc chiến tranh vùng Vịnh. Liên Hiệp Quốc đã áp đặt một loại trừng phạt mới - Scott lưu ý ông.

- Làm sao một chiếc tủ sắt có thể được xem là một thiết bị quân sự - Dexter hỏi.

- Chính là luận điệu của người Iraq, - Kratz trả lời. - Nhưng không may cho họ, khi họ đặt hàng ban đấu với người Thuỵ điển, trong số những quy cách kỹ thuật rõ ràng có điều yêu cầu rằng chiếc tủ sắt phải có thể chịu đựng được một cuộc tấn công hạt nhân. Từ "hạt nhân" là tất cả những gì cần thiết để bắt đầu rung chuông ở Liên hiệp quốc.

- Thế thì ông tìm cách nào để giải quyết vấn đề đỏ? - Scott hỏi.

- Bất cứ khi nào chính phủ Iraq đệ trình một bản danh sách mới về các khoản mà họ xem là không vi phạm Nghị quyết 661 của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, chiếc tủ sắt luôn luôn bao gồm trong đó. Nếu người Mỹ, người Anh và người Pháp không đưa ra lời phản đối nào, nó có thể lọt qua một cách êm thấm.

- Còn chính phủ Do thái?

- Chúng tôi sẽ phản đối một cách kịch liệt trước mặt phái đoàn Iraq, nhưng không phải bên sau những cánh cửa đóng với bè bạn của chúng ta.

- Thế thì chúng ta hăy tưởng tượng trong một lúc rằng chúng ta đang nắm giữ một chiếc tủ sắt khổng lồ có thể chịu đựng một cuộc tấn công hạt nhân. Như thế thì có lợi gì cho chúng ta? - Scott hỏi.

- Một người nào đó phải chịu trách nhiệm việc đưa chiếc tủ sắt đó từ Thuỵ điển về Baghdad. Một người nào đó phải lắp đặt nó khi họ đã đưa nó về chỗ đó, và một người nào đó phải giải thích với thuộc hạ của Saddam cách vận hành nó. - Kratz nói.

- Và ông có một người nào đó cao một mét tám, chuyên gia karate và nói lưu loát tiếng A rập chứ gì?

- Chúng tôi đã có, nhưng cô ta chỉ cao một mét bảy mươi lăm.

Hai người nhìn chằm chằm vào nhau. Scott vẫn giữ im lặng.

- Và ông đề nghị làm cách nào để ám sát Saddam? - Dexter hỏi nhanh. - Nhốt ông ta vào chiếc tủ sắt và hy vọng ông ta chết ngập phải không?

Kratz chợt nhận thấy cuộc bàn cãi đã khiến cho Scott không nghĩ đến Hannah, vì thế ông ta đáp ứng lại:

- Không, chúng tôi đã khám phá ra đó là kế hoạch của CIA và đã bác bỏ. Chúng tôi đã nghĩ ra một kế hoạch tinh vi hơn.

- Đó là…? - Scott hỏi.

- Một thiết bị hạt nhân rất nhỏ đặt vào bên trong chiếc tủ sắt.

- Và chiếc tủ sắt sẽ ở trong hành lang bên cạnh nơi Hội đồng lãnh đạo Cách mạng họp. Không tồi. - Dexter nói.

- Và thiết bị sẽ được cài nổ bởi một cô gái Do thái biết tiếng A rập cao một mét bảy mươi lăm phải không - Scott hỏi.

Kratz gật đầu.

° ° °

Cách đây đã nhiều năm trời, Dollar Bill từng trông thấy bên trong của một nhà tù, nhưng vẫn chưa đủ lâu để quên được nỗi chán ghét khi phải chung đụng với bọn buôn lậu ma tuý, ma cô và trấn lột.

Mặc dù vậy, lần sau cùng y đã ngu ngốc đến nỗi tự đâm đầu vào một cuộc ẩu đả trong tiệm rượu mà y đã gây sự trước. Nhưng thế mà ông ta chỉ thu xếp xong với năm mươi đô la một cách tốt đẹp. Dollar Bill cảm thấy tin tưởng rằng bất cứ vị quan toà nào cũng biết các nhà tù đã quá chật ních nên khó lòng tuyên bố một bản án cưỡng bách ba mươi ngày đối với những trường hợp như thế này.

Quả thực y đã cố đưa năm mươi đô la cho một trong số cảnh sát viên lái chiếc xe thùng. Thông thường, họ vui vẻ nhận tiền, mở cửa sau của chiếc xe thùng và tống cổ kẻ vừa bị bắt ra ngoài. Y không thể mường tượng cảnh sát San Francisco đang giở trò gì. Chắc chắn với tất cả bọn trấn lột và nghiện ma tuý khắp nơi họ cô nhiều việc quan trọng hơn để đối phó so với mấy gã trung niên say sưa trong tiệm rượu vào lúc xế chiều này.

Trong lúc Dollar Bill bắt đầu tỉnh táo, mùi hôi nồng nặc xông vào mũi ông ta và y hy vọng rằng mình sẽ ở trong số đầu tiên sẽ bị đưa ra phiên toà đêm. Nhưng trong lúc nhiều tiếng đồng hồ trôi qua và y trở nên tỉnh táo hơn và mùi hôi cũng nồng nặc hơn, y bắt đầu tự hỏi phải chăng họ sẽ giữ y suốt đêm.

- William O'Reilly, - viên trung sĩ cảnh sát gọi lớn trong lúc anh ta nhìn xuống danh sách trên bìa kẹp giấy.

- Tôi đây, - Bill vừa nói vừa đưa bàn tay lên.

- Đi theo tôi, O'Reilly! - viên cảnh sát gần gọng trong lúc cánh cửa xà lim loảng xoảng mở và người đàn ông Ái Nhĩ Lan bị nắm chặt nơi khuỷu tay.

Y bị dắt đi dọc theo một hành lang dẫn vào phía sau của một phòng xét xử. Y quan sát mấy kẻ vô thừa nhận và phạm nhân không quan trọng đang sắp hàng chờ tới phiên mình đến trước vị quan toà. Y không chú ý một người đàn bà ở cách y chừng vài bước, đang nắm chặt cái quai tròn của một túi du lịch.

- Có tội. Năm mươi đô la.

- Tôi không trả nổi.

- Ba ngày tù. Người kế tiếp.

Sau khi ba bốn vụ đã được xét xử theo cách qua quít này, Dollar Bill quan sát người đàn ông đã tỏ ra không tôn trọng chuẩn mực văn chương Ái Nhĩ Lan ngồi vào chỗ ở trước vị quan toà.

- Có tội, thưa ngài.

- Không tiền án chứ?

- Không, - viên trung sĩ nói.

- Năm mươi đô la, - vị quan toà phán.

Dollar Bill lấy làm lạ vì đối phương của mình không bị kết án lần nào, và cũng có thể trả tiền phạt ngay lập tức.

Khi đến phiên Dollar Bill ra bào chữa, trong lúc ngước nhìn lên vị quan toà, y không thể không nghĩ rằng vị quan toà quá sức trẻ đối với chức vụ. Có lẽ giờ đây y quả thực là một kẻ "kỳ cựu".

- William O'Reilly, thưa ngài, - viên trung sĩ vừa nói vừa nhìn xuống hồ sơ tội trạng. - say rượu gây mất trật tự, xáo lộn yên tĩnh.

- Ông bào chữa như thế nào?

- Có tội, thưa ngài, - Dollar Bill vừa nói vừa sờ ngón tay vào cuộn giấy bạc nhỏ trong túi, trong lúc y cố nhớ lại nơi gần nhất có quán rượu bán bia Guinness.

- Ba mươi ngày, - vị quan toà nói, không hề ngẩng đầu lên. - Người kế tiếp.

Hai người trong phòng xét xứ sửng sốt trước quyết định của vị quan toà. Một người trong bọn miễn cưỡng nới lỏng nắm tay trên chiếc quai tròn của túi du lịch của cô ta, trong lúc người kia lắp bắp:

- Xin được trả tiền bảo lãnh, thưa ngài.

- Không chấp nhận.

--- ------ ------ ------ -------

1 Wiliam Butler YEATS (1865-1939): nhà thơ, kịch, phê bình.

George Bernard SHAW ( 1858-1950): nhà soạn kịch, phê bình.

Oscar WILDE (1854-1900): nhà thơ, soạn kịch, tiểu thuyết gia.

San O'CASEY (1880-1964): nhà soạn kịch.

James JOYCE (1882-1941): tiểu thuyết gia.

2 Cung điện của vua Anh.

3 Karmal: hải cảng ở Đông nam Thuỵ điển.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,745
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Trong lúc Hannah ngồi một mình ở phía sau chiếc phi cơ đi Amman 1 , nàng bắt đầu xem xét công việc nàng đã tự đặt ra cho mình.

Sau khi đoàn tuỳ tùng của viên đại sứ rời khỏi Paris, nàng đã trở về với vai trò truyền thống của một phụ nữ A rập. Nàng mặc y phục từ đầu đến chân trong một tấm mạng màu đen, và ngoại trừ đôi mắt, khuôn mặt của nàng được bao phủ bởi một chiếc mặt nạ nhỏ. Nàng chỉ lên tiếng khi được hỏi trực tiếp một câu, và không bao giờ tự đặt rả một câu hỏi. Nàng cảm thấy bà mẹ Do thái của nàng chắc sẽ không sống nổi một chế độ như thế này trong vài tiếng đồng hồ.

Thời gian giải lao duy nhất của Hannah đã đến khi bà vợ của viên đại sứ hỏi nơi nàng định ở sau khi đã trở về Baghdad. Hannah giải thích rằng nàng đã không tính trước ngay lúc này bởi vì mẹ và em gái của nàng đang sống ở Karbala, và nàng cũng không thế ở với họ nếu nàng hy vọng tiếp tục giũ công việc của nàng với viên đại sứ.

Hannah hầu như chưa nói hết câu thứ hai thì bà vợ của viên đại sứ khăng khăng bảo nàng hãy đến sống với họ.

- Ngôi nhà của chúng tôi quá lớn, - bà ta giải thích, - ngay cả với một tá nhân viên giúp việc.

Khi phi cơ đáp xuống phi trường Queen Alia, Hannah nhìn qua khung cửa sổ nhỏ xíu để quan sát một chiếc xe hơi lớn màu đen lộng lẫy trông có vẻ ở New York hơn là ở Amman đang chạy về phía họ. Chiếc xe đậu lại bên cạnh phi cơ và một người tài xế mặc một bộ đồ xanh chỉnh tề và mang một cặp kính đen nhảy ra.

Hannah đến gặp viên đại sứ và bà vợ của ông ta trong băng sau của chiếc xe hơi và họ chạy nhanh ra khỏi phi trường về hướng biên giới với Iraq.

Khi xe hơi đến trạm hải quan, họ được cúi đầu chào và vẫy tay chạy thẳng, tựa hồ biên giới không có thực. Họ chạy khoảng một nghìn năm trăm mét nữa và qua một trạm hải quan thứ hai về phía Iraq. Nơi đây họ cũng được đối xứ theo cung cách tương tự lúc đầu, trước khi gặp xa lộ sáu làn xe đi Baghdad.

Trong cuộc hành trình dài đến thủ đô, đồng hồ tốc độ rất ít khi xuống dưới một trăm mười cây số giờ. Không bao lâu Hannah trở nên chán ngán với mặt trời liên tục giáng xuống và cảnh tượng hết cây số cát này đến cây số cát khác trải dài tới chân trời và cả bên kia chân trời, chỉ thỉnh thoảng mới có mấy cụm cầy cọ phá vỡ sự đơn điệu. Tư tưởng của nàng chợt trở về với Simon và chuyện gì đâu có thể…

Hannah ngủ gà ngủ gật trong lúc chiếc xe hơi có máy điều hoà không khí êm ả lướt dọc theo xa lộ. Tâm trí nàng lan man từ Simon qua mẹ nàng, qua Saddam. rồi trở lại với Simon.

Nàng giật mình tỉnh dậy và nhận thấy họ đang vào vùng ngoại ô của Baghdad.

° ° °

- Ba mươi ngày? Tôi đã làm gì mà phải lãnh án ba mươi ngày, đó là điều tôi muốn biết.

Nhưng không một ai thèm nghe trong lúc Dollar Bill bị thúc ép ra khỏi phòng xét xử, dọc theo hành lang rồi ra ngoài qua một khung cửa ở phía sau cửa toà nhà, trước khi bị đẩy trở vào băng sau của một chiếc xe hơi không có bảng số. Ba người đàn ông có mái tóc cắt theo kiểu quân nhân, mang kính Ray-ban, và tai gắn ống nghe nhỏ có dây buông lòng thòng phía sau cổ áo đi cùng y.

- Tại sao tôi không được đóng tiền bảo lãnh? Nếu tôi kháng án thì sao? Tôi có quyền mướn một luật sư mà. Nhưng, chúng ta đi đâu thế này?

Cho dù y hỏi nhiều cầu như thế, Dollar Bill vẫn không nhận được một câu trả lời nào.

Mặc dầu y không thể trông thấy bất cứ gì bên ngoài các khung cửa kính mờ bên hông xe, Dollar Bill có thể biết bằng cách nhìn qua phía trên vai của tài xế khi đến cấu Golden Gate. Trong lúc họ tiếp tục chạy dọc đường 101, đồng hồ tốc độ lên tới con số chín mươi lần đầu tiên, nhưng người tài xế không hề vượt khỏi tốc độ giới hạn một lần nào cả.

Hai mươi phút sau khi chiếc xe hơi quẹo khỏi xa lộ tại lối ra Belvedere, Dollar Bill vẫn không biết mình đang ở đâu. Người tài xế tiếp tục chạy lên một con đường nhỏ quanh co, cho đến khi chiếc xe giảm tốc độ, trong lúc một bộ cổng sắt đồ sộ hiện ra lù lù phía trước mắt họ.

Người tài xế nháy đèn hai lần và cổng mở ra để cho chiếc xe hơi tiếp tục cuộc hành trình theo một đoạn đường rải sỏi dài và thẳng. Ba bốn phút nữa trôi qua trước khi họ dừng lại trước một ngôi nhà lớn kiểu nông thôn nhắc nhở Dollar Bill nhớ lại thời thơ ấu của mình ở quận Kerry, lúc bấy giờ mẹ y là một bà giúp việc bếp núc ở điền trang.

Một trong số người đi kèm với Dollar Bill nhảy ra khỏi xe và mở cửa cho y. Một người khác chạy ra phía trước lên thêm và bấm một nút chuông, trong lúc chiếc xe hơi chạy qua bãi sỏi.

Cánh cửa đồ sộ bằng gỗ sồi mở ra cho thấy một viên quản gia mặc một áo khoác dài màu đen và mang một nơ bướm màu trắng.

- Chào ông O'Reilly, - anh ta nói một cách nghiêm túc với một giọng Anh ngay cả trước khi Dollar Bill lên tới bậc thềm trên cùng. - Tôi tên là Charles. Phòng của ông đã được chuẩn bị sẵn sàng. Có lẽ xin ông vui lòng đi theo tôi.

Dollar Bill theo anh ta vào trong nhà và lên cầu thang rộng không thốt ra một tiếng nào. Đáng lẽ y đã thử hỏi một vài cầu về Charles, nhưng bởi vì anh ta là người Anh, Dollar Bill không thể trông mong một câu trả lời thành thực. Viên quản gia dẫn y vào trong một phòng ngủ được trang bị một cách sang trọng trên tầng một.

- Tôi hy vọng ông sẽ nhận thấy áo quần vừa khít, thưa ông, - Charles nói, - và mọi thứ khác đều hợp với ý thích của ông. Bữa ăn tối sẽ được dọn trong vòng nửa giờ.

Dollar Bill cúi đầu chào và mất mấy phút sau đó để xem quanh căn phòng. Y kiểm tra buồng tắm. Xà phòng sáp dao cạo râu và khăn lông xốp trắng; thậm chí cả một bàn chải đánh răng và kem đánh răng loại y ưa thích. Y trở ra phòng ngủ và khảo sát chiếc giường đôi. Y không sao nhớ được mình đã ngủ lần cuối trên bất cứ món gì êm ái như thế này vào lúc nào. Rồi y kiểm tra tủ áo và tìm thấy ba quần dài và ba áo vét, không giống như những loại y đã mua mấy ngày vừa qua sau khi trở về từ Washington. Y làm sao mà biết được?

Y nhìn vào các ngăn kéo: sáu sơ mi, sáu quần lót và sáu đôi vớ. Họ đã nghĩ tới tất cả mọi thứ, cho dù y không quan tâm nhiều về việc họ lựa chọn cà vạt.

Dollar Bill quyết định tham gia trò chơi. Y tắm, cạo râu và thay quần áo người ta đã cung cấp. Mọi thứ, như Charles đã hứa hẹn, đều vừa khít.

Y chợt nghe một tiếng chuông vang lên ở dưới lầu và y xem đó là dấu hiệu mời gọi. Y liền mở cửa và bước ra hành lang, tiếp tục đi xuống cầu thanh rộng và trông thấy viên quản gia đang đứng chờ trong tiền sánh.

- Ông Hutchins đang đợi ông. Ông sẽ tìm thấy ông ấy trong phòng khách, thưa ông.

- Vâng, tất nhiên, - Dollar Bill nói, và đi theo Charles vào trong một căn phòng rộng. Nơi đây một người đàn ông cao lớn, lực lưỡng đang dừng bên cạnh lò sưởi, mẩu xì gà ngậm trong khóe miệng.

- Chào ông O'Reilly, - người đàn ông nói - Tên tôi là Dexter Huchins. Chúng ta chưa hề gặp nhau trước đây, nhưng từ lâu tôi vẫn là người khâm phục tài nghệ của ông.

- Đó là kiểu của ông, ông Hutchins, nhưng tôi không có cùng lợi thế như ông để biết ông làm gì trong suốt giờ vừa qua.

- Tôi thành thực xin lỗi vậy. Tôi là Phó giám đốc CIA.

- Sau biết bao nhiêu năm trường, tôi mới được dùng bữa tối trong một ngôi dã thự với vị Phó giám đốc của CIA chỉ vi tôi đã dính líu vào một vụ ẩu đả trong quán rượu. Tôi ước ao được hỏi ông sắp đặt những gì cho bọn giết người hàng loạt?

- Tôi phải thú thực, ông O'Reilly, rằng chính một người trong bọn chúng tôi đã tung quả đấm đầu tiên. Nhưng trước khi đi xa hơn, tôi muốn hỏi ông uống gì?

- Tôi không nghĩ Charles có thứ bia tôi ưa thích. - Dollar Bill vừa nói vừa quay sang nhìn vào mặt viên quản gia.

- Tôi e Guinness chỉ có loại đóng hộp chứ không có loại đóng thùng, thưa ông. Nếu đã được thông báo đầy đủ hơn.

Dollar Bill lại cúi đầu chào và viên quản gia biến mất.

- Ông không nghĩ tôi được quyền biết về tất cả câu chuyện này chứ, ông Hutchins? Xét cho cùng…

- Quả thực ông có quyền, ông O'Reilly. Sự thực là chính phủ cần sự giúp đỡ của ông, cũng như khả năng chuyên môn của ông.

- Tôi đã không nhận thức được những người ủng hộ Clinton lại tận dụng việc làm đồ giả để giúp cho việc cân bằng thiếu hụt ngân sách. - Dollar Bill nói trong lúc viên quản gia trở lại với một ly Guinness lớn.

- Không đến nỗi quyết liệt như thế đâu, nhưng mỗi chút một cần thiết, - Hutchins nói - Nhưng có lẽ chúng ta nên dùng một bữa ăn tối nhẹ trước khi đi vào các chi tiết. Tôi e hôm nay là một ngày dài đối với ông.

Dollar Bill gật đầu và đi theo vị Phó giám đốc vào một căn phòng nhỏ, nơi đây bàn đã được dọn cho hai người.

Viên quản gia kéo một chiếc ghế lui cho Dollar Bill và hòi sau khi y đã ngồi xuống một cách thoải mái:

- Ông thích bít tết như thế nào, thưa ông?

- Thịt lưng hay thịt sườn? - Dollar Bill hỏi.

- Thịt lưng.

- Nếu thịt đã vừa đủ chín, xin nói với đâu bếp hãy dí một ngọn đèn cầy bên dưới - nhưng chỉ trong một lát thôi.

- Vâng, thưa ông. Còn của ông, ông Hutchins. Tôi đoán cần phải thật chín phải không ạ?

Dexter Hutchins gật đầu, cảm thấy hiệp một đã rõ ràng nghiêng về phía Dollar Bill.

- Tôi hết sức thích thú trò chơi đố chữ này, - Dollar Bill nói sau khi uống một ngụm Guinness. - Nhưng tôi muốn biết phần thưởng là gì nếu tôi đủ may mắn để thắng cuộc.

- Chắc ông cũng muốn biết phần phạt là gì nếu ông đủ bất hạnh để thua cuộc.

- Đáng lẽ tôi phải nhận thấy việc này càng kéo dài càng thú vị.

- Trước hết, cho phép chúng tôi cung cấp ông một chút thông tin cần thiết, - Dexter Hutchins nói trong lúc một miếng bít tết nướng vừa phải được đặt phía trước người khách của ông. - Ngày 25 tháng 5 năm nay, một nhóm tội phạm có tổ chức tinh vi đã đến Washington và thực hiện một trong những vụ án tài tình nhất trong lịch sử của đất nước này.

- Bít tết ngon tuyệt, - Dollar Bill nói - Anh phải cho tôi gửi lời khen ngợi người đầu bếp.

- Tôi sẽ chuyển lời, thưa ông, - Charles đang chực sẵn phía sau ghế liền đáp lại.

- Vụ án này bao gồm việc lấy trộm khỏi Viện Bảo tàng lịch sử quốc gia ngay giữa ban ngày. Bản Tuyên ngôn Độc lập và thay thế vào đó một bán sao xuất sắc.

Dollar Bill tỏ vẻ quan tâm một cách vừa phải, nhưng cảm thấy không khôn ngoan nếu có lời bình luận vào lúc này.

- Chúng tôi có tên của nhiều người dính líu vào vụ án này, nhưng chúng tôi không thể bắt giữ một ai vì sợ làm cho những kẻ khác đang nắm giữ bản Tuyên ngôn biết rằng chúng tôi đang săn đuổi bọn chúng.

- Và chuyện này ăn nhập gì tới tôi? - Dollar Billy hỏi trong lúc ông ta ngấu nghiến một miếng thịt ngon lành khác.

- Chúng tôi đã nghĩ có lẽ ông muốn biết ai là kẻ đã tài trợ cho toàn bộ chiến dịch, và giờ đây đang nắm giữ bản Tuyên ngôn Độc lập?

Cho đến lúc đó, Dollar Bill không nghe điều gì mới những người đã từ lâu mong muốn biết cuối cùng bản tài liệu ở đâu. Y không bao giờ tin cậy chuyện của Angelo về một nhà sưu tập kỳ quặc. Y liền đặt dao và nĩa xuống, và đăm đăm nhìn vị Phó giám đốc CIA ở bên kia bàn, cuối cùng đã khiến cho người này nhận thấy sự quan tâm của y.

- Chúng tôi có lý do để tin rằng bản Tuyên ngôn Độc lập hiện đang ở Baghdad, do chính Saddam Hussein nắm giữ.

Miệng của Dollar Bill há hốc ra, mặc dù y vẫn giữ im lặng trong một thời gian đáng kể.

- Không còn có danh dự kẻ cướp nữa hay sao? - Cuối cùng y nói.

- Có thể vẫn còn. - Hutchins nói, - Bởi vì hy vọng duy nhất của chúng tôi trong việc đưa bản Tuyên ngôn Độc lập trở về nơi chính đáng của nó vẫn còn nằm trong tay của một nhóm; người sẵn sàng hy sinh tính mạng của họ bằng cách đánh tráo tài liệu này, theo cách y hệt như bọn tội phạm đã làm trước đây.

- Nếu tôi đã biết…, Dollar Bill chợt dừng lại một lát rồi khẽ hỏi tiếp -Tôi có thể giúp đỡ bằng cách nào?

- Ngay lúc này, chúng tôi cần có một bản sao hoàn hảo của bản gốc. Và chúng tôi tin tưởng ông là người duy nhất có thể làm được việc đó.

Dollar Bill biết chính xác nơi có một bản sao hoàn hảo, treo trên một bức tường ở New York, nhưng không thể thú nhận như vậy mà không tự chuốc vào thân cơn thịnh nộ lớn hơn khả năng của ông Hutchins.

- Ông đã đề cập một phần thưởng, - Dollar Bill nói.

- Và một phiền phức, - Dexter Hutchins nói - Phần thưởng là ông vẫn ở lại đây, trong một ngôi nhà an toàn ở bờ Tây của chúng tôi, nơi mà tôi nghĩ ông sẽ nhìn nhận là môi trường dễ chịu. Trong lúc ông ở với chúng tôi, ông sẽ tạo ra một bản Tuyên ngôn giả sẽ qua được mắt kẻ thành thạo nhất. Nếu ông hoàn thành việc đó, ông sẽ được tự do ra đi, không bị buộc một tội danh nào cả.

- Và phần phạt?

- Sau khi dùng xong cà phê, ông sẽ được thả ra và được phép rời khỏi đây bất cứ lúc nào tôi muốn.

- Được thả ra, - Dollar nhắc lại với vẻ hoài nghi, - và được phép rời khỏi đây bất cứ lúc nào tôi muốn?

- Phải. - Vị Phó giám đốc nói.

- Thế thì tại sao tôi lại không thể chỉ việc thưởng thức phần còn lại của bữa ăn tối tuyệt vời này trở về cơ sở tầm thường của tôi ở Fairmount và quên chúng ta đã gặp nhau?

Vị Phó giám đốc lấy ra một phong bì từ một túi bên trong. Ông rút bốn tấm ảnh và đẩy chúng qua mặt bàn.

Dollar Bill xem kỹ từng tấm một. Tấm thứ nhất là một cô gái khoảng mười bảy tuổi nằm trên một phiến đá trong một nhà xác. Tấm thứ hai là một người đàn ông trung niên cuộn tròn như một bào thai trong khoang hành lý của một chiếc xe hơi. Tấm thứ ba là một người đàn ông bị vứt bỏ bên lề một con đường. Và tấm thứ tư là một người đàn ông lớn tuổi có vẻ cao sang. Một cái cổ bị gẫy là đặc điểm chung cho tất cả bốn người. Dollar Bill đẩy mấy tấm ảnh trở lại qua mặt bàn.

- Bốn xác chết, nhiều thế à?

- Sally McKenzie, Rex Butterworth, Bruno Morelli và tiến sĩ Hamilton McKenzie. Và chúng tôi có mọi lý do để tin tưởng một kẻ nào đó ở ngoài kia đang chuẩn bị một kết thúc tốt đẹp tương tự như ông.

Dollar Bill xiên hạt đậu cuối cùng còn lại trên đĩa của y và nốc cạn giọt Guinness cuối cùng. Y dừng lại một lát như thể đang tìm kiếm nguồn cảm hứng.

- Tôi sẽ cần giấy của Bremen, bút của một viện bảo tàng ở Richmond, Virginia và chín loại mực đen có màu sắc khác nhau mà tôi có thể đặt pha chế bởi một hãng ở Cannon Street, London ECA.

- Còn gì khác nữa? - Dexter Hutchins hỏi sau khi đã viết xong danh sách mua hàng của Dollar Bill trên một mặt sau của chiếc phong bì.

- Tôi không biết Charles có thể vui lòng cho tôi thêm một ly Guinness thật lớn nữa hay không. Tôi có cảm tưởng đây có lẽ là ly cuối cùng cho một thời gian đáng kể.

--- ------ ------ ------ -------

1 Amman: thủ đô của Jordan, thành phố Rabbah trong kinh Thánh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,745
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


Pertil Perdersson, kỹ sư trưởng của Svenhalte, AC, đứng tại cổng nhà máy Kalmar để chào đón ông Riffat và ông Bernstrom khi hai người đến buổi sáng hôm ấy. Ông ta đã nhận được một bức fax từ Liên Hiệp Quốc ngày hôm trước xác nhận thời gian bay của họ đến Stockholm, và đã kiểm tra lại với quầy đến ở phi trường để được thông báo rằng máy bay của họ đã hạ cánh trễ ít phút.

Trong lúc họ bước ra khỏi xe hơi, ông Perdersson tiến tới trước bắt tay với cả hai người và tự giới thiệu.

- Chúng tôi vui mừng đã gặp được ông, ông Perdersson, - người đàn ông thấp nói, - và cám ơn ông vì đã thu xếp thời giờ để tiếp chúng tôi trong một thời hạn ngắn như thế.

- Thành thực mà nói, ông Riffat, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên khi Liên hợp quốc giải toả hạn chế đối với bà Bertha.

- Bà Bertha?

- Vâng, đó là cách chúng tôi nói chiếc tủ sắt ở nhà máy. Tôi xin hứa với quý ông rằng mặc dù quý ông không để ý bà ta không khác gì một cô gái tuyệt dẹp. Nhiều người đã đến đây để ngưỡng mộ bà ta, nhưng không một ai sờ mó được.

Ông Perdersson bật cười rồi nói tiếp:

- Nhưng tôi cảm thấy chắc chắn rằng sau một cuộc hành trình dài như vậy ông Riffat sẽ muốn tận mắt trông thấy nó.

Người đàn ông thấp có mái tóc đen gật đầu. và cả hai cùng đi theo ông Perdersson trong lúc ông ta dẫn họ qua khoảng sân.

- Ông phản ứng hết sức nhanh với sự đổi ý bất ngờ của Liên Hiệp Quốc. Ông Riffat.

- Vâng, vị lãnh tụ của chúng tôi đã ra lệnh chiếc tủ sắt phải được giao tới Baghdad ngay lúc việc cấm vận được giải toả.

Perdersson lại bật cười và nói sau khi họ đã đến phía bên kia sân:

- Tôi e việc đó không thể dễ dàng như thế. Bà Bertha không thuộc loại chế tạo nhanh, như ông sắp sửa nhận thấy.

Ba người tiếp tục đi về phía một toà nhà lớn trông bế ngoài có vẻ vô chủ và Perdersson sải bước qua một khoảng hở chắc hẳn trước kia là một khung cửa. Bên trong tối đến nỗi hai người khách lạ không thể nào trông thấy rô xa hơn vài mét phía trước họ. Perdersson bật một bóng đèn đơn độc, tiếp theo đó là một tiếng động nhẹ nghe như một tiếng thở dài của một người tình không được đáp lại.

- Ông Riffat, ông Bernstrom, xin cho phép tới giới thiệu quý ông với bà Bertha.

Hai người nhìn chằm chằm vào cấu trúc đồ sộ đứng một cách uy nghi chính giữa nến nhà kho cũ.

- Trước khi tôi trình bày một lời giới thiệu trang trọng, - Perdersson nói tiếp, - trước hết xin để cho tôi kể với quý ông về những con số thống kê tối quan trọng của bà Bertha. Bà ta cao hai mét bảy mươi lăm, rộng hai mét mười lăm và sáu hai mét bốn mươi lăm. Bà ta cũng có da dày như bất kỳ một chính trị gia nào, khoảng mười lăm phân bằng một loại thép nặng biệt và cân nặng trên năm tấn. Bà ta được chế tạo bởi một nhà thiết kế chuyên nghiệp, ba người thợ lành nghề và tám kỹ sư. Thời gian thai nghén của bà ta từ lúc tính toán tới lúc giao hàng là mười tám tháng.

Ông ta chợt hạ tháp giọng trong lúc vẫn tiếp tục nói:

- Nhưng rồi, công bằng mà nói, bà ta gần như có kích thước của một con voi. Tôi phải hạ thấp giọng xuống chỉ vì bà ta có thể nghe mọi lời tôi nói và tôi không muốn chọc giận bà ta.

Ông Perdersson không trông thấy vẻ bối rối hiện ra trên khuôn mặt của hai người khách.

- Nhưng, quý ông chỉ vừa mới thấy bên ngoài của bà ta và tôi có thể hứa với quý ông rằng bà ta không phải chỉ có bên ngoài. Trước hết, tôi phải nói với quý ông rằng "bà Bertha" sẽ không cho phép bất cứ ai vào bên trong nếu người đó không được phép giới thiệu rõ về bản thân. Quý ông nên biết bà ta không phải là một phụ nữ lăng nhăng, mặc dù quý ông có thể đã được nghe nói về người Thuỵ Điển. Bà ta đòi hỏi biết ba điều trước khi xem xét việc tiết lộ những phần trong cùng của mình.

Mặc dù hai người khách vẫn còn hoang mang về những gì ông ta ngụ ý, họ không ngắt lời đều đều của ông Perdersson.

- Đầu tiên quý ông cần phải nghiên cứu ngực của Bertha. Quý ông sẽ nhìn kỹ ba bóng đèn màu đỏ phía trên ba mặt số nhỏ. Biết được tất cả mã số tên tất cả ba mặt số, quý ông có thể bặt các bóng đèn từ đỏ sang xanh lá cây.

- Xin cho biết tôi trình bày tường tận. Tất cả ba mặt số đều có một mã số gồm sáu con số. Con số đầu tiên bên phải, thứ hai bên trái, thứ ba bên phải, thứ tư bên trái, thứ năm bên phải, thứ sáu bên trái. Con số đấu tiên cho mặt số đầu tiên là 2, thứ hai là 8, thứ ba là 0, thứ tư là 4 thứ năm là 3 và thứ sáu là 7. 2-8-0-4-3-7.

- Ngày sinh của Sayedi, - người khách cao có mái tóc vàng hoe nói.

- Vâng, tôi đã tìm được mã số đó, ông Bernstrom, - ông Perdersson nói, rồi quay sự chú ý sang mặt số ở giữa rồi nói tiếp - Mã số thứ hai là 1-6-0-7-7-9. Ông ta quay con so cuối cùng sang bên trái.

- Ngày Sayedi trở thành Tổng thống.

- Chúng tôi cũng đã tìm ra mã số đó, ông Riffat.

Nhưng tôi thú nhận tiến trình thứ ba đã làm cho chúng tôi hoàn toàn điên đầu. Chắc chắn ông sẽ biết khách hàng của chúng tôi đã chuẩn bị điều gì cho cái ngày đặc biệt đó.

Ông Perdersson bắt đầu xoay mặt số thứ ba: 0-4-0-7-9-3. Ông ta nhìn vui vẻ hy vọng về phía ông Bernstrom.

- Tôi không biết, - Bernstrom nhún vai, nói dối.

Bây giờ quý ông sẽ lưu ý rằng sau khi cho cả con số đúng vào cả ba mặt số, chỉ có một trong ba bóng đèn của Bà Bertha chuyển sang màu xanh lá cây, trong lúc hai bóng còn lại vẫn giữ màu đỏ. Nhưng lúc này sau khi quý ông đã khám phá ra ba mã số của bà ta, bà ta sẽ xem xét một mối liên hệ riêng tư hơn. Quý ông sẽ nhận thấy ở bên dưới ba mặt số có một hình vuông nhỏ sơn trắng có kích thước bằng bàn tay. Quý ông hãy quan sát thật kỹ.

Perdersson tiến tới một bước và đặt bàn tay phải một cách cương quyết lên hình vuông màu trắng. Ông ta để bàn tay tại đó trong mấy giây, cho tới lúc bóng đèn thứ hai chuyển sang màu xanh lá cây.

Ngay khi bà ta biết dấu lòng bàn tay của ông, bà ta vẫn chưa chịu tâm sự, cho tới lúc ông đã nói chuyện với bà ta. Nếu quý ông nhìn kỹ hơn nữa, quý ông sẽ thấy rằng hình vuông màu trắng che đậy một tấm lưới mỏng chứa một bộ phận hoạt hoá tiếng nói.

Cả hai người bước tới trước để nhìn.

- Vào lúc này, Bertha được lập chương trình để chỉ phản ứng lại dây thanh đới của tôi. Bất kể tôi nói gì, bởi vì khi bà ta nhận ra giọng nói, bóng đèn thứ ba sẽ chuyển sang màu xanh lá cây. Nhưng bà ta thậm chí sẽ không thèm nghe tôi trừ phi bóng đèn thứ nhất và thứ hai đã ang màu xanh lá cày.

Perdersson bước tới trước đặt môi đối diện với tấm lưới.

- Hai vị đã đến từ Mỹ để thăm bà và muốn biết bên trong như thế nào.

Ngay cả trước khi ông ta nói xong câu đó, bóng đèn đỏ thứ ba đã biến thành xanh lá cây, và mọi người có thể nghe một âm thanh chát tai.

- Bây giờ, thưa quý ông, chúng ta đến phần trình bày mà chúng tôi đặc biệt hãnh diện. Cánh cửa nặng quá một tấn, tuy nhiên lại có thể được mở ra bởi một đứa bé con. Công ty của chúng tôi đã triền khai một hệ thống bạc đạn bằng hợp kim phốt pho đồng trước lúc nó ra đời cả một thập niên. Xin mời ông Riffat, tại sao ông không đích thân thử xem.

Người đàn ông thấp liền bước tới trước, nắm chặt quai tủ sắt và kéo. Tất cả ba bóng đèn lập tức chuyển sang màu đỏ và một tiếng động chát tai lại vang lên.

Perdersson cười mỉm.

- Ông thấy đó, ông Riffat, trừ phi Bà Bertha biết rõ cá nhân ông, bà ta đóng sầm cửa lại và trả ông trở về khu vực đèn đỏ.

Ông ta bật cười thành tiếng với một câu nói đùa mà các vị khách của ông ta tin chắc ông ta đã thốt lên nhiều lần trước kia, rồi tiếp lời:

- Bàn tay mở tủ sắt phải chính là bàn tay đã trải qua cuộc thứ nghiệm dấu tay. Một thiết bị an toàn tốt, tôi nghĩ quý ông sẽ đồng ý.

Cả hai người gật đầu khâm phục trong lúc Perdersson nhanh nhẹn xoay trở với ba mặt số, đặt bàn tay lên khung vuông rồi nói với Bà Bertha. Từng cái một, ba bóng đèn răm rắp chuyển sang màu xanh lá cây.

- Bây giờ bà ta đã sẵn sàng để cho tôi, và chỉ một mình tôi, mở toang ra. Vì thế xin quý ông quan sát thật kỹ. Như tôi đã nói, mặc dù cánh cửa nặng tới một tấn, nó vẫn có thể mở ra được một cách hết sức nhẹ nhàng, như thế này.

Perdersson kéo lui khối thép đồ sộ nặng một tấn chẳng khác khi ông ta mở cánh cửa trước nhà ông ta. Ông ta nhảy vào bên trong chiếc tủ sắt và bắt đầu bước vòng quanh, thoạt tiên với hai cánh tay duỗi ra để cho thấy ông ta không thể chạm vào hai bên trong lúc đứng ở chính giữa, rồi vòi hai bàn tay phía trên đầu, cho thấy ông ta không sao đụng tới nóc.

- Xin quý ông vào đây, - Ông ta gọi lớn từ bên trong.

Hai người liền nhẹ nhàng bước lên gặp ông ta.

- Trong trường hợp này, ba người không phải là đông, - Perdersson lại vừa cười vừa nói, - Và quý ông sẽ thích thú khám phá ra rằng tôi không thể tự làm cho mình bị khoá lại ở bên trong.

Đoạn ông ta nắm quai tủ ở phía trong và kéo cánh cửa đóng lại.

Hai trong số người ở bên trong cảm thấy phần thí nghiệm này không hấp dẫn một chút nào.

- Quý ông thấy đó, - Perdersson nói tiếp, không thể che giấu vẻ mãn nguyện trong giọng nói của mình, - Bertha không thể tự khoá lại trừ phi chính bàn tay của tôi đặt lên quai bên ngoài.

Với một cái đẩy nhẹ, cánh cửa đã mở và Perdersson bước ra, theo sát sau bởi hai vị khách hàng của ông ta.

- Tôi đã có lần ở bên trong suốt một buổi tối trước khi hệ thống được hoàn thành một cách tuyệt hảo - một loại tình tự đó mà, quý ông có thể bảo như thế. - Perdersson nói.

Ông ta còn cười to hơn trong lúc đẩy cánh cửa trở lại như cũ, rồi quay sang nhìn thẳng vào mặt họ và nói tiếp:

- Quý ông đã được giới thiệu với Bà Bertha rồi đấy. Bây giờ, nếu quý ông vui lòng đi cùng tôi trở về văn phòng của tôi, tôi sẽ đưa cho quý ông một phiếu giao hàng và quan trọng hơn, cuốn thánh thư của Bertha.

Trong lúc họ trở qua sân, Perdersson giải thích với hai vị khách của ông ta rằng cuốn sách chỉ dẫn đã được công ty xem là tối mật. Họ đã sản xuất một cuốn bằng tiếng Thuỵ điển mà công ty lưu trữ trong một tủ sắt nặng, và một cuốn khác bằng tiếng A rập mà Perdersson nói ông ta sẽ vui lòng giao cho họ.

- Cuốn thánh thư dài 108 trang, nhưng đủ đơn giản để hiểu nếu ông là một kỹ sư có bằng cấp loại xuất sắc.

Ông ta lại cười rồi nói tiếp:

- Người Thuỵ điển chúng tôi là một chủng tộc hoàn chỉnh.

Không một người nào cảm thấy có thể không tán thành với ông ta.

- Quý ông có ai cần hộ tống Bà Bertha trên đường đi hay không? - Perdersson hỏi, đôi mắt tỏ vẻ hy vọng.

- Không, cám ơn, - câu trả lời lập tức đáp lại. - Tôi nghĩ chúng tôi có thể giải quyết vấn đề vận chuyển.

- Thế thì chúng tôi chỉ còn hỏi quý ông một câu, - Perdersson nói trong lúc ông ta bước vào văn phòng của mình. - Bao giờ các ông sẽ lấy tủ đi?

- Chúng tôi đã hy vọng đến lấy chiếc tủ trong buổi chiều hôm nay. Chúng tôi đã hiểu qua bản fax mà ông đã gởi đến Liên Hiệp Quốc rằng công ty của ông có mọt cần cẩu có thể phù hợp với chiếc tủ, và một xe kéo hàng có thể chớ nó tới một chỗ khác.

- Ông rất đúng khi nghĩ chúng tôi có một cần cẩu phù hợp, và một xe kéo hàng đã được đặc biệt thiết kế để đưa Bà Bertha đi tên các đoạn đường ngắn. Tôi cũng tin chắc tôi có thể chuẩn bị mọi việc cho ông trong buổi chiều hôm nay. Nhưng việc đó không bao gồm vấn đề vận chuyển.

- Chúng tôi đã có xe riêng đang đậu trong Stockholm.

- Tuyệt, thế là mọi việc đã được giải quyết, - Ông Perdersson nói - Tất cả những gì tôi cần phải làm trong lúc quý ông vắng mặt là xoá chương trình về bàn tay và giọng nói của tôi để Bà Bertha có thể chấp nhận bất cứ ai quý ông chọn đề thế chỗ tôi.

Perdersson lại có vẻ hy vọng hão huyền một lần thứ hai trong lúc nói tiếp:

- Tôi ước mong gặp lại quý ông chiều hôm nay.

- Tôi sẽ đích thân trở lại đảy, - Riffet nói - Ông Bernstrom sắp trở về Mỹ.

Perdersson gật đầu và nhìn theo hai người trèo lên xe hơi của họ trước khi ông ta chậm bước trở về văn phòng của mình. Điện thoại trên bàn của ông ta đang reo chuông, ông nhấc ống nghe lên và nói: "Bertil Perdersson đây". Sau khi lắng nghe lời yêu cầu của người gọi, ông ta đặt ống nghe lên bàn và chạy tới khung cửa sổ, nhưng chiếc xe hơi đã khuất dạng. Quay trở lại máy điện thoại, ông ta nói tiếp:

- Tôi rất lấy làm tiếc, ông Al Obaydi, hai vị đến xem chiếc tủ sắt vừa mới rời khỏi đây, nhưng ông Riffet sẽ quay lại trong buổi chiều hôm nay để lấy chiếc tủ đi. Tôi sẽ cho ông ấy biết ông đã gọi chứ?

° ° °

Al Obaydi đặt chiếc điện thoại xuống ở Baghdad, và bắt đầu xem xét một cuộc điện thoại bình thường có thể làm này sinh những hàm ý gì. Với tư cách Phó đại sứ ở Liên Hiệp Quốc, ông ta có nhiệm vụ cập nhật hoá danh sách các biện pháp chế tài. Ông ta đã hy vọng chuyển hồ sơ trong vòng một tuần cho người kế nhiệm còn chưa được đề bạt.

Trong hai năm vừa qua, bất chấp nhiều cú điện thoại không liên lạc được và nhiều công chức không bao giờ ngôi tại bàn - và thậm chí khi họ ngồi họ cũng quá sợ hãi đến nỗi không trả lời được những câu hỏi cơ bản nhất - ông ta hầu như ở trong tư thế có thể hoàn tất bản thảo đầu tiên cho báo cáo của mình.

Các phạm vi hoạt động có khó khăn là: máy móc nông nghiệp, phân nửa bị uỷ ban chế tài Liên Hiệp Quốc xem là thiết bị quân sự dưới một cái tên khác, đồ dùng trong bệnh viện, kể cả được phẩm, về loại này Liên Hiệp Quốc chấp nhận phần lớn yêu cầu của họ; và lương thực, loại này thì họ được phép mua - mặc dù phần lớn sản phẩm qua khỏi biên giới dường như xuất hiện trên chợ đen rất lâu trước khi tới được các bà nội trợ ở Baghdad.

Một danh sách thứ tư có đầu đề "Linh tinh", trong đó bao gồm một chiếc tủ sắt lớn mà khi Al Obaydi kiểm tra lại kích thước, thì hoá ra gần như bằng căn phòng ông ta hiện đang ngồi làm việc. Chiếc tủ sắt, theo một báo cáo nội bộ xác nhận, đã được chế tạo ở Thuỵ điển trước cuộc giải phóng dự kiến Tỉnh thứ mười chín, và lúc này đang được đặt trong một nhà kho ở Kalmar, chờ đợi được lấy đi. Cấp chỉ huy của Al Obaydi ở Liên Hiệp Quốc đã thú thật một cách kín đáo rằng ông ta đã ngạc nhiên vì uỷ ban chế tài đã giải toả cấm vận đối với chiếc tủ sắt nhưng điều này vẫn không ngăn cản ông ta cam đoan với vị Bộ trưởng Ngoại giao rằng họ đã làm như vậy là do kết quả cuộc thương lượng thận trọng đầy khéo léo của ông ta.

Al Obaydi ngồi ở chiếc bàn chất đầy hồ sơ của ông ta, xem xét hành động kế tiếp của mình sẽ là gì. Ông ta viết một danh sách ngắn các đề mục trên tập giấy trước mặt:

1. Bộ Công nghiệp.

2. An ninh Quốc gia.

3. Thứ trưởng Ngoại giao.

4. Kalmar.

Al Obaydi nhìn lướt qua đề mục thứ nhất. Bộ Công nghiệp. Ông ta đã giữ liên lạc với một người bạn sinh viên trường Đại học London, kể từ lúc người này thăng chức.

Al Obaydi có cảm tưởng ông bạn cũ của mình sẽ có thể cung cấp thông tin yêu cầu mà không nghi ngờ động cơ thực của ông ta.

Ông ta quay số điện thoại riêng của Bí thư thường trực và vui mừng nhận thấy có người ở bàn làm việc.

- Nadhim, Hamid Al Obaydi đây.

- Hamid, tôi nghe nói anh đã rời khỏi New York. Có tin đồn rằng anh đã được ở lại Toà đại sứ của chúng ta ở Paris. Nhưng người ta không bao giờ có thể tin chắc các tin đồn trong đất nước này.

- Lần này họ đồn chính xác đấy, - Al Obaydi nói với bạn.

- Xin chúc mừng. Thế thì tôi có thể làm gì cho ngài đây thưa ngài?

Al Obaydi thích thú khi Nadhim là người đầu tiên nói với ông ta bằng cái kiểu mới đó, cho dù ông bạn đang mỉa mai.

- Các biện pháp chế tài của Liên Hiệp Quốc.

- Và anh khai là bạn của tôi?

- Không, đó chỉ là một việc kiểm tra thường lệ. Tôi đã phải buộc chặt các đầu mối lỏng lẻo cho người kế nhiệm của tôi. Theo tôi biết thì mọi việc đều ổn, ngoại trừ tôi không thể tìm hiểu gì nhiều về cái tủ sắt khổng lồ đã được chế tạo cho chúng ta ở Thuỵ điển. Tôi biết chúng ta đã thanh toán đủ tiền, nhưng tôi không thể khám phá ra chuyện gì đang xảy đến vấn đề giao hàng.

- Không phải bộ này, Hamid. Trách nhiệm đã được lấy khỏi tay chúng tôi cách đây một năm sau khi hồ sơ được ghi dấu "Chi huy cao cấp", điều đó thông thường có nghĩa là cho tổng thống sử dụng riêng.

- Nhưng một người nào đó phải chịu trách nhiệm xin một lệnh điều động từ Kalmar đến Baghdad, - Al Obaydi nói.

- Tôi chỉ biết một điều là tôi được chỉ thị chuyển hồ sơ tiếp tục đến văn phòng Liên Hiệp Quốc ở Geneve. Tôi lấy làm lạ vi anh lại không biết điều đó, Hamid. Tôi vẫn tưởng Bộ của anh hơn Bộ của tôi chứ?

- Thế thì tôi phải bắt liên lạc với Geneve để tìm hiểu xem họ đang làm gì về việc đó! - Al Obaydi, không giải thích thêm rằng New York và Geneve rất ít khi thông báo cho nhau bất cứ việc gì họ đã làm.

- Cám ơn về sự giúp đỡ của anh, Nadhim.

- Luôn luôn sẵn lòng. Chúc may mắn ở Paris. Hamid. Tôi nghe nói phụ nữ ở đó rất tuyệt vời, và bất kể anh nghe gì họ thích người A rập lắm đấy.

Al Obaydi đặt máy điện thoại xuống và chăm chú nhìn bản danh sách trên tập giấy. Thậm chí ông ta mất một thời gian lâu hơn trước khi quyết định nên gọi cú điện thoại thứ hai hay không.

Tiến trình chính xác của sự việc với thông tin mà ông ta hiện nắm trong tay sẽ là liên lạc với Geneve, báo động vị đại sứ về những mối nghi ngờ của ông ta và một lần nữa để cho người em trai cùng mẹ khác cha của Saddam bày tỏ lời khen ngợi về điều ông ta đã đích thân khởi đầu… Ông ta xem đồng hồ. Lúc này là mười hai giờ trưa ở Thuỵ sĩ.

Ông ta yêu cầu cô thư ký liên lạc với Barazan Al Tikriti qua điện thoại, biết rằng cô ta sẽ có cách gọi. Ông ta chờ mấy phút mới nghe một giọng nói trên đường đây.

- Tôi có thể nói chuyện với ông Đại sứ? - Ông ta hỏi một cách lễ độ.

- Ông ấy đang họp, thưa ông, - câu trả lời quen thuộc vang lên. - Tôi sẽ không quấy rầy ông ấy nhé?

- Không, không, đừng làm phiền. Nhưng xin cô cho ông ấy biết rằng Hamid Al Obaydi đã gọi từ Baghdad, và hỏi ông ấy có thể vui lòng gọi lại cho tôi hay không.

- Vâng thưa ông, - giọng nói đáp lại, và Al Obaydi đặt máy điện thoại xuống.

Ông ta đã thực hiện đúng thủ tục. Ông ta mở hố sơ chế tài trên bàn làm việc và hy vọng viết lên cuối bản phúc trình của mình: "Bộ Công nghiệp đã gởi hồ sơ liên quan tới món hàng này tới thẳng Geneve. Tôi đã gọi điện thoại cho Đại sứ ở đó nhưng không thể bắt liên lạc với ông ấy. Vì vậy tôi không thể đạt được bất kỳ tiến bộ nào ở đầu dây bên này cho tới khi được gọi lại. Hamid Al Obaydi".

Al Obaydi xem xét động tác kế tiếp của mình một cách vô cùng thận trọng. Nếu ông ta quyết định làm bất cứ điều gì, các hành vi của ông ta phải một lần nữa mang một bộ mặt bình thường và hoàn toàn trong khuôn khổ đã được chấp thuận. Chỉ cần sai lệch một chút khỏi quy tắc trong một thành phố gây nên tin đồn và nghi ngờ, thì chính ông ta sẽ chấm dứt cuộc đời với một sợi dây treo cổ, chứ không phải là người em trai cùng mẹ khác cha của Saddam.

Al Obaydi nhìn xuống đề mục thứ hai trên tập giấy.

Ông ta bấm chuông gọi cô thư ký và yêu cầu liên lạc với Đại tướng Saba Awi Al-Hassan, Chỉ huy trưởng An ninh Quốc gia, qua điện thoại, chức vụ này là một vị trí công tác đã được giữ bởi ba người khác nhau trong bảy tháng vừa qua. Đại tướng có ngay trên đường dây. Trong chế độ của Iraq, số lượng Đại tướng nhiều hơn Đại sứ.

- Chào ông Đại sứ, tôi đang định gọi ông. Chúng ta phải có một cuộc thảo luận trước khi ông nhận nhiệm vụ mới ở Paris.

- Chỉ là suy nghĩ của tôi thôi mà, - Al Obaydi nói. - Tôi không biết ai là người vẫn còn đang đại diện cho chúng ta ở châu Âu. Đã từ lâu lắm rồi tôi không còn phục vụ ở vùng đất đó của thế giới.

- Thành thực mà nói, chúng ta hơi khan hiếm. Hầu hết những người xuất sắc nhất của chúng ta đã bị trục xuất, kể cả những người được gọi là sinh viên mà chúng ta vẫn luôn luôn tin cậy vào trong quá khứ. Tuy nhiên, đây không phải là một vấn đề thảo luận qua điện thoại. Ông muốn lúc nào tôi đến thăm ông?

- Ông có rảnh trong khoảng từ bốn đến năm giờ chiều nay?

Viên đại tá ngừng một lát mới đáp:

- Tôi sẽ đến với ông vào khoảng bốn giờ nhưng phải quay về văn phòng lúc năm giờ. Ông có nghĩ như thế sẽ đủ thời gian cho chúng ta?

- Tôi nghĩ chắc chắn Đại tướng sẽ có thể hướng dẫn giúp tôi một cách đầy đủ trong một quãng thời gian đó.

Al Obaydi đặt máy điện thoại xuống để tiếp tục gọi một cách bình thường khác.

Ông ta nhìn vào tên thứ ba trên bản danh sách, người mà ông e ngại có thể hơi khó hù doạ hơn.

Ông ta bỏ ra mấy phút để nghiền ngẫm lại các câu hòi trước khì quay một số nội bộ. Một cô Saib nào đó trả lời điện thoại.

- Ông có một vấn đề đặc biệt cần nêu lên với ông Thứ trưởng Ngoại giao phải không ạ? - Cô ta hỏi.

- Không, - Al Obaydi đáp, - Tôi gọi theo yêu cầu cụ thề của ông ấy. Tôi sắp sửa đi vào cuối tuần, và ông Thứ trưởng đã quả quyết ông ấy muốn nói chuyện với tôi trước khi tôi đến nhận nhiệm vụ mới ở Paris.

- Tôi sẽ liên lạc trở lại với ông ngay sau khi tôi có cơ hội báo cáo yêu cầu của ông với ông Thứ trường, - Cô Saib hứa.

Al Obaydi đặt máy điện thoại xuống. Không thể nếu lên bất cứ một nghi ngờ nào. Ông ta nhìn trở lại tập giấy rồi thêm một dấu hỏi và một từ khác vào bản danh sách.

Kalmar Geneva.

Một lúc nào đó trong bốn mươi tám tiếng đồng hồ sắp tới, ông ta sẽ phải quyết định đi theo hướng nào.

° ° °

Câu hỏi đầu tiên Kratz đặt cho Scott trong cuộc hành trình từ Kalmar đến Stockholm là ý nghĩa của các chữ số 0-4-0-7-9-3. Scott chợt bừng tỉnh khỏi một cơn mơ mộng trong đó anh đang giải thoát Hannah trên một con bạch mã, và trở về với thế giới thực sự có vẻ không mấy hứa hẹn.

- Ngày 4 tháng 7, - anh trả lời, - Còn ngày nào tốt hơn mà Saddam có thể chọn lựa để làm nhục dân chúng Mỹ, không kể vị Tổng thống. Thế là giờ đây tối thiểu chúng ta biết hạn cuối cùng, - Kratz nói.

- Phải, và chúng ta chỉ còn lại mười một ngày, - Scott nói, - Cách này hay cách khác.

- Tuy nhiên, chúng ta đã có được Bà Bertha, - Kratz nói, cố làm cho tâm trạng mọi người bớt căng thẳng.

- Đúng, - Scott nói, - Vả ông định đưa bà ta đi đâu trong ngày đầu tiên?

- Suốt hành trình. - Kratz nói - Jordan, nói rõ ra đây là nơi tôi đang trông đợi anh đang cộng tác với chúng tôi một lần nữa. Thực ra, toàn đội của tôi đang ở Stockholm chờ lấy Bà Bertha trước khi họ bắt đầu cuộc hành trình đến Baghdad. Mọi thủ tục, giấy tờ đã được Langley thu xếp đâu vào đấy cho chúng ta, như vậy ông sẽ không có ách tắc giữa đường. Vấn đề đầu tiên của chúng ta sẽ là băng qua biên giới Jordan, nhưng bởi vì chúng ta có mọi tài liệu cần thiết theo yêu cầu của Liên Hiệp Quốc, một số ít đô la phụ phí trả cho thuế quan sẽ bảo đảm anh ta đóng dấu đúng trang trong hộ chiếu của tất cả chúng ta.

- Ông đã chỉ định bao nhiêu thời gian cho cuộc hành trình đến Jodan? - Scott hỏi, nhớ lại thời biểu khít khao của chính mình.

- Sáu hoặc bảy ngày, tối đa là tám. Tôi đã lập một đội gồm sáu người tất cả đều có nhiều kinh nghiệm chiến trường không một ai trong bọn họ được phép lái xe quá bốn tiếng đồng hồ liền mà không được nghỉ ngơi mười sáu tiếng. Theo cách đó, sẽ không ngừng lại ở bất cứ điểm nào, ngoại trừ lúc đổ xăng.

Họ vượt qua một bảng hiệu cho biết còn mười cây số nữa thì đến Stockholm.

- Thế thì tôi có một tuần. - Scott nói.

Phải, và chúng tôi phải hy vọng rằng đó là thời gian đủ cho Bill O'Reilly hoàn tất một bản sao hoàn hảo mới của Bản Tuyên ngôn. - Kratz nói.

- Nhất định lần thứ hai sẽ dễ hơn nhiều đối với ông ta, - Scott nói - Nhất là khi mọi yêu cầu của ông ta được giải quyết trong vòng mấy tiếng đồng hồ sau lúc ông ta đòi hỏi. Thậm chí người ta còn chở chín sắc mực đen từ London bằng máy bay Concorde vào buổi sáng kế tiếp.

- Tôi ước mong có thể đặt Bà Bertha trên Concorde.

Scott bật cười.

- Xin hãy cho tôi biết thêm về đội hỗ trợ của ông.

- Giỏi nhất mà tôi đã từng có, - Kratz nói - Tất cả bọn họ đều có kinh nghiệm tiền tuyến trong nhiều cuộc chiến tranh chính thức hoặc không chính thức. Năm người Do thái và một người Kurd.

Scott nhếch mày.

- Ít người biết được rằng, - Kratz nói tiếp, - Mossad có một ban A-rập không lớn về số lượng, nhưng một khi chúng tôi đã huấn luyện họ, chỉ có dân tộc Gurkha 1 mới giỏi hơn trong khoa giết người. Cuộc thử nghiệm sẽ cho biết anh có thể nhận ra được hay không.

- Bao nhiêu người sẽ cùng qua biên giới với chúng ta?

- Chi hai người. Chúng ta không thể làm như có một đội quân. Một kỹ sư và một tài xế. Tối thiểu, đó là những gì họ sẽ được mô tả trên bản kê khai, nhưng họ chỉ có một bản mô tả công việc đối với tôi, và đó là đưa anh lọt vào Baghdad rồi quay về với bản Tuyên ngôn trong thời gian ngấn nhất.

Scott nhìn thẳng về phía trước.

- Còn Hannah? - anh hỏi một cách đơn giản.

- Đó sẽ là một món quà, nếu chúng ta gặp may, nhưng không bao gồm trong công việc của tôi. Tôi cho rằng khả năng anh chỉ trông thấy cô ta thôi cũng hết sức xa vời, - ông nói khi họ vượt qua một tấm bảng "Chào mừng đến Stockholm".

Scott bắt đầu đập cuốn thánh thư của Bertha liên tục trên đầu gối.

- Anh hãy cẩn thận với nó, - Kratz nói - Nó còn cần được dịch ra, nếu không anh sẽ không biết cách khởi sự làm quen với Bà Bertha. Xét cho cùng, chỉ có lòng bàn tay và giọng nói của anh mới khiến bà ta mở cửa.

Scott liếc xuống tập sách 108 trang và tự hỏi anh phải mất bao lâu để nắm được các bí quyết của nó, thậm chí sau khi nó đã được dịch ra tiếng Anh.

Kratz đột nhiên quẹo phải không báo trước và lái xe dọc theo một đường phố vắng vẻ chạy song song với một đường xe lửa không còn dùng tới. Scott chỉ có thể trông thấy ở phía trước mặt anh là một đường hầm dường như dẫn tới cõi hư vô.

Khi còn cách lối vào khoảng một trăm mét, Kratz kiểm tra kính chiếu hậu để xem thử có ai theo dõi họ hay không. Mãn nguyện vì họ chỉ có một mình, ông bật đèn pha ba lần. Một giây sau, từ phía đàng kia của một cái lỗ đen, ông nhận được đáp ứng tương tự. Ông cho xe chạy chậm lại và lái vào trong đường hầm mà không bật đèn lên. Bầy giờ thì Scott chỉ có thể trông thấy một ngọn đèn điện loại xách tay chỉ cho họ nơi cần đến.

Kratz theo ánh đèn và ngừng lại phía trước một vật vừa hiện ra là một chiếc xe hơi cũ. Nó đậu ngay ở trong đầu kia của đường hầm.

Ông nhảy ra khỏi xe và Scott nhanh nhẹn theo sau, cố làm quen với thứ ánh sáng lờ mờ. Rồi anh trông thấy ở mỗi bên chiếc xe tải có ba người đàn ông đang đứng.

Người gần họ nhất đứng nghiêm và giơ cao tay lên ngang đầu:

- Chào Đại tá, - anh ta nói.

- Hãy cho người của anh ở tư thế nghỉ, Fieldman, và đến gặp giáo sư Bradley, - Kratz nói.

Scott suýt bật cười khi học vị của anh được sử dụng trong đám người này, nhưng không có một nụ cười nào trên gương mặt của sáu quân nhàn đang tiến tới trước để gặp anh.

Sau khi bắt tay với từng người một, anh đi vòng quanh chiếc xe tải.

- Ông thực sự tin cái đống sắt cũ này có thể chở Bà Bertha đến Baghdad hay sao? - anh nghi ngờ hỏi Kratz.

- Trung sĩ Cohen.

- Có tôi thưa ông, - một tiếng nói trong bóng tối vang lên.

- Anh là thợ máy đã được huấn luyện. Tại sao anh không báo cáo sơ lược cho giáo sư Bradley biết.

- Vâng, thưa ông.

Một bóng người khác hiện ra trong ánh sáng lờ mờ.

Scott không thế trông rõ nét mặt của anh ta, vì anh ta đầy dầu mỡ, nhưng qua giọng nói của anh ta, Scott phỏng đoán anh ta đã trải qua phần lớn cuộc đời ở London.

- Chiếc Heavy Expanded Mobile Tactical Truck này, gọi tắt là HEMIT, được chế tạo ở Wisconsin. Nó có năm số, bốn tới, một lui. Nó có thể được sứ dụng trên mọi địa hình trong hầu hết điều kiện thời tiết, ở gần như bất kỳ quốc gia nào. Nó nặng hai mươi tấn và có thể chở đến mười tấn, nhưng trọng lượng đó chất trên xe ông không thể mạo hiểm lái trên năm mươi cây số giờ. Trên tốc độ này nó sẽ không thể ngừng lại được, cho dù nếu nhấn thêm ga có thể lên tới gần hai trăm cây số giờ.

- Cám ơn anh, Cohen. Một trang bị hữu ích, tôi nghĩ anh sẽ đồng ý. - Kratz vừa nói vừa nhìn trở lại Scott - Chúng tôi đã muốn có được một chiếc xe như thế này từ mấy năm nay, rồi đột nhiên anh xuất đầu lộ diện và chú Sam đưa ngay cho chúng tôi mẫu đầu tiên này. Tuy nhiên. với cái giá gần một triệu đô la tiền đóng thuế, anh phải nghĩ người Mỹ sẽ kén chọn người họ cho mượn.

- Giáo sư có vui lòng ăn trưa với chúng tôi? - người được giới thiệu là Fieldman hỏi.

- Xin đừng nói với tôi chiếc HEMET cũng biết nấu nướng. - Scott đùa.

- Không, thưa giáo sư, chúng tôi phải nhờ anh bạn người Kurd làm việc đó. Sở trường của Aziz là hamburger và các món chiên của Pháp. Nếu giáo sư chưa bao giờ dùng qua, rất có thể ngon lắm đấy.

Cả tám người ngồi xếp bằng trên mặt đất, dùng mặt trái của bàn cờ làm bàn án. Scott không thể nhớ đã từng thưởng thức món hamburger cháy nào ngon hơn. Anh cùng vui mừng vì có dịp trò chuyện với những người sẽ cùng chung công tác. Kratz bắt đầu bàn bạc tỉ mỉ về những kế hoạch đề phòng khi bất trắc mà họ sẽ phải xem xét một khi đã đến biên giới Jordan - Iraq. Chi cần mấy phút cũng đủ cho anh nhận thức những con người này chuyên nghiệp như thế nào, hoặc trông thấy nỗi khát khao của họ khi được tham gia vào đội chung kết này. Scott mỗi lúc một thêm tin tưởng rằng mọi việc đang được giao cho những bàn tay xuất sắc, và đội của Kratz không phải được chọn lựa một cách ngẫu nhiên.

Sau chiếc hamburger thứ ba, anh lấy làm tiếc khi vị Đại tá Mossad nhắc nhở anh phải đáp một chuyến bay.

Anh liền đứng lên và cám ơn người đầu bếp về món ăn đáng nhớ.

- Sẽ gặp giáo sư ở Jordan, - trung sĩ Cohen nói.

- Sẽ gặp Trung sĩ ở Jordan, - Scott nói.

Trong lúc Scott được đưa tới phi trường, anh hỏi Kratz:

- Ông sẽ lựa chọn ai người chung kết như thế nào?

- Họ sẽ tự quyết định với nhau. Việc đó không liên quan tới tôi. Tôi chỉ là sĩ quan chỉ huy của họ.

- Ông muốn nói gì thế - Họ sẽ đánh cờ backgamman trên đường đi Jordan. Hai người thắng sẽ được một chuyến du lịch một ngày đến Baghdad, hoàn toàn miễn phí.

- Còn những người thua?

- Được một tấm bưu thiếp với dòng chữ: "Ước mong anh đã ở đây".

--- ------ ------ ------ -------

1 Gurkha: một dân tộc sống trong vùng núi của Nepal, nổi tiếng là những chiến sĩ giỏi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,745
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Hannah gom tất cả hò sơ mà viên thứ trưởng ngoại giao sẽ cần tới trong phiên họp với Hội đồng Lãnh đạo Cách mạng.

Bằng cách làm việc nhiều tiếng đồng hồ mà không một người nào khác đã từng làm, và hoàn thành nhiều công việc mà viên Thứ trưởng chưa bao giờ nghĩ có thể làm xong, Hannah đã nhanh chóng trở nên thiết yếu. Bất cứ lúc nào viên Thứ trưởng cần việc gì, việc đó đã có sẵn trên bàn: nàng có thể đoán trước từng việc ông ta cần, và không bao giờ tỏ ý muốn được khen ngợi về điều đó. Mặc dù vậy, nàng rất ít khi rời khỏi văn phòng vào ban ngày hoặc ra khỏi nhà vào ban đêm, và tất nhiên không có vẻ tới gần hơn để tiếp xúc với Saddam. Bà vợ của viên đại sứ đã dũng cảm cố giúp đỡ về mặt xã hội, và trong một cơ hội, nàng thậm chí đã mời một quân nhân trẻ đến dùng bữa tối.

Anh ta khá đẹp trai, Hannah nghĩ, và có vẻ dễ chịu, mặc dù anh ta hầu như không mở miệng suốt buổi tối và đột nhiên ra về không nói một lời nào. Có lẽ nàng không thể che giấu sự thực nàng không còn quan tâm đến đàn ông nữa.

Hannah đã ngồi trong nhiều phiên họp với từng Bộ trưởng, thậm chí thành viên của Hội đồng Lãnh đạo, kế cả người em trai cùng mẹ khác cha của Saddam. đại sứ Iraq tại Liên Hiệp Quốc ở Geneva, nhưng nàng vẫn không cảm thấy gần Saddam hơn khi nàng sống trong một ngõ cụt ở Chalk Fann. Nàng dần dần trở nên thoái chí, và bắt đầu lo sợ rằng sự chán nản của nàng sẽ quá rõ đến nỗi ai ai cũng phải trông thấy. Như một liều thuốc giải buồn, nàng hướng mọi sức lực vào việc lập các báo cáo chỉ tiêu liên bộ, và một hệ thống sắp xếp các hồ sơ chức sẽ khiến cho các quan chức ở Whitehall 1 phải nổi lòng ganh tỵ. Nhưng một trong nhiều điều Mossad đã truyền đạt cho nàng trong những ngày huấn luyện gian khổ của nàng là luôn luôn kiên nhẫn, và sẵn sàng, bởi vì tới lúc một khe hở sẽ xuất hiện.

Vào lúc sáng sớm ngày thứ năm, khi hầu hết nhản viên của Bộ Ngoại giao bắt đầu kỳ nghỉ cuối tuần, thì khe hở đầu tiên hiện ra. Hannah đang đánh máy lại biên bản một phiên họp của viên Thứ trưởng vào ngày hôm trước với Trưởng ban Lợi ích mới được bổ nhiệm ở Paris tên là Al Obaydi, thì cú điện thoại được chuyển đến. Muhammed Saeed Al Zahiaf, Bộ trưởng Ngoại giao, muốn nói chuyện với viên Thứ trưởng.

Mặc dù văn phòng của Bộ trưởng Ngoại giao chỉ ở cuối hành lang, từ trước đến giờ Hannah chưa lần nào đến đó. Khi nàng đi theo viên Thứ trưởng vào trong phòng, nàng ngạc nhiên nhận thấy văn phòng hiện đại và chán ngắt như thế nào, chỉ có quang cảnh bao quát trên sông Tiglis bù lại.

Vị Bộ trưởng Ngoại giao không thêm ngước lên, nhưng lại vội vã chí chỗ cho thuộc cấp ngồi vào một chiếc ghế ở phía đối diện với bàn ông, giải thích rằng Tổng thống đã yêu cầu một bản phúc trình về vấn đề họ đã thảo luận ở Hội đồng Cách mạng buổi tối hôm trước. Ông tiếp tục giải thích rằng cô thư ký riêng của ông đã về nhà nghỉ cuối tuần, vì thế cô Saib sẽ phải ghi lại biên bản phiên họp của họ.

Hannah không thể tin được cuộc thảo luận tiếp theo. Nếu nàng không nhận thức tỉnh đang lắng nghe hai vị Bộ trưởng là các thành viên trung kiên của Hội đồng Lãnh đạo Cách mạng, chắc nàng đã bỏ qua câu chuyện của họ như một lời tuyên truyền độc đáo. Người em trai cùng mẹ khác cha của Tổng thống rõ ràng đã thành công trong việc lấy trộm bản Tuyên ngôn Độc lập của Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia ở Washington, và tài liệu này giờ đây được đóng đinh vào một bức tường phòng họp của Hội đồng.

Cuộc thảo luận tập trung vào cách cái tin chiến thắng này phải được loan báo cho tất cả thế giới kinh ngạc, và ngày tháng đã được lựa chọn để bảo đảm vụ tường thuật lớn lao nhất trong hệ thống truyền thông đại chúng. Nhiều chi tiết cũng được thảo luận như tại quảng trường nào trong thủ đô. Tổng thống sẽ đọc bài diễn văn trước khi ông công khai thiêu huỷ bản tài liệu, và Peter Arnett hoặc Bernard Shaw của đài CNN sẽ được phép đặc biệt tiếp cận để quay phim cảnh Tổng thống đứng bên cạnh tấm giấy da đêm trước khi buổi lễ thiêu huỷ tiến hành.

Sau hai tiếng đồng hồ phiên họp chấm dứt và Hannah cùng viên Thứ trưởng trở về văn phòng của ông ta. Không để mắt tới nàng, ông ra lệnh nàng chép lại đàng hoàng các vấn đề đã được quyết định trong buổi sáng hôm ấy.

Hannah dành phần còn lại của buổi sáng để soạn một bản nháp đầu tiên mà viên Thứ trưởng đọc kỹ lại ngay tức khắc. Sau khi sửa đổi một vài chỗ, ông ta bảo nàng soạn một bản sau cùng để chuyển cho vị Bộ trưởng Ngoại giao với một lời đề nghị rằng nếu ông đồng ý thì sẽ gởi lên Tổng thống.

Trong lúc nàng thả bộ về nhà qua các đường phố của Baghdad buổi tối hôm ấy, Hannah cảm thấy không nơi nương tựa. Nàng tự hỏi có thể làm được gì để báo trước cho người Mỹ. Nhất định họ đang dự kiến một số biện pháp đối phó để cố gắng giành lại bản Tuyên ngôn, hoặc tối thiểu sẽ chuẩn bị một dạng trả đũa nào đó một khi họ biết rõ ngày đã được lựa chọn cho việc thiêu huỷ công khai.

Nhưng họ đã biết nơi sẽ xảy ra việc đó hay chưa? Phải chăng Kratz đã được thông báo? Phải chăng Mossad đã được yêu cầu tham dự để cố vấn cho người Mỹ về chiến dkh mà bản thân họ đã sắp đặt kế hoạch suốt năm vừa qua? Giờ đây họ có tìm cách tiếp xúc với nàng hay không? Simon sẽ trông đợi nàng làm gì?

Nàng dừng lại ở một quầy thuốc lá và mua ba tấm bưu thiếp có hình Saddam Hussein đang đọc diễn văn tại Hội đồng Lãnh đạo Cách mạng.

Sau đó trong sự an toàn của phòng ngủ, nàng viết cùng một bức thông điệp cho Elthel Rubbin. David Kratz và Giáo sư khoa A rập ở trường Đại học London. Nàng hy vọng một trong ba người sẽ tìm hiểu được ý nghĩa của ngày tháng ở góc phải trên cùng và ô vuông bút bi đầy những ngôi sao mà nàng đã vẽ trên bức tường bên cạnh đầu của Saddam.

° ° °

- Chuyến bay đi Stockholm dự kiến cất cánh vào lúc nào? - Al Obaydi hỏi.

- Chắc không còn bao lâu, - cô gái phía sau quầy SAS ở phi trường Charles de Gaulle nói - Tôi e máy bay chỉ mới đáp xuống, vì thế tôi khó biết chính xác hơn.

Một cơ hội khác để quay lại, Al Obaydi nghĩ. Nhưng tiếp theo cuộc gặp gỡ của ông ta với Chỉ huy trưởng An ninh Quốc gia và, vào buổi sáng hôm sau, với vị Thứ trưởng Ngoại giao, ông ta cảm thấy tin tưởng rằng cả hai đều xem lời ông ta nói với họ không hơn chuyện bình thường. Trong cuộc nói chuyện, Al Obaydi đã cho họ hiểu rằng ông ta đến kỳ nghỉ phép trước khi nhận chức vụ mới ở Paris.

Sau khi lấy hành lý ở thang cuốn, ông ta ký gửi tất cả các valy lớn vào một kho chứa, chỉ giữ lại cái cặp dày cộm. Đoạn ông ta ngồi một chỗ trong góc của phòng đợi và suy nghĩ về những hành động của mình trong mấy ngày vừa qua.

Viên chỉ huy trưởng An ninh Quốc gia đã không đề nghị gì nhiều. Sự thật - không phải là điều ông ta sắp phải nhìn nhận - chính là ông ta đã có khá nhiều vấn đề khó khăn trong nước nên không còn phải lo lắng về những việc sẽ xảy đến ở nước ngoài. Ông ta đã cung cấp cho Al Obaydi một cuốn sách chỉ dẫn lạc hậu về những cách phòng ngừa mà mọi công dân Iraq sẽ cần tới khi đến châu Âu, kể cả việc không đi mua sắm ở Marks và Spencers, hoặc không giao tiếp với người ngoại quốc, và một tập ảnh lạc hậu của các nhân viên Mossad và CIA hoạt động ở châu Âu. Sau khi xem kỹ các bức ảnh, Al Obaydi đã không ngạc nhiên nhận thấy hầu hết bọn họ đã nghỉ hưu từ lâu, và một số thậm chí đã qua đời một cách yên lành trên giường.

Ngày hôm sau, viên Thứ trưởng Ngoại giao khá lịch sự nhưng không thân thiện. Ông đã cho Al Obaydi một số tin tức hữu ích về cách ứng xử ở Paris, kể cả Toà đại sứ nào sẽ vui lòng quan hệ với ông ta bất kể vị ta chính thức của họ, và Toà đại sứ nào không chịu. Khi nói đến chính Toà Đại sứ Jordan và bộ phận của Iraq, ông tóm tắt cho Al Obaydi biết về số nhân viên thường trú. Ông đã bỏ cô Hannah ở đó để đảm bảo một sự liên tục. Ông mô tả cô ta là có thiện ý và chu đáo, người đầu bếp là kinh khủng nhưng tốt bụng, còn anh tài xế thì đần độn nhưng dũng cảm. Vấn đề duy nhất cần phải cảnh giác là luôn luôn đề phòng Abdu Kanuk, viên Trưởng phòng hành chính, một chức danh tuyệt vời không diễn tả vị trí thực sự của anh ta, năng lực duy nhất của anh ta chính là anh ta là một người em họ xa của Tổng thống. Viên Thứ trưởng Ngoại giao cấn thận không bày tỏ một ý kiến cá nhân nào, nhưng đôi mắt của ông đã nói với Al Obaydi mọi điều ông ta cần biết. Khi ông ta từ giã, thư ký của viên Thứ trưởng, cô Saib, đã đưa cho ông ta một tập hồ sơ khác. Tập hồ sơ này hoá ra đầy những thông tin hữu ích về cách sống ở Paris mà không cần phải có nhiều bạn bè. Những nơi ông ta sẽ được đón tiếp nồng hậu và những nơi khác nên tránh xa.

Có lẽ cô Saib phải đưa Thuỵ điển vào danh sách những nơi cần tránh.

Al Obaydi cảm thấy hơi lo lắng về chuyến đi, trong lúc ông ta không hề có ý định ở lại Thuỵ điển lâu hơn vài ba tiếng đồng hồ. Ông ta đã liên lạc với viên kỹ sư trưởng của Svenhalta AC, người này đã bảo đảm không hề nhắc nhở tới cú điện thoại trước đó của ông ta với ông Riffat khi ông này trở lại vào buổi chiều hôm ấy. Ông ta cũng có thể xác nhận rằng Bà Bertha, như ông ta vẫn gọi chiếc tủ sắt, chắc chắn đang trên đường tới Baghdad.

- Các hành khách đi Stockholm…

Al Obaydi đi xuyên qua phòng đợi tới cửa ra, và sau khi thẻ lên máy bay được kiểm tra, ông ta ngồi vào một ghế cạnh cửa sổ loại rẻ tiền nhất. Phần hành trình này sẽ không được xem xét để hoàn lại chi phí.

Trên chuyến bay ngang qua miền Bắc châu Âu, tâm trí của Al Obaydi liên miên từ công việc ở Baghdad trở lại kỳ nghỉ cuối tuần mà ông ta đã trải qua với mẹ và em gái. Chính họ đã giúp ông ta lấy lại quyết định cuối cùng. Mẹ ông ta đã không thích thú với việc rời bỏ ngôi nhà nhỏ nhưng tiện nghi của họ ở vùng ngoại ô ở Baghdad, và càng không muốn di chuyển qua Paris. Do đó giờ đây Al Obaydi chấp nhận rằng ông ta không bao giờ có thể hy vọng đào tẩu; tương lai duy nhất của ông ta đặt vào việc cố gắng tạo nên một vị trí quyền lực vững chắc trong phạm vi Bộ Ngoại giao. Giờ đây, ông ta luôn tin rằng ông ta có thể thực hiện một công việc cho Tổng thống sẽ giúp ông ta trở nên thiết yếu trong con mắt của Saddam; thậm chí điều đó có thể tạo cơ hội cho ông ta trở thành Bộ trưởng Ngoại giao kế tiếp.

Xét cho cùng, viên Thứ trưởng sắp tới tuổi hưu trong vài năm nữa, và việc đề bạt đột ngột không bao giờ làm cho bất cứ ai ngạc nhiên ở Baghdad.

Khi phi cơ hạ cánh ở Stockholm, Al Obaydi xuống máy bay, sử dụng đường ngoại giao để lẩn tránh nhanh.

Cuộc hành trình bằng taxi đến Kalmar mất quá ba tiếng đồng hồ, và viên đại sứ mới được bổ nhiệm dùng phần lớn thời giờ nhìn bâng quơ ra khung cửa sổ lấm lem, suy ngẫm cảnh tượng xa lạ với những đồi cỏ xanh và những nền trời xám. Cuối cùng khi taxi ngừng lại bên ngoài cống nhà máy Svenhalte AC, Al Obaydi trông thấy một người đàn ông mặc một chiếc áo khoác dài màu nâu dường như đã đứng đồ từ lâu lắm rồi.

- Rất vui mừng được gặp ông, ông Al Obaydi, - viên kỹ sư trưởng nói bằng tiếng Anh hết sức thoải mái. - Tên tôi là Perdersson. Xin mời ông vào văn phòng của tôi?

Sau khi Perdersson gọi cà phê - được thưởng thức lại cà phê sữa Ý thật là thú vị, Al Obaydi nghĩ - câu hỏi đầu tiên của ông ta chứng tỏ ông ta lo lắng như thế nào.

- Tôi hy vọng chúng ta không làm gì sai chứ?

- Không, không, - Al Obaydi nói, trong lúc ông ta tự cảm thấy dễ chịu vì những lời nói dồn dập và có vẻ lo lắng rõ rệt của viên kỹ sư trưởng. - Tôi cam đoan với ông đây chỉ là một sự kiểm tra thông thường.

- Ông Riffat đã có đủ mọi tài liệu phù hợp, từ cả hai phía Liên hợp quốc và chính phủ của ông.

Al Obaydi mỗi lúc một nhận thức một cách sâu sắc rằng mình đang đối phó với một nhóm chuyên nghiệp đã được huấn luyện cao cấp.

- Ông nói họ đã rời khỏi đây vào chiều thứ tư - Al Obaydi hỏi, cố làm ra vẻ bình thường.

- Vâng, đúng thế.

- Ông nghĩ họ sẽ mất bao lâu mới đến được Baghdad?

- Tối thiểu một tuần, có lẽ mười ngày với chiếc xe cũ rích đó, nếu họ đến được.

Al Obaydi có vẻ bối rối.

- Một chiếc xe cũ?

- Phải, họ đón lấy Bà Bertha với một chiếc xe tải cũ. Mặc dù tôi phải thú nhận, máy nổ rất êm. Tôi đã chụp mấy tấm ánh làm kỷ niệm. Ông có muốn xem qua không?

- Ảnh chiếc xe à? - Al Obaydi hỏi lại.

- Phải, chụp từ cửa sổ của tôi, với ông Riffat đứng bên cạnh. Họ đã không để ý thấy.

Perdersson liền mở ngăn kéo bàn làm việc của ông ta và lấy ra mấy bức hình. Ông ta đẩy tất cả qua mặt bàn với cái vẻ tự hào của một người cho một kẻ không quen biết xem ảnh của gia đình mình.

Al Obaydi xem xét các tấm ảnh một cách cẩn thận.

Mấy tấm chụp cảnh Bà Bertha được hạ xuống trên chiếc.

- Có vấn đế gì không - Perdersson hỏi.

- Không, không, - Al Obaydi nói rồi tiếp. - Các bức ảnh ấy có được ín thêm tấm nào không?

- Có chứ, xỉn ông cứ giữ lấy, tôi có nhiều tấm, - viên kỹ sư trưởng vừa nói vừa chỉ ngăn kéo mở.

Al Obaydi liền lấy chiếc cặp, mở ra và bỏ các tấm ảnh vào một ngăn phụ ở phía trước, trước khi lấy ra mấy tấm ánh của chính ông ta.

- Trong lúc tôi ở đây, có lẽ ông có thể giúp tôi một vấn đề uhỏ nữa.

- Bất cứ việc gì, - Perdersson nói.

- Tôi có mấy tấm ảnh của một số cựu viên chức chính phủ, xin ông xem thử có nhớ ai trong bọn họ ở trong số người đã đến đây là Bà Bertha.

Một lần nữa, Perdersson có vẻ phân vân, nhưng ông vẫn lấy những tấm ảnh và xem xét đầy đủ từng tấm một.

Ông ta liên tục nói "không, không, không" nhiều lần, cho tới khi cấm lấy một tấm mà ông ta xem kỹ hơn. Al Obaydi nghiêng mình về phía trước.

- Phải rồi, - cuối cùng Perdersson bảo. - Mặc dù tấm ảnh này chắc đã chụp mấy năm trước. Đây là ông Riffat. Ông ta vẫn không mập thêm chút nào, nhưng trông già hơn và tóc đã hoa râm. Một con người rất kỹ lưỡng. - Ông Perdersson nói thêm.

- Phải, - Al Obaydi nói - Ông Riffat là một con người rất kỹ lưỡng, - Ông ta nhắc lại trong lúc xem các chi tiết bằng chữ A rập ghi trên mặt sau của tấm ảnh "Chính phủ của tôi hết sức an tâm khi biết rằng ông Riffat phụ trách công việc đặc biệt này".

Perdersson mỉm cười lần đầu tiên trong lúc Al Obaydi nốc cạn giọt cà phê cuối cùng.

- Ông đã giúp chúng tôi rất nhiều, - viên đại sứ nói, rồi đứng lên nói tiếp. - Tôi cảm thấy chắc chắn chính phủ của tôi sẽ lại cần tới sự giúp đỡ của ông trong tương lai, nhưng tôi sẽ rất biết ơn nếu ông không dề cập đến cuộc gập gỡ này với bất cứ một ai.

- Tôi sẽ giữ đúng theo ý muốn của ông, - Perdersson nói trong lúc họ đi trở xuống sân.

Nụ cười vẫn còn lại trên mặt ông ta trong lúc ông ta quan sát chiếc taxi chạy ra khỏi cổng nhà máy, mang theo người khách hàng sang trọng của mình.

Nhưng tư tưởng của Perdersson không phù hợp với sắc mặt của ông ta.

- Tất cả không ổn, - ông ta lẩm bẩm với mình. - Mình không tin ông ta cảm thấy Bà Bertha đang ở trong tình trạng an toàn, và mình chắc chắn ông ta không phải là bạn của ông Riffat.

° ° °

Scott ngạc nhiên nhận thấy anh có cảm tình với Dollar Bill ngay từ lúc gặp ông ta. Do đó khi đã trông thấy một mẫu công trình của ông ta, anh không hề ngạc nhiên về mình còn kính trọng ông ta nữa.

Scott đến San Francisco mười bảy tiếng đồng hồ sau khi anh rời khỏi Stockholm. CIA có sẵn một chiếc xe hơi chờ anh ở phi trường. Anh được nhanh chóng đưa vào quận Marin và xuống xe bên ngoài ngôi nhà bí mật trong vòng một giờ.

Sau khi tranh thủ ngủ một giấc, Scott thức dậy để ăn trưa, hy vọng gặp Dollar Bill ngay lập tức, nhưng anh thất vọng vì không ai trông thấy ông ta ở đâu cả.

- Ông O'Reilly dùng điểm tâm lúc bảy giờ và không xuất hiện lại trước bữa ăn tối, thưa ông. - viên quản gia giải thích.

- Và ông ta lấy gì để bồi dưỡng trong khoáng thời gian đó? - Scott hỏi.

- Lúc mười hai giờ tôi mang đến cho ông ấy một thanh sôcôla và một phần ba lít nước, và lúc sáu giờ một phần ba lít Guinness.

Sau bữa ăn trưa, Scott đọc một bản tin tức mới nhất về những gì đã xảy ra tại Bộ Ngoại giao trong thời gian anh vắng mặt, rồi dùng phần còn lại của buổi chiều trong phòng tập thể dục ở tầng hầm. Anh loạng choạng ra khỏi buổi tập vào khoảng năm giờ, khắp người đau như dần vì tập quá nhiều lại thêm một hai vết bầm tím do huấn luyện viên nhu đạo.

- Không tồi đối với tuổi ba mươi sáu, - vị huấn luyện viên hạ cố nói với anh mặc dù ông ta có vẻ còn trẻ hơn một chút.

Scott ngồi trong một bồn nước ấm cố làm dịu cơn đau nhức trong lúc anh lật từng trang trong cuốn thánh thư của Bà Bertha. Tập tài liệu đã được dịch ra bởi sáu học sinh tiếng A rập của sáu trường đại học trong vòng tám mươi cây số cách nơi anh đang đang xát xà phòng. Mỗi người chỉ được đưa hai chương không kế tiếp nhau. Dexter Hutchins đã không nhàn rỗi kể từ lúc ông trở về.

Khi Scott xuống ăn tối, vẫn còn cảm thấy khó xoay chuyển, anh nhận thấy Dollar Bill đang đứng quay lưng về phía lò sưởi trong phòng khách, nhấm nháp một ly nước.

- Ông muốn uống gì, giáo sư? - viên quản gia hỏi.

- Một cốc nước chanh pha rất ít bia. - Scott trả lời trước khi tự giới thiệu với Dollar Bill.

- Giáo sư ở đây hoàn toàn tự nguyện hay chỉ vì bị bắt do lái xe trong lúc say rượu?

Đó là câu hỏi đầu tiên của Dollar Bill. Rõ ràng ông ta đã quyết định cho Scott một thời gian gắt gao không khác huấn luyện viên nhu đạo.

- Tự nguyện, tôi e như thế, - Scott đáp lại với một nụ cười.

- Từ một câu trả lời như thế, - Dollar Bill nói, - tôi chỉ có thể suy ra ông giảng dạy một môn tẻ nhạt hoặc không có ích cho người sống.

- Tôi giảng Luật Hiến pháp, - Scott đáp lại, - nhưng tôi chuyên về Luận lý học.

- Thế là ông thành đạt trong cả hai lãnh vực cùng một lúc, - Dollar nói trong lúc Dexter Hutchins bước vào phòng.

- Cho tôi một ly gin pha tonic, Charles, - Dexter nói trong lúc ông ta bắt tay Scott một cách nồng nhiệt. - Tôi lấy làm tiếc đã không theo kịp anh sớm hơn, nhưng các anh chàng ở Bộ Ngoại giao đã không chịu buông máy điện thoại suốt cả buổi chiều.

- Có nhiều lý do để cảnh giác những ông bạn thuộc hạ của ông, - Dollar Bill bày tỏ ý kiến, - và bằng cách gọi một ly gin pha tonic, ông Hutchins chỉ biểu hiện hai người trong số đó.

Một lát sau Charles trở lại với một ly nước chanh pha bia và một ly gin pha tonic trên một khay bạc và đưa mời Scott và vị Phó giám đốc.

- Trong những ngày tôi ở trường đại học, không có môn Luận lý học - Dollar Bill nói sau khi Dexter Hutchins đã đề nghị họ qua phòng ăn để dùng bữa tối. - Trường Cao đẳng Trinity ở Dublin không quan tâm đến môn học đó.

- Tôi không thể nghĩ ra một lần nào trong lịch sử Ái Nhĩ Lan có một đồng bào nào của tôi đã từng dựa vào Luận lý học.

- Đó là những gì ông đã học được hay sao? - Scott hỏi.

- Khá nhiều về Fleming, một ít về Joyce, với một đôi lúc nhiệt tình với Pluto và Aristote 2 , nhưng tôi e không đủ để lôi cuốn sự chú ý của bất kỳ một thành viên nào trong ban giám khảo.

- Còn bản Tuyên ngôn tiến triển như thế nào? - Dexter hỏi, tựa hồ không theo dõi cuộc nói chuyện.

- Ông Hutchins của chúng ta là một con người luôn đòi hỏi đạo lý trong công việc, giáo sư thấy đó, - Dollar Bill nói trong lúc một bát súp được đặt trước mặt ông ta. - Tôi xin lưu ý ông, ông ấy là một người dựa vào lý luận để giúp ông ấy qua cơn khó khăn. Tuy nhiên, bởi vì trên đời không có chuyện như một bữa ăn miễn phí, tôi sẽ cố gắng trả lời câu hỏi người quản ngục của tôi. Hôm nay, tôi đã hoàn tất bản văn như vị phụ tá Bí thư Quốc hội Timothy Matlock đã viết ban đầu. Ông biết hồi ấy ông ta đã mất mười bảy tiếng đồng hồ. Tôi sợ phải lâu hơn một chút.

- Và ông nghĩ ông sẽ mất bao lâu mới xong phần tên? - Dexter thúc ép.

- Ông còn tệ hơn cả Đức Giáo hoàng Julius II, cứ dai dẳng hỏi Michelangelo 3 bao lâu mới xong trần của Nhà nguyện Sistine 4 , - Dollar Bill nói trong lúc viên quản gia lấy các bát súp đi.

- Phần tên, - Dexter đòi hỏi. - Phần tên.

- Ồ, con người nôn nóng và thiếu tế nhị.

- Shaw 5 - Scott nói.

- Cứ mỗi phút tôi lại quý mến ông thêm, - Dollar Bill nói.

- Phần tên, - Dexter nhắc lại trong lúc Charles đặt một món hầm Ái Nhĩ Lan lên bàn và Dollar Bill lập tức tự phục vụ cho mình.

- Bây giờ tôi mới biết tại sao ông là Phó giám đốc, - Dollar Bill nói - Phải chăng ông không biết có tới năm mươi sáu tên trên bản tài liệu gốc, mỗi một cái tên là cả một công trình nghệ thuật? Hãy để tôi chứng minh cho ông thấy, nếu tôi có thể.

- Xin cho tôi giấy, Charles. Tôi cần giấy?

Viên quản gia liền lấy một tập giấy để bên cạnh máy điện thoại và đặt bên cạnh O'Reilly. Dollar Bill lấy một cây bút từ túi trong của ông ta và bắt đầu hí hoáy viết.

Ông ta biểu diễn cho hai người cùng ăn tối những ai ông đã viết.

- Ông O'Reilly có thể sử dụng không hạn chế chiếc trực thăng của đoàn bất cứ khi nào ông muốn.

- Điều đó chứng minh được gì? - Dexter hỏi.

- Xin hãy kiên nhẫn, ông Hutchins, xin hãy kiên nhẫn, - Dollar Bill nói trong lúc ông ta lấy hai tờ giấy và thoạt tiên ký tên của Dexter Hutchins, rồi đặt bút viết "Scott Bradley".

Một lần nữa, ông ta cho họ xem công sức của mình.

- Nhưng làm sao…? - Scott hỏi.

- Trong trường hợp của ông giáo sư thì dễ thôi. Tôi cần xem sổ tên khách.

- Nhưng tôi đâu có ký vào sổ. - Dexter nói.

- Tôi thú thực việc ông làm thật là kỳ lạ khi ông là Phó giám đốc, - Dollar Bill nói, - Nhưng, ở vào cảnh ngộ của ông sẽ không có gì làm cho tôi ngạc nhiên cả. Tuy nhiên, ông Hutchins, ông có thói quen ký tên vung vít và đề ngày vào bìa trong của bất cứ cuốn sách nào ông đã mua trong thời gian gần đây. Tôi tin chắc trong trường hợp những bán in lần thứ nhất đó sẽ là thứ mật thiết nhất ông gởi cho thế hệ mai sau.

Ông ta dừng lại một lát rồi nói tiếp:

- Thôi, nói đùa vô tích sự như thế là đủ lắm rồi. Cả hai ông có thể đích thân xem công việc tôi đang phải đương đầu!

Không hề báo trước, Dollar Bill chợt xếp khăn ăn lại, đứng lên khỏi bàn bỏ dở món hầm của ông ta, và bước ra khỏi phòng. Hai người cùng bàn với ông ta nhổm dậy và nhanh nhẹn đi theo ông ta qua cánh tay không nói một tiếng nào khác. Sau khi họ leo lên một cầu thang nhỏ bằng đá họ vào trong phòng làm việc tạm của Dollar Bill.

Trên một bàn vẽ của kiến trúc sư phía dưới một ngọn đèn sáng là tấm giấy da. Cả hai người bước qua phòng, nhìn lên mặt bàn vẽ và xem xét kỹ văn bản đã được viết xong. Nó đã được khắc phía trên một khoáng trống lớn được bao phủ với nhiều gạch chéo nhỏ bằng bút chì sẵn sàng chờ đợi năm mươi sáu chữ ký.

Scott trố mắt nhìn công trình với vẻ khâm phục.

- Nhưng tại sao ông không…

- Làm một công việc đúng đắn? - Dollar Bill nói, biết trước câu hỏi. - Và kết cuộc làm một thầy giáo ở Wexford, hoặc có lẽ đã trèo lên các độ cao đến chóng mặt để trở thành một uỷ viên hội đồng ở Dublin? Không, thưa ông, thà tôi làm một phần việc kỳ cục trong nhà tù còn hơn bị các bạn bè của tôi xem là kẻ tầm thường.

- Còn bao nhiêu ngày nữa anh phải rời khỏi chúng tôi, anh bạn trẻ? - Dexter Hutchins hỏi Scott.

- Kratz vừa điện thoại hồi chiều, - Scott vừa đáp vừa quay sang nhìn vị Phó giám đốc. - Ông ta nói họ đã đáp kịp chuyến phà Trelleborg - Sassnitz đêm hôm qua. Giờ dây họ đang đi về phía Nam, hy vọng băng qua eo biển Bosphorus vào sáng thứ hai.

- Điều đớ có nghĩa là họ sẽ đến biên giới Iraq vào thứ tư tuần tới.

- Thời gian lý tưởng trong năm để đáp tàu qua Bosphorus, - Dollar Bill nói - Đặc biệt nếu ông hy vọng gặp một cô gái khá xuất sắc khi ông đến phà bên kia.

Nhìn lên Scot, ông ta nói tiếp:

- Vậy là tốt hơn tôi nên hoàn tất bản Tuyên ngôn vào ngày thứ hai, phải không giáo sư?

- Chậm nhất, - Hutchins nói trong lúc Scott chăm chú nhìn người đàn ông Ái Nhĩ Lan nhỏ bé.

--- ------ ------ ------ -------

1 Whitehall: đường phố ở Westminster (California), nơi có nhiều cơ quan của chính phủ.

2 Alexander FLEMING (1881-1955) nhà vi khuẩn học người Anh đã khám phá ra Penicilline cùng với Howard Walter Florey (1898-1968).

James JOYCE (1822-1941) tiểu thuyết gia Ái Nhĩ Lan.

PLATO (427-347 trước CN) triết gia Hy lạp.

ARISTOTE (384322 trước CN) triết gia Hy lạp, môn đồ của Plato.

3 JULIUS II (1443-1513) Đức Giáo hoàng thứ hai Toà thánh Vatican.

4 Sistine Chapel: Nhà nguyện chính ở Vatican tại Rome nổi tiếng với các bức tranh màu nước, vẽ trên tường và trần nhà của Michelangelo và một số nghệ sĩ khác.

5 George Bernard SHAW (1856-1950): nhà soạn kịch, phê bình Ái Nhĩ Lan.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,745
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Khi Al Obaydi về đến Paris, ông ta lấy hành lý khỏi kho chứa hai mươi bốn giờ, rồi sắp hàng đón taxi.

Ông ta đưa cho tài xế một địa chỉ mà không nói đó là nhà phụ của Iraq ở Toà đại sứ Jordan. - một mẹo vặt trong "những điều nên làm và không nên làm" của cô Saib ở Paris. Ông ta đã không báo trước cho nhân viên Toà đại sứ biết ông ta sẽ đến ngày hôm nay. Ông ta không được phép hẹn gặp ai trong hai tuần sắp tới và có thể tiếp tục đi thẳng đến Jordan tối hôm nay nếu có một chuyến bay chuyển tiếp. Ngay khi ông ta đã nhận ra ông Riffat là ai, ông ta biết mình phải trở về Baghdad càng nhanh càng tốt.

Bằng cách báo cáo thẳng với Bộ trưởng Ngoại giao, ông ta sẽ thông qua đúng nguồn. Việc này sẽ bảo vệ vị thế của ông ta, trong lúc đồng thời đảm bảo cho Tổng thống biết một cách chính xác ai có trách nhiệm về việc báo động một mưu đồ ám hại tính mạng ông, và vị đại sứ nào, tuy có quan hệ mật thiết đã không cố gắng hết sức.

Chiếc taxi bỏ Al Obaydi xuống ở bên ngoài nhà phụ của Toà đại sứ ở Neuilly. Ông ta lôi valy ra khỏi phía sau mà không cần giúp đỡ nào của viên tài xế vẫn cứ ngồi ở tay lái. Cửa trước của Toà đại sứ hé ra vài ba phân rồi mở rộng, và một người đàn ông khoảng bốn mươi tuổi chạy xuống các bậc thềm về phía ông ta, theo sau là hai cô gái và một thanh niên.

- Thưa ngài, thưa ngài, - người đàn ông thốt lên. - Tôi rất lấy làm tiếc, ngài phải tha thứ cho tôi, chúng tôi không hề hay biết ngài sẽ đến.

Gã thanh niên vồ lấy hai chiếc valy lớn và hai cô gái lấy ba món hành lý còn lại.

Al Obaydi không ngạc nhiên khi biết rằng người đàn ông chạy xuống thềm chính là Abdul Kanuk.

- Chúng tôi đã nghe nói ngài sẽ đến trong thời gian hai tuần. Chúng tôi tưởng ngài vẫn còn ở Baghdad. Tôi hy vọng ngài sẽ không cho là chúng tôi đã thất lễ.

Al Obaydi không hề tìm cách ngăn chặn những lời nói nịnh bợ cứ tuôn ra không ngớt, nghĩ rằng rốt cuộc anh ta cũng sẽ cạn nguồn. Dù sao đi nữa, Kanuk không phải là một con người để làm phật lòng ngày đầu tiên ông ta đến đây Ngài có muốn dạo qua một vòng khu vực của chúng ta trong lúc cố gắng việc mở hành lý.

Bởi vì có nhiều câu hỏi mà Al Obaydi cảm thấy chỉ có người đàn ông này mới trà lời được, ông ta liền lợi dụng ngay lời đề nghị đó. Chẳng những ông ta được viên Trưởng phòng Hành chánh dẫn đi, mà ông ta còn phải nghe một chuỗi câu chuyện tầm phào bất tận. Chỉ mấy phút sau, ông ta không còn nghe nữa, vì trong tâm trí đầy ắp những điều quan trọng hơn rất nhiều. Chẳng bao lâu ông ta ước mong được dẫn đến phòng riêng và ở lại đó một mình để có thời giờ suy nghĩ. Chuyến bay đầu tiên đi Jordan mãi tới sáng hôm sau mới có, và ông ta cần chuẩn bị trong đầu ông ta sẽ trình bày điều khám phá của mình như thế nào với vị Bộ trưởng Ngoại giao.

Chính trong lúc ông ta được dẫn đi xem qua nơi chẳng bao lâu nữa sẽ là văn phòng của ông ta trông xuống một thành phố Paris đang chuyển từ ánh sáng lờ mờ của hoàng hôn sang ánh đèn nhân tạo của đêm tối, viên Trưởng phòng Hành chính đã nói một điều gì đó mà Al Obaydi không nghe rõ. Ông ta cảm thấy mình cần phải chú ý cẩn thận hơn.

- Tôi lấy làm tiếc phải cho ngài hay cô thư ký của ngài hiện đang nghỉ phép. Như tất cả chúng tôi, cô Ahmed tưởng ngài chỉ đến sau đây hai tuần. Tôi biết cô ta đã dự định trở về Paris trước ngài một tuần để cho cô ta sẵn sàng mọi việc lúc ngài đến.

- Không thành vấn đề, - Al Obaydi nói.

- Tất nhiên, ngài sẽ biết cô Saib, thư ký của ông Thứ trưởng Ngoại giao?

- Tôi đã gặp cô Saib khi tôi ở Baghdad. - Al Obaydi đáp.

Viên Trưởng phòng Hành chính gật đầu và có vẻ do dự trong một lúc.

- Tôi nghĩ tôi cần nghỉ ngơi một lát trước khi ăn tối. - viên đại sứ nói, lợi dụng lúc anh ta tạm ngừng trong một chuỗi câu chuyện thao thao khác.

- Tôi sẽ cho đem một món nào đó lên phòng ngài. Tám giờ có được không ạ?

- Cám ơn anh, - Al Obaydi nói, chủ tâm chấm dứt cuộc trò chuyện.

- Tôi sẽ để hộ chiếu và vé máy bay của ngài trong tủ sắt như tôi vẫn làm đối với vị đại sứ trước?

- Hay lắm, - Al Obaydi nói, khoan khoái vì cuối cùng đã tìm được một cách để tống khứ viên Trưởng phòng Hành chính.

° ° °

Scott đặt máy điện thoại xuống và quay sang nhìn thẳng vào Dexter Hutchins đang ngửa người trong chiếc ghế da lớn ở bàn ông, hai bàn tay siết chặt phía sau đầu với một vẻ nghi ngờ trên mặt.

- Thế là họ ở đâu? - Dexter hỏi.

- Kratz không chịu cho tôi biết địa điểm chính xác vì những ý do hiển nhiên, nhưng theo tốc độ tiến triển hiện nay của ông ta, ông ta tin chắc họ sẽ đến biên giới Jordan trong vòng ba ngày tới.

- Thế thì chúng ta hãy cầu nguyện cho Bộ Công nghiệp Iraq kém hiệu quả như các chuyên gia của chúng ta cứ liên tục thuật lại cho chúng ta. Nếu vậy, lợi thế sẽ về phía chúng ta tối thiểu trong mấy ngày. Xét cho cùng, chúng ta đã hành động ngay lúc biện pháp chế tài được bãi bỏ, và cho tới lúc anh ta xuất đầu lộ diện ở Kalmar, Perdersson đã không hề nghe thấy bất cứ một ai xuất hiện trong hai năm vừa qua.

- Tôi nhìn nhận. Nhưng tôi lo ngại rằng Perdersson có thể là mắt xích yếu duy nhất trong chuỗi mắt xích của Kratz.

- Nếu anh quyết định liệu lệnh như thế thì không một kế hoạch nào có thể hoàn toàn chặt chế.

Scott gật đầu.

- Và nếu Kratz đã đến được biên giới ít hơn ba ngày, anh sẽ phải đáp một chuyến bay đi Amman vào đêm thứ hai, giả sử rằng ông O'Reilly lúc đó đã hoàn tất các chữ ký.

- Tôi không nghĩ đó là một vấn đề nữa, - Scott nói.

- Tại sao? Ông ta vẫn còn nhiều chữ ký cần phải sao chép khi tôi xem tấm giấy da lần cuối.

- Không thể nhiều như thế, - Scott nói, - bởi vì ông Mendelssohn đã bay đến Washington sáng hôm nay để cho biết nhận xét, và đó dường như là điều duy nhất mà Bill quan tâm.

- Thế thì chúng ta hãy tận mắt xem sao, - Dexter nói trong lúc ông xoay người đứng lên khỏi ghế.

Trong lúc họ rời văn phòng và đi dọc theo hành lang, Dexter hỏi:

- Còn cuốn thánh thư của Bertha thì sao? Tôi đã lật qua mấy trang phần mở đầu sáng hôm nay nhưng không thể hiểu được tại sao các bóng đèn chuyển từ đỏ sang xanh.

- Chỉ có một người quen biết bà Bertha thân thiết hơn tôi và lúc này người đó đang chết lần chết mòn ở Scandivania, - Scott nói trong lúc họ trên lên các nấc thang bằng đá tới phòng riêng của Dollar Bill.

- Tôi cũng nghe Charles đã dành riêng một cái quần đặc biệt cho anh, - Dexter nói.

- Và cái quần hết sức vừa vặn, - Scott đáp lại với một nụ cười.

Khi họ tới nấc thang trên cùng, Dexter định xô cửa, thì Scott đặt tay lên vai ông.

- Có lẽ chúng ta nên gõ cửa, Rất có thể ông ta..

- Sau đó chắc là anh sẽ muốn tôi gọi ông ta là ngài?

Scott nhe răng cười trong lúc Dexter gõ nhẹ, và khi không có ai trả lời, khẽ đẩy cửa mở ra. Ông rón rén bước vào và trông thấy Mendelssohn đang khom người trên tấm giấy da, với chiếc kính lúp trên tay.

- Benjamin Flanklin, John Morton và George Clymer, - viên chuyên gia lẩm bẩm.

- Tôi đã gặp nhiều rắc rối với Clymer, - Dollar Bill vừa nói vừa nhìn qua cửa sổ về phía bãi đậu xe. - Nét chữ quá láu mà tôi phải viết liền lại. Ông có thể thấy cả hai trăm chữ trong giỏ rác.

- Chúng tôi có thể đến gần cái ghế chứ? - Dexter hỏi.

Dollar Bill quay lại và vẫy vẫy tay ra dấu cho họ vào.

- Cho ông Mendelssohn. Tôi là Dexter Hutchins, Phó Giám đốc CIA.

- Ông có thể là gì khác hay sao? Dollar Bill hỏi.

Dexter không để ý tới lời nói đó và hỏi Mendelssohn:

- Ông có nhận xét gì, thưa ông?

Dollar Bill tiếp tục nhìn qua cửa sổ.

- Nó hoàn toàn giống bản chúng tôi đang trưng bày ở Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.

- Ông rất rộng lượng, thưa ông, - Dollar Bill vừa nói vừa quay người nhìn thẳng vào mắt họ.

- Nhưng tôi không hiểu tại sao ông lại viết từ "british" đúng chính tả, chứ không phải có hai chữ "i" như trong bản gốc, - Mendelssohn nói, chú ý lại bản tài liệu.

- Có hai lý do cho điều đó, - Dollar Bill nói trong lúc sáu con mắt nghi ngờ nhìn lai ông ta. - Thứ nhất, nếu việc trao đổi được thực hiện thành công. Saddam Hussein sẽ không thể tự cho ông ta vẫn còn giữ bản gốc trong tay.

- Thóng minh. - Scott nói.

- Còn thứ hai? - Dexter hỏi, vẫn còn nghi ngờ động lực của người đàn ông Ái Nhĩ Lan nhỏ bé.

- Nó sẽ ngăn cản ông giáo sư mang bản sao này về và tìm cách giả vờ đó là bản gốc.

Scott bật cười, nói:

- Ông luôn luôn suy nghĩ như một tội phạm.

- Và tốt hơn ông nên suy nghĩ những gì cần thiết cho ông trong mấy ngày sắp tới nếu ông quyết định chiến thắng Saddam Hussein - Dollar Bill nói trong lúc Charles vào phòng, mang một ly Guinness trên một khay bạc.

Dollar Bills cám ơn Charles, lấy phần thưởng khỏi khay và bước tới đầu kia phòng trước khi hớp ngụm đấu tiên.

- Tôi có thể hỏi…? - Scott lên tiếng.

- Tôi đã một lần làm đổ nước thánh lên một bản khắc axit với giá một trăm đô la mà tôi đã mất ba tháng chuẩn bị.

- Thế lúc đó ông đã làm gì? - Scott hỏi.

- Tôi e rằng tôi đành chấp nhận hạng nhì, việc đó đã khiến tôi phải lãnh thêm năm năm nữa.

Ngay cả Dexter cũng cười theo trong lúc Dollar Bill nói tiếp:

- Tuy nhiên, trong dịp này, tôi nâng ly với Matthew Thornton, người ký tên cuối cùng trên bản tài liệu. Tôi ước mong cho ông ta mạnh khoẻ bất cứ ông ta ở nơi nào, cho dù chữ "ts" của ông ta thật là quỷ quái.

- Thế thì tôi có thể lấy kiệt tác này ngay bây giờ - Scott hỏi.

- Chưa được đâu, ông bạn trẻ, - Dollar Bill nói - Tôi e ông phải làm bạn với tôi một buổi tối nữa - ông ta đặt cái ly trên bệ cửa sổ rồi nói tiếp - Ông nên biết tôi còn phải chiến đấu với thời gian. Theo nhận xét của ông Mendelssohn, tấm giấy da phải có vẽ cũ vào khoảng 1830. Tôi nói có đúng không, thưa ông?

Viên chuyên gia bảo vệ gật đầu và giơ hai tay lên tựa hồ xin lỗi vì đã dám nêu lên một khuyết điểm nhỏ bé như thế.

- Thế thì làm gì được bây giờ? - Dexter Hutchins hòi.

Dollar Bill liền bật một công tắc và các ngọn đèn xenon phía trên bàn chiếu xuống trên tấm giấy da làm cho căn phòng tràn đầy ánh sáng như đang chuẩn bị để quay phim.

- Tới chín giờ sáng ngày mai tấm giấy da sẽ như ra đời từ khoảng 1776. Mặc dù ông đã không cho tôi đủ thời gian, khiến tôi mất chính xác mấy năm, tôi vẫn tin chắc rằng sẽ không một ai ở Iraq có thể phát hiện sự khác biệt, trừ phi họ có một máy xác định niên đại bằng Carbon 14, và biết cách sử dụng.

- Thế thì chúng ta có thể hy vọng bản gốc chưa bị huỷ hoại. - Dexter Hutchins nói.

- Không thể được. - Scott nói.

- Điều gì khiến anh tin tưởng như thế? - Dexter hỏi.

- Ngày Saddam huỷ hoại tấm giấy da đó. Ông ta muốn cả thế giới chứng kiến. Điều đó thì tôi chắc chắn.

- Thế thì tôi nghĩ có thể uống một chầu rượu mừng, - người đàn ông Ái Nhĩ Lan nói - Tất nhiên, với sự cho phép của ông chủ nhà hào hiệp của tôi.

- Uống mừng sao, Bill? - vị Phó giám đốc nói, có vẻ ngạc nhiên, rồi hỏi tiếp với giọng nghi ngờ. - Ông đang nghĩ đến ai đấy?

- Mừng Hannah, - người đàn ông Ái Nhĩ Lan nhỏ bé nói - bất kỳ cô đang ở đâu.

- Ông làm sao biết được? - Scott hỏi. - Tôi có bao giờ nhắc đến tên cô ấy đâu.

- Không cần phải thế, khi ông viết tên cô ấy trên tất cả mọi thứ từ mặt sau các phong bì cho đến các ô cửa sổ phủ hơi nước. Cô ấy phải là một tiểu thư rất đặc biệt, phải không giáo sư?

Ông ta nâng ly lên và nhắc lại:

- Mừng Hannah.

° ° °

Viên Trưởng phòng Hành chính ngồi chờ một cách kiên nhẫn cho tới khi người hầu gái dọn khay đựng bữa ăn tối của vợ. Rồi anh ta đóng cánh cửa ở đầu kia của hành lang.

Anh ta chờ thêm hai tiếng đồng hồ nữa, cho tới khi anh ta cảm thấy chắc chắn tất cả nhân viên Toà đại sứ đã đi ngủ. Tin tưởng mình là ngươi duy nhất vẫn còn thức, anh ta rón rén trở xuống văn phòng và tìm một số điện thoại ở Geneva. Anh ta quay mã số một cách từ từ và kỹ càng. Chuông reo một hồi lâu mới có người trả lời.

- Tôi cần nói chuyện với ông Đại sứ, - anh ta thì thào.

- Ngài Đại sứ đã đi ngủ khá lâu rồi, một tiếng nói đáp lại - Ông phải gọi lại sáng mai.

- Hãy đánh thức ông ấy dậy. Nói với ông ấy tôi là Abdul Kanuk ở Paris.

- Nếu ông nhất quyết.

- Tôi nhất quyết mà.

Viên Trưởng phòng Hành chính chờ một lúc và cuối cùng một giọng nói ngái ngủ vang lên từ đầu dây:

- Như thế này tốt hơn. Abdul.

- Al Obaydi đã đến Paris không báo trước, và sớm hai tuần so với dự tính.

- Anh đánh thức tôi dậy giữa đêm khuya để nói với tôi điều này à?

- Nhưng ông ấy đã không đến thẳng từ Baghdad, thưa ngài. Ông ấy đi theo một con đường vòng.

- Ông làm sao có thể chắc chắn như thế? - giọng nói có vẻ hơi tỉnh táo hơn.

- Bởi vì tôi đang giữ hộ chiếu của ông ấy.

- Nhưng ông ta đang nghỉ phép, anh ngốc!

- Tôi biết. Nhưng tại sao lại trải qua một ngày trong một thành phố không có một du khách nào biết tới?

- Anh đang nói toàn những câu khó hiểu. Nếu anh có điều gì cần nói với tôi thì hãy nói đi.

- Sáng sớm hôm nay, Đại sứ Al Obaydi đã ghé Stockholm, căn cứ theo con dấu trong hộ chiếu, nhưng ông ấy đã trở về Paris buổi tối cùng ngày. Tôi không nghĩ ông ấy đi nghỉ phép.

Stockholm… Stockholm… Stockholm…, - giọng nói ở đầu dây bên kia nhắc đi nhắc lại, tựa hồ cố ghi nhớ ý nghĩa của nó, rồi ngừng lại một lát và tiếp:

- Chiếc tủ sắt. Tất nhiên. Chắc hẳn ông ta đã đến Kalmar để kiểm tra chiếc tủ sắt của Sayedi. Ông ta đã phát hiện ra điều gì mà lại nghĩ là đáng để giấu tôi, và Baghdad có biết ông ta có thể làm gì hay không?

- Tôi không biết, thưa ngài. - Viên trưởng phòng Hành chính nói - Nhưng tòi biết ông ấy sẽ bay trở về Baghdad ngày mai.

- Nhưng nếu ông ta đang nghi phép tại sao ông ta lại trở về Baghdad nhanh như thế?

- Có lẽ làm Trưởng ban Lợi ích ở Paris không phai là sự tưởng thưởng xứng đáng đối với ông ấy, thưa ngài. Rất có thể ông ấy đang để mắt tới một phần thưởng nào đó lớn hơn?

Cuộc nói chuyện ngừng lại một lúc trước khi giọng nói ở Geneva tiếp tục:

- Anh đã làm tốt đấy, Abdul. Anh đã làm đúng khi đánh thức tôi. Tôi sẽ phải điện thoại cho Kalmar việc đầu tiên sáng mai. Việc đầu tiên.

- Ngài đã hứa hẹn, thưa ngài, nếu tôi cố gắng một. lần nữa lưu ý ngài…

° ° °

Tony Cavalli tóm lược mọi việc cho bố y sau khi Martin đã rót rượu cho cả hai người.

- Bị bắt trong một cuộc ẩu đả ở quán rượu, - Ông bố nói sau khi lắng nghe báo cáo của con trai.

- Phải, - Cavalli vừa nói vừa đặt một hồ sơ lên bàn bén cạnh y, - và tệ hơn nữa, ông ta đã bị kết án ba mươi ngày tù.

- Ba mươi ngày? - Bố y nói với vẻ nghi ngờ. dừng lại một lát rồi hỏi tiếp: - Con đã giao chỉ thị gì cho Laura?

- Con đã yêu cầu cô ta bám chặt cho tới ngày 15 tháng 7, khi Dollar Bill được phóng thích. - Tony trả lời.

- Thế thì họ nhốt ông ta ở đâu trong thời gian này?

- Nhà tù của quận?

- Không. Không hồ sơ lưu trữ tại toà án quận ở Fairmont. Họ đã tống ông ta trở lại trại giam tiểu bang, vì đã dính líu vào một cuộc ẩu đả trong quán rượu. - ông già nói - Nghe vô lý quá.

Ông ta chăm chú nhìn bản Tuyên ngôn Độc lập trên bức tường phía sau bàn và không nói gì trong một hồi lâu.

- Ai làm nội gián cho chúng ta?

Cavalli liền mở hồ sơ trên bàn bên cạnh y và lấy ra một tờ giấy duy nhất.

- Một sĩ quan cao cấp và sáu người cùng đơn vị. - y vừa nói vừa đưa tờ giấy qua, thích thú vì đã đoán trước được câu hỏi của bố y.

Ông già nghiên cứu kỹ bản danh sách trong một lúc trước khi bắt đầu liếm môi.

- Eduardo Bellati, chắc hẳn là một cách tốt nhất của chúng ta, - Ông ta vừa nói vừa ngước nhìn con trai. - Nếu bố nhớ đúng, hắn ta đã bị bắt và kết án chín năm tù vì đã giết chết một viên quan toà đã có lần dám cản đường chúng.

- Đúng, và hơn thế nữa, hắn ta luôn luôn vui sướng giết chết bất cứ ai chỉ vì một gói thuốc lá. - Tony nói - Như vậy, nếu hắn ta giải quyết Dollar Bill trước ngày 15 tháng 7, chúng ta sẽ tiết kiệm được một phần tư triệu đô la.

- Có một điều gì đó không ổn lắm, - bố y nói trong lúc ông ta đưa với một ly Whisky mà ông đã không đụng tới.

Một lúc sau mới tiếp, gần như đang nói với chính mình.

- Có lẽ tới lúc nên đào sâu hơn một chút.

Rồi ông ta kiểm tra lại bản danh sách một lần nữa.

° ° °

Al Obaydi thức dậy sáng sớm hôm sau, nóng lòng trở về Baghdad để cho ông ta có thể báo cáo với vị Bộ trưởng Ngoại giao về một điều mà ông đã biết được. Ngay sau khi trở lại Iraq, ông ta sẽ soạn ra một bản phúc trình đấy đủ.

Ông ta rà soát đi rà soát lại những điều chỉnh trong đầu.

Trước hết ông ta sẽ giải thích với vị Bộ trưởng Ngoại giao rằng trong lúc ông ta thực hiện một cuộc kiểm tra thường lệ về các biện pháp chế tài, ông ta đã biết được rằng chiếc tủ sắt do Tổng thống đặt hàng đã lên đường đi Baghdad. Khi khám phá ra điều này, ông ta đa nghi ngờ một kẻ thù của đất nước có lẽ đã dính líu vào một âm mưu ám sát Tổng thống. Không chắc ai là người đáng tin cậy, ông ta đã sử dụng khả năng tự lực, thậm chí thời gian và tiền bạc của mình để khám phá ra ai là kẻ chủ mưu. Ông ta chỉ cần báo cáo các chi tiết cho vị Bộ trưởng Ngoại giao một lúc là chắc chắn Tổng thống sẽ phát hiện được ai chịu trách nhiệm về chiếc tủ sắt và quan trọng hơn, ai đã không hoàn thành việc chăm sóc cho hạnh phúc của Tổng thống.

Một tiếng gõ cửa ngăn chặn luồng suy nghĩ của ông ta.

- Cứ vào đi - Ông ta nói và một người hầu gái mang vào một khay điểm tâm gồm hai lát bánh mì nướng cháy và một tách cà phê Thổ Nhĩ Kỳ đặc quánh. Ngay sau khi cô ta đóng cửa lại, Al Obaydi chồm dậy, tắm nước lạnh - không phải do lựa chọn - mà mặc áo quần một cách nhanh chóng. Rồi ông ta đổ cà phê vào lavabo và không để ý tới bánh mì nướng.

Viên đại sứ rời khỏi phòng và bước xuống một dãy cầu thang tới văn phòng, nơi đây ông ta bắt gặp viên Trường phòng Hành chính đang đứng phía sau bàn làm việc. Trước đó anh ta có ngồi trên ghế hay không?

- Kính chào ngài, - anh ta nói - Tôi hy vọng ngài đã trải qua một đêm thoải mái.

Al Obaydi sắp sửa mất bình tĩnh thì câu hỏi của Kanuk khiến ông ta kinh ngạc:

- Ngài đã được báo cáo về các vụ oanh tạc ở Baghdad rồi chứ, thưa Ngài?

- Các vụ oanh tạc nào? - Al Obaydi hỏi, không thích bị đánh lừa.

- Dường như lúc hai giờ sáng hôm nay bọn Mỹ đã phóng mấy hoả tiễn Tomahawk vào đại bản doanh Mukhbarat ở trung tâm thành phố.

- Và kết quả như thế nào?

- Mấy thường dân bị chết, - viên Trưởng phòng Hành chính trả lời một cách tỉnh bơ, - nhưng ngài sẽ vui mừng biết rằng vị lãnh tụ yêu quý của chúng ta đã không ở trong thành phố vào thời gian ấy.

- Quả thực là tin tốt lành. - Al Obaydi nói - Nhưng việc đó lại càng khiến cho tôi phải trở về Baghdad ngay lập tức.

Kanuk gật đầu.

- Tôi đã xác nhận vé máy bay cho ngài.

- Cám ơn anh, - Al Obaydi vừa nói vừa chăm chú nhìn qua cửa sổ.

Kanuk cúi đầu thấp để tỏ lòng tôn kính.

- Tôi sẽ sắp xếp để đón ngài ở phi trường khi ngài trở về, và lần này mọi việc sẽ được chuẩn bị đầy đủ lúc ngài đến. Trong lúc chờ đợi, tôi sẽ đi lấy hộ chiếu cho ngài. Xin phép ngài.

Al Obaydi ngồi xuống phía sau bàn làm việc. Ông ta tự hỏi mình sẽ chỉ làm Trưởng ban Lợi ích ở Paris bao lâu ngay sau khi Saddam biết được ai là người đã cứu mạng ông.

° ° °

Tony quay số điện thoại trên đường dây riêng của y.

Máy điện thoại ở đầu bên kia được nhấc lên bởi viên phó quản nghe. Anh ta trả lời câu hỏi đầu tiên của Cavalli bằng cách xác nhận anh ta đang ở một mình. Anh ta lắng nghe câu hỏi thứ hai của Cavalli một cách thận trọng trước khi trả lời.

- Nếu Dollar Bill được tìm thấy ở bất cứ nơi đâu trong nhà tù này thì hắn ta được che giấu còn giỏi hơn cả bản kê khai lợi tức để đánh thuế của Leono Helmsley.

- Nhưng hồ sơ lưu trữ của toà án quán cho biết hắn ta đã gửi đơn khiếu nại với anh vào đêm 16 tháng 6.

- Hắn ta có thể gửi đơn khiếu nại với chúng tôi nhưng chắc chắn hắn ta chưa bao giờ xuất hiện, - giọng nói ở đầu dây bên kia vang lên. - Và không cần phải mất tám ngày đi từ toà án quận San Francisco đến đây, trừ phi họ quay lại thời xa xưa xiềng tội phạm lại và bắt hắn đi bộ suốt quãng đường đó.

Anh ta vừa cười vừa nói tiếp.

- Cái đó không phải là một ý kiến tồi.

Cavalli không cười:

- Chỉ cần anh phải khép kín miệng và giỏng tai lên, và cho tôi biết ngay lúc anh nghe bất cứ điều gì.

Đó là tất cả lời ông ta nói trước khi đặt máy điện thoại xuống.

Cavalli vẫn ngồi tại bàn một tiếng đồng hồ sau khi cô thư ký của ông ta rời khỏi phòng để chuẩn bị những gì cần phải làm sau đó.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,745
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


Phiên họp khẩn cấp thứ hai, giữa Bộ trưởng Ngoại giao và viên Thứ trưởng diễn ra vào sáng thứ ba, cũng chỉ được báo trước trong một thời gian ngắn. Lần này là một cú điện thoại trực tiếp hết sức bất ngờ từ Tổng thống khiến cho cả hai viên Bộ trưởng và Thứ trưởng phải chạy ngay tới dinh.

Tất cả những gì Hannah có thể tìm hiểu được qua mấy cú điện thoại gọi tới gọi lui trong buổi sáng hôm ấy là vào một lúc nào đó người em trai cùng mẹ khác cha của Saddam đã gọi về từ Geneva, và kể từ lúc đó, viên Thứ trưởng Ngoại giao dường như quên bẵng bản phúc trình mà ông ta đang chuẩn bị về vụ Mỹ oanh tạc đại bản doanh của Mukhbarat. Ông ta hoảng hốt chạy ra khỏi phòng, bỏ mặc những giấy tờ mật vung vãi khắp mặt bàn làm việc.

Hannah vẫn ngồi ở bàn của nàng với hy vọng nàng sẽ thu lượm thêm một thông tin nào đó. Trong lúc cả hai viên Bộ, Thứ trưởng ở trong dinh, nàng tiếp tục kiểm tra kỹ các hồ sơ lưu trữ cũ, biết rằng giờ đây nàng đã có đủ tài liệu để chất đầy mấy tủ hồ sơ ở đại bản doanh Mossad, nhưng không có ai để cho nàng chuyển giao.

Hai viên Bộ, Thứ trưởng từ dinh trở về vào cuối buổi chiều, và viên Thứ trưởng Ngoại giao có vẻ nhẹ nhõm khi thấy cô Saib vẫn còn ngồi ở bàn làm việc.

- Tôi cần lập một bản phúc trình về việc đã được thoả thuận trong phiên họp sáng hôm nay với Tổng thống, - ông ta nói, - và tôi không cần phải nhấn mạnh tầm quan trọng về sự bí mật trong vấn đề này. Sẽ không quá đáng chút nào khi tôi bảo cô rằng nếu bất cứ điều gì mà tôi kể cho cô sẽ bị tiết lộ ra ngoài công chúng, thì cả hai chúng ta sẽ chấm dứt cuộc đời trong nhà tù, hoặc tồi tệ hơn thế nữa.

Hannah nói trong lúc nàng mang kính trở lại:

- Tôi hy vọng trong suốt thời gian qua đã không bao giờ khiến cho ông Thứ trưởng phải lo ngại.

Viên Thứ trưởng chăm chú nhìn nàng và bắt đầu đọc cho nàng viết với tốc độ nhanh:

"Tổng thống đã mời Bộ trưởng Ngoại giao và tôi đến dự một phiên họp mật ở dinh sáng nay - cố đề đúng ngày hôm nay. Barazan Al - Tikriti, vị đại sứ tin cậy của chúng ta ở Geneva, đã tiếp xúc Tổng thống đêm vừa qua để báo cho Tổng thống rằng, sau nhiều tuần lễ kiên trì theo dõi, ông ta đã khám phá ra một âm mưu do một nhóm Do thái muốn ấy trộm chiếc tủ sắt khỏi Thuỵ điển và sử dụng làm phương tiện xâm nhập bất hợp pháp vào Iraq. Chiếc tủ sắt sắp sửa được giao tới Baghdad ngay sau khi bãi bỏ lệnh cấm vận theo nghị quyết 661 của Hội đổng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Tổng thống đã ra lệnh giao cho Đại tướng Hamid trách nhiệm thương lượng với bọn khủng bố - Hannah nghĩ như vậy khi trông thấy viên Thứ trưởng rùng mình - trong lúc ông Bộ trưởng Ngoại giao được yêu cầu xem xét kỹ vai trò do một nhân viên chính của ông đóng trong âm mưu đặc biệt này, đó là Hamid Al Obaydi.

"Đại sứ của chúng ta ở Geneva đã khám phá ra rằng Al Obaydi vừa viếng thăm hãng cơ khí Svenhalte AC ở Kalmar, Thuỵ điển, và ngày thứ hai, 28 tháng 6, mà không được bất cứ thượng cấp nào của ông ta chí đạo làm việc đó. Trong cuộc viếng thăm đó, ông ta đã được thông báo về vụ chiếc tủ sắt bị lấy trộm và đang được chờ đến Baghdad. Sau chuyến đi đến Kalmar, Al Obaydi ở lại đêm tại Ban Lợi ích ở Paris, khi ông ta có mọi cơ hội để thông báo Geneva hoặc Baghdad về âm mưu của bọn Do thái, nhưng ông ta đã không hề cố gắng làm việc đó.

"Al Obaydi rơi khỏi Paris sáng hôm sau và, mặc dù chúng ta biết ông ta đã đáp một chuyến bay đi Jordan, ông ta vẫn chưa xuất hiện ở biên giới. Tổng thống đã ra lệnh rằng nếu Al Obaydi qua bất cứ một biên giới quốc gia nào của chúng ta, ông ta phải bị bắt và được đưa thẳng đến Đại tướng Hamil ở đại bản doanh của Hội đổng Lãnh đạo Cách mạng".

Cây bút chì của Hannah lướt qua các trang sổ tốc ký, trong lúc nàng cố gắng theo kịp viên Thứ trưởng.

"Chiếc tủ sắt, - viên Thứ trưởng Ngoại giao nói tiếp, - hiện nay đang được chở trên chiếc xe nhà binh cũ, và theo dự kiến nó sẽ đến biên giới Jordan trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ sắp tới".

"Tất cả các viên chức hài quan đã nhận được một chỉ thị nhằm để cho chiếc tủ sắt là tài sàn riêng của Tổng thống, và vì vậy khi nó đến biên giới, nó phải được ưu tiên tiếp tục cuộc hành trình tới Baghdad.

"Đại sứ của chúng ta ở Geneva, sau một cuộc nói chuyện khá dài với ông - viên Thứ trưởng xem lại sổ tay, - Perdersson, đã tin chắc rằng nhóm người hộ tống chiếc tủ sắt là nhân viên CIA, Mossad, họ rất có thể cả ASA của Anh. Cũng như Tổng thống, Đại sứ nghĩ rằng lợi ích duy nhất của bọn xâm nhập là giành lại bản Tuyên ngôn Độc lập. Tổng thống đã ra lệnh rằng tài liệu đó không được dời khỏi chỗ của nó trên bức tường của phòng Hội đồng, bởi vì việc này có thể báo động cho bất cứ nhân viên nội gián nào thông tin cho nhóm khủng bố vào nước".

"Hai mươi người trong đội phòng vệ đặc biệt của Tổng thống đã lên đường đến biên giới Jordan. Họ sẽ chịu trách nhiệm liên tục theo dõi quá trình vận chuyển của chiếc tủ sắt và sẽ báo cáo trực tiếp cho Đại tướng Hamil.

"Ngay sau khi bọn điệp viên phương Tây đã bị bắt và tống vào nhà giam, báo chí thế giới sẽ được thông tin rằng mục đích của bọn chúng là ám sát Tổng thống. Tống thống sẽ lập tức xuất hiện trước công chúng và trên vô tuyến truyền hình, và sẽ đọc một bài diễn văn tố cáo bọn hiếu chiến Mỹ và Do thái. Sayedi tin rằng cá bọn Mỹ lẫn bọn Do thái đều sẽ không đời nào nhìn nhận mục đích thực sự của vụ tập kích này, nhưng bọn chúng sẽ không thể nào bác bó lời khẳng định của Tổng thống. Sayedi nghĩ toàn bộ tình tiết này có thể biến thành một thắng lợi về mặt quốc tế bởi vì nếu vụ mưu sát được loan báo vào cùng một ngày mà Tổng thống công khai đốt bản Tuyên ngôn Độc lập, thì bọn Mỹ lại càng khó trả đũa hơn.

"Bắt đầu từ ngày mai, Tổng thống yêu cầu một bản cập nhật tình hình mỗi cuối sáng lúc chín giờ và mỗi buổi chiều lúc sáu giờ. Cá Bộ trưởng Ngoại giao lẫn bản thân tôi phải báo cáo trực tiếp cho Tổng thống. Nếu Al Obaydi bị tóm, Tổng thống cần phải được thông báo ngay tức khắc, bất cứ giờ giấc nào, đêm hoặc ngày".

Cây bút chì của Hannah đã không ngừng nguệch ngoạc trên các trang giấy trong gần hai mươi phút. Cuối cùng khi viên Thứ trưởng kết thúc, nàng cố gắng hiểu hết ý nghĩa của thông tin mà giờ đây nàng có được.

- Tôi cần một bản dự tháo của phúc trình này càng nhanh càng tốt, không được đánh thêm bản khác, không được ghi âm gì cả và tất cả các ghi chép bằng tốc ký của cô phải được xé nhỏ ngay sau khi bản phúc trình được giao cho tôi.

Hannah gật đầu trong lúc viên Thứ trưởng Ngoại giao nhấc máy điện thoại lên và quay số nội bộ của cấp trên ông ta.

Nàng trở về phòng và bắt đầu đánh máy lại một cách từ từ những gì nàng đã chép vào sổ, và đồng thời cố gắng ghi nhớ những điểm chính yếu. Bốn mươi lăm phút sau, nàng đặt một bản phúc trình độc nhất trên bàn của viên Thứ trưởng.

Ông ta đọc bản dự thảo một cách cẩn thận, thinh thoảng tự tay ghi thêm một vài từ. Khi ông ta đã hài lòng nhận thấy bản phúc trình bao hàm đầy đủ phiên họp vừa diễn ra sáng hôm nay. Ông ta đi ra hành lang và gặp vị Bó trưởng Ngoại giao.

Hannah trở về bàn, biết rằng nhóm người mang chiếc tủ sắt khỏi Thuỵ điển đang tiến dần vào cái bẫy của Saddam, và nếu họ đã nhận được tấm bưu thiếp của nàng…

° ° °

Khi Al Obaydi đến Jordan. Ông ta không thể không cảm thấy một niềm vui chiến thắng.

Ngay sau khi hoàn tất thủ tục hải quan ở phi trường Queen Alia và bước ra ngoài đường, ông ta chọn chiếc taxi hiện đại nhất có thể tìm thấy được. Chiếc Chevy cũ kỹ từ hồi thập niên bảy mươi không có máy điều hoà không khi và đồng hồ chỉ con số 187.000 dặm. Ông ta yêu cầu người tài xế đưa ông ta đến biên giới Iraq càng nhanh càng tốt…

Chiếc xe hơi không bao giờ rời khỏi làn đường chậm trong cuộc hành trình sáu tiếng đồng hồ đến biên giới, và do tình trạng của các con đường, ông ta không thể nào ngù yên một giấc quá vài ba phút liền. Cuối cùng khi viên tài xế tới xa lộ, anh ta vẫn không thể chạy nhanh hơn nhiều vì dầu vung vãi khắp mọi nơi từ những chiếc xe tải chở những món mà đám con buôn đã mua một cách phi pháp ở Basra để đem đến bán ở Amman với giá gấp bốn lần, những món mà Al Obaydi đã cam đoan không biết bao nhiêu lần với Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc rằng đó là điều không có do sự tưởng tượng của thế giới phương Tây. Ông ta cũng nhận thấy nhiều chiếc xe tải chạy theo hướng ngược lại, chất đầy những thực phẩm mà ông ta biết sẽ được bán cho con buôn chợ đen, rất lâu trước khi bất cứ một thứ nào trong số đó tới Baghdad.

Al Obaydi xem đồng hồ. Nếu viên tài xế cứ tiếp tục với tốc độ này, ông ta sẽ không đến được biên giới trước khi trạm hải quan đóng cửa lúc nửa đêm.

° ° °

Khi Scott hạ cánh xuống phi trường Queen Alia ngày hôm ấy và bước lên mặt đường rải nhựa, điều đầu tiên giáng vào anh là một nhiệt độ 95 độ F 1 . Dù mặc một sơ mi hở cổ, quần jean và mang giây vải, anh vẫn có cảm giác bị nướng trong lò trước khi đến được nhà đón khách của phi trường. Ngay sau lúc anh vào trong toà nhà, anh khoan khoái nhận thấy có máy điều hoà không khí và cái túi duy nhất của anh xuất hiện trên băng chuyền nhanh không khác ở Mỹ. Anh xem đồng hồ và chỉnh theo giờ Trung Đông.

Viên sĩ quan di trú từ trước đến nay không thấy nhiều hộ chiếu Thuỵ điển, nhưng vì bố anh ta vốn là một kỹ sư, anh ta chúc ông Bernstrom một chuyến đi thành đạt.

Trong lúc Scott bước qua kênh xanh, một nhân viên hải quan miệng nhai tóp tép chặn anh lại. Anh ta ra lệnh cho Scott mở cái túi căng phồng bằng vải bạt. Sau khi lục lọi bên trong, vật duy nhất anh ta tỏ vẻ quan tâm là một cái ống nhỏ dài bằng các tông được chèn dọc theo đáy túi xách. Scott liên mở cái nắp ở đầu ống, lấy vật đựng bên trong ra và trải rộng thành tấm áp phích khiến nhân viên hải quan ngạc nhiên đến mức ngừng nhai trong một lát.

Rồi anh ta vẫy tay cho Scott đi qua.

Ngay sau khi Scott rời khỏi đám đông, anh bước ra ngoài đường tìm một chiếc taxi. Anh quan sát kỹ những chiếc xe tạp nham đậu bên lề đường. Chúng khiến cho những chiếc taxi vàng ở New York có vẻ như thuộc loại xe lộng lẫy.

Anh yêu cầu người tài xế ở đầu dãy xe đưa anh đến nhà hát La mã ở trung tâm thành phố. Cuộc hành trình mười tám cây số đến Amman mất bốn mươi phút, và khi Scott xuống xe ở bên ngoài nhà hát thế kỷ thứ ba, anh đưa cho người tài xế hai giấy bạc mười dinar - vừa đủ cho đoạn đường này, theo lời các chuyên gia ở Langley đã nói với anh. Người tài xế bỏ tiền vào túi nhưng không mỉm cười.

Scott xem đồng hồ, Anh vẫn còn kịp giờ cho một cuộc họp đã được dự tính. Anh bước thẳng qua đài kỷ niệm cổ mà theo cuốn sách hướng dẫn của anh là một nơi rất đáng viếng thăm. Như Kratz đã chỉ thị, sau đó anh tiếp tục đi về phía tây qua ba khối nhà thỉnh thoảng bước ra khỏi lề đường, xuống lòng đường để tránh các đám đông đang hối hả. Khi đến một trạm xăng Shell, anh quẹo phải, bỏ lại sau lưng đám người mua sắm. Rồi anh quẹo lần thứ hai sang trái, và sau đó lại quẹo phải. Những con đường càng lúc càng thưa thớt hơn, chỉ có dân địa phương, và càng đầy những ổ gà với những bước đi của anh. Lại quẹo trái, sau đó lại quẹo phải, và nhận thấy mình đang vào ngõ cụt lthti đã chỉ dẫn. Ở cuối con đường, khi anh không thể đi thêm được nữa, anh dừng lại bên ngoài một bãi phế liệu. Anh mỉm cưới với cảnh tượng đang chào đón anh.

° ° °

Lúc Al Obaydi tới biên giới, trời đã tối đen như mực. Tất cả ba làn đường dẫn tới trạm hải quan đều đầy những chiếc xe tải nối đuôi nhau chờ đợi, phủ vài dầu để chạy qua đêm. Người tài xế ngừng lại ở rào cản và giải thích với vị hành khách rằng ông ta phải thuê một chiếc xe khác của Iraq sau khi đã qua phía bên kia. Al Obaydi cám ơn người tài xế và cho anh ta một số tiền thưởng hậu hĩnh trước khi đi tới hàng người bên ngoài trạm hải quan. Một nhân viên có vẻ mệt mỏi, uể oải nhìn ông ta và cho ông ta hay biên giới đóng cửa ban đêm. Al Obaydi liền xuất trình hộ chiếu ngoại giao và nhân viên hải quan đóng dấu thị thực một cách nhanh chóng rồi ra dấu cho anh đi qua, biết là không có mấy chữ ghi chú bằng mực đỏ trong một giấy tờ như thế.

Al Obaydi thấy hết sức phấn chấn trong lúc ông ta thả bộ hơn một nghìn năm trăm mét giữa hai trạm hải quan. Ông ta bước tới một hàng người khác, xuất trình họ chiếu một lần nữa, và nhận thêm một nụ cười của viên sĩ quan hải quan.

- Có một chiếc xe đang chờ Đại sứ. - viên sĩ quan vừa nói vừa chỉ chiếc xe loại sang trọng đậu gần xa lộ.

Một viên tài xế tươi cười đứng chờ. Anh ta đưa tay lên chào và mở cửa xe phía sau.

Al Obaydi mỉm cười. Viên Trưởng phòng Hành chính chắc hắn đã thông báo cho họ biết rằng ông ta sẽ đến biên giới khá muộn trong đêm nay. Ông ta cám ơn nhân viên hải quan, bước về phía xa lộ và ngồi vào phía sau của chiếc xe. Một người khác đã ngồi sẵn trong đó, cũng có vẻ đang chờ đợi ông ta. Obaydi lại bắt đầu mỉm cười, thì đột nhiên một cánh tay lướt qua cổ họng ông ta và quật ông ta xuống sàn xe. Hai bàn tay ông ta bị ghìm chặt phía sau lưng, và một cặp còng khoá lại.

- Sao anh dám…? - Al Obaydi hét lớn. - Tôi là một Đại sứ! - ông ta gào lên trong lúc bị lôi trở lại ghế. -Anh không biết tôi là ai hay sao?

- Tôi biết chứ, - người kia trả lời. - Và ông đã bị bắt về tội phản quốc.

° ° °

Scott phải nhìn nhận rằng chiếc HEMIT chở Bà Bertha trông giống hệt loại xe tải cũ rích ở Mỹ chồng chất lên nhau ở ba phía bãi phế liệu. Anh chạy qua và trèo lên ngồi vào ghế bên cạnh tài xế. Anh bắt tay với Kratz và ông ta có vẻ nhẹ nhõm khi gặp anh. Lúc Scott trông thấy người ngồi phía sau tay lái, anh nói:

- Rất vui mừng gặp lại trung sĩ Cohen. Tôi có cần phải thừa nhận anh chơi một ván cờ Backgamman thật xuất sắc?

- Hai cặp đánh đôi trong bảng ghìm chặt nhau đã giúp tôi vào ván chung kết, thưa giáo sư, mặc dù chỉ có Chúa biết anh chàng người Kurd đã lọt vào bán kết như thế nào. - Cohen vừa nói vừa khởi động máy - và bởi vì anh ta là bạn của tôi, tất cả những người khác đều yêu cầu tôi xác định súc sắc.

- Thế hiện Aziz ở đâu - Scott hỏi.

- Ở đằng sau với Bà Bertha, - viên trung sĩ nói - Chỗ tốt nhất cho anh ta, giáo sư nên nhớ, anh ta biết mọi ngõ ngách của Baghdad như tôi biết các tiệm rượu ở Brixton. vì vậy hoá ra anh ta rất hữu ích.

- Và phần còn lại của đội? - Scott hỏi.

- Fieldman và những người khác đã lên qua biên giới trong đêm, - Kratz nói, - Có lẽ giờ đây họ đang chờ chúng ta Ở Baghdad.

- Thế thì tốt hơn họ nên ẩn nấp thật kỹ. - Scott nói - Bởi vì sau vụ oanh tạc thứ bảy tuần vừa qua, tôi tin chắc họ sẽ rất dễ nguy hiểm đến tính mạng.

Kratz không có ý kiến gì trong lúc trung sĩ Cohen cho chiếc xe tải nặng nề từ từ lăn bánh trên đường phố, lần này các con đường trở nên rộng hơn mỗi lần anh ta quẹo vào một con đường khác.

- Chúng ta vẫn theo đúng kế hoạch đã được chấp thuận ở Stockholm chứ? - Scott hỏi.

- Với hai điểm cải thiện. - Kratz nói - Tôi đã điện thoại cho Baghdad suốt buổi sáng hôm qua. Sau bảy lần gọi, tôi đã nói chuyện với được một người ở Bộ Công nghiệp biết rõ về chiếc tủ sắt, nhưng đó là vấn đề lâu đối với người A rập; nếu không trông thấy cái đồ chết tiệt đó ngay trước mặt, họ không tin nó hiện hữu đâu.

- Như thế trạm đầu tiên của chúng ta sẽ phải là Bộ Công nghiệp? - Scott hỏi.

- Dường như vậy, - Kratz trả lời. - Nhưng tối thiểu chúng ta đã có được thứ bọn họ cần. Điều đó làm tôi nhớ lại anh có mang theo thứ bọn họ cần không?

Scott mở dây kéo của túi xách và lấy ra các ống các tông.

- Trông không đáng cho anh phải liều mạng một chút nào, - Kratz nói trong lúc Scott chuồi các ống trở vào túi.

- Và điều cải thiện thứ hai? - Scott hỏi.

Kratz lấy một tấm bưu thiếp từ túi trong và đưa cho Scott.

Một bức ảnh Saddam Hussein đang phát biểu trước Hội đồng Lãnh đạo Cách mạng. Một hình vuông nhỏ đầy những ngôi sao được vẽ bằng bút bi bên cạnh đầu ông ta.

Scott lật tấm thiếp qua mặt sau và xem xét cẩn thận nét chữ không thể nhầm lần của nàng: "Ước mong anh ở đây".

Scott không nói gì một hồi lâu.

- Anh có để ý thấy ngày tháng không?

Scott nhìn lên tận cùng góc bên phải: 4-7-93.

- Thế là giờ đây chúng ta biết được nơi đó ở đâu, và cô ta cũng đã xác nhận khi nào Saddam dự định cho phần còn lại của thế giới biết bí mật của ông ta.

- Elthel Rubin là ai? - Scott hỏi, - Và làm sao ông có được tấm bưu thiếp này?

- Cô Hannah đã từng tạm trú ở London. Chồng cô ta là đại diện pháp lý của Mossad ở Anh. Anh ta đã đưa tấm bưu thiếp đến thẳng Toà đại sứ ngay sau khi nhận được và họ đã gởi qua đêm bằng đường ngoại giao. Nó đã đến Toà đại sứ của chúng tôi ở Amman sáng hôm nay.

Ngay sau khi họ đến vùng ngoại ô của thành phố, Scott bắt đầu nghiên cứu địa hình cằn cỗi trong lúc chiếc xe tải tiếp tục chạy trên những đoạn đường đầy những dầu và ổ gà.

- Tôi lấy làm tiếc phải chạy quá chậm, thưa giáo sư, - Cohen nói - nhưng nếu tôi chạy nhanh trên con đường tồi tệ này thì phải thắng lại. Bà Bertha sẽ tuột té cả trăm mét trước khi xe dừng.

Kratz rà xét lại mọi điều bất ngờ mà ông có thể nghĩ ra trong lúc Cohen im lặng lái xe về phía biên giới. Nhà lãnh đạo Mossad kết thúc bằng cách mô tả sơ đồ bố trí của đại bản doanh Baath một lần nữa.

- Còn hệ thống báo động? - Scott hỏi khi ông nói xong.

- Tất cả những gì anh cần phải nhớ là những nút đỏ bên cạnh công tắc khởi động hệ thống báo động, nhùng đồng thời đóng tất cả các lối ra.

Scott gật đầu, nhưng một lúc sau anh mới hỏi câu kế tiếp:

- Còn Hannah?

- Không có gì thay đổi. Công việc đầu tiên của tôi là đưa anh vào và trở ra với bản tài liệu gốc. Cô ta vẫn còn là một phần thưởng không chắc mặc dù rõ ràng là cô ta biết chuyện gì đang xảy ra.

Không ai nói thêm tiếng nào cho tới khi trung sĩ Cohen lái xe rời khỏi xa lộ chạy vào một khoảng rộng trải sỏi có nhiều xe tái đậu. Anh ta đậu xe theo một góc xéo để chỉ cho người nào tò mò nhất mới có thể giám sát thấy họ đang chở cái gì, rồi nhảy ra khỏi buồng lái, đu mình qua tấm chắn hậu và nhăn răng cười với anh chàng người Kurd đang uể oái tựa lưng vào chiếc tủ sắt. Họ giở tấm vải dầu bao phủ cấu trúc đồ sộ trong lúc Scott và Kratz trèo lên gặp họ trong phía sau chiếc xe tải.

- Giáo sư nghĩ sao? - Aziz hỏi.

- Bà ta không bị gầy bớt một chút nào, đó là điều chắc chắn. - Scott nói trong lúc anh cố nhớ lại việc sắp xếp hàng đêm mà anh đã làm để chuẩn bị cho kỳ thi đơn độc này.

Anh duỗi các ngón tay ra và mỉm cười. Tất cả ba bóng đèn phía trên ô vuông màu trắng đều có màu đỏ. Trước hết, anh quay tất cả ba mặt số theo một mã số mà chỉ có anh và một người ở Thuỵ Điển mới biết rõ. Rồi anh đặt bàn tay phải trên ô vuông màu trắng, và giữ yên trong mấy giây.

Anh cúi tới trước, đặt môi sát ô vuông và nói một cách hoà nhã:

- Tôi tên là Andreas Bernstrom. Khi bà nghe giọng nói này, và chỉ giọng nói này, bà sẽ mớ khoá cửa.

Scott chờ đợi trong lúc ba người kia tiếp tục im lặng nhìn với vẻ bối rối. Tất cả ba bóng đèn vẫn giữ màu đỏ.

- Bây giờ chúng ta phải thử xem tôi có hiểu các lời chỉ dẫn hay không, - Scott nói.

Anh cắn môi và tiến lại phía trước. Một lần nữa anh xoay các mặt số, nhưng lần này theo các con số Saddam đã lựa chọn: 0-4-0-7-9-3. Bóng đèn thứ nhất chuyển từ đỏ sang xanh. Aziz mỉm cười. Scott đặt lòng bàn tay trong ô vuông màu trắng và để yên trong nhiều giây. Bóng đèn thứ hai chuyển sang xanh.

Scott nghe Kratz thở dài trong lúc anh bước tới phía trước. Anh đặt môi lên ô vuông màu trắng chạm vào tấm lưới kim loại mỏng và nói:

- Tên tôi là Andress Bernstrom. Bây giờ là lúc chiếc tủ sắt.…

Bóng đèn thứ ba chuyển sang màu xanh trước cả khi anh nói hết câu. Cohen khẽ lên tiếng hoan hô.

Scott nắm cái quai và kéo ra. Cả tấm thép nhẹ nhàng mở ra.

- Hay lắm! - Cohen nói - giáo sư có thể làm lại một lần nữa không?

- Dùng trung sĩ làm người thí nghiệm, - Scott nói - Tại sao trung sĩ không thứ đóng tủ sắt lại?

Cohen liền tiến một bước về phía trước và với cả hai bàn tay xô cánh cửa đóng tủ. Ba bóng đèn lập tức lóe đỏ.

- Đúng là dễ một khi mình đã biết cách sử dụng, - anh ta nói.

Scott mỉm cười kéo cánh cửa mở ra trở lại với ngón tay út. Cohen há hốc mồm nhìn sững trước khi các bóng đèn trở lại màu xanh.

- Các bóng đèn có thể chớp đỏ, - Scott nói, - nhưng Bertha chỉ có thể hoạt động một lúc với một người. Hiện giờ không một ai khác ngoài tôi có thể mở hoặc đóng chiếc tủ sắt.

- Và tôi hy vọng đó là vì nó là dân Do thái, - Aziz nói.

Scott mỉm cười vừa đóng cửa tủ sắt, quay các mặt số cho tới khi các bóng đèn đổi màu đỏ.

- Thôi, ta đi. - Kratz nói.

Scott cảm thấy ông có vẻ hơi bực tức, - hay đó chí là dấu hiệu đầu tiên của tâm trạng căng thẳng? Aziz trùm tấm vải dầu lên bà Bertha trở lại trong lúc mấy người bạn đồng nghiệp của anh ta nhẩy qua hông xe và trở lên buồng lái.

Không một ai nói gì trong lúc họ tiếp tục cuộc hành trình về phía biên giới cho tới lúc Cohen thốt lên mấy tiếng tán thán khi anh ta nhận thấy hàng xe tải phía trước họ.

- Chúng ta sẽ phải ở đây suốt đêm. - anh ta nói.

- Và không chừng gồm cả buổi sáng ngày mai, - Kratz nói - Vì vậy tốt hơn chúng ta tập làm quen đi.

Họ dừng lại phía sau chiếc xe tái cuối cùng.

- Tại sao mình không chạy đại lên trước và thử xoay sở? - Cohen nói - Một vài đô la cũng có thể…

- Không, - Kratz nói - Chúng ta không được lôi cuốn sự chú ý quá đáng bất cứ lúc nào kể từ đây cho đến khi chúng ta trở qua biên giới này.

Suốt tiếng đồng hồ sau đó trong lúc chiếc xe tải chỉ di chuyển về phía trước vài trăm mét, Kratz rà xét lại các kế hoạch của ông một lần nữa, bao gồm bất cứ tình thế nào ông có thể nảy sinh khi họ đã đến Baghdad.

Một tiếng đồng hồ nữa trôi qua, và Scott cám ơn ngọn gió đêm hiu hiu thổi giúp anh ngủ gà ngủ gật, mặc dù anh nhận thức rằng chẳng bao lâu sau anh sẽ phải quay kính cửa sổ lên nếu anh muốn khỏi bị đóng băng. Anh bắt đầu trôi giạt vào một giấc ngủ chập chờn, tâm trí anh chuyển đổi giữa Hannah và bản Tuyên ngôn, và nếu được phép lựa chọn, anh sẽ mang thứ nào về nhà. Anh nhận thức rằng Kratz rõ ràng là lý do khiến anh đã tình nguyện tham gia vào đội khi cơ may sống sót hết sức mỏng manh.

- Trò đùa rồi sẽ làm nên trò trống gì? Cohen khẽ hỏi.

Scott chợt tỉnh giấc và nhanh chóng tập trung vào một nhân viên mặc đồng phục đang nói chuyện với người tài xế của chiếc xe tải ở trước họ.

- Đó là một nhân viên hải quan, - Kratz nói - Anh ta chỉ kiểm tra xem các tài xế có đủ giấy tờ hợp lệ để qua biên giới hay không.

- Phần đông đám này chỉ có hai mảnh giấy màu đỏ dài khoảng mười hai phân, rộng tám phân, - Cohen nói.

- Anh ta đến đây rồi, - Kratz nói - Hãy cố làm bộ chán ngán như anh ta vậy.

Viên hải quan thong thả bước tới buồng lái và thậm chí không nhìn Cohen trong lúc anh ta chìa một bàn tay qua khung cửa sổ mở.

Cohen đưa các thứ giấy tờ mà các chuyên gia ở Langley cung cấp. Viên hải quan xem xét kỹ rồi từ từ bước quanh chiếc xe tải. Khi anh ta trở lại phía tài xế, anh ta lớn tiếng ra lệnh cho Cohen mà không ai hiểu nổi.

Cohen nhìn về phía Kratz, nhưng một giọng nói từ phía sau cứu thoát họ.

- Anh ta nói mình phải lên phía trước hàng xe.

- Tại sao? - Kratz nghi ngờ hỏi.

Aziz liền lập lại cáu hỏi với viên hải quan:

- Chúng ta đã được quyền ưu tiên nhờ bức thư do Saddam ký.

- Và chúng ta phải cám ơn ai về việc đó? - Kratz hỏi vẫn chưa hết nghi ngờ.

- Bill O'Reilly, - Scott nói - Ông ta đã rất lấy làm tiếc không thể theo chúng ta trong chuyến đi này. Nhưng tôi đã cho ông ta biết không thể kiếm được bia Guinness trong thùng ở bất cứ nơi nào trong đất nước Iraq.

Kratz gật đầu, và trung sĩ Cohen thi hành chỉ thị của viên hải quan, tự cho phép mình lấn sang đường dành riêng cho xe chạy ngược lại trong lúc anh ta bắt đầu cuộc hành trình gập ghềnh dài hơn ba cây số tới phía trước hàng xe. Nhiều chiếc xe được phép chạy về hướng Amman trên phía bên kia đường đã phải ngoặt gấp lên trên lề bằng xà bần nếu không muốn đụng đầu với Bà Bertha.

Trong lúc Cohen chạy mấy mét cuối cùng đến trạm gác qua biên giới, một nhân viên vừa giận dữ chạy ra khỏi trạm vừa huơ nắm tay. Một lần nữa Aziz cứu thoát họ bằng cách đề nghị Kratz cho anh ta xem bức thư.

Sau khi nhìn qua chữ ký, quả nắm nhanh chóng thành một cái chào.

- Hộ chiếu, - anh ta chỉ thốt lên một cách vắn tắt.

Kratz liền đưa ba hộ chiếu Thuỵ điển và một hộ chiếu Iraq với hai mảnh giấy đỏ đính vào trang đầu tiên của mỗi hộ chiếu.

- Đừng bao giờ trả quá lệ phí chính thức, - Ông đã báo trước cho mọi người, - Như thế chỉ khiến cho bọn họ nghi ngờ.

Bốn cuốn hộ chiếu được nhân viên hải quan mang vào một căn phòng nhỏ, xem xét kỹ, đóng dấu và hoàn trả. Thậm chí anh ta còn tặng họ một nụ cười. Rào chắn phía Jordan được giở lên và chiếc xe tải bắt đầu cuộc hành trình hơn một nghìn năm trăm mét về phía trạm kiểm soát của Iraq.

--- ------ ------ ------ -------

1 Tương đương với 35 độ C.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,745
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


Hamid Al Obaydi bị lôi vào phòng Hội đồng bởi hai người trong đội Vệ binh của Tổng thống rồi bị xô lên một chiếc ghế cách xa cái bàn dài mấy mét.

Ông ta ngẩng đầu lên và lần lượt nhìn mười hai người lập thành Hội đồng Lãnh đạo Cách mạng. Không một ai trong bọn họ để mắt tới ông ta, ngoại trừ vị Biện lý chính phủ.

Ông ta đã làm gì khiến cho những người này cương quyết định bắt ông ta ở biên giới, còng tay ông ta tống ông ta vào tù, bỏ ông ta ngủ trên nền đá và thậm chí không cho ông ta vào phòng vệ sinh?

Vẫn còn mặc bộ com lê như lúc qua biên giới, lúc này ông ta đang ngồi lên phần của chính mình.

Saddam đưa một bàn tay lên, và vị Biện lý Chính phủ mỉm cười.

Nhưng Al Obaydi không sợ Nakir Farra. Chẳng những ông ta vô tội đối với bất cứ sự vu cáo nào, ông ta còn có thông tin họ đang cần. Vị Biện lý Chính phủ từ từ đứng lên khỏi chỗ ngồi.

- Tên ông là Hamid Al Obaydi?

- Vâng, - Al Obaydi vừa trả lời vừa nhìn thẳng vào vị Biện lý Chính phủ.

- Ông bị buộc tội phản quốc và lấy trộm tài sản quốc gia. Ông bào chữa như thế nào?

- Tôi vô tội, và Allah sẽ làm chứng cho tôi…

- Nếu Allah phải làm chứng cho ông, tôi chắc chắn ngài sẽ sẵn lòng yêu cầu tôi hỏi ông vài câu đơn giản.

- Tôi sẽ hết sức vui lòng trả lời bất cứ điều gì.

- Khi ông từ New York trở về hồi đầu tháng, ông đã tiếp tục làm việc ở Bộ Ngoại giao. Có phải thế không? Và có phải một trong những trách nhiệm của ông là kiểm tra tình trạng mới nhất của chính phủ liên quan đến những biện pháp chế tài của Liên Hiệp Quốc?

- Vâng. Đó là một phần công việc của tôi với tư các Phó đại sứ ở Liên Hiệp Quốc.

- Đúng như thế. Và khi ông thực hiện các kiểm tra đó, ông đã biết một số món đã được bãi bỏ lệnh cấm vận. Tôi nói có đúng không?

- Vâng, ông nói rất đúng, - Al Obaydi quả quyết.

- Có phải một trong những món đó là cái tủ sắt?

- Phải, -Al Obaydi nói.

- Khi ông biết việc này, ông đã làm gì?

- Tôi đã điện thoại cho công ty Thuỵ điển chế tạo chiếc tủ sắt để biết chắc tình trạng mới nhất như thế nào, nhờ đó tôi có thể đưa sự việc vào bản phúc trình.

- Và ông đã khám phá ra điều gì?

Al Obaydi chợt do dự, không rõ vị Biện lý Chính phủ biết đến mức độ nào.

- Ông đã khám phá ra điều gì? - Farrar hỏi lại.

- Chiếc tủ sắt đã được một người tên Riffat lấy đi.

- Ông có biết người có tên Riffat này không?

- Không, tôi không biết.

- Rồi ông đã làm gì sau đó?

- Tôi gọi điện thoại cho Bộ Công nghiệp, vì tôi đinh ninh rằng họ chịu trách nhiệm về chiếc tủ sắt.

- Và họ đã nói gì với ông?

- Họ nói trách nhiệm đó không còn thuộc về họ nữa.

- Có phải họ cũng nói với ông trách nhiệm đã được giao cho ai? - vị Biện lý Chính phủ hỏi.

- Tôi không nhớ rõ.

- Thế thì để cho tôi thứ nhắc ông nhớ lại - hay là tôi sẽ gọi ông Bí thư thường trực là người ông đã nói chuyện điện thoại sáng hôm ấy.

- Tôi nghĩ có lẽ ông ta đã nói nó không còn thuộc trách nhiệm của họ nữa.

- Ông ta có nói trách nhiệm thuộc về ai hay không? Vị Biện lý nhắc lại.

- Tôi nghĩ ông ta đã nói hồ sơ đã được gởi đến Geneva.

- Ông nên biết ông Bí thư đã viết báo cáo xác nhận điều đó

Al Obaydi cúi đầu.

- Thế rồi, ngay sau khi ông biết hồ sơ được gửi đến Geneva, ông đã làm gì sau đó?

- Tôi đã gọi điện thoại cho Geneva và được cho biết ông Đại sứ không rảnh. Tôi liền nhắc là tôi đã gọi và xin ông ấy gọi lại. - Al Obaydi nói một cách tự tin.

- Ông thực sự tin ông Đại sứ sẽ gọi lại hay sao?

- Tôi đoán ông ấy sẽ gọi.

- Ông đoán ông ấy sẽ gọi. Thế là ông đã viết trong bản báo cáo, trong hồ sơ chế tài?

- Hồ sơ? - Al Obaydi hỏi.

- Phải. Ông đã lập một báo cáo cho người kế nhiệm. Ông đã chuyển lại thông tin gì?

- Tôi không nhớ. - Al Obaydi nói.

- Thế thì tôi cho phép nhắc nhở ông một lần nữa, - vị Biện lý vừa nói vừa nhấc một tập hồ sơ mỏng màu nâu lên khỏi mặt bàn. "Bộ Công nghiệp đã gửi hồ sơ liên quan đến món này thẳng tới Geneva. Tôi đã điện thoại cho Đại sứ của chúng ta ở đó, nhưng không thể liên lạc được với ông ấy. Vì vậy tôi không thể biết gì hơn từ đầu này cho tới lúc ông ấy gọi điện thoại lại cho tôi. Hamid Al Obaydi". Có phải ông đã viết như thế không?

- Tôi không thể nhớ.

- Ông không thể nhớ những gì ông Bí thư Thường trực đã nói với ông, ông không thể nhớ những gì ông đã viết trong bản báo cáo của chính mình khi tài sản quốc gia có thể đã bị lấy trộm, hoặc tệ hơn nữa… Nhưng tôi sẽ nói tới vấn đề đó sau này. Có lẽ ông muốn kiểm tra nét chữ của chính ông? - vị Biện lý nói trong lúc ông bước khỏi bàn và gí tờ giấy vào trước mặt Al Obaydi. - Đây có phải là nét chữ của ông?

- Vâng, nhưng tôi có thể giải thích.

- Và đây có phải là chữ ký của ông ở cuối trang giấy?

Al Obaydi cúi tới trước, xem xét kỹ chữ ký và gật đầu.

- Phải hay không? - vị Biện lý gằn giọng.

- Phải, - Al Obaydi nhẹ nhàng nói.

- Có phải buổi chiều hôm ấy, ông đã đến gặp Đại tướng Al- Hassan, Chỉ huy trưởng An ninh Quốc gia?

- Không, ông ấy đến gặp tôi.

- A, tôi đã nhầm lẫn. Chính ông ấy đã đến gặp ông.

- Vâng, - Al Obaydi nói.

Ông có thể báo động ông ấy về việc một điệp viên thù địch rất có thể đang nhắm vào Iraq, đã tìm được cách qua biên giới, có lẽ với ý định ám sát lãnh tụ của chúng ta?

- Tôi không thể biết được điều đó.

- Nhưng chắc hắn ông đã nghi ngờ một điều gì đó không bình thường đang xảy ra?

- Tôi không chắc chắn vào lúc đó.

- Ông đã cho Đại tướng Al-Hassan biết về tình trạng không chắc chắn của ông?

- Không.

- Có phải vì ông không tin ông ấy?

- Tôi không quen biết ông ấy. Đó là lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau. Trước…

Al Obaydi hối tiếc đã nói như thế.

- Ông định nói gì? - vị Biện lý hỏi.

- Không có gì.

- Thế thì chúng ta hãy chuyển sang ngày kế tiếp, khi ông đi gặp ông Thứ trưởng Ngoại giao - bởi vì tôi có cảm tưởng chắc chắn ông ấy đã không đến gặp ông…

Câu nói đó khiến một số nhân vật quanh bàn mỉm cười, nhưng Al Obaydi không trông thấy họ.

- Vâng, một cú điện thoại bình thường để thảo luận việc bổ nhiệm của tôi đến Paris. Xét cho cùng, ông ấy là vị Đại sứ tiền nhiệm.

- Đúng. Nhưng ông ấy không phải là thượng cấp trực tiếp của ông?

- Vâng, - Al Obaydi nói.

- Thế là ông đã nói với ông ấy về những điều nghi ngờ của ông?

- Tôi không biết chắc là đã nói bất cứ chuyện gì với ông ấy.

- Ông đã nói với ông ấy về những điều nghi ngờ của ông? - vị Biện lý lên giọng hỏi lại.

- Không.

- Ông ấy cũng không đáng tin hay sao? Hay là ông không biết rõ ông ấy?

- Tôi không chắc chắn. Tôi cần thêm bằng chứng.

- Tôi hiểu. Ông cần thêm bằng chứng. Thế rồi ông đã làm gì sau đó?

- Tôi đi đến Paris. - Al Obaydi nói.

- Vào ngày hôm sau? - vị Biện lý Chính phủ hỏi.

- Không, - Al Obaydi nói với vẻ do dự.

- Có lẽ vào ngày sau nữa? Hay là ngày sau đó nữa?

- Có lẽ vậy.

- Trong thời gian đó, chiếc tủ sắt đang trên đường tới Daghdad. Có đúng thế không?

- Vâng, nhưng,…

- Và ông cũng không thông báo cho bất cứ một ai? Cũng đúng như thế phải không

Al Obaydi không trả lời.

- Cũng đúng như thế phải không? - Farrar lớn tiếng.

- Vâng, nhưng vẫn còn có đủ thời gian…

- Đủ thời gian để làm gì? - vị Biện lý Chính phủ hỏi.

- Đầu của Al Obaydi lại gục xuống.

- Để cho ông đến được nơi an toàn ở Toà đại sứ của chúng ta tại Paris chứ gì?

- Không, Al Obaydi nói. Tôi đã tiếp tục đi đến…

- Thế à? - Farrar nói - Ông tiếp tục đi đến đâu?

Al Obaydi chợt nhận thức rằng mình đã rơi vào bẫy.

- Có lẽ đến Thuỵ điển?

- Vâng. - Al Obaydi nói, - Nhưng chỉ vì…

- Ông đã kiểm tra chiếc tủ đúng là trên đường đi phải không? Hay là, như ông đã nói với ông Thứ trưởng Ngoại giao, ông chỉ đi nghỉ phép?

- Không, nhưng… Vâng nhưng, không nhưng.…

- Có phải ông đã đi nghỉ phép ở Thuỵ Điển? Hay là ông đại diện cho Chính phủ?

- Tôi đại diện cho Chính phủ.

- Thế thì tại sao ông đã đi bằng vé loại rẻ nhất và không tính vào chi phí do Chính phủ đài thọ?

Al Obaydi không trả lời được.

Vị Biện lý cúi người về phía trước.

- Có phải vì ông không muốn bất cứ một ai biết ông đã đến Thuỵ Điển, khi các cấp trên của ông tưởng ông ở Paris?

- Vâng, nhưng sớm hay muộn…

- Sau đó có lẽ đã quá muộn. Có phải ông định nói với chúng tôi như thế chứ gì?

- Không. Tôi không nói như thế.

- Thế thì tại sao ông không chịu nhấc một máy điện thoại lên và gọi ông Đại sứ của chúng ta ở Geneva. Ông ấy có thể giúp ông khỏi phải tốn kém mọi thứ và tránh được chuyện rắc rối. Có phải bởi vì ông cũng không tin tưởng ông ấy? Hay là có lẽ ông ấy không tin tưởng ông?

- Tất cả đều không phải. - Al Obaydi vừa lớn tiếng vừa đứng vụt lên, nhưng mấy vệ binh chộp lấy vai ông ta và xô ông ta trở xuống ghế.

- Bây giờ ông đã bớt nóng giận, vị Biện lý trầm tĩnh nói - Có lẽ chúng ta có thể tiếp tục. Ông đã đến Thuỵ Điển, đúng hơn là đến Kalmar để đúng hẹn với ông Perdersson, người mà dường như ông đã vui lòng điện thoại.

Vị Biện lý lại xem các ghi chép trước khi nói tiếp:

- Và mục đích của cuộc viếng thăm này là gì, sau khi ông đã xác nhận không phải ông đi nghỉ phép.

- Tôi cố tìm xem ai là kẻ lấy trộm chiếc tủ sắt.

- Hay là để biết chắc chắn là tủ sắt đã lên đường theo kế hoạch của ông?

- Chắc chắn không phải, - Al Obaydi nói, giọng bắt đầu lớn - Chính tôi là người đã khám phá ra kẻ mang tên Riffat đó là điệp viên Kratz của Mossad.

- Ông đã biết rằng Riffat là một điệp viên của Mossad?

Vị Biện lý chất vấn với vẻ hoài nghi pha giễu cợt.

- Vâng, tôi đã phát giác ra khi tôi đến Kalmar, - A lObaydi nói.

- Nhưng ông lại nói với ông Perdersson rằng ông Riffat là một con người rất kỹ lưỡng, một con người có thể tin tưởng. Tôi nói có đúng không? Thế là giờ đây cuối cùng chúng tôi tìm được một người mà ông có thể tin tưởng.

- Đó chỉ là vì tôi không muốn ông Perdersson biết điều tôi đã khám phá ra.

- Tôi không nghĩ ông muốn bất cứ người nào biết điều ông đã khám phá ra, như tôi sẽ tiếp tục trưng bày. Ông đã làm gì sau đó?

- Tôi đã bay trở về Paris.

- Và ông đã qua đêm ở Toà đại sứ?

- Vâng, nhưng tôi chỉ tạm ngừng trên đường đi Jordan.

- Tôi sẽ nói tới chuyến đi của ông đến Jordan một lát nữa, nếu tôi có thể. Nhưng điều tôi muốn biết lúc này là tại sao khi ông trở về Toà đại sứ của chúng ta ở Paris, ông lại không gọi ngay cho ông Đại sứ của chúng ta ở Geneva để thông báo với ông ấy về điều ông đã khám phá ra? Chẳng những ông Đại sứ đang ở nhà, mà ông ấy còn nhận một cú điện thoại từ một người khác trong số nhân viên của Toà đại sứ sau khi ông đã đi ngủ.

Al Obaydi đột nhiên nhận thức được Farrar biết nhiều như thế nào. Ông ta cố lấy lại bình tĩnh.

- Mối quan tâm duy nhất của tôi là trở về Baghdad để cho ông Bộ trưởng Ngoại giao biết nỗi nguy hiểm mà lãnh tụ của chúng ta đang gặp phải.

- Như vụ ném bom sắp xảy ra của Mỹ lên đại bản doanh Mukhbarat, - vị Biện lý Chính phủ gợi ý.

- Tôi không biết những gì bọn Mỹ đang dự tính. - Al Obaydi lớn tiếng.

- Tôi hiểu. - Farrar nói - Quả thực không phải là một sự trùng phùng chẳng vui vẻ gì trong khi ông ngủ êm ấm trên giường ở Paris thì các tên lửa Tomahawk rơi như mưa lên Baghdad.

- Nhưng tôi đã trở về Baghdad ngay sau khi nghe tin về vụ oanh tạc, - Al Obaydi biện hộ.

- Có lẽ ông sẽ không quá vội vã trở về như thế nếu bọn Mỹ đã thành công trong việc ám sát vị lãnh tụ của chúng.

- Nhưng bản báo cáo của tôi đã chứng thực…

- Và bàn báo cáo đó ở đâu?

- Tôi đã có ý định viết trên cuộc hành trình từ Jordan đến Baghdad.

- Thuận tiện quá. Và ông đã khuyên ông bạn Riffat đáng tin cậy của ông gọi điện thoại cho ông Bộ trưởng Công nghiệp để hỏi xem ông ta có được trông đợi hay không?

- Không, tôi không làm việc đó, - Al Obaydi nói, - Nếu bất cứ điểm nào trong điều này là đúng sự thực, thì tại sao tôi phải làm việc hết sức vất vả để biết rõ vị lãnh tụ vĩ đại của chúng ta đã giữ an toàn bản Tuyên ngôn?

- Tôi đã vui mừng vì ông đã nhắc tới bản Tuyên ngôn - vị Biện lý Chính phủ dịu dàng nói, - bởi vì tôi cũng đang mù tịt về vai trò ông đóng trong công việc đặc biệt này. Nhưng trước hết hãy để tôi hỏi. Ông có tin cậy vị đại sứ của chúng ta ở Geneva để đảm đương công việc chuyển giao bản Tuyên ngôn về Baghdad?

- Vâng, tôi tin.

- Và nó có đến Baghdad một cách an toàn hay không? - vị Biện lý vừa hỏi vừa liếc mắt về tấm giấy da nhàu nhỏ, vẫn còn đóng bằng đinh vào bức tường phía sau Saddam.

- Vâng, an toàn.

- Thế thì tại sao ông lại không tin giao hiểu biết mà ông đã tìm hiểu được về chiếc tủ sắt cho cùng một người trong lúc ông vẫn nhớ rằng đó là trách nhiệm của ông ấy?

- Đây là vấn đề khác.

- Chắc chắn như vậy, và tôi sẽ trưng bày với Hội đồng nó khác như thế nào. Bản Tuyên ngôn đã được trả tiền như thế nào?

- Tôi không hiểu. - Al Obaydi nói.

- Thế thì hãy để cho tôi làm cho ông dễ hiểu hơn. Mỗi lần trả tiền được giải quyết như thế nào?

- Mười tám triệu đô la phải đưa ngay sau khi hợp đồng được thoả thuận, và bốn mươi triệu đô la nữa khi bản Tuyên ngôn được chuyền giao.

- Và trong số tiền đó - tiền của quốc gia - Ông đã giữ riêng cho ông bao nhiêu?

- Không một xu.

- Tốt. Chúng ta sẽ xem đó có phải là hoàn toàn chính xác hay không. Nhưng cuộc gặp gỡ đã diễn ra ở đâu đề trao đổi những số tiền quá lớn như thế?

- Làn trả đầu tiên được thực hiện cho một ngân hàng ở New Jersey, và lần thứ hai cho công ty Dummond, một trong những ngân hàng của chúng ta ở Thuỵ Sĩ.

- Và lần trả đầu tiên gồm mười triệu dô la, nếu tôi hiểu đúng, ông đã yêu cầu phải trả bằng tiền mặt.

- Điều đó không đúng, - Al Obaydi nói - Phía bên kia đã yêu cầu phải trả bằng tiền mặt.

- Thuận tiện quá. Nhung rồi, một lần nữa, chúng tôi chỉ có lời nói của ông làm bằng, bởi vì ông Đại sứ của chúng ta ở New York đã phát biểu chính ông ta yêu cầu lần trả đầu tiên phải bằng tiền mặt. Có lẽ ông ấy cũng đã hiểu lầm ông. Nhưng chúng ta hãy nói sang lần trả thứ hai. Và ông hãy đính chính nếu tôi đã hiểu lầm ông.

Vị Biện lý ngừng một lát rồi tiếp:

- Có phải tiền đã được chuyển thẳng vào công ty Franchard?

- Đúng thế, - Al Obaydi nói.

- Và ông đã nhận lại một số tiền ăn chia sau mỗi lần trả?

- Chắc chắn không.

- Tốt. Điều chắc chắn là, vì lần trả đầu tiên được thực hiện bằng tiền mặt, bất cứ ai cũng khó chứng minh ngược lại. Nhưng về lần trả thứ hai…

Vị Biện lý ngừng lại để cho ý nghĩa lời nói của ông thấm sâu.

- Tôi không biết ông đang nói chuyện gì? - Al Obaydi rít lên.

- Thế thì trí nhớ của ông phải có một sai sót nữa, bởi vì trong thời gian ông đi vắng, khi ông vội vã trở về từ Paris để cảnh giác Tổng thống về mối nguy hiểm sắp xảy ra cho tính mạng của Người, ông đã nhận được một thông báo của công ty Franchard mà vì bức thư đề địa chỉ ông Đại sứ của chúng ta ở Paris nên cuối cùng nằm trên bàn của ông Thứ trưởng Ngoại giao.

- Tôi không có liên lạc với công ty Franchard…

- Tôi không có ý nói như vậy, - vị Biện lý nói trong lúc ông sải bước tới cách Al Obaydi chừng một mét. - Tôi chỉ có ý nói họ đã liên lạc với ông. Bởi vì họ đã gửi cho ông bản kê khai các khoản tiền gửi vào lấy ra gần đây nhất của ông với tên Hamid Al Obaydi, đề ngày 25 tháng 7 năm 1993, cho thấy tài khoán đã được trả vào một triệu đô la vào ngày 18 tháng 2 năm 1993.

- Không thể như thế được, - Al Obaydi nói với vẻ thách thức.

- Không thể như thế sao? - vị Biện lý vừa nói vừa ném một bản sao của bản kê khai trước mặt Al Obaydi.

- Cái này rất dễ giải thích. Gia đình Cavalli đang cố trả thù vì chúng ta đã không chịu trả đủ số tiền một trăm triệu đô la như đã hứa hẹn ban đầu.

- Trả thù, đó chính là ông nói. Tiền không phải là thực hay sao? Chẳng lẽ nó không hiện hữu? Đây chỉ là một mảnh giấy à? Một ảo tưởng của chúng tôi?

- Vâng, - Al Obaydi nói - Đó là sự thực.

- Như vậy có lẽ ông có thể giải thích tại sao một trăm nghìn đô la được rút ra khỏi tài khoản này một ngày sau khi ông đã viếng thăm công ty Franchard?

- Không thể như thế được.

- Lại một điều không thể nữa sao? Một ảo tưởng nửa của chúng tôi à? Thế thì ông đã trông thấy lệnh rút một trăm nghìn đô la, được gửi đến cho ông mấy ngày sau? Chữ ký trên đó rất giống chữ ký trên bản phúc trình về chế tài mà ông đã nhìn nhận là xác thực.

Vị Biện lý giơ hai bản tài liệu trước mặt Al Obaydi sát vào chóp mũi của ông ta. Ông ta nhìn vào hai chữ ký và nhận thức được những gì Cavalli đã làm. Vi Biện lý tuyên án tử hình trước cả khi Al Obaydi được phép giải thích.

- Và bây giờ chắc là ông sắp sửa yêu cầu Hội đống tín rằng cũng chính Cavalli đã giả mạo chữ ký của ông?

Một tiếng cười nhỏ từ từ chuyển quanh bàn và Al Obaydi tin chắc rằng vị Biện lý biết rõ ông ta chỉ nói sự thực.

- Tôi đã chán ngấy chuyện này, - người duy nhất trong phòng dám ngắt lời vị Biện lý lên tiếng.

Al Obaydi ngước lên với một cố gắng cuối cùng lôi cuốn sự chú ý của vị Tổng thống, nhưng ngoại trừ vị Biện lý Chính phủ.

Cả Hội đồng đang nhìn về phía đầu bàn và gật đầu đồng ý.

- Hội đồng có những vấn đề cấp bách hơn cần phai xem xét. - Ông vừa nói vừa vẫy một bàn tay như thể đang đập một con ruồi gây khó chịu.

Hai quân nhân liền bước tới và đưa Al Obaydi khỏi mắt ông.

° ° °

- Mọi việc dễ hơn nhiều so với những gì chúng ta chờ đợi - Cohen nói, sau khi họ đã qua khỏi trạm liềm tra cứu Iraq.

- Có lẽ hơi quá dễ, - Kratz nói.

- Thật là thú vị khi chúng ta có một người lạc quan và một người bi quan trong chuyến đi này, - Scott nói.

Sau khi Cohen đã cho xe chạy trên xa lộ, anh ta vẫn thận trọng không vượt quá tám mươi cây số giờ. Những chiếc xe tải chạy theo hướng ngược lại về phía Jordan ít khi có hơn hai ngọn đèn pha cháy sáng, khiến cho một đôi lẳn ở từ xa trông giống như mô tô, vì vậy thật là nguy hiểm khi vượt qua. Nhưng mắt anh ta cần phải hết sức cảnh giác đối với các chiếc xe tải chạy phía trước, đối với chúng, một ngọn đèn đỏ phía sau đã là một sự xa xỉ.

Kratz vẫn luôn luôn nghĩ cuộc hành trình gần năm trăm cây số từ biên giới Baghdad quá dài không thể chạy một mạch, vì thế ông đã quyết định họ sẽ nghỉ ngơi một lát khi còn cách thủ đô của Iraq khoảng năm mươi cây số.

Scott hỏi Cohen lúc nào theo ý anh ta sẽ đến nơi nghỉ.

- Giả sử tôi không đâm đầu vào một chiếc xe tải bị phế bỏ đậu ở giữa đường hoặc lọt thỏm xuống một lỗ nước xói, tôi nghĩ chúng ta sẽ đến đó vào khoảng bốn, năm giờ là chậm nhất.

- Tôi không thích thấy tất cả những chiếc xe nhà binh đó chạy trên đường. Anh nghĩ họ có thể làm gì? - Kratz hỏi, ông ta đã không chợp mắt kể từ khi họ qua biên giới.

- Một tiểu đoàn đang chuyển quân, tôi đoán thế, thưa ông. Đối với tôi, điều đó không có vẻ bất thường, và tôi nghĩ chúng ta không cần phải lo ngại họ trừ phi họ đi cùng hướng với chúng ta.

- Có lẽ anh nói đúng, - Kratz báo.

- Nếu ông qua biên giới một cách hợp pháp, chắc là ông đã không suy nghĩ như thế.

- Có lẽ… Nhưng, Trung sĩ, - Kratz vừa nói vừa quay sự chú ý trở lại Cohen, - anh hãy cho tôi biết ngay lúc anh bất cứ điều gì mà anh cho là bất thường.

- Có phải ông muốn nói, như một người phụ nữ đáng nhìn lại một lần thứ hai?

Kratz không bình luận. Ông quay sang hỏi Scott một câu chỉ để nhận thấy anh lại ngủ gật. Ông ganh tỵ tính dễ ngủ của Scott ở bất cứ nơi đâu và vào bất cứ lúc nào, đặc biệt khi đang lâm vào tình trạng căng thẳng như thế này.

Trung sĩ Cohen tiếp tục lái xe suốt đêm, không phải luôn luôn theo một đường thẳng, vì anh ta thỉnh thoảng phải tránh một chiếc xe tăng bị đốt cháy hoặc một hố bom lớn do chiến tranh để lại. Họ cứ liên tục di chuyển qua những thị trấn nhỏ và những thôn làng đang ngủ yên tựa hồ không có người ở, cho tới lúc bốn giờ mấy phút, khi Cohen tách khỏi xa lộ và đì vào một con đường mòn rất có thể chỉ được lưu thông một chiều. Anh ta lái xe trong hai mươi phút nữa, cuối cùng dừng lại khi con đường chấm dứt tại một ngọn đồi cao.

- Ngay cả một coin chim kền kền cũng không tìm được chúng ta ở đây, - Cohen nói trong lúc anh ta tắt máy xe - Đại tá có cho phép hút một điếu thuốc và chợp mắt một chút?

Kratz gật đầu và quan sát Cohen nhảy ra khỏi buồng lái và đưa cho Aziz một điếu thuốc trước khi biến dạng vào phía sau một cây cọ. Ông kiểm tra miền thôn dã chung quanh một cách cẩn thận, và quyết định Cohen nói đúng.

Khi ông trở lại xe, ông nhận thấy Aziz và viên trung sĩ đã ngủ, trong lúc Scott đang ngồi trên một ngọn đồi ngắm cảnh, mặt trời mọc về phía Baghdad.

- Thật là một cảnh tượng thanh bình. - anh nói trong lúc Kratz ngồi xuống bên cạnh anh, hầu như anh đang nói với một người nào khác. - Chỉ có Chúa mới có thể tạo nên một cảnh mặt trời mọc đẹp như thế.

- Có điều gì đó không ổn, - Kratz khẽ nói.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,745
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


Saddam gật đầu nói với viên Biện lý:

- Bây giờ chúng ta đã giải quyết xong tên phản quốc, chúng ta hãy chuyển sang bọn khủng bố. Tình trạng gần đây nhất như thế nào, Đại tướng?

Đại tướng Hamil, biệt danh là Thợ Cạo của thành phố Baghdad liền mở tập hố sơ trước mặt ông ta có hồ sơ của từng người, kể cả những người đang ngồi xung quanh bàn.

Hamid đã học ở Sandhurst(1) và trở về Iraq để tham gia Hội đồng Hoàng tộc, chỉ để nhận thấy không còn vị vua nào để phục vụ. Vì thế ông ta chuyển lòng trung thành sang vị Tổng thống mới, Albul Karim Qasim. Rồi một viên Đại uý trẻ đổi phe trong cuộc đảo chính năm 1963 và đấng Baath nắm chính quyền. Một lần nữa, Hamil chuyển lòng trung thành, và được tưởng thưởng bằng một sự bổ nhiệm vào ban nhân viên của vị Phó Tổng thống mới, Saddam Hussein. Kể từ ngày hôm ấy, ông ta được thăng cấp một cách nhanh chóng. Hiện nay ông ta là viên Đại tướng được ưu ái của Saddam, Chỉ huy trưởng Đội quân Phòng vệ của Tổng thống. Ông ta có điểm độc đáo là người duy nhất, ngoại trừ các vệ sĩ của Tổng thống, được phép mang một vũ khí ở thắt lưng trước sự hiện diện của Saddam. Thú tiêu khiển thích thú nhất của ông ta là cạo đầu các nạn nhân trước khi họ bị treo cổ bằng một con dao cạo có cán mà ông ta không bao giờ nghĩ đến việc mài cho bén. Một vài người trong số họ đã khiến ông ta thất vọng vì phải chết trước khi có thể bị tròng dây thừng quanh cổ.

Hamil nghiên cứu hồ sơ một hồi trước khi phát biểu ý kiến:

- Bọn khủng bố đã qua biên giới lúc 21 giờ 26 phút đêm hôm qua. Bốn sổ hộ chiếu đã được xuất trình cho nhân viên di trú để đóng dấu. Ba cái có xuất xứ từ Thuỵ Điển và một cái có xuất xứ Iraq.

- Tôi sẽ đích thân lột da tên đó. - Saddam nói.

- Bốn tên đi trên một chiếc xe tải có vẻ cũ rích, nhưng vì chủng tôi không thể liều lĩnh đến quá gần để nhìn, tôi không thể chắc chắn có phải chúng ta đang đối đầu với con ngựa thành Troy(2) hay không? Chiếc tủ sắt mà Tổng thống đặt chế tạo nhất định ở trên phía sau của xe tải.

"Chiếc xe tải đã chạy không ngừng suốt đêm với một tốc độ đều đặn vào khoảng sáu mươi lăm cây số mỗi giờ về hướng Baghdad, nhưng vào lúc 4 giờ 9 phút sáng nay nó quẹo vào sa mạc, và chúng tôi không còn theo dõi được chuyển động của nó nữa, vì con đường mòn đặc biệt đó không biết dẫn tới nơi nữa. Chúng tôi tin bọn chúng chỉ tách khỏi đường để nghỉ ngơi trước khi tiếp tục đi vào thì đô trong buổi sáng hôm nay".

- Lúc đó bọn chúng còn cách Baghdad bao nhiêu cây số? - Bộ trưởng Nội vụ hỏi.

- Sáu mươi lăm, hoặc tám mươi - một giờ tới một giờ rưỡi là tối đa.

- Thế thì, nếu lúc này bọn chúng đang bị kẹt song sa mạc, tại sao Đại tướng không gửi binh lính vào ngăn chặn bọn chúng lại?

- Trong lúc bọn chúng đang chở chiếc tủ sắt đến Baghdad hay sao? - Saddam nói - Không. Như thế rất nguy hiểm cho chúng ta.

- Tôi không hiểu Tổng thống muốn nói gì? - Bộ trưởng Nội vụ vừa nói vừa quay về phía vị lãnh tụ.

- Thế thì tôi sẽ giải thích cho ông Bộ trưởng, - Saddam nói, nhấn mạnh mấy từ cuối một cách độc ác. - Nếu chúng ta chặn bắt bọn chúng trong sa mạc, ai sẽ tin chúng ta khi chúng ta nói với thế giới bọn chúng là những tên khùng. Báo chỉ phương Tây thậm chí sẽ phản bác rằng chúng ta đã đành tráo hộ chiếu của chúng. Không, tôi muốn tóm bọn chúng ngay tại đây, trong phòng Hội đồng. Khi đó Mossad sẽ không thể nào phủ nhận sự dính líu của mình và quan trọng hơn nữa, chúng ta sẽ vạch trần âm mưu của bọn chúng và biến bọn chúng thành một lũ ngu đần trong con mắt nhân dân Do thái.

- Bây giờ tôi mới hiểu sự thông thái sâu sắc của Tổng thống.

Saddam vẩy tay và quay sự chú ý sang Bộ trưởng Công nghiệp:

- Các mệnh lệnh của tôi đã được thi hành rồi chứ?

- Từng chi tiết, thưa ngài. Khi bọn khủng bố đến Bộ, bọn chúng sẽ bị bắt phải chờ đợi, và sẽ được đối xử một cách cộc lốc cho đến khi bọn chúng xuất trình tài liệu chứng tỏ xuất phát từ văn phòng của ngài.

- Bọn chúng đã xuất trình một bức thư như thế ở biên giới. - Đại tướng Hamil nói, mắt vẫn còn nhìn xuống hồ sơ.

- Lúc một bức thư như thế được xuất trình cho văn phòng của tôi, - Bộ trưởng Công nghiệp nói tiếp - Một cần cẩu sẽ được cung cấp để cho chiếc tủ sắt có thể được chuyển vào trong toà nhà này. Tôi e rằng chúng ta sẽ phải phá bỏ mấy chiếc cửa trước toà nhà này, nhưng chỉ…

- Tôi không quan tâm đến mấy cánh cửa, - Saddam nói, - Ông dự đoán lúc nào thì chiếc tủ sắt sẽ đến bên ngoài toà nhà?

- Khoảng mười hai giờ trưa, - Đại tướng Hamil nói - Tôi sẽ đích thân điều khiển toàn bộ hoạt động ngay sau khi chiếc tủ sắt đã ở bên trong toà nhà, thưa Tổng thống.

- Tốt. Và cố làm sao cho bọn khủng bố trông thấy được bản Tuyên ngôn trước khi bọn chúng bị bắt.

- Nếu bọn chúng tìm cách phá huỷ bản Tuyên ngôn thì sao, thưa ngài?

- Không bao giờ. - Saddam nói. - Bọn chúng đã đến Baghdad cốt để chỉ lấy trộm bản Tuyên ngôn, chứ không phải để phá huỷ tài liệu lịch sử thống thiết đó.

Hai ba người ngồi chung quanh bàn gật đầu đồng ý, trong lúc vị Tổng thống nói tiếp:

- Không một ai trong số các ông, ngoại trừ Đại tướng Hamil và nhân viên thân cận nhất của ông ấy, được đến bất cứ nơi nào gần toà nhà này trong hai mươi bốn giờ sắp tới. Càng có ít người biết chuyện đang thực sự xảy ra càng tốt; thậm chí không nói gì đến viên sĩ quan trực nhật. Tôi muốn các biện pháp an ninh bên ngoài có vẻ lỏng lẻo. Như thế bọn chúng sẽ rơi ngay vào bẫy của chúng ta.

Đại tướng Hamil gật đầu.

- Ông Biện lý, - Saddam vừa nói vừa quay sự chú ý về phía đầu bàn đằng kia, - cộng đồng quốc tế sẽ nói gì khi hay tin tôi tóm được lũ lợn Do thái?

- Bọn chúng là những tên khủng bố, thưa ngài, và đối với bọn khủng bố, chỉ có thể có một bản án. Nhất là sau khi Mỹ phóng hoả tiễn lên đầu các thường dân vô tội mới cách đầy mấy ngày.

Saddam mỉm cười.

- Còn vấn đề gì nữa không?

- Chỉ còn một vấn đề, thưa ngài, - Thứ trưởng Ngoại giao nói, - Ngài muốn làm gì đối với cô gái?

- A phải, - Saddam vừa nói vừa mỉm cười lần đầu tiên - Bây giờ thì cô ta đã đạt mục đích, tôi phải nghĩ ra cách thích hợp nhất để chấm dứt tính mạng cô ta. Lúc này cô ta đang ở đâu?

***

Trong lúc chiếc xe tải bắt đầu cuộc hành trình chậm chạp trở lại theo con đường mòn nhỏ xíu vắng vẻ, tới phiên Aziz cầm lái và Cohen ở phía sau với Bà Bertha, Scott cảm thấy lần này không khí trong buồng lái đã thay đổi. Khi họ rời khỏi xa lộ để nghỉ ngơi, anh vẫn còn tin họ không đến nỗi lâm nguy. Nhưng sự im lặng ảm đạm của buổi sáng đã khiến anh bỗng nhận thức rõ công việc họ đang đảm trách cùng nhau.

Họ đã có Kratz để cám ơn về ý nghĩ độc đáo, và đã phối hợp với sự pha trộn đặc biệt của trí tưởng tượng, tính kỷ luật, lòng can đảm cùng sự giả vờ không một ai biết gì về việc họ đang làm. Scott có cảm tưởng họ đã có khả năng thoát thân, nhất là giờ đây họ đã biết chính xác bản Tuyên ngôn đang ở đâu.

Khi họ ra tới đường cái, Aziz hỏi đùa:

- Phải hay trái?

Scott nói:

- Trái.

Nhưng Aziz lại quẹo phải.

Trong lúc họ chạy theo xa lộ về phía Baghdad, mặt trời chiếu sáng tử một bầu trời không mây chắc sẽ khiến bất cứ du khách nào cũng phải thích thú, mặc dù những chiếc xe tăng bị cháy rụi và những hố bom giữa đường không thể được xem như những hình ảnh hấp dẫn. Không một ai nói gì trong lúc nhiều cây số lướt qua.

Họ không cần phải rà soát lại các kế hoạch một lần nữa. Như thế chẳng khác gì một cuộc tập luyện vào buổi sáng thi đấu Thê vận hội - hoặc là quá muộn, hoặc là không còn có giá trị nữa.

Trong mười lăm cây số cuối cùng họ vào một xa lộ siêu tốc giống hệt như ở Đức. Trong lúc họ chạy qua một cây cầu mới xây dựng trên sông Euphrates, Scott bắt đầu tự hỏi anh còn cách Hannah bao nhiêu, và anh có thể tự mình lọt vào Bộ Ngoại giao mà Kratz cũng như người Iraq chẳng biết gì hay không.

Khi họ tới vùng ngoại ô của Bnghdad với những toà nhà chọc trời sáng bóng và công trình kiến trúc hiện đại, cứ như họ đang đi vào bất cứ thành phố lớn nào trên thê giới - cho tới lúc họ trông thấy người dân. Có nhiều dãy xe hơi xếp hàng ở các trạm xăng trong một đất nước mà tài sản chính là dầu mỏ, nhưng hàng người chờ mua thực phẩm còn dài hơn gấp bội. Tất cả bốn người có thể trông thấy rõ các biện pháp chế tài thật là đau xót, tuy nhiên Saddam vẫn cực lực phủ nhận điều đó.

Họ chạy xe tới gần trung tâm thành phố, theo con đường qua phía dưới Al-Naser, vòng cầu đồ sộ với hai cây kiếm chéo nhau được nắm chặt trong bàn tay đúc kim loại của Saddam. Không cần phải chỉ đường cho Aziz đến Bộ Công nghiệp, anh ta ước mong vẫn còn sống ở Baghdad, nhưng anh ta đã không bước vào thành phố kể từ khi cha anh bị hành hình vì tội tham dự vào cuộc đảo chính bất thành năm 1987. Nhìn những người đồng hương qua khung cửa sổ, anh ta vẫn có thể ngửi thấy mùi vị của nỗi sợ hài trong lỗ mũi.

Trong lúc họ chạy qua những tàn tích của đại bản doanh Mukhbarat bị dội bom, Scott để ý thấy chiếc xe cứu thương không có người đậu bên ngoài trung tâm tình báo Iraq. Nó được xếp đặt có lợi cho các máy quay phim của đài truyền hình CNN hơn bất cứ một mục đích thực tiễn nào khác, anh tin chắc như thế.

Khi Aziz trông thấy toà nhà Bộ Công nghiệp lù lù trước mặt, anh ta liền chỉ cho Scott. Scott còn nhớ mặt tiền trong đống ảnh do Kratz cung cấp. Nhưng mất anh di chuyển lên các tháp súng trên nóc Bộ Ngoại giao, chỉ cách một khoảng ngắn.

Aziz thắng xe lại qua khỏi cổng Bộ Công nghiệp chừng một trăm mét.

- Tôi sẽ càng nhanh càng tốt. - Scott vừa nói vừa nhảy ra khỏi buồng lái và đi trở lại về phía toà nhà.

Trong lúc anh trèo lên các bậc thềm, anh không trông lấy một người đàn ông trong một khung cửa sổ của toà nhà đối diện đang nói chuyện điện thoại với Đại tướng Hamil.

Chiếc xe tải đã ngừng lại qua khỏi Bộ chừng một trăm mét. Một tên tóc vàng cao lớn vừa đứng phía trước xe đang bước vào toà nhà, nhưng ba tên còn lại, kể cả Krazt vẫn ở bên cạnh chiếc tủ sắt.

Scott đẩy cánh cửa xoay và đi qua hai người lính gác vẻ như họ không di chuyển quá vài mét mỗi ngày. Anh bước tới bàn chỉ dẫn và đứng vào hàng người ngắn nhất trong ba hàng. Chiếc đồng hồ một kim phía trên bàn cho biết lúc đó khoảng 9 giờ 30.

Phải mất thêm mười lăm phút nữa, Scott mới đến được quầy. Anh giải thích với cô gái rằng tên anh ta là Bernstrom và anh cần gặp ông Kajami.

- Ông có hẹn trước không? - Cô ta hỏi.

- Không, - Scott nói - Chúng tôi đã gọi từ Jordan để báo trước cho ông ấy rằng một chiếc tủ sắt mà chính phủ đã đặt mua đang trên đường đến Baghdad, ông ấy đã yêu cầu chúng tôi thông báo cho ông ấy lúc nó đến nơi.

- Tôi sẽ xem ông ấy có trong văn phòng không. - Cô tiếp tân nói.

Scott vừa chờ đợi vừa ngước mắt nhìn lên bức chân dung khổng lồ của Saddam Hussein mặc quân phục bao quát cả các bức tường màu xám một cách khác thường của khu tiếp tân.

Cô gái thận trọng lắng nghe một người nào đó ở đầu bên kia của đường dây trước khi nói:

- Một người sẽ xuống gặp ông trong vài phút nữa.

Rồi cô ta quay sự chú ý tới người kế tiếp trong hàng người đang xếp nối đuôi nhau.

Scott loanh quanh trong ba phút nữa trước khi một người đàn ông cao gầy mặc một bộ âu phục bước ra khỏi thang máy và đi về phía anh.

- Ông Bernstrom?

- Vâng. - Scott vừa nói vừa quay lại nhìn thẳng vào mặt người đàn ông.

- Chào ông, - anh ta nói một cách tự tin bằng tiếng Anh. - Tôi là Ibrahim, trợ lý riêng của ông Kajami. Tôi có thể giúp gì cho ông?

- Tôi đã đưa một chiếc tủ sắt từ Thuỵ Điển, - Scott nói - Nó được quý Bộ đặc mua cách đây mấy năm nhưng do các biện pháp chế tài của Liên Hiệp Quốc, cho nên không thể được giao sớm hơn. Chúng tôi đã được căn dặn khi chúng tôi đến Baghdad, chúng tôi phải báo cáo với ông Kajami.

- Ông có giấy tờ gì để chứng minh cho việc này?

Scott liền lấy tập hồ sơ ra khỏi túi xách và cho Ibrahim xem các giấy tờ trong đó.

Người đàn ông đọc qua mỗi tài liệu một cách chậm rãi cho đến khi ông ta xem tới bức thư do Tổng thống ký. Anh ta không đọc thêm nữa, ngước mắt lên và hỏi:

- Tôi có thể xem chiếc tủ sắt này chứ, ông Bernstrom?

- Tất nhiên, - Scott nói - Xin ông theo tôi.

Scott dẫn người đàn ông ra đường và đưa đến chiếc xe tải.

Cohen chăm chú nhìn xuống họ. Khi Kratz ra lệnh, anh ta giật tấm vải dầu khỏi chiếc tủ sắt để cho viên chức Iraq có thể đích thân kiểm tra Bà Bertha.

Scott hết sức lấy làm lạ vì những người qua lại trên ông phố không hề liếc mắt chiếc tủ sắt. Có điều họ bước nhanh hơn một chút. Nỗi sợ hãi trong dân chúng nơi đây tự biểu lộ bằng cách không hiếu kỳ.

- Xin đi theo tôi, ông Barnstrom. - Ibrahim nói.

Scott theo anh ta trở lại khu vực tiếp tân. Đến đây anh ta trở lên lầu không nói thêm tiếng nào.

Scott bị bỏ lại đó chờ đợi thêm ba mươi phút nữa Ibrahim mới trở lại.

- Ông phải đưa chiếc tủ sắt đến Quảng trường Chiến thắng, ở đó ông sẽ được trông thấy một hàng rào với một chiếc xe tăng đậu trước một toà nhà lớn màu trắng. Họ đang chờ ông.

Scott định hỏi Quảng trường Chiến thắng ở đâu thì Ibrahim đã quay người bước đi. Anh liền trở lại chiếc xe tải, gặp Kratz và Aziz ở phía trước rồi thông báo tin tức. Aziz không cần chỉ đường:

- Tôi vui mừng thấy chúng ta được đối đãi không có gì đặc biệt, - Kratz nói.

Scott gật đầu công nhận trong lúc Aziz thận trọng cho xe chạy lại. Lúc này sự lưu thông đã dày đặc hơn nhiều. Những chiếc xe tải và xe du lịch nhấn còi liên tục, cố di chuyển từng tấc một.

- Chắc phải có một tai nạn. - Scott nói, cho tới khi họ quẹo qua góc đường và trông thấy ba thi thể treo toòng teng trên cái giá treo cổ theo kiểu dã chiến: một người đàn ông mặc một bộ com lê loại đắt tiền, một người đàn bà có lẽ hơi trẻ hơn và một người đàn bà khác già hơn nhiều. Khó mà chắc chắn được với những chiếc đầu đã bị cạo trọc lốc của họ.

Ông Kajami ngồi ở bàn làm việc, quay số vừa được đưa đến cho ông ta, vẻ chờ đợi.

- Đây là văn phòng của Thứ trưởng Ngoại giao tôi tên Saib…

- Tôi là Bộ trưởng Công nghiệp. Cô có thể cho tôi nói chuyện với ông Thứ trưởng Ngoại giao?

- Tôi e lúc này ông ấy không có ở trong văn phòng, thưa ông Kajami. Tôi sẽ yêu cầu ông ấy gọi lại ông, hay là ông muốn nhắn lại?

- Tôi sẽ nhắn lại, nhưng có lẽ ông ấy cũng có thể gọi tôi khi ông ấy trở về.

- Chắc chắn, thưa ông Bộ trưởng.

- Nhờ cô nhắn lại cho ông ấy biết rằng chiếc tủ sắt đã đến từ Thuỵ Điển và như vậy đã được gạch tên khỏi danh sách chế tài.

Sau một hồi lâu im lặng, ông ta nói tiếp:

- Cô vẫn còn ở đó chứ, cô Saib?

- Vâng, Tôi chỉ đang ghi lại lời ông nói, thưa ông.

- Nếu ông ấy cần xem các tờ khai có liên quan, chúng tôi còn giữ ở Bộ Công nghiệp, nhưng nếu ông ấy muốn kiểm tra chiếc tủ sắt, thì nó đã trên đường đến đại bản doanh Baath.

- Tôi hiểu, thưa ông. Tôi sẽ lưu ý chuyển ngay cho ông ấy cái tin này khi ông ấy trở về.

- Cám ơn, cô Saib.

Kajami đặt máy điện thoại trở lên giá, đưa mắt về phía Thứ trưởng Ngoại giao ở bên kia bàn làm việc và mỉm cười.

Chú thích:

(1) Sandhurst: Một làng thuộc quận Berkshira ở Anh, gần Học viện Quân sự Hoàng gia Anh (Royal Military Academy).

(2) Theo thần thoại Hy lạp, binh lính Hy lạp trốn trọng một con ngựa gỗ lớn được kéo đến bỏ ở cổng thành Troy. Khi người thành Troy mang con ngựa vào trong thành, binh lính Hy lạp ào ra mở cổng cho phần còn lại ở bên ngoài tràn vào tiêu diệt thành.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,745
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


Aziz dừng chiếc xe tải lại trước một chiếc xe tăng. Mấy quân nhân đang đi lại quanh đó, nhưng đang có vẻ hoạt động nhiều.

- Tôi cứ tưởng một cuộc biểu dương lực lượng lớn hơn này. - Kratz nói - Xét cho cùng. đúng là đại bản doanh Baghdad.

- Có lẽ Saddam đang ở trong dinh, hoặc thậm chí ra khỏi Baghdad, - Aziz gợi ý trong lúc hai quân nhân tiến về phía họ.

Người thứ nhất la lớn:

- Ra ngoài!

Và họ từ từ nghe lời. Ngay sau khi cả bốn người xuống đất gã quân nhân ra lệnh họ đứng cách xa chiếc xe tải mấy mét trong khi hai quân nhân khác nhảy lên phía sau và giở tấm vải dầu ra.

- Người này là một thiếu tá, - Aziz thì thào trong lúc một người đàn ông bệ vệ đầy huy chương chiến công với một máy điện thoại di động trên tay tiến về phía họ.

Ông ta ngừng lại và nhìn lên chiếc tủ sắt với vẻ nghi ngờ trước khi quay về phía Kratz và tự giới thiệu là thiếu tá Saeed.

- Mở ra, - anh ta chỉ nói thêm.

Kratz liền chỉ Scott và anh trèo lên phía sau chiếc xe tải trong khi mấy quân nhân khác nữa bao quanh chiếc xe giám sát anh trình diễn thao tác mở. Ngay sau khi Scotl kéo cánh cửa ra, viên thiếu tá theo anh lên phía sau chiếc xe, nhưng chỉ đến lúc một quân nhân kéo ông ta lên. Ông ta đứng thụt lùi lại một bước và ra lệnh hai người dưới quyền vào bên trong. Thoạt tiên, họ cớ vẻ lo lắng, nhưng ngay sau khi đã vào bên trong chiếc tủ sắt, họ bắt đầu sờ vào thành tủ và còn nhảy lên để cố chạm tới nóc. Một lúc sau, Saeed đi theo họ, và đập mạnh thành tủ với chiếc gậy chỉ huy của anh ta. Rồi ông ta bước trở ra ngoài, nhảy một cách nặng nề khi chiếc xe tải và quay lại phía Scott:

- Bây giờ chúng ta đợi một cần cẩu, - Ông ta nói, có vẻ thân thiện hơn một chút, rồi quay số trên máy điện thoại.

Cohen trên lên buồng cái và ngồi sau tay lái, chìa khoá vẫn còn ở trong ổ công tắc, trong khi Aziz vẫn ở phía sau với chiếc tủ sắt. Scott và Kratz dựa người vào thành tủ, cố tỏ ra vẻ chán ngán, trong lúc nói chuyện về các khả năng họ đang đương đầu.

- Chúng ta phải tìm cách lọt vào toà nhà phía trước chiếc tủ sắt, - Kratz nói và Scott gật đầu đồng ý.

Chiếc đồng hồ trong Quảng trường Chiến thắng gõ 12 giờ 30 trước khi Aziz nhận thấy cấu trúc cao, mảnh từ từ tiến tới quanh bức tượng Saddam khổng lồ. Cả bốn người cùng quan sát trong lúc đám quân nhân chạy ra đường để ngăn chặn luồng lưu thông và cho phép chiếc cần cẩu lớn tiếp tục tiến tới không bị cản trở.

Scott giải thích cho viên thiếu tá rằng lúc này chiếc xe tải cần phải di chuyển tới một vị trí đối diện với cửa trước. Ông ta đồng ý mà không điện thoại. Khi chiếc xe ai đậu đúng vào nơi Scott muốn, cuối cùng thiếu tá Saeed thừa nhận rằng các cánh cửa sẽ phải gỡ ra khỏi bản lề nếu họ định đưa chiếc tủ sắt và xe đẩy vào trong toà nhà.

Lần này ông ta gọi điện thoại và khi nghe câu hỏi của Scott "Bao lâu?", ông ta chỉ nhún vai và trả lời: "Phải chờ".

Scott kiên quyết lợi dụng thời gian "phải chờ", và giải thích với viên thiếu tá và anh ta cần biết trước lộ trình mà chiếc tủ sắt sẽ qua sau khi họ đã vào toà nhà.

Viên thiếu tá do dự, gọi một cú điện thoại nữa, chờ một lúc trước khi ông ta nhận được một câu trả lời, rồi chỉ vào Scott và nói:

- Chỉ một mình ông.

Scott bỏ Kratz lại để sắp đặt cần cẩu trong lúc nó chuẩn bị nhấc chiếc tủ sắt ra khỏi xe tải, và đi theo viên thiếu tá vào trong toà nhà.

Điểm đầu tiên mà Scott nhận thấy trong lúc anh bước dọc theo hành lang trải thảm là bề rộng và cảm giác vững chắc của nó. Cứ cách vài bước lại có một quân nhân uể oải lưng tựa vào tường và tất cả đứng nghiêm lại lúc họ trông thấy thiếu tá Saeed.

Ở cuối hành lang là một thang máy. Viên thiếu tá đút một chìa khoá vào một cái ổ trong tường. Hai cánh cửa thang máy từ từ mở. Điều khiến cho Scott phải suy nghĩ là kích thước của chiếc tủ sắt nhất định đã được xác định bởi bề rộng của thang máy. Anh đã không chắc còn thừa một vài phân để xoay sở hay không khi họ đã thành công trong việc đưa Bà Bertha lên xe.

Viên thiếu tá bấm một cái nút ghi số "6" mà Scott để ý thấy ở dưới cùng. Thang máy từ từ tụt xuống. Khi cửa mở, Scott theo thiếu tá Saeed vào một hành lang dài. Lần này anh có cảm tưởng trong hành lang đã được xây dựng để thoát khỏi khi có động đất. Khi dừng bước bên ngoài hai cánh cửa nặng nề được gia cố, được canh gác bởi hai quân nhân mang súng trường.

Saeed hỏi một câu và cả hai quân nhân đều lắc đầu.

- Phòng Hội đồng đang trống, cho nên chúng ta có thể vào thẳng bên trong, - Ông ta giải thích rồi mở khoá cửa.

Scott đi theo ông ta vào phòng Hội đồng. Đôi mắt của anh nhanh chóng lướt quanh căn phòng. Việc đầu tiên anh trông thấy trên bức tường trong cùng là bức chân dung khác của Saddam, lần này trong bộ com lê gài chéo màu sẫm. Rồi anh nhận thấy một cái nút báo động màu đỏ bên cạnh một công tác đến mà Kratz đã báo trước cho anh.

Viên thiếu tá hối hả đi qua phòng Hội đồng, gây ấn tượng một người không có quyền ở đó, trong khi Scott đi càng chậm càng tốt. Thế rồi anh trông thấy nó, chỉ trong chốc lát, và tim anh đập yếu hẳn đi: bản Tuyên ngôn Độc lập được đóng đinh trên tường, một góc bị rách và một số chữ ký rõ ràng có vẻ bị mờ đi.

Viên thiếu tá mở khóa cánh cửa đằng xa và Scott miễn cưỡng theo anh ta đi ra hành lang nối liền. Họ tiếp tục chỉ mấy bước nữa trước khi dừng lại trước một cái hốc lớn lót gạch mà Scott không cần đo cũng biết đã được xây có chủ đích vì biết trước chiếc tủ sắt sẽ được mang đến.

Scott bỏ một thời gian để đo khoảng trống, trong lúc anh cố nghĩ cách có thể nhìn bản Tuyên ngôn lâu hơn. Sau vài ba phút, thiếu tá Saeed gõ nhẹ lên vai anh với chiếc gậy chỉ huy của ông ta và báo hiệu đã đến lúc họ phải quay lại sân. Scott miễn cưỡng theo ông ta trở xuống hành lang ngắn và vào phòng Hội đồng mà viên thiếu tá bước nhanh như chạy qua trong khi Scott nán lại để đo các cánh cửa.

Anh thích thú khi khám phá ra rằng chúng phải được tháo ra khỏi bản lề. Anh đứng thụt lùi lại một bước như thề đang xem xét kỹ vấn đề. Viên thiếu tá quay lại và vỗ vào một bên chân của anh với chiếc gậy chỉ huy của ông ta, khê bảo một điều gì đó qua hơi thở mà Scott tin chắc hoàn toàn không hay ho gì.

Scott lén nhìn sang bên phải, và xác nhận nỗi sợ hãi tồi tệ nhất: cho dù anh có thể hoán đổi hai bản Tuyên ngôn, sẽ cần phải có một thiên tài còn vĩ đại hơn cả Dollar Bill để sửa lại những như hỏng mà Saddam gây nên.

- Nào. Nào. Chúng ta phải đi. - Viên thiếu tá nói.

- Và các cánh cửa này phải thế thôi, - Scott nói và quay người lại chỉ mấy cái cửa ở đầu kia của phòng Hội đồng, nói tiếp - và mấy cái kia cũng vậy.

Nhưng Saeed đã sải bước theo hành lang dài về phía lang máy đang mở cửa sẵn.

***

Hannah đặt, máy điện thoại xuống và cố ngăn chặn cơn run của mình. Họ đã báo trước với nàng nhiều lần ở Herxliyah rằng cho dù mình nghĩ mình cứng cỏi đến đâu chăng nữa, cho dù mình đã được huấn luyện giỏi đến đâu chăng nữa, mình vẫn sẽ còn run.

Nàng xem đồng hồ. Bữa ăn trưa của nàng dự định trong vòng hai mươi phút, và mặc dù suốt ngày nàng ít khi rời khỏi toà nhà trừ phi đi công tác. Nàng biết nàng không thể ngồi lâu hơn nữa trong văn phòng đó và chỉ chờ đợi các sự việc xảy đến chung quanh nàng.

Viên Thứ trưởng Ngoại giao đã đi đến dinh lúc tám giờ sáng hôm nay và đã bảo nàng dừng đợi ông ta trở về cho tới năm giờ chiều là sớm nhất. Một cơ bắp trên má nàng chợt co giật trong lúc nàng đánh máy lại bản nhắn tin của Bộ trưởng Công nghiệp.

Trong mười lăm phút, nàng ngồi ở bàn làm việc và đặt kế hoạch làm sao cho giờ đồng hồ này trôi qua một cách dé chịu nhất. Đang lúc nàng đã nghĩ ra việc cần phải làm, nàng liền nhấc máy điện thoại lên và yêu cầu một cô gái ở tổng dài nghe giúp nàng trong giờ nghỉ ăn trưa.

Hannah mang kính, rời khỏi phòng và bước nhanh dọc theo hành lang, để cho những người đi qua không nhìn kỹ được nàng.

Nàng đi theo lối cầu thang thay vì thang máy, bước nhanh qua tiền sảnh, khu tiếp tân, cửa xoay và đi ra thềm Bộ Ngoại giao.

- Saib vừa mới rời khỏi toà nhà, - một người từ phía bên kia đường nói vào máy điện thoại di động. - Cô ta đang đi về hướng Quảng trường Chiến thắng.

Hannah tiếp tục bước về phía Quảng trường. Những đám đông rộng lớn và ồn ào đến nỗi nàng lo sợ một cuộc treo cổ công cộng nữa chắc hẳn đã đã xảy ra. Khi nàng tới đầu đường và quẹo góc, nàng quay mắt đi trong lúc vạch một lối đi qua những người đang đứng nhìn, một vài kẻ thậm chí còn cất tiếng cười trước cánh tượng này.

- Một công chức hết sức cao cấp đấy, - một người nói đùa.

Một giọng nói khác nghiêm nghị hơn bảo rằng anh ta đã nghe đó là một nhà ngoại giao vừa mới trở về từ Mỹ đã bị bắt vì tội tham nhũng. Một người thứ ba, một phụ nữ lớn tuổi khóc khi một ai đó gợi ý rằng hai người kia là bà mẹ và cô em vô tội của người đàn ông.

Ngay lúc Hannah có thể trông thấy hàng rào, nàng bước chậm lại. Nàng dừng chân và nhìn qua đường về phía đại bản doanh của Đảng Baath. Nàng thích thú vì được ẩn mình trong một đám đông rộng lớn như thế này, cho dù thỉnh thoảng nàng lại bị che mắt.

- Cô ta đang đối diện với đại bản doanh của đảng Baath. Mọi người khác đang nhìn về hướng ngược lại.

Mắt Hannah dừng lại trên chiếc xe tải có nhiều quân nhân bao quanh, rồi nàng chợt trông thấy chiếc tủ sắt đồ sộ nằm ngát nghểu trên phía sau xe và hai thanh niên đang buộc những cuộn dây thép lớn vào đế tủ. Một người có vẻ là dân Trung đông, người kia hơi giống dân châu Âu. Thế rồi nàng trong thấy Kratz - hay đó có phải là Kratz? Ai đó vừa mất dạng phía sau xe tải. Nàng chờ người đó xuất hiện lại. Một lát sau, khi người đó hiện ra, nàng không còn nghi ngờ gì nữa: đó chính là người lãnh đạo tổ chức Mossad.

Nàng chợt nhận thức được rằng nàng không thể chờ đợi quanh quẩn ở một nơi công cộng như thế này lâu hơn nữa, và quyết định trở về văn phòng để xem xét những gì cần phải làm sau đây. Nàng nhìn Kratz một lần cuối trong lúc toán công nhân vệ sinh đi ra khỏi toà nhà, bước qua nền nhựa và hàng rào mà không một quân nhân nào để mắt đến.

Hannah bắt đầu bước ra xa Quảng trường Chiến thắng ngay lúc thiếu tá Saeed và Scott từ trong toà nhà đi ra sân.

- Cô ta lại di chuyển, nhưng cô ta dường như không trở về Bộ.

Người đàn ông mang máy điện thoại di động lắng nghe một lúc rồi tiếp:

- Tôi không biết, nhưng tôi sẽ theo dõi cô ta và tường trình lại.

***

Khi Scott bước trở ra sân, anh vui mừng thấy Kratz đã cho cần cẩu vào vị trí để nhấc chiếc tủ sắt khỏi xe tải. Aziz và Cohen đang buộc các vòng dây thép dài quanh thân hình Bà Bertha trong lúc chiếc xe đẩy được chế tạo một cách đặc biệt, mà ông Pedersson rất lấy làm hãnh diện, đã được đặt lên mặt đất giữa cửa trước và hông xe tải.

Scott nhìn lên chiếc cần cẩu cao hơn cá toà nhà và nhìn trở xuống người điều khiển đang ngồi trong buồng lái rộng bên cạnh chân cột. Ngay sau khi Cohen và Aziz nhảy xuống xe, Kratz giơ hai ngón tay cái lên ra hiệu cho người điều khiển cần trục.

Một lúc sau, anh nghe tiếng rạo rạo của một bánh răng di chuyển vào vị trí. Anh quan sát trong lúc sợi cáp thép căng thẳng, tiếp theo sau là một tiếng khởi động khàn khàn của động cơ. Nhưng Bà Bertha không hề lay chuyển dù chỉ một phân. Tiếng động cơ trở nên lớn hơn một lấn thứ hai, nhưng Bà Bertha vẫn không động đậy.

Người điều khiển cần cẩu đẩy cần số về phía trước và thử một lần thứ ba. Cuối cùng Bertha mới nhích lên vài phân khỏi phía sau chiếc xe tải, lắc lư qua lại. Một số quân nhân bắt đầu hoan hô, nhưng họ ngừng ngay lập tức khi viên thiếu tá quay nhìn trừng trừng về hướng họ.

Kratz gật đầu và Cohen chạy qua khoảng nền rải nhựa và hạ tấm bảng phía sau xuống, rồi nhảy lên buồng lái ngồi vào sau tay lái của chiếc xe tải. Anh ta nổ máy, đẩy cần số vào số một và cho xe từ từ di chuyển về phía trước cho tới khi chiếc tủ sắt lơ lửng trên không. Lúc bấy giờ Aziz và Kratz đưa chiếc xe đẩy qua ít mét trên nền nhựa ngay phía dưới chiếc tủ sắt. Kratz lại đưa hai ngón tay cái lên một lần thứ hai, và người điều khiển cần trục bắt đầu từ từ hạ thấp khối thép năm tấn từng phân một, cho tớ khi nó nằm yên trên chiếc xe đẩy khiến cho các bánh xe cao su xẹp xuống.

Chiếc tủ sắt giờ đây nằm yên trước các cửa đôi, chờ thợ mộc đến trước khi nó có thể tiếp tục cuộc hành tridnh vào bên trong. Viên thiếu tá nhún vai ngay cả trước khi Kratz mở miệng hỏi.

Trong lúc Cohen thụt lùi chiếc xe tải vào một chỗ được chỉ định bởi viên thiếu tá, Scott chỉ tay vào chiếc tủ sắt và ra hiệu cho Kratz đang bước tới, có vẻ bối rối. Anh nghĩ công việc đang tiến hành khá tốt.

- Chuyện gì thế - Ông hỏi.

Scott vẫn tiếp tục chỉ chiếc tủ sắt, và với những cử động quá đáng báo hiệu nó nên được di chuyển như thế nào, trong khi thì thầm với Kratz:

- Tôi đã trông thấy bản Tuyên ngôn.

Anh di chuyển sang phía bên của chiếc tú sắt. Kratz đi theo, lúc này cũng làm bộ hết sức quan tâm đến chiếc tủ sắt

- Tin tức tốt. - Kratz nói - Thế nó ở đâu?

- Tin tức không tốt lắm đâu, - Scott nói.

- Anh muốn nói gì vậy? - Kratz lo lắng hỏi.

Nó hiện ở trong phòng Hội đồng, đúng nơi Hannah đã nói. Nhưng nó bị đóng đinh vào tường. - Scott trả lời.

- Đóng đinh vào tường? - Kratz hỏi qua hơi thở.

- Phải, và nó có vẻ dường như không thể sửa chữa lại được! - Scott nói trong lúc một người Iraq mặc một dishdash với một keffiyeh trắng-đỏ và mang một túi dụng cụ xuất hiện ở hàng rào.

Ngay sau khi các vệ binh kiểm tra kỹ lưỡng túi dụng cụ đổ tất cả ra trên mặt đất, họ mới cho phép anh ta qua.

Người thợ mộc gom lại các dụng cụ, đưa mắt nhìn qua chiếc tủ sắt, rồi tới các cánh cửa đôi, và hiểu ngay tại sao xếp anh ta đã mô tả vấn đề là khẩn cấp. Scott đứng lùi lại và quan sát người thợ trong lúc anh ta bắt đầu tháo bán lề trên một trong hai cánh cửa.

- Thế thì bản giả của Dollar Bill hiện giờ ở đâu? - Kratz hỏi.

- Còn ở trong túi của tôi, - Scott nói. - Tôi sẽ phải làm biến đổi nó một chút, như không bọn họ sẽ nhận thấy điều khác biệt lúc tôi đã đổi lấy bản gốc.

- Đồng ý. - Kratz nói - Anh nên làm việc đó trong khi người thợ mộc đang xử lý cánh cửa. Tôi sẽ cố giữ cho vén Thiếu tá luôn bận rộn.

Kratz liền lững thững tới bên người thợ mộc và khởi sự trò chuyện với anh ta trong lúc Scott mang cái túi của anh lẻn vào phía trước chiếc xe tải. Ngay lúc viên thiếu tá trông thấy việc Kratz đang làm, ông ta liền chạy tới gặp họ. Scott liếc mắt qua cửa sổ buồng lái trong lúc anh rút bản sao của Dollr Bill ra khỏi cái ống và cố nhớ lại nơi bản gốc bị hư hỏng nhiều nhất. Trước hết, anh xé một đường ở góc bên phải phía trên cùng, rồi anh phun nước miếng lên các tên John Adams và Robert Treat Pain. Sau khi anh đã xem xét kỹ công trình của mình, anh quyết định như thế là quá đủ và đặt bản sao trên sàn xe, anh chà gót giày một cách nhè nhẹ lên bề mặt. Anh liếc lên để xem viên thiếu tá đang ra lệnh Kratz hãy để yên cho người thợ mộc làm việc. Kratz nhún vai trong lúc Scott cuộn bản Tuyên ngôn giả lại và bỏ trở vào cái ống trước khi luồn nó vào cái túi đã được may một cách đặc biệt bên trong ống quần của anh. Một cái túi vô cùng vừa vặn.

Một lát sau, người thợ mộc hết quỳ gối và mỉm cười bày tỏ anh ta đã hoàn tất công việc. Theo lệnh của viên thiếu tá, bốn quân nhân bước về phía trước và tháo các cánh cửa ra. Họ mang ra xa mấy bước và dựng chúng vào một bức tường ở bên ngoài.

Viên thiếu tá ra lệnh thêm vài ba quân nhân khác đến đẩy chiếc xe đẩy trong lúc Scott hướng dẫn Bà Bertha qua khung cửa. Kratz và Aziz đi theo, nhưng viên thiếu tá cương quyết vẫy tay để báo hiệu rằng chỉ có một mình Scott có thể vào trong toà nhà. Tới phiên Scott nhún vai.

Từng phân một, họ di chuyển chiếc xe đẩy dọc theo hành lang dài. Cửa thang máy đã mở sẵn, nhưng vẫn phải cần bốn chục bàn tay mới bẩy được năm tấn thép vào bên trong một cách an toàn. Scott biết nhờ nghiên cứu trước rằng phần này của toà nhà đã được xây cất để thoát một cuộc tấn công hạt nhân, nhưng anh tự hỏi thang máy có thể phục hồi hay không sau khi phải mang chiếc tủ sắt năm tấn xuống sáu xuống lầu. Anh chỉ cám ơn là Bà Bertha đang đi xuống chứ không phải đi lên.

Cửa thang máy từ từ đóng và viên thiếu tá nhanh nhẹn dẫn Scott đi qua một cửa hông và xuống cầu thang phía sau, theo sau là cả một tá quân nhân. Khi họ tới tầng hầm, cửa thang máy đã mở và Bà Bertha đứng đó, chờ đợi một cách uy nghi. Viên thiếu tá chỉ lên nền nhà với chiếc gậy chỉ huy của ông ta: mười quân nhân liền quỳ xuống và bắt đầu kéo chiếc xe đẩy từng phân một cho tới khi cuối cùng họ tìm được cách dụ được nó ra hành lang. Lúc đó, thang máy được gửi lên tầng -5, và sáu quân nhân chạy trở lên cầu thang, nhảy vào thang máy trống và trở lại tầng hầm để họ có thể đẩy chiếc tủ sắt từ phía bên kia.

Người thợ mộc đã tháo được bộ cửa đầu tiên mà họ sẽ đối đầu khi chiếc tủ sắt vào phòng Hội đồng, nhưng vẫn còn loay hoay với bộ thứ hai khi chiếc xe đẩy tới lối vào. Sự trễ nải đã giúp cho Scott có cơ hội giám sát việc chuyến động của cái bàn lớn đến sát bức tường bên hông và việc đặt những chiếc ghế trên bàn để cho chiếc tủ sắt có đường thông vào hành lang đằng xa.

Trong lúc anh bước tới bước lui, Scott có nhiều cơ hội nhìn kỹ bản Tuyên ngôn, thậm chí nghiên cứu cả lỗi chinh tả từ "British". Anh nhanh chóng nhận thấy tấm giấy da có tình trạng tồi hơn anh đã tưởng.

Ngay sau khi các cánh cửa đã được tháo ra, đám quân nhân bắt đầu đẩy chiếc tủ sắt ngang qua phòng Hội đồng và ra ngoài hành lang ngắn trên đoạn đường cuối cùng chỉ vài ba mét. Khi họ tới đầu hành lang đối diện với hốc tường đã được chuẩn bị một cách đặc biệt, Scott giám sát chuyển động cuối cùng của chiếc tủ sắt cho đến lúc họ không thể đẩy năm tấn thép vào sâu hơn nữa. Bà Bertha cuối cùng đã vào tới nơi yên nghi sát bức tường trong cùng.

Scott mỉm cười, và thiếu tá Saeed lại gọi một cú điện thoại nữa.

***

Người phụ nữ cao tuổi giải thích với Hannah rằng phiên tới phải có mặt lúc ba giờ chiều hôm ấy, và họ có nhiệm vụ chuẩn bị phòng Hội đồng cho phiên họp sẽ diễn ra lúc sáu giờ ngày hôm sau. Họ đã không thể làm một công việc thích hợp trong phiên đầu sáng hôm ấy vì chiếc tủ sắt này.

Hannah đã đi theo các công nhân vệ sinh, quan sát trong lúc họ rời đội hình từng người một, mỗi người theo một ngả. Nàng chọn một người phụ nữ cao tuổi đang mang những cái giỏ nặng nhất, và đề nghị giúp đỡ bà ta băng qua đường. Họ bắt chuyện một cách nhanh chóng, và Hannah tiếp tục mang những cái giỏ suốt đường tới tận cửa nhà của bà ta, giải thích rằng nàng chỉ sống cách đó mấy đường phố.

- Vào trong đây đi, cưng, - người phụ nữ cao tuổi nói.

- Cám ơn bà, - Hannah trả lời, cảm thấy giống con chó sói hơn là cô bé quàng khăn đỏ.

Pha một chút rượu mạnh vào cốc cà phê của người phụ nữ đã chứng tỏ vô hại, và chắc chắn đã khiến cho bà ta nói chuyện nhiều hơn. Hai viên valium bỏ vào cốc cà phê thứ hai bảo đảm rằng phải mấy giờ sau bà ta mới tỉnh dậy.

Mossad đã dạy cho Hannah năm cách khác nhau để đột nhập vào chiếc xe hơi, một phòng khách sạn, một cái cặp, ngay cả một chiếc tủ sắt nhỏ, vì vậy xách tay của một bà gia bị đánh thuốc mê không phải là một thách thức lớn lao gì. Nàng lấy giấy thông hành đặc biệt và lẻn ra khỏi nhà.

- Lúc này cô ta đang đi trở lại phía Bộ, - người đàn ông nói vào máy điện thoại di động. - Chúng tôi đã kiểm tra bà già. Bà ta đã ngủ mê và có lẽ ngày mai vào giờ này mới tỉnh lại được. Vật duy nhất bị lấy đi là giấy thông hành an ninh của bà.

Khi Hannah trở về lại bàn làm việc của nàng vẫn không có dấu hiệu gì chứng tỏ viên Thứ trưởng Ngoại giao đã trở về, vì thế nàng kiểm soát lại với nhân viên tổng đài.

Chỉ có ba người gọi điện thoại, hai người bảo họ sẽ gọi lại ngày mai, và người thứ ba không nhắn gì.

Hannah đặt ống nghe xuống và đánh máy một ghi chú giải thích rằng nàng đã về nhà vì nàng không biết chắc ông Thứ trưởng Ngoại giao có trở về ngày hôm nay hay không. Nếu nàng đã không kiểm tra các bản nhắn tin của ông ta cho tới sau năm giờ, chắc sẽ không có lý do gì khiến ông ta nghi ngờ.

Trong căn phòng riêng bé nhỏ của nàng. Hannah thay đổi y phục làm việc bằng chiếc abaya màu đen truyền thống với mạng che mặt. Nàng soi gương trước khi rời khỏi toà nhà một lần nữa, một cách lặng lẽ và vô danh.

***

- Bây giờ ông hãy mở tủ sắt ra. - Thiếu tá Saeed nói.

Scott xoay các mặt số theo mã số của chúng, và bóng đèn đầu tiên chuyến sang màu lục. Viên thiếu tá hết sức chú ý. Rồi Scott đặt lòng bàn tay lên ô vuông màu trắng, và mấy giây sau, bóng đèn ở giữa chuyển sang màu lục. Viên thiết tá như bị mê hoặc. Scott cúi về phía trước và nói vào hộp giọng, và bóng đèn thứ ba chuyển sang màu lục. Viên thiết tá nghẹn họng.

Scott kéo cái quai và cánh cửa mở ra. Anh nhảy vào bên trong và lập tức lôi cái ống bằng bìa cứng ra khỏi bên trong ống quần của anh.

Viên thiếu ta nhận thấy ngay điều đó và điên tiết lên.

Scott nhanh nhẹn bật nắp lấy ra bức tranh lớn của Saddam Hussein trải ra, để cho tờ giấy bọc rơi lên nền trước khi anh đi xăn xái về phía trong, xa chiếc tủ và gắn bức chân dung của Saddam lên vách. Một nụ cười trở lại trên mặt viên thiếu tá trong lúc Scott cúi xuống, cuộn tờ giấy bọc lại và đút vào trong cái ống.

- Bây giờ tôi chỉ dẫn cho ông, - Scott nói.

- Không, không, không phải tôi, - Thiếu tá Saeed vừa nói, vừa giữ máy điện thoại trong không và tiếp - Chúng ta phải trở lên thôi.

Scott chỉ muốn chửi thề một tiếng trong lúc anh bước ra khỏi chiếc tủ sắt, buông cái ống và cho nó lăn qua sàn tới góc tối nhất. Kế hoạch mà anh đã chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng với Kratz sẽ không còn có khả năng để thực hiện được nữa. Anh miễn cưỡng để chiếc tủ sắt mở cửa và đi theo viên thiếu tá trong lúc ông ta bước nhanh về phía phòng Hội đồng, lần này không cho phép Scott có cơ hội giữ ông ta lại.

***

- Tôi gần như chắc chắn chính cô ta đang đi ra khỏi Bộ, - người đàn ông nói vào máy điện thoại di động, - nhưng cô ta đã thay bằng chiếc áo dài truyền thống và không còn mang kính nữa. Cô ta đang đi về phía Quảng trường Chiến thắng lần nữa. Tôi sẽ thường xuyên báo cáo cho ông.

Hannah chuyển sự chú ý của nàng sang một toà nhà mà nàng chưa bao giờ bước vào nhưng có cảm tưởng nàng biết hết sức rõ. Một hoạ đồ đúng kích cỡ của mỗi tầng đính trên một tấm bảng trong phòng hoạt vụ của đại bản doanh Mossad ở Herzliyah, và không ai có thể đậu bất cứ một kỳ thi nào về Iraq mà không thể nắm cặn kẽ mọi tầng lầu của toà nhà với đầy đủ chi tiết. Tin tức được bổ sung liên tục, tử những nguồn xa lạ nhất: các dân ty nạn trốn thoát, các nhà cựu ngoại giao, các cựu Bộ trưởng người Kurd hoặc Shiite, kể cả cựu Thủ tướng Anh Edward Heath.

Công nhân vệ sinh đầu tiên đến lúc ba giờ kém vài phút, xuất trình giấy thông hành rồi vội vàng đi qua khu rải nhựa trước khi biến dạng vào một cửa hông của toà nhà. Người thứ hai xuất hiện sau đó một lát và theo cùng một phương thức. Khi Hannah trông thấy người thứ ba đang đi từ phía xa của lề đường, nàng liền băng qua đường và sắp hàng vào phía sau người đó trong lúc bước về phía hàng rào.

- Cô ta đã qua đường, tới hàng rào, và lúc này người lính gác đang kiểm tra giấy thông hành của cô ta, - người đàn ông nói vào máy điện thoại di động. - Như đã được chỉ thị họ đã để cho cô ta vào. Lúc này cô ta đang bước qua khoảng sân nhựa và theo một người phụ nữ khác vào cửa hông. Cô ta đã vào bên trong, cửa đã đóng lại. Chúng ta đã tóm được cô ta.

Hannah đi theo các công nhân vệ sinh khác vào bên trong toà nhà, và nói với họ mẹ nàng đã bị bệnh và nàng đã được gửi đến đề thay thế cho bà ấy. Nàng cố trấn an họ rằng đây không phải là lần đầu tiên nàng làm như thế, và ngạc nhiên khi họ không hỏi han gì. Nàng đoán chừng họ sợ dính líu với một người lạ.

Hannah lấy một cái hộp dụng cụ vệ sinh và đi xuống theo một cầu thang phía sau. Tấm hoạ đồ trưng bày trên tường ở Herzliyah tỏ ra chính xác một cách đáng phục, cho dù không một ai tìm cách đếm được số nấc thang dẫn xuống tầng hầm.

Khi nàng tới cánh cửa dẫn vào hành lang trong cùng, nàng có thể nghe nhiều giọng nói vang lại từ phòng Hội đồng. Chắc hẳn đang có ai đi về phía thang máy. Hannah liền thụt lùi sát tường để có thể trông thấy họ qua khung kính dày có gần lưới sắt ở chính giữa cánh cửa.

Hai người đàn ông đi qua. Hannah không nhận ra viên thiếu tá, nhưng khi nàng trông thấy người ở bên cạnh ông ta, hai chân nàng chợt khuỵu xuống và nàng gần như ngã gục lên mặt đất.

***

Ngay sau khi họ trở lại sân, viên thiếu tá quay một số điện thoại. Scott thả bộ đến gần Kratz đang đứng phía sau chiếc xe tải.

- Anh đã đổi được bản Tuyên ngôn rồi chứ? - đó là câu nói đầu tiên của Kratz.

- Không, nó vẫn còn ở trên tường của phòng Hội đồng.

- Mẹ kiếp, còn bản sao?

- Tôi đã bỏ nó trong cái ống trên sàn tủ sắt. Tôi không thể liều mạng mang nó ra.

- Thế thì anh sẽ trở vào toà nhà bằng cách nào? - Kratz vừa hỏi vừa nhìn về phía viên thiếu tá. - Anh đã có ý định lợi dụng thời gian…

- Tôi biết, nhưng hoá ra anh ta không phải là người sẽ phụ trách chiếc tủ sắt. Anh ta đang liên lạc với người mà tôi sẽ phải chỉ dẫn.

- Không phải là điều chúng ta cần. Tôi tin chắc rằng với viên thiếu tá là kế hoạch đầu tiên của chúng ta sẽ dễ hơn nhiều, - Kratz nói - Tốt hơn tôi nên báo tin lại cho những người khác để chúng ta có thể chuyển qua một khả năng khác nếu mọi việc lại hỏng bét.

Scott gật đầu đồng ý và anh cùng vị lãnh đạo Mossad lững thững đi tới chiếc xe tải, nơi đây Cohen và Aziz đang ngồi hút thuốc lá trong buồng lái. Trong lúc vị Đại tá trèo lên phía trước, hai điếu thuốc nhanh chóng được dụi tắt.

Kratz giải thích tại sao họ còn chờ đợi và báo trước cho họ rằng đây có thể là cơ hội cuối cùng của ông giáo sư trở vào phòng Hội đồng.

- Vì thế khi ông ấy thoát ra lần này. - ông giải thích, - chúng ta phải sẵn sàng chạy đi. Với một chút may mắn, chúng ta vẫn còn có thể vượt qua biên giới lúc nửa đêm.

***

Anh ấy có thể làm sao còn sống, Hannah nghĩ… Nàng đã giết chết anh kia mà? Nàng đã trông thấy xác của anh đã được mang ra khỏi phòng. Nàng cố sắp xếp lại tư tưởng, từ hân hoan đến sợ hãi. Nàng chợt nhớ lại vị huấn luyện viên cao cấp đã bảo nàng: Khi cô đang ở tiền tuyến, đừng bao giờ ngạc nhiên vì bất cứ điều gì! Nàng cảm thấy giờ đây nàng có thể phủ nhận anh, nếu nàng đã từng được dịp.

Hannah đẩy cánh cửa và lặng lẽ bước ra hành lang vắng vẻ, ngoại trừ hai quân nhân đang tán gẫu ở lối vào phòng Hội đồng. Nàng hiểu ra nàng không thể hy vọng đi qua họ mà không bị chất vấn.

Còn một bước nữa thì nàng được lệnh ngừng lại và dừng chân giữa họ. Sau khi họ kiểm tra kỹ hộp dụng cụ vệ sinh, gã có hai vạch trên cánh tay nói:

- Cô biết chúng tôi có bổn phận khám xét cô thật ky chứ?

Hannah không có ý kiến trong lúc anh ta cúi xuống, giở cái áo đen dài của nàng lên và đặt hai bàn tay trên mắt cá nàng. Gã thứ hai buông ra một tiếng cười khàn khàn trong lúc y đặt các ngón tay quanh phía trước cố nàng vá bắt đầu di chuyển hai bàn tay xuống phía dưới vai rồi ngang qua ngực nàng, trong khi gã đồng bọn của y di chuyển bàn tay từ dưới chân lên đùi nàng. Trong lúc gã thứ nhất lên tới trên cùng chân nàng, gã đồng bọn của y véo núm vú của nàng. Hannah xô cả hai gã ra và bước vào phòng Hội đồng. Bọn chúng không đi theo, mặc dù tiếng cười càng lúc càng lớn hơn.

Chiếc bàn đã được đưa trở lại chính giữa phòng và những chiếc ghế đã được sắp xếp lại một cách cẩu thả quanh bàn. Nàng bắt đầu bằng cách xê dịch chiếc bàn cho ngay ngắn trước khi đặt những cái ghế cách đều nhau.

Nàng vẫn đang cố gắng nhân chán rằng Simon còn sống, và một phần của đội đang ở Baghdad. Nhưng tại sao CIA gởi anh đến đây. Trừ phi… Nàng nhìn chằm chằm lên bức chân dung khổng lồ của Saddam Hussein trong lúc nàng đặt ngay ngắn cái ghế của ông ta ở đầu bàn. Rồi mắt nàng dừng lại trên tầm giấy da được đóng bằng dinh bên cạnh bức hình.

Bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ được gắn vào tường, ngay chỗ viên Thứ trưởng Ngoại giao đã yêu cầu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,745
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Hai chiếc xe hơi lướt tới hàng rào và được cho qua không kiểm tra. Scott quan sát một cách cẩn thận trong lúc một đám nhiều quân nhân bao quanh hai chiếc xe.

Khi một người đàn ông cao lớn lực lưỡng bước ra khỏi chiếc xe thứ hai, Aziz khẽ nói:

- Đại tướng Hamil, tên Thợ cạo của Baghdad. Ông ta luôn mang theo một con dao cạo cùng với khoeo chìa khoá.

Kratz gật đầu nói:

- Tôi biết lịch sử toàn bộ cuộc đời của ông ta. Ngay cả cái tên của viên Trung sĩ trẻ tuổi mà ông ta hiện chung sống.

Thiếu tá Saeed lúc này đang đứng nghiêm, cho vị Đại tướng, và Scott không cần ai cho biết rằng người đàn ông này thuộc một đẳng cấp và tầm cỡ khác với người mà anh đang đương đầu cho tới nay. Anh nghiên cứu gương mặt của người đàn ông mặc một bộ đồng phục may một cách hoàn hảo với nhiều hàng huy chương hơn viên thiếu tá, mang một đôi găng tay da màu đen và một cây gậy chỉ huy. Đó là một gương mặt độc ác. Đám lính chứng chung quanh ông ta không thể che giấu nỗi sợ hãi.

Viên thiếu tá chỉ Scott và nói:

- Ông đến đây.

- Tôi có cảm tưởng hắn muốn gọi anh đấy, - Kratz nói.

Scott gật đầu và lững thững đến gặp họ.

- Ông Bernstrom, - viên Đại tướng vừa nói vừa tháo găng tay khỏi bàn tay phải. - Tôi là Đại tướng Hamil.

Scott bắt tay ông ta trong lúc ông ta nói:

- Tôi xin lỗi đã bắt ông chờ đợi. Nhưng đừng để tôi giữ ông lại lâu hơn nữa. Xin chỉ cho tôi xem chiếc tủ sắt của ông, mà thiếu tá Saeed dường như hết sức thích thú.

Không nói thêm một tiếng nào nữa. viên Đai tướng quay người và bắt đầu bước về phía toà nhà, bỏ Scott ở lại không còn cách lựa chọn nào khác hơn là đi theo. Lần đầu tiên trong đời, Scott cảm thấy sợ hãi.

***

Hannah lấy một miếng giẻ và một chút dầu bóng rồi bắt đầu chà theo những vòng tròn trên mặt bàn trong khi thận trọng nhìn bản Tuyên ngôn Độc lập một lần nữa. Tấm giấy da lâm vào một tình trạng tồi tệ đến nỗi nàng nghi ngờ nó không thể nào sửa chữa được cho dù Simon có thể lấy trở lại Washington.

Nàng nhìn kỹ quanh cửa ra ngoài hành lang ngắn, và chợt nhận ra chiếc tủ sắt mà nàng đã trông thấy trên chiếc xe tải trước đó trong ngày hôm nay. Tủ đang mở và được canh gác bởi hai tên côn đồ khác, cũng đang tán gẫu như hai tên đứng ở phòng Hội đồng.

Hannah vừa từ từ lần theo hành lang, vừa lau chùi và đánh bóng chân tường bóng gỗ cho tới khi nàng đối diện với chiếc tủ sắt và nhìn rõ vào bên trong. Nàng tiến một bước về phía trước và nhìn kỹ hơn như thể nàng chưa bao giờ trông thấy bất cứ vật gì giống như thế trong đời nàng.

Một trong hai tên quân nhân đá nàng một cái và nàng ngã vào bên trong chiếc tủ. Nàng định quay người lại phản kháng thì nàng chợt trông thấy cái ống dài bằng giấy bìa cứng trong một góc, gần như bị bóng tối che khuất. Nàng liền nghiêng người qua và nhanh nhẹn lăn cái ống giấy về phía nàng cho đến khi nó nằm an toàn bên dưới chiếc váy dài. Nàng tự hỏi nàng có thể dùng nó để nhắn tin cho Simon hay không. Hannah bỏ miếng giẻ lại và đánh bóng toàn tủ, bước thụt lùi ra ngoài và chạy vụt theo hành lang như thể lẩn tránh bọn lính gác.

Ngay sau khi trở vào phòng Hội đồng, nàng lấy một miếng giẻ khác từ trong hộp dụng cụ vệ sinh và bắt đầu đánh bóng mặt bàn cho tới lúc nàng ở một vị trí không ai có thể trạng thấy nàng từ ngoài hành lang. Lúc bấy giờ, nàng mới từ từ quỳ xuống cho tới lúc ở phía dưới gầm bàn, và để cho cái ống giấy ra lên sàn trước mặt nàng. Nàng nhanh nhẹn mở nắp ra và nhận thấy cái ống không trống rỗng. Nàng kéo tấm giấy da ra, trải rộng và xem xét kỹ gần như không còn tin tưởng vào mắt mình: một bản sao bản Tuyên ngôn Độc lập rõ ràng được thực hiện bởi một người điêu luyện cho dù một kẻ nào đó đã cố làm cho nó xấu đi. Nàng nhận thấy được ngay rằng chắc hẳn Simon đang tìm cách hoán đổi bản sao để lấy lại bản chính.

***

Kratz quan sát Scott đi theo Đại tướng Hamil vào trong toà nhà, rồi chậm bước tới chiếc xe tải và trèo lên buồng lái. Anh chăm chú nhìn qua khung cửa sổ phía trước,

Không một ai đặc biệt chú ý đến những gì họ có thể làm.

Việc này quá dễ, - ông nói - Quá sức dễ.

Cohen và Aziz nhìn thẳng về phía trước, nhưng không bày tỏ ý kiến trong lúc Kratz nói tiếp:

- Nếu Hamil liên can, họ phải nghi ngờ một điều gì đó. Đã đến lúc chúng ta phải tìm xem ai hay biết.

- Ông đang nghĩ gì thế? - Cohen hỏi.

- Tôi có cảm tưởng viên thiếu tá đó hoàn toàn không hay biết gì về sự việc đang diễn ra. Hoặc là họ đã không kể cho anh ta, hoặc là họ nghĩ anh ta không cáng đáng việc này.

- Hoặc là cả hai, - Aziz góp ý.

Kratz gật đầu:

- Hoặc là cả hai. Thế thì chúng ta hãy tìm hiểu. Aziz, tôi muốn anh và Cohen thong thả đi tới hàng rào. Bảo bọn lính gác rằng anh định tìm cái gì để ăn và anh sẽ quay lại sau ít phút. Nếu họ không chịu để cho các anh qua, chúng ta đã thực sự gặp rắc rối, bởi vì như thế có nghĩa là họ đã biết những gì chúng ta có thể làm. Trong trường hợp đó, các anh hãy trở về buồng lái và tôi khởi sự xem chúng ta phải làm gì.

- Còn nếu họ để cho chúng tôi quay - Cohen hỏi.

- Thì các anh hãy đi cho khuất mắt, - Kratz nói, - nhưng phải trông thấy chiếc xe tải. Công việc này không khó lắm đây vì quanh đây có quá nhiều người đang trố mắt nhìn. Nếu giáo sư Bradley thoát ra được với cái ống giấy và tôi đặt cánh tay trên thành cửa sổ như tôi hiện đang làm, các anh hãy quay lại đây thật nhanh, bởi vì chúng ta không nên ở đây quá lâu. A này, Cohen: nếu tôi không ở đây vì bất cứ lý do nào, và ông giáo sư đề nghị quẹo qua Bộ Ngoại giao, thì anh hãy bác bỏ.

Cohen gật đầu, chẳng biết ất giáp gì về điều vị Đại tá đang nói, trong lúc ông vẫn tiếp:

- Nhưng nếu anh phát hiện chúng tôi đang gặp rắc rối, thì cứ lảng ra xa trong vòng một tiếng đồng hồ, rồi hãy cầu nguyện.

- Tôi hiểu, thưa ông. - Cohen nói.

- Anh hãy lấy chìa khoá theo, - Kratz nói - Bây giờ thì đi đi.

Kratz bước lại khoảng sân tráng nhựa, lững thững tới nơi Thiếu tá Saeed đang nghe một trong những cú điện thoại bất tận, và đứng cách vài bước bên trái ông ta như thể muốn lôi kéo sự chú ý của anh ta. Đồng thời ông nhìn qua vai để quan sát Aziz và Cohen đang bước về phía hàng rào.

Kratz tiếp tục lôi kéo sự chú ý của viên thiếu tá trong lúc Aziz ngừng lại ở hàng rào và bắt đầu nói đùa với một tên lính gác.

Một lát sau, ông thấy cả hai nhân viên của ông bước ra khỏi hàng rào. Trong chốc lát họ đã mất dạng trong đám đông.

Thiếu tá Saeed ngừng nói điện thoại:

- Lần này có vấn đề gì vậy? - Ông ta hỏi.

Kratz liền lấy ra một điếu thuốc lá và hỏi mượn hộp quẹt:

- Không được hút thuốc, - ông ta bảo và xua Kratz ra xa.

Kratz bước từ từ trở về buồng lái và ngồi vào phía sau tay lái, mắt không hề rời khỏi cổng đại bản doanh của Đảng Baath.

***

Hannah chăm chú nhìn bản Tuyên ngôn treo tên tường. Nó chỉ cách nàng ít bước. Nàng đợi cho tới khi nghe một tiếng cười rộ khác của bọn lính gác trước khi tới bản tài liệu và nhanh nhẹn cố gắng nhổ đinh ra. Ba cái rời ra không một chút khó khăn, nhưng cái góc trên cùng bên phải không chịu nhúc nhích và bản Tuyên ngón còn đong đưa trên đó. Sau vài ba giãy nữa, nàng cảm thấy không còn cách lựa chọn nào khác; ngoại trừ cho bản tài liệu lọt qua cây đinh. Ngay sau khi tấm giấy da đã lọt vào tay nàng đi trở về bàn, đặt bản gốc lên sàn và nhanh nhẹn gắn bản sao vào tường.

Nàng gần như không kịp liếc nhìn công trình của mình trước khi quay trở lại bàn, quỳ trên mặt đất, và nhanh nhẹn cuộn tròn bản gốc, đặt lại vào trong cái ống. Một lần nữa, nàng nhét nó vào dưới váy. Đó là hai phút dài nhất của cuộc đời nàng. Nàng vẫn quỳ gối, cố suy nghĩ. Nàng biết nàng không thể mạo hiểm cố đưa cái ống này ra khỏi toà nhà, vì bọn lính gác có thể "lục soát" nàng. Không có khả năng. Nàng bước nhanh theo hành lang ngắn và vào trong chiếc tủ sắt ngay cả trước khi hai quân nhân đang trò chuyện. Nàng thả cái ống lên sàn, rồi đẩy nó trở vào góc tối nhất, đúng nơi nàng đã trông thấy nó lần đầu.

Rồi nàng nhét miếng giẻ lau và dầu bóng mà nàng đã bỏ quên bước trở ra khởi chiếc tủ sắt, đưa tất cả cho bọn lính xem và chạy dọc theo về phía phòng Hội đồng.

Hannah biết nàng phải thoát khỏi toà nhà càng nhanh càng tốt, và bằng một cách nào đó nhắn tin cho Simon.

Rồi nàng nghe những tiếng nói:

- Và chiếc tủ sắt này lớn như thế nào? - viên Dại tướng hỏi Scott trong lúc họ đi qua hành lang.

- Cao hai mét bảy mươi lăm, rộng hai mét mười lăm và sâu hai mét bốn mươi lăm, - Scott trả lời ngay tức khắc. - Ông Đại tướng có thể tổ chức một cuộc họp kín đáo trong đó nếu muốn.

- Thế sao? - Hamil nói trong lúc ông ta bước vào thang máy.

- Nhưng tôi được biết chiếc tủ sắt chỉ được vận hành bởi một người mà thôi.

Ông ta bấm một cái nút ở dưới cùng bằng ngón tay mang găng và hỏi tiếp:

- Có thật thế không?

- Đúng thế, thưa Đại tướng. Chúng tôi đã thực hiện đúng những đặc tính kỹ thuật mà chính phủ của ông yêu cầu.

Cửa thang máy mở ra ở tầng hầm. Viên Đại tướng bước ra hành lang và đi về phía phòng Hội đồng.

- Tôi cũng được biết rằng chiếc tủ sắt có thể chống lại một cuộc tấn công hạt nhân. Có phải như thế không?

- Vâng. - Scott đáp. - Chiếc tủ sắt có một lớp vỏ bọc dày một trăm năm mươi hai mi li mét và sẽ không bị ảnh hưởng bởi bất cứ một vụ nổ nào; ngoại trừ bị bắn thủng vào. Trong bất cứ tình huống nào khác, mọi thứ bên trong tủ vẫn sẽ được bảo toàn, cho dù cả toà nhà mà nó đang ở trong đó bị phá huỷ hoàn toàn.

- Tuyệt thật, - viên Đại tướng nói trong lúc bọn lính gác đứng nghiêm và ông ta đưa chiếc gậy chỉ huy chạm vào vành mũ bê rê.

Ông ta bước đều vào phòng Hội đồng và Scott theo, khó chịu khi phát hiện có một người phụ nữ đang chùi bàn.

Chắc chắn anh không muốn cô ta lai vãng khi anh trở ra.

Viên Đại tướng thậm chí không nhìn Hannah trong lúc ông ta thong thả bước qua phòng Hội đồng.

Scott liếc qua tấm giấy da trước khi theo viên Đại tướng ra khỏi phòng.

- À? - Hannah nghe viên Đại tướng nói khi ông ta còn cách cuối hành lang mấy mét. - Mấy con số thống kê thuần tuý đâu có xứng đáng với ông, ông Bernstrom.

Hai quân nhân đứng nghiêm trong lúc viên Đại tướng nghiên cứu chiếc tủ sắt một hồi lâu trước khi bước vào, bên trong. Khi ông ta trông thấy cái ống giấy trên sàn, ông ta nhặt lên.

- Chỉ để bảo vệ bức chân dung, - Scott vừa giải thích vừa bước vào theo ông ta và chỉ bức hình của Saddaln Hussein.

- Ông đúng là một con người kỹ lưỡng, ông Bernstrorn, - Hamil nói - Nếu ông ở đây thì ông đã là một Đại tá xuất sắc trong một trung đoàn của tôi.

Ông ta cười và đưa cái ống giấy cho Scott.

Hannah hết sức chú ý lắng nghe từng từ một, và kết luận rằng nàng phải thoát ra khỏi toà nhà càng nhanh càng tốt và báo động cho Kratz những gì nàng đã làm.

- Ông có muốn tôi chỉ cho ông cách lập chương trình cho chiếc tủ sắt? - nàng nghe Scott hỏi trong lúc nàng tới lối vào phòng Hội đồng.

- Không, không, không phải tôi, - Đại tướng Hamil nói. - Tổng thống sẽ là người duy nhất được quyền vận hành chiếc tủ sắt.

Đó là những lời cuối cùng mà Hannah nghe được trong lúc nàng bước ra khỏi phòng Hội đồng, đi qua bọn lính gác, và tiếp tục theo hành lang dài.

Khi nàng tới các cánh cửa dẫn đến cầu thang, nàng quay người lại và trông thấy viên Đại tướng đang sải bước vào phòng Hội đồng và Scott theo sau ông ta. Anh đang cầm cái ống giấy.

Hannah muốn gào lên vì vui sướng.

Scott nhận thức được anh sẽ không bao giờ có cơ hội thực hiện việc hoán đổi một khi Saddam đã ở trong toà nhà. Khi anh đã rời phòng Hội đồng, anh để cho viện Đại tướng đi trước anh ít bước, anh liếc quanh phòng và nhẹ nhõm khi thấy người phụ nữ lau chùi đã đi đâu mất dạng.

Mấy tên lính gác đứng nghiêm trang lúc viên Đại tướng sải bước khỏi phòng Hội đồng ra ngoài hành lang đằng xa.

Scott chăm chú nhìn nút báo động trên tường phía trước anh.

- Đừng nhìn quanh, - anh thầm cầu xin trong lúc mắt không ngừng quan sát viên Đại tướng.

Khi còn cách cửa một mét, Scott lao tới trước và chọc ngón tay cái lên cái nút đỏ. Các cánh cửa ngay lập tức đóng sầm lại vang lên một âm thanh chát chúa.

Ngay lúc Hannah sắp sửa đẩy cánh cửa mở dẫn ra cầu thang phía sau thì chuông báo động réo ầm ĩ và tất cả các lối ra đều được gài chốt ngay lập tức. Nàng quay người lại để khám phá ra nàng chỉ còn lại một mình trong hành lang với Đại tướng Hamil và bốn tên vệ binh cộng hoà của anh ta.

Viên Đại tướng mỉm cười với nàng:

- Xin chào cô Kopec. Tôi rất vui mừng được làm quen với cô. Tôi e phải mất vài phút nữa giáo sư Bradley mới có thể đến gặp chúng ta.

Bốn vệ binh vây quanh Hannah trong lúc viên Đại tướng nhìn lên màn ảnh truyền hình phía trên cửa. Ông ta quan sát trong lúc Scott ở bên trong phòng Hội đồng ấn một cái nút bên hông chiếc đồng hồ đeo tay của anh. Rồi Scott chạy tới bức tường, nhanh nhẹn rút ra bản sao tài liệu khỏi cái ống và kiểm tra lại với bản gốc. Anh cảm thấy anh làm một việc khá tốt trong buồng lái của chiếc xe tải, nhưng anh vẫn phun thêm nước bọt lên các chữ ký của Lewis Morris và John Witherspoon, rồi bỏ ít giây chà tấm giật da lên nền đá trước khi so sánh nó một lần nữa với bản trên tường. Anh xem đồng hồ: bốn mươi lăm giây.

Anh bắt đầu nhổ mấy cây đinh ra khỏi tường, nhưng không thể nào lay chuyển cái ở trên cùng bên mặt, vì thế anh đã gỡ bản Tuyên ngôn qua đấu đinh. Sáu mươi giây.

Hannah nhìn chằm chằm lên màn ảnh truyền hình trong nỗi kinh hoàng, quan sát Scott phá hoại tất cả công trình của nàng, trong lúc viên Đại tướng gọi một cú điện thoại.

Ngay sau khi Scott đã tháo được bản tài liệu khỏi bức tường, anh đặt nó lên bàn. Rồi anh nắn lại bản gốc mà anh đã lấy ra khỏi cái ống giấy trở lên bức tường, cho tấm giấy da lọt vào đầu cây đinh ở góc trên cùng bên phải vẫn bướng bỉnh không chịu động đậy. Chín mươi giây. Anh lấy bản sao của Dollar Bill lên bàn, cuộn tròn nó lại và thả vào trong cái ống. Một trăm mười giây. Anh bước tới cửa dần đến thang máy và đứng thở thật sâu trong một lúc trước khi chuông báo động ngừng và các cánh cửa mở tung ra.

Scott biết rằng phải mất thêm ít phút nữa mới có thể kiểm tra được nguồn gốc của cuộc báo động, vì thế khi trông thấy viên Đại tướng, anh chỉ nhún vai và mỉm cười.

***

Kratz ngồi trên ghế trước của chiếc xe tải, không rời mắt khỏi Thiếu tá Saeed. Có tiếng chuông reo: Saeed liền bấm một cái nút vào đặt máy điện thoại sát tai. Bỗng nhiên, không hề báo trước, ông ta quay người, rút súng lục ra và lo lắng nhìn về phía buồng lái. Ông ta sẵng giọng ra lệnh, và trong vòng mấy giây, bọn lính vây quanh chiếc xe tải chĩa thẳng súng trường vào Kratz.

Viên thiếu tá hối hả chạy tới.

- Hai người kia ở đâu? - Ông ta hỏi.

Kratz nhún vai. Saeed quay lại và vừa chạy vào trong toà nhà vừa lớn tiếng ra một lệnh khác.

Kratz đặt bàn tay phải lên cổ tay trái của ông và bắt đầu từ từ lột lớp thạch cao như một lớp da thứ hai giấu bên dưới chiếc đồng hồ. Ông khéo léo lấy viên thuốc mát xanh lá cây chèn vào lớp thạch cao và chuyển nó sang lòng bàn tay phải. Sáu bảy mươi con mắt đang chằm chằm nhìn vào ông. Ông bắt đầu ho và từ từ đặt bàn tay lên miệng, cúi đầu xuống và nuốt viên thuốc.

Saeed chạy hối hả trở ra khỏi toà nhà và đầu sẵng giọng ra các lệnh mới. Trong vòng mấy giây, một chiếc xe hơi dừng lại bên cạnh chiếc xe tải.

- Ra ngoài! - viên thiếu tá la lớn với Kratz.

Kratz bước xuống trên khoảng đất rải nhựa và bị mười hai lưỡi lê dẫn ra phía cửa sau của chiếc xe hơi. Ông bị đẩy lên ghế, và hai người đàn ông mặc com lê màu sẫm ngồi hai bên ông. Một người nhanh nhẹn quàng sang ông và trói hai tay sau lưng, trong lúc người kia bịt mắt ông.

Cohen và Aziz quan sát từ phía bên kia Quảng trường trong lúc chiếc xe hơi chạy ra xa họ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,745
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


Hai chiếc xe hơi lướt tới hàng rào và được cho qua không kiểm tra. Scott quan sát một cách cẩn thận trong lúc một đám nhiều quân nhân bao quanh hai chiếc xe.

Khi một người đàn ông cao lớn lực lưỡng bước ra khỏi chiếc xe thứ hai, Aziz khẽ nói:

- Đại tướng Hamil, tên Thợ cạo của Baghdad. Ông ta luôn mang theo một con dao cạo cùng với khoeo chìa khoá.

Kratz gật đầu nói:

- Tôi biết lịch sử toàn bộ cuộc đời của ông ta. Ngay cả cái tên của viên Trung sĩ trẻ tuổi mà ông ta hiện chung sống.

Thiếu tá Saeed lúc này đang đứng nghiêm, cho vị Đại tướng, và Scott không cần ai cho biết rằng người đàn ông này thuộc một đẳng cấp và tầm cỡ khác với người mà anh đang đương đầu cho tới nay. Anh nghiên cứu gương mặt của người đàn ông mặc một bộ đồng phục may một cách hoàn hảo với nhiều hàng huy chương hơn viên thiếu tá, mang một đôi găng tay da màu đen và một cây gậy chỉ huy. Đó là một gương mặt độc ác. Đám lính chứng chung quanh ông ta không thể che giấu nỗi sợ hãi.

Viên thiếu tá chỉ Scott và nói:

- Ông đến đây.

- Tôi có cảm tưởng hắn muốn gọi anh đấy, - Kratz nói.

Scott gật đầu và lững thững đến gặp họ.

- Ông Bernstrom, - viên Đại tướng vừa nói vừa tháo găng tay khỏi bàn tay phải. - Tôi là Đại tướng Hamil.

Scott bắt tay ông ta trong lúc ông ta nói:

- Tôi xin lỗi đã bắt ông chờ đợi. Nhưng đừng để tôi giữ ông lại lâu hơn nữa. Xin chỉ cho tôi xem chiếc tủ sắt của ông, mà thiếu tá Saeed dường như hết sức thích thú.

Không nói thêm một tiếng nào nữa. viên Đai tướng quay người và bắt đầu bước về phía toà nhà, bỏ Scott ở lại không còn cách lựa chọn nào khác hơn là đi theo. Lần đầu tiên trong đời, Scott cảm thấy sợ hãi.

***

Hannah lấy một miếng giẻ và một chút dầu bóng rồi bắt đầu chà theo những vòng tròn trên mặt bàn trong khi thận trọng nhìn bản Tuyên ngôn Độc lập một lần nữa. Tấm giấy da lâm vào một tình trạng tồi tệ đến nỗi nàng nghi ngờ nó không thể nào sửa chữa được cho dù Simon có thể lấy trở lại Washington.

Nàng nhìn kỹ quanh cửa ra ngoài hành lang ngắn, và chợt nhận ra chiếc tủ sắt mà nàng đã trông thấy trên chiếc xe tải trước đó trong ngày hôm nay. Tủ đang mở và được canh gác bởi hai tên côn đồ khác, cũng đang tán gẫu như hai tên đứng ở phòng Hội đồng.

Hannah vừa từ từ lần theo hành lang, vừa lau chùi và đánh bóng chân tường bóng gỗ cho tới khi nàng đối diện với chiếc tủ sắt và nhìn rõ vào bên trong. Nàng tiến một bước về phía trước và nhìn kỹ hơn như thể nàng chưa bao giờ trông thấy bất cứ vật gì giống như thế trong đời nàng.

Một trong hai tên quân nhân đá nàng một cái và nàng ngã vào bên trong chiếc tủ. Nàng định quay người lại phản kháng thì nàng chợt trông thấy cái ống dài bằng giấy bìa cứng trong một góc, gần như bị bóng tối che khuất. Nàng liền nghiêng người qua và nhanh nhẹn lăn cái ống giấy về phía nàng cho đến khi nó nằm an toàn bên dưới chiếc váy dài. Nàng tự hỏi nàng có thể dùng nó để nhắn tin cho Simon hay không. Hannah bỏ miếng giẻ lại và đánh bóng toàn tủ, bước thụt lùi ra ngoài và chạy vụt theo hành lang như thể lẩn tránh bọn lính gác.

Ngay sau khi trở vào phòng Hội đồng, nàng lấy một miếng giẻ khác từ trong hộp dụng cụ vệ sinh và bắt đầu đánh bóng mặt bàn cho tới lúc nàng ở một vị trí không ai có thể trạng thấy nàng từ ngoài hành lang. Lúc bấy giờ, nàng mới từ từ quỳ xuống cho tới lúc ở phía dưới gầm bàn, và để cho cái ống giấy ra lên sàn trước mặt nàng. Nàng nhanh nhẹn mở nắp ra và nhận thấy cái ống không trống rỗng. Nàng kéo tấm giấy da ra, trải rộng và xem xét kỹ gần như không còn tin tưởng vào mắt mình: một bản sao bản Tuyên ngôn Độc lập rõ ràng được thực hiện bởi một người điêu luyện cho dù một kẻ nào đó đã cố làm cho nó xấu đi. Nàng nhận thấy được ngay rằng chắc hẳn Simon đang tìm cách hoán đổi bản sao để lấy lại bản chính.

***

Kratz quan sát Scott đi theo Đại tướng Hamil vào trong toà nhà, rồi chậm bước tới chiếc xe tải và trèo lên buồng lái. Anh chăm chú nhìn qua khung cửa sổ phía trước,

Không một ai đặc biệt chú ý đến những gì họ có thể làm.

Việc này quá dễ, - ông nói - Quá sức dễ.

Cohen và Aziz nhìn thẳng về phía trước, nhưng không bày tỏ ý kiến trong lúc Kratz nói tiếp:

- Nếu Hamil liên can, họ phải nghi ngờ một điều gì đó. Đã đến lúc chúng ta phải tìm xem ai hay biết.

- Ông đang nghĩ gì thế? - Cohen hỏi.

- Tôi có cảm tưởng viên thiếu tá đó hoàn toàn không hay biết gì về sự việc đang diễn ra. Hoặc là họ đã không kể cho anh ta, hoặc là họ nghĩ anh ta không cáng đáng việc này.

- Hoặc là cả hai, - Aziz góp ý.

Kratz gật đầu:

- Hoặc là cả hai. Thế thì chúng ta hãy tìm hiểu. Aziz, tôi muốn anh và Cohen thong thả đi tới hàng rào. Bảo bọn lính gác rằng anh định tìm cái gì để ăn và anh sẽ quay lại sau ít phút. Nếu họ không chịu để cho các anh qua, chúng ta đã thực sự gặp rắc rối, bởi vì như thế có nghĩa là họ đã biết những gì chúng ta có thể làm. Trong trường hợp đó, các anh hãy trở về buồng lái và tôi khởi sự xem chúng ta phải làm gì.

- Còn nếu họ để cho chúng tôi quay - Cohen hỏi.

- Thì các anh hãy đi cho khuất mắt, - Kratz nói, - nhưng phải trông thấy chiếc xe tải. Công việc này không khó lắm đây vì quanh đây có quá nhiều người đang trố mắt nhìn. Nếu giáo sư Bradley thoát ra được với cái ống giấy và tôi đặt cánh tay trên thành cửa sổ như tôi hiện đang làm, các anh hãy quay lại đây thật nhanh, bởi vì chúng ta không nên ở đây quá lâu. A này, Cohen: nếu tôi không ở đây vì bất cứ lý do nào, và ông giáo sư đề nghị quẹo qua Bộ Ngoại giao, thì anh hãy bác bỏ.

Cohen gật đầu, chẳng biết ất giáp gì về điều vị Đại tá đang nói, trong lúc ông vẫn tiếp:

- Nhưng nếu anh phát hiện chúng tôi đang gặp rắc rối, thì cứ lảng ra xa trong vòng một tiếng đồng hồ, rồi hãy cầu nguyện.

- Tôi hiểu, thưa ông. - Cohen nói.

- Anh hãy lấy chìa khoá theo, - Kratz nói - Bây giờ thì đi đi.

Kratz bước lại khoảng sân tráng nhựa, lững thững tới nơi Thiếu tá Saeed đang nghe một trong những cú điện thoại bất tận, và đứng cách vài bước bên trái ông ta như thể muốn lôi kéo sự chú ý của anh ta. Đồng thời ông nhìn qua vai để quan sát Aziz và Cohen đang bước về phía hàng rào.

Kratz tiếp tục lôi kéo sự chú ý của viên thiếu tá trong lúc Aziz ngừng lại ở hàng rào và bắt đầu nói đùa với một tên lính gác.

Một lát sau, ông thấy cả hai nhân viên của ông bước ra khỏi hàng rào. Trong chốc lát họ đã mất dạng trong đám đông.

Thiếu tá Saeed ngừng nói điện thoại:

- Lần này có vấn đề gì vậy? - Ông ta hỏi.

Kratz liền lấy ra một điếu thuốc lá và hỏi mượn hộp quẹt:

- Không được hút thuốc, - ông ta bảo và xua Kratz ra xa.

Kratz bước từ từ trở về buồng lái và ngồi vào phía sau tay lái, mắt không hề rời khỏi cổng đại bản doanh của Đảng Baath.

***

Hannah chăm chú nhìn bản Tuyên ngôn treo tên tường. Nó chỉ cách nàng ít bước. Nàng đợi cho tới khi nghe một tiếng cười rộ khác của bọn lính gác trước khi tới bản tài liệu và nhanh nhẹn cố gắng nhổ đinh ra. Ba cái rời ra không một chút khó khăn, nhưng cái góc trên cùng bên phải không chịu nhúc nhích và bản Tuyên ngón còn đong đưa trên đó. Sau vài ba giãy nữa, nàng cảm thấy không còn cách lựa chọn nào khác; ngoại trừ cho bản tài liệu lọt qua cây đinh. Ngay sau khi tấm giấy da đã lọt vào tay nàng đi trở về bàn, đặt bản gốc lên sàn và nhanh nhẹn gắn bản sao vào tường.

Nàng gần như không kịp liếc nhìn công trình của mình trước khi quay trở lại bàn, quỳ trên mặt đất, và nhanh nhẹn cuộn tròn bản gốc, đặt lại vào trong cái ống. Một lần nữa, nàng nhét nó vào dưới váy. Đó là hai phút dài nhất của cuộc đời nàng. Nàng vẫn quỳ gối, cố suy nghĩ. Nàng biết nàng không thể mạo hiểm cố đưa cái ống này ra khỏi toà nhà, vì bọn lính gác có thể "lục soát" nàng. Không có khả năng. Nàng bước nhanh theo hành lang ngắn và vào trong chiếc tủ sắt ngay cả trước khi hai quân nhân đang trò chuyện. Nàng thả cái ống lên sàn, rồi đẩy nó trở vào góc tối nhất, đúng nơi nàng đã trông thấy nó lần đầu.

Rồi nàng nhét miếng giẻ lau và dầu bóng mà nàng đã bỏ quên bước trở ra khởi chiếc tủ sắt, đưa tất cả cho bọn lính xem và chạy dọc theo về phía phòng Hội đồng.

Hannah biết nàng phải thoát khỏi toà nhà càng nhanh càng tốt, và bằng một cách nào đó nhắn tin cho Simon.

Rồi nàng nghe những tiếng nói:

- Và chiếc tủ sắt này lớn như thế nào? - viên Dại tướng hỏi Scott trong lúc họ đi qua hành lang.

- Cao hai mét bảy mươi lăm, rộng hai mét mười lăm và sâu hai mét bốn mươi lăm, - Scott trả lời ngay tức khắc. - Ông Đại tướng có thể tổ chức một cuộc họp kín đáo trong đó nếu muốn.

- Thế sao? - Hamil nói trong lúc ông ta bước vào thang máy.

- Nhưng tôi được biết chiếc tủ sắt chỉ được vận hành bởi một người mà thôi.

Ông ta bấm một cái nút ở dưới cùng bằng ngón tay mang găng và hỏi tiếp:

- Có thật thế không?

- Đúng thế, thưa Đại tướng. Chúng tôi đã thực hiện đúng những đặc tính kỹ thuật mà chính phủ của ông yêu cầu.

Cửa thang máy mở ra ở tầng hầm. Viên Đại tướng bước ra hành lang và đi về phía phòng Hội đồng.

- Tôi cũng được biết rằng chiếc tủ sắt có thể chống lại một cuộc tấn công hạt nhân. Có phải như thế không?

- Vâng. - Scott đáp. - Chiếc tủ sắt có một lớp vỏ bọc dày một trăm năm mươi hai mi li mét và sẽ không bị ảnh hưởng bởi bất cứ một vụ nổ nào; ngoại trừ bị bắn thủng vào. Trong bất cứ tình huống nào khác, mọi thứ bên trong tủ vẫn sẽ được bảo toàn, cho dù cả toà nhà mà nó đang ở trong đó bị phá huỷ hoàn toàn.

- Tuyệt thật, - viên Đại tướng nói trong lúc bọn lính gác đứng nghiêm và ông ta đưa chiếc gậy chỉ huy chạm vào vành mũ bê rê.

Ông ta bước đều vào phòng Hội đồng và Scott theo, khó chịu khi phát hiện có một người phụ nữ đang chùi bàn.

Chắc chắn anh không muốn cô ta lai vãng khi anh trở ra.

Viên Đại tướng thậm chí không nhìn Hannah trong lúc ông ta thong thả bước qua phòng Hội đồng.

Scott liếc qua tấm giấy da trước khi theo viên Đại tướng ra khỏi phòng.

- À? - Hannah nghe viên Đại tướng nói khi ông ta còn cách cuối hành lang mấy mét. - Mấy con số thống kê thuần tuý đâu có xứng đáng với ông, ông Bernstrom.

Hai quân nhân đứng nghiêm trong lúc viên Đại tướng nghiên cứu chiếc tủ sắt một hồi lâu trước khi bước vào, bên trong. Khi ông ta trông thấy cái ống giấy trên sàn, ông ta nhặt lên.

- Chỉ để bảo vệ bức chân dung, - Scott vừa giải thích vừa bước vào theo ông ta và chỉ bức hình của Saddaln Hussein.

- Ông đúng là một con người kỹ lưỡng, ông Bernstrorn, - Hamil nói - Nếu ông ở đây thì ông đã là một Đại tá xuất sắc trong một trung đoàn của tôi.

Ông ta cười và đưa cái ống giấy cho Scott.

Hannah hết sức chú ý lắng nghe từng từ một, và kết luận rằng nàng phải thoát ra khỏi toà nhà càng nhanh càng tốt và báo động cho Kratz những gì nàng đã làm.

- Ông có muốn tôi chỉ cho ông cách lập chương trình cho chiếc tủ sắt? - nàng nghe Scott hỏi trong lúc nàng tới lối vào phòng Hội đồng.

- Không, không, không phải tôi, - Đại tướng Hamil nói. - Tổng thống sẽ là người duy nhất được quyền vận hành chiếc tủ sắt.

Đó là những lời cuối cùng mà Hannah nghe được trong lúc nàng bước ra khỏi phòng Hội đồng, đi qua bọn lính gác, và tiếp tục theo hành lang dài.

Khi nàng tới các cánh cửa dẫn đến cầu thang, nàng quay người lại và trông thấy viên Đại tướng đang sải bước vào phòng Hội đồng và Scott theo sau ông ta. Anh đang cầm cái ống giấy.

Hannah muốn gào lên vì vui sướng.

Scott nhận thức được anh sẽ không bao giờ có cơ hội thực hiện việc hoán đổi một khi Saddam đã ở trong toà nhà. Khi anh đã rời phòng Hội đồng, anh để cho viện Đại tướng đi trước anh ít bước, anh liếc quanh phòng và nhẹ nhõm khi thấy người phụ nữ lau chùi đã đi đâu mất dạng.

Mấy tên lính gác đứng nghiêm trang lúc viên Đại tướng sải bước khỏi phòng Hội đồng ra ngoài hành lang đằng xa.

Scott chăm chú nhìn nút báo động trên tường phía trước anh.

- Đừng nhìn quanh, - anh thầm cầu xin trong lúc mắt không ngừng quan sát viên Đại tướng.

Khi còn cách cửa một mét, Scott lao tới trước và chọc ngón tay cái lên cái nút đỏ. Các cánh cửa ngay lập tức đóng sầm lại vang lên một âm thanh chát chúa.

Ngay lúc Hannah sắp sửa đẩy cánh cửa mở dẫn ra cầu thang phía sau thì chuông báo động réo ầm ĩ và tất cả các lối ra đều được gài chốt ngay lập tức. Nàng quay người lại để khám phá ra nàng chỉ còn lại một mình trong hành lang với Đại tướng Hamil và bốn tên vệ binh cộng hoà của anh ta.

Viên Đại tướng mỉm cười với nàng:

- Xin chào cô Kopec. Tôi rất vui mừng được làm quen với cô. Tôi e phải mất vài phút nữa giáo sư Bradley mới có thể đến gặp chúng ta.

Bốn vệ binh vây quanh Hannah trong lúc viên Đại tướng nhìn lên màn ảnh truyền hình phía trên cửa. Ông ta quan sát trong lúc Scott ở bên trong phòng Hội đồng ấn một cái nút bên hông chiếc đồng hồ đeo tay của anh. Rồi Scott chạy tới bức tường, nhanh nhẹn rút ra bản sao tài liệu khỏi cái ống và kiểm tra lại với bản gốc. Anh cảm thấy anh làm một việc khá tốt trong buồng lái của chiếc xe tải, nhưng anh vẫn phun thêm nước bọt lên các chữ ký của Lewis Morris và John Witherspoon, rồi bỏ ít giây chà tấm giật da lên nền đá trước khi so sánh nó một lần nữa với bản trên tường. Anh xem đồng hồ: bốn mươi lăm giây.

Anh bắt đầu nhổ mấy cây đinh ra khỏi tường, nhưng không thể nào lay chuyển cái ở trên cùng bên mặt, vì thế anh đã gỡ bản Tuyên ngôn qua đấu đinh. Sáu mươi giây.

Hannah nhìn chằm chằm lên màn ảnh truyền hình trong nỗi kinh hoàng, quan sát Scott phá hoại tất cả công trình của nàng, trong lúc viên Đại tướng gọi một cú điện thoại.

Ngay sau khi Scott đã tháo được bản tài liệu khỏi bức tường, anh đặt nó lên bàn. Rồi anh nắn lại bản gốc mà anh đã lấy ra khỏi cái ống giấy trở lên bức tường, cho tấm giấy da lọt vào đầu cây đinh ở góc trên cùng bên phải vẫn bướng bỉnh không chịu động đậy. Chín mươi giây. Anh lấy bản sao của Dollar Bill lên bàn, cuộn tròn nó lại và thả vào trong cái ống. Một trăm mười giây. Anh bước tới cửa dần đến thang máy và đứng thở thật sâu trong một lúc trước khi chuông báo động ngừng và các cánh cửa mở tung ra.

Scott biết rằng phải mất thêm ít phút nữa mới có thể kiểm tra được nguồn gốc của cuộc báo động, vì thế khi trông thấy viên Đại tướng, anh chỉ nhún vai và mỉm cười.

***

Kratz ngồi trên ghế trước của chiếc xe tải, không rời mắt khỏi Thiếu tá Saeed. Có tiếng chuông reo: Saeed liền bấm một cái nút vào đặt máy điện thoại sát tai. Bỗng nhiên, không hề báo trước, ông ta quay người, rút súng lục ra và lo lắng nhìn về phía buồng lái. Ông ta sẵng giọng ra lệnh, và trong vòng mấy giây, bọn lính vây quanh chiếc xe tải chĩa thẳng súng trường vào Kratz.

Viên thiếu tá hối hả chạy tới.

- Hai người kia ở đâu? - Ông ta hỏi.

Kratz nhún vai. Saeed quay lại và vừa chạy vào trong toà nhà vừa lớn tiếng ra một lệnh khác.

Kratz đặt bàn tay phải lên cổ tay trái của ông và bắt đầu từ từ lột lớp thạch cao như một lớp da thứ hai giấu bên dưới chiếc đồng hồ. Ông khéo léo lấy viên thuốc mát xanh lá cây chèn vào lớp thạch cao và chuyển nó sang lòng bàn tay phải. Sáu bảy mươi con mắt đang chằm chằm nhìn vào ông. Ông bắt đầu ho và từ từ đặt bàn tay lên miệng, cúi đầu xuống và nuốt viên thuốc.

Saeed chạy hối hả trở ra khỏi toà nhà và đầu sẵng giọng ra các lệnh mới. Trong vòng mấy giây, một chiếc xe hơi dừng lại bên cạnh chiếc xe tải.

- Ra ngoài! - viên thiếu tá la lớn với Kratz.

Kratz bước xuống trên khoảng đất rải nhựa và bị mười hai lưỡi lê dẫn ra phía cửa sau của chiếc xe hơi. Ông bị đẩy lên ghế, và hai người đàn ông mặc com lê màu sẫm ngồi hai bên ông. Một người nhanh nhẹn quàng sang ông và trói hai tay sau lưng, trong lúc người kia bịt mắt ông.

Cohen và Aziz quan sát từ phía bên kia Quảng trường trong lúc chiếc xe hơi chạy ra xa họ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,745
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


Viên Đại tướng mỉm cười nói với Scott:

- Tôi sẽ không giới thiệu ông với cô Saib. - ông ta nói - bởi vì tôi tin ông đã gặp rồi.

Scott có vẻ ngỡ ngàng trong lúc anh chăm chú nhìn người phụ nữ mặc một chiếc abaya màu đen và mang một tấm pushi che kín mặt. Nàng bị bao vây bởi bốn quân nhân với lưỡi lê chĩa ra ngoài.

- Chúng tôi phải cám ơn cô Saib rất nhiều, bởi vì trước hết chính cô ta đã đưa chúng tôi đến gặp ông, chưa kể tấm bưu thiếp của cô ta gửi cho ông Rabin đã giúp ông tìm thấy bản Tuyên ngôn một cách nhanh chóng. Chúng tôi đã cố gắng để cho mọi việc hết sức dễ dàng đối với ông.

- Tôi không biết cô Saib. - Scott nói.

- Ôi, nào, giáo sư, hay là tôi phải gọi ông là điệp viên Bradley? Tôi khâm phục lòng dũng cảm của ông, nhưng trong khi ông có thể quả quyết không biết cô Saib, chắc chắn ông biết Hannah Kopec. - Viên Đại tướng vừa nói vừa giật tấm mạng của Hannah ra.

Scott nhìn Hannah nhưng vẫn không nói gì.

- A! Tôi thấy ông còn nhớ cô ta. Hơn nữa, thật hết sức khó quên người đã cố giết ông, phải không?

Đôi mắt của Hannah có vẻ van xin Scott.

- Thật là đau lòng, vì ông ta đã quên cô. Nhưng tôi e rằng tôi không có bản tính khoan dung như ông ta.

Viên Đại tướng chợt quay lại nhìn thiếu tá Saeed đang chạy về phía ông ta. Ông ta thận trọng lắng nghe những lời viên thiếu tá thì thầm vào tai, rồi bắt đầu đập lia lịa chiếc gậy chỉ huy vào đôi ủng cao bằng da.

- Anh là một thằng ngốc - Ông ta la lớn và đột nhiên phang chiếc gậy chỉ huy vào mặt viên thiếu tá.

Ông ta quay lại và nhìn thẳng vào mặt Scott và nói:

- Dường như cuộc xum họp mà tôi đã sắp xếp cho ông và những người bạn của ông phải chờ đợi một lúc nữa, bởi vì mặc dù chúng tôi đã bắt nhốt Đại tá Kratz, tên Do thái và tên phản bội người Kurd đã tẩu thoát. Nhưng chỉ là một vấn đề thời gian trước khi chúng tôi tóm cổ bọn chúng.

- Ông đã biết bao lâu rồi? - Hannah trầm tĩnh hỏi.

- Cô Kopec, cô đã phạm phải sai lầm mà quá nhiều kẻ thù của chúng tôi đã phạm, - viên Đại tướng trả lời, - vì đánh giá thấp vị Tổng thống vĩ đại của chúng tôi. Ông ấy chi phối mọi việc ở Trung Đông giỏi hơn nhiều so với Gorbachev ở Nga, Thacher ở Anh hoặc Bush ở Mỹ. Tôi tự hỏi có bao nhiêu công dân ở phương Tây còn tin các nước Đồng minh đã thắng cuộc chiến tranh vùng Vịnh? Ngoài ra, cô cũng khá khờ khạo mới xem thường người em họ của ông ấy, Abdul Kanuk, vị đại sứ mới được bổ nhiệm của chúng tôi ở Paris. Có lẽ anh ta không hoàn toàn khờ khạo như thế khi anh ta theo dõi cô suốt quãng đường tới nhà người yêu của cô và đứng trong hốc cửa trong phần còn lại của đêm hôm ấy trước khi theo cô trở về Toà đại sứ, chính anh ta là người đã thông báo cho Đại sứ của chúng tôi ở Geneva về những gì "Cô Saib" có thể làm.

Lẽ tất nhiên, chúng tôi cần chắc chắn, nhất là vì Thứ trưởng Ngoại giao của chúng tôi đã nhận thấy hết sức khó chấp nhận một câu chuyện như thế về một trong những nhân viên trung thành nhất của mình. Quả thực là một con người ngây thơ. Vì vậy, khi cô đến Baghdad, bà vợ của Đại sứ đã mời người em trai của cô Saib đến ăn tôi. Nhưng buồn thay, anh ta đã không nhận ra cô. Căn cước giả của cô như các tờ báo lá cải của người Mỹ vẫn thường mô tả, thế là tiêu tan. Cũng các tờ báo đó cứ đặt câu hỏi một cách hết sức tội nghiệp: "Tại sao Mossad không ám sát Tổng thống Saddam". Giá như họ biết được bao nhiêu lần Mossad đã cố gắng và thất bại. Điều mà Kratz không kể cho cô nghe tại trường huấn luyện của cô ở Herzliyath, là cô là điệp viên Mossad thứ mười bảy đã cố thâm nhập vào hàng ngũ của chúng tôi trong năm năm vừa qua, và tất cả bọn họ đều đã trải qua một kết thúc bi thảm như viên đại tá của cô sắp sửa nếm. Và trước hết cái đẹp thực sự của toàn bộ vụ việc này là chúng tôi không cần phải thừa nhận là đã giết chết bất cứ ai trong bọn cô. Cô cũng biết người dân Do thái không muốn chấp nhận, sau Enteble và Eichmann, rằng một chuyện như thế vẫn có thể xảy ra. Tôi có cảm tưởng chắc chắn ông sẽ hiểu rõ lập luận về chuyện đó, ông giáo sư?

- Tôi sẽ thương lượng với ông, - Scott nói.

- Tôi cảm ông vì đạo đức kiểu phương Tây của ông, ông giáo sư, nhưng tôi e rằng ông không có gì để mà thương lượng.

- Chúng tôi sẽ trao trả cô Saib nếu ông thả Hannah.

Viên Đại tướng cười phá lên.

- Ông giáo sư, ông có một khả năng sắc sảo về những chuyện lố bịch, nhưng tôi không muốn xúc phạm ông với ý nghĩ ông không hiểu tâm trí của người A rập. Xin cho phép tôi giải thích. Ông sẽ bị giết và sẽ không có một ai bình luận bởi vì, như tôi đã giải thích, người phương Tây quá tự cao tự đại, cho nên thậm chí không thừa nhận rằng ông hiện hữu. Trong khi chúng tôi ở phương Đông sẽ giơ tay lên trời và hỏi tại sao Mossad đã bắt cóc một cô thư ký hiền lành vô tội đang trên đường đến Paris, và hiện giờ đang bắt giữ cô ta ở Tel Aviv trái với ý muốn của cô ta.

Chúng tôi thậm chí biết cả nơi cô ta bị giam cầm. Chúng tôi đã chuẩn bị nhiều tấm hình hết sức tình cảm để phân phát cho từng tờ báo trong thế giới phương Tây,và một bà mẹ quẫn trí cùng cậu con trai đã được huấn luyện kỹ bởi những công ty có mối quan hệ với quần chúng của chính các ông để đương đấu với giới báo chí phương Tây. Thậm chí, chúng tôi sẽ nhờ tố chức ân xá Quốc tế phản đối bên ngoài các Toà đại sứ của Do thái tên toàn thế giới nhân danh cô ta.

Scott xững nhìn viên Đại tướng.

- Cô Saib đáng thương sẽ được thả ra trong vòng vài ngày. Còn cả hai người, ông giáo sư và cô Kopec, sẽ kết liễu bằng một cái chết không được thông báo, không được báo trước và không được để tang. Để ngẫm nghĩ rằng cả hai người đã hy sinh tính mạng của mình để đổi lấy một mảnh giấy vụn. Và trong khi chúng tôi sắp xếp vấn đề đó: tôi sẽ lấy lại bản Tuyên ngôn.

Bốn quân nhân bước tới trước và chĩa lưỡi lê vào cổ họng Scott, trong lúc viên Đại tướng giật cái ống giấy ra khỏi tay anh.

- Ông giáo sư thật là giỏi vì đã đổi được bản tài liệu trong hai phút, - viên Đại tướng vừa nói vừa liếc lên màn ảnh truyền hình. - Nhưng ông có thể tin tưởng rằng chúng tôi vẫn còn giữ ý định đốt bản gốc cho công chúng xem vào ngày 4 tháng 7, và tôi chắc chắn rằng chúng tôi sẽ huỷ hoại danh tiếng mong manh của Tổng thống Clinton cùng với nó.

Viên Đại tướng cười vang rồi nói tiếp:

- Ông giáo sư đã biết suốt nhiều năm nay tôi thích thú với trò giết người, nhưng tôi sẽ được một niềm khoái lạc đặc biệt từ cái chết của hai người, vì các cách thích hợp mà các người sẽ theo để từ giã thế giới này.

Bọn quân nhân vây quanh Hannah và Scott, ép buộc họ trở vào phòng Hội đồng rồi tiếp tục về phía hành lang ngắn. Viên Đại tướng đi theo họ trong hành lang. Tất cả mọi người dừng lại trước chiếc tủ sắt đang mở cửa.

- Cho phép tôi, - Đại tướng Hamil nói, - thông báo cho ông giáo sư một con số thống kê mà ông đã không nhắc đến, khi ông tường thuật với tôi về kỳ công thiết kế lạ lùng này. Có lẽ chỉ vì ông không biết, mặc dù tôi buộc lòng phải thừa nhận rằng ông đã chuẩn bị mọi việc hết sức kỹ lưỡng.

Nhưng ông có hiểu được rằng một người bị chết trong một chiếc tủ sắt có kích thước như thế này, với một thể tích chưa đầy 47 mét khối, chỉ có thể hy vọng sống sót trong sáu giờ? Tôi chưa biết khoảng thời gian chính xác mà hai người có thể hy vọng sống sót khi cửng nhau san sẻ số lượng dưỡng khí đó. Nhưng tôi sẽ biết ngay thôi.

Ông ta lấy đồng hồ bấm giờ ra khỏi túi, vẫy chiếc gậy chỉ huy của ông ta, và bọn quân nhàn xô mạnh đầu tiên là Hannah và kế đó là Scott vào trong chiếc tủ sắt. Nụ cười vẫn còn ở trên gương mặt của viên Đại tướng, trong lúc hai quân nhân đẩy cánh cửa đồ sộ đóng lại. Tất cả các bóng đèn bắt đầu nháy sang màu đỏ.

Viên Đại tướng liền ấn nút đồng hố bấm giờ.

***

Khi chiếc xe hơi ngừng lại, Kratz nghĩ rằng quãng đường họ vừa đi chưa đầy hai cây số. Ông nghe tiếng cửa mở và cảm thấy bị xô đẩy vào cánh tay chứng tỏ ông phải ra khỏi xe. Ông bị đẩy lên ba bậc thềm đá trước khi bước vào một toà nhà và đi dọc theo một hành lang dài. Tiếng bước chân của ông vang dội trên sàn gỗ. Rồi ông được dẫn vào một phòng bên trái, nơi đây ông bị đẩy xuống trên một chiếc ghế, bị trói bằng dây thừng và bịt miệng. Giày và vớ ông được cởi ra. Khi ông nghe tiếng cửa đóng, ông cảm thấy chỉ còn lại một mình.

Một thời gian dài trôi qua - anh không rõ là bao lâu - trước khi cửa lại mở. Giọng nói đầu tiên anh nghe được là của Đại tướng Hamil.

- Gỡ tấm vải bịt miệng ra, - Ông ta chỉ nói có thế.

Kratz có thể nghe tiếng ông ta bước quanh chiếc ghế, nhưng thoạt tiên viên Đại tướng không nói gì. Kratz bắt đầu tập trung tư tưởng. Ông biết viên thuốc có hiệu lực trong hai tiếng đồng hồ, không hơn, và ông tin chắc rằng đã bốn mươi hoặc bốn mươi lăm phút trôi qua, kể từ khi bọn họ lôi ông ra khỏi đại bản doanh của Đảng Baath.

- Đại tá Kratz, tôi đã chờ đợi một thời gian mới được cái đặc ân làm quen với ông. Tôi đã từ lâu khâm phục việc làm của ông. Ông đúng là một con người cầu toàn.

- Dẹp trò dơ dáy đó đi, - Kratz nói, - vì tôi không khâm phục ông hoặc việc làm của ông đâu.

Ông chờ đợi cái tát đầu tiên hoặc một quả đấm vào hàm, nhưng viên Đại tướng chỉ tiếp tục đi vòng quanh chiếc ghế.

- Ông sẽ không quá thất vọng, - viên Đại tướng nói - Tôi có cảm tưởng chắc chắn, sau tất cả những gì ông đã nghe về chúng tôi, rằng ông đã tưởng tối thiểu lúc này là điện giựt, có lẽ trấn nước theo kiểu Trung Quốc, thậm chí có thể tra tấn bằng trăn, nhưng tôi e rằng - không giống như Mossad đâu, Đại tá - khi đối phó với hạng người cao cấp như ông, đã từ lâu chúng tôi không dùng tới những phương pháp đơn sơ như thế. Chúng tôi nhận thấy chúng đã lỗi thời, một kiểu cách của quá khứ. Tệ hơn nữa, chúng không đem lại hiệu quả. Người Do thái các ông rất cứng cỏi và được huấn luyện kỹ càng. Các ông ít khi chịu nói, rất ít. Vì vậy chúng tôi phải áp dụng các phương pháp khoa học hơn để đạt được thông tin chúng tôi cần.

Nếu vẫn còn trong vòng một giờ, Kratz nghĩ, ông đã đánh giá nó vẫn còn hiệu lực.

- Chỉ cần chích một ống PPX, chúng tôi sẽ biết được mọi điều chúng tôi muốn biết, - viên Đại tướng nói tiếp, - và một khi chúng tôi có thông tin mà chúng tôi cần, chúng với chỉ việc giết ông. Như thế có hiệu quả hơn nhiều trong quá khứ, và với tất cả những lời kêu ca về môi trường hiện nay, như thế gọn gàng hơn nhiều. Dù sao đi nữa, tôi phải thú thực, tôi đã quên những phương pháp cũ. Vì vậy ông sẽ hiểu tại sao tôi không thể chống lại việc nhốt cô Kopec và giáo sư Bradley trong chiếc tủ sắt, đặc biệt vì họ đã không gặp nhau quá lâu.

Bàn tay của Kratz bị ép ra phía sau, sát vào tay ghế. Ông cảm thấy nhiều ngón tay đang tìm một mạch máu và khi cây kim đâm, ông nao núng. Ông bắt đầu đếm: một, hai, ba, bến, năm, sáu…

Ông sắp sửa khám phá ra có phải chăng một trong những nhà hoá học hàng đầu của châu Âu đã tìm được, như bà ta đã bảo, loại thuộc giải đối với thuốc nói thật mới nhất của Iraq, Mossad đã săn tìm nhà cung cấp ở Áo. Kỳ lạ thay, nhiều người vẫn nghĩ không còn có người Do thái ở Áo.

Ba mươi bày, ba mươi tám, ba mươi chín…

Loại thuốc này vẫn còn ở trong giai đoạn thứ nghiệm và cần được chứng minh trong những điều kiện không phải tại phòng thí nghiệm. Nếu một người có thể hoàn toàn kiểm soát được trí óc của mình trong khi có vẻ như đang bị thôi miên, thì họ biết loại thuốc giải của họ đã thành công, một phút, một phút một, một phút hai, một phút ba…

Cuộc thí nghiệm xảy đến khi họ chích mũi kim thứ hai ở bất cứ nơi nào. Rồi mánh khóe tỏ ra không có phản ứng gì, như không viên Đại tướng sẽ nhận thấy ngay tức khắc rằng lần chích ban đầu đã không có được hiệu quả cần thiết. Chương trình đào tạo cho "kinh nghiệm hiện thực" đặc biệt này không phổ biến cho toàn thể các điệp viên, và mặc dù Kratz đã trải qua cuộc thử nghiệm mỗi tháng một lần trong chín tháng vừa rồi, ta chỉ có một cơ hội duy nhất không phải tại phòng thí nghiệm để khám phá ra ta có qua được cuộc thử nghiệm hay không.

.… một phút ba mươi bảy, một phút ba mươi tám, một phút ba mươi chín…

Mũi tiêm cốt để có tác dụng sau hai phút, và mỗi điệp viên đều đã được dạy bảo trông đợi mũi thứ hai vào một lúc nào đó giữa hai và ba phút. Như vậy cần phải đếm.

.… một phút năm mươi sáu, một phút năm mươi bảy…

Bỗng nhiên mũi kim thọc vào và rút ra khỏi ngón cái trên bàn chân trái của ông. Kratz ngừng nghiến răng; ngay cả hơi thở của ông vẫn đều đặn. Ông đã thắng giải thưởng Pincushion của Do thái. Mossad vẫn thường châm chọc mọi thứ.

Chú thích:

(1) pincushion: tấm đệm nhỏ để ghim kim may.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,745
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


Và trong suốt thơi gian đó em thực sự nghĩ anh đã chết.

- Bọn anh không có cách nào cho em hay. - Scott nói.

- Dù sao, lúc này điều đó không còn quan trọng, Simon, - Hannah nói - Xin lỗi, chắc phải mất một thời gian ngắn em mới quen với cái tên "Scott". Có lẽ em không thể xoay trở được trong thời gian chúng ta bị bỏ rơi.

Scott tiếp tục ôm chặt nàng, cho tới khi Hannah nói:

- Em biết chắc là em phải cuồng loạn, hoặc tối thiểu phải khóc lên, nhưng không được. Có lẽ tất cả những việc đó sẽ đến sau.

- Hoặc không có gì hết, - Scott nói, không để cho nàng dang ra.

- Sao anh có thể nói như thế?

- Một trong những kế hoạch đề phòng khi bất trắc mà Kratz và anh đã nghĩ ra là nếu bất cứ ai trong chúng ta bị bắt và bị tra tấn trong lúc một người nào khác vẫn còn tự do, thì chúng ta phải cố chịu đựng trong một tiếng đồng hò trước khi cho họ biết trò bịa đặt.

Hannah biết chính xác Mossad ngụ ý gì với trò bịa đặt cho dù vào lần này nàng không biết các chi tiết.

- Mặc dù anh phải nhìn nhận đây là một kịch bản mà bọn các anh chưa hề nghĩ tới, - Scott nói - Đúng là hoàn toàn trái ngược. Bọn anh tưởng rằng nếu bọn anh có thể thuyết phục họ, bọn anh có một lý do khác để mang chiếc tủ sắt đến Baghdad, họ sẽ ngay lập tức sơ tán toà nhà và dọn sạch khu vực chung quanh.

- Và như thế sẽ đạt được những gì?

- Bọn anh hy vọng rằng với toà nhà trống, cho dù bọn anh có bị bắt, những nhân viên khác đã qua biên giới trước bọn anh một ngày có thể có trọn một giờ để lọt vào phòng Hội đồng và lấy bản Tuyên ngôn.

- Nhưng người Iraq sẽ mang tài liệu đó theo họ.

- Không cần thiết. Kế hoạch của bọn anh là bọn anh sẽ cho họ hay một cách chính xác chuyện gì sẽ xảy ra nếu chiếc tủ sắt được đóng lại bởi bất cứ một người nào khác anh. Bọn anh đã có cảm nghĩ điều đó sẽ gây hoảng sợ và rất có thể họ sẽ bỏ lại mọi thứ.

- Thế rồi Kratz đã rút phải cọng rơm ngắn?

- Phải. - Scott trầm tĩnh nói - Dù kế hoạch ban đầu của ông ấy giờ đây không tiến hành được, sau khi tôi đã ngu ngốc đến nỗi giao bản Tuyên ngôn cho Hamil thế là chúng ta sẽ phải tận dụng thời gian để thoát ra thay vì đã lấy lại được.

- Nhưng anh đâu có trao nó cho ai, - Hannah nói - Bản Tuyên ngôn vẫn còn ở trên bức tường của phòng Hội đồng.

- Anh e là không phải, - Scott nói. - Hamil đã có lý. Anh đã đổi hai bản Tuyên ngôn sau khi anh bắt đầu gây báo động. Thế là cuối cùng anh đã trả lại bản chính cho Hamil.

- Không, anh không trả lại, - Hannah nói. - Đó là anh tin tưởng anh đã đổi được bản chính. Thực ra anh đã đánh lừa Hamil mà anh không hay biết.

- Em nói gì vậy? - Scott hỏi.

- Tất cả là do em, - Hannah nói - Em đã tìm thấy cái ống giấy trong tủ sắt và đã hoán đổi hai bản tài liệu, nghĩ rằng em có thể ra khỏi toà nhà và sau đó gửi một bản tin để cho Kratz biết việc em đã làm. Chuyện rắc rối là anh và Đại tướng Hamil đã đến ngay lúc em sắp sửa rời khỏi. Thế rồi, khi anh tự nhốt mình trong phòng Hội đồng, anh lại để bản chính trở lên tường, và sau đó anh giao bản sao cho Hamil.

Scott lại ôm nàng vào lòng.

- Em đúng là một thiên tài - anh nói.

- Không dám đâu, - Hannah nói - Tốt hơn anh nên cho em biết điều bí mật mà anh đã sắp xếp cho kịch bàn đặc biệt này. Bắt đầu là chúng ta làm sao ra khỏi một chiếc tủ sắt đã được khoá lại?

- Đó là nét đặc trưng của nó. - Scott nói - Nó không được khoá lại. Nó đã được đặt chương trình sao cho chỉ có mình anh có thể mở ra hoặc đóng lại.

- Ai đã nghĩ ra cái trò đó?

- Một người Thuỵ Điển sẽ rất vui mừng thay thế chúng ta, nhưng anh ta đã bị giữ lại ở Kalmar. Điều đầu tiên anh phải làm là khám phá ra bức tường nào là cánh cửa.

- Việc đó dễ thôi, - Hannah nói - Nó đối diện với em bởi vì em đang ngồi phía dưới bức hình của Saddam, anh nhớ chứ.

Scott và Hannah bắt đầu bò một quãng ngắn bằng tay và đầu gối tới phía bên kia của chiếc tủ sắt.

- Bây giờ chúng ta đi qua bên góc phải, - anh nói, - để cho khi chúng ta đẩy, cửa sẽ dễ mở hơn.

Hannah gật đầu, rồi sực nhớ họ không trông thấy nhau, liền nói:

- Vâng.

Scott xem mặt số phát quang của đồng hồ:

- Nhưng chưa được đâu, - anh nói - Chúng ta phải cho Kratz thêm một chút thời gian.

- Đã đủ thời gian để cho em biết trò bịa đặt là gì chưa? - Hannah hỏi.

***

- Tốt, - viên Đại tướng nói khi Kratz không phản ứng lại mũi kim đã chích vào ngón chân cái.

- Bây giờ chúng tôi có thể tìm hiểu tất cả những gì chúng tôi cần. Nhưng để bắt đầu, chỉ có những câu hỏi đơn giản thôi. Cấp bậc của ông trong Mossad?

- Đại tá, - Kratz nói.

Bí quyết chỉ cho họ biết những điều mà ta cảm thấy chắc chắn họ đã biết.

- Số hiệu của ông?

- 78216, ông nói.

Nếu không chắc, giả sử họ giết, ta sẽ bị lật tẩy.

- Và chức vụ chính thức của ông?

- Uỷ viên Hội đồng Văn hoá thuộc Cung điện Hoàng gia Anh ở London.

Ta được phép nói dối ba lần, bịa đặt một lần, không được nhiều hơn.

- Tên ba người đồng nghiệp của ông cùng tham gia với ông trong nhiệm vụ này là gì?

- Giáo sư Bradley, một chuyên gia các loại văn tự cổ - Điều nói dối đầu tiên. - Ben Cohen, và Aziz Zeebari, - điều nói thật.

- Còn cô gái, Hannah Kopec, cấp bậc của cô ta trong Mossad là gì?

- Cô ta vẫn còn là một học viên.

- Cô ta đã làm việc cho Mossad bao lâu?

- Chỉ mới trên hai năm.

- Và vai trò của cô ta?

- Được đưa vào Baghdad để khám phá ra bản tuyên ngôn Độc lập đặt tại đâu? - Điều nói dối thứ hai.

- Ông hành động giỏi đấy, ông Đại tá, - viên Đại tướng vừa nói vừa nhìn vào cái ống giấy dài nhỏ mà ông ta đang cầm trong bàn tay phải.

- Và có phải đây là trách nhiệm toàn bộ của ông với tư cách sĩ quan chỉ huy của cô ta?

- Không phải, Tôi chỉ hộ tống chiếc tủ sắt từ Kalmar. - điều nói dối thứ ba.

- Nhưng chắc chắn đó chỉ là một viện cớ để xác định vị trí của bản Tuyên ngôn Độc lập.

Kratz chợt do dự. Các chuyên gia vẫn còn có thể chứng tỏ rằng ngay trong lúc đang chịu ảnh hưởng của một thứ thuốc nói thật, một điệp viên đã được huấn luyện kỹ vẫn sẽ do dự khi được hỏi về một sự bí mật mà anh ta chưa bao giờ tiết lộ trong quá khứ.

- Mục đích thực sự của ông về việc ông mang chiếc tủ sắt đến Baghdad là gì, ông Đại tá?

Kratz vẫn im lặng.

- Đại tá Kratz, - viên Đại tướng nói, cất cao giọng theo từng từ một, - Lý do thực về việc ông mang chiếc tủ sắt đến Baghdad là gì?

Kratz đếm tới ba trước khi ông nói:

- Để làm nổ tung đại bản doanh của Đảng Baath bằng một thiết bị hạt nhân cất giấu trong chiếc tủ sắt, với hy vọng giết chết Tổng thống cùng tất cả các thành viên của Hội đồng Lãnh đạo Cách mạng. - Điều bịa đặt.

Kratz hết sức ước ao có thể trông thấy gương mặt của viên Đại tướng. Bây giờ thì chính Hamil do dự.

- Quả bom được cho nổ bằng cách nào?

Một lần nữa, Kratz không trả lời.

- Tôi sẽ cho ông một lần nữa, ông Đại tá. - Qua bom được cho nổ bằng cách nào?

Kratz văn không nói gì.

- Khi nào nó nổ? - viên Đại tướng la lớn.

- Hai giờ sau khi chiếc tủ sắt được đóng lại bởi bất cứ ai khác hơn ông giáo sư.

Viên đại tướng liền xem đồng hồ tay, phóng tới chiếc máy điện thoại độc nhất trong phòng và lớn tiếng đòi nối đường dây với Tổng thống ngay lập tức. Ông ta đợi cho đến khi nghe giọng của Saddam. Ông ta không nhận thấy Kratz đã bất tỉnh và té nhào từ ghế xuống sàn.

***

Scott thư giãn trong góc trước khi xem các chấm nhỏ phát quang trên chiếc đồng hồ của anh một lần nữa.

Lúc này là 5 giờ 19. Anh và Hannah đã ở trong chiếc tủ sắt đúng một giờ mười bảy phút.

- Bây giờ anh sẽ đẩy. Nếu em nghe thấy gì, em hãy xô mạnh càng tốt. Nếu vẫn còn một người nào ở ngoài để hy vọng duy nhất của chúng ta bất ngờ chộp được họ.

Scott bắt đầu sử dụng sức ép tối thiểu lên góc cửa với các đầu ngón tay, và cánh cửa mở hé ra độ hai phần. Anh liền dừng lại và lắng tai, nhưng không thể nghe thấy gì.

Anh nhìn qua khe hở và không thể trông thấy một ai. Anh đẩy thêm vài phân nữa. Vẫn không có một tiếng động. Lúc này cả hai người đã nhìn thấy rõ hành lang. Scott liếc sang Hannah và gật đầu, rồi họ cùng nhau ráng hết sức xô mạnh. Cả tấn thép mở bật ra. Hai người nháy ra hành lang, nhưng không có bóng dáng một ai. Chỉ có một sự im lặng đáng sợ.

Scott và Hannah bước chầm chậm dọc theo hành lang ngắn, luôn luôn sát hai bên cho tới họ đến phòng Hội đồng.

Vẫn không có một tiếng động. Scott đặt một chân vào trong phòng Hội đồng và liếc sang bên trái. Bán Tuyên ngôn Độc lập vẫn còn treo trên tường, bên cạnh bức hình của Saddam.

Hannah di chuyển về phía xa của phòng và kiểm tra hành lang. đoạn nàng ngoảnh lại nhìn Scott và gật đầu.

Scott xem lại lỗi chính tả của chữ "Brittish" trước khi thầm hát bài ca ngợi Chúa. Anh nhổ ba cây đinh và cho bản Tuyên ngôn lọt qua đầu cây đinh còn lại ở góc trên cùng bên phải, cố quên rằng anh đã nhổ nước bọt lên một vật báu quốc gia. Anh nhìn Saddam một lần cuối trước khi cuộn tấm giấy da lại và ra gặp Hannah ngoài hành lang.

Hannah lướt nhẹ theo tường, rồi chỉ tay về phía thang máy. Nàng kéo một ngón tay qua cuống họng để ra dấu cho Scott biết nàng muốn tránh dùng thang máy và sẽ theo cầu thang phía sau. Anh gật đầu đồng ý và theo nàng ra khỏi cửa hông.

Họ di chuyển một cách nhanh nhẹn nhưng im lặng lên sáu dãy cầu thang cho tới khi họ đến tầng trệt. Hannah vẫy tay ra hiệu cho Scott vào căn phòng phụ, nơi các công nhân vệ sinh đã đến lấy các thùng dụng cụ. Nàng đã đến khung cửa sổ ở phía xa của các căn phòng và quỳ gối trước cả khi Scott đóng cửa. Anh tới gặp nàng và họ chăm chú nhìn ra Quảng trường Chiến thắng. Tất cả mọi phía đều không có bóng dáng một ai.

- Cầu xin Chúa ban phước cho Kratz, - Scott nói.

Hannah gật đầu và ra hiệu cho anh lại đi theo nàng.

Nàng dẫn anh trở ra hành lang và nhanh nhẹn đưa anh tới cửa hông. Scott mở cửa thăm dò và lướt nhẹ ra phía trước nàng. Một lát sau nàng theo kịp anh trên khoảng đất trải nhựa.

Anh chỉ tay về phía một nhóm cây cọ ở giữa sân, và nàng gật đầu một lần nữa. Họ vượt qua đoạn đường hai chục mét tới nơi tương đối an toàn chưa đầy ba giây. Scott quay lại nhìn toà nhà và chợt trông thấy chiếc xe tải đậu sát vào tường. Anh phỏng đoán rằng, trong cơn hoảng sợ, đó chỉ là một vật khác đã bị bỏ rơi.

Anh vỗ nhẹ lên vai Hannah và nói vắn tắt rằng anh muốn trở lại toà nhà. Họ vượt qua khoảng sân với cùng tốc độ như ban nãy, lẻn trở vào bên trong cửa. Scott dẫn Hannah tới hành lang chính, tại đây họ nhận thấy cửa trước đang lắc lư trên bán lề. Anh nhìn qua khe cửa và chỉ tay về phía xe tải, ra dấu về phía anh sẽ đi và chạm nhẹ lên vai nàng. Một lần nữa, họ chạy nhanh qua khoảng đất rải nhựa.

Scott nhảy lên phía sau tay lái trong lúc Hannah leo lên phía bên kia.

- Đâu rồi… - đó là phản ứng đầu tiên của Scott khi anh phát hiện ra chìa khoá công tắc không ở trong ổ khoá. Họ bắt đầu cuống cuồng lục soát hộc đựng đồ, dưới chỗ ngồi trên bảng điều khiển.

- Bọn chó đẻ chắc đã lấy chìa khoá theo.

- Simon, nhìn kìa! - Hannah gào lên.

Scott liền quay ra và trông thấy một dáng người đang nhảy lên trên bục xe.

Hannah nhanh nhẹn chuyển động vào vị trí tấn công kẻ xâm nhập, nhưng Scott ngăn chặn nàng.

- Xin chào cô, - người lạ nói - Cho tôi xin lỗi vì chúng ta đã không giới thiệu một cách đàng hoàng.

Rồi anh ta quay sang Scott.

- Ông giáo sư, - anh ta vừa nói vừa cắm chìa khoá vào ổ công tắc, - nếu ông nhớ lại, mọi người đã đồng ý đề tôi làm công việc lái xe.

- Anh làm cái quái gì ở đây thế, trung sĩ? - Scott hỏi.

- Bây giờ tôi mới biết kiểu chảo đón thực sự của một người Mỹ, - Cohen trả lời. - Nhưng để trả lời câu hỏi của ông, tôi chỉ đang chấp hành mệnh lệnh. Tôi đã được căn dặn nếu ông ra khỏi cánh cửa đó mang theo một cái ống giấy, thì tôi phải tìm cách trở lại đây và thoát khói nơi này, nhưng trong mọi tình huống không được để cho ông quẹo tới Bộ Ngoại giao. À, cái ống đâu rồi?

- Nhìn kìa! Hannah lại la lớn trong lúc nàng quay ra và chợt trông thấy một người A rập chạy như đang rượt đuổi ai về phía họ từ phía bên kia.

- Tên đó sẽ không làm hại cô đâu, - Cohen nói - hoàn toàn vô dụng, thậm chí không biết sự khác biệt giữa một lon Diet Coke và một lon Pepsi.

Aziz chợt nhảy lên bậc thang và nói với Scott:

- Ông giáo sư, tôi nghĩ chúng ta còn khoảng hai mươi phút nữa, trước khi bọn họ hiểu ra rằng không có một quà bom nào trong chiếc tủ sắt.

- Thế thì chúng ta hãy thoát ra khỏi đây, - Scott nói.

- Nhưng đi đâu? - Hannah hỏi.

- Aziz và tôi đã thực hiện một cuộc trinh sát. Ngay lúc tiếng còi vang lên, chúng tôi đã biết rằng Kratz đã nói với bọn họ điều bịa đặt, bởi vì họ không thể bỏ chạy một cách mất tinh thần đến thế. Quân nhân và cảnh sát hình như đã tẩu thoát trước ra khỏi đây. Aziz và tôi đã chạy một vòng ở trung tâm thành phố trong giờ vừa qua. Quả thật người duy nhất chúng tôi đã đụng đầu chính là một nhân viên của chúng tôi, Dave Feldman. Anh ta đã tìm ra con đường tốt nhất để cho chúng ta một khả năng tránh được bọn quân nhân.

- Tốt lắm, Cohen, - Scott nói.

Cohen bỗng quay lại và nhìn chầm chằm vào vị giáo sư:

- Tôi làm việc đó không phải vì ông, mà vì Kratz. Ông ấy đã đưa tôi ra khỏi tù một lần nữa, và ông ấy là vị sĩ quan duy nhất đã đối xử với tôi như với một con người. Vì vậy, bất kỳ ông giáo sư đang cầm gì trong tay, chắc là nó giá trị hơn tính mạng của ông ấy rất nhiều.

- Hàng nghìn người đã hy sinh tính mạng của mình cho nó trong nhiều năm qua, - Scott trầm tĩnh nói. - Nó là bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ.

Lạy Chúa, - Cohen nói - Làm sao bọn chó đẻ chiếm đoạt được?

Anh ta ngừng một lát rồi hỏi tiếp:

- Tôi có nên tin ông không?

Scott liền gật đầu và trải tấm giấy da ra. Cohen và Aziz sững sờ nhìn trong nhiều giây.

- Ngay sau đây, chúng tôi nên đưa ông về, phải không ông giáo sư? - Cohen nói - Aziz sẽ dẫn đường trong lúc chúng ta ở trong vùng này.

Anh ta nhảy ra khỏi buồng lái và anh chàng người Kurd chạy quanh để ngồi vào sau tay lái. Ngay sau khi Cohen đã leo qua tấm bửng, anh ta đấm vào mui và Aziz nổ máy.

Họ tăng tốc quanh sân, lái thẳng qua hàng rào và ra Quảng trường Chiến thắng. Những chiếc xe duy nhất còn được trông thấy đã bị bỏ lại từ lâu, và không có bóng dáng một ai trên các đường phố.

- Khu vực này đã được sơ tán trong vòng năm cây số theo mỗi hướng, vì thế một lúc sau chúng ta mới qua nơi có người, - Aziz nói trong lúc anh ta quẹo trái vào đường Kindi.

Anh ta phóng nhanh chiếc xe tải tới gần một trăm cây số giờ, một tốc độ mà trước đây chỉ có Saddam mới trải qua trên con đường đặc biệt này.

- Tôi sẽ theo đường Baquba ra khỏi thành phố, chạy qua những khu vực gần như không có dấu vết quân sự, - Aziz giải thích trong lúc anh đi qua vòi nước đã được Ali Baba làm cho nổi tiếng. - Tôi vẫn còn hy vọng đến được xa lộ ra khỏi Baghdad trong vòng hai tiếng đồng hồ tuyệt diệu.

Aziz bất thần quẹo phải, đổi số nhưng hầu như không giảm tốc độ, trong lúc anh tiếp tục chạy qua nơi có vẻ như một thành phố ma. Scott nhìn lên mặt trời trong lúc họ qua một cây cầu tên sông Tigris; trong khoáng một tiếng đồng hồ nó biến mất phía sau những toà nhà cao nhất, và họ càng có hy vọng không bị phát hiện.

Aziz quẹo qua trường đại học Karmel Junlat rồi vào đường Jamila. Vẫn không có người trên lòng đường hoặc lề đường, và Scott có cảm tưởng rằng nếu lúc này có ai trông thấy họ, người ta sẽ phỏng đoán họ thuộc một đội quân đang đi tuần.

Chính Hannah đã phát hiện người đấu tiên; một ông già khòm lưng đang ngồi trên bờ lề đường tựa hồ như không có chuyện gì đặc biệt đã xảy ra. Họ chạy xe qua ông ta với tốc độ một trăm cây số giờ, thế mà ông ta vẫn không ngẩng nhìn lên.

Aziz quẹo vào đường kế tiếp và chạm trán với một nhóm cướp trẻ đang mang theo những máy truyền hình và thiết bị điện tử. Bọn chúng tản ra khi trông thấy chiếc xe tải. Qua góc đường kế tiếp lại có bọn cướp khác, nhưng vẫn không thấy bóng dáng cảnh sát hoặc quân nhân.

Khi Aziz phát hiện bằng người mặc đống phục xanh đen đầu tiên, anh ta bẻ ngoặt ngay sang bên phải theo một đường phụ mà vào bất cứ ngày thứ tư nào khác sẽ đầy những người mua sắm và một chiếc xe hơi may mắn lắm cũng chỉ có thể chạy qua với một tốc độ bảy tám cây số giờ.

Nhưng hôm nay, Aziz cố giữ tốc độ tên tám mươi. Anh ta lại quẹo phải, và họ đã trông thấy một vài người dân địa phương đầu tiên liều mạng quay trở về. Ngay sau khi họ đến cuối đường, Aziz có thể chạy vào con đường phố lớn ra khỏi Baghdad. Xe cộ lưu thông vẫn còn thưa thớt.

Aziz thận trọng cho xe ra làn đường bên ngoài, chốc lát lại xem kính chiếu hậu và cố giữ tốc độ giới hạn tám mươi cây số giờ. "Đừng bao giờ để bị chùn lại vì các lý do sai trái", Kratz đã cảnh giác anh ta cả nghìn lần.

Khi Aziz bật đèn trước, những hy vọng của Scott bắt đầu dấy lên. Mặc dù hai tiếng đồng hồ đã trôi qua, anh nghĩ rằng vẫn chưa có ai truy tìm họ, và cũng hết sức dễ hiểu rằng càng ra xa Baghdad, người dân càng ít trung thành với Saddam.

Ngay sau khi Aziz bỏ lại sau lưng bảng hiệu ranh giới của Baghdad, anh ta đẩy tốc độ lên chín mươi lăm.

- Xin thánh Allah hãy cho con hai mươi phút nữa, - anh ta nói - Hãy cho con hai mươi phút nữa và con sẽ đưa họ đến Castle Post.

- Castle Post? - Scott nói. - Chúng ta đâu phải đang làm nhiệm vụ trinh sát của dân Da Đỏ.

Aziz bật cười.

- Không đâu. Ông giáo sư. Đó là một cái đồn của quân đội Anh trong Thế chiến thứ I. Tại đó chúng ta có thể trốn tránh qua đêm. Nếu tôi có thể đến đó trước…

Cả ba người chợt phát hiện chiếc quân xa đầu tiên hướng về phía họ. Aziz liền ngoặt sang bên trái, chạy vào một đường phụ, và lập tức phải giảm tốc độ.

- Thế thì bây giờ chúng ta chạy đi đâu? - Scott hỏi.

- Khan Beng Saad, - Aziz nói, - làng nơi tôi sinh ra. Chúng ta chỉ có thể ở lại đó một đêm, nhưng sẽ không có ai nghĩ đến việc tìm chúng ta ở đấy. Ngày mai ông giáo sư phải quyết định chúng ta sẽ vượt qua biên giới nào trong số sáu biên giới(1).

***

Đại tướng Hamil đã đi tới đi lui quanh văn phòng của ông ta suốt tiếng đồng hồ vừa qua. Hai tiếng đồng hồ đã trôi qua dài dằng dặc, và ông ta đang bắt đầu tự hỏi Kratz có thể thắng thế hay không. Nhưng ông ta không thể hiểu như thế nào.

Thậm chí ông ta đang bắt đầu hối tiếc vì đã giết chết người đàn ông đó. Nếu Kratz vẫn còn sống, tối thiểu ông ta có thể sử dụng phương pháp tra tấn đáng tin cậy. Giờ đây Kratz sẽ không bao giờ biết ông ta đã hưởng ứng kỹ thuật cạo đầu đặc biệt như thế nào.

Hamil đã ra lệnh cho một viên trung uý tân binh vào trung đội của anh ta trở xuống tầng hầm của đại bản doanh Đaeng Baath. Viên trung uý đã trở lại ngay sau đó và báo cáo rằng cửa tủ sắt mở toang và chiếc xe tải đã biến mất, cũng như bản tài liệu treo trên tường. Viên Đại tướng mỉm cười ông ta vẫn tin tưởng rằng mình đang giữ bản Tuyên ngôn gốc, nhưng ông ta rút tấm giấy da ra khỏi cái ống và đặt lên bàn để kiểm ta lại. Khi ông ta xem tới từ "British", mặt ông ta thoạt tiên tái mét, rồi dần dần đỏ bừng.

Ông ta ngay lập tức ra lệnh huỷ bỏ toàn bộ việc nghỉ phép của quân nhân, rồi điều động năm sư đoàn Vệ binh ưu tú để tổ chức một cuộc truy nã những kẻ khủng bố. Nhưng ông ta không có cách nào biết được bọn họ đã xuất phát trước ông ta bao lâu, họ đã có thể đi được bao xa, và theo hướng nào.

Tuy nhiên, ông ta đã biết chắc rằng bọn họ không thể cứ theo các con đường cái trong chiếc xe tải đó mà không bị phát hiện. Khi trời tối, có thể họ sẽ rút vào sa mạc để nghỉ qua đêm. Nhưng họ sẽ phải ra khỏi sáng hôm sau, khi họ phải cố gắng vượt qua một trong sáu biên giới. Viên Đại tướng đã ban bố một mệnh lệnh rằng cho dù một tên trong bọn khủng bố thoát qua khỏi bất cứ biên giới nào, các nhân viên hải quan ở tất cả các trạm sẽ bị bắt và tống vào nhà giam, bất kể họ đang ở phiên trực hay không. Hai quân nhân có nhiệm vụ đóng chiếc tủ sắt đã bị xử bắn vì tội không thi hành mệnh lệnh của ông ta, và viên thiếu tá được phân công giám sát việc di chuyển chiếc tủ sắt đã bị bắt ngay lập tức. Tối thiểu quyết định tự kết liễu tính mạng của thiếu tá Saeed đã giúp Hamil thoát khói một toà án quân sự: trong vòng một tiếng đồng hồ, viên thiếu tá đã được phát hiện treo cổ trong phòng giam. Rõ ràng việc bỏ lại một cuộn dây thừng ở giữa sàn bên dưới một cái móc ở trên trần đã tỏ ra là một sự gợi ý đủ thuyết phục. Riêng về hai anh chàng sinh viên y khoa đã phụ trách việc tiêm thuốc và đã chứng kiến cuộc trò chuyện của ông ta với Kratz, họ đã lên đường đến biên giới phía nam để thi hành nghĩa vụ quân sự trong một trung đoàn không lấy gì làm ưu tú. Họ đúng là những chàng trai có vẻ dễ mến, viên Đại tướng nghĩ, ông ta cho họ một tuần lễ là tối đa.

Hamil nhấc máy điện thoại lên và quay một số riêng giúp ông ta liên lạc với dinh Tổng thống. Ông ta cần chắc chắn rằng ông ta là người đầu tiên giải thích cho Tổng thống sự việc đã xảy ra chiều hôm nay.

Chú thích:

(1) Iraq ở giữa sáu quốc gia Trung Đông: Thổ Nhì Kỳ (Băc), Iran (Đông), Kuwait (Nam), Saudi Arabia (Tây Nam), Jordan (Tây) và Syria (Tây Bắc).
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,745
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33


Scott vẫn luôn luôn xem các người đồng hành của anh là một dân tộc hiếu khách, nhưng anh chưa bao giờ chứng kiến một sự đón tiếp như của gia đình Aziz đối với ba người khách lạ.

Khan Beng Saad, làng mà Aziz đã chào đời, như lời anh ta nói, chỉ trên 250 cư dân theo lần tổng kết sau cùng, và chỉ tồn tại nhờ thu nhập từ việc bán cam, quýt và chà là với số lượng nhỏ cho các bà nội trợ của Kirkurk và Arbil.

Vị trưởng bộ tộc, hoá ra là một người chú của Aziz, lập tức mở cửa ngôi nhà đá nhỏ bé của ông cho họ vào để cho họ có thể sử dụng phòng tắm duy nhất trong làng. Những người phụ nữ trong nhà - dường như khá nhiều - liên tục nấu nước cho tới khi tất cả người khách đều sạch bóng.

Cuối cùng khi ra khỏi ngôi nhà của vị tộc trưởng, anh thấy một chiếc bàn đã được đặt phía dưới một bụi chanh trong đồng bằng Huwaider. Nó chất đầy cá lạ, thịt, trái cây và rau quả. Anh e chắc chắn họ đã gom góp lại từ mọi nhà trong làng.

Trong một đêm sáng trăng, họ ăn ngấu nghiến thức ăn tươi và uống nước suối mà nếu đóng chai một người California sẽ vui lòng trả một đống tiền.

Nhưng tư tưởng của Scott vẫn liên tục trở về với sự việc ngày mai họ sẽ phải rời khỏi môi trường bình dị này, và anh sẽ phải bằng một cách nào đó đưa tất cả bọn họ qua một trong sáu biên giới.

Sau khi cà phê được dọn ra trong nhiều tách và ca có kích cỡ khác nhau, vị tộc trưởng đứng lên khỏi chỗ ngồi ở đầu bàn để bày tỏ mấy lời chào mừng và Aziz thông dịch.

Sau đó anh đáp lại mấy lời và Aziz lại thông dịch lời nói của anh.

- Đó là điểm duy nhất họ giống chúng ta, - Hannah vừa nói vừa nắm bàn tay của Scott. - Họ rất thích sự vắn tắt.

Vị tộc trưởng chấm dứt buổi tối với một đề nghị mà Scott rất cám ơn nhưng cảm thấy không thế chấp thuận.

Ông muốn ra lệnh tất cả gia đình ông ra khỏi ngôi nhà nhỏ để các vị khách của ông có thể ngủ bên trong.

Scott cứ từ chối mãi cho đến khi Aziz giải thích:

- Ông phải chấp thuận, nếu không tức là coi thường ngôi nhà của ông ấy bằng cách nghĩ nó không đủ tiện nghi cho ông nghỉ ngơi trong đó. Và nhân đây, tôi xin nói thêm lời khen ngợi tốt đẹp nhất mà ông muốn tặng cho một người A rập là khiến cho vợ ông mang thai trong lúc ngủ dưới mái nhà đó.

Nói đoạn, Aziz khẽ nhún vai.

Scott nằm thao thức gần trọn đêm, nhìn qua khung cửa sổ không kính, trong lúc Hannah hầu như không cựa quậy trong vòng tay của anh. Sau khi đã cố hết sức tặng cho vị tộc trưởng lời khen ngợi tốt đẹp nhất, tâm trí Scott trở lại với vấn đế đưa toàn đội vượt qua một trong các biên giới đồng thời đảm bảo bản Tuyên ngôn Độc lập an toàn trở về Washington.

Khi tia nắng đầu tiên bò qua tấm chăn phủ trên giường của họ, Scott buông Hannah ra và hôn lên trán nàng. Anh luồn người khỏi chăn để nhận thấy chậu rửa mặt bằng thiếc đã đầy nước ấm và những người phụ nữ đã bắt đầu nấu thêm nước trên bếp lửa.

Sau khi Scott mặc xong áo quấn, anh bỏ ra một tiếng đồng hồ nghiên cứu nhiều tấm bản đồ của Iraq, tìm tòi những con đường có thể đi qua sáu biên giới. Anh nhanh chóng loại bỏ Syria và Iran, bởi vì các đạo quân của cả hai nước này đang đóng đóng đầy ở biên giới với Irag. Anh cũng cảm thấy rằng trở về qua biên giới Jordan sẽ vừa xa lại vừa quá mạo hiểm. Lúc Hannah đã đến bên anh, anh cũng loại bỏ Saudi Arabia vì nơi này được canh phòng quá cẩn mật, và giờ đây chỉ còn lại năm con đường và hai biên giới. Trong lúc những người chủ nhà chuẩn bị bữa điểm tâm, Scott và Hannah thong thả đi vào làng tay nắm tay như bao cặp tình nhân khác trong một buổi sáng mùa hạ.

Những người dân địa phương mỉm cười, và một vài người cúi chào. Mặc dù không một ai có thể trò chuyện với họ tất cả mọi người đã nói với nhau một cách hùng biện qua những đôi mắt hiểu biết lẫn nhau.

Khi đã đến cuối làng, họ quay lại và thả bộ lên con đường mòn hướng về ngôi nhà của vị tộc trưởng. Cohen đang chiên trứng trên một bếp lửa và Hannah dừng chân để quan sát những người phụ nữ nướng những miếng bánh mì mỏng tròn bao phủ mật ong, cứ như đang chuẩn bị một bữa tiệc lớn. Vị tộc trưởng, một lần nữa ngồi vào đầu bàn, ra hiệu cho Scott ngồi xuống bên cạnh ông. Cohen đã ngồi lên một chiếc ghế đẩu và sắp sửa bắt đầu bữa điểm tâm khi một con dê bước vào và lôi mấy quả trứng ra khỏi đĩa.

Hannah bật cười và đập một quả trứng khác cho Cohen trước khi anh ta kịp phát biểu ý kiến.

Scott trải mật ong trên một miếng bánh mì nóng, và một người phụ nữ đặt một ca sữa trước mặt anh.

- Ông giáo sư đã nghĩ ra những gì chúng ta sắp làm rồi chứ? - Cohen hỏi trong lúc Hannah thả một quả trứng chiên thứ hai trên đĩa anh ta.

Chỉ bằng một câu, anh ta đã đưa tất cả mọi người trở lại thực tế.

Một dân làng tiến tới bàn, quỳ xuống bên cạnh vị tộc trưởng và thì thầm vào tai ông. Bản tin được chuyển sang Aziz.

- Tin xấu, - Aziz nói với họ. - Có nhiều quân nhân đang chặn tất cả các con đường trở ra xa lộ chính.

- Thế thì chúng ta sẽ phải đi qua sa mạc, - Scott nói.

Anh lần trái tấm bản đồ ra trên mặt bàn. Nhiều con đường đã được tô đậm bởi mười hai làn bút nỉ màu xanh. Anh chỉ vào một lối mòn dẫn đến một con đường có thể đưa họ tới thành phố Khalis.

- Đó không phải là một con đường mòn, - Aziz nói. Xưa kia đó là một con sông nhưng đã khô cạn từ nhiều năm nay. Chúng ta có thể đi bộ dọc theo đó, nhưng chúng ta sẽ phải bỏ chiếc xe tải lại.

- Bỏ chiếc xe tải lại vẫn chưa đủ. - Scott nói - Chúng ta sẽ phải phá huỷ nó đi. Nếu đám quân nhân của Saddam phát hiện được nó, bọn chúng sẽ san bằng cả làng thành bình địa và tàn sát đồng bào của anh.

Vị tộc trưởng có vẻ hoang mang trong lúc Aziz thông dịch lại tất cả những lời Scott đã nói. Ông già vuốt chòm râu lởm chởm cứng như rơm trên cằm mà sáng hôm ấy ông chưa kịp cạo và mỉm cười; trong lúc Scott và Hannah lắng nghe ý kiến của ông, không thể hiểu nổi một từ.

- Chú tôi nói ông phải lấy chiếc xe của ông ấy, - Aziz thông dịch lại. - Nó đã cũ nhưng ông ấy hy vọng nó vẫn còn chạy tốt.

- Ông ấy quá tứ tế, - Scott nói. Nhưng nếu chúng ta không thể lái một chiếc xe tải băng qua sa mạc, thì làm sao chúng ta có thể đi bằng xe hơi?

- Ông ấy hiểu vấn đề của ông, - Aziz nói - Ông ấy bảo phải tháo chiếc xe của ông ấy ra từng mảnh và những dân làng sẽ mang tất cả băng qua hai mươi cây số sa mạc cho tới khi ông đến con đường dẫn tới Khalis. Rồi ông sẽ ráp lại như cũ.

- Chúng tôi không thể chấp thuận một hành vi như thế. - Scott nói. Ông ấy quá hào hiệp. Chúng ta sẽ đi bộ và tìm ra một phương tiện giao thông nào đó khi chúng ta đến Huwaider.

Anh chỉ vào hàng đầu tiên dọc theo con đường.

Aziz thông dịch lại một lần nữa: ông chú của anh ta có vẻ u buồn và khẽ nói mấy lời:

- Ông ấy bảo thật ra nó không phải là chiếc xe của ông ấy mà là của người anh trai. Bây giờ thì nó thuộc về tôi.

Lấn đầu tiên, Scott nhận thức được rằng cha của Aziz vốn là một vị thôn trưởng, và lý do tại sao ông chú của anh ta lại tha thiết cứu họ khỏi bị quân đội của Saddam bắt.

Nhưng cho dù chúng ta có thể tháo ra rồi lắp lại chiếc xe, còn có các đội quân tuần tra một khi chúng ta đến được con đường cái thì sao? - anh hỏi. - Lúc này hàng nghìn nhân viên của Hamil chắc chắc được điều động ra chỗ đó để tìm kiếm chúng ta.

- Nhưng không phải trên những con đường này đâu. - Aziz đáp lại - Quân đội sẽ bám chặt xa lộ. Họ nhận thức rằng hy vọng duy nhất của chúng ta là vượt qua biên giới.

- Không, vấn đề đầu tiên của chúng ta sẽ đến khi chúng ta tới được trạm kiểm tra bên lề đường ở Khalis.

Anh ta di chuyển ngón tay mấy phân qua tấm bản đồ và nói tiếp:

- Chắc chắn có tối thiểu hai quân nhân canh chừng ở đó.

Scott nghiên cứu các con đường một lấn nữa trong lúc Aziz lắng nghe ông cậu của anh ta.

- Và chúng ta có thể đến tận Tuz Khurmatso mà không cần phải sử dụng xa lộ hay không? - Scott hỏi, mắt vẫn không rời tấm bản đồ.

- Vâng, có một con đường dài hơn, xuyên qua những ngọn đồi mà quân đội sẽ không bao giờ nghĩ tới, bởi vì bọn chúng sẽ có nguy cơ bị tấn công bởi quân du kích Peshmerga hết sức gần biên giới với người Kurd. Nhưng một khi ông đã đi qua Tuz Khurmatso thì chỉ còn ba cây số nữa là tới xa lộ chính, mặc dù vẫn còn phải thêm bảy mươi cây số và không có cách nào khác hơn là vượt biên giới.

Scott ôm đầu trong hai bàn tay và không nói gì trong hồi lâu. Cuối cùng anh mới nói:

- Như vậy nếu chúng ta theo con đường đó, chúng ta sẽ buộc phải vượt biên giới ở Kirkuk, nơi đây cả hai bên đều có thể tỏ ra không mấy thân thiện.

Vị tộc trưởng bắt đầu gõ nhẹ ngón tay lên Kirkuk trên tấm bản đồ trong lúc nói chuyện một cách khẩn trưởng với anh cháu.

- Chú tôi bảo Kirkuk là cơ may tốt nhất của chúng ta. Hầu hết cư dân là người Kurd và họ thù ghét Saddam Hussein. Nghe nói có một số quân nhân Iraq cũng đã đào ngũ và trở thành du kích Peshmerga của người Kurd.

- Nhưng họ làm sao biết được chúng ta ở về phe nào? - Scott hỏi.

- Chú tôi sẽ gửi một bức thư cho quân Peshmerga, để cho khi ông đến biên giới họ sẽ làm mọi việc để có thể giúp ông vượt qua. Đó không phải là một biên giới chính thức, nhưng một khi ông đã ở trên đất của người Kurd, ông sẽ được an toàn.

- Người Kurd có vẻ là cứu cánh tốt nhất của chúng ta, - Hannah nói trong lúc vẫn chăm chú lắng nghe. - Nhất là nếu họ tin tưởng nhiệm vụ ban đầu của chúng ta là giết chết Saddam.

- Nghe có lý đấy, ông giáo sư, - Cohen nói - Tức là nếu chiếc xe có thể dùng được.

- Anh là thợ máy kia mà, Cohen. Như vậy anh có thể cho chúng tôi biết anh có thể làm được việc đó hay không.

Sau khi Aziz đã thông dịch lại lời nói của Scott, vị tộc trưởng đứng lên và dẫn họ ra phía sau nhà. Ông dừng lái bên cạnh một vật dài hình chữ nhật được bao phủ bởi một tấm vải đen. Ông và Aziz giở tấm vải lên. Scott không thể tin vào mắt mình.

- Một chiếc Caddy(1) màu hồng - anh thốt lên.

- Nói cho đúng, đó là một chiếc Seden de Ville đời 1956, - Cohen vừa nói vừa xoa tay với vẻ thích thú.

Anh ta mở cánh cửa dài, nặng và trèo lên phía sau tay lái rộng lớn. Anh ta kéo một cây cần bên dưới bảng điều khiển và capô bật lên. Anh ta bước ra, dở capô và xem xét kỹ máy xe trong mấy phút.

- Không tệ, - anh ta nói - Nếu tôi có thể chôm một ít chi tiết của chiếc xe tải tôi có thể cho ông một chiếc xe đua trong vòng hai tiếng đồng hồ.

Scott xem đồng hồ tay.

- Tôi chỉ có thể dành cho anh một tiếng đồng hồ, nếu chúng ta có hy vọng vượt biên giới đêm nay.

Scott và Hannah trở vào nhà và một lần nữa nghiên cứu tấm bản đồ. Con đường Aziz đã đề nghị dài khoảng hai mươi cây số, nhưng ngang qua một địa hình rất khó đi cho dù họ không mang theo bất cứ món gì.

- Phải mất nhiều tiếng đồng hồ, Scott nói.

- Nếu chúng ta không thể sử dụng xa lộ thì tính sao? - Hannah hỏi.

Trong lúc nàng và Scott tiếp tục xem xét con đường và Cohen xoay sở với chiếc xe hơi, Aziz tập hợp ba mươi người trong số đàn ông mạnh khỏe nhất làng. Quá một tiếng đồng hồ sau, Cohen xuất hiện trong nhà, hai bàn tay, cánh tay, mặt và tóc đầy dầu mỡ.

- Nó đã sẵn sàng được tháo ra, ông giáo sư.

- Anh làm tốt lắm, nhưng trước hết chúng ta phải giải quyết được chiếc xe tải, liệu có thể đem giấu nó đi ở đâu được không?

- Việc đó không thể được, ông giáo sư, - Cohen nói - Nhất là lúc này tôi đã lấy bớt một vài chi tiết đặc biệt của động cơ. Chiếc Cadillac sẽ có thể phóng nhanh trên một trăm sáu mươi cây số giờ ở số ba.

Vẻ kiêu hãnh hiện rõ trên gương mặt của anh ta.

Scott bật cười và cùng với Aziz đi tìm vị tộc trưởng.

Một lần nữa, anh giải thích vấn đề…

Lần này, gương mặt của vị tộc trưởng không hề có vẻ lo lắng. Aziz liền giải thích ý nghĩ của ông:

- Xin đừng sợ, ông bạn. Trong lúc ông bước được qua sa mạc, chúng tôi sẽ rã chiếc xe tải và chôn mỗi món một nơi mà bọn quân nhân của Saddam sẽ không bao giờ hy vọng khám phá trong một nghìn năm.

Scott vẫn có vẻ bất an, nhưng Aziz đã gật đầu đồng ý.

Không để cho Scott có thời giờ phát biểu ý kiến, vị tộc trưởng dẫn anh cháu ra phía sau nhà, nơi đây họ trông thấy Cohen đang giám sát việc rã chiếc Cadillac và phân phát các bộ phận cho ba mươi người đã được lựa chọn.

- Bốn người sẽ mang động cơ trên một chiếc băng ca tạm thời, và sáu người khác sẽ vác thân xe mạ kền trên vai như những người hội tang. Bốn người nữa mang một bánh xe kể cả các vỏ viền trắng, trong lúc bốn người khác vận chuyển sườn xe. Hai người phụ trách ghế trước bọc da đỏ và trắng, hai người khác phụ trách ghế sau, và một người phụ trách bảng điều khiển. Cohen tiếp tục phân phát những bộ phận còn lại của chiếc Cadillac cho đến khi anh ta đến cuối hàng người, nơi đây ba em bé có vẻ không lớn hơn mươi hoặc mười một tuổi được giao trách nhiệm về hai thùng xăng loại hai mươi lít và một túi dụng cụ. Chỉ còn lại mui xe.

Ông chú của Aziz dẫn mọi người tới ngôi nhà cuối cùng và bắt đầu từ nơi đó họ sẽ bắt đầu cuộc hành trình về phía chân trời.

Scott bắt tay vị tộc trưởng, nhưng không sao tìm được lời thích đáng để cám ơn ông.

- Xin ông hãy gọi điện thoại cho tôi sau khi ông đã tới New Haven(2) - đó là lời ông đã nói với một người bạn Mỹ.

- Tôi sẽ trở lại lúc thuận tiện hơn, - anh nói với ông già và Aziz dịch lại.

- Dân tộc tôi chờ đợi ngày hôm ấy.

Scott quay sang quan sát Cohen tay cầm la bàn dẫn trung đội bất đắc dĩ của anh ta có vẻ như đang bắt đầu một cuộc hành trình vô tận. Anh lấy một thùng xăng khỏi tay cậu bé nhỏ nhất trong đám, và chỉ trở về phía làng, nhưng cậu bé lắc đầu và nhanh nhẹn vồ lấy cái túi bằng vải bạt của Scott.

Biết bao giờ lịch sử mới tiết lộ cách vận chuyển bản Tuyên ngôn Độc lập đặc biệt như thế này. Scott tự hỏi trong lúc Cohen la lớn:

- Tiến lên!

***

Đại tướng Hamil tiếp tục bước quanh văn phòng trong lúc ông ta chờ tiếng chuông điện thoại.

Khi Saddam đã hay biết tin tức về việc thiếu tá Saeed kém năng lực đã để cho bọn khủng bố tẩu thoát cùng với bản Tuyên ngôn, ông chỉ tức giận vì mình đã không đích thân chấm dứt tính mạng của viên thiếu tá.

Mệnh lệnh duy nhất ông đã ban cho viên Đại tướng là một bản tin phải được loan báo trên các đài phát thanh và truyền hình quốc gia từng giờ một, cho mọi người biết rằng đã có một âm mưu sát hại ông vừa bị thất bại, nhưng bọn khủng bố Do thái vẫn còn tại đào. Nhiều bản mô tả của bọn được xem là sát nhân đã được công bố và ông yêu cầu nhân dân yêu mến hãy giúp ông trong việc săn lùng bọn ngoại đạo.

Nếu vấn đề ít khẩn cấp hơn, viên Đại tướng chắc hẳn đã đề nghị không loan báo thông tin đó, trên những vùng mà hầu hết dân chúng có thể giúp đỡ bọn khủng bố đi qua hoặc tối thiểu là nhắm mắt làm ngơ. Lời khuyên duy nhất mà ông ta đã nói với nhà lãnh tụ là đề xướng một số tiền thưởng lớn cho ai bắt được bọn chúng. Ông ta đã nhận thấy tư lợi vào thời buổi này vẫn thường vượt qua hầu hết mọi đắn đo.

Viên Đại tướng dừng lại trước một tấm bản đồ gắn trên bức tường phía sau bàn làm việc tạm thời được bao phủ lên một bức chân dung của Saddam. Mắt ông ta di chuyển xuống nhiều làn đỏ chạy ngoằn ngoèo giữa Baghdad và các biên giới của Iraq. Có tới hàng trăm làng ở cả hai bên của mỗi con đường, và viên Đại tướng đau đớn biết rằng hầu hết bọn họ sẽ hết sức sung sướng bao che những kẻ đào tẩu.

Thế rồi ông ta chợt nhớ lại một trong những cái tên mà Kratz đã nói với ông ta:

Aziz Zeebari… Aziz Zeebari… Aziz Zeebari…, - Ông ta nhắc đi nhắc lại.

Và ông ta đã nhớ rõ. Ông ta đã hành hình một người đàn ông có cái họ đó vì tội tham dự vào một âm mưu đảo chính bảy năm trước đây. Rất có thể đó là cha của tên phản quốc?

***

Những người khiêng đồ cứ mười lăm phút lại dừng chân để nghỉ ngơi, thay đổi công việc và đặt sự căng thẳng trên các cơ bấp còn chưa bị chịu đựng thử thách.

- Hãy ngừng lại để đi tiểu tiện, - Cohen gọi họ.

Họ đã đi được ba cây số trong giờ đầu tiên và uống nước nhiều hơn bất cứ một chiếc xe hơi nào.

Khi Scott xem đồng hồ lúc giữa ngày, anh ước lượng rằng họ chỉ mới qua được hai phần ba khoảng cách tới con đường: đã từ lâu họ không còn trông thấy làng nhưng vẫn chưa có một dấu hiệu nào của cuộc sống ở chân trời. Vầng thái dương đã lặn trong lúc họ tiếp tục cuộc hành trình, cứ mỗi cây số lại bước chậm hơn một chút.

Chính cặp mắt của cậu bé mười tuổi đã trông thấy sự chuyển động trước tiên. Cậu chạy tới trước và chỉ tay. Scott vẫn không thể trông thấy gì trong lúc cậu bé chạy về phía trước, và phải bốn mươi phút sau họ mới có thể trông thấy rõ một con đường đầy bụi bặm. Cảnh tượng đó khiến mọi người bước nhanh hơn.

Ngay sau khi họ đã đến được một bên đường, Aziz ra lệnh các bộ phận của chiếc xe hơi phải được nhẹ nhàng đặt xuống đất, và một cô bé, mà trước giờ Scott đã không để ý thấy, đưa cho từng người bánh mì, phô mai dê và nước trong lúc họ nghỉ ngơi.

Cohen là ngươi đầu tiên đứng lên và bước quanh trung đội của anh ta, bắt đầu kiểm tra mọi bộ phận. Lúc anh ta trở lại sườn xe, tất cả mọi người đều nóng lòng lắp lại toàn bộ chiếc xe.

Scott ngồi trên mặt đất và quan sát trong lúc ba mươi người thợ máy không hề được qua trường lớp nào, dưới sự chỉ đạo của Trung sĩ Cohen, từ từ bắt từng con vít của chiếc Cadillac cũ rích. Khi các bánh cuối cùng đã được vặn ốc lại, Scott phải công nhận nó có vẻ giống như một chiếc xe hơi, nhưng băn khoăn chẳng biết chiếc xe cũ mèm này có thể khởi động được hay không.

Tất cả dân làng bao quanh chiếc xe đồ sộ màu hồng trong lúc Cohen ngồi vào ghế tài xế.

Aziz chờ đợi cho đến khi bọn trẻ đổ hết giọt xăng cuối cùng vào thùng. Đoạn anh ta vặn cái nắp lớn bằng thép lại và nói lớn:

- Chạy đi nào!

Cohen liền quay chìa khoá ở trong công tắc.

Động cơ quay chầm chậm, nhưng không nổ máy.

Cohen nhảy ra, nâng capô lên và yêu cầu Aziz thế chỗ anh ta phía sau tay lái. Anh ta điều chỉnh một chút sợi dây cua-roa quạt, kiểm tra bình xăng và lau chùi cái bugi cho sạch mấy hạt cát còn dính trước khi vặn chặt lại. Anh ta ló đầu ra khỏi capô:

- Đề đi, anh bạn Kurd.

Aziz xoay chìa khoá và đạp cần ga. Động cơ quanh nhanh hơn một chút nhưng vẫn chưa chịu khởi động. Sáu chục con mắt bên dưới mũ bê rê chăm chú nhìn, nhưng không có ý kiến gì trong lúc Cohen bỏ ra mấy phút nữa vào việc xem xét bình xăng.

- Một lần nữa, và đạp mạnh ga đi, - anh ta nói lớn.

Aziz lại bật công tắc. Tiếng máy xình xịch trở nên mạnh hơn, thế thì đột nhiên biến thành một tiếng gầm rú trong lúc Aziz nhấn ga. m thanh đó lại càng vang động bởi những tiếng hò reo của dân làng.

Cohen thế chỗ của Aziz ở phía trước và nhấc cần số lên để gài vào số một. Nhưng chiếc xe không chịu động đậy, trong lúc nó cứ lún sâu hơn xuống cát. Cohen tắt máy và nhảy ra ngoài. Sáu chục bàn tay áp vào chiếc xe trong lúc nó được lắc tới lắc lui; thế rồi với một cái xô đẩy mạnh nó được đưa lên khỏi khe lõm. Những dân làng đẩy nó thêm hai mươi mét nữa rồi chờ đợi mệnh lệnh kế tiếp của viên Trung sĩ.

Cohen chỉ cô bé đã phân phát thực phẩm. Cô rụt rè tiến tới và anh ta nhấc cô ta vào phía trước của chiếc xe.

Với ngôn ngữ bằng dấu hiệu, Cohen chỉ dẫn cho cô quỳ xuống bên cạnh cần ga và ấn xuống. Vẫn không leo lên xe, Cohen nghiêng mình qua, kiểm tra cần số ở số không và cho máy nổ. Cô bé tiếp tục đẩy cần ga bằng cả hai bàn tay và động cơ bắt đầu nổ máy. Ngay lập tức cô ta bật khóc trong lúc các dân làng lại reo hò lớn hơn nữa. Cohen nhanh nhẹn nhấc cô bé ra đặt lên cát rồi gật đầu ra hiệu cho Aziz.

- Anh bạn chỉ nặng một nửa tôi, vì vậy anh hãy vào đây, sang số một và xem thử xem anh có thể cho xe chạy trong khoảng một trăm mét hay không. Nếu anh có thể tất cả chúng ta sẽ nhảy lên xe. Nếu anh không thể, chúng ta sẽ phải đẩy cái đồ chết tiệt này cho tới tận biên giới.

Aziz cẩn thận leo vào chiếc Cadillac. Ngồi trên mép ghế da, anh ta nhè nhẹ gài cần số vào số một và đạp lên cần ga. Chiếc xe nhích tới trước và các dân làng lại bắt đầu hò reo trong lúc Scott, Hannah và Cohen chạy theo bên hông.

Hannah mở cửa xe đối diện với tài xế, đẩy chiếc ghế về phía trước và nhảy vào phía sau; trong lúc chiếc xe vẫn tiếp tục chạy với một tốc độ chậm. Cohen nhảy lên theo sau nàng và nói lớn:

- Số hai.

Aziz kéo cần số xuống, ngang và lên. Chiếc xe tròng trành về phía trước.

Anh ta quay lại và trông thấy Scott đang chạy gần như kiệt sức. Cohen vươn tay ra để giữ cho cửa mở trong lúc Scott liệng chiếc túi xách vào phía sau. Scott nhảy vào và Cohen quàng quanh vai anh. Đầu Scott chúi xuống về Aziz, nhưng mặc dù anh chàng người Kurd bẻ ngoặt tay lái, chiếc xe vẫn tiếp tục chạy trên mặt cát chặt hơn.

- Tôi có thể hiểu tại sao hầu như không có đội tuần tra nào trên con đường này. - đó là lời bình luận duy nhất của Cohen.

Aziz tiếp tục lách chiếc xe từ bên này sang bên kia để tránh những đụn cát bị gió thổi lên mặt đường. Scott quay người lại để trông thấy các dân làng vẫy tay lia lịa. Vẫy tay lại với họ dường như không thoả đáng với tất cả những gì họ đã làm. Anh đã không cám ơn họ một cách đàng hoàng hoặc ngay cả một lời giã biệt.

Các dân làng không hề cứ động cho tới khi chiếc xe mất dạng.

***

Đại tướng Hamil xoay người tức giận vì bất cứ ai cũng dám bước vào phòng của ông ta mà không chịu gõ cửa. Viên sĩ quan phụ tá của ông. Anh ta run rẩy, quá hiểu về sai lầm của mình đã phạm phải. Viên Đại tướng hất cây gậy chỉ huy lên và định quật vào mặt viên sĩ quan trẻ thì anh ta lắp bắp lên tiếng:

- Chúng ta đã khám phá ra làng mà tên phản quốc Aziz Zeebari đã bỏ đi, thưa Đại tướng.

Hamil từ tử hạ cánh tay xuống cho đến khi cây gậy chỉ huy đặt nhẹ lên vai phải của viên sĩ quan. Đầu gậy đẩy về phía trước cho tới khi chỉ còn cách con mắt bên phải của anh ta chừng hai phân:

- Ở đâu?

- Khan Beni Saad, - gã thanh niên nói trong cơn khủng khiếp.

- Chỉ cho tôi xem.

Viên trung uý liền chạy tới gần tấm bản đồ, nghiên cứu trong một lúc rồi đặt một ngớn tay lên một làng ở cách Baghdad hơn mười lăm cây số về phía Đông Bắc.

Đại tướng Hamil chăm chú nhìn vào vị trí đó và mỉm cười lần đầu tiên trong ngày hôm ấy. Ông ta trở về bàn, nhấc máy điện thoại lên và la hét một mệnh lệnh.

Trong vòng một giờ hàng trăm đội quân sẽ đổ xô đến khắp cái làng nhỏ.

Mặc dù Khan Beni Sadd chỉ có 250 cư dân, viên Đại tướng cảm thấy tin chắc một người nào đó sẽ khai ra, cho dù trẻ đến mấy đi nữa.

***

Aziz có thể giữ một tốc độ đều đặn năm mươi cây số giờ trong lúc Scott cố gắng tìm xem họ đang ở nơi nào trên bàn đồ. Anh không thể chỉ ra vị trí chính xác của họ cho đến lúc họ chạy xe trong gần một tiếng đồng hồ, khi họ đi qua một cột mốc chỉ đường được sơn bằng tay một cách thô sơ trên mặt lộ có mấy chữ "KHALIS 25M".

Bây giờ cứ tiếp tục chạy đi. - Scott nói - Nhưng chúng ta sẽ phải dừng lại ở ngoài thành phố chừng vài ba cây số để cho tôi có thể hình dung ra chúng ta lọt qua trạm kiểm soát bằng cách nào.

Niềm tin tưởng của Scott vào lời phán đoán của vị tộc trưởng già là sẽ không có quân xa trên con đường đó đang tăng dần theo từng cây số của con đường bằng phẳng và vắng vẻ mà họ vừa chạy qua. Anh tiếp tục nghiên cứu tấm bản đồ một cách cẩn thận, giờ đây đã chắc chắn về lộ trình mà họ sẽ trải qua nếu họ hy vọng vượt biên giới trong ngày hôm ấy.

- Thế thì chúng ta phải làm gì khi chúng ta đến trạm kiểm soát? - Cohen hỏi.

- Có lẽ sự việc sẽ dễ dàng hơn chúng ta suy nghĩ, - Scott nói. Các anh chớ quên, họ đang tìm hiểu bốn người trong một chiếc xe tải nhà binh đồ sộ.

- Nhưng chúng ta cũng bốn người.

- Chúng ta sẽ không phải như vậy trong thời gian chúng ta đến trạm kiểm soát. - Scott giải thích, - bởi vì lúc đó tôi và anh sẽ ở trong khoang hành lý.

Cohen chợt có vẻ cau có.

- Cái này đúng là một Caddy, - Aziz vừa nói vừa nhe răng cười, trong lúc anh ta vẫn giữ đều tốc độ.

- Có lẽ bây giờ tôi phải cầm tay lái, - Cohen bỗng nói.

- Ở đây không được đâu, - Scott nói - Trong lúc chúng ta đang ở trên những con đường này, Aziz vẫn ở nguyên.

Chính Hannah là người đầu tiên trông thấy cô ta.

- Cô ta nghĩ mình có thể làm cái trò gì thế? - Nàng vừa nói vừa chỉ vào một người phụ nữ đã nhảy ra giữa đường và vẫy tay một cách sôi nổi.

Scott siết chặt bệ cửa sổ trong lúc Cohen nghiêng mình về phía trước để nhìn cho rõ hơn.

- Đừng ngừng lại, - Scott nói - Cứ quẹo sang một bên để tránh cô ta nếu cần.

Bỗng Aziz lên tiếng cười.

- Có gì vui thế, anh bạn Kurd? - Cohen vừa hỏi vừa tiếp tục chăm chú nhìn vào người phụ nữ vẫn nhất quyết đứng giữa đường.

- Đó chỉ là cô em họ Jasmin của tôi.

- Lại một người bà con khác? - Hannah hỏi.

- Tất cả chúng tôi đều bà con trong bộ tộc, - Aziz giả thích trong lúc anh ta cho chiếc Cadillac dừng lại ở trước người phụ nữ.

Anh ta nhảy ra khỏi xe và dang tay ôm lấy người phụ nữ còn trẻ trong lúc những người khác đến gặp họ.

- Khá lắm, - cuối cùng Cohen nói khi anh ta được giới thiệu với Jasmin trong lúc cô ta vẫn không ngừng nói chuyện ngay cả khi cô ta bắt tay với Scott và Hannah.

- Thế nào, cô ấy đang thọc mạch chuyện gì vậy? -

Cohen hỏi trước khi Aziz kịp thông dịch lại những lời của cô em họ.

Hình như ông giáo sư có lý. Bọn quân nhân đã được thông báo cố tìm cho kỳ được một chiếc xe tải nhà binh chở bốn tên khủng bố. Nhưng ông chú của cô ấy đã liên lạc sáng hôm nay để báo cho cô ấy chúng ta sẽ đi bằng chiếc Cadillac.

- Thế thì chắc phải nguy hiểm lắm mới cố hết sức chạy trước bọn chúng, - Hannah nói.

- Nguy hiểm, - Aziz nhìn nhận, - nhưng không quá nguy hiểm đâu. Jasmin vẫn đi qua trạm kiểm soát này hai lần mỗi ngày, hôm nào cũng vậy, để bán cam, quệt và chà là từ trong làng. Do đó bọn lính gác đều nhẵn mặt cô ấy và cả chiếc xe hơi của chú tôi nữa. Chú tôi bảo cô ấy cần phải ngồi trên chiếc Cadillac khi chúng ta chạy qua trạm kiểm soát Theo cách đó, bọn chúng sẽ không nghi ngờ.

Nhưng nếu chúng nhất định lục soát khoang hành lý thì sao?

- Thì chúng sẽ không được phần thuốc lá hoặc trái cây hàng ngày cho gia đình của họ chứ sao? Cô nên biết tất cả bọn họ cứ tưởng như chúng ta đang buôn lậu một thứ gì đó.

Jasmin lại bắt đầu nói huyên thuyên và Aziz lại răm rắp lắng nghe.

Cô ấy bảo tất cả ba người phải chui vào khoang hành lý trước khi có một ai đi ngang qua nhận thấy chúng ta.

- Như thế vẫn hết sức nguy hiểm, ông giáo sư, - Cohen nói.

Chỉ rất nguy hiểm cho Jasmin, - Scott nói, - và tôi không còn con đường thối lui nào.

Anh xếp tấm bản đồ lại, bước ra phía sau xe, mở khoang và trèo vào. Hannah và Cohen nối gót không nói thêm lời nào.

Không thoải mái như chiếc tủ sắt, - Hannah nhận xét trong lúc nàng choàng hai cánh tay quanh mình Scott.

Aziz chèn cái túi xách giữa nàng và Cohen. Hannah bật cười.

Khi tôi đập mạnh lên hông cửa. - Aziz nói - tức là tôi sẽ ngưng lại ở trạm kiểm soát.

Anh ta đóng sầm khoang. Jasmin tóm lấy cái túi xách của cô lên khỏi lề đường và nhảy lên bên cạnh người anh. Ba người trong khoang hành lý nghe động cơ lọc cọc chạy và bắt đầu đoạn đường quý báu mấy cây số cuối cùng về phía Khailis. Jasmin lợi dụng thời gian này để kể vắn tắt cho Aziz về cách cô xử sự mỗi lần cô qua trạm kiểm soát.

Chú thích:

(1) Tiếng lóng, có nghĩa là Cadillac, dùng để diễn một vật gì sang trọng và cao cấp nhất.

(2) New Haven: Thành phố ở miền Nam Connecticut, thuộc tiểu bang New England của Mỹ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,745
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34


Vị tộc trưởng bị treo cổ trước tiên, rồi các người em trai của ông, lần lượt từng người một, trước mặt những người còn lại trong làng, nhưng không một ai trong họ hé răng. Rồi bọn chúng chuyển sang những người bà con, cho tới khi một cô gái mười hai tuổi vì hy vọng cứu tính mạng của cha cô nên đã kể cho bọn chúng về những người lạ ở trong nhà vị tộc trưởng đêm hôm trước.

Bọn chúng hứa với cô bé rằng cha của cô sẽ thoát chết nếu cô kể cho chúng tất cả những gì cô biết. Cô liền chỉ vào sa mạc để cho chúng biết nơi chôn giấu chiếc xe tải. Đám quân nhân chỉ cần đào bới hai mươi phút có thể xác nhận rằng cô bé đã nói thật.

Bọn chúng liên lạc với Đại tướng Hamil bằng điện thoại dã chiến. Ông ta nhận thấy khó tin được rằng ba mươi người thuộc bộ tộc Zeebari đã tháo tung chiếc xe Cadillac của vị tộc trưởng ra từng mảnh và mang tất cả qua sa mạc mênh mông.

- Được mà, - cô bé cam đoan với chúng. - Cháu biết chuyện đó là thực bởi vì anh cháu đã khiêng một cái bánh xe tới tận con đường qua bên kia sa mạc.

Cô bé vừa quả quyết vừa kiêu hãnh chỉ tay về phía chân trời.

Đại tướng Hamil cẩn thận lắng nghe cái tin đó qua máy điện thoại trước khi ra lệnh cha và anh của cô bé cũng phải treo cổ.

Ông ta quay lại với tấm bản đồ trên tường và nhanh chóng xác định vị trí con đường duy nhất mà bọn khủng bố có thể đi qua. Đôi mắt của ông ta di chuyển dọc theo con đường mòn băng qua một giải sa mạc cho tới lúc nó nối vào một con đường quanh co khác, rồi ông ta chợt biết bọn chúng sẽ phải qua thành phố nào.

Ông ta nhìn đồng hồ trên bàn: 4 giờ 59 phút.

- Cho tôi trạm kiểm soát Khalis, - Ông ta thông báo cho viên trung uý trẻ.

***

Aziz chợt trông thấy một chiếc xe tải đậu đằng xa đang được kiểm tra bởi một quân nhân. Jasmin liền báo cho anh ta đó là trạm kiểm soát và xổ các thứ dựng trong những túi xách lên mặt ghế giữa họ.

Aziz đập mạnh lên hông cửa, nhẹ người khi trông thấy chỉ có hai quân nhân, và một tên trong bọn họ đang ngủ trên một chiếc ghế tựa êm ái ở phía bên kia con đường.

Khi chiếc xe dừng lại. Scott có thể nghe tiếng cười từ một phía nào đó. Aziz đưa một gói Rothmans cho tên anh gác.

Gã quán nhân vừa sắp sửa vẫy tay cho họ qua khi tên lính gác kia cựa quậy trong giấc ngủ lơ mơ như một con mèo đang nằm lim dim hàng giờ trên một máy sưởi. Gã chống tay đứng lên, di chuyển từ từ về phía chiếc xe, và nhìn qua với vẻ ngưỡng mộ, như gã đã từng làm nhiều lần trước đó. Gã bắt đầu lững thững vòng quanh xe. Trong lúc đi qua khoang hành lý, gã vỗ lên một cách yêu mến bằng lòng bàn tay của mình. Cứ chỉ đó khiến nó hé mở ra vài phân. Scott liền nhẹ nhàng khép kín lại trong lúc Jasmin đánh rơi một hộp hai trăm điếu thuốc Rothman lên mặt đất bên hông xe về phía nàng.

Tên lính chuyển động nhanh chóng lần đầu tiên trong ngày hôm ấy. Jasmin mỉm cười với gã trong lúc gã nhặt lại những điếu thuốc, và cô thì thầm một điều gì đó trong tai gã. Tên quân nhân nhìn Aziz và bắt đầu cười trong lúc một chiếc xe tải lớn chất đầy những thùng bia ngừng lại phía sau họ.

- Tới đi, tới đi, - tên quân nhân thứ nhất nói lớn khi trông thấy mối lợi lớn hơn.

Aziz liền vâng lệnh và phóng xe về phía trước với số hai, gần như ném Cohen và cái túi du lịch ra phía sau.

- Cô đã nói gì với tên lính kia thế? - Aziz hỏi sau khi họ đã ra khỏi tầm tay.

- Em đã kể cho hắn ta nghe anh là một tên pê-đê, nhưng em sẽ trở lại một mình.

- Cô không có tự ái gia đình hay sao? - Aziz hỏi.

- Có chứ. - Jasmin nói - Nhưng hắn cũng là một người bà con.

Theo lời khuyên của Jasmin, Aziz theo con đường dài hơn ở phía Nam vòng qua thành phố. Anh ta không thể tránh tất cả các ổ gà, và thỉnh thoảng anh ta lại nghe những tiếng rên rỉ trong khoang hành lý. Jasmin chỉ một giao lộ phía trước họ, và nói với Aziz rằng đó là nơi anh ta phải ngừng. Cô gom các túi đồ, để lại một số trái cây trên ghế giữa họ. Aziz dừng lại bên cạnh một con đường dần trở lại trung tâm thành phố. Jasmin nhảy ra, mỉm cười và vẫy tay. Aziz vẫy tay lại, và tự hỏi bao giờ anh ta mới có thể gặp lại cô em họ của mình.

Anh ta tiếp tục lái xe một mình về phía xa của thành phố, vẫn còn không dám mạo hiểm để cho các bạn đồng nghiệp ra khỏi khoang hành lý trong khi vài dân địa phương quanh đây có thể quan sát mọi việc đang diễn ra.

Sau khi đã bỏ lại Khalis ba cây số phía sau, Aziz mới ngừng xe ở một giao lộ có hai tấm bảng chỉ đường. Một tấm là " TUZ KHURMATOO 120 km", và một tấm kia là "TUZ KHURMATOO 170 km". Anh ta kiểm tra mọi phương hướng trước khi trèo ra khối xe, mở khoang hành lý và để cho ba người lảo đảo bước ra trên mặt đường. Trong khi họ duỗi thẳng tứ chi và hít nhưng hơi dài, Aziz chỉ các tấm bảng chỉ đường. Scott không cần nhìn lên bản đồ cũng biết họ phải theo con đường nào.

- Chúng ta phải theo con đường dài hơn. - anh nói, và hy vọng bọn họ vẫn còn tưởng chúng ta đang đi trong chiếc xe tải.

Hannah đóng mạnh khoang hành lý xuống với vẻ xúc động, trước khi tất cả mọi người cùng nhảy lên phía sau xe.

Aziz chạy trung bình sáu mươi lăm cây số giờ trên con đường quanh co, ba người còn lại nhìn lảng sang chỗ khác mỗi lần một chiếc xe khác hiện ra ở chân trời.

Cả bốn người, cùng thưởng thức số trái cây tươi mà Jasmin đã để lại trên ghế phía trước.

Khi họ chạy qua một bảng chỉ đường cho biết còn cách Tuz Khurmatoo hai mươi cây số, Scott nói với Aziz:

- Tôi muốn anh dừng lại ở một con đường nhỏ bên ngoài làng và đi vào đó một mình trước khi chúng ta quyết định lái xe qua thẳng có an toàn hay không. Anh chớ quên chỉ qua khỏi làng chừng năm cây số là xa lộ, vì vậy rất có thể nơi đây có bọn lính.

- Còn tới biên giới người Kurd? - Annah hỏi.

- Khoảng bảy cây số, - Scott nói trong lúc anh tiếp tục nghiên cứu tấm bản đồ.

Aziz chạy xe thêm hai phút nữa trước khi anh ta đến bờ dốc lên một ngọn đồi và có thể trông thấy hình dáng một ngôi làng nép mình vào thung lũng. Một lát sau, anh ta cho xe dừng lại bên đường dưới một cây chanh che nắng cho họ và tránh khỏi con mắt tò mò trong các chiếc xe chạy qua. Aziz thận trọng lắng nghe những chỉ dẫn của Scott ra khỏi xe và cuốc bộ về hướng Tuz Khumatoo.

***

Đại tướng Hamil tức giận đến nghẹn lời khi viên trung uý trẻ thông báo với ông ta chiếc Cadillac đã chạy qua trạm kiểm soát Khalis gần một giờ trước, và không một ai trong số quân nhân trực quan tâm đến việc khám xét khoang hành lý.

Sau một cuộc tra tấn không đáng kể, một gã trong số đó đã thú nhận rằng bọn khủng bố chắc đã được giúp đỡ bởi một cô gái vẫn thường qua lại trạm kiểm soát.

- Cô ta sẽ không bao giờ đi qua đó nữa, - viên Đại tướng chỉ nhận xét.

Mẩu thông tin duy nhất khác mà họ có thể thu được từ đám lính gác là tên lái xe là một người anh họ của cô gái và là một tên pê-đê. Hamil tự hỏi làm sao chúng có tiếp biết được điều đó.

Một lần nữa, viên Đại tướng quay lại với tấm bản đồ tên bức tường phía sau bàn làm việc. Ông ta đã ra lệnh cho cả một đội quân gồm phi cơ trực thăng, xe tải, xe tăng, mô tô để càn quét từng tấc đường giữa Khalis và biên giới, nhưng vẫn chưa có ai báo cáo trông thấy một chiếc Cadillac trên xa lộ. Ông ta trở nên hoang mang, biết rằng bọn chúng không thể quay trở lại hoặc chạy thẳng vào các đội quân.

Mắt ông ta tìm kiếm mọi con đường giữa trạm kiểm soát và biên giới một lần nữa, và cuối cùng ông ta thốt lên:

- A, nhất định bọn chúng đã theo con đường băng qua các ngọn đồi.

Viên Đại tướng lướt ngón tay dọc theo một làn đỏ ngoằn ngoèo cho tới khi tiếp giáp xa lộ.

- Thì ra chúng mày ở đây, - Ông ta nói trước khi rống lên một mệnh lệnh mới.

***

Gần một giờ sau, Cohen chợt thông báo:

- Một người Kurd đang đi về phía chúng ta, ông giáo sư!

Trong lúc Aziz chạy lên dốc, nụ cười không rời khỏi gương mặt anh ta. Anh ta đã từng ở Tuz Khurmatoo và anh ta có thể trấn an họ rằng người trong làng chỉ quan tâm đến việc của riêng mình. Nhưng đài phát thanh của chính phủ đang ra rả một bản thông báo liên quan đến việc truy nã bốn tên khùng bố đã âm mưu ám sát vị Đại lãnh tụ. vì thế mọi con đường giờ đây lúc nhúc những tên lính.

- Họ đã có bản mô tả rất đúng về bốn người chúng ta, nhưng bản tin trên đài phát thanh một giờ trước đây vẫn còn nói chúng ta đang đi bằng xe tải.

- Đúng, Aziz, - Scott nói, - anh cứ lái xe qua làng.

- Hannah, em hãy ngồi ở phía trước với Aziz. Cohen và tôi sẽ nằm xuống ở phía sau. Khi đã qua phía bên kia của Tuz rồi, chúng ta sẽ tránh được sự dòm ngó của mọi người và chỉ việc tiếp tục chạy tới biên giới sau lúc trời tối.

Aziz liền ngồi vào phía sau tay lái và chiếc Cadillac bắt đầu cuộc hành trình từ từ vào Tuz.

Con đường cái xuyên qua làng chắc phải dài khoảng ba trăm mét và chỉ đủ rộng cho hai chiếc xe. Hannah nhìn vào các cửa hàng nhỏ bằng gỗ và những người đàn ông luống tuổi ngồi trên các bậc thềm hoặc tựa lưng vào tường.

Một chiếc Cadillac cũ dơ bẩn chạy từ từ qua làng, nàng nghĩ, rất có thể sẽ là một pha gay cấn nhất trong ngày đối với họ, cho tới lúc nàng chợt trông thấy một chiếc xe ở đằng kia của con đường.

Có một chiếc xe jeep đang chạy về phía chúng ta, - nàng trầm tĩnh nói - Bốn người đàn ông, một người trong bọn ngồi phía sau một vật gì có vẻ giống như một khẩu súng chống máy bay gắn ở phía sau.

- Cứ lái chầm chậm đi, Aziz, - Scott nói - Còn Hannah vẫn tiếp tục quan sát kỹ.

- Lúc này chúng đang ở cách ta khoảng một trăm mét và bắt đầu tỏ vẻ chú ý.

Cohen chỉ túi dụng cụ và chộp lấy một cái mỏ lết.

Scott cũng chọn một cờ lê trong lúc cả hai từ từ quan mặt lại và quỳ gối.

- Chiếc Jeep đã lách qua phía trước chúng ta, - Hannah nói - Chúng ta bắt buộc phải ngừng lại trong vòng mười giây nữa.

- Nó vẫn có vẻ chỉ có bốn tên thôi chứ? - Scott hỏi.

- Vâng, Hannah nói - Em không thể thấy gì hơn.

Chiếc Cadillac dừng lại.

Chiếc xe Jeep đã ngừng chỉ cách ta mấy mét. Một tên trong bọn lính đã bước ra và một tên khác đi theo. Hai tên kia vẫn ở lại trong chiếc xe Jeep. Một tên ở phía sau khẩu súng và tên còn lại vẫn ngồi ở tay lái.

- Chúng tôi sẽ hạ hai tên đầu tiên, - Hannah nói - Các anh sẽ giải quyết hai tên trong chiếc xe Jeep.

- Hiểu rồi, - Scott nói.

Tên lính thứ nhất đến phía tài xế và tên thứ hai qua thanh cán phía tay phải của Hannah. Cả Aziz và Hannah đã đặt bàn tay tên chỗ dựa, cửa hé mở vài phân.

Đúng lúc Aziz trông thấy tên lính thứ nhất liếc mắt vào phía sau và định lấy súng, anh ta mở tung cửa hết sức nhanh đến mức tiếng đập vào đầu gối tên lính nghe như một phát dạn, trong lúc gã ngã quỵ xuống đất. Aziz ra khỏi xe và chồm lên mình gã trước khi gã kịp hồi tỉnh. Tên lính thứ hai chạy về phía Hannah, trong lúc Scott nhảy vọt ra khỏi xe. Hannah tung một quả đấm vào động mạch chủ của gã và một quả khác và đầu xương sống trong lúc gã cố rút súng ra. Một phát đạn chắc cũng không thể giết chết gã nhanh hơn được. Tên lính thứ ba bắt đầu bắn từ phía sau chiếc xe Jeep. Cohen lao ra đường và tên lính thứ tư chồm ra khỏi phía sau tay lái vừa chạy về phía Cohen vừa bắn súng lục. Cohen ném mỏ lết vào gã, khiến gã phải bước sang một bên và đúng ngay làn đạn của khẩu súng máy.

Đạn ngừng nổ ngay lập tức, những Cohen đã ném đúng vào cuống họng gã. Tên lính gục xuống như thể đụng phải cả tấm gạch, và khẩu súng của gã bay qua đường. Cohen liền tống cho gã một cú vào tĩnh mạch cổ của gã và một cú khác vào phía sau gáy. Gã lên cơ co giật và quằn quại trên mặt đất. Cohen nhanh chóng chuyển sự chú ý sang tên lính ngồi phía sau khẩu súng máy đang nhắm vào phía anh.

Ở khoảng cách mười mét. Cohen không có hy vọng vươn tới gã, vì vậy anh ta phóng qua hông xe trong lúc những viên đạn phun vào khung cửa mở và hai viên đạn xuyên vào chân trái của anh ta. Lúc này Scott đang chạy về phía chiếc xe Jeep từ phía bên kia. Trong lúc tên lính xoay khẩu súng để đối đầu với anh, Scott phóng người lên không trên nóc chiếc xe Jeep.

Đạn bay khắp nơi trong lúc hai người quờ quạng. Scott vẫn còn nắm chặt chiếc cờ lê. Cà hai cùng nhanh chong đứng lên và Scott phang chiếc cờ lê vào gáy gã xạ thủ - tên lính đưa một cánh tay lên để đỡ đòn, nhưng đầu gối trái của Scott đã thúc mạnh vào háng gã. Tên xạ thủ gục xuống đất trong lúc chiếc cờ lê lại phang thêm một cú khiến cho cổ tên lính gẫy gọn. Gã nằm dang tay trên mặt đường, trông như một vận động viên môn bơi ếch đang có một động tác nữa chừng. Scott quan sát gã như bị thôi miên cho tới lúc Aziz lao vào chân anh và hất anh ngã xuống đất.

Scott không hề ngừng run rẩy.

- Lần đầu tiên bao giờ cũng là khó khăn nhất, - đó là lời bình luận duy nhất của anh chàng người Kurd.

Cả bốn người giờ đây cùng hướng ra phía ngoài, bao trùm mọi góc, trong lúc họ chờ đợi dân địa phương phàn ứng. Cohen loạng choạng trèo lên chiếc xe Jeep, máu đang chảy khỏi chân, và ngồi vào phía sau khẩu súng máy.

- Đừng bắn trừ phi tôi nói, - Scott la lên trong lúc anh ta kiểm tra cả hai ngả đường. - Không có một người nào ở cả hai phía.

- Bên trái của anh! - Hannah chợt nói.

Scott liền quay người và trông thấy một ông già mặc một chiếc dishdash dài màu trắng và đội một cái keffyeh lốm đốm đen trắng, với một thắt lưng dày lóng lẻo. Ông ta đang bước chậm về phía họ, hai bàn tay giơ lên trời.

Mắt Scott không hề rời khỏi ông già cho tới lúc ông ta dừng chân cách chiếc Cadillac vài mét.

- Tôi được các vị bô lão trong làng cứ đến đây vì tôi là người duy nhất nói được tiếng Anh, - Ông ta vừa run rẩy vừa nói từng từ một. - Chúng tôi tin các ông là những kẻ khủng bố đã đến đây để giết Saddam.

Scott không nói gì.

- Xin các ông đi đi. Hãy rời khỏi làng và đi nhanh lên. Các ông cứ lấy chiếc xe Jeep và chúng tôi sẽ chôn những người lính. Thế là sẽ không ai biết các ông đã từng đến đây. Nếu không, Saddam sẽ giết tất cả chúng tôi. Từng người một.

- Ông hãy nói với dân làng chúng tôi ước mong họ không bị hề hấn gì, - Scott nói.

- Tôi tin ông, - Ông già nói, - nhưng xin hãy đi đi.

Scott liền chạy tới trước và cởi bộ quân phục của tên quân nhân cao lớn nhất, trong lúc Cohen vẫn chĩa súng vào ông già. Aziz cởi quần áo của ba tên trong lúc Hannah túm lấy chiếc túi của Scott ra khỏi chiếc Cadillac trước khi nhảy lên phía sau chiếc xe Jeep.

Aziz liệng mấy bộ quân phục vào chiếc xe Jeep rồi nhảy lên ghế tài xế. Động cơ vẫn đang chạy. Anh cho xe thụt lùi và quay nửa vòng tròn trong lúc Scott ngồi vào phía trước. Aziz bắt đầu di chuyển chầm chậm ra khỏi Tuz Khurmatoo. Cohen quay súng về phía làng, đồng thời đấm lên chân trái anh ta bằng nắm tay siết chặt.

Scott tiếp tục nhìn về phía sau trong lúc vài ba dân làng dò dẫm ra đường và bắt đầu kéo mấy tên lính ra xa một cách sỗ sàng. Một người khác trèo lên chiếc Cadillac và bắt đầu cho chạy thụt lùi xuống một con đường phụ. Một lát sau không còn thấy bóng dáng tất cả bọn họ. Scott quay lại nhìn thẳng về phía trước.

- Còn khoảng năm cây số nữa là tới xa lộ, - Aziz nói - Ông muốn tôi làm gì?

- Chúng ta chỉ có một cơ may vượt qua biên giới, - Scott nói, - vì vậy lúc này hãy lái xe vào lùm cây đó. Chúng ta không thể liều lĩnh chạy ra xa lộ cho đến khi trời thật tối.

Anh xem đồng hồ. Bây giờ là 7 giờ 35.

Hannah có cảm giác như máu đang chảy trên mặt nàng. Nàng ngước lên và trông thấy những vết thương sâu hoắm trên chân của Cohen. Nàng lập tức xé góc chiếc yashmak của nàng và cố ngăn cho máu ngừng chảy.

- Anh khỏe chứ, Cohen? - Scott lo lắng hỏi.

- Không tệ hơn khi tôi bị một người phụ nữ cắn ở Tanger, - anh ta trả lời.

Aziz bỗng bật cười.

- Sao anh có thể cười được? - Hannah vừa nói vừa tiếp tục lau sạch vết thương.

- Bởi vì anh ta chính là lý do khiến cho cô ấy cắn tôi, - Cohen nói.

Sau khi Hannah hoàn tất việc băng bó, bốn người thay đổi quân phục Iraq. Trong một giờ, họ không rời mắt khỏi con đường, tìm mọi dấu hiệu của bọn quân nhân. Vài ba dân làng cưỡi lừa, và nhiều người khác đi bộ vượt qua họ theo cả hai hướng, nhưng chiếc xe duy nhất mà họ trông thấy là chiếc máy kéo cũ đang xình xịch trên đường trở về làng sau một ngày làm việc.

Trong lúc những phút trôi qua, càng thêm rõ ràng rằng dân làng đã giữ lời hứa của họ và không liên lạc với bất cứ một đội quân nào.

Khi Scott không thể trông thấy con đường trước mặt họ được nữa, anh ta rà soát lại kế hoạch lần cuối. Tất cả bọn họ đồng ý rằng sự lựa chọn của họ rất hạn chế.

Biên giới gần nhất ở cách đây bảy mươi cây số, nhưng bây giờ Scott chấp nhận mối hiểm nguy mà họ có thể mang đến cho bất cứ làng nào chỉ bằng cách chạy ngang qua đó.

Anh không cảm thấy kế hoạch của mình là đáng tin cậy. khó tin cậy nữa là đằng khác, nhưng họ không thể chờ đợi trên các ngọn đồi này lâu hơn nữa. Chỉ một thời gian ngắn sau bọn quân nhân Iraq sẽ đổ xô khắp vùng này.

Scott kiểm tra các bộ quân phục. Chừng nào họ còn tiếp tục di động, bất cứ ai cũng sẽ khó nhận diện được họ trong bóng tối như bất cứ một bộ phận nào khác của một đội quân tuần tra. Nhưng một khi họ đã đến xa lộ, anh chỉ biết ít giây sau là họ không còn yên tĩnh. Mọi việc tuỳ thuộc vào vấn đề làm sao họ có thể đến gần biên giới mà không bị phát hiện.

Khi Scott ra lệnh, Aziz quẹo chiếc xe Jeep lên con đường quanh co để khởi đầu năm cây số đến xa lộ. Anh vượt qua khoảng cách này trong năm phút, và trong suốt thời gian đó họ không gặp chiếc xe nào khác. Nhưng ngay sau khi đến xa lộ, họ nhận thấy con đường đầy những xe tải, xe Jeep, cả xe tăng, chạy theo cả hai chiều.

Không một ai trong bọn họ trông thấy hai chiếc mô tô, chiếc xe tăng và ba chiếc xe tải tách khối xa lộ và giảm tốc độ chạy theo đường nhỏ về ngả Tuz Khurmatoo.

Aziz chạy hết tốc lực trong khi Cohen vẫn ngồi ở phía sau khẩu súng. Scott quan sát con đường trước mặt anh, mũ bê rê kép thấp xuống. Hannah ngồi ở dưới Cohen, bất động với một khẩu súng trong tay. Bảng chỉ đường đầu tiên cho biết còn cách biên giới sáu mươi cây số. Trong một lát, Scott lơ đãng nhìn một giếng dầu vẫn tiếp tục bơm ở về phía xa của con đường. Không một ai nói gì trong lúc khoảng cách đến Kirkuk giảm từ năm mươi lăm xuống bốn mươi sáu, rồi ba mươi hai, nhưng tới mỗi tấm bảng và mỗi giếng dầu mới, sự lưu thông lại càng nhộn nhịp hơn và tốc độ của họ bắt đầu hạ thấp xuống một cách nhanh chóng.

Điều nhẹ nhõm duy nhất là không một chiếc xe tuần tra nào chạy qua tỏ vẻ quan tâm đến chiếc xe Jeep.

***

Trong vòng mấy phút, ngôi làng nhỏ đã nhung nhúc quân nhân thuộc đội Vệ binh ưu tú của Saddam. Ngay cả trong bóng tối, bọn chúng chỉ cần mười viên đạn, và chừng đó phút để tìm ra nơi để chiếc Cadillac, và ba mươi viên đạn khác để khám phá ra những nấm mộ lấp chưa kín của bốn quân nhân đã chết.

Đại tướng Hamil lắng nghe viên sĩ quan cao cấp khi anh ta gọi điện thoại về báo cáo mọi chi tiết. Tất cả những gì ông ta cần là tần số sóng vô tuyến của chiếc xe Jeep đã đến Tuz Khurmatoo chiều hôm ấy. Viên Đại tướng đặt mạnh máy điện thoại xuống, xem đồng hồ, và điều chỉnh tần số.

m thanh duy nhất tiếp tục trong một thời gian.

***

- Nhất định bọn chúng vẫn đang tìm kiếm một chiếc xe tải hoặc một chiếc Cadillac màu hồng, - Scott đang nói khi máy điện thoại rung chuông.

Cả bốn người cùng sợ chết điếng.

- Trả lời đi, Aziz, - Scott nói - Anh hãy nghe một cách cẩn thận và cố tìm xem đó là ai.

Aziz nhấc máy lên. lắng nghe một bản tin ngắn, rồi nói bằng tiếng A rập:

- Vâng, thưa ông.

Và anh đặt máy xuống.

- Bọn chúng đã tìm ra chiếc Cadillac và đang ra lệnh cho tất cả các xe Jeep báo cáo với đồn binh gần nhất, - anh ta nói.

Chẳng bao lâu bọn chúng sẽ nhận ra không phải là người của chúng đang lái chiếc xe Jeep này, - Hannah nói.

- May ra chúng ta có thể còn được hai mươi phút nữa, - Scott nói - Bao nhiêu cây số nữa mới tới biên giới?

- Gần mười lăm cây số. - Aziz nói.

***

Viên Đại tướng biết chắc đó là Zeebari, nếu không anh ta đã trả lời với mã số của đại vệ binh ưu tú.

- Thế là giờ đây ông ta biết bọn chúng đang đi trên chiếc xe gì và hướng về biên giới nào. Ông ta nhấc máy điện thoại lên và lớn tiếng ban một mệnh lệnh khác. Hai viên sĩ quan hộ tống ông ta trong lúc ông ta chạy ra khỏi phòng và vào một khoảng sân rộng phía sau toà nhà.

Những cánh chong chóng của chiếc phi cơ trực thăng riêng của ông ta đã từ từ quay tròn.

***

Chính Aziz là người đầu tiên phát hiện phần cuối của một hàng xe dầu đang chờ đợi để qua biên giới không chính thức. Scott kiểm tra làn đường bên trong và hỏi Aziz có thể lái xuống một rẻo hẹp như thế hay không.

- Không thể được đâu, ông giáo sư, - anh chàng ngươi Kurd nói với anh. - Chúng ta sẽ lọt xuống mương mất thôi.

- Thế thì chúng ta không có cách nào khác ngoại trừ chạy thẳng tới giữa đường.

Aziz liền lách chiếc xe Jeep ra giữa đường và cố liều mạng giữ tốc độ. Thoạt tiên anh ta có thể tránh các chiếc xe tải và dòng lưu thông ngược chiều. Điều rắc rối thực sự đầu tiên xảy đến lúc còn cách biên giới hơn sáu cây số. khi một chiếc xe tải nhà binh chạy ngược về phía họ không chịu lách qua.

- Tôi sẽ bắn dẹp đường nhỉ? - Cohen hỏi.

- Không, Scott đáp. - Aziz, anh cứ tiếp tục chạy tới, nhưng chuẩn bị nhảy và trú ẩn giữa đám xe tăng, rồi chúng ta sẽ tụ họp lại.

Ngay lúc Scott sắp sửa nhảy, chiếc xe tải chợt lạng qua đường và lọt xuống mương ở về phía bên kia.

- Bây giờ tất cả bọn chúng đều biết chúng ta đang đi đâu - Scott nói - Còn bao nhiêu cây số nữa mới đến trạm hải quan, Aziz?

- Từ năm đến năm cây số rưỡi là tối đa.

- Thế thì chúng ta hãy đi bộ tới đó, - Scott nói, mặc dù anh biết Aziz sẵn sàng chạy hết sức nhanh.

Họ đã qua được hơn một cây số rưỡi trong vòng một phút, khi một chiếc phi cơ trực thăng liệng phía trên đầu họ, chiếc đèn chiếu xuống làm sáng trưng cả con đường. Chuông điện thoại vô tuyến lại bắt đầu reo.

- Đừng để ý tới nó, - Scott la lớn trong lúc Aziz tiếp tục lái chiếc xe Jeep ở giữa đường và giữ nguyên tốc độ. Họ qua được ba cây số trong lúc chiếc phi cơ trực thăng liệng trở lại chắc chắn nó đã phát hiện con mồi, và bắt đầu chiếu đèn pha vào họ.

- Có một chiếc Jeep đang đuổi theo chúng ta ở phía sau, - Cohen nói trong lúc anh ta quay người lại để nhìn thẳng vào nó.

- Thanh toán nó đi, - Scott nói.

Cohen chấp hành, bắn một loạt đầu tiên vào tấm kính chấn gió và loạt thứ hai vào bánh xe, nhờ ánh sáng chiếu từ trên cao xuống. Chiếc Jeep truy đuổi lạng qua đường và đâm đầu vào một chiếc xe tải đang chạy theo hướng ngược lại. Một chiếc khác nhanh chóng thế chỗ. Hannah nạp đạn lại cho khẩu súng với băng đạn nằm sẵn trên sàn trong khi Cohen tập trung vào con đường phía sau họ.

- Còn hai cây số rưỡi nữa, - Aziz la lớn, suýt đâm vào những chiếc xe tải ở cả hai bên con đường. Chiếc phi cơ trực thăng bay lượn phía trên và bắt đầu bắn một cách bừa bãi, trúng phải nhiều loại xe cộ đang lưu thông theo cả hai chiều.

- Đừng quên rằng hầu hết bọn chúng đều không biết ai đang săn đuổi cái gì! - Scott nói.

- Xin cám ơn ông giáo sư cùng chia sẻ lý luận đó với tôi. - Cohen nói. - Nhưng tôi có một cảm giác rằng chiếc phi cơ trực thăng biết chính xác nó đang săn đuổi những ai.

Cohen bắt đầu bắn tới tấp vào chiếc Jeep kế tiếp lúc nó đang vào đúng tầm đạn. Lần này nó chỉ chạy chậm rồi dừng lại khiến cho chiếc xe phía sau đâm thắng vào nó và tạo nên một chuỗi va chạm trong lúc những chiếc xe phía sau đó cứ tuần tự húc vào đuôi xe trước. Con đường ở phía sau đột nhiên trống hẳn, tựa hồ Aziz là chiếc xe cuối cùng qua được một ngọn đèn xanh.

- Chỉ còn một cây số rưỡi nữa, - Aziz la lớn trong lúc Cohen quay người lại để tập trung vào những gì đang diễn ra ở phía trước anh ta và Hannah lại lắp đạn vào khẩu súng máy với băng đạn cuối cùng.

Scott có thể trông thấy những ngọn đèn của chiếc cầu lờ mờ hiện ra trước mặt anh: pháo đài Kirkuk bên cạnh ngọn đồi mà Aziz đã kể cho họ nghe, báo hiệu hải quan chỉ còn cách khoảng tám trăm mét. Trong lúc chiếc phi cơ vòng lại và một lần nữa xả đạn như mưa lên con đường.

Aziz cảm thấy bánh xe trước phía tay lái đột nhiên nổ trong lúc anh ta chạy xe trên cầu.

Lúc này Scott có thể trông thấy trạm kiềm soát của người Kurd ở phía trước anh trong lúc chiếc phi cơ trực thăng lượn xuống thấp hơn nữa với cố gắng cuối cùng ngăn chặn họ. Một cơn mưa đạn trúng vào capô của chiếc Jeep, nẩy khỏi cầu và bay vào tấm kính chắn gió. Trong lúc chiếc phi cơ trực thang lượn ra xa. Scott nhìn lên và trong một giây đồng hồ nhìn thẳng vào mắt của Đại tướng Hamil.

Scott nhìn trở xuống và đâm một lỗ trên tấm kính chắn gió đã vỡ nát, chỉ để khám phá ra anh đang đối diện với hai hàng quân nhân sắp ngay ngắn trước mặt anh, với những khẩu súng trường chĩa thắng vào chiếc Jeep.

Phía sau hàng quân nhân là hai lối ra nhỏ dành riêng cho những người muốn vào vùng đất của người Kurd(1) và hai lối vào ở phía bên kia con đường dành riêng cho nhừng người ra khỏi Kirkuk.

Hai lối ra đầy nghẹt những xe cộ không sao di chuyển nổi, trong khi hai lối vào thì lại trống trơn - Đúng vậy, vào lúc này không một ai tó ý muốn vào nước Iraq của Saddam.

Aziz quyết định rằng anh ta sẽ phải lách qua bên kia đường và liều mạng lái chiếc Jeep vào một trong hai lối vào nhỏ, tới đây rất có thể anh ta gặp phải một chiếc xe chạy ngược lại - trong trường hợp đó họ sẽ bị bắt. Anh ta đang giảm tốc độ, và có thể cảm thấy rằng vành bánh xe trước bên trái đang chạm đất.

Ngay lúc họ ở vào tầm đạn, Cohen khai hoả vào hàng quân nhân trước mặt anh ta. Một số bắn trả, nhưng anh ta đã hạ được vài ba tên trước khi những tên còn lại chạy tán loạn.

Sau khi giảm tốc độ và chạy được khoảng một trăm mét, Aziz bất thình lình lách chiếc xe Jeep qua bên kia đường và cố lái về phía lối thứ hai. Chiếc Jeep đụng vào bức tường bên phải, phóng thục mạng vào trong đoạn đường hầm ngắn tối đen và va vào bức tường bên trái trước khi thoát ra vào vùng đất không người ở, giữa hai trạm hải quan.

- Cứ chạy tiếp, cứ chạy tiếp. - Scott hét lớn trong lúc họ ló ra khỏi đoạn đường hầm nhỏ.

Đột nhiên có mấy chục quân nhân đuổi theo họ từ phía Iraq

Aziz vẫn tiếp tục giảm tốc độ trong lúc anh ta lái chiếc Jeep trở lại bên trái và hướng về biên giới với Kurdistan chỉ cách khoảng ba trăm mét. Anh ta đạp hết cầu ga nhưng đồng hồ tốc độ vẫn không lên nổi quá ba cây số giờ.

Lại một hàng quân nhân nữa, lần này từ biên giới của người Kurd, đang đối đầu với họ, với những khẩu súng trường chĩa vào chiếc Jeep. Nhưng không một ai bắn.

Cohen quay người trong lúc một loạt đạn trúng vào phía sau của chiếc Jeep và một loạt khác bay qua vai anh ta. Một lần nữa, anh ta bắn một loạt về phía biên giới Iraq, và những tên có thể nhanh chân rút lui vào phía sau trạm kiểm soát. Chiếc Jeep tiếp tục lăn bánh thêm mấy mét rồi cuối cùng thút thít ngừng lại ở lưng chừng đường giữa hai hàng rào không chính thức mà Liên Hiệp Quốc không chịu công nhận.

Scott nhìn về phía biên giới người Kurd. Cả trăm quân Peshmerga sắp thành hàng, các khẩu súng trường của họ lúc này mới nhả đạn, - nhưng không phải về phía chiếc xe Jeep. Scott quay lại và trông thấy một hàng quân nhân khác đang dò dẫm tiến lên từ phía Iraq. Anh và Hannah bắt đầu bắn các khẩu súng lục của họ trong lúc Cohen nã một loạt đạn nữa về phía trước rồi đột ngột ngừng lại. Bọn quân nhân Iraq lại bắt đầu rút lui, nhưng cảm thấy ngay rằng kẻ thù của chúng cuối cùng đã hết đạn dược.

Cohen nhảy xuống khỏi chiếc Jeep và nhanh nhẹn rút khẩu súng lục ra.

- Đi nào, Aziz, - anh nói lớn trong lúc phóng về phía trước và khom người lại bên cạnh cửa tài xế. - Chúng ta sẽ phải yểm trợ họ để ông giáo sư có thể đưa bản Tuyên ngôn hệ trọng của ông ấy qua biên giới.

Aziz không trả lời. Thân hình anh ta nằm im lìm tận tay lái, còi xe kêu vang liên tục. Chuông điện thoại vô tuyến vẫn còn reng.

- Bọn chó đẻ đã giết chết anh bạn người Kurd của tôi. - Cohen gào lên.

Hannah chộp lấy cái túi bằng vải bạt trong lúc Scott nhấc Aziz ra khỏi phía trước của chiếc Jeep. Họ cùng nhau khởi sự kéo lê anh ta trên đoạn đường một trăm mét cuối cùng về phía biên giới với Kurdistan.

Một hàng quân nhân khác của Iraq bắt đầu tiến về phía chiếc Jeep trong lúc Scott và Hannah đưa xác của Aziz mỗi lúc một gần quê hương dân tộc Kurd của anh ta.

Họ nghe nhiều làn đạn khác rít qua họ, và quay người để trông thấy Cohen đang vừa chạy về phía Iraq vừa gào:

- Chúng mày đã giết chết anh bạn người Kurd của tao. Đồ chó đẻ! Chúng mày đã giết chết anh bạn người Kurd của to.

Một tên trong bọn Iraq ngã, một tên khác ngã, một tên thụt lùi lại trong lúc Cohen tiếp tục tiến về bọn chúng.

Đột nhiên anh ta té quỵ xuống, nhưng không biết bằng cách nào, anh ta vẫn tiếp tục bò về phía trước, cho tới lúc một loạt đạn cuối cùng réo lên. Viên trung sĩ ngã gục trong một vũng máu chỉ cách biên giới Iraq vài ba mét.

Trong khi Scott và Hannah đưa anh chàng người Kurd đã chết vào vùng đất của dân tộc anh ta, bọn quân nhân của Saddam kéo lê tử thi của viên trung sĩ Do thái trở vào Iraq.

***

- Tại sao các mệnh lệnh của tôi không được chấp hành? - Saddam hét lớn.

Trong một hồi lâu không một ai chung quanh bàn lên tiếng. Họ biết khả năng tất cả bọn họ được trở về nhà toàn mạng đêm nay quả thực vô cùng mỏng manh.

Đại tướng Hamil lật bìa một tập hồ sơ dày, và nhìn xuống ghi chú viết bằng tay trước mặt ông ta.

- Thiếu tá Saeed là người chịu trách nhiệm, thưa Tổng thống, - viên Đại tướng trình bày. - Chính anh ta đã để cho bọn ngoại đạo tẩu thoát cùng với bản Tuyên ngôn, và vì sao lúc này xác anh ta vẫn đang treo ở Quảng trường Tobrir để cho nhân dân chứng kiến.

Viên Đại tướng chăm chú lắng nghe câu hỏi kế tiếp của Tổng thống.

- Vâng, thưa Sayedi, - ông ta trấn an cấp lãnh đạo. - Hai tên trong bọn khủng bố đã bị giết chết bởi các vệ binh thuộc trung đoàn của tôi. Chúng là hai tên quan trọng nhất trong đội. Chúng đã thoát khỏi sự kiềm chế của Thiếu tá Saeed trước khi tôi đến. Hai tên kia là giáo sư người Mỹ và cô gái.

Tổng thống hỏi một câu khác.

- Không, thưa Tổng thống. Kratz là viên sĩ quan chỉ huy, và đích thân tôi đã bắt được tên lãnh đạo Do thái khét tiếng này trước khi chất vấn hắn ta một cách chi ly. Chính trong cuộc thẩm vấn đó, tôi đã khám phá ra rằng kế hoạch ban đầu là ám sát ngài, thưa Sayedi, và tôi bảo đảm rằng hắn ta, cũng như những kẻ trước đây, đã thất bại.

Viên Đại tướng đã không có được câu trả lời đã tập dượt kỹ từ trước cho câu hỏi tiếp theo của Tổng thống, và ông ta nhẹ nhõm khi viên Biện lý Chính phủ can thiệp.

- Có lẽ chúng ta có thể biến đổi toàn bộ vụ này thành lợi thế cho chúng ta, thưa Sayedi.

- Làm sao có thể được, - vị Tổng thống la lớn, - khi hai tên trong bọn đã tẩu thoát cùng với bản Tuyên ngôn và bỏ lại cho chúng ta một bản sao vô dụng mà bất cứ ai có thể đánh vần từ "British" cũng sẽ nhận thấy ngay là một bản giả? Không, chính tôi đã bị biến thành một kho trò cười cho cả thế giới, chứ không phải Clinton.

Mọi cặp mắt giờ đây đều dỗ dồn về phía viên Biện lý.

- Không nhất thiết phải như thế, thưa Tổng thống. Tôi tin chắc rằng khi người Mỹ trông thấy báu vật yêu quý của họ, họ sẽ không vội vã trưng bày lại ở viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.

Lần này Tổng thống ngắt lời, vì thế viên Biện lý nói tiếp:

- Thưa Tổng thống. Chúng ta cũng biết rằng, do thiên tài của ngài, tấm giấy da hiện trưng bày ở Washington cho công chúng Mỹ không hề hoài nghi là, theo đúng lời ngài vừa nói, "một bản sao vô dụng mà bất cứ một ai có thể đánh vần từ "British" cũng sẽ nhận thấy ngay là một bản giả".

Sắc mặt của Tổng thống lúc này chợt có vẻ tập trung.

- Thưa Sayedi, có lẽ đã đến lúc thông báo cho các hàng thông tấn trên thế giới về chiến thắng của ngài.

- Chiến thắng của tôi - Tổng thống hỏi lại với vẻ không tin.

- Thưa Sayedi. Chiến thắng của ngài, chưa kể tấm lòng độ lượng của ngài. Xét cho cùng, chính ngài đã ra lệnh trao bản Tuyên ngôn tả tơi đó cho giáo sư Bradley sau khi tên găng tơ Cavalli đã cố tìm cách bán cho ngài.

Sắc mặt Tổng thống biến sang vẻ trầm tư.

- Ở phương Tây có một ngạn ngữ, - viên Biện lý nói thêm, - về việc giết hai con chim bằng một viên đá.

Một sự im lặng lâu dài theo sau, trong thời gian đó không một ai bày tỏ ý kiến cho tới khi Tổng thống mỉm cười.

Chú thích:

(1) Kurdistan: vung đất ở tây nam châu Á với cư dân đa số thuộc dân tộc Kurd, chiếm cứ phía Đông Nam Thổ Nhĩ Kỳ, Bắc Iraq và Tây Bắc Iran.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,745
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35


Bản tường trình chính thức do Chính phủ Iraq công bố vào ngày 2 tháng 7 là không có sự thực trong đó, bản báo cáo nói rằng đã xảy ra một vụ chạm súng ở cửa đồn biên giới tại Kirkuk, trong đó mấy quân nhân Iraq đã chết và nhiều người khác bị thương.

Các nhà lãnh đạo người Kurd không thế bày tỏ bất cứ ý kiến nào về vấn đề này, trong lúc hai máy điện thoại vệ tinh duy nhất trong phần đất Kurdistan thuộc Iraq thường xuyên bận với những yêu cầu giúp đỡ từ Bộ Ngoại giao Mỹ ở Istanbul.

Khi Charles Streator, vị đại sứ Mỹ ở Istanbul nghe viên Trưởng phòng của Reuters ở Trung Đông điện thoại hỏi tại sao một chiếc phi cơ phản lực của không lực Mỹ đã đáp xuống căn cứ Mỹ ở Silope trên biên giới Thổ Nhĩ Kỳ, rồi trở về Washington với hai hành khách không ai biết danh tánh, vị đại sứ đã nói với ông bạn cũ rằng ông hoàn toàn không hay biết gì về điều ông ta nói. Viên Trưởng phòng vẫn xem vị đại sứ là một con người chân thật, mặc dù ông ta nhìn nhận rằng một phần công việc của ông ấy là nói dối vì lợi ích của đất nước mình.

Thực ra, vị đại sứ đã thức suốt đêm tiếp theo sau một cú điện thoại của vị ngoại trưởng yêu cầu một chiếc trong số phi cơ trực thăng của họ sẽ được phái đến vùng phụ cận của Kirkuk để đón năm người, một Mỹ, một A rập và ba Do thái rồi đưa họ về căn cứ ở Silope.

Vị đại sứ đã gọi Washington sau đó vào sáng hôm ấy để báo tin cho Warren Christopher rằng đáng tiếc chỉ có hai người qua được biên giới mà còn sống: một người Mỹ có tên là Scott Bradley và một phụ nữ Do thái tên Hannah Kopec. Ông không có tin tức nào về ba người kia.

Vị đại sứ Mỹ hoàn toàn bối rối trước câu hỏi cuối cùng của vị ngoại trưởng: giáo sư Breađley có mang theo một cái ống giấy hay không? Vị đại sứ chỉ thất vọng vì thông tín viên Reuters đã không hỏi ông câu đó, để cho ông có thể nói thật với ông ta khi trả lời: "Tôi hoàn toàn không hay biết gì về điều anh nói".

***

Scott và Hannah ngủ trong phần lớn chuyến bay trở về Mỹ. Khi họ bước ra khỏi máy bay ở căn cứ không quân Andrews, họ nhận thấy Dexter Hutchins ở cuối cầu thang đang chờ đợi để chào đón họ. Không một ai trong bọn họ ngạc nhiên khi hải quan tỏ ra không mấy quan tâm đến cái túi bằng vải bạt của Scott. Một chiếc xe hơi của CIA nhanh chóng chở họ về hướng Washington.

Trong cuộc hành trình vào thủ đô, Dexter thông báo với họ rằng họ sẽ đi thẳng tới Nhà Trắng để tham dự một phiên họp tối cao, và tường trình mọi việc cho nhiều người khác sẽ hiện diện tại đó.

Họ được đón tiếp ở khu tiếp tân Cánh Tây bởi viên Chánh văn phòng của Tổng thống, ông này dẫn họ tới Văn phòng Bầu dục. Scott không thể không có cảm nghĩ rằng, bởi vì đây là cuộc gặp gỡ đầu tiên của anh với Tổng thống, đáng lẽ anh nên cạo râu vào một lúc nào đó trong hai ngày vừa qua, và không nên mặc nguyên bộ áo quần mà anh đã dùng suốt ba ngày vừa rồi.

Warren Christopher có mặt ở đó để chào đón họ tại cửa văn phòng Bầu dục, và ông giới thiệu Scott với Tổng thống Clinton tựa hồ họ là những người bạn cũ. Bill Clinton chúc mừng Scott trở về nhà, và cám ơn Hannah về vai trò mà nàng đã đóng trong việc bảo đảm cuộc trở về an toàn của bản Tuyên ngôn.

Scott thích thú gặp Calder Marshall lần đầu tiên. Ông Mendelssohn lần thứ hai và tái ngộ với Dollar Bill.

Dollar Bill cúi đâu chào Hannah.

Bây giờ tôi mới biết tại sao ông giáo sư sẵn lòng băng qua trái đất để mang cô về, - đó là tất cả những gì ông già Ái Nhĩ Lan nói.

Sau lúc bắt tay nhau, không một người nào có thể che giấu sự nóng lòng trông thấy bản Tuyên ngôn. Scott liền mở dây kéo túi xách và cẩn thận lấy ra một cái khăn tắm từ đó anh rút bản tài liệu trước khi trao lại cho người chịu trách nhiệm chính thức là vị ngoại trưởng. Christopher từ từ trải tấm giấy da. Không một ai trong phòng có thể che giấu vẻ chán ngán trước tình trạng của bản Tuyên ngôn.

Vị ngoại trưởng chuyển bản tài liệu cho Viện trưởng Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia lúc bất giờ đang cùng với viên chuyên gia bảo vệ và Dollar Bill bước tới khung cửa sổ rộng lớn trông ra bãi cỏ phía Nam. Từ đầu tiên họ kiểm tra là "Brittish", và vị Viện trưởng mỉm cười.

Nhưng chỉ một lát sau đó, Calder Marshall thông báo nhận xét kết hợp của họ.

- Đây là một bản giả.

- Làm sao ông có thể chắc chắn như thế - Vị Tổng thống hỏi.

- Mea culpa(1) - Dollar Bill nói, có vẻ ngượng ngùng.

- Như thế có nghĩa là Saddam còn đang giữ bản gốc? - vị ngoại trưởng hỏi với vẻ không tin.

- Không thưa ông. Ông ta chỉ có bản sao mà Scott đã đưa tới Baghad, - Dollar Bill nói - Như thế rõ ràng là ông ta đã giữ một bản trước khi Scott hoán đổi.

- Vậy thì ai giữ bản gốc? - bốn người còn lại cùng hởi.

- Tôi đoán là Alfonso Mario Cavalli, - Dollar Bill đáp.

- Hắn ta là ai? - vị Tổng thống hỏi, vẫn chưa biết gì hơn.

- Người đã trả tiền cho tôi để làm bản sao hiện ở trong viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. - Dollar Bill nói, - và đó là người tôi đã giao bản sao thứ hai duy nhất mà tôi hiện đang giữ trong tay.

- Nhưng với từ "Brittish" đã được viết lại với hai chữ "t" thì ông làm sao có thể quả quyết đây là một bản giả. - Dexter Hutchins hỏi.

- Bởi vì, trong năm mươi sáu chữ ký trên bản Tuyên ngôn gốc, sáu chữ có tên thánh là George… Năm người trong số đó ký "Geo", là theo kiểu thông dụng vào thời ấy. Chỉ có George Wythe ở Washington ký trọn tên. Trên bản sao mà tôi đưa cho Cavalli, tôi đã phạm một sai lầm là viết luôn "Geo" cho Nghị sĩ Wythe, và sau đó phải thêm vào mấy chữ "rge". Mặc dù nét chữ vẫn hoàn hảo, tôi đã sử dụng một ánh mực đã nhạt hơn. Một sai lầm nhỏ, chỉ có con mắt chuyên nghiệp mới có thể thấy rõ.

- Và ngay cả lúc bấy giờ, chỉ khi bọn chúng biết chúng ta đang tìm cái gì, - Mendelssohn nói thêm.

- Tôi không hề nói cho Cavalli biết, - Dollar Bill tiếp lời - bởi vì ngay sau khi kiểm tra từ "Brittish", hắn ta đã hoàn toàn mãn nguyện.

- Thế là, vào một lúc nào đó chắc chắn Cavalli đã đổi bản sao của hắn ta với bản gốc, rồi đưa bản sao cho Al Obaydi? - Dexter Hutchins nói.

- Tốt đấy. Ông Phó giám đốc, - Dollar Bill nói.

- Và Al Obaydi lại đưa bản sao cho viên Đại sứ Iraq ở Geneva, rồi ông này lại giao cho Saddam ở Iraq. Và, trong lúc Al Obaydi đến xem bản sao của Dollar Bill trưng bày ở Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia với từ "Brittish" đúng chính tả, hắn ta đã tin chắc rằng mình đang nắm bản gốc. - Dexter Hutchins nói.

- Cuối cùng ông đã hiểu trọn vấn đề, - Dollar Bill nói.

- Thật ra đáng lẽ tôi phải biết Cavalli có khả năng làm việc đó khi tôi nói với ông cách đây một tháng: "Không còn có danh dự kẻ cướp nữa hay sao?"

- Thế thì hiện giờ bản gốc ở đâu? - vị Tổng thống hỏi.

- Tôi tin chắc nó đang treo trên một bức tường trong một ngôi nhà bằng sa thạch ở Manhattan, - Dollar Bill nói, - chắc nó đã ở đấy suốt mười tuần nay.

Bóng đèn trên giá để máy điện thoại bên tay phải Tổng thống chợt bắt đầu lóe sáng. Viên Chánh văn phòng của Tổng thống liền nhấc máy lên và lắng nghe. Con người thường ngày không bao giờ bối rối bỗng tái mét. Ông ta vội nhấn nút đợi.

- Thưa Tổng thống, Bernie Shaw ở CNN vừa gọi cho tôi. Anh ta nói Saddam đang tuyên bố rằng vụ oanh tạc Baghdad cuối tuần vừa qua không có gì khác hơn là một bình phong được dựng lên đế cho một nhóm khủng bố Mỹ có cơ hội thu hồi bản Tuyên ngôn Độc lập mà một băng Maia đã cố bán cho ông ta và ông ta đã đích thân hoàn trả lại cho một người tên là Bradley. Bề ngoài Saddam có vẻ gần như hối tiếc về tình trạng của bản Tuyên ngôn, nhưng ông ta đã cho lên truyền hình nhiều tấm ảnh của Bradley đang nhổ nước bọt và giẫm chân lên bản Tuyên ngôn rồi đóng đinh nó vào bức tường. Nếu Tổng thống không tin Saddam, anh ta có thể nói ngài kiểm tra bàn sao của bản Tuyên ngôn đang trưng bày ở Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, bởi vì bất cứ một ai có thể đánh vần từ "Brittish" đều sẽ nhận thấy đó là một bản giả. Shaw hỏi Tổng thống có lời bình luận gì hay không, trong lúc Saddam dự định tổ chức một cuộc họp báo vào sáng ngày mai cho cả thế giới biết sự thật.

Vị Tổng thống chúm môi.

- Tôi dám cá Saddam đã cho CNN một độc quyền về câu chuyện này, nhưng có lẽ chỉ cho tới ngày mai, - viên Chánh văn phòng nói thêm.

- Bất kể là gì, Dexter Hutchins nói, - hãy cố ngăn chặn đừng cho lan truyền tin này trong đêm nay.

Viên Chánh văn phòng ngần ngại một lúc cho tới lúc ông ta trông thấy vị Tổng thống gật đầu đồng ý. Ông ta liền nhấn nút nối tiếp cuộc điện đàm.

- Nếu anh muốn lan truyền một câu chuyện như thế, Bernie, sẽ rất nguy hiểm cho tiếng tăm của anh, chứ không phải của tôi.

Viên Chánh văn phòng thận trọng lắng nghe câu trả lời của Shaw trong khi mọi người khác trong phòng đợi chờ trong im lặng.

- Xin cứ tự nhiên, - đó là lời nói cuối cùng của viên Chánh văn phòng trước khi ông ta đặt máy điện thoại xuống.

Ông ta quay sang vị Tổng thống và nói:

- Shaw nói anh ta sẽ phái một nhóm người đến bên ngoài Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia lúc mở cửa vào thời giờ sáng ngày mai, và tôi xin kể lại nguyên văn: Nếu từ "British" viết đúng chính tả, anh ta sẽ lên án ngài.

Vị Tổng thống ngước lên nhìn chiếc đồng hồ xe ngựa đặt trên bệ lò sưởi phía dưới bức chân dung của Abraham Lincoln. Lúc này là bày giờ quá mấy phút. Ông quay tròn chiếc ghế ông đang ngồi để đối diện với vị Phó giám đốc cơ quan CIA.

- Ông Hutchins, - Ông nói, - Ông có mười lăm tiếng đồng hồ để ngăn chặn tôi bị lên án. Nếu ông thất bại tôi có thể bảo đảm với ông tôi sẽ không dám đến đây một lần thứ hai trong ba năm, chứ đừng nói là ba ngày.

Chú thích:

(1) Tiếng Latin có nghĩa là: do lỗi của tôi, tôi chịu trách nhiệm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,745
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36


Sự rò rỉ bắt đầu vào lúc sáng sớm ngày chủ nhật 4 tháng 7, trong tầng hầm số 21, nhà của gia đình Preston đang đi nghi mát ở Malibu.

Khi người quản gia Mễ tây cơ của họ mở cửa lúc quá nửa đêm chừng vài phút, bà ta nghĩ tai chuyện tồi tệ nhất.

Một dân di cư bất hợp pháp không có "Thẻ xanh"(1) sống trong nỗi sợ hãi hàng ngày sẽ có một viên chức chính phủ đến hỏi thăm.

Bà quản gia nhẹ nhõm khi phát hiện những viên chức đặc biệt này chỉ là người của công ty khí đến. Không cần phải nói nhiều lời, bà ta đồng ý đi theo họ xuống tầng hầm của ngôi nhà bằng sa thạch và chỉ cho họ nơi lắp đặt đồng hố khí đốt.

Ngay sau khi họ vào được nơi này chỉ cần miếng giấy và làm xong công việc. Việc nới lỏng hai van khí đốt bảo đảm một sự rò rỉ nhỏ gây ra một mùi có thể báo động bất cứ một người không chuyên môn nào. Chuyên gia chất nổ đã cam đoan với cấp trên rằng sẽ không có ai quản ngại về một nguyên nhân thực sự nào, miễn là Sở Cứu hoả New York đến nơi trong vòng hai mươi phút.

Viên chức lớn tuổi yêu cầu bà quản gia gọi điện thoại cho Sở Cứu hoả và báo cho họ hay rằng ở nhà số 21 có một vụ rò rỉ khí đốt, nếu không giải quyết nhanh sẽ gây nên một vụ nổ. Ông ta cho biết đúng số điện thoại cần gọi.

Bà quản gia liền quay số 911 và cuối cùng khi đường dây đã được chuyển tới Sở Cứu hoả, bà ta lắp bắp trình bày vấn đề nói thêm rằng số 21 đường 75 ở giữa Park và Madison.

- Hãy đưa mọi người trong toà nhà ra ngoài, - viên trường Sở Cứu hoả hướng dẫn, - và chúng tôi sẽ đến ngay.

- Vâng thưa ông, - bà quản gia nói. không ngừng lấy một giây trước khi bỏ chạy ra đường.

Viên chuyên gia nhanh chóng sửa chữa lại thiết bị anh ta đã gây nên, nhưng mùi khí đốt vẫn còn.

Thật đáng khen là bảy phút sau, một chiếc xe của Sở Cứu hoả New York được trang bị sẵn câu móc và thang hú còi inh ỏi phóng tới đường 75. Ngay sau khi viên trưởng Sở Cứu hoả kiểm soát kỹ tầng hầm của nhà số 21, ông ta đồng ý với viên chức công ty khí đốt - người mà trước kia ông ta chưa hề gặp, rằng cần phải kiểm tra an toàn các nhà số 17, 19, 23 và 25, nhất là vì ống khí đốt chạy song song với hệ thống thoát nước của thành phố.

Lúc bấy giờ vị Phó giám đốc của cơ quan CIA mới rút lui về phía xa của con đường để quan sát viên trưởng Sở Cứu hoả làm công việc của ông ta. Vì tiếng còi đã đánh thức hầu hết mọi người trong khu phố, việc thuyết phục những người ở trong nhà ra ngày đường tỏ ra không mấy khó khăn.

Dexter Hutchins đốt một điếu xì gà và chờ đợi. Ngay lúc rời khỏi Nhà Trắng, ông đã bắt đầu tập hợp một đội nhân viên chọn lọc, hẹn gặp nhau trong một khách sạn ở New York hai giờ sau đó để nghe phổ biến phương án tác chiến, hay là, nói cho đúng hơn, chỉ nghe phổ biến một nữa. Bởi vì ngay sau khi vị Phó giám đốc giải thích với họ rằng đây là một cuộc điều tra cấp 7, các nhân viên kỳ cựu nhận thức được họ sẽ chỉ được cho biết một nửa câu chuyện, và không phải là nữa hay hơn.

Phải mất hai giờ nữa họ mới được nghỉ giải lao lần đầu, khi một người trong số nhân viên khám phá ra rằng gia đình Preston ở nhà số 21 đang đi nghỉ mát. Dexter Hutchins và chuyên gia về chất nổ của ông đã đến thềm nhà số 21 ngay sau nửa đêm. Người phụ nữ di cư Mé tây cơ không có Thẻ xanh hoá ra là một món quà.

Vị Phó giám đốc đốt lại điếu xì gà, mắt không rời một khung cửa đặc biệt. Ông thở ra một hơi dài khi Tony Cavalli và ông bố của y ló người ra trong chiếc áo khoác, theo sau là một viên quản gia. Ông quyết định tốt hơn là nên chờ thêm vài phút nữa trước khi yêu cầu viên trưởng Sở Cứu hoả cho phép ông kiểm tra căn nhà số 23.

Toàn bộ công việc lẽ ra đã được triển khai sớm hơn nhiều nếu Calder Marshall không cản trở ý kiến lấy bản Tuyên ngôn ra khỏi tầng hầm ngầm của Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia và giao việc đó cho Dexter Hutchins sắp xếp. Viện trưởng Viện Bảo tàng đặt hai điều kiện trước khi ông chấp thuận yêu cầu của vị Phó giám đốc: nếu CIA thất bại trong việc thay thế bản giả bằng bản gốc trước mười giờ sáng hôm sau, đơn từ chức của Marshall đề ngày 25 tháng 5 sẽ được thông báo một giờ trước khi Tổng thống hoặc Ngoại trưởng lên tiếng tường trình sự việc.

- Còn điều kiện thứ hai của ông, ông Marshall? - Tổng thống hỏi.

- Là ông Mendelssohn sẽ được phép hành động với tư cách một người trông nom bản sao còn lại với ông Phó Giảm đốc bất cứ lúc nào, như thế ông ấy sẽ có mặt nếu người ta tìm ra vị trí bản gốc.

Dexter Hutchins nhận thấy ông không thể lựa chọn gì khác ngoại trừ theo các điều kiện của Marshall. Vị Phó Giám đốc nhìn qua viên chuyên gia bảo vệ đang đứng giữa Scott và chuyên gia về chất nổ trên lề đường đối diện với nhà số 23. Dexter Hutchins phải thừa nhận rằng Mendelssohn trong vai một viên chức của công ty khí đốt còn dễ tin hơn bất cứ ai khác trong đội ông.

Ngay lúc Hutchins trông thấy hai người trong số nhân viên của ông ló dạng ra khỏi nhà số 19, ông dụi tắt điếu xì gà và lững thững đi về phía viên trưởng Sở Cứu hoả. Ba người đồng nghiệp của ông theo sau ông chừng vài bước.

- Lúc này chúng tôi có thể kiểm tra nhà số 23 được chưa? - Ông hỏi một cách lơ là.

- Được rồi. - viên trưởng Sở Cứu hoả nói - Nhưng chủ nhà đòi phải có viên quản gia theo sát các ông.

Hutchins gạt đầu đồng ý. Viên quản gia liền dẫn bốn người vào tiền sảnh, xuống tầng hầm và thẳng tới chiếc tủ đặt hệ thống cung cấp khí đốt. Anh ta bảo đảm với họ không hề có chút mùi khí đốt nào trước khi anh ta lên giường, một lúc sau khi chủ nhà đi ngủ.

Viên chuyên gia chất nổ làm công việc của mình một cách khéo léo, và trong chốc lát căn hầm sặc mùi khí đốt.

Hutchins liền khuyên viên quản gia vì một sự an toàn bản thân anh ta nên trở ra đường. Với một cái khăn tay bịt mũi và miệng, Martin miễn cưỡng đồng ý, bỏ mặc họ cố xác định chỗ rò rỉ.

Trong khi viên chuyên gia sửa chữa hư hỏng, Scott và Dexter bắt đầu kiểm tra từng căn phòng ở tầng hầm. Scott là người đầu tiên bước vào văn phòng của Cavalli và phát hiện tấm giấy da treo trên tường, đúng nơi Dollar Bill đã cam đoan sẽ tìm thấy nó. Trong vòng mấy giây, hai người kia tới gặp anh. Medelssohn khoái chí nhìn bản tài liệu.

Ông ta kiểm tra từ "brittish" trước khi nhẹ nhàng dỡ khung kính ra khỏi tường và đặt lên bàn phòng họp. Scott mở dây kéo túi dụng cụ lớn mà một nhân viên đã bỏ vào mọi thứ hồi tối, gôm các tuốc nơ vít đủ cỡ, các con dao từ ngắn đến dài, các cây đục từ hẹp đến rộng và có cả một cần khoan nhỏ, quả thực đủ mọi thứ cần thiết cho một thợ làm khung ảnh chuyên nghiệp.

Viên chuyên gia bảo vệ kiểm tra mặt sau của khung kính và yêu cầu một tuốc nơ vít cỡ trung. Scott chọn một cái và đưa qua cho ông ta.

Một cách chậm rãi và có phương pháp, Mendelssohn tháo tất cả tám đinh vít giữ hai cái kẹp lớn bằng thép dính vào mặt sau của khung kính. Rồi ông ta lật tấm kính ở phía trước. Dexter Hutchins không thể không có ý nghĩ đáng lẽ ông ta phải khẩn trương hơn một chút.

Viên chuyên gia bảo vệ chẳng để ý tới sự nôn nóng của vị Phó giám đốc, lục lọi trong túi xách cho tới lúc ông ta chọn được một cái đục thích hợp. Ông ta chèn nó vào nửa hai tấm kính ép sát nhau ở góc phải trên cùng của cái khung. Trong thời gian đó, Scott rút ra khỏi ống do Meldelssohn cung cấp bản sao của bản Tuyên ngôn mà họ đã lấy khỏi Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.

Khi viên chuyên gia bảo vệ nâng tấm kính phía trên lên và tựa vào bàn phòng họp. Scott có thể trông thấy qua nụ cười của ông ta rằng ông ta tin tưởng mình đang nhìn xuống bản gốc.

- Nhanh lên, - Dexter nói, - nếu không bọn họ sẽ bắt đầu nghi ngờ đấy.

Meldelssohn dường như không nghe lời hối thúc của vị Phó giám đốc. Một lần nữa, ông ta kiểm tra lỗi chính tà của từ "Brittish" và mãn nguyện chuyển sự chú ý sang năm từ "Geo" và một từ "George" trước khi liếc qua, thoạt tiên nhanh và từ từ trên phần còn lại của tấm giấy da. Nụ cười không hề rời khỏi khuôn mặt ông ta.

Không nói một tiếng nào, viên chuyên gia bảo vệ từ từ cuốn bản gốc lại, và Scott thay thế nó bằng bản sao lấy từ Viện Bảo tàng. Ngay sau khi Scott đặt hai tấm kính trở lại vị trí, anh bắt vít hai cái kẹp thép vào chỗ cũ.

Mendelssohn đặt cái ống vào trong túi dụng cụ, trong lúc Scott treo bản sao lên tường.

Cả hai người đều nghe tiếng thở dài nhẹ nhõm của Dexter Hutchins.

- Bây giờ chúng ta hãy ra khỏi đây, - vị Phó giám đốc nói trong lúc sáu cảnh sát viên súng cầm tay hối hả chạy vào phòng và vây quanh họ.

- Đứng yên! - một người trong bọn họ nói lớn.

Mendelssohn ngất xỉu.

Chú thích:

(1) Green Card: thẻ đăng ký, lúc đầu có màu xanh lá cây, cho phép một người nước ngoài được sống và làm việc trong nước Mỹ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,745
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37


Tất cả bốn người bị bắt, tay bị còng và nghe đọc to các quyền của họ. Rồi họ được chở xe tách rời nhau tới khu vực cành sát 19.

Khi họ bị thẩm vấn, ba người từ chối nếu không có sự hiện diện của một luật sư. Người thứ tư giải thích với viên trung sĩ tiếp tân rằng nếu cái túi xách mà ông vừa bị tước đoạt được mở ra bất cứ lúc nào chưa có sự hiện diện luật sư của ông, một cái trát sẽ được ban hành và sẽ có một vụ kiện riêng đối với Sở Cảnh sát New York.

Viên trung sĩ tiếp tân nhìn người đàn ông ăn mặc chỉnh tề có vẻ khác thường và quyết định không nên mạo hiểm. Anh ta gắn một cái nhãn đỏ vào cái túi và liệng nó vào chiếc tủ sắt.

Cũng chính người đàn ông đó yêu cầu gọi một cú điện thoại theo quyền hợp pháp của ông. Lời yêu cầu được chấp thuận, nhưng phải sau khi một mẩu giấy được điền vào và ký tên, Dexter Hutchins liền gọi cho vị Giám đốc của cơ quan CIA lúc 2 giờ 27 phút sáng.

Vị Giám đốc thú thực với cấp dưới rằng ông đã không thể nào ngú được. Ông chăm chú lắng nghe bản báo cáo của Hutchins và khen ông đã không tiết lộ danh sách hoặc bất cứ chi tiết nào về nhiệm vụ bí mật cho cảnh sát biết.

- Chúng ta không cần bất cứ người nào biết các anh là những ai, - Ông nói thêm. Chúng ta phải chắc chắn trong mọi lúc không làm bận tâm Tổng thống.

Ông dừng lại một lát rồi tiếp:

- Hoặc quan trọng hơn nữa, cho CIA.

Khi Phó giám đốc đặt điện thoại xuống, ông và ba đồng nghiệp của ông bị xô đẩy vào những phòng giam riêng.

Vị Giám đốc của cơ quan CIA mặc chiếc áo khoác và đi xuống phòng làm việc. Sau khi ông chép lại tóm tắt cuộc nói chuyện với viên phó của mình, ông kiểm tra một số trong máy vi tính trên bàn. Ông chậm rãi quay mã số vùng 212.

Vị Giám đốc Sở Cảnh sát New York thốt lên những lời nói chọn lọc kỹ khi ông trả lời điện thoại, cho tới lúc ông đủ cảnh giác để hiểu rõ người đang hết sức tỉnh táo ở đầu kia đường dây. Rồi ông bật sáng ngọn đèn bên cạnh giường và bắt đầu ghi chép lên một tập giấy. Vợ ông trở mình, và cũng nói mấy lời chọn lọc kỹ riêng phần bà.

Vị Giám đốc CIA chấm dứt câu chuyện với lời bình luận:

- Tôi mang ơn ông một việc.

- Hai chứ, - vị Giám đốc Sở Cảnh sát nói - Việc thứ nhất là tôi được cố gắng giải quyết vấn đề của ông.

- Còn việc thứ hai? - vị Giám đốc CIA hỏi.

- Đánh thức vợ tôi vào lúc ba giờ sáng.

Vị Giám đốc Sở Cảnh sát còn ngồi trên mép giường, trong khi ông tìm số điện thoại nhà riêng của viên Đại uý phụ trách khu vực cảnh sát đặc biệt kia.

Viên Đại uý nhận được giọng nói của cấp trên ngay lúc ông ta nhấc máy điện thoại lên, và chỉ nói như đây là một cú điện thoại trong đêm bình thường.

- Chào ông Giám đốc.

Vị Giám đốc tóm tắt mọi việc cho viên Đại ý nghe mà không hề nhắc tới cú điện thoại của vị Giám đốc CIA hoặc cho biết bất cứ manh mối nào về bốn người đang mòn mỏi chờ đợi trong phòng giam ban đêm là những ai - mặc dù bản thân ông biết rất rõ. Vị Đại uý hí hoáy viết các sự kiện chính yếu lên mặt sau tạp chí Good Housekeeping của bà vợ ông ta cũng không nghĩ tới chuyện tắm hoặc cạo râu, và nhanh chóng mặc lại bộ quần áo đã dùng ngày hôm trước. Ông ta rời khỏi nhà ở Queens lúc 3 giờ 21 và đích thân lái xe vào Manhattan, bỏ lại xe hơi bên ngoài trụ sở Cảnh sát khu vực lúc gần bốn giờ.

Các viên cảnh sát vẫn còn thức đầy đủ vào giờ giấc sáng sớm đó đều ngạc nhiên khi trông thấy cấp trên chạy lên mấy bậc thềm vào tiền sảnh, nhất là vì ông ta có vẻ nhếch nhác, không cạo râu, và kẹp thêm một cuốn Good Housekeepingdưới nách.

Ông ta sải bước vào phòng của viên trung uý trực ban khiến anh ta vội rút hai chân khỏi mặt bàn.

Viên trung uý có vẻ hoang mang khi được hỏi về bốn người vừa bị bắt trước đó. vì ông ta chỉ mới lấy khẩu cung một tên bán lậu ma tuý.

Viên Trung sĩ tiếp tân được gọi vào gặp viên Đại uý trong văn phòng viên trung uý trực ban. Viên cảnh sát dày dạn từng trải, luôn luôn nghĩ mình đã chứng kiến nhiều chuyện nhất trong ngành, nhìn nhận đang giam giữ bốn người nhưng vẫn còn lúng túng vì toàn bộ sự việc, bởi vì anh ta không sao nghĩ ra bất cứ điều gì để buộc tội họ - cho dù sự thật là một trong số gia chủ, một người tên Antollio Cavalli, đã gọi điện thoại cách đây mấy phút để hỏi bốn người có còn bị tạm giam hay không, vì một chuyện rắc rối đã nảy sinh. Không một ai trong số cư dân báo cáo có vật gì bị lấy mất, như vậy không thể kết tội ăn trộm. Không thể buộc tội vào nhà bât hợp pháp, vì trong mỗi lần họ đều được mời vào. Chắc chắn không thể khép họ vào tội dính líu tới chuyện tấn công và xâm phạm, vì họ rời khỏi nhà ngay lúc họ được yêu cầu. Tội trạng duy nhất viên Trung sĩ có thể nghĩ tới là giả dạng các viên chức của thành phố.

Viên Đại uý tỏ ra không hề quan tâm đến việc viên Trung sĩ tiếp tân có thể tìm ra lý do nào để buộc tội họ hay không. Tất cả những gì ông ta muốn biết là:

- Cái túi đã được mở ra chưa?

- Chưa thưa Đại uý. - viên Trung sĩ vừa nói vừa cố nghĩ anh ta đã để nó ở đâu.

- Thế thì Trung sĩ hãy thả họ ra sau khi đóng tiền bảo lãnh, chờ luận tội sau, - viên Đại uý chỉ thị. - Tôi sẽ giải quyết công việc giấy tờ.

Công việc giấy tờ khiến viên Đại uý mất một thời gian đáng kể, và mãi tới sáu giờ quá mấy phút, họ mới được thả ra.

Khi họ cùng nhau bước xuống thềm trụ sở Sở cảnh sát khu vực, người nhỏ nhắn mang kính trắng nắm chặt cái túi vẫn chưa được mở ra.

***

Antonio Cavalli giật mình thức dậy. Y đã nằm mơ thấy mình bị lôi ra khỏi giường vứt ra ngoài đường phố vào giữa đêm khuya.

Y bật ngọn đèn bên cạnh giường và chụp lấy chiếc đồng hồ. Lúc bấy giờ là 0 giờ 47. Y bắt đầu nhớ lại chuyện đã xảy ra vài giờ trước đó.

Ngay sau khi họ ra ngoài đường, Martin đã đi theo bốn người đàn ông trở vào trong nhà. Quá nhiều đối với một vụ rò rỉ khí đến đơn giản, Cavalli nghĩ. Và viên chức của công ty khí đến nào mà lại hút xì gà và có đủ tiền mua một bộ com lê ở cửa hàng Saks trên Đại lộ 5. Sau khi họ đã ở bên trong khoảng mười lăm phút, Cavalli lại càng nghi ngờ hơn nữa. Y liền hỏi viên trưởng Sở Cứu hoả là ông ta có quen biết với bốn người kia không. Viên Trưởng Sở nhìn nhận rằng, mặc dù họ đã có thể cho ông ta biết đúng mã số qua điện thoại, ông ta chưa từng gặp họ bao giờ. Ông ta cho rằng Cavalli có lý khi y gợi ý rằng có lẽ đã đến lúc kiểm tra lại với Consolidated Edison. Nhân viên phụ trách tổng đài của nơi này cho y biết rằng họ không có các kỹ sư nào ra ngoài vì được gọi điện thoại đêm hôm ấy để xuống Đường 75. Viên trưởng Sở Cứu hoả chuyển ngay tin tức này cho Sở Cảnh sát. Vài phút sau, sáu cảnh sát viên đã tiến vào nhà số 23 và bắt cả bốn người đàn ông.

Sau khi bọn họ được đưa về Sở Cảnh sát, bố y và Martin đã giúp Tony kiểm tra từng phòng trong nhà, nhưng theo họ trông thấy thì không thiếu món gì. Họ đi ngủ lại lúc 1 giờ 45.

Giờ đây, Cavalli hoàn toàn tỉnh táo, mặc dù y có ý nghĩ mình vừa nghe một tiếng động từ tầng trệt. Có phải đó cũng chính là tiếng động đã đánh thức y? Tony xem đồng hồ một lần nữa. Bố y và Martin vẫn thường dậy sớm, nhưng ít khi vào khoảng giữa ba và bốn giờ sáng.

Cavalli xoay mình ra khỏi giường và đặt chân lên nền nhà. Y vẫn còn có cảm tưởng rằng chắc chắn y đã nghe được nhiều tiếng nói.

Y choàng một chiếc áo khoác và bước tới cửa phòng ngủ. Y từ từ mở cửa, đi ra ngoài tới đầu cầu thang và liếc qua dãy lan can. Y có thể trông thấy một làn ánh sáng chiếu ra từ phía dưới cửa phòng làm việc của bố y.

Y liền di chuyển nhanh qua dãy cầu thang độc nhất và lặng lẽ băng qua hành lang lót thảm cho đến khi dừng lại bên ngoài phòng làm việc. Y cố nhớ lại khẩu súng gần nhất ở nơi nào.

Y thận trọng lắng nghe, nhưng không sao nghe được một tiếng chuyển động nào từ bên trong. Rồi đột nhiên, một giọng nói tầm bắt đầu lớn tiếng nguyền rủa! Tony liền mở tung cửa và tìm thấy bố y, cũng đang mặc một chiếc áo khoác, đứng phía trước bản Tuyên ngôn Độc lập và cầm một cái kính lúp trong bàn tay phải. Ông đang nghiên cứu từ "British"

- Bố cảm thấy ổn cả chứ? - Tony hỏi bố y.

- Lẽ ra con phải giết chết Dollar Bill khi ba đã bảo con. - đó là lời bình luận duy nhất của bố y.

- Nhưng tại sao? - Tony hỏi.

- Bởi vì bọn chúng đã lấy trộm bản Tuyên ngôn đọc lập!

- Nhưng bố đang đứng phía trước nó kia mà, - Tony nói.

- Không, không phải thế, - bố y nói - Con vẫn chưa hiểu bọn chúng đã làm gì hay sao?

- Không, con không biết, - Tony nhìn nhận.

- Bọn chúng đã đổi bản gốc bằng bản sao vô giá trị mà con đã đặt vào trong Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.

- Nhưng bản sao trên tường chính là một bản khác do Dollar Bill tạo ra, - Tony nói - Con đã trông thấy ông ta trao cho bố.

- Không, - bố y nói - Bản của bố là bản gốc, chứ không phải bản sao.

- Con không hiểu, - Tony nói, lúc này hoàn toàn rối tinh rối mù.

Ông già liền quay lại và nhìn thẳng vào mặt con trai ông lần đầu tiên.

- Nick Vicente và bố đã hoán đổi chúng khi con mang bản Tuyên ngôn trở ra khỏi Washington.

Tony nhìn chằm chằm vào bố y trong lúc ông nói tiếp:

- Con không nghĩ ba đã cho phép một phần di sản của đất nước chúng ta rơi vào tay của Saddam Hussein đấy chứ?

- Nhưng tại sao bố đã không cho con hay? - Tony hỏi.

- Và để cho con đi Geneva, mặc dù bố biết con đang giữ một bản giả, trong khi hợp đồng vẫn còn chưa kết thúc hay sao? Không, một phần kế hoạch của bố vẫn là con sẽ tin tưởng bản gốc đã được gởi đến công ty Franchard, bởi vì nếu con tin tưởng như thế, Al Obaydi cũng sẽ tin tưởng như con.

Tony không nói gì.

- Và chắc chắn con sẽ không cãi vã kịch liệt như vậy khi bị mất năm mươi triệu nếu con biết tỏng tòng tong trong tài liệu con đang có ở Geneva chỉ là một bản giả.

- Thế thì bản gốc hiện giờ ở đâu? - Tony hỏi.

- Một nơi nào đó trong văn phòng của khu vực Cảnh sát 19, ba dám cá như vậy, - bố y trả lời. - Và đó là điều ba định tìm hiểu ngay bây giờ.

Nói đoạn. Ông bước tới bàn làm việc và nhấc cuốn niên giám điện thoại lên.

Ông chủ tịch quay bảy con số và yêu cầu nói với sĩ quan trực ban. Ông xem đồng hồ trong khi chờ nối đường dây. Lúc đó là 4 giờ 22.

Khi viên Trung sĩ tiếp tân đến nghe, Cavalli giải thích ông là ai, và hỏi hai câu. Ông cẩn thận lắng nghe hai câu trả lời rồi đặt máy điện thoại lên móc.

Tony khẽ nhếch mày.

- Bọn chúng vẫn còn bị nhốt trong phòng giam và cái túi được cất trong tủ sắt. Chúng ta có trả lương cho một người nào ở khu vực Cảnh sát 19 hay không? - bố y hỏi.

- Có một Trung uý đã làm việc rất ít cho chúng ta trong thời gian gần đây.

- Thế thì đã đến lúc anh ta thi hành nghĩa vụ để đền đáp lại cho chúng ta, - bố y nói trong lúc ông bước về phía cửa.

Tony vượt qua ông. Lên cầu thang từng ba nấc một để trở về phòng ngủ của y. Y mặc y phục trong vòng mấy phút và bước trở xuống cầu thang, tưởng sẽ phải chờ một lúc bố y mới xuất hiện, nhưng ông đứng sẵn ở cửa trước.

Bố y mở khoá cửa và Tony đi theo ông ra ngoài lề đường, vượt qua y để nhìn ngược đường tìm một chiếc taxi vùng. Nhưng không có một chiếc nào chịu quẹo phải vào đường 75 vào giờ giấc này trong buổi sáng.

- Chúng ta sẽ phải đi xe của mình, - bố y lớn tiếng nói trong lúc đã bắt đầu băng qua đường về phía nhà để xe thâu đêm. - Chúng ta không thể lãng phí một phút nào nữa.

Tony phóng trở vào nhà và lấy chùm chìa khoá xe trong hộc bàn ở tiền sảnh. Y bắt kịp bố y trước khi ông tới nơi đậu xe của họ.

Trong lúc Tony buộc dây an toàn, y quay người và hỏi bố y.

- Nếu chúng ta tìm được cách lấy lại bản Tuyên ngôn. lúc đó bố định làm gì?

- Để bắt đầu, bố sẽ đích thân hạ sát Dollar Bill, như thế bố mới chắc chắn rằng hắn ta sẽ không bao giờ tạo ra một bản sao nào nữa. Rồi sau đó…

Tony quay chìa khoá công tắc.

Tiếng nổ kế tiếp đánh thức tất cả mọi người trong vùng lân cận lần thứ hai trong sáng hôm ấy.

***

Bốn người chạy xuống thềm trụ sở Cảnh sát khu vực. Người nhỏ nhắn nhất trong bọn nắm chặt cái túi xách. Một chiếc xe hơi mà động cơ đã nổ sẵn sàng trong suốt giờ qua liền quẹo qua đường và ngừng lại bên cạnh họ. Một trong bốn người chậm bước lại trong ánh sáng lờ mờ của ban mai, vẫn còn chưa chắc tại sao kiến thức chuyên môn của mình đã được đòi hỏi ngay từ đầu.

Dexter Hutchins ngồi vào ghế bên cạnh tài xế, trong khi Scott và chuyên gia bảo vệ trèo nhanh lên băng sau.

- La Guardia, - Dexter nói rồi cám ơn người nhân viên vì đã phải thức nửa đêm.

Scott nhìn qua khoảng giữa hai chiếc ghế phía trước trong lúc đồng hồ điện tử chuyển từ 6:11 sang 6:12.

Viên tài xế lạng ra làn đường bên ngoài.

- Đừng vượt quá tốc độ giới hạn, - Dexter ra lệnh. - Chúng ta không được trễ nải vì bất cứ lý do nào trong giai đoạn này.

Viên tài xế liền thận trọng di chuyển trở vào làn giữa.

- Chuyến bay thường xuyên kế tiếp vào lúc nào? - Scott hỏi.

- Delta, bảy giờ ba mươi. viên tài xế trả lời.

Dexter nhấc máy điện thoại lên và bấm mười số. Một giọng nói ở dầu dây bên kia lên tiếng:

- Tôi đây.

Vị Phó giám đốc chỉ trả lời.

- Chúng tôi đang trên đường đi, thưa ngài. Tất cả có mặt và đúng lúc.

Dexter đặt máy điện thoại và xoay quanh để an tâm rằng viên chuyên gia bảo vệ im lặng vẫn còn ở bên họ. Ông ôm chặt cái túi lúc này đang nằm yên trên chân ông.

- Tốt hơn nên lấy tất cả mọi thứ ra khỏi cái túi, ngoại trừ ống giấy. - Dexter nói - Nếu không chúng ta sẽ không bao giờ có thể qua khỏi lực lượng an ninh.

Mendelssohn liền mở dây kéo của cái túi và cho phép Scott lấy ra những cây tuốc nơ vít, dao, đục và cuối cùng là cần khoan rồi để tất cả lên sàn xe khoảng giữa họ. Sau đó ông ta đóng ngay dây kéo lại.

Lúc 6 giờ 43, viên tài xế tách ra khỏi xa lộ và chạy theo các bảng hiệu tới La Guardia. Không một ai nói gì cho đến khi xe hơi đừng lại ở lề đường lót đá đối diện với lối vào phòng đợi Không lực của Thuỷ quân Lục chiến.

Trong lúc Dexter bước ra khỏi xe hơi, ba người đàn ông nhảy ra khỏi chiếc xe, lách vào lề đường ngay phía sau họ, và dẫn vị Phó giám đốc vào phòng đợi của sân bay. Một người đàn ông khác mặc một com lê chỉnh tề màu xám than, với một chiếc áo mưa trên cánh tay, đưa ra một phong bì trong lúc Dexter đi qua ông ta. Vị Phó giám đốc lấy gói đồ như một vận động viên chạy tiếp sức mà không chậm bước, trong lúc ông tiếp tục về phía phòng đợi lên máy bay: nơi đây ba nhân viên nữa đang chờ đợi ông.

Sau khi đã đăng ký, Dexter Hutchins chỉ thích bước tới bước lui trong lúc chờ lên máy bay, nhưng ông cứ phải đứng bồn chồn bên cạnh bản Tuyên ngôn Độc lập, vây quanh bởi một vòng nhân viên.

"Chuyến bay đi Washington sắp khởi hành ở cổng số 4" - một tiếng nói thông báo trên loa.

Chín người chờ đợi cho tới lúc những người khác đã lên máy bay. Khi nhân viên đứng bên cạnh gật đầu, Dexter dẫn cả đội qua người thu vé, lên cầu thang và vào trong máy bay. Họ ngồi vào các ghế 1A-F và 2A-F. Ghế 2E chỉ dành riêng cho cái túi, còn ghế 2D và F cho hai người đàn ông trong bọn nặng trên hai trăm ký.

Viên phi công chào mừng họ lên máy bay và báo cho họ biết có thể trễ một chút. Dexter xem đồng hồ: 7 giờ 27. Ông bắt đầu nhịp ngón tay tên chỗ tựa tay phân chia ông với Scott. Tiếp viên chuyến bay đưa cho mỗi người trong số chín người ở hàng ghế thứ nhất một tờ USA Today. Chỉ có Mendelssohn nhận tờ báo.

Lúc 7 giờ 59, chiếc máy bay chạy ra phi đạo để chuẩn bị cất cánh. Khi nó chợt dừng lại, Dexter hỏi cô tiếp viên chuyện gì đang gây chậm trễ.

- Sáng sớm nào cũng thế, - cô ta trả lời. - Ông Đại uý vừa cho tôi hay chúng ta là số bảy trong hàng, vì thế chúng ta sẽ cất cánh vào khoảng mười hoặc mười lăm phút nữa.

Dexter tiếp tục nhịp ngón tay lên chỗ tựa tay, trong khi Scott không thể rời mắt khỏi cái túi. Mendelssohn giở một trang khác của tờ USA Today.

Chiếc máy bay quay tròn trên phi đạo, cất cánh lúc 7 giờ 51. Các động cơ phản lực rú mạnh ga trước khi di chuyển từ từ về phía trước, rồi tăng tốc độ. Các bánh xe rời khỏi mặt đất lúc 7 giờ 53.

Trong chốc lát, cô tiếp viên trở lại, dọn điểm tâm cho tất cả mọi người. Cô ta không trả lời một câu rõ ràng cho tới lúc tới hàng ghế thứ bảy. Sau đó cô ta đưa cà phê như thường lệ mỗi sáng cho ba nhân viên phi hành đoàn, cô ta hỏi vị Đại uý tại sao các dãy ghế từ ba tới sáu đều không có người ngồi, nhất là vì hôm nay là ngày lễ Độc lập.

Viên Đại uý không sao nghĩ ra lý do và chỉ nói:

- Cô hãy để mắt tới các hành khách ngồi ở hàng ghế một và hai.

Ông ta lại càng thêm tò mò về chín người ở phía trước máy bay khi ông ta được phép hạ cánh ngay lúc ông ta vừa thông báo cho ban kiếm soát không lưu rằng ông ta còn cách Washington một trăm mười cây số.

Ông ta bắt đầu hạ cánh lúc 8 giờ 33 và đến cổng đúng thời biểu lần đầu tiên từ nhiều tháng nay. Khi ông ta tắt động cơ, ba người lập tức chặn lối đi giữa hai hàng ghế và vẫn đứng đó cho tới lúc vị Phó giám đốc và đoàn người của ông đã vào hết trong phòng đợi của phi trường. Khi Dexter Hutchins ló mặt trong khu vực cổng hãng hàng không Delta, một nhân viên đóng vai John the Baptist(1), trong khi ba người khác ủng hộ phía sau, trong vai môn đồ của ông.

Vị Giám đốc rõ ràng đã xem việc bảo vệ và lôi cuốn sự chú ý là quan trọng. Dexter phát hiện bốn nhân viên khác trong lúc ông đi qua phòng đợi, và tin chắc tối thiểu còn có hai mươi người khác ẩn nấp tại các điểm chiến lược trênđoạn đường ông đi tới chiếc xe hơi.

Trong lúc Dexter đi qua phía dưới đồng hồ điện tử, mấy chữ số màu đỏ chớp sáng 9:01. Hai cánh cửa trượt mở và ông bước ra lề đường. Ba chiếc xe sắp hàng chờ đợi với tài xế bên cạnh cửa.

Ngay lúc họ trông thấy vị Phó giám đốc, tài xế của xe đầu và thứ ba nhảy vào sau tay lái và cho máy nổ, trong khi tài xế xe thứ hai vẫn giữ cửa sau mở để Scott và Mendelsohn bước lên. Vị Phó giám đốc theo nhân viên ở phía trước.

Chiếc xe hơi dẫn đầu hướng về phía Đại lộ George Washington, và trong mấy phút đoàn xe qua cầu đường 14.

Lúc đài kỷ niệm Jefferson hiện ra, Dexter xem đồng hồ một lần nữa. Lúc này là 9 giờ 12.

- Đủ thì giờ chán, - Ông nhận xét.

- Chưa đầy một phút sau, họ đã bị kẹt xe.

- Khỉ thật! - Dexter nói - Tôi đã quên các đường phố sẽ bị ngăn chặn để diễu hành ngày Độc lập.

- Ngay khi họ chỉ di chuyển được thêm tám trăm mét trong ba phút kế tiếp, Dexter liền bảo tài xế họ không còn cách lựa chọn nào khác.

- Hú còi đi! - Ông nói.

Viên tài xế bật đèn chớp, cho còi hù tối đa và quan sát trong lúc chiếc xe dẫn đầu đổi hướng vào làn đường trong và cố giữ một tốc độ đều sáu mươi lăm cây số cho tới khi họ đến xa lộ siêu tốc.

Đến đây, Dexter xem đồng hồ từng ba mươi giây một trong lúc ba chiếc xe hơi cố khéo léo đổi làn đường, nhưng một vài ba công dân Washington chằng thèm xê dịch vì tiếng còi và đèn chớp vẫn không chịu để cho họ chạy qua.

Chiếc xe dẫn đầu ngoặt vào giữa hai rào cản của cảnh sát và quẹo vào đại lộ Constitution lúc 9 giờ 37. Khi Dexter trông thấy những chiếc xe diễu hành đang sắp hàng chờ xuất phát. Ông ra lệnh tắt còi. Điểm cuối cùng ông cần là tránh những con mắt tọc mạch khi rốt cuộc họ dừng lại bên ngoài Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.

Chính Scott là người đầu tiên trông thấy họ. Anh vỗ nhẹ lên vai Dexter và chỉ tay về phía trước. Một đội quay phim của đài truyền hình đang đứng ở đầu một hàng người bên ngoài cổng của Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.

- Chúng ta sẽ không bao giờ qua mặt được họ, - Dexter nói, rồi quay sang Mendelssohn hỏi tiếp - Có đường nào khác vào trong toà nhà không?

- Có một cửa giao hàng ở đường 7, Mendelssohn trả lời.

- Tốt quá, - Dexter Hutchins nói.

- Hãy chạy xe qua cổng trước rồi thả tôi xuống ở góc đường. - viên chuyên gia bảo vệ nói - Tôi sẽ băng ngang đại lộ Constitution và vào theo cửa giao hàng.

- Thả ông xuống ở góc đường à? - Dexter nói với vẻ hoài nghi.

- Nếu tôi bị các nhân viên của ông vây quanh, mọi người sẽ… - Mendelssohn cố gắng giải thích.

- Phải, phải, phải, - vị Phó giám đốc vừa nói vừa cố suy nghĩ.

Ông nhấc máy điện thoại lên và chỉ thị cho hai chiếc xe kia chạy đi chỗ khác.

- Chúng tôi sẽ phải mạo hiểm thôi, - Scott nói.

- Tôi biết, - Dexter nói - Nhưng tối thiểu anh có thể đi với ông ấy. Xét cho cùng, anh không bao giờ có vẻ như một điệp viên.

Scott không sao biết chắc chắn anh có nên xem nhận xét đó có phải là lời khen ngợi hay không.

Trong lúc họ chạy xe từ từ qua Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, Dexter mới rời mắt khỏi đội quay phim đang nôn nóng.

Họ gồm bao nhiêu người? - Ông hỏi.

- Khoảng sáu người. - Scott nói - Và tôi nghĩ chắc là Shaw đang quay lưng về phía chúng ta.

- Ông hãy chỉ cho tôi chính xác nơi ông muốn ngừng lại - vị Phó giám đốc vừa nói vừa quay lại nhìn thẳng vào mặt Mendelsohn.

- Thêm năm chục mét nữa, - Ông ta đáp.

- Anh lấy cái túi đi, Scott.

- Nhưng… - Mendelssohn lên tiếng.

Khi ông ta trông thấy sắc mặt của Dexter Hutchins. Ông ta không dám nói thêm một tiếng nào.

Chiếc xe hơi chạy chậm lại trên đoạn đường dốc rồi ngừng lại. Scott nắm chặt cái túi, nhảy ra và giữ cửa mở cho Mendelssohn. Tám nhân viên đang bước tới bước lui trên đường cố làm ra vẻ ngây thơ, không một ai trong bọn họ nhìn về phía thềm Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Hai ngươi có vẻ không giống bạn đồng hành băng nhanh qua đại lộ Constitution và bắt đầu chạy tới đường 7.

Khi họ đến cửa giao hàng, Scott đối mặt với một người mà anh mới biết ngày hôm trước, là Calder Marshall. Ông đã lo lắng bước qua lại nãy giờ ở cuối đoạn đường dốc.

- Tạ ơn Chúa, - vị Viện trưởng chỉ nói có thế khi ông trông thấy Scott và viên chuyên gia bảo vệ chạy xuống đoạn đường dốc.

Ông lặng lẽ dẫn họ vào thang máy đã mở cửa sẵn. Họ lên hai tầng lầu rồi chạy dọc theo hành lang cho tới lúc họ tới cầu thang dẫn xuống tầng hầm ngầm. Marshall quay lại để xem hai người còn ở bên cạnh ông hay không, trước khi bắt đầu chạy xuống các bậc thang, điều mà không một nhân viên nào từng trông thấy trước đây. Scott đuổi theo vị Viện trưởng, theo sau là Mendelssohn. Không một ai ngừng lại cho tới lúc họ đến một bộ cửa thép đồ sộ.

Marshall gật đầu và viên chuyên gia bảo vệ nín thở cúi người về phía trước, bấm một mã số vào cái hộp nhỏ bên cạnh cửa. Tấm lưới bằng thép từ từ mở ra để cho ba người bước vào tầng hầm ngầm. Ngay sau khi họ đã ở bên trong, viên chuyên gia bảo vệ bấm một nút khác, và cánh cửa trượt trở lại vị trí.

Họ dừng lại trước khối bê tông lớn đã được xây dựng để cất giữ bản Tuyên ngôn Độc lập. Y hệt một linh mục trước một bàn thờ, Scott xem đồng hồ. Lúc này đã là 9 giờ 51.

Mendelssohn bấm một nút đỏ và tiếng loảng xoảng cùng tiếng quay tròn quen thuộc bắt đầu khi khối bê tông tách ra rồi các khung trống đồ sộ từ từ hiện rõ. Ông ta lại sờ cái nút khi khung kính tới ngang ngực.

Vị Viện trưởng và viên chuyên gia bảo vệ bước về phía trước trong khi Scott mở dây kéo của cái túi. Vị Viện trưởng lấy hai chìa khoá ra khỏi túi áo vét tông và đưa một chiếc cho người đồng nghiệp của ông. Họ lập tức bắt ta vào việc tháo mười hai bù loong cách đều nhau quanh vành đồng dày. Ngay sau khi họ hoàn tất công việc, họ cúi xuống và nhấc cái khung lên cho tới lúc trông nó giống như một cuốn sách mở.

Scott liền lấy cái ống giấy ra và đưa cho vị Viện trưởng Marshall mở nắp ống, để cho Mendelssohn thận trọng kéo vật để từ bên trong ra.

Scott quan sát trong lúc vị Viện trưởng và viên chuvên gia bảo vệ từ từ trải bản Tuyên ngôn Độc lập ra, từng phân một trên mặt kính đang chờ đợi, cho tới lúc tấm giấy da nguyên bản cuối cùng trở về với vị trí chính đáng của nó.

Scott cúi xuống và nhìn một lần cuối từ sai chính tà trước khi hai người đặt cái khung bằng đồng trở lại như cũ.

- Lạy Chúa, người Anh còn phải chịu trách nhiệm dài dài, - đó là tất cả những gì viên Viện trưởng nói.

Calder Marshall và viên chuyên gia nhanh chóng siết lại mười hai bù loong chung quanh khung và thụt lùi một bước trước bàn Tuyên ngôn.

Họ chỉ ngừng một giây trong khi Scott lại xem đòng hồ tay, 9 giờ 57. Anh nhìn lên và nhận thấy Marshall và Mendelssohn ôm chặt nhau và nhảy nhót như những càu bé vừa nhận được một món quà bất ngờ.

Scott khẽ ho một tiếng rồi nói:

- 9 giờ 58 rồi đấy. quý ngài!

Hai người lập tức trở lại với cá tính của mình.

Vị Viện trưởng bước trở lại khối bê tông. Ông ngừng một lát rồi bấm nút đỏ. Cái khung đồ sộ dâng cao tiếp tục cuộc hành trình lên phía trên tới phòng triển lãm để cho công chúng đang chờ đợi được xem.

Calder Marshall quay người lại nhìn thẳng vào mặt Scott. Một nụ cười thoáng qua bộc lộ sự nhẹ nhõm của ông.

Ông cúi chào như một chiến sĩ Nhật bản để ngụ ý rằng ông cảm thấy danh dự đã được mãn nguyện. Viên chuyên gia bảo vệ bắt tay Scott rồi bước tới cửa, ấn một mã số vào cái hộp nhỏ và quan sát chiếc lưới mở ra.

Marshall đi theo Scott ra ngoài hành lang, lên cầu thang và trở xuống tầng hầm bằng thang máy để ra cửa giao hàng.

- Cám ơn giáo sư! - Ông nói trong lúc bắt tay nhau trên cầu lên hàng.

Scott phóng lên đoạn đường dốc và quay lại nhìn ngay sau khi đã tới lề đường. Không thấy bóng dáng vị viện trưởng.

Ông bước nhanh qua đường 7 và đến gặp Dexter trong chiếc xe đang chờ đợi.

- Có vấn đề gì không, giáo sư? - Phó giám đốc CIA hỏi.

- Không, không có gì, loại trừ ông tính đến hai con người đứng đắn có vẻ như họ đã già thêm mười tuổi trong hai tháng vừa qua.

Tiếng chuông thứ mười đổ trên chiếc đồng hồ tháp Bưu điện cũ. Những cánh cửa của Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia mở toang và một đội quay phim chạy ào vào.

Chiếc xe hơi của vị Phó giám đốc chạy ra giữa đại lộ Constitution, nơi đây nó bị kẹt vào giữa hai chiếc xe điều hành của Tennesse và Texas. Một sĩ quan cảnh sát chạy qua và ra lệnh cho tài xế rẽ vào đường 7.

Khi xe dừng lại. Dexter cho kính cửa chạy xuống, mỉm cười với viên sĩ quan và nói:

- Tôi là Phó giám đốc của cơ quan CIA.

- Còn tôi là Chú Sam(2) - viên sĩ quan vừa đáp lại vừa bắt đầu viết một giấy phạt.

Chú thích:

(1) John the Baptist: theo Thánh kinh, là người mở đường và rửa tội cho Jesus.

(2) Chú Sam (tiếng lóng): nước Mỹ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
603,745
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38


Vị Phó giám đốc của cơ quan CIA gọi điện thoại cho vị Giám đốc tại nhà riêng để nói cho ông hay rằng mọi việc vẫn bình thường ở Viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Ông không nhắc tới tấm giấy phạt vi phạm luật giao thông.

Viên chuyên gia bảo vệ gọi điện thoại cho bà vợ và cố giải thích tại sao ông đã không về nhà đêm hôm trước.

Một người phụ nữ cầm một cái túi đựng đồ có quai bằng dây thừng tiếp xúc với vị đại sứ Iraq tại Liên hiệp quốc qua máy điện thoại di động và cho ông hay cô ta đã giết hai con chim với một viên đá. Cô ta cho vị đại sứ một số tài khoản tại một ngân hàng ở Bahamas.

Vị Giám đốc của cơ quan CIA gọi điện thoại cho Ngoại trưởng và cam đoan với ông rằng bản tài liệu đã ở đúng vị trí. Ông tránh nói "trở về vị trí".

Susan Anderson điện thoại cho Scott để chúc mừng phần việc anh đã đóng góp vào việc thu hồi bản tài liệu vào nơi chính đáng. Cô ta cũng nhân dịp này nhắc tới tin buồn là cô đã quyết định từ hôn.

Vị đại sứ Iraq tại Liên hiệp quốc thông báo cho ông Dummond để chuyển số tiền chín trăm nghìn đô la tới ngân hàng Hoàng gia của Canada ở Bahamas và đồng thời đóng tài khoản của Al Obaydi.

Vị ngoại trưởng điện thoại cho Tổng thống ở Nhà Trắng để báo tin rằng cuộc họp báo được hoạch định lúc mười một giờ sáng hôm ấy đã bị huỷ bỏ.

Một phóng viên săn tin hình sự cho tờ New York Daily News xếp vào hồ sơ ấn bản đầu tiên anh ta vừa mua ở quầy điện thoại trong một nhà để xe dưới đất trên đường 75. Đầu đề của bài báo là:"Mafia tàn sát ở Manhattan".

Máy điện thoại của Lloyd Adams không ngừng rung chuông, trong lúc ông ta vẫn liên tục được đề nghị tham gia vào mọi việc từ xác nhận chất lượng để quảng cáo cho đến làm một cuốn phim đặc biệt.

Vị Viện trưởng viện Bảo tàng không gọi lại sau một cú điện thoại từ một trong những trợ lý đặc biệt của Tổng thống ở Nhà Trắng mời ông dùng bữa trưa.

Một nhà sản xuất phim của CNN ghé thăm phòng tin tức để cho họ biết rằng tất cả nhất định chỉ là trò lừa bịp.

- Phải, ông ta đã xác minh từ "Brittish" và chỉ Dan Quayle có thể nghĩ là nó có hai chữ "t".

Scott điện thoại cho Hannah và nói với nàng anh muốn trải qua ngày Độc lập như thế nào.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom