Cập nhật mới

Dịch Full Những Cuộc Phiêu Lưu Của Huck Finn

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,604
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Những Cuộc Phiêu Lưu Của Huck Finn

Những Cuộc Phiêu Lưu Của Huck Finn
Tác giả: Mark Twain
Tình trạng: Đã hoàn thành




Nguyên tác: The Adventures of Huckleberry Finn

Ernest Hemingway từng nói: “Toàn bộ văn học Mỹ hiện đại đều thoát thai từ một cuốn sách của Mark Twain, đó là Những cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn”.

Sau những cuộc phiêu lưu cùng Tom Sawyer, Huck Finn được bà quả phụ Douglas đón về nuôi. Nhưng với bản tính ưa tự do, Huck không chịu nổi việc phải ăn vận sạch sẽ, học hành theo khuôn phép trưởng giả dù được sống giàu sang. Cộng thêm với việc người cha tưởng đã chết  đột ngột trở về tiếp tục hành hạ, gây rắc rối cho cậu, Huck quyết định cùng Jim – một nô lệ da đen bỏ trốn – cùng xuôi dòng Mississippi, bắt đầu những cuộc phiêu lưu mới.

Nhiều chuyện dở khóc dở cười đã xảy ra trong chuyến phiêu lưu. Không chỉ thế, Huck còn lâm vào những tình huống nguy hiểm khi bị cuốn vào cuộc tranh chấp giữa hai dòng họ với những cuộc đọ súng chết chóc... Nhưng cũng chính trong hoàn cảnh ngặt nghèo nhất, Huck đã nhận ra giá trị của cuộc sống để hướng về sự tự do và hết lòng giúp đỡ người nô lệ da đen tội nghiệp. Từ một cậu bé chỉ biết phá phách, Huck đã xác định rõ ràng mục đích sống, biết phân biệt đúng sai bằng trái tim thuần hậu và thoát khỏi những định kiến méo mó được nhồi nhét qua cách giáo dục sai trái.

Các nhà phê bình văn học đã đánh giá Những Cuộc Phiêu Lưu Của Huck Finn là tiểu thuyết ưu tú nhất của Mark Twain, bởi tác giả đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn phương ngữ của nhiều vùng, nhiều tầng lớp người để diễn tả những trạng huống tâm lý phức tạp, cũng như mô tả xuất sắc cảnh vật thiên nhiên. Tác phẩm này đã lọt vào danh sách những tiểu thuyết hay nhất mọi thời đại của văn học Mỹ, và rất nhiều lần được đưa lên màn ảnh.

Tác giả:

Mark Twain (1835 - 1910)  tên thật là Samuel Langhorne Clemens, sinh năm 1835 tại Florida, thuộc tiểu bang Missouri, Mỹ.

Sau khi tham gia quân đội miền Nam trong thời nội chiến Mỹ và trải qua nhiều nghề khác nhau, năm 1863, ông bắt đầu viết văn, dùng bút danh “Mark Twain”, có nghĩa là “sâu hai sải”, bắt  nguồn từ kỉ niệm lái tàu trên sông Mississippi.

Mark Twain để lại một sự nghiệp đồ sộ gồm nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn, tiểu luận châm biếm chính trị…, trong đó có Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer (tiểu thuyết, 1876), Hoàng tử tí hon và chú bé nghèo khổ (tiểu thuyết, 1882), Những cuộc phiêu lưu của Huck Finn (tiểu thuyết, 1885)…

Những Cuộc Phiêu Lưu Của Huck Finn là một đỉnh cao sáng tác của Mark Twain, kết hợp sự hài hước phong phú, khả năng tường thuật mạnh mẽ và châm biếm xã hội. Tác phẩm này đã được lọt vào danh sách những tiểu thuyết Mỹ hay nhất mọi thời đại.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,604
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1


Có lẽ các bạn sẽ không biết tôi, nếu như các bạn chưa đọc cuốn sách có tên là “Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer”; nhưng điều đó cũng chẳng sao. Tác giả cuốn sách ấy là ông Mark Twain, và trong đó phần lớn là ông ấy đã kể đúng sự thật. Cũng có những chỗ ông ấy hơi phóng đại, nhưng đại đa số là những câu chuyện có thật. Tôi chưa bao giờ thấy ai hay nói dối hết lần này đến lần khác như cái bà Polly, hay bà goá, hay có lẽ cả Mary nữa. Bà Polly tức là dì của thằng Tom, rồi Mary, rồi bà goá Douglas; tất cả những người đó đều có xuất hiện trong cuốn sách trên đây, và, như tôi đã nói, nó là một cuốn sách hầu hết đúng sự thật, chỉ trừ có vài cái nói hơi quá đáng mà thôi.

Cuốn sách ấy có nội dung như sau: Tom và tôi, hai đứa một hôm vớ được món tiền của bọn cướp giấu trong hầm kín, thế là chúng tôi bỗng trở nên giàu to. Chia ra, mỗi đứa được đến sáu nghìn đô la, toàn bằng vàng cả. Đem chất đống số tiền vàng ấy thì khiếp lắm. Thế rồi lão chánh án Thatcher lấy ngay số tiền đó của chúng tôi đem cho vay lãi: còn bọn tôi thì mấy ngày lão trả cho mỗi đứa một đồng, cứ như thế quanh năm. Còn bà goá Douglas cứ coi như tôi là đứa con đẻ, bà ta lại tự cho mình cái quyền là phải khai hoá cho tôi. Nhưng tôi nghĩ cứ sống quanh quẩn mãi trong cái nhà này thì cũng khổ, vì tôi cứ phải gò mình làm thế nào cho đúng với mọi điều khuôn phép của bà ấy. Cho nên, đến lúc không chịu đựơc nữa, tôi phải tính cách chuồn đi.

Tôi lại mặc vào người bộ quần áo cũ rách rưới, và đem theo cả cái hũ kẹo của tôi nữa, thế là tôi ra đi và lại được tự do, thoả thích. Nhưng thế nào thằng Tom Sawyer nó lại lùng được tôi, nó bảo với tôi rằng hiện nó đang sắp sửa thành lập một bọn cướp và có thể cho tôi nhập bọn, nhưng bây giờ thì nó khuyên tôi hãy nên quay về với bà góa và ăn ở ngoan ngoãn đi đã. Thế là tôi lại quay trở về.

Bà goá thấy tôi về thì oà lên khóc, bà ta bảo tôi là một con chim non lạc đàn tội nghiệp quá, rồi lại gọi tôi bằng bao nhiêu những cái tên kì quái, thật ra bà ấy chẳng có ý hại tôi đâu. Bà ta lại bắt tôi phải mặc bộ quần áo mới, cái thứ quần áo mặc vào cứ toát cả mồ hôi và người như bị trói chặt vào ấy. Thôi, thế là những cảnh cũ ở trong cái nhà này lại tái diễn. Bà goá rung chuông goi đi ăn, thì tôi phải liệu mà có mặt cho đúng giờ. Đến lúc ngồi vào bàn ăn rồi nhưng cũng chưa được ăn ngay đâu, còn phải chờ bà ta đến, lải nhải một hồi những về các món ăn, mà thực ra chẳng có gì đáng nói cả. Vì món ăn nào thì trước sau cũng vẫn như vậy, toàn những đầu thừa đuôi thẹo đem trộn lên rồi đổ vào chung quanh một thứ nước sốt.

Ăn uống xong, bà ta dạy tôi về chuyện Moses... Tôi thì nghĩ nát cả óc mà vẵn chẳng hiểu được Moses là ai; nhưng rồi dần dà tôi cũng hiểu là Moses đã chết từ lâu lắm rồi. Thế là tôi cũng bỏ mặc, chẳng hơi đâu mà bận tâm đến Moses làm gì nữa, vì tôi đâu có thiết nghe chuyện những người đã chết cơ chứ.

Lát sau tôi muốn hút thuốc, tôi mới bảo bà goá cho phép tôi được hút. Bà ta nhất định không cho. Bà ta nói rằng đó là một tật xấu mà cũng chẳng sạch sẽ gì rồi ra sức khuyên tôi phải cố mà bỏ đi đừng có hút nữa. Đấy, có những người như thế đấy, họ cứ dính đến những cái mà họ chẳng biết quái gì về những cái đó cả. Cũng như bà ta cứ đi lo lắng về chuyện Moses chẳng bà con họ hàng gì với bà và cũng chẳng ích lợi gì cho ai cả, vì Moses đã chết từ tám đời rồi. Ấy thế nhưng bà ta còn cứ cố bắt tôi phải lấy đó mà học và bà cho rằng như thế là tốt lắm. Còn chính bản thân bà thì bà cũng hút, cố nhiên bà ta cho thế là điều tốt, vì đó là bà tự hút cơ mà. Còn cô em của bà ta, cô Watson là một bà cô già, người thì khá gầy guộc, mắt thì đeo đôi kính trắng, vừa mới đến ở chung trong cái nhà này với bà góa. Bây giờ thì lại đến lượt cô Watson làm tôi khổ sở với quyển sách đọc đánh vần. Cô ấy dạy tôi thật quá vất vả nên cứ độ một giờ đồng hồ thì bà goá lại cho cô nghỉ mệt, còn tôi thì cũng không thể chịu lâu hơn được. Suốt trong một giờ ấy, tôi thật buồn đến chết và cứ nhấp nhổm đứng ngồi không yên. Cô Watson thì cứ chốc chốc lại: Huck, đừng ngồi ghếch chân lên thế, rồi lại: Huck, đừng có vặn vẹo như thế, ngồi cho ngay ngắn nào hoặc: Huck, đừng có ngáp dài với vươn vai thế, sao không chịu ngồi cho tử tế? Rồi cô ấy bảo cái ngữ tôi rồi cũng chỉ đến bị đẩy vào những nơi khổ cực mà thôi. Tôi bảo rằng tôi cũng đang muốn thế đấy, thế là cô ấy tức điên lên. Nhưng thật ra tôi cũng không định trêu chọc gì cô ấy cả. Tôi chẳng muốn gì khác hơn là cho tôi đi đến chỗ khác, tôi chỉ muốn có sự thay đổi mà thôi, chứ tôi cũng chả đòi hỏi gì đặc biệt cả. Cô ấy bảo tôi nói như thế là bậy bạ, cô ấy chỉ muốn ăn ở thế nào để được đi đến chỗ Thiên Đường tốt đẹp mà thôi. Nhưng tôi thì thấy rằng theo con đường của cô ấy cũng chẳng hay gì, cho nên tôi cũng chả thiết. Nhưng tôi không nói ra, vì sợ nói ra chỉ thêm phiền nhiễu. Cô ấy bảo lên được đến Thiên Đường thì người ta suốt ngày chỉ có việc đi nhởn nhơ đàn hát thôi. Tôi cũng chẳng thiết cái đó nữa, nhưng hơi đâu mà nói ra. Tôi hỏi cô ấy rằng xem chừng thằng Tom Sawyer nó có thể đi đến chỗ tốt đẹp ấy được không, cô ấy bảo xét kỹ ra thì không được. Nghe nói vậy tôi thích quá, vì tôi, cứ muốn rằng hai đứa cùng sống với nhau, đừng đứa nào đi đâu cả.

Cô Watson cứ bắt tôi học mãi như vậy, thật là khó chịu quá, nhưng ngay sau đó, họ gọi những người hầu da đen vào, và ai nấy cầu kinh rồi về chỗ ngủ. Tôi cũng trở về buồng riêng, mang theo một ngọn nến đặt trên bàn. Tôi ngồi phịch xuống chiếc ghế bên cửa sổ, cố nghĩ đến một cái gì vui vui, nhưng không sao nghĩ được. Lúc ấy tôi cảm thấy mình quá cô đơn và lại mong rằng giá mình chết đi thì hay nhỉ. Trên bầu trời, sao lấp lánh. Tiếng lá xào xạc trong rừng nghe vô cùng buồn thảm. Tôi nghe thấy tiếng cú rúc xa xa như đang hú gọi người nào đã qua đời, rồi tiếng một con chim rừng hay một con chó đang gào hét về một người nào sắp chết, gió thì như muốn thủ thỉ điều gì với tôi mà tôi không thể đoán ra được nó định nói gì. Nghĩ thế, đâm ra tôi rùng mình lạnh toát cả người. Rồi một lát, ở phía rừng xa lại nghe thấy một thứ tiếng gì như ma quỷ lúc nó định than vãn những điều nó đang băn khoăn nhưng không làm thế nào cho ai hiểu được; hình như nó không thể nằm yên nghỉ dưới mộ được mà đêm nào cũng phải đi lang thang ai oán như thế ấy. Tôi nghĩ vậy lại càng hoảng hốt, sợ hãi quá chừng, và lúc đó muốn có một người nào ngồi bên cạnh tôi. Bỗng một con nhện ở đâu nhảy đến, lồm cồm bò trên vai áo, tôi vội lấy tay búng nó đi, nó bắn ngay vào ngọn nến đang cháy, tôi chưa kíp kéo nó ra thì nó đã chết queo. Lúc đó, chẳng cần phải có ai bảo tôi rằng đó là một điều xấu và rồi tôi sẽ gặp phải rủi ro, tôi cũng đã hoảng sợ lắm rồi và cuồng quýt rũ mạnh quần áo trên người. Tôi chồm dậy, quay đi quay lại một chỗ đến ba bốn vòng, rồi lại làm dấu trước ngực rất nhiều lần. Rồi tôi lại lấy sợi dây buộc chặt mớ tóc trên đầu để làm cái bùa đuổi yêu quái đi. Nhưng rồi tôi lại cũng không tin. Đây là cái tục lệ giống như khi người ta đánh mất một cái gì, sau tìm thấy thì lẽ ra phải đem đóng nó ở trước cửa ra vào; nhưng tôi thật cũng chưa nghe thấy ai nói rằng làm như thế để tránh khỏi gặp phải điều xui xẻo sau khi đã làm chết một con nhện bao giờ.

Tôi lại ngồi xuống ghế, trong người bối rối không yên. Tôi lấy điếu ra hút, vì lúc này trong nhà đã im lặng như chết cả rồi còn bà goá thì bà cũng chẳng biết đấy là đâu. Rồi một lúc sau nữa, khá lâu, rồi nghe tiếng chuông đồng hồ xa xa ngoài tỉnh boong - boong - boong dần điểm mười hai tiếng, rồi đâu đấy lại yên lặng hơn lúc nào hết. Được một lát, tôi bỗng nghe thấy tiếng cành cây khô gãy ở phía lùm cây tối đen - lại hình như có vật gì đang động đậy. Tôi ngồi im lặng nghe và lập tức thấy rõ ràng có tiếng meo meo từ phía đó vang tới. Hay quá! Tôi cũng khe khẽ đáp lại meo meo rồi tắt phụt ngọn nến tôi trèo qua cửa sổ ra ngoài, hướng về phía bóng tối, tụt nhanh xuống đất rồi luồn vào đám cây. Đúng là thằng Tom Sawyer đang chờ tôi ở đó.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,604
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2


Hai đứa chúng tôi nhón chân đi men theo con đường nhỏ dưới lùm cây phía góc vườn của bà goá, và cứ phải cúi lom khom để đầu khỏi đụng vào cành cây. Lúc đi qua cửa bếp, tôi vấp phải cái rễ cây nên gây ra một tiếng động. Hai đứa vội vàng nằm rạp người xuống đất im thin thít. Anh da đen to lớn làm việc cho cô Watson, tên Jim, lúc đó đang ngồi ở cửa bếp. Chúng tôi có thể nhìn thấy Jim rất rõ, vì sau lưng anh có ánh đèn. Nghe thấy động, Jim choàng dậy, thò cổ ra ngoài nghe ngóng một lúc rồi lên tiếng hỏi:

- Ai đấy?

Nghe một lát không thấy gì, anh kiễng chân nhè nhẹ đi xuống đứng ngay ở giữa hai đứa chúng tôi. Chỉ cần giơ tay với là chúng tôi có thể chạm vào người anh ta. Lâu lắm, hình như qua đến mấy phút không có lấy một tiếng động nhỏ nào, mà cả ba người thì ở ngay sát cạnh nhau như thế. Lúc đó, cổ chân tôi thấy ngứa, rồi lan đến lưng, ngay ở chỗ giữa hai bả vai. Tôi tưởng như lúc đó mà không được gãi thì chết mất. Ngay lúc đó, Jim lên tiếng hỏi:

- Này, ai thế, ở chỗ nào đấy? Quái thật, rõ ràng mình nghe thấy có tiếng gì ở đây mà. Thôi được, tôi đã có cách, tôi cứ ngồi ở đây cho đến lúc nào tôi nghe thấy có tiếng động nữa mới thôi.

Nói thế rồi anh ngồi phệt ngay xuống đất, giữa chỗ tôi và thằng Tom. Anh dựa lưng vào thân cây, duỗi thẳng hai chân ra, suýt nữa thì chân đạp phải tôi. Mũi tôi lại bắt đầu thấy ngứa. Cái tội nợ ấy nó kéo dài đến sáu bảy phút và hình như còn lâu hơn thế nữa. Bây giờ thì trong người tôi ngứa ran lên cả thảy đến mười một chỗ. Tôi tính có lẽ không thể chịu được như vậy đến một phút nữa đâu, nhưng tôi vẫn cứ cắn chặt răng và cố gắng chịu đựng. Vừa lúc ấy, tiếng Jim thở hổn hển, rồi sau đó là tiếng anh ta ngáy vang lên. Người tôi lập tức trở lại dễ chịu ngay.

Thằng Tom ra hiệu cho tôi và tôi làm hiệu bằng cách khe khẽ đằng hắng lên một tiếng. Hai đứa chúng tôi lại bò đi. Ra khỏi chỗ đó độ mười bước, thằng Tom nói thầm vào tai tôi rằng nó muốn trói Jim vào thân cây, đùa một tí cho vui, nhưng tôi bảo đừng, nhỡ anh ta thức dậy làm oang lên thì lúc đó trong nhà họ sẽ biết là tôi không có mặt trong ấy. Thằng Tom lại nói là chúng ta không có đèn nến gì cả, nó muốn mò vào trong bếp kiếm mấy cây nến. Tôi không đồng ý, tôi bảo nhỡ Jim tỉnh dậy và chạy vào thì sao. Nhưng thằng Tom nhất định cứ muốn liều; thế là chúng tôi mò vào nhặt ba cây nến, rồi Tom để lại năm xu trên bàn để trả tiền nến. Rồi chúng tôi bước ra, tôi thì nóng ruột muốn chạy biến đi ngay, nhưng không hiểu tại sao thằng Tom lại bò trở lại chỗ Jim, thấy nó cúi lom khom như đang nghịch ngợm cái gì ở phía trên đầu Jim. Tôi phải chờ một lúc khá lâu. Chung quanh vẫn im vắng lặng lẽ.

Chờ thằng Tom quay lại, chúng tôi chạy theo con đường nhỏ vòng cái hàng rào ỏ quanh vườn, rồi lát sau chạy lên cái dốc ở trên đồi phía bên kia nhà. Thằng Tom nói là nó đã nhấc cái mũ ở trên đầu Jim và mắc lên cành cây ngay ở phía trên chỗ hắn ngủ, Jim có cựa quậy một tí nhưng vẫn không tỉnh dậy. Chuyện này rồi về sau chính Jim lại đi phao lên rằng có yêu quái bắt mất hồn của anh ta, dẫn anh ta đi lang thang khắp xứ, rồi một lần khác cũng kể lại chuyện này thì Jim lại nói rằng yêu quái đã dẫn anh đi xuống tận vùng New Orleans. Lần khác nữa, cứ mỗi khi kể lại chuyện này thì anh ta lại bịa thêm một ít, dần dần cho đến lúc anh ta nói rằng yêu quái đã dẫn anh đi khắp nơi cả thế giới, làm anh ta mệt gần chết, và lưng anh thì sưng vù cả lên. Jim lấy làm tự mãn về câu chuyện này lắm, thành ra cái đó làm cho anh ta rất hãnh diện với những anh em da đen khác nữa. Họ phải đi hàng năm sáu dặm đến để nghe Jim kể lại cái câu chuyện yêu quái này, dần dần ở trong vùng, Jim đâm ra được coi trọng hơn các anh em khác. Những người da đen ở xa đến thì cứ há hốc miệng ra mà nhìn Jim khắp người, coi như Jim là một cái kỳ quan vậy. Anh em da đen thường hay chờ đến đem tối ngồi bên cạnh bếp lửa nói chuyện về yêu quái, ma quỷ; hễ khi nào có ai ở đâu nói chuyện ấy và tỏ ra mình cũng biết đủ thứ về yêu quái thì bỗng thấy Jim cũng ở đâu mò đến và nói: Hừ ! Anh thì biết gì về yêu quái cơ chứ? Thế là anh kia nín thít ngay và lần về phía sau ngồi để nhường chỗ cho hắn. Jim vẫn luôn luôn có hai đồng năm xu buộc vào giây đeo ở cổ, và khoe rằng đó là cái bùa mà tự tay quỷ thần trao cho và dặn anh rằng có thể dùng nó mà chữa bệnh cho mọi người; lại có thể bất cứ lúc nào cũng gọi yêu quái đến được, chỉ việc nói nhỏ vài tiếng với đồng năm xu đó mà thôi. Nhưng chẳng bao giờ anh ta cho ai biết là anh sẽ nói với cái bùa đó như thế nào. Người da đen ở quanh vùng có cái gì cũng đem đến cho Jim và chỉ cần được trông thấy đồng năm xu ấy mà thôi. Nhưng cũng không ai dám sờ vào nó vì họ sợ rằng đã có bàn tay của quỷ thần đặt lên đó rồi. Thật quả là nguy hại cho Jim vì là kẻ đi ở như hắn mà lại giương giương tự đắc là đã được gặp quỷ thần và bị yêu quái dẫn đi khắp mọi nơi.

Khi thằng Tom với tôi đến lưng đồi, nhìn về phía đồi thấy ba bốn đống lửa lập loè, có lẽ ở đó đang có người ốm chăng. Những vì sao khuya trên đầu chúng tôi vẫn lấp lánh trông rất đẹp. Ở dưới kia, gần làng là một con sông rộng đến gần một dặm, lặng lẽ trôi một cách nguy hiểm. Chúng tôi bước xuống chân đồi đã thấy thằng Joe Harper với thằng Ben Rogers và hai đứa nữa, đang nấp trong cái nhà thuộc da cũ. Chúng tôi tháo một chiếc thuyền nhỏ, rồi kéo xuống phía dưới sông đến hơn hai dặm cho đến tận một cái mô đất lớn ở bên đồi mới lên bờ.

Bọn chúng tôi đi đến một bụi rậm cây cối chi chít, thằng Tom bắt cả bọn phải thề giữ bí mật. Rồi nó chỉ một cái hốc ở trên đồi, ngay chỗ bụi cây rậm rạp nhất. Chúng tôi thắp nến lên, rồi lại lom khom bò đi. Được gần hai trăm thước thì đến cửa hang. Thằng Tom loay hoay tìm lối, rồi thoắt một cái nó đã chui xuống dưới chân một bức tường mà chả ai ngờ rằng ở chỗ đó có một cái lỗ. Chúng tôi lách người theo một lối đi rất hẹp và đi đến một nơi trông như căn phòng, vừa ẩm ướt, vừa lạnh. Rồi tất cả dừng lại đó. Thằng Tom nói:

- Nào, chúng mình bắt đầu thành lập một bọn cướp ở đây và đặt tên là bọn Tom Sawyer. Những ai muốn nhập bọn thì phải thề, và phải ghi tên bằng máu.

Đứa nào nghe thấy cũng thích. Thằng Tom rút ra một mảnh giấy trong đó nó đã viết sẵn lời thề và đem đọc lên. Lời thề nói rằng tất cả những đứa nào đã vào bọn thì phải trung thành, không được tiết lộ bất cứ một bí mật nào; và nếu như có kẻ xâm phạm bất cứ bằng cách gì đến một đứa trong bọn thì đứa ấy sẽ được lệnh đi giết kẻ kia cùng cả nhà nó và phải thi hành lệnh ấy; mà không đựơc ăn được ngủ cho đến khi nào đã giết được chúng và vạch vào ngực chúng một cái dấu chữ thập tức là dấu hiệu riêng của bọn mà thôi. Tất cả những ai không thuộc người trong bọn thì không được dùng dấu hiệu đó. Mà nếu kẻ khác làm như vậy sẽ bị đem ra truy tố, nếu còn tái phạm sẽ bị xử tử. Còn nếu ai thuộc trong bọn mà tiết lộ bí mật thì sẽ bị chặt đầu, xác sẽ bị đem thiêu để tro tàn bay tứ tung tên tuổi sẽ bị lấy máu xoá nhoè trong danh sách và không bao giờ còn ai nhắc nhở đến nữa, người đó sẽ bị nguyền rủa và mãi mãi sẽ bị bỏ quên.

Cả bọn, đứa nào cũng nói rằng lời thề như thế thật là hay và hỏi rằng có phải là tự thằng Tom nó nghĩ ra được như thế không. Nó nói là một phần do nó nghĩ ra, còn thì rút ở trong những cuốn sách nói về trộm cướp, và bọn cướp nào nổi tiếng cũng đều làm như vậy cả.

Lại có đứa trong bọn nghĩ rằng nếu đứa nào tiết lộ bí mật thì đem giết cả gia đình nó đi có lẽ cũng tốt. Thằng Tom bảo đấy cũng là một ý kiến hay, thế là nó rút bút chì ra viết luôn cái điều đó vào. Thằng Ben Rogers hỏi:

- Thế thằng Huck Finn đây thì sao, nó không có gia đình thì làm thế nào?

- ờ thế nào hả? nó không có bố à?- Thằng Tom hỏi.

- Có, nó có bố, nhưng hiện nay không tìm thấy bố nó được đâu. Bố nó chỉ chuyên môn say khướt với đám người bẩn thỉu ở trong nhà thuộc da ấy, mà đến hơn một năm nay chẳng thấy bố nó quanh quẩn ở vùng này nữa.

Chúng nó bàn một hồi lâu rồi định đuổi tôi ra khỏi bọn. Vì chúng nó bảo rằng đứa nào cũng phải có gia đình hay phải có một người nào để mà giết, nếu không thì không được và không công bằng. Rồi chẳng đứa nào nghĩ ra cách gì khác. Đứa nào cũng bí cả, ngồi im bặt. Tôi gần phát khóc. Nhưng rồi tôi cũng nghĩ ra một cách, tôi đề nghị với chúng nó rằng có thể giết cô Watson được. Chúng nó reo lên: ồ cô Watson, giết được đấy. Hay lắm... Cho thằng Huck vào bọn được rồi.

Mỗi đứa mới lấy kim châm vào đầu ngón tay, lấy máu ra ký tên; tôi cũng vạch tên tôi lên mảnh giấy ấy.

Thằng Ben Rogers hỏi:

- Nào, bây giờ bọn ta định hành động như thế nào đây?

- Chỉ có việc cướp của giết người thôi - Thằng Tom đáp.

- Nhưng mà cướp của ai bây giờ chứ? Cướp nhà cửa, hay trâu bò, hay là...

Thằng Tom Sawyer ngắt lời:

- Lấy trâu bò với những cái như thế đâu có phải là cướp, đấy chỉ là trộm vặt. Chúng mình không phải là những tên ăn trộm. Đó không phải là cái kiểu làm của chúng mình. Đây, chúng mình là những tay cường đạo; giữa đường cái lớn, ta chận xe cộ lại, đeo mặt nạ, giết người rồi cướp đồng hồ, tiền của hành khách.

- Những có nhất thiết phải giết người không?

- Có chứ. Đó là cách tốt nhất. Có một số những tay có tiếng tăm thì nghĩ khác, nhưng hầu hết đều cho giết người là tốt hơn cả, trừ khi có những người mà mình mang họ về giam giữ trong hang này chờ đến khi nào họ được chuộc lại.

- Chuộc lại? Nghĩa là thế nào?

- Tao cũng chả biết. Nhưng thấy người ta vẫn làm như thế. Tao xem trong sách thấy nói như vậy. Và cố nhiên, chúng mình cũng phải làm như vậy chứ.

- Nhưng mình không biết nó là cái gì thì mình làm thế nào được chứ?

- Sao? Mặc kệ thôi, chúng mình nhất định phải làm thế. Tao đã bảo rằng trong sách nói thế mà lại. Chúng mày định làm khác với những điều nói trong sách à? Định làm cho mọi thứ rối mù cả lên hay sao?

- Này Tom Sawyer, tất cả những cái đó nói thì hay lắm rồi, nhưng thật chúng tao không biết rằng chuộc lại là như thế nào. Mình không biết làm như thế nào đối với họ thì gọi là chuộc? Chính đó là điều chúng tao muốn hiểu thôi. Nào, mày hiểu chuộc nghĩa là như thế nào?

- Tao không biết. Nhưng có lẽ là nếu mình giam giữ họ đến khi nào họ được chuộc lại, tức là giam cho đến lúc họ chết chứ gì?

- Đại khái nó như vậy. Thế có phải xong không. Thì tại sao mày không nói rõ từ nãy? Nghĩa là mình sẽ giam giữ họ đến lúc họ được chuộc cho đến chết; ồ nhưng này, lại còn một đống những cái phiền phức nữa cơ, nào là ăn uống đủ thứ này, nào là họ luôn tìm cách trốn đi này!

- Ben Rogers, mày nói lạ nhỉ. Họ làm thế nào mà trốn được, đã có người của mình canh gác chứ, hễ họ rục rịch là sẵn sàng bắn chết ngay.

- Có người canh gác? à, thế thì tốt. Như vậy là phải có người ngồi đó suốt đêm để canh họ và không được ngủ chứ. Tao nghĩ rằng như thế thì thật là điên rồ. Vậy thì tại sao không có người nào cầm cái gậy mà chuộc ngay cho họ một cái khi mới bắt họ về đây có được không?

- Tại sao à? Tại vì sách không có nói đến việc đó chứ tại sao nữa. Này Ben Rogers, tao hỏi mày có muốn làm mọi cái cho đúng quy cách hay là mày không muốn - chỉ có thế thôi. Thế mày tưởng rằng cái người làm ra những cuốn sách ấy không biết cái gì là đúng hay sao? Mày tưởng rằng mày dạy được người ta cái gì ư? Thôi, đừng hòng. Không đâu, ông ạ, chúng mày chỉ có việc làm như thế và chuộc họ theo đúng quy cách như vậy thôi.

- Thôi được, tao không cần. Nhưng dù sao, tao cũng vẫn bảo rằng như vậy là điên rồi. Này, thế chúng mày có giết cả đàn bà nữa không?

- Này, Ben Rogers, nếu tao cũng ngu dốt như mày thì tao sẽ không nói chuyện làm gì nữa. Giết cả đàn bà? Không, chả bao giờ tao thấy trong sách nói như thế cả. Mình đưa họ về hang, rồi luôn luôn lúc nào cũng phải đối đãi với họ rất ngọt ngào, dần dà họ sẽ đem lòng yêu mình và chẳng muốn đòi trở về nhà nữa.

- à, nếu mà như vậy thì tao đồng ý; nhưng chuyện ấy thì tao không thiết. Vì rồi chẳng bao lâu thì cái hang này của mình lại nhốn nháo đầy những đàn bà, với những người chờ đó để bị chuộc, rồi lại không còn chỗ để mà chứa bọn cướp chúng mình nữa. Nhưng thôi, mày cứ nói nốt đi, tao không hỏi gì nữa.

Thằng Tommy Barnes còn bé, từ nãy đã ngủ khì, lúc cả bọn đánh thức nó dậy thì thằng bé sợ oà lên khóc, đòi về nhà với mẹ, và nó bảo thôi, nó không muốn đi làm cướp nữa.

Cả bọn thấy thế càng trêu nó, gọi nó là thằng nhè, làm nó tức điên lên và bảo nó rằng sẽ bỏ ngay lập tức rồi đi nói toang tất cả bí mật ra. Nhưng thằng Tom cho nó năm xu để nó im đi, rồi bảo tất cả bọn hãy về nhà để đến tuần sau lại gặp nhau, sẽ đi cướp hoặc giết một người nào đó.

Thằng Ben Rogers bảo rằng nó không được ra khỏi nhà luôn đâu, chỉ có ngày chủ nhật thôi, vì thế nó muốn rằng chủ nhật sau sẽ bắt đầu khởi sự. Nhưng cả bọn nói là nếu làm vịêc đó vào ngày chủ nhật thì sẽ bị quỷ thần trừng phạt. Thế là hỏng. Rồi cả bọn lại đồng ý là thôi, để khi nào gặp nhau sẽ định ngày càng sớm càng tốt. Rồi, chúng nó bầu thằng Tom Sawyer làm chỉ huy thứ nhất của bọn, thằng Joe Harper làm chỉ huy thứ hai. Xong đâu đấy, cả bọn kéo về nhà.

Tôi trèo qua mái chuồng ngựa rồi luồn vào cửa sổ vừa lúc trời sắp sáng. Bộ quần áo mới của tôi dính đầy những đất cát bẩn thỉu, còn tôi thì mệt đứt hơi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,604
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3


Đến sáng, tôi bị cô Watson thuyết cho một hồi về chuyện quần áo bẩn thỉu; còn bà goá thì bà ta không rầy mắng gì tôi cả mà chỉ lặng lẽ lau sạch những vết bẩn đi thôi. Thấy vậy, tôi cũng đâm ra ân hận và tôi nghĩ nếu có thể thì cũng nên cố gắng ăn ở ngoan ngoãn ít lâu. Rồi cô Watson kéo tôi vào trong buồng con, cầu nguyện. Nhưng chẳng ăn thua gì. Cô ấy bảo tôi ngày nào cũng phải cầu nguyện, và làm như thế thì rồi muốn gì được nấy. Nhưng thật ra đâu có như vậy được đâu, tôi đã thử mãi rồi. Một lần tôi kiếm được cái cần câu mà không có lưỡi câu. Không có lưỡi câu thì chịu chả làm ăn gì được. Ba bốn lần tôi đã chịu khó cầu nguyện nhưng không ăn thua gì. Tôi bèn nhờ cô Watson cầu hộ thì cô ấy lại bảo tôi là thằng điên. Cô ấy không nói tại sao, còn tôi thì chả làm thế nào mà hiểu được.

Một lần, tôi ngồi ẩn tuốt trong rừng và nghĩ ngợi rất lâu về chuyện cầu nguyện ấy. Tôi tự hỏi nếu như một con người muốn cầu nguyện cái gì được cái ấy thì tại sao lão Deacon Winn lại không đòi lại được món tiền mà lão đã bị mất về đám lợn? Tại sao bà góa lại không lấy lại được cái hộp đựng thuốc bằng bạc bị mất cắp? Tại sao cô Watson lại không béo ra được? Không, chẳng làm gì có chuyện đó đâu; tôi tự nhủ như thế. Tôi bèn đi nói với bà goá cái ý nghĩa của tôi như vậy thì bà ta bảo rằng cái thứ người ta cầu nguyện để mà có đấy chỉ là những cái lộc được hưởng về tinh thần mà thôi. Điều đó đối với tôi thật là khó hiểu quá.

Nhưng rồi bà ta bảo ý của bà muốn nói là như thế này: rằng mình phải giúp đỡ người khác, làm mọi điều mình có thể làm cho người khác, luôn luôn săn sóc đến người khác và đừng bao giờ nghĩ đến mình. Nếu mà tôi hiểu đúng thì đây nên tính cả cô Watson nữa. Tôi lại đi ra phía ngoài rừng và cứ quanh quẩn bới óc nghĩ về chuyện đó rất lâu, nhưng tôi không thể nào thấy cái đó có lợi gì cho tôi mà chỉ lợi cho người khác. Cuối cùng, tôi quyết định là thôi không băn khoăn gì về chuyện đó nữa, cứ để mặc kệ nó đấy. Có đôi khi bà goá kéo tôi ra một chỗ và nói về chuyện Thượng đế ban lộc; gớm nghe mà thèm rỏ rãi. Nhưng cũng có thể hôm sau cô Watson lại vơ lấy chuyện ấy mà nói khác hẳn. Tôi nghĩ rằng tôi đã thấy ra là có hai ông Thượng đế; ai khổ sở thì đi theo cái ông Thượng đế mà bà góa nói ấy, nhưng nếu ai chẳng may gặp phải ông Thượng đế của cô Watson thì thôi thế là hết đường làm ăn. Tôi nghĩ đi nghĩ lại mãi về chuyện này và định rằng tôi sẽ đi theo cái ông Thượng đế của bà góa, nếu như ông ta bằng lòng; mặc dầu tôi chưa rõ ràng sau này ông ta có còn tốt hơn như trước nữa không, khi biết là tôi dốt nát, lại hay thích những chuyện oái oăm, nhỏ nhặt.

Bố tôi thì bỏ đi đã hơn một năm nay. Điều đó cũng làm cho tôi dễ chịu, vì tôi không muốn gặp bố tôi nữa. Lúc nào không say rượu mà vớ được tôi là ông chỉ những đánh đập; cho nên tôi luôn luôn bỏ chạy vào rừng, nhất là những khi bố tôi đi dạo quanh nhà. Hồi đó người ta thấy bố tôi chết trôi ở quãng sông phía dưới, cách tỉnh chừng khoảng hai mươi dặm. Họ bảo rằng cái người chết trôi ấy đúng là khổ người của bố tôi, quần áo rách bươm, có bộ tóc dài chẳng giống ai. Mà những cái đó thì thật đúng như bố tôi rồi. Nhưng chẳng ai nhìn thấy rõ mặt mũi, vì cái xác đã ngâm dưới nước quá lâu rồi nên mặt cũng không còn ra mặt nữa. Họ nói là bố tôi trôi ngửa trên mặt nước. Họ đã vớt lên đem chôn ở trên bãi sông ấy. Nhưng tôi yên lòng không được bao lâu thì bỗng nghĩ đến một điều. Tôi biết rõ ràng là một người đàn ông chết đuối thì không bao giờ trôi ngửa, mà trôi sấp. Nếu đúng như thế thì cái xác đó không phải là bố tôi, mà có lẽ là một người đàn bà mặc quần áo đàn ông. Nghĩ thế tôi lại đâm lo. Tôi đoán thế nào ông ấy cũng sắp quay trở về. Và tôi cứ mong là ông ấy đừng về nữa.

Thỉnh thoàng, bọn chúng tôi giả làm cướp, chơi được gần một tháng, rồi sau tôi rút lui, không chơi nữa. Cả bọn cũng thôi. Chúng tôi chưa cướp của ai bao giờ, chưa giết người nào, mà chỉ làm giả như thế thôi. Chúng tôi thường chạy ra ngoài rừng, làm bộ tấn công vào những người chăn cừu và những bà chở xe rau đi chợ. Nhưng chúng tôi chẳng bao giờ xúm vào lấy của họ cái gì. Thằng Tom Sawyer gọi những con cừu là những thoi vàng còn những củ xu hào, bắp cải là những quần áo đồ đạc. Xong đâu đấy, cả bọn chúng tôi kéo nhau về hang bàn cãi về những hành động vừa làm, xem đã giết được bao nhiêu người, đã vạch được bao nhiêu dấu hiệu trên người chết. Nhưng rồi tôi thấy cái đó chẳng ích lợi gì. Có một lần thằng Tom phái một đứa chạy lên tỉnh, tay cầm một bó đuốc sáng mà nó gọi đó là cái khẩu hiệu (tức là cái dấu hiệu của bọn tôi mỗi khi tụ tập với nhau). Rồi nó bảo rằng vừa mới nhận được tin mật báo do những tay do thám của nó đưa về; báo rằng hôm sau sẽ có một đoàn lái buôn người Tây Ban Nha và người Ả Rập rất giầu có sẽ qua đó, đóng trại nghỉ chân ở Hang Lỗ; đoàn này có hai trăm con voi, sáu trăm con lạc đà với hơn một ngàn con la, toàn chở kim cương châu báu; mà họ chỉ vẻn vẹn có bốn trăm lính gác. Vì vậy chúng tôi sẽ bố trí phục kích, thằng Tom nó nói thế, phục kích và phải giết cả đoàn người đó rồi cướp thật nhanh lấy những đồ vật ấy. Nó dặn chúng tôi phải lau chùi thật kỹ những dao kiếm, súng ống và chuẩn bị sẵn sàng. Ngữ nó thì ngay đến một cái xe chở rau cũng chẳng bao giờ làm gì được, nhưng nó cứ nhất định phải có gươm, có súng lau chùi cho sáng loáng để làm những việc đó; mặc dầu gươm súng đây chỉ là những cái que gỗ, cán chổi, có lau chùi hay đánh bóng cho đến rã cánh đi nữa thì nó cũng vẫn chẳng giá trị gì hơn một đám củi. Tôi không tin rằng bọn tôi có thể đánh nổi cả một đoàn người Tây Ban Nha và Ả Rập như thế được, nhưng bụng tôi lại muốn được xem voi và lạc đà, cho nên hôm sau tôi cũng có mặt trong trận phục kích. Hôm đó thứ bảy, sau khi nhận được lệnh, chúng tôi ra khỏi rừng và chạy băng xuống chân đồi. Nhưng chẳng thấy người Tây Ban Nha và Ả Rập đâu cả, cũng chả thấy lạc đà với voi nữa. Chỉ là đám học trò nhỏ của trường nhà Dòng đi cắm trại chiều thứ bảy. Chúng tôi nhảy ùa vào đám đó và lùa tụi trẻ con lên hang. Nhưng bọn tôi chẳng kiếm được gì khác ngoài một bánh mì ngọt với thịt muối , riêng thằng Ben Rogers vớ được một con búp bê rách, thằng Joe Harper vớ được quyển sách hát của nhà thờ và một cuốn kinh nhỏ. Lúc đó bỗng thấy ông giáo ở đây chạy ra làm chúng tôi phải vứt bỏ cả xuống mà tháo thân. Tôi chả thấy kim cương châu báu gì cả. Tôi bảo thằng Tom Sawyer thế. Nó nói chẳng có vô khối đấy à. Nó lại bảo là có cả người Ả Rập, cả voi nữa, đủ các thứ ở đấy. Tôi hỏi thế sao tôi không trông thấy? Nó bảo là sao tôi dốt thế, nếu mà tôi đã được đọc một cuốn sách tên là Đông Ki Sốt rồi thì tất là sẽ biết mà chẳng cần phải hỏi nó như thế nữa. Nó nói rằng đó là do sự phù phép nên mới như vậy. Ở đó có hàng trăm lính, rồi voi, rồi kho tàng vân vân... nhưng vì chúng tôi có nhiều kẻ thù, hay là những nhà ảo thuật đã biến tất cả những thứ đó thành đám học trò trẻ con đi cắm trại cho nên mới hại chúng tôi như vậy. Tôi nói rằng đã thế thì bây giờ đi tìm những nhà ảo thuật ấy mà đánh chứ. Thằng Tom Sawyer bảo tôi là ngốc. Nó nói:

- Như thế làm sao được? Nhà ảo thuật có thể gọi đến một lô những ông thần, họ sẽ băm mày ra từng mảnh ngay tức khắc ấy chứ. Những ông thần ấy to bằng cái cây, lớn bằng cái nhà thờ ấy.

Tôi nói:

- Giá chúng minh có vài ông thần như vây giúp một tay thì có thể đánh tan được đám khác không?

- Làm thế nào mà mình có những ông thần ấy được?

- Tao cũng không biết. Nhưng thế làm sao mà họ lại có được?

- Họ lấy tay cọ sát vào cái đèn bằng thiếc hay vào cái nhẫn bằng sắt, thế là ông thần kia ầm ầm kéo đến, có sấm sét và chớp lóe hiện lên theo ở quanh mình rồi khói bay lên cuồn cuộn, rồi bất cứ sai họ việc gì là họ cũng làm ngay được chứ sao. Họ có thể không cần phải dùng đến sức lực mà cũng nhổ bật một cái pháo đài hoặc đem buộc ông giám thị của trường hay bất cứ ai lên đó rồi đội cả đi cũng được.

- Thế thì ai có thể gọi họ kéo đến ầm ầm ở chung quanh như vậy được?

- Người nào cọ sát vào chiếc đèn hay chiếc nhẫn ấy chứ còn ai nữa. Những ông thần này là thuộc quyền bất cứ ai cọ sát vào cái đèn cái nhẫn, và phải làm mọi cái theo lệnh của người đó. Nếu bảo xây một toà lâu đài bốn mươi dặm toàn bằng kim cương, và chất đầy kẹo cao su vào trong toà lâu đài ấy, hay bất cứ cái gì mình muốn, rồi dẫn về đó cho mình một cô công chúa con gái ông Hoàng đế ở Trung Hoa để cưới làm vợ, họ đều phải làm theo tất cả, mà lại phải làm xong những cái đó trước khi mặt trời mọc sáng hôm sau nữa cơ, lại còn thế này nữa: những ông thần ấy phải đêm cái toà lâu đài đi khắp nơi nào mình muốn nữa. Mày hiểu chưa?

Tôi nói:

- Nếu vậy thì tao nghĩ rằng họ chỉ là một đám ngốc không biết giữ lấy toà lâu đài ấy cho mình mà lại đi phung phí như vậy. Hơn nữa, nếu tao là một trong những ông thần ấy thì tao sẽ xin đủ thôi, chả tội gì bỏ việc của mình mà đi hầu người ta mỗi khi họ cọ sát vào cái đèn bằng thiếc như thế.

- Huck Finn, mày ngốc lắm. Khi người ta cọ sát vào cái đèn thì muốn hay không muốn đã là những ông thần kia thì tất là phải kéo đến rồi.

- Thế thì tao cũng sẽ to bằng cái này, lớn bằng cái nhà thờ à? Vậy thì hay lắm: tao sẽ đi đến chỗ đó; nhưng mà tao thì định sẽ bắt người ấy phải trèo lên một cái cây nhất ở xứ này.

- Thôi đi Huck Finn, nói chuyện với mày chán tận cổ. Trông mày cũng không đến nỗi là không biết gì cả, ấy thế mà hoàn toàn là ngu ngốc.

Tôi lại phải nghĩ ngợi về chuyện này mất vài ba ngày. Tôi tính để rồi sẽ xem trong đó có cái gì thật không. Tôi đi kiếm một cái đèn bằng thiếc đã cũ và một cái nhẫn bằng sắt đem ra ngoài rừng, lấy tay cọ sát, cọ sát mãi đến toát cả mồ hôi, trong bụng đã tính sẵn sẽ xây một toà lâu đài mà bán đi. Nhưng vô ích, chẳng thấy ông thần nào tới cả. Sau đó, tôi cho rằng tất cả những chuyện vô lý ấy chỉ là một trong bao nhiêu cái nói láo của thằng Tom Sawyer mà thôi. Tôi đoán chắc nó tin rằng có những người Ả Rập kia và có voi thật; nhưng còn tôi thì tôi nghĩ khác. Vì rõ ràng đó chỉ là đám học trò trường nhà Dòng mà thôi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,604
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4


Ba bốn tháng trôi qua, bây giờ đã đến giữa mùa đông. Lâu nay tôi vẫn đi học và đã có thể đánh vần được, đọc được, viết được chút ít và đã có thể thuộc bảng cửu chương đến chỗ sáu lần bảy là ba mươi lăm. Tôi không tin chắc là mình có thể giỏi được hơn thế nữa nếu mình còn sống. Dù sao thì tôi cũng không thích cái môn toán cho lắm.

Lúc đầu, tôi rất ghét đến nhà trường, nhưng dần dà đi học thì tôi thấy cũng chịu được. Lúc nào thấy trong người mệt, không bình thường, thì tôi trốn học. Và hôm sau bị trận đòn, tôi lại học hành tử tế, hăng hơn. Cứ thế, việc học đối với tôi dễ dàng dần dần. Tôi cũng đã quen với tính nết của bà goá và thấy không đến nỗi bực mình lắm. Sống trong một căn nhà, ngủ trên một chiếc giường riêng, lắm khi tôi cũng thấy nó trói buộc mình thế nào ấy. Vì thế, trước đấy lúc trời còn chưa lạnh lắm, thỉnh thoảng tôi vẫn hay lẩn ra ngủ ngoài rừng. Đối với tôi, như vậy là nghỉ ngơi được. Tôi chỉ thích nhất những cách sống cũ. Nhưng khi phải sống mới như thế này, tôi cũng hơi thích một chút. Bà goá bảo tôi rằng uốn theo những cái đó tuy có chậm chạp nhưng chắc chắn, và cũng không có chỗ nào chê trách được cả. Bà ta nói là bà ta không đến nỗi phải hổ thẹn về tôi.

Một buổi sáng trong khi đang ăn sáng thì tôi đánh đổ cái đĩa đựng muối. Tôi vội vàng lấy tay vét thật nhanh, vứt ra sau vai bên trái để tránh điều đen rủi, nhưng bỗng cô Watson ở đâu vào đứng ngay trước mặt và chặn lại. Cô ấy bảo:

- Huck, bỏ tay ra, sao lúc nào cũng nghịch bẩn thế?

Bà goá nói thêm vào một câu nhẹ thôi; nhưng cái đó cũng không thể làm cho tôi tránh khỏi cái không may được, tôi biết chắc như thế. Sau bữa ăn, tôi bước ra ngoài, trong lòng thấy lo lắng run sợ, không biết rằng cái điều không may ấy sẽ rơi vào tôi ở chỗ nào và không biết nó sẽ ra sao đây. Cũng có những cách để tránh khỏi một số điều đen đủi, nhưng trường hợp này không ở trong số đó; cho nên tôi chẳng còn biết làm thế nào, chỉ luẩn quẩn với những ý nghĩa buồn rầu sợ sệt.

Tôi xuống dưới vườn, trèo qua cái ngách hàng rào, ở bên chỗ người ta vẫn ra vào. Trên mặt đất, tuyết xuống mới được phủ vài ba phân, tôi bỗng thấy có vết chân người. Những vết chân này từ phía núi đã đi tới vết chân dừng lại ở chỗ ngách này một lúc rồi lại đi quanh hàng rào. Thật lạ quá, ai đứng quanh quẩn ở đó như vậy mà sao lại không vào. Tôi không sao đoán ra được. Dù thế nào, cái đó cũng rất kỳ lạ. Tôi đang định đi lần theo vết chân, nhưng tôi cúi xuống nhìn kỹ vết chân đã. Lúc đầu không thấy có gì, nhưng sau tôi nhận ra. Có một dấu chữ thập ở gót giầy bên trái đóng bằng đinh to, cái đó để tránh khỏi gặp phải quỷ thần.

Tôi vùng ngay dậy và mải miết chạy xuống đồi. Chốc chốc lại ngoái nhìn về đằng sau, nhưng không thấy một ai. Tôi chạy ba chân bốn cẳng đến nhà chánh án Thatcher. Lão ta thấy tôi, hỏi:

- Sao thế, làm gì mà hớt hải thế. Đến lấy tiền lãi phải không?

Tôi đáp:

- Không phải đâu ông ạ. Thế có tiền lãi cho cháu đấy ư?

- Có chứ. Đến hôm qua vừa được nửa năm. Như vậy là đi hơn một trăm năm mươi đô la. Một món kếch sù cho cậu đấy. Nhưng tốt nhất là cậu hãy cứ gửi lại để tôi góp thêm vào với món sáu nghìn đồng cũ, không thì cậu lấy về lại cũng đến tiêu hết thôi.

- Không, ông ạ, cháu chẳng muốn tiêu đâu cả sáu nghìn trước cũng thế. Cháu muốn ông cầm lấy, biếu ông đấy, cả sáu nghìn, tất cả.

Lão ta rất ngạc nhiên. Hình như lão ta không thể hiểu nổi tại sao.

Lão hỏi:

- Cậu nói như vậy nghĩa là thế nào?

- Xin ông đừng hỏi cháu một câu nào về cái đó nữa. Ông hãy giữ lấy món tiền ấy, ông có muốn thế không?

Lão ta nói:

- Tôi thật khó nghĩ quá. Có chuyện gì thế hả cậu?

Tôi đáp:

- Xin ông cứ cầm lấy cả vàng và đừng hỏi cháu làm gì nữa. Cháu không muốn nói dối đâu.

Lão ta suy nghĩ một lát rồi nói:

- Thôi tôi hiểu rồi. Tức là cậu muốn bán tất cả tài sản đó của cậu cho tôi, chứ không phải là biếu. Đúng thế chứ?

Rồi lão viết cái gì trên một mảnh giấy, đọc lên và nói:

- Cậu thấy không? Trong này nói là giao kèo. Như vậy nghĩa là tôi đã mua cả của cậu và trả tiền cho cậu. Đây nhé cậu hãy cầm lấy một đô la. Bây giờ cậu ký vào đây đi.

Tôi ký tên rồi ra về

Jim, anh da đen làm việc cho cô Watson, có một búi lông to bằng quả đấm mà hắn ta lấy ở cái ngăn dạ dày thứ tư của một con bò, và hắn vẫn dùng cái đó làm trò ảo thuật. Hắn bảo rằng trong búi lông ấy có con ma và nó biết tất cả mọi thứ. Đêm đó, tôi lò mò đến chỗ Jim và nói với hắn rằng bố tôi để lại dấu chân ở trên tuyết. Điều tôi muốn biết là bố tôi sẽ làm gì và có định ở lại đấy không? Jim lấy búi lông ra, nói lảm nhảm những gì với nó một lúc, rồi giơ lên cao, lại buông ra cho nó rơi xuống sàn nhà. Cái búi lông rơi xuống đánh bịch một cái và lăn đi vài ba tấc. Jim lại nhặt lên, lại thả cho rơi xuống một lần nữa, cái búi lông lắng nghe. Nhưng vô ích. Jim bảo là cái búi lông nó không muốn nói. Jim bảo rằng có khi không có tiền thì nó không chịu nói đâu. Tôi bảo tôi có đồng tiền hai mươi lăm xu làm giả, đã cũ rồi và cũng không thể đem tiêu được. Tôi cứ nói đi nói lại mãi như vậy (tôi đã tính sẵn trong bụng là không đả động gì đến đồng đô la mà lão chánh án Thatcher vừa đưa cho tôi). Tôi bảo đồng tiền đó xấu lắm, nhưng có thể là cái búi lông nó chịu nhận. Vì có lẽ nó không phân biệt được tốt xấu thế nào chăng. Jim cầm lấy đồng tiền, ngửi ngửi, đưa lên rằng cắn thử, rồi xoa xoa cho sạch. Rồi hắn bảo là sẽ nói khéo để cho cái búi lông tưởng là đồng tiền tốt. Hắn nói là sẽ bổ đôi một củ khoai sống rồi đem ấp đồng tiền vào giữa, để qua một đêm đến sáng hôm sau về không còn thấy nó trơ đồng ra nữa và cũng không còn vết bẩn, bất cứ ai trên tỉnh cũng có thể nhầm mà lấy chứ đừng nói cái búi lông. Trước đấy, tôi cũng đã biết lấy củ khoai làm như thế, nhưng lâu ngày rồi quên đi.

Jim để đồng tiền xuống dưới búi lông rồi lại quỳ xuống lắng nghe. Lần này hắn bảo cái búi lông đã ứng quẻ rồi. Hắn bảo cái búi lông sẽ phán cho tôi được giàu to đến như tôi muốn. Tôi bảo ừ, được, cứ làm đi xem nào. Thế là cái búi lông nói với Jim, và Jim truyền lại cho tôi rằng:

- Chưa biết là ông bố cậu sẽ làm gì đây. Có thể ông ấy sẽ đi xa, cũng có thể ông ấy định ở lại. Nhưng tốt nhất là cứ yên trí và cứ để mặc ông ấy muốn làm gì thì làm. Có hai vị thiên thần đang bay quanh người ông ấy. Thiên thần trắng và sáng lấp lánh. Còn một thiên thần thì đen. Thiên thần trắng dẫn ông ấy đi theo con đường tốt ít lâu, rồi thiên thần đen nhảy vào và phá hỏng hết. Chưa thể nói được là cuối cùng thiên thần nào sẽ bắt ông ấy đi. Nhưng còn cậu thì không hề gì. Đời cậu sẽ gặp nhiều cái rắc rối, mà cũng có nhiều cái vui mừng đấy. Có khi cậu bị đau đớn lại có khi ốm yếu, nhưng rồi lần nào cậu cũng trở lại lành lặn như thường. Có hai cô thiếu nữ bay lượn ở bên cậu trong suốt cuộc đời cậu. Một cô trắng trẻo, một cô đen đủi. Một cô giàu một cô nghèo. Cậu sẽ cưới cô nghèo trước, rồi sau đến lượt cô giàu. Cậu phải tránh xa những chỗ sông nước, xa chừng nào hay chừng đó. Và nhất là đừng có làm gì mạo hiểm, nhỡ ra người ta ghi tên tuổi cậu vào sổ thì cậu sẽ bị treo cổ.

Đêm đó, lúc tôi vừa thắp cây nến và đi lên buồng thì thấy bố tôi ngồi trong đó từ bao giờ, thôi, đích thật là bố tôi rồi!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,604
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5


Tôi vừa khép xong cánh cửa, quay lại thì đã thấy ông ấy ngồi đó. Lúc nào trông thấy ông ấy là tôi cũng khiếp sợ, vì ông ấy đánh đập tôi quá nhiều lần. Ngay lúc đó tôi cũng kinh hãi lắm, nhưng chỉ một phút sau, tôi đã thấy rằng tôi lầm - nghĩa là sau cái giật mình đầu tiên, có thể nói như vậy, khi mà hơi thở của tôi bỗng dưng bị tắc nghẹn vì chuyện quá bất ngờ thấy ông ấy ở đó, thì tôi lại không còn thấy sợ nữa, và như vậy thì chẳng có gì đáng lo ngại.

Bố tôi chạc năm mươi tuổi. Tóc dài, bù xù, rũ xuống, và cáu bẩn. Nhìn qua bộ tóc ấy có thể trông thấy đôi mắt sáng chiếu ra, khác nào như ông ấy đứng nấp sau dàn nho mà nhìn mình vậy. Bộ tóc toàn một màu đen không một sợi bạc nào, cả hai bên tóc mai dài chằng chịt vào nhau cũng vậy. Nhìn mặt ông ấy trừ những chỗ không có râu tóc thì không có màu sắc gì khác, chỉ thấy trắng, không phải cái trắng như của mọi người, nhưng là một cái trắng làm cho những thớ thịt của người ta phải co rúm lại. Một màu trắng của cây leo, một cái màu trắng của bụng con cá. Còn quần áo ông ấy thì ngoài mấy mảnh rách mướp ra, chẳng có gì. Ông ấy ngồi vắt chân chữ ngũ, chiếc giầy bên phía chân vắt lên đã há mõm, một ngón chân thò ra ngoài, chốc chốc lại ngọ nguậy. Chiếc mũ của ông ấy quăng trên sàn nhà là một chiếc mũ rộng vành, màu đen, đã cũ và trên cái quả mũ đã thủng một lỗ to tướng trông như cái khung cửa để chui xuống hầm tầu vậy.

Tôi đứng nhìn ông ấy. Ông ấy cũng ngồi nhìn tôi, lưng ghế hơi ngả về đằng sau. Tôi đặt cây nến xuống. Tôi để ý nhìn ra thấy cánh cửa sổ đã dựng lên, thì ra ông ấy đã trèo qua mái nhà kho mà vào đây. Ông ấy nhìn mãi khắp người tôi như vậy. Lát sau, ông ấy lên tiếng:

- Áo quần trông oách lắm nhỉ. Mày tưởng mày đã ra vẻ một người quan trọng lắm ư?

Tôi đáp:

- Có thể như vậy, mà cũng có thể không.

Ông ấy lại hỏi:

- Có phải mày vẫn nói xấu tao đấy không? Từ khi tao đi vắng xa, mày ở đây lên mặt lên mày lắm hả? Rồi tao sẽ kéo mày xuống trước khi tao từ bỏ mày. Nghe thấy người ta nói mày cũng có học hành, đọc được, viết được. Bây giờ mày đã tưởng là hơn bố mày, phải không; vì bố mày không biết đọc, biết viết mà. Được, rồi tao sẽ cho mày biết. Ai bảo mày lại có thể đi dính dáng đến những chuyện điên rồ như thế, hử? Ai bảo mày được quyền như thế?

- Bà goá, bà ấy bảo con thế?

- Bà goá? Thế ai bảo bà ta nhúng tay vào cái việc không phải của bà ấy?

- Chẳng ai bảo bà ấy cả.

- Được rồi, tao sẽ dạy cho bà ấy biết là đừng có mà dính dáng. Còn mày thì nghe đây: mày hãy thôi đi, không được học nữa, nghe không? Tao sẽ bảo cho họ biết rằng đừng có nuôi dạy một đứa trẻ để rồi nó lên mặt với bố nó và để cho nó tưởng rằng nó đã khá hơn được cái bản thân nó. Tao còn bắt được mày đi học nữa thì liệu hồn, nghe không? Mẹ mày trước kia không biết đọc, mà viết cũng không biết viết cho đến khi chết cũng vẫn không biết. Cái họ nhà này trước khi chết không có ai biết đọc biết viết cả. Tao cũng không biết. Thế mà bây giờ đến mày thì sao lại được quyền như vậy hử? Tao không phải là thứ người chịu nổi được cái đó, nghe không? Này, mày thử đọc lên cho tao nghe xem nào?

Tôi cầm một quyển sách lên, bắt đầu đọc một tí về đoạn Washington với chiến tranh, Tôi đọc được chừng nửa phút thì ông lấy tay hất bắn ngay quyển sách ra góc nhà và nói:

- À, mày lại đọc được nữa ư? Nghe người ta nói như vậy, nhưng tao còn ngờ, chưa tin hẳn. Này nghe đây, hãy thôi đi đừng làm cái bộ ta đây nữa, tao không thích thế. Tao bảo cho mày biết, con ơi. Tao mà bắt được mày còn lởn vởn ở cái trường học ấy nữa thì tao sẽ dần cho mày một trận nên thân. Trước hết mày hãy biết là phải nghe lời tao đã. Chưa bao giờ tao thấy có đứa con như vậy.

Ông ấy nhặt lên một tấm ảnh xanh xanh vàng vàng trong đó có mấy con bò với một đứa trẻ, hỏi tôi:

- Cái gì đây?

- Cái đó là họ thưởng cho con vì đã học thuộc bài

Ông ấy xé toang ngay bức ảnh rồi nói:

- Tao sẽ cho mày một cái hay hơn. Tao cho mày cái roi.

Rồi ông ấy ngồi lẩm bẩm, làu nhàu một hồi lâu và lại nói:

- Cái kiểu công tử bột, sực nức nước hoa rồi phải không? Có giường, khăn trải giường. Lại có cả gương soi nữa. À, lại có cả tấm thảm trải trên sàn nhà nữa. Còn bố mày thì phải ngủ với lợn ở trong nhà thuộc da. Chưa khi nào tao lại thấy có đứa con như vậy. Nhất định tao phải làm cho mày bỏ hết những cái ra vẻ ta đây ấy đi đã, rồi sẽ nói chuyện với mày sau. Chà, mày còn chưa hết những điệu bộ ấy cơ à, họ đồn là mày giàu lắm, có phải không? Làm thế nào mà mày lại giàu được?

- Họ nói dối đấy, làm gì có như vậy.

- Này, ăn nói với tao thì liệu hồn. Tất cả những cái gì tao đã có thể làm được thì bao giờ tao đều dám làm cả, vậy đừng có bịp tao. Tao ở ngoài tỉnh hai ngày hôm nay rồi. Xuống tận bờ sông cũng thấy người ta nói thế. Cho nên tao mới tìm đến đây. Mai mày phải đưa số tiền đó cho tao, tao cần dùng đến tiền.

- Con làm gì có tiền

- Nói láo. Ông chánh án Thatcher cầm số tiền đó. Chính mày có. Tao cần đến số tiền ấy.

- Con nói thật đấy, con không có tiền đâu. Bố cứ đến hỏi ông chánh án Thatcher mà xem, ông ấy cũng sẽ nói với bố như thế.

- Được, rồi tao hỏi ông ấy, tao sẽ nói chuyện với ông ấy xem đầu đuôi ra sao. Này, trong túi mày hiện giờ có bao nhiêu. Hãy đưa đây tao, tao đang cần.

- Con chỉ có một đô la. Con định để...

- Định để làm gì mặc kệ mày, tao không cần biết, hãy cứ đưa đây đã.

Ông ấy cầm ngay lấy đồng tiền rồi đưa lên răng cắn thử xem có tốt không; rồi ông ấy nói đi xuống phố kiếm ít rượu whisky, bảo là cả ngày hôm nay chưa được nhấp một tí nào. Bước ra đến ngoài bóng tối rồi còn ngoái cổ lại đe tôi đừng có làm ra vẻ ta đây muốn hơn ông ấy. Khi tôi đoán là ông ấy đã đi hắn rồi thì lại thấy ông quay lại thò đầu vào nói tôi hãy coi chừng với cái trường học ấy không thì ông ấy sẽ đi bắt về đánh cho một trận nếu như tôi không chịu thôi học.

Hôm sau, ông ấy say mềm, mò đến nhà lão chánh án Thatcher sừng sộ định bắt lão ta phải đưa hết số tiền cho ông ấy. Nhưng chẳng ăn thua gì; rồi ông ấy thề là sẽ đưa lão chánh án ra trước pháp luật.

Lão chánh án và bà goá đã đi trình toà cho tôi được thoát khỏi tay bố tôi, và để toà giao cho một trong hai người đỡ đầu cho tôi. Nhưng đây lại là một ông chánh án mới ở đâu về, chẳng rõ bố tôi là người như thế nào, nói rằng toà án không có quyền nhúng tay vào việc chia rẽ gia đình người ta, mà trái lại phải đoàn tụ, càng không thể bắt đứa trẻ phải xa bố. Thế là lão chánh án Thatcher và bà goá đành phải chịu thua thôi.

Điều đó làm cho ông bố tôi khoái trí lắm, đến nỗi ông ấy đứng ngồi không yên. Ông ấy bảo sẽ đánh cho tôi thâm tím mình mẩy nếu tôi không chịu lòi tiền ra cho ông ấy. Tôi vay tạm ba đồng đô la của lão chánh án Thatcher đưa về, ông ấy lại cầm đi uống rượu say bí tỉ; rồi đi ngồi lê la khắp nơi ba hoa nhảm nhí gây chuyện khắp tỉnh; tay cầm cái chậu sắt lang thang đến tận nửa đêm. Người ta mới bắt giam ông ấy lại, cho ngồi tù một tuần lễ. Nhưng ông ấy lại bảo làm như vây là thoả mãn rồi; ông ấy hài lòng lắm, vì đã có uy tín đối với đứa con là tôi.

Khi ông ấy ra khỏi nhà tù, ông chánh án mới đổi về ấy bảo là sẽ dạy cho bố tôi thành người. Ông chánh án đưa bố tôi về nhà riêng, cho ăn mặc sạch sẽ, đẹp đẽ.. Sáng, trưa chiều cùng cho ngồi ăn chung với gia đình, đối đãi với bố tôi rất ngọt ngào. Đại khái như vậy. Ăn bữa chiều xong, ông chánh án ngồi nói chuyện cho bố tôi nghe về cách sống như thế nào cho đúng mực với những kiểu này kiểu khác, đến nỗi bố tôi nghe xong phải khóc lên, bảo rằng mình thật là điên rồ và đã làm hại cả đời mình. Bố tôi hứa từ nay sẽ sửa đổi tư cách và sẽ trở thành một con người tốt để không ai hổ thẹn về ông ấy nữa. Rồi lại còn mong rằng ông chánh án sẽ giúp đỡ cho và đừng có khinh miệt mình. Ông chánh án bảo nghe bố tôi nói những lời như vậy thật là đáng mừng. Thế là cả vợ chồng ông chánh cũng khóc nữa. Bố tôi nói rằng ông là một con người trước đây vẫn bị hiểu lầm. Ông chánh thì bảo ông cũng tin là như thế. Bố tôi lại nói rằng cái mà một người cần có ở tận đáy lòng mình ấy là cảm tình. Ông chánh nói: đúng như vậy. Thế là cả hai bên lại khóc. Lúc đến giờ đi ngủ, ông bố tôi đứng dậy, dang hai tay ra nói:

- Đây, các ông các bà nhìn tôi đây. Xin hãy cầm lấy tay tôi và cho tôi bắt tay. Đây là một bàn tay trước kia như tay con lợn; nhưng bây giờ không phải nữa; mà đây là bàn tay của một con người đã bắt đầu bước vào cuộc đời mới. Nếu còn quay lại đường cũ sẽ xin chết. Các ông các bà hãy nhớ kỹ cho những lời nói ấy, và xin đừng quên là chính tôi đã nói như vậy. Bây giờ là một bàn tay sạch sẽ rồi xin cứ bắt tay đừng sợ.

Lần lượt người này người khác đến bắt tay, rồi tất cả đều khóc. Bà vợ ông chánh án lại còn cúi xuống hôn cái bàn tay ấy. Rồi ông bố tôi làm dấu thề. Ông chánh án nói rằng đó thật là cái lúc thiêng liêng nhất, hay là cũng gần như vậy. Rồi họ đưa ông bố tôi vào một căn phòng lộng lẫy, đó là căn phòng riêng. Đến đêm, lúc bố tôi khát nước quá mới trèo qua mái cổng, bám vào cột tụt xuống đất, đem cái áo họ vừa mới cho đi đổi lấy một chai rượu bố, rồi lại vẫn chứng nào tật ấy trèo về phòng ngồi uống thoả thích cho đến lúc sáng rõ mới bò ra, say khướt, đâm cả vào cổng đến nỗi tay bên trái bị thương mấy chỗ. Sáng ngày ra, lúc có người tìm thấy ông ấy thì đã bị lạnh gần chết cứng. Khi mọi người bước vào căn phòng riêng kia thì thấy đồ đạc đã lung tung lộn xộn cả lên rồi.

Ông chánh án lấy làm buồn lắm. Ông ấy bảo có lẽ chỉ một phát súng mới giúp cho ông bố tôi sửa đổi tính nết, chứ chẳng còn cách nào khác nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,604
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6


Thế rồi, ngay sau đó bố tôi đã lại nhổm dậy, đi loanh quanh, tìm đến nhà lão chánh Thatcher để bắt lão ta phải trả lại số tiền, rồi lại đi tìm tôi hỏi tại sao tôi chưa thôi học. Ông ấy túm lấy tôi và đánh tôi túi bụi một lúc lâu. Nhưng tôi vẫn cứ đi học như thường. Suốt ngày tôi phải lo tránh mặt, và bỏ trốn ông. Trước kia, tôi không muốn đi học lắm, nhưng bây giờ tôi lại nghĩ mình phải đi học để cho bố biết tay. Cái vụ đem xử trước pháp luật ấy sao mà chậm chạp. Hình như họ chưa bắt đầu hay sao ấy. Thỉnh thoảng tôi cứ phải đến mượn lão chánh vài ba đô la để đưa cho ông bố tôi để khỏi bị ông đánh đập. Mỗi lần có tiền là ông ấy lại say rượu, và mỗi lần say rượu là lại đi tác quái ở ngoài tỉnh, Và mỗi lần gây chuyện thì lại một lần ngồi tù. Quen lệ như thế rồi, nó đã thành tật.

Ông bố tôi cứ quanh quẩn bám vào bà goá mãi, bà goá bảo nếu ông ấy không chịu đi kiếm ăn chỗ khác thì bà ấy sẽ làm lôi thôi cho mà xem. Chà, không biết ông ấy có điên hay không chứ; ông ấy còn nói sẽ tỏ cho mọi người biết rằng ai là người có quyền hành đối với Huck Finn. Thế rồi một ngày mùa xuân, ông ấy rình mò thế nào mà bắt được tôi rồi đưa tôi xuống một chiếc thuyền và đi ngược sông khoảng ba dặm; Ông chèo lên đến bờ Illinois, ở một nơi có nhiều cây cối rậm rạp, chẳng có một ngôi nhà nào ngoài một căn lều cũ bị cây cối um tùm che kín, ai không biết thì cũng không thể tìm ra chỗ ấy.

Suốt ngày đêm, ông ấy giữ tôi kè kè bên cạnh, tôi chẳng có cách nào trốn đi học được. Thế là hai người chúng tôi sống trong căn lều ấy. Bố tôi suốt ngày khoá cửa; đêm đến ông cất kỹ chìa khoá ở đầu giường. Ông ấy có một khẩu súng mà tôi đoán là đã lấy cắp được ở đâu về. Hai chúng tôi cùng đi câu cá, săn bắn, cứ như vậy sống qua ngày này sang ngày khác. Thỉnh thoảng ông ấy khoá trái cửa, nhốt tôi trong nhà rồi đi xuống một cửa hàng cách chỗ đó ba dặm, tại bến đò đổi chim, đổi cá lấy rượu uýt-ki đêm về say sưa một chập rồi vớ tôi mà đánh. Về sau, bà goá tìm được chỗ tôi ở, mới phái người đến rình bắt tôi về. Nhưng bố tôi vác súng ra đuổi họ đi. Sống như vậy ít lâu tôi đâm ra quen với nơi này, và cũng lấy làm thích. Tôi thích tất cả, trừ cái món bị đánh đập mà thôi.

Thật là một kiểu sông lười biếng mà dễ chịu. Suốt ngày thoải mái, chỉ hút thuốc, câu cá, không sách vở mà cũng chẳng học hành gì. Khoảng hai tháng sau thì quần áo của tôi đã bẩn thỉu, rách rưới cả. Tôi cũng không nghĩ rằng trước đây ở với bà goá đã có lúc nào tôi thích như vậy không. Vì ở đó phải giặt giũ quần áo. Phải ăn bằng bát bằng đĩa, phải chải đầu, phải đi ngủ và dậy đúng giờ, phải luôn luôn lo nghĩ đến quyển sách, quyển vở, lại bị cô Watson nói ra nói vào suốt ngày. Tôi không thiết quay trở về nơi ấy nữa. Trước đây, tôi đã thôi không ăn nói bậy bạ nữa, vì bà goá không ưa như vậy. Nhưng đến bây giờ, lại bắt đầu rồi, vì bố tôi không có ngăn cấm gì cả. Những ngày sống ở rừng thật là thú vị, đâu đâu cũng thấy khoái như thế cả.

Nhưng dần dà khi bố tôi đã quá quen thuộc với khu rừng này rồi thì tôi lại bắt đầu thấy không thể chịu được nữa. Tôi vẫn cứ bị đánh đập hoài. Ông ấy hay đi xa và nhốt tôi ở trong nhà. Có một lần ông ấy khoá trái cửa và nhốt tôi ở trong đó và đi vắng ba ngày liền. Tôi thấy mình cô đơn một cách kinh khủng. Tôi nghĩ rằng nhỡ mà ông ấy chết đuối ở đâu thì tôi cứ đành chịu giam ở đây không ra được. Tôi sợ quá và nghĩ bụng nhất định thế nào cũng phải tìm cách trốn đi thôi. Đã mấy lần tôi xoay sở mà không được. Không có một lỗ cửa sổ nào vừa cho một con chó chui lọt. ống khói lò cũng hẹp quá không chui qua nổi. Cánh cửa thì dày, toàn bằng những phiến gỗ lim rất chắc. Bố tôi đã cẩn thận mỗi khi đi vắng không để lại một con dao hay bất cứ một vật gì khác trong nhà. Tôi tính có lẽ tôi đã đi lùng khắp nơi trong nhà, đến hàng trăm lượt rồi lúc nào cũng chỉ nghĩ cách trốn ra, mà thời gian cũng chỉ dành cho làm việc đó nhưng vẫn chưa ăn thua. Thế nhưng lần này thì tôi đã tìm ra một cái rồi. Tôi tìm thấy một lưỡi cưa đã cũ han gỉ, không có cán, nhét ở dưới khe mái nhà. Tôi đem lau sạch đi và bắt đầu khởi sự. Có một miếng dạ để lót yên ngựa đóng vào chỗ tường đã nát ở phía góc nhà, ngay sau chiếc bàn, để che gió khỏi lùa qua những khe hở thổi vào làm tắt đèn. Tôi luốn xuống gầm bàn, nâng miếng dạ lên rồi cưa một lỗ chỉ đủ để người tôi chui lọt. Thật là một việc mất khá nhiều thì giờ, nhưng tôi cũng cố gắng làm đến cùng. Giữa lúc ấy có tiếng súng của bố tôi nổ ở trong rừng. Tôi xoá sạch những dấu vết, buông miếng dạ phủ xuống rồi dấu cưa đi. Vừa xong thì bố tôi bước về.

Nhìn ông ấy lúc đó vẻ như không được vui. Tính của ông vốn dĩ đã như thế rồi. Ông ấy nói là vừa ở dưới tỉnh về, và công việc thì hỏng bét cả. Ông trạng sư bảo bố tôi sẽ được kiện và được tiền, nếu như họ đem việc này ra phân xử. Nhưng rồi họ kiếm cách kéo dài việc ấy ra, mà lão chánh Thatcher thì lão ta thạo về cái món này lắm. Rồi ông ấy lại nói người ta ở ngoài tỉnh đang mong có một vụ xử nữa để cho tôi được thoát khỏi tay bố tôi, rồi đưa tôi trở về với bá goá để bà ta che chở cho, mà họ lại cho rằng lần này thì nhất định thắng kiện được. Điều đó làm cho tôi rất bối rối, vì ý tôi không muốn trở về với bà goá để mà bị trói buộc và để được khai hóa như bố tôi vẫn nói. Xong đó, bố tôi bắt đầu chửi, chửi tất cả mọi thứ, tất cả mọi người. Nghĩ đến người nào chửi người ấy. Chửi mãi chửi mãi để ra điều rằng ông ấy không có chừa một ai, rồi sau khi đã chửi hết cả lượt thì ông ấy làm một câu chửi tóm tắt, kể cả một số lớn người mà ông ấy không biết tên tuổi nữa. Nghĩa là những người mà mỗi khi nhắc đến để chửi thì ông ấy phải gọi là cái thằng gì.. gì. Chửi chán rồi quay lại chửi từ đầu.

Ông ấy nói là để xem bà goá định bắt tôi về như thế nào. Ông ấy sẽ canh gác tôi cẩn thận, nêu họ định bày ra trò gì để lừa ông ấy thì có một chỗ cách đây sáu bảy dặm ông ấy sẽ đem tôi đi nhét vào đó, tha hồ cho họ đi săn lùng, lùng đến chán thì thôi cũng không thể tìm thấy tôi được. Điều đó làm cho tôi chột dạ. Nhưng chỉ một phút thôi. Vì tôi đã tính rằng tôi sẽ chẳng còn ở đây cho đến lúc ông ấy làm cái chuyện kia nữa đâu.

Ông lại sai tôi ra ngoài thuyền lấy những thứ ông ấy vừa mang về. Có một bao mỳ khoảng hơn hai chục cân, một miếng mỡ, đạn và bốn chai rượu uýt-ki lớn, có cả một quyển sách cũ với hai tờ báo để lau chùi, và vài thứ lặt vặt khác nữa. Tôi vác tất cả lên, bước ra để xuống mũi thuyền rồi ngồi nghỉ. Tôi nghĩ mãi trong bụng, tính rằng lúc nào trốn đi sẽ mang theo khẩu súng với mấy cái cần câu chạy vào rừng. Tôi định sẽ không ở lỳ một chỗ mà sẽ đi khắp nơi trong xứ, sẽ đi về đêm, vừa săn bắn vừa câu cá mà sống. Cứ như vậy đi thật xa để cho bố tôi và bà goá không bao giờ có thể tìm thấy tôi nữa. Tôi đã nghĩ sẽ cưa đứt hẳn miếng gỗ và chuồn ngay đi đêm đó nếu mà bố tôi đã say khướt rồi, mà tôi đoán thế nào ông ấy cũng say. Tôi nghĩ quá nhiều về chuyện đó đến nỗi không biết mình ngồi đây đã bao lâu. Tới lúc bố tôi hét lên gọi, hỏi tôi là ngủ hay chết đuối ở đó.

Tôi vác tất cả mọi thứ vào trong lều. Lúc ấy, trời đã sắp tối. Trong khi tôi đang chuẩn bị bữa ăn chiều, ông ấy lại nốc thêm vào cốc rượu nữa, ấm người lên rồi, ông ấy lại đi gây sự. Lúc trước ở dưới tỉnh ông ấy cũng đã say khướt rồi, đêm nào cũng ngủ ngoài vệ đường, trông rất thảm hại, người ta có thể cho ông ấy là Ađam. Khắp người đầy những bùn, khi rượu ngấm vào rồi ông ấy thường hay tìm đến gặp chính phủ. Lần này ông ấy nói:

- Hừ! Thế mà cũng gọi là chính phủ à? Thử xem nó đã làm sao nào. Này là pháp luật này. Pháp luật sẵn sàng bắt con người ta đem đi đấy hử? Đứa con riêng của người ta phải lo lắng vất vả mất bao nhiêu công phu nuôi dậy. Phải, đúng thế, người ta có con nuôi cho khôn lớn, đến lúc nó sắp sửa đi làm đi ăn để kiếm cái gì nuôi nấng đỡ đần cho bố thì bây giờ hoá ra như vậy. Pháp luật làm ra để giúp đỡ người ta chứ. Thế mà cũng gọi là chính phủ! Chẳng phải chính phủ đếch gì cả. Pháp luật đi ủng hộ cái lão chánh Thatcher ấy và giúp nó lấy hết cả cơ nghiệp của tôi à? Đây này, pháp luật làm thế này đây; pháp luật lấy người ta sáu nghìn đô la rồi dồn người ta vào một cái bẫy cũ kỹ ở một cái nhà như thế này này, để người ta phải đi lang thang, với những quần áo cho lợn mặc cũng không đáng. Ấy thế mà cũng gọi là chính phủ. Với cái chính phủ như thế này thì người ta chằng ai có quyền gì cả. Có lúc tôi nghĩ rằng thà cứ nhất quyết bỏ cái xứ này mà đi còn hơn. Phải, tôi nói với mọi người như vậy đấy, tôi nói thẳng vào mặt lão Thatcher như vậy đấy. Vô khối người đã nghe tôi nói thế và có thể chứng thực là tôi đã nói thế. Tôi bảo rằng chỉ cần cho tôi hai xu là lập tức bỏ cái xứ đang nguyền rủa này mà đi ngay và không bao giờ thèm quay trở về nữa. Mà ai cũng nói thế cả. Đây này, hãy thử nhìn cái mũ của tôi xem - nếu như các ngài còn có thể gọi nó là cái mũ, cái chóp thì bật ra, còn cái quả mũ thì tụt xuống mặt đến tận cằm. Làm sao còn ra cái mũ được nữa. Chui đầu vào cái mũ thì khác nào như nhét vào cái ống khói lò sưởi. Đây này, nhìn xem, cái mũ tôi đội nó thế này này. Nếu như tôi có được đủ những quyền lợi của tôi thì tôi đã là một trong những người giầu có nhất tỉnh rồi...

À, phải, phải, cái chính phủ này thật tốt lắm. Đấy, thử xem. Có một anh da đen tự do ở Ohio đến, anh ta lại da trắng, gần như một người da trắng. Anh ta mặc một chiếc áo sơ mi trắng nhất chưa ai thấy bao giờ, đội một cái mũ bảnh nhất. Không ai trong tỉnh này lại có quần áo đẹp hơn của anh ta; rồi anh ta lại có chiếc đồng hồ vàng, với dây vàng, có một chiếc gậy đầu bịt bạc, thật là một tay triệu phú, tóc hoa râm, ghê gớm nhất xứ này. Các ngài nghĩ sao? Thiên hạ bảo anh là một giáo sư đại học, có thể nói các thứ tiếng, biết đủ mọi thứ. Mà đó cũng chưa phải là cái tệ nhất đâu. Họ còn bảo rằng anh ta cứ ngồi ở nhà cũng có thể bầu cử được. À, thế thì ai mà nghe được cơ chứ. Tôi nghĩ không biết cái xứ này rồi sẽ ra làm sao đây? Hôm bầu cử, tôi sắp sửa đi bỏ phiếu - nếu như tôi không say rượu và có thể đi tới đi được - thì bỗng nghe nói rằng ở nước này có một bang người ta không cho người da đen bầu cử, thì tôi lập tức rút ngay phiếu lại. Tôi bảo rằng tôi sẽ không bao giờ thèm đi bầu cử, trong xứ muốn nói tôi ra sao thì nói. Tôi còn sống một ngày nào nhất định tôi sẽ không đi bỏ phiếu. Cứ nhìn thái độ thản nhiên của anh da đen đó thì xem, anh ta sẽ không sẵn sàng nhường chỗ cho tôi đâu, nếu như tôi không đẩy anh ta sang một bên. Tôi bảo mọi người rằng tại sao lại không đem anh da đen ấy mà bán đấu giá? Tôi chỉ cần biết thế. Các ngài có hiểu người ta trả lời tôi thế nào không? Còn thế nào nữa, họ nói rằng anh ta đến xứ này chưa được sáu tháng nên không thể đem bán được. à, thì ra đây là một cái chính phủ tự cho mình là chính phủ, và cứ khăng khăng mãi rằng mình là chính phủ, tưởng như thế là chính phủ; ấy thế mà cứ lặng thinh đến sáu tháng mới dám đụng chạm đến một anh da đen đi cướp của, gớm ghiếc; mặc áo sơ mi trắng và tự do đàng hoàng ấy, Rồi thì...

Bố tôi vừa nói vừa đi lại như vậy, và cũng không để ý rằng đôi chân đã già nhưng còn dẻo dai ấy đưa mình đến tận đâu. Bỗng thế nào ngã dúi cả đầu vào cái thùng thịt muối, sứt cả hai ống chân. Thôi, thế là phần cuối bài diễn văn của ông ấy biến thành một thứ ngôn ngữ hết sức sôi nổi - phần lớn vẫn chỉ nói đến anh da đen và chính phủ - trong khi ông ấy bực mình đá cái thùng lăn khắp nhà. Ông ây đi lò cò một chân quanh phòng, tay ôm một bên ống chân, rồi thả xuống rồi lại ôm chân kia, rồi bắt thình lình co chân đạp vào cái thùng một nhát rất mạnh. Nhưng chẳng may thế nào vì một bên giầy há mõm có mấy ngón chân thò ra. Đâm vào cái thùng; ông ấy kêu rú lên một tiếng nghe rợn tóc gáy; thế là ông ấy lăn ra đất, tay ôm lấy đầu ngón chân. Bây giờ thì không biết ông ấy chửi tôi bao giờ. Sau này, chính là ông ấy cũng nói lại như vậy. Ông ấy đã từng nghe nói đến cụ Sowberry Hagan hồi còn oanh liệt và bảo rằng cụ đã ảnh hưởng đến ông ấy. Nhưng tôi thì cho rằng có lẽ đó chỉ là chuyện bố tôi bịa đặt ra mà thôi.

Ăn bữa chiều xong, bố tôi lại vớ lấy chai rượu, bảo là trong đó còn đủ để uống hai lần bình thường và một lần thật say nữa. Lần nào cũng nói vậy. Tôi đã định bụng rằng trong khoảng độ một giờ đồng hồ thì ông ấy sẽ say mềm không biết gì nữa, lúc đó tôi sẽ lấy cắp cái chìa khoá hoặc cưa đứt hẳn miếng gỗ để chui ra; một trong hai cách. Bố tôi vẫn uống tì tì rồi lát sau nằm vật xuống giường. Nhưng thật là tôi chẳng gặp may tý nào. Không phải là bố tôi ngủ say, mà chỉ mệt thôi. Ông ấy làu nhàu, lèm nhèm, quay bên này, giở bên kia một lúc lâu. Sau cùng, tôi chờ mãi cũng buồn ngủ quá không sao mở mắt được nữa. Thành ra, trước khi hiểu rằng mình ra sao thì tôi đã ngủ tít từ lúc nào mà ngọn nến thì vẫn đang cháy.

Tôi không rõ mình đã ngủ được bao nhiêu lâu; nhưng bỗng có tiếng hét làm tôi giật mình tỉnh dậy. Nhìn bố tôi mặt rất giận dữ, chạy quanh từ góc này sang góc kia, miệng thì hét có rắn. Ông ấy bảo rắn bò lên chân rồi bỗng vùng dậy la hét, kêu là có một con mổ vào má. Tôi chả thấy con rắn đâu cả, còn ông ấy thì cứ vẫn chạy quanh ở trong nhà, miệng kêu: Bắt nó ra! Bắt nó ra! Nó cắn vào cổ tôi đây này! Chưa bao giờ tôi thấy ai có đôi mắt dữ tợn như thế. Được một lúc, ông ấy mệt quá ngã vật xuống thở dốc; rồi lăn người đi rất nhanh, chân đập phải mọi đồ đạc trong nhà, tay thì quờ quạnh đập vào không khí, miệng vẫn là hét, kêu rằng có ma quỷ ở đâu đến bắt ông ấy đi. Dần dần mệt quá, ông ấy nằm im một lúc, nhưng miệng vẫn rền rĩ. Rồi nằm im hẳn, không còn tiếng động gì nữa. Tôi vẳng nghe tiếng cú rúc và tiếng chó sói sủa trong rừng xa; và lúc đó không gian im lặng một cách khủng khiếp. Bố tôi vẫn nằm yên ở góc nhà. Lát sau, ông ấy nhổm dậy nghiêng đầu về một bên nghe ngóng, rồi nói khe khẽ:

- Lộc - cộc, lộc - cộc; người chết đi qua đây; lộc - cộc, lộc - cộc; chúng nó đuổi theo tôi đấy, nhưng tôi không đi đâu. Ôi, ôi, họ đã đến đây rồi này! Đừng mó vào người tôi! Đừng! Đừng! Cút đi, tay họ sao mà lạnh quá thế! Bỏ tôi ra nào! Ôi! ôi! Xin tha cho thằng khốn nạn này!

Rồi ông ấy quỳ cả bốn chân, vừa bò vừa lậy để người ta tha cho, rồi lại cuộn mình vào trong chăn, rồi rúc xuống gần chiếc bàn cũ bằng gốc thông; miệng vẫn van xin, van xin chán rồi khóc. Qua cái mền chăn, tôi nghe rõ mồn một từng tiếng.

Rồi lát sau nữa, ông ấy tung chăn ra đứng thẳng người lên. Mặt trông càng dữ tợn, nhìn chằm chặp vào tôi và bước đến gần. Ông ấy đuổi tôi chạy quanh trong nhà, tay cầm con dao nhíp, miệng gọi tôi là thần chết, và nói là sẽ giết tôi. Như vậy thành ra tôi không đến gần ông ấy được. Tôi van xin, bảo ông ấy rằng tôi chỉ là thằng Huck đấy thôi. Nhưng ông ấy cười lên một tiếng ghê rợn, gầm lên chửi lại và cứ thế đuổi tôi. Tôi chạy, rồi bỗng quay ngoắt người lại luồn dưới tay ông ấy, thế nào ông ấy quờ lại túm được lưng áo tôi. Tôi đã nghĩ bụng thôi thế là mình chết. Nhưng nhanh như chớp tôi lại tụt được áo ra và chạy thoát. Được một chốc, ông ấy mệt quá quỵ xuống, dựa lưng vào cánh cửa, vào bảo rằng ông ấy nghỉ một phút rồi sẽ giết tôi. Ông ấy nhét con dao xuống đít, bảo là ngủ một tí cho khoẻ đã rồi sẽ cho tôi biết tay.

Rồi ông ấy gật gà ngủ. Lát sau, tôi chui tụt vào gầm ghế, khe khẽ nhoi lên, không có một tí tiếng động nào và tôi nhấc khẩu súng xuống. Tôi rút cái quy lát ra để coi lại chắc chắn xem có đạn không, rồi tôi đặt súng lên trên cái thùng củ cải, chĩa miệng súng vào đúng bố tôi. Rồi tôi ngồi yên đó chờ xem ông ấy có đụng đậy gì không. Lúc đó sao mà thời gian đi chậm chạp và lặng lẽ thế.[/size]
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,604
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7


- Dậy! Mày định làm gì thế này?

Tôi mở choàng mắt ra nhìn quanh, cố nghĩ xem mình đang ở đâu. Lúc đó mặt trời đã mọc, và tôi vừa đánh một giấc say. Bố tôi đang đứng trước mặt, coi vẻ buồn bã mệt mỏi. Bố tôi hỏi:

- Mày đem súng ra đây làm gì?

Tôi đoán là bố tôi chẳng biết gì về những cái ông ấy đã làm đêm trước, nên tôi nói:

- Có ai định vào nhà hay sao ấy, nên con phải ngồi đấy gác.

- Sao mày không gọi cho tao dậy?

- Có, con đã gọi bố dậy nhưng không được. Lay mãi bố không dậy.

- Thôi được, mày đừng có ngồi đây nói lôi thôi nữa. Ra ngoài kia xem ở đầu dây có con cá nào không đem về ăn bữa sáng. Tí nữa tao ra.

Bố tôi mở khoá, tôi chạy vụt ra bờ sông. Thấy mấy cành củi trôi lềnh bềnh và lác đác những mảnh vỏ cây, tôi biết là nước đã bắt đầu lên. Tôi nghĩ bụng giá lúc này ở ngoài tỉnh thì đã đang chơi đùa thoả thích. Tháng sáu vào mùa nước lên, đối với tôi bao giờ cũng có nhiều may mắn. Vì hễ nước lên thì có củi gỗ trôi xuống, lại có những mảnh bè mảng, có khi đến mấy chục cái một lúc. Thế là chỉ việc vớt lên đem bán cho xưởng gỗ hay nhà máy cưa thôi.

Tôi theo dọc bờ sông đi ngược lên phía trên, một mặt để ý bố tôi, một mặt nhìn xem nước lên có gì kiếm chác được chăng. Bỗng có một chiếc xuồng trôi tới, chiếc xuồng rất đẹp, khoảng ba bốn thước chiều dài, mũi xuồng nghểnh lên như con vịt. Từ trên bờ sông, tôi chui đầu nhảy tùm xuống như con ếch, cứ mặc nguyên quần áo như vậy bơi ra chỗ có chiếc xuồng. Tôi đoán thế nào cũng có người nằm trong xuồng, vì thường hay có những người nằm bên trong khi ấy mới thò đầu ra cười cho một mẻ. Nhưng lần này thì không. Chắc hẳn đây là một chiếc xuồng bị bỏ trôi. Tôi trèo lên rồi lấy chân khua nước đánh vào bờ. Tôi nghĩ bụng chắc bố tôi trông thấy sẽ thích lắm - cái xuồng đáng giá mười đô la - Nhưng vào đến bờ vẫn chưa thấy bố tôi đâu. Tôi đẩy xuồng vào một cái khe nhỏ, bên trên um tùm những lá nhỏ và liễu, lúc đó tôi bỗng nảy ra ý nghĩ khác. Tôi tính sẽ giấu kỹ chiếc xuồng đi, như vậy đáng lẽ chạy trốn vào rừng thì tôi sẽ xuôi dòng sông độ dăm chục dặm và cắm ở một chỗ, chả phải mất thì giờ mà không phải vất vả chạy bộ.

Chỗ này khá gần căn lều. Tôi tưởng như nghe thấy tiếng chân bố tôi đi tới. Nhưng tôi đã giấu xuồng rồi, giấu xong tôi bước nhìn qua bụi liễu, thấy bố tôi đang bước xuống con đường nhỏ và đang giương súng lên ngắm bắn chim. Như vậy tức là ông ấy chưa biết gì cả.

Lúc bố tôi quay lại, tôi lúng túng vớ vội lấy một chiếc cần câu. Ông ấy hỏi tôi làm gì mà lâu thế, tôi bảo vừa ngã xuống sông nên mới lâu như vậy. Tôi biết ông ấy nhìn thấy quần áo tôi thì ướt sũng thì thế nào cũng hỏi. Hai người kéo được năm con cá to ở đầu dây rồi quay về căn lều.

Ăn bữa sáng xong, chúng tôi đi nằm ngủ lại. Hai người đều đã mệt nhừ. Tôi nghĩ xem có cách gì để bố tôi và bà goá đều không thể theo đuổi được nữa. Có lẽ tin vào may rủi, đi thật xa để họ không tìm được tôi nữa là chắc chắn hơn cả. Vì biết đâu lại không có chuyện gì xẩy ra. Nghĩ một hồi lâu, chẳng tìm ra cách gì. Bố tôi ngồi nhổm dậy một lát, uống nước, rồi nói:

- Lần sau có người nào đến rình mò chung quanh đây, mày phải gọi tao ra ngay, nghe không? Cái người đó đến đây không phải là muốn tốt đâu. Tao sẽ bắn chết. Lần sau nhớ gọi ra, nghe không?

Rồi ông ấy lại nằm vật xuống ngủ. Cái điều ông ấy vừa nói thật hợp lý với tôi. Tôi tự nhủ rằng mình có thể vin vào cái cớ đó, và từ nay sẽ không còn ai nghĩ đến chuyện đuổi theo tôi nữa.

Đến độ mười hai giờ trưa thì hai chúng tôi bước ta khỏi nhà đi dọc theo bờ sông. Nước sông lên khá nhanh. Cành cây mục cũng trôi theo với nước lên. Lúc sau có một cái bè chín mảng trôi xuống. Chúng tôi đánh thuyền ra kéo vào bờ. Rồi đi ăn bữa trưa. Nếu là người nào khác không phải là bố tôi thì đã chờ đó suốt ngày xem có thể nhặt thêm cái gì khác, nhưng bố tôi không phải là người như vậy. Chín mảng bè ấy cũng đủ để kiếm ăn một lần, vì như vậy là ông ấy có thể đem lên tỉnh bán được rồi. Thế là ông ấy lại khoá trái cửa nhốt tôi vào và ra lấy thuyền con kéo những mảng bè đi. Lúc đó khoảng ba rưỡi chiều. Tôi đoán đêm nay ông ấy sẽ không về. Tôi chờ đến lúc tính rằng ông ấy đã đi khỏi rồi mới đem cái cưa ra và tiếp tục cưa chỗ tường gỗ ấy. Trước khi bố tôi sang bến bên kia bờ sông thì tôi cũng đã chui qua khỏi lỗ. Nhìn bố tôi với chiếc bè chỉ còn là một chấm nhỏ trên mặt nước rất xa.

Tôi lấy bao mì và đem ra chỗ giấu xuồng gạt cành lá um tùm ra đặt vào xuồng . Rồi lấy mỡ, lấy chai rượu uýt -ki, lấy tất cả cà phê với đường để trong nhà ra, lấy hết đạn, cả bông nhồi thuốc, cả gáo múc nước, chậu gỗ, lấy một cái thìa với một cốc sắt, lấy cưa của tôi và hai cái chăn, cái xoong và ấm pha cà phê. Tôi lấy cả cần câu, diêm và những thứ khác, bất cứ cái gì chỉ đáng một xu cũng lấy. Xong rồi, tôi quét dọn sạch sẽ. Tôi cần có một cái rìu, nhưng trong nhà chẳng có cái nào. Chỉ có một cái để ở tận đống củi, nhưng tôi đã có ý định trước rồi nên cứ để đó. Tôi lấy khẩu súng nữa. Thế là xong tất cả mọi thứ.

Vì phải bò qua cái lỗ ra ngoài và chuyển nhiều thứ đồ đạc qua lỗ nên mặt đất ở chỗ này bị cày lên một khoảng lớn. Cho nên tôi tính rằng từ phía ngoài tôi sẽ phủ lên để che chỗ gồ ghề với vết mùn cưa. Rồi tôi lắp mảng gỗ trở lại chỗ cũ. Tôi kê hai hòn cuội ở dưới và một hòn ở trên để giữ cho chặt mảnh gỗ vào đó, và chỗ ấy nghiêng dốc đi mà lại không chạm tới đất. Nếu như có người đứng cách xa bốn năm bước thì không thể nhìn thấy chỗ bị cưa và không thể biết được, vả lại đây là phía sau nhà và có lẽ cũng chẳng ai vớ vẩn đi vòng ra đó làm gì.

Còn từ trong này ra đến chỗ giấu xuống thì toàn là cỏ nên không có dấu vết gì để lại cả. Tôi dạo quanh một lượt xem lại. Tôi đứng trên bờ sông nhìn ra phía xa. Tất cả đều an toàn. Rồi tôi cầm cây súng đi một quãng vào rừng. Thường lợn nhà hễ bỏ chuồng trong trại mà đi thì dễ biến thành lợn rừng. Tôi liền bắn ngay cho anh lợn này một phát rồi kéo về nhà.

Tôi lấy cái rìu choàng một nhát thật mạnh vào cửa. Đập mãi, đập khá lâu mới phá được cửa. Tôi kéo con lợn vào trong, lôi đến gần cái bàn rồi bổ một nhát rìu vào cổ con lợn, để nó nằm dưới đất như thế một lúc cho tuôn máu ra. Tôi nói đất vì đó là đất thực, đất nện thôi, chẳng lát gỗ gì cả, sau đó tôi kiếm một cái bao cũ nhét đầy những hòn cuội to vào bao, đủ nặng cho tôi có thể kéo được, rồi tính từ chỗ con lợn tôi kéo cái bao cuội ra cửa, kéo qua rừng cây đến chỗ bờ sông, rồi vứt xuống đó. Chiếc bao cuội chìm nghỉm, mất tăm. Ai nhìn cũng có thể thấy rằng đã có một vật gì bị kéo lê trên mặt đất. Tôi muốn thằng Tom Sawyer có mặt ở đây lúc này vì tôi biết nó sẽ rất thích tạo chuyện như thế này và còn thêm thắt vào đó cho có vẻ ly kỳ nữa. Vì những chuyện như thế thì chẳng có ai huênh hoang hơn thằng Tom Sawyer được đâu.

Rồi tôi nhổ mấy sợi tóc, bôi đầy máu vào lưỡi rìu, dính mấy sợi tóc vào cái rìu, đem vứt ở góc nhà. Tôi bế con lợn lên ôm vào ngực, lấy vạt áo chùm ra ngoài (để cho nó khỏi rỏ máu xuống) ra đến một chỗ phía sau nhà quẳng con lợn xuống sông. Bấy giờ tôi lại nghĩ đến một cái khác nữa. Tôi ra xuồng lấy bao bột mì và cái cưa đem vào nhà. Tôi để bao mì vào chỗ cũ, lấy cưa chọc một lỗ dưới đấy bao, phải lấy cưa mà chọc vì ở đây chẳng có con dao nhíp làm mọi việc. Rồi tôi xách cái bao mì đi chừng một trăm thước qua bỏ bãi cỏ, rồi qua bụi liễu ở phía đông của căn lều, đến một cái hố nông nhưng rộng đến năm dặm mọc đầy những cây sậy và có thể đến mùa mưa thì cũng đầy những vịt nữa. Có một con ngòi nhỏ dẫn đến bờ bên kia hồ xa tới mấy dặm. Tôi không biết chỗ nào nhưng chắc chắn nó không chạy ra sông. Mì rơi qua lỗ bao ra ngoài, vạch thành một vệt dài suốt từ nhà nó ra đến hồ. Tôi vứt cả hòn đá mài của bố tôi ở đó nữa, để cho có vẻ vô tình mà làm như vậy. Rồi tôi lấy một sợi dây buộc kín cái lỗ ở bao mì lại cho nó khỏi tuôn ra nữa. Rồi lại đem cả bao mì với cái cưa trở về xuồng.

Lúc này trời đã gần tối. Tôi đẩy chiếc xuồng xuống phía dưới, chỗ lùm cây liễu ở trên bờ rủ xuống, và tôi ngồi đó chờ trăng lên. Tôi buộc xuồng vào gốc liễu, lấy một miếng bánh ra ăn, ăn xong nằm ngả ra xuồng, hút một điếu thuốc để nghĩ ra kế hoạch mới. Tôi tự bảo thế nào rồi họ cũng theo vết cái bao cuội lần ra bờ sông rồi dọc theo bờ đi tìm mình. Rồi lại theo vết bột mì ra đến hố, và theo ngòi đi đến chỗ nào đó để tìm bọn cướp đã giết tôi và lấy đồ đạc. Họ sẽ sục sạo trên sông với mỗi cái việc là đi tìm xác tôi thôi.

Tìm mãi họ sẽ mệt và chán chả buồn nghĩ đến tôi nữa. Hay lắm, tôi có thể dừng lại bất cứ nơi nào tôi muốn. Đảo Jackson là nơi tôi có thể trú chân được. Tôi biết kỹ cái đảo ấy lắm, chẳng có ai đến đó bao giờ. Rồi đêm đêm tôi có thể đánh xuồng lên tỉnh, đi mò quanh quẩn, và lấy cắp những thứ gì tôi cần dùng đến.

Lúc đó tôi đã khá mệt. Điều trước nhất là phải ngủ. Khi tỉnh dậy phải mất đến một phút tôi không biết là mình đang ở đâu. Tôi ngồi dậy, nhìn quanh, hơi sợ. Rồi tôi nhớ ra. Con sông rộng bao la hàng dặm. Trăng sáng quá. Tôi không sao đếm hết những mảnh gỗ trôi, đen sì, lặng lẽ cách bờ vài trăm thước. Mọi vật đều im lặng như chết. Hình như đã khuya lắm rồi thì phải, tôi ngửi thấy như đã khuya lắm. Chắc các bạn cũng hiểu tôi định nói gì - tôi không tìm ra chữ để nói cho đúng được.

Tôi ngáp một cái thật dài, vươn vai. Vừa định cởi áo ra và bắt đầu lên đường thì bỗng nghe thấy tiếng gì xa xa trên mặt nước. Tôi lắng tai nghe và nhận ra ngay đó là tiếng cọt kẹt của mái chèo nghiến vào cọc chèo trong đêm khuya tĩnh mịch. Tôi thò đầu ra ngoài bụi liễu, thấy một chiếc thuyền đang lướt trên sông. Không thể đoán được trên thuyền có bao nhiêu người. Chờ cho nó đến gần qua mặt mới thấy trên thuyền chỉ có một người. Tôi đoán có lẽ là bố tôi, mặc dầu trong bụng tôi nghĩ rằng ông ấy chưa thể về được. Chiếc thuyền vẫn trôi theo dòng nước, qua chỗ tôi nấp, rồi lát sau ghé vào bờ, chỗ nước đứng. Nó ghé gần đến nỗi suýt nữa thì tôi vội tay ra lấy khẩu súng và nhằm hắn. Ôi, thôi đúng là bố tôi rồi - mà lại không say rượu nữa, vì cứ xem cái cách gác mái chèo thì đủ biết.

Tôi không để mất một tí thì giờ nào. Chỉ một phút sau đó là tôi đã lướt xuồng xuống phía dưới sông, nhẹ và nhanh, trong bóng tối sát gần bờ. Tôi chèo đi đến hơn hai dặm, rồi chèo thêm mấy trăm thước nữa ra giữa sông. Vì chỉ lát nữa là tôi sẽ đi qua bến đò, nhỡ có người trông thấy họ sẽ gọi.

Tôi cho xuồng đi giữa đám củi trôi trên sông, nhét mấy cây xuống đáy xuồng để cho nó cứ thế trôi đi. Tôi lại nằm xuống nghỉ, hút một điều thuốc, mắt nhìn lên bầu trời trong không vẩn một đám mây. Đêm sáng trăng mà nằm ngửa mặt lên nhìn trời thì thấy nó cao vô cùng; tôi chưa bao giờ thấy trời cao như thế. Những đêm như vậy, người ta có thể nghe rõ tiếng động trên mặt nước rất xa. Tôi nghe có tiếng người nói chuyện ở phía bến đò. Tôi nghe rõ mồn một từng câu hò. Một người nói bây giờ đã đến độ ngày dài mà đêm thì ngắn rồi.

Một người khác nói đây chưa phải là một trong những đêm ngắn; và cả hai cùng cười. Rồi họ đánh thức một người khác dậy để lại cười, nhưng người kia không cười văng một câu tục bảo để cho anh ta ngủ yên. Người thứ nhất bảo thôi để đem cái đó về nói với mụ vợ già - mụ sẽ nghe lọt tai. Rồi bảo rằng cái đó chưa thấm gì đối với những cái hắn nói từ trước đến giờ. Tôi lại nghe một người nói bây giờ đã gần ba giờ sáng rồi; muốn đừng để cho phải chờ đến hơn một tuần lễ nữa mới sáng. Rồi sau đó câu chuyện xa dần; xa dần, tôi không nghe rõ từng tiếng nữa. Nhưng vẫn còn nghe thấy tiếng rì rầm, thỉnh thoảng vài tiếng cười, nhưng hình như đã xa lắm.

Bây giờ, tôi đã cách xa phía dưới bến đò. Tôi ngồi dậy, nhìn thấy đảo Jackson, khoảng hơn hai dặm phía dưới dòng sông. Đảo có nhiều cây cối rậm rạp, nằm giữa sông, vừa to vừa tối, vừa vững vàng như một chiếc tàu thuỷ lớn không có đèn. Đường cập vào cảng không có gì ngăn trở cả, những mô đất đã chìm xuống dưới mặt nước.

Tôi chèo đến nơi không mất nhiều thì giờ lắm. Tôi quành xuồng qua chỗ nước xoáy và rẽ vào dòng êm, rồi, lướt hẳn vào chỗ nước đứng, cập vào bờ về phía Illinois. Tôi đẩy xuồng vào một cái vũng sâu ở trong bờ mà tôi đã biết từ trước. Tôi phải rẽ những đám liễu ra để đẩy xuồng vào, và tôi làm thật nhanh để khỏi có ai ở phía ngoài trông thấy.

Tôi lên ngồi trên một cây gỗ đã ngã xuống ở đầu hòn đảo và nhìn ra sông rộng. Nhìn những đám gỗ trôi đen xì, rồi nhìn về phía tỉnh cách đó ba dặm, thấy có ba bốn ánh đèn lấp lánh. Một chiếc bè gỗ to tướng đang từ phía trên đi xuống, cách chỗ tôi ngồi chừng một dặm; giữa hè thắp một ngòn đèn. Tôi nhìn theo một chiếc bè lừ lừ trôi đến ngay chỗ tôi một người nói: Chèo khoẻ lên! Thế! Miết cạnh mái chèo xuống cơ! Tôi nghe tiếng oang oang như người đó đứng ngay cạnh mình vậy.

Trời đã bắt đầu xam xám. Tôi bước vào trong rừng nằm xuống ngủ một giấc trước khi ăn bữa sáng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,604
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8


Lúc tôi tỉnh dậy, mặt trời đã lên cao lắm rồi, tôi đoán lúc ấy đã hơn tám giờ. Tôi nằm trên cỏ, trong bóng râm mát lạnh, đầu nghĩ đến nhiều thứ, tôi cảm thấy được nghỉ ngơi, vừa vững dạ, vừa thoả thích. Qua một vài khoảng trống, tôi có thể trông thấy mặt trời. Chung quanh toàn là cây to nên chỗ nào cũng tối cả. Cũng có chỗ ánh nắng xuyên qua kẽ lá chiếu xuống mặt đất, và ánh nắng chỗ đó rung rinh như một làn gió nhẹ thổi qua. Một đôi sóc ngồi trên cành nhìn tôi rúc rích kêu một cách thân mật.

Tôi thấy ở đây thoải mái, vững vàng quá lại hoá lười không muốn ngồi dậy nấu bữa ăn lót dạ. Nhưng rồi lúc nhắm mắt ngủ lại thì tôi bỗng nghe thấy tiếng nổ bùm ở phía ngoài sông. Tôi nhổm dậy, chống khuỷu tay nghe ngóng. Lúc sau lại thấy có một tiếng nữa. Tôi đứng hẳn dậy bước ra và nhìn ra ngoài một kẽ hở trong lùm cây. Một đám khói mù trải trên mặt nước, lan đi xa dần - có lẽ đến tận bến đò. Rồi chiếc thuyền chở đầy những người đang đi xuống phía dưới này. Bây giờ tôi đã biết có chuyện gì rồi. Bùm! một làn khói trắng từ chiếc phun ra. Đó là đại bác họ đang bắn xuống sông để cho xác tôi nổi lên trên mặt nước.

Tôi đã đói bụng, nhưng lúc này chưa thể nhóm lửa lên được, vì họ có thể trông thấy khói. Cho nên vẫn cứ phải ngồi đó nhìn khói đại bác và nghe tiếng nổ. Quãng sông ở đây rộng càng đẹp. Nếu như có cái gì lọt lòng thì tôi sẽ ngồi đó thật lâu để xem họ đi tìm xác chết của tôi như thế nào. Tôi nghĩ không hiểu tại sao người ta lại hay nhét thuỷ ngân vào những khoanh bánh thả trôi sông, rồi những khoanh bánh ấy trôi thẳng đến chỗ nào có xác người chết đuối thì nó sẽ đứng lại. Tôi tự bảo cứ yên xem thế nào, nếu không thấy có những khoanh bánh như vậy trôi đến tìm tôi thì tôi sẽ tự ra mắt. Tôi đi vòng hòn đảo sang phía bờ Illinois xem may ra có gì chăng. Và tôi không đến nỗi thất vọng. Có một khoanh bánh thật to trôi tới. Tôi lấy một cái que dài khều vào, nhưng bị trượt chân, khoanh bánh lại trôi ra xa. Chỗ tôi đứng đó là chỗ dòng nước chảy gần bờ nhất, tôi đã biết rồi. Lát sau lại có miếng khác trôi đến, và lần này tôi vớt lên được. Tôi cậy cái nút bịt và lắc lắc cho thủy ngân rơi ra rồi đưa lên mồm cắn. Chà, đúng là một miếng bánh chính cống rồi, rất giá trị, không phải như cái thứ bánh ngô khốn nạn mà tôi vẫn phải ăn từ trước.

Tôi đi tìm một chỗ tốt trong đám cây rậm rạp, ngồi trên một khúc gỗ vừa nhai bánh vừa theo dõi chiếc thuyền, trong lòng khoan khoái vô cùng. Bỗng tôi giật mình; vì lúc đó tôi nghĩ nhỡ bà goá, hoặc ông thầy ở trường, hoặc một người nào đấy đã cầu nguyện để cho những miếng bánh này tìm thấy tôi rồi thì sao đây. Nếu thế thì trong bánh chắc là phải có cái gì. Nghĩa là có một cái mà khi những người nhà bà góa hay ông thầy ở trường đã cầu nguyện vào đó rồi, tức là nó đã nằm trong miếng bánh rồi? Nhưng tôi nghĩ đối với tôi chắc không hề gì. Vả có gì đi nữa thì chắc cũng chỉ là điều tốt lành cho tôi mà thôi.

Tôi châm lửa hút điếu thuốc, kéo một hơi dài, rồi lại ngồi nhìn ra ngoài. Chiếc thuyền vẫn đi theo dòng, và tôi sẽ có dịp nhìn kỹ xem những ai ngồi trên thuyền ấy khi nào nó xuống đến gần chỗ tôi. Vì thế nào nó cũng đến gần, như miếng bánh đã trôi được tới đó. Lúc nó đến thật gần chỗ tôi rồi, tôi bỏ điếu ra và đi về chỗ lúc nãy tôi vớt miếng bánh. Tôi nằm phệt xuống nấp sau khúc gỗ, chỗ này hơi quang đãng, cho nên ở đầu khúc gỗ nứt tôi có thể ghé nhìn ra ngoài được.

Rồi chiếc thuyền đến gần nữa, sát gần đến nỗi chỉ vứt một mảnh ván là có thể bước lên bờ được. Trên thuyền đủ mặt mọi người; bố tôi, lão chánh Thatcher, rồi Becky con gái lão Thatcher, rồi Joe Harper, rồi thằng Tom Sawyer, rồi dì Polly của thằng Tom, rồi cả Sid, cả Mary, rồi mấy người khác nữa. Ai cũng đang bàn về vụ ám sát. Nhưng bỗng người chủ thuyền nói:

- Coi kỹ đấy nhé, dòng nước chỗ này chảy gần bờ nhất, có lẽ nó bị dạt lên đất và mắc vào một bụi cây nào đó gần bờ nước. Tôi hy vọng như vậy.

Nhưng riêng tôi thì chẳng mong thế. Cả bọn người nhổm lên, nhô ra mạn thuyền, gần ngay trước mặt tôi, và ai nấy im lặng chăm chú nhìn. Tôi trông thấy họ rất rõ, nhưng họ thì không thể nhìn thấy tôi. Bỗng người chủ thuyền hét lên:

- Lùi ra này.

Rồi tiếng đại bác nổ vang ngay trước mặt làm tai tôi ù điếc cả và mắt thì gần như bị mù vì đám khói súng, suýt nữa tôi tưởng là mình đi đứt. Nếu như trong đó có đạn thật thì chắc là họ sẽ thấy được cái xác đang tìm. Lậy trời may quá, tôi nhận thấy mình không bị thương gì cả. Chiếc thuyền lại tiếp tục đi và khuất sau chỗ ngoặt của hòn đảo. Thỉnh thoảng còn nghe thấy tiếng bùm, bùm xa dần, rồi đến độ một giờ sau không nghe thấy gì nữa. Hòn đảo dài ba dặm, tôi đoán họ đã đi tới đầu đằng kia rồi thôi chịu bỏ không tìm kiếm nữa. Nhưng họ còn tiếp tục. Họ đi vòng đầu đằng kia hòn đảo rồi cứ thế đi theo quãng sông hẹp lên phía bờ Missouri rồi quay trở về. Thôi thế là bây giờ yên chuyện rồi. Chẳng còn ai đi tìm kiếm tôi nữa. Tôi lấy đồ đạc ở xuồng lên, cắm một chỗ nghỉ chân xinh xinh ở trong đám cây rậm. Tôi lấy chăn dựng thành cái lều nhỏ rồi để các đồ đạc ở trong đó cho khỏi bị mưa ướt. Tôi bắt một con cá, lấy lưỡi cưa mổ cá, và chờ đến khi mặt trời lặn thì bắt đầu nhen ngọn lửa trại của tôi lên nấu bữa ăn chiều. Sau đó, tôi thả sẵn một dây câu xuống sông để sáng mai dậy có cá ăn bữa sáng.

Trời tối hẳn, tôi ngồi bên đống lửa hút thuốc và cảm thấy rất thú vị. Nhưng dần dần tôi cũng thấy nó cô đơn thế nào ấy, nếu tôi ra ngồi bên bờ sông nghe sóng nước rì rầm chảy, nhìn lên trời đếm sao, rồi lại đếm những cành cây với bè mảng trôi từ trên kia xuống; chán rồi đi ngủ để giết thì giờ. Không thể ngồi yên như thế mãi được, sao rồi cũng phải sớm chấm dứt đi.

Tôi vẫn cứ sống như thế ba ngày đêm. Chẳng có gì khác. Mọi sự vẫn thế. Ngày hôm sau nữa, tôi lùng chung quanh chỗ tôi ở, lần xuống phía dưới hòn đảo. Tôi làm chủ hòn đảo. Cả hòn đảo là của tôi, phải nói như vậy, và tôi muốn biết kỹ tất cả mọi thứ về hòn đảo này. Thực ra, tôi chỉ là muốn kiếm cách cho qua thì giờ. Tôi tìm được rất nhiều dâu chín và rất ngon, rồi cả nho xanh mùa hè; cả những trái cơm xôi cũng bắt đầu nhú ra, dần dà rồi cũng sẽ đến lúc được hái cả thôi.

Cứ như vậy, tôi đi lang thang mãi vào rừng sâu cho đến lúc tôi đoán chỗ này không còn xa đầu kia của hòn đảo là mấy nữa. Tôi có khẩu súng trên tay nhưng chưa bắn một phát nào. Súng chỉ là để hộ thân, và tôi cũng nghĩ sẽ bắn một con vật gì ở gần hang của nó. Vừa lúc đó, suýt nữa thì tôi dẫm phải một con rắn khá lớn, con rắn luồn vào đám cỏ hoa mà chạy. Tôi đuổi theo định bắn cho được con rắn. Tôi đang bám riết bỗng thế nào đâm ngay phải một đám tro của ngọn lửa trại nào còn đang âm ỉ cháy.

Tim tôi như nhảy lên ở trong lồng ngực. Tôi không đợi nhìn xem có gì nữa, tôi từ từ hạ súng xuống và khe khẽ đi giật lùi bằng đầu ngón chân, lùi rất nhanh. Thỉnh thoảng dừng lại một giây trong đám cành lá um tùm và nghe ngóng; nhưng hơi thở của tôi phì phào mạnh quá nên tai tôi không còn nghe thấy gì. Tôi hít vào một hơi dài, rồi lại nghe; rồi lại hít hơi nữa. Thấy một thân cây gãy nằm ngang, tôi đã tưởng có người. Dẫm phải một cành cây khô gẵy rác một tiếng, tôi cũng tưởng như có ai cắt hơi thở của tôi làm hai và tôi chỉ còn giữ được một nửa hơi thở rất ngắn.

Trở về chiếc lều, tôi thấy trong lòng không yên. Thấy mình không còn được mạnh bạo như trước nữa. Nhưng tôi tự bảo: thì giờ đâu mà đi quanh quẩn. Rồi lại đem tất cả đồ đạc dọn xuống xuồng để khỏi có ai trông thấy. Tôi tắt ngọn lửa, xoa xoa đống tro ra chung quanh để trông có vẻ như ngọn lửa cũ đốt từ năm ngoái, rồi tôi trèo lên cây ngồi.

Tôi đoán chừng tôi ngồi trên cây đã đến vài tiếng đồng hồ, nhưng chẳng thấy gì, cũng không nghe thấy gì khác. Nhưng trong bụng thì tưởng như đã nghe thấy, nhìn thấy hàng ngàn thứ. Thôi, tôi không thể nào ở mãi trên cây như vậy được. Sau đó, tôi tụt xuống nhưng vẫn đứng trong đám cây rậm rạp mắt luôn luôn ngó nhìn ra ngoài. Tôi chỉ mới ăn vài quả hái trên cây với một ít thức ăn còn để lại từ bữa sáng.

Lúc đó đã đến đêm rồi. Bụng tôi đói mềm. Chờ đến lúc thật tối mịt, tôi mới thò ra khỏi bờ, trước lúc trăng lên, và đẩy xuồng về phía bờ Illinois, khoảng non nửa dặm. Tôi đi vào rừng nấu bữa ăn chiều và tính sẽ ở lại đây suốt đêm. Bỗng tôi nghe tiếng lộc cộc, lộc cộc. Tôi tự bảo: có ngựa đến. Sau đó, có tiếng người. Tôi lại vội vàng bê tất cả xuống xuồng, rồi lại bỏ vào rừng xem có thấy gì không. Bò chưa được mấy bước, nghe có tiếng người nói:

- Nếu đi tìm được một chỗ nào tốt thì ta nên dừng lại đây hơn, ngựa đã mệt lắm rồi. Để coi chung quanh đây nào.

Tôi không chờ đợi gì nữa, bước trở lùi và đẩy xuồng đi ngay. Tôi lại buộc xuồng vào chỗ cũ và định ngủ dưới xuồng.

Tôi không ngủ được nhiều. Vả chăng tôi cũng không thể ngủ vì phải nghĩ ngợi. Mỗi lúc chợt tỉnh dậy tôi tưởng như có người nào đến túm lấy cổ tôi. Thành ra ngủ cũng chẳng có ích gì. Dần dần, tôi tự bảo mình không thể sống như thế này được, phải đi tìm xem ai cái người đến sống trên hòn đảo này với tôi như vậy. Tôi sẽ tìm cho ra, nếu không thì phải chuồn đi. Tôi nghĩ nên làm ngay là hay hơn cả.

Rồi tôi lại đẩy xuồng lướt ra khỏi bờ một quãng, và cứ để cho xuồng trôi xuống phía dưới.

Trăng sáng vòi vọi. Trừ những chỗ có bóng tối ra, ánh trăng soi sáng như ban ngày. Tôi đánh xuồng đi như thế đến như đến một giờ đồng hồ; mọi vật đều im lặng và ngủ say như những tảng đá. Lần này tôi đã đến tận đầu kia hòn đảo. Một làn gió hiu hiu mát lạnh bắt đầu thổi tới. Nói như vậy nghĩa là sắp hết đêm rồi. Tôi lấy chân đập nước, quay ngoắt mũi xuồng và đi đến ven rừng. Tôi ngồi xuống một thân cây đổ, nhìn qua đám lá cây. Trăng đã chạy đi đâu rồi, và màn đen lại phủ trên sông. Nhưng lát sau, nhìn lên qua ngọn cây thấy một vệt sang sáng, tôi biết lại sắp đến ban ngày. Tôi cầm súng lén đi đến chỗ gặp cái lửa trại hồi sớm. Đi được một hai phút lại dừng bước nghe ngóng. Nhưng rủi thay là không tìm thấy có ánh lửa. Tôi từ từ, rất cẩn thận, bước đến chỗ đó. Tới nơi, nhìn vào thấy trên mặt đất có người nằm.

Tôi đã tưởng ma. Người nằm đó quấn một mảnh chăn lên đầu và gối đầu ngay gần kề đống lửa, Tôi đứng im lặng đằng sau bụi rậm, cách chỗ người đó nằm chừng hơn một thước, và nhìn chằm chặp. Trời đã mờ mờ sáng. Lát sau, người đó ngáp, vươn vai rồi tung chăn ra, ồ hoá ra Jim, anh da đen làm việc cho cô Watson. Tôi thật rất mừng được thấy Jim ở đây. Tôi lên tiếng:

- Chào Jim!

Rồi nhảy vụt ra. Jim giật mình nhảy chổm lên và nhìn tôi kinh hãi. Rồi hắn quỳ xuống, chắp hai tay nói:

- Xin đừng làm gì tôi, đừng! Tôi không bao giờ làm hại đến ma đâu. Bao giờ tôi cũng yêu những người đã chết, và làm gì được cho người chết tôi cũng xin làm. Xin cậu trở lại dưới sông đi. Cậu ở đâu ra thế, xin cậu đừng làm gì Jim, tội nghiệp. Tôi bao giờ cũng là bạn của cậu đây mà!

Tôi cũng chẳng phải mất nhiều thì giờ để nói cho hắn hiểu là không phải tôi đã chết. Tôi gặp Jim ở đây mừng quá. Bây giờ tôi không còn cô đơn nữa. Tôi bảo hắn là nếu hắn có đi mách với mọi người rằng tôi ở đây thì tôi cũng không sợ. Tôi cứ nói mãi mà hắn vẫn ngồi đó nhìn tôi chẳng hé miệng. Rồi tôi bảo.

- Trời sáng rồi. Ta hãy ăn lót dạ thôi. Anh thổi lửa lên đi.

- Nhóm lửa lên làm gì. Để mà nướng dâu với mấy cái rau dại ở đây à? Nhưng mà cậu có khẩu súng đấy phải không? Có thể kiếm cái gì mà ăn hơn là quả dâu cậu ạ!

- Dậu với rau dại, ô thế anh sống bằng những thứ đó à?

- Tôi chả kiếm được cái gì khác

- ồ, thế anh ở hòn đảo này bao nhiêu lâu rồi?

- Tôi đến đây ngay sau cái đêm cậu bị giết đấy!

- Sao, suốt từ hôm ấy đến nay à?

- Vâng, đúng đấy

- Thế thì chắc anh gần chết đói rồi đấy nhỉ?

- Tôi tính bây giờ nếu có thì tôi ăn được nhiều lắm. Được, cậu ạ. Thế cậu ở trên hòn đảo này bao nhiêu lâu rồi?

- Từ cái đêm tôi bị giết ấy

- ồ, sao thế nhỉ? Thế cậu sống bằng gì? à, nhưng mà cậu có khẩu súng. Phải, cậu có súng. Thế thì tốt lắm. Bây giờ cậu đi bắn con gì đi, rồi tôi ở đây nhóm lửa lên.

Cả hai chúng tôi ra chỗ giấu xuồng. Rồi trong khi Jim nhóm bếp trên một đám cỏ giữa chỗ cây cối quang đãng thì tôi đi lấy bánh, mỡ và cà phê, lấy ấm pha cà phê; lấy cái xoong, rồi đường, rồi cốc sắt. Anh da đen rất hoảng sợ vì anh ta nghĩ rằng tất cả những thứ này đều do có phép phù thuỷ ra cả. Tôi kiếm được con cá to, Jim lấy con dao nhíp của hắn mổ cá rồi đem rán.

Làm xong, chúng tôi cứ nằm trên cỏ mà ăn bữa sáng nóng sốt. Jim ăn cật lực, vì hắn đã qúa đói. No nê rồi, chúng tôi nằm dài ra không buồn làm gì nữa.

Rồi Jim nói:

- Nhưng này, cậu Huck, thế ra không phải là cậu thì ai bị giết trong cái nhà ấy?

Lúc đó tôi mới kể lại đầu đuôi câu chuyện cho hắn nghe; hắn bảo thật là tài tình. Hắn nói rằng ngay Tom Sawyer cũng không thể có mẹo nào hay hơn cái của tôi được. Tôi hỏi:

- Jim, thế anh làm sao mà lại đến chỗ này, và làm thế nào mà đến đựơc?

Hắn có vẻ lúng túng đến một phút không nói gì, rồi mới trả lời:

- Có lẽ tôi không nên nói thì hơn, cậu ạ

- Sao thế Jim?

- Vì nhiều lẽ. Nhưng nếu tôi nói với cậu thì cậu đừng nói lại với ai nhé, cậu Huck!

- Jim, tôi thề không nói với ai cả

- Được, tôi tin ở cậu. Tôi... tôi trốn đi đấy.

- Jim!

- Đấy, cậu đã bảo là không nói mà. Cậu nhớ là cậu hứa rằng không nói lại với ai đấy, cậu Huck.

- Ừ, tôi đã nói thế rồi mà lại. Tôi bảo không nói là không nói. Tôi sẽ giữ lời hứa. Dù cho người ta có bảo tôi là tên hèn mạt, thuộc phe chống áp bức người da đen, và cho người ta khinh tôi vì đã giữ miệng thì cũng được, chẳng sao cả. Tôi sẽ không nói. Mà tôi cũng không trở về chỗ đó nữa cơ mà. Thôi, bây giờ anh kể lại tất cả đi.

Đây, thế này cậu ạ. Bà cô, tức là bà Watson ấy, suốt ngày cứ dằn vặt tôi và đối đãi với tôi tệ quá lắm. Thế nhưng bà ấy vẫn bảo rằng sẽ không đem tôi xuống Orleans để bán tôi đi đâu. Mà tôi thì thấy quanh vùng gần đây có một người buôn nô lệ da đen mới tới, tôi bắt đầu thấy sờ sợ. Thế rồi có một đêm khuya, tôi bò đến bên cửa, cửa không khép kín, tôi nghe bà ấy nói với bà goá rằng sẽ đem tôi đi Orleans bán, nhưng chưa muốn bán ngay, là vì còn có thể nài thêm được tám trăm đồng đô la về tôi nữa. Với số tiền lớn như vậy thì chắc bà ấy không thể dừng được. Bà goá thì bảo bà ấy đừng làm thế. Nhưng lúc đó tôi không chờ để nghe xem về sau thế nào. Tôi trốn đi thật nhanh. Tôi nói thật với cậu như vậy đấy.

Tôi ăn một bữa thật no rồi chạy rảo xuống đồi, hy vọng có thể đánh cắp được một chiếc xuồng nào ở dọc bờ sông trên tỉnh chăng, nhưng có nhiều người đi lại quá, tôi phải nấp vào cái quán rượu cũ đã đổ nát ở bên sông để chờ cho mọi người đi hết đã. Tôi phải chờ đến hết nắng. Chung quanh lúc nào cũng thấy có người. Đến khoảng sáu giờ thì thuyền bắt đầu đi qua cũng chỉ thấy nói chuyện về việc bố cậu vừa lên tỉnh báo tin là cậu bị giết. Mấy chiếc thuyền đi sau cũng toàn chở những ông bà sang trọng đi đến tận nơi để xem xét. Thỉnh thoảng, họ ghé thuyền vào bờ nghỉ một lát rồi lại tiếp tục đi. Thành thử nghe nói chuyện tôi mới được biết đầu đuôi việc giết người chứ. Nghe nói cậu bị giết thật, tôi đau lòng quá, cậu Huck ạ. Nhưng bây giờ thì tôi không còn đau lòng nữa.

Suốt ngày tôi cứ phải nằm trốn ở đây như thế. Bụng đói nhưng sợ thì tôi không sợ. Vì tôi biết bà Watson và bà goá ăn sáng xong thì đi xem việc đó ngay. Như vậy cũng phải đi hết ngày. Và các bà ấy cũng biết rằng ban ngày thì tôi đi chăn bò nên cũng chả thấy tôi quanh quẩn ở đấy được, có hỏi đến tôi thì cũng phải chờ đến tối mịt. Còn bọn người làm khác thì không ai cần đến tôi làm gì, mà các chủ vừa ra khỏi nhà thì họ cũng chuồn đi nghỉ hết.

Trời sẩm tối, tôi mới mò ra; đi dọc theo con đường ven sông và đi chừng vài ba dặm đến một nơi không có nhà cửa gì cả. Tôi đã tính kỹ trong đầu là sẽ làm như thế nào rồi. Cậu ạ, nếu như tôi cứ đi bộ thế thì chó nó có thể đánh hơi tìm thấy tôi, nếu tôi ăn cắp một cái xuồng để qua sông thì họ thấy mất thuyền sẽ biết và tìm được tôi sang sông ở chỗ nào và rồi cũng mò được vết chân tôi. Cho nên tôi đã nghĩ chỉ có vài bè mảng thì hơn cả, vì đi mảng sẽ chẳng để lại dấu vết gì.

Rồi lúc đó có ánh đèn chiếu, tôi oài người ra vớ lấy một mảnh ván đang trôi trước mặt, bơi ra đến giữa sông; người tôi lẫn vào với đám củi mục trôi trên sông, tôi rụt cổ lại và cứ thế bởi xuôi dòng nước một quãng xa theo mấy mảnh bè trôi. Rồi tôi cứ vừa rụt cổ vừa bơi như vậy; lại kéo thêm cả mấy cây củi vào với mảnh ván cho chắc. Lúc đó mây kéo đen cả nên trời tối được một lúc. Tôi leo lên nằm trên tấm ván ở phía có đèn sáng vẫn có người đi lại. Nước sông đang lên to, chảy xiết. Tôi dự đoán khoảng đến bốn giờ sáng thì tôi đã trôi đến hai mươi lăm dặm về phía sông; tôi mới bơi vào bờ trước lúc trời sáng. Rồi tôi đi vào rừng về phía Illinois.

Nhưng thật tôi chẳng may. Lúc tôi vừa đến đầu hòn đảo thì có một người cầm đèn đi sau. Thấy không thể chậm trễ được, tôi lập tức nhoài người xuống nước rời hòn đảo bơi đi chỗ khác. Gớm thật, tôi tưởng chỗ nào cũng có thể lên bờ được, ấy thế mà không đâu, bờ sông chỗ nào cũng dựng đứng lên cả. Khi bơi gần đến đầu đằng kia thì hòn đảo thì tìm ra được một chỗ tốt. Tôi đi vào rừng, nghĩ bụng không thể tiếp tục dùng bè mảng được nữa, vì bè trôi như vậy thì thế nào cũng gặp ánh đèn. Tôi có cái điếu và cái bao đựng thuốc đã rách với mấy que diêm ở trong áo mà không bị dính ướt, thế là yên trí rồi.

- Thế suốt từ bữa đó đến nay, anh không có thịt, có bánh gì ăn ư? Sao không kiếm củ ở dưới bùn mà ăn?

- Làm thế nào ra lấy được. Làm sao mà móc lên được? Chỉ có hòn đá trong tay thì làm ăn gì? Lại đêm tối nữa thì lấy thế nào? Ban ngày thì tôi không dám ra bờ sông sợ có người trông thấy.

- À, ra thế, vậy là anh cứ phải suốt ngày ở trong rừng. Đúng rồi. Thế anh có nghe thấy họ bắn súng đại bác không?

- Có chứ. Tôi biết là họ đang tìm cậu. Tôi có trông thấy họ qua đây. Tôi nấp trong bụi nhìn ra.

Một vài con chim non ở đây bay tới, chỉ bay từng quãng ngắn một vài thước rồi lại đậu. Jim bảo đó là điềm mưa. Hắn bảo gà con bay vặt là sắp mưa nên thấy chim bay như thế cũng đoán là sắp mưa. Tôi định bắt vài con chim, nhưng Jim không cho. Hắn bảo làm thế chết đấy. Hắn nói rằng bố đẻ ra hắn trước kia có một lần ốm nặng, rồi có người khác bắt chim thì ông bảo hắn là làm như thế thì bố hắn sẽ chết. Ấy thế mà chết thật.

Jim lại bảo là không nên tính trước mình sẽ nấu ăn bữa chiều bằng thứ gì, vì như vậy sẽ gặp điều không may. Rồi lúc mặt trời lặn mà đem rũ cái khăn trải bàn cũng thế. Hắn lại bảo khi mặt trời mọc sáng hôm sau, những con ong ấy nó sẽ biết trước. Nếu không thì đám ong cũng ốm liệt, không chịu làm gì nữa và cũng chết nốt, Jim bảo là giống ong không bao giờ đốt những anh ngốc. Nhưng tôi không tin như vậy, vì đã mấy lần thử rồi mà vẫn không thấy nó đốt.

Trước đấy, tôi đã từng nghe nói những chuyện ấy nhưng không được nghe tất cả mọi thứ. Jim biết các thứ điềm báo hiệu. Hắn bảo hắn biết hầu hết. Tôi nói hình như tôi thấy tất cả mọi điềm báo hiệu đều là báo những chuyện chẳng may cả, nên tôi hỏi Jim xem có cái nào báo hiệu tốt không? Jim nói:

- ít lắm. Và những cái đó cũng chẳng ích lợi gì cho ai cả. Cậu muốn biết để làm gì, muốn giữ lấy nó à? Rồi Jim lại nói:

- Nếu ở cánh tay và ngực mình có nhiều lông thì đó là dấu hiệu sắp giầu to đấy. Điềm như thế thì còn có ích; vì càng có nhiều lông càng may mắn. Cậu thấy không, có thể là thời gian đầu mình nghèo khó. Nhưng nếu không biết trước rằng đó là điềm mình sẽ giầu thì có thể chán nản mà tự tử mất.

- Thế anh có nhiều lông tay không, Jim?

- Hỏi như vậy có ích gì, cậu không nhìn thấy tôi có đấy à.

- Ừ, thế anh có giầu không?

- Không, trước kia đã có một lần tôi giầu rồi, và rồi tôi sẽ lại giầu nữa. Một lần tôi có mười bốn đồng đô là, nhưng tôi đem đi buôn đầu cơ, chẳng may thế nào mất hết.

- Đầu cơ cái gì, Jim?

- Trước hết là tích trữ

- Tích trữ cái gì?

- Còn cái gì nữa - gia súc, cậu biết không. Tôi bỏ ra mười đô la mua một con bò cái. Nhưng rồi suýt nữa tôi chẳng còn đồng nào vì con bò vừa vào tay tôi nó đã chết ngoẻo.

- Thế là anh mất mười đô la nhỉ?

- Không, tôi không mất cả mười đồng, Tôi chỉ mất gần chín đồng thôi. Vì tôi đem da bò bán được đồng mốt.

- Như vậy là anh còn lại năm đồng mốt. Thế anh còn đầu cơ cái gì khắc nữa không?

- Có chứ. Cậu có biết cái lão da đen thọt làm cho cụ Bradish không? Hắn ta mới lập ra một cái nhà băng. Hắn bảo ai bỏ vào đó một đô la thì cuối năm có thể lấy ra bốn đô la. Thế là tất cả anh em da đen đều bỏ tiền vào đó. Nhưng họ cũng chả có bao nhiêu. Chỉ mỗi tôi là nhiều nhất. Tôi bỏ ra hơn bốn đô la, và tôi bảo nếu không được thì tôi sẽ tự mình lập ra nhà băng vậy. Cố nhiên là lão da đen ấy không muốn để tôi nhúng tay vào việc ấy mà vì hắn bảo nếu lập hai nhà băng thì không đủ để chạy việc. Vì vậy hắn bảo tôi có thể bỏ vào đó năm đồng đô la đến cuối năm trả tôi thành ba mươi lăm đồng.

Thế là tôi bỏ tiền vào. Tôi tính rằng sau đó sẽ lại đầu tư cả ba mươi lăm đô la ấy luôn để cho vốn càng to nữa. Có một anh da đen khác tên là Bob, mới tậu được căn nhà gỗ mà chủ nhà anh ta không biết, tôi bèn mua lại của anh ta và bảo đến cuối năm thì anh ta sẽ đến lấy ba mươi lăm đô la. Nhưng đến đêm hôm đó thì đã có người nào lấy cắp mất căn nhà đó rồi. Hôm sau thì lão da đen thọt đến bảo tôi rằng nhà băng cũng đã đổ. Thế là cả bọn chẳng đứa nào lấy được tiền về.

- Vậy còn lại mười xu thì anh làm gì, Jim?

- Ấy, lúc đó tôi sắp đem tiêu mười xu đó thì tôi bỗng nằm mơ, và giấc mơ bảo tôi là nên đem mười xu ấy cho một anh da đen tên là Balum Balum, họ gọi tắt tên hắn là Ass Hắn là một trong những người rất ngốc nghếch, cậu có biết không? Nhưng hắn ta lại hay gặp may, thấy họ nói vậy, tôi chả biết. Còn tôi thì chẳng gặp may bao giờ. Giấc mơ ấy bảo tôi rằng Balum sẽ đem mười xu của tôi đi đầu tư và sẽ làm cho tôi phát tài. Thế là tôi đưa tiền cho Balum. Khi hắn vào nhà thờ nghe thấy ông mục sư nói kẻ nào bỏ tiền vào cái thùng này cho Chúa thì sẽ được Chúa ban lại gấp trăm lần. Thế là Balum móc túi lấy ra mười xu bỏ ngay vào thùng. Rồi hắn cúi xuống nhìn xem có trong thùng đó có ban lại cái gì cho hắn không.

- Ờ, thế có cái gì ban lại không?

- Có đâu, chẳng thấy gì cả. Tôi cũng chẳng làm thế nào lấy lại được cái tiền ấy nữa. Balum cũng chịu. Thôi, tôi chẳng tội gì mà đem tiền cho vay nữa, nếu như tôi không chắc chắn. Hừm, sẽ được ban lại gấp trăm lần số tiền bỏ ra! Ông mục sư nói thế đấy! Nếu tôi lấy lại được mười xu ấy thì coi như hoà, và như vậy là đã may mắn lắm rồi.

- Thôi Jim ạ, dù sao thế cũng được, vì sau này còn có lúc anh giầu nữa có mà.

- Phải, bây giờ tôi đang giầu đây, cậu đến gần nhà xem. Tôi đã có cái thân tôi rồi. Thân tôi đáng giá tám trăm đồng đô la đấy. Trước kia tôi chỉ mong có tiền, nhưng đến bây giờ tôi chẳng thiết nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,604
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9


Tôi muốn đi coi lại cái chỗ ở đúng giữa hòn đảo mà tôi đã tìm ra trong khi thám hiểm. Cả hai chúng tôi cùng đi và tìm ra ngay, vì hòn đảo chỉ có ba dặm chiều dài và phần tư dặm chiều ngang.

Chỗ này là một cái gò cao độ hơn chục thước vừa dài vừa dốc. Chúng tôi trèo lên đỉnh gò cũng khá vất vả, vì hai bên sườn dốc đứng lại thêm bụi cây rất rậm, phải lần từng bước vòng quanh gò, rồi lát sau mới tìm thấy một cái hang lớn trong vách đá, ăn sâu đến tận đỉnh về phía bờ Illinois. Cái hang rộng bằng hai ba căn phòng ghép lại và Jim có thể đứng thẳng người trong đó được. Chỗ này lạnh lắm. Jim muốn đem ngay đồ đạc của chúng tôi vào đây, nhưng tôi bảo hơi đâu mà suốt ngày trèo lên trèo xuống.

Jim bảo chúng tôi đã có cái xuồng giấu ở chỗ kín, và đồ đạc thì để trong hang này, nếu có ai đến đảo, thì chúng tôi có thể trốn chạy vào đây. Mà nếu họ không đem theo chó đi thì không thể tìm thấy chúng tôi được. Jim còn bảo rằng những con chim non đã báo trước là trời sắp mưa chẳng lẽ để cho đồ đạc ướt hết cả hay sao?

Thế là chúng tôi quay về xuồng, đẩy xuồng lên phía bờ ngang chỗ có cái hang rồi khuân tất cả đồ đạc lên hang. Sau đó chúng tôi tìm một chỗ ở gần đó giấu xuồng, giấu trong một bụi liễu rậm rạp. Chúng tôi vớt mấy con cá ở đầu dây lên, rồi thả lưỡi câu xuống nước và bắt đầu chuẩn bị ăn trưa.

Cửa hang khá rộng có thể đủ để lăn một thùng rượu to vào được. Một phía bên cửa hang có chỗ đất nhô ra, bằng phẳng, có thể lấy chỗ này làm bếp rất tốt. Chúng tôi đặt bếp nấu bữa trưa.

Chúng tôi trải chăn ở phía trong làm cái thảm để ngồi đó ăn. Còn đồ đạc tiện lấy đều để ở bên trong cả. Một lúc sau, trời tối sầm lại và bắt đầu có sấm chớp; quả là những con chim kia báo trước rất đúng. Lập tức trời mưa liền, đổ nước xuống như thác, và chưa bao giờ tôi thấy gió thổi dữ tợn như thế. Đó là cơn giông thường xảy vào mùa hè. Trời càng tối, nhìn ra ngoài mọi vật xanh xanh tím tím rất đẹp. Nước mưa đổ xuống nhiều đến nỗi những ngọn cây cao cao một chút là nhìn cũng không rõ; trông chỉ như cái mạng nhện. Rồi mỗi cơn gió thổi đến thì kéo những cây ấy ngã xuống và biến đổi cả cái màu xám nhạt ở dưới những cành lá. Rồi lại một trận gió khác dữ hơn cuốn đến bắt những cành cây phải vươn ra như những cánh tay thú vật. Rồi sau đó, đến lúc chỗ nào cũng biến sang màu xanh màu tím cả rồi thì - úi chà; bỗng sáng hẳn lên, trong cơn giông bão ấy cứ thử nhìn lên những ngọn cây xa xa mà xem, lại có thể thấy nó xa hơn lúc nãy hàng trăm thước; rồi chỉ trong một giây đồng hồ lại tối như bưng; lúc đó mới nghe thấy tiếng sét vang lên to một cách kinh khủng khiếp, rồi đến những tiếng ầm ầm, rầm rầm, dần dần từ trên cao vọng xuống và đi đến tận phía bên kia thế giới, y như tiếng người ta lặn cái thùng rỗng xuống cầu thang vậy, mà cầu thang dài cơ, cái tiếng nó cũng rầm rầm như vậy. Tôi nói:

- Thú quá Jim ạ! Tôi chỉ muốn ở đây chứ không đi đâu cả. Đưa cho tôi một khúc cá và một miếng bánh nóng nào.

- Đấy nhé, nếu không có Jim thì cậu cũng chẳng lên trên hang này, mà cậu ở trong đám rừng kia không có gì ăn, và chưa biết chừng lại bị chết đuối nữa đấy. Gà con nó biết lúc nào sắp mưa cả chim con cũng thế.

Nước sông vẫn lên cao, lên mãi đến mươi mười hai ngày, tràn cả lên bờ. Nước ngập trên hòn đảo đến hơn một thước ở những chỗ thấp và ở đầu hòn đảo về phía bờ Illinois. Phía ấy, đảo rộng đến mấy dặm, nhưng về phía Missouri thì cũng đến nửa dặm vì bờ Missouri khác nào như một bức tường lớn dựng đứng.

Ban ngày chúng tôi có thể chèo xuồng đi lại khắp trên đảo. Trời khá lạnh. Ở trong rừng sâu thì lại càng tối, mặc dầu bên ngoài trời vẫn nắng. Chúng tôi cho xuồng đi lách giữa những thân cây. Có nhiều chỗ nho trĩu xuống vướng lối đi, phải quay lại đi vòng lối khác. Những chỗ có cây mục đổ xuống có thể có thỏ; có rắn, và những con vật khác. Khi nào đảo bị ngập nước một vài ngày thì những con vật đó thật là hiền lành vì chúng đã bị quá đói rồi. Lúc ấy có thể chèo xuồng đến tận nơi, thò tay ra là bắt được ngay. Nhưng có rắn và rùa thì không được, vì chúng luồn xuống đáy nước cả. Ở một chỗ trong hang chúng tôi cũng có nhiều giống này lắm, muốn bắt để mà nuôi cũng được vô khối.

Một đêm chúng tôi vớt được cả một đoạn bè gỗ, toàn bằng những tấm ván gỗ thông. Rộng đến ba thước, dài bốn năm thước, dày đến hai mươi phân. Gỗ này lát nền nhà rất chắc. Ban ngày chúng tôi cũng thấy nhiều mảnh gỗ đã cưa rồi trôi qua đấy, nhưng chúng tôi để mặc cho nó trôi đi; vì ban ngày chúng tôi không dám thò ra ngoài.

Một đêm khác, lúc chúng tôi ra đến đầu hòn đảo vào lúc gần sáng, thì thấy cả một căn nhà gỗ từ phía trên, trôi đến bờ phía Tây. Căn nhà có gác; nằm nghiêng nghiêng sắp đổ. Chúng tôi trèo xuồng ra, nhảy lên rồi leo qua cửa sổ tầng gác mà vào. Chúng tôi mới buộc xuồng liền vào đó và ngồi chờ cho sáng rõ.

Chiếc nhà trôi đến đầu hòn đảo thì trời bắt đầu sáng. Từ ngoài cửa sổ, chúng tôi nhìn vào thấy có một chiếc giường, một cái bàn, hai cái ghế cũ và trên sàn gác thì bao nhiêu thứ đồ đạc khác; trên vách lại có mắc cả quần áo nữa. Có một vật gì nằm trên sàn ở trong góc nhà trông như người. Jim lên tiếng gọi:

- Này! Này!

Không thấy động đậy. Tôi lại gọi nữa. Rồi Jim nói:

- Cái người này không phải ngủ, mà là chết, Cậu đứng im đây, để tôi vào xem.

Jim đi vào, cúi xuống nhìn, rồi nói:

- Một người chết. Đúng rồi, mà lại trần truồng nữa. Hắn bị bắn vào lưng. Tôi chắc đã bị chết hai ba ngày nay rồi. Vào đây, cậu Huck, nhưng mà đừng nhìn mặt hắn, có nhiều vết rạch, kinh lắm.

Tôi không dám nhìn. Jim vứt cái quần áo rách phủ lên người chết. Nhưng việc gì hắn phải làm thế, tôi có muốn xem người chết đâu. Có một đống những lá bài cũ đã bẩn quăng rải rác trên sàn nhà, mấy chai uýt sky, vài cái mặt nạ làm bằng vải đen; còn trên vách thì chỗ nào cũng có những chữ viết rất dốt với những hình vẽ nguệch ngoạc bằng than củi. Có hai chiếc áo cũ bằng vải dày, một cái mũ đội đi nắng, mấy cái đồ lót của đàn bà treo trên tường, với mấy cái quần đán ông nữa. Chúng tôi nhặt đem bỏ cả vào xuồng để sau này có lúc sẽ dùng đến. Trên sàn lại có một chiếc mũ của trẻ con, tôi cũng nhặt lên nốt.

Rồi có một chai sữa trong đó còn sữa, một chiếc vú cao su cho trẻ con bú đã rách. Chúng tôi định lấy cả chai sữa nhưng đã vớ rồi. Có một cái hòm cũ rách nát và một cái rương bện bằng lông đã gãy bản lề. Cả hai đều mở toang, nhưng ở trong chẳng còn cái gì đáng giá. Trông cái kiểu đồ đạc vứt lổng chổng thế này chúng tôi đoán rằng người nào đó đã vội vã bỏ chạy và không bình tĩnh để có thể đem được hết đồ đạc đi.

Chúng tôi nhặt được một cái đèn sắt cũ, một con dao thái thịt đã mất chuôi với một con dao găm kiểu Barlow còn mới, mua ở cửa hàng nào cũng phải đến hai hào; với một lô cây nến mỡ bò, một cái chân nến bằng sắt; một cái cốc sắt, rồi cái chăn để đắp chân đã bị chuột gặm, một cái bao con đựng đồ khâu có đủ cả kim chỉ sáp ong, khuy, một cái cần câu chỉ nhỏ bằng ngón tay út của tôi mà mấy cái lưỡi câu thì to sù, một cuộn da hoẵng, một cái cổ dề chó, một cái móng ngựa, mấy lọ thuốc chẳng có nhãn hiệu gì cả. Rồi vừa lúc chúng tôi sắp bỏ đi thì lại thấy một cái bàn chải ngựa còn khá tốt. Jim nhặt thêm được một cái vỉ kéo đàn đã cũ, đứt, với một cái chân gỗ. Những dây da đã đứt cả, nhưng buộc lại cũng còn tốt, mặc dầu tôi dùng thì dài quá mà Jim thì hơi ngắn. Rồi sau mặc dầu đã kiếm quanh nhưng không thấy đựơc cái chân bên kia nữa.

Thế là chúng tôi vớ được một mẻ to và khuân tất cả đi. Lúc sắp ra khỏi căn nhà thấy mình đã bị đưa trôi đi đến phần tư dặm về phía dưới hòn đảo, mà trời lúc ấy đã sáng rõ, cho nên tôi bảo Jim nằm xuống xuồng lấy cái chăn con đắp phủ lên người. Vì nếu Jim ngồi dậy người ta trông thấy sẽ biết ngay là một anh da đen bỏ trốn. Tôi chèo xuồng về phía bờ Illinois, bị trôi thêm một quãng đến nửa dặm nữa. Đến chỗ nước lặng, tôi bơi ngược dần lên. Không sảy ra chuyện gì và cũng chẳng có ai cả. Chúng tôi trở về nhà, an toàn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,604
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10


Ăn bữa sáng xong xuôi, tôi muốn nói chuyện về cái người chết trong căn nhà trôi ấy và muốn đoán thử xem vì sao mà bị giết. Nhưng Jim không thích nói chuyện ấy. Jim bảo nói chuyện sẽ gặp điều không may, hơn nữa người chết có thể hiện về. Jim nói rằng người chết mà không được chôn thì lại hay hiện về nhiều hơn là người chết được chôn cất tử tế. Điều đó nghe cũng có lý, nên tôi không nói gì nữa; nhưng tôi không thể nghĩ mãi về chuyện này, muốn biết ai đã bắn người kia và bắn để làm gì?

Chúng tôi lục lọi trong đám quần áo mang về, tìm được tám đồng đô la bằng bạc khâu kín vào đường viền của một cái áo choàng. Jim bảo có lẽ cái người ở trong nhà đó ăn cắp chiếc áo, vì nếu biết có tiền thì đã không để lại. Tôi nói có lẽ họ giấu người ấy đây, nhưng Jim vẫn không muốn nói gì về chuyện này. Tôi nói:

- Anh bảo là không may; thế hôm kia tôi tìm thấy cái da rắn lột ở trên đỉnh gò đấy thì anh bảo sao? Anh chả nói là sờ vào da rắn lột sẽ gặp điều không may nhất trên đời đấy ư? Đấy, không may đây này; chúng mình nhặt được bao nhiêu là thứ này, lại được cả tám đô la nữa. Tôi mong ngày nào cũng gặp cái không may thế này, Jim ạ!

- Đừng tưởng, cậu ơi, đừng tưởng. Cậu chớ vội mừng. Rồi cậu sẽ thấy. Cậu nên nhớ rồi sẽ thấy, tôi bảo thật đấy.

Quả nhiên cái không may đến thật đấy. Chúng tôi nói với nhau câu chuyện ấy vào ngày thứ ba. Thế thì đến ngày thứ sáu, sau bữa ăn chiều, chúng tôi đang nằm chơi trên bãi cỏ ở đỉnh gò, thuốc hút vừa hết, tôi trở về hang lấy thuốc bỗng thấy một con rắn nằm trong đó. Tôi giết con rắn chết ngay, nhưng tôi cuộn nó lại vứt xuống dưới chăn ở chỗ Jim nằm. Cũng là nghịch tự nhiên vậy thôi, tưởng rằng Jim bất ngờ thấy thế mà sợ thì mình sẽ được một mẻ cười. Nhưng đến đêm, việc con rắn tôi đã quên khuấy đi rồi, lúc Jim vừa chui vào chăn và tôi vừa châm đèn lên thì con rắn cái đã ở trong từ lúc nào, nó mổ ngay vào Jim.

Jim nhảy chồm lên hét, tôi soi đèn nhìn thấy con rắn cái đang cuộn lại lấy đà và sắp văng mình một cái nữa. Tôi vớ lấy gậy đập luôn một nhát chết, còn Jim thì quơ lấy chai rượu uýt sky của bố tôi đổ ộc vào miệng. Jim đi chân đất, và con rắn đã mổ vào đúng góc chân Jim. Tôi mới thấy rằng mình thật điên rồ tại sao không nhớ rằng mình đánh chết một con rắn rồi để đó thì con rắn vợ hay chồng nó sẽ tìm đến cuộn tròn nằm bên cạnh. Jim bảo tôi chặt đứt đầu con rắn đi vứt ra ngoài xa, rồi lột da đem nướng một mẩu rằng như vậy sẽ chữa được độc. Hắn lại bảo tôi dứt cái vòng ở đuôi cả hai con rắn mà buộc vào cổ tay nữa. Jim bảo như thế sẽ không việc gì cả. Tôi lặng lẽ đi ra ngoài, đem vứt xác hai con rắn vào bụi cây thật xa; hối hận vì tôi không nghịch như vậy có hơn không.

Jim nốc rượu, lại nốc rượu, thỉnh thoảng vươn cổ, lắc lư cái đầu và rú lên; nhưng sau mỗi lần trở lại bình thường rồi thị lại nốc rượu. Chân Jim sưng vù lên rất nhanh, rồi đến bắp chân nữa. Dần dần rượu ngấm và tôi nghĩ Jim sẽ không vịêc gì. Nhưng tôi lại nghĩ tôi thà bị rắn cắn còn hơn là nốc rượu uýt sky kia của bố tôi.

Jim nằm liệt bốn ngày đêm. Rồi những chỗ sưng biến mất và Jim đi lại được. Tôi nghĩ bụng nhất định từ nay sẽ không mó vào cái da rắn lột nữa, vì vậy đã thấy nó tai hại như thế nào rồi. Jim bảo rằng hắn mong từ lần sau tôi sẽ tin lời hắn. Rồi hắn nhắc lại là sờ vào cái da rắn lột thì hết sức không may, mà có lẽ mình chưa biết rõ sẽ tai hại đến như thế nào. Jim nói thà là phải liếc nhìn mặt trăng lưỡi liềm qua phía vai bên trái đến một nghìn lần còn hơn là phải cầm trong tay cái da rắn lột. Tự tôi cũng thấy thế, vì tôi cũng hiểu nhìn mặt trăng lưỡi liềm qua phía bên trái của mình là một trong những điều không cẩn thận và dại dột nhất mà không ai làm bao giờ. Ông cụ Huck Bunker đã có một lần làm như vậy rồi cứ khoe mãi. Thế mà chỉ mới chưa được hai mươi năm đã có chuyện ông cụ say rượu và ngã từ trên chòi cao xuống đất, nằm sóng sượt như một thanh gỗ để chèn gốc cây, có thể nói như vậy; rồi họ phải khiêng ông cụ qua cửa sổ để cho quan tài mà đem chôn. Nghe họ kể lại như vậy, tôi chưa trông thấy tận mất. Bố tôi cũng nói thế. Dù sao cũng là do ông cụ đã dám nhìn mặt trăng cái kiểu như thế. Thật là điên dại.

Ngày ngày trôi qua, nước sông đã rút xuống nằm giữa hai bờ rồi. Việc đầu tiền chúng tôi làm mắc mồi vào một lưỡi câu to, mồi là con thỏ lột da. Thả mồi xuống, bắt được một con cá he lớn bằng người, dài gần hai thước nặng gần một trăm cân. Chúng tôi không kéo nổi con cá lên, mà chả biết chừng nó có thể lôi chúng tôi đến tận Illinois ấy. Đành cứ để mặc đấy mà nhìn nó quẫy đến lúc nó chết. Chúng tôi moi được một chiếc khung đồng trong ruột con cá, với một quả bóng ra, trong đó có một cuộn dây lõi. Jim bảo là cái ấy đã có sẵn ở trong quả bóng từ trước, họ đem bọc ra ngoài làm thành quả bóng. Tôi chắc đây là con cá to nhất chưa bao giờ thấy con cá nào to hơn thế. Nếu là ở trong làng thì đã bán được nhiều tiền lắm. Với con cá như thế này, họ chặt ra làm nhiều khúc nhỏ từng nửa cân một đem ra chợ bán; ai cũng muốn mua một vài miếng vì thịt nó trắng như tuyết, đem rán lên rất thơm.

Sang hôm sau, tôi bảo Jim rằng mình thấy buồn và mỏi mệt, nên muốn tìm cách nào hoạt động lên một chút. Tôi định ra phía ngoài sông xem có cái gì ở đó không. Jim cũng đồng ý như thế, nhưng bảo tôi chờ đến tối hãy đi và phải để ý nhìn cẩn thận. Hắn nghĩ một lúc rồi nói tôi có nên bỏ mấy cái quần áo cũ đang mặc đi và cải trang làm cô gái chăng? ý kiến đó nghe cũng hay. Thế là chúng tôi đem một cái váy vải cắt ngắn đi, xắn ống quần lên đến đầu gối rồi mặc váy vào. Jim lấy cái lưỡi câu túm đằng sau váy lên trông rất vừa mắt. Tôi đội cái mũ rộng vành lên, buộc dây mũ xuống cằm. Nếu như có người nào muốn nhìn tận nơi và xem mặt tôi thì cũng phải cúi xuống như nhìn vào ống khói bếp lò. Jim bảo là chẳng ai nhận được ra tôi đâu, dù ngay giữa ban ngày cũng vậy, khó mà nhận ra lắm. Suốt ngày hôm đó tôi tập đi lại cho quen, dần dần tôi cũng thấy mình khá thoải mái trong cái bộ đồ ấy; nhưng Jim bảo tôi đi chưa giống cái dáng điệu người con gái; và bảo tôi phải thôi không được kéo váy lên để đút tay vào túi quần nữa. Tôi theo lời, bắt chước được đúng hơn.

Trời vừa tối thì tôi đi xuồng lên phía bờ Illinois.

Tôi đi quá lên phía tỉnh, ở dưới bến đò một quãng, dòng nước đưa xuồng tôi đến tận cuối tỉnh. Tôi buộc xuồng rồi bước lên, đi dọc theo chân đê. Có ánh sáng ở trong một căn lều nhỏ hình như đã lâu không ai ở. Tôi lấy làm lạ không biết ai đã đến ở đây rồi. Tôi lần đi lên, ghé mắt nhìn qua khe cửa sổ. Trong lều, một người đàn bà chạc bốn mươi tuổi đang ngồi khâu dưới ngọn nến đặt trên chiếc bàn bằng gỗ thông. Tôi không nhận ra mặt; bà ta là một người ở đâu mới đến, vì trong tỉnh này không có ai là tôi không biết mặt. Thế này thì may quá; vì lúc nãy tôi đang còn lo rằng đến đây nhỡ có ai có thể nhận ra tiếng nói của tôi và biết được tôi chăng. Nhưng nếu người đàn bà kia đã đến cái tỉnh nhỏ này được hai ngày rồi thì bà ta có thể nói được cho tôi nghe tất cả những điều tôi muốn biết.

Nghĩ vậy, tôi gõ cửa, và tự nhắc lại cho tôi khỏi quên rằng mình đang đóng giả một cô con gái.[/size]
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,604
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11


Người đàn bà nói:

- Cứ vào.

Tôi bước vào. Bà ta nói:

- Ngồi xuống đây.

Tôi ngồi xuống. Bà ta nhìn khắp người tôi bằng một đôi mắt nhỏ nhưng rất sáng, rồi hỏi:

- Tên cháu là gì?

- Sara Willim

- Cháu ở đâu? Có gần đây không?

- Không, cháu ở Hookerville, cách đây bảy dặm về phía dưới kia. Cháu đi bộ suốt từ đó lên đấy, bây giờ đã mệt rồi.

- Chắc, cháu cũng đói rồi nhỉ, Để tôi kiếm cái gì cho cháu ăn nhé.

- Không, cháu không đói đâu. Lúc nãy cháu đã dừng lại ở một trại cách đây hai dặm, lúc ấy thì đói nhưng bây giờ thì không đói nữa. Vì vậy nên cháu mới đi chậm. Mẹ cháu ốm nặng, không có tiền mà cũng chẳng còn gì. Cháu đi tìm để báo tin cho bác cháu là Abner Moore. Mẹ cháu bảo là bác cháu ở phía đầu tỉnh dưới kia. Cháu chưa đến nơi này bao giờ. Bà có biết bác cháu không?

- Không, tôi chưa biết ai cả. Tôi mới đến đây chưa được hai tuần. Từ chỗ này đến cuối tỉnh cũng nhiều đường đất lắm đấy. Cháu hãy nghỉ lại đêm nay ở đây. Hãy bỏ mũ ra đã.

- Không ạ, tôi đáp. Không, cháu chỉ nghỉ đây một lát rồi lại đi ngay thôi, cháu chả sợ đêm tối đâu.

Bà ta bảo là sẽ không để cho tôi đi một mình đâu. Chồng bà ta sắp về, khoảng độ một giờ rưỡi nữa thôi, và bà ta sẽ bảo ông chồng cùng đi với tôi. Rồi bà ta nói luôn về chuyện chồng, cùng những người quen thuộc ở đầu sông, cuối sông, về những chuyện trước kia ở nơi cũ sung sướng bao nhiêu, rồi vì không biết mà lại đến ở cái tỉnh này thật là dại vô cùng, đáng lẽ cứ ở một mình thì hơn - và vân vân, vân vân... Đến nỗi tôi đâm sợ vì mình đã dại dột mò vào đây để hỏi bà ta về những chuyện ở tỉnh. Nhưng rồi lát sau bà ta nói đến chuyện bố tôi và vụ giết người. Tôi cứ để cho bà ta nói mà im lặng nghe. Nào là chuyện tôi với thằng Tom Sawyer kiếm được mười hai nghìn đô la (bà ta nói là hai mươi nghìn), nào là tất cả mọi chuyện về bố tôi, bảo bố tôi là người rất ngang ngạnh, và tôi cũng là người rất ngang ngạnh. Rồi cuối cùng bà ta nói đến chỗ tôi bị giết. Tôi hỏi:

- Ai giết thế? Cháu ở Hookerville nghe người ta nói nhiều về chuyện ấy, nhưng cháu không biết ai là người giết Huck Finn.

- Tôi nghĩ dân ở đây cũng có nhiều cái đặc biệt thật đấy. Chính tôi cũng muốn biết ai là người đã giết Huck Finn.

- Không! Thật thế ư bà?

- Lúc đầu thì hầu hết ai cũng nghĩ thế. Nhưng rồi đến buổi chiều thì người ta lại thay đổi ý kiến và bảo rằng đó là do một tên da đen đã bỏ trốn tên là Jim giết Huck Finn.

- ơ không - hắn...

Tôi im bặt ngay. Tôi nghĩ rằng tốt hơn là cứ ngồi im. Bà ta nói tiếp, không để ý đến câu tôi vừa nói chen vào.

- Tên da đen bỏ trốn đúng vào cái đêm Huck Finn bị giết. Họ treo giải thưởng để bắt nó: ba trăm đô la. Rồi cũng treo giải thưởng để bắt cả bố thằng Finn nữa: hai trăm đô la. Cháu biết không, lão ta ra tỉnh vào buổi sáng hôm sau khi xảy ra vụ giết người; lão ta kể lại chuyện ấy rồi lại đi với họ trên chiếc thuyền dò tìm xác chết. Thế rồi ngay sau đó, lão ta cũng bỏ trốn đi nốt. Chiều tối họ định đem lão ra xử thì lão ta cũng trốn mất rồi. Rồi hôm sau lại thấy tên da đen bỏ trốn đi nữa. Họ bảo là hồi mười giờ đêm hôm xảy ra vụ giết người thì trông thấy nó. Thế là họ buộc tội cho nó, cháu có biết không. Sau khi họ đã chắc chắn như thế rồi thì hôm sau lại thấy lão Finn mò về, khóc vang lên, đòi lão chánh Thatcher phải bỏ tiền đi lùng bắt tên da đen ở khắp vùng Illinois. Lão chánh đưa ra một ít tiền, đến tối, bố thằng Finn lại say rượu và quanh quẩn đến tận nửa đêm với hai người lạ mặt rất xấu xí, rồi cùng với hai người này ra đi. Từ đó đến nay không thấy lão ta quay về nữa, mà người ta cũng chẳng đi tìm lão làm gì. Kể như chuyện này đã qua rồi; nhưng bây giờ có người cho rằng chính lão Finn đã giết con rồi bố trí những cái như thế để mọi người tưởng rằng có kẻ cướp gây ra việc này; để rồi lão ta được lấy số tiền của thằng Huck mà chẳng lo gì phải bị ai kiện cáo nữa. Họ bảo rằng lão ta làm như thế không tốt. ồ, mà tôi nghĩ rằng lão ta khôn ngoan lắm. Nếu như trong vòng một năm nữa lão ta không trở về thì thế là yên chuyện. Chẳng có chứng cớ gì buộc lão ta được, cháu hiểu không. Thế là lúc đó mọi chuyện đều ổn cả, và lão ta được đàng hoàng tiêu tiền của thằng Huck dễ như chơi.

- Vâng, cháu cũng nghĩ như thế bà ạ. Cháu thấy cái đó, chả có gì khó. Thế bây giờ mọi người đã thôi không ai nghĩ rằng anh da đen làm việc đó hay sao?

- ồ không, không phải mọi người đâu. Nhiều người vẫn cho là tên da đen làm chuyện ấy. Nhưng rồi đây họ sẽ bắt được tên da đen, và có lẽ họ vẫn còn nghi cho nó lắm.

- Sao, họ vẫn đang tìm bắt hắn ư?

- ồ hay, cháu thật ngây thơ nhỉ. Có phải ngày nào người ta cũng dễ dàng kiếm được ba trăm đô la đâu. Có người cho rằng tên da đen trốn không xa đây lắm. Tôi cũng nghĩ thế, nhưng tôi chưa nói với ai. Cách đây vài bữa, tôi nói chuyện với một đôi vợ chồng già ở căn nhà gỗ bên hàng xóm, họ bảo rằng ít có người nào đến hòn đảo tít dưới kia, gọi là đảo Jackson ấy. Tôi hỏi thế có ai ở trên đảo ấy không? Họ nói: không, chẳng có ai ở đó cả. Tôi không nói gì nữa, nhưng trong đầu tôi vẫn suy nghĩ. Tôi ở đây cũng gần nên tôi chắc chắn là đã có trông thấy khói ở phía đó bốc lên, ở phía đầu hòn đảo ấy, trước đây một vài ngày. Tôi tự hỏi có lẽ tên da đen ấy trốn ở hòn đảo chăng. Tôi bảo dù sao cũng nên chịu khó đi đến hòn đảo ấy mà lùng một phen xem sao. Từ hôm ấy, tôi lại không thấy khói lên nữa, nên tôi nghĩ nếu có tên da đen thật thì nó đã bỏ đi nơi khác rồi. Nhưng chồng tôi sẽ đi lên đó xem, đi cùng với một người nữa. Ông ấy đi ngược lên đầu sông, hôm nay mới trở về. Cách đây hai giờ ông ấy vừa bước về nhà thì tôi đã nói chuyện ấy ngay.

Lúc này tôi thật bối rối vô cùng, không thể ngồi im được nữa. Tôi cần cử động hai bàn tay một tí mới được, thế là tôi nhặt chiếc kim khâu để trên bàn và xâu chỉ. Tay tôi run lẩy bẩy, không xâu được. Người đàn bà ngừng nói trông lên, và nhìn tôi với một vẻ hơi là lạ, rồi mỉm cười. Tôi bỏ kim chỉ xuống làm ra vẻ như chính mình cũng đang quan tâm đến chuyện ấy, tôi nói:

- Ba trăm đô la, món tiền ấy to lắm. Cháu cũng mong cho mẹ cháu có được số tiền như thế. Thế chồng bà đêm nay có đi hòn đảo ấy không?

- ồ, có chứ. Ông ấy đang lên phố với các người tôi vừa nói ban nãy để kiếm một cái xuồng và để xem có mượn được khẩu súng nữa không. Khoảng quá nửa đêm là các ông ấy sẽ đi đấy.

- Sao không đợi để đến ban ngày có nhìn rõ hơn không?

- Phải, nhưng ban ngày tên da đen cũng lại nhìn mình dễ hơn. Qua nửa đêm tên da đen có thể ngủ say, như vậy các ông có thể đi luồn qua rừng và nếu như nó có đốt lửa trong đêm tối thì có thể dễ tìm hơn.

- Không chắc chắn như vậy đâu.

Người đàn bà nhìn tôi với vẻ thóc mách, làm cho tôi càng ngồi chẳng yên. Ba ta hỏi:

- Lúc nãy, cháu nói tên là gì nhỉ?

- M - Mary William

Quái, hình như lúc nãy không phải tôi nói là Mary hay sao ấy. Nghĩ thế nhưng tôi không nhìn lên. Hình như lúc nãy tôi nói là Sara thì phải. Tôi cảm thấy như đang bị dồn vào góc tường, đâm ra sợ không dám ngước lên nhìn nữa. Bà ta càng im lặng, tôi càng thấy bối rối. Nhưng rồi bà ta hỏi:

- Tôi tưởng khi nãy mới vào cháu nói là Sara cơ mà?

- Vâng, đúng thế đấy ạ. Sara Mary William, Sara là tên đầu của cháu. Có người gọi là Sara, có người gọi là Mary.

- à ra thế đấy?

Tôi đã thấy dễ thở hơn rồi. Nhưng tôi mong dù sao cũng không phải ngồi đó nữa.

Tôi vẫn chưa nhìn lên được.

Nhưng rồi bà ta lại bắt sang chuyện nào là đời sống vất vả, nghèo khổ như thế nào, rồi nào là ở đây chuột chạy ra chạy vào tự do nào là chúng nó làm chủ cái nhà này ấy, vân vân... . Lúc đó tôi cũng dễ chịu hơn, Bà ta nói liền về chuyện chuột. Cứ chốc chốc lại thấy một con chuột thò mõm ra khỏi cái lỗ ở góc nhà. Bà ta bảo là phải luôn luôn cầm một cái gì trong tay để lúc nào ở nhà một mình thì ném chuột. Không thì lũ chuột chả để cho ba ra ngồi yên. Bà ta đưa cho tôi xem một thỏi chì đã vặn xoắn lại như cái nút, và bảo vẫn dùng cái đó để ném chuột rẩt tốt. Nhưng mới đây vài ngày bà ta bị sái tay vẫn để ý rình, rồi bất thình lình ném băng một cái, nhưng còn cách con chuột rất xa. Bà ta kêu ối một tiếng; thế là lại đau tay. Rồi bà ta bảo tôi ném thử con sau. Tôi muốn bỏ ra đi trước khi chồng bà ta về, nhưng rồi thế nào lại không đi được. Tôi vớ lấy thỏi chì, chờ lúc có một con chuột nữa thò mõm ra là tôi ném liều. Thỏi chì trúng con chuột nằm lăn ra đó, trúng một con chuột ốm. Bà ta bảo giỏi thật, và tưởng tôi sẽ ném con sau nữa. Bà ta đi nhặt thỏi chì lại, rồi đem đến một cuộn sợi và bảo tôi gỡ giúp. Tôi chìa hai tay ra, bà ta mắc cuộn sợi vào tay tôi và lại tiếp tục nói chuyện về vợ chồng bà ta nữa. Nhưng rồi bà ta im bặt rồi nói:

- Để ý nhìn chuột nhé. Cháu cứ cầm sẵn thỏi chì trong tay đi.

Bà ta thả thỏi chì vào vạt váy của tôi vừa lúc tôi khép hai chân lại để giữ lấy thỏi chì. Bà ta lại nói chuyện. Nhưng chỉ được một lúc. Rồi bà ta nhắc cuốn sợi ra nhìn thẳng vào mặt tôi vẻ vui đùa hỏi:

- Này, nói thật đi, tên cháu là gì?

- Bà nói sao?

- Tên thật của cô là gì? Là Bin, là Tom hãy Bob? hay là gì?

Tôi tưởng mình run lên một chiếc lá, và thật cũng không biết làm thế nào. Nhưng tôi trả lời:

- Xin bà đừng trêu ghẹo một cô gái khổ sở như cháu. Nếu cháu ngồi đây mà có làm phiền bà thì cháu xin...

- Không, không, cháu đừng đi đâu. Hãy cứ ngồi yên đây. Tôi không làm hại gì cháu đâu, và cũng không đi nói cho ai biết về cháu đâu, cháu cứ tin ở tôi, cháu nói thật với tôi đi. Tôi sẽ giữ kín cho cháu nữa, tôi sẽ giúp đỡ cháu. Tôi sẽ bảo cả chồng tôi giữ kín cho cháu nữa, nếu cháu muốn. Cháu hiểu không, cháu chỉ là một con ngựa non khờ dại bỏ bày mà chạy đi thôi, chẳng có gì khác. Mà có sao đâu cơ chứ, Cháu bi đối đãi khổ sở rồi cháu quyết tâm là phải trốn đi chứ gì. Khổ, tội nghiệp quá, tôi sẽ không nói với ai về cháu đâu. Bây giờ thì hãy nói hết cả cho tôi nghe đi, nào cậu... con trai ngoan ngoãn.

Tôi nghĩ bụng cứ đóng kịch mãi thì cũng chẳng ăn thua gì, tôi sẽ thú thật với bà ta và nói hết cả ra, nhưng bà ta phải không nuốt lời hứa mới được. Thế rồi tôi nói với bà ta rằng bố mẹ tôi đã chết cả, rồi pháp luật đã trói buộc tôi phải ở với một người chủ điền vừa già vừa độc ác ở vùng cách xa con sông đến ba mươi dặm. Người ta cư xử với tôi tệ quá nên không thể ở đấy được nữa. Nhân lúc lão chủ điền kia vắng nhà vài ngày, tôi mới thừa cơ bỏ trốn và ăn cắp mấy cái quần áo của con gái lão ta, đi ròng rã ba đêm nay bây giờ tôi mới tới đây. Đêm thì đi, ngày thì nấp vào một nơi ngủ. Cái bọc bánh với thịt mang theo chỉ đủ ăn dọc đường. Tôi lại nói là tôi tin rằng ông bác tôi là Abner Moore sẽ nuôi tôi, vì vậy tôi mới lần mò đến vùng Goshen này.

- Goshen đâu, cậu bé ơi! Đây không phải là Goshen, đây là Peterburg. Goshen ở mãi mười dặm đi ngược lên trên sông nữa cơ mà. Ai bảo với cậu đây là Goshen?

- Vậy ư? Thế mà có một người cháu gặp lúc còn tờ mờ sáng hôm nay, lúc cháu định rẽ vào rừng để ngủ, bảo cháu đến ngã ba thì rẽ bên phải, rồi đi năm dặm nữa thì đến Goshen.

- Chắc hắn ta say rượu. Hắn nói thế là hoàn toàn sai rồi.

- Vâng, trông hắn ta đúng là say rượu. Nhưng thôi thì bây giờ làm thế nào được. Cháu lại phải đi quãng đường nữa. Cháu sẽ tìm đến Goshen trước khi trời sáng.

- Khoan đã, hãy chờ một lát, để tôi lấy cái gì cho cậu ăn qua loa đã. Hẳn là cậu phải đói rồi.

Bà ta đem cho tôi ăn rồi lại hỏi:

- Này cậu, khi một con bò đang nằm dưới đất mà nó đứng đằng nào lên trước? Trả lời ngay, không được nghĩ. Đằng nào đứng lên trước?

- Đằng đuôi

- Thế rêu mọc trên thân cây thì mọc ở phía nào?

- Phía bắc

- Nếu mười lăm con bò ăn cỏ trên đồi thì bao nhiêu con châu đầu về một phía?

- Cả mười lăm con

- Được, như thế là tôi biết cậu đã ở nông thôn. Tôi tưởng cậu lại định bịp tôi nữa. Thế bây giờ tên thật của cậu là gì?

- George Peter bà ạ.

- Được, cậu nhớ đây nhé, George. Trước khi đi cậu hãy nhớ nói với tôi rằng cậu là Alexander rồi đến ngoài đường thì nói rằng tôi bắt gặp được cậu thì cậu chính là tên George Alexander. Mà đừng có mặc cái đồ vải cũ ấy đi đến chỗ nào có đàn bà. Cậu đóng giả cô gái nghèo thì được đấy nhưng đàn ông người ta vẫn để ý. Thật tội nghiệp cho cậu, lúc nào xỏ chỉ vào lỗ kim thì đừng có giữ cho im cái kim rồi hãy xỏ chỉ vào lỗ kim; đàn bà bao giờ người ta cũng làm thế, còn đàn ông thì khác. Rồi khi nào ném chuột hay ném vật gì khác thì hãy nhớ kiễng chân lên một tí, rồi giơ tay lên qua đầu làm ra vẻ hết sức ngựơng nghịu, và ném cách xa con chuột chừng một vài thước. Phải ném thế nào trông nó có vẻ cứng nhắc suốt từ bả vai xuống, y như có một cái chốt ở vai mà xoay cánh tay đi, như vậy nó mới ra con gái, chứ không phải nếm bằng cổ tay hay khuỷu tay và giang rộng cánh tay sang một phía như con trai. Rồi lại còn nhớ rằng khi một cô gái cũng nhích hai đâu gối ra chứ không kẹp vào nhau như cậu làm khi nãy để giữ thỏi chì. Lạ gì đâu, ngay từ cậu xỏ chỉ vào lỗ kim, tôi đã biết rằng cậu là con trai, cho nên tôi mới thử lại cái đó để biết chắc chắn. Thôi, bây giờ đi tìm bác cậu đi, Sara Mary William George Alexander Peter. Nếu có gặp chuyện gì lôi thôi thì nhắn về cho tôi, tức là bà Judith Loftus. Tôi có thể làm gì đựơc tôi sẽ làm để giúp đỡ cậu. Cứ theo con đường ven sông, và lần sau có đi bộ xa thế thì phải đi giầy đi tất vào, Đường ven sông có nhiều sỏi đá; tôi tính đến được Goshen thì chân cậu sẽ đau lắm đấy.

Tôi đi ngược lên phía trên sông độ dăm chục thước rồi quay lộn lại, vụt chạy đến chỗ để xuồng, ở dưới căn nhà đó một quãng. Tôi nhảy vào xuồng, vội vã chèo đi. Tôi đi ngược lên khá xa, đến tận đầu hòn đảo, rồi tạt ngang. Tôi cởi mở chiếc mũ ra, vì bây giờ cũng chẳng cần phải cải trang làm gì nữa. Khi nãy đi đến giữa chừng thấy tiếng chuông vang đi, nhoà trên mặt nước nhưng nghe còn rõ, đã mười một giờ. Đến đầu hòn đảo, mặc dầu gió đang thổi mạnh tôi cũng không cần lánh xuống nữa mà cứ nhằm đâm thẳng vào chỗ có khúc gỗ mà tôi đã nấp hồi mới tới và đã từng đốt lửa ở một nơi cao ráo. Tôi chèo riết đến chỗ chúng tôi ở, hơn một dặm về phía dưới. Rồi lên bờ, nhảy vọt qua khúc gỗ, trèo lên đỉnh gò vào chạy xộc vào hang. Jim nằm đó, đang ngủ say trên mặt đất. Tôi lay hắn dạy và nói:

- Dậy đi, chết rồi Jim ơi. Không được chậm trễ một phút nào. Họ đang lùng bắt chúng mình đấy!

Jim chẳng hỏi han mà cũng chẳng nói năng gì nhưng cứ nhìn cái điệu hắn hấp tấp khoảng nửa giờ sau đó cũng biết hắn đang sợ lắm. Lúc chiếc bè đã sẵn sàng để ra khỏi cái bụi liễu, nơi chúng tôi vẫn giấu ở đó. Việc đầu tiên là chúng tôi tắt rụi đống lửa trong hang, và sau đó cũng không thắp một cây nến nào lên cả.

Tôi lấy xuồng chèo ra khỏi bờ một quãng để thăm dò trước. Nhưng giá có một cái thuyền nào để ngay đó cũng không thấy gì được, vì trời tối đen, chỉ có ánh sáng sao, chẳng nhìn thầy gì. Rồi chúng tôi đẩy bè ra, cho bè lướt xuống dòng sông, trong bóng tối đi qua phía đầu đằng kia hòn đảo, im lặng như chết không ai hé miệng câu nào.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,604
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12


Có lẽ cũng phải đến gần một giờ đêm thì chúng tôi mới tới phía dưới hòn đảo. Mà hình như bè của chúng tôi đi chậm vô cùng. Nếu như có chiếc thuyền hay tàu nào đi tới thì chúng tôi đến phải sang xuồng mà bỏ chạy lên bờ Illinois ngay. Nhưng thật may, chẳng có thuyền bè nào đi tới, và chúng tôi cũng không nghĩ đến bỏ khẩu súng vào trong xuồng, hoặc cần câu hay đồ ăn gì cả. Lúc đó chúng tội vội quá, cuống lên, không nghĩ thấu hết mọi thứ. Vả lại tất cả cái gì cũng bỏ hết lên bè thì không lợi.

Nếu như hai người kia họ tìm đến hòn đảo thì tôi chắc thế nào thì cũng thấy chỗ lửa trại của chúng tôi sẽ rình ở đó suốt đêm chờ cho Jim đến. Dù sao họ cũng còn xa hơn chỗ chúng tôi, và nếu như đám lửa của chúng tôi đánh lừa được họ thì đó cũng không phải lỗi tại tôi. Nhưng càng chơi xỏ được họ đến đâu thì cứ chơi.

Khi tia sáng đầu tiên của ban ngày ló ra, chúng tôi buộc bè vào một cái khe ở gần bãi lớn phía Illinois; lấy rìu chặt một ít cành cây bông phủ lên để làm ra vẻ như ở ven sông này từ lâu đã có một chỗ lõm vào như vậy. Phía đầu là một cái bờ cát cây bông mọc râm rạp tua tủa như răng bừa.

Bên phía bờ Illinois là núi. Còn bên bờ St Louis thì toàn là cây to. Quãng sông này có con lạch chảy về phía bờ Illinois, nên chúng tôi không sợ có ai đi qua đây. Chúng tôi nằm đó suốt ngày, nhìn theo những bè mảng với tàu thuỷ đi xuống phía bờ Illinois, cả những chiếc tàu đi ngược lên chạy ầm ầm giữa sông. Tôi kể lại cho Jim nghe cái lúc tôi ngồi nói chuyện huyên thuyên với cái người đàn bà ấy, và Jim bảo tôi đó thật là một người đàn bà quái lạ; nếu như chính bà ta đã lùng bắt chúng tôi thì chắc sẽ chẳng tội gì ngồi rình ở đống lửa trại đâu, mà trái lại, thưa ngài, bà ta sẽ dắt chó đi lùng bắt đấy. Tôi bảo thế thì tại sao bà ta không xúi chồng đem chó đi? Jim nói rằng hắn đoán chắc là bà ta đã nghĩ đến chuyện ấy khi người chồng sắp sửa đi, và chắc là ông kia lên tỉnh kiếm con chó nên mới mất nhiều thì giờ như vậy. Có thế thì mình mới chạy được đến chỗ này xa làng xóm đến mười sáu mười bảy dặm chứ, nếu không thì mình sẽ còn được ở lại cái tỉnh cũ kỹ ấy. Tôi nghĩ chừng nào mà họ chưa tóm được mình thì cũng chẳng cần biết nguyên nhân tại sao họ chưa bắt được mình.

Trời bắt đầu xẩm tối, thì chúng tôi thò đầu ra khỏi mớ cánh bông, nhìn trước nhìn sau, không thấy gì. Rồi Jim nhắc mấy mảnh ván trên bè lên, dựng thành một cái lều để có thể chui vào đó khi mưa nắng và để che đồ đạc cho khỏi ướt. Jim lại làm thêm ở bên ngoài một cái nền gỗ cao khoảng ba mươi phân để mỗi khi gặp tàu thuỷ có sóng to vỗ vào thì khỏi bắn ướt lên đồ đạc. Ở giữa lều chúng tôi làm một cái chỗ trũng xuống đổ đất vào đấy, chừng một tấc, quây gỗ chung quanh để làm bếp lửa, gặp khi trời mưa rét, và cũng để ở trong lều nữa cho người ta khỏi trông thấy. Chúng tôi dựng một chiếc gậy ngắn ở đầu gậy có chạc để treo cái đèn cũ lên khi nào gặp tàu thuỷ đi xuôi xuống, để tránh khỏi bị đâm vào nhau. Còn đối với những thuyền bè đi ngược sông thì chúng tôi không phải thắp đèn làm gì, nếu như không gặp trường hợp gọi là đi tắt ngang; vì nước sông ở trên mặt thì chảy khá mạnh, dưới lòng sông thì nhiều soi ngầm, cho nên thuyền bè đi ngược không phải lúc nào họ cũng đi giữa dòng mà hay chọn chỗ nào nước ít chảy xiết hơn mới đi.

Trong đêm thứ hai, chúng tôi đi chừng bảy tám tiếng đồng hồ, trên dòng nước chảy nhanh mỗi giờ đến bốn dặm. Chúng tôi bắt cá, tán chuyện, thỉnh thoảng lại nhẩy xuống tắm một tí cho khỏi buồn ngủ. Đi trên sông lớn và lặng lẽ này nghe nó nghiêm trang làm sao ấy. Chúng tôi nằm ngửa nhìn sao trên trời không lúc nào dám nghĩ đến nói to, cũng không mấy lúc cười. Chỉ ngậm miệng phì phào mấy tiếng. Nói chung là tiết trời rất đẹp, đêm đó đêm sau, rồi đêm sau nữa chẳng xảy ra chuyện gì.

Đêm nào chúng tôi cũng qua những nơi có thị trấn, có khi thị trấn nằm ở lưng đồi xa, chỉ nhìn thấy một vệt ánh sáng dài mà không rõ nhà cửa. Đêm thứ năm, chúng tôi qua St Louis, trông như cả một thế giới sáng rực. ở Peterburg, họ vẫn bảo là St louis có đến hai ba vạn dân, nhưng tôi không tin mãi đến lúc qua đấy vào hai giờ đêm nhìn thấy ánh sáng rực rỡ như vậy tôi mới cho là thật. Phía trong thành phố, chẳng có một tiếng động nào, mọi người đã đi ngủ cả.

Đêm nào cũng thế tôi thường vẫn lên bờ vào lúc mười giờ đêm, đến một cái làng nhỏ mua mươi mười lăm xu bánh hay thịt hoặc thứ gì đó để ăn, có khi tôi mò bắt và xách về một con gà nào không chịu nằm chuồng cẩn thần. Bố tôi trước kia vẫn thường nói là lúc nào có dịp bắt gà thì cứ bắt, vì như thế mình không bao giờ quên một việc nghĩa cử cả. Chính mắt tôi chưa từng bao giờ thấy bố tôi không cần gà cả, nhưng nói như vậy thì thấy ông ấy vẫn nói luôn.

Có những lúc trời tang tảng sáng, tôi luồn vào cánh đồng mượn tạm quả dưa hay quả bí, hoặc ngô khoai gì đó. Bố tôi thường vẫn bảo là mựơn của ai cái gì mà mình vẫn nghĩ rằng sau này sẽ có lúc trả người ta thì điều đó không phải là xấu. Nhưng bà goá thì lại bảo rằng đấy chẳng phải gì khác ngoài cái danh từ mềm mỏng để thay cho chữ ăn cắp mà thôi, và những người đứng đắn chẳng có ai làm thế. Jim thì cho rằng bà goá nói cũng có phần đúng, và bố tôi cũng có phần đúng. Như vậy thì tốt hơn là ta lấy vài ba thứ gì đi rồi bảo họ rằng lần sau thôi không lấy nữa. Và Jim cho rằng như thế thì về sau có mượn những cái khác cũng không sao. Thế là chúng tôi nói chuyện nên lấy dưa, hay bí, hay những thứ khác. Nhưng rồi đến sáng thì chúng tôi giải quyết việc đó ổn thỏa, và kết luận rằng sẽ lấy táo dại với lê dại. Trước đó, chúng tôi cứ băn khoăn mãi là mình làm điều không phải, nhưng bây giờ thì yên tâm rồi. Riêng tôi cũng thấy hài lòng vì đã giải quyết được như vậy, một mặt vì táo dại ăn chẳng ra gì, còn lê dại thì có chín cũng phải vài ba tháng nữa.

Thỉnh thoảng chúng tôi bắn được một con lẽ đi mò lúc còn sáng sớm hay vào lúc đêm tối nó chưa chịu đi kiếm chỗ ngủ. Những lúc đó thì đời sống của chúng tôi lại xôm lắm.

Đến thứ năm, ở mạn dưới St Louis, chúng tôi gặp một cơn giông lớn vào quãng quá nửa đêm, sấm chớp ầm ầm, mưa đổ xuống rào rào. Chúng tôi chui vào lều và để mặc cho bè trôi. Khi chớp loé lên, trông thấy cả một dải sông lớn và hai bên bờ là những mỏm núi đá cao ngất. Bỗng tôi gọi: Jim ơi, trông kìa. Đó lá một chiếc tàu thuỷ đâm phải mỏm đá. Chúng tôi đưa thẳng bè đến nơi. Chớp sáng lên nhìn rất rõ. Chiếc tàu nghiêng hẳn đi, một phần đằng mũi tàu đã chui xuống nước. Mỗi lần chớp lên có thể trông thấy từng cái cột nhỏ trông sáng bóng, có chiếc ghế ở trong buồng lái với một cái mũ treo ở đằng sau ghế.

Trong đêm giông tố như thế này mà đi xa nhà, mọi vật đều có vẻ như bí mật quá, tôi nghĩ bất cứ ai khác cũng đều phải có cảm giác như tôi khi nhìn thấy chiếc tàu đắm nằm đó buồn như chết giữa dòng sông ấy. Tôi muốn trèo lên chiếc tàu đắm này để coi chung quanh một chút xem có gì không. Tôi nói.

- Ta trèo lên đi Jim

Lúc đầu Jim im lặng không nói, sau mới đáp:

- Tôi chả trèo lên cái tàu đắm ấy làm gì. Chúng mình đã làm tội rồi thì tốt hơn đừng làm tội thêm nữa, như trong sách nói ấy. Nhỡ có người canh gác ở trên tàu đó thì sao?

Tôi nói:

- Canh gì, có canh cái con khỉ, chẳng canh gác gì ở đây đâu, anh tưởng ai dại gì mà ở đây canh gác cái buồng máy với buồng lái trong đêm gió bão như thế này, nhất là chưa biết lúc nào cái tàu nó sẽ vỡ và chìm xuống lòng sông.

Jim không biết nói thế nào, đành chịu. Tôi lại nói:

- Vả lại, chúng mình có thể mượn tạm cái gì đáng giá ở trong buồng ông thuyền trưởng. Xì gà, anh có biết không, mỗi điếu xì gà đáng giá năm xu, nhất định như vậy. Thuyền trưởng trên những con tàu chạy sông bao giờ cũng giàu, lương mỗi tháng đến sáu mươi đô la và họ muốn mua cái gì thì không bao giờ thèm tiếc rẻ một xu. Lấy một cây nến trong bọc ra đây đi Jim. Nếu chưa lên đó lục lọi thì tôi không thể ngồi im được. Anh tưởng nếu thằng Tom Sawyer ở đây nó không chịu ngồi im ư? Không đâu, tôi đánh cuộc với anh là nó không chịu đấy. Nó sẽ gọi đây là cuộc phiêu lưu, đúng thế đấy; và rồi cuối cùng thế nào cũng phải trèo lên cái tàu đắm này. Rồi nó lại không thêm thắt bao nhiêu chuyện ly kỳ, bịa bao nhiêu thứ khác vào đó nữa à? Cứ lên mà xem, Jim, rồi anh sẽ tưởng như mình là Columbus đi tìm ra châu lục mới cho mà xem. Lên đi. Tôi chỉ ước giá lúc này có thằng Tom Sawyer ở đây thôi.

Jim làu nhàu một chút, nhưng rồi cũng nghe theo. Hắn bảo thôi không được nói thêm gì nữa, có nói thì nói thật khẽ. Chớp loè lên vừa lúc chúng tôi nhìn rõ được cái tàu đắm và ghé đến. Chúng tôi tìm cái cột trục để buộc dây bè vào đó. Mặt tàu chỗ này cao. Trong bóng đêm, chúng tôi lần nhẹ theo sườn tàu đi đến cửa buồng lái; cảm thấy như chân mình lần đi quá chậm. Chúng tôi đưa tay ra rờ rờ phía trước để tránh đâm vào cọc, vì trời tối đen, chẳng nhìn thấy một tí gì. Dần dần nhìn lâu quen mắt qua cái sáng màn đêm, trèo lên được. Một bước nữa là đến cửa buồng thuyền trưởng. Cửa đã mở sẵn. Đứng cạnh Jim tôi nhìn xuống buồng máy thấy có một tia sáng và cũng ngay lúc đó hình như chúng tôi nghe thấy có tiếng người rì rầm ở phía đó.

Jim ghé vào tai tôi nói thầm rằng hắn sợ lắm, bảo tôi đi ra thôi. Tôi bảo ừ, và đang sắp sửa quay về chỗ bè thì nghe có tiếng la lên.

- Ôi, thôi, van các anh, đừng, tôi thề sẽ không nói.

Tiếng một người khác to hơn:

- Mày nói dối, Jim Turner. Trước kia mày cũng đã làm thế. Bao giờ mày cũng đòi lấy qúa cái phần hưởng, và lần nào mày cũng được cả, vì mày dọa nếu không được như thế thì mày sẽ đi tố cáo. Lần này mày lại vẫn nói thế. Mày là con chó, xấu nhất, gian trá nhất ở cái xứ này.

Lúc này thì Jim đã bỏ ra bè rồi. Tôi thì bị cái tính tò mò giữ mình lại, tôi tự bảo; phải thằng Tom Sawyer thì lúc này nó không chịu bỏ đi đâu. Vậy thì tôi cũng thế, phải xem ở đây có chuyện gì cái đã. Tôi lại nép vào chỗ tối lom khom bò lách đi, chỉ có cách có ngăn buồng của thuyền trưởng là đến chỗ đó. Tôi ngó vào thấy một người nằm trên sàn nhà bị trói chặt chân tay, có hai người khác đứng đẫm chân lên, mộtngười xách cái đèn lù mù trong tay, còn người kia cầm khẩu súng lục. Người cầm súng chĩa miệng súng vào đầu người nằm dưới đất, nói:

- Thà như vậy. Tao muốn bắn chết mày, đồ con chồn hôi.

Người nằm dưới sàn nghểnh cổ lên nói:

- ồ, tôi xin anh, đừng, anh Bill, tôi nhất định sẽ không bao giờ nói:

Mỗi lần như vậy người cầm đèn lại cười:

- Thật mày không nói? Mày chưa bao giờ nói thật hơn thế cả, có phải thế không nào? Nghe nó van xin này! Nếu mình không tính cách trói nó lại thì nó giết cả bọn mình đấy. Mà mày định giết chúng tao để làm gì? Mày chẳng được gì cả đâu. Đây chỉ là chúng tao muốn giữ quyền lợi cho chúng tao mà thôi. Nhưng mà tao sẽ không để cho mày dọa ai được nữa, nghe không, Jim Turner. Thôi bỏ súng đi Bill.

Bill nói:

- Tao không muốn thế, Jake Packark. Tao muốn giết nó. Chẳng phải trước nó đã giết lão Hatfield như thế đấy ư? Bây giờ giết nó còn không đáng hay sao?

- Nhưng tao không muốn cho nó chết, và tao đã có ý định của tao rồi.

Người nằm dưới đất khóc mếu.

- Lạy anh tha cho tôi anh Jack Packard! Tôi còn sống sẽ không bao giờ quên anh.

Packard không để ý đến những lời nói ấy, treo chiếc đèn lên một cái đinh và đi ra phía chỗ tôi nấp trong bóng tối và gọi Bill cùng ra.

Tôi vội toài người thật nhanh đi chừng vài thước, nhưng tàu chòng chành thành ra không toài được xa, để họ đi ra khỏi dẫm lên người mình và bắt được, tôi bò ngược lên phía trên buồng lái. Người đi đầu dò dẫm trong bóng tối, tới buồng lái ngay cạnh chỗ tôi nấp; rồi nói:

- Đây, vào đây.

Hắn bước vào, Bill vào theo. Nhưng trước khi hai người bước hẳn vào tôi đã kịp lách lên cái giường treo ở phía trên và nằm thu gọn vào một góc. Trong bụng lấy làm hối hận rằng mình tự nhiên bò đến chỗ này. Họ đứng ngay bên cạnh, tay vịn vào thành giường nói chuyện. Tôi không trông thấy rõ hai người, nhưng có thể biết họ đứng chỗ nào vì ở mồm họ thở ra toàn là hơi rượu uýt sky. Cũng may là tôi không uống rượu uýt sky; nhưng cái đó chẳng có gì hơn; họ vẫn không thể biết có tôi nằm đó vì tôi không thở. Tôi đâm ra quá sợ rồi. Vả lại nếu thở thì cũng không nghe được câu chuyện. Họ nói rất nhỏ và chậm rãi. Bill thì muốn giết ngay Turner. Hắn nói:

- Nó đã bảo nói ra, chắc thế nào nó cũng sẽ nói ra. Nếu chúng minh phải đưa cho nó cả phần của chúng mình thì cũng vẫn không hơn gì, nhất là sau cả một phen vất vả và cái cách mình hầu hạ nó như thế. Tất cả những chuyện mình làm rồi nó sẽ đi tố cáo hết; mày nghe không? Tao sẽ thủ tiêu nó đi là hết.

Packard điềm nhiên nói:

- Tao cũng tính thế.

- Con khỉ. Tao đã tưởng mày không muốn thế. Nếu vậy thì tốt lắm. Thôi ta làm đi thôi.

- Khoan đã, tao chưa nói xong. Nghe đây này, bắn thì tốt nhưng có cách khác lặng lẽ hơn nếu như cần phải giết nó. Tao nghĩ thế này: nếu treo cổ nó lên thì sau này mình đi đâu sẽ áy náy trong lòng. Nếu có cách gì đại khái như thế mà không có gì phải bận tâm và cũng không nguy hiểm cho mình nữa thì nên làm, mày có nghĩ thế phải không?

- Phải, nhưng lúc này làm thế nào khác được?

- Không, tao nghĩ rằng hãy tìm quanh quẩn đây nhặt những thứ mình thấy trong buồng lái đem lên bờ giấu đi đã. Rồi chờ xem. Tôi chắc chỉ trong vòng hơn hai tiếng đồng hồ nữa là chiếc tàu này sẽ vỡ và chìm nghỉm xuống đáy nước. Nghe không? Nó sẽ chết đuối luôn, mà không oán trách ai được, chỉ tự oán nó thôi. Tao tính giết nó bằng cách này như vậy là ổn hơn cả. Tao không muốn giết một người mà về sau cứ phải bận tâm áy náy mãi. Điều đó không tốt, mà không phải là đạo đức. Có phải không?

- ừ, tao nghĩ mày nói cũng phải. Nhưng tàu nó không vỡ không chìm thì sao?

- Thì dù sao mình cũng cứ đợi hai tiếng đồng hồ xem thế nào đã chứ

- Được, thôi đi!

Hai người bước ra, và tôi cũng lách ra theo, mồ hôi toát lạnh cả người. Tôi bò lên phía trước. Tối như mực. Tôi khẽ lên tiếng gọi: Jim, ngay phía bên cánh tay tôi, tiếng Jim đáp lại, nghe như một tiếng than thở. Tôi nói:

- Nhanh lên Jim. Không có thì giờ vớ vẩn, than thở nữa đâu. Trong kia có một bọn cướp. Nếu mình tìm lấy cái thuyền của chúng và thả cho nó buông trôi đi để chúng nó không thoát khỏi cái tàu đắm này, thì sẽ có một thằng trong bọn chúng chết không cựa được. Còn nếu ta tìm được cái thuyền của bọn chúng thì ta có thể làm sao cho cả bọn chúng hết cựa vì viên quận trưởng sẽ đến tóm cổ chúng. Nào mau lên, tôi đi phía bên cửa buồng lái, còn anh chạy sang phía bên kia. Anh hãy ra bè rồi...

Ôi, trời ơi, bè? Còn bè đâu nữa? Nó đã đứt dây buộc trôi đi mất rồi - thôi, thế là chết kẹt ở đây thôi!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,604
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13


Tôi nghẹn thở, gần như sắp quỵ xuống. Bị kẹt ở trên một cái tàu đắm với một bọn cướp thế này! Nhưng thôi, chả có thì giờ mà ngồi than khóc nữa. Chúng tôi phải tìm cách thoát mới được. Chúng tôi vừa đi vừa rung lên thành tàu, mà sao nó lại chậm chạp thế nữa chứ, hình như đi được tới đằng sau lái phải mất đến một tuần lễ.

Chẳng thấy bóng dáng chiếc thuyền nào cả. Jim thì nói rằng không chắc hắn có thể bước đi được nữa không, hắn sợ quá đến nỗi không còn sức mà bước nữa - hắn bảo thế. Nhưng tôi giục cứ đi, nếu bị kẹt trên cái tàu đắm này thì chắc chết. Chúng tôi lại dò dẫm đi. Lần được tới đằng sau lái, nhô ra phía cửa kính bám chặt vào ô cửa, nhưng ô cửa đã gần chìm xuống mặt nước. Lúc ra đến cửa lớn để đi sang buồng hành khách thì thấy có một chiếc xuồng con ở đó.

Đúng là xuồng rồi, tôi nhìn thấy rõ ràng.

Trời ơi! Không còn mừng nào đáng mừng hơn nữa. Tôi vừa định trèo lên thì cánh cửa chợt mở. Một người thò đầu ra chỉ cách chỗ tôi độ nửa thước. Tôi tưởng thế là chết, nhưng rồi người kia lại thụt đầu vào nói:

- Nhấc cái đèn lên một tí thì mới nhìn thấy được, Bill ơi!

Hắn ta vứt một cái bọc gì vào khoang tàu, rồi bước vào theo bậc xuống. Đó là Packard. Rồi đến Bill vào theo nữa. Packard nói nhỏ:

- Xong cả rồi, đẩy đi

- Tôi không đánh đu được lên cánh cửa, vì sức yếu quá.

Bill nói:

- Giữ lấy nhé, mày đã soát kỹ lại nó chưa?

- Chưa, mày có soát lại không?

- Không, nhưng mà nó chưa lấy phần của nó đâu.

- Thôi, thế được rồi, đi đi, không cần phải lấy đồ đạc và bỏ tiền lại.

- Nhưng này, liệu có thể nghi là mình bỏ lên làm gì không?

- Có lẽ không. Nhưng dù sao mình cũng ăn chắc rồi. Đi thôi.

Rồi họ đi ra.

Cánh cửa đóng đánh sầm một cái, vì nó ở bên phía đốc đóng vào. Chỉ trong một nửa tích tắc, tôi đã nhảy vào chiếc xuồng con. Jim lập cập nhảy theo sau, tôi rút con dao nhíp ra cắt đứt dây thừng. Thế là chuồn.

Chúng tôi không hề đụng đến một cái mái chèo, không nói mà cũng không thì thầm, ngay cả thở mạnh cũng không dám nữa. Cho xuồng lướt nhẹ đi, im lặng như chết, đi qua cái guồng tàu, rồi đi qua đằng lái, rồi một vài giây đồng hồ sau, chúng tôi đã cách xa cái tàu đắm đến gần trăm thước. Bóng tối đã hoàn toàn che lấp hết không còn nhìn thấy gì ở chiếc tàu nữa. Và chúng tôi biết rằng mình đã thoát.

Khi đã xa khoảng ba bốn trăm thước rồi, quay lại nhìn, thấy cái đèn loé lên một chút ánh sáng ở chỗ khung cửa buồng máy chừng một giây đồng hồ. Chúng tôi biết là những gã kia không rời được khỏi tàu và cũng đang lúng túng, chẳng hơn gì cái tên Jim Turner đang bị trói.

Rồi Jim cầm lấy mái chèo, chúng tôi cho thuyền vượt nhanh lên để tìm cái bè của chúng tôi.

Đến lúc này, tôi mới bắt đầu nghĩ đến mấy gã kia, vì thật ra khi nãy chẳng còn bụng dạ nào mà lo cho họ cả. Tôi bắt đầu nghĩ rằng, ngay cả đối với những kẻ giết người đi nữa thì trường hợp bị chết kẹt như thế này thật là kinh khủng. Tôi tự bảo không thể nói đến chuyện mình trở thành kẻ sát nhân, thế thì sao tôi lại có thể thích để cho họ như thế được. Tôi bảo Jim:

- Hễ thấy chỗ nào có ánh đèn thì chúng mình sẽ cập vào khoảng một trăm thước trên chỗ đó, tìm một chỗ để anh có thể đem chiếc xuồng con này nấp kín được, còn tôi sẽ đi tìm người nào cùng đến chỗ tàu đắm lúc nãy để mà cứu cho bọn cướp ấy.

Nhưng ý kiến đó không thực hiện được, vì vừa nói xong thì cơn bão lại kéo đến, và lần này còn ghê gớm hơn. Mưa đổ xuống mà không có sấm chớp gì cả. Tôi nghĩ lúc này ai nấy đều ngủ hết. Chúng tôi cứ lao xuồng đi theo dòng sông, tìm ánh đèn, tìm cái bè của chúng tôi. Một lúc sau rất lâu, mưa tạnh nhưng trời vẫn còn nặng mây, lại có tiếng sấm ù ù rồi một tia chớp loè lên, chúng tôi thấy trước mặt có vật gì màu đen đen trôi lềnh bềnh, vào chúng tôi lại vượt lên đuổi.

Đó là cái bè. Chúng tôi vô cùng mừng rỡ, lại trèo lên. Phía bờ bên phải ở chênh chếch về dưới một tí chúng tôi chợt thấy ánh đèn. Tôi định sẽ tới đó. Trong chiếc xuồng còn đầy những đồ đạc mà bọn cướp kia lấy được đã chất vào. Chúng tôi khuân vứt lên bè được một đống. Tôi bảo Jim cứ cho xuôi xuồng phía dưới nữa đi. Tôi trỏ cho hắn trông thấy cái ánh sáng mà hắn tưởng như mình đã đi xa gần hai dặm, ánh đèn lúc nãy vẫn lấp lánh cho đến lúc chúng tôi tới gần. Tôi cầm mái chèo lên, đẩy xuồng đến chỗ có ánh sáng. Tôi càng đến gần thì lại thấy ba bốn ánh sáng nữa loé lên ở phía lưng đồi. Ra đây là một cái làng. Tôi tiến đến chỗ có ánh sáng ở gần bờ nhất, mái chèo vẫn gác để cho xuồng nhẹ trôi. Đến tận nơi nhìn kỹ hóa ra một chiếc đèn lồng đang treo ở trên cột của một chiếc tàu phá. Tôi bước lên tìm người gác, thấy một anh chàng nào đang ngủ ở đó, đầu chui về phía trước và rúc hai đầu gối mà ngủ. Tôi khẽ đập vào vai hắn hai cái rồi lên tiếng làm ra điệu khóc mếu.

Anh ta giật mình choàng dậy, nhìn ra chỉ thấy có tôi, mới ngáp một cái, vươn vai rồi nói:

- Hả, cái gì thế? Đừng có khóc, chú em. Làm sao, làm sao?

Tôi đáp:

- Bố tôi, mẹ tôi, và chị tôi, và...

Rồi tôi dừng lại. Anh ta hỏi:

- ồ, thôi đừng lo. Cứ yên trí. Ai mà không có khó khăn, nhưng rồi cũng xong cả. Sao, họ làm sao?

- Họ... ơ - họ... nhưng có phải ông là người gác tàu không?

- Phải - Anh ta trả lời với một giọng khoái trá. Ta là thuyền trưởng, là chủ tàu, là phụ việc, là lái tàu, là người gác, là chủ huy trên boong, có khi ta là hàng hoá, là hành khách đi tàu nữa. Ta đây không giàu có bằng lão Jim Hornback đâu, và ta đây cũng không thể ăn ở tốt với thằng Tom, Dick, Harry như lão Jim được, nhưng ta đã bảo lãnh nhiều lần là ta sẽ không đổi chỗ cho lão, bởi vì hãy nghe đâu này, đời ta là đời thuỷ thủ, mà nếu như ta sống xa thành phố hai dặm thì ta cũng buồn lắm, vì ở cái chốn này chẳng có chuyện gì thú vị; ta ở đây không phải vì tiền bạc của lão ta đâu, ta bảo không cần...

Tôi chen vào nói:

- Họ đang sắp chết đến nơi rồi và...

- Ai?

- Còn ai nữa, bố, mẹ chị và cô Hooker, nếu ông có thể lấy cái tàu này đi đến chỗ đó...

- Chỗ nào, họ đang ở đâu?

- ở trên tàu đắm

- Tàu nào đắm?

- Tàu nào nữa, chỉ có một cái thôi chứ

- Hả! Có phải chú em nói cái tàu Walter Scott đấy không?

- Phải

- Trời ôi, chết chửa, họ ra đây làm gì thế?

- Không phải là họ muốn ra đấy

- Ta biết! Chết thật rồi, nếu họ không thoát ra mau thì nguy lắm. Mà sao họ lại có thể không may như vậy được?

- Có gì đâu, chắc có Hooker định ngược phía ấy lên tỉnh chứ gì

- Phải, rồi sao nữa?

- Cô ấy định đi đường đó để đến Booth Landing, rồi thế nào đến lúc trời tối cô ấy lại đi với một người hầu da đen định đi một chiếc đò chở ngựa lên một nhà người bạn rồi ở đó đến suốt đêm, cái cô bạn gì ấy tôi chả nhớ rõ tên, ấy thế rồi đang đi thế nào lại tuột mất mái chèo, còn đò mới quay ngang rồi trôi xuống, đằng lái lao đi trước, xa đến gần hai dặm, rồi đâm ngay vào chiếc tàu đắm, cả người chèo đò, cả người hầu da đen nữa, đều mất tích. Còn cô Hooker thì bám được vào chiếc tàu đắm. Sau một lúc xẩm tối độ một giờ đồng hồ, chúng tôi chèo thuyền dọc xuôi tìm kiếm nhưng trời tối quá không nhìn thấy chiếc tàu đắm thành ra cũng đắm phải nó nốt, chúng tôi cũng bị lật thuyền. Tất cả chúng tôi đều lên được, chỉ trừ có Bill Whipple. Ôi trời ơi, Bill là người thông minh lắm. Tôi nghĩ tại sao tôi lại không chết thay cho Bill cơ chứ!

- Chú Goerge ơi, thật ta chưa nghe thấy điều đau đớn như thế bao giờ! Thế rồi các người làm sao nữa?

- Chúng tôi gào to lên gọi, nhưng chỗ đó sông rộng quá, chẳng ai nghe thấy. Rồi bố tôi mới bảo có ai lên bờ mà kêu cứu đi chứ. Chỉ có mình tôi biết bơi, tôi bèn đi ngay, cô Hooker bảo tôi là nếu không đi gọi được người cứu cho nhanh thì phải về đây ngay và gọi bác cô ấy đi để ông ấy sẽ tính cách giải quyết. Tôi đi đến gần một dặm tìm mãi, mong làm sao tìm được người đến cứu giúp, nhưng ai họ cũng bảo: Trời ơi, đêm tối, sông nước như thế này, cứu làm sao được, phải tìm lấy cái tàu phà cơ. Đấy, bây giờ xin ông đi cho và...

- Chà, ta cũng muốn đấy, nhưng mẹ kiếp, ta không biết có nên làm không. Mà ai là người đứng ra trả tiền cho ta đây? Có phải bố chú không?

- Sao? Cái đó cố nhiên chứ. Cô Hooker cô ấy bảo tôi thế mà, đặc biệt là bác cô ấy là ông Hornback...

- Chết chửa, lão ta là bác cô ấy ư? Đây này, ta bảo nhé, chú đi quanh cái chỗ có đèn kia kìa, rồi ngoặt sang phía Tây, đi chừng một phần tư dặm thì đến một cái quán, bảo họ chỉ cho chú đi ngay và lão Jim Hornback rồi lão ta sẽ ký giấy trả tiền cho. Mà chú đừng có la cà, vì lão ta đang cần biết tin tức thế nào. Bảo với lão rằng ta sẽ đảm bảo cho cô cháu lão an toàn trước khi lão đi lên tỉnh. Thôi, ba chân bốn cẳng chạy đi mau lên. Còn ta sẽ ra gần đây tìm bác thợ máy.

Tôi đi quành ra chỗ có đèn, nhưng chờ cho hắn ra vừa đi ra phía góc thì tôi quay lộn lại và nhảy xuống chiếc xuồng con của tôi chuồn thẳng. Tôi cho xuồng đi dọc theo bờ có chỗ nước đứng vào khoảng sáu trăm thước, rồi tôi nấp vào đám thuyền gỗ đậu ở đấy xem, vì tôi chưa thấy chiếc tàu phá ở bến đi ra thì chưa yên tâm. Nhưng nói cho cùng thì tôi cũng cảm thấy khoan khoái vì đã vất vả với đám cướp kia mà trong khi đó nhiều người khác chả ai làm như thế. Tôi mong rằng bà goá biết về chuyện này. Tôi chắc mụ sẽ lấy làm tự hào về tôi đã cứu giúp những tay bất trị ấy vì những người bất trị, những kẻ vô tích sự ấy lại là những kẻ mà bà goá và những người đứng đắn hay quan tâm đến.

Rồi một lúc lâu thấy chiếc tàu đắm thì nãy đi tới, đen lù lù, từ từ trôi xuống. Lúc trông thấy nó một cảm giác lành lạnh làm tôi giật mình. Trông nó thật đồ sộ, và trong giây phút tôi nghĩ rằng nếu có người nào ở trong đó thì rất khó mà sống được. Tôi đẩy xuồng ra gần và hú lên một tiếng khẽ gọi, nhưng không có tiếng trả lời, tất cả đều im lặng như chết. Tôi cảm thấy hơi buồn về đám cướp, nhưng cũng không buồn lắm, vì tôi nghĩ nếu như thiên hạ người ta có thể mặc nhiên được thì tôi cũng có thể được.

Rồi thấy cái tàu phá đi tới. Tôi liền chèo xuống ra giữa sông đến một chỗ có dòng nước ngầm, rồi khi tôi đã chắc chắn là ra ngoài tầm mắt nhìn của người khác, tôi gác mái chèo lên, quay lại nhìn chiếc tàu phá đi theo thả một làn khói che kín cả chiếc tàu hỏng đi trước, có cái xác của cô Hooker mà cái anh thuyền trưởng khi nãy yên trí rằng trong đó có cái xác của cô ta và nghĩ rằng sẽ đem được về cho lão Hornback. Rồi lát sau nữa thì cái tàu phà để mặc cho chiếc tàu trước cứ đi, còn nó thì rẽ vào bến. Còn tôi lại trở về công việc của tôi và đẩy xuồng xuôi xuống dòng sông.

Chờ lâu lắm tôi mới thây ánh đèn của Jim, khi ánh đèn ấy loá lên nhìn như cách xa hàng ngàn dặm.

Lúc này, phía chân trời đã hửng lên một màu xanh xám, thế là chúng tôi lại mò vào hòn đảo, giấu kín cái bè và đánh đắm chiếc xuồng con, rồi quay lại ngủ như chết.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,604
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14


Đến lúc chúng tôi thức dậy mới giở cái bọc đồ của bọn cướp đã lấy ở trên chiếc tàu hỏng ra xem, thấy nào là giầy, chăn màn, quần áo, với đủ mọi thứ khác, một bô sách, một cái ống nhòm và ba hộp xì gà. Thật cả đời chúng tôi chưa bao giờ lại giàu có như thế. Xì gà thuộc vào loại ngon hạng nhất. Cả buổi chiều chúng tôi nằm trong rừng nói chuyện. Tôi thì đọc sách, rất thú vị. Tôi kể lại cho Jim nghe tất cả những chuyện diễn ra trên chiếc tàu hỏng và ở chỗ phà tàu, rồi tôi bảo rằng đó là những chuyện phiêu lưu. Nhưng Jim bảo hắn không thích những cái phiêu lưu như thế nữa. Hắn nói rằng lúc đó tôi tò mò vào trong khoang tàu, hắn cũng bò lui lại để lên bè thì thấy bè đã trôi đi rồi, hắn gần như chết điếng và nghĩ rằng như thế là hết đời, dù sao cũng không thoát khỏi nơi này, và nếu như không có ai đến cứu thì sẽ chết đuối mất. Mà nếu có ai cứu thì cũng sẽ bắt hắn đêm về lĩnh thưởng, rồi cô Watson sẽ đem hắn bán xuống miền Nam. Chắc chắn như vậy. Hắn nói đúng đấy. Thường hắn nói vẫn có lý. Hắn có một bộ óc không bình thường đối với trình độ của một người da đen.

Tôi đọc cho Jim nghe khá nhiều về chuyện những vua chúa, những quận công, bá tước vân vân... nào là họ ăn mặc xa hoa lộng lẫy bao nhiêu thứ kiểu cách trên người, gọi nhau bằng những thứ tiếng như: tâu hoàng thượng, thưa bề trên, tâu bệ hạ v... v... chứ không gọi nhau là ông. Jim ngồi nghe, mắt tròn xoe, rất chăm chú. Hắn nói:

- Tôi không biết sao họ lại có nhiều đến như thế. Trước kia, tôi chỉ nghe nói đến mỗi một ông vua thôi, mà thỉnh thoảng lắm mới nói đến, tức là cái ông vua Sollermun ấy, chứ đâu có biết là cậu phải đếm những ông vua ấy như đếm bò đếm ngựa ấy nhỉ. Thế mỗi ông vua như vậy được bao nhiêu tiền.?

- Được à? Các ông đó muốn đến một ngàn đô la một tháng cũng có; mà muốn bao nhiêu cũng được bấy nhiêu. Cái gì cũng là của các ông ấy cả.

- Ô, hay nhỉ? Thế các ông ấy làm gì, cậu Huck ?

- Các ông ấy chẳng làm gì cả. Sao anh ngốc thế? Các ông ấy chỉ ngồi đó thôi.

-Bậy! Thật thế ư?

- Cố nhiên là như thế rồi. Các ông ấy chỉ ngồi đó. Có lẽ trừ những thí dụ như có chiến tranh thì các ông ấy ra trận. Nhưng lúc khác thì ngồi ườn, hoặc đi săn bắn, và... suỵt... Jim có nghe thấy tiếng gì không?

Chúng tôi nhẹ chân bước ra nhìn, nhưng không có gì cả, chỉ có tiếng lạch bạch của một con tàu đi về xuôi, chạy qua đó. Hai đứa lại quay về chỗ.

Tôi nói tiếp:

- ừ còn những lúc khác, như khi nào các ông ấy buồn thì ngó đến cái nghị viện, nếu có ai không làm theo thì các ông ấy đập vào đầu, nhưng phần nhiều là các ông vua ấy chỉ quanh quẩn ở trong nữ cung.

- Trong cái gì?

- Nữ cung

- Nữ cung là cái gì?

- Là cái chỗ các ông ấy để những bà vợ trong đó. Anh không hiểu thế nào là nữ cung à? Vua Sollermun trước kia cũng có một cái nữ cung như thế, và có đến một triệu người vợ.

- à, phải rồi, phải rồi. Tôi quên đi mất. Nữ cung là một cái nhà chứa người, tôi chắc thế. Đại khái nó giống như lúc nhốn nháo ở trong cái trại trẻ ấy chứ gì. Tôi chắc là khi những bà vợ ấy cái lộn với nhau thì phải biết! Tha hồ mà nhốn nháo. Rồi lại còn nghe họ nói rằng vua Sollermun là người khôn ngoan nhất trên đời. Tôi chả tin như vậy. Tại sao? Nếu là người khôn ngoan thì tại sao lại sống mãi trong cái cảnh lung tung ấy như thế. Không, đúng là ông ấy không khôn ngoan đâu. Một người khôn ngoan thì phải dựng lên cái nhà máy làm thức ăn, và khi nào muốn nghỉ thì đóng cửa nhà máy ấy lại chứ.

- Nhưng dù sao ông ấy xưa kia vẫn là người khôn ngoan nhất, vì chính bà goá cũng bảo tôi thế mà.

- Bà goá ấy nói thế nào tôi không biết, chứ vua Sollermun nhất định không phải là người khôn ngoan. Ông ấy có những cách phân xử người ta mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Cậu có biết câu chuyện đứa bé con mà ông ấy định cho chặt ra làm hai không?

- Có, bà góa cũng có nói cho tôi nghe chuyện này

- Đấy! Thế! Chẳng phải là cái chuyện cay đắng nhất trên đời ấy ư? Cậu thử nghĩ xem. Chuyện đó rắc rối như thế, bên này là một người đàn bà, cậu nghe không, thí dụ cậu là một người đàn bà khác; tôi là Sollermun, và cái tờ đô la này là đứa trẻ con. Cả hai bên đều đòi lấy. Vậy tôi làm thế nào. Tôi có nên đi hỏi láng giềng rằng tờ đô la này là của ai không, rồi sẽ giao nó cho người nào có nguyên vẹn cả tờ giấy bạc; tất cả những ai có óc thực tế đều làm như vậy, có phải không? ấy thế mà tôi lại đi xé tờ đô la ra làm đôi và đưa một nửa cho cậu, còn một nửa cho người đàn bà kia. Ấy đấy, ông Sollermun ông ấy làm cái cách như vậy đối với một đứa bé con ấy đấy. Bây giờ tôi thử hỏi cậu: một nửa tờ bạc ấy thì còn dùng làm gì được? Chẳng mua gì được. Thế thì một nửa đứa bé còn làm gì đựơc. Tôi thì cứ cho là có đến một triệu ông vua làm như thế cũng vẫn chẳng đáng một xu.

- Thôi đi, Jim, anh nói sai bét rồi, láo lếu, anh nói sai đến hàng ngàn dặm.

- Ai, tôi ấy à? Xin cậu. Đừng có nói đến chuyện đo lường của cậu với tôi đi. Tôi biết rằng khi tôi trông thấy rõ cái gì là tôi hiểu ý ngay. Và ý nghĩa cái này không thể lẫn sang kia được. Cái chuyện cãi nhau như thế không phải là để giành lấy được một nửa đứa bé, mà là tất cả đứa bé, mà cái người nào tưởng rằng có thể giải quyết việc cãi cọ với nhau bằng cách chia mỗi bên một nửa đứa bé, như vậy là cái người đi mưa mà lại không biết tránh đâu cho khỏi mưa. Thôi, cậu đừng nói chuyện với tôi về Sollermun nữa, cậu Huck ạ, tôi biết rõ cả đằng sau gáy của ông ấy nữa.

- Nhưng tôi bảo là anh nói không đúng chỗ cơ mà!

- Mặc kệ cái sự đo lường ấy của cậu. Cái gì tôi biết là tôi biết. Cậu phải hiểu rằng cái thùng để đong sự thật nó còn đo được sâu hơn nữa. Sai hay đúng thì nó ở ngay cái cách phân xử của ông Sollermun ấy chứ đâu. Cậu thử lấy ví dụ một người có một hay hai đứa con xem, có phải người đó dám hy sinh trẻ con không? Không, chả có như thế. Người đó sẽ biết giá trị của trẻ con như thế nào. Nhưng nếu cậu lấy một người mà hắn có độ năm triệu đứa trẻ trong nhà thì lúc đó lại khác. Hắn sẽ sẵn sàng chặt đôi đứa trẻ như chặt một con mèo. Bởi vì hắn có nhiều mà. Một hay hai đứa trẻ, nhiều hơn hay ít hơn, cái đó có nghĩa lý gì đối với Sollermun đâu?

Tôi chưa bao giờ thấy có một anh da đen nào như Jim vậy. Nếu như hắn có một ý niệm gì trong đầu thì không thế nào bắt hắn bỏ đi được. Hắn là người da đen đã phỉ báng Sollermun nhiều nhất mà bây giờ tôi mới biết là một. Thế là tôi phải nói chuyện các vua chúa khác, bỏ chuyện Sollermun sang một bên. Tôi nói về vua Louis thứ mười sáu ở Pháp đã bị chặt đầu từ lâu rồi, và nói đến cậu con nhỏ của ông ấy, là thái tử, đáng lẽ lại trở lên làm vua, nhưng bị người ta bắt bỏ ngục, và nghe có người nói là cậu ta bị chết trong đó.

- Khổ, tội nghiệp cho cậu bé!

- Nhưng lại có người nói là cậu ta thoát chết và đã đi sang Mỹ.

- Thế thì hay! Nhưng chắc là cậu ấy cũng không có chỗ kiếm ăn nhỉ. Cậu ta định làm gì?

- Biết đâu đấy. Trong đám những ông vua ấy có người thì đi làm cảnh sát, có người thì đi dậy học tiếng Pháp.

- ồ, thế người Pháp họ không nói như chúng ta à, cậu Huck?

- Không, Jim ạ, anh mà nghe người ta nói thì anh chả hiểu câu nào đâu, một chữ cũng không hiểu.

- ồ thế thì tôi ngốc thật. Vậy làm thế nào?

- Tôi cũng chả biết. Nhưng nó thế đấy. Tôi có thấy một vài tiếng của họ trong cuốn sách. Thí dụ như có một người đến hỏi anh: "Parlez - vous francais ?" thì anh nghĩ thế nào?

- Tôi chẳng nghĩ thế nào cả. Tôi sẽ đập cho hắn một cái vào đầu, nghĩa là nếu hắn ta không phải người da trắng. Nếu là người da đen thì tôi không cho phép ai gọi tôi thế.

- Im đi, đó không phải là gọi anh đâu. Đó chỉ là hỏi anh có biết nói tiếng Pháp không?

- ừ, thế sao hắn không nói thẳng ra như vậy có được không?

- Chính hắn nói như vậy đấy chứ. Đó là cách nói của người Pháp đấy.

- ồ, thế thì thật là quái gở, kỳ cục. Mà thôi, tôi không thích nghe chuyện ắy nữa. Chẳng có nghĩa lý gì cả.

- Đây này nhé, Jim, tôi hỏi con mèo nó có nói như chúng ta không nào?

- Không, mèo nào nói thế

- à, thế còn con bò?

- Bò cũng không

- Thế con mèo có nói như con bò không? Hay con bò có nói như con mèo không?

- Không

- Vậy thì con nọ nói khác con kia là tự nhiên và đúng, có phải không?

- Cố nhiên rồi

- Và con mèo, con bò nói khác chúng ta có phải cũng là tự nhiên và đúng không?

- ồ, nhất định là như thế rồi

- à, thế thì tại sao người Pháp nói khác chúng ta tại là không đúng và không tự nhiên. Anh thử trả lời tôi xem.

- Thế con mèo có phải là người khác không, cậu Huck?

- Không

- à, thế thì con mèo không thể nói như người được. Thế con bò có phải là người không - con bò có phải là con mèo không?

- Không, chẳng con nào là con mèo cả.

- à, thế thì quái lạ thật, tại sao hắn lại không có thể nói được như người. Cậu thử trả lời tôi xem nào?

Tôi thấy ngồi nói chuyện như vậy chỉ là phí lời vô ích. Tôi không thể nào học nổi cái cách lý sự của người da đen được. Thế là tôi đành ngừng cãi thôi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,604
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15


Chúng tôi tính rằng chỉ ba đêm nữa thì sẽ tới Cairo, tức là nơi cùng tận cuối vùng Illinois, chỗ mà sông Ohio chảy vào, và chính nơi đó là nơi chúng tôi định đến. Chúng tôi sẽ đem bán cái bè đi và lên một chiếc tàu thuỷ rồi cứ thế ngược sông Ohio qua những bang tự do, như vậy không còn gì đáng lo ngại nữa.

Đến đêm thứ hai, sương mù bỗng phủ dầy đặc nên chúng tôi phải tìm đến một cái khe để buộc bè lại vì không nên cứ liều mạng đi trong sương mù. Nhưng lúc tôi đang chèo xuồng lên phía trên, đem theo một cái cần móc thì cần tìm được chỗ nào để móc mà chỉ có những đám sậy nhỏ. Tôi quất cái dây câu để nó cuộn vào một cây sậy ở bờ nước, nhưng chính chỗ này lại có một dòng nước chảy xiết đến nỗi nhổ bật cả rễ cây lên và rồi cứ thế nó trôi mãi. Sương mù càng xuống nặng, làm tôi đâm lo sợ đến nửa phút đồng hồ không cựa quậy gì được. Không có bè ở đây thì lại càng không nhìn được xa quá hai chục thước. Tôi nhảy về phía lái xuồng nắm lấy cái mái chèo và đẩy lùi ra một nhát. Nhưng xuồng vẫn không nhúc nhích đi. Thì ra tôi vội quá chưa cởi dây. Tôi đứng dậy định tháo dây ra, nhưng không bình tĩnh, hai bàn tay run lên không làm gì được.

Vừa cởi dây ra xong, tôi chèo ngay đi tìm bè, chiếc bè ấm cúng chở nặng những đồ đạc của chúng tôi ngay ở chỗ đầu khe kia. Tìm được ngay vì chỉ cách đó có dặm sáu chục thước. Chính cái lúc tôi vừa đến gần đó thì lại đâm ngay vào một màn sương mù dầy đặc hơn nữa, không sao biết lối ra; khác nào như một người đã mù hẳn rồi.

Tôi nghĩ có lẽ không chèo xuồng đi nữa, trước hết hãy cho vào gần bãi hay lên chỗ nào đã. Tôi phải ngồi im để cho xuồng trôi, và cái lúc đó mà phải ngồi im bó tay là điều rất khổ tâm. Tôi đằng hắng lên một tiếng và nghe ngóng. Xa xa phía dưới tôi nghe thấy một tiếng nhỏ vọng lại, mới hoàn hồn. Tôi lần đến gần nghe cho rõ hơn. Đến gần hơn nữa, nó lại ở phía bên trái. Rồi không nghe thấy gì nữa, tôi cũng không tìm nữa vì cứ phải quay xuồng đi bốn phía, trái lại tôi cứ hướng phía trước mặt đi lên mãi.

Lúc ấy tôi muốn rằng có người nào đó giá cứ gõ vào cái xoong và gõ đều thì mới dễ biết chỗ nào mà tìm. Nhưng lại không có ai gõ, và chính cái yên lặng giữa một vài tiếng đằng hắng như vậy càng làm cho tôi lúng túng. Tôi đi lên nữa thì bỗng tôi thấy tiếng hú ở phía sau lưng. Thôi, tôi bị bao vây thật rồi. Đó đúng là tiếng hú của người nào khác. Nhất định là tôi bị bao vây rồi.

Tôi vứt mái chèo xuống. Lại nghe thấy tiếng hú vẫn ở sau lưng, nhưng từ một nơi khác. Nó mò đến, nó đổi chỗ, tự nó trả lời, chốc chốc lại im lặng rồi lại vang lên ở trước mặt; tôi biết rằng dòng nước đã quay đầu xuồng của tôi xuống phía dưới rồi, nếu như đó là Jim chứ không phải người chở bè nào khác hú lên thì tôi yên trí. Trong đám sương mù thì chẳng còn cái nào nhìn bằng mắt hay nghe bằng tai mà lại còn tự nhiên được nữa.

Tiếng hú vẫn tiếp tục, khoảng một phút sau, tôi đâm sầm ngay vào một cái bãi có mấy cây to lù lù như ma ở đó, rồi dòng nước lại đẩy tôi sang bên trái lại đâm vào bờ nữa, giữa một đám củi mục trôi lềnh đềnh gặp phải chiếc xuồng nó dồn lại kêu răng rắc. Và dòng nước thì vẫn lặng lờ lách qua đám củi.

Lát sau, sương xuống lại càng dầy đặc. Càng im lặng. Tôi ngồi im hẳn, nghe tiếng trống ngực đập thình thình. Tôi nghĩ nếu như tim tôi đập đến tốc độ một trăm thì không thở được nữa.

Tôi đành chịu. Và tôi biết là tại sao lại đâm ra thế này. Đám bão soi này là một hòn đảo, và Jim thì đã bị trôi dạt sang phía bên kia. Chẳng có con lạch nào có thể đi sang trong khoảng mười phút được. Trên đảo này cũng có cây gỗ to như mọi hòn đảo khác; có lẽ cũng đến năm sáu dặm chiều dài và nửa dặm chiều ngang.

Tôi vẫn ngồi im, vểnh tai nghe đến mười lăm phút. Cố nhiên xuồng vẫn trôi, đến năm sáu dặm một giờ. Nhưng trong bụng thì không dám mong như thế. Có thể cảm thấy mình như nằm chết ngất trên mặt nước. Nếu như không có một cây củi nào đi qua thì không thể được rằng mình đang trôi nhanh chậm như thế nào. Nhưng cũng chỉ nín hơi, suy nghĩ và nhìn cây củi đi qua thôi. Nếu như ai chưa từng biết trong đêm khuya, một mình đám sương mù nó buồn chán và cô đơn như thế nào, thì hãy cứ thử một lần mà xem sẽ thấy.

Rồi vào khoảng một nửa giờ sau, thỉnh thoảng tôi lại lên tiếng rú gọi. Sau đó thấy có tiếng từ xa đáp lại, cố theo dõi nhưng không được, và tôi đoán là mình đã lạc vào một nơi chằng chịt nhiều khe lạch. Tôi nhìn hai bên bờ chỉ thấy tối mò. Có lúc nhìn rõ thấy từng con rạch, có lúc chỉ đoán phỏng vì nghe tiếng nước vỗ vào bờ bãi. Tôi cũng chẳng buồn hú lên gọi trong đám những còn đất lô nhô này nữa, mà chỉ lần đi một lát nữa thôi, vì thật còn khổ hơn là tìm ma trơi. Chưa bao giờ tôi lại thấy tiếng vang nó cứ quanh quẩn và nó đổi chỗ một cách nhanh chóng như vậy.

Đến bốn năm lần, tôi phải gỡ xuồng ra cho khỏi mắc vào bãi để tránh cho khỏi đâm vào những mô đá ngoài sông. Tôi đoán chắc chiếc bè cũng đâm vào bãi nhiều lần; nếu không thì nó đã đi được và có thể nghe thấy được nó ở chỗ nào. Bè vẫn trôi nhanh hơn xuồng.

Rồi, hình như tôi lại đâm ra sông nữa đây này nhưng vẫn chưa thấy tiếng hú ở đâu. Tôi đoán Jim đã đâm vào đống gỗ nào đó, và có lẽ thế đi đứt. Tôi mệt quá, nằm xuống xuồng và tự bảo thôi mặc kệ không thèm bận tâm đến nó nữa. Tôi nghĩ bụng có lẽ nên chớp mắt đi một tí.

Nhưng hoá ra không phải là chớp mắt, vì lúc tôi thức dậy thì đã có ánh sao lấp lánh trên trời, sương mù đã tan; tôi làm một giấc dài ở đằng lái. Lúc đầu tôi không biết mình đang ở đâu. Tôi tưởng mình vẫn đang mê, nhưng khi nghĩ lại dần dần thấy mình như những chuyện vừa qua đã xảy ra từ tuần lễ trước.

Chỗ này sông rộng một cách khủng khiếp, hai bên bờ toàn những cây cao . Tôi nhìn xuống phía dưới sông có một vật gì đen đen trên mặt nước. Tôi vượt đến nơi nhìn hoá ra chỉ là hai cây gỗ mục buộc vào với nhau. Rồi lại thấy một vật khác, đuổi đến nhìn cũng không phải. Rồi một lần khác nữa, và lần này đúng là cái bè của chúng tôi.

Đến tận nơi thì thấy Jim đang ngồi gục, đầu kẹp vào giữa hai đầu gối mà ngủ, còn tay phải thì gác lên mái chèo đằng lái. Mái chèo trên đã vỡ, trên mặt bè đầy những lá cây, cành cây, củi rác. Chiếc bè đã gặp một phen điêu đứng.

Tôi buộc xuồng vào bè rồi đến nằm ngay bên cạnh Jim, bắt đầu ngáp, tôi duỗi thẳng chân ra đạp vào Jim một cái, và nói:

- Này Jim, tôi ngủ phải không? Sao anh không đánh thức tôi dậy!

- Trời ơi, cậu Huck đấy ư? Chưa phải cậu đã chết à, chưa chết đuối à, cậu lại quay về đây à? May quá cậu ơi, may quá. Thật không ngờ. Để yên tôi nhìn cậu xem đã nào, để tôi sờ cậu xem đã nào. Đúng rồi, cậu chưa chết, cậu vẫn còn sống và quay về đây, đúng cậu Huck rồi, cậu Huck đây rồi. Trời ơi, may quá!

- Anh làm sao thế anh Jim. Anh đã uống rượu đấy à?

- Uống rượu? Tôi mà uống rượu? Tôi có uống rượu bao giờ?

- ờ thế thì sao anh nói lạ thế?

- Tôi nói thế nào mà lạ?

- Còn thế nào nữa. Tại sao anh nói ra toàn những chuỵên tôi hiện về với những cái gì gì ấy. Làm như tôi chết không bằng!

- Cậu Huck, Huck Finn, cậu hãy nhìn thẳng vào mắt tôi đây. Nhìn thẳng vào mắt cơ. Có phải cậu đã đi mất không?

- Đi mất? Quái nhỉ tôi chẳng hiểu anh nói thế là nghĩa thế nào? Tôi có đi đâu đâu. Mà đi đâu mới được chứ?

- Không, cậu nghe đây này. Nhất định là có chuyện gì không hay rồi. Có phải tôi là tôi không? Hay tôi là ai? Tôi ở đây hay đâu? Tôi muốn biết như thế.

- ồ, tôi nghĩ rằng anh đang ở đây, nguyên vẹn cả người, nhưng tôi cho rằng anh bị loạn óc hay làm sao đó, Jim ạ

- Tôi đang ở đây, phải không? Được, thế cậu trả lời cho tôi cái này nhé: có phải lúc trước cậu nhảy vào xuồng để đem buộc bè vào đầu khe không?

- Không, đâu có. Đầu bè nào? Tôi chẳng thấy cái khe nào cả.

- Cậu không thấy cái khe nào cả ư? Đây này, có phải cái dây bè đứt trôi xuống dòng sông, rồi để cậu ở lại một mình với chiếc xuồng trong sương mù không?

- Sương mù nào?

- Còn sương mù nào nữa. Sương mù phủ suốt cả đêm đấy thôi. Thế cậu chẳng hú gọi và tôi hú trả lời là gì đấy. Rồi đến lúc mình lạc lung tung cả ở trong cái hòn đảo này mà chẳng ai biết ai ở đâu đấy ư? Rồi tôi bị đâm vào một cái bãi rậm, loay hoay mãi suýt chết đuối! Đấy, có phải thế không? Hay là không phải? Cậu trả lời tôi đi

- Ôi, thế thì tôi chịu Jim ạ. Tôi chẳng thấy gì cả. Sương mù, rồi đảo, rồi lung tung các thứ, tôi chẳng thấy gì hết. Tôi vẫn ngồi đây nói chuyện với anh suốt cả đêm cho đến lúc anh đi ngủ cách đây mười phút, và tôi nghĩ là tôi cũng ngủ. Chắc anh uống rượu cho nên ngủ mê thế nào ấy.

- Vô lý, làm thế nào mà tôi lại ngủ mê thấy tất cả những chuyện ấy trong mười phút được?

- Thôi đừng nói nữa. Đúng là anh ngủ mê rồi, vì chẳng có chuyện gì xẩy ra cả.

- Nhưng rõ ràng tôi thấy tất cả những cái đó cơ mà, cậu Huck

- Rõ ràng hay không rõ ràng tôi không biết, nhưng chẳng có gì cả. Tôi biết là đúng như vậy, vì suốt từ lúc đó tôi vẫn ở đây.

Jim lặng im đến năm phút không nói gì, chỉ ngồi đó nghĩ ngợi, Rồi hắn nói:

- Được, hãy cứ cho rằng tôi ngủ mê đi đã, cậu Huck ạ, nhưng thật tôi thề rằng chưa bao giờ tôi ngủ mê lại ghê gớm như vậy. Và chưa có lần nào ngủ mê xong mà người lại thấy mệt như lần này.

- ồ, không hề gì, một giấc mơ bao giờ cũng làm cho người ta mệt mỏi. Nhưng cái giấc mơ này nghe nói cũng thú vị đấy; anh kể lại cho tôi nghe đi, Jim.

Thế là Jim bắt đầu kể lại suốt từ lúc đó, đúng như chuyện đã xảy ra, và Jim cũng thêm thắt vào đó khá nhiều nữa. Rồi Jim bảo phải đoán nó ra như thế này, vì đó là thánh báo ứng. Hắn nói rằng cái đầu khe thứ nhất là một người định giúp chúng tôi, nhưng dòng nước lại là một người thứ hai muốn cắt đứt chúng tôi phải xa người kia. Những tiếng hú thỉnh thoảng vẳng đến tai là những lời báo ứng đối với chúng tôi, và nếu như chúng tôi không cố gắng tìm cách hiểu cho ra thì chúng tôi có thể tránh được. Một lô những khe lạch khác là những khó khăn tỏ rằng chúng tôi sắp sửa cãi cọ với những người gây sự và tất cả những người xấu khác. Nhưng nếu chúng tôi chú ý cẩn thận đến công việc của mình, đừng có kể lại với ai đừng có làm cho nó rắc rối thêm, thì chúng tôi có thể tránh được tai vạ, thoát khỏi đám sương mù, ra ngoài sông quang đãng, và đó là những xứ tự do; rồi từ đấy sẽ không gặp tai họa gì nữa. Cái lúc tôi trở về bè thì mây đen đang kéo tới khá nhiều. nhưng đến bây giờ thì trời lại sáng sủa rồi.

Tôi nói:

- Hay lắm, anh đoán như thế cũng được đấy, Jim ạ. Nhưng mình còn để những cái này ở đâu làm gì? Tôi vừa nói vừa chỉ tay vào những đám lá cây, củi rác ở trên bè với chiếc mái chèo vỡ. Bây giờ những cái đó lại càng trông thấy rõ ràng. Jim nhìn đám củi rác, rồi nhìn tôi, rồi lại nhìn đám củi rác. Hắn ta bị cái chuyện mơ ám ảnh trong đầu qúa mạnh đến nỗi hình như không dám xua đuổi ngay nó đi để nhìn lại những sự vật chung quanh cho đúng. Nhưng rồi sau khi hắn đã nhìn kỹ một lượt những thứ đó, hắn nhìn trừng trừng vào tôi, không cười, và nói:

- Để làm gì ư? Rồi tôi nói cho cậu nghe đây này. Sau khi tôi đã mệt qúa với chuyện loay hoay ở đó rồi mà gọi cậu mãi không thấy, tôi mới đi ngủ, mà trong lòng tôi thì đau đớn vô cùng vì đã mất cậu. Tôi cũng chẳng cần biết là tôi và cái bè sẽ ra sao nữa. Lúc tôi tỉnh dậy thì thấy cậu lại trở về nguyên vẹn, tôi ứa nước mắt ra, có thể quỳ xuống mà hôn chân cậu, vì tôi vui mừng quá đỗi. Vậy mà cậu lại có thể bịa đặt ra để mà nói dối thằng Jim này. Cái đám kia là củi, là rác, và đó là những cái bẩn thỉu mà người ta nhét vào đầu óc bạn mình để làm cho bạn mình xấu hổ.

Rồi Jim lặng lẽ đứng dậy bước vào trong lều, không nói thêm một câu nào nữa. Thôi thế là đủ quá rồi. Tôi cảm thấy mình thật xấu xa đến nỗi suýt nữa tôi lại muốn cúi xuống hôn chân Jim để hắn quay lại.

Đến mười lăm phút qua tôi mới đứng dậy được, đến xin lỗi trước mặt một người da đen. Nhưng làm việc đó xong rồi không bao giờ tôi còn phải ăn năn hối hận nữa. Về sau tôi không dám chơi đùa Jim những kiểu bậy bạ như thế, và riêng về chuyện này, nếu tôi biết rằng Jim nghĩ như vậy thì tôi đã không dám đùa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,604
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16


Chúng tôi ngủ gần hết ngày, chờ đến đêm lại ra đi theo sau một cái bè lớn dài như một đám rước. Bốn góc bè có bốn mái chèo to và dài, chúng tôi đoán bè phải chở đến ba bốn chục người. Trên bè lại có năm cái lều to giữa có một cái bếp lộ thiên, rồi ở mỗi đầu bè lại có một cột cờ thật cao nữa. Trông cái bè này thật là oai. Trên những bè lớn như thế này, người chở bè hẳn là phải giá trị lắm.

Chúng tôi chèo đi và vẫn theo dòng sông tới một nơi mênh mông. Về đêm mây kéo lên cao và trời đã bắt đầu nóng rực. Sông rất rộng, và hai bờ kín đặc những cây to; nhìn rừng cây như chẳng thấy có chỗ nào ánh sáng mặt trời lọt qua được. Chúng tôi nói chuyện với nhau về Cairo, không biết đến bao giờ mới đến và trông thấy được Cairo được. Tôi bảo hình như sẽ không tới được đâu, vì tôi nghe đồn ở đó chỉ có độ hơn chục căn nhà và nếu như ban đêm họ không thắp đèn lên thì làm sao chúng tôi biết rằng mình đi qua đó được? Jim nói đến chỗ nào có hai con sông lớn gặp nhau là đúng đấy. Nhưng tôi bảo có lẽ mình đi vòng đằng đầu một hòn đảo rồi lại quay lại con sông cũ hay sao ấy. Điều đó làm cho Jim lo lắng - cả tôi nữa cũng vậy. Cho nên vấn đề là: Bây giờ làm như thế nào đây? Tôi bảo hễ cứ trông thấy ánh đèn là rẽ ngay vào bờ, nói với người ta là bố tôi đi sau với một cái tàu buôn, và vì là một người mới vào nghề nên không rõ Cairo còn bao xa nữa. Jim cho đó là một ý kiến hay. Thế là chúng tôi hút thuốc ngồi chờ.

Lúc này chẳng có việc gì làm mà chỉ chăm chú để ý tìm thị trấn cho khỏi nhỡ đi qua mà không nhìn thấy. Jim bảo chắc chắn là sẽ trông thấy, vì nếu trông thấy thì sẽ lại phải sống trong một xứ nô lệ và không thể tìm thấy tự do nữa. Bỗng lát sau, hắn nhảy lên nói:

- Kìa kìa!

Nhưng không phải. Đó chỉ là ma trơi hay đom đóm thôi. Rồi hắn lại ngồi xuống, chăm chú nhìn như trước. Jim bảo rằng khi đã đến gần xứ tự do thì thấy người hắn run lên như sốt. Còn tôi, có thể nói rằng điều đó làm tôi cũng run đến phát sốt lên khi nghe Jim nói như vậy. Vì tôi cũng đã bắt đầu cảm thấy trong đầu hắn là người tự do nhất. Và cái đó là tại ai? Tại tôi chứ ai. Trong ý thức tôi không thể hiều nổi cái đó như thế nào và vì sao? Nó làm cho tôi băn khoăn mãi mà không sao ngồi yên được, không thể đứng im một chỗ được. Trước kia có bao giờ tôi quen thuộc với ý nghĩa đó, mà bây giờ tôi đang nghĩ lại chính là cái đó. Bây giờ, nó ám ảnh tôi, bám tay tôi và càng ngày càng làm cho bứt rứt. Tôi cố tự nhủ rằng đó không phải là lỗi tại tôi, vì không phải chính tôi làm cho Jim chạy trốn khỏi tay người chủ có quyền hành đối với hắn. Nhưng tôi không làm thế nào khác hơn được, tôi luôn luôn ý thức được rằng hãy tỉnh dậy và nói: mày phải biết rằng Jim nó trốn đi là vì tự do, và mày không thể lên bờ mà nói với ai như vậy được. Thế đấy, tôi không có cách nào tránh được ý nghĩ ấy. Và chính chỗ đó là chỗ ý thức lại bảo tôi: Cô Watson có làm gì mày đâu mà mày lại thản nhiên nhìn anh da đen của cô ấy bỏ trốn và mày không hề nói một lời nào như vậy? Cái người đàn bà tội nghiệp ấy đối xử với mày thế nào mà mày lại xử tệ với người ta như thế? Người ta dạy mày học hành, dạy mày ăn ở, và đối đãi với mày tốt đủ điều. Thế cơ mà? Tôi bỗng cảm thấy mình hèn quá, xấu xa quá và chỉ muốn chết. Tôi bồn chồn đi lại trên bè, tự xỉ mắng mình; còn Jim thì cũng sốt ruột đi đi lại lại như tôi. Cả hai người, chả ai giữ được im lặng. Chốc chốc, hắn quay ngoắt người lại, nói: Cairo kia kìa! Tiếng nói như phát đạn bắn xuyên qua người tôi. Và tôi cũng nghĩ rằng nếu đó là Cairo thì có lẽ tôi sẽ chết một cách khốn khổ.

Trong lúc tôi đang tự vấn mình thì Jim cứ luôn miệng nói to. Hắn nói rằng sau khi tới một xứ tự do thì việc đầu tiên hắn làm là sẽ đi gửi tiết kiệm và sẽ không bao giờ tiêu một đồng xu nhỏ. Đến khi nào đủ tiền, hắn sẽ tậu người vợ hiện đang làm thuê cho ở một cái trại gần nơi cô Watson ở. Rồi cả hai vợ chồng sẽ làm lụng để tậu lấy hai đứa con về, nếu như chủ không chịu bán chúng nó thì sẽ nhờ một người đi cướp chúng nó về.

Tôi nghe nói thế mà lạnh toát người. Từ xưa chưa bao giờ hắn dám nói đến những chuyện ấy. Cứ thử nhìn cái phút mà hắn cảm thấy trong người sắp được tự do nó khác trước như thế nào. Thật đúng như câu phương ngôn người ta thường nói: Cho người da đen một tấc thì hắn sẽ đòi một thước. Tôi nghĩ, cái này là do tôi không suy tính trước. Đây là một người da đen mà tôi đã giúp cho hắn trốn đi, bây giờ hắn nhất quyết nói rằng sẽ đi cướp con hắn về, con của ai tôi cững chẳng biết nữa; một người da đen chưa bao giờ làm gì hại tôi cả.

Tôi rất tiếc thấy Jim nói như vậy. Thật là hèn quá. Ý thức của tôi trở lại kích thích tôi thêm sôi sục. Cho đến khi tôi trả lời ý thức của tôi rằng: Được, cứ để đấy cho tôi, bao giờ cũng chưa quá muộn. Nhìn thấy ánh đèn là tôi sẽ chèo ngay xuồng vào bờ và sẽ nói ra.

Trả lời xong, tôi thấy dễ chịu, sung sướng, nhẹ như một chiếc lông bay bổng. Bao nhiêu những cái bứt rứt đều tiêu tan cả. Tôi quay ra chăm chú nhìn ánh đèn, trong bụng thầm vui. Lát sau, có ánh sáng loé lên. Jim hét lên;

- Yên trí rồi, cậu Huck ơi, nhảy lên đi, nhảy lên đi. Đây đúng là Cairo của ta đây rồi, tôi biết lắm.

Tôi nói:

- Để tôi lấy xuống đi xem, Jim ạ. Nhưng không chắc đâu, Jim biết không?

Hắn chạy ra sửa soạn chiếc xuồng, cởi bỏ áo cũ của hắn lót xuống vào tôi ngồi, rồi đưa mái chèo cho tôi. Tôi vừa đi, hắn nói theo:

- Chẳng mấy chốc tôi sẽ được hét lên vì sung sướng, và tôi sẽ nói: Tất cả là nhờ ở cậu Huck. Tôi là người tự do, và nếu như không có Huck thì tôi không thể nào tự do; chính Huck đã tạo ra cái tự do đó cho tôi. Thằng Jim tôi sẽ không bao giờ quên cậu Huck, cậu là người bạn tốt nhất mà tôi chưa có bao giờ, và bây giờ đây, cậu là người bạn duy nhất của Jim.

Tôi chèo xuồng đi, nóng ruột muốn đem chuyện này nói ra nhưng khi nghe hắn nói những lời ấy thì hình như ruột gan tôi bị bật cả ra ngoài. Tôi chậm chạp chèo đi, và tôi không biết rằng tôi vui lòng hay không vui lòng mà đi đây. Cách xa độ dăm chục thước, Jim lại nói:

- Cậu chính thật là cậu Huck, cậu là người da trắng duy nhất đã giữ lời hứa với Jim đấy.

Tôi cảm thấy đau lòng. Nhưng tôi lại tự nhủ: phải làm việc đó, không thể đứng được. Ngay lúc đó có một chiếc thuyền chở hai người đi tới, tay cầm súng. Họ dừng lại, tôi cũng dừng lại. Một người hỏi:

- Cái gì đằng kia?

Tôi đáp

- Bè đấy

- Cái bè đó là của mày hả?

- Đúng vậy

- Có người nào trên ấy không?

- Dạ chỉ có một người thôi

- Có năm tên da đen vừa chạy trốn về phía trên kia, ở chỗ đầu sông ấy. Cái người của mày da trắng hay đen?

Tôi không trả lời ngay được. Tôi định trả lời nhưng không nói ra được. Trong một hai giây tôi lúng túng chẳng ra thế nào, không có cái gan của một con thỏ. Tôi thấy mình đã yếu mềm quá rồi. Tôi đành thôi không dám nghĩ như lúc nãy nữa và nói:

- Da trắng

- Để chúng tao tự đi xem

Tôi nói:

- Vâng, mời các ông đi xem, vì đó là bố tôi đang ở trên ấy. Và có lẽ nhờ các ông đẩy giúp cái bè lên chỗ có ánh đèn. Ông ấy ốm, cả mẹ tôi và cô Mary Anne cũng vậy.

- ồ, quỉ quái, chúng tao còn đang vội đây. Nhưng có lẽ chúng ta cũng nên giúp một tý. Mày cầm lấy mái chèo đi.

Tôi cầm mái chèo đẩy thuyền đi. Họ cũng đi. Chèo được vài ba nhát, tôi nói:

- Bố tôi sẽ cảm ơn các ông lắm đấy. Nhờ ai giúp để đẩy vào bờ họ cũng đều bỏ đi cả, mà mình tôi thì không làm nổi.

- ồ, cái đó bao giờ cũng thế. Thật là tệ. Này, chú bé, bố mày ốm thế nào?

- ờ... ờ... cũng chẳng có gì nguy lắm

Họ dừng tay. Chỉ còn một quãng ngắn nữa là đến bờ. Một người nói:

- Bé con, mày nói dối. Bố mày làm sao? Trả lời cho thật không thì đừng trách tao

- Vâng, tôi... thưa ông, tôi nói thật... nhưng xin các ông đừng bỏ chúng tôi. Vì là... vì đó là... các ông ơi, các ông đi trước đi, để tôi đi sau rồi vứt cái đầu dây cho, các ông chớ lại gần bè, xin chờ!

- Lùi thuyền lại, John, lùi lại - Một người nói. Họ chèo thuyền lui lại. Tránh xa ra, bé con - tránh sang bên đi, mau lên. Đồ con khỉ, không khéo gió lại thổi cái của ấy vào chúng tao rồi đấy. Bố mày mắc bệnh đậu mùa, chắc hắn là mày biết rồi. Sao mày không nói ngay. Mày muốn cho bệnh nó lan ra hay sao?

Tôi lắp bắp trả lời:

- Không, không ạ, lúc trước tôi đã nói với mọi người rồi, họ lảng đi, họ bỏ mặc chúng tôi.

- Khổ chưa, chắc có chuyện gì đó thôi. Chúng tao thấy mày mà thương hại quá, nhưng chúng tao... Thôi mặc kệ, khômg nói nữa chúng tao không muốn bị lây bệnh đậu mùa, nghe không? Đây này, tao bảo đừng có lên bờ, mày lên bờ thì sẽ lây bệnh lung tung cả. Hãy chèo xuồng phía dưới kia độ hai mươi dặm rồi sẽ đến một thị trấn ở bờ bên trái. Lúc đó là sáng rồi. đến khi nào nhờ người ta đoán là bệnh đậu mùa, nghe không. Thôi, bây giờ chúng tao sẽ giúp mày một việc. Mày cứ dọc theo đây xuôi thuyền xuống đó nhé, mày cũng là đứa bé ngoan đấy. Không nên lên bờ chỗ có ánh đèn kia làm gì, đấy chỉ là cái làn gỗ thôi. Này, có lẽ bố mày nghèo lắm phải không, chắc lão ta gặp nhiều chuyện rủi ro đấy. Đây này, tao để cho một đồng tiền hai mươi đô la bằng vàng trên miếng ván đây này, nó trôi đến chỗ mày thì với tay sang mà lấy. Bỏ mặc mày thì thật tệ quá, nhưng lạy chúa, tao sợ bị lây bệnh đậu mùa, mày hiểu không?

Người đó laị nói:

- Khoan đã, Packer. Này, để đồng tiền hai mười đô là lên miếng ván hộ tôi. Thôi, chào chú bé nhé, cứ làm như ông Packer đã bảo mày thì yên trí

- Đúng đấy. Thôi chào chú, chào chú. Nếu chú mày trông thấy tên da đen nào chạy trốn thì kêu người ta bắt lấy nó, như vậy sẽ được tiền đấy.

Tôi đáp:

- Vâng, chào các ông. Nếu tôi thấy tên da đen nào thì tôi sẽ không để cho nó chạy đâu.

Họ đi rồi, tôi mới trở về bè, cảm thấy mình xấu xa, hèn hạ quá, vì tôi biết rất rõ rằng mình đã làm một việc sai lầm. Tôi thấy rằng đối với tôi nếu có học làm điều gì phải thì cũng đến vô ích thôi, một người lúc bé không tập làm điều gì phải thì lớn lên cũng chẳng ra gì. Sau này gặp những lúc khó khăn thì chả có ai giúp đỡ hoặc làm cho ăn gì, lại còn có thể bị đánh đập nữa. Tôi suy nghĩ một phút, rồi tự nhủ: nếu như lúc nãy mình làm điều không phải là đưa Jim ra, thì có phải bây giờ thấy dễ thở hơn không? Nhưng tôi lại nói: Không. Nếu như thế thì mình sẽ thấy khổ tâm chứ, sẽ thấy bứt rứt như chính bây giờ mình đang bứt rứt rồi đây. Rồi tôi lại tự bảo: học làm điều phải để làm gì trong khi làm điều phải thì khổ tâm và làm điều trái thì không thấy phiền lòng gì cả. Mà lợi lộc thì có phải hai đằng cùng như nhau không? Tôi thấy bí, không trả lời được câu đó. Sau cùng tôi nghĩ chẳng tội gì mà bận tâm về chuyện ấy nữa. Tuy thế nhưng về sau nó vẫn cứ luôn luôn quanh quẩn trong đầu óc.

Tôi bước vào trong lều. Jim không có đấy. Tôi tìm quanh, không thấy. Tôi gọi:

- Jim!

- Tôi đây, cậu Huck ơi. Họ đi xa chưa? Cậu đừng nói to.

Thì ra Jim núp ở dưới sông, dưới mài chèo đằng sau lái, chỉ thò cái mũi lên trên mặt nước. Tôi bảo hắn là họ đi xa rồi, hắn mới trèo lên. Jim nói:

- Tôi nghe suốt cả câu chuyện, tôi mới luồn xuống sông và định bơi vào bờ nếu như họ lên bè. Nhưng sau thấy họ đi rồi tôi quay lại. Nhưng cậu làm thế nào mà đánh lừa được họ tài thế, hả cậu Huck? Giỏi thật đấy cậu ạ. Như thế là cậu lại cứu Jim một lần nữa. Jim không thể nào quên được cái đó đâu, cậu Huck ạ.

Rồi chứng tôi bàn với nhau về chuyện tiền. Thật là một món tiền lớn đấy chứ, những hai mươi đô la. Jim bảo bây giờ có thể lấy vé đi tàu thuỷ được, và số tiền đó đủ có thể đi đến những xứ tự do. Hắn bảo vài chục dặm thì đi bè cũng chả mấy, nhưng muốn đến nơi mau hơn nữa cơ.

Đến lúc trời tảng sáng, chúng tôi buộc bè lại và Jim đi tìm chỗ giấu rất khéo. Rồi suốt ngày hắn cú cặm cụi buộc đồ đạc thành từng bọc và sẵn sàng để rời bỏ chiếc bè.

Khoảng mười giờ đêm hôm đó, chúng tôi nhằm phía có ánh đèn thị trấn ở bờ sông bên trái. Tôi xuống xuồng chèo ra hỏi thăm. Một chốc, gặp một người đi chiếc thuyền con ra sông để mắc dây câu. Tôi đến gần hỏi:

- Ông ơi, có phải chỗ thị trấn kia là Cairo không?

- Cairo nào ở đâu. Không! Mày điên hay sao thế?

- Thế là cái gì hả ông?

- Nếu muốn biết thì đi đến đó mà hỏi. Mày mà còn ở đây quấy rầy tao chỉ nửa phút thôi thì cũng đừng có trách tao.

Tôi quay trở về bè, Jim thất vọng vô cùng, nhưng tôi bảo không sao, chỗ sắp tới có thể là Cairo rồi.

Chúng tôi lại đi qua một thị trấn khác trước khi trời sáng. Và tôi lại mò ra ngoài, nhưng chỗ này thì chỉ có núi, tôi không đi nữa. Jim bảo là ở Cairo không có núi đồi gì đâu. Tôi cũng quên đi mất. Ban ngày chúng tôi lại nghỉ ở một cái hốc ở bãi bên trên bờ sông. Tôi bắt đầu ngờ ngợ một cái gì. Jim cũng thế. Tôi nói:

- Hay có lẽ chúng mình đã đi qua Cairo trong cái đêm sương mù ấy rồi Jim.

- Đừng nói chuyện ấy nữa, cậu Huck. Những người da đen nghèo khổ chả lẽ không bao giờ gặp may mắn cả ư. Tôi vẫn nghĩ rằng cái da rắn lột lấy chưa đến lúc đó báo oan đâu đấy.

- Giá như trước kia đừng nhìn vào cái da rắn ấy có phải tốt không Jim nhỉ. Tôi nghĩ giá như đừng nhìn vào nó thì hơn.

- Cái đó không phải lỗi ở cậu đâu, cậu Huck. Vì là cậu không biết đấy chứ. Cậu đừng tự trách mình như vậy.

Trời sáng rõ. Đây đúng là nước xanh của con sông Ohio chảy vào phía trong này, và ngoài kia là bãi Muddy. Thôi thế là đi tong chuyện đi Cairo.

Chúng tôi bàn tính với nhau mãi. lên bờ bây giờ thì không nên. Đẩy bè đi ngược dòng thì cố nhiên là không đi được. Chẳng có cách nào khác, chỉ chờ đến đêm, xuống xuồng đi quay lại xem may ra có gì chăng. Thế là suốt ngày chúng tôi ngủ trong rừng rậm, để lấy lại sức. Cho đến chập tối quay ra chỗ giấu bè thì thấy chiếc xuồng đã biến mất.

Chúng tôi lặng người đi một lát, không nói. Chẳng còn biết nói gì nữa. Cả hai đứa chúng tôi đều hiểu rằng đấy là cái da rắn nó báo oán đây, vậy thì còn nói đến nó làm gì nữa. Lúc đó thật đúng như chúng tôi đã làm một cái gì tội lỗi, và nghĩ rằng sẽ còn gặp chuyện rủi ro nữa đây. Nghĩ mãi và cả hai đứa cứ lặng im hoài.

Nhưng rồi lát sau, chúng tôi lại bàn tính với nhau nên xem làm thế nào. Và không tìm được cách nào hơn là cứ phải chèo bè đi xuôi nữa cho đến lúc nào may ra tậu được chiếc xuồng đã rồi mới quay trở lại. Chúng tôi không muốn đi mượn xuồng, vì quanh đó chẳng có ái. Giá bố tôi thì đã đi mượn rồi đấy, nhưng mượn cái kiểu như thế người ta sẽ biết và đuổi theo.

Lúc trời đã tối, chúng tôi lại bò ra bè.

Những ai còn chưa tin rằng mó tay vào cái da rắn lột là một điều hết sức dại dột và sau đó cái da rắn nó sẽ báo hại như thế nào, thì bây giờ cũng sẽ phải tin, nếu như người ta thấy tình cảnh của chúng tôi lúc này.

Chỗ có thể mua xuồng được là chỉ gần nơi nào ở bờ sông có nhiều bè đóng lại ở đó. Nhưng chúng tôi không thấy chỗ nào có nhiều bè đóng lại cả, nên cứ phải tiếp tục đến hơn ba tiếng đồng hồ. Đêm đã bắt đầu ngả sang màu xám mờ mờ, và đó là dấu hiệu lại sắp có sương mù. Không thể nào nhìn rõ hơn bờ sông chỗ lồi chỗ lõm, và cũng không nhìn ra xa được nữa. Đêm đã khuya lắm và yên tính. Lúc đó bỗng có chiếc tàu thủy đang đi ngược dòng lên phía trên. Chúng tôi thắp đèn lên và nghĩ rằng chiếc tàu thuỷ sẽ trông thấy mình. Những tàu đi ngược dòng thường không bao giờ đi sát chúng tôi, họ đi cách xa tận phía ngoài và theo những chỗ nào mà dòng nước ở bên dưới không chảy xiết lắm. Nhưng vào những đêm mù như thế này thì họ cứ đi thẳng tuột.

Chúng tôi có thể nghe rõ tiếng lịch xịch nhưng không trông thấy rõ tàu thuỷ trước khi nó tới gần. Chiếc tàu như đang nhằm thẳng phía chúng tôi đi lên. Thường thường họ vẫn làm như thế để thử xem họ có thể đi sát tới mức nào mà vẫn không chậm. Có khi cái guồng tàu của họ đập gẫy mất một mái chèo của người ta rồi, lúc đó anh lái tàu lại còn thò đầu ra cười tưởng như vậy là hay lắm. Chiếc tàu thuỷ tiến đến, chúng tôi bụng bảo dạ có lẽ nó định liếm mình đây, mà hình như nó không có vẻ gì là tránh ra cả. Chiếc tàu to lắm, lại đi nhanh nữa, trông như một đám mây to đen tua tủa những guồng và có những con đom đóm ở xung quanh. Nhưng rồi bất thình lình nó quặt ra, trông lù lù khung khiếp, với một dãy cửa sáng lên trông như một hàm răng lớn đỏ chót, với những guồng những mái muốn ụp cả lên đầu chúng tôi. Có tiếng thét gọi, rồi một hồi chuông lắc vang lên để hãm máy lại, những tiếng càu nhàu chửi, tiếng máy rít, và vừa lúc Jim nhảy sang một bên, tôi cũng nhảy sang một bên, thì chiếc guồng tàu đã quật thẳng cái bè của chúng tôi vỡ tan.

Tôi lao người xuống nước và lặn sâu xuống đáy sông, vì chiếc guồng to đến tám chín thước như thế có thể đập vào đầu mình chưa biết chừng, và tôi cũng cần phải tránh cho thật xa. Tôi có thể lặn ở dưới nước đến một phút, nhưng lần này tôi tưởng là mình đã ở đáy nước đến một phút rưỡi. Rồi tôi ngoi lên mặt nước, vì đã gần nghẹt thở. Tôi đưa tay lên nhay nhay cho nước ra khỏi lỗ mũi, xì xì vài cái. Cố nhiên là ở chỗ này nước cuốn, và chiếc tàu kia chỉ sau độ mười giây là chạy máy như thường, vì có bao giờ họ thèm biết đến số phận những người đi trên thuyền bè ra sao. Lúc đó, chiếc tàu lại lạch xạch đi, rồi mất hút trong đám sương mù, mặc dầu tiếng máy vọng lại tôi vẫn còn nghe thấy.

Tôi lên tiếng gọi Jim đến hàng chục lần, nhưng không thấy trả lời. Sau tôi bám lấy một mảnh ván gần đó, rồi lấy chân đạp nước bơi vào bờ, đẩy mảnh ván đi trước. Nhưng bỗng tôi nhận ra nước cuốn về phía bờ bên trái, nghĩa là tôi đang đi ngược, nên tôi lại quay lại bơi theo dòng nước chảy. Qua sông dài đến hai dặm, xa lắcm, phải lâu lắm mới qua được. Tôi vào đến bờ sông, yên ổn, rồi trèo lên bãi. Trước mặt chỉ thấy có một con đường nhỏ, nhưng tôi cứ lò dò đi trên đám đất gồ ghề một quãng đến non nửa dặm, đi ngang một toà nhà xây kiểu cổ, có hai nếp, từ lúc nào mà không hay.

Tôi vừa định vượt lên chạy qua đó thì một đàn chó ở đâu chay ra cứ nhè tôi mà sửa ầm lên. Tôi biết là lại sắp nguy nữa rồi đây.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,604
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17


Chừng một phút sau có tiếng người trong cửa sổ mà không thấy thò đầu ra ngoài nói:

- Làm cái gì thế? Ai đấy?

Tôi trả lời:

- Cháu đây

- Cháu là ai?

- Thưa ông, cháu là George Jackson

- Muốn gì?

- Cháu chẳng muốn gì cả, ông ạ. Cháu chỉ muốn đi qua, nhưng mấy con chó này không để cháu đi.

- Đêm hôm thế này, mò mẫm ở đây làm gì thế?

- Thưa ông, cháu không có mò mẫm gì đâu. Cháu ở trên tàu thủy vừa bị ngã xuống sông đây mà.

- Ô, thật thế ư? Có ai thắp cái đèn lên tí nào. Anh bảo tên anh là gì nhỉ?

- George Jackson, ông ạ. Cháu chỉ là một cậu bé thôi.

- Này, cứ nói thật đi, không việc gì mà sợ. Không ai đánh đâu. Nhưng mà đừng có nhúc nhích. ở đâu đứng yên đấy. Bod, Tom, có đứa nào dậy đem cái súng ra đây. George Jackson có ai đi cùng với mày nữa không?

- Không ạ, không có ai cả

Tôi nghe tiếng người lục sục trong nhà, rồi thấy có ánh sáng bật lên. Tiếng người khi nãy nói:

- Cho lui cái đèn ra xa kia, Betsy, sao mà ngốc thế, không biết gì cả. Để cái đèn ở trên sàn, ngay sau cửa ra vào ấy. Bod, Tom chúng mày đã sẵn sàng cả chưa, ngồi vào chỗ.

- Sẵn sàng cả

- Nào, George Jackson, mày có biết họ nhà Shepherdsons không?

- Không, ông ạ, tôi chẳng nghe nói đến cái tên đó bao giờ

- Được, có thể là mày chưa nghe nói đến, cũng có thể là nghe nói đến rồi. Thôi được, sẵn sàng cả rồi đấy. Bước lên, George Jackson. Coi chừng, không được hấp tấp, bước thật chậm. Nếu có ai đi cùng với mày thì phải để nó đứng lại, nó mà bước lên sẽ bị hắn chết. Nào tiến lên, chậm chứ. Tự tay đẩy cánh cửa ra, vừa để lách vào thôi, nghe không?

Tôi không hấp tấp bước lên, mà có muốn cũng không được. Mỗi lần chỉ bước vào một bước chậm và không có tiếng đông nào, chỉ nghe thấy tim tôi đập. Lũ chó cũng im lặng như bọn người, chúng nó theo sau cách tôi một tí. Bước đến bực cửa, tôi nghe tiếng mở khoá, nhấc cái thang chắn cửa ra và rút then cài. Tôi đặt tay lên cửa, nhẹ đẩy một tí, một tí một. Rồi có tiếng nói:

- Thế thôi, được rồi, thò đầu vào. Tôi đưa đầu vào, nhưng trong bụng vẫn lo, sợ họ chặt mất đầu.

Ngọn nến để trên sàn nhà, và họ đã đứng cả quanh đó. Họ nhìn tôi, tôi cũng nhìn họ đến gần nửa phút: ba người to lớn cầm súng trong tay lăm lăm chĩa vào tôi, làm tôi rợn cả người, thật đấy. Người nhiều tuổi nhất, tóc đã hơi bạc, chạc độ sáu mươ; người thứ hai quãng ba mươi hay hơn, cả hai đều trông đẹp, chững chạc. Và một người đàn bà đứng tuổi, tóc hoa râm, khuôn mặt nhỏ nhắn. Đứng sau người đàn bà là hai thiếu phụ còn trẻ mà tôi nhìn không được rõ lắm. Người đàn ông cao tuổi nói:

- Thế, được rồi. Bước vào đi

Tôi vừa bước vào thì người đó đã khoá tịt ngay cửa lại, cài then chặn cả thang ngang, rồi bảo người đàn ông trẻ mang súng đến. Cả bọn bước vào phòng bên có trải một cái thảm mới, rồi chụm lại một góc gần cửa sổ thông ra đường, không còn ai đứng lại đó nữa. Rồi họ cầm cây nên lên, nhìn tôi thậy kỹ và nói:

- ồ, nó không phải là Shepherdsons. Nó chẳng có vẻ gì là Shepherdsons cả.

Rồi người nhiều tuổi bảo tôi đừng ngại để cho họ lục soát xem có vũ khí gì không đã - vì không phải là có ý gì hại tôi đâu, mà chỉ là để cho chắc chắn đó thôi. Lão ta không thọc tay vào túi tôi mà chỉ lần lần ở bên ngoài thôi, rồi bảo: được rồi. Lão bảo tôi bây giờ cứ tự nhiên như ở nhà, với lại nói đủ các thứ về tôi nữa. Nhưng người đàn bà đứng tuổi nói:

- Chết chửa, này ông Saul, thằng bé ướt đẫm cả người thế này. Mà có lẽ nó cũng còn đói nữa chứ?

- ừ, phải đấy, Rachel ạ, tôi quên mất.

Người đàn bà nói:

- Betsy (đây là một người đàn bà da đen), chạy đi kiếm cái gì cho nó ăn, khổ tội nghiệp cậu bé, còn một cô đi gọi Buck dậy, bảo nó, à thôi, nó đây rồi. Buck, đem cậu bé này đi cởi quần áo ướt ra và lấy đồ nào khô của mày ra mặc vào cho nó.

Trông Buck cũng trạc tuổi tôi, mười ba hay mười bốn gì đó, tuy hắn hơi to lớn hơn tôi một chút. Nó chỉ mặc mỗi cái áo sơ mi, và đầu tóc thì rất bẩn. Nó bước đến. miệng ngáp và lấy ngón tay dụi mắt, còn tay kia kéo lê khẩu súng. Nó hỏi:

- Không có bọn Shepherdsons ngoài đó chứ?

Cả đám người nói:

- Không, báo động giả đấy thôi

Nó nói:

- Tưởng nếu có bọn ấy thì tôi đã vớ được một đứa

Cả bọn cười. Bod nói:

- Này, Buck, nhưng mà mày đến chậm quá, có thểe chúng nó chụp hết cả bọn mình đấy.

- Sau tối không còn ai nữa ư? Như thế không được. Bao giờ tôi cũng bị tụt lại thế này, chả được thấy gì cả.

Yên trí, Buck con ơi - Lão kia nói. Rồi mày sẽ tha hồ, đừng lo. Thôi cứ đi đi, làm theo mẹ mày bảo đi đã

Chúng tôi lên gác, vào buồng với thằng Buck, nó đưa quần áo cho tôi mặc vào. Mặc xong, nó hỏi tên tôi là gì, tôi chưa nói thì nó đã chỉ cho tôi xem một con sáo sậu với một con thỏ nó vừa mới bắt được trong rừng hôm kia, rồi nói hỏi tôi rằng cái lúc tắt nến thì Moses ở đâu.

Tôi bảo tôi không biết và cũng chưa nghe nói cái đó bao giờ. Nó bảo:

- Thế mày thử đoán xem

Tôi trả lời:

- Tao làm thế nào mà đoán được, vì tao đã nghe nói bao giờ đâu

- Nhưng mày có thể đoán được chứ, dễ lắm

Tôi hỏi:

- Cây nến nào? Tao không biết nó ở đâu cả. ở đâu?

- Ô hay, trong chỗ tôi ấy chứ ở đâu

- à, nếu mày biết là ở đâu rồi thì còn phải hỏi tao làm gì nữa?

- Mẹ kiếp, đó là một câu đố, mày không thấy à? Này, mày định ở lại đây bao lâu? Mày phải ở đây mãi nhé. Chúng mình tha hồ đi săn bắn, bây giờ không phải đi học nữa. Mày có con chó nào không? Tao có một con chó, đưa nó ra ngoài sông, nếu tao ném cái gì ra sông thì nó sẽ bơi ra nhặt về được. Mày có thích đi sục sạo ngày chủ nhật không? Và chạy lung tung chơi các thứ như vậy không? Chắc mày không thích hả, nhưng tao thích lắm. Mày mặc luôn cả những cái này vào nữa đi. Có lẽ tao cũng mặc thêm vào nữa. Nhưng thôi, nóng quá. Xong chưa? Được rồi, thôi đi đi ông bạn.

Bánh mì nguội, thịt bò cũng nguội. Rồi bơ, bánh sữa. Họ đã chuẩn bị sẵn cho tôi những thứ đó. Và như vậy còn tốt hơn những cái tôi đã được ăn từ trước đến nay nhiều lắm. Buck, và mẹ nó, và cả nhà đều hút thuốc bằng những cái tẩu con, trừ có người đàn bà da đen lúc nãy với hai thiếu phụ. Cả nhà vừa hút vừa nói chuyện. Tôi cũng vừa ăn vừa nói. Hai thiếu phụ ngồi giữa đống cuộn sợi, tóc xoã xuống sau lưng. Người nào cũng hỏi chuyện tôi. Tôi kể lại nào là bố tôi với gia đình sống ở một cái trang trại nhỏ ở tít đằng cuối vùng Arkansaw. Chị tôi là Mary Ann bỏ đi lấy chồng và không biết tin tức gì nữa. Rồi Bill lại đi tìm hai vợ chồng chị tôi cũng không tin gì về. Còn Tom và Mort thì chết rồi; về sau cả nhà chỉ còn có bố tôi với tôi, mà bố tôi thì rồi khó khăn sa sút chẳng còn gì; vì thế sau khi bố tôi chết, tôi nhặt nhạnh mấy thứ để lại mà đi. Vì cái trại đó không phải là của nhà chúng tôi nên mới bỏ ra ngoài sông đáp tàu thuỷ, chẳng may thế nào đi đường tôi bị rớt xuống sông thành ra mới mò tới đây. Họ bảo tôi cứ coi đây như ở nhà và muốn ở lại đến bao giờ cũng được. Lúc đó đã gần sáng, mọi người đi ngủ cả, tôi cũng đi ngủ với Buck, lúc tỉnh dậy đã muộn, và tôi quên khuấy đi mất tên mình là gì, thế có chết không chứ. Tôi nằm đó đến một giờ đồng hồ, cố nghĩ lại xem. Lúc Buck thức dậy tôi hỏi:

- Buck, mày có đánh vần được không?

- Được, nó đáp

- Tao chắc mày không đánh vần nổi tên tao đâu, tôi nói thế. Nó trả lời:

- Tao bảo cái gì mày dám làm thì tao cũng làm được

- ừ, thế mày thử đánh vần đi tao xem nào

- G-e-o-r-g-e. J-a-c-k-s-o-n, đó mày xem

- Khá lắm, đúng đấy. Tao cứ tưởng mày không đánh vần được. Cái tên ấy cũng không đến nỗi lủng củng khó đánh vần cho lắm, có thể đọc được ngay không cần phải nghĩ ngợi.

Tôi nhớ kỹ trong bụng, để nhỡ chốc nữa có ai bảo tôi đánh vần thì tôi cũng có thể nói ngay được nhanh chóng, ra vẻ như tôi đã quen với tên mình lắm.

Đây là một gia đình khá tốt bụng. Và cái nhà này cũng hết sức là xinh xắn nữa. Tôi chưa thấy cái nhà nào ở vùng này xinh đẹp và kiểu cách như nhà này. Trên cửa ra vào không có chốt bằng sắt hay bằng gỗ buộc vào miếng dây da hoẵng, nhưng lại có cái núm bằng đồng để quay, uy nghi như những nhà ở thành phố. Trong phòng khách không kể giường ngủ cũng không để cái gì khác làm giường cả. Có rất nhiều phòng như thế ở ngoài tỉnh họ kê giường cả. Có một cái lò sưởi to, ở dưới lót gạch, và gạch ở chung quanh rất sạch sẽ, đỏ chót, vì là họ đổ nước lên đó rồi lấy gạch khác kỳ cọ đi. Có khi người ta lại sơn lên một nước sơn đỏ, thường gọi là màu nâu Tây Ban Nha, y như những căn nhà ngoài thành phố. Có những con chó to bằng đồng có thể đội được cả cột nhà. ở giữa bẹ lò sưởi có một cái đồng hồ, một bức tranh phong cảnh thành phố vẽ vào một nửa dưới miếng kính, rồi một cái khoang tròn ở giữa để làm mặt trời, sau miếng kính đồng hồ ấy có thể trông thấy quả lắc đưa đi đưa lại. Nghe cái đồng hồ đánh chuông hay lắm, thỉnh thoảng, một anh chàng lái rong nào đi ngang qua, vào lau chùi nó và điều chỉnh nó cho đúng chỗ tức thì nó đánh liền hồi một trăm năm mười tiếng cho tới khi được tháo ra. Chủ nhà chả dễ gì bán nó với bất cứ một cái giá nào đâu.

Rồi hai bên đồng hồ lại có con vẹt trông rất lạ. làm bằng một thứ gì như phấn son, sơn màu sặc sỡ.

Cạnh con vẹt bên này có một con mèo bằng sứ, còn bên kia có con chó bằng sứ; mỗi khi ấn vào đầu nó một cái thì nó kêu oé lên một tiếng, nhưng lại không há miệng ra, mà cũng chẳng tỏ ra tức giận hay vui mừng gì cả. Nó kêu ở dưới đít. Vì có hai cái quạt làm bằng lông cánh con gà rừng lắp ở phía sau. Trên bàn để giữa phòng có một cái âu bằng sứ trông thấy rất đẹp, chất đầy những táo, cam, đào, nho, trông đỏ đỏ vàng vàng và đẹp hơn những quả thường; nhưng đó không phải hoa quả thật và có thể trông thấy những chỗ đã bong lần vỏ ngoài trơ cả đất trắng ở trong ra.

Trên mặt bàn phủ một chiếc khăn trải bàn bằng vải dầu, rất đẹp, ở giữa khăn vẽ con chim ưng xanh đỏ, chung quanh sơn một đường viền. Họ bảo là chiếc khăn đó mang từ Philadelphia về. Cũng có một ít sách nữa, xếp cẩn thận ở mấy góc bàn. Một quyển là cuốn kinh thánh trong vẽ rất nhiều tranh ảnh. Một quyển là cuốn Những bước đường của Pilgrim nói về một người bỏ nhà đi mà không nói tại sao. Thỉnh thoảng tôi vẫn đọc cái truyện này. Những lời nói trong đó khá hay, nhưng phải cái hơi cục cằn. Một quyển khác là cuốn Hy sinh vì bạn, trong đó có rất nhiều truyện hay, thơ hay, nhưng tôi không đọc thơ. Một cuốn là Những bài diễn văn của Henry Clay, rồi một cuốn nữa là Y học trong gia đình của bác sĩ Gunn, trong đó nói về tất cả những gì ta phải làm khi trong nhà có người ốm đau hoặc chết. Rồi lại có một quyển sách về những bài hát mừng Thánh, và một lô những sách khác nữa. Lại có những chiếc ghế con rất xinh, chân đóng xoãi ra, nhưng ngồi rất vững, ở giữa mặt ghế không trũng mà cũng không sổ tụt như một cái rỗ cũ.

Họ có cả tranh treo trên tường - nhất là tranh vẽ Washingtons là Lafayettes vẽ những trận đánh nhau, vẽ cao nguyên Mary, và một bức tranh gọi là Ký bản Tuyên ngôn. Có một số bức tranh mà gọi họ là ký hoạ, trong đó vẽ hình một trong những người con gái ở gia đình này đã chết rồi, đó là cô ta tự vẽ hồi mới mười lăm tuổi. Những tranh này khác với mọi bức tranh mà trước đây tôi vẫn thường thấy - nó phần nhiều là đen hơn tranh thường. Một cái vẽ người đàn bà mặc áo đen mỏng, thắt nhỏ dưới cánh tay, với những miếng xoè ra như bắp cải ở giữa cổ tay áo, với một cái mũ chụp lên đầu có mảnh voan đen xoà xuống, với hai cổ chân trắng chung quanh quấn dây đen, đeo đôi giầy đen chỉ nhỏ bằng những lưỡi dao trổ; người đàn bà trong tranh cúi xuống buồn bã, bên một cái bia mộ ở phía bên phải, dưới một cây liễu rũ, còn tay kia thì cầm chiếc khăn trắng với một cái giỏ đan; dưới bức tranh viết rằng: Hỡi ơi, em không bao giờ còn được thấy anh nữa!. Còn một bức tranh khác thì vẽ người đàn bà trẻ tuổi, có bao nhiêu tóc chải ngược hết cả trên đỉnh đầu, rồi thắt nút ở đằng trước bằng một cái lược trông như cái lưng ghế dựa, bà ta đang khóc, mặt úp vào chiếc khăn, lại có một con chim chết nằm ngửa trên tay kia, hai chân ngổng ngược, rồi ở dưới tranh thì viết: Hỡi ơi, ta sẽ không bao giờ còn được nghe mi hót nữa! Rồi lại có một bức tranh khác vẽ một người đàn bà trẻ tuổi ngồi bên cửa sổ nhìn trăng, nước mắt chảy ròng ròng xuống má: một tay cầm bức thư mở sẵn, có dấu triện đen ở một bên bức thư, đưa chiếc khung ảnh nhỏ có một sợi dây lên miệng cắn; dưới tranh thì để là: Có phải anh ra đi chăng, hỡi anh, anh ơi rồi! Những bức tranh ấy đều đẹp cả, tôi chắc thế, nhưng hình như tôi không thích lắm. Vì hễ cứ lúc nào tôi buồn thì nó lại làm cho tôi thấy nặng nề thêm. Ai cũng lấy làm tiếc rằng cô ta chết, vì cô đang còn định vẽ rất nhiều những bức tranh như thế. Ai cũng thấy rằng cô ta đã được những gì mà mọi người mất những gì. Nhưng tôi nghĩ rằng với cái tính tình của cô ấy như thế thì cũng nên ra nghĩa địa mà nghỉ ngơi thì hơn. Khi cô ấy sắp chết, cô chỉ cầu nguyện làm sao cho cô ấy được sống đến khi nào vẽ xong bức tranh ấy thôi, thế nhưng cô ấy vẫn không sống được. Đó là bức tranh vẽ một người thiếu phụ mặc chiếc áo dài trắng, đứng bên thành cầu, sắp sửa nhảy xuống sông, tóc xoã xuống sau lưng, mặt ngước lên nhìn trăng, nước mắt tràn trề, hai tay khoanh trước ngực, lại có hai cánh tay khác giơ ra đằng trước mặt, rồi lại có hai tay khác nữa với lên gần mặt trăng - ý ở đây là để xem đôi tay nào tốt hơn thì lấy, còn những tay khác thì sẽ xoá đó. Nhưng mà như tôi đã nói ở trên, cô ấy chết trước khi có ý định dứt khoát; và bây giờ họ vẫn giữ bức tranh ấy treo trên đầu giường trong buồng cô ấy. Cứ mỗi lần đến ngày sinh nhật cô ấy thì họ lại kết hoa lên bức tranh ấy. Hồi trước còn có một cái màn phủ lên trên. Người thiếu phụ trong tranh có khuôn mặt nhỏ và xinh, nhưng vì có nhiều tay quá thành ra trông như một con nhện, tôi thấy như vậy đấy.

Người con gái này khi còn sống có một quyển sổ tay trong đó để những chiếc lá ép, và hay chép lại những câu chuyện hoặc tâm sự của người ốm, lấy ở trong tờ tạp chí Presbyterian Observer, rồi làm xuống dưới đó những bài thơ cảm hứng được tự cô ấy nghĩ ra. Thơ cũng hay đáo để. Dưới đây là bài thơ của cô ấy viết về một cậu bé tên là Stephen Dowling Bost bị ngã xuống giếng chết:

bài thơ viếng Stephen Dowling Bost đã chết.

Có phải em Stephen ốm.

Có phải em Stephen chết?

Có phải những trái tim buồn thêm nặng

Có phải những người đưa em khóc?

Không, đâu phải là số mệnh.

Của em Stephen Dowling Bost.

Dù những trái tim quanh em có nặng

Cũng không phải vì đau ốm đâu em.

Chẳng tiếng nức nở nào hàn gắn được hình em.

Chẳng có gì xoá nổi vết đau.

Cũng chẳng gì bù đắp lại tên em.

Hỡi Stephen Dowling Bost.

Mặc cho đớn đau, không phá nổi tình yêu.

Mái đầu còn nguyên mớ tóc.

Mặc cho ruột gan đau khiến em ngã xuông.

Em vẫn là Stephen Dowling Bost.

Ôi, không! Hãy nhìn bằng đôi mắt đẫm lệ.

Khi ta nghe kể chuyện về số phận em.

Hồn bay lên trên thế giới lạnh lùng.

Khi em sa chân xuống giếng.

Vớt em lên và dốc nước trong người.

Nhưng tôi thôi đã quá muộn rồi.

Hồn em đã bay về nơi nào chẳng thấy.

ở nơi nào, tốt lành, vĩ đại?

Nếu như cô Emmeline Grangerford có thể làm được những bài thơ như thế này từ lúc mới mười bốn tuổi thì không biết rồi về sau sẽ còn làm được những gì nữa. Thằng Buck nói rằng cô ấy có thể nguệch ngoạc ra một bài thơ dễ dàng như chơi. Chẳng lúc nào là cô ta không suy nghĩ. Nó bảo cô ấy hạ xuống một dòng, rồi nếu không tìm ra câu nào nữa cho hợp vần với câu nào nữa cho hợp vần với câu trên là xoá đi ngay và lập tức thả xuống một câu khác, ròi cứ thể mãi. Cô ấy phải thích riêng một cái gì, có thể viết bất cứ cái gì mình chọn mà bảo cô ta viết cũng được. Nhưng phải là thơ buồn. Mỗi lần có một người nào chết, đàn ông hay đàn bà, hay trẻ con là cô ấy viết ngay được một cái gì để viếng người chết đó trước khi cái xác lạnh ngắt. Cô ấy gọi đó là những lời ca ngợi. Hàng xóm láng giếng họ nói rằng cứ theo trật tự thì trước hết là bác sĩ, rồi đến Emmeline, mà chỉ đến cùng một lúc. Rồi cô ấy sôi nổi đưa ra một vần thơ ứng vào tên người chết, gọi là Whistler. Rồi về sau này, cô ấy thay đổi tính nết dần dần, chẳng bao giờ kêu ca, nhưng người thì cứ gầy mòn và không sống được nữa. Tội nghiệp quá, nhiều lần tôi đi, lên căn buồng còn trước kia cô ấy thường làm việc, lấy cuốn sổ tay trong đó ra xem, nhìn những bức tranh cô ấy vẽ, làm tôi cũng đâm ra buồn bã và thấy thương thương cô ấy. Tôi yêu mến cả gia đình này, cả người chết nữa, tất cả, và tôi không để xảy ra chuỵên gì. Khổ thay cho cô Emmeline khi cô còn sống làm thơ về những người chết đi thì chẳng có một ai làm bài thơ nào về cô cả. Vì thế, tôi cũng cố bóp trán nghĩ một vài câu, nhưng chẳng thế nào nghĩ ra được. Cái gia đình này gìn giữ buồng cô Emmeline rất sạch sẽ, gọn gàng, và mọi vật đều để nguyên như ý thích của cô khi còn sống và cũng không có ai đến ngủ ở đó cả. Bà mẹ cô tự mình quét dọn chăm sóc căn buồng này, mặc dầu trong nhà có nhiều người da đen hầu hạ. Bà ấy vào trong buồng này ngồi khâu và phần nhiều hay đọc kinh ở đây.

À quên, tôi đang nói chuyện về cái phòng khách. Ở đây có nhiều cửa sổ, màn cửa trắng, có hình vẽ những toà lâu đài cổ, giàn nho ở quanh tường với những đàn bò, đàn ngựa đang uống nước. Có một chiếc đàn dương cầm nhỏ đã cũ, mà trong đó tôi chắc có cả xoong chảo. Mối khi nghe các cô trong nhà hát bài Những dây liên hệ cuối cùng đã đứt hay chơi bài Trận giao chiến ở Prague thì thật là không có gì hay cho bằng. Tường chung quanh các phòng đều đắp thạch cao, hầu hết phòng nào cũng có trải thảm trên sàn nhà. Và toàn bộ cái nhà này đều quét vôi bên ngoài.

Đó là một căn nhà hai bếp. Khoảng trống giữa hai bếp nhà có mái che và lát gỗ cẩn thận. Đôi khi giữa trưa đem kê một chiếc bàn ở đó ngồi rất mát mẻ, rất thú vị. Chẳng có gì hơn thế được nữa. Và nếu trong những bữa ăn ngon nữa thì thật tuyệt, không còn gì bằng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,604
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18


Đại tá Grangerford là một người thượng lưu như các bạn đã thấy. Ông là một người thượng lưu về mọi mặt: cả gia đình ông cũng vậy. Ông ta xuất thân ở nơi danh môn như người ta thường nói, và cái đó đối với một con người cũng giá trị như đối với một con ngựa; như bà goá Douglas vẫn nói thế, và không ai có thể chối cãi được rằng chính bà là quý phái hàng đầu ở tỉnh. Chính bố tôi cũng vẫn nói thế nữa, mặc dầu bố tôi cũng chẳng có giá trị gì hơn một con mèo hoang. Đại tá Grangerford cao lớn nhưng mảnh khảnh. có một nước da ngăm ngăm lại nhờn nhợt, cả khuôn mặt không có chỗ nào hồng hào. Sáng nào ông cũng cạo râu nhẵn nhụi khắp cả bộ mặt gầy guộc của ông. Ông có một đôi môi vào loại mỏng nhất, hai lỗ mũi vào loại nhỏ nhất, mũi gồ cao, lông mày rậm, đôi mắt vào loại đen nhất, lõm sâu đến nỗi tưởng như đôi mắt ắy từ trong hang thăm thẳm mà nhìn xoáy vào ta vậy. Trán ông cao, tóc hoa râm, thẳng và xoã xuống tận hai vai. Hai bàn tay vừa mỏng, vừa dài. Trong đời ông, mỗi ngày ông thay một chiếc áo lót và thắng vào một bộ quần áo, suốt từ đầu đến chân toàn bằng nỉ trắng, nhìn mà chói cả mắt. Rồi những ngày chủ nhật, ông mặc thêm một chiếc áo khoác ngoài có đuôi màu xanh có khuy đồng. Tay ông cầm một chiếc can bằng gỗ đào, đầu cán bịt bạc. Không hề bao giờ ông tỏ ra vô tâm, và cũng không bao giờ tỏ ra nóng nẩy giận dữ với ai. Ông luôn luôn đối xử tốt với mọi người, nên ai cũng tin tưởng ông. Thỉnh thoảng ông mỉm cười, trông thật dễ thương. Nhưng coi chừng nhé, khi nào ông đứng thẳng người lên như pho tượng thần tự do, và từ dưới đôi lông mày bắt đầu có ánh sáng long lanh phát ra, bạn hãy leo lên cây trốn đi nhé. Ông ấy không cần phải bảo ban hoặc coi chừng người ăn kẻ ở - thế mà ông ấy đi đến chỗ nào là ai nấy đều tỏ ra ngoan ngoãn cả. Mọi người thích ở gần ông- ông như ánh sáng mặt trời toả sáng và ấm áp - nghĩa là tôi muốn nói rằng ông như tiết trời tốt ấy. Khi mặt trời đi vào đám mây thì tối sầm đến nửa phút, và chỉ thế thôi. Rồi chừng đến một tuần lễ sau vẫn chẳng có chuyện gì xẩy ra cả.

Buổi sáng, khi ông cùng phu nhân bước xuống nhà thì mọi người đứng lên chào hỏi. Ông bà chưa xuống thì cả nhà cũng chưa ai dám ngồi. Rồi Tom và Bod đi ra tủ rượu, pha lẫn mấy thứ rượu vào với nhau đem đến đưa cho ông. Ông cầm lên tay, chờ Tom và Bob đã rót cả mọi thứ xong xuôi và cả hai đứa đã cúi xuống nói: Xin mời cha mẹ rồi lại chào đủ mọi thứ kiểu trên đời, rồi lại nói cảm tạ nữa, tất cả mới cùng nhau uống. Sau đó, Tom và Bob đổ một thìa nước vào đường, cho một tý đường vào uýt sky hay rượu Brandy vào đáy cốc, đưa cho tôi và Buck, rồi lại đến lượt chúng tôi cùng uống chúc mừng hai ông bà ấy nữa.

Bob là con lớn nhất. Rồi đến Tom, cả hai đều cao lớn, đẹp trai, vai rộng, mặt ngâm đen, tóc đen và dài, mắt cũng đen nữa. Hai người đều mặc đồ nỉ trắng, cũng suốt từ đầu đến chân như người cha thượng lưu kia và đội mũ cói rộng vành.

Rồi đến lượt cô Charlotte. Cô hai mươi lăm tuổi, cao lớn, vẻ mặt hãnh diện, khi nào cô không nổi nóng lên thì cũng ráng cố gắng tỏ ra tốt bụng. Nhưng lúc cô ấy nổi nóng lên thì vẫn có thể làm cho bạn phải rung đôi cẳng, chẳng khác nào ông bố cô cả. Cô ấy khá đẹp.

Còn cô em, Sophia, thì lại khác hẳn chị. Cô rất hiền hậu, dễ thương như một con chim bồ câu. Cô mới hai mươi tuổi. Mỗi người trong nhà đều có riêng một người da đen hầu hạ. Cả thằng Buck cũng có. Người da đen họ dành cho tôi thì tha hồ rỗi việc,vì tôi không bao giờ muốn ai làm hộ tôi cái gì cả. Còn thằng Buck thì lúc nào cũng sai bảo, gắt nhặng cả lên.

Đó là tất cả những người có mặt trong gia đình. Đáng lẽ còn nhiều hơn nữa, nhưng ba người con trai lớn đã bị giết cả, với cô Emmeline cũng đã chết rồi.

Ông già thượng lưu này có mấy cái trang trại với hơn một trăm người da đen làm việc. Thỉnh thoảng có một đám người đến thăm, họ đi ngựa từ một nơi cách đây hơn mươi mười lăm dặm. Họ ở lại năm sáu ngày, ăn uống lu bù ở trên sông hay quanh nhà, nhảy nhót, nô đùa trong rừng lúc ban ngày. Rồi đến đêm họ vào trong nhà lại tiếp tục nhảy. Những người này phần lớn là họ hàng của gia đình. Họ mang theo cả súng. Mà phải nói rằng đây toàn là súng hạng tốt và đẹp cả.

Có một dòng họ quý phái khác ở gần đấy, độ năm sáu gia đình phần lớn mang tên họ Shepherdsons. Họ cũng tiếng tăm, cũng thuộc hàng danh môn, giàu có, to lớn như họ nhà Grangerford đều dùng chung một cái bến tàu thủy ở cách nhà chúng tôi chừng hai dặm. Thỉnh thoảng tôi vẫn ra đó cùng với mấy người của nhà này, thường thấy có một đám người nhà Shepherdsons cưỡi những con ngựa rất đẹp qua đó.

Một hôm Buck và tôi vào rừng săn bắn, chợt nghe thấy tiếng ngựa chạy tới. Chúng tôi đang qua đường Buck nói:

- Mau lên nhảy vào rừng!

Chúng tôi nhảy vào rừng, nấp trong bụi nhìn qua kẽ lá ra ngoài. Lát sau có một chàng trai trẻ đẹp đang phi ngựa về hướng chúng tôi đang núp, ngồi trên ngựa vững vàng như một tay kị bình. Hắn ta có một cây súng đeo trên phía trước yên ngựa. Tôi đã gặp hắn một lần rồi. Đó là Harney Shepherdsons. Bỗng một tiếng súng của Buck nổ tạt qua mang tai tôi, và chiếc mũ đội trên đầu của Harney bật tung lên. Hắn vội cầm lấy súng rồi lao thẳng ngựa đến chỗ có tiếng nổ. Nhưng chúng tôi không đợi. Chúng tôi nhảy vọt qua rừng chạy biến đi. Rừng không rậm rạp lắm, nên tôi có thể vừa chạy vừa ngoái cổ lại nhìn để tránh đạn. Hai lần thấy Harney nhằm miệng súng vào Buck nhưng rồi hắn lại không trông thấy. Chúng tôi chạy một mạch về đến tận nhà. Ông già thượng lưu nhìn chúng tôi, đôi mắt sáng lên một chút, ý chừng là ông ấy vui lòng, tôi đoán thế. Nhưng rồi mặt ông lại ỉu xuống, và nói với một giọng nhẹ nhàng:

- Tao không thích cái lối từ trong bụi rậm bắn ra như vậy. Tại sao mày không đứng giữa đường cái mà bắn?

-Bọn Shepherdsons cũng thế, bố ạ. Bao giờ chúng nó cũng tìm chỗ có lợi thế hơn.

Cô Charlotte nghe Buck kể lại chuyện ấy, ngửng cao đầu lên như một bà hoàng, lỗ mũi nở ra và đôi mắt nhấp nháy. Hai người con trai thì nét mặt sa sầm nhưng không nói gì. Cô Sophia thì tái mặt đi, nhưng rồi khi nghe nói người kia không bị trúng đạn, cô lại trở lại như thường.

Lát sau, tôi kéo Buck đi xuống nhà xay lúa, ngồi dưới bóng cây nói chuyện riêng. Tôi hỏi:

- Lúc đó mày định giết nó thật à. Buck ?

- Tao định thật chứ

- Thế nó làm gì mày?

- Nó ấy à? Nó chẳng làm gì tao bao giờ đâu

- ờ, thế mày định giết nó làm gì chứ?

- Đồn điền là cái gì?

- Ô hay, mày sinh trưởng ở đâu mà không biết đồn điền là cái gì ư?

- Tao chả nghe thấy bao giờ cả. Mày thử nói tao nghe nào

Buck nói - Thế này này, đồn điền là như thế này: Một người có xung đột với một người khác, rồi giết đi. Rồi anh em người bị giết người này. Rồi anh em người này lại giết người kia. Cả hai bên đều cứ giết nhau như thế mãi. Sau rồi đến anh em họ lại cũng dính vào đó nữa, rồi dần dần ai cũng bị giết cả, thế là không còn đồn điền nữa. Nhưng đó là cả một chuyện lâu dài cơ.

- Thế cái chuyện này đã có lâu chưa, Buck?

- ừ, tao nghĩ có lẽ lâu rồi đấy. Đến ba mươi năm nay rồi, hay hơn thế nữa. Có cái chuyện gì rắc rối ấy, rồi lại có cái chuyện kiện cáo gì đó phải giải quyết, rồi tòa án xử một người trong đám, thế là người này đứng dậy bắn luôn người được kiện kia một phát mà cái đó là dĩ nhiên thôi, ai chả thế.

- Cái gì rắc rối hở Buck? Ruộng đất phải không?

- Có lẽ như vậy, tao cũng chẳng biết

- ừ, thế lúc đó ai bắn? Người của nhà tao biết được. Lâu lắm rồi.

- Thế không ai biết à?

- ồ, có chứ, bố tao biết, tao chắc là thế, và những người trong nhà này biết cả. Nhưng bây giờ họ không biết rằng từ lúc đầu đánh nhau như thế nào.

- Đã có nhiều người bị giết chưa Buck?

- Có, nhiều lần suýt nữa thì phải làm đám tang. Nhưng không phải lần nào cũng bắn hắn chết được cả đâu. Bố tao cũng có mấy viên đạn nằm trong người, nhưng ống ấy không cần, vì chỉ là đạn nhỏ thồi. Bob đã bị đâm bằng con dao săn, và Tom cũng đã bị trúng đạn một vài lần.

- Thế năm nay có ai giết khong, Buck?

- Có, bên chúng tao giết được một người, và bên họ cũng giết được một người. Khoảng ba tháng trước, em họ tao là thằng Bud, nó mới mười bốn tuổi, đang đi ngựa trong rừng bên kia sông, nó chẳng mang vũ khí gì đi theo, điên rồ đến thế cơ chứ, đang đi ở một chỗ vắng thì nó nghe thấy tiếng ngựa sau lưng, quay lại thấy lão Baldy Shepherdsons đang đuổi đến gần, trong tay lão cầm súng và tóc trắng của lão bay trước gió. Thế thì đáng lẽ nhảy sang bên và chạy vào rừng, thằng Bud lại cứ phi ngựa chạy vọt lên đằng trước, Thế là hai người cứ bám sát nhau đuổi đến hơn năm dặm ấy. Lão già kia cứ muốn vượt lên trước mà không được. Sau cùng thằng Bud thấy như vậy vô ích quá, nó mới dừng ngựa lại để nếu như có phải ăn đạn thì cũng là ở trước mặt, mày hiểu không. Thế là lão già kia vượt lên bắn nó chết. Nhưng rồi lão già kia cũng không may được lâu,vì chỉ trong vòng một tuần lễ thì những người của nhà bên này đã cho lão đi chầu trời ngay.

- Tao cho lão già kia hèn, Buck ạ

- Không, lão ta không hèn đâu. Cứ trông lão ta thì biết. Trong đám nhà Shepherdsons chẳng có ai hèn nhát đâu. Và trong họ nhà Grangerford này cũng không có ai hèn cả. Mày biết không, có một hôm lão già ấy đã chống lại với bà người của nhà Grangerford này trong nửa giờ và rút cục là lão ta thắng trận. Mấy người lúc ấy đều đi ngựa cả, lão ta nhảy xuống ngựa nấp sau một đống gỗ, rồi cho ngựa đứng ra đằng trước để đỡ đạn. Mấy người nhà Grangerford thì vẫn ngồi trên ngựa bao vây chung quanh lão già, ngắm lão bắn. Lão ta cũng bắn trả lại. Sau đó, cả lão già và con ngựa chạy được về nhà, máu me đầy người, què lê kéo dệt; nhưng còn mấy người nhà Grangerford thì phải khiêng về. Một người chết ngay, còn một người nữa hôm sau cũng chết nốt. Không, ông ơi, nếu ra trận mà chỉ có những người hèn nhát thì chẳng bao giờ dám chạm trán với những người nhà Grangerford đâu; và cũng chẳng ai nuôi những người như thế đâu.

Chủ nhật đó, chúng tôi đi lễ nhà thờ, cách nhà độ ba dặm. Ai cũng đi ngựa cả. Mỗi người đều mang súng theo mình, cả Buck cũng thế. Buck kẹp súng vào đùi hoặc dựa súng vào tường với tay ra là lấy được ngay. Nhưng người bên nhà Shepherdsons cũng vậy. Thật là chỉ cầu nguyện bền ngoài thôi, nào là nói thương yêu nhau như anh em, với những câu khác kiểu như thế, nghe mà phát ớn nhưng rồi ai cũng nói là cầu nguyện như thế là rất tốt, cả lúc trở về nhà đi dọc đường cũng nói như vậy, họ nói một lô những điều về lòng trung thành, về tốt lành, về những trời đất gì tôi cũng không biết nữa. Và tôi cảm thấy đây là một trong những ngày chủ nhật chán nhất mà tôi đã từng được nếm.

Độ một giờ sau bữa ăn trưa, mọi người đều tản mát đi cả. Người ngồi ghế, người về buồng riêng, và không khí thật buồn tẻ. Buck với một con chó ra nằm dài trên cổ ngủ dưới nắng. Tôi cũng đi lên buồng và nghĩ bụng cũng phải ngủ một giấc. Thầy cô Sophia hiền hậu đang đứng cửa, bên cạnh buồng chúng tôi. Cô ấy kéo tôi về buồng riêng của cô ấy, khẽ đóng cửa lại, và hỏi tôi có yêu mến cô ây không. Tôi bảo tôi có yêu. Cố ấy bảo tôi làm giúp cô ấy một việc và đừng nói với ai cả. Tôi bảo được. Rồi cô ấy nói là để quên cuốn kinh thánh ở trên ghế nhà thờ cùng với hai quyển sách nữa, bảo tôi lặng lẽ ra khỏi nhà đi đến đó lấy về hộ; và nhớ đừng nói với ai. Tôi bảo được, để tôi đi lấy cho. Tôi lẻn ra ngoài nhà, rồi thẳng đường chạy đến đó. Trong nhà thờ chẳng có một ai, có lẽ chỉ có vài con lợn. Vì cửa nhà thờ không đóng, và mùa hè lợn nó thích cái sàn gỗ cao ráo trong nhà thờ, mát mẻ hơn. Nếu các bạn để ý sẽ thấy; có nhiều người chỉ khi nào không thể đi nhà thờ được thì mới thôi không đi thôi, chứ lợn thì khác.

Tôi tự bảo là chắc có chuyện gì đây. Một người con gái mà lại lo cuống lên về chuyện quên cuốn kinh thánh như thế này thì không phải là tự nhiên. Tôi cầm cuốn sách rũ một cái, một mảnh giấy con rơi ra có nét bút chì viết: Hai giờ rưỡi. Tôi lục lại một lần nữa, nhưng không thấy gì khác. Tôi không nghĩ ra được nó là cái gì, nên bỏ mẩu giấy trả lại. Khi tôi trở về nhà, lên gác thấy cô Sophia vẫn đứng chờ ở cửa chờ tôi. Cô ấy lại kéo tôi vào, đóng cửa lại, rồi tìm được mẩu giấy trong cuốn sách, đọc xong thấy có vẻ vui mừng. Bỗng nhiên tôi chưa kịp nghĩ gì thì cô ấy đã nắm lấy tay tôi và bảo tôi là cậu bé tốt nhất trên đời, dặn tôi đừng nói với ai cả. Cô ấy đỏ mặt lên một phút, đôi mắt sáng lên, lúc đó nhìn cô ấy đẹp vô cùng. Tôi ngạc nhiên, nhưng sau bình tĩnh lại rồi tôi mới hỏi rằng cái mẩu giấy ấy là thế nào. Cô ấy hỏi tôi đã đọc được chữ viết không, tôi bảo không, chỉ mới tập gạch nét cô ấy bảo rằng mảnh giấy đó chỉ là để đánh giấu chỗ đang đọc giở thôi, rồi lại bảo tôi có thể chạy ra ngoài mà chơi được.

Tôi đi xuống bờ sông, suy nghĩ về chuyện này. Chợt thấy anh da đen của tôi bước theo sau. Lúc chúng tôi đi đến chỗ khuất trong nhà không ai trông thấy được, hắn mới quay lại nhìn một giây, rồi chạy đến chỗ tôi nói:

- Cậu George, nếu cậu đi quá xuống cái đầm dưới kia, tôi sẽ chỉ cho cậu xem một lũ chồn nước.

Tôi nghĩ bụng quái lạ nhỉ, từ hôm qua hắn đã nói cái đó rồi. Hắn cũng biết rằng chả ai thích chồn nước cho lắm và cũng không ai đi săn cái giống đó cả. Nhưng tại sao hắn lại nói thế? Tôi bảo;

- Được, anh đi trước đi

Tôi bước theo hắn đến nửa dặm, rồi rẽ ra phía đầm, phải lội một quãng đến mắt cá chân độ nửa dặm nữa: chúng tôi đến một chỗ đất bằng vừa cao vừa khô ráo, có nhiều cây cối, bụi rậm, và có cả chó nữa. Hắn nói:

- Cậy George, cậu bước quá vào trong kia mấy bước. Nó ở trong đó. Tôi đã được thấy trước rồi, bây giờ tôi không cần xem nữa.

Nói xong hắn chạy biến đi ngay rồi khuất sau một đám cây không thấy đâu nữa. Tôi bước vào phía trong, đến một chỗ trống chỉ rộng khoảng chừng bằng một cái phòng, chung quanh có lá nho che kín, bỗng thấy một người nằm ngủ trong đó. Trời ơi, thì ra đó là Jim của tôi!

Tôi gọi Jim dậy, và tôi đoán thế nào trông thấy tôi hắn cũng lại kinh hoàng cho mà xem.Nhưng không. Hắn chỉ mừng rỡ đến gần khóc mà không lấy làm ngạc nhiên chút nào. Hắn kể lại rằng đêm đó hắn bơi theo sau tôi và có nghe thấy tiếng tôi gọi mấy lần nhưng không đáp, vì sợ có người nhận ra và lại bắt hắn về làm nô lệ nữa. Hắn nói:

- Tôi bị đau một tí nên không bơi nhanh được, bị cậu bỏ lại đằng sau khá xa. Lúc cậu lên bờ rồi thì tôi tính có thể khi lên đất sẽ chạy theo kịp cậu mà không cần phải gọi. Nhưng đến khi trông thấy tòa nhà đó thì tôi bắt đầu đi chậm lại. Tôi đứng xa nên không nghe rõ họ nói những gì với cậu; tôi cũng sợ bầy chó nữa. Đến lúc đã yên lặng cả rồi thì tôi biết là cậu đã vào bên trong cái nhà đó. Vì vậy tôi mới ra ngòai rừng nằm chờ cậu suốt một ngày. Sáng sớm hôm sau có mấy người da đen đi làm đồng, họ bắt gặp tôi và chỉ cho tôi trốn vào chỗ này. Chỗ này có đầm nước ngăn với trong kia nên lũ chó không thể đánh hơi được. Cứ đến đêm thì anh em họ đem cho tôi ít đồ ăn, và họ có kể cho tôi nghe về cậu ở trong đó ra sao.

- Sao anh không bảo Jack dẫn tôi ra đây sớm hơn nữa Jim?

- Không muốn phiền cậu, Huck ạ. Cậu bảo có thể làm gì được đâu nhưng bây giờ thì yên trí rồi. Tôi đã mua được xoong, chảo, thức ăn đủ cả. Thật may quá. Đêm đêm tôi lại mò ra vá víu cái bè, tôi...

- Bè nào, Jim?

- Bè cũ của chúng mình ấy

- Thế nghĩa là cái bè của chúng mình không bị tan tành ư?

- Không, không đâu. Nó chỉ vỡ một phần. Còn một đầu vẫn nguyên, chẳng hề gì cả. Nếu không lặn xuống nước quá sâu, nếu đêm đó không sợ hãi mà bạo dạn một tí như câu phương ngôn vẫn nói ấy, thì chúng ta có thể giữ cái bè lại được. Nhưng chả lo, vì bây giờ đã sửa lại gần như mới rồi, và lại có một lô những thứ khác nữa, ngay ở chỗ chúng ta bị mất ấy.

- Anh làm thế nào mà lại tìm được bè về, Jim, anh đuổi theo à?

- Tôi nằm trong rừng này thì làm sao đuổi theo được? Không, cậu ạ, có mấy anh em da đen tìm thấy nó nằm kẹt ở bãi gần đây. Họ đem giấu vào một cái hốc dưới bụi liễu, rồi họ bàn tán cãi cọ với nhau mãi về cái bè không biết là của ai. Vừa lúc đó tôi đi tới và nói cho họ biết rằng cái bè đó không phải của ai cả, mà là của cậu và tôi. Tôi hỏi có phải họ định lấy tài sản của một người da trắng thượng lưu hay không mà lại đem giấu đi như vậy? Rồi tôi cho mỗi người một hào; người nào cũng thỏa mãn lắm. Rồi tôi bảo họ rằng nếu có những cái bè khác nữa trôi đến thì họ sẽ lại có tiền. Họ đối với tôi tốt lắm cậu! Những anh em da đen ấy mà. Mỗi khi tôi cần họ giúp đỡ gì thì chả phải nói đến hai lần đâu, cậu ạ. Cái thằng Jack ấy là một người da đen tốt đấy, và nó cũng khá nhanh nhảu.

- ừ, hắn tốt đấy. Hắn cũng chả bao giờ nói với tôi là anh ở đây. Hắn bảo tôi tới đây hắn chỉ cho xem lũ chồn nước. Nếu như có chuyện gì xảy ra thì hắn không bị liên lụy đâu. Hắn có thể nói là chưa trông thấy chúng mình đi với nhau bao giờ, và như thế người ta sẽ tin là thật.

Tôi không muốn nói nhiều về ngày hôm sau ra sao. Tôi chỉ kể vắn tắt như thế này: Tôi thức dậy từ lúc còn tờ mờ sáng, đang định quay ra ngủ nữa thì bỗng nhận thấy lúc đó rất yên tĩnh, hình như không có ai động đậy gì cả. Điều đó hơi bất thường. Sau tôi lại thấy Buck đã dậy và đi từ lúc nào. Tôi vùng dậy, lấy làm lạ, và đi xuống nhà dưới. Chẳng có ai ở đó. Mọi vật đều im lặng. Bên ngoài cũng thế. Tôi không hiểu như vậy là thế nào. Bước ra đống gỗ, tôi đến chỗ Jack hỏi:

- Có chuyện gì đấy?

Hắn đáp:

- Cậu không biết à?

- Vâng. Cô Sophia cô ấy trốn đi rồi. Trốn đi thật rồi. Cô ấy trốn vào lúc giữa đêm, chẳng ai biết cả. Cô ấy trốn đi để lấy cái anh chàng Harney Shepherdsons ấy, cậu biết không. Nghe họ đồn thế. Gia đình thì mới biết cách đây độ nửa giờ thôi, và họ vội vã đi kiếm cô ngay. Lần này thật là một lần vội vã, súng ống, ngựa nghẽo rầm rập chưa từng thấy. Các ông ấy đã đi loan báo cho họ hàng cả rồi. Ông cụ Saul và mấy cậu kia thì đem súng ra bờ sông để tìm giết anh chàng kia, vì rất có thể là anh ta đem cô Sophia qua sông. Tôi đoán có lẽ sắp sẩy ra nhiều chuyện lôi thôi nữa đấy.

- Buck nó dậy sao không gọi tôi?

- Tôi chắc cậu ấy cố ý như thế đấy. Họ không muốn cho cậu dính vào chuyện này. Cậu Buck cậu ấy lên đạn và bảo rằng sắp đi bắt một tên Shepherdsons về. Ở bên kia họ đông người lắm, tôi chắc thế, cậu thử tính xem mau ra cậu ấy có đi chõm được một người nào không?

Tôi chạy vụt ra bờ sông thật nhanh. Rồi một lúc thì nghe thấy súng nổ bốn bề. Ra đến cái lán gỗ gần bến tàu thủy, tôi tìm loanh quanh trong đám cây xem có chỗ nào kín để nấp, rồi tôi trèo lên một cái chạc cây xa tầm súng để xem xét. Có một đám gỗ khá chất cao gần hai thước ở kế đó, tôi định chạy đến nấp ở đằng sau, nghĩ bụng có thể chắc chắn hơn. Bốn năm người cưỡi ngựa chạy rầm rầm quanh đó, ở chỗ đất trống trước mặt lán gỗ. Họ vừa chửi, vừa hét, đang định tóm hai cậu thanh niên đang nấp đằng sau đống gỗ ở dọc bến tàu thủy. Nhưng họ không vào tới được. Mỗi lần một người trong đám kia thò ra phía ngòai sông, khỏi đống gỗ một tí thì từ trong đống gỗ lại có người bắn ra. Hai cậu kia ngồi xổm, dựa lưng vào phía sau đống gỗ, thành ra có thể kiểm soát được cả đường ra đường vào.

Lát sau, mấy người không chạy quanh và cũng không la hét nữa. Họ đi về phía nhà kho. Lập tức có một cậu đúng dậy bắn một phát súng từ đống gỗ ra trúng một người trong bọn kia ngã ngựa. Họ nhảy vọt cả xuống ngựa để nhặt người bị thương đem về nhà kho, vừa lúc đó hai cậu kia bỏ chạy. Hai cậu chạy được nửa đường từ chỗ đó ra đến chỗ tôi nấp thì chợt mấy người kia trông thấy, họ liền nhảy lên ngựa đuổi theo. Họ vượt gần đến nơi nhưng không ăn thua, hai cậu kia chạy nhanh lắm, đã tọt vào đống gỗ ngay trước mặt cái cây của tôi nấp. Thế là lợi thế hơn bọn kia. Một người trong hai cậu đó là Buck, còn một cậu gầy gò trạc mười chín tuổi.

Bọn người đó sục sạo một lúc ở chúng quanh rồi bỏ đi. Họ vừa đi khuất thì tôi lên tiếng gọi Buck. Lúc đầu Buck tỏ ra ngạc nhiên sợ hãi. Xong nó bảo tôi nhìn kỹ xem và hễ những người kia quay lại thì báo cho nó biết. Nó bảo bọn người kia đã sẵn âm mưu gì rồi, nên thế nào cũng quay lại. Tôi muốn rời khỏi cây này, nhưng lại không dám. Bỗng thấy thằng Buck khóc vang lên và nói rằng nó và anh họ nó là Joe (tức là cái cậu cùng chạy kia) cả ngày hôm nay còn phải trốn tránh nữa. Nó nói là bố nó và hai anh nó bị giết cả rồi, và bên kia phía kẻ thù cũng có hai hay ba người bị giết. Nó bảo là bọn nhà Shepherdsons bố trí phục kích. Nó nói bố nó và hai anh nó vừa đánh vừa chờ họ hàng kéo đến nhưng cánh nhà Shepherdsons quá mạnh. Tôi hỏi thế còn Harney và cô Sophia thì ra sao. Nó bảo hai người đã qua sông sang bên kia rồi, không việc gì cả. Tôi nghe thế mừng lắm. Nhưng thằng Buck thì không thế, nó rất bực mình nghĩ đến hôm trước đã không thể giết được Harney cái bữa ở trong rừng ấy. Tôi chưa hề bao giờ lại thấy như vậy.

Bỗng có tiếng pàng! pàng! pàng! ba bốn phát súng nổ. Cả hai đứa kia bỏ ngựa, chạy luồn qua rừng bò đến sau lưng từ lúc nào. Cả hai đứa chạy ra nhảy xuống sông. Cả hai đứa đều bị thương. Và trong lúc hai đứa bơi xuôi theo dòng sông thì mấy người kia chạy lên bờ bắn theo, miệng kêu giết chúng nó đi, giết chúng nó đi. Tôi nghe thấy thế đau đớn quá suýt ngã từ trên cây xuống. Tôi không dám kể tiếp những chuyện xảy ra sau đó nữa,vì nói ra hết sức đau lòng. Tôi nghĩ giá đêm đó đừng ra bờ sông để khỏi nhìn thấy những cảnh ấy thì hơn. Sau, tôi không thể nào quên được, nhiều khi ngủ cứ mê thấy chúng nó nữa.

Tôi ở tít ngọn cây cho đến lúc xẩm tối, vì sợ quá không dám bò xuống. Thỉnh thoảng, tôi còn nghe tiếng súng trong rừng xa, và hai lần tôi trông rõ những đám người đi ngựa mang súng chạy qua lán gỗ, và tôi đoán rằng chuyện rắc rối ấy vẫn còn đang tiếp diễn. Tôi quá sức kinh hãi, định bụng sẽ không bao giờ còn quay lại căn nhà đó nữa, và tôi nghĩ dù sao mình cũng không bị khiển trách. Tôi đoán rằng cái mẩu giấy kia có nghĩa là cô Sophia đo gặp Harney ở chỗ nào đó vào lúc hai giờ rưỡi để cùng đi trốn. Tôi thấy đáng lẽ tôi phải nói cho bố cô ấy biết vể chuyện mảnh giấy đó với cái hành động hơi lạ lùng của cô, như vậy bố cô sẽ giam cô lại thì đâu có thể xảy ra những chuyện giết người kinh khủng như thế này được.

Ở trên cây tụt xuống , tôi mới bò theo dọc bờ sông một quãng, thấy hai cái xác nằm trên bờ nước. Tôi cố sức kéo hai cái xác vào phía trong này và lật mặt lên xem, rồi tôi chạy biến đi thật nhanh. Lúc nhìn ra mặt Buck, tôi khóc lên hồi lâu, vì nó đối với tôi thật tốt bụng.

Rồi trời tối hẳn. Tôi không dám đến gân nhà, mà đi xuyên qua rừng tìm về cái đầm. Jim không còn đó nữa. Tôi lại hộc tốc len lỏi qua đám cây liễu, nóng lòng muốn nhảy ngay lên thuyền mà đi cho thoát khỏi cái xứ khủng khiếp này. Chiếc bè cũng đi đâu rồi. Trời ơi, tôi sợ quá! Đến hơn một phút đồng hồ, tôi bị nghẹn thở. Rồi tôi kêu lên một tiếng. Cách chỗ tôi đứng chỉ độ vài thước, bỗng có tiếng nói:

- May quá, trời ơi, có phải cậu đấy không? Cậu khe khẽ chứ

Đó là tiếng Jim. Trước nay, tôi chưa hề nghe thấy tiếng nói nào nó làm cho mình yên lòng đến thế. Tôi nhảy vọt qua bờ nước và lên bè. Jim ôm chặt lấy tôi. Hắn thấy tôi mừng rỡ quá, Jim nói:

- May quá, cậu ơi, tôi ở dưới này đã tưởng cậu lại chết rồi. Jack nó đến đây và nói có lẽ cậu bị trúng đạn hay sao ấy mà không thấy cậu trở về nhà nữa. Tôi định đẩy bè xuống dưới đó để chờ hễ Jack nó quay lại cho tôi biết chắc chắn là cậu đã chết thì tôi sẽ đánh bè đi ngay. Thế là bây giờ cậu đã quay lại đây rồi, tôi sung sướng quá.

Tôi nói:

- Hay lắm, thế thì lại càng tốt. Như vậy, họ sẽ không tìm tôi nữa vì tưởng tôi đã bi giết rồi, và bị trôi sông rồi. Trên kia có xác người, có thể làm cho họ tưởng như vậy. Thôi ta đi mau lên, Jim ơi, hãy đẩy nhanh ra giữa dòng đi đã.

Cho đến khi bè của chúng tôi đã đi ngược chừng vài dặm về phía dưới và ra đến giữa dòng sông Mississppi, chúng tôi mới yên tâm. Rồi chúng tôi treo đèn báo hiệu lên, trong lòng nghĩ là một lần nữa lại thoát nạn và được tự do. Từ hôm qua, tôi chưa có cái gì vào bụng. Jim lấy ra mấy chiếc bánh mì rán; bánh sữa, lại có cả thịt, cả rau xanh nữa. Trên đời thật không còn gì ngon hơn là ăn nóng sốt như thế này. Tôi vừa ăn vừa nói chuyện với Jim rât vui vẻ. Tôi mừng đã thoát khỏi vạ đồn điền; và Jim cũng mừng được thoát khỏi đầm nước. Chúng tôi bảo nhau rút cục là chẳng ở đâu hơn cái bè của chúng mình cả. Những nơi khác thì ở đâu cũng chật chội, nghẹt thở. Nhưng ở trên bè thì không thế. Ở trên bè, mình sẽ cảm thấy hoàn toàn tự do, dễ thở và vững tâm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,604
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19


AdsBạn biết cách gấp hộp quà hình quả dâu tây chưa?

Lại vài ba ngày đêm nữa qua đi; tôi nghĩ rằng có thể nói là mấy đêm đó trôi qua, lướt qua, một cách yên tĩnh, êm dịu và nên thơ nữa. Đây này, chúng tôi đã qua những ngày giờ đó như thế này. Con sông vừa to vừa rộng - có chỗ đến một dặm, dặm rưỡi. Chúng tôi đi ban đêm còn ngày thì tìm chỗ kín ngủ. Cứ gần hết đêm thì thôi không chèo nữa, tìm chỗ nước lặng ở gần cái khe nào đó buộc bè lại, rồi chặt một ít cành cây bông dại hay cành liễu phủ lên bè, rồi thả dây câu xuống. Rồi nhảy xuống sông tắm cho mát mẻ tỉnh táo con người. Rồi ngồi chờ ở một bãi cát nào đó có nước sâu đến gối và chờ ánh sáng ban ngày đến. Chung quanh không một tiếng động, hoàn toàn yên tĩnh, hình như khắp cả thế giới đều ngủ cả. Thỉnh thoảng chỉ nghe tiếng ễch ương kêu. Vật đầu tiên trông thấy ở bên kia mặt nước chỉ là một rặng cây dài bất động. Rồi một mảnh nhàn nhạt hiện ra trên nền trời, từ từ tỏa dần ra, dòng sông cũng như rộng thêm ra nữa; không còn là đen nữa mà xanh xám. Xa xa có thể thấy được những chấm đen trôi xuôi, trôi mãi, có lẽ là những chiếc thuyền buồm hay những vật đen dài từ những bè gỗ. Đôi khi có thể nghe tiếng mái chèo vỗ nước, hay tiếng nói lao xao. Yên tĩnh quá nên tiếng động càng vang đi xa. Chốc chốc lại thấy một vệt trên mặt nước, nhìn kỹ có thể nhận ra ngay đó là một cái cây bị nhổ bật cả rễ và cuốn trôi đi , rồi sương mù cuộn tròn thành từng cuộn trên mặt nước. Phía đông, trời bắt đầu ửng đỏ, rồi đến sông, và có thể chiếc lều gỗ ở ven rừng phía bên kia sông, có lẽ là một cái làn gỗ . Rồi gió lành lạnh thổi vào người, nghe man mát, êm dịu, thơm thơm mùi gỗ và hoa rừng. Nhưng cũng có khi lại có mùi cá chết quanh đó, xông lên, tanh nồng. Sau đó, trời sáng hẳn. Mọi vật đều như cười vui dưới nắng, và tiếng chim hót líu lo.

Lúc này dù có một chút khói bay lên cũng không ai thấy được. Chúng tôi nhắc vài con cá ở đầu dây câu lên làm một bữa ăn nóng sốt. Rồi chúng tôi lại ngồi nhìn dòng sông vắng vẻ. Người đã bắt đầu mệt mỏi, chúng tôi lăn ra ngủ. Chốc chốc lại tỉnh dậy, ngó ra ngoài xem có gì. Có lẽ là một chiếc tàu đang lụ khụ leo ngược dòng sông ở tít tận bờ bên kia; nhìn xa không đoán được rằng đó là tàu chân vịt đằng sau hay có guồng ở hai bên nách. Rồi một giờ đồng hồ nữa trôi qua, chẳng có gì mà xem, mà nghe nữa, chỉ là vắng lặng.

Lát sau lại có một chiếc bè trôi qua ở mé ngoài. Có lẽ trên bè có một thằng cha nào đang bổ củi, vì họ thường hay bổ củi ngay trên bè. Từ trong này nhìn ta họ có thể thấy cái rìu loáng giơ lên và đúng lúc cái rìu đưa lên quá đầu anh ta thì nghe kịch một cái, một tiếng vang phải mất một lúc đi trên mặt nước rồi mới đến tai mình. Rồi chúng tôi lại nằm ườn ra đó lắng nghe yên tĩnh trở lại. Có một lần sương mù dày đặc, thuyền bè qua lại phải gõ leng keng vào soong chảo để cho tàu thủy khỏi đâm phải. Một chiếc phà hay bè gì đó đi qua chỗ chúng tôi, gần sát đến nỗi chúng tôi nghe rõ cả tiếng họ nói chuyện, văng tục và cười vang, rõ mồn một, tuy chẳng nhìn thấy gì, cứ như bị bưng mắt; lúc ấy thật là giống như tiếng ma lởn vởn trong không gian bay qua đó vậy. Jim bảo có lẽ là ma thật đấy. Tôi nói:

- Không đâu, nếu là ma thì nó đã chả nói: sương mù tan đi.

Rồi chẳng bao lâu nữa lại đến đêm, và chúng tôi lại ra đi. Bè ra đến giữa sông rồi, chúng tôi để mặc cho nó trôi, kệ cho dòng nước đưa tới đâu thì tới. Chúng tôi châm thuốc hút, thả chân xuống nước khuấy khuấy, và nói đủ các chuyện. Suốt ngày suốt đêm, chúng tôi chỉ cởi trần, muỗi cũng mặc. Cái bộ quần áo mà gia đình bà Buck may cho tôi đẹp quá thành ra mặc không thuận tiện. Vả lại tôi cũng không để ý đến quần áo lắm đâu.

Đôi khi thấy như cả một con sông này là thuộc về chúng tôi. Nhìn qua mặt nước, xa xa bên kia là bờ sông, và những hòn đảo, và có lẽ có một ánh lửa, một ngọn đèn nến trong khung cửa sổ. Có khi hiện lên trên mặt nước cũng có vài ánh lửa . Đó là đèn trên bè hay trên phà, và có lẽ lại được nghe cả tiếng đàn vĩ cầm hay tiếng hát vọng ra. Sống trên một chiếc bè hay chiếc mảng, thú vị biết bao nhiêu. Trên đầu chúng tôi chỉ có trời cao, lốm đốm những vì sao, và chúng tôi thường nằm ngửa lên nhìn trời, bàn cãi với nhau không biết rằng những ngôi sao đó là do ai làm ra đấy, tôi chỉ bảo là tự nó có. Tôi bảo nếu mà làm ra nhiều sao như vậy thì chắc phải mất nhiều ngày giờ lắm. Jim bảo đó là ông trăng ông ấy đẻ ra những ông sao kia chứ. Ừ, nghe cũng có lý, nên tôi cũng không thể nói gì để bác cái thuyết đó đi được. Và vì tôi cũng đã trông thấy con ếch nó đẻ được nhiều lắm, như vậy thì cũng có thể là do ông trăng đẻ ra những ông sao ấy. Chúng tôi lại hay nhìn cả sao sa nữa, nhìn theo những vệt sao băng chạy dài xuống chân trời. Jim bảo rằng đó là những ngôi sao hư hỏng, bay lìa khỏi tổ.

Một vài lần vào giờ tối đen, chúng tôi lại gặp tàu thuỷ đi qua, thỉnh thoảng nó lại phụt ra cả một bầu trời đầy những tia lửa từ ống khói, rồi những tỉa lửa ấy rơi xuống như mưa xuống sông, trông đẹp vô cùng. Rồi nó rẽ về một phía khác, ánh sáng lấp lánh của nó mờ dần, tiếng ùng ục của nó cũng ắng đi, và dòng sông lại trở lại im lặng. Một lát sau, khi chiếc tàu đã đi xa rồi, sóng của nó mới tới chỗ chúng tôi làm dập dềnh cái bè đôi chút; rồi thì chẳng nghe thấy gì nữa, mà cũng không thể nói được là bao lâu. Có lẽ trừ ra chỉ còn vài tiếng ếch nhái hay vật gì đó thôi.

Qúă nửa đêm, dân ở hai bên bờ đã ngủ cả, hai bờ sông lại tối om đến vài ba tiếng đồng hồ. Trong những khung cửa sổ không còn ánh lửa nữa. Những ánh lửa ấy chính là đồng hồ của chúng tôi. Khi ánh lửa đầu tiên hiện lên, đó là báo hiệu trời sắp sáng, thế là chúng tôi tìm chỗ giấu và buộc bè lại ngay.

Một buổi sáng, vào lúc mặt trời vừa mọc, tôi vớ được một chiếc xuồng, chèo qua một chỗ nước chảy xiết để đi lên phía bờ chính, chỉ cách đó vài trăm thước. Rồi chèo quá lên nữa chừng một dặm, đến chỗ có bụi cây gần một khu rừng thông để xem có kiếm được ít quả dâu nào chăng. Tôi vừa đi đến một chỗ hẹp chỉ bằng lối cho bò đi qua thì bỗng có hai người ở đâu từ trong con đường nhỏ đó chạy xộc ra. Tôi nghĩ bụng, thôi thế này là nguy rồi, bởi vì nếu như có ai đi tìm ai ở đây thì cũng chỉ là tôi hay Jim mà thôi. Tôi đang sắp chuồn thì mấy người kia đã chạy tới gần, gọi tôi và nhờ tôi cứu họ. Họ bảo họ có làm gì nên tội đâu, thế mà người ta đang đuổi bắt. Rồi bảo là sắp có người có chó đuổi đến nơi bây giờ. Họ muốn nhảy ngay vào chiếc xuồng của tôi, nhưng tôi nói:

- ấy chớ, đừng làm thế. Tôi đã nghe thấy tiếng ngựa gì đâu. Các ông có đủ thì giờ chui qua cái bụi kia, theo con đường nhỏ đi lần xuống nước rồi lội vòng sang đây hãy xuống xuồng, như thế thì chó nó mới không đánh hơi tìm được.

Họ làm theo; khi họ vừa bước lên xuồng là tôi chèo đi thật nhanh quay về chỗ chúng tôi giấu bè. Khoảng năm mươi phút sau thì thấy tiếng chó, tiếng người vừa sủa vừa la hét. Chúng tôi nghe thấy đám kia đã tiến tới gần bụi cây, nhưng không nhìn thấy họ. Hình như họ dừng lại đó và sục sạo chung quanh một lát. Chúng tôi đi càng xa, không nghe thấy gì nữa. Đi được một quãng đến gần một dặm khuất rừng và ra đến sông lớn thì mọi thứ đều yên tĩnh. Chúng tôi rẽ vào cái khe rồi nấp vào đám ruộng bông; và thế là hoàn toàn yên tâm.

Một người trặc bảy mươi tuổi hay già hơn một chút, đầu hói và tóc mai đã bạc. Lão ta có một chiếc mũ rộng vành đã cũ, một chiếc áo lót màu xanh xám, một cái quần màu xanh đã cũ rách, đầu ống quần nhét vào cổ giầy. Trên tay lão ta khoác một chiếc áo ngoài có đuôi màu xanh và có khuy đồng óng ánh. Cả hai người đều đeo bị vừa to vừa nặng, và vừa bẩn.

Còn người kia trạc ba mươi tuổi, ăn mặc tầm thường.

Ăn sáng xong, chúng tôi nằm nghỉ, nói chuyện và bây giờ mới vỡ lẽ ra hai người kia không ai biết ai cả.

Lão già hói đầu bảo anh kia:

- Anh có chuyện gì mà phải chạy trốn thế?

- Tôi bán một thứ hàng dùng để làm cho mất những vết đen cáu bẩn ở răng, nhưng không làm mất được vết đen mà lại làm mất cả men răng. Tôi nán ở lại thêm một đêm nữa và định chuồn thì giữa đường bắt gặp ông đang chạy về phía này, ông bảo tôi là họ đang đến và ông nhờ tôi giúp cho ông trốn đi với. Tôi mới bảo ông rằng chính tôi cũng đang sắp có tai vạ đây, thế là ông và tôi cùng chạy đấy. Đầu đuôi có thế thôi, thế ông có chuyện gì?

- Tôi ấy à, tôi đàng làm một trò quảng cáo để bỏ rượu. Làm đã được đến một tuần lễ, và ai cũng thích cả, nhất là đám đàn bà thích lắm. Làm cái trò này cũng phát tài. Đây nhé, vào xem cứ tính mỗi người một hào, trẻ con và da đen không mất tiền, mỗi tối cũng được năm đến sáu đô la. Trò này đang có cơ phất thì bỗng đêm qua có người đi nói rằng tôi chỉ bịp thôi và chính tôi vẫn ngấm ngầm bán rượu. Sáng nay có một tên da đen đến lay tôi dậy và bảo người ta đang lặng lẽ tập hợp lại, đem cả chó cả ngựa đi bắt tôi về trừng trị và có thể sẽ đánh cho tôi một trận đau, rồi lại có thể bôi hắc ín lên đầu, nhổ hết cả râu tóc và đem trói tôi trên đường sắt cũng chưa biết chừng. Tôi chả kịp ăn sáng gì cả, mà cũng không thấy đói nữa.

Người kia nói:

- Ông bạn già ơi, tôi tính có lẽ hai chúng ta có thể cùng làm ăn với nhau được đấy, ông nghĩ thế nào?

- Tôi thì dễ thôi. Nhưng anh làm nghề gì là chính?

- In báo. Đó là nghề chính của tôi. Thỉnh thoảng chế tạo vài thứ thuốc men. Diễn viên sân khấu chuyên về ngành bi kịch, ông biết không. Cũng có khi thuận tiện thì xoay ra nghề thôi miên, hoặc chữa bệnh thần kinh. Mà đổi nghề nữa thì dạy hát, dạy địa lý; có khi làm vài ba cuộc diễn thuyết. Ồ, tôi làm nhiều thứ lắm. Có cái gì làm cái ấy cho nên cũng không làm cái gì lâu. Thế ông thì sống bằng nghề gì?

- Trong đời tôi đã khá nhiều lần làm bác sĩ. Cái chính là sống bằng hai bàn tay này. Chữa bệnh ung thư, bại liệt và những lọai như thế. Nhưng khi có người nào khám phá ra sự thật thì cũng khó kiếm ăn đấy. Còn ngoài ra thì đi thuyết giáo, họp trại giảng đạo.

Đến một lúc sau, không ai nói nữa. Rồi người trẻ tuổi hơn thở dài một cái nói:

- Trời ơi!

Lão già hói đầu hỏi:

- Cái gì mà trời ơi?

- Tôi nghĩ rằng mình cứ phải sống để mà sống cái cuộc đời như thế này mãi, rồi để bị mất dần cái phẩm giá của mình đi giữa những người đồng loại như thế này ư? Nói xong, đưa chiếc khăn lên chấm chấm vào kẽ mắt.

Lão già lại hỏi với giọng có vẻ đàn anh:

- Khổ, tội nghiệp, thế những người cùng đi với anh có tốt lắm không?

- Có, họ đối đãi với tôi cũng khá. Có thể chịu được. Vả lại có ai dám hạ thấp tôi được trong khi tôi cứ như thế. Chỉ có tôi tự hạ thấp mà thôi. Tôi không tránh các người đâu, tôi không trách ai cả. Tôi chịu hết. Mặc kệ cho cái sự đời lạnh lùng này nó dẫn tới chỗ nào đau khổ nhất thì dẫn. Nhưng có một điều tôi biết chắc chắn là sẽ có một nấm mồ đợi tôi ở đâu đó. Kệ, sự đời cứ việc diễn ra như nó vẫn diễn ra từ trước đến nay đi, rồi cướp tất cả mọi thứ của tôi đi - những người thân yêu, gia sản, tất tất cả. Nhưng mà nó cướp thế nào được nấm mồ ấy. Một ngày kia, tôi sẽ nhắm mắt xuống và quên hết mọi sự, và trái tim đau khổ đã tan vỡ của tôi sẽ được nghỉ ngơi.

Nói rồi, anh ta lại lau nước mắt.

Lão già hói đầu nói:

- Anh lôi cái trái tim đau khổ đã tan vỡ ấy của anh ra kể lể với chúng tôi đây để làm gì mới được cơ chứ? Chúng tôi có làm gì anh đâu?

- Tôi biết các người không làm gì tôi cả. Tôi có trách các người đâu, đó là tự tôi hạ tôi xuống mà thôi nên tôi phải chịu đựng tất cả, tôi có dám ca thán gì đâu.

- Anh hạ mình xuống ở chỗ nào? Chỗ nào mới được cơ chứ?

- Có nói ra thì mọi người cũng chẳng tin tôi đâu. Nhưng thôi, mặc kệ, chẳng sao. Cái bí mật của cuộc đời tôi.

- Bí mật đời anh? Có phải anh định nói là...

- Thưa các ngài - Anh ta nói một cách trịnh trọng - tôi sẽ tiết lộ cho các ngài nghe, vì tôi thấy rằng tôi có thể tin ở các ngài. Chính tôi đây là một ông Quân công.

Nghe đến đó, Jim trố mắt ra nhìn, và hình như tôi cũng vậy. Rồi lão già đầu hói nói:

- Vô lí, sao lại thế được.

- Vâng, cụ thân sinh ra ông tôi là người con cả của công tước Bilgewater; chạy trốn đến xứ này vào khoảng cuối thế kỷ trước để được thở cái không khí trong lành của tự do; rồi lấy vợ ở đấy, rồi chết đi, để lại một đứa con trai. Công tước Bilgewater cũng qua đời vào thời gian ấy. Người con thứ hai của công tước được thừa hưởng cái chức vị ấy cùng với tất cả tài sản nhưng cụ thân sinh ra ông tôi mới chính thức là công tước thì lại bỏ rơi. Như vậy đáng lẽ ra tôi phải là công tước Bilgewater vậy. ấy thế mà bây giờ, tôi đây thảm hại thế này. Tôi bị người ta xua đuổi, bị đối xử lạnh lùng khinh bỉ; cuộc đời rách rưới, lang thang, đau đớn và bị hạ xuống cái thế cùng, phải đánh bạn với những người khốn khổ ở trên mọi cái bè gỗ.

Jim nghe xong lấy làm thương hại anh ta lắm. Tôi cũng vậy. Chúng tôi định tìm cách an ủi nhưng anh ta nói an ủi làm gì vô ích; không ai có thể an ủi anh ta được nữa. Anh ta bảo rằng nếu như chúng tôi có muốn thừa nhận anh ta như thế còn tốt hơn là bất cứ gì khác. Chung tôi bảo: được chúng tôi sẽ thừa nhận, nhưng thừa nhận như thế nào thì anh ta phải nói cho chúng tôi biết chứ. Anh ta bảo mỗi khi chúng tôi nói chuyện với anh ta thì phải nghiêng mình chào và nói “Thưa quận công”, “thưa quý ngài” vân vân... và nếu như chúng tôi gọi anh ta bằng cái tên Bilgewater thì cũng không sao, và nói rằng cái tên đó dù sao cũng chỉ là danh vị thôi chứ không phải là tên; và lại bảo rằng một người trong chúng tôi phải đứng hầu ở bên khi anh ta ăn uống; và phải làm tất cả mọi việc lặt vặt mà anh ta sai bảo.

Tất cả những cái đó cũng chẳng khó gì nên chúng tôi ngoan ngoãn làm theo. Suốt cả bữa trưa, Jim đứng quanh đó hầu anh ta và nói: “Quận công có dùng cái này, dùng cái kia không ạ?” vân vân... Quận công có vẻ hài lòng lắm.

Nhưng còn cái lão già thì im lặng không nói gì. Lão ta tỏ vẻ khó chịu với điệu bộ của anh chàng công tước kia lắm. Hình như lão ta đang nghĩ gì trong đầu. Đến cuối buổi chiều, lão nói:

- Này, Bilgewater, tôi rất thông cảm với anh. Nhưng anh không phải là người duy nhất gặp những khó khăn như vậy đâu.

- Không ư?

- Đúng vậy. Anh không phải là người duy nhất đã bị người ta hạ bệ một cách trắng trợn như vậy đâu!

- Trời!

- Không, anh không phải là người duy nhất giáu kín bí mật về đời mình đâu.

Nói đến đó lão ta bắt đầu khóc tức tưởi.

- Khoan đã, ông định nói gì vậy?

- Bilgewater, tôi có thể tin anh được không? - Lão ta hỏi, giọng vẫn còn nức nở.

- Tôi thề sống để dạ, chết mang theo - Anh kia cầm tay lão này, nằm chặt lấy, rồi nói tiếp - Ông nói đi, bí mật của đời ông là gì vậy?

- Bilgewater, tôi là hoàng tử kế vị đấy.

Lần này thì cả Jim và tôi đều trố mắt ra nhìn lão. Quận công hỏi:

- Ông nói sao?

- Phải, anh bạn ạ, lời tôi vừa nói là sự thực đấy. Lúc này, trong mắt anh là vị hoàng tử tội nghiệp, Louis thứ mười bảy, con của Louis thứ mười sáu và Marry Antote đây.

- Là ông ư? Với tuổi của ông là ngần này ư? Nếu như là Charlemagne cuối cùng thì năm nay cũng phải sáu trăm tuổi rồi.

- Vì gian khổ đã biến tôi thành con người tàn tạ như thế này đấy, Bilgewater ạ. Gian khổ đã làm cho tóc tôi bạc trắng ra và hói như thế này đấy. Trước mắt các vị, một kẻ mặc bộ quần áo xanh bẩn thỉu, kẻ bị lang thang đầy đọa, bị chà đạp và đau đớn này chính là vua nước Pháp đấy.

Nói xong, lão ta cứ khóc mãi khiến tôi và Jim không biết làm sao thế nào. Chúng tôi cảm thấy thương lão lại hãnh diện nữa vì lão đến đây với chúng tôi. Thế là chúng tôi bước đến an ủi lão ta, như đã an ủi quận công lúc trước. Nhưng lão nói rằng an ủi cũng vô ích, chỉ có cái chết mới giúp lão giải tỏa mọi buồn đau. Nhưng lão cũng thấy dễ chịu nếu chúng tôi tôn trọng địa vị của lão chẳng hạn như quỳ một bên gối xuống khi nói với lão và bao giờ cũng xưng hô là: Tâu hoàng thượng, rồi đứng hầu bên cạnh lão khi lão ăn uống, và trước mặt lão không được ngồi nếu lão không cho phép. Thế là Jim và tôi lại phải xưng hô lão ta là hoàng thượng, làm cái này cái khác cho lão, và cứ phải đứng mãi khi nào lão cho phép mới được ngồi. Cái đó làm cho lão ta khoái lắm, tỏ ra rất vui vẻ, thú vị. Nhưng quận công thì lại thấy khó chịu về chuyện này. Dù thế, Nhà vua vẫn tỏ vẻ rất thân mật với quận công. Lão nói rằng tất cả dòng công tước Bilgewater đều được vua cha của lão ta tưởng đến và vẫn được vời vào cung điện luôn. Nhưng quận công có vẻ bực tức. Lát sau, nhà vua lại nói:

- Chúng ta chẳng ở cùng với nhau trên cái bè gỗ này bao lâu nữa, Bilgewater ạ, vậy thì hà cớ gì mà anh phải buồn? Tôi sinh ra không phải là quận công, đâu phải lỗi tại tôi. Anh sinh ra không phải là vua, cũng đâu phải lỗi tại anh. Thế thì việc gì mà phải nghĩ ngợi? Chấp nhận và tận dụng hoàn cảnh của mình là điều mà chúng ta nên làm. Hơn nữa cuộc sống nơi đây không đến mức quá khó chịu, thức ăn, thức uống vẫn đầy đủ. Thôi, ta bắt tay nhau đi, quận công, chúng ta là bạn cơ mà.

Quận công chìa tay ra bắt. Tôi và Jim thấy thế cũng mừng. Không khí đang nặng nề bỗng tiêu tan và chúng tôi thấy như vậy cũng vui lây. Trên một chiếc bè, mọi người phải vui vẻ, hòa thuận với nhau thì cuộc sống mới dễ chịu đôi phút. Chẳng bao lâu tôi mới nhận ra hai gã này chẳng phải là vua hay quận công gì cả mà chỉ là những tên lưu manh chuyên lừa đảo, trộm cướp. Nhưng tôi không hé răng nói nửa lời mà cũng chẳng tỏ thái độ gì cả. Đó là cách tốt nhất để không gây ra những chuyện cãi cọ rắc rối. Nếu chúng muốn được gọi là vua hay quận công thì tôi cũng gọi miễn sao cho gia đình êm ấm. Tôi cũng không nói với Jim vì xét cũng chẳng có ích lợi gì. Nếu như tôi không học được cái gì khác của bố tôi thì ở đây tôi đã học được một điều là: cứ sống chung với những thứ người như thế này, và để mặc cho họ muốn làm gì thì làm.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom