Cập nhật mới

Dịch Full Cô Gái Trong Trang Sách

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,226
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20: Thành phố của các thiên thần


Điều quan trọng không phải là những cú đòn bạn tung ra mà là những thứ bạn phải nhận và chống đỡ để tiến lên.

Randy PAUSCH

Cabo San Lucas

Khách sạn La Puerta del Paraíso

Phòng 12

Một tia sáng ban ngày lọt vào qua những tấm rèm. Billie mở hé mắt, ngáp dài và uể oải vươn mình. Chiếc đồng hồ báo thức điện tử chỉ hơn chín giờ. Cô trở mình trên tấm đệm. Cách đó vài mét, Tom nằm co quắp, say sưa ngủ trên một chiếc giường khác. Mệt nhoài, mình mẩy thì đau nhức, họ đến khách sạn vào giữa đêm. Chiếc scooter cũ kỹ của Pablo tắc tị khi còn cách điểm đến cả chục cây số, họ buộc phải cuốc bộ nốt hành trình tới địa điểm nghỉ mát và cãi vã nhau suốt hàng giờ đồng hồ trên đường đi.

Mặc chiếc quần lót và áo hai dây, Billie nhảy khỏi giường rồi rón rén đi về phía tràng kỷ. Ngoài hai chiếc giường cỡ lớn, căn phòng còn có một lò sưởi trung tâm và một phòng khách rộng rãi, bài trí bằng những đồ gỗ Mêhicô kiểu cổ pha lẫn với những món đồ công nghệ: màn hình phẳng, đầu đĩa, wifi... Rùng mình vì lạnh, cô gái khoác lên người chiếc áo vest của Tom rồi đi ra ngoài qua cửa sổ sát đất.

Vừa bước ra bên ngoài, cô đã choáng ngợp. Đêm qua, vẫn còn tức giận và quá mệt mỏi nên khi tới khách sạn họ đi ngủ ngay, không có thời gian mà tận hưởng khung cảnh. Nhưng sáng nay thì...

Billie bước ra khoảng sân hiên ngập tràn ánh nắng. Từ đây, cô có thể bao quát toàn bộ phần nhô ra của bán đảo Baja, điểm gặp gỡ kỳ diệu giữa Thái Bình Dương và biển Cortés. Cô đã bao giờ được chiêm ngưỡng một khung cảnh say đắm lòng người đến thế này chưa? Theo như cô nhớ thì hẳn là chưa. Cô chống khuỷu tay lên lan can, khẽ mỉm cười và đôi mắt ánh lên lấp lánh. Phía trước rặng núi, hàng trăm ngôi nhà nhỏ nằm kề sát nhau hài hòa chạy dọc theo một bãi biển cát trắng, đẫm mình trước đại dương xanh thẳm. Cái tên của khách sạn - La Puerta del Paraíso - hứa hẹn cánh cửa mở ra thiên đường. Quả thật là cũng chẳng còn xa nữa...

Cô tiến lại gần chiếc kính viễn vọng đặt trên giá dành cho những ai tập tành làm nhà thiên văn học nhưng thay vì quan sát bầu trời hay rặng núi, cô lại hướng kính về phía bể bơi khách sạn. Nằm trên ba tầng khác nhau là những chiếc bể lớn, ngập tràn nước, xuống đến tận bãi biển và trông như hòa lẫn vào với biển.

Nổi lên giữa làn nước là những căn lều nhỏ được thuê riêng dành cho những beautiful people ra tắm nắng dưới mái lá.

Mắt dán chặt vào ống kính, Billie như mê đi:

Anh chàng với chiếc mũ phớt kia trông giống hệt Bono! Còn quý bà tóc vàng ngồi cùng mấy đứa trẻ kia giống Claudia Schiffer đến kỳ lạ! Cô nàng tóc nâu nổi loạn, xăm từ đầu đến chân cùng mái tóc búi cao kia, lạy Chúa, đó chính là...

Cô cứ mải mê ngắm nghía như vậy một lúc, cho tới khi một cơn gió nhẹ ùa đến, cô liền ra ngồi cuộn mình trong một chiếc ghế bành bằng mây đan. Khi xoa xoa hai vai cho nóng người lên, cô thấy có gì đó trong túi trong áo vest. Đó là ví của Tom. Một chiếc ví kiểu cũ rất dày, bằng da ráp và cắt góc. Tò mò, cô mở ngay ví ra, không hề đắn đo. Chiếc ví căng phồng toàn tiền mặt nhận được khi đem cầm bức tranh. Nhưng cô không để ý đến tiền. Cô lại thấy bức ảnh của Aurore mà cô đã nhìn thấy hôm trước. Cô lật mặt sau và thấy dòng chữ phụ nữ:

Tình yêu với em là khi anh biến thành con dao để em đâm sâu vào lòng mình.

A

Ôi giời, một câu nói hẳn đã được cô nàng nghệ sĩ dương cầm chép lại từ đâu đó. Một kiểu tự coi mình trung tâm, làm ra vẻ day dứt và đau đớn để biến cô ta thành kẻ lãng mạn cổ điển.

Billie cất tấm ảnh vào chỗ cũ rồi tiếp tục xem xét. Chẳng có gì nhiều: thẻ tín dụng, hộ chiếu, hai viên Advil. Chỉ có thế. Vậy sao ở phía đáy ví lại phồng lên như thế này? Cô xem xét chiếc ví kỹ hơn thì phát hiện ra một dạng lớp lót may bằng chỉ thô.

Ngạc nhiên, cô lấy kẹp tóc tách đường chỉ ra. Sau đó cô lắc lắc chiếc ví và một vật bằng kim loại sáng loáng rơi vào lòng bàn tay cô.

Đó là một vỏ đạn.

Đột nhiên tim cô đập thình thịch. Nhận ra mình vừa mới xâm phạm một bí mật, cô vội vàng nhét vỏ đạn vào đáy lớp lót. Và cô cảm thấy ở đó còn một vật nữa. Đó là một tấm ảnh cũ đã ố vàng và hơi mờ. Trong ảnh là một đôi trai gái đang ôm ghì lấy nhau trước một hàng rào chấn song bao quanh những tòa nhà bê tông. Cô dễ dàng nhận ra Tom, đoán rằng khi ấy anh chưa đến hai mươi tuổi. Cô gái còn trẻ hơn, rõ là chỉ khoảng mười bảy hoặc mười tám. Đó là một cô gái đẹp đúng kiểu Nam Mỹ. Dáng người cao lớn, thanh mảnh, cô có đôi mắt sáng tuyệt đẹp, đập vào mắt người xem dù cho bức ảnh đã cũ. Nhìn vào dáng họ có thể đoán ra chính cô gái đang cầm máy tự chụp.

- Này, cô tự tiện quá đấy!

Billie giật nảy mình, đánh rơi bức ảnh. Cô quay lại và...

o O o

Khách sạn La Puerta del Paraíso

Phòng 24

- Này, cậu tự tiện quá đấy! một giọng hét lên.

Mắt dán vào kính viễn vọng, Milo đang ngắm cơ thể nuột nà của hai cô nàng gần như ở trần nằm tắm nắng bên bể bơi thì Carole ùa ra sân hiên. Anh giật nảy mình quay lại thì thấy cô bạn đang nhìn mình đầy nghiêm khắc:

- Tớ báo cho cậu biết cái kính đó là để ngắm sao Tiên Hậu và Lạp Hộ chứ không phải để thỏa mãn con mắt của cậu!

- Có thể hai cô nàng ấy cũng tên là Tiên Hậu và Lạp Hộ, anh nhận xét rồi đưa tay chỉ hai cô nàng hấp dẫn kia.

- Cậu đừng tưởng thế là hay lắm...

- Nghe này Carole: cậu chẳng phải vợ cũng chẳng phải mẹ tớ! Vả lại, làm sao mà cậu vào được phòng tớ?

- Tớ là cảnh sát, anh bạn ạ! Cậu đừng tưởng cánh cửa phòng khách sạn vớ vẩn này có thể cản được tớ... cô nói rồi vứt một chiếc túi vải xuống ghế mây.

- Tớ thì tớ gọi thế là xâm phạm đời tư!

- Vậy thì gọi cảnh sát đi.

- Cậu cũng vậy, cậu đừng tưởng thế là hay lắm.

Mếch lòng, anh nhún vai và chuyển chủ đề:

- Tớ đã kiểm tra lại ở quầy lễ tân rồi. Tom đã thuê phòng cùng với “cô bạn gái”.

- Tớ biết, tớ đã điều tra: phòng 12, hai giường riêng biệt.

- Cậu chắc là hai giường riêng biệt chứ?

Cô thở dài:

- Hỏi thế thì cậu thật quá ngốc đấy.

- Thế còn Aurore? Cậu có điều tra về cô ta không?

- Dĩ nhiên! cô nói rồi cũng tới gần chiếc kính viễn vọng, hướng ống kính về phía bờ biển.

Cô chăm chú quan sát bãi cát mịn trải dài nơi những con sóng trắng xóa lướt qua.

- Và nếu thông tin của tớ chính xác thì giờ này Aurore đang ở... đúng chỗ này.

Cô cố định hướng kính để Milo có thể nhìn.

Quả thật, trong bộ đồ bơi sexy, Aurore xinh đẹp đang phóng mô tô lướt sóng cùng Rafael Barros.

- Anh chàng này cũng không tồi, phải không? Carole hỏi rồi lấy lại vị trí quan sát.

- Vậy sao? Cậu... cậu thấy thế nào?

- Cần phải biết nhìn chứ! Cậu có thấy bờ vai vuông vức cùng thân hình lực sĩ của anh ta không? Anh chàng này có khuôn mặt của một tài tử và vóc dáng một vị thần Hy Lạp!

- Thôi được rồi! Milo gắt lên rồi đẩy Carole ra, chiếm lấy kính viễn vọng. Tớ tưởng cái này là để quan sát Lạp Hộ và Tiên Hậu chứ...

Cô thoáng nở một nụ cười trong khi anh tìm cho mình một nạn nhân mới để rình mò.

- Cô nàng tóc nâu hết sức bốc lửa với bộ ngực giả còn cái búi tóc kiểu rock’n’roll kia là...

- Phải, là cô ta đấy! Carole cắt ngang lời anh. Khi nào cậu thôi bỡn cợt thì làm ơn nói tớ biết chúng ta làm thế nào để trả tiền khách sạn đây?

- Tớ cũng chẳng biết nữa, Milo buồn bã thú nhận.

Anh rời mắt khỏi món “đồ chơi” của mình rồi nhấc cái túi thể thao của Carole đang để trên ghế và ngồi xuống trước mặt cô.

- Cái thứ này nặng đến cả tấn. Có gì trong đó thế?

- Một thứ tớ mang tới cho Tom.

Anh cau mày, ý muốn cô giải thích thêm.

- Sáng qua, trước lúc tới chỗ cậu, tớ đã qua nhà cậu ấy. Tớ muốn qua lục lọi xem có tìm được dấu vết gì nữa không. Tớ lên phòng cậu ấy và cậu biết không, bức tranh của Chagall đã biến mất!

- Khỉ thật...

- Cậu có biết là có một chiếc két sắt được giấu đằng sau bức tranh không?

- Không.

Trong một thoáng, Milo lại le lói tia hy vọng. Có thể Tom có những khoản tiết kiệm bí mật và nó sẽ giúp họ trang trải được một phần nợ nần.

- Tớ tò mò quá nên đã thử vài mã khóa...

- Và cậu đã mở được cái két, anh đoán.

- Phải, khi thử dãy số 07071994.

- Làm sao cậu đoán ra? anh mỉa mai. Ý tưởng xuất thần à?

Cô không muốn tiếp tục châm chọc.

- Đó đơn giản là ngày sinh nhật thứ hai mươi của cậu ấy: ngày mùng 7 tháng Bảy năm 1994.

Nhắc đến chuyện này, Milo sa sầm mặt mày rồi khe khẽ hỏi:

- Lúc ấy, không có tớ ở đó, đúng không?

- Ừ... cậu đang ở tù.

Một thiên thần vụt qua phóng vài mũi tên sầu muộn vào trái tim Milo. Những bóng ma và lũ quỷ dữ vẫn luôn ở đó, sẵn sàng trỗi dậy ngay khi anh mất cảnh giác. Trong đầu anh, những hình ảnh đối lập chồng chéo lên nhau: khung cảnh xa hoa nơi khách sạn này và cảnh nhớp nhúa chốn ngục tù. Thiên đường của kẻ giàu và địa ngục của dân nghèo...

Mười lăm năm trước, anh đã bị giam chín tháng tại nhà tù dành cho phạm nhân nam Chino. Một chặng đường dài đen tối. Một cuộc thanh trừng đau đớn chấm dứt những năm tháng khủng khiếp của anh. Kể từ đó, bất chấp nỗ lực hòng làm lại cuộc đời của anh, cuộc sống vẫn luôn là một mảnh đất trơn trượt, bất ổn, chỉ chực vỡ vụn dưới mỗi bước chân anh còn quá khứ thì như một trái lựu đạn đã rút chốt, có thể khiến đầu anh nổ tung bất cứ lúc nào.

Anh chớp chớp mắt mấy lần để khỏi đắm chìm trong những ký ức giày vò tâm can.

- Được rồi, vậy trong két có gì? anh hỏi, giọng tỉnh bơ.

- Món quà tớ tặng cậu ấy dịp sinh nhật tròn hai mươi.

- Tớ xem được không?

Cô gật đầu.

Milo nhấc túi đặt lên bàn rồi kéo khóa.

o O o

Phòng 12

- Cô làm gì với đồ đạc của tôi thế hả? tôi hét lên rồi giật lấy chiếc ví từ tay Billie.

- Anh đừng tức giận.

Tôi khó nhọc lắm mới thoát khỏi trạng thái gần như hôn mê. Mồm miệng khô khốc, mình mẩy nhức mỏi, mắt cá chân đau đớn và cảm giác khó chịu như vừa trải qua một đêm trong máy giặt.

- Tôi căm ghét những kẻ tò mò, thóc mách! Cô đúng là có đủ mọi loại tật xấu trên đời này!

- À vâng, đúng rồi, và tóm lại thì do ai mà thế?

- Cuộc sống riêng tư rất quan trọng! Tôi biết cô chẳng bao giờ thèm đọc sách nhưng khi nào có nhã hứng cô làm ơn hãy liếc qua sách của Soljenitsyne. Ông ta đã viết một câu cực đúng: “Tự do của chúng ta được tạo dựng trên những gì người khác không biết về cuộc đời của chúng ta.”

- Phải rồi, chính xác đấy, và tôi chỉ muốn cân bằng lại cán cân thôi, cô ta cãi.

- Cán cân nào?

- Anh biết mọi thứ về đời tôi... Vậy nên tôi có tò mò một chút về đời anh thì cũng là chuyện bình thường, đúng không?

- Không, không bình thường! Chẳng có gì bình thường cả. Lẽ ra cô không nên rời khỏi thế giới tưởng tượng và tôi cũng chẳng nên theo chân cô tới đây làm gì.

- Sáng nay anh mới đáng yêu làm sao.

Tôi có nằm mơ không... Chính cô ta lại đang trách cứ tôi!

- Nghe này: có thể cô có tài xoay chuyển tình hình theo hướng có lợi cho mình, nhưng với tôi thì không ăn thua gì đâu.

- Cô gái này là ai? cô ta chỉ vào tấm ảnh và hỏi tôi.

- Đó là em gái giáo hoàng, câu trả lời đã vừa ý cô chưa?

- Chưa, anh chẳng biết đối đáp gì cả. Ngay cả trong sách, anh cũng chẳng dám.

Cô ta mới táo tợn làm sao!

- Đó là Carole, một cô bạn thời thơ ấu.

- Tại sao anh lại giữ ảnh cô ấy trong ví như một di vật thế này?

Tôi nhìn cô ta đầy tức giận và khinh bỉ.

- Ôi, mẹ kiếp! cô ta thốt lên rồi rời sân hiên. Vả lại tôi mặc xác cái cô Carole của anh!

Tôi nhìn vào tấm ảnh đã ố vàng viền khung trắng trên tay mình. Mấy năm trước, tôi đã khâu nó vào ví của mình nhưng chưa bao giờ xem lại.

Ký ức dần ùa về. Đầu óc tôi mụ đi đưa tôi về mười sáu năm về trước, Carole đang ở trong vòng tay tôi và hét lên với tôi:

- Thôi nào! Đừng ngọ ngoạy nữa, Tom! Cười lên nào!

Tách, brừưưư. Tôi như được nghe lại thứ âm thanh đặc trưng phát ra khi bức ảnh được đẩy ra từ máy ảnh chụp lấy ngay.

Tôi thấy mình đang chộp ngay lấy bức ảnh trước sự phản đối của cô ấy:

- Này! Cẩn thận chứ! Cậu sẽ chạm tay lên mặt ảnh mất, đợi nó khô đã!

Tôi thấy cô ấy đang đuổi theo mình trong khi tôi huơ huơ tấm ảnh cho mau khô.

- Xem nào! Xem nào!

Rồi sau đó là ba phút chờ đợi diệu kỳ, trong lúc ấy, cô ấy tựa vào vai tôi, mong ngóng hình ảnh từ từ hiện ra trên giấy và nụ cười rạng ngời của cô ấy khi thấy kết quả cuối cùng!

o O o

Billie đặt một khay đồ ăn sáng lên mặt bàn bằng gỗ tếch.

- OK, cô ta thừa nhận, lẽ ra tôi không nên lục lọi đồ đạc của anh. Tôi đồng ý với cái ông Soljé-khỉ-gió của anh: mọi người đều có quyền có bí mật.

Tôi bình tĩnh lại và cô ta cũng dịu xuống. Cô ta rót cho tôi một tách cà phê; tôi phết bơ vào bánh cho cô ta.

- Hôm đó đã xảy ra chuyện gì vậy? cô ta hỏi tôi sau một lúc im lặng.

Tuy nhiên trong giọng cô ta không còn cái vẻ tò mò, thóc mách nữa. Có thể cô ta chỉ nghĩ rằng dù bề ngoài là thế nhưng tôi hẳn vẫn cần chia sẻ với cô ta về quãng đời ấy.

- Hôm đó là sinh nhật tôi, tôi bắt đầu. Sinh nhật lần thứ hai mươi...

o O o

Los Angeles

Khu MacArthur Park

7 tháng Bảy 1994

Mùa hè năm ấy nóng khủng khiếp. Cái nóng hủy hoại mọi thứ và biến thành phố thành chảo lửa. Trên sân bóng rổ, ánh nắng mặt trời đã làm biến dạng mặt sân nhựa đường nhưng không ngăn nổi khoảng chục gã trai cởi trần tự coi mình là Magic Johnson đang say sưa với rổ bóng.

- Này, Mr Freak[1]! Cho bọn tao xem mày làm được gì nào?

Tôi thậm chí còn chẳng ngẩng lên. Vả lại tôi cũng chẳng nghe thấy gì. Tôi mở máy nghe nhạc to hết cỡ. Đủ để tiếng beat và tiếng bass át được những lời nhục mạ. Tôi đi dọc theo hàng rào lưới sắt tới tận chỗ bãi đỗ xe nơi có độc một bóng cây rậm lá. Đó chẳng phải là một phòng đọc sách mát mẻ gì nhưng còn hơn là đứng chơ vơ mà đọc. Tôi ngồi xuống đám cỏ khô, dựa lưng vào thân cây.

Tôi đắm chìm trong không gian âm nhạc của riêng mình. Tôi nhìn đồng hồ: một giờ chiều. Vẫn còn nửa tiếng nữa mới tới giờ bắt xe buýt để đến Venice Beach bán kem trên lối đi ven biển. Đủ thời gian đọc vài trang trong tuyển tập chọn lọc các tác phẩm mà cô Miller, một giáo viên trẻ dạy văn ở trường, khuyên tôi nên đọc. Cô Miller khá giỏi và có tư tưởng đổi mới. Trong túi xách lộn xộn của tôi có Vua Lear của Shakespeare, Dịch hạch của Albert Camus, Trong lòng núi lửa của Malcolm Lowry và một nghìn tám trăm trang bốn tập Bộ tứ Los Angeles của James Ellroy.

Trong máy nghe nhạc của tôi là những lời hát rầu rĩ trong album mới nhất của REM. Rồi rất nhiều nhạc rap nữa. Thời ấy là những ngày vàng son của thể loại West Coast: flow của Dr Dre, Gansta Funk của Snoop Doggy Dogg và cơn giận của Tupac. Tôi vừa thích vừa ghét thể loại nhạc này. Đúng là phần lớn lời lẽ trong những bài hát này chẳng lấy gì làm cao sang: chúng ca tụng ma túy, chửi rủa cảnh sát, tình dục sống sượng, ngợi ca luật lệ của súng đạn và ô tô. Nhưng ít nhất, chúng cũng nói về cuộc sống thường nhật của chúng tôi và những gì xung quanh chúng tôi: về phố xá, khu ổ chuột, nỗi tuyệt vọng, cuộc chiến giữa các băng đảng, những tay cớm dữ tợn và những cô gái chửa hoang ở tuổi mười lăm rồi sinh con ngay trong nhà vệ sinh trường học. Và đặc biệt, trong các bài hát cũng như trong khu phố, ma túy có ở khắp mọi nơi và giải thích mọi thứ: quyền lực, cớm, bạo lực và cái chết. Hơn nữa, các rappeur còn tạo cho chúng tôi cảm giác họ cũng sống giống như chúng tôi: cũng lang thang dưới chân các tòa nhà, đọ súng với cớm, và nếu không thấy xuống phố thì chỉ có đang ngồi tù hoặc trong bệnh viện.

Tôi thấy Carole từ xa đi lại. Cô ấy mặc một chiếc váy sáng màu nên trông có vẻ thanh mảnh hơn. Nhưng đây không phải kiểu của cô ấy. Giống như bao cô gái khác trong khu này, cô ấy thường giấu vẻ nữ tính của mình dưới những bộ đồ thể thao, những chiếc áo thun có mũ, áo phông size XXL hay quần soóc của cầu thủ bóng rổ làm eo to gấp ba lần. Khoác trên vai một chiếc túi thể thao to tướng, cô ấy đi qua đám thanh niên, dửng dưng trước những lời chế giễu hay những câu nhận xét khiếm nhã để tới “ốc đảo màu xanh” của tôi.

- Chào Tom.

- Chào, tôi vừa nói vừa tháo tai nghe ra.

- Cậu đang nghe gì thế?

Chúng tôi quen nhau đã mười năm. Không kể Milo thì Carole là cô bạn duy nhất của tôi. Là người duy nhất (trừ cô Miller) tôi có thể thực sự chuyện trò. Sợi dây tình cảm gắn kết chúng tôi cũng là duy nhất. Nó còn hơn cả tình anh em. Hơn cả tình yêu nam nữ. Nó là một “thứ khác” mà tôi rất khó gọi tên.

Chúng tôi biết nhau đã lâu nhưng từ bốn năm nay, có điều gì đó đã thay đổi. Một ngày, tôi phát hiện ra rằng địa ngục và nỗi kinh sợ ngụ ngay trong nhà bên cạnh, cách phòng tôi chưa đến chục mét. Rằng cô gái tôi vẫn gặp mỗi sáng nơi cầu thang thực ra đã chết từ bên trong tâm hồn. Rằng nhiều tối, khi bị coi như một thứ đồ vật, cô ấy đã phải chịu đựng một nỗi đày đọa khủng khiếp. Rằng ai đó đã hút máu cô ấy, cuộc đời cô ấy, nhựa sống trong cô ấy.

Tôi chẳng biết làm gì giúp cô ấy. Tôi đơn độc. Tôi mới mười sáu, không tiền bạc, không băng đảng, không súng ống cũng chẳng cơ bắp. Chỉ có một bộ não và ý chí, nhưng như thế chưa đủ để chống lại sự ti tiện.

Vậy là, tôi làm điều mình có thể: tôn trọng lời yêu cầu của cô ấy. Tôi không báo với ai và tôi đã bịa ra một câu chuyện. Một câu chuyện không có hồi kết dõi theo hành trình của Dalilah - một cô gái giống cô ấy như hai giọt nước - và Raphael, vị thiên thần hộ mệnh dõi theo cô từ thuở ấu thơ.

Suốt hai năm, gần như ngày nào tôi cũng gặp Carole và mỗi ngày lại hứa hẹn một bước tiến mới trong câu chuyện của tôi. Cô ấy nói rằng thế giới tưởng tượng này là tấm khiên giúp cô ấy chống đỡ lại những thử thách của cuộc đời. Rằng các nhân vật của tôi cùng những cuộc phiêu lưu của họ đưa cô ấy vào một thế giới ảo, nó giúp cô ấy thoát khỏi thực tế.

Áy náy vì không giúp được Carole theo một cách khác, càng ngày tôi lại càng chuyên tâm vào tưởng tượng ra các cuộc phiêu lưu của Dalilah. Tôi dành phần lớn thời gian rảnh rỗi vào công việc này, tôi tạo ra một thế giới với bối cảnh như trong các bộ phim tại một Los Angeles huyền bí và lãng mạn. Tôi tìm đọc tư liệu, tìm kiếm các truyền thuyết, ngốn ngấu những cuốn sách cũ kỹ viết về ma thuật. Tôi thức thâu đêm để các nhân vật của mình được sống từng ngày, họ cũng phải đối mặt với những quãng đời đen tối và đớn đau.

Sau nhiều tháng ròng, câu chuyện của tôi dần phát triển, chuyển từ một truyện kể hoang tưởng thành một câu chuyện tiền đề có thể biến thành một trường ca thực thụ. Tôi đặt cả trái tim mình vào đó, tất cả những gì tốt đẹp nhất trong tôi, mà không mảy may hay rằng mười lăm năm sau nó sẽ khiến tôi trở nên nổi tiếng và sẽ được hàng triệu người đón đọc.

Đó là lý do tại sao giờ đây tôi gần như không bao giờ trả lời phỏng vấn, tại sao tôi cố hết sức tránh mặt các nhà báo. Bởi vì quá trình phôi thai của Bộ ba Thiên thần là một bí mật mà tôi chỉ muốn chia sẻ với duy nhất một người trên đời.

- Thế nào, cậu đang nghe gì thế?

Giờ đây Carole đã mười bảy. Cô ấy mỉm cười, cô ấy xinh đẹp, cô ấy lại đầy nhựa sống, sinh lực và dự định. Và tôi biết cô ấy nghĩ đó là nhờ tôi.

- Một bài của Prince do Sinéad O’Connor hát lại, cậu không biết đâu.

- Cậu đừng có đùa! Ai mà chẳng biết Nothing compares 2 U!

Cô ấy đứng trước mặt tôi. Bóng cô ấy nổi bật trên nền trời tháng Bảy:

- Cậu có muốn đi xem Forrest Gump ở rạp Cinerama Dome không? Tối nay khởi chiếu đấy. Hình nhưng cũng không tồi đâu...

- Thôi... tôi nói không mấy hào hứng.

- Vậy chúng ta có thể thuê phim Groundhog Day về xem hoặc là xem X-Files?

- Tớ không xem được, Carole, chiều nay tớ phải làm.

- Vậy thì... cô ấy lại bắt đầu.

Vẻ bí hiểm, cô ấy lục trong túi thể thao lấy ra một chai Coca rồi lắc lắc như thể đó là sâm banh.

- ...chúng ta phải chúc mừng sinh nhật cậu ngay lập tức.

Trước khi tôi kịp phản ứng, cô đã mở nắp chai rồi vẩy đầy Coca lên người và mặt tôi.

- Thôi đi! Cậu điên à?

- Thôi mà, nó là Coca không đường đấy, không làm cậu bẩn đâu.

- Ai mà tin được!

Tôi vừa lau mặt vừa làm ra vẻ tức giận. Tôi rất thích được nhìn thấy nụ cười và tâm trạng vui vẻ của cô ấy.

- Chẳng phải ngày nào người ta cũng tròn hai mươi tuổi nên tớ sẽ tặng cậu một thứ đặc biệt, cô ấy long trọng tuyên bố.

Một lần nữa cô ấy lại cúi xuống lục túi rồi chìa cho tôi một hộp quà to tướng. Mới nhìn qua tôi đã thấy gói quà được bọc rất cẩn thận và đúng là từ một cửa hàng “xịn”. Cầm nó trên tay, tôi thấy nó khá nặng và tôi hơi bối rối. Carole cũng không xông xênh gì hơn tôi. Cô ấy cũng làm thêm nhiều nhưng tiền tiết kiệm của cô ấy gần như được dành hết để đóng học phí.

- Thôi, mở ra đi nào, đồ ngốc! Đừng có đứng như trời trồng với gói quà trên tay nữa!

Trong hộp các tông là một vật vẫn chưa thể đoán biết. Một vật quý báu với kẻ cạo giấy như tôi. Còn hơn cả cây bút với Charles Dickens hay chiếc máy đánh chữ Royal với Hemingway: một chiếc PowerBook 540c, đỉnh của các loại máy tính xách tay. Hai tháng nay, mỗi lần đi qua trước quầy kính của Computer’s Club, tôi đều không cầm được lòng mà dừng lại ngắm nghía. Tôi thuộc lòng các tính năng của nó: bộ vi xử lý với tốc độ 33 Mhz, ổ cứng 500 Mo, màn hình LCD sống động, modem trong, pin ba tiếng rưỡi, thế hệ đầu tiên được trang bị chuột trackpad. Một công cụ làm việc vô song nặng hơn ba cân với giá... 5000 đô la.

- Cậu không thể tặng tớ thứ này được, tôi nói.

- Phải tin là có chứ.

Tôi rất cảm động và cô ấy cũng vậy. Đôi mắt cô ấy long lanh và hẳn là mắt tôi cũng thế.

- Đây không phải là một món quà, Tom ạ, mà là một trách nhiệm.

- Tớ không hiểu...

- Tớ muốn một ngày nào đó cậu sẽ viết ra câu chuyện của Dalilah và của Hội Thiên thần. Tớ muốn câu chuyện ấy mang lại những điều tốt đẹp cho mọi người, giống như nó đã mang lại cho tớ.

- Nhưng chỉ cần giấy và bút là tớ viết được!

- Có thể thế nhưng khi cậu nhận món quà này thì giống như cậu đã ký vào bản cam kết. Một cam kết với tớ.

Tôi không biết trả lời thế nào nữa.

- Carole, cậu lấy đâu ra tiền mà mua?

- Cậu không phải lo: tớ xoay xở được.

Sau đó là một khoảng lặng, chúng tôi không ai nói gì. Tôi rất muốn ôm cô ấy vào lòng, thậm chí hôn cô ấy, thậm chí nói rằng tôi yêu cô ấy. Nhưng cả tôi lẫn cô ấy, chúng tôi chưa ai sẵn sàng cho điều ấy. Vậy nên tôi chỉ hứa một ngày nào đó sẽ viết ra câu chuyện, vì cô ấy.

Để xua đi nỗi xúc động, cô ấy lục tìm một thứ cuối cùng trong cái túi lớn của mình: một chiếc máy ảnh Polaroid cũ. Cô ấy choàng tay qua eo tôi, đưa máy ảnh lên và vừa tạo dáng vừa bảo tôi:

- Thôi nào! Đừng ngọ ngoạy nữa, Tom! Cười lên nào!

o O o

Khách sạn La Puerta del Paraíso

Phòng 12

- Chà... Cái cô Carole ấy thật là kỳ lạ... Billie thì thầm khi tôi kể xong câu chuyện.

Mắt cô ta tràn đầy vẻ trìu mến và tình người, như thể cô ta mới gặp tôi lần đầu.

- Giờ cô ấy làm gì?

- Cảnh sát, tôi nói rồi nhấp một ngụm cà phê đã nguội ngắt.

- Thế còn cái máy tính?

- Ở nhà tôi, trong két sắt. Những bản phác đầu tiên của Bộ ba Thiên thần là tôi viết về cô ấy. Cô thấy đấy: tôi đã giữ lời.

Cô ta không để cho tôi được vừa ý:

- Nếu anh viết nốt tập ba thì mới là giữ lời. Có một số thứ bắt đầu thì rất dễ nhưng chúng chỉ có ý nghĩa thực sự khi người ta hoàn thành chúng.

Tôi định bảo cô ta đừng nói những lời sẽ khiến cô ta phải hối tiếc như vậy nữa thì có người gõ cửa phòng.

Tôi mở cửa mà không đề phòng gì, tin chắc đó là người phục vụ, hoặc nhân viên quét dọn nhưng thay vì thế...

Tất cả chúng ta hẳn đều đã trải qua cảm giác này: có những thời điểm gia ân được một vị kiến trúc sư tối cao dựng nên, vị kiến trúc sư ấy có thể dệt nên giữa vạn vật những mối gắn kết vô hình để mang đến cho chúng ta chính xác thứ chúng ta cần vào đúng thời điểm chúng ta cần:

- Chào cậu, Carole nói với tôi.

- Chào ông bạn, Milo nói. Vui vì được gặp cậu.

Chú thích

[1] Tiếng Anh trong nguyên bản: Ngài Quỷ sứ. (Chú thích của tác giả.)
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,226
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21: Amor, tequila y mariachi


Nàng đẹp như người đàn bà thuộc về kẻ khác.

Paul MORAND

Khu mua sắm trong khách sạn

Hai giờ sau

- Đi nào! Đừng có làm trò trẻ con nữa! Billie ra lệnh rồi kéo tay áo tôi.

- Sao cô lại bắt tôi tới đây?

- Vì anh cần có quần áo mới!

Trước sự cự tuyệt của tôi, cô ta đẩy tôi đi và tôi thấy mình bị cuốn vào cánh cửa quay rồi bị đẩy ra giữa đại sảnh xa hoa của khu mua sắm trong khách sạn.

- Cô điên rồi! tôi đứng dậy hét lên. Phải để ý mắt cá chân tôi chứ! Chẳng hiểu cô có biết nghĩ không nữa!

Cô ta khoanh tay lại hệt như bà giáo nghiêm khắc:

- Nghe này, anh ăn mặc lôi thôi lếch thếch, trông da anh như là không được ra nắng đến nửa năm nay rồi còn nhìn tóc anh thì tưởng ông thợ cắt tóc của anh đã chết từ năm ngoái.

- Thế thì sao?

- Thì phải thay đổi phong cách nếu như anh còn muốn quyến rũ phụ nữ! Đi nào, theo tôi!

Tôi theo chân cô ta trong tâm trạng bực bội, không sẵn sàng cho một buổi mua sắm. Gian phòng rộng mênh mông, bên trên là mái vòm kính trông chẳng có vẻ gì là Mêhicô mà chỉ na ná như kiểu trang trí theo phong cách Nghệ thuật mới của các cửa hàng sang trọng tại Luân Đôn, New York hay Paris. Treo trên trần là những chùm đèn pha lê, xen kẽ với những bức ảnh nghệ thuật khổ lớn của Brad Pitt, Robbie Williams và Cristiano Ronaldo. Chỗ này tỏa ra thứ mùi của những kẻ tự mê bản thân và kiêu căng.

- Nào, chúng ta sẽ bắt đầu chăm sóc khuôn mặt trước, Billie quyết định.

Chăm sóc khuôn mặt... tôi lắc đầu thở dài.

Mấy cô bán hàng ở quầy mỹ phẩm ăn mặc chải chuốt, trông cứ như được nhân bản vô tính. Họ giới thiệu sản phẩm cho chúng tôi nhưng Billie - như cá trong nước giữa đám nước hoa, kem dưỡng, thuốc xịt - khước từ ngay.

- Vẻ ngoài nhẵn nhụi, bảnh bao không hợp với anh, cô ta thẳng thắn nói.

Tôi nín nhịn mọi lời bình phẩm. Đúng là mấy tháng qua tôi chẳng thèm để mắt đến bản thân.

Cô ta cầm một cái giỏ lên rồi đặt vào đó ba tuýp đã chọn.

- Tắm, tẩy, khử trùng, cô ta liệt kê.

Rồi cô ta chuyển sang quầy khác, miệng vẫn tiếp tục nhận xét:

- Tôi đánh giá cao các bạn của anh. Anh bạn thân của anh, chẳng phải là một anh chàng kỳ lạ hay sao? Anh ta rất xúc động khi gặp lại anh... Thật cảm động.

Chúng tôi đã ở cùng Carole và Milo suốt hai tiếng vừa rồi. Cuộc gặp gỡ khiến tôi ấm lòng và dường như giúp tôi thấy đỡ bi đát hơn.

- Cô nghĩ họ có tin những gì chúng ta kể không?

- Tôi không biết, cô ta thú nhận. Chẳng phải là rất khó tin vào điều không thể sao?

o O o

Bể bơi khách sạn

Jimmy’s Bar

Ngụ dưới ngôi nhà tranh mái rạ, quán bar nổi bật giữa bể bơi, ngồi đó có thể phóng tầm mắt thưởng ngoạn khung cảnh tuyệt đẹp của bờ biển và toàn bộ sân gôn mười tám lỗ chạy dọc theo bờ biển đầy ngoạn mục.

- Sao, cậu nghĩ thế nào về cái cô Billie ấy? Carole lên tiếng hỏi.

- Cô ta sở hữu đôi chân có thể khiêu khích bất cứ gã đàn ông nào, Milo khẳng định rồi dùng ống hút uống một ngụm cocktail đựng trong sọ dừa.

Cô nhìn anh rụng rời.

- Một ngày nào đó cậu phải giải thích với tớ tại sao cậu lại quy tất cả mọi thứ thành chuyện ngủ với gái như thế...

Anh nhún vai như một đứa trẻ vừa bị ăn mắng. Trước mặt họ, nhân viên quầy bar đang lắc mạnh bình pha cocktail để chế món “Perfect After Eight” Carole đã gọi.

Milo cố gắng tiếp tục cuộc trò chuyện:

- Được rồi, thế còn cậu, cậu thấy thế nào? Đừng nói với tớ là cậu tin cái câu chuyện nhân vật tiểu thuyết nhảy ra từ trong sách đấy nhé?

- Tớ biết nghe thì có vẻ điên rồ, nhưng tớ thích ý tưởng đó, cô đáp, vẻ tư lự.

- Công nhận là nhìn bề ngoài thì giống nhau đến kinh ngạc nhưng tớ cóc tin vào truyện cổ tích lẫn thần tiên.

Carole khẽ gật đầu ra hiệu cảm ơn người phục vụ vừa mới đặt ly cocktail của cô xuống khay. Rồi cả hai rời quầy, đi xuống chỗ bể bơi và ngồi vào hai chiếc ghế vải gập.

- Dù cậu có thích hay không thì với dàn nhân vật đầy tổn thương, câu chuyện trong Bộ ba Thiên thần cũng vẫn có chút gì đó thật thần diệu, cô tiếp tục trong khi vẫn nhìn về phía đại dương.

Rồi như được đà, cô chia sẻ với Milo niềm tin sâu sắc của mình:

- Cuốn sách này rất đặc biệt. Khi tiết lộ cho độc giả không chỉ những đau đớn trên đời này mà cả những cứu cánh trước đây họ không mảy may nghi ngờ có tồn tại, cuốn sách đã thức tỉnh nhận thức của độc giả. Trước kia, câu chuyện này đã từng cứu sống tớ và thay đổi hoàn toàn đường đời chúng ta khi giúp cả ba chúng ta thoát khỏi khu MacArthur Park.

- Carole này?

- Sao?

- Cái cô gái tự nhận mình là Billie ấy là một kẻ lừa đảo, thế thôi. Một cô nàng lợi dụng lúc yếu đuối của Tom để đào mỏ cậu ấy.

- Cậu nghĩ cô ta sẽ đào được gì ở Tom đây? cô thốt lên. Nhờ có cậu mà cậu ấy không còn một xu dính túi!

- Đừng có quá đáng thế! Cậu tưởng tớ thấy dễ chịu lắm với cái tội lỗi đó hả? Tớ sẽ chẳng bao giờ tha thứ được cho mình vì đã phá hỏng tất cả. Lúc nào chuyện đó cũng ám ảnh tớ. Tớ nghĩ cách chuộc tội hàng tuần nay rồi.

Cô đứng dậy khỏi chiếc ghế dài và nghiêm khắc nhìn anh.

- So với một gã đang khốn khổ vì mặc cảm tội lỗi thì tớ thấy cậu quá thanh thản khi ung dung ngồi đây với chiếc mũ rơm và ly cocktail đựng trong sọ dừa đấy.

Cô quay gót đi về phía bãi biển.

- Cậu thật bất công!

Anh nhảy khỏi ghế, chạy đuổi theo cố giữ cô lại:

- Đợi tớ đã!

Đang chạy, anh trượt chân trên nền gạch ướt nước và ngã lộn nhào.

Mẹ kiếp...

o O o

Khu mua sắm trong khách sạn

- Đây là những thứ anh cần: một bánh xà phòng sữa dê. Và cả lọ gel tẩy da này nữa.

Billie tiếp tục mua sắm đồng thời dội vào mặt tôi những lời chỉ bảo và nhận xét về thẩm mỹ của tôi:

- Tôi thực tâm khuyên anh nên dùng kem chống nhăn. Anh đã đến độ tuổi nguy kịch của đàn ông rồi. Cho đến giờ lớp biểu bì dày vẫn bảo vệ anh trước tác động của thời gian nhưng việc ấy chấm dứt rồi: những nếp nhăn của anh sẽ sớm hằn sâu thêm thôi. Và anh làm ơn đừng có ngây thơ tin phụ nữ khi họ nói rằng như thế càng khiến anh quyến rũ hơn!

Một khi cô ta đã bắt đầu thì tôi thậm chí chẳng cần phải trả lời. Cô ta đảm nhận luôn cả buổi độc diễn:

- Vả lại, anh có vết hằn dưới mi mắt. Với những chỗ thâm quầng lên thế kia người ta sẽ tưởng anh vừa mới dự tiệc thâu đêm suốt sáng ba ngày liền đấy. Anh có biết rằng cần phải ngủ ít nhất tám tiếng mỗi đêm thì mới tốt cho tuần hoàn máu không?

- Hai ngày vừa qua, không thể nói rằng cô đã thực sự để tôi có thời gian mà...

- A, vậy là lỗi của tôi! Và đây nữa, một lọ colagen. Và một tuýp kem tắm nắng giúp anh có làn da như người dân ở đây. Tôi mà là anh thì sẽ đi một vòng thăm thú khu spa. Họ có máy móc công nghệ cao để đánh tan ngấn mỡ. Không à? Anh chắc chứ? Vậy thì tới chỗ thợ sửa móng tay nhé, móng tay anh chẳng khác gì tay người đánh xe.

- Cô có biết vì sao móng tay của tôi lại thế không hả?

Đột nhiên, khi chúng tôi tới khu vực bán nước hoa, đúng chỗ ngoặt vào một quầy hàng, tôi gần như chạm mặt với một bức ảnh khổ lớn chụp Rafael Barros. Nụ cười rạng ngời, cởi trần, vai rộng, ánh mắt cuồng nhiệt và râu quai nón kiểu James Blunt, vị thần Apollon là gương mặt đại diện cho một nhãn hàng xa xỉ và được chọn để quảng cáo cho loại nước hoa mới của họ: Indomptable.

Billie để mặc tôi ngấm hết cú sốc rồi mới thử an ủi:

- Tôi chắc rằng họ đã cho chỉnh sửa bức ảnh, cô ta khẽ khàng nói.

Nhưng tôi không muốn được thương hại.

- Làm ơn đừng nói nữa!

Để tôi không có cơ hội rầu rĩ, cô ta lôi tôi đi cùng, buộc tôi phải tham gia vào cuộc truy lùng kho báu của mình.

- Nhìn này! cô ta dừng lại trước một quầy hàng rồi hét lên. Đây chính là vũ khí tối thượng của chúng ta để tìm lại làn da tươi sáng cho anh: mặt nạ bơ.

- Không có chuyện tôi trát lên mặt cái thứ dành cho mấy gã pê đê đó đâu!

- Vậy thì tôi bó tay với làn da xám xịt của anh!

Tôi vừa bắt đầu sôi máu lên thì cô ta lại xoa dịu:

- Còn về khoản chăm sóc tóc thì tôi thú thực là xin chào thua bởi phải can đảm lắm mới chế ngự được cái đám tóc tai bù xù, rậm rì của anh! Chúng ta đã mua một lọ dầu gội kêratin nhưng tôi sẽ đặt lịch hẹn cho anh với Georgio, thợ cắt tóc trong khách sạn.

Được đà, cô ta qua luôn quầy quần áo nam giới.

- Nào, chuyển sang những thứ nghiêm túc thôi.

Như vị bếp trưởng đang chọn nguyên liệu nấu một món ăn tinh tế, cô ta lục lọi khắp các giá hàng:

- Xem nào, anh thử cái này, cái này, và... hừm... cái này xem sao.

Tôi bắt lấy một chiếc sơ mi hồng tím, một chiếc áo vest màu tím hoa cà cùng một chiếc quần bóng.

- Ờ... cô có chắc đây là đồ dành cho đàn ông không?

- Xin anh đấy, dù thế nào thì anh ta cũng không bị biến thành một thảm họa nam tính đâu! Thời đại này, một người “đàn ông đích thực” ăn mặc rất thanh tao. Như chiếc sơ mi ôm sát này chẳng hạn, tôi đã tặng Jack một cái như thế và...

Cô ta bỏ lửng câu giữa chừng vì chợt nhận ra mình nói hớ.

Vậy là, tôi lẳng chỗ quần áo lại cho cô ta rồi đi thẳng khỏi khu mua sắm, không lôi thôi gì.

Ôi, đàn bà... tôi thở dài khi bước vào vòng cửa quay.

o O o

Ôi, đàn bà... Milo thở dài.

Bông thấm máu nhét kín lỗ mũi, đầu ngửa lên trời, Milo từ chỗ trung tâm y tế của khách sạn về, tại đó bác sĩ vừa chăm sóc cho anh sau cú ngã. Vì Carole mà anh đã tự biến mình thành trò cười ở bể bơi, kết thúc cú ngã lộn nhào của mình trên người “Lạp Hộ và Tiên Hậu”, làm dập mông một cô, đổ ly cocktail đựng trong sọ dừa lên ngực cô kia.

Thật chẳng đúng lúc chút nào...

Khi đi ngang qua sảnh trước khu mua sắm, anh càng cẩn trọng hơn: sàn nhà thì trơn mà lại đông người qua lại.

Không phải là lúc ngã thêm một cú nữa, anh đang nghĩ thì một người đàn ông lao như tên lửa ra khỏi cửa, đâm sầm vào người anh.

o O o

- Làm ơn nhìn đường trước khi bước chứ! cậu ta ngã sóng soài dưới đất, rên rỉ.

- Milo! tôi thốt lên rồi đỡ cậu ta dậy.

- Tom!

- Cậu bị thương à?

- Không sao đâu, tớ sẽ kể cậu sau.

- Carole đâu?

- Mặc cô ấy.

- Đi uống một ly và ăn thứ gì đó chứ?

- Nhất trí!

Window on the Sea là nhà hàng để nghỉ ngơi, thư giãn trong khách sạn. Nằm trên ba tầng khách sạn, nhà hàng phục vụ đồ ăn kiểu buffet với những món đặc sản của hơn chục nước khác nhau. Trên những bức tường bằng đất nén có treo tranh của các nghệ sĩ địa phương: những bức tranh tĩnh vật hoặc chân dung, sử dụng gam màu mạnh nhắc người ta nhớ tới tranh của María Izquierdo và Rufino Tamayo. Thực khách có thể lựa chọn ngồi trong phòng điều hòa mát rượi hoặc ngồi các bàn ngoài trời. Chúng tôi ngồi bàn bên ngoài, chỗ đó có tầm nhìn tuyệt vời, có thể nhìn xuống bể bơi đang phơi mình trong ánh mặt trời và nhìn ra biển Cortés.

Milo liến thoắng:

- Tớ rất mừng vì thấy cậu thế này, bạn ạ. Cậu có vẻ khá hơn rồi, đúng không? Dù thế nào thì sắc mặt cậu cũng khá hơn suốt nửa năm vừa rồi. Đó là nhờ cô gái kia phải không?

- Đúng là cô ta đã lôi tớ ra khỏi hang, tôi thừa nhận.

Một nhóm bồi bàn hối hả phục vụ quanh các bàn với các khay đầy rượu Cristal Champagne, món sushi quấn kiểu California rolls với gan ngỗng, và món tôm hùm chiên giòn.

- Lẽ ra cậu không nên xốc nổi bỏ trốn như vậy, cậu ta trách cứ tôi, rồi lấy hai ly rượu cùng một đĩa đồ khai vị.

- Nhưng chính sự xốc nổi ấy đã cứu tớ! Vả lại, tớ tưởng là các cậu muốn giam nhốt tớ!

- Liệu pháp điều trị bằng giấc ngủ ấy, đó là một sai lầm, cậu ta thừa nhận, có vẻ hổ thẹn. Tớ quá tuyệt vọng vì không biết giúp cậu thế nào, tớ rất hoảng loạn vậy nên đã ngu ngốc phó mặc cho mụ Sophia Schnabel ấy.

- Được rồi, mọi chuyện đã là quá khứ, OK?

Chúng tôi nâng cốc vì tương lai, nhưng tôi vẫn thấy cậu ta lo lắng, băn khoăn điều gì đó:

- Tớ hỏi cậu cái này cho yên tâm, cuối cùng cậu ta cũng nói. Cô gái ấy, cậu không thực sự tin cô ta là Billie thật, phải không?

- Khó tin đến không thể tưởng tượng nổi nhưng tớ e là có.

- Cuối cùng thì cái chuyện giam nhốt cũng không phải là ý tưởng quá tệ, cậu ta làu bàu rồi ngấu nghiến một miếng tôm hùm.

Tôi định trả lời cậu ta thì thấy điện thoại rung báo hiệu có tin nhắn nên tôi mở ra xem.

Chào anh, Tom!

Tên người gửi hiện lên khiến tôi run rẩy. Tôi không thể không trả lời.

Chào em, Aurore!

Anh làm gì ở đây?

Em yên tâm: anh ở đây không phải vì em.

Milo đứng dậy và vẫn không thay đổi, cậu ta đọc tin nhắn của tôi với bạn gái cũ mà không hề ngại ngùng.

Vậy anh ở đây làm gì?

Anh đi nghỉ vài ngày. Em biết là anh đã phải trải qua một năm khó khăn.

Em hi vọng là anh không tìm cách khiến em ghen với cái cô gái tóc vàng đi cùng anh đến khu mua sắm.

- Cô ta mới táo tợn làm sao! Milo tức giận nói. Bảo cô ta cuốn xéo đi.

Nhưng trước khi tôi kịp chạm tay vào bàn phím điện thoại thì nàng đã gửi cho tôi một tin khác:

Và bảo với anh bạn thân của anh đừng có xúc phạm em nữa...

- Khốn nạn! cậu ta hét lên.

...và đừng có đứng đọc tin nhắn của em qua vai anh nữa.

Milo nhận tin này như nhận một cái tát và cậu ta xoi mói nhìn các bàn xung quanh.

- Cô ta ở dưới kia! cậu ta nói rồi chỉ một chiếc bàn kê trong góc, gần dãy bàn bày đồ ăn ngoài trời.

Tôi nhìn qua lan can: đi đôi giày nhẹ như giày múa ba lê và mặc một chiếc váy quấn bằng lụa, mắt dán vào chiếc BlackBerry, Aurore đang ngồi ăn trưa cùng Rafael Barros.

Để không nhập cuộc chơi nàng bày ra, tôi tắt điện thoại rồi bảo Milo bình tĩnh lại.

Cậu ta phải làm hai ly sâm banh liền mới được thế.

o O o

- Nào, giờ đã ổn hơn rồi thì cậu định thế nào? cậu ta lo lắng hỏi.

- Tớ nghĩ sẽ đi dạy học lại, tôi nói. Nhưng không phải tại Mỹ. Tớ đã có quá nhiều kỷ niệm ở Los Angeles.

- Vậy cậu định đi đâu?

- Có lẽ là Pháp. Tớ biết một trường trung học quốc tế ở Côte d’Azur, họ khá quan tâm đến hồ sơ của tớ. Tớ sẽ thử vận may.

- Vậy là cậu sẽ bỏ rơi bọn tớ... cậu ta bực bội nói.

- Chúng ta đã lớn cả rồi, Milo.

- Còn chuyện viết lách?

- Chấm dứt chuyện đó rồi.

Cậu ta định mở miệng phản đối nhưng chưa kịp hé ra từ nào thì một cơn lốc xoáy đã hiện ra phía sau tôi và nổi lên:

- Sao lại chấm dứt? Thế còn tôi thì sao! Billie hét lên.

Mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía chúng tôi tỏ vẻ trách móc. Với bản tính hay pha trò của Milo và cái kiểu sôi nổi quá mức của Billie, tôi biết chắc rằng chúng tôi chẳng có chỗ giữa cái đám toàn ngôi sao với tỷ phú này. Chỗ của chúng tôi là trong một ngôi nhà ngoại ô, nơi có thể nướng xúc xích trên lò than, uống bia và chơi vài trận bóng rổ.

- Anh đã hứa sẽ giúp tôi! Billie vẫn đứng ở chỗ bàn chúng tôi mà trách cứ.

Milo bồi thêm:

- Đúng là nếu cậu đã hứa thì...

- Ôi cậu, thôi ngay đi! tôi ngắt lời rồi chỉ ngón trỏ về phía cậu ta hăm dọa.

Tôi tóm lấy cánh tay cô gái lôi ra xa.

- Chúng ta thôi không lừa dối nhau nữa nhé, tôi nói. Tôi KHÔNG THỂ viết được nữa. Tôi KHÔNG MUỐN viết nữa. Thế đấy. Tôi không yêu cầu cô hiểu điều ấy, chỉ muốn cô chấp nhận nó.

- Còn tôi thì tôi muốn về nhà!

- Vậy thì từ nay hãy coi đây là nhà cô. Trong cái “cuộc sống thực” đáng nguyền rủa mà cô có vẻ rất thích này.

- Nhưng tôi muốn gặp lại bạn bè.

- Tôi tưởng cô chẳng có bạn bè gì! tôi bẻ lại.

- Ít nhất thì cũng để tôi được gặp lại Jack!

- Những gã để lên giường với cô ở đây không thiếu!

- Đầu óc anh thật có vấn đề với chuyện đó! Thế còn mẹ tôi! Ở đây cũng không thiếu mẹ hả?

- Nghe ngày: những gì xảy ra với cô không phải lỗi do tôi.

- Có thể, nhưng chúng ta đã ký thỏa thuận rồi! cô ta vừa nói vừa lôi từ trong túi ra một mẩu khăn giấy nhàu nát chính là hợp đồng của chúng tôi. Anh có cả đống nhược điểm nhưng ít nhất tôi cũng tin anh là người biết giữ lời.

Vẫn nắm chặt cánh tay cô ta, tôi lôi cô ta xuống những bậc cầu thang bằng đá dẫn đến dãy bàn bày đồ ăn gần bể bơi.

- Đừng có nói về một bản hợp đồng mà cô không thể hoàn thành nổi phần của mình! tôi vừa nói vừa hất cằm về phía chiếc bàn nơi Aurore cùng người tình đang ngồi xem chúng tôi diễn trò.

Tôi chẳng còn muốn tự huyễn hoặc mình hay sống trong ảo tưởng nữa.

- Thỏa thuận của chúng ta lỗi thời rồi: Aurore đã làm lại cuộc đời, cô chẳng bao giờ có thể giành lại cô ấy cho tôi nữa.

Cô ta nhìn tôi đầy thách thức.

- Anh muốn cá không?

Tôi dang tay ra, tỏ vẻ không hiểu.

- Để xem.

Cô ta nhẹ nhàng tiến lại gần tôi, để tay vào chỗ hõm nơi cổ tôi và với vẻ chậm rãi, mơn trớn, cô ta đặt một nụ hôn lên môi tôi. Đôi môi cô ta thật tươi tắn, ngọt ngào. Tôi rùng mình vì bất ngờ và khẽ lùi lại một chút. Rồi tôi thấy tim mình đập rộn lên, khơi dậy trong tôi những cảm xúc đã lịm tắt từ lâu. Và nếu như lúc đầu tôi dường như bị cưỡng ép nhận nụ hôn bất ngờ này thì giờ đây tôi lại chẳng muốn nó dừng lại.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,226
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22: Aurore


Cả hai chúng tôi đều lạc lối trong cánh rừng của một thời kỳ chuyển tiếp dữ dội; lạc lối trong nỗi cô đơn của chúng tôi; (...) lạc lối trong tình yêu tuyệt đối (...): những kẻ vô đạo bí hiểm bị tước đoạt cả hầm mộ lẫn Thượng đế.

Victoria OCAMPO, trong thư gửi Pierre DRIEU LA ROCHELLE

Bourbon Street Bar

Hai giờ sau

Một chùm những tia chớp vạch ngoằn ngoèo trên nền trời. Cơn giông ầm ì rồi trận mưa ào ào đổ xuống khách sạn khiến đám cọ nghiêng ngả, những mái lá rung lên và mặt nước nổi bọt li ti. Suốt một giờ qua, tôi trú trong phần sân hiên có mái che của một quán bar đặt trong ngôi nhà xây theo kiểu đồn điền thời thuộc địa, khiến người ta nhớ tới những căn nhà ở New Orleans. Cầm tách cà phê trên tay, tôi nhìn đám khách du lịch quay lại phòng khách sạn tiện nghi để tránh mưa.

Tôi cần ở một mình để lấy lại tinh thần. Tôi đang giận chính mình. Giận mình vì đã bối rối trước nụ hôn của Billie và đã sẵn sàng hùa theo trò lừa đảo hèn hạ ấy chỉ vì muốn làm Aurore ghen. Chúng tôi không phải mới đôi mươi và những trò trẻ con này chẳng có nghĩa lý gì.

Tôi nhíu mày rồi quay lại với công việc. Tôi tuyệt vọng nhìn con trỏ nhấp nháy phía trên, bên trái trang trắng. Tôi đã bật chiếc máy Mac cũ kỹ mà Carole mang theo với hy vọng có vẻ điên rồ rằng chiếc máy thuộc về quá khứ này có thể khơi lại mạch sáng tạo cho mình. Trên bàn phím này, vào thời kỳ “hoàng kim”, tôi đã viết hàng trăm trang sách, nhưng máy tính chẳng phải một cây đũa thần.

Không tập trung nổi, không viết nổi một từ, tôi mất đi mạch truyện của mình và cùng lúc niềm tin cũng bay biến luôn.

Cơn giông khiến bầu không khí trở nên nặng nề, ngột ngạt. Ngồi bất động trước màn hình, tôi thấy buồn nôn. Rồi chóng mặt. Tâm trí tôi đang ở nơi khác, bận tâm với những mối lo khác nên chỉ riêng việc viết phần mở đầu một chương thôi với tôi đã khó hơn việc chinh phục dãy Himalaya.

Tôi uống ngụm cà phê cuối cùng rồi đứng dậy gọi một tách khác. Ở bên trong, căn phòng mang dáng vẻ của một quán bar Anh. Gỗ ốp tường, đồ gỗ dát và tràng kỷ bọc mang lại cho căn phòng bầu không khí ấm áp, nồng nhiệt.

Tôi lại gần quầy và nhìn thấy bộ sưu tập rượu ấn tượng xếp ngay ngắn đằng sau quầy bar bằng gỗ gụ. Chỗ này khiến người ta muốn gọi một ly whisky hoặc cognac hơn là gọi cà phê, rồi vừa nhấm nháp vừa rít một điếu xì gà trên nền nhạc của Dean Martin.

Đúng lúc ấy, ở góc phòng, có ai đó vừa ngồi vào đàn dương cầm và chơi những nốt đầu tiên trong bản As Time Goes By. Tôi quay lại, gần như chắc rằng sẽ bắt gặp Sam, nghệ sĩ dương cầm da đen người Mỹ trong phim Casablanca.

Ngồi trên chiếc ghế da, Aurore mặc một chiếc áo thun dài casơmia cùng quần bó màu đen có trang trí những diềm đăng ten. Hai chân vắt tréo, đôi chân thon của nàng càng như dài ra thêm nhờ đôi giày cao gót màu đỏ. Nàng ngẩng đầu nhìn tôi trong khi vẫn tiếp tục chơi đàn. Móng tay nàng sơn màu tím và trên ngón trỏ bàn tay trái là một chiếc nhẫn đá màu chạm nổi. Trên cổ nàng, tôi nhận ra chữ thập nhỏ bằng đá đen nàng vẫn thường đeo mỗi buổi hòa nhạc.

Khác với tôi, những ngón tay nàng lướt nhẹ trên phím đàn. Nàng dễ dàng chuyển từ Casablanca sang bản La Complainte de la Butte rồi lại ứng tấu bản My Funny Valentine.

Quán bar gần như chẳng có khách nhưng vài người khách có mặt đều chăm chú nhìn Aurore như bị thôi miên, mê hoặc trước thần thái toát ra từ nàng: một sự pha trộn giữa vẻ bí hiểm của Marlène Dietrich, sức quyến rũ của Anna Netrebko và sự gợi cảm của Melody Gardot.

Còn tôi, chẳng tỉnh ngộ cũng chưa nguôi ngoai, tôi cũng là nạn nhân của sức hút ấy. Thật đau đớn khi gặp lại nàng. Khi ra đi, nàng đã mang theo tất cả những gì tươi sáng trong tôi: hy vọng của tôi, niềm tin của tôi, kỳ vọng vào tương lai của tôi. Nàng đã tát cạn khô cuộc đời tôi, tước đi mọi tiếng cười và sắc màu trong nó. Và nhất là nàng đã bóp nghẹt trái tim tôi, khiến nó chẳng thể thổn thức một lần nữa. Giờ đây tâm hồn tôi như một mảnh đất cằn khô, không cây cối cũng chẳng chim muông, mãi mãi giá băng trong cái buốt lạnh của tháng Giêng. Tôi chẳng ham muốn, cũng chẳng khát khao gì nữa ngoài việc hằng ngày đốt cháy các nơ ron thần kinh của mình bằng thuốc hòng xoa dịu đi những ký ức quá đau đớn mà tôi phải đương đầu.

o O o

Tôi phải lòng Aurore giống như người ta bị nhiễm thứ virus nguy hiểm trí mạng. Tôi gặp nàng tại sân bay Los Angeles trong hàng người đứng xếp hàng đợi làm thủ tục lên chuyến bay của hãng hàng không United Airlines tới Seoul. Tôi sang Hàn Quốc quảng bá sách, còn nàng sang biểu diễn các tác phẩm của Prokofiev. Tôi yêu nàng ngay từ giây phút đầu tiên, vì mọi thứ mà cũng chẳng vì điều gì cả: một nụ cười sầu muộn, một ánh mắt trong trẻo, cái cách nàng vén tóc ra sau tai thật đặc biệt, nhẹ nhàng quay đầu lại như trong một cảnh quay chậm. Rồi tôi yêu mỗi bước chuyển giọng của nàng, trí thông minh, óc hài hước của nàng, cái cách nàng hơi lùi lại một chút. Sau này, tôi yêu nàng bởi những điểm yếu bí mật của nàng, nỗi khó ở trong nàng, những vết thương dưới bộ giáp sắt của nàng. Trong suốt mấy tháng trời, chúng tôi biết đến niềm hạnh phúc khiến người khác phải ghen tị, nó nâng chúng tôi lên những tầng mây cao nhất: những phút giây lơ lửng, ngập tràn oxy và chóng mặt.

Dĩ nhiên tôi cũng biết trước rằng rồi sẽ phải trả giá. Tôi từng dạy văn và tôi đã rút ra những bài học cảnh giác từ các tác giả mình ngưỡng mộ: Stendhal và sự kết tinh của mình; Tolstoy và nàng Anna Karenina đã lao mình vào đoàn tàu sau khi hy sinh tất cả cho người tình; Ariane và Solal, đôi tình nhân trong Belle du Seigneur, đã kết thúc vết trượt dài đớn đau của những kẻ nghiện ngập bằng hơi ê te trong cảnh quạnh quẽ nhớp nhúa của một phòng khách sạn. Nhưng niềm đam mê giống như một thứ ma túy: những tác hại của nó ai cũng biết nhưng điều ấy không ngăn nổi họ tiếp tục hủy hoại bản thân sau khi tay đã nhúng chàm.

Tin tưởng mù quáng rằng mình chỉ có thể thực sự là mình khi ở bên nàng, tôi cuối cùng cũng tự thuyết phục được bản thân rằng tình yêu của chúng tôi sẽ bất diệt và rằng chúng tôi sẽ chiến thắng ngay ở chỗ kẻ khác đã thất bại. Nhưng Aurore đã không thể khơi dậy những gì là tốt đẹp nhất trong tôi. Nàng chỉ đưa tôi tới với những nét tính cách tôi vẫn căm ghét và từ lâu đã nhọc công chống chọi lại: ham muốn chiếm hữu, bị cái đẹp mê hoặc, sự yếu đuối khi tin rằng lẽ tất nhiên một gương mặt thiên thần sẽ ẩn chứa sau nó một tâm hồn đẹp đẽ, và niềm kiêu căng tự phụ khi được sánh đôi cùng một người đàn bà đẹp đến vậy, dấu hiệu cho thấy sự khác biệt với những con trống khác cùng loài.

Dĩ nhiên là cô ấy biết giữ chừng mực với sự nổi tiếng của mình và đoan chắc chẳng gì có thể lừa bịp nổi mình nhưng danh tiếng hiếm khi khiến cho nhân cách của người đã đạt được nó trở nên tốt hơn. Nó chỉ làm cho những vết thương do thói tự phụ gây ra trở nên trầm trọng hơn chứ chẳng xoa dịu nổi chúng.

Tôi ý thức được tất cả những điều ấy. Hơn ai hết, tôi biết rằng Aurore sống trong nỗi lo sợ khi thấy sắc đẹp của mình héo úa và tài năng nghệ thuật mai một: đó là hai thứ quyền lực diệu kỳ mà Thượng đế đã ban cho nàng, khiến nàng khác biệt với đồng loại. Tôi biết rằng giọng nói có vẻ như ung dung, tự tại của nàng có thể vỡ vụn. Tôi biết rằng đằng sau vẻ ngoài của một nữ thánh tự tin ẩn giấu một người phụ nữ tự ti, không cân bằng nổi đời sống nội tâm và không có thời gian cho những sầu muộn của mình khi phải lưu diễn khắp các thủ đô trên thế giới, lên lịch biểu diễn hòa nhạc trước cả ba năm, liên miên những mối quan hệ chớp nhoáng và phải cắt đứt không vương vấn. Tuy vậy tôi vẫn luôn giữ ý nghĩ rằng mình sẽ là nơi neo đậu của nàng và nàng cũng sẽ là bến đỗ của tôi. Để được vậy, chúng tôi lẽ ra phải đặt niềm tin nơi nhau nhưng nàng lại có thói quen trộn lẫn sự nhập nhằng, không rõ ràng với thói ghen tuông và coi đó như một thứ vũ khí để quyến rũ, thói quen ấy không giúp chúng tôi tạo ra được bầu không khí thanh bình. Cuối cùng, đôi chúng tôi cũng tan vỡ. Dĩ nhiên chúng tôi hẳn sẽ hạnh phúc trên một hòn đảo hoang, thế nhưng cuộc đời nào phải một hoang đảo. Bạn bè nàng, những kẻ giả danh trí thức Paris, New York hay Berlin, không đánh giá cao những tiểu thuyết bình dân của tôi, trong khi ấy, bạn bè tôi, Milo và Carole lại thấy nàng đua đòi, kiêu kỳ và ích kỷ.

o O o

Cơn giông ngày càng dữ dội, bít kín các ô cửa sổ bằng một màn mưa dày. Trong bầu không khí êm dịu, thanh tao của quán Bourbon Street Bar, Aurore chơi nốt những hợp âm cuối cùng của bài hát A Case Of You mà nàng vừa thể hiện bằng chất giọng mượt mà kiểu nhạc blues.

Giữa những tiếng vỗ tay, nàng uống một ngụm vang Bordeaux trong chiếc ly đặt trên đàn dương cầm rồi cúi đầu cảm ơn khán giả. Sau đó nàng đóng đàn lại ra hiệu buổi diễn đã kết thúc.

- Thật quá cuốn hút, tôi nói khi tiến lại gần nàng. Norah Jones hẳn sẽ phải lo lắng nếu em dấn thân vào thể loại này.

Nàng chìa cho tôi ly rượu của nàng như thách thức:

- Xem anh có còn nhớ không.

Tôi kề môi vào chỗ nàng vừa đặt môi uống và thử nếm thứ rượu vang ấy. Nàng đã thử hướng dẫn tôi tập tọe học cách nếm rượu, niềm say mê của nàng, nhưng nàng đã bỏ tôi trước khi tôi lĩnh hội được những điều căn bản nhất.

- Ừm... loại château-latour 1982, tôi đoán mò được chăng hay chớ.

Nàng nở một nụ cười trước vẻ thiếu tự tin của tôi rồi cải chính:

- Château-margaux 1990.

- Anh vẫn trung thành với Coca light: sẽ chẳng có gì phức tạp với chuyện niên hiệu cả.

Nàng cười như đã từng cười trước đây, khi chúng tôi còn yêu nhau. Mặt nàng vẫn chuyển động theo cách ấy, thật chậm, như thói quen của nàng mỗi khi muốn đùa và một lọn tóc vàng tuột khỏi chiếc kẹp tóc.

- Em khỏe không?

- Em khỏe, nàng đáp. Còn anh thì ngược lại, trông anh cứ như sống ở thời kỳ đồ đá ấy, nàng nhận xét rồi ra hiệu ám chỉ bộ râu của tôi. Thế còn miệng anh thì sao? Họ đã khâu lại cho anh chưa?

Bối rối, tôi nhíu mày.

- Khâu lại cái gì?

- Phần môi đã bị cô gái tóc vàng cắn đứt ở nhà hàng ấy. Bạn gái mới của anh đấy à?

Tôi quay ra phía quầy gọi “thứ tương tự với cô đây” để lẩn khéo câu hỏi.

Nàng tiếp tục:

- Cô ta đẹp đấy. Trông không lịch lãm lắm nhưng đẹp. Dù thế nào thì trông hai người cũng có vẻ nồng nhiệt...

Tôi phản công:

- Còn em, anh chàng vận động viên của em thế nào? Có thể đầu óc không được nhanh nhẹn cho lắm, nhưng anh ta đẹp trai đấy. Dù thế nào thì hai người cũng thật đẹp đôi. Và theo những gì anh đọc được thì đây là tình yêu vĩ đại của em.

- Giờ anh đọc cả loại báo đó nữa à? Họ đã viết toàn những điều ngu ngốc về chúng ta nên em nghĩ anh sẽ chẳng bao giờ sờ đến chúng. Còn về tình yêu vĩ đại thì... Thôi nào Tom, anh biết là em chẳng bao giờ tin vào điều ấy mà.

- Kể cả với anh ư?

Nàng uống một hớp rượu nữa rồi rời ghế, ra đứng chống khuỷu tay lên cửa sổ.

- Trừ chuyện của chúng ta ra thì những mối tình của em chưa bao giờ mãnh liệt cả. Chúng thú vị đấy, nhưng em luôn biết cách dè xẻn niềm đam mê.

Đó là một trong những điều khiến chúng tôi chia tay. Với tôi, tình yêu như là không khí để hít thở vậy. Thứ duy nhất mang lại cho cuộc sống chút hào nhoáng, rạng rỡ và mãnh liệt. Còn với nàng, lạ kỳ thay, tình yêu rốt cuộc chỉ là thứ ảo ảnh, phỉnh phờ.

Mắt nhìn xa xăm, nàng bộc bạch:

- Hợp rồi tan, đời là vậy. Một sáng nào đó, một người ở lại còn người kia ra đi mà vẫn không hiểu lý do vì sao. Em không thể trao cho người khác tất cả trong khi mối hiểm họa cứ treo lơ lửng trên đầu. Em không muốn tạo dựng cuộc đời mình dựa trên tình cảm bởi tình cảm là thứ biến đổi. Chúng bấp bênh và dễ vỡ. Anh tưởng là tình cảm sâu đậm nhưng chúng sẵn sàng bay biến trước một bóng hồng vụt qua, một nụ cười tán tỉnh. Em chơi nhạc bởi vì âm nhạc sẽ chẳng bao giờ rời bỏ em suốt đời này. Em yêu sách bởi chúng sẽ luôn ở đó. Hơn nữa... em chưa từng biết những người nào có thể yêu nhau trọn đời.

- Vì em sống trong thế giới của những kẻ ích kỷ, giữa đám nghệ sĩ và những người nổi tiếng, nơi các mối quan hệ tan vỡ với vận tốc ánh sáng.

Vẻ suy ngẫm, nàng từ từ quay sang phía sân hiên rồi đặt ly rượu của mình lên lan can.

- Chúng ta đã không biết cách vượt qua quãng thời gian ngất ngây ban đầu, nàng phân tích. Chúng ta đã không biết cách giữ lấy nhau...

- Chính em không biết cách giữ lấy mình, tôi đính chính chắc nịch. Chính em phải chịu trách nhiệm khi tình yêu của chúng ta tan vỡ.

Một tia chớp cuối cùng rạch ngang bầu trời, rồi cơn giông tan biến nhanh như khi nó xuất hiện.

- Còn anh, điều anh muốn, tôi tiếp tục, là được chia sẻ cuộc đời với em. Thực ra, theo anh nghĩ, tình yêu chính là như vậy: mong muốn được trải qua mọi chuyện bên nhau, tự làm giàu bản thân mình bằng những khác biệt với người kia.

Vẻ u ám dần biến mất và một khoảng trời xanh lộ ra giữa những đám mây.

- Còn anh, điều anh muốn, tôi nhấn mạnh, là tạo dựng một cái gì đó cùng với em. Anh đã sẵn sàng cho điều ấy, sẵn sàng vượt qua mọi thử thách bên em. Điều ấy sẽ chẳng dễ dàng - không bao giờ là dễ dàng - nhưng chính là thứ anh mong muốn: ở bên nhau hằng ngày để chiến thắng những cản trở trong cuộc đời.

Trong phòng chính, ai đó lại bắt đầu chơi dương cầm. Những nốt nhạc trong bản biến tấu India Song sâu lắng và khơi gợi vẳng đến chỗ chúng tôi.

Từ xa tôi thấy Rafael Barros đang tiến lại, tấm ván trượt kẹp dưới cánh tay. Để tránh phải giáp mặt anh ta, tôi bước xuống cầu thang gỗ, nhưng Aurore giữ lấy cổ tay tôi.

- Em biết tất cả những điều ấy Tom ạ. Em biết không có thứ gì là không thể đạt được, không có thứ gì chỉ mãi là hứa hẹn...

Giọng nàng xúc động như muốn vỡ òa ra; lớp véc ni phủ trên người phụ nữ quyến rũ đang dần bong tróc.

- Em biết rằng để xứng đáng với tình yêu con người ta phải dâng hiến cả thể xác lẫn tâm hồn mình, chấp nhận nguy cơ mất tất cả... nhưng em chưa sẵn sàng làm điều ấy và cho đến tận giờ em vẫn luôn chưa sẵn sàng...

Tôi vùng thoát khỏi tay nàng, bước xuống vài bậc cầu thang. Nàng nói với theo sau lưng tôi:

- ... Em mong anh tha thứ nếu đã khiến anh ngộ nhận điều ngược lại.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,226
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23: (những) nỗi cô đơn


Cô đơn là đáy sâu nhất trong phận làm người. Con người là sinh vật duy nhất cảm thấy cô đơn và đi tìm kiếm đồng loại.

Octavio PAZ

Vùng La Paz

Đầu giờ chiều

Đeo túi trên lưng, Carole nhảy từ mỏm đá này sang mỏm đá khác dọc theo bờ biển lồi lõm.

Cô dừng lại nhìn bầu trời. Cơn mưa rào chưa đến mười phút nhưng đủ khiến cô ướt rượt từ đầu đến chân. Quần áo ướt đẫm còn gương mặt ròng ròng nước mưa, cô cảm thấy làn nước âm ấm thấm qua cả lần áo phông.

Lạnh quá! cô nghĩ rồi dùng tay vắt nước trên tóc. Cô đã nghĩ tới chuyện mang hộp dụng cụ y tế và một chiếc ô nhưng lại không mang khăn tắm và quần áo để thay!

Mặt trời một ngày thu nắng đẹp đã thế chỗ những đám mây nhưng không đủ nóng để hong khô quần áo cô. Để không bị lạnh, cô quyết định tiếp tục chạy, vừa giữ vận tốc đều đều, vừa say sưa với vẻ đẹp của những vũng nhỏ nằm liền kề nhau, phía sau là những rặng núi phủ đầy xương rồng.

Đến chỗ ngoặt vào một con đường mòn thoai thoải, ngay gần bãi cát sỏi, một người đàn ông đột nhiên từ bụi rậm lao ra chặn đường. Cô vòng ra tránh người đàn ông nhưng chân vấp phải một đoạn rễ cây. Cô hét lên, không tránh được cú ngã oái oăm vào vòng tay kẻ quấy rầy.

- Là tớ đây, Carole! Milo trấn an và nhẹ nhàng đỡ lấy cô.

- Cậu làm cái quái gì ở đây thế? cô quát lên rồi gỡ tay Milo ra. Cậu đi theo tớ đấy à? Cậu điên thật rồi!

- Cậu vu khống tớ ngay được...

- Và đừng có nhìn tớ chằm chằm như thế nữa, cô hét lên khi chợt nhận ra quần áo đẫm nước đã để lộ những đường cong trên cơ thể cô.

- Tớ có mang khăn đây, anh đề nghị rồi lục tìm trong túi. Và cả quần áo khô nữa.

Cô bắt lấy cái túi và đi ra thay đồ sau một cây thông tán.

- Đừng có lợi dụng cơ hội để nhìn trộm, anh bạn đồi bại ạ. Tớ không phải là một trong những cô nàng người mẫu playboy của cậu đâu!

- Làm sao mà nhìn thấy được gì đằng sau tấm bình phong của cậu, anh nhận xét rồi đưa tay bắt lấy chiếc áo phông cùng quần soóc ẩm cô vừa ném ra.

- Sao cậu lại đi theo tớ ?

- Tớ muốn ở bên cậu một lúc vả lại tớ cũng có một điều muốn hỏi cậu.

- Tớ nghe đây.

- Vì sao lúc trước cậu nói rằng câu chuyện trong Bộ ba Thiên thần đã cứu cuộc đời cậu?

Cô im lặng một lát rồi trả lời dứt khoát:

- Khi nào cậu đỡ ngốc hơn có thể tớ sẽ giải thích cho cậu.

Thật lạ. Anh hiếm khi thấy cô có vẻ chua cay như thế. Tuy vậy, anh vẫn cố gắng tiếp tục chuyện trò:

- Sao cậu không rủ tớ đi dạo cùng?

- Tớ muốn được ở một mình Milo ạ. Như thế không phiền gì cậu chứ? cô vừa hỏi vừa xỏ vào người chiếc áo len vặn thừng.

- Nhưng cô đơn thì đến chết mất! Phải ở một mình là điều tồi tệ nhất.

Carole bước ra khỏi chỗ ẩn trong bộ quần áo đàn ông rộng thùng thình.

- Không đâu, Milo, điều tồi tệ nhất chính là buộc phải cáng đáng một gã như cậu.

Anh lãnh trọn cú đòn.

- Đúng ra thì cậu chê trách tớ điều gì?

- Thôi bỏ qua đi, phải mất hàng tiếng đồng hồ mới liệt kê ra hết được, cô nói rồi tiếp tục đi xuống bãi biển.

- Không, nói đi! Tớ tò mò quá, anh thừa nhận rồi chặn ngang bước chân cô.

- Ba sáu tuổi rồi nhưng cậu xử sự cứ như mới mười tám vậy, cô bắt đầu. Cậu vô trách nhiệm và vụng về, cậu chỉ là một gã được chăng hay chớ, với cậu chỉ có ba thứ quan trọng...

- Ba thứ?

- Xe, bia và gái, cô nói rõ hơn.

- Hết chưa?

- Chưa: tớ còn thấy rằng cậu hầu như chẳng đáng tin với một người phụ nữ, cô ném vào mặt anh khi đi tới bãi cát.

- Nói rõ hơn chút nữa đi.

Cô đứng trước mặt anh, tay chống nạnh và nhìn thẳng vào mắt anh:

- Cậu là kiểu đàn ông “qua đường”: những gã cao bồi mà phụ nữ sẵn sàng vui vẻ vào những lúc cô đơn và họ có thể đồng ý qua đêm với cậu, nhưng họ sẽ chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện để cậu trở thành bố những đứa con của họ.

- Không phải tất cả đều nghĩ như cậu! anh cãi.

- Tất cả đều nghĩ thế, Milo ạ. Mọi phụ nữ biết suy nghĩ một chút đều nghĩ hệt như tớ. Từ trước đến giờ cậu đã giới thiệu được với bọn tớ bao nhiêu cô gái đứng đắn rồi? Không một ai! Bọn tớ đã gặp hàng tá bạn gái cậu, nhưng đều không khác gì nhau: gái thoát y, loại gái gần như gái điếm, hoặc những cô nhân tình nghèo khổ mà cậu lợi dụng sự yếu đuối của họ để lượm về từ những hộp đêm thảm hại lúc tờ mờ sáng!

- Thế còn cậu, có thể biết cậu đã dẫn gã tử tế nào đến gặp chúng tớ chưa? À không, đúng rồi: tớ chưa bao giờ thấy cậu đi cùng một người đàn ông! Như thế không có gì là kỳ cục, đúng không, cô bạn? Cậu đã ba mươi và chưa một mối tình vắt vai!

- Có lẽ chỉ là bởi vì tớ đã không gửi fax thông báo cho cậu mỗi lần tớ hẹn hò với ai đó.

- Xem cậu nói kìa! Cậu hẳn đã thấy mình rất hợp với vai vợ một nhà văn, phải thế không? Rất hợp với cái thứ người ta thường viết ở bìa bốn. Đợi chút, tớ sẽ viết cho cậu: “Tom Boyd sống tại Boston, Massachusetts, cùng vợ Carole, hai con và một chú chó giống Labrador.” Đó chính là thứ cậu chờ đợi, không phải sao?

- Cậu điên rồi. Đừng nói những điều nực cười nữa.

- Còn cậu, cậu dối trá giỏi như một cái áo nịt ngực.

- Cậu lúc nào cũng ám chỉ đến chuyện tình dục: đúng là cậu có vấn đề về tình dục rồi, anh bạn tội nghiệp ạ.

- Cậu mới là người có vấn đề! anh đáp trả. Tại sao cậu không bao giờ mặc váy hoặc juýp? Tại sao cậu không bao giờ mặc áo tắm? Tại sao cậu lại nổi da gà mỗi lần người ta vuốt tay cậu? Cậu chỉ thích đàn bà hay bị làm sao?

Trước khi Milo kịp nói hết câu thì một cái tát ra trò đã giáng xuống mặt anh, mạnh như một cú đấm. Anh chỉ kịp nắm lấy cổ tay Carole để tránh một cái nữa.

- Thả tay tớ ra!

- Không, cậu phải bình tĩnh lại đã!

Cô giãy giụa dữ dội, dùng hết sức mình kéo tay ra để làm cho đối thủ mất thăng bằng. Cuối cùng cô ngã lăn ra cát, kéo theo cả Milo. Anh ngã đè lên người cô và đang định đứng dậy thì thấy nòng súng lục kề vào thái dương mình.

- Buông ra! cô vừa ra lệnh vừa lên cò súng.

Cô đã kịp chộp được khẩu súng trong túi xách của mình. Có thể cô đã quên không mang quần áo để thay nhưng không bao giờ quên mang theo súng.

- Được lắm, Milo lạnh lùng nói.

Anh lảo đảo đứng dậy buồn bã nhìn cô bạn lùi xa dần, hai tay siết chặt lấy báng súng.

Sau khi cô đã đi khuất, anh bần thần ngồi lại một mình hồi lâu bên một vũng nhỏ ven biển, bao quanh là cát và làn nước xanh trong.

Chiều hôm ấy, bóng những tòa nhà rẻ tiền tại khu MacArthur Park đổ đến tận mũi đất này ở Mêhicô.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,226
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24: La cucaracha


Tình yêu giống như thủy ngân trong lòng tay bạn. Để bàn tay mở, nó sẽ ở lại trong lòng bàn tay bạn; nắm chặt lại, nó sẽ chảy qua các kẽ ngón tay.

Dorothy PARKER

Nhà hàng La Hija de la Luna

Chín giờ tối

Tựa mình vào vách đá, nhà hàng sang trọng nhô ra cả bể bơi và biển Cortés. Buổi tối, khung cảnh cũng ấn tượng chẳng kém gì ban ngày, vừa lãng mạn vừa bí hiểm, những điểm bù lại vì nằm ở chỗ khuất nẻo. Những chiếc đèn lồng bằng đồng được treo dọc giàn nho còn những chiếc đèn măng xông màu sắc mang lại cho mỗi bàn ăn một thứ ánh sáng huyền ảo.

Mặc một chiếc váy điểm trang kim ánh bạc, Billie đi trước tôi tới quầy lễ tân nhà hàng. Cô phục vụ đón chào chúng tôi nồng nhiệt rồi đưa chúng tôi tới bàn nơi Milo ngồi đợi được vài phút. Rõ ràng là đã ngà ngà, cậu ta không thể giải thích nổi với tôi lý do Carole vắng mặt.

Cách đó vài bàn, ngồi giữa sân hiên nổi bật như viên kim cương giữa hộp nữ trang, Aurore và Rafael Barros phô trương mối tình nồng thắm của họ.

Không khí bữa ăn ủ ê. Ngay cả Billie, bình thường vốn vui vẻ, hồn nhiên là thế, giờ dường như đã mất đi vẻ hào hứng. Lộ rõ vẻ mệt mỏi, cô ta nhợt nhạt và uể oải. Đầu tối, tôi gặp cô ta trong phòng chúng tôi, vẫn đang nằm cuộn tròn trên giường dù đã ngủ cả buổi chiều. “Hậu quả gián tiếp của chuyến đi”, cô ta đánh liều nói vậy. Dù thế nào thì tôi cũng đã phải chiến đấu quyết liệt mới lôi được cô ta ra khỏi chăn.

- Có chuyện gì với Carole thế? cô ta hỏi Milo.

Đôi mắt bạn tôi đỏ ngầu còn khuôn mặt thì tiu nghỉu cứ như sắp đổ sụp xuống bàn đến nơi. Trong lúc cậu ta lúng búng mấy lời giải thích thì một giọng nam cao phá vỡ bầu không khí tĩnh lặng trong nhà hàng.

La cucaracha, la cucaracha,

Ya no puede caminar

Một ban nhạc Mariachi tới bàn chúng tôi và cất lên một bản serenade. Nhạc công của ban khá hùng hậu: hai người chơi violon, hai người thổi trompet, một tay ghi ta thùng, một ghi ta kiểu Mêhicô và một đàn vihuela.

Porque no tiene, porque le falta

Marijuana que fumar

Quần áo của họ cũng rất hợp cảnh: quần đen thêu hình, áo vest ngắn phủ đầy cúc bạc, cà vạt thắt kiểu điệu đà, dây lưng với khóa trang trí hình đại bàng, giày cao cổ đánh xi bóng loáng. Và không thể bỏ qua mũ phớt rộng vành, to như đĩa bay.

Tiếp sau giọng rền rĩ của ca sĩ là giọng của đội hợp xướng ồn ào thể hiện một khúc vui hơi quá, như thể họ đang hét để xả hơi chứ không phải biểu đạt niềm vui sống.

- Thật vô vị!

- Anh đùa đấy à, Billie hét tướng lên. Họ quá đẳng cấp đấy chứ!

Tôi nhìn cô ta đầy hoài nghi. Rõ ràng là quan niệm về đẳng cấp của chúng tôi quá khác nhau.

- Các anh làm ơn nhìn mà học tập nhé! cô ta vừa quay sang phía tôi và Milo vừa nói. Đây mới là cách thể hiện nam tính chuẩn xác nhất.

Người ca sĩ vuốt vuốt ria mép, và cảm thấy được tán thưởng nên lại hát tiếp một khúc mới, kèm theo những bước nhảy điệu nghệ.

Para bailar la bamba,

Se necesita una poca de gracia.

Una poca de gracia pa mi pa ti.

Arriba y arriba

Buổi diễn cứ thế tiếp tục gần hết buổi tối. Ban nhạc đi hết từ bàn này sang bàn khác, dở hết vốn tiết mục của mình ra: những bài hát nói về tình yêu, lòng dũng cảm, sắc đẹp của phụ nữ và những vùng đất cằn cỗi. Một buổi diễn tẻ nhạt, chán ngắt với tôi; nhưng lại là hiện thân cho tâm hồn cao thượng của cả một dân tộc với Billie.

Khi buổi diễn gần kết thúc thì chợt nghe thấy tiếng vù vù từ phía xa vẳng lại. Tất cả khách ăn đều đồng loạt quay ra phía biển. Một đốm sáng xuất hiện nơi chân trời. Tiếng vù vù ngày càng to hơn và hình bóng một chiếc thủy phi cơ cổ hiện ra trên nền trời. Bay là là, con chim sắt lượn qua nhà hàng rồi thả hoa xuống phần sân hiên. Trong vòng vài giây, một cơn mưa hoa hồng đủ loại màu sắc rơi xuống, phủ kín cả nền gạch bóng loáng của nhà hàng. Một tràng pháo tay rôm rả vang lên tán thưởng trận mưa hoa bất ngờ. Rồi chiếc thủy phi cơ lại hiện ra phía trên đầu chúng tôi, sau đó bắt đầu lượn chao đảo. Những làn khói phát sáng vẽ ra trên nền trời một hình trái tim, nó nhanh chóng tan biến đi trong màn đêm Mêhicô. Rồi tiếng la ó vang lên trong đám thực khách khi đèn đóm vụt tắt hết và người chủ khách sạn tiến về phía bàn của Aurore và Rafael Barros. Ông ta bê trên tay chiếc mâm bạc, bên trên là một chiếc nhẫn đính kim cương. Rồi Rafael quỳ xuống cầu hôn nàng, trong khi một cậu bồi bàn đứng lùi lại, sẵn sàng mở sâm banh chúc mừng khi Aurore gật đầu đồng ý. Nếu là người mê những thứ lãng mạn, mơ mộng và những mô típ hay được mô tả trên các catalogue thì sẽ thấy mọi thứ thật hoàn hảo, được tính toán, sắp đặt tỉ mỉ.

Nhưng chẳng phải đây chính xác là những thứ Aurore ghét hay sao?

o O o

Tôi ngồi quá xa nên không nghe được câu trả lời của nàng, nhưng lại đủ gần để đọc được qua môi nàng.

- E.m.r.ấ.t.t.i.ế.c... nàng thầm thì, nhưng tôi không thực sự biết được liệu những từ này là để dành cho chính bản thân nàng, cho đám thực khách hay cho Rafael Barros.

Tại sao đám đàn ông không suy nghĩ cặn kẽ hơn trước khi cầu hôn kiểu này nhỉ?

Bầu không khí im lặng nặng nề bao trùm, như thể cả nhà hàng đều đang bối rối thay cho vị thánh nhân đã bị truất ngôi, giờ chỉ còn là một gã đàn ông tội nghiệp đang quỳ gối, bất động như một bức tượng, sững sờ và ngây ra vì xấu hổ. Tôi đã từng trải qua chuyện này trước anh ta nên vào đúng lúc ấy, thay vì vui mừng hớn hở trước thất bại của kẻ thù, tôi lại thấy đồng cảm với anh ta.

Nhưng đấy là trước khi anh ta đứng dậy, lao qua gian phòng như một vị hoàng đế bị tổn thương và đấm cho tôi một cú bằng tay phải theo phong cách Mike Tyson, điều mà tôi không hề ngờ tới.

o O o

- Và gã đó đã lao thẳng về phía anh, thẳng tay giáng vào mặt anh một cú, bác sĩ Mortimer Philipson nói ngắn gọn.

Trung tâm y tế khách sạn

Bốn mươi lăm phút sau

- Gần gần như thế, tôi thừa nhận trong lúc ông ta khử trùng vết thương cho tôi.

- Anh may mắn đấy: mất nhiều máu lắm nhưng mũi anh chưa bị gãy.

- Lúc nào cũng là thế.

- Tuy nhiên mặt anh lại sưng phồng cứ như anh đã đánh nhau vậy. Mới đây anh có đánh lộn với ai không?

- Tôi cãi vã trong một quán bar với một gã Jesus nào đó cùng đám bạn của hắn, tôi trả lời chung chung.

- Và một bên mạng sườn anh bị thương cùng mắt cá chân bị bong gân nữa. Mắt cá chân anh sưng to lắm rồi. Tôi sẽ cho anh bôi thuốc mỡ, nhưng sáng mai anh phải quay lại đây để tôi băng nén lại cho. Sao anh lại bị thương như thế?

- Tôi ngã xuống nóc xe ô tô, tôi trả lời hết sức tự nhiên.

- Ừm... cuộc sống của anh có vẻ nguy hiểm đấy.

- Từ vài ngày nay thì có thể nói như vậy.

Trung tâm y tế của khách sạn không đơn giản chỉ là một phòng chữa bệnh nhỏ mà là một khu phức hợp hiện đại với các thiết bị công nghệ cao.

- Chúng tôi chữa trị cho những ngôi sao lớn nhất hành tinh, bác sĩ đáp lời tôi khi tôi thổ lộ với ông ta câu nhận xét.

Mortimer Philipson đã gần về hưu. Dáng người cao gầy kiểu Anh của ông ta chẳng hề ăn nhập với gương mặt có nước da rám rắng, đường nét thanh tú cùng đôi mắt sáng biết cười. Ông có dáng dấp của Peter O’Toole và hẳn sẽ được vào vai Lawrence xứ Ả rập lúc về già.

Ông ta ngừng xoa mắt cá chân tôi và bảo một cô y tá mang đôi nạng đến cho tôi.

- Tôi khuyên anh không nên đi lại trong vài ngày, ông ta cảnh báo rồi đưa cho tôi danh thiếp của mình, trên đó có ghi lịch hẹn cho tôi vào ngày mai.

Tôi cảm ơn ông ta rồi khó nhọc lê bước về phòng với đôi nạng.

o O o

Cả căn phòng đắm chìm trong thứ ánh sáng dịu nhẹ. Ở giữa phòng, một ngọn lửa nhỏ bập bùng trong lò sưởi, hắt ánh sáng lên tường và trần nhà. Tôi tìm Billie, nhưng cô ta không có cả trong phòng khách lẫn phòng tắm. Đoạn điệp khúc ầm ĩ một bài hát của Nina Simone vẳng đến tai tôi.

Tôi kéo bức rèm ở ô cửa sổ nhìn ra sân hiên và thấy cô gái, mắt lim dim, đang nằm tắm ngoài trời trong bể Jacuzzi ngập nước. Với những đường nét uốn lượn, bồn được khảm men xanh nước biển. Để dẫn nước vào bồn, một chiếc mỏ thiên nga đổ những tia nước nhỏ từ trên cao xuống, hệ thống chiếu sáng khéo léo đan xen biến làn nước thành đủ các màu cầu vồng.

- Anh tìm tôi đấy à? cô ta gây hấn với tôi, mắt vẫn nhắm.

Tôi tiến lại gần bồn tắm. Bao quanh nó là khoảng hai chục ngọn nến nhỏ, tạo thành một hàng rào lửa. Mặt nước lấp lánh như sâm banh và làn nước trong suốt càng tôn bật những bọt nước màu vàng chạy từ ống lên tận mặt nước.

Tôi đặt nạng xuống, cởi khuy áo và quần jean rồi thả mình vào làn nước. Nước nóng rẫy, sắp đến mức không chịu nổi. Nằm rải rác khắp bồn, khoảng ba mươi vòi nước nhỏ giúp mát xa thư giãn và thả lỏng cơ bắp, trong khi ấy ở bốn góc bồn, những chiếc loa được giấu kín phát ra một thứ nhạc mê hồn. Billie mở mắt ra và đưa tay vuốt nhẹ lên lớp băng mà bác sĩ Philipson vừa dính lên mũi tôi. Do ánh sáng từ dưới bồn hắt lên, gương mặt cô ta trong mờ còn tóc thì như bạc trắng.

- Chiến binh cũng cần nghỉ ngơi à? cô ta vừa đùa vừa tiến lại gần chỗ tôi.

Tôi thử tìm cách ngăn cô ta lại:

- Tôi nghĩ là không cần phải diễn lại màn ôm hôn đâu.

- Anh có dám nói là không thích thế không?

- Vấn đề không phải ở chỗ đó.

- Tuy vậy nó lại phát huy tác dụng đấy: vài giờ sau nụ hôn đó, Aurore yêu quý của anh đã hủy hôn một cách ầm ĩ.

- Có thể nhưng giờ làm gì có Aurore ở đây.

- Anh thì biết gì chứ? cô ta hỏi tôi rồi luồn vào vòng tay tôi. Phòng nào trong khách sạn này cũng nhìn ra sân hiên và tất cả mọi người đều chiếu tướng được nhau. Anh không nhận thấy thế à?

Giờ đây gương mặt cô ta chỉ cách mặt tôi vài xăng ti mét. Mắt cô ta màu xanh nhạt, lỗ chân lông giãn ra trước tác dụng của hơi nước và mồ hôi rịn ra trên trán cô ta.

- Có thể cô ấy đang nhìn chúng ta đấy, cô ta tiếp tục. Đừng có nói với tôi rằng như thế không kích thích anh đấy nhé...

Tôi căm ghét cái trò này. Nó chẳng giống với bản tính tôi. Tuy vậy, bị ký ức về nụ hôn trước cuốn đi, tôi để cô ta cầm tay mình đặt lên hông cô ta còn tay kia dưới hõm cổ.

Cô ta nhẹ nhàng đặt môi mình lên môi tôi và lưỡi tôi tìm kiếm lưỡi cô ta. Một lần nữa, phép màu nhiệm lại hiện ra, nhưng chỉ kéo dài vài giây thì một vị đắng nghét khiến tôi phải ngừng hôn.

Tôi thấy vị chua gắt đến khé cổ trong miệng nên đột nhiên lùi lại. Billie cũng có vẻ bàng hoàng. Lúc ấy tôi thấy môi cô ta đen sạm đi còn lưỡi thì chuyển thành màu tím. Mắt cô ta vẫn sáng rực nhưng làn da càng lúc càng nhợt nhạt. Cô ta rùng mình, hai hàm răng va vào nhau và cắn chặt lấy môi. Tôi lo lắng ra khỏi bể Jacuzzi, giúp cô ta bước ra rồi lấy khăn tắm choàng lên người cô ta. Tôi cảm thấy cô ta đang run rẩy, gần như sắp ngã khuỵu. Rồi cô ta ho một tràng dữ dội, được đà cô ta đẩy tôi ra để nghiêng mình về phía trước như muốn nôn. Cô ta nôn ra một đám dịch nhầy, đặc quánh rồi ngã vật xuống sàn.

Nhưng thứ tôi nhìn thấy không phải là thứ người ta vẫn nôn ra.

Mà là mực.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,226
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25: Hiểm họa khi mất em


Khi súng kề miệng, người ta chỉ có thể ú ớ mà thôi.

Lời thoại trong phim Fight Club của Chuck PALAHNIUK

Trung tâm y tế khách sạn

Một giờ sáng

- Anh là chồng cô ấy à? bác sĩ Philipson vừa hỏi vừa khép cánh cửa phòng nơi Billie vừa thiếp đi.

- Ờ... không, không phải như thế.

- Chúng tôi là anh họ của cô ấy, Milo khẳng định. Chúng tôi là những người thân duy nhất của cô ấy.

- Ừm... và anh thường xuyên tắm với “em họ” của mình hả? vị bác sĩ đưa mắt nhìn tôi mỉa mai hỏi.

Một tiếng rưỡi trước, khi đang chuẩn bị đánh một cú thật nhẹ nhàng, ông phải vội vàng khoác áo blouse trắng ra ngoài bộ đồ chơi gôn để tới cấp cứu cho Billie. Ông ngay lập tức nhận định tình hình nghiêm trọng và phải chật vật lắm mới làm cho Billie tỉnh lại được, đưa cô ta tới trung tâm y tế và tiến hành những bước điều trị đầu tiên.

Không đợi câu trả lời của tôi, chúng tôi theo ông tới phòng làm việc: một căn phòng dài nhìn ra một bãi cỏ được chiếu sáng và mượt như sân gôn, giữa bãi cỏ có cắm một lá cờ nhỏ. Khi tiến lại gần cửa sổ có thể nhìn thấy một quả bóng gôn nằm cách lỗ bảy hoặc tám mét.

- Tôi sẽ không dối các vị, bác sĩ mời chúng tôi ngồi rồi bắt đầu nói. Tôi hoàn toàn không biết cô bạn các anh bị đau ở đâu, cũng không hiểu cô ấy bị chứng gì.

Ông cởi áo blouse ra, treo lên móc rồi ngồi đối diện với chúng tôi.

- Cô ấy sốt cao, cơ thể cứng đờ bất bình thường và cô ấy nôn hết mọi thứ trong bụng. Cô ấy cũng bị đau đầu, khó thở và không đứng nổi, ông bác sĩ tóm tắt tình hình.

- Vậy thì sao? tôi hỏi, nóng lòng muốn được nghe chẩn đoán.

Bác sĩ Philipson mở ngăn kéo trên cùng của bàn làm việc lấy ra một điếu xì gà vẫn còn nằm trong vỏ bọc.

- Rõ ràng là cô ấy có triệu chứng thiếu máu, ông nói rõ hơn, nhưng điều khiến tôi thực sự lo lắng là thứ chất đen đen cô ấy nôn ra không biết bao nhiêu ấy.

- Trông nó giống như mực viết, đúng không bác sĩ?

- Có thể...

Vẻ ngẫm nghĩ, ông rút điếu thuốc ra khỏi vỏ bọc bằng nhôm rồi vuốt vuốt bên ngoài như thể mong chờ phát hiện ra điều gì đó khi chà xát vào lá thuốc.

- Tôi đã yêu cầu xét nghiệm máu, phân tích thứ chất đen ấy và mẫu tóc mà theo như anh nói đã đột nhiên bạc trắng đi.

- Chuyện ấy có thể xảy ra, đúng không bác sĩ? Tôi thường nghe nói rằng một cú sốc tình cảm có thể khiến người ta bạc tóc chỉ trong vòng một đêm. Chuyện đó đã xảy ra với hoàng hậu Marie-Antoinette vào đêm trước khi bị hành hình.

- Vớ vẩn, vị bác sĩ gạt đi. Chỉ có nhuộm mới làm tóc mất màu nhanh như vậy được.

- Liệu ông có đủ trang thiết bị để làm những xét nghiệm kiểu này không? Milo lo lắng hỏi.

Bác sĩ cắt đầu điếu xì gà:

- Các anh thấy đấy, chỗ chúng tôi được trang bị những công nghệ tối tân. Cách đây năm năm, con trai cả của quốc vương một quốc gia nhiều dầu mỏ đã nghỉ tại khách sạn chúng tôi. Cậu ta bị tai nạn khi đi mô tô lướt sóng: cú va đập mạnh vào thành xe khiến cậu ta hôn mê nhiều ngày liền. Cha cậu ta hứa sẽ tặng trung tâm một khoản lớn nếu chúng tôi cứu được cậu ta. Nhờ may mắn thì đúng hơn là nhờ những biện pháp chữa trị của chúng tôi, cậu ta khỏi bệnh mà không bị di chứng gì và vị quốc vương đã giữ lời hứa, vậy nên chúng tôi mới có trang thiết bị hiện đại như bây giờ.

Khi bác sĩ Mortimer Philipson đứng dậy tiễn chúng tôi về, tôi liền yêu cầu được ở lại với Billie.

- Thật ngớ ngẩn, bác sĩ thẳng thừng nói. Chúng tôi có một y tá trực và hai bác sĩ nội trú khoa sinh học làm việc suốt cả đêm. “Em họ” anh là bệnh nhân duy nhất tại đây. Chúng tôi sẽ không bỏ mặc cô ấy không người giám sát dù chỉ một giây đâu.

- Cho tôi ở lại đi, bác sĩ.

Bác sĩ Philipson nhún vai rồi quay lại bàn làm việc, miệng lẩm bẩm:

- Nếu anh thích ngủ trên một chiếc ghế bành chật chội để gãy lưng thì tùy anh thôi nhưng với cái chân bị bong gân và mạng sườn bị thương như thế thì sáng mai anh đừng có đến than vãn với tôi là không đứng dậy được đấy nhé.

Milo chia tay tôi trước cửa phòng bệnh của Billie. Tôi cảm thấy cậu ta đang bối rối:

- Tớ lo cho Carole. Tớ đã gửi cho cô ấy cả chục tin nhắn nhưng không thấy trả lời. Tớ phải đi tìm cô ấy.

- Được rồi. Chúc may mắn, anh bạn.

- Chúc cậu ngủ ngon, Tom.

Tôi nhìn cậu bạn đi xa dần trong hành lang, nhưng được vài mét, cậu ta khựng lại rồi quay lại đi về phía tôi.

- Cậu biết đấy, tớ muốn nói với cậu rằng... rằng tớ rất lấy làm tiếc, cậu ta thú nhận với tôi, mắt nhìn thẳng vào tôi.

Đôi mắt cậu ta đỏ ngầu và sáng rực, gương mặt mệt mỏi nhưng đầy vẻ quyết tâm.

- Tớ đã thất bại thảm hại với những khoản đầu tư tài chính liều lĩnh của mình, cậu ta tiếp tục. Tớ tưởng mình ma lanh hơn kẻ khác. Tớ đã phụ lòng tin của cậu và đã làm cậu sạt nghiệp. Tớ xin lỗi...

Giọng cậu ta vỡ òa. Cậu ta chớp mắt và một dòng nước mắt bất ngờ lăn dài trên má. Khi lần đầu tiên trong đời nhìn thấy cậu ta khóc, tôi vừa lúng túng vừa cảm thấy nguôi ngoai.

- Thật quá ngu ngốc, cậu ta vừa nói thêm vừa đưa tay quệt mắt. Tớ cứ tưởng mình đã làm được điều khó nhất, nhưng tớ đã nhầm: điều khó nhất không phải là giành được thứ mình muốn mà là biết cách giữ nó.

- Milo, tớ không quan tâm tới số tiền đó. Nó chẳng mang lại gì, cũng chẳng giải quyết được gì, cậu biết thế mà.

- Rồi cậu sẽ thấy, chúng ta sẽ thoát khỏi tình trạng này giống như chúng ta vẫn thường làm được, cậu ta hứa và cố gắng lấy lại tinh thần. Ngôi sao may mắn của chúng ta sẽ không bỏ rơi chúng ta lúc này đâu!

Trước khi đi tìm Carole, cậu ta ôm hôn tôi như hai người anh em và quả quyết với tôi:

- Tớ sẽ đưa chúng ta thoát khỏi khó khăn, thề với cậu đấy. Có thể sẽ mất thời gian nhưng tớ sẽ làm được.

o O o

Tôi mở cửa không một tiếng động rồi ló đầu qua khe cửa. Phòng bệnh của Billie chìm trong một thứ ánh sáng xanh mờ. Tôi lặng lẽ tiến lại gần giường cô ta.

Cô ta đang ngủ chập chờn vì sốt hầm hập. Một tấm chăn dày được phủ lên người cô ta, chỉ để hở khuôn mặt nhợt nhạt. Cô gái linh lợi, hoạt bát, cơn lốc xoáy màu vàng hoe ban sáng vẫn còn quét qua đời tôi đã già đi cả chục tuổi chỉ trong vài giờ. Xúc động, tôi ngồi lặng đi bên cô ta một lúc lâu rồi mới đặt tay lên trán cô gái.

- Em là một cô gái thật lạ kỳ, Billie Donelly, tôi nghiêng người về phía cô ấy thì thầm.

Cô ấy cựa mình trên giường và đôi mắt vẫn nhắm, cô ấy lẩm bẩm:

- Em tưởng anh sẽ nói là “một kẻ quấy rầy lạ kỳ”...

- Đúng là một kẻ quấy rầy lạ kỳ, tôi nói để che giấu cảm xúc của mình.

Tôi vuốt ve gương mặt cô ấy và bộc bạch:

- Em đã giúp anh thoát khỏi cái hố đen nơi anh sảy chân rơi xuống. Em đã dần đẩy lùi nỗi phiền muộn vẫn hủy hoại anh. Nụ cười và niềm tin ngờ nghệch nơi em đã chiến thắng sự câm lặng giam cầm anh...

Cô ấy định nói gì đó nhưng hơi thở ngắn và nhịp thở giật cục khiến cô ấy đầu hàng.

- Anh sẽ không bỏ rơi em đâu, Billie. Anh hứa với em đấy, tôi đảm bảo với cô ấy, siết chặt tay cô ấy.

o O o

Mortimer Philipson quẹt một que diêm châm điếu xì gà rồi cầm gậy gôn trên tay, ông đi ra bãi cỏ, bước vài bước trên sân gôn. Quả bóng gôn cách chỗ ông đứng khoảng bảy mét, trên một triền đất hơi dốc. Mortimer rít một hơi thuốc đầy khoan khoái rồi quỳ gối xuống để xem xét kỹ hơn cú gậy cần đánh. Đó phải là một cú đánh rất khéo nhưng ông đã từng đánh hàng trăm cú như thế từ khoảng cách này. Ông đứng dậy, lấy tư thế và tập trung cao độ. “Vận may chỉ là sự gặp gỡ giữa ý muốn con người và thiên thời địa lợi”, triết gia Sénèque đã từng nói như vậy. Mortimer vung gậy đánh một cú như thể cú đánh sẽ quyết định vận mệnh ông. Trái bóng lăn trên cỏ, có vẻ lưỡng lự trên đường đi rồi lượn qua lỗ gôn chứ không rơi xuống đó.

Đêm nay, quả là không thiên thời địa lợi.

o O o

Milo bất thần lao ra sân yêu cầu nhân viên đỗ xe đánh chiếc Bugatti đang gửi trong hầm khách sạn tới. Anh lái thẳng hướng La Paz và dùng hệ thống định vị GPS để tìm lại đúng chỗ đã chia tay Carole lúc chiều.

Buổi chiều trên bãi biển, anh đã cảm nhận được những tổn thương đau đớn ở cô bạn gái. Những tổn thương mà trước đây anh không ngờ là có tồn tại.

Rõ ràng là ta thường chẳng hay biết gì về nỗi đau mà những người ta yêu mến nhất phải trải qua, anh buồn bã nghĩ.

Anh cũng đã bị thương tổn khi nghe cô mô tả bức chân dung về mình không chút thiện cảm. Giống như mọi người, cô lúc nào cũng coi anh là một kẻ cặn bã, không được học hành tử tế, một gã nhà quê cục mịch ở khu phố nghèo khổ, giữ tư tưởng trọng nam khinh nữ. Cũng phải nói rằng anh chưa bao giờ làm gì để cô hiểu đúng về mình. Bởi hình ảnh ấy bảo vệ anh, che giấu đằng sau nó một con người nhạy cảm mà anh không dám thừa nhận. Để có được tình yêu của Carole, anh sẵn sàng làm tất cả nhưng cô lại không tin tưởng anh đủ để anh hé lộ con người thật của mình.

Anh chạy xe suốt nửa giờ đồng hồ, lao đi giữa màn đêm đen mờ. Bóng những rặng núi hiện rõ trên nền trời xanh trong, điều khó gặp ở những thành phố ô nhiễm ngày nay. Đến nơi, Milo rẽ vào một con đường rừng, đỗ xe ở đó rồi sau khi nhét một tấm chăn cùng chai nước vào túi xách tay, anh men theo con đường lổn nhổn sỏi đá dẫn ra bờ biển.

- Carole! Carole! anh hét to hết cỡ.

Tiếng gọi của anh bị cơn gió nóng ẩm, đỏng đảnh cuốn đi mất hút, cơn gió vi vu thổi trên biển.

Anh tìm tới chỗ vũng nước mà họ đã đứng cãi nhau lúc chiều. Khung cảnh thật êm dịu. Vầng trăng vàng tròn đầy kiêu hãnh soi mình xuống mặt nước. Milo chưa bao giờ thấy bầu trời nhiều sao đến thế, nhưng anh chẳng thấy dấu vết gì của Carole. Cầm đèn pin trên tay, anh tiếp tục trèo lên những mỏm đá dựng đứng men theo bờ biển. Đi tiếp khoảng năm trăm mét, anh bắt gặp một con đường mòn hẹp dẫn xuống một vịnh nhỏ.

- Carole! anh lại cất tiếng gọi khi xuống đến bãi biển.

Lần này giọng anh vang xa hơn. Vịnh nhỏ được một vách đá granit bao quanh nên tránh được gió và tiếng sóng vỡ vào bờ cát cũng êm dịu hơn.

- Carole!

Nghe ngóng dò xét mọi phía, Milo chạy khắp vịnh cho tới khi nhận thấy có gì đó chuyển động ở phía đầu kia. Anh tiến lại chỗ vách đá dốc đứng. Chạy dọc cả vách đá là một khe nứt dài, mở ra một hang đá tự nhiên.

Carole ở đó, cô ngồi trên cát, lưng cong xuống, hai chân gập lại, người đang lả đi. Đầu cúi xuống, cô run lập cập trong khi tay vẫn nắm chặt khẩu súng.

Milo nhẹ nhàng quỳ xuống bên cô, ban đầu anh chỉ e sợ đôi chút nhưng đã nhanh chóng chuyển sang lo lắng thực sự vì sức khỏe của cô bạn. Anh lấy chăn trong túi ra choàng lên người cô rồi bế cô tới tận chỗ đỗ xe.

- Tha lỗi cho tớ vì những gì đã nói với cậu lúc trước, cô thều thào. Tớ không bao giờ nghĩ như thế cả.

- Tớ quên rồi, anh trấn an. Giờ thì mọi việc sẽ ổn cả.

Gió thổi mỗi lúc một mạnh và lạnh hơn.

Carole lùa một tay vào mái tóc Milo rồi ngước đôi mắt ngấn nước nhìn anh.

- Tớ sẽ không bao giờ làm cậu đau khổ, anh thì thầm hứa vào tai cô.

- Tớ biết, cô nói, tay ôm choàng lấy cổ anh.

o O o

Đừng khuỵu ngã, Anna, vững vàng lên, vững vàng lên!

Cũng ngày hôm ấy, vài giờ trước, tại một khu phố bình dân của Los Angeles, một phụ nữ trẻ, Anna Borowski, chạy ngược lên phố. Nhìn dáng cô chạy, trong chiếc áo thun lót bông có mũ choàng dày, người ta sẽ tưởng cô đang chạy bộ buổi sáng.

Nhưng Anna không chạy bộ. Cô đi lục thùng rác.

Một năm trước, cô sống khá dễ chịu, thường ăn tối tại nhà hàng và không hề ngập ngừng khi phung phí cả nghìn đô la trong những chuyến mua sắm với đám bạn thân. Nhưng cuộc khủng hoảng kinh tế đã đảo lộn tất cả. Chỉ trong một sớm một chiều, hãng cô đang làm việc đã sa thải nhân công ồ ạt và xóa bỏ luôn cái ghế giám sát quản lý của cô.

Vài tháng đầu, cô nghĩ mình chỉ đang trải qua một giai đoạn khó khăn nên không hề nản lòng. Sẵn sàng chấp nhận bất cứ vị trí làm việc nào phù hợp với bằng cấp của mình, cô dành hàng ngày trời lướt khắp các trang web tuyển dụng, gửi CV và thư xin việc đi khắp nơi, tham gia vào các diễn đàn việc làm, thậm chí còn chi cả tiền để tới tư vấn tại một văn phòng tư vấn tạo dựng sự nghiệp. Vậy mà mọi nỗ lực của cô đều kết thúc trong thất bại. Suốt sáu tháng, cô không hề nhận được một lời mời phỏng vấn nào có thể gọi là nghiêm túc.

Để sinh nhai, cô đành chấp nhận mỗi ngày làm công việc tạp vụ theo giờ tại một trại dưỡng lão ở Montebello nhưng số tiền ít ỏi nhặt nhạnh được từ công việc này không giúp cô trả nổi tiền thuê nhà.

Anna chạy chậm lại khi tới phố Purple. Vẫn chưa đến bảy giờ sáng. Con phố vẫn còn khá tĩnh lặng, dù cho bầu không khí cũng đang dần náo nhiệt. Dù sao cô cũng chờ cho chiếc xe buýt của trường học rời đi rồi mới chúi đầu vào thùng rác. Cô đã học được cách dẹp lòng tự tôn, niềm kiêu hãnh sang một bên khi làm việc này. Dù thế nào chăng nữa, cô thực sự chẳng còn lựa chọn nào khác. Lỗi là do tính khí ham chơi kiểu ve chứ không chăm chỉ như kiến và cũng tại vài món nợ có vẻ chẳng là gì vào thời cô vẫn còn kiếm được 35 000 đô la mỗi năm, nhưng giờ đây chúng như bóp nghẹn lấy cô và đe dọa cướp đi trốn nương thân của cô.

Thời gian đầu, cô chỉ đi lục những công te nơ rác tại siêu thị gần nhà mình để tìm đồ ăn quá hạn sử dụng. Nhưng cô không phải người duy nhất nảy ra sáng kiến này. Hằng tối, một đám đông toàn những kẻ vô gia cư, người có công ăn việc làm không ổn định, sinh viên và những người về hưu nghèo khổ chen chúc bên cạnh những thùng rác kim loại, khiến cho quản lý siêu thị cuối cùng đã phải rẩy nước tẩy vào đồ ăn để không ai dám lấy nữa. Vậy là Anna quyết định thám hiểm ra ngoài khu nhà mình. Ban đầu, khi làm công việc này cô như một kẻ loạn tâm thần, nhưng rõ ràng con người là một loài sinh vật có khả năng quen dần với mọi loại nhục nhã.

Thùng rác đầu tiên đầy ắp và cuộc tìm kiếm của cô không uổng phí: một hộp gà rán mới ăn hết một nửa, một cốc Starbucks vẫn còn rất nhiều cà phê đen, một cốc cappuccino. Trong thùng thứ hai cô tìm thấy một chiếc áo sơ mi hiệu Abercrombie bị rách mà cô nghĩ có thể giặt sạch rồi vá lại, và trong thùng thứ ba là một cuốn tiểu thuyết vẫn còn mới, bìa giả da rất đẹp. Cô cho kho tàng khốn khổ của mình vào ba lô rồi tiếp tục buổi chạy bộ.

Nửa tiếng sau, Anna Borowski về đến nhà - căn hộ nhỏ trong một tòa nhà vẫn còn mới và rất sạch sẽ, đồ đạc trong nhà tối giản hết mức. Cô rửa tay rồi đổ cà phê và cappuccino vào ca, hâm nóng chúng trong lò vi sóng cùng gà rán. Trong lúc chờ đợi bữa sáng sẵn sàng, cô bày những thứ lượm được lên bàn bếp. Bìa sách kiểu gô tíc thanh lịch đặc biệt thu hút sự chú ý của cô. Một mẩu nhãn nhỏ đính ở góc trái quyển sách có ghi:

Tác giả của Hội Thiên thần

Tom Boyd ư? Cô đã từng nghe đám bạn cùng chỗ làm nói về tác giả này, họ rất thích sách của anh ta nhưng cô thì chưa bao giờ đọc. Cô vừa lau vết kem trên bìa sách vừa nghĩ rằng có thể bán lại quyển sách kiếm lời, rồi cô lại dùng trộm wifi của hàng xóm để vào mạng. Nếu còn mới, trên Amazon bán 17 đô la. Cô nhấn vào tài khoản của mình trên eBay và thử vận may: bán lại với giá 14 đô la nếu mua ngay lập tức.

Rồi cô đi giặt chiếc áo sơ mi, tắm rửa để “tẩy trần” và mặc chiếc áo vào, đứng ngắm vuốt trước gương.

Cô vừa bước sang tuổi ba mươi bảy. Bao nhiêu năm qua, cô vẫn luôn trẻ hơn tuổi của mình, nhưng giờ đây cô già đi nhanh chóng, như thể một con ma cà rồng đã hút hết vẻ tươi tắn trong cô. Từ khi mất việc, do toàn ăn những đồ bỏ đi nên cô tăng cả chục cân, chủ yếu là ở mông và trên mặt, nên giờ trông cô như một con chuột lang khổng lồ. Cô thử mỉm cười nhưng kết quả thật thảm hại.

Cô đã buông xuôi và có thể đọc thấy sự suy sụp trên gương mặt khốn khổ của cô.

Nhanh lên, mình sẽ muộn mất!

Cô mặc một chiếc quần jean sáng màu, một chiếc áo thun dài tay có mũ và đi giày basket vào.

Được rồi, mình đâu có đi hộp đêm. Đâu cần phải diện đẹp để chùi đít cho mấy cụ già nhỏ thó!

Cô ngay lập tức hối hận về thái độ trâng tráo của mình. Cô cảm thấy rất rối trí. Biết bấu víu vào đâu trong những thời khắc đen tối nhất đây? Cô chẳng biết nhờ cậy ai giúp đỡ, chẳng biết thổ lộ những bế tắc cùng ai. Cho đến giờ cô không có người bạn thực sự nào, cũng không có người đàn ông nào - mối hẹn hò mới đây nhất của cô cũng từ nhiều tháng rồi. Còn gia đình cô? Vì sợ mất mặt, cô không nói những khó khăn của mình cho bố mẹ biết. Vả lại họ cũng có sốt sắng muốn biết tin tức của cô làm gì cho cam. Gần đây, cô có chút tiếc nuối vì đã không ở lại Detroit như chị gái cô, chị vẫn sống cách nhà bố mẹ chỉ có năm phút đi đường. Lucy chẳng bao giờ có hoài bão gì. Chị đã lấy một gã nhà quê thô lậu làm đại lý bảo hiểm và có một thằng con trai không thể chịu đựng nổi nhưng ít nhất hằng ngày chị cũng không phải tự hỏi xem làm thế nào để kiếm được thức ăn đây.

Khi mở cửa ra, Anna thấy hơi choáng. Giống như bao người khác, cô cũng phải uống thuốc: thuốc giảm đau để chống chọi với chứng đau lưng và Ibuprofène flash mà cô ngốn như ăn kẹo vì chứng đau nửa đầu kinh niên. Nhưng hôm nay có lẽ cô cần loại thuốc giảm đau mạnh hơn. Càng ngày cô lại càng lún sâu vào trạng thái lo lắng vì cứ phải sống triền miên trong nỗi sợ hãi với cái cảm giác cứ bám riết lấy cô rằng dù cho cô có cố gắng đến mấy, ý chí có mạnh mẽ đến đâu thì cũng không thể làm chủ nổi cuộc sống của mình. Đôi khi cảm giác bấp bênh khiến cô quay cuồng và cô thấy mình sắp phát điên, giống như người đàn ông từng làm cán bộ tài chính sống cách đây vài phố. Chín tháng trước, ông ta đã đâm chết năm người trong gia đình rồi tự tử. Ông ta để lại một lá thư tuyệt mệnh giải thích với cảnh sát hành động của mình là do không tìm được lối thoát cho những khó khăn kinh tế. Ông ta bị mất việc từ nhiều tháng nay và trước khi xảy ra vụ việc lại mất hết tiền tiết kiệm do thị trường chứng khoán sụp đổ.

Đừng khuỵu ngã, Anna, vững vàng lên, vững vàng lên!

Cô đấu tranh để dần làm chủ lại cuộc sống. Nhất là không được phép khuỵu ngã. Nếu buông tay cô sẽ chìm nghỉm, cô biết điều ấy. Cô phải dốc hết sức chiến đấu để giữ lại căn hộ. Đôi khi cô có cảm giác mình hạ cấp xuống chỉ còn là một con vật trong cái hang của nó, nhưng ít nhất ở đây cô cũng có thể tắm rửa và ăn ngủ mà không bị nguy hiểm.

Cô đeo tai nghe iPod, bước xuống cầu thang, bắt xe buýt tới trại dưỡng lão. Cô dọn dẹp suốt ba tiếng đồng hồ rồi tranh thủ giờ nghỉ trưa để vào mạng tại một chỗ máy trống trong phòng nghỉ của trại.

Tin tốt lành. Đã có người đồng ý mua quyển sách với giá cô rao bán. Cô tiếp tục làm đến ba giờ chiều rồi tới bưu điện gửi cuốn tiểu thuyết cho người mua:

Bonnie Del Amico, Ký túc xá Berkeley, California.

Cô lồng cuốn sách vào trong phong bì mà không hề hay biết rằng hơn một nửa số trang sách còn trắng tinh...

o O o

- Này, các anh, khẩn trương lên!

Chiếc đài radio phát ra câu cảnh báo này với tất cả các tài xế thuộc đội tám đầu kéo xe moóc thường băng qua vùng công nghiệp Brooklyn. Giống như các xe chuyển tiền, thời gian và lộ trình giữa kho New Jersey và xí nghiệp tái chế gần Coney Island được quy định cực kỳ chặt chẽ để tránh tình trạng ăn cắp hàng hóa. Chất đầy ba mươi khay hàng, mỗi xe tải chở tới mười ba nghìn cuốn sách được đóng trong các thùng các tông.

Đã gần mười giờ đêm khi chuyến hàng khổng lồ phóng dưới màn mưa lao qua cổng trạm hủy sách được xây dựng giữa một khoảng đất rộng bao quanh là hàng rào lưới sắt khiến người ta liên tưởng đến một doanh trại quân đội.

Lần lượt từng chiếc xe tải thả hàng xuống nền sân rải nhựa của khu nhà kho rộng lớn: hàng tấn sách vẫn còn được bọc trong phim nhựa.

Đi cùng một viên thừa phát lại, đại diện của nhà xuất bản giám sát hoạt động này. Không phải ngày nào người ta cũng hủy một trăm nghìn bản sách do lỗi in ấn. Để tránh mọi hình thức gian lận, hai người đàn ông kiểm soát thật cẩn thận chuyến hàng tới. Mỗi khi hàng được thả xuống, nhân viên tư pháp lại rút một cuốn sách từ một thùng các tông ra để xác nhận xem có đúng bị lỗi in ấn hay không. Tất cả các bản in ở đây đều có một thiếu sót: trong năm trăm trang sách, chỉ một nửa là có in chữ. Câu chuyện đột ngột đứt đoạn ở giữa trang 266, ngay một câu dang dở...

Ba chiếc máy ủi được đưa tới xung quanh biển sách như thể đó là đống gạch vữa vụn, rồi ủn chúng lên băng chuyền chạy với vận tốc lớn đưa những quyển sách tới chỗ những cái miệng đang há hốc ra của đám quái vật bằng sắt. Việc hủy sách công nghiệp có thể bắt đầu.

Hai chiếc máy nghiền ngốn lấy ngốn để hàng chục nghìn cuốn sách. Con quái vật bằng sắt xé nát rồi nhai đống sách không hề thương tiếc. Xung quanh nó, trong đám bụi giấy, những trang sách rách nát được đẩy ra.

Sau khi được tiêu hóa xong, một đống sách đã bị xổ tung, rách nát không chừa trang nào thoát ra khỏi bụng con quái vật và được đưa tới nén trong một máy ép. Ở đầu kia, chiếc máy ép đùn ra những bịch lớn hình lập phương có dây sắt bao quanh.

Rồi người ta chất đống những khối lập phương đã được nén chặt trong góc nhà kho. Hôm sau, chúng sẽ được chất lên những xe tải khác. Chúng được tái chế thành bột giấy rồi lại hóa thân thành báo, thành tạp chí, thành những chiếc khăn giấy dùng một lần hoặc thành hộp đựng giày.

o O o

Trong vòng vài giờ đồng hồ, công việc đã hoàn tất.

Khi toàn bộ lô hàng được hủy xong, người đứng đầu nhà máy, đại diện nhà xuất bản và viên thừa phát lại ký một biên bản ghi lại một cách bài bản số lượng bản in đã được hủy mỗi lần.

Tổng cộng có 99 999 bản sách...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,226
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26: Cô gái đến từ nơi khác


Những ai đang rơi xuống thường kéo theo cả những người tới cứu họ.

Stefan ZWEIG

Trung tâm y tế khách sạn

Tám giờ sáng

- Này, anh cứ ngáy như sấm thế thì làm sao trông nom được em!

Tôi giật nảy mình mở choàng mắt. Tôi nằm co ro trên tay ghế bành bằng gỗ sồi, lưng mỏi nhừ, lồng ngực đau nhức còn đôi chân thì tê cứng.

Billie đã ngồi dậy trên giường. Khuôn mặt nhợt nhạt của cô ấy đã hồng hào lại đôi chút nhưng mái tóc vẫn bạc trắng. Dù thế nào thì có vẻ như cô ấy cũng đã hào hứng trở lại, đó quả là một dấu hiệu tốt.

- Em thấy trong người thế nào?

- Mệt mỏi lắm, cô vừa thú nhận vừa thè lưỡi ra cho tôi xem, nó đã hồng trở lại. Anh có thể đưa em cái gương được không?

- Anh không chắc đó là một ý hay đâu.

Vì cô ấy cứ nài nỉ nên tôi đành mang ra cho cô ấy tấm gương nhỏ gỡ trên tường phòng tắm xuống.

Cô ấy hãi hùng nhìn mình trong gương, giơ nắm tóc lên, tách chúng ra, rồi vò cho rối bù, săm soi chân tóc, khiếp sợ vì chỉ trong một đêm, mái tóc vàng óc đáng hãnh diện đã biến thành bộ tóc của một bà già.

- Sao... sao lại có thể thế này? cô vừa hỏi vừa đưa tay quệt dòng nước mặt chảy dọc trên má.

Tôi đặt tay lên vai cô. Không biết giải thích cho cô ấy thế nào, tôi đành cố tìm lời lẽ an ủi Billie, đúng lúc ấy cửa phòng mở ra và Milo cùng bác sĩ Philipson bước vào.

Kẹp một chiếc cặp nhỏ dưới cánh tay, khuôn mặt lộ vẻ lo lắng, vị bác sĩ chào chúng tôi qua loa rồi chăm chú hồi lâu vào bệnh án treo phía cuối giường.

- Chúng tôi đã có kết quả phần lớn các xét nghiệm của cô, thưa cô, vị bác sĩ thông báo sau vài phút rồi đưa ánh mắt vừa như phấn khích vừa như bối rối nhìn chúng tôi.

Ông lấy từ túi áo blouse ra một chiếc bút dạ trắng rồi mở chiếc bảng nhỏ trong mờ mang theo người.

- Trước hết, ông bắt đầu nói, tay nguệch ngoạc vài từ lên bảng, thứ chất màu đen sền sệt cô nôn ra đúng là mực dầu. Chúng tôi đã tìm thấy trong đó những dấu hiệu đặc trưng của sắc tố màu, chất trùng hợp, chất phụ gia và dung môi...

Ông bỏ lửng câu nói rồi thẳng thắn hỏi:

- Cô đã uống thuốc độc tự tử phải không, thưa cô?

- Hoàn toàn không! Billie bác bỏ.

- Tôi hỏi vậy là bởi thành thực mà nói, tôi không hiểu làm thế nào có thể nôn ra thứ chất ấy nếu như trước đó người ta không nốc nó vào người. Trước đây chưa từng có ca bệnh nào như vậy.

- Các ông còn tìm thấy gì khác không? tôi hỏi để câu chuyện tiến triển.

Mortimer Philipson chìa cho mỗi chúng tôi một tờ giấy đầy những con số và thuật ngữ mà tôi đã từng nghe nói đến trong các bộ phim truyền hình dài tập như Urgences hay Grey’s Anatomy nhưng không hiểu chính xác chúng có nghĩa gì: NFS, Iono, Urê, Creatinine, Glycemia, kết quả xét nghiệm gan, cầm máu...

- Như tôi nghĩ, xét nghiệm máu đã khẳng định cô bị thiếu máu, vị bác sĩ vừa giải thích vừa viết một từ mới lên tấm bảng. Lượng hồng cầu của cô chỉ có chín gam trên một decilit, thấp hơn mức bình thường. Điều đó giải thích tại sao cô lại xanh xao đến vậy và tại sao cô lại thấy mệt mỏi, đau đầu, hay hồi hộp và choáng váng.

- Vậy chứng thiếu máu này có sao không? tôi hỏi.

- Cần phải làm các xét nghiệm khác nữa mới biết được, Philipson giải thích, nhưng ngay bây giờ đó không phải là điều khiến tôi lo lắng nhất...

Tôi nhìn chằm chằm vào kết quả xét nghiệm máu và dù chẳng hiểu gì nhưng chính tôi cũng nhận thấy một con số bất thường:

- Ông lo lắng về tỷ lệ glycemia, phải vậy không?

- Đúng thế, Mortimer thừa nhận: 0,1 gam trên lít, đây là dạng giảm glucoza huyết nghiêm trọng chưa từng thấy.

- “Chưa từng thấy” nghĩa là thế nào? Billie lo lắng hỏi.

- Người ta mắc chứng giảm glucoza huyết khi tỷ lệ đường trong máu quá thấp, vị bác sĩ giải thích sơ lược. Trong trường hợp não không thể nhận đủ lượng glucoza, ta sẽ cảm thấy chóng mặt và mệt mỏi, nhưng tỷ lệ glucoza trong máu của cô, thưa cô, nằm ngoài mọi quy chuẩn...

- Thế tức là thế nào?

- Thế tức là vào lúc này, khi tôi đang nói chuyện với cô, lẽ ra cô đã chết hoặc ít nhất cũng bị hôn mê sâu rồi.

Milo thốt lên cùng lúc với tôi:

- Phải có nhầm lẫn gì rồi!

Philipson lắc đầu:

- Chúng tôi đã làm lại các xét nghiệm tới ba lần. Thật không thể hiểu nổi, nhưng đó chưa phải là điều bí hiểm nhất.

Vị bác sĩ lại mở nắp chiếc bút dạ trắng ra rồi chấm phác vào không trung:

- Đêm qua, cô bác sĩ nội trú mà tôi đang hướng dẫn làm luận án đã đề nghị chụp phổ. Đó là kỹ thuật cho phép nhận dạng các phân tử khi đo khối lượng của chúng và biết được các đặc tính cấu trúc hóa...

- Thôi, vào thẳng vấn đề đi! tôi ngắt lời ông.

- Phép chụp phổ cho thấy có các phân tử hyđrat cacbon bất thường. Nói cho dễ hiểu thì tức là cô có xeluloza trong máu, thưa cô.

Ông viết từ XELULOZA lên tấm bảng trong mờ của mình.

- Hẳn là các vị đã biết, ông tiếp tục, xeluloza là thành phần chính tạo nên gỗ. Nó cũng có rất nhiều trong bông và giấy.

Tôi chẳng hiểu nổi vị bác sĩ định nói gì nữa. Ông đặt cho chúng tôi một câu hỏi để làm rõ ý của mình hơn:

- Thử tưởng tượng nếu các vị nuốt cả đống bông vào người thì sẽ ra sao?

- Chẳng có gì nghiêm trọng cả, Milo khẳng định. Ăn vào thì sẽ thải ra thôi...

- Hoàn toàn đúng, Philipson tán đồng. Con người không thể tiêu hóa được xeluloza. Đó là điểm khác biệt giữa chúng ta và các động vật ăn cỏ như bò hay dê.

- Nếu như tôi hiểu đúng, Billie nói, thông thường cơ thể con người không chứa xeluloza, vậy thì...

- ...vậy thì, vị bác sĩ nói nốt câu, cấu tạo sinh học của cô không phải là của một con người. Mọi chuyện giống như thể một phần cơ thể cô đang dần biến thành “thực vật”...

o O o

Ông để mặc mọi người im lặng một lúc lâu, như thể bản thân ông cũng khó chấp nhận các kết quả xét nghiệm chính ông đã yêu cầu làm.

Vẫn còn một tờ giấy cuối cùng trong chiếc cặp nhỏ của ông: kết quả phân tích những sợi tóc trắng của cô gái.

- Trong những sợi tóc này, nồng độ hydrosunfit natri và peoxit hydro rất cao, peoxit hydro còn gọi là…

- …nước có oxy, tôi đoán.

- Nói chung, vị bác sĩ bổ sung, chất này được cơ thể con người tiết ra một cách tự nhiên. Khi chúng ta già đi, chính chất này khiến tóc chúng ta bạc trắng vì nó cản trở quá trình tổng hợp sắc tố tạo màu cho tóc. Nhưng thông thường, đó là một quá trình diễn ra từ từ, hết sức chậm chạp và tôi chưa từng thấy tóc của ai mới hai mươi sáu tuổi mà đã bạc trắng chỉ sau một đêm.

- Thế có làm cho tóc có màu trở lại như cũ được không? Billie hỏi.

- Ờ... Mortimer ấp úng, đôi khi cũng có trường hợp một phần tóc lấy lại được màu cũ sau khi chữa khỏi bệnh hoặc ngừng quá trình điều trị tích cực, nhưng... thú thật trường hợp ấy rất hiếm.

Vẻ nghĩ ngợi, vị bác sĩ nhìn Billie đầy thương cảm rồi thừa nhận với chúng tôi:

- Căn bệnh của cô rõ ràng là vượt quá khả năng của tôi cũng như của trung tâm khám chữa bệnh quy mô nhỏ này, thưa cô. Hôm nay chúng tôi sẽ giữ cô lại để theo dõi thêm nhưng tôi khuyên cô nên về nước càng sớm càng tốt.

o O o

Một giờ sau

Cả ba chúng tôi cùng ở lại trong phòng bệnh. Billie cuối cùng cũng thiếp đi sau khi đã khóc hết nước mắt. Ngả người trên chiếc ghế đẩu, Milo ăn hết suất ăn mà Billie từ chối, mắt vẫn không rời khỏi tấm bảng vị bác sĩ để quên:

Sắc tố tạo màu

Dung môi Chất phụ gia

Thiếu máu

Xeluloza

Nước có oxy

Hiđrosunfit natri

- Có thể tớ đã tìm ra rồi, cậu ta đột nhiên đứng phắt dậy nói.

Cậu ta cũng tới đứng trước tấm bảng, cầm bút dạ lên và vẽ một hình dấu ngoặc nối hai dòng đầu tiên với nhau.

- Cái thứ mực đậm đặc và nhớt dính mà cô bạn cậu nôn ra là loại mực được dùng trong các động cơ quay khi in. Đặc biệt là trong quá trình in sách của cậu...

- Vậy à?

- Còn xeluloza, đó là thành phần chính tạo ra gỗ, đúng thế không? Mà gỗ thì dùng để tạo ra...

- Ờ... ừm... đồ gỗ?

- ...bột giấy, cậu ta vừa chữa lại vừa điền thêm vào phần ghi chú của bác sĩ Philipson. Còn về nước có oxy và hiđrosunfit thì đó là hai hợp chất người ta dùng để tẩy...

- ...giấy, đúng không?

Thay cho câu trả lời, cậu ta quay tấm bảng trong mờ về phía tôi:

- Trước hết, tớ chẳng hề muốn tin cái câu chuyện về cô nhân vật chính nhảy từ trong sách ra của cậu đâu Tom ạ, nhưng tớ buộc phải thừa nhận một điều: cô bạn của cậu đang dần trở lại là một cô nàng bằng giấy.

Cậu ta nhìn lơ đãng một thoáng rồi vẽ nốt cái sơ đồ của mình:

- Thế giới tưởng tượng đang dần lấy lại quyền lực của mình, cậu ta kết luận.

Giờ đây cậu ta cứ đi đi lại lại trong phòng, khoa chân múa tay. Tôi chưa bao giờ thấy cậu ta bồn chồn đến vậy.

- Bình tĩnh đi! tôi xoa dịu cậu ta. Theo cậu thì thực ra chuyện này có nghĩa là thế nào?

- Sự việc rõ như ban ngày Tom ạ: nếu Billie là một nhân vật bước ra từ tiểu thuyết thì đơn giản là cô ấy không thể sống được trong thế giới thực!

- Như kiểu cá không thể sống thiếu nước...

- Chính xác! Cậu có nhớ những bộ phim bọn mình vẫn xem khi còn nhỏ không? Tại sao anh bạn ngoài hành tinh trong phim E.T lại bị ốm?

- Vì nó không thể sống xa hành tinh của mình quá lâu được.

- Tại sao nàng tiên cá trong Splash không sống trên cạn được? Tại sao con người lại không sống được dưới nước? Đó là bởi vì cơ thể mỗi loài có cấu tạo khác nhau, không thể thích nghi với mọi loại môi trường được.

Lập luận của cậu ta khá vững vàng, chỉ trừ một điểm:

- Billie vừa ở bên tớ ba ngày và tớ có thể đảm bảo với cậu là cô ấy tràn đầy sức sống, không hề có vẻ gì là không hợp với cuộc sống thực cả. Tại sao đột nhiên cô ấy lại suy sụp như vậy?

- Đó đúng là một điều bí ẩn, cậu ta nhượng bộ.

Milo là một người lý tính, chỉ ưa những điều hợp logic. Cậu ta cau có ngồi lại xuống ghế, bắt tréo chân rồi lại tiếp tục với những ý tưởng của mình.

- Cần phải bắt đầu từ “cổng vào” để lần ra mọi chuyện, cậu ta lẩm bẩm: đó là lỗ hổng mà một nhân vật trong thế giới tưởng tượng có thể bước qua để vào thế giới thực của chúng ta.

- Tớ đã nói với cậu nhiều lần rồi: Billie ngã xuống từ một dòng, ngay giữa một câu văn dang dở, tôi giải thích cho cậu ta, nhắc lại chính câu nói mà Billie đã dùng trong lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau.

- À đúng rồi, lô một trăm nghìn bản sách bị bỏ trắng phân nửa số trang! Đó chính là “cổng vào” của cô ấy. Về chuyện này, tớ tin chắc là lô sách ấy đã được hủ...

Cậu ta há hốc miệng, bỏ lửng câu nói rồi cuống quýt lấy điện thoại ra. Tôi thấy cậu ta lướt qua hàng chục thư điện tử rồi dừng lại ở lá thư cậu ta muốn tìm.

- Lúc mấy giờ thì Billie bắt đầu thấy không ổn? cậu ta hỏi, mắt vẫn dán chặt vào màn hình điện thoại.

- Khoảng gần nửa đêm, lúc tớ quay lại phòng.

- Tức là khoảng hai giờ sáng, giờ New York đúng không?

- Ừ.

- Vậy thì tớ đã hiểu cơn bệnh của cô ấy bắt nguồn từ đâu rồi, cậu ta khẳng định rồi chìa cho tôi chiếc iPhone.

Trên màn hình, tôi thấy lá thư nhà xuất bản gửi cho Milo:

Người gửi: [email protected]

Chủ đề: Xác nhận việc hủy sách in lỗi

Thời gian: mùng 9 tháng Chín 2010 02:03

Người nhận: [email protected]

Ông Lombardo,

Tôi xin xác nhận lại với ông rằng toàn bộ số sách in lỗi trong loạt ấn phẩm đặc biệt in tập hai của bộ Hội Thiên thần của Tom Boyd đã được hủy.

Số lượng sách hủy: 99 999.

Việc hủy sách đã được tiến hành ngày hôm nay, từ lúc 8 giờ tối đến 2 giờ sáng tại trạm hủy sách thuộc nhà máy Shepard Brooklyn, NY, dưới sự giám sát của nhân viên tư pháp.

Xin gửi lời chào trân trọng,

R.Brown

- Cậu thấy thời gian bức thư được gửi đến chưa?

- Rồi, tôi thừa nhận, nó trùng khớp với thời điểm Billie bắt đầu thấy khó chịu.

- Cơ thể Billie phụ thuộc trực tiếp vào những bản sách in lỗi, cậu ta nói dằn từng tiếng.

- Và hủy những bản sách ấy là chúng ta đang giết cô ấy!

Cả hai chúng tôi đều thấy kích thích quá độ và hoảng sợ trước phát hiện của mình. Đặc biệt là chúng tôi cảm thấy bất lực trước một tình huống vượt ngoài tầm kiểm soát của chúng tôi.

- Nếu chúng ta không làm gì, cô ấy sẽ chết.

- Thế cậu muốn làm gì? cậu ta hỏi tôi. Họ đã hủy toàn bộ số sách in lỗi rồi!

- Không, nếu thế thì cô ấy đã chết rồi. Ít nhất vẫn còn một quyển chưa bị hủy.

- Quyển mà nhà xuất bản gửi cho tớ và tớ đã đưa cho cậu! cậu ta hét lên. Cậu để đâu rồi?

Tôi cố lục lọi trong ký ức. Tôi nhớ là đã đọc nó vào cái buổi tối Billie xuất hiện trong bếp nhà tôi, người ướt đẫm, sau đó, sáng hôm sau tôi cũng xem lại một chút ngay trước khi cô ấy chỉ cho tôi xem hình xăm trên người, rồi...

Tôi không tập trung nổi. Trong đầu tôi, mọi thứ chợt hiện ra rồi lại tan biến ngay: rồi... rồi... chúng tôi cãi cọ nhau và trong cơn tức giận, tôi đã lẳng quyển sách vào thùng rác trong bếp!

- Thật rắc rối! Milo thở dài đánh thượt sau khi tôi giải thích cho cậu ta biết bản sách cuối cùng ở đâu.

Tôi dụi dụi mắt. Tôi cũng đang sốt. Do chỗ bong gân giờ đây đang đau tới mức không chịu nổi; do mấy gã Mêhicô đã cho tôi một trận nhừ tử trong quán bar gần nhà nghỉ; do cái cơ thể thiếu thuốc của tôi; do cú đấm mà gã kia trong cơn tức giận đã bất thình lình giáng vào tôi; do nụ hôn bất ngờ và đầy cảm xúc của cô gái lạ kỳ đã làm đảo lộn cuộc đời tôi...

Bị cơn đau nửa đầu hành hạ, tôi tưởng đầu mình như một quả địa cầu bên trong chứa dung nham nóng chảy đang sôi sục. Giữa đống bùn đen lộn xộn ấy, một ý nghĩ chợt hiện ra.

- Tớ phải gọi cho bác giúp việc để bác ấy không vứt quyển sách đó đi, tôi nói với Milo.

Cậu ta đưa điện thoại cho tôi và tôi gọi cho Tereza. Rủi thay, bà ấy thông báo là đã vứt rác hai ngày trước.

Milo hiểu ngay ra sự việc và nhăn mặt. Thế giờ thì cuốn tiểu thuyết ở đâu? Tại một trung tâm phân loại rác? Sắp bị đốt ra tro hay tái chế? Có thể một ai đó đã nhặt được nó trên phố? Cần phải tìm lại quyển sách ngay, nhưng thế thì khác gì mò kim đáy bể.

Dù thế nào chăng nữa thì có một điều chắc chắn là: cần phải tìm ngay.

Bởi sinh mệnh của Billie chỉ còn phụ thuộc vào một cuốn sách.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,226
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27: Always on my mind


Yêu một người, cũng tức là yêu niềm hạnh phúc của người ấy.

Francoise SAGAN

Billie vẫn còn ngủ. Milo đã đi báo cho Carole và chúng tôi hẹn gặp nhau sau hai giờ nữa tại thư viện khách sạn để tra cứu vài thứ và thiết lập kế hoạch hành động. Khi đi qua sảnh, tôi bất ngờ gặp Aurore đang thanh toán ở quầy lễ tân.

Mái tóc cố tình làm rối, đeo kính râm, nàng ăn mặc theo phong cách du mục hoài cổ: váy ngắn, áo bờ lu dông da, bốt cao gót và túi du lịch kiểu cổ. Phụ nữ mà mặc như thế thì đa số sẽ là quá lố nhưng với nàng thì không chê vào đâu được.

- Em đi à?

- Tối mai em có một buổi hòa nhạc ở Tokyo.

- Tại Kioi Hall à? tôi hỏi, chính bản thân tôi cũng thấy ngạc nhiên khi mình vẫn còn nhớ tên địa điểm nơi nàng đã biểu diễn khi tôi đi cùng nàng trong chuyến lưu diễn đến Nhật.

Mắt nàng sáng lên:

- Anh còn nhớ chiếc Plymouth Fury cũ kỹ anh đã thuê lái không? Chúng ta vất vả lắm mới tìm ra nơi biểu diễn và em chỉ đến trước khi màn độc tấu bắt đầu đúng ba phút. Khi lên sân khấu em vẫn còn thở không ra hơi vì đã phải chạy!

- Dù vậy em vẫn chơi rất hay.

- Và sau buổi hòa nhạc, chúng ta đã phóng cả đêm đi xem “địa ngục sôi sục” của Beppu[1]!

Gợi lại chuyện hồi ấy khiến cả hai chúng tôi cùng lặng đi vì nuối tiếc. Phải, chúng tôi cũng đã có những phút giây hạnh phúc, bay bổng và chúng cũng không phải đã xa lắm...

Aurore mở lời xin lỗi về cách cư xử của Rafael Barros để xua tan đi khoảng lặng khiến chúng tôi thấy vừa bối rối vừa thú vị. Đêm hôm ấy nàng đã gọi cho tôi để hỏi thăm nhưng tôi không có trong phòng. Trong lúc một nhân viên phục vụ tầng lo đám va li của nàng thì tôi kể ngắn gọn cho nàng nghe chuyện đã xảy đến với Billie. Nàng chăm chú lắng nghe. Tôi vẫn biết mẹ nàng đã qua đời khi mới ba mươi chín tuổi vì bị ung thư vú nhưng phát hiện quá muộn. Sau cái chết đột ngột ấy, nàng hay mắc chứng hoang tưởng, lúc nào cũng quá lo lắng tới sức khỏe của mình và người thân.

- Nghe có vẻ thực sự nghiêm trọng đấy. Anh hãy đưa ngay cô ấy tới chỗ một bác sĩ giỏi. Nếu anh muốn, em có thể giới thiệu với anh một người.

- Ai thế?

- Giáo sư Jean-Baptiste Clouseau: một bác sĩ chẩn đoán bệnh cực kỳ chính xác. Giống như kiểu Dr House của Pháp. Ông ấy là trưởng khoa tim mạch tại Paris và dành phần lớn thời gian để nghiên cứu vì trái tim nhân tạo, nhưng nếu anh đến theo lời giới thiệu của em thì ông ấy sẽ gặp anh.

- Người tình cũ của em à?

Nàng ngước mắt lên trời.

- Ông ấy rất mê nhạc và thường tới xem em biểu diễn tại Paris. Và nếu gặp ông ấy, anh sẽ thấy là ông ấy chẳng đẹp trai như Hugh Laurie đâu! Nhưng đó là một thiên tài đấy.

Vừa nói nàng vừa mở chiếc BlackBerry ra rồi bắt đầu tìm trong danh bạ số của vị bác sĩ.

- Em sẽ gửi số cho anh, nàng nói khi bước lên ô tô.

Một nhân viên đóng cửa xe lại và tôi đứng nhìn chiếc ô tô đi xa dần về phía cửa chính dẫn vào khu liên hợp khách sạn. Nhưng sau khoảng năm chục mét, chiếc taxi dừng lại giữa lối đi rồi Aurore chạy lại chỗ tôi, khẽ đặt lên môi tôi một nụ hôn. Trước khi đi, nàng lấy từ trong túi ra chiếc máy nghe nhạc kỹ thuật số rồi đưa cho tôi sau khi đã áp tai nghe vào tai tôi.

Vị lưỡi nàng như vẫn còn đọng lại trên môi tôi còn trong đầu tôi là giai điệu và lời bài hát nàng đã bật sẵn: bản hay nhất của Elvis mà tôi đã tặng nàng khi chúng tôi yêu nhau đủ để tặng nhau bài hát:

Maybe I didn’t treat you

Quite as good as I should have

Maybe I didn’t love you

Quite as often as I could have

...

You were Always On My Mind

You were Always On My Mind

o O o

Có thể anh đã không đối xử tốt với em

Như anh phải thế

Có thể anh đã không yêu em

Nhiều như anh có thể

(Nhưng) Lúc nào anh cũng nghĩ tới em

Lúc nào anh cũng nghĩ tới em.

Chú thích

[1] Nằm trên một hòn đảo có núi lửa và toàn núi đá của Kyushu, thành phố Beppu nổi tiếng với hàng nghìn suối nước nóng đã biến nơi đây thành thành phố nóng nhất thế giới.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,226
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28: Trước thử thách


Độc giả có thể được coi là nhân vật chính của tiểu thuyết, ngang bằng với tác giả, bởi không có họ sẽ chẳng có gì hết.

Elsa TRIOLET

Làm thế nào mà một khách sạn lại được sở hữu một thư viện lộng lẫy đến thế này?

Rõ ràng là lòng hào hiệp của vị quốc vương dầu mỏ không chỉ mang lại lợi ích cho trung tâm y tế của khách sạn. Điểm đáng nói nhất là vẻ cổ điển và “sang trọng” của chốn này: giống như thể ta đang ở trong phòng đọc của một trường đại học Ăng lô Xắc xông danh tiếng chứ không phải trong thư viện của một nơi nghỉ mát. Hàng nghìn cuốn sách nằm ngay ngắn cạnh nhau chật đầy trên các giá bao quanh các hàng cột kiểu Hy Lạp cổ. Trong căn phòng được cách âm và trang trí cầu kỳ, những cánh cửa nặng nề chạm khắc, những bức tượng nửa người bằng cẩm thạch và loại gỗ lát tường kiểu cổ như đưa ta lùi lại vài thế kỷ trước. Chỉ hiện diện duy nhất một sự nhượng bộ trước thế giới hiện đại: những chiếc máy tính đời mới nhất được đặt trong các tủ gỗ hồ đào vân tròn.

Khi còn nhỏ, tôi từng ao ước được làm việc ở một nơi thế này. Ở nhà tôi không có bàn học. Tôi vẫn thường chui vào toilet đóng cửa lại để làm bài tập, một tấm ván đặt trên đầu gối làm bàn viết, đầu thì đội mũ công nhân để tránh những tiếng la hét từ nhà hàng xóm.

Với cặp kính tròn, chiếc áo pull bằng vải len angora cùng chân váy bằng vải Scotland, ngay cả cô thủ thư cũng tạo cảm giác được chuyển từ một thế giới khác tới. Khi tôi đưa cho cô danh sách những quyển sách muốn tra cứu, cô thú nhận rằng tôi là “độc giả” đầu tiên trong ngày:

- Khi đi nghỉ, khách ở đây thường thích bãi biển hơn là ngồi đọc Georg Wilhelm Friedrich Hegel.

Tôi nở một nụ cười khi cô đưa cho tôi một chồng sách cùng một cốc sô cô la nóng kèm mứt kẹo Mêhicô.

Để tận dụng ánh sáng tự nhiên, tôi tới ngồi bên một trong những khung cửa sổ lớn, cạnh một quả địa cầu màu xanh da trời của Coronelli rồi bắt tay ngay vào công việc.

o O o

Khung cảnh thật phù hợp cho việc nghiên cứu. Bầu không khí yên lặng chỉ bị khuấy động bởi tiếng loạt xoạt khi lật trang sách và tiếng ngòi bút chạy êm trên giấy. Trên mặt bàn, tôi giở ra những quyển sách tham khảo mà tôi đã cày cuốc kỹ thời còn đi học, Văn học là gì? của Jean-Paul Sartre, Lector in fabula của Umberto Eco và Từ điển triết học của Voltaire. Trong hai tiếng, tôi ghi chép kín cả chục trang giấy. Tôi đang như cá trong nước: xung quanh toàn là sách, trong một thế giới tĩnh lặng có thể trầm tư suy nghĩ. Tôi thấy mình lại là giáo viên dạy văn.

- Chà! Cứ như đang ở trường vậy! Milo kêu lên khi vào căn phòng tôn nghiêm chẳng đúng lúc chút nào.

Cậu ta đặt túi của mình lên một chiếc ghế bành Charleston rồi ghé nhìn qua vai tôi:

- Thế nào, cậu tìm được gì chưa?

- Có lẽ tớ đã có kế hoạch hành động, với điều kiện là cậu đồng ý giúp tớ.

- Dĩ nhiên là tớ sẽ giúp cậu rồi!

- Vậy thì chúng ta phải phân chia công việc thôi, tôi vừa nói vừa đóng nắp bút lại. Cậu sẽ quay về Los Angeles để tìm bản sách hỏng cuối cùng. Tớ biết rằng đó gần như là nhiệm vụ bất khả thi, nhưng nếu bản sách đó bị hủy, Billie sẽ chết, chắc chắn như vậy.

- Thế còn cậu?

- Tớ sẽ đưa cô ấy tới Paris thăm khám ở chỗ vị bác sĩ mà Aurore đã chỉ cho tớ, ít nhất cũng phải cố thử chặn đứng căn bệnh, nhưng nhất là...

Tôi thu lại đám giấy tờ đã ghi chép để việc giải thích của mình được rõ ràng hơn.

- Nhất là sao?

- Tớ phải viết nốt phần ba của bộ tiểu thuyết để đưa Billie trở lại thế giới tưởng tượng.

Milo cau mày:

- Tớ vẫn chưa hiểu tại sao viết một cuốn sách lại có thể đưa cô ấy về thẳng thế giới của mình.

Tôi cầm lấy cuốn sổ tay và giống như bác sĩ Philipson, tôi cố tập hợp những điểm mấu chốt trong quá trình suy diễn của mình lại.

- Thế giới thực là thế giới chúng mình, tức là cậu, tớ và Carole, đang sống. Đó là cuộc sống thực, là nơi chúng ta có thể sinh hoạt và chia sẻ với đồng loại: con người.

- Đến đây thì hoàn nhất trí.

- Ngược lại, thế giới ảo là thế giới của trí tưởng tượng và những điều hão huyền. Nó phản ánh thực thể chủ quan của mỗi độc giả. Đó là nơi Billie tồn tại, tôi vừa giải thích vừa ghi vài điều sơ lược kèm theo:

THẾ GIỚI THỰC

(cuộc sống thực)

TOM

MILO

CAROLE

THẾ GIỚI ẢO

(tưởng tượng)

BILLIE

- Tiếp tục đi, Milo yêu cầu.

- Như chính cậu đã nói, Billie đã vượt qua ranh giới chia cắt hai thế giới do một tai nạn máy móc: một trăm nghìn bản sách bị in lỗi. Đó là thứ cậu gọi là “cổng vào”:

- Ừm, ừm, cậu ta tán thành.

- Vậy nên giờ đây chúng ta thấy Billie đang tàn lụi dần ở nơi không phải môi trường sống của cô ấy.

- Và cách duy nhất cứu cô ấy, cậu ta lại bắt đầu, là tìm lại bản sách bị in lỗi để cô ấy không chết trong cuộc sống thực...

- Và đưa cô ấy về lại thế giới tưởng tượng bằng cách viết nốt tập ba trong bộ tiểu thuyết của tớ. Đó chính là “cổng ra” thế giới thực dành cho cô ấy.

Milo chăm chú nhìn sơ đồ tôi vẽ nhưng tôi thấy rõ có điều gì đó khiến cậu ta băn khoăn.

- Cậu vẫn không hiểu tại sao viết nốt tập ba lại có thể đưa cô ấy trở về thế giới ảo, đúng không?

- Không hẳn.

- Được, OK. Rồi cậu sẽ hiểu. Theo cậu ai tạo ra thế giới ảo?

- Chính là cậu! Ý tớ là nhà văn ấy.

- Đúng thế, nhưng không chỉ một mình nhà văn. Tớ chỉ làm một nửa phần việc thôi.

- Thế ai làm nốt phần kia?

- Độc giả...

Cậu ta nhìn tôi chằm chằm, vẻ mặt còn bối rối hơn nữa.

- Cậu hãy xem Voltaire đã viết gì vào năm 1764, tôi vừa nói vừa đưa cho cậu ta những ghi chép của mình.

Cậu ta chúi đầu vào đám giấy tờ của tôi rồi đọc to:

- “Những quyển sách hữu ích nhất chính là những quyển mà độc giả góp một nửa công sức làm ra nó.”

Tôi đứng dậy và tự tin bắt đầu bài diễn thuyết của mình:

- Nói cho cùng thì một quyển sách là gì hả Milo? Chỉ là những con chữ xếp cạnh nhau trên giấy theo một trật tự nào đó. Không phải cứ đặt dấu chấm hết cho một câu chuyện là có thể làm nó tồn tại được. Trong ngăn kéo của tớ đã có vài đoạn mở đầu của các bản thảo chưa được công bố, nhưng tớ coi chúng là những câu chuyện chết bởi chưa có ai từng đọc chúng. Một cuốn sách chỉ sống khi có độc giả. Chính độc giả mang lại sức sống cho sách khi tạo ra những hình ảnh sẽ tạo nên thế giới tưởng tượng nơi các nhân vật sống.

Cuộc chuyện trò của chúng tôi bị cắt ngang khi cô thủ thư chẳng có việc gì làm mang tới cho Milo một tách sô cô la kèm mứt kẹo. Cậu bạn tôi làm một ngụm ca cao rồi nhận xét:

- Mỗi lần sách của cậu ra hiệu sách và bắt đầu cuộc đời của chúng, cậu đều nói với tớ rằng chúng không còn thực sự thuộc về cậu nữa...

- Chính xác! Chúng thuộc về độc giả, họ sẽ tiếp tục công việc của tớ khi nắm lấy các nhân vật và cho chúng sống trong trí tưởng tượng của họ. Đôi khi, họ hiểu một vài đoạn theo ý của mình, khoác lên chúng một ý nghĩa mới không có trong đầu tớ lúc viết ra, nhưng đó là một phần của cuộc chơi!

Milo vừa chăm chú lắng nghe vừa viết nguệch ngoạc lên cuốn sổ của tôi:

Tôi tin chắc vào lý thuyết này. Tôi vẫn luôn nghĩ rằng một tác phẩm chỉ thực sự tồn tại thông qua mối liên hệ với độc giả. Ngay cả bản thân tôi cũng vậy, thời chỉ mới đọc chứ chưa viết sách, tôi đã luôn tìm cách đi càng xa càng tốt vào thế giới tưởng tượng của câu chuyện làm mình vui thích bằng cách dự đoán trước, vạch ra hàng nghìn giả thiết, thử đoán cách xử lý của tác giả và tiếp tục câu chuyện trong đầu mình ngay cả khi đã đọc hết trang cuối cùng. Bên ngoài những con chữ được in ra, chính trí tưởng tượng của độc giả mới là thứ quan trọng hơn cả vỏ văn bản và cho phép câu chuyện được tồn tại một cách trọn vẹn nhất.

- Vậy là, nếu như tớ hiểu đúng thì chính nhà văn như cậu và độc giả đã cùng nhau tạo ra thế giới ảo?

- Không phải tớ nói ra điều ấy, Milo ạ, chính là Umberto Eco đấy! Là Jean-Paul Sartre đấy! tôi đáp lại rồi chìa ra cho cậu ta quyển sách đã mở sẵn trong đó tôi có gạch chân câu văn ấy: “Đọc sách là một bản hiệp ước về tính độ lượng giữa tác giả và độc giả, người này tin tưởng người kia, người này trông cậy vào người kia.”

- Nhưng cụ thể là thế nào?

- Cụ thể là tớ sẽ bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết mới nhưng chỉ khi nào những độc giả đầu tiên được đọc nó thì thế giới ảo mới hình thành và khi ấy Billie mới biến khỏi thế giới thực để tìm lại cuộc sống thuộc về cô ấy nơi thế giới tưởng tượng.

- Vậy là tớ không được chậm trễ dù chỉ một giây, cậu ta vừa nói vừa ngồi vào trước màn hình máy tính. Bằng mọi giá tớ phải tìm được bản sách cuối cùng bị in lỗi, đó là cách duy nhất giữ cho Billie còn sống đợi cậu viết xong cuốn tiểu thuyết mới.

Cậu ta vào trong web của hãng hàng không Mexicana Airlines.

- Hai tiếng nữa có một chuyến bay về Los Angeles. Bây giờ mà khởi hành thì tối nay tớ sẽ có mặt ở khu MacArthur Park.

- Cậu định làm gì ở đó?

- Nếu cậu định đưa Billie tới Paris thì phải nhanh chóng làm hộ chiếu giả cho cô ấy. Tớ vẫn còn vài chỗ quen biết, phòng khi cần đến...

- Thế xe của cậu thì sao?

Cậu ta mở túi xách tay lấy ra mấy tập tiền rồi chia làm hai phần bằng nhau.

- Tay nhân viên của Yochida Mitsuko vừa tới lấy nó sáng nay. Đó là tất cả những gì tớ có thể làm được, nhưng chỗ này cũng giúp chúng ta cầm cự được vài tuần.

- Sau khoản này là chúng ta đã vét sạch túi rồi.

- Ừ, và với khoản nợ thuế của chúng ta thì tớ báo trước với cậu là chúng ta còn phải trả nợ trong ít nhất hai mươi năm nữa...

- Lần trước cậu đã quên không nói với tớ điều này đúng không?

- Tớ tưởng cậu tự hiểu được.

Tôi cố gắng làm cho tình hình bớt bi đát đi:

- Chúng ta đang cố gắng cứu mạng sống một con người, đó chẳng phải là việc làm cao quý nhất sao?

- Điều ấy thì chắc rồi, cậu ta đáp, nhưng cô gái này, cái cô Billie ấy, cô ấy có xứng đáng không?

- Tớ nghĩ rằng cô ấy cũng như chúng ta, tôi vừa nói vừa tìm cách diễn đạt phù hợp. Tớ nghĩ rằng cô ấy có lẽ cũng thuộc về “gia đình” chúng ta, gia đình mà chúng ta đã tự chọn, cậu, Carole và tớ. Bởi vì tớ biết rằng thực ra cô ấy cũng không khác chúng ta nhiều đâu: dưới lớp vỏ bọc bên ngoài, cô ấy cũng là một người đa cảm, tốt bụng. Một cô gái khẩu xà tâm Phật, đã bị cuộc đời vùi dập.

Cả hai chúng tôi cùng lặng đi một lần cuối. Khi đã ra đến ngưỡng cửa, cậu ta đột nhiên quay lại phía tôi:

- Cuốn tiểu thuyết mới ấy, cậu sẽ viết được chứ? Tớ tưởng là cậu không còn viết nổi dù chỉ một từ nữa.

Tôi phóng tầm mắt nhìn bầu trời qua khung cửa sổ: những đám mây lớn màu xám chen nhau nơi đường chân trời khiến cho khung cảnh nơi này giống như vùng thôn dã nước Anh.

- Tớ còn lựa chọn nào khác đâu? tôi vừa hỏi vừa gập cuốn sổ tay lại.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,226
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29: Khi bên nhau


Buổi đêm khi thấy lạnh, tôi trở dậy đắp thêm cho nàng một tấm chăn.

Romain GARY

Sân bay Charles-de-Gaulle

Chủ nhật 12 tháng Chín

Người tài xế taxi tóm lấy túi xách của Billie rồi thẳng tay nhét vào cốp xe, khi đi ngang qua tôi anh ta đập ngay vào túi đựng máy tính của tôi. Trong khoang lái của chiếc Prius hybride, đài được bật to tới mức tôi phải nhắc lại ba lần địa điểm cần đến với người tài xế.

Xe rời sảnh đến sân bay và nhanh chóng mắc kẹt trong đám tắc đường trên đại lộ ngoại vi Paris.

- Chào mừng đến với nước Pháp, tôi vừa nói vừa nháy mắt với Billie.

Cô ấy nhún vai:

- Anh không thể phá hỏng niềm vui thích của em khi được ở đây đâu. Được đến Paris là ước mơ của đời em!

Sau vài ki lô mét tắc đường, chiếc xe ra được đến cửa ô Maillot rồi vào đại lộ Grande-Armée sau đó tiếp tục bon bon đến tận bùng binh ngã tư Champs-Élysées. Giống như một đứa trẻ, Billie há hốc mồm khi lần lượt được khám phá Khải Hoàn Môn, “đại lộ đẹp nhất thế giới”, và vẻ cám dỗ của quảng trường Concorde.

Dù đã tới đây nhiều lần cùng Aurore nhưng cũng không thể nói rằng tôi thông thạo Paris. Tất cả đều diễn ra giữa hai buổi hòa nhạc và hai chuyến bay. Aurore như sống cuộc đời du mục, chẳng bao giờ có thời gian giúp tôi khám phá thành phố quê hương nàng. Những đợt lưu lại Paris của tôi dù thế nào cũng không vượt quá hai hoặc ba ngày liên tiếp, mà quãng thời gian ấy chúng tôi chỉ giam mình trong căn hộ xinh xắn của nàng nằm trên phố Las Cases, gần nhà thờ Sainte-Clotilde. Vậy nên, ở Paris, tôi chỉ biết vài con phố thuộc quận 6 và quận 7 cùng khoảng chục nhà hàng, cửa hàng hợp mốt nàng thường dẫn tôi tới.

Chiếc taxi vượt qua sông Seine sang bên bờ trái và rẽ ở đoạn kè Orsay. Khi nhận ra gác chuông cùng hàng cột ốp của nhà thờ Saint-Germain-des-Prés, tôi biết chúng tôi đã sắp tới căn hộ có sẵn đồ đạc mà tôi thuê qua mạng khi vẫn còn ở Mêhicô. Quả vậy, sau vài lần rẽ nữa, anh tài xế taxi cho chúng tôi xuống số 5 phố Furstemberg, trước một quảng trường nhỏ hình tròn, bao quanh là những cửa tiệm kiểu cổ, đây chắc chắn là một trong những quảng trường đẹp nhất tôi từng được thấy.

Trên một khoảnh sân được đắp cao lên nằm ngay chính giữa, bốn cây đồng cao vút bao quanh một cây đèn đường năm bóng. Mặt trời hắt ánh sáng lên những mái nhà bằng đá bảng màu lam. Nằm giữa những con phố hẹp, xa khỏi những đại lộ huyên náo, nơi đây như một hòn đảo nhỏ vĩnh hằng và lãng mạn, bước thẳng ra từ một bức họa của Peynet.

o O o

Khi tôi viết những dòng này, đã hơn một năm trôi qua kể từ buổi sáng hôm ấy, nhưng hình ảnh Billie bước xuống xe và mở to đôi mắt thán phục vẫn còn vẹn nguyên trong ký ức tôi. Lúc ấy, tôi không hề biết rằng những tuần kế tiếp sẽ là quãng thời gian đau đớn nhất nhưng cũng đẹp đẽ nhất đời chúng tôi.

o O o

Khu dành cho nữ sinh

Ký túc xá Berkeley

California

- Có bưu phẩm cho cậu này! Yu Chan hét lên khi bước vào phòng. Từ khi khai trường, cô đã ở chung phòng này cùng Bonnie Del Amico.

Ngồi ở bàn học, Bonnie ngẩng đầu khỏi máy tính cảm ơn cô bạn cùng phòng rồi lại tiếp tục chăm chú vào ván cờ.

Đó là một thiếu nữ tóc nâu cắt ngắn, khuôn mặt thân thiện vẫn giữ những đường nét tròn trĩnh từ thời ấu thơ. Nhưng qua ánh mắt tập trung đầy nghiêm túc cũng có thể đoán ra rằng dù còn trẻ nhưng cuộc sống không phải lúc nào cũng dễ dàng với cô.

Mặt trời mùa thu rọi những tia nắng qua cửa sổ, soi sáng các bức tường của căn phòng nhỏ, trên tường là các áp phích dán lộn xộn, cho thấy sở thích của hai cô gái: Robert Pattinson, Kristen Stewart, Albert Einstein, Obama hay Đạt lai Lạt ma.

- Cậu không mở ra à? cô gái Trung Quốc hỏi sau vài phút.

- Ừm... Bonnie lẩm bẩm, vẻ lơ đãng. Để tớ cho cái máy này nếm mùi thất bại đã.

Cô thử một nước cờ táo bạo khi dấn mã lên ô D4, hy vọng thắng được đối thủ.

- Có thể là quà của Timothy đấy, Yu Chan xem xét gói bưu kiện rồi đoán mò. Gã đó mê cậu như điếu đổ.

- Ừm... Bonnie lặp lại. Tớ mặc xác Timothy.

Máy tính xuất hậu đáp trả.

- Vậy tớ mở ra nhé! cô gái người châu Á quyết định.

Không đợi cô bạn đồng ý, Yu Chan xé lớp giấy bọc ngoài, để lộ ra một quyển sách dày cộp có bìa da in nổi: Tom Boyd - Hội Thiên thần - Tập 2.

- Là cuốn tiểu thuyết cậu mua hạ giá trên mạng, cô nàng nói có vẻ thất vọng.

- Ừm, ừm... Boonie ậm ừ.

Giờ đây cô phải bảo vệ quân mã của mình nhưng không được rút lui. Cô nhấp chuột để dấn tốt nhưng hăm hở bao nhiêu thì cô cũng buông xuôi nhanh chóng bấy nhiêu.

Quá muộn rồi...

Dòng chữ HẾT CỜ! nhấp nháy trên màn hình. Cô lại thua cái đống sắt đáng nguyền rủa này!

Không phải là điềm lành cho giải vô địch sắp tới, cô nghĩ rồi tắt máy.

Tuần sau, cô phải bảo vệ màu cờ sắc áo của trường trong giải vô địch thế giới dành cho lứa tuổi dưới mười tám. Giải đấu được tổ chức ở Rome này khiến cô vừa phấn khích lại vừa lo lắng.

Cô gái nhìn chiếc đồng hồ hình mặt trời treo trên tường rồi vội vàng thu dọn sách vở. Cô chộp lấy cuốn tiểu thuyết vừa nhận được rồi nhét nó vào trong ba lô. Cô sẽ sắp xếp va li đi Rome sau vậy.

- Addio, amica mia! cô nói khi ra khỏi phòng.

Cô bước ba bậc một xuống cầu thang rồi đi những bước dài để tới BART: hệ thống tàu liên vùng nối Berkeley với San Francisco chạy ngầm qua vịnh ở độ sâu bốn mươi mét dưới mực nước biển. Ngồi trên tàu, cô bắt đầu đọc ba chương đầu của cuốn sách rồi xuống ở ga Embarcadero sau đó bắt xe điện ở phố California. Chật cứng khách du lịch, chiếc xe điện băng qua Nob Hill và Grace Cathedral. Cô gái trẻ rời toa xe bằng gỗ hai bến sau đó để tới khoa ung thư của bệnh viện Lenox, nơi cô làm tình nguyện viên hai lần một tuần cho một hiệp hội chuyên giúp người bệnh thư giãn bằng các hoạt động vui chơi và nghệ thuật. Cô đã quan tâm tới công việc này khi chứng kiến mẹ cô hấp hối suốt hai năm trời vì căn bệnh ung thư, bà Mallory đã mất cách đây vài năm. Khi ấy Bonnie đã học đại học nhưng mới chỉ mười sáu tuổi, chưa đủ tuổi để tham gia loại hoạt động này. May thay, Elliott Cooper, chủ nhiệm khoa, lại là bạn của Garrett Goodrich, vị bác sĩ đã chữa trị cho mẹ cô những ngày cuối đời, vậy nên ông làm ngơ trước sự có mặt của cô ở bệnh viện.

- Chào bà Kaufman! cô vui vẻ nói khi bước vào một trong những phòng bệnh trên tầng bốn.

Chỉ sự hiện diện của Bonnie thôi đã đủ làm khuôn mặt Ethel Kaufman rạng rỡ lên. Vậy nhưng, cho tới vài tuần trước, người phụ nữ lớn tuổi này vẫn luôn từ chối tham gia vào các lớp vẽ tranh, hội họa hay các trò chơi tập thể do hội tổ chức, bà cũng không tham dự các buổi diễn hài hay múa rối mà bà thấy thật ngớ ngẩn, lỗi thời. Bà muốn người ta để yên cho bà được chết, có thế thôi. Nhưng Bonnie thì khác. Cô gái trẻ cá tính, trong cô là sự pha trộn giữa vẻ ngây thơ trong trắng và đầu óc thông minh đã không chịu để bà Ethel thờ ơ mãi như vậy. Hai người mất hàng tuần lễ mới làm thân được với nhau nhưng giờ đây họ không thể chịu nổi nếu một tuần không gặp nhau hai lần. Theo thói quen, họ bắt đầu bằng màn chuyện phiếm trong vài phút. Ethel hỏi về chuyện học hành ở trường đại học và về giải đấu cờ vua sắp tới của Bonnie, sau đó cô gái trẻ lấy cuốn sách ra khỏi ba lô:

- Ngạc nhiên chưa bà! cô vừa nói vừa giơ ra bản sách tuyệt đẹp.

Đôi mắt Ethel đã mệt mỏi rồi nên Bonnie rất sẵn lòng đọc cho bà nghe. Vài tuần trước, cả hai đều đã bị Bộ ba Thiên thần mê hoặc.

- Cháu không cưỡng lại được nên đã đọc mấy chương đầu rồi, Bonnie thú nhận. Cháu sẽ tóm tắt qua cho bà rồi đọc tiếp, được không ạ?

o O o

Quán Coffee Bean & Tea Leaf

Một quán cà phê nhỏ ở Santa Monica

10 giờ sáng

- Tớ nghĩ đã tìm được điều gì đó rồi! Carole hét lên.

Chúi mũi vào chiếc máy tính mini, nữ cảnh sát đang kết nối mạng thông qua sóng wifi của quán cà phê.

Cầm tách caramel latte trên tay, Milo tiến lại gần màn hình.

Khi cố thử tra tất cả các từ khóa có liên quan trên trang công cụ tìm kiếm, Carole cuối cùng đã tìm được một trang của eBay đăng tin rao bán trực tuyến bản sách hỏng duy nhất mà họ cần tìm.

- Cái của này thật rắc rối! anh thốt lên khi đánh đổ nửa cốc đồ uống vào áo.

- Cậu có chắc đúng nó đây không?

- Không nghi ngờ gì nữa, anh nói dứt khoát khi quan sát bức ảnh: sau khi đã hủy thì chỉ còn duy nhất một quyển bìa da kiểu này thôi.

- Đen quá, cuốn sách được bán mất rồi, Carole bực tức nói..

Cuốn sách được rao bán trên eBay vài ngày trước và đã tìm được người mua ngay lập tức với giá mười bốn đô la, số tiền chẳng đáng là bao.

- Dù sao chúng ta cũng có thể thử liên lạc với người bán để hỏi về người mua.

Nói là làm, Carole nhấp chuột vào dòng cho phép hiển thị thông tin chi tiết thành viên: annaboro73, gia nhập từ sáu tháng trước và được đánh giá tích cực.

Carole gửi một bức thư điện tử, trong đó cô giải thích rằng mình muốn liên hệ với người đã mua cuốn sách. Sau đó họ đợi khoảng năm phút, hy vọng sẽ có câu trả lời ngay lập tức nhưng trong lòng lại không mấy tin. Họ đợi cho tới khi Milo mất kiên nhẫn, anh viết một lá thư khác rõ ràng hơn, kèm theo lời hứa sẽ thưởng một nghìn đô la.

- Tớ phải quay lại làm việc rồi, Carole vừa nói vừa nhìn đồng hồ.

- Cộng sự của cậu đâu rồi?

- Anh ta bị ốm, cô nói rồi rời khỏi quán cà phê.

Milo quyết định đi theo ngồi cạnh cô trong xe cảnh sát.

- Cậu không có quyền được ngồi đây! Tớ đang làm nhiệm vụ và đây là xe tuần tra.

Anh làm ra vẻ như không nghe thấy gì và vẫn tiếp tục chuyện trò.

- Nick name của người bán là gì ấy nhỉ?

- annaboro73, Carole vừa nói vừa khởi động xe.

- Được rồi, Anna là tên, nhất trí chứ?

- Có vẻ hợp lý đấy.

- Boro là họ. Không phải là Borrow như vẫn thường thấy mà là boro, có vẻ như là thu gọn từ một họ của Đức.

- Của Ba Lan thì đúng hơn, phải không? Kiểu như Borowski.

- Ừ, đúng thế đấy.

- Thế còn con số? Cậu có nghĩ đó là năm sinh của cô ta không?

- Có thể lắm, Milo đáp.

Trên điện thoại của anh đã hiện ra trang web của dịch vụ những trang trắng nhưng chỉ riêng ở Los Angeles đã có đến hơn chục Anna Borowski.

- Đưa tớ cái điện đàm, Carole nói trong khi vẫn đang điều khiển xe đổi hướng.

Milo nhấc micro điện đàm ra và không thể không ứng tác bông đùa:

- Alô, Trái Đất nghe rõ không, đây là thuyền trưởng tàu vũ trụ Enterprise, chúng tôi yêu cầu được hạ cánh xuống căn cứ.

Carole nhìn anh ngán ngẩm.

- Sao thế, cũng buồn cười đấy chứ?

- Phải, Milo: nếu cậu mới tám tuổi thì cũng buồn cười đấy...

Cô cầm lấy micro nói, giọng đầy uy lực:

- Alô, trung tâm phải không, đây là trung sĩ Alvarez, số hiệu 364B1231. Tìm giúp tôi địa chỉ của một cô Anna Borowski nào đó, có lẽ là sinh năm 1973?

- OK, trung sĩ, yêu cầu được thực thi ngay đây.

o O o

Paris

Saint-Germain-des-Prés

Căn hộ hai phòng có đồ đạc của chúng tôi nằm trên tầng cao nhất của một tòa nhà nhỏ màu trắng, nhìn ra một quảng trường nhỏ rợp bóng cây khiến chúng tôi ngay lập tức cảm thấy như đang ở nhà mình.

- Chúng ta đi dạo một chút chứ? Billie đề nghị.

Có vẻ như không khí ở Paris khiến cô ấy thấy khá hơn. Dĩ nhiên là tóc cô ấy vẫn bạc trắng và nước da vẫn xanh xao nhưng cô ấy dường như đã tìm lại được chút thần thái.

- Báo cho em biết là anh còn phải viết năm trăm trang sách đấy nhé...

- Chuyện nhỏ thôi! cô đùa rồi lại gần cửa sổ, để khuôn mặt mình được hứng lấy tia sáng mặt trời.

- Được rồi, vậy thì đi dạo một chút. Để em có thể thấy khu phố.

Tôi khoác áo vest vào trong lúc cô ấy dặm chút phấn lên mặt.

Vậy là chúng tôi đi.

Như hai vị khách du lịch, ban đầu chúng tôi lững thững trên những con phố hẹp ở Saint-Germain, chúng tôi dừng lại trước tủ kính của mỗi hiệu sách hay tiệm đồ cổ, xem xét thực đơn của từng quán cà phê, lục lọi đám thùng kim loại của những người bán sách cũ dọc theo bờ sông Seine.

Dẫu cho những cửa hàng xa hoa lộng lẫy đang dần thế chỗ những địa điểm văn hóa, ở khu phố vẫn toát lên vẻ gì đó rất thần diệu. Giữa những con ngõ nhỏ quanh co rắc rối này, bầu không khí thật đặc biệt và ở đâu người ta cũng cảm nhận được tình yêu với sách vở, thi ca và hội họa. Mọi con phố, mọi tòa nhà chúng tôi qua khi dạo chơi đều là chứng nhân cho một quá khứ đầy truyền thống văn hóa. Voltaire từng làm việc tại quán Procope, Verlaine đã tới đây uống loại rượu apxanh, Delacroix có xưởng vẽ trên phố Furstemberg, Racine từng sống tại phố Visconti, Balzac sạt nghiệp khi gây dựng một xưởng in tại đây, Oscar Wilde đã ra đi trong cô độc và nghèo túng tại một khách sạn tồi tàn trên phố Beaux-Arts, Picasso vẽ bức Guernica tại phố Grands-Augustins, Miles Davis từng biểu diễn trên phố Saint-Benot, Jim Morrison trọ tại phố Seine...

Những cám dỗ mê đắm lòng người.

Rạng rỡ xoay tròn trong nắng, với cuốn sách hướng dẫn trên tay, Billie chăm chú để không bỏ lỡ điều gì trong chuyến thăm thú của mình.

Buổi trưa, chúng tôi dừng chân tại sân hiên của một quán cà phê. Trong lúc nhấm nháp mấy tách espresso kiểu Ý, tôi ngắm nhìn cô tươi cười thưởng thức pho mát trắng với mật ong cùng bánh mì đẫm mứt quả phúc bồn tử. Giữa hai chúng tôi có điều gì đó đã thay đổi. Thái độ thích gây sự với nhau đã bay biến nhường chỗ cho một sự hòa hợp mới mẻ. Từ giờ, chúng tôi là đồng minh và chúng tôi đều ý thức được đầy đủ rằng những thời khắc ở bên nhau thật đáng trân trọng, chúng thật mong manh và sẽ thật tốt khi chúng tôi quan tâm săn sóc lẫn nhau.

- Nào, giờ chúng ta sẽ tới đây, thăm quan nhà thờ này! cô đề nghị, tay chỉ tháp chuông Saint-Germain.

Trong lúc tôi lấy ví trả tiền, Billie uống nốt một ngụm sô cô la nóng rồi đứng dậy. Như một đứa trẻ muốn tỏ vẻ lanh lợi, cô ấy vội vã băng qua con phố trong lúc có một chiếc xe ôtô chạy theo chiều ngược lại.

Đúng lúc ấy cô chợt ngã khuỵu xuống lòng đường.

o O o

San Francisco

Bệnh viện Lenox

Bonnie bực mình lật đi lật lại các trang sách xem có đúng là chúng vẫn còn trắng nguyên không.

- Cháu e là hôm nay bà sẽ không thể biết được kết cục câu chuyện đâu, bà Kaufman ạ.

Ethel nhíu mày nhìn quyển sách chăm chú hơn. Nó đột nhiên ngừng lại ở trang 266, ngay giữa một câu văn dang dở.

- Hẳn là lỗi in ấn rồi. Cháu phải mang tới hiệu sách đổi lại.

- Nhưng cháu mua qua mạng!

- Vậy thì cháu bị lừa rồi.

Phật ý, Bonnie cảm thấy hai má đang đỏ ửng lên. Thật tiếc. Cuốn sách rất hấp dẫn và những hình minh họa bằng màu nước được làm rất cẩn thận.

- Đến giờ ăn rồi! nhân viên phục vụ đẩy cửa bê khay thức ăn vào rồi nói.

Như mọi lần vẫn tới đây, Bonnie cũng được một suất ăn. Thực đơn gồm có: xúp rau, xa lát cải Bruxelles và cá moruy hấp.

Bonnie nghiến răng cố nuốt vài miếng. Sao con cá lại vẫn còn đầy nước bên trong? Sao món xúp đậu lại có cái màu nâu nhạt này? Và còn nước xốt dầu giấm không có muối nữa... ọe.

- Thật kinh khủng, đúng không? bà Kaufman phàn nàn.

- Ở khoảng giữa của vô cùng kinh tởm và hết sức bẩn thỉu, Bonnie thừa nhận.

Bà Kaufman nở một nụ cười.

- Bà sẵn sàng trả tiền để được ăn một chiếc bánh phồng sô cô la. Đó là món khoái khẩu của bà.

- Cháu chưa bao giờ được ăn món đó! Bonnie vừa nói vừa liếm mép vẻ thèm thuồng.

- Bà sẽ cho cháu công thức làm bánh, Ethel đề nghị. Đưa bà cái bút và quyển sách in lỗi ấy! Ít ra nó cũng dùng được vào việc này.

Bà lão mở cuốn tiểu thuyết rồi viết nắn nót lên trang trắng đầu tiên, chữ bà quả là rất đẹp:

Bánh phồng sô cô la

200 g sô cô la đen;

50 g đường;

5 quả trứng;

30 g bột;

nửa lít sữa đã tách kem một nửa.

1) Bẻ sô cô la thành từng mẩu rồi đun cách thủy cho tan ra...

o O o

Paris

Saint-Germain-des-Prés

- Mở mắt ra đi!

Thân thể Billie nằm giữa đường.

Chiếc Clio đã phanh kịp, tránh được va chạm. Trên phố Bonaparte, dòng xe cộ ngừng lại và một nhóm người tụ tập xung quanh cô gái trẻ.

Tôi nghiêng mình xuống người cô ấy, nhấc hai chân lên để máu có thể chảy lên não. Tôi đặt đầu cô ấy quay sang bên, buông xõa tóc ra, đúng y như chỉ dẫn bác sĩ Philipson đã đưa. Cuối cùng Billie cũng tỉnh lại và đỡ nhợt nhạt hơn. Cơn bệnh của cô tan biến cũng nhanh như lúc xuất hiện. Cô bị ngất giống như khi ở Mêhicô.

- Đừng vội mừng: em vẫn chưa chết đâu, cô giễu tôi.

Tôi siết chặt cổ tay cô ấy. Mạch vẫn còn yếu, hít thở khó khăn và những giọt mồ hôi chảy ròng ròng trên trán.

Ngày mai chúng tôi có cuộc hẹn với giáo sư Clouseau, vị bác sĩ Aurore đã giới thiệu cho tôi. Tôi hết lòng mong mỏi rằng tài năng của ông ta thực sự xứng đáng với danh tiếng có được.

o O o

Los Angeles

- Cảnh sát đây, mở cửa ra!

Đằng sau lỗ cửa, Anna quan sát sĩ quan cảnh sát đang gõ cửa nhà mình.

- Tôi biết là cô có trong đó, cô Borowski! Carole vừa hét lên vừa chìa phù hiệu của mình ra.

Anna đành quay ổ khóa rồi ló bộ mặt lo lắng qua khuôn cửa.

- Các vị muốn gì?

- Chỉ là hỏi cô vài câu liên quan đến quyển sách cô đã rao bán trên mạng.

- Tôi không ăn cắp quyển sách đó! Anna bào chữa. Tôi tìm thấy nó trong một thùng rác, thế thôi.

Carole liếc nhìn Milo đang tiếp lời mình.

- Cô phải cho chúng tôi địa chỉ của người đã mua cuốn sách đó.

- Tôi nghĩ đó là một sinh viên.

- Sinh viên à?

- Dù sao thì cô ta cũng ở ký túc xá Berkeley.

o O o

San Francisco

Bệnh viện Lenox

4 giờ chiều

Ethel Kaufman không tài nào ngủ được. Kể từ lúc Bonnie đi sau bữa trưa, bà cứ trằn trọc trên giường. Có gì đó không ổn. Tức là ngoài căn bệnh ung thư đang hủy hoại hai lá phổi của bà ra...

Chính là quyển sách ấy. Hay nói cách khác, là những gì bà đã viết lên những trang giấy trắng trong sách. Bà nhỏm dậy, tựa lưng vào gối rồi cầm cuốn tiểu thuyết đang để trên bàn đầu giường, mở đến trang bà đã nắn nót viết vào công thức làm món tráng miệng thời ấu thơ của mình. Nỗi buồn thảm trong lòng bà từ đâu dội lại không biết? Từ cái chết đang chực đến cứ mỗi ngày lại thắng thế hơn? Có lẽ vậy.

Nỗi buồn thảm... Bà ghét nó. Đường đời trôi nhanh đến nỗi bà quyết định không bao giờ nhìn lại phía sau nữa. Bà lúc nào cũng chỉ sống với hiện tại, cố gắng lờ đi quá khứ. Bà không lưu giữ kỷ niệm, không tổ chức một lần sinh nhật nào, cứ hai hoặc ba năm lại chuyển nhà một lần để không quá gắn bó với vật cũng như với người. Với bà, đó luôn là điều kiện để có thể tồn tại.

Dù vậy, buổi chiều nay, quá khứ đã đến gõ cửa phòng bà. Bà khó nhọc đứng dậy, bước vài bước tới chỗ cái tủ sắt đựng đồ. Bà lấy ra chiếc va li nhỏ bằng da cứng có khóa Éclair, cô cháu gái Katia đã mang nó tới cho bà trong chuyến thăm mới đây. Trong đó là những thứ đồ Katia tìm thấy khi dọn dẹp căn nhà của bố mẹ trước khi bán.

Bức ảnh đầu tiên được chụp vào tháng Ba năm 1929, vài tháng sau khi bà chào đời. Trong ảnh là một cặp vợ chồng hạnh phúc đang tự hào đứng tạo dáng cùng ba đứa con. Ethel nằm trong vòng tay mẹ, trong khi anh chị bà, cặp song sinh bốn tuổi, đứng bên bố. Quần áo đẹp, nụ cười chân thành, vẻ thấu hiểu lẫn nhau: tình cảm gia đình và sự ngọt ngào toát ra từ bức ảnh. Ethel đặt bức ảnh cạnh mình trên giường. Bà không xem lại nó đã mấy chục năm rồi.

Tập tài liệu tiếp theo là một bài báo đã ố vàng, kèm theo nhiều bức ảnh minh họa chụp những năm 1940: những bộ đồng phục của quân Đức Quốc xã, những hàng rào thép gai, những hành động dã man... Cuốn tạp chí đưa Ethel về với chính câu chuyện của mình. Bà tròn mười tuổi khi tới Mỹ cùng với anh trai. Họ đã kịp rời khỏi Cracovie ngay trước khi quân Đức biến một phần thành phố thành trại tập trung. Chị gái bà lẽ ra đã đoàn tụ cùng hai anh em sau đó nhưng chị không có được cơ may ấy - chị chết do bị sốt tại Plaszów - cả bố mẹ bà cũng đã không sống sót nổi ở trại hủy diệt Belzec.

Ethel tiếp tục quay về quá khứ. Tiếp theo là một tấm bưu thiếp đen trắng chụp một nữ diễn viên múa ba lê duyên dáng đang nhảy trên mũi chân. Đó là bà, tại New York. Cả thời niên thiếu bà đã sống tại đây cùng gia đình bên nội của mẹ bà, họ đã nhận ra và khích lệ bà phát triển năng khiếu múa. Bà nhanh chóng trở nên nổi bật và được tuyển vào Đoàn Ba lê New York, nơi khi ấy vừa mới lăng xê thành công George Balanchine.

Kẹp hạt dẻ, Hồ thiên nga, Romeo và Juliet: bà được diễn vai chính trong những vở ba lê kinh điển nhất. Sau đó bà buộc phải từ bỏ nghiệp diễn năm hai mươi tám tuổi do bị gãy xương nhưng không được chữa trị cẩn thận khiến bà thành tật, đi khập khiễng.

Cảm giác rối bời khiến bà nổi da gà. Mặt sau tấm bưu thiếp là một chương trình biểu diễn tại New York. Sau tai tạn, bà tới làm giáo viên tại trường Ba lê Mỹ, thỉnh thoảng vẫn tham gia diễn vài vở nhạc hài kịch tại Broadway.

Một bức ảnh khác vẫn luôn làm bà đau đớn, dù hàng chục năm đã trôi qua. Đó là ảnh người tình bí mật của bà. Một người đàn ông kém bà mười tuổi bà đem lòng yêu năm ba mươi lăm tuổi: một chuyện tình đầy đam mê, mà chỉ để có vài giờ thăng hoa, bà đã phải trả giá bằng nhiều năm đớn đau và tuyệt vọng.

Và rồi...

Và rồi, cơn ác mộng...

Một cơn ác mộng bắt đầu trong ánh đèn chớp của bức ảnh tiếp sau, hơi mờ một chút, bức ảnh bà tự chụp mình qua gương. Bức ảnh chụp bụng bầu của bà.

Khi hoàn toàn không còn mong chờ nữa thì Ethel lại có bầu vào tuổi bốn mươi. Một món quà của cuộc đời mà bà đón nhận với lòng biết ơn vô bờ bến. Chưa bao giờ bà thấy hạnh phúc hơn sáu tháng đầu của thai kỳ. Dĩ nhiên bà cũng buồn nôn, cũng mệt mỏi vô cùng nhưng hài nhi đang lớn dần trong bụng khiến bà thay đổi.

Vậy nhưng một sáng, ba tháng trước ngày sinh nở, bà bị ra nước ối mà không có nguyên do cụ thể. Người ta đưa bà đến bệnh viện làm những xét nghiệm cần thiết. Bà vẫn còn nhớ như in mọi thứ. Đứa bé vẫn luôn ở đó, trong bụng bà. Bà cảm nhận được những cú đạp của nó, bà nghe thấy nhịp tim nó. Rồi bác sĩ phụ khoa trực tối ấy nói với bà rằng túi nước ối đã vỡ mà không có nước ối, thai nhi không thể sống được. Túi màng đã cạn nước, người ta phải tiến hành kích đẻ. Vậy là đêm hôm ấy, trong bà là nỗi khiếp sợ rằng mình sẽ sinh ra một đứa trẻ dù biết rằng nó sẽ không sống nổi. Sau nhiều giờ chuyển dạ, bà không tạo ra sự sống mà là cái chết.

Bà vẫn được nhìn thấy nó, chạm vào nó, ôm hôn nó. Nó nhỏ bé làm sao nhưng cũng đẹp biết bao. Cho tới lúc sinh, bà vẫn chưa quyết định đặt tên con trai mình là gì. Bà chỉ luôn gọi thầm trong lòng là nhóc con, nhóc con của mẹ.

Đứa trẻ sống được một phút thì tim ngừng đập. Ethel chẳng bao giờ quên được sáu mươi giây ấy, sáu mươi giây bà được làm mẹ. Sáu mươi giây siêu thực. Sau khoảng thời gian ấy, bà không sống nữa. Bà chỉ làm ra vẻ như mình đang sống mà thôi. Tất cả nguồn sáng, tất cả niềm vui, tất cả niềm tin của bà đã suy mòn hết trong phút ấy. Mọi nhiệt huyết còn lại trong bà đã vụt tắt cùng với đứa trẻ.

Những hàng nước mắt chảy dài trên má rơi xuống một chiếc phong bì nhỏ, dày bằng giấy ánh xà cừ. Bà run rẩy mở phong bì, lấy ra lọn tóc của đứa nhỏ. Bà khóc rất lâu nhưng những giọt nước mắt ấy giải phóng gánh nặng bà đã mang trong mình nhiều năm nay.

Giờ đây, bà cảm thấy rất mệt. Bà đột nhiên thấy muốn ngủ, trước khi đi nằm, bà dán những bức ảnh, bài báo, tấm bưu thiếp và lọn tóc vào các trang trắng của cuốn tiểu thuyết. Bản tóm lược những thời khắc quan trọng trong đời bà chiếm khoảng hơn chục trang sách.

Nếu được bắt đầu lại, bà sẽ thay đổi điều gì trong cuộc đời mình? Bà xua tan nghi vấn ấy khỏi đầu mình. Câu hỏi ấy chẳng có nghĩa lý gì. Cuộc đời chẳng phải là một trò chơi điện tử với nhiều khả năng lựa chọn. Thời gian trôi đi, con người ta cũng trôi theo và trong suốt hành trình ấy, họ thường làm những điều mình có thể chứ không phải những điều mình mong muốn. Số phận sẽ làm phần việc còn lại và cơ may sẽ tới can dự vào cả quá trình ấy. Thế thôi.

Bà xếp cuốn sách vào một phong bì lớn bằng giấy bồi rồi gọi y tá trực, nhờ cô đưa lại cho Bonnie Del Amico khi nào cô bé tới bệnh viện.

o O o

Khu dành cho nữ sinh

Ký túc xá Berkeley

7 giờ tối

- Đừng có ăn nhiều bánh tiramisu ở Rome quá đấy! Yu Chan láu lỉnh khuyên. Có ít nhất cả triệu calo trong đó mà gần đây cậu lại đang béo lên, đúng không?

- Đừng lo lắng cho tớ, Bonnie đáp lại rồi đóng va li. Theo những gì tớ biết thì chuyện béo gầy chẳng ảnh hưởng đến sở thích của đám con trai đâu.

Cô gái trẻ nhìn ra cửa sổ. Trời tối nhưng cô đã nhìn thấy chiếc taxi mà cô gọi đang nháy đèn pha ra hiệu rồi.

- Tớ đi đây.

- Chúc may mắn! Hạ gục hết đám nhà quê đó nhé! cô bạn người Trung Quốc động viên cô.

Bonnie bước xuống cầu thang ký túc xá và đưa hành lý cho người tài xế hãng xe yellow cab xếp vào cốp.

- Cô ra sân bay phải không?

- Vâng, nhưng trước đó em muốn ghé qua bệnh viện Lenox đã.

Trong suốt quãng đường, Bonnie mải miết với những ý nghĩ của mình. Sao cô lại cảm thấy cần phải quay lại gặp bà Kaufman nhỉ? Trưa nay, lúc chia tay, cô thấy bà mệt và có vẻ buồn. Nhất là bà lão lại chào tạm biệt cô một cách quá trịnh trọng, bày tỏ mong muốn được ôm hôn cô, hoàn toàn không giống với bà thường ngày.

Như thể đó là lần gặp cuối cùng...

Chiếc taxi đỗ lại cạnh một xe khác.

- Em để hành lý lại nhé? Em vào năm phút thôi.

- Em cứ thoải mái. Anh sẽ đỗ xe vào bãi.

o O o

Khu dành cho nữ sinh

Ký túc xá Berkeley

7 rưỡi tối

- Cảnh sát đây, mở cửa ra!

Yu Chan nhảy dựng lên. Cô đã lợi dụng lúc cô bạn cùng phòng vắng mặt để lục lọi máy tính và cố tìm cách đọc trộm email của bạn. Trong vài giây, cô gái hốt hoảng, tưởng rằng có camera giám sát giấu đâu đó trong phòng đã tố cáo cô.

Cô vội vàng tắt máy rồi mở cửa.

- Tôi là sĩ quan Carole Alvarez, Carole tự giới thiệu, dù biết rất rõ rằng cô chẳng hề có quyền can thiệp vào một khu ký túc xá đại học.

- Chúng tôi muốn nói chuyện với Bonnie Del Amico, Milo báo.

- Các vị đến chậm một chút rồi, Yu Chan thở phào nhẹ nhõm đáp. Cô ấy vừa ra sân bay. Cô ấy tham gia một giải đấu cờ vua tại Rome.

Tại Rome! Mẹ kiếp!

- Cô có số của cô ấy không? anh vừa hỏi vừa lấy điện thoại ra.

o O o

Bãi đỗ xe bệnh viện Lenox

7 giờ 34 phút

Trên băng ghế sau xe taxi, điện thoại của Bonnie đổ chuông dưới đáy chiếc túi đeo chần bông. Tiếng chuông như đang nài nỉ nhưng người tài xế không nghe thấy. Trong lúc chờ khách, anh mở đài to để theo dõi trận đấu giữa hai đội Mets và Braves.

Bên trong tòa nhà, Bonnie ra khỏi thang máy và khẽ khàng bước trong hành lang.

- Hết giờ thăm bệnh nhân rồi! một y tá chặn cô lại.

- Em... em muốn chào bà Kaufman trước khi đi nước ngoài.

- Ừm... em có phải là cô bé tình nguyện viên không?

Bonnie gật đầu.

- Ethel Kaufman ngủ rồi, nhưng bà ấy có để lại một phong bì cho em.

Hơi thất vọng, Bonnie theo người phụ nữ mặc đồ trắng đến phòng của chị để nhận chiếc phong bì có quyển sách bên trong.

Quay lại taxi, trên đường đến sân bay, cô kinh ngạc khi phát hiện ra những tấm ảnh cùng những lời ghi chú đã được bà lão thêm vào sách. Quá xúc động, cô chẳng hề nghĩ đến chuyện kiểm tra điện thoại.

o O o

Sân bay quốc tế San Francisco

Đường băng cất cánh số 3

Chuyến bay 0966

9 giờ 27 phút tối

“Xin chào quý bà, quý ông.

Đây là tiếp viên trưởng, tôi rất vui mừng được đón tiếp quý khách trên chiếc Boeing 767 này trong chuyến bay tới Rome. Hôm nay thời gian bay dự kiến của chúng ta là 13 giờ 55 phút. Thủ tục lên máy bay đã xong. Giờ đây các vị sẽ thấy trước ghế của mình một bản chỉ dẫn an toàn với quy trình những việc cần làm trong trường hợp khẩn cấp, chúng tôi yêu cầu quý vị đọc thật kỹ. Đội ngũ tiếp viên sẽ thực hành minh họa...”

o O o

Sân bay quốc tế San Francisco

Sảnh đi

9 giờ 28 phút tối

- Chuyến bay đến Rome? Tôi rất tiếc, chúng tôi vừa hoàn thành thủ tục lên máy bay, cô nhân viên tiếp tân tra cứu trên màn hình rồi thông báo.

- Lại thế nữa rồi! Carole bực bội nói. Chúng ta không tài nào chạm vào được quyển sách tệ hại đó. Thử gọi lại cho cô gái xem!

- Tớ đã để lại cho cô ấy hai lời nhắn rồi, Milo thông báo. Hẳn cô ấy đang để chế độ rung.

- Thử nữa đi, xin cậu đấy.

o O o

Đường băng cất cánh số 3

Chuyến bay 0966

9 giờ 29 phút tối

“Chúng ta chuẩn bị cất cánh. Quý khách vui lòng thắt dây an toàn, dựng ghế dậy và tắt điện thoại di động. Chúng tôi xin nhắc lại đây là chuyến bay không hút thuốc và tuyệt đối cấm hút thuốc trong toilet.”

Bonnie khóa dây an toàn và lục trong túi xách tay tìm tai nghe dùng khi đi du lịch, kính che mắt để ngủ và cuốn sách. Khi tắt điện thoại, cô nhận thấy đèn đỏ nháy sáng, báo hiệu có lời nhắn hoặc tin SMS. Cô định mở ra xem nhưng ánh nhìn trách móc của cô tiếp viên khiến cô ngừng lại.

o O o

Paris

Nửa đêm

Phòng khách trong căn hộ nhỏ của chúng tôi được chiếu sáng bằng ánh sáng dịu nhẹ từ hơn chục cây nến. Sau một buổi tối tĩnh lặng, Billie đã thiếp ngủ trên tràng kỷ. Còn tôi thì bồn chồn bật máy tính và mở chương trình xử lý văn bản cũ rích của mình ra. Trang trắng khủng khiếp xuất hiện trên màn hình và cùng với nó là cảm giác buồn nôn, nỗi lo lắng, hoảng sợ rủi thay đã trở nên thân thuộc với tôi.

Cố lên!

Cố lên!

Không.

Tôi đứng dậy khỏi ghế, tới tràng kỷ bế Billie vào phòng ngủ. Đang ngủ yên thì bị đánh thức nên cô ấy lẩm bẩm rằng mình nặng lắm nhưng vẫn để tôi bế. Không khí ban đêm mát mẻ nên lò sưởi trong phòng chỉ phả ra hơi ấm dịu. Tôi tìm thấy một chiếc chăn lông trong tủ và quấn quanh người cô ấy như quấn trẻ con.

Tôi định khép cửa phòng lại thì nghe tiếng cô ấy nói: “Cảm ơn.”

Tôi kéo rèm cửa để ánh sáng ngoài phố không lọt vào được, cho cô ấy được ngủ yên và cả căn phòng chìm trong bóng tối. “Cảm ơn đã chăm sóc em. Chưa bao giờ có ai làm vậy trước anh.”

o O o

“Chưa bao giờ có ai làm vậy trước anh.”

Câu nói vẫn vang vọng trong đầu tôi khi quay lại bàn làm việc. Trên màn hình, tôi nhìn con trỏ cứ nhấp nháy như chế nhạo mình.

Anh lấy cảm hứng từ đâu? Đó là câu hỏi quen thuộc, độc giả và đám nhà báo thường xuyên hỏi vậy và thành thực mà nói, tôi chưa bao giờ có thể trả lời câu hỏi đó một cách nghiêm túc. Viết lách ẩn chứa sau nó một cuộc sống khổ hạnh: để viết được kín bốn trang giấy một ngày, tôi phải mất độ mười lăm tiếng. Chẳng có gì là kỳ diệu, không bí mật, cũng không bí kíp: chỉ cần tách mình khỏi cuộc sống xung quanh, ngồi vào bàn làm việc, đeo tai nghe, bật nhạc cổ điển hoặc nhạc jazz lên và chuẩn bị trước một lượng dự trữ cà phê lớn. Đôi khi, vào những ngày thuận lợi, khi mọi thứ vào guồng, tôi có thể viết liền một lúc cả chục trang. Vào những lúc được ban phước lành ấy, tôi tin rằng câu chuyện đã có sẵn ở đâu đó trên kia và giọng nói của một thiên thần đã đọc cho tôi những gì cần viết nhưng những thời khắc như vậy rất hiếm và cái viễn cảnh viết được năm trăm trang trong vòng vài tuần thực sự là không thể đối với tôi.

“Cảm ơn đã chăm sóc em.”

Cơn buồn nôn của tôi biến mất. Nỗi lo sợ của tôi biến thành chứng sợ đám đông. Chứng sợ đám đông của tác giả ngay trước khi bức màn sân khấu được kéo lên. Tôi đặt tay lên bàn phím và ngón tay tôi bắt đầu chuyển động dù tôi không điều khiển. Những dòng đầu tiên xuất hiện như có phép màu.

Theo trí nhớ của người dân Boston, chưa có mùa đông nào lạnh đến thế này. Từ hơn một tháng nay, thành phố oằn mình dưới tuyết và sương giá. Trong các quán cà phê, người ta nhắc đến việc trái đất nóng lên ngày càng thường xuyên hơn, đề tài mà truyền thông đã nói rát tai công chúng. “Thật không tin nổi! Rồi thì tất cả sẽ trở thành cái lò sưởi mất thôi!”

Trong căn hộ nhỏ của mình ở Southie, Billie Donelly chìm trong giấc ngủ chập chờn. Cho đến giờ, cuộc sống vẫn chẳng hề rộng lượng với cô. Cô vẫn còn chưa hay gì, nhưng mọi chuyện sắp đổi thay.

Được rồi, vậy là đã bắt đầu.

Tôi ngay lập tức hiểu ra rằng tình cảm tôi dành cho Billie đã giải thoát tôi khỏi lời nguyền. Khi đưa tôi về lại với thực tế, cô ấy đã tìm được chiếc chìa khóa của ổ khóa đang giam hãm tâm hồn tôi.

Trang trắng không còn khiến tôi sợ hãi nữa.

Tôi bắt tay vào việc và viết suốt đêm.

o O o

Rome

Sân bay Fiumicino

Ngày hôm sau

“Thưa quý bà, quý ông, đây là tiếp viên trưởng chuyến bay. Chúng ta vừa hạ cánh xuống sân bay Fiumicino, Rome. Nhiệt độ bên ngoài là 16 độ C. Xin quý khách thông cảm vì có chút chậm trễ. Xin quý khách ngồi yên tại chỗ và thắt dây an toàn cho tới khi máy bay dừng hẳn. Quý khách lưu ý không để đồ vật rơi vào người khi mở ngăn hành lý và kiểm tra lại để không quên gì. Thay mặt toàn bộ phi hành đoàn của hãng hàng không United Airlines, chúng tôi xin chúc quý khách một ngày tốt đẹp và mong được đón tiếp quý khách trong các chuyến bay khác.”

Bonnie Del Amico cảm thấy vô cùng mệt mỏi khi gà gật tỉnh dậy. Cô đã ngủ suốt chuyến bay, một giấc ngủ toàn mộng mị mà cô không tài nào thoát ra được.

Cô rời khỏi máy bay mà người vẫn còn đờ đẫn, không hề nhận ra mình để quên quyển sách bà Ethel Kaufman đã chuyển lại cho trong túi lưới ở chỗ ngồi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,226
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30: Mê trận cuộc đời


Không gì bi thảm hơn gặp một người đã kiệt sức, đang lạc lối trong mê trận cuộc đời.

Martin LUTHER KING

Thứ Hai 13 tháng Chín

Quận 15, Paris

9 giờ sáng

Chúng tôi xuống ở bến Balard, ga cuối cùng của chuyến tàu điện ngầm số 8. Vào một ngày đầu thu tại Paris, nhiệt độ vừa phải và trời lất phất mưa như thoảng hương vị của ngày tựu trường.

Bệnh viện Marie-Curie là một tòa nhà lớn nằm bên bờ sông Seine, ngoài rìa công viên André-Citroên. Mặt chính của tòa nhà phủ toàn kính uốn lượn theo độ cong của con phố và tạo ra hiệu ứng tấm gương phản chiếu hình ảnh cây cối xung quanh.

Theo những gì tôi đọc được trong sách hướng dẫn thì bệnh viện Marie-Curie tập hợp các khoa của các bệnh viện cũ tại Paris và giờ đây đã trở thành một trong những viện hàng đầu châu Âu, đặc biệt là khoa tim mạch nơi giáo sư Clouseau làm trưởng khoa.

Sau khi nhầm cổng ba lần và lạc giữa những lối đi quanh co ở khoảnh sân trong rộng lớn, chúng tôi được một nhân viên chỉ đường tới thang máy dẫn lên tầng áp chót.

Dù đã hẹn trước, chúng tôi vẫn phải đợi vị bác sĩ bốn mươi lăm phút. Theo cô thư ký tên Corinne, giáo sư Clouseau - sống ngay trong cùng tòa nhà với bệnh nhân - vừa mới từ New York về sáng nay. Mỗi tháng ông sang đó hai lần để giảng dạy tại ngôi trường Harvard Medical School danh tiếng.

Dưới sự giám sát của Corinne, chúng tôi kiên nhẫn chờ đợi trong một phòng làm việc tuyệt đẹp được trang hoàng bằng những đồ gỗ xen lẫn kim loại. Từ căn phòng có thể phóng tầm mắt nhìn ra sông Seine và các mái nhà của Paris, thật mê li. Đứng trước tấm vách kính, có thể nhìn thấy rõ những chiếc phà đang uể oải trôi trên sông, cây cầu Mirabeau và bản sao của bức tượng Nữ thần Tự do ở đầu kia đảo Thiên Nga.

Người đàn ông lao vào phòng trông giống nhà thám hiểm Columbo hơn là một vị bác sĩ tài năng. Đầu tóc rối bù, gương mặt mệt mỏi, râu ria xồm xoàm, ông khoác một chiếc áo gió trên vai, nhìn như áo choàng. Áo sơ mi bằng vải Scotland thò ra khỏi áo pull xanh nhạt và buông ngoài quần nhung tăm với những vết bẩn đáng ngờ. Nếu gặp người đàn ông này trên phố, có lẽ tôi sẽ muốn bố thí cho ông ta vài xu. Lại càng khó tin hơn, là từ hơn chục năm nay, tại khoa tim mạch của bệnh viện, ông chỉ đạo một nhóm các bác sĩ và kỹ sư tiến hành nghiên cứu tạo ra một trái tim nhân tạo hoạt động độc lập.

Ông lẩm bẩm một tràng nghe không rõ để biện minh cho sự chậm trễ của mình, thay áo gió bằng một chiếc áo blouse vàng nhạt, và hẳn là mệt mỏi do lệch múi giờ, ông ngồi xệp xuống ghế bành.

Tôi đã đọc được ở đâu đó nói rằng trong lần đầu gặp gỡ với một người lạ, não của chúng ta chỉ mất một phần mười giây để nhận ra người đó có đáng tin hay không. Một quá trình diễn ra nhanh tới mức khả năng lý trí của chúng ta hoàn toàn không có thời gian tác động đến phản ứng “bản năng” đầu tiên ấy.

Và buổi sáng hôm ấy, trong tâm trí tôi vẫn khắc ghi cảm giác tin tưởng nơi giáo sư Clouseau bất chấp vẻ ngoài ăn mặc cẩu thả của ông.

Cả Billie cũng không để vẻ ngoài của vị bác sĩ gây bối rối, cô trình bày chi tiết các triệu chứng của mình cho ông nghe: bất tỉnh, mệt mỏi, xanh xao, khó thở, buồn nôn, sốt, sụt cân và cảm giác bỏng rát ở dạ dày.

Trong lúc ông chăm chú tiếp nhận thông tin và lẩm bẩm “ừm, ừm” rất khẽ, hầu như không nghe thấy gì thì tôi đưa cho ông tập bệnh án tôi tự làm nhờ các phân tích của Mortimer Philipson. Ông đeo cặp kính hai tròng như thời những năm 1970 vào rồi đọc tập tài liệu, vừa đọc vừa bĩu môi đầy hoài nghi, nhưng ánh mắt sáng quắc đằng sau mắt kính tròn để lộ một trí tuệ sắc sảo và lanh lợi.

- Cô hãy làm lại các xét nghiệm ở chỗ tôi, vị bác sĩ nói dứt khoát rồi lẳng tập tài liệu đóng bìa các tông vào sọt rác. Các xét nghiệm làm tại trung tâm y tế của một khách sạn ở nước ngoài và cái câu chuyện về “cô gái bằng giấy”, mực và xeluloza này hoàn toàn không chấp nhận được.

- Thế còn chuyện tôi bị ngất đi thì sao? Billie bực dọc hỏi. Thế còn tó...

Ông ta cắt ngang lời cô, không kiêng nể gì:

- Theo tôi, việc cô hay bị ngất là do lượng máu lên não giảm đột ngột. Tất nhiên nguyên nhân sâu xa của chứng này là một bất thường về tim mạch. Và quả là đúng lúc đúng chỗ: đó chính là chuyên môn của tôi và của khoa tôi đang quản lý.

Ông ta nguệch ngoạc lên một đơn thuốc danh sách các xét nghiệm cần làm trong ngày rồi hẹn gặp chúng tôi vào buổi tối.

o O o

Rome

Sân bay Fiumicino

Chiếc Boeing 767 đến từ San Francisco đỗ trên phần sân dành cho mình. Hành khách đã xuống từ cách đây hơn nửa tiếng và các nhân viên bảo dưỡng đang tích cực quét dọn bên trong máy bay.

Mike Portoy, phi công của đường bay này đặt dấu chấm hết cho bản báo cáo sau chuyến bay và đóng máy tính xách tay lại.

Quá nhiều thủ tục giấy tờ! anh vừa ngáp vừa nghĩ.

Anh đã làm qua quýt cho xong báo cáo bởi chuyến bay mười lăm tiếng liên tục khiến anh thấy mệt. Anh nhìn màn hình điện thoại. Vợ anh đã để lại một tin nhắn đầy quan tâm và thắm thiết. Để không phải gọi cho vợ, anh gửi lại cho vợ một tin nhắn soạn sẵn lưu trong máy. Hôm nay, anh có việc thú vị hơn là chuyện phiếm với vợ. Tối nay anh dứt khoát phải gặp Francesca. Mỗi lần tới Rome, anh đều cố gắng sắp xếp thời gian thử vận may với nữ tiếp viên xinh đẹp làm việc ở bộ phận tìm đồ thất lạc. Hai mươi tuổi, tươi tắn, sexy, khêu gợi với thân hình bốc lửa, Francesca làm anh như phát điên. Cho đến tận giờ, cô nàng vẫn luôn từ chối anh, nhưng rồi mọi chuyện sẽ thay đổi, anh cảm thấy như vậy.

Mike rời buồng lái. Anh đội lại mũ rồi cài khuy áo vest.

Không bao giờ được đánh giá thấp uy thế của bộ đồng phục.

Nhưng trước khi rời máy bay, anh phải tìm một cái cớ để tới gặp cô gái người Ý.

Anh thấy đội quét dọn đã nhanh chóng phân công công việc một cách hiệu quả. Trên chiếc xe chở đồ đầu tiên, giữa đám tạp chí và khăn giấy đã dùng, anh phát hiện ra một quyển sách bìa da màu xanh đậm rất đẹp. Anh tiến lại gần, cầm cuốn sách lên, nhìn bìa sách được trang trí hình các ngôi sao, tên tác giả và tên tiểu thuyết được mạ vàng nổi bật: Tom Boyd - Bộ ba Thiên thần - Tập 2.

Chưa bao giờ nghe nói tới, nhưng đúng là thứ mình đang cần. Mồi câu của mình đây rồi!

- Ông không thể lấy quyển sách đó được, thưa ông.

Anh quay lại, bị bắt quả tang. Ai mà lại dám nói với anh như thế?

Đó là một người thuộc đội quét dọn. Một phụ nữ da đen, khá đẹp. Tấm phù hiệu bắt buộc đeo trước ngực cho thấy tên cô ta - Kaela - và tấm khăn nhỏ đội đầu có in hình ngôi sao trắng trên nền xanh như là cờ Somali.

Anh nhìn cô ta khinh bỉ:

- Tôi sẽ lo vụ này! anh vừa nói dứt khoát vừa giơ cuốn sách ra. Tôi sẽ mang nó tới bộ phận tìm đồ lạc.

- Tôi buộc phải báo cáo với nhóm trưởng, thưa ông.

- Cứ đi mà báo cáo với cả Chúa nếu cô muốn, anh nhún vai chế nhạo.

Anh cầm quyển sách trên tay rồi rời máy bay.

Đêm nay, Francesca sẽ ngủ trên giường anh!

o O o

Via Mario de Bernardi

Trên taxi tới khách sạn, Bonnie chợt nghĩ tới việc mở điện thoại di động. Đầy tin nhắn! Đầu tiên là bố cô lo lắng nên nhắn tin, rồi tới tin nhắn kỳ cục của Yu Chan báo cho biết rằng cảnh sát đang theo dõi cô và đặc biệt là một loạt cuộc gọi nhỡ của một anh Milo nào đó nói muốn mua lại cuốn tiểu thuyết của Tom Boyd mà cô đã mua qua mạng.

Thật điên rồ!

Linh cảm xấu, cô lục tìm trong túi xách tay và phát hiện ra cuốn sách không có đó.

Mình để quên trên máy bay rồi!

Chiếc taxi sắp rẽ vào đường cao tốc thì Bonnie hét lên:

- Làm ơn dừng lại! Ông có thể quay lại sân bay không?

o O o

Bệnh viện Marie-Curie

Kè sông Seine, Paris

- Cô cứ thoải mái đi. Kiểm tra không hề đau đâu.

Billie nằm xuống, cởi trần, nằm nghiêng sang trái. Phía bên phải cô, vị bác sĩ chuyên khoa tim gắn ba điện cực lên ngực cô rồi bôi một loại gel lên phía thân trên.

- Chúng tôi sẽ chụp tim cho cô để xem có khối u không và nếu có thì nó nằm ở đâu.

Vừa nói vừa làm, vị bác sĩ áp máy dò vào nhiều chỗ trên người cô ấy, dọc theo mạng sườn và gần xương ức Billie, mỗi lần áp anh ta lại chụp mấy bức ảnh. Trên màn hình, tôi thấy rõ nhịp tim của cô ấy đang đập nhanh hơn vì sợ hãi. Tôi cũng thấy cả vẻ lo lắng của vị bác sĩ, cuộc kiểm tra càng kéo dài, khuôn mặt anh ta lại càng căng thẳng.

- Có nghiêm trọng không? tôi không kìm được nên cất tiếng hỏi.

- Giáo sư Clouseau sẽ giải thích kết quả cho các vị, anh ta trả lời tôi có phần lạnh lùng.

Nhưng rồi cũng thêm vào chính ý kiến của mình:

- Tôi nghĩ chúng ta sẽ cần điện tâm đồ bằng cách chụp cộng hưởng từ nữa.

o O o

Rome

Sân bay Fiumicino

- Francesca không có đây à? Mike Portoy vừa đẩy cửa văn phòng bộ phận tìm đồ thất lạc vừa hỏi.

Chàng phi công chuyên bay chuyến San Francisco-Rome khó mà giấu nổi vẻ thất vọng. Đằng sau quầy, cô nhân viên “thay thế” ngẩng lên khỏi tờ tạp chí cho anh vài tia hy vọng:

- Cô ấy đang nghỉ ca tại Da Vinci’s.

Mike bỏ đi mà không nói lời cảm ơn cũng không mất công để lại quyển sách đã lấy trên máy bay.

Nằm mãi tít ở cuối bến 1, Da Vinci’s là một khu nghỉ ngơi ngay giữa sân bay. Giữa những hàng cột trang trí bằng cẩm thạch hồng, khu nghỉ mang dáng vẻ của một quán cà phê phá cách với những cột trụ và mái vòm phủ đầy dây thường xuân leo. Dọc theo một quầy lớn hình chữ U, hành khách chen nhau uống espresso mạnh và thưởng thức những loại bánh ngọt hảo hạng.

- Này! Francesca! anh cất tiếng gọi khi thấy cô.

Mỗi lần gặp anh lại thấy cô như xinh đẹp hơn. Cô đang chuyện phiếm với một nhân viên trẻ: một gã giỏi pha trò mặc tạp dề của lò rang, người ta thuê anh ta để pha chế loại cà phê truyền thống, bao trọn từ lúc cà phê nguyên hạt cho đến khi sản phẩm được pha vào tách.

Mike tiến lại gần, đặt cuốn sách lên mặt quầy và cố chen ngang câu chuyện, áp đặt lối nói của mình - kiểu Mỹ - và chủ đề của mình - nói về bản thân anh. Nhưng cô nàng xinh đẹp người Ý đang ngất ngây trước chàng đồng nghiệp trẻ, uống lấy từng lời anh ta, đôi mắt chớp chớp: anh ta có nụ cười như tán tỉnh, cặp mắt tươi vui và những lọn tóc màu nâu. Phô bày hết vẻ nam tính của mình, Mike nhìn thiên thần La Mã đầy thách thức, rồi mời Francesca đi ăn tối. Anh biết một quán ăn bình dân nhỏ gần Campo de Fiori có khai vị thập cẩm tuyệt vời và...

- Tối nay em hẹn đi với Gianluca rồi, cô vừa đáp vừa lắc đầu.

- Ờ... vậy thì mai nhé? Anh ở lại Rome hai ngày.

- Cám ơn anh nhưng... thôi! cô khước từ rồi cùng phá lên cười với chàng trai kia.

Mike tái mặt. Có thứ gì đó đã vuột khỏi anh. Làm thế nào mà cô nàng lẳng lơ kia lại thích cái gã khốn khổ đó được? Anh đã mất tám năm học hành mới được làm cái nghề danh giá khiến mọi người phải ngưỡng mộ này. Còn gã kia thì chỉ có một công việc mạt hạng và bấp bênh. Anh chinh phục bầu trời còn gã kia được trả bảy trăm chín mươi euro một tháng với công việc bán thời gian...

Để không mất hết thể diện, Mike đành cố gọi thứ gì đó. Cặp tình nhân đã xoay sang tiếp tục cuộc chuyện trò bằng tiếng Ý từ lâu. Mùi cà phê quyến rũ bốc lên tận đầu anh. Anh uống một hơi hết tách cà phê lungo cháy bỏng lưỡi.

Mặc xác, mình sẽ chơi một ả điếm ở bờ San Lorenzo, anh bực bội nghĩ dù biết rõ rằng điều ấy sẽ chẳng khiến Francesca ngừng cười.

Anh tụt xuống khỏi ghế đẩu rồi tiu nghỉu rời quán cà phê, quên bẵng luôn cuốn sách bìa da kiểu gô tíc trên quầy...

o O o

Sân bay Fiumicino

Bộ phận tìm đồ thất lạc

Năm phút sau

- Rất tiếc, thưa cô, không thấy ai mang cuốn tiểu thuyết của cô tới chỗ chúng tôi cả, Francesca thông báo với Bonnie.

- Cô chắc chứ? cô sinh viên hỏi. Đó là một quyển sách rất quan trọng với tôi. Trong đó có cả ảnh và...

- Nghe này, cô hãy điền vào phiếu này, mô tả món đồ thất lạc của mình càng cụ thể càng tốt và cả số hiệu chuyến bay của cô nữa, nếu có ai mang nó tới, chúng tôi sẽ gọi cho cô ngay.

- Đành vậy, Bonnie buồn bã đáp.

Cô chăm chú điền vào tờ phiếu nhưng có một giọng nói khẽ khàng trong sâu thẳm lòng cô bảo với cô rằng cô sẽ không được thấy lại cuốn sách dở dang kỳ lạ của Tom Boyd nữa và rằng cô sẽ chẳng bao giờ được thưởng thức món bánh phồng sô cô la của bà Kaufman...

o O o

Bệnh viện Marie-Curie

Kè sông Seine, Paris

19 giờ 15 phút

- Corinne, kết quả của cô Donelly! Jean-Baptiste Clouseau mở cửa phòng làm việc rồi hét lên.

Ông bắt gặp ánh mắt ngạc nhiên của tôi đang nhìn vào chiếc điện thoại nội bộ để trên bàn làm việc.

- Không tài nào mà hiểu nổi mấy cái thứ máy móc này hoạt động thế nào: quá nhiều nút bấm! ông vừa lẩm bẩm vừa gãi gãi đầu.

Nhìn bề ngoài thì dường như với chiếc BlackBerry đời mới nhất của ông cũng vậy. Cứ hai phút chiếc điện thoại lại nháy sáng và rung lên nhưng ông không hề để ý.

Vị bác sĩ phải mổ cả ngày và có vẻ không được “tươi tỉnh” như ban sáng. Gương mặt mệt mỏi của ông hõm sâu và bộ râu rậm rì khiến người ta tưởng như chúng đã dài ra nửa xăngtimét chỉ trong vài giờ.

Màn đêm đã buông xuống Paris, nhấn chìm căn phòng trong cảnh tranh tối tranh sáng. Nhưng Clouseau không mất công bật đèn. Ông chỉ bấm vào nút giữa trên một chiếc điều khiển từ xa là một màn hình phẳng lớn gắn trên tường bật lên, trên đó trình chiếu báo cáo kết quả xét nghiệm của Billie.

Vị bác sĩ tiến lại gần màn hình để bình luận tài liệu đầu tiên:

- Xét nghiệm máu đã khẳng định lượng tiểu cầu giảm, điều này giải thích tại sao cô lại bị thiếu máu, ông vừa giải thích vừa nhìn cô gái qua tròng cặp kính kỳ lạ đang đeo.

Ông nhấn nút chuyển sang hình ảnh tiếp sau:

- Còn điện tâm đồ cho thấy rõ có nhiều u nhầy ở tim.

- U nhầy là thế nào? Billie lo lắng hỏi.

- Là những khối u nằm trong tim, Clouseau giải thích gọn lỏn.

Ông lại tiến gần màn hình và dùng điều khiển từ xa chỉ một chi tiết trên bức hình y học chụp một khối sẫm màu như những quả bóng nhỏ.

- Khối u đầu tiên của cô nằm trong tâm nhĩ phải. Nó có dạng thường gặp, với cuống ngắn dính chắc như keo. Nhìn qua thì có vẻ như là u lành...

Ông để vài giây rồi mới chuyển sang tấm ảnh khác:

- Khối u thứ hai đáng lo ngại hơn, ông thừa nhận. Nó có kích thước bất thường, khoảng mười xăng ti mét và dạng như có thớ lằng nhằng, rắn chắc. Nó đã lọt vào miệng van hai lá và cản trở máu giàu oxy đi tới phần trái của tim. Điều đó giải thích tại sao cô bị khó thở, xanh xao và hay ngất, đó là vì cơ thể không được cung cấp đầy đủ máu.

Tôi cũng tiến lại gần màn hình. Khối u có hình dạng như một chùm nho, dính vào khoang tim bằng các thớ. Tôi không thể không liên tưởng tới rễ cây và các thớ gỗ vận chuyển nhựa cây, như thể có một cái cây đang mọc trong tim Billie.

- Tôi... tôi sẽ chết, phải không? cô run rẩy hỏi vị bác sĩ.

- Căn cứ vào kích thước của khối u, nếu không lấy nó ra nhanh thì thực sự là cô có nguy cơ cao sẽ bị nghẽn động mạch và đột tử, bác sĩ Clouseau chẩn đoán.

Ông tắt màn hình, bật lại đèn rồi quay lại chỗ ghế bành của mình.

- Đó sẽ là một ca phẫu thuật tim mở. Dĩ nhiên là có nhiều nguy cơ, nhưng trong tình trạng hiện nay thì không làm gì mới là điều nguy hiểm nhất.

- Lúc nào ông có thể mổ cho tôi? cô hỏi.

Vị bác sĩ cất giọng to vang gọi cô thư ký Corinne mang lịch làm việc đến. Lịch đã kín đầy những buổi phẫu thuật và làm việc hẹn trước hàng tháng liền. Tôi đã sợ rằng ông ta sẽ giới thiệu cho chúng tôi một trong những đồng nghiệp của mình nhưng nể tình tôi là bạn Aurore, ông đồng ý lùi một cuộc hẹn khác để hai tuần sau sẽ mổ cho Billie.

Thực sự là tôi thấy mến người đàn ông này.

o O o

Người gửi: [email protected]

Chủ đề: Bộ ba Thiên thần - Tập 2

Thời gian: 13 tháng Chín 2009 22:57

Người nhận: [email protected]

Ông Lombardo,

Tôi đã nhận được loạt tin nhắn của ông bày tỏ mong muốn mua lại cuốn sách của Tom Boyd mà ông khẳng định vừa là người đại diện vừa là bạn của ông ấy.

Tôi không định bán cuốn sách này nhưng cũng thông báo cho ông hay rằng tôi đã chẳng may để quên nó trên chuyến bay từ San Francisco tới Rome và tới giờ người ta vẫn chưa thấy nó được mang tới bộ phận tìm đồ thất lạc ở sân bay Fiumicino.

Mong ông nhận được lá thư này và gửi tới ông những lời thăm hỏi chân thành nhất của tôi.

Bonnie Del Amico

o O o

Rome

Sân bay Fiumicino

Quán cà phê Da Vinci’s

Những hành khách đầu tiên trên chuyến bay của hãng hàng không FlyItalia từ Berlin tới bắt đầu xuống máy bay. Trong số họ, họa sĩ và nhà thiết kế nổi tiếng Luca Bartoletti trở về từ một chuyến công tác ngắn tới thủ đô nước Đức. Ba ngày vừa qua ông phải trả lời các cuộc phỏng vấn nhân dịp một triển lãm điểm lại các tác phẩm của ông được tổ chức tại Hamburger Bahnhof, bảo tàng nghệ thuật đương đại của thành phố. Được thấy các bức họa của mình treo cạnh tranh của Andy Warhol và Richard Long chính là một hình thức tôn vinh. Sự ghi nhận công sức lao động cả một đời người.

Luca không phải mất thời gian chờ đợi lấy va li ở chỗ băng chuyền chạy vòng tròn. Ông ghét sự cồng kềnh nên luôn đi du lịch không có hành lý. Trên máy bay, ông không động đến suất ăn gồm món xa lát dai như cao su, món trứng tráng bột bọc trong nilon nhìn không bắt mắt và một chiếc bánh mứt lê cứng như thạch cao.

Trước khi ra xe, ông dừng lại ăn chút ít ở quán Da Vinci’s. Quán cà phê sắp đóng cửa nhưng ông chủ đồng ý phục vụ thêm vị khách cuối cùng này. Luca gọi một cốc cappuccino cùng bánh mì kẹp pho mát, cà chua và giăm bông Ý. Ông ra quầy ngồi đọc nốt bài báo trên tờ La Repubblica đang đọc dở trên máy bay. Khi đặt tờ báo xuống để uống một ngụm cà phê, ông nhận thấy cuốn sách có bìa da màu lam chàng phi công vừa bỏ quên lại. Luca là tín đồ của trào lưu bookcrossing[1]. Ông mua rất nhiều sách, nhưng không giữ quyển nào mà thích để lại tại những nơi công cộng để người khác cũng có thể đọc. Ban đầu ông tưởng rằng cuốn tiểu thuyết được cố tình để lại đây nhưng chẳng có mẩu giấy nhắn nào đính trên bìa để khẳng định điều đó.

Luca vừa nhai bánh mì vừa giở cuốn tiểu thuyết. Ít quan tâm đến dòng sách đại chúng, ông chưa bao giờ nghe nói đến Tom Boyd, nhưng cũng chưng hửng khi phát hiện ra cuốn sách bị in thiếu và một trong những người đọc nó đã dùng những trang trắng làm album ảnh.

Ông kết thúc bữa ăn rồi rời quán cà phê với cuốn sách tìm được trên tay. Tại bãi đỗ xe ngầm, ông đi tới chỗ chiếc DS cũ màu bóoc đô ông đã mua trong một buổi đấu giá mới đây. Ông đặt cuốn sách lên ghế hành khách và nhắm thẳng hướng Tây-Nam thành phố.

Luca sống tại tầng trên cùng của một tòa nhà màu đất son, trong khu phố đẹp như tranh vẽ và sặc sỡ của Trastevere, phía sau quảng trường Santa Maria. Đó là một căn hộ lớn được ông cải tạo thành nhà thông tầng và đặt xưởng vẽ. Ngay khi ông bước vào nhà, một thứ ánh sáng chói lòa - mà ông cần để thực hiện các bức vẽ - tràn ngập khắp phòng. Luca tới chỗ công tắc để giảm bớt ánh sáng. Nơi này không tạo cảm giác là một chỗ ở bởi nó quá tối giản. Ông bố trí mọi thứ xung quanh một lò sưởi trung tâm lớn có kính vây quanh. Chỗ nào cũng thấy giá vẽ, cọ vẽ đủ các cỡ, trục lăn để vẽ trên tường, cái nạo của thợ thuộc da, dao của người nuôi ong và màu vẽ chục lọ một. Nhưng không hề có giường cho trẻ con, tủ sách, tràng kỷ, ti vi cũng không.

Luca xem xét những bức vẽ mới nhất. Tất cả đều là tranh một màu: những biến thể của màu trắng với những vết khắc, vệt dài, hình nổi và nhát chổi tạo ra những hiệu ứng ánh sáng đặc biệt. Những tác phẩm được những người thích sưu tập định giá rất cao. Nhưng Luca không dễ bị lừa. Ông biết thành công và sự công nhận của giới phê bình không phản ánh đúng tài năng. Thời buổi bão hòa tiêu dùng, ô nhiễm tiếng ồn, tốc độ và vật dụng khiến mọi người có cảm giác được tẩy uế khi mua tranh của ông.

Họa sĩ cởi áo vest và bắt đầu mở các trang sách có dán những bức ảnh chụp các mốc quan trọng trong đời Ethel Kaufman mà lòng đầy xúc động.

Từ lâu lắm rồi trong ông không còn bất kỳ sở thích ngông cuồng nào nữa. Vậy nhưng, tối hôm nay, ông lại có ham muốn mãnh liệt được ăn món bánh phồng sô cô la...
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,226
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31: Những con phố thành rome


Bạn hẳn sẽ thích cái ngày bạn có thể chỉ ra những điểm yếu của mình mà người khác không tận dụng nó để làm tăng uy quyền của họ.

Cesare PAVESE

Paris

14-24 tháng Chín

Mặc dù căn bệnh của Billie vẫn luôn đe dọa nhưng hai tuần trước ngày cô ấy phẫu thuật là một trong những quãng thời gian êm ái nhất của hai “chúng tôi”.

Cuốn tiểu thuyết của tôi vẫn tiến triển. Tôi đã tìm lại được ham muốn viết lách và hằng đêm, tôi ngồi viết với niềm hăm hở nhiệt tình đầy sáng tạo. Tôi làm mọi cách gây dựng nền tảng để Billie có được một cuộc sống ngọt ngào và hạnh phúc. Ngồi trước máy tính, qua từng trang sách, tôi tạo cho cô ấy một cuộc sống mà cô ấy hằng mơ ước: một cuộc sống thanh thản hơn, thoát khỏi đám ma quỷ, những ảo tưởng và bầm giập.

Tôi thường viết đến tận buổi bình minh rồi ra ngoài khi sáng sớm, vào giờ những người lao công đang vảy nước lên vỉa hè ở Saint-Germain. Tôi mua túi cà phê đầu tiên trong ngày ở một quán rượu trên phố Buci rồi qua tiệm bánh mì trên đường Dauphine nơi bán loại bánh kẹp mứt táo vàng ruộm giòn tan. Tôi về tổ của chúng tôi ở quảng trường Furstemberg và vừa nghe đài vừa pha hai tách cà phê sữa. Billie tới chỗ tôi, miệng còn ngáp ngắn ngáp dài, rồi chúng tôi cùng ăn sáng, đứng tựa vào quầy bar của căn bếp kiểu Mỹ nhìn ra quảng trường nhỏ. Cô ấy vừa lẩm nhẩm hát vừa cố luận lời các bài hát tiếng Pháp. Còn tôi, tôi lau chỗ vụn bánh dính trên mép cô ấy, nhìn cô ấy nheo nheo đôi mắt để tránh ánh nắng mặt trời đang rọi vào mặt mình.

Khi tôi lại bắt đầu viết thì Billie dành cả buổi sáng để đọc. Cô ấy đã tìm thấy một hiệu sách tiếng Anh gần nhà thờ Notre-Dame và nhờ tôi lập một danh sách những cuốn tiểu thuyết không thể không đọc. Từ Steinbeck, Salinger đến Dickens, trong vòng nửa tháng cô ấy sẽ ngốn ngấu những cuốn tiểu thuyết đã ghi dấu ấn trong thời niên thiếu của tôi, những cuốn sách mà tôi đã ghi chú lại, đã tra cứu tìm hiểu tiểu sử tác giả và chép lại vào một cuốn sổ những câu văn xúc động.

Buổi chiều, sau khi ngủ vài tiếng, tôi thường đưa cô ấy tới rạp chiếu phim nhỏ trên phố Christine, nơi có chiếu những bộ phim cũ mà cô ấy chưa bao giờ được nghe nói tới nhưng lại kinh ngạc, thán phục khi được xem: Bầu trời có thể đợi, Bảy năm suy nghĩ, The Shop Around the Corner... Sau suất chiếu, chúng tôi cùng diễn lại bộ phim bên một cốc sô cô la kiểu thành Viên và mỗi lần tôi nhắc tới một điển tích xa lạ, cô ấy lại dừng để ghi vào sổ tay của mình. Tôi vào vai Henry Higgins, còn cô ấy là Eliza Doolittle[1]. Cả hai chúng tôi đều hạnh phúc.

Buổi tối, chúng tôi thử thách chính mình khi nấu nướng theo công thức nấu ăn trong một cuốn sách cũ tìm thấy trong tủ sách nhỏ của căn hộ. Nấu lúc được lúc không nhưng chúng tôi đã thử làm nhiều món như ra gu thịt bê, vịt mái tơ hầm lê, cháo ngô nấu với chanh hay - món thành công nhất của chúng tôi - thịt đầu bắp cừu non tẩm mật ong và húng tây.

Trong hai tuần ấy, tôi phát hiện ra một khía cạnh khác trong con người Billie: một cô gái thông minh, khéo léo, quyết tâm học hỏi. Và đặc biệt, kể từ khi cả hai cùng hạ vũ khí, tôi lại thấy tâm hồn mình rung rinh trước những tình cảm mới lạ dành cho cô ấy.

Sau bữa ăn, tôi để cô ấy đọc những gì tôi viết được trong ngày, đây sẽ là đề tài cho cuộc chuyện trò thật lâu giữa chúng tôi sau đó. Ở quầy ăn trong phòng khách, chúng tôi mở một chai rượu lê Williams. Nhãn rượu được làm thủ công đã mờ mất một nửa nhưng vẫn đủ thấy dòng đảm bảo rằng quá trình “chưng cất rượu tuân thủ những quy tắc cổ xưa” do một nhà sản xuất nhỏ ở phía Bắc Ardèche làm ra. Tối đầu tiên, chai rượu mạnh đốt cháy cổ họng chúng tôi và chúng tôi thấy không thể uống nổi nó, dù vậy, tối hôm sau chúng tôi không ngăn nổi mình làm một cốc nữa. Tối thứ ba, chúng tôi thấy nó “nói cho cùng thì cũng không tệ lắm” và “thật quá tuyệt vời” vào tối thứ tư. Từ hôm ấy, chai rượu trở thành phần không thể thiếu được trong nghi lễ của chúng tôi, và dưới tác dụng giải tỏa ức chế của rượu, chúng tôi thổ lộ tâm tình nhiều hơn. Cứ như vậy, Billie kể cho tôi nghe về tuổi thơ, về thời niên thiếu rầu rĩ của cô ấy, về tình cảnh khốn cùng, đơn côi đã liên tiếp đẩy cô ấy tới những cuộc tình thảm hại. Cô ấy nói với tôi về nỗi đau đớn khi chưa bao giờ gặp được một người đàn ông yêu cô, tôn trọng cô, về những niềm hy vọng cho tương lai, cho gia đình mà cô mơ ước tạo dựng được. Cuối cùng, cô ấy thường thiếp đi trên tràng kỷ khi nghe những chiếc đĩa cổ 33 vòng chủ nhà bỏ quên và cố dịch lời bài hát của nhà thơ tóc trắng cài một điếu thuốc nơi túi ngực và cho rằng “cùng với thời gian, mọi thứ sẽ trôi đi”, rằng “rồi ta sẽ lãng quên niềm đam mê và ta sẽ lãng quên những giọng nói khẽ thầm thì với ta những ngôn từ của đám dân nghèo: đừng về quá muộn và nhất là đừng để bị lạnh”.

o O o

Sau khi đưa cô ấy về phòng ngủ, tôi lại xuống phòng khách ngồi trước màn hình. Và như vậy một đêm làm việc đơn độc lại bắt đầu với tôi, đôi khi tôi thấy thật phấn khởi nhưng thường là đau đớn bởi những tháng năm hạnh phúc mà tôi đang cố tạo ra cho Billie, tôi biết cô ấy sẽ trải qua chúng mà không có tôi ở bên, trong một thế giới do tôi tạo ra nhưng tôi lại không tồn tại trong đó, mà bên một gã đàn ông là kẻ thù tệ hại nhất của tôi.

Quả thật, trước khi Billie ùa vào đời mình, tôi đã tạo ra nhân vật Jack là một kẻ tệ hại. Hắn là hiện thân của tất cả những gì tôi căm ghét hoặc những gì không nam tính khiến tôi khó chịu. Jack là hình ảnh đối lập với tôi, là kiểu đàn ông tôi căm thù, là mẫu người tôi không muốn trở thành.

Ngoài bốn mươi, bô trai, là bố của hai đứa trẻ, hắn làm trợ lý giám đốc cho một hãng bảo hiểm lớn tại Boston. Lấy vợ từ rất sớm, hắn đã khôn ngoan lừa gạt vợ để ngoại tình mà cô vợ đành chịu chấp nhận. Tự tin vào bản thân, khéo mồm, hắn nắm rõ tâm lý phụ nữ và ngay từ lần gặp đầu tiên, hắn rất có tài khiến người đối diện tin tưởng mình. Hắn tự thể hiện trong lời nói và thái độ của mình vẻ gì đó gia trưởng khiến hắn trở nên mạnh mẽ và nam tính. Nhưng với cô nàng muốn quyến rũ, hắn lại thường tỏ ra dịu dàng, ngọt ngào, và chính sự mâu thuẫn này đã khiến phụ nữ mê mệt, họ nghĩ rằng mình là người duy nhất có đặc quyền được hưởng lối ứng xử như vậy.

Thực ra, sau khi đạt mục đích, cái tính tự coi mình là trung tâm của Jack lại nổi lên. Có thể điều khiển được người khác nên hắn luôn đóng thành công vai diễn nạn nhân để xoay chuyển tình thế thành ra có lợi cho mình. Mỗi lần nghi ngờ, hắn lại lăng mạ người tình bằng những ngôn từ rất khó nghe bởi hắn có khả năng đoán ra điểm yếu của các cô nhân tình để chi phối họ.

Rủi thay, tôi lại phải giao Billie của mình vào móng vuốt của gã biến thái, ích kỷ này, một gã chuyên đi quyến rũ đàn bà và bắt họ phải gánh chịu những vết thương không bao giờ lành được. Cô ấy đem lòng yêu hắn và yêu cầu tôi để cô ấy được gây dựng cuộc sống mới với hắn.

Từ khi nhận được lời đề nghị ấy, tôi rơi vào chính cái bẫy của mình bởi người ta không thể quay ngoắt thay đổi hoàn toàn tính cách của một nhân vật tiểu thuyết được. Dù cho có là tác giả của cuốn sách cũng vô ích, tôi không phải là Chúa trời. Thế giới hư cấu có những luật lệ riêng của nó, và cái gã đểu giả đó không thể đột nhiên biến thành một người tử tế, lý tưởng chỉ sau một tập truyện.

Vậy là hằng đêm, tôi gắng sức đảo ngược dòng từng chút một, cố biến Jack trở nên nhân bản hơn bằng những chi tiết rất nhỏ và dần dần, qua từng trang sách, khiến hắn trở nên dễ ưa hơn.

Nhưng dù cho có sự lột xác có phần giả tạo này, với bản thân tôi, Jack vẫn là Jack: gã trai tôi ghét nhất trần đời, gã trai mà do một cảnh huống kỳ lạ, tôi buộc phải trao gửi người phụ nữ mà giờ đây tôi đã đem lòng yêu...

o O o

Pacific Palisades, California

15 tháng Chín

9 giờ 1 phút

- Cảnh sát đây! Mở cửa ra ông Lombardo!

Milo khó khăn lắm mới tỉnh dậy được. Anh dụi dụi mắt và lảo đảo ra khỏi giường.

Tối qua anh đã thức rất muộn cùng Carole. Cả hai ngồi trước máy tính, lùng sục khắp các forum, các trang web bán hàng trực tuyến để tìm dấu vết bản sách bị mất nhưng vô ích. Khi có thể, họ đều để lại thông báo và viết thư khẩn. Đó là một công việc chán ngắt mà họ phải làm với từng trang web của Ý ít nhiều có liên quan đến việc bán sách qua mạng.

- Cảnh sát đây! Mở cửa ra, nếu không...

Milo hé cửa. Một nhân viên cảnh sát đứng trước mặt anh. Một cô gái tóc nâu, mắt xanh với vẻ quyến rũ lai giữa Ailen và Mỹ trông như Teresa Lisbon.

- Chào ông. Tôi là Karen Kallen, thuộc lực lượng cảnh sát California. Chúng tôi được lệnh trục xuất ông khỏi nhà.

Milo bước ra hiên thì thấy một chiếc xe tải chuyên dọn nhà đỗ trước cửa.

- Mấy thứ lộn xộn này là thế nào?

- Đừng làm công việc của chúng tôi phức tạp lên thưa ông! cô sĩ quan cảnh sát dọa nạt. Những tuần qua, ông đã chẳng nhận được rất nhiều giấy đòi nợ của ngân hàng còn gì.

Hai nhân viên dọn nhà thuê đã đứng trước cửa, chỉ đợi mệnh lệnh để dọn sạch ngôi nhà.

- Vả lại, nữ cảnh sát tiếp tục, tay giơ ra một chiếc phong bì, đây là trát gọi ông ra hầu tòa vì tội đem tài sản sắp bị tịch biên đi bán.

- Cô muốn nói tới...

- ...chiếc Bugatti mà ông đã đem cầm cố, đúng vậy.

Viên cảnh sát gật đầu ra hiệu đồng ý cho hai người “khoắng nhà” và chỉ trong chưa đến nửa giờ đồng hồ, họ đã lột sạch mọi đồ đạc trong nhà anh.

- Thế này cũng chưa ghê gớm lắm so với những gì sở thuế sắp bắt ông phải chịu đâu! Karen, vốn thích làm người khác đau khổ, nói với anh trước khi đóng cửa xe.

Milo chỉ còn lại một mình, trên vỉa hè, với một chiếc va li trên tay. Anh chợt ý thức được rằng mình chẳng có nơi nào mà ngủ qua đêm. Như một võ sĩ quyền Anh bị hạ nốc ao, anh bước vài bước sang phải rồi lại sang trái, không biết đi đâu. Ba tháng trước, anh đã cho hai nhân viên cùng làm với mình nghỉ việc và bán lại văn phòng. Vậy đấy. Giờ thì anh chẳng còn việc làm, không nhà cửa, không xe cộ, không gì hết. Từ rất lâu rồi, anh không chịu nhìn thẳng vào thực tế, cứ nghĩ rằng cuối cùng rồi mọi thứ cũng ổn thỏa cả thôi, nhưng lần này, thực tế đã tóm sống được anh.

Tia nắng buổi sớm mai rọi vào những hình xăm trên bắp tay anh. Những dấu vết thời quá khứ của anh, chúng đưa anh về lại với đường phố, với những cuộc ẩu đả, với bạo lực và cảnh khốn cùng mà anh nghĩ mình đã thoát được.

Tiếng còi xe cảnh sát hú lên đưa anh ra khỏi dòng suy nghĩ. Anh quay đầu định bỏ trốn nhưng đó không phải là một sự hiện diện thù nghịch.

Đó là Carole.

Cô ngay lập tức hiểu chuyện gì đã xảy ra và không để cho nỗi lo âu xâm chiếm. Cô quả quyết tóm lấy va li của Milo rồi nhét vào băng ghế sau của xe tuần tra.

- Tớ có một chiếc ghế gấp rất thoải mái, nhưng đừng tưởng là cậu có thể ở nhà tớ mà không động tay vào việc gì đâu nhé. Từ lâu rồi tớ đã muốn thay giấy dán tường trong phòng khách, và cũng cần phải quét vôi lại bếp, vặn lại vòi hoa sen. Trong phòng tắm có một vòi nước bị rỉ và những vết ẩm mốc phải làm sạch. Cậu thấy không, tóm lại thì vụ trục xuất này đúng ra cũng có lợi cho tớ...

Milo kín đáo gật đầu cảm ơn cô.

Có thể là anh không còn việc làm nữa, không còn nhà, không còn xe nữa.

Nhưng anh vẫn còn Carole.

Anh đã mất tất cả.

Trừ điều cốt yếu nhất.

o O o

Rome

Khu Trastevere

23 tháng Chín

Họa sĩ Luca Bartoletti bước vào nhà hàng nhỏ theo kiểu gia đình nằm trong một con ngõ xa trung tâm. Trong nhà hàng có bài trí đồ gỗ cổ và một căn bếp phong cách La Mã không hề kiểu cách. Ở đây người ta ăn mì đựng trên một chiếc khăn trải bàn carô và uống rượu bằng bình.

- Giovanni! ông gọi.

Căn phòng vắng tanh. Mới có mười giờ sáng nhưng mùi bánh mì nóng thơm phức đã phảng phất trong không khí. Nhà hàng này thuộc sở hữu của bố mẹ ông từ hơn bốn mươi năm nay, ngay cả khi bây giờ anh trai ông là người quản lý.

- Giovanni!

Một bóng người xuất hiện trong khung cửa. Nhưng đó không phải anh trai ông.

- Sao con phải hét lên như vậy?

- Con chào mẹ.

- Chào con.

Không hôn. Không ôm. Chẳng nồng nhiệt.

- Con tìm Giovanni.

- Anh con không ở đây. Nó tới nhà Marcello mua piscialandrea[2].

- Con sẽ đợi.

Như mọi lần giáp mặt nhau, một khoảng lặng nặng nề bao trùm giữa họ, chỉ có những lời trách móc, cay đắng. Họ chẳng mấy khi gặp mặt, chẳng mấy khi chuyện trò. Trước kia Luca sống tại New York một thời gian dài, rồi sau khi ly dị ông trở lại Ý sống tại Milan, sau đó mới mua một căn hộ ở Rome.

Để xua tan bầu không khí căng thẳng, ông đi ra sau quầy bar pha một cốc espresso. Luca không phải con người của “gia đình”. Công việc của ông thường xuyên là cái cớ để trốn các dịp lễ rửa tội, đám cưới, lễ ban thánh thể và những bữa trưa Chủ nhật liên tu bất tận. Tuy vậy, ông lại hết sức yêu quý người thân của mình theo cách riêng và đau khổ chịu đựng vì không biết làm thế nào cho họ hiểu. Mẹ ông chẳng bao giờ hiểu nổi tranh của ông và lại càng không hiểu thành công ông giành được. Bà cụ không thể lý giải nổi tại sao người ta lại có thể bỏ ra hàng chục nghìn euro để mua những bức tranh đơn sắc. Luca nghĩ rằng bà mẹ coi ông như một kiểu bịp bợm: một kẻ có khiếu lừa đảo có được một cuộc sống thoải mái mà không phải “lao động” thực sự. Chính sự hiểu nhầm này đã ngầm phá hoại mối quan hệ giữa họ.

- Con có tin tức gì của con gái con không? bà hỏi.

- Sandra vừa quay lại trường trung học ở New York.

- Con không bao giờ gặp nó à?

- Con không gặp cháu thường xuyên, ông thừa nhận. Mẹ nên nhớ là con bé ở với mẹ nó.

- Và nếu con có đến gặp nó thì cũng không có hại gì, phải không?

- Con tới đây không phải để nghe những lời vớ vẩn này! Luca thốt lên rồi đứng dậy đi về.

- Đợi đã! bà mẹ yêu cầu.

Ông nhìn chằm chằm ra ngưỡng cửa.

- Trông con có vẻ lo lắng.

- Đấy là việc của con.

- Con muốn hỏi gì anh con?

- Xem anh ấy có giữ mấy tấm ảnh không.

- Ảnh à? Con có bao giờ chụp ảnh đâu! Lúc nào con cũng nói không thích vướng víu với mấy cái thứ kỷ niệm cơ mà.

- Cảm ơn vì mẹ đã giúp.

- Con tìm ảnh ai?

Luca chốt hạ:

- Con sẽ quay lại gặp Giovanni sau, ông nói rồi mở cửa.

Bà cụ lại gần giữ lấy tay áo ông.

- Cuộc sống của con giờ giống như tranh của con ấy, Luca ạ: đơn sắc, khô khan và trống rỗng.

- Đấy là mẹ nghĩ thế thôi.

- Con biết rõ rằng sự thực là như thế! bà mẹ buồn rầu nói.

- Tạm biệt mẹ, ông nói rồi khép cánh cửa lại sau lưng.

o O o

Bà cụ nhún vai quay vào bếp. Trên chiếc bàn bếp bằng gỗ chia ô vuông cũ kỹ của bà là một bài báo ca ngợi tác phẩm của Luca trên tờ La Repubblica. Bà đọc xong rồi cắt bài báo, xếp vào trong một cặp hồ sơ lớn, ở đó là tất cả những gì viết về con trai mà bà đã lưu giữ nhiều năm nay.

o O o

Luca quay lại căn hộ. Ông dùng cọ vẽ thay cho những cành củi nhỏ để nhóm lò sưởi lớn nằm giữa nhà, ông đã bố trí xưởng vẽ của mình quanh đó. Khi lửa bắt đầu cháy, ông vơ tất cả tranh vẽ, cả những bức vừa mới hoàn thành lẫn những bức còn dang dở, rồi rảy rượu trắng lên, sau đó ném vào ngọn lửa.

Cuộc sống của con giờ giống như tranh của con ấy, Luca ạ: đơn sắc, khô khan và trống rỗng. Như bị thôi miên vào đám tranh đang cháy, người nghệ sĩ nhìn công sức lao động của mình tan thành mây khói mà thấy như một sự giải thoát.

Có ai đó bấm chuông cửa. Luca ngó đầu qua cửa sổ và nhận ra dáng người còng xuống của bà mẹ. Ông xuống tầng để nói chuyện với bà nhưng khi ông mở cửa ra, bà đã biến mất, chỉ để lại một phong bì lớn trong hòm thư của ông.

Ông nhíu mày và mở ngay phong bì ra. Trong đó không gì khác mà chính là những bức ảnh và tài liệu ông muốn hỏi anh trai mình!

Sao mẹ có thể đoán ra được?

Ông lại lên xưởng vẽ rồi trải ra bàn làm việc những kỷ niệm của một thời xa xăm.

Mùa hè 1980: năm ông mười tám tuổi. Cuộc gặp với Stella, mối tình đầu của ông, một cô gái dân chài lưới ở Porto Venere. Những buổi đi dạo của họ dọc theo bến cảng trước khi đến dãy nhà nhỏ hẹp, sặc sỡ nằm ngay sát bờ biển; những buổi chiều lặn ngụp trong vịnh nhỏ.

Dịp Noel cùng năm đó: Stella và ông cùng đi dạo trên những con phố thành Rome. Một chuyến đi nghỉ vì không thể đợi đến mùa hè.

Mùa xuân 1981: hóa đơn của một khách sạn tại Sienne, đêm đầu tiên họ làm tình.

1982: tất cả thư từ họ viết cho nhau trong năm đó. Những hứa hẹn, dự định, những hăm hở, nhiệt tình, một cơn lốc xoáy.

1983: món quà sinh nhật Stella tặng: một chiếc la bàn nàng mua tại Sardaigne, bên trên có khắc dòng chữ Để cuộc đời luôn dẫn anh về với em.

1984: chuyến du lịch đầu tiên tới Mỹ. Stella đi xe đạp trên cầu Cổng Vàng. Làn khói từ chuyến phà tới Alcatraz. Bánh mì kẹp và sữa lắc của Lori’s Diner.

1985... những nụ cười, những bàn tay dang ra... một đôi tình nhân được chiếc khiên bằng kim cương bảo vệ... 1986... năm ông bán bức tranh đầu tiên của mình... 1987... Sinh con hay đợi thêm nữa?... Những nghi ngờ đầu tiên... 1988... Chiếc la bàn không còn chỉ hướng Bắc...

Một giọt nước mắt âm thầm lăn trên má Luca.

Mẹ kiếp, mi không định khóc đấy chứ.

Ông bỏ Stella năm hai mươi tám tuổi. Một giai đoạn tồi tệ khi mọi thứ trong ông đều rối loạn. Ông không còn biết tranh của mình mang ý nghĩa gì nữa và chính mối quan hệ giữa hai vợ chồng ông phải gánh chịu hậu quả. Một sáng, ông thức dậy rồi đốt tranh, giống như ông vừa làm hôm nay. Rồi ông lẩn đi như một tên trộm. Ông không giải thích gì, dứt khoát, quyết liệt, chỉ nghĩ đến bản thân và hội họa. Ông tìm thấy chỗ ẩn náu tại Manhattan, ở đó ông đã thay đổi phong cách, từ bỏ kiểu vẽ tượng hình để thanh lọc tối đa tranh của mình đến mức chỉ còn vẽ những bức đơn sắc trắng. Khi ấy, ông cưới một bà chủ phòng tranh khéo léo, biết quảng bá cho công việc của ông và mở ra cho ông cánh cửa dẫn tới thành công. Họ có với nhau một cô con gái rồi ly dị vài năm sau đó nhưng vẫn giữ quan hệ làm ăn chung.

Ông chưa bao giờ gặp lại Stella. Qua anh trai, ông biết rằng bà đã quay về Porto Venere. Ông đã đẩy bà ra khỏi cuộc đời mình. Ông đã chối bỏ bà.

Tại sao hôm nay ông lại nhớ tới câu chuyện cũ này?

Có lẽ là bởi nó vẫn chưa kết thúc.

o O o

Rome

Babington’s Tea-Room

Hai tiếng sau

Quán trà nằm trên quảng trường Tây Ban Nha, ngay dưới chân cầu thang lớn của khu Trinité-des-Monts.

Luca ngồi vào một bàn nhỏ ở cuối phòng. Chiếc bàn ông vẫn ngồi khi tới đây cùng Stella thuở xưa. Mọi thứ ở đây đều là thứ cổ nhất Rome. Chỗ này do hai người Anh lập ra một trăm hai mươi năm trước, thời mà chỉ có hiệu thuốc mới bán trà.

Cách bài trí ở đây gần như không thay đổi gì từ thế kỷ XIX, biến nơi này thành một nét điểm xuyết theo phong cách Anh ngay giữa lòng Rome, là một sự tương phản giữa vẻ Địa Trung Hải của thành phố và nét quyến rũ kiểu Anh của quán trà. Các bức tường được phủ lớp đá hoa giả và gắn giá sách bằng gỗ tối màu, trên đó là hàng chục cuốn sách và một bộ sưu tập ấm trà cổ.

Luca đã mở một trang trắng trong cuốn sách của Tom Boyd, ngay sau phần bà Kaufman thêm vào. Ông đã rất xúc động khi thấy những kỷ niệm, những mảnh đời của bà nối tiếp nhau ở đây. Luca dán các bức ảnh của mình vào đó, tô điểm thêm bằng các hình vẽ và dấu ấn, như thể đây là một cuốn sách thần diệu có thể biến ước mơ thành hiện thực và làm quá khứ sống lại. Bức ảnh cuối cùng chụp ông cùng Stella trên một chiếc mô tô bánh nhỏ. Kỳ nghỉ tại Rome, năm 1981. Họ mười chín tuổi. Khi ấy, bà đã viết cho ông dòng này: Đừng bao giờ thôi yêu em...

Ông nhìn chăm chăm vào tấm ảnh một lúc lâu. Vừa bước qua tuổi năm mươi, ông có một cuộc sống khá đầy đủ, khiến ông được thỏa mãn: ông đi đây đó, sống với nghệ thuật của mình, thành công. Nhưng nếu nghĩ kỹ, ông chưa hề biết đến điều gì mãnh liệt hơn cảm xúc của những ngày đầu diệu kỳ ấy, khi cuộc sống đầy những hứa hẹn và cảm giác thanh thản.

Luca gấp sách lại rồi dán lên bìa một tờ giấy ghi chú màu đỏ có viết vài chữ. Ông dùng điện thoại truy cập vào một trang web bookcrossing, viết một thông báo ngắn. Rồi lợi dụng lúc không có ai nhìn mình, ông lèn cuốn sách vào giữa hai cuốn khác, một của Keats và một của Shelley trên giá.

o O o

Luca rời quảng trường tới lấy mô tô của mình đỗ gần dãy xe taxi. Ông dùng tăng đơ buộc chiếc túi du lịch lên giá đèo hàng rồi ngồi lên chiếc Ducati. Ông lại đi ngược lên, dọc theo công viên của thành phố Borghèse, vòng qua quảng trường Popolo, sang bờ bên kia sông Tibre rồi đi dọc theo bờ sông tới tận khu Trastevere. Ông dừng sững lại trước nhà hàng của gia đình, vẫn không tắt máy xe và kéo kính trên mũ bảo hiểm lên. Bà mẹ ông đã bước ra vỉa hè, như thể bà đang chờ ông tới. Bà nhìn con trai mình, lòng thầm mong biết đâu đôi khi những lời nói yêu thương có thể biểu hiện qua ánh mắt.

Rồi Luca lại tăng tốc, hướng theo con đường ra khỏi thành phố. Ông phóng thẳng tới Porto Venere, lòng nhủ thầm rằng có thể giờ chưa phải là quá muộn...

o O o

Los Angeles

Thứ Sáu 24 tháng Chín

7 giờ sáng

Mặc áo phông và quần yếm, Milo vắt vẻo trên một chiếc ghế đẩu. Con lăn cầm trên tay, anh quét vôi lại căn bếp màu vân sắt.

Carole mở cửa phòng ngủ, đi tới chỗ anh.

- Cậu đã bắt đầu rồi cơ à? cô vừa hỏi vừa ngáp.

- Ừ, tớ không ngủ được nữa.

Cô nhìn qua việc sơn quét.

- Cậu không làm ẩu đấy chứ?

- Cậu đừng có đùa! Tớ cặm cụi như một tên nô dịch suốt ba ngày nay rồi đấy!

- Thôi được rồi, đúng là cũng không đến nỗi tệ lắm, cô thừa nhận. Cậu làm ơn pha cho tớ một cốc cappuccino được không?

Milo đi pha cà phê còn Carole tới ngồi vào chiếc bàn tròn nhỏ trong phòng khách. Cô lấy cho mình một bát ngũ cốc rồi bật máy tính để đọc thư điện tử.

Hòm thư của cô đầy thư mới. Milo đã cho cô danh sách đầy đủ “cộng đồng” độc giả của Tom, những người thường xuyên gửi thư cho anh qua địa chỉ trang web từ ba năm nay. Nhờ vào những bức thư tập thể gửi đi khắp nơi trên thế giới, Carole đã có thể báo tin đến hàng triệu độc giả. Cô nói thẳng với họ, thông báo về việc mình đang tìm kiếm một bản in “dang dở” của tập hai trong Bộ ba Thiên thần. Từ đó, mỗi sáng trong hòm thư của mình cô nhận được không biết bao nhiêu lời động viên. Nhưng bức thư trước mặt cô mới là cái đáng quan tâm nhất:

- Lại đây xem này! cô gọi.

Milo chìa cho cô tách cà phê đang bốc khói và nhìn qua vai cô. Một cư dân mạng thông báo đã phát hiện ra bản sách nổi tiếng trên một trang web bookcrossing. Carole nhấp chuột vào dòng địa chỉ được gửi đến và đúng là cô thấy trang web của một hội tại Ý, hội này khuyến khích các thành viên của mình để sách lại tại các địa điểm công cộng cho người khác có thể đọc được, làm như vậy để quảng bá văn hóa đọc. Quy tắc của “cuốn sách du hành” rất đơn giản: ai muốn để sách của mình du hành thì ghi mã số cho nó và đăng ký lên trang web rồi có thể bỏ lại ở đâu đó.

Carole gõ “Tom Boyd” vào mục tìm kiếm để lấy danh sách các tác phẩm của bạn mình có thể đang được du hành.

- Nó đây này! Milo vừa hét lên vừa chỉ vào một tấm ảnh.

Anh dán mắt vào màn hình nhưng Carole đẩy ra:

- Để tớ xem nào!

Không nghi ngờ gì nữa: cuốn sách đúng là có bìa da màu xanh thẫm, những ngôi sao mạ vàng và dòng chữ kiểu gô tíc khắc nhan đề tiểu thuyết.

Nhấp chuột lần nữa, Carole biết được rằng hôm qua cuốn sách đã được bỏ lại ở quán trà Babington’s Tea-Room, số 23, quảng trường Tây Ban Nha tại Rome. Mở một trang khác, cô được tiếp cận với toàn bộ thông tin mà luca66 muốn chia sẻ, đây chính là nickname của người đàn ông đã “thả” cuốn tiểu thuyết. Chỗ chính xác nơi cuốn sách được bỏ lại - một giá sách mãi sâu trong quán trà - và cả thời điểm “thả” sách 13h56 giờ địa phương.

- Chúng ta phải đi Rome thôi! cô quyết định.

- Cậu đừng hấp tấp thế! Milo ngăn cản cô.

- Thế là sao? cô phản đối. Tom tin tưởng chúng ta. Tối qua cậu ấy đã nói thế với cậu qua điện thoại. Cậu ấy bắt đầu viết rồi, nhưng tính mạng Billie vẫn mong manh.

Milo nhăn nhó:

- Khi chúng ta đến thì đã quá muộn rồi. Cuốn sách được bỏ lại đó khá lâu rồi.

- Phải, nhưng người đàn ông này không bỏ sách lại trên ghế! Anh ta để nó trên giá sách, giữa bao nhiêu cuốn khác. Có khi nhiều tuần trôi qua mới có người phát hiện ra nó ấy chứ!

Cô nhìn Milo và hiểu ra rằng vì cứ phải trải qua hết lần thất vọng này tới lần thất vọng khác nên anh đâm ra mất hết niềm tin.

- Cậu cứ làm gì tùy thích nhưng tớ sẽ tới đó.

Cô vào trang web của một hãng hàng không. Có một chuyến bay tới Rome lúc 11h40. Khi điền vào mẫu thông tin, họ yêu cầu cô cho biết số lượng hành khách.

- Hai, Milo vừa bổ sung vừa gật đầu.

o O o

Rome

Quảng trường Tây Ban Nha

Ngày hôm sau

Ngay chính giữa quảng trường, gần đài phun nước đồ sộ của Barcaccia, nhóm du khách Hàn Quốc nghe như uống lấy từng lời người hướng dẫn viên:

- Quảng trường Tây Ban Nha được coi như một phần lãnh thổ của Tây Ban Nha trong một khoảng thời gian dài. Nơi đây cũng chính là trụ sở quốc tế chính của dòng Malte, dòng giữ một vai trò vân vân và vân vân...

Mắt nhìn chăm chăm xuống đáy đài phun nước, Iseul Park, mười bảy tuổi, như bị thôi miên bởi làn nước xanh lam trong vắt, dưới đó là những đồng tiền xu du khách vứt xuống đang nằm chen chúc. Iseul ghét cay ghét đắng khi phải thuộc về cái gọi là “nhóm khách du lịch châu Á”, đôi khi điều này khiến cô bị chế giễu. Cô cảm thấy không thoải mái chút nào với cái thứ nghi lễ này, với cái kiểu đi du lịch lỗi thời mỗi ngày thăm quan một thủ đô ở châu Âu và phải đợi hàng tiếng đồng hồ để tất cả mọi người ai cũng được chụp một bức ảnh y hệt nhau ở cùng một chỗ.

Tai cô ong ong, cô thấy choáng váng, run rẩy. Và đặc biệt là cô thấy ngạt thở giữa đám đông. Mảnh dẻ như một cành cây nhỏ, cô len lỏi ra khỏi đó và trốn ngay vào quán cà phê đầu tiên gặp trên đường. Đó là quán Babington’s Tea-Room, số 23 quảng trường Tây Ban Nha...

o O o

Rome

Sân bay Fiumicino

- Nào, họ có mở cánh cửa này không đây? Milo hét lên.

Đứng ở hàng ghế giữa máy bay, anh giậm giậm chân vì nóng lòng.

Chuyến đi thật vất vả. Sau khi khởi hành ở Los Angeles, đầu tiên họ phải chuyển máy bay tại San Francisco sau đó là Francfort rồi cuối cùng mới hạ cánh xuống đất Ý. Anh nhìn đồng hồ: 12h30.

- Tớ dám chắc là chúng ta sẽ chẳng bao giờ tìm được cuốn sách ấy! anh càu nhàu. Đi chuyến này chỉ công cốc thôi hơn nữa tớ đang sắp chết đói đây. Cậu thấy họ cho chúng ta ăn gì rồi đấy. Với giá vé như thế, ăn từng ấy thật chẳng...

- Cậu thôi làu bàu đi! Carole van vỉ. Tớ không thể chịu đựng được việc cậu cứ than vãn vớ vẩn mãi thế đâu! Tớ ngán cậu đến tận cổ!

Một tiếng rì rầm tán thành vang lên trong hàng người.

Cuối cùng cánh cửa cũng mở ra cho hành khách xuống máy bay. Carole bước xuống cầu thang máy rồi lao ra chỗ đám xe taxi đang đỗ, Milo bám gót theo sau. Rủi thay, dòng người chờ xe dài dằng dặc mà các xe thì gần như chẳng nhúc nhích.

- Tớ đã nói rồi mà.

Cô chẳng buồn đáp lời. Đến chỗ chờ taxi, cô lấy thẻ cảnh sát ra, chen lên giữa những người xếp hàng rồi trịch thượng giơ bảo bối của mình ra cho nhân viên phụ trách việc phân xe cho khách.

- American police! We need a car, right now. It’s a matter of life or death[3]! Cô nói đúng giọng của một thanh tra cảnh sát.

Thật nực cười. Làm thế chẳng ăn thua gì đâu, Milo vừa nghĩ vừa lắc đầu.

Nhưng anh đã nhầm. Tay nhân viên kia nhún vai, cũng chẳng thèm hỏi han gì và chưa đến mười giây, họ đã có một chiếc taxi.

- Quảng trường Tây Ban Nha, Carole nói với tài xế. Quán Babington’s Tea-Room.

- Và anh làm ơn nhanh lên đi! Milo thêm vào.

o O o

Rome

Babington’s Tea-Room

Iseul Park ngồi vào một chiếc bàn nhỏ mãi sâu trong quán. Cô gái Hàn Quốc uống một tách trà lớn và đang nhấm nháp một chiếc bánh xốp kem đánh bông. Cô thích thành phố này nhưng cô muốn được thăm thú nó theo cách có thời gian lững thững đi dạo trên các con phố, được hòa mình vào một nền văn hóa khác, trò chuyện với người dân, ngồi ở sân hiên ngập tràn nắng của một quán cà phê mà mắt không cần liếc nhìn đồng hồ và cũng không bị cả nhóm ép chụp ảnh mười giây một.

Trong lúc chờ đợi, cô không đưa mắt nhìn đồng hồ mà nhìn vào màn hình điện thoại di động. Vẫn không có tin tức gì của Jimbo. Ở Ý đang là một giờ chiều thì ở New York mới bảy giờ sáng. Có lẽ anh chưa dậy. Phải, nhưng năm ngày nay kể từ khi họ chia xa, anh không hề gọi điện mà cũng chẳng trả lời cả chục thư điện tử và tin nhắn của cô. Sao lại có thể như thế được? Vậy mà họ vừa mới trải qua một tháng như trong mơ tại NYU, ngôi trường nơi Jimbo đang học ngành điện ảnh. Cuối kỳ nghỉ hè của mình, Iseul đã quyết định đi thăm quan du học tại ngôi trường đại học nổi tiếng ở New York này. Đó là một quãng thời gian tuyệt vời khi cô được khám phá tình yêu trong vòng tay của anh chàng người Mỹ. Thứ Ba tuần trước, anh đưa cô tới sân bay để cô gặp nhóm khách du lịch của mình và họ đã hứa sẽ gọi cho nhau mỗi ngày, sẽ tiếp tục vun đắp cho tình yêu của mình lớn thêm bất chấp sự xa cách và có thể sẽ gặp lại nhau vào dịp Giáng sinh. Sau lời hứa hẹn lãng mạn ấy, Jimbo bặt vô âm tín và có gì đó cứ cào xé trong cô.

Cô đặt mười euro lên bàn để thanh toán hóa đơn. Chỗ này quả thực là có sức lôi cuốn, với những tấm gỗ lát tường và những kệ sách. Thêm chút nữa, người ta hẳn sẽ tưởng mình đang ở trong thư viện. Cô đứng dậy và không ngăn nổi mình tới xem xét mấy giá sách. Ở trường đại học, cô học về văn học Anh và ở đây cô thấy có tác phẩm của một số tác giả kinh điển của Anh: Jane Austen, Shelley, John Keats và...

Cô nhíu mày khi phát hiện ra một cuốn sách không ăn khớp gì với xung quanh. Tom Boyd? Đâu phải là một thi sĩ thế kỷ XIX! Cô cầm cuốn sách lên và thấy có một mẩu giấy ghi chú nhỏ màu đỏ dính trên bìa. Tò mò, cô khẽ khàng quay lại bàn để xem xét cuốn sách kỹ hơn.

Mẩu giấy dính trên bìa sách mang một thông điệp kỳ lạ:

Xin chào! Tôi không phải bị thất lạc! Tôi hoàn toàn miễn phí!! Tôi không phải một cuốn sách giống như bao cuốn khác. Tôi được dành để du hành và đi khắp nơi. Hãy mang tôi theo, đọc tôi rồi tới lượt bạn bỏ tôi lại tại một địa điểm công cộng.

Hừm... Iseul có chút nghi ngại. Cô bóc mẩu giấy rồi xem qua cuốn tiểu thuyết, phát hiện ra phần bên trong lạ kỳ của nó cùng những trang trắng mà những người khác đã dùng để kể chính câu chuyện của mình. Có gì đó làm cô xúc động. Với cô, cuốn sách dường như có sức hấp dẫn kỳ diệu. Trên mẩu giấy có ghi là miễn phí nhưng cô vẫn còn lưỡng lự khi cho nó vào túi...

o O o

Rome

Babington’s Tea-Room

Năm phút sau

- Chỗ kia! Milo hét lên, tay chỉ vào giá sách mãi sâu trong quán trà.

Khách hàng cũng như nhân viên phục vụ giật nảy mình khi nhìn thấy cái con voi ngơ ngáo ấy đi lạc vào một cửa hàng bán đồ gốm sứ. Anh lao về phía mấy kệ sách, hấp tấp xem xét các giá sách tới mức hất tung cả một ấm trà đã trăm năm tuổi, nhưng Carole đã kịp thời đỡ được ngay phút cuối.

- Nằm giữa sách của Keats và Shelley, cô chỉ rõ cho anh.

Xong rồi, vậy là họ đã chạm tới đích! Jane Austen, Keats, Shelley, nhưng... không có sách của Tom.

- Khỉ thật! anh hét lên rồi căm hận đấm một cú vào gỗ ốp tường.

Trong lúc Carole lục tìm cuốn tiểu thuyết trên một giá khác, chủ quán dọa sẽ gọi cảnh sát. Milo xoa dịu tình hình và cất lời xin lỗi. Đang nói, anh chợt nhìn thấy một bàn trống, trên đó, trong một chiếc đĩa vẫn còn mẩu bánh xốp dở cùng cốc kem. Như có linh cảm, anh tiến lại gần và phát hiện ra mẩu giấy màu đỏ son dính trên bàn gỗ đánh vécni. Anh đọc lướt rồi buông tiếng thở dài:

- Chỉ chậm có gần năm phút... anh nói với Carole rồi giơ mẩu giấy màu đỏ lên cho cô xem.

Chú thích

[1] Hai nhân vật chính trong vở kịch Pygmalion của George Bernard Bernard Shaw. (Chú thích của tác giả)

[2] Một loại bánh của Ý. (Chú thích của tác giả.)

[3] Tiếng Anh trong nguyên bản: Cảnh sát Mỹ đây! Chúng tôi cần một chiếc xe, ngay bây giờ. Đây là vấn đề liên quan đến sinh mạng con người!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,226
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32: Vỏ quýt dày có móng tay nhọn


Tôi muốn em hiểu thế nào là lòng dũng cảm đích thực, thay vì cứ mường tượng ra đó là một người đàn ông lăm lăm súng trên tay. Lòng dũng cảm đích thực đó là biết mình sẽ thất bại nhưng vẫn không ngừng hành động.

Harper LEE

Bretagne

Nam Finistère

Thứ Bảy 25 tháng Chín

Sân hiên ngập tràn ánh nắng của nhà hàng nhìn xuống vịnh Audierne. Dù ở đây có lạnh hơn nhưng bờ biển Bretagne xinh đẹp chẳng kém gì bờ biển Mêhicô.

- Brừưư, chúng ta chết cóng mất! Billie run rẩy kéo khóa chiếc áo gió lên.

Thứ Hai tới cô ấy sẽ phẫu thuật nên chúng tôi quyết định sẽ thay đổi không khí bằng cách tự tặng cho mình một kỳ nghỉ cuối tuần xa Paris. Không quan tâm tới tương lai, tôi đã chi một khoản lớn để thuê ô tô và một căn nhà nhỏ gần Plogoff, ngay sát đảo Sein.

Nhân viên phục vụ trịnh trọng đặt xuống giữa bàn khay hải sản chúng tôi đã gọi.

- Anh không ăn gì sao? cô ngạc nhiên hỏi.

Tôi nghi ngại nhìn cái khay hổ lốn toàn hàu, cầu gai, tôm hùm với sò mà lòng thầm mơ tới một chiếc bánh mì kẹp thịt lợn hun khói.

Dù vậy tôi cũng cố thử lột vỏ một con tôm hùm.

- Bé con ngoan quá, cô ấy đùa.

Cô ấy chìa cho tôi một con hàu mà cô ấy vừa vắt chanh lên.

- Anh nếm thử đi, trên đời này không có gì ngon hơn đâu.

Tôi nhìn cái thứ nhớt nhớt ấy, lòng đầy ngờ vực.

- Anh hãy nghĩ tới quả xoài hồi chúng ta còn ở Mêhicô ấy! cô nài nỉ.

Biết cách miêu tả hương vị cuộc sống thực...

Tôi nhắm mắt nhai thứ thịt dai dai của loài động vật thân mềm. Nó có vị nồng, mặn của biển. Một mùi hương như mùi tảo và quả phỉ dư âm mãi trong miệng.

Billie vừa nháy mắt với tôi vừa mỉm cười.

Làn gió thổi tung mái tóc trắng của cô ấy.

Phía sau chúng tôi, có thể nhận thấy tàu thuyền tấp nập qua lại, những con tàu đánh bắt tôm, những chiếc thuyền nhỏ sặc sỡ đang thả lờ để bắt ốc và tôm.

Đừng nghĩ tới ngày mai, cũng đừng nghĩ tới thời điểm cô ấy sẽ không còn mãi đây nữa.

Hãy sống với hiện tại.

Dạo chơi trong những con ngõ nhỏ ngoằn ngoèo ở bến cảng rồi dọc theo bãi biển Trescadec. Dạo mát bằng ô tô từ vịnh Trépassés tới tận mũi Raz, bên cạnh Billie cứ nài nỉ xin được lái xe. Phá lên cười khi nhắc lại chuyện tay cảnh sát bắt chúng tôi vì vượt quá tốc độ cho phép tại California. Cùng ý thức được rằng chúng tôi đã có với nhau khá nhiều kỷ niệm. Bất chợt mong muốn được nói về tương lai nhưng ngay lập tức xua đi.

Và rồi mưa, dĩ nhiên là giữa lúc chúng tôi đang đi dạo trên những mỏm đá.

- Ở đây cũng giống như tại Scotland, mưa là chuyện thường ngày, cô ấy nói với tôi trong khi tôi bắt đầu than vãn. Anh có tưởng tượng nổi mình đi thăm Highlands và hồ Loch Lomond khi trời nắng không?

o O o

Rome

Quảng trường Navona

7 giờ tối

- Nếm thử đi, ngon quên chết luôn! Carole nói rồi chìa cho Milo một thìa món tráng miệng của mình: món kem Ý làm theo kiểu địa phương.

Ánh mắt đầy vẻ tinh ranh, Milo nếm món kem sô cô la. Nó đặc quánh, có vị gần giống như kẹo sô cô la rất hợp với quả anh đào trang trí ở giữa.

Họ ngồi ăn ở sân hiên của một nhà hàng tại quảng trường Navona, nơi ai cũng phải qua khi đặt chân tới Thành phố vĩnh cửu. Xung quanh quảng trường nổi tiếng là các sân hiên và hàng bán kem, trên quảng trường những nghệ sĩ vẽ chân dung, những người diễn kịch và bán hàng rong cũng chiếm nhiều chỗ.

Khi màn đêm bắt đầu buông xuống, một nữ nhân viên phục vụ tới châm ngọn nến đặt giữa bàn họ. Bầu không khí thật êm dịu. Milo trìu mến nhìn cô bạn gái. Dù thất vọng vì mất dấu cuốn sách của Tom nhưng cả hai đã có một buổi chiều thú vị cùng khám phá thành phố. Nhiều lần anh suýt thổ lộ tình yêu đã giữ kín bao lâu nay. Nhưng nỗi lo sợ đánh mất đi tình bạn đã xóa tan ý định chớm hình thành trong anh. Anh cảm thấy mình dễ bị tổn thương và sợ trái tim tan vỡ. Anh xiết bao mong muốn cô nhìn mình với con mắt khác. Xiết bao mong muốn tặng cho cô một hình ảnh khác về chính bản thân mình. Xiết bao mong muốn cho cô thấy người đàn ông mà anh có thể trở thành khi được yêu.

Cạnh bàn họ, một cặp vợ chồng người Úc đang ăn tối cùng cô con gái năm tuổi, từ một lúc rồi, cô bé cứ nháy mắt rồi phá lên cười với Carole.

- Con bé thật tuyệt, cậu không thấy thế sao?

- Ừ, trông nó có vẻ buồn cười.

- Lại ngoan nữa chứ!

- Thế còn cậu, cậu muốn có con không? anh bất ngờ hỏi.

Cô đề phòng ngay lập tức:

- Sao cậu lại hỏi tớ thế?

- Ờ... vì cậu sẽ là một bà mẹ tuyệt vời.

- Làm sao cậu biết được? cô nói, đầy vẻ khiêu khích.

- Tớ cảm thấy thế.

- Đừng nói vớ vẩn nữa!

Anh vừa thấy bực lại vừa ngạc nhiên trước câu trả lời ghê gớm của cô.

- Sau cậu lại phản ứng như thế?

- Tớ quá hiểu cậu và tớ chắc rằng đó là một trong những mánh cậu dùng để quyến rũ phụ nữ. Vì cậu nghĩ họ muốn nghe những thứ ấy.

- Hoàn toàn không phải vậy! Cậu thật bất công với tớ! Tớ đã làm gì nên nỗi mà cậu lại đối xử khắc nghiệt như vậy với tớ? anh bực bội hất đổ một ly nước.

- Cậu không hiểu tớ, Milo ạ! Cậu chẳng biết gì về cuộc sống riêng của tớ.

- Mẹ kiếp, vậy thì kể cho tớ đi! Cái bí mật vẫn đang gặm nhấm cậu là gì vậy?

Cô nhìn chằm chằm vào anh, vẻ suy tư và dường như muốn tin vào sự thành thực của anh. Có lẽ cô đã quá nóng giận.

Milo dựng ly nước lên rồi dùng khăn ăn lau bàn. Anh thấy tiếc vì đã hét lên nhưng đồng thời cũng không chịu đựng nổi những thay đổi bất chợt trong thái độ của Carole đối với mình.

- Sao cậu lại trở nên hung hãn và đanh đá như vậy khi tớ đề cập đến đề tài này? anh hỏi bằng một giọng bình tĩnh hơn.

- Vì tớ đã từng có thai, cô thú nhận rồi quay mặt đi.

Sự thật đã thoát ra khỏi cô. Giống như thể một con ong thoát khỏi chiếc liễn nơi nó bị cầm tù bao nhiêu năm trời.

Ngồi chết lặng, Milo sửng sốt hết mức. Anh không thấy gì ngoài đôi mắt của Carole ánh lên trong màn đêm như những ngôi sao với trái tim đau đớn.

Cô gái lấy vé máy bay ra đặt lên bàn.

- Cậu muốn biết phải không? Được rồi. Tớ sẽ chọn cách tin tưởng cậu. Tớ sẽ kể cho cậu bí mật của tớ, nhưng sau đó, tớ không muốn cậu nói thêm bất cứ lời nào cũng không bàn bạc, khuyên bảo gì hết. Tớ sẽ kể cho cậu chuyện chưa ai từng được biết và khi kể xong, tớ sẽ đứng dậy, bắt taxi ra sân bay. Còn một chuyến bay cuối cùng vào lúc chín rưỡi tới Luân Đôn và từ đó có chuyến bay lúc sáu giờ sáng tới Los Angeles.

- Cậu có chắc là...

- Chắc chắn. Tớ kể cho cậu rồi tớ đi. Sau đó, cậu phải đợi ít nhất một tuần mới được gọi cho tớ hoặc tới nhà tớ ở. Như thế hoặc là không gì cả.

- Đồng ý, anh nhượng bộ. Hãy làm như cậu muốn.

Carole nhìn ra xung quanh. Ở chính giữa quảng trường, phía trên cột tháp, những bức tượng khổng lồ của đài phun nước Bốn Dòng Sông đang nhìn cô đầy nghiêm khắc và đe dọa.

- Lần đầu tiên ông ta làm thế, cô bắt đầu, đó là buổi tối sinh nhật tớ. Năm ấy tớ mười một tuổi.

o O o

Bretagne

Plogoff - Mũi Raz

- Anh sẽ không khiến em tin rằng anh biết nhóm lửa lò sưởi đấy chứ? Billie đùa.

- Dĩ nhiên là có rồi! tôi mếch lòng đáp lại.

- Được lắm, vậy thì làm đi thưa ông, em sẽ nhìn anh với ánh mắt khâm phục của người đàn bà chỉ biết phục tùng.

- Em đừng tưởng làm thế là có thể gây áp lực được với anh nhé...

Trước niềm hạnh phúc vô bờ của Billie, cơn bão nổi lên ở Finistère, làm các cánh cửa sổ rung lên và khiến trời đổ mưa như trút nước lên cửa kính nhà chúng tôi. Trong nhà lạnh cóng. Thông thường, trong tiếng Pháp, khi người ta nói “vẻ quyến rũ chốn thôn quê” thì cũng đồng nghĩa với việc “không có lò sưởi” và “hệ thống cách nhiệt hỏng”.

Tôi quẹt một que diêm và cố gắng mồi vào đám lá khô đã xếp dưới đống củi. Đám lá bắt lửa rất nhanh rồi... tắt ngấm ngay.

- Không thuyết phục lắm, Billie nhận xét, cố giấu đi nụ cười.

Cuộn mình trong chiếc áo choàng tắm, đầu quấn khăn, cô ấy nhảy tới chỗ lò sưởi.

- Anh làm ơn tìm cho em ít giấy báo.

Khi lục lọi trong ngăn kéo tủ buýp phê kiểu vùng Bigouden, tôi thấy một số báo L’Équipe cũ ra ngày 13 tháng Bảy năm 1998, ngay sau chiến thắng của đội tuyển Pháp tại Giải bóng đá vô địch thế giới. Trên trang nhất là dòng đầu đề CHO MÃI MÃI và trưng lên hình Zinedine Zidane trong vòng tay Youri Djorkaeff.

Billie giở từng trang một rồi vò nhàu, tạo thành một viên hình cầu khá thoáng:

- Cần phải để cho giấy thở, cô ấy giải thích. Chính bố em đã dạy thế.

Rồi không dè sẻn, cô ấy lựa trong đám củi nhỏ, chỉ giữ lại những cành khô nhất và xếp lên trên đống giấy đã vò. Sau đó cô ấy chọn những cành củi to hơn để tạo thành một hình giống như lều của thổ dân.

- Giờ thì anh có thể châm lửa rồi đấy, cô đĩnh đạc nói.

Quả thực, hai phút sau, một ngọn lửa đượm nồng đã nổ lét đét trong lò sưởi.

Gió gầm gào làm cửa kính rung lên bần bật, mạnh đến nỗi tôi tưởng như chúng sắp vỡ tung. Rồi một cánh cửa sổ đập ầm ầm, cùng lúc đó điện cũng tắt ngóm khiến căn phòng chìm trong bóng tối.

Tôi mày mò trong hộp điện hy vọng ánh sáng sẽ trở lại.

- Không sao cả đâu, tôi nói vẻ tự tin. Hẳn là cầu dao tự ngắt hoặc đứt cầu chì thôi...

- Có thể, cô đáp vẻ chế giễu, nhưng anh đang mân mê cái đồng hồ nước đấy. Đồng hồ điện ở chỗ lối vào cơ mà...

Chơi được lắm, tôi đón nhận lời chỉ dẫn của cô ấy với một nụ cười. Trong lúc tôi đi qua phòng ra cửa thì cô ấy túm lấy tay tôi và...

- Đợi đã!

Cô ấy tháo chiếc khăn quấn trên đầu và cởi dây buộc áo choàng, tấm áo rơi xuống đất.

Rồi tôi ôm cô ấy vào lòng, bóng chúng tôi méo mó quấn vào nhau trên tường.

o O o

Rome

Quảng trường Navona

7 giờ 20 phút tối

Giọng yếu ớt, Carole kể với Milo nỗi thống khổ suốt tuổi thơ tan nát của cô. Cô kể với anh những năm tháng ác mộng khi ông bố dượng mò vào giường cô. Những năm tháng khi cô mất tất cả: nụ cười, những ước mơ, sự trong trắng và niềm vui sống. Cô kể với anh về những đêm con thú đói khát khi cuối cùng đã được thỏa mãn luôn nhắc đi nhắc lại với cô lúc rời phòng cô: “Mày sẽ không nói với mẹ mày chứ? Mày không được nói với mẹ mày.”

Cứ như thể mẹ cô không hề hay biết!

Cô kể về cảm giác tội lỗi, về việc buộc phải im lặng và về mong muốn lao đầu vào xe buýt mỗi tối khi từ trường về. Và rồi cô kể về cái lần mang thai trong bí mật khi mới mười bốn tuổi đã cào xé cô và khiến cô gần như chết đi với một nỗi đau không nguôi ngoai nổi trong bụng.

Và đặc biệt cô kể với anh về Tom, người đã níu giữ cô lại với cuộc đời khi ngày qua ngày vì cô mà tưởng tượng ra thế giới diệu kỳ của Bộ ba Thiên thần.

Cuối cùng, cô cố gắng làm anh hiểu thái độ ngờ vực, đề phòng đàn ông của mình, cô đã mất niềm tin vào đàn ông và không bao giờ tìm lại được nữa, cô cũng nói với anh về cảm giác kinh tởm mà cho tới tận hôm nay đáng ngạc nhiên thay vẫn ngập tràn trong cô ngay cả khi cô đã cảm thấy khá hơn.

Carole thôi không nói nữa và đứng dậy.

Milo giữ lời hứa, không hề mở miệng. Thế nhưng một câu hỏi cứ vuột ra.

- Thế nhưng tất cả chuyện này bao giờ thì chấm dứt?

Carole lưỡng lự không trả lời. Cô quay đầu lại để chắc rằng cô bé người Úc đã rời bàn cùng bố mẹ. Cô uống một ngụm nước rồi mặc thêm chiếc áo len chui đầu nãy giờ vẫn vắt trên vai.

- Điều ấy lại là một phần khác của sự thật, Milo ạ, nhưng tớ không chắc nó có thuộc về mình hay không.

- Vậy thì... nó thuộc về ai?

- Tom.

o O o

Bretagne

Plogoff - Mũi Raz

Ngọn lửa đang lụi dần nên tỏa ra trong phòng một thứ ánh sáng chập chờn. Cuộn mình trong một tấm chăn, cả hai chúng tôi ôm ghì lấy nhau như thuở mới biết yêu lần đầu.

Một tiếng sau, tôi dậy khơi lại lửa và cho một thanh củi vào trong lò.

Chúng tôi đói ngấu nhưng cả tủ bếp lẫn tủ lạnh đều trống trơn. Tôi may mắn tìm được trong tủ buýp phê một chai rượu táo made in Québec lạ kỳ. Đó là rượu táo băng, một loại rượu được làm từ những quả táo hái trên cây vào giữa mùa đông khi chúng đã đóng băng. Tôi mở nắp chai rồi nhìn qua cửa kính: cơn bão vẫn thỏa sức hoành hành và bên ngoài, tầm nhìn không quá một mét.

Quấn mình trong tấm vải phủ giường, Billie lại chỗ tôi đang đứng gần cửa sổ, trên tay cầm hai chiếc bát sành.

- Em muốn anh kể em nghe chuyện gì đó, em bắt đầu nói rồi choàng tay qua cổ ôm lấy tôi.

Em cầm chiếc áo blouson của tôi vắt trên lưng ghế lên rồi lấy ví ra.

- Em xem được không?

Tôi gật đầu đồng ý. Em mở lớp lót đã tuột một nửa đường chỉ phía sau ngăn để tiền rồi lộn để cái vỏ đạn rơi ra.

- Anh đã giết ai thế? Em giơ viên đạn nhỏ lên hỏi tôi.

o O o

Los Angeles

Khu MacArthur Park

29 tháng Tư 1992

Tôi mười bảy tuổi. Tôi đang ôn thi trong thư viện trường trung học thì một nữ sinh lao vào hét lên: “Bọn chúng được trắng án!” Cả phòng, tất cả mọi người đều hiểu cô bạn đang nói đến bản án trong vụ Rodney King.

Một năm trước, anh chàng da đen hai mươi sáu tuổi này bị cảnh sát Los Angeles chặn lại vì vượt quá tốc độ. Đang trong tình trạng say xỉn, Rodney từ chối hợp tác với cảnh sát, vậy nên họ đã dùng dùi cui điện khống chế anh này. Trước sự kháng cự của Rodney đám cảnh sát đã đánh anh này mà không hề hay biết toàn bộ sự việc đã được một tay quay phim nghiệp dư ghi lại từ ban công. Ngay hôm sau, tay quay phim đã gửi băng đến kênh Chanel 5. Những hình ảnh trên nhanh chóng được các kênh truyền hình trên khắp thế giới phát đi phát lại, khiến công chúng tức giận, phẫn nộ và cảm thấy nhục nhã.

- Bọn chúng được trắng án!

Ngay lập tức các cuộc nói chuyện chấm dứt và những lời chửi rủa vang lên từ mọi phía. Tôi cảm thấy cơn phẫn nộ và lòng căm hận bắt đầu dâng lên. Trong khu này đa số là người da đen. Tôi ngay lập tức hiểu ra rằng mọi chuyện sẽ diễn tiến theo chiều hướng xấu nên tốt hơn hết là mình nên về nhà. Trên phố, tin tức về bản án lan nhanh như vi rút gây bệnh. Bầu không khí đầy kích động và tức giận. Dĩ nhiên đây chẳng phải là vụ bê bối đầu tiên liên quan tới cảnh sát, cũng không phải thất bại đầu tiên của hệ thống pháp lý nhưng lần này có bằng chứng bằng hình ảnh và điều ấy thay đổi tất cả. Cả thế giới đã được nhìn thấy bốn cảnh sát hung dữ đánh đập một anh chàng khốn khổ: hơn năm mươi cú dùi cui điện và hàng chục cú đá vào một thanh niên đang bị còng tay. Việc tòa án xử trắng án một cách khó hiểu thế này sẽ là giọt nước làm tràn ly. Những năm tháng dưới thời Reagan và Bush đã gây tổn thất kinh khủng cho dân nghèo. Dân chúng đã chán ngấy. Chán ngấy nạn thất nghiệp và cảnh khốn khổ. Chán ngấy tác hại của ma túy và một hệ thống giáo dục chỉ sản sinh ra bất công.

Về đến nhà, tôi bật ti vi lên và lấy cho mình một bát ngũ cốc. Bạo loạn nổ ra ở nhiều nơi và tôi thấy những hình ảnh đầu tiên của điều sẽ trở thành chuyện thường nhật suốt ba ngày sau đó: cảnh cướp bóc, hỏa hoạn, các trận đối đầu với cảnh sát. Những tòa nhà xung quanh chỗ giao nhau giữa Florence và Normandie ngập trong lửa và máu. Những gã đàn ông chạy trốn với những thùng các tông đầy ắp thực phẩm vừa trộm được trong các cửa hàng. Một số khác đẩy xe chuyển hàng hoặc những giá hàng có bánh xe để chở đồ gỗ, tràng kỷ hay đồ điện gia dụng. Chính quyền kêu gọi người dân bình tĩnh nhưng vô ích, tôi cho rằng chuyện này sẽ chẳng chấm dứt. Thực ra, tôi hài lòng với nó...

Tôi gom tất cả tiền tiết kiệm giấu trong một chiếc đài rồi lấy chiếc ván trượt lao đến nhà Marcus Blink.

Marcus là một gã lưu manh trong khu này, một gã “tử tế” không thuộc băng đảng nào mà chỉ bán thuốc phiện cho lũ choai choai, phân phối nhỏ lẻ và bán vũ khí. Hồi tiểu học tôi học cùng gã và gã khá có thiện cảm với tôi vì tôi đã hai, ba lần giúp mẹ gã điền giấy tờ xin trợ cấp xã hội. Cả khu phố giờ sôi lên sùng sục. Mọi người đều đoán rằng các băng đảng sẽ lợi dụng tình hình lộn xộn để thanh toán các nhóm khác và cả cảnh sát nữa. Tôi trả hai trăm đô và Marcus lấy cho tôi một khẩu Glock 22 mà gã kiếm được cả chục khẩu trong mỗi khu phố vào cái thời buổi mục nát này khi đám cảnh sát biến chất khai báo là đánh mất vũ khí rồi đem bán. Thêm hai mươi đô nữa, gã cho tôi một băng mười lăm viên đạn. Trang bị vũ khí xong xuôi, tôi lên đường về nhà, cảm thấy khẩu súng nặng trịch và cái lạnh của kim loại trong túi mình.

o O o

Đêm ấy tôi không ngủ mấy. Tôi nghĩ tới Carole. Giờ đây tôi đã có một mối bận tâm: những hung bạo, tàn nhẫn mà cô ấy phải gánh chịu chấm dứt mãi mãi. Thế giới tưởng tượng có thể làm được nhiều điều, nhưng không làm được tất cả. Những câu chuyện tôi kể đưa cô ấy vào thế giới ảo trong chốc lát để cô có được vài giờ thoát khỏi sự tra tấn về thể xác cũng như tinh thần mà gã đao phủ bắt cô ấy phải chịu. Nhưng như thế chưa đủ. Sống trong thế giới tưởng tượng không phải là một giải pháp lâu dài, như thế chẳng khác gì chơi ma túy hay uống cho say mèm để quên đi nỗi thống khổ của mình.

Sẽ chẳng thể làm gì: không lúc này thì lúc khác, cuối cùng rồi cuộc sống thực vẫn luôn luôn chiếm ưu thế so với những gì là ảo mộng.

o O o

Hôm sau, bạo lực lại gia tăng vì chẳng ai sợ bị trừng phạt. Máy bay trực thăng mà các kênh truyền hình thuê lượn liên tục trên thành phố, trực tiếp truyền đi những hình ảnh về Los Angeles đang bị giới nghiêm: cướp bóc, ẩu đả, cháy nhà, đọ súng giữa chính quyền và dân bạo loạn. Rất nhiều phóng sự tố cáo sự rối loạn và trơ ì của lực lượng cảnh sát, không có khả năng ngăn chặn các vụ cướp phá.

Dưới sức ép về số lượng nạn nhân tử vong, thị trưởng đã có bài phát biểu trên các phương tiện thông tin đại chúng, ông miêu tả tình trạng khẩn cấp và thông báo ý định cầu viện đến Vệ binh quốc gia để thiết lập thời gian giới nghiêm từ lúc hoàng hôn cho tới bình minh. Thật là một ý tưởng tồi: trong các khu phố, dân chúng cho rằng cuộc hội hè sẽ sớm kết thúc và kết quả là càng làm tăng thêm các vụ cướp phá.

Trong khu chúng tôi, các cửa hàng trụ sở của người châu Á bị cướp phá nhiều nhất. Khi ấy, mối quan hệ giữa dân da đen và dân Hàn Quốc đang căng thẳng cực độ nên vào ngày bạo loạn thứ hai, phần lớn các quầy kinh doanh, siêu thị nhỏ và cửa hàng bán rượu của dân Hàn Quốc đều bị đập phá và cướp sạch mà cảnh sát không hề can thiệp.

Đã giữa trưa. Suốt một giờ qua, tôi đứng thăng bằng trên ván trượt, nấp trước cửa hiệu đồ khô của ông bố dượng Carole. Bất chấp rủi ro, sáng nay hắn ta vẫn mở cửa tiệm, chắc hẳn là hy vọng rằng chỗ mình sẽ không bị cướp phá. Nhưng đến giờ này hẳn hắn ta cũng đã cảm thấy nguy hiểm và tôi đoán hắn ta sắp hạ cửa sắt xuống.

Chính lúc ấy tôi quyết định ra khỏi chỗ nấp.

- Ông cần giúp không, ông Alvarez?

Hắn ta không đề phòng tôi. Hắn biết quá rõ tôi vả lại tôi lại có cái mặt đáng tin.

- OK, Tom! Giúp chú mang mấy tấm pa nô bằng gỗ vào.

Tôi kẹp mỗi bên nách một tấm rồi theo hắn ta vào cửa hàng.

Đó là một cửa hàng khô xoàng xĩnh, có đến cả chục hàng như vậy trong khu này. Đây là loại cửa hàng chủ yếu bán nhu yếu phẩm và sẽ nhanh chóng phải đóng cửa trước sự cạnh tranh của Walmart.

Cruz Alvarez là một gã Mỹ Latin tầm vóc trung bình, khá béo, khuôn mặt rộng, vuông vức. Kiểu người để đóng những vai hạng ba, như những tay ma cô dắt gái hay chủ hộp đêm.

- Chú vẫn nói rằng một ngày nào đó bọn khốn nạn... ông ta bắt đầu nói rồi quay đầu lại và nhận thấy khẩu Glock 22 đang chĩa vào mình.

Cửa hàng vắng tanh, không có camera giám sát. Tôi chỉ việc bóp cò là xong. Tôi chẳng muốn nói gì với hắn, thậm chí “chết đi, kẻ đốn mạt” cũng không. Tôi ở đây không phải để lập lại chính nghĩa, không phải để thực thi công lý. Cũng chẳng phải để nghe hắn giải thích dài dòng. Hành động của tôi không có gì là vẻ vang, anh hùng hay dũng cảm. Tôi chỉ muốn nỗi khốn khổ của Carole chấm dứt và đây là cách duy nhất tôi nghĩ ra. Cách đây vài tháng, tôi đã bí mật tố cáo với một trung tâm xã hội về kế hoạch hóa gia đình mà không cho Carole biết, nhưng mọi việc chẳng đến đâu. Tôi cũng đã gửi thư cho cảnh sát, nhưng họ chẳng thèm điều tra. Tôi chẳng còn biết đâu là thiện, đâu là ác nữa. Tôi không tin vào Chúa trời, cũng chẳng tin số phận. Tôi chỉ biết rằng chỗ của mình là ở đây, đằng sau khẩu súng và tôi phải bóp cò.

- Tom! Mày cầm cái g...

Tôi tiến sát lại để bắn ở tầm gần. Tôi không muốn bắn trượt và tôi cũng chỉ muốn tốn một viên đạn.

Tôi bóp cò.

Đầu hắn nổ tung, máu bắn lên quần áo tôi.

Chỉ còn mình tôi trong cửa hàng. Chỉ còn mình tôi trên đời này. Tôi không đứng vững nổi nữa. Tay tôi run bần bật dọc hai bên sườn.

Chuồn thôi!

Tôi nhặt vỏ đạn lên, nhét vào trong túi cùng với khẩu Glock. Rồi tôi chạy về nhà. Tôi tắm rửa, đốt quần áo, cẩn thận lau sạch khẩu súng sau đó vứt nó vào một thùng rác để giải thoát cho mình. Còn cái vỏ đạn, tôi chọn cách giữ lại để đầu thú phòng khi có ai đó vô tội bị buộc tội, nhưng liệu tôi có thực sự đủ can đảm làm thế không?

Hẳn là sẽ chẳng bao giờ biết được.

o O o

Bretagne

Plogoff - Mũi Raz

- Anh chưa bao giờ kể với ai chuyện mình làm sáng hôm đó. Sống để dạ, chết mang theo, thế thôi.

- Sau đó thì chuyện gì xảy ra? Billie hỏi.

Chúng tôi tới nằm trên tràng kỷ. Billie nằm sau tôi, choàng tay ôm ngang ngực tôi, còn tôi đưa tay giữ eo em, như thể đang bám vào một tấm bè.

Nói ra chuyện ấy tôi như trút được gánh nặng. Tôi cảm thấy em hiểu mình mà không phán xét gì, tôi chỉ cần có vậy.

- Tối hôm ấy, Bush cha phát biểu trên truyền hình rằng tình trạng vô chính phủ là không thể chấp nhận được. Hôm sau, bốn nghìn lính Vệ binh quốc gia tuần tiễu khắp thành phố, ngay sau đó là các đơn vị hải quân. Trật tự dần được thiết lập vào ngày thứ tư và thị trưởng đã dỡ bỏ giờ giới nghiêm.

- Thế cảnh sát không điều tra sao?

- Các cuộc nổi loạn đã khiến khoảng năm chục người tử vong và hàng chục nghìn người bị thương. Những tuần tiếp sau, trong cả thành phố, người ta đã tiến hành bắt bớ hàng nghìn người, dù chính đáng hay không, dù có phải bắt nhầm hay không nhưng không ai bị đích danh buộc tội đã giết Cruz Alvarez.

Billie đặt một tay lên mí mắt tôi rồi hôn lên cổ tôi:

- Giờ thì ngủ đi anh.

o O o

Rome

Quảng trường Navona

- Tạm biệt Milo, cảm ơn vì đã nghe mà không hỏi han gì tớ, Carole nói rồi đứng dậy.

Vẫn còn bị sốc, anh đứng dậy cùng cô rồi khẽ nắm lấy tay cô:

- Đợi đã... Sao cậu lại dám chắc Tom đã làm chuyện ấy khi mà cậu ấy chưa bao giờ nói với cậu?

- Tớ là cảnh sát, Milo ạ. Cách đây hai năm, tớ được quyền tra cứu tài liệu lưu trữ của Sở cảnh sát Los Angeles và tớ đã yêu cầu được đọc hồ sơ vụ giết ông bố dượng tớ. Không có nhiều thông tin: hai hoặc ba cuộc hỏi cung hàng xóm, vài tấm ảnh hiện trường và một mẫu lấy vân tay được làm qua quýt. Chẳng ai thèm quan tâm xem kẻ nào đã giết một gã tiểu thương trong khu MacArthur Park. Tuy nhiên, trên một tấm ảnh, có thể nhận thấy khá rõ một tấm ván trượt được đặt dưới chân tường, trên tấm ván có vẽ hình ngôi sao băng cách điệu.

- Và tấm ván trượt đó...

- ...chính tớ đã tặng cho Tom, cô nói rồi quay bước.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,226
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33: Nương tựa vào nhau


Người ta có thể cho người mình yêu nhiều thứ. Những hứa hẹn, cảm giác thư thái, hoan lạc. Em đã cho tôi thứ quý giá nhất: nỗi nhớ. Tôi không thể nào sống thiếu em, ngay cả khi thấy em, tôi vẫn không thôi nhớ em.

Christian BOBIN

Thứ Hai 27 tháng Chín

Paris

Bệnh viện Marie-Curie

Cả kíp mổ đều có mặt đầy đủ, đang đứng xung quanh giáo sư Jean-Baptiste Clouseau.

Vị bác sĩ dùng cưa mở lồng ngực Billie theo chiều dọc, bắt đầu từ vùng dưới thấp kéo dài đến tận dưới cằm.

Sau đó ông tiếp cận màng ngoài tim để xem xét động mạch vành rồi thiết lập tuần hoàn ngoài cơ thể bằng cách bơm một loại dung dịch ka li đậm đặc khiến tim tạm ngừng đập. Khi ấy một chiếc bơm sẽ thay thế tim và một máy thở oxy thay cho phổi.

Mỗi lần phẫu thuật tim mở, Jean-Baptiste Clouseau đều cảm thấy thật thán phục trước cơ quan diệu kỳ kết nối chúng ta với cuộc sống này: 100 000 nhịp đập mỗi ngày, 36 triệu nhịp một năm, hơn ba tỷ nhịp trong một đời người. Bao nhiêu lần như vậy chỉ với chiếc bơm máu nhỏ, trông hết sức mảnh dẻ, yếu ớt ấy...

Đầu tiên ông mở tâm nhĩ phải rồi tâm nhĩ trái và tiến hành cắt bỏ hai khối u, lần nào ông cũng cắt diệt tận gốc để đề phòng tái phát. Khối u dạng thớ quả thực là có hình dạng bất thường.

Thật may vì đã phát hiện kịp thời!

Ông cẩn thận xem xét các khoang tim và tâm thất để tìm các khối u nhầy khác nhưng không thấy có thêm.

Sau khi hoàn tất, ông nối lại tim với động mạch chủ, thông khí phổi, đặt ống dẫn lưu cho máu chảy và khâu lồng ngực lại bằng chỉ khâu thép.

Ca mổ nhanh gọn, đạt kết quả tốt! ông nghĩ trong lúc tháo găng tay rồi ra khỏi phòng mổ.

o O o

Hàn Quốc

Trường nữ sinh Ewha

Mặt trời đã lặn ở Seoul. Tối nào cũng vậy, cứ vào giờ cao điểm là đường phố thủ đô Hàn Quốc lại tê liệt vì tắc đường.

Iseul Park ra khỏi bến tàu điện ngầm, đi bộ một đoạn trên vỉa hè rồi băng qua đường trên lối đi dành cho người đi bộ để tới trường đại học. Nằm giữa khu dành cho sinh viên, trường Ewha có hơn hai mươi nghìn sinh viên và là một trong những trường đại học tốt nhất, danh giá nhất cả nước.

Iseul bước xuống cầu thang lớn, thoai thoải dốc dẫn tới nơi mà tất cả mọi người đều gọi là “phay”: một khoảng không toàn bằng kính gồm hai tòa nhà nằm đối diện nhau, ở giữa là đường đi dạo đổ bê tông. Cô bước vào cổng chính của con tàu chở khách trong suốt ấy, tầng trệt toàn là các cửa hàng và quán cà phê giống với một trung tâm thương mại siêu hiện đại. Cô vào thang máy lên các tầng trên, nơi có các phòng học, một rạp hát, một rạp chiếu phim, một phòng tập thể thao và đặc biệt là một thư viện lớn mở cửa cả ngày lẫn đêm. Cô dừng lại tại máy bán hàng tự động, mua một tách trà xanh rồi tìm một chỗ cuối phòng. Ở đây đúng là sống trong thế kỷ XXI: mỗi bàn đọc giống như một bàn làm việc, được trang bị máy tính kết nối trực tiếp với kho sách của thư viện, toàn bộ đã được số hóa.

Iseul cau mày. Cô gần như không đứng vững nổi. Cô vừa trở về từ chuyến thăm quan du học ngày hôm kia và đang có quá nhiều việc cần làm. Cô dành phần lớn buổi tối để điền các phiếu và ôn bài, trong khi mắt vẫn không ngừng liếc nhìn màn hình điện thoại, mỗi lần máy rung lên báo hiệu có tin nhắn hoặc thư điện tử là cô lại rùng mình, nhưng vẫn không phải tin tức cô mong chờ.

Cô run rẩy, cô lạnh, cô phát điên mất. Tại sao Jimbo lại bặt vô âm tín? Phải chăng cô đã ăn quả lừa, chính cô, người luôn giữ vẻ ngờ vực và xa cách với mọi người xung quanh?

Đã gần nửa đêm. Thư viện thưa thớt dần nhưng một số sinh viên sẽ ở lại tới tận ba, bốn giờ sáng. Ở đây là như vậy...

Iseul lấy cuốn sách của Tom Boyd mà cô đã tìm thấy trong quán trà ở Ý ra khỏi túi xách. Cô cứ lật giở cho tới khi bắt gặp bức ảnh chụp Luca Bartoletti cùng cô bạn gái Stella phóng chiếc mô tô bánh nhỏ trên đường phố Rome khi họ hai mươi.

Đừng bao giờ thôi yêu em, cô gái người Ý đã viết như vậy. Đó đúng là điều cô muốn nói với Jimbo...

Cô lấy chiếc kéo cùng với một tuýp hồ dán trong hộp đựng dụng cụ học sinh của mình ra rồi cũng dán lên những trang sách trắng những tấm ảnh đẹp nhất chụp trong suốt bốn tuần hạnh phúc cô sống bên anh. Một bó kỷ niệm đầy những vé xem kịch và triển lãm họ đã cùng nhau đi xem: triển lãm tác phẩm của Tim Burton tại MoMA, nhạc kịch Chicago tại Ambassador Theater, cũng như tất cả các bộ phim anh đã cùng cô khám phá tại phòng chiếu phim của trường Đại học New York: Donnie Darko, Requiem for a Dream, Brazil...

Cô làm việc này suốt cả đêm, dành hết tâm huyết vào đó. Tờ mờ sáng, đôi mắt đỏ ngầu, đầu tóc xổ tung, cô dừng lại trước quầy bưu điện trong tòa nhà hành chính mua một chiếc phong bì rồi cho cuốn sách bìa da màu xanh đậm vào để gửi sang Mỹ.

o O o

Paris

Bệnh viện Marie-Curie

Phòng hồi sức khoa tim

Billie dần tỉnh lại. Em không nói được do ống máy thở được luồn vào khí quản.

- Chúng tôi sẽ tháo cái này ra cho cô trong vài giờ tới, bác sĩ Clouseau trấn an.

Ông kiểm tra lại những điện cực nhỏ được đặt trên ngực Billie để kích tim trong trường hợp nhịp tim bị chậm lại.

- Không có vấn đề gì, ông nói.

Tôi mỉm cười với Billie, em nháy mắt đáp lại tôi.

Mọi chuyện rồi sẽ ổn cả.

o O o

Thứ Tư 29 tháng Chín

New York

Greenwich Village

- Em bị muộn rồi! Cô gái vừa mặc quần áo vừa càu nhàu. Anh nói đã đặt đồng hồ báo thức rồi cơ mà!

Cô mặc chiếc váy ngắn, xỏ giày và cài cúc áo sơ mi.

Anh chàng trên giường nhìn cô cười đùa.

- Nếu muốn gọi cho em thì anh có số rồi đấy... cô vừa nói vừa mở cửa phòng ngủ.

- OK, Christy.

- Tên em là Carry, anh chàng tội nghiệp ạ!

James Jimbo - thường gọi là Jimbo - cười khoe hết răng. Anh ngồi dậy vươn vai mà chẳng hề tìm cách xin lỗi cũng như giữ người tình một đêm lại. Anh ra khỏi phòng đi chuẩn bị đồ ăn sáng.

Mẹ kiếp, hết cà phê rồi! anh càu nhàu khi mở tủ bếp.

Anh nhìn ra cửa sổ căn hộ liền kề và thấy Carry Gì Đó đang đi ngược lên để tới phố Houston.

Cũng tạm được. Nói tóm lại là loại trung bình... 6 điểm trên 10, anh bĩu môi đánh giá. Dù sao cũng không đủ hấp dẫn để làm lần nữa.

Cánh cửa căn hộ bật mở và Jonathan, cậu bạn cùng phòng bước vào, trên tay là hai cốc cà phê mua ở quán góc phố.

- Tớ gặp người giao hàng chuyển phát nhanh dưới nhà, cậu bạn vừa nói vừa hất cằm chỉ gói bưu kiện kẹp dưới cánh tay.

- Cảm ơn, Jimbo nói rồi cầm lấy phong bì và cốc cà phê caramen.

- Cậu nợ tớ 3,75 đô, Jonathan thông báo. Cộng với 650 đô tiền thuê nhà tớ đã ứng cho cả cậu hai tuần trước.

- Rồi, rồi, Jimbo trả lời nước đôi, mắt dán vào dòng địa chỉ trên phong bì.

- Của Iseul Park gửi, đúng không?

- Tớ dính vào thứ gì thế không biết? anh hỏi rồi mở phong bì bên trong có cuốn sách của Tom Boyd.

Cái thứ này thật kỳ cục, anh nghĩ khi mở cuốn tiểu thuyết và thấy những tấm ảnh do nhiều người dán vào.

- Tớ biết là cậu chẳng thèm quan tâm tới ý kiến của tớ, Jonathan tiếp tục, nhưng để tớ nói cậu biết điều này: cậu đã cư xử không tốt với Iseul.

- Đúng là tớ cóc quan tâm tới ý kiến của cậu, Jimbo khẳng định lại rồi uống một ngụm cà phê.

- Cô ấy vẫn để lại lời nhắn cho cậu trên máy trả lời điện thoại tự động. Cô ấy lo lắng cho cậu. Nếu cậu muốn chấm dứt với cô ấy thì ít nhất hãy dành chút thời gian thông báo với cô ấy một cách đàng hoàng. Tại sao cậu lại đối xử như vậy với phụ nữ? Thực ra vấn đề của cậu là gì?

- Vấn đề của tớ là đời ngắn lắm và tất cả rồi sẽ chết hết, giải thích cho cậu như vậy đủ chưa?

- Chưa, tớ chẳng thấy có gì liên quan cả.

- Tớ muốn trở thành đạo diễn, Jonathan ạ. Cuộc sống đời tớ chính là những bộ phim chứ không phải thứ gì khác. Cậu biết Truffaut từng nói gì không? Điện ảnh quan trọng hơn cả cuộc đời. Và với tớ cũng vậy. Tớ không muốn bị ràng buộc, không thích trẻ con, không thích đám cưới. Mọi người ai cũng có thể trở thành một người chồng tốt hoặc một ông bố tốt nhưng chỉ có duy nhất một Quentin Tarantino và một Martin Scorsese thôi.

- Hừm... cậu thật khó hiểu ở mọi cấp độ, anh bạn ạ...

- Cậu không hiểu nổi thì cũng kệ thôi. Bỏ qua đi! Jimbo trả lời rồi rút lui vào phòng tắm.

Anh tắm rửa rồi mặc quần áo thật nhanh.

- Thôi, tớ chuồn đây, anh nói rồi tóm lấy cái túi, tớ có giờ học vào buổi trưa.

- Thế đấy! Đừng quên tiền thuê...

Quá muộn rồi, Jimbo đã đóng sập cửa.

Jimbo thấy đói. Anh mua bánh mì kẹp tại cửa tiệm Mamoun’s rồi ngấu nghiến ăn trên đường tới khoa điện ảnh. Vì đến hơi sớm nên anh vào quán cà phê ngay cạnh trường uống một lon Coca. Khi ngồi vào quầy, anh lại xem xét cuốn sách có bìa kiểu gô tíc mà Iseul gửi tặng. Cô gái Hàn Quốc xinh đẹp khá quyến rũ và thông minh. Cả hai đã rất vui vẻ nhưng giờ đây cô nàng đã trở thành một thứ keo dính khó chịu với mấy bức ảnh lãng mạn sến này.

Tuy nhiên cuốn sách lại khiến anh thấy tò mò. Bộ ba Thiên thần? Cái tên này gợi cho anh điều gì đó... Anh ngẫm nghĩ rồi nhớ ra đã đọc trên tờ Variety rằng Hollywood đã mua lại tác quyền cuốn tiểu thuyết và sắp chuyển thể thành phim. Nhưng tại sao bản sách anh có trong tay lại trong tình trạng thế này? Anh rời ghế của mình, tới ngồi trước một chiếc máy tính để phục vụ khách hàng. Anh gõ mấy từ khóa về Tom Boyd và nhận được hàng nghìn trang có liên quan, nhưng khi thu gọn kết quả tìm kiếm lại trong vòng bảy ngày gần đây, anh phát hiện ra có ai đó đang thông báo trên khắp các diễn đàn để tìm kiếm một bản sách đặc biệt mà một nửa số trang còn trắng nguyên.

Và bản sách đó chính xác là thứ anh đang có trong túi!

Anh bước ra vỉa hè trong khi vẫn mải nghiền ngẫm điều vừa đọc được. Và một ý nghĩ chợt nảy ra trong đầu.

o O o

Greenwich Village

Cùng ngày hôm đó

Buổi chiều tối

Kerouac & Co. Bookseller là một hiệu sách nhỏ nằm trên phố Greene chuyên mua bán sách cũ và sách hiếm.

Trong bộ com lê ôm sát và cà vạt tối màu, Kenneth Andrews đang bày thêm vào tủ kính một tác phẩm ông vừa mua được trong một phiên tranh giành tài sản nhộn nhạo giữa những người thừa kế của một nhà sưu tập lớn tuổi: bản Go Down, Moses có chữ ký của William Faulkner. Tác phẩm được đặt giữa một ấn bản đặc biệt của Scott Fitzgerald, bản thủ bút trên thủy tinh của ngài Arthur Conan Doyle, tấm áp phích của một cuộc triển lãm có chữ ký của Andy Warhol và bản nháp một bài hát của Bob Dylan viết ra mặt sau của hóa đơn khách sạn.

Kenneth Andrews mở cửa hàng này đã gần năm mươi năm nay. Ông đã trải qua thời kỳ sơ khai của văn học phóng túng khi mà vào những năm 1950, Greenwich Village là vùng đất của Thế hệ Tổn thương, của những nhà thơ, ca sĩ dân ca. Nhưng rồi tiền thuê nhà tăng dần, các nghệ sĩ tiên phong đã chuyển sang các khu khác từ khá lâu và giờ đây, dân Greenwich chủ yếu là người giàu, họ mua lại những thứ đồ hiếm của ông với giá cắt cổ để tìm chút hương vị của một quá khứ họ không biết đến.

Chuông cửa hàng khẽ rung lên kính coong và một thanh niên xuất hiện nơi ngưỡng cửa.

- Xin chào, Jimbo bước vào.

Anh đã tới hiệu sách xinh xắn này mấy lần. Với thứ ánh sáng dịu nhẹ, mùi cỏ khô và những bức tranh khắc cổ, nơi này gợi anh nhớ tới cảnh trí của một bộ phim thời xưa và khiến anh có cảm giác như đang sống trong một thế giới khác, tách biệt với không khí náo nhiệt của thành phố.

- Xin chào, Andrews đáp lại. Tôi giúp gì được anh đây?

Jimbo đặt cuốn sách của Tom Boyd lên quầy để người chủ hiệu sách thấy.

- Ông quan tâm tới nó chứ?

Người đàn ông đứng tuổi đeo kính vào rồi xem xét cuốn tiểu thuyết với một cái bĩu môi coi thường: bìa giả da, thể loại văn học bình dân, lỗi in ấn, chưa kể đến đám ảnh được dán cẩu thả vào sách. Theo ông, cuốn sách này xứng đáng vứt vào sọt rác.

Ông định nói vậy với người đối thoại thì chợt nhớ ra đã đọc được mục tin trên tạp chí American Bookseller nói về việc loạt ấn bản đặc biệt của cuốn best-seller này đã bị hủy toàn bộ vì lỗi in ấn. Có lẽ đây...

- Tôi trả chín mươi đô, ông ra giá dựa theo trực giác.

- Ông đùa đấy à, Jimbo bực bội, đây là bản đặc biệt đấy. Tôi có thể bán được giá cao gấp ba như vậy trên mạng.

- Vậy thì mời anh. Còn tôi thì tôi chỉ nâng lên được đến một trăm năm mươi đô thôi. Được thì được, chẳng được thì thôi.

- Xong, Jimbo quyết định sau một lúc suy nghĩ.

o O o

Kenneth Andrews đợi cho anh chàng thanh niên đi khỏi cửa hàng rồi mới lục tìm bài báo nói về cuốn sách.

Sự vụ rắc rối ở Doubleday: sau khi phát hiện ra lỗi in hỏng, 100 000 bản in đặc biệt tập hai của Bộ ba Thiên thần của tác giả thành công Tom Boyd đã phải hủy đi.

Ừm, thú vị đây, người chủ hiệu sách già phán đoán. Nếu may mắn một chút, có thể ông đang có trong tay bản sách hỏng duy nhất...

o O o

Rome

Khu Prati

30 tháng Chín

Khoác tạp dề trắng, Milo phục vụ bánh nhồi ra gu, các loại pizza trong một nhà hàng Sicile trên phố Degli Scipioni. Sau khi Carole đi, anh quyết định ở lại Rome thêm vài ngày và công việc này giúp anh có tiền thuê một phòng nhỏ trong khách sạn cũng như được ăn miễn phí. Ngày nào anh cũng trao đổi thư điện tử với Tom và vui mừng vì bạn anh đã bắt đầu viết lại, anh liên lạc lại với Doubleday cùng nhiều nhà xuất bản nước ngoài khác để nói với họ rằng họ đã mai táng bạn anh hơi sớm và rằng sẽ sớm xuất hiện một tác phẩm mới của Tom Boyd trong các hiệu sách.

- Tối nay là sinh nhật tôi, cô gái mới quen nói với anh, đó là một cô nàng tóc nâu xinh xắn, làm cho một cửa hàng giày cao cấp trên phố Condotti.

- Rất vui vì được biết.

Cô ta cắn chiếc bánh ngon lành, để lại một chút son môi trên vỏ bánh.

- Tôi có tổ chức một bữa tiệc với các bạn tại căn hộ của mình. Nếu anh có thể tới...

- Cô tử tế quá, nhưng thôi.

Nếu là một tuần trước, hẳn anh sẽ chẳng để cô ta phải nài thêm, nhưng từ sau khi Carole kể chuyện đó, anh không còn như trước đây nữa. Câu chuyện của cô bạn khiến anh bị xáo trộn, nó đã cho anh thấy phần vẫn ẩn đi trong hai con người mà anh yêu quý nhất trên đời. Tất cả chuyện này khiến anh chìm trong những cảm xúc trái ngược: niềm thương cảm vô bờ bến với Carole, người mà giờ đây anh đã dành cho một tình yêu còn mãnh liệt hơn, sự tôn trọng và tự hào với hành động của Tom, nhưng đồng thời cũng cảm thấy mếch lòng vì họ đã không tin tưởng anh lâu đến vậy và đặc biệt là thấy tiếc vì chính anh đã không thực hiện “công việc bẩn thỉu” ấy.

- Tôi nghĩ tôi sẽ thử món kem mứt kia xem sao, cô nàng người Ý mũm mĩm vừa nói vừa chỉ chiếc bánh phủ đầy mứt quả.

Milo định cắt cho cô ta một miếng thì điện thoại rung lên trong túi quần jean.

- Xin lỗi cô.

Đó là một bức thư điện tử của Carole, chỉ vỏn vẹn mấy từ: “Xem cái này đi!” kèm theo là một đường link.

Tay vẫn còn dính mứt bánh, anh bấm bừa lên màn hình cảm ứng và mở ra được một trang web cho phép tra cứu trực tuyến danh bạ của các hiệu sách chuyên nghiệp chuyên bán sách hiếm hoặc sách hạ giá.

Nếu những thông tin trên trang này là chính xác thì một hiệu sách ở Greenwich Village vừa mới đăng tin bán cuốn sách anh đang tìm!

Anh nhận được một tin nhắn của Carole gần như ngay lúc ấy:

Gặp nhau ở Manhattan?

Và anh cũng trả lời ngay tắp lự:

Tớ sẽ đến.

Anh cởi tạp dề, để lại trên mặt quầy rồi rời khỏi nhà hàng.

- Thế còn món tráng miệng của tôi thì sao? Vị khách nữ nhảy dựng lên.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,226
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34: Cuốn sách cuộc đời


Thời gian đọc luôn là thời gian bị đánh cắp. Đó chính là lý do tại sao tàu điện ngầm lại là thư viện lớn nhất thế giới.

Franoise SAGAN

Paris

Bệnh viện Marie-Curie

Billie hồi phục với tốc độ đáng kinh ngạc. Người ta rút máy thở, ống dẫn lưu và các loại điện cực ra rồi chuyển em sang khu vực điều dưỡng của bệnh viện.

Ngày nào giáo sư Clouseau cũng qua thăm bệnh cho em, tìm kiếm biến chứng nhiễm trùng có thể xảy ra hoặc dấu hiệu của chứng tràn dịch màng ngoài tim nhưng theo ông tất cả đều trong tầm kiểm soát.

Về phần mình, tôi đã biến bệnh viện thành nơi làm việc thứ hai của mình. Từ bảy rưỡi sáng tới bảy giờ tối, tôi đeo tai nghe chống ồn và ngồi làm việc với máy tính tại quán cà phê ở tầng trệt. Buổi trưa, tôi ăn tại khu vực dành cho nhân viên bằng thẻ của giáo sư Clouseau - người đàn ông này ăn, ngủ khi nào quả là điều bí ẩn... - và với tư cách người đi cùng, tôi có một giường trong phòng của Billie, nhờ thế buổi tối chúng tôi có thể ở bên nhau.

Chưa khi nào tôi si tình đến như vậy.

Chưa khi nào tôi viết nhanh đến như vậy.

o O o

Greenwich Village

Mồng 1 tháng Mười

Chiều tối

Carole tới hiệu sách nhỏ trên phố Greene trước.

Kerouac & Co. Bookseller

Cô ghé nhìn qua cửa kính và không tin vào mắt mình nữa.

Cuốn sách ở kia!

Cuốn sách được mở ra, đặt trên một khay bày hàng mẫu với nhãn ghi “bản duy nhất” bên cạnh tập thơ của Emily Dickinson và tấm áp phích của bộ phim The Misfits có lời đề tặng của Marilyn Monroe.

Cô cảm thấy sự hiện diện của Milo phía sau mình.

- Chúc mừng cho lòng kiên trì của cậu, anh vừa nói vừa tiến lại gần mặt tiền hiệu sách. Lần này quả thực tớ đã nghĩ chúng ta sẽ không thể tìm lại được nó nữa.

- Cậu có chắc chính là nó kia không?

- Chúng ta sẽ kiểm tra ngay bây giờ, anh nói rồi bước vào hiệu sách.

Cửa hiệu sắp đóng cửa. Kenneth Andrews đang đứng trước các kệ sách để sắp xếp lại sau khi hút bụi. Ông ngừng việc đang làm để tiếp đón các vị khách mới tới.

- Tôi có thể giúp gì hai vị đây?

- Chúng tôi muốn xem một trong những cuốn sách của ông, Carole vừa nói vừa đưa tay chỉ cuốn tiểu thuyết của Tom.

- A! Một bản sách đặc biệt! người chủ hiệu sách thốt lên rồi lấy cuốn sách ra khỏi tủ kính, hành động cẩn trọng như thể đang cầm trên tay một bản in cổ.

Milo xem xét tỉ mỉ cuốn tiểu thuyết, ngạc nhiên trước cách mà các độc giả in dấu ấn của mình lên đó.

- Thế nào? Carole lo lắng hỏi.

- Đúng là nó.

- Chúng tôi sẽ mua cuốn sách! cô nói đầy phấn khởi.

Cô cảm thấy xúc động và tự hào. Nhờ có cô, giờ đây tính mạng Billie sẽ không còn nguy hiểm nữa!

- Lựa chọn tuyệt hảo, thưa bà. Tôi sẽ đóng gói cho quý vị. Các vị muốn thanh toán theo cách nào?

- À... ờ... ông bán bao nhiêu?

Dựa vào kinh nghiệm của mình, Kenneth Andrews đánh hơi được hai người khách hàng rất ngưỡng mộ quyển sách nên không ngần ngại đưa ra một con số không tưởng:

- Sáu nghìn đô la, thưa bà.

- Cái gì! Ông đùa đấy à? Milo thấy như nghẹn thở.

- Đây là bản duy nhất còn sót lại, người chủ hiệu sách phân trần thêm.

- Không, thế này chẳng quá là móc túi người ta à!

Người đàn ông lớn tuổi chỉ ra cánh cửa ra vào:

- Vậy thì tôi không giữ các vị nữa.

- Được rồi! Ông đi m... Milo nổi khùng.

- Tôi sẽ làm vậy, thưa quý ông và cũng chúc quý vị một buổi tối tốt lành, Andrews vặc lại rồi đặt cuốn tiểu thuyết lên khay bày hàng mẫu.

- Đợi đã! Carole yêu cầu, cố tìm cách làm dịu tình hình. Tôi sẽ trả ông số tiền đó.

Cô lấy ví ra rồi chìa cho người chủ hiệu sách thẻ tín dụng của mình.

- Thế này thật dễ chịu, thưa bà, người chủ hiệu nói rồi cầm lấy tấm thẻ nhựa hình chữ nhật.

o O o

Paris

Bệnh viện Marie-Curie

Cùng ngày hôm đó

- Thế tôi đã có thể xuất viện chưa? Tôi chán phải nằm dài cả ngày rồi! Billie than vãn.

Giáo sư Clouseau đưa mắt nhìn cô đầy nghiêm khắc.

- Cô có thấy đau khi tôi ấn vào đây không? vị bác sĩ vừa nắn lồng ngực cô vừa hỏi.

- Hơi đau.

Bác sĩ có vẻ lo lắng. Billie đang sốt. Vết mổ của cô tấy đỏ và mưng mủ, đường khâu hơi tách ra. Có thể đó chỉ là nhiễm trùng bề mặt nhưng ông vẫn yêu cầu làm một số xét nghiệm.

o O o

New York

- Sao thế, sao lại “từ chối”? Milo nói oang oang.

- Tôi cũng không rõ, Kenneth Andrews xin lỗi, nhưng hình như thẻ thanh toán của bà nhà có vấn đề gì đó.

- Tôi không phải vợ ông đây, Carole chữa lại.

Cô quay sang phía Milo:

- Hẳn tớ đã chi hết tiền trong thẻ tín dụng khi mua vé máy bay rồi, nhưng tớ vẫn còn tiền tiết kiệm.

- Cậu điên rồi, Milo nói lý lẽ với cô, cậu sẽ sạt nghiệp mất...

Carole không muốn biết gì thêm:

- Tôi phải liên lạc với ngân hàng để họ chuyển khoản cho tôi, nhưng hôm nay là thứ Sáu rồi và có thể mất chút thời gian, cô giải thích với chủ hiệu sách.

- Không vấn đề gì. Bà cứ quay lại đây khi nào xong xuôi.

- Cuốn tiểu thuyết này rất quan trọng với chúng tôi, cô nhấn mạnh.

- Tôi sẽ giữ nó lại cho bà tới tối thứ Hai, Andrews hứa rồi lấy cuốn sách ra khỏi tủ kính, đặt lên quầy.

- Ông nhớ giữ lời hứa nhé.

- Hứa danh dự với bà đấy.

o O o

Paris

Bệnh viện Marie-Curie

Thứ Hai ngày mùng 4 tháng Mười

- Ái! Billie kêu lên khi cô y tá áp miếng gạc nóng lên lồng ngực cô.

Lần này cô thấy đau dữ dội. Cô sốt suốt tuần qua và giáo sư Clouseau đã cho chuyển cô từ khu điều dưỡng về lại khoa tim mạch.

Vị bác sĩ ngồi trên đầu giường, xem xét vết mổ, nó vẫn tấy lên và tiếp tục chảy máu. Ông lo là cô bị viêm xương và tủy: viêm trung thất, một biến chứng hiếm gặp nhưng nguy hiểm khi phẫu thuật tim, có thể nguyên nhân là khuẩn cầu chùm vàng.

Ông đã yêu cầu làm nhiều xét nghiệm nhưng không cái nào giúp ích thực sự được cho ông. Chụp X quang cho thấy có hai sợi chỉ thép bị đứt nhưng vẫn rất khó phán đoán do các bọc máu lành xuất hiện sau phẫu thuật.

Có thể ông lo lắng là thừa...

Ông lưỡng lự, rồi muốn tự mình thực hiện một xét nghiệm cuối cùng. Ông cho một chiếc kim thật nhỏ vào khoang giữa hai lá phổi của Billie để hút ra chút dịch trung thất. Nhìn bằng mắt thường thì dịch hút được giống như là mủ.

Ông yêu cầu tiêm kháng sinh vào tĩnh mạch và gửi khẩn cấp mẫu dịch lấy được tới phòng thí nghiệm.

o O o

Greenwich Village

Thứ Hai ngày 4 tháng Mười

9 giờ 30 phút

Như thường lệ khi có mặt tại New York vào buổi sáng, tỷ phú Oleg Mordhorov lại vào một quán cà phê nhỏ trên phố Broome gọi một cốc cappuccino. Cầm cốc giấy trên tay, anh bước ra vỉa hè và đi bộ trên phố Greene.

Mặt trời mùa thu chiếu những tia nắng nhẹ lên các tòa nhà ở khu Manhattan. Oleg thích lững thững đi dạo trên các con phố. Làm thế không phải là lãng phí thời gian mà hoàn toàn ngược lại. Đó là những quãng thời gian suy ngẫm thường giúp anh đưa ra được những quyết định quan trọng nhất trong đời. Anh có một cuộc hẹn lúc 11 giờ để thanh toán một giao dịch bất động sản quan trọng. Tập đoàn anh lãnh đạo đang chuẩn bị mua lại các tòa cao ốc và nhà kho tại Williamsburg, Greenpoint và Coney Island để biến chúng thành các khu nhà ở cao cấp. Một dự án không được dân trong các khu này ủng hộ nhưng đó không phải vấn đề của anh.

Oleg bốn mươi tư tuổi nhưng khuôn mặt hơi tròn trĩnh khiến anh trông trẻ hơn. Mặc quần jean, áo vest nhung cùng một chiếc áo thun có mũ, nhìn anh không giống với một người ở địa vị của mình: một trong những nhân vật giàu nhất nước Nga. Anh không phô ra bên ngoài sự giàu có của mình, không đi lại bằng xe limousine như những nhân vật VIP khác, còn đám vệ sĩ thì luôn biết giữ khoảng cách với anh và biến mình thành vô hình. Năm hai mươi sáu tuổi, khi anh đang dạy triết học tại vịnh Avacha, người ta đã đề nghị anh tham gia đội tuyển thành phố Petropavlovsk-Kamchatsky, một thành phố cảng nằm ở miền Đông nước Nga. Anh rất hứng thú với cuộc sống địa phương và nhân cuộc cải cách kinh tế xã hội của Eltsine, anh đã bắt tay vào kinh doanh, hợp tác với các doanh nhân không phải lúc nào cũng đáng tin cậy nhưng lại biết giúp anh tận dụng chính sách tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước. Thời kỳ đầu, trông anh không có “vẻ” gì của một thương nhân nên các đối thủ thường bị anh phỉnh phờ bởi bề ngoài mơ màng và vô hại nhưng lại ẩn giấu một ý chí lạnh lùng, không gì khuất phục nổi. Giờ đây anh đã tạo dựng được sự nghiệp và thoát khỏi những mối quan hệ bạn bè rầy rà. Anh sở hữu nhiều khu đất tại Luân Đôn, New York và Dubai, có một du thuyền, máy bay riêng, một đội bóng rổ nhà nghề và một đội đua công thức 1.

Oleg dừng lại trước tủ kính của hiệu sách nhỏ Kerouac & Co. Ánh mắt anh bị tấm áp phích phim The Misfits có lời đề tặng của Marilyn Monroe thu hút.

Một món quà cho Marieke? Tại sao lại không nhỉ...

Hai năm nay anh hẹn hò với Marieke Van Eden, một siêu mẫu người Hà Lan hai mươi tư tuổi. Ảnh họ được tất cả các tạp chí mốt đăng lên trang bìa.

- Xin chào, anh nói khi bước vào hiệu sách.

- Tôi có thể giúp gì được cho ông đây? Kenneth Andrews chào đón anh.

- Đây có thật là chữ của Marilyn không?

- Dĩ nhiên, thưa ông, có cả chứng nhận kèm theo đây. Một món rất đẹp...

- ...đáng giá bao nhiêu?

- Ba nghìn năm trăm đô, thưa ông.

- Đồng ý, Oleg chấp nhận ngay mà không mặc cả. Tôi mang đi tặng vậy nên ông có thể gói lại không?

- Tôi làm ngay đây.

Trong khi người chủ hiệu sách cẩn thận cuộn tấm áp phích lại, Oleg lấy thẻ Platinium của mình ra đặt lên quầy, ngay cạnh một cuốn sách bìa da màu xanh.

Tom Boyd - Bộ ba Thiên thần

Đây là tác giả Marieke thích nhất...

Anh tự cho phép mình mở cuốn tiểu thuyết ra xem.

- Cuốn sách này giá bao nhiêu?

- À, tôi rất tiếc, nó không phải để bán.

Oleg mỉm cười. Trong kinh doanh, anh thực sự chỉ thấy hứng thú với những thứ “đeo cái mác” không phải để bán.

- Bao nhiêu? anh nhắc lại.

Khuôn mặt tròn trĩnh của anh đã mất đi vẻ ngây thơ. Giờ đây, đôi mắt anh ánh lên một ngọn lửa khiến người ta lo ngại.

- Nó đã được bán rồi, thưa ông, Andrews bình tĩnh giải thích.

- Nếu được bán rồi sao nó còn ở đây?

- Vị khách ấy sẽ tới lấy sau.

- Vậy là họ vẫn chưa trả tiền.

- Đúng vậy, nhưng tôi đã hứa danh dự rồi.

- Lời hứa danh dự của ông đáng giá bao nhiêu?

- Lời hứa danh dự của tôi không phải để bán, ông chủ hiệu sách cương quyết đáp lại.

Ngay lập tức Andrews cảm thấy khó chịu. Ở người đàn ông này có cái gì đó đầy đe dọa và dữ dội. Ông quẹt tấm thẻ tín dụng rồi chìa cho vị khách người Nga gói quà cùng hóa đơn, ông thở phào nhẹ nhõm vì cuộc mua bán đã chấm dứt.

Nhưng Oleg không hiểu như vậy. Thay vì ra khỏi cửa hàng, anh lại ngồi vào chiếc ghế bành da màu vàng hung đặt ngay đối diện quầy.

- Mọi thứ đều để bán, không phải vậy sao?

- Tôi không nghĩ vậy, thưa ông.

- Vậy ngài Shakespeare của ông đã nói gì nào? anh vừa hỏi vừa cố nhớ lại một câu trích dẫn. Tiền biến kẻ xấu xí thành xinh đẹp, khiến người già trẻ lại, biến điều bất công thành chính đáng, biến kẻ bỉ ổi thành nhà quý tộc...

- Đó là một cách nhìn thiếu khoan dung đối với con người, nó rất hợp với ông đúng không?

- Vậy cái gì là không thể mua được? Oleg khiêu khích.

- Ông biết rất rõ mà: tình bạn, tình yêu, phẩm cách...

Oleg đập tan lý lẽ đó:

- Con người rất yếu đuối và có thể biến chất.

- Ông sẽ phải đồng ý với tôi rằng có những giá trị đạo đức và tinh thần vượt qua cả logic về lợi ích.

- Ai cũng có thể mua được bằng tiền.

Lần này thì Andrews chỉ ra cửa ra vào:

- Xin chúc ông một ngày tốt lành.

Nhưng Oleg không nhúc nhích một ngón tay:

- Ai cũng có thể mua được bằng tiền, anh nhắc lại. Giá của ông là bao nhiêu?

o O o

Greenwich Village

Hai giờ sau

- Cái trò này là thế quái nào đây? Milo tức giận quát lên khi tới trước cửa hiệu sách.

Carole không tin vào mắt mình nữa. Không chỉ có cửa sắt được kéo xuống mà còn có một tấm biển được viết vội dành cho khách vãng lai:

ĐÓNG CỬA MỘT NĂM

TRƯỚC KHI ĐỔI CHỦ

Cô cảm thấy những giọt nước mắt dâng lên mình. Quá nản lòng, cô ngồi phệt xuống vỉa hè và đưa hai tay lên ôm đầu. Cô vừa mới rút sáu nghìn đô la. Mười lăm phút trước, chính cô đã thông báo với Tom tin tốt lành này vậy mà giờ đây cuốn sách đã bốc hơi ngay trước mũi cô.

Milo tức giận đập mạnh vào cửa sắt nhưng Carole đứng dậy cố gắng nói lý với anh:

- Cậu có thể đập phá tất cả những gì mình muốn nhưng như thế chẳng thay đổi được gì cả.

Cô lấy sáu nghìn đô tiền mặt ra rồi đưa cho anh phần lớn.

- Nghe này, tớ đã hết hạn nghỉ phép rồi, nhưng còn cậu, cậu phải tới Paris trợ giúp cho Tom. Đó là việc hữu ích nhất chúng ta có thể làm vào lúc này.

Vậy là quyết định. Vẫn còn hết sức chán nản, cả hai cũng bắt taxi tới sân bay JFK rồi mỗi người đi một hướng: Carole về Los Angeles còn Milo tới Paris.

o O o

Newark - Buổi chiều muộn

Cách đó vài chục ki lô mét, tại một sân bay khác của New York, chiếc máy bay riêng của tỷ phú Oleg Mordhorov cất cánh bay tới châu Âu. Một chuyến bay nhanh khứ hồi tới Paris để khiến Marieke ngạc nhiên. Tuần đầu tháng Mười này, cô người mẫu trẻ đang tham gia trình diễn Tuần lễ Thời trang tại thủ đô nước Pháp. Tất cả các nhãn hiệu thời trang đang giới thiệu bộ sưu tập mới nhất của mình tại đây đều tìm cách lôi kéo cô. Mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại, cô gái người Hà Lan thắp lên một ngọn lửa chỉ thuộc về mình cô. Cứ như thể từ trên đỉnh Olympus các vị thần đã thả xuống Trái đất một đốm than cháy dở từ ngàn đời nay.

Yên thân trong cái kén tằm của mình, Oleg lơ đãng mở cuốn sách của Tom Boyd ra rồi cho vào một chiếc phong bì có dây ruy băng trang trí.

Một món quá độc đáo, anh nghĩ. Hy vọng cô ấy sẽ thích.

Anh giải quyết mấy vụ việc suốt khoảng thời gian còn lại rồi tranh thủ chợp mắt hai tiếng.

o O o

Paris - Bệnh viện Marie Curie

Ngày 5 tháng Mười

5 giờ 30 phút

- Chứng nhiễm khuẩn bệnh viện, khỉ thật! giáo sư Clouseau bực tức thốt ra khi bước vào phòng.

Bị cơn sốt và cảm giác mệt mỏi hành hạ, Billie cứ nửa tỉnh nửa mê suốt từ hôm qua.

- Tin xấu sao bác sĩ? tôi đoán.

- Rất xấu: xét nghiệm dịch hút ra cho thấy có vi khuẩn. Chúng đang phát triển chứng viêm trung thất: một chứng viêm nhiễm nặng, đòi hỏi phải can thiệp khẩn cấp.

- Ông sẽ lại mổ chứ?

- Phải, đưa cô ấy lên phòng mổ ngay thôi.

o O o

Máy bay của Oleg Mordhorov hạ cánh xuống Nam Orly lúc sáu giờ sáng. Một chiếc ô tô kín đáo đợi tại sân bay để đưa anh tới đảo Saint-Louis, ngay giữa lòng Paris.

Chiếc xe dừng lại tại kè Bourbon, ngay trước một tòa nhà tráng lệ mang phong cách thế kỷ XVII. Túi du lịch xách trên tay, phong bì có cuốn tiểu thuyết kẹp dưới nách, Oleg bấm thang máy lên tầng sáu. Căn hộ hai tầng ngự tại hai tầng trên cùng, từ đây có thể phóng tầm mắt xuống khung cảnh tuyệt đẹp trên sông Seine và cầu Marie: một món quà điên rồ anh tặng cho Marieke khi họ bắt đầu mối quan hệ.

Oleg có chìa khóa riêng. Anh mở cửa vào căn hộ. Cả căn nhà im lìm, chìm trong thứ ánh sáng nhợt nhạt của buổi sớm mai. Thả mình lên chiếc tràng kỷ bằng da màu trắng, anh nhìn thấy chiếc áo măng tô ôm sát người màu xám ngọc trai của Marieke, cạnh đó là một chiếc blouson nam giới bằng da, nhưng không phải của anh...

Anh hiểu ra ngay tức thì và không cần phải lên phòng ngủ ở tầng trên.

Khi đã xuống phố, anh cố gắng che giấu nỗi nhục nhã với người tài xế nhưng quá giận dữ, anh dùng hết sức lẳng ngay cuốn sách xuống sông.

o O o

Bệnh viện Marie-Curie

7 giờ 30 phút

Dưới sự chỉ đạo của giáo sư Clouseau, một bác sĩ nội trú đặt các tem chống rung lên cơ thể Billie, cô đang lịm đi vì thuốc gây mê. Sau đó vị bác sĩ phẫu thuật bắt tay vào việc, cẩn trọng tháo hết chỉ vẫn đang khâu trên lồng ngực ra rồi mở rộng khoang ngực, cắt đi hết những mô bị hoại tử hay nhiễm trùng.

Từ vết mổ rỉ ra thứ chất lỏng trông như mủ. Clouseau quyết định phẫu thuật “ngực đóng”. Để hút thanh dịch từ vết mổ, ông cho đặt sáu ống dẫn lưu nhỏ được nối với các bình áp suất lớn. Sau đó để kết thúc ca phẫu thuật, ông cố định chắc lồng ngực bằng các sợi chỉ thép mới, tránh không để các vận động hô hấp làm ảnh hưởng tới quá trình liền sẹo.

Cuối cùng thì ca phẫu thuật cũng s...

- Bác sĩ, bệnh nhân bị chảy máu! Bác sĩ nội trú hét lên.

o O o

Chỉ có một chiếc phong bì bọc bên ngoài, cuốn tiểu thuyết bìa da màu xanh thẫm nổi trên mặt nước sông Seine một lúc rồi nước bắt đầu ngấm qua lớp giấy bọc.

Mấy tuần vừa qua, cuốn sách đã du hành khắp nơi, từ Malibu tới San Francisco, vượt Đại Tây Dương sang thành Rome, rồi lại tiếp tục hành trình của mình tới tận châu Á, sau đó lại quay về Manhattan để rồi từ đây bắt đầu chuyến đi cuối cùng tới nước Pháp.

Nó đã biến đổi cuộc sống của tất cả những ai đã cầm nó trên tay theo cách của riêng mình.

Cuốn tiểu thuyết này không giống bao cuốn khác. Câu chuyện nó kể được thai nghén trong trí óc một chàng thanh niên bị tổn thương trước thảm kịch mà cô bạn gái thời ấu thơ phải trải qua.

Nhiều năm sau, khi tới lượt chính tác giả bị lũ quỷ trong tâm trí mình vây hãm, cuốn sách đã đẩy một trong những nhân vật ra đời thực để tới giúp đỡ anh.

Nhưng buổi sáng hôm ấy, khi nước sông bắt đầu làm phai mực các trang sách thì dường như thực tế đang quyết định nắm lại quyền lực của mình, quyết tâm loại Billie khỏi cuộc sống nơi trần thế.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,226
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35: Thử thách của trái tim


Sau khi đã tìm mà chẳng thấy, cuối cùng người ta lại thấy lúc chẳng hề tìm kiếm.

Jerome K.JEROME

Bệnh viện Marie-Curie

8 giờ 10 phút

- Mổ lại thôi, giáo sư Clouseau ra lệnh.

Đó chính là điều ông lo sợ: tâm thất phải vừa bị toác ra và một dòng máu ồ ạt tuôn.

Máu phun ra mọi phía, tràn ngập khoang ngực. Anh bác sĩ nội trú và cô y tá không hút kịp nên giáo sư Clouseau đã phải dùng tay ấn vào tim để thử cầm máu.

Lần này, tính mạng của Billie ngàn cân treo sợi tóc.

o O o

Kè Saint-Bernard

8h45

- Nào! Các anh, đến giờ vào việc rồi, không phải là lúc ăn sáng nữa đâu! đội trưởng Karine Agneli tuôn ra một tràng khi bước vào phòng nghỉ tại trụ sở của Đội tuần tra sông.

Một tay cầm bánh sừng bò, tay kia là tách cà phê sữa, trung úy Diaz và Capella đang xem lướt mấy bài báo trên tờ Parisien, tai thì nghe mục giả giọng bắt chước người nổi tiếng phát vào buổi sáng trên đài phát thanh.

Với mái tóc cắt ngắn để rối cùng những vết tàn nhang quyến rũ trông Karine vừa đầy vẻ nữ tính lại vừa nghiêm khắc. Bực bội trước sự bừa bãi này, cô tắt đài rồi khuấy động cánh đàn ông:

- Sở vừa mới gọi: chúng ta có một vụ khẩn cấp! Một gã say xỉn vừa mới nhảy từ cầu Marie xuống. Vậy nên các anh có định rút tay ra khỏi...

- Đi thôi, đội trưởng! Diaz cắt ngang lời cô. Không cần phải nói nhiều đâu.

Sau vài giây, cả ba đã ngồi trên chiếc Cormoran, một trong những con tàu của đội để tuần tra trên sông ở Paris. Con tàu rẽ sóng, đi dọc theo kè Henri-IV rồi chui qua dưới cầu Sully.

- Phải bất cẩn tới mức nào thì mới ngã xuống nước giữa cái thời tiết giá lạnh này, Diaz nhận xét.

- Ừm... Cả hai anh trông cũng không có vẻ gì là tươi tỉnh cho lắm, Karine nói.

- Tối qua, đứa nhỏ cứ thức giấc liên tục, Capella thanh minh.

- Thế còn anh, Diaz?

- Còn tôi thì là do mẹ tôi.

- Mẹ anh hả?

- Chuyện lằng nhằng lắm, anh trả lời qua quýt.

Cô cũng không hỏi thêm. Chiếc tàu tuần tra tiếp tục hành trình của mình dọc theo đường Georges-Pompidou, cho tới khi...

- Tôi thấy rồi! Capelle hét lên sau ống nhòm.

Chiếc tàu chạy chậm lại khi đi qua dưới gầm cầu Marie. Một người đàn ông đang vùng vẫy trong nước, chật vật cố gắng bơi vào bờ nhưng bị quấn trong chiếc áo khoác nên khó cử động nổi và đã gần ngạt thở.

- Ông ta sắp chết đuối rồi, Karine nhận định. Ai xuống đây?

- Lần này tới lượt Diaz! Capelle khẳng định.

- Cậu đùa chắc? Tối qua chính tớ đã...

- OK, tôi hiểu rồi, cô gái cắt ngang lời anh. Cuối cùng ở đây chỉ có mình tôi là phụ nữ thôi!

Cô kéo khóa bộ áo liền quần rồi lao xuống nước trước ánh mắt ngượng ngùng của hai cấp dưới.

Cô bơi tới chỗ người đàn ông, trấn an ông ta rồi đưa ông ta về chỗ chiếc Cormoran, ở đó Diaz đón ông ta lên tàu, lấy chăn ủ ấm cho ông ta sau đó mới bắt đầu sơ cứu.

Vẫn còn ngâm mình trong nước, Karine nhận thấy có vật gì đó nổi lềnh bềnh trên mặt nước sông. Cô tóm lấy nó. Đó là một chiếc phong bì lớn bằng chất dẻo. Chắc chắn không phải là thứ dễ phân hủy. Chống ô nhiễm môi trường cũng là một phần việc của Cục đường sông, vậy nên cô thu lấy gói đó ngay trước khi Capella kéo cô lên tàu.

o O o

Bệnh viện Marie-Curie

Kíp mổ làm việc cả buổi sáng, nỗ lực cứu mạng Billie.

Dự định khắc phục vết rách ở tâm thất phải nên bác sĩ Clouseau dùng một phần nếp gấp ở màng bụng để đóng đường rạch lại.

Đây là cơ may cuối cùng.

Tiên lượng cho ca mổ không mấy sáng sủa.

o O o

Kè Saint-Bernard

9 giờ 15 phút

Khi quay lại trụ sở của Đội tuần tra sông, trung úy Capella lo dọn dẹp con tàu trước khi đưa vào máy lau chùi áp lực lớn.

Anh nhặt chiếc phong bì ngấm đẫm nước trông như một miếng bọt biển lên. Trong đó là một cuốn sách bằng tiếng Anh, có vẻ như nó khá bẩn. Anh định lẳng nó vào thùng rác nhưng cuối cùng lại đổi ý, đặt nó lên bờ kè.

o O o

Nhiều ngày trôi qua...

Milo tới Paris gặp tôi và giúp đỡ tôi trải qua thời kỳ khó khăn này.

Chấp chới giữa sự sống và cái chết, Billie nằm lại phòng hồi sức hơn một tuần dưới sự giám sát chặt chẽ của bác sĩ Clouseau, cứ ba tiếng ông lại đánh giá lại tình hình sức khỏe của bệnh nhân một lần.

Thấu hiểu tình cảm của tôi, ông cho phép tôi được thường xuyên vào phòng hồi sức. Vì vậy mà hầu như cả ngày tôi ở đó, ngồi trên chiếc ghế đẩu, máy tính xách tay đặt trên đầu gối, miệt mài gõ lên bàn phím theo nhịp tiếng động từ chiếc máy đo nhịp tim điện tử và máy thở nhân tạo.

Mê man do thuốc giảm đau, Billie được luồn ống thở vào khí quản, nằm giữa đống điện cực, ống dẫn lưu từ lồng ngực ra cùng những ống tiêm truyền từ cánh tay và trên ngực. Hiếm hoi lắm em mới mở được mắt, và khi ấy, tôi đọc thấy trong ánh mắt em nỗi đau đớn, tuyệt vọng. Tôi những muốn an ủi em, lau khô nước mắt cho em nhưng tất cả những gì tôi có thể làm đó là tiếp tục viết.

o O o

Giữa tháng Mười, ngồi ở khoảng sân hiên một quán cà phê, Milo viết một bức thư dài gửi Carole. Anh gập mấy tờ giấy cho vào phong bì, trả tiền cốc Perrier bạc hà rồi băng qua phố sang phía bờ sông Seine, đoạn ngang tầm kè Malaquais. Trong lúc đi về phía Institut de France - nơi anh phát hiện ra có một thùng thư để gửi lá thư của mình -, anh lững thững một lúc trước những quầy sách cũ. Những cuốn sách cũ vẫn còn tốt nằm cạnh mấy tấm bưu thiếp có ảnh của Doisneau, mấy tờ quảng cáo cho loại rượu Chat Noir, chồng đĩa nhạc từ những năm 1960 và đám móc chìa khóa xấu khủng khiếp hình tháp Eiffel. Milo dừng lại trước một hiệu chuyên bán truyện tranh. Từ Hulk cho tới Spiderman, những giấc mơ thơ trẻ của anh được hiện thực hóa với các nhân vật truyện tranh của Marvel và buổi chiều hôm ấy, anh thích thú khám phá ra một vài cuốn truyện về Astérix và Lucky Luke.

Giá sách cuối cùng bày những cuốn “đồng giá 1 euro”. Milo tò mò lục lọi trong đó: những bản sách bỏ túi cũ kỹ, ố vàng, những tờ tạp chí rách bươm, và giữa đám lộn xộn đó, một cuốn tiểu thuyết bìa da màu xanh thẫm đã hỏng...

Không thể thế được!

Anh xem xét cuốn sách: bìa sách đã cong hết lên, các trang sách dính bết vào nhau và khô cứng lại.

- Where... where did you get this book[1]? anh hỏi, không thể thốt ra nổi một từ tiếng Pháp.

Người chủ hiệu sách lúng búng vài từ tiếng Anh để giải thích với anh rằng ông ta nhặt được cuốn sách trên bờ kè, nhưng Milo không tài nào biết được nhờ phép lạ nào mà cuốn sách anh đã mất dấu ở New York mười ngày trước giờ lại có mặt tại Paris này.

Vẫn còn hết sức ngỡ ngàng, anh lật đi lật lại cuốn sách trên tay.

Đúng là cuốn sách đang ở đây, nhưng hãy thử nhìn xem giờ trông nó thế nào...

Ông chủ hiệu sách hiểu nỗi bối rối của anh:

- Nếu anh muốn đóng lại thì tôi có thể giới thiệu cho anh chỗ làm, ông ta đề nghị rồi chìa ra cho anh một tấm danh thiếp.

o O o

Khu nhà phụ của tu viện Saint-Benot

Đâu đó tại Paris

Trong xưởng đóng sách thủ công của các tu sĩ, xơ Marie-Claude xem xét cuốn sách người ta giao cho bà. Phần “thân” sách cong veo, dính bết còn bìa giả da thì hỏng nặng. Quả là khó khôi phục lại theo như yêu cầu nhưng xơ vẫn quyết tâm bắt tay vào công việc.

Bà bắt đầu cẩn thận tháo cuốn sách ra. Sau đó với chiếc máy làm ẩm chỉ nhỉnh hơn cây bút, bà phun lên cuốn tiểu thuyết một làn hơi ẩm nhẹ, nhiệt độ hơi nước được hiển thị trên màn hình điện tử. Làn hơi ẩm thấm vào giấy khiến các trang dính bết tách rời ra. Vì đã ướt đẫm nước nên các trang sách rất mỏng mảnh và đôi chỗ bị phai mực. Xơ Marie-Claude khẽ khàng luồn giấy thấm vào giữa mỗi trang giấy rồi đặt cuốn sách lên đùi, sau đó bằng lòng kiên nhẫn vô tận, bà dùng máy sấy tóc để “đưa cuốn sách về lại với cuộc sống”.

Vài giờ sau, người ta lại có thể lật giở các trang sách tương đối dễ dàng. Xơ tỉ mẩn kiểm tra từng trang một để chắc rằng công việc đã hoàn thành tốt. Bà dán lại các bức ảnh đã bong ra và cả lọn tóc nhỏ mượt mịn đến mức tưởng như tóc thiên thần. Cuối cùng, để trả lại cho cuốn sách hình dạng ban đầu, bà kẹp nó giữa hai tấm ván máy ép suốt một đêm.

Hôm sau, xơ Marie-Claude làm cho cuốn sách một tấm bìa mới. Trong khoảng không nhập định nơi xưởng đóng sách, giữa sự tĩnh mịch, bình lặng, bà làm việc cả ngày với sự chính xác của một vị bác sĩ phẫu thuật để làm một tấm bìa sách bằng da bê nhuộm màu, trên đó bà gắn thêm một mẩu da cừu non để trang trí rồi khắc tên cuốn tiểu thuyết bằng chữ mạ vàng lên.

Bảy giờ tối, anh chàng người Mỹ với cái tên kỳ lạ tới gõ cửa tu viện. Xơ Marie-Claude đưa cuốn sách lại cho Milo, anh này hết lời ca ngợi công trình của bà khiến bà không khỏi đỏ mặt...

o O o

- Dậy đi! Milo vừa lay lay tôi vừa ra lệnh.

Khỉ thật!

Tôi vẫn đang ngủ thiếp đi trước màn hình máy tính ở phòng bệnh của Billie, căn phòng em nằm điều trị trong khi chờ người ta phẫu thuật lại. Tối nào tôi cũng ở lại đây, với sự thuận tình ngấm ngầm của nhân viên bệnh viện.

Rèm đã được kéo xuống và cả căn phòng chìm trong ánh sáng mờ mờ của chiếc đèn ngủ.

- Mấy giờ rồi? tôi dụi mắt hỏi.

- Mười một giờ.

- Hôm nay là thứ mấy rồi?

- Thứ Tư.

Cậu ta không thể không thêm một câu châm chọc:

- Để cậu khỏi phải hỏi thì giờ đang là năm 2010 và Obama vẫn là tổng thống.

- Hừm...

Khi tôi đắm chìm vào một chuyện nào đó thì dường như các vạch mốc thời gian trong tôi bị xóa nhòa.

- Cậu viết được bao nhiêu trang rồi? cậu ta hỏi rồi nghển cổ cố đọc qua vai tôi.

- Hai trăm năm mươi trang, tôi vừa đáp vừa hạ màn hình xuống. Được một nửa rồi.

- Billie thế nào?

- Vẫn đang được theo dõi trong tình trạng hồi sức.

Cậu ta trịnh trọng lôi từ trong túi các tông ra một cuốn sách được đóng rất cầu kỳ.

- Tớ có quà cho cậu đây, cậu ta nói vẻ bí hiểm.

Phải mất một lúc tôi mới hiểu ra đây chính là cuốn tiểu thuyết của mình mà Milo cùng Carole đã phải lùng khắp nơi khắp chốn.

Cuốn sách đã được khâu lại chắc chắn, bìa ngoài bằng da mới cứng, sờ vào nhẵn thín.

- Không có gì phải lo lắng cho Billie nữa, Milo trấn an tôi. Giờ đây việc duy nhất cậu cần làm đó là viết cho xong cuốn tiểu thuyết để đưa cô ấy trở lại thế giới của mình.

o O o

Nhiều tuần, nhiều tháng trôi qua.

Tháng Mười, tháng Mười một, tháng Mười hai...

Làn gió tới cuốn đi những chiếc lá vàng rơi trên vỉa hè và tiếp sau ánh nắng dịu nhẹ của tiết trời thu là cái khắc nghiệt của mùa đông.

Các quán cà phê xếp những dãy ghế ngoài sân hiên lại và đốt lò sưởi lên. Những hàng bán hạt dẻ xuất hiện ở lối ra của bến tàu điện ngầm, nơi khách qua đường kéo mũ bo nê lên trùm đầu và thắt chặt khăn quàng.

Được đà, tôi viết càng lúc càng nhanh hơn, mải miết gõ bàn phím tới mức gần như không kịp lấy lại hơi. Giờ đây tôi say mê trong câu chuyện mà mình là nạn nhân thì đúng là hơn người sáng tạo và tôi như bị thôi miên bởi số thứ tự trang cứ chạy đi trên phần mềm soạn thảo văn bản: 350, 400, 450...

Billie đã chịu được cú sốc và vượt qua “thử thách của trái tim”. Đầu tiên người ta bỏ cái ống chạy vào thanh quản của em ra rồi thay bằng một mặt nạ dưỡng khí. Sau đó giáo sư Clouseau giảm dần lượng thuốc giảm đau và rút ống dẫn lưu cùng ống tiêm truyền ra, ông cảm thấy nhẹ nhõm khi các mẫu vi khuẩn trích ra cho thấy không có thêm dấu hiệu bị nhiễm trùng.

Tiếp đó, người ta tháo bông băng cho em và phủ lên các vết mổ một loại màng trong suốt. Nhiều tuần trôi qua, vết mổ của em dần liền lại.

Billie bắt đầu tự ăn uống được. Tôi dìu em đi những bước đầu tiên rồi sau đó dìu em leo cầu thang dưới sự giám sát của một nhân viên vật lý trị liệu.

Chân tóc em bắt đầu lấy lại được màu như trước kia còn em thì tìm lại được nụ cười và sức sống.

Ngày 17 tháng Mười hai, cả Paris thức giấc dưới những bông tuyết đầu tiên rồi tuyết rơi suốt buổi sáng.

Và tới ngày 23 tháng Mười hai, tôi đặt dấu chấm kết thúc cuốn tiểu thuyết của mình.

Chú thích

[1] Tiếng Anh trong nguyên bản: Ông lấy quyển sách này ở đâu?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,226
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36: Lần cuối tôi thấy billie


Một tình yêu lớn, đó là khi hai giấc mơ gặp nhau và sát cánh bên nhau tới tận phút cuối cùng để vượt qua thực tế.

Romain GARY

Paris

23 tháng Mười hai

Tám giờ tối

Trước đêm Giáng sinh, khu chợ Noel nhộn nhịp hết mức. Khoác tay tôi, Billie để dòng người xô đẩy đi giữa những căn nhà gỗ nhà màu trắng được dựng lên ở khoảng giữa quảng trường Concorde và vòng xuyến Champs-Élysées. Mô hình bánh xe lớn, những dây đèn trang trí, những tác phẩm điêu khắc trên băng, rồi làn hơi bốc lên từ những cốc rượu nóng và món bánh mì tẩm gia vị nướng, tất cả như mang lại cho đại lộ chút phép màu thần tiên.

- Anh quyết định tặng em một đôi giày à? em hỏi khi chúng tôi đi qua dãy cửa hàng sang trọng trên đại lộ Montaigne.

- Không, anh dẫn em tới rạp hát.

- Chúng ta sẽ xem kịch à?

- Không, mình ăn tối!

Khi đến trước mặt tiền bằng cẩm thạch trắng của nhà hát trên đại lộ Champs-Élysées, chúng tôi vào thang máy để lên nhà hàng nằm trên tầng cao nhất.

Trong cảnh bài trí sang trọng phối hợp giữa gỗ, kính và đá hoa cương, căn phòng được sơn màu phấn trắng làm tôn lên hàng cột màu mận chín.

- Các vị muốn uống chút gì đó không? quản lý nhà hàng hỏi sau khi đưa chúng tôi vào một trong những căn phòng nhỏ phủ lụa, rất riêng tư.

Tôi gọi hai ly sâm banh rồi lấy từ trong túi áo ra một chiếc hộp nhỏ mạ bạc.

- Em hãy giữ lấy nhé, tôi nói rồi chìa cho em.

- Một món đồ trang sức à?

- Không đâu, em đừng tưởng tượng quá lên...

- A, một chiếc USB! em phát hiện ra khi mở hộp. Anh đã viết xong cuốn tiểu thuyết!

Tôi gật đầu, đúng lúc ấy họ mang món khai vị tới.

- Em cũng có thứ này cho anh! em nói giọng đầy bí hiểm, rồi lấy từ trong túi xách tay ra một chiếc điện thoại. Trước khi chạm cốc, em muốn trả lại anh cái này.

- Nhưng đây là điện thoại của anh mà!

- Vâng, sáng hôm ấy em đã xoáy của anh, em thú nhận mà chẳng hề ngại ngùng. Anh cũng biết là em thích lục lọi mà...

Tôi càu nhàu rồi lấy lại điện thoại của mình trong khi em trưng ra một nụ cười mãn nguyện:

- Em đã tự cho phép mình đọc mấy tin nhắn của anh. Em thấy là mọi chuyện với Aurore đã ổn rồi!

Dù cho em không hoàn toàn sai nhưng tôi vẫn lắc đầu ra dấu chối. Mấy tuần vừa qua, Aurore hay nhắn tin cho tôi hơn và lời lẽ cũng tình cảm hơn. Nàng viết rằng nàng nhớ tôi, xin tôi tha thứ cho một vài lỗi lầm của mình và trong vài dòng nàng có nhắc đến một “cơ hội thứ hai” mà có lẽ cặp đôi chúng tôi đáng được hưởng.

- Cô ấy lại yêu rồi! Em đã nói với anh rồi mà, em cũng sẽ hoàn thành cam kết của mình trong hợp đồng! Billie khẳng định rồi rút từ trong túi áo ra mẩu giấy ăn nhàu nhĩ lấy ở trạm nghỉ ven đường.

- Đúng lúc lắm, tôi nói rồi buồn rầu nhớ lại cái ngày chúng tôi đã ký thỏa thuận ấy.

- Phải, em đã tát anh một cái ra trò, không biết anh có còn nhớ không?

- Vậy tối nay là lúc kết thúc cuộc phiêu lưu phải không?

Em nhìn tôi vẻ như muốn giỡn:

- Đúng vậy! Cả hai bên đã hoàn thành nhiệm vụ: anh viết xong cuốn sách còn em thì giành lại cho anh người phụ nữ anh yêu.

- Chính em mới là người anh yêu.

- Xin anh đừng làm mọi chuyện phức tạp lên, em nói trong khi người quản lý nhà hàng mang đồ ăn tới.

Tôi quay mặt giấu đi nỗi buồn của mình và ánh mắt tôi trốn chạy qua ô cửa kính cao đến chóng mặt nhìn xuống thành phố, từ chỗ này có thể thấy được các nóc nhà của Paris đẹp đến nao lòng. Tôi để người phục vụ đi khỏi rồi mới hỏi:

- Cụ thể thì bây giờ mọi chuyện sẽ thế nào đây?

- Chúng ta đã nói chuyện này nhiều lần rồi, Tom. Anh gửi bản thảo cho biên tập viên của nhà xuất bản, ngay khi anh ta đọc thì thế giới tưởng tượng mà anh miêu tả trong truyện sẽ hình thành trong tâm trí anh ta. Và chỗ của em là ở trong thế giới đó.

- Chỗ của em là ở đây, bên anh!

- Không, không thể thế được! Em không thể vừa sống trong thế giới thực vừa sống trong thế giới ảo. Em không thể sống ở đây được! Em đã suýt chạm tới cái chết và giờ em vẫn còn sống đã là một điều kỳ diệu rồi.

- Nhưng giờ em ổn rồi mà.

- Em chỉ tạm thời ổn thôi và anh biết rõ điều ấy. Nếu ở lại, em sẽ lại ốm và lần này thì em sẽ không qua khỏi đâu.

Tôi bối rối trước thái độ cam chịu của em.

- Em nói giống như thể... như thể em rất vui khi rời khỏi anh vậy!

- Không, em không vui chút nào nhưng ngay từ đầu chúng ta đều biết rằng chuyện của chúng ta không thể kéo dài mãi được. Chúng ta biết rằng chúng ta chẳng có tương lai và rằng chúng ta chẳng thể cùng nhau gây dựng nên bất cứ điều gì.

- Nhưng giữa chúng ta đã có nhiều chuyện xảy ra!

- Dĩ nhiên: những tuần vừa qua chúng ta đã trải qua một quãng thời gian kỳ diệu nhưng dù sao cũng không thể dung hòa được hai hiện thực mà mỗi chúng ta tồn tại trong đó. Anh sống trong thế giới thực, còn em, em chỉ là một nhân vật tưởng tượng.

- Được lắm, tôi nói rồi đứng dậy, nhưng ít nhất em cũng nên tỏ ra buồn bã một chút chứ.

Tôi ném khăn ăn xuống ghế, quẳng toàn bộ số tiền mình còn lại lên bàn rồi rời khỏi nhà hàng.

o O o

Cái lạnh cắt da cắt thịt đang làm thành phố chững lại khiến tôi lạnh thấu xương. Tôi dựng cổ áo khoác lên và đi ngược lên đại lộ cho tới tận khách sạn Plaza, nơi có ba chiếc taxi đang đợi khách.

Billie chạy đuổi theo tôi và nắm chạy lấy cánh tay tôi:

- Anh không có quyền bỏ em lại như thế! Anh không có quyền phá hỏng tất cả những gì chúng ta đã cùng trải qua!

Em rét run lên cầm cập. Những giọt nước mắt lăn dài trên má em, hơi khói thoát ra từ miệng em.

- Anh thì biết gì cơ chứ? em hét lên. Anh tưởng em không đau đớn trước viễn cảnh phải mất anh sao? Không đâu anh chàng tội nghiệp ạ, anh không biết em yêu anh tới mức nào đâu!

Em đứng đối diện tôi, bực tức trước những lời trách móc của tôi.

- Anh muốn em nói với anh rằng: cả đời mình em chưa bao giờ thấy yêu người đàn ông nào như thế này. Em thậm chí còn chẳng biết rằng người ta có thể có được thứ tình cảm thế này với một ai đó! Em không biết rằng niềm đam mê có thể song hành cùng lòng cảm phục, óc hài hước và tình cảm trìu mến! Anh là người duy nhất bảo cho em biết đọc sách. Là người duy nhất thực sự lắng nghe khi em nói và là người duy nhất mà em không thấy mình ngu ngốc trong mắt người ấy. Người duy nhất thấy lời lẽ em nói cũng quyến rũ như đôi chân em. Người duy nhất thấy trong em một điều gì đó khác chứ không chỉ là một cô gái để lên giường cùng... Nhưng anh quá ngu ngốc nên chẳng nhận ra.

Tôi ôm em vào lòng. Tôi cũng vậy, tôi đang tức giận: giận thói ích kỷ của mình và giận cái rào cản không thể vượt qua nổi này, rào cản ngăn cách thế giới thực và thế giới tưởng tượng, không cho chúng tôi được hưởng câu chuyện tình yêu mà chúng tôi xứng đáng.

o O o

Lần cuối cùng, chúng tôi trở về “nhà mình”, về căn hộ nhỏ gần quảng trường Furstemberg, nơi khởi đầu cho chuyện tình của chúng tôi.

Lần cuối cùng, tôi đốt lò sưởi để chỉ cho em thấy là tôi đã nắm vững bài học em dạy: đầu tiên là giấy vò nhàu, rồi những cành củi nhỏ, cuối cùng mới là khúc củi lớn xếp thành hình cái lều.

Lần cuối cùng, chúng tôi cùng nhau uống thứ rượu lê đốt cháy họng nhưng ngon tuyệt vời.

Lần cuối cùng, Léo Ferré hát cho chúng tôi nghe rằng “cùng với thời gian, mọi thứ sẽ trôi đi”.

o O o

Lửa bắt đầu đượm và phản chiếu những tia sáng nhiều màu lên tường. Chúng tôi ngủ trên tràng kỷ. Billie gối đầu lên bụng tôi còn tôi vuốt tóc em.

- Anh phải hứa với em một điều, em lên tiếng, quay người lại phía tôi.

- Bất cứ điều gì em muốn.

- Hứa với em là không được rơi vào cái hố đen trước đây anh đã từng trượt xuống nữa và không bao giờ lạm dụng thuốc để mụ người đi nữa.

Tôi xúc động trước lời van nài thật tâm của em, nhưng không chắc mình có thể làm được khi chỉ còn lại một mình.

- Anh lại vững vàng trên đường đời rồi, Tom. Anh đã bắt đầu viết lại và yêu lại. Anh có những người bạn bên cạnh. Hãy sống hạnh phúc cùng Aurore, sinh con cùng cô ấy. Đừng để...

- Anh cóc cần Aurore! tôi ngắt lời em.

Em đứng dậy tiếp tục:

- Lẽ ra em phải được sống mười kiếp, em không có đủ thời gian để cảm ơn anh vì những gì anh đã làm cho em. Em thực sự không biết rồi chuyện gì sẽ xảy ra với mình, rồi mình sẽ ghé xuống đâu nhưng có một điều chắc chắn là dù ở đâu em vẫn sẽ tiếp tục yêu anh.

Em tiến về phía bàn làm việc và tìm trong ngăn kéo cuốn sách đã được đóng lại mà Milo mang tới cho tôi.

- Em làm gì thế?

Trong lúc đứng dậy đi tới chỗ em, tôi bỗng cảm thấy choáng váng không chịu nổi. Đầu tôi nặng trịch và một cơn buồn ngủ khôn cưỡng đổ ập xuống tôi.

Chuyện gì xảy ra với mình thế này?

Tôi loạng choạng bước vài bước. Billie đã mở cuốn tiểu thuyết ra và tôi e rằng em sẽ đọc lại câu văn ấy ở trang 266, câu văn đột ngột dừng lại ở đoạn: “cô hét lên rồi ngã”.

Mắt tôi nhắm lại, tôi thấy mình chẳng còn chút sức lực nào và tôi chợt hiểu ra:

Rượu! Billie chỉ khẽ nhấp môi trong khi tôi...

- Em... em đã cho thứ gì vào chai rượu?

Không tìm cách phủ nhận, em lấy từ túi áo ra một ống thuốc ngủ hẳn em đã chôm ở bệnh viện.

- Tại sao?

- Để anh để em đi.

Cơ cổ tôi cứng đờ và tôi thấy buồn nôn kinh khủng. Tôi chống lại cảm giác đờ đẫn bằng cách cố không để mình khuỵu ngã nhưng mọi thứ xung quanh tôi bắt đầu tách đôi ra.

Hình ảnh sắc nét cuối cùng mà tôi thấy là cảnh Billie dùng que cời lò cời than trong lò sưởi rồi nhanh tay ném cuốn tiểu thuyết vào ngọn lửa. Em đã đến bằng chính cuốn sách đó và em sẽ ra đi bằng chính nó.

Không thể ngăn em lại được, tôi khuỵu gối xuống và lại càng nhìn không rõ. Billie mở màn hình máy tính của tôi rồi tôi đoán rằng - vì tôi không nhìn thấy rõ - em sẽ cắm chiếc USB mạ bạc vào...

Trong khi mọi thứ xung quanh chao đảo, tôi nghe thấy tiếng bíp báo có thư điện tử được gửi đi. Sau đó lúc tôi ngã vật xuống sàn nhà, xỉu đi thì một giọng nói khẽ thì thầm vào tai tôi “em yêu anh” rồi nó tan đi khi tôi chìm vào giấc ngủ.

o O o

Manhattan

Đại lộ Madison

Cùng lúc ấy, tại New York, đã hơn bốn giờ chiều khi Rebecca Tyler, giám đốc văn học của nhà xuất bản Doubleday nhấc ống nghe lên trả lời điện thoại của cô trợ lý.

- Chúng ta vừa nhận được bản thảo tập cuối của Tom Boyd! Janice thông báo.

- Chẳng sớm sủa cho lắm! Rebecca thốt lên. Chúng ta chờ hàng tháng trời rồi.

- Tôi in ra nhé?

- Được, càng nhanh càng tốt.

Rebecca cũng yêu cầu hủy hai cuộc hẹn sau đó. Tập cuối trong Bộ ba Thiên thần là ưu tiên số một của nhà xuất bản và bà nóng lòng muốn xem nó thế nào.

Bà bắt đầu đọc lúc chưa đến năm giờ chiều và tiếp tục cho tới tận khuya.

Không hỏi cấp trên lấy một lời, Janice cũng tự in cho mình một bản. Cô rời văn phòng lúc sáu giờ và lên tàu điện ngầm trở về căn hộ nhỏ tại Williamsburg, lòng tự nhủ mình điên rồi mới dám liều như vậy. Nhưng cô rất nóng lòng được đọc cái kết của bộ ba tiểu thuyết mà cô không thể nào cưỡng nổi.

Vậy là thế giới tưởng tượng Tom miêu tả bắt đầu thành hình trong tâm trí hai đọc giả đầu tiên ấy.

Thế giới mà từ giờ Billie sẽ sống.

o O o

Paris

24 tháng Mười hai

9 giờ

Khi tỉnh dậy vào sáng hôm sau, tôi thấy buồn nôn và có vị đất trong miệng. Căn hộ trống trơn và lạnh lẽo. Trong lò sưởi, chỉ còn sót lại đám tro tàn màu xám.

Bên ngoài, bầu trời xám xịt và mưa đang quất vào cửa kính.

Billie bước ra khỏi cuộc đời tôi cũng đột ngột như khi em xuất hiện, giống một viên đạn găm vào tim tôi, khiến tôi một lần nữa lại cô đơn và khốn khổ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,226
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37: Lễ cưới những người bạn thân của tôi


Những người bạn duy nhất đáng được quan tâm là những người ta có thể gọi vào lúc bốn giờ sáng.

Marlène DIETRICH

Tám tháng sau

Tuần đầu tiên của tháng Chín

Malibu, California

Khu biệt thự - bản sao của một lâu đài tại Pháp được một tỷ phú kỳ quặc xây vào những năm 1960 - trải rộng trên gò đất cao của Zuma Beach. Sáu hécta bãi cỏ, vườn và ruộng nho tạo cho người ta cảm giác đang ở giữa vùng thôn quê Bourguignon hơn là ở bên bờ biển, trong thành phố của những tay lướt ván và những bãi biển cát trắng.

Milo và Carole đã chọn chính khu vực kín đáo ấy để tổ chức lễ cưới. Sau khi cuộc phiêu lưu của chúng tôi kết thúc, hai người bạn tôi đã có một chuyện tình hoàn hảo và tôi là người đầu tiên vui mừng trước hạnh phúc bị trì hoãn quá lâu của họ.

Cuộc sống lại tiếp tục. Tôi đã trả được nợ và giải quyết xong các rắc rối với pháp luật. Được xuất bản sáu tháng trước, tập ba trong bộ ba tiểu thuyết của tôi đã đến tay độc giả. Còn tập phim đầu tiên chuyển thể từ bộ tiểu thuyết thì dẫn đầu bảng xếp hạng phim mùa hè suốt hơn ba tuần liên tiếp. Tại Hollywood, con tạo xoay vần thật nhanh: từ một kẻ thua cuộc bông xuôi, tôi lại trở thành tác giả thành công rực rỡ. Vinh quang trên đời là vậy đấy.

Milo đã mở lại văn phòng của chúng tôi và giờ đây cậu ta quản lý công việc của tôi rất cẩn thận, chu đáo. Cậu ta đã chuộc lại chiếc Bugatti nhưng khi biết tin vị hôn thê tương lai mang bầu cậu ta lại đổi nó lấy một chiếc brake Volvo!

Nói tóm lại thì Milo không thực sự là Milo nữa...

Bề ngoài có vẻ như cuộc đời lại mỉm cười với tôi nhưng thực ra tôi sống như một cái xác không hồn kể từ sau khi Billie ra đi. Em đi để lại trong sâu thẳm lòng tôi một khối tình vô tận mà tôi không biết phải làm thế nào nữa. Trung thành với lời hứa của mình, tôi không để mình rơi vào cái vòng luẩn quẩn của “thuốc chống trầm cảm, thuốc an thần và ma túy tổng hợp”, tôi cố gắng giữ mình trong sạch hết mức. Để không rơi vào cảnh ăn không ngồi rồi, tôi thực hiện một chuyến đi ký tặng sách dài ngày và trong vòng vài tháng đã chu du khắp thế giới. Riêng việc lại ngắm nhìn thế giới đã có hiệu quả trị liệu với tôi nhưng ngay khi tôi còn lại một mình, những kỷ niệm đau đớn về Billie lại trỗi dậy, tàn nhẫn nhắc tôi nhớ tới phép nhiệm màu trong cuộc gặp gỡ của chúng tôi, tới những lần chúng tôi đấu khẩu, tới nguồn gốc những thói quen của chúng tôi và tới mối quan hệ thân mật nồng ấm giữa chúng tôi.

Giờ đây tôi đã từ bỏ chuyện yêu đương và cắt đứt mọi liên hệ với Aurore. Chuyện tình của chúng tôi không phải câu chuyện xứng đáng được có một cơ hội thứ hai. Tôi chẳng có dự định gì cho tương lai, bằng lòng chấp nhận sống cuộc sống ngày qua ngày như nó vốn có.

Nhưng tôi không cho phép mình lại tuột dốc xuống địa ngục lần nữa. Nếu tôi lại chìm đắm trong đó thì lần này tôi sẽ không gượng dậy nổi và tôi cũng không có quyền làm Carole và Milo thất vọng, họ vẫn không ngừng tạo niềm vui sống cho tôi. Để không phụ lòng yêu thương của họ, tôi giấu giếm nỗi buồn và những tổn thương của mình bằng cách niềm nở tham dự những bữa tối “casting” hai người bọn họ tổ chức vào tối thứ Sáu hằng tuần để tôi được gặp gỡ tâm hồn đồng cảm. Họ thề với nhau là sẽ tìm bằng được “viên ngọc trai quý hiếm”, vì vậy đã cố gắng huy động mọi mối quan hệ. Trong vòng vài tháng, nhờ những nỗ lực của họ, tôi được gặp cả tiểu đội những cô nàng độc thân ở California đã qua tuyển lựa kỹ càng - nào là giáo sư đại học, nào là biên kịch, giáo viên tiểu học, rồi bác sĩ tâm lý... - nhưng cuộc chơi này chẳng khiến tôi vui và cuộc chuyện trò giữa chúng tôi không bao giờ kéo dài quá bữa ăn.

o O o

- Nhân chứng phát biểu đi! Ai đó trong đám khách khứa yêu cầu.

Chúng tôi đang ở trong căn lều lớn màu trắng được dựng lên để đón tiếp khách mời. Chủ yếu là cảnh sát, lính cứu hỏa và nhân viên cứu thương là đồng nghiệp của Carole và họ tới cùng gia đình. Ngoài mẹ Milo, tôi gần như là người duy nhất đại diện cho bên nhà trai. Bầu không khí rất thoải mái, không hề gò bó bởi nghi lễ. Làn gió thổi tung mấy tấm rèm vải và mang tới mùi cỏ tươi cùng không khí của biển cả.

- Nhân chứng phát biểu đi! khách dự dám cưới cùng đồng thanh nhắc lại.

Họ bắt đầu dùng dao ăn gõ leng keng vào ly, buộc tôi phải đứng lên ứng tác một lời chúc mừng mà tôi không muốn chút nào: tình cảm tôi dành cho các bạn của mình không phải là thứ có thể diễn tả trước bốn mươi con người.

Tuy nhiên, tôi cũng cố gắng hòa vào cuộc vui. Tôi đứng dậy và mọi người im lặng chờ đợi.

Xin chào các vị,

Thật vinh dự cho tôi khi được chọn là nhân chứng cho đám cưới này, đám cưới của hai người bạn thân nhất của tôi và thành thực mà nói họ cũng chính là hai người bạn đích thực duy nhất của tôi.

Đầu tiên tôi quay sang phía Carole. Cô ấy thật rạng rỡ trong chiếc váy lồng khung, điểm xuyết những viên pha lê nhỏ.

Carole, chúng ta quen biết nhau từ khi còn nhỏ và như thế có thể nói là từ ngày mới sinh ra. Lúc nào tớ với cậu cũng gắn bó cùng nhau và tớ sẽ chẳng bao giờ hạnh phúc nếu biết rằng cậu không hạnh phúc.

Tôi mỉm cười với cô và cô nháy mắt đáp lại tôi. Rồi tôi quay sang Milo.

Milo, người anh em của tớ, chúng ta đã cùng nhau khám phá và chia sẻ mọi thứ: từ thời niên thiếu khốn khó tới thành công hão huyền trong sự nghiệp. Chúng ta đã cùng nhau mắc lỗi lầm và đã cùng nhau sửa sai. Chúng ta đã cùng nhau đánh mất tất cả và cùng nhau tìm lại tất cả. Và tớ hy vọng rằng chúng ta sẽ cùng nhau đi tiếp con đường của mình.

Milo khẽ gật đầu ra hiệu. Tôi thấy mắt cậu ta lấp lánh và cậu ta đang xúc động.

Đúng ra thì ăn nói văn vẻ là nghề của tớ nhưng những lời văn vẻ không đủ sức diễn tả niềm hạnh phúc của tớ khi được thấy các cậu gắn bó với nhau ngày hôm nay.

Hơn một năm nay, cả hai cậu đã cho tớ thấy tớ có thể tin tưởng các cậu tới mức độ nào, kể cả trong những hoàn cảnh hiểm nghèo nhất. Các cậu đã chứng minh cho tớ thấy rằng câu ngạn ngữ tình bạn nhân đôi niềm vui và sẻ nửa nỗi buồn không phải là một câu sáo rỗng.

Từ sâu thẳm trái tim mình, tớ cảm ơn các cậu và tớ hứa sẽ luôn ở đây khi các cậu cần tới tớ để giúp các cậu gìn giữ hạnh phúc suốt cuộc đời này.

Rồi tôi nâng ly trước tất cả thực khách:

Xin chúc các vị một ngày tốt lành và xin nâng ly chúc mừng cô dâu chú rể.

- Chúc mừng cô dâu chú rể! khách khứa đồng thanh hô.

Tôi thấy Carole đưa tay lau nước mắt trong lúc Milo tiến lại gần ôm lấy tôi.

- Có chuyện này tớ muốn nói với cậu, cậu ta khẽ thì thầm vào tai tôi.

o O o

Chúng tôi tìm được một chỗ yên tĩnh trong khu biệt thự: một bến tàu được dựng bên bờ hồ nơi bầy thiên nga đang bơi lội. Bên trong căn nhà nhỏ vươn ra phía đầu hồi là một bộ sưu tập thuyền bằng gỗ đánh véc ni, chỗ này mang vẻ gì đó vĩnh cửu đặc trưng kiểu của bang New England.

- Cậu muốn nói chuyện gì, Milo?

Bạn tôi nới lỏng cà vạt ra. Cậu ta cố tỏ ra bình thản nhưng trên gương mặt vẫn lộ vẻ bối rối, lo lắng.

- Tớ không muốn tiếp tục sống trong dối trá nữa, Tom ạ. Tớ biết lẽ ra nên nói với cậu sớm hơn, nhưng...

Cậu ta ngừng lại giữa chừng để gãi gãi lông mày.

- Có chuyện gì thế? tôi tò mò hỏi. Đừng nói với tớ là cậu lại thua chứng khoán nhé!

- Không, là Billie...

- Billie làm sao?

- Cô ấy... cô ấy tồn tại. Thực ra, không thực sự thế, nhưng...

Tôi không hiểu cậu ta đang định nói gì.

- Cậu say rồi!

Cậu ta hít vào thật sâu để lấy lại bình tĩnh rồi ngồi xuống bàn thợ mộc.

- Phải kể lại ngọn ngành mọi chuyện. Cậu còn nhớ cách đây một năm cậu thế nào không? Cậu đã thực sự trượt dài. Cậu làm toàn những thứ ngu ngốc: vượt tốc độ, ma túy, rắc rối với pháp luật. Cậu không viết nữa, cậu chìm đắm trong tình trạng suy sụp chỉ muốn hủy hoại bản thân, không gì có thể đưa cậu thoát ra, các biện pháp điều trị không thể, thuốc không thể, cả sự giúp đỡ của bọn tớ cũng không.

Tôi ngồi xuống bên cạnh cậu ta, đột nhiên thấy lo lắng.

- Rồi một sáng, cậu ta tiếp tục, tớ nhận được cuộc gọi của nhà xuất bản báo về một lỗi in hỏng khi in tập hai của Bộ ba tiểu thuyết. Họ đã gửi cho tớ một bản qua đường bưu điện và tớ phát hiện ra rằng cuốn sách đột ngột đứt đoạn ngay giữa một câu: “cô hét lên rồi ngã”. Cả ngày hôm đó, câu văn ấy cứ luẩn quẩn trong đầu tớ và tớ vẫn nghĩ đến nó khi tới cuộc hẹn vào buổi chiều tại xưởng phim của hãng Columbia. Các nhà sản xuất đang tiến hành tuyển diễn viên cho bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết của cậu, và hôm ấy, đoàn phim đang thử các vai phụ. Tớ quanh quẩn một lúc trên sân khấu nơi họ cho diễn thử để tìm diễn viên vào vai Billie. Chính lúc đó tớ đã gặp cô ấy...

- Cô nào?

- Cô ấy tên là Lilly. Đó là một cô gái trông khá đáng thương, cứ khệ nệ vác sách đi đi lại lại trong buổi thử vai. Cô ấy có nước da nhợt nhạt, đôi mắt chuốt mascara và dáng vẻ mệt mỏi như các nhân vật nữ của Cassavetes. Tớ thấy cô ấy đóng thử rất tuyệt nhưng trợ lý đạo diễn lại gần như chẳng cho cô ấy chút hy vọng nào. Gã đó thật chẳng có mắt nhìn người trong khi cô ấy chính “là” Billie của cậu. Vậy là tớ mời cô ấy đi uống chút gì đó rồi cô ấy đã kể chuyện đời mình cho tớ.

Milo dừng lại nghỉ vì không thể tiếp tục nổi, cậu ta rình chờ phản ứng của tôi, thận trọng lựa lời nói, nhưng tôi đã chán ngấy cái thói vòng vo của cậu ta.

- Mẹ kiếp, cậu tiếp đi!

- Vừa đi làm bồi bàn, thỉnh thoảng bí mật làm người mẫu, Lilly vẫn tìm cách để trở thành diễn viên hài kịch. Cô ấy đã chụp hình cho vài tờ tạp chí, đóng phim quảng cáo thấp cấp và kể cả đóng phim ngắn nhưng không phải là Kate Moss. Dù vẫn còn trẻ nhưng cô ấy lại cảm thấy sự nghiệp của mình sắp kết thúc. Tớ thấy cô ấy thật đáng thương và dường như đang lạc lối trong môi trường khắc nghiệt của nghề người mẫu, nơi các cô gái săn đuổi lẫn nhau, nơi cô nào chưa tỏa sáng được trước hai mươi lăm tuổi thì coi như không có tương lai...

Một cơn rét run chạy dọc sống lưng tôi, lên tới tận gáy. Tôi thấy máu đang đổ dồn về hai thái dương. Tôi không muốn cái sự thật mà cậu ta sắp tiết lộ với tôi.

- Cậu định nói với tớ gì vậy hả Milo? Cậu đã đề nghị gì với cô gái ấy?

- Tớ đề nghị với cô ấy 15 000 đô la, cuối cùng cậu ta thú nhận. Mười lăm nghìn đô la để vào vai Billie nhưng không phải trong phim. Mà là trong đời thực.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,226
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38: Lilly


Chính số phận đã chia các con bài, nhưng chúng ta mới là người chơi.

Randy PAUSCH

- Tớ đã đề nghị với cô ấy 15 000 đô la để vào vai Billie nhưng không phải trong phim. Mà là trong đời thực.

Tiết lộ của Milo giống như một cú đấm vào mặt tôi. Tôi loạng choạng, như một võ sĩ quyền Anh trúng đòn ngã khuỵu giữa võ đài. Cậu ta lợi dụng lúc tôi bối rối để thanh minh:

- Tom, tớ biết như thế thật điên rồ, nhưng nó đã có tác dụng! Tớ không thể ngồi không chẳng làm gì. Cần phải quất vào cậu một cú sốc đủ mạnh để cậu phải phản ứng. Đó là con bài cuối cùng của tớ để giúp cậu ra khỏi vực thẳm.

Đầu óc đảo lộn, tôi nghe mà chẳng hiểu gì.

Billie, chỉ là một diễn viên? Tất cả cuộc phiêu lưu này, chỉ là một màn dàn dựng? Tôi không thể để mình bị giễu cợt như vậy được...

- Không, tớ không tin, tôi nói. Chẳng hợp lý chút nào! Ngoài chuyện giống nhau về ngoại hình, còn có rất nhiều bằng chứng chính minh sự tồn tại của Billie.

- Bằng chứng nào?

- Những hình xăm chẳng hạn.

- Là giả đấy. Đó là hình xăm có thể xóa được do nhân viên hóa trang trong đoàn phim thực hiện.

- Cô ấy biết mọi điều về cuộc sống của Billie.

- Tớ bắt Lilly đọc tất cả tiểu thuyết của cậu và cô ấy đã săm xoi từng chi tiết một. Tớ không nói mật khẩu máy tính của cậu cho cô ấy nhưng cô ấy đã vào được các file tiểu sử các nhân vật của cậu.

- Vậy sao cậu cũng vào được?

- Tớ đã thuê một kỹ thuật viên phá khóa của cậu.

- Cậu đúng là đồ đểu cáng!

- Không, tớ là bạn cậu.

Cậu ta có nói lý cũng vô ích, tôi không để mình bị thuyết phục:

- Nhưng chính cậu đã đưa tớ đến chỗ bà bác sĩ tâm lý để giam nhốt tớ lại!

- Bởi vì tớ biết rằng nếu kế hoạch của mình thành công, cậu sẽ cự tuyệt như vậy và cậu sẽ tìm cách trốn.

Hình ảnh của tất cả những sự việc tôi đã trải qua cùng “Billie” hiện lên rõ nét trong đầu tôi. Tôi xua chúng đi, hy vọng có thể tìm ra điểm sơ hở trong lời nói của Milo.

- Đợi đã! Cô ấy biết sửa ô tô khi chiếc Bugatti bị hỏng! Cô ấy học đâu ra được nghề cơ khí nếu các anh trai cô ấy không phải là chủ xưởng sửa xe?

Cậu ta đáp lại ngay.

- Chỉ là tớ đã ngắt một dây cáp thôi. Một trò được bày ra để xóa tan mọi nghi ngờ của cậu. Đừng cố tìm kiếm nữa: có một chi tiết lẽ ra đã có thể lật tẩy cô ấy nhưng may thay cậu lại không phát hiện ra.

- Chi tiết nào?

- Billie rất hậu đậu trong khi Lilly lại khéo tay. Thật ngớ ngẩn, phải không?

Đến mức này, trí nhớ của tôi đã phản lại tôi. Tôi chẳng thể nào nhớ nổi cậu ta có nói thật không nữa.

- Những lời giải thích của cậu hay lắm, nhưng cậu đã bỏ qua điều quan trọng nhất: căn bệnh của Billie.

- Đúng là khi tới Mêhicô, mọi việc cứ dồn dập đổ xuống, Milo thừa nhận. Khi ấy dù cho cậu vẫn chưa thể bắt đầu viết lại nhưng rõ ràng cậu đã khá hơn và nhất là đã có điều gì đó giữa cậu và cô gái ấy. Dù cho cả hai đều không chịu thừa nhận nhưng cậu và cô ấy đã phải lòng nhau. Khi ấy, tớ đã nghĩ tới chuyện nói rõ mọi sự cho cậu nhưng Lilly lại muốn tiếp tục. Vở kịch xung quanh căn bệnh của Billie chính là ý tưởng của cô ấy.

Tôi như lạc lối giữa màn sương mờ mịt.

- Nhưng để làm gì cơ chứ?

- Vì cô ấy yêu cậu, ngốc ạ! Vì cô ấy muốn cậu được hạnh phúc: muốn cậu bắt đầu viết lại và chinh phục lại được trái tim Aurore. Và cô ấy đã thành công!

- Vậy mái tóc bạc là...

- ...là tóc nhuộm.

- Còn mực in trong miệng?

- Chỉ là một ống mực tháo nắp được giấu dưới lưỡi.

- Thế còn các kết quả xét nghiệm tại Mêhicô? Chất xeluloza tìm thấy trong người cô ấy?

- Chúng tớ đã cười vỡ bụng với cái màn ấy, Tom ạ. Khi ấy bác sĩ Philipson sẽ nghỉ hưu ba tháng sau đó. Tớ nói với ông ấy rằng cậu là bạn tớ và tớ muốn đùa cậu một chút. Ông ấy thì đang phát ngán với cái trung tâm khám chữa bệnh của mình và trò này khiến ông ấy vui; nhưng giống như trong mọi kịch bản, bao giờ cũng có một hạt cát nhỏ làm trệch hướng tất cả, đó chính là khi Aurore gợi ý cậu nên đưa Billie tới chỗ giáo sư Clouseau...

- Clouseau thì không phải là người có thời gian cho những trò đùa. Khi chúng tớ tới Paris, các triệu chứng của Billie không hề giống như giả vờ chút nào. Cô ấy sắp chết thật, tớ chắc chắn như vậy.

- Cậu có lý, và chính khi ấy đã có điều khác thường xảy ra, Tom ạ! Billie bị bệnh thật mà trước đó không hề hay biết. Chính nhờ giáo sư Clouseau, người ta đã phát hiện ra khối u ở tim cô ấy. Nói cách khác, tớ đã cứu cả hai người.

- Thế còn cuốn sách cậu đã lùng suốt nhiều tuần liền khắp nơi trên thế giới?

- Về chi tiết này thì mọi chuyện vượt tầm kiểm soát của tớ, cậu ta thừa nhận. Carole không hề hay biết gì nên khăng khăng tin vào chuyện này. Chính cô ấy đưa ra các sáng kiến. Còn tớ chỉ việc bằng lòng tham dự cuộc ch...

Milo chưa kịp nói hết câu thì cú đấm của tôi đã hất cậu ta úp mặt xuống thảm sàn.

- Cậu không có quyền làm thế!

- Không có quyền cứu cậu ư? cậu ta vừa hỏi vừa đứng dậy. Không đó không phải chuyện có quyền hay không mà đó là nghĩa vụ.

- Nhưng không phải là bằng mọi giá!

- Không, chính xác là như vậy, bằng mọi giá.

Cậu ta quệt vệt máu chảy ra từ miệng rồi bắt đầu đáp trả:

- Cậu đã chẳng làm giống như tớ sao. Để bảo vệ Carole, cậu đã không ngần ngại giết người, vậy nên đừng lên mặt dạy đời tớ! Chúng ta sống như vậy đó Tom ạ! Ngay khi bất cứ ai trong chúng ta khốn khó, hai người còn lại sẽ trợ giúp bằng mọi giá. Nhờ vậy mà tất cả chúng ta luôn đứng vững. Cậu đã đưa tớ ra khỏi cuộc sống đường phố. Không có cậu, giờ hẳn tớ vẫn còn ngồi tù chứ không phải đang cưới người phụ nữ tớ yêu. Không có cậu, có lẽ Carole đã treo cổ tự vẫn bằng một sợi dây thừng thay vì đang chuẩn bị sinh con. Còn cậu? Giờ đây cậu sẽ thế nào nếu bọn tớ để mặc cậu tự hủy hoại mình? Điều trị nội trú trong một bệnh viện? Hoặc là đã chết?

Một tia sáng trắng lọt qua lớp kính mờ. Tôi để mặc câu hỏi của cậu ta lơ lửng. Giờ đây, tôi quan tâm tới thứ khác.

- Thế giờ cô gái ấy ra sao rồi?

- Lilly ấy hả? Tớ không biết gì hết. Tớ trả cô ấy tiền và cô ấy biến khỏi đời tớ. Tớ đoán cô ấy đã rời Los Angeles. Trước kia, cứ cuối tuần là cô ấy tới làm cho một hộp đêm tại Sunset Trip. Tớ đã quay lại đó nhưng không ai ở đó còn gặp cô ấy nữa.

- Họ cô ấy là gì?

- Tớ cũng mù tịt! Thậm chí tớ còn chẳng chắc Lilly có phải là tên thật hay không nữa.

- Cậu không còn thông tin gì khác à?

- Nghe này, tớ hiểu là cậu muốn gặp lại cô ấy nhưng người phụ nữ cậu đang tìm kiếm là một nữ diễn viên hạng hai, làm phục vụ tại một câu lạc bộ thoát y vũ chứ không phải Billie cậu từng yêu đâu.

- Cậu giữ lại những lời khuyên ấy cho mình đi. Vậy là cậu không còn thông tin nào khác sao?

- Không, tớ rất tiếc, nếu biết thế này thì tớ đã hỏi kỹ hơn.

Tôi ra khỏi bến tàu, lòng trĩu nặng những lời thú nhận của Milo rồi bước vài bước trên cầu tàu bằng gỗ vươn ra trên mặt hồ. Thờ ơ trước những nỗi khổ của con người, bầy thiên nga trắng vẫn nhởn nhơ bơi lội giữa đám đuôi diều dại.

o O o

Tôi lấy xe ở bãi đỗ rồi chạy dọc theo bờ biển cho tới tận Santa Monica, sau đó mới đi vào thành phố. Đầu óc vẫn còn choáng váng, tôi đi mà chẳng biết mình đi đâu, băng qua Inglewood, tiếp tục qua Van Ness rồi đại lộ Vermont, sau đó tôi mới nhận ra rằng một lực kéo vô hình đã đưa tôi tới khu phố thời ấu thơ của mình.

Tôi đỗ chiếc xe mui mềm gần mấy bồn hoa mà từ thời tôi còn ở đây đã chẳng có gì khác ngoài đầu lọc thuốc lá và vỏ chai bia.

Dưới chân các tòa nhà, mọi thứ đã thay đổi mà như chẳng thay đổi gì. Vẫn là những gã choai choai chơi bóng rổ trên sân rải nhựa đường trong khi một số khác ngồi tựa lưng vào tường rình chờ chuyện gì đó xảy ra. Trong một khoảnh khắc, tôi tưởng như một trong những gã ấy tới nói cộc lốc với tôi:

- Này, Mr. Freak!

Nhưng giờ tôi đã trở thành người xa lạ và chẳng ai trêu chọc tôi.

Tôi đi dọc theo sân bóng rổ có lưới sắt bao quanh cho tới tận chỗ bãi đỗ xe. Cái cây “của tôi” vẫn còn đây. Cằn cỗi hơn, thưa lá hơn, nhưng vẫn đứng vững. Tôi tới ngồi xuống đám cỏ khô, lưng dựa vào thân cây giống như trước kia.

Đúng lúc ấy, một chiếc Mini Cooper lăn bánh tới và đỗ chờm lên hai ô đỗ xe. Vẫn mặc váy cưới, Carole bước ra khỏi xe. Tôi nhìn cô ấy tiến về phía mình, tay phải xách chiếc túi thể thao to tướng còn tay trái giữ đuôi váy trắng, cố không để dây bẩn.

- Kìa! Có đám cưới ở bãi đỗ xe! một gã trai ranh mãnh trên sân bóng hét lên.

Các “đồng nghiệp” của gã kéo tới xem một lúc rồi lại quay lại chơi.

Carole đi tới chỗ tôi dưới gốc cây.

- Chào Tom.

- Chào, nhưng tớ nghĩ là cậu nhầm ngày rồi: hôm nay không phải sinh nhật tớ.

Cô mỉm cười, rồi một giọt nước mắt khẽ lăn trên má.

- Milo đã kể cho tớ nghe hết mọi chuyện cách đây một tuần. Trước đó, xin thề là tớ không biết gì, cô giải thích với tôi rồi ngồi lên bờ tường thấp ở bãi đỗ xe.

- Xin lỗi vì đã bỏ dở lễ cưới của cậu.

- Không sao. Cậu thấy thế nào?

- Giống như một người nhận ra rằng mình là nạn nhân của một trò lừa đảo.

Cô ấy lấy ra một bao thuốc lá nhưng tôi ngăn lại:

- Cậu điên à! Cậu phải nhớ là mình đang mang thai chứ!

- Vậy thì đừng nói những điều ngu ngốc nữa! Cậu không được nhìn nhận mọi thứ theo cách ấy.

- Vậy cậu muốn tớ phải nhìn nhận mọi chuyện theo cách nào đây? Tớ đã bị lừa, có vậy thôi, hơn nữa lại bị chính người bạn thân nhất lừa!

- Nghe này, tớ đã thấy cô gái ấy cư xử với cậu thế nào rồi Tom ạ. Tớ đã thấy cô ấy nhìn cậu thế nào và tớ đảm bảo với cậu tình cảm của cô ấy không phải là giả.

- Không, chúng được định giá hết. Mười lăm nghìn đô la, phải không?

- Ôi, đừng nói quá lên vậy! Milo chưa bao giờ yêu cầu cô ấy ngủ với cậu!

- Dù thế nào thì cô ta cũng đã vội vã chuồn mất khi hoàn thành hợp đồng!

- Thử đặt mình vào vị trí của cô ấy mà xem! Cậu tưởng phải đóng vai Billie trong đời thực là chuyện dễ dàng với cô ấy sao? Trong tâm tưởng cô ấy, cậu yêu một nhân vật, yêu một ai đó là cô ấy mà lại không thực sự là cô ấy.

Carole nói có lý. Tôi đã thực sự đem lòng yêu ai đây? Nhân vật tiểu thuyết tôi đã tạo ra và Milo đã điều khiển như một con rối? Hay một nữ diễn viên thất bại tìm thấy trong màn kịch này vai diễn của đời mình? Thực sự là không ai cả. Người con gái tôi đem lòng yêu là người ngay giữa sa mạc Mêhicô đã khiến tôi nhận ra rằng có em bên cạnh, mọi thứ với tôi trở nên giàu hương vị, giàu màu sắc hơn.

- Tom, cậu phải tìm lại cô ấy, nếu không cậu sẽ hối hận cả đời đấy.

Tôi lắc đầu.

- Không được đâu: chúng ta đã mất dấu cô ấy và thậm chí chúng ta còn chẳng biết cô ấy tên gì.

- Tốt nhất là nên tìm đi chứ đừng kiếm cớ thoái thác.

- Ý cậu muốn nói gì?

- Tớ cũng vậy, cậu thấy không, tớ sẽ chẳng bao giờ hạnh phúc nếu biết rằng cậu không hạnh phúc.

Qua giọng nói của cô ấy, tôi hiểu rằng những lời đó thật lòng tới mức nào.

- Vậy nên tớ mang tới cho cậu thứ này.

Cô ấy cúi xuống chiếc túi thể thao rồi chìa cho tôi một chiếc áo sơ mi vấy máu.

- Món quà đáng yêu lắm, nhưng tớ thích máy tính hơn, tôi nói để không khí bớt căng thẳng.

Cô ấy không thể không mỉm cười, rồi giải thích với tôi:

- Cậu còn nhớ buổi sáng tớ cùng Milo tới nhà cậu và lần đầu tiên cậu nói với chúng tớ về Billie không? Trong nhà cậu đồ đạc vứt lung tung và ngoài hiên cũng vậy. Có vết máu trên cửa kính và trên quần áo cậu...

- Đúng rồi, hôm ấy “Billie” đã cứa vào lòng bàn tay mình.

- Lúc nhìn thấy máu tớ đã rất lo sợ. Tớ tưởng tượng ra mọi chuyện: rằng có thể cậu đã giết hoặc làm ai đó bị thương. Vậy nên hôm sau tớ quay lại nhà cậu và lau sạch mọi vết máu. Tớ thấy cái áo này trong phòng tắm nên mang về vì sợ người ta lấy nó đi để điều tra. Lúc nào tớ cũng mang nó kè kè bên mình và khi Milo thú thật mọi chuyện với tớ, tớ đã mang nó tới phòng thí nghiệm để kiểm tra ADN. Tớ đã so sánh kết quả với thông tin lưu trữ về ADN và...

Cô ấy càng khiến tôi hồi hộp hơn khi lấy từ trong túi ra một hộp các tông.

- ...và xin thông báo với cậu rằng bạn gái cậu là một cô nàng tội phạm đáng yêu.

Tôi mở cặp tài liệu ra và thấy bản sao của một tập hồ sơ có đóng dấu FBI. Carole giải thích:

- Cô ấy tên là Lilly Austin, sinh năm 1984 tại Oakland. Năm năm vừa qua cô ấy đã bị bắt hai lần. Không có gì ghê gớm cả: một lần vào năm 2006 vì tham gia biểu tình ủng hộ phá thai và một lần nữa vào năm 2009 vì hút cần sa trong công viên.

- Như thế mà cũng bị lập hồ sơ sao?

- Cậu không hay xem phim Les Experts thường xuyên rồi. Cảnh sát California thu thập có hệ thống mẫu ADN của tất cả những người từng bị bắt hoặc bị nghi ngờ phạm tội gì đó. Nói cho cậu yên tâm nhé, cậu cũng có một hồ sơ như thế đấy.

- Cậu biết địa chỉ mới của cô ấy không?

- Không, nhưng tớ đã nhập tên cô ấy vào cơ sở dữ liệu của cảnh sát và tìm thấy cái này.

Cô đưa cho tôi một tờ giấy. Đó là phiếu ghi danh vào đại học Brown năm học này.

- Lilly đã tiếp tục học lại ngành văn học và biên kịch, Carole giải thích.

- Làm thế nào mà cô ấy lại được nhận vào đại học Brown? Đó là một trong những trường tốt nhất cả nước...

- Tớ đã gọi đến đấy rồi: cô ấy đã đỗ vào qua kỳ thi tuyển. Tớ đoán là những tháng vừa qua cô ấy đã lao đầu vào học vì cô ấy đạt kết quả rất cao trong các bài kiểm tra dự bị.

Tôi nhìn hai tập tài liệu, cảm thấy bị cô gái xa lạ này chinh phục, Lilly Austin, cuộc đời cô gái đang dần hiện ra trước mắt tôi.

- Tớ nghĩ là mình sẽ quay về với các vị khách, Carole vừa nhìn đồng hồ vừa nói. Còn cậu thì cậu nên đi tìm ai đó kia đi.

o O o

Thứ Hai tuần tiếp đó, tôi đáp chuyến bay đầu tiên tới Boston. Bốn giờ chiều, tôi tới thủ phủ của bang Massachusetts, thuê một chiếc ô tô tại sân bay rồi lái thẳng tới Providence.

Khu học xá của trường Brown được bố trí xung quanh mấy tòa nhà lớn xây bằng gạch đỏ, bao quanh là những bãi cỏ xanh rì. Với nhiều sinh viên, giờ đã là cuối ngày. Trước khi tới đây, tôi đã tra cứu trên mạng thời khóa biểu khóa học của Lilly và tôi đứng chờ đợi trước cửa giảng đường nơi buổi học sắp kết thúc, tim đập thình thịch.

Nấp vào chỗ khá kín để em không thấy tôi, tôi thấy em ra khỏi lớp học cùng các sinh viên khác. Phải mất một lúc tôi mới thực sự nhận ra em. Em đã cắt tóc và mái tóc cũng sẫm màu hơn. Em đội mũ lưỡi trai thể thao, mặc một bộ đồ tối màu - váy ngắn màu xám với tất chân màu đen cùng áo bờ lu dông ôm sát, cổ tròn - bộ váy áo khiến em trông như một cô gái Luân Đôn. Tôi đã quyết định sẽ tới bắt chuyện với em nhưng muốn đợi khi em chỉ còn lại một mình. Tôi đi theo nhóm sinh viên - hai chàng trai và một cô gái nữa - tới tận quán cà phê ngay gần trường. Vừa uống trà, Lilly vừa bắt đầu cuộc trò chuyện sôi nổi với một chàng sinh viên. Trông anh chàng khá bảnh bao. Càng nhìn em tôi lại càng thấy em thật vui vẻ, thanh thản. Dường như khi rời xa Los Angeles tiếp tục đi học lại, em đã tìm lại được cho mình cảm giác cân bằng. Một số người có thể làm được điều ấy: khởi đầu lại cuộc sống của mình. Còn tôi, tôi chỉ biết tiếp tục cuộc sống của mình thôi.

Tôi rời quán cà phê mà không tới gặp em rồi lên xe. Hòa mình vào thế giới của các sinh viên khiến tôi suy sụp. Quả thực tôi thấy vui khi biết em đang sống thoải mái nhưng cô gái tôi gặp ngày hôm nay không phải là Billie “của tôi” nữa. Rõ ràng là em đã bước sang một trang khác và thấy em nói chuyện với anh chàng hai mươi tuổi kia khiến tôi đột nhiên thấy mình già kinh khủng. Nói cho cùng, khoảng cách mười tuổi giữa chúng tôi có lẽ không phải là một rào cản dễ dàng vượt qua.

Trong lúc phóng xe ra sân bay, tôi tự nhủ mình đi chuyến này thật vô ích. Còn tệ hơn nữa: giống như một nhiếp ảnh gia không biết chộp lấy một hình ảnh đang phai tàn không bao giờ xuất hiện nữa, tôi đã để cho thời điểm quyết định trôi qua, thời điểm có thể đẩy cuộc đời tôi sang bến bờ của những nụ cười và ánh sáng...

o O o

Trên chuyến bay về Los Angeles, tôi bật máy tính xách tay.

Có thể tôi mới chỉ sống nửa đời người nhưng tôi đã biết mình sẽ chẳng bao giờ gặp được ai như Billie nữa, cô gái mà chỉ trong vòng vài tuần, đã khiến tôi tin vào điều không thể, đã đưa tôi rời xa vùng đất nguy hiểm nơi những dòng sông bắt nguồn từ cảnh khốn cùng và kết thúc bằng việc đổ ra vực thẳm của nỗi đau đớn.

Chuyến phiêu lưu của tôi với Billie đã kết thúc nhưng tôi không muốn quên bất kỳ khoảnh khắc nào. Tôi phải kể lại câu chuyện của chúng tôi. Câu chuyện dành cho những ai đã may mắn được gặp gỡ với tình yêu một lần trong đời để rồi giờ vẫn còn sống trong tình yêu ấy hoặc đang hy vọng sẽ gặp nó ngày mai.

Vậy là tôi mở một file mới trong phần mềm soạn thảo văn bản và đặt tiêu đề cho cuốn tiểu thuyết sắp tới của mình: Cô gái trong trang sách.

Suốt năm tiếng trên máy bay, tôi viết một mạch chương sách đầu tiên. Nó mở đầu thế này:

1 - Ngôi nhà nhìn ra đại dương

- Mở cửa ra, Tom!

Tiếng gọi mất hút trong gió và chẳng có lời đáp.

- Tom! Tớ đây, Milo đây. Tớ biết cậu ở trong đó. Mẹ kiếp, ra khỏi hang đi chứ!

Malibu

Los Angeles, California

Một ngôi nhà trên bãi biển

Suốt năm phút qua, Milo Lombardo đập không ngừng lên cửa sổ bằng gỗ trổ ra mái hiên ngôi nhà của người bạn thân nhất của anh.

- Tom! Mở ra không thì tớ phá cửa đấy! Cậu biết là tớ dám làm mà!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,226
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39: Chín tháng sau


Nhà văn đã phá ngôi nhà mình đang sống để dùng gạch xây nên một ngôi nhà khác: ngôi nhà trong tiểu thuyết.

Milan KUNDERA

Một làn gió xuân thổi qua Boston già cỗi.

Lilly Austin lướt qua những con phố nhỏ và triền dốc của Beacon Hill. Với những chậu hoa, những cột đèn khí ga và những ngôi nhà gạch có cửa ra vào bằng gỗ nặng nề, khu phố mang một vẻ quyến rũ mê hoặc lòng người.

Ở đoạn giao nhau giữa hai con phố River và Byron, cô dừng lại trước tủ kính một tiệm bán đồ cổ rồi bước vào một hiệu sách. Bên trong khá chật nên tiểu thuyết được xếp ngay cạnh sách tiểu luận. Một chồng sách thu hút sự chú ý của cô: Tom đã viết cuốn tiểu thuyết mới...

Một năm rưỡi qua, cô có thói quen cẩn thận tránh kệ sách hư cấu để không chạm mặt anh. Bởi mỗi lần tình cờ bắt gặp anh, trên tàu điện ngầm, trên xe buýt, trên một tờ áp phích quảng cáo hay ở sân hiên một quán cà phê, cô đều thấy buồn muốn khóc. Mỗi khi đám bạn gái ở trường đại học nói về anh (thực ra là nói về sách của anh), cô phải cố nén để không nói với họ rằng: “Tớ đã từng lái chiếc Bugatti cùng anh ấy, tớ đã vượt qua sa mạc Mêhicô cùng anh ấy, tớ đã sống ở Paris với anh ấy, tớ đã làm tình với anh ấy...” Thậm chí, đôi khi nhìn thấy những độc giả đắm chìm trong tập ba của Bộ ba tiểu thuyết, cô lại không thể ngăn nổi mình thể hiện chút tự hào và lần này, chính cô muốn hét lên với họ: “Nhờ có tôi các vị mới được đọc cuốn sách này! Anh ấy viết nó vì tôi!”

Cô đọc nhan đề cuốn sách mới: Cô gái trong trang sách.

Cô tò mò giở những trang đầu tiên. Đó chính là câu chuyện về cô! Là câu chuyện của hai người họ! Tim đập rộn lên, cô bước vội về phía quầy thu ngân, trả tiền rồi tiếp tục đọc cuốn sách trên một băng ghế tại Public Garden, công viên lớn của thành phố.

o O o

Lilly bồn chồn lật giở từng trang sách của cuốn truyện mà cô vẫn chưa biết hồi kết. Cô như được sống lại cuộc phiêu lưu của họ qua cái nhìn của Tom, tò mò khám phá ra những biến chuyển tình cảm trong anh. Câu chuyện mà cô đã trải qua dừng lại ở

Trong cuốn truyện, Tom thừa nhận cô đã cứu cuộc đời anh nhưng trên hết anh thổ lộ rằng đã tha thứ cho việc cô lừa dối anh và rằng tình yêu anh dành cho cô vẫn còn mãi.

Lilly chực òa khóc khi phát hiện ra rằng mùa thu năm ngoái anh đã từng tới trường Brown rồi lại ra đi mà không nói với cô một lời. Một năm trước cô cũng từng trải qua nỗi đắng cay ấy! Một sáng, khi không kìm nén nổi lòng mình, cô đã đáp máy bay tới Los Angeles với quyết tâm nói cho anh rõ sự thật và thầm mong rằng tình yêu của họ vẫn chưa kết thúc.

Cô tới Malibu khi trời chập tối nhưng ngôi nhà trên bờ biển trống trơn. Vậy nên cô đã bắt taxi tới biệt thự của Milo tại Pacific Palisades để thử vận may.

Vì trong nhà sáng đèn nên cô đã lại gần và nhìn thấy qua cửa kính hai cặp đôi đang ăn tối: Milo và Carole có vẻ như đang tràn ngập trong tình yêu bên cạnh Tom cùng một cô gái khác mà cô không biết. Lúc ấy cô thấy lòng thật buồn và gần như hổ thẹn vì đã nghĩ Tom sẽ không quên mình. Giờ thì cô hiểu ra rằng đó chỉ là một trong những “bữa tối casting” vào thứ Sáu hằng tuần mà hai người bạn bày ra để anh tìm được tâm hồn đồng điệu!

Khi đóng sách lại, con tim cô như nảy lên trong lồng ngực. Lần này thì không còn là hy vọng nữa mà là một điều chắc chắn: câu chuyện tình yêu của họ còn lâu mới kết thúc. Có thể họ chỉ mới trải qua chương đầu tiên và cô đã rất muốn viết tiếp chương thứ hai cùng anh!

Màn đêm đã buông xuống Beacon Hill. Trong lúc băng qua phố để tới bến tàu điện ngầm, Lilly gặp một bà cụ người Boston ăn mặc rất trang nhã đi trên lối dành cho người đi bộ với một chai nước xốt kẹp dưới cánh tay.

Cô hạnh phúc tới mức không ngăn nổi mình hét lên niềm hạnh phúc với bà cụ.

- Cô gái trong trang sách, chính là cháu đấy! Cô vừa hét lên vừa chỉ vào bìa sách.

o O o

Hiệu sách Bóng ma và Thiên thần

rất hân hạnh được mời quý vị tới

buổi ký tặng sách của nhà văn Tom Boyd

diễn ra từ 15 đến 18 giờ thứ Ba ngày 12 tháng Sáu

nhân dịp ra mắt cuốn tiểu thuyết mới:

Cô gái trong trang sách

o O o

Los Angeles

Đã gần bảy giờ tối. Độc giả của tôi đang xếp hàng chờ đợi trong không khí vui vẻ và buổi ký tặng sách sắp đến hồi kết.

Milo ở lại với tôi cả buổi chiều, trò chuyện với khách và thỉnh thoảng lại chêm vào vài câu pha trò. Thái độ cởi mở và khiếu hài hước của cậu ta khiến việc phải chờ đợi bớt buồn chán hơn.

- Tớ quên không xem giờ! cậu ta thốt lên khi nhìn đồng hồ. Thôi tớ để cậu lại một mình nhé, anh bạn. Tớ phải về cho con ăn đây!

Con gái cậu ta đã chào đời được ba tháng và đúng như dự đoán, cậu ta đã trở nên hoàn toàn lú lẫn.

- Tớ đã bảo cậu về từ một tiếng trước rồi còn gì! tôi nói với cậu ta.

Cậu ta khoác áo vest vào, chào nhân viên hiệu sách rồi vội vã về với gia đình.

- À! Tớ đã gọi taxi cho cậu rồi, cậu ta báo với tôi khi ra tới ngưỡng cửa. Họ đợi ở ngã tư, phía bên kia phố.

- Tớ nghe rồi. Hôn Carole thay tớ nhé.

Tôi ở lại thêm mười phút nữa ký tặng cho xong rồi trao đổi vài lời với người quản lý hiệu sách.

Với thứ ánh sáng ấm áp dịu nhẹ, sàn nhà bóng loáng và những kệ sách được đánh xi, Bóng ma và Thiên thần là kiểu hiệu sách hiếm thấy vào thời này. Nó vừa giống Hiệu sách nhỏ nơi góc phố lại vừa giống hiệu 84 Charing Cross Road. Trước kia, khi báo chí còn chưa tạo tiếng vang gì, hiệu sách này đã ủng hộ cho cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi. Kể từ đó, mỗi khi bắt đầu một đợt ký tặng sách mới, vì trung thành nên tôi đều bắt đầu từ nơi được coi như bùa hộ mệnh này.

- Anh có thể về qua cửa sau, cô quản lý nói với tôi.

Cô ta bắt đầu kéo cửa sắt xuống thì có người gõ vào cửa kính. Một nữ độc giả tới muộn giơ cuốn sách của mình lên, chắp tay lại để mong người ta cho cô vào.

Sau khi đưa mắt nhìn tôi vẻ hỏi ý, cô quản lý hiệu sách mở cửa. Tôi mở nắp bút và ngồi lại xuống bàn.

- Tôi tên là Sarah! cô gái trẻ nói rồi đặt sách của mình xuống.

Trong lúc tôi ký tặng thì một khách hàng khác lợi dụng cửa vẫn mở để bước vào hiệu sách.

Tôi đưa sách lại cho “Sarah” rồi cầm lấy quyển sách tiếp theo mà không ngẩng đầu nhìn lên.

- Dành tặng ai đây? tôi hỏi.

- Cho Lilly, một giọng nói êm dịu và từ tốn đáp lời tôi.

Theo thói quen, tôi đang định viết tên cô gái lên trang đầu thì cô đã nói thêm:

- Nhưng có thể anh thích tên Billie hơn.

Tôi ngẩng đầu lên và hiểu ra rằng cuộc sống vừa tặng cho tôi một cơ may thứ hai.

o O o

Mười lăm phút sau, cả hai chúng tôi cùng đứng trên vỉa hè và lần này, tôi quyết tâm không để em ra đi nữa.

- Anh đưa em về nhé? tôi đề nghị. Có một chiếc taxi đang đợi anh.

- Không, xe em đỗ ngay gần đây, cô nói rồi chỉ một chiếc ôtô đỗ ngay phía sau tôi.

Tôi quay lại và không tin nổi vào mắt mình nữa. Đó chính là chiếc Fiat 500 cổ lỗ sĩ màu hồng kẹo đã đưa chúng tôi vượt sa mạc Mêhicô!

- Em rất quyến luyến chiếc xe này, cô thanh minh.

- Làm sao em tìm lại được nó?

- Giá mà anh biết được! Cả một câu chuyện đấy...

- Vậy thì kể đi nào!

- Chuyện dài lắm.

- Anh có thời gian mà.

- Vậy chúng ta có thể đi ăn tối ở đâu đó.

- Sẵn sàng!

- Nhưng em lái xe nhé, cô nói rồi ngồi vào trước vô lăng chiếc “xe” của mình.

Tôi trả tiền cho tài xế taxi rồi để anh ta đi, sau đó tới ngồi vào ghế bên cạnh Lilly.

- Chúng ta đi đâu đây? em hỏi khi cắm chìa khóa vào xe.

- Tới chỗ nào em muốn.

Em nhấn vào cần ga và “hũ sữa chua” bắt đầu rung lên, nó vẫn sơ sài và không mấy thoải mái như trước. Nhưng tôi lại thấy mê đi, ngây ngất trước cảm giác không bao giờ rời xa em nữa.

- Em sẽ đưa anh đi ăn tôm hùm và hải sản! em đề nghị. Em biết một nhà hàng rất tuyệt ở đại lộ Melrose. Nhưng thực ra thì anh phải mời em vì lúc này không thể nói là em đang rủng rỉnh được. Và lần này anh không cần phải giả vờ ý tứ: “tôi không ăn thứ này, tôi không ăn thứ kia và đám hàu kia cứ có vẻ nhớt nhớt...” Anh thích tôm hùm không? Em thì mê lắm, nhất là nướng lên, ướp rượu rồi hơ qua lửa. Ngon tuyệt! Còn cua thì sao? Cách đây vài năm, khi em còn làm bồi bàn cho một nhà hàng ở Long Beach, ở đó người ta có món “cua ăn trộm”... Nó có thể nặng tới 15 cân, anh tin được không? Nó có thể trèo lên cây để chọc dừa rồi khi dừa rơi xuống đất, nó sẽ dùng càng tách ra lấy cùi ăn! Thật phi thường, đúng không? Người ta bắt được chúng ở Maldives và Seychelles. Anh biết Seychelles không? Em thì lúc nào cũng mơ được tới đó. Những hồ nước mặn ven biển, làn nước trong xanh, những bãi biển cát trắng... Và cả những con rùa khổng lồ trên đảo Silhouette nữa. Em thích đám rùa khổng lồ lắm. Anh có biết là chúng có thể nặng tới 200 cân và sống được hơn 120 tuổi không? Thật cừ, nhỉ! Thế còn Ấn Độ? Anh đã tới đó chưa? Một cô bạn thân của em đã kể với em về một nhà nghỉ tuyệt vời ở Pondichéry nơi...
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom