Cập nhật mới

Dịch Full Hội Chợ Phù Hoa

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Hội Chợ Phù Hoa

Hội Chợ Phù Hoa
Tác giả: William Makepeace Thackeray
Tình trạng: Đã hoàn thành




Thể loại: Kinh điển
Dịch giả: Trần Kiệm

Hội chợ phù hoa: Cuốn tiểu thuyết không có Anh hùng là một cuốn tiểu thuyết của William Makepeace Thackeray châm biếm xã hội vào đầu thế kỷ 19 ở Anh. Hội chợ phù hoa là một tiểu thuyết đa tuyến nói về xã hội quý tộc tư sản và số phận của con người với nhiều thành phần trong xã hội đó. Trục chính của truyện là cuộc đời của hai cô thiếu nữ là bạn học cùng lớp, cùng trường nhưng không cùng tầng lớp và cũng không cùng số phận.

***

Giữa đám người ồn ào với nước hoa, đăng-ten, đèn chùm, bàn tiệc… người ta dễ để ý thấy ánh mắt sắc sảo của cô nàng Rebecca xinh đẹp khát vọng được thay đổi số phận mình. Từ thân thế con nhà hạ tiện, là một cô giáo tập sự không hề dễ bảo, Rebecca không từ bất kì một thủ đoạn nào chen chân vào thế giới thượng lưu. Nhảy múa xung quanh cô là cả một xã hội quý tộc tham lam, vị kỉ, giả dối và hãnh tiến.

Trong phiên chợ phù hoa ấy, đạo đức khoác tấm áo thêu kim tuyến, nhưng lật lên chỉ thấy những thứ đê tiện và trần trụi… Trên hết, sự phù phiếm đã cuốn con người vào vòng xoáy cám dỗ và hút cạn những phẩm chất tốt đẹp, chỉ để lại những tính cách cặn bã và tham vọng mù quáng. Bạn đọc có thể giật mình: Hội chợ phù hoa chỉ nói về xã hội Anh thế kỉ XIX hay lột tả mọi xã hội của con người? Đọc Hội chợ phù hoa, ta sẽ phần nào nhận ra những phù phiếm, ảo ảnh của cuộc đời vốn chỉ là hư vô.

***

Thuật ngữ "hội chợ phù hoa" xuất phát từ câu chuyện ngụ ngôn Chuyến đi của người hành hương, do John Bunyan xuất bản vào năm 1678 ở dó có một hội chợ tổ chức trong làng có tên Vanity (Hội chợ phù hoa).
Cuốn tiểu thuyết đã được nhiều lần chuyển thể thành phim.

*********

THÔNG TIN KHÁC

Trong năm 1848 đã xảy ra một sự kiện có ảnh hưởng tốt tới "Hội chợ phù hoa". Nữ văn sĩ Charlotte Bronte cho tái bản tiểu thuyết "Jane Eyre" dưới bút danh Currel Bell (in lần đầu vào năm 1847 và rất ăn khách).

Trong lần in thứ hai, Bronte đã ghi lời đề tặng Thackeray với những câu đánh giá đầy phấn khích: "Tôi đã nhìn thấy ở ông một tài năng sâu sắc và quý hiếm hơn nhiều người đồng thời với ông nghĩ, bởi lẽ, ông có thể hơn người khác làm phục sinh xã hội chúng ta và khôi phục lại cái trật tự thế giới đang bị lung lay, và vì rằng cho tới nay, chưa có một nhà phê bình văn học nào tìm được cho ông những từ ngữ đánh giá đúng và đủ...". Đọc lời đề tặng đó, công chúng lại đổ xô đi tìm "Hội chợ phù hoa". Thành công đối với Thackeray đã trở thành không thể đảo ngược được.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1


Nhà đạo diễn vở kịch đang ngồi trên sân khấu trước tấm màn; nhìn xuống đám người hỗn độn chen chúc nhau trong Hội chợ, tự nhiên hắn cảm thấy một nỗi buồn tê tái xâm chiếm tâm hồn. Thiên hạ đang đua nhau mà ăn uống, mà chim chuột,rồi bỏ rơi nhau, mà cười mà khóc, rồi hút sách, lừa bịp, nhảy nhót, đấm đá nhau hoặc la cà đây đó.

Có những tay anh chị huých kẻ nọ đẩy người kia mà đi có những cậu công tử bột ra sức liếc tình đàn bà con gái. Có những chú đạo trích chuyên rờ túi thiên hạ, có những ông đội sếp soi mói nhìn ngó đó đây, này là mấy anh bán thuốc rong (trời đánh thánh vật mấy anh bán thuốc rong.) đang gân cổ lên mà quảng cáo thuốc trước quầy hàng của mình; kia là mấy bác nhà quê cứ há hốc mồm ra mà ngắm các cô vũ nữ bận áo sặc sỡ và mấy chú làm trò xiếc leo dây đáng thương mặt trát son đỏ bự, trong khi bọn kẻ cắp đứng đằng sau lưng cứ việc lách mấy ngón tay vào túi mà nẫng nhẹ ví mang đi.

Thưa vâng, chính là Hội chợ phù hoa đấy ạ; không phải là một chỗ đứng đắn và tuy rất ồn ào, nhưng cũng chẳng phải là một nơi vui vẻ gì đâu. Xin các vị hãy nhìn bộ mặt bọn đào kép và mấy chú hề lúc họ tan trò mà xem: anh chàng Tom Fool chùi lượt phấn son trát trên trên má rồi ngồi vào bàn ăn với vợ, lại cả chú Jack Puddings đang đứng sau tấm màn sân khấu kia nữa. Gần mở màn rồi; chú sắp ra trò, sẽ vừa lộn tùng phèo vừa kêu to mà hỏi thăm khắp mặt khán giả: “Các vị có được mạnh khỏe không? Tôi nghĩ rằng người nào có tính ưa suy tưởng, khi đi dạo chơi qua một nơi lắm trò vè như chỗ này, không nên để cho mình bị lôi cuốn trong cái vui vẻ của thiên hạ hoặc của chính mình. Đây đó có thể gặp một vài cảnh tượng hài hước hoặc kỳ thú khiến cho ta cảm động hoặc thú vị. Chỗ này là một thằng bé kháu khỉnh, đứng nuốt nước bọt trước quầy hàng bánh rán; một cô thiếu nữ xinh xinh đỏ ửng mặt lên bên cạnh người tình vừa thủ thỉ chuyện trò vừa chọn mua tặng vật cho mình ... Chỗ kia là anh chàng Tom Fool đang ngồi trong toa xe của rạp xiếc gậm khúc xương cùng với cái gia đình lương thiện sống bám vào nghề làm trò nhào lộn của anh ta... Nhưng cảm tưởng chung vẫn đáng buồn nhiều hơn là đáng vui. Về nhà, chúng ta trở lại nghiêm trang tư lự nhưng với một tâm trạng độ lượng hơn, rồi lại vùi đầu vào sách vở hoặc công việc làm ăn như cũ.

Về câu chuyện của Hội chợ phù hoa sắp kể đây, tôi không biết rút ra bài học luân lý nào khác ngoài mấy ý kiến trên. Có nhiều người coi Hội chợ hoàn toàn không phải là một chỗ đứng đắn, vẫn lánh xa, không cho gia đình và cả đầy tớ bén mảng tới. Rất có thể họ có lý. Nhưng cũng có nhiều người lại nghĩ khác; hoặc vì tính tình lười biếng, hoặc vì có lòng nhân đức, hoặc vì ưa châm biếm, thỉnh thoảng họ lại thích rẽ vào Hội chợ độ nửa tiếng đồng hồ, la cà đây đó xem các trò vui. Ở đây thì vô khối trò đủ mọi loại: những cuộc thử sức kinh người., những cảnh phi ngựa anh dũng tuyệt diệu, những cảnh sống thượng lưu quý phái, và những cảnh sống của tầng lớp thường thường bậc trung, có những trò chim chuột để cho người đa cảm thưởng thức, lại có những trò hài hước dí dỏm nhẹ nhàng.

Trò nào cũng có bài trí trang hoàng tử tế, tác giả xin bỏ tiền mua nến thắp, soi sáng thật rực rỡ. Vậy thì nhà đạo diễn vở kịch còn muốn nói gì nữa nhỉ? ... Hắn chỉ muốn ngỏ lời cảm tạ chư vi, vì qua các tỉnh lớn trong khắp nước Anh, vở kịch đã được khán giả chiếu cố hoan nghênh, và tới đâu cũng được giới ngôn luận, giới quý tộc và các tầng lớp thượng lưu có lòng quan tâm đến.

Cứ nghĩ rằng đám con rối của mình đã khiến được các vị tai mặt nhất trong nước hài lòng mà hắn lấy làm kiêu hãnh quá. Khán giả tuyên bố rằng cái con rối Becky nổi tiếng kia tay chân cử động thật khéo, khi giật dây nó làm trò cứ như thật. Con rối Amelia tuy được ít người thưởng thức hơn, nhưng cũng được nhà nghệ sĩ để hết tâm lực gọt khắc và trang điểm. Con rối Dobbin bề ngoài cử động như vụng về nhưng thật ra nhảy múa có vẻ tự nhiên coi thật thú vị; mấy đứa trẻ ra trò cũng được nhiều người lớn tán thưởng, và xin các vị hãy chú ý giùm cái “nhà quý tộc xấu thói” bận bộ áo lộng lẫy kia; dựng con rối ấy tốn kém vô khối đấy; tấn trò đặc biệt này diễn xong ma quỷ sẽ đến mang con rối ấy đi. Thế là nhà đạo diễn cúi rạp xuống chào các quý khách rồi lui vào hậu trường. Màn mở.

Luân Đôn, ngày 28 tháng 6 năm 1848.

CHISWICK MALL

Ấy là vào khoảng từ năm thứ 13 đến năm thứ 19 của thế kỷ này; vào một buổi sớm tháng sáu nắng tỏa rực rỡ, có một cái xe ngựa lớn, loại xe gia đình, do một cặp ngựa béo mập kéo, yên cương sáng nhoáng, chạy với tốc độ bốn dặm một giờ, đến trước cái cổng sắt lớn của trường học bà Pinkerton lập nên tại Chiswick Mall chuyên giáo dục các cô tiểu thư con nhà dòng dõi thì đỗ lại. Trên xe có một anh xà ích béo quay ngồi điều khiển; anh ta đeo tóc giả, đội một chiếc mũ vành bẻ tam giác. Xe dừng lại trước tấm biển đồng sáng choang trên có khắc tên bà Pinkerton thì một người hầu da đen ngồi cạnh bác xà ích béo tròn duỗi thẳng cặp chân vòng kiềng của hắn ra, với tay giật cái dây chuông trên cổng, và từ những ô cửa sổ bé tý trên mặt căn nhà gạch cổ kính đồ sộ, ít nhất có tới mười cái đầu con gái thò ra ngấp nghé nhìn. Mà nếu tinh ý ta còn nhận thấy cả cái mũi đỏ hỏn bé tý của cô Jemima Pinkerton, một thiếu nữ tốt bụng, đang lấp ló sau mấy chậu hoa phong vĩ thảo đặt trên thành cửa sổ phòng khách của bà Pinkerton.

Cô Jemima nói:

- Xe của nhà bà Sedley đấy chị ạ, Sambo, thằng hầu da đen vừa kéo chuông xong, bác xà ích mặc một cái áo chẽn đỏ mới quá.

Bà Pinkerton hỏi lại:

- Jemima, dì đã sửa soạn đầy đủ hành lý cần thiết cho cô Sedley lên đường chưa?

Bà Pinkerton trông rất đường bệ; bà là một Semiramis Hammersmith () bạn của nhà học giả Johnson, là người cộng tác với chính bà Chapone cơ đấy.

Cô Jemima đáp:

- Thưa chị, sáng hôm nay bọn hầu gái dậy từ bốn giờ; họ sửa soạn hành lý cho cô ấy xong rồi. Chúng em lại hái cho cô ấy cả mấy cành hoa.

- Jemima, phải gọi là một bó hoa, như thế nghe mới lịch sự - Vâng, một bó hoa to gần bằng cái đống rơm ấy. - Em cũng đã sắp sẵn hai chai nước hoa đinh hương cho bà Sedley, cả tờ giấy dặn cách pha nước ấy nữa. Em để tất cả trong chiếc hộp của Amelia.

- Jemima, dì đã sao lại một bản tờ kê học phí của cô Sedley rồi chứ? Thế thì tốt lắm ... chín mươi ba đồng bảng, bốn si-ling () tất cả. Dì đề ngoài phong bì gửi cho tôn ông John Sedley, rồi đóng dấu bức thư tôi viết cho Sedley phu nhân đây.

Đối với cô Jemima, thì một bức thư tự tay chị cô viết là một vật vô cùng đáng kính, như thể đó là thư của một vị quốc vương vậy. Chỉ khi nào các cô học trò của bà rời khỏi học hiệu, hoặc khi họ sắp sửa đi lấy chồng, người ta mới thấy bà Pinkerton đích thân viết thư gửi cho cha mẹ học trò của mình, không kể một lần đặc biệt nhân việc cô Birch bất hạnh bị chết về bệnh sốt phát ban. Và theo ý kiến của cô Jemima, nếu có điều gì có thể an ủi được bà Birch vì cái chết của cô con gái, thì chính là bài văn mộ đạo và hùng hồn của bà Pinkerton gửi đến để báo tin buồn. Lần này bức thư của bà Pinkerton viết lời lẽ như sau:

Mall Chiswick, ngày 15 tháng 6 , năm 18...

Thưa phu nhân,

Sau sáu năm cô Amelia Sedley lưu trú tại Mall, tôi rất hân hạnh và sung sướng thưa với phu nhân rằng bây giờ cô đã là một tiểu thư không phải là thiếu xứng đáng với một địa vị thích hợp trong xã hội thượng lưu lịch sự. Những đức tính đặc trưng cho một thiếu nữ lịch sự Anh quốc, cũng như những tài năng xứng đáng với dòng dõi và địa vị xã hội của một người như vậy sẽ không thiếu nơi cô Amelia Sedley đáng yêu. Cô có đức tính cần cù và ngoan ngoãn, khiến cho các giáo viên dậy cô rất mến. Tính tình dịu dàng đáng yêu của cô đã hấp dẫn tất cả các bạn đồng học, người nhiều tuổi hơn cũng như người còn kém tuổi.

Phu nhân sẽ thấy về khoa âm nhạc, khoa khiêu vũ, môn chính tả, hoặc trong mọi công việc thêu thùa kim chỉ, cô đã đạt được những điều các bạn đồng học thiết tha mong ước nhất. Riêng về môn địa lý thì cô còn nhiều thiếu sót; và trong khoảng thời gian ba năm sắp tới, mỗi ngày bốn tiếng đồng hồ, cô còn cần tập đeo bảng sau lưng () một cách thận trọng và chuyên cần: điều này rất cần, vì có vậy mới luyện được dáng điệu đường bệ tôn quý mà các cô tiểu thư lịch sự bây giờ đều phải có.

Còn về phương diện biết tôn trọng những nguyên tắc tôn giáo và luân lý thì phu nhân sẽ thấy cô Sedley rất xứng đáng với một học đường đã từng được cái vinh dự tiếp đón nhà từ điển học đại danh, và đã được Chapone phu nhân đỡ đầu. Rời khỏi Mall, cô Amelia đã đem theo cả tâm hồn của các bạn đồng học cũng như niềm thương mến của cô giáo dạy cô, người có cái vinh dự được ký tên dưới đây.

Kính chào phu nhân,

Người đầy tớ mang ơn và hèn hạ của bà.

Ký: Barbara Pinkerton.

Tái bút.

Cô Sharp cùng đi với cô Sedley. Xin đặc biệt yêu cầu phu nhân chỉ nên lưu cô Sharp ở lại khu phố Russell không quá mười ngày. Cô ta sắp đến giúp việc tại một gia đình quyền quý, gia đình này muốn rằng cô ta đến nhận việc sớm chừng nào hay chừng ấy.

Thảo xong bức thư, bà Pinkerton bắt đầu viết tên mình và tên cô Sedley vào trang đệm () của một cuốn từ điển Johnson... một quyển sách lý thú mà bất cứ khi nào có học trò rời khỏi Mall bà cũng tặng cho một cuốn. Trên bìa sách , lại có đính kèm một bản sao tờ giấy đề “mấy lời của cố học giả Samuel Johnson đáng kính gửi cô tiểu thư mới rời khỏi Pinkerton học hiệu, ở Mall”. Thực ra cái bà giáo bệ vệ này vẫn luôn mồm nhắc đến tên nhà làm từ điển; chính cũng nhờ có một buổi ông ta đến thăm bà mà bà hóa ra danh giá và làm ăn phát đạt.

Nghe thấy bà chị ra lệnh cho mình lấy cuốn từ điển trên mặt tủ xuống, cô Jemima bèn cầm xuống hai cuốn.

Bà Pinkerton vừa đề xong lời tặng vào cuốn thứ nhất, thì cô Jemima đưa bà cuốn thứ hai, dáng điệu hơi ngần ngại và có vẻ sợ sệt. Bà Pinkerton lạnh lùng hỏi lại, nghe rất đáng sợ:

- Này, dì Jemima, cuốn này để cho ai đấy?

- Để cho cô Sharp đấy ạ. Hôm nay cô ấy cũng ra trường.

Cô Jemima run bắn người lên trả lời, cả bộ mặt và cái cổ đã héo úa của cô bỗng đỏ rực lên. Cô quay lưng lại không dám nhìn bà chị.

Bà Pinkerton dằn mạnh từng tiếng:

- Này Jemima, dì có điên không đấy? Cất ngay quyển từ điển vào tủ. Từ nay trở đi, đừng có bao giờ được tự tiện như thế, nghe không.

- Dạ, thưa chị, cuốn sách chỉ đáng giá có vài hào chỉ, mà nếu cô Becky đáng thương ấy không được một cuốn thì cô ấy sẽ khổ tâm lắm.

Bà Pinkerton đáp:

- Mời cô Sedley lên đây ngay cho tôi.

Tội nghiệp cho cô Jemima; chẳng dám hé răng nói thêm một tiếng nào nữa, cô vội rảo bước đi ra, trong lòng hết sức hồi hộp vì sợ hãi.

Ông thân sinh ra cô Sedley là một thương gia ở Luân đôn, cũng là một tay giầu có. Còn cô Sharp chỉ là một cô học trò tập sự nghề dạy học; bà Pinkerton nghĩ rằng bà đã đối đãi với cô quá phải rồi, chẳng cần phải ban cho cái vinh dự được tặng cuốn từ điển khi cô từ biệt nhà trường.

Kể ra thư giới thiệu của các bà giáo thì cũng chẳng đáng tin cho lắm, chỉ có giá trị như những tấm bia trong nghĩa địa không hơn không kém, song thỉnh thoảng cũng có những người từ giã cõi đời này mà lại thực sự xứng đáng với những lời xưng tụng bác thợ đá khắc vào bia dựng trên nắm xương tàn của họ, nghĩa là một con chiên ngoan đạo, một người bố, người mẹ, người con, người vợ hoặc người chồng xứng đáng, và khi họ chết đi, quả thực có khiến cho thân nhân phải thương tiếc không sao nguôi được. Cho nên trong các trường học dạy con trai cũng như con gái, đôi khi cũng có một học sinh hết sức xứng đáng với những lời khen thưởng của người giáo viên vô tư. Thì cô Amelia Sedley chính là một tiểu thư thuộc loại học trò đặc biệt này.

Không những cô xứng đáng với lời ca tụng của bà Pinkerton, cô còn có nhiều đức tính đáng yêu khác mà cái bà già Minerva() long trọng kia không thể nhìn thấy, bởi lẽ giữa bà và cô học trò có một sự cách biệt về địa vị và tuổi tác.

Nghĩa là cô Sedley không phải chỉ có thể hát hay như một con sơn ca, hoặc như cô Billington, khiêu vũ giỏi chẳng thua gì Hillisberg hoặc Parisot, thêu thùa khéo léo và phát âm thì đúng giọng như trong từ điển, cô còn rất tốt bụng, luôn luôn tươi tỉnh dịu dàng, thùy mị và rộng lượng. Con người ấy ai đến gần cũng phải mến; từ chính bà Minerva trở xuống cho tới cô gái nghèo giữ việc bếp núc trong trường, cũng như cô gái con bà bán bánh quả chột mắt vẫn được phép mang hàng đến bán cho các cô tiểu thư ngụ học ở Mall mỗi tuần lễ một lần. Trong số hai mươi bốn nữ sinh lưu trú tại trường, cô Sedley có tới mười hai người bạn tâm tình chí thiết. Ngay cả cái bà Briggs vốn hay ghen ghét kia cũng không hề bao giờ nói xấu cô điều gì. Cả cô Saltire, con người cao kỳ và có thế lực (cháu gái bá tước Dexter), cũng đã công nhận rằng cô có bộ mặt thật đáng yêu. Còn như cái cô Swartz, người lai da đen sinh ở St. Kitt, tóc xoăn tít như lông cừu và rất giàu có ấy thì đã khóc sướt mướt hôm Amelia từ biệt nhà trường, đến nỗi người ta phải đi mời bác sĩ Floss đến chữa; ông này cho ngửi nước đái quỷ nhiều quá, xuýt nữa cô ta tắc thở. Sự quyến luyến của bà Pinkerton thì biểu lộ ra một cách điềm đạm và nghiêm trang, ta cứ đoán ra cũng rõ, do cương vị cao quý và những đức tính nổi bật của bà. Riêng cô Jemima đã nhiều lần tấm tức khóc mỗi lúc nghĩ đến việc Amelia ra đi; giá không vì sợ bà chị thì chắc cô ta đã khóc lóc đến là thảm thiết như cô gái triệu phú ở St. Kitt (cô này trả tiền học gấp đôi người khác). Nói cho đúng thì chỉ có bọn học sinh lưu trú mới có điều kiện xa xỉ trong sự sầu não như vậy. Cô Jemima chân thực kia còn bận quán xuyến bao nhiêu việc, nào là giấy má, nào là quét tước, khâu vá, rồi lại còn làm pa-tê, dọn bát đĩa, và trông coi người làm nữa. Nhưng nói đến cô ta làm gì? Có lẽ từ lúc này trở đi, chúng ta cũng chẳng còn bao giờ được nghe nhắc đến cô ta nữa đâu; và khi đôi cánh cổng sắt có chấn song hoa của nhà trường đã khép lại thì cô và cả bà chị ghê gớm của cô cũng thôi không còn xuất hiện lại trong cái thế giới nhỏ mọn của cuốn truyện này nữa.

Song bởi lẽ chúng ta còn gặp lại Amelia nhiều lần, nên ngay từ giờ phút quen thuộc đầu tiên này, nói ngay rằng cô thật là một cô em đáng yêu cũng chẳng có hại gì. Trong cuộc đời cũng như trong tiểu thuyết, (đặc biệt là trong tiểu thuyết) ta thường gặp những tên đốn mạt vào loại tồi tệ nhất; có được một người bạn đồng hành lúc nào cũng ở bên mình, mà lại là một người trong trắng và tốt bụng như thế là một nhân vật chính nên cũng không cần phải miêu tả hình dáng cô làm gì; thực ra thì tôi cũng e rằng mũi cô có phần hơi ngắn, còn má thì, nếu cô là một nhân vật chính, như vậy cũng khí tròn quá và đỏ quá (). Song được cái mặt cô lúc nào cũng tươi, nước da hồng hào khỏe mạnh, miệng cô luôn luôn nở một nụ cười duyên dáng nhất. Cô lại có đôi mắt sáng long lanh đầy tinh thần yêu đời, dĩ nhiên trừ trường hợp mắt cô đẫm lệ, mà cô cũng hay khóc lắm. Cái cô thiếu nữ vớ vẩn này thấy một con chim hoàng oanh chết cũng khóc, mà thấy một con chuột đột nhiên bị mèo vồ chết, cũng chảy nước mắt được; cô khóc cả khi đọc đoạn kết thúc một cuốn truyện, dẫu rằng đoạn kết rất ngớ ngẩn ... Còn như nặng lời với cô - giả thử có người nào nhẫn tâm mà làm như vậy - thì quả thật là tồi tệ, nói làm gì đến họ.

Ngay cả bà Pinkerton, người đàn bà khắc khổ trông như một vị thần ấy cũng chỉ rầy la cô một lần rồi thôi hẳn.

Tuy bà chẳng hiểu thế nào là sự mủi lòng cũng như bà mù tịt đối với khoa đại học, bà cũng ra lệnh đặc biệt cho tất cả các thầy giáo cô giáo trong trường phải đối đãi với cô Sedley một cách cực kỳ nhẹ nhàng, dường như sự phũ phàng trong cách cư xử là một điều sỉ nhục đối với cô.

Cho nên đến ngày chia tay, cô Sedley rất bối rối; giữa hai thói quen hay khóc và hay cười, cô không biết nên chọn đằng nào. Được về với gia đình cô cũng thích, nhưng phải từ biệt nhà trường cô cũng vô cùng sầu khổ. Đã từ ba hôm trước, em bé Laura Martin, một em bé mồ côi, cứ luẩn quẩn đi theo cô như một con chó nhỏ. Cô đã phải trao và phải nhận quà tặng ít nhất là mười bốn lần, lại đã phải trịnh trọng hứa mười bốn lần rằng sẽ viết thư hàng tuần đều đều. Cô Saltire bảo thế này: “Viết thư cho em thì cứ đề ngoài bì gửi cho ông nội em là bá tước Dexter tiên sinh nhé” (thực ra gia đình cô này cũng xác xơ chứ có gì đâu) . Còn cô Swartz, cô thiếu nữ tính tình sôi nổi, tóc xoăn tít như lông cừu nhưng rất rộng lượng và thân thiết ấy, thì bảo bạn: “Đừng có ngại tiền tem, ngày nào cũng phải viết thư cho em đấy”. Em bé mồ côi Laura Martin (em hãy còn đang tập viết tô) thì cứ nắm lấy tay cô bạn lớn tuổi, tha thiết nhìn vào mặt cô mà nói: “Chị Amelia ơi, bao giờ em viết thư cho chị, em sẽ gọi chị là “má” nhé. Nhất định anh chàng Jones, khi đọc cuốn sách này ở câu lạc bộ của anh ta, thế nào cũng tuyên bố rằng những chuyện vừa kể trên chẳng qua là những chuyện cực kỳ ngớ ngẩn tầm thường, vô vị, và tình cảm một cách quá đáng. Phải, ngay phút này, tôi cũng đã cụ thể nhìn thấy Jones (mặt hắn gần đỏ tía lên trước một tảng thịt cừu và một nửa chai rượu vang) đang rút bút chì ra gạch dưới mấy chữ “ngớ ngẩn, vô vị” v…v…rồi lại còn thêm ý kiến riêng “đúng vô cùng”. Phải lắm, hắn là một thiên tài kiêu kỳ, chỉ quen kính trọng những cái gì là lớn lao và anh hùng trong cuộc đời cũng như trong tiểu thuyết; thôi thì tốt nhất là biết hắn vậy, và đi chỗ khác.

Vậy thì nào hoa, nào tặng vật, và hòm xiểng, rồi hộp mũ, tất cả đồ đạc của cô Sedley đều đã được bác Sambo xếp cẩn thận lên xe rồi; cả một cái va ly bé tý xíu bằng da bò cũ, mưa nắng đã dãi dầu, trên có ghim cẩn thận một mảnh bìa ghi tên cô Sharp. Sambo tay sách chiếc va ly cứ nhăn răng ra mà cười mãi; bác xà ích lúc buộc lại nó cũng có một nụ cười mỉa mai đồng lõa... Giờ khởi hành đã đến. Nỗi đau đớn của phút ly biệt cũng giảm được nhiều phần, nhờ có bài diễn văn đáng phục của bà Pinkerton thuyết cho cô học trò nghe. Không phải vì bài diễn văn chia tay đã khiến cô Amelia đâm ra triết lý, hoặc nó đã có tác dụng làm cho cô có thái độ bình thản tức là kết quả của sự suy luận, nhưng vì bài diễn văn buồn, và kêu, và tẻ nhạt một cách không thể thương được, và chính vì nỗi sợ hãi bà giáo vẫn còn lù lù trước mắt nên đối diện với bà, cô Sedley không dám liều lĩnh để cho nỗi đau buồn riêng của mình được phát lộ ra một tý nào. Cũng như mọi dịp long trọng khác, mỗi khi có phụ huynh học sinh đến thăm trường, người ta đã dọn trong phòng khách một cái bánh mạch nha và một chai rượu vang. Mỗi người ăn một miếng bánh; cô Sedley bắt đầu được tự do lên đường. Truyện "Hội Chợ Phù Hoa " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

- Becky, em vào trong nhà chào bà Pinkerton đã chứ.

Cô Jemima bảo với một cô thiếu nữ đang đi xuống cầu thang gác như vậy. Cô này ôm trong tay chiếc hộp đựng đồ dùng của chính mình: chẳng ai buồn để ý đến cô ta. Cô Jemima rất ngạc nhiên thấy cô Sharp thản nhiên đáp lại rằng:

- Có lẽ cũng phải thế thật.

Sau khi cô Jemima đã gõ cửa và được phép vào thì cô Sharp tiến lên, dáng điệu rất ung dung, nói bằng tiếng Pháp thật đúng giọng: “Thưa bà, tôi đến để từ biệt bà”().

Bà Pinkerton không hiểu tiếng Pháp; bà chỉ điều khiển những người biết tiếng Pháp thôi. Nhưng bà cắn môi lại, ngẩng cao một cái mặt đáng khinh có cái mũi La-mã lên (trên đầu bà lại quấn một tấm khăn to tướng nom rất long trọng nữa) và đáp: “Cô Sharp, xin chào cô”. Bà Hammersmith Semiramis vừa nói vừa giơ một bàn tay lên vẫy để tỏ ý từ biệt, và cũng là để cho cô Sharp có dịp nắm lấy một ngón tay của bà giơ ra cốt cho cô được bắt.

Nhưng cô Sharp chỉ chắp hai tay lại, mỉm cười cúi chào một cách lạnh lùng: rõ ràng cô không chịu nhận cái vinh dự nói trên. Bà Semiramis thấy vậy tức giận quá sức, nguẩy đầu hất mạnh chiếc khăn một cái. Quả thấy đây là một cuộc chiến tranh nho nhỏ giữa cô con gái và bà già, mà bà già đã bị thất trận. Bà ôm lấy Amelia hôn mà nói: “Con ơi, cầu thượng đế ban phúc lành cho con”, đồng thời qua vai cô này, bà cau mặt lại nhìn cô Sharp. “Thôi đi đi, Becky”. Cô Jemima hãi quá, vừa nói vừa kéo cô gái đi ra ngoài; và cánh cửa phòng khách mãi mãi đóng lại sau lưng họ.

Rồi thì tiếp theo là cuộc chia tay ồn ào ở dưới sân; lời nói khôn tả xiết. Tất cả gia nhân đều tập trung trong gian nhà lớn... Tất cả những bè bạn thân thiết... tất cả các cô tiểu thư...và cả ông giáo dạy khoa khiêu vũ vừa mới đến xong. Thế rồi, nào là ôm ghì lấy nhau, nào là hôn hít, rồi thì khóc lóc, cứ túi bụi lên; lại còn những tiếng “hực, hức” thảm thiết vẳng ra từ trong căn phòng riêng của Swartz, cô học sinh lưu trú nữa. Thật không bút nào tả xiết; mà có viết ra thì người có tâm hồn đa cảm cũng không đành lòng mà đọc cho được. Vậy là xong cuộc ôm hôn từ biệt; họ chia tay nhau...nghĩa là cô Sedley chia tay cùng các bạn cô.

Riêng cô Sharp đã nín lặng chui vào trong xe từ mấy phút trước. Chẳng một ai buồn khóc vì phải từ giã cô này.

Bác Sambo chân vòng kiềng sập cửa xe đánh thình một cái sau lưng cô chủ đang khóc sướt mướt, rồi nhảy phốc lên đứng sau xe.

- Dừng lại đã !

Cô Jemima vừa kêu lên vừa chạy bổ ra cổng, tay cầm một gói nhỏ. Cô bảo với Amelia:

- Em yêu quý ơi, đây là mấy cái bánh xăng-uých; em cầm lấy đi đường đói thì ăn. Còn Becky, này Becky Sharp, đây là quyển sách tặng em, mà chị tôi...nghĩa là tôi…quyển từ điển Johnson ấy mà, em biết rồi chứ; em không thể từ biệt chúng tôi mà không được tặng quyển sách này. Thôi, tạm biệt nhé. Xà ích, đánh xe đi. Cầu chúa che chở cho các em!

Đoạn người thiếu nữ tốt bụng ấy lùi vào trong vườn, lòng dạt dào vì quá xúc động.

Nhưng kìa! Bác xà ích vừa đánh xe đi thì cô Sharp ló bộ mặt nhợt nhạt ra cửa sổ xe, quăng trả cuốn sách vào trong vườn.

Cô Jemima thấy thế xuýt chết ngất vì sợ hãi. Cô nói:

- Chao ôi? Chưa bao giờ tôi...gớm, mới táo bạo làm sao chứ!

Cô bị xúc động mạnh quá, không nói hết được ý cả hai câu trên. Chiếc xe bon bon chạy đi; hai cánh cổng lớn đóng chặt lại. Tiếng chuông reo vang báo hiệu bài học khiêu vũ bắt đầu. Cả cuộc đời đang mở rộng trước mặt hai cô thiếu nữ; và thế là vĩnh biệt Chiswick Mall.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2


SHARP VÀ AMELIA CHUẨN BỊ MỞ CUỘC TẤN CÔNG

Lúc đã thực hiện xong hành động dũng cảm vừa nói trong

- Cho đáng kiếp cuốn từ điển. Lạy chúa; thật may mà mình thoát khỏi Chiswick.

Trước hành vi khiêu khích vừa qua, cô Jemima bị xúc động mạnh thế nào thì cô Sedley hầu như cũng bị xúc động như vậy; ta cứ nghĩ xem, cô vừa mới rời khỏi nhà trường được có một phút, mà mới trong một phút thì làm sao bao nhiêu kỷ niệm ghi lại qua suốt sáu năm trời đã mất ngay được. Không những thế, đối với một số người thì những nỗi lo âu sợ hãi của tuổi hoa niên cứ vĩnh viễn tồn tại. Thí dụ, tôi có quen một ông già đáng kính đã sáu mươi tám tuổi; một buổi sáng, cùng ngồi ăn với nhau, ông cụ dáng điệu rất bồi hồi xúc động nói với tôi rằng:

- Ông ạ, đêm qua, tôi nằm mê thấy bị ông giáo Raine đánh cho một trận đòn.

Thì ra đêm hôm ấy trí tưởng tưởng đã đem ông lão sống lùi lại quá khứ những năm mươi lăm năm. Mãi đến bây giờ, đã sáu mươi tám tuổi đầu, ông lão vẫn còn sợ ông giáo Raine và cái roi y như hồi còn bé mới mười ba tuổi. Giả sử bây giờ, lúc ông lão đã sáu mươi tám tuổi, mà ông giáo kia lại hiện lên bằng xương bằng thịt, tay cầm cây roi to tướng, mà quát ông lão với cái giọng ghê gớm thế này: “Thằng kia, chìa mông ra đây...” nhỉ. Cho nên, cô Sedley thấy cái hành vi bất phục tòng kia mà kinh hãi quá. Cô ngồi yên lặng một lúc, cuối cùng hỏi bạn:

- Rebecca, sao chị có thể làm thế được?

Rebecca cười đáp lại:

- Thế nào, chị cho rằng bà Pinkerton sẽ xuất hiện và ra lệnh cho em phải quay lại cái ngục tối ấy chăng?

- Không phải thế, nhưng...

Cô Sharp vẫn có vẻ giận dữ nói tiếp:

- Em thù ghét cả cái nhà ấy; em ước gì không bao giờ còn phải nhìn thấy nó nữa. Em cầu cho nó bị chìm xuống tận đáy sông Thames, thật đấy. Mà nếu bà Pinkerton có chết đuối dưới sông, em cũng không thèm vớt đâu. Chao ôi! Em mà được nhìn thấy bà ta nổi lềnh bềnh trên dòng sông kia kìa, đủ cả khăn áo lệ bộ và cái mũi lõ của bà ta chõ lên trời như mũi tầu ấy, thì thú vị biết mấy!

- Xuỵt! Cô Sedley vội kêu.

Cô Rebecca vừa cười, vừa nói:

- Làm sao, chị sợ thằng hầu da đen này mách lẻo à? Cho nó về thách bà Pinkerton rằng em ghét bà ấy như đào đất đổ đi: em cầu cho nó mách; em còn ước sao có dịp cho bà ấy rõ sự thù ghét của em nữa cơ. Hai năm nay, đối với em, bà ấy chỉ có một thái độ khinh miệt, sỉ nhục. Bà ấy cư xử với em còn tệ hơn đối với bất cứ một con ở nào coi việc bếp núc. Ngoài chị ra, thử hỏi có ai là người coi em như bạn, có ai nói với em một lời tử tế. Em bị phân công chăm sóc đám con gái nhỏ học lớp dưới, và chuyên tập cho bọn lớn tuổi nói tiếng Pháp, đến nỗi em thành phát ngấy tiếng mẹ đẻ. Mà này, nói tiếng Pháp với bà Pinkerton thì thật là một trò khôi hài, có phải không? Tiếng Pháp bà ấy không biết lấy một chữ bẻ làm đôi, nhưng lại kiêu ngạo không chịu thú nhận. Em tin chắc chính vì vậy mà bà ta tống cổ em đi. Thôi, cũng cảm ơn Thượng đế vì em biết tiếng Pháp. “Nước Pháp vạn tuế! Hoàng đế vạn tuế! Bonaparte vạn tuế”() .

Cô Sedley lại kêu lên:

- Kìa Rebecca, Rebecca! Nói năng mới liều lĩnh chứ!

Quả thật từ trước tới nay, chưa bao giờ Rebecca ăn nói bậy bạ đến như vậy; vì hồi ấy, ở nước Anh ai nói “Bonaparte vạn tuế” thì cũng chẳng khác gì nói “Lucifer () vạn tuế”.

- Sao chị có thể...sao chị lại dám có những ý nghĩ trả thù xấu xa như thế?

- Sự trả thù có thể là xấu xa thật đấy, nhưng cũng là điều tự nhiên thôi. Em có phải là thiên thần đâu.

Mà nói cho đúng sự thực thì quả thật cô ta không phải là thiên thần. Qua câu chuyện ngắn ngủi hai người trao đổi với nhau trong khi chiếc xe ngựa lười biếng lăn bánh dọc theo bờ sông, ta thấy rằng có hai lần Rebecca cảm tạ Chúa trời; song lần thứ nhất, là vì Chúa trời đã giúp cô thoát khỏi tay mấy kẻ cô ghét cay ghét đắng! Và lần thứ nhì, là vì Chúa trời đã giúp cô làm cho kẻ thù của cô phải phần nào bối rối, lúng túng. Cả hai điều ấy không phải là những lý do đúng đắn để cảm tạ Chúa trời; mà những con người tính tình dịu dàng hiền hòa cũng không suy nghĩ thế. Vậy thì Rebecca chẳng hiền hòa, dịu dàng một chút xíu nào hết. Cô gái chán đời trẻ măng này bảo rằng cả loài người hành hạ cô; nhưng ta có thể tin chắc rằng kẻ nào bị cả loài người đối xử không ra gì, nhất định hoàn toàn xứng đáng với cách đối đãi như vậy. Cuộc đời là một tấm gương soi, nó phản chiếu lại chính bộ mặt của bất cứ kẻ nào ngó vào. Cau mặt với nó, nó sẽ cau mặt giả với ta ngay; và cười với nó, nó lại sẽ thành ngay người bạn vui tính tốt bụng của ta; các bạn thanh niên hãy xem đó mà lựa chọn. Có điều chắc chắn rằng nếu cả thế giới bỏ quên cô Sharp, thì cũng chưa hề bao giờ cô ta làm tốt điều gì cho ai. Ta cũng không thể mong có được hai mươi bốn cô thiếu nữ đều đáng yêu như nhân vật chính trong tập truyện này là cô Sedley (sở dĩ chọn cô này làm nhân vật chính, cũng vì cô tốt nết hơn cả; nếu không, có cái quái gì trên đời nào ngăn cấm chúng ta chọn cô Swartz, cô Crump hoặc cô Hopkins làm nhân vật chính?); không thể hy vọng rằng người đời ai cũng có được tính tình dịu dàng, khả ái như Amelia Sedley, ai cũng tìm mọi dịp khuất phục cái tính tàn nhẫn, hay cáu bẳn của Rebecca, và cũng biết dùng muôn vàn lời lẽ phải chăng và hành vi tốt đẹp mà vượt trên thái độ thù ghét loài người của cô này, dù là chỉ một lần.

Bố Rebecca là một họa sĩ, dạy vẽ trong trường của bà Pinkerton. Ông ta là một người thông minh, một người bạn vui vẻ, một ông vô tâm, hay mang công mắc nợ, và rất mê các tửu quán. Nốc rượu say, ông ta hay đánh vợ đánh con; rồi sớm hôm sau, đầu nhức như búa bổ, ông ta lại chửi vung lên rằng thiên hạ không biết trọng thiên tài, và xỉ vả cái bọn khốn nạn, tức là cái bọn đồng nghiệp họa sĩ của ông, một cách khá sáng suốt và nhiều khi rất là có lý. Ông ta sống một cách chật vật ở thị trấn Soho; nội một dặm quanh thị trấn này, ông ta mắc nợ tất cả mọi người. Vì vậy, ông ta bèn nghĩ rằng hoàn cảnh của mình thế này thì cưới phăng một người đàn bà Pháp trẻ tuổi làm vợ là tốt nhất; người này vốn làm nghề vũ nữ. Không bao giờ cô Sharp đả động đến cái nghề nghiệp hèn hạ của mẹ mình; trái lại, cô luôn luôn tuyên bố rằng cái bà hay “nhảy đập chân” () kia thuộc một dòng họ quý tộc vùng Gascony, và lấy làm hãnh diện hết sức vì được là con cháu dòng dõi đó.

Mà quái lạ thay, Rebecca càng lớn lên, thì các tổ tiên của cô cũng càng được tôn thêm về địa vị xã hội và về tiếng tăm.

Mẹ cô Rebecca cũng có được thụ hưởng một nền giáo dục nào đó ở đâu không biết; con gái bà nói tiếng Pháp rất đúng giọng, y như dân thành Paris vậy. Thời ấy điều này hầu như là một tài năng hiếm hoi; nhờ vậy, Rebecca được cái bà Pinkerton có tư tưởng bảo thủ kia mượn giúp việc.

Mẹ vừa chết, bố Rebecca lại bị bệnh tửu cuồng tấn công lần thứ ba; yên trí mình không thể qua khỏi được, ông ta bèn viết một bức thư lời lẽ thật thiết tha cảm động gửi cho bà Pinkerton, nhờ bà che chở cho con gái. Rồi ông ta nằm xuống mộ, sau khi đã bị hai viên mõ tòa cãi lộn nhau trên thi thể mình. Đặt chân vào Chiswick, Rebecca vừa tròn mười bảy tuổi; cô được theo chế độ lưu học sinh, được hưởng học bổng; nhiệm vụ của Rebecca là nói tiếng Pháp, như ta đã rõ; còn quyền lợi của cô là khỏi phải trả tiền; hàng năm lại được cấp thêm vài ghi-nê, và được mấy ông giáo dạy trong trường truyền thụ cho ít mảnh kiến thức.

Dáng người Rebecca bé nhỏ, mảnh mai, da tái tái, tóc màu vàng sẫm, mắt hay nhìn xuống; lúc nào Rebecca ngước nhìn lên, hai mắt thật là to, trông kỳ dị và rất hấp dẫn đến nỗi cậu công tử Crisp phải lòng cô chết mệt; cậu này vừa mới tốt nghiệp Oxford đại học đường, giữ chức mục sư dưới quyền cha xứ Chiswick là ngài Flowerdew. Một lần đến giảng đạo ở nhà thờ Chiswick, bị Rebecca ngồi dưới hàng ghế học trò liếc tình cậu Crisp trên bục giảng một cái; lập tức cậu này ngây người ra như mất hồn().

Anh chàng thanh niên si tình này thường ngồi hầu trà bà Pinkerton, vì được mẹ giới thiệu với bà. Cậu bèn nhờ mụ chột mắt bán táo làm bà tơ hồng gửi hộ “tình thơ nhất bức”, đại khái tỏ ý muốn tính cuộc trăm năm với Rebecca thì phải; bà Crisp được triệu ngay từ Buxton về; bà lập tức đưa cậu con cưng của mình đi chỗ khác. Tuy vậy, mỗi lúc nghĩ rằng cái chuồng chim bồ câu ở Chiswick này mà lại ủ ấp một con diều hâu ghê gớm đến thế, bà Pinkerton cứ thấy sốt cả ruột; giá không vì đã trót bị ràng buộc với Rebecca, bà đã tống cổ cô đi nơi khác rồi; bà cũng không thể hoàn toàn tin lời cô, mặc dầu cô một mực cãi rằng mình chưa hề trao đổi một lời nào với cậu Crisp, trừ hai lần, ngay trước mặt bà nhân khi cùng ngồi uống trà với bà và cậu ấy. Đứng cạnh nhiều cô khác trong trường có vóc người cao lớn, trông Rebecca như một đứa trẻ. Nhưng cô sớm có cái già dặn, cái từng trải đáng sợ của con nhà nghèo. Sau khi nói chuyện với Rebecca, khối bác chủ nợ của bố cô đành quay về không. Lại có vô số nhà thương gia được cô ta nịnh nọt khéo léo đâm ra vui tính lại đãi thêm một bữa ăn nữa. Thường Rebecca vẫn ngồi cạnh bố khi có khách - thấy con gái thông minh, ông bố lấy làm hãnh diện lắm - nên cô được nghe đủ mọi thứ chuyện của những vị khách “bừa bãi” này, hầu hết là những chuyện con gái không nên để lọt vào tai. Bởi thế Rebecca vẫn nói rằng mình chưa hề bao giờ là con gái, ngay khi mới lên tám tuổi đã là đàn bà rồi. Ôi chao, sao bà Pinkerton lại để cho một con chim nguy hiểm như thế lọt vào cái lồng của mình nhỉ?

Số là những khi bố Rebecca đưa cô đến Chiswick, bà giáo già yên trí cô là một thiếu nữ dịu dàng nhất thế giới, vì những bận ấy cô đóng vai một cô gái ngây thơ () khéo quá. Và chỉ mới có một năm trước ngày Rebecca được nhập trường, nhân cô vừa tròn mười sáu tuổi, bà Pinkerton bèn long trọng tặng cô một con búp bê, lại kèm theo cả một bài diễn văn ngắn. Thực ra, bà tịch thu con búp bê này của cô Swindle vì bà bắt được cô này ru trộm búp bê trong giờ học. Tối hôm ấy, sau buổi họp, hai bố con cô Rebecca tha hồ mà cười với nhau trên đường về nhà (chỉ khi nào có diễn văn thì các ông giáo trong trường mới được triệu tập tới dự đông đủ). Giá bà Pinkerton được nom thấy hình ảnh hài hước của chính bà, nghĩa là được thấy Rebecca làm cho con búp bê bắt chước dáng điệu bà như thế nào, có lẽ bà đến phát điên phát rồ lên vì tức giận mất. Becky vẫn thường giả vờ đối thoại với con búp bê; tại các phố Newman, Gerrard, và ở khu phố của Nghệ Sĩ, người ta thích thưởng thức cái trò vui ấy lắm lắm. Mấy anh chàng họa sĩ trẻ tuổi mỗi khi đến “nhậu nhẹt” với bậc đàn anh lười biếng, phóng đãng, song thông minh và vui tính của họ, lại hỏi thăm Rebecca rằng bà Pinkerton có nhà hay không; bà trở thành quen thuộc quá đối với họ, y như ông Lawrence hay Tổng thống West; khổ thân bà quá! Một lần Rebecca có hân hạnh được đến Chiswick chơi mấy ngày; lúc trở về nhà, cô đem theo cô Jemima, nghĩa là một con búp bê khác mà cô gọi là Jemy. Lúc chia tay, cái cô Jemima thực thà này đã tự tay làm và tặng Rebecca một số bánh ngọt và mứt đủ cho đến ba đứa trẻ ăn, lại cho thêm một đồng bảy siling, song tính ưa giễu cợt của Rebecca vẫn mạnh hơn lòng biết ơn; thế là cô em cũng bị hy sinh như bà chị.

Sau khi bố chết, Rebecca bị đưa về Mall ăn học. Ở đây phải phục tùng nguyên tắc cứng nhắc, cô thấy như bị nghẹt thở, bữa ăn phải cầu kinh, rồi giờ nào học, giờ nào đi chơi đều có quy định chung rõ ràng dứt khoát; cô cảm thấy hầu như không thể chịu đựng nổi nữa; cô nhớ tiếc cuộc sống trong cái xưởng vẽ ngày xưa ở Soho quá; hồi ấy tuy nghèo sơ xác nhưng thật tự do; đến nỗi tất cả mọi người, kể cả bản thân Becky nữa, đều tưởng rằng cô đang rầu rĩ gày mòn đi vì thương nhớ bố. Đêm đến, bọn đầy tớ gái thường nghe tiếng cô đi lại, khóc thút thít trong căn phòng riêng bé tý ở nhà dưới: nhưng cô khóc vì tức giận, chứ không phải vì buồn phiền. Trước kia cô cũng không khéo giả vờ lắm, nhưng bây giờ sự cô độc đã dạy cô giả dối rất tài.

Chưa bao giờ cô được gần gũi giới phụ nữ. Bố cô có nhiều tật xấu nhưng lại có tài; so với đám đàn bà con gái cô gặp ở đây thì câu chuyện của ông ta nghe thú vị hơn gấp nghìn lần. Thói phô trương trịnh trọng của bà hiệu trưởng già, tính vui vẻ nhưng ngớ ngẩn của cô em bà, những câu chuyện vớ vẩn và thói ngồi lê đôi mách của các cô học trò lớn, rồi cả cái điệu bộ đạo mạo cứng nhắc của mấy bà giáo...cô thấy khó chịu vì tất cả những chuyện ấy quá. Cô gái không may này lại cũng không có tâm hồn dịu dàng của một người mẹ, thành ra những tiếng trò chuyện ríu rít của bầy trẻ con mà cô có nhiệm vụ săn sóc cũng không thể khiến cô chú ý và an ủi được cô một phần nào. Tuy vậy cô cũng đã sống chung cùng họ hai năm trời; khi cô ra đi, chẳng một ai lấy điều đó làm phiền lòng. Riêng đối với Amelia Sedley, người thiếu nữ có tâm hồn dịu dàng kia, cô còn thấy gắn bó đôi chút; ai mà cảm thấy mình không gắn bó với Amelia cho được? Thấy các cô gái trẻ sống chung có hạnh phúc hơn mình, nhiều phen Rebecca uất lên vì ghen tức. Rebecca gièm một cô thế này: nó cậy mình là cháu ông bá tước, làm bộ làm tịch quá. Thiên hạ còng lưng xuống mà lạy con bé lai đen kia, chẳng qua vì nó có số vốn mười vạn đồng bảng? Mình còn thông minh gấp nghìn lần; lại xinh đẹp hơn nó; giầu có mà làm gì! So với cháu gái ông bá tước, mình có thua kém về mặt giáo dục đâu. Dòng với chả dõi?

Thế mà ở đây thiên hạ chả thèm để ý gì đến mình. Hồi mình còn ở nhà với bố, bọn đàn ông chẳng đã bỏ cả những cuộc hội họp khiêu vũ vui vẻ nhất cốt được gần mình một buổi tối là gì?

Thế là cô quyết định phải thoát khỏi chốn lao tù này bằng bất cứ cách nào; bây giờ phải bắt đầu hành động ngay cho quyền lợi của bản thân mình; lần đầu tiên Rebecca lập những chương trình xây dựng tương lai.

Vì vậy, cô hết sức lợi dụng những điều kiện học tập trong nhà trường; vốn đã có sẵn khả năng về môn âm nhạc và tiếng Pháp, nên cô tiến bộ rất nhanh trong khóa học ngắn ngủi thời đó coi như cần thiết cho những thiếu nữ con nhà dòng dõi. Cô tập âm nhạc rất chuyên cần. Một hôm, các bạn học đi chợ hết, riêng mình Rebecca ở lại nhà.

Nghe thấy cô chơi một bài nhạc hay quá, bà Minerva khôn ngoan tính toán ngay rằng có thể hà tiện món tiền thuê ông giáo dạy nhạc cho đám học trò bé được đấy, nên bảo bà riêng cô Sharp rằng từ nay trở đi cô sẽ dạy chúng về khoa âm nhạc.

Lần đầu tiên cô gái dám không tuân lệnh trên khiến cho bà hiệu trưởng ngạc nhiên quá. Rebecca nói thẳng:

- Bà mướn tôi để nói tiếng Pháp cho bọn trò nhỏ nghe, chứ không phải để dạy chúng âm nhạc và tiết kiệm hộ bà. Muốn tôi dạy chúng, bà trả tôi thêm tiền.

Bà Minerva đành chịu thua: dĩ nhiên từ bữa ấy, bà ghét cay ghét đắng Rebecca. Bà nói một cách rất có lý rằng: “Ba mươi lăm năm nay, lần này tôi mới có kẻ dám cưỡng lại quyền tôi ngay trong nhà này. Thì ra tôi nuôi ong tay áo” ().

Nghe bà lão đang suýt chết ngất vì ngạc nhiên nói vậy, cô Sharp đáp:

- “Nuôi ong tay áo...” lạ nhỉ? Bà nuôi tôi vì tôi được việc cho bà. Giữa bà và tôi, không làm gì có chuyện ơn huệ. Tôi thù ghét nơi này, tôi chỉ muốn đi chỗ khác. Ở đây tôi chỉ làm những việc gì tôi bắt buộc phải làm thôi.

Bà già hỏi lại cô ta rằng cô biết là đang nói với bà Pinkerton không; cũng vô ích. Rebecca cười vào giữa mặt bà lão; cái cười mỉa mai độc địa một cách đáng sợ, khiến bà hiệu trưởng suýt nữa phát điên. Cô nói:

- Bà hãy trả tiền công rồi cứ tống khứ tôi đi cũng được. Hoặc bà kiếm cho tôi một chân dạy trẻ trong một gia đình quyền quý nào đó, tùy ý bà.

Rồi cứ mỗi khi hai người cãi cọ nhau cô lại nói:

- Bà tìm việc làm cho tôi đi...tôi với bà chẳng ưa gì nhau đâu; tôi sẵn sàng rời bỏ nơi này.

Dẫu bà Pinkerton đáng kính có cái mũi La mã, lại đội cả khăn, vóc dáng to béo như một cái chum và từ xưa đến nay vẫn được coi như một bà hoàng không ai dám cưỡng lại, nhưng bà cũng không có đủ sức mạnh ý chí bằng cô gái bé nhỏ tập sự này. Chống lại cô hoặc muốn uy hiếp cô ư? Vô hiệu. Một lần bà định tâm mắng cô trước mặt mọi người, liền bị Rebecca tấn công lại bằng cách dùng tiếng Pháp trả lời; thế là bà lão thất bại to. Vậy rõ ràng muốn duy trì uy quyền của mình trong trường, nhất định phải tống cái quân phiến loạn, cái con quỷ cái, cái con rắn độc, cái quân quấy rối này đi nơi khác mới xong. Nghe nói gia đình tôn ông Pitt Crawley hồi này đang cần một người dạy trẻ, bà bèn giới thiệu ngay cô Sharp đến đảm nhiệm việc đó, mặc dầu cô là con rắn độc, là đồ quấy rối.

Bà nói:

- Quả thực, tôi không thể thấy cô Sharp có lỗi gì trong cách ăn ở, trừ đối với riêng tôi. Tôi phải công nhận rằng cô là người có tài năng đáng chú ý. Cô ta đi làm ở đâu rồi cũng sẽ gây được tín nhiệm cho phương pháp giáo dục của trường tôi.

Nhân việc giới thiệu này, bà hiệu trưởng đã làm lành với chính lương tâm mình. Thế là tờ hợp đồng bị hủy bỏ, và cô giáo tập sự được tự do. Cuộc đấu tranh vừa tả ở trên bằng một vài dòng, trong thực tế đã diễn ra suốt vài tháng trời. Cô Sedley bây giờ đã mười bảy tuổi, cũng sắp sửa ra trường; cô lại là bạn thân của Sharp. Bà Minerva vẫn nói: “Trong cách cư xử của Amelia, chỉ có mỗi điều đó là khiến bà giáo không được hài lòng”.

Trước khi Rebecca nhận nhiệm vụ dạy trẻ cho một gia đình tư nhân, cô được Amelia mời về chơi nhà một tuần.

Cuộc đời đã bắt đầu với hai cô thiếu nữ như vậy. Đối với Amelia, cuộc đời hoàn toàn mới mẻ, tươi tắn sáng sủa và vô cùng rực rỡ như hoa xuân. Đối với Rebecca cuộc đời không phải là hoàn toàn mới (Thật vậy, nếu muốn nói cho đúng sự thực về việc cậu Crisp, thì phải nghe lời mụ bán bánh quả. Mụ nói ý với người khác; người này lại cam kết với người khác nữa rằng câu chuyện giữa cậu Crisp và cô Sharp “ở trong còn lắm điều hay” chưa được công bố, rằng lá thư của cậu ấy là để trả lời một lá thư khác). Song về chuyện này, ai có thể nói cho thật đúng sự thực? Tóm lại, nếu Rebecca không phải là mới bắt đầu cuộc đời, thì cô ta đang bắt đầu lại cuộc đời vậy.

Lúc này hai cô thiếu nữ đã đi đến chỗ địa đầu thị trấn Kensington, có gióng gỗ chắn ngang. Một sĩ quan khinh vệ binh trẻ tuổi phóng ngựa qua, liếc nhìn Amelia tấm tắc khen: “Chao ôi, cô ả đẹp quá!”. Amelia nghe tiếng, tuy không quên mất bạn, nhưng cũng chấm khô nước mắt, đỏ ửng mặt lên và thấy lòng hân hoan. Trong khi xe đang lăn bánh đến công viên Russell thì hai cô đang chuyện trò tíu tít về căn phòng khách, về chuyện khi được giới thiệu với khách lạ, các cô thiếu nữ có nên đánh phấn và mặc váy phồng hay không, và không biết Amelia có cái vinh dự lớn lao ấy không: cô biết rằng mình sẽ được đến dự buổi dạ hội ở nhà viên thị trưởng.

Xe về đến nhà, Sambo đỡ Amelia Sedley nhảy xuống, trông cô vui sướng và xinh đẹp như bất cứ một cô thiếu nữ nào của thành phố Luân đôn rộng lớn này. Sambo và bác xà ích, cả hai đồng ý với nhau về điểm trên; cha mẹ cô cùng toàn thể gia nhân trong nhà cũng thấy như vậy. Họ đứng trong căn phòng lớn, người mỉm cười cúi rạp xuống, người nghiêng đầu chào cô tiểu chủ của họ.

Xin các bạn cứ yên trí rằng Amelia đã dẫn Rebecca đi xem tất cả các gian phòng trong nhà, lại mở mọi ngăn kéo riêng ra cho cô xem đồ vật đựng ở trong, rồi khoe với bạn nào là sách, đàn dương cầm, quần áo, vòng cổ, ghim băng, dây ăng ten và đủ các thứ lặt vặt khác nữa; cô cứ nài Rebecca phải nhận bằng được mấy cái nhẫn bằng bạch mã não và bằng ngọc Thổ-nhĩ-kỳ, cả một tấm áo bằng “voan” mỏng rất đẹp, lấy cớ rằng tấm áo này bây giờ cô mặc hơi chật mà bạn cô mặc thì vừa xinh; cô lại định tâm xin mẹ cho phép được khoe với bạn tấm khăn san bằng lụa Cashmere trắng của cô, vẫn để dành rất cẩn thận; Joseph anh trai cô đã mua từ Ấn Độ về cho em đã nói rất thành thực rằng: “Có một ông anh trai thực là thú vị”. Cô Amelia có tâm hồn hiền hậu dịu dàng thấy Rebecca côi cút trơ trọi giữa cuộc đời, không thân thích không bè bạn, lấy làm động tâm vô cùng, Amelia nói:

- Không sợ trơ trọi đâu, Rebecca ạ. Em sẽ là bạn của chị mãi mãi, em sẽ yêu quý chị như chị em ruột, thật đấy.

- À, nhưng chị có hai bác giầu có nuông chiều chị, muốn gì được nấy; hai bác yêu thương chị, điều này quý báu hơn cả. Ngày trước, cha em chả có gì cho em: suốt đời em chỉ có hai cái áo để mặc thay đổi. Chị lại còn một ông anh, một ông anh thân mến. Chắc chị quý anh ấy lắm nhỉ!

Amelia cười, không đáp.

- Thế nào, chị không quý anh ấy à? Chị bảo rằng ai chị cũng quý cơ mà?

- Dĩ nhiên, có chứ...nhưng...

- Nhưng sao?

- Nhưng hình như anh Joseph không chú ý lắm đến chuyện em có quý anh ấy hay không thì phải. Sau mười năm xa cách, gặp lại nhau, anh ấy chìa hai ngón tay cho em bắt! Anh ấy tốt lắm, nhưng ít khi chuyện trò với em. Có lẽ anh ấy quý cái tẩu của anh ấy hơn cả...

Amelia vội ngừng lại, vì cô nghĩ sao mình lại nói xấu anh mình nhỉ? Rồi tiếp:

- Hồi em còn bé anh ấy đối với em dịu dàng lắm. Khi anh ấy ra đi, em mới lên năm tuổi.

Rebecca hỏi:

- Anh ấy có giầu lắm không? Họ đồn rằng những ông Nabobb() ở Ấn Độ lắm của lắm.

- Chắc anh ấy thu hoạch đồng niên cũng lớn.

- Thế chị dâu của chị có đẹp không?

Amelia lại cười đáp:

- Ô, anh Joseph đã lấy vợ đâu.

Hình như cô đã nói chuyện này với Rebecca rồi, nhưng cô bạn trẻ tuổi có vẻ không nhớ ra. Cô nhất định cãi rằng lần này mình đã định bụng đến xem mặt các cháu giai, cháu gái thân yêu của Amelia. Anh Joseph chưa vợ, thế thì cô bực mình quá, vì cô yên trí rằng Amelia hơi ngạc nhiên thấy tính tình bạn đột nhiên dịu dàng hẳn đi; cô nói:

- Em cứ tưởng chị đã chán ngấy trẻ con hồi ở Chiswick rồi?

Kể ra thì mấy hôm nay cô Sharp chẳng nên tỏ bày những ý kiến mà người ta rất dễ dàng thấy là giả dối thì mới phải. Song ta nên nhớ rằng cô mới mười chín tuổi, chưa quen với nghệ thuật dối trá, con người ngây thơ đáng thương thay! Cô còn đang lấy bản thân mình ra để rút kinh nghiệm trong cuộc sống. Tất cả những câu hỏi tò mò trên, trong thâm tâm cô gái tinh quái này, chỉ có ý nghĩa đơn giản như sau: “Nếu anh Joseph Sedley giầu, lại chưa có vợ, sao mình không lấy quách anh ấy? Mình chỉ ở đây có nửa tháng thật, nhưng cứ thử một tý cũng chẳng sao cơ mà”. Thế là trong thâm tâm cô quyết định sẽ thực hiện việc thử thách quý hóa này. Cô bèn ra sức vuốt ve Amelia hơn, khi đeo chiếc vòng hồng mã não, cô hôn nó, thề rằng sẽ không bao giờ, không bao giờ rời bỏ nó. Chuông điểm giờ ăn, cô vòng tay ôm lưng bạn bước xuống thang gác, hệt kiểu những cô thiếu nữ con nhà quyền quý. Đến cửa phòng khách, cô bồi hồi quá, đến nỗi gần như không đủ can đảm bước vào. Cô bảo bạn:

- Chị thân yêu ơi, hãy sờ ngực em xem, sao tim đập mạnh thế này?

Amelia đáp:

- Không, có đập mạnh đâu. Cứ vào đi, đừng sợ. Ba em quý chị lắm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3


REBECCA TRƯỚC KẺ ĐỊCH

Lúc hai cô thiếu nữ bước vào phòng thì thấy một người đàn ông đang ngồi đọc báo cạnh lò sưởi.

Người này to béo phục phịch mặc quần da nai thuộc, đi ủng cao, cổ áo đính bao nhiêu là đăng-ten che gần đến mũi; anh ta mặc một áo gi-lê có sọc đỏ, và một tấm áo khoác màu xanh da táo, có những chiếc khuy đồng to tướng bằng đồng “cơ-rao”, (ấy là lối phục sức buổi sớm theo “mốt” ăn diện của các cậu công tử hồi đó). Thấy hai cô hiện ra, anh chàng vội nhảy bật ra khỏi chiếc ghế bành, mặt mũi đỏ ra, và gần như giấu kín mặt mình trong đám đăng ten đính trên cổ áo. Amelia cười, nắm lấy hai ngón tay anh trai giơ ra nói:

- Em gái của anh đây mà. Em đã trở về nhà thực sự rồi đây nhé; còn đây là bạn em, chị Sharp. Em đã có lần nói chuyện với anh về chị ấy.

Cái đầu trong đám đăng ten vội lắc quầy quậy đáp:

- Có đâu? Bao giờ? Tôi xin thề...nghĩa là…vâng...thưa cô, gớm, trời lạnh quá.

Rồi anh ta vội cúi xuống ra sức mà cời lửa trong lò sưởi, mặc dầu tiết trời đang giữa tháng sáu.

Rebecca thì thầm hơi to với Amelia:

- Anh ấy đẹp trai quá nhỉ?

Amelia đáp:

- Chị thấy thế à? Em bảo với anh ấy nhé?

Sharp vội co người lại, như một con thú rừng sợ hãi nói.

- Ấy chớ, chị thân yêu; đừng đấy.

Lúc trước cô ta đã kính cẩn nghiêng mình chào cậu công tử một cách đúng kiểu gái trinh, đôi mắt e lệ cứ nhất định ngó chăm chăm xuống tấm thảm; không biết sao cô ta lại có dịp nhìn được mặt anh chàng.

Amelia nói với ông anh đang cời lửa:

- Anh ơi, cảm ơn anh cho em đôi khăn san đẹp quá. Có đẹp không, chị Rebecca?

- Ô, đẹp tuyệt trần đời.

Sharp đáp và đưa mắt nhìn từ tấm thảm sang đôi đèn trên lò sưởi.

Joseph vẫn tiếp tục loay hoay kỳ cạch với chiếc que cời và cái gắp than vừa phồng má thổi lửa phù phù, bộ mặt vàng khè không thể nào đỏ ửng hơn được. Cô em gái nói tiếp :

- Anh Joseph ạ, em không tặng anh được những quà đẹp đến thế đâu; nhưng hồi còn ở trường, em đã thêu cho anh một đôi quai đeo quần đẹp lắm cơ.

Ông anh vội kêu lên, vẻ mặt hoảng hốt thực sự.

- Trời ơi! Amelia, em định nói cái gì thế?

Anh chàng nhảy xổ tới với lấy cái dây chuông, lúng túng mãi không nắm được; trông điệu bộ anh chàng hiền lành lại càng thêm vẻ bối rối.

- Lạy chúa, nhìn hộ anh xem chiếc “bớc-ghi” () có ngoài cửa không. Không sao đợi được nữa; anh phải đi thôi. Cái thằng hầu khốn nạn. Anh phải đi đây.

Vừa lúc đó ông bố bước vào, vừa đi vừa lúc lắc mấy chiếc chìa khoá, rõ ra kiểu một ông nhà buôn người Anh.

Ông hỏi:

- Emmy, cái gì thế?

- Anh Joseph bảo con xem hộ cái...cái “bớc-ghi” có ngoài cửa không? Cái “bớc-ghi” là cái gì thế, ba?

Ông lão cũng ưa khôi hài đáp:

- Ấy là “cái xe một ngựa”.

Nghe bố nói, Joseph cười phá lên. Đang cười gặp ngay đôi mắt của Sharp, anh chàng tịt mất, y như bị một phát đạn chết đứng.

- Cô này là bạn của con à? Cô Sharp, tôi rất sung sướng được gặp cô. Cô và Emmy đang cãi nhau với Joseph hả; sao nó lại muốn bỏ đi?

Joseph đáp:

- Thưa cha, con đã hứa đi dùng cơm với Bonamy, bạn đồng sự của con.

- Ồ, thôi. Anh đã bảo với mẹ anh rằng anh ăn cơm ở nhà cơ mà?

- Nhưng…ai lại ăn mặc thế này?

- Cô Sharp, thử nhìn nó xem. Có phải nó diện cũng khá bảnh, có thể ăn cơm bất cứ đâu không?

- Dĩ nhiên - cô Sharp nhìn bạn và cả hai cùng phá ra cười làm cho ông già rất thú vị. Thấy câu nói đùa được tán thưởng, ông hỏi tiếp:

- Đã bao giờ cô trông thấy một đôi ủng như thế kia ở trường bà Pinkerton chưa?

Joseph kêu lên:

- Trời đất ơi!

- Đấy, đấy! Tôi đã làm nó phát tức lên đấy. Bà Sedley thân yêu của tôi ơi, tôi làm mếch lòng con trai bà đây này. Tôi vừa nhắc đến chiếc quần da nai thuộc của nó. Có phải không, cô Sharp. Thôi lại đây Joseph; lại đây làm quen với cô Sharp, rồi chúng ta đi ăn cơm thôi.

- Có món “pi-lô” () nấu đúng theo ý thích của anh, ba lại mang về một con cá chim ngon nhất Billingsgate.

- Xuống đi, xuống ăn thôi; anh dẫn cô Sharp xuống nhà. Tôi sẽ đi theo cùng hai cô tiểu thư này đây.

Ông bố nói vậy rồi khoác tay vợ và con gái vui vẻ bước ra khỏi phòng.

Nếu Rebecca Sharp đã quyết định trong thâm tâm phải chiếm bằng được trái tim của anh chàng đẹp trai hộ pháp kia thì, thưa các bà, tôi cho rằng ta không có quyền trách cô; vì tuy rằng nói chung các cô gái trẻ thường giao việc săn chồng cho các bà mẹ phụ trách hộ, và tiến hành một cách kín đáo phải chăng, nhưng ta phải nhớ rằng cô Sharp không có một người bà con nào thương yêu cô và đỡ đần hộ cô trong công việc tế nhị này. Nếu cô không đích thân lo lấy một tấm chồng, thì trong cái thế giới bao la này cũng chẳng có một ai cất hộ cho cô cái gánh lo ấy. Thử hỏi tại sao bọn gái trẻ hay đi lượn phố, nếu không phải vì họ có ước vọng cao quý được làm mẹ? Ai lùa họ tụ tập hàng đàn tại những bể bơi? Ai bắt họ khiêu vũ đến năm giờ sáng suốt mùa đông? Ai buộc họ phải chúi mũi vào mà tập đàn dương cầm để chơi những bài sonate, phải cầu kỳ học lấy độ bốn bài hát và chịu trả công ông thầy dạy nhạc những một ghi-nê một bài, và nếu họ có đôi cánh tay đẹp, đôi khuỷu tay sạch sẽ thì họ chơi thụ cầm? Ai bắt họ phải chụp những chiếc mũ có đính lông chim lên đầu nếu không phải vì muốn lấy những thứ cung tên vừa kể trên để “hạ” một anh chàng trẻ tuổi “đáng yêu” nào đó? Ai bắt các bậc cha mẹ đáng kính phải cho lật hết thảm, đảo lộn hết trật tự trong nhà và tiêu đến một phần năm số thu hoạch hàng năm vào những bữa tiệc có khiêu vũ và rượu sâm banh ướp đá? Chỉ vì họ thích thế, hoặc chỉ vì họ muốn con cái họ nhảy múa cho vui nhà vui cửa chăng? Xin thưa rằng họ muốn “cưới chồng” cho con gái đấy. Trong thâm tâm bà Sedley thực thà kia cũng đã sắp đặt đến nửa tá kế hoạch hạnh phúc cho cô Amelia của bà. Vậy thì dĩ nhiên cô Rebecca đáng yêu sống trơ trọi của chúng ta cũng phải nỗ lực kiếm cho mình một tấm chồng chứ. Cô cần có ngay một người chồng, còn cấp bách hơn cả bạn cô nữa. Trí tưởng tượng của cô khá phong phú; cô lại đã đọc qua truyện Nghìn lẻ một đêm và sách địa lý của Guthrie. Sự thực là trong khi đang mặc áo để dự tiệc, và sau khi đã hỏi Amelia xem anh cô này có giàu không, Rebecca đã xây dựng ngay một chiếc lâu đài huy hoàng nhất trên bãi cát rồi; trong tòa lâu đài đó cô sẽ là bà chúa, còn đức ông chồng thì đại khái là đóng vai phụ (vì cô cũng chưa nhìn kỹ anh ta, nên mặt anh ta thế nào cũng không thể tưởng tượng cho thực rõ được). Cô đã tự trang sức cho mình bằng đủ mọi thứ khăn san, khăn quấn đầu, vòng cổ bằng kim cương, và cô đã cưỡi trên lưng một con voi để đi thăm viếng ngoại giao viên phó vương Ấn Độ trong tiếng kèn hành khúc của nhạc binh. Những ảo ảnh thần tiên hấp dẫn biết bao? Riêng tuổi trẻ có quyền xây dựng cho ta những ảo ảnh ấy, và ngoài Rebecca, còn biết bao cô cậu trẻ tuổi giàu trí tưởng tượng đã để cho tâm hồn mình bay theo những giấc mộng ban ngày thú vị đó.

Joseph Sedley hơn Amelia những mười hai tuổi. Anh ta tòng sự tại sở hành chánh trong công ty Đông Ấn Độ. Vào khoảng thời gian đang xảy ra câu chuyện này, tên anh ta có ghi trong sổ danh bạ của khu Bengal thuộc Đông Ấn Độ, với tư cách là ủy viên tài phán () quận Boggley Wollah; ai cũng biết chức vụ này là một chức vụ đáng kính và tốt bổng. Muốn biết Joseph còn leo lên tận những chức vụ nào cao hơn, mời các bạn hãy giở tài liệu nói trên ra mà tra cứu Quận Boggley Wollah thuộc một vùng phong cảnh đẹp, song heo hút, nhiều đầm lầy và rừng rậm, nổi danh vì người ta hay đến đấy bắn rắn và nhiều khi gặp cả hổ. Thị trấn Ramgunge có cả một tòa án chỉ cách đó bốn mươi dặm; và xa hơn, khoảng ba mươi dặm nữa, là nơi đồn trú của một đội khinh kỵ binh. Joseph viết thư về kể chuyện với cha mẹ như vậy, khi anh ta nhận nhiệm vụ ủy viên tài phán. Anh ta đã sống khoảng tám năm trời, hoàn toàn trơ trọi giữa nơi phong cảnh kỳ thú này, năm thì mười họa mới gặp một người da trắng, không kể mỗi năm hai lần, khi đội kỵ binh đến để chuyển số thu hoạch của công ty về Calcutta.

May làm sao, hồi này anh ta lại đang đau gan, phải về Âu Châu chữa bệnh. Được về quê cha đất tổ anh ta thích lắm. Ở Luân Đôn, Joseph không sống chung với gia đình, mà thuê nhà riêng như một anh chàng chưa vợ yêu đời.

Trước khi sang Ấn Độ, Joseph còn bé quá chưa được nếm mùi cuộc sống thú vị của một chàng trai thành thị, cho nên khi về nước, anh ta lao vào những thú chơi ấy một cách thật say sưa. Joseph tự mình giong lấy xe khi đi chơi ở công viên, dùng bữa tại những tửu quán sang trọng (hồi ấy câu lạc bộ Đông phương chưa được tổ chức); anh ta thường lui tới các rạp hát theo phong tục đương thời, và mỗi khi đến rạp Opera lại hì hục mặc bằng được chiếc quần chẽn, và đội một chiếc mũ bẻ vành tam giác.

Khi quay về Ấn Độ, và mãi mãi sau này nữa, anh ta thường say sưa kể lại những thú vui trong khoảng thời gian sống ở Anh, và muốn bắt mọi người phải hiểu rằng anh ta và Brummel là hai con hươu đầu đàn thời đó. Song ở đây, Joseph cũng cô độc như ở giữa rừng rậm Boggley Wollah.

Hầu như anh ta chẳng quen thuộc ai ở kinh đô, và nếu không có ông bác sĩ, không có các viên thuốc xanh lè và cái bệnh đau gan làm bạn thì có lẽ anh ta đến chết vì cô độc.

Anh ta lười biếng, hay gắt song cũng vui tính (), và hễ thấy con gái là sợ co rúm người lại. Vì thế thỉnh thoảng anh ta mới lại thăm cha ở khu phố Russell; - ở đấy vui thì vui thật, nhưng những câu nói đùa của ông bố già hay bông lơn thường làm cho anh ta bị chạm tới “lòng tự ái”(). Thấy mình to béo, Joseph rất lấy làm lo nghĩ; thỉnh thoảng anh ta lại cố tìm mọi cách tống bớt cái đám mỡ thừa trong người, song thói lười biếng, và tính ưa ăn ngon lại sớm thắng ngay những sự cố gắng cải cách con người của anh ta; thế là đâu lại vào đấy; mỗi ngày đủ ba bữa. Chưa bao giờ Joseph ăn mặc cho được ra hồn, nhưng anh ta vất vả vô cùng trong việc trang điểm tấm thân phì nộn của mình, mỗi ngày mất vào đó vô khối thì giờ. Thằng hầu nhờ tủ áo của anh ta mà làm giàu; bàn rửa mặt của anh ta chất đầy những lọ sáp và nước hoa, y như của một bà già hay làm đỏm. Muốn cho thân thể thon hại, Joseph đã thử dùng đủ mọi thứ dây lưng, áo chẽn được sáng chế ra trong thời đó.

Cũng như đa số các ông béo phị, anh ta thích may áo bó thật khít lấy người, mà phải cắt kiểu nào cho thật trẻ trung, màu sắc phải thật rực rỡ mới được. Chiều đến “lên khung” đâu vào đấy anh ta mới giong xe đi chơi một mình ở tiệm ăn Piazza. Tính Joseph đỏm dáng như con gái, mà có lẽ tại anh ta đỏm dáng như con gái, nên mới sinh ra nhút nhát cũng quá đáng. Nếu Rebecca thắng được anh chàng ngay lúc mới đặt chân vào cuộc đời thì quả thật trí thông minh của cô ta không phải là tầm thường.

Miếng đòn đầu tiên đã tỏ ra vô cùng lợi hại. Khi cô bảo rằng Sedley đẹp trai lắm, cô biết thế nào Amelia cũng nói với mẹ; bà mẹ lại có thể kể với Joseph; biết đâu bà chẳng vui thích vì thấy con trai mình được khen. Bà mẹ nào mà chẳng thế. Giả thử bạn bảo với Sycorax rằng con trai mụ là Caliban () đẹp như thiên thần Apollo (), có nhẽ mụ cũng thích, dù rằng mụ là phù thủy.

Hình như Joseph cũng thoáng nghe thấy thì phải, Rebecca nói khá to - nhất định anh ta có nghe thấy; vốn vẫn tự cho mình là bảnh trai, Joe thấy lời khen ngợi làm rung động từng thớ thịt trong người, khiến cho nó căng lên vì khoái trá. Song anh ta lại chùn bước ngay vì nghĩ thầm: “Nhỡ cô ả nói xỏ mình thì sao?” Thế là anh ta vội nhảy đến kéo cái dây chuông để chuồn như ta đã biết. Vừa hay, những câu bỡn cợt của bố và những lời năn nỉ của mẹ khiến anh dừng lại chịu ngồi nguyên chỗ cũ.

Joseph dẫn cô thiếu nữ trẻ tuổi xuống gác dùng cơm mà trong bụng cứ phân vân, áy náy; “Không biết có thật cô ta cho mình là đẹp trai không, hay là nói thế để xỏ mình nhỉ?” Đã bảo rằng Joseph Sedley hay làm đỏm như con gái mà lại. Lạy Chúa tôi! Nhưng các cô gái lại đảo ngược câu nói khi kháo chuyện với nhau thế này: “Chị ta hay làm đỏm như một anh đàn ông”; mà họ nói vậy cũng rất có lý.

Đám mày râu chúng ta vốn rất ưa được tán tụng, lại cũng rất cầu kỳ trong cách phục sức, rất kiêu ngạo về những ưu điểm của bản thân, rất quan tâm đến sự hấp dẫn của chính mình, có kém gì bất cứ cô gái đỏm dáng nào trên đời này đâu?

Thế là hai người bước xuống thang gác; mặt Joe đỏ dừ; Rebecca thì tỏ ra rất kín đáo đôi mắt xanh của cô ta cứ nhìn chăm chú xuống đất. Cô ta mặc áo trắng, để lộ đôi vai trần trắng muốt như tuyết đọng; thật là một bức tranh của tuổi thanh xuân, của sự ngây thơ trong trắng yếu đuối, của sự giản dị kín đáo và trinh bạch. Rebecca nghĩ bụng:

- Mình phải rất điềm tĩnh và phải hết sức chú ý đến Ấn Độ mới được.

Chúng ta biết rằng bà Sedley đã nấu cho con trai một món ca-ry đúng theo sở thích của con. Trong bữa ăn, Rebecca được mời dùng một ít. Cô hỏi:

- Món gì đây nhỉ? Rồi đưa mắt van vỉ nhìn Joseph.

- Tuyệt lắm, má ạ. Ngon chẳng kém gì ca-ry con ăn ở Ấn Độ.

Joseph, mồm đầy những ca-ry mặt đỏ tía vì đã khoan khoái nốc bao nhiêu rượu.

Rebecca bèn nói:

- Ồ, nếu là một món ăn Ấn Độ thì em phải ăn thử một tý mới được. Em tin chắc rằng cái gì của Ấn Độ cũng phải tốt.

Ông cụ Sedley vừa cười vừa bảo:

- Con ơi, tiếp cô Sharp một ít ca-ry.

Lúc trước Rebecca chưa hề đụng đến món này. Ông cụ lại hỏi:

- Cô có thấy tốt như bất cứ thứ gì của Ấn Độ không?

Rebecca đang chết dở vì ớt cay nhưng cũng gượng đáp:

- Thưa, ngon tuyệt.

Joseph thú vị lắm, nói:

- Cô Sharp, dùng thử một chút “chi-ly” xem.

- Món “chi-ly” ạ? Xin vâng.

Rebecca đáp vậy, nhưng mồm vẫn cứ há ra vì cay.

Cô ta nghĩ bụng tên là “chi-ly” thì món ăn này chắc phải hơi lạnh (), và được tiếp một ít.

- Trông xanh và tươi quá nhỉ.

Vừa nói cô vừa ăn một miếng, không ngờ còn cay hơn ca-ri; không sao chịu đựng được nữa, cô bỏ chiếc đĩa xuống bàn, kêu lên:

- Nước! Lạy Chúa, cho tôi tí nước?

Ông cụ Sedley cười phá ra, (tính ông lão vốn thô kệch, quen như ở Phòng Hối đoái, thích đùa cợt tự do); ông nói:

- Tôi cam đoan với cô, chính cống Ấn Độ đấy. Sambo, lấy nước cho cô Sharp đây.

Joseph cũng cười theo; anh chàng cho trò đùa của cha là rất lý thú. Mấy người đàn bà chỉ hơi mỉm cười. Họ đang thương hại cô, Rebecca. Thật ra cô này muốn bóp cổ ông lão chết tươi, nhưng cô cố nuốt mối hận như cô đã nuốt món ca-ry ghê gớm lúc nãy. Lúc bắt đầu nói được nên lời, cô ta lấy bộ vui vẻ bảo:

- Tôi lại nhớ đến món ớt nàng Công chúa Ba-tư bỏ vào bánh kem trong truyện “Nghìn lẻ một đêm”. Ở Ấn Độ anh có cho ớt vào bánh kem không?

Ông cụ Sedley lại cười cho là Rebecca rất vui tính.

Nhưng Joseph chỉ đáp:

- Bánh kem hả cô? Ở Bengal, kem tồi lắm. Thường chúng tôi phải dùng sữa dê; thế mà, cô có biết không, dần dần tôi lại đâm thích cơ đấy.

Ông lão xen vào:

- Cô Sharp, bây giờ thì cô không thích mọi thứ Ấn Độ nữa chứ?

Lúc đám đàn bà con gái đã ra khỏi phòng, ông lão khôn ngoan bảo con trai:

- Này Joe coi chừng. Cô ả đang muốn chài anh đấy.

Joe khoái quá đáp:

- Dào ôi! Làm gì có chuyện ấy. Ba ạ, con còn nhớ ở Dumdum có con gái ông Cutler trong đội pháo binh sau này cô ta lấy lão Lance làm thày thuốc. Năm 1804 lão này làm cho con và thằng Mulligatawney suýt chết; cái thằng Mulligatawney quỷ sứ mà con nói chuyện với ba trước bữa ăn ấy mà; hắn đang làm quan tòa ở Budgebudge, năm năm nữa thế nào nó cũng vào được Quốc hội. Thật ấy, ba ạ: một lần đội pháo binh tổ chức một buổi dạ hội khiêu vũ. Quintin trong trung đoàn Hoàng gia thứ 14 bảo con: “Sedley, tớ cuộc với cậu mười ba ăn mười rằng thế nào con Sophy Cutler cũng câu được hoặc cậu hoặc thằng Mulligatawney trước mùa mưa đấy”. Con mới bảo: “Được rồi”; Ô kìa, ba ơi...gớm thứ rượu này ngon quá nhỉ? Hãng Adamson hay Carbonell thế này?

Chỉ có tiếng ngáy nhè nhẹ trả lời: ông lão buôn cổ phiếu thật thà đã ngủ say; thế là đoạn cuối câu chuyện của Joseph hôm ấy phải bỏ dở. Tuy vậy mà trước mặt đàn ông anh ta rất hay chuyện; anh ta đã kể câu chuyện thú vị này mấy chục lần cho bác sĩ Gôlôp nghe mỗi khi đến mua thuốc và nhờ ông thăm hộ lá gan.

Vốn đang mang bệnh, nên Joseph Sedley mỗi bữa trưa chỉ dùng có một chai rượu vang đỏ kèm một chai ma-đê- ra, và chỉ ăn gọi là có hai đĩa đầy dâu quả trộn kem, kèm theo thêm độ hai tá bánh nướng nhỏ nằm chỏng trơ trong một cái đĩa đặt gần anh ta. Và chắc anh ta đang tơ tưởng đến cô gái ở trên gác (vì các nhà tiểu thuyết vẫn có đặc quyền biết tất cả mọi sự). Anh chàng nghĩ bụng: “Cô bé kháu khỉnh, trông tươi quá, lại vui tính nữa. Lúc ăn cơm, mình nhặt hộ cô ta cái khăn tay, con mắt cô ta nhìn mình mới thú chứ. Lại đánh rơi khăn tay những hai lần. Ai đang hát trong phòng khách thế nhỉ? Ờ, hay là ta lên xem sao?” Nhưng tính dút dát kìm giữ anh chàng lại, không sao thắng nổi. Ông bố ngủ say rồi; mũ thì treo trong phòng lớn.

Ngoài phố Southampton, có một chiếc xe ngựa đỗ.

- Mình phải đi coi vở kịch “Bốn mươi thằng kẻ cắp”, và xem đào Decamp nhảy mới được.

Anh ta không đánh thức ông bố quý hóa dậy, kiễng chân đi rón rén trên mũi đôi ủng, cứ thế len lén biến mất.

Trong lúc Rebecca đang chơi dương cầm, Amelia ngó qua cửa sổ phòng khách bảo:

- Kìa, anh Joseph đi kìa!

Bà Sedley đáp:

- Tại cô Sharp làm cho nó sợ đấy. Cái thằng Joe đáng thương. Sao nó dút dát quá thế nhỉ?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4


CÁI TÚI LỤA XANH

Anh chàng Joe đáng thương mất vía đến hai ba ngày. Trong khoảng thời gian đó, anh ta không đi lại nhà bố mẹ, mà Rebecca cũng không nhắc đến tên anh chàng. Cô chỉ tỏ ra hết sức biết ơn và lễ độ với cô Sedley; được cô thiếu nữ tốt bụng này đưa đi thăm các quầy hàng tạp hóa, cô thích quá, và giả vờ làm như ngạc nhiên vô cùng khi được bước chân vào rạp hát. Một bữa, Amelia bị nhức đầu, nên không thể đến dự một buổi giải trí mà hai người đã được mời: Rebecca nhất định không chịu đi, nếu không có bạn đi cùng. “Kìa? Chị là người đầu tiên trong đời đã dạy cho đứa trẻ mồ côi đáng thương này biết thế nào là hạnh phúc và tình yêu...Bỏ chị ở nhà một mình? Không bao giờ!”

Thế rồi cô ngước đôi mắt xanh đẫm lệ nhìn lên trời. Bà Sedley không thể nào không nghĩ rằng bạn của con gái bà có một tâm hồn vô cùng quý hóa.

Nghe những câu khôi hài của ông Sedley, Rebecca cũng cười một cách nhiệt tình và kiên nhẫn; ông cụ lấy lắm thích và cảm động lắm. Không phải Rebecca chỉ gây được cảm tình với mấy người cầm đầu trong gia đình. Cô lấy lòng bà Blenkinsop bằng cách nhiệt liệt tán tụng phương pháp giữ món mứt quả được lâu ngày; công việc này đang tiến hành trong phòng riêng của bà quản gia; cô cứ một mực gọi Sambo là “ngài” và “ông Sambo”, làm cho bác gia nhân này thú vị quá. Cô ta lại xin lỗi chị hầu gái vì mình đã dám rung chuông làm phiền chị ta, lời lẽ thật ngọt ngào khiêm tốn, khiến cho bọn gia nhân dưới nhà ai cũng phải có cảm tình với cô như mọi người trên phòng khách. Truyện "Hội Chợ Phù Hoa " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Một lần, đang xem mấy bức tranh Amelia vẽ ở trường gửi về nhà, Rebecca nhìn thấy một bức, đột nhiên khóc nấc lên và rời khỏi phòng. Hôm ấy chính là ngày Joe Sedley đến chơi lần thứ hai.

Amelia vội chạy theo bạn xem vì sao bạn khóc; lát sau cô gái tốt bụng quay lại một mình; hình như chính cô cũng cảm động.

- Má biết không, ba chị ấy là giáo sư dạy vẽ ở Chiswick. Những chỗ đẹp nhất trong tranh của chúng con là ông ấy vẽ hộ đấy.

- Này con, má nhớ rõ đã nghe bà Pinkerton nói chuyện rằng ông ấy không vẽ, chỉ sửa lại thôi.

- Thế cũng gọi là sửa đấy mẹ ạ. Chị Rebecca nhìn đến bức tranh, đột nhiên nhớ đến người cha trước kia đã sửa lại bức tranh ấy, và đây...má coi, chị ấy...

Bà Sedley nói:

- Cô bé đáng thương tính tình đa cảm quá nhỉ?

Amelia tiếp:

- Má ạ. Con muốn giữ chị ấy ở chơi đây thêm một tuần nữa.

- Cô ấy cũng gớm chẳng kém cô Cutler tôi thường gặp ở Dumdum, nhưng đẹp hơn. Cô kia bây giờ lấy Lance, thầy thuốc nhà binh. Má có biết không, có lần Quintin ở trung đoàn 14 đánh cuộc với con rằng...

Amelia cười bảo anh:

- Anh Joseph, em nghe mãi chuyện ấy rồi, đừng kể nữa; anh bảo má viết thư cho cái ông Crawley gì gì ấy đi, để xin phép cho chị Rebecca...kìa chị ấy đến kia, khóc đỏ hoe cả mắt.

Rebecca bước vào với một nụ cười tươi tỉnh nhất, cầm lấy bàn tay bà Sedley giơ ra kính cẩn hôn, nói:

- Bây giờ cháu dễ chịu rồi. Tất cả mọi người tất với cháu quá, tất cả mọi người - cô ta cười nói thêm - trừ anh, anh Joseph ạ.

- Tôi? Trời đất ơi? Thượng đế ơi! Cô Sharp! Joseph kêu ầm lên, định đi ngay tức khắc.

- Vâng, sao anh ác thế, bắt em ăn cái món ghê gớm đầy hạt tiêu kia ngay giữa hôm em mới gặp anh lần đầu. Anh không quý em bằng chị Amelia nhé.

Amelia nói ngay:

- Tại anh ấy chưa quen thân với chị đấy.

Bà mẹ thêm:

- Bác thách bất cứ ai dám đối xử không tốt với cháu, cháu yêu quý ạ.

Joe đáp, vẻ mặt trang trọng:

- Món ca-ry tuyệt lắm, thật đấy; có điều, hôm nọ vắt ít chanh quá...phải, quá ít.

- Thế còn món “chi-ly”?

- Lạy Chúa, món ấy làm cho cô kêu ghê quá.

Joe nhớ lại câu chuyện, lại phá ra cười như nắc nẻ, rồi cũng như mọi lần, bỗng nhiên im bặt.

Lúc mọi người cùng xuống nhà dùng cơm, Rebecca nói:

- Lần sau em sẽ chú ý xem anh tiếp cho em món gì. Em không tin rằng đàn ông lại thích bắt những người con gái vô tội phải khổ sở.

- Thề có đức Chúa, cô Rebecca, không khi nào tôi muốn làm khổ cô đâu.

Rebecca đáp:

- Không, em biết anh chẳng bao giờ muốn thế.

Đoạn cô dịu dàng khẽ vịn bàn tay nhỏ nhắn của mình vào cánh tay Joe rồi lại vội vàng rụt lại, sợ hãi, và mới đầu nhìn thẳng vào mặt anh chàng trong khoảnh khắc, sau lại nhìn xuống tấm thảm. Cho nên tôi không hề muốn nói rằng quả tim Joe không đập thình thình trước cái nhìn vô tình, dút dát và dịu dàng của cô con gái giản dị này.

Đấy là một cách tấn công; có thể là mấy bà nào đó quen lịch sự, đứng đắn sẽ lên án cử chỉ ấy là thiếu chín chắn, nhưng các bạn coi, cô Rebecca đáng yêu nhưng đáng thương kia phải đích thân làm tất cả mọi việc cho mình.

Nếu người ta nghèo, không đủ tiền nuôi người ở, thì dẫu xưa nay vẫn quen thói đài các cũng đành phải quét nhà lấy vậy. Nếu có một cô gái quý tộc lại không có một bà mẹ để thu xếp hộ công việc với chàng trai trẻ, thế tất cô ta phải làm lấy. Nhưng may mắn thay, mấy cô gái cũng ít khi phải trực tiếp dùng đến khả năng của mình! Họ mà đã dùng đến, đố ta cưỡng lại được đấy. Chỉ cần họ ngỏ ý một chút xíu thôi, lập tức đàn ông quỳ ngay gối xuống rồi, đẹp hay xấu cũng chẳng khác gì nhau. Điều đó tôi coi là chân lý tuyệt đối. Một người đàn bà có nhan sắc, không có một cái tật gì quá quắt, là có thể muốn lấy ai tùy thích. Tuy nhiên, ta cũng còn cảm ơn trời rằng các cô nàng đáng yêu ấy giống như bầy gia súc trên cánh đồng; họ không biết hết quyền lực của chính họ. Nếu họ biết thì, ôi thôi, chúng ta chỉ còn là nô lệ!

Joseph vừa bước vào phòng ăn, vừa nghĩ thầm: Ôi chao! Mình lại bắt đầu cảm thấy đúng như hồi ở Dumdum, gần cô Cutler rồi đây.

Trong bữa ăn, cô Sharp đã luôn luôn gọi Joseph để hỏi về các món ăn, giọng nói nửa bỡn cợt, nửa nũng nịu; vào hồi này, cô ta đang ở giai đoạn thân mật nhất với gia đình, và hai cô thiếu nữ thì đang coi nhau như chị em ruột. Mấy cô gái non chưa chồng bao giờ chả thế, miễn là họ chỉ sống chung với nhau độ mươi ngày.

Dường như Amelia cũng có ý muốn khuyến khích việc thực hiện kế hoạch của Rebecca, nên mới nhắc người anh nhớ đến lời hứa nhân ngày lễ Phục sinh vừa qua. Cô vừa cười vừa nhắc anh rằng hồi cô còn ở trường, Joseph có hứa sẽ đưa cô đến Vauxhall chơi.

- Bây giờ có cả chị Rebecca cùng đi với chúng mình, thật phải lúc quá, anh ạ.

- Ô thế thì tuyệt!

Rebecca toan vỗ tay nhưng cô ngẫm lại vội im bặt đúng kiểu một cô thiếu nữ chín chắn.

Joe đáp:

- Đêm hôm nay chưa đi được.

- Thế thì mai vậy.

Bà Sedley nói:

- Mai ba và má không ăn ở nhà đâu.

Ông lão đáp:

- Bà Sedley, bà tưởng tôi đi à? Bà có tuổi, lại hom hem, đi ra ngoài ẩm ướt lạnh lẽo thế để bị cảm mà chết à?

Bà Sedley kêu lên:

- Nhưng các cô ấy phải có người đi cùng chứ?

Ông bố cười:

- Cho thằng Joe đi theo. Nó cũng lớn rồi đấy.

Nghe nói vậy Sambo đứng cạnh phá ra cười: anh chàng Joe béo cảm thấy gần như muốn giết phăng ngay ông cụ thân sinh.

Ông già tàn nhẫn vẫn tiếp:

- Cởi áo gi-lê mau. Vã nước vào mặt nó đi, cô Sharp; hay là khiêng nó lên gác; cu cậu đang ngất đi kia kìa. Thằng bé đáng thương quá? Khiêng nó lên gác; nó nhẹ như sợi bấc ấy thôi mà.

Joseph gầm lên:

-Ba còn nói nữa, con đến chết mất!

Ông bố ra lệnh:

- Sambo, gọi dẫn con voi của cậu Joe lại đây. Đưa ngay đến khu Hội chợ; Sambo.

Nhưng thấy Joe gần phát khóc vì giận, ông lão hay đùa thôi không cười nữa; ông giơ bàn tay cho con, nói:

- Joe ở phòng Hối đoái mọi chuyện đều tốt lành cả. Còn Sambo, đừng lo chuyện con voi nữa, hãy rót cho ta và cậu Joe một cốc sâm-banh. Ngay cả Boney () cũng không có được thứ rượu này trong nhà đâu nhé; nào con!

Nhờ cốc vại sâm banh, Joseph lấy lại được sự điềm tĩnh; và trước khi cạn hết chai rượu - với tư cách là bệnh nhân, anh ta chỉ uống có hai phần ba - Joe thuận dẫn hai cô thiếu nữ đi Vauxhall.

Ông cụ nói:

- Con gái là phải có đàn ông cùng đi, thế nào thằng Joe cũng bỏ mặc con Emmy trong đám đông, rồi nó sẽ chỉ chú ý đến Rebecca thôi. Bảo đứa nào lại hỏi xem George Osborne có đi không.

Không biết vì lý do gì nghe ông cụ sắp đặt như vậy, bà Sedley nhìn chồng cười. Mắt ông cụ long lanh có vẻ hóm hỉnh khó tả. Ông lão nhìn sang Amelia. Còn Amelia thì cúi đầu xuống, đỏ ửng mặt lên như chỉ có những cô gái mười bẩy tuổi mới biết đỏ mặt như vậy, và như chưa bao giờ trong đời mình cô Rebecca Sharp đỏ mặt thế, ít nhất là trừ trường hợp hồi cô ta mới lên tám, bị bà mẹ đỡ đầu bắt quả tang ăn vụng một miếng dăm bông trong chạn. Ông bố lại nói:

- Tốt hơn là Amelia viết một mảnh giấy, để cho George Osborne thấy rằng con gái ta học trường bà Pinkerton viết chữ đẹp thế nào. Con còn nhớ không, hồi viết thư nhắn nó tới vào “đêm thứ mười hai”, con đã viết “hai thiếu chữ “h”. ()

Amelia đáp:

- Đã lâu lắm rồi còn gì.

- Thế mà mới như hôm qua thôi, có phải không ông John?

Bà cụ hỏi chồng vậy. Đêm hôm ấy hai ông bà ngồi nói chuyện với nhau trong một căn phòng phía mặt trước ngôi nhà, trên gác hai, dưới một thứ màn quây tròn có riềm bằng vải Ấn Độ loại quý, mầu rực rỡ, lại lót một lần vải bông màu hồng dịu. Mé trong thứ màn quý này, kê một chiếc giường có đệm lông: trên giường có hai cái gối; trên gối có hai bộ mặt tròn đỏ, một cái mặt đội mũ ngủ có quai, một cái đội mũ vải bông thường, có tua. Nhân lúc đọc sách trước khi ngủ, bà Sedley cự ông chồng vì đã tàn nhẫn với thằng Joe đáng thương lúc tối:

- Ông Sedley, ông như thế thật ác quá, ai lại hành hạ thằng bé như thế.

Cái đầu đội mũ có tua cãi lại:

- Bà này, thằng Joe nó còn ưa đỏm dáng gấp mấy bà ngày xưa ấy; mà bà thì đã hay đỏm dáng quá rồi. Tuy vậy, ba mươi năm trước, vào năm một nghìn bảy trăm tám mươi...tám mươi mấy nhỉ?...Hồi đó có lẽ bà còn có quyền đỏm dáng đôi chút, tôi không chối điều đó. Nhưng tôi không thể chịu được thằng Joe với cái thói công tử bột của nó. Thật là quá quắt. Suốt ngày nó chỉ nghĩ đến cái thân hình nó, yên trí mình đẹp trai nhất thiên hạ. Rồi có nhiều chuyện rắc rối vì nó cho mà xem. Cô bạn nhỏ của con Emmy đang ra sức chài thằng bé đấy; điều đó rõ như ban ngày. Mà nếu cô ta không câu được nó thì đã có đứa khác. Giời sinh ra thằng này để làm mồi cho con gái, y như hàng ngày tôi phải đến phòng Hối đoái vậy. Bà ạ, phúc quá, nó còn chưa vác về cho chúng ta một nàng dâu da đen thôi. Nhưng bà cứ tin tôi, đứa con gái thứ nhất nào muốn chài nó là nó cắn câu ngay.

Bà Sedley nóng nảy đáp:

- Ngày mai tống khứ cái con bé láu cá ấy đi cho rảnh.

- Bà Sedley, con bé ấy trông cũng được đấy chứ. Mặt mũi cũng trắng trẻo, xinh xắn. Tôi chẳng biết thằng Joe lấy ai, cứ mặc nó chọn vợ lấy.

Rồi tiếng chuyện trò im bặt, chỉ còn vẳng ra thứ âm nhạc nhẹ nhàng nhưng kém thi vị của mấy cái lỗ mũi. Thỉnh thoảng chỉ nghe tiếng chuông nhà thờ đánh chuông báo giờ, và tiếng người gác điểm canh, mọi vật đều yên lắng trong căn nhà của tôn ông John Sedley, ở công viên Russell, làm việc tại phòng Hối đoạt.

Sáng hôm sau, bà cụ Sedley tốt bụng thôi không nghĩ đến chuyện thực hiện lời đe dọa tối hôm trước về việc đuổi cô Sharp đi nữa. Mặc dầu không có cái gì thiết tha, thông thường và cũng hợp lý hơn là lòng người mẹ vì thương con mà ghen với người khác, song bà cụ cũng không sao tưởng tượng được rằng cái cô giáo bé nhỏ tầm thường, biết ơn và dịu dàng kia lại dám ngưỡng vọng một nhân vật cao quý là ngài ủy viên tài phán của quận Boggley Wollah. Hơn nữa, lá thư xin phép gia hạn nghỉ cho cô gái đã gửi rồi, bây giờ đột ngột muốn mời cô ta đi cũng khó tìm được một lý do cho thỏa đáng.

Dường như mọi sự đều phụ họa mà giúp đỡ Rebecca, thời tiết cũng can thiệp để làm lợi cho cô (mặc dầu thoạt tiên cô cũng chưa biết cảm ơn thời tiết đã vì mình). Tối hôm mọi người dự định đi Vauxhall, George Osborne có đến ăn cơm; sau khi hai bậc cha mẹ đã đi dự tiệc cùng viên cố vấn hành chính Bản ở Highbury Barn, thì bỗng một cơn giông nổ ra; những hôm người ta định đi chơi Vauxhall vẫn hay xảy ra những cơn giông tai hại như vậy; mấy cô cậu bắt buộc phải ở nhà. Anh chàng Osborne có vẻ không lấy việc đó làm phiền lắm. Anh ta và Joseph ngồi tay đôi () trong phòng ăn, uống một ít rượu...vừa uống rượu, Sedley vừa kể vài câu chuyện hay nhất của anh ta về Ấn Độ - nếu chỉ có đàn ông với nhau anh chàng cũng rôm chuyện lắm. Một lúc sau, Amelia Sedley chủ tọa phòng khách. Cả bốn cô cậu đã qua một tối cực kỳ dễ chịu; họ nói rằng cơn giông vừa qua đã bắt họ phải hoãn việc đi chơi Vauxhall đến hôm khác; ấy thế mà lại hóa ra vui cơ đấy.

Osborne là con đỡ đầu của ông Sedley; đã hai mươi ba năm nay anh ta vẫn được coi là con cái trong gia đình. Mới chào đời được sáu tuần lễ, anh ta được ông John Sedley cho một cái chén bạc; khi được sáu tháng, lại thêm một cành san hô, có đính theo còi và chuông bằng vàng. Từ bé tới lớn, cứ đến lễ Giáng Sinh, George lại được ông cụ gửi quà cho đều đặn. Vì thế khi trở lại trường anh ta còn nhớ rõ bị Joseph Sedley nện cho một trận cẩn thận; hồi ấy Sedley là một cậu bé khỏe mạnh, hay gây gổ, còn George thì là một thằng oắt mới lên mười nhưng láo xược. Tóm lại George rất thân mật với gia đình này, vì từ nhỏ vẫn đi lại như người nhà và vẫn được cho quà bánh.

- Sedley, anh còn nhớ không, có bận tôi cắt đứt mất mấy cái tua ở đôi ủng của anh, anh phát khùng lên ghê quá; rồi cô hừm? Rồi Amelia cứu tôi thoát khỏi trận đòn, vì đã quỳ xuống khóc mà xin anh Joe đừng đánh cái thằng bé George nữa?

Joe vẫn nhớ như in câu chuyện trên, nhưng lại nói rằng mình quên bẵng mất rồi.

- Phải, anh còn nhớ không, trước khi sang Ấn Độ, anh có đi xe ngựa đến trường của ông Swishtail để thăm tôi, rồi vỗ vỗ vào đầu tôi, cho tôi một đồng nửa ghi nê? Trước tôi vẫn cứ nghĩ rằng anh phải cao tới bảy bộ, thế mà khi anh ở Ấn Độ về, tôi lấy làm lạ quá, vì thấy anh cũng chẳng cao hơn tôi.

Rebecca kêu lên, giọng vui thích:

-Anh Sedley đến tận trường để cho anh tiền cơ à? Tốt quá nhỉ.

-Vâng, mà tôi lại đã cắt mất tua ủng của anh ấy cơ chứ. Ở trường, trẻ con được tiền thì nhớ mãi, mà cũng không quên cả người cho.

Rebecca nói:

- Tôi thích những đôi ủng cao lắm.

Joe Sedley vốn rất tự hào về đôi chân của mình, lúc nào cũng xỏ vào đôi giầy được coi như một thứ đồ trang sức; nghe Rebecca nói anh ta khoái quá, nhưng vội rụt ngay chân cho vào gầm ghế.

George Osborne nói:

- Cô Sharp ạ, cô là nhà nghệ sĩ thông minh thế cô phải vẽ một bức tranh kỷ niệm về chuyện đôi ủng. Cô sẽ vẽ Sedley mặc quần da thuộc, một tay cầm chiếc ủng bị hỏng; còn tay kia túm lấy cổ áo tôi; Amelia sẽ quỳ ở bên cạnh giơ đôi tay bé nhỏ lên. Bức tranh sẽ mang một cái tên tượng trưng long trọng như là những nhãn sách ta vẫn thấy ở các quyển tập đọc.

Rebecca đáp:

- Em không có thì giờ vẽ ngay ở đây, nhưng em sẽ vẽ khi...khi nào em rời khỏi đây ra đi.

Cô hạ thấp giọng xuống, vẻ mặt rầu rĩ, đáng thương, đến nỗi ai cũng thấy xót cho cảnh ngộ của cô và cảm thấy nếu phải xa cô thì đáng buồn quá.

Amelia nói:

- Chị Rebecca thân yêu ơi, giá chị ở chơi với em thêm ít lâu nhỉ?

Rebecca lại càng buồn bã đáp:

- Để làm gì hở chị? Để khi xa nhau, riêng em càng buồn khổ thêm và càng không muốn xa chị ư?

Nói đoạn cô quay mặt đi. Amelia lại bắt đầu nhượng bộ cái tật trời sinh là thói hay khóc của mình; cô gái bé bỏng vớ vẩn này vẫn có cái nhược điểm ấy. George Osborne nhìn hai cô thiếu nữ, lộ vẻ tò mò, động tâm; còn Joe Sedley thì thở hắt ra từ cái lồng ngực to tướng của mình một cái gì giống như một tiếng thở dài; mắt lại tiếp tục nhìn xuống đôi ủng cao chí thiết của mình.

George nói:

- Cô Sedley...Amelia, ta chơi vài bản nhạc đi.

Lúc này anh ta cảm thấy có một sức gì kỳ lạ gần như không cưỡng lại được, nó xô mình muốn ôm ghì lấy cô thiếu nữ vào hai tay, và hôn cô ngay trước mặt mọi người; cô thiếu nữ nhìn anh chàng một lúc lâu; nếu bảo rằng lúc ấy hai người mới yêu nhau thì có lẽ tôi đã nói sai sự thực vì thực tế là đôi thanh niên nam nữ này đã được hai bên cha mẹ nuôi nấng từ bé cốt nhằm mục đích ấy; lễ ăn hỏi của đôi bên đã tuyên bố trong hai họ đến mười năm nay rồi.

Hai người bước lại gần cây đàn dương cầm kê ở cuối phòng khách, bao giờ đàn dương cầm cũng kê ở đấy . Chỗ này hơi tối nên Amelia, một cách tự nhiên nhất trần đời, đặt bàn tay mình vào bàn tay Osborne. Dĩ nhiên anh ta có thể nhìn rõ lối đi giữa những hàng ghế hơn cô nàng nhiều. Thế là họ bỏ Joseph Sedley và Rebecca ngồi với nhau ở phòng khách; Rebecca đang đan một cái túi lụa màu xanh. Cô nói:

- Chả cần phải hỏi, em cũng biết chuyện riêng gia đình nhà ta. Hai người vừa tiết lộ sự bí mật của họ rồi đấy.

Joseph đáp:

- Bao giờ anh ta thăng chức đại úy, tôi tin rằng công việc sẽ thu xếp xong. George Osborne là người tốt lắm.

Rebecca nói:

- Em gái anh cũng là một người đáng quý nhất đời. Sung sướng thay người đàn ông nào chinh phục được chị ấy Nói xong, cô Sharp thở dài thật to.

Khi nào một cặp trai gái chưa lập gia đình ngồi với nhau mà đụng chạm đến cái vấn đề tế nhị này, lập tức họ dễ dàng trở thành thân mật và ưa tâm sự với nhau. Chả cần phải kể lại câu chuyện đang diễn ra giữa Sedley và cô thiếu nữ. Cứ xem đoạn trên đủ biết câu chuyện ấy không có gì là đặc biệt dí dỏm hoặc hùng hồn. Trong những buổi gặp gỡ thân mật ít khi người ta chuyện trò với nhau theo kiểu này, không kể trong những tiểu thuyết kênh kiệu, giả tạo. Vì phòng bên đang chơi âm nhạc, dĩ nhiên họ phải nói chuyện se sẽ phải chăng thôi; tuy rằng đôi trai gái phòng bên cũng đang bận bịu với công việc riêng của họ, giá bên này có nói to, họ cũng chẳng để ý đến làm gì.

Hôm nay hầu như là lần đầu tiên trong đời, Sedley thấy mình nói chuyện với một người đàn bà mà không hề dút dát e dè một tý nào. Rebecca hỏi anh ta rất nhiều chuyện về Ấn Độ; được dịp, anh ta bèn tuôn ra vô khối chuyện lý thú về xứ đó, và về chính anh ta. Và kể lại những cuộc dạ hội ở phủ Toàn quyền và cách họ giữ cho không khí được mát lạnh trong mùa bức, thí dụ dùng chiếu cói và quạt, cùng nhiều phương pháp khác. Anh ta chỉ trích những sĩ quan Scotland được viên toàn quyền Minto che chở. Rồi anh ta kể một chuyện săn hổ, cả cái đoạn lão quản tượng điều khiển con voi của anh bị những con hổ nổi xung lên kéo ngã lăn khỏi lưng voi. Nghe kể chuyện dạ hội ở phủ Toàn quyền, Rebecca có vẻ thú vị lắm; mà nghe kể chuyện những ông sĩ quan hầu cận xứ Scotland cô phá ra cười và gọi Sedley là một người hay châm biếm độc ác; lúc nghe Joe kể chuyện con voi, cô thiếu nữ mới sợ hãi làm sao.

Cô nói:

- Anh Sedley thân yêu ơi, hãy vì thương bà cụ sinh ra anh, hãy vì các bạn của anh mà hứa rằng đừng bao giờ dự những cuộc săn khủng khiếp như thế nữa nhé.

Anh chàng vừa kéo cổ áo lên, vừa đáp:

- Dào ôi! Có nguy hiểm thế cuộc săn mới thú chứ.

Cả đời Joe mới đi săn hổ có một lần, đúng là lần có câu chuyện trên xảy ra; bữa ấy anh ta suýt chết...không phải vì hổ, mà vì sợ quá. Càng nói chuyện nhiều anh chàng càng đâm bạo, và lúc này đã có can đảm hỏi Rebecca rằng cô ta đan cái túi lụa xanh cho ai...Thấy mình trở thành thân mật duyên dáng thế, anh chàng đâm ra ngạc nhiên và khoan khoái ghê.

- Em đan cho người nào thích một cái túi.

Rebecca vừa đáp vừa nhìn anh chàng với đôi mắt rất tình tứ. Sedley đang sắp sửa nói một câu thật sự là hùng hồn, và đã bắt đầu: “Ô, cô Sharp...” thì bản nhạc đang chơi ở phòng bên chấm dứt làm cho anh ta nghe thấy tiếng mình rõ mồn một; anh chàng vội im bặt, rút khăn tay hỉ mũi rầm lên.

Osborne thì thầm với Amelia:

- Có bao giờ em nghe thấy anh Joe hùng biện không? Gớm, cô bạn em làm được một việc kỳ diệu thật.

- Thế thì càng tốt thôi.

Amelia đáp. Cô cũng giống như phần lớn đàn bà con gái hiểu biết tý chút, cũng sính đóng vai ông tơ bà nguyệt; giả thử Joseph có vợ đem theo về Ấn Độ thì cô cũng thích. Thêm nữa, qua mấy ngày sống gần gũi nhau, tình bạn giữa cô và Rebecca trở thành rất đằm thắm, cô đã khám phá ra vô số những đức tính đáng yêu ở bạn mình, mà hồi còn chung sống ở Chiswick cô không nhìn ra. Xưa nay cảm tình vẫn thường nảy nở mau chóng giữa các cô con gái chẳng khác gì cây thần trong truyện cổ tích chỉ một đêm đã mọc cao vút đến tận trời. Không nên trách họ, nếu sau ngày về nhà chồng, nỗi khát khao tình cảm () ấy nguội bớt.

Về điểm này, các nhà tâm lý học quen dùng những danh từ kêu rùm beng thường gọi là sự khát vọng vươn tới lý tưởng; thực ra chỉ có nghĩa là đàn bà con gái thường thường chỉ thỏa mãn khi nào đã lấy chồng đẻ con; khi ấy tình cảm của họ mới có nơi tập trung, còn trước kia thì nó bị tiêu phí vào những chuyện vặt vãnh mất cả.

Amelia đã dốc hết cả kho bài hát ít ỏi của mình lúc nãy, lại đã ở khá lâu trong phòng khách, cô thấy nên mời bạn mình hát. Cô bảo với Osborne thế này (dẫu biết rằng mình đang nói dối) :

- Giá anh nghe Rêbecca hát trước, thì anh sẽ không muốn nghe em hát đâu.

Osborne nói:

- Tuy vậy, tôi cũng xin báo cho cô Sharp biết rằng, dù đúng hay sai, tôi cũng cứ coi cô Amelia Sedley là người hát hay nhất thế giới.

Amelia đáp:

- Rồi anh xem.

Bây giờ Joseph Sedley đã tỏ ra lịch sự, mang mấy cây đèn đến chỗ cây dương cầm; Osborne nói ý rằng mình ngồi trong bóng tối nghe nhạc thấy thích hơn. Nhưng Amelia cười, không chịu cùng ngồi với anh chàng nữa. Thế là cả hai đi theo Joseph. Rebecca hát hay hơn bạn nhiều (dĩ nhiên, Osborne vẫn có quyền tự do giữ ý kiến riêng của mình); cô trổ hết tài năng và quả thực đã khiến Amelia rất ngạc nhiên vì chưa hề bao giờ thấy bạn hát hay đến thế. Rebecca hát một bài tiếng Pháp, Joseph nghe chẳng hiểu gì cả; George cũng thú thực mình không hiểu; đoạn cô lại hát vài “ca khúc” thông thường, đã trở thành “mốt” khoảng bốn mươi năm trước đây; đại khái nội dung nói đến những người lính thủy nước Anh, đức Hoàng đế, cô Susan đáng thương, cô Mary mắt biếc v.v... Người ta bảo rằng, về mặt nghệ thuật âm nhạc, những bài hát này cũng không hay ho gì, nhưng có nhiều đoạn êm ái kích thích cảm tình, thiên hạ nghe dễ hiểu hơn là cái thứ âm nhạc lai căng của những lagrime, sospiri, và felicita trong âm nhạc của Donizetti () đang thịnh hành bấy giờ.

Nội dung bài hát cuối cùng như sau:

Giữa đồng lạnh lẽo cô đơn

Mà cơn bão táp lại đang thét gầm.

Mái nhà kia, tạm trú chân...

Chú em côi cút lại gần nhìn xem.

Trong nhà ấm áp lửa than.

Lò càng rực cháy, gió thêm cóng người

Tuyết càng lạnh buốt rơi...rơi...

Trong nhà nhác thấy chú ngồi co ro,

Ngực thoi thóp, tay cứng đờ.

Ôn tồn bèn nhủ hãy cho chú vào;

Tươi cười, chào đón ngọt ngào.

Sớm mai trở dậy, nắng sao sáng lòa...

Lửa còn rực cháy trong lò

Chú em côi cút bây giờ về đâu!

Lạy trời xót kẻ cơ cầu,

Hãy nghe gió lộng rít cao trên đồi.

Nghĩa là bài hát đã lặp lại nội dung tình cảm của câu:

“Khi nào em đã ra đi...” Rebecca nói lúc nãy. Hãy đến câu cuối cùng, cái giọng trầm trầm của cô Sharp hơi run run, mọi người nghe đều hiểu rằng cô ý muốn nói đến việc mình ra đi và cảnh ngộ mồ côi đáng thương của mình. Vốn thích âm nhạc, lại có tâm hồn đa cảm, Joseph Sedley rất say sưa khi nghe Rebecca hát; nhất là đoạn kết làm anh ta cảm động vô cùng. Giá anh ta có đủ can đảm nhỉ. Giá mà George và cô Sedley ngồi lại văn phòng ăn như lúc nãy George đề nghị, thì cuộc đời trai chưa vợ của Joseph đã chấm dấu hết rồi, mà cuốn truyện này cũng không được viết ra nữa. Nhưng hát xong Rebecca rời cây đàn, đưa tay cho Amelia cầm và cả hai đi sang căn phòng khác tranh tối tranh sáng bên cạnh. Vừa lúc ấy Sambo bước vào, tay bưng một cái khay đầy những bánh sandwich, mứt quả, và mấy cái cốc, mấy cái bình sáng long lanh; lập tức sự chú ý của Joseph tập trung vào đó. Hai vợ chồng ông Sedley đi dự tiệc về thấy mấy cô cậu đang say sưa trò chuyện đến nỗi không nghe thấy tiếng xe ngựa đỗ.

Anh chàng Joseph đang nói:

- Cô Sharp thân yêu, mời cô dùng một thìa mứt cho lại sức sau khi đã cố gắng trổ hết tài năng tuyệt diệu.

Ông Sedley kêu lên:

- Hoan hô Joe ?

Thoạt nghe tiếng nói quen thuộc oang oang, Joe lập tức hoảng hốt, im bặt rồi vội vã bỏ đi. Anh ta không thức trằn trọc suốt đêm tự hỏi mình có yêu cô Sharp hay không; ái tình không bao giờ quấy rối được sự tiêu hóa hoặc giấc ngủ của Joseph Sedley. Nhưng anh ta nghĩ thầm: “Được nghe những bài hát như thế cũng tuyệt...thật là một con người phong nhã...nói tiếng Pháp còn hay gấp mấy so với chính Toàn quyền phu nhân...cô ta mà dự những buổi dạ hội ở Calcutta thì phải biết là nổi danh.

Joe lại tự nhủ: “Rõ ràng cô ả phải lòng mình rồi. Bọn thiếu nữ sang Ấn Độ có giàu có gì hơn cô ta kia chứ. Mình cứ “già kén” rồi đến kẹn “hom” mất. Nghĩ thế rồi Joe lăn quay ra ngủ lúc nào không biết.

Chẳng cần nói ta cũng rõ chính lúc ấy cô Sharp đang nằm trằn trọc nghĩ mãi không biết ngày mai anh ta có lại chơi hay không. Sáng hôm sau, y như có trời run rủi, Joseph Sedley lại mò đến trước giờ điểm tâm. Từ trước đến nay, chưa bao giờ anh ta ban cho căn nhà ở Công viên Russell vinh dự lớn lao này. George Osborne cũng có mặt ở đây rồi, Amelia đang bận viết thư cho một tá bạn còn ở lại Chiswick, Rebecca thì đang thêu nốt cái túi lụa. Nghe tiếng xe ngựa của Joe và trong lúc ngài cựu ủy viên tài phán quận Boggley Wollah đang ỳ ạch leo thang gác lên phòng khách sau khi đã gõ cửa thình lình, và gọi oang oang ngoài cửa một cách long trọng như thường lệ. Osborne và Amelia đưa mắt ra hiệu cho nhau cả đôi mỉm cười láu lỉnh nhìn sang Rebecca; cô này cúi xuống để cho những búp tóc xinh đẹp của mình rủ xuống cái túi đang đan, mặt đỏ lên...Lúc Joseph bước vào, trống ngực cô đập thình thình...Joseph thở phì phò đi ủng bóng nhoáng kêu cọt kẹt. Anh ta mặc một tấm áo mới, cổ áo là cứng, mặt đỏ vì trời bức và vì xúc động mạnh. Lúc này thật là khó xử cho cả mọi người; riêng Amelia còn lo lắng hơn cả người trong cuộc.

Sambo mở tung cửa, lên tiếng báo có ông Joseph đến chơi, đoạn vừa đi theo sau ngài ủy viên vừa nhăn răng cười, tay ôm hai bó hoa rất đẹp. Sớm nay anh chàng lịch sự đến mức ra tận vườn Covent mua hoa. Hai bó hoa không được to bằng hai đống rơm bọc trong giấy bóng như ngày nay các bà, các cô thường mang theo mình, nhưng hai cô thiếu nữ cũng rất sung sướng được Joseph tặng mỗi cô một bó, kèm theo một cái nghiêng mình cúi chào một cách thật trang trọng. Osborne kêu lên:

- Hoan hô Joe.

Amelia nói:

- Cảm ơn anh, anh Joseph thân mến.

Cô sẵn sàng hôn ông anh một cái, nếu ông anh cho phép (Tôi thì tôi nghĩ rằng được một con người đáng yêu như Amelia hôn, tôi sẵn sàng mua tất cả hoa trong vườn kính của ông Lee ngay lập tức).

- Chao ôi! Hoa đẹp tuyệt vời.

Rebecca reo lên, khẽ áp bó hoa vào mũi ngửi rồi ôm vào ngực, mắt ngước nhìn lên trần nhà, điệu bộ có vẻ say sưa vì sung sướng. Có lẽ thoạt tiên đã liếc nhìn ngay vào giữa bó hoa xem có “bức tình thư”() nào dắt trong ấy hay không, nhưng chả có thư từ gì cả.

Osborne cười hỏi:

- Ở Boggley Wollah, dân họ có biết dùng hoa để tỏ tình với nhau không nhỉ, Sedley?

Anh chàng đa tình đáp:

- Ôi dào, chuyện vớ vẩn? Tôi mua hoa ở hiệu Nathan đấy. Rất hân hạnh vì các cô vui lòng. Mà này, Amelia, anh có mua một quả dứa cùng với mấy bó hoa này; anh đã đưa cho Sambo. Để đấy tí nữa ta giải khát. Trời nóng nực, ăn cái ấy mát và ngon lắm.

Rebecca bảo rằng mình chưa bao giờ được ăn dứa, đang thèm được nếm một miếng. Câu chuyện tiếp tục như vậy; không rõ vì sao Osborne rời khỏi gian phòng, và cả Amelia cũng đi ra ngoài, có lẽ để bảo người nhà gọt dứa. Riêng Joe vẫn ngồi lại một mình với Rebecca. Cô thiếu nữ lại tiếp tục đan; sợi lụa xanh và đôi que đan sáng bóng động đậy nhanh thoăn thoắt dưới mấy ngón tay búp măng trắng muốt.

Ông ủy viên tài phán nói:

- Tối hôm qua, cô hát một bài hay quá, ha....a...ấy qua...a.. á? Cô Sharp thân mến ạ. Làm tôi gần phát khóc, tôi xin lấy danh dự mà nói thế.

- Tại anh có một tâm hồn đa cảm đấy, anh Joseph ạ. Em thấy tất cả mọi người trong gia đình ta ai cũng có tâm hồn đa cảm.

- Vì bài hát ấy mà đêm qua tôi không ngủ được. Sáng hôm nay tôi còn nhẩm lại lúc nằm trên giường, xin lấy danh dự mà thề, đúng như thế. Ông Gollop, bác sĩ của tôi, đến thăm tôi hồi mười một giờ (cô biết đấy, tôi vẫn có bệnh, ngày nào ông Gollop cũng phải lại thăm) thế mà chết chưa, tôi vẫn nằm trên giường hát huyên thuyên như...một con sơn ca.

- Ồ, anh vui tính quá. Anh hát cho em nghe một tý nhé.

- Tôi ấy à? Không, cô Sharp; cô Sharp thân mến ơi, cô hát đi cơ.

Rebecca thở dài:

- Anh Sedley ạ, bây giờ thì không được đâu. Em không bình tĩnh lắm, hát sao được. Vả lại, em còn phải đan xong cái túi này chứ. Anh Sedley, anh giúp em một tay nhé?

Thế là trước khi có đủ thì giờ hỏi xem giúp thế nào, ngài Joseph Sedley, tòng sự tại Công ty Đông Ấn Độ đã thấy mình ngồi tay đôi với một thiếu nữ, và đang nhìn cô ta với một vẻ tình tứ nhất trần đời; hai cánh tay anh chàng giơ ra trước mặt với một dáng điệu như cầu xin, còn hai bàn tay thì bị sợi lụa xanh cô nàng đang gỡ dần ra quấn chặt lấy. Lúc Osborne và Amelia bước vào để báo rằng món giải khát đã sẵn sàng, họ nhìn thấy đôi trai gái trong cảnh tượng thi vị như vậy. Cuộn sợi đã cuốn xong vào lõi, nhưng Joe vẫn chưa nói câu gì.

Amelia nắm chặt tay Rebecca bảo:

- Chị ạ, em chắc thế nào đêm nay anh ấy cũng ngỏ lời đấy.

Sedley cũng tự nhủ:

Đến Vauxhall mình phải đặt vấn đề mới được.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5


DOBBIN CỦA CHÚNG TA

Ai đã học qua trường học nổi tiếng của ông Swishtail ắt còn phải nhớ lâu chuyện cãi nhau giữa Dobbin và Cuff mà kết cục rất bất ngờ: Dobbin thường bị bọn trẻ con khinh miệt, chúng gọi là con khỉ Dobbin, con bú dù Dobbin và nhiều tên hiệu khác. Dobbin là một đứa trẻ hiền lành nhất, vụng về nhất, và có vẻ như đần độn nhất trong số học trò theo học trường ông Swishtail. Bố cậu bé buôn thực phẩm ở kinh đô, người ta lại đồn rằng ông Swishtail nhận cậu vào học trong trường theo “nguyên tắc đôi bên cùng có lợi”...nghĩa là bố cậu không phải trả học phí và sinh hoạt phí cho con trai bằng tiền mặt, mà trả bằng hiện vật. Ở trong trường, Dobbin bị xếp hạng gần bét; lúc nào cậu bé cũng đánh một bộ áo nhung kẻ nhem nhuốc, bộ xương to kếch gần như muốn thúc bật những hàng chỉ khâu mà tòi ra. Dobbin bị coi như đại diện cho một số cân chè, nến, đường, xà-phòng, và nho khô cùng nhiều thứ khác (tuy vậy, chỉ có một phần nhỏ là dùng để cung cấp cho nhu cầu của nhà trường). Cậu bé Dobbin sợ nhất cái ngày có một đứa học trò nhỏ trong trường, sau khi đã mò vào trong tỉnh chơi đủ mọi trò rồi, đã về đứng ở cổng trường mình xem cái xe ngựa của hãng “Dobbin và Rudge buôn thực phẩm và dầu-Phố Thames Luân đôn” dỡ hàng xuống giao cho nhà trường. Truyện "Hội Chợ Phù Hoa " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Sau cảnh đó, cậu bé Dobbin mất ăn mất ngủ. Những đứa trẻ khác giễu cợt đến là tàn nhẫn; một thằng nói “Ê này, Dobbin, báo đăng tin mới đây đường lên giá rồi, mày ơi!” Một đứa khác tính toán: “Nếu một cân nến mỡ cừu giá bảy xu rưỡi thì Dobbin giá bao nhiêu?” Thế là cả đám trẻ con mất dạy đứng vây tròn xung quanh cười ồ lên: chúng đồng tình cho rằng nghề bán lẻ thực phẩm là một nghề đáng hổ thẹn, đáng bị những con nhà dòng dõi khinh bỉ.

Bị một thằng bé con đem ra làm trò cười. Dobbin bảo riêng nó rằng:

- Này, Osborne, bố mày cũng là lái buôn chứ **** gì.

Thằng bé kiêu hãnh đáp:

- Bố tao là con nhà dõng dõi, có xe ngựa riêng.

Cậu bé William Dobbin lui về mãi căn phòng xép xa tít cuối sân chơi, rầu rĩ đắng cay suốt nửa ngày chủ nhật.

Trong bọn chúng ta ai chẳng còn nhớ đã có những phút lo nghĩ đắng cay một cách trẻ con như thế? Ai là kẻ cảm thấy rõ sự bất công, biết tủi nhục trước một sự lăng mạ, hiểu rõ cái gì là xấu, và biết biểu lộ lòng biết ơn một cách đậm đà khi được săn sóc, bằng một đứa trẻ trung hậu? Thế mà biết bao tâm hồn dịu dàng ấy đã bị các ông giáo hành hạ, chà đạp chỉ vì một bài toán số học, hoặc một bài La-tinh sai mẹo. William Dobbin chịu chết không sao thuộc được những bài học vỡ lòng tiếng La-tinh trong cuốn văn phạm La- tinh tài tình của trường trung học Eton; vì thế cậu bé bị xếp cùng học với bọn học trò dốt nhất trường. Mỗi khi cùng xếp hàng với bọn học trò lớp bét trông như anh khổng lồ đi giữa bọn tí hon; mắt cậu bé lấm lét nhìn xuống đất, tay cắp quyển tập đọc quăn góc, mặc bộ quần áo nhung kẻ chật ních; cậu luôn luôn bị bọn trò bé mặt mũi hồng hào, đeo “tạp-dê” cợt nhạo. Học trò lớp nào cũng đem cậu ra làm trò cười. Bộ quần áo nhung đã chật chúng còn khâu cho chật thêm; chúng cắt đứt dây giường của cậu. Chúng xô đổ bàn ghế, làm cho cậu bé vấp ngã sứt gối, mà lần nào cũng đúng như thế. Chúng gửi cho cậu bé những gói kín, mở ra chỉ thấy có xà phòng và nếu là những thứ hàng bố cậu vẫn bán; không có một đứa học trò nào tha cột nhạo Dobbin; cậu bé kiên nhẫn chịu đựng tất cả, hoàn toàn câm nín và đau khổ.

Trái lại, Cuff là ông chúa con, và là cậu công tử trong trường ông Swistail. Nó mang trộm cả rượu vào trường, đánh cả trẻ con trong thành phố. Chiều thứ bảy, người hầu vẫn mang ngựa đến cho nó cưỡi về nhà. Trong buồng nó có một đôi ủng cao cổ; ngày nghỉ nó thường đi ủng đi săn. Nó có cả một chiếc đồng hồ báo thức bằng vàng, lại hít thuốc lá y như ông giáo. Nó đã đi xem hát ở “Opera”, biết rõ tài nghệ của từng nghệ sĩ, biết thích kép Kean hơn kép Kemble. Nó có thể trong một giờ, làm bốn mươi câu thơ tiếng La-tinh liền; lại làm được cả thơ bằng tiếng Pháp.

Còn có cái gì khác mà nó không biết, hoặc không thể biết nữa? Chúng nó còn bảo chính ông giáo cũng phải sợ thằng này.

Vậy thì Cuff, ông chúa tuyệt đối trong trường, cai trị hành hạ bọn bầy tôi, uy quyền thật sự lừng lẫy. Đứa thì phải đánh bóng giầy, đứa thì nướng bánh, những thằng khác thì phải lăn lộn vất vả suốt những buổi chiều mùa hè để nhặt bóng cho nó. Dobbin là cậu bé bị nó ghét nhất; nó luôn luôn giễu cợt đánh chửi cậu bé, và ít khi thèm hạ mình nói một lời nào với cậu này.

Một bữa, hai đứa có chuyện xích mích với nhau. Dobbin ngồi một mình trong phòng học, đang dò dẫm viết một lá thư gửi về nhà thì Cuff bước vào, nó sai cậu bé đi đâu ấy, hình như đi mua bánh rán thì phải.

Dobbin nói:

- Chịu thôi; tôi còn phải viết cho xong thư đã.

- Mày chịu thôi à?

Cuff vừa nói vừa giằng lấy tờ giấy, trong đó nhiều chữ viết nguệch ngoạc, nhiều chữ viết sai bét, nhưng không biết Dobbin đã phí bao tâm trí, sức lực và nước mắt mới viết nên được. Lá thư ấy cậu bé đáng thương viết cho mẹ, mà mẹ cậu rất quý con trai, mặc dầu bà chỉ là vợ một người bán thực phẩm, sống trong một căn nhà xép ở phố Thames.

- Mày chịu thôi? Tao muốn biết tại sao, hừ? Ngày mai mày viết thư cho bà lão Figs không được à?

- Đừng có gọi tên tục nhà tao ra.

Dobbin cáu lắm, đứng bật lên.

Con “hổ xám” trong trường quát to:

- Thế nào, ông, ông có đi không thì bảo?

Dobbin đáp:

- Bỏ lá thư xuống, người tử tế không đọc thư của kẻ khác.

Thằng kia nói:

- Được bây giờ mày có đi không?

- Không, tao không đi. Đừng có đánh tao, ông thì bóp nát mày ra bây giờ.

Dobbin gầm lên, nhảy xổ đến vớ lấy một lọ mực bằng chì; thấy dáng điệu Dobbin dữ tợn, Cuff ngừng lại, buông hai cánh tay áo xuống, thọc tay vào túi vừa cười khinh bỉ vừa đi mất. Nhưng từ bữa ấy, nó không bao giờ thèm dính dáng đến cậu bé con trai người bán thực phẩm nữa; tuy vậy, chúng ta cũng phải công bằng mà nhận rằng nó luôn luôn vẫn nói đến Dobbin với thái độ khinh bỉ sau lưng cậu.

Ít bữa sau, một buổi chiều nắng ráo, William Dobbin nằm dài dưới gốc cây trong sân trường đang đánh vần cuốn truyện “Nghìn lẻ một đêm” mà cậu rất thích, hoàn toàn cô đơn và gần như rất sung sướng, cách biệt tất cả đám học trò đang thả sức nô đùa. Cuff cũng đang đứng gần đó. Nếu thiên hạ cứ để mặc trẻ con sống một mình, nếu thầy giáo thôi đừng làm rầy chúng, nếu các bậc cha mẹ đừng cứ nhất định đòi uốn nắn sự suy nghĩ của chúng, và khống chế cả tình cảm của chúng - những tình cảm và ý nghĩ ấy vẫn là một sự bí mật đối với tất cả mọi người: (hỏi rằng bạn và tôi chúng ta biết được bao nhiêu về nhau, về con cái chúng ta, về ông cha chúng ta, về láng giềng chúng ta? Và những ý nghĩ của thằng bé hoặc con bé mà chúng ta cai quản có thể đẹp đẽ và thiêng liêng biết bao so với ý nghĩ của những con người đần độn và hư hỏng cai quản chúng?) - Nếu cha mẹ và thầy giáo hãy cứ để mặc trẻ con sống một mình thêm chút ít...thì chắc những chuyện tai hại sẽ bớt được nhiều, tuy rằng chúng có thể thâu lượm bớt đi đôi chút về mặt kiến thức ()...

Vậy thì William Dobbin lần ấy đang quên khuấy cả thế giới để đưa hồn mình bay bổng theo chàng thủy thủ Sindbad tới thung lũng Kim cương, hoặc cùng Hoàng tử Ahmed và nàng tiên Peribanou sống trong cái hang kỳ thú, nơi hoàng tử gặp nàng, và là nơi chính chúng ta cũng thèm được đến thăm. Bỗng có tiếng kêu thét lên làm cậu bừng tỉnh giấc mộng mê ly; hình như có thằng bé con nào khóc. Ngẩng mặt lên, Dobbin thấy Cuff đang bắt nạt một thằng bé con.

Chính là thằng bé đã làm cậu bực mình vì chuyện cái xe chở thực phẩm bữa nọ. Nhưng cậu không ưa thù vặt, ít nhất là đối với bọn trẻ còn bé bỏng. Cuff giơ cao cái gậy màu vàng, dùng để chơi “cric-két” quát thằng bé:

- Sao mày dám đánh vỡ chai của tao?

Thằng bé đã được lệnh phải leo qua bức tường bao quanh sân chơi (ngay đúng chỗ thuận tiện nhất, vì những mảnh chai cắm trên bờ tường đã bị cậy sạch và sẵn những lỗ hõm sâu trên mặt tường có thể leo được), phải chạy độ một phần tư dặm đường và mua chịu một chai rượu rum; rồi lại phải tìm mọi cách lọt qua mọi tai mắt của ông Swishtail leo qua tường đem về cho thằng Cuff. Lúc trèo qua tường vào sân, thằng bé trượt chân ngã, chiếc chai vỡ tan, rượu đổ sạch, bẩn hết quần. Thằng bé run rẩy đến đứng trước mặt ông trùm, run lẩy bẩy như mình phạm lỗi nặng, tuy hoàn toàn đáng thương và vô tội. Cuff lại quát:

Sao mày dám đánh vỡ chai? Thằng nhóc con ăn cắp? Mày uống hết rượu rồi giả vờ đánh vỡ chai phỏng? Chìa tay ra.

Chiếc gậy phang mạnh xuống bàn tay thằng bé nghe đến “bốp” một cái; một tiếng rên rỉ tiếp theo; Dobbin nhìn lên; thế là nàng tiên Peribanou và ông Hoàng Ahmed trốn biệt vào trong cái hang xa tắp. Con đại bàng vội đưa anh thủy thủ Sindbad bát ra khỏi thung lũng Kim cương bay vút lên chín tầng mây mất tăm; cuộc đời tầm thường hàng ngày lại hiện ra trước mắt cậu bé William thực thà: một thằng bé nhớn vô cớ bắt nạt một thằng bé con.

- Chìa nốt tay kia ra, ông ôn.

Cuff gầm lên với thằng bạn học bé tý, mặt rúm ró lại vì đau. Dobbin run bắn người, đứng phắt dậy trong bộ quần áo chật ních cũ kỹ.

- Thằng quỷ con, nhớ lấy nhé?

Cuff gầm lên; chiếc gậy lại phang xuống tay thằng bé.

Này, xin các bà dừng hãi; học trò ở trường công, đứa nào mà chẳng thế, rất có thể con cái các bà cũng bắt nạt đứa khác và cũng bị đứa khác bắt nạt như vậy. Chiếc gậy lại phang xuống; Dobbin đứng bật lên.

Không biết cậu bé nghĩ sao, vì trong các trường công, chuyện hành hạ trẻ con xảy ra như cơm bữa, y như ở Nga có lệ trừng phạt bằng gậy vậy. Cưỡng lại có thể bị coi là thiếu giáo dục. Hình như tâm hồn ngu độn của Dobbin công phẫn trước sự chuyên chế đó, hoặc có thể vì lâu nay Dobbin vẫn ủ ấp mối hận trong lòng, vẫn mong có dịp đọ sức cùng vị chúa tể “Hét ra lửa” hay bắt nạt kia, người có mọi thứ vinh quang, kiêu hãnh, địa vị huy hoàng, và kèn thổi trống giong, lính hầu đứng chào đủ cả. Không rõ cậu bé nghĩ sao, chỉ biết cậu đứng phắt dậy quát lên:

- Cuff, thôi ngay, đừng có đánh nó nữa, nếu không, tao…

- Nếu không thì mày làm gì? - Thấy bị ngăn cản Cuff rất ngạc nhiên - chìa tay ra mau, đồ chó con.

- Nếu không, tao sẽ đột cho mày một trận nhừ tử, từ bé chưa bao giờ mày được nếm đâu.

Dobbin trả lời vậy, và cậu bé con Osborne, mồm mếu xệch, nước mắt giàn giụa, ngước nhìn lên có vẻ lạ lùng, không tin rằng lại có người dám hiên ngang bênh vực cho mình; Cuff cũng lấy làm quái lạ không kém. Các bạn cứ tưởng tượng cố hoàng đế George đệ tam ngạc nhiên thế nào, khi người hay tin những thuộc địa Bắc Mỹ khởi loạn, các bạn cứ tưởng tượng thái độ của chàng Goliath xương đồng da thép, khi thấy anh David tý hon dám tiến lên đòi một cuộc tỷ thí, bạn sẽ hiểu ngay tâm trạng của ngài Reginald Cuff khi nghe lời thách thức trên.

- Được, sau giờ học mày sẽ biết.

Nó dọa thế, sau một phút im lặng và một cái nhìn như muốn nói: “Hãy sám hối đi; từ giờ đến chiều, hãy liệu mà giối giăng lại cho các bạn mày nhé”.

Dobbin đáp:

- Được tùy ý, Osborne, mày phải làm nhân chứng cho tao, nghe không.

Thằng Osborne đáp:

- Ừ thế cũng được.

Bố thằng bé có cả một cái xe ngựa riêng, cho nên nó có vẻ hơi ngượng vì kẻ bênh vực nó.

Giờ chiến đấu sắp tới. Osborne thấy hơi thẹn khi phải nói “Figs, đánh đi”. Suốt hai ba hiệp đầu của trận đấu hay ho này, không có lấy một đứa nào đứng xem nói câu ấy. Khởi đầu trận đánh, nhà đấu sĩ lão luyện Cuff nở một nụ cười khinh mạn, thoải mái, tươi tỉnh như đi dự dạ hội, tống những đòn vào địch thủ, và quật ngã Dobbin ba lần liền. Mỗi lần Dobbin ngã bọn trẻ lại reo ầm lên; đứa nào cũng sốt ruột mong có vinh dự được khúm núm chúc mừng người thắng trận.

Thằng Osborne vừa nâng đấu sĩ của mình dậy, vừa nghĩ thầm:

- Sau chuyến này, thế nào mình cũng bị ốm đòn.

Nó lại bảo Dobbin:

- Thôi, mày chịu thua đi thì hơn; Figs ạ, nó chỉ bắt nạt tao thôi mà, tao quen đi rồi.

Nhưng tay chân Figs đang run lên bần bật, mũi thở phì phò giận dữ lắm: cậu gạt người làm chứng oắt con của mình ra bên, xông vào đánh hiệp bốn. Ba lần trước Cuff bước vào hiệp đấu là chủ động tấn công ngay, không để cho Dobbin có thì giờ đỡ kịp, mà Dobbin cũng không biết đỡ những đòn đối phương liên tục nện vào mình: lần này Dobbin quyết định mình sẽ tấn công trước, ngay khi vào cuộc. Vốn thuận tay trái, Dobbin sử dụng luôn để tấn công, đấm trúng hai cái liền mạnh hết sức...một quả trúng mắt trái Cuff, một quả trúng giữa mũi La-mã đẹp đẽ của cu cậu. Lần này Cuff ngã quay, đám trẻ đứng vây quanh rất ngạc nhiên. Chú bé Osborne vỗ vào lưng đấu thủ của mình, ra vẻ một tay sành thưởng thức, nói:

- Được lắm, Dobbin; cứ chơi tay trái như thế cho tao.

Trận đánh tiếp tục, cánh tay trái của Figs lập chiến công liên tiếp, mỗi lần đấm là một lần Cuff ngã gục. Đến hiệp thứ sáu hầu như những đứa hò: “đánh đi, Dobbin” cũng nhiều như những đứa reo: “Đánh đi, Cuff”. Đến hiệp thứ mười hai thì nhà cựu vô địch đã kiệt lực, nói theo lối nhà nghề, đã mất hết bình tĩnh và sức mạnh để tấn công và phòng thủ; trái lại, Figs vẫn bình tĩnh như một tín đồ Thanh giáo. Mặt Cuff trắng bệch ra, mắt mở trừng trừng long lanh, môi dưới bị một chỗ rách, máu chảy ròng ròng; trông anh học trò trẻ tuổi này có một vẻ ma quái, dữ dội khiến bọn trẻ đứng gần như khiếp đảm. Song, tay địch thủ dũng mãnh của nó vẫn sửa soạn bắt đầu hiệp thứ mười ba.

Nếu tôi có được ngòi bút của một Napier, hoặc một Bell () tôi sẽ mô tả trận đấu sinh động hơn. Ấy là đợt tấn công cuối cùng của đội Vệ binh (tuy bấy giờ trận Waterloo chưa xảy ra)...ấy là đội quân của Ney () dàn trận đối diện với trái đồi Sainte La Haye, một vạn lưỡi lê tua tủa với hai mươi con diều hâu dữ dội. Ấy là tiếng thét của đội quân Anh lao xuống sườn đồi nhảy xổ vào vây tròn ấy địch quân trong một trận giáp lá cà khủng khiếp...Nói tóm lại Cuff bước vào hiệp đấu đầy can đảm, nhưng đã lảo đảo xiêu vẹo; Dobbin bèn bồi cho một quả đấm tay trái như thường lệ trúng mũi địch thủ, hạ nó đo ván lần cuối cùng. Figs nói:

- Lần này chắc gục hẳn.

Nhìn địch thủ nằm sóng soài trên mặt cỏ y như viên bi-a của Jack Spot lúc đã rơi trúng vào lỗ: quả nhiên, lúc sắp đánh hiệp sau, Reginald Cuff không còn đủ sức, mà cũng không muốn dậy nữa.

Bây giờ bọn trẻ con hò reo ầm ĩ để tán thưởng Dobbin tưởng như từ đầu trận đánh chúng vẫn đứng về phe cậu bé, làm cho ông Swishtail phải bỏ phòng làm việc chạy ra, không biết có chuyện gì mà ồn ào đến thế. Dĩ nhiên, ông dọa đánh đòn Dobbin. Nhưng Cuff lúc này đã hồi lại, đang chùi vết máu, vội vàng đứng dậy nói:

- Thưa thầy, lỗi tại con ạ, Dobbin không có lỗi.

- Tại con bắt nạt một thằng bé hơn con, anh ấy đánh con là phải ạ...

Câu nói cao thượng ấy không những đã cứu kẻ thắng trận thoát khỏi một trận đòn, mà còn trả lại cho thằng Cuff cái uy quyền đối với bọn trẻ con mà nó suýt mất vì cuộc thất trận vừa qua. Cậu bé Osborne viết thư về cho bố mẹ kể lại câu chuyện:

Sugarcane House, Richmond, Tháng 3...ngày 18...,

Má thân yêu...

Con chúc má mạnh khỏe, con rất sung sướng xin má gửi ngay cho con một cái bánh ga-tô và năm si-linh. Cuff và Dobbin vừa đánh nhau một trận. Má cũng biết đấy, Cuff là thằng trùm trong trường. Hai thằng đánh nhau mười ba hiệp. Cuff bị đo ván. Thế là bây giờ Cuff tụt xuống hàng hai. Chúng nó đánh nhau là tại con. Cuff đánh con vì con làm vỡ một chai sữa; Dobbin thấy thế không chịu được. Chúng con gọi nó là Figs vì bố nó bán thực phẩm - hiệu Figs và Rudge, phố Thames, khu City - Theo ý con, nó đã bênh con thì má nên mua trà và đường ở hiệu của bố nó. Thứ bẩy nào Cuff cũng về thăm nhà. Nhưng lần này không về được, vì hai mắt sưng tím bầm lại. Nó có con ngựa Pony trắng đến đón nó về nhà, lại có một thằng hầu mặc chế phục cưỡi một con la lông hung hung đi theo. Giá ba mua cho con một con ngựa để con cưỡi thì thú quá.

Con ngoan của má George Sedley Osborne.

T.B. - Con gửi cho bé Emmy một cái hôn. Con đang cắt cho nó một cái xe ngựa bằng bìa cứng, đừng gửi bánh khô, gửi cho con bánh quả, má nhé.

Sau trận đánh thắng vừa rồi, vai trò của Dobbin nổi bật trong trường. Cậu bé được hết thẩy bạn học vì nể, và cái tên Figs trước kia hàm ý chế nhạo, bây giờ đã trở thành phổ biến và đáng kính như bất cứ tên gọi đùa một đứa trẻ nào khác trong trường. George Osborne bảo: “Nói cho đúng, bố nó bán thực phẩm có phải là lỗi tại nó đâu”; tuy bé, nhưng Osborne vẫn được đám học trò nhỏ trong trường mến; ý kiến của cậu bé được toàn thể nhiệt liệt tán thưởng.

Chúng quyết nghị rằng chế nhạo Dobbin về dòng dõi là hèn. “ông Figs” trở thành một cái tên tốt đẹp, thân yêu; và anh trưởng tràng cũng không kể chuyện bôi xấu Dobbin nữa.

Tình hình dễ chịu hơn, nên tinh thần Dobbin cũng có thay đổi. Cậu bé tiến bộ trông thấy trong những môn học cổ điển. Đích thân cậu Cuff lẫm liệt kia giúp đỡ Dobbin học những câu thơ la-tinh; trước sự chiếu cố này. Dobbin chỉ biết đỏ mặt và ngạc nhiên. Trong những giờ chơi, Cuff còn luyện thêm cho Dobbin, giúp cậu bé từ lớp bét của bọn trẻ con leo lên lớp nhì, và được xếp một thứ hạng kha khá ở lớp này nữa. Bây giờ mới khám phá ra rằng tuy về môn học cổ điển thì dốt, nhưng về toán học Dobbin tiến bộ khác thường. Toàn thể mọi người rất hài lòng khi thấy cậu bé đứng thứ ba về đại số, và đến kỳ thi giữa mùa hè lại chiếm phần thưởng là một tập sách tiếng Pháp. Giá các bạn được nhìn thấy mặt bà mẹ Dobbin khi ông Swishtail trao quyển truyện Telemaque (truyện hay tuyệt!) cho Dobbin trước toàn thể học sinh trong trường và các vị phụ huynh; trong sách có ghi tặng Gulielmo Dobbin. Toàn thể học sinh vỗ tay tán thưởng. Không sao mà tả được cu cậu đỏ mặt, lúng túng, ngã xiêu vẹo và giẫm lên bao nhiêu là bàn chân bạn, lúc lĩnh thưởng xong trở về chỗ ngồi. Ông bố Dobbin tỏ vẻ kính nể con trai lần này là lần đầu; trước mặt mọi người, ông cho con trai hai ghi-nê. Số tiền này cậu bé tiêu gần hết để thết anh em trong trường một bữa ê hề; sau mấy ngày nghỉ, cậu trở lại trường, mặc một cái áo đuôi tôm.

Dobbin là một cậu bé quá khiêm tốn; cậu không nghĩ rằng tình thế thay đổi tốt đẹp như vậy là nhờ tính cao thượng rộng lượng của chính mình; vì một thói lệch lạc nào đó trong sự suy nghĩ, cậu lại cho rằng chính nhờ có Osborne, giúp đỡ săn sóc nên mới có cái may mắn trên; đối với Osborne, cậu yêu quý hết sức, chỉ có trẻ con mới quý nhau được như vậy...y như tâm tình của anh chàng Orson trong truyện thần tiên đối với kẻ thắng mình là chàng Valentine tuyệt diệu. Có thể nói Dobbin quỳ xuống chân Osborne mà thờ phục cậu bạn nhỏ. Ngay khi hai đứa chơi với nhau. Dobbin đã thầm kính phục Osborne rồi, bây giờ cậu là thằng hầu, là con chó, là anh chàng “Thứ sáu” () của Osborne. Cậu tin rằng Osborne có đủ mọi tài. Osborne xinh trai nhất, can đảm, hoạt động, thông minh nhất, rộng lượng nhất, trong số trẻ con trên đời này. Tiền riêng của cậu, hai đứa cùng tiêu; cậu mua cho Osborne đủ mọi thứ: dao con, hộp bút chì, con dấu bằng vàng, bánh bơ, còi và những cuốn truyện phiêu lưu có những tranh tô màu khổ to, vẽ những hiệp sĩ và bọn cướp; nhiều tranh có đề “William Dobbin tặng bạn nối khố là George Sedley Osborne công tử”. George tỏ vẻ rất nhã nhặn khi nhận vinh dự trên, thấy cũng xứng đáng với giá trị của mình.

Cho nên hôm trung úy Osborne đến công viên Russell để cùng đi chơi Vauxhall, anh ta đã nói với hai cô thiếu nữ và bà mẹ thế này:

- Bà Sedley, thưa bà, bà cho phép chúng con được tự do: con đã mời Dobbin bạn con đến dùng bữa ở đây, rồi cùng đi chơi Vauxhall. Tính anh ấy cũng dút dát như anh Joe .

- Nhút nhát! Xì!

Anh chàng béo, vừa đáp, vừa đưa cặp mắt chiến thắng nhìn sang cô Sharp.

Osborne cười, nói thêm:

- Anh ấy nhút nhát thật đấy. Nhưng Sedley, anh lịch sự hơn nhiều. Tôi gặp anh ấy ở Bedford, lúc đến đây tìm anh. Tôi đã bảo anh ấy rằng Amelia về nhà rồi, và chúng ta đang dự định tổ chức một buổi đi chơi tối; còn bà Sedley thì đã tha thứ cho anh ta về tội đánh vỡ cái bình rượu hồi còn nhỏ. Bà còn nhớ chuyện không may ấy không ạ? Bảy năm qua rồi.

Bà Sedley đáp:

- Làm bẩn hết cái áo lụa màu tím của bà Flamingo. Cái thằng vụng về quá. Mấy cô chị cũng chẳng khéo léo hơn mấy tý. Bà Dobbin hôm qua cũng đến Highbury chơi cùng ba cô con gái. Gớm, mặt với mũi.

Osborne láu lỉnh hỏi:

-Nhà ông cố vấn giàu lắm phải không, bà? Bà xem liệu mấy cô con gái, có cô nào con lấy làm vợ được không?

- Chỉ nói bậy thôi nào. Ai thèm rước cái mặt vàng khè của anh về làm của nợ, anh nói tôi xem?

- Mặt con mà vàng khè? Bà hãy chờ xem mặt Dobbin đã. Anh ta đã ba lần bị bệnh sốt rét, hai lần ở Nassau, một lần ở St. Kitts.

Bà Sedley đáp:

- Được được? Đối với chúng tôi, mặt anh thế là đủ vàng lắm rồi, có phải không, Emmy?

Amelia nghe mẹ nói chỉ đỏ mặt lên mỉm cười; vừa liếc nhìn bộ mặt tai tái xinh trai của Osborne, có điểm một hàng ria mép rất đẹp, đen nhánh, xoăn xoăn và bóng (anh chàng trẻ tuổi vẫn lấy làm hãnh diện vô cùng về bộ ria của mình), cô vừa nghĩ thêm rằng trong quân đội của đức Hoàng đế, và khắp cả thế giới nữa, đố tìm đâu ra một bộ mặt điển trai, hoặc một con người anh hùng như chàng Osborne của cô. Cô nói:

- Tôi chả để ý đến đại úy Dobbin da mặt thế nào, hoặc tính tình vụng về ra sao, có điều chắc là bao giờ tôi cũng quý anh ấy…Đấy là bởi Dobbin là bạn của Giorgiơ và đã bênh vực anh chàng. Osborne nói:

- Trong quân đội, không có người nào tốt hơn, không có sĩ quan nào giỏi hơn, mặc dầu anh ta không phải là một Adonis ().

Đoạn, anh chàng liếc nhìn bóng mình trong gương rất tự nhiên, nhưng thấy đôi mắt của Rebecca cũng đang chăm chú ngó mình, anh ta hơi đỏ mặt. Rebecca thầm nghĩ: “A, ông bạn xinh trai của tôi ơi (), tôi nắm được đúng tẩy của ngài rồi”. Gớm, con bé đến láu cá!

Tối hôm ấy: Amelia vừa đi vừa nhảy nhót bước vào phòng khách; cô mặc một chiếc áo voan trắng, sửa soạn đi chơi Vauxhall, miệng líu lo hát như một con sơn ca, trông tươi tắn như một đóa hồng... bỗng cô thấy một người đàn ông tiến về phía mình và cúi xuống chào một cách vụng về không thể tả được; anh ta người cao lớn, thô kệch, tay chân to tướng, tai rộng bè, bộ tóc đen hớt rất ngắn nên hai tai trông càng to; anh ta mặc bộ binh phục gớm ghiếc, và đội một chiếc mũ vành bẻ tam giác kiểu thời bấy giờ.

Chính là đại úy William Dobbin, thuộc trung đoàn bộ binh thứ...của Hoàng gia; trung đoàn của anh ta đóng ở vùng tây Âu. Vì bị sốt rét vàng da nên anh ta được về nước nghỉ, trong khi các bạn đồng ngũ vẫn còn ở lại để lập công.

Lúc đến, Dobbin đã gõ cửa, nhưng vì nhút nhát nên gõ khẽ quá, trên gác không ai nghe tiếng; nếu không, chắc chắn Amelia chẳng dám bạo dạn vừa đi vừa hát trong phòng. Cho nên cái giọng hát thanh thanh, ngọt ngào mới đi thẳng vào tâm hồn chàng đại úy và nằm lỳ tại đó. Lúc Amelia đưa bàn tay cho anh ta bắt, trước khi nắm lấy, anh ta ngừng lại, nghĩ thầm; “Hừ, có lẽ nào... thì ra cô chính là cô bé mặc áo hồng, tôi còn nhớ gặp mới hồi nào... cái bữa tôi đánh đổ bình rượu, vừa sau khi tôi được đề bạt? Cô chính là người mà Osborne nói chuyện định cưới làm vợ? Trông cô có vẻ tươi tắn lắm nhỉ; cái thằng láo lếu ấy thế mà may mắn ghê?” Những ý nghĩ trên vụt qua óc Dobbin trước khi anh đánh rơi chiếc mũ xuống đất vì vội cầm lấy bàn tay cô thiếu nữ.

Lai lịch anh chàng Dobbin từ khi rời bỏ nhà trường cho đến lúc chúng ta có cái may mắn gặp lại anh ta một lần nữa, nếu các bạn tinh ý thì cứ coi qua mấy trang trên cũng tạm rõ, mặc dầu chưa thật đầy đủ. Ông Dobbin, người bán thực phẩm bị khinh rẻ, đã thành ông cố vấn hành chính Dobbin…rồi cố vấn Dobbin lại trở thành đại tá Dobbin trong đội quân kinh kỵ của kinh đô, lúc này đang nóng lòng thèm được chiến đấu chống bọn Pháp xâm lược.

Đội quân của Dobbin đã được đức Hoàng đế và công tước York duyệt binh; trong đội quân này, ông bố Osborne mới chỉ là một bác hạ sĩ tầm thường; còn ông đại tá kiêm cố vấn hành chính thì đã được ban tước “Hiệp sĩ”. Con trai ông cũng tòng quân và chính Osborne cũng gia nhập cùng vào một trung đoàn đó. Họ đã chiến đấu ở vùng Tây Ấn() và Gia-nã-đại. Trung đoàn của họ vừa trở về nước, bây giờ Dobbin vẫn yêu quý Osborne như xưa, hồi cả hai còn là những cậu học sinh.

Mọi người cùng ngồi xuống dùng bữa. Họ nói với nhau về chuyện chiến tranh, chuyện chiến thắng, về Boney, về công tước Wellington, và về số tạp chí vừa ra. Đang thời buổi huy hoàng đó, cứ mỗi số tạp chí xuất bản lại có đăng một chiến công mới; hai chàng trẻ tuổi dũng cảm vẫn khát khao được thấy tên mình đăng trong bản danh sách vinh quang, và cùng rủa thầm số phận không may đã bắt họ chôn chân trong một trung đoàn đã không có vinh hạnh được mời đến gần trận địa danh dự. Nghe câu chuyện đầy hào hứng ấy cô Sharp thấy sôi nổi hẳn lên, nhưng cô Sedley thì sợ hãi đến gần như khiếp đảm. Joe cũng góp thêm vài câu chuyện săn hổ, anh ta kể nốt câu chuyện về cô Cutler và viên thầy thuốc Lance, tiếp Rebecca đủ mọi món ăn, và chính anh ta cũng vừa ăn lia lịa vừa nốc rượu vô hồi kỳ trận.

Lúc hai cô thiếu nữ rời khỏi phòng, Joe nhảy xổ ra mở cửa, với một dáng điệu vô cùng lịch sự và tình tứ... rồi lại quay vào bàn, tiếp tục rót lấy rượu vang hết cốc này đến cốc khác và nốc lấy nốc để một cách vội vàng. Osborne thì thầm với Dobbin:

- Cu cậu chuẩn bị đấy.

Cuối cùng đến giờ đi chơi Vauxhall, xe ngựa đã sẵn sàng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6


VAUXHALL

Tôi cũng biết rằng câu chuyện tôi đang kể chẳng có gì là đặc sắc (tuy rằng sắp đến vài chương ghê gớm đây), và cũng xin bạn đọc rộng lượng nhớ cho rằng chúng ta đang nói chuyện về gia đình một người buôn cổ phiếu ở công viên Russell, mà họ thì đang đi chơi hoặc ăn điểm tâm, hoặc dùng cơm tối, hoặc nói chuyện, hoặc phải lòng nhau, chẳng khác gì thiên hạ trong cuộc sống hàng ngày vậy; cũng chưa có một sự kiện ghê gớm kỳ lạ nào đánh dấu bước tiến bộ trong những mối tình của họ. Câu chuyện đại khái như thế này.. . Osborne yêu Amelia; anh ta mời một người bạn cũ đến dùng bữa tối rồi đi chơi Vauxhall, còn Joe Sedley cũng yêu Rebecca. Hai người có lấy nhau không? Đó là vấn đề ta đang xét.

Chúng ta rất có thể giải quyết vấn đề một cách hoặc êm đềm, hoặc lãng mạn, hài hước. Giả thử ta đặt câu chuyện vào khung cảnh Quảng trường Grosvenor, cũng những tình tiết ấy…liệu có ai thèm nghe không? Giả thử ta kể rằng Vương tước Joseph Sedley yêu, và hầu tước Osborne cũng phải lòng công nương Amelia, mối tình được vị công tước cha nàng hoàn toàn đồng ý; hoặc ta không cho chuyện xảy ra trong tầng lớp đại quý tộc, mà đặt vào trong một khung cảnh hạ lưu nhất, thí dụ cái bếp của nhà ông Sedley chẳng hạn; bác da đen Sambo đã phải lòng chị đầu bếp ra sao (mà chắc chắn là có thể) và vì chị này, bác đã choảng nhau với anh xà ích... chú bé hầu rượu đã bị bắt quả tang ăn trộm một tảng vai cừu thế nào…rồi mụ hầu phòng cô Sedley mới mượn nhất định không chịu vào buồng ngủ nếu không có cây nến... những chuyện ấy có thể dựng lên cốt gây những trận cười khoái trá, và được mệnh danh là những cảnh đời thực. Hoặc giả, trái lại, nếu chúng ta ưa những cảnh hãi hùng, và cho anh nhân tình của mụ hầu phòng mới đến làm là một tên trộm nhà nghề; hắn cùng đồng đảng lọt vào nhà giết chết bác da đen Sambo ngay dưới chân ông chủ, cướp phăng cô Amelia còn mặt áo ngủ đem đi mất cho mãi đến tập ba của cuốn truyện mới thả cho về nếu thế, có lẽ chúng tôi đã có thể dễ dàng viết được một truyện rùng rợn; độc giả hẳn phải hồi hộp mà đọc ngấu nghiến những chương sách ghê gớm đó. Nhưng xin các bạn đọc đừng chờ đợi ở đây một cuốn truyện thuộc loại như vậy; đây chỉ là một câu chuyện gia đình và xin hãy bằng lòng với một chương kể chuyện Vauxhall, chương này ngắn ngủi lắm, đến nỗi không đáng gọi là một chương nữa.

Thế mà nó vẫn là một chương, lại là một chương quan trọng nữa cơ đấy. Trong đời sống hàng ngày, chẳng đã từng có những chương bé nhỏ, hình như không có nghĩa lý gì, song thật ra đã ảnh hưởng đến cả đoạn sau của cuộc đời chúng ta đấy sao?

Vậy thì chúng ta hãy cùng bước vào trong chiếc xe ngựa với bốn cô cậu ở Công viên Russell và thẳng đường đến Vauxhall. Joe và cô Sharp ngồi ở ghế trước, giữa có một chỗ ngồi để trống. Osborne ngồi trước mặt họ, bị ép giữa đại úy Dobbin và Amelia.

Trên xe, ai cũng yên trí đêm hôm ấy thế nào Joe cũng ngỏ ý hỏi Rebecca Sharp làm vợ. Ở nhà, hai bậc cha mẹ cũng tán thành việc bố trí này, tuy ta phải nói riêng với nhau rằng ông lão Sedley đối với con trai gần như có ý khinh bỉ. Ông bảo rằng con trai ông phù phiếm, ích kỷ, lười biếng, và đàn bà quá. Ông cụ không chịu được những điệu bộ công tử bột của anh chàng, và rất tức cười về những chuyện “huyên thiên xích đế” của cu cậu. Ông lão bảo:

- Tôi sẽ cho nó nửa cơ nghiệp này, ngoài ra nó còn khối của riêng nhưng tôi cam đoan rằng ví thử ngày mai, bà, tôi và em gái nó chết, nó sẽ nói: "Đội ơn Chúa", và cứ ăn cơm tối ngon miệng như thường; cho nên tôi không vạ gì mà lo lắng cho nó. Mặc xác nó lấy ai thì lấy; đó không phải là việc của tôi.

Trái lại, Amelia rất tán thành cuộc hôn nhân của anh trai, đúng như tính tình khôn ngoan của một thiếu nữ trẻ tuổi như cô ta. Có một hai lần Joe định nói một điều gì đó rất quan trọng với em gái, mà cô em cũng rất sẵn sàng lắng nghe ông anh thổ lộ nỗi lòng, song anh chàng béo ị lại không đủ can đảm ngỏ cái điều bí mật quan trọng ủ ấp sâu kín trong trái tim mình; anh ta chỉ thở dài thật to và quay đi làm cho cô em gái cũng đến phát chán.

Điều bí mật sâu kín ấy có tác dụng khiến cho tâm trí cô Amelia dịu dàng của chúng ta lúc nào cũng bồi hồi chờ đợi, cô không hề trao đổi với Rebecca về câu chuyện tế nhị này; nhưng bù lại cô đã thân mật kể đầu đuôi câu chuyện với bà quản gia Blenkinsop; bà này lại khéo léo buông vài lời bóng gió với chị hầu gái; rất có thể chị này đã hấp tấp mách lại với chị làm bếp; và chị làm bếp lại đem tin này phổ biến với những người bán thực phẩm cho gia đình. Cuối cùng việc hôn nhân của Joe trở thành câu chuyện người nào ở Công viên Rusell cũng biết cả.

Dĩ nhiên, bà Sedley cho rằng con trai bà đã hạ thấp phẩm giá mình vì muốn cưới con gái một nghệ sĩ làm vợ.

Song bà Blenkinsop nói:

- Lạy Chúa, bà ơi, xưa kia hồi bà mới làm bạn với ông Sedley, bà cũng chỉ bán thực phẩm, còn ông nhà ta thì làm thư ký cho một người buôn tín phiếu, vốn liếng làm gì được nổi năm trăm đồng. Thế mà bây giờ cũng mát mặt đáo để. Amelia hoàn toàn đồng ý; vì vậy bà Sedley vốn tính rộng lượng, dần dần cũng xiêu lòng.

Ông Sedley thì vẫn đứng trung lập, ông nói:

- Mặc kệ thằng Joe lấy ai thì lấy; đó không phải là việc của tôi. Con bé chẳng có đồng hồi môn nào; ngày xưa bà Sedley cũng thế. Nó có vẻ cũng vui tính và thông minh, có nhẽ cũng giữ gìn thằng Joe khỏi chơi bời được đấy. Vả lại lấy nó chả tốt hơn lấy một bà da đen để đẻ ra cho nhà này một tá cháu nội da màu "súc-cù-là" à?

Thế là mọi sự dường như đều mỉm cười với cái may mắn của Rebecca. Mỗi khi xuống nhà ăn cơm, cô lại khoác tay Joe đi, như là một điều dĩ nhiên; cô đã ngồi cạnh Joe trên chiếc xe riêng mui trần của anh ta (Joe thật là một con hươu đầu đàn lẫm liệt, vì anh ta ngồi rất bình thản trên xe tự điều khiển lấy đôi ngựa xám của mình). Tuy không ai nói một lời nào về cuộc hôn nhân này, song dường như ai cũng đã rõ chuyện. Rebecca chỉ thèm có một điều là Joe ngỏ ý với mình. Chao ôi! bây giờ cô ta mới cảm thấy mình thiếu một bà mẹ, một bà mẹ âu yếm dịu dàng, có thể giải quyết vấn đề chỉ trong mười phút đồng hồ, vì chỉ qua một câu chuyện riêng nho nhỏ, tế nhị, là có thể bắt anh con trai nhút nhát này bộc bạch tâm sự của mình.

Câu chuyện ở trong tình trạng như vậy đấy, khi chiếc xe chạy qua cầu Westminster.

Mọi người rời xe bước vào khu vườn của Hoàng gia vừa đúng lúc. Khi anh chàng Joe bệ vệ bước ra khỏi chiếc xe làm cho nó kêu cót két, đám đông đứng quanh reo cười ầm lên chào đón vị công tử béo phị; anh chàng đỏ mặt cắp tay Rebecca đi, trông dáng điệu càng thêm bệ vệ, hiên ngang.

Dĩ nhiên Amelia đã có George săn sóc. Trông cô hớn hở y như một cây hồng trong ánh nắng. George nói:

- Dobbin, tôi bảo này, anh trông hộ đám khăn san và đồ dùng nhé, thật may quá lại có anh.

Thế là trong khi George đi sóng đôi với Amelia, và Joe đang thót mình lại để chui qua cổng khu vườn có Rebecca cặp kè bên cạnh, thì anh chàng Dobbin thực thà đành vui lòng đưa tay nhận lấy đống khăn quàng và trả tiền vào cửa cho cả bọn.

Anh ta kín đáo đi sau lưng họ. Anh ta không muốn làm họ mất vui. Rebecca và Joe thì anh chẳng thiết để ý đến; nhưng anh cho rằng Amelia rất xứng đáng làm vợ anh chàng George Osborne hào hoa kia; cặp tình nhân đẹp đôi đạo bước bên nhau khiến cô thiếu nữ sung sướng và hơi bỡ ngỡ. Dobbin nhìn sự hào hứng hồn nhiên của Amelia với niềm hân hoan của một người cha. Có lẽ Dobbin cũng cảm thấy giá trên tay mình có cái gì khác ngoài mấy tấm khăn quàng thì vẫn hơn (người qua kẻ lại thấy chàng sĩ quan trẻ tuổi vụng về ôm một mớ khăn áo của đàn bà thì cứ cười) nhưng Wiliam Dobbin không hay tính toán vị kỷ; trong lúc bạn mình được sung sướng tại sao mình lại không hài lòng? Trong vườn có rất nhiều thú vui; nào là hàng vạn ngọn đèn thắp sáng trưng, nào là bọn nhạc công đội mũ vành tam giác chơi những bản nhạc mê hồn dưới mô hình một chiếc vỏ ốc mạ vàng treo giữa khu vườn, rồi bọn ca công hát những bài khôi hài và trữ tình nghe rất hấp dẫn, những điệu vũ dân gian do những người dân thành Luân Đôn vừa đàn ông vừa đàn bà trình bày... chỉ thấy nhảy, vỗ tay và cười ầm ĩ; có trống báo hiệu bà Saqui sắp sửa biểu diễn trò bám thang dây leo lên giời chơi với sao, lại có một vị ẩn sĩ lúc nào cũng ngồi tĩnh tọa trong một căn đạo am đèn thắp sáng trưng. Có bao nhiêu là lối đi tối om, rất thuận tiện cho những cặp tình nhân trẻ tuổi tâm sự cùng nhau; một bọn người mặc chế phục cũ kỹ, tồi tàn, bán những ca rượu mạnh, và trong những quán ăn lấp lánh ánh đèn, bọn thực khách sung sướng ngốn những mảnh dăm-bông mỏng dính... tất cả những thú vui ấy, cả anh chàng Simpson nữa, anh chàng ngớ ngẩn tốt bụng lúc nào cũng mỉm cười, và có thể nói là đang chủ tọa cả cuộc dạ hội... tất cả, đại úy Dobbin đều không buồn chú ý lấy may may.

Anh ta mang chiếc khăn quàng Casơmia trắng của Amelia trên tay đi loanh quanh, rồi đứng dưới chiếc mô hình vỏ ốc mạ vàng xem bà Salmon trình bày bài “Chiến tranh” của Borodino, một bản sử thi phổ nhạc giễu cợt con người hãnh tiến đảo Corse mới đây vừa bị đại bại ở Nga...

Lúc quay đi chỗ khác bỗng anh ta thử lẩm nhẩm hát…và thấy mình nhắc lại điệu hát của Amelia lúc cô bước xuống thang gác đi vào phòng ăn. Dobbin phá ra cười chế nhạo chính mình, vì sự thực anh ta hát cũng không hay hơn một con cú rúc.

Lẽ dĩ nhiên, ta phải hiểu rằng những con người trẻ tuổi của chúng ta đang sánh đôi từng cặp, từng cặp một, và đang long trọng hứa hẹn với nhau suốt tối nay sẽ không rời nhau, để mười phút sau đã chia tay nhau rồi. Người đi chơi ở Vauxhall vẫn thường chia tay nhau, nhưng họ sẽ gặp nhau lại lúc bữa ăn nửa đêm để kể cho nhau nghe những chuyện xảy ra từ lúc họ chia tay.

Đã có những chuyện gì xảy ra về Osborne và Amelia?

Đó là một điều bí mật. Nhưng xin bạn hãy yên trí rằng họ rất sung sướng và đối với nhau rất đứng đắn. Vì đã mười lăm năm nay, họ vẫn có thói quen đi chơi đông với nhau, nên cũng không ai cho đấy là chuyện mới lạ.

Song khi Rebecca Sharp và người bạn trai béo phị của cô đi mất hút vào trong một lối đi tối om - chỉ có độ mươi cặp khác cũng lạc lối đi vào đấy - thì cả hai cùng thấy rằng trường hợp của họ rất là tế nhị và “gay go”. Riêng cô Sharp nghĩ thầm, bây giờ hoặc là không bao giờ nữa chính là lúc phải khêu gợi cho những lời ngỏ tình còn đang mấp máy trên đôi môi nhút nhát của anh chàng Sedley kia phải bật ra.

Lúc nãy, hai người vừa đứng xem một toàn cảnh của thành phố Mạc-tư-khoa; có một anh chàng thô kệch bỗng giẫm phải chân cô Sharp, khiến cô này kêu thét lên, lùi lại, ngã ngay vào cánh tay Sedley; sự việc vừa rồi càng khiến cho anh chàng thêm dịu dàng thân mật, đến mức độ anh ta lại kể thêm ít nhất là lần thứ sáu rất nhiều chuyện Ấn Độ sở trường của anh. Rebecca nói:

- Em thèm được sang Ấn Độ quá?

- Cô thích thật không?

Sedley hỏi lại, giọng nói vô cùng dịu đàng, tình tứ, và chắc chắn sắp sửa nối theo câu hỏi khéo léo ấy bằng một câu hỏi khác êm ái hơn nhiều (vì anh ta lúc này đang thở phì phò như kéo bễ, và bàn tay cô Rebecca đặt gần mé ngực anh ta có thể đếm từng nhịp đập dồn dập của trái tim cu cậu), thì ôi, tai hại làm sao! Có tiếng chuông réo lên báo hiệu sắp bắn pháo hoa; thế là xung quanh người ta chen lấn nhau chạy ào ào: đôi tình nhân đành phải buông mình trôi theo dòng người cuồn cuộn.

Đại úy Dobbin dự định đến bữa ăn đêm sẽ lại tìm bọn họ; quả thật anh ta thấy những trò chơi ở Vauxhall chẳng thú vị gì mấy…Anh ta đã nện bước qua lại tới hai lần trước ngôi quán có hai cặp tình nhân trong đó, nhưng chẳng ai để ý đến anh ta. Trên bàn bày bát đĩa cho bốn người ăn.

Hai cặp tình nhân huyên thuyên trò chuyện những đâu đâu, trông thật là hạnh phúc; Dobbin hiểu rằng mình đã hoàn toàn bị bỏ quên như chưa hề bao giờ có mặt trên đời này.

Viên đại úy nhìn bốn người, vẻ hơi đăm chiêu, nói:

- Mình có ngồi đây cũng rất thừa (). Tốt hơn là đi ra nói chuyện với lão ẩn sĩ.

Anh chàng bèn rời xa cái đám ồn ào những tiếng người, tiếng động, tiếng thìa ra lách cách của bữa tiệc, lang thang đi vào một con đường tối om; đầu đường là chỗ ở của Chàng Cô đơn () quen thuộc bằng giấy bồi. Dobbin cũng không lấy gì làm vui lắm; mà thực thế, tôi đã biết, nhờ những kinh nghiệm bản thân, rằng trơ trọi một mình ở Vauxhall là một trò chơi tai hại nhất đối với một anh con trai chưa vợ.

Hai cặp tình nhân ngồi trong căn lều, hoàn toàn hạnh phúc họ chuyện trò với nhau sao mà thân mật và sung sướng thế. Joe đang lúc hăng say, hiên ngang dõng dạc ra lệnh cho bọn hầu bàn. Anh trộn rau xà-lách, mở sâm-banh, cắt thịt gà, và uống, và ăn phần lớn thức ăn trên bàn. Cuối cùng anh ta nhất định đòi bằng được một tô rượu mạnh. Ở Vauxhall ai mà không uống rượu mạnh: “Bồi, rượu mạnh đây!” Tô rượu mạnh này là nguồn gốc của tất cả câu chuyện này; mà tại sao nguyên nhân lại không phải là một tô rượu mạnh; nó cũng như bất cứ một cái gì khác chứ sao?

Xưa kia, chỉ vì một cốc thanh toan () mà nàng Rosamond kiều diễm kia phải đi vào nhà tu kín đấy thôi. Lại cũng vì một tô rượu vang mà Alexander đại đế đã phải chết, hoặc ít nhất cũng là theo lời ông Lempriere kể lại. Vậy thì chính cái tô rượu ấy đã ảnh hưởng đến vận mệnh của mọi nhân vật trong câu chuyện không có nhân vật này. Dẫu rằng hầu hết bọn họ không nếm một giọt rượu nào, tô rượu cũng vẫn ảnh hưởng đến đời sống của họ.

Hai cô thiếu nữ không uống rượu: Osborne cũng không thích nốt. Cuối cùng Joe anh chàng béo tham ăn, đã một mình tu sạch cả tô rượu; kết quả của việc nốc cả tô rượu mạnh là mới đầu anh ta vui vẻ một cách kỳ lạ, rồi sau sự vui vẻ ấy hầu như biến thành khó chịu. Bởi lẽ anh ta nói chuyện và cười đùa cứ bô bô lên, làm cho đến hàng tá người tò mò tụ tập xung quanh căn lều nghe; mấy người bạn cùng ngồi ngượng hết sức. Anh ta còn tình nguyện hát một bài (với cái giọng cao mà lè nhè đặc biệt của những ông say mềm), thế là có nhẽ hầu hết đám khán giả tụ tập quanh cái mô hình vỏ ốc mạ vàng đổ xô lại xem; họ vỗ tay rào rào tán thưởng. Một người nói: "Hoan hô anh béo!" Người khác: “Hát lại đi, Daniel Lambert!” Một người thứ ba kêu lên: “Trông chẳng khác gì hề leo dây” làm cho mấy cô thiếu nữ hoảng quá; Osborne tức lắm. Anh ta hét to:

- Anh Joe ta đứng dậy đi về thôi, tôi xin anh đấy.

Hai cô thiếu nữ đứng ngay lên.

- Khoan đã, này cô em be bé xinh xinh của tôi ơi!

Joe hò lên vậy và bạo dạn như một con sư tử ôm ghì ngang lưng Rebecca. Rebecca hoảng quá nhưng không sao gỡ ra được. Thiên hạ thấy thế càng cười tợn. Joe cứ tiếp tục nốc rượu và tán tỉnh, và hát. Rồi anh ta lại nháy mắt và mềm mại giơ cốc rượu vẫy chào mọi người đứng xem, thách thức tất cả mọi người hoặc bất cứ ai dám vào uống rượu thi với mình.

Osborne suýt nữa thì đấm ngã quay một anh chàng đi ủng định xông vào lợi dụng bữa rượu và hình như không sao tránh khỏi chuyện rắc rối. May quá, vừa lúc ấy Dobbin vẫn đi chơi loanh quanh trong vườn, bước vào trong quán ăn.

- Đi chỗ khác con khỉ.

Vừa nói Dobbin vừa huých bật một số đông người đứng xem ra ngoài; thấy cái mũ vành tam giác và điệu bộ hung hãn của Dobbin, họ sợ quá chạy mất, còn anh ta bước vào trong quán, có vẻ bị xúc động tợn.

- Trời ơi? Dobbin. Thế lúc nãy anh ở đâu?

Osborne vừa hỏi, vừa giằng lấy chiếc khăn quàng Casơmia trắng trong tay bạn trùm kín lấy Amelia.

- Anh ở đây liệu thu xếp và coi sóc anh Joe hộ nhé. Để tôi đưa hai cô ra xe.

Joe định đứng lên can thiệp, nhưng Osborne chỉ mới đưa một ngón tay ra gạt, anh ta đã ngã phịch xuống ghế, viên trung úy đưa hai cô thiếu nữ ra xe một cách an toàn. Thấy họ đi, Joe còn giơ tay hôn gửi theo, và nấc lên: “Cầu Chúa cho các bạn! Cầu Chúa cho các bạn?”. Đoạn Joe cầm tay đại úy Dobbin, khóc một cách rất đáng thương; anh chàng thú thực mối tình của mình với bạn: anh ta thờ phụng cô thiếu nữ vừa đi khỏi, anh ta hiểu rằng cử chỉ lỗ mãng vừa qua của mình đã làm cho cô thiếu nữ đau khổ vô cùng; anh ta muốn ngay hôm sau làm lễ cưới Rebecca ở nhà thờ Saint George, tại công viên Hanover; anh ta sẵn sàng đập cửa đánh thức cả đức giám mục Canterbury ở Lambeth; thề có trời đất, anh ta sẽ buộc đức giám mục phải tổ chức lễ cưới ngay lập tức. Đại úy Dobbin bèn lựa ý bạn, khôn khéo khuyên nên rời khỏi khu vườn hội, mau mau đến Lambeth kéo muộn. Lúc đã qua cổng, Dobbin dìu Joe Sedley lên xe rất dễ dàng, rồi đưa anh ta về nhà không xảy ra chuyện gì cả.

George Osborne cũng đã đưa hai cô thiếu nữ về nhà vô sự; lúc cửa đã đóng, đi ngang qua công viên Russell anh ta cười rũ rượi làm cho người gác lấy làm lạ quá. Amelia buồn bã nhìn cô bạn gái; cô dẫn bạn lên gác, hôn bạn và đi ngủ không nói thêm chuyện gì khác.

Rebecca thầm nghĩ: “Ngày mai chắc anh chàng phải tỏ tình. Anh chàng gọi mình là em thân yêu đến bốn lần tất cả; anh chàng còn nắm chặt tay mình trước mặt Amelia. Mai, hẳn anh chàng phải tỏ tình”. Cả Amelia cũng yên trí như thế. Tôi còn dám tin rằng cô nghĩ cả đến bộ áo phù dâu sẽ mặc, nghĩ đến những món quà cưới sẽ mừng người chị dâu xinh xắn bé nhỏ của mình, nghĩ cả đến buổi hôn lễ tiếp theo, trong đó có thể là chính cô sẽ đóng một vai chủ yếu vân vân và vân vân…

Ôi, người đời mới dại dột làm sao? Các người thật chưa hiểu hết cái tai hại của một tô rượu mạnh! Uống rượu mạnh, sáng hôm sau nhức đầu như búa bổ. Về cái chân lý này, tôi có thể lấy tư cách là đàn ông mà cam đoan như vậy; trên đời này không có một bệnh nhức đầu nào như nhức đầu vì rượu mạnh ở Vauxhall. Đã hai mươi năm nay, mà tôi còn nhớ rõ hiệu quả của hai cốc rượu... hai cốc rượu vang... chỉ có hai thôi, xin lấy danh dự mà thề như vậy; thế mà Joseph Sedley đang bị đau gan, lại đã nốc ít nhất là một phần tư lít cái thứ nước khủng khiếp ấy.

Sớm hôm sau, trong khi Rebecca chắc mẩm bình minh của hạnh phúc đang rạng rỡ đón chào mình, thì Sedley cũng đang rên rỉ vì đau đớn đến nỗi không bút nào tả xiết. Không may, hồi ấy người ta chưa chế ra nước xô-đa. Các vị thực khách nào trót quá chén đêm hôm trước, chỉ có mỗi một thứ bia để uống cho giã rượu. George Osborne thấy ngài cựu ủy viên tài phán quận Boggley Wollah đang rền rĩ trên chiếc ghế xô-fa, trước mặt có chai bia. Dobbin đã có mặt trong phòng; suốt đêm hôm trước, anh ta đã tận tình săn sóc ông bạn nạn nhân của đêm vừa qua. Hai viên sĩ quan nhìn xuống vị lưu linh ngồi rũ rượi; đưa mắt nháy nhau, cùng mỉm một nụ cười thương hại đáng sợ. Cả bác hầu riêng của Sedley là người xưa nay rất đứng đắn, lúc nào cũng lặng lẽ, trông quan trọng như một ông chủ đòn đám ma, mà nhìn ông chủ bất hạnh của mình suýt nữa cũng không giữ được bản tính thường ngày.

Lúc Osborne trèo lên thang, bác ta thì thầm riêng với khách:

- Ngài ạ, đêm qua ông Sedley thật điên dại khác thường, ông tôi định đánh bác xà ích giong chiếc xe ngựa thuê. Ông đại úy phải dìu ông tôi lên thang gác như bế đứa trẻ con ấy.

Bác Brush vừa nói, vừa thoáng mỉm cười; nhưng lập tức bác ta vội lấy lại vẻ mặt nghiêm trang, lặng lẽ, bí ẩn thường ngày, khi bác mở cửa phòng khách và báo: “Ngài Hosbin”.

Sau khi đã liếc nhìn nạn nhân của mình, anh chàng trẻ tuổi vui tính này hỏi:

- Thế nào, Sedley, làm sao thế? Không gẫy cái xương nào chứ? Dưới nhà có một tên xà ích, một bên mắt tím bầm, đầu quấn băng chằng chịt, đang thề sống thề chết rằng thế nào cũng kiện anh tại tòa.

Sedley yếu ớt hỏi:

- Anh nói cái gì?...Ai kiện ?

- Vì đêm qua anh choảng nó một trận - đúng không, Dobbin? Gớm, ông đánh ghê thế, chẳng kém gì Molyneux. Bác gác cổng kể lại rằng chưa bao giờ thấy ai bị đánh ngã chết giấc như vậy. Hỏi Dobbin mà xem.

Đại úy Dobbin cũng nói :

- Quả thật, anh có đánh nhau với tên xà ích, và anh đánh cũng hăng lắm.

Cả cái anh chàng mặc áo trắng ở Vauxhall nữa; Joe đấm nó khiếp quá! Các cô ấy kêu ầm cả lên? Lạy Chúa, trông thấy anh tôi vui quá; tôi cứ nghĩ bọn “dân thường” các anh nhút nhát, nhưng Joe ạ, tôi chịu không bao giờ dám dây với anh lúc say rượu đấy.

- Tôi mà đã cáu lên thì tôi cũng khiếp lắm, tôi biết thế.

Vẫn ngồi trên ghế xô-fa, Joe vừa đáp vừa nhăn mặt trông thảm quá mà lại tức cười, làm cho viên đại úy không thể giữ lịch sự được nữa; anh ta và Osborne cùng phá ra cười như nắc nẻ.

Thấy vui, Osborne tàn nhẫn trêu thêm. Anh ta vẫn cho Joe là người đần độn. Chợt nhớ đến câu chuyện tình duyên giữa Joe và Rebecca, anh ta cũng không lấy gì làm thích lắm, vì chẳng lẽ người anh vợ tương lai của George Osborne, thuộc trung đoàn thứ…lại hạ mình xuống lấy vơ váo một đứa con gái chẳng ra thế nào…một cô giáo dạy trẻ cà mèng sao? Osborne nói:

- Ông mà đánh trúng hả, ông bạn đáng thương của tôi? Ông mà cũng khiếp lắm à? Ông có đứng được vững đâu. Đêm qua ông làm cho tất cả thiên hạ cười vỡ bụng ở công viên, mà chính ông thì khóc…ông cứ bè nhè, bè nhè…có nhớ hôm qua hát bài gì không?

- Bài gì cơ? Joe hỏi.

- Một bài hát trữ tình, rồi gọi cô Rosa, Rebecca…tên cô ta là gì nhỉ, cái cô bạn gái của Amelia ấy mà, cái “cô em bé bé xinh xinh” của anh ấy mà.

Và anh chàng tàn nhẫn nắm lấy tay Dobbin, diễn lại tấn trò đêm trước; diễn viên chính ngồi đấy hoảng quá; Dobbin thương tình xin George tha cho cô, anh ta cũng mặc.

Lúc hai người ra về để cho bác sĩ Gollop săn sóc người ốm, Dobbin trách bạn; Osborne đáp:

- Tại sao tôi lại phải tha cho anh ta? Anh ta có quyền hành quái quỉ gì mà dám lên mặt chủ nhân và làm trò cho thiên hạ cười cả chúng mình ở Vauxhall? Cái cô học trò bé con đang liếc tình và “chài” anh ta là ai vậy? Thôi đi, không có cô ta, gia đình này cũng đã đủ hèn hạ lắm rồi: Kể ra một cô dạy trẻ cũng tạm được; nhưng tôi muốn chị dâu tôi là một vị phu nhân thì vẫn hơn. Tính tôi khoáng đạt, nhưng tôi cũng có cái kiêu hãnh chính đáng của tôi chứ; tôi hiểu địa vị của tôi, vậy cô ta cũng nên biết địa vị của cô ta. Tôi sẽ làm nhục cái ông béo ị đần độn ấy cho mà xem; tôi sẽ khiến anh ta không còn dám dở trò ngu ngốc quá đáng ra nữa, cho nên tôi mới bảo anh ta nên dè chừng, vì tôi sợ cô ta sẽ tấn công anh chàng trước.

Dobbin bán tín bán nghi, song cũng đáp:

- Cho rằng anh biết nhiều đi. Xưa nay anh vẫn đứng về phái Tory (), và gia đình anh là một gia đình lâu đời nhất ở Anh, song...

- Anh cứ theo tôi đến thăm các cô ấy, và cứ việc đích thân tán tỉnh cô Sharp xem.

Viên trung úy ngắt lời bạn, song Dobbin từ chối không đi cùng Osborne, khi hàng ngày anh này đến Russell thăm hai cô thiếu nữ.

Lúc George từ phố Holborn đi xuống phố Southampton, anh ta bật cười, vì nhìn vào nhà ông Sedley, thấy ở hai tầng khác nhau, có hai cái đầu cùng ngó ra. Thì ra cô Amelia ngồi trên bao lơn phòng khám đang băn khoăn ngóng về phía bên kia công viên, chỗ Osborne ở, để tìm bóng viên trung úy; còn cô Rebecca ngồi trong căn phòng nhỏ của mình ở tầng trên cũng đang nóng ruột chờ cái thân hình to béo của Joseph lù lù hiện ra.

Osborne bảo Amelia:

- Chị An đang ngồi trên chòi cao, nhưng chẳng có ai đi tới cả.()

Anh ta cười, lấy làm thú vị vì câu nói đùa của mình, rồi tả lại bằng những lời lẽ hài hước nhất tình trạng đáng thương của anh trai cô Amelia.

Cô thiếu nữ đáp, vẻ mặt hết sức buồn bã:

- George ạ, em thấy anh cười như vậy thật tàn ác quá.

Nhưng thấy cô thiếu nữ rầu rĩ âu sầu, George càng buồn cười khỏe, cứ yên trí rằng trò đùa của mình là lý thú.

Lúc cô Sharp xuống nhà, anh ta liến thoắng giễu cợt cô này về chuyện sắc đẹp của cô khiến anh chàng béo ị chết mê chết mệt.

- Chao ôi, cô Sharp ạ. Giá cô nhìn thấy anh ấy sớm hôm nay...đang rên rỉ trong bộ áo ngủ hoa sặc sỡ...lăn lộn trên chiếc ghế xô-fa, giá cô trông thấy anh ấy thè lưỡi ra cho ông thầy thuốc Gollop coi bệnh...

Cô Sharp hỏi:

- Thấy ai cơ?

- Ai? Còn ai nữa? Chẳng phải Dobbin thì là ai. Đêm qua, chúng ta đã quan tâm đến anh ấy nhiều quá đấy.

Emmy đỏ bừng mặt lên đáp:

- Hôm qua, chúng mình xử tệ với anh ấy quá thật.

- Em... em quên bẵng mất anh ấy đấy. Osborne vẫn còn cười tiếp:

- Em quên là dĩ nhiên. Ai mà nhớ luôn luôn đến Dobbin được: Amelia, em biết đấy. Có ai nhớ được không, cô Sharp?

Cô Sharp lắc đầu kiêu hãnh đáp:

- Trừ lúc anh ấy đánh đổ cốc rượu vang trong bữa ăn, tôi chưa hề chú ý đến sự có mặt của đại úy Dobbin lấy một phút.

Osborne đáp:

- Tốt lắm, cô Sharp ạ. Tôi sẽ bảo với anh ấy thế.

Nghe anh này nói, cô Sharp tự nhiên bắt đầu cảm thấy thù ghét anh chàng sĩ quan trẻ tuổi; thực ra anh ta cũng hoàn toàn vô tình không có ý định gây ra sự thù ghét ấy. Rebecca nghĩ thầm: “Có lẽ hắn đang giễu cợt mình đây; chắc lúc nãy hắn nói về chuyện mình với Joseph. Không biết có phải hắn đã làm cho anh chàng sợ không. Có lẽ anh chàng không dám đến rồi”. Mắt cô bỗng mờ đi và tim cô sao mà đập nhanh quá sức. Rebecca cố mỉm cười một cách ngây thơ nhất đời, nói:

- Anh chỉ được cái bộ hay nói đùa thôi, anh George ạ. Mời anh cứ nói trêu đi. Tôi chẳng có ai bênh vực đâu.

Đoạn cô lảng đi chỗ khác. Amelia nhìn George Osborne có ý trách móc; anh này cảm thấy hơi hối hận vì đã đối xử tàn nhẫn một cách không cần thiết với người con gái trơ trọi kia; anh ta đáp:

- Amelia thân yêu ơi, em tốt bụng quá. Em không hiểu lòng dạ người đời. Anh thì anh hiểu. Còn cô Sharp, cô bạn nhỏ của em, cô ta cần biết phận mình mới được.

- Anh cho rằng anh Joe sẽ...

- Anh thề rằng anh không biết gì, em yêu ạ. Anh ấy có thể lấy, hoặc cũng có thể không. Anh có phải là ông chủ của anh ấy đâu. Chỉ biết rằng anh ấy là một người ngớ ngẩn, phù phiếm, và đêm qua đã đặt cô em yêu quý bé bỏng của anh vào trong một hoàn cảnh khó xử và đáng giận. “Cô em be bé xinh xinh” yêu quý nhất đời của anh ạ.

Lúc George ra về, anh ta vẫn chưa hết cười, điệu bộ trông đến khôi hài, làm cho Emmy cũng phải cười theo.

Suốt ngày hôm ấy Joe không tới. Nhưng Amelia không ngại về chuyện ấy; cô thiếu nữ đã khôn khéo phái ngay thằng nhỏ phụ việc bác Sambo đến nhà Joseph để lấy mấy cuốn sách anh trai đã hứa cho mượn, nhân tiện hỏi thăm sức khỏe của ông anh. Bác Brush, người hầu của Joe ra trả lời rằng chủ bác ốm, vừa có bác sĩ lại thăm bệnh xong.

Amelia nghĩ hôm sau thế nào anh chàng cũng lại, nhưng không có can đảm nói một lời nào về chuyện này với Rebecca, mà suốt buổi tối hôm ấy, sau cái đêm ở Vauxhall, chính Rebecca cũng không hề đả động đến chuyện này.

Hôm sau nữa, lúc hai chị em đang ngồi trên ghế xô-fa định bụng làm một việc gì, viết thư hoặc đọc sách chẳng hạn, thì thấy Sambo bước vào phòng; bác vẫn cười cười như mọi khi, nách cắp một gói gì, còn tay cầm một chiếc khay trên có đặt một phong thư. Sambo nói:

- Thưa cô, có thư của ông Joe .

Amelia bóc lá thư mà run quá. Thư viết thế này:

Em Amelia nhân yêu, Anh gửi cho em cuốn “Đứa bé mồ côi trong rừng”. Hôm qua anh mệt quá, không lại được. Hôm nay, anh đi Cheltenham. Nên tiện, em xin lỗi cô Sharp đáng mến hộ anh về cử chỉ của anh ở Vauxhall; em xin cô ấy tha lỗi cho anh, và vui lòng quên tất cả mọi lời anh nói trong lúc bị kích thích bởi bữa rượu tai hại ấy. Sức khỏe của anh bị ảnh hưởng ghê gớm quá; khi nào bình phục, anh sẽ lập tức đi chơi Scotland độ vài tháng.

Anh thân mến của em.

Joe Sedley

Đây là lời tuyên án tử hình. Thế là hết. Amelia không dám nhìn thẳng vào Rebecca; cô này đang tái mặt đi, mắt mở to chờ đợi. Amelia chỉ bỏ lá thư vào lòng bạn, rồi đứng dậy lên gác về phòng riêng nằm khóc tấm tức.

Bà quản gia Blenkinsop tìm đến an ủi; Amelia gục đầu vào vai bà thút thít khóc và cũng cảm thấy dễ chịu hẳn đi.

- Đừng buồn, cô ạ. Trước tôi không muốn nói chuyện ấy với cô, nhưng trong nhà ta không một ai ưa cô ấy, trừ lúc cô ấy mới đến thì không kể. Chính mắt tôi trông thấy cô ấy đọc trộm những thư riêng của bà. Pinner nói rằng lúc nào cũng thấy cô ấy lúi húi bên cạnh những hộp đựng đồ vặt và những ngăn kéo của cô; cô ấy lục ngăn kéo của tất cả mọi người; chị Pinner cam đoan rằng cô ấy đã lấy cuộn ru băng trắng của cô bỏ vào hộp riêng của mình.

Amelia nói:

- Tôi cho cô ấy đấy, tôi cho đấy.

Nhưng bà Blenkinsop vẫn chưa hết nghi ngờ cô Sharp. Bà ta bảo chị hầu gái:

- Chị Pinner ạ, tôi không ưa mấy cô giáo dạy trẻ lắm đâu. Họ hay lên mặt, làm điệu làm bộ như các bà hoàng ấy, mà tiền lương của họ thì nào có hơn gì tôi và chị.

Bây giờ trong nhà ai ai cũng thấy rõ thế nào Rebecca cũng phải ra đi, trừ cô Amelia tội nghiệp. Từ trên đến dưới (vẫn trừ một người), ai cũng đồng ý rằng cô ta càng đi sớm càng hay. Amelia vội lục lọi mọi ngăn kéo, ngăn tủ, túi và cái hộp đồ vặt... soát lại hết các bộ áo, khăn san, giẻ vụn, cuộn chỉ, dây đăng-ten, bí tất lụa v.v... lựa thứ này, chọn thứ khác, xếp thành một đống nhỏ để tặng Rebecca. Ông Sedley, trước đã hứa cho con gái một số ghi-nê bằng số tuổi của cô.. . Amelia bèn đến xin cha; ông nhà buôn người Anh rộng lượng ấy, cho Rebecca số tiền đó vì cô chắc bạn mình đang túng, trong khi mình chẳng thiếu một thứ gì.

Cô lại bảo George Osborne góp thêm vào một món quà; anh chàng trẻ tuổi vốn là tay hào phóng như bất cứ chàng trẻ tuổi nào trong quân đội, rất sẵn sàng đi ngay đến phố Bond, mua một chiếc mũ và một tấm áo da ngắn đẹp nhất mà có tiền là có thể mua được. Amelia rất hãnh diện khi ôm chiếc hộp đựng mũ áo đến tặng Rebecca; cô nói:

- Chị Rebecca thân mến ơi, đây là quà của anh George tặng chị đây. Anh ấy chọn hàng khéo quá! Chẳng ai chọn khéo được như anh ấy.

Rebecca đáp:

- Chẳng có ai thật. Em mang ơn anh ấy quá. Nhưng cô thầm nghĩ: “Đúng là George Osborne đã ngăn trở cuộc tình duyên của mình”. Mà chính cô ta yêu George Osborne cũng vì thế.

Rebecca sửa soạn ra đi với thái độ rất bình tĩnh; cô nhận tất cả mọi vật Amelia tặng mình, sau khi cũng đã ngần ngại và miễn cưỡng một cách vừa đủ. Cô nói rằng mình biết ơn bà Sedley suốt đời, song cũng không đến làm phiền bà cụ nhiều quá, vì bà cụ ở vào hoàn cảnh khó xử, rõ ràng có ý tránh mặt không muốn gặp cô. Lúc ông Sedley đưa biếu túi tiền, Rebecca hôn tay ông cụ, xin phép được coi cụ là người bạn, người cha đỡ đầu thân thiết nhất của cô trong tương lai. Cô cư xử coi cảm động quá, làm cho ông cụ suýt nữa thì viết tặng thêm cô một tờ ngân phiếu hai chục đồng. Nhưng ông lão lại kịp kìm giữ tình cảm của mình lại. Xe ngựa đã chờ sẵn để đưa ông đi dùng bữa; ông hối hả đi còn dặn Rebecca rằng: “Con yêu mến ơi, cầu Chúa ban phúc lành cho con; khi nào có việc ra tỉnh, con nhớ lại chơi nhé. Giong xe đến tòa Quốc hội, James!”.

Cuối cùng là cuộc chia tay giữa Rebecca và Amelia; tôi muốn che một tấm màn lên trên cảnh tượng này. Nhưng sau cái màn kịch mà một người thì vô tình, còn một người thì đóng trò tuyệt khéo...sau khi những sự vuốt ve, những dòng nước mắt thảm thiết, cả ống thuốc giải cảm và những tình cảm thiêng liêng nhất đã được đem ra sử dụng...

Amelia chia tay cùng Rebecca; cô này luôn miệng thề sẽ yêu quý bạn mình mãi mãi…mãi mãi và mãi mãi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7


CRAWLEY Ở TRẠI CRAWLEY BÀ CHÚA

Trong số những cái tên đáng kính nhất bắt đầu bằng chữ C có ghi trong cuốn Niên giám của Triều đình vào năm 18…có tên Tôn ông Pitt Crawley, nam tước ở phố Great Gaunt, chủ trại Crawley bà chúa ở Hants. Cái tên đáng kính này còn được ghi suốt trong một thời gian hàng mấy chục năm liền trong cuốn danh bạ của Quốc hội, cạnh tên nhiều vị tai mắt khác thay phiên nhau ngồi đại diện cho nhân dân các đơn vị bầu cử.

Về lai lịch đơn vị bầu cử Crawley Bà chúa, thiên hạ đồn rằng Nữ hoàng Elizabeth có dừng lại dùng bữa sáng tại trại Crawley, nhân một buổi ngư chơi qua tỉnh. Ngài Crawley thời đó, một nhà quý tộc bảnh trai, có bộ râu rất đẹp và cặp giò khá xinh, có dâng Bà chúa một thứ rượu bia Hampshire rất ngon. Nữ hoàng rất hài lòng, lập tức nâng trại Crawley lên hàng một đơn vị bầu cử, được quyền có hai đại biểu thay mặt trong Quốc hội. Thế là từ buổi thăm viếng lịch sử đó, trại này mang cái tên Crawley Bà Chúa cho mãi đến ngày nay. Và thời gian trôi qua, đưa đến bao đổi thay cho những quốc gia, những thành thị, những tỉnh lỵ cho nên Crawley Bà chúa không còn đông đúc dân cư như hồi sinh thời bà chúa Bess () nữa…đơn vị bầu cử này đã lâm vào tình trạng người ta thường mệnh danh là điêu tàn…tuy vậy, tôn ông Pitt Crawley cũng vẫn nói một cách rất đúng lý, theo lối nói lịch sự của ông ta rằng: “Điêu tàn? Mẹ kiếp…nhờ nó, hàng năm tôi còn kiếm được một nghìn năm trăm đồng đấy ạ”.

Tôn ông Pitt Crawley (đặt theo tên vị đại biểu Quốc hội lừng danh) là con trai của nam tước Walpole Crawley. Hồi đang tòng sự tại văn phòng cơ mật dưới triều hoàng đế George đệ nhị, ngài bị truy tố về tội thụt két, cũng như một số lớn các vị tai mắt lương thiện thời ấy. Cũng không cần phải nói thêm rằng Walpole Crawley là con trai John Churchill Crawley đặt theo tên vị chỉ huy quân đội đanh tiếng lẫy lừng dưới triều nữ hoàng Anh. Trên cành cây gia phả treo ở trong phòng danh dự tại trại Crawley Bà chúa còn thấy tên Charles Stuart, sau lại có tên là Crawley Lẻo-khoẻo, con trai của cụ Crawley, sống vào thời Hoàng đế James đệ nhất; và cuối cùng là tôn ông Crawley thời nữ hoàng Elizabeth được nêu đứng hàng đầu, mặc đủ giáp trụ lại có cả bộ râu ba chòm. Như lệ thường, người ta vẽ một cái cây từ trong bộ áo chèn nhô ra; trên những cành lớn có ghi những tên quan trọng vừa kể trên. Sát kề tên tôn ông Pitt Crawley nam tước (tức là nhân vật trong tập ký ức này), có tên người em là Bute Crawley (hồi đức cha mới sinh, thì ngài nghị sĩ quốc hội đã bị thất sủng rồi) đức cha cai quản giáo đường Crawley Snailby, cùng nhiều tên đàn ông đàn bà khác trong họ Crawley. Mới đầu tôn ông Pitt lấy vợ là cô Grizzel, con gái thứ sáu của nhà quý tộc Mungo Binkie, em họ ngài Dundas. Người vợ này đẻ được hai đứa con trai, là Pitt (đặt tên theo ý đức cha con trời hơn là theo ý ông bố) và Rawdon Crawley, theo tên người bạn của hoàng tử xứ Wales mà hoàng đế George đệ tứ hoàn toàn quên bẵng mất. Vợ chết được một thời gian khá lâu, tôn ông Pitt mới dẫn cô Rosa đến bàn thờ Chúa làm lễ cưới. Cô là con gái ông Dawson ở Mudbury; cô ăn ở với chồng, sinh được hai người con gái, tức là hai cô học trò cô Rebecca lĩnh trách nhiệm dạy bảo bây giờ; ta coi đó đủ biết cô thiếu nữ này đang bước vào một gia đình danh giá, và sắp sửa tiếp xúc với một xã hội còn có tính chất thượng lưu hơn nhiều, so với cái gia đình tầm thường ở Công viên Russell mà cô vừa từ giã. Rebecca tiếp được giấy mời đến nhận việc, viết trên một mảnh phong bì cũ, gồm mấy dòng chữ như sau:

Tôn ông Pitt Crawley yêu cầu cô Sharp phải đem hành lý có mặt tại đây hôm thứ ba, hôm đó tôi về trại Crawley Bà chúa sớm.

Phố Great Gaunt

Chưa bao giờ Rebecca được gặp một vị nam tước. Sau lúc từ biệt Amelia, khi đã đếm cẩn thận số ghi-nê ông Sedley bỏ trong cái túi biếu mình, cô lấy một cái khăn tay chấm khô nước mắt (cô chờ khi chiếc xe ngựa đã đi khuất ở góc phố mới thôi lau nước mắt). Theo sự hiểu biết của mình, Rebecca bắt đầu phác ra trong trí tưởng tượng hình ảnh một vị nam tước. Cô nghĩ thầm: “Không biết ông ta có đeo một ngôi sao không nhỉ” Hay là chỉ có các bá tước mới được đeo sao? Nhưng chắc ông ta phải mặc một bộ áo chầu thật đẹp, có tua hoa, hơi rắc phấn trên tóc, giống như ông Wroughton ở công viên Covent. Có thể ông ta rất kiêu kỳ; mình sẽ bị đối xử một cách miệt thị. Thôi thì cũng đành nhẫn nhục mà chịu đựng số phận hẩm hiu vậy...ít nhất, mình cũng sẽ được sống cùng những người danh giá, không phải là cái bọn thị dân tầm thường. Cô bỗng nhớ lại những người bạn của mình ở công viên Rusell với ý nghĩ triết lý chua cay kia, giống như con chó sói nghĩ về giàn nho trong một câu chuyện ngụ ngôn cũ vậy.

Chiếc xe đã đi qua công viên Gaunt, và bắt đầu đi vào phố Great Gaunt; cuối cùng xe dừng lại trước một căn nhà đồ sộ âm u, đứng giữa hai căn nhà cũng đồ sộ và âm u; trước mỗi căn nhà này đều có treo một bộ huy hiệu quý tộc mé trên cửa sổ phòng khách.

Nhà cửa ở phố Great Gaunt bao giờ cũng âm u như vậy.

Cửa sổ tầng dưới tòa nhà của tôn ông Pitt đều đóng kín mít; chỉ có mé cửa phòng ăn là hơi hé mở; rèm che được bọc bằng giấy báo cũ rất cẩn thận. Thằng hầu John một mình đánh xe cho Rebecca, không thèm bước xuống giật chuông.

Hắn nhờ một thằng bé bán sữa đi qua làm hộ mình công việc ấy. Tiếng chuông réo lên, có một cái đầu từ trong khe cửa sổ phòng ăn thò ra. Một người ra mở cửa; người này mặc quần áo màu nâu nhạt, khoác một tấm áo ngoài cũ bẩn, một chiếc khăn cũ rích, bẩn thỉu quấn xung quanh cái cổ lông lá của hắn; trán hói bóng; mặt đỏ; đôi mắt sáng nhấp nháy; cái mồm lúc nào cũng hơi nhe răng ra như đang cười.

John cứ ngồi yên trên xe, hỏi sõng:

- Đây là nhà tôn ông Pitt Crawley, hả?

Người đứng ở cửa sổ gật đầu đáp:

- Phải.

John bảo:

- Thế thì bỏ mấy cái va-ly xuống.

Người gác cửa đáp:

- Anh bỏ xuống lấy chứ.

- Anh không thấy tôi bận giữ ngựa à? Này, anh bạn, lại đây giúp một tay, rồi cô đây sẽ cho tiền uống bia.

John vừa nói vừa cười như ngựa hý; bây giờ quan hệ giữa Rebecca và gia đình Sedley đã hết, hắn không coi trọng cô ta nữa, và cũng vì lúc ra đi, cô ta không cho bọn đầy tớ đồng xu nào.

Người hói trán bỏ hai tay đút trong túi quần ra, bước xuống đường, xốc cái va-ly của cô Sharp lên vai, vác vào trong nhà. Cô Sharp nói:

- Cầm hộ cái làn và cái khăn san, rồi mở cửa xe ra.

Cô ta xuống xe, có vẻ tức giận, bảo thằng hầu:

- Tôi sẽ viết thư kể cho cụ Sedley biết anh hỗn vời tôi thế nao.

Tên hầu đáp:

- Ấy chớ. Tôi mong rằng cô không bỏ quên cái gì chứ? Mấy cái áo của cô Amelia, cô đã đem theo đủ chưa?...Chị hầu của cụ bà suýt nữa thì được hưởng. Chúc cô mặc vừa xinh. Này Jim, đóng cửa xe lại, bác đừng có tưởng bở - vừa nói John vừa chìa ngón tay cái về phía cô Sharp - cô ta đá lắm, đá lắm. Đoạn thằng hầu của ông Sedley đánh xe đi. Sự thực hắn là nhân tình của chị hầu gái vừa nói trên; thấy người yêu bị nẫng tay trên mất món đồ, hắn lấy làm uất lắm.

Người đi ghệt bảo Rebecca vào trong phòng ăn; cô thấy căn phòng này trang hoàng không được vui mắt như những căn phòng ăn của các gia đình sang trọng ở thôn quê. Hình như những căn phòng này cũng biết trung thành với chủ, thấy chủ vắng nhà cũng biết ủ dột, âu sầu. Tấm thảm Thổ-nhĩ-kỳ được cuốn gọn, nằm rầu rĩ bên cạnh chiếc tủ chè; những bức tranh trên tường cũng giấu mặt sau những tờ giấy cũ màu nâu bọc ngoài; ngọn đèn treo trên trần cũng được bưng kín trong một cái túi vải Hà-lan màu nâu, trông đến sợ. Riềm cửa sổ thì ẩn mình dưới đủ mọi thứ giấy bọc tồi tàn. Chiếc tượng bán thân bằng đá cẩm thạch tạc hình ngài Walpole Crawley từ trong một góc tối đang chăm chú ngó xuống sàn nhà trơ trọi và đôi que cời than lau dầu cẩn thận; trong chiếc khay đựng danh thiếp nằm trên mặt lò sưởi cũng chẳng có gì. Chiếc tủ chè đứng trốn đằng sau cuộn thảm; dọc theo mặt tường, một hàng ghế nằm úp vào nhau chổng vó lên trần nhà. Đối diện với pho tượng, trong một xó tối, có một chiếc tủ đựng thìa đĩa trông cổ lỗ, tồi tàn, khoá chặt, kê trên một cái bàn nước.

Tuy nhiên, cạnh chiếc lò sưởi cũng có một cái bàn tròn, hai chiếc ghế làm bếp; một bộ que cời than cũ kỹ, và trên ngọn lửa cháy lom đom có đặt một cái chảo. Trên bàn bày một miếng bánh phết bơ, đặt cạnh một cây đèn bằng sắt tây; một chai rượu bia đen nhỏ nằm trong cái thùng đựng rượu bên cạnh.

- Cô ăn cơm rồi chứ? Đối với cô món ăn thế này chắc nguội quá. Cô có muốn uống một chút bia không?

Cô Sharp đường hoàng hỏi:

- Tôn ông Pitt Crawley đâu?

- Hi hi! Chính tôi là tôn ông Pitt Crawley đây. Nhớ rằng cô còn nợ tôi một cốc rượu, công vác cái va-ly hộ cô đấy. Hi hi! Hỏi Tinker xem có đúng không nào. Xin giới thiệu: Bà Tinker; đây: cô Sharp. Cô đây là cô giáo dạy trẻ; bà đây là người làm công nhật.

- Hô hô!

Người đàn bà được giới thiệu là bà Tinker lúc này mới bước ra, tay cầm một chiếc tẩu và một tập giấy thuốc lá: cụ Pitt sai bà ta đi lấy những thứ ấy một phút trước khi Sharp bước vào. Bà này đưa cho cụ Pitt, cụ đã ngồi xuống chiếc ghế cạnh lò sưởi, nói:

- Còn tiền lẻ đâu? Tôi đưa cho mụ ba xu rưỡi cơ mà? Còn tiền lẻ đâu,mụ Tinker?

Mụ Tinker ném đồng trinh xuống bàn:

- Đây! Chỉ có các vị nam tước mới chi ly từng trinh như thế thôi chứ.

Ông đại biểu của dân đáp:

- Mỗi ngày một đồng kẽm, một năm thành bảy si-linh. Bảy si-linh một năm tức là bằng tiền lời của bảy ghi-nê. Này, mụ Tinker, hãy để dành cẩn thận những đồng kẽm của mụ, thế nào cũng sinh sôi nảy nở thành vô khối ghi-nê cho coi.

Mụ Tikơ càu nhàu nói:

- Này cô ơi, cô có thể yên trí rằng đây chính thực là tôn ông Pitt Crawley đấy, bởi vì cụ ấy so kè từng đồng kẽm một. Rồi cô sẽ hiểu rõ cụ ấy ngay thôi, không lâu dài.

Lão già quý tộc nói gần như với một vẻ lễ độ:

- Cô Sharp ơi, mà đừng có ghét tôi vì thế nhé. Tôi cần phải công bằng, trước khi có thể hào phóng.

Mụ Tinker vẫn làu nhàu: .

- Suốt đời cụ ấy có bao giờ chịu rời đồng kẽm nào ra đâu.

- Không bao giờ, không bao giờ; thế thì trái với nguyên tắc xử thế của tôi mất. Tinker, nếu mụ cũng muốn thì đi lấy thêm một cái ghế trong bếp ra đây, ta đi ăn thôi.

Đoạn ngài nam tước thò một cái nĩa vào trong chảo, xiên một miếng dạ dày bò và một củ hành lôi ra; lão cắt làm hai phần thật đều; lão với mụ Tinker, mỗi người một phần.

- Cô Sharp có hiểu không, khi nào tôi đi vắng, thì mụ Tinker lấy tiền công; khi nào tôi về tỉnh thì mụ ăn với tôi. Hô, hô, may quá; cô Sharp lại không đói; phải không Tinker?

Đoạn cả hai cúi xuống dùng nốt bữa ăn thanh đạm. Ăn xong, tôn ông Pitt Crawley bắt đầu hút tẩu thuốc; khi trời đã tối mịt, lão mới thắp cây nến cắm trên cái chân đèn bằng sắt tây lên, rồi móc trong cái túi kếch xù ra một nắm giấy má to tướng bắt đầu đọc, đoạn xếp thứ tự lại.

- Cô em ạ. Tôi về đây có việc pháp luật. Vì vậy ngày mai ngẫu nhiên mới may mắn được có một người bạn đồng hành xinh đẹp thế này chứ.

- Cụ ấy lúc nào mà chẳng bận việc pháp luật.

Mụ Tikơn vừa nói vừa nhấc cái thùng đựng chai rượu bia lên.

Lão nam tước bảo:

- Uống đi, cứ uống đi. Phải, cô em ạ, mụ Tinker nói đúng lắm. Tôi đã bại mà cũng đã thắng trong nhiều vụ tranh chấp về pháp luật, nhiều vô kể. Rồi cô xem vụ Crawley nam tước kiện Snaffle kết cục ra sao. Tôi sẽ cho hắn chết mất ngáp, nếu không tôi không phải là thằng Pitt Crawley.

Lại còn vụ Podder cùng một người khác kiện Crawley nam tước, rồi vụ Kiểm soát viện ở Snaily cũng kiện Crawley nam tước. Chúng không thể chứng minh đấy là đất công. Tôi thách bọn chúng đấy; đất này là của tôi. Nó không còn thuộc quyền sở hữu của thị trấn này y như nó không phải là của cô hay của mụ Tinker vậy. Dầu có tốn đến hàng nghìn ghi-nê, tôi cũng phải đánh bại chúng kỳ được. Coi giấy má đây này, cô em; cô muốn xem không? Cứ xem đi. Cô viết chữ có đẹp không? Bao giờ về Crawley Bà chúa, cô sẽ giúp tôi được nhiều việc đấy; cứ yên trí, cô Sharp ạ. Bây giờ mụ góa ấy chết rồi, tôi cần một người giúp việc.

Tinker chêm vào:

- Mụ ấy tồi chẳng kém gì ông chủ. Mụ bóp hầu bóp cổ bọn cung cấp hàng. Trong có bốn năm, thay tới bốn mươi tám lần người làm.

Lão nam tước chỉ đáp:

- Bà ấy rất tần tiện, tần tiện lắm. Nhưng bà ấy đối với tôi cũng quý báu lắm, đỡ được cho tôi một người quản gia nữa.

Và cô gái mới đến rất thú vị thấy câu chuyện cứ cái đà thân mật như vậy mà tiếp tục một hồi lâu. Không biết tính tình cụ Pitt Crawley tốt hay xấu. Nhưng có điều lão tỏ ra không hề muốn giấu giếm điều gì. Lão luôn luôn nói chuyện về mình, khi thì dùng cả cái giọng thô bỉ tục tằn nhất của vùng Hampshire, có lúc lại dùng lối ăn nói lịch sự của người quen xã giao. Lão dặn cô Sharp năm giờ sáng hôm sau phải chuẩn bị sẵn sàng, rồi chúc cô ta ngon giấc.

Lão bảo:

- Đêm nay, cô ngủ với mụ Tinker. Giường rộng lắm, hai người nằm cũng vừa. Crawley phu nhân đã chết trên giường ấy đấy Chúc cô yên giấc.

Nói xong, lão Pitt đi ngủ. Mụ Tinker trịnh trọng cầm cây nến, dẫn Rebecca trèo lên những bậc thang gác lạnh lẽo, xây bằng đá, đi qua những khung cửa lớn của một căn phòng khách lạnh lẽo; những tay nắm trên những cánh cửa trong gian phòng này cũng đều bọc giấy kín; cuối cùng hai người đi đến phòng ngủ, nơi Crawley phu nhân trước kia đã ngủ giấc ngủ cuối cùng của đời bà. Các bạn có thể tưởng tượng được căn phòng trông tối tăm và tang tóc thế nào, không những vì Crawley phu nhân đã chết ở đó mà còn vì hồn ma của bà ta hình như vẫn còn quanh quất đâu đây. Thế mà Rebecca cứ chạy đây chạy đó trong phòng, tự nhiên thoải mái như không; cô ta ngó vào trong những chiếc tủ áo đồ sộ, những chiếc tủ chè, rồi lại kéo thử những ngăn kéo đã khóa chặt. Trong khi mụ làm công cầu kinh, cô ta lại quay ra ngắm nghía những bức tranh rầu rĩ và những đồ trang điểm.

Mụ gái già nói:

- Tôi chẳng thể nào nằm ngủ trên cái giường kia nếu chưa cầu kinh cho linh hồn thật nhẹ nhàng.

Rebecca đáp:

Giường rộng lắm, đủ chỗ cho cả bà và tôi cùng nửa tá ma quỷ nữa đấy. Bà Tinker thân mến ơi, bà kể cho tôi nghe về Crawley phu nhân, về tôn ông Crawley, và tất cả mọi người trong gia đình đi.

Nhưng cô ả tò mò cũng không nịnh khéo được mụ Tinker.

Mụ bảo cô ta rằng giường là nơi để ngủ, không phải là chỗ nói chuyện, rồi nằm xuống ngáy như kéo gỗ, chỉ có những người vô tội mới ngáy to được đến thế. Rebecca thì cứ trằn trọc mãi, không sao ngủ được; cô nghĩ đến ngày hôm sau, cô nghĩ đến cuộc đời mới sắp bước chân vào, và những sự may mắn có thể gặp được trong cuộc đời ấy. Trên cây đèn, ngọn nến cháy vật vờ. Bóng đen của chiếc lò sưởi phủ kín một nửa chiếc khung thêu cũ kỹ mủn nát mà Crawley phu nhân trước kia vẫn dùng, chắc hẳn thế, và che lấp cả bức tranh gia đình nhỏ vẽ mấy đứa trẻ, một đứa mặc quần áo học sinh, đứa kia mặc một tấm áo chèn đỏ theo kiểu nhà binh. Lúc sắp ngủ, Rebecca quyết định đến đêm sẽ nằm mơ thấy thằng bé con ấy.

Bốn giờ sáng hôm sau, một buổi sáng mùa hạ rực hồng khiến cho cái bộ mặt vốn rầu rĩ của phố Great Gaunt cũng phải trở thành tươi tắn, mụ Tinker trung thành đánh thức người bạn cùng giường dậy, bảo cô ta sửa soạn đi là vừa.

Mụ tháo then, mở khóa cửa lớn ngoài căn phòng chính (tiếng lách cách, xủng xoảng làm cho những tiếng động còn ngái ngủ của dẫy phố phải choàng giật mình); đoạn mụ bước ra phố, đi về phía Đại lộ Oxford gọi một cái xe ngựa. Chẳng cần phải chú ý lắm đến số xe cũng không cần biết rằng bác xà-ích từ sớm tinh mơ đã giong xe đi loanh quanh phố Swallow, hy vọng một cậu công tử nào từ tiệm rượu lảo đảo về nhà, hẳn phải nhờ đến tay bác và đang lúc say sưa, chắc thế nào cũng trả công hậu hĩnh.

Và cũng chẳng cần nói thêm rằng, nếu thật bác xà ích đang nuôi hy vọng nói trên, thì bác đã thất vọng một cách thảm hại; vì ngài nam tước đáng kính của chúng ta thuê bác giong xe cho mình về khu City đã nhất định không chịu trả đắt hơn một xu.

Bác Jehu tha hồ van xin rồi gắt gỏng, vô ích; bác ta bèn quẳng mấy cái hộp của cô Sharp xuống cạnh cổng, tuyên bố rằng bác sẽ kiện tại tòa để đòi thêm tiền. Một bác xà ích khác xen vào:

- Thôi, tốt hơn là cứ đi đi. Cụ Pitt Crawley đấy.

Lão nam tước kêu lên tán thành:

- Đúng thế, bác Joe ạ. Tôi muốn xem đứa nào làm gì tôi tốt nào.

- Tôi cũng thế.

Joe nhăn nhó đáp, đoạn mang hành lý của lão nam tước chất lên nóc xe.

Lão nghị sĩ quốc hội bảo người xà ích:

- Dành cho tôi chỗ ngồi đằng trước đấy, nhà lãnh đạo ạ.

- Bẩm cụ, vâng.

Bác xà ích vừa đáp vừa giơ tay lên vành mũ, tuy trong thâm tâm tưởng phát điên lên được (bác đã nhận lời dành chỗ ngồi ấy cho một cậu công tử trẻ tuổi sinh viên trường đại học Cambridge, đang hy vọng thế nào cũng được một đồng cơrao); bác xếp cho cô Sharp một chỗ mé sau trong chiếc xe có thể nói sẽ đưa cô ta đi vào một cuộc đời mới rộng lớn.

Anh chàng trẻ tuổi ở Cambridge vắt năm cái áo của mình lên thành xe phía trước; anh ta cáu quá, nhưng thấy Rebecca chui ra khỏi xe, trèo lên ngồi cạnh thì cơn bực mình của anh ta biến đi ngay…Anh ta lấy một tấm áo choàng kiểu Benjamin của mình phủ lên vai cô thiếu nữ, và từ lúc đó anh trở nên rất vui tính…một ông sang trọng bị bệnh suyễn, và một bà vẻ mặt khó đăm đăm cứ lấy danh dự thiêng liêng của bà ra mà thề mãi rằng xưa nay chưa hề đi đâu bằng xe thuê bao giờ (bao giờ đi xe ngựa thuê mà chả gặp một bà như thế, than ôi, bây giờ xe ngựa đâu cả rồi?). Lại có một bà goá béo ụt ịt tay cầm một chai rượu mạnh cùng hai người kia trèo lên xe ngồi vào ghế…Anh coi cửa đòi tiền; ông sang trọng cho sáu xu, bà goá cho năm đồng trinh nhờn nhờn như dính mỡ...cuối cùng, chiếc xe ngựa chuyển bánh...lúc thì chạy dọc theo những con đường tối tăm của khu Aldersgate, lúc thì đi ngang qua nhà thờ St. Paul có cái vòm mái màu xanh, rồi nhanh nhẹn chui qua cổng Fleet Market; chiếc cổng này cùng khu Hội chợ bây giờ đã lui vào bóng tối của dĩ vãng rồi. Một lúc sau xe chạy qua hiệu “Con gấu trắng” ở Piccadilly; sương sớm từ những khu vườn chợ ở Knightsbridge tỏa lên mờ mịt, rồi lại đi qua Turnhamgreen, Brentwood, Bagshot...ta chẳng cần nhắc lại làm gì. Nhưng ngày xưa, kẻ viết những dòng này cũng đã có dịp qua cùng một con đường, trong cùng một thời tiết sáng sủa như trong chuyện, không thể nào nghĩ lại mà không cảm thấy đôi chút ngậm ngùi nhớ tiếc một cách êm đềm. Con đường và những chuyện vặt xảy ra hàng ngày của nó còn đâu nữa. Còn đâu nữa những Chelsea hay Greenwich và những bác xà ích thực thà mũi đỏ như cà chua? Không biết những anh chàng tốt bụng ấy bây giờ đâu cả rồi? Anh chàng Wenller còn sống hay đã chết rồi? Và cả những quán rượu, cả những người hầu bàn dọn ăn trong đó, những khoanh thịt bò nguội cả cái anh bồi ngựa lùn tè có cái mũi tái xanh, xách cái thùng nước kêu lanh canh, bây giờ anh ta ở đâu, hoặc con cháu anh ta ở đâu? Đối với những thiên tài lớn hiện nay đang còn quấn tã- những người sẽ viết truyện cho con cháu yêu quý của các vị độc giả coi thì những nhân vật và sự việc trên đây sẽ có tính chất truyền kỳ chẳng khác gì chuyện Nineveh, hoặc Sư tử tâm () hoặc Jack Sheppard. Đối với họ, chuyến xe ngựa sẽ thành tiểu thuyết…chuyện một bày bốn con ngựa lồng cũng ly kỳ như chuyện Bucephalus hay chuyện Bess Hắc-y.

Gớm, lông ngựa bóng nhẫy; mấy anh bồi ngựa cất áo ngắn đi; thế là ngựa đi, thế ngựa phi nước đại; chao ôi, đuôi chúng cứ vẫy tít lên, lúc đến trạm nghỉ; mấy con ngựa yên lặng đi vào trong sân quán rượu, lưng bốc hơi. Than ôi? Còn bao giờ chúng ta được nghe tiếng xà ích rúc còi lúc nửa đêm, và được trông thấy cánh cổng ghép bằng gỗ vát nhọn mở tung ra nữa? Thôi, chúng ta cũng chẳng nên nghĩ ngợi lan man nữa, hãy đến Crawley Bà chúa xem cô Rebecca làm ăn ra sao?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8


RIÊNG VÀ KÍN

Cô Rebecca Sharp gửi cô Amelia Sedley, khu Quảng trường Russell, Luân-đôn (miễn bưu phí - Pitt Crawley).

Chị Amelia dịu dàng thân yêu nhất đời của em.

Em cầm bút biên thư cho chị thân yêu mà trong lòng lẫn lộn vừa mừng vừa tủi! Ôi! Ngày hôm nay khác ngày hôm qua biết bao nhiêu. Bây giờ, em cô đơn quá, chẳng có ai bầu bạn; mới hôm qua, em còn như được sống trong khung cảnh gia đình, bên cạnh một người chị dịu dàng mà em suốt đời quý mến.

Em không muốn kể lại chị nghe suốt cái đêm ác nghiệt em phải xa lìa chi, em đã buồn khổ, khóc lóc thế nào. Từ ngày thứ ba, chị đã bước vào một cuộc sống đầy hoan lạc và hạnh phúc, bên cạnh bà mẹ hiền, và người quân nhân trẻ tuổi chung tình của chị. Suốt đêm em nằm nghĩ đến chị, tưởng tượng cảnh chị đang khiêu vũ ở Perkins, và chắc chắn chị là người thiếu nữ đẹp nhất trong buổi dạ hội.

Thằng hầu đánh cái xe ngựa cũ kỹ đưa em đến căn nhà của cụ Pitt Crawley ở tỉnh; thằng Joe đối xử với em thô lỗ, hỗn xước quá chị ạ. (than ôi, sỉ nhục kẻ nghèo khổ và không may này thì dễ dàng quá !); nó giao em cho cụ Pitt. Đêm hôm ấy, em ngủ trong một cái giường cổ lỗ, tối tăm cùng với mụ già làm công cũng có vẻ âm thầm giữ việc dọn đẹp nhà cửa. Suốt đêm em không chợp mắt được lấy một phút chị ạ.

Cụ Pít không giống những vị nam tước mà hai chị em ngốc nghếch chúng mình tưởng tượng hồi hay đọc truyện “Cecilia” ở Chiswick đâu. Không có người nào khác hẳn bá tước Orville như lão ta. Chị cứ tưởng tượng một người có tuổi lùn, béo phị, thô lỗ, và bẩn kinh người, quần áo cũ rích, đi đôi ghệt tồi tàn, ngậm một chiếc tẩu khủng khiếp, và lại tự mình nấu lấy bữa ăn gớm ghiếc của mình trong cái chảo! Lão có cái giọng nói nhà quê lắm, và lại hay văng tục với mụ làm công, văng tục với cả thằng xà-ích đánh xe ngựa thuê chở chúng em đến cái quán chỗ xe đỗ, phần lớn ngày hôm nay, tuy đi xe mà em phải ngồi ngoài trời.

Mới sáng tinh mơ, mụ làm công đã đánh thức em dậy; đến cái quán, em được vào ngồi trong xe. Nhưng khi xe chạy đến một chỗ gọi là Leakington, thì trời bắt đầu mưa to, chị có thể tin được không?...Em bị bắt buộc ra ngồi ngoài trời, bởi vì cụ Pitt cũng là chủ xe, và lúc ấy có một hành khách đi Mudbury muốn vào ngồi trong xe; thế là em phải ngồi ngoài trời mưa, may quá, một chàng trẻ tuổi học ở Cambridge đại học đường có đem theo mấy tấm áo choàng, anh ta thương tình lấy một cái che cho em.

Chàng trẻ tuổi sang trọng này và người hầu hình như biết rõ vụ Pitt thì phải; họ thi nhau mà giễu cợt lão. Họ đồng ý với nhau đặt tên cho lão là “lão vắt cổ chày ra nước” nghĩa là hà tiện, bủn xỉn quá lắm. Họ nói chuyện rằng không bao giờ lão cho ai tiền (em vốn ghét cái tính bần tiện ấy); chàng trẻ tuổi sang trọng ấy còn bảo em rằng sở dĩ trong khoảng hai chặng đường cuối cùng xe đi rất chậm, là vì có cụ Pitt ngồi cạnh bác xà ích, mà đôi ngựa kéo xe trong đoạn đường này lại là của cụ. Anh sinh viên trẻ tuổi nói: lúc nào tôi cầm cương anh có muốn tôi quất vài roi cho nó chóng đến Squashmore không? Bác xà ích đáp: “cậu Jack ạ, cậu cứ quất cẩn thận cho tôi”. Em hiểu ý nghĩa của câu nói; và biết cậu Jack định cầm cương ngựa để trả thù lão, em cũng cười.

Thế cũng có một cái xe đóng hai cặp ngựa rất đẹp chờ chúng em ở Mudbury, cách trại Crawley Bà chúa bốn dặm. Chúng em bắt đầu đi vào trong phạm vi khu vườn riêng của lão nam tước. Một con đường rộng thênh thang rất đẹp cách tòa nhà chính đến một dặm. Người đàn bà ở căn nhà cạnh cổng lớn vội vái chào chúng em lia lịa (mé trên những cột trụ ở cổng có tạc hình một con rắn và một con chim bồ câu, đỡ chiếc huy hiệu riêng của gia đình Crawley) đoạn mở tung hai cánh cổng sắt cũ có chạm trổ ra, trông giống như những cánh cổng ở cái chỗ Chiswick khốn kiếp. Cụ Pitt bảo em: “Con đường lớn này dài một dặm. Cây trồng ở đây trị giá có tới sáu ngàn đồng bạc gỗ. Cũng là một món tiền đấy chứ?”. Lão nói “đường lớn” là “đàng nớn” và “món tiền” là “món tờn”, buồn cười quá. Lão cho ông Hodson, một người tá điền của lão ở Mudbury, lên ngồi trên xe; hai người nói với nhau toàn những chuyện “quyền trữ”, chuyện bán đấu giá, chuyện tháo nước úng, chuyện khai thác, và bao nhiêu là chuyện trong nghề làm ruộng, làm trại...em chịu không hiểu nổi. Một người là Xam Mang săn trộm bị bắt, một người là Pơtơbailê đã bị đưa vào nhà tê bần rồi. Cụ Pitt nói: “Cho nó đáng kiếp, nó và gia quyến đã lừa tôi trong cái trại này có tới một trăm năm mươi năm nay”. Hình như có người tá điền cũ nào đó không trả được nợ thì phải.

Giá cụ Pitt nói “nó và gia đình nó” thì đúng hơn, nhưng các vị nam tước giàu có cần gì để ý đến văn phạm như mấy cô giáo dạy tư nghèo đói!

Xe đang đi, em chợt nhìn thấy một cái nóc nhà thờ rất đẹp vươn lên sau mấy cây du trong vườn trại. Phía trước hàng cây này, giữa một bãi cỏ xanh xung quanh rải rác mấy căn nhà nhỏ, có một nếp nhà cổ quét vôi đỏ, trên nóc nhà ló ra nhiều ông khói lò sưởi lớn bị che kín dưới giàn lá trường xuân, ánh nắng chiếu vào cửa sổ sáng lấp lánh.

Em hỏi: “Thưa cụ, kia là nhà thờ riêng của nhà ta?”

- Phải, kệ mẹ nó! (cụ Pitt đáp vậy; chị ạ, lão lại càng dùng những tiếng thô bỉ hơn trước): Này Hodson, Buty ra sao? Buty là Bute, tên em tôi, cô ạ...lão mục sư em tôi ấy mà. Tôi thường gọi hắn là Buty, là đồ con chó, ha! ha! .

Hodson cũng cười theo, rồi lấy vẻ mặt trầm ngâm gật gù cái đầu nói: “Cháu sợ rằng ông ấy dạo này khá hơn, cụ Pitt ạ. Hôm qua, ông ấy cưỡi con ngựa non ra đồng thăm lúa của chúng ta đấy”.

- Làm thế nào mà truất “mẹ” nó cái khoản thuế thập phân của hắn đi (lão lại cứ dùng mãi cái tiếng thô bỉ ấy). Ma men chưa vật chết hắn à. Hắn sông dai như cụ gì mấy nhỉ? À, cụ Bành tổ.

Ông Hodsonlại cười:

- Bọn thanh niên mới ở trường về nghỉ, họ đánh John Scroggins một trận nhừ tử, suýt chết.

Cụ Pitt gầm lên:

- Đánh người phụ gác của tao!

Ông Hodson đáp:

- Anh ta săn trộm trong trại của ông mục sư, thưa cụ.

Cụ Pitt phát điên lên, thề rằng hễ bao giờ bắt được họ săn trộm trong phạm vi trại mình, lão sẽ bắt họ đi đầy; lão thề độc như vậy. Rồi lão nói: “Tao đã bán quyền kế thừa cai quản rồi, Hodson ạ, bọn con cái nó đừng có hy vọng”.

Ông Hodson bảo rằng lão nói chí phải. Nghe chuyện, em đoán rằng hai anh em đang có hiềm khích...Anh em, chị em ruột thường vẫn thế. Chị còn nhớ hai chị em cô Scratchleys ở Chiswick không? Họ cãi nhau, đánh nhau cứ như cơm bữa và cô Mary Box đấm cô Louisa mới ghê chứ.

Vừa lúc ấy, thấy trong rừng có hai thằng bé con đang nhặt củi khô, cụ Pitt ra lệnh cho ông Hodson nhảy tót xuống xe cầm một cái roi xông tới. Lão nam tước hét: Hodson, quật đi; đánh mất mạng cho tao, rồi đem chúng nó vào trong nhà kia, đồ mất dạy. Tao nhất định sẽ bỏ tù chúng nó chắc chắn như tên tao là Pitt vậy? Em nghe thấy tiếng roi của ông Hodson quật vun vút xuống vai mấy em bé đang gào khóc lạy van. Cụ Pitt thấy hai em bé đã bị nhốt cẩn thận rồi mới đánh xe vào trong nhà.

Toàn thể gia nhân đã sẵn sàng đón chào chúng em và…

Chị thân mến ạ, đêm qua đang viết dở lá thư cho chị, thì có tiếng đập thình thình ở cửa, làm em phải ngừng bút; ai đấy, đố chị đoán ra được? Cụ Pitt Crawley đội mũ ngủ, mặc áo ngủ, chết người không! Trông thấy lão, em sợ quá lùi lại thì lão bước thẳng vào phòng, cầm lấy cây nến, nói: “Cô Becky, quá mười một giờ, không được phép thắp nến. Tối cũng mặc, lên giường mà ngủ đi, đồ nỡm non (lão gọi em như vậy đấy): nhớ kỹ, cứ đến mười một giờ thì phải đi ngủ; nếu không đêm nào tôi cũng vào tắt nến đấy”. Nói xong, lão và bác hầu phòng Horrocks vừa đi ra vừa cười. Dĩ nhiên em chẳng dám khuyến khích họ đến thăm như vậy. Đêm đêm, họ thả rông hai con chó nòi to kếch xù; chúng rít và sủa trăng suốt đêm qua. Lão Pitt bảo: “Tôi đặt tên con chó này là Gorer, nó đã cắn chết một người; nó khỏe lắm, vật nổi cả bò tót, còn con mẹ tôi đặt tên là Flora. Nhưng bây giờ tôi đổi tên nó là Aroarer, vì nó già quá rồi, không cắn được nữa, Hô! Hô!”

Tòa nhà chính của trại Crawley Bà chúa là một ngôi nhà cổlỗxây bằng gạch đỏ, trông thật đáng ghét, có những ống khói lò sưởi to tướng, tường hồi xây theo kiểu thời nữ hoàng Bess. Trước nhà, có một cái nền gạch, mé bên có dựng bức tượng con rắn và con bồ câu tiêu biểu cho gia đình; mọi cửa lớn phòng khách đều nom ra sân. Ôi chao, chị ạ, phòng khách chính to quá mà cũng tôi như gian phòng khách lớn trong lâu đài Udolpho ấy. Có một cái lò sưởi kếch xù, giá ta nhét một nửa cái trường của bà Pinkerton vào cũng vừa; chiếc giàn sắt cũng to, có thể dùng để quay ít nhất là một con bò cũng được. Quanh phòng, treo la liệt hình vẽ các thế hệ của dòng họ Crawley, có người râu ria xồm xoàm, cổ đeo đăng-ten hoa; có người đeo bộ tóc giả rậm rạp, ngón chân cái thò ra ngoài giày; có người mặc bộ áo chèn và áo ngoài dài lượt thượt và cứng nhắc, trông ngay đườn đưỡn như cái cột, có người tóc uốn xoăn lại thành từng chùm nhỏ và dài; chị ạ, cuối phòng có cái cầu thang lớn bằng gỗ sồi đen, trông đến sợ. Hai bên có nhiều cửa lớn, phía trên mỗi cửa có treo một cái đầu hươu. Những cửa này mở sang gian phòng chơi bi-a, phòng sách, phòng khách lớn sơn vàng, và những căn phòng phụ dùng ngồi chơi buổi sáng. Em đoán dưới nhà phải có ít nhất là ba chục phòng ngủ. Nữ hoàng Elizabeth đã từng ngủ trên một cái giường ở đây. Sáng nay, mấy cô học trò mới của em đã dẫn em đi xem qua tất cả những căn phòng đẹp đẽ ấy.

Màn cửa buông im ỉm, phòng nào cũng tối om, Bước vào phòng nào, em cũng sợ phải nhìn thấy một cái bóng ma lù lù hiện ra, lúc có ánh sáng soi vào. Phòng học của chúng em ở tầng hai, một đầu ăn thông sang phòng ngủ của em, một đầu ăn thông sang phòng ngủ của hai cô con gái ông chủ. Rồi đến những gian phòng riêng của ông Pitt, thường gọi là ông Crawley, tức là con trai cả, rồi đến những gian phòng riêng của ông Rawdon Crawley...ông này cũng là một sĩ quan như người ta, thường sống trong trại lính. Ở đây thì không thiếu buồng, giá tất cả mọi người ở công viên Russell dọn đến cũng vẫn còn thừa chỗ.

Em đến độ nửa giờ, thì chuông báo giờ ăn bắt đầu điểm.

Em cùng hai đứa học trò xuống nhà (chúng gầy nhom, hai con nhóc con mặt mũi chẳng ra sao, đứa lên mười đứa lên tám). Em vận chiếc áo lụa quý báu của chị (mà con mẹ Pinner đáng ghét cứ hằn học mãi vì chị cho em). Họ coi em như người trong gia đình, trừ những ngày tiếp khách, khi ấy em và hai cô tiểu thư ăn ở trên gác. Vâng, đã nghe tiếng chiếc chuông to báo giờ ăn điểm; chúng em tề tựu đủ mặt trong gian phòng khách, chỗ Crawley phu nhân đang ngồi. Bà này là bà hai, mẹ đẻ ra hai cô con gái. Bà là con gái một nhà buôn sắt, cuộc hôn nhân này hồi ấy được coi là môn đăng hộ đối lắm.

Nom bà ta thì hình như xưa kia cũng đẹp, mà đôi mắt hình như đã khóc nhiều vì sắc đẹp tàn tạ của mình. Người bà ta gầy, nước da tai tái; hai vai dô cao lên; lúc nào bà ta cũng im lặng. Còn chồng của bà là ông Crawley cũng có mặt trong phòng, ăn mặc chỉnh tề, trông long trọng như một ông chủ cho thuê đòn đám ma. Ông ta người gầy, xấu trai, nước da cũng tái, ít nói; chân thì khẳng kheo, ngực lép kẹp, râu tóc một màu xám xịt như màu rơm khô. Trông ông ta giống hệt bà mẹ trong bức tranh treo trên lò sưởi...tức là bà Griselda trong gia đình Binkie.

Crawley phu nhân bước lên cầm lấy tay em, nói:

- Anh Crawley ạ, đây là cô giáo mới đấy, gọi là cô Sharp.

- Ô!

Ông Crawley vừa nói vừa vươn cổ ra nhìn, rồi lại cúi xuống đọc một bài xã thuyết. Crawley phu nhân lại nói, đôi mắt trông như lúc nào cũng đẫm lệ.

- Tôi mong rằng cô sẽ dịu dàng đối với các em.

Cô con gái lớn nói:

- Kìa, má, dĩ nhiên cô ấy dịu dàng. Con chỉ nhìn thoáng qua cũng đủ biết cô này không đáng sợ.

- Thưa phu nhân, bữa ăn đã dọn xong.

Anh hầu vào báo; anh ta mặc toàn đồ đen, cổ quấn một cái đăng ten hoa to tướng, trông giông như cái đăng-ten hoa ở cổng hoàng Elizabeth trong bức tranh treo ngoài gian phòng lớn. Phu nhân cầm tay ông Crawley dẫn đầu đi sang phòng ăn; còn em đi sau, hai tay dắt hai cô học trò.

Cụ Pitt đã ngồi sẵn ở đó, tay cầm một cái cốc bạc. Lão vừa mới ở trong hầm rượu ra, cũng ăn mặc rất chỉnh tề, nghĩa là lão đã cởi bỏ đôi ủng, để lộ đôi chân ngắn ngủn đi bí tất len đen. Mặt bàn bày la liệt đĩa cổ, đĩa hoa quả cổ, bình đựng dấm cổ, bằng vàng có, bằng bạc có, sáng choang trông y như trong cửa hiệu Rundell và Bridge vậy. Mọi thứ trên bàn ăn đều bằng bạc, hai bên bàn có hái thằng hầu, tóc đỏ bận chế phục màu vàng thanh, đứng túc trực.

Ông Crawley đọc một đoạn kinh dài, cụ Pitt nói “A men”. Người nhà bắt đầu nhấc những cái vung lớn bằng bạc úp trên các đĩa ăn đem đi.

Lão nam tước nói:

- Betsy, hôm nay có cái gì ăn thế?

Crawley phu nhân đáp:

- Hình như có cháo thịt cừu, ông ạ.

Anh hầu bàn trịnh trọng đáp:

- Mouton aux navets (xin các bạn đọc là mu-tông-ô-na-vê); món súp thì có potage de mouton à l’Écossaise. Các món phụ gồm pommes de terre au naturel và choufleur à l’eau ().

Lão nam tước đáp:

- Thịt cừu vẫn là thịt cừu; ngon tuyệt đấy a. Horrocks, con cừu nào đấy, thịt bao giờ?

- Bẩm cụ, thịt một con cừu mặt đen, giống Scotch. Chúng con thịt hôm thứ ba.

- Có ai mua miếng nào không?

- Bẩm cụ, lão Steel ở Mudbury lấy cái thân và hai đùi; nhưng bẩm cụ, hắn bảo rằng con này non quá, chỉ được cái nhiều lông, thịt gầy lắm.

Ông Crawley nói:

- Mời cô dùng một chút súp...cô...à, cô Blunt.()

Cụ Pít nói:

- Món cháo Scotch ngon tuyệt, cô ạ, tuy rằng họ đặt tên bằng tiếng Pháp.

Ông Crawley kiêu ngạo đáp:

- Thưa ba, con tin rằng trong giới thượng lưu vẫn có phong tục đặt tên các món ăn như ta vừa gọi.

Hai tên hầu mặc áo vàng bưng món “mouton aux navets” ra đựng trong những đĩa ăn súp bằng bạc. Đoạn bọn con gái chúng em được uống rượu bia pha nước lã đựng trong cốc uống vang. Em không sành về rượu bia, nhưng có điều chắc chắn là em thích uống nước lã hơn. Trong khi đang ăn, cụ Pitt tìm dịp hỏi về mấy cái vai cừu. Bà vợ đáp:

- Có lẽ dưới nhà bếp họ ăn rồi.

- Cái con lợn đen nhớn nòi xứ Kent bây giờ chắc béo lắm đấy nhỉ?

- Bẩm cụ, béo múp míp.

Bác quản lý trả lời rất trịnh trọng: nghe nói, cụ Pitt và cả hai cô con gái cũng cười rũ rượi.

Ông Crawley nói:

- Cô Crawley, Rose Crawley, tôi không hài lòng vì cái cười rất không đúng chỗ của cô.

Lão nam tước đáp:

- Đừng để ý đến chuyện ấy, ngài ơi; thứ bảy, ta sẽ hỏi thằng chăn lợn xem thế nào. John Horrocks, sáng thứ bảy giết một con, nghe. Cô Sharp thích ăn thịt lợn phải không cô.

Em nhớ rằng suốt bữa ăn, câu chuyện quanh quẩn chỉ có thế. Ăn xong, họ đặt trước mặt cụ Pitt một cốc lớn nước nóng, và một chai…hình như rượu rum thì phải. Bác Horrocks rót cho em và hai cô con gái mấy cốc rượu vang: phu nhân cũng dùng một cốc đầy. Lúc chúng em rời khỏi phòng ăn, phu nhân lấy trong ngăn kéo ra một mảnh len đan to tướng dài vô tận; còn hai cô con gái bắt đầu giở một cỗ bài “xì” cáu ghét ra chơi với nhau. Chỉ thắp có mỗi một ngọn nến nhưng cắm trên một cái giá nến cổ bằng bạc. Phu nhân hỏi em vài câu chuyện sau đó em có quyền lựa chọn cách giải trí, hoặc đọc một cuốn sách giảng đạo, hoặc đọc bài xã thuyết về đạo luật đánh thuế lúa mì mà ông Crawley đọc trước bữa ăn.

Chúng em cứ ngồi thế đến một tiếng đồng hồ, cho tới khi nghe có tiếng chân bước. Phu nhân hốt hoảng nói:

- Cất bài đi, các cô. Cô Sharp, bỏ quyển sách của Crawley xuống.

Vừa cất xong các thứ thì ông Crawley bước vào, ông ta nói:

- Này, hai cô. Ta tiếp tục cuộc thảo luận hôm qua chứ. Lần lượt mỗi cô sẽ đọc một trang, để cho cô...a, cô Short có dịp nghe xem thế nào.

Thế là hai cô gái đáng thương phải đánh vần nốt bài giảng đạo ghê gớm dài dằng dặc đọc ở nhà thờ Bethesda ở Liverpool, bài văn này biện hộ cho việc truyền giáo cho những người Inđiên ở Chickasaw. Chị xem, một buổi tối như thế có thú vị không?

Đến mười giờ, phu nhân sai bọn đày tớ mời cụ Pitt và toàn bộ gia nhân đi cầu kinh. Cụ Pitít bước vào đầu tiên, mặt đỏ tía dáng đi hơi chếnh choáng. Sau cụ là bác quản lý, hai thằng hầu mặc áo vàng, người hầu riêng của ông Crawley, ba người nữa sặc mùi phân ngựa, và bốn người đàn bà....trong số này có một người mặc quá nhiều quần áo, lúc khuỵu đầu gối xuống lễ cứ gườm gườm nhìn em như nhìn kẻ thù.

Ông Crawley diễn thuyết và giải thích một hồi, đoạn chúng em cầm nến đi ngủ. Thế là sau đó em ngồi viết thư cho chị và bị cản trở như chị đã rõ, chị Amelia thân yêu ạ.

Chúc chị ngon giấc. Hôn chị hàng nghìn, hàng nghìn, hàng nghìn lần.

Thứ bẩy - Sáng nay, lúc năm giờ, em nghe tiếng con lợn đen con kêu rống lên. Hôm qua Rose và Violet đã dẫn em ra xem chuồng lợn, chuồng ngựa, cũi chó, rồi đi thăm người làm vườn; bác này đang hái quả mang ra chợ bán; hai cô con gái cứ nằn nì xin một chùm nho trồng trong “nhà cây”, nhưng bác làm vườn bảo cụ Pitt đã đếm từng quả rồi; bác mà cho ai quả nào thì cứ gọi là mất việc.

Hai cô con gái vớ được một con ngựa non trên bãi cỏ, hỏi em có muốn cưỡi không, rồi cả hai leo lên cưỡi ngựa, thằng bồi ngựa vội kêu ầm lên chạy đến kéo hai đứa đi.

Lúc nào cũng thấy Crawley phu nhân ngồi đan len. Đêm nào cụ Pitt cũng say mèm; hình như cụ uống tay đôi với bác quản lý Horrocks thì phải. Tối nào ông Crawley cũng đọc kinh, và sáng ra thì hoặc ở tịt trong phòng riêng, hoặc cưỡi ngựa đi Mudbury lo công việc hàng quận, vào những ngày thứ tư và thứ năm, ông ta hay đi Squashmore để giảng đạo cho bọn tá điền.

Em xin gửi lời kính chúc hai bác, ông anh của chị đã khỏi say rượu chưa. Ôi, chị thân mến, chị thân mến ơi! Đàn ông phải hết sức tránh xa rượu chè lắm lắm đấy!

Mãi mãi là em của chị Rebecca.

Xét cho cùng thì tôi nghĩ rằng cô Amelia của chúng ta ở công viên Russell phải ly biệt cùng cô Sharp, lại là một việc tốt. Rebecca là người rất kỳ lạ, buồn cười. Cái cách cô ta kể chuyện bà nam tước đáng thương khóc lóc vì sắc đẹp tàn tạ, và chuyện ông con trai có bộ “râu tóc xám xịt màu rơm” thật giỏi, chứng tỏ nhất định cô ta phải rất thạo đời.

Nguyên một việc đang quỳ mà cô ta còn nghe được những chuyện khác hay ho hơn là mấy cái dải đăng ten của cô Horrocks, cũng đủ bắt cả tôi và bạn ngạc nhiên. Song cũng yêu cầu bạn đọc nhớ cho rằng chuyện này có tên là Hội chợ phù hoa; mà Hội chợ phù hoa thì chính là một nơi toàn những chuyện ngu xuẩn, vô nghĩa lý, toàn những chuyện giả dối huênh hoang. Trong khi ấy nhà đạo đức đứng trước tấm màn sân khấu (đúng là hình ảnh của kẻ hèn này) còn đang tuyên bố rằng nhất định không chịu đội mũ đi hia, mà vẫn chỉ mặc bộ áo nhà nghề có hai tai dài của người làm trò hề; song các bạn thấy không, người ta nhìn thấy sự thật thế nào, bắt buộc phải nói y như vậy, dầu phải khoác tấm áo choàng có đính nhạc, hay được đội mũ vành vểnh lên của quan lớn; và dĩ nhiên, việc ấy sẽ đẻ ra lắm chuyện khó chịu.

Tôi nghe nói có một anh ở tỉnh Naples chuyên nghề kể chuyện rong, một bữa thao thao bất tuyệt trước một đám đông thính giả lười biếng vô tích sự gần bờ biển; đang kể chuyện mấy con người quá tồi tệ, anh ta bỗng nổi khùng với đám nhân vật mình bịa ra, đến nỗi cử tọa cũng không nhịn được; và cả diễn giả, cả thính giả cùng lên tiếng ầm ĩ chửi rủa cái con quỷ dữ trong chuyện; thế rồi chiếc mũ đi vòng quanh trước mặt mọi người, và những đồng bajochi mưa xuống tới tấp, giữa tiếng cười tán thưởng của tất cả công chúng.

Trái lại, ở những nhà hát nhỏ tại Paris không những chúng ta chỉ nghe thấy khán giả hét: “A, thằng đểu?A, đồ quỷ!”() và ngồi ngay tại chỗ chửi rủa vai bạo chúa trên sân khấu; mà ngay cả các diễn viên cũng nhất định từ chối không chịu sắm những vai “phản diện”, thí dụ đóng vai “những tên người Anh đểu giả”() những tên “Cossacks tàn nhẫn” chẳng hạn, và còn gì nữa? Thà chịu rút lương mà được sắm vai những người dân Pháp trung thực, họ cũng thích.

Tôi nêu lại hai câu chuyện song song để các bạn đọc thấy rằng không phải vì mục đích lý tài mà kẻ thủ vở này đang muốn trình bày những nhân vật tồi tệ để vùi dập họ. Chính vì hắn ta thực tâm khinh ghét chúng, không thể nhịn được, đành phải dùng những lời thô tiếng nặng thích hợp để cho dịu bớt nỗi căm chất chứa trong lòng.

Tôi xin báo để các “bạn quý” biết trước rằng tôi sắp kể một câu chuyện xấu xa đau lòng và cũng là một tội ác phức tạp... song, tôi tin rằng chuyện cũng khá lý thú. Xin cam đoan rằng bọn lưu manh này không phải là những tay “mèng”. Đi đến những chỗ sang trọng ta cũng phải biết ăn nói lịch sự... nhưng khi đã trở về những nơi thôn quê lặng lẽ thì ta nên yên lặng. Trong một cái thùng giặt, mà lại có bão táp thì thực là vô lý. Những chuyện ấy ta để dành cho đại dương hùng vĩ và đêm tối quạnh hiu. Tấu trò sắp diễn đây cũng chỉ rất nhẹ nhàng. Những kẻ khác...

Song ta không nên nói trước.

Khi đưa các nhân vật ra trò với tư cách là một con người, và một người anh em trong nghề, tôi xin phép không những chỉ giới thiệu họ mà còn thỉnh thoảng được rời sân khấu bước xuống dẫn giải thêm vài lời về họ; nếu họ tốt, xin được phép yêu mến và bắt tay họ; nếu họ tồi, xin được phép che tay áo mà cười; còn nếu chúng đểu quá thì xin được dùng những tiếng thô bạo nhất mà sự lễ độ có thể cho phép để chửi vào mặt chúng.

Ngoài ra chắc các bạn tưởng rằng chính tôi đã phì cười trước cảnh cầu kinh mà cô Sharp cũng cảm thấy là hài hước, cũng chính tôi phải cười cợt một cách thú vị trước hình ảnh lão nam tước già nua lảo đảo say mèm như Silenus ().Thế mà người cười lại là một kẻ không biết kính trọng điều gì ngoài sự giàu có. Không biết nể nang cái gì ngoài sự thành công. Sống và làm ăn phát đạt trong cuộc đời là những con người có tên là...Vô tín ngưỡng, Vô hy vọng, Vô từ tâm. Các bạn thân mến ơi, ta phải ráng hết sức mà choảng cho chúng một trận. Bọn chúng vô khối thằng làm nên khá giả mà thực ra chỉ là bọn lang băm và làm trò hề. Chính trong khi đấu tranh với chúng và lột mặt nạ bọn chúng mà chúng ta được một mẻ cười đấy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9


NHỮNG NHÂN VẬT TRONG GIA ĐÌNH

Tôn ông Pitt Crawley là một triết gia, có khuynh hướng về cái gọi là tầng lớp hạ lưu. Lần thứ nhất lão làm bạn với con gái nhà quý tộc Binkie là do cha mẹ lựa chọn.

Đúng như lão vẫn thường nói khi vợ còn sống, mụ này thật là một con mẹ ranh thượng lưu đanh đá đáng ghét, đến nỗi giá mụ chết, thì lão thà bị treo cổ còn hơn vớ được một mụ vợ thứ hai cũng là con nhà nòi như thế, quả nhiên sau khi mụ vợ về chầu giời, lão giữ đúng lời hứa, chọn ngay cô Rose Dawson làm vợ kế, cô này là con gái ông John Thomas Dawson, buôn sắt Ở Mudbury. Được bước lên địa vị Crawley phu nhân, cô Rosa thật là một người đàn bà sung sướng!

Ta hãy xem hạnh phúc của cô có những chi tiết gì. Đầu tiên, cô bỏ rơi anh chàng Peter Butt, chàng tình nhân trẻ tuổi; bị thất tình, anh này đâm ra buôn lậu, đi săn bắn trộm, và làm hàng nghìn việc bậy bạ khác. Rồi cô lại xích mích với tất cả đám bạn bè hồi còn con gái - vì nhiệm vụ bắt phải thế. Crawley phu nhân làm sao có thể hạ mình tiếp đãi bọn này được... mà chính cô cũng không thể tìm thấy trong giới thượng lưu mình mới bước vào một người nào chịu vồ vập trọng vọng cô. Đời nào người ta chịu làm thế? Ngài Huddleston có ba cô con gái; cả ba cùng hy vọng trở thành Crawley phu nhân. Tôn ông Giles Wapshot tự coi là bị sỉ nhục vì con gái của gia đình Wapshot không được lựa chọn; các vị nam tước khác trong quận cũng rất công phẫn trước cuộc hôn nhân thiếu đăng đối () của bạn họ. Còn bọn thường dân thì ta không cần chú ý, mặc họ thì thào gièm pha vụng trộm với nhau.

Tôn ông Pitt vẫn thường nói lão “đếch cần” bất cứ đứa nào trong bọn ấy. Lão vớ được cô Rosa xinh xắn, thế là đủ; mà khi người đàn ông đã được thỏa mãn sở thích thì còn cần gì hơn? Bởi thế, đêm nào lão cũng nốc rượu vang, để thỉnh thoảng lại đánh cô Rosa xinh đẹp của lão một trận, để bỏ mặc cô ở Hampshire lẻ loi trong cuộc đời mông mênh, không một ai bè bạn mỗi khi lão đi Luân-đôn nhân dịp họp Quốc hội. Ngay đến bà Bute Crawley là vợ viên mục sư cũng không thèm đến thăm cô; bà ta bảo rằng không đời nào chịu hạ mình đến chơi với con gái một lão nhà buôn.

Cô chỉ được tạo hóa ban cho cái lộc duy nhất là đôi má hồng và nước da trắng, ngoài ra không có được tính tình gì đặc biệt; cô không có tài năng, kém trí tuệ, lại vô công rồi nghề, không biết giải trí là gì, mà cũng không có cả cái tính đanh đá, nanh nọc thường thấy ở những người đàn bà hoàn toàn ngu độn; bởi thế cô vợ kế cũng không giữ chặt được cảm tình của cụ Pitt mấy tý. Đẻ được hai đứa con, thì đôi má cũng nhạt màu hồng, nước da cũng bớt vẻ tươi, cô trở thành một cái máy không hơn không kém trong gia đình nhà chồng, không khác gì cây đàn dương cầm của Crawley phu nhân đã quá cố.

Cô có nước da sáng nên hay bận áo màu nhạt giống như đa số những người đàn bà tóc vàng khác; cô ưa mặc kiểu áo dài màu xanh nước biển, hoặc màu thanh thiên.

Đêm ngày, lúc nào cũng thấy cô ngồi đan len, hoặc làm một công việc khác tương tự; chỉ trong có ít năm mà cô đã đan được cho mỗi chiếc giương ở trại Crawley một cái khăn trải giương. Cô lại có riêng một mảnh vườn nhỏ mà hình như cô rất thích; nhưng ngoài mảnh vườn đó ra, cô chẳng còn biết yêu, biết ghét cái gì khác. Khi bị chồng đối xử thô bạo, cô cứ ỳ ra; lúc nào bị chồng đánh thì chỉ khóc. Cô cũng không đủ bạo gan để uống rượu cho khuây khỏa, suốt ngày chỉ đi lang thang trong nhà mà rên rỉ, chân đi đôi giầy vẹt gót, trên đầu đầy những cặp giấy uốn tóc quăn. Ôi! Hội chợ phù hoa! Hội chợ phù hoa! Có thể xưa kia cô ta là một thiếu nữ nhí nhảnh; Peter Butt và Rosa rất có thể là một đôi vợ chồng hạnh phúc sống trong một cái trại ấm cúng, trong một khung cảnh gia đình thân mật, và cùng chung sức vật lộn với cuộc sống, cùng chung hưởng phần vui thú, lo lắng, hy vọng với nhau. Song trong Hội chợ phù hoa, một địa vị và một cái xe tứ mã vẫn là những thứ đồ chơi quý báu hơn là hạnh phúc. Giả thử Harry đệ bát hoặc Con yêu Râu xanh còn sống đến bây giờ và muốn lấy đến người vợ thứ mười, các bạn có cho rằng hắn không thể nào cưới nổi người con gái đẹp nhất được vào chầu trong Hoàng cung kỳ này không?

Chúng ta đoán ra cũng biết rằng hai cô con gái cũng không lấy gì làm ưa lắm cái tính đần độn lỳ xỳ của mẹ. Chúng thích la cà trong đám đầy tớ và ở ngoài chuồng ngựa hơn. May sáo, bác làm vườn người xứ Scotch lại có một người vợ tốt và mấy đứa con rất ngoan, cho nên chúng cũng được gần gũi những người đứng đắn và cũng được dạy dỗ tử tế, trước khi cô Sharp tới, đấy là nền giáo dục duy nhất chúng được thụ hưởng.

Việc mượn cô Sharp là do sự phản kháng của Crawley, người bạn và người che chở duy nhất của Crawley phu nhân () và người duy nhất được người đàn bà này thấy có đôi chút cảm tình gắn bó, ngoài hai đứa con gái của bà ta. Pitt Crawley mang dòng máu của gia đình quý tộc Binkie là họ bên mẹ; anh ta là một nhà quý tộc rất có nhã độ và đường hoàng.

Khi đến tuổi trưởng thành, anh ta rời trường đại học của Nhà chung về nhà, và bắt đầu chấn chỉnh lại cái trật tự bị lỏng lẻo trong gia đình, bất kể ý kiến của bố, mà lão bố thì rất nể con trai. Tính anh ta kiểu cách đến mức máy móc, thà chịu chết đói chứ không bao giờ dùng bữa mà thiếu chiếc cà vạt quàng ở cổ. Có một lần vừa ở trường về, bác quản lý Horrocks đưa cho anh ta một lá thư, nhưng quên không đặt vào một cái khay; anh ta trừng mắt nhìn Horrocks, mắng cho một trận mất mặt, đến nỗi về sau cứ đứng trước mặt anh ta là Horrocks đã run rồi. Cả nhà đều phải cúi mình trước anh ta. Bữa nào anh ta ở nhà, thì Crawley phu nhân phải cất những cặp giấy uốn tóc trên đầu đi sớm hơn thường lệ: đôi ghệt lấm bùn bê bết của cụ Pitt cũng biến mất. Tuy cái lão già xấu tính ấy vẫn chưa chừa hết mọi thói hư cũ, nhưng ít nhất trước mặt con trai, lão cũng không dám nốc rượu rum pha nước lã bí tỷ, và khi sai bảo gia nhân cũng phải ăn nói dè dặt, lịch sự hơn. Bọn đầy tớ cũng nhận thấy rằng nếu anh con trai có mặt trong phòng, thì lão Pitt không bao giờ văng tục với Crawley phu nhân.

Chính anh ta đã dạy bác quản lý nói: “Bẩm phu nhân, bữa ăn đã dọn”, và chính anh ta đã nhất định đòi khoác cánh tay phu nhân đi sang phòng ăn. Ít khi anh ta nói chuyện với bà này, nhưng hễ đã nói thì bao giờ cũng rất đường hoàng lễ độ; không bao giờ anh ta chịu để bà rời khỏi phòng mà không đứng dậy một cách rất là đường hoàng để tự tay mở cửa, và cúi chào một cách vô cùng lịch. Ở trường trung học Eton, bạn bè gọi anh ta là “cô Crawley”; và tôi cũng rất buồn rầu mà thưa rằng ở trường, anh ta bị em giai là Rawdon đánh luôn rất đau. Sức học thì không được xuất sắc nhưng bù vào chỗ thiếu tài, anh ta có cái nết cần cù kéo lại suốt tám năm học trong trường, chưa hề bao giờ anh ta bị phạt, điều ta thường nghĩ khó lòng một anh học trò nào thoát khỏi.

Lên đại học, dĩ nhiên anh ta được chú ý. Ở đây anh ta đã sửa soạn bước vào xã hội thượng lưu, và được ông ngoại là bá tước Binkie hướng dẫn và che chở. Anh ta rất chăm chỉ học khoa hùng biện lối cổ và lối mới; trong những cuộc hội họp thảo luận, anh ta rất chịu khó phát biểu. Cách ăn nói thì khá lưu loát, chải chuốt; giọng nói tuy nhỏ nhẻ, nhung anh ta cũng rất thú vị khi được ăn nói kiểu cách; có điều bao giờ ý kiến anh ta phát biểu cũng hoàn toàn cũ rích nhạt phèo và phải đèo thêm một quyến rũ chứng bằng tiếng Latinh mới xong. Ấy thế mà anh ta vẫn cứ thất bại như thường, không rõ tại sao, mặc dù cái lối tầm thường mà anh ta dùng, lẽ ra phải đưa bất cứ người nào đến thành công mới đúng. Bè bạn đều bảo rằng anh ta nắm chắc phần thưởng về thơ trong tay, thế mà cũng cứ hỏng. Ra khỏi trường đại học, anh ta làm thư ký riêng cho bá tước Binkie, sau được bổ làm tùy viên đại sứ quán ở Pumpernickel. Anh ta thực hiện nhiệm vụ này một cách xứng đáng, rất thăm gửi về cho ngài Tổng trưởng Ngoại giao đương thời những tin tức về món pa-tê của tỉnh Strasburg. Sau mười năm trời giữ chức vụ tùy viên sứ quán (nghĩa là sau ngày bá tước Binkie tạ thế khá lâu), anh ta thấy việc thăng thưởng của mình quá chậm, bèn khinh bỉ mà rời khỏi trường ngoại giao, và trở về sống cuộc đời một nhà quý tộc thôn quê.

Khi về nước Anh, anh ta có viết một bài xã thuyết về đảo Malt (vốn có nhiều tham vọng, anh ta đưa ra mắt công chúng), và tham dự một phần quan trọng trong vấn đề giải phóng người đa đen. Về sau, anh ta trở thành bạn của ông Wilberforce là người được anh ta rất kính phục về quan điểm chính trị. Anh ta được nổi tiếng nhân việc trao đổi thư từ với linh mục Silas Hornblower về phái đoàn truyền giáo Ashantee. Mỗi năm anh ta đều có mặt ở Luân-đôn, nếu không phải trong thời kỳ Quốc hội họp, thì ít nhất cũng là về tháng năm, khi có những buổi hội nghị tôn giáo ở thôn quê anh ta là một quan tòa, thường đi lại thăm hỏi và thuyết giáo cho cái đám người thiếu nền giáo dục của nhà thờ. Người ta đồn rằng anh ta đã tán tỉnh công nương Jane Sheepshanks là con gái thứ ba của công tước Southdown; cô này có cô chị là công nương Emily, tác giả mấy cuốn truyện: “Cái kim chỉ nam của người thủy thủ” và “Người đàn bà bán táo ở Finchley”.

Cô Sharp không cốt vẽ một bức tranh khôi hài khi miêu tả những cảnh xảy ra ở trại Crawley Bà chúa đâu. Crawley bắt buộc bọn đầy tớ phải lễ bái kính Chúa, và (cũng may thay) bắt cả ông bố phải làm theo. Anh ta chủ tọa một nhóm giáo hữu độc lập ở xứ đạo Crawley; ông chú mục sư bực mình lắm, nhưng ông bố lại rất thú. Có đâu một hai lần cụ Pitt đích thân tới dự; việc này khiến cho tại nhà thờ xứ đạo Crawley nổ ra mấy bài giảng đạo cổ lỗ kiểu gô-tíc của lão nam tước già. Thực ra, cụ Pitt thực thà nhà ta có đủ sức chịu đựng nổi những bài diễn văn đó đâu; thường thường suốt giờ giảng đạo lão ngồi ngủ gật.

Crawley quan tâm đến hạnh phúc của dân tộc và của cái giáo hữu Gia-tô giáo đến mức chỉ mong ông bố nhường lại cho mình chân nghị sĩ ở Quốc hội; nhưng ông lão vẫn không muốn. Dĩ nhiên cả hai bố con cùng khôn cả; họ tính toán rằng không dại gì mà bỏ món tiền một nghìn rưởi đồng được hưởng hàng năm là tiền bán chân nghị sĩ thứ hai (ông Quadroon vẫn giữ chân nghị sĩ này, lại kèm theo quyền tự do hoạt động về vấn đề buôn nô lệ). Quả thật là tình trạng tài sản của gia đình cũng đang gặp hồi lúng túng, số thu hoạch nói trên của thị trấn cũng rất cần thiết cho việc chi tiêu ở Crawley Bà chúa. Món tiền phạt quá nặng mà Walpole Crawley, đệ nhất nam tước, phải nộp vì tội thụt két hồi còn làm việc tại văn phòng cơ mật viện vẫn chưa thu lại được đủ. Ngài Walpole xưa là người ham thú vui, tiêu tiền như rác (alieni appetens, sui profusus () Crawley thường nhắc, và thở dài); sinh thời, ông ta vẫn được khắp quận yêu mến vì tính rượu chè be bét và tính hào phóng sẵn sàng tiếp đãi mọi người ở Crawley Bà chúa. Hồi đó, hầm rượu của gia đình đầy những rượu vang đỏ burgundy, trong nhà lại nuôi rất nhiều chó săn và ngựa để cưỡi đi săn. Trong trại Crawley Bà chúa, bây giờ ngựa phải đi cày, hay kéo chiếc xe ngựa Trafangar; bữa cô Sharp về đây, cô đã đi chiếc xe do một đôi ngựa nuôi trong trại kéo. Lão Pitt tuy thô tục thật, nhưng ở địa phương lão lại là người rất chú ý bảo vệ giá trị của mình, ít khi lão đi ra ngoài mà không dùng xe tứ mã; và lúc ăn cơm bao giờ cũng phải có ba thằng hầu đứng túc trực, dầu bữa ăn chỉ có thịt cừu luộc. Nếu chỉ cần hà tiện mà đủ giầu, thì cụ Pitt rất có thể đã giầu nứt đố đổ vách... nếu chỉ là một ông thầy kiện tỉnh lẻ, vốn liếng không ngoài bộ óc, thì rất có thể lão đã dùng bộ óc ấy mà kiếm được khối lời, và cũng có thể nhờ đó mà có uy tín ảnh hưởng lớn. (Nhưng không may, lão lại là con nhà dòng dõi và có một gia sản lớn tuy đang gặp khó khăn; cả hai thứ đã chẳng giúp ích cho lão thì chớ, lại làm hại lão. Tính lão ưa chuyện kiện tụng, mỗi năm tốn phí vào đó tới hàng mấy ngàn đồng. Lão vẫn thường cho là mình rất khôn ngoan, không bao giờ chịu bị bọn thầy kiện tầm thường bịt mắt, nên lão cứ giao tất cả công việc kiện cáo cho đến một tá bọn thư lại trung gian lo hộ, mặc dầu lão chẳng tin cậy anh nào. Là một điền chủ sắc sảo, nhưng lão toàn vớ phải bọn tá điền vỡ nợ; lão vốn là một người làm ruộng hà tiện, chỉ vãi hạt giống xuống đất một cách bất đắc dĩ mới cho lão thu hoạch, trong khi mùa màng của những chủ trại biết hào phóng khác lại rất tốt. Lão lại còn kinh doanh nhiều việc khác; làm mỏ, mua cổ phần kênh đào, nuôi ngựa kéo xe thuê, ký hợp đồng với chính phủ, tóm lại lão là tay kinh doanh quan trọng nhất trong quận.

Lão thuê những người lương thiện làm việc khai thác đá gra-nit nhưng không chịu trả tiền công, vì vậy nên bốn người đốc công bỏ trốn sang Mỹ, đem theo cả két bạc. Mỏ than của lão không được săn sóc chu đáo, nước ngập hết; chính phủ ném trả lão tờ hợp đồng về việc tiêu thụ thịt bò ôi, còn như về việc cho thuê ngựa kéo xe thì chủ xe trong cả nước đều biết lão chết nhiều ngựa nhất, vì toàn là ngựa mua rẻ và cho ăn đói. Tính lão không kiêu ngạo, trái lại rất bình dân. Có thể nói lão ưa trò chuyện với một bác nông dân hoặc một tay lái ngựa hơn là tiếp đãi một nhà quý tộc giống như cái ông lớn con trai của lão. Lão thích uống rượu, văng tục, và bỡn cợt với bọn con gái nông dân.

Lão không hề cho ai một đồng trinh, hoặc làm một việc phúc đức nào bao giờ, nhưng ai cũng biết lão sởi lởi, vui tính; lão có thể hôm nay ngồi bỡn cợt và uống rượu với một tá điền, ngày mai đuổi cổ thẳng cánh, hoặc có thể vẫn đùa cợt với người đã phạm tội săn trộm trong trại của lão mà lão đang bắt đi đầy... đối với phụ nữ lão có nhã nhặn hay không, cứ xem cách lão đối đãi với Rebecca cũng rõ. Tóm lại trong giới quý tộc và nghị sĩ toàn nước Anh, không có một người nào xảo quyệt bần tiện, ích kỷ, ngu xuẩn, và nổi tiếng xấu xa như lão. Bàn tay vấy máu của cụ Pitt Crawley chỉ thấy thọc vào túi áo người khác, không bao giờ thọc vào túi áo của chính mình. Vậy nên chúng ta, những người vẫn kính trọng giới quý tộc nước Anh, rất đau lòng mà bắt buộc phải công nhận đủ ngần ấy thói xấu ở một người có tên ghi trong tập Debrett ().

Nguyên nhân quan trọng khiến cho Crawley được bố vì nể là một vấn đề tiền nong. Số là lão nam tước nợ con trai một món tiền lớn, đó là tiền riêng của mẹ anh ta để lại; lão không muốn trả nợ con, vì xưa nay lão vẫn có tính thù ghét sự trả tiền cho bất cứ ai và chỉ khi nào bị cưỡng bách thì lão mới chịu thanh toán nợ, Cô Sharp đã tính rằng (dưới đây chúng ta sẽ thấy cô tìm được cách biết mọi việc bí mật của gia đình) nếu trả nợ thì mỗi năm lão phải tốn hàng nghìn đồng. Nhưng lão không chịu bỏ mất sở thích của mình: lão có cái thú man rợ là bắt bọn người khốn khổ đáng thương kia phải chờ đợi; lão chạy khắp các tòa án tìm đủ mọi cách hoãn ngày trả tiền. Lão bảo: “Nếu phải trả nợ thì người ta làm nghị sĩ Quốc hội để làm cái quái gì?” Vậy ra cái cương vị thượng nghị sĩ quả thật có ích cho lão không phải ít.

Hội chợ phù hoa...Hội chợ phù hoa! Tại đây có một thằng đọc không thông, cũng không chịu tập đọc... có những thói quen và tính xảo quyệt của một thằng biển lận, suốt đời chỉ có một lẽ sống là đi lừa vặt thiên hạ, chỉ biết đến những sở thích, những tình cảm, những thú vui bẩn thỉu, bần tiện; vậy mà không rõ tại sao hắn có đủ cả địa vị, danh vọng và quyền lực, lại là một bậc tai mặt trong xứ, một cây cột trụ của nhà nước? Hắn giữ địa vị bảo an đại quan và đi xe ngựa mạ vàng. Các vị tổng trưởng và các chính khách đều phải nịnh nọt hắn: và trong Hội chợ phù hoa hắn chiếm một địa vị cao hơn cả những người tài năng lỗi lạc nhất, hoặc những người đạo đức trong sạch nhất.

Cụ Pitt có một người em gái khác mẹ không lấy chồng; bà này thừa hưởng một gia sản của mẹ để lại. Lão nam tước đề nghị cầm tài sản của mình cho em rể để vay món tiền ấy, nhưng bà Crawley () không thuận; bà ưng giữ chặt số tiền hơn. Tuy nhiên, bà cũng đã ngỏ ý sẵn sàng chia gia tài của bà cho đứa con trai thứ của cụ Pitt; cũng đã có một lần bà trả nợ cho Rawdon Crawley hồi anh ta còn đi học cũng như khi anh ta nhập ngũ. Do đó, mỗi khi đến thăm trại Crawley Bà chúa, bà Crawley được trọng vọng vô cùng.

Cái tài khoản kếch xù của bà ở nhà băng có thể khiến bà đi bất cứ đâu cũng được người ta trọng vọng. Mới biết nhờ có cái tài khoản ở nhà băng mà giá trị một bà quý tộc già được tăng thêm bao nhiêu phần? Nếu bà ấy lại là một người thân trong gia đình (rất có thể mỗi độc giả cũng có hàng nửa tá người thân như vậy đấy) thì những thói xấu của bà ấy đối với ta cũng trở thành đáng yêu biết bao; thật là một bà cụ già nhân hậu tất bụng. Anh chủ trẻ tuổi hãng Hobbs và Dobbs sẽ mỉm cười mà dẫn bà bước ra chiếc xe ngựa, trên thành xe có sơn hình quả trám () và có một anh xà ích béo quay thở phì phà phì phò! Rồi khi bà cụ đến thăm, ta lại có dịp giới thiệu địa vị của bà với bè bạn. Chúng ta bảo thế này (mà cũng chí lý): ước gì bà MacWhirter ký cho một chữ vào cái ngân phiếu năm ngàn đồng nhỉ”. Vợ chúng ta thêm: “Năm nghìn thì bà cụ coi mùi gì”. Khi ông khách hỏi bạn rằng bà MacWhirter phải chăng có họ với gia đình, bạn cứ điềm nhiên như không đáp: “Tôi gọi bà cụ bằng cô ruột đấy”. Vợ bạn luôn luôn gửi quà cáp tặng bà cụ để tỏ tình quý mến; mấy đứa con gái bạn thì cứ ra công mà đan những túi len, những mặt gối và những khăn ủ chân cho “bà cụ”.

Mỗi khi “bà cụ” đến thăm thì đốt ngay lửa thật ấm trong lò sưởi, tuy rằng hàng ngày vợ bạn vẫn phải chịu lạnh mỗi khi thay áo! Trong suốt thời gian “bà cụ” ở chơi, gia đình bận tíu tít, nhà cửa nom sạch sẽ, ấm cúng, rộn ràng như có thết tiệc mà vào những ngày khác không bao giờ được như vậy. Ngay chính bạn, ông bạn quý ơi, bạn cũng quên mất giấc ngủ trưa sau bữa ăn, và đột nhiên thấy mình rất ham đánh bài (mặc dầu bạn thua luôn). Bạn ăn cơm rất ngon...ngày nào cũng có thịt thú rừng; rượu Malmsey- Madeira, cá mua tận Luân đôn mang về thì không bao giờ thiếu.

Cả bọn tôi tớ trong bếp cũng được dự phần hào phóng: không rõ vì sao, trong thời gian anh xà ích béo của bà MacWhirter ở chơi, rượu bia như nặng phân hơn ngày thường, và trong phòng đầy tớ (nơi chị hầu gái ăn cơm), việc tiêu thụ trà và đường không hề bị nhòm ngó đến bao giờ. Có đúng thế không, hay là sai? Tôi xin nhờ những tầng lớp trung lưu làm chứng hộ. Ôi, hỡi những đấng thiêng liêng có từ tâm, ước gì các người ban cho tôi một bà cô già, một bà cô ở vậy không có chồng...một bà cô có đủ cả xe ngựa có sơn hình quả trám, và có bộ tóc màu cà phê nhạt...Các con tôi sẽ tha hồ đan túi len cho bà cụ; cả Julia cùng tôi sẽ sẵn sàng hầu hạ bà cụ. Một viễn tưởng êm đẹp làm sao. Song cũng là một giấc mơ hão huyền làm sao?
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10


CÔ SHARP BẮT ĐẦU KẾT BẠN

Bây giờ cô Rebecca đã bắt đầu được công nhận là người trong cái gia đình dễ thương có những nhân vật vừa giới thiệu ở chương trên; vậy thì lẽ dĩ nhiên, cũng như lời cô nói, cô phải có bổn phận ăn ở tốt với những vị ân nhân của mình, và phải cố gắng hết sức để được họ tin cậy.

Đức tính biết hàm ơn nơi một cô gái côi cút không người che chở, ai không phải mến phục; và nếu trong sự tính toán của cô ta có phần nào ích kỷ, ai dám bảo rằng khôn khéo như thế là vô lý? Cô gái trơ trọi kia sẽ đáp : “Tôi bơ vơ một mình trong đời này; ngoài những thứ phải làm việc mới được hưởng, tôi không còn hy vọng vào cái gì khác.

Con bé Amelia má đỏ kia làm gì có được lấy một nửa cái khôn ngoan của tôi? Vậy mà nó có những một vạn đồng tiền vốn, tương lai chắc chắn; còn con Rebecca đáng thương này (mặt tôi còn xinh hơn mặt nó nhiều chứ) thì chỉ có thể trông mong vào trí thông minh của mình. Được lắm, để rồi xem trí thông minh của tôi có thể đảm bảo cho tôi một đời sống đường hoàng hay không; rồi sẽ có ngày tôi chứng tỏ cho con bé Amelia kia biết rằng tôi hơn hẳn nó cho mà xem. Không phải là tôi ghét Amelia đâu: ai ghét bỏ được một con người vô tội, tốt bụng như thế...Có điều tôi vẫn ước ao sao có ngày tôi chiếm được một địa vị cao hơn nó trong đời, mà tại sao không thể được?” Cô bạn giầu trí tưởng tượng của chúng ta đang xây dựng cho mình những mộng tưởng về tương lai như vậy đấy... Việc gì chúng ta phải tức giận về chuyện trong những tòa lâu đài xây trên cát của cô ta, người trú ngụ chính chỉ là một đức ông chồng?

Các cô thiếu nữ trẻ tuổi không tơ tưởng đến chuyện chồng con thì còn nghĩ đến chuyện gì kia chứ? Hỏi rằng các bà mẹ của họ còn lo chuyện gì khác nữa? Rebecca sẽ bảo: “Tôi phải tự mình làm mẹ lấy cho mình”; đồng thời, nghĩ lại câu chuyện không may giữa cô và Joe Sedley, cô không khỏi hơi thấy đau nhói trong lòng vì thất bại.

Cho nên cô bèn khôn ngoan quyết định sẽ củng cố địa vị của mình cho vững vàng trong trại Crawley Bà chúa; nhằm mục đích ấy, cô quyết tâm kết giao với bất cứ ai sống quanh mình mà có thể can thiệp vào đời sống của cô ở đây.

Thấy Crawley phu nhân không thuộc loại này, hơn nữa bà ta lại là người rất thụ động, không có chút cá tính gì, không có chút ảnh hưởng gì trong gia đình, Rebecca thấy ngay mình không cần phải tranh thủ cảm tình của bà...mà nói cho đúng cũng không thể tranh thủ được. Cô thường nói chuyện với hai đứa học trò về “bà mẹ đáng thương” của chúng; đối với bà này cô vẫn cư xử rất lễ độ song lạnh nhạt; cô chỉ đặc biệt quan tâm đến những người còn lại trong gia đình.

Cô lấy được cảm tình của hai cô bé học trò rất dễ; phương pháp cô dùng cũng rất đơn giản: không cần bắt chúng phải nhồi sọ quá nhiều, trái lại, cứ để mặc chúng tha hồ muốn tự giáo dục ra sao tùy sở thích; bởi vì còn có phương pháp tự học. Cô học trò lớn tính hay đọc truyện; trong cái tủ sách cổ kính của trại Crawley Bà chúa có vô khối tiểu thuyết lăng nhăng xuất bản từ thế kỷ trước, tiếng Anh có, tiếng Pháp có (hồi bị sa thải, ngài bí thư văn phòng cơ mật viện đã mua khá nhiều) ; ngoài Rebecca cũng chẳng có ai rờ đến, cho nên cô ta có điều kiện vừa cho chơi mà vừa dạy được vô khối điều hay cho cô bé Rose Crawley.

Rebecca và cô bé Rose cả hai cùng đọc nhiều tiểu thuyết rất hay của Pháp và Anh, trong số đó có nhiều cuốn của vị học giả Smollett, của nhà văn lỗi lạc Henry Fielding, hoặc của ông Crebillon - nhà tiểu thuyết tài hoa, giầu trí tưởng tượng, người được thi sĩ bất hủ Gray tán tụng hết sức - và của ngài Voltaire lừng danh thế giới viết nên. Có lần Crawley hỏi hai cô em gái đọc sách gì, cô giáo dạy trẻ bèn đáp: “Smollett”. Crawley bằng lòng lắm, nói: “Ờ, Smollett.” Ông ta viết sách sử nhạt nhẽo hơn ông Hume, nhưng chắc chắn không nguy hiểm bằng. Em đang đọc lịch sử phải không?” Cô Rose đáp: “Vâng”. Cô không dám thú thực rằng cô đang đọc truyện lịch sử của Humphrey Clinker. Một lần khác, thấy em gái đọc một tập kịch tiếng Pháp, anh ta có vẻ giận; nhưng cô giáo vội thanh minh rằng mình cốt luyện cho học trò tập dùng những thổ ngữ trong tiếp Pháp khi nói chuyện; thế là anh ta tỏ vẻ rất hài lòng. Là một nhà ngoại giao, Crawley rất kiêu hãnh vì mình nói thạo tiếng Pháp (anh ta vẫn còn là người ưa xã giao); được cô giáo dạy tư trẻ tuổi luôn mồm tán tụng, anh chàng lấy làm khoái lắm.

Trái lại cô Violet có những sở thích thô bạo, ngỗ nghịch hơn chị nhiều: gà mái đẻ trứng ở chỗ kín đáo đến đâu, cô ta cũng tìm được. Cô biết trèo cây để lấy trứng chim. Được cưỡi lên lưng ngựa con non và chạy rông khắp cánh đồng như Camila thì cô khoái nhất. Cô này được ông bố cưng hơn cả, mà bọn bồi ngựa cũng quý. Anh bếp chiều cô bé, nhưng cũng sợ nhất, vì giấu lọ mứt ở đâu cũng không thoát khỏi mắt cô bé, hễ tìm thấy là lấy ăn liền...hai chị em đánh nhau luôn. Bắt được Violet phạm lỗi gì, cô Sharp không mách Crawley phu nhân, vì thế nào bà này cũng nói lại với cụ Pitt, hoặc tai hại hơn mách lại với Crawley; cô chỉ hứa rằng nếu Violet biết ngoan ngoãn và yêu quý cô giáo, thì sẽ không mách mẹ.

Đối với Crawley, bao giờ cô Sharp cũng tỏ ra lễ độ và phục tùng. Gặp những đoạn văn tiếng Pháp cô không hiểu - tuy mẹ cô ta là người Pháp - thì cô đem hỏi anh ta, và hoàn toàn được hài lòng. Ngoài việc giúp cô đọc những chuyện thông thường, anh ta còn tỏ ra tất bụng hơn giúp cô chọn lọc những sách đứng đắn khác, và thường hay trò chuyện với cô. Cô tỏ ý vô cùng khâm phục những bài diễn văn anh ta đọc trong Hội tương tế Quashimaboo; cô rất quan tâm đến bài xã luận của anh ta về vấn đề mạch nha nấu rượu bia. Một buổi tối nghe anh ta thuyết giáo, cô cảm động đến phát khóc, nói: “Ôi, thưa ngài, xin cảm tạ ngài” đoạn ngước mắt nhìn lên trời, làm cho anh chàng thỉnh thoảng cũng phải cảm động mà chiếu cố bắt tay cô một cái. Nhà quý tộc kính Chúa ấy tự nhủ: “Thế mới biết con nhà dòng dõi cũng có khác. Cô Sharp tỏ ra thông cảm với lời nói của ta biết bao, trong khi ở đây không một ai xúc động. Đối với họ, ta kín đáo quá...tế nhị quá...Phải bình dân hóa cách phô diễn mới được...nhưng cô ấy vẫn hiểu. Thân mẫu cô ấy thuộc dòng họ Montmorency kia mà”.

Hình như cô Sharp quả thật cũng có liên quan đến dòng họ nổi danh kia về bên ngoại thì phải. Dĩ nhiên cô không nói với ai rằng mẹ cô xưa là vũ nữ, nói thế có thể làm cho anh chàng Crawley rất sùng đạo kia không ưa cô.

Đã có biết bao nhiêu phụ nữ quý tộc lưu vong ra ngoại quốc bị cuộc cách mạng khủng khiếp kia làm cho khuynh gia bại sản? Trong khoảng mấy tháng đầu sống trong gia đình, cô đã bịa ra vô số chuyện về các vị tổ tiên của mình.

Ngẫu nhiên Crawley thấy có vài câu chuyện trong tập sách của ông D’Hozier, có trong tủ sách của gia đình; điều đó càng khiến anh ta thêm tin lời cô nói là thật, và yên trí Rebecca là con nhà dòng dõi. Chắc chúng ta đoán rằng (mà hẳn Rebecca cũng nghĩ thế) Crawley tò mò hỏi lai lịch, lại mò mẫm tìm tòi những chuyện ấy trong sách, ý hẳn anh chàng chú ý đến cô?...Không đâu, đó chẳng qua là vì tình bạn thân mật. Ở trên, ta chẳng đã nói rằng Crawley có gắn bó với công nương Jane Sheepshanks là gì?

Có một hai bận anh ta bắt được Rebecca đánh bài với cụ Pitt. Anh ta bảo trò chơi ấy không hợp ý Chúa, tốt hơn cô ta nên dùng thì giờ để đọc truyện “Gia tài của Thrum” hoặc truyện “Bà thợ giặt mù ở Moorfields”, hoặc một số cuốn sách đứng đắn nào khác. Nhưng cô Sharp đáp rằng xưa kia mẹ cô cũng thường hay chơi bài cùng vị bá tước già và đức cha xứ Cornet () thế là cô bào chữa được cái chuyện chơi bài và những trò giải trí trần tục khác.

Không phải cô giáo dạy trẻ chỉ biết dùng cách chơi bài để lấy lòng lão nam tước già; cô còn dùng nhiều mánhkhoé khác để tỏ ra có ích cho chủ. Cô đọc rất kiên nhẫn tất cả mọi thứ giấy tờ về việc kiện tụng; công việc này cụ Pitt đã hứa sẽ giao cho cô ngay từ khi cô chưa đến Crawley Bà chúa. Cô lại tình nguyện chép hộ rất nhiều thư từ của lão và khéo léo sửa chữa các lỗi chính tả cho thích hợp với lối viết bấy giờ.

Cô tỏ ra rất quan tâm đến tất cả mọi việc có liên quan đến tài sản, đến trại, đến vườn cảnh, vườn cây, đến chuồng ngựa. Cô đã trở thành một người bạn rất thú vị đến nỗi ít khi lão nam tước đi bách bộ tiêu cơm sau bữa ăn sáng mà không có cô đi kèm (dĩ nhiên, có cả hai cô con gái nữa). Những lúc này, cô góp ý kiến với lão về việc nên tỉa bớt cây ở bụi rậm này, nên đào đất trồng hoa ở chỗ kia, cô bàn với lão về chuyện gặt hái, hoặc về chuyện nên dùng ngựa để kéo xe hay để cày. Chưa đầy một năm, cô đã được lão nam tước hoàn toàn tin cậy; và trong bữa ăn, những chuyện trước kia lão thường trao đổi với bác quản lý Horrocks, bây giờ gần như lão chỉ nói với cô Sharp. Những khi Crawley đi vắng, Becky gần như thành bà chủ trong nhà; nhưng ở các địa vị mới mẻ và tôn quý này, cô vẫn cư xử với thái độ khôn ngoan nhã nhặn không bao giờ làm mếch lòng những kẻ có quyền chỗ bếp núc và nơi chuồng ngựa; đối với họ, bao giờ cô cũng đối đãi hết sức nhã nhặn, ngọt ngào. Cô đã thay đổi hoàn toàn, khác hẳn cô gái kiêu ngạo mà nhút nhát, bất mãn như ta thấy hồi nọ. Sự thay đổi ấy chứng tỏ cô ta rất mực khôn khéo, thực tâm muốn hối cải, và có một sự nỗ lực về tinh thần rất đáng chú ý. Cô Rebecca của chúng ta áp dụng cái chiến thuật chiều chuộng và nhã nhặn mới mẻ này có phải vì thực tâm hay không, đọc đoạn dưới chúng ta sẽ rõ. Một cô gái mới hai mươi mốt tuổi đầu khó lòng mà thực hiện một chiến thuật đạo đức giả cho trót lọt trong suốt một năm trời đằng đẵng. Nhưng xin các bạn độc giả nhớ hộ rằng, tuy tuổi còn non, nhưng Rebecca đã già dặn nhiều về kinh nghiệm sống: nếu thiên hạ đã không phát hiện rằng cô là một người đàn bà rất thông minh thì chẳng hóa ra tôi viết truyện này vô ích lắm sao?

Hai anh em trai trong gia đình Crawley giống như “mặt trăng và mặt trời”, không bao giờ cùng có mặt một lúc trong nhà...họ “thù ghét nhau một cách thân mật”. Thật thế, Rawdon Crawley, anh chàng sĩ quan ngự lâm, rất ghét cái nhà ấy; ít khi anh ta về nhà, trừ mỗi năm một lần khi có bà cô đến thăm.

Bà quý tộc già này có một đức tính quý hóa nhất, ta đã biết. Bà có số vốn bảy vạn đồng, và gần như đã nhận cho Rawdon hưởng gia tài. Bà ghét cay ghét đắng thằng cháu cả, coi anh ta như một thằng con trai xuẩn ngốc. Đổi lại, ông cháu cũng không ngần ngại tuyên bố rằng linh hồn của bà cô chắc chắn sẽ bị mất, không gì cứu vãn nổi; đồng thời anh ta cũng tin rằng số phận của em trai khi sang thế giới bên kia rồi cũng không khá hơn mấy tí. Crawley thường bảo: “Bà cụ là một người vô tín ngưỡng nhất thế giới; bà ấy đi lại với bọn vô thần, và bọn Pháp. Cứ nghĩ đến cái hoàn cảnh đáng ghê của bà ấy mà tôi rợn cả người. Gần kề miệng lỗ như bà ấy thì cũng nên từ bỏ những sự phù hoa, phóng túng, bừa bãi, điên rồ đi mới phải”. Thực ra chỉ tại bà quý tộc già đã nhất định không chịu nghe anh ta thuyết giáo buổi tối; và khi bà lão đến chơi trại Crawley Bà chúa một mình, anh ta bắt buộc phải chấm dứt những cuộc kinh Chúa sớm hơn lệ thường. Ông bố bảo con trai:

- Pitt, khi nào có cô Crawley đến chơi, đừng có giảng đạo nữa, cô đã viết thư bảo rằng cô không chịu nổi cái trò thuyết giáo ấy đâu.

- Ô thưa ba, thế còn bọn tôi tớ?

- Kệ mẹ chúng nó, cho chúng nó chết treo đi.

Cụ Pitt đáp vậy; và anh con trai nghĩ rằng nếu bọn gia nhân không được hưởng sự giáo dục của anh ta thì rồi sẽ xảy ra lắm điều không hay. Cụ Pitt thấy con trai phản đối, bèn bảo:

- Ô hay, Pitt, thôi đi? Anh lại ngốc đến nỗi để cho mỗi năm mất toi món tiền ba ngàn đồng à?

Crawley vẫn cãi:

- Thưa ba, lại đem tiền của ra so với linh hồn con người ta được ư?

- Anh định nói rằng tại bà lão không chịu cho anh hưởng gia tài chứ gì?

Ai mà biết được có phải Crawley định nói thế thật hay không.

Kể ra bà lão Crawley này cũng là một người không ra gì.

Bà ta có một căn nhà nhỏ rất ấm cúng ở công viên Lane.

Suốt mùa rét ở Luân-đôn, bà ăn nhiều quá, uống khỏe quá nên đến mùa nực bà về Harrowgate hoặc Cheltenham nghỉ mát. Trong số những bà gái già thì bà Crawley là người hiếu khách và vui tính nhất; cứ theo lời bà thì xưa kia bà cũng có nhan sắc (Chúng ta ai chẳng biết rằng hết thảy mọi bà già xưa kia đều đã từng là mỹ nhân). Bà lại là một người hay chữ (), hồi ấy là một người thuộc phe cấp tiến.

Bà đã từng sang Pháp (họ đồn rằng bà đã ấp ủ một mối tình tuyệt vọng đối với St. Just); và từ đó về sau, bà rất mê tiểu thuyết Pháp, ưa món ăn Pháp, thích rượu Pháp. Bà ham đọc Voltaire, thuộc Rousseau làu làu, bàn đến chuyện ly dị tự nhiên như không, lại kịch liệt bênh vực cho quyền lợi của giới phụ nữ. Bà treo chân dung ông Fox trong tất cả các phòng. Hồi nhà chính khách này còn ở phe đối lập, tôi không được rõ lắm về chuyện bà có cùng tiếp tay chiến đấu với ông này hay không, chỉ biết khi ông này lên cầm quyền, bà đã đưa cụ Pitt và ông bạn đồng viện đại biểu cho Crawley Bà chúa đến yết kiến, mặc dầu cụ Pitt vẫn rất có thể tự mình tìm đến lấy, không phải phiền đến sự giúp đỡ của bà lão thực thà này. Chẳng cần nói rằng sau khi nhà chính khách thuộc đảng Whig đã quá cố, cụ Pitt bắt buộc phải thay đổi quan điểm chính trị.

Hồi Rawdon Crawley còn ít tuổi, bà lão đáng quý ấy đã rất thích cậu bé; bà gửi cậu vào học trường đại học Cambridge (đối lập với trường Oxford, nơi cậu anh theo học) và sau hai năm học tập, khi chàng thanh niên bị ban giám đốc đệ nhất đại học đường kia yêu cầu rời khỏi trường, thì bà lại mua cho anh ta một chức sĩ quan trong đội quân bảo vệ hoàng gia. Anh chàng sĩ quan trẻ tuổi này quả thực là một tay “ăn chơi” khét tiếng, một tay công tử bột lừng danh. Thời ấy, đấu quyền Anh, săn chuột, chơi quả lăn, hay giong xe tứ mã là những “mốt” chơi phổ biến trong giới quý tộc nước Anh; anh ta chịu học đòi tất cả những thú chơi quý phái ấy. Vì thuộc quân đội chính quốc, do nhiệm vụ phải luôn luôn tập hợp xung quanh Hoàng tử nhiếp chính (), nên anh ta chưa có dịp trổ tài đảm lược trong việc chinh chiến ở ngoại quốc bao giờ; nhưng Rawdon Crawley cũng đã dự ba trận tỷ thí tay đôi đổ máu (tính anh ta vốn rất mê đánh bạc) và đã tỏ ra là tay biết coi khinh cái chết.

- Rồi sau cái chết thì sẽ ra sao?

Crawley vẫn nói thế, và ngước đôi mắt xanh lè nhìn lên trần nhà. Anh ta thường lo lắng cho linh hồn của em trai cũng như vẫn lo lắng cho linh hồn của những người bất đồng ý kiến với mình. Nhiều bậc đạo mạo vẫn tự cho mình được hưởng cái thú vui như thế đấy.

Còn cái bà Crawley ngu dại lãng mạn kia, sau những cuộc tỷ thí của “ông cháu cưng”, vẫn cứ bỏ tiền ra trả nợ đậy như thường, cũng chẳng thèm để lọt vào tai lấy một tiếng thầm thì bàn tán về đức hạnh của anh ta. Bà vẫn bảo: “Trăng đến rằm trăng tròn (), nó còn khá bằng vạn cái thằng đạo đức giả hay rên rỉ là anh nó kia”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11


MỘT CHƯƠNG KHÁ LÀ TRỮ TÌNH

Ngoài những con người chân thực sống ở trại Crawley (mà tính mộc mạc và trong sạch kiểu thôn quê của họ cho thấy rằng cuộc sống thôn dã hơn hẳn cuộc sống ở thành thị), chúng tôi thấy cần giới thiệu với các bạn đọc cả những người thân của họ sống gần đây, trong nhà thờ, tức là vợ chồng ông Bute Crawley.

g quận mà lão rất thân, thế nào từ cách nhà thờ đến dăm bảy dặm đường các bạn cũng có thể nhìn thấy con ngựa cái màu hạt dẻ với đôi mục kỉnh của lão. Giọng lão khá trong, lão hay hát bài “Gió nồm, trời vẩn mây”, và khi lấy giọng cho mọi người đồng ca thì ai cũng tán thưởng.

Khi cưỡi ngựa đi săn, lão khoác một tấm áo thày tu màu muối tiêu, và lại là một trong những tay câu cá cừ nhất toàn quận.

Bà Bute Crawley, vợ lão tu sĩ, là một người đàn bà nhỏ nhắn, nhanh nhẹn; bà thường viết hộ những bài giảng đạo cho đức cha rất thánh. Vốn ưa quanh quẩn ở nhà suốt ngày cùng hai cô con gái, cho nên trong phạm vi nhà thờ bà độc quyền cai trị; bà rất khôn ngoan cho phép ông chồng được tha hồ tự do tung hoành ở ngoài. Ông ta mặc ý đi về, muốn ăn ở nhà bạn bè bao nhiêu bữa tùy sở thích, vì tính bà Bute Crawley vốn tần tiện, rất thuộc giá rượu. Kể từ khi bà ta vớ được cậu mục sư trẻ tuổi ở Crawley Bà chúa (bà là con nhà gia thế, con gái cố trung tá Hector McTavish; bà và cụ bà thân sinh xưa đã “câu” mãi mới được Bute ở Harrowgate). Bà vẫn là một người vợ đảm đang tiết kiệm.

Nhưng dầu bà có quán xuyến đến đâu, lão chồng cũng vẫn mang công mắc nợ như thường. Nguyên món tiền nợ tiền ăn tại ký túc xá trường đại học hồi bố lão ta còn sống cũng đã phải mất mười năm mới trả hết. Đến năm 179 ... vừa thoát nạn trả nợ, lão đã đánh cuộc một trăm đồng ăn một rằng con Kangaru không thắng, song nó lại đoạt giải Derby.

Từ đó lão mục sư bắt buộc phải vay nợ trả lãi cắt cổ, gỡ mãi không xong. Thỉnh thoảng bà em khác mẹ cũng có gửi giúp một trăm đồng, nhưng lẽ dĩ nhiên lão hy vọng nhất vào việc bà này từ giã cõi trần... tức là lúc: “Bỏ mẹ rồi (lão hay nói thế), Matilda phen này mất đứt về tay tôi nửa số tài sản của mụ nhé”.

Thế là lão nam tước và ông em có đủ mọi cớ mà hai anh em ruột có thể có để xích mích với nhau. Trong rất nhiều việc làm ăn của gia đình, cụ Pitt vẫn có thế hơn. Không những ông Pitt con không săn bắn, mà còn dựng một căn nhà nguyện riêng ngay trước mũi ông chú; còn Rawdon thì, ta đã biết, sắp sửa vớ được cái gia tài kếch xù của bà cô. Những chuyện tranh chấp như thế, những việc tính toán sống chết... những cuộc chiến đấu lặng lẽ giành món chiến lợi phẩm là cái gia tài... vẫn khiến cho anh em ruột càng thêm thương mến lẫn nhau trong Hội chợ phù hoa.

Chính tôi đã được biết một nhà kia, hai anh em yêu thương nhau suốt nửa thế kỷ rồi bỗng thù nhau chỉ vì một tờ giấy bạc năm đồng; cho nên không thể nào không thấy tình yêu đối với con người quả thật là một điều đẹp đẽ và lâu bền...

Vậy thì một người như Rebecca đến trại Crawley Bà chúa, cũng như việc cô ta dần dần chiếm được cảm tình của tất cả mọi người ở đây, không thể nào lọt ra ngoài con mắt của bà Bute Crawley được. Bà Bute biết rõ cả những chuyện vặt bên trại như cái thăn bò ăn bao nhiêu hôm mới hết, lần này phải giặt bao nhiêu quần áo bẩn, mé tường phía nam có bao nhiêu quả đào, khi bị mệt bà chủ uống bao nhiêu liều thuốc...Những chuyện như thế đối với một số người ở thôn quê là những chuyện rất quan trọng... Vậy thì, bà Bute không thể bỏ qua cô giáo dạy trẻ mà không chịu dò hỏi kẽ tóc chân tơ về lai lịch và tính tình của cô này. Giữa đám đầy tớ bên trại và bên nhà thờ vẫn luôn luôn có một mối cảm tình mật thiết. Các bạn đồng nghiệp bên trại sang chơi bên bếp nhà thờ bao giờ cũng được tiếp đãi một cốc rượu; về khoản này anh em bên trại vốn không được dồi dào ... cho nên bà tu sĩ có thể biết đích xác mỗi một thùng rượu bia bên trại nấu bằng bao nhiêu lúa mạch...mối quan hệ giữa giới đày tớ bên trại và bên nhà thờ càng ngày càng mật thiết cũng như giữa các vị chủ nhân vậy.

Và thông qua con đường ấy, gia đình nọ biết rõ ràng từng công việc của gia đình kia. Chuyện này có thể coi được như dĩ nhiên, bởi vì nếu bạn và em bạn ăn ở với nhau tốt, thì em bạn làm gì hà tất bạn phải chú ý; song nếu hai người xích mích với nhau thì ngay việc em bạn đi, về, bạn cũng rõ, y như bạn là mật thám theo dõi vậy.

Đến trại được ít lâu, Rebecca đã chiếm được một chỗ trong những tài liệu của bà Bute Crawley hàng ngày ghi về hoạt động bên trại. Nội dung những tài liệu ấy đại khái như sau: “Con lợn đen bị thịt rồi...nặng x cân...thăn đem muối... pa-tê thịt lợn và chân giò ăn bữa trưa...ông Cramp ở Mudbury đến bàn với cụ Pitt về việc bỏ tù John Blackmore...Pitt họp mọi người để giảng đạo (có ghi đủ tên người đến dự nghe) ... Mụ kia vẫn bình thường... hai cô con gái chơi với cô giáo.

Tài liệu còn cung cấp thêm : ... “cô giáo : ... “cô giáo mới là một người quản lý rất hiếm có...Cụ Pitt rất “cưng” cô này... cả ông Crawley cũng vậy... ông ta đọc cả sách đạo cho cô nghe” ...

- Cái quân côi cút khốn nạn!

Bà Bute Crawley bé nhỏ, nóng nảy, năng nổ mặt đen ấy giận quá thốt lên như vậy.

Cuối cùng, tài liệu cho biết “cô giáo đã được lòng khắp mọi người, cô viết thư hộ cụ Pitt, lo việc cho cụ, tính toán tiền nong giúp cụ...còn được tin cậy hơn bất cứ ai trong nhà, kể cả phu nhân; ông Crawley và các cô...”; đọc đến đây bà Bute Crawley tuyên bố Rebecca là một con ** xảo quyệt, chắc đang ngấm ngầm mưu toan chuyện gì ghê gớm lắm đây. Cứ thế, mọi việc xảy ra bên trại trở thành đầu đề bàn tán bên bàn thờ, và đôi mắt sắc của bà Bute luôn luôn theo dõi tất cả mọi diễn biến bên doanh trại của đối phương...và còn nhiều hơn cả mọi sự có thực nữa.

Bà Bute Crawley gửi bà Pinkerton, Mall, Chiswick.

Thánh đường, Crawley Bà chúa, ngày...tháng chạp.

Quý bà thân mến,

Từ ngày tôi được thụ hưởng sự giáo dục quý báu vô giá của bà tới nay kể đã bao nhiêu năm rồi nhưng tôi vẫn không sao quên được mối tình yêu kính nồng thắm đối với bà Pinkerton, và Chiswick thân yêu. Mong rằng bà vẫn mạnh khỏe. Công việc xã hội và nhiệm vụ giáo dục hàng chục năm nữa vẫn cần đến sự có mặt của bà Pinkerton. Bà bạn tôi là Fuddleston phu nhân có nói chuyện rằng muôn tìm một cô giáo để trông nom mấy cô con gái (tôi nghèo quá, không đủ tiền nuôi cô giáo dạy con tôi); tôi bảo: “Ngoài con người tài năng không ai sánh kịp là bà Pinkerton, còn ai đáng hỏi ý kiến hơn ?” Nói tóm lại, thưa bà, trong số học sinh tại quý trường, liệu có cô nào đảm đương tốt trách nhiệm trên tại nhà bà bạn tôi được chăng? Tôi xin cam kết rằng bà bạn tôi nhất định không mượn ai làm cô giáo ngoài người được bà lựa chọn.

Nhà tôi thường hay nói rằng ông ấy thích tất cả những thứ gì của trường bà Pinkerton. Tôi thiết tha mong mỏi có dịp được giới thiệu nhà tôi và hai cháu với người bạn thân của tôi thời còn trẻ, và là người đã từng được vị từ điển học đại danh của nước ta hâm mộ. Nếu bà có dịp đi qua Hampshire, ông Crawley nhà tôi nhờ tôi thưa rằng rất hy vọng được bà chiếu cố đến các thánh thất quê mùa của chúng tôi Đó là tệ xá của...

Người bạn thân thiết của bà Macta Crawley

T.B. Vị nam tước anh ruột ông Crawley nhà tôi cùng chúng tôi, than ôi! Vẫn không được hòa thuận như lẽ ra những con chiên ngoan đạo phải như vậy. Ông ấy mới mượn một cô giáo để dạy hai cô con gái; tôi nghe nói cô ta có cái may mắn đã được giáo dục ở Chiswick. Tôi được nghe phong thanh nhiều tin tức về cô ta; vì tôi rất quý hai đứa cháu gái tôi...tuy hai nhà có sự bất hòa, nhưng tôi vẫn mong được coi chúng như con đẻ... và vì tôi rất muốn chú ý đến bất cứ cô học trò nào đã được bà dạy dỗ, cho nên, thưa bà Pinkerton thân mến, xin bà cho tôi được rõ lai lịch của cô thiếu nữ ấy; vì nhớ đến bà, tôi rất muốn kết bạn với cô ta.

M. C.

Bà Pinkerton gửi bà Bute Crawley Johnson Haox,

Chiswick, tháng chạp năm 18...

Bà bạn thân mến, Tôi có hân hạnh nhận được thư bà, vội viết thư trả lời ngay. Được có người hưởng ứng công việc giáo dục của chúng tôi, nặng nề, là việc giáo dục con trẻ. Càng hân hạnh hơn được biết cô Martha MacTavish nhí nhảnh và giỏi giang, cô học trò xuất sắc ngày xưa của tôi, nay đã là bà Bute Crawley. Tôi rất sung sướng hiện được chăm sóc rất nhiều con em của những người xưa đã là bạn đồng học của bà...nếu như các cháu gái yêu quý nhà ta ưng để cho tôi săn sóc việc học tập thì thật là hân hạnh.

Nhân tiện xin gửi lời kính chào Fuddleston phu nhân và rất hân hạnh được giới thiệu (bằng thư) với phu nhân hai cô bạn gái của tôi là cô Tuffin và cô Hawky.

Cả hai cô đều hoàn toàn đủ tư cách dạy các ngoại ngữ Hy-lạp, La-tinh và tiếng Do Thái thông dụng, các môn toán học và lịch sử, các ngoại ngữ Tây-ban-nha, Pháp, Ý, và môn địa lý, âm nhạc (thanh nhạc và nhạc khí), có thể khiêu vũ không cần phải có thầy bên cạnh hướng dẫn, lại thạo cả những kiến thức về khoa học tự nhiên. Cả hai đều sử dụng quả địa cầu rất khéo. Không những thế, cô Tuffin là con gái của cố đức cha Thomas Tuffin (cựu sinh viên học đường Corpus, Cambridge) còn dạy được cả tiếng Sy-ri, và cả khoa Hiến pháp thường thức nữa. Song, vì cô ta mới có mười tám tuổi, lại rất xinh đẹp, nên có lẽ cô ta không tiện giúp việc tại gia đình ngài Huddleston Fuddleston.

Trái lại, cô Letitia Hawky không được xinh lắm, đã hai mươi chín tuổi, mặt rỗ nhằng nhịt, dáng đi hơi khập khiễng, tóc đỏ, mắt hơi hiếng một chút. Cả hai cô đều ngoan đạo và hạnh kiểm tốt như nhau. Dĩ nhiên về tiền thù lao thì tùy theo tài năng của họ.

Xin trọng kính chào đức cha Bute Crawley.

Kẻ đầy tớ trung thành và phục tùng nhất của bà.

Barbara Pinkerton.

T.B. Cái cô Sharp mà bà nói chuyện là cô giáo dạy tư trong gia đình tôn ông Pitt Crawley, nam tước, nghị sĩ quốc hội: trước kia cô ta là học trò của tôi; tôi không có điều gì phàn nàn về cô ta. Mặc dù bề ngoài cô ta coi không được dễ chịu lắm, song không thuộc tạo hóa theo ý ta được. Tiếng tăm của bố mẹ cô ta cũng không được tốt lắm (bố cô ta xưa là một họa sĩ, đã nhiều phen phá sản; còn mẹ cô ta, điều này tôi biết mà sợ quá, là một vũ nữ ở rạp Opera); tuy nhiên cô ta có rất nhiều khả năng, và tôi cũng không ân hận rằng đã nuôi dạy cô ta hoàn toàn vì lòng nhân từ.

Người ta giới thiệu với tôi mẹ cô ta là một nữ bá tước người Pháp, vì trốn tránh những sự khủng khiếp của cuộc cách mạng mà phải lưu vong ra nước ngoài, nhưng tôi khám phá ra chính thức bà ấy chỉ là một kẻ hạ tiện, tính tình đồi bại; điều tôi sợ nhất là tính tình bà mẹ có thể, một lúc nào đó, có tính chất gia truyền, và phát lộ ra ở cô con gái mà tôi coi là quân bỏ đi. Nhưng cho đến bây giờ, cách ăn ở của cô ta cũng đứng đắn (tôi tin vậy), và tôi yên trí rằng sẽ không có chuyện gì xảy ra làm thay đổi tính tình cô ta trong phạm vi gia đình lịch sự và thượng lưu của ngài Pitt Crawley danh tiếng.

Cô Rebecca Sharp gửi cô Amelia Sedley.

Đã mấy tuần nay, em chưa viết được thư thăm chị Amelia thân mến, vì những chuyện vặt vãnh hàng ngày ở “trại Chán ngấy” (em vừa đặt tên thế đấy) chẳng đáng kể chị nghe; chị để ý làm quái gì đến củ cải kỳ này thu hoạch nhiều hay ít, con lợn béo cân nặng mười ba hay mười bốn ston hoặc bầy gia súc ăn củ cải đường, có béo hay không. Từ bữa viết thư cho chị, ngày nào cũng giống như ngày nào. Trước bữa ăn sáng, đi bách bộ một lượt với cụ Pitt cùng chiếc nạng của lão, ăn sáng xong, dạy học (cũng gọi là dạy học!) trong phòng học, rồi cùng cụ Pitt đọc và viết về những chuyện thày kiện, chuyện cho tương lai, chuyện mỏ than, kênh đào (em đã thành thư ký của lão rồi đấy); cơm trưa xong, nghe ông Crawley thuyết lý, hoặc đánh bài với lão nam tước; mặc em chọn cách giải trí, nam tước phu nhân chỉ nhìn một cách thản nhiên. Hình như dạo này bà ta đẹp ra vì mới ốm, và do đó mới có thêm một vị khách đến trại, tức là một ông bác sĩ trẻ tuổi. Phải, chị ạ, đàn bà còn trẻ, không bao giờ cần phải tuyệt vọng. Ông bác sĩ trẻ tuổi có bắn tin với một người bạn của chị rằng nếu em muốn trở thành bà Glauber thì sẽ được sẵn sàng đón tiếp để trang điểm thêm cho bộ mặt của phòng thuốc. Em mới bảo cái ông trơ tráo ấy rằng ông đã có cái chày mạ vàng và cái cối tán thuốc, nhà cửa thế cũng đẹp chán rồi. Như thể em sinh ra là để làm vợ một ông thày thuốc nhà quê ấy không bằng! Bị cự tuyệt tàn nhẫn, ông Glauber giận lắm, bèn trở về nhà uống một cốc nước lạnh, và thế là khỏi hẳn bệnh tương tư. Cụ Pitt rất tán thành quyết định của em; giá bị mất cô thư ký bé bỏng chắc cụ buồn phiền lắm đấy. Em tin rằng lão ma bùn ấy quý em cũng chẳng hơn gì lão vẫn hay quý báu người khác. Lấy chồng, phải, mà lại lấy một ông lang nhà quê, sau này...không, không làm sao người ta có thể quên ngay những chuyện cũ nhanh chóng như vậy; nhưng thôi, em chả nói nữa. Chúng ta hãy trở lại câu chuyện ở “Trại chán ngấy”.

Khoảng ít lâu nay, không còn phải là “Trại chán ngấy” nữa rồi. Chị ạ, bà Crawley đến chơi, mang theo đủ cả ngựa béo, đầy tớ béo, chó béo...tức là cái bà lớn Crawley giầu nứt đố đổ vách, có bảy vạn đồng bạc vốn đặt lãi đồng niên năm phần trăm...bà ta (hoặc đúng hơn là món tiền ấy) được hai ông anh trai thi nhau thờ phụng. Bà lão đáng quý hình như bị bệnh chóng mặt thì phải; thảo nào hai ông săn sóc bà em chu đáo gớm. Họ tranh nhau đưa gối cho bà tựa, đưa cà phê cho bà uống. Bà cụ bảo: “Khi nào tôi về quê thì tôi không cần đem vú già Briggs đi theo vì , cô ạ, ở đây hai ông anh tôi là vú già, một đôi vú già giỏi việc ra phết”.

Bà ta cũng hay khôi hài lắm.

Bà Crawley mà về quê chơi thì cả trại tưng bừng hẳn lên, và ít nhất là trong một tháng, tưởng như ngài Walpone xưa kia sống lại. Chúng em tha hồ dự tiệc và đi chơi bằng xe bốn ngựa...bọn hầu giở những bộ chế phục mới nhất màu vàng thanh ra mặc. Chúng em uống rượu vang và rượu sâm banh thỏa thích y như từ xưa đến nay hàng ngày vẫn quen uống như thế. Trong phòng học, được phép thắp nến, và lại được đặt cả lửa để sưởi. Crawley phu nhân phải lấy trong tủ một bộ áo màu xanh lá đậu đẹp nhất ra mặc; còn hai cô học trò của em thì vứt đôi giày nặng chình chịch và bộ áo kép chật ních bằng vải ta-tăng rũ rích đi, mặc áo choàng bằng voan, đi tất lụa, đúng kiểu tiểu thư con gái các vị nam tước. Hôm qua, Rose đến tìm em, trông thương hại quá...con lợn giống Wiltshire (cô bé thích con lợn này lắm) húc cô ta ngã, và dẫm lên trên làm hỏng cả bộ áo lụa hoa lila đẹp lắm...giá việc này xảy ra độ một tuần lễ trước, thế nào cụ Pitt cũng chửi rầm lên, cũng béo tai cô bé khốn khổ và bắt cô ta phải ăn bánh nhạt uống nước lã ít nhất là một tháng. Nhưng lão chỉ bảo: “Này, bao giờ cô mày về tỉnh rồi, ta sẽ bảo cho”, rồi cười, y như coi chuyện ấy là không đáng quan tâm. Mong rằng trước khi bà Crawley về cơn giận của lão cũng qua đi. Em mong thế vì em quý Rose lắm. Thế mới biết đồng tiền khéo giúp người ta hòa thuận với nhau thật!

Xem cách ăn ở của hai anh em nhà Crawley- em muốn nói cụ Pitt và ông em cố đạo - chứ không phải hai anh em ông Crawley kia đâu; mới lại thấy bà Crawley và món tiền bảy vạn đồng còn có thêm một tác dụng rất hay nữa: quanh năm họ ghét nhau như đào đất đổ đi, vậy mà đến lễ Giáng sinh, họ lại quý nhau như vàng. Năm ngoái, em đã viết thư kể cho chị rõ chuyện ông thày tu đáng ghét hay thi ngựa ấy vẫn có thói thích lải nhải thuyết giáo với chúng em ở nhà thờ, mà cụ Pitt thì cứ ngáy khò khò để trả lời. Khi bà Crawley đến chơi thì chẳng hề nghe thấy nói có chuyện gì xích mích... Bên trại sang thăm bên nhà thờ, và ngược lại.Vị mục sư và ngài nam tước bàn những chuyện nuôi lợn chuyện săn trộm, chuyện làm ăn trong quận một cách hỷ hả nhất đời, chén chú chén anh với nhau không hề to tiếng. Em chắc rằng. .. nhất định là bà Crawley không muốn thấy hai người xích mích với nhau, và thề rằng bà sẽ cho gia đình nhà Crawley ở Shropshire mà thông minh ra, thì em chắc sẽ vớ được món tiền ấy. Nhưng chết cái lão Crawley ở Shropshire kia cũng là thày tu, giống ông anh họ ở Hampshire; một lần đưa ra mấy câu đạo đức quá, bị bà Crawley ghét cay ghét đắng tức tốc bỏ đi ngay (chả là bà giận mấy ông cháu đằng này, bèn sang đấy chơi); chắc lão kia cũng muốn giở trò giảng đạo trong nhà hắn.

Lúc bà Crawley đến chơi, sách giảng đạo của chúng em phải cất kín một chỗ, còn ông Pitt, người bị bà ta ghét cay đắng thì tự thấy nên lánh mặt ra tỉnh chơi. Mặt khác cái anh chàng công tử trẻ tuổi... “tay chơi” , gọi thế mới đúng...tức là đại úy Crawley lại mò tới, có lẽ chị cũng muốn biết qua anh chàng là người thế nào.

Phải, anh ta là một cậu công tử trẻ tuổi, cao lớn. Người cao đến sáu bộ, tiếng nói oang oang, văng tục luôn mồm, thích quát tháo đầy tớ vậy mà họ quý anh ta ra phết, anh ta vốn rất rộng rãi về chuyện tiền nong, cho nên sai bọn đầy tớ gì chúng cũng làm ngay. Tuần trước một viên mõ tòa và người thừa sai từ Luân-đôn xuống để bắt anh chàng đại úy; họ đang lần mò ngoài bức tường bao quanh vườn cảnh thì bị bọn gác bắt được, suýt nữa bị giết, chúng đánh cho một trận, đem trấn nước, và sắp sửa đem bắn về tội săn trộm, thì lão nam tước can thiệp tha cho.

Em thấy rõ anh chàng đại úy này rất khinh bố đẻ, anh ta gọi bố là lão xuẩn, lão bần tiện, lão nhà quê, và nhiều tên hiệu khác hay ho nữa. Đối với phụ nữ, anh chàng khét tiếng một cách đáng sợ. Anh ta đem cả ngựa săn về nhà, chơi bời với bọn tai mắt trong quận; anh ta tùy thích mời ai ăn tiệc thì mời, cụ Pitt không dám từ chối sợ bà Crawleyphậtý, sau này sẽ mất phần trong tờ di chúc khi bà ta chết về bệnh chóng mặt. Có nên kể chị nghe chuyện anh chàng đại úy tán tỉnh em thế nào không nhỉ? Em cứ kể, chuyện hay lắm. Một buổi tối, chúng em tổ chức khiêu vũ. Có tôn ông Giles Wapshot cùng hai cô con gái và không rõ bao nhiêu người khác nữa tới dự. Thế rồi em nghe thấy anh chàng bảo: “Lạy Chúa, cô ta trông kháu khỉnh quá”, ấy là muôn ám chỉ đứa đầy tớ thấp kém của chị đấy. Anh ta lại chiếu cố nhảy với em hai điệu nhảy dân gian. Anh ta cười cười nói nói rất thoải mái vui vẻ với những nhà quý tộc trẻ tuổi, uống rượu, đánh cuộc, cưỡi ngựa, và nói chuyện cùng họ về việc săn bắn. Nhưng anh ta bảo bọn con gái nhà quê “buồn” lắm; kể ra em thấy anh ta nói cũng không sai. Giá chị được thấy đối với em họ kênh kiệu thế nào nhỉ! Trong khi họ khiêu vũ, em cứ phải ngồi nín thinh chơi dương cầm. Nhưng đêm hôm nọ, anh ta ở phòng ăn bước ra, mặt hơi đỏ; thấy em bị đối đãi như vậy, anh ta lớn tiếng tuyên bố rằng em nhảy giỏi nhất đám, và thề độc rằng thế nào cũng phải mượn vài người nhạc công ở Mudbury về.

- Để tôi chơi một điệu nhảy dân gian cho. Bà Bute Crawley nhanh nhảu nói (bà này đã có tuổi, mặt đen, quấn khăn, hơi hơi gù, mắt thì hấp ha hấp háy); Rebecca đáng thương của chị cùng anh chàng đại úy vừa nhảy xong một bài thì, chị có biết không, bà ta lại ban cho em cái hân hạnh là khen em nhảy đẹp! Thật chưa bao giờ có chuyện lạ như vậy. Cái bà Buten Crawley kiêu ngạo ấy là em họ bá tước Tiptoff, bà này đã không thèm hạ mình xuống mà đến thăm Crawley phu nhân, trừ trường hợp có bà em chồng ở tỉnh về chơi. Thật đáng thương cho Crawley phu nhân! Phần lớn khoảng thời gian những buổi họp mặt vui vẻ như thế bà ta phải nằm trên gác uống thuốc.

Tự nhiên bà Bute thân thiết với em quá. Bà ta bảo: “Cô Sharp thân yêu, sao cô không đưa hai em nó sang bên nhà thờ. Các em, nó bên này thích được chơi với hai chị nó lắm đấy”. Em biết bà ta có ý định gì rồi. ông Clementi thật đã không uổng công dạy em chơi đàn dương cầm; bà Bute định lợi dụng em dạy đàn cho con bà đấy; em cứ là đi guốc vào bụng bà ta; nhưng rồi em cũng sang...em quyết định sẽ làm vừa lòng bà ta;. .. Đó là nhiệm vụ của một cô giáo dạy trẻ nghèo không bè bạn, không người che chở, phải không chị ? Bà vợ nhà tu sĩ khen mãi rằng học trò của em rất tấn tới; bà ta nghĩ rằng em cảm động lắm, chắc thế...cái bà nhà quê giản dị ấy mới đáng thương chứ.... Làm như em chú ý đến học trò lắm đấy!

Chị Amelia thân yêu ơi, em mặc cái áo voan Ấn Độ và cái áo lụa hồng chị cho, họ bảo tôn vẻ người lên nhiều lắm. Bây giờ cũng đã cũ lắm rồi, nhưng chị cũng rõ đấy, con gái nhà nghèo chúng em lấy tiền đâu ra mà may áo mới (). Chị sung sướng thật chỉ cần đánh xe ngựa trên phố St. James, thế là muốn mua thứ gì thì bác mua cho ngay. Thôi, tạm biệt chị.

Thân mến.

Rebecca.

T.B. Hai chị em cô Blackbrooks (con gái đô đốc Blackbrooks) là hai cô tiểu thư trẻ, đẹp, mặc toàn áo may ở Luân đôn; giá chị được nom thấy mặt hai cô lúc đại úy Rawdon chọn mời em cùng nhảy. Em vẽ họ dưới đây này, giống họ như hệt. Thôi, tạm biệt, tạm biệt.

Bà Bute Crawley giả dối với Rebecca, nhưng cô gái thông minh này cũng biết thừa. Lúc đã được Rebecca hứa sẽ sang thăm bên nhà thờ, bà bèn vận động với bà già Crawley, con người vô cùng thế lực, để bà này khuyên bảo cụ Pitt. Bà già tốt bụng này vốn ham vui, lại ưng mọi người xung quanh cũng vui vẻ sung sướng như mình, bằng lòng ngay; bà sẵn sàng nối lại mối dây hòa thuận thân thiết giữa hai anh em ruột. Hai bên thỏa thuận rằng từ rày trở đi con trẻ hai nhà sẽ sang chơi với nhau: và dĩ nhiên sự hòa thuận chỉ bền trong phạm vi thời gian bà cụ già còn cầm cán cân hòa giải.

Trên đường về nhà, khi qua vườn cảnh, nhà tu sĩ hỏi vợ:

- Sao bà lại đi mời cái thằng Rawdon Crawley chó má ấy ăn cơm làm gì? Sao mà tôi ghét nó thế. Nó khinh bọn quê mùa chúng mình như bọn mọi đen ấy. Chưa moi được những chai rượu gắn si vàng của tôi ra uống thì nó chưa yên đâu; mười si-linh một chai đấy, mẹ kiếp! Mà tính tình nó mới khiếp chứ...cờ bạc như ranh...rượu chè be bét...hư hỏng đủ mọi phương diện. Có lần nó đấu súng bắn chết một người đấy. Công nợ thì ngập mặt. Mà nó đã nẫng tay trên mất của mình phần lớn gia tài của bà Crawley cơ chứ. Bà lão bảo rằng (nói đến đây, vị tu sĩ nắm quả đấm giơ lên mặt trăng, lẩm bẩm cái gì như thề độc, rồi buồn rầu tiếp) sẽ ghi vào tờ di chúc cho nó năm vạn đồng. Thế là không còn được lấy ba vạn để chia nhau.

Bà vợ thầy tu đáp:

- Tôi nghe bà ấy cũng sắp “ngoẻo” đến nơi rồi. Lúc ăn cơm xong, tôi thấy mặt bà ấy đỏ quá. Tôi phải nới bớt dải áo hộ.

Ông thày tu đáng kính nói khe khẽ:

- Bà ấy uống bảy cốc sâm-banh; mà cái lão anh mình nó muốn đầu độc mình chắc, sâm-banh gì mà tởm thế...nhưng bọn các bà có biết cái quái gì...

Bà Bute Crawley đáp:

- Phải, chúng tôi thì còn biết gì.

Ông thày tu lại tiếp:

- Ăn cơm xong, bà ấy uống rượu mạnh, lại uống cà-phê pha với ca-cao. Cho tôi một tờ giấy năm đồng bắt tôi uống một cốc tôi cũng xin chịu. Nó kích thích tim thì có mà chết đứt. Đố bà ấy chịu nổi; bà Crawley ấy...thế nào cũng ngoẻo... xương thịt Matilda chỉ một năm nữa là đi đứt.

Hai vợ chồng ông thầy tu vừa đi vừa trịnh trọng tính toán với nhau, đồng thời nghĩ đến những món nợ, nghĩ đến con trai là Jim nội trú ở trường đại học, và Frank ở Woolwich, cùng bốn cô con gái; bốn cô này chẳng cô nào trông ra hồn người, một xu dính túi không có, chỉ nhòm vào tờ di chúc tương lai của bà cô.

Im lặng một lúc…

- Pitt lại khốn nạn đến mức bán trước quyền kế thừa cai quản à? Cái thằng con trưởng, cái thằng dát như cáy ấy lại đang nhấp nhổm vào Quốc hội cơ đấy.

Bà vợ đáp:

- Lão Pitt Crawley thì còn từ cái gì. Mình phải xin bà Crawley bắt lão hứa lo việc ấy cho thằng James mới được.

Ông em quý nói:

- Lão Pitt thì “trăm voi chẳng được bát nước xáo”. Xưa lão đã hứa rằng khi ông cụ mất đi, lão sẽ trả hết tiền phí tổn nội trú ở trường đại học cho tôi; lão hứa sẽ xây thêm một gian phụ cho nhà thờ; lão còn hứa cho tôi đám ruộng của thằng Jibb, và cái bãi cỏ sáu ây-cơ...nói cứ như rồng như phượng ấy! Lại cũng chính cái thằng con trai lão.. . cái thằng chó đểu, bài bạc, bịp bợm, sát nhân ấy, tức là thằng Rawdon Crawley, nó vớ được phần gia tài to nhất của bà Matilda. Chúa nào chứng cho chúng nó. Cái quân chó má ấy nó có đủ mọi thói xấu trên đời, không kể thói đạo đức giả là thói xấu thằng anh nó giữ độc quyền.

Bà vợ bảo:

- Xuỵt, im đi ông lão. Chúng mình đang ở trên đất của lão Pitt đấy.

- Bà Crawley, tôi đã nói là hắn có đủ mọi thói xấu. Bà đừng có chèn tôi. Thế nó không bắn chết đại úy Marker là gì? Chẳng phải nó bóc lột nhà quý tộc trẻ tuổi Dovedale ở quán “Cây dừa” thì là ai? Nó hay thằng nào ngăn cản cuộc đánh nhau giữa là thằng Bill Soame và Cheshire Trump, làm cho tôi mất toi bốn mươi đồng bạc tiền đánh cuộc. Bà còn lạ gì những chuyện ấy. Còn về chuyện trai gái thì bà còn nhớ có lần ngay trong phòng xử kiện, trước mặt tôi...

Bà vợ đáp:

- Ông Crawley ơi; thôi, tôi van ông, đừng giở những chuyện ấy ra với tôi nữa.

Lão thầy tu cáu quá, nói:

- Thế mà bà đi mời cái thằng khốn nạn ấy đến nhà? Chính bà đã đẻ ra một lũ con, lại là vợ một tu sĩ của Nhà thờ Anh quốc. Trời đất ơi!

Vợ lão cười khinh bỉ đáp:

- Ông Bute Crawley, ông ngu xuẩn lắm.

- Được lắm, thưa bà. Ngu xuẩn hay không...Martha ạ, tôi không nói rằng tôi khôn ngoan được như bà; không phải thế. Nhưng tôi không muốn nhìn mặt thằng Rawdon, rõ chưa? Tôi sẽ đi thăm Huddleston xem con chó mực của lão rồi đi thăm bà Crawley. Tôi sẽ bỏ ra năm mươi đồng đánh cuộc con Lancelot chạy thi sẽ ăn đứt con chó kia, hoặc bất cứ con chó Anh nào khác. Nhưng nhất định tôi không nhìn mặt cái thằng Rawdon Crawley chó má.

Bà vợ đáp:

- Ông Crawley ơi, ông lại say như mọi khi rồi.

Sáng hôm sau, lúc lão thầy tu ngủ dậy gọi lấy rượu bia để “súc miệng”, bà vợ nhắc lão nhớ lại dự định đi thăm ngài Huddleston Fuddleston vào hôm thứ bảy: Lão yên trí thế nào cũng được một đêm say sưa nên trù tính sáng chủ nhật sẽ phi ngựa trở về nhà thờ sớm cho kịp giờ làm lễ. Thế mới biết bọn con chiên trong xứ đạo Crawley sung sướng thật, vì ông cha xứ của họ chẳng thua gì nhà quý tộc chúa đất.

Chưa ở chơi được bao lâu mà bà Crawley, cái bà lão dửng mỡ người kinh đô ấy, đã bị ma lực của cô Rebecca quyến rũ, như cô đã quyến rũ bao nhiêu tâm hồn trong trắng khác ta đã biết. Một hôm, cùng giong xe ngựa đi chơi theo lệ thường, bà thấy cần ra lệnh cho “cô giáo bé bỏng” theo mình về chơi Mudbury. Trong cuộc đi chơi, Rebecca đã chinh phục được bà; cô đã làm được cho bà này cười bốn bận, và khiến bà rất vui lòng suốt bữa đó. Cụ Pitt định tổ chức một bữa tiệc long trọng mời khắp mặt các nhà quý tộc trong vùng đến dự. Bà Crawley nói với cụ Pitt:

- Sao lại không để cho cô Sharp dự tiệc? Này bác, bác nghĩ tôi có thể bàn chuyện giáo dục con trẻ với Fuddleston phu nhân hoặc thảo luận về pháp luật với cái con ngỗng là lão Giles Wapshot được chăng? Tôi muốn để cô ta cùng dự tiệc. Nếu không đủ chỗ thì bảo Crawley phu nhân ở trên gác. Nhưng còn cô Sharp...chết chưa? Cả hàng quân, chỉ có mình cô ta nói chuyện còn nghe được!

Dĩ nhiên, sau cái mệnh lệnh dứt khoát ấy thì cô giáo dạy trẻ Sharp được lệnh ra cùng ngồi dự tiệc ở dưới nhà.

Rồi đến khi ngài Huddleston, dáng điệu hết sức trang trọng kiểu cách, khoác tay bà Crawley bước vào phòng ăn, và sắp sửa ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh, thì bà già này bỗng kêu lên the thé:

- Becky Sharp? Cô Sharp! Lại đây, ngồi cạnh tôi cho vui; để ngài Huddleston ngồi cạnh Wapshot phu nhân cũng được.

Tan tiệc, khách khứa đã lên xe ngựa ra về cả, bà Crawley vẫn chưa thỏa mãn, còn bảo:

- Becky, lên phòng trang điểm của tôi nhé; chúng ta sẽ nói xấu bọn họ nghe chơi với nhau.

Mà thật, ngồi riêng với nhau, đôi bạn tri kỷ đã làm đúng như lời. ông lão Huddleston lúc đang ăn tiệc cứ luôn mồm thở phì phà phì phò. Còn ngài Giles Wapshot thì có lối húp “xúp” kêu cứ òm ọp; bà vợ mắt trái làm sao cứ hấp ha hấp háy; những nét đặc biệt ấy cũng như những câu chuyện buổi tối Becky rí rỏm tả lại rất tài: nào là chuyện chính trị, chuyện chiến tranh, chuyện họp Quốc hội, chuyện đua ngựa và bao nhiêu là chuyện quan trọng nhạt nhẽo mà cái bọn quyền quý xứ quê vẫn thích nói với nhau. Còn bộ áo của hai cô con gái nhà Wapshot và cái mũ vàng nổi danh của Fuddleston phu nhân thì bị cô Sharp “xé rách tơi tả”; bà thính giả nghe chuyện khoái trá vô cùng. Bà bảo:

- Cô em ơi, cô thật là một báu vật () vô song. Ước gì cô đi được Luân đôn với tôi nhỉ. Nhưng tôi không thể đem cô ra làm trò cười như đối với mụ Briggs được; không, không... cô gớm lắm, cô quá thông minh...phải không, Firkin?

Bà Firkin đang chải mấy sợi tóc lơ thơ còn bám vào sọ bà Crawley ngẩng phắt mặt lên đáp một cách hết sức mỉa mai: “Dạ, cô ấy thông minh lắm ạ”; nói cho đúng thì bà Firkin cũng có tính ghen ghét, đó là cái nguyên tắc xử thế chung của tất cả mọi người đàn bà lương thiện.

Sau bữa cự tuyệt ngài Huddleston Fuddleston, bà Crawley ra lệnh cho Rawdon Crawley ngày nào cũng phải khoác tay dẫn bà vào phòng ăn; Cô Becky thì ôm chiếc gối đi theo sau...hoặc cô khoác tay bà, còn Rawdon ôm gối cũng được. Bà bảo:

- Chúng mình phải ngồi cạnh nhau mới xong; cô em ạ, khắp quận này chỉ có ba chúng ta là những con chiên ngoan đạo tư duy nhất thôi đấy.

- Nếu quả thế thì đạo chúa trong quận Hants cũng đang “xuống” quá thật.

Bà Crawley không phải chỉ biết “ngoan đạo” một cách lý thú như thế, bà còn là người có nhiều tư tưởng hết sức tự do; bà luôn luôn tìm cơ hội phát triển những tư tưởng áy một cách rất tự nhiên. Bà thường bảo Rebecca:

- Này cô em, dòng dõi là cái gì? Cô cứ trông ông Pitt, anh tôi và gia đình Huddleston; họ sinh cơ lập nghiệp ở đây từ triều vua Henry đệ nhị đấy. Cô cứ trông lão Bute đáng thương với cái chức mục sư kia... trong bọn họ có người nào thông minh và có giáo dục bằng cô không? Bằng cô à bọn họ so với mụ Briggs người hầu của tôi, và bác Bowls, quản gia của tôi, cũng chưa bằng ấy chứ. Cô em đáng yêu ạ, cô là một người hoàn toàn...một quý vật, dứt khoát thế đấy... Trí tuệ nửa vùng này góp lại cũng không bằng được cô đâu. Nếu quả thật con người ta có phúc là có phận thì cô phải làm một bà công tước mới xứng... Không, ở đời không cần có những bà công tước làm gì: nhưng cô không nên chịu thua kém ai; cô em ạ, tôi coi cô ngang hàng tôi về mọi phương diện đấy, và...kìa cô, bỏ hộ tôi thêm ít than vào lò với, cô sửa lại chiếc áo dài này hộ tôi nhé; cô tài may vá lắm, chẳng ai bằng.

Cứ thế, bà lão nhân từ thường nhờ cô ta đưa thư giúp mình, chải tóc hộ, và đêm đêm đọc tiểu thuyết Pháp để bà nghe, cho đến lúc bà ngủ say mới thôi.

Vào thời đó, một số độc giả có tuổi chắc còn nhớ, giới quyền quý đang rất sôi nổi bàn tán về hai việc xảy ra, khiến cho theo lời vài tờ báo, mấy ông quý tộc áo () có việc làm ăn. Viên hạ sĩ cầm cờ Shafton trốn biệt tích cùng công nương Barbara Fitzurse là con gái và người thừa kế của bá tước Bruin; còn ông Vere Vane, là một nhà quý tộc tuổi đã tứ tuần, tính tình xưa nay vẫn đứng đắn, lại là chủ một gia đình đông con, đột nhiên quái gở thay, bỏ nhà đi theo bà Rougemont, một đào hát già đã sáu mươi nhăm cái xuân xanh?

Bà Crawley nói:

- Tôi thích nhất là những người biết noi gương sáng của Quận công Nelson. Ông ta chết vì một người đàn bà. Làm tài trai phải biết sống như vậy mới đáng mặt. Tôi vẫn ưa những cuộc hôn nhân táo bạo ... điều tôi thú nhất là một nhà quý tộc lấy con gái một người thợ xay bột làm vợ, y như bá tước Flowerdale ngày xưa ấy...làm cho bọn đàn bà tức điên lên... Này cô em, ước gì có một nhà tai mặt nào đi trốn với cô nhỉ; trông cô cũng xinh đấy chứ?

Rebecca đáp:

- Đi trốn với hai anh phu trạm? Ồ, thú vị ấy.

- Và điều thứ hai tôi thích là một anh con trai nghèo xác xơ đi trốn với một cô con gái nhà giàu. Tôi đang mong cho thằng Rawdon đi trốn với đứa nào thì hay.

- Đi trốn với một người giầu, hay một người nghèo?

- Ồ khỉ lắm! Tôi mà không cho nó tiền thì một xu dính túi nó cũng không có . Nó công nợ ngập mặt ()... Nó cần gây dựng lại cơ nghiệp; nó phải mở mặt ra với thiên hạ chứ!

Rebecca hỏi:

- Ông ấy có thông minh không ạ?

- Thông minh ấy à? Nó còn có biết cái quái gì ngoài chuyện ngựa nghẽo, chuyện trung đoàn, chuyện săn bắn, ăn chơi; nhưng phải làm sao cho nó làm nên. .. thằng bé hư đốn một cách đáng yêu quá. Cô có biết chuyện nó bắn chết một người, và bắn thủng mũ một ông già vì đã xúc phạm đến nó không? Cả trung đoàn quý nó lắm. Ở phố Wattier và ở quán “Cây dừa” nữa, bọn trai trẻ coi nó như ông trùm ().

Khi cô Rebecca Sharp viết thư kể lại cuộc dạ hội ở trại Crawley Bà chúa cho cô bạn thân nghe cô cũng tả cả cái cung cách đại úy Crawley đã đề cao mình lần đầu tiên thế nào; nhưng không rõ tại sao, cô không miêu tả đầy đủ câu chuyện trên. Trước đó, đã nhiều lần viên đại úy đặc biệt săn sóc đến cô; có đến năm sáu lần, anh chàng tìm cách gặp cô trong lúc đang đi bách bộ chơi; có đến hàng năm chục lần, viên đại úy mắt sáng lên khi gặp cô đi qua hành lang. Có những buổi tối, lúc Becky hát, viên đại úy cứ bám lấy cây đàn dương cầm của cô đến hàng chục bận (phu nhân lúc này ở trên gác vì mệt, cũng chả ai để ý đến bà ta) .

Anh chàng đại úy đã gửi cho cô nhiều bức thư, tức là những lá thư hay ho nhất mà anh chàng sĩ quan ngự lâm thô lỗ kia có thể nghĩ ra đánh vần mà viết nổi (nhưng đối với đàn bà thì sự đần độn cũng cứ thành công như mọi đức tính khác). Khi anh ta luồn lá thư đầu tiên vào mấy tờ nhạc lúc cô đang hát, thì cái cô giáo bé nhỏ này đứng ngay dậy nhìn thẳng vào mặt anh chàng, lấy điệu bộ kiểu cách cầm lấy mảnh giấy hình tam giác quạt mát rồi ném tọt vào ngọn lửa lò sưởi; đoạn cô ta cúi chào anh chàng một cái sát tận đất, rồi về chỗ cũ, bắt đầu hát vui vẻ hơn trước.

Bà Crawley ăn trưa xong đang lim dim ngủ thấy bài hát đứt đoạn, vội hỏi.

- Cái gì đấy?

- Tại có một lỗi nhạc đấy ạ.

Cô Sharp vừa đáp vừa cười; Rawdon Crawley giận tưởng phát điên lên được.

Thấy bà Crawley tỏ ra chiều chuộng cô giáo mới một cách quá rõ ràng, bà Bute Crawley không những không ghen ghét mà còn đon đả chào mời cô ta sang chơi bên nhà thờ; bà mời cả anh chàng Rawdon Crawley là kẻ kình địch với chồng bà về khoản lãi năm phần trăm của bà lão nữa. Tốt đẹp vậy thay? Bà Bute Crawley và ông cháu đi lại thăm nom nhau rất thân mật. Anh chàng này bỏ cả săn bắn, bỏ cả những thú vui ở nhà Fuddleston; anh ta không cùng ăn với bọn quân nhân đồn trú tại Mơtbơry nữa...Bây giờ, anh ta thú nhất là đi lang thang sang địa phận nhà thờ Crawley...

Bà Crawley cũng sang đấy chơi, cả hai đứa bé cũng đi với cô Sharp, vì mẹ chúng ốm. Một buổi tối kia, có hai người sóng đôi ra về với nhau, không có bà Crawley cùng đi - vì bà ưng đi xe ngựa hơn. Cuộc đi chơi dưới ánh trăng qua cánh đồng của nhà thờ, qua cái cổng nhỏ thông vào một khu vườn hẹp, xuyên qua đám cây cối rậm rạp tối om, ngược theo con đường cái lớn dẫn về trại Crawley Bà chúa, thật vô cùng hấp dẫn đối với hai con người vốn ưa những phong cảnh kỳ thú, là viên đại úy và cô Rebecca.

Cô này nước đôi mắt biếc sáng lấp lánh nhìn lên trời noi:

- Ôi, những ngôi sao, những ngôi sao kia! Khi tôi nhìn sao trên trời tôi cảm thấy như mình đã thoát tục.

Anh chàng cao hứng cũng đáp:

- Ồ à hừm...vâng, cô Sharp ạ, tôi cũng thế đấy.

Cô bèn hút thử một điếu, điệu bộ nom thật nhí nhảnh; cô khẽ thở phù khói ra, khẽ kêu rú lên, và khẽ cười khúc khích, rồi trả điếu thuốc đại cho viên đại úy. Anh chàng đưa tay lên xoắn bộ ria, lập tức rít một hơi dài làm cho đốm lửa sáng rực lên dưới lùm cây rậm tối, và thề độc:

“Trời ơi ... Ồ ... à ... đây là điếu thuốc ngon nhất đời tôi đấy...à. Trí thông minh cũng như lối chuyện trò của anh chỉ hay ho và lý thú đối với một anh lính ngự lâm thô lỗ mà thôi.

Còn cụ Pitt già nua kia thì đang ngồi uống rượu bia và hút tẩu thuốc cùng bác John Horrocks, bàn chuyện sắp thịt một con cừu khi lão vẫn liếc qua cửa sổ rình đôi trai gái, và văng tục mà bảo rằng nếu không vì nể bà cụ Crawley thì lão đã quẳng cả thằng Rawdon lẫn hành lý ra cửa cho đáng kiếp cái thằng khốn nạn.

Bác Horrocks cũng nhận xét:

- Hắn quả thật là tồi; cái thằng lính hầu Flethers của hắn còn đểu hơn nữa; nó lục tung cả phòng của bà quản gia lên để mò ăn mò rượu, làm như bố người ta không bằng.

Ngừng lại một lúc, bác thêm:

- Nhưng cụ ạ, cháu coi cô Sharp cũng xứng đôi với cậu ta đấy chứ...

Thật ra thì cô ta cũng xứng đôi...với cả bố lẫn con.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12


MỘT CHƯƠNG KHÁ LÀ TRỮ TÌNH

Chúng ta hãy tạm rời chốn Thiên đường Accady và những người bạn đáng yêu đang cùng sống với những đức tính nơi thôn ổ của họ, để quay về Luân-đôn, xem cô Amelia bây giờ ra sao.

“Tôi để ý đến cô ta làm quái gì” một người vô danh nào đó viết như vậy trong một bức thư gắn xi màu hồng, nét chữ xinh xinh. “Cô ta nhạt nhẽo, vô vị lắm”, và còn thêm một vài nhận xét tốt bụng đại khái như thế, có nhẽ tôi chẳng nên nhắc lại những ý kiến ấy ở đây làm gì, vì thực ra đó chính là những lời lẽ tán tụng vô cùng tốt đẹp đối với Amelia.

Qua những kinh nghiệm sống, hẳn các bạn đọc đáng quý cũng đã có dịp được nghe thấy những nhận xét tương tự từ miệng những cô bạn gái tốt bụng: các cô ấy vẫn thường ngạc nhiên tại sao bạn lại có thể nghĩ rằng cô Smith đẹp mê hồn, hoặc chẳng biết cái gì có thể xui viên thiếu tá John tỏ tình với cái cô Thomson ngớ ngẩn, lúc nào cũng cười một cách vô vị kia; cô ta có gì đáng chú ý đâu, chỉ được cái bộ mặt búp bê bằng sáp. Mà thật ra thì một cặp má hồng, một đôi mắt biếc là cái quái gì? Mấy nhà luân lý học hỏi thế, và ngỏ ý rằng những năng khiếu của thiên tài, một tâm hồn phong phú, sự hiểu biết thấu đáo các vấn đề của Mangnall, và những kiến thức về thực vật học và địa chất học xứng đáng với một bà mệnh phụ, cái tài khéo làm thơ, khéo hát những bài sonate thơ kiểu Herz, và vân vân...đối với đàn bà, những thứ đó còn quý hơn cái sắc đẹp thoảng qua, nó sẽ chỉ trong ít năm là phai lạt. Nếu được nghe đàn bà bàn về cái vô tích sự và cái đặc điểm “sớm nở tối tàn” của sắc đẹp âu cũng là một điều lý thú.

Người ta vẫn cho rằng đạo đức là điều đẹp đẽ hơn nhiều, và cũng là điều những con người bất hạnh không được trời phú cho một bộ mặt xinh xắn thường phải tâm tâm niệm niệm trong suốt cuộc đời họ còn đeo đẳng; và rất có thể đối với các phu nhân thì những đức tính anh hùng của nữ giới còn vinh quang và đẹp đẽ hơn nhiều so với một người đàn bà nội trợ dịu dàng, trẻ trung, tươi tỉnh, thật thà, hiền hậu, mà nam giới vẫn có khuynh hướng chuộng hơn...

Nhưng loại đàn bà thứ hai, những con người kém cỏi ấy, cũng nên tự an ủi rằng rốt cuộc thì đàn ông chúng tôi vẫn mến phục họ; mặc kệ những lời ngăn ngừa phản đối của mấy ông bạn quý, chúng tôi vẫn còn cứ tiếp tục đến cùng những sai lầm và dại dột điên cuồng ấy. Riêng phần tôi, tôi vẫn thường được những người tôi rất kính trọng căn dặn rằng: “Cô Brown chỉ là một con bé vô vị; còn cô White chỉ được có mỗi bộ mặt kháu khỉnh xinh xinh(); bà Black thì chả có điều gì đáng nói”: nhưng trái lại, chính tôi đã được trò chuyện rất thú vị cùng bà Black (dĩ nhiên, thưa bà, những chuyện ấy tôi sẽ không tiết lộ); tôi đã thấy đàn ông xúm xít quanh chỗ cô White ngồi, còn bọn trẻ tuổi thì đánh lộn nhau để được khiêu vũ với cô Brown; do đó tôi đang muốn nghĩ rằng được nữ giới khinh bỉ, thật là vinh dự lớn cho một người đàn bà vậy.

Những cô thiếu nữ quen biết Amelia đã ban cho cô cái vinh dự ấy một cách khá đầy đủ. Thí dụ như mấy chị em nhà Osborne là chị em gái của George, cũng như mấy cô nhà Dobbin; họ không đồng ý với nhau được về điểm nào bằng điểm nhất trí chê bai Amelia; họ cho rằng cô không có được tài đức gì đáng kể. Thấy mấy ông anh của họ cứ khen mãi cô ta đáng yêu, họ lấy làm ngạc nhiên quá. “Chúng mình nên đối tốt với chị ấy”, hai cô Osborne bảo nhau. Hai chị em là một cặp thiếu nữ xinh xắn, lông mày rậm, có đầy đủ cô giáo, thầy giáo dạy tư và thợ trang sức giỏi nhất phục vụ cho họ. Hai cô đối đãi với Amelia tốt quá, săn sóc cô ta cẩn thận quá và cũng với thái độ quá bề trên đến nỗi ngồi với họ cô gái bé bỏng đáng thương này không thể nói được gì nữa, và cứ nhìn bề ngoài, thì quả là ngốc nghếch đúng như họ vẫn nghĩ. Cô đã cố gắng yêu mến họ, vì họ sắp là chị em chồng của cô. Có lẽ những buổi sáng đằng đẵng cô ngồi chơi với họ, cũng như những buổi chiều tẻ nhạt trang nghiêm. Cô đã cùng họ đi chơi trên cái xe ngựa đồ sộ là xe riêng của gia đình họ, cùng bà Wirt, bà giáo lý dạy tư của họ, một bà gái già gầy như que củi.

Họ bỏ tiền mua vé mời cô đi dự những buổi hòa nhạc cổ điển, những đêm ca nhạc, và đưa cô đến nhà thờ St. Paul xem những đứa bé mồ côi; ở đây cô lo sợ mấy cô bạn quá đến nỗi cũng không dám xúc động trước bài đồng ca của các em bé. Nhà họ ở rất đầy đủ tiện nghi; bàn làm việc của ông bố rất đẹp, rất sang, khách khứa ra vào ai cũng có vẻ sang trọng, quý phái; họ tỏ ra hết sức tự trọng; họ có chỗ ngồi riêng đẹp nhất ở Hội bảo vệ trẻ mồ côi; mọi tập quán của họ thì tẻ nhạt và hình thức đến không thể chịu nổi. Cứ sau mỗi lần cô đến thăm viếng chấm dứt, cô Jane Osborne, cô Maria Osborne và bà giáo gái già Wirt lại hỏi nhau, càng ngày càng ngạc nhiên hơn: “Người như thế thì có cái quái gì mà George mê nhỉ?”

Tại sao thế ắt có bạn đọc tò mò hỏi vậy. Tại sao Amelia được rất nhiều bạn ở trường yêu mến, mà bước vào đời lại bị giới mình, cái giới phụ nữ hay xoi mói, ghét bỏ như vậy?

Thưa quý ngài thân mến, ấy là vì ở trường bà Pinkerton, không có ai là đàn ông, chỉ có một ông giáo dạy khiêu vũ thì lại già mất rồi; hẳn ngài không muốn các cô thiếu nữ kia xúm xít bám chặt lấy ông lão chứ? Thấy George, anh chàng đẹp trai, cứ ăn sáng xong là biến đi mất và mỗi tuần ăn cơm ở ngoài có tới sáu bảy lần, thì cô em và cô chị bỏ rơi lẽ dĩ nhiên cũng phần nào cảm thấy khó chịu. Lúc anh chàng Bullock trẻ tuổi (trong ngân hàng Hulker, Bullock và công ty, phố Lombard), người đã sáu tháng nay vẫn đeo đuổi cô Maria, bây giờ lại mời cô Amelia nhảy điệu cotillon, có dễ ngài cho rằng ý trung nhân của anh ta thích đấy hẳn?

Thế mà cô này bảo rằng mình rất vui lòng, y như một con người ngây thơ và rộng lượng. “Em thấy anh quý chị Amelia, em bằng lòng lắm”, sau cuộc nhảy, cô say sưa bảo Bullock như vậy. “Chị ấy là vị hôn thê của anh George nhà em đấy; chị ấy cũng chả có gì đáng chú ý, nhưng được cái tốt bụng và thành thực lắm; ở nhà chúng em ai cũng quý chị ấy quá”. Cô bé quý hóa! Ai mà tính toán nỗi niềm, thương mến của cô ta có chiều sâu bao lăm trong cái tiếng “quá” kia?

Bà Wirt và hai cô thiếu nữ thân thiết ấy luôn luôn hết sức làm cho tâm trí George Osborne bị ám ảnh bởi ý tưởng anh ta đang chịu đựng một sự hy sinh vĩ đại, và cái việc anh ta lao vào yêu cô Amelia say sưa thật là một hành động rộng lượng đầy tính chất lãng mạn; cuối cùng tôi cũng không rõ hẳn có phải anh chàng đã cho mình là một trong số những người đáng chú ý nhất trong quân đội Anh quốc và một cách thoải mái, đành lòng chịu đựng được yêu hay không.

Sáng nào anh ta cũng bỏ nhà ra đi; một tuần lễ thì ăn cơm ngoài tới sáu ngày, cô chị và cô em cứ yên trí là những dịp ấy anh chàng si tình đang bám lấy dải váy của cô Sedley; thiên hạ cứ tưởng anh ta đang quỳ dưới chân Amelia, nhưng đâu phải lúc nào anh ta cũng quanh quẩn bên người yêu.

Có nhiều lần đại úy Dobbin đến chơi tìm bạn, thì cô Osborne (cô này chú ý tới viên đại úy lắm, rất thích nghe anh ta kể chuyện chiến trận, và thích hỏi thăm sức khỏe của bà mẹ yêu quý của anh ta) vẫn vừa cười, vừa chỉ về phía bên kia Công viên bảo: “Ồ, anh muốn tìm George thì phải đến gia đình Sedley chứ. Từ sáng đến tối, chúng em có nhìn thấy mặt cậu ấy đâu”. Nghe câu nói ngọt ngào, viên đại úy chỉ cười xòa một cách khó hiểu và lảng sang chuyện khác ngay; đúng như một con người lịch thiệp hoàn toàn, anh ta đề cập đến những chuyện vặt vãnh, đại khái chuyện ca nhạc ở Opera, chuyện buổi dạ hội mới rồi của Hoàng tử ở điện Carlton, hoặc chuyện thời tiết... tóm lại là những chuyện thông thường vẫn nói trong phòng khách.

Viên đại úy đi rồi, cô Maria bảo cô Jane:

- Cái anh chàng được chị cưng ấy, rõ chẳng biết cái quái gì; chị có thấy lúc ta bảo George bận “làm nhiệm vụ”, anh ta đỏ mặt thế nào không?

Cô chị lắc đầu đáp:

- Maria, thật đáng thương cho Frederick Bullock không có được đôi chút e lệ như anh ta đấy.

- E lệ? Vụng về thì có, chị Jane ạ. Em chẳng muốn Frêđêric giẫm chân lên làm thủng đuôi áo voan của em, như đại úy Dobbin giẫm lên áo chị ở nhà bà Perkin ấy.

- Giẫm lên áo cô! Hi, hi ! Sao lại giẫm lên được? Anh ta chẳng đã khiêu vũ với Amelia là gì?

Thực ra, đại úy Dobbin đờ mặt và luống cuống vì nhớ lại một trường hợp mà anh thấy không cần thiết kể lại cho hai cô thiếu nữ nghe làm gì. Một bữa, anh ta lại chơi gia đình Sedley, dĩ nhiên, lấy cớ đến tìm George; George đi vắng, chỉ có một mình cô bé Amelia đáng thương đang ngồi cạnh cửa sổ phòng khách, vẻ mặt như hơi rầu rĩ; sau vài chuyện bâng quơ, cô này đánh bạo hỏi rằng có thật tin đồn trung đoàn sắp được điều động ra ngoại quốc là đúng không? Và ngày hôm ấy đại úy Dobbin có gặp Osborne lần nào không?

Trung đoàn chưa bị điều động đi đâu hết, mà đại úy Dobbin cũng không gặp George. Viên đại úy đáp rằng chắc anh ta đang ở nhà với cô chị và cô em gái, rồi đề nghị để mình đi tìm George. Thế là cô thiếu nữ dịu dàng đưa tay cho anh ta, tỏ ý biết ơn; anh ta vội đi ngang qua Công viên, nhưng Amelia cứ đợi, đợi mãi nhưng chẳng thấy tăm hơi George đâu.

Cô thiếu nữ bé bỏng dịu dàng đáng thương quá. Cô ta cứ tiếp tục hy vọng, hồi hộp, khát khao và tin tưởng. Các bạn thấy cuộc đời Amelia chẳng có gì đáng miêu tả lắm.

Trong đời cô không có mấy cái mà bạn gọi là những chuyện đặc biệt. Ngày nào cũng chỉ có một chuyện...”Bao giờ thì anh ấy đến chơi nhỉ?” Khi ngủ cũng như lúc thức, chỉ có một ý nghĩ ám ảnh trong đầu. Lúc Amelia hỏi Dobbin về tin tức của George thì tôi tin rằng anh ta đang chơi bi-a với đại úy Cannon ở phố Swallow; George vốn là tay ham vui, thích bè bạn đàn đúm, và rất giỏi trong mọi thú chơi cần đến sự khéo léo.

Một lần, đã ba hôm không không thấy George lại chơi, Amelia đội mũ tìm đến thẳng nhà gia đình Osborne; cô em chồng tương lai hỏi:

- Kìa? Chị lại bỏ mặc anh em mà lại đây ư? Hai người giận nhau phải không, chị Amelia? Nói chuyện chúng em nghe nào?

- Làm gì ra có chuyện giận nhau. Ai mà giận anh ấy được? Amelia nước mắt đầm đìa trả lời. Cô chỉ muốn lại để để thăm hai cô bạn quý thôi; đã lâu quá, chưa gặp nhau. Hôm ấy cô có vẻ ngờ nghệch và vụng về hơn mọi khi; lúc cô buồn bã ra đi, cô Osborne và bà giáo dạy tư trố mắt nhìn theo lại càng ngạc nhiên hơn bao giờ hết, không hiểu Giơrgiơ yêu Amelia về nỗi gì.

Họ ngạc nhiên là phải. Làm sao Amelia có thể ngăn cản không cho những cặp mắt đen láy táo bạo của hai cô gái kia soi mói vào tâm hồn bé bỏng, nhút nhát của mình cho được? Cô ta co mình lại, tự giấu giếm vậy là tốt nhất. Tôi biết, hai cô Osborne rất có tài khi phê bình một cái khăn quàng Casơmia, hay một cái si-líp sa-tanh màu hồng, hoặc khi cô Turner nhuộm cái áo cũ màu đỏ thẫm và chữa thành một cái áo ngoài ngắn, khi cô Pickford phá tấm áo khoác lông chồn để làm cái bao tay và các dải áo. Thì tôi cam đoan rằng không có gì sánh kịp trí thông minh của hai cô thiếu nữ nói trên. Nhưng ở đời có những thứ tinh tế hơn là lông thú và sa-tanh, hơn tất cả các kho châu báu của Solomon, và hơn cả tủ áo của Nữ vương thành Sheba () nữa. Đó là những vật mà nhiều người sành sỏi cũng không tìm được vẻ đẹp. Có những bông hoa dịu dàng kín đáo ẩn trong những chỗ râm mát, yên tĩnh, bạn dừng lại ngắm thì thấy tươi tắn, thơm tho; lại cũng có những bông hoa lớn như cái chậu một dùng để trang hoàng vườn cảnh, tưởng như mặt trời nom xuống cũng phải chói mắt. Cô Sedley không phải là loại hoa mặt trời này; và có thể nói rằng cô là một đóa hoa violet khác thường, to bằng đóa thược dược kép.

Không, cuộc đời của một thiếu nữ từ nhỏ được ấp ủ trong tổ ấm của gia đình không thể có những tình tiết gay go của những nhân vật tiểu thuyết thông thường. Cạm bẫy hoặc tên đạn có thể giết chết những con chim già bay lượn ngoài tổ; những con chim này có thể thoát khỏi móng vuốt của bày chim ưng lượn trên trời, hoặc bị chúng xâu xé, nhưng những con chim non trong tổ ấm thì vẫn sống một cuộc đời không thi vị nhưng êm đềm giữa những sợi lông mềm và những cọng rơm tơ êm ái, cho tới khi nào đến lượt chúng cất cánh bay bổng. Trong khi Becky Sharp đang bay lượn, chuyền trên những nhánh cây non giữa bao nhiêu là cạm bẫy, tha hồ mổ thức ăn một cách khoan khoái, thì Amelia vẫn còn sống trong cảnh gia đình ấm cúng ở khu phố Russell. Nếu cô có bước ra ngoài đời, thì đã có người giàu kinh nghiệm hướng dẫn. Hình như cũng không có sự không may nào đe dọa cô hoặc đe dọa cái gia đình giầu có, đầm ấm trong đó cô đang được nâng niu che chở. “Má” thì sáng vẫn bận rộn việc gia đình; hàng ngày bà vẫn ngồi xe ngựa đi chơi, và vẫn giữ cái lệ thú vị là đi thăm các gian hàng, mua bán vặt vãnh, tức là cái thú giải trí, hoặc nếu các bạn thích thì gọi là cái nghề cũng được, của những bà nhà giàu ở Luân đôn. Còn “ba” thì vẫn điều khiển những công việc bí mật gì ấy trong khu City, hồi đó là một nơi hoạt động sôi nổi, trong khi khắp Âu Châu chiến tranh đang gào thét và bao vương quốc đang ngả nghiêng, trong khi tờ nhật báo “tin tức” có đến hàng vạn độc giả đặt mua, trong khi hôm nay bạn nghe tin có một trận đánh ở Victoria, ngày mai đã có tin Mạc-tư-khoa bị đốt, hoặc luôn luôn đang giờ ăn trưa nghe thấy bác rao tin thổi tù và ở khu phố Russell báo rằng “Trận Lepdich...sáu mươi vạn quân tham chiến... nước Pháp đại bại... hai mươi vạn người chết”.

Có một đôi lần ông Sedley trở về nhà vẻ mặt trầm ngâm; ta không lấy làm lạ thấy những tin tức như trên khuấy động mọi trái tim và tất cả mọi Phòng Hối đoái của Âu Châu.

Trong thời gian đó ở khu phố Russell, Bloomsbury, mọi sự vẫn cứ tiến hành y như không có chuyện gì xảy ra ở Âu Châu. Cuộc thoái quân ở Lepdich không hề làm giảm số bữa ăn hàng ngày của bác Sambo trong phòng ăn của đầy tớ; quân đồng minh ồ ạt tiến vào nước Pháp, song tiếng chuông báo giờ ăn vẫn cứ đúng năm giờ chiều là vang lên như thường lệ. Tôi cho rằng cô Amelia đáng thương chẳng buồn quan tâm đến Brienne và Montmirail (), hoặc đến chiến tranh. Cô Amelia vẫn chắp hai tay lại cầu kinh...và ôi, sung sướng thay! Cô vẫn say sưa lao mình vào trong cánh tay của George Osborne làm cho những người có mặt phải ngạc nhiên vì thấy cô tỏ tình quá lộ liễu. Thực tế thì hòa bình đã trở lại, Âu Châu qua cơn sóng gió, sắp được nghỉ ngơi; tên dân đảo Corxơ () đã bị lật đổ và trung đoàn của trung úy Osborne không còn lo phải điều động đi tham chiến nữa. Cô Amelia lý luận như vậy. Vận mệnh của cả Âu Châu đối với cô tức là trung úy Osborne. Tai họa đe dọa người yêu đã qua, cô hát bài Te Deum (). Anh ta là Âu Châu của cô, là Hoàng đế của cô, là những vị quốc trưởng đồng minh của cô, và là vị Hoàng tử nhiếp chính của cô. Đối với cô Osborne là mặt trời, mặt trăng và theo ý tôi, cô tin rằng cuộc dạ hội hoa đăng vĩ đại tổ chức ở Hoàng cung chào mừng các vị hoàng đế, chính nhằm mục đích đặc biệt chào mừng trung úy George Osborne của cô vậy.

Chúng ta đã nói đến những mánh khóe, đến thói vụ lợi cá nhân và sự nghèo túng, đó là những ông thầy đã giáo dục cô Becky Sharp. Đối với Amelia thì tình yêu là bà giáo giỏi nhất; dưới sự dạy dỗ của bà giáo ai cũng biết tiếng này, cô thiếu nữ đã tấn tới phi thường. Trong khoảng mười lăm hay mười tám tháng, ngày nào cô cũng chăm chỉ học tập dưới sự hướng dẫn của bà, cô ta đã nắm được bao điều bí mật mà bà Wirt và hai cô thiếu nữ mắt đen láy, ngay cả chính bà Pinkerton ở Chiswick nữa cũng không thể hiểu nổi! Thật vậy, những người đàn bà không chồng kênh kiệu và đáng kính ấy biết sao được. Đối với bà Wirt và bà Pinkerton sự say đắm tình tứ không thành vấn đề nữa rồi: tôi sẽ chẳng dám hé môi nói về một chuyện như vậy ở các bà. Cô Maria Osborne thật ra cũng có gắn bó với Frederick Augustus Bullock, trong hãng Bullock và Bullock. Nhưng cuộc tình duyên của cô rất đáng kính; đối với cô, lấy lão Bullock cha hay lấy anh Bullock con làm chồng cũng thế thôi vì, như mọi cô thiếu nữ gia giáo khác, tâm trí cô chỉ bận bịu vì một ngôi nhà ở Công viên Lane, một ngôi nhà nghỉ mát ở Wimbledon, một cái xe ngựa thật là đẹp, một đôi ngựa thật là to, và hai thằng hầu thật là béo, cùng một phần tư số thực lãi đồng niên của hãng Bullock và Bullock; Frederick Augustus chỉ là người đại diện cho tất cả những khoản đó.

Giả thử hồi ấy người ta đã nghĩ lấy vòng hoa cam để tượng trưng cho sự trinh bạch của thiếu nữ (tục này du nhập vào nước ta từ Pháp, nơi tệ bán con gái phổ biến trong việc hôn nhân) thì tôi tin rằng cô Maria rất có thể đội cái vòng hoa trong trắng đó mà bước lên xe hoa ngồi bên cạnh ông già đầu hói, mũi cà chua, bị bệnh thống phong, tức là ông lão Bullock; và cô cũng sẽ kín đáo mà sống trọn cuộc đời đẹp đẽ của mình, vô cùng hạnh phúc.., Chết một nỗi, ông già lại có vợ mất rồi, cho nên cô đành yêu anh con trai vậy. Những bông hoa cam thơm tho tươi tắn làm sao! Hôm nọ, tôi thấy cô Trotter đầu mang vòng hoa cam, líu díu bước lên xe hoa trước nhà thờ St George, ở quảng trường Hanover, có bá tước Methuselah lóc cóc theo sau. Cô e lệ, kín đáo kéo màn che kín cửa xe...Con người ngây thơ đáng yêu thay!

Có đến một nửa số xe ngựa trong Hội chợ phù hoa bị huy động trong việc cưới xin này.

Cô Amelia không được giáo dục lối yêu đương như vậy.

Chỉ trong khoảng một năm trời, cô bé ngoan ngoãn đã trở thành một thiếu nữ ngoan ngoãn...nghĩa là khi được ngày lành tháng tốt, cô sẽ trở thành một người vợ ngoan ngoãn.

Cô gái trẻ trung này đặt hết tâm hồn vào sự gắn bó với chàng sĩ quan thanh niên trong quân đội hoàng gia mà ta đã biết qua (có lẽ cha mẹ cô cũng đã dại dột khuyến khích, giúp đỡ cô trong những sự tơ tưởng lãng mạn như vậy); ngay phút đầu tiên mỗi khi ngủ dậy, cô đã nghĩ đến người yêu rồi; tên anh ta được nhắc đến sau cùng trong lúc cô cầu kinh. Chưa bao giờ cô gặp một con người thông minh, đẹp trai như anh chàng. Con người cưỡi ngựa mới đẹp làm sao, khiêu vũ mới giỏi làm sao; nói chung, thật là một người anh hùng. Cứ ca tụng mãi lối cúi chào của Hoàng tử, so với George thì còn kém xa. Cô đã được nhìn mặt ông Brummell mà thiên hạ khen nức nở; đem một người như thế mà so sánh với chàng George của cô! Trong số những anh kép đẹp trai ở rạp Opera (hồi ấy có nhiều anh kép ở rạp Opera rất xinh trai), chẳng ai có thể bì được với George.

Có khiêm tốn lắm thì anh ta cũng phải là một hoàng tử trong thần thoại. Thế mà, ôi, cao quý vậy thay? Chàng đã hạ mình xuống để lọt vào mắt xanh hình ảnh một cô Cinderella thấp kém như cô. Nếu bà Pinkerton là người thân tín của Amelia, chắc thế nào bà cũng đã tìm cách kiềm chế sự say mê mù quáng của cô, nhưng bạn cứ tin rằng việc ấy cũng chẳng có kết quả lắm đâu. Ở một số phụ nữ, sự say mê ấy là do bản năng; có những người trời sinh ra để tính toán, và có những người trời sinh ra để yêu; mong rằng các bạn chưa vợ đọc những dòng này hãy chọn loại nào thích hợp với mình nhất.

Mải say sưa trong tình yêu, Amelia quên khuấy mất mười hai cô bạn thân ở Chiswick một cách vô cùng tàn nhẫn, như những con người ích kỷ thông thường khác. Cô chỉ chuyên tâm chú ý vào có một chuyện. Cô Saltire tai thì lạnh lùng quá, không tâm tình được; cô cũng không sao đem tâm sự của mình ra ngỏ với cô Swartz, cô gái triệu phú tóc quăn người đảo St. Kitt. Những ngày lễ, em bé Laura Martin thường đến chơi với cô; tôi tin rằng cô đã chọn Laura làm bạn tâm tình của mình, và hứa bao giờ lấy chồng sẽ đem Laura về ở chung; cô đã ngỏ với Laura rất nhiều điều thuộc về chuyện yêu đương đắm say; đối với cô bé, những điều ấy hẳn mới lạ và bổ ích. Chao ôi, tôi e rằng cô Emmy đáng thương, tâm trí không được bình thường cho lắm.

Cha mẹ cô đã làm gì để giữ cho quả tim bé nhỏ kia khỏi đập quá nhanh? Ông lão Sedley hình như không hề chú ý đến câu chuyện. Gần đây ông càng có vẻ đăm chiêu hơn, suốt ngày vùi đầu vào những công việc ở khu City.

Bà Sedley thì vốn tính dễ dãi, không hay soi mói, thành ra bà cũng không cảm thấy khó chịu vì chuyện yêu đương của con gái. Joe thì đi vắng anh ta đang bị một người đàn bà góa Ai len ở Cheltenham tấn công. Một mình Amelia ở nhà... ôi, nhiều khi cô thấy sao căn nhà rộng rãi, trống trải quá, vì George còn bận việc trong đội Ngự lâm kỵ binh, không thể xin phép rời khỏi Chatham về luôn được; vả lại khi nào về tỉnh anh ta cũng còn thăm viếng bè bạn, cô chị và cô em gái ở nhà hoặc đi chơi bời đây đó (người như anh ta là một vật trang sức cho bất cứ một cuộc hội họp nào); khi anh ta trở về trung đoàn thì lại mệt mỏi quá rồi, không muốn viết những bức thư dài nữa. Tôi biết rõ chỗ cô ta giấu tập thư của George; tôi có thể lén lút ra vào phòng riêng của Iachimo... Như Iachimo? Không như vậy tồi quá.

Tôi chỉ muốn làm mặt trăng để được ngó vào tấm giường một cách vô tội, nơi lòng tin, sắc đẹp và sự thơ ngây đang nằm mơ mộng.

Song, nếu những lá thư của Osborne đều cộc lốc một cách rất nhà binh thì ta phải thú thực rằng, giả sử phải đem in cả những lá thư cô Sedley gửi cho Osborne, ắt phải kéo dài cuốn truyện này thành rất nhiều tập, ngay những bạn đọc đa cảm nhất cũng không thể chịu nổi. Không những cô viết kín đặc hàng trang giấy lớn, mà còn dùng những thủ thuật rất lạ; cô chép nguyên văn hàng trang thơ vào lá thư một cách không hề thương xót; cô gạch dưới nhiều chữ, nhiều câu một cách say sưa sôi nổi; tóm lại, cô bộc lộ hết những dấu hiệu về đời sống tâm tưởng hàng ngày của mình. Cô không phải là một nhân vật trong tiểu thuyết thành ra thư cô viết có những đoạn lặp đi lặp lại. Nhiều khi cô viết sai cả ngữ pháp, làm thơ thì hết sức tự do về quy tắc. Song, thưa các bà, nếu thỉnh thoảng các bà không được phép bấm dây tơ lòng mà không cần tuân theo nhạc luật, nếu vì các bà không thuộc lầu cách phân biệt thế nào là “ngắt đoạn ba”, thế nào là “ngắt đoạn bốn” mà không được đàn ông yêu, thì Thi ca có lẽ cũng đến tiêu ma, và các ông giáo thì cũng đến chết đói thảm hạm).
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13


TRỮ TÌNH VÀ NHỮNG THỨ KHÁC NỮA

Tôi sợ rằng chàng trai trẻ, người nhận những lá thư của cô Amelia, là một nhà phê bình tàn nhẫn.

Trung úy Osborne bị một đống thư như thế đuổi theo mình khắp chốn, khiến cho anh chàng gần như xấu hổ khi nghe bạn đồng ngũ nói đùa mình về chuyện ấy; anh ta ra lệnh cho người hầu chỉ được trao thư cho mình trong phòng riêng. Có lần mọi người thấy anh ta đốt một lá thư để châm thuốc làm cho đại úy Dobbin sợ quá; tôi tin rằng Dobbin sẵn sàng bỏ ra một tờ giấy bạc đánh đổi lấy tờ thư.

George cố gắng giấu kín tên người yêu của mình trong một thời gian khá lâu; anh ta chỉ nói đại khái “có một người đàn bà” trong việc này. Viên sĩ quan cầm cờ Spooney bảo viên sĩ quan cầm cờ Stubble: “Mà không phải là người đàn bà đầu tiên đâu nhé. Tay Osborne này đến là quỷ sứ. Ở Demerara, có một cô gái con một luật sư gần phát điên vì yêu anh ta; thế rồi đến cô thiếu nữ xinh đẹp hai đời lai da đen, là cô Pye ở St. Vincent, anh biết đấy; và từ khi trở về đây, anh ta khét tiếng là một tay Don Juan, lạy Chúa”.

Stubble và Spooney cho rằng “khét tiếng là một Don Juan” tức là đức tính đẹp đẽ nhất của người con trai. Tiếng tăm Osborne nổi như sóng cồn khắp trung đoàn. Anh ta nổi danh về tài săn bắn, nổi danh hát giỏi, nổi danh trong khi diễu binh, lại là tay ăn tiêu hào phóng, vì ông bố cho anh ta rất nhiều tiền. Áo của anh ta may khéo hơn áo của bất cứ sĩ quan nào trong trung đoàn. Anh ta lại có nhiều áo hơn mọi người. Ai cũng quý mến anh ta. Về tửu lượng anh ta có thể chấp tất cả mọi sĩ quan trong câu lạc bộ, kể cả viên đại tá già Heavytop. Anh ta đấu quyền giỏi hơn cả Knuckles, một anh lính trơn (anh này nếu không có tật say rượu thì đã được thăng chức hạ sĩ rồi, lại cũng đã từng đấu quyền tranh giải); trong câu lạc bộ của trung đoàn, George là tay chơi “batter” và “bowler” cừ nhất. Anh ta cưỡi con ngựa riêng của mình, con “Chớp nhoáng”, và đã cướp được giải của nhà binh trong cuộc đua ở Quebec. Ngoài Amelia còn vô khối cô gái mê tít anh chàng. Stubble và Spooney coi anh ta là một thứ thần Apollo () Dobbin coi anh ta là một Crichton (); còn bà thiếu tá O’Dowd thì công nhận anh ta là một thanh niên lịch sự, làm cho bà nhớ lại anh chàng Fitzjurld Fogarty, thứ nam của bá tước Castlefogarty quá. Tha hồ cho Stubble và Spooney cùng mọi người đoán phỏng về người đàn bà gửi thư cho Osborne...người bảo chính là một nữ công tước ở Luân đôn phải lòng anh chàng, kẻ đoán là con gái một đại tướng đã đính hôn với người khác nhưng vẫn điên cuồng gắn bó với anh ta ... có người lại nói chính là vợ một nghị sĩ quốc hội đang rủ anh ta đi trốn biệt tích một nơi... hoặc là một cô gái nào đó đang bị cuốn hút vào trong một mối tình mê ly kích thích, lãng mạn, bị mọi người ruồng bỏ; Osborne không hề rọi một chút xíu ánh sáng nào vào những lời phỏng đoán mơ hồ kia, cứ để mặc cho bè bạn và những người mê mình tưởng tượng, sắp đặt mọi tình tiết của câu chuyện. Và nếu đại úy Dobbin không tiết lộ thì cả trung đoàn không sao biết được sự thực trong câu chuyện yêu đương này.

Một hôm, viên đại úy đang ăn sáng trong phòng ăn chung của sĩ quan thì Cackle, một sĩ quan phụ tá quân y, cùng Stubble và Spooney bàn tán về chuyện yêu đương của Osborne; Stubble tuyên bố rằng người đàn bà chính là một vị nữ công tước hầu cận Nữ hoàng Charlotte, còn Cackle thì thề rằng cô ta là một nữ ca sĩ ở rạp Opera, tính tình cực kỳ bợm bãi. Nghe thấy thế, Dobbin bị xúc động mạnh quá đến nỗi quên phắt rằng mồm mình hãy còn đầy bánh mì phết bơ và trứng, và không nên tiết lộ câu chuyện làm gì; anh ta buột mồm nói:

- Cackle, anh là một thằng ngu xuẩn: bao giờ anh cũng ăn nói láo lếu toàn chuyện bậy bạ. Không phải Osborne sắp đi trốn cùng một nữ công tước, hay sắp làm hại cuộc đời một cô gái làm các đồ trang sức phụ nữ đâu. Cô Sedley là một thiếu nữ duyên dáng nhất đời xưa nay chưa từng thấy. George đã đính hôn với cô ấy từ lâu lắm rồi; và trước mặt tôi, xin đừng có ai nói xấu gì cô ấy mà không xong đâu.

Mặt Dobbin đỏ tía lên; anh ngưng lại, uống vội một tách nước trà, suýt nghẹn. Nửa giờ sau, khắp trung đoàn ai cũng biết chuyện; và ngay tối hôm ấy bà thiếu tá O’Dowd vội gửi thư cho cô em chồng là Glorvina ở thị trấn O’Dowd, nhắn đừng rời Dobbin vội chàng trẻ tuổi Osborne đã đính ước quá sớm rồi.

Tối hôm ấy, bà ta nâng một cốc rượu whisky lựa lời chúc tụng viên trung úy; anh chàng cáu quá trở về nhà gây sự với Dobbin (anh này không nhận dự tiệc với bà thiếu tá O’Dowd, ngồi trong phòng riêng để thổi sáo, và tôi tin rằng để làm cả những câu thơ buồn hiu hắt). .. gây sự vì Dobbin đã tiết lộ bí mật.

Osborne tức giận quát:

- Ai mượn anh dính vào chuyện riêng của tôi? Bây giờ khắp trung đoàn đều biết tôi sắp cưới vợ, thế là cái quái gì? Làm sao mà cái mụ già ngồi lê đôi mách Peggy O’Dowd ấy lại có thể ăn nói dông dài với tôi ngay trên bàn ăn của mụ, rồi tuyên bố việc đính hôn của tôi với khắp bàn dân thiên hạ? Nói tóm lại, anh có quyền gì mà bảo tôi hiện đã đính hôn, và dính dáng vào việc của tôi, hử Dobbin?

Dobbin đáp:

- Tôi thấy rằng...

Anh bạn ít tuổi hơn ngắt lời:

- Thấy cái con khỉ. Dobbin. Tôi mang ơn anh nhiều, tôi biết rõ lắm, rõ quá lắm; nhưng tôi không thích anh cậy hơn tôi năm tuổi mà lúc nào cũng dạy khôn tôi. Từ giờ, tôi cóc chịu để cho anh giở mãi cái thái độ thương xót trịch thượng, đàn anh với tôi nữa. Thương xót với chả che chở? Tôi muốn biết tôi là đàn em của anh về cái gì?

Đại uý Dobbin hỏi:

- Thế có phải anh đã đính ước không?

Tôi đã đính ước thì có quan hệ cóc gì đến anh hoặc đến người nào khác ở đây?

Dobbin lại hỏi:

- Anh có xấu hổ vì điều ấy không?

George hỏi lại:

- Tôi muốn được biết anh lấy quyền gì mà hỏi tôi câu ấy?

Dobbin đứng phắt dậy:

- Lạy Chúa, anh không định nói muốn cắt đứt việc đính ước ấy chứ?

Osborne giận dữ đáp:

- Nói một cách khác, anh muốn hỏi tôi có phải là một người biết trọng danh dự hay không phỏng, có đúng ý anh như vậy không? Gần đây, đối với tôi, anh có cái giọng...khiến tôi không thể nào chịu đựng được nữa.

- Tôi làm gì anh? George, tôi chỉ bảo anh rằng anh bỏ rơi một thiếu nữ dịu dàng, hiền hậu; tôi chỉ bảo anh rằng khi nào về tỉnh, anh nên đến thăm cô ấy đừng đến cái sòng bạc ở phố St. James nữa.

George cười khẩy, nói:

- Tôi đoán rằng, anh muốn đòi nợ tôi.

Dobbin đáp:

- Dĩ nhiên, tôi muốn đòi nợ...tôi vẫn đòi luôn, đúng không? Anh nói như mình rộng rãi lắm ấy.

Đến đây George hối hận nói:

- Không, chết cha! William, anh tha lỗi cho tôi. Anh đã tốt với tôi rất nhiều, có thượng đế chứng giám. Anh, đã giúp tôi thoát khỏi nhiều chuyện rắc rối. Lúc thằng Crawley trong đội ngự lâm quân được của tôi món tiền ấy, suýt nữa thì tôi đi đứt, nếu không nên ác với tôi thế, không nên lúc nào cũng giảng đạo cho tôi nghe. Tôi vẫn yêu Amelia lắm, tôi thờ phụng cô ấy và cả những thư từ này nữa. Xin anh đừng giận; cô ấy không có lỗi gì hết, tôi hiểu lắm. Nhưng anh biết đấy; không đánh bạc thì được cái gì, tôi cũng không thấy thú. Trung đoàn vừa mới ở Tây Ấn về, cũng phải cho tôi “sống” một chút chứ. Bao giờ cưới vợ tôi sẽ tu tỉnh lại. Tôi lấy danh dự mà cam đoan như vậy. Và tôi bảo...Dob ạ...đừng giận tôi nữa: tháng sau tôi sẽ trả anh một trăm đồng, khi nào tôi biết ba tôi vớ được món lãi gì bở. Tôi sẽ xin ông Heavytop cho nghỉ phép; ngày mai, tôi về tỉnh và đến thăm Amelia... nào, bây giờ anh đã bằng lòng chưa?

Viên đại úy tốt bụng đáp:

- George, không ai giận anh được lâu; còn về chuyện tiền nợ thì anh hiểu đấy, nếu tôi thiếu tiền, chắc anh sẵn lòng cho tôi tiêu chung đến đồng xu cuối cùng của anh.

- Lạy chúa, tôi sẵn lòng, Dobbin ạ.

George đáp có vẻ rất hào phóng, tuy rằng anh ta không bao giờ để dành được lấy một xu.

- George, tôi hy vọng rằng anh chơi bời thế cũng đã đủ rồi. Nếu anh được nhìn thấy mặt cô Emmy đáng thương khi cô ấy gặp tôi hỏi thăm tin anh hôm nọ thì anh sẽ vứt phăng cái bàn bi-a đi rồi. Về mà an ủi cô ấy đi, đồ tồi. Hãy viết cho cô ấy một lá thư thật dài; hãy làm một việc gì cho cô ấy được sung sướng; tôi chỉ mong ước có thế thôi.

Viên trung úy có vẻ tự mãn, đáp:

- Tôi tin rằng cô ấy yêu tôi lắm.

Rồi anh ta lại chuồn đi đàn đúm suốt buổi tối hôm ấy với mấy anh bạn chơi bời trong câu lạc bộ nhà binh.

Trong lúc ấy thì ở khu phố Russell, Amelia đang ngước nhìn mặt trăng; mặt trăng đang soi tỏ chốn lặng lẽ này cũng như đang soi tỏ trại lính ở Chatham, nơi Osborne đóng quân; cô đang tự hỏi không biết người yêu đang làm gì. Cô nghĩ thầm: “Có nhẽ anh ấy đang đi kiểm tra các vọng canh, có lẽ anh ấy đang tạm trú quân ở đâu đấy; có lẽ anh ấy đang săn sóc bên giường bệnh của một người bạn bị thương, hoặc đang ngồi lẻ loi trong phòng riêng nghiên cứu chiến thuật quân sự”. Và những ý nghĩ êm ái của cô bay lên không, như những thiên thần có cánh, dọc theo dòng sông bay đến Chatham và Rochester, cố nhòm ngó vào trại lính, chỗ George đang...

Ngẫm cho kỹ, tôi cho rằng cổng trại đóng chặt, lính canh không cho phép ai ra vào như thế lại tốt cơ đấy; thành ra vị thiên thần bé nhỏ đáng thương mặc áo trắng không thể nghe thấy những bài hát bọn trai trẻ đang gào lên bên những cốc rượu mạnh.

Sau hôm xảy ra câu chuyện ở trại lính Chatham, anh chàng Osborne muốn tỏ ra mình đã nói là làm, bèn sửa soạn về tỉnh; đại úy Dobbin tỏ ý rất tán thành. Osborne muốn mua một món quà mọn tặng Amelia; chết nỗi chẳng còn xu nào, mà ông cụ lại chưa cho tiền.

Nhưng Dobbin không chịu để cho con người tốt bụng và hào phóng ấy phải thất vọng vội đưa ngay cho Osborne mấy tờ giấy bạc; sau vài câu từ chối gọi là lấy lệ, Osborne cầm đút túi. Tôi dám cam đoan rằng anh ta cũng muốn mua một món quà gì thật đẹp tặng Amelia; có điều, khi bước xuống xe ở phố Fleet, anh ta thấy một cái cặp áo sơ-mi đẹp quá bày trong một hiệu kim hoàn, nó quyến rũ không sao cưỡng lại được. Trả tiền xong, chả còn bao nhiêu mà tính đến chuyện mua quà tặng người yêu nữa. Nhưng không sao, xin các bạn yên trí rằng Amelia không đợi quà của anh ta đâu. Lúc George đến khu phố Russell, mắt cô sáng bừng lên như nắng rọi. Bao nhiêu nỗi lo lắng, sợ hãi, những dòng nước mắt, những sự phỏng đoán rụt rè, những nỗi trằn trọc ròng rã không biết bao đêm ngày, chỉ trong một phút tiêu tan hết cả, trước nụ cười hấp dẫn quen thuộc kia. Đứng trong khung cửa phòng khách, người yêu cô như tỏa sáng...nguy nga với bộ ria mép màu hổ phách, đẹp như một vị thần. Sambo vào báo tin có đại úy Osborne đến (bác thăng cho viên sĩ quan trẻ tuổi thêm một trật); bác nhăn răng cười thông cảm, mặt tươi hẳn lên khi thấy cô thiếu nữ đỏ mặt, từ chỗ ngồi ngóng trông cạnh cửa sổ vội vàng nhảy bổ ra; Sambo kín đáo lùi ra ngoài. Cánh cửa vừa đóng lại, cô khấp khởi nép mình vào ngực trung úy Osborne dường như đó là nơi duy nhất ủ ấp tâm hồn mình.

Ôi hỡi tâm hôn bé nhỏ đáng thương đang hồi hộp kia! Cái cây đẹp nhất trong cả cánh rừng, thân cây thẳng tắp, cành mạnh khỏe, lá rườm rà , mà người chọn làm nơi dựng tổ ấm và líu lo ca hát, không bao lâu đâu có thể bị người ta chú ý tới, và bị đốn gãy, kêu “rắc” một cái là xong. Đã từ lâu lắm rồi, người ta vẫn lấy hình ảnh một cái cây để ví với người đàn ông!

George rất dịu dàng hôn Amelia vào trán, vào đôi mắt long lanh, và vẫn tỏ vẻ rất tình tứ, rất đáng yêu; còn Amelia thì khen chiếc cặp áo sơ-mi nạm kim cương của người yêu (mà trước kia chưa hề bao giờ thấy anh ta dùng) là một vật trang sức đẹp nhất xưa nay.

Bạn đọc hẳn chú ý đến tính tình của viên trung úy trẻ tuổi khi đọc đoạn miêu tả câu chuyện ngắn ngủi giữa anh ta và đại úy Dobbin; rất có thể bạn đã muốn có ý kiến kết luận về tư cách của Osborne. Một anh chàng người Pháp tồi tệ nào đó đã nói rằng trong một “vụ” yêu nhau, phải có hai bên: một bên yêu, và một bên thì hạ cố chịu để cho người ta yêu mình. Tình yêu có thể là ở phía đàn ông, mà cũng có thể là ở phía đàn bà. Rất có thể một anh chàng si tình nào đó đã lầm lẫn, thấy vô tình tưởng là e lệ, trong sự đần độn lại ngỡ là tính nhút nhát của gái trinh, gặp người ngốc nghếch lại yên trí là kín đáo dịu dàng, tóm lại, trông gà cứ nghĩ là cuốc. Cũng rất có thể một bạn nữ độc giả nào đó đã khoác cho một con lừa tấm áo huy hoàng lộng lẫy theo trí tưởng tượng, kính phục sự ngu xuẩn của nó như là tính giản dị cao thượng, thờ phụng thói ích kỷ của nó coi như thái độ của kẻ cao sang kiêu hãnh, lầm sự đần độn của nó với sự sang trọng đường bệ, và đối đãi với nó như là cô Titania trong câu chuyện tiên đối đãi với một anh thợ dệt ở thành Athens. Tôi đã từng được chứng kiến những màn hài kịch về sự lầm lẫn như vậy vẫn tiếp tục diễn ra trong đời sống. Song, chắc chắn cô Amelia yên trí rằng người yêu của mình là một trong số những con người giỏi giang, nổi tiếng nhất trong nước và trung úy Osborne rất có thể cũng nghĩ như thế.

Tính anh ta hơi bừa bãi một chút; có biết bao thanh niên tính tình như vậy; và phải chăng thà rằng bừa bãi, con gái họ lại thích hơn là ngờ nghệch? Anh ta chưa hết tuổi chơi bời đâu; nhưng cũng sắp đến lúc tu tỉnh rồi; bây giờ chiến tranh đã hết, anh ta sẽ giải ngũ. Con quỷ đảo Corse đã bị nhất ở đảo Elba, do đó, cũng hết cả thăng trật, mà anh ta cũng không còn hy vọng gì thi thố khả năng quân sự của mình nữa. Với số tiền bố cấp cho, cộng với tiền vốn riêng của Amelia, hai vợ chồng rất có thể sống một cuộc đời ấm cúng tại một nơi thôn quê nào đó, cảnh vật xung quanh thuận tiện cho việc giải trí. Anh ta sẽ săn bắn chút ít, làm trại chút ít, và hai vợ chồng sẽ sống rất hạnh phúc... còn như có vợ rồi mà cứ tiếp tục tại ngũ thì không được. Cứ tưởng tượng xem, bà George Osborne mà phải thuê nhà sống ở tỉnh lẻ, hoặc tai hại hơn, sống ở Đông Ấn hay Tây Ấn, giữa một xã hội toàn là những sĩ quan, và bị bà thiếu tá O’Dowd lên mặt bề trên? Nghe Osborne kể chuyện về bà thiếu tá O’Dowd, Amelia suýt chết vì cười.

George yêu cô quá, không nỡ bắt cô phải chịu phụ thuộc vào mụ đàn bà khủng khiếp ấy và những cử chỉ thô lỗ của mụ; anh ta cũng không muốn cô phải sống cảnh sống vất vả của vợ một quân nhân. Anh ta không lo cho thân mình đâu, nhưng cô thiếu nữ bé bỏng thân yêu kia cần phải có địa vị trong xã hội mà cô sẽ sống xứng đáng với tư cách là vợ anh ta. Chắc chắn là cô sẽ ưng thuận tất cả những đề nghị ấy, như cô sẵn sàng ưng thuận bất cứ điều gì George đề nghị.

Đôi tình nhân cứ tiếp tục trò chuyện với nhau như vậy cùng nhau say sưa xây dựng bao nhiêu lâu đài trong mộng tưởng suốt trong hai tiếng đồng hồ (Amelia thì ra sức mà trang hoàng cho những lâu đài ấy đủ thứ: nào vườn hoa, lối đi chơi, nhà thờ làng, trường học v.v...trong khi George chỉ nghĩ đến những chuồng ngựa, cũi chó, và hầm rượu); anh chàng trung úy chỉ có mỗi một ngày nghỉ để về chơi tỉnh mà có bao nhiêu là việc phải giải quyết, bèn đề nghị cô Emmy dùng bữa với cô chị chồng và cô em chồng tương lại. Amelia vui vẻ nhận lời ngay. Anh chàng bèn dẫn người yêu đến gặp hai cô thiếu nữ, rồi bỏ mặc cô đó mà đi lo công việc riêng của mình; Amelia chuyện trò ríu rít làm cho hai cô kia ngạc nhiên quá, không biết George làm thế nào mà cô ấy biến đổi vậy.

Tóm lại, anh ta đi ăn kem trong một hiệu bánh ở Charing Cross, đến Pall Mall thử một tấm áo mới, rẽ vào tiệm của lão Slaughters một chút, sai người đi mời đại úy Cannon, cùng chơi một ván bi-a, anh ta được tám ván rồi mới quay về khu phố Russell để ăn chiều chậm mất nửa giờ nhưng rất vui ve.

Riêng ông lão Osborne thì không vui vẻ tý nào. Lúc ông ta từ khu City trở về nhà, qua phòng khám gặp hai cô con gái và bà Wirt, thấy mặt ông ta xệ ra, nghiêm trang và vàng khè; cứ nhìn mặt ông lão và đôi lông mày rậm đang cau lại, họ cũng rõ ông đang có điều gì phiền muộn lắm. Lúc Amelia bước ra chào ông.

Bao giờ cô cũng run run sờ sợ khi phải chào ông ta.

Ông chỉ sẽ “hừ” một tiếng trả lời và cái bàn tay to tướng đầy lông lá của ông buông rơi bàn tay bé nhỏ của cô không muốn giữ lại. Ông ta ngoái cổ gườm gườm nhìn cô con gái lớn; cô này hiểu thầm cái nhìn của bố ý muốn hỏi “Thế quái nào mà con bé kia lại đến đây nhỉ?” Cô vội đáp:

- Ba ạ, anh George về chơi; anh ấy đến trại ngự lâm quân sắp về đây ăn cơm đấy.

- Hừ, nó về hả? Jane, tao không muốn chờ cơm nó đâu.

Vừa nói ông già vừa ngồi phịch xuống chiếc ghế bành riêng của mình; từ lúc ấy một sự im lặng hoàn toàn bao trùm căn phòng khách lịch sự; chỉ nghe tiếng chiếc đồng hồ kiểu Pháp to tướng kêu tích tắc tích tắc.

Lúc chiếc đồng hồ trên có tượng Iphigenia bị hiến tế bằng đồng nặng nề ngân vang năm tiếng như chuông nhà thờ, ông Osborne giơ tay phải kéo mạnh dây chuông; bác quản lý chạy vội vào. Ông quát:

- Dọn ăn?

Bác quản lý đáp:

- Thưa ngài, cậu George chưa về à.

- Cậu George chết tiệt? Tao có phải là chủ nhà này không? Mặt ông Osborne cau lại, Amelia run bần bật. Ba người phụ nữ kia thầm đưa mắt hỏi nhau. Tiếng chuông báo giờ ăn đã vang lên dưới nhà. Chuông dứt, ông chủ gia đình thọc hai tay vào hai cái túi to kếch trên tấm áo khoác màu xanh có khuy đồng, và không chờ ai vào mời, một mình rảo bước xuống thang gác, còn ngoái cổ lại cau mặt nhìn Wirt và ba cô thiếu nữ.

Bốn người đứng dậy rón rén bước theo ông già; một cô hỏi:

- Này có chuyện gì đấy nhỉ?

Bà Wirt đáp:

- Tôi đoán cổ phần sụt giá rồi.

Cứ thế đám đàn bà con gái im lặng sợ hãi run rẩy bước theo ông chủ gia đình đang lầm lì đi trước.

Họ lặng lề ngồi vào chỗ. Ông ta lầm bầm cầu kinh, nghe như chửi ai, và những cái vung lớn bằng bạc úp trên mặt đĩa được cất đi. Amelia ngồi trên ghế mà run quá; cô ngồi sát cạnh ông Osborne, lại chỉ có một mình không có ai ngồi cạnh cô mé bên này vì George chưa về.

- Xúp?

Ông Osborne nắm chặt chiếc thìa lớn vừa hỏi vừa nhìn chằm chằm vào mặt cô, giọng nói như vang từ đáy mồ, ông đổ xúp vào đĩa cho cô và cho mọi người rồi lặng yên một lúc lâu. Cuối cùng ông nói:

- Dọn đĩa của cô Sedley đi. Cô ấy không ăn được xúp. Tôi cũng thế. Xúp nấu tồi quá. Dọn món xúp đi, Hicks; ngày mai tống cổ thằng bếp, nghe không, Jane .

Lên án món xúp xong, ông Osborne đưa ra mấy nhận xét cộc lốc về món cá, vẫn cứ cái giọng thô bạo giễu cợt, và chửi Billingsgate bằng một câu thô tục không thích hợp lắm với hoàn cảnh. Đoạn ông lại ngồi yên lặng, nốc cạn mấy cốc rượu vang liền, mỗi lúc trông càng thêm đáng sợ. Mãi khi nghe tiếng George về gõ cửa, mọi người mới bắt đầu trở lại vui vẻ.

- Tôi không về sớm hơn được. Tướng Daguilet bắt tôi đợi mãi ở trại Ngự lâm quân. Không cần xúp và cá, cho tôi ăn gì cũng được...tôi không khó tính đâu. Thịt cừu cũng ngon... ăn gì cũng ngon.

Anh ta vui tính quá, trái hẳn với ông bố cứ lầm lầm lỳ lỳ. Suốt bữa ăn, anh ta chuyện trò tíu tít, ai cũng thích...đặc biệt có một người thích nhất; không nói, ta cũng đã rõ.

Những bữa tiệc trong gia đình ông Osborne thường kết thúc bằng món tráng miệng là cam và rượu vang; mấy cô thiếu nữ vừa bàn tán với nhau xong về hai thứ này thì nghe chuông báo hiệu đi lên phòng khách, bèn đứng dậy rời khỏi phòng ăn. Amelia hy vọng George cũng sẽ lên ngay phòng khách; cô bắt đầu chơi vài bản “valse” (điệu này mới du nhập) trên chiếc đàn dương cầm lớn bốn chân có chạm trổ, có nắp đậy bọc da kê trong phòng khách trên gác. Nhưng tiếng đàn cũng không gọi được anh chàng: dễ thường anh ta không muốn nghe điệu “valse” thì phải; và tiếng đàn lắng xuống tắt dần. Lúc này, người nhạc công thất vọng đã rời khỏi cây đàn đồ sộ. Mặc ba người bạn đang biểu diễn mấy bản nhạc mới nhất họ vừa học, chơi rất to rất hay, cô không nghe thấy một tiếng nào, chỉ ngồi buồn rầu nghĩ ngợi phỏng đoán toàn chuyện không hay.

Vẻ mặt cau có của Osborne xưa nay vẫn đáng sợ, nhưng chưa bao giờ đối với cô lại có vẻ khủng khiếp đến thế. Mắt ông rõi theo cô lúc bước ra khỏi phòng, dường như cô đã phạm tội gì ấy. Lúc người nhà bưng cà phê lên, cô giật nẩy mình như thể bác Hicks có ý định mời mình uống một chén thuốc độc. Có chuyện bí mật gì đang lởn vởn quanh đây thì phải? Ôi, những người đàn bà. Họ nuôi nấng, nâng niu những linh cảm, ôm ấp cả những ý tưởng đen tối nhất như họ ôm ấp những đứa con đẻ xấu xí của họ.

George Osborne thấy dáng điệu cha lầm lỳ cũng lấy làm lo lắng. Cứ nom đôi lông mày cau lại và cái nhìn giận dữ rõ rệt như thế thì hy vọng gì moi được tiền của ông già, mà George thì đang túng tiền quá. Anh ta bắt đầu bằng việc khen rượu của cha rất ngon. Thường thường dùng cách ấy để lấy lòng ông già vẫn có kết quả tốt.

- Ba ạ, ở Tây Ấn chúng con không bao giờ được uống thứ rượu Madeira ngon như vậy. Bữa nọ số rượu ba gửi cho con bị đại tá Heavytop lấy mất ba chai.

Ông già nói:

- Thật không? Tôi mua mỗi chai mất ba si-linh đấy.

George cười hỏi:

- Cha có bán lại sáu ghi-nê một tá không nào? Có một bậc tai mặt nhất trong nước muốn dùng một ít dấy.

Ông bố lầm bầm:

- Thế hả? Mong rằng ông ta tìm mua được.

- Ba ạ, hồi tướng Daguilet ở Chatham, đại tá Heavytop có mời ăn sáng, và hỏi xin con vài chai vang. Đại tướng thích loại rượu ấy lắm...đang cần một thùng để biếu ngài Tổng tư lệnh. Ông ta là cánh tay phải của Hoàng tử.

- Rượu ấy thì ngon tuyệt.

Đôi lông mày cau có đáp, và từ đó nom có vẻ tươi tỉnh hơn chút ít. George sắp sửa lợi dụng cơ hội ngỏ lời xin cha ít tiền, thì vẻ mặt ông già trở lại nghiêm trang như cũ, tuy có phần thân mật hơn. Ông bảo con trai rung chuông gọi đem rượu nho:

- George, thử xem có ngon bằng các loại rượu Madeira mà Hoàng tử đã thưởng thức không. Vừa uống rượu, ta vừa bàn với nhau một câu chuyện quan trọng.

Đang ngồi nóng ruột đợi trên gác, Amelia nghe tiếng chuông kêu vang. Không rõ tại sao cô nghĩ ngay rằng tiếng chuông bí mật ấy báo hiệu điều gì không may. Người ta thường có những sự linh cảm đôi khi cũng rất đúng.

Sau khi từ từ nốc cạn chén đầu tiên, ông già nói:

- George, điều tôi muốn biết rõ là anh và...à...và cái con bé trên gác kia bây giờ ra sao?

George mỉm cười tự mãn đáp:

- Thưa ba, con tưởng khó gì mà không biết. Rõ quá, ba ạ gớm, rượu ngon tuyệt!

- “Rõ quá”, thế là thế nào?

- Sao nữa, chết cha? Thôi đừng dồn con đi. Tính con đứng đắn lắm. Con...ạ...con không được là tay “điển trai cho gái phải lòng”, nhưng con dám tin rằng, cô ấy mê con như điếu đổ. Chỉ thoáng qua là ai cũng phải thấy như thế.

- Còn anh thì sao?

- Còn sao nữa; thưa ba, hồi còn bé không phải chính ba ra lệnh cho con lấy cô ấy làm vợ sao? Các cụ đã đính ước với nhau từ đời thủa nào rồi còn gì?

- Ông ngoan lắm. Tôi cũng đã biết ông đi lại chơi bời với bá tước Tarquin, với đại úy Crawley trong đội Ngự lâm, với ngài Deuceace và những người tương tự ra sao rồi. Ông cứ liệu hồn, cứ liệu hồn đấy.

Ông già nhắc đến những cái tên quý phái bằng một giọng vô cùng khoái trá. Bất cứ khi nào gặp một người có danh vọng, ông ta cũng khúm núm, một điều bẩm quan, hai điều bẩm quan, như tất cả mọi người dân Anh có tư tưởng tự do khác. Đoạn ông ta quay về nhà, giở cuốn: “Danh bạ quý tộc” ra tra tiểu sử người ấy và cố xem bằng được tên người ấy vào trong câu chuyện hàng ngày, hoặc khoác lác với mấy cô con gái về vị quý tộc ông quen biết. ông ta phủ phục xuống và tưởng như được sưởi ấm khi gần gũi người quyền quý, y như những kẻ hành khất người xứ Naples hay sưởi ấm dưới ánh mặt trời. Nghe đến mấy cái tên ấy George hoảng quá; anh ta sợ rằng có thể ông già đã nghe ai mách chuyện con trai rong chơi bài bạc. Nhưng anh chàng yên tâm ngay vì nhà luân lý lão thành chỉ bình thản nói.

- Được, được lắm. Trẻ tuổi là tuổi trẻ và, anh George, điều tôi lấy làm an ủi là thấy anh sống giữa giới thượng lưu của nước Anh; tôi mong và tin rằng anh sẽ sống như vậy, cũng như tôi có điều kiện cho phép anh sống như vậy.

George lập tức bắt lấy cơ hội:

- Cảm ơn cha; nhưng sống giữa những bậc tai to mặt lớn không tiền không được; thế mà túi tiền của con thì cha xem đây này. Anh ta giơ cái túi của Amelia đan hộ cho cha coi, trong túi chỉ còn lại đúng một tấm giấy bạc vay của Dobbin.

- Anh sẽ không thiếu tiền. Con trai một thương gia người Anh sẽ không thiếu tiền tiêu. George, tiền của cha cũng quý như tiền của người khác, con ạ; và cha cũng không hẹp hòi đâu. Ngày mai, anh đi qua khu City nhớ ghé vào thăm ông Chopper; ông ấy sẽ đưa cho anh một ít tiền. Nếu tôi biết anh đi lại với những người có danh vọng, tôi sẽ không tiếc tiền cho anh tiêu, vì tôi hiểu rằng trong xã hội thượng lưu không thể có điều gì xấu. Tôi không kiêu hãnh; tôi sinh ra là con nhà tầm thường, nhưng anh thì có nhiều thuận lợi. Hãy lợi dụng những thuận lợi đó. Hãy đi lại giao thiệp với bọn trai trẻ con nhà quý phái, Rất nhiều người trong bọn họ không có nhiều tiền để tiêu pha bằng anh đâu. Còn như về chuyện những cái mũ chùm màu hồng (nói đến đây, dưới chòm ông mày rậm của ông, sáng lên một cái nhìn đầy ý nghĩa nhưng không tươi tỉnh lắm) ...thì, hừ; rồi những chuyện trẻ con ấy sẽ đi qua... Tôi chỉ ra lệnh cho anh cần tránh một điều; nếu anh không nghe, tôi thề sẽ không cho anh một đồng xu nào nữa, tức là đừng có đánh bạc.

George đáp:

- Ồ, điều đó thì dĩ nhiên rồi, thưa cha.

- Nhưng ta hãy quay lại câu chuyện về cô Amelia. Tại sao anh lại không muốn lấy vợ con nhà sang trọng hơn con gái một nhà buôn tín phiếu... anh cho tôi biết?

George vừa cắn hạt dẻ vừa đáp:

- Thưa ba, đó là việc chung của gia đình. Ba và ông Sedley đã đính ước với nhau hàng thế kỷ nay rồi còn gì.

- Tôi không chối cãi điều đó, nhưng cũng tùy từng hoàn cảnh, anh hiểu không? Tôi không chối cãi rằng ông Sedley đã giúp tôi làm nên; đúng hơn, ông ấy dẫn tôi đi vào con đường làm ăn phát đạt, và nhờ tài trí riêng của tôi, tôi đã chiếm một địa vị đáng kiêu hãnh trong giới buôn sáp và trong khu City ở Luân-đôn. Tôi đã tỏ lòng biết ơn đối với ông Sedley; và gần đây, anh nên biết ông ấy đã rõ tấm lòng tôi; cứ xem con số, ngân phiếu của tôi thì đủ biết. George, tôi nói riêng cùng anh rằng coi tình hình kinh doanh của ông Sedley, tôi không vui lòng lắm; lão Chopper thư ký riêng của tôi cũng thấy thế, mà lão là một tay cáo già, hiểu thấu tình hình Phòng Hối đoái hơn bất cứ người nào ở Luân- đôn này. Hulker và Bullock cũng phải kém tài ông ta. Tôi sợ ông ta muốn chơi lối “được ăn cả ngã về không” đấy. Họ đồn rằng chiếc tầu “Thiếu nữ Amelie” ngày trước là của ông ta về sau bị chiếc tầu cướp bể “Molasses” của Mỹ bắt. Điều đó thì chắc chắn rồi...trừ phi mắt tôi nom thấy con Amelia có một vạn đồng hồi môn, anh không được lấy nó làm vợ. Con gái một anh phá sản không thể làm dâu nhà tôi được. Thôi, uống nốt rượu đi...hoặc gọi nó lấy cà-phê.

Nói đoạn ông Osborne mở rộng tờ báo buổi tối ra; George hiểu rằng cuộc hội ý đã xong và bố sắp sửa đánh một giấc ngủ.

Anh ta rất hồi hộp, vội vàng leo lên gác chỗ Amelia ngồi chơi. Tối hôm ấy, anh ta tỏ ra săn sóc đến người yêu nhiều hơn mọi lần, muốn làm cho cô vui lòng hơn, cử chỉ trừu mến hơn, nói chuyện có duyên hơn, đã lâu lắm không được như vậy. Vì sao thế, phải chăng vì thấy trước sự không may đe dọa người yêu mà tấm lòng độ lượng của George xúc động? Hoặc phải chăng vì nghĩ rằng mình sắp mất người đàn bà thân yêu ấy mà anh ta càng quý báu hơn?

Amelia còn nhớ rất lâu những kỷ niệm của buổi tối hạnh phúc ấy, nhớ từng lời người yêu nói, từng cái nhìn, từng bài hát, từng dáng điệu của người yêu, nhớ lúc anh ta ghé sát xuống bên hoặc từ xa đứng nhìn lại. Đối với cô, chưa có buổi tối nào sống trong gia đình Osborne lại trôi qua nhanh chóng như tối hôm ấy. Và lần đầu tiên có thiếu nữ gần như tức giận khi thấy bác Sambo đem tấm khăn san của cô đến quá sớm.

Sáng hôm sau, George đến âu yếm từ biệt người yêu rồi vội vã đến khu City. Anh ta tìm đến ông Chopper, người thư ký riêng của cha; ông này đưa cho anh ta một tờ giấy, đem đến Công ty Hulker và Bullock lĩnh được một túi tiền đầy. Lúc George bước vào hãng này thì ông già Sedley cũng vừa từ phòng thủ quỹ của ngân hàng bước ra, trông rất tiều tụy. Nhưng anh đang khoái trí quá, không kịp nhận thấy vẻ rầu rĩ của ông già buôn cổ phiếu và cặp mắt âu sầu của ông lão đang nhìn mình. Con trai ông Bullock cũng không vừa cười vừa tiễn ông ta từ phòng khách ra ngoài như những lần trước nữa.

Cánh cửa quay của hãng Hulker và Bullock đóng lại sau lưng ông Sedley rồi, thì ông Quill, người thủ quỹ (công việc đáng quý của ông này là mở ngăn kéo giao cho người ta những tấm giấy bạc nhầu nát và nhặt những đồng tiền vàng trong một cái chậu đồng đếm cho người ta) bèn nháy mắt với ông Driver cũng nháy mắt lại. Ông Driver thì thầm:

- Không xong rồi.

Ông Quill đáp:

- Không có tiền thì xong thế nào được. Ông George Osborne thưa ông, ông nghĩ thế ạ?

George hối hả tống vội nắm giấy bạc vào hai túi; tối hôm ấy gặp Dobbin ở câu lạc bộ nhà binh, anh ta trả ngay năm mươi đồng bảng tiền nợ.

Cũng tối hôm ấy, Amelia viết cho George một lá thư dài, lời lẽ âu yếm nhất. Tâm hồn cô tràn trề những tình cảm êm dịu, song cô vẫn cứ linh cảm thấy có điều gì bất trắc. Cô tự hỏi tại sao ông Osborne nhìn mình lạnh lùng như thế. Hay là giữa ông và ba cô có điều gì xích mích với nhau? Ông bố đáng thương của cô từ khu City về nhà, dáng điệu quá buồn bã, làm cho cả nhà ai cũng lo lắng cho ông...Tóm lại, suốt bốn trang thư toàn những yêu đương, lo lắng, hy vọng và phấp phỏng. George vừa đọc thư vừa nói: - Emmy bé bỏng đáng thương của anh...Emmy thân mến của anh. Nàng yêu tôi biết bao? Ôi, trời, mấy cốc rượu pha ấy làm cho mình nhức đầu khiếp quá!

Cô Emmy bé bỏng quả đáng thương thật.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14


BÀ CRAWLEY TẠI NHÀ RIÊNG

Trong khoảng thời gian ấy một cái xe ngựa kín mui, có sơn hình một quả trám trên vách gỗ, chạy về phía một căn nhà rất sang trọng, ấm cúng ở đường công viên; sau xe có một người đàn bà vẻ mặt cau có đeo chàng mạng xanh, tóc cặp uốn; ngồi đằng trước là một bác người nhà cao lớn. ấy là chiếc xe của bà Crawley từ Hants trở về nhà. Cửa sổ xe đóng kín mít; mọi khi con chó béo múp vẫn thò đầu ra ngoài cửa sổ, lưỡi thè dài ra; lần này nó nằm gọn trong lòng người đàn bà mặt cau có. Xe đỗ, đám đầy tớ xúm nhau vào khênh một đống lù lù toàn khăn san ra khỏi xe, theo sau đống quần áo là một người thiếu nữ. Đống quần áo ấy chính là bà Crawley vậy. Cứ thế, bà được chuyển lên gác và được đặt vào trong một căn phòng đã đốt lửa sẵn sàng như để đón người ốm. Lập tức người nhà được phái đi tìm thầy thuốc riêng của bà. Họ đến xem bệnh, kê đơn, rồi biến mất. Thầy thuốc khám bệnh xong, cô thiếu nữ trẻ tuổi cùng đi với bà Crawley bước vào phòng để nghe ông thầy thuốc dặn dò, và cho bà uống những thứ thuốc giảm thống theo lệnh của các vị danh y.

Ngày hôm sau, đại úy Crawley thuộc đội kỵ binh Ngự lâm từ trại lính Knightsbridge cưỡi ngựa về thăm. Con ngựa ô của anh ta dùng móng bới bới đống rơm trước cửa nhà bà cô ốm. Anh ta săn đón hỏi thăm tình hình sức khỏe của bà cô. Hình như tình trạng có hơi đáng ngại thì phải. Anh ta thấy người hầu phòng của bà Crawley (tức là người đàn bà mặt khó đăm đăm nói trên) có vẻ cau có buồn phiền một cách khác thường; lại thấy bà Briggs là người tùy nữ () ngồi khóc một mình trong phòng khách. Bà này nghe tin người bạn yêu dấu của mình mang bệnh, bèn vội vã trở về nhà.

Bà ước gì được bay ngay đến cạnh giường người bệnh; đã bao lần bà vuốt ve chiếc đệm giường này mỗi khi bà bạn ốm. Người ta không cho bà vào buồng của bà Crawley. Đã có một người lạ mặt lo việc thuốc thang cho bà ấy rồi...một người lạ mặt ở nhà quê ra...một cô gái đáng ghét tên là…nói đến đây người tùy nữ ứa nước mắt nghẹn lời; bà vội vùi cả tấm tình thương bạn đang muốn nén xuống và cả cái mũ đỏ khốn khổ của bà vào trong chiếc khăn tay.

Rawdon Crawley nhờ người hầu phòng () mặt cau có báo tin hộ có mình đến thăm; người bạn tri kỷ mới của bà Crawley vội từ phòng của người bệnh chạy xuống; anh chàng săn đón tiến lên; cô ta đặt bàn tay nhỏ nhắn của mình vào bàn tay anh chàng, khinh khỉnh liếc nhìn bà Briggs đang đứng sửng sốt, đoạn cô ta vẫy tay gọi chàng sĩ quan Ngự lâm ra phòng khách, dẫn anh ta xuống thang vào tận trong căn phòng ăn lúc này vắng tanh, nơi đã bao bữa tiệc linh đình được tổ chức.

Hai người nói chuyện với nhau đến mười phút, chắc họ thảo luận với nhau về triệu chứng của bệnh nhân nằm trên gác. Thảo luận xong, thấy chuông trong căn phòng lớn réo ầm lên; lập tức bác Bowls, tức là bác quản lý thân tín to béo của bà Crawley, vội trả lời ngay (trong gần hết khoảng thời gian hai người trò chuyện với nhau, bác ta tình cờ nhòm qua lỗ khóa). Viên đại úy vê vê ria mép, bước ra nhảy phắt tên lưng con ngựa ô đang bới bới đống rơm; bọn trẻ con đứng xúm xít ngoài phố trông thấy phục lắm. Anh ta ngó vào cửa sổ phòng ăn, điều khiển con ngựa cho nó chồm hai chân trước lên rất đẹp. Thấy bóng cô thiếu nữ ló ra cửa sổ một lúc rồi biến mất; chắc cô ta lại lên gác để tiếp tục nhiệm vụ từ thiện của mình.

Không rõ cô thiếu nữ này là ai nhỉ. Tối hôm ấy, trong phòng ăn, người ta dọn bát đĩa cho hai người...Nhân lúc người thiếu nữ mới đến vắng mặt...bà Firkin, người hầu riêng của bà Crawley, bước vào phòng của chủ lăng xăng thu dọn; trong khi ấy, bà Briggs cùng cô này ngồi vào bàn dùng bữa cơm thanh đạm.

Bà Briggs bị xúc động quá mạnh đến nỗi gần như không đụng đến miếng thịt nào. Còn cô thiếu nữ thì cầm dao cắt thịt gà thật kiểu cách, lên tiếng gọi lấy nước “xốt” trứng thật rõ ràng; bà Briggs đáng thương giật nẩy mình lên khi thấy món gia vị được đặt trước mặt bà, và lại ngồi thẫn thờ như cũ.

Cô thiếu nữ bảo bác Bowls, tức là bác người nhà cao lớn.

- Bác rót cho bà Briggs một cốc rượu vang chẳng hơn ư?

Bác ta rót. Bà Briggs như cái máy cầm lấy cốc rượu uống một cách khó khăn, khe khẽ rền rĩ và bắt đầu loay hoay với đĩa thịt gà của mình.

Cô thiếu nữ nói rất ngọt ngào:

- Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể giúp nhau được, không cần phải phiền đến bác Bowls túc trực ở đây. Bác Bowls, khi nào cần, chúng tôi sẽ rung chuông gọi bác nhé.

Bác Bowls bước xuống nhà dưới; không hiểu sao vô cớ bác chửi anh phụ việc ầm ỹ lên.

Cô thiếu nữ vẻ mặt lạnh lùng, hơi châm biếm, nói:

- Bà Briggs ạ, bà nghĩ ngợi làm gì; thật đáng thương quá.

Động đến mối thương tâm, bà Briggs lúng búng đáp:

- Bà bạn thân nhất đời của tôi ốm nặng quá, mà khô...ô...ông muốn cho tôi gặp mặt.

- Bây giờ bà ấy không mệt nặng nữa rồi. Bà Briggs thân mến ơi, xin bà cứ an tâm. Bệnh bội thực đấy...có thế thôi. Bây giờ đã khá lắm, sắp khỏi hẳn rồi đấy. Bà ấy yếu vì bị giác huyết và bị uống thuốc, nhưng rồi cũng lại sức ngay ấy mà. Thôi, xin bà cứ yên lòng dùng thêm một ít rượu vang đi.

Bà Briggs rền rĩ:

- Thế tại sao lại không cho tôi gặp mặt. Ôi Matilda, Matilda, sau hai mươi ba năm tình nghĩa đằm thắm, Arabella đáng thương này bị đối xử như thế ư?

Cô kia nói (lúc nào cô ta cũng như hơi nhếch mép cười):

- Đừng khóc nhiều quá làm gì, bà Arabella đáng thương ơi; bà ấy không muốn cho gặp, vì bà ấy bảo bà săn sóc người ốm không khéo bằng tôi. Thức trông bệnh nhân suốt đêm cũng chẳng sướng gì đâu. Tôi chỉ mong bà làm hộ tôi việc ấy thôi.

Bà Arabella đáp:

- Tôi đã chẳng săn sóc hàng bao nhiêu năm nay bên giường bệnh thân yêu ấy là gì? Thế mà bây giờ...

- Bây giờ bà ấy ưng người khác hơn. Thôi, người ốm vẫn hay trái chứng như thế đấy, mình cứ phải chiều ý mới được. Khi nào bà ấy khỏe thì tôi cũng về.

- Không bao giờ, không bao giờ.

Arabella kêu lên, vừa hít lấy hít để lọ nước đái quỷ như mất trí.

Cô thiếu nữ vẫn các giọng ngọt ngào khiêu khích hỏi lại:

- Không bao giờ khỏe, hay là không bao giờ về, hử bà Briggs? Dào ôi...chỉ nửa tháng là bà ấy khỏi hẳn; khi ấy, tôi sẽ trở về trại Crawley Bà chúa với mấy cô học trò của tôi và bà mẹ các cô ấy; bà này ốm nặng hơn bà bạn của chúng ta nhiều. Bà Briggs thân mến ơi, bà chẳng cần phải ghen tỵ với tôi làm gì. Tôi chỉ là một người con gái đáng thương, không bè bạn; tôi không làm hại được ai đâu. Tôi không muốn lấy lòng bà Crawley để hất cẳng bà đâu. Tôi chỉ đi khỏi đây một tuần lễ là bà ấy quên tôi ngay; còn tình bạn của bà ấy đối với bà thì đã có từ bao nhiêu năm nay rồi. Bà Briggs thân mến, làm ơn cho tôi xin thêm một chút rượu vang; chúng ta hãy làm bạn với nhau đi. Tôi tin rằng tôi rất cần có bạn.

Nghe nói thế, bà Briggs, con người dễ tha thứ, dễ động tâm, yên lặng đưa bàn tay ra bắt, nhưng bà vẫn cảm thấy rất sâu sắc rằng mình bị bỏ rơi và vẫn cay đắng phân vân về thói trái chứng của bà Matilda. Độ nửa giờ sau, bữa ăn xong; cô Rebecca Sharp (nói ra thì cũng lạ thật, nhưng đấy chính là tên người từ nãy ta vẫn gọi là cô thiếu nữ) lại về phòng người ốm ở trên gác; với thái độ hết sức lễ độ nhã nhặn, cô đuổi khéo bà Firkin đáng thương ra ngoài.

- Cảm ơn bà, bà Firkin; tốt lắm rồi; bà sắp đặt chu đáo lắm! Cần gì, tôi sẽ rung chuông gọi nhé.

- Cảm ơn cô.

Đoạn bà Firkin xuống nhà dưới, lòng dạ sôi lên vì ghen tức; càng đau đớn hơn vì bà bắt buộc phải chôn kín sự ghen ghét ấy tận đáy lòng.

Lúc bà đi ngang qua thềm gian nhà dưới thấy cửa phòng khách bỗng mở ra; dễ thường cơn bão tố trong lòng bà làm bật tung cửa phòng ra chăng? Không phải đâu, ấy là vì bà Briggs đã len lén mở ra đấy. Từ nãy bà Briggs vẫn đứng rình. Bà ta nghe rõ mồn một tiếng chân bà Firkin bước xuống cầu thang kêu cót két, và tiếng cái thìa đụng vào cốc đựng sữa kêu lanh canh. Thấy Firkin bước vào, bà này hỏi:

- Thế nào, Firkin ? Thế nào, Jane?

Firkin lắc đầu đáp:

- Bệnh mỗi lúc một tăng, bà Briggs ạ.

- Bà ấy không đỡ tí nào à?

- Bà ấy chỉ nói có một lần; tôi hỏi bà ấy có thấy đỡ chút nào không, thì bà ấy bảo tôi câm cái mồm ngu xuẩn đi. Ôi, bà Briggs ơi, không bao giờ tôi ngờ có ngày hôm nay.

Và hai cái vòi phun nước lại bắt đầu làm việc:

- Cái cô Sharp ấy là người thế nào hở bà Firkin ? Lúc tôi đang dự cuộc vui đêm Giáng sinh tại căn nhà lịch sự của các bạn tôi là đức cha Lionel Delamere và bà vợ đáng yêu của ngài, tôi có ngờ đâu lại có một người lạ mặt tranh mất chỗ trong phần cảm tình của người bạn thân thiết nhất đời, vẫn còn thân thiết nhất đời, là bà Matilda của tôi!

Cứ nghe bà nói, ta cũng đủ thấy bà Briggs thuộc loại người đa cảm y như trong tiểu thuyết; chính bà đã có lần cho xuất bản một tập thơ tên là “Tiếng lúi lo của con chim họa mi”.

Firkin đáp :

- Bà Briggs ạ, cả nhà quý cô gái này như vàng. Cụ Pitt không muốn cho cô ta đi, nhưng cụ không dám trái ý bà Crawley điều gì. Bà Bute ở nhà thờ cũng thế...vắng mặt cô ta là cấm có vui. Ông đại úy phát điên phát dại lên vì cô ta. Còn ông Crawley thì ghen đến gần chết. Từ lúc bà Crawley nhà ta bắt đầu mệt, bà nhất định không cho ai ngoài cô Sharp lại gần; chịu không hiểu ra làm sao. Tôi chắc cả nhà bị bỏ bùa mê thế nào rồi đây.

Đêm hôm ấy Rebecca thức đến sáng để săn sóc bà Crawley, đêm hôm sau, bà lão ngủ đã khá yên giấc nên Rebecca cũng ngả lưng chợp mắt tạm ở ghế xô-fa được vài giờ, ngay cạnh giường người ốm. Bà Crawley cũng sớm bình phục, bà đã ngồi dậy được; cô Rebecca bắt chước dáng điệu sầu muộn của bà Briggs, bà cười rũ ra, thích lắm. Cô bắt chước cái cách bà Briggs khóc thút thít và dùng khăn tay lau nước mắt cực khéo; bà Crawley vui quá; mấy ông thầy thuốc đến thăm rất ngạc nhiên, vì mọi khi họ vẫn quen thấy người đàn bà ham vui này hễ hơi giở giời một tý là đã sầu não ghê gớm chỉ lo chết.

Ngày nào đại úy Crawley cũng đến; Rebecca đưa cho anh ta những mảnh giấy ghi bệnh trạng của bà cô biến chuyển thế nào. Bà bình phục rất nhanh; bà Briggs đáng thương đã được phép gặp mặt người che chở cho mình.

Những ai giầu tình cảm có thể tưởng tượng ra những nỗi xúc động tràn ngập của người đàn bà đa cảm kia cũng như sự lâm ly thống thiết của buổi gặp gỡ giữa hai người.

Bây giờ bà Crawley lại thích gặp mặt bà Briggs luôn luôn, vì Rebecca hay nhại lại điệu bộ của người đàn bà đáng thương ngay trước mặt bà, mà vẻ mặt vẫn cứ nghiêm trang như không, thành ra lại càng giống; bà Crawley hài lòng lắm.

Nguyên nhân khiến bà Crawley mắc chứng bệnh đáng tiếc kia, đến nỗi phải rời khỏi căn nhà của ông anh ở nhà quê, không lấy gì làm thi vị lắm, có lẽ không xứng đáng được giải thích trong cuốn truyện phong nhã đầy tình cảm này. Bởi lẽ làm thế nào mà nói cho nghe lọt tai được rằng một người đàn bà tế nhị thuộc giới thượng lưu lại ăn uống quá tham lam, và nguyên nhân gây cái bệnh mà bà Crawley đã nhất định đổ cho là tại thời tiết ẩm thấp gây nên thật ra chỉ là một bữa tôm nóng xơi quá miệng ở nhà thờ? Bệnh trạng trầm trọng quá đến nỗi - nói theo lời ông cha xứ - Matilda suýt nữa thì đi đứt”; toàn bộ gia đình bổi hổi bồi hồi chờ đợi lập di chúc; Rawdon Crawley chắc mẩm phen này vớ được ít nhất là bốn vạn đồng bảng trước khi mùa hội ở Luân đôn bắt đầu. Crawley đã vội gửi ngay đến một tập toàn những sách đạo chọn lọc, để sửa soạn đưa bà cô đi từ Hội chợ phù hoa và Đường công viên sang thế giới bên kia, nhưng một ông thầy thuốc có tài ở Southampton đã được kịp thời triệu đến; ông ta thắng được mấy con tôm suýt nữa đã làm hại đời bà lão, và giúp bà lấy lại tạm đủ sức lực để trở về Luân-đôn. Thấy câu chuyện xoay ra như vậy lão nam tước không sao giấu nổi vẻ bực mình.

Trong lúc mọi người đang xúm vào hầu hạ bà Crawley và hàng giờ bên Nhà thờ cử người sang dò hỏi tin tức sức khỏe của bà về báo lại, thì tại một căn phòng khác trong nhà, có một người đàn bà ốm nặng hơn nhiều mà không ai thèm để ý đến; ấy chính là Crawley phu nhân. Ông thầy thuốc trứ danh khám bệnh xong đành chịu lắc đầu; cụ Pitt thuận để ông khám bệnh cho vợ vì không phải trả tiền công. Thế là bà ta bị bỏ nằm một mình trơ trọi trong phòng, kiệt sức dần dần, chẳng ai buồn để ý đến, y như đối với một ngọn cỏ trong vườn.

Hai cô con gái cũng chịu thiệt thòi nhiều, vì thiếu sự dạy dỗ của cô giáo. Cô Sharp săn sóc người bệnh tận tâm quá; bà Crawley nhất định không chịu uống thuốc nếu là do tay người khác đưa. Firkin thì đã bị ghét bỏ từ lâu trước khi bà chủ rời nhà quê về tỉnh. Người hầu phòng trung thành ấy đành lấy việc được trở về Luân-đôn, được thấy bà Briggs cũng đau khổ vì ghen tức, cũng phải chịu đựng sự đối xử bạc bẽo như mình, để tự an ủi đôi chút.

Đại uý Rawdon lấy cớ cô ốm xin gia thêm hạn nghỉ phép cả ngày cứ quanh quẩn ở nhà. Luôn luôn thấy mặt anh ta ở gian phòng đợi của khách (bà Crawley nằm dưỡng bệnh trong phòng ngủ, muốn vào phải đi qua gian phòng khách nhỏ quét vôi màu xanh). Cụ Pitt thường gặp anh ta ở đấy; hoặc khi anh ta đi xuống dưới hành lang, dù bước nhẹ mấy, thế nào cũng thấy cánh cửa gian phòng của bố mở ra, và bộ mặt sói rừng của lão quý tộc già thò ra ngoài nhìn. Sao lại có cảnh kẻ nọ rình người kia như thế nhỉ? Ấy chính vì hai người đang thi nhau xem ai tỏ ra quan tâm nhiều hơn đến người bệnh thân thiết đang nằm trong phòng ngủ.

Thường thường Rebecca hay ra ngoài an ủi cả hai bố con, lúc an ủi người nọ, lúc an ủi người kia. Cả hai bố con nhà này giống nhau ở chỗ đều thích được nghe tin tức về người bệnh từ miệng cô đưa tin bé nhỏ thân tín kia nói ra.

Cứ đến buổi chiều - nhân lúc Becky xuống nhà dùng cơm trong khoảng nửa giờ đồng hồ - cô lại làm công việc hòa giải hai bố con; sau đó, cô biến đi cho đến hết đêm; sáng ra Rawdon thường cưỡi ngựa đến đồn binh thuộc trung đoàn thứ 15 ở Mudbury, để mặc cho ông bố lại quay ra chè chén với bác Horrocks. Suốt nửa tháng trời Rebecca sống trong gian phòng dưỡng bệnh của bà Crawley, buồn tưởng chết đi được; nhưng thần kinh cô ta dễ thường bằng thép, cho nên cô ta không hề bị mất tinh thần vì nhiệm vụ tẻ nhạt trong căn phòng dưỡng bệnh kia.

Mãi rất lâu về sau này Rebecca mới kể lại rằng cô đã khổ tâm thế nào vì phải lãnh nhiệm vụ ấy, rằng cái bà già vui tính kia lúc ốm thì cắn cấu ra sao, rằng bà tức giận, bà mất ngủ, bà sợ chết, bà nằm rên hừ hừ suốt bao nhiêu đêm trường, vì bà lo sợ tưởng đến thành mê sảng mỗi lúc nghĩ đến cái thế giới tương lai mà khi mạnh khỏe không bệnh tật bà không hề nghĩ đến. Hỡi bạn đọc giả xinh đẹp trẻ tuổi, xin bạn hãy tưởng tượng một bà già quen ăn chơi, ích kỷ, vô duyên, vô ơn và vô tín ngưỡng, đang nằm vật vã vì đau đớn, vì lo sợ, mà đầu trần không đội mớ tóc giả...Bạn hãy tưởng tượng lấy mà xem; và trước khi cái già sồng sộc đến sau lưng, xin bạn hãy học yêu, và học cầu kinh đi.

Cô Sharp săn sóc bên giường bệnh với thái độ kiên trì không gì khuất phục nổi. Không một cái gì lọt khỏi mắt cô, và giống như một người quản gia khéo léo, tất cả vật gì vào tay cô đều dùng được việc cả. Sau này, cô kể lại nhiều câu chuyện rất hay về những ngày bà Crawley mắc bệnh, những câu chuyện làm cho bộ mặt trát bự phấn của bà già phải đỏ ửng lên. Trong thời gian bà này ốm, cô ta không bao giờ mất vẻ bình thản thường ngày, bao giờ cũng tinh tường, rất thính ngủ, lúc nào trí óc cũng hoàn toàn minh mẫn, chỉ cần nghỉ ngơi qua loa ít phút gọi là. Vậy mà nom dáng điệu của cô, bạn thấy rất ít dấu vết mệt mỏi. Sắc mặt cô có hơi tái một chút quầng mắt có hơi thâm hơn bình thường một chút, nhưng mỗi khi cô bước ra ngoài phòng dưỡng bệnh, bao giờ cũng thấy cô mỉm cười, tươi tỉnh, gọn ghẽ; dù chỉ mặc tấm áo ngủ và đội chiếc mũ trùm thường, trông cô vẫn chỉnh tề như đang mặc bộ áo đi chơi đẹp nhất.

Viên đại úy cũng nghĩ thế và khi nói chuyện về cô ta bao giờ giọng nói của anh chàng cũng có vẻ say sưa khác thường. Mũi tên có cựa của tình yêu đã xuyên thủng lần da dày cộm của cu cậu rồi. Sáu tuần lễ lửa gần rơm đã khiến anh ta hoàn toàn bị chinh phục. Anh ta thú thực nỗi lòng sâu kín của mình với bà thím bên tu viện và tất cả mọi người. Bà thím nhận thấy ngay sự điên rồ của anh cháu, thường trêu anh ta về chuyện này; bà ta khuyên anh cháu nên dè chừng; cuối cùng bà công nhận rằng cái cô Sharp bé nhỏ kia là con người thông minh nhất, kỳ thú nhất, giản dị đáng yêu nhất nước Anh; nhưng Rawdon không nên cợt đùa với tình yêu của cô... nếu không bà Crawley thân yêu sẽ không bao giờ tha thứ đâu. Và chính bà này cũng bị cô giáo bé nhỏ chinh phục mất rồi; bây giờ bà quý cô như con đẻ. Rawdon phải đi nơi khác...phải trở về đơn vị và thành phố Luân-đôn bẩn thỉu kia, không được phép đùa cợt với tấm tình của cô thiếu nữ ngây thơ đáng thương.

Đã rất nhiều lần bà thím tốt bụng này thông cảm với nỗi cô đơn của anh chàng sĩ quan Ngự lâm quân nên đã tạo điều kiện cho anh ta gặp cô Sharp ngay ở Nhà thờ, và được cùng cô ta đi về nhà như chúng ta đã thấy. Thưa các quý bà, một khi đàn ông thuộc một loại nào đó mà đã yêu rồi, thì dù mắt họ nhìn rõ mười mươi dây câu, lưỡi câu, rồi cần, rồi lưới, đủ cả, nhưng họ cũng cứ đớp mồi như thường…họ vẫn cố đớp lấy nuốt cho kỳ được để rồi bị mắc câu mắc lưới nằm há hốc mồm trên mặt đất. Rawdon cũng thấy rõ ràng bà Bute muốn dùng cô Rebecca để câu mình. Anh ta khôn ngoan lắm, nhưng cũng là người sống ở tỉnh thành, cũng đã từng dự nhiều mùa hội. Một hôm qua câu chuyện với bà Bute, anh ta chợt thấy trong khối óc tối tăm của mình lóe ra một tia sáng. Bà Bute nói:

- Rawdon, tôi bảo này. Thế nào cũng có ngày cô Sharp thành người có họ với anh đấy.

Anh chàng sĩ quan hay đùa hỏi:

- Bà Bute, có họ thế nào chứ...em dâu tôi hả? Chú James phải lòng cô ta chăng?

Bà Bute, mặt ánh lên một tia sáng, đáp:

- Hơn thế nữa cơ.

- Không phải là Pitt chứ?...Hắn không lấy được cô ta đâu; cái tên hèn hạ ấy không đáng lấy cô ta làm vợ. Hắn đang đeo đuổi công nương Jane Sheepshanks.

- Bọn đàn ông các anh chẳng biết cái quái gì hết. Anh chỉ là một thằng ngu xuẩn, mù quáng...nếu Crawley phu nhân có mệnh hệ nào thì cô Sharp sẽ thành dì ghẻ của anh đấy, và chuyện ấy tất sẽ phải đến.

Rawdon Crawley tiên sinh huýt sáo miệng một cái thật to, tỏ ý rất ngạc nhiên trước lời dự đoán của bà thím. Anh ta không thể chối cãi được; rõ ràng ông bố anh ta quyến luyến cô Sharp; thái độ ấy lọt sao khỏi mắt anh ta. Anh ta hiểu rõ tính tình ông bố lắm, nghĩa là một lão già hết sức bừa bãi... Anh ta không nghĩ hết câu, mà bỏ về nhà, vừa đi vừa vê vê ria mép, yên trí rằng mình đã tìm ra cái mối để hiểu câu chuyện bí mật bà Bute vừa nói.

Rawdon nghĩ thầm:

- Lạy chúa tôi, đểu quá? Đểu quá, lạy Chúa? Mình tin chắc bà ấy rất muốn cho cô thiếu nữ đáng thương kia phải mất mặt, để không sao trở thành Crawley phu nhân trong gia đình này được. Lúc gặp Rebecca một mình, anh ta lấy giọng nhã nhặn nói trêu cô về việc ông bố mình có ý quyến luyến cô gái. Cô ta ngẩng phắt đầu lên, vẻ mặt khinh khỉnh, nhìn rõ vào mặt anh chàng nói:

- Được lắm, hãy ví dụ ông cụ mê tôi đi. Tôi biết cụ mê tôi, và còn nhiều người khác cũng mê tôi nữa cơ. Đại úy Crawley, ông không cho rằng tôi phải sợ ông cụ chứ? Ông không cho rằng tôi không biết bảo vệ danh dự của tôi chứ?

Cô con gái hỏi dồn, trông kiêu hãnh như một bà hoàng.

Anh chàng vừa vặn ria mép vừa đáp:

- Ồ…à kìa ... ấy là nhắc để cô chú ý... nghĩa là cẩn thận...có thế thôi mà.

- Ông cho rằng tôi là người không biết tự trọng chỉ vì tôi nghèo và trơ trọi không bè bạn, và bởi vì chính bản thân những người giầu có không biết tự trọng phải không? Ông có nghĩ rằng vì tôi chỉ là một cô giáo dạy trẻ mà tôi không thể có lương tri, có tình cảm, và có giáo dục được như những nhà quý tộc ở Hampshire không? Tôi thuộc dòng dõi họ Montmorency không thể tốt được bằng một người thuộc dòng họ Crawley không?

Mỗi khi cô Sharp tức giận và phải viện đến họ ngoại của cô ra, thì cô hay nói pha lơ lớ giọng ngoại quốc, khiến cho giọng nói trong trẻo thánh thót của cô lại càng đáng yêu thêm. Càng đối đáp với viên đại úy, cô càng sôi nổi. Cô nói thêm:

- Không, tôi có thể chịu đựng sự nghèo khổ, nhưng không thể chịu đựng sự nhục nhã...tôi có thể chịu đựng sự lạnh nhạt, nhưng không chịu được sự lăng mạ; nhất là sự lăng mạ lại do...do chính ông.

Và rồi không nén được giận, cô òa lên khóc.

- Chết chưa, cô Sharp... Rebecca... lạy Chúa... thề có quỷ thần hai vai, nào tôi có bụng dạ gì đâu...Thôi, Rebecca.

Rebecca đi rồi. Hôm ấy, cô ta cùng bà Crawley giong xe đi chơi. Câu chuyện xảy ra trước khi bà này bị ốm. Đến bữa cơm chiều, cô lại có vẻ vui tính khác thường; nhưng cô không thèm để ý đến anh chàng sĩ quan vụng về si tình bị bẽ mặt đang tìm mọi cách nói ý, gật đầu ra hiệu và nói lấy lòng để chuộc lỗi. Trong cái chiến dịch nho nhỏ ấy, những cuộc chạm súng đại khái như thế diễn ra luôn... tẻ nhạt lắm không đáng kể lại, và kết quả bao giờ cũng giống nhau.

Đội kỵ binh nặng nề của Crawley phát điên lên vì bị thất trận, mỗi ngày một thêm tan rã.

Nếu lão nam tước ở trại Crawley Bà chúa không sợ bị bà em truất mất quyền thừa kế thì không đời nào lão chịu để cho hai cô con gái yêu của lão xa rời sự giáo huấn vàng ngọc của cô giáo quý báu. Vắng cô ta, căn nhà cổ kính ấy như là một bãi sa mạc; hồi Rebecca còn ở trại, nhà cửa tươi tỉnh hẳn lên. Thư từ của cụ Pitt không có ai sửa chữa và chép lại; sổ sách của cụ cũng không có ai trông nom; công việc nhà cửa và bao nhiêu kế hoạch làm ăn cũng xếp xó, cô thư ký bé nhỏ đã đi mất rồi. Ta thấy ngay rất dễ dàng một người thư ký như cô đối với lão cần thiết đến thế nào, nếu ta được đọc nội dung bao nhiêu lá thư lão liên tiếp gửi cho cô ta; lão cầu khẩn cô, ra lệnh cho cô phải trở về. Hầu như ngày nào lão nam tước cũng viết thư gửi cho Becky, lão khẩn khoản yêu cầu cô trở lại; hoặc lão gửi thư cho bà Crawley, thảm thiết phàn nàn về nỗi việc giáo dục của con mình bị bỏ trễ; bà Crawley, chẳng buồn để ý.

Bà Briggs không bị chính thức ruồng bỏ, nhưng địa vị bạn tâm sự của bà bây giờ chỉ là một chuyện khôi hài, hữu danh vô thực; bây giờ bà đánh bạn với con chó béo múp trong phòng khách, hoặc thỉnh thoảng bà vào trong phòng riêng của mụ quản gia đánh bạn với bà Firkin bất mãn.

Tuy thế, Rebecca vẫn chưa chính thức đến ở Đường công viên với tư cách bạn tâm sự của bà chủ, mặc dầu bà này nhất định không chịu cho cô trở về trại Crawley Bà chúa.

Cũng như nhiều người giầu có khác, bà Crawley có tính ưa được người dưới hầu hạ mình càng nhiều bao nhiêu càng tốt; chừng nào bà thấy họ không còn có ích gì nữa cho mình, thì bà cũng lập tức vui vẻ mà từ giã họ. Một số người giàu có hầu như không biết đến sự hàm ơn là gì, hoặc ít khi thèm nghĩ đến chuyện ấy. Họ lấy sự được bọn người nghèo khó hầu hạ mình là chuyện tất nhiên. Mà chúng ta - ôi, những kẻ ăn bám đáng thương, những kẻ phụ thuộc hèn hạ- chúng ta cũng không có lý do gì mà phàn nàn nhiều! Tình bạn của chúng ta đối với Dives cũng chân thành đáng mức với số tiền, đâu phải yêu người. Và giả sử Croesus () có đổi địa vị của mình cho thằng hầu, thì chúng ta cũng thừa rõ người nào sẽ được chúng ta hết lòng cung phụng.

Mặc dầu cô Rebecca vẫn tỏ ra rất giản dị, rất chu đáo, rất ngọt ngào và vui vẻ không hề biết mệt mỏi, nhưng tôi cũng không tin chắc rằng bà già sắc mắc người Luân-đôn kia, người được cô ta chứng tỏ tấm tình bạn nồng nhiệt một cách xa xỉ, quả thực không khi nào thoáng ý nghi ngờ lòng tốt của người bạn quý đang săn sóc mình. Hẳn bà Crawley phải thường đinh ninh rằng ở đời không ai làm việc vì không công bao giờ. Nếu bà quen lấy cái tình cảm của bản thân để đo lòng người đời, hẳn bà cũng có thể lường được lòng dạ người đời đối với mình. Biết đâu bà chẳng hiểu rằng kẻ nào không chú ý đến ai thì cũng không ai coi mình là bạn; đó âu cũng là một lẽ thường tình.

Vậy thì trong thời gian ấy, Becky là nguồn an ủi lớn nhất, là người hữu ích nhất đối với bà; bà cho cô ta một đôi áo dài mới may, một chiếc vòng cổ cũ và một chiếc khăn san; bà lại bày tỏ tấm tình bạn bằng cách nói xấu tất cả những người quen thuộc cũ với cô bạn tâm sự mới của mình (còn có cách tỏ tình thân mật nào tết hơn thế nữa nhỉ?). Bà lại đã phảng phất lo sắp đặt trước một vài kế hoạch lớn cho tương lai... có thể là gả cô ta cho ông Clâmp, thầy bào chế, hoặc lo gây dựng cho cô có một tương lại chắc chắn sau này; hoặc cũng có thể bà đã nghĩ đến chuyện khi chán cô rồi và đúng lúc mùa hội ở Luân-đôn bắt đầu thì lại mời cô về trại Crawley Bà chúa.

Bà Crawley đang bình phục, thường xuống phòng khách; Becky hát cho bà nghe và tìm mọi cách khác để làm vui lòng bà; khi bà đã khỏe có thể ngồi xe ngựa đi chơi được, Becky cùng đi với bà. Trong những cuộc đi chơi ấy, do lòng tốt và tình bạn của bà Crawley đối với cô, bà cho cô cùng theo mình đến bất cứ nơi nào, đến cả gia đình John Sedley tiên sinh ở khu phố Russell.

Trước khi xảy ra chuyện này, hai cô bạn thân đã nhiều lần viết thư cho nhau. Trong khoảng thời gian Rebecca ở Hampshire, tấm tình bạn bất diệt (có thể tin được không nhỉ?) giữa hai người đã giảm sút rất nhiều, bây giờ nó có vẻ đã mòn mỏi, già nua tưởng như sắp đi đứt đến nơi. Sự thực là cả hai cô thiếu nữ đều bận lo việc riêng: Rebecca thì đang lo lấy lòng những người chủ thuê mượn mình, cô Amelia cũng đang bị thu hút vào việc riêng của cô. Lúc hai cô thiếu nữ gặp lại nhau, họ ôm ghì lấy nhau một cách nồng nhiệt đúng cách tỏ tình giữa những cô gái non; Rebecca đã hôn bạn một cách nồng nàn sôi nổi vô cùng, khiến cho Amelia đáng thương kia vừa hôn trả,vừa đỏ mặt lên và tự trách mình có phần hơi nhạt nhẽo đối với bạn.

Lần gặp gỡ đầu tiên và cũng rất ngắn ngủi. Amelia đang sửa soạn đi chơi. Bà Crawley đang ngồi chờ trong xe dưới đường; những người theo hầu đang ngơ ngác nhìn phong cảnh xung quanh; họ trố mắt nhìn bác Sambo, người hầu da đen ở Blumxbơry, y như bác ta là một người thổ dân kỳ lạ sinh trưởng tại chỗ vậy, Amelia bước xuống, vẻ mặt dịu dàng, tươi cười (Rebecca phải đưa bạn xuống giới thiệu với bà Crawley vì bà rất mong được gặp mà người còn yếu không rời chiếc xe ngựa được)...Mấy người mặc chế phục ở Đường công viên trông thấy cô ngạc nhiên quá, không ngờ ở Bloomsbury lại có một con người xinh đẹp như vậy. Bà Crawley cũng bị hấp dẫn khi nhìn bộ mặt dịu dàng, tươi như hoa của cô thiếu nữ đang e lệ tiến lên chào bà, người đỡ đầu của bạn cô, với dáng điệu rất lịch sự.

Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi ấy, hai ngươi cho giong xe đi về phía tây thành phố. Bà Crawley bảo:

- Này, nước da cô ta đẹp quá nhỉ, mà tiếng nói sao mà trong vắt cô Sharp ạ, cô bạn trẻ của cô đáng yêu quá. Lúc nào mời cô ấy đến Đường công viên chơi, nghe không?

Bà Crawley là người biết thưởng thức. Bà ưa các cử chỉ tự nhiên - hơi e lệ một chút lại càng có duyên - Bà thích có những người xinh đẹp quây quần quanh mình cũng như bà thích chơi tranh đẹp và đồ sứ xinh xắn vậy. Hôm ấy, bà đã nhắc đến Amelia sáu bảy lần một cách rất say sưa. Bà kể chuyện về Amelia với Rawdon Crawley, khi anh chàng giữ đúng nhiệm vụ đến cùng chia xẻ con gà rán với bà cô.

Nghe thấy thế, dĩ nhiên Rebecca vội tuyên bố ngay rằng Amelia đã có vị hôn phu...tức là trung úy Osborne...hai người yêu nhau đã lâu.

- Anh ta thuộc một trung đoàn chiến liệt quân?

Đại úy Crawley nghĩ ngợi một lúc lâu đúng như một sĩ quan Ngự lâm để cố nhớ lại trung đoàn số...

Rebecca đáp đúng là trung đoàn ấy, và thêm:

- Tên viên đại úy là Dobbin.

Crawley đáp:

- Một anh chàng vụng về gày gò có phải không? Anh ta húc phải tất cả mọi người. Tôi có quen anh ta. Còn Osborne có phải là một anh chàng đẹp trai, có bộ râu quai nón rậm đen nhánh không?

Rebecca Sharp đáp:

- Phải, có bộ râu quai nón xồm xoàm; mà anh ta lấy làm kiêu hãnh về bộ râu lắm.

Đại úy Rawdon Crawley không trả lời, Phá ra cười khàn khàn; hai người đàn bà hỏi gặng anh ta cười gì, thì anh ta trả lời:

- Hắn cứ tưởng chơi bi-a giỏi. Tôi đã được hắn hai trăm đồng tiền bi-a ở quán “cây dừa” . Hắn mà cũng học đòi đánh bạc, cái thằng ngốc nghếch! Hôm ấy hắn có vẻ muốn bán cả trời không văn tự, nhưng bạn hắn là đại úy Dobbin lại kéo hắn đi mất, mẹ kiếp!

Bà Crawley thú quá, bảo:

- Rawdon, Rawdon, đừng ác thế.

- Thế nào? Thưa cô, trong số bọn trai trẻ cháu gặp ở quân đội chỉ có thằng ấy là “non” nhất đấy ạ. Tarquin và Deuceace tha hồ muốn lấy bao nhiêu tiền của hắn tùy thích. Hắn mà được người ta thấy cùng ngồi với một nhà quý tộc thì bắt xuống âm phủ hắn cũng ưng. Ở Greenwich, hắn trả tiền cơm thết chúng nó, mà chúng nó còn kéo cả một lũ bạn đi theo để “che tàn”.

- Toàn là những bạn hữu quý báu cả, chắc thế.

- Đúng lắm, cô Sharp ạ. Đúng lắm, bao giờ cũng thế. Toàn nhưng bạn hữu quý ghê gớm...hề, hề!

Anh chàng đại úy lại càng cười khỏe, cho rằng mình vừa có được một câu khôi hài lý thú.

Bà cô kêu lên: .

- Đừng tồi thế, Rawdon.

- Ôi chao, bố hắn là một nhân vật ở khu City...giầu nứt đố đổ vách. Cái bọn khốn ở City ấy à, phải vắt sữa chúng nó chứ. Xin thưa để cô biết rằng thằng ấy chưa xong với cháu đâu. Hề, hề.

- Này, đại úy Crawley; để tôi mách Amelia. Có một người chồng hay bài bạc.

- Đáng sợ, hả?

Viên đại úy trịnh trọng nói vậy; một ý nghĩ thoáng qua đầu, anh ta thêm:

- Mà này, cô ạ, chúng ta sẽ mời hắn đến chơi đây.

Bà cô vội hỏi:

- Trông hắn ta có mẽ người không?

- Có mẽ không à?...Ồ, khá lắm. Cũng như tất cả mọi người. Bao giờ cô lại bắt đầu tiếp khách, thế nào ta cũng phải mời hắn đến chơi mới được. Cả cái cô tên là gì nhỉ...người trong mộng của hắn ta ấy mà... này, cô Sharp, có phải cô vẫn gọi thế không? Mời cả cô ta đến. Được, để tôi biên mẩu giấy mời hắn lại chơi. Để xem hắn chơi “pic-kê” có thạo như chơi bi-a không? Hắn ta ở đâu nhỉ, cô Sharp?

Cô Sharp bèn mách Crawley địa chỉ ở tỉnh của trung úy Osborne. Mấy ngày sau, trung úy Osborne nhận được một lá thư, nét chữ nguệch ngoạc như cho trẻ con của đại úy Rawdon, có kèm theo một thiếp mời của bà Crawley. Cô Sharp cũng gửi thư mời cô bạn thân Amelia; cô này nghe tin George cũng sẽ có mặt, sẵn sàng nhận lời ngay.

Họ đã sắp đặt sáng hôm ấy Amelia sẽ đến chơi với người đàn bà ở Đường công viên; ai cũng tỏ ra quý mến cô. Rebecca lên mặt che chở cho cô một cách rất bề trên. Rebecca thông minh hơn bạn rất nhiều; Amelia tính vốn dịu dàng và kín đáo, gặp ai muốn lên mặt với mình thì nhường ngay, cho nên cô sẵn lòng vui vẻ mềm mỏng tuân theo mọi ý muốn của Rebecca. Bà Crawley cũng tỏ ra lịch sự một cách đáng chú ý. Bà vẫn tiếp tục say sưa tán tụng Amelia, tâng bốc cô ngay trước mặt, làm như cô là một con búp bê, một người hầu phòng hay một bức tranh vậy; bà ca tụng cô một cách hết sức rộng lượng. Tôi rất kính phục thái độ của giới quý phái, đôi khi tán tụng cả những người thuộc tầng lớp bình dân. Trong đời, không có gì thú vị hơn là được thấy bọn người ở Mayfair () hạ mình xuống. Nhưng được bà Crawley săn sóc đến mình quá, hình như Amelia thấy mệt; tôi ngờ rằng trong số ba người đàn bà ở Đường công viên thì cô thấy bà Briggs thực thà kia là đáng yêu hơn cả. Cô thông cảm với bà Briggs như đối với những người tốt bụng bị bỏ rơi; cô không thuộc hạng người mà ta gọi là người đàn bà trí tuệ.

George có đến dùng cơm với đại úy Crawley...một bữa cơm thân mật của trai chưa vợ ().

Chiếc xe ngựa đồ sộ của gia đình Osborne chở anh ta từ khu phố Russell đến Đường công viên. Ở nhà, cô chị và em gái không được mời đến chơi, làm bộ không thèm để ý đến sự khinh mạn ấy, nhưng họ cũng giở cuốn “Danh bạ quý tộc” để tìm tên cụ Pitt Crawley. Cuốn sách đã giúp các cô biết rất nhiều điều về gia đình Crawley, về dòng dõi, về gia đình Binkie, về bè bạn, vân vân và vân vân... Rawdon Crawley đón tiếp Osborne hết sức thẳng thắn lịch sự. Anh ta khen Osborne chơi bi-a giỏi, hỏi thăm bao giờ anh này muốn phục thù, lại hỏi tin tức về trung đoàn của Osborne; anh ta định đề nghị chơi “pic-kê” ngay tối hôm ấy, nhưng bà Crawley dứt khoát cấm không cho đánh bạc trong nhà bà, thành ra túi tiền của viên trung úy không bị cháu bà chủ nhà làm vơi mất, ít nhất là trong ngày hôm ấy. Tuy vậy, họ cũng ước hẹn ngày hôm sau sẽ gặp nhau ở một nơi khác vì Crawley có một con ngựa muốn bán. Osborne muốn cưỡi thử nó ở công viên. Hai người sẽ dùng cơm với nhau, và buổi tối sẽ cùng giải trí với mấy người bạn ham vui khác. Crawley vừa láu lỉnh nháy mắt, vừa nói:

- Nghĩa là, nếu như anh không phải túc trực bên cô Sedley xinh đẹp kia. Thật là một trang tuyệt thế giai nhân, xin lấy danh dự mà thề; anh Osborne ạ, có một không hai đấy - anh ta nói thêm để nịnh khéo.

Osborne không phải túc trực đâu; anh ta sẵn sàng vui lòng đi chơi cùng Crawley. Hôm sau hai người gặp nhau, Crawley khen mãi tài kỵ mã của bạn - khen hết sức thành thực - và giới thiệu Osborne với ba hay bốn người bạn rất sang trọng; anh chàng sĩ quan thực thà được quen biết bọn này lấy làm khoái lắm.

Vừa uống rượu vang Osborne vừa hỏi bạn, có vẻ rất phong tình:

- Này, cô Sharp độ này ra sao? Cô ta tốt bụng lắm. Ở trại Crawley, chắc cô ta và anh tha hồ tâm đầu ý hợp nhỉ? Năm ngoái cô Sedley quý cô ta lắm.

Đại úy Crawley giương đôi mắt xanh ti hí lên nhìn vào mặt bạn một cách dữ tợn; và anh cứ chăm chú theo dõi mãi lúc anh này đứng dậy đến chào cô giáo xinh đẹp. Nhưng ví phỏng anh chàng sĩ quan Ngự lâm có tính ghen tuông bóng gió thì nom cách cư xử của cô thiếu nữ cũng hết lo ngại ngay.

Hai người trẻ tuổi lên gác; Osborne đến chào bà Crawley, rồi tiến về phía Rebecca ngồi, dáng điệu hơi khệnh khạng có vẻ bề trên. Anh ta định bụng tỏ ra bao dung che chở đối với cô. Thậm chí anh sẽ còn bắt tay Becky một cái, vì coi là cô là bạn của Amelia, anh ta bèn chìa bàn tay trái về phía cô ta và nói: “A, cô Sharp, thế nào mạnh khoẻ chứ?” Yên trí nhất định cô ta phải bối rối trước một vinh dự như vậy.

Cô Sharp chìa ngón trỏ bàn tay phải ra...và gật đầu một cái, vẻ mặt rất lạnh nhạt, làm anh chàng cụt hứng.

Rawdon Crawley ngồi ở phòng bên nhìn sang, thấy anh chàng trung úy bị bẽ mặt, suýt nữa không nhịn được cười; anh ta thấy Osborne giật nảy mình, rồi ngần ngừ và cuối cùng có vẻ lúng túng đành cầm lấy ngón tay của cô thiếu nữ đưa ra cho anh hôn vậy.

- Lạy Chúa, nàng đủ sức đánh gục cả quỷ sứ.

Viên đại úy thú vị lắm tự nhủ. Còn viên trung úy mở đầu câu chuyện bằng cách hỏi thăm Rebecca có thích nơi làm việc không. Sharp lạnh nhạt đáp:

- Việc làm của tôi? Cảm ơn anh đã nhắc tôi nhớ đến điều ấy? Việc làm cũng khá dễ chịu; tiền công tốt lắm...nhưng không được bằng tiền công của bà Wirt dạy chị anh và em gái ở khu phố Russell đâu. Các cô ấy dạo này thế nào?...đáng lẽ ra tôi không nên hỏi thăm mới phải.

Osborne ngạc nhiên hỏi:

- Sao lại không nên?

- Ô hay, cái hồi tôi còn ở chơi với Amelia, các cô ấy có bao giờ thèm hạ mình nói chuyện với tôi hoặc mời tôi đến chơi nhà đâu; nhưng cái bọn cô giáo dạy trẻ nghèo khổ chúng tôi thì, chắc anh cũng rõ, vẫn quen bị khinh miệt như thế.

Osborne kêu lên:

- Cô Sharp thân mến ơi…

Rebecca vẫn tiếp:

- Ít nhất là trong một số gia đình. Nhưng ở đây không như thế đâu; dân Hamshire chúng tôi không được giầu có như các anh, những con người may mắn ở khu City. Nhưng bây giờ tôi đang sống trong một gia đình thượng lưu...dòng dõi quý tộc nước Anh chính cống. Chắc anh cũng biết cụ thân sinh ra tôn ông Pitt ngày xưa đã từ chối không nhận tước Công. Anh coi đó, tôi được đối đãi ra sao. Tôi ở đây cũng khá dễ chịu. Kể ra thì cũng là một chỗ làm tốt. Nhưng được anh hỏi đến thật là vinh dự quá.

Osborne tưởng phát điên lên được. Cô giáo bé nhỏ vẫn cứ kênh kiệu và mỉa mai anh ta cho đến khi con sư tử non nước Anh kia cảm thấy không thể chịu nổi được nữa.

Anh ta cũng không đủ nhanh trí để bịa ra một cớ gì mà rút lui khỏi câu chuyện rất thú vị này. Anh ta bèn kiêu hãnh hỏi:

- Tôi chắc ngày trước cô cũng thích những gia đình ở khu City lắm đấy chứ?

- Anh định nói là năm ngoái, khi tôi vừa mới thoát khỏi cái trường ghê gớm ấy à? Vâng, có thể. Người con gái lưu trú trong trường nào mà chẳng thích về chơi nhà ngày chủ nhật? Mà làm sao tôi có thể hiểu biết hơn được? Nhưng ồ, anh Osborne ạ, bao nhiêu sự đổi thay qua mười tám tháng từng trải... mười tám tháng sống chung với... tôi nói thế này xin anh tha lỗi, với những người thượng lưu. Còn như Amelia thân mến thì chị ấy là một hòn ngọc, ở đây người ta cũng phải quý. Bây giờ, tôi thấy anh bắt đầu vui vẻ rồi đấy; nhưng mà…những con người kỳ quái khu City? Và còn anh Joe...cái anh Joseph thú vị ấy bây giờ ra sao nhỉ?

Osborne dịu dàng đáp:

- Tôi thấy hình như năm ngoái, cô không ghét “cái anh Joseph thú vị ấy” lắm thì phải.

- Anh nghiêm khắc quá. Phải, nói riêng với nhau () tôi không đến nỗi tan nát cõi lòng vì anh ta đâu. Nhưng giả sử anh ta có yêu cầu tôi làm cái điều mà đôi mắt anh muốn nói (đôi mắt anh cũng dịu dàng và ý nghĩa lắm) thì có lẽ tôi cũng không từ chối. Osborne đưa mắt nhìn, như ngụ ý:

“Quả thật, cô có lòng tốt quá?”

- Anh đang nghĩ rằng được coi anh là em rể, thật là một vinh dự, có phải không? Được làm chị dâu của George Osborne tiên sinh, con trai của Mall Osborne tiên sinh, cháu trai của...tên cụ cố là gì nhỉ, anh Osborne? Thôi, xin anh đừng giận. Anh có trách nhiệm gì về dòng dõi của mình đâu; tôi hoàn toàn đồng ý với anh rằng tôi nên lấy anh Joe Sedley làm chồng; bởi vì một người con gái nghèo khổ không một xu dính túi còn mong gì hơn? Bây giờ, mọi điều bí mật anh đã rõ cả; tôi rất thẳng thắn cởi mở. Và xét cho cùng thì cũng cảm ơn anh đã nhắc đến câu chuyện cũ...một cách rất nhã nhặn và lễ độ. Chị Amelia thân mến ơi, anh Osborne và em đang nói chuyện về chị và anh Joseph đáng thương của chị đấy. Bây giờ anh ấy ra sao nhỉ?

Thế là George hoàn toàn thất bại, Không phải vì Rebecca có lý; nhưng mồm miệng cô ta bẻo lẻo quá thành ra dồn được anh chàng vào thế bí. Bây giờ anh ta ngượng chín mặt, lùi lũi chuồn mất, George nghĩ bụng, giá mình ở lại chút nữa thì rất có thể trở thành lố bịch trước mặt Amelia mất.

Tuy Rebecca đã thắng Osborne nhưng anh cũng không phải là người hèn hạ mà trả thù cô gái bằng cách nói xấu...

Có điều ngày hôm sau, anh ta không thể nào nhịn không bày tỏ riêng một cách khéo léo với đại úy Crawley vài ý kiến về Rebecca...rằng cô ta là một con người rất sắc sảo, một con người nguy hiểm, đừng có lôi thôi vào mà chết, v.v...

Nghe nói, Crawley chỉ cười tỏ ý biểu đồng tình, và chỉ trong khoảng hai mươi bốn giờ đồng hồ, lại đem mọi chuyện kể lại cho Rebecca nghe đầy đủ. Rebecca càng vì thế mà nhìn Osborne với con mắt đặc biệt, Bản năng của đàn bà mách cô rằng chính Osborne đã mua con ngựa của Crawley, sau bữa ăn lại đã bị mất thêm mấy chục đồng ghi-nê. Anh ta láu lỉnh nhìn Crawley, nói:

- Tôi chỉ muốn khuyên anh dè chừng thôi, tôi hiểu bụng dạ đàn bà lắm; tôi khuyên anh nên cẩn thận đấy.

Crawley nhìn anh ta với đôi mắt biết ơn đặc biệt:

- Xin cảm ơn anh, tôi thấy anh sáng suốt lắm.

Và George ra về, yên trí Crawley nói thực.

Anh ta kể lại cho Amelia nghe việc mình đã khuyên bảo Rawdon Crawley - cái anh chàng cực kỳ tốt bụng lòng dạ thẳng như ruột ngựa phải coi chừng cái cô Rebecca bé nhỏ láu lỉnh mưu mẹo ấy như thế nào.

Amelia kêu lên:

- Coi chừng ai chứ?

- Cái cô giáo bạn em ấy. Có gì mà sửng sốt?

- Ô kìa, anh George, anh đã làm cái gì thế Con mắt đàn bà của cô đã được thần ái tình làm cho sáng suốt; chỉ thoáng qua, cô cũng đã khám phá ra sự bí mật hoàn toàn bị che dấu trước con mắt bà Crawley, bà Briggs đáng thương, và hơn cả, trước đôi mắt “cận thị” của anh chàng tự mãn có râu kia tức là trung úy Osborne.

Lúc Rebecca quàng khăn cho bạn ở trên gác, hai cô bạn gái có dịp tỷ tê chuyện riêng với nhau, bí mật bàn tính với nhau một tý; ấy là cái thú vị đặc biệt của đời con gái.

Amelia lại sát gần nắm lấy hai bàn tay bé nhỏ của Rebecca:

- Rebecca, em biết hết rồi.

Rebecca hôn bạn, không đáp.

Về câu chuyện bí mật thú vị này, hai cô thiếu nữ không ai nói thêm một lời nào. Nhưng không lâu đâu, rồi nó sẽ lộ ra thôi. Câu chuyện trên xảy ra được ít lâu, khi cô Sharp vẫn còn ở chơi nhà bà chủ mới của mình tại Đường công viên thì ở phố Great Gaunt lại treo thêm một tấm huy hiệu quý tộc giữa những tấm huy hiệu khác vẫn thường trang hoàng cho đường phố ảm đạm này. Người ta thấy nó được treo trên ngôi nhà của cụ Pitt Crawley; nhưng không phải là nó báo tin lão nam tước già đã chết. ấy là một tấm huy hiệu phụ nữ, ít năm về trước đã dùng để báo tin bà cụ sinh ra cụ Pitt, tức là quả phụ Crawley phu nhân tạ thế. Việc ma chay xong xuôi, người ta hạ tấm huy hiệu từ trên mặt tường xuống cất vào một chỗ kín đáo nào đó trong nhà cụ Pitt. Bây giờ nó lại được lôi ra vì bà Rose Dawson. Thế là cụ Pitt lại thành người góa vợ lần nữa. Hình vẽ tượng trưng sơn trên nền chiếc khiên treo song song cạnh chiếc huy hiệu của lão không phải thuộc về bà Rose đáng thương kia đâu; bà ta làm gì có huy hiệu quý tộc; nhưng những vị thiên thần sơn trên chiếc khiên cũng sẽ che chở cho bà y như xưa kia đã che chở cho mẹ cụ Pitt; phía dưới hình vẽ có đề chữ Resugam (), hai bên có hình con rắn và con chim bồ câu của dòng họ Crawley. Huy hiệu quý tộc, Resurgam...Thật là một dịp dạy luân lý cho người đời vậy.

Crawley cũng đã săn sóc bên giường bệnh của con người trơ trọi kia. Anh ta cũng đã hết sức ngọt ngào an ủi, tiếp thêm sức mạnh cho bà khỏe khoắn từ giã cõi trần. Đã bao năm nay, anh ta là người duy nhất ăn ở tốt đối với bà, là người bạn độc nhất của tấm linh hồn yếu ớt, cô độc đó. Thân thể bà còn sống nhưng tâm hồn thì đã chết từ lâu. Bà đã bán linh hồn của mình để trở thành vợ cụ Pitt Crawley. Trong Hội chợ phù hoa, hàng ngày vẫn có những bà mẹ và những cô con gái làm công việc thương mại như vậy.

Lúc bà tắt thở, ông chồng đang ở Luân-đôn, còn bận thực hiện những kế hoạch làm ăn túi bụi nào đó, và đang bấn lên với những ông thầy kiện. Tuy vậy, lão cũng vẫn dành được thì giờ đến thăm Đường công viên luôn luôn, và gửi cho Rebecca rất nhiều lá thư nài xin cô, giục giã cô, ra lệnh cho cô trở về với hai cô học trò ở nhà quê, vì từ khi mẹ bị ốm, hai cô thiếu người bầu bạn. Nhưng, bà Crawley nhất định không đồng ý cho Rebecca đi. Ở thành phố Luân-đôn này, không có người đàn bà lịch thiệp với họ bằng bà ta; nhưng khi còn đam mê () thì bà ta lại là người gắn bó ghê gớm; cho nên bà cứ hăng hái ra sức mà bám chặt ấy Rebecca.

Tin Crawley phu nhân tạ thế không gây ra những nỗi buồn rầu hoặc những lời bàn tán trong phạm vi gia đình Crawley, như người ta tưởng. Bà Bute Crawley nói: “Có nhẽ tôi phải hoãn buổi họp mặt tối ngày kia mất! Ngừng một lát, bà tiếp: “Tôi hy vọng rằng ông anh chồng tôi nên giữ tiếng, đừng tục huyền lần nữa”. Nếu ông ấy lại lấy vợ, thì Pitt chắc giận đến phát điên lên mất.

Rawdon góp ý kiến; anh ta vẫn không ưa người anh cả như cũ. Rebecca không nói gì. Cả nhà hình như chỉ có cô có vẻ trang nghiêm, và bị xúc động hơn cả. Hôm ấy, cô rời khỏi căn phòng trước khi Rawdon ra đi, nhưng ngẫu nhiên hai người lại gặp nhau ở nhà dưới; anh chàng vừa từ biệt mọi người xong; họ đứng lại nói chuyện với nhau một lúc.

Sớm hôm sau, Rebecca đang đứng trong cửa sổ nhìn ra sân, còn bà Crawley thì đang bình thản đọc một cuốn tiểu thuyết Pháp, bỗng cô ta kêu nên, giọng sợ hãi, làm bà giật nẩy mình:

- Thưa bà, cụ Pitt đến kìa.

- Cô em ạ, tôi không thể tiếp ông ấy, tôi không muốn tiếp ông ấy đâu. Bảo Bowls nói rằng tôi đi vắng. Hay là cô đi xuống bảo ông ấy rằng tôi ốm, không tiếp ai được. Trong người tôi còn mệt, không thể tiếp chuyện ông anh tôi vào phút này đâu.

Nói đoạn, bà Crawley cúi xuống đọc tiếp cuốn sách.

- Thưa cụ, bà yếu quá, không tiếp khách được.

Cụ Pitt vừa định bước lên thang gác thì Rebecca chạy vội xuống nói vậy. Cụ Pitt đáp:

- Càng hay. Cô Becky, tôi muốn gặp cô. Cô đi với tôi sang phòng khách.

Hai người cùng vào trong phòng.

- Cô ơi, tôi muốn cô trở về trại Crawley Bà chúa với tôi.

Lão nam tước vừa nói vừa chằm chằm nhìn cô; lão tháo đôi găng tay đen ra và bỏ chiếc mũ có vành băng tang xuống. Đôi mắt lão nhìn trừng trừng vào cô ta một cách lạ lùng làm cho Rebecca Sharp gần như run lên. Cô đáp khe khẽ:

- Tôi cũng muốn sớm trở về khi nào bà Crawley khỏe hơn... tôi sẽ về với... với mấy em bé yêu quý.

Cụ Pitt đáp:

- Becky, cô nói thế đã mấy tháng nay rồi; thế mà cô vẫn cứ bám chặt lấy bà em tôi; bao giờ bà ấy chán, bà ấy sẽ quẳng cô đi như vứt chiếc giầy rách. Tôi nói cô biết, tôi cần cô lắm. Bây giờ tôi sắp về đưa đám đây. Cô có về không? Có hay không?

Becky có vẻ rất bối rối đáp.

- Tôi không dám...tôi không cho rằng...có lẽ không tiện...đi một mình...với cụ.

Cụ Pitt đấm tay xuống mặt bàn, nói:

- Tôi nhắc lại rằng tôi cần cô. Vắng cô, tôi không làm ăn gì được. Từ bữa cô đi tôi không biết công việc ra sao. Nhà cửa bề bộn, không còn được như trước nữa. Sổ sách của tôi luộm thuộm, không ra sao cả. Cô phải trở về. Hãy trở về đi; Becky quí mến ơi, trở về đi.

Rebecca há hốc mồm hỏi...

-Về như thế nào, thưa cụ?

- Về với tư cách là Crawley phu nhân, nếu cô muốn. Đấy, cô đã bằng lòng chưa? Cô cứ về làm vợ tôi. Cô xứng đáng lắm. Dòng dõi thì làm cái **** gì. Dòng dõi như cô cũng xứng đáng làm một mệnh phụ như bất cứ ai. Cô còn khôn ngoan bằng vạn vợ những thằng nam tước khác trong quận này. Cô có về không? Có hay không?

- Ồ, cụ Pitt!

Rebecca xúc động quá, kêu lên.

Cụ Pitt vẫn tiếp:

- Becky, bằng lòng đi. Tôi già rồi nhưng còn khỏe lắm. Tôi còn sống hai mươi năm nữa là ít. Tôi sẽ làm cho cô được sung sướng, rồi cô sẽ thấy. Tha hồ cô muốn làm gì thì làm; tha hồ tiêu tiền, tha hồ ăn chơi, tùy thích. Tôi sẽ sắp đặt tương lai chắc chắn cho cô. Tôi sẽ lo hợp thức hóa đầy đủ. Cô thấy không?

Và lão già quỳ xuống, liếc nhìn cô gái, y như một con “thần dê”() vậy.

Rebecca sửng sốt lùi lại, sững sờ cả người. Từ đầu cuốn truyện này, chúng ta chưa hề bao giờ thấy cô cũng phải lúng túng, và nhỏ những giọt nước mắt thành thực nhất đời mình. Cô nói:

- Ôi, cụ Pitt ạ ; ôi thưa cụ... tôi…tôi đã có chồng mất rồi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15


CHỒNG CÔ REBECCA XUẤT HIỆN TRONG CHỐC LÁT

Các bạn độc giả thuộc loại đa cảm (chúng tôi cũng không thích loại độc giả khác) hẳn phải thú vị trước cảnh tượng của tấn bi kịch nhỏ và miêu tả cuối chương vừa qua; bởi vì còn có gì đẹp hơn là hình ảnh thần Ái tình quỳ trước thần Sắc đẹp?

Song, khi thần Ái tình nghe thần Sắc đẹp thốt ra lời thú nhận ghê gớm rằng mình đã trót có chồng rồi, thì thần Ái tình đang quỳ mọp trên tấm thảm bỗng nhảy bật ngay dậy, miệng thốt ra những tiếng kêu làm cho thần Sắc đẹp đáng thương phải sợ hãi hơn cả lúc cô ta đang thú thực rằng mình đã có chồng. Cơn giận dữ và ngạc nhiên đầu tiên đã qua, lão nam tước kêu lên:

- Có chồng rồi; cô nói đùa. Becky, cô định trêu tôi phỏng? Ai điên gì mà lấy cô, một xu dính túi không có?

- Có chồng rồi! Vâng, tôi có chồng rồi!

Rebecca vừa khóc nức nở, vừa đáp...giọng nói nghẹn ngào vì xúc động, cô cầm khăn tay đưa lên mắt, phải dựa lưng vào thành lò sưởi cho khỏi ngã...trông cô ta thực là hiện thân của sự đau khổ, khiến cho kẻ lòng dạ sắt đá cũng phải mủi lòng.

- Ôi cụ Pitt, cụ Pitt thân mến; xin cụ đừng nghĩ rằng tôi vô tình không biết đền đáp lại bao ân huệ cụ đã ban cho tôi Chính vì cụ rộng lượng, nên tôi mới dám thú thực điều bí mật ấy. Cụ Pitt gầm lên:

- Rộng lượng cái con khẹc? Cái thằng lấy cô, hắn ta là ai! Hắn ở đâu?

- Thưa cụ, để tôi lại xin theo cụ về quê. Để tôi lại xin săn sóc cụ như trước? Xin cụ chớ bắt tôi phải rời bỏ trại Crawley Bà chúa?

Lão nam tước tưởng mình đã hiểu chuyện, bèn nói:

- Thằng cha bỏ rơi cô, hả? Được, Becky...nếu cô muốn thì cứ trở về. Cô không thể nào vừa muốn ăn bánh lại vừa để dành nó được. Dầu sao đi nữa, tôi cũng đã đem đến cho cô một cơ hội “tút” . Cô hãy trở về làm cô giáo như cũ... cô sẽ được tự do theo ý muốn.

Rebecca bèn chìa một bàn tay ra. Cô khóc nức nở tưởng như cả trái tim đến vỡ tung ra mất; những món tóc xoăn xoăn xõa xuống che kín mắt và xõa cả xuống mặt lò sưởi bằng đá cẩm thạch.

Cụ Pitt nói, giọng khả ố, cố tìm cách an ủi cô gái:

- Thế là thằng khốn nạn đánh bài chuồn hả? Thôi Becky ơi, đừng nghĩ ngợi nữa, tôi sẽ chăm sóc cô Becky ơi, đừng nghĩ ngợi nữa, tôi sẽ chăm nom săn sóc cô.

- Ôi, thưa cụ, được trở về trại Crawley Bà chúa để trông nom các em và săn sóc cụ như trước, thật là một điều đáng kiêu hãnh trong đời tôi; nhất là được thấy cụ tỏ ý rất vui lòng vì sự hầu hạ của con bé Rebecca hèn mọn này. Mỗi lúc nghĩ đến lời cụ vừa dạy, tôi lại thấy ơn cụ bằng trời biển... quả thật như thế. Tôi không được làm vợ cụ; xin cụ cho được...được làm con gái cụ vậy.

Vừa nói Rebecca vừa quỳ xuống, điệu bộ trông bi đát vô cùng; cô nắm chặt lấy bàn tay gớm ghiếc của lão trong hai bàn tay mình (hai tay cô ta thật đẹp, trắng muốt, mịn màng như sa-tanh), vừa ngước mắt nhìn lão già, vẻ mặt hết sức tin cậy và đáng thương; vừa lúc ấy…cửa mở, bà Crawley sồng sộc bước vào.

Vừa ngay sau lúc Rebecca và cụ Pitt đưa nhau vào trong phòng khách thì bà Firkin và bà Briggs tình cờ cũng đi qua cửa phòng, và cũng ngẫu nhiên cùng nhòm qua lỗ khóa họ thấy lão quý tộc già quỳ móp trước mặt cô giáo dạy trẻ, lại nghe thấy lão ngỏ ý muốn cưới cô làm vợ. Lão vừa nói buông mồm thì lập tức cả bà Firkin và bà Briggs chạy bổ lên gác, xông vào phòng khách, chỗ bà Crawley đang ngồi đọc cuốn tiểu thuyết Pháp; họ báo cho cho bà biết cái tin quái gở: cụ Pitt đang quỳ và tỏ tình với cô Sharp. Nếu các bạn tính đúng thời gian cuộc đối thoại trên xảy ra...với thời gian bà Firkin và bà Briggs bay lên thang gác...lao vào phòng khách... và thời gian bà Crawley ngạc nhiên, đánh rơi tập truyện của Pigault le Brun xuống đất...và thời gian bà xuống thang gác...các bạn sẽ thấy cuốn truyện này viết rất chính xác; bà Crawley tất phải xuất hiện vừa đúng lúc Rebecca đang có thái độ cầu khẩn van xin nói trên.

Bà Crawley nói, giọng nói và cái nhìn tỏ vẻ hết sức khinh bỉ:

- Vậy ra tiểu thư quỳ xuống đất chứ không phải là công tử? Ông Pitt, họ mách tôi rằng chính ông đã quỳ mọp dưới chân cô ta phải không? Hãy quỳ xuống lần nữa đi, để tôi xem có đẹp đôi không nào!

Rebecca đứng dậy đáp:

- Thưa bà, tôi vừa cảm tạ cụ Pitt, tôi đã thưa với cụ rằng... tôi không bao giờ có thể trở thành Crawley phu nhân được.

- Từ chối à?

Bà Crawley kêu lên, lại càng sửng sốt hơn trước; Briggs và Firkin đứng ngoài cửa cùng trợn tròn mắt, mồm há hốc ra vì ngạc nhiên.

Rebecca tiếp theo, giọng buồn bã, nghẹn ngào đầy nước mắt:

- Vâng...tôi từ chối.

Bà già lại hỏi:

- Liệu tôi có nên tin ở lỗ tai mình nữa không, khi được nghe rằng ông đã tỏ tình với cô ấy, hử ông Pitt?

Lão nam tước đáp:

- Đúng, có thế.

- Và cô ấy từ chối, như cô ấy vừa nói?

- Đúng.

Cụ Pitt nhăn răng ra cười, đáp vậy.

Bà Crawley nhận xét:

- Trông ông có vẻ không lấy việc đó làm đau đớn thì phải.

- Việc quái gì mà đau đớn.

Cụ Pitt đáp, mặt vẫn thản nhiên lại có ý hơi khôi hài, làm cho bà Crawley gần phát điên lên vì kinh ngạc. Một nhà quý tộc đã già mà quỳ xuống trước mặt một cô giáo dạy trẻ không một xu vốn liếng, và lại phá ra cười vì bị cô ta từ chối không chịu lấy làm chồng... một cô giáo dạy trẻ không một xu hồi môn mà từ chối một vị nam tước thu hoạch đồng niên bốn ngàn đồng... thật là những điều bí mật bà Crawley không bao giờ có thể hiểu nổi. Còn vượt xa những chuyện ly kỳ bà đọc trong cuốn tiểu thuyết Pigault le Brun bà vẫn thích nhất.

- Tôi rất vui lòng thấy ông cười cợt được trước chuyện ấy, ông anh của tôi ạ. Bà nói tiếp, vẫn chưa hết cơn bàng hoàng sửng sốt.

Cụ Pitt đáp:

- “Trứ danh” thật, ai mà ngờ được! Thật là một đồ quỷ cái! Đồ cáo con!

Lão vừa lẩm bẩm vừa khúc khích cười một mình ra ý thú vị lắm.

Bà Crawley giậm chân bành bạch, kêu lên:

- Ai mà ngờ được cái gì hả? Này, cô Sharp, cô định chờ Hoàng tử nhiếp chính ly dị vợ hay sao? Cô cho rằng gia đình nhà tôi không xứng đáng với cô hẳn?

Rebecca đáp:

- Thưa bà, cứ nom dáng điệu của tôi khi bà bước vào đây cũng đã rõ tôi có dám coi thường cái vinh dự mà con người tốt bụng cao quý kia đã rộng ơn ban cho tôi hay không. Bà nghĩ rằng tôi là kẻ vô tình sao? Tất cả mọi người đã yêu quý, đã đối đãi tốt với đứa con gái mồ côi đáng thương bị ruồng bỏ này, vậy mà chẳng lẽ nó không cảm thấy điều gì sao? Ôi, các bạn? Ôi, các vị ân nhân. Sao cho tôi có thế đem tình yêu, đời sống, đem hết sức ra đền đáp lại sự tin cậy của các vị đối với tôi? Bà Crawley ơi, lẽ nào bà lại từ chối không cho tôi tỏ lòng biết ơn? Thế thì quá lắm...tôi mang ơn các vị vô cùng.

Cô ngồi phịch xuống một cái ghế, trông đáng thương quá, khiến cho hầu hết những người đang có mặt phải não lòng vì nỗi buồn của cô.

- Becky, dù lấy tôi hay không thì cô vẫn là một người con gái tốt; tôi vẫn là bạn của cô, nhớ thế.

Cụ Pitt nói đoạn, chụp cái mũ có băng tang lên đầu, bỏ đi ra...Rebecca mừng quá, vì thêm sự bí mật của cô chưa bị tố cáo với bà Crawley, và cô hãy còn được hưởng một thời gian án treo ngắn.

Cô đưa khăn tay lên chùi mắt, gật đầu chào bà Briggs thực thà, rồi lên gác về phòng riêng của mình - bà Briggs cũng định cùng đi với cô lên thang gác, nhưng sau bà ở lại cùng bà Crawley bàn tán về câu chuyện kỳ lạ vừa qua; cả hai đều bị xúc động rất mạnh. Bà Firkin cũng cảm động không kém, đâm bổ ngay xuống nhà bếp, kể lại câu chuyện với khắp các bạn đồng nghiệp nam nữ. Câu chuyện gây một ấn tượng quá sâu sắc đối với bà Firkin, đến nỗi bà ta thấy cần gửi một lá thư đi ngay tối hôm ấy; thư viết;

“Rất hân hạnh được bày tỏ lòng trung thành cùng bà Bute Crawley và gia quyến ở nhà thờ; cụ Pitt đã ngỏ ý muốn lấy cô Sharp làm vợ, nhưng cô từ chối, làm cho ai cũng phải ngạc nhiên”.

Hai người đàn bà ngồi trong phòng ăn (bà Briggs sung sướng quá, vì một lần nữa lại được trò chuyện tâm tình với người che chở cho mình); họ vẫn chưa hết lạ lùng trước việc cầu hôn của cụ Pitt, cũng như việc Rebecca từ chối. Bà Briggs tỏ ra thạo đời, đoán rằng cô ta từ chối vì đã trót đính ước với người khác rồi; nếu không, chả đời nào một người con gái khôn ngoan như thế. Bà Crawley ngọt ngào hỏi:

- Phải tay bà, chắc bà nhận lời phăng đấy nhỉ, bà Briggs?

Bà Briggs trả lời, hơi đánh trống lảng:

- Được làm chị dâu bà Crawley, chả đáng hân hạnh lắm sao?

Bà Crawley nhận xét:

- Phải, xét cho cùng thì Becky có thể trở thành Crawley phu nhân được lắm chứ (thấy cô ta từ chối bà cũng hài lòng, và bây giờ không cần phải hy sinh điều gì nữa, bà rất sẵn sàng tỏ ra phóng khoáng và rộng lượng); cô ấy thông minh lắm - bà Briggs đáng thương ơi, cô ấy còn thông minh gấp trăm bà nữa cơ - cử chỉ thì tuyệt khéo, tôi dạy mãi mới được đấy. Này bà Briggs, cô ấy là dòng dõi họ Montmorency, con nhà gia thế cũng có khác, tuy bản thân tôi thì vẫn không ưa chuyện dòng dõi. Cô ấy rất có thể còn biết giữ giá trị của mình giữa đám quý phái ngu độn ở Hamshire hơn cả cái con mụ bất hạnh con gái nhà hàng sắt kia đấy.

Bà Briggs lại tán thành như thường lệ. Hai người tiếp tục phỏng đoán về chuyện “đính ước” của Rebecca.

Bà Crawley bảo:

- Những con người không bè bạn đáng thương như các bà bao giờ mà chẳng có một “anh nhân ngãi” nào đó. Cả bà nữa, ngày xưa bà cũng đã yêu một ông giáo dạy viết (đừng khóc, bà Briggs...bà hay khóc lắm, khóc có làm ông ta sống lại được đâu), mà tôi cứ cho rằng cái nhà cô Becky bất hạnh kia cũng dại đột và đa cảm như vậy đi: một lão lang thuốc, một bác quản gia, một anh thợ vẽ, một cậu mục sư trẻ tuổi nào đó, hoặc một thứ người đại loại như thế chứ.

- Thật là đáng thương! Đáng thương quá!

Bà Briggs nói vậy, bà đang nghĩ tới chuyện hai mươi bốn năm về trước, nghĩ tới cái ông thầy dậy viết gầy như que củi, đến mái tóc vàng và những lá thư của ông ta, những lá thư rất đẹp tuy viết loằng ngoằng khó đọc mà bà nâng niu giữ gìn trong ngăn bàn trên gác. Bà vẫn chép miệng “Thật là đáng thương! Đáng thương quá!” Một lần nữa, bà sống lại thủa con gái mười tám, với cặp má mịn màng tươi tắn, buổi tối đi lễ nhà thờ, bà và ông giáo dạy viết nồng nàn kia cùng ngân giọng đồng ca bài hát nguyện.

- Bây giờ cô Rebecca đã cư xử như vậy, thì gia đình nhà ta phải đối đãi với cô thế nào chứ. Bà Briggs, hãy dò xem anh ta là ai. Tôi sẽ cấp cho anh ta một cái cửa hiệu, hay là đặt anh ta vẽ cho tôi một bức chân dung, bà hiểu chứ? Hoặc tôi sẽ nói chuyện với ông anh họ tôi, làm giám mục...tôi sẽ cho Becky một món hồi môn, và bà Briggs, ta sẽ tổ chức một lễ cưới. Bà phải sửa soạn một bữa tiệc, và đi phù dâu.

Bà Briggs tuyên bố rất bằng lòng, và thề rằng bà Crawley thân mến của bà bao giờ cũng tốt bụng, rộng lượng, đoạn bà lên phòng riêng của Rebecca để an ủi cô và hỏi chuyện về việc cầu hôn, việc từ chối và về nguyên nhân. Bà còn nói bóng tới dự định rộng lượng của bà Crawley và cố dò xem ai là người đàn ông được cô Sharp để lọt vào mắt xanh.

Rebecca tỏ ra rất xúc động, rất dịu dàng, ngọt ngào thấy bà Briggs đối với mình hết sức trìu mến săn sóc, cô cũng tỏ ra biết ơn....Cô cũng thú nhận rằng có đính ước bí mật với một người... một sự bí mật thú vị vô cùng...đáng tiếc quá, giá lúc nhòm qua lỗ khóa bà Briggs nán lại thêm độ nửa phút nữa thì hay...Có lẽ Rebecca cũng còn nói rõ thêm, nhưng bà Briggs mới ngồi trò chuyện được độ năm phút, thì bà Crawley đã lù lù bước vào rồi... Bà nóng ruột quá, không chịu nổi, bà không thể chờ đợi người sứ giả chậm chạp của mình mang tin về, cho nên bà phải đích thân tìm đến, bà ra lệnh cho bà Briggs ra ngoài. Sau khi tỏ lời khen ngợi cô Sharp đã cư xử phải lẽ, bà hỏi tỉ mỉ chi tiết cuộc gặp gỡ vừa qua, là hỏi quan hệ từ trước giữa cô và cụ Pitt ra sao mà bây giờ lão này tỏ tình một cách lạ lùng như vậy Rebecca đáp rằng từ lâu cô vẫn biết cụ Pitt có ý hạ cố thương cô (lão ta vẫn có thói quen bộc lộ tình cảm của mình một cách thẳng thắn, lộ liễu), nhưng vì những lí do về tuổi tác, địa vị, và tính tình của cụ Pitt, cô thấy cuộc hôn phối không thể thực hiện được (cô không nói rõ những lý do sâu kín chưa tiện bộc lộ ngay, sợ bà Crawley phiền lòng) vả chăng, có người đàn bà nào có tâm hồn, biết nghĩ và biết tự trọng, lại đành tâm nghe người ta ngỏ ý cầu hôn khi vợ người ta mới chết chưa kịp chôn cất?

Bà Crawley vội vớ ngay lấy cơ hội.

- Cô em thật nghĩ còn nông cạn. Lẽ ra cô không nên từ chối ông ấy mới phải, trừ trường hợp cô đã đính ước với người khác thì không kể. Cứ nói thực với tôi đi: có nguyên nhân gì bí mật nào? Nhất định phải có “người nào” rồi. Ai đã chiếm được trái tim cô thế?

Rebecca nhìn xuống đất, thú nhận rằng có như vậy. Cô mỉm cười nói, giọng hơi run run:

- Thưa bà, bà đoán đúng đấy. Bà ngạc nhiên vì thấy một người con gái nghèo khổ, cô độc, lại có người đính ước, phải không ạ?Tôi chưa hề nghe nói vì nghèo mà không được yêu bao giờ.Tôi mong rằng điều ấy đúng.

Bà Crawley bao giờ cũng sẵn sàng đa cảm, bà đáp:

- Cô em bé bỏng thân mến đáng thương ơi, vậy ra cô bị phụ tình? Cô đành chôn vùi mối hận sâu kín trong lòng? Hãy kể tình đầu câu chuyện tôi nghe, tôi sẽ an ủi cô.

Rebecca vẫn giọng nói đẫm nước mắt:

- Thưa bà, tôi cũng mong rằng có thể kể lại bà nghe. Mà quả thật, tôi cần được bộc lộ nỗi lòng.

Và cô ngả đầu vào vai bà Crawley, khóc thút thít rất tự nhiên, làm cho bà này từ chỗ ngạc nhiên biến thành thương cảm, bà ôm hôn cô trìu mến gần như mẹ hôn con, bà vỗ về an ủi cô mãi, bà thề rằng sẽ quý cô như con gái, và sẵn sàng làm mọi việc có thể được để giúp cô.

- Nào, thế anh ta là ai nào, cô em yêu quý? Có phải người anh trai cô Sedley xinh đẹp kia không? Hôm nọ cô nói chuyện hai người trước có biết nhau. Để tôi mời anh ta đến đây. Và cô sẽ lấy được anh ta, nhất định cô sẽ lấy được anh ta.

Rebecca đáp:

- Bây giờ xin bà đừng hỏi ngay. Không lâu đâu rồi bà sẽ rõ, chắc chắn thế. Bà Crawley thân mến quý báu...người bạn thân quý của tôi, tôi có được phép gọi như vậy không nhỉ?

Bà già hôn cô đáp:

- Con ơi, được lắm chứ.

Rebecca thổn thức nói:

- Bây giờ tôi chưa thể nói ngay với bà được. Tôi đau khổ lắm. Nhưng mà, ôi? hãy thương tôi...xin bà hứa sẽ thương tôi mãi mãi.

Cả hai người cùng khóc, sự xúc động của cô con gái lây sang cả bà già, bà Crawley trịnh trọng hứa đồng ý như vậy; đoạn bà từ biệt cô gái bé bỏng được mình che chở, bà cầu chúa ban phúc lành cho cô ta, và khen mãi cô ta một con người chân thật, hiền hậu, ngoan ngoãn nhưng cũng khó hiểu.

Bây giờ còn lại một mình, Rebecca ngồi nghĩ lại những sự việc đột ngột, kỳ lạ xảy ra ngày hôm ấy, cô nghĩ đến việc trót xảy ra mất rồi, và việc đáng lẽ đã phải xảy ra.

Bạn đọc cho rằng trong thâm tâm cô ấy (ấy, xin lỗi), trong thâm tâm bà Rebecca đang nghĩ gì nào? Trong mấy trang trước, kẻ viết truyện này đã mạn phép tự cho mình cái quyền được tò mò ngó vào trong phòng ngủ của Amelia Sedley, và với con mắt “thấu suốt nghìn đời” của nhà viết tiểu thuyết, hiểu được những nỗi lo nghĩ, đau khổ êm đềm đang trằn trọc trên tấm gối vô tội kia, thế thì tại sao kẻ viết truyện lại không dám tự nhận là người bạn tâm tình của Rebecca, hiểu thấu mọi sự bí mật của cô, và nắm giữ chiếc chìa khóa kho tàng tâm tình của cô thiếu nữ ấy?

Được, vậy thì trước hết Rebecca đang ngồi nghĩ thầm một cách đáng cảm động mà tiếc mãi cái hạnh phúc vô giá lẽ ra có thể vừa tầm tay với của cô, mà bây giờ bắt buộc phải gạt bỏ. Niềm tiếc hận này thì bất cứ người nào có tâm lý thực tế cũng phải đồng ý. Có bà mẹ thương con nào lại không thông cảm với một cô gái chưa chồng, không một xu vốn liếng suýt nữa trở thành một bậc mệnh phụ, hàng năm có thể cùng ông chồng chia xẻ món tiền bốn nghìn đồng? Trong Hội chợ phù hoa này, có người thiếu nữ tử tế nào lại không thương một cô gái chịu thương chịu khó, thông minh, xứng đáng được sung sướng, mà khi được người ta mang đến cho một mối lợi kếch xù đáng thèm muốn như vậy lại chính là lúc không có quyền nhận nữa? Tôi chắc chắn rằng chúng ta ai cũng phải thông cảm với sự tiếc hận của Rebecca.

Tôi còn nhớ một đêm kia, chính tôi có mặt ở Hội chợ phù hoa trong một buổi dạ hội. Tôi có nhìn thấy cô gái già Toady cũng đến dự; cô đặc biệt quan tâm săn sóc đến bà Briefless là vợ một viên thầy kiện; bà này cũng là con nhà gia thế, nhưng ai cũng biết là nghèo xơ nghèo xác.

Tôi mới tự hỏi thầm rằng, tại sao cô Toady lại chú ý nhiều đến bà kia? Tại ông Briefless đã được thăng chức chánh án chăng? Hay là tại vợ ông ta để lại cho cô Toady một cái gia tài? Cô Toady , với thái độ rất thẳng thắn là đặc tính trong cách cư xử của cô xưa nay, giải thích thế này: “Anh cũng rõ chứ gì, bà Briefless là cháu gọi tôn ông John Redhand là ông nội; ông cụ ốm kịch liệt ở Cheltenham đã sáu tháng nay. Ông bố bà Redhand được thừa kế, anh thấy không, vậy bà ấy sắp sửa là con gái của một vị nam tước cơ mà.”

Rồi cô Toady mời ông Redhand và vợ tuần sau đến ăn cơm nhà cô.

Nếu như chỉ có mỗi cái may mắn được trở thành con gái một nam tước mà một người đàn bà cũng đã được người đời trọng vọng như vậy thì, chắc chắn, chắc chắn lắm, chúng ta rất có quyền kính trọng những sự sầu não của một cô thiếu nữ suýt nữa được trở thành vợ một nam tước. Ai dám tưởng rằng Crawley phu nhân chết sớm như thế? Bà ta thuộc vào loại đàn bà có thể ốm dai dẳng mười năm không chết...Rebecca nghĩ ngấm nghĩ ngầm mà tiếc đứt ruột...

Chỉ một ly nữa mình được làm một phu nhân? Mình có thể xỏ dây vào mũi lão già mà dắt đi đâu thì dắt. Mình có thể “xin đủ” bà Bute với thái độ trịch thượng của bà, và “xin đủ” cả Crawley với thái độ kẻ cả không chịu nổi của anh ta. Mình có thể sắm sửa thêm đồ đạc mới và trang hoàng lại tòa nhà ở tỉnh. Mình có thể mua một chiếc xe ngựa đẹp nhất thành phố Luân đôn, ngự trên ghế “lô” ở rạp Opera; và trong dịp thiết triều sắp tới mình rất có thể được vào hoàng cung. Tất cả những điều đó tý nữa thì thành sự thực...thế mà bây giờ...bây giờ tất cả đều là ảo tưởng, mơ hồ.

Song Rebecca là một thiếu nữ tính tình quả quyết nhiều nghị lực, đối với chuyện đã xảy ra không cứu vãn được nữa, cô không buồn phiền một cách vô ích và đáng tức cười. Cho nên cô chỉ rầu rĩ vừa phải thôi, đoạn khôn khéo để dành thì giờ tập trung vào việc lo tính sắp đặt tương lai quan trọng hơn nhiều. Cô cân nhắc lại tình thế của mình cùng mọi nỗi hy vọng, lo lắng, và mọi sự may rủi có thể. Đầu tiên, hãy cứ biết là cô đã có chồng...đấy là điều quan trọng. Cụ Pitt biết chuyện ấy rồi. Cô không ngạc nhiên lắm về lời thú nhận trong một phút tính toán đột ngột cô đã nói ra. Chóng hay chầy thì rồi cũng có phen phải thú thực; vậy thì nói ngay bây giờ hay để đến sau này, khác gì nhau? Ít nhất thì cái con người suýt nữa được lấy cô làm vợ ấy phải biết im lặng, không đả động đến chuyện cô ta đã có chồng rồi. Nhưng vấn đề quan trọng là bà Crawley nghe tin ấy thì sẽ nghĩ sao? Rebecca băn khoăn quá. Nhưng cô còn nhớ tường tận lời bà Crawley, cô còn nhớ bà có thái độ khinh miệt dòng dõi quý tộc thế nào; cô nhớ bà có những ý kiến khoáng đạt, táo bạo thế nào; cô nhớ cả khuynh hướng lãng mạn trong tính tình của bà nữa: cô nhớ bà còn quý mến anh cháu trai đến mức như dở hơi, và chính cô cũng được bà nhiều lần tỏ lòng quý mến. Rêbeeea nghĩ thầm:

“Bà bão quý anh ấy lắm, chắc bà sẽ tha thứ cho anh ấy mọi chuyện: bà lão quen được mình săn sóc quá rồi: bây giờ thiếu mình chắc không chịu được. Bao giờ chuyện bí mật trở thành hai năm rõ mường chắc thế nào bà lão cũng nổi cơn tam bành lục tặc, thế nào cũng khóc lóc gây sự với mình, nhưng rồi lại làm lành ngay với nhau thôi. Ngẫm cho kỹ, thì nấn ná, giấu giếm thêm nữa để làm gì? Con bài đã lật lên rồi, hôm nay hay ngày mai thì kết quả cũng thế thôi”. Nghĩ vậy, cô quyết định báo cho bà Crawley biết mọi chuyện; cô chỉ cân nhắc xem nên báo tin cho bà cách nào bà tốt nhất, và có nên ra mặt chịu đựng cơn bão táp thế nào cũng nổ ra không, hay là nên cao chạy xa bay ẩn lánh một chỗ, đợi đến lúc mưa tạm tan, gió tạm lặng rồi hãy trở về. Trong lúc cô băn khoăn suy tính, cô viết một lá thư nội dung như thế này:

Anh thân mến nhất đời.Cơn đại khủng hoảng mà đôi ta thường bàn bạc vừa nổ ra rồi. Một nửa sự bí mật của em đã bị khám phá, em đã suy đi tính lại mãi, và em yên trí rằng bây giờ chính là lúc nên bộc lộ hết câu chuyện bí mật. Sớm nay, cụ Pitt tìm đến em và...anh có tưởng tượng được không cụ chính thư ngỏ ý hỏi em làm vợ. Thế có chết không! Thật đáng thương cho em quá! Lẽ ra em được trở thành Crawley phu nhân. Nếu quả thế, hẳn bà Bute sung sướng lắm đấy nhỉ: và cả bà cô em nữa, hẳn bà cũng vui lòng, nếu em trở thành bề trên của bà. Suýt nữa em đã trở thành mẹ của một người nào đó rồi, chớ không phải là... ôi, cứ nghĩ chúng mình phải nói tất cả mọi chuyện ra sớm thế mà em sợ quá, em run quá! Cụ Pitt đã biết em có chồng nhưng không rõ em lấy ai, nên cụ cũng chưa lấy gì làm bực mình lắm. Bà cô em thì đang hết sức giận dữ, vì em từ chối không làm vợ ông cụ. Nhưng bà cư xử với em rất ngọt ngào, trìu mến. Bà ấy đã chịu hạ mình bảo em rằng em có thể trở thành một người vợ tốt của ông cụ được, và thề rằng sẽ coi “Rebecca bé bỏng của anh” như con gái. Khi biết chuyện, mới đầu chắc thế nào bà ấy cũng choáng váng: nhưng cơn giận rồi cũng chỉ thoáng qua, chúng ta có cần phải sợ hãi không, em nghĩ rằng không; em chắc chắc thế. Bà ấy quý anh như vàng (anh chỉ là đồ ngỗ ngược, vô tích sự), chắc sẽ tha thứ cho anh mọi chuyện. Mà em tin chắc rằng sau anh, thì người chiếm được chỗ thứ hai trong tim bà phải là em, và thiếu em thì bà ấy khổ lắm. Anh thân yêu nhất đời ơi, linh tính báo cho em biết rằng chúng ta sẽ chiến thắng. Anh sẽ từ biệt cái trung đoàn khốn nạn ấy, sẽ thôi không đánh bạc, thi ngựa, và sẽ trở thành một cậu bé ngoan ngoãn; chúng ta sẽ về cùng sống ở Đường thành công viên, và bà cô em sẽ cho chúng ta hưởng cả gia tài.

Sáng sớm mai, em sẽ cố tìm cách đến chỗ mọi khi vào ba giờ sáng. Nếu bà B cùng đi với em, thì anh phải đến ăn cơm trưa và đưa tin trả lời em: nhớ cứ để vào tập thuyết giáo của Porteus quyển thứ ba. Nhưng dầu sao đi nữa, anh cũng phải đến thăm em nhé.

Gửi cô Eliza Styles, ngụ tại nhà ông Barnet, thợ đóng yên ngựa, Knightsbridge.

Tôi tin rằng không một bạn độc giả tinh ý nào đọc cuốn truyện nhỏ này lại không nhận ra ngay cái cô Eliza Styles thường lại nhà ông thợ đóng yên ngựa để nhận thư (theo lời cô Rebecca thì đấy là một bạn học cũ, gần đây cô mới lại thư từ thăm hỏi) lại là người cũng đi ủng có cựa gót bằng đồng, để một bộ ria mép to tướng và, chẳng phải ai xa lạ, chính là đại úy Crawley vậy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16


BỨC THƯ TRÊN CHIẾC GỐI MAY

Hai người đã lấy nhau ra sao, điều đó không ai cần quan tâm mảy may. Một viên đại úy đã thành niên cùng một cô thiếu nữ đến tuổi xin cấp một tờ chứng hôn, và làm lễ cưới tại bất cứ nhà thờ nào trong thành phố thì có điều gì khó khăn đâu? Chẳng cần phải bảo thì ai cũng biết rằng một khi người đàn bà đã muốn, chắc chắn họ sẽ tìm ra cách thực hiện bằng được ý muốn của mình.

Cứ theo ý tôi thì có lẽ, một hôm nào đó, khi cô Sharp đi vắng cả một buổi sáng để đến thăm cô bạn thân thiết là Amelia Sedley ở khu phố Russell, thì có một thiếu nữ trông rất giống cô ta cũng bước vào một tòa nhà thờ nào đó trong thành phố, cùng một người đàn ông sang trọng có bộ ria mép vuốt sáp; sau khoảng mười lăm phút, người đàn ông này lại dẫn cô trở ra, lên chiếc xe ngựa thuê vẫn chờ sẵn: ấy là một buổi lễ cưới kín đáo vậy.

Và trên thế gian này, sau khi trải qua bao kinh nghiệm sống hàng ngày, ai dám cho rằng một người đàn ông con nhà dòng dõi lại không thể lấy vơ váo bất cứ người nào làm vợ? Đã có biết bao người khôn ngoan, học thức mà lấy ngay chị bếp của mình? Ngay chính bá tước Eldon, con người khôn ngoan nhất đời ấy chẳng đã lấy vợ một cách lúi sùi vụng trộm đấy sao? Xưa kia, Achilles và Ajax cũng đã yêu nô lệ của họ. Vậy thì sao ta lại đòi hỏi anh chàng sĩ quan Ngự lâm quân cao lớn kia, con người có những dục vọng lớn lao nhưng trí óc lại rất bé nhỏ, trong đời mình chưa từng bao giờ biết kiềm chế những sự say mê, phải bất thình lình trở thành khôn ngoan và từ chối không chịu thỏa mãn một khát vọng anh ta hằng ấp ủ? Nếu như thiên hạ bao giờ cũng tính toán cẩn thận khi lấy vợ lấy chồng, thì việc phát triển dân số đến đình lại mất!

Riêng đối với tôi thì việc ông Rawdon lấy vợ chính là một trong số những hành vi lương thiện nhất mà ta có thể thống kê được trong bất cứ đoạn đời nào của nhà quý tộc ấy được miêu tả trong cuốn truyện này. Ai dám bảo rằng việc bị một người đàn bà quyến rũ, và do đó lấy người ấy làm vợ, là không anh hùng? Anh chàng chiến sĩ cao lớn ấy say mê, sung sướng, ngạc nhiên, hoàn toàn tin cậy và thờ phụng Rebecca như kẻ cuồng tín; ít nhất thì, trước con mắt của đàn bà, những tình cảm ấy cũng không hề làm mất uy tín của anh ta chút nào. Khi Rebecca hát, mỗi âm thanh như reo múa trong tâm hồn đần độn của anh ta, cũng như còn ngân nga mãi trong khắp cái cơ thể to lớn của anh ta. Lúc cô ta nói, anh chàng tận lực vận dụng trí thông minh để nghe và để ngạc nhiên. Khi cô ta bỡn cợt, anh chàng thường nghiền ngẫm mãi. Những câu khôi hài của cô trong óc và để nửa giờ sau mới phá ra cười giữa phố, làm cho anh hầu ngồi cạnh trong xe ngựa, hoặc người bạn cùng cưỡi ngựa đi chơi ở Rotten Row với anh ta phải trố mắt ngạc nhiên. Đối với anh ta, những lời Rebecca nói là lời sấm truyền, mỗi hành vi dù nhỏ nhặt nhất của cô anh chàng cũng thấy đầy duyên dáng và khôn ngoan. Anh ta nghĩ thầm: “Nàng hát hay thật...vẽ đẹp quá...Nàng cưỡi con ngựa non bất kham ở trại Crawley Bà chúa mới khéo làm sao?”Và trong những phút tình tự, anh ta thường nói với cô gái: “Lạy Chúa, em Becky ơi, em xứng đáng làm tổng tư lệnh quân đội, là tổng giám mục ở giáo đường Canterbury, lạy Chúa!”

Trường hợp anh ta có phải là hãn hữu không? Hàng ngày, chúng ta chẳng đã từng được chứng kiến trong cuộc đời cảnh những chàng Hercules () thực thà bám lấy gấu váy của nàng và cảnh những chàng Samsons () khổng lồ có râu phủ phục trong lòng cô Delilah đấy sao.

Vậy thì Becky viết thư báo cho anh ta hay rằng cuộc đại khủng hoảng xảy ra đến nơi rồi, và bây giờ là lúc phải hành động ngay. Rawdon tự nhủ sẵn sàng tuân theo mệnh lệnh của cô như anh ta sẵn sàng dẫn đầu đơn vị của mình tấn công dưới sự chỉ huy của viên đại tá. Anh ta cũng không cần phải nhét lá thư vào trong quyển thứ ba tập “Thuyết giáo” của Porteus. Ngay hôm sau, Rebecca đã dễ dàng tìm được cách trốn bà Briggs để đến “chỗ mọi khi” gặp người bạn tình trung thành của mình. Suốt đêm, cô ta trằn trọc nghĩ về chuyện này; sáng ra cô ta ngỏ với Rawdon mọi sự tính toán sắp đặt của mình. Dĩ nhiên, anh ta đồng ý về mọi khoản; anh ta hoàn toàn yên trí rằng người yêu tính toán như vậy là rất đúng, rằng những điều cô ta đề nghị là có lợi nhất, rằng bà Crawley, sau một thời gian, cuối cùng thế nào cũng phải nghĩ lại, phải “rút lui” như lời anh ta nói. Giả sử Rebecca quyết định hoàn toàn khác, chắc Rawdon sẽ cắm đầu đi theo cũng ngoan ngoãn như vậy.

Anh ta bảo: “Một mình đầu óc em cũng đủ cho cả hai ta rồi. Chắc chắn em sẽ tìm được cách cho chúng mình thoát khỏi chỗ bế tắc. Anh đã từng gặp gỡ những tay cũng đáo để mà chưa hề thấy ai sánh được với em đấy”. Anh chàng Ngự lâm quân si tình bộc lộ lòng tín ngưỡng tuyệt đối của mình như vậy, và để mặc người yêu thực hiện cả phần việc của mình trong kế hoạch cô ta đã vạch ra cho cả đôi.

Kế hoạch ấy chỉ gồm có việc thuê một ngôi nhà yên tĩnh ở Brompton, hoặc tại một nơi gần trại lính, để ông bà đại úy Crawley ở. Rebecca quyết định đi trốn, chúng ta cũng thấy thế là khôn ngoan nhất mực. Thấy cô ta muốn vậy Rawdon cũng thích; đã mấy tuần qua, anh chàng vẫn cầu khẩn Rebecca trốn đi với mình. Anh chàng lập tức lao đi tìm thuê nhà, hăng hái như một kẻ đang yêu. Người chủ nhà đòi trả mỗi tuần hai ghi nê; Rawdon bằng lòng ngay, làm cho bà này tiếc mãi sao mình không đòi đắt hơn. Anh ta thuê một chiếc dương cầm, và trang hoàng trong nhà toàn những hoa là hoa, la liệt toàn những đồ dùng sang trọng. Còn như các khoản khăn san, bao tay tất lụa, đồng hồ Pháp bằng vàng, vòng tay và nước hoa thì nhiều vô kể. Rawdon vung tiền ra mua các thứ như một kẻ si tình mù quáng và không bao giờ cạn túi. Sau khi đầu óc được nhẹ nhõm nhờ cái công việc “vén tay áo xô đốt nhà táng giấy” kia, thì anh chàng trở về câu lạc bộ của trại lính dùng bữa, nóng lòng sốt ruột chờ đợi phút thay đổi lớn lao trong đời mình sắp xảy ra.

Những việc xảy ra hôm trước, cử chỉ đáng phục của Rebecca từ chối một cuộc nhân duyên rất có lợi cho cô, nỗi đau khổ thầm kín đang giày vò cô, và thái độ dịu dàng, kín đáo của cô khi chịu đựng nỗi sầu muộn riêng của mình, tất cả những điều đó khiến cho bà Crawley đối với Rebecca càng thêm trìu mến hơn mọi ngày. Đối với đàn bà con gái thì một câu chuyện thuộc loại này, một việc cưới xin, một chuyện từ hôn hay một việc cầu hôn, bao giờ cũng làm họ sôi nổi và đánh thức tất cả những cảm tình nồng nhiệt nơi họ. Với tư cách là một người quan sát nhân tình thế thái, tôi vẫn hay la cà vào trong nhà thờ St. George ở Quảng trường Hanover suốt trong những mùa cưới. Tôi chưa hề thấy những anh phù rể khóc lóc hoặc thấy những ông thầy cả hoặc thầy dòng đang hành lễ tỏ vẻ cảm động, nhưng thường được thấy những người đàn bà hoàn toàn không có liên quan gì đến cuộc hôn lễ đang tiến hành - nghĩa là những bà mệnh phụ đã quá tuổi lấy chồng lâu lắm rồi, những bà nạ dòng to béo con trai con gái đầy đàn, đó là chưa kể những cô con gái xinh xắn trẻ măng đội mũ trùm màu hồng đang độ “đào tơ sen ngó”, họ quan tâm đến cuộc lễ là dĩ nhiên - tôi nói rằng thường thường những người đàn bà có mặt trong buổi lễ đều khóc nức nở, khóc thút hít, rồi xịt xoạt hỷ mũi và cầm những chiếc khăn tay bé tý rất vô dụng để che kín mặt đi; tất cả, già cũng như trẻ, đều bồi hồi xúc động. Khi anh bạn tôi là John Pimlico cưới cô Belgravia Green Parker xinh đẹp làm vợ, tất cả mọi người đều cảm động quá đến nỗi cái bà lão khịt mũi dẫn tôi đến chỗ ngồi cũng giàn giụa nước mắt. Tôi tự hỏi: “Tại sao thế nhỉ? Bà lão có phải đi lấy chồng đâu mà cũng khóc?”

Nói tóm lại, trước câu chuyện của cụ Pitt, bà Crawley và bà Briggs đang ở trong một tình trạng rất xa xỉ về tình cảm; Rebecca bỗng nhiên được họ hết sức quan tâm săn sóc. Còn khi cô đi vắng, bà Crawley đành tự an ủi bằng cách đọc những cuốn truyện lãng mạn nhất có trong tủ sách vậy. Cô Rebecca bé bỏng với những nỗi đau khổ thầm kín của mình đã trở thành một nhân vật quan trọng.

Tối hôm ấy, Rebecca hát nghe ngọt ngào hơn, và nói chuyện nghe duyên dáng hơn bất cứ bao giờ từ hồi cô đến sống ở Đường công viên. Cô tìm đủ mọi cách uốn éo lấy lòng bà Crawley. Cô vừa cười vừa nói về việc cụ Pitt hỏi cô làm vợ, cứ tự nhiên như không, lại giễu cợt lão là đã già mà còn thích chơi trống bỏi. Lúc cô nói rằng không ao ước gì hơn là được mãi mãi ở lại bên cạnh người ân nhân của mình, thì cô giàn giụa nước mắt; còn trống ngực bà Briggs thì cũng đập thình thình vì xúc động. Bà Crawley nói:

- Cô em thân mến ơi, tôi muốn cô ở đây với tôi mãi mãi, cô có thể yên trí như thế. Câu chuyện kia đã xảy ra rồi, chẳng lẽ cô còn trở về sống với cái ông anh bỉ ổi của tôi à? Cô sẽ ở lại đây với tôi và bà Briggs. Bà ấy thường đi vắng luôn để thăm nom họ hàng. Này, bà Briggs, khi nào cần, bà cứ tha hồ đi, tùy thích. Nhưng còn cô, cô em thân yêu ạ, cô phải ở lại để săn sóc bà lão già nua này chứ.

Giả sử Rawdon đang có mặt ở đây, chứ không phải đang nốc rượu ào ào ở câu lạc bộ nhà binh, có lẽ đôi vợ chồng đã quỳ phăng xuống trước gối bà lão để thú thật mọi việc, chắc sẽ được tha thứ trong chớp mắt. Song cái may mắn đó không đến với cặp vợ chồng trẻ ấy có lẽ cốt để cho tôi được viết cuốn tiểu thuyết này, và được kể bao nhiêu chuyện về họ... những chuyện ấy hẳn không bao giờ xảy ra trong đời họ nếu họ được sống trong sự bao dung che chở của con người dễ tha thứ nhưng nhạt nhẽo là bà Crawley kia.

*

Tại nhà bà Crawley Đường công viên, dưới quyền bà Firkin có một chị con gái làm công, người quận Hamshire; ngoài những công việc khác, chị này hàng ngày còn phải mang một bình nước nóng đến gõ cửa phòng cô Sharp vì Firkin thà chết chứ không bao giờ chịu mang nước hầu kẻ xa lạ ấy. Chị con gái làm thuê này có một người anh trai đi lính trong đơn vị của đại úy Crawley và, không sợ nói sai sự thực, tôi dám cam đoan rằng chị ta nắm được một số chuyện bí mật có liên quan nhiều đến cuốn truyện này. Nói tóm lại, với ba ghi-nê của Rebecca cho, chị ta sắm một tấm khăn quàng màu vàng, một đôi ủng màu xanh, một chiếc mũ nhẹ màu xanh da trời có đính một chiếc lông chim màu đỏ: cô Sharp vốn xưa nay không hào phóng lắm về chuyện tiền nong, vậy mà hậu đãi cho Betty Martin như thế, hẳn chị ta phải giúp cô được nhiều việc.

Ngày thứ hai, tính từ hôm cụ Pitt ngỏ lời cầu hôn với Rebecca, mặt trời vẫn mọc như thường lệ; và đúng giờ như lệ thường, Betty Martin, chị hầu gái chuyên dọn dẹp trên gác, đến gõ cửa phòng cô giáo.

Không có tiếng trả lời; chị lại gõ nữa. Vẫn im lặng như tờ Betty xách bình nước nóng bèn mở cửa, bước vào trong phòng. Chiếc giường nhỏ có nệm bông trắng muốt vẫn phẳng lì và sạch y như tối hôm trước, lúc chính tay Betty trải giường lại. Ở một đầu gian phòng, có hai chiếc vali nhỏ chằng dây cẩn thận; trên chiếc bàn cạnh cửa sổ có một lá thư đặt trên mặt một tấm gối, chiếc gối to, phồng, có kẻ chỉ hồng, mặt gối đan chéo giống chiếc mũ ngủ của một bà già. Có lẽ lá thư được đặt trên đó suốt đêm rồi.

Betty rón rén đi lại, như sợ hãi không dám đánh thức lá thư đang ngủ...Chị ta nhìn lá thư, lại nhìn quanh phòng, có vẻ rất ngạc nhiên mà cũng rất thỏa mãn. Chị cầm lá thư lên vừa mân mê lật đi lật lại, vừa nhoẻn miệng cười mãi; cuối cùng chị ta đem lá thư xuống nhà dưới đưa cho bà Briggs. Vì sao Betty lại biết thư ấy gởi cho bà Briggs, tôi cũng chẳng rõ; vì chị Betty chỉ được theo những lớp học ngày chủ nhật do bà Bute Crawley dạy nên chị ta vẫn mù tịt không đọc được chữ y như đó là chữ Do-thái vậy. Chị hầu gái kêu ầm lên:

- Này, bà Briggs ơi; bà ơi, lại có chuyện rắc rối đây. Trong buồng cô Sharp vắng tanh. Giường vẫn nguyên chưa có ai nằm, mà cô ấy đi đâu mất để lại lá thư gửi cho bà đây này.

Bà Briggs đánh rơi chiếc lược xuống đất, mớ tóc thưa thớt mỏng dính đã bạc xõa xuống vai bà kêu lên:

- Thế nào? Trốn đi theo giai à? Cô Sharp bỏ trốn đi? Có lẽ nào thế được?

Bà lật đật bóc thư và như người ta vẫn nói, “đọc ngấu nghiến” lá thư đề gửi cho bà.

Bà Briggs thân mến (lời người đi trốn); bà là người có tấm lòng rộng lượng nhất đời, bà sẽ thương xót, thông cảm và tha lỗi cho tôi. Tôi rời bỏ nơi đây, nơi kẻ mồ côi đáng thương này được mọi người đối đãi rất dịu dàng trìu mến, mà không sao cầm được nước mắt; và tôi cầu kinh, xin chúa ban ơn cho những người ở lại. Tôi phải tuân theo những quyền lực cao cả hơn cả quyền lực của người ân nhân che chở cho tôi. Tôi phải trở về với bổn phận... trở về với chồng tôi. Vâng, tôi đã có chồng. Chồng tôi ra lệnh cho tôi phải trở về căn nhà tầm thường, nơi từ nay chúng tôi chung sống. Bà Briggs thân thiết nhất đời ơi, xin bà hãy báo tin này cho người bạn thân mến, vị ân nhân của tôi, một cách thật khéo léo; chỉ có người tế nhị giầu từ tâm như bà mới làm được việc ấy. Bà hãy nói rằng trước khi tôi ra đi tôi đã khóc hết nước mắt trên tấm gối thân yêu của bà ấy nơi tôi đã bao lần săn sóc bà lúc đau yếu...và tôi còn ao ước được tiếp tục săn sóc bà như trước nữa...Ôi, tôi sẽ trở về Đường công viên thân yêu với bao nhiêu sung sướng! Tôi run rẩy chờ đợi câu trả lời quyết định vận mệnh của tôi! Khi cụ Pitt hạ cố ngỏ ý muốn lấy tôi làm vợ, đó là một vinh dự mà bà Crawley đã có nói rằng tôi xứng đáng (cầu chúa ban phúc lành cho bà, vì bà đã cho rằng kẻ mồ côi đáng thương này, xứng đáng hàng chị em với bà!) thì tôi trả lời cụ Pitt rằng tôi đã có chồng. Cụ đã tha thứ cho tôi. Song tôi không có đủ can đảm để thú thật cùng cụ tất cả mọi chuyện...tôi không thể nhận lời làm vợ cụ, vì tôi đã là con dâu cụ rồi! Chồng tôi là người đàn ông tốt nhất, rộng lượng nhất trên đời này... Anh Rawdon, cháu trai bà Crawley, chính là chồng tôi. Theo lệnh của chồng tôi, tôi thú thực mọi chuyện, và tôi theo anh ấy trở về căn nhà tầm thường của chúng tôi, cũng như tôi sẵn sàng theo anh ấy đi đến bất cứ nơi nào trên thế giới này! Ôi, người bạn quý báu, thân yêu của tôi ơi, xin bà hãy can thiệp với bà cô của Rawdon, xin tha thứ cho anh ấy và cho tôi là kẻ đã được khắp mọi người trong gia đình quý phái này tỏ lòng vô cùng quý mến. Nhờ bà hãy xin với bà Crawley vui lòng cho phép những đứa con của bà trở lại. Tôi không còn biết nói gì hơn là cầu chúa ban phước lành cho tất cả gia đình.

Người bạn thân thiết và biết ơn bà.

Rebecca Crawley (Nửa đêm).

Bà Briggs vừa đọc xong lá thư lời lẽ cảm động và lý thú này, lá thư có tác dụng trả lại cho bà địa vị người bạn tâm tình thứ nhất của bà Crawley như trước, thì bà Firkin bước vào phòng:

- Bà Bute Crawley vừa theo xe thư từ Hamshire lên, muốn dùng nước trà. Bà xuống nhà làm giúp bữa cơm sáng nhé.

Bà Firkin ngạc nhiên quá vì thấy bà Briggs ôm chặt tà áo quấn quanh bụng, mớ tóc rối bù xõa xuống lưng, mấy cái cặp giấy dùng để uốn tóc vẫn còn đính từng chùm trước trán, sầm sầm tiến về phía mình, tay vẫn cầm lá thư đầy những tin kỳ lạ kia. Chị Betty há hốc mồm ra nói:

- Bà Firkin ơi, chuyện “nạ” quá. Cô Sharp bỏ đi trốn với ông đại úy rồi. Hai người đang trên đường đi Gretney Green!

Lẽ ra chúng tôi phải dành riêng cho cả một chương mới đủ miêu tả sự xúc động của bà Firkin nhưng nỗi tức giận của bà chủ còn đáng chú ý hơn nhiều.

Bà Bute Crawley vừa trải qua một cuộc hành trình ban đêm, tê cóng cả người, đang ngồi sưởi trước lò lửa vừa nhóm trong phòng khách, nghe bà Briggs kể lại cuộc hôn nhân bí mật, bà bảo ngay rằng thật là lòng trời xui khiến nên bà mới đến đây đúng lúc để giúp đỡ bà Crawley thân yêu đáng thương của bà chịu đựng nỗi đau đớn này; bà bảo Rebecca là một con ở xảo quyệt, xưa nay bà vẫn nghi ngờ. Còn đối với Rawdon, thì chưa bao giờ bà hiểu nổi tại sao bà Crawley lại nâng niu anh ta đến mức ấy; từ lâu bà vẫn coi anh ta là một thằng trác táng, hư hỏng, bị Thượng đế ruồng bỏ. Bà Bute còn nói rằng cái việc đốn mạt này ít ra cũng có mặt tốt, vì nó khiến cho bà Crawley mở mắt ra mà thấy rõ bản chất của cái thằng hư đốn ấy. Thế là bà Bute ngồi uống trà, ăn bánh, trong lòng rất thư thái.

Bây giờ trong nhà đã có một buồng bỏ không vắng người ở, bà chẳng cần phải trọ ở khách sạn Gloster - nơi mà chiếc xe thư đỗ lại cho bà xuống - làm gì nữa. Bà ra lệnh cho anh phụ việc bác Bâu đi lấy hòm xiểng va-li của bà mang về.

Bao giờ cũng vậy, cứ đến gần trưa, bà Crawley mới ra khỏi phòng ngủ. Buổi sáng bà thường nằm trên giường mà uống súc cù là trong khi Becky Sharp đọc tờ báo “Tin tức buổi sáng” cho bà nghe, nếu không thì tìm những cách giải trí khác hoặc đi dạo loanh quanh. Mấy người đàn bà dưới nhà bảo nhau đừng làm bà phiền lòng vội, chờ khi nào bà xuống phòng khách hãy báo tin cho bà rõ. Trong khi đó, họ thưa với bà ta rằng có bà Bute Crawley từ Hamshire lên bằng xe thư còn đang trọ ở Gloster gửi lời chào bà Crawley và xin được dùng cơm sáng với bà Briggs. Những lần khác, việc bà Bute đến chơi cũng không khiến bà Crawley vui vẻ nhiều lắm, nhưng lần này bà rất bằng lòng vì sẽ có dịp trò chuyện với bà chị dâu về Crawley phu nhân vừa chết, về việc sửa soạn đưa đám ra sao, và về việc cụ Pitt đột ngột ngỏ lời cầu hôn với Rebecca.

Cho mãi tới lúc bà già đã ngồi bệ vệ thoải mái trong tấm ghế bành riêng của mình kê trong phòng khách, và hai chị em đã theo đúng thủ tục hôn nhau, hỏi thăm nhau xong rồi, thì mấy người đàn bà kín tiếng mới quyết định báo tin bà hay. Ai mà không phải kính phục đàn bà, vì họ có nhiều khóe rất tế nhị, khôn khéo, để sửa soạn cho bạn họ chịu đựng những tin dữ. Trước khi nói rõ chuyện, hai người bạn của bà Crawley đã làm ra vẻ cực kì bí mật đủ khiến cho bà Crawley phải hoài nghi và lo sợ đến một mức độ cần thiết. Bà Bute nói:

- Bà Crawley thân mến ơi, cô ấy từ chối lời cầu hôn của cụ Pitt là vì... là vì cô ấy không thể nào làm khác được.

Bà Crawley đáp:

- Dĩ nhiên phải có một lý do rồi. Cô ấy yêu người khác. Hôm qua, tôi đã nói chuyện ấy với bà Briggs.

Bà Briggs há hốc mồm:

- Yêu người khác? ồ, bà bạn quý ơi, cô ấy có chồng rồi đấy. Phải, có chồng rồi.

Bà Bute cũng phụ họa theo, đoạn cả họ ngồi chắp tay cùng ngó nạn nhân của mình. Bà Crawley hét rầm lên:

- Lúc nào cô ấy về lập tức bảo cô ấy lại đây. Con bé mưu mẹo khốn kiếp. Sao cô ấy lại dám giấu tôi?

- Còn lâu cô ấy mới về đây được. Bà bạn ơi, xin bà đừng ngạc nhiên nhé... cô ấy còn đi vắng lâu kia... cô ấy... cô ấy đã bỏ trốn đi rồi.

Bà gái già nói:

- Trời đất ơi, thế ai pha súc-cù-là cho tôi bây giờ? Cho người đi tìm cô ấy bắt về. Tôi muốn cô ấy quay về đây.

Bà Bute nói:

- Cô ấy trốn đi từ đêm qua, bà ạ.

Bà Briggs cũng nói:

- Cô ấy để lại một phong thư cho tôi. Cô ấy lấy...

- Hãy gượm đã, bà Briggs thân mến ơi, đừng làm cho bà ấy đau khổ...

Bà lão không chồng giận giữ kêu lên:

- Lấy ai, hử?

- Lấy một người có họ với...

Nạn nhân lại kêu lên:

- Cô ấy đã từ chối cụ Pitt rồi cơ mà. Nói mau. Đừng làm tôi phát điên lên nữa.

- Ồ, thưa bà... kìa bà Briggs, đỡ bà ấy hộ một tý... cô ấy lấy Rawdon Crawley đấy.

Bà lão đáng thương gào lên như mất trí:

- Rawdon lấy vợ...Lấy Rebecca...cô giáo dạy trẻ ...không, không...cút hết cả ra khỏi nhà tôi, các bà là đồ ngu, đồ xuẩn. Bà Briggs, bà ngu lắm; bà dám thế à? Các bà a tòng với nhau gây ra chuyện này... chúng nó lấy nhau là tại bà, Martha ạ; bà tưởng rằng tôi sẽ truất món gia tài của nó để cho bà phải không?

- Tôi? Thưa bà, tôi mà đi khuyên một người trong gia đình nhà ta lấy con gái một anh thợ vẽ làm vợ?

- Mẹ cô ấy là con cháu gia đình Montmorency.

Bà già vừa quát lên, vừa dùng hết sức giật mạnh dây chuông.

Bà Bute đáp:

- Mẹ cô ấy là vũ nữ ở rạp Opera; còn cô ấy thì cũng đã từng lên sân khấu, và chưa biết chừng còn làm những nghề tồi tệ hơn thế nữa.

Bà Crawley thét lên một tiếng cuối cùng, ngã lăn ra bất tỉnh nhân sự. Họ bắt buộc lại khênh bà vào căn phòng riêng bà vừa rời khỏi. Hết cơn ngất này lại tiếp cơn khác.Phải lập tức cử người đi mời thầy thuốc đến. Bà Bute ngồi bên cạnh giữ nhiệm vụ săn sóc thuốc thang. Người đàn bà đáng quý này nói: “Họ hàng thân thích chẳng trông nom săn sóc cho nhau thì còn ai nữa”.

Bà Crawley vừa được khiêng vào phòng riêng của mình, thì một nhân vật khác hiện ra; nhân vật này cũng cần được báo ngay tin Rebecca đi trốn; ấy là cụ Pitt. Bước vào phòng, lão hỏi ngay:

- Becky đâu? Hành lý của cô ấy đâu? Cô ấy phải về trại Crawley Bà chúa với tôi bây giờ đây.

Bà Briggs nói:

- Cụ đã biết tin cô ta bí mật thành hôn chưa?

Cụ Pitt đáp :

- Điều đó dính dáng gì đến tôi? Tôi đã rõ cô ấy có chồng rồi; có gì là lạ đâu? Bảo cô ấy xuống ngay, đừng bắt tôi phải chờ.

Bà Bute lại hỏi:

- Thưa cụ, thế ra cụ chưa biết cô ấy bỏ trốn rồi à? Bà Crawley suýt nữa chết ngất đi khi biết tin cậu Rawdon Crawley đã cưới cô ấy làm vợ.

Lúc lão Pitt nghe tin Rebecca là vợ của con trai lão, lão văng tục một hồi ầm ĩ, kể lại đây cũng chẳng hay ho gì, làm cho bà Briggs tội nghiệp sợ quá, run bắn người lên chuồn ngay ra ngoài. Chúng ta cũng nên khép cánh cửa lại để mặc lão già đang phát rồ phát dại vì căm tức và thất vọng ở trong phòng một mình.

Ngày hôm sau, khi đã trở về trại Crawley Bà chúa, lão như một người điên lùng vào căn phòng Rebecca vẫn ở từ trước, đá tung các hòm xiểng, rũ tung các giấy má, quần áo và mọi đồ kỷ niệm khác của cô ta. Cô Horrocks là con gái bác quản lý vớ được một ít; còn một ít, mấy đứa trẻ đem ra khoác cho nhau, giả vờ đóng kịch. Ấy là người mẹ đáng thương của chúng mới được về nơi an nghỉ cuối cùng có mấy ngày. Bà ta nằm trơ trọi trong nấm mồ, bên cạnh toàn những người xa lạ, chẳng một ai buồn khóc thương.

- Này, nhỡ mụ già không gọi chúng mình về thì sao?

Rawdon hỏi cô vợ bé nhỏ của mình, trong lúc hai vợ chồng đang ngồi chơi với nhau trong căn nhà nhỏ bé ấm cúng ở Brompton. Cả buổi sáng Rebecca đã chơi thử chiếc dương cầm mới. Đôi bao tay mới mua cô đi vừa khít, xinh quá; cô choàng chiếc khăn san nom tôn hẳn vẻ đẹp lên; trên đôi bàn tay, thon thon, mấy chiếc nhẫn sáng lóng lánh; chiếc đồng hồ mới đeo ở dây lưng kêu tích tắc, tích tắc.

- Becky, nhỡ mụ không nghĩ lại thì sao?

- Thì em sẽ xây dựng sự nghiệp cho anh chứ sao.

Rồi Delilah vuốt ve đôi má Samson.

Anh chồng hôn bàn tay xinh xinh của vợ nói:

- Cái gì em cũng làm được. Lạy Chúa, em tài lắm. Bây giờ chúng mình đi xe ngựa đến quán “Huy chương và Bội tinh” rồi dùng cơm ở đấy nhé.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17


ĐẠI ÚY DOBBIN SẮM DƯƠNG CẦM

Trong Hội chợ phù hoa, có một chỗ mà tình cảm và sự châm biếm có thể khoác tay nhau cùng đi, nơi mà cái đáng cười và cái đáng khóc gặp gỡ nhau, và đối lập nhau một cách lạ kỳ nhất, nơi mà bạn có thể hoàn toàn tự do tỏ ra hiền lành dịu dàng, hoặc dữ tợn vô sỉ tùy thích; ấy là những cuộc hội họp công khai được quảng cáo hàng ngày trên trang cuối tờ “Thời báo”. Ông George Robins đã quá cố trước kia vẫn chủ tọa nơi này một cách vô cùng xứng đáng. Ở Luân đôn, không mấy ai là không biết đến nơi này. Tất cả những người nào có khuynh hướng răn đời đều phải đã có phen nghĩ ngợi một cách hơi kỳ quái tức cười rằng rồi có phen đến lượt chính họ cũng phải đến nơi hội họp ấy.

Theo lệnh những hội viên của hội Diogenes (), hoặc căn cứ theo những điều khoản trong chúc thư, ông Hammerdown () sẽ đem những tủ sách, đồ đạc, bát đĩa, tủ áo và những hầm rượu chọn lọc của ngài Epicurus () đã quá cố ra cho thiên hạ tranh nhau mặc cả.

Ngay con người ích kỷ nhất vẫn thường qua thăm Hội chợ phù hoa, khi chứng kiến cái phần bẩn thỉu nhất này trong đám tang của một người bạn thân, cũng không thể nào không thấy cảm động và tiếc thương đôi chút.

Thi thể của quý quan Dives, hiện đã nằm yên trong hầm mộ của gia đình rồi. Bọn thợ đá cũng đang khắc lên mặt bia những lời xưng tụng rất đúng sự thực ca ngợi đức tính của người đã chết, ghi lại nỗi sầu khổ của đứa cháu thừa hưởng gia tài đang toàn quyền sử dụng đồ đạc để lại.

Có người khách nào đã từng dự tiệc trong gia đình ngài Dives, khi qua thăm lại ngôi nhà quen thuộc mà không phải thở dài?..Ngôi nhà thường ngày đèn thắp rực rỡ vào hồi bảy giờ tối, cánh cửa phòng lớn thường mở rộng sẵn sàng, và trong khi bạn đang trèo lên cầu thang, bọn gia nhân truyền nhau báo tên bạn từng chặng một, cho đến khi vọng vào tận trong căn phòng ngài Đai vơ vẫn ngồi tiếp khách. Vô vàn là khách; mà cách tiếp đãi mới lịch sự làm sao. Biết bao nhiêu con người lanh lợi khôn ngoan vẫn thường lui tới nơi đây; khi họ bước ra về, mặt người nào cũng có vẻ âu sầu. Nơi đây, biết bao người tỏ ra lịch sự nhã nhặn đối với nhau, trong khi tại những nơi khác họ gièm pha nhau, thù ghét nhau kịch liệt. Cụ chủ tính kiêu hãnh, song thức ăn ngon như thế, ai mà chẳng muốn nuốt? Cụ chủ tính hơi đần độn, song rượu ngon như thế thì câu chuyện nào mà chẳng trở nên thú vị? Mấy ông bạn đang âu sầu thương tiếc người đã khuất kêu lên với nhau trong nhóm: “Chúng mình phải lùng cho ra thứ rượu ấy mới được, đắt mấy cũng mua”.

- Tôi mua được cái hộp đựng thuốc lá này trong buổi bán đấu giá đồ đạc của lão Dives đấy - Pincher vừa nói vừa chìa cho mọi người xem - đây là chân dung một nhân tình vua Louis XV... xinh đấy chứ?

Và cả bọn kháo nhau về chuyện con trai lão Dives sắp phá tan gia tài của bố thế nào.

Ngôi nhà bây giờ thay đổi nhiều quá. Mặt tường bị che kín sau những tấm giấy quảng cáo liệt kê mọi thứ đồ đạc, viết bằng những chữ hoa to tướng như đập vào mắt mọi người. Một mảnh thảm treo trên một cái cửa sổ trên gác...có đến nửa tá bọn phu khuân vác đang leo lên leo xuống chiếc cầu thang đầy bụi...gian phòng lớn lúc nhúc toàn những khách lạ quần áo bẩn thỉu, nom bộ dạng như người Đông Phương () họ dúi vào tay bạn những tấm thẻ chữ in, và nhờ bạn đứng tên trả giá. Nhiều bà già và những người ưa chơi đồ lạ đã leo lên gác trên; họ sờ mó những diềm màn, luồn tay vào những túp lông, lật đi lật lại những tấm nệm, và mở ra mở vào những ngăn kéo tủ áo ầm ầm. Mấy người quản gia trẻ tuổi đang lăng xăng đo những tấm gương và những tấm thảm xem có thích hợp với gia đình nhà chủ họ mới nhận việc không. (Snob () rất có thể hàng năm sau vẫn khoe đã có mua thứ nọ thứ kia trong dịp bán đấu giá này) .

Lão Hammerdown đang ngồi trên chiếc bàn ăn lớn màu cánh gián kê trong phòng ăn dưới nhà; ông ta vừa khoa khoa chiếc búa bằng ngà voi, vừa trổ hết tài hùng biện mà nói say sưa, mà cầu khẩn, mà lý luận, mà thất vọng, vừa hò hét bọn tay chân. Lão giễu cợt ông Davids, vì ông này lề mề; lão giục ông Moss nhanh tay lên một tý; lão van xin, ra lệnh, gào thét, cho đến khi chiếc búa nện xuống nghe như những tiếng gõ của định mệnh và chuyển sang “lô” khác. Ôi, cụ Dives ơi, trong khi chúng ta quây quần quanh tấm bàn rộng sáng choang toàn bát đĩa cùng khăn ăn trắng tinh, có ai ngờ rằng lại có ngày nó phải mang một thứ đĩa là cái lão nhân viên phát mại ồn ào này không?

Việc mua bán diễn ra khá lâu rồi. Gian phòng khách toàn đồ quý đã bán xong, còn những loại rượu hiếm và quý thì những tay sành sỏi biết thưởng thức, vung tiền ra, không kể đắt rẻ bê đi tất. Bộ đồ ăn đầy đủ, rất quý, dùng cho cả gia đình đã bán từ mấy hôm trước. Viên quản lý nhà ông John Osborne của chúng ta ở khu phố Russell đã đến mua một vài thứ rượu quý cho chủ, (những thứ rượu này nổi tiếng khắp vùng). Có một ít bát đĩa bằng bạc toàn những thứ cần thiết thì mấy tay buôn tín phiếu trẻ tuổi ở khu City đã mua rồi. Bây giờ đến lượt bọn thường dân được mời đến xem những vật tầm thường còn lại. Nhà hùng biện đứng vắt vẻo trên một chiếc ghế đang ra sức quảng cáo cho vẻ đẹp của một bức tranh để thu hút khán giả.

Hôm nay, khán giả cũng thưa thớt hơn, và cũng kém sang trọng, không bằng bữa trước.

Ông Hammerdown gào lên:

- Số 869 đây. Tranh một ông sang trọng cưỡi voi. Ai mua ông sang trọng cưỡi voi đây. Blowman, giơ cao bức tranh lên cho các ông các bà ấy xem kỹ đi.

Thấy Blowman giơ cao món hàng quý giá lên, một ông lịch sự người dài ngoằng, nước da tai tái, trông có vẻ nhà binh, đang ngồi im lặng trên chiếc bàn màu cánh gián hơi nhếch mép cười.

- Blowman, hãy giơ cho ông đại úy xem con voi. Thưa ông, ông thấy con voi thế nào?

Viên đại úy không trả lời, có vẻ bối rối, đỏ mặt quay đi; lão nhân viên phát mại không nài thêm.

- Tác phẩm nghệ thuật này giá có hai mươi ghi-nê thôi...hoặc năm đồng, mười lăm đồng, tùy ý các ngài trả! Một mình người cưỡi chưa kể con voi cũng đã đáng giá năm đồng rồi.

Một tay ưa bông lơn nói:

- Lạ quá, sao con voi chở nặng thế mà không khuỵu xuống nhỉ? Anh ta béo ghê béo gớm.

Quả thật, người cưỡi voi trong tranh to béo quá. Nghe câu nói đùa, cả gian phòng cười ầm lên, ông Hammerdown nói:

- Đừng có làm giảm giá trị của bức tranh, ông Moss. Để cho các ông ấy xem kỹ vào; một tác phẩm nghệ thuật đấy...Coi đáng điệu con vật có hệt như thật không nào. Ông cưỡi con voi mặc áo ngắn bằng vải Nam kinh, tay cầm súng đang đi săn đấy. Phía xa có một ngôi chùa và một cây chuối, trông có giống những cảnh đẹp ở thuộc địa Đông Ấn của nước ta không? Trả bao nhiêu bức này nào? Thế nào, các vị bắt tôi đứng đây suốt ngày à?

Có người trả năm si linh; người trông có vẻ nhà binh nhìn về phía có tiếng người trả quá hào phóng vừa rồi, thì thấy một sĩ quan khác khoác tay một người đàn bà. Trước cảnh tượng này đôi ấy có vẻ rất thú vị; cuối cùng tiếng búa nện xuống bàn, đồng ý bán cho họ bức tranh với giá nửa ghi-nê. Nhìn thấy cặp trai gái này, người ngồi ở bàn càng tỏ vẻ bối rối và ngạc nhiên hơn. Anh ta vội thụt đầu vào trong cái cổ áo nhà binh bẻ cao lên và quay lưng lại họ, hình như muốn tránh mặt thì phải.

Tôi không muốn nói đến những thứ đồ đạc ông Hammerdown hôm ấy có hân hạnh được đem bán đấu giá, trừ một thứ; ấy là một cây đàn dương cầm nhỏ, khiêng từ trên gác xuống. Cây dương cầm lớn đã bán trước rồi; người đàn bà trẻ tuổi ấy ngồi chơi thử chiếc dương cầm này, đôi tay lướt đi nhanh nhẹn, mềm dẻo (làm cho viên sĩ quan lại đỏ mặt lên và giật mình); một lúc sau, người đàn bà sai người đại diện của mình trả giá mua cây dương cầm.

Nhưng lần này, có người mua tranh. Người Do-thái đại diện cho viên sĩ quan ngồi ở bàn trả giá mua tranh với người Do thái đại diện cho người đàn bà mua bức tranh lúc nãy. Cuộc thi đua trả giá cao để mua bằng được chiếc dương cầm bé nhỏ bắt đầu, và được ông Hammerdown hết sức khuyến khích.

Cuối cùng, sau một hồi ganh nhau, hai vợ chồng người mua bức tranh con voi rút lui. Tiếng búa nện xuống bàn, người nhân viên phát mại tuyên bố. “Ông Lewis, hai mươi lăm”. Thế là người mượn ông Lewis đại diện được làm chủ cây dương cầm nhỏ. Mua xong cây dương cầm, anh ta ngồi thẳng dậy, có vẻ rất khoan khoái; hai vợ chồng người mua trượt món đồ bấy giờ mới liếc mắt nhìn sang; người đàn bà bảo chồng: Truyện "Hội Chợ Phù Hoa " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

- Ô kìa, Rawdon, đại úy Dobbin đấy.

Có lẽ Becky không ưa cây dương cầm mới, chồng vừa thuê cho mình, hoặc có lẽ người chủ đã lấy về rồi, không cho thuê tiếp nữa; hoặc cũng có thể cô ta đặc biệt thích cây dương cầm này vì nhớ lại ngày xưa đã nhiều lần cô ta chơi nhạc trong căn phòng nhỏ của cô Amelia Sedley thân yêu của chúng ta chăng.

Cuộc bán đấu giá trên diễn ra trong căn nhà cổ kính ở khu phố Russell, nơi chúng ta đã gặp nhau trong vài buổi tối, lúc mới bắt đầu câu chuyện này. Ông Sedley bị phá sản rồi. Ở phòng Hối đoái, người ta đã tuyên bố ông bị phá sản; sau đó, mọi việc hoạt động thương mại của ông ta bị đình chỉ hết. Viên quản lý của ông Osborne đến đây chọn mua một ít rượu vang quý mang về cho chủ. Bộ thìa đĩa mười hai người ăn bằng bạc chạm trổ rất công phu cùng bộ đồ ăn tráng miệng đã đem bán cân cho ba người buôn tín phiếu trẻ tuổi (tức là các ông Dale, Spiggot, và Dale, ở phố Threadneedle). Mấy người này trước kia có giao dịch nhiều với ông John Sedley và được ông đối đãi rất tốt cũng như ông đối đầu với tất cả mọi người có việc giao dịch với mình; họ bèn gửi biếu lại bà cụ Sedley món đồ mọn vớt vát được trong cơn tan tác. Cây dương cầm nhỏ trước kia của Amelia, bây giờ chắc cô nhớ nó lắm; mà đại úy Dobbin thì không biết chơi đàn chẳng khác chi không biết nhảy trên dây vậy, hẳn anh ta không mua cho mình dùng.

Tóm lại, buổi tối hôm ấy, người ta mang cây đàn dương cầm đến một gian nhà nhỏ ở một phố đi thẳng từ đường Fullham ra, một trong những phố có cái tên rất đẹp và rất thi vị... gọi là khu St. Adelaide, đường Anna-Maria. Ở đây nhà cửa bé tý như đồ chơi của trẻ con, và khách đi đường nhìn qua cửa sổ thấy người ngồi trên gác như phải thò chân xuống đến tận dưới nhà. Cây cối trồng trong khu vườn nhỏ trước nhà quanh năm lúc nào cũng phơi đầy những tã lót trẻ em, những đôi tất đỏ tý xíu những chiếc mũ trùm v.v. . (chế độ đa phu, nhân chủng đa nguyên tính) .

Văng vẳng ra tiếng the thé của những cây đàn cũ rích và tiếng đàn bà đang hát. Trên thềm, thấy la liệt những vỏ chai rượu phơi nắng. Chiều chiều, những viên thư ký làm việc ở khu City uể oải lê bước về đó.

Ông Clapp, thư ký của ông Sedley, có một căn nhà ở đây; sau khi bị phá sản, ông già đem vợ con về chỗ này để ẩn náu cho qua ngày, Joe Sedley hay tin gia đình gặp tai biến đã hành động đúng như ta chờ đợi ở một người tính tình như anh ta. Joe không về Luân đôn, nhưng anh ta viết thư cho mẹ dặn cứ đến những nhà băng anh ta gửi vốn mà lấy tiền tiêu; vì vậy hai ông bà già cũng yên tâm, không lo lắng về nỗi phải túng thiếu. Thu xếp như vậy xong xuôi, Joe lại tiếp tục đến dùng cơm tại hiệu ăn quen thuộc của mình ở Cheltenham, vẫn vui vẻ như thường. Anh ta vẫn đùng xe ngựa đi chơi, vẫn uống rượu vang trắng, vẫn đánh bài, và vẫn kể những câu chuyện Ấn Độ của mình như cũ; người đàn bà Ai len goá chồng cũng vẫn tiếp tục nịnh nọt, mơn trớn anh ta như trước. Tuy đang lúc túng, nhưng việc Joe biếu tiền bố mẹ cũng không khiến cho hai ông bà già xúc động lắm. Amelia kể lại rằng, từ sau cơn hoạn nạn, lần đầu tiên cô thấy ông bố ngẩng cao đầu lên là khi ông cụ nhận được gói thìa đĩa kèm theo lá thiếp của mấy người buôn tín phiếu trẻ tuổi; ông cụ khóc òa lên như trẻ con, còn cảm động hơn cả bà vợ là người được gửi tặng món quà đó. Edward Dale, người trẻ tuổi nhất trong số, đã đứng lên mua bộ thìa đĩa chung cho cả ba; từ lâu anh ta vẫn có ý săn sóc cô Amelia. Mặc dầu cô bị phá sản, anh ta vẫn ngỏ ý muốn cưới cô làm vợ như thường. Sau này, năm 1820, anh ta lấy cô Louisa Cutts (con gái ông chủ hãng Higham và Cutts, một hãng buôn ngũ cốc rất lớn); bây giờ hai vợ chồng sống rất đường hoàng, con cái đầy đàn, trong một cái biệt thự rất đẹp ở đồi Muswell. Nhưng không nên vì anh chàng này mà rời xa câu chuyện chính của chúng ta.

Tôi hy vọng rằng vì có ấn tượng quá tốt về vợ chồng đại úy Crawley nên bạn đọc cho rằng có lúc họ đã nghĩ đến chuyện về thăm cái quận Bloomsbury hẻo lánh kia, dù họ biết rằng cái gia đình mà họ dự định sẽ dành cho vinh dự được đón tiếp ấy thì chẳng những đã lỗi thời mà cũng đã khánh kiệt, không còn khả năng gì để giúp đỡ họ được nữa. Rebecca rất ngạc nhiên khi thấy ngôi nhà sang trọng, nơi trước kia cô đã bao lần được tiếp đãi nồng hậu, bây giờ bị kẻ mua người bán phá phách tan hoang. Cô thấy tại nơi kỷ vật riêng rất quý báu của gia đình bây giờ bị đem trưng ra cho cả thiên hạ thờ ơ nhòm ngó hoặc xâu xé. Một tháng sau buổi bỏ đi trốn, cô bỗng nhớ đến Amelia; và Rawdon cười hô hố, tỏ ý rất tán thành đến thăm George Osborne một chuyến chơi. Anh ta láu lỉnh bảo vợ:

- Becky, đó là một người bạn rất quý báu. Tôi còn đang muốn bán thêm cho hắn một con ngựa, và chơi thêm với hắn vài ván bi-a đây. Tôi gọi như thế là một mối tình bạn hữu ích đấy, bà Crawley ạ, hô hô!

Nghe những lời trên ta chớ nên nghĩ rằng Rawdon Crawley chơi bạc bịp, ấy là vì anh ta muốn chứng tỏ rằng trong Hội chợ phù hoa, những bậc sang trọng ưa giải trí bao giờ cũng muốn giữ cái ưu thế của mình đối với người bên cạnh.

Bà cô già mãi không thấy nghĩ lại. Một tháng trời trôi qua rồi. Bác Bowls không chịu mở cửa tiếp Rawdon; đầy tớ của anh ta không được phép vào căn nhà ở Đường công viên. Thư từ anh ta gửi đều bị trả lại, phong bì còn dán nguyên vẹn. Bà Crawley không đi ra ngoài...bà vẫn còn mệt...còn bà Bute thì vẫn ở đây không lúc nào rời khỏi bà em chồng.

Hai vợ chồng Crawley thấy bà Bute cứ ở lỳ mãi, đoán chắc có chuyện không hay cho mình. Rawdon bảo:

- Chết thật? Bây giờ tôi mới vỡ lẽ tại sao hồi còn ở trại Crawley Bà chúa, mụ ấy muốn cho hai đứa mình lúc nào cũng ở sát bên nhau.

Rebecca thở dài đáp:

- Thật là đồ xảo quyệt!

Viên đại úy đang say vợ, kêu lên:

- Ôi dào? Nếu mình không tiếc thì tôi cũng chẳng cần cóc gì.

Cô vợ thưởng cho anh chồng một cái hôn thay cho câu trả lời; thấy chồng hoàn toàn tin cậy mình, cô ta rất thích.

Cô nghĩ thầm “giá anh ta thông minh hơn một tý, thì mình có thể giúp cho nổi cơ đồ đấy”. Nhưng không bao giờ cô để chồng biết mình nghĩ về chồng như vậy. Bao giờ cô cũng chịu khó chăm chút nghe chồng kể con cà con kê về chuyện ngựa nghẽo, chuyện câu lạc bộ nhà binh; cô rất chịu khó cười mỗi khi anh chồng khôi hài, cố gắng làm ra vẻ chú lắm đến những chuyện như chiếc xe ngựa của Jack Spatterdash vừa đổ, Bob Martingale bị bắt quả tang ở sòng bạc, chuyện Tom Cinqbars sắp sửa dự đua ngựa...Mỗi khi chồng trở về nhà, cô tỏ ra thật nhí nhảnh sung sướng: lúc chồng đi chơi, cô giục chồng đi mau cho sớm. Chồng ở nhà không đi đâu, cô chơi dương cầm và hát cho chồng nghe, pha rượu cho chồng uống, coi sóc bữa ăn cho chồng tươm tất, ủ ấm đôi giầy nhẹ của chồng, chăm sóc chồng từng ly từng tý một.

Đã có lần tôi nghe bà nội tôi bảo rằng những người đàn bà khéo nhất chính là những người giả dối, vì chúng ta không thể hiểu họ giấu giếm chúng ta những điều gì, và khi bề ngoài họ tỏ ra ngây thơ, thân mật thì thật ra họ đang sắc mắc đến thế nào. Rất có thể những nụ cười luôn luôn nở dễ dàng trên môi họ chỉ là những cái bẫy để bợ đỡ, để lảng tránh, hoặc để khuất phục ta. Ở đây tôi không kể tới những bà những cô đỏm dáng tầm thường, mà chỉ nói tới những người đàn bà nội trợ gương mẫu, những viên ngọc của đức hạnh phụ nữ. Ai mà chưa từng được thấy một người vợ che giấu sự đần độn của anh chồng ngốc nghếch, hoặc làm dịu một cơn lôi đình của anh chồng vũ phu? Sự nô lệ đáng yêu ấy chúng ta rất quý, chúng ta rất ca tụng đàn bà về sự thực. Một bà nội trợ rất cần phải là một nhà ngoại giao giỏi. Chồng Cornelia () cũng bị vợ lừa dối như chồng Potiphar tuy rằng bị lừa dối một cách khác.

Vậy thì được vợ săn sóc chu đáo, anh chàng trác táng bừa bãi Rawdon Crawley biến thành một người chồng rất hạnh phúc và rất ngoan ngoãn. Đám bè bạn chơi bời cũ không thấy mặt anh ta đâu nữa. Có một đôi lần, họ hỏi thăm anh ta ở câu lạc bộ, nhưng rồi họ cũng không nhớ anh ta nhiều lắm. Trong Hội chợ phù hoa, không mấy khi người ta nhớ nhau lâu. Đối với Rawdon, người vợ xa lánh xã hội phù hoa lúc nào cũng tươi tỉnh mỉm cười, căn nhà ấm cúng, những bữa ăn nóng sốt và những buổi tối trong gia đình đã có đủ mọi vẻ hấp dẫn của một cái gì mới mẻ và kín đáo. Việc hôn nhân của họ chưa tuyên bố cho ai rõ, cũng chưa đăng trên báo “Tin tức buổi sáng”. Nếu bọn chủ nợ biết tin anh ta lấy một cô gái không có của hồi môn làm vợ, ắt họ sẽ hè nhau xông tới làm tội anh ta đến chết mất. “Em thì chả sợ cha mẹ em rầy la đâu”. Becky nói và cười có vẻ chua chát. Cô rất bằng lòng chờ đến khi bà Crawley nghĩ lại, lúc ấy sẽ xuất đầu lộ diện trong xã hội. Cho nên cô yên tâm sống kín đáo ở Brompton, không đi lại với ai, chỉ tiếp có vài người bạn trai của chồng; họ được mời đến chơi tại căn phòng ăn nhỏ bé của gia đình. Bọn khách này thích cô lắm. Họ rất lấy làm thú vị được dự những bữa ăn thân mật, được nghe cô ta cười nói, và sau đó lại chơi đàn. Thiếu tá Martingale không bao giờ nghĩ tới chuyện muốn xem tờ giấy chứng hôn. Đại úy Cinqbars trầm trồ khen ngợi những cốc rượu do bàn tay khéo léo của Rebecca pha. Còn viên trung úy trẻ tuổi Spatterdash (anh này rất ham chơi piquet, mà Crawley cũng mời anh ta chơi) thì chỉ trong một thời gian rất ngắn rõ ràng đã bị bà Crawley thu mất hồn. Nhưng Rebecca luôn luôn tỏ ra sáng suốt và kín đáo; vả lại Crawley vẫn nổi danh là một tay hay gây gổ và cả ghen; nhờ thế cô vợ bé bỏng yêu dấu cũng được che chở an toàn.

Ở thành phố này có nhiều người sang trọng, đứng đắn và lịch sự chưa bao giờ bước chân vào phòng khách của một phu nhân. Cho nên, mặc dầu khắp quận người ta bàn tán nhiều về chuyện vợ con của Crawley - chắc bà Bute phao tin rầm lên chứ gì- nhưng ở Luân đôn tin ấy vẫn mập mờ, hoặc ít được chú ý, hoặc không được một ai nhắc đến.

Rawdon phải vay tiền để tiêu, nhưng vẫn sống đường hoàng, anh ta có những khoản nợ kếch xù, giá khéo ăn tiêu thì có thể sống được nhiều năm. Ở những thành phố lớn, nhiều người mang công mắc nợ sống rất đàng hoàng, những người có tiền trả ngay còn thua xa. Khi ta đi chơi trên những đường phố ở Luân- đôn, ta thường gặp những ông sang trọng ngự trong những chiếc xe ngựa rất đẹp, trong khi ta phải cuốc bộ. Trông thấy họ, bọn thợ may nịnh nọt, bọn nhà buôn khúm núm cúi chào. Những ông này chẳng từ chối yêu cầu nào của họ, mà cũng chẳng ai biết các ông trông vào đâu mà sống. Ta gặp anh chàng Jack Thriftless khệnh khạng đi ở Công viên, hoặc phóng xe ngựa như bay qua Pall Mall, bữa ăn thì dùng toàn những bát đĩa quý giá. Ta tự hỏi không rõ đời hắn bắt đầu thế nào, và sẽ kết thúc ra sao? Thì có lần Jack bảo với tôi rằng: “Ông bạn thân ơi, tôi nợ tiền khắp cả Âu Châu này đấy”. Kết cục rồi cũng phải xảy ra, nhưng hãy cứ biết bây giờ Jack ta tha hồ ung dung phè phỡn cái đã. Thiên hạ được Jack bắt tay lấy làm sung sướng lắm, tuyên bố rằng hắn là người tốt bụng, vui tính, và vô tư lự biết đâu đến những lời thì thầm đồn đại không hay về hắn.

Thực tế bắt ta phải nhận anh chồng của Rebecca chính thuộc loại người này. Trong nhà anh ta cái gì cũng đầy đủ, chỉ thiếu có tiền; một bữa đọc báo “Tin tức”, Rawdon thấy đăng tin “Trung úy Osborne vừa mua lại cấp đại úy của ông Smith mới từ chức”, lập tức anh ta tỏ ra có cảm tình với người yêu của cô Amelia và quyết định đến thăm khu phố Russell.

Khi hai vợ chồng Rawdon muốn gặp đại úy Dobbin để tìm biết rõ chuyện hoạn nạn của những người quen cũ của Rebecca thì Dobbin đã biến khỏi chỗ bán đấu giá rồi. Họ chỉ được một anh phu khuân vác và một bác nhân viên phát mại lảng vảng ở đó mách cho một ít tin tức. Becky leo lên xe ngựa, tay vẫn cầm bức tranh, vẻ mặt rất vui; cô ta nói:

- Nhìn những cái mỏ của họ kìa; có khác gì đám diều hâu xâu xé mồi sau một trận đánh không?

- Xin chịu em ạ, từ bé đến giờ nào anh có biết trận mạc là cái gì đâu Hỏi Martingale ấy; hắn đã từng làm sĩ quan tùy tòng cho tướng Blazes ở Tây-ban-nha.

Rebecca nói:

- Ông cụ Sedley là người rất tốt. Thấy ông cụ gặp nạn, em thương lắm.

- Ồ, mấy lão buôn tín phiếu... phá sản... chuyện thường lắm, mình thấy đấy.

Rawdon vừa đáp vừa lấy roi vụt đuổi một con ruồi đậu trên tai ngựa. Giọng cô vợ có vẻ đa cảm lắm, nói:

- Giá mua được ít bát đĩa gửi biếu họ thì tốt hơn, anh Rawdon ạ. Những hai mươi lăm ghi-nê cây dương cầm nhỏ ấy thì đắt quá. Ngày trước, hồi Amelia vừa ra trường, chúng em đã chọn cây đàn ấy ở Broadwood đấy. Dạo ấy giá chỉ có ba mươi lăm đồng ghi-nê.

- Còn anh chàng... tên hắn là gì nhỉ... Osborne phải không... bây giờ gia đình cô ta bị phá sản, chắc là bắn rút lui, cô bạn Amelia của mình hẳn phát sầu, Becky nhỉ?

Becky mỉm cười đáp:

-Ôi dào, rồi chị ấy cũng quên đi chứ .

Và họ đánh xe đi, bàn sang chuyện khác.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18


AI CHƠI CHIẾC DƯƠNG CẦM DOBBIN MUA?

Câu chuyện của chúng ta giờ đây bỗng bao gồm cả những sự kiện và những nhân vật danh tiếng, và bám vào rìa dòng lịch sử. Bầy diều hâu của Napoléon Bonaparte, tên dân đảo Corse hãnh tiến, sau một thời gian ngắn bị cầm giữ ở đảo Elba, đã bay về đậu tại Provence, và từ đó bay chuyền từ đỉnh gác chuông nhà thờ này sang đỉnh gác chuông nhà thờ khác, cho tới thánh đường Đức bà ở Paris. Bầy chim của Hoàng đế nào có thèm chú ý đến sứ đạo tối tăm Bloomsbury ở Luân-đôn, nơi nhân dân quen sống rất bình lặng; hầu như không ai buồn để ý đến tiếng đập của những đôi cánh mạnh mẽ kia. “Napoléon đã đổ bộ ở Cannes rồi!”, một cái tin như vậy có thể gây sôi nổi ở Vienna, hoặc làm đảo lộn mọi kế hoạch của nước Nga, khiến cho nước Phổ phát điên vì lo lắng, làm cho ông Talleyrand và ông Metternich phải lắc đầu và, sau hết, khiến cho hoàng tử Hardenberg và hầu tước Londonderry phải sững sờ. Nhưng làm sao cái tin ấy lại có thể gây xúc động đối với một người thiếu nữ ở quảng trường Russell, khi ngủ bao giờ cũng có một bác người nhà đứng ngoài cửa cầm canh suốt đêm, lúc dạo chơi trong vườn thì xung quanh đã có hàng rào và có bác gác cổng bảo vệ, và ví thử có đi ra ngoài phố Southampton gần đấy mua một cái dải đăng-ten chẳng hạn, thì đã có bác da đen Sambo kè kè đi theo, tay cầm cái can to tướng. Tóm lại, cô ta được bao nhiêu là vị thiên thần hộ mệnh có ăn lương và không ăn lương nâng niu, mặc áo cho, đặt vào giường ngủ, săn sóc đủ mọi phương diện.

Hỡi Thượng đế chí công, thật tàn nhẫn thay, cuộc chiến đấu lớn lao giữa các bậc đế vương sao lại cứ phải gây ra một sự rung chuyển tai hại đối với vận mệnh của một cô gái vô tội mới mười tám xuân xanh, chỉ biết như chim non mổ hạt, hót rít rít và thêu những cổ áo bằng voan mỏng? Hỡi bông hoa dịu dàng đáng thương trong vườn nhà kia! Cơn bão táp của chiến tranh đang gầm thét sắp lôi cuốn cả cô em vào trong những xoáy lốc tàn bạo rồi; Napoléon sắp đánh nước bạc cuối cùng, và thế là hạnh phúc của cô Amelia Sedley bé bỏng cũng sẽ tan tành như mây khói.

Trước hết, những tin tức tai hại đã lật nhào tất cả cơ nghiệp của cha cô. Bao nhiêu việc kinh doanh của ông già không may kia sụp đổ hết. Mấy chuyến làm ăn cuối cùng thất bại sạch; các bạn hàng bị phá sản tất cả. Ông tính rằng giá cổ phiếu hạ xuống thì nó lại cao lên (). Thắng lợi bao giờ cũng đến chậm chạp, nhưng tai họa thì bao giờ cũng xô tới sau lưng nhanh như cơn lốc. Tuy nhiên, ông già Sedley vẫn giữ kín nỗi lo nghĩ của mình. Trong ngôi nhà sang trọng yên tĩnh, mọi sứ vẫn diễn ra bình thường. Bà Sedley tốt bụng kia cũng không hay biết gì hết; hàng ngày bà vẫn tiếp tục cuộc sống bận bịu mà nhàn hạ của bà, với bao nhiêu công việc không đâu; cô con gái càng ngày càng đi sâu vào cái tâm trạng êm ái và ích kỷ riêng của mình, cách biệt hoàn toàn với cuộc đời bên ngoài. Đột nhiên cơn bão xô tới, toàn bộ gia đình đổ sụp.

Một buổi tối, bà Sedley ngồi viết thiếp mời dự tiệc. Gia đình Osborne đã thết khách một buổi rồi, bà lại chịu kém cạnh họ sao?

Ông John Sedley ở khu City về rất muộn; ông ngồi yên lặng bên cạnh lò sưởi nghe bà vợ chuyện trò tíu tít. Emmy đau khổ, buồn bã, đã lên phòng riêng từ trước. Bà mẹ vẫn noi:

- Con bé không vui. George Osborne chẳng săn sóc gì đến nó. Tôi không thể chịu nổi cách ăn ở của bọn họ. Đã ba tuần nay, mấy đứa con gái nhà ấy chưa đặt chân đến đây; thằng Osborne thì đã hai lần về tỉnh, mà không lại thăm nó. Edward Dale có gặp Osborne ở rạp Opera. Tôi tin rằng Edward Dale sẵn sàng cưới con bé, và tôi thấy anh chàng đại úy Dobbin cũng...có điều tôi không ưa cái bọn lính tráng ấy. Thằng George bây giờ cũng công tử bột lắm. Mà thật, nom khệnh khà khệnh khạng ra phết con nhà binh! Ta phải tỏ cho họ biết rằng ta không kém cạnh gì họ. Cứ khuyến khích Edward tiếp khách mới được. Mà kìa, John Sedley, sao ông cứ ngồi im thế? Tôi định mời vào thứ năm, sau đây hai tuần nhé? Sao ông không trả lời? Trời ơi! Có chuyện gì xảy ra vậy?

Bà vợ chạy lại bên chồng; ông Sedley đứng dậy đón vợ; ông ôm bà vào lòng nói vội vàng:

- Mary, chúng ta bị phá sản rồi. Bà nó ơi, bây giờ chúng ta phải làm lại cuộc đời từ đầu. Tốt nhất là nói ngay tất cả mọi chuyện cho bà biết.

Ông vừa nói vừa run rẩy chân tay, gần như muốn ngã gục xuống. Ông cứ tưởng rằng bà vợ không chịu đựng nổi cái tin ghê gớm ấy, người vợ mà suốt đời ông chưa hề nói nặng một lời. Song, tin ấy đến rất đột ngột, với bà cụ, mà chính ông lại bị xúc động mạnh hơn. Lúc ông nằm vật xuống chiếc ghế bành, chính bà vợ lại phải an ủi chồng. Bà cầm lấy bàn tay run rẩy của ông mà hôn, rồi đặt cánh tay chồng vòng qua cổ mình; bà gọi ông là John của bà, John yêu quý của bà, ông lão của bà, ông lão thân yêu của bà; bà thốt ra hàng trăm lời ngọt ngào, yêu đương không ăn nhập với nhau. Tiếng nói chung thủy nhỏ nhẻ và sự vuốt ve vụng về của vợ khiến ông đang băn khoăn đau khổ cảm thấy sung sướng vô ngần, bà khiến ông cảm thấy tâm hồn nặng trĩu của mình được vui vẻ thư thái. Buổi tối dài dằng dặc hôm ấy, ngồi cạnh bà vợ, ông già khốn khổ Sedley đã trút vợi nỗi lo lắng đè nặng tâm hồn mình; ông kể lại tất cả những sự khó khăn thua lỗ trong việc làm ăn...ông bị những người bạn thân thiết nhất lừa dối, nhưng cũng có những người cư xử rất cao thượng không ngờ. Cũng chỉ có lần ấy, khi cùng chồng đi ngược lại dòng quá khứ, bà vợ đã để lộ ra tất cả sự xúc động của mình. Bà nói:

- Lạy Chúa, lạy Chúa. Chắc con Emmy đau khổ lắm.

Ông bố quên hẳn cô con gái. Cô ta đang nằm thao thức buồn bã ở trên gác. Giữa gia đình ấm cúng toàn bè bạn và người thân, nhưng cô vẫn thấy mình trơ trọi làm sao! Ở đời ta có thể thổ lộ nỗi lòng với độ bao nhiêu người được nhỉ? Nói làm chi những điều ấy với những tâm hồn không biết rung cảm, không bao giờ hiểu nổi? Cho nên cô Amelia của chúng ta rất cô đơn. Từ khi cô có những điều thầm kín muốn tâm sự, thì cô đã không có bạn tâm tình nữa rồi. Cô không thể ngỏ với mẹ mọi nỗi lo lắng ngại ngùng của mình. Mỗi ngày cô chị chồng và cô em chồng tương lai lại càng trở nên xa lạ hơn. Cô còn bao nhiêu nỗi nghi ngờ, bao sự sợ hãi mà bản thân cô không muốn công nhận, tuy cô vẫn âm thầm ấp ủ trong lòng. Trái tim cô thì cứ khăng khăng một mực rằng George Osborne vẫn trung thành, vẫn xứng đáng với cô, mặc dầu cô biết rằng sự thực không đúng thế. Đã bao lời tình tứ của cô không hề có lấy mảy may tiếng vang trong tâm hồn anh ta. Đã bao lần cô nghi ngờ người yêu thờ ơ, ích kỷ, nhưng cô đã bướng bỉnh đương đầu và vượt qua những sự ngờ vực đó. Con người “tử vì đạo” ấy còn biết thổ lộ với ai hết cả mọi nỗi đau xót hàng ngày dằn vặt tâm hồn cô?

Người yêu của cô cũng chỉ hiểu cô có một phần. Cô không dám tin rằng người đàn ông cô yêu có tâm hồn thấp kém hơn mình; cô không dám thú nhận rằng mình đã yêu quá vội vàng. Người con gái e lệ trinh bạch ấy kín đáo quá, hiền hậu quá, cả tin quá, yếu đuối quá, cho nên một khi đã trao đổi trái tim cho ai thì không muốn lấy lại nữa.

Đối với đàn bà, về mặt tình cảm chúng ta vẫn quen cư xử như những người Thổ-nhĩ-kỳ; chúng ta cũng bắt họ phải phục tùng giáo lý của chúng ta. Chúng ta cho phép thân thể họ tự do đi ra ngoài, được hóa trang bằng những nụ cười, bằng những búp tóc xoăn, bằng những chiếc mũ trùm màu hồng, mà không phải che mặt bằng những tấm chàng mạng và những chiếc yakmak (); nhưng họ chỉ được để một người đàn ông nhìn thấy tâm hồn họ; họ tuân lệnh, không hề ngần ngại, và bằng lòng sống như kẻ nô lệ trong gia đình để săn sóc mọi việc cho chúng ta.

Tháng ba năm 1815, kỷ nguyên của Chúa, khi Napoléon đổ bộ ở Cannes, vua Louis XVIII chạy trốn, khi toàn thể Âu châu hốt hoảng, giá cổ phiếu sụt và ông già Sedley bị phá sản, thì cô gái bé bỏng dịu dàng ấy cũng đang bị cầm tù, bị hành hạ như vậy đấy.

Chúng ta không cần trở lại những nỗi đau đớn sầu não ông già buôn tín phiếu đã phải trải qua trước khi tai họa cuối cùng xảy đến: ở Phòng hối đoái, tên ông Sedley đã bị thông báo; ông lão đã phải rời khỏi những văn phòng của mình; tín phiếu của ông không được thanh toán. Tình trạng phá sản không thể chối cãi được nữa. Ngôi nhà cùng đồ đạc ở khu phố Russell bị quyền trữ và bán đấu giá; ông lão và cả gia đình bị mời ra khỏi cửa, đi đâu mà ở thì đi, như ta đã rõ.

Bị sa sút, ông John Sedley đành thải tất cả bọn gia nhân (các nhân vật này thỉnh thoảng xuất hiện trong những trang của tập truyện này); và ông cũng không còn lòng nào mà gặp mặt tất cả bọn. Tiền lương của họ ông vẫn trả rất đúng hẹn, đó là tập quán của những người chỉ quen chịu những món tiền lớn. Bọn gia nhân rất buồn vì mất một chỗ làm tốt. Nhưng phải xa ông chủ bà chủ quý hóa, họ cũng không đến nỗi vì thế mà sầu não quá đáng. Chị hầu gái của Amelia có phàn nàn nhiều, nhưng rồi cũng tự an ủi vì tìm được một chỗ làm khác ở một gia đình quý phái hơn. Bác da đen Sambo rất kiêu hãnh về nghề nghiệp của mình quyết định mở một tiệm ăn. Còn bà Blenkinsop thực thà kia đã giúp việc cho gia đình từ hồi ông Sedley mới cưới vợ, và đã được chứng kiến sự ra đời của Joe và Amelia, thì quyết định ở lại giúp việc không lấy tiền công; bà ta cũng đã có một số vốn riêng kha khá, bây giờ theo chủ đến chỗ ở mới, tiếp tục săn sóc trông nom cho chủ và thỉnh thoảng cũng càu nhàu chút ít.

Bọn chủ nợ không ngớt theo đuổi ông già Sedley. Ông lão cảm thấy mình bị sỉ nhục, bị hành hạ quá đáng đến nỗi chỉ trong có sáu tuần lễ mà ông già sọm hẳn đi, già nhanh hơn suốt mười lăm năm qua, mà John Osborne, ông bạn già cũ và là người láng giềng của ông, tỏ ra tàn nhẫn hơn cả...John Osborne, người xưa kia được ông gây dựng, được ông giúp đỡ hàng trăm lần, và sắp sửa là thông gia của ông.

Nhưng bất cứ ai ở trong hoàn cảnh ấy cũng phải công nhận ông John Osborne phải cư xử tàn nhẫn như vậy. Một khi người ta đã chịu ơn rất nhiều một người khác, và sau ngày hai người lại xích mích với nhau thì theo lẽ thường, người ta vẫn phải tỏ ra khe khắt hơn người ngoài. Trong trường hợp ấy, thái độ sắt đá và vô ơn của ta chỉ có thể giải thích bằng những lầm lỗi của người ân nhân cũ. Không phải vì ích kỷ tàn nhẫn mà ta tức giận trước việc kinh doanh thất bại của bạn đâu... không, chẳng qua tại ông bạn cũ đã rắp tâm lừa ta một cách hèn hạ quá đáng đó thôi. Tóm lại tên đao phủ bắt buộc phải chứng minh rằng kẻ bị hành hình là một tên vô lại... nếu không thì chính hắn ta phải là một tên mạt kiếp.

Bọn chủ nợ vô tình thường công nhận một nguyên tắc chung rất tiện lợi đối với họ như thế này: người ta đã lâm vào cảnh khó khăn thì không có ai là thực thà; thế nào họ cũng giấu kín sự khó khăn của mình, và phóng đại những may mắn có thể có được. Việc làm ăn tuyệt vọng hoàn toàn rồi, nhưng họ vẫn bảo là đang phát đạt, mặt mũi vẫn tươi cười một cái cười bất đắc dĩ trong khi đang mấp mé trên bờ vực của sự phá sản. Họ bấu lấy mọi dịp trì hoãn hòng đẩy lùi sự sụp đổ không tránh được xa thêm vài ngày. Lão chủ nợ sỉ nhục kẻ bại trận, với dáng điệu của kẻ chiến thắng thế này; “Gian giảo lắm thì cho chết. Anh ngu lắm, chết đuối mà lại với lấy cái bọt?”. Thật là lời một kẻ sáng suốt bình tĩnh đứng trên bờ nói với người sắp chìm nghỉm dưới nước, và cũng là lời của sự phát đạt nói với kẻ khốn khổ đang vùng vẫy trong vực tối. “Anh xuẩn quá, anh không biết tìm cách để khỏi bị liệt tên vào danh sách bọn phá sản trên báo à?” Ai mà không thấy một khi đã dính đến chuyện tiền nong thì không những người bạn thân nhất đời, những người lương thiện nhất đời, cũng rất sẵn sàng nghi ngờ buộc tội nhau là bất lương? Kẻ nào cũng xử sự như thế cả, tôi cho rằng ai cũng phải thế, và cuộc đời toàn là những trò bịp bợm.

Nghĩ đến những chuyện ân huệ ngày xưa, ông Osborne càng bực mình; đấy cũng là một lý do khiến mối mâu thuẫn giữa hai nhà càng thêm gay gắt. Cuối cùng, ông cắt đứt cuộc nhân duyên giữa con trai ông và con gái gia đình Sedley. Nhưng hai người đã gắn bó với nhau lâu quá rồi, bây giờ như vậy là hạnh phúc và có thể cả danh dự của cô thiếu nữ cũng bị ảnh hưởng. Vậy thì ông John Osborne phải tìm mọi lý do để cắt đứt cuộc nhân duyên và để chứng minh rằng ông John Sedley là một người rất tồi tệ.

Trong buổi họp của các chủ nợ, ông đã tỏ ra hết sức tàn bạo và khinh miệt ông Sedley, khiến cho ông lão phá sản này chết điếng người vì nhục nhã. Ông phản đối dứt khoát việc George và Amelia đi lại thăm nhau; ông dọa từ con trai nếu anh ta trái lời ông, và ông cư xử với cô thiếu nữ vô tội như cô ta là một kẻ xảo quyệt khốn nạn nhất đời. Ông giận dữ và thù hằn như vậy là vì sao? Ấy là vì ta phải vu cáo và tin lời vu cáo về kẻ bị ghét bỏ; như vậy mới đúng cách xử thế.

Khi nhận được tin phá sản, khi phải rời bỏ khu phố Russell, Amelia tin rằng giữa George và cô không còn gì nữa...không còn gì nữa giữa cô và tình yêu, giữa cô và hạnh phúc, giữa cô và sự tin tưởng vào cuộc đời... Ông John Osborne đã gửi cho cô một lá thư lời lẽ tàn nhẫn, báo cho cô hay rằng vì tư cách của cha cô nên mọi sự đính ước giữa hai gia đình bắt buộc phải chấm dứt...Quyết định ấy không làm cho cô bị xúc động ghê gớm như cha mẹ, đúng hơn là như bà mẹ cô tưởng; ông John Sedley thì đã hoàn toàn mất hết tinh thần vì bị mất cơ nghiệp và danh dự rồi.

Nhận được tin, Amelia có tái mặt đi, nhưng vẫn bình tĩnh, đối với cô chẳng qua những điềm không lành cảm thấy từ trước bây giờ đã thực hiện mà thôi; đó chẳng qua chỉ là lời tuyên án...về một tội trạng cô đã phạm từ lâu...cái tội đã trót yêu lầm lẫn, trót yêu quá say mê không tính toán.

Bây giờ cũng như trước kia, cô không hề thổ lộ với ai những ý nghĩ sâu kín của mình. Cô cũng không lấy thế làm đau khổ hơn khi mình đã cảm thấy tất cả hy vọng đều tiêu tan nhưng còn chưa dám tin hẳn vào sự thật tàn nhẫn ấy. Rời bỏ ngôi nhà đồ sộ về ở một căn nhà bé nhỏ cô thấy cuộc sống cũng không có gì khác; suốt ngày cô vẫn ngồi im lặng trong phòng mà rầu rĩ, mà héo hắt dần dần. Tôi không nói rằng đàn bà ai cũng giống thế. Cô Bullock thân mến ơi, tôi tin rằng cô chẳng chịu đau khổ như vậy. Cô là một thiếu nữ có nghị lực, sống theo những nguyên tắc riêng. Tôi cũng không dám bảo rằng tâm hồn tôi giống như vậy. Tôi cũng đã từng đau khổ, nhưng phải thú thực rằng tôi vẫn sống; song cũng có vài người yếu ớt hơn tôi, tâm hồn họ mỏng manh quá, tế nhị dịu dàng quá.

Mỗi khi ông John Sedley nghĩ đến hoặc đả động đến cuộc tình duyên giữa George và Amelia, thái độ của ông cũng dứt khoát như thái độ của chính ông Osborne vậy. Ông chửi ông Osborne và cả gia đình ông ta là bọn vô lương tâm, bọn đểu cáng, bọn vô ơn. Ông thề độc rằng sẽ không vì một thế lực nào trên đời này mà gả con gái ông cho con trai một tên khốn nạn. Ông ra lệnh cho Emmy phải gột sạch hình ảnh của George trong tâm trí cô, phải gửi trả lại hết mớ thư từ, đồ vật đã nhận từ trước của anh ta.

Cô hứa xin tuân lệnh và cố gắng vâng lời cha. Cô gom góp mấy thứ tặng vật của George; cô lục những lá thư cất rất kỹ ra đọc lại một lượt... như thể cô chưa thuộc lòng ấy. Song cô không đành tâm rời bỏ chúng; việc làm ấy khó khăn quá đối với cô; cô lại ủ chúng vào trong ngực áo, giống như những người đàn bà ôm những đứa con đã chết vậy. Cứ nghĩ đến chuyện phải tách mình ra khỏi niềm an ủi cuối cùng mà Amelia tưởng như không thể sống nổi, hoặc phát điên lên mất. Trước kia mỗi lúc nhận thư, cô thường đỏ mặt lên sung sướng biết bao nhiêu? Đã bao lần cô nhảy nhót lùi ra một chỗ vắng, tim đập dồn dập, để đọc thư không cho ai nhìn thấy? Lời lẽ trong thư có lạnh lùng, tâm hồn si mê của cô biết cách biến thành những dòng chữ nồng nhiệt; lời lẽ trong thư có cộc lốc vô tình, cô vẫn tìm mọi lí do để tha thứ cho người viết.

Cô đã ấp ủ những mảnh giấy vô nghĩa đó; đọc chúng, cô quay trở về với cuộc đời dĩ vãng...mỗi lá thư như gợi lại một mảnh đời. Cô nhớ lại từng ly từng tý, nhớ từng khoé mắt, từng giọng nói, từng cách ăn mặc, từng lời lẽ chuyện trò...Ôi, đời cô chỉ còn lại di tích của một mối tình đã chết ấy mà thôi. Từ đây, cô chỉ còn sống để săn sóc cái xác chết của Tình yêu.

Cô tha thiết mong chờ cái chết đến giải thoát cho mình.

Cô nghĩ thầm sau khi chết, thế là mình lại có thể theo đuổi người yêu. Tôi không hề muốn ca tụng quan niệm sống của Amelia, coi là tấm gương cho cô Bullock bắt chước.

Cô Bullock giỏi hơn người con gái bé bỏng đáng thương kia nhiều; cô thường biết cách kiềm chế lòng mình, chắc chẳng khi nào dại dột như Amelia và trao trái tim mình quá dễ dàng cho kẻ khác như thế, để chẳng được đền bù lại chút gì ngoài một lời hứa hẹn mỏng manh bị bóp nát trong phút chốc. Trong một cuộc đính ước kéo dài, một bên có thể tự do giữ lời hứa hoặc cắt đứt, nhưng cả cuộc đời bên kia đã đặt vào đó rồi.

Vậy thì hỡi các cô thiếu nữ trẻ trung, hãy cẩn thận. Hãy coi chừng khi các cô đính ước với “người ta”. Hãy e lệ, đừng yêu quá thẳng thắn; chớ bao giờ nên nói hết điều gì mình xúc động trong lòng, hoặc tốt hơn, hãy xúc động in ít thôi. Hãy nhìn xem, thực thà và cả tin quá sớm tai hại như vậy đấy; đừng có tin mình, cũng đừng tin ai hết. Hãy cứ lấy chồng theo kiểu người Pháp vậy, nghĩa là nhờ những ông quản lý văn khế làm bạn tâm tình và người phù dâu.

Tóm lại, đừng bao giờ đa mang tình cảm gì khiến mình phải khổ tâm sau này; đừng bao giờ hứa hẹn điều gì nếu mình không dễ dàng xóa bỏ khi mình muốn. Giữa Hội chợ phù hoa nếu muốn được kính nể và được coi là đức hạnh, xin cứ theo một con đường ấy mà đi.

Nếu Amelia được nghe những lời bình phẩm về mình trong cái xã hội mà sự phá sản của cha cô vừa bắt cô phải rời bỏ, thì cô mới thấy hết tội lỗi của mình đã làm hại danh dự mình đến thế nào. Bà Smith nói rằng chưa hề bao giờ thấy ai nhẹ dạ tai hại đến thế. Bà Brown thì bảo rằng xưa nay bà vẫn kết án những thái độ suồng sã đáng ghê tởm như vậy, và coi đó là tấm gương tầy liếp cho mấy cô con gái của bà coi mà tránh. Hai cô con gái nhà Dobbin nói: “Dĩ nhiên đại úy Osborne không thể lấy con gái một người phá sản làm vợ được. Bị ông bố lừa đảo thế là đủ lắm rồi. Còn cái con bé Amelia, nó còn rồ dại hơn cả...”. Đại úy Dobbin mới quát lên:

- Hơn cái gì? Họ không đính ước với nhau từ bé là gì? Lời đính ước lại không thiêng liêng như hôn lễ sao? Đứa nào trên đời này dám thở ra một lời nói xấu người con gái trong sạch nhất, hiền hậu, cao quý nhất ấy?

Cô Jane đáp:

- Ô hay, William, việc gì anh phải quát tháo chúng em. Chúng em có phải là đàn ông đâu mà ganh gổ được với anh. Chúng em nói xấu gì cô Amelia Sedley? Có điều cô ta dại dột quá đáng, ấy là chưa nói hết lời đấy. Còn bố mẹ cô ta thì gặp tai họa như vậy cũng đáng kiếp thôi.

Cô Ann châm biếm hỏi:

- Này anh William, bây giờ cô Sedley đã tự do rồi, anh hỏi cô ta làm vợ chẳng hơn à? Thế mà lại xứng đôi vừa lứa cơ đấy. Hi, hi?

Dobbin đỏ bừng mặt, nói rất nhanh:

- Tôi lấy cô ấy? Này, các cô nghĩ rằng cô ấy cũng ưa đổi tình như đổi áo giống các cô chăng? Ai lại đi cười cợt, chế nhạo một vị thiên thần như thế! Cô ấy có nghe thấy đâu; đối với người không may mắn và đau khổ, ai cười mà chẳng được. Cứ việc mà đùa đi cô Ann. Cô láu lỉnh nhất nhà, ai cũng ưa nghe cô pha trò lắm đấy.

Cô An đáp:

- Em xin nhắc lại rằng đây không phải là trại lính đâu, anh William nhé.

- Lạy Chúa tôi, trong trại lính ấy à; tôi cũng mong có kẻ nào nói như các cô đấy - Con sư tử bị kích thích gầm lên- tôi dám thách đứa nào hé môi nói xấu cô ấy đấy; nhưng mà, cô Ann ơi, đàn ông chúng tôi không ăn nói như vậy đâu. Chỉ có bọn đàn bà con gái mới túm năm tụm ba ** đởn, rồi rú lên, rít lên, quàng quạc cái mồm lên như thế. Thôi, cút ra chỗ khác... đừng có khóc nữa, các cô chỉ là hai con ngỗng.

Thấy cô Ann rơm rớm nước mắt như mọi khi. Dobbin lại bảo:

- Thì không phải là ngỗng, các cô là hai con thiên nga vậy, muốn là con gì cũng được, nhưng hãy để cho cô Sedley được yên.

Bà mẹ và hai cô gái bảo nhau; “Chả thấy đứa nào mê gái như thằng William nó mê cái con bé ** tính hay liếc giai ấy nhỉ”. Cả ba mẹ con đang lo rằng bây giờ không còn bị lời đính ước ràng buộc, cô Amelia sẽ lập tức cướp mất anh chàng đại úy đang say mê mình. Chắc hai cô thiếu nữ suy bụng ta ra bụng người nên mới lo xa như vậy, hoặc đúng hơn (vì hai cô chưa hề bao giờ có dịp lấy ai, cũng như bắt nhân tình với ai) họ đã phán đoán theo nhận thức riêng của họ về cái hay cái dở. Hai cô con gái bảo mẹ:

- Má ạ, may quá, trung đoàn phải ra đóng ở nước ngoài; thế là anh con khỏi bị cái tai họa ấy đe dọa.

Quả thật đúng như vậy. Chính vì thế mà Hoàng đế nước Pháp đã đóng một vai trò trong tấn hài kịch gia đình đang diễn ra tại Hội chợ phù hoa này; mà sở dĩ tấn kịch diễn được cũng nhờ có sự tham dự gián tiếp của nhân vật quan trọng không ra mắt ấy. Chính hắn đã làm cho giòng họ Bourbons cũng như ông John Sedley phá sản. Khi đến kinh đô nước Pháp, chính hắn đã thúc đẩy toàn thể nước Pháp đứng dậy cầm vũ khí bảo vệ mình, và bắt buộc toàn thể Âu châu phải hợp lực tiêu diệt hắn. Trong khi ở Quảng trường Tháng năm, nhân dân và quân đội Pháp vây tròn quanh những con diều hâu, thề trung thành với Hoàng đế, thì bốn đạo quân mạnh nhất Âu châu phối hợp với nhau để tổ chức một cuộc săn diều hâu () vĩ đại, trong số đó có quân đội nước Anh; và trong đội quân nước Anh lại có hai nhân vật của chúng ta tức là đại úy Dobbin, và đại úy Osborne.

Trung đoàn thứ... tiếp nhận tin Napoléon vượt ngục trở về đất liền với một niềm vui hiếu chiến vô cùng hào hứng; người nào đã biết rõ đội quân này mới hiểu được niềm vui ấy. Mọi người, kể từ viên đại tá cho tới anh lính đánh trống tầm thường nhất trong trung đoàn, đều tràn ngập hy vọng cao xa, đều sôi sục tinh thần ái quốc. Họ cảm ơn Hoàng đế nước Pháp đã làm đảo lộn trật tự Âu châu, tuồng như đó là một việc từ thiện đặc biệt. Lúc này đã đến cái ngày mà toàn thể trung đoàn thứ...khát khao chờ đợi, ngày họ có điều kiện chứng tỏ cho các bạn đồng ngũ thấy rằng họ có khả năng chiến đấu không kém gì những người chiến sĩ kỳ cựu ở Bán đảo (), và bệnh sốt vàng da cùng những năm đồn trú ở Tây Ấn đã không cần phải bỏ tiền ra mua. Bà thiếu tá O’Dowd cũng quyết định tham dự chiến dịch này; bà còn hy vọng rằng trước khi chiến tranh kết thúc đã có thể viết thư cho chồng ký tên là đại tá phu nhân O’Dowd. Hai người bạn của chúng ta (Osborne và Dobbin) cũng phấn khởi không kém, mỗi người phấn khởi một cách... Dobbin thì kín đáo, còn Osborne thì ồn ào, sôi nổi đặc biệt. Cả hai đều khát khao được làm nhiệm vụ, và được chia sẻ phần vinh dự sau này.

Tin tức trên đã gây ra một làn sóng sôi nổi trong khắp nước, trong khắp quân đội; người ta không còn chú ý lắm đến những câu chuyện riêng. Có lẽ cũng vì thế mà Osborne không bị xúc động nhiều lắm trước những tin tức lẽ ra phải khiến anh ta quan tâm nhiều hơn trong trường hợp không có chiến sự đe dọa. Anh ta vừa được đề bạt, đang bận tíu tít về việc chuẩn bị hành quân sắp tới, và cũng đang hy vọng được thăng lên cấp cao hơn. Phải nói thực rằng tai họa vừa rơi xuống đầu ông lão Sedley không ảnh hưởng nhiều lắm đến tinh thần anh ta. Đúng vào hôm các chủ nợ của ông già bất hạnh kia họp nhau lại lần đầu tiên, anh ta cũng đi thử bộ quân phục mới may, bận vào nom thật “bảnh”. ông bố đã nói chuyện với anh ta về thái độ lừa đảo đáng xấu hổ của con người bị phá sản, đã nhắc anh ta nhớ lại mọi điều ông ta nói về Amelia, nghĩa là giữa hai người bây giờ không còn quan hệ gì nữa. Tối hôm ấy, ông cho anh ta một món tiền lớn để trả tiền bộ quân phục và đôi phù hiệu mới toanh, mặc vào tôn hẳn vẻ người lên.

Tiền chui vào túi anh chàng quen thói “vung tay quá trán” này thì bao nhiêu cũng là ít. Anh ta không nói nhiều, cầm ngay lấy tiền. Những tấm giấy quảng cáo bán đấu giá đã dán đầy trên tường nhà ông Sedley, nơi anh ta đã hưởng bao giờ phút sung sướng. Một buổi tối, nhân đi từ nhà bố đẻ đến quán trọ lão Xlôtơ, nơi anh ta nghỉ trọ mỗi khi về tỉnh, George cũng nhìn thấy những tấm giấy ấy trắng lôm lốp dưới ánh trăng. Từ nay Amelia cùng gia đình không còn được bước chân vào ngôi nhà kia nữa; không biết bây giờ họ ở đâu? Nghĩ đến câu chuyện gia đình ông Sedley bị phá sản, anh ta thấy buồn quá. Tối hôm ấy tại quán trọ lão Slaughters, Giơrgiơ có vẻ ủ rũ đặc biệt; bạn bè đều thấy anh ta uống nhiều rượu hơn mọi ngày.

Bỗng Dobbin bước vào, anh định ngăn không cho bạn uống rượu, nhưng Osborne đáp rằng mình buồn quá, phải lấy rượu để khuây khỏa. Dobbin hỏi thăm một cách vụng về rằng vì sao bạn buồn, và lấy vẻ quan trọng hỏi xem, bạn có được tin tức gì không; nhưng Osborne không chịu đáp, chỉ nhận rằng mình rất đau khổ và bối rối vô cùng.

Ba ngày sau, Dobbin gặp lại Osborne trong phòng riêng của bạn ở trại lính... Anh ta ngồi gục đầu bên bàn, xung quanh giấy má bừa bộn; hình như viên đại úy trẻ tuổi đang có điều gì sầu não.

- Nàng...nàng gửi trả lại tôi những tặng vật cũ...mấy món đồ trang sức. Anh xem kìa!

Thì ra có một tập thư, chữ viết rất quen thuộc với đại úy George Osborne, và mấy thứ đồ vật vứt hỗn độn bên cạnh: một con dao bạc anh ta mua tặng người yêu trong một buổi đi chơi hội chợ hồi còn nhỏ, một sợi dây chuyền bằng vàng và một tấm huy hiệu hộp trong có mấy sợi tóc.

Anh ta vừa rên rỉ có vẻ đau xót hối hận vừa nói:

- Thôi, thế là hết. Kia kìa, Will anh có đọc thì đọc.

George tay chỉ một lá thư ngắn, trong viết:

- Ba em ra lệnh bắt em phải gửi trả lại anh những tặng vật mà anh cho em trong những ngày hạnh phúc đã qua; em viết thư cho anh lần này là lần cuối cùng. Em cho rằng, em hiểu rằng anh cũng đau khổ như em trước tai họa của gia đình em. Tự em yêu cầu anh cắt đứt mối tình của chúng ta vì, trong hoàn cảnh khốn cùng của em hiện nay, nó không thể nào duy trì được nữa. Em tin rằng anh không hề đồng tình với những điều ba em nghi ngờ một cách tàn nhẫn, những điều khiến em đau khổ nhất trong cơn hoạn nạn. Thôi vĩnh biệt, vĩnh biệt. Em cầu Chúa giúp em đủ sức vượt qua tai họa này cũng như mọi tai họa sẽ xảy ra; cầu Chúa ban phúc lành cho anh luôn luôn. Em sẽ chơi nhạc luôn trên cây dương cầm... cây dương cầm của anh. Em hiểu rằng chính anh đã gửi đến cho em.”

Dobbin là người rất đa cảm. Xưa nay, trông thấy đàn bà con trẻ đau khổ, anh ta vẫn dễ dàng xúc động. Nghĩ đến cảnh Amelia sống đau khổ, trơ trọi một mình, Dobbin không sao cầm lòng được. Sự cảm động thái quá của anh ta có thể khiến người khác coi là không hợp với bản chất của đàn ông. Dobbin thề rằng Amelia là một thiên thần; Osborne sẵn sàng biểu đồng tình ngay. Bản thân George cũng nhớ lại cuộc sống của hai người...Từ khi còn nhỏ cho tới bây giờ, anh ta vẫn chỉ thấy người con gái rất dịu dàng, rất ngây thơ, rất diễm lệ, giản dị một cách đáng yêu, mà thùy mị và nồng nàn một cách vô cùng trung thực.

Đã nắm được một kho báu vô giá như vậy trong tay mà không biết giá trị, mà bây giờ phải chịu mất tất cả thì còn đau khổ nào hơn! Bao nhiêu hình ảnh thân mật, bao nhiêu kỷ niệm dồn dập đến... trong ký ức của George, Amelia bao giờ cũng vẫn ngoan, vẫn đẹp. Anh ta đỏ mặt lên vì hối hận, khi nghĩ lại thái độ ích kỷ thờ ơ của mình khác xa sự trong trắng của người yêu biết bao nhiêu. Trong một phút, George quên hết mọi sự, cả vinh quang, cả chiến tranh, và đôi bạn trai chỉ nói đến chuyện cô thiếu nữ. Ngừng lại một lúc lâu, Osborne hỏi:

- Không biết bây giờ họ ở đâu nhỉ? Trong thư không thấy ghi địa chỉ.

Quả thật George cũng thấy ngượng lắm vì mình đã không hề có một hành động gì tỏ ra quan tâm đến người yêu. Dobbin biết địa chỉ. Không những anh ta gửi tặng cây dương cầm, mà còn viết thư xin bà Sedley cho phép được đến thăm bà. Hôm qua, trước khi về Chatham, anh ta đã gặp bà cụ, gặp cả Amelia nữa. Cũng chính anh ta đã mang lá thư vĩnh biệt và gói tặng vật về cho bạn.

Anh chàng tốt bụng được bà cụ Sedley tiếp đãi ân cần lắm. Nhận được cây dương cầm bà cụ cảm động quá: bà đoán chắc chính George đã gửi tặng lại để tỏ thái độ thông cảm của mình. Đại úy Dobbin mặc bà già hiểu lầm không cải chính, chỉ chăm chú nghe bà kể lại cơn hoạn nạn của gia đình, tỏ ý thông cảm với những nỗi đau khổ, thiếu thốn, và đồng tình trách ông Osborne là quá tàn nhẫn đối với ân nhân cũ. Lúc bà cụ đã trút vợi bớt bầu tâm sự bi thương của mình, anh ta mới có can đảm xin phép gặp Amelia, lúc ấy cô vẫn ngồi trong phòng riêng như mọi khi, bà mẹ phải lên đỡ con gái run run bước xuống cầu thang. Trông Amelia không còn ra hồn người; vẻ thất vọng lộ rõ trên nét mặt thảm thương, đến nỗi anh chàng Dobbin thực thà thấy thế mà phát sợ; nhìn bộ mặt nhợt nhạt im lìm, anh ta linh cảm thấy bao điều tai hại sẽ xảy ra. Ngồi một hai phút, Amelia đặt cái bọc vào tay Dobbin nói:

- Anh đưa hộ cái này cho đại úy Osborne... tôi mong rằng anh ấy vẫn mạnh khỏe... cảm ơn anh có lòng tốt đến thăm... chúng tôi thích chỗ ở mới này lắm. Và tôi... mẹ ạ, có lẽ con nên lên gác thôi, con thấy hơi khó ở.

Nói đoạn cô thiếu nữ mỉm cười cúi chào bước ra ngoài.

Bà mẹ vừa đỡ con lên cầu thang, vừa quay lại lo lắng nhìn Dobbin. Dobbin không thể nào cầm được lòng. Anh ta yêu cô thiếu nữ quá mất rồi. Sau buổi gặp gỡ, nỗi đau xót không bộc bạch ra được, tình thương và sự hãi hùng cứ lởn vởn trong óc anh dường như chính anh là thủ phạm gây ra tai họa.

Osborne biết tin bạn đã gặp người yêu của mình thì săn đón hỏi han tin tức về cô thiếu nữ; nào là “nàng” ra sao, “nàng” có nói gì không? Bấy giờ Dobbin mới cầm lấy tay bạn, nhìn thẳng vào mặt bạn mà bảo: “George, cô ấy sắp chết rồi”. Và nghẹn ngào không nói được nữa.

Trong căn nhà nhỏ bé, nơi gia đình Sedley đang trú ngụ, có một chị hầu gái người Ai len; đã nhiều lần chị ta tìm cách an ủi Amelia. Nhưng vô hiệu; Emmy buồn quá chẳng trả lời, mà cũng chẳng để ý đến sự săn sóc của chị ta nữa.

Bốn giờ đồng hồ sau cuộc nói chuyện giữa Dobbin và Osborne, chị hầu gái này bước vào phòng Amelia : cũng như mọi khi, lúc này Amelia đang âm thầm nghĩ đến những bức thư, đó là những kho báu vật nhỏ của cô.

Chị hầu gái mỉm cười vui vẻ nhí nhảnh tinh quái cố làm cho Emmy chú ý đến mình mà cũng không được, chị ta gọi:

- Cô Emmy ơi.

- Cái gì? Emmy đáp, không quay lại.

- Có thư đây này, gói gì ấy...có ai...Đây, có thư mới gửi cho cô đây, đừng đọc những thư cũ làm gì nữa.

Chị ta đưa cho Emnly một lá thư, cô cầm lấy đọc: “Anh cần gặp em. Emmy yêu quý nhất đời của anh.. em yêu của anh...vợ yêu của anh, hãy đến với anh.

George và bà mẹ Amelia đang đứng ngoài cửa, chờ cô đọc xong lá thư.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19


BÀ CRAWLEY DƯỠNG BỆNH

Chúng ta đã biết bà Firkin, người hầu phòng của bà Crawley sẵn sàng báo tin tức về bất cứ chuyện gì đáng chú ý xảy ra trong gia đình này cho bà Bute ở Nhà thờ. Chúng ta lại cũng đã thấy bà này tỏ ý vì nể như thế nào đối với người gia nhân của bà Crawley, đồng thời cũng tự coi là một người bạn thân của bà Briggs, người bạn của bà chủ nhà. Tấm tình bạn ấy, bà đã mua bằng hàng nghìn cử chỉ săn sóc, hàng nghìn lời hứa hẹn, không tốn kém gì đối với bà, nhưng người nghe thì hởi lòng hởi dạ.

Các bà nội trợ dè xẻn cần hiểu rằng những lời tuyên bố không mất tiền mua mà có giá trị lắm; nó giúp cho những món ăn tầm thường nhất trong cuộc đời thêm hương vị. Anh chàng ngu xuẩn nào dám nói bậy rằng “Miệng lưỡi giảo hoạt không thay được cơm gạo”(). Nửa phần cuộc đời, người ta vẫn ăn ngon cơm với thứ nước chấm ấy đấy. Alexis Soyer con người bất tử () xưa kia chỉ cần một trinh cũng nấu được món xúp ngon hơn một anh đầu bếp tầm thường tốn kém hàng đồng để mua rau với thịt; cũng như một nghệ sĩ có tài chỉ cần mấy câu đưa đẩy lấy lòng còn có tác dụng hơn hàng nắm tiền trong tay một anh ngốc nghếch. Những đồng tiền đối với vài người thì sinh đầy vì không tiêu hóa được, trong khi đó một số lớn kẻ khác lại ưa ngốn những lời lẽ đẹp đẽ bóng bẩy không bao giờ chán. Bà Bute nói đi nói lại mãi với bà Briggs và bà Firkin rằng bà quý họ lắm, rằng nếu được giàu có như bà Crawley thì bà chẳng tiếc gì hai người bạn tận tâm; hai người đàn bà lấy làm gắn bó với bà quá, tỏ vẻ biết ơn, và thân mật với bà y như đã được bà Bute ban cho bao nhiêu ân huệ.

Trái lại, Rawdon Crawley đúng là một anh lính ngự lâm thô lỗ cục mịch, chẳng hề thèm chú ý đến việc lấy lòng hai người hầu cận của bà cô. Anh ta cứ đường hoàng tỏ thái độ khinh bỉ cả hai ra mặt; có lần anh ta bắt bà Firkin tháo ủng cho mình... trời đang mưa to, anh ta sai bà này đi làm những việc bẩn thỉu, rồi ném cho bà một đồng ghi-nê, coi bà ta như cái ống để tiền không bằng. Thấy bà cô hay đem bà Briggs ra làm trò cười, anh ta cũng bắt chước chế giễu bà ta tàn nhẫn, mất mày mất mặt. Trong khi ấy bà Bute gặp việc gì khó khăn cũng hỏi bà Briggs cách giải quyết, kể cả những việc đòi hỏi đến khiếu thẩm mỹ, lại ca tụng cả tài làm thơ của bà này, hết sức săn đón, lễ độ, tỏ ra rất quý bà. Mỗi khi biếu bà Firkin một tặng vật đáng vài xu, bà lại biết kèm theo vô số lời chúc tụng, khiến cho đối với bà Firkin những đồng xu ấy biến thành những đồng vàng; đồng thời, người hầu phòng này cũng đã sẵn sàng chờ đợi trước những ân huệ lớn lao hơn nhiều mình sẽ được hưởng, khi bà Bute nắm trong tay cơ nghiệp của bà Crawley.

Đối với những người mới bước vào đời, tôi khuyên nên bắt chước thái độ khác nhau của cả hai người nói trên.

Hãy nên tận dụng tất cả thiên hạ; đừng có làm ra vẻ khó chịu, hãy cứ nịnh nọt người khác ngay trước mặt họ, hoặc sau lưng họ nếu bạn thấy lời nói của bạn có hy vọng bay đến tai họ. Hãy làm như Collingwood xưa kia, thấy bất cứ chỗ đất bỏ hoang nào trong nước là rút trong túi ra một hạt dẻ rừng trồng ngay. Trong đời, bạn cũng phải biết “cấy” những lời tán tụng của mình như vậy mới được. Một hạt dẻ rừng không đáng bao lăm nhưng một ngày kia rất có thể nó trở thành một cây đại thụ đấy.

Nói tóm lại, trong lúc Rawdon Crawley còn vận tấy, anh ta chỉ được thiên hạ miễn cưỡng nghe mình, cho nên khi anh ta mất chỗ dựa, không ai buồn thương xót giúp đỡ anh ta nữa. Và khi bà Bute nắm quyền lãnh đạo trong nhà bà Crawley, thì toàn bộ gia nhân lấy làm sung sướng được có một viên chỉ huy như bà; nghe bà hứa hẹn, nói ngon nói ngọt, ai cũng hy vọng rồi tha hồ mà phát tài.

Bà Bute Crawley không bao giờ tự cho phép được tin rằng kẻ thù của mình đã chịu bó tay ngay sau lần thất bại đầu tiên mà không chịu phản công chiếm lại vị trí đã mất.

Bà lại biết Rebecca là người thông minh, mưu mẹo, không đời nào chịu ép một bề mà không giẫy giụa. Bà cảm thấy mình phải chuẩn bị sẵn sàng tác chiến, phải luôn luôn đề phòng kẻ địch tấn công, gài mìn hoặc đánh úp bất ngờ.

Trước hết, tuy bà làm chủ thành phố thật, nhưng phải xem nhân dân trong đó có thực sự trung thành với bà không đã? Bản thân bà Crawley có chịu kiên trì không. Hay là trong thâm tâm bà này vẫn còn muốn thỏa hiệp với kẻ thù đã thất trận? Xưa nay, bà lão vẫn quý Rawdon và Rebecca.

Bà Buten Crawley cũng thấy rõ, không thể chối cãi được, rằng trong phe của bà không có đủ tài làm là cho bà Crawley được vui lòng như Rebecca. Bà vợ viên tu sĩ đành lý thú nhận rằng so với Rebecca, giọng hát của hai cô con gái bà là không nghe được. Mỗi khi Martha và Louisa song ca với nhau, lẽ thường thường bà Crawley phải đi ngủ. Bà này cũng chán ngấy Jim với cái điệu bộ cứng nhắc của một anh sinh viên đại học, cùng những câu chuyện chó chuyện ngựa của ông Bute. Bà Bute nghĩ thầm: “Nếu ta mời bà ấy đến chơi nhà thờ, có lẽ bà ấy đến nổi đóa lên với tất cả rồi trốn mất, chắc chắn vậy, và rất có thể lại rơi vào trong móng vuốt của thằng Rawdon ghê gớm kia, làm mồi ngon cho cái con Sharp rắn độc ấy mất. Song, hãy cứ biết rõ ràng là bây giờ, bà ấy đang ốm nặng chưa thể đi đâu được ít nhất là hàng tháng nữa; trong thời gian này, ta phải tìm kế hoạch che chở cho bà ấy khỏi bị hai vợ chồng tên lưu manh tấn công mới được.

Trong nhũng ngày bà Crawley mạnh khỏe nhất, hễ ai hơi nói rằng bà có vẻ mệt, lập tức bà run rẩy cho đi mời thầy thuốc riêng ngay. Có thể nói rằng, sau biến cố đột ngột của gia đình, bà ốm nặng thực sự; người khỏe hơn bà cũng phải quỵ. Bà Bute thấy mình có bổn phận phải báo với thầy thăm bệnh, với ông thầy bào chế, với người tùy nữ, với mọi gia nhân trong nhà, rằng bệnh trạng bà Crawley rất nguy kịch; bà còn bắt họ cũng phải đi báo tin khắp nơi như vậy. Ngoài phố, bà bắt trải rơm cao đến đầu gối và cất chiếc chuông ở cửa đi. Bà nhất định yêu cầu ông thầy thuốc đến thăm bệnh một ngày hai lần và cứ hai tiếng đồng hồ, lại bắt bệnh nhân uống thuốc đến phềnh bụng lên. Có ai vào phòng, bà vội “suỵt, suỵt” một cách đáng sợ, làm cho bà già nằm trên giường giật nẩy mình.

Nằm trên giường nhìn ra, bao giờ bà Crawley cũng gặp đôi mắt sắc sảo của bà Bute ngó chăm chăm vào mình, bà Bute ngồi vững vàng trong chiếc ghế bành kê bên cạnh. Trong bóng tối (tất cả màn cửa đều buông kín) đôi mắt ấy sáng rực lên. Bà Bute đi lại trong phòng lặng lẽ như con mèo nhón chân trên bộ vuốt bọc nhung. Bà Crawley đã nằm như vậy không biết bao nhiêu ngày. Bà Bute đọc sách đạo cho bà em chồng nghe; suốt những đêm dài đằng đẵng bà Crawley cứ bắt buộc phải nghe tiếng hát của bác gái và tiếng lép bép của ngọn đèn. Khoảng nửa đêm, ông thầy thuốc đến thăm bà đi rón ra rón rén, thế là hết. Bà chỉ còn được nhìn có đôi mắt bà Bute lấp la lấp lánh, hoặc khoảng ánh sáng vàng khè ngọn đèn đêm chiếu hắt lăn trên nền trần tối tăm rầu rĩ. Sống như vậy thì đến ngay Hygeia () cũng đến phải phát ốm, nói gì bà già yếu ớt đáng thương kia? Người ta đồn rằng, hồi còn mạnh khỏe, vui vẻ, con người đáng kính của Hội chợ phù hoa này vẫn thường phát biểu những ý kiến rất phóng túng về tôn giáo và luân lý không kém gì Voltaire () tiên sinh, nhưng đến khi bệnh tật giày vò, thì cái bà già phạm tội hèn nhát này lúc nào cũng chỉ lo chết, làm cho bệnh càng thêm nặng.

Trong một cuốn tiểu thuyết tầm thường như cuốn này không phải là chỗ kể lể dài dòng về những lời giảng đạo bên giường bệnh cũng như những sự suy tưởng về tín ngưỡng (như một nhà tiểu thuyết hiện đại thường làm); độc giả mất tiền để mua vui với một tấn hài kịch, không nên thuyết lý làm người ta buồn ngủ. Tuy nhiên, mặc dầu không dám giảng đạo, tôi cũng phải công nhận rằng trước công chúng, kẻ đóng trò trong Hội chợ phù hoa thường tỏ ra hoạt động, cười cợt vui vẻ, nhưng lúc trở về với đời tư của mình thì không được như vậy; nhiều khi anh ta cũng bị những nỗi thất vọng và hối hận ghê gớm đè nặng tâm trí mình. Những ngài Epicures đau ốm nhớ lại bao bữa tiệc ê hề cao lương mỹ vị đã hưởng cũng không thể yêu đời được, quần áo lộng lẫy và những buổi dạ hội tưng bừng cũng không thể an ủi nhiều lắm những sắc đẹp tàn phai. Những nhà chính khách, đến một lúc nào đó, sẽ không được hài lòng lắm khi nghĩ tới những thành công rực rỡ đã qua của mình, sự thành công hoặc những khoái lạc hôm qua trở thành không nghĩa lí gì khi cái buổi mai chắc chắn sẽ phải đến (tuy không biết đến lúc nào) mà không sớm thì muộn thế nào cũng có ngày ta phải nghĩ tới, bỗng hiện ra. Ôi, những người bạn đồng nghiệp mặc áo sặc sỡ () ơi, phải chăng đã bao lần chúng ta từng phát ốm lên vì nhăn nhó, vì nhảy nhót và tiếng nhạc mũ kêu loong coong mãi bên tai? Mục đích của tôi, thưa các bạn đồng nghiệp, là muốn cùng các bạn dạo thăm Hội chợ phù hoa, xem các gian hàng, thưởng thức các trò biểu diễn. Đoạn, sau cuộc đốt pháo bông, chúng ta sẽ từ giã mọi sự ồn ào vui vẻ, để về nhà sống cuộc đời riêng tư cực kỳ khốn khổ.

Bà Bute Crawley nghĩ thầm: “Giá ông lão đáng thương nhà mình có đầu óc một tý, thì bây giờ đã giúp được vô khối việc ích lợi cho bà cụ đau khổ này. Ông ấy có thể khiến bà ta hối hận về những tư tưởng quá táo bạo trước kia, có thể khuyên bà ta trở về với nhiệm vụ và truất quyền thừa kế của thằng cháu khốn kiếp đã làm mất danh dự của riêng nó và của cả gia đình. Ông ấy có thể khuyên bà Crawley ăn ở công bằng với hai đứa con gái và hai thằng con trai nhà mình; chúng nó đang cần và thật xứng đáng được giúp đỡ”.

Biết thù ghét cái xấu, thường thường là điều kiện để biết làm điều thiện, cho nên bà Bute Crawley ra sức mà tiêm nhiễm vào tư tưởng bà em chồng sự ghê tởm của những tội lỗi chồng chất do Rawdon Crawley gây ra: bà thím liệt kê ra một tràng dài những thói xấu của anh cháu, đủ để kết án cả một trung đoàn toàn những sĩ quan trẻ tuổi. Nếu có người nào phạm lỗi trong cuộc sống, có lẽ không nhà luân lý nào lại thiết tha vạch cái xấu ra hộ bằng những người thân thích của người đó. Cho nên bà Bute Crawley đã tỏ ra rất quan tâm và nắm vững mọi chi tiết về đời tư của Rawdon Crawley. Bà ta biết tỉ mỉ chuyện xích mích đáng buồn giữa Rawdon và đại úy Marker; Rawdon sai, nhưng cuối cùng đã bắn chết viên đại úy. Bà ta biết cả chuyện vị bá tước bất hạnh Dovedale đánh bạc với Rawdon thế nào mà mẹ người thanh niên này phải đích thân dọn nhà đến ở tại Luân-đôn để theo dõi việc học hành của con trai. Từ nhỏ Dovedale chưa hề biết cây bài là gì, vậy mà đến Luân- đôn, bị ngay Rawdon cám dỗ ở quán “Cây dừa”; tên chuyên quyến rũ và làm sa đọa những người trẻ tuổi này cho Dovedale uống rượu say, rồi thịt mất hơn bốn nghìn đồng.

Bà ta còn kể lại thật hào hứng tỷ mỉ về nỗi đau khổ của những gia đình nền nếp xứ quê bị thằng cháu làm khánh kiệt ra sao... con trai thì bị lâm vào cảnh khốn cùng và ô nhục, con gái thì bị quyến rũ làm điều bậy bạ. Bà lại biết rõ bao nhà thương gia đã bị phá sản vì thói “ngông” của hắn... bao nhiêu thủ đoạn đê tiện, bao nhiêu mánh khóe dối trá hắn đã dùng để lừa gạt bà cô rộng lượng nhất; và để đền đáp những sự hi sinh ấy, hắn đã vô ơn và giễu cợt bà ta. Những chuyện này bà kể lại ít một, ít một, cho bà Crawley nghe, cốt giúp bà này khỏi mắc hợm. Bà cảm thấy ở cương vị một người đàn bà ngoan đạo, lại là một bà mẹ, mình cần hành động như vậy. Bà không hề mảy may hối hận về việc đã dùng cái lưỡi mà thí mạng kẻ thù một cách không thương tiếc. Không những thế, bà còn nghĩ rằng việc mình làm là ngoan đạo và đáng phục, tự khen mình có can đảm theo đuổi đến cùng.

Thật đấy, bạn chỉ cần ngỏ ý muốn được nghe nói xấu một người nào đó, lập tức thân nhân của họ sẵn sàng giúp bạn. Vả lại, ta phải công nhận rằng trong trường hợp của Rawdon Crawley, nguyên sự thực cũng đã đủ kết tội tên khốn nạn đó, chẳng cần phải dùng đến sự vu cáo, bịa đặt làm gì.

Bây giờ Rebecca đã trở thành người trong gia đình cho nên cũng được bà Bute có lòng yêu hỏi thăm đến rất tỷ mỉ. Con người tìm hiểu sự thực không bao giờ mệt mỏi ấy, sau khi đã ra lệnh dứt khoát không ai được tiếp người nhà của Rawdon hoặc nhận thư từ của anh ta, bèn lấy xe ngựa của bà Pinkerton ở Chiswick Mall báo cho bà bạn cái tin ghê gớm là cô Rebecca đã quyến rũ mất đại úy Crawley rồi. Bà Pinkerton kể lại cho bà nhiều chi tiết quái gở về dòng dõi của cô giáo dạy trẻ cũ, và về cuộc đời của cô ta hồi nhỏ. Bà bạn của nhà từ điển học cung cấp những tài liệu rất phong phú. Bà sai cô Jemima đi tìm những tờ biên lai và thư từ của ông giáo dạy vẽ. Lá thư này ông ta viết từ trong một nhà giam những kẻ “bị bỏ tù vì nợ” yêu cầu ứng trước một món tiền; lá thư kia gồm toàn những lời cảm tạ bà góa ở Chiswick vì cô con gái được phép nhập học; còn lá thư cuối cùng nhà nghệ sĩ bất hạnh viết trên giường bệnh lúc hấp hối gửi gắm đứa con gái mồ côi nhờ bà Pinkerton che chở. Có cả những lá thư Rebecca viết hồi còn bé xin bà giúp đỡ bố, hoặc bầy tỏ lòng biết ơn của mình. Trong Hội chợ phù hoa, có lẽ không có lời châm biếm nào tài hơn là những lá thư. Cứ đọc lại thư từ người bạn thân nhất của ta viết hồi mười năm về trước mà xem; bây giờ, anh bạn quý ấy bị ta ghét cay ghét đắng rồi; ta lại đọc tập thư của cô em gái viết cho ta, mới thấy hai anh em yêu quý nhau như vàng cho tới khi chỉ vì cái gia tài đáng giá hai mươi đồng tiền vàng mà ghét nhau như quân thù? Này đây là những bức thư chữ viết nguệch ngoạc của con trai bạn; từ khi nó hư hỏng cưỡng lại ý bạn, bạn đã đau khổ vì nó biết bao nhiêu! Và này đây là một tập thư chính tay bạn viết, đầy những lời lẽ nồng nàn yêu dấu, bị người yêu của bạn gửi trả khi cô ta bỏ đi lấy một ông nhà giầu... bây giờ đối với cô tình nhân ấy, bạn coi xa lạ chẳng khác gì đối với nữ hoàng Elizabeth. Những lời yêu đương thề thốt, những lời hứa hẹn tâm tình, những lời biết ơn... sau một thời gian, đọc lại mà thấy tức cười ra phết! Trong Hội chợ phù hoa, nên đặt ra cái lệ là sau một thời gian ngắn cần thiết, tất cả mọi thứ giấy tờ đều phải hủy bỏ (trừ biên lại của người bán hàng). Phải giết cho tiệt cái bọn lang băm và bọn chán đời đang ra sức quảng cáo cho thứ mực tai hại rửa không phai kia đi mới được. Thứ mực tốt nhất nên dùng trong Hội chợ phù hoa là thứ mực chỉ hai ngày là phai hết, giấy lại sạch bong như mới, để bạn có thể dùng ngay mà viết cho người khác.

Từ nhà bà Pinkerton, bà Bute không biết mệt mỏi lần theo dấu vết hai bố con ông Sharp đến tận ngôi nhà ở phố Hy-lạp, nơi xưa kia ông ta trú ngụ, và còn thấy trên tường phòng khám treo bức chân dung bà chủ nhà mặc áo sa- tanh trắng cạnh ông chồng mặc áo có đính khuy đồng. Ông Sharp không có tiền trả tiền thuê nhà phải vẽ bức tranh này để trừ nợ. Bà Stokes là người hay chuyện, mau mồm kể lại tất cả những điều bà biết về ông Sharp; những là ông ta nghèo kiết và trác táng ra sao, tính tình vui vẻ và hay bỡn cợt thế nào; rồi thì chuyện ông ta bị bọn mõ tòa và chủ nợ luôn luôn làm rầy rà, chuyện ông ta chỉ chịu làm phép cưới cô vợ ít lâu trước khi cô này chết, khiến cho bà chủ nhà tuy không phải chịu đựng gì với cô ta mà cũng lấy làm ghê sợ. Bà còn kể thêm rằng Rebecca trước kia là một con bé láo lếu mất dạy; có tài làm điệu bộ bắt chước tất cả mọi người để làm trò... Cô bé chuyên được sai đi mua rượu ở các tửu quán, và trong các phòng vẽ của khu phố không ai không biết mặt. Tóm lại bà Bute thu thập được một bản báo cáo rất đầy đủ về dòng dõi, về giáo dục, về tư cách của cô cháu dâu: giá Rebecca biết mình được bà thím chồng quan tâm đến như vậy hẳn cô phải hài lòng lắm.

Việc điều tra được tiến hành một cách khéo léo ấy nhằm mục đích phục vụ lợi ích của bà Crawley. Vợ Rawdon Crawley là con gái một vũ nữ ở rạp Opera. Chính cô ta cũng đã nhảy cho thiên hạ xem. Cô ta đã làm kiểu mẫu cho các họa sĩ. Cô ta thừa hưởng một nền giáo dục thật xứng đáng là con gái mẹ. Cô ta cùng uống rượu mạnh với bố v.v... và v.v…Cùng là những kẻ mất linh hồn, đôi trai gái ấy lấy nhau là phải. Bài học luận lý rút ra từ câu chuyện của bà Bute là đôi vợ chồng ấy hư hỏng quá lắm rồi, những người biết tự trọng không ai còn nên nhìn mặt họ nữa. Những tài liệu ấy chính là những quân nhu khí giới bà Bute chuẩn bị đầy đủ ở công viên Lane để chống lại hai vợ chồng Rawdon vì bà biết thế nào họ cũng vây hãm bà Crawley.

Tuy nhiên, nếu trong việc sắp đặt này bà Bute có đáng trách, thì chính vì bà đã quá mức độ cần thiết; thành ra, mặc dầu người ốm chịu khuất phục trước uy quyền của bà, nhưng vì uy quyền ấy quá nghiệt ngã, quá bức bách, nên kẻ nạn nhân cảm thấy muốn lợi dụng cơ hội đầu tiên để thoát khỏi vòng kiềm tỏa. Mấy bà quen chỉ huy- đó là sự kiêu hãnh của phái yếu - cứ muốn ra lệnh cho tất cả mọi người trong tất cả mọi việc, cứ muốn tỏ ra biết rõ hơn người khác mọi điều quan hệ đến hạnh phúc của bản thân người ta; nhiều khi họ không ngờ rằng sự thống trị hà khắc của họ có thể gây ra một cuộc nổi loạn trong gia đình, hoặc những kết quả tai hại khác.

Chính là trường hợp bà Bute; đích thị bà có thiện ý tốt đẹp nhất trần đời, nên mới hy sinh cả giấc ngủ, cả bữa ăn, cả việc dạo mát hít không khí trong lành, chịu vất vả đến kiệt sức để mưu lợi ích cho em chồng đang ốm. Bà yên trí rằng em chồng mắc bệnh trầm trọng đến nỗi suýt nữa bà cho mua sẵn quan tài đem chôn. Một bữa, bà trình bày với ông Clamp, ông thầy bào chế, về những sự hy sinh của mình và kết quả đạt được ra sao. Bà nói:

- Ông Clump thân mến ơi, tôi đã không quản ngại sức lực săn sóc cho người ốm được bình phục! Cái thằng cháu trai vô ơn ấy nó bỏ mặc cô nó nằm trơ trọi trên giường bệnh.Tôi không bao giờ ngại vất vả, tôi không bao giờ từ chối bất cứ một sự hy sinh nào.

Ông Clump cúi chào, đáp:

- Phải nhận rằng bà đã tận tâm săn sóc người ốm một cách đáng kính nhưng…

- Từ bữa tôi đến đây, tôi không mấy khi được chợp mắt. Tôi hy sinh hết: giấc ngủ, sức khoẻ, thú vui, để làm tròn nhiệm vụ. Hồi thằng James nhà tôi lên đậu mùa tôi có chịu nhờ người khác trông nom cho cháu đâu. Không.

- Một bà mẹ xứng đáng phải như vậy, thưa bà, bà thật là một bậc hiền mẫu; nhưng…

Bà Bute vẫn tiếp, vẻ mặt trang trọng đầy tin tưởng.

- Là một người mẹ trong gia đình, là vợ một tu sĩ Anh quốc, tôi tin tưởng rằng những nguyên tắc cư xử ấy là tốt. Ông Clump ạ, trời còn cho tôi được sống làm người, không bao giờ... không bao giờ tôi rời bỏ nhiệm vụ của tôi. Kẻ khác có thể bỏ mặc người đàn bà tóc bạc kia đau khổ trên giường bệnh (nói đến đây, bà Bute chỉ vào một bộ tóc giả màu cà-phê của bà Crawley, treo trên một cái giá trong phòng rửa mặt) nhưng tôi ấy à, không bao giờ. ông Clump ạ, tôi e rằng, tôi tin rằng người ốm kia cần sự giúp đỡ về tinh thần cũng không kém gì thuốc men đâu.

Đến đây, ông Clump cương quyết bày tỏ ý kiến một cách ngọt ngào:

- Thưa bà, điều tôi muốn bà lưu ý bà, khi bà đề cập đến những tình cảm đáng quý kia, tôi nghĩ rằng bà đã lo lắng quá đáng về bệnh trạng của bà bạn quý, và đã phí phạm sức khỏe một cách vô ích đấy.

Bà Bute chặn ngay:

- Tôi rất sẵn sàng hy sinh cả tính mệnh tôi để làm tròn nhiệm vụ, hoặc để mưu lợi ích cho bất cứ người nào trong gia đình chồng tôi.

Ông Clump lịch sự đáp:

- Thưa bà, rất đúng, nếu cần thiết. Nhưng chúng tôi không muốn bà Bute Crawley phải là một kẻ tử đạo. Bác sĩ Squills và tôi đã cẩn thận xét kỹ bệnh trạng của bà Crawley, như bà đã rõ. Chúng tôi thấy bà ấy có vẻ buồn bã lo nghĩ vì những biến cố xảy ra trong gia đình.

Bà Bute vội kêu lên:

- Tại thằng cháu trai của bà ấy hư hỏng quá đấy.

- Vì thế, bà ấy sinh lo nghĩ. Và bà đã đến đây như một vị thần hộ mệnh để an ủi người bệnh trong cơn khủng hoảng tinh thần. Nhưng bác sĩ Squills và tôi thấy rằng, xét bệnh trạng của người ốm, không nên bắt ru rú mãi trong phòng. Như vậy có thể làm cho sức khỏe càng giảm sút. Bà ấy cần được đổi không khí, được vui vẻ, đó là những thang thuốc thần hiệu nhất đấy. (ông Clump cười để lộ ra bộ răng rất đẹp). Bà hãy cố khuyên bà Crawley đi lại, đừng nằm một chỗ mãi, ảnh hưởng đến tinh thần; lên ngay xe ngựa đi chơi đây đó đôi chút và, xin bà cho phép tôi được nói như thế này, như vậy chính đôi má của bà cũng sẽ được hồng hào như cũ, bà Bute Crawley ạ.

Bà Bute đáp (và con mèo ích kỷ giấu kín trong bị thòi ngay cái đuôi ra) :

- Sợ bà ấy gặp mặt thằng cháu trời đánh trong công viên mất. Họ mách tôi rằng nó giong xe đi chơi tay đôi với cái con tòng phạm trơ trẽn. Như thế thì đến ốm lại vì xúc động ông Clump ạ, không thể đưa bà ấy đi chơi được, tôi còn ở đây trông nom thì không thể để bà ấy đi đâu được. Còn như sức khỏe của tôi ấy à? Thưa ông, tôi vui lòng hy sinh hết vì nhiệm vụ.

Ông Clump bèn nói thẳng:

- Vậy tôi xin nói thực, nếu cứ giam mãi bà ấy trong buồng tối thì chúng tôi không chịu trách nhiệm về tính mạng của người ốm đâu. Bà ấy đang lo nghĩ quá nhiều, không chừng chỉ ít ngày nữa là đi đứt. Nếu bà mong cho đại úy Crawley được hưởng gia tài thì, thưa bà tôi xin nói thẳng rằng bà đã giúp ông ấy rất đắc lực đấy.

Bà Bute kêu lên:

- Trời đất ơi? Bà ấy sắp chết à. Sao ông không cho tôi biết sớm hơn?

Đêm hôm trước, ông Clump và bác sĩ Squills đã hội ý với nhau về bệnh tình của bà Crawley trong khi ngồi uống rượu trong nhà ông Lapin Warren, có bà vợ sắp sinh đứa con thứ ba, Bác sĩ Squills nhận xét:

- Này ông Clump, cái con mụ ở Hamshire đến thật là một con quỷ cái. Nó muốn cứ giữ rịt lấy mụ già Tilly Crawley thôi...Rượu ngon tuyệt nhỉ.

Ông Clump đáp:

- Cái thằng Rawdon Crawley mới ngu chứ, đi lấy một con bé dạy trẻ làm vợ? Nhưng kể ra con bé trông cũng kháu.

Bác sĩ Squills nói:

- Mắt biếc, da nõn nà, mặt xinh, trán nở, đẹp. Trông ra gì đấy chứ, nhưng cái thằng Crawley cũng ngu thật.

Ông bào chế tán thành:

- Ngu bỏ mẹ đi ấy.

- Dĩ nhiên bà lão sẽ cắt phần gia tài của hắn.

Ngừng một lát, ông nói tiếp:

- Bà lão sẽ để lại một gia tài lớn đấy nhỉ?

Ông Clump cười:

- Lớn lắm! Tôi chỉ mong bà ấy không chết để chém mỗi năm hai trăm đồng thôi.

- Nội hai tháng nữa, thế nào con mụ ở Hamshire kia cũng giết chết bà lão, nếu ông không can thiệp, ông Clump ạ. Bệnh già, lại bội thực, rồi lo nghĩ; tim đập mạnh lắm; mắc chứng xung huyết não; thế là tiêu. Clump, phải dựng bà ấy dậy, lôi bà ấy ra ngoài. Nếu không, chỉ vài tuần nữa thì đừng có hy vọng gì xoay được mỗi năm hai trăm đồng.

Lời khuyến khích trên đã khiến ông thầy bào chế thẳng thắn bày tỏ ý kiến của mình với bà Bute Crawley.

Nắm chặt bà già trong tay, lại chỉ có hai người với nhau, nhiều lần bà Bute đã tấn công xui bà Crawley chữa lại tờ di chúc; nhưng cứ mỗi khi nghe nhắc đến chuyện ấy, bà Crawley lại cuống cuồng lo chết; thành ra bà Bute đành chờ đến khi nào bà Crawley vui vẻ sẽ lại đả động đến vấn đề kia. Nhưng đưa bà ấy đi chơi đâu bây giờ? Chỉ có một chỗ yên trí sẽ không gặp mặt cái thằng Rawdon đáng ghét kia, đó là đi nhà thờ; nhưng bà Crawley lại không ưa gì nhà thờ, bà Bute biết rõ điều ấy quá. Bà nghĩ: “Ta phải đi thăm những vùng ngoại ô thành Luân-đôn mới được. Nghe nói đó là những thắng cảnh đẹp nhất trần đời”. Thế là tự bà đâm ra yêu những khu Hampstead, Hornsey; thấy phong cảnh khu Dulwich rất hấp dẫn, thế là bà đưa nạn nhân của mình lên xe ngựa đi thăm những vùng quê ấy; vừa đi chơi bà vừa nói chuyện về hai vợ chồng Rawdon, cốt mọi cơ hội làm cho bà lão thêm căm ghét đôi trai gái hư đốn ấy.

Có nhẽ tại bà Bute làm găng quá; vì thế, tuy bà Bute đạt được kết quả khiến cho bà cô thù ghét đứa cháu không biết vâng lời, thì trong thâm tâm bà Crawley cũng cảm thấy khó chịu: bà ghê sợ con người đang hành hạ mình, và đang tìm cách thoát khỏi tay bà Bute. Được ít hôm, bà Crawley nhất định không chịu đi chơi ở Hornsey và Highgate; bà muốn ra công viên chơi. Bà Bute chỉ sợ chạm trán với thằng cháu Rawdon hư đốn ở đó. Quả nhiên bà lo là đúng.

Một buổi thấy chiếc xe ngựa của Rawdon đằng xa chạy lại Rebecca ngồi cạnh chồng. Trên xe ngựa của kẻ thù, bà Crawley vẫn ngồi chỗ mọi khi, bà Bute ngồi bên tay trái. Bà Briggs ngồi ở ghế sau với con chó. Giờ phút gay go đã đến. Rebecca nhận ra chiếc xe, tim đập thình thịch. Lúc hai xe gặp nhau, cô ta chắp hai bàn tay lại, nhìn thẳng vào bà già, nét mặt đầy vẻ gắn bó và trung thành. Rawdon cũng run lẩy bẩy, mặt đỏ bừng lên sau bộ ria mép. Người duy nhất bị xúc động trên chiếc xe kia là bà Briggs; bà này giương đôi mắt to tướng nhìn về phía hai bà bạn. Nhưng bà Crawley vẫn nhất định quay mũ về phía con người xảo quyệt còn bà Bute thì đang mải mê nựng con chó con, gọi nó nào là cún ngoan, cún yêu, cún quý của bà. Thế là hai chiếc xe đi về hai phía.

Rawdon bảo vợ:

- Hỏng bét rồi!

Rebecca đáp:

- Anh Rawdon, ta cố một lần nữa xem sao. Anh không thể cho bánh xe của mình móc vào bánh xe kia được ư, anh yêu dấu của em?

Rawdon không đủ can đảm làm thế. Lúc hai xe lại gặp nhau, anh ta đứng hẳn dậy trên xe, giơ tay sẵn sàng ngả mũ chào, mắt chăm chăm ngó sang. Lần này bà Crawley không quay đi chỗ khác, nhưng cả bà và bà Bute cùng nhìn thẳng vào mặt anh cháu như nhìn người không quen.

Crawley văng tục một câu, ngồi phịch xuống ghế, đánh xe ra khỏi công viên về nhà, vô cùng chán nản.

Bà Bute đã thắng một trận vẻ vang quyết định. Nhưng bà cũng cảm thấy những cuộc gặp gỡ như vậy rất nguy hiểm, vì rõ ràng bà Crawley có vẻ bị xúc động. Bà quyết định rằng để đảm bảo sức khỏe, bà em chồng nhất định phải rời thành phố xa ít lâu, và nhất định đòi đi Brighton.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom