Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 40


Tất cả các báo tiếng anh đều cùng có một thay đổi trên dòng đề tựa, nhưng Ysabeau nghĩ tờ Theo kịp Thời Đại là tờ báo thông minh nhất.

Người anh chiến thắng cuộc chạy đua tiến vào không gian

Ngày 30 tháng Sáu 2010

CHUYÊN GIA HÀNG ĐẦU THẾ GIỚI về các dụng cụ khoa học sớm nhất tại Bảo tàng Lịch sử và Khoa học của Đại học Oxford, Anthony Carther, ngày hôm nay khẳng định rằng một chiếc kính thiên văn khúc xạ mang tên nhà toán học và thiên văn học thời Elizabeth là Thomas Harriot và Nicholas Vallin, một thợ sửa đồng hồ Huguenot, người đã bỏ trốn khỏi Pháp vì lý do tôn giáo, đã được xác minh. Ngoài những cái tên trên, kính thiên văn này còn được khắc ngày tháng năm 1591.

Phát hiện này làm giới khoa học và lịch sử chấn động. Suốt nhiều thế kỷ, người ta tin rằng nhà toán học người Ý Galileo Galiei với chiếc kính thiên văn thô sơ mượn của người Hà Lan đã quan sát mặt trăng vào năm 1609.

“Các cuốn sách lịch sử sẽ phải được viết lại,” Carter nói. “Thomas Harriot đã đọc cuốn Phép màu thiên nhiên của Giambattista della Porta và bị hấp dẫn với cách sử dụng các thấu kính lồi và lõm, để có thể ‘nhìn thấy cả những thứ ở xa và những thứ ở gần, cả hai đều lớn hơn và rõ nét hơn.’”

Những đóng góp của Thomas Harriot cho lĩnh vực thiên văn học không được chú ý tới, một phần vì ông đã không xuất bản chúng. Ông thích chia sẻ những phát hiện của mình với nhóm bạn thân được gọi là “Bè Lũ Bóng Đêm.” Dưới sự bảo trợ của Walter Raleigh và Henry Percy, “Vị Bá Tước Pháp Sư” của Northumberland, Harriot được tự do về mặt tài chính để khám phá những mối quan tâm của ông.

Ông I.P.Riddell phát hiện chiếc kính thiên văn này, cùng với một hộp đựng các giấy tờ tổng hợp liên quan tới toán học trong tay Thomas Harriot và một chiếc bẫy chuột bằng bạc cầu kỳ cũng được ký tên bởi Vallin. Ông ta đang sửa những chiếc chuông của nhà thờ St. Michael, gần chỗ ở của gia đình Percy tại Alnwick, thì một cơn gió đặc biệt lớn cuốn xuống tấm thảm thêu đã phai màu với hình Thánh Margaret đang tiêu diệt con rồng hung bạo, để lộ ra chiếc hộp được cất giấu bí mật ở đó.

“Rất hiếm có chuyện các dụng cụ vào thời kỳ này lại có nhiều dấu hiệu nhận dạng như thế,” tiến sĩ Carter giải thích với phóng viên và tiết lộ dấu vết ngày được khắc trên kính viễn vọng khẳng định món đồ này được làm vào 1591-92. “Chúng ta nợ Nicholas Vallin, người đã biết điều này là một bước phát triển quan trọng trong lịch sử công cụ khoa học và thực hiện những phương pháp khác thường để ghi lại dấu ấn đó trong khoa phả hệ và nguồn gốc của nó.”

***

“Bọn họ từ chối bán nó,” Marcus nói, dựa lưng vào khung cửa. Trông anh chàng rất giống Matthew với hai cánh tay khoanh trước ngực và đôi chân đứng bắt chéo. “Cháu đã nói chuyện với mọi người, từ văn phòng nhà thờ Alnwick cho tới Công tước vùng Northumberland, nhà Bishop ở Newcastle. Họ sẽ không từ bỏ cái kính viễn vọng đó dù bà có đề nghị cả một gia tài nhỏ đi nữa. Mặc dù vậy, cháu nghĩ cháu đã thuyết phục được họ để cháu mua cái bẫy chuột.”

“Cả thế giới biết về nó,” Ysabeau nói. “Ngay cả Le Monde cũng có bài báo về câu chuyện này.”

“Chúng ta nên thử mạnh tay hơn trấn áp câu chuyện này xuống. Chuyện này có thể cho đám phù thủy và đồng minh của bọn chúng những thông tin quan trọng,” Marcus nói. Số lượng người sống bên trong những bức tường của Sept-Tours đang ngày càng tăng thêm trong những tuần lễ qua và mọi người lo lắng về những gì Đại Hội Đồng có thể làm, nếu chỗ ở chính xác của Diana và Matthew bị phát hiện.

“Phoebe nghĩ sao?” Ysabeau hỏi. Bà đã ngay lập tức thích con người trẻ trung có óc quan sát này, cùng cái cằm kiên nghị và tác phong nhẹ nhàng của cô. Gương mặt Marcus mềm mại hẳn ra, khiến anh trông giống y như trước khi Matthew rời đi, khi anh còn sống vô tư lự và vui vẻ. “cô ấy nghĩ, còn quá sớm để kết luận có thiệt hại nào xảy ra do việc phát hiện cái kính thiên văn này.”

“cô gái thông minh,” Ysabeau mỉm cười nói.

“Cháu không biết mình sẽ làm gì nữa…” Marcus mở đầu. Nét mặt anh chàng chuyển sang dữ dội. “Cháu yêu cô ấy, Grand-mère.”

“Dĩ nhiên là cháu đã yêu rồi và cô ấy cũng yêu cháu.” Sau các sự kiện hồi tháng Năm, Marcus đã muốn cô ấy ở cùng các thành viên còn lại trong gia đình và đã mang cô gái tới Sept-Tours. Hai người bọn họ không thể chia lìa. Phoebe cũng đã cho thấy cách xử thế khéo léo rất ấn tượng khi cô gặp hội đồng gồm các yêu tinh, phù thủy và ma cà rồng thường xuyên cùng chung sống. Nếu cô gái có ngạc nhiên khi biết rằng còn có các sinh vật khác người cùng chia sẻ thế giới này với loài người thì cô ấy cũng không hề để lộ điều đó ra.

Thành viên trong Đại Hội Đồng Ngầm của Marcus đã tăng lên đáng kể trong những tháng qua. Trợ lý của Matthew, Miriam, giờ là người cư trú thường xuyên tại lâu đài, cũng như con gái của Phillipe, Verin và chồng cô ấy Ernst. Gallowglass, người cháu trai không biết đến nghỉ ngơi của Ysabeau, đã làm tất cả bọn họ choáng váng bằng việc ở lại đó suốt sáu tuần lễ. Thậm chí lúc này, anh ta cũng không có dấu hiệu gì sẽ rời đi. Sophie Norman và Nathaniel Wilson đã chào đón đứa con mới sinh của bọn họ, Margaret, đến thế giới này dưới mái nhà của Ysabeau, và giờ uy quyền của đứa bé trong lâu đài này chỉ đứng thứ hai sau nữ chúa của nhà de Clermont mà thôi. Với việc cháu trai sống ở Sept-Tours, mẹ của Nathaniel, Agatha xuất hiện hết lần này tới lần khác mà không hề báo trước, cũng như người bạn tốt nhất của Matthew, Hamish. Thậm chí Baldwin thi thoảng cũng đảo qua đây.

Chưa bao giờ trong cả cuộc sống dài đằng đẵng của mình, Ysabeau muốn làm một bà chủ gia đình như thế này.

“Sarah đâu rồi?” Marcus hỏi, tiếng anh hòa vào âm thanh ồn ào của các hoạt động đang diễn ra xung quanh. “Cháu không nghe thấy tiếng bà ấy.”

“Ở trong Tháp Tròn.” Ysabeau lướt cái móng tay sắc lẻm của bà quanh mép câu chuyện trên tờ báo và gọn gàng nâng mấy cột báo bị cắt rời ra khỏi bản in. “Sophie và Margaret đã ngồi cùng bà ấy một lát. Sophie nói Sarah vẫn tiếp tục quan sát.”

“Vì cái gì ạ? Giờ chuyện gì xảy ra vậy?” Marcus hỏi, chộp lấy tờ báo. anh chàng đã đọc tất cả báo vào buổi sáng, lần theo những thay đổi tinh vi trong dòng tiền và sự ảnh hưởng mà Nathaniel đã tìm ra cách phân tích và tách bạch để có thể chuẩn bị tốt hơn trước bước đi kế tiếp của Đại Hội Đồng. một thế giới không có Phoebe thật không thể tưởng tượng nổi, nhưng Nathaniel cũng đã gần như không thể thiếu đối với anh. “Cái kính thiên văn chết tiệt đó sẽ là một rắc rối đây, cháu biết mà. Tất cả những gì Đại Hội Đồng cần là một phù thủy du hành thời gian và với câu chuyện này, bọn chúng sẽ có mọi thứ chúng cần để quay lại quá khứ và tìm ra cha cháu.”

“Cha cháu sẽ không ở đó quá lâu đâu, nếu như giờ nó vẫn còn ở đó.”

“thật thế ạ, Grand-mère,” Marcus nói với đôi chút bực tức, sự chú ý của anh chàng vẫn còn gắn chặt vào văn bản xung quanh cái lỗ hổng mà Ysabeau để lại trên tờ Thời Đại. “Làm thế nào mà bà biết được?”

“Đầu tiên là những bức tiểu họa, sau đó là những ghi chép về phòng thí nghiệm, và giờ là cái kính thiên văn này. Ta biết rõ con dâu của ta. Cái kính thiên văn này chính xác là một tín hiệu Diana sẽ làm nếu con bé không còn gì để mất nữa.” Ysabeau lướt qua cậu cháu trai. “Diana và Matthew đang trở về nhà.”

Vẻ mặt của Marcus thật khó dò.

“Ta đã kỳ vọng cháu sẽ vui mừng hơn trước sự trở về của cha mình chứ,” Ysabeau khẽ nói, dừng lại bên cánh cửa.

“Mấy tháng qua thật là khó khăn,” Marcus ủ ê nói. “Đại Hội Đồng đã thể hiện rõ ràng rằng bọn họ muốn cuốn sách và con gái của Nathaniel. một khi Diana ở đây…”

“Bọn chúng sẽ không ngăn được điều gì cả.” Ysabeau chậm rãi hít vào một hơi. “Ít nhất, chúng ta sẽ không còn phải lo lắng về điều đang xảy đến với Diana và Matthew trong quá khứ. Chúng ta sẽ ở cùng nhau tại Sept-Tours này và sát cánh chiến đấu bên nhau.” Rồi chết bên nhau.

“Quá nhiều thứ đã thay đổi kể từ tháng Mười một vừa qua.” Marcus nhìn đăm đăm vào mặt chiếc bàn đang tỏa sáng, như là một phù thủy và chiếc bàn có thể cho anh chàng nhìn thấy được tương lai.

“Ta cho là họ cũng thấy vậy. Nhưng tình yêu của cha cháu dành cho cháu là mãi mãi. Sarah cần Diana vào lúc này. Và cháu cũng cần Matthew.”

Ysabeau cầm lấy bài báo đã cắt, đi về phía Tháp Tròn, bỏ lại Marcus với những suy nghĩ ngổn ngang. đã có thời, nơi đó là nhà giam yêu thích của Philippe và giờ nó được dùng làm kho chứa giấy tờ cũ của gia đình. Mặc dù cánh cửa dẫn vào căn phòng ở trên tầng thứ ba hé mở, nhưng Ysabeau vẫn gõ nhẹ lên cửa.

“Bà không phải gõ cửa đâu, đây là nhà của bà mà.” Tiếng khàn khàn trong giọng Sarah cho thấy, bà ấy đang hút thuốc lá và uống rất nhiều rượu uýt-ki.

“Nếu đó là cách bà cư xử thì tôi chẳng vui vẻ gì khi là khách của bà đâu,” Ysabeau sắc sảo đáp lại.

“Khách của tôi ư?” Sarah cười khẽ. “Tôi sẽ không bao giờ để bà vào nhà tôi đâu.”

“Ma cà rồng thường không cần được mời.” Ysabeau và Sarah đã hoàn thiện nghệ thuật giễu cợt chanh chua của riêng họ. Marcus và Em đã cố gắng vô ích để thuyết phục họ tuân theo những quy tắc giao tiếp lịch thiệp, nhưng các nữ chúa của hai gia tộc biết rằng miệng lưỡi sắc bén kiểu này giúp duy trì sự cân bằng quyền lực mong manh của bọn họ. “Bà lẽ ra không nên lên đây, Sarah.”

“Tại sao không? Sợ tôi sẽ cảm lạnh đến chết à?” Giọng Sarah cao vút lên với sự đau đớn đột ngột, và bà ấy tiếp tục gào to gấp đôi như thể vừa bị đánh. “Xin Chúa giúp tôi, tôi nhớ cô ấy quá. Hãy nói với tôi đây chỉ là mơ đi, Ysabeau. nói với tôi rằng Emily vẫn còn sống đi.”

“không phải mơ đâu,” Ysabeau nói nhẹ nhàng hết mức có thể. “Tất cả chúng ta đều nhớ cô ấy. Tôi biết bà đang cảm thấy trống rỗng và đau đớn, Sarah.”

“Và nó sẽ qua thôi mà,” Sarah buồn chán nói.

“không, sẽ không đâu.”

Sarah ngước lên nhìn, ngạc nhiên trước giọng nói dữ dội của Ysabeau.

“Mỗi ngày trong cuộc đời mình, tôi đều khao khát có Philippe. Khi mặt trời mọc, trái tim tôi khóc thương gọi tên ông ấy. Tôi lắng nghe giọng nói của ông ấy, nhưng chỉ có sự im lặng đáp lại. Tôi thèm khát một cái vuốt ve của ông ấy. Khi mặt trời lặn, tôi quay trở về cùng với nhận thức rằng người bạn đời của tôi đã biến mất khỏi thế giới này và tôi sẽ không bao giờ còn được thấy gương mặt của ông ấy nữa.”

“Nếu bà đang cố làm cho tôi cảm thấy dễ chịu hơn, thì nó không hiệu quả đâu,” Sarah nói, nước mắt rơi như mưa.

“Emily chết để cho con của Sophie và Nathaniel có thể sống. Những kẻ góp phần trong cái chết của bà ấy sẽ phải trả giá, tôi hứa đấy. Nhà de Clermonts rất giỏi trả thù, Sarah ạ.”

“Và trả thù sẽ khiến tôi thấy dễ chịu hơn ư?” Sarah quắc mắt lườm qua hai hàng nước mắt.

“không, nhưng nhìn thấy Margaret lớn lên trở thành một người phụ nữ sẽ giúp bà thấy dễ chịu hơn. Chuyện này cũng thế.” Ysabeau thả mẩu báo đã được cắt ra vào lòng nữ phù thủy. “Diana và Matthew sắp về nhà rồi.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 41


Những cố gắng của tôi để từ quá khứ tới được Chòi Gác Cổ tương lai vẫn không thành công. Tôi tập trung vào dáng vẻ cùng mùi hương của nơi này và đã nhìn thấy những sợi tơ trói buộc Matthew và tôi với ngôi nhà – màu nâu, xanh lá và vàng kim. Nhưng chúng lại trượt khỏi tay tôi hết lần này tới lần khác.

Thay vào đó, tôi lại cố hướng tới Sept-Tours. Các sợi tơ kết nối chúng tôi với nơi đó bị ảnh hưởng nhẹ bởi khí chất của Matthew, pha trộn giữa màu đỏ và đen có xen kẽ ánh bạc. Tôi hình dung ngôi nhà với đầy đủ các gương mặt thân quen – dì Sarah và cô Em, Ysabeau và Marthe, Marcus và Miriam, Sophie và Nathaniel. Nhưng tôi không thể tới được cái bến an toàn đó.

Kiên quyết lờ đi cơn hoang mang lo lắng đang dâng lên, tôi tìm kiếm trong hàng trăm lựa chọn để tìm một đích đến thay thế. Oxford chăng? Khu tàu điện ngầm Blackfriars ở London hiện đại chăng? Nhà thờ Thánh Paul chăng?

Các ngón tay tôi vẫn quay trở về với cùng một sợi tơ trên khung cửi thời gian, nó không mềm mại và mịn màng như lụa mà cứng rắn và rất thô ráp. Tôi lần từng bước dọc theo chiều dài ngoằn ngoèo của nó và phát hiện ra nó không phải là một sợi chỉ mà là một cái rễ nối với một cái cây vô hình nào đó. Vừa phát hiện ra điều đó, tôi liền bị vấp chân, giống như vừa bước qua một bậu cửa vô hình, và rơi vào phòng sinh hoạt chung của nhà Bishop.

Nhà. Tôi đáp xuống bằng cả hai tay và đầu gối, các sợi thừng thắt nút duỗi ra nằm giữa lòng bàn tay tôi và sàn nhà. Hàng thế kỷ được đánh bóng và truyền qua hàng trăm bàn chân của tổ tiên đủ lâu để làm láng mịn sàn gỗ thông rộng lớn này. Chúng mang lại một cảm giác thân thuộc dưới hai bàn tay tôi, bằng chứng về sự trường tồn vĩnh cửu trong một thế giới luôn đổi thay. Tôi ngước nhìn lên, có phần hy vọng được trông thấy các dì đang đợi tôi trong tiền sảnh. thật quá dễ dàng tìm được đường trở về Madison nên tôi cho rằng chính họ đã dẫn dắt chúng tôi tới đây. Nhưng bầu không khí trong ngôi nhà Bishop tĩnh lặng và không hề có sự sống, như thể không có một linh hồn nào quấy rầy nó suốt từ dịp lễ Halloween. Thậm chí, dường như ngay cả các bóng ma cũng không còn cư ngụ ở đây nữa.

Matthew đang quỳ gối bên cạnh tôi, cánh tay anh vẫn còn khoác lấy tay tôi và các cơ bắp đang run run do áp lực từ việc di chuyển xuyên thời gian.

“Chỉ có chúng ta ở đây thôi sao?” Tôi hỏi.

anh hít vào mùi hương trong ngôi nhà. “Đúng thế.”

Cùng với lời đáp khe khẽ của anh, ngôi nhà thức giấc và bầu không khí từ chỗ phẳng lặng thiếu sức sống chuyển sang căng thẳng chỉ trong chớp mắt. Matthew nhìn tôi cười. “Xem tóc em kìa, nó lại thay đổi rồi.”

Tôi liếc nhìn xuống thấy không phải là những lọn tóc màu vàng dâu tây mà tôi đã quen thuộc nữa, giờ nó là những sợi tóc thẳng, mềm mại như lụa màu vàng kim ánh đỏ – giống hệt mái tóc của mẹ tôi.

“Chắc nó cũng đi vượt thời gian đấy.”

Ngôi nhà kẽo kẹt rền rĩ. Tôi cảm thấy nó đang thu thập năng lượng chuẩn bị bùng nổ.

“Chỉ là ta và Matthew thôi mà.”

Tôi lên tiếng để xoa dịu căn nhà nhưng giọng lại khàn khàn kỳ lạ. Tuy thế, ngôi nhà vẫn nhận ra giọng tôi và một tiếng thở dài nhẹ nhõm tràn ra. một cơn gió nhẹ luồn từ ống khói xuống, mang theo một mùi hương xa lạ của cúc la mã trộn lẫn với mùi hương quế. Tôi ngoái nhìn qua vai về phía cái lò sưởi và những tấm ván gỗ ốp đã bị vỡ ra xung quanh ngổn ngang tới tận chỗ tôi đang đứng.

“Đó là cái quỉ gì thế?”

một cái cây đã chồi lên từ dưới vỉ lò sưởi. Thân cây màu đen lấp đầy ống khói, cành nhánh đâm xuyên qua đá và lớp ván gỗ ốp xung quanh.

“Nó giống cái cây mọc từ nồi chưng cất của Mary.” Matthew khom người xuống bên lò sưởi, trong chiếc quần chẽn nhung đen và chiếc áo sơ mi vải lanh thêu hoa văn trang trí. Ngón tay anh chạm vào một cục bạc nhỏ dính lõm vào lớp vỏ cây. Giống tôi, giọng anh nghe như vẳng lại từ một cõi xa xôi bên ngoài thời không này.

“Cái đó trông giống huy hiệu hành hương của anh.” Hình dáng chiếc quan tài của Lazarus vẫn có thể nhận ra. Tôi đến bên cạnh anh, cái chân váy màu đen xòe rộng phồng ra quét trên sàn nhà.

“anh nghĩ là nó. Chiếc bình hai quai này có hai cái hõm mạ vàng, bên trong đựng nước thánh. Trước khi rời Oxford, anh đã đổ đầy một hõm bằng máu của anh còn hõm kia là máu của em.” Matthew đón lấy ánh mắt tôi. “Dòng máu của chúng ta ở gần nhau khiến anh cảm thấy như thể chúng ta không bao giờ chia lìa.”

“Trông cái bình như bị nổ do sức nóng và tan chảy ra. Nếu bên trong cái bình được mạ bạc, thì thủy ngân sẽ thoát ra cùng với máu.”

“Vậy nên cái cây này được làm từ cùng những nguyên liệu như cây Dianæ của Mary.” Matthew ngước lên nhìn những cành cây trần trụi.

Mùi hương cúc la mã và quế càng thêm nồng. Cái cây bắt đầu trổ ra – nhưng không phải hoa trái bình thường, thay vào đó là một chiếc chìa khóa và một trang giấy da mịn.

“Nó là trang sách của cuốn cổ thư,” Matthew nói và đưa tay kéo nó xuống.

“Điều đó có nghĩa là cuốn sách vẫn bị hỏng và chưa hoàn thiện vào thế kỷ hai mươi mốt. không có điều gì chúng ta làm trong quá khứ làm thay đổi thực tế này.” Tôi thở ra một hơi bình tĩnh.

“Vậy khả năng là Ashmole 782 được cất giấu an toàn ở thư viện Bodleian,” Matthew lặng lẽ nói. “Đây là chìa khóa một chiếc ô tô.” anh nhổ nó ra khỏi cành cây. Nhiều tháng qua, tôi không nghĩ đến bất cứ một hình thức di chuyển nào khác ngoài xe ngựa hay tàu thuyền. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ trước nhà, nhưng chẳng có phương tiện nào đợi chúng tôi ở đó cả. Ánh mắt Matthew cũng nhìn theo tôi.

“Marcus và Hamish sẽ đảm bảo cho chúng ta có phương thức đến Sept-Tours như kế hoạch đã định mà không cần gọi họ để xin giúp đỡ. Có lẽ họ đã để xe ô tô đợi sẵn trên khắp cả châu Âu và châu Mỹ, đề phòng trường hợp chúng ta cần. Nhưng họ sẽ không bỏ nó lồ lộ ở đó đâu,” Matthew nói.

“Nhưng không có gara để xe.”

“Còn có kho hoa bia mà.” Bàn tay Matthew tự động thả cái chìa khóa vào túi quần bên hông, nhưng bộ đồ của anh lại không có những tiện ích hiện đại như thế.

“Liệu họ có nghĩ đến việc để lại quần áo cho chúng ta không nhỉ?” Tôi ra dấu xuống chiếc áo khoác thêu thùa cầu kỳ và cái chân váy lòe xòe của mình. Chúng tôi vẫn còn đầy bụi bặm từ con đường đất của Oxford thế kỷ mười sáu.

“Chúng ta thử tìm xem.” Matthew cầm chiếc chìa khóa cùng trang sách của Ashmole 782 vào phòng khách và phòng bếp.

“Vẫn màu nâu,” tôi bình luận, nhìn giấy dán tường và chiếc tủ lạnh cổ.

“Vẫn là nhà mà,” Matthew nói, kéo tôi vào vòng tay anh.

“không có cô Em và dì Sarah thì không phải là nhà nữa rồi.” Ngược lại với hộ gia đình đầy nhóc người vẫn vây quanh chúng tôi nhiều tháng qua, gia đình ở hiện đại của chúng tôi dường như thật mong manh và nhỏ bé. Ở đây không có Mary Sidney để bàn bạc về các rắc rối của tôi trong suốt một buổi tối mưa bão. Cũng không có Susanna hay Goody Alsop ghé qua nhà thăm vào các buổi xế chiều để uống một cốc rượu và giúp cho tôi hoàn thiện câu thần chú mới nhất. Tôi sẽ không còn được Annie vui vẻ giúp đỡ mặc coóc-xê và những chiếc váy lòe xòe. Giẻ Lau hay Jack sẽ không còn quẩn quanh chân tôi nữa. Và nếu chúng tôi cần giúp đỡ, sẽ không có chàng Henry Percy chạy ào tới hỗ trợ mà không hề hỏi han hay do dự. Tôi vòng cánh tay ôm quanh thắt lưng Matthew để lưu giữ cảm giác rắn chắc và vững vàng không gì có thể phá hủy của anh.

“anh sẽ luôn nhớ bọn họ,” anh khẽ nói, thấu hiểu tâm tình của tôi, “nhưng nỗi đau sẽ phai dần theo thời gian thôi mà em.”

“Em đã bắt đầu cảm thấy mình giống một ma cà rồng hơn là một phù thủy rồi đấy,” tôi rầu rĩ nói. “Quá nhiều những cuộc chia ly, quá nhiều những người yêu thương nhung nhớ.” Tôi phát hiện thấy tờ lịch trên tường, rồi chỉ cho Matthew xem – giờ đang là tháng Mười một.

“Lẽ nào không có ai ở đây suốt từ năm ngoái sao?” anh lo lắng thắc mắc.

“Chắc có gì đó không ổn,” tôi nói, với lấy máy điện thoại.

“không,” Matthew thốt lên. “Đại Hội Đồng có thể lần theo các cuộc gọi hoặc theo dõi ngôi nhà. Chúng ta phải tới Sept-Tours. không biết thời gian chúng ta đi có thể được đo bằng một giờ hay một năm, đó là nơi chúng ta cần tới.”

Chúng tôi tìm thấy quần áo hiện đại của mình ở trên máy sấy, được lồng vào trong một cái vỏ gối để giữ cho chúng khỏi bị bụi bẩn bám. Chiếc cặp táp của Matthew đặt gọn gàng bên cạnh. Ít nhất cô Em đã về đây khi chúng tôi rời đi vì không ai khác có thể nghĩ đến những việc vặt vãnh như thế. Tôi gói quần áo thời Elizabeth lại trong vải lanh, miễn cưỡng gỡ bỏ những vết tích hiện hữu về cuộc sống vừa mới đây của chúng tôi, và kẹp chúng dưới cánh tay giống hai trái bóng đá phồng lên. Matthew thả trang sách của Ashmole 782 vào trong cặp da của anh và giữ lấy nó một cách an toàn.

Matthew quét mắt nhìn vườn cây ăn trái và những cánh đồng xung quanh trước khi chúng tôi rời khỏi ngôi nhà, ánh mắt chăm chú của anh cảnh báo nguy hiểm có thể xảy ra. Tôi cũng tự mình rà soát nơi này bằng con mắt thứ ba của phù thủy, nhưng dường như không có ai ở bên ngoài cả. Tôi có thể nhìn thấy cả nước bên dưới vườn cây trái, nghe thấy tiếng cú trong rừng cây, nếm được vị ngọt của mùa hè trong khí trời lúc chạng vạng, nhưng chỉ thế thôi.

“đi nào,” Matthew nói, giật lấy một cái bọc và cầm lấy tay tôi. Chúng tôi chạy qua khoảng sân trống để tới kho hoa bia. Matthew dồn tất cả sức nặng của mình đẩy lên cánh cửa trượt, nhưng nó không suy chuyển.

“Dì Sarah đã yểm bùa lên đó rồi.” Tôi có thể nhìn thấy rõ bùa chú vặn xoắn quanh tay cầm và xuyên qua thớ gỗ. “Cũng là câu thần chú mạnh đấy.”

“Quá mạnh đến mức không thể bị phá vỡ ư?” Miệng Matthew mím chặt lại lo lắng. Chẳng có gì ngạc nhiên khi anh lo nghĩ đến thế. Lần cuối cùng chúng tôi ở đây, tôi còn không thể thắp sáng những trái bí ngô trong lễ Halloween còn gì. Tôi xác định hai đầu sợi dây và nhoẻn miệng cười toe toét.

“không có nút thắt. Dì Sarah tuy giỏi, nhưng dì không phải là thợ dệt.” Tôi đã kẹp các dải lụa thời Elizabeth vào cạp chiếc quần legging của mình. Khi tôi lôi chúng ra, những sợi thừng màu xanh lá và nâu trong tay tôi liền vươn tới và chốt lên câu thần chú của Sarah, nới lỏng các giới hạn mà dì tôi đã đặt lên cánh cửa, còn nhanh hơn cả khi ngài trộm đạo Jack của chúng tôi ra tay.

Chiếc xe nhãn Honda của dì Sarah đỗ ở trong kho.

“Chúng ta làm thế nào để nhồi vừa anh vào trong đó được bây giờ?” tôi băn khoăn.

“anh sẽ tìm cách,” Matthew nói, quăng mớ quần áo của chúng tôi ra ghế phía sau. anh đưa cho tôi cái cặp da, co người ngồi vào ghế trước và sau vài lần khởi động không được, cuối cùng, chiếc xe cũng xì xì nổ máy.

“Kế tiếp đến đâu đây?” Tôi hỏi, tay thắt dây an toàn.

“Syracuse rồi Montreal, sau đó là Amsterdam, anh có một ngôi nhà ở đó.”

Matthew lái xe ra và lặng lẽ hướng về phía những cánh đồng. “Nếu có kẻ đang theo dõi chúng ta, bọn chúng sẽ canh chừng ở New York, London, và Paris.”

“Chúng ta không có hộ chiếu,” tôi nhắc.

“Nhìn dưới thảm xem, Marcus sẽ bảo dì Sarah để chúng ở đó,” anh nói. Tôi lật mấy tấm thảm bẩn lên và tìm thấy cái hộ chiếu Pháp của Matthew và hộ chiếu Mỹ của tôi.

“Tại sao hộ chiếu của anh không phải màu đỏ boóc-đô?” Tôi hỏi, lấy chúng từ trong chiếc túi nhựa dán kín ra (lại một thứ khác do Em động tay, tôi thầm nghĩ).

“Bởi vì nó là hộ chiếu ngoại giao.” anh lái xe lên đường cái và bật đèn pha. “Chắc là cũng có một cái như thế cho em.”

Hộ chiếu ngoại giao Pháp của tôi đề tên Diana de Clermont và ghi chú tình trạng hôn nhân của tôi với Matthew, nó được gấp kẹp bên trong cuốn hộ chiếu U.S thông thường kia. Làm thế nào Marcus xoay sở được một tấm ảnh y hệt mà không làm tổn hại tấm ảnh gốc của tôi thì chẳng ai đoán ra nổi.

“Bây giờ anh cũng là điệp viên à?” Tôi lí nhí hỏi.

“không, nó giống như máy bay lên thẳng ấy,” anh cười đáp, “chỉ là một chỗ đáp cánh khác có quan hệ với người nhà de Clermont thôi mà.”

Tôi rời Syracuse với tư cách là Diana Bishop và bước vào châu Âu ngày hôm sau với tư cách là Diana de Clermont. Ngôi nhà của Matthew ở Amsterdam hóa ra là một dinh thự từ thế kỷ mười bảy trên phía bờ đẹp nhất của con kênh Herengracht. Matthew giải thích, anh đã mua nó ngay sau khi rời Scotland năm 1605.

Chúng tôi nấn ná ở đó chỉ đủ lâu để tắm táp và thay quần áo. Tôi vẫn mặc tiếp cái quần legging từ lúc ở Madison, còn đổi áo sơ mi của tôi thành áo sơ mi của Matthew. anh mặc bộ đồ màu xám đen vải cashmere và len như thói quen, mặc dù theo như báo chí thì giờ mới là cuối tháng Sáu thôi. thật kỳ quặc khi không nhìn thấy đôi chân của anh bởi tôi đã quen với việc chúng vẫn được khoe ra rồi.

“Có vẻ là một cuộc buôn bán công bằng đấy,” Matthew bình phẩm. “anh đã không được nhìn thấy chân em nhiều tháng nay rồi, ngoại trừ chỗ riêng tư trong phòng ngủ của chúng mình.”

Matthew gần như đau tim khi phát hiện ra chiếc Range Rover yêu quí của anh không đợi anh ở dưới gara ngầm. Thay vào đó, chúng tôi tìm thấy một chiếc ô tô thể thao mui mềm màu hải quân.

“anh sẽ giết tên nhóc này,” Matthew càu nhàu khi nhìn chiếc phương tiện thấp tè kia. anh dùng chìa khóa nhà để mở một hộp kim loại được đóng vào tường. Bên trong có một cái chìa khóa khác và mẩu giấy nhắn: “Chào mừng về nhà. không ai ngờ cha sẽ lái cái xe này. Nó an toàn và nhanh nữa. Chào Diana. M.”

“Cái gì đây?” Tôi nói, nhìn vào những đĩa số kiểu như bàn điều khiển trên máy bay, được đặt vào một cái bảng đồng hồ mạ vàng hào nhoáng.

“một chiếc Spyker Spyder. Marcus sưu tập ô tô đặt theo tên các loài chân đốt.” Matthew mở cửa khởi động xe, hai cánh cửa nâng lên giống cánh máy bay chiến đấu. anh chửi thề. “Nó là cái ô tô dễ đập vào mắt nhất, thật không tưởng tượng nổi.”

Chúng tôi chỉ dùng nó đi tới Bỉ trước khi Matthew tạt vào một đại lý bán xe hơi, trao tay chìa khóa xe của Marcus và chọn ra một chiếc xe lớn hơn, ít lố bịch hơn. An toàn trong chiếc xế hộp nặng nề, chúng tôi tiến vào Pháp và vài giờ sau bắt đầu chậm chạp leo ngược xuyên qua những ngọn núi của vùng Auvergne tới Sept-Tours.

Những hình ảnh loáng thoáng của tòa pháo đài ẩn hiện giữa các rặng cây – đá xám phớt hồng, một ô cửa sổ tháp tối đen. Tôi không dừng được việc so sánh tòa lâu đài này và thị trấn lân cận nó ở thời điểm hiện tại với dáng vẻ của nó khi tôi thấy lần cuối cùng vào năm 1590. Thời đại này không có khói mờ lững lờ treo trên Saint-Lucien như tấm vải liệm xám xịt. một tiếng chuông từ xa vẳng lại khiến tôi quay đầu nhìn, nghĩ tới con cháu của những con chiên mà tôi đã biết giờ đang về nhà dùng bữa tối. Pierre sẽ không ào ra với mấy bó đuốc trên tay để đón chúng tôi. Đầu Bếp cũng không ở trong phòng bếp chặt đầu gà lôi bằng một con dao pha, giống trò chơi chém giết, để chuẩn bị làm thức ăn nuôi cả loài máu nóng lẫn ma cà rồng.

Và không có Philippe nên cũng không có những tiếng cười, những quan sát tinh tường về sự yếu đuối của loài người được nâng tầm từ tư tưởng Euripides, hoặc những hiểu biết sâu sắc về các vấn đề mà chúng tôi sẽ đối mặt lúc này khi đã trở về hiện tại. Tôi phải mất bao lâu mới có thể ngăn lại sự giằng xé đau lòng khi nghĩ tới người cha chồng này. Cái thế giới hiện đại khắc nghiệt và sáng sủa, với nhịp độ nhanh đến chóng mặt này không có chỗ dành cho những người anh hùng như ông nữa.

“Em đang nghĩ đến cha anh,” Matthew thì thầm nói. Các nghi thức lặng lẽ: ma cà rồng lấy máu và nụ hôn của phù thủy đã làm mạnh thêm năng lực thấu hiểu các ý nghĩ của chúng tôi.

“anh cũng vậy mà.” Tôi nhận xét. anh vẫn nghĩ đến cha mình kể từ lúc chúng tôi băng qua biên giới tiến vào Pháp.

“Với anh, tòa lâu đài có cảm giác thật trống trải kể từ ngày ông chết. Nó là nơi nương náu để quay về, nhưng rất thiếu sự thoải mái.” Matthew nâng mắt nhìn lâu đài, rồi ổn định trở lại nhìn con đường phía trước. không khí nặng nề trầm xuống với trách nhiệm và nhu cầu của một đứa con trai muốn làm sống dậy những hồi tưởng về cha mình.

“Có lẽ lần này sẽ khác. Dì Sarah và cô Em ở đó. Marcus cũng vậy. Chưa kể tới Sophie và Nathaniel. Và Philippe vẫn ở nơi đây, chỉ cần chúng ta học được cách chú ý tới sự hiện diện thay vì sự vắng mặt của ông.” Ông sẽ ở đó, trong bóng tối của mỗi căn phòng, trên mỗi tảng đá xây tường lâu đài. Tôi ngắm nghía gương mặt đẹp đẽ và khắc khổ của chồng mình, càng hiểu rõ hơn việc gương mặt ấy đã phải trải qua đau đớn tới mức nào để tạo nên hình dáng ngày nay. một bàn tay tôi khum lại che chở bụng mình, tay kia tìm kiếm anh để truyền đi một chút an ủi mà anh đang rất cần lúc này.

Ngón tay anh siết lấy tay tôi thật chặt. Rồi Matthew thả tôi ra, và chúng tôi không nói chuyện trong một lúc. Tuy nhiên, các ngón tay tôi lại nôn nóng gõ liên hồi lên bắp đùi trong im lặng. Vài lần, tôi cảm thấy bị thúc giục muốn mở tung nóc xe và bay tới cửa trước của lâu đài.

“Em không dám đâu.” Nụ cười rộng ngoác tới mang tai của Matthew thật dịu dàng và trong giọng anh có chút cảnh cáo. Tôi cười đáp lại khi anh nhả số vòng xuống một khúc cua gấp.

“Thế thì nhanh lên,” tôi nói và cố kiểm soát bản thân. Bất chấp những lời khẩn nài của tôi, đồng hồ công tơ mét vẫn đứng nguyên một chỗ. Tôi rên rỉ kêu ca nôn nóng. “Đáng lẽ chúng ta nên kẹt cứng với cái xe của Marcus thì hơn.”

“Kiên nhẫn nào, chúng ta gần tới nơi rồi mà.” Và chẳng có cơ hội cho anh đi nhanh hơn, Matthew nghĩ trong khi anh nhả số lần nữa.

“Sophie đã nói gì về chuyện Nathaniel lái xe khi cô ấy mang thai nhỉ? ‘anh ấy lái xe như một lão phu nhân.’”

“Tưởng tượng xem, Nathaniel có thể lái xe như thế nào nếu anh chàng thực sự là một lão phu nhân – một lão phu nhân già hàng trăm tuổi, giống như anh đây này. Đó sẽ là cách anh sẽ lái xe trong những năm tháng còn lại của mình, chừng nào em có mặt ở trên xe.” anh lại với sang nắm lấy tay tôi, đưa lên môi hôn.

“Để cả hai tay lên vô lăng đi, lão phu nhân,” tôi trêu chọc khi chúng tôi vòng qua khúc quanh cuối cùng đi vào con đường thẳng tắp trải ra trước mặt, rừng cây óc chó nằm chắn giữa chúng tôi với sân trong của lâu đài.

Nhanh lên, tôi nài nỉ anh trong im lặng. Mắt tôi dán chặt vào mái tòa tháp của Matthew khi nó xuất hiện trong tầm nhìn. Khi chiếc xe chậm lại, tôi nhìn anh bối rối.

“Họ đang mong ngóng chúng ta kìa,” anh giải thích, nghiêng đầu về phía kính chắn gió.

Sophie, Ysabeau và Sarah đang đợi ở giữa con đường, lặng im không nhúc nhích.

yêu tinh, ma cà rồng, phù thủy – và còn một người nữa. Ysabeau bế một đứa bé trên tay. Tôi có thể trông thấy mái tóc dày rậm màu nâu đậm và cặp chân dài mũm mĩm của bé. một bàn tay bé đang nắm chặt sợi dây đeo khóa của nữ ma cà rồng, trong khi bàn tay kia xòe ra hướng về phía chúng tôi. một cảm giác râm ran ngứa ngáy nhỏ xíu không thể nhầm lẫn được khi đôi mắt đứa bé chú mục nhìn tôi. Con của Sophie và Nathaniel là một phù thủy, đúng như cô ấy đã tiên đoán.

Tôi tháo dây an toàn, mở tung cánh cửa xe và chạy xuống đường trước khi Matthew kịp cho xe dừng hẳn lại. Nước mắt chảy dài trên má tôi. Dì Sarah chạy tới ôm lấy tôi trong vòng tay quen thuộc của lông cừu và vải fanel, bao quanh tôi bằng mùi hương cây kỳ nham và vani ngọt ngào.

Nhà, tôi thầm nghĩ.

“Dì rất mừng là các con đã trở về an toàn,” dì xúc động nói.

Qua vai dì Sarah, tôi thấy Sophie dịu dàng đón đứa bé từ tay Ysabeau. Gương mặt mẹ Matthew vừa không thể dò thấu lại vừa thân thương hơn bao giờ hết, nhưng khóe miệng mím chặt của bà lại để lộ những xúc cảm mãnh liệt khi bà buông đứa bé ra. Vẻ cứng rắn đó cũng là một trong những dấu hiệu nhận biết của Matthew. thật ra, chúng còn giống nhau hơn cả máu thịt mà Matthew được tạo ra.

Kéo mình ra khỏi vòng ôm của Sarah, tôi quay sang Ysabeau.

“Ta đã không dám chắc các con sẽ trở về. Các con đi lâu quá. Rồi Margaret bắt đầu đòi chúng ta đưa con bé ra đường, và có lẽ khi đó ta bắt đầu tin rằng các con có thể trở về với chúng ta một cách an toàn.” Ysabeau ngắm nghía gương mặt tôi để tìm kiếm thông tin nào đó mà tôi chưa trao cho bà.

“Giờ chúng con đã về rồi và sẽ ở lại đây.” đã có đủ những mất mát trong cuộc đời dài đằng đẵng của bà rồi. Tôi hôn nhẹ lên má bà, rồi đến má bên kia.

“Bien,” bà thì thầm với vẻ nhẹ nhõm. “Tất cả chúng ta đều thật vui mừng vì có các con ở đây – không chỉ Margaret.” Đứa bé nghe thấy tên nó bắt đầu kêu ê ê a a. “D-d-d-d” trong khi tay chân khua khoắng loạn lên, cố tới gần tôi. “cô nàng thông minh,” Ysabeau yêu thương nói, tặng cho Margaret và rồi cả Sophie một cái vỗ nhẹ lên đầu.

“cô có muốn bế con gái đỡ đầu không?” Sophie hỏi. Nụ cười tươi hết cỡ mặc dù nước mắt rưng rưng trông rất giống Susanna.

“Muốn lắm chứ,” tôi nói, đón lấy đứa bé vào vòng tay mình trong khi trao một nụ hôn lên má Sophie.

“Xin chào Margaret,” tôi thì thầm, hít vào mùi thơm của cô bé.

“D-d-d-d.” Margaret tóm lấy tóc tôi và bắt đầu vung vẩy nắm tay nhỏ bé.

“Con là một cô nhóc chuyên gây rối,” tôi cười nói. Con bé dụi bàn chân vào sườn tôi và cằn nhằn phản đối.

“Con bé bướng bỉnh y như cha nó, mặc dù bé là một Song Ngư,” Sophie bình thản nói. “Sarah đã thay cô trong lễ rửa tội. Agatha đã ở đây nhưng giờ bà đã đi rồi, nhưng tôi nghĩ là bà sẽ quay lại đây sớm thôi. Agatha và Marthe đã làm một chiếc bánh đặc biệt phủ đầy đường. thật ngạc nhiên. Và chiếc váy của Margaret thật đẹp. Giọng cô nghe thật lạ - như thể cô đã dành một thời gian dài sống ở nước ngoài ấy. Và tôi thích tóc của cô lắm, nó cũng thật khác lạ. cô có đói không?” Những lời lẽ của Sophie cứ tuôn ra khỏi miệng, lộn xộn, vô tổ chức y như Tom và Jack. Tôi cảm nhận rõ việc mất đi những người bạn ấy ngay cả đang ở đây giữa gia đình mình.

Sau khi hôn lên trán Margaret, tôi giao cô bé lại cho mẹ. Matthew vẫn đứng sau cánh cửa mở của chiếc Range Rover, một chân ở trong xe còn chân kia đặt trên mặt đất xứ Auvergne, như thể anh không chắc, liệu chúng tôi có nên ở đó không.

“cô Em đâu rồi?” Tôi hỏi. Dì Sarah và Ysabeau trao đổi một ánh mắt.

“Mọi người đang đợi các con trong lâu đài. Tại sao chúng ta không đi bộ về nhỉ?” Ysabeau gợi ý. “Cứ việc bỏ xe đấy, sẽ có người mang nó về. Các con chắc hẳn muốn rảo chân cho thư giãn một chút.”

Tôi choàng cánh tay quanh dì Sarah và bước đi vài bước. Matthew đâu rồi? Tôi quay lại chìa bàn tay kia ra. Đến với gia đình anh đi, tôi thầm nói khi ánh mắt chúng tôi kết nối với nhau. Hãy đến cùng những người yêu thương anh.

anh cười, và trái tim tôi thót lên đáp lại.

Ysabeau rít lên kinh ngạc, một tiếng huýt gió trong không khí mùa hè không lớn hơn một tiếng thì thầm. “Nhịp tim đập. Của con. Và… có thêm hai cái nữa?” Đôi mắt màu xanh lá xinh đẹp của bà liếc tới bụng tôi và một giọt chất lỏng màu đỏ nhỏ xíu rưng rưng nơi khóe mắt. Ysabeau nhìn sang Matthew vẻ thắc mắc. anh gật đầu, và giọt huyết lệ của mẹ anh trào ra chảy tràn xuống bờ má.

“một cặp sinh đôi đã đến với gia đình con,” tôi nói như một cách giải thích. Matthew đã phát hiện ra tiếng tim đập thứ hai ở Amsterdam, ngay trước khi chúng tôi trèo vào chiếc xe gián điệp của Marcus.

“Cả gia đình của ta nữa,” Ysabeau thì thầm. “Vậy nó là sự thật, Sophie đã thấy điều gì trong những giấc mơ của cô ấy nhỉ? Con cùng với đứa bé – đứa bé của Matthew ư?”

“Những đứa trẻ,” tôi nói, ngắm nhìn giọt huyết lệ đang chầm chậm lăn dài.

“Vậy đây chính là một khởi đầu mới,” dì Sarah nói, quệt nước mắt của mình. Ysabeau trao cho dì tôi một nụ cười chua xót.

“Philippe vẫn thích nói về những khởi đầu. Thứ gì đó cổ xưa. Nó là gì nhỉ, Matthew?” Ysabeau hỏi con trai.

Cuối cùng, Matthew cũng bước hẳn ra khỏi xe, như có câu thần chú nào đấy đang giữ anh lại và các điều kiện để phá bỏ nó rốt cuộc cũng hội đủ. anh sải vài bước tới bên tôi, rồi hôn nhẹ lên má mẹ anh trước khi đưa tay ra nắm lấy tay tôi.

“‘Omni i ne initium novum,’” Matthew nói, mắt say sưa nhìn mảnh đất của cha anh như thể cuối cùng anh đã trở về nhà.

“Mọi khởi đầu đều bắt nguồn từ sự kết thúc.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 42


Ngày 30 tháng Năm năm 1593

Annie mang bức tượng nhỏ của Diana cho Cha Hubbard, đúng như ông Marlowe đã bắt cô bé hứa phải làm thế. Tim cô bé siết lại khi nhìn nó nằm trong lòng bàn tay wearh. Bức tượng nhỏ xíu nhắc cô bé nhớ tới Diana Roydon. Thậm chí cho tới bây giờ, sau gần hai năm bà chủ của cô đột ngột ra đi, Annie vẫn nhớ bà lắm.

“Ông ấy không nói gì khác ư?” Hubbard hỏi, xoay xoay bức tượng trong tay. Mũi tên của người nữ thợ săn bắt ánh sáng phản chiếu lấp lánh trông như sắp sửa bay tới.

“không có gì, thưa Cha. Sáng nay, trước khi khởi hành đi Deptford, ông ấy đã lệnh cho con mang thứ này tới cho ngài. Ông Marlowe nói ngài sẽ biết phải làm gì.”

Hubbard phát hiện một mảnh giấy nhét trong ống đựng tên mỏng mảnh, được cuộn lại và kẹp dọc theo các mũi tên để sẵn trong ống tên của nữ thần. “Cho ta mượn cái ghim cài của con đi Annie.”

Annie tháo một chiếc kẹp ghim ở trên thân áo và đưa cho ông ta kèm theo một cái nhìn kỳ quái. Hubbard chọc đầu nhọn để khều tờ giấy. thật cẩn thận, ông ta lấy mảnh giấy ra.

Hubbard đọc dòng tin, cau mày và lắc đầu. “Christopher tội nghiệp. Ông ta chưa bao giờ là đứa con lạc lối của Chúa.”

“Ông Marlowe sẽ không quay lại ư?” Annie thở phào nhẹ nhõm. cô bé chưa bao giờ thích kịch tác gia này, và không thể khôi phục lại lòng quý trọng của cô bé dành cho ông ta từ sau sự kiện kinh khủng ở trường đấu thương Cung Điện Greenwich.

Kể từ khi ông bà chủ rời đi mà chẳng để lại manh mối về nơi họ sẽ đến, Marlowe đi từ sầu muộn tới tuyệt vọng rồi lạc vào tăm tối. Annie dám chắc rằng sự tăm tối ấy sẽ có ngày nuốt chửng ông ta hoàn toàn. cô bé cũng muốn chắc chắn nó sẽ không tóm được cô.

“không, Annie ạ. Chúa nói với ta, ông Marlowe đã rời khỏi thế giới này và tới thế giới bên kia. Ta cầu nguyện để ông ấy tìm được sự bình yên, vì ông ấy đã bị từ chối ban cho điều đó trong cuộc sống này.” Hubbard ngắm nghía cô gái nhỏ một lúc. cô bé đã trở thành một người phụ nữ trẻ cuốn hút rồi và có lẽ sẽ cứu được Will Shakespeare thoát khỏi mối tình với người phụ nữ đã có chồng kia. “Nhưng con không phải lo lắng đâu. Bà Roydon đã bảo ta đối xử với con như con của ta. Ta chăm sóc cho các con của mình và con sẽ có một ông chủ mới.”

“Là ai, thưa Cha?” cô sẽ phải chấp nhận bất cứ địa vị nào Hubbard ban cho mình. Bà Roydon từng nói rõ số tiền cô cần phải có để làm một thợ may độc lập ở Islington. sẽ mất thời gian và cần kiệm rất nhiều để gom đủ số tiền đó.

“Ông Shakespeare. Giờ con đã biết đọc, biết viết và là một người phụ nữ đáng giá, Annie. Con có thể giúp đỡ công việc của ông ấy.” Hubbard cân nhắc tờ giấy trong tay. Ông ta định giữ nó cùng với gói hàng đến từ Praha, được gửi qua mạng lưới của người đưa thư và thương nhân do các ma cà rồng Hà Lan lập nên. Hubbard vẫn không chắc tại sao Edward Kelley lại gửi cho mình bức tranh lạ lùng về những con rồng. Edward là một sinh vật khác người đen tối và láu cá. Hubbard không bằng lòng với tư cách đạo đức của hắn khi hắn chẳng thấy việc công khai ngoại tình và trộm cắp có gì sai trái. Nghi lễ lấy máu gia nhập vào gia đình ngày ấy của hắn không phải là việc vui vẻ như bình thường. Trong lúc trao đổi, Hubbard đã thấy rõ linh hồn Kelley để biết rằng ông ta không muốn hắn ở London. Vì thế, ông ta đã gửi Kelley tới Mortlake - chấm dứt sự quấy nhiễu triền miên của Dee muốn có được các bài học về phép thuật.

Nhưng Marlowe đã ám chỉ bức tượng này đến Annie nên Hubbard sẽ không thay đổi ý nguyện của người đàn ông đang chết mòn này. Ông ta đưa bức tượng nhỏ và mảnh giấy cho Annie. “Con phải đưa thứ này cho dì của con, bà Norman. Bà ấy sẽ giữ nó an toàn cho con. Tờ giấy này có thể là một vật kỷ niệm khác của ông Marlowe đấy.”

“Vâng, thưa Cha Hubbard,” Annie nói, mặc dù cô bé rất muốn bán món đồ bằng bạc này và cất món tiền ấy vào quỹ dành dụm của mình.

Annie rời khỏi nhà thờ, nơi Andrew Hubbard thống trị, lê bước qua các con đường tới nhà Will Shakespeare. Ông ta không lanh lợi bằng Marlowe, nhưng bà Roydon thường nói về ông ta với vẻ kính trọng, dù cho bạn bè của ông chủ sẽ nhanh chóng chế nhạo Will.

cô bé nhanh chóng ổn định cuộc sống trong nhà của người diễn viên kịch này và tinh thần được nâng lên từng ngày. Khi tin tức về cái chết kinh hoàng của Marlowe đến với họ, nó càng khẳng định thêm cô đã may mắn nhường nào khi thoát khỏi ông ta. Ông Shakespeare cũng bị choáng váng và uống rượu suốt một đêm, việc đó khiến ông ta trở thành tâm điểm của cuộc chè chén. Mặc dù Shakespeare đã tự giải thích thỏa đáng chuyện đó và giờ tất cả đã trở lại bình thường.

Annie đang lau bụi trên kính cửa sổ để có thêm ánh sáng cho ông chủ của cô đọc sách. cô dìm miếng vải vào nước sạch và một mảnh giấy quăn queo rơi ra khỏi túi cô, nó bị một cơn gió nhẹ thổi vào từ cánh cửa sổ để mở cuốn đi.

“Cái gì thế, Annie?” Shakespeare nghi ngờ hỏi, dùng quản bút lông chỉ chỉ vào nó. cô gái này đã làm việc cho Kit Marlowe và có thể đang truyền tin cho các đối thủ khác. Ông ta không thể để bất cứ ai biết về điều kiện trao đổi mới nhất của mình dành cho với nhà bảo trợ. Cùng với việc tất cả các rạp hát đóng cửa vì ảnh hưởng của dịch bệnh, thời buổi này, giữ được thân xác và linh hồn ở cùng một chỗ đúng là một thử thách. Venus và Adonis có thể làm được điều đó – miễn là không có kẻ nào ăn cắp ý tưởng của ông ta.

“không có gì, ô-ô-ông Shakespeare,” Annie lắp bắp, lúi húi tìm lại tờ giấy.

“Mang nó lại đây, nếu nó không có gì cả,” ông ta ra lệnh.

Ngay khi có nó trên tay, Shakespeare đã nhận ra văn phong rất riêng của nó. Tóc gáy ông ta muốn dựng ngược lên. Đây là thông điệp từ một người đã chết.

“Marlowe đưa thứ này cho cô khi nào?” Giọng Shakespeare lạnh lùng.

“Ông ấy không đưa tôi, ông Shakespeare.” Như mọi lần, Annie không thể nói dối được. cô bé có những đặc điểm của phù thủy, nhưng Annie sở hữu tính thật thà không thể nghi ngờ. “Nó đã bị giấu đi. Cha Hubbard đã tìm thấy và đưa nó cho tôi. Như một vật kỷ niệm, ông ấy nói thế.”

“cô tìm thấy thứ này sau khi Marlowe chết à?” sự hứng thú ập tới dập tắt cái cảm giác rờn rợn như kiến bò sau gáy của Shakespeare.

“Vâng,” Annie thì thầm đáp.

“Vậy, ta sẽ giữ nó hộ cô. Để cho an toàn.”

“Tất nhiên ạ.” Đôi mắt Annie chớp chớp lo lắng khi nhìn những dòng chữ cuối cùng của Christopher Marlowe biến mất dưới bàn tay nắm chặt của ông chủ mới.

“Làm việc của cô đi, Annie.” Shakespeare đợi cho tới lúc cô hầu gái đi khỏi để lấy thêm giẻ lau và nước. Khi đó ông ta mới đọc kỹ các dòng chữ kia:

Đen tượng trưng cho tình yêu chân thành đã mất.

Sắc màu của yêu tinh,

Và màu của Bóng Đêm.

Shakespeare thở dài. Lựa chọn so sánh của Kit chưa bao giờ có ý nghĩa đối với ông ta, còn khiếu hài hước rầu rĩ và những đam mê bệnh hoạn thì quá đen tối đối với thời đại này. Chúng khiến khán giả khó chịu mà cũng đã có đủ chuyện chết chóc ở London này rồi. Ông ta xoay xoay cây bút lông ngỗng.

Tình yêu chân thành đã mất. Quả thế thật. Shakespeare khịt mũi. Ông ta đã có khá đủ tình yêu chân thành kiểu đó rồi, mặc dù những khách hàng trả tiền dường như chưa bao giờ chán nó. Ông ta gạch bỏ đi những câu chữ này và thay thế nó bằng một âm tiết duy nhất miêu tả chính xác những gì ông ta cảm thấy.

yêu tinh. sự thành công của tác phẩm Faustus của Kit vẫn giày vò ông ta. Shakespeare không có tài viết về những sinh vật kỳ lạ và phi thường của tự nhiên. Ông ta viết về những chuyện đời thường giỏi hơn và viết về những kẻ đạo đức giả bị vướng vào cái bẫy của số phận. Đôi khi ông ta nghĩ có thể bóng ma câu chuyện đã nhập vào ông như hồn ma một người cha sai trái ám lấy đứa con trai của mình. Shakespeare rùng mình. Cha của chính ông ta sẽ là một hồn ma kinh khủng, hẳn là Chúa Trời đã mệt mỏi với sự bầu bạn của ông ta sau khi các báo cáo kế toán cuối cùng của John Shakespeare được giải quyết. Người cha đó đã lao ra khỏi cái thế giới đầy xúc phạm này và lựa chọn một thế giới khác.

Bóng Đêm. Nó là một cái kết khập khiễng có thể dự đoán được cho khổ thơ này – kiểu mà George Chapman sẽ bổ nhào vào tìm hiểu xem nó còn thiếu gì hơn là quan tâm tới nguồn gốc của nó. Nhưng điều gì sẽ đáp ứng mục đích đó tốt hơn cả? Ông ta xóa đi một từ khác và viết từ “cáu kỉnh” phía trên nó. sự cáu kỉnh của đêm. Cái đó cũng không đúng lắm. Ông ta lại gạch nó đi và viết từ “ống tay áo.” Cái đó cũng tệ không kém.

Shakespeare vẩn vơ băn khoăn về số phận của Marlowe và bạn bè của ông ta, tất cả bọn họ giờ đều mờ mịt như những cái bóng. Henry Percy đang hưởng thụ hoàng ân hiếm có và điều này vĩnh viễn là như thế trong vương triều. Raleigh đã kết hôn bí mật và bị thất sủng trước mặt nữ hoàng, bị đuổi về Dorset, nơi nữ hoàng hy vọng ông ta sẽ bị lãng quên. Harriot thì ẩn dật ở nơi nào đó, không nghi ngờ gì là đang chúi đầu vào một câu đố toán học hoặc đắm đuối ngắm bầu trời giống tên hâm Robin Goodfellow. Có tin đồn nói rằng Chapman đang thực thi một nhiệm vụ nào đó cho Cecil ở vùng Hạ Quốc và chắp bút viết nên những bài thơ dài về phù thủy. Còn Marlowe mới bị giết gần đây ở Deptford, mặc dù có người nói đó là một vụ ám sát. Có lẽ Welshman lạ lùng sẽ biết rõ về chuyện này vì ông ta đã ở trong quán rượu với Marlowe. Roydon – người đàn ông duy nhất có quyền uy thật sự mà Shakespeare từng gặp – cùng người vợ bí ẩn của ông ta, đã hoàn toàn biến mất vào mùa hè năm 1591 và không ai nhìn thấy họ kể từ đó.

Kẻ duy nhất trong nhóm của Marlowe mà Shakespeare vẫn còn nghe nói đến thường xuyên là một gã Scot to con tên Gallowglass. hắn có dáng vẻ ông hoàng mà một tên hầu không nên có và thích nghe kể những câu chuyện tuyệt vời về thần tiên và các tinh linh. thật phải cảm ơn việc Gallowglass thuê mướn đều đặn giúp Shakespeare có được mái nhà trên đầu. Gallowglass dường như thường có việc cần đến những câu chuyện của Shakespeare. hắn trả hậu hĩnh – đặc biệt khi muốn Shakespeare bắt chước chữ viết tay của Roydon bên rìa một cuốn sách nào đó, hay một lá thư tay ký tên ông ta.

Đúng là ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, Shakespeare nghĩ thầm. Kẻ phản bội, lũ vô thần, bọn tội phạm, cả đám bọn chúng. Ngòi bút của ông ta do dự trên trang giấy. Sau khi viết một từ khác, lần này, chữ viết có vẻ quả quyết và đậm nét, Shakespeare ngồi ngả ra sau, ngắm nhìn đoạn thơ mới của mình.

Đen là dấu hiệu của địa ngục

Sắc màu của ngục tù và bè lũ bóng đêm.

không còn nhận ra được tác phẩm của Marlowe nữa. Thông qua tài năng tráo mận đổi đào, Shakespeare đã biến những ý tưởng của một người đã chết thành thứ phù hợp với người London bình thường hơn là những người nguy hiểm như Roydon. Mà ông ta chỉ mất có một chốc lát thôi.

Shakespeare không mảy may cảm thấy một tia day dứt, hối hận khi thay đổi quá khứ, thông qua đó cũng thay đổi cả tương lai. Bước tiến của Marlowe trên sân khấu thế giới đã kết thúc, nhưng của Shakespeare thì giờ mới bắt đầu. Hoài niệm thật ngắn ngủi và lịch sử thì nghiệt ngã. Đó chính là sự vận động trong thế giới này.

Lòng vui sướng, Shakespeare đặt mẩu giấy vào một chồng những mảnh giấy tương tự, được chặn bằng hộp sọ của một con chó để ở góc bàn làm việc. Rồi có ngày, ông ta sẽ tìm được cách sử dụng đoạn thơ này. Sau đó ông ta lại có ý tưởng khác.

Có lẽ ông ta quá vội vàng loại bỏ dòng “tình yêu chân thành đã mất.” không dễ nhận ra sự tiềm ẩn ở đó nhưng nó vẫn đợi người khai mở. Shakespeare với đến mảnh giấy ông ta cắt từ một trang báo trong nỗ lực nhằm tiết kiệm tiền bạc nửa vời, sau khi Annie cho ông ta thấy hóa đơn mới nhất của chủ cửa hàng thịt.

“Phí công đeo đuổi tình yêu,” ông ta viết một hàng chữ thật lớn.

Đúng thế, Shakespeare ngâm nga đọc, ông ta nhất định sẽ dùng đến nó một ngày nào đấy.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom