Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 120


Chiếc trực thăng Kiowa đang lượn trước mũi con tàu Goya, Delta-Một đang cúi gập người xuống để nhìn, mắt anh đang chứng kiến một tình thế không thể tưởng tượng nổi.

Michael Tolland đang đứng trên boong tàu, cạnh chiếc tàu lặn cỡ nhỏ. Delta-Hai đang bị treo lủng lẳng trên hai cánh tay máy của chiếc tàu lặn - như thế vừa bị một chú côn trùng khổng lồ bắt làm tù binh - và đang bất lực giãy giữa trong hai cánh tay thép khổng lồ.

Lạy Chúa lòng lành! Cái gì thế không biết?

Rachel Sexton cũng vừa chạy lên boong, đang đứng ngay cạnh một người bị trới giật cánh khuỷu ngay bên chiếc tàu lặn. Chắc chắn đấy là Delta-Ba. Như thế muốn thách thức họ, Rachel đang chĩa súng máy lên trời, loại súng máy đặc biệt chỉ đội Delta mới được trang bị.

Delta-Một thực sự choáng váng, anh không thể hiểu nổi làm sao mà lại thảm hại đến thế. Sai sót của đội Delta trên phiến băng Milne quả là hi hữu, nhưng còn có thể lý giải được. Nhưng sự kiện này thì quả là không tưởng…

Chỉ nguyên thế thôi cũng đã sượng mặt lắm rồi, thế mà đêm nay trên máy bay của Delta-Một còn có một nhân vật vô cùng quang trọng. Sự hiện diện của ông trong một điệp vụ kiểu này gần như là ngoại lệ, nỗi nhục này quả là không lời nào tả xiết.

Đó chính là chỉ huy.

Sau phi vụ ám sát tại chân đài tưởng niệm FDR, chỉ huy yêu cầu anh cho máy bay đáp xuống công viên vắng vẻ gần Nhà Trắng.

Delta-Một được lệnh tiếp đất tại gò nhỏ khuất trong lùm cây. Chỉ huy đã đợi trước ở chỗ tối, và lập tức sải bước lên máy bay. Chỉ sau vài giây, chiếc máy bay lại tiếp tục lao đi làm nhiệm vụ.

Dù rất hiếm khi chỉ huy trực tiếp có mặt trong khi đội của anh thi hành nhiệm vụ, Delta-Một không thể phản đối. Do quá thất vọng sau những gì đội Delta đã làm trên phiến băng Milne, và sợ rằng những sơ suất tương tự có thể dẫn tới những nghi ngờ không cần thiết chỉ huy đã tức thời quyết định là sẽ trực tiếp đôn đốc họ.

Giờ đây, chỉ huy đang tận mắt chứng kiến một thất bại ê chề vô tiền khoáng hậu trong lịch sử đội Delta.

Phải kết thúc chuyện này. Ngay lập tức.

Từ trên chiếc trực thăng Kiowa, chỉ huy nhìn xuống boong tàu Goya và cũng không thể hiểu nổi. Mọi thứ đều không theo đúng kế hoạch - những nghi ngờ về tảng thiên thạch, cuộc hành quyết bất thành của đội Delta trên phiến băng Milne, rồi vụ ám sát bất đắc dĩ tại đài tưởng rùệm FDR.

- Thưa chỉ huy, - mắt vẫn đang nhìn xuống con tàu, Delta-Một lắp bắp, giọng bẽ bàng - tôi không thể tưởng tượng nổi..

Cả tôi cũng thế đây, chỉ huy nghĩ thầm. Rõ ràng là họ đã đánh giá quá thấp đối thủ của mình.

Chỉ huy cúi xuống nhìn Rachel Sexton. Tay cầm máy điện đàm, cô gái đang nhìn thẳng vào tấm kính phản quang ở cửa sổ máy bay. Khi những lời nói của cô vang lên từ giàn thiết bị âm thanh trên máy bay Kiowa, chỉ huy tưởng rằng cô sẽ yêu cầu tắt hệ thống gây nhiễu để Tolland gọi người đến cứu. Nhưng không, những gì cô nói đáng sợ hơn thế.

- Các người đến muộn mất rồi. - Rachel khẳng định. - Ngoài chúng tôi ra, một người khác đã biết chuyện này.

Những từ ngữ ấy như lấp đầy khoang máy bay mất một lúc.

Khả năng tuyên bố đó là thật đã khiến chỉ huy lưỡng lự, dù thoạt đau nó có vẻ chẳng ăn nhập gì với tình huống của họ. Muốn đảm bảo thành công cho kế hoạch, họ cần phải tiêu diệt hết những ai biết sự thật; và sau khi đã giết chừng ấy mạng người, chỉ huy cần phải đảm bảo một cách chắc chắn là những hành động của họ không uổng phí.

Thêm một người nữa biết…

Rachel Sexton vốn là người nghiêm ngặt tuân thủ những quy định bảo mật thông tin, nên chỉ huy không tin là cô đã chia sẻ những thông tin thu lượm được với bất kỳ ai không liên quan trực tiếp đến vụ này.

Những lời nói của Rachel lại lần nữa vang lên trong máy bộ đàm:

- Lùi lại thì tôi sẽ bảo đảm mạng sống cho người của các anh. Cố tình tiếp cận thêm nữa thì họ sẽ chết. Dù thế nào thì sự thật cũng sẽ bị phơi bày. Đừng giết người nữa. Lùi lại đi.

- Cô nói dối. - Biết rằng máy tính sẽ làm biến đối chất giọng thật của mình, chỉ huy cất tiếng. - Cô chưa kịp báo với ai hết.

- Anh thật sự tin là thế sao? - Rachel đáp ngay. - Vì không thể liên lạc được với William Pickering nên tôi đã báo tin cho một người khác để phòng trường hợp bất trắc.

Chỉ huy nhíu mày. Quả là đáng gờm.

- Bọn chúng không tin thì phải. - Rachel nói với Tolland.

Anh chàng đang bị cánh tay máy treo lơ lửng cười khẩy trong đau đớn.

- Khẩu súng đó hết đạn rồi, và chiếc phi cơ này sẽ cho cả hai người xuống địa ngục ngay lập tức cho mà xem. Các người chẳng thể sống nổi đâu. Tốt nhất là thả bọn ta ra.

"Chết tiệt," Rachel thầm nghĩ, băn khoăn không biết nên làm gì tiếp, rồi cô quay sang anh chàng đang bị trói giật cánh khuỷu và nhét giẻ vào mồm đang nằm trên boong. Mất nhiều máu, trông anh ta có vẻ đã rất yếu. Rachel cúi xuống, nhìn vào đôi mắt dữ dằn của người lính đó.

- Tôi sẽ lấy cái giẻ trong mồm anh ra. Anh hãy nói vào máy bộ đảm bảo họ cho máy bay lùi lại. Hiểu chưa?

Anh ta gật đầu vẻ khuất phục.

Nhưng miếng giẻ vừa được lấy ra thì anh ta đã lập tức phun đầy mặt Rachel những máu hoà lẫn với nước dãi trong miệng.

- Đồ chó! - Anh ta hổn hen nói. - Không đời nào tao làm thế. Họ sẽ giết chết mày như giết súc vật, và tao sẽ thưởng thức cảnh đó.

Rachel chùi máu và nước dãi trên mặt, Tolland kéo cô lại phía sau, giúp cô đứng vững, rồi cầm lấy khẩu súng máy trên tay cô.

Hình như ông đã quyết. Tolland bước đến bên bàn điều khiển gần đó, tay cầm cần gạt, mắt không rời gã đội viên Delta đang nằm trên boong.

- Mày tự đếm đến hai đi, - Ông nói - Rồi trắng mắt ra mà nhìn.

Tolland gạt cần, vẻ mặt giận dữ và sắt đá. Một cánh cửa giật lớn ở boong bên dưới mở toang. Anh chàng đội viên Delta hú lên đầy kinh hãi, rồi biến mất. Ngã nhào xuống lỗ cửa rộng đó, rồi rơi tõm xuống mặt nước cách đó mười mét. Nước toé lên đỏ lòm, anh ta bị lũ cá mập xé xác ngay tắp lự.

Giận run lên, chỉ huy nhìn xuống dòng hải lưu chảy xiết. Nước biển ngầu lên màu máu. Mấy con cá mập đang tranh nhau rỉa một cánh tay của Delta-Ba.

Lạy Chúa tôi.

Chỉ huy nhìn lên boong tàu. Delta-Hai vẫn bị treo lủng lẳng trên cánh tay máy, và lúc này con tàu ngầm mini Triton đang lơ lửng ngay trên cánh cửa giật đã mở sẵn. Delta-Hai đang chới với.

Tolland chỉ cần gạt cần một lần nữa là anh ta sẽ hết đời.

- Được rồi. - Ông nói vào máy bộ đàm. - Dừng lại, dừng lại đã!

Từ mặt boong, Rachel ngước nhìn lên. Dù đang ở tít trên cao, chỉ huy vẫn cảm nhận được lòng quyết tâm đang ngời lên trong mắt cô gái. Rachel đưa máy bộ đàm lên sát miệng.

- Các người vẫn chưa tin à? - Cô nói. - Hãy gọi đến tổng đài của NRO, xin số của Jim Samiljan ở Ban Quan hệ công chúng. Tối nay anh ấy trực, và tôi đã cho anh ấy biết toàn bộ sự thật về tảng thiên thạch. Anh ấy sẽ xác thực điều đó.

Lại còn tên tuổi đàng hoàng nữa cơ à? Có vẻ không thật lắm.

Rachel Sexton không phải là người khờ khạo, nhưng chỉ cần vài giây là chỉ huy sẽ biết ngay sự thật. Dù chỉ huy nghĩ rằng không có ai tên là Jim Samiljan làm việc cho NRO, nhưng tổ chức này quá lớn. Biết đâu Rachel nói thật. Trước khi xuống tay, chỉ huy cần phải biết rõ sự thật.

Delta-Một quay sang chỉ huy.

- Chúng ta tắt thiết bị gây nhiễu sóng để chỉ huy gọi về kiểm tra nhé?

Chỉ huy cúi nhìn xuống tàu, cả Rachel lẫn Tolland đều đang ở trên boong. Nếu họ sử dụng điện thoại di động hoặc máy phát vô tuyến thì Delta-Một sẽ lập tức kích hoạt bộ phận gây nhiễu sóng.

Không thể có rủi ro.

- Tắt sóng nhiễu đi. - Chỉ huy nói, thò tay vào túi lấy điện thoại di động. - Tôi muốn biết chắc chắn rằng Rachel nói dối. Sau đó chúng ta sẽ tìm cách cửu Delta-Hai và kết thúc điệp vụ này.

Tại Fairfax, nhân viên tổng đài ở Sở chỉ huy của NRO tỏ ra cáu kỉnh.

- Tôi đã bảo anh rồi, tôi không tìm thấy cái tên Jim Samiljan nào cả.

Đầu dây bên kia vẫn cứ khăng khăng:

- Chị tìm tất cả những cách viết khác nhau chưa? Chị đã kiểm tra tất cả các ban chưa?

Dù đã kiểm tra hết lượt, cô nhân viên tổng đài vẫn rà lại lần nữa. Vài giây sau, câu trả lời:

- Không ban nào có ai tên là Jim Samiljan cả. Tôi đã kiểm tra tất cả các cách đánh vần khác nhau.

Thật kỳ quặc, đầu dây bên kia tỏ ra rất hài lòng.

- Có nghĩa là NRO không có nhân viên nào tên là Jim Samil…

Đột nhiên, có người kêu lên, đầu dây bên kia náo động. Người gọi đến chửi rủa ầm ĩ rồi bất thần ngắt cuộc gọi.

Trong khoang máy bay trực thăng Kiowa, Delta-Một giận dữ kêu lên, tay gạt vội cần điều khiển để kích hoạt hệ thống gây nhiễu sóng. Nhưng đã quá muộn. Giữa vô số nút bấm và đồng hô đo trên bàn điều khiển, máy đo NED cho thấy một cuộc gọi trên tần số SATCOM vừa được thực hiện từ tàu Goya. Bằng cách nào nhỉ?

Hai người kia vẫn đứng nguyên trên boong cơ mà? Cuộc gọi từ tàu Goya tự kết thúc một tích tắc trước khi Delta-Một kịp gạt cần điều khiển xuống.

Trong phòng thí nghiệm của tàu Goya, một tiếng bíp vang lên từ máy fax.

ĐÃ TÌM ĐƯỢC KÊNH LIÊN LẠC… FAX ĐÃ ĐƯỢC GỬI ĐI.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 121


Nếu không giết người thì sẽ bị người giết. Rachel nhận thấy trong bản thân mình một phẩm chất bao lâu nay vẫn tiềm ẩn: Bản năng sinh tồn - khả năng chịu đựng dẻo dai trong tình huống hiểm nghèo.

- Bản fax vừa gửi đi có nội dung gì thế? - Câu hỏi vang lên trong máy bộ đàm.

Như vậy là máy fax hoạt động đúng như dự kiến, Rachel thấy nhẹ cả người.

- Các người hãy đi khỏi đây! - Cô ra lệnh, mắt nhìn thẳng lên chiếc trực thăng đang lượn trên đầu. - Thế là hết. Bí mật của các người đã bị lộ tẩy. Rachel điểm qua tất cả những tài liệu được gửi đi. Gần chục trang tài liệu và hình ảnh. Những bằng chứng không thể chối cãi về tảng thiên thạch giả mạo. - Nếu hại chúng tôi thì các người sẽ càng gặp nhiều rắc rối hơn.

Im lặng hồi lâu:

- Cô gửi bản fax đó cho ai?

Rachel chẳng dại gì trả lởi câu hỏi đó. Cô và Tolland phải kéo dài thời gian một cách tối đa. Cả hai đang đứng ngay gần cửa sập trên boong tàu, tạo thành một đường thẳng với tàu lặn Triton. Nếu những kẻ trên máy bay bắn vào họ thì tên lính đang bị treo lủng lẳng trên cánh tay máy kia sẽ trở thành bia đỡ đạn.

William Pickering. Kẻ đó phỏng đoán, có vẻ đầy hi vọng.

- Cô đã gửi cho William Pickering.

Sai rồi. Rachel thầm nghĩ. Quả thật cô đã nghĩ ngay đến William Pickering, nhưng lại sợ những kẻ đang truy sát mình đã ra tay với ông trước - nếu đã làm thế thật thì chúng sẽ quyết giết cô bằng được. Trong lúc tuyệt vọng. Rachel đã gửi tài liệu đến số máy duy nhất mà cô thuộc.

Văn phòng của cha cô…

Sau khi mẹ cô qua đời, cha của Rachel đã liên tục dùng máy fax để giải quyết tất cả những vấn đề bất động sản có liên quan đến con gái thay vì trực tiếp tìm gặp Rachel, và số máy của ông đã tạo thành một vết hằn trong tâm trí của cô. Rachel đã tự nhủ lòng sẽ không bao giờ chịu ngửa tay cầu xin ông ta bất kỳ điều gì, nhưng đêm nay, Thượng nghị sĩ Sexton có đủ hai yếu tố quan trọng nhất những động cơ chính trị mạnh mẽ để công bố những tài liệu này không chút chậm trễ, và đủ thế lực để gọi điện đến Nhà Trắng nhằm yêu cầu bọn họ lệnh cho đội Delta ngừng lại ngay.

Giờ này chắc chắn cha của Rachel không có mặt trong văn phòng, nhưng văn phòng của ông những lúc thế này luôn cửa đóng then cài cẩn mật, và những tài liệu giá trị sẽ được lưu trữ trong két có khoá hẹn giờ. Giả sử những kẻ đang truy sát cô biết rõ đích đến của bản fax này thì chúng cũng không cách gì lọt qua hàng rào bảo vệ nghiêm ngặt của toà nhà Phillip A. Heart của Chính phủ mà không gây ra cảnh náo loạn ầm ỹ.

- Cô đã gửi bản fax đó cho ai? - Câu hỏi lại một lần nữa vang lên trong máy bộ đàm. - Cô vừa đặt người đó vào vòng nguy hiểm.

Rachel biết cần phải ăn nói một cách đàng hoàng rắn rỏi, dù trong lòng vô cùng sợ hãi. Cô đưa tay chỉ người lính Delta đang bị treo lủng lẳng trên cánh tay máy. Máu từ đùi anh ta vẫn tiếp tục nhỏ giọt xuống mặt nước cách đó mười mét.

- Người duy nhất bị nguy hiểm lúc này chính là anh ta. Cô nói vào máy bộ đàm. - Quá muộn rồi. Các người cút đi. Tài liệu đã được gửi đi. Các người thua rồi. Cút mau, nếu không kẻ kia sẽ phải chết.

Kẻ đang đối thoại với Rachel trên máy bộ đàm phản công:

- Cô Sexton, cô chưa hiểu hết tầm quan trọng của…

- Hiểu hết à? - Rachel ngay lập tức đốp lại. - Tôi hiểu là các người đã sát hại những người vô tội! Tôi hiểu rằng các người đã dối trá về tảng thiên thạch? Tôi hiểu rằng các người sẽ không thể ém nhẹm chuyện này! Dù các người có giết hết cả nhóm chứng tôi thì cũng không thay đổi được tình hình đâu!

Im lặng hồi lâu, rồi giọng nói ấy lại vang lên.

- Thôi được, tôi sẽ xuống.

Rachel thấy toàn thân co cứng lại. Xuống ư?

- Tôi không mang theo vũ khí. - Giọng nói ấy lại vang lên lần nữa - Các vị đừng xử sự hấp tấp. Chúng ta cần phải nói chuyện một cách thẳng thắn.

Rachel chưa kịp phản ứng thì chiếc trực thăng đã đáp xuống boong tàu Goya. Cửa máy bay mở ra, và có người bước xuống.

Người đó mặc chiếc áo khoác màu đen giản dị và đeo cà vạt. Trong thoáng chốc, Rachel tưởng mình bị mất trí.

Cô đang trông thấy William Pickering.

Đứng trên boong tàu, William Pickering nhìn Rachel đầy tiếc nuối.

Ông không thể nào lường trước được cơ sự này. Chân bước lại gần cô gái, ông có thể cảm thấy rõ ràng phức hợp những cảm giác trái ngược trong lòng Rachel.

Kinh ngạc, bị phản bội, sững sờ, giận dữ.

Cũng dễ hiểu, ông thầm nghĩ. Có quá nhiều chuyện cô ấy đâu có biết.

Bỗng Pickering nhớ đến con gái mình. Không hiểu trước khi chết, Diana đã cảm thấy thế nào. Cả con bé và Rachel đều là nạn nhân của một cuộc chiến, cuộc chiến mà Pickering đã tự thề với lòng mình là sẽ không chịu chùn bước. Nhưng đôi khi cái giá phải trả thật là thảm khốc.

- Rachel. - Pickering lên tiếng. - Chúng ta có thể giải quyết chuyện này một cách ổn thoả. Có một số điều tôi cần phải giải thích với cô.

Rachel đẳy vẻ kinh hãi, dường như thậm chí còn thấy buồn nôn. Tolland chĩa thẳng nòng súng máy vào giữa ngực Pickering, mặt ông cũng đầy vẻ ngỡ ngàng.

- Lùi lại! - Tolland thét lớn.

Còn cách họ năm mét thì Pickering dừng lại và nhìn thẳng vào mắt Rachel.

- Cha cô đang nhận tiền hối lộ, Rachel ạ. Tiền của các công ty vũ trụ tư nhân, ông ấy có ý định giải thể NASA và cho phép các công ty tư nhân nhảy vào kinh doanh vũ trụ. Vì an ninh quốc gia nên tôi phải chặn tay ông ấy lại.

Sắc mặt Rachel đầy vẻ kinh hoàng.

Pickering thở dài.

- Bất chấp những sai lầm của nó, NASA phải là một cơ quan của Chính phủ. Chắc chắn là cô ấy hiểu hết những nguy cơ ấy. Tư hữu hoá có nghĩa là tạo điều kiện để nguồn chất xám siêu việt của NASA chảy sang các công ty tư nhân. Sẽ không còn các bí mật quốc gia nữa. Quân đội cũng không còn cơ hội tiếp nhận những tiến bộ khoá học nữa. Để tìm kiếm siêu lợi nhuận, các công ty tư nhân sẽ bán những sáng chế của NASA cho bất kỳ nhà thầu nào trả giá cao!

Giọng Rachel run rẩy:

- Ông lấy danh nghĩa an ninh quốc gia để giả mạo tảng thiên thạch đó ư?

- Câu chuyện đã diễn biến khác hẳn dự kiến. - Pickering phân trần. - Tôi chỉ lên kế hoạch cứu nguy cho một cơ quan nhà nước.

- Giết người không hề là một phần của phác thảo kế hoạch.

Pickering biết, giống như tất cả những mưu đồ tình báo khác, kế hoạch về tảng thiên thạch này chính là kết quả của sự sợ hãi.

Cách đây bảy năm, trong khi đang triển khai hệ thống tai nghe ngầm dưới nước của NRO tại những vùng biển thật sâu để không kẻ phá hoại nào có thể xuống được đến đó, Pickering đã cho sử dụng công nghệ mới của NASA để chế tạo một tàu ngầm siêu bền có khả năng đưa người xuống tận những vùng biển cực sâu - kể cả khu vực đáy biển Mariana Trench.

Con tàu hai người lái này được chế tạo bằng loại gốm siêu bền mới. Còn bản thiết kế chi tiết thì được đánh cắp từ máy tính của kỹ sư người Califomia tên là Graham Hawkes - một thiên tài chế tạo tàu ngầm luôn mang trong tim giấc mơ về con tàu có khả năng lặn rất sâu mà anh ta tự đặt tên là Deep Flight II. Hawkes không thể tìm được nguồn tài trợ để xây dựng nguyên mẫu cho thiết kế của mình. Nhưng Pickering thì có nguồn tài chính không bao giờ cạn.

Sau khi đã có con tàu trong tay, Pickering cử một đội xuống đáy biển để lắp đặt những tai nghe mới tại khu vực đáy biển Mariana Trench, ở những độ sâu không ai dám nghĩ tới. Tuy nhiên, trong khi khoan, họ đã tìm thấy một cấu trúc địa chất mà chưa nhà khoa học nào biết tới, bên trong cấu trúc ấy là những chrondrule và các mẫu hoá thạch của một loài vật không tên. Và bởi NRO cần phải giữ bí mật về chiếc tàu ngầm loại mới này, họ không thể chia sẻ những gì phát hiện được với bất kỳ ai.

Mãi đến gần đây, do có quá nhiều mối lo ngại, đội ngũ cố vấn khoa học của NRO mới quyết định sử dụng những kiến thức về thiên thạch thu thập được ở Mariana Trench để trợ giúp cho NASA. Biến một tảng đá lấy từ đáy biển lên thành một tảng thiên thạch hoá ra lại vô cùng đơn giản. Dùng động cơ đốt hydro ECE, họ tạo ra lớp vỏ ngoài cháy xém y như thật. Sau đó, họ cho một tàu ngầm cỡ nhỏ lặn xuống dưới phiến băng Milne và chôn tảng đá ngược từ dưới lên. Công việc hoàn tất, tảng đá nằm im trong lòng băng hà như thể nó đã nằm đó từ mấy thế kỷ nay.

Rủi thay, những phi vụ bí mật kiểu này rất hay bị phanh phui và đi đến thất bại chỉ vì vài tiểu tiết. Ngày hôm qua, toàn bộ âm mưu của họ đã đổ vỡ chỉ vì một dúm những sinh vật biển phù du…

Ngồi trên máy bay, Delta-Một lặng lẽ quan sát màn kịch đang diễn ra. Dù Tolland và Rachel có vẻ như đang hoàn toàn không chế tình hình, anh suýt nữa không nhịn được cười trước sự ngây thơ của bọn họ. Khẩu súng máy trong tay Tolland hoàn toàn vô tác dụng, từ tít xa anh đã thấy ngay là cò súng đã bị đẩy tít về phía sau, có nghĩa là không còn một viên đạn nào trong nòng súng cả.

Delta-Một nhìn người đồng đội của mình đang giãy giữa trong gọng kìm sắt của chiếc tàu ngầm mini, anh biết giờ là lúc không thể chậm trễ được nữa. Cả hai đối tượng trên boong đều đã tập trung chú ý vào William Pickering, giờ là lúc Delta-Một hành động. Vẫn để động cơ nổ đều, anh mở cánh cửa phụ bên hông máy bay, tụt xuống. Tay cầm súng máy, anh tiến về phía mũi tàu. Trước khi máy bay hạ cánh, Pickering đã ra những mệnh lệnh rất rõ ràng, và lần này Delta-Một quyết không làm hỏng việc.

Chỉ trong vòng vài phút, anh biết rõ thế, câu chuyện này sẽ kết thúc.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 122


Vẫn mặc nguyên bộ đồ ngủ, Zach Herney đang ngồi bên bàn làm việc, trong phòng bầu dục, đầu ong ong. Ông vừa được thông báo về một rắc rối mới.

Marjorie Tench đã chết.

Các trợ lý của Herney nói rằng họ có thông tin cho thấy Tench đã lái xe đến đài tưởng niệm FDR để gặp riêng William Pickering.

Giờ đây, khi cả Pickering cũng mất tích, mọi người đang lo rằng cả ông ta cũng đã bị sát hại.

Gần đây, Tổng thống đã có những bất đồng đáng kể đối với Pickering. Cách đây mấy tháng, ông được biết Pickering đã mượn danh ông để làm một số chuyện phi pháp với lí do là để bảo vệ cho uy tín của Tổng thống đang tạm thời bị uy hiếp.

Sử dụng phương tiện và nhân lực của NRO, Pickering đã bí mật thu thập khá nhiều thông tin về sự đồi bại của Thượng nghị sĩ Sexton, đủ để đánh đắm chiến dịch tranh cử của ông ta - những bức ảnh chụp ông Thượng nghị sĩ đang giao hoan với trợ lý thân tín Gabrielle Ashe, những con số và tài liệu chứng minh Sexton đã nhận tiền hối lộ của các công ty vũ trụ tư nhân.

Pickering đã nặc đanh gửi tất cả những tài liệu đó đến cho Tench và cho rằng Nhà Trắng sẽ sử dụng chúng một cách khôn ngoan. Nhưng ngay khi nhìn thấy những tài liệu ấy, Tổng thống đã cấm tuyệt đối không cho Tench được động đến chúng.

Những vụ bê bối tình ái và nhận tiền hối lộ chẳng khác nào căn bệnh ung thư của thành phố Washington này, và đem công khai thêm một vụ nữa chỉ càng làm người dân mất lòng tin vào Chính phủ mà thôi…

Sự hoài nghi sẽ huỷ hoại đất nước này.

Dù biết rằng mình có thể đánh bại đối thủ, nhưng Herney từ chối làm điều đó, vì cái giá phải trả sẽ là thanh danh hoen ố của Thượng nghị viện Hoa Kỳ.

Không dùng các biện pháp tiêu cực, Herney sẽ chiến thắng Sexton bằng các phương cách khác.

Tức tối khi thấy Nhà Trắng không sử dụng những tài liệu mình công bố, Pickering đã tự tay xì thông tin cho cánh báo chí rằng Sexton đã ăn nằm với Gabrielle Ashe. Rủi thay, Sexton đã khẳng định sự vô tội của ông ta một cách thuyết phục và đầy công phẫn đến nỗi chính Tổng thống đã phải lên tiếng xin lỗi. Rốt cuộc thì William Pickering chỉ gây thêm thua thiệt. Và Herney đã nói thẳng với Pickering rằng nếu còn tiếp tục can thiệp thô bạo kiểu đó nữa thì ông ta sẽ bị truy tố. Khôi hài là ở chỗ William Pickering chẳng yêu mến gì Tổng thống Herney. Những nỗ lực của Giám đốc NRO chẳng qua là để cứu nguy cho NASA. Trong số hai con quỷ thì Herney có vẻ ít hung dữ hơn.

Chẳng lẽ có kẻ đã sát hại Pickering rồi sao?

Herney không thể tin nổi.

- Thưa Tổng thống. - Một trợ lý lên tiếng. - Theo lệnh của Tổng thống, tôi đã liên lạc với Lawrence Ekstrom và thông báo với ông ấy chuyện của Marjorie Tench.

- Cảm ơn anh.

- Ông ấy muốn nói chuyện với Tổng thống.

Herney vẫn còn rất giận Ekstrom vì đã nói dối về PODS. - Bảo ông ta là sáng mai tôi mới có thời gian.

- Ông Ekstrom muốn nói chuyện với Tổng thống ngay bây giờ ạ? - Người trợ lý có vẻ miễn cưỡng. - Trông ông ấy rất lo lắng!

- Ông ta lo lắng sao? - Herney không thể kìm chế nổi cơn giận dữ.

Vừa sải bước đến bên máy điện thoại, ông vừa băn khoăn không hiểu ông ta còn có điều gì muốn nói nữa đây.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 123


Trên boong tàu Goya, Rachel thấy đầu óc quay cuồng. Màn sương mờ bí hiểm bao quanh sự kiện đang dần được vén lên. Sự thật quá bất ngờ khiến Rachel cảm thấy chới với và phẫn nộ. Nhìn con người xa lạ trước mặt, cô thấy căm ghét giọng nói của ông ta.

- Chúng ta cần phải tạo dựng lại hình ảnh cho NASA.

Pickering nói tiếp - Sự xói mòn lòng tin và cắt giảm ngân sách đã gây ra rất nhiều hậu quả nguy hiểm. - Pickering ngừng lời một lúc đôi mắt mầu xám nhìn như thể muốn thôi miên Rachel. - NASA cần có một thắng lợi, rất cần. Và phải có người tạo nên thắng lợi đó cho họ.

Cần phải hành động, Pickering thầm nghĩ.

Tảng thiên thạch thực ra là một nước đi tuyệt vọng. Pickering và nhiều người khác đã cố cứu NASA bằng cách vận động hành lang để sáp nhập cơ quan này vào chung một cộng đồng an ninh với họ để nó có thể được hưởng một nguồn ngân sách dồi dào hơn, tuy nhiên Nhà Trắng hết lần này đến lần khác từ chối với lý do rằng họ có ý đồ can thiệp vào các hoạt động nghiên cứu khoa học thuần tuý. Những lý tưởng thiển cận. Khi những luận điệu chống NASA của Sexton ngày càng chiếm được sự đồng cảm của công luận Pickering và những nhà quân sự khác biệt rằng họ không còn nhiều thời gian nữa. Tất cả đều đồng tình rằng đánh vào trí tưởng tượng của công chúng cũng như Nghị viện là cách duy nhất còn lại để giải quyết vấn đề. Để duy trì sự tồn tại của nó, trình nghiên cứu vũ trụ quốc gia cần có một luồng sinh khí mới vĩ đại - một cái gì đó để gợi cho công chúng nhớ lại những năm tháng huy hoàng thời con tàu Apollo. Và Herney cũng cần có sự trợ giúp, để có thể đánh bại được Thượng nghị sĩ Sexton.

Mình đã cố hết sức để giúp ông ấy, Pickering tự nhủ khi nhớ đến tất cả những tài liệu ông đã giao cho Marjorie Tench. Thật đáng tiếc Zach Herney đã không cho phép bà ta sử dụng những bằng cớ đó. Không còn cách nào khác, Pickering đành phải dùng đến biện pháp mạnh.

- Rachel này - Pickering nói - những thông tin mà cô vừa fax đi, quả thật rất nguy hiểm. Cô phải hiểu điều đó. Nếu những thông tin này lộ ra ngoài, cả NASA lẫn Tổng thống sẽ bị coi là những kẻ đồng loã. Người ta sẽ phản ứng rất dữ dội. Tổng thống và NASA không biết gì hết, Rachel ạ. Họ vô tội. Chính họ cũng tin rằng tảng thiên thạch đó là thật.

Pickering không hề có ý định để Herney hay Ekstrom biết sự thật về kế hoạch này. Họ quá lý tưởng, và chắc chắn sẽ không chấp nhận hành động dối trá này, dù rất có lợi cho NASA và thắng lợi của Tổng thống. Tội lỗi duy nhất của Giám đốc NASA Ekstrom chỉ là thuyết phục Giám đốc Dự án PODS nói dối về phần mềm bị lỗi của họ. Chắc chắn ông ta sẽ rất lấy làm ân hận khi thấy tảng thiên thạch này bị săm soi kỹ đến thế.

Phẫn nộ trước đường hướng tranh cử tích cực của Tổng thống, Marjorie Tench đã hiệp lực với Lawrence Ekstrom trong vụ lừa dối về phần mềm của PODS. Hi vọng của họ là sự kiện này sẽ giúp Tổng thống giành lại vị thế trước những đòn tấn công liên tiếp của Sexton.

Nếu Tench chịu sử dụng những bức ảnh và những tài liệu về tài chính mà mình cung cấp thì những chuyện này đâu có xảy ra!

Cái chết của Tench, dù quả là vô cùng đang tiếc, đã được quyết định ngay khi Rachel gọi điện cho bà ta để thông báo về những dữ liệu không chính xác. Pickering biết rằng bà ta sẽ cho điều tra đến cùng để tìm cho được mục đích thật sự của Rachel, và ông không thể để cuộc điều tra đó diễn ra. Nực cười là ở chỗ bà ta càng có ích cho Tổng thống sau cái chết ấy. Chết đi như thế, bà ta sẽ khiến cho nhiều người vì thương cảm mà bỏ phiếu cho Tổng thống, và cũng sẽ khiến cho công chúng nghi ngờ, rằng chính Thượng nghị sĩ Sexton đã chơi xấu sau khi bị bà ta đẩy vào tình thế quá nhục nhã trên kênh CNN.

Rachel vẫn không thay đổi thái độ, cô nhìn thẳng vào mắt Giám đốc của mình.

- Cô hãy hiểu rằng nếu những tin này lọt ra ngoài, cô sẽ làm hại Tổng thống vô tội và một tổ chức cũng vô tội như thế. Và cô cũng sẽ góp phần đẩy một phần tử rất nguy hiểm vào chiếc ghế Tổng thống. Hãy cho tôi biết cô đã fax tài liệu cho ai?

Sắc mặt Rachel chợt thay đổi khi ông ta nói đến đó - vẻ mặt của người đang kinh hoàng và đau đớn khi nhận ra sai lầm nghiêm trọng của bản thân mình.

***

Sau khi đi qua mũi tàu và sang đến mạn phải, Delta Một lúc này đang đứng trong phòng thí nghiệm. Lúc máy bay mới đến, anh thấy Rachel từ đây bước ra. Màn hình máy tính trong phòng đang hiển thị những hình ảnh khiến người ta khó có thể an lòng - một xoáy nước sâu đầy màu sắc sặc sỡ đang hoạt động dữ đội đâu đó bên dưới còn tàu Goya.

Thêm một lý do nữa để biến khỏi nơi này, anh thầm nghĩ, thẳng tiến tới mục tiêu của mình…

Trên cái bục nhỏ, ở sát mảng tường đối diện, anh nhìn thấy máy fax. Trên khay máy có một xấp giấy, đúng như Pickering đã dự đoán Delta Một cầm lấy xấp giấy ở trên cùng là những chữ viết tay của Rachel. Chỉ có hai dòng. Anh đọc lướt.

Trúng vấn đề ghê, anh thầm nghĩ.

Xem lướt qua tập tài liệu, anh vừa ngạc nhiên vừa thán phục những gì liên quan đến tảng thiên thạch giả mà Tolland và Rachel đã phanh phui ra được. Đọc những trang giấy này, không ai còn có thể mảy may nghi ngờ. Không cần ấn nút "quay lại số" - Delta Một cũng thấy ngay bản fax vừa rồi được gửi tới đâu. Số fax mới nhất vẫn còn hiện nguyên xi trên màn hình LCD.

Một số máy ở thủ đô Washington.

Anh thận trọng ghi lại số máy đó, cầm toàn bộ xấp tài liệu, rồi ra khỏi phòng thí nghiệm.

Tolland chĩa súng máy vào giữa ngực William Pickering, hai bàn tay nhớp nháp mồ hôi xiết chặt lấy khẩu súng. Giám đốc NRO vẫn tiếp tục thuyết phục Rachel cho ông ta biết cô vừa gửi thông tin cho ai, và Tolland bắt đầu cảm thấy bất an. Rõ ràng là ông ta đang lấy cớ để kéo dài thơi gian. Để làm gì?

- Nhà Trắng và NASA hoàn toàn vô tội. - Pickering nhắc lại. - Hãy hợp tác với tôi. Đừng để những sai lầm của cá nhân tôi huỷ hoại nốt chút danh tiếng ít ỏi còn lại của NASA. Nếu tin này lọt ra ngoài thì cả thế giới sẽ cho rằng NASA là kẻ chủ mưu. Chúng ta cần phải thoả hiệp một chút. Tổ quốc cần tảng thiên thạch đó. Lúc này vẫn còn chưa muộn. Hãy cho tôi biết cô đã fax thông tin cho ai.

- Để ông lại giết thêm một người nữa à? - Rachel nói. - Ông khiến tôi thấy buồn nôn.

Thái độ bất khuất của Rachel khiến Tolland kinh ngạc. Cô khinh bỉ cha mình, nhưng không hề có ý định đặt ông ta vào bất kỳ tình huống nguy hiểm nào. Thật đáng tiếc, động thái này của Rachel không mang lại hiệu quả mong muốn. Giả sử ngài Thượng nghị sĩ có mặt tại văn phòng, đọc bản fax, sau đó gọi điện cho Tổng thống để khẳng định rằng tảng thiên thạch chỉ là giả mạo và yêu cầu ông ta lệnh cho đội đặc nhiệm dừng tay ngay lập tức thì Nhà Trắng cũng không thể hiểu nổi Sexton đang ở đâu và đang nói về cái gì.

- Tôi chỉ nhắc lại một lần này nữa thôi. - Pickering nói, mắt nhìn Rachel đay hăm doạ. - Tình thế lúc này vô cùng phức tạp và cô không thể hiểu hết được. Cô đã phạm phải sai lầm trầm trọng khi fax những thông tin ấy. Cô vừa đặt cả quốc gia trong vòng nguy hiểm.

Mục đích duy nhất của William Pickering chỉ là kéo dài thời gian, lúc này Tolland đã hiểu ra. Có một kẻ đang từ mạn phải lừ lừ tiến lại. Trông thấy tên lính đó cầm trên tay xấp tài liệu và khẩu súng máy, ông chợt thấy sợ.

Phản ứng tức thì và quyết liệt của Tolland khiến chính bản thân ông phải ngỡ ngàng. Vẫn giữ chặt khẩu súng, ông quay về phía tên lính, và xiết cò.

Chỉ có một tiếng cách vang lên.

- Tôi đã tìm được số máy đó. - Delta-Một nói, đưa xấp tài liệu cho Pickering. - Và ông Tolland hết đạn rồi.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 124


Sedgewick Sexton lao ngay đến toà văn phòng Thượng viện Philip A. Hart. Không hiểu bằng cách nào mà Gabrielle đã vào được văn phòng của ông. Khi nói chuyện với cô ta trên điện thoại. Ông nghe rõ mồn một tiếng tích tắc nhịp ba rất đặc trưng của đồng hồ treo tường Jordain. Chắc chắn là sau khi nghe lỏm cuộc họp bí mật của ông với SFF, cô ta đã nghi ngờ và đến đây lục lọi tìm bằng chứng.

Làm thế quái nào mà cô ta vào trong được nhỉ.

Sexton lấy làm mừng, ông mới đổi mật khẩu máy tính.

Đặt chân đến cửa văn phòng. Sexton gõ mật khẩu, tắt chuông báo động. Ông lục túi tìm chìa khoá, tra chìa vào ổ, mở toang cửa, lao thẳng vào trong, định bắt quả tang Gabrielle ở trong phòng.

Nhưng văn phòng chẳng có một ai, tối mò mò, nguồn sáng duy nhất là đèn tín hiệu màn hình máy tính. Ông bật đèn lên, mắt sục sạo khắp nơi. Mọi thứ vẫn y nguyên Trừ tiếng tích tắc nhịp ba phát ra từ đồng hồ treo tường, căn phòng hoàn toàn im lặng.

Cô ta ở chỗ quái nào nhỉ?

Có tiếng sột soạt trong nhà tắm, ông đâm bổ vào bật đèn lên.

Không có ai. Ông kiểm tra đằng sau cánh cửa. Không có gì.

Bối rối, Sexton ngắm mình trong gương, băn khoăn không hiểu có phải tại đêm nay ông đã uống quá nhiều rượu hay không. Mình đã nghe thấy mà. Thẫn thờ, bối rối, Sexton quay trở ra văn phòng.

- Gabrielle! - ông gọi to. Ông bước ra ngoài hành lang, sang văn phòng của thư ký. Chẳng thấy đâu. Phòng năy cũng tối om.

Có tiếng ai xả nước trong nhà vệ sinh nữ, Sexton quay phắt lại, sải bước về plúa ấy. Ông đến nơi đúng lúc Gabrielle vừa bước ra và đang hơ tay cho khô. Nhìn thấy Sexton, cô nhảy dựng lên.

- Chúa ơi! Giật cả mình! - Gabrielle có vẻ hoảng hốt thực sự - Ông làm gì ở đây thế?

- Cô nói rằng đến văn phòng để tìm tài liệu về NASA. - Ông lên tiếng. - Tài liệu đâu?

- Em không tìm được. Em phải lục lọi khắp cho nên mới lâu thế.

Sexton nhìn thẳng vào mắt cô gái.

- Cô vào văn phòng của tôi phải không?

Máy fax đã cứu mạng mình, Gabrielle thầm nghĩ. Vài phút trước, cô vẫn còn ngồi trước máy tính của Sexton, xoay xở tìm cách in bằng chứng về những khoản tài chính bất hợp pháp. Những tệp tin đó được bảo vệ bằng phương pháp gì đó, cô không thể gõ lệnh in vào máy. Nếu không có chuông máy fax bất thần vang lên để kéo Gabrielle về với thực tại thì chắc lúc này cô vẫn ngồi nguyên ở đó. Gabrielle cho rằng hồi chuông ấy chính là điểm báo. Không kịp xem nội dung bản fax, cô tắt máy tính, xếp lại mọi thứ như cũ, rút ra ngoài bằng con đường lúc nãy cô đã đột nhập vào.

Chưa trèo qua hẳn tường phòng tắm, Gabrielle nghe tiếng Sexton lao vào văn phòng.

Lúc này, khi Sexton đang đứng chặn trước mặt cô, mắt gườm gườm, Gabrielle có cảm giác rằng ông ta đang nhìn xoáy vào sâu trong mắt cô để kiểm tra xem cô có gian dối hay không. Sedgewick Sexton cực kỳ mẫn cảm với những lời nói dối. Khi nào Gabrielle nói dối là ông ta biết ngay.

- Thượng nghị sĩ đã uống quá nhiều rượu. - Gabrielle vừa nói vừa quay mặt đi. Làm thế nào mà ông ta biết là mình vào trong văn phòng nhỉ?

Sexton túm lấy vai Gabrielle và xoay cô gái về phía mình.

- Cô có vào trong văn phòng của tôi không?

Gabrielle thấy sợ. Rõ ràng là Sexton đã uống rất nhiều. Ông ta xiết vai cô rất mạnh.

- Trong văn phòng của ông sao? - Cô hỏi, gượng cười phá lên. - Bằng cách nào? Để làm gì?

Tôi nghe thấy tiếng tích tắc nhịp ba của đồng hồ treo tường Jordain lúc nói chuyện điện thoại với cô cơ mà.

Gabrielle chột dạ. Đồng hồ treo tường sao? Cô không hề để ý đến điều đó.

- Ông không thấy điều đó là rất lố bịch à? Ngày nào tôi chả ngồi trong văn phòng suốt. Tôi phải biết đồng hồ của tôi kêu thế nào chứ.

Gabrielle cảm thấy rằng nên giải quyết chuyện này một cách chóng vánh. Tấn công chính là cách phòng thủ tốt nhất, Yolanda vẫn luôn nói vậy. Tay chống nạnh, cô hùng hổ quay phắt về phía ông ta. Đứng sát trước mặt Sexton, nhìn thẳng vào mắt ông ta, phẫn nộ:

- Thượng nghị sĩ cho phép tôi nói thẳng. Bây giờ là bốn giờ sáng, ông say rượu, ông nghe có tiếng tích tắc trên điện thoại, thế là ông lao thẳng đến đấy chứ gì? - Cô sừng sộ chỉ cánh cửa văn phòng của ông ta ở cuối hành lang. - Ông định buộc tội tôi qua mặt hệ thống báo động của Liên bang, mở hai ổ khoá, đột nhập vào văn phòng của ông, rồi lại ngu si đến mức trả lời cuộc gọi của ông trong khi đang tiến hành việc làm tày đình đó, tiếp đó lại bật hệ thống báo động lên rồi đi ra ngoài, và cuối cùng lại còn bình tĩnh vào nhà vệ sinh và quay ra tay không. Tôi nói có đúng không, hả?

Sexton trợn trờn mắt ngỡ ngàng.

- Phải có lý do thì người ta mới bảo nhau không nên uống rượu một mình chứ. - Gabrielle nói tiếp. - Ông có muốn nói tiếp chuyện NASA nữa hay không đây?

Sexton quay về văn phòng của mình, đờ đẫn. Ông tiến thẳng tới quầy bar, rót một ly Pepsi. Rõ ràng là ông không hề cảm thấy say. Chẳng lẽ ông lại nhầm? Trên bức tường đối diện, chiếc đồng hồ Jordain vẫn đều đều phát ra tiếng tích tắc nhịp ba như muốn trêu ngươi. Uống một hơi cạn ly Pepsi, Sexton rót thêm ly nữa cho mình và một ly cho Gabrielle…

- Có uống không, Gabrielle? - Ông hỏi.

Gabrielle không vào trong phòng. Cô vẫn đang đứng ở ngưỡng cửa, chân di di mũi giầy.

- Thôi nào, vì Chúa, vào đi. Nói xem, cô đã tìm được thông tin gì về NASA?

- Tôi nghĩ rằng đêm nay thế là đã quá đủ. - Gabrielle tỏ thái độ xa cách. - Để mai chúng ta nói cũng được.

Sexton chẳng còn lòng dạ nào mà chờ đợi. Ông cần thông tin ngay lập tức, và không có ý định tỏ ra quy luỵ. Ông thở dài mệt mỏi. Hãy tỏ ra tin tưởng ở cô ta. Đây là vấn đề lòng tin.

- Tôi thật là điên. - Ông nói. - Cho tôi xin lỗi. Ngày hôm nay quả là khủng khiếp. Tôi cũng chẳng hiểu nổi mình đang nghĩ gì.

Gabrielle vẫn không nhúc nhích..

Sexton bước lại bên bàn làm việc, đặt ly Pepsi của Gabrielle lên khay nước. Ông ra hiệu bảo Gabrielle đến ngồi vào chiếc ghế bọc da của mình - chiếc ghế quyền lực.

- Ngồi xuống đã nào. Uống một chút đã. Tôi phải đi vã chút nước lên mặt. - Ông đi về phía phòng tắm.

Gabrielle vẫn đứng nguyên ở cửa.

- Hình như có người fax tài liệu đến. - Sexton nói vọng ra từ nhà tắm. Phải thể hiện rằng mình tin tưởng cô ta. - Cô xem hộ tôi cái.

Sexton đóng cửa lại, đợi cho nước lạnh chảy đầy bồn rửa mặt. Ông vã nước lên mặt, lên đầu nhưng không hề thấy khá hơn. Chưa bao giờ ông rơi vào tình thế này - biết chắc rằng mình đúng, thế mà hoá ra lại không đúng. Sexton luôn tin vào bản năng và bản năng mách bảo rằng Gabrielle Ashe đã đột nhập vào văn phòng của ông.

Nhưng bằng cách nào? Không thể nào.

Sexton đành hạ quyết tâm bỏ qua chuyện này để tập trung vào vấn đề trước mắt: NASA. Lúc này ông cần Gabrielle. Giờ không phải lúc tạo khoảng cách với cô ta. Cần phải biết những thông tin cô ta đang có. Quên bản năng đi. Mình đã lầm.

Lau khô mặt, Sexton ngửa đầu ra sau rồi hít một hơi thật dài.

Hãy thư giãn, ông ta tự bảo bản thân. Đừng tỏ ra quá quắt. Nhắm mắt, thở sâu thêm lần nữa, ông cảm thấy tỉnh táo hơn.

Ra khỏi phòng tắm, Sexton thở phào nhận thấy Gabrielle đã vào trong văn phòng. Tốt lắm, ông nghĩ thầm. Giờ thì có thể bắt đầu làm việc.

Gabrielle đang đứng bên máy fax, đọc lướt những tài liệu vừa được gửi tới. Tuy nhiên, khi nhìn thấy vẻ mặt của Gabrielle, Sexton bối rối. Nỗi sợ hãi và sự ngỡ ngàng hằn rõ trên nét mặt cô gái.

- Cái gì thế? - Sexton nói, chân bước lại phía Gabrielle.

Thư ký riêng của ông loạng choạng, như thể sắp ngã đến nơi.

- Tảng thiên thạch… - Gabrielle nghẹn ngào, giọng nói yếu ớt. bàn tay nm rẩy đưa trước mặt Sexton xấp tài liệu. - Và con gái của ông… Chị ấy đang gặp nguy hiểm…

Ngỡ ngàng, Sexton tiến lại, cầm lấy tệp tài liệu từ tay Gabrielle.

Trên cùng là một trang viết tay. Ông nhận ra ngay nét chữ này. Ngôn từ vô cùng đơn giản, nhưng nội dung thì quả là một cú sốc lớn.

Tảng thiên thạch là giả. Đây là bằng chứng. NASA, Nhà Trắng đang tìm cách giết con. Cứu! RS.

Rất hiếm khi Thượng nghị sĩ lâm vào tình trạng không hiểu nổi những gì đang đọc, nhưng khi đọc những dòng chữ này của Rachel ông không hiểu nổi.

Tảng thiên thạch là giả sao? NASA và Nhà Trắng đang tìm cách giết cơn bé ư?

Đầu óc rối bời, Sexton bắt đầu xem lướt những trang còn lại.

Đầu tiên là một bức ảnh số hoá bên trên có dòng chữ "máy chụp cắt lớp trái đất (GPR)" có vẻ như đây là bức ảnh chụp cắt lớp một phiến băng bằng sóng âm. Sexton nhìn thấy hố trục vớt tảng thiên thạch mà trên tivi đã nhắc tới. Ông nhìn thấy hình đáng của một người chìm trong hố nước sâu đó. Rồi ông nhìn thấy một chi tiết khác đường nét của một cái lỗ thứ hai ngay bên dưới vị trí của tảng thiên thạch - dường như tảng đá này đã được đưa ngược lên từ dưới đáy phiến băng.

Quái quỉ gì thế này?

Lật sang trang tiếp theo, Sexton trông thấy ảnh chụp một loài sinh vật biển có tên là Bathynomous Giganteus. Ông kinh ngạc đến sững sờ. Đây chính là loài sinh vật hoá thạch trong tảng thiên thạch!

Lật trang tiếp theo. Ông thấy một biểu đồ có các chỉ số chất hydro ion hoá của lớp vỏ bị cháy xém của tảng thiên thạch. Có một hàng chữ viết tay vội vã ở bên dưới: Đốt bằng nhiên liệu hydro? Động cơ chu kỳ mở rộng của NASA?

Sexton không dám tin vào mắt mình. Ông lật sang trang cuối cùng, thấy căn phòng bắt đầu chao đảo - ảnh một tảng đá có chứa những bong bóng kim loại trông giống y hệt như những bong bóng trong tảng thiên thạch. Kinh ngạc hơn, cạnh bức ảnh là dòng chữ cho thấy tảng đá này là sản phẩm của núi lửa ngầm dưới đại dương.

Đá lấy từ đại dương lên sao? Sexton phân vân.

Nhưng NASA khẳng định rằng các chrondrule chỉ hình thành trong vũ trụ cơ mà!

Sexton đặt xấp tài liệu lên mặt bàn và ngồi sụp xuống ghế. Chỉ sau mười lăm giây, ông đã kịp ghép nối những gì vừa đọc thành một bức tranh lớn. Ý nghĩa của những trang tài liệu này đã quá rõ ràng. Thậm chi những kẻ đần độn cũng có thể thấy được những ảnh chụp này nói lên điều gì.

Tảng thiên thạch của NASA là giả.

Trong suốt đời mình, Sexton chưa trải qua ngày nào lắm thăng trầm đến vậy. Ngày hôm nay, cảm giác tuyệt vọng rồi lại khấp khởi hy vọng đã hoán đổi nhau không biết bao nhiêu lần. Những dự định của Sexton chợt trở lên quá bé nhỏ, vô nghĩa so với ảnh hưởng của những trang tài liệu này.

Nếu đem công bố những thông tin này, chắc chắn chiếc ghế Tổng thống sẽ thuộc về mình!

Trong giây phút tràn trề mãn nguyện, Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton quên hẳn lời cầu cứu của con gái, quên rằng Rachel đang trong cơn hoạn nạn.

- Rachel đang gặp nguy hiểm. - Gabrielle nhắc. Chị ấy viết rằng NASA và Nhà Trắng đang tìm cách…

Máy fax của Sexton bỗng đổ chuông lần nữa. Gabrielle quay lại nhìn Sexton cũng nhìn chăm chú. Không biết Rachel định gửi thêm gì cho ông? Thêm bằng chứng nữa ư? Có nhiều nữa không nhỉ? Thế nay đã là nhiều lắm rồi!

Khi may fax trả lời cuộc gọi, không có trang tài liệu nào được gửi tới. Không nhận được dữ liệu, chiếc máy chuyển sang chế độ tự động trả lời.

"Xin chào!" - Những lời nói được ghi âm sẵn cúa Sexton được bật lên - "Đây là văn phòng của Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton. Nếu quí vị muốn gửi fax, xin cứ tự nhiên. Nếu không, xin quí vị hãy để lại lời nhắn".

Sexton chưa kịp nhấc ông nghe lên thì chiếc máy đã phát ra một tiếng bíp.

- Thượng nghị sĩ Sexton đấy à? - Một giọng đàn ông lạnh lùng cất lên. - Tôi là William Pickering, Giám đốc NRO. Có lẽ lúc này ông không có mặt trong văn phòng, nhưng tình thế vô cùng cấp bách nên tôi phải nói luôn - Ông ta dừng lại giây lát, dường như đợi xem có ai nhấc máy không.

Gabrielle với tay định nhấc ống nghe lên.

Sexton giật phắt tay cô lại, gạt mạnh ra.

Gabrielle sững sờ. - Nhưng đó là chỉ dẫn của…

- Thượng nghị sĩ, - Pickering nói tiếp, dường như tỏ ra nhẹ, nhõm vì không thấy ai nghe máy - e rằng thông tin mà tôi báo cho ông không được dễ chịu cho lắm. Tôi vừa nhận được tin là cô Rachel con gái ông đang ở trong tình thế vô cùng hiểm nghèo. Ngay lúc này đây tôi đã phái một biệt đội đi giải cứu cho cô ấy. Hiện giờ thì chưa thể nói gì nhiều trên điện thoại, nhưng tôi đã được báo cáo rằng cô ấy đã fax cho ông tài liệu gì đó liên quan đến tảng thiên thạch của NASA. Bản thân tôi cũng chưa được đọc những tài liệu đó và không biết nội dung nó là gì, nhưng những kẻ đang giam giữ con gái ông nói rằng nếu những tài liệu đó bị công khai thì chúng sẽ giết Rachel ngay tức khắc. Xin lỗi Thượng nghị sĩ vì những lời lẽ không được tế nhị này, nhưng tôi phải trình bày sự thể một cách rõ ràng. Mạng sống của con gái ông đang bị để doạ. Nếu quả thực cô ấy có fax cho ông tài liệu nào thì cũng đừng cho ai xem. Lúc này thì chưa được. Mạng sống của con gái ông đang phụ thuộc vào nó. Ông hãy ở yên tại văn phòng. Tôi sẽ tới đó ngay. - Ông ta ngừng một lát. - Thưa Thượng nghị sĩ, nếu may mắn thì chúng tôi sẽ giải quyết xong vụ việc này trong đêm nay. Trong trường hợp ông đến văn phòng mà chưa thấy tôi thì cứ ở yên đó và đừng gọi điện cho ai hết. Tôi đang dốc hết khả năng để bảo vệ mạng sống cho cơn gái ông.

Pickering dập máy.

Gabrielle run lẩy bẩy.

- Rachel bị giữ làm con tin sao?

Sexton cảm nhận rõ ràng rằng dù đang rất thất vọng về ông.

Gabrielle vẫn đầy thương cảm khi biết một phụ nữ xinh đẹp đang bị lâm vào vòng nguy hiểm. Lạ lùng là ở chỗ chính bản thân ông lại không hề có chút xíu cảm giác nào đạì loại như thế. Toàn thân ông lúc này đang lâng lâng như một đứa bé vừa nhận được quà Giáng sinh và không hề có ý định để món quà quý báu đó tuột khỏi tay.

Pickering yêu cầu mình im lặng về chuyện này sao?

Sexton đứng yên lặng giây lát, cố hiểu cho thật thấu đáo những gì vừa nghe thấy. Nhưng trong đầu ông, trong một góc khuất lạnh lùng đầy tham vọng, cỗ máy bắt đầu hoạt động - cỗ máy điện toán chính trị trong ông đang chạy thử tất cả mọi tình huống và đánh giá mọi kết cục có khả nang xảy đến. Ông đưa mắt nhìn xấp tài liệu trên tay và bắt đầu cảm nhận được sức nặng của những thông tin đang có. Tảng thiên thạch này của NASA đã nghiến nát giấc mộng Tổng thống của ông. Nhưng đó chỉ là trò lừa gạt, một thứ giả mạo.

Giờ là lúc những kẻ dựng lên chuyện này phải trả giá. Chính tảng thiên thạch mà những kẻ đối đầu với ông dựng lên để hại ông sẽ khiến ông trở nên hùng mạnh hơn bao giờ hết. Và con gái ông đã biễn điều đó thành hiện thực.

Dĩ nhiên là chỉ có một kết cục duy nhất hợp lý, ông biết thế. Một nhà lãnh đạo thực thụ không thể hình động theo bất kỳ cách nào khác.

Giấc mơ chói lọi về sự hồi sinh của mình khiến cho Thượng nghị sĩ sung sướng đến mụ mị đầu óc. Đang ở trong văn phòng mà ông cảm thấy như đang ở giữa biển sương mù. Đến bên máy photocopy. Ông bật máy lên, chuẩn bị sao chụp những tài liệu Rachel vừa gửi về.

- Thượng nghị sĩ định làm gì thế? - Gabrielle hoảng hốt.

- Chúng không giết Rachel đâu. - Sexton tuyên bố. Giả sử trong trường hợp mọi chuyện diễn ra không suôn sẻ thì kẻ thù của ông sẽ khiến ông càng mạnh hơn. Đằng nào thì ông cũng thắng. Rủi ro này là hoàn toàn chấp nhận được.

- Những bản photocopy này là để cho ai? - Gabrielle căn vặn.

- William Pickering đã dặn là không được cho ai biết cơ mà!

Vẫn đứng bên máy photocopy, Sexton quay sang nhìn Gabrielle.

Đột nhiên ông thấy cô thư ký của mình trở nên xấu xí khủng khiếp.

Trong khoảnh khắc ấy, Thượng nghị sĩ Sexton trở lên hoàn toàn xa cách. Hoàn toàn biệt lập. Ông đang có trong tay tất cả những gì ông cần để biến giấc mơ của mình thành hiện thực. Giờ đây, không gì có thể cản bước ông được nữa. Những cáo buộc nhận hối lộ, những lời xì xào về chuyện tình ái, tất cả đều vô nghĩa.

- Về đi. - Gabrielle. Tôi không cần cô nữa đâu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 125


Thế là hết! Rachel tham nghĩ…

Cô và Tolland ngồi sát vào nhau, mắt chăm chú nhìn nòng súng máy của Delta-Một đang chĩa thẳng vào họ. Thật không may, lúc này Pickering đã biết được địa chỉ mà Rachel fax thông tin tới:

- Văn phòng Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton…

Rachel nghĩ rằng có lẽ cha cô thậm chí sẽ chẳng bao giờ nhận được những thông tin mà Pickering vừa nhắn vào trong máy văn phòng của ông. Rất có thể là sáng sớm mai Pickering sẽ về đến văn phòng của Thượng nghị sĩ Sexton trước khi bất kỳ người nào kịp đặt chân tới đó. Nếu đến trước, ông ta sẽ thu hết những tài liệu được gửi tới, xoá tin nhắn lưu trong máy, và không cần phải sát hại Thượng nghị sĩ nữa. Có lẽ William Pickering là một trong số ít người ở Washington có khả năng vào trong toà văn phòng nghị viện một cách êm thấm và suôn sẻ. Xưa nay Rachel vẫn luôn bị ngạc nhiên khi thấy chỉ cần nhân danh "an ninh quốc gia" là người ta có thể làm mọi chuyện.

Dĩ nhiên nếu làm thế vẫn không xong thì Pickering chỉ cần cho máy bay áp sát vào cửa sổ văn phòng và phóng một quả tên lửa Hellfire vào là xong, Radiel thầm nghĩ. Nhưng thâm tâm cô mách bảo rằng ông ta sẽ không phải viện đến hạ sách đó.

Ngồi sát bên Tolland, Rachel ngạc nhiên thấy ông đang dịu dàng xiết chặt tay cô. Những ngón tay ông đan vào tay cô, dịu dàng, mạnh mẽl và thân thuộc đến mức tưởng như họ đã từng làm thế rất nhiều lần trong đời. Ước gì lúc này Rachel được nằm trong vòng tay Mike, được tránh xa những tiếng gầm gào đầy đe doạ của dòng nước xoáy dưới chân họ.

Sẽ chẳng bao giờ. Rachel hiểu, chuyện ấy là không thể.

Michael Tolland thấy mình đúng là kẻ tìm thấy hi vọng sống đúng vào lúc bị điệu đến giá treo cỗ.

Số phận thật trớ trêu.

Bao năm sau cái chết của Celia, Tolland đã phải trải qua những đêm dài đau đớn và cô quạnh, đến nỗi nhiều lúc ông nghĩ tới cái chết để trốn chạy tất cả. Tuy nhiên, ông đã không làm điều đó, và tự nhủ rằng ông có thể sống một mình. Hôm nay, lần đầu tiên sau bao năm đằng đẵng, ông bắt đầu hiểu ra những điều mà bạn bè vẫn thường nói với ông.

Mike, cậu không cần phải sống một mình mãi, cậu sẽ lại tìm thấy tình yêu.

Xiết tay Rachel thật chặt, ông cảm thấy số phận mình thật trở trêu. Định mệnh thật độc ác. Tolland thấy những bức tường vô hình bao kín trái tìm ông từ bao lâu đang rơi rụng lả tả. Trong thoáng chốc, trên boong tàu Goya này, Tolland lại thấy hồn ma của Celia hiện về như nàng đã từng hiện về biết bao lần trong quá khứ.

Giọng nói của nàng như hoà lẫn vào tiếng đại dương… nhắc lại những lời cuối cùng nàng đã nói với ông trước khi ra đi mãi mãi.

"Anh sẽ tiếp tục sống. - Nàng thì thầm. - Hãy hứa với em là anh sẽ tìm cho mình một tình yêu khác".

"Anh sẽ không bao giờ yêu bất kỳ người nào khác. - Tolland trả lời nàng.

Celia mỉm cười, đầy trí tuệ:

"Rồi anh sẽ học cách làm điều đó".

Giờ đây, trên boong tàu Goya, Tolland biết ông đã học được điều đó. Một nguồn xúc cảm dạt dào trong trái tim ông.

Hạnh phúc.

Và cùng với nó là ý chí sống mãnh liệt.

Pickering cảm thấy khó tập trung một cách khác thường khi tiến lại gần hai tù nhân của mình. Ông dừng lại trước mặt Rachel, thầm ngạc nhiên thấy giây phút này không khó khăn như ông vẫn tưởng.

- Đôi khi vì tình huống bắt buộc nên chúng ta phải làm những điều mình không hề muốn.

Ánh mắt Rachel nhìn xoáy vào ông, không khoan nhượng:

- Chính ông đa tạo ra tình huống này.

- Có chiến tranh là có tổn thất. - Pickering nói, giọng tự tin hơn. Hãy thử hỏi Diana Pickering, hay bất cứ ai đã ngã xuống cho dân tộc nay mà xem. - Điều này cô phải hiểu chứ, Rachel. - Ông nhìn thẳng vào mắt Rachel - Iactura paucourm serva multos.(1)

Nhìn vẻ mặt của Rachel, ông biết cô gái hiểu câu nói đó - đây là điều mà những nhân viên an ninh vẫn thường nói. Hi sinh một vài người để cứu rất nhiều người.

Ánh mắt Rachel nhìn Pickering đầy ghê tởm:

- Lúc này tôi và Michael thuộc về cái một vài ấy của ông có phải không?

Pickering suy tính. Nhưng không còn cách nào khác. Ông quay lại bảo Delta-Một:

- Giải cứu đồng đội của anh rồi kết thúc phi vụ này nhanh đi.

Delta-Một gật đầu…

Pickering nhìn Rachel một lần cuối rồi sải bước lại bên lan can gần cầu thang dẫn xuống boong dưới, quay mặt nhìn ra biển. Ông không muốn tận mắt chứng kiến cảnh này.

Xiết chặt báng súng, liếc nhìn đồng đội của mình, Delta-Một cảm thấy mình thật quyền uy. Việc còn lại bây giờ chỉ là đóng cánh cửa lật dưới chân Delta-Hai, thả cậu ta ra khỏi cánh tay sắt, rồi khử Rachel Sexton và Michael Tolland.

Rủi thay, Delta-Một đã nhận ra sự rối rắm ở bảng điều khiển gần cánh cửa giật - một loạt cần gạt và núm vặn chắc chắn để điều khiển cánh cửa giật, môtơ tời, và hàng loạt chức năng khác nữa.

Anh không có ý định giật nhầm cần và thả con tàu lặn xuống biển, để doạ mạng sống của bạn mình.

Loại trừ tất cả mọi bất trắc. Không cần phải hấp tấp.

Anh sẽ buộc Tolland phải làm điều đó. Và để đảm bảo rằng ông ta sẽ không giở bất cứ thủ đoạn nào, Delta-Một sẽ dùng biện pháp bảo đảm mà đội lính đặc nhiệm vẫn gọi đùa là "vật ký quỹ biết thở".

Chia rẽ đối tượng và bắt chúng chống lại nhau.

Delta-Một quay nòng súng sang chĩa thắng vào mặt Rachel, mũi súng chỉ cách trán cô có vài inch. Rachel nhắm nghiền mắt lại, và Delta-Một nhận thấy Tolland giận dữ xiết chặt nắm đấm.

- Cô Sexton, đứng lên. - Delta-Một nói…

Rachel làm theo.

Gì sát súng vào lưng Rachel, Delta-Một bắt cô đến bên những bậc thang bằng nhôm dẫn lên nóc con tàu lặn Triton. Trèo lên đứng trên nóc tàu.

Rachel không hiểu, sợ hãi.

- Lên mau. - Delta-Một nói.

Trèo lên những bậc thang bằng nhôm sau lưng con tàu Triton, Rachel tưởng mình đang trong cơn ác mộng. Lên đến đỉnh, thì cô dừng lại, không muốn bước qua khe hở sâu để sang nóc tàu Triton.

- Bước sang nóc tàu lặn. - Người lính đặc nhiệm nói. Anh ta quay về phía Tolland và gì mũi súng vào đầu ông.

Ngay trước mặt Rachel, tên lính đặc nhiệm bị treo lủng lẳng nhìn Rachel chòng chọc, quằn quại đau đớn, nôn nóng muốn được giải thoát. Rachel nhìn họng súng chĩa vào đầu Tolland. Trèo lên nóc tàu. Cô không còn lựa chọn nào khác.

Rachel bước sang bệ máy, khoảng hẹp bằng phẳng sau mái vòm của tàu Triton, chẳng khác gì vừa bước qua vực thẳm sâu hun hút giữa hẻm núi. Chiếc tàu lặn mini treo lủng lẳng ngay bên trên cánh cửa giật như quả dọi khổng lồ Dù dây tời đã bị khoá chặt, con tàu nặng chín tấn vẫn lắc lư khi Rachel đặt chân lên, và khi Rachel lấy thăng bằng, con tàu lại một lần nữa dao động vài milimét.

- Được rồi, đi. - Người lính đặc nhiệm quát bảo Tolland – Đến bảng điều khiển và đóng cửa giật lại.

Bị chĩa súng thẳng vào đầu, Tolland buộc phải bước tới chỗ bảng điều khiển, Delta-Một theo sát gót ông, Rachel bước chậm rãi và cô thấy mắt Tolland nhìn cô chăm chú như muốn nói điều gì đó.

Ông nhìn thẳng vào Rachel, rồi nhìn xuống cánh cửa vòm đã mở sẵn trên nóc tàu Triton.

Rachel liếc xuống. Cánh cửa khum khum hình mái vòm nặng nề đã mở sẵn, cô có thể nhìn xuyên vào trong buồng lái dành cho một người của con tàu. Mike muốn bảo mình vào trong đó sao? Sợ mình hiểu nhầm ý của ông, Rachel ngước nhìn lên lần nữa. Ông đã ở gần bảng điều khiển lắm rồi. Tolland vẫn đang nhìn cô chăm chú. Ánh mắt lúc này càng khẩn thiết hơn.

Ông mấp máy môi nói thầm: Nhảy xuống đi! Nhanh lên!

Thoáng thấy hành động của Rachel. Delta-Một lập tức quay phắt lại và nã đạn đúng lúc Rachel vừa kịp nhảy vào trong con tàu. Đạn va vào cửa tàu rồi nảy bật trở lại, lửa đạn loé sáng loè; cửa tầu đóng sập lại. Ngay khi thấy họng súng không còn chạm vào lưng nữa, Tonand hành động ngay. Ông nhảy sang bên trái, tránh xa cánh cửa giật, rồi lăn người đúng lúc chân chạm mặt boong, cùng lúc ấy Delta-Một quay sang Tolland xả đạn không thương tiếc. Tolland đã kịp nấp vào sau trục dây tời - một cái trục lớn gắn mô tơ, quấn quanh nó là hàng ngàn mét dây cáp bằng thép nối với mỏ neo, đạn găm vào mặt boong ngay sau lưng ông, lửa loé lên chíu chíu.

Tolland đã có một kế hoạch trong đầu và phải hành động thật nhanh. Trong khi người lính đặc nhiệm lao thẳng về phía ông, Toaand vươn cả hai tay lên, với lấy khoá neo, kéo mạnh xuống.

Ngay lập tức, cuộn dây neo bắt đầu quay, nhả cáp ra, tàu Goya tròng trành giữa dòng hải lưu chảy xiết. Chuyển động bất ngờ của con tàu khiến tất cả mọi người cũng như mọi vật trên boong nghiêng ngả. Do con tàu tiếp tục bị dòng hải lưu đẩy đi, cuộn dây neo mỗi ìúc một quay nhanh hơn, nhả nhiều cáp hơn.

Nhanh lên chút nữa nào, bé yêu. Tolland thầm giục con tàu của mình.

Delta-Một lúc này đã lấy lại thăng bằng, tiến lại chỗ Tolland.

Đợi cho con tàu thôi không lắc lư nữa, Tolland cố hết sức gạt khoá neo lên, khoá chặt cuộn dây tời. Sợi cáp bất thần bị kìm chặt lại, làm cho con tàu giật mạnh. Tất cả mọi thứ trên boong đều bị xô dạt.

Người lính đặc nhiệm ngã khuỳu xuống ngay cạnh Tolland.

Pickering bị hất ra khỏi lan can thành boong. Chiếc tàu lặn Triton được treo bằng dây cáp cũng lắc lư dữ dội.

Từ bên dưới thân tàu, tiếng thép gãy vang lên nhức óc, con tàu rung lắc dữ dội, một thanh giằng gãy rời ra. Mũi tàu Goya bắt đầu sụp xuống vì sức nặng của chính nó. Cả con tàu lớn chao đảo, nghiêng hẳn về một bên, y như chiếc bàn lớn vừa bị gãy mất một chân. Từ bên dưới vọng lên những âm thanh chói tai lọng óc - tiếng những thanh thép lớn bị vặn xoắn, tiếng thép nghiến vào nhau, tiếng sóng đập ầm ầm.

Mặt tái mét, ngồi trong khoang lái của tàu Triton, Rachel cố giữ thăng bằng khi cố máy nặng chín tấn lắc qua lắc lại bên trên cánh cửa giật lúc này cũng nghiêng hẳn về một bên. Nhìn qua đáy tàu bằng kính, cô thấy biển cả đang nổi cơn cuồng nộ. Ngước nhìn lên, Rachel lia mắt khắp boong tàu để tìm Tolland, cô sững sờ chứng kiến cảnh tượng đang bày ra trước mắt.

Cách tàu Triton chỉ một mét, bị kẹp chặt trong cánh tay máy, anh chàng đội viên Delta đang rú lên vì đau đớn, anh ta cũng bị hất qua hất lại như con rối bị gắn chặt vào cần điều khiển. William Pickering bị hất trượt đi một đoạn dài trên boong cho đến khi ông ta túm được cái cọc. Ở bên cần khoá neo, Tolland cũng đang bám thật chặt vào sợi dây cáp để khỏi bị văng xuống biển. Khi thấy người lính đặc nhiệm cầm súng máy cạnh Tolland đã lấy lại được thăng bằng, cô gào thật to:

- Mike, cẩn thận!

Nhưng Delta-Một không hề để ý đến Tolland. Người lính này đang há hốc miệng vì kinh hãi, mắt đờ đẫn nhìn chiếc trực thăng.

Rachel quay lại, nhìn về phía đó. Chiếc máy bay chiến đấu Kiowa, vẫn đang nổ máy, bắt đầu chầm chậm trượt về phía mũi tàu.

Những thanh trượt kim loại rất dài gắn dưới thân máy bay lúc này chẳng khác gì những thanh trượt tuyết trên dốc tuyết trơn nhẵn.

Đến lúc này Rachel mới nhận ra rằng cỗ máy khổng lồ đó đang lao thẳng tới tàu lặn Triton.

Leo ngược lên qua mặt boong dốc nghiêng, Delta-Một trèo lên khoang lái. Anh không định để cho phương tiện thoát thân duy nhất của họ lao xuống biển. Anh vồ lấy bảng điều khiển của máy bay và kéo vội cần gạt. Cất cánh đi nào! Động cơ rú ầm lên, cánh quạt bắt đầu quay, tạo lực phản lại để nâng chiếc máy bay nặng lên không trung. Lên đi! Chết tiệt thật! Chiếc máy bay vẫn trượt thẳng về phía tàu Triton và Delta-Hai đang bị treo lơ lửng trên cánh tay máy.

Vì mũi máy bay chúc xuống, nên cánh quạt nó cũng bị nghiêng. Vậy là khi chiếc máy bay rời boong tàu, nó lao thẳng về phía trước thay vì lên cao rồi tăng tốc lao thẳng vào tàu Triton chẳng khác gì một cái cưa máy có tốc độ cực lớn. Lên đi nào! Delta-Một kéo mạnh cần gạt, thầm ước có thể thả ngay tức thì nửa tấn đầu đạn Hellfire khỏi khoang máy bay. Cánh quạt sượt sát qua đầu Delta-Hai và mái vòm của tàu Triton, nhưng vận tốc của chiếc trực thăng quá lớn. Và nó không thể tránh được dây cáp treo tàu Triton.

Khi những cánh quạt thép dày và cứng của chiếc Kiowa quệt vào sợi tời bằng thép chịu trọng tải mười lăm tấn của chiếc tàu lặn mini, đêm đen dậy lên tiếng thép nghiến vào nhau nghe lộng óc.

Những âm thanh chát chúa khiến người ta nghĩ tới những trận huyết chiến thời Trung cổ. Ngồi trong cabin máy bay, Delta-Một thấy cánh quạt máy bay nghiến vào sợi tời thép y như cái cưa máy cực lớn đang nghiến phải sợi xích sắt. Lửa toé ra sáng loè, và cánh quạt máy bay rách tan tành. Delta-Một thấy máy bay rơi xuống, thanh đế của nó va mạnh vào boong tàu. Anh vẫn cố sức kéo mạnh cần gạt, nhưng máy bay không thể cất cánh lên được nữa. Chiếc máy bay đồ sộ nảy lên hai lần, rồi trượt dọc boong tàu dốc đứng, trượt về phía tay vịn bằng sắt ở mũi tàu.

Trong một tích tắc. Delta-Một tưởng tay vịn sắt kia sẽ giữ chiếc máy bay lại.

Rồi anh nghe thấy tiếng răng rắc. Chiếc máy bay to lớn nặng nề nghiêng lệch hẳn đi trên mép boong, rồi lộn nhào xuống biển.

Trong tàu Triton, Rachel Sexton ngồi sững sờ, toàn thân bị ép chặt vào thành ghế. Chiếc tàu mini bị chao đảo dữ dội khi cánh quạt máy bay quệt vào dây cáp, nhưng cô đã giữ được thăng bằng. Dù phần thân tàu không bị va vào cánh quạt, Rachel biết rằng sợi dây cáp đã bị phá huỷ trầm trọng. Trong giây phút này, ý nghĩ duy nhất xuất hiện trong tâm trí cô là phải thoát ra ngoài ngay lập tức.

Người lính đặc nhiệm bị kẹp trong cánh tay máy đang trân trối nhìn cô ánh mắt đờ dại, máu chảy ròng ròng, thân thể đầy vết bỏng do những mảnh kim loại nóng văng vào. Rachel thấy William Pickering vẫn đứng trên boong, tay bấu chặt vào cọc sắt.

Michael đâu nhỉ. Rachel không thấy ông đâu cả. Nhưng nỗi sợ hãi này chỉ kéo dài có một tích tắc rồi ngay lập tức bị thay thế bằng nỗi kinh hoàng khác. Trên đầu Rachel, sợi cáp bị cứa nát của con tàu phát ra những tiếng răng rắc khi những sợi thép nhỏ vốn được bện chặt vào nhau bắt đầu rời ra. Rồi một tiếng rắc lớn vang lên, sợi cáp đứt rời ra.

Có một tích tắc không trọng lượng, thân thể Rachel như bồng bềnh trong khoang lái khi chiếc tàu lặn rơi xuống. Boong tàu biến mất nhanh chóng, những cầu thang hẹp bên hông tàu Goya sượt qua trước mắt cô. Người lính bị khoá chặt trong cánh tay máy đờ người vì sợ hãi, anh ta chằm chằm nhìn Rachel khi con tàu tiếp tục lao thẳng xuống đại dương.

Thời gian như ngừng lại.

Khi chiếc tàu lặn nhỏ đập mạnh xuống mặt nước dưới gầm tàu Goyal nó nẩy bật lên rất mạnh, khiến cho Rachel bị ấn chặt xuống ghế. Xương sống của cô như bị chùn lại khi mặt nước nhanh chóng trùm lên nóc chiếc tàu lặn cỡ nhỏ Rachel như ngộp thở khi con tàu giảm dần tốc độ rồi từ từ nổi lên mặt nước, bập bềnh như cái nút chai.

Lũ cá mập tức thì lao xốc vào. Ngồi sau lớp kính bao quanh khoang lái. Rachel chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng bày ra trước mắt.

Delta-Hai thấy những cái đầu hình búa của lũ cá lao vào anh với sức mạnh của những hung thần. Một cái kẹp lớn sắc như dao khợp vào cánh tay anh, cắt vào đến tận xương, khoá cứng anh lại. Cảm giác đau đớn tột cùng xuyên suốt cơ thể khi con vật hung dữ lắc mạnh đầu, xé toạc cánh tay anh; xé rời ra khỏi cơ thể. Những con cá khác ùa vào. Vô vàn mũi dao nhọn đâm vào khắp hai cẳng chân. Thân mình. Cổ. Khi lũ cá đói xé toạc những phần thân thể anh và lôi đi, Delta-Hai không còn sức để thét lên, dù đau đớn đến tột độ.

Hình ảnh cuối cùng lọt vào mắt anh là một cái mồm lớn hình lưỡi hái, nghiêng về một bên, hai hàng răng nhọn hoắt lởm chởm trùm qua mặt anh.

Chỉ còn lại tăm tối…

Bên trong tàu Triton, tiếng những cái đau cứng va thùm thụp vào kính cuối cùng cũng không còn. Rachel mở mắt. Người lính ấy đã hoàn toàn biến mất. Những đợt sóng đỏ lòm vẫn đang tấp vào còn tàu trong suốt.

Rã rời, Rachel co người trên chiếc ghế, hai đầu gối thu trước ngực. Hình như con tàu đang di chuyển. Nó bị dòng hải lưu chảy xiết đẩy đi lúc lúc lại va vào thành boong dưới của tàu Goya. Rachel còn cảm nhận được một hướng nữa trong sự chuyển động này. Xuống dưới.

Bên ngoài, tiếng nước òng ọc chảy vào khoang đồ dùng vang lên rất rõ. Mặt nước đang dần dần nhích lên bên ngoài lớp kính bảo vệ bao kín lấy Rachel.

Mình đang chìm!

Luồng cảm giác kinh hoàng xuyên suốt toàn thân Rachel, cô đứng bật dậy. Với tay lên, cô túm lấy giàn khung thép trên đầu.

Nếu ra được ngoài nóc tàu, Rachel sẽ kịp nhảy lên boong dưới cùng của tàu Goya. Boong này giờ chỉ cách cô vài chục xăng ti mét.

Mình phải ra ngoài!

Trên khung nóc có những hàng chữ và mũi tên rõ ràng chỉ cách mở nắp tàu. Rachel thu hết sức mình. Nắp tàu không nhúc nhích.

Cô thử lại lần nữa. Không thấy dấu hiệu gì. Trục cửa đã bị kẹt cứng. Cong oằn hẳn xuống. Cảm giác sợ hãi dâng lên trong lòng, y như mặt biển đang dần dâng lên bên ngoài con tàu, Rachel thử đẩy mạnh lần cuối cùng.

Nắp tàu không nhúc nhích.

Tàu Triton đã chìm thêm vài inch nữa; nó xô vào thành tàu Goya lần cuối cùng trước khi chìm xuống dưới đáy con tàu méo mó tả tơi. Chìm xuống vùng biển sâu thăm thẳm.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 126


- Đừng làm thế. - Thấy Sexton đã photocopy xong xấp tài liệu, Gabrielle lại tiếp tục nài nỉ. - Thượng nghị sĩ đang hại chính con gái mình đấy!

Sexton tảng lờ như không nghe thấy gì, ông mang mười xấp tài liệu vừa photocopy lại bên bàn làm việc. Xấp nào cũng có những trang tài liệu mà Rachel gửi về, cả trang giấy viết tay với nội đung rằng tảng thiên thạch là giả và Nhà Trắng hoặc NASA đang tìm cách sát hại cô.

Cuộc họp báo tai tiếng nhất trong lịch sử, Sexton thầm nghĩ, bắt đầu xếp những xấp tài liệu vào mười chiếc phong bì lanh màu trắng. Trên mỗi phong bì đều có tên, địa chỉ văn phòng cũng như con dấu Thượng nghị sĩ của ông. Vụ tai tiếng chính trị của thế kỷ, Sexton thầm nghĩ, và mình sẽ là người đưa sự việc ra ánh sáng!

Gabrielle vẫn tiếp tục cầu xin cho sự an toàn của Rachel, nhưng Sexton không nghe thấy gì hết. Tay xếp tập phong bì, tâm trí vị Thượng nghị sĩ này đã lui vào trong một thế giới riêng nào đó sâu kín xa xăm. Sự nghiệp chính trị nào cũng bao gồm những giây phút có tính quyết định. Đây là thời điểm của chính mình.

Trong lời nhắn ghi trên máy, William Pickering đã nói rằng nếu công khai những thông tin này thì mạng sống của Rachel sẽ bị đe doạ. Không may cho Rachel, ngài Thượng nghị sĩ biết rõ rằng một khi ông đã công bố những tài liệu này, bất kỳ hành động liều lĩnh nào của Nhà Trắng hay NASA sẽ chỉ làm cho thắng lợi chính trị của ông trở nên vang dội hơn mà thôi, vang dội đến mức chưa từng có trên chính trường Hoa Kỳ.

Trong cuộc sống đôi khi phải đưa ra những quyết định khó khăn, ông thầm nghĩ. Và những người biết đưa ra những quyết định như thế sẽ là người chiến thắng.

Gabrielle Ashe đã từng thấy ánh mắt này của Sexton một lần.

Tham vọng mù quáng. Cô thấy sợ. Và Gabrielle đã nhận ra. Rõ ràng là Sexton đã chủ định phó mặc mạng sống của con gái mình để trở thành người đầu tiên công bố trò lừa đảo này của NASA.

- Chẳng lẽ Thượng nghị sĩ không thấy là ông đã nắm chắc phần thắng rồi hay sao? - Gabrielle hỏi. - Zach Herney và NASA không cách gì gượng dậy được sau vụ bê bối này. Bất kế ai là người công bố tin này! Bất kể khi nào nó được công bố! Hãy đợi đến khi biết chắc Rachel được an toàn đã. Đợi đến khi ông nói chuyện rõ ràng với Pickering đã chứ!

Nhưng Sexton không còn nghe nữa, ông ta mở ngăn kéo, lôi ra một tờ giấy nền có những con dấu bằng sáp mạ kền một mặt có keo khắc nổi tên mình. Gabrielle biết Thượng nghị sĩ thường dùng những con dấu này cho những lời mời chính thức, nhưng hiển nhiên là ông ta muốn màu đỏ của con dấu trên nền phong bì trắng sẽ tạo ấn tượng về một kịch bản chính trị mùi mẫn. Gỡ những con dấu sáp từ tờ giấy nến ra, ông ta lần lượt gắn những con dấu lên từng chiếc phong bì.

Lúc này, tim Gabrielle lồng lên vì phẫn nộ. Cô nghĩ đến những tờ séc bất hợp pháp được quét ảnh số hoá lưu trong máy tính của ông ta. Nếu Gabrielle nói hở ra thì lập tức ông ta sẽ xoá sạch.

- Ông đừng làm thế, - cô nói - nếu không tôi sẽ công bố mối quan hệ giữa hai chúng ta.

Sexton cười phá lên, tay vẫn không ngừng gắn những con dấu lên phong bì.

- Thật thế à? Và cô nghĩ rằng thiên hạ sẽ tin à? Một cộng sự máu mê quyền lực khước từ một chỗ làm trong chính quyền mới của tôi và tìm cách báo thù à? Tôi đã từng một lần phủ nhận sự dính líu đó, và cả thế giới đã tin. Tôi sẽ phủ nhận một lần nữa.

- Nhà Trắng có ảnh đấy. - Gabrielle tuyên bố.

Sexton không thèm ngẩng lên.

- Họ không có ảnh. Mà nếu có đi chăng nữa thì cũng hoàn toàn vô nghĩa. - Ông ta gắn con dấu cuối cùng. - Tôi đã có lá bùa hộ mệnh. Những phong bì này sẽ vô hiệu hoá bất kỳ đòn tấn công nào nhằm vào tôi.

Gabrielle biết ông ta nói đúng. Nhìn Sexton ngắm nghía công trình của mình, cô cảm thấy thật bất lực. Trên bàn lúc này là mười phong bì lanh màu trắng, trên mỗi phong bì đều đề tên, địa chỉ và gắn một con dấu sáp đỏ chói khắc lồng những chữ cái đầu tên của ông ta. Trông như những lá thư của Hoàng gia. Và chắc chắn nhiều người đã từng được phong vương vì những vấn đề còn lâu mới quan trọng đến thế này.

Sexton cầm xấp phong bì và chuẩn bị ra khỏi phòng. Gabrielle đứng lên chặn đường.

- Thượng nghị sĩ đang làm một việc sai lầm. Việc này có thể hoãn lại được mà.

Sexton nhìn xoáy vào Gabrielle:

- Này, chính tôi đã gây dựng cho cô, và giờ tôi trả cô về với con số không.

- Những giấy tờ Rachel fax về sẽ mang lại cho Thượng nghị sĩ chiếc ghế Tổng thống. Ông mắc nợ chị ấy.

- Tôi đã cho nợ rất nhiều thứ khác.

- Nhỡ có chuyện gì xảy đến với chị ấy thì sao!

- Thì chắc chắn tôi sẽ giành được nhiều lá phiếu vì thông cảm.

Gabrielle không thể ngờ những ý nghĩ ấy có thể xuất hiện trong đầu ông ta, càng không thể tin ông ta dám nói thẳng ra như thế. Kinh tởm, cô với điện thoại:

- Tôi sẽ điện cho Nhà..

Sexton quay phắt lại và tát mạnh vào mặt Gabrielle.

Gabrielle loạng choạng cảm thấy môi bị rách toạc. Cô lấy lại thăng bằng, bám lấy mép bàn, kinh ngạc nhìn người đàn ông mà cô đã từng ngưỡng mộ…

Sexton hằn học nhìn cô hồi lâu.

- Nếu cô tin là có thể cản bước được tôi nói cho mà biết, tôi sẽ khiến cô phải ân hận suốt quãng đời còn lại.

Ông ta đứng đó, kẹp xấp phong bì trong tay, mắt vằn lên tức tối.

Đến lúc Gabrielle ra khỏi toà cao ốc, ra ngoài trời đêm giá lạnh, môi cô vẫn tiếp tục chảy máu. Cô vẫy một chiếc taxi và lên xe. Lần đầu tiên từ ngày đặt chân đến Washington, Gabrielle đổ sụp xuống, khóc nức nở.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 127


Tầu Triton đang chìm…

Loạng choạng trên boong tàu nghiêng dốc, từ sau cuộn dây tời, Tolland nhìn về chỗ trước đó tàu lặn Triton vẫn được treo lủng lẳng bằng dây cáp. Rồi quay về phía mũi tàu, ông nhìn khắp mặt biển bên dưới. Tàu Triton đang từ dưới nước trôi dần lên. Thở phào thấy chiếc tàu nhỏ vẫn còn nguyên vẹn. Ông nhìn cửa tàu, mong được thấy Rachel mở cửa bước ra, nguyên vẹn và an toàn.

Nhưng nắp tàu vẫn đóng im ỉm. Tolland băn khoăn, hay Rachel đã bị văng ra ngoài khi con tàu nhỏ bị lắc mạnh và rơi xuống nước?

Dù ở tít trên cao, Tolland vẫn thấy ngay rằng tàu Triton đang ở rất thấp dưới mặt nước, thấp hơn nhiều so với ngấn nước thông thường của con tàu nhỏ này. Nó đang chìm! Tolland không thể hiểu lí do là gì, nhưng lúc này cái đó không hề quan trọng chút nâo.

Mình phải đưa Rachel ra ngoài! Ngay bây giờ!

Tolland vừa quay người định chạy ra mép boong thì một làn mưa đạn bay chíu chít quanh ông, bắn trúng vào cuộn dây tời bằng thép, lửa toé đỏ rực. Ông vội quỳ thụp xuống. Khỉ thật! Ông nhìn xuống phía đuôi tàu, và thấy Pickering đang đứng đó, súng chĩa thẳng về phía ông như người làm vườn đang cầm kéo hạ cành. Delta-Một đã quẳng súng để trèo lên chiếc phi cơ định mệnh, giờ thì Pickering đã nhặt khẩu súng lên. Lúc này ông ta đang đứng ở vị trí rất thuận lợi.

Bị kẹt sau cuộn dây tời, Tolland cúi xuống nhìn con tàu nhỏ đang chìm dần. Cố lên nào, Rachel! Ra đi nào! Ông đợi nắp tàu mở ra. Nhưng vẫn không thấy gì.

Quay lại nhìn quanh boong tàu Goya, Tolland ước lượng khoảng cách từ chỗ ông đang đứng đến lan can ở mép boong.

Khoảng bảy mét. Không có vật che chắn thì khoảng cách đó là quá lớn. Tolland hít một hơi thật sâu và hạ quyết tâm. Ông xé toạc áo sơ mi và quăng sang bên phải chỗ mặt boong trống trải. Trong khi Pickering nã đạn vào tấm áo vốn đã rách tơi tả, Tolland lao sang bên trái, dọc theo dốc nghiêng của boong tàu, đến bên lan can ông nhảy thật mạnh qua lan can, nhảy khỏi boong tàu. Lăng mạnh người trong không trung, ông nghe tiếng đạn réo khắp xung quanh, và biết rằng chỉ cần một vết xây xước nhẹ cũng đủ để ông trở thành mồi ngon của lũ cá mập đầu búa ngay khi chạm mặt nước.

Rachel Sexton cảm thấy mình giống như một con thú hoang bị sa bẫy. Hết lần này đến lần khác, cô ra sức mở nắp tầu, nhưng vô hiệu. Rachel nghe rõ tiếng nước ùng ục tràn vào một khoang nào đó bên dưới đáy tàu, và cảm nhận rõ ràng là trọng lượng của con tàu đang tăng dần lên. Làn nước đen thẫm đang từ từ dâng lên bên ngoài lớp vỏ tàu trong suốt, như tấm màn đen đang được kéo dần từ dưới lên…

Nhìn xuyên qua lớp vỏ tàu bằng kính, Rachel thấy biển mênh mông đen thẳm chẳng khác nào lăng mộ. Khoảng đen sẫm vô cùng ấy như muốn nuốt chửng cả cô lẫn con tàu vào lòng nó. Cô lại túm lấy núm vặn cánh cửa và cố sức quay, nhưng cái núm vẫn không hề nhúc nhích. Hai lá phổi của Rachel lúc này đã bắt đầu thấy đau, không khí trong khoang lái thật nặng mùi, lượng khí CO2 quá lớn khiến hai lỗ mũi cô cay xè.

Mình sắp bị chết chìm trong đơn độc.

Rachel nhìn mọi cần gạt và núm điều khiển của con tàu, nhưng tất cả các bảng chỉ dẫn đều đen ngòm. Không có điện. Cô bị mắc kẹt trong một hầm mộ bằng thép, và đang chìm dần xuống đáy biển.

Tiếng nước chảy ùng ục mỗi lúc một nhanh và mạnh hơn, chỉ còn chưa đến nửa mét nữa là con tàu sẽ chìm hẳn xuống nước. Xa xa, từ bên kia khoảng tối vô tận của mặt nước hiện ra một dải sáng màu đỏ ối. Bình minh đang lên. Rachel sợ, rất có thể đây sẽ là những tia sáng cuối cùng cô được trông thấy. Nhắm chặt mắt để khỏi phải thấy kết cục không tránh khỏi, Rachel chợt thấy những ác mộng ngày nào ùa về, tràn lấp toàn bộ trí não.

Ngã nhào qua lớp băng đang tan. Chừn xuống nước sâu.

Ngạt thở. Không thể nổi lên được. Chìm dần xuống.

Tiếng mẹ gọi thảng thốt: "Rachel! Rachel!"

Tiếng đập thình thình vào nắp tàu kéo Rachel khỏi cơn mơ. Cô mở mắt.

- Rachel! - Tiếng gọi nghe nghèn nghẹt. Một khuôn mặt ma quái hiện ra bên ngoài thân tàu, trong tư thế lộn ngược mái tóc đen bị nước đẩy rối tung. Phải nhìn thật kỹ Rachel mới nhận ra.

Michael!

Tolland trồi lên mặt nước, thở phào nhẹ nhõm thấy Rachel vẫn còn cử động. Rachel còn sống! Tolland sải tay thật mạnh, bơi vòng ra khoang máy của con tàu ở đằng sau cabin. Dòng nước chảy xiết nóng rát như muốn kéo ông xuống. Tolland tìm điểm tựa, khom người xuống để tránh đạn của Pickering vẫn đang tiếp tục nã xuống, và nắm thật chắc khoá vít khung nắp tàu.

Thân tàu Triton vẫn chưa bị chìm hẳn xuống nước, và Tolland biết nếu muốn cứu sống Rachel thì phải thật khẩn trương. Nóc tàu chỉ còn cách mặt nước có mười inch, và khoảng cách ấy đang rút xuống rất nhanh. Mở nắp con tàu sau khi nó đã chìm hẳn xuống có nghĩa là một luồng nước cực mạnh sẽ chảy tràn vào trong thân tàu, khoá chặt Rachel trong đó, và con tàu sẽ nhanh chóng chìm xuống tận đáy biển.

Hoặc là ngay lúc này, hoặc là không bao giờ.

Ông hít hơi thật mạnh, xiết chặt bánh răng điều khiển nóc tàu, xoay ngược chiều kim đồng hồ. Không nhúc nhích. Ông thử lại lần nữa, dồn toàn bộ sức mạnh cơ thể vào những ngón tay. Một lần nữa, nóc tàu không chịu nhúc nhích.

Ông nghe tiếng Rachel đang nói, bên kia lớp kính dày, đằng sau cánh cửa hình vòng cung:

- Em thử rồi! - Cô hét to. - Không mở được!

Nước bắt đầu dâng lên đến mép cửa trên nóc tàu Triton.

- Cùng xoay nào! - ông hét to bảo Rachel. - Em vặn xuôi chiều kim đồng hồ!

Ông biết chiều vặn núm đã được chỉ dẫn rõ ràng trên thành tàu.

- Nào!

Tolland tì người vào thùng đồ để có điểm tựa, lấy hết sức vặn thật mạnh. Bên trong tàu, Rachel cũng đang làm y như thế. Núm điều khiển xoay được khoảng một xăng ti mét rồi bị chết cứng.

Lúc này Tolland mới hiểu ra. Bờ mép của cánh cửa cong không còn được phẳng và đều như trước nữa. Giống như cái nắp chai đã bị đè chặt xuống và vặn hết cỡ, nó đã bị kẹt. Dù lớp đệm bằng cao su vẫn nguyên vẹn, mép sắt của nó đã bị bẻ cong, có nghĩa là cách duy nhất để mở cánh cửa này là dùng mỏ hàn.

Nóc tàu giờ đã chìm xuống dưới mặt nước, và Tolland chợt thấy sợ hãi đến tột cùng. Rachel Sexton sẽ không thể ra khỏi con tàu nhỏ này.

Bên dưới, cách con tàu gần một ngàn mét, chiếc máy bay Kiowa bẹp dúm dó đang chìm rất nhanh, nó đã trở thành tù binh của cả trọng lực lẫn sức hút của xoáy nước nóng khổng lồ dưới đáy biển.

Trong khoang lái, xác Delta-Một lúc này đã hoàn toàn biến dạng bởi áp lực nước.

Chiếc máy bay lao thẳng xuống, những đầu đạn Hellfire vẫn nguyên trên hai cánh, và vòm nham thạch nóng đỏ rực đang đợi sẵn dưới đáy biển. Dưới lớp tro dày ba mét là một vùng nham thạch đang sôi sùng sục ở một ngàn độ, một núi lửa mới sắp hình thành.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 128


Tolland đứng trên khoang máy của con tàu Triton đang chìm dần, nước đã dâng lên đến ngang gối, và ông vắt óc tìm cách đưa Rachel ra ngoài.

Không được để cho nó chìm!

Ông quay sang nhìn tàu Goya, nghĩ đến chuyện móc con tàu nhỏ này vào dây tời để giữ cho tàu Triton không chìm xuống quá sâu.

Không thể. Cuộn dây tời cách xa những năm mươi mét, và Pickering vẫn đang đứng trên cao, ở một điểm nhìn bao quát, y như một hoàng đế La Mã đang oai vệ ngồi bên chiếc ống nhòm Coloseum vấy máu.

Nghĩ đi! Tolland tự ra lệnh cho bản thân. Tại sao nó lại chìm?

Cơ chế phao của chiếc tàu ngầm này vô cùng đơn giản: Những bể đồ dằn được bơm đầy hoặc nước hoặc không khí để điều khiển con tàu di chuyển hướng lên trên hoặc xuống dưới.

Dĩ nhiên là nước đang vào trong các bể dằn.

Nhưng sao lại thế được?

Mọi bể dằn đều được lắp hai van - một ở trên và một ở dưới.

Van bên dưới, là "van lụt", luôn mở, trong khi van bên trên - van khí có thể mở ra hoặc đóng vào để cho phép nước chảy vào trong bể.

Hay là van khí đã bị mở vì lí do nào đó? Tolland không thể nghĩ ra nổi. Ông nằm xoài trên sàn khoang máy, tay lần tìm những lỗ van trên bể dằn. Van khí vẫn đóng. Nhưng trong khi lần tìm những cái van, Tolland còn phát hiện ra một điều nữa.

Các lỗ đạn! Khỉ thật! Khi Rachel nhảy xuống tàu, con tàu này đã bị trúng đạn rất nhiều. Tolland lập tức lặn xuống và bơi dưới đáy con tàu, tay lần khắp mặt dưới của bể dằn quan trọng nhất - bể âm. Người Anh gọi nó là "tàu cao tốc chạy xuống". Người Đức gọi nó là "đi giày đế chì". Cả hai cái tên đều phản ánh đúng chức năng của nó.

Khi đầy nước, bể âm kéo con tàu xuống dưới.

Lấy tay sờ bên thành bể, Tolland tìm thấy hơn chục vết đạn.

Nước đang chảy vào trong. Dù Tolland có muốn hay không thì chiếc tàu ngầm nhỏ này cũng sắp chìm đến nơi…

Nóc tàu lúc này đã cách mặt nước một mét. Bơi vòng qua mặt trước tàu Tolland áp sát mặt vào lớp vỏ kính để nhìn vào bên trong. Rachel đang ra sức đập ầm ầm vào lớp vỏ kính và hét to điều gì đó.

Nỗi sợ hãi trong giọng nói của cô càng khiến Tolland cảm thấy bất lực. Trong chốc lát, ông lại thấy mình trong bệnh viện lạnh lẽo, thấy người phụ nữ ông yêu sắp chết mà không biết làm gì để cứu. Bơi bơi trước con tàu, Tolland tự nhủ rằng ông sẽ không thể chịu đựng điều này thêm một lần nữa. Anh là người sống sót, Celia đã nói thế, nhưng Tolland không muốn sống một mình… thêm một lần nữa.

Phổi đau rát vì hết dưỡng khí, nhưng ông vẫn ở lại bên con tàu Mỗi lần Rachel đập mạnh vào kính, Tolland thấy bọt khí nổi lên, và con tàu lại chìm sâu xuống thêm một chút. Rachel đang nói với ông rằng nước lọt vào qua khe cửa sổ…

Cửa sổ quan sát bị rỉ nước sao? Thật khó tin. Hai lá phổi sắp nổ tung đến nơi, Tolland phải nổi lên. Vừa trồi lên vừa lấy tay sờ khắp gờ cửa sổ, ông phát hiện được một đoạn gioăng cao su đã bị trật ra.

Hoá ra một đoạn gioăng bên ngoài đã bị dập nát khi con tàu rơi xuống. Vì thế cho nên khoang lái mới chìm. Lại thêm một tin xấu.

Lên đến mặt nước, Tolland hít ba hơi thật dài, cố suy nghĩ cho thật mạch lạc. Nước vào trong khoang lái sẽ chỉ khiến cho con tàu chìm nhanh hơn. Con tàu giờ đã cách mặt nước một mét rưỡi, và phải rướn thì chân Tolland mới chạm được nóc tàu. Rachel vẫn đang đập mạnh vào thành tàu một cách tuyệt vọng.

Tolland chỉ nghĩ ra được một giải pháp duy nhất. Nếu ông lặn xuống chỗ khoang máy của tàu Triton và tìm được ống khí áp cao thì có thể dùng nó để bơm đẩy khoang âm. Dù bơm khí vào khoang dằn thủng là một việc làm vô ích, nhưng điều đó sẽ giúp cho con tàu nổi ở gần mặt nước thêm một phút nữa trước khi nó lại tiếp tục chìm xuống sâu hơn.

Sau đó thì sao?

Không nghĩ ra cách nào khác, Tolland chuẩn bị lặn xuống. Hít một hơi thật dài, ông cố kéo cho hai lá phổi giãn nở ra hết cỡ, giãn đễn phát đau. Thêm dung tích cho buồng phổi. Thêm khí oxy. Lặn được lâu hơn. Nhưng khi hai buồng phổi giãn ra, ép vào mạng sườn, một ý tưởng lạ lùng xuất hiện.

Nếu ông tăng áp suất bên trong khoang lái thì sao nhỉ? Cửa quan sát đã có một đoạn gioăng bị trật ra. Nếu tăng được áp suất trong buồng lái, ông có thể khiến cho khoang lái tách khỏi con tàu và cứu Rachel thoát ra.

Ông thở ra, dừng lại trên mặt nước thêm giây lát, xem xét tính khả thi của ý tưởng này. Chẳng phải làm thế là rất logic sao? Suy cho cùng thì tàu ngầm bao giờ cũng được thiết kế để chịu sức ép chỉ từ một phía. Chúng phải chịu được sức ép rất lớn từ bên ngoài, chứ không phải từ bên trong.

Thêm vào đó, để giảm thiếu số đồ phụ tùng dự trữ phải mang theo trên tàu Goya, tất cả các van trên tàu Triton đều cùng một loại. Có thể tháo van ở ống khí cao áp ra rồi lắp vào bộ phận điều khí cấp cứu bên phải thành tàu! Tăng áp suất như thế sẽ làm cho cơ thể Rachel vô cùng đau đớn, nhưng cũng có thể mở ra một con đường sống.

Tolland hít hơi thật sâu và lặn xuống.

Lúc này con tàu đã cách mặt nước gần hai mét rưỡi, và dòng hải lưu cùng với bóng tối khiến ông phải vất vả mới xác định được phương hướng, tìm được bể khí áp cao. Tolland nhanh chóng lắp vòi khí sang chỗ khác để chuẩn bị bơm khí vào khoang lái. Chạm tay vào miệng van, ông thấy một hàng chữ viết bằng sơn phản quang, và biết việc làm này nguy hiểm đến mức nào. CHÚ Ý: KHÍ NÉN - 3000 PSI.

Ba ngàn pound trên một inch vuông, Tolland suy tính. Hi vọng rằng áp suất sẽ khiến cho cửa quan sát bị bung ra trước khi Rachel bị dập nát phổi. Tolland nối vòi rồng dập lửa vào khoang lái của chiếc tàu ngầm với hi vọng rằng khoang lái sẽ nhanh chóng bị bật tung ta.

Ông chụp lấy khoá van, hạ quyết tâm. Lơ lửng trong nước, ở đằng sau khoang lái của tàu Triton, Tolland vặn khoá, mở van. Ngay lập tức cái vòi căng phồng lên, Tolland nghe tiếng khí tràn vào trong khoang lái với tốc độ cực cao.

Bên trong tàu Traton, Rachel chợt cảm thấy một cơn đau buốt nhới thọc mạnh khắp toàn thân. Cô hé môi, nhưng tiếng thét đau đớn chưa kịp bật ra thì không khí đã xộc mạnh vào, ép mạnh đến mức tưởng là hai lá phổi sắp nổ tung ra. Hai mắt như bị ấn sau mãi vào tận hộp sọ. Những tiếng ùng ùng vang rền trong tai, Rachel tưởng như sắp ngất lịm đi. Theo bản năng, cô nhắm nghiền mắt lại, lấy hai tay bịt chặt lỗ tai. Cảm giác đau đớn vẫn tiếp tục tăng thêm.

Rachel nghe tiếng đập thình thình ngay trước mặt. Cô dùng hết ý chí, hé hai mi mắt chỉ đủ để trông thấy bóng ma của Tolland trong nước biển tối sẫm. Mặt ông áp sát vào lớp vỏ tàu bằng kính.

Tolland đang ra hiệu bảo cô làm gì đó.

Cái gì nhỉ?

Phải thật căng mắt Rachel mới nhìn thấy Tolland trong bóng đêm đen kịt. Bị sức ép quá lớn, đồng tử của cô dường như đã biến dạng. Tuy thế, cô vẫn biết con tàu nhỏ đã chìm sâu xuống dưới quầng sáng phát ra từ tàu Goya. Khắp xung quanh lúc này chỉ còn một màu đen thăm thẳm.

Tolland bám vào vỏ tàu Triton, tiếp tục đập mạnh vào kính. Long ngực đau tức vì thiếu dưỡng khí. Ông biết một vài giây nữa thôi, ông sẽ phải nổi lên để lay hơi.

Đẩy mạnh vỏ kính đi! - ông ra lệnh cho Rachel bằng ánh mắt.

Tiếng bong bóng khí xì ra qua khe hở nghe rất rõ. Lớp gioăng đệm đã bị bục ra ở một điểm nào đó. Tolland lần lần khắp mép cửa sổ quan sát tìm một chỗ vênh lên để chêm ngón tay vào. Không thấy gì hết.

Phổi hết sạch dưỡng khí, tầm nhìn đã hẹp hẳn lại, ông đập mạnh vỏ kính con tàu thêm một lần cuối cùng. Lúc này đã không còn trông thấy Rachel được nữa. Tối đen như mực. Tận dụng chút dưỡng khí cuối cùng còn lại trong phổi, ông hét to:

Rachel… phá… vỏ… kính… đi!

Những lời nói ấy không phát thành tiếng, chỉ là những bọt khí nổi lên.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 129


Trong khoang lái tàu Triton, đầu Rachel dường như đang bị xiết chặt bằng những chiếc kẹp nhục hình thời Trung cổ oằn oại bên chiếc ghế duy nhất trong cabin, cô cảm nhận cái chết đã rất gần kề.

Trước mắt cô là khung cửa sổ quan sát trơ trọi. Tối đen. Không còn tiếng đập vào kính nữa…

Tolland không còn đó nữa. Ông đã bỏ mặc cô.

Tiếng không khí tiếp tục phun phì phì trên đầu làm cho Rachel nhớ đến những cơn gió katabatic trên phiến băng Milne. Nước trên sàn khoang lái giờ đã ngập đến gối. Hãy cho tôi ra ngoài! Muôn vàn ý tưởng và hồi ức bắt đầu bủa vây tâm trí như hàng ngàn tia sáng màu tím sẫm.

Trong bóng đêm thăm thẳm, con tàu bắt đầu nghiêng đi, Rachel mất thăng bằng. Lộn nhào khỏi chiếc ghế, cô ngã dúi về đằng trước, va mạnh vào cửa sổ vòm bằng kính. Vai đau ê ẩm.

Rachel ngã sụp xuống bên cạnh cửa sổ, và ngay lúc đó cảm thấy một sự khác biệt bất ngờ - áp suất đột nhiên giảm đáng kể. Những tiếng ùng ùng trong màng nhĩ giảm đi nhanh chóng. Rachel còn nghe thấy tiếng không khí đang xì mạnh ra ngoài.

Phải mất một tích tắc cô mới hiểu được những gì vừa diễn ra.

Khi ngã văng vào cửa sổ, sức nặng của Rachel làm cho tấm kính vốn đã bị hư hại lỏng ra để không khí bên trong thoát bớt ra ngoài. Rõ ràng là cái vòm kính này không đến nỗi quá kiên cố!

Rachel chợt hiểu ra vì sao Tolland cho tăng áp suất không khí trong khoang.

Mike muốn đẩy bung cánh cửa này ra!

Trên đầu cô, vòi khí áp cao vẫn tiếp tục phun phì phì. Nằm trên sàn, Rachel thấy áp suất lại bắt đầu tăng trở lại, lần này cô hân hoan đón nhận nó, dù áp suất cao khiến cô như sắp ngất đi.

Lồm cồm ngồi dậy, Rachel cố duỗi dài người, căng sức đẩy thật mạnh vào lớp vỏ kính.

Lần này không nghe thấy tiếng nước ồng ộc. Tấm kính không lay chuyển.

Cô lại một lần nữa lăng mạnh người vào tấm kính lớn. Không tác dụng. Vết toạc ở vai nhức buốt, Rachel cúi xuống nhìn. Máu đã khô lại. Rachel chuẩn bị lăng người lần nữa, nhưng không kịp. Con tàu ngầm tả tơi bất thần xoay nghiêng về phía trước. Buồng máy nặng đã xoay xuống bên dưới khoang lái và các bế dằn, tàu Triton bắt đầu lặn thụt lùi.

Rachel bị ngã ngửa trên sàn khoang lái. Nằm trong nước ngập lõm bõm, Rachel nhìn lên cửa quan sát lúc này đã ở thẳng trên đầu, nước vẫn tiếp tục rỉ vào trong, trông hệt như giếng trời trên mái của ngôi nhà nào đó.

Bên ngoài chẳng có gì ngoài bóng đêm… và hàng ngàn tấn nước đang ép xuống.

Rachel cố hết sức ngồi dậy, thân xác rã rời, kiệt quệ. Lại một lần nữa, tâm trí cô sống lại hồi ức về làn nước băng giá ngày nào.

- Cố lên, Rachel! Mẹ đang cố túm lấy tay Rachel để kéo lên. Nắm lấy tay mẹ!

Rachel nhắm nghiền mắt. Mình đang bị chìm. Hai chiếc giày trượt nặng như chì, kéo cô xuống. Trên mặt băng, mẹ đang nằm xoài ra để phân tán trọng lượng, chìa tay ra.

- Đạp đi, Rachel! Chân đạp mạnh vào!

Rachel cố sức quẫy chân thật mạnh. Người nhô lên được một chút xíu. Một tia hi vọng. Mẹ túm chặt tay Rachel.

- Thế! - Mẹ thét to. - Giúp mẹ kéo con lên! Đạp mạnh vào!

Vừa được mẹ túm tay kéo lên, Rachel vừa thu hết sức lực co chân đạp thật mạnh. Vừa đủ, mẹ kéo Rachel lên khỏi cơn hiểm nghèo. Mẹ kéo cô cơn gái ướt sũng nước thêm một đoạn nữa, rồi mới sụp xuống, khóc oà…

Giờ đây, trong khoang tàu ướt sũng và nóng nực, Rachel mở mắt nhìn vực thẳm bóng đêm chung quanh. Tiếng mẹ thì thầm từ trong mộ, vang vọng vào tận khoang tàu kín bưng.

- Đạp thật mạnh đi con.

Rachel ngước nhìn vòm kính trên đầu. Thu toàn bộ chút sinh lực cuối cùng, cô trèo lên chiếc ghế lúc này đã nẳm ngang hẳn ra y như ghế nha khoa. Nẳm ngửa, Rachel thu hai gối lại thật sát, hướng thẳng bàn chân về phía trước, và đạp thật mạnh. Miệng thét lớn tuyệt vọng nhưng dũng mãnh, Rachel sục chân thật mạnh vào tấm kính cong. Cảm giác đau buốt chạy dọc ống chân, xuyên lên tận óc. Đột nhiên thấy sấm nổ bên tai, áp suất tức thì giảm hẳn đồng thời với một tiếng rầm rất lớn. Đoạn gioăng bên trái vừa long ra, tấm kính bung ra như cánh cửa chuồng gia súc bị gãy bản lề.

Một luồng nước xộc vào cực mạnh ấn chặt Rachel vào lưng ghế. Nước biển ập vào khắp trong khoang, chảy ùa dưới lưng, nhấc cô ra khỏi ghế. Rachel bị tung lên lộn xuống như một chiếc bít tất trong máy giặt. Cô quờ tay tìm chỗ bấu, nhưng bị lẳng trượt đi.

Nước tràn vào lấp kín khoang lái, và con tàu nhỏ bắt đầu chìm thẳng xuống đáy biển. Rachel bị hất ngược lên nóc khoang, bị xoay đảo. Vô số bọt khí khí ùng ục xung quanh, xoay vần, kéo cô sang trái rồi lên trên. Mép kính vỡ sắc lẻm sượt qua hông.

Lập tức Rachel được giải thoát…

Vừa ra đến vùng nước đen đặc bóng đêm, hai buồng phổi đã thấy đau rát vì thiếu không khí. Phải ngồi lên mặt nước! Rachel nhìn quanh tìm ánh sáng, nhưng chẳng thấy gì. Hướng nào cũng hệt như nhau. Đen kịt. Không trọng lượng. Không biết đâu là trên, đâu là dưới.

Trong khoảnh khắc kinh hoàng đó, Rachel không biết phải bơi về hướng nào.

Cách Rachel hàng ngàn mét, sát đáy biển, chiếc trực thăng Kiowa nát nhừ đang lừ lừ chìm xuống do sức kéo của trọng lực. Mười lăm quả tên lửa chống tăng hạng nặng Hellfire AGM-114 vẫn nguyên trên bệ phóng, vỏ máy bay đã bị bẻ khum lại thành hình nón, và ngòi nổ của những quả tên lửa hơi thụt vào trong, đầy chết chóc.

Ở cách đáy biển ba mươi mét, cột magma phun trào hút mạnh máy bay Kiowa xuống, rồi kéo thẳng chiếc phi cơ đầy chết chóc vào giữa cái chóp đỏ rực của vòm nham thạch nóng. Như một loạt que diêm lần lượt đánh lửa do va mạnh vào thành hộp quẹt, chuỗi tên lửa Hellfire nổ tung, tạo thành một lỗ thủng toang hoác ngay giữa miệng vòm dung nham nóng đỏ.

Nổi lên lấy hơi xong, Tolland lặn xuống độ sâu ba mét và đang căng mắt tìm hình bóng Rachel trong bóng đêm đặc quánh thì những tên lửa Hellfire nổ tung. Luồng sáng trắng xoáy cuộn lên trên, soi sáng cả một vùng rộng lớn, một cảnh tượng kinh hoàng mà Tolland sẽ nhớ đến hết đời.

Bên dưới, cách ông ba mét, Rachel đang lập lờ như một con rối cũ nát nhàu nhò. Tít bên dưới, tàu Triton đang chìm xuống rất nhanh, miệng vòm mở toang. Lũ cá mập đều đang quay đầu bỏ chạy, chúng đã cảm nhận được con quái vật dưới đáy đại dương vừa vùng đứt tung xiềng xích.

Tâm trạng phấn khởi trong lòng Tolland khi thấy Rachel thoát được ra ngoài liền tắt lịm ngay bởi ông hiểu ra những hệ quả tiếp theo của biến cố này. Ghi nhớ vị trí của Rachel sau khi luồng sáng đã tắt, Tolland lặn sâu xuống, vươn tay túm chặt lấy cô.

Cách họ hàng ngàn mét, lớp vỏ dày bao phủ vòm dung nham vỡ vụn ra, núi lửa ngầm trong nước lập tức phun trào, phụt luồng nham thạch một ngàn hai trăm độ C vào lòng biển. Luồng magma nóng lập tức làm bốc hơi toàn bộ lượng nước bao quanh nó, tạo thành luồng khí phụt mạnh lên mặt biển theo phương thẳng đứng, đúng tâm miệng núi lửa. Bị chi phối bởi cơ chế động học hệt như những cơn lốc xoáy ở vùng nhiệt đới, luồng năng lượng phụt mạnh lên trên cân bằng với vòng nước xoáy nghịch hướng xuống dưới bao quanh nó, chuyển năng lượng theo hướng ngược lại.

Di chuyển theo hình xoắn ốc quanh cột khí đang phụt mạnh lên, luồng hải lưu mạnh lên nhanh chóng, giật, xoáy. Cột khí vọt lên tạo thành một vùng chân không rộng lớn hút hàng ngàn ga-lông nước xuống dưới, tiếp xúc với cột nham thạch nóng rẫy.

Xuống đến nơi, đến lượt luồng nước này hoá hơi và cần có chỗ để thoát ra, vì thế hơi nóng tiếp tục khiến cho luồng khí phụt lên trên lớn thêm lên, kéo thêm nhiều nước nữa xuống dưới đáy. Càng nhiều nước bị hút xuống tiếp xúc với cột nham thạch, xoáy nước càng rộng ra và mạnh thêm, cứ mỗi tích tắc trôi qua, đỉnh của nó lại càng tiến sát lên mặt biển.

Một lỗ đen trong lòng đại dương vừa chào đời.

Rachel thấy mình giống như một đứa bé nằm trong bựng mẹ. Đêm đen ẩm và ướt bao kín lấy cô. Trí não mụ đi vì sức nóng tác động vào từng lỗ chân lông. Thở. Rachel vật lộn kìm nén phản xạ, tự nhiên ấy. Luồng sáng vừa loé lên chắc chắn là từ trên mặt biển, nhưng sao thấy xa xăm quá. ảo ảnh đấy. Ngoi lên mặt nước nào. Một cách yếu ớt, Rachel bơi về hướng phát ra ánh sáng. Cô thấy ánh sáng rực rỡ hơn… Một vùng đỏ kỳ lạ ở tít xa. Ánh bình minh chăng?

Cô sải tay mạnh thêm…

Một bàn tay túm lấy cổ chân Rachel.

Suýt nữa thì Rachel kêu thét lên, hắt nốt chút dưỡng khí cuối cùng ra khỏi buồng phổi.

Bàn tay ấy kéo, rồi xoay Rachel về hướng ngược lại hai bàn tay thân thuộc ôm chặt lấy Rachel - Michael Tolland - ông kéo Rachel theo hướng ngược lại.

Trí não cô cho rằng ông kéo cô xuống dưới. Nhưng con tim khẳng định rằng Michael biết rõ ông đang làm gì.

Chân đạp mạnh đi con, lại tiếng mẹ thì thầm.

Rachel cố sức đạp thật mạnh.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 130


Dù cả hai người đã lên được đến mặt nước, Tolland nghĩ rằng họ không thể sống sót. Vòm magma đã phun trào. Ngay khoảnh khắc xoáy nước khổng lồ kia lan đến mặt nước, trận cuồng thuỷ bạo tàn sẽ kéo tất thảy mọi thứ xuống tận dưới đáy. Lạ thay, - mặt nước không còn là bình minh yên ả mấy giây trước đó nữa. Ầm ỹ kinh khủng. Gió quất như thể một trận bão vừa nổi lên trong những giây phút ngắn ngủi, ông lặn xuống dưới.

Tolland gần như lả đi vì thiếu oxy. Ông cố kéo Rachel, nhưng cô đang bị kéo tuột khỏi tay ông. Dòng thuỷ triều! Tolland cố xiết chặt hai tay, nhưng Rachel càng bị kéo đi mạnh hơn. Bất thần, ông tuột tay, và Rachel bị kéo phăng mất - lên phía trên…

Choáng váng, Tolland thấy Rachel bị kéo lên khỏi mặt nước.

Trên cao, chiếc trực thăng cánh quạt nghiêng đang kéo Rachel lên. Trước đó 20 phút, đội cứu hộ đã nhận được tin báo về vụ nổ ngoài biển. Do mới bị mất liên lạc với chiếc máy bay Dolphin đang làm nhiệm vụ ngoài biển, họ nghĩ đến tai nạn. Nhập toạ độ mới nhất của chiếc trực thăng Dolphin vào hệ thống lái tự động, họ thầm cầu nguyện.

Từ cách xa nửa dặm, họ đã nhìn thấy con tàu Goya sáng trưng đang chao đảo trên dòng hải lưu chảy xiết. Ngay gần con tàu là người đàn ông đang ra sức vẫy tay. Họ kéo ông ta lên. Toàn thân người này trần như nhộng, trừ một cẳng chân quấn đầy băng dính nhựa. Kiệt sức. Tolland ngước lên nhìn chiếc trực thăng cánh quạt nghiêng đang gầm rú trên đầu. Cánh quạt máy bay thốc xuống những đợt gió vô cùng mạnh. Rachel được kéo tít lên cao, rồi được rất nhiều cánh tay đỡ vào trong khoang. Đang vui mừng thấy Rachel được cứu thoát, Tolland chợt trông thấy một khuôn mặt quen thuộc ngay cạnh cửa máy bay.

Corky? Tim ông đập rộn. Anh vẫn còn sống đấy à?.

Ngay lập tức, dây tời được thả xuống, và nó chạm mặt biển cách ông khoảng ba mét. Tolland muốn bơi đến đó, nhưng đã bắt đầu cảm nhận thấy sức hút của xoáy nước. Nước như đang ôm chặt lấy ông, không chịu nhả ra.

Xoáy nước kéo ông xuống. Tolland ngồi lên, nhưng toàn thân rã rời. Anh là người sống sót, ông nghe thấy có người động viên mình. Tolland quẫy chân thật mạnh, ngồi lên đến mặt nước, cố nhoài sang, nhưng vẫn chưa chạm được sợi dây. Xoáy nước lại kéo ông xuống. Ngước lên, giữa gió thốc, giữa tiếng ồn, ông bắt gặp ánh mắt của Rachel. Cô đang nhìn xuống, như muốn dùng nhãn lực để kéo ông lên.

Lấy hết sức, Tolland bơi bốn sải và với được sợi đây. Với chút sức lực cuối cùng, ông chui đầu, luồn hai tay vào trong lưới móc rồi ngã vật xuống.

Ngay lập tức mặt biển lùi xuống phía dưới.

Tolland cúi xuống và nhìn thấy xoáy nước vừa hiện ra. Xoáy nước khủng khiếp quanh núi lửa ngầm cuối cùng đã lan lên đến mặt biển.

Đứng chết sững trên boong tàu Goya, William Pickering trân trân nhìn cảnh tượng đang bày ra trước mắt. Ngay bên phải mũi tàu, một vùng trũng như lòng chảo vừa xuất hiện trên mặt biển. Xoáy nước rộng hàng trăm mét, và đang nở rộng ra nhanh chóng. Khắp nơi dậy lên những tiếng ầm ào vọng lên từ sâu thẳm đại dương.

Nhìn hố nước trũng lòng chảo đang tiến lại phía mình như một con quỷ đói đang ngoác sẵn mõm sẵn sàng nhận vật hiến tế, Pickering thấy đầu óc hoàn toàn tê liệt.

Chắc mình đang mơ, ông ta nghĩ.

Bất thần, một tiếng nổ lớn làm kính cửa sổ của còn tàu Goya vỡ loảng xoảng, rồi một luồng hơi nóng phụt lên từ chính giữa xoáy nước. Tiếp đến là những tiếng gầm réo dữ dội, rồi một cột nước phun thẳng lên bầu trời tối sẫm.

Ngay lập tức, xoáy nước mạnh hẳn lên, bán kính của nó rộng hẳn ra, và tâm xoáy nhanh chóng di chuyển về phía con tàu mà William đang đứng. Mũi tàu Goya chao đảo rồi hướng thẳng vào giữa cái hang lớn đang hoác miệng trên mặt biển kia. Pickering mất thăng bằng, quỵ xuống. Ông trân trối nhìn xuống vực thẳm khổng lồ vừa hình thành trên mặt biển, như thể một đứa bé đang đứng trước Chúa.

Những suy nghĩ cuối cùng của Pickering đều hướng về con gái Diana. Hi vọng rằng trước khi chết con bé không phải trải qua cảm giác kinh hoàng như ông lúc này.

Những chấn động do cột hơi nóng bốc lên từ núi lửa ngầm đẩy chiếc máy bay phản lực Osprey dạt sang một bên. Rachel và Tolland xiết chặt tay nhau trong khi các phi công giúp chiếc phi cơ lấy lại thăng bằng rồi sà xuống thật thấp bên tàu Goya. Họ thấy Pickering - tín đồ Quaker mộ đạo - mặc áo khoác đen, đeo cà vạt đen, đang quỳ trên boong chính.

Đuôi tàu lắc mạnh rời xoay hẳn về phía mắt xoáy nước, dây néo bị đứt. Tàu Goya trôi lùi về phía tâm xoáy, mũi tàu gần như dựng hẳn lên, rồi bị hút thẳng xuống miệng vực sâu hoắm ở chính giữa dòng xoáy khủng khiếp ấy. Vào khoảnh khắc tàu Goya bị nuốt chửng giữa lòng đại dương, những bóng đèn điện trên tàu còn vẫn sáng rực.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 131


Bình minh trên thành phố Washington thật trong trẻo và thoáng đãng.

Gió nhẹ thổi thốc những chiếc lá khô trên mặt đất, tạo thành một vòng xoáy nhỏ vàng rộm gần tượng đài Washington. Thường thì tượng đài lớn nhất thế giới này lặng lẽ soi bóng xuống mặt hồ Refleding, nhưng sáng nay rất nhiều nhà báo đang đã tự tập ở nơi này, họ đang nôn nóng đứng dưới chân tượng đài, chờ đợi.

Bước ra từ chiếc xe Limousine, tự cảm thấy bóng mình trải ra lồng lộng, Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton sải bước về phía đám nhà báo dưới chân tượng đài. Ông đã mời đến đây đại diện của mười tờ báo lớn nhất toàn quốc và hứa hẹn với họ về một vụ tai tiếng tầm cỡ thế kỷ…

Để hấp dẫn bầy kền kền thì mùi xác thối quả là nhất hạng! - Sexton nghĩ thầm…

Trong tay Sexton là xấp phong bì bằng vải lanh trắng có đóng con dấu nổi khắc ba chữ S lồng vào nhau hết sức tao nhã. Nếu thông tin là quyền lực thì hôm nay ông đang có trong, tay một quả tên lửa màng đầu đạn hạt nhân.

Chân sải bước về bục diễn thuyết, Sexton cảm thấy chuếnh choáng trong hơi men danh vọng. Ông hài lòng nhận thấy bục diễn thuyết của mình hôm nay đã có sẵn hai "hàng rào danh dự" - hai tấm vách ngăn trông như những tấm rèm màu xanh lính thuỷ ở hai cánh bên của bục diễn thuyết - một giải pháp mà Ronald Reagan đưa ra để tránh làm loãng sự chú ý của cử toạ khi ông ta phát biểu.

Sexton lên bục từ bên phải, ông bước ra từ phía sau tấm vách ngăn, hệt như diễn viên bước ra từ sau cánh gà. Cánh nhà báo nhanh chóng ngồi xuống những hàng ghế ngay sát bục diễn thuyết. Phía đông, Mặt trời đang nhô lên từ mái vòm Capitol, chiếu những tia sáng rực rỡ xuống vai Sexton, hệt như những ha sáng từ thiên đàng rọi xuống…

Quả là một ngày lý tưởng để trở thành người quyền thế nhất hành tinh.

- Xin chào quý vị. - Sexton đặt xấp phong bì lên bục và nói. - Tôi sẽ trình bày một cách hết sức ngắn gọn và từ tốn. Thật thà mà nói thì những thông tin tôi sắp chia sẻ với quý vị quả là rất đáng lo ngại. Bên trong những phong bì này là bằng chứng về vụ lừa dối ở cấp cao nhất trong Chính phủ. Tôi rất buồn phiền phải kể cho các vị biết rằng cách đây nửa giờ Tổng thống đã gọi cho tôi để cầu xin, thế đấy, xin tôi đừng công khai những bằng chứng này. - Ông lắc đầu ra vẻ kinh khiếp. - Nhưng tôi là người tôn trọng sự thật. Bất kể sự thật đó đau xót đến chừng nào.

Sexton ngừng một lát, giơ xấp phong bì lên, kích dộng đám nhà báo. Mắt họ đánh sang trái rồi sang phải, nhìn như muốn nuốt chửng xấp phong bì, chẳng khác gì lũ chó đói đang rỏ nước rãi trước miếng ngon chúng chưa bao giờ được nếm thử.

Cách đây nửa giờ, Tổng thống đã gọi cho Sexton để giải thích mọi chuyện. Từ một chiếc phi cơ nào đó, an toàn, Rachel đã trao đổi với Tổng thống. Thật kinh ngạc, hoá ta cả Nhà Trắng lẫn NASA đều vô tội và vô can, thất bại này chính thuộc về William Pickering.

Cũng chẳng khác gì nhau, Sexton thầm nghĩ. Zach Herney sẽ lụn bại trong chớp mắt.

Sexton ước gì ông bỗng hoá thành một chú ruồi bé xíu và bay vào trong Nhà Trắng để được thấy vẻ mặt của Tổng thống khi ông ta biết rằng thông tin đã bị công khai. Sexton đã thoả thuận gặp ông ta tại Nhà Trắng đúng vào giờ này để thảo luận cách thức thông báo tin này với công chúng. Rất có thể lúc này Zach Herney đang đứng trước một tivi nào đó, kinh ngạc đến sững sờ thấy rằng Nhà Trắng không còn khả năng thay đổi định mệnh được nữa.

- Thưa các bạn. - Sexton nhìn thẳng vào mắt cử toạ và lên tiếng. - Tôi đã phải suy nghĩ rất nhiều, cũng đã từng nghĩ đến chuyện thuận theo ý Tổng thống và giữ bí mật những thông tin tôi đang có, nhưng tôi không thế lừa dối lương tâm mình.

Sexton thở dài, ngửa cổ lên một chút, ra vẻ mệt mỏi vì trách nhiệm nặng nề trước lịch sử.

- Sự thật là sự thật. Tôi không hề có ý định áp đặt chính kiến của cá nhân tôi đối với các vị. Tôi sẽ chuyển những dữ liệu này đến tay các vị một cách mộc mạc và không thiên kiến.

Sexton nghe thấy tiếng cánh quạt máy bay trực thăng phành phạch từ xa vọng lại. Ông băn khoăn, biết đâu vì quá lo sợ nên Tổng thống lại đích thân đến tận đây để cản trở cuợc họp báo này

Nếu thế thì chẳng khác nào đem kem đến phết lên bánh gatô hộ mình, Sexton đắc chí nghĩ thầm. Lúc đó vẻ mặt ăn năn hối lỗi của ông ta sẽ như thế nào nhỉ?

- Tôi chẳng sung sướng gì khi phải làm thế này. - Sexton nói tiếp, cảm thấy mình đã chọn được thời điểm hoàn hảo nhất cho sự kiện này - Nhưng nghĩa vụ của tôi là phải cho nhân dân Mỹ biết rằng họ đã bị lừa dối.

Chiếc phi cơ ầm ầm đến sát trên đầu rồi hạ cánh xuống khoảng đất trống bên phải bục diễn thuyết. Sexton liếc nhìn sang, và ngạc nhiên thấy không phải máy bay của Tổng thống mà chỉ là loại trực thăng cánh quạt nghiêng Osprey…

Trên thân máy bay có hàng chữ ĐỘI CỨU HỘ BỜ BIÊN HOA KỲ.

Bối rối, ông chăm chú nhìn cửa khoang lái mở ra và một phụ nữ bước xuống. Người này mặc chiếc áo khoác màu da cam của Đội Cứu hộ Bờ biển và có vẻ rũ rượi như vừa trải qua một trận chiến. Cô ta tiến về phía cánh nhà báo. Mất một lúc Sexton mới bất thần nhận ra.

Là Rachel sao? Miệng ông ta há hốc. Con bé làm cái quái gì ở đây kia chứ?

Đám đông bắt đầu xì xào bàn tán.

Gắn lên mặt nụ cười rộng ngoác, Sexton quay lại nhìn đám nhà báo và giơ ngón tay lên làm hiệu xin lỗi.

- Xin các vị thứ lỗi cho giây lát. Tôi rất lấy làm tiếc. - Ông lại làm bộ thở dài. - Gia đình là trên hết.

Mấy nhà báo phá lên cười.

Thấy con gái đang phăm phăm tiến lại, Sexton tính rằng cuộc hội ngộ cha con này nên kín đáo một chút. Phiền thay, lúc này thì thật khó mà kín đáo cho được. Sexton nhìn ngay sang tấm vách ngăn bên tay phải.

Vẫn mỉm cười một cách điềm tĩnh, Sexton giơ tay vẫy con gái và bước khỏi bục diễn thuyết. Ông khéo léo chọn hướng đi để cho Rachel buộc phải đi vòng ra sau vách ngăn thì mới có thể giáp mặt ông. Hai cha con gặp nhau ngay sau vách ngăn, khuất khỏi tai mắt của cánh nhà báo.

- Con yêu! -Ông mỉm cười, giang rộng tay khi Rachel tiến lại. Cha ngạc nhiên quá!

Rachel bước lên và vả vào giữa mặt Sexton.

Khuất sau tấm vách ngăn, chỉ có hai cha con với nhau. Rachel trừng mắt nhìn cha mình một cách đầy khinh bỉ. Bị tát như trời giáng. Ông chỉ cố kiềm chế bản thân, không phản ứng ngay. Nụ cười giả dối tan biến, thay vào đó là ánh mắt đầy giận dữ.

Sexton giằn giọng:

- Con không đến đây thì hơn đấy.

Rachel nhận thấy ánh giận dữ điên cuồng trong mắt cha, nhưng lần đầu tiên trong đời cô không cảm thấy sợ hãi.

- Con đã cầu cứu bố, còn bố thì bán đứng con gái của chính mình! Suýt nữa thì con mất mạng!

- Con khoẻ mạnh sờ sờ ra đấy thôi. - Sexton nói, vẻ thất vọng.

- NASA vô tội! " Rachel nói. - Tổng thống đã nói với bố rồi kia mà! Bố đang làm gì ở đây thế?

Hành trình về Washington của cô trên chiếc phi cơ của Đội Cứu hộ Bờ biển Osprey đã bị cắt ngang bởi vô số cuộc điện đàm giữa cô với Nhà Trắng, với cha cô, cả với Gabrielle Ashe nữa.

- Bố đã hứa với Zach Herney là sẽ vào Nhà Trắng cơ mà!

- Đúng thế! - Sexton cười khẩy, - Sau ngày bầu cử.

Rachel tưởng phát ốm khi nghĩ rằng người đàn ông này chính là cha đẻ của mình.

- Những gì bố sắp làm là vô cùng điên khùng.

- Thế à? - Sexton cười hô hố. Ông ta quay lại và chỉ tay về bục diễn thuyết đằng sau tấm vách ngăn. Trên bục, một xấp phong bì màu trắng được xếp ngay ngắn. - Những chiếc phong bì kia chứa những thông tin do chính con đã gửi về. Chlnh con. Rachel ạ. Tay con đã vấy máu của Tổng thống rồi đó.

- Con gửi cho bố những thông tin đó vì lúc ấy con tưởng NASA và Tổng thống có tội. Lúc đó con cần sự trợ giúp của bố!

- Căn cứ vào những tài liệu đó thì chắc chắn là NASA có tội chứ còn gì nữa!

- Nhưng không phải thế! Họ xứng đáng có được cơ hội tự thú nhận sai lầm của mình. Thắng lợi đã thuộc về bố rồi. Zach Herney đã hết thời? Bố biết thế còn gì! Hãy để cho ông ấy giữ lại một chút thể diện.

Sexton rên lên.

- Thật quá khờ khạo. Đây không chỉ là chuyện thắng cử, Rachel ạ. Đây là vấn đề quyền lực, là chuyện chiến thắng tuyệt đối những hành động vĩ đại, tiêu diệt đối thủ, và kiểm soát các thế lực ở Washington để có thể làm những gì mình muốn.

- Và cái giá phải trả là gì?

- Con đừng có lên mặt đạo đức thế. Bố chỉ công bố các chứng cứ mà thôi. Mọi người có quyền tự kết luận xem ai có tội, ai không.

- Bố thừa biết mọi người sẽ nghĩ thế nào.

Sexton nhún vai.

- Mà cũng đã hết thời của NASA rồi.

Thượng nghị sĩ Sexton biết cánh nhà báo đang ngồi sốt ruột lắm rồi, và ông không định đứng đây cả buổi sáng để nghe con gái thuyết giáo. Vinh quang đang đợi ông.

- Thôi nhé! - ông nói. - Các nhà báo đang đợi bố.

- Con gái duy nhất của bố đang cầu xin đấy. - Rachel nài nỉ. - Bố đừng làm thế. Bố hãy nghĩ mà xem. Còn có cách khác hay hơn kia mà?

- Bố không thấy thế.

Có tiếng lạo xạo vang lên trong hệ thống loa ở phía sau, Sexton quay lại và trông thấy một nữ nhà báo đến muộn giờ đang lom khom bên bục diễn thuyết, xoay xở đặt máy ghi âm của mình vào cạnh những chiếc máy khác đã được sắp xếp sẵn.

Sao những kẻ đần độn này không thể đến đúng giờ được cơ chứ!

Sexton cáu kỉnh.

Luống cuống, nhà báo kia vừa làm đổ cả chồng phong bì của ông xuống đất.

Chết tiệt! Sexton quay lại, thầm nguyền rủa cô con gái đã làm ông bị xao lãng. Ông quay về đến bục diễn thuyết khi nhà báo kia đang lúi húi nhặt những chiếc phong bì nằm ngổn ngang trên mặt đất. Sexton không trông rõ mặt cô ta, nhưng rõ ràng đây là người của bên truyền hình - áo khoác vải cashemere dài chấm gót, khăn choàng vai cùng màu, mũ bê rê đội lệch có gắn phù hiệu của đài ABC.

Đồ đần, Sexton nghĩ thầm.

- Đưa cho tôi. - Sexton đưa tay ra và giật lấy xấp phong bì.

Cô ta nhặt chiếc phong bì cuối cùng rồi giao cả xấp lại cho Sexton, vẫn không ngẩng mặt lên. Tôi xin lỗi… - Cô ta lắp bắp, vẻ bối rối. Cúi rạp xuống vì ngượng, cô ta len vào giữa đám đông.

Sexton nhanh tay đếm lại xấp phong bì. Mười. Tốt lắm. Hôm nay ông sẽ không để bất cứ kẻ nào cuỗm mất đòn sấm sét trong tay. Xếp lại chồng phong bì cho ngay ngắn, ông chỉnh lại micro rồi mỉm cười hài hước nhìn đám đông.

- Có lẽ tôi nên chuyển cho các vị những phong bì này trước khi có người bị thương vì chúng!

Tất cả cười phá lên, lộ rõ vẻ háo hức.

Sexton cảm thấy Rachel vẫn còn ở đây, ngay đằng sau tấm vách ngăn, bên cạnh sân khấu.

- Đừng làm thế. - Rachel vẫn tiếp tục nài nỉ. - Rồi bố sẽ hối tiếc cho mà xem.

Sexton tảng lờ.

- Bố hãy tin con. - Rachel lớn giọng. - Đây là một hành động sai lầm.

Sexton nhấc xấp phong bì lên; vuốt thẳng các mép.

- Bố ơi. - Giọng Rachel lúc này đầy khẩn thiết. - Đây sẽ là cơ hội cuối cùng để bố chọn con đường đúng đắn đấy.

- Đúng cái gì cơ chứ. - Sexton lấy tay bịt micro lại và làm ra vẻ đang hắng giọng. Ông kín đáo liếc nhìn sang Rachel. - Đúng là mẹ nào con nấy, nhỏ nhen và hão huyền. Đàn bà làm sao hiểu được thế nào là quyền lực cơ chứ?

Quay lại nhìn đám nhà báo đang chen chúc nhốn nháo, Sexton quên hẳn con gái mình. Ngẩng cao đầu, ông đi vòng quanh bục diễn thuyết và đưa phong bì cho những cánh tay chìa sẵn chờ đợi. Ông thấy xấp phong bì nhanh chóng được phân phát. Ông nghe tiếng lớp xi gắn bị bẻ gẫy, tiếng vải phong bì bị xé nát như lũ trẻ con đang háo hức mở quà Giáng sinh.

Cả đám đông đột nhiên ồ lên.

Trong tích tắc, tất cả lặng phắc, Sexton cảm nhận rõ ràng sự nghiệp của mình đang ở giây phút bước ngoặt.

Tảng thiên thạch là giả mạo. Và mình chính là người khui ra vụ việc.

Sexton biết phải mất một lúc thì các nhà báo mới hiểu hết ý nghĩa của những tài liệu họ đang cầm trong tay: ảnh chụp cắt lớp lỗ khoan bên dưới tảng thiên thạch trong lòng phiến băng, một loài động vật biển rất giống những mẫu hoá thạch của NASA, bằng chứng về những chrondrule được hình thành trên trái đất. Những chứng cứ này sẽ đưa đến những kết luận đầy choáng váng.

- Thưa Thượng nghị sĩ. - Một phóng viên lắp bắp, mặt lộ rõ vẻ ngỡ ngàng. - Những cái này là thật chứ ạ?

Sexton thở dài vẻ sầu não.

- Đúng thế. Tôi e rằng tất cả đều là sự thật.

Những tiếng xì xào bàn tán gỉờ bắt đầu lan khắp đám đông.

- Tôi dành cho quý vị một chút thời gian để xem qua những trang đó, - Sexton nói. - Sau đó tôi sẽ trả lời các câu hỏi của quý vị và cố gắng giải thích cặn kẽ về những tài liệu các vị đang cầm trong tay.

- Thưa Thượng nghị sĩ. - Một nhà báo khác lên tiếng, vẻ quá choáng váng. Những hình ảnh này là thật chứ ạ?… Không bị chỉnh sửa gì chứ ạ?

- Một trăm phầm trăm. - Sexton đáp, giọng chắc nịch. - Nếu không thì tôi đã không cung cấp cho các vị những chứng cứ này.

Đám đông càng tỏ ra phân vân, và hình như có ai vừa cười phá lên, khác hẳn những phản ứng mà ông trông đợi. Sexton bắt đầu sợ rằng các nhà báo không đủ hiểu biết để nắm được nội dung của những trang tài liệu này.

- Dạ, thưa Thượng nghị sĩ. - Một người lên tiếng, vẻ mặt khoái trá một cách kỳ quái. - Xin ngài hãy khẳng định một cách chính thức rằng những bức ảnh này là thật.

Sexton bắt đầu phát cáu.

- Thưa các bạn, tôi xin khẳng định lần cuối cùng những bằng chứng này là thật một trăm phần trăm. Nếu có người chứng minh được điều ngược lại thì tôi sẽ nuốt chửng cái mũ của tôi!

Sexton đợi những tiếng cười, nhưng chẳng nghe thấy gì hết.

Im lặng chết chóc. Những cái nhìn ngỡ ngàng.

Tay phóng viên vừa lên tiếng tiến lại phía Sexton, vừa đi vừa lật qua lật lại những tờ giấy trên tay.

- Thượng nghị sĩ nói đúng, những bức ảnh này quả là vô cùng tai tiếng. - Anh ta ngừng lời, gai đầu gãi tai. - Điều chúng tôi đang băn khoăn là tại sao lúc này ngài lại cho chúng tôi xem những bức ảnh này, trong khi trước đây ngài đã lớn tiếng bác bỏ toàn bộ sự việc.

Sexton không hiểu anh ta đang nói về cái gì. Người phóng viên đưa cho ông ta xấp ảnh. Sexton nhìn tập giấy, và trong chốc lát đầu óc ông như mê đi.

Ông không nói được nên lời.

Ông đang thấy những bức ảnh lạ hoắc. Ảnh đen trắng. Hai người. Hoàn toàn loã thể. Tay chân xoắn xuýt vào nhau. Lúc đầu ông không hiểu. Rồi ông vỡ lẽ. Sét đánh ngang mày.

Kinh hoàng, Sexton ngẩng lên nhìn đám nhà báo. Họ đang cười. Một số đã bấm máy gọi về trụ sở của họ.

Có người vỗ vai Sexton.

Mụ mẫm, ông quay lại nhìn.

Rachal đang đứng đó.

- Con đã hết lời khuyên can. - Cô nói.

- Chúng tôi đã cho ông cơ hội. - Một phụ nữ đứng cạnh Rachel lên tiếng. Cô ta chính là nhà báo mặc áo khoác cashmere và đội mũ bê rê nỉ - người ban nãy đã làm rơi xấp phong bì. Trông thấy mặt cô ta, máu trong huyết quản Sexton lập tức đông quánh lại.

Đôi mắt xám nhạt của Gabrielle đang rọi thẳng vào tận tâm can của Sexton.

Cô cúi xuống và mở khuy áo khoác, để lộ ra một tập phong bì trắng ngay ngắn kẹp ở cánh tay.

 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 132


Trong phòng bầu dục, chỉ có một luồng sáng dịu nhẹ duy nhất toả ra từ ngọn đèn bàn chân đồng trên bàn làm việc của Herney.

Đầu ngẩng cao, Gabrielle Ashe đang đứng trước mặt Tổng thống. Bên ngoài cánh cửa sổ sau lưng ông, ánh hoàng hôn đang trải dài trên thảm cỏ phía tây của Nhà Trắng…

- Tôi được thông báo rằng cô quyết định sẽ ra đi. - Herney lên tiếng, vẻ thất vọng.

Gabrielle gật đầu. Rất tử tế, Tổng thống đã hứa sẽ bảo đảm cho Gabrielle một nơi an toàn ngay trong Nhà Trắng để tránh cánh nhà báo, tuy nhiên Gabrielle không muốn tránh bão ngay tại mắt bão. Cô muốn đi càng xa càng tốt. Ít nhất là trong thời gian trước mắt.

Tử sau bàn làm việc của mình, Herney chăm chú nhìn cô gái trẻ Gabrielle, hành động của cô sáng nay thật là… - Ông ấp úng, hình như không thể nói nên lời. Ánh mắt của ông thật chân thành và giản dị, khác hẳn cặp mắt sâu bí hiểm một thời đã hút cô tới bên Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton. Ngay giữa trung tâm quyền lực này, Gabrielle vẫn cảm nhận hết sức rõ ràng sự nhân hậu, nhân cách và danh dự trong ánh mắt của Tổng thống, ánh mắt mà cô sẽ không dễ gì quên được.

- Hành động đó cũng là vì lợi ích của chính tôi mà. - Gabrielle đáp lời Herney gật đầu.

- Dù sao thì tôi cũng rất biết ơn cô. - Ông đứng dậy, ra hiệu bảo cô gái đi theo mình ra đại sảnh. - Thực ra tôi đã hi vọng rằng cô sẽ ở lại đây một thời gian, và hi vọng rằng sẽ có dịp bố trí cô vào bộ phận gây quỹ tranh cử của tôi.

Gabrielle quay sang, hoài nghi nhìn Tổng thống:

- Chặn đứng thâm thủng và khởi đầu tái thiết sao, thưa Tổng thống?

Ông cười.

- Cũng đại loại như vậy.

Chắc Tổng thống cũng đồng ý với tôi rằng lúc này thì tôi sẽ là gánh nặng cho Tổng thống thay vì một cộng tác viên hiệu quả.

Herney nhún vai:

- Sau vài tháng là tất cả sẽ chìm vào quên lãng. Rất nhiều người đã phải trải qua những hoàn cảnh tương tự như cô lúc này, nhưng rồi vẫn trở thành những người vĩ đại. - Ông nháy mắt tinh nghịch:

- Một số thậm chí còn trở thành Tổng thống Hoa Kỳ nữa cơ đấy.

Gabrielle biết đó là sự thật. Mới thôi việc có vài giờ mà cô đã phải từ chối hai đề nghị cộng tác - của Yolanda Cole ở đài ABC và của tạp chí St. Martin (với những ưu đãi đặc biệt, nếu cô đồng ý xuất bản cuốn tự thuật về bản thân - thật nhầy nhụa). Không, tôi xin kiếu.

Chân bước theo Tổng thống dọc hành lang, tâm trí Gabrielle quay về với những bức ảnh của mình giờ này chắc đã được phát trên hầu hết những kênh truyền hình lớn nhỏ.

Nếu không thế thì đất nước này sẽ phải chịu những tổn thất vô cùng khủng khiếp, cô tự nhủ, khủng khiếp hơn thế nhiều lần.

Sau khi đến trụ sở Đài Truyền hình ABC để lấy lại tập ảnh và mượn thẻ nhà báo của Yolanda Cole, Gabrielle đã một lần nữa lẻn vào văn phòng của Sexton để lấy những chiếc phong bì lanh màu trắng và in tất cả những bằng chứng về hành vi ăn đút lót của ông ta. Sau cuộc chạm trán ở đài tưởng niệm Washington, Gabrielle đã giơ những bằng chứng ấy sát vào khuôn mặt lúc bấy giờ đã thất thần của ngài Thượng nghị sĩ rồi tuyên bố yêu sách: Hãy để cho Tổng thống có cơ hội thú nhận sai lầm của bản thân ông ấy, nếu không tất cả những bằng chứng này sẽ tiếp tục bị đem công bố. Thượng nghị sĩ Sexton chỉ nhìn thoáng tập tài liệu trên tay Gabrielle rồi lầm lũi chui vào trong chiếc Limusine của mình và đi thẳng. Từ lúc ấy đến giờ không ai trông thấy ông ta ở đâu nữa…

Lúc này, họ đã đến cửa sau của phòng thông tin, và Gabrielle nghe thấy tiếng ồn ào của cánh báo chí đang nôn nóng chờ đợi ở bên trong. Lần thứ hai trong vòng hai mươi tư giờ đồng ho, cả thế giới lại nóng lòng nghe thông điệp Liên bang thứ hai của Tổng thống.

- Tổng thống sẽ nói với họ như thế nào? - Gabrielle hỏi.

Herney thở dài, vẻ mặt yẫn rất điểm tĩnh.

- Suốt bao năm qua, tôi đã học đi học lại một bài học lớn… - Ông đặt tay lên vai Gabrielle, cười mỉm - Không gì có thể thay thế được sự thật.

Gabrielle chợt thấy dạt dào cảm giác tự hào khi nhìn Tổng thống sải bước vào phòng. Zach Herney sắp phải thừa nhận sai lầm lớn nhất trong đời, và kỳ lạ thay, chưa lúc nào cô thấy Tổng thống vĩ đại hơn lúc này.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 133


Rachel tỉnh giấc, căn phòng tối mịt.

Đồng hồ treo tường chỉ mười giờ mười bốn phút đêm. Không. Phải giường của cô. Rachel nằm im không nhúc nhích, băn khoăn không hiểu mình đang ở chỗ nào. Rồi mọi sự kiện dần dần hiện lên trong đầu… Vòm magma ngầm dưới nước… Buổi sáng nay ở đài tưởng niệm Washington… Tổng thống mời cả nhóm ở lại trong Nhà Trắng.

Mình đang ở trong Nhà Trắng, Rachel nhận ra. Mình đã ngủ suốt cả ngày.

Theo lệnh của Tổng thống, chiếc trực thăng của Đội Cứu hộ Bờ biển đã chở Micheal Tolland, Corky Marlison và Rachel Sexton từ đài tưởng niệm Wasinhton về thẳng Nhà Trắng. Họ được chiêu đãi một bữa hết sức thịnh soạn, được các bác sĩ khám cẩn thận, và được chọn bất cứ phòng nào mà họ thích trong số mười bẩy phòng ngủ của Nhà Trắng để phục hồi sức khoẻ.

Họ đã nhận lời.

Rachel không tin nổi rằng mình đã ngủ suốt từ lúc ấy đến giờ.

Cô mở tivi, kinh ngạc thấy Tổng thống Herney đã kết thúc cuộc họp báo. Cả hai nhà khoa học và Rachel đã tỏ ý muốn xuất hiện cùng Tổng thống khi ông công bố trước toàn thế giới sự thật đáng buồn về tảng thiên thạch. Đây là lỗi chung của tất cả chúng ta. Nhưng Herney nhất mực đòi nhận hết trách nhiệm về mình.

- Thật đáng buồn, - bình luận viên chính trị đang xuất hiện trên màn hình nói, - rốt cuộc thì NASA không hề phát hiện được bằng chứng về sự sống trên vũ trụ. Đây là lần thứ hai trong vòng một thập niên NASA có những kết luận sai lầm về những tảng thiên thạch mang dấu hiệu về sự sống ngoài trái đất. Tuy nhiên, lần này thì một số nhà khoa học tiếng tăm đã phải chịu trận cùng với họ.

- Thường thì, - một nhà phân tích khác tiếp lời - có thể khẳng định rằng một vụ lừa gạt tai tiếng thế này sẽ huỷ hoại toàn bộ sự nghiệp của Tổng thống… Tuy nhiên, xem xét những sự kiện vừa diễn ra sáng nay tại đài tưởng niệm Washington, phải nói là cơ hội tái đắc cử Tổng thống của Zach Herney lúc này đang lớn hơn bao giờ hết.

Nhà phân tích kia gật đầu đồng tình:

- Tóm lại là không có sự sống trong vũ trụ, nhưng cũng chẳng còn sức sống trong chiến dịch tranh cử của Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton. Lí do là lúc này, khi những thông tin tiếp tục được đưa ra về vấn đề gây quỹ bất hợp pháp của ông Thượng nghị sĩ…

Tiếng gõ cửa thu hút sự chú ý của Rachel.

Michael, cô hi vọng. Rachel nhanh chóng tắt tivi rồi ra mở cửa phòng. Cô chưa nhìn thấy ông suốt từ sau bữa sáng. Đặt chân vào đến Nhà Trắng, cô chỉ có một khát khao duy nhất - được ngủ trong vòng tay của Michael. Cô biết chắc ông cũng cùng chung khát khao ấy, nhưng Corky đã xía vào. Ông ta nằm chung giường với Michael và thao thao bất tuyệt kể đi kể lại chuyện ông ta đã tự đái vào chân mình. Cuối cùng, vì quá mệt mỏi. - Michael và Rachel đành bỏ cuộc. Mỗi người về một phòng ngủ riêng.

Giờ đây, vừa bước tới cánh cửa, Rachel vừa tranh thủ liếc mắt vào gương, và thấy mình ăn mặc quả là kỳ dị. Trong ngăn tủ chỉ có duy nhất một chiếc áo len bó hiệu Pen State. Chiếc áo dài đến gối trở thành áo ngủ của Rachel.

Tiếng gõ cửa lại vang lên.

Rachel mở cửa, thất vọng thấy chỉ là một nữ nhân viên mật vụ của Nhà Trắng. Cân đối và xinh xắn, cô gái mặc chiếc áo cộc đồng phục màu xanh nước biển.

- Thưa cô Sexton, quý ông ở phòng Lincoln nghe tiếng cô mở tivi. Ông ấy nhờ tôi nói với cô là nếu cô thức dậy rồi thì… - Cô gái nhướng mày, ngừng lời, rõ ràng là đêm nay chẳng có vị khác nào tổ chức chiêu đãi ở tầng trên cùng của Nhà Trắng cả…

Rachel đỏ mặt, da nóng ran.

- Cảm ơn cô.

Cô nhân viên mật vụ dẫn Rachel đi dọc theo hành lang được trang trí cực kỳ đẹp mắt, đến bên cánh cửa gỗ giản dị.

- Đây là phòng ngủ Lincoln. - Cô gái nói. - Tôi có nhiệm vụ phải đứng canh ở ngoài cửa. Chúc chị ngủ ngon, cẩn thận có ma đấy.

Rachel gật đầu. Những huyền thoại về ma trong phòng Lincoln thì ai cũng biết. Người ta kể lại rằng Winston Churchil đã trông thấy bóng ma của Lincoln trong phòng này, và vô số người khác nữa, bao gồm Eleanor Rooservelt, Amy Carter, diễn viên Richard Dreyfuss, và không biết bao nhiêu người quản lý cũng như nhân viên phục vụ. Người ta còn kể rằng cơn chó yêu của Tổng thống Reagan đã sủa hàng tiếng đồng hồ trước cửa căn phòng này.

Nghĩ đến hồn ma của những nhân vật lịch sử ấy, Rachel chợt nhận ra căn phòng này linh thiêng biết chừng nào. Đột nhiên cô cảm thấy ngượng ngùng - mặc chiếc áo lùng thùng, chân không, cô chẳng khác gì một nữ sinh năm thứ nhất đại học đang định lẻn vào phòng ngủ của bạn trai. - Có ngại không nhỉ? - Cô thì thào hỏi nữ nhân viên mật vụ. - Đây là phòng ngủ Lincoln cơ mà.

Cô nhân viên trẻ nháy mắt tinh nghịch:

- Phương châm của chúng em ở tầng này là: Không hỏi gì, và cũng không nói gì cả.

Rachel mỉm cười.

- Cảm ơn em.

Bị kích thích bởi những gì chờ đợi mình sau cánh cửa, Rachel đưa tay định xoay quả đấm.

Rachel!

Từ tít cuối hành lang, một giọng nói khê khê vang lên đầy hăm hở.

Cả Rachel lẫn cô nhân viên mật vụ đều quay lại. Corky Marlinson đang lạch cạch chống nạng tiến lại, lúc này chân ông ta đã được băng bó tử tế

- Tôi cũng bị mất ngủ mới hay chứ!

Rachel ngồi sụp xuống, có lẽ cuộc hẹn hò bí mật của bọn họ lại sắp tan thành mây khói một lần nữa.

Corky đưa mắt nhìn cô nhân viên mật vụ trẻ trung xinh xắn, rồi cười thật tươi:

- Tôi rất thích ngắm những cô gái đẹp mặc đồng phục!

Cô nhân viên kéo áo khoác ngoài sang một bên, để lộ ra khẩu súng giắt bên mạng sườn.

Corky lùi ngay lại.

- Đã ngắm sẵn mục tiêu rồi cơ đấy! - Ông ta quay sang hỏi Rachel - Mike cũng thức dậy rồi à? Cô có vào không? - Corky có vẻ rất háo hức muốn được nhập bọn.

Rachel rên rỉ:

- Corky này, thực ra thì..

- Thưa tiến sĩ Marlinson. - Cô nhân viên mật vụ xen vào, tay rút từ túi áo ra một mẩu giấy. - Theo những chỉ dẫn đã được ghi sẵn trong này, thì ông Tolland lệnh cho tôi phải hộ tống ông xuống nhà bếp, yêu cầu đầu bếp nấu cho ông bất cứ món gì ông muốn, và nhờ ông giải thích thật chi tiết làm thế nào mà ông đã tự bảo vệ được bản thân trước cả đàn cá mập bằng cách… - cô nhân viên trẻ ngừng một lát, làm bộ nhíu mày rồi đọc tiếp - … bằng cách tự tè vào chân mình.

Rõ ràng là cô gái vừa đọc lên những lời thần diệu. Corky quẳng ngay cái nạng gỗ xuống đất và quàng tay lên vai cô gái:

- Bé yêu, thế thì chúng ta xuống nhà bếp nào.

Không nghi ngờ gì nữa, Corky cảm thấy vô cùng sung sướng khi được cô nhân viên mật vụ trẻ dìu đi.

- Vấn đề cốt yếu chính là nước giải, - Rachel nghe thấy ông ta đang lớn tiếng giải thích - bởi vì những thuỳ khứu giác của chúng có thể đánh hơi thấy mọi thứ!

Vào trong. Rachel nhận thấy phòng Lincoln rất tối. Cô ngạc nhiên thấy giường trống không và nguyên xi chưa ai đụng đến.

Chẳng thấy Michael Tolland đâu cả.

Một cây đèn dầu cổ đang toả sáng gần chiếc giường, và trong ánh sáng dịu nhẹ của nó, Rachel phải căng mắt mới nhìn thấy tấm thảm Brussel…, chiếc giường bằng gỗ hồng có chạm trổ nổi tiếng… chân dung Marry Todd - phu nhân của Tổng thống Lincoln… và cả chiếc bàn nơi Lincoln đã từng ký Sắc lệnh Giải phóng nô lệ.

Đóng cánh cửa sau lưng lại, Rachel thấy bàn chân trần của mình đang dẫm lên trên mặt sàn lạnh. Michael đâu nhỉ? Một ô cửa sổ để ngỏ, tấm rèm lụa trắng đang lay động. Rachel bước tới đóng cửa sổ lại, và những tiếng thì thầm kỳ quái vang lên từ sau tủ cốc chén…

Ma…rrr…ry…

Rachel quay lại.

Ma…rrr…ry…? - Tiếng thì thầm ấy lại vang lên lần nữa. – Có phải cô đấy không? hả Mary Todd Liiiiincoln?

Rachel đóng nhanh hai cánh cửa sổ và đến bên tủ đựng cốc chén. Dù biết rõ là không có ma, tim cô vẫn đập thình thịch.

"Mike, em biết đấy là anh mà!

- Khôooong… - Giọng nói ấy vẫn tiếp tục. Không phải Mike đâu, tôi là Aaaabe.

Rachel đứng chống nạnh:

- Thật thế sao, hả ngài Abe trung thực?

Có tiếng cười khe khẽ.

- Abe hơi trung thực một tí,… tôi đây.

Lúc này thì cả Rachel cũng cười phá lên.

- Cô phải sợợợợ chứ. Phải rất sợ mới đúng chứ!

- Tôi không sợ đâu.

- Làm ơn sợ chút xíu đi nào… - Giọng nói ấy rên rỉ. Đặc điểm tâm lý của loài người là cảm giác sợ hãi và khoái cảm tình dục có liên hệ trực tiếp với nhau đấy.

Rachel cười phá lên.

- Đây là ý tưởng của anh để khơi mào đấy à?

- Hãy tha lỗi cho tôiiiii… - Giọng nói ấy lại vang lên lần nữa. Đã lâuuuu lắm rồi tôi chưa gần gũi bất cứ phụ nữ nào.

- Rõ ràng là thế. - Rachel vừa nói vừa mở tủ đựng cốc chén.

Michael Tolland đứng trước mặt cô, đôi môi đỏ cười thật tươi.

Ông mặc bộ pijama lụa màu xanh lính thuỷ thật quyến rũ. Trên ngực áo lại còn có cả phù hiệu của Tổng thống nữa.

- Quần áo của Tổng thống à?

Tolland nhún vai. Tôi tìm thấy trong ngăn kéo tủ.

Và em cũng chẳng tìm được gì ngoài chiếc áo len này.

- Đáng ra em nên chọn phòng ngủ Lincoln.

- Đáng ra anh phải có lời mời chứ!

- Anh nghe nói tấm thảm trải sàn này tồi lắm, vải lông ngựa cổ đấy.

Tolland nháy mắt tinh nghịch, đưa tay chỉ hộp quà xin xắn trên mặt bàn khảm đá cẩm thạch.

- Cái này sẽ đền bù cho sự bất tiện đó.

Rachel cảm động:

- Dành cho em ư?

- Tôi đã nhờ một trợ lý của Tổng thống tìm mua cho em đấy. Vừa mang về đến đây. Em đừng lắc nhé.

Rachel cẩn thận mở lớp giấy bọc, nhấc ra một vật nằng nặng.

Đó là một hình cầu bằng pha lê, bên trong có hai con cá sần sùi xấu xí màu cam đang bơi lội. Rachel nhìn chăm chú, thất vọng, không hiểu.

- Anh đùa phải không Mike?

- Helostoma temmincki đấy. - Ông tuyên bố đầy tự hào.

- Anh mua cá vàng để tặng em sao?

- Loài cá hôn của Trung Hoa cực kỳ hiếm gặp đấy. Vô cùng lãng mạn.

- Cá chẳng có gì lãng mạn cả. Mike ạ.

- Em thử nói điều đó cho mấy chú cá này nghe xem nào? Chúng sẽ hôn nhau hàng giờ liền cho mà xem.

- Lại là một mánh nữa của anh để mào đầu đấy à?

- Anh không được lãng mạn lắm. Thôi thì em cho anh điểm thái độ và nỗ lực vậy.

- Từ sau trở đi, Mike, nhớ là cá chẳng bao giờ trở thành màn dạo đầu lãng mạn cả. Phải dùng hoa.

Tolland chìa ngay ra bó hoa lili trắng từ nãy vẫn giấu sau lưng. - Anh định đi tìm hồng đỏ, - Ông phân trần, - nhưng suýt nữa thì ăn phải mấy phát đạn của cảnh vệ vì định đột nhập vào vườn hồng.

Tolland kéo Rachel vào lòng, hít hít mái tóc thơm tho của cô, ông thấy những vết chai sần trong tim sau bao năm cô đơn lập tức mềm dịu lại. Michael hơn nồng nàn, và thân thể nóng ấm của Rachel cũng quấn chặt lấy ông. Bó lili trắng bị buông rơi, Tolland thấy tất cả những bức tường vô hình bao kín trái tim ông từ bao lâu đang tan chảy hết.

Bóng ma đã biến mất.

Rachel đang đẩy ông từng bước một về phía chiếc giường, nàng thì thầm vào tai ông:

- Anh thật sự nghĩ rằng loài cá cũng biết sống đắm say à?

- Thật chứ. - Ông vừa đáp vừa hôn Rachel nồng nàn. - Em hãy thử xem nghi lễ tình yêu của loài sứa mà xem. Lãng mạn và say đắm vô cùng.

Rachel ấn Tolland nằm ngửa xuống chiếc giường trải đệm vải lông ngựa, thân thể mảnh mai của nàng ép chặt lên người ông.

- Và loài cá ngựa… - Tolland nói, ông như tan chảy dưới bàn tay của Rachel đang vuốt về bên ngoài lớp áo pijama lụa. - Lũ cá ngựa…, còn có điệu nhảy tỏ tình tuyệt mĩ vô song.

- Nói chuyện cá thế đủ rồi. - Rachel thì thầm, cởi cúc áo pijama của Mike. - Nói em nghe anh biết gì về những nghi thức tình yêu của loài linh trưởng nào.

Tolland thở dài.

- E rằng loài linh trưởng thì anh lại không hiểu biết lắm.

Rachel ném áo len xuống sàn.

- Không sao, nhà khoa học tự nhiên ạ. Chắc anh sẽ học nhanh thôi mà.

Trên bầu trời Nam Cực, chiếc máy bay vận tải của NASA đang nghiêng hẳn cánh sang một bên.

Trên máy bay, Giám đốc Lawrence Ekstrom nhìn lại lần cuối tảng đá khổng lồ bị cháy xém trong khoang hàng. Hãy về với biển, ông thầm nghĩ, nơi chú mày đã được hình thành.

Theo lệnh của Ekstrom, người phi công mở cửa khoang hàng thả tảng đá xuống. Hai người chăm chú nhìn tảng đá lớn rơi xuống từ sau thân máy bay, tạo thành một hình cung trên bầu trời chan hoà ánh nắng rồi biến mất dưới cột bọt nước tung lên trắng xoá.

Tảng đá khổng lồ chìm rất nhanh.

Dưới nước, ở độ sâu một trăm mét, ánh sáng rất yếu, chỉ đủ để tảng đá xù xì hiện lên mờ mờ. Chìm thêm hai trăm mét nữa, tảng đá xuống đến vùng đêm đen vĩnh cửu.

Nó tiếp tục rơi xuống rất nhanh.

Xuống sâu hơn nữa.

Tảng đá cứ tiếp tục chìm sâu xuống trong suốt mười hai phút.

Thế rồi, y như một tảng thiên thạch đâm vào nửa tối của Mặt trăng, tảng đá đâm sầm xuống đáy biển đầy bùn, khiến cho bùn bị khuấy tung lên. Giây lát sau, khi bùn đã bắt đầu lắng dần, một trong vô vàn loài sinh vật biển bơi đến để thám thính vật thể lạ kỳ quặc mới xuất hiện.

Nó thấy chẳng có gì đáng chú ý, nên bỏ đi ngay.

[1] Sadomasochsim (tiếng Anh) - ác dâm (N.D).

[2] Smoke - khói; Mirror - gương (N.D)

[3] LOBSTER - Lonely Oceanic Biologist Sharing Totally Eccentric Research.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom