Cập nhật mới

Dịch Full Người Đưa Tin

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20: Luân đôn


Bức tranh Marguerite Gachet đến trước Zizi, nó nằm trong thùng sau xe tải nhỏ, được ngụy trang cẩn thận, do một tài xế chuyên nghiệp lái đến từ ga Luân Đôn. Rồi nó được bí mật chuyển vào phòng tranh Isherwood thông qua khu bốc dỡ hàng hóa an toàn. Có hai gã thuộc đội bảo vệ của Wazir bin Talal theo dõi việc vận chuyển. Hai gã này yên vị trên một chiếc xe hơi đậu tại đường Duke, chính Jafar Sharuki, cận vệ cao cấp, cũng đang ngồi nhấm nháp món khoai tây chiên tại một quán bar cạnh phòng tranh của Isherwwod. Thư điện tử xác nhận tranh đã vận chuyển đến nơi an toàn được nhóm đặc vụ gửi đến nhà Surrey vào lúc 3 giờ 18 phút chiều. Dina nhận thư, và đọc thành tiếng cho Gabriel nghe. Lúc này anh đang đi đi lại lại trên tấm thảm cũ rích trải trong phòng khách. Thi thoảng anh ngừng bước, nghiêng đầu như đang lắng nghe tiếng nhạc văng vẳng từ xa, rồi lại tiếp tục cuộc hành trình đi tới đi lui trong phòng khách.

Trong Gabriel là cảm giác bất lực của một nhà viết kịch của đêm chính thức mở màn. Anh đã tạo ra nhân vật, diễn tập lời thoại với họ và sắp chứng kiến họ biểu diễn trên sân khấu. Đó là Isherwood trong trang phục đen sọc trắng với cà vạt đỏ may mắn của mình, anh ta uống nước và tranh thủ nhấm nháp móng tay ngón trỏ trái để giảm căng thẳng. Chiara ngồi sau mặt bàn gương bóng loáng, tóc búi cao, chân bắt tréo, còn Sarah, thanh lịch với bộ trang phục Chanel đen mua ở cửa hàng Harrods trước đó hai tuần, ngồi thẳng trên trường kỷ trong phòng trưng bày trên lầu. Cô đăm đăm nhìn bức họa Maguerite Gachet nhưng tâm trí lại nghĩ đến tên hung thần sắp sửa bước ra khỏi thang máy trong hai tiếng nữa. Nếu anh có thể phân lại vai diễn, có thể đó sẽ là vai của Sarah. Nhưng bây giờ thì đã quá trễ, sắp đến giờ mở màn rồi.

Cho nên, thay vì thế, nhà soạn kịch bất đắc dĩ của chúng ta đành phải đi đi lại lại trong lòng, nôn nóng chờ đợi thông tin cập nhật. Vào lúc 3 giờ 4 phút, chiếc phi cơ 747 của ngài Baker hạ dần cánh xuống sân bay, ngài Baker ở đây chính là bí danh cho Zizi al-Bakari. Lúc 3 giờ 32 phút, ngài Baker và đoàn tùy tùng làm xong thủ tục hải quan. Lúc 3 giờ 45 phút, họ leo lên những chiếc limousine đang đợi sẵn, 3 giờ 52 phút: xe bon bon lăn bánh trên quốc lộ A4. Lúc 4 giờ 9 phút cố vấn nghệ thuật của ngài Baker, với bí danh là Marlowe, từ đoàn xe hộ tống, gọi điện thoại cho Isherwood báo rằng xe đến trễ vài phút. Tuy vậy, mọi việc có vẻ tiến triển thuận lợi, vì vào lúc 4 giờ 27 phút, người ta đã thấy đoàn xe hộ tống từ quảng trường Piccadilly rẽ vào đường Duke. Đúng lúc đó, lộn xộn bắt đầu xảy ra, phần lỗi thuộc về đoàn xe của Zizi. Chuyện xảy ra là do chiếc limousine cố rẽ vào con đường chật hẹp Mason’s Yard. Thế nhưng chỉ đi được một đoạn ngắn, tài xế đành phải dừng chiếc xe cồng kềnh lại. Có lẽ do anh bạn cận vệ Sharuki đã tính toán không chính xác phạm vi lòng đường. Đó cũng là lúc Gabriel nhận một thông điệp từ nhóm tình báo của anh rằng ngài Baker, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc công ty Jihad, sẽ phải bước ra ngoài xe và cuốc bộ vào phòng tranh.

Sarah không thể kiên nhẫn ngồi chờ trong phòng trưng bày trên lầu được nữa, cô nhảy xuống lầu dưới, nơi là phòng làm việc của cô và Julian, ghé mắt quan sát khung cảnh đang diễn ra trên đoạn đường trước phòng tranh. Đây cũng là hành vi chống đối mệnh lệnh đầu tiên của cô, vì rằng Gabriel đã yêu cầu cô phải ở yên vị trí trên lầu, không được phép lộ mặt cho đến phút chót. Theo kế hoạch, sự xuất hiện của cô sẽ đồng thời với việc vén màn bức tranh Marguerite. Cô sẽ tuân theo mệnh lệnh, thế nhưng điều đó chỉ xảy ra sau khi cô được tận mắt diện kiến dung nhan Zizi. Sarah đã nghiên cứu nhân dạng của Zizi qua những bức ảnh Yossi đưa cho cô lúc trước, cô ghi nhớ tiếng nói của hắn trên video. Nhưng rõ ràng những cái đó không sống động bằng hình ảnh thật. Đó lý do khiến cô cãi lại mệnh lệnh, xuống quan sát Zizi và đoàn tùy tùng của hắn lần lượt tiến vào khu vực sân phòng tranh.

Dẫn đầu đoàn là Rafiq al-Kamal, trưởng nhóm cận vệ của Zizi. Ngoài đời, trông hắn kềnh càng hơn trong hình, nhưng di chuyển nhanh nhẹn y như người bằng nửa kích thước của hắn. Hắn không mặc áo khoác, vì áo khoác sẽ cản trở hành động rút súng tự vệ. Rafiq al-Kamal là kẻ vô lương tâm, Eli Lavon từng miêu tả về hắn như thế. Còn lúc này, hắn đảo mắt quan sát xung quanh khoảnh sân, theo cái cách người hướng đạo sinh dò tìm kẻ thù, rồi quay đầu, ra dấu an toàn theo ước định để đoàn người phía sau tiếp bước.

Kế đến là hai cô nàng cực kỳ xinh đẹp trong bộ áo khoác dài, tóc xoã đen tuyền, vẻ mặt cáu kỉnh vì phải lội bộ cả đoạn đường gần 50 mét từ chiếc xe hơi sang trọng vào phòng tranh. Cô nàng bên phải chính là Nadi al-Bakari, con gái cưng của Zizi, còn bên trái là Rahimah Hamza, con gái của Daoud Hamza, người Li-băng, từng tốt nghiệp Đại học Standford danh tiếng, hiện là quản lý tài chính tài ba của Tập đoàn AAB. Chính Hamza, cha cô ta đang đi sau vài bước, tay cầm điện thoại, chăm chú lắng nghe.

Tiếp theo là Herr Manfred Wehrli, Giám đốc ngân hàng Thụy Sĩ, nơi nắm giữ tiền của Zizi. Đi cạnh Wehrli là một chú nhóc, không rõ con cái nhà ai, và ngay sau chú ta, là hai cô nàng cũng không kém phần xinh đẹp, một cô với mái tóc vàng óng ả, còn cô kia thì tóc ngắn, màu hạt dẻ. Khi chú nhóc bất thình lình nghịch ngợm nhảy sang hướng khác, thì ngay lập tức bị chặn lại bởi người đàn ông có cái tên Jean-Michel, với động tác cực kỳ nhanh nhẹn. Hắn là một võ sỹ người Pháp, hiện là huấn luyện viên riêng kiêm cận vệ thân tín của Zizi.

Thứ nữa là Abdul-Jalil và Abdul-Hakim, hai luật sư được đào tạo bài bản ở nước Mỹ. Yossi từng tạm dừng bài huấn luyện nửa chừng chỉ để mỉa mai rằng Zizi cố tình chọn ra hai luật sư riêng với cái tên có thể dịch nôm na là: Tôi tớ của Vĩ nhân và Tôi tớ của nhà thông thái. Kế đến là Mansur, Giám đốc điều hành du lịch, Hansan, Giám đốc truyền thông, Andrew Malone, cố vấn nghệ thuật sắp hết nhiệm kỳ của Zizi. Cuối cùng, ngài Zizi cũng xuất hiện, được hai cận vệ khác là Wazir bin Talal và Jafar Sharuki hộ tống nghiêm ngặt.

Sarah ngưng quan sát, quay người đứng dậy. Chiara dõi theo cho đến lúc Sarah bước vào thang máy và nhấn nút di chuyển lên tầng trên cùng của tòa nhà. Một thoáng sau, cô đã yên vị trong phòng trưng bày, và ngay giữa phòng là bức tranh Van Gogh được phủ màn, nằm trên giá đỡ. Tiếng bước chân thình thịch của Rafig vang lên ở đầu cầu thang.

Cô không được nghĩ rằng hắn là một tên khủng bố, Gabriel đã căn dặn như vậy. Cô không được tự hỏi liệu tiền của hắn có nằm trong túi Marwan al-Shehhi hay có chi trả cho bất cứ tên khủng bố nào đã giết hại Ben hay không. Cô phải xem hắn là người đàn ông của sự giàu có và quyền lực. Đừng ve vãn, đừng dụ dỗ, mà hãy xem đó chỉ đơn thuần là một cuộc phỏng vấn. Cô sẽ không lên giường với hắn, mà cô sẽ làm việc cho hắn. Và cho dù cô làm gì đi chăng nữa, cũng không nên đưa ra bất kỳ lời khuyên nào, vì hành động đó sẽ làm hỏng vụ giao dịch cũng như các nhiệm vụ tiếp theo.

Cô nhìn lại hình dáng mình phản chiếu trong cánh cửa thang máy. Cô cảm nhận mình khác đi so với vẻ bề ngoài, vẫn với cái tên Sarah Bancroft, nhưng là một phiên bản khác, như là tác phẩm phục chế lại của cùng một bức tranh. Cô vuốt thẳng bộ đồ hiệu Chanel, và tự nhủ mình không vì Zizi, mà vì Gabriel. Và cô nghe văng vẳng từ phía dưới lầu, lần đầu tiên, giọng của quái nhân. “Chào ông Isherwood”, ngài Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc điều hành của Tập đoàn Jihad nói. “Tôi tên là Abdul Azizal-Bakari. Andrew bảo tôi anh có một bức tranh hay hay dành cho tôi”.

Chuyến thang máy đầu tiên chỉ toàn những tên cận vệ. Rafig tiến thẳng vào phòng, dò xét cô từ đầu đến chân, trong khi Shakuri săm soi dưới trường kỷ xem có vũ khí bí mật nào giấu ở đó hay không. Võ sĩ Jean-Michel thì nện gót giày thình thịch rảo quanh căn phòng giống như một vũ sư ba lê chính hiệu. Chuyến thang máy kế tiếp là của Malone và Isherwood, cặp đôi này có vẻ vui sướng bên cạnh hai người đẹp Nadia và Rahimah. Cửa thang máy xịch mở lần nữa, lần này là ông chủ Zizi và bin Talal - cận vệ thân tín nhất. Thân hình béo phị được khéo léo che dấu bởi bộ quần áo màu sẫm, bộ râu tỉa tót cẩn thận, cùng với cái đầu hói cũng được chăm sóc không kém phần tỉ mỉ. Đôi mắt tinh ranh và nhanh nhẹn lập tức hướng tầm nhìn về phía người xa lạ duy nhất trong phòng.

Cô đừng mất công tự giới thiệu mình làm gì, Sarah ạ. Mà cũng đừng nhìn thẳng vào mắt hắn. Nếu cần phải có cử chỉ điệu bộ gì, nên để Zizi bộc lộ trước.

Sarah nhìn xuống chân. Cánh cửa thang máy lại xịch mở, hai tên Abdul và Abdul, những tôi tớ của Chủ nhân thông thái xuất hiện cùng lúc với Herr Wehrli - cái bị tiền Thụy Sĩ. Sarah nhìn họ, rồi liếc mắt nhìn Zizi, lúc ấy vẫn đang chăm chú quan sát cô.

“Xin thứ lỗi cho tôi, thưa ngài al-Bakari”, Isherwood mở lời. “Hôm nay, tôi không được chu đáo lắm. Đây là cô Sarah Bancroft, trợ lý Giám đốc của công ty. Sarah đã giúp chúng ta có được buổi hội ngộ hôm nay”.

Đừng bắt tay lâu với hắn. Nếu hắn có bắt tay với cô, thì chỉ bắt nhẹ, rồi thả tay ra ngay.

Sarah đứng thẳng, tay để sau lưng, mắt vẫn nhìn xuống. Cô cảm nhận được ánh mắt của Zizi. Cuối cùng hắn tiến về phía trước và chìa tay ra “Chào cô, rất hân hạnh được gặp cô”. Sarah nghe thấy mình thốt lên. “Tôi cũng rất hân hạnh, thưa ngài al-Bakari”.

Zizi mỉm cười và nắm tay cô lâu hơn mức cần thiết, thế rồi, hắn đột ngột buông tay và đi về phía bức tranh. Sarah quay lại, quan sát hắn từ phía sau, cô nhận thấy một bờ vai hẹp không tương xứng với vòng eo khá rộng. “Tôi rất muốn xem tranh”, hắn cất lời, không rõ dành cho ai. Sarah chợt nhớ tới lời Gabriel.

Hãy để của Zizi tự dẫn dắt mọi việc. Nếu cô bắt hắn ngồi nghe câu chuyện cả buổi thì chỉ tổ làm hắn nổi điên. Hãy nhớ rằng ngôi sao của vở diễn là Zizi chứ không phải bức tranh mà hắn ta muốn mua.

Sarah tiến lên phía trước, khéo léo không để chạm vai Zizi, và bắt đầu tháo tấm vải choàng xuống. Cô làm công việc này một cách tỉ mỉ, kéo dài thời gian đứng trước bức tranh, che tầm nhìn của Zizi trước khi để bức tranh lộ diện. “Tôi xin giới thiệu với ngài bức tranh Thiếu nữ Marguerite Gachet tại bàn trang điểm của danh họa Vincent Van Gogh”, cô trịnh trọng tuyên bố và tiếp lời. “ Tranh làm từ chất liệu sơn dầu, được vẽ tại Auvers vào tháng 7 năm 1890”.

Những tiếng trầm trồ thán phục vang lên từ phía đám tùy tùng của Zizi, chỉ mình hắn là im lặng. Cặp mắt đen u ám của hắn đảo quanh trên bức tranh, vẻ mặt kín bưng. Một lát sau, hắn thôi không chú ý bức tranh nữa mà quay sang Isherwood.

“Anh bạn tìm thấy bức tranh ở đâu vậy?”

“Tôi ước gì mình đã làm điều ấy, thưa ngài al-Bakari kính mến, nhưng chính cô Sarah đây mới là người khám phá ra nó”.

Zizi chuyển hướng sang Sarah. “Là cô à?”. Giọng hắn có chút thán phục.

“Vâng, thưa ngài al-Bakari”.

“Vậy thì tôi xin hỏi lại điều tôi đã hỏi Isherwood nhé. Cô tìm thấy tranh ở đâu vậy?”

“Như những gì ông Malone đã biết, chủ nhân bức tranh không muốn được nêu tên”.

“Tôi không hỏi về chủ nhân, tôi chỉ muốn biết làm thế nào cô tìm ra nó mà thôi”.

Cô phải cho hắn biết điều gì đó, Sarah ạ. Hắn có quyền được biết, nhưng hãy tỏ vẻ do dự và bí ẩn, vì hắn là loại người thích được khám phá.

“Đó là kết quả tìm tòi công phu trong vài năm của tôi, thưa ngài”.

“Hay lắm! Cho tôi biết thêm được chứ, cô Bancroft”.

“Tôi e rằng tôi không thể nói thêm gì, vì như thế sẽ vi phạm sự thỏa thuận giữa tôi và những chủ nhân, thưa ngài al-Bakari”.

“Một chủ nhân chứ nhỉ”, Zizi sửa lời cô. “Andrew cho tôi biết, bức tranh là sở hữu của một phụ nữ người Pháp”.

“Đúng vậy thưa ông, nhưng tôi chỉ có thể khẳng định đến thế mà thôi”.

“Nhưng tôi vẫn hết sức tò mò về việc làm sao cô lại tìm ra bức tranh”. Hắn khoanh tay trước ngực và tiếp. “Tôi thích nghe truyện trinh thám lắm”.

“Tôi rất muốn làm ông hài lòng, nhưng tôi không thể. Tuy vậy tôi có thể cho ông biết rằng tôi đã mất hai năm đi tìm bức tranh này ở Pháp và Auvers, thêm một năm nữa mới thuyết phục được chủ nhân nhượng lại nó cho tôi”.

“Có thể một ngày nào đó, khi ta đã biết nhau nhiều hơn, tôi sẽ có hân hạnh được nghe cô kể về câu chuyện lý thú ấy”.

“Tôi cũng mong vậy, thưa ngài”, cô trả lời. “Riêng về nguồn gốc của bức tranh, chúng tôi xin khẳng định chắc chắn đây chính là nguyên tác của danh họa Vincent, và chúng tôi có đủ giấy tờ chứng thực điều này”.

“Đương nhiên tôi rất vui nếu được xem qua giấy chứng nhận, cô Bancroft ạ, nhưng thật tình mà nói, tôi cũng không nhất thiết phải làm điều đó. Cô thấy đấy, đây rõ ràng là tác phẩm của Van Gogh”. Nói đoạn hắn đặt tay lên vai Sarah. “Cô lại đây”, giọng hắn đầy vẻ trìu mến. “Tôi sẽ cho cô xem cái này”.

Sarah tiến lại gần. Zizi chỉ tay vào góc trái bức tranh.

“Cô nhìn thấy vết nhỏ trên bề mặt tranh chứ? Nếu tôi không lầm, đó là dấu tay của Vincent. Vicent nổi tiếng cẩu thả về việc bảo quản tác phẩm của mình. Khi hoàn thành bức tranh này, rất có thể ông đã cầm vào phía trên bức tranh để đưa nó từ Auvers về phòng tranh riêng ở nhà nghỉ Café Ravoux. Căn phòng lúc nào cũng chất đầy tranh, tranh chất quanh tường, tấm này chồng lên tấm kia. Ông ta vẽ nhanh đến nỗi có khi bức này chưa khô là đã để bức khác lên trên. Vì vậy, nếu quan sát kỹ cô sẽ thấy rất nhiều vết cọ xát trên bề mặt tranh”.

Tay hắn vẫn đặt trên vai Sarah.

“Rất ấn tượng, thưa ngài al-Bakari. Nhưng tôi không ngạc nhiên về điều này, tài thẩm tranh của ông đã vang lừng trước khi tôi gặp ông”.

“Tôi nhận ra rằng một người đàn ông ở vị trí quan trọng như tôi không thể chỉ dựa vào lời của người khác. Phải luôn cảnh giác với những mưu mô, gian kế lọc lừa. Và tôi tự tin rằng đến tận bây giờ, không có ai có thể qua mặt tôi, trong kinh doanh cũng như trong nghệ thuật”.

“Chỉ có kẻ ngốc mới làm như vậy, thưa ngài al-Bakari”.

Zizi quay sang Isherwood và nói tiếp. “Anh bạn có vẻ có duyên với những bức tranh chưa được công bố bao giờ nhỉ. Tôi cũng từng nghe đồn anh khám phá ra bức Ruben, có đúng thế không?”

“Vâng, đúng vậy”.

“Và bây giờ là đến lượt tranh của Van Gogh”. Rồi hắn quay lại nhìn bức tranh. “Andrew bảo ông đã đưa ra giá bán rồi”.

“Chúng tôi nghĩ giá đó hoàn toàn hợp lý thưa ngài”.

“Tôi cũng nghĩ vậy”. Hắn đưa mắt về phía Herr Wehrli, Giám đốc ngân hàng. “Manfred này, trong tài khoản của tôi có đủ tám mươi lăm triệu không?”

“Đủ đấy, Zizi”.

“Vậy là chúng ta có thể tiến hành giao dịch, ông Isherwood”. Hắn quay sang nhìn Sarah và nói. “Tôi sẽ đưa Marguerite đi”.

Vào lúc 4 giờ 53 phút, nhóm đặc vụ báo cho Gabriel biết rằng việc mua bán đang được tiến hành tại khu văn phòng bên dưới. Isherwood đang thảo luận với Herr Wehrli và Abdul & Abdul về các phương thức thanh toán và chuyển khoản. Cuộc thương lượng kéo dài một giờ đồng hồ, và lúc 6 giờ 5 phút, ngài Baker cùng đoàn tùy tùng băng qua khoảng sân đến nơi đỗ xe trên đường Duke. Lần này, đến lượt Eli Lavon bám theo đoàn. Lúc đầu, có vẻ như đích đến của đoàn người là Mayfair, nhưng vào lúc 6 giờ 15 phút, ngài Baker và những người hộ tống chuyển hướng sang Heathrow để đến một nơi không xác định. Gabriel ra lệnh cho Lavon ngưng theo dõi. Bây giờ anh chẳng quan tâm họ sẽ đi đâu, vì anh biết sẽ sớm gặp lại họ.

Đoạn băng ghi hình được chuyển đến lúc 7 giờ 45 phút. Nó được ghi lại băng máy camera bảo vệ gắn ở góc trên phòng trưng bày. Khi Gabriel xem băng, anh có cảm giác như mình đang ngồi ở hàng ghế cao và quan sát sân khấu.

“Đây là cô Sarah Bancroft, trợ lý Giám đốc của công ty. Sarah đã giúp chúng ta có được buổi hội ngộ hôm nay…”.

“Vậy là chúng ta có thể tiến hành giao dịch, ông Isherwood. Tôi sẽ đưa Marguerite đi”.

Gabriel dừng đoạn băng và nhìn Dina. Cô lên tiếng. “Anh đã bán cho hắn một cô gái, bây giờ chuẩn bị thêm một cô nữa”.

Gabriel mở lại băng ghi âm cuộc nói chuyện giữa Isherwood và Andrew Malone.

“Đó không phải là tiền của Zizi. Đó là tiền của tôi. Zizi không biết được, khuất mắt trông coi mà”.

“Lỡ ông ta biết thì sao? Ông ta sẽ đày anh đến thung lũng cát Empty Quarter rồi để mặc anh cho lũ kền kền phanh thây”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21: Luân đôn


Thư tố cáo Andrew Malone được gửi đến Tổng hành dinh của Tập đoàn AAB tại Geneva vào lúc 10 giờ 22 phút sáng ngày thứ năm. Trên bìa thư, ghi rõ người nhận là “Ngài Abdul Aziz al-Bakari”, do một nhân viên bưu điện địa phương, mặc đồng phục và ngồi trên mô tô phát tận nơi. Tên người gửi là quý cô Rebecca Goodheart từ quận Earls Court, Luân Đôn, nhưng tin điều tra của nhân viên an ninh AAB cho biết quý cô này chỉ là một cái tên giả mạo. Sau khi kiểm tra xác định không có chất nổ, phóng xạ hay hóa chất nguy hiểm, kiện hàng được mang đến văn phòng của Wazir bin Talal. Tại đó, nó nằm im cho đến chiều muộn ngày thứ sáu bởi bin Tabal phải đi công tác một ngày tại Riyadh.

Wazir bin Talal còn nhiều việc gấp phải giải quyết nên đến gần 8 giờ tối mới có thời gian mở thư. Hắn cảm thấy hối tiếc vì sự việc nghiêm trọng đến thế mà mình không bóc ra để xem sớm hơn. Theo thư của cô Goodheart tố cáo rằng không dưới chín lần Andrew Malone đã biển thủ tiền bạc, vi phạm hợp đồng cá nhân ký kết với Abdul Aziz al-Bakari. Thư tố cáo còn được hỗ trợ bởi một số bằng chứng kèm theo, đó là hóa đơn ngân hàng, fax và thư điện tử từ máy tính của Malone. Bin Talal lập tức gọi điện thoại cho văn phòng của người điều hành tại Geneva và đến 9h tối hôm đó, tài liệu cần thiết đã có mặt trên bàn Zizi al-Bakari, lúc này đang đùng đùng nổi giận.

Ngay tối hôm ấy, vào lúc 11 giờ đêm giờ Luân Đôn, bin Talal gọi điện thoại đến biệt thự Knightsbridge tìm Malone và ra lệnh cho hắn phải đến Geneva trên chuyến bay sớm nhất. Khi Malone viện cớ có nhiệm vụ khác cần thi hành - và nhấn mạnh phải đến cuối tuần mới xong - thì bin Talal ra tối hậu thư rằng lệnh triệu tập là bắt buộc, nếu không chấp hành sẽ bị coi là chống đối. Mười phút sau, Malone bằng giọng run rẩy gọi cho hãng hàng không British Airways đặt một chỗ trên chuyến 8 giờ 30 phút sáng đến Geneva. Hai cuộc điện thoại đêm nay đều được nhóm neviot ghi âm và ngay lập tức được chuyển về nhà an toàn Surrey cho Gabriel.

Eli Lavon cũng đặt chỗ trên cùng chuyến bay. Khi đến Geneva, đã có hai xe hơi khác nhau đợi họ. Dành cho ngài Malone của chúng ta là một chiếc Mercedes sang trọng, do tài xế của Zizi lái, còn Lavon thì chui vào một chiếc Opel dính đầy bùn, do một bác tài của ga hàng không Geneva lái. Lavon yêu cầu người tài xế nhường cho chiếc Mercedes đi trước, và đến khu biệt thự của Zizi sau Malone vài phút. Họ tìm một chỗ khuất gần đó để đậu xe, nhưng họ không phải đợi lâu, vì khoảng hai mươi phút sau đã thấy Malone ra khỏi nhà, mặt mày thất sắc.

Hắn đi thẳng ra phi trường và đặt chỗ trên chuyến bay sớm nhất về Luân Đôn. Đó là chuyến 5 giờ chiều, và Lavon cũng lên cùng chuyến đó. Về đến phi trường Heathrow, họ rẽ hai hướng khác nhau, Lavon trở lại Surrey, còn Malone về biệt thự Knightsbridge. Hắn hốt hoảng bảo với vợ rằng trừ phi hắn kiếm đủ 4 triệu bảng Anh ngay lập tức, nếu không Zizi sẽ thẳng tay ném hắn xuống nước từ cây cầu cao nhất nước Anh.

Đó là buổi tối thứ bảy. Tới thứ tư của tuần tiếp theo, Gabriel và cả đội đã tin chắc rằng Zizi đang tìm kiếm một cố vấn nghệ thuật mới. Có vẻ như hắn đã chấm một người và người đó không ai khác hơn ngoài Sarah Bancroft, trợ lý Giám đốc của phòng tranh Isherwood, khu Mason’s Yard, đường James.

Sarah bắt đầu xem những người ấy là bạn. Họ đi chung xe điện ngầm với cô, tản bộ ở khu Mason’s Yard và la cà ở phố Duke. Họ cùng đi ăn trưa với cô, lúc nào cũng có ai đó đợi cô ở quán bar Green vào mỗi buổi chiều khi cô ghé qua đó để nhấm nháp một ly với Oliver và các chàng trai trẻ. Họ cùng cô đến một phiên đấu giá ở Soothby, mua hàng giảm giá tại một cửa hiệu ở Hull. Họ đi cùng trong chuyến đi dài ngày đến Devon, nơi cô thể hiện tài năng khéo léo chiêu dụ một nhà quý tộc để mua lại bức tranh Đức Mẹ và Chúa hài đồng mà Isherwood đã thèm muốn bấy lâu nay. “Zizi đang tiếp cận cô đấy”, đó là mẩu hội thoại ngắn ngủi Gabriel gửi cho Sarah qua điện thoại vào chiều thứ hai. “Chỉ còn là vấn đề thời gian thôi. Đừng tỏ vẻ giật mình khi cô về nhà và thấy mọi thứ xáo trộn nhé. Tên Sharuki đã đột nhập vào nhà cô và lục lọi mọi thứ hồi sáng nay”.

Món quà đầu tiên đến ngay sau đó, một chiếc đồng hồ đính kim cương hiệu Harry Winston, trên hộp đựng quà là dòng chữ đính kèm: Cảm ơn vì đã tìm ra Marguerite. Chân thành cảm ơn, Zizi.Hôm sau nữa là đôi bông tai từ Bulgari, hôm sau nữa là chuỗi ngọc trai hai vòng của hãng Mikimoto. Một lắc tay bằng vàng của cửa hiệu Tiffany được gửi tới Sarah vào tối thứ năm, ngay lúc cô chuẩn bị rời chỗ làm. Cô đeo vào tay phải và đi thẳng đến quán Green quen thuộc, và cũng như mọi lần Oliver lại vụng về tán tỉnh cô. “Còn cả đời”, cô vừa nói vừa hôn phớt vào má anh “nhưng không phải tối nay đâu. Anh hãy tỏ ra là người bạn trai tốt, và dẫn em đến ga tàu điện ngầm nhé”.

Buổi tối là thời gian căng thẳng nhất của Sarah. Cô không được đến nhà an toàn Surrey nữa, và cô phải xem như không có sự tồn tại của nó. Cô thấy nhớ mọi người, vì họ là một gia đình - một nơi ồn ào, hay tranh cãi ầm ĩ, nhưng lại rất yêu thương nhau - một gia đình mà cô chưa từng có. Tất cả những gì còn sót lại của gia đình, đó là vài cú điện thoại thi thoảng của Gabriel, và ánh đèn của căn hộ đối diện bên kia đường. Đèn nhà Yossi, nhưng rồi Yossi cũng sẽ chẳng còn ở đó nữa. Có những đêm, khi đối diện với cô đơn và sự sợ hãi, Sarah ước gì mình có thể bảo họ tìm người khác. Đôi lúc cô nghĩ đến anh chàng Julian tội nghiệp, và tự nhủ nếu không có cô, anh ta sẽ ra sao?

Kiện hàng cuối cùng đến vào lúc 3 giờ chiều ngày thứ sáu. Người giao nó là một anh chàng đưa thư mặc đồng phục và đeo cà vạt. Bên trong kiện hàng là một mẩu thư viết tay và một vé máy bay. Sarah mở vé ra xem nơi đến ghi trên đó. Mười giây sau, điện thoại trên bàn cô reo vang.

“Phòng tranh Isherwood. Sarah đây ạ”.

“Chào cô Sarah”.

Giọng của Zizi.

“Xin chào ngài al-Bakari. Ngài khỏe không ạ?”

“Tôi khỏe. Cô nhận được thư mời và vé máy bay chưa?”

“Đã. Và cả khuyên tai, đồng hồ, ngọc trai và lắc tay nữa”.

“Tôi thích nhất là chiếc lắc tay”.

“Tôi cũng vậy, thưa ngài. Nhưng tất cả món quà đó thật không cần thiết tí nào. Cả lời mời này cũng vậy. Tôi e rằng tôi không thể nhận lời”.

“Cô làm tôi phiền lòng đấy”.

“Tôi không cố tình, thưa ngài. Tôi rất muốn có vài ngày tắm mình dưới ánh nắng mặt trời, nhưng tôi không thích nhận lời trong tích tắc như vậy”.

“Đây không phải là tích tắc. Cô xem kỹ lại đi, trước ngày khởi hành, cô có đến 3 ngày để chuẩn bị”.

“Tôi cũng không thể nào lên đường trong khoảng thời gian ngắn như vậy, thưa ngài. Tôi có nhiều công việc phải làm tại phòng tranh”.

“Tôi chắc hẳn rằng Julian sẽ cho cô nghỉ ngơi vài ngày. Cô vừa mang về một số tiền kha khá cho anh ta đấy thôi”.

“Quả có thế”.

“Vậy thì cô quyết định thế nào? Cô sẽ đến chứ?”

“Tôi e rằng vẫn phải từ chối, thưa ngài”.

“Sarah, cô cần phải biết rằng tôi không thích bị từ chối”.

“Tôi không nghĩ điều đó hợp lý, thưa ngài”.

“Hợp lý? Tôi nghĩ cô đã hiểu sai ý tôi”.

“Vậy ý của ngài là gì?”

“Tôi muốn cô làm việc cho tôi”.

“Làm việc gì thưa ngài?”

“Tôi không muốn bàn việc này qua điện thoại, Sarah ạ. Cô sẽ đến chứ?”

Sarah đợi đúng 10 giây trước khi trả lời.

“Rất tuyệt”. Zizi thốt lên. “Một trong những nhân viên của tôi sẽ đi cùng cô. Anh ta sẽ đến đón cô vào lúc 8 giờ sáng thứ hai”.

“Tôi có thể tự đi được thưa ngài”.

“Tôi biết, nhưng việc đi lại sẽ dễ dàng hơn khi có nhân viên của tôi hộ tống cô. Tôi sẽ gặp lại cô vào chiều thứ hai nhé”.

Và rồi hắn cúp máy. Khi gác điện thoại, Sarah chợt nhớ ra rằng Zizi vẫn chưa hỏi địa chỉ nhà cô.

Gabriel đang ngồi tính toán trong studio của mình tại nhà Surrey thì Lavon lao nhanh lên cầu thang, tay cầm một bảng in tin nhắn của nhóm đặc vụ tại Mason’s Yard. “Zizi đã bắt đầu hành động”, anh vừa nói vừa trao cho Gabriel tờ tin nhắn. “Hắn muốn gặp Sarah ngay lập tức”.

Gabriel đọc tin, rồi nhìn lên “Chết tiệt thật”, anh lẩm bẩm. “Ta cần có ngay một chiếc tàu”.

Họ tổ chức một bữa tiệc ăn mừng đơn giản và để dành một chỗ cho Sarah, người duy nhất không thể tham gia. Sáng hôm sau, Lavon lái xe chở Gabriel đến phi trường Heathrow, và vào lúc 4 giờ 30 chiều, anh đã ngồi chiêm ngưỡng hoàng hôn tại một căn hộ của CIA tại đại lộ Collins trên bờ biển Miami. Adrian Carter mặc quần tây, áo thun cô-tông, đi giày nhưng không mang tất. Ông ta đưa cho Gabriel một ly nước chanh và bức hình một chiếc tàu lớn.

“Con tàu tên là Sun Dancer”, Carter nói. “ Nó là loại tàu đi biển sang trọng, dài 74 phút 1, có động cơ. Tôi đảm bảo anh và nhóm của mình sẽ rất thoải mái”.

“Làm sao ông tìm được nó?”

“Chúng tôi tóm được nó cách đây vài năm từ một tay buôn thuốc phiện người Panama tên là Carlos Castillo. Ngài Castillo bây giờ đang yên vị trong nhà tù liên bang tại Oklahoma, con tàu được chúng tôi trưng dụng cho một số việc trọng đại ở vùng Ca-ri-bê này”.

“Nó được sử dụng bao nhiêu lần rồi?”

“Năm hay sáu lần cho DEA - Cục kiểm soát ma túy Mỹ, chúng tôi cũng đã từng sử dụng hai lần”.

Gabriel trao trả bức hình cho Carter. “Nó có vết rồi”, anh bảo. “Có thể giúp tôi tìm chiếc nào có lý lịch sạch hơn không?”

“Chúng tôi đã đổi tên và đăng ký mới vài lần. Zizi và đám thuộc hạ của hắn không lần ra dấu vết đâu”.

Gabriel thở dài. “Thế giờ nó đang ở đâu?”

“Neo ở bến đảo Fisher”, Carter trả lời, chỉ tay về phía nam. “Nó đang được tiếp nhiên liệu. Chúng tôi đã sắp xếp một đội thủy thủ CIA rời Langley tối nay”.

“Cũng hay đấy. Nhưng tôi muốn sử dụng đội thủy thủ của mình”.

“Của anh à?”

“Tôi có lực lượng hải quân, Adrian thân mến. Họ cừ lắm. Tôi còn có đội thủy thủ trực chiến ở Haifa. Này, nhớ bảo người của ông tháo bỏ hết các thiết bị nghe lén nhé. Nếu không chúng tôi sẽ tự làm lấy, và có khi chiếc Sun Dancer sẽ trở nên nhếch nhác khi trao trả cho ông đấy”.

“Tôi giải quyết việc ấy rồi”, Carter trả lời. “Anh tính làm cách nào để tập trung nhóm của anh ở đây?”

“Tôi mong người bạn ở Cục tình báo Mỹ hỗ trợ tôi thêm một chút”.

“Anh cần gì?”

“Bay và quyền hạ cánh”.

“Thế bao lâu thì anh tập hợp được nhóm Haifa đến đến Luân Đôn?”

“Họ có thể đi ngay sáng mai”.

“Tôi sẽ gửi một phi cơ đến Luân Đôn tối nay. Nó sẽ đưa người của anh về đây. Chúng ta sẽ hạ cánh ở Homestead để tránh phải làm thủ tục hải quan và hộ chiếu. Anh sẽ khởi hành ngay tối chủ nhật và gặp mặt Zizi vào trưa thứ hai”.

“Thoả thuận có vẻ ổn rồi đấy?”, Gabriel tán thành. “Bây giờ chúng ta chỉ cần Ahmed bin Shafiq mà thôi”.

“Hắn sẽ lộ diện”, Carter khẳng định. “Chỉ lo là cô nàng của anh có xuất hiện đúng lúc hay không mà thôi?”

“Đó là cô nàng của chúng ta, Adrian ạ”.

Chú thích

1. 1 phút = 0.3048m.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22: Đảo harbor, bahamas


PHẦN 3: HÀNH TRÌNH ĐÊM

Nó kia rồi”, Wazir bin Talal la to, át đi tiếng ồn động cơ chiếc Sikorsky. Hắn trở sang mạn phải máy bay, cho Sarah thấy chiếc Alexandra, du thuyền khổng lồ của Zizi, đang rẽ sóng về hướng tây hòn đảo. “Cô thấy nó đẹp chứ?”

“Nó rất to”, Sarah hét trả lời lại.

“Dài hai trăm bảy mươi lăm phút”, bin Talal nói một cách tự hào, cứ như thể hắn là người đóng tàu.

Hai trăm bảy mươi lăm, Sarah nghĩ bụng. Nhưng ai đo đếm nhỉ? Yossi đã từng miêu tả nó như là một vương quốc nổi. Cô chợt nghĩ đến Gabriel và mọi người. Lần cuối cô liên lạc với họ là vào chiều chủ nhật, lúc Eli Lavon gặp cô trên phố Oxford khi cô đang mua vài thứ lặt vặt cho chuyến đi. Anh bảo, chúng tôi sẽ luôn ở bên cạnh cô, nhưng đừng tìm chúng tôi, và cũng đừng cố gắng liên lạc làm gì, trừ phi đó là tình huống cực kỳ khẩn cấp. Chúng tôi sẽ tự đến, chúc cô một chuyến đi thoải mái.

Sarah ngả lưng vào ghế. Cô vẫn đang mặc quần jeans và chiếc áo len mặc lúc khởi hành. Mới chỉ xa cách cái se lạnh của Luân Đôn mười tiếng, mà cơ thể cô bắt đầu phản ứng với cái nóng nhiệt đới đang lan tỏa. Ống quần jeans gần như dính chặt vào đùi, còn áo lạnh bó sát vào cổ. Cô liếc nhìn bin Talal, có vẻ hắn đã quen với việc thay đổi khí hậu đột ngột. Nhìn hắn trong trang phục vét đen, được cắt may khéo léo, cà vạt chỉn chu, khuôn mặt dài, mắt nhỏ, đen và bộ râu tỉa gọn, người ta có thể lầm tưởng hắn là nhà tài phiệt. Chỉ đôi tay to bè, thô kệch mới tố cáo được thân phận thực sự của hắn.

Tiếng ồn của động cơ máy bay làm câu chuyện bị ngắt quãng, nhưng Sarah thấy vui vì điều đó. Càng lúc cô càng thấy ghét bin Talal, từ sáng sớm đến giờ hắn hiện diện bên cô mọi lúc mọi nơi, và cố tỏ ra lịch sự. Tại sân bay, hắn nằng nặc đòi đi chung với cô đến các gian hàng miễn thuế và dành trả tiền bằng thẻ tín dụng công ty khi cô mua một tuýp dưỡng da. Trong suốt chuyến bay, hắn tỏ ra quan tâm đặc biệt tới cuộc sống của cô. Cô Sarah ơi, kể cho tôi nghe về thời thơ ấu của cô đi... Cô Sarah ơi, kể cho tôi nghe về niềm đam mê hội họa của cô nào... Cô Sarah ơi, nói cho tôi biết tại sao cô lại rời thủ đô Washington đến Luân Đôn vậy... Để hắn khỏi làm phiền, cô giả vờ ngủ. Hai tiếng sau, khi cô giả vờ thức dậy, hắn lại lân la gạ chuyện. Cô nói cha cô từng làm ở Citicorp à? Có khi ông ấy và ngài al-Bakari đã từng gặp nhau đấy. Ngài al-Bakari cũng thường làm ăn với Citicorp... Sarah bèn đeo tai nghe vào và xem phim. Bin Talal cũng vậy.

Khi cô nhìn ra cửa sổ lần nữa, chiếc Alexandra đang sừng sững giữa trời. Cô nhìn thấy Nadia và Rahimah đang đứng trên boong trước, đón ánh nắng cuối ngày, tóc dài xõa bay trong gió. Đằng boong sau, hai gã Abdul đang hội ý riêng với Herr Wehrli, chuẩn bị cho kế hoạch tiếp theo. Nổi bật hơn cả là Zizi, trong trang phục trắng, đang vẫy tay chào cô. Sarah nghĩ thầm, phải quay lại thôi. Hãy trả tôi lại đất liền. Ngài hãy ở lại đây, thưa ngài bin Talal. Còn tôi sẽ quay lại Luân Đôn, cám ơn. Nhưng cô biết không thể quay lại. Gabriel đã giúp cô có được cơ hội cuối ở căn nhà an toàn tại Surrey, và cô đã gật đầu đồng ý tiếp nhận nó.

Chiếc máy bay Sikorsky hướng về đuôi tàu và nhẹ nhàng đáp xuống sân bay. Hình ảnh lần lượt thoáng qua trong đầu Sarah: Zizi đứng trong phòng tranh của Jullian, lên tiếng nhắc nhở rằng không ai có thể giả tạo điều gì với hắn cả, dù là trong kinh doanh lẫn nghệ thuật. Tôi không phải là kẻ lừa gạt, cô tự nhủ khi bước ra khỏi trực thăng. Tôi là Sarah Bancroft. Tôi từng làm quản lý ở hãng Phillips tại Washington. Bây giờ tôi làm cho phòng tranh Isherwood. Tôi không cần tiền hay cần công việc của ông. Thật vậy, tôi chẳng muốn liên quan gì với ông cả.

Bin Talal dẫn cô về phòng. Nó rộng hơn rất nhiều so với căn hộ của cô ở Chelsea: một phòng ngủ dài có chỗ ngồi, phòng tắm ốp đá cẩm thạch, có bồn tắm mát xa, khoảnh ban công rộng hiện đang đón ánh nắng cuối cùng trong ngày. Gã Arập Xêút đặt túi xách của cô lên chiếc giường to trong phòng và bắt đầu kéo khoá, mở giỏ ra. Sarah ngăn lại.

“Không cần đâu. Tôi tự biết bảo quản túi xách của mình mà, cám ơn anh nhé!”

“Nhưng tôi e rằng đây là điều tôi nên làm, thưa cô Sarah”.

Hắn đẩy nắp túi qua một bên và bắt đầu lôi từng món ra khỏi túi.

“Anh đang làm gì vậy?”

“Chúng tôi có những nguyên tắc của mình, thưa cô Sarah”. Vẻ lịch sự giả tạo của bin Tatal biến mất. “Nhiệm vụ của tôi là giúp các vị khách quý tuân thủ những nguyên tắc ấy. Không thuốc lá, không rượu bia, không mại dâm dưới bất cứ hình thức nào”. Hắn giơ quyển tạp chí thời trang cô mua ở sân bay Miami và nói tiếp. “Tôi e rằng phải tịch thu quyển này. Cô có mang theo bia rượu gì không?”

Cô lắc đầu. “Và cũng không có thuốc lá”.

“Cô không hút thuốc à?”

“Thỉnh thoảng, nhưng tôi ít hút”.

“Tôi cần giữ điện thoại di động của cô cho đến lúc cô rời tàu Alexandra”.

“Sao vậy?”

“Bởi vì hành khách không được phép sử dụng điện thoại trên boong tàu, dẫu sao thì điện thoại của quý vị cũng không hoạt động được do nguồn điện của tàu”.

“Nếu chúng không hoạt động, tại sao anh phải tịch thu?”

“Tôi cho rằng điện thoại của cô có chức năng chụp hình, thu âm và lưu trữ những file âm thanh hình ảnh trên máy phải không ạ?”

“Người bán hàng có giới thiệu những chức năng đó, nhưng tôi ít khi sử dụng lắm”.

Hắn chìa bàn tay to bè và nói. “Tôi cần điện thoại của cô. Cô hãy yên tâm là nó sẽ được bảo quản tốt”.

“Tôi còn có việc của riêng mình, tôi không muốn bị tách rời khỏi thế giới thực tại”.

“Cô có thể tùy nghi sử dụng hệ thống điện thoại vệ tinh trên tàu”.

Và quý ngài có thể nghe lén chứ gì?

Cô ngần ngừ lấy điện thoại ra, tắt máy rồi đưa cho hắn.

“Bây giờ, tới phiên máy quay phim của cô. Ngài al-Bakari không thích xung quanh mình có máy quay phim, nhất là khi ngài đang thư giãn. Ở đây không được phép quay phim ngài, quay phim nhân viên hay bất cứ vị khách nào khác”.

“Ngoài tôi ra, còn có nhiều khách khác à?”

Hắn giả vờ không nghe thấy câu hỏi của cô. “Cô có mang theo Blackberry hay bất cứ loại PDA 1nào không?”

Cô đưa cho hắn xem. Hắn lại chìa tay ra.

“Nếu anh đọc được thư điện tử của tôi, xin hãy giúp tôi…”

“Tôi chẳng muốn đọc thư điện tử của cô làm gì, thưa cô Sarah, chúng ta càng sớm kết thúc những thủ tục này thì cô sẽ càng sớm có thời gian nghỉ ngơi đấy”.

Cô lại phải đưa máy Blackberry cho hắn.

“Cô có mang theo máy nghe nhạc Ipod, hay bất cứ thiết bị nghe nhạc nào khác không?”

“Anh đang đùa với tôi à”.

“Ngài al-Bakari của chúng tôi cho rằng những thiết bị cá nhân ấy không thích hợp ở đây. Dẫu sao thì phòng của cô cũng được trang bị những dàn âm thanh hiện đại nhất, chưa kể các thiết bị nghe nhìn khác. Cho nên cô không cần máy của mình”.

Cô đưa máy Ipod cho hắn.

“Còn thiết bị điện nào khác không?”

“Máy sấy tóc”.

Hắn lại chìa tay ra.

“Anh lấy máy sấy tóc của phụ nữ làm gì?”

“Cô có thể sử dụng máy sấy tóc trong phòng tắm, nó tương thích với hệ thống điện trên tàu. Còn tạm thời, tôi sẽ bảo quản đồ của cô, để khỏi có điều đáng tiếc xảy ra”.

“Tôi hứa sẽ không dùng”.

“Máy sấy tóc của cô, thưa cô Sarah”.

Cô lôi máy sấy tóc ra khỏi va-li, và đưa cho hắn.

“Ngài al-Bakari có tặng cho cô một món quà trong tủ quần áo đấy. Có lẽ ngài sẽ vui khi thấy cô mặc nó để tham dự buổi ăn tối vào lúc 9 giờ tối nay. Tôi nghĩ cô cần nghỉ ngơi một chút. Cô cũng mệt rồi, và múi giờ cũng khác nhau nữa”.

“Dĩ nhiên là vậy”.

“Cô có muốn tôi đánh thức cô lúc 8 giờ không?”

“Tôi có thể tự lo được. Vì tôi có mang theo một chiếc đồng hồ báo thức”.

Hắn nở một nụ cười khô khan. “Tôi cần phải mang nó đi luôn”.

Sarah hơi ngạc nhiên vì mình ngủ được, một giấc ngủ không mộng mị, rồi cô choàng tỉnh trong bóng tối bao phủ, và tự hỏi mình đang ở đâu. Làn gió biển ấm áp mơn man ngực cô như hơi ấm của người yêu dấu, để cô chợt nhận ra mình đang trên tàu Alexandra và hoàn toàn chỉ có một mình. Cô nằm bất động một hồi, tự hỏi liệu có ai đang theo dõi mình không. Hãy tự nhủ rằng chúng đang theo dõi mọi hành động của mình, lắng nghe từng lời mình nói, Eli đã căn dặn như vậy. Cô mường tượng ra những khung cảnh khác đang diễn ra trên tàu. Nào là Wazir bin Talal đang tải tất cả thư điện tử của cô từ cái điện thoại Blackberry, dò xét các số đã gọi trên máy điện thoại của cô. Cũng chính Wazir bin Talal đang tháo rời từng bộ phận máy sấy tóc, Ipod và đồng hồ báo thức của cô, cố tìm cho ra thiết bị ghi âm. Đương nhiên hắn chỉ phí công, bởi vì Gabriel đã dự đoán được hành động thẩm tra này ngay khi cô bước chân vào đại bản doanh của chúng. Trong trường hợp đó, càng đơn giản càng tốt, Sarah ạ. Chúng ta sẽ sử dụng cách truyền thống. Đó là mã điện thoại và những dấu hiệu liên lạc nhận diện khác.

Sarah liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Còn 5 phút nữa thì đến 8 giờ. Cô nhắm mắt lại, tận hưởng luồng gió mát vờn quanh cơ thể. Đúng 5 phút sau, điện thoại bàn kề bên nhẹ rung. Cô vươn tay, cầm ống nghe áp sát tai.

“Tôi dậy rồi, anh bin Talal ạ”.

“Tôi rất vui khi nghe điều đó”.

Không phải bin Talal. Giọng của Zizi.

“Tôi xin lỗi, thưa ngài al-Bakari. Tôi cứ ngỡ là bin Talal”.

“Hẳn nhiên là thế”, giọng hắn vui vẻ. “Cô có chợp mắt được chút nào không?”

“Dạ có thưa ngài”.

“Thế chuyến bay của cô thế nào?”

“Tốt đẹp, thưa ngài”.

“Chúng ta thỏa thuận được chứ?”

‘Còn tùy vào việc đó là thỏa thuận nào nữa, thưa ngài al-Bakari”.

“Tôi vẫn thích cô gọi tôi là Zizi hơn. Bạn tôi cũng hay gọi tôi như thế”.

“Tôi sẽ cố”. Rồi cô tiếp lời giọng vui vẻ. “Thưa ngài”.

“Tôi mong gặp cô tại bữa tối nhé, Sarah”.

Đường dây điện thoại bị cắt ngang. Sarah gác máy, và bước ra boong. Bên ngoài trời tối đen. Vành trăng lưỡi liềm treo vắt vẻo phía cuối chân trời, chòm sao đêm nhấp nháy soi rọi màn đêm. Cô nhìn về hướng đuôi tàu, thấy hai ánh đèn hành trình màu lục nhấp nháy cách đó vài dặm. Phía trước mạn tàu có thêm vài ánh đèn khác. Sarah chợt nhớ đến lời căn dặn của Eli trong một đợt tập huấn. Đôi khi, cách theo dõi người khác tốt nhất là đi trước mặt họ. Cô nghĩ người ta sử dụng cách tương tự khi canh gác trên biển.

Cô trở vào phòng, cởi đồ và bước vào phòng tắm. Này đừng nhìn nhé, ngài Wazir. Cô thầm nghĩ. Cấm nhìn trộm. Cô ngâm mình trong bồn tắm Jacuzzi của Zizi, thưởng thức giai điệu của nhạc sỹ Keith Zarrett qua dàn âm thanh hiện đại của Zizi. Xong xuôi, cô quấn mình trong chiếc khăn tắm mềm mại và sấy khô tóc bằng máy sấy cũng của Zizi. Cuối cùng, cô trang điểm để che giấu vẻ mệt mỏi sau hành trình dài dằng dặc. Khi thả mái tóc dài xuống ngang vai, Sarah chợt nghĩ đến Gabriel.

“Sarah này, cô thích để tóc thế nào nhỉ?”

“Tôi thường để xõa”.

“Cô có gò má đẹp với cái cổ duyên dáng. Đã tới lúc cô phải nghĩ đến việc thỉnh thoảng búi tóc cao. Giống như nàng Marguerite”.

Nhưng không phải là đêm nay. Khi đã cảm thấy hài lòng với khuôn mặt của mình, Sarah quay trở vào phòng ngủ và mở tủ quần áo, trên kệ là một gói quà xinh xắn đang chờ đợi. Cô mở hộp quà, bên trong là một bộ đồ bằng lụa màu ngà, và một áo lót cùng chất liệu. Bộ đồ thật vừa vặn, y như các món quà khác. Cô đeo đồng hồ Harry Winston, điểm theo đôi khuyên tai hiệu Bulgari, đôi vòng ngọc trai Mikimoto và lắc tay của hãng Tiffany. 9 giờ kém 5 phút, Sarah rời khỏi phòng và đi về phía boong sau. Đừng nghĩ đến sự tồn tại của chúng tôi. Hãy là Sarah Bancroft, và sẽ không có chuyện gì xảy ra đâu.

Zizi nồng nhiệt chào đón cô.

“Chào Sarah, gặp lại cô mới tuyệt làm sao. Thưa các vị, tôi xin giới thiệu đây là cô Sarah. Sarah này, đây là mọi người. Có rất nhiều người nên tôi không chắc cô sẽ nhớ được hết tên của họ, trừ phi cô có trí nhớ cực kỳ tốt. Nên tôi đề nghị chúng ta sẽ từ từ làm quen với nhau nhé. Mời cô ngồi, cả ngày mệt rồi, chắc cô đói lắm nhỉ”.

Hắn xếp cô ngồi gần cuối đầu bàn, rồi đi về chỗ ngồi của mình phía cuối bàn đối diện. Một gã Abdul ngồi bên phía tay phải của cô, bên tay trái là chủ nhà băng. Phía đối diện là gã Mansur, trưởng phòng du lịch, và cô vợ õng ẹo của gã Herr Wehrli, cô này có điệu bộ của một kẻ luôn cho rằng những gì đang xảy ra thật đáng kinh tởm. Ngồi kế bên Frau Wehrli là Jean-Michel, huấn luyện viên riêng của Zizi. Mái tóc dài màu vàng được cột gọn thành đuôi ngựa phía sau gáy, hắn ngấu nghiến nhìn Sarah mặc kệ vẻ ganh tỵ của cô vợ Monique. Ngồi phía xa bàn là Rahimah và anh bạn điển trai của cô nàng, tên Hamid và là ngôi sao điện ảnh Ai Cập. Cô nàng Nadia kiêu hãnh ngồi kế bên cha mình. Đôi lần trong bữa tiệc, khi đưa mắt nhìn Zizi, Sarah lại bắt gặp ánh mắt của cô nàng nhìn mình. Và cô tự nhủ Nadia cũng là kẻ phiền hà giống như gã bin Talal mà thôi.

Sau khi tin chắc rằng Sarah không biết tiếng Arập, Zizi đã đề nghị mọi người trong bàn tiệc nói tiếng Anh và tiếng Pháp. Cuộc trò chuyện vô cùng tẻ nhạt, hầu hết mọi người xoay quanh những chủ đề phim ảnh, quần áo, những nhà hàng Zizi muốn trưng dụng, hay về một khách sạn nào đó ở Nice mà hắn đang dự định mua lại. Những đề tài về chiến tranh, khủng bố, lời thề của người Palestine, Tổng thống Mỹ... dường như không hề tồn tại. Thật ra, có vẻ như mọi thứ không vượt ra ngoài khuôn khổ của hành trình tàu Alexandra và ngoài biên giới của Zizi. Tuy vậy, khi cảm giác Sarah bị gạt ra ngoài cuộc trò chuyện, Zizi lại khéo léo hỏi cô giải thích về việc tìm kiếm bức tranh Van Gogh. Khi thấy cô không bị lọt bẫy, hắn mỉm cười một cách xảo quyệt và tuyên bố. “Một ngày nào đó, tôi sẽ tìm ra sự thật thôi”. Đó cũng là lần đầu tiên Sarah cảm thấy trong lòng dấy lên một nỗi lo sợ mơ hồ.

Khi món tráng miệng được mang ra, hắn tiến lại gần và kéo ghế ngồi bên cạnh cô. Bữa tối nay, hắn mặc một bộ đồ vải lanh màu kem, gò má múp míp của hắn ửng đỏ vì bắt nắng.

“Tôi tin rằng cô có một bữa tối thật ngon miệng”.

“Rất ngon. Chắc ông phải chuẩn bị đồ ăn cả buổi chiều”.

“Không phải tôi”, hắn khiêm tốn trả lời. “Đầu bếp của tôi đó chứ”.

“Vài đầu bếp?”

“3 người. Chúng tôi cũng có cả đội thủy thủ và khoảng 40 nhân viên. Họ chỉ làm việc cho mình tôi, cho dù đó là khi tàu Alexandra đang trên biển hay neo ở cảng. Cô sẽ có dịp làm quen với họ thôi. Nếu cô cần gì, cứ hỏi nhé. Tôi rất muốn cô cảm thấy thoải mái khi ở đây”.

“Tôi rất thoải mái, thưa ngài al-Bakari”.

“Zizi chứ”, hắn nhắc lời cô, vừa nói hắn vừa xoay xoay chuỗi tràng hạt bằng gỗ mun. “Anh bin Talal bảo rằng cô không được vui vì các nguyên tắc và quy trình an ninh ở chỗ chúng tôi”.

“Phải gọi là ngạc nhiên thì đúng hơn. Nếu ngài báo với tôi sớm hơn, có lẽ tôi không cần phải mang theo nhiều đồ như vậy”.

“Có lẽ anh bạn bin Talal của tôi hơi cứng nhắc theo nguyên tắc an ninh ở đây. Tôi chân thành xin lỗi vì điều đó. Cô Sarah biết không, chúng tôi quy định rằng khi một người bước vào lãnh thổ của Tập đoàn AAB, người ấy phải tuân theo các nguyên tắc ở đây - cũng chỉ nhằm bảo đảm an ninh cho mọi người mà thôi”. Hắn búng nhẹ cổ tay, và quấn chuỗi hạt quanh hai ngón tay phải. “Cô đã nghĩ đến lời đề nghị của tôi chứ?”

“Tôi vẫn chưa biết đó là gì ạ”.

“Nhưng cô có quan tâm đến. Nếu không, cô chẳng đến đây làm gì”.

“Cứ cho rằng tôi hơi tò mò, và tôi sẵn lòng thảo luận thêm về vấn đề này”.

“Cô là một nữ doanh nhân khôn ngoan và thận trọng đấy Sarah ạ. Tôi ngưỡng mộ điều đó. Vậy hãy tận hưởng không khí biển cả và ánh mặt trời trong vài ngày nhé. Sau khi thư giãn xong, chúng ta hãy bàn về điều đó”.

“Vài ngày ư? Tôi phải quay về Luân Đôn”.

“Trước khi cô đến làm việc, Julian Isherwood vẫn tự lo liệu được mọi chuyện. Nên tôi tin rằng anh ta sẽ xoay xở tốt, còn cô thì đáng được hưởng một kỳ nghỉ thật thư giãn với chúng tôi”.

Nói rồi, hắn quay trở về chỗ ngồi cũ của mình, kế bên cạnh Nadia. “Chào mừng cô gia nhập đại gia đình chúng tôi”, Herr Werli lên tiếng. “Ông ấy có vẻ thích cô lắm đấy, nên khi thương lượng lương bổng, cứ thẳng thắn vì ông ấy sẽ trả cô bất cứ mức lương nào cô muốn”.

Cũng vào tối hôm ấy, trên boong một chiếc tàu khác, chiếc Sun Dancer, không sang trọng nhưng không khí buổi trò chuyện lại thật sinh động và vui nhộn. Mọi người không tránh nói về những đề tài chiến tranh hay khủng bố, ngược lại, mọi người còn tranh luận sôi nổi cho đến tận khuya. Vào cuối buổi tối, một tranh cãi nhỏ lại nổ ra, lần này là xem ai sẽ phải đi rửa chén. Dina và Rimona nói rằng họ đã dọn dẹp chén đĩa vào tối hôm trước ở Surrey. Cuối cùng, Gabriel, miễn cưỡng ra lệnh cho hai thành viên mới của nhóm: Oded và Mordecai, hai tay đặc vụ dày dạn kinh nghiệm và Mikhail, tay súng được mời đến từ Lực lượng Đặc nhiệm Sayeret Matkal. Anh ta là người Do Thái gốc Nga, với làn da trắng bệch và đôi mắt màu lạnh như băng. “Một thế hệ đàn em của anh”, Yaakov từng phát biểu. “Giỏi tài bắn súng, nhưng không hề có chút lương tâm. Chính hắn đã hạ gục Bộ Tổng tư lệnh của phong trào kháng chiến Hồi giáo Hamas đấy”.

Họ không tận hưởng được sự lộng lẫy kiêu sa như trên tàu Alexandra, cũng chẳng ai có được một không gian riêng tư. Gabriel và Lavon, hai đặc vụ kỳ cựu nhất cũng phải chen chúc ở mũi tàu. Lavon đã quá quen với giờ giấc ngủ nghỉ bất thường của Gabriel nên không thấy ngạc nhiên khi buổi sáng thức dậy thấy giường của Gabriel trống không. Anh ra khỏi giường và nhảy lên boong. Gabriel đứng đó, tay cầm tách cà phê, nhìn chăm chăm vào một điểm sáng xa xa phía chân trời. Lavon quay về chỗ ngủ, đánh thêm một giấc. Khi anh thức dậy lần thứ hai, vẫn thấy Gabriel đang đứng tại chỗ cũ, nhìn xa xăm vào đại dương mênh mông.

Chú thích

1. Thiết bị kỹ thuật số cá nhân
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23: Rời khỏi bahamas


Thời gian biểu của Sarah dần dần định hình. Mỗi sáng thức dậy, vươn vai ngái ngủ trên chiếc giường êm ái, Sarah lắng nghe tiếng nước vỗ ì oạp vào mạn tàu khi chiếc Alexandra nhẹ nhàng rẽ sóng. Tới 7 giờ rưỡi, cô khẽ lắc chuông, chỉ năm phút sau, người hầu phòng mang lên cho cô một khay, trên đó là ly cà phê và ổ bánh mì ngọt, không quên kèm theo một lọ hoa tươi. Nếu trời không mưa, cô sẽ nhâm nhi bữa sáng của mình dưới mái hiên nhìn ra phía mạn thuyền. Chiếc Alexandra đang đi về hướng đông nam, thong thả nhắm tới một đích đến vô định. Thỉnh thoảng Sarah mới trông thấy hình dáng của dải đảo Bahamian hiện lên lờ mờ phía xa. Phòng của Zizi ngay phía trên phòng cô, cho nên có một vài buổi sáng, cô nghe loáng thoáng hắn thỏa thuận công việc qua điện thoại.

Ăn sáng xong, Sarah thường gọi hai cuộc điện thoại về Luân Đôn qua hệ thống trên tàu. Cuộc điện thoại đầu tiên là gọi về căn hộ của cô ở Chelsea để nhận vài tin nhắn từ Văn phòng gửi đến. Sau đó, cô sẽ gọi về phòng tranh, và nói chuyện với Chiara. Giọng Anh pha Ý nhẹ nhàng giúp cô cảm thấy thư giãn hơn. Câu hỏi của Sarah xoay quanh những đơn hàng đang tồn đọng, nhưng Chiara có thể giải mã thành những thông tin khác, đó là: Sarah vẫn rất an toàn, nhưng vẫn chưa tìm được dấu vết của tên Ahmed bin Shafiq; về phần mình, Chiara thông báo rằng Gabriel và những người khác vẫn luôn bên cạnh Sarah, rằng Sarah không đơn độc trong cuộc hành trình này. Việc phải ngưng nói chuyện với cô bạn Chiara đáng mến quả là một cực hình đối với Sarah.

Sau khi nói chuyện điện thoại, thường đã gần 10 giờ, lúc đó Zizi và Jean-Michel đã tập luyện xong, và những người khác có thể sử dụng phòng thể dục. Song phần đông bọn họ là dạng lười vận động, thường chỉ có Herr Wehrti bầu bạn với cô mỗi sáng, nhưng hắn chỉ miệt mài tập trên máy tập đa năng trong vài phút rồi chui luôn vào phòng xông hơi để túa mồ hôi. Về phần mình, Sarah tập với máy chạy bộ khoảng 30 phút, rồi chèo thuyền thêm 30 phút nữa. Cô từng tham gia vào đội thủy thủ Dartmouth, cho nên chỉ sau vài ngày tập luyện, cô đã dần thấy cơ vai và lưng căng hơn, một sự thay đổi rõ rệt kể từ cái chết của Ben.

Sau khi tập thể lực, Sarah ra boong trước và gia nhập nhóm phụ nữ trên tàu để tắm nắng trước khi dùng cơm trưa. Nadia và Rahimah vẫn giữ khoảng cách với Sarah, nhưng các quý phu nhân khác thì tỏ ra khá thân mật, nhất là hai ả Frau Wehrli và Jihan, cô vợ trẻ, có mái tóc vàng óng người Jordani của Hassan, chuyên viên truyền thông cho Zizi. Vợ của Jean-Michel, Monique cũng ít khi nói chuyện với cô. Đôi lần Sarah liếc Monique khi cô ta đang đọc tiểu thuyết và nhận thấy Monique cũng đang nhìn mình chằm chằm, cứ như cô ta đang tìm cách đẩy Sarah xuống biển vậy.

Bữa ăn trưa thường dài lê thê. Sau đó, thủy thủ đoàn sẽ dừng tàu Alexandra để bắt đầu chương trình đua mô-tô nước của Zizi. Trong hai ngày đầu, Sarah không tham gia trò chơi, thay vào đó cô đứng trên boong, quan sát Zizi và đám thủ hạ của hắn lặn ngụp trên sóng. Qua ngày thứ ba, hắn cố gắng thuyết phục cô tham gia, và còn đích thân dạy cô cách cầm lái. Sarah lái mô-tô ra xa tàu rồi tắt máy, để mặc mô-tô nhấp nhô trên sóng, cô đăm đăm nhìn những chấm trắng nhỏ nơi chân trời. Có lẽ cô đã đi quá xa, bởi vì trong thoáng chốc Jean-Michel đã đến bên cạnh và ra hiệu cho cô quay về tàu. “Chỉ trong khoảng cách 100 mét mà thôi”, hắn giải thích. “Đó là nguyên tắc của ngài Zizi”.

Zizi có thời gian biểu thật chặt chẽ. Bữa ăn sáng nhẹ tại phòng ngủ, điện thoại, tập thể dục với Jean-Michel trong phòng tập, gần trưa họp với nhân viên. Ăn trưa. Đua mô-tô nước. Lại họp với nhân viên, nhưng lần này cuộc họp kéo dài tới bữa chiều. Và sau đó, lại nói chuyện điện thoại cho đến tận khuya. Vào ngày thứ hai, chiếc trực thăng rời khỏi tàu Alexandre lúc 10 giờ và quay về một tiếng sau đó, với một phái đoàn khoảng 6 người đàn ông. Sarah quan sát khuôn mặt của từng người lúc họ tiến vào phòng họp của Zizi, rồi rút ra kết luận không có ai trong số đó là Ahmed bin Shafiq cả. Không lâu sau đó, một tên Abdul tiết lộ cho cô danh tính của ba tên, và ngay lập tức Sarah ghi vào bộ nhớ của mình. Buổi chiều hôm đó, cô chạm mặt Zizi lúc hắn đang đứng một mình trong sảnh và đánh tiếng hỏi hắn xem liệu đã đến lúc thảo luận về lời mời của hắn chưa.

“Sao cô có vẻ vội vã vậy Sarah? Thoải mái đi nào. Hãy tận hưởng mọi thứ. Chúng ta sẽ bàn về vấn đề này vào một thời điểm thích hợp”.

“Tôi phải quay về Luân Đôn, Zizi ạ”.

“Trở về với Julian Isherwood à? Làm sao cô có thể quay về với hắn nhỉ?”

“Tôi không thể ở đây mãi mãi”.

“Được chứ”.

“Nhưng ít nhất ngài có thể cho tôi biết chúng ta đang đi đâu chứ?”

“Tôi muốn dành cho cô một sự ngạc nhiên”, hắn giải thích. “Đó cũng là truyền thống của chúng tôi. Tôi tự xem mình là một thuyền trưởng danh dự, và tôi sẽ chọn đích đến cho tất cả chúng ta. Tôi không muốn giữ bí mật điều đó. Sáng mai, chúng tôi muốn dừng lại tại Grand Turk. Nếu cô muốn, cô có thể lên bờ và mua sắm chút gì đó”.

Lúc ấy, Hassan xuất hiện, hắn ta đưa điện thoại và thì thầm gì đó vào tai Zizi bằng tiếng Arập nên Sarah không nắm bắt được nội dung câu chuyện. “Xin phép cô Sarah, tôi phải giải quyết một việc”. Đoạn hắn quay trở vào phòng họp và đóng cửa lại.

Sáng hôm sau, Sarah thức dậy trong cái tĩnh lặng của sớm mai. Thay vì nán lại trên chiếc giường êm ái, cô bật dậy ngay lập tức và bước ra boong. Tàu thả neo gần Cockburn Town, thủ phủ quần đảo Turks và Caicos. Cô dùng bữa sáng trong phòng, gọi điện cho Chiara ở Luân Đôn rồi sắp xếp lịch với thủy thủ đoàn để đáp máy bay vào thăm thành phố. Lúc 11 giờ rưỡi, Sarah đi ra phía đuôi tàu và nhìn thấy Jean-Michel đang đợi cô. Hắn mặc áo thun đen và quần soóc màu trắng hiệu Bermuda.

“Tôi tình nguyện tháp tùng cô”, hắn thốt lên khi vừa thấy Sarah.

“Tôi không cần người đi theo”.

“Không ai được phép lên bờ mà thiếu các biện pháp đảm bảo, nhất là các quý cô. Đây là nguyên tắc của ngài Zizi”.

“Thế vợ anh có đi chung không?”

“Thật tiếc là cô ấy hơi mệt. Có vẻ cô ấy không hợp bữa tối hôm qua”.

Họ im lìm tiến vào gần cảng. Jean-Michel neo tàu một cách điệu nghệ rồi theo Sarah đến khu mua sắm. Ở một quầy, cô chọn hai bộ váy nhẹ nhàng và một bộ bikini mới. Qua một hàng khác, cô mua một đôi dép, túi xách, và một cặp kính mát thay cho cặp kính cô làm mất khi chơi đua mô-tô nước lần trước. Họ cùng đến tiệm thuốc để mua dầu gội, và kem dưỡng da, cả dụng cụ tẩy da chết cho đôi bờ vai rám nắng của Sarah. Jean-Michel nằng nặc đòi thanh toán toàn bộ tiền mua hàng bằng thẻ tín dụng của Zizi. Trên đường quay về tàu, cô nhận ra Rimona với cặp kính râm to, đầu đội mũ rơm. Gần đó, trong một quầy bar nhỏ nhìn ra cảng, cô trông thấy một người đàn ông với vóc dáng quen thuộc, đầu đội mũ nỉ, mắt đeo kính râm, nhìn chăm chăm vào một ly bia dưới bóng râm của cái ô to tướng. Tới khi bước chân lên tàu Alexandra, cô mới nhận ra đó là Gabriel.

Hôm sau, khi Sarah gọi về Luân Đôn, Julian bắt máy và hỏi ngắn gọn xem khi nào cô sẽ quay về. Hai ngày sau, anh lại hỏi lần nữa, nhưng lần này giọng anh có pha chút bực bội. Vào cuối giờ chiều hôm đó, Zizi gọi cho Sarah. “Mời cô vào văn phòng của tôi nhé, tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta nói chuyện rồi”. Và hắn gác máy mà không đợi cô trả lời.

Sarah diện đồ thật lịch sự: quần suông trắng, áo cánh vàng che phủ đôi tay, chân mang giày đế bằng. Cô định trang điểm nhưng rồi lại thôi vì cô nghĩ mình không thể nào che hết dấu vết rám nắng của ánh mặt trời vùng Ca-ri-bê. Phải mất mười phút sau, cô mới rời khỏi phòng và men theo cầu thang lên lầu đến phòng Zizi. Hắn đang ngồi chung bàn họp với Daoud Hamza, Abdul & Abdul, và Herr Wehrli. Họ cùng đứng lên khi Sarah bước vào phòng, đoạn thu dọn giấy tờ tài liệu trên bàn, rồi lầm lũi bước ra ngoài. Zizi ra hiệu cho Sarah ngồi xuống. Ở phía đối diện của căn phòng, hình ảnh Al Jazeera nhấp nháy trên ti vi: quân đội Israel lại tiêu hủy một căn nhà của tay đánh bom tự sát Hamas trong khi cận cảnh là hình ảnh cha mẹ anh ta đang than khóc. Zizi liếc màn hình trong vài giây rồi quay sang Sarah.

“Tôi đầu tư hàng triệu đô la vào lãnh thổ Palestine, tôi còn tặng cho họ vài triệu đô la làm từ thiện, vậy mà bây giờ quân Israel đang phá hủy nó, và thế giới thì chỉ khoanh tay đứng nhìn”.

Vậy thế giới sẽ kết tội ai khi hai mươi thân thể cháy đen nham nhở nằm rải rác trên đường phố Tel Avivb vào ngày hôm qua? Sarah nghĩ bụng. Cô nhìn xuống đôi lắc tay bằng vàng và đồng hồ hiệu Harry Winston mà Zizi tặng, không nói không rằng.

“Nhưng bây giờ hãy trò chuyện về điều gì vui vẻ hơn nhé”, Zizi cất lời.

“Tôi cũng nghĩ vậy”. Cô nhìn hắn và mỉm cười. “Ông thật lòng muốn mời tôi về làm việc cho ông phải không?”

“Tôi ư?”

“Đúng vậy”.

Zizi mỉm cười nhìn cô. “Chúng tôi sẽ khai trương một ban nghệ thuật”. Nụ cười hắn biến mất. “Việc này có hơi đột ngột nhưng vẫn phải làm. Tôi muốn cô giữ vị trí đó”.

“Ban nghệ thuật?”

“Tôi xin lỗi”, hắn giải thích. “Đó là cách chúng tôi gọi các bộ phận khác nhau trong tổ chức. Hassan là trưởng ban truyền thông, Mansur phụ trách ban du lịch, Herr Wehrli là ngân hàng, còn bin Talal phụ trách...”.

“An ninh”.

“Vâng”, Zizi trả lời.

“Vậy ai làm trưởng ban nghệ thuật?”

“Hiện tại tôi phụ trách. Nhưng tôi muốn mời cô đảm nhiệm công việc đó”.

“Thế Andrew Malone thì sao?”

“Andrew Malone không còn làm việc cho tôi nữa”. Zizi mân mê chuỗi tràng hạt của mình một thoáng. Rồi ánh mắt hắn lại quay về phía màn hình ti vi, và giữ nguyên ở đó, hắn tiếp. “Đáng lý tôi ký hợp đồng độc quyền với Andrew. Tôi trả rất nhiều tiền để giữ chân anh ta. Đổi lại, anh ta phải dành cho tôi lời khuyên chân thành nhất, cố nhiên là không để ảnh hưởng đến quyền lợi của anh ta. Nhưng thật đáng tiếc, Andrew liên tục phản bội tôi. Trong vài năm trời, anh ta liên tục bòn rút tiền của tôi và các đối tác, căn cứ theo thoả thuận ban đầu thì đó là một sai phạm nghiêm trọng. Trong số những người sưu tập và buôn hàng phải trả tiền cò cho Andrew có cả Julian Isherwood”. Hắn nhìn cô. “Cô có biết số tiền mà Isherwood Julian phải chuyển cho Andrew Malone không?”

“Tôi không được biết”, cô trả lời. “Nếu có chuyện như vậy thì tôi xin lỗi”.

“Tôi tin cô”, hắn trả lời. “Andrew đã thề với Julian sẽ giữ bí mật. Hắn cố gắng che đậy dấu vết khi ăn lời hai bên. Thật không may là hắn không thể xóa đi dấu tích phản bội trong tài khoản ngân hàng. Đó là cách chúng tôi phát hiện ra sự thật”.

Zizi lại liếc ti vi và cau mày. “Công việc tôi đang dành cho cô có vị trí cao hơn so với Andrew rất nhiều. Cô không chỉ hỗ trợ tôi trong công việc, mà cô sẽ chịu trách nhiệm bảo quản bộ sưu tập của tôi. Tôi dự định sẽ cho các bảo tàng của Mỹ và châu Âu mượn vài tác phẩm như một cách củng cố mối quan hệ văn hóa giữa đất nước tôi và phương Tây. Vì cô từng là người quản lý bảo tàng cho nên cô sẽ rất thích hợp với những công việc như vậy”. Hắn quan sát cô một lúc. “Cô có thích vị trí đó không?”

“Tôi muốn, nhưng…”.

“...nhưng cô muốn thảo luận về tiền bạc và các quyền lợi trước khi trả lời tôi, tôi hoàn toàn hiểu điều đó. Nếu cô không phiền, tôi có thể hỏi hiện tại Julian đang trả cho cô bao nhiêu”?

“Tôi e rằng tôi không thể nói ra điều này”.

Zizi thở dài và xoay vòng chuỗi hạt. “Cô định làm cho câu chuyện khó khăn hơn hay sao?”

“Tôi không hề có ý ấy”.

“Tôi dự định sẽ trả cho cô một khoản lương là 500 ngàn đô la một năm, thêm nhà ở, và các khoản chi phí không giới hạn khác. Công việc đòi hỏi phải di chuyển nhiều, nên dĩ nhiên, thời gian cô ở bên tôi và gia đình tôi là chủ yếu. Đó cũng là lý do tôi mời cô tham quan chuyến hành trình này. Tôi muốn cô làm quen với mọi người. Tôi tin là cô cũng thích và cảm nhận được lòng hiếu khách của chúng tôi”.

“Quả vậy”, cô trả lời.

Zizi giơ hai tay lên. “Vậy à?”

“Tôi cần một hợp đồng thỏa thuận bảo đảm trong 3 năm”.

“Được thôi”.

“500 năm đầu tiên, 600 năm thứ hai, và 750 năm thứ ba”.

“Được thôi”.

“Và có cả các khoản tiền thưởng”.

“Cô hãy cho thử một con số”.

“250 ngàn”.

“Tôi dự định trả cô 500 ngàn nữa. Chúng ta thỏa thuận như vậy được chứ?”

“Tôi nghĩ là được”. Nụ cười cô vụt tắt. “Tôi không định nói với Julian về điều đó”.

“Việc làm ăn mà, Sarah. Julian sẽ hiểu”.

“Chắc anh ấy sẽ cảm thấy đau lòng”.

“Thật ra tôi nghĩ là mình nên nói chuyện này với anh ta”.

“Không”, cô lắc đầu từ chối. “Tôi sẽ tự nói. Tôi vẫn còn nợ anh ấy nhiều”.

“Cô là một phụ nữ thẳng thắn”. Zizi đột ngột đứng lên. “Tôi sẽ yêu cầu luật sư thảo hợp đồng. Herr Wehrli sẽ gửi đến một ngân phiếu để ký cho khoản tiền thưởng của cô, thêm vào đó là thẻ tín dụng của AAB để cô chi tiêu”. Hắn giơ tay ra. “Chào mừng cô gia nhập đại gia đình, Sarah”.

Cô bắt tay rồi quay gót về phía cửa.

“Sarah này?”

Cô quay lại.

“Đừng phạm sai lầm giống Andrew nhé. Cô biết đấy, tôi rất hào phóng với người làm việc cho mình, nhưng nếu họ phản bội tôi, tôi sẽ cực kỳ giận dữ”.

Đúng như dự đoán của Sarah, Julian nổi điên lên khi nghe tin. Anh nổi cáu với Zizi và giận luôn cả Sarah. “Khỏi quay lại phòng tranh dọn đồ dọn đạc gì hết!”, anh ta hét lớn qua điện thoại. “Ở đây chẳng có ai hoan nghênh cô lẫn ông chủ dòng máu Arập Xêút của cô đâu!”. Sau khi dằn mạnh máy điện thoại xuống, anh đi thẳng đến quán Green, nơi Oliver Dimbleby và Jeremy Crabbe đang chụm đầu thì thầm ở góc quán.

“Này, sao mặt anh lại thuỗn ra vậy, Julie?” Câu hỏi của Dimbleby chạm đến nỗi đau của Isherwood.

“Tôi mất cô ấy rồi”.

“Ai chứ?”

“Sarah”, Isherwood buông thõng. “Cô ấy bỏ tôi sang với Zizi al-Bakari”.

“Này, đừng bảo với tôi là cô ấy giữ vị trí của Andrew Malone nhé”.

Isherwood gật đầu xác nhận.

“Bảo cô ấy tránh xa cái hũ mật của Zizi đi”, Crabb nhận xét. “Hắn sẽ chặt tay cô ta mất. Hoàn toàn hợp pháp, anh biết đấy”.

“Mà sao hắn lại lôi kéo được cô ta nhỉ?”. Dimbleby thắc mắc.

“Chắc là vì tiền rồi. Nhờ tiền, chúng muốn gì cũng được”.

“Sự thật là vậy”, Dimbleby trả lời. “Nhưng ít nhất chúng ta vẫn còn cô nàng Elena xinh đẹp”.

Đúng là vậy, Isherwood nghĩ bụng, chỉ có điều sẽ giữ được cô ta bao lâu nữa đây?

Cách đó 4000 dặm, trên boong tàu Sun Dancer, Gabriel chia sẻ nỗi đau của Isherwood, chỉ có điều với lý do hoàn toàn khác. Sau khi nghe tin Sarah nhận được công việc, anh quay về chỗ đứng cũ trên mũi tàu, không kịp nghe lời chúc mừng của các đồng nghiệp trong nhóm.

“Anh ta sao vậy?”. Yaakov hỏi Lavon. “Anh ấy đã thành công! Đã cài được điệp viên vào tổ chức Jihad rồi còn gì!”

“Đúng thế”, Lavon trả lời. “Và một ngày kia chúng ta sẽ phải cứu cô ấy ra”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24: Gustavia, saint - barthlemy


Điểm đến bí mật của Zizi hóa ra là một hòn đảo xinh đẹp ở Saint-Barthélemy Pháp. Họ tới nơi vào sáng hôm sau và neo tại Gustavia, hải cảng và cũng là thủ phủ đẹp như tranh của đảo. Sarah vừa tập thể dục xong thì Nadia bước vào phòng. Cô nàng mặc một chiếc áo tắm hai mảnh màu trắng và một cái váy đi biển cùng màu.

“Chị vẫn chưa chuẩn bị gì à?”

“Em nói gì chị không hiểu?”

“Em đang nói đến bãi biển Saline - vùng biển tuyệt vời nhất trên thế giới”.

Sarah tỏ ra do dự, Nadia thân mật chạm vào cánh tay cô. “Chị Sarah này, em biết mình chưa kết bạn với nhau từ lúc chị mới đặt chân lên thuyền, nhưng từ giờ chúng ta sẽ có thêm nhiều thời gian tìm hiểu nhau, vì chị đã làm việc cho cha em rồi. Có thể chúng ta sẽ là bạn tốt”.

Sarah giả vờ suy nghĩ. “Đợi chị 10 phút”.

“5 phút thôi nhé”. Nadia nở nụ cười tươi. “Chị biết đấy, em là con gái của cha em mà”.

Sarah quay về cabin riêng, tắm táp qua loa, mặc đồ tắm và khoác bộ đầm đi biển bên ngoài. Cô bỏ vài món lặt vặt vào trong giỏ, rồi đi ra phía đuôi tàu. Nadia đã sẵn sàng, bên cạnh cô nàng là Kamal và Jafar Sharuki. Jean-Michel đứng sau tay lái, đang lúi húi kiểm tra hệ thống.

“Chỉ có chúng ta thôi sao?”. Sarah hỏi ngay khi vừa bước lên tàu và yên vị ở khoang trước với Nadia.

“Rahimah sẽ ra sau”, Nadia trả lời. “Dù thật lòng em hi vọng chị ấy sẽ không đi. Em muốn thoát khỏi chị ấy trong chốc lát”.

Jean-Michel lái tàu nhỏ tách khỏi du thuyền Alexandra, rồi nhấn ga phóng ra xa. Họ lướt qua triền phải của hòn đảo, vượt qua vùng ngoại ô của Gustavia, vòng quanh Grande Pointe. Hai phút sau họ đến một vịnh nhỏ, nơi được bao bọc bởi những mỏm đá núi lửa nâu xám. Giữa những mỏm đá, và phía bên dưới bầu trời xanh biếc kia là một bờ biển thiên nhiên tuyệt đẹp trải dài. Nadia thốt lên. “Chào mừng đến Saline”.

Jean-Michel khéo léo lái tàu vượt qua những con sóng vỗ vào bờ và đáp xuống một khu đất cách bãi biển vài dặm. Rafiq và Sharuki nhảy xuống chỗ nước cạn và đi chầm chậm về phía mũi tàu. Nadia đứng dậy và nhảy ra khỏi boong tàu, ngay đúng tầm hứng của đôi bàn tay vệ sỹ Rafiq dũng mãnh. Cô ta thốt lên. “Lúc này mới thấy có vệ sỹ thật tuyệt làm sao, chẳng sợ bị ướt nhem khi ra biển”.

Sarah ngần ngừ trườn người vào vòng tay Sharuki. Một thoáng sau, cô đã yên vị trên mặt đất cứng gần mép nước. Trong khi Jean-Michel quay tàu phóng về Alexandra, Nadia đứng lên và xác định vị trí cắm trại. “Ở đằng kia chị nhé”, cô nàng hăm hở kéo tay Sarah về phía đầu kia bãi biển, nơi vắng vẻ nhất. Rafiq và Sharuki lẽo đẽo theo sau với lỉnh kỉnh ghế và giỏ xách. Sau khi đã cách những người còn lại trên bãi biển 50 dặm, Nadia dừng lại và lẩm bẩm gì đó bằng tiếng Arập với Rafiq. Anh chàng lập tức đáp lại bằng cách trải khăn tắm và đặt ghế xuống.

Hai tên bảo vệ đứng yên canh gác cách họ khoảng 20 thước. Nadia cởi áo đầm và ngồi lên khăn. Mái tóc dài đen mượt của cô được chải suôn thẳng và óng ánh vì gel bóng. Cô ta đeo kính râm tròng màu bạc, để lộ ra đôi mắt to long lanh. Sau khi liếc nhanh về phía hai tên cận vệ, Nadia từ từ cởi áo ngực, để lộ phần trên đầy đặn và khêu gợi. Làn da của cô, sau hai tuần phơi nắng, đã biến thành màu đồng. Sarah ngồi xuống ghế và chôn chân mình dưới cát.

“Em có thích có người đi theo giống vậy không?”. Sarah cất tiếng hỏi.

“Cận vệ ư?”, Nadia nhún vai. “Nếu chị là con gái của Zizi al-Bakari, họ sẽ là một phần gắn liền với cuộc sống. Chị có biết em đáng giá thế nào với bọn bắt cóc hay khủng bố không?”

“Hàng tỉ đô”.

“Đúng vậy”. Nói rồi cô ả thò tay vào túi và lôi ra một gói thuốc hiệu Virginia Slims. Cô ta đốt cho mình một điếu rồi mời Sarah điếu khác. Sarah lắc đầu. “Em không hút thuốc trên tàu Alexandra vì như vậy là chống lại nguyên tắc của cha em. Nhưng khi em ở xa ông...”. Cô ta dừng lời. “Chị sẽ không kể lại cho cha em chuyện này chứ ạ?”

“Cứ tin ở chị”. Sarah hất hàm về phía mấy tay cận vệ và hỏi. “Còn họ thì sao?”

“Chúng không dám kể cho cha em nghe đâu”.

Nadia cất gói thuốc vào giỏ rồi nhả từng ngụm khói vào khoảng không. Sarah nhắm mắt, quay về phía mặt trời. “Chị đoán em cũng có cả một chai rượu vang trong giỏ phải không?”

“Em ước gì đó là sự thật”, Nadia trả lời. “Anh Jean-Michel luôn xoay sở được vài chai lên tàu. Em nghĩ nếu chị nhẹ nhàng hỏi anh ấy, có khi anh ấy sẽ cho chị cả hai chai”.

“Chị e rằng có khi anh ta còn muốn cho chị thứ khác nữa kìa”.

“Đúng rồi, anh ấy mê chị”. Nadia đẩy kính cao lên trán và nhắm mắt lại. “Ngay sau mấy đụn cát kia là một nhà hàng, nếu chị muốn, lát nữa chúng ta có thể đến đó để uống vài ly rượu”.

“Chị không biết là em được uống rượu đấy”.

“Không nhiều, nhưng em thích nhâm nhi vài ly banana daiquiris trong một ngày đẹp như hôm nay”.

“Chị nghĩ tôn giáo của em không cho phép”.

Nadia phủi tay.

“Em không theo đạo à?” Sarah hỏi.

“Em có đức tin, nhưng em cũng là một phụ nữ Arập Xêút hiện đại. Em theo hai lối sống khác nhau. Lúc ở nhà, chúng em bị buộc phải ẩn mình dưới lớp voan che mặt đen. Nhưng ở phương Tây...”.

“Em có thể nhâm nhi vài li rượu và nằm phơi ngực trên bãi biển à”.

“Đúng vậy”.

“Cha em có biết điều này không?”

Cô ta gật đầu. “Cha muốn em trở thành người phụ nữ phương Tây thật sự, nhưng vẫn phải tuân theo những nguyên lý của đạo Hồi. Em bảo cha rằng điều ấy là không thể, khi phải theo khuôn phép mẫu mực nhất, và ông ấy đồng ý. Chị Sarah ạ, em không còn là trẻ nhỏ. Em đã 27 tuổi rồi”. Cô ta nằm nghiêng người lên, và chống tay đỡ đầu. “Chị bao nhiêu tuổi?”

“31”, Sarah trả lời.

“Chị đã từng lập gia đình rồi chứ?”

Sarah lắc đầu. Khuôn mặt cô vẫn phơi dưới ánh mặt trời, làn da cô dường như đang nóng ran lên. Nadia biết, cô thầm nghĩ, họ đều biết.

“Chị rất xinh đẹp”, Nadia tiếp lời. “Sao chị vẫn chưa lập gia đình?”

Tại một cú điện thoại lúc 8 giờ 53 phút sáng ngày 11 tháng 9, năm 2001....

“Cũng là những lý do thông thường”, cô trả lời. “Đầu tiên là học đại học, kế đến tiến sỹ, rồi đi làm. Chị nghĩ do chị không có thời gian dành cho yêu đương”.

“Không có thời gian dành cho tình cảm ư? Tiếc nhỉ”.

“Đó cũng là căn bệnh của người Mỹ nói chung”.

Nadia kéo mắt kính che mắt và nằm thẳng người lại.

“Nắng gắt quá”, Sarah nói. “Em nên che khăn”.

“Em chẳng bao giờ bị cháy nắng cả. Đó cũng là điều tốt khi là người Arập Xêút”. Cô ả vươn vai và uể oải chôn tàn thuốc xuống cát. “Chắc chị thấy điều đó kỳ cục lắm phải không?”

“Chuyện gì em?”

“Một phụ nữ thuần Mỹ như chị, lại phải làm việc cho Zizi al-Bakari”.

“Chị không muốn làm em thất vọng, Nadia ạ, nhưng chị không hẳn là người Mỹ. Gần như cả tuổi thơ ấu chị sống ở châu Âu. Khi quay về Mỹ để học đại học, chị gần như lạc lõng, và phải mất khá nhiều thời gian mới làm quen được với môi trường”.

“Chị không ngại làm việc cho người Arập Xêút chứ?”

“Vì sao phải ngại?”

“Bởi vì nhiều người ở nước chị kết án tụi em vì cuộc tấn công ngày 11 tháng 9”.

“Chị không phải là một người trong số đó”, Sarah trả lời, rồi cô trích dẫn lời của Gabriel đã chỉ dạy tại nhà Surrey. “Tên Osama đã chọn người Arập Xêút để tiến hành cuộc tấn công nhằm gây thêm hiềm khích giữa hai nước chúng ta. Hắn là người đã khơi nguồn chiến tranh giữa đất Arập Xêút và nước Mỹ. Chúng ta phải cùng liên minh để chống lại bọn al-Qaeda, chứ không phải là đối nghịch nhau”.

“Cục Tình báo Arập Xêút liên tục cảnh báo cha em rằng ông là mục tiêu của bọn khủng bố vì ông có quan hệ mật thiết với Hoàng gia. Đó cũng là lý do khiến chúng em phải thắt chặt an ninh hơn nữa”. Rồi cô chỉ về phía hai tên cận vệ. “Đó cũng là lý do em phải dẫn theo hai tên khỉ đột này đến bãi biển, thay vì hai chàng trai trẻ”.

Cô ả lại lăn nằm sấp, phơi lưng dưới mặt trời. Sarah nhắm mắt và mơ màng ngủ thiếp đi. Một giờ sau, lúc tỉnh dậy, cô đã thấy nhiều dấu hiệu ước định xuất hiện xung quanh. Rafiq và Sharuki ngồi ngay sau họ. Nadia có vẻ đang ngủ. “Tôi nóng quá”, Sarah thì thầm với mấy tên cận vệ. “Chắc tôi phải bơi đây”.

Khi Rafiq dợm đứng lên thì cô xua tay bảo hắn ở lại. “Tôi ổn thôi”, cô trấn an.

Sarah chầm chậm bước xuống biển, cho đến lúc sóng vỗ ngang ngực, cô trầm mình và nhanh chóng lặn sâu xuống nước. Khi cô trồi lên, Yaakov đang ở sát bên cạnh.

“Cô dự tính ở Saint Bar’s trong bao lâu?”

“Tôi cũng không rõ. Chúng chẳng nói cho tôi biết điều gì cả”.

“Cô an toàn chứ?”

“Vẫn ổn cho tới giờ”.

“Cô có thấy ai có vẻ là bin Shafiq không?”

Cô lắc đầu.

“Chúng tôi luôn ở bên cô, Sarah ạ. Bây giờ cô hãy bơi khỏi chỗ tôi và đừng nhìn lại. Nếu chúng có hỏi về tôi, cứ bảo tôi đang tán tỉnh cô nhé”.

Và rồi anh ta biến mất vào lòng biển. Sarah quay trở vào bờ và trải khăn tắm ra nằm kế Nadia.

“Chị nói chuyện với ai vậy?”. Ả hỏi.

Sarah thấy tim mình như nhảy ra khỏi lồng ngực. Cô gắng tỏ ra bình thản. “Chị không biết, nhưng gã đó va vào chị ngay trước mặt bạn gái gã”.

“Thế chị mong đợi gì khác à? Hắn là người Do Thái mà”.

“Sao em biết được?”

“Tin em đi, chỉ cần nhìn thoáng qua em cũng biết hắn là người Do Thái. Đừng bao giờ nói chuyện với người lạ Sarah à. Đặc biệt là với người Do Thái”.

o O o

Sarah đang thay đồ trong cabin của mình để đi ăn tối thì nghe thấy tiếng động cơ ầm ĩ của chiếc Sikorsky. Cô đeo chuỗi ngọc trai vào cổ và vội vã bước ra boong sau. Zizi đang ngồi chờ trên ghế dài trong làn không khí mát mẻ buổi tối. Hắn mặc quần jeans lửng bạc thếch rất hợp mốt và cái áo len chui đầu màu trắng. “Chúng ta đi đảo ăn tối. Nadia và tôi sẽ lên chiếc trực thăng cuối cùng. Cô sẽ đi cùng với chúng tôi”. Zizi nói.

Hai mươi phút sau họ lên chiếc Sikorsky. Khi họ bay qua khu vực cảng biển, những ngọn đèn từ Gustavia tỏa ra một thứ ánh sáng dịu dàng trong bóng tối dần buông. Họ bay ngang qua dãy đồi dốc thẳng đứng phía sau cảng và đáp xuống sân bay, nơi những người còn lại đang chờ ở cuối con đường trải nhựa, gần đó là một đoàn xe Toyota Land Cruiser màu đen bóng lộn.

Khi Zizi đã yên vị, đoàn xe hộ tống lăn bánh khỏi phi trường. Bên kia đường, trong bãi đậu xe của trung tâm mua sắm chính trên đảo, Sarah ngó thấy Yossi và Rimona ngồi trên chiếc xe tay ga. Cô chồm người về phía trước, nhìn Zizi và con gái hắn.

“Chúng ta đi đâu vậy?”

“Tôi đã bao một nhà hàng ở Gustavia cho bữa ăn tối hôm nay. Nhưng trước tiên chúng ta sẽ đến một biệt thự ở rìa bên kia của hòn đảo để uống chút gì đó”.

“Ông thuê luôn cả biệt thự đó rồi à?”

Zizi cười lớn. “Thật ra biệt thự đó đã được một doanh nghiệp có làm ăn với chúng ta thuê hẳn rồi”.

Điện thoại rung bần bật. Hassan trả lời ngay từ tiếng chuông reo đầu tiên, rồi trao lại chiếc điện thoại cho Zizi sau khi đã xác định được người gọi là ai. Sarah nhìn qua cửa kính xe. Họ đang tăng tốc dọc theo vịnh Baie de Saint-Jean. Cô quay lại nhìn qua vai mình và thấy ánh đèn pha của chiếc Land Cruiser theo sát phía sau họ. Một hình ảnh bất chợt hiện lên trong đầu cô: Yossi lái chiếc xe tay ga còn Rimona ngồi phía sau ôm eo anh. Cô xua tan hình ảnh ấy vào chiếc máy hủy tài liệu tưởng tượng để cố gắng đuổi nó ra khỏi đầu mình.

Đoàn xe hộ tống đột ngột giảm tốc độ khi đi vào một thị trấn biển nho nhỏ nhưng khá sầm uất thuộc Saint-Jean. Hai bên đường hẹp, các cửa tiệm và nhà hàng nằm san sát bên nhau, những khách bộ hành da rám nắng đang len lỏi qua dòng xe cộ lưu thông chậm chạp và uể oải vì tắc đường. Jean-Michel chửi thề khi một cặp nam nữ điều khiển mô tô lách mình qua một khoảng trống hẹp trước xe họ rồi lẫn vào đống kẹt xe.

Đến phía bên kia làng thì xe cộ bỗng nhiên ít hẳn, và con đường này dẫn lên những bờ đá dọc theo rìa vịnh. Họ ôm cua chỗ khúc quanh hẹp và ngay tức thì thấy biển dưới chân mình, mặt biển lấp lánh màu thủy ngân trong ánh sáng dìu dịu của trăng non vừa mới mọc. Thị trấn kế tiếp là Lorient, nó không đẹp say đắm như Saint-Jean và ít đông đúc hơn: một trung tâm mua sắm nhỏ gọn, một trạm xăng trang bị cửa chớp, một thẩm mỹ viện phục vụ cho phụ nữ bản địa, một quầy burger phục vụ cho những gã trai cởi trần chạy xe mô tô. Ngồi một mình bên cái bàn bọc crôm là Gabriel với quần soóc kaki và dép săng-đan.

Zizi đóng nắp điện thoại và đưa qua vai mình về phía sau mà chẳng thèm nhìn Hassan một cái. Nadia cầm một lọn tóc và vân vê đuôi tóc xem có bị chẻ ngọn không. “Có một hộp đêm kha khá ở Gustavia”, ả nói một cách lơ đãng. “Có lẽ ta nên đi nhảy nhót sau bữa tối”. Sarah không trả lời và lại nhìn qua cửa sổ xe. Họ chạy ngang qua một nghĩa địa lố nhố mồ mả và đoàn xe bắt đầu lên đồi. Jean-Michel sang số thấp và tăng tốc. Lên cao, con đường ngoặt rất gắt sang bên trái. Khi chiếc Land Cruiser chuyển hướng đột ngột, Sarah bất giác ép người vào Nadia. Làn da trần của cô cảm nhận được cái nóng như mặt trời từ người của ả.

Một lát sau, họ lao lên một đỉnh hẹp gió mạnh quất rào rào. Đoàn xe giảm tốc đột ngột và đi qua một cổng an ninh vào khoảng sân rộng trước một tòa biệt thự lớn màu trắng sáng ngời. Sarah quay đầu nhìn cái cổng sắt tự động đóng lại sau lưng cô. Chiếc xe tay ga vừa tăng tốc chạy ngang qua, trên xe là một người đàn ông mặc quần soóc kaki và mang săng-đan. Cửa mở, Sarah bước xuống xe.

Hắn đứng ngay lối vào nhà, bên cạnh là một phụ nữ vừa bước vào tuổi trung tuần, hắn chào hỏi mọi thành viên trong đoàn tùy tùng đông đúc của Zizi khi họ bước đến bậc tam cấp bằng đá phiến. Hắn có vóc dáng của một vận động viên bơi lội với hông hẹp và đôi vai ngang rộng. Tóc đen và quăn tít. Hắn mặc áo thun Lacoste màu xanh lơ và quần trắng. Tay áo thun dài đến tận cổ tay và tay phải hắn để trong túi quần. Zizi khoác tay Sarah đến giới thiệu với hắn.

“Đây là Sarah Bancroft, quản lí mới của phòng mỹ thuật của tôi. Sarah, đây là Alain al-Nasser. Alain điều hành một công ty chuyên về quản lí vốn đầu tư mạo hiểm cho chúng ta ở Montreal”.

“Rất vui được gặp cô, Sarah”.

Tiếng Anh lưu loát, giọng người nước ngoài. Tay vẫn để trong túi quần, hắn quay sang phía người phụ nữ.

“Đây là vợ tôi, Sophie”.

“Chào buổi tối, Sarah”. Sophie chào bằng tiếng Pháp.

Người phụ nữ bắt tay Sarah. Sarah định bắt tay Alain, nhưng hắn nhanh chóng nhìn đi chỗ khác và ôm choàng lấy Wazir bin Talal. Sarah đi vào biệt thự rộng và thoáng mát với mặt bên là hàng hiên rộng lộ thiên. Có một hồ bơi màu ngọc lam, và phía xa xa là biển đen kịt. Bàn thức ăn và thức uống đã được dọn sẵn. Sarah thất vọng khi chẳng thấy chai rượu nào và đành phải hài lòng với một ly nước ép đu đủ thay vì rượu vang.

Cô mang ly nước ép ra sân và ngồi xuống. Mấy chiếc lồng đèn treo trên cao đang xoay xoay trong gió. Tóc Sarah bay lòa xòa. Cô vén những lọn tóc nổi loạn ra phía sau vành tai và quay nhìn vào biệt thự. Alain al-Nasser đã bỏ cô vợ Sophie của hắn cho Jean-Michel chuyện trò và giờ đang trò chuyện thân mật với Zizi, Daoud Hamza và bin Talal. Sarah hớp một ngụm nước đu đủ ép, miệng cô ram ráp, trống ngực đập thình thịch.

“Chị có thấy hắn đẹp trai không?”

Cô nhìn lên, giật mình, Nadia đã đứng bên cạnh từ lúc nào.

“Ai cơ?”

“Alain”.

“Em đang nói về chuyện gì vậy?”

“Em thấy cách chị nhìn hắn, Sarah à”.

Nghĩ ra điều gì đó đi Sarah.

“Chị nhìn Jean-Michel đấy chứ”.

“Đừng nói với em rằng chị chú ý đến Alain nhé”.

“Thật là không hay khi lẫn lộn tình cảm với công việc”.

“Nhưng hắn cũng đẹp trai mà”.

“Rất đẹp”, Sarah nói, “Nhưng đó cũng là một rắc rối”.

“Tất cả bọn họ đều thế”.

“Em biết rõ về Alain không?”

“Không rõ lắm. Hắn mới làm việc cho cha em khoảng ba năm”.

“Chị đoán hắn không phải là người Arập Xêút?”

“Người Arập Xêút không ai có cái tên Alain đâu. Hắn là người Libăng, và lớn lên ở Pháp, em nghĩ thế”.

“Giờ hắn sống ở Montreal phải không?”

“Em không nghĩ thế”. Nadia tối sầm mặt. “Đừng nên đặt quá nhiều câu hỏi về công việc làm ăn của cha em - hoặc là về những người làm ăn với ông ấy. Cha em không thích điều đó đâu”.

Nadia đi ra ngồi xuống cạnh Rahimah. Sarah quay nhìn ra biển, nhìn những ngọn đèn chiếu sáng trên con tàu chạy ngang qua.

Chúng tôi biết hắn đang lẩn trốn trong đế quốc của tên trùm Zizi. Hắn ta có thể là Giám đốc ngân hàng đầu tư hoặc Giám đốc quản lí danh mục vốn đầu tư. Hắn cũng có thể là một nhà phát triển bất động sản hay chuyên viên ngành dược…

Hoặc là một người quản lí vốn đầu tư mạo hiểm tên là Alain al-Nasser. Alain là người Libăng nhưng lớn lên ở Pháp, em nghĩ thế. Alain với khuôn mặt tròn chẳng phù hợp với thân hình nhưng nhang nhác một người cô từng nhìn thấy ở một ngôi nhà vùng quê Surrey. Alain, vừa vào phòng trong để họp kín với Chủ tịch và Giám đốc điều hành của Jihad. Alain không muốn bắt tay Sarah. Có phải chỉ vì hắn ta sợ bị ô uế bởi phụ nữ không theo đạo Hồi chăng? Hay bởi vì tay hắn đã teo lại, kết quả của vết thương do mảnh đạn văng trúng ở Afghanistan?

“Trong tình huống như thế này, Sarah à, tốt nhất là nên đơn giản hóa mọi thứ. Chúng ta sẽ làm theo cách cổ điển nhé. Dùng mã vùng điện thoại. Dùng những tín hiệu thể chất”.

“Những tín hiệu thể chất?”

“Chẳng hạn đeo đồng hồ tay trái hay tay phải. Cổ áo khoác bẻ dựng đứng lên hay bẻ xuống. Giỏ xách để bên hông trái hay bên hông phải”.

“Tờ báo gấp làm tư đặt dưới bàn tay chăng?”

“Cô sẽ thấy ngạc nhiên đấy. Tôi đã từng luôn rẽ tóc ngôi giữa”.

“Tóc à?”

“Cô thường để kiểu tóc gì hả Sarah?”

“Thường xõa tóc thôi”.

“Cô có đôi gò má đẹp. Một cái cổ rất duyên dáng. Cô nên nghĩ đến việc thỉnh thoảng bới tóc lên. Như Marguerite ấy”.

“Kiểu ấy quá lỗi thời rồi”.

“Có những thứ không bao giờ lỗi thời hết. Vấn tóc lên đi nào”.

Cô tìm trong giỏ xách tay lấy ra một cái kẹp tóc mà Chiara đưa cô vào ngày cuối cùng ở phòng triển lãm tranh và làm theo lời Gabriel.

“Cô trông rất xinh đẹp khi vấn tóc cao như thế. Đây là dấu hiệu của chúng ta nếu cô thấy người đàn ông mà cho rằng hắn là bin Shafiq”.

“Rồi sau đó thì sao?”

“Để đó chúng tôi lo, Sarah à”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25: Gustavia, saint - barthelemy


Đêm đó, lần đầu tiên kể từ khi lên chiếc du thuyền Alexandra, Sarah không ngủ. Cô nằm trên chiếc giường rộng thênh thang, cố ép mình nằm bất động để bin Talal, nếu có đang quan sát cô qua máy camera giấu đâu đó trong phòng, hắn sẽ không nghi ngờ việc cô trằn trọc cả đêm. Trước 6 giơ,â trời bắt đầu sáng dần, một vệt đỏ từ từ loang rộng ở phía đường chân trời. Sarah chờ thêm nửa tiếng rồi gọi cà phê. Khi cà phê được đưa đến, đầu cô chợt nhức như búa bổ.

Sarah bước ra boong tàu và đứng dựa vào lan can, ngắm ánh sáng tràn ngập cảng biển, cô lại miên man nghĩ về tên Alain al-Nasser ở Montreal. Họ ở lại biệt thự của hắn hơn một tiếng đồng hồ rồi chạy về Gusvia để ăn tối. Zizi đã đặt chỗ ở nhà hàng La Vela ở rìa cảng biển, Alain al-Nasser không đi với họ. Thật ra không một ai đề cập đến tên hắn trong suốt buổi tối, ít nhất là trong tầm nghe ngóng của Sarah. Một người đàn ông có vẻ như là Eli Levon đi dạo ngang qua nhà hàng khi họ đang ăn tráng miệng. Sarah cúi xuống lấy khăn ăn lau miệng, khi cô ngẩng đầu lên thì người đàn ông đã bốc hơi.

Bỗng nhiên cô muốn vận động cơ thể. Cô quyết định đến phòng tập thể dục trước khi Zizi đến chiếm nó. Cô mặc quần soóc áo ống, giày chạy bộ và đi vào phòng tắm đứng trước gương cột tóc lại. Khi cô đến, phòng tập thể dục đang chìm trong im lặng. Cô đã hi vọng rằng sẽ chẳng có ai đến vào giờ này nhưng vẫn thấy Jean-Michel đang gập người trên máy tập cơ tay. Cô lạnh lùng chào hắn và bước lên máy chạy bộ.

“Tôi sắp lên đảo để tập chạy thật thay vì luyện với máy. Cô muốn đi cùng không?”

“Còn bài luyện tập của Zizi thì sao?”

“Ông ấy bị đau lưng”.

“Có vẻ như anh không tin lời ông ấy lắm”.

“Ông ấy luôn bảo mình bị đau lưng mỗi khi muốn nghỉ tập”. Hắn hoàn thành phần tập của mình và chùi cánh tay ướt đẫm mồ hôi vào khăn. “Chúng ta nên đi trước khi xe cộ trở nên đông đúc”.

Họ xuống một chiếc thuyền nhỏ và lái vào phía trong cảng. Trời lặng gió, mặt biển vẫn còn tĩnh lặng. Jean-Michel cột dây thuyền vào một bến tàu công cộng, gần một tiệm cà phê vắng khách vừa mới mở cửa. Họ chạy bộ trên bến cảng, rồi qua những con đường vắng lặng trong thị trấn cũ kĩ. Jean-Michel chuyển động đều đặn không biết mệt mỏi bên cạnh cô. Khi họ bắt đầu chạy lên dốc đồi, Sarah đã bị bỏ lại phía sau. Một chiếc mô tô scooter chạy vượt lên phía trước cô, một cô gái đội mũ bảo hiểm mặc quần jeans bó cầm lái. Cô cố gắng rướn mình để rút ngắn khoảng cách với Jean-Michel. Ở đỉnh dốc, cô ngừng chạy để thở trong khi Jean-Michel vẫn chạy bộ tại chỗ một cách chậm rãi.

“Sao vậy?”

“Tôi lên gần 5kg trong chuyến đi này với các anh”.

“Cũng gần kết thúc rồi”.

“Chúng ta sẽ lại lại đây thêm bao lâu?”

“Hai ngày nữa ở Saint-Bar”. Hắn nhếch môi theo đúng phong cách Pháp. “Có thể là ba ngày cũng nên. Zizi muốn rời khỏi đảo lắm rồi. Tôi có thể thấy điều đó”.

Ngay lúc đó chuyến bay đầu tiên trong ngày lướt qua đầu họ rồi lao xuống bên kia sườn đồi về phía đường băng. Jean-Michel bắt đầu chạy xuống đồi theo con đường đó. Họ chạy ngang sân bay và khu mua sắm trung tâm, rồi ôm cua chạy đến làng Saint-Jean. Chiếc xe đầu tiên xuất hiện, họ đã phải hai lần nhảy lên trên phần lề đường đầy cát để tránh xe tải. Jean-Michel dẫn cô qua một bức tường bằng đá ở cuối con đường và đi xuống lối nhỏ đầy cát dẫn ra bãi biển. “Chúng ta chạy bộ ở đây thì tốt hơn. Tôi sẽ chạy tốc độ ở cự li ngắn. Cô có nghĩ cô chạy theo tôi nổi không Sarah?”

“Điều gì làm anh nghĩ tôi không đuổi kịp anh hả?”

Hắn sải bước dài hơn. Sarah cố gắng bắt nhịp với hắn.

“Cuộc đua sắp bắt đầu. Cô sẵn sàng chưa?”

“Tôi nghĩ cuộc đua đã xong rồi đấy chứ”.

Jean-Michel phóng mình về phía trước. Sarah, kiệt sức vì cả đêm không ngủ, bước chầm chậm, thích thú với việc lần đầu tiên không có ai theo sát kể từ khi gia nhập ‘trại lính’ của Zizi. Nhưng khoảnh khắc đó cũng kéo dài không lâu. Chỉ hai phút sau Jean-Michel chạy nước rút trở lại chỗ cô với đôi tay đánh mạnh và liên tục. Sarah tiếp tục chạy. Jean-Michel giảm tốc độ khi cô tới nơi.

“Tôi sắp chết đói rồi. Chúng ta đi ăn sáng nhé?”. Cô đề nghị.

“Trước hết phải kết thúc cuộc chạy cái đã. Ta sẽ ăn sáng ở tiệm cà phê kế bên chỗ neo thuyền”.

Họ mất 20 phút để chạy quãng đường còn lại đến cảng. Quán cà phê đông khách hơn so với lúc họ mới lên bờ sáng sớm nay, nhưng Jean-Michel vẫn tìm thấy một bàn ngoài trời dưới bóng râm và ngồi xuống. Sarah nhìn sơ qua thực đơn rồi lướt mắt sang tiệm quần áo nam bên kia đường. Cửa hàng treo đầy các mẫu áo sơ mi Pháp may bằng tay và loại vải cô-tông trông có vẻ khá đắt tiền. Sarah gập tờ thực đơn lại và nhìn Jean-Michel.

“Tôi nên mua một món quà cho Zizi để cảm ơn ông ấy về khoảng thời gian vừa qua”.

“Zizi chẳng cần quà. Ông ấy đã có tất cả mọi thứ trên đời”.

“Tôi vẫn nghĩ mình phải tặng Zizi một món quà. Ông rất rộng lượng với tôi”.

“Rõ rồi”.

Sarah chạm vào tay Jean-Michel và chỉ sang cửa hàng nhỏ bán quần áo sang trọng bên kia đường.

“Zizi chẳng cần sơ mi”. Hắn nói.

“Những chiếc áo sơ mi đó trông cũng đẹp mà”.

Jean-Michel gật đầu. “Chúng là hàng Pháp đấy”.

“Cho tôi mượn thẻ tín dụng của anh đi”.

“Đây là thẻ của Tập đoàn AAB”.

“Tôi sẽ trả lại tiền cho anh sau”.

Jean-Michel rút thẻ tín dụng ra khỏi túi quần soóc của mình. “Không cần phải trả lại số tiền đó đâu. Tin tôi đi Sarah, cô không phải là người đầu tiên mua quà cho Zizi bằng tiền của ông ấy”.

“Zizi mặc size mấy vậy?”

“Cổ 6.5 inch 1, ống tay áo 33 inch”.

“Anh biết rõ nhỉ?”

“Tôi là huấn luyện viên riêng của ông ấy mà”.

Sarah nói cho Jean-Michel phần gọi món của mình gồm món tartin, trứng chiên và sữa rồi đi sang tiệm quần áo. Cô đứng ở ngoài một khắc, nhìn ngắm những chiếc áo sơ mi trong tiệm rồi đẩy cửa bước vào. Một cô gái xinh đẹp tóc vàng cắt ngắn chào Sarah bằng tiếng Pháp. Sarah chọn hai cái áo sơ mi, một cái màu xanh dương đậm, một cái màu vàng nhạt và đưa cho người bán hàng số đo của Zizi. Cô gái biến mất sau cánh cửa trong và một lúc sau quay trở lại với hai chiếc áo.

“Chị có hộp đựng quà không?”

“Dạ có chứ, thưa quý cô”.

Cô bán hàng lấy một cái hộp từ dưới quầy tính tiền, cẩn thận gói hai chiếc áo vào giấy lụa và đặt vào trong hộp.

“Chị có thiệp không? Loại nào có phong bì luôn ấy”.

Cô gái lại mò tay phía dưới quầy tính tiền lấy ra một cái thiệp và đưa cho Sarah cây viết luôn thể.

“Quý cô chi trả thế nào đây ạ?”

Sarah đưa cô gái thẻ tín dụng. Trong khi cô gái tính tiền, Sarah dựa vào quầy và viết mấy chữ “Alain al-Nasser - Montreal”. Rồi cô để thiệp vào bì thư, liếm phần vành có sẵn keo và dán lại cẩn thận. Cô gái đặt hóa đơn trước mặt Sarah. Cô kí tên và trả lại cô gái cây viết cùng phong bì thiệp.

“ Tôi không hiểu, thưa quý cô”.

“Sáng nay sẽ có một người bạn của tôi đến đây xem tôi có bỏ quên thứ gì không”. Sarah nói. “Xin hãy đưa cho bạn tôi phong bì này. Nếu cô làm được, cô sẽ được trả công hậu hĩnh. Sự kín tiếng của cô rất quan trọng. Cô hiểu ý tôi không?”

“Vâng, thưa quý cô”. Cô gái mỉm cười với Sarah một cách bí hiểm, rồi nhìn về phía Jean-Michel đang ngồi trong quán cà phê. “Bí mật của quý cô sẽ được bảo đảm an toàn”.

Cô gái bỏ hộp quà vào túi giấy rồi đưa cho Sarah. Sarah nháy mắt với cô gái rồi bước ra khỏi tiệm ở về quán cà phê. Bữa ăn sáng đã bày sẵn trước mặt khi cô ngồi xuống.

“Có vấn đề gì không?”. Jean-Michel hỏi.

Sarah lắc đầu và đưa trả hắn thẻ tín dụng. “Không, chẳng có vấn đề gì cả”.

Ba mươi phút sau Sarah và Jean-Michel lên tàu trở về Alexandra. Gabriel chờ thêm 15 phút nữa rồi bước vào tiệm quần áo. Anh nhận tấm thiệp từ tay cô bán hàng và đưa cô 100 euro cho việc giữ bí mật. Năm phút sau anh đã ngồi trên chiếc Zodiac quay về chiếc du thuyền đang thả neo của mình.

Alexandra đang nằm im lìm trước mặt anh, gần như là chiếc tàu lớn nhất trong cảng và là chiếc du thuyền lớn thứ hai chỉ sau chiếc tàu thủy vừa ghé vào cảng qua đêm. Gabriel thẳng tiến về chiếc Sun Dancer đang thả neo cách đó vài trăm mét, gần hai khối đá đứng gác ngay lối vào cảng biển. Anh cột chiếc Zodiac vào đuôi chiếc du thuyền và đi vào phòng chính đã được trưng dụng thành trung tâm điều hành và chỉ huy di động. Có một chiếc điện thoại vệ tinh tình báo và một chiếc máy vi tính kết nối với đại lộ King Saul. Hai tá điện thoại di động, vài chiếc bộ đàm đang sạc pin và một chiếc máy quay phim trang bị ống kính chụp từ xa đang theo dõi con tàu Alexandra.

Gabriel đứng trước bàn điều khiển và thấy Sarah bước ra khỏi khoang riêng. Yaakov đang điện đàm với Tel Aviv. Khi Yaakov gác máy, Gabriel chìa ra tấm thiệp. Alain al-Nasser - Montreal.

“Cố gắng của chúng ta đấy”. Yaakov nói. “Ngồi xuống đi, Gabriel. Đại lộ King Saul đã có một buổi sáng khá bận rộn”.

Gabriel tự rót cho mình một tách cà phê và ngồi xuống.

“Sáng nay tôi đã đột nhập vào hệ thống đặt chỗ của công ty cho thuê biệt thư.å Nơi Sarah đến đêm qua là do công ty Xây dựng Meridian Montrea thuê.

“Công ty Xây dựng Meridian nắm hoàn toàn dưới quyền kiểm soát của Tập đoàn AAB”. Lavon thêm vào.

“Thông tin đặt chỗ có cho biết ai sẽ ở đó không?”. Gabriel hỏi.

Yaakov gật đầu. “Một phụ nữ tên là Katrine Devereaux thuộc Tổng hành dinh của Meridian đặt chỗ. Cô ả trả trước mọi chi phí và yêu cầu công ty cho thuê biệt thự phải mở cửa sẵn để đón hắn ta”.

“Hắn đến khi nào?”

“Được ba ngày rồi, theo như thông tin ghi nhận”.

“Hắn sẽ ở lại bao lâu?”

“Thêm bốn ngày nữa”.

“Còn xe hơi hắn sử dụng?”

“Có một chiếc Cabriolet hiện đang đậu trong nhà. Miếng nhãn phía sau xe ghi ‘xe cho thuê ở đảo’. Dịch vụ thuê xe này không có hệ thống đặt chỗ bằng máy vi tính. Mọi thứ đều trên giấy tờ hết. Nếu muốn biết chi tiết hơn thì ta phải đột nhập vào đó theo kiểu truyền thống thôi”.

Gabriel nhìn Mordecai. “Văn phòng cho thuê xe nằm ở sân bay”. Mordecai nói. “Đó chỉ là một gian phòng nhỏ dùng cửa trượt bằng nhôm làm cửa sổ và lối đi cho nhân viên ra vào. Chúng ta có thể đột nhập vào đó trong tích tắc. Vấn đề là sân bay có bố trí cảnh vệ vào ban đêm. Chúng ta có thể làm lộ hoạt động của mình chỉ vì muốn biết tên và số thẻ tín dụng hắn sử dụng để thuê xe”.

“Quá mạo hiểm”, Gabriel nói. “Có gì trên điện thoại không?”

Mordecai đặt máy phát tín hiệu trong hộp đựng mối nối hai mạch điện đêm hôm trước. “Có một cuộc gọi sáng nay. Một ả nào đó gọi cho tiệm uốn tóc ở Saint-Jean hẹn trưa nay sẽ đến đó”.

“Cô ta tự xưng tên gì?”

“Bà al-Nasser”. Mordecai trả lời. “Có một vấn đề nhỏ với cái dây mắc vào điện thoại để nghe lén. Giờ ta đang ở ngoài rìa phạm vi thu sóng, vì thế tín hiệu rất yếu và hay nhiễu sóng. Nếu bin-Shafiq nhấc điện thoại lên vào lúc này thì chúng ta không thể nhận diện được giọng nói của hắn vì sự nhiễu tĩnh điện trên đường dây. Ta cần một cột thu sóng”.

Gabriel nhìn Yaakov. “Nếu cho tàu của mình đến gần hơn thì sao?”

“Vùng nước ở đó quá sâu để thả neo. Nếu cố gắng di chuyển tàu để theo dõi căn biệt thự, thì coi như mình tự lộ ra cho chúng chú ý. Chúng ta cũng có thể đi bộ đến cửa trước biệt thự của al-Nasser và tự giới thiệu về mình”.

“Cũng không phải là một ý kiến tệ đâu”. Mikhail nói khi anh bước vào phòng. “Tôi tình nguyện”.

“Chúng ta cần một cột thu tín hiệu”. Yaakov nói.

“Thế thì làm một cái”. Gabriel lại đưa thiệp ra. “Còn danh tính này thì sao? Anh có nhận ra nó không?”

“Không phải là bí danh mà ta biết”. Yaakov nói. “Tôi sẽ nhờ đại lộ King Saul kiểm tra trên các máy vi tính, xem họ có tìm ra được gì không”.

“Bây giờ làm gì?”. Mikhail hỏi.

“Chúng ta sẽ theo dõi hắn cả ngày”. Gabriel nói. “Ta sẽ chụp hình hắn và ghi lại giọng nói. Nếu có thể, ta sẽ gửi thông tin cho đại lộ King Saul phân tích”.

“Đây chỉ là một cái đảo nhỏ thôi”, Lavon nói với giọng cảnh giác. “Lực lượng của chúng ta ở đây lại ít”.

“Đó cũng là một lợi thế của mình. Ở một nơi như thế này, không có gì bất thường khi đi ra đi vào và thấy cùng một người hàng ngày”.

“Đúng”. Lavon đồng tình. “Nhưng bọn tay chân ngu đần của tên bin Shafiq sẽ bất an nếu thấy quá nhiều gương mặt quen thuộc”.

“Và nếu đại lộ King Saul cho ta biết Alain al-Nasser chính là Ahmed bin Shafiq thì sao?”. Mikhail hỏi. “Lúc đó chúng ta xử trí ra sao?”

Gabriel nhìn Sarah qua màn hình trên bàn điều khiển. “Tôi sẽ quay trở về Gustavia”, anh nói, vẫn nhìn vào màn hình. “Chúng ta cần một cột thu tín hiệu”.

Năm phút sau, Gabriel đến chi nhánh cho thuê biệt thự Sibarth. Ra đón anh là một phụ nữ người Anh chính gốc, có mái tóc nâu vàng như vệt nắng và cặp mắt xanh lơ. Gabriel đóng vai Heinrich Kiever, một người Đức ‘lỡ yêu’ hòn đảo thiên đường này và mong ước được ở lại lâu hơn. Người phụ nữ Anh mỉm cười - cô đã nghe rất nhiều câu chuyện như thế và bắt đầu in ra cả danh sách những chỗ còn trống để cho thuê. Gabriel nhìn qua bản danh sách và cau mày. “Tôi đã hi vọng là còn chỗ ở khu này”. Anh gõ vào tấm bản đồ đang trải ra trên bàn. “Chỗ này, phía bắc của hòn đảo”.

“Point Milou à? Vâng, chỗ đó rất hay, nhưng tôi e rằng không có biệt thự trống vào thời điểm này thưa ông. Nhưng chúng ta có chỗ ở đây. Kế bên Point Milou, là Point Mangin”. Cô ta gõ gõ vaò điểm kế bên.

“Có thể nhìn thấy Point Milou từ căn biệt thự ở Point Mangin không?”

“Vâng, khá rõ. Ông có muốn xem hình ảnh của nơi đó không?”

“Vâng, phiền cô”.

Người phụ nữ đưa ra một tập sách thông tin và mở đúng trang cần xem. “Căn biệt thự có 4 phòng ngủ, thưa ông Herr Kiever. Ông có cần căn nhà lớn cỡ này không?”

“Thật ra chúng tôi có thể có thêm bạn đến viếng thăm”.

“Vậy tôi nghĩ căn biệt thự này hợp với ý định của ông rồi. Hơi đắt tiền, 12,000 euro một tuần, và điều kiện là ông phải mướn ít nhất hai tuần”.

Gabriel nhún vai như thể muốn nói tiền đối với anh không phải là vấn đề.

“Không được mang theo trẻ con và tuyệt đối không có thú nuôi. Ông không nuôi chó đúng không ạ?”

“Thề có Chúa, không bao giờ nuôi chó”.

“Xin ông vui lòng đặt cọc, tổng cộng số tiền bây giờ là 2,600 euro và dĩ nhiên là có thể trả trước luôn”.

“Khi nào thì chúng tôi nhận nhà được?”

Cô ta nhìn đồng hồ đeo tay. “Giờ là 10 giờ 15 phút. Nếu ta nhanh chóng làm xong mọi thủ tục thì ông và vợ có thể nhận nhà chậm nhất là 11 giờ 30 phút”.

Gabriel mỉm cười và đưa thẻ tín dụng cho cô nhân viên.

Người phụ nữ Anh đó không biết rằng Gabriel và Gina chuyển vào biệt thự được mười lăm phút thì các vị khách đầu tiên bắt đầu lục tục đến, nhưng thực chất họ đã ổn định trong nhà tự lúc nào rồi. Đồ đạc của họ cũng khá giống những du khách khác trên đảo. Mordecai đem theo cái máy thu kích hoạt giọng nói và một máy ảnh Nikon trang bị ống kính dài. Mikhail đến với một túi điện thoại di động, radio, và bốn khẩu súng ngắn. Một giờ sau, lần đầu tiên họ được quan sát con mồi của mình khi hắn chường mặt trên ban công trong chiếc quần soóc trắng và áo sơ-mi tay dài. Mordecai chụp vài bức hình của hắn. Năm phút sau, al-Nasser bơi một chút và cởi trần leo lên bờ, Mordecai chụp thêm vài bức nữa. Gabriel kiểm tra lại hình ảnh trên máy vi tính, nhưng anh cho rằng những bức ảnh này không đáng để gửi đến cho Đại lộ King Saul phân tích.

Lúc 1 giờ trưa, máy thu tín hiệu kích hoạt giọng nói chuyển từ đỏ sang xanh. Một giọng nói phát ra từ đường dây, tiếp theo là giọng của ai đó trong nhà đang quay số. Sau hai tiếng chuông reng, người nữ tiếp tân ở nhà hàng La Gloriette nhấc máy. Gabriel nhắm mắt lại thất vọng khi giọng nói kế tiếp là ‘phu nhân’ al-Nasser đặt chỗ cho bữa trưa lúc 2h. Anh nhanh chóng xem xét việc bố trí một đội trinh thám trong nhà hàng nhưng xua ngay ý nghĩ ấy sau khi nghe được mô tả về phòng ăn tù túng bên cạnh bờ biển. Tuy nhiên Mordecai vẫn cứ chụp al-Nasser thêm hai tấm nữa, một tấm là lúc hắn ra khỏi xe trong bãi đậu xe và tấm thứ hai là khi hắn nhấp rượu trong bàn ăn. Trong cả hai hình hắn đều mang kính đen và mặc áo sơ mi dài tay. Gabriel gửi hình cho đại lộ King Saul. Một giờ sau, khi al-Nasser và vợ rời nhà hàng, đại lộ King Saul trả lời trên đường dây tình báo rằng kết quả không thể xác định được.

Lúc 3 giờ rưỡi, chúng rời nhà hàng La Gloriette và chạy về làng Saint-Jean, tới đó al-Nasser để vợ hắn xuống tiệm uốn tóc. Từ đây hắn chạy thẳng đến Gustavia và lúc 3 giờ 50 phút hắn lên xuồng để ra chiếc du thuyền Alexandra. Yossi thu lại hình ảnh hắn lên thuyền, cùng với cái ôm thắm thiết hắn nhận được từ Zizi al-Bakari. Sau đó chúng đi lên văn phòng phía trên để họp kín. Sarah không có mặt trên tàu để thấy al-Nasser đến, vì thời điểm đó cô và phần lớn bọn tay chân của Zizi đang lặn có ống thở ở vùng Ile Fourche, một khu đảo nhỏ hoang vắng cách Saint-Bart khoảng một dặm.

Cuộc gặp kéo dài chừng một tiếng. Yossi ghi hình al-Nasser lúc hắn rời văn phòng Zizi và cả biểu hiện quyết tâm trên mặt hắn lúc xuống xuồng quay trở lại Gustavia. Mikhail bám theo hắn về tới làng Saint-Jean lúc 6 giờ tối, al-Nasser đón vợ từ tiệm uốn tóc. Lúc 6 giờ rưỡi hắn lại lao vào cữ bơi chiều một lần nữa. Mikhail ngồi ủ rũ bên Gabriel trong căn biệt thự ở phía bên kia vịnh.

“Chúng ta chơi trò đuổi bắt với hắn cả ngày”, Mikhail nói, “mà chúng ta đạt được gì? Mấy tấm hình vô dụng. Alain al-Nasser rõ ràng chính là bin Shafiq rồi. Chúng ta bắt hắn đi và kết thúc vụ việc cho gọn”.

Gabriel nhìn Mikhail bằng con mắt của một kẻ dạn dày kinh nghiệm. “Một ngày nào đó khi cậu già hơn và khôn hơn một chút, tôi sẽ kể cho cậu nghe về cái đêm một nhóm tình báo nghĩ rằng giải thưởng cho việc bắt được bọn tội phạm đã nằm trong tay. Nhưng không ngờ họ lại giết lầm một anh bồi bàn vô tội”.

“Tôi biết câu chuyện đó rồi Gabriel. Chuyện xảy ra ở Lillehammer. Phòng tình báo vẫn gọi chuyện đó là Leyl-ha-Mar, tức là ‘đêm của sự cay đắng’, nhưng nó xảy ra cũng lâu rồi mà”.

“Đó vẫn là sai lầm ngớ ngẩn nhất trong lịch sử của Văn phòng. Họ giết nhầm người và bị bắt vì chuyện đó. Họ phá hết các quy tắc. Họ hành động hấp tấp và họ để cảm xúc lấn át lí trí. Chúng ta đã đi quá xa nên không thể có thêm một ‘đêm của sự cay đắng’ nào nữa. Thứ nhất, ta phải có bằng chứng - bằng chứng không thể bác bỏ được - rằng Alain al-Nasser là Ahmed bin Shafiq. Chỉ khi đó chúng ta mới bắt đầu nói đến chuyện thủ tiêu hắn. Và chúng ta chỉ bóp cò súng sau khi đã đưa Sarah trở về và cả đội biến khỏi hòn đảo này một cách an toàn”.

“Làm thế nào ta tìm được chứng cứ?”

“Mấy tấm hình chưa đủ nên ta cần thêm giọng nói của hắn nữa”. Gabriel trả lời.

“Hắn không nói gì cả”.

“Tất cả mọi người đều phải nói chuyện chứ. Chúng ta phải làm cho hắn nói chuyện trong khi theo dõi hắn”.

Ngay lúc đó đèn của máy thu âm điện thoại chuyển sang màu xanh và tiếng quay số vang rền. Cuộc gọi của phu nhân al-Nasser chỉ dài có ba mươi giây. Gabriel nghe lại cuộc thoại chỉ để chắc rằng anh đã ghi chú đúng các chi tiết.

“Nhà hàng Le Poivre xin nghe”.

“Chúng tôi muốn đặt bàn cho hai người lúc 9 giờ”.

“Chúng tôi đã có người đặt bàn vào giờ đó rồi thưa bà. Chúng tôi có thể sắp xếp cho quý khách vào 8 giờ hoặc 8 giờ 30 phút”.

“8h thì quá sớm. Thôi vậy chúng tôi đặt bàn 9 giờ 30 phút”.

“Xin bà cho biết quý danh ạ”.

“Al-Nasser”.

Gabriel nhấn nút ‘ngừng’ và nhìn Mikhail - Kiên nhẫn đi cậu trai. Phần thưởng chỉ đến với những người biết bền chí.

Nhà hàng Le Poivre là một trong những viên ngọc chưa được khám phá của hòn đảo này. Nó nằm ở rìa của một trung tâm mua sắm nhỏ nhắn ở Saint-Jean, ngay giao lộ giữa con đường chính dọc bờ biển và một con đường hẹp dẫn lên cao, nơi có thể nhìn thấy cả bãi biển. Nhà hàng không có quang cảnh mở với bãi đậu xe chen chúc và không khí chật hẹp bên trong. Phòng ăn chỉ cỡ một cái sân nhỏ trung bình ở vùng ngoại ô. Phục vụ cũng rất bình thường, nhưng thức ăn - khi cuối cùng nó cũng được bưng ra - thì tuyệt nhất trên đảo. Cũng nhờ vị trí tầm thường của mình mà nhà hàng Le Poivre được nhiều người nổi tiếng ưa ghé qua. Vì họ luôn có cảm giác bị quấy nhiễu bởi báo chí và công chúng, nên việc hiếm khi bị bắt gặp ở nhà hàng này khiến họ cảm thấy thoải mái. Hơn thế, nơi này cũng chưa bao giờ xảy ra những chuyện bất bình thường. Đó là lí do tại sao đến ngày hôm nay, người ta vẫn luôn nhắc về rắc rối bất ngờ đã xảy ra với ông bà al-Nasser.

Nhân viên ở nhà hàng nhớ rõ câu chuyện này, cũng như người dân địa phương đang uống rượu cạnh quầy bar vào lúc đó. Vào buổi chiều, trong khoảng thời gian bận rộn giữa buổi ăn trưa và buổi ăn tối, nhân viên thường đếm lại số ly rượu nho hoa hồng, số tách cà phê espresso hoặc số điếu thuốc lá đã bán ra. Bà Al-Nasser đặt bàn lúc 9 giờ 30 phút, nhưng họ lại đến sớm hơn. Odette, cô chủ nhà hàng trực vào tối hôm đó, nhớ rằng chuyện xảy ra lúc 9 giờ 15 phút nhưng Étienne, người pha chế rượu, sẵn sàng nói một cách chắn chắn rằng lúc đó là 9 giờ 20 phút. Vẫn chưa có bàn trống vào thời điểm đó, vì thế họ phải ngồi đợi trên quầy bar. Dĩ nhiên chính Étienne là người phục vụ rượu rồi. Phu nhân al-Nasser với một ly sâm-panh. Nước ép dứa cho quý ông. “Tôi có thể giúp gì thêm cho ông bà nữa ạ?”. Étienne hỏi nhưng quý ông mỉm cười lịch sự và trả lời bằng giọng chỉ hơn lời thầm thì một chút. “Nước ép trái cây là đủ”.

Sau 9 giờ 30 phút mới có bàn cho họ. Thêm một lần nữa có sự tranh cãi về thời gian. Denise, người nữ phục vụ, nhớ lại rằng lúc đó là 9 giờ 40 phút, nhưng Odette, người quản lí phiếu đặt chỗ và tính giờ, thì thề rằng lúc đó chỉ khoảng 9 giờ 35 phút thôi. Hết rắc rối về chuyện giờ giấc thì lại đến việc ông bà al-Nasser không hài lòng với cái bàn mới của mình. Bà al-Nasser phàn nàn nó quá gần toa-lét, nhưng có người cho rằng ông al-Nasser không thích cái bàn vì một lí do khác, dù chẳng ai biết được lý do đó là gì?

Gần 10 giờ mới có một cái bàn khác trống chỗ. Cái bàn này lại sát bên một đường ray xe lửa nhìn ra ngoài đường. Ông al-Nasser ngồi ở cái ghế đối diện quầy bar, nhưng Étienne nhớ rằng ánh mắt của ông ấy cứ dán chặt vào dòng xe cộ đang lưu thông trên con đường trên bờ biển. Denise trao cho họ thực đơn bữa ăn tối và nhận phần gọi món của họ. Quý bà gọi một chai rượu vang - theo Denise thì đó là loại Côtes du Rhône, theo Étienne thì đó là loại Bordeaux. Nhưng không có ai tranh cãi về màu rượu hết. Hẳn nhiên là màu đỏ rồi, và cũng dĩ nhiên, phần lớn rượu sẽ văng tung tóe lên bộ quần áo vùng nhiệt đới màu trắng của quý bà.

Chất xúc tác cho những rắc rối đến với nhà hàng Le Poivre vào lúc 10 giờ 15 phút. Một gã với vóc người nhỏ thó và không có đặc điểm gì gây được ấn tượng ngật ngưỡng bước vào nhà hàng. Étienne cho rằng cùng lắm gã ta chỉ cao cỡ 1,65 mét và nặng 70kg thôi. Gã mặc chiếc quần soóc kaki lôi thôi có vẻ như ít khi được giặt, trên người là chiếc áo thun xám rộng quá khổ mà vạt áo trái bị rách, thêm đôi săng-đan khóa dán 1và chiếc mũ đánh gôn tả tơi. Thật lạ là không ai có thể nhớ lại một cách chính xác khuôn mặt của gã. Étienne nhớ rằng gã đeo cặp mắt kính lỗi thời. Odette mường tượng ra bộ râu quai nón không được tỉa tót mà cũng chẳng hợp với diện mạo. Denise chỉ nhớ cách gã bước đi. Dáng khá linh hoạt đấy, theo Denise thì là như vậy. Dáng đi ấy có thể là của một người đàn ông chạy rất nhanh, hoặc là của một người giỏi môn bóng đá.

Đêm đó, không ai trong nhà hàng biết tên gã là gì. Vì vậy sau này người ta gọi gã một cách đơn giản là ‘Claude’. Gã từ Gustavia đến Saint-Jean bằng xe mô tô và đã uống Heineken cả buổi tối ở vài quán nào đó trước khi đến Le Poivre. Lúc 10 giờ 15 phút, gã vào nhà hàng tìm bàn để ngồi, hơi thở nồng nặc mùi bia và thuốc lá. Cơ thể gã cũng tỏa ra thứ mùi hỗn hợp ấy. Khi Odette giải thích rằng không còn bàn nào trống cả.“Và rằng tôi cũng không muốn xếp chỗ cho gã nếu vẫn còn bàn trống”. Odette nói thêm, và kể rằng lúc ấy gã kia lầm bầm rồi hỏi mượn chìa khóa toa-lét. Odette nhã nhặn trả lời rằng toa-lét chỉ dành cho khách của nhà hàng. Thế là gã đưa mắt nhìn Étienne và bảo “Heineken”. Étienne đặt chai bia lên quầy bar, nhún vai với Odette và đưa chìa khóa cho gã.

Gã ở trong toa-lét bao nhiêu lâu cũng là một trong những vấn đề đáng bàn cãi. Người ta phỏng đoán khoảng độ từ 2 phút đến 5 phút thôi, và giả thuyết đó chính xác đến ngạc nhiên nếu so với những gì gã làm trong đó. Đôi vợ chồng tội nghiệp ngồi ngay ở cái bàn ông bà al-Nasser đã từ chối ngồi sau này mô tả rằng gã ‘tè’ liên tù tì bất tận. Sau đó là tiếng giật nước nhiều lần và tiếng nước chảy trong bồn cầu ào ào. Cuối cùng gã cũng mở cửa toa-let bước ra, thản nhiên kéo dây quần lên và mỉm cười như vừa trút được gánh nặng khủng khiếp. Gã bắt đầu đi ngược về phía quầy bar, chăm chú nhìn vào chai Heineken trên quầy. Và rồi rắc rối xảy ra.

Denise chỉ vừa mới rót rượu vào ly cho bà al-Nasser thêm một lần nữa. Quý bà nâng ly định uống thì chợt hạ ly xuống vì kinh tởm khi thấy cảnh Claude bước ra khỏi toa-lét với đôi tay vẫn đang còn ‘vướng bận’ chỗ đũng quần kaki của mình. Bà đặt ly rượu lên bàn, thả tay ra để ngả người về phía trước và kể cho quý ông al-Nasser về cảnh tượng mình vừa mục kích. Khi Claude loạng choạng bước ngang qua, tay gã đụng vào ly rượu trên bàn làm đổ hết rượu vào mình bà al-Nasser.

Những gì xảy ra sau đó được miêu tả rất khác nhau tùy theo ai là người kể lại câu chuyện. Tất cả đều đồng ý là Claude đã tỏ ra cố gắng xin lỗi một cách chân thành, và tất cả đều đồng ý rằng ông al-Nasser đã chọn cách ‘làm lớn chuyện’. Lời lẽ nặng nề được hai bên dành cho nhau và tiếp theo là những lời đe dọa sẽ giải quyết bằng bạo lực. Sự việc lẽ ra đã có thể được giải quyết êm thâæm nếu như Claude không đề nghị được trả tiền giặt ủi cho bộ cánh vấy bẩn quý bà đang khoác trên người. Khi lời đề nghị ‘chuộc tội’ bị từ chối thẳng thừng, gã với tay lấy cái bóp tiền trong túi quần kaki ra và móc vài đồng euro nhàu nát thảy vào mặt quý ông al-Nasser. Denise cố gắng tránh ra chỗ khác ngay khi quý ông al-Nasser túm cổ Claude kéo ra phía cửa lớn. Quý ông giữ gã ở đó một hồi, sỉ vả lớn tiếng vào mặt gã rồi xô gã xuống mấy bậc tam cấp.

Có tiếng vỗ tay lạch bạch từ những người khách trong nhà hàng và cả tiếng xuýt xoa quan tâm đến tình trạng thảm hại của bộ quần áo bà al-Nasser đang mang trên người. Chỉ có Étienne là quan tâm đến bóng người ngã sõng xoài trên lề đường. Anh giúp gã đứng dậy và cẩn thận dõi theo gã đến khi gã nhảy lên chiếc mô tô và lảo đảo chạy xuống con đường bờ biển. Đến ngày hôm nay Étienne vẫn nghi ngờ tính xác thực của sự việc xảy ra tối hôm ấy. Là đai đen karate, anh thấy dáng đi của gã say rượu giống dáng đi của một người cũng học võ karate. Nếu gã đàn ông nhỏ thó đeo kính và nón đánh gôn đó đánh trả lại, Étienne nói một cách quả quyết với tất cả kinh nghiệm của người học võ, rằng gã ta có thể bẻ tay quý ông al-Nasser gãy lìa và đem ra dọn thành món ăn tối cùng với rượu Bordeaux cho quý ông.

“Không phải là Bordeaux”, Denise sẽ nói với bạn như thế. “Là Côtes du Rhône cơ”.

“Côtes du Rhône hay Bordeaux không quan trọng. Tôi sẽ kể cho bạn nghe một điều nữa, là khi gã đê tiện thấp bé ấy phóng xe đi, gã cười toe toét đến tận mang tai. Như thể gã vừa trúng số độc đắc vậy”.

Eli Lavon quan sát màn diễn xuất của Gabriel từ bãi đậu xe, và vì thế cũng chính Lavon là người kể lại toàn bộ câu chuyện cho cả đội nghe ở biệt thự của họ tối hôm đó. Gabriel chậm chạp lê từng bước trên sàn nhà lát gạch, vừa chăm sóc vết thương vừa giữ một bọc nước đá nơi khuỷu tay sưng tấy của mình. Tâm trí anh đang tập trung vào cảnh tượng xảy ra cách ngôi biệt thự này nửa vòng trái đất. Ở Tel Aviv, một nhóm chuyên gia về khoa học phân tích nhận dạng giọng nói đang quyết định xem người đàn ông mang tên Alain al-Nasser sẽ sống hay phải chết. Gabriel đã biết câu trả lời. Anh biết ngay từ giây phút con mồi của anh đứng dậy khỏi bàn và tham gia vào cuộc xung đột chết người ấy. Và anh đã thấy chứng cớ chỉ sau vài giây, khi anh thành công trong việc lật ống tay áo phải của con mồi và thấy vết sẹo xấu xí vì đạn bắn trên cẳng tay của hắn. Lúc 11 giờ 30 phút, biệt thự bên kia vịnh tắt đèn. Gabriel bước ra sân thượng. Phía biệt thự bên kia Ahmed bin Shafiq cũng thế. Mikhail có cảm tưởng hai người đàn ông đó đang nhìn nhau chằm chằm qua khoảng tối sẫm giữa hai ngôi biệt thự. Lúc 11 giờ 35 phút điện thoại vệ tinh rung khe khẽ. Yaakov bắt máy, anh lắng nghe trong im lặng rồi gác máy gọi Gabriel…

Chú thích

1 inch = 2.54cm

1 Loại gồm hai miếng bằng sợi nilông, một nhám một trơn, khi ép lại sẽ dính chặt nhau.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26: Point mangin, saint - barthélemy


Họ tập trung trong phòng khách thoáng mát của biệt thự, nằm ườn ra trên ghế salon trải nệm và ghế đan bằng liễu gai. Dina pha một bình cà phê trong khi Lavon dán bản đồ hòn đảo lên tường. Gabriel im lặng nhìn tấm bản đồ rất lâu với vẻ mặt buồn rầu. Cuối cùng anh ta cũng lên tiếng phá vỡ sự im lặng, nhưng anh chỉ nói một từ “Zwaiter”, rồi nhìn Lavon. “Anh có nhớ Zwaiter không Eli?”

Lavon nhướng mày nhưng rồi chẳng nói gì. Hẳn nhiên Lavon nhớ Zwaiter. Người đứng đầu tổ chức khủng bố Palestine Tháng Chín Đen ở Italy. Kẻ đầu tiên chết vì cuộc thảm sát ở Munich vào năm 1972. Gabriel gần như có thể thấy lại Zwaiter ngay lúc này, một con người thông minh gầy ốm mặc áo khoác kẻ sọc, băng ngang qua khu Piazza Annibaliano ở Roma với chai rượu quả vả và cuốn ‘Ngàn lẻ một đêm’ trong tay.

“Anh theo dõi Zwaiter bao lâu hả Eli? Hai tuần?”

“Gần ba tuần”.

“Hãy kể với mọi người xem anh biết được gì về Wadal Zwaiter trước khi chúng ta nghĩ đến chuyện giết tên này”.

“Mỗi tối hắn ghé lại cùng một cái chợ nhỏ. Hắn luôn đến quán bar Trieste để gọi vài cuộc điện thoại, và hắn luôn đi vào tòa nhà chung cư qua cửa C. Đèn trong phòng giải lao của hắn được điều khiển tự động nhờ thiết bị cài giờ, và hắn luôn đứng trong bóng tối một lúc, tìm trong túi một đồng mười liar để vận hành thang máy. Đó là nơi anh hành động, đúng không Gabriel? Ngoài thang máy?”

“Xin lỗi, ông có phải là Wadal Zwaiter?”

“Không, đừng!”

“Và sau đó anh bốc hơi”. Lavon tiếp tục. “Hai chiếc xe để tẩu thoát. Một đội bao trọn tuyến đường. Trước khi trời sáng anh đã ở Thụy Sĩ. Shamron nói rằng điều đó giống như làm nổ tung cả trận chiến”.

“Chúng ta kiểm soát được mọi chi tiết. Chúng ta chọn thời gian và địa điểm để thi hành án tử hình và lên kế hoạch đến từng chi tiết nhỏ. Chúng ta đã thực hiện mọi thứ theo đúng kế hoạch đêm hôm đó. Nhưng chúng ta không thể làm bất cứ điều gì giống thế trên hòn đảo bé nhỏ này”. Gabriel nhìn vào bản đồ. “Chúng ta có thể hoạt động rất tốt trong thành phố nhưng không phải ở những nơi như thế này”.

“Điều đó có thể đúng”, Dina nói, “nhưng các anh không thể để tên bin Shafiq sống sót”.

“Tại sao không?”

“Vì hắn có mọi nguồn tài chính của một tỉ phú ngay trên đầu ngón tay của mình. Vì hắn có thể bay thẳng đến Najd trong tích tắc và vuột ra khỏi tầm tay chúng ta mãi mãi”.

“Có những cách đúng để thực hiện việc này, và cũng có những cách sai”.

“Đừng sợ khi phải bóp cò súng vì những gì đã xảy ra ở ga xe lửa Lyon, Gabriel à”.

“Chuyện này không liên quan đến Paris. Chúng ta có một mục tiêu chuyên nghiệp. Một mặt trận hẹp. Một lộ trình nguy hiểm để thoát thân. Một biến số khó lường mang tên Sarah Cooft. Tôi có thể tiến tới không?”.

“Nhưng Dina nói đúng”, Yossi nói. “Chúng ta phải hành động ngay bây giờ. Chúng ta có thể sẽ không bao giờ tóm được hắn thêm một lần nữa”.

“Điều răn dạy thứ mười một. Đừng để bị bắt. Đó là trách nhiệm đầu tiên của chúng ta. Mọi chuyện khác chỉ là thứ yếu thôi”.

“Anh đã thấy bin Shafiq trên tàu Zizi hôm nay chưa?” Rimona hỏi. “Chúng ta xem lại cuộn băng thu hình nhé? Anh có thấy mặt hắn khi hắn bước ra khỏi phòng họp không? Anh nghĩ chúng đang nói gì với nhau hả Gabriel? Đầu tư chăng? Hắn cố giết chúng tôi đấy. Hắn phải chết”.

“Chúng ta sẽ làm gì với mụ đàn bà?”. Yossi hỏi.

“Ả đó là tòng phạm”, Lavon nói. “Hiển nhiên ả là một phần trong đường dây của hắn. Tại sao chỉ có giọng ả vang lên trong điện thoại? Chẳng lẽ ả không thấy lạ là chồng ả chẳng bao giờ nhấc điện thoại lên sao?”

“Vậy chúng ta có giết ả không?”

“Nếu chúng ta không giết ả, chúng ta sẽ không thể xong việc ở đảo này được”.

Dina đề nghị họ bỏ phiếu cho cả chiến dịch hành động này. Yaakov lắc đầu. “Nếu mọi người không chú ý thì bỏ phiếu cũng chẳng dân chủ ”.

Gabriel ngó Lavon. Cả hai nhìn nhau một hồi rồi Lavon nhắm mắt lại và gật đầu.

Đêm đó họ không ngủ. Sáng ra Yossi mướn chiếc Suzuki Vitara thứ hai trong khi Yaakov và Rimona mướn riêng mỗi người một chiếc môtô Piaggio. Oded và Mordecai đến một tiệm cung cấp vật tư cho tàu bè ở Gustavia để mua hai chiếc thuyền máy động cơ gắn ngoài hiệu Zodiac. Dina dành phần lớn ngày hôm đó cố gắng gọi cho những nhà hàng sang trọng nhất để đặt một bàn cho ba mươi người. Vào lúc 1 giờ 30 phút cô tìm ra Le Tatou, một nhà hàng nằm trên bờ biển rất hợp mốt lúc bấy giờ ở Saint-Jean, đã được đặt toàn bộ cho một buổi tiệc riêng nên không thể nhận đặt bàn vào tối đêm ấy nữa.

Gabriel lái xe mô tô đến Saint-Jean để tự tìm hiểu khu vực này. Nhà hàng có cấu trúc thông thoáng với những dãy lụa đủ màu sắc buông rủ từ trần nhà và nhạc dance nghe nhức cả đầu dội ra từ mấy chiếc loa âm lượng lớn. Hơn chục cái bàn đặt trong một cái chòi chóp nhọn bằng gỗ và vài cái khác đặt rải rác dọc theo bờ biển. Có một quầy bar nhỏ, và giống như rất nhiều nhà hàng khác trên hòn đảo này, còn có một tiệm quần áo sang trọng chuyên bán đồ tắm phụ nữ với giá cắt cổ. Đang giờ cao điểm của các nhân viên phục vụ bữa ăn trưa, những cô gái chân trần chỉ mặc áo ngực bikini và váy bãi biển dài đến mắt cá chân lướt từ bàn này sang bàn nọ phục vụ thức ăn nước uống. Một người mẫu mặc đồ tắm thân hình uyển chuyển như một con mèo xuất hiện từ tiệm quần áo và ra dấu với anh. Khi Gabriel không tỏ dấu hiệu gì cho thấy rằng anh đồng thuận, cô gái cau mày và chuyển qua bàn khác có rất nhiều người Mỹ đã khá say đang hú hét phấn khích với sự hiện diện của cô.

Gabriel đến quầy bar, gọi ly rượu vang hoa hồng rồi đi về phía tiệm quần áo với ly rượu trong tay. Phòng thay đồ và toa-lét ở cuối một lối đi hẹp dẫn ra bãi đậu xe. Anh đứng đó một lát, hình dung mọi hành động, tính toán thời gian. Rồi anh nhấp nửa ly rượu và bước ra.

Nơi này thật hoàn hảo, anh nghĩ. Nhưng có một vấn đề: bắt cóc Sarah ra khỏi bàn ăn là bất khả thi. Bọn vệ sĩ của Zizi đều trang bị vũ khí hạng nặng và tất cả các cựu sĩ quan của đội Cận vệ Quốc gia Arập Xêút chỉ

vây quanh một người. Để đưa Sarah đi mà không bứt dây động rừng, họ phải đưa cô vào phòng thay đồ vào một thời gian đã được định trước. Muốn thực hiện được điều đó, cần phải báo tin cho cô. Lúc Gabriel nhảy xuống xe, anh gọi điện về tòa biệt thự để hỏi Lavon xem cô có ở trên đảo không.

Nhà hàng ở Saline không nhìn ra biển, chỉ thấy đụn cát và một đầm lầy nước mặn lớn bao quanh bởi những ngọn đồi nhỏ phủ đầy bụi rậm. Sarah ngồi dưới mái hiên, ngón tay cô bọc gọn lấy chân cốc rượu vang hoa hồng có thêm đá. Kế bên cô là Nadia, một phụ nữ Hồi giáo hiện đại, đang thưởng thức ly daiquiri thứ ba, tâm trạng càng lúc càng hưng phấn. Ở bàn đối diện Monique và Jean-Michel đang kín đáo cãi vã với nhau. Người đàn ông Pháp giấu đôi mắt sau cặp kính râm nhưng Sarah vẫn nhận ra hắn đang theo dõi nhất cử nhất động của một đôi nam nữ trẻ vừa mới đến bằng xe gắn máy và hiện đang bước lên bậc tam cấp dẫn tới hàng hiên.

Chàng trai cao lêu nghêu, mặc loại quần bơi dài tới đầu gối và áo thun chui đầu bằng vải coton, chân mang dép lê. Âm sắc Ănglê trong giọng nói cho thấy gã đã từng học ở những trường đại học cổ kính ở Anh, gã hỏi có còn bàn trống không bằng cái giọng kẻ cả. Giọng cô gái cho thấy cô là người ở vùng nào đó thuộc Trung Âu. Chiếc áo bikini cô đang mặc vẫn còn ướt và dán chặt vào bộ ngực rám nắng khêu gợi. Cô hỏi đường đến toilet, giọng đủ lớn để Sarah và tất cả mọi người trong nhà hàng nghe thấy, rồi bình tĩnh đáp lại cái nhìn của Jean-Michel khi cô lướt qua bàn của hắn, tấm choàng eo màu ngọc bích phấp phới để lộ bộ mông căng tròn.

Nadia nốc cạn ly daiquiri, trong khi Monique cau có với Jean-Michel như thể ả cho rằng sự thích thú của hắn đối với cô gái vừa mới đến đã vượt quá giới hạn ‘nghề nghiệp’. Hai phút sau, khi cô gái xuất hiện trở lại, cô hất mái tóc và lắc lư theo điệu nhạc reggae phát ra từ chiếc máy thu âm phía sau quầy bar. Quy tắc của phòng tình báo, Sarah nghĩ. Khi đang hành động ở những nơi công cộng như quán bar hay nhà hàng, đừng ngồi im lìm một chỗ hay ngồi đọc báo. Điều đó càng làm lộ rõ việc bạn đang do thám. Thu hút sự chú ý về phía mình. Ve vãn. Lớn tiếng. Uống rượu nhiều. Cãi nhau càng tốt. Nhưng luôn có một điều mà Sarah để ý và cô chắc chắn Jean-Michel đã không nhận ra. Rimona không đeo bông tai, điều đó có nghĩa là cô đã để lại một tin nhắn cho Sarah trong toilet.

Sarah dõi theo Rimona. Cô ngồi xuống bên Yossi và đánh anh một cái vì tội không gọi thức uống hộ còn trong khi cô đi toilet. Ở đường chân trời, mây đùn thành một đám to, và gió bất ngờ nổi lên chạy đuổi với những ngọn cỏ trong đầm. “Sắp bão to thì phải”. Jean-Michel nhận xét, nhưng hắn vẫn tiếp tục gọi chai vang thứ ba để xua đi ý nghĩ về cơn bão. Nadia đốt một điếu Virgina Slims, rồi đưa cho Monique hộp thuốc lá. Sarah xoay lưng lại nhìn cơn bão đang ào đến, nhưng thật ra cô đang nghĩ đến cái đồng hồ và tự hỏi mình nên chờ bao nhiêu phút trước khi tìm cách vào toa-lét. Và cả thứ mà cô có thể tìm thấy khi đi toilet nữa.

Năm phút sau khi mây giãn ra, một cơn gió mạnh thốc ngược vào lưng Sarah. Jean-Michel ra hiệu cho cô phục vụ hạ tấm bạt che mưa xuống. Sarah đứng dậy, tóm lấy cái giỏ đựng đồ đạc đi biển của mình và đi về phía cửa sau của nhà hàng.

“Cô đi đâu vậy?”. Jean-Michel hỏi.

“Chúng ta uống đến chai rượu thứ ba rồi. Anh nghĩ tôi đi đâu đây?”

Hắn đứng bật dậy và theo sau cô.

“Cám ơn sự ân cần của anh, nhưng thật sự tôi không dám phiền anh giúp đỡ. Tôi quen với việc tự làm chuyện này khi tôi còn là một đứa bé cơ”.

Hắn nắm lấy cánh tay Sarah và dẫn cô đến toa-lét. Cửa vẫn mở he hé. Hắn đẩy cửa vào đưa mắt nhìn quanh rồi bước ra ngoài để cô vào. Sarah chốt cửa cẩn thận rồi ngồi lên bồn cầu, cô gây ra tiếng động đủ lớn để người ở bên ngoài cánh cửa có thể nghe thấy.

Chúng tôi có vài nơi để giấu những thứ cần trao đổi, Gabriel đã nói trước với cô. Những thứ đó thường được dán vào mặt trong của bồn dội nước toa-lét. Giỏ rác cũng thường được trưng dụng, đặc biệt là đối với giỏ rác có nắp đậy. Chúng tôi giấu tin nhắn trong vỏ hộp tampon - băng vệ sinh phụ nữ - bởi vì chúng tôi nhận thấy bọn đàn ông Arập, dù chuyên nghiệp cỡ nào, cũng rất kinh tởm, không muốn đụng vào thứ đó.

Sarah nhìn phía dưới lavabo, thấy một thùng rác nhỏ bằng nhôm, cô đạp chân lên cần bẫy dưới đế thùng rác để bật nắp thùng lên và thấy một chiếc hộp. Nó bị che khuất một phần bởi đống giấy nhàu nát. Cô cúi xuống nhặt nó ra. Đọc tin nhắn nhanh lên Sarah, Gabriel đã từng nói. Hãy tin tưởng mình sẽ nhớ hết mọi chi tiết. Đừng bao giờ, tôi nhấn mạnh là đừng bao giờ, để tin nhắn trong người. Chúng tôi dùng giấy mỏng, nên nếu cô có bật lửa hoặc diêm quẹt thì đốt nó ngay trên bồn rửa mặt để phi tang. Nếu không đốt được thì bỏ vào cầu cầu toa-lét và giật nước. Trường hợp tệ nhất thì bỏ tin nhắn vào hộp và vùi lại vào trong đống giấy rác đó. Chúng tôi sẽ vào kiểm tra lại và ‘dọn sạch’ giùm cô.

Sarah nhìn vào túi xách và thấy hộp diêm quẹt. Cô thò tay lấy hộp diêm ra, nhưng nghĩ rằng mình không có gan đốt tờ giấy khi đang có người ở ngoài; thế nên cô xé vụn tờ giấy, bỏ vào bồn cầu tiêu và giật nước. Cô đứng trước gương một lát và kiểm tra kĩ lưỡng vẻ mặt của mình trong khi nước chảy ồ ồ xuống đáy bồn cầu. Mày là Sarah Bancroft, cô tự nhủ với chính mình. Mày không phải là người đàn bà bỏ cái hộp tampon vào thùng rác. Mày chưa bao giờ nhìn thấy người đó.

Cô đóng vòi nước lại và quay trở ra mái hiên. Mưa chảy tràn thành dòng trên máng xối. Yossi đang ồn ào trả lại chai Sancerre. Rimona thì săm soi cái thực đơn như thể tìm thấy cái gì thú vị trong đó. Jean-Michel chằm chằm quan sát Sarah y như thể mới gặp cô lần đầu. Sarah ngồi xuống và dõi theo cơn bão đang cuộn dần xuyên ngang qua đầm nước, cô biết rằng bão sẽ tan nhanh cũng như cảm giác vừa sợ hãi vừa hồi hộp của cô sẽ qua nhanh thôi.

“Cô sẽ ăn tối ở nhà hàng Le Tetou tối nay”, tin nhắn viết. “Khi cô trông thấy chúng tôi, hãy giả vờ cảm thấy khó chịu và đi vào toa-lét. Đừng sợ nếu họ có cho bảo vệ đi theo. Chúng tôi sẽ xử lý chuyện ấy”.

Cái họ cần là người khách mời danh dự mà gần như cả ngày họ đã không trông thấy. Gabriel bắt đầu lo rằng bằng cách nào đó bin Shafiq đã trốn thoát mà không bị phát hiện. Anh cân nhắc việc gọi điện đến tòa biệt thự ấy để xem có ai ở nhà hay không; nhưng vào lúc 11 giờ 30 phút họ thấy hắn tắm nắng trên sân thượng một tiếng đồng hồ sau cữ bơi thường lệ.

12 giờ 30 phút, hắn đi vào nhà, và vài phút sau đó chiếc Cabriolet trắng đã hạ mui thả dốc xuống đường. Một người phụ nữ ngồi sau vô lăng. Cô ta lái xe đến tiệm thịt lợn ở làng Lorient, ở trong tiệm mười phút rồi quay trở về biệt thự ở Pointe Milou để ăn trưa ngoài trời.

Vào lúc 3 giờ, khi cơn giông đang gầm thét bên bờ biển, chiếc Cabriolet lại thả dốc xuống đường một lần nữa, nhưng lần này bin Shafiq cầm lái. Lavon bắt đầu theo sát hắn bằng một trong những chiếc tay ga vừa kiếm được với sự hỗ trợ của Mordecai và Oded. Rõ ràng là tên người Arập Xêút đang kiểm tra xem có ai theo dõi mình hay không bởi hắn cứ đi thẳng trên những con đường đông đúc dọc bờ biển bắc thay vì rẽ sang bờ biển đông nơi dân cư thưa thớt. Hắn tăng tốc dọc theo bờ biển đầy núi đá ở Toiny rồi rẽ về phía đất liền và phóng nhanh qua hàng loạt thôn xóm nhếch nhác của vùng đồi cỏ ở Grand Fond. Hắn giảm tốc trong vài giây ở ngay lối rẽ vào Lorient - khoảng thời gian đủ dài để Mordecai chạy vòng qua hắn. Hai phút sau, ở giao lộ của con đường đến Saint-Jean, hắn lại làm một cú thử thời gian như thế và lần này Oded phải từ bỏ cuộc rượt đuổi.

Lavon chắc chắn rằng đích đến duy nhất của bin Shafiq là Gustavia. Anh vội vã vào thị trấn bằng con đường khác đứng chờ gần khách sạn Carl Gustav khi chiếc Cabriolet từ Lurin xuống dốc đồi. Tên Arập Xêút đậu xe phía rìa cảng biển. Mười phút sau đó, khi đã kiểm tra kĩ lưỡng xem có ai bám đuôi không, hắn đi bộ đến quán cà phê trên bến cảng để gặp Wazir bin Talal. Lavon ăn sushi ở một nhà hàng trên phố và chờ chúng đi ra. Một giờ sau anh trở về biệt thự, báo cho Gabriel biết rằng họ đang gặp vấn đề.

“Tại sao hắn lại gặp bin Talal? Bin Talal là tay chân của Zizi. Chúng ta phải tính đến khả năng Sarah đã bị lộ. Ta ở đây được vài ngày rồi. Chỗ này chỉ là một hòn đảo nhỏ trong khi chúng ta là những người chuyên nghiệp, nhưng…”. Lavon bỏ lửng câu nói.

“Nhưng cái gì cơ chứ?”

“Bọn tay chân của Zizi cũng chuyên nghiệp không kém, bin Shafiq cũng thế. Trưa nay hắn lái xe như thể hắn biết mình đang bị theo dõi vậy”.

“Đó là quy trình chuẩn”. Gabriel phản đối và không tỏ ra lo lắng.

“Anh luôn có thể chỉ ra sự khác biệt giữa một người đang di chuyển và một người nghĩ rằng mình đang bị bám đuôi. Tôi cảm thấy bin Shafiq biết có ai đó đang theo dõi hắn”.

“Anh đang muốn nói điều gì, Eli? Hoãn việc này lại chăng?”

“Không, nếu ta chỉ có thể chọn một mục tiêu đêm nay thì ta nên chọn Sarah”.

Mười phút sau. Đèn bật xanh. Tiếng quay số điện thoại vang lên đột ngột.

“La Terrazza xin chào quý khách”.

“Cho tôi đặt chỗ tối nay”.

“Xin quý khách vui lòng cho biết quý khách đi bao nhiêu người?”

“Hai người”.

“Vào mấy giờ ạ?”

“Chín giờ tối”.

“Xin quý khách vui lòng đợi máy trong khi chúng tôi kiểm tra”.

“Vâng, cảm ơn”.

“Vào lúc chín giờ mười lăm được không ạ?”

“Được chứ”.

“Vậy cho phép chúng tôi được lặp lại: một bàn cho hai người lúc chín giờ mười lăm phút. Xin quý khách cho biết tên ạ”.

“Al-Nasser”.

“Xin cám ơn. Hẹn gặp quý khách”.

Cúp máy.

o O o

Gabriel bước đến chỗ bản đồ.

“La Terrazza ở đây”. Anh gõ gõ ngón tay vào địa điểm ngọn đồi phía trên Saint-Jean. “Chúng sẽ phải rời khỏi làng sớm nhất là khoảng chín giờ tối”.

“Trừ khi chúng đi đâu đó trước khi đến nhà hàng”. Lavon thêm vào.

“Bữa ăn tối của Zizi bắt đầu lúc tám giờ. Ta có gần một giờ để hành động trước khi sắp đặt Sarah đúng chỗ để cô ấy tháo lui”.

“Trừ phi Zizi đến muộn”. Lavon lại chêm vào.

Gabriel bước đến khung cửa sổ và nhìn ra ngoài. Trời nhá nhem. Mặt biển dần sẫm màu, phía kia đồi bắt đầu sáng đèn.

“Chúng ta sẽ xử hết chúng nó ở phía trong biệt thự hoặc phía sau bức tường chỗ đường lái xe vào nhà”.

“Chúng nó à?”

“Đó là cách duy nhất để thoát khỏi đảo này. Ả đàn bà cũng phải chết”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27: Cảng gustavia ở saint-barthélemy


Hai tiếng đồng hồ sau tuyên bố của Gabriel, có những bóng người và trang thiết bị di chuyển một cách lặng lẽ mà không ai trên hòn đảo hiền hòa này chú ý. Sarah chỉ nhận ra một phần của sự chuẩn bị khi ngồi trên boong tàu Alexandra trong chiếc áo choàng trắng bằng vải bông và thấy chiếc “Sun Dancer” lặng lẽ lùi dần vào bóng tối. Cơn dông buổi trưa đã tan biến, nhường chỗ cho làn gió nhẹ ấm áp rượt đuổi quanh mấy chiếc du thuyền neo ở lối ra vào cảng biển. Sarah nhắm mắt. Cô bị nhức đầu vì ánh nắng mặt trời còn miệng thì đắng nghét. Cô hiểu ra sự khó chịu của mình rồi. Cô thích bận rộn chứ không phải là hưởng thụ sự an nhàn như thế này. Cô liếc nhìn đồng hồ đeo tay hiệu Harry Winston mà cô được ngài CEO đồng Chủ tịch của công ty liên doanh Jihad Incorporated tặng. 7 giờ 20 phút. Cô sắp được về nhà rồi.

Sarah nhìn về phía đuôi tàu Alexandra và thấy chiếc Sikorsky bất động trong bóng tối buông dần. 7 giờ 45 phút tối nay, chúng sẽ vào bờ, đúng theo lịch trình mà Hassan đã sắp xếp. Hassan là người chuyên lên lịch cho việc đi lại của Zizi, “Cô Sarah, xin đừng đến trễ”. Hắn nhắc cô. Zizi đề nghị cô ăn mặc thật đặc biệt. “Le Tetou là nhà hàng tôi thích nhất trên đảo này. Tối nay sẽ là buổi tối đáng nhớ nhất”.

Cơn gió nhẹ thổi lên và từ đâu đó tiếng chiếc phao cứu hộ kêu lanh canh. Sarah lại liếc nhìn đồng hồ, 7 giờ 25 phút. Cô tự cho phép mình mường tượng một cuộc sum họp trong bữa ăn kiểu gia đình mà họ đã từng chia sẻ với nhau trước đây ở căn nhà trang viên tại Surrey. Cũng có thể là thức ăn không hợp. Cho dù tâm trạng mình như thế nào đi nữa, cô vẫn khao khát cái ôm ghì chặt củahọ vì cô yêu thương tất cả bọn họ. Cô yêu thương họ vì những người khác ghét họ. Cô yêu thương họ vì họ là một hòn đảo bị bao quanh bởi một biển người cuồng tín. Và bởi vì cô sợ rằng dòng chảy lịch sử một ngày nào đó sẽ cuốn họ đi thật xa, cô muốn là một thành viên trong số họ dù chỉ là một phút giây ngắn ngủi. Cô yêu thương nỗi đau họ che giấu và khả năng tạo ra niềm vui củahọ, cả sự thèm khát cuộc sống và sự khinh miệt họ dành cho bọn cuồng sát. Cuộc sống của mỗi người trong số họ gắn liền với một mục đích - đối với Sarah, mỗi cuộc sống như thế là một điều kì diệu nho nhỏ. Cô nghĩ về Dina - một Dina xinh đẹp nhưng mang sẹo, con út trong số sáu người con mà mỗi người con đãá giết hàng triệu người khác. Cha cô là thành viên duy nhất của gia đình còn sống sau sau vụ tàn sát người Do Thái dưới thời Hít-le. Đến Israel, ông chọn cho mình cái tên Sarid, có nghĩa là người còn sót lại theo tiếng Hebrew, và ông đặt tên đứa con gái út của mình là Dina, có nghĩa là bị trả thù. “Tôi là Dina Sarid, tôi là người còn sót lại bị trả thù”.

Sarah nghĩ “Tối nay chúng ta sẽ sát cánh bên nhau”.

7 giờ 30 phút mà Sarah vẫn chưa nhích mình ra khỏi cái ghế trên boong tàu. Sự chần chừ của cô hoàn toàn có ý đồ - cô muốn dành vài phút để diện quần áo, và nán lại một chút để gửi một tín hiệu như thể vô ý cho người khác thấy cô không có ý định quay trở lại. “Cô đừng đem theo gì hết”, tin nhắn của Rimona viết.“Hãy làm cho phòng mình giống một mớ hỗn độn”.

Và vì thế mà cô vẫn còn ở trên boong tàu thêm năm phút nữa rồi mới đứng dậy đi vào cabin. Cô để chiếc váy choàng trượt qua vai rớt xuống nền, rồi nhanh chóng mặc đồ lót. Bộ cánh của cô, cái quần màu vàng nghệ rộng thùng thình mà Nadia mua cho cô chiều hôm trước ở Gustavia, nằm trên cái giường bề bộn. Cô mặc vào rồi đi sang phòng tắm trang điểm, cô đeo chiếc vòng vàng nhưng bỏ hết mấy thứ nữ trang còn lại trong số quà tặng của Zizi trên mặt bàn trang điểm. Khi quyết định mình sẽ làm kiểu tóc nào, cô do dự. Lần đầu tiên cô do dự, bới tóc lên hay xõa ra? Xõa ra. Bước đi đầu tiên trở về cuộc sống cũ của cô, cuộc sống mà Gabriel đã cảnh báo sẽ rất khác.

Sarah rời phòng sau khi nhìn quanh. “Để căn phòng lộn xộn nhé”. Nhiệm vụ đã thực hiện xong. “Đừng mang theo gì cả”. Không túi xách, không ví cầm tay, không tiền hay thẻ tín dụng. Ai lại cần thẻ tín dụng hay tiền khi ở bên cạnh Zizi al-Bakari cơ chứ? Cô đi ra hành lang, đóng cửa nhưng không khóa. Rồi cô bước ra phía mũi tàu nơi những chiếc du thuyền đang chờ. Rafiq dắt cô lên tàu, trao tay cô cho Jean-Michel, rồi cô len lỏi giữa cả đống Abdul để đến chỗ ngồi ở đuôi tàu. Zizi ngồi đối diện với cô, bên cạnh hắn là Nadia. Khi thuyền bắt đầu đi vào bờ, trong bóng tối bọn họ theo dõi cô một cách chăm chú.

“Lẽ ra cô nên đeo chuỗi ngọc trai, Sarah à, sẽ rất hợp với bộ áo của cô đấy. Nhưng tôi rất hài lòng vì cô để tóc xõa như trước. Thế này nhìn đẹp hơn. Tôi chưa bao giờ thích cái kiểu bới tóc của cô cả”. Hắn nhìn Nadia. “Con có thấy cô ấy đẹp hơn khi xõa tóc không?”

Nhưng Nadia chưa kịp trả lời thì Hassan đã ấn điện thoại di động vào tay Zizi và thì thầm gì đó bằng tiếng Arập với điệu bộ khẩn cấp. Sarah nhìn về phía bên trong cảng biển, nơi bốn chiếc Toyota Land Cruiser đang đậu trên rìa bến cảng. Một nhóm người hiếu kì đang tụ tập lại để xem nhân vật nổi tiếng nào đó điều động cả đoàn xe hộ tống mình trên cái đảo bé tí này. Cô gái tóc đen ngồi trên ban công cách đó hơn 5 mét thì lại chẳng màng người nổi tiếng ấy là ai. Người còn sót lại bị trả thù nhìn vào khoảng không vô định, tâm trí có vẻ như đang vật lộn với những vấn đề quan trọng hơn.

o O o

Bãi biển ở Saline, một trong số ít các bãi biển không có cả khách sạn lẫn biệt thự, nằm trong bóng tối - đôi khi có những đốm phốt-pho bùng lên dưới ánh trăng sáng tỏ. Mordecai đưa chiếc Zodiac đầu tiên vào bờ lúc 8 giờ 5 phút. Hai phút sau, Oded lái chiếc Zodiac của chính hắn và kéo theo chiếc thứ ba vào bờ. Lúc 8 giờ 30 phút, họ ra hiệu với Gabriel. Cả nhóm Saline đã ở vào chỗ của mình. Cái bẫy đã được giăng.

Như thường lệ, bãi biển Saint-Jean còn khá đông người vào buổi tối, vẫn còn những người muốn nấn ná trên bãi cát trong bóng tối buông dần. Cuối đường băng ở sân bay, gần cái biển báo “Chú ý máy bay hạ cánh” đã xập xệ méo mó theo thời gian, là một nhóm bốn người - ba người đàn ông và một phụ nữ tóc đen đến từ Gustavia bằng xe tay ga trước đó không lâu. Một người đem theo vài chai Heineken, người khác mang cái đầu đĩa CD và mở nhạc Bob Marley. Cả ba người đàn ông nằm đủ kiểu. Người mặt rỗ đứng tuổi và một người mắt nâu lanh lẹ với mái tóc chảy ngược đang rít thuốc hết điếu nọ tới điếu kia. Cô gái thì nhảy múa theo nhạc, chiếc áo trắng của cô sáng dịu dàng dưới ánh trăng.

Dù thái độ của họ không có vẻ gì là cố tình chọn địa điểm này để tụ tập, nhưng thật ra từ vị trí ấy họ có thể quan sát được tất cả phương tiện lưu thông trên đường từ Gustavia đến cũng như nắm bắt tình hình bữa ăn tối đang bắt đầu trong nhà hàng Le Tetou cách đó chưa đầy mười mét. Vào lúc 8 giờ 30 phút, người đàn ông mặt rỗ đứng tuổi nhận một cuộc gọi đến điện thoại di động. Ngay sau khi cúp máy, anh cùng hai người kia đứng dậy đi lên đường cái với những động tác gây ồn ào, rồi cả bọn trèo lên chiếc Suzuki Vitara đậu sẵn.

Cô gái áo trắng vẫn ngồi chỗ cũ trên bờ biển, vừa nghe nhạc Bob Marley vừa quan sát chiếc máy bay phản lực đang hạ cánh trên mặt nước về phía đường băng. Cô nhìn biển báo “Chú ý máy bay hạ cánh” nhưng rồi tự nhiên cô không quan tâm đến nó nữa. Vặn nhạc lớn hơn, cô nhảy múa trong khi chiếc trực thăng đã gầm rú phía trên đầu mình.

Bãi biển ở vịnh Marigot nhỏ và đầy đá, ít khi có ai lai vãng ngoại trừ người dân địa phương đến cất tàu của mình. Có một con lộ nhỏ sát bên đường ra bờ biển đủ chỗ cho hai đến ba chiếc xe hơi và có cả cầu thang bằng gỗ dẫn xuống bãi biển. Tối nay có hai chiếc Piaggio dựng ở đó. Hai người chủ thì đang ngồi vắt vẻo trên mạng chiếc thuyền mà ai đó để lại bãi biển trong bóng tối buông dần. Cả hai đặt ba lô dưới chân, trong ba lô là hai khẩu súng giảm thanh. Người đàn ông trẻ hơn thì đem theo khẩu Barak SP-21s bốn nòng. Người kia lại thích vũ khí nhỏ hơn và luôn trung thành với súng của Italia, thế nên trong giỏ anh là mấy khẩu Beretta 9 li.

Không giống những người đồng sự ở Saint-Jean, hai người này không uống rượu cũng không nhảy múa hay giả vờ chơi trò gì đó vui vẻ. Họ im lặng và thở chầm chậm để kiềm chế nhịp tim đang đập liên hồi. Người lớn tuổi hơn quan sát xe cộ trên đường, người trẻ ngắm con sóng vỗ nhẹ nhàng vào bãi cát; tuy nhiên cả hai cùng mường tượng cái cảnh sẽ diễn ra trong vài phút nữa ở ngôi biệt thự phía đằng kia. Lúc 8 giờ 30 phút, người lớn tuổi hơn thì thào vào điện thoại. “Hành động đi Dina”.

Monique, vợ của Jean-Michel, nhận thấy cô gái đầu tiên.

Thức uống đã được phục vụ rồi, Zizi cũng vừa mới ra lệnh cho mọi người thưởng thức bữa ăn bởi vì đây là lần cuối cùng họ ăn tối ở Saint-Bart. Sarah ngồi ở cuối bàn phía đối diện, kế bên Herr Wehrli. Ông chủ nhà băng người Thụy Sĩ đang bàn luận việc ông rất ngưỡng mộ tác phẩm của Ernst Ludwig Kirchner trong khi Sarah, từ khóe mắt của mình, nhận thấy mái tóc mềm mượt chuyển động theo cái quay đầu của Monique.

“Có cô gái ở đằng kia kìa”. Monique nói trống không. “Cái người có vết sẹo khủng khiếp trên chân ấy, nhớ không Sarah? Ta thấy cô ấy trên bãi biển ở Saline ngày hôm qua. Ơn Chúa tối nay cô ấy mặc quần dài”.

Sarah lịch thiệp rời mắt khỏi ông chủ nhà băng và hướng mắt về phía Monique đang nhìn. Cô gái đang đi dọc theo bờ con sóng trong chiếc áo kiểu màu trắng và quần jeans xắn đến bắp chân. Lúc cô tiến về nhà hàng, một tên bảo vệ cố gắng chặn đường cô. Sarah dù không thể nghe được họ nói gì nhưng vẫn có thể nhận ra cô gái khẳng định mình có quyền đi dạo trên bãi biển công cộng bất chấp cái buổi tiệc riêng tư được bảo vệ nghiêm ngặt như thế ở nhà hàng Le Tetou. Sarah nghĩ. “Này, đừng tỏ ra kín đáo quá. Làm mọi người chú ý đi nào”.

Tên bảo vệ cuối cùng cũng dịu đi, và cô gái lê bước chậm chạp biến mất trong bóng tối. Sarah cho phép một khắc nữa trôi qua, rồi chồm người qua bên kia bàn trước mặt Monique, cô thì thào vào tai Jean-Michel.

“Tôi cảm giác mình sắp bị bệnh rồi”.

“Chuyện gì vậy?”

“Uống quá nhiều rượu vào buổi ăn trưa ấy mà. Tôi gần như nôn thốc nôn tháo trên thuyền hồi trưa”.

“Cô có muốn đi toilet không?”

“Anh dẫn tôi đi nhé Jean-Michel?”

“Chờ đã, tôi sẽ đi với cô”. Monique vội vã nói.

Jean-Michel lắc đầu, nhưng Monique đứng bật dậy và đỡ Sarah. “Cô ấy khó chịu trong người”. Ả rít lên với hắn bằng tiếng Pháp. “Cô ấy cần một người phụ nữ để chăm sóc mình”.

o O o

Đúng lúc đó một chiếc Suzuki Vitara trờ vào bãi giữ xe của Le Tetou. Yossi cầm lái còn Lavon ngồi phía sau xe. Yaakov nạp đạn cho khẩu Beretta 9 li của mình, rồi chăm chú nhìn con đường cho đến khi Sarah xuất hiện.

Sarah liếc nhanh qua vai khi họ rời khỏi bãi biển và nhận thấy Zizi và Nadia đang chằm chằm nhìn theo mình. Cô quay đầu ra và nhìn thẳng về phía trước. Jean-Michel ở phía bên trái cô còn Monique bên phải. Chúng nắm cánh tay cô mỗi người một bên, dẫn cô băng nhanh qua phần sân trong nhà hàng, ngang qua cửa hàng bán quần áo nhỏ. Lối đi tối như mực. Jean-Michel mở cửa toa-lét nữ và bật đèn, nhìn khắp một lượt rồi ra dấu cho Sarah bước vào. Cánh cửa đóng sập lại. “Quá khó”, cô nghĩ. Cô chốt chặt cửa và nhìn vào gương. Khuôn mặt đang giương mắt nhìn lại cô không còn là của chính cô nữa. Khuôn mặt này có vẻ như được vẽ bởi Max Beckmann hay Edvard Munch, hay có thể là ông của Gabriel - Viktor Frankel. Bức chân dung của một phụ nữ đang sợ hãi. Qua cánh cửa đóng kín cô nghe tiếng Monique hỏi rằng cô có ổn không. Sarah không trả lời. Cô chống tay lên thành bồn rửa mặt rồi nhắm mắt chờ đợi.

“Mẹ kiếp”, Yaakov lầm bầm. “Cô ấy đem theo cái găng tay đấm bốc quái quỷ này làm gì?”

“Anh bắt hắn được không?”

“Có thể, nhưng nếu mọi chuyện đằng đó đi không đúng hướng thì phải chắc chắn là bắn vào đầu hắn nhé”.

“Tôi chưa bắn ai trong đời mình cả”.

“Dễ lắm”, Yaakov bảo “Để tay trên cò súng rồi kéo mạnh Thế thôi”.

Chính xác là 8 giờ 32 phút tối khi Gabriel leo lên cầu thang gỗ ở bãi biển vịnh Marigot. Anh đội mũ bảo hiểm dành cho xe mô tô với tấm kính che mặt màu tối, phía dưới là micro và chiếc tai phone nhỏ xíu. Cái túi nilon đựng mấy khẩu Beretta được giữ chặt sau lưng. Mikhail, đi trước anh một bước, cũng trang bị như thế. Họ lên xe môtô và nổ máy cùng một lúc. Gabriel gật đầu, họ cùng phóng vào con đường trống trước mặt.

Họ lao xuống con dốc thẳng đứng, Gabriel dẫn đường, Mikhail chạy sau vài mét. Con đường trở nên hẹp và hai bên là bờ tường bằng đá. Trước mắt họ, trên đỉnh đồi là ngả rẽ vào Point Milou. Sát bên bờ tường, có một chiếc môtô và Rimona ngồi dạng chân trên yên xe trong chiếc quần jeans xanh và áo sơ mi bó sát người. Khuôn mặt cô bị che khuất bởi mũ bảo hiểm và kính chắn gió.

Cô nhá đèn pha hai lần, tín hiệu cho biết con đường rất vắng người. Gabriel và Mikhail tăng tốc, ôm cua và chạy thẳng. Biển đã ở trước mặt họ, loang loáng ánh trăng. Bên trái họ là sườn đồi cằn cỗi còn bên phải là một dãy nhà tranh nhỏ. Một con chó mực bỗng đâu từ căn nhà tranh cuối cùng nhảy ra sủa liên hồi khi họ phóng qua.

Giao lộ kế tiếp có một ki-ốt thùng thư và một trạm xe buýt bỏ trống. Một chiếc xe hơi ôm cua quá nhanh và lạc ra khỏi đường như sắp tông vào phía lề Gabriel đang chạy. Anh giảm tốc và chờ xe hơi chạy qua rồi lại bắt đầu tăng tốc.

Ngay lúc đó anh nghe tiếng Rimona trong tai “Chúng ta có vấn đề rồi”. Giọng cô vẫn bình tĩnh.

Gabriel lướt mắt nhìn qua vai mình là phát hiện đó là vấn đề gì. Họ đang bị một chiếc Range Rover màu xanh của lực lượng hiến binh theo dõi.

Trong bãi giữ xe của Le Tetou, Yaakov sắp mở chốt cửa thì nghe tiếng Rimona trong tai mình. Anh nhìn Lavon và hỏi. “Chuyện quái gì đang diễn ra vậy?”

Nhưng Gabriel lại chính là người kể cho anh biết.

Có hai hiến binh trong chiếc Rover, một người ngồi sau tay lái, còn người kia có vẻ như cấp cao hơn ngồi bên cạnh với máy bộ đàm áp vào miệng. Gabriel cố chống lại ý muốn quay đầu nhìn họ lần thứ hai, anh vẫn nhìn thẳng về phía trước.

Phía trước trạm xe buýt, con đường rẽ ra hai nhánh. Biệt thự của bin Shafiq ở phía bên trái. Gabriel và Mikhail rẽ vào con đường bên phải. Vài giây sau họ chạy chậm lại và nhìn về phía sau.

Hai tên hiến binh đã đi đường khác. Gabriel dừng xe hẳn và cân nhắc xem nên làm gì kế tiếp. Có phải hai hiến binh đó đang trên đường tuần tra, hay họ đang trả lời một cuộc gọi nào đó? Có phải đó chỉ đơn thuần là sự xui rủi hay còn là một cái gì khác? Anh chỉ chắc chắn một điều: Ahmed bin Shafiq đang ở trong tầm tay của anh, và Gabriel chỉ muốn hắn chết.

Gabriel quay đầu xe lại, chạy ngược về chỗ rẽ và nhìn đầu đường. Đường vắng, cặp hiến binh cũng mất hút rồi. Anh lên ga, lao vào bóng đêm. Khi đến biệt thự, anh thấy cánh cổng an ninh đã mở và chiếc Range Rover của lực lượng hiến binh đang đậu trên đường lái xe vào nhà. Ahmed bin Shafiq, tên khủng bố nguy hiểm nhất trên thế giới, đang dỡ mấy cái vali xuống khỏi cốp chiếc Subaru của hắn.

“Và hai người cảnh sát Pháp kia đang giúp hắn”.

Gabriel chạy ngược về chỗ Mikhail đang đợi và báo tin cho cả đội cùng một lúc.

“Anh bạn của chúng ta sắp rời khỏi đảo. Zizi đã sắp xếp cảnh sát để hộ tống hắn”.

“Kế hoạch của chúng ta tiêu rồi sao?”

“Chúng ta phải thừa nhận điều đó. Đưa Sarah về lại Saline đi”.

“Tôi e rằng điều đó không thực hiện được”. Lavon đáp lời.

“Tại sao không thể?”

“Chúng tôi không thấy Sarah. Chúng tôi lạc mất cô ấy rồi”.

Ai đó đập cửa ba lần. Giọng nói rất căng thẳng quát tháo Sarah. Cô kéo chốt, mở cửa. Jean-Michel đang đứng bên ngoài cùng với bốn vệ sĩ của Zizi. Chúng nắm cánh tay cô rồi lôi xềnh xệch cô về bãi biển.

Chiếc Cabriolet trắng đi qua cửa an ninh rồi chạy lên đường, theo sau là chiếc Rover của cảnh sát. Mười lăm giây sau đoàn hộ tống ấy tăng tốc chạy vượt qua Gabriel. Chiếc ô tô vẫn để mui trần. Bin Shafiq để cả hai tay lên vô lăng, mắt vẫn nhìn thẳng.

Gabriel nhìn Mikhail và nói với cả đội trên bộ đàm. “Rút hết về Saline ngay lập tức. Tất cả mọi người. Để một chiếc thuyền lại cho tôi, nhưng rời khỏi đảo ngay”.

Rồi anh đuổi theo bin Shafiq và hai tên hiến binh.

“Các ông làm tôi đau quá”.

“Xin lỗi cô Sarah, nhưng chúng ta phải nhanh chân lên”.

“Để làm gì? Món ăn chính chưa dọn lên nữa mà?”

“Có một vụ đe dọa nổ bom ở đây. Chúng ta phải rời khỏi đảo ngay lập tức”.

“Một vụ đe dọa nổ bom sao? Đe dọa ai? Đe dọa cái gì?”

“Xin đừng nói bất cứ điều gì hết cô Sarah à. Cô chỉ cần đi thật nhanh thôi”.

“Tôi sẽ đi thật nhanh, nhưng bỏ tay tôi ra đi chứ. Các ông làm tôi đau quá”.

Gabriel giữ khoảng cách khoảng 20 mét với chiếc Range Rover và không mở đèn pha. Chúng tăng tốc qua ngôi làng Lorient rồi qua Saint-Jean. Khi đang chạy dọc theo rìa vịnh, anh thấy bảng chỉ đường đến nhà hàng Le Tetou. Anh giảm tốc, chăm chú nhìn vào bãi giữ xe ngay lúc Zizi và đám tùy tùng đang trèo lên mấy chiếc Land Cruiser trước sự quan sát của hai gã hiến binh khác. Sarah bị kẹp giữa Rafiq và Jean-Michel. Giờ thì Gabriel chẳng làm được điều gì hết. Anh miễn cưỡng tăng tốc để tiếp tục đuổi theo bin Shariq.

Sân bay đã ở trước mắt họ. Không xi-nhan xin đường, hai chiếc xe thình lình ngoặt vào đường dành cho dịch vụ, thẳng tiến qua cửa an ninh đang mở và chạy vào con đường nhựa trải đá dăm. Một chiếc trực thăng đang chờ ở cuối đường, tiếng động cơ rầm rầm. Gabriel dừng ngoài đường và thấy bin Shafiq, ả đàn bà cùng hai tên hiến binh bước ra khỏi xe.

Tên khủng bố người Arập Xêút và ả đàn bà nhanh chóng lên máy bay trong khi hai tên hiến binh dỡ đồ đạc lên khoang hành lí. Mười lăm giây sau đó, chiếc máy bay chuyển động và lướt trên đường băng. Khi nó cất cánh khỏi Baie de Saint-Jean, đoàn xe hơi của Zizi rầm rú như một bóng mờ màu đen và xuất hiện trên đồi đi về phía Gustavia.

o O o

Khi Mordecai và Odel thấy Mikhail và Rimona chạy xuống đụn cát ra bãi biển Saline thì đã là 8 giờ 40 phút. Hai phút sau lại có thêm bốn người nữa xuất hiện. Đúng 8 giờ 43 phút tất cả mọi người đều ở trên thuyền, chỉ trừ Lavon.

“Anh nghe Gabriel nói rồi đấy Eli”, Yaakov gào lên. “Gabriel muốn tất cả mọi người rời khỏi đảo ngay lập tức”.

“Tôi biết, nhưng tôi không thể đi mà không có Gabriel”. Lavon nói chắc nịch.

Yaakov hiểu rằng bàn cãi cũng vô ích. Một phút sau, mấy chiếc Zodiac rẽ sóng hướng về phía chiếc du thuyền Sun Dancer. Lavon nhìn họ tan biến vào bóng tối, rồi anh quay đầu bước đều trên mặt nước.

Đoàn mô tô trườn xuống đồi với tốc độ cao. Gabriel theo sát nút và thấy chiếc du thuyền Alexandra sáng rực ở rìa cảng biển. Hai phút sau đó, những chiếc Land Cruiser rẽ vào bãi đậu xe của bến tàu dành cho du thuyền. Bọn vệ sĩ của Zizi thực hiện việc dỡ hàng và đồ đạc xuống xe một cách nhanh chóng và chuyên nghiệp. Giải thoát con tin không phải là một lựa chọn hay. Gabriel thấy Sarah một lần duy nhất - màu nghệ vàng kẹp giữa hai dáng người to lớn và tối sẫm - một chốc sau họ hướng ra bờ biển nơi chiếc Alexandra sáng đèn. Anh không còn lựa chọn nào khác ngoài việc quay đầu xe trở về Saline nơi Lavon đang chờ mình. Gabriel ngồi ủ ê trên mũi tàu khi họ đang cho tàu hướng về vịnh.

“Anh có nhớ tôi nói gì với anh hồi trưa không Gabriel?”

“Tôi nhớ chứ Eli”.

“Nếu anh chỉ được chọn một mục tiêu tối nay, hãy chắc chắn rằng đó là Sarah. Anh hãy nhớ điều đó”.

“Tôi biết rồi Eli”.

“Lỗi của ai đây? Của chúng ta hay của Sarah?”

“Cũng chẳng quan trọng nữa”.

“Không, không quan trọng. Hắn sẽ thủ tiêu Sarah nếu ta không tìm ra cách cứu cô ấy”.

“Hắn không làm thế ở nơi này đâu. Nhất là sau khi đã dính đến bọn cảnh sát Pháp thế kia”.

“Hắn sẽ tìm cách khác đấy. Không ai phản bội Zizi mà trốn khỏi sự trừng phạt của hắn đâu. Đó là luật của Zizi”.

“Điều đó có nghĩa là chúng ta chỉ có một cánh cửa rất hẹp, tùy vào cách thức mà Zizi sẵn lòng sử dụng để có câu trả lời mà hắn muốn”.

Gabriel lại im lặng. Lavon có thể đọc được anh nghĩ gì.

Chúng ta sẽ cứu cô ấy, Gabriel nghĩ. Hãy chỉ hi vọng rằng khi chúng ta thực hiện việc này, cô ấy vẫn còn sống.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28: Tổng Hành Dinh CIA


Tin về tai họa ở Saint-Barthélemy bay về phòng điều hành đặt tại đại lộ King Saul trong vòng 5 phút sau khi Gabriel quay trở về với chiếc du thuyền Sun Dancer. Amos Sharrett, Tổng giám đốc, đang ngồi trong văn phòng trên lầu vào lúc đó và được báo cáo về tiến trình của vụ việc. Mặc dầu lúc đó đã muộn rồi, nhưng ông vẫn gọi điện cho Thủ tướng và kể cho ngài nghe vụ việc. Năm phút sau đó ông nhận được một cuộc gọi mật từ chiếc du thuyền Sun Dancer. Cuộc gọi không đi vào trung tâm điều hành mà vào đường dây riêng trong văn phòng của Adrian Carter ở tầng bảy. Carter đón nhận tin tức một cách bình thản, y như các việc khác, anh nghịch với cái kẹp giấy trên bàn khi Gabriel đưa ra lời yêu cầu của mình. “Chúng ta có máy bay ở Miami ngay lúc này”, Carter bảo. “Máy bay có thể đáp ở Saint Maarten trước bình minh”.

Carter gác máy và nhìn về phía ti vi ở phía kia góc phòng. Tổng thống Mỹ đã đi châu Âu vài ngày để gặp tân Thủ tướng Đức. Bên ngoài cảnh sát tiến hành những trận chiến đường phố xuyên suốt thành phố Berlin để dập tắt những đám đông biểu tình chống Mỹ. Hai điểm đến còn lại gồm Pari và Roma cũng thế thôi. Cảnh sát Pháp đang gắng sức kiềm chế việc bạo động của những người theo đạo Hồi. Cảnh sát Ý đang ngăn chặn những cuộc biểu tình trên diện rộng chưa từng thấy trong một thế hệ qua ở Rome. Xem chừng khó mà đạt được sự hòa hợp về ý kiến và quyền lợi xuyên Đại Tây Dương mà nhóm người tạo dựng bộ mặt của Nhà Trắng đã hi vọng.

Carter tắt ti vi và cất tài liệu mật vào ngăn tủ, khóa lại rồi vớ lấy chiếc áo khoác mắc sau cửa và mặc vào. Mấy người thư kí đã về nhà, tiền sảnh im lìm trong bóng tối ngoại trừ một khe sáng từ căn phòng hé cửa ở phía đối diện. Cánh cửa dẫn vào văn phòng của Shepard Cantwell, Phó chánh văn phòng cơ quan tình báo, chức vụ tương đương với Carter trong bộ phận phân tích tình báo. Trong phòng vang lên tiếng lách cách của bàn phím máy vi tính. Cantwell vẫn còn ở đó. Theo như những người có đầu óc dí dỏm bên phân tích tình báo thì Cantwell chưa bao giờ rời khỏi phòng làm việc của mình. Khi đêm xuống, ông ta nhốt mình vào cái tủ tường bằng sắt và tự thả mình ra lúc bình minh để kịp có mặt ở bàn làm việc khi Chánh văn phòng đến.

“Phải anh không Adrian?”. Cantwell hỏi bằng cái giọng lè nhè. Khi Carter đưa đầu vào cái ‘chuồng’, Cantwell ngừng gõ và ngước mắt nhìn lên, trước mặt là một chồng hồ sơ. Trông ông ta nghiêm nghị một mà láu lỉnh thì đến hai. “Lạy Chúa, Adrian, trông anh như xác chết biết đi ấy. Anh buồn phiền vì việc gì vậy?”

Khi Carter lúng túng về sự hỗn độn quanh chuyến công du đầy thiện chí của ngài Tổng thống, Cantwell bắt đầu dài dòng văn tự về những nguy cơ giả tạo của chủ nghĩa chống Mỹ. Cantwell chỉ phân tích, ông ta không giúp gì được.

“Adrian à, cái nhu cầu lố bịch vừa muốn có quyền lực vừa được yêu thương của chúng ta luôn cuốn hút tôi. Ngài Tổng thống Mỹ đi nửa vòng trái đất và lật đổ tên chuyên quyền ở Minipotamia chỉ trong một buổi chiều. Ngay cả Caesar cũng chẳng làm nổi việc ấy. Bây giờ Tổng thống lại muốn được chính những kẻ chống đối ủng hộ mình. Càng sớm thôi lo lắng về chuyện được yêu thích hay không thì chúng ta càng thấy hạnh phúc và thỏa mãn hơn đấy”.

“Anh lại đọc Machiavelli nữa hả Shep?”

“Tôi chưa bao giờ ngừng đọc”. Ông đan các ngón tay lại để sau gáy rồi lại dang khủy tay ra để tránh Carter nhìn thấy nách của mình. “Có một tin đồn ác ý đang lan truyền trong vùng đấy”.

“Thật à?”. Carter liếc nhìn đồng hồ đeo tay, Cantwell có vẻ không để ý đến cử chỉ này lắm.

“Theo như tin đồn thì anh có liên quan đến vài hoạt động đặc biệt nào đó chống lại một anh bạn giàu có người Arập Xêút. Và đối tác của anh trong vụ này là, tôi chỉ nói điều tôi nghe thấy thôi Adrian à, những người Do Thái”.

“Anh không nên nghe những tin đồn đó. Thế nó đồn đi bao xa rồi?”. Carter hỏi.

“Xa hơn Langley”. Cantwell trả lời. Có nghĩa là lời đồn đã đến tai các cơ quan khác và nhanh chóng xâm lấn đến bề mặt của CIA, lần đầu tiên kể từ sự cải tổ đáng sợ của cộng đồng tình báo Mỹ.

“Xa thế nào?”

“Đủ xa để vài người trong thị trấn bắt đầu thấy bất an. Anh biết quy luật của cuộc chơi mà, Adrian. Có một đường ống giữa Riyadh và Washington, và tiền mặt chảy đầy qua đó. Vùng này đang bị cuốn đi bởi con sóng tiền của người Arập Xêút. Nó đổ vào cơ quan lập pháp và các công ty luật. Mẹ kiếp, bọn vận động hành lang đi ăn tối bằng số tiền ấy đấy. Người Arập Xêút thậm chí còn thành công trong việc tạo ra một hệ thống để hối lộ chúng ta trong khi ta vẫn còn tại chức. Mọi người biết rằng nếu không ‘canh chừng’ bọn Arập Xêút ấy khi họ còn làm việc cho Cục Dự trữ Liên bang thì chúng cũng sẽ ‘canh chừng’ họ khi họ làm ăn trong lĩnh vực tư nhân thôi. Có lẽ là ở dạng hợp đồng tư vấn sinh lợi hay việc hợp pháp nào đó. Có lẽ là một cái ghế ở viện nghiên cứu tẻ nhạt nào đó có liên quan đến băng đảng Arập Xêút. Và vì thế khi tin đồn lan truyền rằng ‘một gã cao bồi’ ở Langley đang chạy theo một hội những nhà hảo tâm rộng lượng thuộc hệ thống tội lỗi này, người ta dễ bồn chồn lắm chứ”.

“Anh có nằm trong số đó không Shep?”

“Tôi ấy à?”. Cantwell lắc đầu. “Tôi sẽ trở lại Boston ngay khi tôi được ‘phóng thích’. Nhưng có những người khác trong tòa nhà này đang dự định đi chơi vòng quanh phố xá và tiêu tiền như nước đấy”.

“Nếu những nhà hảo tâm rộng lượng trong hệ thống tội lỗi ấy cũng đang chất xác những tên lái máy bay đâm thẳng vào các tòa cao ốc của chúng ta vào quan tài thì sao? Nếu như những người bạn này của chúng ta chán khủng bố đến tận cổ thì sao? Nếu như chúng sẵn sàng thỏa hiệp với quỷ dữ bằng bất cứ giá nào để bảo đảm sự sống còn của chúng, thậm chí là xác chết của dân Mỹ thì sao?”

“Thì anh bắt tay và mỉm cười chứ sao”. Cantwell trả lời. “Và anh coi chủ nghĩa khủng bố như thể loại thuế phụ thu bất cập cho lần đổ xăng kế tiếp của anh. Anh vẫn lái chiếc Volvo cũ đấy chứ?”

Cantwell biết rõ Carter lái xe gì vì phần chỗ đậu xe của hai người kế bên nhau. “Tôi không đủ khả năng mua xe mới. Làm sao dư tiền khi phải nuôi ba đứa con đang còn đi học cho được?”

“Có lẽ anh nên đăng kí cho kế hoạch về hưu của bọn Arập Xêút. Tôi thấy một hợp đồng tư vấn sinh lợi trong tương lai của anh đấy”.

“Đó không phải kiểu sống của tôi Shep à”.

“Thế còn tin đồn thì sao? Có tin nào là thật không?”

“Không có tin nào thật hết”.

“Rất vui khi nghe anh xác nhận như thế. Tôi sẽ nhắn nhủ lại với mọi người. Chúc ngủ ngon, Adrian”.

“Ngủ ngon, Shep”.

Carter đi xuống lầu. Bãi giữ xe gần như trống. Carter bước lên chiếc Volvo của mình và chạy thẳng đến khu Tây Bắc Washington, theo đúng con đường ông ta và Gabriel đã đi tám tuần trước đó. Khi chạy ngang qua khu bất động sản của Zizi al-Bakari, ông cho xe chạy chậm lại và nhìn qua thanh chắn cổng lên vách núi, nơi điền trang toạ lạc với mặt chính quay ra sông. Đừng có đụng đến cô ấy, Carter cáu kỉnh. Đụng đến một sợi tóc trên đầu cô ấy thôi, tao sẽ tự tay giết mày. Chạy đến cầu Chain, ông nhìn vạch xăng trên bảng điều khiển xe. Vạch đỏ. Thật đúng lúc, ông nghĩ. Bình xăng gần như cạn hẳn.

o O o

Cùng lúc đó, chiếc du thuyền Sun Dancer lượn quanh Grande Pointe và quay trở về nơi thả neo ở Gustavia. Gabriel ngồi một mình trên thành tàu, cặp kính áp sát mắt, nhìn phía đuôi con tàu Alexandra, nơi nhân viên đang vội vã chuẩn bị buổi ăn tối cho ba mươi người. Gabriel thấy họ như những nhân vật trong một bức tranh. Anh ta bắt đầu đặt tên. Bữa tiệc trên tàu hay Bữa tối cuối cùng nhỉ?

Kia là Zizi, ngồi như một vị vua ở đầu bàn, như thể mọi sự kiện xảy ra trong buổi ăn tối chỉ là trò tiêu khiển mở đầu cho một chuyến du hành, mà nếu không có trò tiêu khiển ấy thì chuyến đi này sẽ đơn điệu nhàm chán làm sao. Bên trái hắn là cô con gái xinh đẹp Nadia. Bên phải hắn là chỉ huy thứ hai Daoud Hamza đang ngồi chọc nĩa vào thức ăn với dáng vẻ không ngon miệng cho lắm. Phía kia bàn là các luật sư, Abdul & Abdul, và Herr Wehrli, người trông coi tài sản của Zizi. Kia là Mansur, người sắp xếp các chuyến du lịch; Hassan, chuyên về truyền thông, bảo mật và những việc khác đại loại như thế. Rồi đến Jean-Michel, người chăm sóc thân thể cân đối của Zizi và cũng là một vệ sĩ bổ sung của ông trùm, kế bên là Monique, cô vợ mặt sưng mày sỉa của hắn. Có Rahimah Hamza và người tình của Hamid - ngôi sao điện ảnh Ai Cập xinh đẹp. Có nhóm tứ tấu gồm bốn gã vệ sĩ mặt bồn chồn lo lắng và vài cô gái quyết rũ với vẻ mặt vô tội. Ngồi ở góc xa đằng kia, rất xa so với tên trùm Zizi, là một người phụ nữ xinh đẹp trong bộ cánh bằng lụa màu vàng nghệ. Cô tạo nên sự cân bằng trong bố cục của bức tranh. Cô vô tội trước tội ác khủng khiếp của Zizi. Gabriel có thể thấy vẻ mặt sợ hãi đến cực độ của cô. Gabriel biết mình đang chứng kiến một buổi trình diễn. Nhưng buổi trình diễn này có lợi cho ai? Hắn ta hay Sarah?

Nửa đêm, các nhân vật trong bức tranh đứng dậy và chúc nhau ngủ ngon. Sarah biến mất qua hành lang và Grabiel mất dấu cô một lần nữa. Zizi, Daoud Hamza, và Wazir bin Talal đi vào phòng Zizi. Gabriel nghĩ ra một bức tranh mới: Cuộc hẹn của ba con quỷ, không biết họa sĩ là ai.

Năm phút sau Hassan chạy vào văn phòng và đưa cho Zizi chiếc điện thoại di động. Ai đang gọi hắn? Có phải là một trong những tên môi giới của Zizi xin hướng dẫn nên chọn vị trí nào cho buổi khai trương thương mại ở Luân Đôn không? Hay là Ahmed in Shafiq, kẻ sát nhân những người vô tội, nói cho Zizi biết nên xử cô gái của Gabriel như thế nào?

Zizi nhận điện thoại và vẫy tay gọi Hassan đi ra ngoài. Wazir bin Talal, tên phụ trách an ninh, đi đến cửa sổ và hạ tất cả màn xuống.

Sarah nhìn qua cửa cái và bật tất cả đèn sáng trong phòng. Cô bật truyền hình vệ tinh lên và chuyển ngay sang kênh CNN. Cảnh sát Đức xô xát với những người phản đối Mỹ trên phố. Thêm chứng cứ về thất bại của Mỹ ở Irắc, theo lời người phóng viên hụt hơi trên đài.

Cô đi ra boong tàu và ngồi xuống. Chiếc thuyền buồm nhẹ cô quan sát kể từ khi rời bến cảng trưa hôm nay đã quay trở lại. Có phải là thuyền của Gabriel không nhỉ? Bin Shafiq còn sống hay chết? Cô chỉ biết rằng có chuyện gì đó tồi tệ đã xảy ra. Những chuyện như thế này thỉnh thoảng cũng xảy ra, Zizi đã từng nói. Đó là lí do tại sao chúng ta phải coi trọng vấn đề an ninh.

Sarah cứ nhìn chiếc thuyền buồm chằm chằm, tìm kiếm bất cứ dấu hiệu nào của sự chuyển động trên boong tàu ấy, nhưng nó ở quá xa đến nỗi cô chẳng thấy gì. Chúng tôi ở ngay đây với cô Sarah à. Tất cả chúng tôi. Gió thốc lên. Cô vòng tay ôm đầu gối vào sát người mình, ngồi co ro.

Tôi hi vọng tất cả các bạn vẫn còn ở đó, cô nghĩ. Và làm ơn, hãy cứu tôi khỏi chiếc tàu này trước khi họ giết tôi.

Một lúc sau, cái lạnh làm cô muốn đi ngủ. Cô thức dậy vào một buổi bình minh xam xám và mưa nhẹ hạt trên nóc boong tàu. Ti vi vẫn bật; ngài Tổng thống đã đến Pari. Place de la Concorde trở thành một biển người biểu tình phản đối. Sarah bốc điện thoại lên và gọi cà phê. Đúng năm phút sau có người đem cà phê tới. Mọi thứ đều nguyên vẹn như cũ, ngoại trừ tấm giấy viết tay nhỏ được gấp làm đôi và đặt kế bên rổ bánh mì ngọt của cô. Tin nhắn từ Zizi. Tôi có công việc cho cô đây Sarah. Dọn đồ đạc và sẵn sàng rời khỏi đây lúc 9 giờ nhé. Chúng ta sẽ nói chuyện trước khi cô rời tàu. Sarah rót một cốc cà phê và đứng uống ngoài ban công. Lúc đó cô mới để ý rằng chiếc Alexandra đã rời Saint Bart và đang lướt trên biển. Cô nhìn tờ giấy của tên trùm một lần nữa. Nó không cho biết cô sẽ đi đâu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29: Rời saint maarten


Sarah trình diện ở đuôi sau boong tàu đúng lúc 9 giờ. Trời bắt đầu mưa nặng hạt. Mây đen và gió mạnh mặc nhiên đùa giỡn với biển. Zizi mặc áo mưa màu lam nhạt và đeo kính đen dù thời tiết rõ ràng là rất u ám. Bin Talal đứng bên cạnh tên trùm.

“Không trễ một phút nào cả”. Sarah nói chuyện một cách thân thiện. “Đầu tiên là dọa nổ bom, rồi một tờ ghi chú nhỏ bảo dọn đồ đạc kẹp trong bữa ăn sáng của tôi”. Cô nhìn về phía khoảng trống dành cho máy bay lên thẳng và thấy phi công của Zizi đang trèo lên buồng lái chiếc Sikorsky. “Tôi phải đi đâu đây?”

“Tôi sẽ nói cho cô biết trên đường đi”. Zizi trả lời, nắm lấy tay cô.

“Ông sẽ đến đó với tôi chứ?”

“Chỉ đến Saint Maarten thôi”. Hắn kéo cô về phía cầu thang dẫn lên sân bay. “Có một chiếc phản lực dành riêng cho cô ở đấy”.

“Chiếc phản lực ấy chở tôi đi đâu?”

“Đến chỗ bức tranh. Tôi sẽ nói cho cô rõ trên đường đến đó”.

“Bức tranh ở đâu, ông Zizi?”

Hắn dừng lại giữa đường đến bậc thang và nhìn cô, đôi mắt giấu sau cặp kính đen.

“Việc đó có phiền cô lắm không Sarah? Cô có vẻ căng thẳng quá”.

“Tôi chỉ không thích việc lên máy bay mà chẳng biết mình sẽ được đưa tới đâu”.

Tên trùm mỉm cười và bắt đầu nói với cô, nhưng lời hắn nói bịá chìm lỉm bởi tiếng động cơ rú rít của chiếc Sikorsky.

Lúc chiếc trực thăng cất cánh, Gabriel đang đứng trên thành tàu Sun Dancer. Anh quan sát nó chốc lát rồi chạy vội đến đài chỉ huy chỗ viên Đại úy hải quân đứng lái.

“Chúng chuyển cô ấy đến Saint Maarten rồi. Chúng ta cách bờ bao xa vậy đại úy?”

“Khoảng năm dặm”.

“Mất bao nhiêu thời gian mới tới được đó?”

“Thời tiết mà cứ như thế này, tôi đoán khoảng 30 phút. Có thể ít hơn”.

“Còn mấy chiếc Zodiac thì sao?”

“Anh sẽ không muốn thử chiếc Zodiac nào đâu, nhất là với tiết trời này”.

“Vậy đưa chúng tôi gần đến đó, càng nhanh càng tốt”.

Người Đại úy hải quân gật đầu và chuyển hướng tàu. Gabriel đi đến trung tâm chỉ huy gọi điện cho Carter.

“Cô ấy đang bị dẫn đến sân bay ở Saint Maarten”.

“Cô ấy đi một mình à?”

“Không, Zizi và tên đội trưởng an ninh đi với cô ấy”.

“Anh mất bao nhiêu thời gian để đến đó?”

“45 phút đến bờ. Thêm 15 phút đến sân bay”.

“Tôi sẽ cho phi hành đoàn sẵn sàng cùng với chiếc máy bay khi anh đến nơi”.

“Hiện thời tôi chỉ cần biết Zizi đưa cô ấy đi đâu”.

“Nhờ bọn al-Qaeda mà giờ đây chúng ta kiểm soát được tất cả các tháp điều khiển giao thông ở nửa bán cầu này. Khi gã phi công của tên Zizi lên kế hoạch bay, chúng ta sẽ biết nơi cô ấy tới”.

“Mất bao lâu?”

“Thường thì chỉ khoảng vài phút”.

“Tôi chắc là mình không cần phải nhắc lại với ông rằng càng nhanh càng tốt”.

“Cứ lên bờ đi. Tôi sẽ lo hết mọi chuyện còn lại”.

“Đó là Manet”.

Zizi nói khi họ khi họ lướt về phía đường bờ biển dưới những đám mây xám. “Tôi đã để ý đến nó nhiều năm rồi. Tên chủ rất miễn cưỡng khi phải xa nó nhưng tối hôm qua hắn gọi điện cho tôi từ Geneva và bảo rằng hắn muốn thỏa thuận”.

“Thế ông muốn tôi làm gì?”

“Xem xét bức tranh cho kĩ và chắc chắn rằng nó vẫn còn ở trong tình trạng chấp nhận được. Rồi kiểm tra lai lịch nguồn gốc của nó thật kỹ càng. Tôi chắc cô cũng biết về hàng ngàn bức tranh theo trường phái Ấn tượng Pháp đã tuồn sang Thụy Sĩ trong thời chiến dưới hình thức nhập lậu. Điều cuối cùng tôi không bao giờ muốn là một gia đình Do Thái nào đó đập cửa nhà tôi đòi lấy lại bức tranh”.

Sarah cảm thấy nỗi sợ đang gõ nhịp trong ngực mình. Cô quay đi và nhìn ra cửa sổ.

“Nếu việc kiểm tra diễn ra thuận lơi?”

“Chọn một cái giá cho phù hợp. Tôi sẽ sẵn sàng cho 30 triệu, nhưng lạy Chúa, đừng ra giá đó nhé”. Hắn đưa cô một cái danh thiếp có viết số bằng tay ở phía sau. “Khi cô đàm phán được giá cuối cùng, gọi cho tôi trước khi cô đồng ý với giá đó”.

“Tôi gặp hắn lúc mấy giờ?”

“Mười giờ sáng mai. Một tên tài xế của tôi sẽ đón cô ở sân bay tối nay và đưa cô đến khách sạn. Cô có thể ngủ một giấc thật ngon trước khi đi xem bức tranh”.

“Tôi có cần phải biết tên người chủ của bức tranh không?”

“Hermann Klarsfeld. Hắn là một trong những người giàu nhất ở Thụy Sĩ, điều đó cũng nói lên được chút gì về hắn đấy. Tôi đã cảnh báo hắn rằng cô rất đẹp và hắn rất trông đợi được gặp mặt cô”.

“Tuyệt”. Sarah vẫn nhìn qua cửa sổ khi sắp tới bờ biển.

“Herr Klarsfeld là một lão già tám mươi. Cô không cần phải lo lắng về bất cứ hành vi sàm sỡ nào đâu”.

Zizi nhìn bin Talal. Tên đội trưởng an ninh vớ tay xuống phía dưới ghế của mình và lôi ra cái giỏ Gucci mới. “Đồ đạc của cô đây, cô Sarah”. Giọng hắn có vẻ hối lỗi. Sarah nhận cái giỏ và mở ra. Trong giỏ là những vật dụng điện tử từ hôm cô đến, gồm chiếc điện thoại di động, PDA, iPod và máy sấy tóc; thậm chí cả đồng hồ báo thức. Không gì còn để lại trên Alexandra cho thấy cô đã từng ở đó.

Chiếc trực thăng bắt đầu hạ cánh. Sarah nhìn ra ngoài của sổ thêm một lần nữa và thấy rằng họ đang đáp xuống sân bay. Ở cuối đường băng là một loạt các máy bay phản lực cá nhân. Một chiếc đang được nạp nhiên liệu chuẩn bị cất cánh. Zizi lại ca tụng sự giàu có của Herr Klarsfeld, nhưng Sarah không để tai bất cứ lời nào. Cô bị ép lên chiếc trực thăng để rồi bị quên lãng. Giờ cô chỉ nghĩ đến chạy trốn. Chẳng có Herr Klasfeld nào hết, cô tự nhủ. Cũng không có Manet nào hết. Cô nhớ Zizi đọc kinh tạ ơn vào buổi trưa cô nhận làm việc cho chúng. Như cô thấy, tôi rất rộng lượng với những người làm việc cho mình, nhưng tôi rất giận những người phản bội mình. Cô đã phản bội hắn. Cô phản bội hắn vì Gabriel. Giờ cô phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Đó là luật của Zizi.

Sarah nhìn xuống sân bay, tự hỏi có khi nào Zizi để một khe hở cho cô trốn thoát không. Chắc rằng sẽ có nhân viên hải quan kiểm tra hộ chiếu của cô. Cũng có thể có một nhân viên sân bay hoặc một hai cảnh sát. Cô ôn lại những điều sẽ nói với họ. Tên tôi là Sarah Bancroft. Tôi là công dân Mỹ. Những người đàn ông này đang cố gắng đưa tôi đến Thụy Sĩ trái với ý nguyện của tôi. Rồi cô nhìn Zizi và tên trưởng an ninh của hắn. Ông đã tính toán đến viễn cảnh ấy chứ gì. Ông đã mua chuộc hết các nhân viên hải quan và hối lộ bọn cảnh sát. Zizi không thích trì hoãn điều gì, đặc biệt là đối với một phụ nữ không theo đạo Hồi.

Bánh xe trực thăng của chiếc Sikorsky cán trên nên đường nhựa lổn nhổn đá. Bin Talal mở cửa buồng trực thăng và trèo xuống, rồi đưa tay đón Sarah. Cô nắm tay hắn và bước xuống cầu thang trong cơn gió xoáy cuộn. Cách trực thăng khoảng 5 mét có một chiếc Falcon 2000 đang đợi, tiếng máy gào thét chuẩn bị cất cánh. Sarah nhìn quanh: không có nhân viên hải quan, không có cảnh sát. Zizi đã chặn ngay con đường duy nhất của cô. Sarah nhìn vào cabin của chiếc Sikorsky và nhìn Zizi lần cuối. Tên trùm vẫy tay thân ái với cô rồi đưa mắt xuống chiếc đồng hồ Rolex bằng vàng như nhà vật lí học đang định thời gian chết.

Bin Talal tóm lấy đống túi xách của Sarah rồi kéo tay cô đến thẳng chiếc Falcon. Khi bước trên bậc thang lên máy bay, cô cố dằn tay ra khỏi hắn nhưng hắn nắm cứng bắp tay cô và kéo cô lên các bậc thang. Sarah la hét kêu cứu nhưng tiếng kêu của cô lọt thỏm trong tiếng động cơ máy bay và tiếng đập phành phạch của cánh quạt.

Sarah cố gắng phản kháng thêm một lần nữa khi đã ở trên bậc thang cuối cùng, bin Talal đẩy vai cô một cách thô bạo vào trong cabin. Cô ngã dúi dụi vào cái cabin sang trọng được trang trí bằng gỗ đánh bóng và da thuộc mềm màu vàng nâu. Nó nhắc cô nhớ đến cỗ quan tài. Ít nhất chuyến đi đến lãng quên này sẽ khá là thoải mái. Cô gom chút sức lực còn lại húc vào người gã Arập Xêút như thể cô sắp nổi khùng lên. Lúc này, không còn thấy khung cảnh phía bên ngoài nữa, không còn phải thận trọng trong phản ứng nữa. Hắn tát cô một cái nảy lửa vào má phải, cô té lăn trên sàn cabin. Bọn Arập Xêút rất biết cách cư xử với phụ nữ nổi loạn.

Sarah nghe thấy tiếng vang vọng trong tai và một khắc sau mắt cô nổ đom đóm. Khi thị lực đã rõ hơn, cô thấy Jean-Michel đang đứng trước mặt mình, chùi tay vào cái khăn linen. Gã người Pháp ngồi trên chân cô và chờ cho đến khi bin Talal trói chặt tay hai cô xuống sàn trước khi chuẩn bị ống tiêm dưới da cho cô. Sarah cảm thấy vết chích đau nhói, kim loại hoá lỏng chảy vào tĩnh mạch cô. Da mặt của Jean-Michel bắt đầu tuột xuống khỏi hộp sọ của hắn, rồi Sarah trượt xuống phía dưới bề mặt của một vùng nước đen và lạnh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30: Saint maarten


Một giờ sau đó chiếc Zodiac tiến vào vùng vịnh Great. Bốn người đàn ông trên tàu mặc quần dài và áo khoác thể thao, mỗi người mang một cái túi ngủ vì lợi ích của chính quyền địa phương. Đưa tàu vào bến xong, họ trèo lên một chiếc tắc xi đã chờ sẵn và phóng tới phi trường với tốc độ đáng kể. Ở đó, sau khi trình hộ chiếu, căn cước giả và trót lọt qua bước kiểm tra, họ lên chiếc phản lực cá nhân Gulfstream V. Phi hành đoàn đã đăng ký kế hoạch bay và đã yêu cầu một vị trí cất cánh. Một giờ sau, lúc 11 giờ 37 phút sáng giờ địa phương, chuyến bay khỏi hành. Điểm đến là sân bay Kloten ở Zurich, Thụy Sĩ.

Khi chiếc Gulfstream bay là là trên mặt vịnh Simpson, Adrian Carer gọi ba cuộc điện thoại: một đến Chánh văn phòng CIA, hai đến Lực lượng vũ trang của cơ quan tình báo chuyên về các chuyến đi bí mật, và cuộc gọi thứ ba đến một bác sĩ của cơ quan tình báo, người chuyên chăm sóc các đặc vụ bị thương trong điều kiện thiếu thốn trang thiết bị y tế và thuốc men. Sau đó ông ta mở két sắt âm tường của mình và lấy ra ba cái ví. Trong mỗi cái ví là một hộ chiếu giả cùng với thẻ căn cước, thẻ tín dụng, một ít tiền mặt và những bức ảnh gia đình chưa từng tồn tại. Mười phút sau, ông ta băng qua bãi giữ xe phía Tây để đến chỗ chiếc Volvo. Người đàn ông của Tổng hành dinh này lại ‘ra trận’ thêm một lần nữa. Trận địa lần này là Zug.

Ở khu buôn bán Munich, Uzi Navot đang ăn bữa trưa muộn với một tay đưa tin của cơ quan Tình báo Đức thì nhận được cuộc gọi khẩn cấp từ Tel Aviv. Không phải Văn phòng điều hành mà đích thân Amos Ahrrett gọi cuộc hội thoại của họ ngắn gọn và chỉ có một bên nói. Navot im lặng lắng nghe, thỉnh thoảng anh nghiến răng để cho Amos thấy rằng y hiểu cần phải làm gì, sau đó anh cúp máy.

Navot không muốn cho gã điệp viên Đức biết rằng Văn phòng đang rơi vào một cuộc khủng hoảng, vì thế anh vẫn ở lại nhà hàng thêm 30 phút nữa, anh tẩn mẩn cắt móng tay dưới gầm bàn trong khi gã người Đức ăn bánh tẩm đường và uống cà phê. Vào lúc 3 giờ 15 phút thì anh đã ở sau tay lái của chiếc Mercedes dòng E, và lúc 3 giờ 30 phút, thì anh đã chạy về phía tây theo con đường E54.

Hãy nghĩ đây là một cuộc thử giọng, Amos đã nói thế. Làm sạch sẽ vụ này đi và phòng điều hành đặc biệt sẽ là của anh. Và Uzi Navot chạy đến Zurich trong buổi chiều nhạt nắng, thăng tiến trong sự nghiệp là tất cả những gì trong đầu anh lúc này. Anh muốn có Sarah - và anh muốn cô ta còn nguyên vẹn.

Nhưng Sarah đang bị một màn sương thuốc mê bao phủ nên chẳng biết gì về những sự kiện vẫn đang xoáy cuộn quanh mình. Thật sự thì cô chẳng có ý niệm gì về trạng thái cơ thể của mình nữa. Cô không biết mình bị trói vào ghế đối diện với khoang đuôi máy bay Falcon 2000, với người lái của dịch vụ hàng không quản trị Caracas thuộc Tập đoàn AAB tại Riyadh, Geneva. Cô không biết rằng tay mình bị còng lại với nhau và mắt cá chân đã bị cùm. Không biết rằng vệt đỏ thẫm trên gò má phải của cô chính là lời hỏi thăm sức khỏe của bin Talal. Không biết người ngồi đối diện, cách cô một bàn nước nhỏ, là Jean-Michel, hiện đọc lướt một quyển truyện khiêu dâm của Hà Lan và nhấm nháp rượu whiskey Scotland làm từ mạch nha mà hắn mua ở gian hàng miễn thuế ở sân bay Maarten.

Sarah chỉ nhận thức được những giấc mơ của mình. Cô nắm bắt hết sức mơ hồ về những hình ảnh đang phơi bày trước mắt, cô nghĩ rằng chúng hoàn toàn phi thực, nhưng cô lại chẳng còn chút sức lực nào mà kiểm soát chúng. Cô nghe tiếng chuông điện thoại, và khi nhấc máy cô nghe tiếng Ben ở đầu dây bên kia, nhưng thay vì đi về phía tháp Nam của tòa nhà Thương mại Thế giới thì anh lại hạ cánh an toàn ở Los Angeles và đang bận túi bụi với các cuộc họp hành. Cô bước vào tòa thị chính trang nghiêm ở Geogetown, người ân cần ra đón cô không phải là Adrian Carter mà là Zizi al-Bakari. Kế đó cô thấy mình ở trong một căn nhà miền quê nước Anh, những người có mặt ở đây không phải là Gabriel và đồng đội của anh mà là một nhóm khủng bố Arập Xêút đang ngồi bàn bạc những âm mưu tiếp theo. Một chiếc du thuyền tuyệt đẹp đang lướt trên biển máu. Một phòng trưng bày tranh ở Luân Đôn treo chi chít chân dung những người đã chết. Và cuối cùng là một người phục chế tranh nghệ thuật mắt màu xanh ngọc, tóc mái điểm bạc đang đứng trước bức vẽ chân dung cô gái bị khóa tay vào bàn trang điểm. Người phục chế tranh ấy là Gabriel, còn người phụ nữ trong bức tranh chính là Sarah. Những hình ảnh ấy đột ngột bốc cháy, khi ngọn lửa tàn, Sarah nhìn khuôn mặt của Jean-Michel.

“Chúng ta đang đi đâu vậy?”

“Trước tiên chúng ta phải làm rõ xem mày làm việc cho ai, sau đó chúng ta mới giết mày”.

Sarah nhắm mắt khi mũi kim tiêm dưới da ấy một lần nữa cắm phập vào bắp chân cô. Kim loại nóng chảy. Vùng nước đen…
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31: Kloten, switzerland


Khách sạn Flyaway ở số 19 đường Marktgasse là một căn nhà không sang trọng. Kiến trúc thô sơ và tẻ nhạt, tiền sảnh đơn giản nhưng rất sạch sẽ. Điều hấp dẫn duy nhất là khách sạn này chỉ cách sân bay có năm phút. Vào một đêm tháng hai đầy tuyết như đêm nay, khách sạn là điểm tụ tập bí mật mà chính quyền và cảnh sát địa phương không hay biết gì. Hai người đàn ông đến từ Bỉ, người thứ ba từ Roma và người còn lại từ Luân Đôn. Tất cả bọn họ là chuyên gia giám định vật lí học. Cả nhóm đăng kí phòng bằng tên giả và hộ chiếu giả. Người đàn ông thứ năm đến từ Paris, đăng kí bằng tên thật Moshe. Anh ta chẳng phải chuyên gia giám định mà chỉ là bodel, tức người đưa tin cấp thấp. Anh ta lái chiếc Audi A8, hiện thời chiếc xe đang đỗ ngoài đường. Trong cốp xe là một vali đầy súng, bộ đàm, kính mắt hồng ngoại và mũ bảo hiểm khít đầu và cổ, chỉ hở mặt.

Người đến cuối cùng là người mà các cô tiếp tân biết rõ nhất, vì anh ta là du khách thường xuyên qua lại sân bay Kloten và nghỉ tại Flyaway nhiều lần đến nỗi có lẽ chính anh ta cũng chẳng nhớ rõ. “Chào buổi tối, ông Bridge”. Một cô gái lên tiếng khi vị khách quen xuất hiện trong sảnh khách sạn. Năm phút sau anh ta đã ở trong phòng của mình trên lầu. Hai phút tiếp theo, những người khác đã tập trung ở phòng anh. “Một chiếc máy bay sắp hạ cánh ở Kloten”, anh thông báo cho bọn họ, “Có một cô gái trên máy bay và chúng ta phải cố gắng làm sao để tối nay cô ấy thoát chết”.

Sarah tỉnh dậy lần thứ hai. Cô mở mắt chỉ đủ lâu để nhận diện khung cảnh xung quanh mình, rồi nhắm mắt lại ngay trước khi Jean-Michel có thể tiêm vào chân cô một mũi thuốc mê nữa. Họ đang đáp xuống mặt đất và chiếc trực thăng lắc lư cùng với lớp không khí đang chuyển động. Cô hơi ngả đầu qua một bên, phần thái dương đập thình thịch của cô va mạnh vào tường theo sự lắc lư của chiếc trực thăng. Ngón tay cô tê liệt vì bị còng quá lâu, và lòng bàn chân cô như thể bị hàng ngàn mũi kim chích. Jean-Michel vẫn ngồi đối diện cô, mắt hắn nhắm nghiền và đôi bàn tay đan vào nhau đặt phía dưới bụng.

Sarah mở mắt lần thứ hai. Mắt cô nhoà và mờ như thể bị bao bọc trong một màn sương đen. Cô đưa tay chạm mặt và sờ thấy lớp vải. Mũ trùm đầu, cô nghĩ. Rồi cô nhìn xuống thân thể và thấy một tấm mạng đen quấn quanh mình. Jean-Michel đã mặc cho cô loại áo trùm toàn thân của phụ nữ đạo Hồi. Cô khe khẽ khóc. Jean-Michel nhướng một mắt tàn nhẫn nhìn cô.

“Chuyện gì vậy Sarah?”

“Anh đưa tôi đến Arập Xêút phải không?”

“Chúng ta đến Thụy Sĩ như Zizi đã bảo”.

“Nhưng tại sao lại mặc thứ áo choàng của phụ nữ Hồi giáo cho tôi?”

“Điều đó giúp mày nhập cảnh được dễ dàng. Khi hải quan Thụy Sĩ thấy phụ nữ Arập Xêút che mạng, chúng có xu hướng kính trọng mày nhiều hơn”. Hắn nở nụ cười kệch cỡm. “Tao nghĩ thật là nhục nhã khi bao phủ người mày bằng vải đen thế này, nhưng tao thật sự khoái cái việc mặc loại quần áo này cho mày đấy”.

“Mày đúng là một con lợn, Jean-Michel ạ”.

Sarah chưa bao giờ thấy mắt nổ đom đóm như khi một cái bạt tai trời giáng nện thẳng vào gò má phải vẫn còn sưng tấy của cô. Khi thị giác cô trở lại như cũ thì Jean-Michel đã ngồi dựa vào ghế của hắn. Chiếc trực thăng nảy lên bất thình lình, Sarah thấy cảm giác khó chịu trào lên đến tận cổ.

“Tôi nghĩ tôi sắp bệnh rồi”.

“Giống như ở Le Tetou à?”

Nghĩ nhanh lên Sarah.

“Tao bị bệnh ở Le Tetou thật đấy, đồ ngu”.

“Rồi mày khỏe lại khá nhanh chóng. Thật ra mày có vẻ rất khỏe khoắn khi trở lại tàu Alexandra với tụi tao”.

“Những loại thuốc anh tiêm vào người tôi làm tôi buồn nôn quá. Dẫn tôi đi vào toa-lét đi”.

“Mày muốn kiểm tra có ai nhắn tin cho mày không hả?”

Nhanh lên Sarah, nhanh lên.

“Anh nói gì vậy? Dẫn tôi đi toa-lét nhanh để tôi nôn ra chứ”.

“Mày không được đi đâu cả”.

“Ít nhất cũng nhấc cái áo choàng này giùm tôi”.

Hắn nhìn cô đầy nghi ngờ rồi nghiêng người qua bàn nước và vén bức mạng che mặt lên, Sarah cảm nhận được không khí mát lạnh trong cabin. Đối với Sarah, việc này giống như việc chú rể vén mạng che mặt người vợ tương lai của hắn. Cơn giận chợt bùng lên và cô bất ngờ quất vào mặt Jean-Michel bằng bàn tay bị còng của mình. Hắn dễ dàng né được và quất mạnh lại vào phía bên trái đầu cô. Cô té xuống sàn nhà. Jean Michel đá liên hồi vào bụng Sarah làm cô muốn ngạt thở. Khi cố gắng thở lại được thì cô nôn ra thảm tất cả mọi thứ trong bụng.

“Chó má”, tên người Pháp này cáu kỉnh. “Đáng ra tao phải bắt mày dọn sạch đống đó mới đúng”.

Hắn nắm sợi dây xích cổ tay Sarah và kéo cô về ghế, đoạn đi thẳng vào toa-lét. Sarah nghe tiếng nước chảy trong bồn. Khi Jean-Michel quay trở lại, hắn cầm theo một cái khăn ướt nhẹp để lau và gói gọn đống ói mửa của Sarah. Rồi hắn rút một ống xilanh nữa và một ống thuốc từ chiếc cặp da nhỏ. Hắn bơm thuốc vào xilanh mà chẳng thèm quan tâm đến liều lượng, rồi hắn nắm lấy tay cô. Sarah cố gắng tránh ra nhưng hắn táng vào mồm cô hai cái. Khi thuốc ngấm vào mạch máu, Sarah vẫn tỉnh nhưng cảm thấy người nặng nề như bị vật gì đó đè lên. Mi mắt nhắm nghiền, tuy nhiên cô vẫn ý thức được chuyện gì đang diễn ra.

“Tôi còn tỉnh đấy”. Cô cố nói. “Thuốc của anh chẳng có tác dụng với tôi nữa”.

“Thuốc có tác dụng đấy chứ”.

“Tại sao tôi vẫn còn tỉnh?”

“Để dễ khai thác câu trả lời hơn”.

“Trả lời gì?”

“Tốt hơn hết là mày thắt dây an toàn vào đi”. Hắn sừng sộ bảo cô. “Ta sắp hạ cánh trong vài phút nữa đấy”.

Sarah cố gắng làm theo lời hắn bảo, nhưng bàn tay cứ nằm im trên đùi chứ không tuân theo ý muốn của cô.

Sarah áp mặt vào tấm kính của sổ mát lạnh và nhìn ra ngoài trời. Trời tối đen như mực. Vài phút sau họ đi vào vùng mây, chiếc trực thăng xốc lên xốc xuống. Jean-Michel rót cho mình một ly whiskey và uống cạn chỉ bằng một hớp.

Ra khỏi vùng mây thì gặp ngay bão tuyết. Sarah nhìn xuống và săm soi những ngọn đèn đường. Có một khối gì đó phản quang sáng rực bao bọc phía Bắc của vùng nước này và những sợi dây ít sáng hơn nằm dọc theo bờ biển giống hệt như nữ trang. Cô cố nhớ xem tên trùm Zizi đã nói cô phải đi đâu. Zurich, cô nghĩ. Đúng rồi, đúng là Zurich… Herr Klarsfeld… Bức tranh mà Zizi không trả quá 30 triệu…

Máy bay bay ngang qua vùng trung tâm Zurich và nghiêng về phía phi trường. Sarah cầu cho máy bay bị rớt, nhưng nó vẫn cứ đáp xuống đất một cách suôn sẻ. Máy bay trượt trên đường băng vài phút. Jean-Michel nhìn ra ngoài cửa sổ trong khi Sarah chìm vào vô thức. Cái thân máy bay có vẻ như dài bằng dãy Alpine, và khi cô gắng sức nói, từ ngữ trong miệng cô không thể hình thành được.

“Loại thuốc tao chích cho mày khi nãy có tác dụng ngắn thôi”, Jean-Michel bảo. “Rồi mày sẽ nói lại được, hi vọng là thế, ít nhất là vì lợi ích của chính bản thân mày”.

Máy bay bắt đầu giảm tốc. Jean-Michel hạ tấm mạng trên mặt cô xuống, tháo còng và đống dây xích. Khi máy bay dừng hẳn, hắn mở cửa cabin và đưa đầu ra kiểm tra xem mọi chuyện có ổn không. Hắn xốc nách Sarah, kéo cô đứng dậy. Máu dồn xuống chân làm cô đau nhói và đầu gối cô khụy xuống. Jean-Michel đỡ lấy Sarah trước khi cô ngã. “Bước từng bước thôi”. Hắn bảo. “Bước đi Sarah, mày nhớ phải bước như thế nào mà”.

Cô nhớ, nhưng hầu như không làm được điều đó nữa. Cánh cửa chỉ cách đó khoảng 3 mét mà Sarah có cảm tưởng dài như một dặm vậy. Được vài bước cô vấp phải gấu áo choàng và ngãá về phía trước, nhưng Jean-Michel lại một lần nữa đỡ cô dậy. Cuối cùng cũng đến được cửa, Sarah cảm thấy luồng không khí lạnh cóng cứa vào da thịt. Trời đang đổ tuyết và cực lạnh. Không thấy nhân viên hải quan hay nhân viên an ninh nào, chỉ có một chiếc Mercedes mui kín màu đen biển số ngoại giao. Tập đoàn AAB và lãnh sự quán Arập Xêút ở Zurich đã thông báo sẽ có một hành khách từ Saint Maarten đến, và phải chuẩn bị chế độ phục vụ ngoại giao đặc biệt cho hành khách đó. Giống hệt như khi khởi hành: không hải quan, không nhân viên an ninh, không đường trốn thoát.

Đỡ Sarah xuống bậc thang, đi qua con đường trải nhựa và chui vào sau chiếc xe Mercedes đang chờ sẵn. Hắn đóng cửa lại và quay đầu về trực thăng ngay lập tức. Khi xe chuyển bánh, Sarah nhìn gã đàn ông ngồi bên cạnh. Diện mạo hắn hiện lên lờ mờ dưới tấm mạng che mặt màu đen. Bàn tay to bè. Mặt tròn. Cái miệng nhỏ lọt thỏm trong đám râu dê xồm xoàm. Một phiên bản khác của bin Talal, cô nghĩ. Một con vượn người ăn mặc sang trọng.

“Ông là ai?”

“Không quan trọng. Tao chẳng là ai cả”.

“Chúng ta đi đâu thế này?”

Gã dứ nắm đấm vào tai cô và bảo cô đừng mở miệng nói chuyện nữa.

Ba mươi giây sau, chiếc Mercedes biển số ngoại giao tăng tốc vượt qua một bóng người phủ đầy tuyết đang lúi húi dưới gầm chiếc xe mui trần chết máy. Người đàn ông có vẻ như không quan tâm khi chiếc Mercedes chạy ngang qua, dù anh ta có liếc nhanh về phía nó. Anh đếm đến năm rồi ném mình qua mui xe vào phía sau tay lái. Khi anh bật chìa khóa, chiếc xe khởi động liền. Anh vào số và lái nó.

Sarah không biết họ đã đi được bao lâu - một giờ hoặc lâu hơn - nhưng cô biết mục đích của chuyến đi này. Những chỗ dừng, những chỗ bắt đầu, những chỗ chạy lùi bất thình lình và những khúc cua làm cô muốn nôn ói: Eli Lavon gọi những ‘cuộc vận động’ như thế là ‘phản giám sát’. Uzi Navot thì gọi đó là ‘tự chùi mông của mình’.

Sarah nhìn ra ngoài cửa kính xe. Cô đã từng ở Thụy Sĩ vài năm khi còn nhỏ và biết thành phố này khá rõ. Đây không phải là những con đường Zurich mà cô còn nhớ được. Đây là những con đường tối tăm và đầy đá dăm ở khu phố phía bắc và khu công nghiệp Quartier. Những kho hàng xấu xí, nhà máy bằng gạch đen đúa, vườn tược ám khói. Không có khách bộ hành trên vỉa hè và không có cả xe cộ lưu thông. Có vẻ như cô đang ở một mình trong cái thế giới mà chỉ có kẻ mang tên “Không Quan Trọng” làm người đồng hành. Cô hỏi gã một lần nữa rằng họ đang đi đâu. Gã trả lời bằng một cú thúc cùi chỏ vào bụng Sarah làm cô hét lên đau đớn.

Gã nhìn qua vai mình thật lâu rồi đẩy Sarah rạp xuống sàn xe và lầm bầm điều gì đó bằng tiếng Arập với gã tài xế. Sarah như tan vào bóng đêm. Cô đẩy lùi nỗi đau đớn vào một góc trong tâm trí và cố gắng tập trung theo dõi sự di chuyển của chiếc xe. Rẽ phải. Rẽ trái. Hai đường ray xe lửa. Một cú dừng đột ngột làm lốp xe ma sát với mặt đường kêu ken két. Người “Không Quan Trọng” kéo cô về băng ghế rồi mở cửa xe. Sarah nắm lấy chỗ để tay và không chịu buông, “Không Quan Trọng” bắt đầu một cuộc chiến để giằng cô ra, cuối cùng mất hết kiên nhẫn, gã đập cô một cú sắc như dao, cơn đau lan khắp mọi ngõ ngách trong cơ thể cô.

Sarah rú lên đau đớn và đành phải buông tay. Tên “Không Quan Trọng” kéo lê cô ra khỏi xe và quăng cô xuống nền xi măng lạnh ngắt. Có vẻ như họ đang ở trong một bãi đậu xe hoặc là một bến tàu dỡ hàng của một nhà kho nào đó. Cô nằm im, co rút trong cơn đau đớn cực độ về thể xác lẫn tinh thần, ngước nhìn tên khốn khiếp qua tấm mạng che mặt màu đen. Cái nhìn của một phụ nữ Arập Xêút về thế giới. Một giọng nói ra lệnh cho cô đứng dậy. Cô cố nhấc người lên nhưng không thể.

Tên tài xế bước xe khỏi xe và cùng với tên “Không Quan Trọng” nhấc cô đứng dậy. Cô ngồi bất động, hai cánh tay dang rộng, người cô cuộn chặt trong chiếc áo choàng của phụ nữ Hồi giáo và chờ một cú đánh như búa tạ đập vào bụng. Nhưng không có cú đánh nào cả, cô được đưa vào băng ghế sau của chiếc xe thứ hai. Người đàn ông ngồi trong đó rất quen thuộc với cô - cô thấy hắn lần đầu tiên trong trang viên Surrey - căn nhà chưa bao giờ tồn tại, và lần thứ hai trong ngôi biệt thự có thật ở Saint Bart. “Chào Sarah”, Ahmed bin Shafiq nói. “Rất vui được gặp lại cô”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32: Zurich


Tên thật của cô là Sarah, hay tôi phải gọi cô bằng tên khác?”

Sarah cố gắng trả lời, nhưng âm thanh dù chỉ là những tiếng hớp hớp không khí.

“Tên-tôi-là-Sarah”.

“Vậy tôi sẽ gọi cô là Sarah”.

“Tại-sao-ông-lại-cư-xử-thế-này-với-tôi?”

“Thôi nào Sarah”.

“Hãy-thả-tôi-ra!”

“Tôi e rằng không thể được”.

Cô gập người xuống, đầu gục giữa hai đầu gối. Ahmed bin Shafiq nắm cổ cô giật ngồi thẳng lên, sau đó nhấc mạng trùm xem xét những vết thương trên khuôn mặt cô. Nhìn thái độ hắn, người ta không thể đoán được hắn đánh giá thế nào về những vết thương này: quá nặng hay quá nhẹ? Sarah đưa mắt nhìn đáp trả. Áo khoác da, khăn choàng bằng lụa casơmia, mắt kính tròn có gọng đồi mồi: hình ảnh của một người giàu có thành đạt ở Zurich. Đôi mắt đen của hắn tỏa ra nét thông minh nhưng đầy tính toán. Hắn vẫn giữ nguyên vẻ mặt như lần đầu gặp cô.

“Cô đang làm việc cho ai?”, hắn hỏi một cách hiền hòa.

“Tôi làm việc”, cô ho sù sụ, “cho Zizi”.

“Thở đi, Sarah. Hãy hít thở chậm và sâu”.

“Đừng-đánh-tôi-nữa”.

“Tôi sẽ không đánh cô”, hắn nói. “Nhưng cô phải kể cho tôi những thứ tôi muốn biết”.

“Tôi không biết gì cả”.

“Tôi muốn biết cô đang làm cho ai”.

“Tôi bảo ông rồi - tôi làm việc cho Zizi”.

Khuôn mặt hắn thoáng nét thất vọng. “Thôi đi, Sarah. Đừng làm cho mọi việc trở nên khó khăn. Hãy trả lời câu hỏi của tôi. Hãy nói sự thật, rồi tất cả những chuyện tra tấn này sẽ chấm dứt”.

“Ông sẽ giết tôi”.

“Đúng vậy”, hắn ta thừa nhận. “Nhưng nếu cô nói với chúng tôi những gì chúng tôi muốn biết, cô sẽ không phải bị rạch mặt, và cái chết của cô sẽ êm ái không đau đớn. Nếu cô nhất định nói dối, những giờ phút cuối cùng của cô trên trái đất này sẽ là một địa ngục sống”.

Sự độc ác của hắn không có giới hạn, cô nghĩ. Hắn nói về việc chặt đầu mình mà còn không thèm ngoảnh mặt đi.

“Tôi đang nói sự thật”, Sarah lầm bầm.

“Cô sẽ phải khai thôi, Sarah. Bất cứ ai cũng phải khai. Kháng cự không có ích gì. Làm ơn, đừng hành hạ bản thân mình như vậy”.

“Tôi không tự hành hạ bản thân. Ông mới chính là kẻ…”.

“Tôi muốn biết cô đang làm việc cho ai, Sarah”.

“Tôi làm việc cho Zizi”.

“Tôi muốn biết ai đã phái cô đến”.

“Chính Zizi đến tìm tôi. Ông ta gửi hoa và nữ trang cho tôi. Ông ta gửi vé máy bay rồi mua quần áo cho tôi”.

“Tôi muốn biết tên cái gã đã liên lạc với cô ở bãi biển Saline”.

“Tôi không…“

“Tôi muốn biết tên cái gã đã đổ rượu lên người vợ tôi ở Saint-Jean”.

“Người nào?”

“Tôi muốn biết tên cô gái đi cà nhắc gần Le Tetou trong bữa tiệc tối của Zizi”.

“Làm sao tôi biết tên cô ta được?”

“Tôi muốn biết tại sao cô theo dõi tôi tại bữa tiệc của tôi. Tại sao đột nhiên cô quyết định búi tóc. Tại sao cô lại búi tóc lên khi chạy bộ cùng Jean-Michel”.

Đến đây Sarah oà khóc một cách hoảng loạn. “Những chuyện này thật điên rồ!”

“Tôi muốn biết tên ba kẻ đi xe máy theo dõi tôi ngày hôm đó. Tôi muốn biết tên hai kẻ đến biệt thự của tôi để giết tôi. Và cả tên của kẻ theo dõi khi máy bay tôi cất cánh”.

“Tôi đang nói với ông sự thật! Tên tôi là Sarah Bancroft. Tôi làm việc cho phòng tranh ở Luân Đôn. Tôi bán cho Zizi một bức tranh. Sau đó ông ta mời tôi đến làm việc cho ông ta”.

“Bức Van Gogh à?”

“Đúng vậy!”

“Bức Marguerite Gachet bên bàn trang điểm?”

“Đúng vậy, đồ con hoang”.

“Cô lấy bức tranh này ở đâu? Do chính cô mua được hay do tổ chức tình báo của cô mua?”

“Tôi không làm việc cho tổ chức tình báo nào cả. Tôi làm việc cho Zizi”.

“Cô làm việc cho người Mỹ?”

“Không”.

“Cho người Do Thái?”

“Không!”

Ahmed bin Shafiq thở ra nặng nề, đoạn gỡ kính, dùng chiếc khăn quàng cổ casơmia chùi kính một lúc lâu, khuôn mặt có vẻ đắn đo suy nghĩ. “Cô nên biết rằng không bao lâu sau khi cô rời khỏi Saint Maarten, có bốn người ra phi trường, lên một chiếc máy bay cá nhân. Chúng tôi nhận ra chúng. Chúng tôi đoán bọn chúng bay đến Zurich. Chúng là người Do Thái, phải không Sarah?”

“Tôi không biết ông đang nói gì”.

“Tin tôi đi, Sarah. Chúng là người Do Thái. Ai cũng có thể nhận ra”.

Hắn giơ kính lên nhìn kỹ, sau đó lau tiếp vài lần nữa. “Cô cũng nên biết rằng những tên đồng nghiệp Do Thái ấy đã vụng về theo bước cô đêm nay sau khi cô xuống sân bay. Tài xế của chúng tôi đã dễ dàng cắt đuôi chúng. Cô thấy đấy, chúng tôi cũng hết sức chuyên nghiệp. Bây giờ chúng đã mất dấu cô. Cô chỉ còn một mình”.

Hắn đeo kính vào.

“Cô nghĩ rằng những tên được gọi là chuyên nghiệp mà cô đang làm việc cùng sẽ sẵn lòng hi sinh tính mạng của chúng vì cô sao? Chắc vào giờ này bọn chúng đang ói mửa hết những bí mật ra sàn nhà cho tôi nghe rồi. Nhưng cô khá hơn bọn chúng, đúng không Sarah? Zizi thấy cô khá, nên mới mắc phải sai lầm là đã thuê cô”.

“Đó không phải là sai lầm. Ông mới là người đang phạm sai lầm”.

Hắn cười buồn bã. “Tôi phải trao cô vào tay Muhammad bạn tôi thôi. Anh ta làm cho tôi trong nhóm 205. Cái tên này có quen thuộc với cô không Sarah? Nhóm 205? Chắc chắn những người huấn luyện cô đã nhắc đến tên này trong khóa đào tạo cho cô”.

“Tôi chưa bao giờ nghe thấy tên này”.

“Muhammad là người chuyên nghiệp. Anh ta cũng là một nhà thẩm vấn rất khôn khéo. Cô và Muhammad sẽ có một cuộc hành trình cùng nhau. Hành trình đêm. Cô có biết thuật ngữ này không Sarah? Cuộc Hành trình đêm”.

Đáp lại, Sarah chỉ khóc nấc. Bin Shafiq bèn trả lời câu hỏi.

“Chính trong cuộc Hành trình đêm này, Chúa trời đã tiết lộ kinh Koran cho nhà Tiên tri. Đêm nay cô cũng sẽ tiết lộ thông tin của mình. Đêm nay cô sẽ khai với anh bạn Muhammad rằng cô đang làm việc cho ai cùng tất cả những gì chúng biết về tổ chức của tôi. Nếu khai nhanh, cô sẽ được hưởng một chút khoan hồng. Nếu tiếp tục nói dối, Muhammad sẽ xẻo thịt cô và cắt đầu cô. Cô hiểu những lời tôi nói không?”

Dạ dày Sarah quặn lên vì một cơn buồn nôn. Bin Shafiq có vẻ thích thú khi nhận ra nỗi sợ hãi của cô.

“Cô có biết là nãy giờ cô cứ nhìn cánh tay tôi không? Bọn chúng đã kể với cô về vết sẹo của tôi, về bàn tay tàn tật của tôi chứ gì?”. Một nụ cười mệt mỏi khác. “Cô đã bị lộ, Sarah - bị chính những người huấn luyện mình làm lộ”.

Hắn mở cửa, trèo khỏi xe, sau đó cúi người xuống nhìn cô một lần nữa.

“Nhân tiện, cô cũng đã gần thành công. Nếu những người bạn của cô giết được tôi trên hòn đảo đó, một vụ tấn công nữa của chúng tôi đã bị ngưng lại”.

“Tôi tưởng ông làm việc cho Zizi ở Montreal”.

“Ồ, đúng rồi, tôi gần như quen mất”. Hắn quấn chặt khăn quàng quanh cổ. “Muhammad sẽ không thấy thích thú vì những lời nói dối của cô đâu Sarah. Có cái gì đó đã mách bảo tôi rằng hai người sẽ có một đêm dài đầy đau đớn cùng nhau”.

Sarah im lặng một lúc. Sau đó, cô cất tiếng hỏi. “Vụ tấn công nào?”

“Vụ tấn công nào? Tôi không biết? Tôi chỉ là một ông chủ ngân hàng đầu tư”.

Cô hỏi hắn một lần nữa. “Vụ tấn công đó là gì? Các người dự định sẽ tiến hành ở đâu?”

“Nói tên thật của tôi đi, rồi tôi sẽ nói cho cô nghe”.

“Tên ông là Alain al-Nasser”.

“Không, Sarah. Không phải tên vỏ bọc của tôi. Tên thật của tôi cơ. Nói đi. Thú tội đi, Sarah, rồi tôi sẽ nói cho cô nghe điều cô muốn biết”.

Sarah bắt đầu run lập cập. Cô cố gắng thốt thành lời nhưng không thể lấy đủ can đảm.

“Nói đi!”, hắn hét lên. “Nói tên tao đi, đồ chó cái”.

Cô ngẩng mặt lên nhìn thẳng vào mắt hắn.

“Tên-mày-là-Ahmed-bin-Shafiq!”

Đầu hắn giật ngược lại, tựa như đang tránh một cú đấm. Sau đó, hắn mỉm cười ngưỡng mộ.

“Mày là một phụ nữ rất dũng cảm”.

“Còn mày là thằng sát nhân hèn nhát”.

“Đáng lẽ tao nên tự tay giết mày”.

“Nói tao nghe mày dự định làm gì”.

Hắn do dự một lúc, sau đó mỉm cười ngạo nghễ với cô. “Bọn tao còn vài công việc chưa hoàn tất tại Vatican. Tội ác của bọn Thiên Chúa giáo và thế giới phương Tây đối với người Hồi giáo sẽ được trả thù dứt điểm. Nhưng mày sẽ không còn sống mà chứng kiến chiến thắng vinh quang này. Lúc đó mày đã chết rồi. Hắn nói với Muhammad những điều mày biết. Hãy làm cho những giờ cuối cùng trên trái đất của mày dễ chịu”.

Sau khi nói xong những lời này, hắn quay người bước đi. Tên lính gác vừa kéo Sarah ra khỏi xe vừa bịt miếng khăn tẩm ête lên mũi và miệng cô. Cô cào cấu hắn. Cô giãy giụa. Cô đá được vài cái vào ống chân bọc sắt của hắn. Sau đó, thuốc mê bắt đầu ngấm, và cô thấy mình lảo đảo té xuống đất. Một ai đó đỡ lấy cô. Một ai đó đặt cô vào thùng xe hơi. Một khuôn mặt xuất hiện trong một thời gian ngắn nhìn xuống cô, trông có vẻ tò mò và, lạ lùng thay, rất tha thiết. Khuôn mặt của Muhammad. Sau đó nắp thùng xe đậy lại, và cô chìm vào bóng đêm. Khi xe hơi bắt đầu chuyển bánh, cô bất tỉnh nhân sự.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33: Zug, thụy sĩ


Gustav Schmidt, trưởng đội chống khủng bố thuộc Cục Tình báo Liên bang Thụy Sĩ, là một đồng minh của Mỹ trong cuộc chiến chống lại Hồi giáo cực đoan. Ở một đất nước mà các chính trị gia trúng cử, giới báo chí, và phần lớn dân chúng đều chống Mỹ và cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ, Schmidt đã lặng lẽ thiết lập những mối quan hệ cá nhân với đối tác ở Washington, đặc biệt là Adrain Carter. Khi Carter cần giấy phép hoạt động trên đất Thụy Sĩ, Schmidt ngay lập tức cho phép. Khi Carter muốn một phần tử al-Qaeda biến mất khỏi Liên bang, Schmidt thường bật đèn xanh cho ông ta. Còn khi Carter cần chỗ đáp máy bay, Schmidt thường cho ông ta quyền tiếp đất. Bãi hạ cánh tư nhân ở Zug, một thành phố công nghiệp giàu có tại trung tâm đất nước, thường là bãi đáp ưa thích của Carter khi ông ta đến Thụy Sĩ. Schmidt cũng rất ưa nó.

Vừa qua nửa đêm, chiếc máy bay phản lực Gulfstream V ló ra khỏi những đám mây và hạ xuống đường bay đầy tuyết. Năm phút sau, Schmidt đã ngồi đối diện Carter trong khoang cabin hẹp. “Chúng tôi gặp một vấn đề”, Carter nói. “Nói thật với anh, chúng tôi còn chưa hình dung được toàn cảnh mọi chuyện”. Ông ta đưa tay về phía người cùng đi. “Đây là Tom. Anh ấy là bác sỹ. Chúng tôi nghĩ sẽ cần anh ta giúp trước khi qua đêm nay. Thư giãn đi, Gustav. Làm một cốc nào. Có lẽ chúng ta sẽ phải ở đây một lúc lâu”.

Sau đó Carter nhìn ra ngoài cửa sổ ngắm tuyết rơi và không nói gì nữa. Ông ta không cần phải nói rõ. Schmidt đã biết vấn đề là gì. Một điệp viên của Carter đang gặp nạn, còn Carter không chắc người điệp viên đó có sống sót nổi mà quay trở về hay không. Schmidt mở chai brandy và lặng lẽ uống. Trong những lúc như thế này, anh ta mừng vì mình là người Thụy Sĩ.

Cùng lúc đó, nhiều người cũng đang thức khuya tại trạm hàng không chung sân bay Kloten. Người đang chờ không phải là một cảnh sát cao cấp người Thụy Sĩ mà là Moshe, bodel (một điệp viên) đến từ Paris. Vào lúc 12 giờ 45 phút, bốn người khác xuất hiện từ phía trạm và lao mình vào cơn bão tuyết. Moshe nhấn còi chiếc Audi A8 khiến bốn người nhất loạt quay lại và đi về phía anh. Yaakov, Mikhail, và Eli Lavon ngồi băng sau xe. Gabriel ngồi đằng trước.

“Cô ấy đâu?”

“Đang di chuyển về hướng Nam”.

“Cậu lái xe đi”, Gabriel ra lệnh.

Sarah thức dậy với cảm giác toàn thân lạnh buốt, tai cô ong ong vì tiếng rít của vỏ bánh xe trên mặt nhựa đường ướt. Mình đang ở đâu đây? Cô nghĩ thầm, sau đó nhớ lại. Cô đang ở trong thùng xe Mercedes, làm người khách bất đắc dĩ của Muhammad trong chuyến hành trình đêm đi tới sự quên lãng. Chầm chậm, từng chút một, cô ghép lại những mẩu thông tin trong ngày, một ngày dường như dài vô tận, rồi xếp chúng lại theo thứ tự. Zizi ngồi trên máy bay trực thăng nhìn đồng hồ đeo tay trong khi RA LÊåNH ĐƯA CÔ VÀO TUYÊåT LỘ. Và Jean-Michel, người bạn đồng hành trong chuyến đi, tranh thủ chợp mắt vài phút trên đường đi. Cuối cùng là tên quái vật Ahmed bin Shafiq, hắn cảnh cáo với cô rằng vụ tắm máu của hắn tại Vatican vẫn chưa chấm dứt. Cô nghe văng vẳng bên tai giọng nói đều đều như nhịp trống của hắn.

Tôi muốn biết tên gã liên lạc với cô trên bãi biển Saline...

Cậu ấy là Yaakov, cô nghĩ. Cậu ấy đáng giá gấp trăm lần mày.

Tao muốn biết tên con nhỏ đi khập khiễng gần LeTetou trong bữa tiệc tối của Zizi…

Cô ấy là Dina, cô nghĩ. “Người còn sống sót” đang sục sôi chí báo thù.

Tao muốn biết tên gã đàn ông đã làm đổ rượu lên đồng nghiệp của tao tại Saint-Jean…

Anh ấy là Gabriel, cô nghĩ. Một ngày không xa anh ấy sẽ đến giết mày.

Bọn họ đã đi hết rồi, mày chỉ còn một mình…

Không, tao không một mình, cô nghĩ. Họ đang ở đây cùng tao, tất cả mọi người.

Trong tâm tưởng, cô hình dung họ đang đến cứu mình trong màn tuyết rơi dày đặc. Họ có kịp đến trước khi Muhammad đưa cô vào giấc ngủ vĩnh hằng êm ái không? Họ có đến kịp lúc để biết về bí mật mà Ahmed bin Shafiq đã cao ngạo phun ra với cô không? Sarah biết cô có thể giúp họ. Cô có thông tin Muhammad muốn và cô có thể khai theo nhanh hay chậm tùy mình thích, hay theo những chi tiết cô chọn. Khai chậm thôi, cô nghĩ. Chẳng việc gì phải vội vàng.

Khi Sarah tỉnh dậy lần tiếp theo, chiếc xe đang nổ máy rền vang. Không còn tiếng rít của bánh xe trên mặt nhựa đường ẩm ướt nữa. Có vẻ như họ đang cày qua lớp tuyết dày trên con đường gồ ghề. Một phút sau, điều này được khẳng định khi những chiếc bánh không còn lăn nổi chiếc xe hơi khiến một trong những tên ngồi trong xe phải ra ngoài đẩy. Khi chiếc xe dừng lại lần nữa, Sarah nghe tiếng Arập và tiếng Đức giọng Thụy Sĩ, sau đó là tiếng các khớp nối bằng kim loại bị đông cứng. Họ tiếp tục lái xe một lúc lâu, rồi dừng lại lần thứ ba - theo cô đoán đây cũng là lần cuối bởi động cơ xe hơi ngay lập tức im bặt.

Thùng xe bật mở. Hai khuôn mặt xa lạ cúi xuống Sarah; bốn bàn tay túm lấy cô nhấc ra ngoài. Chúng dựng cô đứng thẳng rồi thả tay ra, nhưng đầu gối cô mềm nhũn khiến Sarah đổ sụp xuống tuyết. Điều này có vẻ khiến bọn chúng khoái chí, vì bọn chúng cứ đứng đó cười nhạo một lúc trước khi nhấc cô đứng thẳng dậy lần nữa.

Sarah nhìn quanh. Họ đang đứng giữa một bãi đất trống lớn, xung quanh sừng sững những cây thông và linh sam. Có một ngôi nhà ván hình chữ A, mái dốc đứng và một khu nhà phụ hoàn toàn riêng biệt. Hai chiếc jeep truyền động bốn bánh đang đỗ cạnh dãy nhà phụ. Trời đổ tuyết dày đặc. Sarah, vẫn bị bịt mặt, cảm thấy như trời đang rắc tàn tro xuống nơi này.

Muhammad xuất hiện, hắn gắt lên bằng tiếng Arập với hai tên đang giữ Sarah đứng thẳng. Chúng tiến một bước về phía ngôi nhà ván, nghĩ rằng cô sẽ đi theo. Nhưng chân Sarah cóng lại vì lạnh nên không cất bước nổi. Cô gắng thều thào với chúng rằng mình đang bị đông cứng tới mức sắp chết nhưng không thể thốt nên lời, nhưng cái lạnh cũng có ích: nó làm dịu đi sự đau đớn của những cú đấm ở mặt và bụng.

Chúng xốc nách và eo Sarah để lôi cô đi. Chân cô tạo thành hai vệt dài song song trên nền tuyết. Chẳng bao lâu chúng như bỏng rát vì quá lạnh. Cô cố nhớ lại mình đã đi gì buổi sáng hôm đó. Giày xăng đan đế bằng - đôi mà Nadia đã mua tặng cô tại Gustavia, nó rất hợp với bộ đồ cô mặc tới Le Tetou.

Chúng đi vòng ra phía sau ngôi nhà ván. Ở đây, những cái cây mọc gần hơn, cách ngôi nhà chưa đến 30 thước. Một tên lính gác vừa đứng canh vừa xuýt xoa vì rét, miệng ngậm điếu thuốc còn chân dậm dậm cho bớt lạnh. Rìa mái che phủ lớp tường bọc ngoài ngôi nhà, nơi chất đầy củi đốt. Chúng kéo cô qua ngưỡng cửa xuống những bậc thang bằng xi măng. Vẫn chưa thể tự mình bước đi, hai bàn chân tê cóng của Sarah đập vào từng bậc thang đau điếng. Cô bắt đầu rú lên vì đau, tiếng rú nghe thắt tim, nhưng những kẻ tra tấn cô vẫn không thèm đếm xỉa.

Chúng lôi Sarah tới một cánh cửa được khép kín và khóa bằng khóa móc. Một tên lính gác mở khóa, đẩy cửa ra rồi bật đèn lên. Muhammad bước vào phòng trước. Sau đó những tên lính gác mang Sarah vào.

Căn phòng nhỏ hình vuông, mỗi bề chưa đến 3 mét. Tường màu trắng sứ. Các bức ảnh những người Arập tại Abu Ghraib. Những người Arập đang bị nhốt tại vịnh Guantánamo. Một tên khủng bố Hồi giáo đang xách chiếc đầu vừa bị chặt của con tin người Mỹ. Ở giữa phòng có chiếc bàn bằng kim loại được gắn ốc vít vào sàn nhà. Ở giữa bàn có một cái móc sắt, trên đó treo một cặp còng tay. Sarah hét lên và đấm đá bọn chúng. Dĩ nhiên hành động đó là vô ích. Một tên đè tay cô xuống bàn, còn tên kia đeo còng vào tay cô. Một chiếc ghế được kéo đến phía sau Sarah. Hai bàn tay nhấn cô ngồi xuống ghế. Muhammad xé toang khăn bịt mặt rồi tát cô hai cái.

“Mày sẵn sàng nói chưa?”

“Rồi”.

“Không nói dối nữa chứ?”

Cô lắc đầu.

“Nói đi, Sarah. Không nói dối nữa”.

“Không-nói-dối-nữa”.

“Mày sẽ nói với tao tất cả những gì mày biết chứ?”

“Tất cả”.

“Mày lạnh không?”

“Đang chết cóng”.

“Mày muốn uống thứ gì nóng không?”

Cô gật đầu.

“Trà được không? Mày uống trà nhé, Sarah”.

Cô gật đầu lần nữa.

“Mày thường uống trà như thế nào, Sarah?”

“Ông nói thật à?”

“Mày uống trà như thế nào?”

“Với xyanua 1”.

Hắn ta cười không chút xót thương. “Mày nên thấy mình may mắn đấy. Chúng ta sẽ uống trà, sau đó sẽ nói chuyện”.

Cả ba tên đều rời khỏi phòng. Muhammad đóng cửa rồi cài móc khóa lại. Sarah gục đầu xuống bàn và nhắm mắt. Trong tâm trí cô một hình ảnh đang hình thành - hình ảnh của chiếc đồng hồ ĐANG kêu tích tắc đếm ngược đến lúc cô bị xử tử hình. Muhammad mang trà đến cho cô. Sarah mở lớp vỏ thủy tinh bọc ngoài chiếc đồng hồ tưởng tượng và chuyển kim đồng hồ ngược lại năm phút.

Chú thích

1. Một loại thuốc độc cực mạnh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34: Bang uri, thụy sĩ


Chúng mang trà kiểu Arập đựng trong một chiếc ly nhỏ. Tay Sarah vẫén đang bị còng. Để uống trà, cô phải cúi đầu xuống sát bàn húp sột soạt trong khi Muhammad nhìn cô đầy khinh bỉ. Hắn không hề động tới tách trà của mình. Tách trà đặt giữa quyển sổ ghi chép của hắn và khẩu súng lục đã nạp đạn.

“Các ông không thể khiến tôi bốc khói rồi cho rằng không ai chú ý đến điều này”, cô nói.

Hắn nhìn lên rồi chớp mắt nhanh vài lần. Sarah, giờ đây không còn bị vướng víu bởi abaya (khăn bịt mặt), quan sát kĩ hắn trong ánh đèn chói chang của phòng thẩm vấn. Hắn bị hói đến đỉnh đầu, số tóc và râu ít ỏi còn lại được cắt ngắn bằng nhau. Đôi mắt đen ẩn kín một phần sau kính, phản chiếu ánh đèn lấp lánh mỗi khi hắn ngước nhìn lên từ quyển sổ ghi chép. Nét mặt hắn cởi mở, và chân thật một cách lạ lùng, không giống một người thẩm vấn. Khuôn mặt hắn, khi không quát tháo đe dọa đánh cô, nhìn có vẻ khá dễ chịu. Đôi lúc Sarah có cảm giác hắn giống như một nhà báo trẻ hăng hái muốn đặt câu hỏi cho một chính trị gia đang đứng trên bục.

“Mọi người ở Luân Đôn đều biết tôi đến biển Caribê cùng Zizi”, cô nói. “Tôi ở gần hai tuần trên chiếc Alexandra. Mọi người thấy tôi cùng ăn tối với ông ta tại các nhà hàng ở đảo Saint Bart’s. Tôi ra bãi biển cùng Nadia. Có ghi chép về chuyến bay tôi rời Saint Maarten và chuyến bay tôi đến Zurich. Các người không thể khiến tôi biến mất ở Thụy Sĩ. Các người sẽ không bao giờ thoát tội được”.

“Nhưng mọi chuyện không xảy ra như vậy”, Muhhammad nói. “Mày thấy đấy, một lúc sau khi chuyến bay của mày hạ cánh, mày đăng ký tại khách sạn Dolder Grand. Người tiếp viên kiểm tra hộ chiếu của mày, theo như thông lệ ở Thụy Sĩ, rồi chuyển thông tin đến cảnh sát Thụy Sĩ, cũng theo thông lệ. Sau vài tiếng nghỉ ngơi, mày thức dậy, rồi sau khi uống cà phê sáng, mày đến phòng tập thể dục của khách sạn để luyện tập vào buổi sáng. Sau đó mày sẽ tắm rồi thay đồ để đi gặp khách hàng theo như cuộc hẹn. Một chiếc xe hơi sẽ đón mày vào lúc 9 giờ 45 phút rồi đưa mày đến khu nhà ở của Herr Klarsfeld ở Zurichberg. Ở đó, một vài người giúp việc trong nhà của Herr Klarfeld sẽ thấy mày. Sau khi xem xét bức Manet, mày sẽ gọi cho ông al-Bakari thông báo rằng mày không thể đạt được thỏa thuận về giá bán. Mày sẽ trở lại khách sạn Dolder Grand, làm thủ tục rời khách sạn, sau đó ra phi trường Kloten đáp máy bay trở lại Luân Đôn. Mày sẽ nghỉ ngơi hai ngày trong căn hộ ở Chelsea. Trong khoảng thời gian này, mày thực hiện vài cuộc gọi và tiêu tiền trên thẻ tín dụng. Sau đó, thật không may, mày sẽ biến mất không lời giải thích”.

“Cô ta là ai?”

“Tao chỉ có thể nói cô ta khá giống mày, đủ giống để có thể đi lại bằng hộ chiếu của mày và ra vào căn hộ của mày mà không khiến hàng xóm nghi ngờ. Chúng tao có người giúp đỡ ở châu Âu, Sarah, những người trợ giúp da trắng”.

“Cảnh sát sẽ lần theo Zizi”.

“Không ai lần theo Zizi al-Bakari. Dĩ nhiên cảnh sát sẽ có những câu hỏi, và sẽ được các luật sư của ngài al-Bakari trả lời vào khoảng thời gian thích hợp. Vấn đề này sẽ được xử lý êm thấm và chu đáo. Đây chính là ưu thế của người Arập Xêút. Bọn tao thực sự đứng trên luật pháp. Nhưng bây giờ hãy quay trở lại vấn đề trước mắt”.

Hắn nhìn xuống gõ gõ đầu bút một cách thiếu kiên nhẫn vào quyển sổ ghi chép trống trơn.

“Mày sẽ trả lời những câu hỏi của tao chứ, Sarah?”

Cô gật đầu.

“Hãy nói vâng, Sarah. Tao muốn mày quen với việc thẩm vấn”.

“Vâng”, cô trả lời.

“Vâng cái gì?”

“Vâng, tôi sẽ trả lời những câu hỏi của ông”.

“Tên của mày có phải là Sarah Bancroft không?”

“Vâng”.

“Rất tốt. Ngày và nơi sinh của mày có đúng như trên hộ chiếu không?”

“Đúng”.

“Cha mày có thật sự là Ủy viên Hội đồng Quản trị của Citibank không?á”.

“Đúng”.

“Có phải mày học trường Đại học Dartmouth, sau đó học sau đại học tại Viện Courtauld ở Luân Đôn không?”

“Phải”.

“Có phải mày là người viết bài luận văn được đánh giá cao về Chủ nghĩa Biểu hiện Đức khi học tiến sỹ tại Harvard không?”

“Đúng vậy”.

“Có phải mày đang làm cho Cục Tình báo Trung ương trong khoảng thời gian này không?”

“Không”.

“Mày gia nhập CIA khi nào?”

“Tôi chưa bao giờ gia nhập CIA”.

“Mày đang nói dối, Sarah”.

“Tôi không nói dối”.

“Mày gia nhập CIA khi nào?”

“Tôi không phải là CIA”.

“Thế mày làm cho ai?”

Cô im lặng.

“Trả lời câu hỏi đi, Sarah. Mày đang làm cho ai?”

“Ông biết tôi đang làm cho ai”.

“Tao muốn nghe chính mày nói ra điều này”.

“Tôi đang làm việc cho Cục Tình báo của Israel”.

Hắn gỡ kính ra, nhìn cô một lúc.

“Mày đang nói sự thật chứ, Sarah?”

“Vâng”.

“Tao có thể nhận ra nếu mày nói dối”.

“Tôi biết”.

“Mày muốn uống thêm trà không?”

Cô gật đầu.

“Trả lời tao đi, Sarah. Mày có muốn uống thêm trà không?”

“Có, tôi muốn uống thêm trà”.

Muhammad dựa người ra thành ghế và đập tay vào cửa phòng. Cánh cửa mở ra ngay lập tức, Sarah nhìn thấy hai tên đang đứng gác bên ngoài. “Thêm trà”, Muhammad nói với chúng bằng tiếng Anh, sau đó giở sang trang mới trong quyển sổ ghi chép rồi ngước lên nhìn Sarah với khuôn mặt hăm hở và cởi mở. Sarah đưa tay lên chiếc đồng hồ tưởng tượng và cộng thêm mười phút để sống nữa.

Mặc dù Sarah không biết việc này, nhưng nơi thẩm vấn cô là khu Uri có nhiều người theo đạo Thiên Chúa La Mã, ở vùng quên mà người Thụy Sĩ thường hay trìu mến gọi là Khu Trung tâm Thụy Sĩ. Ngôi nhà nằm ở hẻm núi hẹp bị cắt bởi một nhánh của sông Reuss. Chỉ có một con đường vào hẻm núi và một ngôi làng đơn độc nằm xiêu vẹo bên trên. Uzi Navot xem xét nhanh ngôi nhà, sau đó quay lại lái xe xuống hẻm núi. Theo kinh nghiệm của anh, người Thụy Sĩ là một trong những dân tộc thận trọng nhất trên thế giới.

Những kẻ người Arập Xêút đã cố cắt đuôi anh ở Zurich, nhưng Navot đã được chuẩn bị. Anh luôn tin rằng khi theo đuôi một người chuyên nghiệp đang nghĩ mình sẽ bị theo dõi, tốt nhất nên để hắn ta nghĩ rằng thật sự hắn ta đang bị theo dõi - và quan trọng hơn, rằng những biện pháp phòng ngừa của hắn có tác dụng. Navot đã hi sinh ba người theo dõi của mình ở bắc Zurich để khiến hắn tin như vậy. Chính Navot là người đã dõi theo chiếc Mercedes với biển số ngoại giao quẹo vào khu phố Công Nghiệp, và hai mươi phút sau chính Navot đã theo đuôi bọn chúng rời khỏi Zurich.

Nhóm của anh tập hợp lại ở dọc biển Zurichsee và cùng anh theo dõi chiếc xe đi hướng nam với Uri. Thời tiết xấu đã giúp họ có thêm lớp bảo vệ, cũng như bây giờ thời tiết đang giúp Navot khi anh ra khỏi xe nhìn lặng lẽ qua hàng cây dày đặc xuống ngôi nhà ván, với khẩu súng trong bàn tay đang giơ lên. Ba mươi phút sau, sau khi quan sát xong khu đất và các biện pháp an ninh, anh ngồi vào sau tay lái, chạy xe xuống hẻm núi về phía thung lũng sông Reuss. Tới nơi, anh đỗ xe tại bãi đất dọc bờ sông chờ Gabriel từ Zurich sang.

“Ai là sỹ quan chỉ huy mày?”

“Tôi không biết tên anh ta”.

“Tao sẽ hỏi mày thêm lần nữa. Tên sỹ quan chỉ huy của mày là gì?”

“Tôi đã nói với ông, tôi không biết anh ta. Ít nhất là tên thật của anh ta”.

“Mày biết hắn dưới cái tên nào?”

Đừng tiết lộ Gabriel, cô nghĩ. Cô thốt ra cái tên đầu tiên xuất hiện trong đầu.

“Anh ta tự xưng là Ben”.

“Ben à?”

“Vâng, Ben”.

“Mày chắc chứ? Ben?”

“Đó không phải là tên thật của anh ta. Đó chỉ là tên anh ta tự gọi mình”.

“Sao mày biết đó không phải là tên thật của hắn?”

Cô thầm cảm ơn sự chính xác trong câu hỏi của Muhammad, vì việc này sẽ giúp cô cộng thêm vài phút vào chiếc đồng hồ tưởng tượng.

“Vì anh ta bảo với tôi đó không phải là tên thật của anh ta”.

“Mày tin hắn à?”

“Tôi nghĩ mình chẳng có lí do gì không tin anh ta”.

“Mày gặp người đàn ông này khi nào?”

“Lúc đó là tháng 12”.

“Ở đâu?”

“Ở Washington”.

“Thời gian nào trong ngày?”

“Vào buổi tối”.

“Anh ta đến nhà mày. Nơi mày làm việc?”.

“Lúc đó là sau giờ làm. Tôi đang trên đường về nhà”.

“Kể tao nghe mọi việc diễn ra như thế nào, Sarah. Kể tao nghe mọi thứ”.

Và cô làm đúng theo lời hắn, kể từng mẩu một, từng chút một.

“Căn nhà chúng đưa mày tới là ở đâu?”

“Ở Georgetown”.

“Đường nào ở Georgetown?”

“Trời tối lắm. Tôi không nhớ”.

“Đường nào ở Georgetown, Sarah?”

“Đường N, tôi nghĩ thế”.

“Mày nghĩ, hay mày biết?”

“Đó là đường N”.

“Địa chỉ?”

“Không có địa chỉ”.

“Dãy nhà nào?”

“Tôi không nhớ nổi”.

“Nó nằm ở Đông hay Tây đại lộ Winconsin, Sarah?”

“Ông biết Georgetown à?”

“Đông hay Tây?”

“Tây. Chắc chắn là phía Tây”.

“Dãy nhà nào, Sarah?”

“Tôi nghĩ là giữa dãy ba mươi ba và ba mươi tư”.

“Mày nghĩ?”

“Giữa dãy ba mươi ba và ba mươi tư”.

“Phía đường nào?”

“Ý ông là gì?”

“Phía đường nào, Sarah? Bắc hay Nam?”

“Nam. Chắc chắn là phía Nam”.

Vào lúc 2 giờ 45 phút sáng, Navot nhìn thấy chiếc Audi đang chạy với tốc độ nhanh tới mức nguy hiểm, trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt thế này. Khi chiếc xe lao ngang qua làm bắn tuyết và bùn sang hai bên, anh thoáng nhìn thấy khuôn mặt căng thẳng của bốn người đang ngồi trong xe. Anh lấy điện thoại bấm số. “Anh vừa phóng ngang qua mặt tôi”, anh nói bình tĩnh, sau đó nhìn vào gương thấy chiếc Audi cua gấp lại gần như muốn lật. Từ từ thôi, Gabriel, anh nghĩ. Từ từ thôi.

“Người đầu tiên phỏng vấn mày là ai? Người của CIA hay tên Do Thái?”

“Người Mỹ”.

“Họ hỏi mày những điều gì?”

“Chúng tôi nói chung chung về cuộc chiến chống khủng bố”.

“Ví dụ?”

“Ông ta hỏi tôi theo tôi nghĩ cần phải xử lí như thế nào đối với những tên khủng bố. Bọn chúng nên được đưa tới Mỹ để xét xử hay giết tại hiện trường bởi những người mặc đồ đen?”

“Những người mặc đồ đen?”

“Đó là cách ông ta gọi họ”.

“Có nghĩa là Lực lượng Đặc nhiệm? Những tên thuộc đội chuyên ám sát của CIA? Hay SEAL của Hải quân?”

“Tôi nghĩ vậy”.

“Thế mày trả lời hắn như thế nào?”

“Ông thực sự muốn biết à?”

“Nếu không thì tao đã không hỏi”.

Thế là cô kể cho hắn nghe, từng chút một.

Họ đứng thành vòng tròn dọc bờ sông trong khi Navot nhanh chóng thuật lại cho Gabriel tất cả những thông tin anh nắm được.

“Có lính canh nào nữa ở sân không, hay chỉ hai tên ở cổng trước?”

“Tôi không biết”.

“Có bao nhiêu tên bên trong ngôi nhà?”

“Tôi không biết”.

“Cậu có thấy bọn chúng đưa cô ấy vào đâu không?”

“Không”.

“Có xe cộ nào khác chạy trên đường không?”

“Đường này rất ít xe cộ”.

“Thông tin như vậy không đủ, Uzi”.

“Tôi đã làm hết khả năng của mình rồi”.

“Tôi biết”.

“Tôi nghĩ anh có hai phương án, Gabriel ạ. Phương án một: thực hiện một phi vụ khác. Việc này sẽ mất thời gian. Không phải là không có rủi ro. Nếu thấy chúng ta tới, đầu tiên bọn chúng sẽ giết chết Sarah”.

“Phương án hai?”

“Xông thẳng vào. Tôi chọn phương án hai. Chỉ Chúa mới biết Sarah đang phải chịu đựng những gì ở trong đó”.

Gabriel nhìn xuống tuyết suy nghĩ một lúc. “Chúng ta sẽ đột nhập vào ngay bây giờ”, anh quyết định. “Cậu, Mikhail, Yaakov, và tôi”.

“Giải cứu con tin không phải nghề của tôi, Gabriel. Tôi chỉ là người đưa tin”.

“Đây cũng không phải là nghề của Eli, nhưng tôi cần ít nhất bốn người. Moshe và Eli sẽ ngồi đợi trong xe hơi. Khi tôi ra dấu, họ sẽ đến đón chúng ta”.

“Khi nào thì gã người Do Thái đến?”

“Tôi không thể nhớ thời gian đích xác”.

“Khoảng nào?”

“Tôi không nhớ được. Vào khoảng nửa tiếng sau khi tôi đến, như vậy tôi đoán khoảng bảy giờ”.

“Thế hắn xưng mình là Ben à?”

“Không phải ngay lúc đó”.

“Ban đầu hắn dùng tên khác à?”

“Không. Ban đầu anh ta không xưng tên”.

“Tả hắn cho tao nghe thử”.

“Anh ta người khá nhỏ nhắn”.

“Hắn ta mập hay gầy?”

“Gầy”.

“Rất gầy?”

“Anh ta không quá gầy”.

“Có tóc chứ?”

“Vâng”.

“Màu tóc?”

“Màu đen”.

“Ngắn hay dài?”

“Ngắn”.

“Tóc hắn có khúc nào bị muối tiêu không?”

“Không”.

Muhammad bình tĩnh đặt cây bút lên quyển sổ. “Mày đang nói dối tao, Sarah. Nếu mày nói dối tao lần nữa, cuộc chuyện trò của chúng ta sẽ chấm dứt. Bọn tao sẽ dùng cách khác để moi thông tin của mày. Hiểu chưa?”

Cô gật đầu.

“Trả lời tao đi, Sarah”.

“Vâng, tôi hiểu”.

“Tốt”.

“Bây giờ hãy tả chính xác cho tao nghe cái gã Do Thái tự gọi mình là Ben”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35: Bang uri, thụy sĩ


Hãy quay trở lại mái tóc của hắn. Mày nói hắn tóc ngắn phải không, Sarah? Giống tóc của tao?”

“Dài hơn một chút”.

“Màu đen?”

“Vâng”.

“Nhưng có một vài chỗ muối tiêu, đúng không? Chính xác là hai bên thái dương”.

“Vâng, hai bên thái dương của anh ta tóc muối tiêu”.

“Bây giờ đến đôi mắt. Đôi mắt hắn màu xanh, đúng không? Xanh đến mức bất thường”.

“Mắt anh ta rất xanh”.

“Gã này có tài năng đặc biệt, đúng không?”

“Anh ta có nhiều tài năng”.

“Hắn ta có khả năng phục chế tranh?”

“Vâng”.

“Mày chắc chắn là chưa từng bao giờ nghe tên hắn ta chứ?”

“Tôi nói với ông rồi. Anh ta xưng mình là Ben”.

“Tao biết rồi, nhưng hắn có bao giờ nói về mình với cái tên khác không?”

“Không, không bao giờ”.

“Mày chắc chứ, Sarah?”

“Chắc chắn. Anh ta gọi mình là Ben”.

“Đó không phải là tên thật của bắn, Sarah. Tên của hắn là Gabriel Allon. Hắn ta là kẻ chuyên giết người Palestine. Bây giờ hãy kể tao nghe chuyện gì đã xảy ra sau khi hắn đến căn nhà tại Georgetown”.

Có tấm bảng hiệu tại lối vào con đường dẫn đến ngôi nhà ván. Tấm bảng ghi dòng chữ “CÁ NHÂN”. Cổng an ninh nằm thụt vào 300 métå giữa những hàng cây. Gabriel và Navot di chuyển ở một phía con đường, Mikhail và Yaakov phía bên kia. Tuyết rơi dày đặc dọc rìa con đường dẫn lên hẻm núi, nhưng trong rừng cây thì ít tuyết hơn. Nhìn qua cặp kính hồng ngoại, tuyết ánh lên màu xanh phản quang ma quái trong khi thân những cây thông và linh sam có màu đen nổi bật. Gabriel bò lên phía trước, cẩn thận tránh những cành cây bị rớt xuống có thể tạo thành tiếng rắc dưới sức nặng bước chân anh. Sự im lặng đầy chết chóc bao phủ khu rừng. Gabiel nghe được tiếng tim mình đập thình thịch trong lồng ngực và âm thanh tiếng bước chân của Navot ngay đằng sau. Anh nắm khẩu Beretta bằng cả hai tay - hai bàn tay không đeo găng.

Di chuyển trong rừng được mười lăm phút thì anh nhìn thấy ngôi nhà đầu tiên. Có ánh đèn từ cửa sổ tầng trệt, còn trên lầu hai chỉ có một cánh cửa sổ phản chiếu ánh sáng. Những tên lính gác đang trú lạnh trong một chiếc xe jeep. Động cơ xe đang chạy, nhưng đèn pha xe đã tắt. Cửa đang mở.

“Cậu bắn có tốt không, Mikhail?”

“Được”.

“Tên nào cậu hạ được nhanh nhất từ góc đang đứng?”

“Tên tài xế”.

“Khoảng cách gần 50 bộ, Mikhail. Cậu có thể hạ hắn gọn gàng không?”

“Tôi có thể giết được hắn”.

“Bắn vào đầu, Mikhail. Chúng ta cần hạ bọn chúng thật êm thấm”.

“Tôi làm được”.

“Cậu ngắm đi rồi đợi hiệu lệnh của tôi. Chúng ta sẽ bắn cùng một lúc. Chúa cũng chẳng giúp được chúng ta nếu bắn trượt”.

“Thế là Allon yêu cầu mày giúp hắn?”

“Vâng”.

“Và mày đồng ý?”

“Đúng vậy”.

“Ngay lập tức?”

“Đúng vậy”.

“Không do dự”.

“Không”.

“Tại sao không?”

“Bởi vì bọn mày độc ác. Vì tao ghét bọn mày”.

“Mày cẩn thận cái miệng đấy”.

“Mày muốn nghe sự thật mà”.

“Sau đó chuyện gì xảy ra?”

“Tao bỏ việc tại bảo tàng Phillips và chuyển đến Luân Đôn”.

Gabriel ngắm kỹ tên đang ngồi ghế sau.

“Cậu sẵn sàng chưa, Mikhail?”

“Sẵn sàng”.

“Bắn hai phát, theo hiệu lệnh của tôi. Năm, bốn, ba, hai…”

Gabriel kéo cò súng hai lần. Bốn lỗ thủng xuất hiện gần như ngay lập tức trên cửa kính chiếc xe jeep. Anh lao nước rút dọc con đường xuyên qua lớp tuyết dày đến đầu gối, Navot theo bén gót, rồi tiến về chiếc xe một cách cẩn thận, tay giơ khẩu Beretta. Mikhail bắn được hai phát chết người vào đầu tên tài xế, nhưng gã mà Gabriel bắn chỉ bị trúng vào má và ngực trên nên vẫn chưa chết hẳn.

Gabriel bắn hắn thêm hai phát xuyên qua lớp cửa kính sau xe, sau đó đứng bất động trong giây lát, mắt quét khắp địa hình tìm xem có dấu hiệu nào cho thấy sự hiện diện của họ đã bị lộ không? Chính Navot là người nhìn thấy tên lính gác đang bước ra khỏi rừng cây ở cánh trái ngôi nhà, còn Mikhail là người hạ gục hắn bằng một phát đạn duy nhất vào đầu, khiến máu và óc phụt ra tung tóe trên lớp tuyết trắng trinh nguyên. Gabriel quay người băng qua khu đất trống tiến về phía ngôi nhà, theo sau là ba đồng đội của mình.

“Hãy kể tao nghe về gã Julian Isherwood này”.

“Julian là một người rất ngọt ngào”.

“Hắn ta người người Do Thái à?”

“Tôi chưa bao giờ hỏi nên không biết”.

“Julian Isherwood là điệp viên lâu năm của Cục Tình báo Israel phải không?”

“Tôi không biết”.

“Vậy thì sau khi rời khỏi bảo tàng Phillips, mày đến làm trợ lý giám đốc ngay lập tức cho Julian Isherwwod à?”

“Đúng vậy”.

“Nhưng mày là dân không chuyên. Mày được huấn luyện vào thời gian nào?”

“Vào ban đêm”.

“Ở đâu?”

“Tại ngôi nhà nông thôn phía Nam Luân Đôn”.

“Ngôi nhà nông thôn này nằm ở đâu?”

“Tôi nghĩ là ở Surrey. Tôi chưa bao giờ nhớ được tên ngôi làng”.

“Đó có phải là căn nhà an toàn cố định của bọn Israel không?”

“Một căn nhà thuê. Rất tạm bợ”.

“Có những người khác ngoài Allon chứ?”

“Vâng”.

“Chúng sử dụng những người khác để giúp huấn luyện mày à?”

“Vâng”.

“Cho tao biết tên bọn chúng”.

“Một số người từ Tel Aviv sang, nhưng họ không cho biết tên”.

“Còn những thành viên khác trong đội Luân Đôn của Allon thì sao?”

“Ông muốn biết gì về bọn họ”.

“Cho tao biết tên của bọn chúng”.

“Làm ơn đừng bắt tôi làm điều này”.

“Cho tao biết tên bọn chúng, Sarah”.

“Làm ơn, đừng ép tôi”.

Hắn đánh cô mạnh đến nỗi đẩy cô té ngửa khỏi ghế. Cô khuỵu ở đó một lát, còng tay bấm sâu vào cổ tay, trong khi hắn gào lên đòi cô tiết lộ tên.

“Nói cho tao biết tên của bọn chúng, Sarah. Tất cả các tên”.

“Có một người tên là Yaakov”.

“Còn ai khác nữa?”

“Yossi”.

“Cho tao một cái tên khác, Sarah”.

“Eli”.

“Tên khác”.

“Dina”.

“Tên khác”.

“Rimona”.

“Đây cũng là những đứa theo mày đến Saint-Bart phải không?”

“Đúng vậy”.

“Ai là gã lần đầu tiếp cận mày trên bãi biển tại Saline?”

“Yaakov”.

“Ai là người phụ nữ để lại tin nhắn trong phòng tắm cho mày tại nhà hàng ở Saline?”

“Rimona”.

“Ai là cô gái bị tật chân đến nhà hàng Le Tetou ngay trước khi mày vào nhà vệ sinh?”

“Dina”.

“Bọn chúng đều là người Do Thái phải không”.

“Điều này khiến mày ngạc nhiên à?”

“Còn mày thì sao, Sarah? Mày có phải là người Do Thái không?”

“Không, tao không phải là người Do Thái”.

“Thế thì tại sao mày giúp bọn chúng?”

“Vì tao ghét bọn mày”.

“Ừ, và mày hãy nhìn xem mày phải lãnh hậu quả gì”.

Họ gặp thêm một tên lính gác nữa trước khi vào được ngôi nhà. Hắn đang đi phía bên phải họ, đến khúc cua, hắn ngu ngốc bước ra chỗ trống với vũ khí giắt bên hông. Gabriel và Mikhail nổ súng cùng lúc. Những phát súng im lặng do gắn nòng giảm thanh, nhưng tên lính gác thét lên đau đớn khi loạt đạn trúng ngực hắn. Hai gương mặt, giống hình nộm trong khu tập bắn thử, đột ngột xuất hiện trong những ô cửa sổ được chiếu sáng - một tên ở tầng trệt ngay trước mặt Gabriel, tên thứ hai ở trên lầu chỗ đỉnh mái nhà. Gabriel hạ gục tên ở cửa sổ lầu một trong khi Mikhail chăm sóc tên ở cửa sổ lầu hai.

Bây giờ họ không còn yếu tố bất ngờ nữa. Gabriel và Mikhail vừa lên nòng súng vừa lao qua khoảng sân dài ba mươi bộ về phía cửa trước. Yaakov có nhiều kinh nghiệm thâm nhập chỗ trú ẩn của bọn khủng bố tại Bờ Tây và dải Gaza nên chạy trước dẫn đường. Anh ta không thèm đếm xỉa đến chốt cài cửa. Thay vì vậy, anh ta xả một loạt đạn vào giữa cửa tiêu diệt bất cứ tên nào đang ở phía bên kia cửa, sau đó bắn văng khóa và rầm cửa bằng gỗ. Navot, người to lớn nhất trong bốn người, quăng thân hình của mình đập vào cánh cửa, khiến cánh cửa đổ sập như quân cờ đôminô.

Ba người kia ngay lập tức đặt chân lên sảnh vào nhà. Gabriel canh chừng không gian bên trái, Yaakov chính giữa, còn Mikhail bên phải. Gabriel, vẫn đang đeo kính hồng ngoại, nhìn thấy gã anh bắn hạ qua lớp cửa sổ đang nằm giữa vũng máu trên sàn nhà. Yaakov và Mikhail nổ súng ngay lập tức, và Gabriel nghe tiếng thét của hai tên khác vừa bị bắn hạ. Họ tiến sâu hơn vào ngôi nhà, tìm thấy bậc thang dẫn xuống tầng hầm, và đi xuống. Chúng ta sẽ bắt đầu từ chỗ đó, Gabriel đã nói. Những kẻ tra tấn luôn thích làm công việc của mình dưới đất.

Cô đang kể lại cho hắn ngày diễn ra vụ bán tranh thì nghe có tiếng náo loạn trên lầu. Muhammad khiến Sarah im miệng bằng cách tát mạnh vào mặt cô, sau đó đứng dậy, tay cầm súng, di chuyển nhanh chóng về phía cửa. Vài giây sau cô nghe tiếng thét, tiếng la hét và tiếng chân nặng nề trên bậc cầu thang. Muhammad quay người lại, dí súng vào mặt cô. Sarah, tay vẫn đang bị còng cứng vào bàn, cúi đầu xuống theo phản xạ giữa hai tay khi hắn nổ hai phát súng. Trong căn phòng nhỏ tiếng súng nghe như tiếng đại bác. Loạt đạn xé toang lớp không khí ngay trên đầu Sarah và ghim vào bức tường phía sau lưng.

Muhammad thét lên trong cơn thịnh nộ khi thấy Sarah thoát khỏi loạt đạn của mình, và bước lên một bước nữa, tiếp tục nhả đạn. Đột nhiên cánh cửa đổ sầm xuống như bị văng ra do bom nổ. Cánh cửa đập vào lưng Muhammad khiến hắn đổ nhào xuống sàn. Khẩu súng vẫn nằm trong tay Muhammad. Hắn gượng dậy, quỳ trên một đầu gối đưa súng ngắm bắn cô một lần nữa trước khi hai người đàn ông kịp lao qua cánh cửa, khuôn mặt trùm kín. Bọn họ bắn hạ Muhammad. Họ nã súng vào người Muhammad cho đến khi không còn viên đạn nào nữa.

Họ tháo còng tay và cùm cho Sarah, dìu cô qua thi thể của những người đã chết. Khi ra ngoài trời, cô lao vào vòng tay của Gabriel như một đứa trẻ. Anh đưa cô qua khu đất trống phủ đầy tuyết, qua con đường nhỏ dẫn tới đường cái, nơi Lavon và Moshe đang chờ trong hai chiếc xe hơi. Vẻ tĩnh lặng của khu rừng bị xáo trộn bởi tiếng khóc rưng rức của cô.

“Tôi phải nói cho bọn chúng nghe nhiều chuyện”.

“Tôi biết”.

“Bọn chúng đánh tôi. Bọn chúng bảo sẽ giết tôi”.

“Tôi biết, Sarah. Tôi đã nhìn thấy căn phòng”.

“Bọn chúng biết về anh, Gabriel. Tôi đã cố…“

“Không sao đâu, Sarah. Đó là lỗi của chúng tôi. Chúng tôi đã làm cô phải như thế này”.

“Tôi xin lỗi, Gabriel. Tôi thật lòng xin lỗi”.

“Không, Sarah. Đừng như vậy”.

“Tôi lại nhìn thấy hắn”.

“Ai?”

“Bin Shafiq”.

“Hắn ở đâu?”

“Ở Zurich. Hắn vẫn chưa xong việc, Gabriel”.

“Hắn nói gì?”

“Hắn sẽ tấn công Vatican một lần nữa”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36: Zug, thụy sĩ


Hai thành viên trong đội theo dõi của Navot kịp băng qua biên giới Ý về hướng nam trước khi tuyết bít lối ra khỏi núi. Hai người khác đi về hướng đông và tiến vào nội địa Áo. Navot đi cùng với Moshe sang Paris để thiết lập hệ thống an ninh bảo vệ Hannah Weinberg. Gabriel đưa Sarah rời khỏi Zug bằng đường bay cá nhân. Họ ngồi sát bên nhau như đôi tình nhân. Gabriel vừa lái xe vừa vòng tay quanh vai cô, còn Sarah úp khuôn mặt đẫm nước mắt vào cổ anh. Lúc 4 giờ 30 phút, máy bay lao vào những đám mây rồi biến mất. Carter và Gabriel không đi trên chuyến bay này.

“Được rồi Gabriel, tôi đang lắng nghe đây”.

“Sarah đã gặp bin Shafiq ở Zurich. Hắn nói sẽ tấn công Vatican một lần nữa”.

Carter khẽ chửi thề.

“Hôm nay Tổng thống của các ông sẽ đến Rome, đúng không?”.

“Đúng vậy”.

“Theo lịch trình thì mấy giờ ông có mặt tại Vatican?”

“Đầu giờ trưa”.

“Giờ nào cũng có chuyến bay từ Zurich đến Rome. Nếu khẩn trương chúng ta có thể bắt kịp chuyến bay lúc bảy giờ”.

“Anh lái xe đi”, Carter nói.

Gabriel nổ máy xe và hướng về phía Zurich. Carter gọi điện cho Tổng hành dinh CIA yêu cầu được nói chuyện với người đứng đầu Cục Tình báo Hoa Kỳ.

o O o

Carter nói chuyện điện thoại suốt trong ba mươi phút đầu của chuyến đi. Khi những ánh đèn thành phố Zurich thấp thoáng hiện ra giữa lớp sương mù phía bắc hồ, anh ta ngưng điện thoại và nhìn Gabriel.

“Sarah sẽ tiếp đất tại căn cứ bay Ramstein trong vòng một tiếng nữa. Cô ấy sẽ được đưa đến bệnh viện quân sự Mỹ để khám toàn diện”.

“Bác sỹ của anh nói gì?”

“Tình trạng của cô ấy giống như anh. Mặt bị trầy và dập. Bị chấn động nhẹ. Mắt trái bị thương tổn. Bụng bị thương nặng. Hai xương sườn bị nứt. Hai ngón chân cái bị gãy. Tôi không hiểu sao chúng lại dã man như vậy”.

“Bọn chúng kéo lê cô ấy xuống các bậc thang”.

“À, còn chứng giảm nhiệt. Tôi đoán có thể do bị nhốt trong thùng xe. Dù sao đi nữa, mọi chuyện có thể còn tệ hơn. Cô ấy còn sống sót là may mắn lắm rồi”.

“Hãy đảm bảo luôn có người bên cạnh Sarah”, Gabriel nói. “Nhỡ đâu cô ấy vô tình phun ra những bí mật của chúng ta với các bác sỹ tại Ramstein”.

“Không phải lo, Gabriel. Cô ấy đang được chăm sóc bởi những đôi tay thành thạo”.

“Cô ấy bảo mình đã khai ra những bí mật”.

“Dĩ nhiên cô ấy phải khai ra. Bố khỉ, đến tôi cũng còn phải khai nữa là”.

“Ông nên nhìn căn phòng đó”.

“Nói thật, tôi mừng là mình không nhìn thấy. Tôi không thành thạo loại công việc đó. Thỉnh thoảng tôi lại thấy tiếc nuối những ngày tươi đẹp thời Chiến Tranh Lạnh, khi tôi không phải dính dấp đến những thứ tra tấn, máu me”. Carter nhìn Gabriel. “Tôi đoán những thứ này luôn đi đôi với công việc của anh, đúng không?”

Gabriel phớt lờ câu hỏi. “Sarah kể với chúng mọi thứ để có thêm thời gian. Vấn đề ở đây là trước khi chúng tôi đến, Muhammad đã kịp báo cáo bất cứ điều gì trong lời khai của Sarah cho cấp trên của hắn trước chưa?”

“Anh có quyển sổ tay của hắn đấy không?”

Gabriel vỗ nhẹ vào túi trên chiếc áo khoác bằng da.

“Chúng tôi sẽ hỏi Sarah sau khi cô ấy phục hồi”.

“Có thể cô ấy không nhớ hết những gì đã kể với chúng. Cô ấy bị đánh thuốc mê”.

Họ nín lặng một lúc lâu. Mặc dù vẫn còn sớm, trên đường đã có xe của những người phải đi làm xa. Những nhà tài chính Thụy Sĩ chăm chỉ, Gabriel thầm nghĩ. Anh tự hỏi không biết bao nhiêu người trong số này làm việc cho những công ty có liên quan đến Tập đoàn AAB tại Riyadh, Geneva, và những nơi khác.

“Ông có nghĩ họ sẽ cho tôi lên máy bay không, Adrian?”

“Gustav đảm bảo với tôi chúng ta sẽ không gặp rắc rối khi lên máy bay”.

“Có lẽ anh thì không sao. Nhưng tôi có một quá khứ không mấy sáng sủa tại Zurich”.

“Ông có quá khứ đầy màu sắc ở khắp nơi. Đừng lo, Gabriel. Họ sẽ để cho anh lên máy bay”.

“Anh chắc chắn là cậu bạn Gustav của anh giữ mọi thứ yên ắng chứ?”

“Giữ cho cái gì yên ắng?”

Carter mỉm cười mệt mỏi. “Trong khi chúng ta đang nói chuyện này thì một đội dọn dẹp đã lên đường đến Uri. Gustav sẽ đảm bảo bí mật về nơi đó cho tới khi đội đến. Rồi sau đó…”. Ông ta nhún vai. “Sẽ như chưa từng có chuyện gì xảy ra”.

“Các ông xử lý ra sao với các xác chết?”

“Chúng tôi không chỉ có những nơi giam cầm bí mật ở Đông Âu. Bọn chúng sẽ được chôn cất tử tế, mặc dù không xứng đáng được như vậy. Có lẽ một ngày nào đó, khi cuộc chiến vô tận này chấm dứt, chúng tôi có thể báo với người thân bọn chúng đi nhận xương cốt”. Carter vuốt thẳng ria mép. “Các anh cũng có một cái đúng không?”

“Cái gì?”

“Nghĩa trang bí mật? Ở đâu đó trong thung lũng Gioócđan?”

Gabriel nhìn hồi lâu vào kính chiếu hậu, nhưng không nói lời nào.

“Bao nhiêu thi thể, Gabriel? Anh nhớ không?”

“Dĩ nhiên tôi nhớ”.

“Vậy thì bao nhiêu? Đội dọn dẹp cần phải biết nên tìm ở đâu”.

Gabriel nói cho Carter hay. Hai thi thể trong chiếc Jeep. Hai tại bãi đất trống trước ngôi nhà. Một tại cửa sổ tầng một. Một tại cửa sổ tầng hai. Hai tại sảnh trung tâm. Hai tại cuối cầu thang. Và Muhammad.

“Mười một tên”, Carter nói. “Chúng tôi sẽ ghi nhớ tên từng đứa, sẽ tìm ra chúng là ai và tìm hiểu xem chúng đang âm mưu làm chuyện gì. Có thể nói tối nay các anh đã xóa sổ được một nhà tù lớn cùng một tên cấp cao trong tổ chức của bin Shafiq”.

“Chúng tôi vẫn chưa tìm được kẻ chúng tôi muốn”.

“Có điều gì đó mách bảo tôi rằng rồi anh sẽ tóm được hắn”.

“Ít nhất hai tên trong số chúng là người châu Âu. Uzi nghe bọn chúng nói chuyện bằng tiếng Đức giọng Thụy Sĩ”.

“Tôi e rằng bọn chúng vẫn phải bị chôn chung với những tên chiến sỹ Hồi giáo. Tôi nghĩ bọn chúng cũng muốn điều đó”. Carter liếc nhìn đồng hồ. “Anh không lái xe nhanh hơn được à?”

“Tôi đang chạy ở tốc độ tám mươi cây số, Adrian. Ông kể với Cục Tình báo đến mức nào?”

“Tôi báo với họ là chúng ta đang có bằng chứng rất rõ ràng rằng những lực lượng Hồi giáo toàn cầu đang có âm mưu tấn công Tổng thống tại Vatican trưa nay. Tôi nhấn mạnh đến chữ ‘bằng chứng rõ ràng’. Cục Tình báo đã nhận được thông điệp. Tôi hi vọng được gặp Tổng thống một lúc vào cuối sáng nay. Ông ấy đang ở nhà của ngài đại sứ”.

“Ông ấy có thể hủy buổi gặp gỡ đó”.

“Chuyện đó sẽ không xảy ra”, Carter đáp. “Vatican đã trở thành biểu tượng dễ thấy nhất trên thế giới về tính nguy hiểm của khủng bố Hồi giáo. Tổng thống sẽ không bỏ qua cơ hội củng cố thông điệp của mình tại đó”.

“Lucchesi sẽ cằn nhằn bên tai ông ấy”.

“Tổng thống đã chuẩn bị tinh thần rồi”, Carter nói. “Về phần an ninh, Cục Tình báo đang sắp xếp với phía Ý để thay đổi kế hoạch di chuyển của Tổng thống. Trùng hợp là họ đã nghĩ về chuyện này trước khi nhận được cuộc gọi của tôi. Rome là một mớ hỗn độn. Người ta đoán là hôm nay sẽ có khoảng hai triệu người ra đường”.

“Thế thì làm sao Tổng thống đến Vatican được?”

“Đoàn ô tô hộ tống các nguyên thủ quốc gia thường tiến để tới Toà thánh qua cổng Thánh Anne, sau đó đi qua Via Belvedere vào sân San Damaso. Ở đó chỉ huy đội lính cận vệ Thụy Sĩ sẽ gặp và hộ tống ông vào cung điện Thánh Tông đồ. Các nhân viên an ninh của Tổng thống sẽ phải ở ngoài sân, đó là nghi thức tại Vatican. Nguyên thủ quốc gia đi lên một mình, chỉ được bảo vệ bởi lính cận vệ. Nhưng tôi sẽ tiết lộ với cậu một bí mật. Cục Tình báo luôn cài một vài người tại bữa tiệc chính thức - những chàng trai Thiên Chúa giáo dễ thương muốn gặp mặt Đức Thánh Cha”.

“Vậy ông dự định sẽ thay đổi như thế nào?”

“Tổng thống sẽ bay đến Vatican và đáp xuống sân bay của Giáo hoàng”.

“Sân bay đó ở góc xa phía Tây, ngay đối diện tường. Nếu có ai đó chờ sẵn với một khẩu phóng tên lửa nữa…”

“Cục Tình báo nói sẽ bảo vệ khu vực ấy”.

“Bên ông dự định cài bao nhiêu chàng trai dễ thương theo đạo Thiên Chúa trong đoàn đại biểu chính thức của Tổng thống?”

“Nhiều hơn thường lệ”. Carter nhìn đồng hồ lần nữa. “Có lẽ chúng ta nên vào sân bay trong vài phút tới. Langley đặt chúng ta ngồi hai chỗ khác nhau”.

“Ông xấu hổ vì tôi à, Adrian?”

“Thực ra là chưa bao giờ tự hào đến như thế khi được hợp tác cùng với anh. Anh và những chàng trai của anh đã cho thấy lòng can đảm tuyệt vời khi thâm nhập ngôi nhà đó”.

“Chúng tôi không được lựa chọn, Adrian. Chúng tôi không bao giờ được quyền lựa chọn”.

Carter nhắm mắt một lúc. “Anh biết đấy, có thể bin Shafiq chỉ nói khoác, hay bịp bợm vì một lí do nào đó”.

“Tại sao hắn lại phải nói dối, Adrian? Hắn dự định sẽ giết chết cô ấy mà, nên điều hắn nói chắc chắn là sự thật”.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37: Thành phố Vatican


Thật may là Đức Ông, bạn của ông yêu cầu chúng tôi cho các ông đi nhờ xe”, Cảnh sát trưởng đội cảnh sát Carabinieri nói. “Chẳng thế thì không bao giờ các ông đi được từ Fiumicino đến Vatican”.

Gabriel nhìn ra ngoài cửa sổ máy bay trực thăng. Rome nằm bên dưới anh. Những người biểu tình đã chiếm biệt thự Borghese làm sân khấu và biến khu vực này thành một biển người. Những người diễu hành đầu tiên đang đổ ra Via Veneto từ cuối công viên.

“Các ông có thể ngăn họ tiến về Vatican được không?”

“Chúng tôi sẽ cố”. Viên Cảnh sát trưởng chỉ tay ra ngoài cửa sổ. “Các ông có thấy những chướng ngại vật kia không? Kế hoạch của chúng tôi là gom họ lên đồi vào công viên Janiculum. Nhưng chúng tôi ước đoán có khoảng hai triệu người biểu tình. Nếu mọi việc nằm ngoài tầm kiểm soát…”. Ông ta nhún vai theo đúng kiểu người Ý. “Tôi mừng rằng mình không phải lo về các vụ bạo động. Khu vực biểu tình dưới kia có thể biến thành chiến trường”.

Chiếc máy bay trực thăng đảo chiều lượn nghiêng về phía thành quốc. Mái vòm của Toà thánh, bị che một phần dưới tấm vải dầu lớn của các nhóm thi công, phản chiếu ánh nắng chói chang. Lời thỉnh cầu hòa bình của Giáo hoàng bay phấp phới bên ngoài trong cơn gió nhẹ buổi sáng. Chiếc trực thăng chúi xuống trên Viale Vaticano, nó bay trên không phận Ý một lúc lâu, sau đó vượt qua bức tường đáp xuống sân bay của Giáo hoàng. Donati, trong trang phục áo khoác đen và khăn choàng màu đỏ tươi, đang đứng chờ ở đó. Đứng bên cạnh ông là một người lính cận vệ Thụy Sĩ mặc thường phục. Vị tăng lữ cao cấp nghiêm mặt bắt tay Gabriel thật nhanh và giữ nét mặt nặng nề khi dẫn anh băng qua vườn Vatican về phía cung điện Thánh Tông đồ.

“Lần này nghiêm trọng đến mức nào, Gabriel?”

“Rất nghiêm trọng”.

“Anh có thể cho tôi biết tại sao?”

“Người đưa tin”, Gabriel đáp. “Người đưa tin”.

Họå lên lầu ba, vào phòng của Donati rồi, Gabriel mới kể cho ông thêm chi tiết. Donati hiểu ông chỉ được thông báo một phần của câu chuyện. Ông quá quan tâm đến sự an toàn của thầy mình nên không phản đối.

“Tôi muốn anh ở bên cạnh ông ấy cho đến khi Tổng thống rời khỏi Vatican”.

Lần này Gabriel không phản đối.

“Anh trông giống như vừa chui qua máy vắt”, Donati nhận xét. “Lần cuối anh ngủ là khi nào?”

“Thật sự tôi không nhớ nổi”.

“Tôi e rằng anh không còn thời gian để chợp mắt”, Donati nói, “nhưng chúng ta phải sửa sang vẻ bề ngoài của anh cho chỉnh tề hơn. Tôi đoán anh không mang theo bộ trang phục nào đúng không?”

“Ước gì tôi có thể diễn tả được câu hỏi của Cha nghe có vẻ buồn cười đến thế nào”.

“Anh sẽ cần một bộ quần áo đàng hoàng. Nhóm lính cận vệ Thụy Sĩ bảo vệ cho Đức Giáo hoàng mặc đồ vest. Tôi chắc rằng người chỉ huy có thể kiếm cho anh một bộ ưng ý”.

“Có thứ tôi cần hơn là một bộ đồ màu xanh, Luigi”.

“Đó là thứ gì?”

Gabriel nói với ông.

“Đội lính cận vệ Thụy Sĩ cũng có thể lấy cho anh thứ đó”.

Donati nhấc điện thoại lên quay số.

Mười phút sau đó, một người lính đã chờ Gabriel trong Sân- San Damaso vẫn là người lính cận vệ Thụy Sĩ đã ở bên Donati tại bãi đáp máy bay trực thăng. Anh ta cao bằng Gabriel, có bờ vai ngang bè ra dưới lớp áo vest và chiếc cổ cuộn cơ bắp như của một vận động viên chơi bóng bầu dục. Mái tóc vàng hoe cắt ngắn đến gáy quanh đầu hình viên đạn, phô ra sợi dây đeo tai của anh ta.

“Chúng ta đã gặp nhau bao giờ chưa?”. Gabriel hỏi người lính cận vệ bằng tiếng Đức khi họ đi qua Via Belvedere”.

“Chưa, thưa ông”.

“Trông cậu quen quen”.

“Tôi là một trong những lính cận vệ giúp ông đưa Đức Thánh Cha vào cung điện Thánh Tông đồ sau vụ tấn công”.

“Tôi cũng nhớ như vậy”, Gabriel trả lời. “Cậu tên gì?”

“Hạ sỹ Erich Muller, thưa ông”.

“Cậu là người bang nào nhỉ?”

“Nidwalden, thưa ông. Đó là demi - canton ở kế bên“

“Tôi biết bang ấy rồi”, Gabriel đáp.

“Ông biết Thụy Sĩ à?”

“Rất rõ”.

Ngay trước khi đến cổng Thánh Anne, họ quẹo phải tiến vào khu lính cận vệ Thụy Sĩ. Tại phòng tiếp tân, một sỹ quan trực ban đang ngồi nghiêm nghị sau chiếc bàn hình vành trăng. Trước mặt anh ta là một dãy màn hình giám sát. Trên bức tường đằng sau treo một cây thập tự giá và hàng cờ đại diện cho từng bang, trong hai mươi sáu bang của Thụy Sĩ. Khi Gabriel và Muller đi ngang qua, viên sỹ quan trực ghi chú trong quyển sổ ra vào. “Khu Thụy Sĩ đang kiểm soát rất nghiêm ngặt”, Miller nói. “Còn ba nơi có thể ra vào nữa, nhưng đây là chỗ chính”.

Họ rời phòng tiếp tân rồi quẹo phải. Hành lang dài tối tăm trải dài trước mắt họ, nằm dọc hai bên là khu tập chia thành nhiều ô nhỏ cho những người tập kích. Cuối hành lang là mái vòm, đằng sau mái vòm đến sân trong lát đá. Ở đó, một trung sỹ đang huấn luyện sáu tân binh đi đều cùng súng trường bằng gỗ. Họ bước vào toà nhà bên kia sân và bước xuống một dãy các bậc thang bằng đá để vào khu tập bắn súng trong nhà. Nơi này yên ắng vì không có ai tập.

“Đây là nơi chúng tôi thực hiện việc huấn luyện vũ khí. Các bức tường được cách âm, nhưng thỉnh thoảng những người hàng xóm vẫn phàn nàn về tiếng ồn”.

“Hàng xóm?”

“Đức Thánh Cha có vẻ không để ý, nhưng Hồng y Ngoại trưởng không thích tiếng súng. Chúng tôi chuyển sang tập bắn vào chủ nhật hay các ngày lễ trong đạo”. Muller đi về phía tủ kim loại, mở khóa. “Súng chuẩn của chúng tôi là khẩu SIG-Sauer 9mm có ổ đạn mười lăm viên”. Anh ta nhìn Gabriel qua vai mình khi mở cửa tủ. “Đây là vũ khí do Thụy Sĩ làm. Rất chính xác… và rất mạnh. Ông có muốn bắn thử không?”

Gabriel gật đầu. Muller lấy khẩu súng, một ổ đạn, cùng một hộp đạn đầy rồi mang đến khu tập bắn. Anh ta bắt đầu nạp đạn, nhưng Gabriel ngăn lại. “Tôi sẽ làm việc này. Cậu ra xem bia bắn giùm tôi”. Người cận vệ Thụy Sĩ gắn bia vào đường dây và kéo đến một nửa đường bắn. “Xa hơn”, Gabriel nói. “Đến chỗ xa nhất”. Muller làm theo lời anh. Đến lúc bia tập bắn được kéo đến phía bên kia đường bắn, Gabriel đã nạp xong mười lăm viên đạn vào ổ, và lắp ổ đạn vào khẩu súng lục. “Ông làm nhanh quá”, Muller nhận xét. “Tay ông chắc phải khéo lắm”.

“Tôi đã luyện tập nhiều”.

Muller đưa dụng cụ bảo vệ tai và mắt cho Gabriel.

“Không cần, cám ơn”.

“Đây là qui tắc trong trường bắn, thưa ông”.

Gabriel quay người không báo trước và nổ súng. Anh tiếp tục bắn cho đến khi súng hết đạn. Muller kéo bia tập bắn lại trong khi Gabriel tháo ổ đạn trống rỗng ra và nhặt ống lót lên.

“Lạy Chúa tôi”.

Tất cả mười lăm phát đạn đều ghim ngay chính giữa bia bắn.

“Ông có muốn bắn nữa không?”. Muller hỏi.

“Đủ rồi”.

“Ông có muốn lấy bao đeo súng ở vai không?”

“Tôi để súng ở túi quần”.

“Để tôi lấy cho ông thêm một ổ đạn”.

“Cho tôi hai ổ. Thêm một hộp đạn nữa”.

Gabriel lấy quần áo từ phòng chỉ huy, rồi vội vã quay lại cung điện Thánh Tông đồ. Anh lên lầu ba và theo Donati đến phòng khách nhỏ có buồng riêng. “Tôi lén lấy lưỡi dao lam đó của Đức Thánh Cha”, Donati nói. “Khăn tắm ở trong tủ dưới bồn rửa tay”.

Gần chín mươi phút nữa Tổng thống mới đến. Gabriel thong thả cạo râu đứng dưới vòi sen vài phút. Bộ quần áo được đội cận vệ Thụy Sĩ chuẩn bị vội vã hoá ra lại rất vừa vặn với anh. Vào lúc 11 giờ, chúng đúng như mong muốn anh bước dọc hành lang trang trí bích hoạ để đến phòng riêng của Đức Giáo hoàng.

Gabriel yêu cầu Donati thêm một việc trước khi đến khu doanh trại đội cận vệ Thụy Sĩ: bản báo cáo cuối cùng của Lực lượng an ninh Vatican và Ý về vụ tấn công tháng Mười được thực hiện. Anh vừa nhâm nhi cà phê và bánh vừa đọc bản báo cáo trong phòng ăn riêng của Đức Giáo hoàng, sau đó anh đảo một lượt các kênh trên truyền hình tìm xem có tin tức gì về mười một xác chết trong ngôi nhà ván ở Thụy Sĩ. Không có kênh tin quốc tế nào đề cập về việc này. Anh đoán rằng đội của Carter đã hoàn thành nhiệm vụ.

Donati đến tìm Gabriel vào lúc 11 giờ 45 phút. Họ cùng nhau đi tới cung điện Belvedere và tìm thấy một văn phòng trống có thể bao quát khu vườn. Một lúc sau, những thân cây bắt đầu vặn vẹo, sau đó hai chiếc máy bay trực thăng cánh quạt đôi xuất hiện, hạ xuống bãi đáp máy bay ở góc xa của thành quốc. Gabriel thấy bớt căng thẳng khi chiếc trực thăng đầu tiên hạ cánh xuống an toàn dưới đầu các ngọn cây. Năm phút sau họ thoáng thấy Tổng thống Mỹ tự tin sải bước về phía cung điện, đi theo ông là vài tá nhân viên an ninh vũ trang đầy đủ, bộ dạng lo lắng.

“Các nhân viên sẽ phải đợi trong vườn”, Donati nói. “Người Mỹ không thích việc này, nhưng đây là nghi thức tiếp đón. Anh có biết là họ đã cố ý cài vài nhân viên Cục Tình báo vào đoàn đại biểu chính thức không?”

“Không phải vậy chứ”.

Donati nhìn Gabriel. “Anh muốn nói với tôi điều gì à?”

“Vâng”, Gabriel nói. “Chúng ta nên quay trở lại cung điện các Thánh tông đồ. Tôi muốn có mặt ở đó trước khi Tổng thống đến”.

Donati quay lại dẫn đường.

Năm phút trước khi Tổng thống tới, họ đã có mặt trong Sala Clementina. Đây là một phòng tiếp khách cao vút với các bức bích hoạ phủ đầy quanh tường. Nó nằm ngay trên phòng riêng của Giáo hoàng. Đức Thánh Cha vẫn chưa đến. Một đội cận vệ nghi thức đứng bên ngoài lối đi rộng, và thêm vài đội nữa mặc thường phục đứng bên trong. Cuối góc phòng dài hình chữ nhật đặt hai chiếc ghế chạm trổ; ở góc bên kia là nhóm phóng viên, nhiếp ảnh gia, và những người quay phim. Tâm trạng chung của họ là không được hài lòng lắm. Các công cụ tìm kiếm và kiểm tra an ninh của cận vệ Thụy Sĩ và Cục Tình báo trở nên gắt gao hơn bao giờ hết, và ba đội quay phim châu Âu không được cho vào phòng vì có những sơ hở nhỏ trong giấy giới thiệu. Báo giới được phép ghi lại những hình ảnh đầu tiên của cuộc gặp lịch sử và phát sóng hình ảnh này trên toàn thế giới, sau đó họ sẽ được đưa ra ngoài.

Donati vào lại trong hành lang chờ Đức Thánh Cha. Gabriel nhìn quanh một lúc, sau đó đi đến phía trước phòng đứng cách chiếc ghế dành cho Đức Thánh Cha vài bước. Trong hai phút kế tiếp mắt anh nhìn lướt qua đám nhà báo, tìm kiếm bất cứ dấu hiệu nào không tụ nhiên, hay một khuôn mặt trông có vẻ không hợp chỗ. Sau đó anh làm điều tương tự với các Giám mục trong Hội đồng Hồng y đang đứng bên trái.

Ngay trước lúc giữa trưa, Đức Thánh Cha bước vào phòng trong bộ bạch y, theo sau Donati, Hồng y Ngoại trưởng, và bốn cận vệ Thụy Sĩ mặc thường phục. Erich Muler, người cận vệ đã đưa cho Gabriel vũ khí, cũng nằm trong số những người này. Mắt anh ta dừng một chút trên Gabriel, rồi gật đầu chào nhẹ. Giáo hoàng bước ngang phòng và dừng lại trước ghế ngồi của mình. Donati, cao và nổi bật trong chiếc áo choàng màu đen và khăn choàng cổ màu đỏ, đứng bên cạnh Giáo hoàng. Ông nhìn lướt qua Gabriel, sau đó hướng ánh nhìn về phía cửa khi Tổng thống Mỹ bước vào.

Gabriel nhanh chóng điểm qua đoàn đại biểu chính thức của Tổng thống. Bốn nhân viên Cục Tình báo có mặt trong đoàn này, thậm chí có thể hơn. Sau đó ánh nhìn của anh đảo khắp phòng giống như ánh đèn pha: những phóng viên, các Giám mục trong Hội đồng Hồng y, những cận vệ Thụy Sĩ, Tổng thống, và Đức Thánh Cha. Bây giờ họ đang bắt tay, mỉm cười nồng ấm với nhau trong ánh đèn lóa mắt của máy chụp ảnh.

Sự việc diễn ra nhanh chóng đến nỗi Gabriel không ngờ tới. Sau này nghĩ lại, anh thấy thật ra nếu không nhờ Donati, có lẽ không bao giờ anh có thể nhận biết được tình hình. Mắt Donati bất ngờ mở lớn, sau đó ông bước về phía Tổng thống. Gabriel quay người lại và thấy khẩu súng bên mình. Vũ khí là khẩu SIG-Sauer 9li- bàn tay đang cầm súng chính là của hạ sỹ Erich Muller.

Gabriel rút khẩu súng của chính mình và bắt đầu nhả đạn, nhưng Muller vẫn kịp bắn hai phát. Anh không nghe tiếng la hét hay chú ý đến ánh đèn chớp của máy chụp ảnh. Anh chỉ bắn mãi cho đến khi tên cận vệ Thụy Sĩ nằm chết cứng trên sàn đá cẩm thạch. Các nhân viên Cục Tình báo được ngụy trang trong đoàn đại biểu của Mỹ nắm lấy Tổng thống và đưa ông ra cửa. Pietro Lucchesi, Giám mục thành Rome, Giáo chủ tối cao, người kế nhiệm thánh Peter, khuỵa đầu gối xuống cầu nguyện bên cạnh cơ thể bất động của vị cha xứ cao lớn trong bộ áo choàng màu đen.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38: Rome


Trạm xá Gemelli còn khá nhiều phòng trên tầng 11 mà ít người biết đến. Chúng là phòng của các cha xứ. Phòng có giường bệnh. Phòng thứ hai có trường kỷ và ghế. Căn phòng thứ ba có nhà nguyện riêng. Hành lang bên ngoài lối vào có bàn dành cho lính gác. Lúc nào cũng có người đứng gác ở đó, ngay cả khi các phòng không có bệnh nhân.

Tối nay, chiếc giường bệnh của nhân vật đứng đầu một tỷ người theo đạo Thiên Chúa La Mã trên khắp thế giới, được dành cho viên thư ký riêng đáng tin cậy của ông. Hàng ngàn người với đức tin mãnh liệt đứng chật ních con đường bên dưới cửa sổ phòng bệnh. Vào lúc 9 giờ, họ im lặng lắng nghe bản tin đầu tiên từ văn phòng báo chí của Vatican. Bản tin cho biết Đức ông Luigi Donati đã trải qua bảy giờ phẫu thuật để chữa trị vết thương gây ra bởi hai viên đạn 9 li. Bản tin mô tả Đức ông đang ở trong tình trạng “cực kỳ nghiêm trọng”, và nói rõ rằng chưa thể xác định được Đức ông có qua khỏi hay không. Bản tin kết thúc bằng thông báo Đức Thánh Cha đang ở bên cạnh ông và dự định sẽ còn ở đó một thời gian nữa. Bản tin không đề cập đến sự có mặt của Gabriel.

Họ ngồi cùng nhau trên chiếc ghế trường kỷ trong phòng khách. Ở phía bên kia cánh cửa mở nối hai phòng, Donati đang nằm bất động và xanh xao. Một đội y tá và bác sỹ vây quanh ông, nét mặt nặng nề. Mắt Đức Thánh Cha nhắm nghiền còn tay thì lần tràng hạt. Một vệt máu lớn loang lổ trên tấm áo trắng của ông. Ông không chịu cởi áo ra. Gabriel nhìn Đức Thánh Cha và nghĩ đến Shamron cùng chiếc áo da sờn rách. Anh hi vọng ông không tự trách mình vì những việc xảy ra hôm nay.

Gabriel nhìn màn hình. Đoạn video về cuộc tấn công, một trong những giây phút kịch tích nhất từng được truyền hình trực tiếp, đang chiếu trên màn ảnh. Đoạn video này được phát đi phát lại. Gabriel đã xem đoạn băng này ít nhất một tá lần, và bây giờ đang xem lại. Anh nhìn thấy Muller nhô người khỏi đám cận vệ Thụy Sĩ, khẩu súng vươn ra trên tay. Anh thấy chính mình rút súng khỏi túi trong áo khoác, và Donati lấy thân mình che chắn cho Tổng thống Hợp chủáng quốc Hoa Kỳ khi Muller nhả đạn. Một phần giây, anh nghĩ. Nếu anh nhìn thấy Muller một phần mười giây trước đó, có lẽ anh đã có thể nhả đạn trước. Donati sẽ không phải nằm đây cận kề cái chết trên tầng 11 của trạm xá Gemelli. Gabriel nhìn Giáo hoàng. Mắt ông không còn nhắm mà nhìn chăm chú lên màn hình tivi.

“Làm sao mà Donati biết để bước ra che cho Tổng thống Mỹ chứ không phải cho ta?”

“Con nghĩ rằng Đức ông biết Muller đã có thể giết Đức Thánh Cha rất gần nếu hắn muốn. Muller sẽ giết Tổng thống trước, và Đức ông hiểu điều đó”.

“Donati hiểu được điều đó chỉ trong nháy mắt”.

“Đức ông Donati là một trong những người thông minh nhất con từng gặp, thưa Đức Thánh Cha”. Gabriel nhìn Donati. “Đức ông đã cứu sống Tổng thống, nhưng có lẽ chính Cha cũng không nhận thức được điều đó khi lấy thân mình che chắn cho Tổng thống”.

“Luigi chỉ ngăn được những viên đạn”, Giáo hoàng nói, “nhưng cậu mới là người cứu ông ấy. Nếu không nhờ cậu, chúng ta sẽ không bao giờ biết cảnh giác về những chuyện như vậy. Làm sao cậu biết bọn chúng sẽ tấn công Vatican một lần nữa?”

“Chúng ta sẽ phải nói về chuyện này vào một ngày khác. Một ngày rất xa trong tương lai”.

“Cậu đang thực hiện một nhiệm vụ, đúng không?”

Gabriel im lặng.

“Erich Muller, một người trong đội lính gác của ta…”. Giọng Giáo hoàng nhỏ dần. “Ta vẫn không tin điều này. Làm sao họ làm được điều đó, Gabriel? Làm cách nào họ trà trộn một tên sát nhân vào đội cận vệ Thụy Sĩ được?”

“Chi tiết khá phức tạp, thưa Đức Thánh Cha, nhưng có vẻ như Muller được tuyển mộ một khoảng thời gian sau khi hắn rời quân đội Thụy Sĩ. Hắn không có công ăn việc làm, nên dành một năm rưỡi du lịch châu Âu và Địa Trung Hải. Hắn trú chân ở Hamburg vài tháng, và thêm vài tháng nữa ở Amsterdam. Hắn là thành viên tích cực tham gia các cuộc biểu tình chống Mỹ, chống Israel. Có lẽ hắn đã cải đạo sang Hồi giáo. Chúng tôi nghĩ rằng hắn được tuyển mộ vào mạng lưới khủng bố do một tên tự xưng là Giáo sư Ali Massoudi tổ chức”.

“Massoudi? Thật vậy sao? Lạy Chúa, Giáo sư Massoudi có nộp một vài bài viết cho ủy ban đặc biệt của ta về việc cải thiện mối quan hệ giữa Hồi giáo và phương Tây. Ta nghĩ có lẽ hắn đã đến thăm Vatican”.

“Cải thiện mối quan hệ giữa Hồi giáo và nhà thờ không phải là một phần trong chương trình hành động thực sự của hắn, thưa Đức Thánh Cha”.

“Rõ ràng là vậy”, Giáo hoàng thừa nhận. “Ta đoán giờ đây chúng ta đã biết ai mở Cánh Cửa Tử Thần cho những tên đánh bom cảm tử hồi tháng Mười. Chính là Muller đúng không?”

Gabriel gật đầu nhìn màn hình khi đoạn phim về vụ tấn công được phát lại.

“Ta tự hỏi không biết bao nhiêu người xem đoạn băng ngày hôm nay”, Giáo hoàng nói.

“Hàng tỷ người, thưa Đức Thánh Cha”.

“Có điều gì đó mách bảo ta rằng những ngày làm điệp viên bí mật của cậu không còn nữa. Chào mừng quay trở về thế giới thật, Gabriel”.

“Thế giới này làm con cảm thấy thoải mái”.

“Dự định của cậu là gì?”

“Con phải trở lại Israel”.

“Sau đó thì sao?”

“Tương lai của con khá bất định”.

Giáo hoàng nhận xét. “Francesco Tiepolo bảo với ta cậu và Chiara đã quay trở lại với nhau”.

“Vâng, thưa Đức Thánh Cha. Hiện tại cô ấy đang ở Israel”.

“Kế hoạch của cậu là gì?”

“Con phải cưới cô ấy trước khi cô ấy lại bỏ con ra đi”.

“Thật là thông thái. Sau đó thì sao?”

“Con mới tính được đến đó thôi, thưa Đức Thánh Cha”.

“Cậu cho phép ta cho cậu thêm một lời khuyên nhé?”

“Dĩ nhiên”.

“Vào lúc này, cậu là người nổi tiếng nhất nước Ý. Một vị anh hùng quốc gia. Có cái gì đó mách bảo với ta đất nước này sẽ rộng tay chào đón cậu. Lần này cậu không phải mang tên Mario Delvecchio nữa”.

“Đến đó rồi hãy tính”.

“Nếu là cậu, ta sẽ xây một cây cầu nối trở lại Venice”.

Giáo hoàng nhìn sững xuyên qua cánh cửa một lúc. “Ta không biết phải làm gì nếu Chúa mang ông ấy khỏi tay ta. Ta không thể quản lý nhà thờ Thiên Chúa giáo mà không có Luigi Donati”.

“Con còn nhớ ngày Đức ông đến Jerusalem tìm con”, Gabriel hồi tưởng. “Khi cùng dạo bước trong Thành Cổ, con đã ngu ngốc bảo rằng Cha ấy là người không có đức tin nếu so với một người có niềm tin thành kính. Nhưng bây giờ con hiểu rằng phải là người có niềm tin mãnh liệt thì mới dám bước ra trước đầu đạn”.

“Luigi Donati là người có niềm tin phi thường. Ông ấy chỉ chưa nhận ra điều này. Bây giờ ta cũng cần có niềm tin. Ta phải tin rằng Chúa sẽ thấy nên để ông ấy bên ta lâu thêm một thời gian nữa - rằng phải cần chấm dứt sự điên loạn này”.

Câu hỏi kế tiếp Giáo hoàng hỏi là câu hỏi ông đã đặt ra với Gabriel sau vụ tấn công tháng Mười.

“Mọi chuyện chấm dứt chưa?”

Lần này Gabriel chăm chú nhìn màn hình mà không nói gì.

Không, thưa Đức Thánh Cha, anh nghĩ. Chưa hẳn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39: Washington


PHẦN 4: NHÂN CHỨNG


Một tháng sau vụ ám sát Tổng thống, Uỷ ban Thượng viện tổ chức một cuộc họp. Trong bài phát biểu khai mạc, các thành viên cao cấp đảm bảo với người dân Mỹ rằng họ sẽ điều tra đến cùng và không khoan nhượng, nhưng vào cuối tuần đầu tiên, các Thượng nghị sỹ từ cả hai đảng cảm thấy bực mình vì tính thiếu trung thực của lãnh đạo các cơ quan an ninh và tình báo. Các phụ tá của Tổng thống giải thích rất chi tiết làm cách nào lực lượng Hồi giáo cực đoan toàn cầu có thể thâm nhập vào trung tâm vương quốc Thiên Chúa giáo, và làm cách nào Giáo sư Ali Massoudi tuyển mộ được một thanh niên trẻ có tên là Erich Muller và cài hắn vào Đội cận vệ Thụy Sĩ của Giáo hoàng. Nhưng khi đụng đến người vạch kế hoạch hai vụ tấn công vào Vatican - và quan trọng hơn, ai đã trả tiền các hóa đơn - các phụ tá của Tổng thống chỉ có thể đưa ra những ý kiến gián tiếp. Họ cũng không thể giải thích thoả đáng với các thành viên của Uỷ ban về sự có mặt của Gabriel Allon, một người Israel mà bây giờ đã được biết đến là một điệp viên và kẻ chuyên ám sát huyền thoại. Sau nhiều bàn bạc trong Uỷ ban, các Thượng nghị sỹ quyết định triệu tập anh để đích thân hỏi cung. Vì là người nước ngoài, anh không có bổn phận phải tuân theo lời triệu tập nên như nhiều dự đoán, anh đã từ chối xuất hiện. Ba ngày sau, anh bất ngờ đổi ý. Anh báo với các Thượng nghị sỹ rằng mình sẽ điều trần, nhưng với điều kiện phải là một cuộc gặp bí mật. Các Thượng nghị sỹ đồng ý, và yêu cầu anh đến Washinton ngày thứ năm tuần kế tiếp.

Gabriel đi một mình vào phòng điều trần kín. Khi Chủ tịch Uỷ ban yêu cầu anh đứng lên khai tên mình để ghi chép lại, anh đã thực hiện không hề do dự.

“Chủ của ông?”

“Thủ tướng nước Israel”.

“Chúng tôi có nhiều câu hỏi muốn nêu ra với ông, ông Allon, nhưng theo lời của Đại sứ nước ông, ông sẽ không trả lời những câu hỏi mà ngài nghĩ là không phù hợp”.

“Đúng vậy, thưa ngài Chủ tịch”.

Chúng tôi cũng được thông báo rằng ông muốn đọc một bài phát biểu trước khi chúng tôi bắt đầu thẩm vấn”.

“Điều đó cũng đúng, thưa ngài Chủ tịch”.

“Bài phát biểu này có liên quan đến nước các Tiểu vương quốc Arập thống nhất và mối quan hệ giữa Mỹ và họ”.

“Đúng, thưa ngài Chủ tịch”.

“Tôi muốn lưu ý ông, ông Allon. Mặc dù buổi điều trần này được tiến hành bí mật, sẽ vẫn có bản đánh máy những lời nhận xét của ông”.

“Tôi hiểu, thưa ngài”.

“Rất tốt. Ông có thể bắt đầu”.

Sau câu nói này, Gabriel nhìn xuống và bắt đầu đọc bản điều trần. Ở góc xa của phòng, một người đàn ông nhăn mặt. Hercules đã đến Thượng viện Mỹ, anh ta thầm nghĩ. Và mang theo một bao đầy tên tẩm mật đắng.

“Chúc mừng, Gabriel”, Adrian Carter nói. “Anh không thể không làm, đúng không? Chúng tôi cho anh sân khấu, còn anh sử dụng sân khấu đó để phục vụ mình thật tốt”.

“Các Thượng nghị sỹ cần biết bản chất thật sự của đế chế Arập Xêút và sự ủng hộ của nó đối với khủng bố toàn cầu. Người dân Mỹ cần được biết những đồng tiền thu được nhờ bán dầu đó đang được sử dụng như thế nào”.

“Ít nhất anh cũng nên để tên Zizi ra ngoài chuyện này”.

“Tôi có những kế hoạch khác dành cho Zizi”.

“Tốt hơn là anh không nên làm như vậy. Hơn nữa anh cũng nên để mắt canh chừng quả bóng ngay bây giờ”.

“ Canh chừng quả bóng? Câu này nghĩa là gì?”

“Đây là một lối nói ẩn dụ trong thể thao, Gabriel. Anh có chơi môn thể thao nào không?”

“Tôi không có thời gian cho thể thao”.

“Mỗi ngày trôi qua anh lại càng giống Shamron hơn”.

“Tôi sẽ xem đây là lời khen”, Gabriel đáp. “Tôi nên để mắt đến quả bóng nào?”

“Bin Shafiq”. Carter nhìn xéo qua Gabriel. “Có dấu hiệu gì của hắn chưa?”

Gabriel lắc đầu. “Còn phía ông?”

“ Chúng tôi có một chút dấu vết”.

“Có dấu vết nào mà anh có thể tiết lộ với tôi không?”

“Chưa đến lúc”.

Carter lái xe qua cầu Memorial quẹo vào đại lộ George Washington. Họ lái xe trong im lặng một vài phút. Gabriel nhìn ra cửa xe, thầm thán phục cảnh thị trấn Geortown bên kia sông.

“Tôi thấy trong lịch trình bay anh sẽ ghé qua Rome trên đường về Israel”, Carter nói. “Anh dự định thực hiện một nhiệm vụ chưa hoàn tất cho Vatican à?”

“Tôi chỉ muốn dành một chút thời gian bên Donati. Khi tôi rời Rome, ông ấy vẫn chưa tỉnh”. Gabriel nhìn đồng hồ. “Ông đang đưa tôi đi đâu, Adrian?”

“Còn mấy tiếng nữa máy bay mới cất cánh. Chúng ta có thể ghé ăn trưa ở vùng đồng quê chăn ngựa Virginia”.

“Còn bao lâu nữa thì tới nơi?”

“Khoảng một tiếng”.

Gabriel hạ ghế xuống và nhắm mắt lại.

Anh tỉnh dậy khi chiếc xe bon bon vào thị trấn nhỏ có tên Đồng Bằng. Carter lái xe chậm lại khu trung tâm thương mại nhỏ xíu; sau đó băng qua đường ray xe lửa cũ kỹ, và một lần nữa lái xe về hướng đồng quê. Con đường trông có vẻ quen thuộc với Gabriel, cũng giống như con đường nhỏ trải sỏi mà Carter đã quẹo vào cách đó hai dặm. Con đường chạy dọc theo bờ suối hẹp. Bên trái là một cánh đồng thoai thoải, ngược lên cao có một nông trại lớn mái lợp bằng đồng đã mờ xỉn và hàng hiên hai tầng. Khi Gabriel ghé thăm ngôi nhà lần trước, cây đã trụi lá còn mặt đất đang phủ đầy tuyết. Bây giờ cây sơn thù du nở rộ hoa, những cánh đồng xanh mơn mởn nhờ những lá cỏ mùa xuân mới mọc.

Một phụ nữ có mái tóc vàng óng thả đi ngựa nước kiệu ngược chiều với họ. Những chỗ sưng trên khuôn mặt cô đã xẹp xuống, và nét mặt cô đã trở lại bình thường. Ngoại trừ những quầng thâm dưới mắt, Gabriel nghĩ. Trong mắt Sarah vẫn còn vương lại dấu vết của cơn ác mộng cô đã trải qua tại ngôi nhà ván ở bang Uri. Cô cho ngựa chạy dọc theo xe một cách thuần thục và nhìn xuống Gabriel. Một nụ cười nở trên gương mặt cô, và trong giây lát cô như trở lại là người phụ nữ xinh đẹp anh nhìn thấy trên đường Q ở Washington mùa thu năm ngoái. Sau đó nụ cười nhạt dần và với hai cú thúc chính xác, cô phi nước đại qua cánh đồng về phía ngôi nhà.

“Cô ấy đã có những ngày vui vẻ và những ngày tồi tệ”, Carter nói khi nhìn Sarah phóng ngựa đi. “Nhưng tôi chắc rằng anh hiểu điều này”.

“Tôi hiểu”.

“Tôi luôn cho rằng hằn thù cá nhân là phản tác dụng nhất là đối với ngành của chúng ta, nhưng tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho Zizi vì những gì hắn gây ra cho cô ấy”.

“Tôi cũng không tha thứ”, Gabriel nói. “Tôi sẽ ghi nhớ những gì hắn đã làm”.

Họ ăn trưa trong ánh mặt trời dịu nhẹ chiếu trên hiên sau nhà. Sau đó Carter dọn dẹp chén đĩa, còn Gabriel và Sarah đi dạo cùng nhau trong khu rừng đầy bóng râm. Một nhân viên CIA cố gắng theo sau họ, nhưng Gabriel tước vũ khí của anh ta và bảo anh ta quay trở lại ngôi nhà. Sarah mặc quần, đi ủng cưỡi ngựa và khoác áo lông cừu. Gabriel vẫn mặc bộ vest màu xám lúc dự buổi điều trần của các thượng nghị sỹ. Anh cầm khẩu súng của người nhân viên trong tay phải.

“Arian có vẻ không vui vì sự xuất hiện của anh trước Ủy ban”.

“Đúng vậy”.

“Một người nào đó phải chuyển thông điệp về những người bạn Arập Xêút của chúng ta. Còn ai khác ngoài anh? Anh đã cứu được mạng sống của Tổng thống”.

“Không, Sarah, chính cô mới là người cứu Tổng thống. Có lẽ một ngày nào đó đất nước sẽ nhận ra họ có món nợ lớn với cô”.

“Tôi không muốn công khai bản thân quá sớm”.

“Kế hoạch của cô là gì?”

“Adrian chưa kể với anh à? Tôi sẽ gia nhập cơ quan. Tôi nhận ra rằng thế giới nghệ thuật có thể vẫn tồn tại mà không cần đến một người phụ trách bảo tàng”.

“Bên nào? Điệp vụ hay tình báo?”

“Tình báo”, cô đáp. “Tôi đã có đủ kinh nghiệm hoạt động cho cả đời người. Thêm nữa, sẽ không an toàn nếu tôi sớm xuất đầu lộ diện. Zizi đã cảnh cáo tôi về án phạt cho những người phản bội hắn”.

“Hắn có mạng lưới hoạt động vươn xa lắm. An ninh của cô ở Mỹ thì sao?”

“Người ta sẽ cho tôi tên và nhân dạng mới. Tôi được quyền chọn tên. Tôi tự hỏi không biết anh có cho phép tôi sử dụng tên của mẹ anh không?”

“Irene?”. Gabriel mỉm cười. “Tôi rất lấy làm vinh dự. Bà ấy giống cô - một người phụ nữa can đảm phi thường. Lần tới khi cô đến Israel, tôi sẽ cho cô đọc những gì xảy ra với bà trong chiến tranh”.

Sarah dừng bước, mân mê một bông hoa sơn thù du vừa nở rộ.

“Còn anh thì sao, Gabriel? Kế hoạch của anh là gì?”

“Tôi nghĩ cô và tôi có lẽ đi theo hai hướng khác nhau”.

“Ý anh là sao?”

“Tôi e rằng mình không thể nói gì hơn vào lúc này”.

Cô bĩu môi đập nhẹ vào tay anh. “Anh không dự định giữ bí mật với tôi từ giờ phút này chứ?”

“Giờ đây cô đang làm việc cho cơ quan Tình báo của một nước khác, tôi e rằng mối quan hệ của chúng ta sẽ phải có một số…” Anh ngừng lại tìm từ diễn đạt cho đúng bằng tiếng Anh. “Giới hạn nhất định”.

“Thôi nào, Gabriel. Chúng ta có mối dây ràng buộc vượt quá qui tắc liên lạc giữa đặc vụ của các tổ chức tình báo khác nhau”.

“Tôi thấy cô đã bắt đầu sử dụng nhuần nhuyễn những gì được huấn luyện”.

Sarah nói. “Việc này giúp tôi đỡ buồn khi sống một mình ở nông trại này”.

“Cô khỏe không, Sarah?”

“Ban ngày tôi ổn, nhưng ban đêm tôi cảm thấy rất khó khăn”.

“Cô sẽ cảm thấy như vậy trong một thời gian dài. Nhưng làm việc cho cơ quan Tình báo sẽ giúp cô dễ chịu hơn. Cô có biết họ sẽ cho cô làm việc gì không?”

“Đến Arập Xêút ”, cô nói. “Tôi đề nghị như vậy”.

Khu rừng rung chuyển vì loạt sấm từ xa. Sarah hỏi thăm về Julian Isherwood.

“Tình trạng hiện thời của anh ấy rất giống của cô”.

“Các anh đưa anh ấy đi đâu?”

“Sarah”.

“Nói đi, Gabriel”.

“Anh ta được bảo vệ tại một căn nhà cũ gần Vùng Tận Cùng ở Cornwall”.

“Còn phòng tranh thì sao?”

“Tạm thời bị đóng cửa. Việc cô rời Luân Đôn đã gây ra một vụ xì căng đan. Những anh bồi bàn tại quầy rượu của nhà hàng Green nhớ cô lắm”.

“Tôi cũng nhớ họ. Nhưng tôi nhớ đội của anh hơn”.

“Mọi người gửi lời chào”. Gabriel ngập ngừng. “Họ cũng nhờ tôi nói lời xin lỗi với cô”.

“Về việc gì?”

“Chúng tôi đã làm cô thất vọng, Sarah. Rõ ràng chúng tôi đã bị những tên trong đội an ninh của bin Shafiq hay Zizi nhìn thấy”.

“Có lẽ đó là lỗi của tôi”. Cô nhún vai. “Nhưng chuyện này không quan trọng. Tất cả chúng ta đều may mắn sống sót để mà thoát khỏi vụ này, ngoài ra còn hạ được mười lăm tên trong ngôi nhà đó. Chúng ta còn phá hỏng âm mưu ám sát Tổng thống. Được quá đi chứ, Gabriel”.

Lại một hồi sấm khác, lần này gần hơn. Sarah nhìn lên bầu trời.

“Tôi phải hỏi cô mấy điều, Sarah. Có một vài thứ tôi cần biết trước khi đóng lại quyển sách về lần hoạt động này”.

Sarah vẫn ngước mắt nhìn trời. “Anh muốn biết tôi khai gì với bọn chúng trong căn nhà ở Thụy Sĩ”.

“Tôi biết cô bị bỏ thuốc. Tôi biết có lẽ cô đã cố đẩy những ký ức đau buồn đó ra khỏi đầu mình”.

Cô nhìn anh rồi lắc đầu. “Tôi không cố quên”, cô nói. “Thật ra tôi còn nhớ từng từ”.

Những giọt mưa đầu tiên bắt đầu rơi. Sarah dường như không chú ý. Họ đi dưới những hàng cây, Sarah lần lượt kể cho anh nghe.

Carter tiễn Gabriel đến sân bay Dulles và đưa anh qua cửa an ninh. Họ ngồi cùng nhau trong khoang ngoại giao đặc biệt chờ thông báo chuyến bay. Gabriel bỗng chú ý đến người đàn ông ngồi bên phòng đối diện: Hoàng tử Bashir, đại sứ Arập Xêút ở Mỹ.

“Đừng nghĩ về chuyện đó, Gabriel”.

“Đối đầu công khai không phải là phong cách của tôi, Adrian”.

“Có lẽ không, nhưng Bashir khá thích chuyện đó”.

Tựa như nghe được câu chuyện, ông đại sứ vụt đứng dậy, bước ngang qua phòng. Ông ta dừng trước mặt Gabriel nhưng không chìa tay ra. “Tôi nghe nói sáng nay ông thu hút được khá nhiều khán giả tại đồi toà nhà quốc hội ông Allon. Toàn những lời nói dối và tuyên truyền của dân Do Thái, nhưng kể cũng khá hài hước”.

“Buổi điều trần được giữ bí mật, Bashir”.

“Không có gì diễn ra trong thành phố này mà tôi không biết. Ông phải gọi tôi là Hoàng tử Bashir”. Viên đại sứ nhìn Carter. “Anh có chịu trách nhiệm về tiết mục xiếc ngày hôm nay không, Adrian?”

“Các Thượng nghị sỹ ra trát hầu tòa, thưa Hoàng tử. Cục không liên quan gì đến việc này”.

“Lẽ ra các anh nên làm điều gì đó để ngăn chặn chuyện ấy”.

“Đây không phải là Riyadh, thưa ngài đại sứ”.

Bashir trừng mắt nhìn Carter, sau đó quay trở lại chỗ ngồi.

“Tôi đoán mình không đủ tiêu chuẩn nằm trong kế hoạch nghỉ hưu của người Arập Xêút ”.

“Gì cơ?”

“Không có gì”, Carter nói.

Mười phút sau loa phóng thanh thông báo chuyến bay của Gabriel. Carter tiễn anh đến cửa ra.

“Ồ, tôi gần như quên khuấy chuyện này. Tổng thống gọi điện đến nhưng lúc đó anh đang nói chuyện với Sarah. Ông ấy muốn ngỏ lời cảm ơn. Ông ấy bảo sẽ gặp anh vào dịp khác”.

“Nhắn hộ tôi rằng ông ấy đừng bận tâm”.

“Tổng thống cũng bảo ông muốn anh tiếp tục kế hoạch hai người đã thảo luận tại Bãi cỏ phía Nam”.

“Ông chắc không?”

“Chắc về chuyện gì?”

“Ông có chắc Tổng thống nói như thế không?”

“Chắc chắn”, Carter đáp. “Thế hai người nói chuyện gì đêm hôm đó?”

“Cuộc chuyện trò của chúng tôi mang tính chất cá nhân, Adrian, và sẽ luôn là như vậy”.

“Anh cừ lắm”. Carter nói.

Họ bắt tay; sau đó Gabriel quay bước lên máy bay.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom