Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,691
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 40


CẢ BUỔI CHIỀU TÔI CỨ NHÌN BỨC THƯ tàn nhẫn thông báo lệnh quân ngũ của tôi, hy vọng có tín hiệu Fermín còn sống. Ba mươi phút sau khi đóng cửa, vẫn không biết Fermín ở đâu. Tôi nhấc điện thoại gọi đến nhà trọ trên phố Joaquín Costa. Doña Encarna trả lời, giọng bà khản đặc vì rượu. Bà nói từ sáng đến giờ không gặp Fermín.

‘Nếu nửa tiếng nữa anh ta không quay lại thì anh ta sẽ phải ăn tối đồ nguội mất. Đây không phải khách sạn Ritz, cháu biết đấy. Bà hy vọng không có gì xảy ra với anh ta.”

“Đừng lo Doña Encarna. Anh ấy có đơn hàng phải giao nên hẳn là sẽ về trễ. Dù sao, nếu trước khi đi ngủ bà có gặp anh ấy, mong bà bảo anh ấy gọi điện cho cháu. Cháu là Daniel Sempere, hàng xóm của Merceditas.”

“Được rồi, nhưng bà phải báo trước với cháu là bà đi ngủ lúc tám rưỡi tối.”

Sau đó tôi gọi điện đến nhà Barceló, hy vọng Fermín đến đó dọn sạch tủ thức ăn của Bernarda hoặc đưa chị ấy đến tiệm giặt là. Điều tôi không ngờ là Clara trả lời máy.

“Daniel, thật ngạc nhiên.”

Cô đã chiếm mất cuộc gọi của tôi, tôi nghĩ. Nói chuyện với cô loanh quanh một hồi về Don Anacleto, giáo viên trung học, tôi mới nói lý do cuộc gọi của mình, rất thản nhiên, gần như vô tình.

“Không, cả ngày nay Fermín không đến. Và Bernarda ở cạnh tôi cả buổi chiều nên tôi mới biết. Thật tình chúng tôi đã nói về cậu.”

“Nói chuyện thế thì có chán không cơ chứ?”

“Bernarda bảo cậu trông khá điển trai, lớn lắm rồi.”

“Tôi đã uống rất nhiều vitamin.”

Một khoảng lặng dài.

“Daniel, cậu có nghĩ chúng ta sẽ lại là bạn một ngày nào đấy không? Phải mất bao năm cậu mới tha thứ được cho tôi đây?”

“Chúng ta đã là bạn rồi, Clara, và tôi không phải tha thứ cho chị vì bất cứ chuyện gì. Chị biết vậy mà.”

“Bác tôi bảo cậu vẫn đang điều tra về Julián Carax. Sao chiều nào đấy cậu không đến đây kể những tin mới nhất cho tôi nghe. Tôi có rất nhiều điều muốn nói với cậu.”

“Một ngày nào đấy, tôi hứa.”

“Tôi sắp lấy chồng, Daniel ạ.”

Tôi nhìn vào ống nghe. Tôi tưởng như chân mình đang lún xuống đất hay tôi đã co rút đi dăm xăng ti mét.

“Daniel, cậu còn đó không?”

“Vâng.”

“Cậu ngạc nhiên.”

Tôi nuốt – nước bọt cô lại như bê tông. “Không. Điều khiến tôi ngạc nhiên là chị chưa lấy chồng. Chị thiếu gì những người theo đuổi. Ai là người may mắn vậy?”

“Cậu không biết đâu. Anh ấy tên là Jacobo. Anh ấy là bạn của bác Gustavo. Quản lý ở Ngân hàng Tây Ban Nha. Chúng tôi gặp nhau ở buổi diễn opera do bác tôi tổ chức. Jacobo rất ham mê opera. Anh ấy lớn tuổi hơn tôi, nhưng chúng tôi là bạn tốt, vấn đề là ở đấy, cậu không nghĩ vậy sao?”

Miệng tôi đầy những lời nanh nọc, nhưng tôi cắn lưỡi. Nó có vị như thuốc độc. “Tất nhiên... Chúc mừng chị.”

“Cậu sẽ không bao giờ tha thứ cho tôi, đúng không Daniel? Với cậu, tôi luôn là Clara Barceló xảo trá.”

"Với tôi, chị luôn là Clara Barceló, thế thôi. Chị biết điều đó như tôi biết vậy."

Một thoáng yên lặng nữa, cái khoảng lặng khiến ta chợn chợn.

“Còn cậu thì sao, Daniel? Fermín bảo cậu có một gái xinh đẹp.”

“Tôi phải đi đây, Clara, có khách mới vào. Một ngày gần đây tôi sẽ đến thăm, chúng ta sẽ uống trà. Chúc mừng một lần nữa.”

Tôi đặt máy xuống và thở dài.

Cha tôi vừa đi thăm khách hàng về, trông ông chán nản và không có hứng nói chuyện. Khi tôi dọn bàn thì ông đã nấu xong bữa tối, thậm chí không hỏi gì về Fermín hay công việc trong hiệu sách ngày hôm đó ra sao. Chúng tôi nhìn vào đĩa của mình trong suốt bữa ăn, ẩn trốn sau tiếng huyên thuyên của bản tin trên đài phát thanh. Cha tôi hầu như không ăn gì. Ông cứ dùng thìa khuấy khuấy bát xúp loãng vô vị, như thể ông đang tìm vàng dưới đáy bát.

“Bố chưa động đến thức ăn đấy,” tôi nói.

Cha tôi nhún vai. Đài vẫn tiếp tục dội bom chúng tôi bằng những điều vô nghĩa. Cha tôi đứng lên tắt đi.

“Trong thư quân đội nói gì vậy?” cuối cùng ông hỏi.

“Hai tháng nữa con phải nhập ngũ.”

Khuôn mặt ông dường như già đi mười tuổi.

“Barceló nói bác ấy đang cố nhờ mối quen biết để con được chuyển đến Chính quyền Quân sự ở Barcelona, sau khóa huấn luyện. Con sẽ có thể về ngủ ở nhà,” tôi nói thêm.

Cha tôi đáp bằng một cái gật đầu thờ ơ. Tôi thấy đau đớn phải nhìn ông như vậy, nên liền đứng lên dọn bàn. Cha tôi vẫn ngồi đó, mắt mơ màng, đan hai tay chống cằm. Tôi đang định rửa bát đĩa thì nghe tiếng bước chân dồn dập ở cầu thang. Những bước chân chắc chắn, vội vã dội lên cầu thang, báo trước có chuyện khủng khiếp sắp xảy ra. Tôi ngước lên nhìn cha. Bước chân dừng lại trước chiếu nghỉ nhà tôi. Cha tôi đứng dậy, vẻ lo lắng. Một giây sau, chúng tôi nghe tiếng đấm thình thịch vào cửa và một giọng nói giận dữ bùng lên nghe khá quen.

‘Cảnh sát đây! Mở cửa ra!”

Một ngàn con dao găm cắm vào đầu tôi. Một loạt đấm nữa khiến cửa rung lên. Cha tôi bước đến cửa, mở lỗ dòm.

“Các ông muốn gì vào giờ này?”

“Mở cửa không thì bọn tao sẽ đạp đổ, Sempere. Đừng để tao phải nhắc lại.”

Tôi nhận ra giọng Fumero và một hơi thở lạnh liền tràn vào tôi. Cha tôi ném về phía tôi cái nhìn dò hỏi. Tôi gật đầu. Nén tiếng thở dài, ông mở cửa. Fumero và hai tay sai của hắn hiện ra dưới ánh đèn vàng vọt ở thềm nghỉ, như những con rối mặt xám như tro mặc áo mưa xám.

“Hắn đâu rồi?” Fumero hét lên, đẩy cha tôi sang một bên rồi đi thẳng vào phòng ăn.

Cha tôi cố ngăn hắn, nhưng một tên cảnh sát đã túm tay ông đẩy ông vào tường, giữ chặt ông với vẻ lạnh lùng và hiệu quả của một kẻ đã quen với nhiệm vụ này. Đấy chính là kẻ đã theo tôi và Fermín, cũng là kẻ đã giữ tôi khi Fumero đánh bạn tôi ngoài Nhà tế bần Santa Lucía, và chính là kẻ đã theo dõi tôi hai đêm trước. Hắn nhìn tôi thơ ơ, vô cảm. Tôi bước thẳng đến Fumero, thể hiện hết sự bình tĩnh mà tôi dồn tụ được. Cặp mắt tên thanh tra đỏ lừ. Một vết cào mới chạy dọc má trái hắn, vệt máu khô còn hằn in.

“Đâu rồi?”

“Cái gì đâu?”

Fumero đột nhiên nhìn xuống và lắc đầu, lẩm bẩm gì đó. Khi ngước mặt lên, hắn cau miệng như sói và cầm khẩu súng lục trong tay. Không rời mắt khỏi tôi, hắn nện báng súng vào lọ hoa héo úa trên bàn. Bình hoa vỡ thành từng mảnh nhỏ, nước đổ ra và những cành hoa khô quắt vấy lên khăn bàn. Tôi không khỏi rùng mình. Cha tôi đang la hét ở cửa, bị hai tên cảnh sát giữ chặt. Tôi không thể hiểu được ông nói gì. Thứ duy nhất tôi lĩnh hội được là áp lực lạnh ngắt của khẩu súng trên má tôi, và mùi thuốc súng.

“Đừng giở trò với tao, thằng oắt con, không thì cha mày sẽ bò sàn nhà mà vớt sọ mày. Nghe chưa?”

Tôi gật đầu. Tôi đang run. Fumero gí súng vào má tôi. Tôi có thể cảm thấy nó như đang cắt vào da tôi, nhưng tôi thậm chí không dám chớp mắt.

“Lần cuối. Tao hỏi mày. Hắn

Tôi thấy bóng mình trong đồng tử đen của viên thanh tra. Chúng từ từ co lại khi hắn siết cò súng bằng ngón tay cái.

“Không có ở đây. Từ trưa đến giờ tôi không thấy anh ta. Đó là sự thật.”

Fumero vẫn đứng chừng nửa phút, gí súng vào mặt tôi và hắn liếm mép.

“Lerma,” hắn ra lệnh. “Lục soát.”

Một tên cảnh sát vội vã lục lọi căn nhà. Cha tôi cố vùng vẫy với tên cảnh sát kia nhưng bất lực.

“Nếu mày nói dối và chúng tao tìm thấy hắn trong nhà này, tao thề sẽ bẻ gãy chân cha mày,” Fumero thì thầm.

“Cha tôi không biết gì cả. Để ông ấy yên.”

“Mày mới chính là đứa không biết hắn đang chơi trò gì. Nhưng ngay khi tao tóm được thằng bạn của mày, trò chơi kết thúc. Không thẩm phán, không bệnh viện, không chó gì hết. Lần này chính tao sẽ lo việc đưa hắn vào tù. Và tao sẽ thích thú làm việc đó. Tao sẽ nhẩn nha, chẳng gì phải vội. Mày có thể nói với hắn nếu mày gặp hắn. Vì tao sẽ tìm cho ra hắn dù có phải lật từng viên đá của thành phố này lên. Và mày sẽ là đứa tiếp theo trong danh sách.”

Gã cảnh sát Lerma xuất hiện lại trong phòng ăn và khẽ lắc đầu. Fumero lơi cò và hạ súng xuống.

“Đáng tiếc,” Fumero nói.

“Anh ta đã làm gì? Sao ông lại tìm anh ta?”

Fumero quay lưng về phía tôi và bước đến chỗ hai gã cảnh sát, chúng đã buông cha tôi ra theo lệnh của hắn.

“Ông sẽ phải nhớ chuyện này,” cha tôi thổ ra.

Mắt Fumero vẫn nhìn chằm vào ông. Theo bản năng, cha tôi lùi lại một bước. Tôi lo rằng cuộc viếng thăm của Thanh tra Fumero chỉ mới bắt đầu, nhưng bỗng nhiên hắn lắc đầu, khẽ cười, rồi rờiôi. Lerma theo sau hắn. Tay cảnh sát thứ ba, tên lính canh vẫn đeo bám tôi, dừng lại một lúc ở ngưỡng cửa. Hắn yên lặng nhìn tôi, như thể muốn nói gì đó.

“Palacios!” Fumero réo lên, giọng hắn nhòa đi trong tiếng vọng của cầu thang.

Palacios cúi mắt xuống và biến mất sau cửa. Tôi bước ra chiếu nghỉ. Tôi có thể thấy những lưỡi sáng xuyên qua mấy cánh cửa mở hé bên nhà hàng xóm, khuôn mặt sợ hãi của họ thò ra trong bóng tối. Bóng mờ của ba tay cảnh sát biến mất dưới cầu thang, và tiếng bước chân giận dữ của họ xa dần như dòng nước độc, để lại đằng sau tàn dư sợ hãi.

Đến khoảng giữa trưa chúng tôi nghe tiếng gõ sầm sầm trên cửa, lần này nhẹ hơn, hầu như sợ hãi. Cha tôi, đang chấm iốt lên vết thâm trên má tôi do khẩu súng của Fumero gây ra, bỗng nhiên chết lặng. Ánh mắt chúng tôi nhìn nhau. Rồi ba tiếng gõ nữa.

Trong một lúc tôi đã nghĩ đấy là Fermín, người có lẽ đã chứng kiến toàn bộ chuyện xảy ra khi đang nấp ở trong góc tối cầu thang.

“Ai đấy?” cha tôi hỏi.

“Don Anacleto đây, ông Sempere.”

Cha tôi buông tiếng thở dài. Chúng tôi mở cửa và thấy ông thầy giáo, trông tái hơn bao giờ hết.

“Don Anacleto, có chuyện gì thế? Bác ổn chứ?” cha tôi hỏi, để ông đi vào.

Ông giáo đang cầm một tờ báo gập lại. Ông đưa cho chúng tôi với vẻ kinh hãi. Báo vẫn còn ấm, mực còn ướt.

“Đây là số báo ngày mai,” Don Anacleto lẩm nhẩm. “Trang sáu.”

Điều đầu tiên đập vào mắt chúng tôi là hai bức ảnh dưới đầu đề. Thứ nhất là tấm hình Fermín, với thân hình đầy đặn hơn và nhiều tóc hơn, có lẽ trẻ hơn chừng mười lăm hai mươi tuổi. Bức thứ hai là khuôn mặt một phụ nữ mắt nhắm nghiền, làn da như đá cẩm thạch. Mất vài giây tôi mới nhận ra chị ấy, vì tôi quen nhìn chị trong ánh sáng mờ.

KẺ LANG THANG GIẾT MỘT PHỤ NỮ GIỮA BAN NGÀY>

BARCELONA/THÔNG TẤN XÃ

Cảnh sát đang truy tìm một người lang thang, kẻ đã đâm chết một phụ nữ vào chiều nay. Tên người phụ nữ là Nuria Monfort Masdedeu, cô sống ở Barcelona.

Tội ác xảy ra vào giữa buổi chiều ở khu vực San Gervasio, nơi nạn nhân bị kẻ lang thang hành hung không có động cơ rõ ràng. Theo tin từ Sở Cảnh sát Trung ương, dường như kẻ lang thang đã theo dõi người phụ nữ vì nhiều lý do còn chưa rõ.

Dường như kẻ giết người, Antonio José Gutiérrez Alcayete, 55 tuổi, ngụ tại Villa Inmunda, tỉnh Cáceres, là một tên tội phạm nổi tiếng, có tiểu sử bệnh tâm thần, đã trốn khỏi Nhà tù La Modelo cách đây sáu năm và lẩn tránh chính quyền bằng cách dùng nhiều danh tính khác nhau. Lúc xảy ra tội ác, hắn mặc áo thầy tu. Hắn mang vũ khí, và cảnh sát nhận định hắn vô cùng nguy hiểm. Hiện vẫn còn chưa rõ kẻ giết người và nạn nhân có quen biết nhau không, dù theo các nguồn tin từ Sở Cảnh sát mọi chi tiết đều hướng về giả thiết này; cũng vẫn còn chưa rõ động cơ đằng sau tội ác này là gì. Nạn nhân bị đâm sáu nhát vào bụng, ngực và cổ. Vụ tấn công diễn ra gần một trường học, có một số học sinh chứng kiến và báo cho giáo viên. Sau đó giáo viên gọi cảnh sát và cứu thương. Theo báo cáo của cảnh sát, nguyên nhân tử vong là do bị nhiều vết thương. Nạn nhân chết trên đường đến Bệnh viện Lâm sàng Barcelona lúc 6:15 chiều.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,691
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 41


CẢ NGÀY TRỜI CHÚNG TÔI KHÔNG nhận được tin gì của Fermín. Cha tôi vẫn kiên quyết muốn mở cửa hàng như thường lệ đặng cho thấy mọi chuyện vẫn bình thường và như để tuyên bố Fermín vô tội. Cảnh sát đã cắt cử một người gác ngay cửa cầu thang nhà tôi, một người khác canh chừng ở Quảng trường Santa Ana, nấp dưới cửa nhà thờ như hình tượng thánh. Chúng tôi có thể thấy họ run rẩy dưới cơn mưa tầm tã trút xuống từ sáng tinh mơ, làn sương từ hơi thở của họ càng mờ đi khi trời dần về tối, tay họ vùi trong túi áo mưa. Vài hàng xóm đi ngang, liếc vội qua cửa sổ, nhưng không một ai dám đi vào.

“Chắc tin đồn đã lan

Cha tôi chỉ gật đầu. Suốt buổi sáng ông không hề nói gì, chỉ bày tỏ qua những cử chỉ. Tờ báo có tin cái chết của Nuria Monfort nằm trên bàn. Cứ hai mươi phút ông lại chạy đến đọc lại bài báo với vẻ mặt mà tôi không hiểu nổi. Suốt cả ngày, ông kìm nén nỗi tức giận, để nó tích tụ trong người ông.

“Cho dù bố có đọc bao nhiêu lần bài báo ấy thì nó sẽ không trở thành hiện thực đâu,” tôi nói.

Cha tôi ngẩng đầu lên nhìn tôi nghiêm nghị. “Con có biết người này không? Nuria Monfort ấy?”

“Con đã nói chuyện với chị ấy vài lần.”

Khuôn mặt Nuria Monfort chiếm cứ suy nghĩ của tôi. Sự thiếu trung thực của tôi khiến tôi thấy buồn nôn. Tôi

vẫn bị ám ảnh bởi mùi vị và sự đụng chạm vào môi chị, hình ảnh chiếc bàn ngăn nắp không chê vào đâu được ấy và đôi mắt to, buồn của chị. “Vài lần.”

“Sao con lại phải nói chuyện với cô ta? Con thì có liên quan gì với cô ta?”

“Chị ấy là bạn cũ của Julián Carax. Con đến gặp chị ấy để hỏi chị ấy nhớ gì về Julián Carax. Chỉ thế thôi. Chị ấy là con gái của Isaac, ông bảo vệ. Chính ông ấy đã cho con địa chỉ.”

“Fermín có biết cô ấy không?”

“Không.”

“Sao con dám chắc?”

“Sao bố có thể nghi ngờ anh ta và tin vào những thứ bịa đặt này? Fermín chỉ biết về người phụ nữ đó qua lời kể của con.”

“Và đó là lý do anh ta đi theo dõi cô ấy?”

“Vâng.”

“Vì con đã đề nghị anh ta làm vậy.”

Tôi không trả lời. Cha tôi thở dài sườn sư

“Bố không hiểu đâu.”

“Chắc chắn là như vậy. Bố không hiểu con, không hiểu Fermín, hay...”

“Bố, từ những gì chúng ta biết về Fermín, không thể có chuyện như báo nói được.”

“Thế chúng ta biết gì về Fermín, hả? Trước hết, hóa ra chúng ta còn không biết tên thật của anh ta.”

“Bố hiểu nhầm về anh ta rồi.”

“Không đâu, Daniel. Con mới là người hiểu nhầm, về nhiều việc. Ai bảo con đi đào bới cuộc sống của người khác?”

“Con hoàn toàn có quyền nói chuyện với ai con muốn.”

“Bố cho là con cũng hoàn toàn không chịu trách nhiệm gì đối với hậu quả những việc đó.”

“Bố đang ám chỉ rằng con phải chịu trách nhiệm về cái chết của người phụ nữ này sao?”

“Người phụ nữ này, như cách con gọi cô ấy, có tên và họ, và con biết cô ta.”

“Bố không cần phải nhắc con,” tôi trả lời, mắt hoen ướt.

Cha buồn rầu nhìn tôi, lắc đầu. “Ôi, Chúa ơi, bố không dám nghĩ xem Isaac tội nghiệp chắc đang cảm thấy thế nào.”

“Chị ấy chết đâu phải lỗi của con,” tôi nói lí nhí, nghĩ rằng có lẽ nếu tôi lặp lại những lời ấy đủ lâu thì rốt cuộc tôi sẽ tin chúng.

Cha tôi lui vào phòng trong, vẫn lắc đầu.

“Hẳn con phải biết điều gì mình phải chịu trách nhiệm và điều gì không chứ, Daniel. Đôi khi bố không biết con là ai nữa.”

Tôi chộp lấy áo mưa rồi chạy trốn ra đường và cơn mưa, nơi không ai biết tôi.

TÔI PHƠI MÌNH DƯỚI TRỜI MƯA LẠNH GIÁ, không biết phải đi đâu. Tôi lầm lũi bước, mang theo hình ảnh của Nuria Monfort, bất động, duỗi dài trên phiến đá lạnh căm, xác lỗ chỗ những vết đâm. Tôi đi qua phố Fontanella và không dừng lại nhìn đèn hiệu giao thông. Chỉ đến khi một cơn gió mạnh táp vào mặt tôi mới quay sang và nhìn thấy một bức tường kim loại và ánh sáng đang lao về phía tôi hết tốc độ. Ngay tích tắc cuối, một người qua đường từ phía sau kéo tôi lại và đưa tôi ra khỏi làn xe buýt. Tôi nhìn chằm vào con quái vật kim loại mờ sáng chỉ cách mặt mình chừng dăm xăng ti mét, tưởng như cái chết vừa chực lướt qua, chỉ cách một phần mười giây. Lúc tôi nhận thức được chuyện gì vừa xảy ra thì người cứu mạng tôi đang bước về phía vạch đường cho người đi bộ, chỉ là một cái bóng trong chiếc áo mưa màu xám. Tôi vẫn chôn chân tại chỗ, choáng váng. Qua làn mưa, tôi nhận ra người cứu tôi đã dừng lại bên kia đường và đang quan sát tôi dưới cơn mưa như trút. Chính là tên cảnh sát thứ ba, Palacios. Một bức tường dày đặc giao thông lèn giữa chúng tôi, và khi tôi nhìn lại, cảnh sát Palacios không còn ở đó.

Tôi hướng về nhà Bea, không thể đợi lâu hơn được nữa. Tôi cần gợi lại chút gì đó tốt đẹp ít ỏi còn lại trong mình, điều nàng đã cho tôi. Tôi vội vã chạy lên cầu thang và dừng lại trước cửa căn hộ nhà Aguilar, gần như nghẹn thở. Tôi túm nắm cửa và gõ ba tiếng lớn. Trong khi chờ đợi, tôi thu hết can đảm và bắt đầu nhận ra bộ dạng của mình: ướt sũng như chuột lột. Tôi vuốt ngược tóc và tự nhủ con súc sắc đã tung ra. Nếu ông Aguilar xuất hiện và sẵn sàng bẻ chân tôi, nghiền nát mặt tôi thì càng sớm càng tốt. Tôi lại gõ cửa và sau một hồi tôi nghe tiếng bước chân đang đến. Lỗ dòm hé mở. Một đôi mắt đen nghi hoặc nhìn chằm vào tôi.

“Ai đó?”

Tôi nhận ra giọng Cecilia, một trong những cô giúp việc nhà Aguilar.

“Là Daniel Sempere đây, chị Cecilia.”

Lỗ dòm đóng lại, vài giây sau chốt cửa và then cài lên tiếng. Cánh cửa lớn từ từ mở ra, và tôi được Cecilia tiếp đón trong chiếc mũ vải và hầu phục, tay cầm một cây giá nến. Từ vẻ thận trọng của chị, tôi đoán chắc mình như một con ma.

“Chào Cecilia. Bea có nhà không?”

Chị nhìn tôi khó hiểu. Theo kinh nghiệm qua những việc thường nhật trong nhà, rằng sự hiện diện của tôi, mà gần đây có vẻ bất thường, chỉ liên quan đến Tomás, bạn học cũ của tôi.

“Cô Bea không có nhà...”

“Cô ấy đi ra ngoài sao?”

Cecilia, người mà ngay cả khi tề chỉnh nhất cũng luôn đầy sợ hãi, khẽ gật đầu.

“Chị có biết bao giờ cô ấy về không?”

Chị giúp việc nhún vai. “Cô ấy đi với ông bà Aguilar đến bác sĩ, cách đây hai tiếng.”

“Đến bác sĩ ư? Cô ấy ốm sao?”

“Tôi không biết, thưa cậu.”

“Thế họ đến bác sĩ nào?”

“Tôi không biết, thưa cậu.”

Tôi quyết định không tra khảo chị giúp việc nữa. Sự vắng mặt của cha mẹ Bea mở ra những hướng đi khác. “Còn Tomás, cậu ấy có nhà không?”

“Có, thưa cậu Daniel. Xin mời vào, tôi sẽ đi gọi cậu chủ.”

Tôi bước vào sảnh và đợi. Như trước đây thì tôi sẽ lên thẳng phòng bạn mình, nhưng đã từ quá lâu tôi không đến ngôi nhà này đến nỗi nay tôi thấy mình như người lạ. Cecilia biến mất vào hành lang chìm trong ánh sáng, bỏ lại tôi nơi bóng tối. Tôi nghĩ có thể nghe giọng Tomás từ xa rồi có tiếng bước chân lại gần. Tôi bịa ra cớ để giải thích cho cuộc viếng thăm không báo trước này. Nhưng hình dáng xuất hiện nơi lối vào sảnh lại là Cecilia. Chị nhìn tôi vẻ hối lỗi, và nụ cười gượng gạo của tôi biến mất.

“Cậu Tomás bảo cậu ấy rất bận, không thể gặp cậu bây giờ được.”

“Chị có bảo với cậu ấy là tôi, Daniel Sempere không?”

“Có, thưa cậu Daniel. Cậu chủ bảo cậu về

Một nhát dao lạnh toát đâm vào bụng, cắt đi hơi thở tôi.

“Tôi xin lỗi cậu,” Cecilia nói.

Tôi gật đầu, không biết phải nói gì. Chị giúp việc mở cửa ngôi nhà mà mãi gần đây tôi vẫn xem như ngôi nhà thứ hai của mình.

“Cậu có cần ô không?”

“Không, cảm ơn Cecilia.”

“Tôi xin lỗi, cậu Daniel,” chị giúp việc lại nói.

Tôi cười yếu ớt. “Không sao đâu, Cecilia.”

Cửa đóng lại, bỏ mặc tôi trong bóng đêm. Tôi đứng đó một lúc rồi lê thân xuống cầu thang. Cơn mưa cứ tàn nhẫn trút xuống. Tôi bước xuống đường. Khi đến góc phố, tôi dừng lại nhìn một lúc. Tôi ngước lên căn hộ nhà Aguilar. Tôi có thể thấy bóng bạn cũ Tomás của tôi hơi hằn nơi cửa sổ phòng ngủ cậu ấy. Cậu ấy đang nhìn tôi, bất động. Tôi vẫy tay chào. Cậu ấy không chào đáp lại. Vài giây sau, cậu ấy bỏ đi về phía kia căn phòng. Tôi đợi chừng năm phút, hy vọng cậu ấy sẽ xuất hiện, nhưng cậu không xuất hiện.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,691
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 42


TRÊN ĐƯỜNG VỀ CỬA HÀNG, TÔI ĐI QUA CON PHỐ cạnh Capitol Cinema, ở đó hai họa sĩ đang đứng trên giàn giáo chán nản nhìn bức tranh cổ động mới vẽ của họ bị nhòe nhoẹt dưới cơn mưa. Từ xa, tôi nhận ra hình ảnh kiên cường của tên lính canh đang làm nhiệm vụ ngay đối diện cửa hàng. Khi đi qua cửa hàng của Đồng Federico Flaviá, tôi nhận thấy bác sửa đồng hồ đang đứng trước cửa nhìn trời mưa rơi. Vết sẹo từ khi ở Trụ sở Cảnh sát vẫn còn trên mặt. Bác mặc một bộ đồ len màu xám vừa in và cầm điếu thuốc lá mà bác chưa thèm châm lửa. Tôi vẫy tay chào, và bác mỉm cười đáp lại.

“Điều gì khiến cậu căm thù ô thế, Daniel?

“Còn điều gì có thể đẹp đẽ hơn mưa, Don Federico?”

“Viêm phổi. Vào nhà đi, ta sửa đồng hồ cho cháu rồi đây.”

Tôi nhìn bác, không hiểu. Mắt Don Federico dán vào tôi, và nụ cười của bác chưa biến mất. Tôi gật đầu và theo bác vào cửa hàng kỳ diệu ấy. Ngay khi chúng tôi vào trong, bác đưa cho tôi chiếc túi giấy nhỏ màu nâu.

“Cháu nên về ngay. Tên bù nhìn đang canh cửa hàng không rời mắt khỏi chúng ta đâu.”

Tôi nhìn vào trong túi. Có một cuốn sách nhỏ, bọc da. Một cuốn sách kinh. Quyển kinh Fermín cầm trong tay khi lần cuối cùng tôi gặp anh ta. Don Federico đẩy tôi ra ngoài đường với một cái gật đầu nghiêm nghị bảo tôi phải kím tiếng. Khi tôi ra ngoài, bác lấy lại vẻ vui vẻ và c

ao giọng.

“Mà này, đừng có bẻ kim khi vặn cót, không nó lại hỏng đấy, nhớ chưa?”

“Đừng lo, Don Federico, cảm ơn bác.”

Tôi bước đi, bụng cứ thon thót theo từng bước chân. Tôi đi thẳng đến tay cảnh sát mặc thường phục đang gác cửa hàng. Khi qua trước mặt hắn, tôi chào hắn bằng chính bàn tay đang cầm chiếc túi Don Federico đã đưa. Tay cảnh sát nhìn nó với vẻ quan tâm mơ hồ. Tôi vào cửa hàng. Cha tôi vẫn đứng sau quầy, như thể ông không hề động đậy kể từ khi tôi ra khỏi quán. Ông nhìn tôi nghi hoặc.

“Daniel này, điều bố đã nói...”

“Bố đừng lo. Bố nói đúng.”

“Con đang run đấy.”

Tôi gật đầu và thấy ông chạy đi tìm ấm nước nóng. Tôi tranh thủ lúc ấy để chui vào nhà vệ sinh cạnh phòng sau và kiểm tra cuốn sách. Bức thư của Fermín rơi ra, bay lật phật như con bướm. Tôi tóm lấy nó trong không khí. Bức thư được viết trên loại giấy cuốn thuốc lá, chữ nhỏ li ti, tôi phải đưa lên gần đèn mới đọc được.

***>

Daniel thân mến,

Đừng tin những gì báo chí nói về vụ giết Nuria Monfort. Nhưng thường khi, nó chẳng gì hơn những chuyện bịa đặt. Tôi an toàn và khỏe mạnh, đang trốn ở một nơi đáng tin cậy. Đừng cố tìm tôi hay gửi tin cho tôi. Hãy hủy bức thư này ngay sau khi đọc xong. Không phải nuốt vào bụng, chỉ cần đốt hoặc xé vụn nó đi. Tôi sẽ dùng trí khôn của mình để liên lạc với cậu - và nhờ sự giúp đỡ của những trung gian thân thiện nữa. Tôi cầu xin cậu chuyển nội dung thông điệp này, bằng mật mã và với sự thận trọng, cho người tôi yêu thương. Đừng làm gì hết.

Bạn của cậu, người thứ ba.

FRdT

***

Tôi đang bắt đầu đọc lại bức thư thì có người gõ cửa nhà vệ sinh.

“Tôi vào được không?” giọng lạ hỏi.

Tim tôi đứng lại. Không biết phải làm gì khác, tôi vo tờ giấy quấn thuốc lại cho vào mồm. Tôi giật dây xả nước, và khi nước đang xối xả trong đường ống và bình chứa, tôi nuốt cuộn giấy. Nó có mùi sáp và kẹo Sugus. Mở cửa ra, tôi đụng phải nụ cười bò sát của tên cớm đóng chốt trước cửa hiệu sách.

“Xin lỗi. Tôi không biết có chịu được trời mưa cả ngày không, nhưng dường như có gì đó khẩn cấp đang hình thành dưới đây, và khi tự nhiên kêu gọi...”

“Tất nhiên,” tôi nói, tránh đường cho hắn. “Anh cứ tự nhiên.”

“Cảm ơn nhiều.”

Tay cảnh sát, kẻ mà dưới bóng đèn trần làm tôi nghĩ đến một con chồn nhỏ, nhìn tôi từ đầu đến chân. Đôi mắt chuột của hắn dừng lại trên cuốn Kinh Thánh tôi cầm trong tay.

“Nếu không có gì đó đọc thì tôi không ị được,” tôi giải thích.

“Tôi cũng thế. Vậy mà người ta dân Tây Ban Nha không đọc sách. Tôi mượn được không?”

“Trên nắp bồn xả có cuốn mới nhất đoạt Giải Phê bình đấy,” tôi nói cướp lời. “Nó rất có tác dụng.”

Tôi bình tĩnh đi ra ngoài và đến chỗ cha tôi, ông đang rót cho tôi một tách cà phê.

“Hắn ta làm gì ở đây?” tôi hỏi.

“Hắn lấy mộ mẹ hắn ra thề rằng hắn sắp bĩnh ra quần. Bố còn làm gì được đây?”

“Để cho hắn ở ngoài mà bĩnh ra cho ấm.”

Cha tôi nhíu mày.

“Nếu bố không phiền, con muốn lên nhà.”

“Tất nhiên bố không phiền. Và nhớ mặc đồ khô nhé. Con như sắp chết ấy.”

Căn hộ lạnh ngắt và yên tĩnh. Tôi vào phòng mình và nhòm ra cửa sổ. Tên lính gác vẫn ở đó, cạnh cửa nhà thờ Santa Ana. Tôi cởi bộ đồ ướt rồi mặc một bộ pyjama cùng với áo ngủ của cha tôi. Tôi nằm xuống giường, không thèm bật đèn và để mình chìm vào bóng đêm cùng tiếng mưa gõ lên khung cửa. Tôi nhắm mắt, cố gợi lên hình ảnh Bea, đụng chạm của nàng và mùi vị của nàng. Đêm hôm trước tôi chẳng hề chợp mắt, nên tôi nhanh chóng mệt ngoài. Trong giấc mơ, hình ảnh thần Chết mặc áo trùm đầu bay khắp Barcelona, một dáng hình ma quái lượn lờ trên những gác chuông và mái nhà, kéo theo những sợ thừng đen buộc hàng trăm chiếc quan tài nhỏ màu trắng. Những chiếc quan tài bỏ lại sau chúng những dải hoa màu đen, trên những cánh hoa là tên Nuria Monfort được viết bằng máu.

Tôi thức dậy khi trời mờ xám xịt. Cửa sổ vẫn mờ hơi nước. Tôi mặc đồ ấm và đi đôi ủng cao, rồi bước ra hành lang dò giẫm đi dọc căn nhà. Tôi luồn qua cửa rồi bước xuống đường. Sạp báo trên phố Ramblas đã sáng đèn ở xa xa. Tôi đi thẳng đến quầy ở đầu phố Tallers mua số báo đầu tiên trong ngày, nó vẫn còn mùi mực ấm. Tôi giở vội các trang cho đến mục cáo phó. Tên Nuria Monfort được in dưới một dấu thập, và tôi không thể đành lòng nhìn vào. Tôi bước đi với tờ báo gấp trong tay, tìm kiếm bóng đen. Tang lễ được tổ chức buổi chiều, tại nghĩa trang Montjuïc. Sau khi đi quanh khu phố, tôi quay về. Cha tôi vẫn đang ngủ, tôi về phòng mình. Tôi ngồi tước bàn và lấy chiếc bút Meinsterstück trong hộp ra, đoạn lấy một tờ giấy trắng và hy vọng ngòi bút sẽ dẫn dắt tôi. Trong tay tôi, cây bút không có gì muốn nói. Tôi vô vọng cố gắng nặn ra những lời muốn nhắn gửi cho Nuria Monfort, nhưng tôi không thể viết hay cảm thấy điều gì ngoại trừ nỗi kinh hoàng về sự thiếu vắng chị, biết rằng chị đã mất, bị lôi đi xa. Tôi biết một ngày nào đó chị sẽ quay về với tôi, nhiều tháng hoặc nhiều năm nữa, rằng tôi sẽ luôn sống lại ký ức về chị khi chạm vào một người lạ, trong những hình ảnh không còn thuộc về tôi nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,691
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 43


NGAY TRƯỚC BA GIỜ, tôi lên chuyến xe buýt trên phố Colón đưa tôi đến nghĩa trang Montjuïc. Qua cửa sổ, tôi có thể thấy rừng cột và dây buồm vắt vẻo ở bến tàu. Chiếc xe buýt vắng tanh chạy quanh Núi Montjuïc và bắt đầu lên con đường dẫn đến cổng phía Đông của nghĩa trang Barcelona mênh mông. Tôi là hành khách cuối cùng.

“Tuyến xe buýt cuối cùng lúc mấy giờ nhỉ?” tôi hỏi tài xế trước khi xuống.

“Bốn rưỡi.”

Tài xế bỏ tôi ở cổng nghĩa trang. Một con đường với hàng cây bách mọc lên trong sương mù. Thậm chí từ đây, tại chân núi, ta có thể nhìn thấy thành phố bao la của người chết thoai thoải vươn lên đỉnh núi: con đường của những mộ chí, những lối đi dọc hai bên là bia đá, và những hành lang đầy lăng mộ, những cột tháp mà trên đỉnh là những thiên thần cuồng nộ và cả khu rừng những lăng tẩm dường như mọc chồng lấn lên nhau. Thành phố của người chết là chốn mênh mông những cung điện được canh gác bởi một đội quân những tượng đá đang ngập chìm xuống bùn đen. Tôi hít một hơi thật sâu rồi bước vào mê cung ấy. Mẹ tôi được chôn cách lối tôi đang đi chừng một trăm thước. Cứ mỗi bước chân, tôi có thể cảm thấy cái lạnh, cái trống trải và sự cuồng nộ của chốn ấy; nỗi kinh hoàng trong sự tĩnh lặng của nó, trong những khuôn mặt bị mắc kẹt trong những tấm hình cũ bị bỏ mặc, chỉ còn những ngọn nến và những bông hoa héo làm bầu bạn. Sau một lúc, tôi bắt gặp ở xa xa một ngọn đèn ga sáng quanh một huyệt mộ, dăm bảy nguời đang đứng thành hàng dưới nền trời xám tro. Tôi rảo bước và dừng lại ở nơi tôi có thể nghe thấy lời v

Quan tài, một cái hộp gỗ thông sần sùi, đặt trên bùn. Hai phu đào huyệt, tựa người vào thuổng, canh cho nó. Tôi nhìn lướt qua những người dự tang. Ông cụ Isaac, người bảo vệ Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên, không đến tang lễ con gái mình. Tôi nhận ra người hàng xóm sống đối diện nhà. Chị ta lắc đầu, khóc nức nở, trong khi một người đàn ông vỗ vỗ lưng chị với vẻ cam chịu. Tôi đoán là chồng chị. Bên cạnh họ là một phụ nữ chừng bốn mươi, mặc váy sẫm màu mang một bó hoa. Chị khóc lặng lẽ, môi mím chặt, không nhìn vào quan tài. Tôi chưa bao giờ thấy người này. Đứng cách xa đám người dự lễ, nấp trong chiếc áo mưa sẫm màu và cầm mũ sau lưng, là tên cảnh sát đã cứu mạng tôi ngày hôm trước. Palacios. Hắn ngước lên quan sát tôi chừng vài giây không chớp mắt. Những lời đui mù, vô nghĩa của vị linh mục là thứ duy nhất kéo chúng tôi ra khỏi sự tĩnh lặng hãi hùng. Tôi nhìn vào cỗ quan tài vấy đầy bùn. Tôi tưởng tượng ra chị nằm trong đó, và tôi không nhận ra mình đang khóc cho đến khi người phụ nữ mặc áo sẫm màu bước đến đưa cho tôi một bông hoa. Tôi vẫn đứng yên cho đến khi cả nhóm tản ra. Vị linh mục ra hiệu, những phu đào huyệt liền vào thế sẵn sàng làm phần việc của mình bên ánh đèn. Tôi cho bông hoa trong túi áo khoác và cất bước, không thể nói lời chào cuối.

Trời bắt đầu nhá nhem khi tôi ra đến cổng nghĩa trang, và tôi cho là mình đã lỡ chuyến xe buýt cuối. Tôi chuẩn bị một cuốc đi bộ dài, dưới bóng bãi tha ma, dọc con đường men theo cảng để quay trở lại Barcelona. Một chiếc xe màu đen đỗ trước mặt tôi chừng hai mươi thước, đèn bật sáng. Trong xe, một người đang hút thuốc. Khi tôi lại gần, Palacios mở cửa xe.

“Vào đi. Tôi đưa cậu về nhà. Giờ này chẳng có taxi hay xe buýt nào quanh đây đâu.”

Tôi ngần ngại một lát. “Tôi muốn đi bộ hơn.”

“Đừng ngu ngốc thế. Vào đi.”

Hắn ta nói nhát gừng, giọng điệu của người quen ra lệnh và được tuân lệnh ngay. “Thôi nào,” hắn lại nói.

Tôi chui vào xe, và gã cảnh sát nổ máy.

“Enrique Palacios,” hắn nói và chìa tay ra.

Tôi không bắt. “Nếu anh cho tôi xuống chỗ Colón thì tốt.”

Chiếc xe lao đi. Chúng tôi hòa vào luồng giao thông trên phố và đi một quãng khá dài mà không thốt một lời.

“Tôi muốn cậu biết là tôi rất tiếc về chuyện cô Monfort.”

Những lời lẽ đó phát ra từ miệng hắn ta tựa như một sự lăng mạ, sự sỉ nhục.

“Tôi rất biết ơn vì anh đã cứu mạng tôi ngày hôm trước, nhưng tôi phải nói rằng tôi không quan tâm anh cảm thấy thế nào, anh Enrique Palacios.”

“Tôi không phải người như cậu nghĩ đâu, Daniel. Tôi muốn giúp cậu thôi.”

“Nếu anh muốn tôi chỉ nơi ở của Fermín thì anh có thể cho tôi xuống ở đây.”

“Tôi không quan tâm quái gì ông bạn của cậu cả. Lúc này tôi không làm nhiệm vụ.”

Tôi không đáp.

“Cậu không tin tôi, và tôi không trách cậu. Nhưng ít nhất hãy nghe tôi nói. Chuyện này đã đi quá xa rồi. Không có lý do nào buộc người phụ nữ này phải chết cả. Tôi cầu xin cậu hãy buông xuôi chuyện này đi và xóa người đàn ông này, tên Carax, khỏi tâm trí cậu vĩnh viễn đi.”

“Anh nói như là tôi kiểm soát được những chuyện đang xảy ra. Tôi chỉ là người chứng kiến. Toàn bộ vở kịch này do ông chủ các anh và cả đám các anh dựng lên.”

“Tôi quá chán ngán những đám ma rồi, Daniel. Tôi không muốn phải đến dự đám ma cậu.”

“Thế càng tốt, vì anh không được mời.”

“Tôi nói nghiêm túc đấy.”

“Tôi cũng vậy. Cho tôi xuống ở đây.”

“Chỉ vài phút nữa là tới phố Colón.” không quan tâm. Chiếc xe này có mùi chết chóc, giống như anh. Cho tôi xuống đi.”

Palacios cho xe chậm lại và dừng xe vào vệ đường. Tôi ra khỏi xe và đóng sầm cửa, tránh ánh mắt Palacios. Tôi đợi cho hắn đi, nhưng gã cảnh sát không tỏ vẻ định đi đâu cả. Tôi quay lại thì thấy hắn hạ cửa kính xuống. Tôi nghĩ đã đọc được sự chân thành, thậm chí đau đớn, trên khuôn mặt hắn, nhưng tôi không tin.

“Nuria Monfort đã chết trong tay tôi, Daniel,” hắn nói. “Tôi nghĩ những lời cuối cùng của cô ấy là dành cho cậu.”

“Chị ta nói gì?” tôi hỏi, giọng nén lại lạnh lùng. “Chị ta có nhắc tên tôi không?”

“Cô ta bị hôn mê, nhưng tôi nghĩ cô ta nhắc đến cậu. Lúc ấy cô ta nói có những ngục tù còn tồi tệ hơn cả ngôn từ. Rồi, trước khi chết, cô ta bảo tôi nói với cậu hãy buông tha cô ta.”

Tôi nhìn hắn, không hiểu. “Buông tha ai?”

“Ai đó tên là Penélope. Tôi đoán hẳn đấy là bạn gái cậu.”

Palacios cúi xuống và mở máy hòa vào dòng xe cộ. Tôi vẫn đứng đó, bối rối nhìn chằm chằm ánh đèn của chiếc xe khi chúng biến mất vào làn nhập nhòe xanh đỏ. Rồi tôi bước về phố Colón, thầm nhắc lại những lời trăn trối của Nuria Monfort nhưng không tìm ra nghĩa của chúng. Đến Quảng trường Portal de la Paz, tôi dừng lại cạnh bến tàu du lịch để nhìn về phía cảng. Tôi ngồi trên bậc thềm dẫn khuất xuống dòng nước tối tăm, ngay tại chính nơi này, vào một đêm xa xôi, tôi đã gặp Laín Coubert, người đàn ông không có mặt.

“Có những ngục tù còn tệ hơn ngôn từ,” tôi lẩm bẩm.

Chỉ lúc ấy tôi mới hiểu thông điệp của Nuria Monfort không phải cho tôi. Tôi không phải là người phải buông tha cho Penélope. Những lời trăng trối của chị không phải dành cho một người xa lạ, mà dành cho người chị thầm yêu đã hai mươi năm: Julián Carax.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,691
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 44


MÀN ĐÊM ĐANG BUÔNG XUỐNG khi tôi đến Quảng trường San Felipe Neri. Chiếc ghế nơi lần đầu tiên tôi bắt gặp hình ảnh Nuria Monfort vẫn nằm cạnh chân đèn đường, không có ai ngồi và đầy tên những tình nhân khắc bằng dao nhíp, cùng những lời hẹn thề và lăng mạ. Tôi ngước nhìn lên cửa sổ nhà Nuria Monfort trên tầng ba và nhận ra ánh sáng mờ đỏ leo lắt. Một ngọn nến.

Tôi bước vào hành lang u ám và mò mẫm lên cầu thang. Tay tôi run rẩy khi tôi lên đến chiếu nghỉ tầng ba. Một luồng sáng đo đỏ ló qua khe cửa khép hờ. Tôi đặt tay lên nắm cửa và đứng đó bất động, nghe ngóng. Tôi nghĩ đã nghe thấy tiếng thầm thì, một giọng nghẹn ngào từ trong nhà phát ra. Có lúc tôi tưởng rằng nếu mở cửa, tôi sẽ thấy chị đang chờ tôi ở phía trong nhà, ngồi hút thuốc cạnh ban công, hai chân thu lại, người dựa vào tường, neo đúng nơi tôi đã bỏ rơi chị. Nhẹ nhàng, e sẽ quấy rầy chị, tôi mở cửa bước vào nhà. Trong phòng ăn, rèm ban công đung đưa. Một người đang ngồi bên cửa sổ, bất động, đang cầm một ngọn nến thiêu đốt trong lòng bàn tay. Tôi không thể nhìn ra khuôn mặt dưới ánh sáng ấy, nhưng một giọt nước mắt long lanh chảy xuống má, sáng lên như nhựa tươi, rồi rơi vào lòng người đó. Isaac Monfort quay lại, khuôn mặt ông thấm đẫm nước mắt.

“Cháu không thấy ông dự tang chiều nay,” tôi nói.

Ông lắc đầu, đưa vạt áo lau nước mắt.

“Nuria không ở đó,” ông già lẩm bẩm một lúc. “Người chết không bao giờ đi dự đám tang của mình.”

Ông nhìn quanh, như thể con gái ông vẫn ở trong phòng, đang ngồi cạnh chúng tôi trong bóng tối, đang lắng nghe chúng tôi.

“Cậu có biết chưa bao giờ tôi vào căn nhà này không?” ông hỏi. “Mỗi khi gặp nhau, Nuria luôn đến chỗ tôi. ‘Như vậy tiện cho bố hơn, bố ạ,’ con bé nói. ‘Việc gì phải đi cả đống cầu thang như vậy?’ ta luôn bảo, ‘Được rồi, nếu con không mời, bố sẽ không đến,’ và nó sẽ trả lời, ‘Con không cần phải mời bố đến nhà con, bố ạ. Người ta chỉ mời người lạ thôi. Bố có thể đến lúc nào bố muốn.’ Trong mười lăm năm qua, ta chưa một lần đến nhà nó. Ta luôn bảo rằng nó chọn khu dân cư không tốt. Không đủ ánh sáng. Một tòa nhà cũ kỹ. Nó chỉ gật đầu đồng ý. Giống như khi ta hay nói nó đã chọn một cuộc sống chẳng ra gì. Chẳng có tương laiằng chồng thất nghiệp. Thật buồn cười khi chúng ta cứ phán xét lẫn nhau và không nhận ra mức độ thảm hại của chính chúng ta, cho đến khi người kia không còn nữa, cho đến khi họ bị tước khỏi chúng ta rồi. Họ đã bị tước đi khỏi chúng ta vì họ chưa bao giờ là của ta cả...”

Giọng của ông lão, đã mất đi nét châm chọc, ngập ngừng và dường như mệt mỏi như vẻ mặt ông.

“Nuria yêu ông nhiều lắm, Isaac ạ. Ông đừng nghi ngờ gì. Và cháu biết chị ấy cũng cảm nhận được tình yêu của ông,” tôi nói.

Ông già Isaac lại lắc đầu. Ông mỉm cười, nhưng giọt nước mắt lặng lẽ của ông không ngừng tuôn. “Có lẽ nó yêu ta, theo cách của nó, cũng như ta yêu nó theo cách của mình. Nhưng ta và nó không hiểu nhau. Có lẽ ta chưa bao giờ cho phép nó hiểu ta, hay chưa bao giờ tìm cách để hiểu nó. Ta với nó sống đời mình như hai người lạ, ngày ngày gặp nhau và chào nhau theo phép lịch sự. Và ta nghĩ có lẽ nó chết mà không tha thứ cho ta.”

“Isaac, cháu đảm bảo với ông...”

“Daniel, cháu còn trẻ và rất cố gắng, nhưng dù ta có uống chút đỉnh rồi và ta không biết mình đang nói gì, cháu vẫn không học được cách nói dối cho hay hòng lừa một ông già mà trái tim đã nát tan vì bất hạnh.”

Tôi cúi mặt.

“Cảnh sát bảo người đàn ông đã giết nó là bạn của cháu,” Isaac thăm dò.

“Cảnh sát đang nói dối.”

Isaac nhấn giọng. “Ta biết.”

“Cháu có thể đảm bảo với ông...”

“Không cần đâu, Daniel. Ta biết cháu nói thật,” Isaac nói, rồi lôi phong bì trong áo khoác ra.

“Chiều hôm trước khi chết, Nuria đến gặp ta, như nó thường làm nhiều năm trước. Ta nhớ chúng ta thường đi ăn tại một quán cà phê trên phố Guardia, nơi ta thường đưa nó đến lúc nó còn bé. Chúng ta luôn nói chuyện về sách, về những cuốn sách cũ. Đôi khi nó kể cho ta nghe chuyện công việc, những chuyện vặt vãnh, cái thứ người ta hay người lạ khi đi xe buýt... Có lần nó xin lỗi vì làm ta thất vọng. Ta hỏi sao nó có ý nghĩ kỳ cục như vậy. ‘Từ trong mắt bố, bố ạ, từ trong mắt bố đấy,” nó nói. Chưa bao giờ ta nảy ra ý nghĩ rằng với nó ta thậm chí còn là nỗi thất vọng lớn hơn. Đôi khi, chúng ta nghĩ về con người như những tấm vé số, rằng chúng ở đó để biến những giấc mơ ngu xuẩn nhất của chúng ta thành sự thật.”

“Isaac, với tất cả lòng kính trọng của cháu, ông say quá rồi, ông không hiểu mình đang nói gì đâu.”

“Rượu khiến cho người khôn ngoan thành kẻ khù khờ và biến kẻ khù khờ thành khôn ngoan. Ta biết đủ để hiểu rằng tại sao con gái ta không bao giờ tin tưởng ta. Nó tin cậu hơn, Daniel, thế mà nó chỉ mới gặp cậu có vài lần thôi.”

“Cháu dám chắc là ông nhầm rồi...”

“Chiều qua, chúng ta gặp nhau, nó mang đến phong bì này. Trông nó lo lắng, bất an về điều gì đó mà nó không muốn kể. Nó nhờ ta giữ phong bì này, nếu có chuyện gì xảy ra thì đưa cho cháu.”

“Nếu có chuyện gì xảy ra ư?”

“Nó nói vậy đấy. Trông nó đau khổ đến mức ta phải bảo rằng nên đi báo cảnh sát, rằng dù có chuyện gì thì cũng tìm được cách. Rồi nó bảo chẳng đời nào nó nghĩ đến chuyện đến cảnh sát nhờ giúp đỡ. Ta cầu xin nó cho ta biết chuyện gì, nhưng nó bảo phải đi và bắt ta hứa sẽ đưa cho cháu phong thư này nếu trong vài ngày tới nó không quay lại lấy. Nó bảo ta không được mở.”

Isaac đưa cho tôi phong thư. Nó mở rồi. “Ta đã dối nó, như mọi lần,” ông nói.

Tôi kiểm tra phong thư. Trong đó là một tập giấy viết tay. “Ông đã đọc chưa?” tôi hỏi.

Ông già chậm rãi gật đầu.

“Chúng nói gì?”

Ông cụ ngước lên. Môi ông run run. Dường như ông đã già đi cả trăm tuổi kể từ khi chúng tôi gặp nhau lần gần đây nhất.

“Đấy là câu chuyện cháu đang tìm kiếm, Daniel. Câu chuyện một người phụ nữ mà không bao giờ biết, thậm chí dù nó mang dòng máu và tên họ của ta. Giờ bức thư thuộc về cháu.”

Tôi cho phong thư vào túi áo.

“Giờ ta phải xin cháu để ta được yên ở đây, với con gái ta, nếu cháu không phiền. Một lát trước, khi đọc những trang thư đó, dường như ta đã gặp lại nó. Dù cố gắng thế nào, ta cũng chỉ có thể nhớ về nó như là một cô bé con. Hồi ấy nó khá trầm tính. Nó suy tư nhìn vào mọi thứ, và không bao giờ cười thành tiếng. Nó thích nhất là những câu chuyện, và ta không biết có đứa bé nào từng học đọc sớm như vậy. Nó từng nói muốn trở thành nhà văn và viết những cuốn bách khoa và chuyên khảo về lịch sử và triết học. Mẹ nó bảo đấy là lỗi của ta. Bà ấy bảo Nuria ngưỡng mộ ta vì con bé nghĩ cha mình chỉ yêu sách mà thôi, nó muốn viết những cuốn sách để được cha yêu thương.”

“Isaac, cháu không nghĩ tối nay ông ở một mình là ý hay đâu. Sao ông không về nhà cháu? Ông sẽ ngủ ở nhà cháu, và sẽ có cha cháu để bầu bạn.”

Isaac lắc đầu. “Ta có việc phải làm. Cháu về nhà đọc thư đi. Chúng thuộc về cháu.”

Ông già quay đi, và tôi bước phía cửa. Lúc tôi đến ngưỡng cửa, Isaac gọi tôi lại, gần như thì thầm.

“Daniel này...”

“Vâng?”

“Hãy thận trọng nhé.”

Khi tôi ra phố, dường như bóng đêm đang lần bò dọc trên vỉa hè để theo đuổi tôi. Tôi rảo nhanh chân và không ngừng lại cho đến khi về căn hộ trên phố Santa Ana. Vào nhà, tôi thấy cha đang ngồi trên ghế bành, với một cuốn sách mở trong lòng. Đấy là cuốn album ảnh gia đình. Khi thấy tôi, ông đứng dậy với vẻ mặt như trút đi được gánh nặng lớn.

“Bố bắt đầu thấy lo,” ông nói. “Lễ tang thế nào?”

Tôi nhún vai, và cha tôi gật đầu nghiêm trọng.

“Bố để đồ ăn cho con đấy. Nếu con muốn, bố sẽ hâm lại

“Cảm ơn bố, con không đói đâu. Con ăn ở ngoài rồi.”

Ông nhìn tôi đăm đăm rồi lại gật đầu. Ông quay sang dọn đĩa trên bàn. Lúc ấy, không hiểu tại sao, tôi bước đến ôm chầm lấy ông. Cha tôi, ngạc nhiên, cũng ôm lấy tôi.

“Daniel, con có sao không?”

Tôi ôm chặt cha mình trong tay.

“Con yêu bố,” tôi lí nhí.

Chuông nhà thờ đổ khi tôi bắt đầu đọc bản viết tay của Nuria Monfort. Nét chữ nhỏ, gọn gàng làm tôi nhớ đến cái bàn ngăn nắp không chê vào đâu được kia. Có lẽ chị đã cố gắng tìm trong những lời này sự bình yên và an toàn mà cuộc đời không ban cho chị.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,691
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 45


SẼ KHÔNG CÓ CƠ HỘI THỨ HAI TRONG ĐỜI, ngoại trừ cơ hội để thấy ăn năn. Julián Carax và tôi gặp nhau vào mùa thu năm 1933. Lúc ấy tôi đang làm việc cho nhà Toni Cabestany, người đã phát hiện ra anh ấy năm 1927 trong một chuyến đi “săn-lùng-sách” của ông tới Paris. Julián kiếm sống nhờ chơi dương cầm tại một quán bar vào các buổi chiều, còn về đêm anh ấy viết. Chủ quán, một người tên Irene Marceau, quen biết hầu hết các nhà xuất bản ở Paris, và nhờ có bà nài xin các nhà xuất bản, dành ưu đãi cho họ hoặc đe dọa tiết lộ bí mật của họ mà Julián Carax có một số tiểu thuyết được xuất bản, dù với doanh số bán ra thảm hại. Bằng một giá cho không, Cabestany quyền xuất bản các tác phẩm của Carax ở Tây Ban Nha và Mỹ La tinh, việc dịch thuật từ bản gốc tiếng Pháp sang tiếng Tây Ban Nha do chính tác giả đảm nhiệm. Cabestany hy vọng bán được chừng ba đến bốn ngàn bản mỗi tác phẩm, nhưng hai đầu sách trước xuất bản ở Tây Ban Nha đã thất bại toàn diện: mỗi cuốn bán được chưa đầy trăm bản. Bất chấp những kết quả bi thảm này, cứ hai năm chúng tôi nhận được bản thảo mới của Julián, Cabestany đón nhận không một lời phản đối, bảo rằng ông đã ký thỏa thuận với tác giả, lợi nhuận không phải là tất cả, văn chương hay cần được ủng hộ với bất cứ giá nào.

Một ngày, tôi tò mò hỏi ông tại sao ông tiếp tục xuất bản các tiểu thuyết của Julián Carax như một chuyến phiêu lưu thua lỗ. Trả lời tôi, Cabestany trịnh trọng bước đến giá sách, lấy một cuốn của Julián, bảo tôi đọc. Tôi đã đọc. Hai tuần sau, tôi đã đọc hết tất cả sách của Carax. Lần này câu hỏi của tôi là, tại sao những tiểu thuyết như vậy lại bán được quá ít thế?

“Tôi không biết, Nuria thân mến,” Cabestany đáp. “Nhưng chúng ta vẫn phải tiếp tục cố gắng.”

Cử chỉ cao thượng và đáng ngưỡng mộ như vậy không hợp với hình dung của tôi về ông Cabestany. Có lẽ tôi đã đánh giá thấp ông ấy. Tôi nhận ra hình ảnh Julián Carax ngày càng gợi trí tò mò, bởi mọi thứ liên quan đến anh ấy dường như đều bị phủ dưới tấm màn bí ẩn. Ít nhất cứ hai tháng một lần, có người lại gọi điện hỏi địa chỉ anh ấy. Rồi tôi sớm nhận ra vẫn luôn là một người, mỗi lần lại xưng một tên khác. Nhưng tôi chỉ có thể cho hắn biết những điều được in trên bìa sau các tiểu thuyết của anh ấy, và rằng Julián sống ở Paris. Sau một thời gian, hắn thôi gọi điện. Để đề phòng, tôi đã xóa địa chỉ của Carax trong hồ sơ công ty. Tôi là người duy nhất viết thư cho anh ấy, và tôi đã thuộc lòng địa chỉ.

Nhiều tháng sau, tôi tình cờ bắt gặp những hóa đơn do nhà in gửi cho ông Cabestany. Khi liếc qua, tôi nhận ra chi phí biên tập cho sách của Julián Carax đã được thanh toán, toàn bộ, bởi một người ngoài công ty, mà tên tôi chưa từng nghe đến: Miquel Moliner. Hơn nữa, chi phí in ấn và vận chuyển những cuốn sách này thấp hơn rất nhiều so với tổng số tiền tính cho Moliner trên hóa đơn. Những con số không biết nói dối: công ty xuất bản kiếm tiền bằng cách in những cuốn sách một khi đã in ra xong là đi thẳng vào kho. Tôi không đủ can đảm để chất vấn những bất thường về tài chính của Cabestany. Tôi sợ mất việc. Điều tôi làm là ghi lại địa chỉ chúng tôi đã gửi hóa đơn cho Miquel Moliner, một dinh thự trên phố Puertaferrissa. Tôi giữ địa chỉ ấy trong nhiều tháng trước khi dồn hết dũng khí đến thăm anh ấy. Cuối cùng, lương tâm đã chiến thắ nhà anh ấy để bảo rằng ông Cabestany đang bịp anh ấy. Anh ấy mỉm cười bảo tôi rằng anh đã biết.

“Chúng ta đều làm điều chúng ta giỏi nhất.”

Tôi hỏi có phải anh ấy là người thường gọi điện hỏi địa chỉ Carax không. Anh ấy bảo không, và cho tôi biết với vẻ lo lắng rằng tôi không nên đưa địa chỉ cho bất cứ ai. Không bao giờ.

Miquel Moliner khá bí ẩn. Anh sống một mình trong một tòa nhà rộng thênh thang, tàn tạ, vốn là một phần di sản thừa kế từ người cha, nhà công nghiệp đã làm giàu nhờ sản xuất vũ khí và nghe đồn là buôn bán cả chiến tranh nữa. Cuộc sống của Miquel không hề xa hoa, mà như một thầy tu, chuyên tâm hoang phí tiền bạc của cha mình, mà anh cho là đồng tiền vấy máu, vào việc khôi phục viện bảo tàng, nhà thờ, trường học, thư viện, bệnh viện, và bảo đảm tác phẩm của người bạn thời thơ ấu, Julián Carax, được xuất bản trên quê hương.

“Anh có nhiều tiền hơn anh cần, nhưng không có nhiều người bạn như Julián,” anh chỉ giải thích có thế.

Anh không liên hệ gì với các anh chị em hay người còn lại trong gia đình, những người anh xem như xa lạ. Anh chưa kết hôn và hiếm khi rời khỏi dinh thự của mình, trong tòa nhà ấy anh chỉ sống trên tầng cao nhất. Ở đó anh lập một văn phòng, nơi anh làm việc điên cuồng, viết báo và giữ chuyên mục cho nhiều báo và tạp chí ở Madrid và Barcelona, dịch tài liệu kỹ thuật từ tiếng Đức và tiếng Pháp, sửa bản in cho sách bách khoa thư và sách giáo khoa. Miquel Moliner mắc căn bệnh sầu khổ của những người cảm thấy tội lỗi khi không làm việc; tuy anh tôn trọng và thậm chí ghen tị với sự nhàn rỗi mà những người khác hưởng thụ, song anh lẩn tránh nó. Anh không hả hê với lễ thói làm việc dị thường của mình, mà hay đùa cợt về cái hoạt động như bị ám này và coi đấy như một biểu hiện nhỏ nhặt của tính hèn nhát.

“Khi làm việc, ta không phải nhìn thẳng vào mắt cuộc đời.”

Chúng tôi dần trở thành bạn tốt của nhau mà không nhận ra. Chúng tôi có nhiều điểm chung, có lẽ quá nhiều. Miquel thích nói với tôi về những cuốn sách, về bác sĩ Freud yêu quý của anh ấy, về âm nhạc, nhưng trên hết là về người bạn cũ Julián. Chúng tôi gặp nhau gần như hằng tuần. Miquel kể cho tôi nghe những câu chuyện thời Julián còn học ở trường San Gabriel. Anh ấy giữ một bộ ảnh cũ, cùng những câu chuyện do Julián viết lúc còn niên thiếu. Miquel ngưỡng mộ Julián, và qua lời kể cùng những ký ức của anh, tôi d Julián, hay ít nhất là gây dựng một hình ảnh về anh ấy khi anh ấy không có mặt. Một năm sau ngày chúng tôi gặp nhau, Miquel thú nhận anh đã đem lòng yêu tôi. Tôi không muốn làm tổn thương anh, nhưng cũng không muốn lừa dối. Không thể nào lừa dối Miquel được. Tôi bảo tôi hết mực quý mến anh, và anh đã trở thành bạn thân nhất của tôi, nhưng tôi không yêu anh. Miquel bảo anh đã biết.

“Em yêu Julián nhưng em hãy còn tự chưa biết.”

Tháng Tám năm 1933, Julián viết thư cho tôi rằng anh ấy đã hoàn thành bản thảo của một cuốn tiểu thuyết khác là Tên trộm trong nhà thờ. Cabestany đã ký với Gallimard một số hợp đồng đến tháng Chín phải gia hạn. Ông đã bị liệt vài tuần nay vì bệnh gút, và để thưởng cho sự tận tình của tôi, ông đã quyết định cử tôi sang Pháp thay ông ấy đàm phán hợp đồng mới. Đồng thời, tôi có thể đến thăm Julián Carax và nhận tác phẩm mới. Tôi biên thư báo cho Julián chuyến thăm của tôi, dự kiến vào giữa tháng Chín, nhờ anh ấy tìm cho một khách sạn rẻ tiền, đáng tin cậy. Julián đáp rằng tôi có thể ở tại nhà anh ấy, một căn hộ khiêm nhường trong khu phố Saint-Germain, và để tiền khách sạn tiêu vào việc khác. Ngày lên đường, tôi đến gặp Miquel hỏi xem anh có nhắn gì Julián không. Một lúc lâu, anh ngập ngừng, rồi bảo anh không nhắn gì.

Lần đầu tôi gặp Julián là tại nhà ga Austerlitz. Tiết thu đã len lén về sớm với Paris, và nhà ga chìm trong lớp sương mù dày đặc. Tôi đợi trên sân ga trong khi những hành khách khác tiến về phía cổng. Tôi nhanh chóng bị bỏ lại một mình. Rồi tôi nhìn thấy một người đàn ông mặc áo choàng đen đang đứng ở cổng sân ga nhìn tôi qua làn khói thuốc. Trong suốt chuyến đi, tôi luôn băn khoăn làm cách nào để nhận ra Julián. Những bức ảnh tôi đã xem trong bộ ảnh của Miquel Moliner cũng cách nay ít nhất đã mười ba mười bốn năm rồi. Tôi nhìn lên nhìn xuống sân ga. Không có ai khác ngoài tôi và người đó. Tôi nhận ra người đàn ông ấy đang nhìn tôi tò mò: có lẽ anh ấy cũng đang đợi ai đó. Không thể là anh ấy được. Theo tôi ước tính, Julián chỉ tầm ba ba tuổi, còn người đàn ông kia già hơn. Anh ta tóc lấm chấm bạc, trông u sầu và mệt mỏi. Quá nhợt nhạt, quá gầy gò, hay có lẽ do màn sương và chuyến đi mệt mỏi, hay chỉ bởi vì những hình ảnh trong tâm trí tôi là về Julián thời niên thiếu. Tôi ngập ngừng bước đến người lạ và nhìn thẳng vào mắt anh.

“Julián phải không?”

Người lạ mỉm cười gật đầu. Julián Carax có nụ cười quyến rũ nhất thế giới. Đó là điều duy nhất còn lại ở anh ấy.

Julián sốngăn hộ trên gác mái ở Saint-Germain. Căn hộ chỉ có hai phòng: phòng khách với một gian bếp sơ sài và ban công nhỏ xíu từ đó có thể thấy những ngọn tháp của Nhà thờ Đức Bà sừng sững vươn lên giữa một khu rừng đầy những mái nhà và đám sương mờ, và một phòng ngủ không có cửa sổ, một chiếc giường đơn. Phòng tắm ở cuối hành lang tầng dưới, anh dùng chung phòng tắm với những người hàng xóm. Cả căn hộ còn nhỏ hơn phòng làm việc của ông Cabestany. Julián đã lau dọn phòng và chuẩn bị mọi thứ để chào đón tôi với sự khiêm nhường và giản dị. Tôi vờ ra vẻ hài lòng về căn hộ, vẫn còn mùi nước tẩy và mùi sáp đánh bóng đồ dùng, được Julián sử dụng với quyết tâm nhiều hơn là kỹ năng. Khăn trải giường còn mới. Chúng dường như có họa tiết những con rồng và tòa lâu đài. Loại dành cho trẻ con. Julián biện bạch: anh đã mua chúng với giá rất thấp, nhưng chất lượng hảo hạng. Loại khăn trải giường không có họa tiết giá gấp đôi, anh giải thích, và trông chúng chán ngắt.

Trong phòng khách, một chiếc bàn gỗ cũ quay mặt về phía tháp nhà thờ. Trên bàn là cái máy đánh chữ hiệu Underwood mà Julián mua với số tiền Cabestany cho ứng trước, cùng hai tập giấy, một tập trắng còn tập kia chữ kín đầy hai mặt. Julián sống trên căn phòng áp mái cùng một con mèo to tướng tên Kurtz. Con vật nhìn tôi đầy ngờ vực khi nó nằm dưới chân chủ, liếm móng vuốt. Tôi đếm được hai chiếc ghế, một cây móc áo, vài món đồ lặt vặt khác. Còn lại là sách. Sách xếp dọc tường, từ sàn lên trần, xếp hai hàng. Thấy tôi soi xét căn nhà, Julián thở dài.

“Cách đây hai dãy nhà có một khách sạn. Sạch sẽ, rẻ thôi, tử tế. Anh đặt phòng ở đấy nhé.”

Tôi đã nghĩ đến điều này, nhưng sợ làm anh phật lòng.

“Em ở đây cũng được, miễn là không phiền đến anh hay Kurtz.”

Kurtz và Julián liếc nhìn nhau. Julián lắc đầu, và con mèo bắt chước. Tôi đã không để ý họ giống nhau đến thế vậy. Julián một mực bắt tôi dùng phòng ngủ của anh ấy. Anh không mấy khi ngủ ở đây, anh giải thích, và anh sẽ nằm trong phòng khách trên chiếc giường gấp, một hàng xóm cho mượn, ông Darcieu – một thầy bói già chuyên xem chỉ tay các thiếu nữ đổi lấy một nụ hôn. Đêm đầu tiên tôi ngủ rất ngon, vì mệt mỏi sau chuyến đi. Tôi thức dậy lúc hửng sáng và phát hiện Julián đã ra ngoài rồi, Kurtz vẫn ngủ trên cái máy đánh chữ của chủ nó. Nó ngáy như con chó ngao. Tôi bước đến bàn và thấy bản thảo của tiểu thuyết mới mà tôi đến nhận.

TÊN TRỘM TRONG NHÀ THỜ

Trang đầu tiên, như trong mọi tiểu thuyết khác của Julián, là dòng chữ đề tặng viết tay:

Dành tặng P

Tôi náo nức muốn đọc tiếp. Tôi định cầm lên trang thứ hai thì nhận ra Kurtz đang nhìn tôi qua khóe mắt. Tôi lắc đầu theo cách tôi thấy Julián đã làm. Con mèo, để đáp lại, cũng lắc đầu, và tôi đặt trang giấy xuống. Một lúc sau Julián xuất hiện, mang theo món bánh mì mới nướng, một bình cà phê và ít pho mát. Chúng tôi ăn sáng ngoài ban công, Julián nói liên tù tì, nhưng lẩn tránh ánh mắt tôi. Dưới ánh ban mai, trông anh như một đứa trẻ già. Anh đã cạo râu và khoác lên bộ đồ tôi thiết tưởng là bộ tươm tất duy nhất của anh, chiếc áo màu kem đã cũ mòn nhưng rất lịch lãm. Tôi lắng nghe khi anh ấy kể về những bí ẩn của Nhà thờ Đức Bà và về một chiếc sà lan ma quái nghe đồn đêm đêm nó rẽ mặt nước sông Seine để thu nhặt linh hồn những tình nhân vô vọng đã trầm mình xuống dòng sông buốt giá hòng kết liễu cuộc đời. Trong thời gian chúng tôi ở cùng nhau, tôi đã nghe một ngàn lẻ một câu chuyện ly kỳ anh ấy sáng tạo ra ngõ hầu tôi khỏi chất vấn anh. Tôi lặng lẽ ngắm nhìn anh, gật đầu, tìm kiếm trong anh người đàn ông đã viết những cuốn sách mà tôi đã thuộc làu vì đọc đi đọc lại quá nhiều lần, cậu bé mà Miquel Moliner thường mô tả cho tôi.

“Em ở Paris được bao lâu?” anh hỏi.

Công việc của tôi với Gallimard mất chừng vài ba ngày, tôi nói. Cuộc hẹn đầu tiên của tôi với họ là buổi chiều hôm ấy. Tôi bảo anh đã tính dành vài ngày đi thăm thú thành phố trước khi về Barcelona.

“Paris cần nhiều hơn hai ngày,” Julián nói. “Nó không chịu nghe theo lý lẽ đâu.”

“Em không có nhiều thời gian hơn đâu, Julián ạ. Ông Cabestany là một ông chủ rộng lượng, nhưng mọi thứ có giới hạn của nó.”

“Cabestany là một tên cướp, nhưng đến ông ta cũng biết rằng không thể đi xem Paris chỉ trong hai ngày, hay hai tháng, thậm chí hai năm.”

“Em không thể ở Paris hai năm được, Julián.”

Một hồi lâu, anh ấy nhìn tôi không nói, rồi anh ấy mỉm cười. “Sao lại không? Có người nào chờ em sao?”

Công việc với Gallimard và những chuyến thăm xã giao đến nhiều nhà xuất bản khác mà Cabestany có hợp đồng chiếm mất ba ngày trời, như tôi đã dự đoán. Julián đã cử cho tôi một hướng dẫn viên kiêm vệ sĩ, một cậu bé tên Hervé tầm mười ba tuổi biết tường tận thành phố này. Hervé sẽ đưa tôi đi đến nơi về đến chốn, chỉ cho tôi biết quán cà phê nào nên ghé, phố nào nên tránh, cảnh đẹp nào nên xem. Cậu bé sẽ đợi tôi hàng giờ ở cửa văn phòng các nhà xuất bản mà không đánh mất nụ cười trên môi và chấp nhận bất cứ khoản tiền bo nào. Hervé nói thứ tiếng Tây Ban Nha bập bõm nghe rất vui tai, mà cậu ta lẫn vào cả tiếng Ý và Bồ Đào Nha.

“Chú Carax, chú ấy đã trả công cho cháu rồi, hậu hĩnh lắm lắm ạ....”

Theo tôi tìm hiểu, Hervé là trẻ mồ côi, con của một cô gái làm việc cho Irene Marceau, cậu sống ở trên gác mái khu nhà thổ. Julián đã dạy cậu ta tập đọc, viết, chơi dương cầm. Vào các ngày Chủ nhật anh ấy đưa cậu đến nhà hát hoặc nghe hòa nhạc. Hervé thần tượng Julián và dường như sẵn sàng làm bất cứ điều gì cho anh ấy, thậm chí dẫn tôi đến tận cùng thế giới nếu cần. Ngày thứ ba đi cùng nhau, cậu ấy hỏi tôi có phải là bạn gái của Signore Carax không. Tôi bảo không phải, mà chỉ là một người bạn đến thăm thôi. Cậu bé tỏ vẻ thất vọng.

Julián hầu như thức mọi đêm, ngồi nơi bàn với Kurtz trong lòng, lật qua nhiều trang sách hoặc đơn giản ngắm nhìn tháp nhà thờ đổ bóng xa xa. Một đêm, khi tôi không thể ngủ được vì tiếng mưa tí tách trên mái nhà, tôi bước vào phòng khách. Chúng tôi nhìn nhau không nói, và Julián mời tôi thuốc. Một lúc lâu, chúng tôi lặng lẽ nhìn cơn mưa. Sau đó, khi mưa thôi rơi, tôi hỏi anh ấy P là ai.

“Penélope,” anh ấy trả lời.

Tôi bảo anh kể về cô ấy, về mười bốn năm sống lưu vong ở Paris. Bằng giọng thì thầm, trong ánh sáng mờ nhạt nhòa, Julián bảo tôi Penélope là người phụ nữ duy nhất anh ấy yêu.

MỘT ĐÊM, VÀO MÙA ĐÔNG NĂM 1921, Irene Marceau bắt gặp Julián lang thang trên đường phố Paris, không thể nhớ nổi tên mình và đang ho ra máu. Anh chỉ có trong người vài xu lẻ và mấy tờ giấy gập chi chít chữ viết. Irene đọc chúng và nghĩ bà đang gặp một nhà văn nổi tiếng đang say rượu, và có lẽ một nhà xuất bản hào hiệp sẽ trả ơn bà khi anh tỉnh lại. Ít nhất thì đó là theo lời kể của bà, còn Julián biết bà cứu anh vì lòng thương. Anh ở sáu tháng trên căn phòng gác mái trong nhà thổ của Irene. Các bác sĩ cảnh báo Irene rằng nếu người đàn ông ấy tự đầu độc lần nữa, họ sẽ không chịu trách nhiệm. Anh ấy đã hủy hoại dạ dày và gan của mình, và suốt phần đời còn lại sẽ chỉ được uống sữa, ăn pho mát gạn kem và bánh mì mới. Khi Julián nói được trở lại, Irene hỏi anh ấy là ai.

“Không ai cả,” Julián trả lời.

“Chậc, ở đây chẳng ai ở không mà sống bằng tiền của tôi hết. Anh có thể làm được gì?”

Julián bảo anh có thể chơi dương cầm.

“Chứng minh xem nào.”

Julián ngồi xuống cây dương cầm ở sảnh, đối diện một đám khán giả chăm chú là những cô điếm mười lăm tuổi chi mặc mỗi đồ lót, rồi chơi một bản dạ khúc của Chopin. Tất cả mọi người đều vỗ tay, ngoại trừ Irene, bà bảo anh cái thứ bà vừa được nghe là loại nhạc cho người chết, mà họ thì đang làm ăn với người còn sống cơ. Julián cho bà nghe một giai điệu nhộn nhịp và vài khúc nhạc của Offenbach.

“Hay hơn đấy. Nhanh chút nữa.”

Công việc mới giúp anh đủ sống, có một mái nhà, và hai bữa ăn mỗi ngày.

Anh sống sót được ở Paris nhờ lòng hảo tâm của Irene, bà là người duy nhất động viên anh tiếp tục viết lách. Sách ưa thích của bà là tiểu thuyết diễm tình và tiểu sử các vị thánh và những đấng tuẫn đạo, mấy thể loại ấy vô cùng hấp dẫn bà. Theo ý bà, vấn đề của Julián là con tim anh đã bị đầu độc; ấy là lý do tại sao anh chỉ viết được những câu chuyện kinh dị và đen tối. Dù Irene có phản đối như vậy, song cũng chính nhờ bà mà Julián tìm được nhà xuất bản cho những tác phẩm đầu tiên của anh. Bà chính là người đã cho anh căn phòng áp mái để anh lẩn tránh khỏi thế giới, người đã mặc đồ cho anh và lôi anh ra ngoài hưởng chút ánh mặt trời và không khí trong lành, mua sách cho anh và bắt anh đi dự lễ mixa với bà vào mỗi Chủ nhật rồi sau đó tản bộ qua vườn Tuileries. Irene Marceau cưu mang anh mà không đòi hỏi anh đền đáp điều gì, ngoại trừ tình bạn của anh và lời hứa anh sẽ tiếp tục viết sách. Đôi khi bà cũng cho phép anh đưa một cô gái về phòng của anh, dù họ chỉ lên đấy ôm nhau ngủ. Irene cười đùa rằng các cô gáiấy cũng cô đơn như chính anh, và điều họ chỉ cần là một chút tình yêu.

“Hàng xóm của anh, ông Darcieu, nghĩ anh là gã phúc đức nhất trên đời,” anh ấy bảo tôi.

Tôi hỏi tại sao anh không bao giờ quay về Barcelona để tìm Penélope. Anh liền rơi vào một khoảng lặng dài, sâu, rồi khi tôi nhìn khuôn mặt anh trong bóng đêm, tôi thấy những giọt nước mắt chảy dài. Không biết mình đang làm gì, tôi quỳ xuống ôm lấy anh. Chúng tôi cứ như thế, ôm nhau, cho đến khi bị ánh ban mai bắt quả tang. Tôi không còn biết ai hôn ai trước, hay điều đó có quan trọng không. Tôi biết tôi đã tìm thấy đôi môi anh và để anh âu yếm tôi mà không nhận ra rằng chính tôi nữa cũng đang khóc mà không biết tại sao. Mờ sáng hôm ấy, và tất cả những ngày sau đó trong hai tuần tôi ở bên Julián, chúng tôi ân ái cùng nhau trên sàn nhà, không nói một lời. Sau này, khi ngồi trong quán cà phê hay tản bộ qua những con phố, tôi nhìn vào mắt anh và biết, dù không cần hỏi anh, rằng anh vẫn yêu Penélope. Tôi còn nhớ trong những ngày ấy tôi dần căm ghét cô gái mười bảy tuổi kia (vì với tôi Penélope luôn mười bảy) người tôi chưa bao giờ gặp mặt và giờ đây ám những giấc mơ của tôi. Tôi tìm cớ điện cho ông Cabestany kéo dài thời gian lưu trú. Tôi không còn bận tâm về chuyện mình có mất việc không hay về cuộc sống ảm đạm tôi đã bỏ lại ở Barcelona. Tôi thường tự vấn phải chăng tôi đã đến Paris với một cuộc đời trống rỗng như vậy và ngã vào vòng tay của Julián như những cô gái của Irene Marceau, những người khao khát thương yêu dù không hề tự biết. Tôi chỉ biết hai tuần sống cùng Julián là khoảng thời gian duy nhất trong đời tôi được là chính mình, ấy cũng chính là lúc tôi hiểu ra một cách rõ ràng và vô vọng điều không thể giải thích rằng tôi sẽ không bao giờ có thể yêu một người đàn ông khác như tôi yêu Julián, dù tôi có cố gắng cả đời.

Một ngày kia, Julián mệt mỏi thiếp đi trong vòng tay tôi. Chiều hôm trước, khi chúng tôi qua một hiệu cầm đồ, anh ấy dừng lại chỉ cho tôi xem một cây bút máy đã bày ở đó nhiều năm. Theo ông chủ hiệu cầm đồ, cây bút từng thuộc về Victor Hugo, Julián chưa bao giờ có tiền, dù chỉ một phần nhỏ, để mua cây bút ấy, nhưng anh dừng lại ngắm nhìn nó mỗi ngày. Tôi lặng lẽ mặc đồ và bước xuống hiệu cầm đồ. Cây bút đáng giá cả gia tài, mà tôi không có, nhưng ông chủ hiệu bảo ông chấp nhận séc bằng đồng peso của bất cứ ngân hàng Tây Ban Nha nào có chi nhánh ở Paris. Trước khi mẹ tôi mất, bà đã hứa dành đủ tiền mua cho tôi chiếc váy cưới. Cây bút của Victor Hugo sẽ thay cho nó, cả mạng che mặt và mọi thứ, dù biết thật là điên rồ, nhưng tôi chưa bao giờ tiêu một số tiền lớn nào mà lại cảm thấy thỏa lòng như vậy. Khi rời cửa hiệu với hộp bút đẹp đẽ, tôi nhận ra một người phụ nữ đang theo tôi. Đó là một phụ nữ tao nhã, với mái tóc ánh bạc và cặp mắt xanh biếc nhất tôi từng thấy. Bà đến chỗ tôi và tự giới thiệu. Bà là Irene Marceau, người bảo trợ của Julián. Hervé, cậu bé hướng dẫn viên, đã kể với bà về tôi. Bà chỉ muốn gặp tôi hỏi xem tôi có phải người phụ nữ mà Julián chờ đợi từng ấy năm không. Tôi không buộc phải trả lời. Irene gật đầu đồng cảm rồi hôn lên má tôi. Tôi nhìn bà bước đi dọc phố, và lúc ấy tôi hiểu ra Julián sẽ không bao giờ thuộc về tôi. Tôi quay về căn gác mái với cái hộp bút giấu trong túi xách. Julián đã thức chờ tôi. Anh lặng lẽ cởi đồ tôi ra , và chúng tôi ái ân lần cuối. Khi anh ấy hỏi tại sao tôi khóc, tôi bảo anh đó là những giọt nước mắt vui sướng. Lát sau, khi Julián xuống mua đồ ăn, tôi gói ghém đồ đạc và đặt hộp bút lên máy đánh chữ của anh ấy. Tôi cho bản thảo cuốn tiểu thuyết của anh ấy vào túi xách rồi ra đi trước khi anh quay lại. Ngoài chiếu nghỉ, tôi gặp ông Darcieu, ông thầy bói già chuyên đọc chỉ tay của các thiếu nữ để đổi lấy một nụ hôn. Ông nắm tay tôi rồi nhìn tôi ảo nảo.

“Vous aves du poison au coeur, mademoiselle[1].”

[1. Trái tim cô đã nhiễm độc, cô gái ạ.]

Khi tôi cố trả công, ông lắc đầu nhè nhẹ, và chính ông hôn bàn tay tôi.

***

TÔI ĐẾN NHÀ GA AUSTERLITZ kịp bắt chuyến tàu mười hai giờ đi Barcelona. Người soát vé đã bán vé cho tôi hỏi tôi có làm sao không. Tôi gật đầu và chui vào toa. Tàu đã chuyển bánh khi tôi nhìn ra cửa sổ và thoáng thấy Julián trên sân ga, ngay tại nơi tôi lần đầu gặp anh. Tôi nhắm mắt lại, và không mở mắt cho đến khi không còn thấy nhà ga và thành phố đầy mê hoặc ấy nơi tôi không bao giờ có thể quay lại. Hôm sau tàu đến Barcelona, khi trời vừa hửng sáng. Đó là sinh nhật thứ hai mươi tư của tôi, và tôi biết phần đời đẹp nhất của mình đã bị bỏ lại đằng sau.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,691
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 46


SAU KHI TRỞ VỀ BARCELONA, tôi đợi một thời gian trôi qua mới đến thăm Miquel Moliner. Tôi cần xua Julián ra khỏi đầu mình, và tôi nhận ra nếu Miquel hỏi tôi về anh ấy, tôi sẽ không biết phải nói sao đây. Khi chúng tôi gặp nhau, tôi không cần kể gì cho anh. chỉ cần nhìn vào mắt tôi là biết. Trông anh gầy hơn trước chuyến đi Paris của tôi; khuôn mặt anh xanh xao yếu ớt, mà tôi cứ đổ cho vì anh làm nhiều việc quá để hành hạ bản thân. Anh thừa nhận đang gặp khó khăn về tài chính. Anh đã tiêu gần hết số tiền thừa kế cho những mục đích nhân đạo, và giờ luật sư của các anh trai anh đang tìm cách tống anh ra khỏi nhà, viện dẫn một điều khoản trong di chúc của ông cụ Moliner nêu rõ anh chỉ có thể sống ở đó nếu giữ gìn căn nhà trong điều kiện tốt và có thể chứng minh là anh có đủ nguồn tài chính sửa sang ngôi nhà. Nếu không, dinh thự Puertaferissa sẽ được chuyển giao cho các anh em của anh quản lý.

“Thậm chí trước khi chết, cha anh đã cảm thấy rằng anh sẽ tiêu hết tiền của ông ấy vào những thứ mà ông kinh tởm nhất đời, tiêu đến đồng xu cuối cùng.”

Thu nhập của anh ấy từ viết chuyên mục trên báo và làm dịch giả không đủ trang trải cho công việc bảo trì như vậy.

“Bản thân chuyện kiếm tiền không khó,” anh than phiền. “Cái khó là kiếm được tiền bằng công việc nào xứng đáng cho mình cống hiến cả cuộc đời.”

Tôi ngờ anh bắt đầu lén lút uống rượu. Đôi khi tay anh run run. Mỗi Chủ nhật, tôi đến thăm anh và lôi anh ra phố, tránh xa khỏi cái bàn và bộ sách bách khoa của anh. Tôi biết anh đau đớn mỗi khi nhìn thấy tôi. Anh cư xử như không còn nhớ anh đã cầu hôn tôi và tôi đã khước từ, nhưng nhiều lần tôi bắt gặp anh nhìn chằm tôi với ánh mắt khát khao xen lẫn thảm bại. Lý do duy nhất của tôi buộc anh phải chịu sự tàn nhẫn như vậy hoàn toàn ích kỷ: chỉ Miquel biết sự thật về Julián và Penélope Aldaya.

Trong những tháng tôi xa Julián, Penélope Aldaya đã trở thành bóng ma đánh cắp giấc ngủ và chiếm trọn suy nghĩ của tôi. Tôi có thể vẫn nhớ vẻ thất vọng trên khuôn mặt Irene Marceau khi bà nhận ra tôi không phải là người phụ nữ Julián chờ đợi. Penélope Aldaya, người vắng mặt ngoan trá, là một kẻ địch quá mạnh với tôi. Cô ấy vô hình, nên tôi mường tượng cô ấy hoàn hảo. Cạnh cô ấy, tôi vô giá trị, tầm thường, quá trần trụi. Tôi chưa bao giờ nghĩ có thể căm ghét ai đó đến nhường ấy một cách vô thức đến vậy – căm ghét người tôi thậm chí còn không quen biết, người cả đời chưa bao giờ gặp. Thiết tưởng nếu tôi gặp trực diện cô ấy, nếu tôi có thể đoán chắc với mình rằng cô ấy hiện hữu bằng xương bằng thịt, thì lời nguyền sẽ bị phá bỏ và Julián sẽ được tự do. Và tôi sẽ được ở bên anh ấy. Tôi muốn tin đấy chỉ là vấn đề thời gian và kiên nhẫn mà thôi. Sớm hay muộn, Miquel sẽ cho tôi biết sự thật. Và sự thật sẽ giải phóng tô

Một ngày, khi chúng tôi đang rảo bước qua hành lang nhà thờ, Miquel một lần nữa tỏ tình ý với tôi. Tôi nhìn anh và thấy một người cô đơn, trống vắng hy vọng. Tôi biết mình đang làm gì khi dẫn anh về nhà và thả mình theo những vuốt ve mơn trớn của anh. Tôi biết tôi đang lừa dối anh, và anh cũng biết, nhưng anh không còn gì khác trên đời này. Chúng tôi đã trở thành tình nhân như vậy, những tình nhân vô vọng. Tôi thấy trong mắt anh điều tôi hằng muốn được thấy trong mắt Julián. Tôi cảm thấy rằng bằng cách hiến dâng mình cho anh, tôi đang trả thù Julián và Penélope và trả thù tất cả những gì đã chối bỏ tôi. Miquel, vẫn đang ốm yếu vì khao khát và cô đơn, biết rằng tình yêu của chúng tôi là một trò giả dối, dù vậy anh không thể buông tôi. Càng ngày anh càng uống nhiều hơn và thường không thể ân ái với tôi. Lúc ấy anh sẽ mỉa mai cay đắng rằng, rốt cuộc, chúng tôi đã trở thành một cặp vợ chồng hoàn hảo trong một thời gian ngắn kỷ lục. Chúng tôi đang gây tổn thương cho nhau bằng lòng căm thù và sự hèn nhát. Một đêm, gần một năm sau khi tôi từ Paris trở về, tôi đã cầu xin anh kể tôi nghe sự thật về Penélope, Miquel lúc ấy đang trong cơn say, và anh trở nên hung hãn, chưa bao giờ tôi thấy anh như vậy. Trong cơn cuồng nộ, anh nhục mạ và cáo buộc tôi chưa bao giờ yêu anh ấy, là một con điếm dâm loàn. Anh xé toạc quần áo tôi, và khi anh đang cố lên người tôi, tôi nằm xuống, hiến dâng thân thể mình không chút kháng cự, khóc thầm. Miquel quỳ xuống cầu xin tôi tha thứ. Tôi ước làm sao mình có thể yêu anh chứ không phải yêu Julián, và có thể lựa chọn ở bên cạnh anh. Nhưng tôi không thể. Chúng tôi ôm nhau trong bóng tối, và tôi cầu xin anh tha thứ cho mọi nỗi đau tôi gây ra. Rồi anh bảo tôi, nếu với tôi chuyện ấy quá quan trọng, anh sẽ kể sự thật về Penélope Aldaya. Lại một sai lầm nữa của tôi.

Ngày Chủ nhật năm 1919 ấy, khi Miquel Moliner ra sân ga đưa cho bạn mình tấm vé đi Paris và tiễn bạn, anh đã biết Penélope sẽ không đến hẹn. Hai ngày trước, khi Don Ricardo Aldaya từ Madrid trở về, vợ ông ta thú nhận bà đã bắt quả tang Julián và con gái Penélope của họ trong phòng cô bảo mẫu. Ngày hôm sau Jorge Aldaya đã tiết lộ cho Miquel, và bắt anh thề không được kể với ai. Jorge giải thích, khi hay tin, Don Ricardo đã bừng bừng giận dữ thế nào và tức tốc lên phòng Penélope chửi rủa như một kẻ điên. Khi nghe tiếng gào thét của cha, Penélope khóa trái cửa phòng và khóc lóc trong khiếp sợ. Don Ricardo đạp đổ cửa và thấy con gái đang quỳ gối, run rẩy cầu xin tha thứ. Don Ricardo tát vào mặt cô mạnh đến nỗi cô ngã sóng soài. Đến Jorge cũng không thể nhắc lại những lời Don Ricardo tuôn ra trong cơn cuồng nộ. Mọi người trong gia đình và kẻ ăn người ở chờ nơi tầng dưới khiếp đảm, không biết phải làm gì. Jorge trốn trong phòng, trong bóng tối, nhưng thậm chí ở đó anh ta cũng có thể nghe tiếng la hét chửi rủa của Don Ricardo. Jacinta bị đuổi ngay hôm ấy. Don Ricardo còn không thèm hạ cố nhìn bà. Ông lệnh cho kẻ hầu ném bà ra khỏi nhà và dọa họ sẽ chịng số phận nếu bất cứ ai có liên hệ gì với bà ấy.

Khi Don Ricardo xuống thư viện thì đã nửa đêm. Ông ta bỏ Penélope bị khóa trái trong phòng của Jacinta và nghiêm cấm mọi người, dù là nhân viên hay gia đình, được gặp cô ấy. Trong phòng mình, Jorge có thể nghe cha mẹ nói chuyện ở tầng dưới. Bác sĩ đến ngay từ sáng sớm. Señora Aldaya dẫn ông ta vào phòng Jacinta và đứng chờ ngoài cửa trong khi bác sĩ khám cho Penélope. Khi bước ra, bác sĩ chỉ gật đầu và nhận tiền. Jorge nghe Don Ricardo đe bác sĩ rằng nếu ông ta kể cho bất cứ ai điều nhìn thấy ở đấy, danh tiếng của ông ta sẽ bị hủy hoại và ông ta sẽ không bao giờ có thể hành nghề y được nữa. Ngay đến Jorge cũng biết thế có nghĩa là gì.

Jorge thú nhận anh ta rất lo cho Penélope và Julián. Anh ta chưa bao giờ thấy cha mình phẫn nộ đến như vậy. Kể cả xét đến cái tội lỗi đôi tình nhân ấy đã làm, thì anh ta cũng không thể hiểu độ mãnh liệt của cơn cuồng nộ ấy. Hẳn phải có gì khác, anh ta nói, có gì đó khác. Don Ricardo đã lệnh trường San Gabriel tống cổ Julián và liên lạc với cha anh, ông bán mũ, về việc cho anh nhập ngũ ngay lập tức. Khi Miquel nghe toàn bộ chuyện này, anh quyết định không kể cho Julián sự thật. Nếu anh tiết lộ cho Julián rằng Don Ricardo nhốt Penélope ở nhà, và cô hẳn đang mang đứa con của anh ấy, Julián sẽ không bao giờ bắt chuyến tàu đi Paris kia. Anh biết rằng nếu bạn mình vẫn ở lại Barcelona, đó sẽ là dấu chấm hết cho Julián. Nên anh quyết định lừa dối bạn, để anh ấy đi Paris không biết chuyện xảy ra; anh để cho anh ấy nghĩ rằng Penélope sẽ sang với anh ấy sau. Khi nói lời từ biệt Julián ngày hôm ấy ở nhà ga Francia, thậm chí Miquel cũng muốn tin rằng chưa phải tất cả đã mất.

Vài ngày sau, khi phát hiện Julián biến mất, mọi việc trở nên rối loạn. Don Ricardo Aldaya nổi trận lôi đình. Ông ta điều đến nửa sở cảnh sát truy tìm kẻ lẩn trốn, nhưng không thành. Ông ta cáo buộc ông bán mũ phá hoại kế hoạch họ đã thỏa thuận và đe dọa sẽ cho ông tán gia bại sản. Ông bán mũ, không thể hiểu chuyện gì đang xảy ra, bèn quay sang cáo buộc vợ mình, bà Sophie, đã lập mưu tẩu thoát cho đứa con hèn hạ kia và hăm dọa tống bà ra khỏi nhà. Chẳng hề ai ngờ chính Miquel Moliner mới là người lên kế hoạch mọi chuyện – ngoại trừ Jorge Aldaya, người đã đến gặp anh hai tuần sau. Anh ta không còn cái vẻ sợ hãi và lo lắng đã xâm chiếm anh ta như trước. Đây là một Jorge Aldaya khác, một người trưởng thành đã bị tước đoạt hết mọi ngây thơ. Cho dù sự thật ra sao đằng sau cơn phẫn nộ của Don Ricardo, Jorge cũng đã tìm ra. Lý do của cuộc viếng thăm thật rõ ràng: anh ta biết Miquel là người đã giúp Julián bỏ trốn. Anh ta bảo tình bạn của họ đã chấm dứt, rằng anh ta không muốn nhìn thấy anh nữa, và đe dọa sẽ giết anh nếu anh kể cho bất kỳ ai điều anh ta đã tiết lộ

Vài tuần sau, Miquel nhận được một bức thư, với tên người gửi mạo danh, do Julián gửi từ Paris. Trong thư, anh ấy cho anh địa chỉ, bảo rằng anh ấy vẫn khỏe và rất nhớ bạn, và gửi lời thăm hỏi đến mẹ và Penélope. Anh ấy cũng gửi kèm một bức thư cho Penélope, mà Miquel sẽ phải gửi đi từ Barcelona, thư đầu tiên trong rất nhiều bức thư Penélope không bao giờ được xem. Miquel thận trọng chờ vài tháng trôi qua. Anh viết cho Julián mỗi tuần một lần, chỉ nói những điều anh cảm thấy phù hợp, vốn gần như chẳng có gì. Julián, ngược lại, kể cho anh về Paris, về mọi sự khó khăn thế nào, anh ấy cảm thấy cô đơn và vô vọng ra sao. Miquel gửi cho anh ấy tiền, sách vở, và tình bạn. Trong mỗi bức thư, Julián đều gửi kèm một bức nữa cho Penélope. Miquel gửi chúng từ các bưu điện khác nhau, dù anh biết việc ấy vô ích. Trong thư, Julián không ngớt hỏi về Penélope nhưng Miquel không thể kể được gì. Anh biết, nhờ Jacinta, rằng Penélope chưa rời ra khỏi căn nhà trên Đại lộ Tibidabo kể từ khi cha cô khóa cửa giam cô trong căn phòng trên tầng ba.

Một buổi tối, Jorge Aldaya nấp trong bóng đen đợi Miquel, cách nhà anh chừng hai dãy phố. “Cậu đến giết tôi à?” Miquel hỏi. Jorge bảo anh ta đến ban cho Miquel và bạn anh một ân huệ. Anh ta đưa cho Miquel một bức thư và khuyên anh nên gửi đến tay Julián, dù anh ấy có lẩn trốn nơi đâu. “Vì mọi người,” anh ta tuyên bố đầy điềm gở. Trong phong thư là tờ giấy có chữ viết tay của Penélope Aldaya.

***

Julián thân mến,

Tôi viết dòng này báo anh biết đám cưới sắp tới của tôi và cầu xin anh đừng viết cho tôi nữa, hãy quên tôi đi và xây dựng lại cuộc đời. Tôi không oán hận gì anh cả, nhưng sẽ là không chân thành nếu tôi không thú nhận rằng tôi chưa bao giờ yêu anh và sẽ không bao giờ có thể yêu được. Chúc anh những gì tốt đẹp nhất, dù anh ở nơi đâu.

Penélope

***

Miquel đọc đi đọc lại lá thư hàng ngàn lần. Chữ viết tay không thể nhầm lẫn được, nhưng anh không tin dù chỉ một chút rằng Penélope tự nguyện viết bức thư ấy: “... dù anh ở nơi đâu.” Penélope biết rất rõ Julián ở đâu: Paris, đang chờ đợi cô ấy. Nếu cô ấy vờ như không biết anh ấy ở đâu, Miquel ngẫm nghĩ, thì đó là để bảo vệ anh ấy. Cũng vì lý do ấy, Miquel không thể hiểu điều gì xui khiến cô viết những lời . Còn mối đe dọa nào nữa mà Don Ricardo mang lại cho cô, hơn cả việc nhốt cô như một tù nhân nhiều tháng ròng trong căn phòng kia? Hơn bất kỳ ai, Penélope biết bức thư ấy như một con dao tẩm độc đối với trái tim Julián: một thanh niên mười chín, lưu lạc ở một thành phố xa xôi và lạ lẫm, bị tất cả bỏ mặc, sinh tồn chỉ để hy vọng hão huyền sẽ được gặp lại cô ấy. Điều gì khiến cô muốn bảo vệ anh ấy bằng cách đẩy anh ấy rời xa như vậy? Sau nhiều suy xét, Miquel quyết định không gửi bức thư. Không, chừng nào anh chưa biết lý do. Không có một lý do thuyết phục, thì chính anh mới là người cắm con dao ấy vào tâm hồn bạn mình.

Vài ngày sau, anh phát hiện ra Don Ricardo Aldaya, mệt mỏi vì cứ phải thấy Jacinta đứng chờ như lính gác trước cửa nhà mình hòng cầu xin được biết tin Penélope, đã sử dụng mối quen biết để đưa bà vào nhà thương điên Horta. Khi Miquel Moliner cố đi gặp bà, người ta không cho anh vào thăm. Ba tháng đầu tiên Jacinta Coronado phải chịu cảnh ở trong phòng giam biệt lập. Sau ba tháng trong lặng câm và bóng tối, anh được một bác sĩ – một người trẻ tuổi vui tính – cho biết rằng yêu cầu đưa bệnh nhân vào viện đã được đảm bảo. Theo linh cảm, Miquel quyết định đến khu nhà trọ nơi Jacinta ở sau khi bị đuổi. Khi anh tự giới thiệu tên, bà chủ nhà nhớ ra Jacinta đã để lại cho anh một bức thư và vẫn nợ bà ta ba tháng tiền nhà. Anh trả số tiền nợ, dù không mấy tin là chuyện ấy có thực, và nhận bức thư. Trong thư, bà bảo mẫu giải thích bà nghe được tin rằng Laura, một trong những người hầu nhà Aldaya, đã bị đuổi việc khi bị phát hiện cô ta lén lút gửi thư của Penélope cho Julián. Miquel suy ra rằng địa chỉ duy nhất mà Penélope, đương lúc bị giam cầm, có thể gửi bức thư ấy chính là nhà cha mẹ Julián trên phố San Antonio, hy vọng họ sẽ gửi đến cho anh ấy ở Paris.

Thế là anh quyết định đến thăm Sophie Carax để lấy bức thư và chuyển cho Julián. Khi đến nhà Fortuny, Miquel gặp phải một bất ngờ không vui: Sophie Carax không còn sống ở đó nữa. Vài ngày trước bà đã bỏ ông chồng – ít nhất thì tin đồn lan trong khu nhà như vậy. Miquel đành cố nói chuyện với ông bán mũ, ông ta cả ngày thui thủi trong cửa hàng, bị tàn phá bởi lòng căm giận và nỗi ô nhục. Miquel bảo ông ta rằng anh đến để nhận bức thư hẳn đã chuyển đến cho con trai ông, Julián, vài ngày trước.

“Tao không có con” là câu trả lời duy nhất anh nhận được.

Miquel Moliner bỏ đi không biết bức thư đang tìm đã rơi vào tay người bảo vệ và nhiều năm sau này cậu, Daniel ạ, tìm thấy nó và đọc những lời Penélope dành cho Julián, lần này là chính từ trái tim cô ấy: những lời anh ấy không bao giờ nhận được.

Viçenteta cho anh biết Sophie đang ở tại một nhà khách ẩn trong khu phố nhỏ sau tòa nhà bưu điện, đang chờ khởi hành trên con tàu sẽ mang bà sang châu Mỹ. Miquel đến địa chỉ ấy, nơi anh thấy một cầu thang nhỏ hẹp, tồi tàn, hầu như thiếu ánh sáng và không khí. Trên đỉnh cầu thang xoắn ốc, anh tìm thấy Sophie Carax, trong một căn phòng tầng bốn, tối tăm, ẩm dột. Mẹ của Julián đang nhìn ra cửa sổ, ngồi bên mép cái giường tạm bợ, cùng hai chiếc va li đóng kín nằm như những cỗ quan tài chứa hai mươi năm của bà ở Barcelona.

Khi đọc bức thư có chữ ký của Penélope mà Jorge Aldaya đã chuyển đã cho Miquel, Sophie tuôn ra những giọt lệ giận căm.

“Con bé biết,” bà lẩm bẩm. “Tội nghiệp con bé, nó biết rồi...”

“Biết gì ạ?” Miquel hỏi.

“Là lỗi của ta,” Sophie nói. “Lỗi của ta.”

Miquel cầm tay bà, anh không hiểu. Sophie không dám nhìn thẳng vào mắt anh.

“Julián và Penélope là anh em,” bà thầm thì.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,691
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 47


NHIỀU NĂM TRƯỚC KHI TRỞ THÀNH NÔ LỆ cho nhà Antoni Fortuny, Sophie Carax là một phụ nữ sống nhờ vào tài năng. Năm mới mười chín tuổi, bà đến Barcelona mong tìm một công việc hứa hẹn, điều không bao giờ trở thành hiện thực. Trước khi chết, cha bà đã xin được những lời giới thiệu cần thiết để bà vào làm việc cho nhà Benarens, một gia đình phong lưu làm nghề buôn bán, xuất thân từ Alsace, đã xây dựng được cơ ngơi ở Barcelona.

“Khi bố chết, con hãy đến nhà họ, rồi họ sẽ coi con như con gái trong nhà,” ông nài nỉ

Sự chào đón nồng hậu bà nhận được cũng là một phần của rắc rối. Ông Benarens quả thật đã đón tiếp bà với vòng tay rộng mở - quá rộng mở, theo ý bà vợ. Bà Benarens cho Sophie một trăm peso và đuổi ra khỏi nhà, không hề tỏ chút thương xót cho bà và vận hạn của bà.

“Mày có cả cuộc đời phía trước, còn tao chỉ có một lão chồng xấu xa, dâm dật.”

Một trường nhạc trên phố Diputación đã nhận Sophie vào làm gia sư dạy nhạc và đàn dương cầm. Vào thời ấy, các cô gái con nhà khá giả được dạy dỗ cách giao tiếp ứng xử và bập bõm nhạc đàn cho những dịp đến chốn tiệc tùng giao lưu, nơi mà những điệu polonaise được cho là đỡ nguy hại hơn so với chuyện trò hay văn chương đáng ngờ. Vậy nên Sophie Carax bắt đầu lui tới các dinh thự, nơi những cô hầu cứng nhắc và câm lặng sẽ dẫn bà vào phòng nhạc. Ở đó những đứa trẻ khó bảo con các nhà quý tộc công nghiệp đang chờ bà đến, cười nhạo trước giọng nói, sự bẽn lẽn hay địa vị thấp hèn của bà – dẫu bà có thể đọc nhạc, thì cũng chẳng thay đổi được gì. Dần dần, Sophie biết tập trung vào số nhỏ những học sinh vượt lên khỏi vị trí loài sâu mọt bọc hương, và biết cách quên đi những đứa còn lại.

Trong thời gian này, Sophie gặp một thợ làm mũ trẻ tuổi (vì ông ta thích gọi như vậy, với niềm tự hào nghề nghiệp) tên là Antoni Fortuny, người dường như quyết tâm theo đuổi bà, với bất cứ giá nào. Antoni Fortuny, người mà Sophie cảm nhận một tình bạn nồng ấm và chỉ thế thôi, không mất nhiều thời gian để ngỏ lời cầu hôn bà, một lời cầu hôn mà Sophie từ chối – và tiếp tục từ chối, hàng chục lần mỗi tháng. Mỗi khi họ tạm biệt nhau, Sophie hy vọng bà không gặp ông ta nữa, vì bà không muốn làm ông ta tổn thương. Ông bán mũ, bất chấp những lần chối từ, vẫn giữ thế tấn công, vẫn mời bà đi nhảy, đi dạo bộ, hay uống ly sô cô la nóng ăn cùng bánh bích quy trên phố Canuda. Cô đơn ở Barcelona, Sophie thấy thật khó cưỡng lại lòng nhiệt tình của ông ta, sự bầu bạn của ông, sự tận tâm của ông. Bà chỉ cần nhìn vào Antoni Fortuny là biết bà không bao giờ có thể yêu ông ta được. Không yêu theo cách bà mơ ước sẽ yêu một người. Nhưng bà thấy thật khó xóa bỏ cái hình ảnh về bản thân mà bà nhìn thấy được phản chiếu trong đôi mắt mê cuồng của ông bán mũ. Chỉ trong đôi mắt ấy, bà mới thấy cô Sophie bà mong ước trở thành.

Thành thử, do nhu cầu hoặc do yếu đuối, Sophie tiếp tục vui thỏa cuộc săn đón của ông bán mũ, với niềm tim sẽ có một ngày ông ta gặp được một cô gái đáp lại tình cảm của ông ta và cuộc đời ông ta sẽ nhận được nhiều hơn... Trong lúc ấy, được ham muốn và được nâng niu là đ làm vơi đi nỗi cô đơn và niềm mong mỏi đối với mọi thứ bà bỏ lại đằng sau. Bà gặp Antoni vào các ngày Chủ nhật, sau lễ mixa. Những ngày còn lại bà bận bịu với những buổi dạy nhạc. Học trò yêu thích của bà là một cô bé tên Ana Valls, con gái của một nhà sản xuất máy dệt phát đạt, ông ta xây nên cơ nghiệp từ con số không, nhờ những nỗ lực và hy sinh lớn lao, mà hầu hết là của kẻ khác. Ana bày tỏ ước muốn trở thành một nhà soạn nhạc vĩ đại và thường bắt Sophie lắng nghe những đoạn nhạc cô bé sáng tác, học theo những mô típ của Grieg và Schumann – không phải không có kỹ thuật. Dù ông Valls tin là phụ nữ không có khả năng làm được gì ngoài mấy thứ thêu thùa may vá, ông ta vẫn ủng hộ con gái nghệ sĩ tài năng trên những phím đàn, vì ông ta đã sắp đặt gả con mình cho người thừa kế một dòng họ danh giá nào đấy. Ông ta biết rằng những người cao sang thích khám phá những phẩm chất khác thường ở các cô gái đến tuổi lấy chồng, bên cạnh sự hiền thục và mắn đẻ của tuổi xuân.

Chính ở nhà ông Valls mà Sophie đã gặp một trong những ân nhân và là bố già tài chính vĩ đại nhất của ông Valls. Don Ricardo Aldaya, người thừa kế của đế chế Aldaya, lúc ấy đã là niềm hy vọng sáng ngời của tập đoàn đầu sỏ xứ Catalan vào cuối thế kỷ. Mới vài tháng tước, Don Ricardo Aldaya đã thành hôn một người thừa kế giàu có, một vầng nhan sắc sững sờ với cái tên rất khó đọc, ấy là theo lời những kẻ ngồi lê đôi mách, mặc dù ông chồng mới cưới dường như không thấy chút sắc đẹp gì ở bà ta và chưa bao giờ thèm nhắc đến tên bà ta. Đó là cuộc hôn nhân được sắp xếp giữa các gia đình và ngân hàng, không hề có chút tình cảm vớ vẩn gì ở đây, ông Valls nói, vì ông ta hiểu rõ một đằng là chuyện trên giường còn đằng kia là chuyện cái đầu.

Sophie chỉ cần một thoáng trao ánh mắt với Don Ricardo Aldaya cũng đủ biết bà đã bị đánh gục. Aldaya có cặp mắt sói, háu đói và sắc sảo, cặp mắt của người đàn ông biết phải tấn công lúc nào và ở đâu. Ông hôn tay bà chầm chậm, đầu môi mơn trớn những khấc tay. Ở ông bán mũ toát lên vẻ ân cần và nồng ấm, thì Don Ricardo phát ra sự tàn nhẫn và quyền uy. Nụ cười nanh ác tỏ rõ rằng ông ta có thể đọc suy nghĩ và khao khát của bà và thấy chúng thật nực cười. Cảm giác của Sophie về ông ta là kiểu khinh thường bị đánh thức trong lòng ta bởi những điều ta khao khát nhất nhưng không hề hay biết. Bà ngay lập tức tự nhủ sẽ không gặp ông ta nữa, sẽ thôi dạy cô học sinh yêu quý của mình nếu đó là cần thiết để tránh sự đụng độ nào nữa với Ricardo Aldaya trong tương lai. Chưa bao giờ có gì khiến bà sợ hãi đến vậy khi cảm nhận cái bản tính thú vật ấy dưới lớp da thịt mình, bản năng của con mồi nhận ra kẻ ăn thịt đang khoác lớp vải áo tinh tế. Bà chỉ mất vài giây bịa ra một cái cớ vụn vặt để rời phòng, trước sự bối rối của ông Valls, sự thích thú của Aldaya, và sự thất vọng của Ana bé nhỏ, cô bé hiểu con người còn hơn hiểu âm nhạc, và cô bé biết mình đã mất cô giáo rồi.

Một tuần sau Sophie gặp Don Ricardo Aldaya đang đợi bà ở cổng trường nhạc trên phố Diputación, đang hút thuốc và lật giở trang báo. Họ liếc nhìn nhau, và không nói một lời, ông ta dẫn bà đến một tòa nhà cách đó hai dãy phố. Đó là một tòa nhà mới xây, vẫn chưa có người ở. Họ lên tầng hai. Don Ricardo mở cửa và đẩy bà vào. Sophie vào căn hộ, một mê cung những hành lang và phòng ốc, không có đồ đạc, tranh ảnh, đèn đón, hay bất cứ vật dụng nào khác cho thấy đó là một chốn để ở. Don Ricardo Aldaya đóng cửa, và họ nhìn nhau.

“Cả tuần nay anh không thôi nghĩ về em. Nếu em bảo rằng em không hề nghĩ đến anh, anh sẽ để em đi, và em sẽ không bao giờ gặp anh nữa,” Ricardo nói.

Sophie lắc đầu.

Những cuộc hẹn bí mật của họ kéo dài chín mươi sáu ngày. Họ gặp nhau vào các buổi chiều, luôn ở trong một căn hộ trống ở góc phố giữa Diputación và Rambla de Catalua. Thứ Ba và thứ Năm, lúc ba giờ. Những cuộc hẹn hò không bao giờ kéo dài quá một tiếng đồng hồ. Đôi khi Sophie nằm trên giường một mình, lúc này Aldaya đã đi khỏi, bà khóc lóc và run rẩy trong góc phòng ngủ. Rồi, khi Chủ nhật đến, Sophie tuyệt vọng nhìn vào đôi mắt ông bán mũ để tìm kiếm dấu vết của người phụ nữ đang dần biến mất, đang mong mỏi cả sự hiến dâng lẫn sự lừa gạt. Ông bán mũ không thấy những dấu vết trên da bà, những vết xước và bỏng chi chít trên cơ thể bà. Ông bán mũ không thấy sự tuyệt vọng trong nụ cười của bà, trong sự ngoan ngoãn của bà. Ông bán mũ không thấy gì hết. Có lẽ vì lý do ấy, bà đã nhận lời hứa hôn của ông ta. Lúc ấy, bà đã ngờ mình đang mang thai đứa con của Aldaya, nhưng sợ không dám nói, cũng như sợ đánh mất ông ta. Một lần nữa, chính Aldaya đã nhìn thấy ở Sophie điều bà không đủ khả năng thừa nhận. Ông ta đưa bà năm trăm peso cùng một địa chỉ ở phố Platería và lệnh cho bà phá bỏ đứa bé. Sophie từ chối. Don Ricardo Aldaya tát cho đến khi tai bà chảy máu, rồi đe dọa sẽ cho người giết bà nếu bà dám nhắc đến những cuộc hẹn bí mật của họ hay thừa nhận rằng đứa con là của ông ta. Khi Sophie bảo ông bán mũ rằng bà bị bọn côn đồ hành hung tại Quảng trường Pino, ông đã tin bà. Khi bà bảo rằng bà muốn làm vợ ông, ông tin bà. Vào ngày cưới, có ai đó sơ xuất gửi vòng hoa tang đến nhà thờ. Mọi người cười cợt một cách bồn chồn khi họ thấy đó là lỗi của người bán hoa. Tất cả mọi người, trừ Sophie, bà biết quá rõ Don Aldaya không quên ngày cưới của bà.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,691
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 48


SOPHIE CARAX KHÔNG BAO GIỜ TƯỞNG TƯỢNG NỔI rằng nhiều năm sau này bà sẽ gặp lại Ricardo (giờ đã là một người đàn ông trưởng thành, đứng đầu một đế chế gia đình, và cha của hai đứa con), và ông ta quay lại để gặp đứa con trai ông đã muốn phá bỏ với năm trăm peso.

“Có lẽ vì anh đang già đi,” ông ta giải thích, “nhưng anh muốn biết đứa bé này và cho nó những cơ hội trong đời mà đứa con mang dòng máu anh xứng đáng được hưởng. Suốt những năm qua anh không mảy may nghĩ đến nó, thế mà giờ đây, thật lạ lùng, anh lại không thể nghĩ đến điều gì khác.”

Ricardo Aldaya đã quả quyết rằng không thể tìm thấy bản thân mình trong đứa con đầu lòng, Jorge. Thằng bé thật yếu đuối, dè dặt, và thiếu tính kiên định của cha nó. Nó thiếu mọi thứ, ngoại trừ cái họ. Một ngày kia, Don Ricardo thức dậy trên giường một cô hầu mà cảm thấy rằng cơ thể mình đang già đi, rằng Chúa đã lấy đi sự ban phước của Người. Kinh hoảng, ông ta chạy đến nhìn mình trần truồng trong gương, và tưởng như tấm gương đang lừa dối. Người đàn ông kia không phải Ricardo Aldaya.

Giờ ông ta muốn tìm lại con người đã bị đánh cắp trong mình. Nhiều năm qua, ông ta đã nghe nói đến con trai người bán mũ. Ông ta không quên Sophie, theo cách của ông ta. Don Ricardo Aldaya không bao giờ quên điều gì. Đã đến lúc phải gặp thằng bé. Lần đầu tiên trong mười lăm năm, ông ta mới gặp một người không sợ ông ta, một người dám thách thức và thậm chí cười nhạo ông. Ông ta nhận thấy lòng can đảm ở đứa bé, một khát vọng thầm lặng mà những kẻ khờ khạo không thể nhìn thấy, nhưng nó tồn tại ở đó ngay từ đầu. Chúa đã mang lại tuổi xuân cho ông ta. Sophie, nay chỉ còn là bóng mờ của người đàn bà ông còn nhớ, thậm chí còn không đủ sức mạnh xen vào giữa họ. Ông bán mũ chỉ là một tên hề, một kẻ quê mùa cục mịch, đầy nanh ác và hằn học, mà Aldaya có thể dùng tiền mua chuộc lấy sự đồng lõa. Ông ta quyết định lôi Julián ra khỏi cái thế giới ngột ngạt tầm thường và nghèo đói ấy và mở cánh cửa dẫn đến thiên đường tài chính cho anh. Anh sẽ được học ở trường San Gabriel, sẽ hưởng mọi đặc quyền như chúng bạn, và sẽ được khơi gợi hướng theo sự nghiệp mà cha anh đã chọn. Don Ricardo muốn một người kế nhiệm xứng đáng. Jorge rồi sẽ mãi rúc trong cái bóng sự giàu sang, che giấu sự tầm thường của mình đằng sau những tiện nghi vật chất. Penélope, Penélope xinh đẹp, chỉ là một phụ nữ, và do đó là một kho báu, không phải người giữ kho báu. Julián, có một tâm hồn thi sĩ, vì vậy là linh hồn của một sát thủ, đáp ứng được yêu cầu. Chỉ là vấn đề thời gian mà thôi. Don Ricardo ước tính chừng mười năm nữa ông ta sẽ ghi dấu ấn hình ảnh của mình lên đứa con. Trong suốt thời gian Julián ở nhà Aldaya như một người trong gia đình (thậm chí như một người được chọn), không bao giờ Don Ricardo lại ngờ rằng điều duy nhất Julián muốn từ ông ta là Penélope. Không một giây phút nào ông ta ngờ rằng Julián len lén khinh thường ông, và lòng cảm mến của anh chỉ là vờ vịt, chỉ là cái cớ để được gần Penélope mà thôi. Để chiếm đoạt được cô ấy tuyệt đối, trọn vẹn. Họ giống nhau ở khía cạnh này.

Khi vợ ông ta bảo rằng bà phát hiện Julián và Penélope trần truồng, thế giới của ông ta tan theo khói lửa. Nỗi kinh hoàng trước sự phản bội này, cơn cuồng nộ khi biết mình bị sỉ nhục mà không thể nói ra, bị chơi khăm trong chính trò chơi của mình, bị bẽ mặt và đâm lén sau lưng bởi chính người ông ta dần yêu quý như là hình ảnh của chính mình - tất cả những cảm xúc này dồn dập tấn công ông ta dữ dội đến nỗi không ai có thể hiểu hết tầm vóc nỗi đau của ông ta. Khi bác sĩ đến khám cho Penélope xác nhận rằng cô gái đã không còn trinh trắng, và có thể đã mang thai, linh hồn Don Ricardo tan thành thứ chất sánh đặc của lòng căm hận mù quáng. Ông ta thấy bàn tay của mình trong bàn tay của Julián, bàn tay đã đâm con dao cắm sâu vào tim ông. Ông ta còn chưa biết, nhưng cái ngày ông ta hạ lệnh nhốt Penélope vào phòng trên tầng ba cũng là ngày ông ta bắt đầu chết. Mọi thứ ông ta làm kể từ lúc ấy chỉ là cơn giãy giụa của quá trình tự hủy hoại.

Với sự câu kết của ông bán mũ, người ông ta vô cùng căm ghét, ông ta đã sắp xếp để tống khứ Julián khỏi Barcelona và đưa anh vào quân đội, nơi Aldaya đã ban lệnh rằng anh sẽ chết “do tai nạn”. Ông ta cấm bất kỳ ai - bác sĩ, người hầu, thậm chí người trong nhà, ngoại trừ ông và bà vợ - được gặp Penélope trong suốt những tháng cô gái bị cầm tù trong căn phòng sặc mùi chết chóc và bệnh tật kia. Lúc ấy, các đối tác của Aldaya đang lén lút bỏ rơi ông ta, đang thao túng sau lưng ông ta ngõ hầu thâu tóm quyền lực, sử dụng chính cái vận may ông ta đang bày ra cho họ. Lúc này, đế chế Aldaya đang lặng lẽ suy tàn, tại những cuộc họp bí mật ở Madrid, trong những hành lang kín bưng, trong các ngân hàng Geneva. Julián, như Aldaya nghi ngờ, đã chạy trốn. Trong sâu thẳm, ông ta thầm tự hào về anh, cho dù ông ta muốn anh chết. Julián đã làm điều mà ông ta sẽ làm nếu ở trong hoàn cảnh ấy. Sẽ có ai đó phải trả giá cho những hành động của Julián.

Penélope Aldaya sinh hạ một bé trai, vẫn sống, vào ngày 26 tháng Chín năm 1919. Nếu bác sĩ có thể khám cho cô ấy, ông ta hẳn sẽ nói đứa bé đã bị nguy kịch nhiều ngày rồi và cần phải mổ đẻ. Nếu bác sĩ có mặt, hẳn ông ta có thể ngăn được sự xuất huyết đã cướp đi mạng sống của Penélope, trong khi cô ấy gào thét cào cấu vào cánh cửa khóa, mà ở phía bên kia cha côkhóc thầm và mẹ cô không dám nhìn thẳng vào chồng mình. Nếu có bác sĩ, ông ta hẳn sẽ cáo buộc Don Ricardo Aldaya tội giết người, vì không còn từ nào hơn để mô tả cảnh tượng trong căn phòng tối tăm vấy máu ấy. Nhưng không ai ở đó cả, và khi cuối cùng người ta mở cửa phát hiện Penélope chết trên vũng máu của chính mình, đang ôm đứa bé tím tái, không ai có thế thốt ra dù chỉ một lời. Hai thi thể được chôn dưới tầng hầm, không có lễ tang hay nhân chứng. Những tấm chăn và nhau thai bị vứt vào lò, và căn phòng ấy bị bịt kín bằng một bức tường gạch.

Khi Jorge Aldaya, đau đớn vì tội lỗi và xấu hổ, kể cho Miquel Moliner chuyện xảy ra, Miquel quyết định gửi cho Julián một bức thư, có chữ ký của Penélope, trong thư cô ấy tuyên bố không còn yêu anh, cầu xin anh tha thứ, và thông báo một đám cưới không có thật. Anh ấy muốn Julián tin vào lời dối trá kia và làm lại cuộc đời, đinh ninh mình bị phản bội, hơn là phơi bày cho anh ấy sự thật. Hai năm sau đó, khi bà Aldaya chết, có những người đã đổ cái chết của bà cho lời nguyền trong căn nhà kia, nhưng con trai bà, Jorge, biết rằng thứ giết chết bà là ngọn lửa bùng cháy trong lòng bà, là tiếng gào thét của Penélope và tiếng nện vô vọng không ngừng lên cánh cửa như cái búa không ngớt bổ vào đầu bà. Lúc ấy, gia đình Aldaya đã mất hết danh tiếng, và gia sản Aldaya sụp đổ như một lâu đài cát, bị quét sạch bởi lòng tham và sự trả thù. Các thư ký và kế toán mưu tính chuyến bay sang Argentina, khởi đầu một doanh nghiệp mới khiêm tốn hơn. Quan trọng là được ra đi. Tránh xa khỏi những kẻ nhòm ngó chuyên lén nhìn vào hành lang nhà Aldaya, như họ vẫn luôn làm vậy.

Họ ra đi vào một buổi sáng sớm năm 1926, dưới những cái tên giả, trên một chuyến tàu sẽ đưa họ băng qua Đại Tây Dương đến cảng La Plata. Jorge và cha ở cùng một khoang. Ông già Aldaya, đang bốc mùi và chết dần, gần như không đứng dậy được. Các bác sĩ, vốn đã bị ông ta không cho phép gặp Penélope, sợ ông ta đến mức không dám nói sự thật, nhưng ông ta biết rằng thần chết đã cùng họ lên chuyến tàu ấy, và rằng thân thể ông ta, mà Chúa đã bắt đầu đánh cắp từ cái buổi sáng ông quyết định tìm lại đứa con trai Julián, đang mòn đi dần. Suốt chuyến đi dài, ông ta ngồi trên boong, run rẩy dưới những tấm chăn, hướng mặt về phía biển khơi trống trải vô tận, biết mình sẽ không bao giờ nhìn thấy đất liền. Có đôi khi, đang ngồi nơi đuôi tàu, ông ta nhìn đàn cá mập đã theo họ kể từ khi họ rời Tenerife. Ông ta từng nghe một quan chức bảo rằng cuộc tháp tùng mang điềm gở ấy là bình thường ở những con tàu vượt đại dương. Những con quái vật ăn những phần xác thú dư thừa bị con tàu bỏ lại sau làn nước. Nhưng Don Ricardo nghĩ khác. Ông ta tin rằng những con ác thú kia đang đi theo mình. Bọn mày đang đợi tao ư, ông ta nghĩ, thấy trong chúng bộ mặt thật của Chúa. Lúc ấy, ông ta lại gần con trai Jorge, người mà ông ta thường khỉnh bỉ song giờ đây lại là chỗ nương nhờ cuối cùng, bắt anh ta thề sẽ thực hiện ước nguyện lúc âm chung. “Con phải tìm bằng được Julián Carax và giết hắn. Con hứa đi.”

Một buổi sáng mai, hai ngày trước khi đến Buenos Aires, Jorge tỉnh giấc thấy giường cha mình trống trơn. Anh ta ra ngoài tìm ông; boong tàu vắng hoe, ngập chìm trong làn sương và bụi nước. Anh ta thấy áo ngủ của cha mình vẫn ấm, bị vứt ở đuôi tàu. Vết nước sau thân tàu tan biến dần thành một làn mây đỏ thẫm, một vệt đen trên mặt nước tĩnh lặng, ngỡ như biển cả đang chảy máu. Lúc ấy anh ta nhận ra đàn cá mập đã thôi đuổi theo họ. Anh ta thấy chúng, từ xa, những chiếc vây lưng ngoe nguẩy khi chúng nhảy múa thành vòng tròn. Từ đấy cho đến hết chuyến đi, không hành khách nào còn thấy đàn cá mập kia nữa.

Khi Jorge Aldaya xuống Buenos Aires và nhân viên hải quan hỏi có phải anh ta đi một mình không, anh ta gật đầu xác nhận. Anh ta đã độc hành một mình từ rất lâu rồi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,691
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 49


MƯỜI NĂM KỂ TỪ KHI ĐẶT CHN LÊN BUENOS AIRES, Jorge Aldaya, hay cái sức mạnh nay đã cạn kiệt mà anh ta trở thành, đã quay về Barcelona. Những tai họa đã khởi đầu gặm nhấm gia đình Aldaya ở Cựu Thế giới chỉ ngày càng lớn dần lên ở Argentina. Jorge bị bỏ mặc một mình đối mặt với thế giới, một cuộc chiến mà anh ta không có cái sức mạnh của cha mình cũng như sự điềm tĩnh của ông để đối mặt. Jorge đã đến Buenos Aires với một trái tim tê dại, bị lòng ăn năn bắn xuyên qua. Châu Mỹ, như anh ta nói sau này, là một điều diệu kỳ, vùng đất của kẻ săn mồi man rợ, mà anh ta lại được giáo dục trong những đặc ân cùng sự tao nhã phù phiếm của châu Âu già cỗi - một lục địa chết bị sức ì níu lại. Chỉ trong vài năm, anh ta mất tất cả, đầu tiên là mất thanh danh của mình rồi cuối cùng mất chiếc đồng hồ vàng cha anh ta đã tặng nhân lễ ban thánh thể đầu tiên. Nhờ chiếc đồng hồ, anh ta có thể mua được một tấm vé quay về. Người đàn ông quay lại Tây Ban Nha gần như là một kẻ ăn mày, một đống thất bại và cay đắng, bị đầu độc bởi ký ức về những gì anh ta cảm thấy đã bị cướp đi và lòng căm thù kẻ mà anh ta đổ lỗi đã gây ra sự lụn bại của mình: Julián Carax.

Lời hứa với người cha vẫn in trong tâm trí. Ngay khi về nước, anh ta cố truy tìm dấu vết của Julián, chỉ để phát hiện ra rằng Carax cũng dường như biến mất khỏi Barcelona. Chính lúc ấy, nhờ tình cờ hay định mệnh, anh ta gặp được người quen cũ. Sau một sự nghiệp vinh quang trong trại cải tạo và nhà tù, Francisco Javier Fumero đã gia nhập quân đội, đeo hàm trung úy. Có nhiều người dự tính hắn sẽ là một vị tướng trong tương lai, nhưng một vụ bê bối mờ ám đã khiến hắn bị đuổi khỏi quân ngũ. Lúc ấy danh tiếng của hắn đã vượt ra khỏi phạm vi quân đội. Người ta kể đến hắn về một vụ làm ăn lớn, nhưng trên hết, người ta sợ hắn. Francisco Javier Fumero, thằng bé nhút nhát và sợ hãi từng nhặt lá khô trong sân trường San Gabriel, giờ là một kẻ giết người. Người ta kháo rằng, hắn giết những nhân vật danh tiếng vì tiền, và hắn trừ khử chính khách theo đơn đặt hàng. Fumero được mệnh danh là thần Chết.

Aldaya và hắn nhận ra nhau ngay qua ánh đèn mờ của quán cà phê Novedades. Aldaya bị ốm, bị một cơn sốt lạ hành hạ mà anh ta đổ cho những loại côn trùng trong rừng Nam Mỹ. “Ở đấy, thậm chí loài muỗi cũng là lũ khốn nạn,” anh ta than phiền. Fumero lắng nghe anh ta với vẻ thích thú và ghê tởm. Hắn sùng bái loài muỗi và mọi côn trùng nói chung. Hắn ngưỡng mộ kỷ luật của chúng, sự chịu đựng và tính tổ chức của chúng. Ở chúng không có sự lười biếng, không có sự chống lại tổ chức hay thoái hóa giống loài. Loài hắn ưa thích là nhện, giống côn trùng được phú tài năng khoa học hiếm hoi về giăng bẫy và chờ đợi con mồi với lòng kiên nhẫn vô hạn, biết rằng sớm hay muộn con mồi sẽ sa lưới, do ngu ngốc hay bất cẩn. Theo hắn, xã hội loại người có nhiều điều cần học hỏi ở côn trùng. Aldaya là một trường hợp rõ ràng về suy đồi đạo đức và thể xác. Anh ta đã già đi nhiều và trông tiều tụy, không chút cơ bắp. Fumero không thể chịu được những kẻ không có cơ bắp. Bọn họ làm hắn phát nôn.

“Javier, tớ thấy thật kinh khủng,” Aldaya van nài. “Cậu cho tớ ở nhờ vài hôm được không?”

Fumero đồng ý đưa Jorge Aldaya về ở nhà mình. Hắn sống trong một căn hộ tối tăm trên khu phố Raval, đường Cadena, cùng hằng hà sa số côn trùng đựng trong những chiếc bình thuốc, và dăm bảy cuốn sách. Fumero yêu côn trùng bao nhiêu thì căm thù sách vở bấy nhiêu, nhưng đấy không hề là những cuốn sách thường: chúng là những cuốn tiểu thuyết của Julián Carax do Cabestany xuất bản. Có hai cô điếm sống ở căn hộ đối diện - một bà mẹ cùng cô con gái chấp nhận cả chuyện bị người ta châm điếu thuốc lá đang cháy vào người khi ế khách, đặc biệt vào cuối tháng. Fumero trả tiền cho họ trông coi Aldaya khi hắn đi làm. Hắn không muốn thấy anh ta chết. Chưa muốn.

Francisco Javier Fumero đã gia nhập Đội Điều tra Tội phạm. Ở đấy luôn có công việc cho những nhân viên đủ phẩm chất, có khả năng đối mặt với những tình huống nguy nan nhất, những loại tình huống cần xử lý ko để cho những công dân đáng kính có thể tiếp tục sống kiểu ngu si hưởng thái bình. Đấy là những lời trung úy Durán, một kẻ thích nhưng tuyên ngôn trang trọng, kẻ đã kêu gọi Fumero đã gia nhập lực lượng cảnh sát.

“Làm cảnh sát không phải là một công việc, mà là một nhiệm vụ,” Durán tuyên bố. “Tây Ban Nha cần những kẻ dũng cảm hơn và ít lời hơn.”

Thật không may, trung úy Durán chết không lâu sau, bị một tai nạn thảm thương trong một cuộc truy quét của cảnh sát trên quận La Barceloneta: trong cơn hỗn loạn khi đụng độ một nhóm những kẻ vô chính phủ, ông ta đã rơi từ cửa sổ trên mái một tòa nhà, lao qua năm tầng rồi chết. Mọi người đồng ý rằng Tây Ban Nha đã mất đi một người con vĩ đại, một anh dùng dân tộc với tầm nhìn về tương lai, một nhà tư tưởng không e sợ hành động. Fumero đã tiếp quản vị trí của ông ta với niềm tự hào, biết rằng hắn đã làm một việc đúng đắn là đẩy ông ta xuống, vì Durán đang trở nên quá già cho công việc này. Fumero kinh tởm những người già - như hắn ghét những kẻ tàn tật, bọn Digan và đồng bóng - cho dù bọn họ có cơ bắp hay không. Đôi khi Chúa cũng mắc sai lầm. Trách nhiệm của những công dân cương trực là sửa chữa những lỗi lầm nho nhỏ này, và duy trì thế giới ổn định.

Tháng Ba 1932, vài tuần sau khi họ gặp nhau trong Novedades Café, Jorge Aldaya bắt đầu cảm thấy khỏe lên và cởi mở tấm lòng với Fumero. Anh ta cầu xin tha thứ vì cách mình đã xử sự với hắn khi còn học ở trường. Nước mắt đầm đìa, anh ta kể cho hắn nghe toàn bộ câu chuyện, không bỏ sót một điều gì. Fumero yên lặng lắng nghe, gật đầu, ghi nhận, đồng thời tự hỏi hắn có nên giết Aldaya lúc đó và ngay tại đó không, hay là chờ đợi. Hắn tự hỏi liệu Aldaya có yếu đuối đến mức lưỡi dao sẽ chỉ gặp một sự chống trả thờ ơ từ cái thân thể bốc mùi kia, cái cơ thể ẻo lả vì hàng bao năm biếng nhác kia. Hắn quyết định hoãn lại cuộc phanh thây. Hắn thấy câu chuyện hấp dẫn, đặc biệt khi nó còn liên quan đến Julián Carax.

Hắn biết, từ thông tin thu được ở nhà xuất bản, rằng Carax sống ở Paris, nhưng Paris là một thành phố rất lớn, và dường như không ai trong công ty Cabestany biết chính xác địa chỉ. Không ai ngoại trừ một phụ nữ tên Monfort, người đã giữ kín cho riêng mình. Fumero đã theo dõi cô vài ba lần lúc cô ra khỏi văn phòng, mà cô không hề biết. Hắn thậm chí còn đi xe điện, cách cô chừng nửa thước. Phụ nữ không bao giờ để ý đến hắn, mà nếu có, họ sẽ quay mặt đi hướng khác, vờ như không thấy hắn. Một đêm, sau khi bám theo cô về tận cửa ở Quảng trường San Felipe Neri, Fumero quay về nhà và thủ dâm điên dại; khi làm như vậy, hắn tưởng tượng mình đang đâm con dao vào cơ thể người phụ nữ đó, mỗi nhát đâm khoảng chừng ba phâ chầm chậm, đều đặn, mắt hắn dán chặt vào mắt cô. Có lẽ lúc ấy cô sẽ hạ cố cho hắn địa chỉ của Carax và đối xử với hắn như với sự kính trọng dành cho một sĩ quan cảnh sát.

Julián Carax là người duy nhất Fumero đã không giết được khi hắn đã hạ quyết tâm. Có lẽ vì anh là mục tiêu đầu tiên của Fumero, mà hắn thì cần thời gian để điều khiển trò chơi. Khi Fumero nghe cái tên đó, hắn mỉm cười theo cách những hàng xóm của hắn, các cô điếm, thấy thật kinh hoàng: không chớp mắt, từ từ liếm vành môi trên. Hắn vẫn có thể nhớ cảnh Carax hôn Penélope Aldaya trong tòa dinh thự thênh thang kia trên Đại lộ Tibidabo. Penélope của hắn. Đó là tình yêu thuần khiết, một tình yêu chân thực, như người ta thấy trong phim ảnh. Fumero rất đam mê điện ảnh và đến rạp ít nhất hai lần mỗi tuần. Chính nhờ một bộ phim mà hắn hiểu rằng Penélope là tình yêu của đời hắn. Những người đàn bà còn lại, đặc biệt là mẹ hắn, chẳng gì hơn một lũ đàng điếm. Khi lắng nghe đến đoạn cuối cùng câu chuyện của Aldaya, hắn quyết định rằng, rốt cuộc, hắn sẽ không giết anh ta. Quả thật, hắn vui sướng vì số phận đã để bọn họ gặp lại nhau. Hắn có một viễn ảnh, như những viễn ảnh trong các bộ phim hắn yêu thích: Aldaya sẽ giao nộp cho hắn những con mồi khác. Sớm hay muộn, họ sẽ sập vào mạng lưới của hắn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,691
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 50


MÙA ĐÔNG NĂM 1934, anh em nhà Moliner cuối cùng cũng tống được Miquel ra khỏi ngôi nhà trên phố Puertaferrissa, giờ vẫn trống không và ở trong tình trạng vô chủ. Họ chỉ muốn tống anh ra đường, bị tước đi cái ít ỏi anh còn lại, là những cuốn sách của anh và sự tự do độc lập làm họ chướng tai gai mắt và căm ghét sâu sắc đến như vậy. Anh ấy không kể gì với tôi hay đến nhờ tôi giúp đỡ. Tôi chỉ phát hiện ra lúc anh gần như trở thành một người ăn mày khi tôi đi tìm anh ở nơi từng là nhà anh và phát hiện ra anh em nhà anh ấy đã thuê lũ côn đồ luật sư kiểm kê tài sản và bán nốt những đồ vật ít ỏi từng thuộc về anh ấy. Miquel đã qua vài đêm ở một nhà trọ trên phố Canuda, một căn nhà tồi tàn, ẩm mốc toát lên mùi vẻ một nhà thổ. Khi tôi thấy căn phòng mà anh bị giam hãm, một dạng quan tài không có cửa sổ và có một giường ngủ loại dành cho tù nhân, tôi nắm lấy anh kéo về nhà mình. Anh ấy ho không ngớt, và trông thật hốc hác. Anh bảo là do cơn cảm lạnh kéo dài, như lời than vãn của một bà cô không chồng lúc chán thì sẽ thôi. Hai tuần sau, tình hình càng tồi tệ hơn.

Do anh ấy luôn mặc đồ đen, nên phải mất một thời gian tôi mới nhận ra những vết trên tay áo anh là vết máu. Tôi gọi bác sĩ, và sau khi khám cho Miquel, ông ta hỏi tại sao gọi cho ông muộn như vậy. Miquel bị lao. Phá sản và bệnh tật, giờ anh ấy chỉ sống dựa vào ký ức và tiếc nuối. Anh là người tốt nhất và yếu đuối nhất tôi từng biết, người bạn duy nhất của tôi. Chúng tôi kết hôn vào một sáng tháng Hai lạnh lẽo trong tòa án quận. Tuần trăng mật của chúng tôi bao gồm bắt xe buýt ra Công viên Güell và từ trên địa thế ngoằn ngoèo của nó nhìn xuống Barcelona – một thế giới nhỏ mù sương. Chúng tôi không báo cho ai biết việc kết hôn, cả Cabestany, hay cha tôi, hay gia đình Miquel, những người tin rằng anh đã chết. Cuối cùng, tôi viết một bức thư cho Julián, kể cho anh ấy, nhưng tôi không bao giờ gửi đi. Đó là một cuộc hôn nhân bí mật. Vài tháng sau lễ cưới, có người gõ cửa nhà tôi tự xưng là Jorge Aldaya. Anh ta trông tiều tụy, khuôn mặt vã đầy mồ hôi bất chấp trời lạnh cắt da cắt thịt. Khi gặp lại Miquel sau hơn mười năm, Aldaya mỉm cười cay đắng và nói, “Chúng ta đều bị nguyền rủa, Miquel. Cậu, Julián, Fumero, và tớ.” Lý do biện minh cho cuộc viếng thăm là một nỗ lực làm lành với người bạn cũ Miquel, người mà anh ta hy vọng sẽ cho anh ta biết làm cách nào liên lạc với Julián Carax, vì anh ta có một lời nhắn quan trọng muốn chuyển cho anh ấy, từ người cha đã chết, Don Ricardo Aldaya. Miquel bảo anh không biết Carax ở đâu.

“Bọn tớ mất liên lạc đã nhiều năm,” anh nói dối. “Lần cuối cùng tớ nghe nói đến cậu ấy thì họ nói cậu ấy sống ở Paris.”

Aldaya đã đoán trước một câu trả lời như vậy. “Cậu thật làm tớ thất vọng, Miquel. Tớ đã hy vọng thời gian và vận hạn làm cậu khôn ngoan hơn.”

“Có những thất vọng làm vinh dự cho những kẻ gây ra chúng.”

Người khô quắt, như sắp chực đổ xuống thành một đống nhăn nhúm, Aldaya bật cười.

“Fumero gửi lời chúc nồng hậu nhất mừng đám cưới của cậu,” anh ta nói lúc đi ra cửa.

Những lời ấy khiến con tim tôi chết đứng. Miquel không muốn nói gì, nhưng đêm hôm ấy, khi tôi ôm chặt anh và chúng tôi vờ như say ngủ, tôi biết Aldaya đã đúng. Chúng tôi bị nguyền rủa.

Vài tháng trôi qua không có tin tức gì của Julián hay Aldaya. Miquel vẫn viết thường x các báo ở Barcelona và Madrid. Anh làm việc không ngơi, ngồi bên máy đánh chữ mà đổ ra bất cứ thứ gì anh cho là cứt mũi, chỉ đáng để mớm cho hành khách đi xe điện. Tôi vẫn làm việc ở nhà xuất bản, có lẽ vì đây là nơi tôi cảm thấy được gần gũi Julián nhất. Anh ấy gửi cho tôi một bức thư ngắn báo rằng đang viết một tiểu thuyết mới, tên là Bóng hình của gió, mà anh ấy hy vọng sẽ hoàn tất trong vài tháng nữa. Bức thư chẳng hề nhắc gì đến mọi chuyện xảy ra ở Paris. Giọng điệu lạnh lùng và xa cách hơn bao giờ hết. Nhưng những nổ lực của tôi hòng căm ghét anh ấy đều thất bại. Tôi bắt đầu tin rằng Julián không phải một người đàn ông, anh ấy là một căn bệnh.

Miquel không hề ảo tưởng về cảm xúc của tôi. Anh ấy trao cho tôi tình yêu và sự hiến dâng mà không đòi hỏi gì đáp lại, ngoại trừ được có tôi ở bên và có lẽ cả sự thận trọng của tôi nữa. Anh không bao giờ buông lời trách móc hay than vãn. Dần dà, tôi cảm thấy một niềm dịu dàng bao dung lớn lao với anh ấy, trên cả tình bạn đã mang chúng tôi lại với nhau và lòng trắc ẩn sau này đã đày đọa chúng tôi. Miquel mở một tài khoản tiết kiệm đứng tên tôi, anh dồn gần hết thu nhập làm báo vào đấy. Anh không bao giờ khước từ đặt hàng nào, từ bài báo, bài điểm sách, cho đến nhặt nhạnh phiếm đàm. Anh ấy viết dưới ba bút danh khác nhau, mười bốn đến mười sáu tiếng mỗi ngày. Khi tôi hỏi tại sao anh làm việc cực nhọc như vậy, anh chỉ mỉm cười hoặc anh sẽ nói nếu không làm gì thì anh buồn chán lắm. Giữa chúng tôi không có gì giấu giếm nhau, thậm chí cả những chuyện không nói thành lời. Miquel biết rằng anh sẽ chóng chết.

“Em phải hứa nếu có chuyện gì xảy ra với anh, em sẽ giữ món tiền ấy và tái hôn, rằng em sẽ có con, và em sẽ quên đi tất cả, bắt đầu là quên anh.”

“Em sẽ lấy ai đây, Miquel? Đừng nói lăng nhăng chứ.”

Đôi khi tôi bắt gặp anh nhìn tôi với một nụ cười hiền từ, tưởng như mỗi khoảnh khắc trông thấy tôi đều là kho báu quý giá nhất của anh. Cứ chiều chiều, anh đến đón tôi ở chỗ làm, ấy là lúc duy nhất anh thư giãn trong ngày. Anh tỏ vẻ sung sức, nhưng tôi thấy anh khom người thế nào khi đi lại, và anh ho hắng ra sao. Anh sẽ dẫn tôi đi ăn lót dạ, hay đi ngắm hàng qua cửa kính trưng bày các gian hàng trên phố Fernando, rồi chúng tôi về nhà, nơi anh tiếp tục làm việc cho đến quá nửa đêm. Tôi âm thầm mang ơn từng giây phút chúng tôi bên nhau, và mỗi đêm anh ấy ôm tôi thiếp đi, trong khi tôi giấu những giọt lệ căm hận bản thân vì không thể yêu người đàn ông ấy như anh đã yêu tôi, không thể trao anh thứ tôi đã vô nghĩa bỏ lại dưới chân Julián. Nhiều lần trong đêm, tôi thề với lòng mình rằng sẽ quên đi Julián, nguyện sẽ dành hết phần đời còn lại của mình để làm cho người đànội nghiệp ấy hạnh phúc và đền đáp cho anh một phần nhỏ bé của những gì anh đã trao cho tôi. Tôi chỉ là người tình của Julián trong hai tuần thôi, nhưng tôi sẽ là vợ của Miquel suốt phần đời còn lại. Nếu có ngày những trang giấy này đến tay cậu, và cậu sẽ phán xét tôi, như tôi đã phán xét mình khi viết chúng ra, khi nhìn vào bóng mình trong tấm gương nguyền rủa và ăn năn này, hãy nhớ về tôi như thế này, Daniel ạ.

Bản thảo cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Julián đến vào cuối năm 1935. Tôi không biết là do căm giận hay sợ hãi, nhưng tôi đã chuyển đến nhà in khi còn chưa đọc nó. Khoản tiết kiệm cuối cùng của Miquel đã được chi ra cho ấn bản này nhiều tháng trước, nên ông Cabestany, lúc này đang ốm yếu, chẳng mấy để tâm. Tuần ấy, bác sĩ khám cho Miquel đã đến văn phòng gặp tôi, trông rất lo lắng. Ông bảo nếu Miquel không giảm cường độ làm việc mà nghỉ ngơi đôi chút thì ông hầu như không còn có thể làm gì để giúp anh ấy chống lại bệnh lao.

“Anh ấy cần lên vùng núi, chứ không phải ở Barcelona hít thở khói thuốc tẩy và than bụi này. Anh ấy không phải con mèo có chín mạng, còn tôi thì không phải bà vú em. Hãy thuyết phục anh ấy. Anh ấy chả để ý gì lời của tôi cả.”

Giờ nghỉ trưa hôm ấy, tôi quyết định về nhà nói chuyện với anh. Trước khi mở cửa, tôi nghe tiếng nói từ trong nhà lọt ra, Miquel đang tranh cãi với ai đó. Lúc đầu tôi nghĩ đấy là người ở tòa báo, nhưng rồi tôi nghe tên của Julián trong cuộc đàm thoại. Tôi nghe tiếng bước chân đến gần cửa, liền chạy núp vào chiếu nghỉ trên gác mái. Từ đó tôi có thể thấy vị khách.

Đó là một người đàn ông mặc đồ đen, với vẻ mặt khó tả và môi mỏng, như một vết sẹo hở miệng. Đôi mắt hắn màu đen và vô hồn, như mắt cá. Trước khi biến mất xuống dưới cầu thang, hắn nhìn lên vào bóng tối. Tôi dựa sát vào tường, nén thở. Vị khách vẫn đứng đó một lát, tưởng như hắn có thể đánh hơi thấy tôi, hắn liếm môi, răng nhe ra như chó. Tôi đợi tiếng bước chân hắn mờ dần rồi mới rời khỏi chỗ nấp và đi vào nhà. Một mùi long não lơ lững trong không khí. Miquel đang ngồi bên cửa sổ, tay anh buông thõng hai bên thành ghế. Môi anh run rẩy. Tôi hỏi người đàn ông kia là ai và hắn muốn gì.

“Đó là Fumero. Hắn đến đưa tin về Julián.”

“Hắn biết gì về Julián?”

Miquel nhìn tôi, trông chán nản hơn bao giờ hết. “Julián

Tin ấy làm tôi chết lặng. Tôi ngã xuống ghế, và Miquel nắm tay tôi. Anh dường như mệt mỏi và nói rất khó khăn. Trước khi tôi có thể mở miệng, anh bắt đầu tóm lược những sự kiện Fumero đã kể cho anh, và những gì có thể suy ra từ đó. Fumero đã sử dụng đầu mối liên lạc của hắn ở cảnh sát Paris để phát hiện ra nơi ở của Julián Carax và theo dõi anh ấy. Chuyện này có lẽ diễn ra nhiều tháng thậm chí nhiều năm trước, Miquel nói. Điều khiến anh lo lắng không phải là việc Fumero đã tìm ra Carax – sớm muộn gì hắn cũng tìm ra thôi – mà là việc hắn quyết định cho Miquel biết lúc này, cùng với vài tin tức kỳ lạ về một cuộc hôn nhân khó tin. Đám cưới dường như sẽ diễn ra đầu mùa hè năm 1936. Thông tin duy nhất về cô dâu là cái tên, trong trường hợp này là quá đủ: Irene Marceau, chủ câu lạc bộ nơi Julián chơi đàn nhiều năm nay.

“Em không hiểu,” tôi lẩm bẩm. “Julián lấy người bảo trợ mình ư?”

“Chính xác. Đây không phải đám cưới. Nó là một hợp đồng.”

Irene Mareceau hơn Julián chừng hai lăm đến ba mươi tuổi. Miquel ngờ rằng bà ta đã quyết định hôn nhân để có thể chuyển hết tài sản cho Julián nhằm đảm bảo tương lai anh ấy.

“Nhưng bà ta đã giúp anh ấy rồi mà. Bà ta luôn như vậy.”

“Có lẽ bà ta biết mình sắp chết,” Miquel đoán.

Tiếng vọng những lời ấy khoét sâu vào xương tủy chúng tôi. Tôi quỳ xuống ôm anh thật chặt. Tôi cắn môi bởi không muốn anh thấy tôi khóc.

“Julián không yêu người đàn bà này, Nuria,” anh nói, nghĩ rằng đó là nguyên nhân nỗi buồn của tôi.

“Julián không yêu ai ngoài bản thân anh ấy và những cuốn sách khốn kiếp của anh ấy,” tôi thốt ra.

Tôi ngước lên thấy Miquel đang nở nụ cười thông thái của một đứa trẻ già.

“Còn Fumero hy vọng được gì khi lộ chuyện này?”

Chúng tôi không mất nhiều thời gian để tìm ra. Hai ngày sau, một bóng ma với đôi mắt sâu hoắm, xuất hiện tại nhà chúng tôi, bừng bừng nổi giận. Fumero đã cho hắn biết rằng Julián sắp kết hôn một phụ nữ giàu có với một lễ cưới trang hoàng lãng mạn. Aldaya lâu nay ám ảnh với suy nghĩ rằng kẻ phải chịu trách nhiệm cho những tai ương của anh ta giờ lại đang được bọc trong nhung lụa, ngồi trên đống của, trong khi anh ta thì mất hết. Fumero đã không kể cho anh ta rằng Irene Marceau dẫu có là một phụ nữ giàu sang song vẫn là chủ nhà chứa chứ không phải công chúa trong truyện cổ tích. Hắn cũng không kể cho anh ta rằng cô dâu già hơn Julián ba mươi tuổi và rằng, thay vì một cuộc hôn nhân đích thực, đây là một hành động từ thiện cho một người đã lâm vào đường cùng. Hắn đã không nói với anh ta đám cưới sẽ diễn ra lúc nào và ở đâu. Điều duy nhất hắn làm là gieo cái hạt mầm hoang tưởng đang tàn phá nốt chút năng lượng còn lại trong cái cơ thể khô gầy, vẩn đục của Jorge.

“Fumero lừa cậu đấy, Jorge,” Miquel nói.

“Còn cậu, đồ vua nói dối, cậu dám cáo buộc anh em của mình!” Aldaya gào lên trong điên loạn.

Không cần Aldaya phải bộc lộ suy nghĩ của anh ta. Trong một con người tàn tạ như vậy, ta có thể đọc được những lời ẩn giấu sau lớp da khô quắt trên khuôn mặt bị ma ám kia. Miquel hiểu rõ trò chơi của Fumero. Anh đã dạy cho hắn chơi cờ hai mươi năm về trước ở trường San Gabriel. Fumero có chiến lược con bọ ngựa đang cầu nguyện và sự kiên nhẫn của những kẻ bất tử. Miquel gửi cho Julián một bức thư cảnh báo.

Khi Fumero quyết định đã đến thời điểm phù hợp, hắn lôi Aldaya đến và bảo ba ngày nữa Julián sẽ cưới vợ. Vì là nhân viên cảnh sát, hắn không thể dính líu vào chuyện như thế này, hắn giải thích. Nhưng Aldaya là dân thường nên có thể đi Paris và đảm bảo cho đám cưới kia không bao giờ xảy ra. Làm thế nào đây? Aldaya sẽ sốt sắng hơn, nung nấu căm thù. Thách thức anh ấy đấu súng vào ngày cưới. Fumero còn đưa cho anh ta một khẩu súng mà Jorge tin sẽ làm xuyên thủng trái tim sỏi đá đã hủy hoại vương triều Aldaya. Báo cáo của cảnh sát Paris sau này tường trình rằng khẩu súng tìm thấy dưới chân anh ta là giả và nó không bao giờ có thể làm được nhiều hơn điều đã làm: nổ bung đạn trong tay Jorge. Fumero đã biết điều này khi hắn đưa khẩu súng cho anh ta đựng trong một chiếc hộp, trên sân ga Francia. Hắn biết rất rõ ràng thậm chí dù cho cơn sốt, sự ngu dốt và căm giận mù quáng không ngăn được Aldaya giết Julián Carax trong một cuộc đọ súng lúc bình minh sau một đêm không ngủ, thì khẩu súng anh ta mang theo vẫn sẽ ngăn được. Carax không phải là người sẽ phải chết ở nghĩa trang Père Lachaise, mà là Aldaya.

Fumero cũng biết Julián sẽ không bao giờ chịu đối đầu với bạn cũ của mình, một kẻ sắp chết như Aldaya, một kẻ chỉ còn biết rên rỉ. Thế nên Fumero chỉ bảo cẩn thận Aldaya từng bước anh ta phải làm. Anh ta sẽ phải thừa nhận với Julián rằng bức thư Penélope đã gửi cho anh ấy nhiều năm trước, thông báo cô sắp làm đám cưới vã xin anh quên cô đi, là dối trá. Anh ta sẽ tiết lộ rằng chính anh ta, Jorge Aldaya, đã buộc em gái mình viết những lời gian dối kia, trong khi cô khóc lóc tuyệt vọng, quả quyết tình yêu bất diệt dành cho Julián. Anh ta sẽ phải nói với Julián rằng cô đang đợi anh ấy, với một linh hồn tan nát và con tim nhỏ máu, và từ bấy đến giờ đang chết dần vì cô đơn. Thế là đủ. Đủ cho Carax bóp cò và bắn thẳng vào mặt anh ta. Đủ cho anh ấy quên đi bất kỳ kế hoạch đám cưới nào và không nghĩ gì khác ngoài trở về Barcelona để tìm Penélope. Và, khi anh ấy về đến Barcelona rồi, cái bẫy của hắn, Fumero, sẽ đợi anh đấy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,691
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 51


JULIÁN CARAX VƯỢT QUA BIÊN GIỚI NƯỚC PHÁP chỉ vài ngày trước khi Nội chiến nổ ra. Ấn bản đầu tiên và duy nhất của Bóng hình của gió, in xong hai tuần trước đó, cũng chịu chung số phận không được biết đến như những cuốn trước. Lúc này, Miquel hầu như không thể làm việc được: tuy anh vẫn ngồi trước máy đánh chữ hai ba tiếng mỗi ngày, song sự ốm yếu và cơn sốt ngăn không cho anh khơi được nhiều nhặn gì hơn một tia yếu ớt những ngôn từ lên trang giấy. Anh đã mất vài chuyên mục thường kỳ do trễ hạn. Những tờ báo khác sợ phải xuất bản các bài vết của anh sau khi nhận được những lời đe dọa nặc danh. Anh chỉ có một mục thường nhật trên tờ Nhật báo Barcelona, mà anh ký dưới tên Adrián Maltés. Bóng ma chiến tranh đã có thể cảm nhận được trong không khí. Cả đất nước sặc mùi lo sợ. Không có gì bận tâm, quá yếu đuối không thể than phiền, Miquel thường hay đi xuống quảng trường hoặc tản bước lên Đại lộ Nhà thờ, luôn mang bên mình một trong các cuốn sách của Julián như thể một lá bùa. Lần cuối cùng bác sĩ cân cho anh, anh chỉ còn năm mươi bảy ký. Chúng tôi đã nghe trên đài tin tức cuộc nổi dậy ở Marốc, và vài tiếng sau một đồng nghiệp làm báo của Miquel đến cho chúng tôi hay là Cansinos, tổng biên tập, đã bị giết do một viên đạn bắn vào cổ, ngay đối diện Canaletas Café, hai giờ trước. Không ai dám dời cái xác đi, nó vẫn nằm ở đấy, máu vấy đầy vỉa hè.

Chẳng mấy chốc diễn ra những ngày ngắn ngủi nhưng căng thẳng khởi đầu cho nỗi kinh hoàng. Quân của tướng Goded tiến về Đại lộ Diagonal và phố Gracia để và trung tâm, nơi vụ đọ súng bắt đầu. Hôm ấy Chủ nhật, nhiều người vẫn ra đường, nghĩ rằng họ sẽ cắm trại cả ngày dọc con đường đến Las Planas. Tuy nhiên, vẫn còn hai năm nữa mới đến những ngày đen tối nhất của cuộc chiến ở Barcelona. Sau khi bùng phát cuộc giao tranh, quân của tướng Goded đầu hàng, do một phép màu hoặc liên lạc yếu kém giữa các chỉ huy. Chính quyền của Lluís Companys dường như giành lại quyền kiểm soát, nhưng vài tuần tiếp đó điều thực sự xảy ra sẽ trở nên rõ ràng.

Barcelona đã rơi vào tay liên minh vô chính phủ. Sau nhiều ngày bạo động và giao tranh trên phố, tin đồn cuối cùng cũng lan ra rằng bốn tướng lĩnh của quân phiến loạn đã bị xử tử trong Nhà tù Montjuïc không lâu sau vụ đầu hàng. Một người bạn của Miquel, một nhà báo Anh có mặt ở vụ xử tử, nói rằng đội hành hình gồm bảy người, nhưng đến phút chót hàng chục dân quân tham gia vào. Khi họ nổ súng, những thây người bị xuyên đạn nhiều đến mức đổ vụn xuống thành từng mảnh không biết phần xác nào của ai và khi bỏ vào quan tài thì hầu như chúng chỉ còn là thể lỏng. Có những kẻ muốn tin rằng thế là cuộc xung đột đã kết thúc, rằng quân phát xít sẽ không bao giờ đến được Barcelona và quân nổi loạn sẽ theo đó mà tiêu tán.

Chúng tôi được biết tin Julián đang ở Barcelona đúng vào ngày quân Goded đầu hàng, khi chúng tôi nhận được thư của Irene Marceau, trong thư bà kể cho chúng tôi rằng Julián đã giết Jorge Aldaya trong một cuộc đấu súng, ở nghĩa trang Père Lachaise. Ngay trước khi Aldaya tắt thở, một kẻ nặc danh báo cho cảnh sát sự việc. Julián buộc phải trốn khỏi Paris ngay lập tức, bị cảnh sát lùng đuổi, họ truy nã anh ấy về tội giết người. Chúng tôi biết chắc ai đã gọi cuộc điện thoại ấy. Chúng tôi lo lắng chờ tin của Julián, để có thể cảnh báo cho anh mối nguy hiểm đang rình rập, và bảo vệ anh trước cái bẫy xấu xa do Fumero giăng ra: khám phá ra sự thật. Ba ngày sau Julián vẫn chưa xuất hiện. Miquel không muốn chia sẻ nỗi lo lắng của anh với tôi, nhưng tôi biết rất rõ anh đang nghĩ gì. Julián quay về vì Penélope, không phải vì chúng tôi.

“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh ấy biết sự thật?” tôi liên tục hỏi.

“Chúng ta phải bảo đảm là cậu ấy sẽ không biết,” Miquel trả lời.

Điều đầu tiên anh ấy sẽ phát hiện ra là gia đình Aldaya đã biến mất. Anh ấy sẽ không biết nhiều nơi có thể tìm thấy Penélope. Chúng tôi đưa ra một danh sách những nơi như vậy và bắt đầu cuộc hành trình. Dinh thự trên Đại lộ Tibidabo là một chốn hoang vắng, đóng kín sau những sợi xích và lớp thường xuân. Một người bán hoa, bán hoa hồng và cẩm chướng buộc thành bó ở góc phố đối diện, bảo ông ớ đã thấy gần đây có gặp một người đến gần căn nhà, nhưng đó là một ông già, chân hơi khập khiễng.

“Nói thực, ông ta có vẻ thô lỗ. Tôi định bán hoa cẩm chướng cho ông ta cài ve áo, thế mà ông ta bảo tôi xéo đi, đang chiến tranh loạn lạc lấy thì giờ đâu mà hoa với hoét.”

Ông ta không thấy ai khác nữa. Miquel mua vài bông hồng héo, và cho ông ta số điện thoại phòng biên tập của Nhật báo Barcelona. Ông ta có thể để lại lời nhắn ở đó nếu tình cờ thấy ai trông giống như người chúng tôi mô tả. Điểm đến tiếp theo của chúng tôi là trường San Gabriel, nơi Miquel đã gặp Fernando Ramos, bạn học cũ của anh ấy.

Fernando giờ là giáo viên dạy tiếng La tinh và Hy Lạp và được phong thầy tu. Ông ta như rụng rời khi thấy Miquel trông quá tiều tụy. Ông ta bảo Julián không đến gặp ông ta, nhưng ông ta hứa sẽ liên lạc với chúng tôi nếu anh ấy có đến, và sẽ cố giữ anh ấy lại. Fumero đã đến đó trước chúng tôi, ông ta thú nhận với vẻ hoảng hốt, hắn đã bảo ông ta rằng, trong thời chiến tranh, ông ta phải đề cao cảnh giác.

“Hắn bảo rất nhiều người sẽ chết, và những người mang đồng phục – như quân lính hay cha đạo – không thể ngăn chặn được súng đạn...”

Fernando Ramos thú nhận rằng không rõ Fumero thuộc đơn vị hay phe nhóm nào, mà ông ta cũng không muốn hỏi hắn. Thật khó mà mô tả cho cậu những ngày đầu tiên ấy của cuộc chiến ở Barcelona, Daniel ạ. Không khí dường như nhiễm độc vì nỗi sợ và căm thù. Người ta nhìn nhau nghi hoặc, và đường phố lặng như tờ khiến lòng người thắt lại. Từng ngày, từng giờ, tin đồn mới lại lan đi. Tôi nhớ, có đêm tôi và Miquel đang dạo bộ dọc Ramblas để về nhà. Phố vắng cùng cực. Miquel nhìn những tòa nhà, những khuôn mặt dòm ngó nấp đằng sau cửa sổ đóng chặt, và lưu ý thấy người ta theo dõi những bóng đen trên phố ra sao. Anh bảo anh có thể cảm thấy những lưỡi dao đang được mài sắc đằng sau những bức tường kia.

Ngày tiếp theo, chúng tôi đến cửa hàng mũ Fortuny, không nhiều hy vọng sẽ tìm được Julián ở đó. Một người sống trong tòa nhà bảo rằng ông bán mũ quá kinh hãi trước diễn biến những ngày qua nên đã khóa trái trong cửa hàng. Dù chúng tôi có gõ cửa đến mấy ông ta cũng không ra mở. Chiều hôm ấy có một vụ nổ súng cách một dãy phố, và những vũng máu vẫn còn tươi trên phố San Antonio. Một con ngựa chết trên mặt đường lát gạch đang bị một đàn chó hoang giằng xé cái dạ dày lỗ chỗ đạn, trong khi đám trẻ con đứng nhìn và ném đá lũ chó. Chúng tôi chỉ thấy được khuôn mặt khiếp đảm của ng bán mũ qua lớp lưới sắt nơi cửa. Chúng tôi bảo rằng đang tìm con trai ông, Julián. Ông bán mũ đáp con trai ông đã chết và dọa báo cảnh sát nếu chúng tôi không cút đi. Chúng tôi rời nơi ấy với cảm giác chán chường.

Trong nhiều ngày, chúng tôi lùng sục các quán cà phê và cửa hàng để hỏi tin Julián. Chúng tôi tìm đến các khách sạn, nhà nghỉ, trạm ga, ngân hàng, nơi anh ấy có thể đến đổi tiền – không ai nhớ đã gặp một người giống với mô tả về Julián. Chúng tôi e sợ anh ấy có lẽ đã rơi vào nanh vuốt của Fumero, và Miquel gặng nhờ một đồng nghiệp ở tòa báo, người có đầu mối liên lạc với trụ sở cảnh sát, để tìm xem Julián có bị vào tù không. Vẫn không có dấu hiệu của anh ấy. Hai tuần trôi qua, cứ như thể Julián đã biến mất vào không khí vậy.

Miquel gần như không ngủ, hy vọng có tin tức về bạn mình. Một buổi tối, anh về nhà sau cuộc đi dạo thường nhật ban chiều, mang theo một chai vang đỏ và nhiều thứ lỉnh kỉnh khác. Nhân viên tòa báo đã tặng cho anh, vì thư ký tòa soạn cho biết chuyên mục của anh sẽ bị bỏ.

“Họ không muốn rắc rối, và anh có thể hiểu.”

“Thế anh định sẽ làm gì?”

“Say xỉn, bắt đầu thì vậy cái đã...”

Miquel uống chưa được nửa ly rượu, nhưng tôi nốc hết gần như cả chai vào cái dạ dày trống rỗng mà không hay. Chừng nửa đêm, tôi gà gật rồi ngủ gục xuống sofa. Tôi mơ thấy Miquel đang hôn vào trán tôi và lấy khăn đắp cho tôi. Khi tỉnh dậy, tôi cảm thấy một cơn đau nhức đâm bổ vào đầu, mà tôi nhận ra ấy là dạo đầu của một cơn đau đầu dữ dội. Khi tìm Miquel để nguyền rủa anh vì đã có ý nghĩ khôn ngoan khiến tôi say mềm, tôi nhận ra tôi ở một mình trong căn nhà. Tôi đến chỗ bàn thì thấy một bức thư trên máy chữ, anh dặn tôi không nên lo lắng, và hãy đợi anh ở nhà. Anh đi tìm Julián và sẽ sớm mang anh ấy về. Cuối thư anh bảo rằng anh yêu tôi. Bức thư rơi khỏi tay tôi. Rồi tôi nhận ra rằng trước khi đi Miquel đã lấy hết đồ đạc của mình trên bàn, như thể anh không định dùng nó nữa. Tôi biết tôi sẽ không bao giờ gặp lại anh.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,691
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 52


>

CHIỀU HÔM ẤY, người bán hoa gọi điện cho văn phòng Nhật báo Barcelona để lại lời nhắn cho Miquel rằng ông ta đã thấy người đàn ông mà chúng tôi đã mô tả đang lai vãng quanh tòa dinh thự cổ như một bóng ma. Đã quá nửa đêm khi Miquel đến số 32 Đại lộ Tibidabo, con đường tối thăm thẳm, hoang vắng, lốm đốm ánh trăng xuyên qua những rặng cây. Dù đã mười bảy năm không gặp, Miquel vẫn nhận ra Julián qua dáng đi nhẹ nhàng giống như mèo của anh ấy. Bóng anh ấy lẩn khuất trong màn đêm của khu vườn, gần đài phun nước. Julián đã nhảy qua tường và nằm đợi trong ngôi nhà như một con vật đang hoảng sợ. Miquel có thể gọi, nhưng anh không muốn đánh động những nhân chứng có thể ở quanh. Anh cảm thấy những ánh mắt lén lút đang rình mò trên đại lộ, từ trong những ô cửa sổ tối đen của những tòa nhà cận kề. Anh bước đi quanh tường của khu nhà cho đến khi đến gần sân quần vợt cũ và nhà để xe ngựa. Ở đây, anh thấy những vết nứt nẻ trên tường mà Julián hẳn đã dùng làm bậc đệm, và những phiến đá đã lung lay trên tường. Anh đu người lên, gần như tức thở, cảm thấy một cơn đau buốt trong ngực và hoa mắt từng cơn, không còn thấy được gì. Anh nằm soài lên tường, tay anh run rẩy, và anh thì thầm gọi tên Julián. Bóng nguời lấp ló bên đài phun nước vẫn bất động như các bức tượng xung quanh. Miquel nhìn thấy đôi mắt sáng đang nhìn chằm vào anh. Anh tự hỏi liệu Julián có nhận ra mình không, sau mười bảy năm và sau cơn bệnh đã cướp đi từng hơi thở của anh. Bóng người dần dần tiến đến, tay cầm một vật sáng, dài. Một mảnh kính.

“Julián...” Miquel thì thầm.

Bóng người dừng lại. Miquel nghe mảnh kính rơi xuống nền sỏi. Khuôn mặt Julián từ bóng tối hiện ra. Bộ râu hai tuần chưa cạo đã phủ kín khuôn mặt dường như gai góc hơn trước kia.

“Miquel?”

Không thể nhảy sang phía bên kia tường, hay buông mình xuống đường, Miquel đưa tay ra. Julián xích lại tường, và một tay anh nắm chặt tay bạn, tay kia anh áp vào mặt Miquel. Họ lặng lẽ nhìn nhau hồi lâu, mỗi người đều cảm thấy vết thương mà cuộc đời đã ghi dấu lên người kia.

“Chúng ta phải rời khỏi đây thôi, Julián. Fumero đang tìm cậu. Chuyện với Aldaya chỉ là cái bẫy thôi.”

“Tớ biết,” Carax thì thầm, giọng đều đều.

“Ngôi nhà đã bị khóa. Nhiều năm rồi sống ở đây,” Miquel nói. “Nào, giúp tớ xuống, và ra khỏi đây thôi.”

Carax leo xuống tường. Khi đưa tay đỡ người Miquel, anh cảm thấy cơ thể bạn mình đã quắt lại dưới lớp quần áo rộng thùng thình. Dường như không còn chút thịt hay cơ bắp nào nữa. Khi họ ở bên kia tường rồi, Carax đỡ vào nách Miquel, nên anh gần như nhấc bổng bạn mình, rồi họ cùng đi vào bóng đêm của con phố Román Macaya.

“Chuyện gì xảy ra với cậu thế?” Carax hỏi nhỏ.

“Chẳng có chuyện gì đâu. Một cơn sốt thôi. Tớ khỏe lên rồi.”

Miquel đã bốc lên mùi bệnh tật rồi, nên Julián không hỏi gì thêm nữa. Họ bước xuôi León XIII cho tới khi đến phố San Gervasio, nơi họ thấy ánh đèn của một quán cà phê. Họ tìm một bàn ở cuối phòng, cách xa cửa chính và cửa sổ. Một vài khách quen ngồi trong bar, hút thuốc và nghe radio. Tay bồi bàn, một kẻ có nước da nhợt nhạt và đôi mắt cúi gằm, đến phục vụ. Ruợu ấm, cà phê, và bất cứ loại đồ ăn nào nhà hàng đang còn.

Miquel không ăn gì. Carax, rõ ràng đang đói meo, ăn suất của cả hai người. Hai người bạn nhìn nhau duới ánh đèn nhợt nhạt của quán cà phê, như bị thôi miên. Lần cuối họ gặp nhau, họ bằng nửa tuổi bây giờ. Khi chia tay nhau họ còn là những cậu bé, giờ đây cuộc đời đã biến họ một người thành kẻ lẩn trốn còn người kia thành kẻ đang chết dần. Cả hai đều tự hỏi, liệu đây là do những lá bài họ được chia hay do cách họ đã chơi.

“Tớ chưa bao giờ nói lời cảm ơn cậu vì tất cả những gì cậu đã làm cho tớ trong những năm qua, Miquel.”

“Thôi đừng. Tớ làm điều tớ phải làm và tớ muốn làm. Không việc gì phải cảm ơn tớ cả.”

“Nuria thế nào?”

“Giống như khi cậu bỏ cô ấy.”

Carax cúi xuống.

“Bọn tớ vừa kết hôn vài tháng trước. Tớ không biết cô ấy có viết thư kể cho cậu không.”

Môi Carax cứng lại, chầm chậm lắc đầu.

“Cậu không có quyền trách cứ cô ấy vì điều gì cả, Julián.”

“Tớ biết. Tớ không có quyền làm gì hết.”

“Tại sao cậu không đến nhờ bọn tớ giúp, Julián?”

“Tớ không muốn gây rắc rối cho cậu.”

“Chuyện đó vượt ra ngoài tầm tay cậu rồi. Suốt thời gian qua cậu ở đâu? Bọn tớ cứ tưởng đất đã nuốt chửng cậu rồi.”

“Gần như vậy. Tớ ở nhà. Trong căn hộ của cha tớ.”

Miquel nhìn bạn kinh ngạc. Julián bèn giải thích anh đã về Barcelona bằng cách nào và bao giờ, không biết đi về đâu, anh đành quay lại ngôi nhà thời thơ ấu, lo sợ không còn ai ở đấy. Cửa tiệm mũ vẫn mở, và một ông già, không còn râu tóc và đôi mắt đã mất đi lửa sống, đang ngồi ủ rũ sau quầy. Julián không muốn bước vào hoặc cho ông biết anh đã về, nhưng Antoni Fortuny đã ngước mắt lên nhìn người lạ phía bên ngoài cửa sổ. Mắt họ gặp nhau. Julián muốn chạy trốn, nhưng anh đứng bất động. Anh thấy những giọt lệ dâng trong mắt ông bán mũ, thấy ông lặng lẽ lê thân đến cửa và bước ra đường. Không nói gì, ông dẫn con trai vào trong cửa hàng và kéo cửa xuống. Khi thế giới bên ngoài đã được ngăn cách, ông ôm lấy anh, run rẩy và gào thét vì đau đớn.

Sau này ông bán mũ mới giải thích rằng hai hôm trước cảnh sát đã đến hỏi ông về Julián. Một người nào đó tên là Fumero - một kẻ khét tiếng, mới chỉ một tháng trước thôi còn làm việc cho đám côn đồ phát xít của tướng Goded mà giờ đây lại quay sang đánh bạn với quân vô chính phủ - đã bảo ông rằng Julián Carax đang trên đường trở về Barcelona, rằng anh đã đang tâm giết Jorge Aldaya tại Paris, và anh đang bị săn lùng vì những tội ác khác, một danh mục tội trạng mà ông bán mũ chẳng buồn để tai. Fumero tin rằng, nếu có khả năng xa xôi và mịt mờ nào đấy đứa con trai hoang đàng của ông xuất hiện, thì ông bán mũ phải làm đúng bổn phận công dân là trình báo với hắn. Fortuny bảo hắn rằng tất nhiên hắn có thể tin ở ông, dù trong thâm tâm ông thấy kinh tởm một con rắn như Fumero lại trông chờ ông hành xử đê tiện đến vậy. Ngay sau khi đám quân tàn ác kia rời cửa hàng, ông bán mũ vội vã đến nhà thờ nơi lần đầu ông gặp Sophie. Ở đấy ông cầu nguyện thánh thần, xin người dẫn dắt con trai ông quay về nhà trước khi quá muộn. Giờ Julián đã đến, ông cảnh báo anh mối nguy hi đang treo lơ lửng trên đầu.

“Cho dù con có phải làm gì ở Barcelona, con ơi, hãy để ta làm thay cho con, trong khi con ẩn nấp ở trong nhà. Phòng của con vẫn y nguyên như lúc con ra đi và vẫn là của con chừng nào con vẫn cần đến nó.”

Julián thú nhận anh quay về để tìm Penélope Aldaya. Ông bán mũ hứa ông sẽ tìm thấy cô và, khi họ được đoàn tụ, ông sẽ giúp họ bỏ trốn đến nơi an toàn, cách xa khỏi Fumero, xa khỏi quá khứ, xa tất cả.

Trong nhiều ngày, Julián ẩn trong căn hộ trên phố San Antonio trong khi ông bán mũ lùng sục khắp thành phố để tìm tung tích Penélope. Anh ở trong căn phòng cũ của mình, mà như cha anh đã hứa, không hề thay đổi, dẫu giờ đây mọi thứ dường như nhỏ bé đi, tưởng như các đồ vật co rút lại theo thời gian. Nhiều cuốn sổ cũ của anh vẫn còn đây, những cây bút chì anh đã gọt vào tuần anh rời đi Paris vẫn còn đây, những cuốn sách đang đợi anh đọc, quần áo sạch vẫn để trong tủ. Ông bán mũ kể rằng Sophie đã rời bỏ ông không lâu sau khi anh chạy trốn, và nhiều năm rồi ông không hay tin gì của bà, lần cuối bà viết thư cho ông là từ Bogotá, nơi bà đang sống cùng một người đàn ông khác. Họ thư từ trao đổi thường xuyên, “luôn nói về con,” ông bán mũ thú nhận, “vì đó là điều duy nhất ràng buộc chúng ta.” Khi ông nói những lời ấy, Julián tưởng như ông bán mũ đã kìm nén việc phải lòng yêu vợ mình cho mãi đến khi ông đã đánh mất bà.

“Người ta thực sự chỉ yêu duy nhất một lần trong đời, Julián ạ, cho dù họ không nhận ra điều đó.”

Ông bán mũ, vốn dường như vướng vào cuộc đua với thời gian nhằm cứu vớt cả cuộc đời bất hạnh, tin chắc rằng Penelope chính là thứ tình yêu đó của con trai ông. Ông tưởng rằng nếu ông giúp anh tìm được cô thì có lẽ chính ông nữa, ông cũng sẽ tìm lại được một phần ông đã đánh mất, cái khoảng trống như một lời nguyền đè nặng thân thể ông, dù ông không nhận ra.

Với bao nhiêu quyết tâm, cùng chừng ấy nỗi thất vọng, ông bán mũ sớm phát hiện ra rằng không có dấu vết nào của Penélope Aldaya, hay gia đình cô ấy, trên toàn Barcelona. Là một người xuất thân hèn kém, đã làm lụng suốt đời để không bị cảnh nợ nần, ông bán mũ chưa bao giờ nghi ngờ sức mạnh của đồng tiền và địa vị xã hội, nhưng mười lăm năm tàn phá và nghèo túng đã đủ để xóa bỏ mọi dinh cơ, ngành công nghiệp, và mọi vết tích của một vương triều khỏi mặt đất. Khi cái tên Aldaya được nhắc đến, có rất nhiều người đã từng nghe nhưng không mấy ai hiểu được nó từng có ý nghĩa thế nào.

Vào ngày Miquel Moliner và tôi vào cửa hàng mũ hỏi tin Julián, ông bán mũ tin chúng tôi là tay chân của Fumero. Nhưng không ai định cướp đi con trai ông nữa. Lần này Chúa Quyền năng có thể từ thiên đường xuống, chính Ngài đã lờ đi lời nguyện cầu suốt cả đời của ông bán mũ, và ông sẵn sàng móc mắt Ngài nếu Ngài dám đẩy Julián đi xa lần nữa.

Ông bán mũ là người mà người bán hoa nhớ đã gặp vài ngày trước khi ông đang lảng vảng quanh dinh thự nhà Aldaya. Điều ông bán hoa cho là “khá thô lỗ” là thứ cảm xúc dữ dội đến với những người mà, thà muộn còn hơn không bao giờ, đã tìm ra được một mục đích trong đời và hối hả theo đuổi nó để bù đắp cho thời gian đã mất. Thật không may, Chúa một lần nữa ngoảnh mặt trước lời cầu xin của ông. Sau khi đã trải qua bao thất vọng, ông bán mũ vẫn không thể tìm được điều ông cần để cứu vớt đứa con trai, để cứu vớt chính ông: dấu vết của cô gái. Hỡi đức Chúa, Ngài cần đến bao nhiêu linh hồn mới thỏa mãn con đói của Ngài? Ông bán mũ hỏi. Chúa trời, trong yên lặng vô biên của người, nhìn ông không chớp mắt.

“Ta không thể tìm thấy cô ấy, Julián ạ... ta thề rằng...”

“Bố đừng lo. Đây là điều mà con phải làm. Bố giúp được gì cho con thì bố đã giúp cả rồi.”

Đêm hôm ấy Julián bước ra phố xá Barcelona, quyết tâm tìm ra Penélope.

***

TRONG KHI MIQUEL LẮNG NGHE câu chuyện của bạn, anh không hề cảnh giác tên bồi bàn khi hắn bước đến điện thoại, quay lưng về phía họ mà lẩm bẩm gì đó hay, một lúc sau, khi hắn cứ dõi mắt về phía cửa trong lúc lau cốc quá kỹ càng ở một cái quán vốn đằng nào thì cũng bẩn. Anh cũng không hề nghĩ rằng Fumero từng đến quán cà phê đó, và hàng chục quán cà phê như vậy cách dinh thự nhà Aldaya một quãng; rằng ngay khi Carax đặt chân vào một trong những quán ấy, chỉ trong vài giây sẽ có một cuộc điện thoại. Khi xe cảnh sát dừng lại trước quán cà phê và tay bồi bàn biến mất vào sau bếp, Miquel cảm thấy sự bình lặng thản nhiên và lạnh lẽo của định mệnh. Carax hiểu ánh mắt anh, cả hai người cùng quay ra và thấy ma quỷ: ba kẻ mặc áo mưa xám đang lấp ló sau cửa sổ, ba khuôn mặt đang phả hơi vào khung cửa sổ. Không ai trong bọn họ là Fumero. Lũ kền kền đã đến trước hắn.

“Rời khỏi đây thôi,

“Không còn lối thoát đâu,” Carax nói, với vẻ bình thản lạ kỳ khiến bạn nhìn anh thận trọng.

Chỉ đến lúc ấy Miquel mới nhận ra khẩu súng lục trong tay Julián. Chuông cửa vang lên át tiếng rầm rì của đài phát thanh. Miquel giật lấy khẩu súng trong tay Carax và nhìn chằm chằm vào bạn.

“Đưa giấy tờ của cậu đây, Julián.”

Ba tên cảnh sát vờ như đang ngồi vào quầy bar. Một tên liếc ngang Miquel và Julián. Hai tên còn lại sờ tay vào bên trong áo mưa.

“Giấy tờ, Julián. Đưa ngay đây.”

Carax lắc đầu không đáp.

“Tớ chỉ sống được vài tháng nữa thôi, có lẽ hai tháng, nếu may mắn. Một trong hai chúng ta phải ra khỏi dây, Julián. Cậu còn có nhiều việc phải làm hơn tớ, Tớ không biết cậu sẽ tìm được Penélope không. Nhưng Nuria đang đợi cậu.”

“Nuria là vợ cậu mà.”

“Hãy nhớ thỏa thuận của chúng ta. Ngày tớ chết đi, tất cả những gì thuộc về tớ sẽ là của cậu...”

“... trừ những giấc mơ.”

Họ cười chào nhau lần cuối. Julián đưa hộ chiếu cho bạn. Miquel đặt nó cạnh cuốn Bóng hình của gió anh vẫn mang bên mình từ khi nhận được.

“Hẹn gặp cậu sổm,” Julián thầm thì.

“Không có gì phải vội. Tớ sẽ đợi.”

Ngay khi ba tên cảnh sát quay mặt về phía họ, Miquel liền đứng lên bước đến bọn họ. Lúc đầu họ chỉ thấy một kẻ nhợt nhạt, run rẩy dường như đang gần kề cái chết khi anh cười với bọn chúng, máu ứa ra bên mép đôi môi mỏng, thiếu sinh khí của anh. Lúc bọn chúng nhận ra khẩu súng trong tay phải anh, Miquel chỉ cách bọn chúng chừng ba thước. Một tên định hét lên, nhưng phát súng đầu tiêncắm vào hàm dưới của hắn. Hắn khuỵu xuống, bất động dưới chân Miquel. Hai tên kia đã rút súng ra. Phát súng thứ hai bay vào bụng tên già hơn. Viên đạn cưa đôi cột sống của hắn làm văng vài mẩu ruột lên quầy bar. Miquel không có thì giờ bắn phát súng thứ ba. Tên cảnh sát còn lại đã nhằm vào anh. Anh cảm thấy nó trong xương sườn mình, trong tim mình, và thấy đôi mắt trừng trừng của kẻ kia ánh lên khiếp hãi.

“Đứng yên, thằng chó, không tao thề sẽ xé tan mày.”

Miquel mỉm cười và từ từ đưa súng lên nhằm vào mặt tên thứ ba. Hắn chưa đến hai lăm, và môi hắn run run.

“Hãy nhắn với Fumero, Carax gửi lời, tao sẽ nhớ bộ cánh thủy thủ của hắn.”

Anh không cảm thấy đau đớn, không cảm thấy vết đạn. Cú va chạm, như một nhát rìu đã qua giảm chấn, đẩy anh ra ngoài cửa sổ, xóa tan âm thanh và màu sắc cảnh vật. Khi anh đâm qua ô cửa, anh nhận thấy cơn lạnh toát luồn dọc cổ họng và ánh sáng nhòa dần như bụi trong gió. Miquel quay đầu lại lần cuối thấy bạn mình Julián đang chạy xuống phố. Miquel ba mươi sáu tuổi, cái tuổi nhiều hơn anh từng hy vọng được sống. Trước khi đổ xuống vỉa hè vưong đẩy mảnh kính dính máu, anh đã chết.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,691
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 53


ĐÊM HÔM ẤY, một chiếc xe lạ đến sau cuộc gọi điện của tên cảnh sát đã giết Miquel. Tôi không bao giờ biết tên hắn, và tôi cũng không nghĩ hắn biết mình đã giết ai. Như mọi cuộc chiến tranh, dù là giữa các quốc gia hay nội chiến, cuộc chiến kia giống như một màn diễn sân khấu. Hai người đàn ông mang đi thi thể của cảnh sát bị chết, và đe dọa chủ quán bar rằng hắn phải quên ngay chuyện xảy ra nếu không muốn rắc rối. Đừng bao giờ xem thường cái tài quên mà những cuộc chiến tranh đánh thúc dậy ở con người, Daniel ạ. Thi thể của Miquel Moliner bị vứt bỏ trong một ngõ hẻm tại khu phố Raval mười hai tiếng sau, để cho cái chết của anh ấy không có liên hệ gì với cái chết của hai cảnh sát kia. Mãi hai hôm sau rốt cuộc cái xác mới được đem đến nhà xác. Anh ấy đã bỏ giấy tờ tùy thân ở nhà trước khi ra đi. Cái nhân viên nhà tang lễ tìm thấy là một tấm hộ chiếu nhòe chữ mang tên Julián Carax và một cuốn Bóng hình cùa gió. Cảnh sát kết luận xác người chết là Julián Carax. Hộ chiếhi địa chỉ của anh ấy ở căn hộ nhà Fortuny trên phố San Antonio.

Lúc ấy tin đến tai Fumero, hắn đã đến thẳng nhà xác để tiễn biệt Julián. Ở đó, hắn gặp ông bán mũ, người mà cảnh sát đã đưa đến nhận xác. Ông Fortuny, vốn không gặp Julián đã hai ngày rồi, e sợ điều tồi tệ nhất. Khi ông nhận ra cái xác là của người chỉ mới một tuần trước đó đã gõ cửa nhà ông để hỏi tin về Julián (và ông đã cho là tay chân của Fumero), ông bất đầu gào lên rồi bỏ đi. Cảnh sát coi phản ứng của ông như là lời thừa nhận. Fumero, kẻ đã chứng kiến cảnh tượng này, bước đến cái xác và im lặng xem xét. Hắn không gặp Julián đã mười bảy năm. Khi nhận ra Miquel Moliner, hắn chỉ mỉm cười và ký vào biên bản khám nghiệm pháp y xác nhận xác chết là Julián Carax. Rồi hắn ra lệnh chôn ngay vào khu mộ chung ở Montjuïc.

Trong một thời gian dài, tôi tự hỏi tại sao Fumero lại làm một việc như vậy. Nhưng đấy là một logic giản đơn của Fumero. Bằng cách chết với căn cước của Julián, Miquel đã vô tình tạo cho hắn chứng cứ ngoại phạm hoàn hảo. Từ giây phút ấy, Julián Carax không còn tồn tại. Sẽ không có mối liên hệ chính thức giữa Fumero và người đàn ông mà sm hay muộn hắn hy vọng sẽ tìm thấy và giết. Lúc ấy là thời chiến, chẳng mấy ai đi tìm lời giải thích liên quan đến cái chết của một người thậm chí còn chẳng có tên. Julián đã mất căn cước của mình. Anh ấy là một cái bóng. Tôi đã ở nhà suốt hai ngày để đợi Miquel hay Julián, tưởng như mình sắp phát điên. Đến ngày thứ ba, thứ Hai, tôi quay trở lại làm việc ở nhà xuất bản. Ông Cabestany đã vào viện vài tuần trước và sẽ không quay lại văn phòng nữa. Con trai cả của ông, Álvaro, tiếp quản công việc. Tôi không nói gì với ai. Tôi không thể nhờ vả vào ai.

Ngay chiều hôm đó, tôi nhận được cuộc gọi từ một nhân viên nhà tang lễ, Manuel Gutiérrez Fonseca. Ông ta giải thích là xác của một người tên Julián Carax được mang đến nhà tang lễ. Sau khi đối chiếu hộ chiếu của người chết với tên tác giả của cuốn sách trên thi thể lúc được mang đến, và hơn nữa, ngờ rằng bên cảnh sát vi phạm quy tắc, một sự lơi lỏng nhất định, ông cảm thấy có nghĩa vụ đạo đức phải gọi đến nhà xuất bản báo cho họ chuyện xảy ra. Trong khi lắng nghe ông ta, tôi gần như đã chết. Điều đầu tiên tôi nghĩ: đấy là một cái bẫy do Fumero giăng ra. Ông Gutiérrez Fonseca bày tỏ với giọng mẫu mực của một công chức có lương tâm, mặc dù trong giọng ông còn có một điều khác, điều gì đó thậm chí ông cũng không thể giải thích nổi. Tôi là người đã nghe cuộc gọi ở văn phòng ông Cabestany. Ơn chúa, Álvaro đã ra ngoài ăn trưa và tôi ở lại một mình; nếu không tôi thật khó lòng giải thích cho xuôi những giọt nước mắt và đôi tay run run khi cầm điện thoại. Ông Gutiérrez Fonseca bảo ông nghĩ báo cho tôi biết chuyện xảy ra là việc phải làm.

Tôi cảm ơn ông với vẻ giả tạo của mọi cuộc đàm thoại như thế. Ngay khi đặt máy xuống, tôi đóng cửa phòng và cắn nắm tay để không gào lên. Tôi đi rửa mặt rồi bỏ làm về nhà ngay, để lại lời nhắn cho Álvaro rằng tôi không khỏe và hôm sau sẽ đi làm sớm hơn thường lệ, để xử lý hết những thư từ. Tôi phải cố lắm mới không chạy vội vã trên đường, mới có thể đi với vẻ trầm mặc vô danh của những người không có bí mật cần che giấu. Khi tra chìa khóa vào ổ, tôi nhận ra ổ khóa đã bị cạy. Tôi lạnh đơ người. Núm cửa bắt đầu xoay từ bên trong. Tôi tự hỏi có phải mình sẽ chết như thế này không, trong cầu thang tối đen, không biết chuyện gì đã xảy ra với Miquel. Cửa mở ra, tôi bắt gặp đôi mắt đen huyền của Julián Carax. Cầu mong Chúa xá tội, nhưng lúc ấy tôi cảm thấy cuộc sống đã quay trở lại với mình, và tôi cảm ơn Trời đã mang lại cho tôi Julián chứ không phải Miquel.

Chúng tôi ôm nhau thật lâu, nhưng khi tôi tìm đôi môi anh ấy, Julián đã quay đi và cúi mắt xuống. Tôi đóng cửa, nắm tay Julián dẫn anh vào phòng ngủ. Chúng tôi nằm bên nhau, lặng lẽ. Hoàng hôn đang xuống, những bóng tối trong căn hộ ửng màu tím ngắt. Như mọi đêm từ khi chiến tranh khởi phát, có thể nghe thấy những tiếng súng từ xa xa. Julián khóc trong khi dựa vào ngực tôi, và tôi cảm thấy một sự mệt mỏi không nói nên lời. Sau đó, khi đêm đã khuya, môi chúng tôi tìm thấy nhau, và dưới sự che chở của bóng đêm bức bối kia, chúng tôi bỏ quần áo nhuốm mùi sợ hãi và chết chóc. Tôi muốn nhớ đến Miquel, nhưng ngọn lửa của đôi tay ấy trên bụng tôi đã cướp đi mọi tủi thẹn và đau đớn của tôi. Tôi muốn thỏa mình trong đôi tay ấy, đù tôi biết lúc sáng ra, khi đã mệt nhoài và có lẽ lại bị giày vò vì nổi khinh bỉ bản thân, chúng tôi sẽ không thể nhìn vào mắt nhau mà không tự hỏi chúng tôi đã biến thành những kẻ như thế nào.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,691
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 54


TÔI THỨC DẬY BỞI TIẾNG MƯA RƠI lộp độp lúc trời sáng. Chiếc giuờng trống trơn, căn phòng tắm trong một màu sáng nhạt.

Tôi thấy Julián đang ngồi trước bàn của Miquel, đang mân mê các phím trên chiếc máy đánh chữ của anh ấy. Anh ngước lên và trao tôi nụ cười hờ hững, xa cách như bảo rằng anh sẽ không bao giờ là của tôi. Tôi muốn nhổ toẹt ra sự thật với anh, muốn làm anh đau đớn. Nhưng như vậy quá đơn giản. C Penélope đã chết. Rằng anh ấy đang sống một cuộc đời giả dối. Rằng giờ đây tôi là thứ duy nhất anh còn có trên đời này.

“Lẽ ra anh không nên quay về Barcelona,” anh lẩm bẩm, lắc đầu.

Tôi quỳ xuống cạnh anh. “Cái anh tìm kiếm không ở đây, Julián. Hãy đi thôi. Cả hai chúng ta. Đi khỏi đây. Khi vẫn còn thời gian.”

Julián nhìn tôi một lúc lâu, không chớp mắt. “Em biết điều gì đó mà không nói với anh, đúng không?” anh hỏi.

Tôi lắc đầu và nuốt ực. Julián gật đầu.

“Đêm nay anh sẽ quay lại đó,”

“Julián, xin anh...”

“Anh phải biết chắc.”

“Vậy em sẽ đi với anh.”

“Không.”

“Lần cuối cùng em ngồi đây đợi, em đã mất Miquel. Nếu anh đi, em cũng đi.”

“Chuyện này không liên quan gì đến em, Nuria. Chỉ liên quan đến anh thôi.”

Tôi tự hỏi lẽ nào anh ấy không nhận ra những lời này làm tổn thương tôi thế nào, hay là anh không quan tâm.

“Đó là anh nghĩ vậy,” tôi nói.

Anh cố vuốt má tôi, nhưng tôi xua tay đi.

“Em hãy thù ghét anh đi, Nuria ơi. Như vậy sẽ mang lại vận may cho em.”

“Em biết.”

Cả ngày chúng tôi ở ngoài, tránh xa khỏi bóng tối ngột ngạt của căn hộ vẫn vương mùi chăn ẩm và da thịt kia. Julián muốn đi ra biển. Tôi theo anh đến La Barceloneta, và chúng tôi tản bộ dọc bãi biển gần như hoang vắng, d cát lung linh dường như nhòa dần trong làn không khí mờ đục của mùa hè. Chúng tôi ngồi trên cát, gần mép nước, như bọn trẻ hay những ngườí già thường ngồi. Julián mỉm cười, không nói gì.

Khi màn đêm buông xuống, chúng tôi bắt xe điện gần Bảo tàng Hải dương học và lên phố Layetana đi Gracia, rồi lên Quảng trường Lesseps và Đại lộ Cộng hòa Argentina, cho tới khi chúng tôi đến cuối tuyến đường. Julián trầm ngâm ngắm nhìn đường phố, như thể anh ấy sợ đánh mất thành phố khi chúng tôi xuyên qua nó. Giữa chừng, anh nắm tay tôi mà hôn, cũng không nói gì. Anh nắm tay tôi đến khi chúng tôi xuống xe. Một ông già đi cùng một cô bé mặc váy trắng tinh nhìn chúng tôi, rồi mỉm cười và hỏi chúng tôi đã đính hôn chưa. Lúc trời đã nhá nhem, chúng tôi lên phố Román Macaya đến dinh thự cổ Aldaya trên Đại lộ Tibidabo. Một cơn mưa nhẹ rơi, phủ bạc lên tường đá dày. Chúng tôi trèo qua bức tường phía sau nhà, gần sân quần vợt. Tòa nhà rộng mênh mang hiện lên trong màn mưa. Tôi nhận ra nó ngay lập tức. Tôi đã bắt gặp ngôi nhà ấy dưới hàng ngàn vỏ bọc khác nhau trong những cuốn sách của Julián. Trong Ngôi nhà màu đỏ, nó là một tòa lâu đài hắc ám bên trong rộng hơn bên ngoài. Nó từ từ thay đổi hình dạng, mọc ra những cầu thang mới, những gian phòng mới, và những gác mái quái lạ, cầu thang dài tít tắp dẫn đến chốn vô định; nó chiếu sáng những căn phòng tối tăm hôm nay chợt hiện rồi ngày mai chợt biến, mang theo cả những người ngây thơ bước vào và không bao giờ còn ai thấy lại. Chúng tôi dừng lại ngoài cửa chính bị khóa bằng dây xích và cái khóa móc to bằng nắm tay. Các ô cửa sổ lớn tầng hai đã bị nẹp bằng những tấm gỗ giờ bám đầy những cây thường xuân. Không khí sực mùi cỏ dại và đất ẩm. Nền đá, đen và lấm chấm nước mưa, ánh lên như vảy một loài bò sát khổng lồ.

Tôi muốn hỏi tại sao anh lại muốn đi qua cánh cửa gỗ sồi to lớn ấy, trông như cánh cửa một vương cung thánh đường hay như nhà ngục. Julián lôi trong túi ra một cái lọ và vặn nắp. Một làn hơi thối bốc ra, tạo thành một vòng xoáy xanh mờ, bay chầm chậm. Anh giữ một đầu móc khóa rồi rót axit lên ổ khóa. Tiếng kim loại rít lên như thép nung đỏ, bao quanh là một đám mây khói vàng. Chúng tôi đợi chừng năm phút, rồi anh ấy nhặt một hòn sỏỉ nằm dưới đám cỏ dại nện năm sáu lần vào móc khóa cho nó bung ra. Rồi Julián đá vào cửa. Nó từ từ mở ra, như một hầm mộ, phả ra một làn hơi dày đặc, ẩm thấp. Phía sau cánh cửa, tôi có thể cảm thấy bóng tối nhung mượt. Julián có mang theo đèn dầu, sau khi vào sảnh vài bước anh liền thắp đèn lên. Tôi đi theo anh, để cánh cửa đằng sau khép hờ. Julián dấn thêm vài thước nữa, giơ ngọn đèn cao trên đầu. Một lớp thảm bụi dưới chân chúng tôi, không có dấu chân ai khác ngoài của chúng tôi. Dưới ánh lửa, những bức tường trơ trụi sáng lên màu hổ phách. Không có đồ đạc, không có gương hay đèn. Những cánh cửa vẫn dính trên bản lề, nhưng núm cửa đồng đã bị cạy ra. Tòa dinh thự giống như một bộ xương. Chúng tôi dừng lại ở chân cầu thang. Julián ngước nhìn lên, đôi mắt anh quét lên trần cao. Anh quay lại một thoáng để nhìn tôi, và tôi muốn mỉm cười, nhưng trong ánh sáng mờ nhạt chúng tôi gần như không thể thấy mắt nhau. Tôi bước theo anh lên cầu thang, giẫm lên từng bậc thang nơi lần đầu tiên Julián gặp Penélope. Tôi biết chúng tôi đang đến đâu, tôi cảm thấy trong lòng mình một sự lạnh giá vốn không liên quan gì đến không khí ẩm, nhức buốt của dinh thự ấy.

Chúng tôi lên tầng ba, nơi một hành lang hẹp dẫn đến chái phía nam căn nhà. Ở đây trần nhà thấp hơn và cửa nhỏ hơn. Đây là tầng sinh hoạt dành cho kẻ hầu. Phòng cuối cùng, tôi biết mà không cần Julián chỉ, là phòng ngủ của Jacinta Coronado. Julián tiến đến, chầm chậm, lo sợ. Đó là nơi lần cuối cùng anh nhìn thấy Penélope, nơi anh đã ái ân với một cô gái mười bảy tuổi, người mấy tháng sau đã chảy máu đến chết cũng trong chính căn phòng này. Tôi muốn ngăn anh lại, nhưng Julián đã đến gần cửa và đang lơ đãng nhìn vào trong. Tôi liếc vào căn phòng theo anh ấy. Chỉ là một khối vuông bị lột bỏ mọi trang trí. Những dấu vết còn lại nơi một chiếc giường từng nằm đó vẫn hiện rõ dưới lớp bụi phủ kín ván sàn. Một đám những vệt máu đen ngoằn ngoèo giữa căn phòng. Julián nhìn chằm vào khoảng trống trải ấy chừng một lúc, bối rối. Tôi có thể thấy ở vẻ mặt anh rằng anh gần như không nhận ra nơi này, rằng cảnh tượng dường như một trò lừa tàn nhẫn. Tôi nắm tay anh dẫn anh quay lại cầu thang.

“Không có gì ở đây đâu, Julián,” tôi thì thầm. “Gia đình họ đã bán mọi thứ trước khi sang Argentina.”

Julián gật đầu yếu ớt. Chúng tôi lại xuống cầu thang, và khi đến tầng trệt, Julián bước đến thư viện. Những giá sách trống trơn, lò sưởi chất đầy gạch vụn. Những bức tường, mang vẻ nhợt nhạt chết chóc, ánh lên dưới ngọn đèn leo lét. Những chủ nợ và kẻ cho vay nặng lãi đã khuân đến cạn kiệt những gì có trong phòng, hầu hết chúng hẳn giờ đang nằm vất vưởng trong cửa hàng đồ cũ nào đó.

“Anh quay lại đây chẳng được gì hết,” Julián lúng búng.

Như thế lại tốt hơn, tôi nghĩ. Tôi đếm từng giây ngăn cách giữa chúng tôi và cánh cửa. Nếu tôi đưa được anh ấy ra khỏi đây, có lẽ chúng tôi vẫn còn một cơ hội. Tôi để Julián hấp thụ đống hoang tàn của nơi ấy, đống hoang tàn sẽ thanh lọc ký ức anh.

“Anh phải quay lại để thấy nó lần nữa,” tôi nói. “Giờ anh đã thấy chẳng có gì ở đây. Nó chỉ là một tòa nhà lớn, cũ kỹ, không người ở, Julián ạ. Chúng ta về nhà

Anh nhìn tôi, mặt tái nhợt, rồi gật đầu. Tôi nắm tay anh, và chúng tôi bước dọc hành lang dẫn ra cửa. Ánh sáng bên ngoài chỉ cách chúng tôi chừng dăm thước. Tôi có thể ngửi thấy mùi cỏ dại và mưa phùn trong không khí. Rồi tôi cảm thấy đang đánh mất bàn tay Julián. Tôi dừng bưóc quay lại thấy anh đứng bất động, mắt anh nhìn chăm chăm vào bóng tối.

“Có chuyện gì vậy, Julián?”

Anh không đáp. Anh cứ nhìn, như bị thôi miên, vào miệng một lối đi hẹp dẫn đến khu nhà bếp. Tôi bước đến anh và cũng nhìn vào bóng đen đang dần bị xua đi bởi ánh sáng xanh của ngọn đèn. Ô cửa cuối lối đi bị gạch bít lại, một bức tường gạch đỏ được xây nham nhở, vữa hồ tứa ra ở góc mép. Tôi không thể hiểu thế nghĩa là gì, nhưng tôi cảm thấy cơn ớn lạnh làm tôi nghẹn thở. Julián từ từ tiến lại gần. Mọi cánh cửa khác trong lối đi này - trong cả căn nhà - đều mở, ổ khóa và nắm tay đều không còn Trừ cánh cửa này.

“Julián, xin anh, chúng ta đi thôi...”

Sức mạnh nắm đấm của anh ấy lên bức tường gạch gây nên một tiếng vọng trống rỗng phía bên kia. Tôi nghĩ đã thấy bàn tay anh ấy run rẩy khi đặt ngọn đèn xuống sàn và ra hiệu bảo tôi lùi lại

“Julián...”

Cú đá đầu tiên làm đổ xuống một cơn mưa bụi đỏ. Julián lại đá. Tôi tưởng như có thể nghe thấy xương cốt anh đang vỡ ra, nhưng Julián không nản chí. Anh lại đá lại đạp vào tường, với cơn thịnh nộ của một tù nhân cố sức tìm đến tự do. Nắm tay anh và cả cánh tay đang chảy máu khi viên gạch đầu tiên vỡ ra rơi về phía bên kia tường. Trong bóng đen, với ngón tay rớm máu, Julián bắt đầu nới rộng khoang hở. Anh thở hổn hển, dốc hết sức lực bị chiếm ngự bởi cơn điên cuồng tôi không bao giờ nghĩ là có được ở anh. Từng viên gạch một long ra và bức tường hạ thấp dần. Julián dừng lại, người đẫm mồ hôi lạnh, da bàn tay sờn tróc. Anh cầm đèn đặt lên mép một viên gạch. Một cánh cửa gỗ, được chạm khắc hình thiên thần, mọc lên phía bên kia. Julián vuốt ve hình chạm nổi trên gỗ ấy, như đang đọc chữ tượng hình. Cánh cửa hé mở dưới sức mạnh bàn tay anh.

Một màn đen nhớp nháp mở ra phía bên kia. Xa hơn chút nữa có thể nhìn thấy hình dạng một cầu thang. Những bậc tam cấp đá đen dẫn xuống cho đến khi mất hút vào bóng tối. Julián quay lại một thoáng, và tôi b ánh mắt anh. Tôi thấy trong đó nỗi sợ và thất vọng, ngỡ như anh ấy có thể cảm thấy điều gì đang chờ đợi dưới kia. Tôi lắc đầu, lặng lẽ van xin anh đừng xuống, Anh quay lưng, chán nản, rồi lao vào màn đen. Tôi nhìn qua khung gạch, thấy anh đang lắc lư bước xuống bậc thềm. Ngọn lửa chập chờn, giờ chỉ còn là ánh lập lòe của một màu xanh trong suốt.

“Julián?'”

Tôi chỉ nhận được sự yên lặng. Tôi có thể thấy bóng của Julián đang bất động ở chân cầu thang. Tôi bước qua ô gạch, bước xuống các bậc thang. Căn phòng vuông, có tường đá. Nó toát ra một luồng khí lạnh lẽo, buốt giá cùng cực. Hai tấm bia bám đầy mạng nhện, mạng nhện ấy rã ra như lụa mục rữa do ngọn lửa đèn. Phiến đá cẩm thạch trắng lấm chấm những giọt đen trông như máu rỉ ra từ vết nứt do cái đục của người thợ chạm. Chúng nằm cạnh nhau, như bị lời nguyền trói buộc.

PENÉLOPE ALDAVA DAVID ALDAYA

1902-1919
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,691
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 55


TÔI THƯỜNG DỪNG LẠI để ngẫm về khoảnh khắc câm lặng ấy và cố tưởng tượng ra Julián cảm thấy thế nào khi phát hiện ra người phụ nữ anh chờ đợi mười bảy năm đã chết, đứa con của họ đã đi theo cô, và cuộc sống anh hằng mơ ước, dù chỉ một phần nhỏ nhoi, không bao giờ tồn tại. Hầu hết chúng ta đều có vận may hoặc rủi được chứng kiến từng phần cuộc sống của mình đổ vỡ chậm đến mức chúng ta không nhận ra. Trong trường hợp Julián điều đó chắc chắn xảy ra trong tích tắc. Có lúc tôi nghĩ anh sẽ tức tốc chạy lên cầu thang đặng trốn khỏi chốn bị nguyền rủa ấy, rằng tôi sẽ không bao giờ được gặp anh nữa. Có lẽ như vậy sẽ tốt hơn.

Tôi nhớ ánh lửa của ngọn đèn ấy từ từ lụi dần, và tôi không nhìn thấy bóng anh nữa. Tay tôi lần mò tìm anh trong bóng đêm. Tôi thấy anh run rẩy, câm lặng. Anh không thể đứng được, phải lê mình vào một góc phòng. Tôi ônh rồi hôn vào trán anh. Anh không động đậy. Tôi lần ngón tay lên khuôn mặt anh, nhưng không hề có nước mắt. Tôỉ nghĩ có lẽ trong vô thức anh đã biết điều này trong suốt những năm qua, có lẽ lần chứng kiến này cần thiết để anh đối diện với sự thật và giải phóng cho anh. Chúng tôi đã đi đến cùng đường. Julián giờ đã hiểu rằng không còn gì níu giữ anh ở lại Barcelona nữa và chúng tôi có thể bỏ đi, đến một nơi xa. Tôi muốn tin rằng vận mệnh của chúng tôi bắt đầu thay đổi và Penélope cuối cùng sẽ tha thứ cho chúng tôi.

Tôi tìm cây đèn ở dưới sàn, nhặt lên thắp lại. Julián thờ ơ nhìn ngọn lửa xanh. Tôi nâng mặt anh lên, bắt anh phải nhìn vào tôi. Tôi bắt gặp đôi mắt trống rỗng, vô hồn, bị cơn giận dữ và nỗi mất mát làm cho tiêu tán. Tôi cảm thấy chất độc của lòng căm thù lan dần trong huyết quản anh và tôi có thể đọc đưọc ý nghĩ của anh. Anh ghét tôi vì đã lừa dối anh. Anh thù ghét Miquel vì đã cầu chúc cho anh một cuộc đời giờ đây giống như một vết thương hở miệng. Nhưng trên tất cả, anh căm ghét kẻ đã gây ra tai họa này, cái chuỗi dấu vết của chết chóc và đau thưong này: là chính anh. Anh căm ghét những cuốn sách bẩn thỉu anh dành cả đời mình viết ra để rồi không ai thèm đọc đến. Anh căm ghét từng giây phút, từng hơi thở bị đánh mất.

Anh nhìn tôi không chớp mắt, như người ta nhìn một người lạ hay một vật lạ. Tôi vẫn lắc đầu, từ từ, tay tôi lần tìm tay anh. Bỗng nhiên, anh vụt quay đi và đứng dậy. Tôi cố níu cánh tay anh, nhưng anh đẩy tôi vào tường. Tôi thấy anh lặng lẽ lên cầu thang, một người đàn ông tôi không quen biết. Julián Carax đã chết. Lúc tôi bước chân ra khu vườn, không còn dấu vết của anh nữa. Tôi trèo lên tường và nhảy sang phía bên kia. Những con phố hoang vắng dường như rỉ máu trong cơn mưa. Tôi hét gọi tên anh khi bước đi giữa đại lộ không bóng ngưòi. Không ai trả lời tôi. Lúc ấy tôi về đến nhà thì đã gần bốn giờ sáng. Căn hộ đầy khói và mùi giấy cháy. Julián đã ở đây. Tôi chạy ra mở cửa sổ. Tôi thấy một hộp nhỏ trên bàn, với cây bút tôi đã mua cho anh nhiều năm trước ở Paris, cây bút mực tôi đã bỏ ra một gia tài để mua vì nghĩ nó từng thuộc về Victor Hugo. Khói ngùn ngụt bốc ra từ lò sưởi. Tôi mở nắp lò và thấy Julián đã ném những cuốn tiểu thuyết của anh vào đó. Tôi chỉ có thể đọc được nhan đề trên gáy sách. Những phần khác đã thành tro bụi, Tôi nhìn lên giá sách: tất cả những cuốn sách của anh đã biến mất.

Mấy tiếng sau, khi tôi đến nhà xuất bản lúc giữa buổi sáng, Álvaro Cabestany gọi tôi vào phòng anh ta. Cha anh ta gần như không bao giờ đến nữa; các bác sĩ bảo thời gian sống của ông chỉ còn tính bằng ngày - và thời gian tôi làm việc cho nhà xuất bản cũng vậy. Con trai Cabestany thông báo cho tôi biết lúc đầu giờ sáng có một ông tên Laín Coubert đã đến đây, nói rằng ông ta muốn mua toàn bộ sách còn tồn của . Con trai nhà xuất bản đã bảo ông ta rằng có một nhà kho đầy sách ấy ở quận Pueblo Nuevo, nhưng do nhu cầu về sách của Carax rất cao nên anh ta nhất quyết đòi giá cao hơn Coubert đề nghị. Coubert không cắn câu và ra về. Giờ Álvaro Cabestany muốn tôi tìm kẻ tên Laín Coubert này và chấp nhận lời đề nghị của ông ta. Tôi bảo gã ngớ ngẩn ấy rằng Laín Coubert không hề tồn tại, ông ta là nhân vật trong tiểu thuyết của Carax. Rằng ông ta không mảy may, dù chỉ một chút, quan tâm mua mấy cuốn sách ấy, ông ta chỉ muốn biết chúng được cất ở đâu. Ông Cabestany có thói quen cất giữ một bản của từng cuốn sách mình xuất bản trong phòng làm việc, kể cả tác phẩm của Julián Carax: tôi đã bí mật lẻn vào căn phòng đó lấy chúng đi.

Đêm hôm ấy tôi đến thăm cha tôi ở Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên và giấu chúng vào nơi mà không ai, đặc biệt là Julián, có thể tìm thấy. Màn đêm đã buông xuống khi tôi rời tòa nhà. Tôi lang thang dọc Ramblas và xuống La Barceloneta, ở đấy tôi đi ra bờ biển, tìm đến chỗ tôi đã cùng Julián ngắm biển. Giàn lửa ở nhà kho Pueblo Nuevo bị đốt cháy có thể nhìn thấy từ xa, vầng lửa màu hổ phách tràn lên mặt biển và những vòng khói bốc cao lên bầu trời như những con rắn phát quang. Khi lính cứu hỏa dập tắt ngọn lửa ngay trước lúc trời sáng thì chẳng còn lại gì, chỉ sót lại một bộ khung gạch và kim loại đỡ mái nhà. Ở đấy tôi tìm thấy Lluís Carbó, người làm gác đêm đã mười năm nay. Ông nhìn chăm chăm vào đống tro tàn âm ỉ cháy, không tin nổi mắt mình. Lông mày ông và lông trên cánh tay ông bị cháy sém, da ông ánh lên như đồng nóng chảy. Chính ông bảo tôi rằng ngọn lửa bùng lên ngay sau nửa đêm đã thiêu rụi hàng vạn cuốn sách, cho đến lúc bình minh thì trước mặt ông là một dòng sông tro. Lluís vẫn cầm vài cuốn sách ông cứu được, một tuyển tập thơ của Verdaguer và hai tập bộ Lịch sử cách mạng Pháp. Đó là tất cả những gì thoát được. Nhiều nhân viên của công ty đã đến giúp lính cứu hỏa. Có người cho tôi hay lính cứu hỏa tìm thấy xác một người bị thiêu cháy trong đống đổ nát. Lúc đầu người ta cho rằng người ấy đã chết, nhưng một người nhận thấy anh ta vẫn thở, thế là họ mang anh đến Bệnh viện Mar gần đấy.

Tôi nhận ra anh qua ánh mắt. Ngọn lửa đã ăn sạch làn da anh, đôi tay anh, mái tóc anh. Ngọn lửa cũng bóc đi quần áo của anh, cả cơ thể anh là một vết thương đau buốt, dịch rỉ ra dưới lớp băng bó. Họ đã chuyển anh vào một phòng riêng ở cuối hành lang, có cửa sổ nhìn ra biển, và tiêm morphine cho anh trong khi chờ anh chết. Tôi muốn nắm tay anh, nhưng một cô y tá đã nhắc nhở rằng dưới lớp băng kia gần như không còn chút da thịt nào. Trận hỏa hoạn đã đốt trụi mí mắt. Cô y tá tìm thấy tôi ngã gục trên sàn khóc nức nở, cô hỏi tôi có biết anh ấy là ai không. Tôi trả lời tôi biết: anh ấy là chồng tôi. Khi một cha đạo xuất hiện để làm lễ ban phước cuối cùng cho anh, tôi đã làm ông chết khiếp bởi tiếng kêu gào của mình. Ba ngày sau, Julián vẫn sống. Các bác sĩ bảo đấy là điều diệu kỳ, rằng ý chí sống đã tiếp cho anh sức mạnh mà không một phương thuốc nào có được. Họ đã nhầm. Đấy không phải ý chí sống. Đó là lòng căm thù. Một tuần sau, khi họ thấy cái xác bị cái chết gặm nhấm ấy vẫn khăng khăng không chịu tắt nghỉ, anh chính thức được nhập viện dưới cái tên Miquel Moliner. Anh ở viện mười một tháng. Luôn câm lặng, với đôi mắt bừng cháy, không ngơi nghỉ.

Tôi đến bệnh viện mỗi ngày. Chẳng bao lâu các y tá bắt đầu đối xử với tôi thân mật hơn, họ mời tôi ăn trưa cùng họ trong phòng lớn. Tất cả họ đều là phụ nữ sống đơn thân, những phụ nữ mạnh mẽ đang chờ người đàn ông của mình từ chiến trận trở về. Một số quay về. Họ dạy tôi làm thế nào để lau rửa vết thương của Julián, làm sao để thay băng cho anh, làm sao để thay ga và dọn giường khi người bệnh vẫn nằm trên giường. Họ cũng dạy tôi biết đánh mất mọi hy vọng nhìn thấy lại người đàn ông từng cư trú trong bộ xương kia. Ba tháng sau chúng tôi tháo băng cho anh. Julián chỉ còn là một hộp sọ. Anh không có môi hay má. Đó là một khuôn mặt không có hình dạng, chỉ là tàn tích cháy đen của một con búp bê. Hố mắt của anh rộng hơn và giờ chiếm trọn khuôn mặt. Các cô y tá không dám thú nhận với tôi, nhưng họ thấy ghê tởm diện mạo của anh, gần như khiếp sợ. Các bác sĩ bảo tôi rằng, khi những vết thương lành, một lớp da đỏ tía, giống như vẩy của loài bò sát, sẽ từ từ mọc lên. Không ai dám nhận xét gì về tình trạng tâm thần của anh. Mọi nguời đều cho rằng Julián - Miquel - đã mất trí trong đám lửa, rằng anh đã thoát được nhờ sự chăm sóc đến mê muội của một người vợ kiên cường, trong khi nếu là người khác thì ắt đã chạy trốn vì kinh sợ. Tôi nhìn sâu vào trong mắt anh và biết Julián vẫn ở đó, vẫn sống, đang hành hạ bản thân, đang chờ đợi.

Anh đã mất đôi môi, nhưng các bác sĩ nghĩ dây thanh quản không bị tổn thương vĩnh viễn và các vết bỏng trên lưỡi và thanh quản đã bình phục nhiều tháng trước. Họ cho rằng Julián không nói gì là bởi anh bị mất trí. Một buổi chiều, sáu tháng sau vụ hỏa hoạn, khi chỉ có anh và tôi trong phòng, tôi cúi xuống hôn vào lông mày anh.

“Em yêu anh,” tôi nói.

Một âm thanh cay đắng, cục cằn phát ra từ chỗ cái nhe răng giống như của chó ở nơi giờ đây là miệng anh. Đôi mắt anh đỏ ngầu vì lệ. Tôi muốn lấy khăn lau khô mắt anh, nhưng anh cứ lặp lại âm thanh đó.

“Bỏ anh đi,” anh nói.

“Bỏ a

Hai tháng sau vụ cháy, nhà xuất bản phá sản. Ông cụ Cabestany, mất một năm sau đó, đã dự đoán rằng con trai ông sẽ phá tan cái công ty ấy chỉ trong sáu tháng. Một kẻ lạc quan kiên định đến phút cuối đời. Tôi cố tìm việc ở một nhà xuất bản khác, nhưng cuộc chiến tranh đã lấy đi tất cả. Họ đều bảo không khí thù nghịch sẽ chấm dứt, và mọi thứ sẽ cải thiện. Nhưng vẫn còn hai năm chiến tranh phía trước, và điều tồi tệ nhất vẫn chưa xảy đến. Một năm sau vụ cháy, các bác sĩ bảo tôi họ đã làm tất cả những gì mà một bệnh viện có thể làm. Tình hình giờ rất khó khăn, họ cần phòng trống. Họ đề nghị nên đưa Julián đến một nhà điều dưỡng như Nhà tế bần Santa Lucía, nhưng tôi từ chối. Tháng Mười năm 1937, tôi đưa anh về nhà. Anh vẫn không thốt ra lời nào sau cái câu “Bỏ anh đi” ấy.

***

NGÀY NGÀY TÔI BẢO ANH LÀ TÔI YÊU ANH. Tôi dìu anh đến chiếc ghế bên cửa sổ, đắp chăn cho anh. Tôi đút cho anh nước trái cây, bánh mì và sữa - khi không tìm được gì khác. Mỗi ngày, tôi đọc cho anh ấy nghe vài giờ. Balzac, Zola, Dickens... Cơ thể anh bắt đầu đầy đặn lên. Không lâu sau khi về nhà, anh bắt đầu cử động bàn tay và cánh tay. Anh nghiêng nghiêng cổ. Đôi khi, lúc tôi về nhà, tôi thấy chăn rơi trên sàn, và các đồ vật trong nhà đổ vỡ. Một hôm, tôi thấy anh trườn bò trên sàn nhà. Rồi, một năm rưỡi sau vụ cháy, tôi thức dậy trong một đêm bão bùng và thấy có người đang ngồi trên giường mà vuốt mái tóc tôi. Tôi cười với anh, giấu đi những giọt nước mắt. Anh cố tìm cho được một tấm gương của tôi, mặc dù tôi đã giấu tất cả. Bằng giọng rời rạc, anh bảo tôi rằng anh đã biến thành một trong những ác quỷ trong tiểu thuyết của anh, thành Laín Coubert. Tôi muốn hôn anh, để chứng tỏ với anh rằng vẻ bề ngoài của anh không làm tôi kinh tởm, nhưng anh không để tôi làm vậy. Anh không cho phép tôi chạm vào anh. Ngày qua ngày, anh đang dần hồi sức. Anh đi loanh quanh khắp nhà khi tôi ra ngoài tìm đồ ăn. Khoản tiết kiệm Miquel để lại giúp chúng tôi sống tạm bợ, nhưng chẳng bao lâu tôi phải đem bán những món trang sức và đồ dùng cũ. Khi không còn gì khác để bán, tôi lấy chiếc bút Victor Hugo đã mua ở Paris mang bán cho người trả giá cao nhất. Tôi tìm đuợc một cửa hiệu ở sau khu nhà Chính phủ Quân Sự, nơi người ta nhận mua kiểu hàng hóa như vậy. Ông chủ hàng dường như không mặn mà lắm với lời thề độc rằng cây bút ấy đã từng thuộc về Victor Hugo, nhưng ông công nhận nó là một tác phẩm phi thường và đồng ý trả tôi với giá cao nhất ông trả được, trong khi vẫn không quên nhắc lại rằng đây là thời kỳ khốn khó.

Khi bảo Julián rằng tôi đã bán nó rồi, tôi sợ anh sẽ lồng lên giận dữ. Nhưng anh chỉ nói rằng tôi đã làm điều đúng đắn, rằng anh chưa bao giờ xứng đáng với nó. Một ngày nọ, một trong nhiều ngày tôi đi ra ngoài tìm việc, khi quay về tôi nhận ra Julián không ở nhà. Anh không quay lại cho đến sáng hôm sau. Khi tôi hỏi anh đã ở đâu, anh chỉ dốc hết các túi cái áo khoác (vốn thuộc về Miquel) rồi để một nắm tiền lên bàn. Từ lúc ấy, anh bắt đầu ra ngoài gần như mỗi tối. Trong bóng đêm, được che đậy dưới một chiếc mũ và khăn trùm, với găng tay và áo mưa, anh ấy chỉ là một cái bóng như bao nhiêu bóng khác. Anh không bao giờ kể với tôi mình đã đi đâu, và anh luôn quay về mang theo tiền và trang sức. Anh ngủ vào buổi sáng, ngồi thẳng trên ghế bành, hai mắt mở to. Có lần, tôi tìm thấy một con dao nhíp trong túi áo anh. Đó là con dao hai lưỡi, có nhíp bật tự động. Lưỡi dao đầy vết gỉ đen.

Lúc ấy, tôi bắt đầu nghe đồn trong thành phố những câu chuyện về một người đang đêm đi đập vỡ cửa kính bày hàng các cửa hàng sách và đốt sách. Lần khác, một kẻ phá hoại kỳ quặc đã lẻn vào một thư viện hoặc phòng làm việc của một nhà sưu tầm. Hắn ta luôn lấy vài ba cuốn sách đem đi đốt. Tháng Hai năm 1938, tôi đến một cửa hàng sách cũ hỏi xem có thể tìm thấy cuốn sách nào của Julián Carax trên thị trường không. Người bán hàng nói không thể: có người đang làm chúng biến mất. Chính ông ta cũng sở hữu một vài cuốn và đã bán cho một người rất kỳ quặc, người này che giấu khuôn mặtt và giọng nói hầu như không thể nghe được.

“Cho đến gần đây chỉ còn vài bản trong các bộ sưu tập tư nhân, ở đây và ở Pháp, nhưng nhiều nhà sưu tầm bắt đầu tống tiền chúng. Họ sợ," ông ta nói, “và tôi không trách gì họ.”

Dần dần, Julián biến mất trong nhiều ngày trời. Rồi sự vắng mặt của anh ấy kéo dài cả tuần. Anh ấy luôn ra đi và quay về vào ban đêm, và luôn mang tiền về. Anh không bao giờ giải thích, hoặc giả như có thì đấy là những lời giải thích vô nghĩa. Anh bảo tôi anh đã ở Pháp: ở Paris, Lyon hay Nice. Thỉnh thoảng có những bức thư từ Pháp gửi cho Laín Coubert. Chúng luôn là thư của những nguời bán sách cũ hoặc nhà sưu tầm sách. Có người tìm ra một tác phẩm thất lạc của Julián Carax. Như một con sói, anh ấy liền biến mất trong vài ngày, rồi quay về.

Chính trong những quãng thời gian anh ấy vắng mặt, tôi đến nhà ông Fortuny, ông bán mũ, người vẫn hay đi vẩn vơ trong sân nhà thờ. Ông vẫn nhớ tôi từ cái ngày tôi cùng Miquel đến hỏi về Julián, hai năm trước đó. Ông dẫn tôi đến một góc và thổ lộ với tôi rằng Julián còn sống, ở đâu đó, nhưng ông ngờ rằng con trai ông không thể liên lạc với chúng tôi vì lý do nào đấy ông không thể hiểu ra. “Điều gì đó liên quan đến kẻ tàn độc Fumero.” Tôi bảo ông tôi cũng cảm thấy như vậy. Thời chiến hóa ra lại rất có lợi cho Fumero. Sự trung thành của hắn thay đổi theo từng tháng,phe vô chính phủ sang phe cộng sản, rồi từ phe cộng sản sang bất cứ phe nào hắn gặp. Ngưòi ta gọi hắn là gián điệp, tay sai, anh hùng, kẻ giết người, kẻ mưu đồ, kẻ âm mưu, vị cứu tinh, hay ác quỷ. Chẳng có gì quan trọng. Tất cả đều sợ hắn. Tất cả đều muốn hắn đứng về phía họ. Có lẽ vì mải mê với những mưu ma chước quỷ của một Barcelona thời hỗn chiến, Fumero dường như đã quên Julián. Có lẽ, cũng giống như ông bán mũ, hắn tưởng Julian đã thoát ra ngoài tầm với của hắn.

***

ÔNG FORTUNY HỎI TÔI có phải tôi là bạn của con trai ông không, và tôi xác nhận. Ông bảo tôi kể cho ông về Julián, về con nguời mà anh ấy đã trở thành, vì ông buồn rầu thừa nhận là ông thực sự không hiểu anh ấy. “Cuộc đời đã chia rẽ hai cha con ta, cháu biết không?” Ông kể tôi nghe ông đã đến tất cả các hiệu sách ở Barcelona để tìm những tiểu thuyết của Julián, nhưng không thể tìm được. Ai đó bảo ông rằng có một kẻ điên đang tìm chúng trong mọi ngóc ngách của thành phố và đem đốt. Fortuny tin rằng thủ phạm là Fumero. Tôi không phản đối ông. Tôi nói dối hết mức có thể, dù tôi không biết ấy là do thương xót hay khinh bỉ. Tôi bảo ông rằng tôi tin Julián đã quay lại Paris, rằng anh vẫn khỏe, rằng tôi biết sự thực là anh ấy rất quý ông Fortuny bán mũ, rằng anh sẽ trở lại thăm ông khi điều kiện cho phép. “Chỉ tại cuộc chiến này thôi,” ông than thở, “chính cuộc chiến này đã phá hỏng mọi thứ.” Trước khi nói lời từ biệt, ông nhất quyết cho tôi địa chỉ của ông và của vợ cũ ông, Sophie, người ông vừa nối lại liên lạc sau nhiều năm “hiểu lầm”. Sophie giờ sống ở Bogotá với một bác sĩ danh tiếng, ông nói. Bà ấy mở một trường nhạc và thường viết thư hỏi thăm Julián.

“Đó là điều duy nhất mang hai bác lại bên nhau, cháu biết đấy. Những ký ức. Hai bác đã mắc nhiều sai lầm trong đời, cô gái ạ, nhưng hai bác chỉ nhận ra điều đó khi tuổi già lần tìm đến. Cháu nói đi, cháu có niềm tin không?”

Tôi ra về, hứa hẹn sẽ báo tin cho ông và Sophie nếu tôi biết tin gì về Julián.

“Không gì làm mẹ nó hạnh phúc hơn là biết tin về con trai mình. Phụ nữ các cô lắng nghe con tim nhiều hơn, chứ ít nghe những điều vô nghĩa.” ông bán mũ buồn rầu kết luận. “Vì thế mà phụ nữ sống lâu hơn.”

Mặc dù đã nghe nhiều chuyện khủng khiếp về ông, tôi cũng không khỏi cảm thương ông cụ tội nghiệp. Ông không còn gì khác để làm trên đời ngoài cái mong mỏi đứa con quay về. Ông dường như đang sống trong hy vọng lấy lại thời gian đã mất nhờ phép mầu nào đó của thánh thầnhững người mà ông tận tâm thăm viếng ở các nhà nguyện trong nhà thờ. Tôi đã quen hình dung ông như một con yêu tinh, một sinh vật hèn hạ và đáng ghét, nhưng giờ tôi chỉ thấy trước mặt mình một người ông tốt bụng, mù quáng trước thực tại, bối rối như tất cả mọi người khác. Có lẽ vì ông khiến tôi nhớ đến cha tôi, người luôn lẩn tránh những người khác, ngay cả với chính bản thân ông, trú ngụ trong những cuốn sách và bóng đêm, hay bởi vì ông bán mũ và tôi còn được liên kết với nhau bởi hy vọng tìm lại Julián, mà tôi cảm thấy ngày càng quý mến ông và trở thành người bạn duy nhất của ông. Julián không hề biết tôi thường đến thăm ông ấy tại căn hộ trên phố San Antonio. Ông bán mũ không còn làm việc trong cửa hàng nữa.

“Bác không còn đôi tay, không còn đôi mắt thấy, không còn khách hàng nữa...” ông nói.

Ông đợi tôi vào mỗi thứ Năm và mời tôi cà phê, bánh quy và bánh ngọt mà ông không buồn nếm thử. Ông dành nhiều giờ liền để hồi tưởng lại thời thơ ấu của Julián, về chuyện họ đã làm việc cùng nhau trong xưởng mũ ra sao, và ông cho tôi xem ảnh. Ông sẽ dẫn tôi vào phòng Julián, mà ông giữ nguyên vẹn như một bảo tàng, đưa cho tôi xem những cuốn sổ cũ, những đồ vật tầm thường mà ông tôn thờ như di tích của một cuộc đời chưa bao giờ tồn tại, không hề nhận ra rằng ông đã cho tôi xem trước đây rồi, rằng ông đã kể tôi nghe những câu chuyện ấy vào chuyến thăm trước. Một trong những ngày thứ Năm đó, khi bước lên cầu thang, tôi đã va vào một vị bác sĩ vừa đến khám cho ông Fortuny. Tôi hỏi bác sĩ ông bán mũ sao rồi, và ông nhìn tôi lạ lẫm.

“Cô là người thân sao?”

Tôi bảo tôi là người gần gũi nhất mà ông bán mũ còn có. Bác sĩ bảo rằng Fortuny ốm nặng, chỉ còn sống được vài tháng.

“Bác ấy bị sao?”

“Tôi chỉ có thể nói là do tim ông ấy, nhưng điều thực sự đang giết ông ấy là sự cô đơn. Ký ức còn tàn độc hơn cả những viên đạn.”

Ông bán mũ rất vui khi gặp tôi và thú nhận là ông không tin vị bác sĩ kia. Bác sĩ chỉ là bọn phù thủy hạng hai, ông nói. Ông bán mũ đã sống cả một đời với những đức tin sâu sắc, và tuổi già chỉ củng cố lòng tin đó mà thôi. Ông thấy bàn tay của ác quỷ khắp nơi. Ác quỷ, ông nói, làm lu mờ tâm trí và phá hủy con người.

“Cứ nhìn vào cuộc chiến nhìn bác đây. Tất nhiên, giờ bác đã già yếu, nhưng khi còn trẻ bác là kẻ thô lỗ và hèn nhát.”

Chính ác quỷ đá cướp mất Julián khỏi tay ông, ông nói.

“Chúa cho chúng ta cuộc sống, nhưng chúa tể của thế giới này là ác quỷ...”

Chúng tôi đã ngồi qua buổi chiều như vậy, nhâm nhi món bánh bích quy bốc mùi và bàn về thần học.

Có lần tôi bảo Julián, nếu muốn gặp lại cha trước khi ông chết anh nên làm nhanh. Hóa ra, chính anh cũng đến thăm ông bán mũ mà ông không biết: từ xa, lúc sẩm tối, anh ngồi ở một góc quảng trường, nhìn ông đang già đi. Julián bảo anh muốn ông cụ giữ lại hình ảnh đứa con trai do ông dựng ra trong tâm tưởng suốt những năm tháng ấy, chứ không phải kẻ mà anh đã trở thành.

“Anh giữ hình ảnh ấy cho em,” tôi nói, hối tiếc điều mình thốt ra.

Anh không đáp, nhưng có lúc dường như anh ấy có thể suy nghĩ mạch lạc trở lại và nhận thức đầy đủ cái địa ngục mà chúng tôi đã lâm vào.

Không bao lâu, dự đoán của bác sĩ trở thành hiện thực. Ông Fortuny không được nhìn thấy chiến tranh kết thúc. Người ta phát hiện ông chết lúc đang ngồi trên ghế, ngắm bức ảnh cũ chụp Sophie và Julián.

Những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh lại là khúc dạo đầu dẫn vào địa ngục. Thành phố đã sống qua trận chiến từ xa, như một vết thương đau âm ỉ, với nhiều tháng ròng giao tranh và đọ súng, những cuộc đánh bom và nạn đói. Cảnh tượng giết người, đánh nhau và những âm mưu đã làm ruỗng mục trái tim thành phố nhiều năm qua, nhưng dù vậy, nhiều người muốn tin rằng cuộc chiến tranh vẫn là điều gì xa xôi, một cơn bão tràn qua mà chẳng hề hấn gì đến họ. Có chăng, sự đợi chờ càng khiến cho điều không thể tránh khỏi ấy thành tồi tệ hơn. Khi cơn bão bùng lên, không có gì sánh nổi.

Không có gì nuôi nấng sự lãng quên tốt hơn chiến tranh, Daniel ạ. Tất cả chúng ta đều câm lặng, và các cuộc chiến tranh cố thuyết phục chúng ta điều chúng ta vừa thấy, điều chúng ta vừa làm, điều chúng ta học được về bản thân và từ những người khác, thảy đều là ảo giác, một cơn ác mộng rồi sẽ qua. Các cuộc chiến tranh không có ký ức, và không ai đủ dũng khí để hiểu chúng cho tới khi không có tiếng nói nào chúng ta chuyện gì đã thực sự xảy ra, cho đến cái khoảnh khắc chúng ta không còn nhận ra chúng nữa thì chúng quay lại, với một bộ mặt khác và một tên gọi khác, để tàn phá những gì chúng bỏ lại.

Lúc ấy thì Julián không còn nhiều sách nữa mà đốt. Cái chết của cha anh ấy, mà chúng tôi không bao giờ đề cập đến, đã biến anh thành một người tàn phế. Nỗi tức giận và căm thù ban đầu xâm chiếm anh giờ đã tan biến. Chúng tôi sống theo tin đồn, sống biệt lập. Chúng tôi nghe đồn Fumero đã phản bội những người đã giúp hắn thăng tiến trong chiến tranh và giờ hắn đang hầu hạ quân chiến thắng. Có lời đồn hắn đã đứng ra xử tử những đồng minh chính của hắn và những người bảo hộ hắn trong các xà lim ở Lâu đài Montjuïc - phương pháp ưa thích của hắn là gí súng lục bắn vào miệng. Chiếc áo choàng nặng nề của sự lãng quên tập thể dường như trùm kín chúng tôi vào ngày yên tiếng súng. Trong những ngày ấy, tôi học được rằng không gì đáng sợ hơn một kẻ anh hùng còn sống để kể lại câu chuyện của hắn, kể lại điều mà tất cả những người đã ngã xuống bên hắn sẽ không bao giờ có thể kể. Những tuần sau khi Barcelona sụp đổ thật khó diễn tả nổi. Những ngày ấy máu còn rơi nhiều hơn cả thời chiến tranh, nhưng âm thầm, và lén lút. Khi hòa bình cuối cùng cũng đến, nó mang mùi của thứ hòa bình thường hay ám các nhà tù và nghĩa trang, một tấm vải liệm lặng câm và hổ thẹn hủy hoại tâm hồn người ta và không bao giờ biến đi. Không bàn tay nào là vô tội, không ánh nhìn nào là ngây thơ. Những người đã sống trong thời ấy, tất cả không hề có ngoại lệ, sẽ mang bí mật của mình xuống mồ.

Một cái vỏ mờ nhạt của sự bình thường đang được khôi phục giữa những ngờ vực và oán hận, nhưng bây giờ Julián và tôi sống trong nghèo khổ. Chúng tôi đã tiêu hết số tiền tiết kiệm và món đồ cướp được trong những chuyến phiêu lưu ban đêm của Laín Coubert, và trong nhà không còn gì để bán. Tôi ráo riết tìm việc, làm dịch thuật, đánh máy, hay lau dọn, nhưng dường như cái quá khứ dính dáng đến Cabestany đã khiến tôi trở thành một kẻ không ai mong muốn, nguồn gốc của những mối nghi ngờ không tên. Một nhân viên công quyền trong bộ cánh mới cóng, với mái tóc óng mượt và bộ ria con kiến - một trong hàng trăm kẻ dường như từ dưới đá bò ra trong những năm tháng ấy – đã gợi ý rằng một cô gái hấp dẫn như tôi đáng lẽ không cần phải hạ mình làm những công việc hạ tiện ấy. Hàng xóm chúng tôi chấp nhận câu chuyện của tôi rằng tôi đang chăm sóc cho người chồng tội nghiệp, Miquel, người đã trở thành thương binh và biến dạng do chiến tranh. Họ mang tặng chúng tôi sữa, pho mát hoặc bánh mì, thỉnh thoảng còn có cá muối và xúc xích do bà con họ ở nông thôn gửi lên. Sau nhiều tháng khó khăn, tin rằng còn lâu nữa mới tìm được việc làm, tôi quyết định dùng một chiến lược mượn từ một cuốn tiểu thuyết của Julián.

Tôi viết cho mẹ Julián ở Bogotá, dùng tên của một luật sư tưởng tượng mà ông Fortuny quá cố đã tham vấn vào những ngày cuối đời, khi ông đang cố thu xếp công việc cho đâu vào đó. Tôi báo với bà rằng, do ông bán mũ đã chết không để lại di chúc, tài sản của ông ấy, bao gồm căn hộ trên phố San Antonio và cửa hàng nằm ở cùng tòa nhà, về lý thuyết thuộc sở hữu của con trai bà, Julián, người được cho là đang sống lưu vong ở Pháp. Do ông đã chết và nợ chưa được trả, và do bà đang sống ở nước ngoài, nên luật sư (mà tôi chọn tên là José María Requejo để tưởng nhớ cậu bé đầu tiên hôn tôi thời còn đi học) đề nghị bà ủy quyền cho tôi làm những thủ tục cần thiết để chuyển giao các tài sản nói trên cho con trai bà, người mà luật sư sẽ liên hệ qua đại sứ quán Tây Ban Nha ở Paris. Trong thời gian ấy, anh ta sẽ tạm thời sở hữu những tài sản trên, cũng như tiến hành trả nợ ở một mức nhất định. Tôi cũng đề nghị bà liên lạc với quản lý tòa nhà và chỉ thị cho ông ấy gửi mọi chứng từ, cũng như thanh toán các chi phí tài sản, đến văn phòng ngài Requejo, tôi đã mở một hòm thư lấy tên này với một địa chỉ giả - địa chỉ của một cái ga ra cũ bỏ hoang cách di tích tòa lâu đài Aldaya hai khu phố. Tôi hy vong rằng, bị mù quáng trước khả năng giúp đỡ được Julián và nối lại liên lạc với anh ấy, bà Sophie sẽ không hơi đâu nghi ngờ những sơ hở về pháp lý trong câu chuyện và sẽ đồng ý giúp chúng tôi, khi bà đang sống xa hoa ở Colombia xa xôi.

Vài tháng sau, quản lý tòa nhà bắt đầu nhận được phiếu chuyển tiền hằng tháng để trang trải chi phí cho căn hộ trên phố San Antonio và phí luật sư gửi cho hãng luật của José María Requejo, khoản phí này ông ta sẽ chuyển séc đến hòm thư số 2321 phố Barcelona, theo đúng yêu cầu của Sophie Carax. Ông quản lý mỗi tháng giữ lại một tỉ lệ phần trăm không chính đáng, tôi có để ý thấy, nhưng tôi không muốn nói gì. Nhờ vậy ông ta cũng có phần nên sẽ không thắc mắc gì về một thỏa thuận có lợi như vậy. Với phần còn lại, tôi và Julián đủ để tồn tại. Những năm ảm đạm, khủng khiếp trôi qua, trong thời gian ấy tôi đã kiếm được một công việc thời vụ là làm dịả. Lúc ấy không ai còn nhớ Cabestany nữa, mọi người bắt đầu quên đi và tha thứ, bỏ qua những hiềm khích và đau thương trong quá khứ. Nhưng tôi sống trong mối đe dọa thường trực rằng Fumero hẳn quyết định bắt đầu lục tung quá khứ. Đôi khi tôi tự thuyết phục mình rằng chuyện đó sẽ không xảy ra, chắc hẳn hắn cho rằng iờ đã chết hoặc là đã quên anh ấy rồi. Fumero nay không phải là tên du thủ du thực như nhiều năm về truớc. Giờ hắn đã thành nhân vật công chúng, một kẻ tham danh vọng trong chế độ phát xít, kẻ không trả nổi cái giá xa xỉ là săn đuổi hồn ma Julián Carax. Có nhiều lúc, tôi chợt tỉnh lúc nửa đêm với con tim hoảng loạn, người đầm mồ hôi, tưởng rằng cảnh sát đang đập rầm rầm lên cửa nhà tôi. Tôi lo sợ rằng một vài hàng xóm hẳn bắt đầu thấyồng ốm đau của tôi, người không bao giờ ra khỏi nhà, người thỉnh thoảng lại gào thét và đập vào tường như một kẻ điên, và có thể sẽ trình báo cảnh sát. Tôi sợ Julián sẽ bỏ trốn lần nữa, rằng anh ấy đã quyết lại ra ngoài săn tìm những cuốn sách của mình. Quá bận tâm bởi nhiều mối lo sợ như vậy, tôi quên rằng mình đang già đi, rằng cuộc đời đã trôi qua mà tôi không hề hay biết, rằng tôi đã hiến tuổi thanh xuân để yêu một người đàn ông giờ đây gần như một bóng ma.

Nhưng những năm tháng ấy trôi qua yên bình. Thời gian càng rỗng thì trôi càng nhanh. Những cuộc đời vô nghĩa đi thẳng ngang qua ta, như những con tàu không dừng lại ở sân ga của ta. Trong khi đó, vết sẹo chiến tranh đang lành dần, vì buộc phải như vậy. Tôi tìm được công việc ở vài nhà xuất bản, hầu như cả ngày tôi không ở nhà. Tôi có những người tình không tên, những khuôn mặt vô vọng tôi bắt gặp trong rạp phim hoặc trên tàu điện ngầm, cùng họ tôi chia sẻ nỗi cô đơn. Rồi, rất ngớ ngẩn, tôi bị cảm giác tội lỗi bủa vây, và khi tôi gặp lại Julián, tôi luôn cảm thấy muốn khóc và thề với lòng mình tôi sẽ không bao giờ phảm bội anh nữa, như thể tôi nợ anh một điều gì. Trên xe buýt hay trên phố, tôi bắt gặp mình đang nhìn vào những phụ nữ trẻ trung hơn tôi, tay ôm con nhỏ. Họ có vẻ hạnh phúc, hoặc thanh thản, tưởng như những sinh linh bé bỏng yếu đuối ấy có thể lấp đầy mọi nỗi trống trải trên đời. Rồi tôi nhớ lại những ngày mà, trong lúc mơ màng, tôi đã tưởng tượng mình là một trong những phụ nữ ấy, với một đứa trẻ trên tay, con của Julián. Và rồi tôi lại nghĩ về cuộc chiến, nghĩ về chuyện nhưng kẻ gây ra chiến tranh cũng có thời là trẻ con.

Tôi bắt đầu tin rằng thế giới đã bỏ quên chúng tôi khi một ngày có người xuất hiện trước cửa nhà. Hắn khá trẻ, gần như một cậu bé, một kẻ học việc bối rối đỏ mặt khi nhìn vào mắt tôi. Hắn hỏi han về Miquel Moliner, và nói hắn đang cập nhật hồ sơ ở Trường Báo chí. Hắn bảo có thể Moliner có thể được nhận trợ cấp hằng tháng, nhưng nếu anh ấy muốn nộp đơn xin trợ cấp thì trước hết anh ấy phải cập nhật một số thông tin. Tôi bảo hắn rằng Moliner không còn sống ở đây kể từ khi chiến tranh bắt đầu, rằng anh ấy đã ra nước ngoài. Hắn nói xin lỗi và bỏ đi, không quên mỉm cười bỡn cợt. Hắn có vẻ mặt của một tên chỉ điểm trẻ tuổi, và tôi biết tôi phải đưa bằng được Julián ra khỏi nhà mình đêm hôm ấy. Lúc này, anh ấy gần như khô quắt. Anh ấy ngoan ngoãn như một đứa trẻ, cuộc sống của anh ấy chỉ quanh quẩn vào những buổi tối chúng tôi ở bên nhau, nghe nhạc trên đài phát thanh, khi anh ấy nắm tay tôi và vuốt ve thầm lặng.

Đêm xuống, tôi lấy chìa khóa căn hộ trên phố San Antonio, mà quản lý tòa nhà đã chuyển cho ông Requejo không hề tồn tại, và đưa Julián trở về ngôi nhà mà anh đã lớn lên. Tôi h ở trong phòng của anh và hứa hôm sau sẽ quay lại, và nhắc anh ấy phải cẩn thận.

“Fumero lại tìm anh đấy”, tôi nói.

Đầu anh làm một cử chỉ mơ hồ, tựa như anh không thể nhớ Fumero là ai, hoặc là không quan tâm nữa. Vài tuần trôi qua như vậy. Tôi luôn đến căn hộ ấy vào buổi đêm, sau nửa đêm. Tôi hỏi Julián cả ngày anh làm gì, và anh nhìn tôi không hiểu. Chúng tôi ở bên nhau suốt đêm, ôm nhau, và tôi ra đi lúc trời sáng, hứa sẽ quay lại khi có thể. Khi đi, tôi luôn khóa cửa. Julián không có chìa khóa. Tôi muốn giữ anh ở đó như một tù nhân, còn hơn để anh liều tính mạng của mình.

Không ai khác đến hỏi han về Miquel, nhưng tôi cứ loan tin trong khu nhà rằng chồng tôi đang ở Pháp. Tôi viết vài bức thư gửi đến lãnh sự Tây Ban Nha ở Paris nói rằng tôi biết công dân Tây Ban Nha Julián Carax đang ở thành phố ấy và đề nghị họ giúp đỡ tìm kiếm anh ấy. Tôi thiết nghĩ rồi sớm muộn gì bức thư ấy cũng đến đúng tay người cần nhận. Tôi đã thận trọng hết mực có thể, nhưng tôi biết chỉ là vấn đề thời gian mà thôi. Những kẻ như Fumero không bao giờ thôi căm thù.

Căn nhà trên phố San Antonio ở trên tầng thượng. Tôi phát hiện có một cánh cửa lên mái nhà ở đỉnh cầu thang. Những mái nhà của cả khu phố hình thành một mạng lưới những khoảng trống ngăn cách nhau bởi những bức tường cao chừng một thước, nơi người dân hay lên phơi đồ. Chẳng mất nhiều thời gian để định vị một tòa nhà ở đầu kia khu phố, với cửa trước quay về phố Joaquín Costa, sao cho tôi có thể lên mái tòa nhà ấy rồi đến tòa nhà trên phố San Antonio mà không bị ai bắt gặp tôi đi vào hoặc ra khỏi đấy. Có lần tôi nhận được một bức thư của quản lý tòa nhà bảo rằng vài người hàng xóm nghe thấy tiếng động ở căn hộ Fortuny. Tôi trả lời dưới tên Requejo rằng thỉnh thoảng nhân viên của công ty đến căn hộ tìm giấy tờ tài liệu nên không việc gì phải lo lắng, cho dẫu tiếng động nghe thấy vào ban đêm. Tôi còn thêm một nhận xét với hàm ý rằng với quý ông đây - kế toán và luật sư - thì một chốn bí mật cho kẻ độc thân không hề là một kho báu nhỏ. Viên quản lý, tỏ ra hiểu biết kiểu nhà nghề, trả lời rằng tôi không nên bận tâm, rằng ông ta hoàn toàn hiểu tình huống n

Trong những năm ấy, đóng vai ông Requejo là nguồn giải trí duy nhất của tôi. Mỗi tháng một lần, tôi đến thăm cha tôi ở Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên. Ông không bao giờ tỏ quan tâm đến việc gặp người chồng vô hình của tôi, và tôi không bao giờ bảo tôi sẽ giới thiện với ông. Chúng tôi lảng tránh chủ đề ấy trong những buổi trò chuyện giống như những thủy thủ sành sỏi né tránh dải san hô gần mặt nước. Thỉnh thoảng ông lại hỏi tôi có cần giúp gì không, liệu ông có thể giúp gì được không.

Vào các ngày thứ Bảy, lúc mờ sáng, thỉnh thoảng tôi lại dẫn Julián ra biển. Chúng tôi sẽ đi lên mái nhà, băng qua tòa nhà bên cạnh, rồi bước xuống phố Joaquín Costa. Từ đấy chúng tôi xuống cảng qua những ngõ hẻm của khu phố Raval. Chúng tôi không bao giờ gặp phải ai. Mọi người sợ Julián, thậm chí từ xa. Nhiều lần chúng tôi ra tận mép nước. Julián muốn ngồi trên mỏm đá, quay mặt về phía thành phố. Chúng tôi ở bên nhau hàng giờ liền như vậy, hầu như không nói gì. Có những buổi chiều chúng tôi lẻn vào một rạp chiếu phim, khi buổi chiếu đã bắt đầu. Trong bóng tối, không ai nhận ra Julián. Nhiều tháng trôi qua, tôi bắt đầu nhầm lẫn những cái diễn ra hằng ngày với cái bình thường, và dần dà tôi đã tin rằng sắp đặt của tôi thật hoàn hảo. Tôi thật ngốc nghếch vậy.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,691
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 56


MỘT CHÍN BỐN LĂM, MỘT NĂM TRO TÀN. Cuộc nội chiến chỉ mới kết thúc sáu năm thôi, và dù những vết thâm bầm của nó vẫn có thể cảm thấy theo từng bước chân, song gần như không ai nói công khai về nó nữa. Giờ người ta nói về cuộc chiến khác, chiến tranh thế giới, cuộc chiến đã làm nhiễm bẩn khắp địa cầu với cái mùi hôi thối của xác người không bao giờ tan biến. Đó là những năm thiếu thốn và đau thương, được ban phước một cách kỳ lạ bởi thứ yên bình mà những kẻ câm điếc và những kẻ tàn phế gây nên cho chúng ta - nửa phần thương xót nửa phần khinh thị. Cuối cùng, sau nhiều năm vô vọng tìm kiếm công việc làm dịch giả, tôi tìm được một chân biên tập ở một nhà xuất bản, của một doanh nhân thuộc một chủng loại mới, tên là Pedro Sanmartí. Sanmartí đã xây dựng công ty của mình với gia sản vốn của ông bố vợ mà lúc bấy giờ đã bị người ta hộc tốc tống vào nhà dưỡng lão bên Hồ Bañolas trong khi Sanmartí chờ bức thư kèm giấy chứng tử xác nhận ông ta đã chết. Lão doanh nhân này thích ve vãn những phụ nữ tầm nửa tuổi hắn bằng cách tự phong mình là người tự gây dựng nên cơ nghiệp, một hình tượng đang thịnh hành lúc ấy. Hắn nói thứ tiếng Anh bập bõm với chất giọng lè nhè, tin rằng đó là ngôn ngữ của tương lai, và câu nào hắn cũng kết thúc với chữ “Okay”.

Công ty của Sanmartí (hắn đặt tên là Endymion vì hắn nghĩ nó nghe ấn tượng hơn và có thể bán được sách) xuất bản các sách giáo lý, hướng dẫn nghi thức xã giao, và các thiên tiểu thuyết răn dạy đạo đức mà nhân vật chính là mấy bà xơ trẻ dại dột đến nực cười, nhân viên Chữ Thập đỏ, và các công chức hạnh phúc và đạo mạo. Chúng tôi cũng xuất bản một loạt truyện tranh về những người lính, Biệt Kích Dũng Cảm - một thành công vang dội trong số độc giả là những chú bé đang cần các anh hùng. Tôi quen một người bạn tốt ở công ty ấy, thư ký của Sanmartí, một góa phụ tên là Mercedes Pietro, người mà tôi nhanh chóng tìm thấy một mối đồng cảm lớn. Mercedes và tôi có nhiều điểm chung: chúng tôi là hai phụ nữ, bị bao quanh bởi những người đàn ông hoặc đã chết hoặc đang lẩn trốn thế giới. Mercedes có một cậu con trai bảy tuổi bị bệnh rối loạn cơ, cô ấy chăm sóc nó hết mức có thể. Cô mới ba hai tuổi, song những nếp nhăn trên mặt cho thấy cô có một cuộc đời vất vả. Những năm ấy, Mercedes là người duy nhất tôi cảm thấy muốn chia sẻ mọi điều.

Chính cô ấy đã bảo tôi rằng Sanmartí là bạn thân của một kẻ danh tiếng đang phất, lắm huy chương nhiều phần thưởng, Thanh tra Javier Fumero. Họ đều thuộc bè lũ những kẻ đã vươn lên từ đống tro tàn của chiến tranh để vươn vòi bạch tuộc ra toàn khắp thành phố, một thế lực tinh hoa mới.

Một ngày nọ Fumero xuất hiện ở nhà xuất bản. Hắn đến thăm ông bạn Sanmartí, người hắn hẹn đi ăn trưa. Lấy lý do này nọ, tôi trốn trong phòng lưu trữ cho đến khi cả hai người đã đi. Khi tôi quay lại bàn, Mercedes ném cho tôi một ánh nhìn; không cần phải nói. Từ lúc ấy, mỗi lần Fumero xuất hiện trong văn phòng nhà xuất bản, cô ấy sẽ báo trước để tôi có thể trốn đi.

Không một ngày nào Sanmartí không cố dụ tôi ra ngoài ăn tối, đến rạp hát hoặc chiếu phim, dùng bất cứ lý lẽ nào. Tôi luôn đáp rằng chồng tôi đang đợi tôi ở nhà và chắc chắn vợ hắn ta hẳn rất lo lắng, vì đã muộn rồi. Bà Sanmartí nằm rất xa dưới con xe Bugatti trong danh mục những món ưa thích của ông chồng. Thực ra, chị ta gần như đã đánh mất vai trò của mình trong trò chơi hôn nhân, bấy giờ gia sản của ông bố đã chuyển sang tay Sanmartí. Mercedes đã cảnh báo tôi: Sanmartí với khả năng tập trung hạn chế, luôn ham mê những da thịt tươi trẻ, mới lạ và tập trung cách tán tỉnh vô bổ của mình vào bất kỳ người mới đến nào - mà lúc ấy có nghĩa là tôi. Hắn ta sẽ dùng đến đủ loại mưu m

“Người ta bảo tôi rằng chồng của em, cái ông Moliner, là nhà văn... Có lẽ anh ta sẽ quan tâm đến việc viết một cuốn sách về anh bạn Fumero của tôi. Tôi đã có nhan đề rồi: Fumero, Kẻ trừng phạt Tội ác. Em nghĩ sao Nurieta?”

“Tôi rất cảm kích, thưa ông Sanmartí, nhưng Miquel đang bận với cuốn tiểu thuyết anh ấy đang viết, nên tôi e anh ấy không thể làm việc đó lúc này...”

Sanmartí sẽ cười phá lên.

“Một cuốn tiểu thuyết ư? Nurieta... tiểu thuyết đã chết và bị chôn vùi rồi. Mới hôm trước một người bạn từ New York đến bảo tôi như vậy. Người Mỹ đang phát minh ra cái gọi là truyền hình, nó sẽ giống như điện ảnh, sẽ ngay tại nhà mình. Sẽ không cần đến sách nữa, hay nhà thờ hay bất cứ thứ gì. Bảo chồng em quên tiểu thuyết đi. Nếu ít nhất anh ta nổi tiếng, nếu anh ta là cầu thủ bóng đá hay võ sĩ đấu bò... Này, sao chúng ta không lên chiếc Bugatti đi ăn cơm thập cẩm ở Castelldefels để bàn chuyện này nhỉ? Thôi nào, cô em, em phải nai lưng ra làm lâu nay rồi... Em biết tôi muốn giúp em mà. Cả anh chồng tốt bụng của em nữa. Em biết rõ là ở đất nước này nếu không có bạn tốt, thì không làm được gì hết.”

Tôi bắt đầu ăn mặc như một góa phụ đoan trang, hay những phụ nữ dường như nhầm lẫn ánh mặt trời với tội lỗi chết người. Tôi đến chỗ làm với mái tóc bới ra sau, và không trang điểm. Bất chấp thủ đoạn của tôi, Sanmartí vẫn tiếp tục tưới tắm lên tôi những lời dâm tục kèm theo nụ cười đồi bại nhầy nhụa. Đó là nụ cười khinh thị, điển hình của kẻ tự đắc nghênh nghênh treo lủng lẳng như cục xúc xích nhồi trên bậc thang cao nhất trong mọi doanh nghiệp. Tôi có vài ba cuộc phỏng vấn xin việc ở nơi khác, những sớm hay muộn tôi cũng bắt gặp một phiên bản khác của Sanmartí. Chúng mọc nhanh như dịch nấm, vương lên từ đống cứt mà trên đó các công ty được gây dựng. Một trong số bọn họ còn cất công gọi điện báo cho Sanmartí rằng Nuria Monfort đang lén lút tìm việc khác. Sanmartí triệu hồi tôi vào phòng hắn, tỏ vẻ đau đớn trước thái độ vô ơn của tôi. Hắn đưa tay ra định vuốt má tôi. Những ngón tay sặc mùi thuốc lá và hôi hám. Tôi tím tái thẫn thờ.

“Thôi nào, nếu em không vui, em chỉ cần nói với tôi. Tôi có thể làm gì để cải thiện điều kiện làm việc của em đây? Em biết tôi trân trọng em thế nào mà, và em làm tôi tổn thương khi nghe người khác bảo em muốn bỏ chỗ này. Sao chúng ta không đi ăn tối để gi quyết chuyện này nhỉ?”

Tôi gạt tay hắn khỏi mặt tôi, không thể tiếp tục che giấu mối ghê tởm với hắn được nữa.

“Em làm tôi thất vọng quá, Nuria ạ. Tôi phải thừa nhận là không thấy tinh thần hợp tác gì ở em cả, dường như em không tin tưởng vào mục tiêu kinh doanh của công ty này nữa.”

Mercedes đã cảnh báo tôi sớm muộn chuyện thế này cũng xảy ra. Vài ngày sau, Sanmartí, kẻ mà ngữ pháp không khá hơn một con khỉ, bắt đầu trả toàn bộ bản thảo tôi đã sửa, trách cứ rằng chúng đầy những lỗi. Thực sự hằng ngày tôi ở lại văn phòng đến tận mười, mười một giờ đêm, không ngớt sửa lại những trang đầy gạch chéo và nhận xét của Sanmartí.

“Quá nhiều động từ ở thì quá khứ. Nghe như là chết rồi, vô hồn... Động từ nguyên thể không nên dùng sau dấu chấm phẩy. Ai cũng biết là...”

Một số đêm Sanmartí sẽ ở lại muộn, nhốt mình trong phòng. Mercedes cố gắng ở đó, nhưng không dưới một lần hắn bắt cô ấy về nhà. Rồi khi chỉ có hai chúng tôi, hắn sẽ ra khỏi phòng hắn và lảng vảng lại bàn tôi.

“Em làm việc vất vả quá, Nuria ạ. Công việc không phải là tất cả. Ta cũng phải giải trí nữa. Em lại còn trẻ nữa. Nhưng tuổi trẻ sẽ qua đi, em biết đấy, và không bao giờ chúng ta cũng biết tận dụng nó.”

Hắn sẽ ngồi lên cạnh bàn và nhìn chằm vào tôi. Đôi khi hắn đứng sau lưng tôi và đứng yên đó vài ba phút. Tôi có thể cảm thấy hơi thở hôi hám của hắn lên tóc tôi. Lần khác, hắn đặt tay lên vai tôi.

“Em căng thẳng quá. Thả lỏng đi nào.”

Tôi run rẩy, tôi muốn gào lên bỏ chạy và không bao giờ quay lại văn phòng đó nữa, nhưng tôi cần công việc và đồng tiền còm cõi nhờ nó. Một đêm, Sanmartí bắt đầu công việc mát xa quen thuộc và rồi hắn bắt đầu mơn trớn tôi.

“Gần đây em khiến tôi phát điên...” hắn rên rỉ.

Tôi bật dậy, vùng khỏi cái siết tay của hắn, vơ vội áo khoác và túi xách rồi chạy ra cửa. Sau lSanmartí phá lên cười. Dưới chân cầu thang, tôi lao thẳng vào một bóng đen.

“Thật ngạc nhiên thú vị, cô Moliner...”

Thanh tra Fumero ban cho tôi một trong những điệu cười rắn rết của hắn. “Đừng bảo là cô đang làm việc cho anh bạn tốt Sanmartí của tôi đấy! Cô gái may mắn. Cũng giống như tôi, anh ta biết cách chơi lắm đấy. Mà chồng cô thế nào rồi nhỉ?”

Tôi biết thế là hết. Ngày hôm sau, tin đồn lan trong văn phòng là Nuria Monfort đồng tính - vì cô ta miễn dịch trước vẻ quyến rũ và hơi thở đầy mùi tỏi của Don Pedro Snamartí - và cô ta đang dan díu với Mercedes Pietro. Không dưới một nam nhân viên trẻ triển vọng trong công ty thề rằng nhiều lần bắt gặp “hai con điếm kia” hôn nhau trong phòng lưu trữ. Chiều hôm ấy, lúc ra về, Mercedes bảo muốn nói vài lời với tôi. Cô ấy không dám nhìn thẳng vào tôi. Chúng tôi ra quán cà phê nơi góc phố, không nói một lời trên đường đi. Ở đó Mercedes bảo rằng Sanmartí đã bảo cô ấy: rằng hắn không chấp nhận tình bạn của chúng tôi, rằng cảnh sát đã cho hắn một bản báo cáo về tôi, nêu chi tiết quá khứ cộng sản đáng ngờ của tôi.

“Em không thể mất công việc này, chị Nuria ơi. Em cần phải chăm lo con trai...”

Cô ấy bật khóc, giày vò xấu hổ và nhục nhã.

“Đừng lo, Mercedes, chị hiểu rồi,” Tôi nói

“Người đàn ông này, Fumero, hắn đang theo dõi chị đấy, chị Nuria ạ. Em không biết sao hắn thù hằn chị, nhưng điều đó hiện trên khuôn mặt hắn...”

“Chị biết.”

***

THỨ HAI TUẦN SAU, khi đến chỗ làm, tôi thấy một người đàn ông gầy còm với mái tóc đen nhờn đang ngồi ở bàn tôi. Hắn ta tự giới thiệu là Sanvador Benades, nhân viên biên tập mới.

“Còn cô là ai?”

Không một ai trong văn phòng dám nói chuyện hay nhìn tôi khi tôi thu dọn đồ đạc. Khi tôi trên đường xuống cầu thang, Mercedes chạy theo đưa tôi một với ít tiền giấy và chút tiền xu.

“Gần như tất cả mọi người đã đóng góp những gì có thể. Chị nhận đi. Không phải vì chị, mà vì bọn em.”

Tối hôm ấy, tôi về căn hộ trên phố San Antonio. Julián đang đợi tôi như mọi lần, đang ngồi trong bóng đêm. Anh viết một bài thơ cho tôi, anh nói. Đó là thứ đầu tiên anh viết trong chín năm qua. Tôi muốn đọc nó, nhưng tôi bật khóc trong vòng tay anh. Tôi kẻ anh nghe tất cả, vì tôi không kìm nén được nữa. Julián lắng nghe, không nói gì, anh chỉ ôm tôi và vuốt tóc tôi. Lần đầu tiên trong chín năm tôi cảm thấy có thể dựa vào anh. Tôi muốn hôn anh vì tôi chán ghét sự cô đơn, nhưng Julián không còn đôi môi hay làn da để trao cho tôi. Tôi ngủ thiếp đi trong vòng tay anh, nằm cuộn tròn trên giường trong phòng anh, chiếc giường ngủ cho trẻ con. Khi tôi tỉnh giấc, Julián không ở đó nữa. Lúc gần sáng, tôi nghe tiếng bước chân trên mái nhà và tôi vờ như đang ngủ. Sáng hôm ấy, tôi nghe tin trên đài mà không nhận ra ý nghĩa của nó. Người ta tìm thấy một xác người đang ngồi trên ghế dài ở phố Borne. Người chết xếp tay ngang bụng và đang nhìn về nhà thờ Santa María del Mar. Một bầy chim bồ câu đang mổ vào mắt y, khiến cho một người dân tò mò, người này liền báo cảnh sát. Xác bị gãy cổ. Bà Sanmartí xác nhận đó là chồng bà Pedro Sanmartí Monegal. Khi bố vợ người chết nghe tin từ nhà dưỡng lão Bañolas, ông đã tạ ơn trời và tự nhủ giờ ông có thể chết thanh thản.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,691
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 57


JULIÁN ĐÃ CÓ LẦN VIẾT: sự trùng hợp là vết sẹo của định mệnh. Không có sự trùng hợp nào đâu, Daniel ạ. Chúng ta là con rối của những khác vọng tiềm thức của bản thân. Nhiều năm rồi, tôi không muốn tin rằng Julián vẫn còn là người đàn ông tôi đã yêu, hay những gì còn lại của anh ấy. Tôi những muốn tin là chúng tôi có thể tiếp tục sống chung với những cơn bùng nổ lác đác của đau khổ và hy vọng. Tôi những muốn tin rằng Laín Coubert đã chết và quay về những trang sách. Con người chúng ta muốn tin bất cứ điều gì ngoài sự thật.

Vụ giết Sanmartí đã mở mắt cho tôi. Tô nhận ra Laín Coubert vẫn sống, vẫn trú ngụ trong thân thể bị lửa thiêu của Julián và lớn dần lên theo ký ức của anh ấy. Hắn đã biết cách vào ra căn hộ trên phố San Antonio qua một cửa sổ dẫn đến khu sân trong, mà không phải mở cánh cửa luôn khóa mỗi lần bỏ anh ấy lại. Tôi phát hiện ra Laín Coubert đã nhập vào người Julián, đi lang thang khắp thành phố và đến thăm lâu đài cũ nhà Aldaya. Tôi khám phá ra rằng trong cơn điên cuồng của mình hắn đã quay lại hầm mộ kia và đập vỡ bia mộ, rằng hắn đã mang quan tài của Penélope và con trai mình ra. Anh đã làm gì, Julián?

Cảnh sát đợi tôi khi tôi quay về nhà, để tra khảo tôi về cái chết của Sanmartí, ông chủ xuất bản. Họ mang tôi về đồn, nơi, sau khi tôi chờ đợi năm tiếng trong phòng tối, Fumero đến, mặc đồ đen, mời tôi thuốc lá.

“Cô và tôi có thể là bạn tốt, cô Moliner. Và quân của tôi bảo chồng cô không có nhà.”

“Chồng tôi đã bỏ tôi rồi. Tôi không biết anh ấy ở đâu.”

Hắn tát tôi một cú dữ dội làm tôi văng khỏi ghế. Tôi bò vào một góc phòng, lòng tràn khiếp sợ. Tôi không dám nhìn lên. Fumero quỳ xuống cạnh tôi và nắm tóc tôi.

“Mày cố mà hiểu, con điếm này: tao sẽ tìm ra hắn, và khi tìm thấy, tao sẽ giết cả hai chúng mày. Trước tiên là mày, để hắn có thể thấy ruột gan mày bung ra. Rồi đến hắn, sau khi tao cho hắn biết rằng cái con đĩ kia mà hắn đã giết là em gái hắn.”

“Anh ấy sẽ giết mày trước, đồ chó đẻ.”

Fumero nhổ nước bọt vào mặt tôi và thả tôi ra. Tôi cứ nghĩ hắn sẽ đánh tôi nhừ tử, nhưng tôi nghe tiếng bước chân hắn đi xuống cầu thang. Tôi đứng dậy, run rẩy, lau khô máu trên mặt. Tôi có thể ngửi thấy mùi bàn tay hắn trên da thịt tôi, nhưng lần này tôi nhận ra mùi sợ hãi.

Họ giam tôi trong phòng đó, trong bóng tối, và không có nước, trong sáu giờ liền. Đến tối họ mới thả tôi ra. Trời mưa tầm tã và đường phố ánh lên hơi nước. Về đến nhà, tôi thấy một biển vụn nát. Quân của Fumero đã đến. Giữa đống đồ đạc nghiêng ngả, tủ và giá sách quăng quật trên sàn, tôi thấy quần áo của tôi bị xé rách và sách của Miquel bị hủy hoại. Trên giường mình, tôi thấy một đống cứt, và trên tường, chữ viết bằng phân, ĐIẾM.

Tôi chạy đến căn hộ trên phố San Antonio, ngoảnh lại hàng nghìn lần để biết chắc không tay chân nào của Fumero theo tôi đến cửa trên phố Joaquín Costa. Tôi băng qua các mái nhà - thảy đều ngập nước mưa - và thấy cửa trước của ăn hộ vẫn đóng. Tôi thận trọng đi vào, những tiếng vang bước chân tôi mách bảo rằng căn nhà trống vắng. Julián không ở đó. Tôi chờ anh ấy, ngồi trong phòng khách tối đen, lắng nghe cơn bão, cho đến khi trời sáng. Khi sương sáng lờ mờ xuyên qua cửa chớp ban công, tôi đi lên mái nhà và nhìn xuống thành phố ngập chìm dưới bầu trời xám xịt. Tôi biết Julián sẽ không quay lại. Tôi đã đánh mất anh ấy mãi mãi.

Tôi gặp anh hai tháng sau đó. Tôi đi xem phim buổi tối, một mình, cảm thấy không thể quay về căn nhà lạnh lẽo và trống trải của mình. Đang lúc xem phim, một câu chuyện tình ngớ ngẩn giữa một công chúa Rumani hăm hở phiêu lưu với một tay nhà báo điển trai chải chuốt người Mỹ, thì một người đàn ông đến ngồi cạnh tôi. Đấy không phải lần đầu. Vào thời ấy, rạp chiếu phim lúc nhúc những kẻ vô danh tính sặc mùi cô đơn, nước tiểu, và nước thơm, bàn tay nhễ nhại, run rẩy khuơ khoắng như lưỡi người chết. Tôi định đứng lên báo nhân viên thì nhận ra khuôn mặt nhăn nhó của Julián. Anh nắm chặt tay tôi, và chúng tôi ngồi yên như vậy, nhìn lên màn hình mà không hề xem.

“Anh đă giết Sanmartí?” tôi lẩm bẩm.

“Có ai nhớ hắn không?”

Chúng tôi nói chuyện thì thầm, dưới cái nhìn tò mò của những kẻ cô đơn lác đác trong khán phòng, tái mặt vì ghen tức trước thành công rõ ràng của đối thủ mờ ảo của bọn họ. Tôi hỏi anh ấy đã trốn ở đâu, nhưng anh không đáp.

“Còn một cuốn Bóng hình của gió,” anh ấy thì thào. “Ở đây, tại Barcelona này.”

“Anh nhầm rồi, Julián. Anh đã hủy tất cả.”

“Tất cả trừ một cuốn. Dường như ai đó thông minh hơn anh đã giấu nó vào một nơi mà anh không bao giờ có thể tìm ra. Là em.”

Đấy là lần đầu tôi nghe đến tên cậu, Daniel ạ. Một kẻ to mồm nào đó tên Gustavo Barceló khoác lác với một nhóm nhà sưu tầm rằng đã tìm được một cuốn Bóng hình của gió. Thế giới sách hiếm giống như một căn phòng vọng âm. Chưa đầy hai tháng sau, Barceló nhận được thư chào từ các nhà sưu tầm ở London, Paris và Rome. Chuyến bay bí ẩn của Julián từ Paris sau một trận đấu súng đẫm máu và tin đồn về cái chết của anh ấy trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha đã ban cho tác phẩm của anh ấy một giá trị thị trường ngoài sức tưởng tượng. Huyền thoại đen tối về một người không mặt đi tìm kiếm chúng trong cáhiệu sách, thư viện và bộ sưu tập tư nhân rồi đốt chúng đi chỉ làm tăng thêm mối quan tâm và đẩy giá lên. “Chúng ta có tính mạo hiểm ngấm trong máu mình,” Barceló nói.

Julián, người tiếp tục săn đuổi cái bóng những từ ngữ của chính mình, sớm nghe được lời đồn. Đây là lý do anh biết tại sao Gustavo Barceló không có cuốn sách: rõ ràng cuốn sách thuộc về một cậu bé đã tình cờ phát hiện ra nó và cậu bé này, bị mê hoặc bởi tác phẩm và tác giả bí ẩn của nó, đã không chịu bán nó đi mà giữ lại như tài sản quý giá nhất. Cậu bé đó là cậu đấy, Daniel.

“Vì Chúa, Julián, đừng nói là anh sẽ hại cậu bé này...” tôi thì thầm, không dám chắc về ý định của anh.

Julián kể rằng mọi cuốn sách anh đã đánh cắp và phá hủy là do cướp đi từ những người không trân trọng chúng, từ những kẻ chỉ biết kiếm tiền từ chúng hoặc giữ chúng chỉ vì tò mò. Vì cậu không chịu bán chúng với bất cứ giá nào và cố cứu Carax khỏi góc khuất của quá khứ, cậu đã đánh thức mối đồng cảm lạ kỳ cua anh ấy, thậm chí lòng tôn trọng nữa. Cậu không biết đấy thôi, Julián theo dõi và tìm hiểu cậu.

“Có lẽ nếu cậu ấy phát hiện ra anh là ai và anh là gi, thì cậu ấy cũng sẽ đốt cuốn sách thôi.”

Julián nói vói vẻ minh mẫn rõ ràng, dứt khoát của người điên, người đã thoát khỏi cái thói đạo đức giả là cứ phải thuận theo một thực tế vốn không có nghĩa lý gì.

“Cậu bé này là ai?”

“Tên cậu ấy là Daniel. Cậu ấy là con trai của một người bán sách có cửa hàng trên phố Santa Ana, Miquel là khách quen ở đấy. Cậu ấy sống cùng bố ở trong căn hộ phía trên cửa hàng. Cậu ấy mất mẹ lúc còn nhỏ.”

“Nghe như anh đang nói về mình ấy.”

“Có lẽ vậy. Cậu bé này khiến anh nhớ lại chính mình.”

“Để cậu ấy yên, Julián. Cậu ấy còn nhỏ. Tội của cậu ấy là ngưỡng mộ anh thôi.”

“Đấy không phải tội, chỉ là hiểu nhầm thôi. Nhưng cậu ấy sẽ vượt qua. Có lẽ cậu ấy sẽ trảcuốn sách cho anh. Khi cậu ấy thôi ngưỡng mộ anh và bắt đầu hiểu ra anh.”

Một phút trước khi phim hết, Julián đứng lên bỏ đi. Trong nhiều tháng, chúng tôi gặp nhau như vậy, trong bóng tối, trong các rạp chiếu phim, trong các ngõ hẻm, lúc nửa đêm. Julián luôn tìm đến tôi. Tôi cảm thấy sự hiện diện câm lặng của anh ấy mà không cần nhìn thấy và luôn thận trọng. Đôi khi anh ấy nhắc đến cậu. Mỗi lần nghe anh ấy nhắc đến cậu, tôi cảm thấy một sự dịu dàng hiếm hoi trong giọng nói khiến anh ấy bối rối, một sự dịu dàng nhiều năm nay tôi tưởng đã mất. Tôi phát hiện ra anh ấy đã quay về dinh thự Aldaya và giờ anh sống ở đó, nửa phần là bóng ma nửa phần là kẻ ăn mày, ngắm nhìn di hài Penélope và con trai họ. Đó là chốn duy nhất anh ấy cảm thấy là của mình. Có những ngục tù còn tồi tệ hơn ngôn từ.

Tôi đến đó mỗi tháng một lần để xem anh sống có ổn không, hay ít nhất còn sống không. Tôi trèo qua bứt tường đổ vụn phía sau tòa nhà, mà ở ngoài đường không nhìn thấy được. Đôi khi tôi gặp anh ấy ở đó, những lần khác Julián biến mất. Tôi để lại cho anh ấy đồ ăn, tiền và sách... Tôi đợi anh ấy nhiều giờ liền, cho đến khi trời tối. Đôi lần tôi mạo hiểm khám phá ngôi nhà cũ rộng thênh thang. Vì thế tôi phát hiện ra anh ấy đã phá bia đá trong hầm mộ và lôi quan tài ra. Tôi không còn nghĩ Julián bị điên, cũng như không xem sự mạo phạm ấy là một hành động ghê tởm, chỉ là một hành động bi thảm. Khi gặp anh ấy, chúng tôi ngồi bên đống lửa nói chuyện hàng giờ liền. Julián thú nhận anh ấy đã cố viết trở lại, nhưng không thể. Anh ấy lờ mờ nhớ về những cuốn sách của mình cứ như chúng là tác phẩm của ai khác mà anh tình cờ đọc được. Nỗi đau trong cố gắng viết hiển hiện thật rõ. Tôi phát hiện những trang giấy bị đốt mà anh ấy đã hăm hở viết khi tôi không ở đó. Một lần, nhân sự vắng mặt của anh ấy, tôi đã cứu được một tập từ đống tro. Chúng nói về cậu. Julián có lần bảo tôi rằng câu chuyện là một bức thư tác giả viết cho chính mình, để tự kể cho mình những điều mà nếu bằng cách khác thì anh không thể hiểu được. Đôi khi Julián tự hỏi có phải anh ấy đã mất hết lý trí hay không. Người điên có biết mình điên không? Hay người điên là những kẻ ngoan cố tin vào sự điên rồ của mình để bảo vệ cho ý nghĩ của riêng mình về thực tại? Julián theo dõi cậu, chứng kiến cậu lớn lên, và tự hỏi cậu là ai. Anh ấy tự hỏi liệu sự tồn tại của cậu có phải là một điều kỳ diệu, một lời tạ lỗi mà anh ấy quyết giành được bằng cách dạy cậu biết tránh khỏi sai lầm anh ấy đã mắc phải. Đã hơn một lần, tôi tự hỏi có phải Julián chưa đi đến hay sao cái kết luận rằng cậu, trong cái logic méo mó của thế giới riêng của anh ấy, trở thành đứa con trai mà anh ấy đã mất, một trang giấy trắng trên đó anh ấy viết lại một câu chuyện mà anh không thể sáng tạo ra nhưng có thể nhớ được.

Những năm tháng ấy ở trong tòa dinh thự cổ trôi đi, và Julián ngày càng sát sao với cậu, về những tiến triển của cậu. Anh ấy kể cho tôi về những người bạn của cậu, về cô gái tên Clara cậu đã đem lòng yêu, về cha cậu, người anh ấy kính trọng và ngưỡng mộ, và anh bạn Fermín của cậu, và về cô gái mà anh ấy muốn xem như một Penélope khác - Bea của cậu. Anh ấy nói về cậu như thể cậu là con trai anh ấy. Cả hai người đang tìm nhau, Daniel ạ. Anh ấy muốn tin rằng sự ngây thơ của cậu sẽ cứu được anh ấy khỏi chính bản thân anh ấy. Anh ấy thôi săn tìm những cuốn sách, thôi ý muốn phá hủy chúng. Anh ấy học được cách nhìn thế giới qua con mắt của cậu, để trở về với cậu bé từng là anh ấy, trong cậu. Ngày cậu đến nhà tôi lần đầu tiên, tôi cảm thấy như đã biết cậu. Tôi đã giả bộ nghi ngờ để có thể che giấu nỗi sợ hãi cậu gây ra trong tôi. Tôi sợ cậu, sợ điều câu sẽ phát hiện ra. Tôi sợ phải nghe Julián và bắt đầu tin, như anh ấy đã tin, rằng chúng ta đều ràng buộc với nhau bằng sợi dây lạ kỳ của định mệnh, sợ phải nhận ra trong cậu con người Julián mà tôi đã mất. Tôi biết cậu và bạn cậu đang đào bới quá khứ của chúng tôi, rằng sớm hay muộn cậu sẽ phát hiện ra sự thật, nhưng tôi hy vọng điều đó xảy đến lúc phù hợp, khi cậu có thể hiểu được ý nghĩa của nó. Và tôi biết sớm hay muộn cậu và Julián rồi sẽ gặp nhau. Đó là lỗi của tôi. Vì có người khác biết điều đó, kẻ đã cảm thấy rồi đến lúc cậu sẽ dẫn hắn đến chỗ Julián: Fumero.

Tôi hiểu chuyện đang xảy ra không có đường quay lại, nhưng tôi chưa bao giờ đánh mất hy vọng rằng cậu sẽ lạc vết, rằng cậu sẽ quên đi chúng tôi, hoặc là cuộc đời, của cậu chứ không phải của chúng tôi, sẽ mang cậu đi xa, đến một nơi an toàn. Thời gian đã dạy tôi không để mất hy vọng, cũng không nên đặt quá nhiều niềm tin vào hy vọng. Hy vọng thật tàn nhẫn, và không có lương tâm. Đã từ lâu, Fumero theo dõi tôi. Hắn biết tôi sẽ gục ngã, sớm hay muộn. Hắn không vội vã. Hắn sống chỉ để trả thù. Trả thù mọi người và chính hắn nửa. Không có sự trả thù, không có sự căm giận, hắn sẽ tan biến. Fumero biết cậu và bạn cậu sẽ dẫn hắn đến Julián. Hắn biết rằng sau mười lăm năm, tôi không còn sức lực và nguồn sống. Đã nhiều năm nay hắn chờ đợi tôi chết đi, hắn chỉ chờ đến lúc đó rồi sẽ giáng cho tôi cú đòn cuối cùng. Tôi chưa bao giờ nghi ngờ rằng tôi sê chết trong tay hắn. Giờ tôi biết giây phút ấy đang đến gần. Tôi sẽ gửi những trang viết này cho cha tôi, cầu xin ông sẽ đưa chúng sẽ tới tay cậu nếu có chuyện gì xảy ra với tôi. Tôi cầu nguyện Chúa, người chưa bao giờ đi qua đường tôi, rằng cậu sẽ không bao giờ phải đọc chúng, nhưng tôi cảm thấy số mệnh của mình, bất chấp mọi mong ước và hy vọng hão huyền, là chuyển đến cậu câu chuyện này. Câu chuyện của cậu, bất chấp tuổi trẻ và sự ngây thơ của cậu, sẽ giải thoát

***

KHI CẬU ĐỌC ĐƯỢC NHỮNG LỜI NÀY, ngục tù của ký ức này, thế nghĩa là tôi không còn có thể nói lời từ biệt với cậu được như tôi hằng mong muốn nữa, tôi sẽ không thể xin cậu tha thứ cho chúng tôi, đặc biệt là Julián, và chăm sóc cho anh ấy khi tôi không còn ở đó để làm việc ấy. Tôi biết mình không thể đòi hỏi cậu bất kỳ điều gì, nhưng tôi có thể mong cậu hãy chăm lo cho bản thân. Có lẽ quá nhiều trang viết đã khiến được tôi tin rằng dù cho chuyện gì xảy ra, tôi sẽ luôn có một người bạn ở cậu, rằng cậu là hy vọng duy nhất của tôi, hy vọng thực sự duy nhất của tôi. Trong tất cả những gì Julián viết ra, có một điều tôi luôn cảm thấy gần gũi nhất với trái tim mình là chừng nào chúng ta vẫn còn được nhớ đến, thì chúng ta vẫn sống. Như chuyện vẫn thường xảy ra với tôi, nhiều năm trước khi gặp anh ấy, tôi cảm thấy rằng tôi biết cậu và nếu tôi có thể tin tưởng vào ai thì người đó chính là cậu. Hãy nhớ đến tôi, Daniel, thậm chí chỉ trong một góc nhỏ và bí mật. Đừng quên tôi nhé.

Nuria Monfort
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,691
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 58


NGÀY ĐÃ SÁNG khi tôi đọc xong bản thảo của Nuria Monfort. Đó là câu chuyện của tôi. Câu chuyện của chúng tôi. Trong những bước chân đã mất dấu của Carax, tôi nhận ra những bước chân chính mình, không thể xoay chuyển được. Tôi đứng lên, bị mối lo âu giằng xé, và bắt đầu bước đi đi lại lại trong phòng như một con thú bị nhốt. Mọi nỗi băn khoăn của tôi, nghi ngờ và lo sợ của tôi, dường như không mấy quan trọng; trong tôi chỉ còn sự suy kiệt, nỗi ăn năn, và khiếp sợ, nhưng tôi cảm thấy không thể đứng yên đó, lẩn tránh những vết tích do những hành động tôi để lại. Tôi gi lấy áo khoác, nhét bản thảo vào túi áo trong, chạy xuống cầu thang. Tôi bước ra cửa: trời bắt đầu có tuyết, và bầu trời tan ra thành những giọt ánh sáng chậm rãi dường như đậu lại trên hơi thở tôi truớc khi nhòa đi. Tôi chạy đến Quảng trường Catalua. Nó vẫn vắng vẻ, nhưng chính giữa quảng trường là dáng vẻ cô đơn của một cụ già tóc dài bạc trắng trong chiếc áo khoác màu xám tuyệt đẹp. Vị vua của bình minh, ông ngước mắt lên bầu trời và cố gắng trong vô vọng hòng đón những bông tuyết lên đôi găng tay, cười ha hả một mình. Khi tôi bước qua, ông nhìn tôi và mỉm cười nghiêm nghị. Đôi mắt ông màu vàng, như những đồng xu thần kỳ dưới một đài phun nước.

“Chúc may mắn,” tôi nghĩ đã nghe ông nói như vậy.

Tôi cố bám lấy lời cầu chúc đó, và nhanh bước chân, cầu nguyện rằng sẽ không quá muộn và rằng Bea, Bea trong câu chuyện của tôi, vẫn còn đợi tôi.

Họng sưng lên vì lạnh, thở hổn hển sau khi chạy, tôi đến được tòa nhà nơi gia đình Aguilar sống. Tuyết bắt đầu phủ dày. May sao tôi thấy Don Saturno Molleda ngự ở cửa. Don Saturno là bảo vệ tòa nhà và (theo lời Bea kể) là một nhà thơ siêu thực bí mật. Ông vừa ra ngắm cảnh tuyết rơi, chổi trong tay, quấn ít nhất ba cái khăn và mang đôi ủng đặc công.

“Là gàu của Chúa đấy,” ông ta kinh ngạc nói, dâng lên tuyết áng thơ chưa xuất bản của mình.

“Cháu lên nhà Aguilar,” tôi thông báo.

“Chúng ta đều biết rằng con chim dậy sớm sẽ bắt được sâu, nhưng cậu đang cố bắt một con voi đấy, chàng trai.”

“Trường họp khẩn cấp. Họ đang đợi cháu.”

“Ego te absolvo[1],” ông bắt chước, cầu chúc cho tôi.

[1. Câu tiếng La tinh các thầy tu hay dùng, có nghĩa: ta miễn tội cho con.]

Tôi chạy lên cầu thang. Đang lên, tôi thận trọng cân nhắc những lựa chọn. Nếu gặp may, một cô hầu sẽ mở cửa và tôi sẵn sàng vượt qua sự ngăn cản của cô ta mà không thèm bận tâm đến sự tế nhị. Tuy nhiên, nếu số mệnh không chiều tôi, có khi cha Bea sẽ mở cửa, vào giờ này thì chuyện ấy có thể. Tôi mu nghĩ rằng trong không khí thân mật của gia đình, ông sẽ không mang theo vũ khí, ít nhất trước lúc ăn sáng. Tôi ngừng một lúc để lấy lại hơi trước khi gõ cửa và cố tìm những lời nói không bao giờ đến. Chuyện này cũng không mấy quan trọng. Tôi đập sầm nắm cửa ba lần. Mười lăm giây sau, tôi lặp lại hành động, và tiếp tục làm như vậy, lờ đi những giọt mồ hôi lạnh rịn đầy lông mày và tim đập thình thịch. Khi cửa mở, tôi vẫn cầm nắm cửa trong tay.

“Mày muốn gì?”

Đôi mắt người bạn cũ Tomás, lạnh lùng tức giận, như xuyên thủng qua người tôi.

“Tớ đến gặp Bea. Cậu có thể táng vào mặt tớ nếu cậu muốn, nhưng tớ sẽ không về khi chưa nói chuyện được với cô ấy.”

Tomás nhìn tôi với ánh mắt chằm chằm không xoay chuyển. Tôi băn khoăn không biết liệu cậu có sắp bẻ tôi ra làm đôi hay không. Tôi nuốt ực khó nhọc.

“Em gái tao không có nhà.”

“Tomás...”

“Bea bỏ đi rồi.”

Có sự thất vọng và đau đớn trong giọng cậu, mà cậu không thể ngụy trang thành sự phẫn nộ.

“Cô ấy đi rồi ư? Đi đâu?”

“Tao tưởng mày phải biết chứ.”

“Tớ sao?”

Lờ đi nắm tay siết chặt của Tomás và vẻ đe dọa trên khuôn mặt, tôi luồn vào nhà.

“Bea!” tôi hét lên. “Bea, là anh đây, Daniel đây...”

Tôi dừng lại giữa hành lang. Căn hộ vọng lại tiếng tôi. Cả ông Aguilar, hay vợ ông ấy, hay người hầu, không ai xuất hiện sau tiếng la hét của tôi.

“Không có ai ở đây cả. Tao bảo rồi,” Tomás đứng sau tôi nói. “Giờ thì cút ra và đừng quay lại. ao thề sẽ giết mày, và tao sẽ không phải là người ngăn ông ấy.”

“Vì Chúa, Tomás. Cho tớ biết em cậu ở đâu đi.”

Cậu ấy nhìn tôi như thể không biết nên nhổ vào mặt tôi hay lờ tôi đi.

“Bea bỏ nhà đi rồi, Daniel. Bố mẹ tao đã tìm nó khắp nơi, vô vọng, đã hai ngày nay, cảnh sát cũng vậy.”

“Nhưng mà...”

“Đêm hôm kia, khi nó đi gặp mày về, bố tao đã đợi nó. Ông đã tát nó văng máu mồm. Nhưng đừng lo, nó không nói tên mày đâu. Mày không xứng đáng với nó.”

“Tomás...”

“Câm mồm đi. Ngày hôm sau cha mẹ tao đưa nó đến khám bác sĩ.”

“Để làm gì? Bea bị ốm sao?”

“Nó ốm vì mày đấy, thằng ngu. Em gái tao có mang. Đừng bảo tao là mày không biết.”

Tôi cảm thấy môi run lập cập. Một cơn lạnh toát tràn khắp cơ thể, tôi điếng giọng, mắt tôi bất động. Tôi lê thân mình ta trước cửa, nhưng Tomás chộp lấy tay tôi xô tôi vào tường.

“Mày đã làm gì nó?”

“Tomás, tớ...”

Mắt cậu ấy lóe lên, hết kiên nhẫn. Cú đấm đầu tiên khiến hơi thở tôi đứt đoạn. Tôi trượt dần xuống sàn, lưng dựa vào tường, đầu gối khuỵu xuống. Một bàn tay siết chặt cổ họng tôi và xốc người tôi lên, neo vào tường.

“Mày đã làm gì nó, thằng khốn nạn?”

Tôi cố vùng thoát, nhưng Tomás đấm thẳng vào mặt khiến tôi gục ngã. Mặt mũi tôi tối sầm, đầu tôi bị bủa vây trong cơn đau buốt. Tôi ngã soài xuống hành lang. Tôi cố bò thoát, nhưng Tomás bèn túm cổ áo lôi tôi không thương tiếc về phía chiếu nghỉ. Cậu ấy ném tôi xuống cầu thang như ném một ác.

“Nếu Bea gặp chuyện gì, tao thề sẽ giết mày,” cậu ấy đứng từ cửa nói.

Tôi bật dậy, cầu xin một chút thời gian, một cơ hội để tìm lại giọng nói. Nhưng cửa đã đóng, bỏ mặc tôi trong bóng đen. Một cơn đau nhức nhối dội vào tai trái, và tôi đưa tay ôm đầu, quay cuồng bải hoải. Tôi có thể cảm thấy một dòng máu ấm. Tôi cố hết sức đứng lên. Những cơ bụng tôi, nơi cú đấm đầu tiên của Tomás nã vào, đang rên xiết - thế mới chỉ bắt đầu thôi. Tôi lê xuống bậc thang. Don Saturno lắc đầu khi ông trông thấy tôi.

“Này, vào đây một lát, cho đến khi cậu thấy đỡ hơn.”

Tôi lắc đầu, hai tay ôm bụng. Tai trái tôi vẫn đau nhói, như thể xương xẩu cố tách rời ra khỏi thịt.

“Cậu đang chảy máu đấy,” Don Saturno nói vẻ lo lắng.

“Đây không phải lần đầu tiên...”

“Vậy thì cứ hành động ngu ngốc đi, cậu sẽ không có nhiều cơ hội được chảy máu nữa đâu. Vào đây, để tôi gọi bác sĩ.”

Tôi bước đến cổng chính và chạy trốn lòng tốt của ông bảo vệ. Tuyết rơi nặng hạt; vỉa hè phủ đầy một làn tuyết trắng. Cơn gió lạnh băng len lỏi vào quần áo tôi, xuyên đau buốt vào vết thương đang ri máu trên mặt tôi. Tôi không biết mình đã gào lên vì đau đớn, tức giận hay sợ hãi. Tuyết thờ ơ làm câm nín tiếng khóc hèn nhát của tôi, và tôi bước chầm chậm vào ánh bình minh mờ bụi, một cái bóng nữa để lại dấu vết của mình dưới lớp gàu của Chúa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
617,691
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 59


KHI ĐANG TIẾN ĐẾN ĐOẠN GIAO CẮT với phố Balmes, tôi nhận thấy có một chiếc ô tô đang bám theo tôi, kè kè bên vỉa hè. Cơn đau trong đầu tôi đã nhường chỗ cho một cảm giác chóng mặt làm tôi quay cuồng, nên tôi phải bám tường mà đi. Chiếc xe dừng lại, hai người đàn ông bước ra. Một tiếng huýt the thé lọt tôi, và tôi không thể nghe thấy tiếng động cơ hay tiếng kêu của hai người áo đen đã túm lấy tôi, mỗi người một bên, và vội vã kéo tôi vào xe. Tôi ngã vào ghế sau, chuếnh choáng buồn nôn. Luồng sáng chói lòa hiện ra xuyên vào đầu tôi. Tôi cảm thấy xe đang chuyển động. Hai bàn tay chạm vào mặt tôi, vào đầu tôi, vào sườn tôi. Khi chạm vào bản thảo của Nuria Monfort giấu trong áo khoác của tôi, một ngón tay khều nó ra. Tôi cố ngăn lại bằng cánh tay ẽo uột. Một người khác cúi sang tôi. Tôi biết hắn đang nói khi tôi cảm thấy hơi thở của hắn trên mặt mình. Tôi đợi nhìn thấy khuôn mặt Fumero hiện lên trong bóng tối và cảm thấy lưỡi dao của hắn trên cổ họng tôi. Hai con mắt nhìn vào mắt tôi, và khi bức màn ý thức hạ xuống, tôi nhận ra nụ cười sún răng thân ái của Fermín Romero de Torres.

***

TÔI THỨC DẬY, người nhớp nháp mồ hôi. Hai bàn tay giữ chặt vai tôi và đặt tôi vào chiếc giường nhỏ có thắp nến xung quanh, như trong một lễ canh xác. Khuôn mặt Fermín xuất hiện bên phải tôi. Anh đang cười, nhưng thậm chí trong cơn mê sảng, tôi cũng có thể cảm thấy nỗi lo lắng của anh. Cạnh anh, đang đứng, tôi nhận ra Don Federico Flaviá, bác thợ đồng hồ.

“Cậu ấy có vẻ đang tỉnh lại đấy, Fermín,” Don Federico nói. “Tôi đi làm chút nước xuýt cho cậu ấy hồi sinh nhé?”

“Sẽ không hại gì cậu ấy đâu. Mà nhân thể làm nước xuýt, anh làm luôn cho tôi một chiếc xăng uých được không? Hai lớp nhé. Những lo lắng chộn rộn này đột nhiên lại làm tôi thèm ăn thế chứ”

Federico lon ton bước đi, hai chúng tôi còn lại bên nhau.

“Chúng ta đang ở đâu đây, Fermín?”

“Một nơi an toàn. Nói chính xác là chúng ta đang ở một căn hộ nhỏ mạn Tây khu phố Ensanche, nhà bạn của Don Federico, người mà chúng ta mắc nợ cả tính mạng và nhiều hơn thế. Những kẻ vu khống sẽ mô tả nó như là tổ ấm tình yêu, nhưng với chúng ta là chỗ trú ẩn.”

Tôi cố ngồi dậy. Cơn đau trong tai lại rộn lên.

“Tôi sẽ bị điếc không?”

“Tôi không biết, nhưng ăn thêm vài cú đấm nữa cậu chắc chắn sẽ chuyển sang đời sống thực vật. Cái lão Aguilar khỉ đột đó sắp nghiền nát não cậu rồi.”

“Không phải ông Aguilar đâu. Là Tomás đấy.”

“Tomás ư? Bạn cậu ư? Nhà phát minh sao?”

Tôi gật đầu.

“Hẳn cậu phải làm gì xứng đáng với chuyện đó.”

“Bea bỏ nhà đi rồi...” tôi bắt đầu.

Fermín nhíu mày. “Nói tiếp đi.”

“Cô ấy có thai.”

Fermín há hốc nhìn tôi. Lần này vẻ mặt anh thật khó hiểu.

“Đừng nhìn tôi như thế, Fermín, xin anh đấy.”

“Cậu bảo tôi phải làm gì nào? Lấy thuốc hút chắc?”

Tôi cố ngồi đậy, nhưng cơn đau và bàn tay Fermín ngăn tôi lại.

“Tôi phải tìm cô ấy, Fermín ạ.”

“Bình tĩnh nào, thế. Giờ không phải là lúc đi đâu cả. Cho tôi biết cô bé ở đâu, tôi sẽ đi tìm.”

“Tôi không biết cô ấy ở đâu.”

“Tôi sẽ đi hỏi nếu cậu nói cụ thể hơn.”

Don Federico xuất hiện nơi cửa, mang theo một bát nước xuýt nóng hổi. Bác cười với tôi.

“Cháu thấy sao rồi, Daniel?”

“Cháu khỏe nhiều rồi, cảm ơn bác Federico.”

“Uống mấy viên thuốc này...”

Bác liếc nhìn Fermín, anh gật đầu.

“Đây là thuốc giảm đau.”

Tôi uống thuốc và tợp một hớp nước xuýt mùi rượu xeret. Don Federico, con người kín tiếng, rời phòng và đóng cửa lại. Lúc ấy tôi mới nhận ra Fermín đã để bản thảo của Nuria Monfort trên lòng mình. Đồng hồ tích tắc trên bàn cạnh giường điểm một giờ - buổi chiều, tôi đồ là vậy.

“Tuyết còn rơi không?”

“Nói thế còn nhẹ. Đây đúng là phiên bản dạng bột của Trận lũ[1] đấy.”

[1. Có lẽ ám chỉ tiểu thuyết Trận lũ của Êmile Zola.]

''Anh đọc nó chưa?” tôi hỏi.

Fermín khẽ gật đầu.

“Tôi phải tìm Bea trước khi quá muộn. Tôi nghĩ mình biết cô ấy ở đâu.”

Tôi ngồi dậy trên giường, đẩy tay Fermín sang bên, Tôi nhìn quanh. Những bức tường đung đưa như cỏ dại dưới đáy hồ. Trần nhà như đang chuyển động. Tôi hầu như không thể giữ người thẳng được. Fermín không mấy khó khăn dìu tôi nằm lại xuống giường.

“Cậu không đi đâu cả, Daniel.”

“Thuốc kia là gì thế?”

“Dầu xoa của Morpheus. Cậu sẽ ngủ như một khúc củi ấy.”

“Không, không phải bây giờ, tôi không thể...”

Tôi tiếp tục lắp bắp cho đến khi mí mắt khép lại và tôi chìm vào giấc ngủ trống trải, tối tăm, giấc ngủ tội lỗi.

TRỜI ĐÃ GẦN NHÁ NHEM khi tấm bia mộ đuợc nhấc khỏi tôi. Tôi mở mắt trong căn phòng tối, có hai ngọn nến lập lòe trên bàn cạnh giường. Fermín, sõng sượt trên ghế bành ở góc phòng, ngáy dữ dội như một người to gấp ba anh. Dưới chân anh, tản mát như những giọt nước mắt giàn giụa, là bản thảo của Nuria Monfort. Cơn đau đầu đã nguôi xuống thành những nhịp thon thót châm rãi, mờ đục. Tôi nhón chân đến cửa phòng và bước vào một sảnh nhỏ có ban công và một cánh cửa dường như mở ra cầu thang. Áo khoác và giày của tôi trên ghế. Ánh đèn đỏ thẫm xuyên qua ô cửa sổ, lốm đốm màu ngũ sắc. Tôi bước ra ban công và thấy tuyết vẫn rơi. Nửa mái nhà của Barcelona hằn lên màu trắng và đỏ thẳm. Phía xa xa, những ngọn tháp của trường Đại học Công nghiệp trông như những cái kim trong sương mù, đang níu giữ những tia nắng cuối cùng. Khung cửa sổ phủ trong làn hơi tuyết. Tôi dùng ngón trỏ viết lên mặt kính:

Tôi đi tìm Bea. Đừng tìm tôi. Sẽ quay về sớm.

***

Sự thật ùa đến ngay khi tôi tỉnh giấc, như thể một người lạ đã thì thầm vào tôi trong cơn mơ. Tôi bước ra chiếu nghỉ và vội vã lao xuống cầu thang, ra khỏi cửa chính. Phố Urgel như một dòng sông óng ánh cát bạc, và những cơn gió thổi bùng tuyết lên. Đèn đường và những hàng cây hiện ra như những cột buồm trong sương mù. Tôi bước đến nhà ga gần nhất, Bệnh viện Clínico, đi qua quầy báo chiều mang những mẩu tin trên trang nhất, với bức ảnh Ramblas phủ đầy tuyết và đài phun nước Canaletas rỉ thành nhũ đá. TRẬN TUYẾT THẾ KỶ, bài báo chạy tựa. Tôi thả người lên ghế trên sân ga, hít vào mùi hương đường hầm và bồ hóng mà những con tàu mang theo chúng. Phía bên kia đường, trên một tấm áp phích quảng cáo những trò vui của công viên giải trí Tibidabo, chiếc xe điện màu xanh dương sáng lên như bữa tiệc đường phố, và sau nó có thể nhận ra hình dạng dinh thự Aldaya. Tôi tự hỏi liệu Bea có nhìn thấy chính hình ảnh này và nhận ra nàng không còn nơi nào khác để đi không.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom