Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


NURIA MONFORT SỐNG ĐƠN ĐỘC TRONG BÓNG TỐI. Một lối đi hẹp dẫn đến phòng ăn và cũng là bếp, là thư viện kiêm cả phòng làm việc. Đang đi, tôi nhận thấy một phòng ngủ khiêm nhường, không có cửa sổ. Chỉ có vậy, nếu không tính một phòng tắm nhò không vòi hoa sen hay bồn, chúng toát ra đủ thứ mùi, từ mùi nấu ăn ở quầy bar bên dưới đến mùi hôi thối ẩm mốc của đường ống dẫn và thoát nước có từ hồi đầu thế kỷ. Toàn căn hộ chìm trong một màu ảm đạm thường hằng, như một khối đen mọc lên giữa những bức tường sờn tróc. Có mùi thuốc lá, sự lạnh lẽo và vắng vẻ. Nuria Monfort quan sát tôi trong khi tôi vờ như không để ý đến điều kiện tồi tàn của căn

“Tôi xuống dưới phố vì trong nhà hầu như không

có ánh sáng,” chị nói. “Chồng tôi đã hứa tặng tôi một cái đèn đọc sách khi anh ấy quay về.”

“Chồng chị đi xa à?”

“Miquel đang ở tù.”

“Tôi xin lỗi, tôi không biết...”

“Cậu biết đâu được. Tôi không xấu hổ khi cho cậu hay, vì anh ấy nào phải tội phạm. Lần gần đây nhất họ bắt anh ấy vì tội anh tin tờ rơi cho nghiệp đoàn công chân luyện kim. Đã hai năm rồi. Hàng xóm vẫn nghĩ anh ấy đi du lịch bên Mỹ. Cha tôi cũng không biết, và tôi không muốn ông ấy biết.”

“Chị đừng lo. Tôi sẽ không kể cho ông ấy đâu,” tôi nói.

Một hồi yên ắng căng thẳng bao lấy chúng tôi, và tôi mường tượng chị đang phân vân liệu tôi có phải là thám tử do Isaac cử đến không.

“Phải một mình trông nom căn nhà chắc vất vả lắm,” tôi ngốc nghếch nói, chỉ để lấp khoảng trống.

“Không dễ dàng gì. Tôi kiếm tiền nhờ công việc dịch thuật, sức mình bao nhiêu ráng kiếm bấy nhiêu, nhưng với một người chồng đang ở tù thì chẳng thấm vào đâu. Mấy tay luật sư hút cạn máu tôi, giờ thì tôi đang nợ ngập đầu. Nghề dịch thu nhập thấp chả kém gì viết lách.”

Chị nhìn tôi như đang đợi một câu trả lời. Tôi chỉ cười lặng lẽ. "Chị dịch sách sao?”

“Tôi không dịch sách nữa. Giờ tôi bắt đầu dịch đơn từ, hợp đồng, giấy tờ hải quan, thu nhập khá hơn. Dịch sách văn chương thì cậu chỉ kiếm được tiền công rẻ mạt thôi, mặc dù có cao hơn chút đỉnh so với viết văn, sự thật là vậy. Ban quản lý tòa nhà đã mấy lần cố tống khứ tôi ra khỏi đây. Việc tôi không đủ tiền trả chi phí bảo dưỡng chỉ đứng hàng chót trong các mối bận tâm của họ. Cậu cứ tưởng tượng đi, một phụ nữ biết ngoại ngữ và mặc quần dài... Không ít hàng xóm đã cáo buộc tôi đang kinh doanh nhà thố. Tôi thực quá may mă...”

Tôi hy vọng bóng tối che dấu được khuôn mặt ửng đỏ của mình.

“Tôi rất tiếc. Tôi không biết sao lại kể cho cậu nghe chuyện này. Tôi đang làm cậu xấu hổ.”

“Là lỗi của tôi. Tôi đã hỏi.”

Chị cười lo lắng. Xung quanh chị dường như có một hào quang cháy bừng của nỗi cô đơn.

“Cậu làm tôi nhớ đến Julián,” đột nhiên chị nói. "Cái cách cậu nhìn, và cử chỉ của cậu. Anh ấy từng làm giống như cậu bây giờ vậy. Anh ấy cứ nhìn ta chằm chằm mà không nói gì, ta không biết anh ấy nghĩ gì, và vì thế, như một kẻ ngốc, ta sẽ kể cho anh ấy nghe những điều đáng lẽ ra nên giữ trong lòng... Cậu có muốn uống chút gì không? Một tách cà phê nhé?”

“Không càm ơn chị. Tôi không muốn phiền chị.”

“Không phiền gì đâu. Tôi cũng đang định pha cho mình một tách.”

Có gì đó bảo tôi rằng bữa trưa của chị chỉ là tách cà phê mà thôi. Tôi từ chối lần nữa và nhìn chị bước về góc phòng ăn nơi có một chiếc ấm điện nhỏ.

“Cậu cứ tự nhiên nhé,” chị nói, lưng vẫn quay về phía tôi.

Tôi nhìn quang và tự hỏi làm thế nào. Phòng của Nuria Monfort gồm một chiếc bàn chiếm hẳn góc gần ban công, một máy đánh chữ hiệu Underwood với cái đèn dầu bên cạnh, và một giá sách đầy từ diển và giáo trình. Không có ảnh gia đình, nhưng bức tường cạnh bàn phủ đầy bưu thiếp, tất cả đều là những tấm ảnh chụp một chiếc cầu tôi nhớ đã thấy đâu đó nhưng không thể xác định nổi – có lẽ ở Paris hoặc Rome. Phía dưới đó là chiếc bàn bày biện gọn gàng và ngăn nắp đến độ hầu như ám ảnh. Những cây bút chì được vót nhọn và xếp ngay ngắn. Giấy tờ và bìa kẹp được sắp đặt ba hàng cân đối. Khi quay lại, tôi nhận ra Nuria Monfort đang đứng ở lối vào hành lang nhìn chằm tôi. Chị nhìn tôi lặng lẽ, như cách người ta nhìn người lạ trên phố hay trên tàu điện ngầm. Chị châm một điếu thuốc và đứng yên, khuôn mặt bị những vòng xoáy khói thuốc che phủ. Bỗng dưng tôi nghĩ, Nuria Monfort toát lên vẻ quyến rũ chết người dù bản thân chị không biết, như những phụ nữ trong phim làm Fermín sững sờ khi họ hiện ra từ đám sương mờ ở nhà ga Berlin, bao phủ trong quầng sáng siêu thực, kiểu mỹ nhân phát ngán với diện mạo của chính mình.

“Cũng không có gì nhiều để kể,” chị bắt đầu. “Tôi gặp Julián cách đây hơn hai mươi năm, ở Paris. Lúc ấy tôi đang làm việc cho Cabestany, một nhà xuất bản. Ông Cabestany mua quyền xuất bản các tiểu thuyết của Julián với giá bèo bọt. Lúc đầu tôi làm việc ở phòng kế toán, nhưng khi ông Cabestany biết tôi nói được tiếng Pháp, tiếng Ý và một chút tiếng Đức, ông chuyển tôi sang bộ phận bản quyền, và tôi trở thành thư ký riêng của ông ấy. Một trong các việc của tôi là trả lời thư của tác giả và nhà xuất bản nước ngoài mà công ty chúng tôi có làm ăn, và tôi đã tiếp xúc với Julián Carax như vậy.”

“Cha của chị bảo hai người là bạn thân.”

“Có lẽ cha tôi cũng bảo rằng chúng tôi hú hí với nhau hay gì đó như vậy, đúng không? Theo ông ấy, tôi chạy theo bất cứ người đàn ông nào, như con điếm động đực vậy.”

Sự bộc trực của người phụ nữ và kiểu cách lạnh lùng của chị khiến tôi cứng họng. Phải mất một lúc lâu tôi mới đưa ra một câu trả lời thỏa đáng. Lúc đó, Nuria Monfort đang tự mỉm cười với mình và lắc đầu.

“Đừng để ý đến lời ông ấy. Cha tôi có ý nghĩ như vậy kể từ khi tôi đi Paris, vào năm 1933, để giải quyết vài vấn đề giữa ông Cabestany và nhà Gallimard. Tôi đã sống một tuần ở thành phố đó, tại căn hộ của Julián vì lý do đơn giản rằng ông Cabestany muốn tiết kiệm chi phí khách sạn. Thật lãng mạn, như cậu có thể thấy. Cho đến lúc ấy, mối quan hệ của tôi với Julián Carax hoàn toàn qua thư từ, thường là liên quan đến bản quyền, bản thảo hoặc vấn đề biên tập. Những gì tôi biết về anh ấy, hoặc tưởng tượng về anh ấy, là từ đọc bản thảo anh ấy gửi mà ra.”

“Ông ấy có kể cho chị nghe điều gì về cuộc sống ở Paris không?”

“Không. Julián không thích nói gì về cuốn sách của anh ấy hay về bản thân. Tôi không nghĩ anh ấy hạnh phúc ở Paris. Mặc dù anh ấy tạo ấn tượng rằng anh là một trong sô người không thể hạnh phúc ở bất kỳ nơi đâu. Quả thật, tôi không bao giờ hiểu rõ anh ấy. Anh ấy không bao giờ để cho người khác hiểu. Anh ấy là người rất kín đáo, đôi khi dường như anh không còn quan tâm đến thế giới hay con người nữa. Ông Cabestany nghĩ anh ấy nhút nhát và có lẽ hơi điên, nhưng tôi có cảm tưởng Julián sống trong quá khứ, giam mình trong những ký ức. Julián sống trong chính bản thân mình, sống vì những cuốn sách của anh ấy và sống trong chúng – một nhà tù dễ chịu do anh ấy tự tạo ra.”

“Chị nói như thể chị đang ghen tị với ông ấy.”

“Có những ngục tù còn tồi tệ hơn cả nhà tù những con chữ, Daniel ạ.”

Tôi gật đầu, không dám chắc mình hiểu ý của chị.

“Julián có bao giờ kể về những ký ức đó không, về những năm tháng ở Barcelona ấy?”

“Rất ít. Trong tuần tôi lưu lại Paris, anh ấy kể cho tôi chút ít về gia đình. Mẹ anh ấy là người Pháp, giáo viên dạy nhạc. Cha anh ấy có một cửa hàng mũ hoặc gì đấy. Tôi biết ông ta rất sùng đạo và rất nghiêm khắc.”

“Julián có giải thích về mối quan hệ của ông ấy với ông bố không?”

“Không, họ không hợp nhau. Có chuyện gì đó xảy ra đã lâu. Thực ra, lý do Julián đi Paris là để tránh bị ông bố đưa vào quân đội. Mẹ anh ấy đã hứa đưa anh ấy đi càng xa người đàn ông đó càng tốt, còn hơn là để điều đó xảy ra.”

“Dù gì ông ấy cũng là cha.”

Nuria Monfort mỉm cười. Đúng hơn là nét thoáng cười và đôi mắt chị ánh lên vẻ mệt mỏi và buồn.

“Dù có là cha đi nữa thì cũng chưa bao giờ ông ấy cư xử như một người cha, và Julián chưa bao giờ xem ông ấy là cha mình. Có lần anh ấy thú nhận với tôi là trước khi kết hôn mẹ anh ấy có quan hệ với một người lạ, danh tính người ấy bà không bao giờ tiết lộ. Người đàn ông ấy mới là cha đẻ của Julián

“Nghe giống phần mở đầu Bóng hình của gió. Chị có nghĩ ông ấy nói thật không?”

Nuria Monfort gật đầu. "Julián kể anh ấy đã lớn lên trong cảnh phải chứng kiến ông bán mũ – anh gọi ông ta như thế – lăng mạ và đánh đập mẹ anh ấy như thế nào. Rồi ông ta vào phòng Julián, bảo anh ấy là đứa con tội lỗi, rằng anh thừa hưởng tính cách yếu đuối và hèn hạ của bà mẹ, và sẽ chịu đau khổ suốt đời, một cuộc đời thất bại cho dù anh ấy có cố gắng nhường nào...”

“Ông ấy có oán hận gì ông bố không?”

“Thời gian là phương thuốc tuyệt vời. Tôi chưa bao giờ cảm thấy Julián ghét ông ta. Có lẽ như vậy tốt hơn. Tôi có ấn tượng rằng anh ấy đã mất hết lòng kính trọng đối với ông làm mũ vì những cảnh tượng kia. Julián nói về mọi thứ như thể chuyện đó chẳng quan trọng, chừng như nó là một phần của quá khứ mà anh bỏ lại đằng sau, nhưng những điều này không bao giờ bị lãng quên. Những lời khiến trái tim của một đứa trẻ bị đầu độc, cho dù là do ác tâm hay ngu dốt, chúng vẫn lưu lại trong ký ức, và sớm hay muộn chúng sẽ thiêu trụi tâm hồn đứa trẻ.”

Tôi tự hỏi có phải chị đang nói dựa trên trải nghiệm của bản thân không, và trong tôi hiện ra hình ảnh cậu bạn Tomás Aguilar đang kiên cường gánh chịu những công kích của người cha kiêu căng.

“Julián bao nhiêu tuổi lúc bị ông bố bắt đầu đối xử như vậy?”

“Khoảng tám hay mười tuổi...”

Tôi thở dài.

“Ngay khi anh ấy đủ tuổi vào quân đội, bà mẹ mang anh ấy đến Paris. Chắc là họ không chào từ biệt nhau. Ông bán mũ không bao giờ chấp nhận rằng gia đình đã bỏ rơi ông.”

“Chị có bao giờ nghe Julián nói về một cô gái tên Penélope?”

“Penélope ư? Tôi không nghĩ vậy. Tôi không nhơ

“Đó là bạn gái của ông ấy, từ lúc ông ấy còn sống ở Barcelona.”

Tôi lấy tấm ảnh chụp Carax và Penélope Aldaya ra đưa cho chị. Tôi để ý nụ cười sáng bừng khuôn mặt chị thế nào khi chị trông thấy Julián Carax thời niên thiếu. Nỗi bùi ngùi nuối tiếc khiến chị héo hon.

“Trông anh ấy thật trẻ... Đây có phải là Penélope mà cậu nói?”

Tôi gật đầu.

“Rất ưa nhìn. Julián luôn khiến cho những phụ nữ đẹp vây quanh anh ấy."

Như chị, tôi nghĩ. "Chị có biết anh ấy có nhiều...?”

Lại nụ cười ấy dành cho tôi. "Bạn gái ư? Người tình ư? Tôi không biết. Nói thật, tôi chưa bao giờ nghe anh ấy kể về bất kỳ phụ nữ nào trong đời anh ấy. Một lần, để chọc tức anh ấy, tôi đã hỏi. Hẳn cậu biết anh ấy kiếm sống nhờ chơi dương cầm ở quán khách. Tôi đã hỏi anh ấy có bị cám dỗ không, khi xung quanh là những phụ nữ quyến rũ và dể dãi. Anh ấy không cho câu nói đùa đó là hay ho. Anh ấy đáp rằng anh không có quyền yêu bất cứ ai, rằng anh đáng bị cô độc.”

“Ông ấy có nói tại sao không?”

“Julián không bao giờ nói tại sao.”

“Dù vậy thì rốt cuộc, ngay trước khi trở về Barcelona năm 1936, Julián Carax sắp kết hôn.”

“Đó là người ta nói vậy.”

“Chị nghi ngờ sao?”

Chị nhún vai tỏ vẻ hoài nghi. "Như tôi nói đấy, trong suốt bao năm chúng tôi quen biết nhau, Julián không bao giờ nhắc đến một người phụ nữ cụ thể nào, người anh ấy định kết hôn thì lại càng không. Chuyện kết hôn mãi sau này tôi mới biết. Neuval, nhà xuất bản gần nhất của Carax, đã cho Cabestany biết rằng vị hôn thê là một phụ nữ hơn Julián hai mươi tuổi,góa phụ giàu có đang ốm yếu. Theo Neuval, bà ta ít nhiều đã nâng đỡ anh ấy trong nhiều năm. Các bác sĩ bảo bà còn sống chừng sáu tháng, nhiều nhất là một năm. Neuval nói bà ta muốn kết hôn với Julián để anh ấy có thể thừa kế tài sản.”

“Nhưng lễ cưới không bao giờ xảy ra."

“Nếu từng có một kế hoạch như vậy, hoặc một góa phụ như vậy.”

“Như tôi được biết, Carax dính vào một vụ đấu súng, vào rạng đông ngày ông ấy dự định kết hôn. Chị có biết cuộc đấu súng đó với ai, hay tại sao không?”

“Neuval cho rằng ai đó liên quan đến góa phụ kia. Một người họ hàng xa tham lam, không muốn thấy di sản của bà ta rơi vào tay kẻ ất ơ nào đó. Neuval xuất bản chủ yếu những tiểu thuyết kinh dị rẻ tiền, nên tôi nghĩ thể loại sách đó đã nhiễm vào đầu ông ta.”

“Theo tôi thấy thì chị không tin lắm chuyện đám cưới và vụ đấu súng.”

“Không. Tôi không bao giờ tin.”

“Vậy chị nghĩ đã có chuyện gì? Tại sao Carax quay về Barcelona?”

Chị cười buồn. "Mười bảy năm qua tôi vẫn tự hỏi mình câu này.”

Nuria Monfort châm điếu khác. Chị mời tôi. Tôi thôi thúc muốn nhận, nhưng đã từ chối.

“Hẳn chị phải có giả thiết nào chứ?” tôi gợi ý.

“Tôi chỉ biết rằng vào mùa hè năm 1936, không lâu sau khi chiến tranh bùng nổ, một nhân viên nhà xác thành phố đã gọi điện cho công ty chúng tôi thông báo họ nhận được xác của Julián ba ngày trước. Người ta thấy xác anh ấy trên một con phố nhỏ ở Raval, áo quần rách bươm và bị một viên đạn xuyên qua tim. Anh ấy mang trên mình một cuốn sách, cuốn Bóng hình của gió, và hộ chiếu. Dấu trên hộ chiếu cho thấy anh ấy rời biên giới Pháp một tháng trước. Trong khoảng thời gian đó anh ấy ở đâu, không ai biết. Cảnh sát đã liên lạc với cha anh ấy, nhưng ông ta từ chối nhận trách nhiệm với caxác, và bảo rằng ông ta không có con trai. Sau hai ngày không có ai nhận xác, anh ấy được chôn trong khu mộ chung ở nghĩa trang Montjuïc. Thậm chí tôi còn không thể mang hoa đến viếng anh ấy, vì không ai có thể cho tôi biết anh ấy được chôn ở đâu. Chính nhân viên nhà xác – người đã giữ cuốn sách trong áo khoác của Julián đã có ý gọi điện cho nhà xuất bản Cabestany mấy ngày sau. Vậy nên tôi mới biết chuyện xảy ra. Tôi không thể hiểu nổi. Nếu Julián còn ai đó ở Barcelona mà anh có thể nhờ vả, thì đó chính là tôi, hoặc nếu khẩn thiết lắm thì ông Cabestany. Chúng tôi là những bạn bè duy nhất của anh ấy, nhưng anh ấy không bao giờ cho chúng tôi biết anh ấy trở về. Chúng tôi chỉ biết tin anh ấy quay lại Barcelona khi anh ấy đã chết...”

“Chị có tìm được gì khác sau khi biết tin ông ấy chết không?”

“Không. Lúc ấy là những tháng đầu tiên chiến tranh, Julián không phải là trường hợp duy nhất biến mất không để lại dấu vết. Không ai nói gì về chuyện đó nữa, nhưng có rất nhiều nấm mồ vô dnah, giống như mộ Julián. Tìm hiểu chuyện đó khác nào đi đâm đầu vào tường. Được ông Cabestany trợ giúp, lúc ấy ông đang ốm rất nặng, tôi đã khiếu nại lên cảnh sát và dùng mọi phương cách có thể. Điều duy nhất tôi nhận được là một chuyến viếng thăm của một tay thanh tra trẻ, một kẻ kiêu căng, độc ác, hắn bảo tôi là tốt hơn không nên hỏi gì nữa và nên cố hết sức mình để có thái độ tích cực hơn, bởi vì đất nước này đương lúc chiến tranh và đầy những lầm than. Hắn đã nói vậy. Tên hắn là Fumero, tôi chỉ nhớ được vậy. Dường như bây giờ hắn là một nhân vật khá quan trọng. Báo chí thường nói đến hắn. Có lẽ cậu cũng đã nghe nói.”

Tôi muốt ực. “Chỉ lờ mờ thôi.”

“Tôi không nghe tin gì nữa về Julián cho đến khi có người tìm đến các nhà xuất bản muốn mua toàn bộ các tiểu thuyết của Carax còn tồn trong kho."

“Laín Coubert.”

Nuria Monfort gật đầu.

“Chị có biết người đàn ông đó là ai không?”

“Mơ hồ lắm, tôi không chắc. Vào tháng Ba năm 1936 – tôi nhớ ngày đó bởi lúc ấy chúng tôi chuẩn bị cho in cuốn Bóng hình của gió – co người gọi điện đến nhà xuất bản hỏi địa chỉ anh ấy. Anh ta tự nhận là bạn cũ và muốn thăm Julián ở Paris. Muốn dành cho anh ấy một bất ngờ. Người ta chuyển máy cho tôi, và tôi bảo không được phép đưa thông tin. “

“Ông ta xưng tên không?”

“Jorge gì đấy.”

“Jorge Aldaya?”

“Có lẽ vậy. Julián đã hơn một lần nhắc đến tên anh ta. Tôi nghĩ họ học chung ở trường San Gabriel, và đôi khi Julián nhắc đến anh ta như thể đó là người bạn thân nhất.”

“Chị có biết Jorge Aldaya là anh trai cùa Penélope?”

Nuria Monfort chau mày. Trông chị có vẻ lo lắng.

“Chị có cho Aldaya điạ chỉ của Julían ở Paris không?”

“Không. Anh ta khiến tôi thấy khó chịu.”

“Ông ta đã nói gì?”

“Anh ta cười giễu tôi, bảo rằng anh ta sẽ tìm cách khác, rồi ngắt máy.”

Dường như có điều gì đang dày vò chị. Tôi bắt đầu băn khoăn không biết cuộc trò chuyện này sẽ đi đến đâu. "Nhưng chị lại nghe tin về ông ta, đúng không?”

Chị gật đầu lo lắng. “Như tôi đã kể, không lâu sau khi Julián biến mất, người đó xuất hiện tại công ty Cabestany. Lúc ấy ông Cabestany không còn làm việc nữa, con trai cả của ông ấy đảm trách mọi việc. Người khách, kẻ Laín Cuubert ấy, muốn mua toàn bộ tiểu thuyết còn lại của Julián. Tôi nghĩ tất cả chỉ là một trò đùa nhạt nhẽo. Laín Coubert là một nhân vật trong Bóng hình của gió.”

“Ác quỷ.”

Nuria Monfort lại gật đầu.

“Chi đã tận mắt thấy Laín Coubert chưa?”

Chị lắc đầu và châm điếu thuốc thứ ba. “Không. Nhưng tôi nghe trộm được một phần cuộc đối thoại với người con trai trong văn phòng ông Cabestany.”

Chị bỏ lửng câu nói, như e sợ kết thúc nó hoặc không dám chắc làm sao để kết thúc. Điếu thuốc rung rung trên ngón tay chị.

“Giọng nói của anh ta,” chị nói. “Đó chính là giọng nói của người đã gọi điện tự xưng là Jorge Aldaya. Con trai ông Cabestany, một tên đần độn kiêu căng, đã cố đòi nhiều tiền hơn. Coubert – hay cho dù là ai đi nữa - nói anh ta phải cân nhắc thêm. Tối hôm đó, nhà kho của Cabestany ở Pueblo Nuevo bốc cháy, và sách của Julián thảy bị cháy theo.”

"Ngoại trừ những cuốn chị đã giữ được và giấu ở Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên.”

“Đúng vậy.”

“Chị có biết tại sao có kẻ lại muốn đốt hết sách của Julián Carax không?”

“Tại sao sách bị đốt ư? Do ngu ngốc, do kiêu ngạo, do thù ghét,... Chúa mới biết được...”

“Sao chị nghĩ vậy?” tôi nài hỏi.

“Julián sống trong những cuốn sách của anh ấy. Cái thi thể trong nhà xác kia chỉ là một phần của anh ấy mà thôi. Linh hồn của anh ấy nằm trong những câu chuyện của anh. Đã có lần tôi hỏi ai là nguồn cảm hứng cho anh ấy sáng tạo các nhân vật, anh ấy trả lời rằng không ai cà. Rằng tất cả các nhân vật đều chính là bản thân anh ấy.”

“Nếu có ai muốn hủy diệt ông ấy thì hẳn phải hủy cả những cuốn sách lẫn các nhân vật kia nữa, có phải vậy không?”

Nụ cười chán chường quay trở lại, một nụ cười thất bại và mệt mỏi. "Cậu làm tôi nhớ đến Julián,” chị nói. "Trước khi anh ấy mất hết niềm tin.”

“Niềm tin của ông ấy vào điều gì

“Vào tất cả.”

Trong ánh mờ ảo, chị bước đến nắm tay tôi. Chị vuốt lòng bàn tay tôi, lặng lẽ, chừng như muốn đọc những đường chỉ tay. Tay tôi run rẩy khi chạm vào. Tôi thấy mình đang lần theo hình dáng cơ thể chị đằng sau lớp áo cũ. Tôi những muốn chạm vào chị và cảm nhận nhịp tim nóng buốt lưới làn da chị. Ánh mắt chúng tôi gặp nhau, và tôi dám chắc chị biết tôi đang nghĩ gì. Tôi cảm nhận chị đang cô đơn hơn bao giờ hết. Tôi ngước mắt lên bắt gặp ánh mắt thanh bình, rộng mở của chị.

“Julián chết trong cô độc, tin rằng sẽ không có ai nhớ đến anh ấy hay những cuốn sách của anh ấy nữa, rằng cuộc đời anh ấy chẳng có ý nghĩa gì,” chị nói. “Anh ấy hẳn đã muốn biết rằng có ai đó muốn giữ cho anh sống, có ai đó vẫn nhớ đến anh. Anh ấy từng nói chúng ta tồn tại chừng nào vẫn còn người nhớ đến.”

Tôi khao khét nhức nhối được hôn người phụ nữ đó, một ham muốn tôi chưa bao giờ có trước đây, ngay cả khi nhớ về hình ảnh của Clara Barceló. Chị đọc được ý nghĩ của tôi.

“Muộn rồi đấy, Daniel,” chị lẩm bẩm.

Một phần trong tôi muốn ở lại, muốn đắm mình trong sự gần gũi lạ lùng này, muốn nghe chị nói lần nữa rằng cử chỉ và sự trầm lặng của tôi khiến chị nhớ đến Julián Carax.

“Vâng," tôi lí nhí.

Chị gật đầu nhưng không nói gì, rồi tiễn tôi ra cửa. Hành lang dường như dài vô tận. Chị mở cửa, và tôi bước ra chiếu nghỉ cầu thang.

“Nếu cậu gặp cha tôi, nhắn với ông rằng tôi vẫn khỏe. Hãy nói dối ông ấy.”

Tôi thì thầm chào tạm biệt chị, cảm ơn chị đã dành thời gian, và lịch thiệp chìa tay ra. Nuria Monfort lờ đi cử chỉ trịnh trọng ấy. Chị đặt tay lên cánh tay rôi, cúi về phía trước, hôn lên má tôi. Chúng tôi nhìn nhau đăm đăm, và lần này tôi gần như run rẩy tìm đôi môi chị. Cơ hồ đôi môi ấy hơi mở ra, và những ngón tay chị khẽ chạm vào tôi. Vào khoảnh khắc cuối, Nuria Monfort dira xa và nhìn xuống.

“ Tốt nhất cậu nên về đi, Daniel,” chị thì thầm.

Tôi nghĩ chị sắp bật khóc, nhưng trước khi tôi kịp nói gì, chị đã đóng cửa. Tôi bị bỏ lại bên đầu cầu thang, cảm thấy sự hiện diện của chị phía bên kia cánh cửa, đang bất động, và tự hỏi đã có chuyện gì xảy ra. Phía bên kia chiếu nghỉ, lỗ nhỏ trên cửa nhà hàng xóm nhấp nháy. Tôi vẫy tay chào chị rồi lao xuống phía cầu thang. Khi bước xuống đường, tôi vẫn cảm thấy khuôn mặt Nuria Monfort, giọng nói chị, cả mùi của chị tận sâu thẳm trong tâm hồn mình. Tôi mang theo dấu vết đôi môi chị, hơi thở chị trên da thịt mình khi qua những con phố đầy rẫy những người vô diện đang chạy trốn khỏi các văn phòng và cửa hiệu. Khi rẽ sang phố Canuda, một cơn gió lạnh xuyên qua những ồn ào hối hả mà phả vào người tôi. Tôi hồ hởi đón nhận làn hơi lạnh trên mặt và bước thẳng về phía trường đại học. Sau khi qua Ramblas, tôi tiến thẳng xuống đường Tallers rồi biến mất vào lối đi hẹp tối tăm, cảm giác như tôi vẫn đang mắc kẹt trong căn phòng âm u kia, nơi tôi hình dung Nuria Monfort giờ đang ngồi một mình, lặng lẽ xếp những cây bút chì, những cặp tài liệu của chị, những ký ức của chị, đôi mắt chị đẫm lệ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


BÓNG TỐI LÉN LÚT ĐỔ XUỐNG, kèm theo luồng gió lạnh cùng tấm màn ánh tím len lỏi giữa những khoảng không trên phố. Tôi nhanh chân bước, và hai mươi phút sau, cổng trường đại học đã xuất hiện như con tàu màu son thả neo trong đêm. Trong phòng thường trực, ông gác cổng của khoa Văn đang nghiềm ngẫm từng con chữ trên trang thể thao của ấn bản buổi chiều của tờ báo uy tín nhất nước. Dường như không còn sinh viên nào ở trường. Tiếng vọng bước chân theo tôi dọc hành lang và các gian phòng đi vào khoảng sân trong, nơi ánh sáng hai ngọn đèn vàng chừng như không ngăn nổi bóng đêm. Bỗng tôi chợt nghĩ, có lẽ Bea đã chơi khăm tôi, rằng nàng dàn xếp gặp tôi ở đây vào giờ chót để trả đũa tính tự phụ của tôi. Những chiếc lá trên cây cam trong sân như những giọt nước mắt bạc, và tiếng vòi phun nước vẳng lại qua những mái vòm. Tôi thận trọng nhìn quanh khoảng sân, dự trước sự thất vọng hay có thể là cảm giác nhẹ nhõm hèn nhát. Nàng đây rồi, đang ngồi trên chiếc ghế dài, hình dáng nàngên trên nền đài phun nước, đôi mắt ngước trông lên khung vòm trước khoảng sân. Tôi dừng ngay ở lối vào để ngắm nàng, và trong thoáng chốc tôi nhớ đến Nuria Monfort đang mơ màng trên ghế dài trong quảng trường. Tôi nhận thấy nàng không mang theo cặp sách, và tôi ngờ ngợ nàng không có lớp chiều nay. Có lẽ nàng đến đây chỉ để gặp tôi. Tôi nuốt ực lấy can đảm và bước vào khoảng sân. Tiếng bước chân tôi khiến tôi bị lộ và Bea ngước lên, với nụ cười bỡ ngỡ, như thể sự xuất hiện của tôi chỉ là tình cờ.

“Em đã nghĩ anh không đến,” Bea nói.

“Anh cũng nghĩ em như vậy,” tôi đáp.

Nàng vẫn ngồi ngay ngắn, hai gối khép chặt, tay đặt trong lòng. Tôi tự hỏi làm sao mình có thể xa cách với nàng mà đồng thời lại đang ngắm nhìn đường nét trên đôi môi nàng như vậy.

“Em đến vì em muốn chứng minh cho anh thấy rằng những điều anh nói hôm nọ là không đúng, Daniel ạ. Em sẽ kết hôn với Pablo, và em không quan tâm điều anh sẽ cho em thấy tối nay là gì. Em sẽ đi El Ferrol ngay khi anh ấy hết nghĩa vụ quân sự. “

Tôi nhìn nàng như thể đất đang sụt xuống dưới chân mình. Tôi nhận ra hai ngày qua mình đã đi lơ lửng trên mây, và giờ thế giới của tôi dường như sụp đổ.

“Thế mà anh cứ nghĩ em đến chỉ vì em muốn gặp anh.” Tôi cố nở một nụ cười yếu ớt.

Nàng ửng má thẹn thùng.

“Anh đùa đấy thôi,” tôi nói dối. “Anh đến đây chỉ vì lời hứa cho em thấy một khuôn mặt khác của thành phố này mà em chưa biết. Ít nhất nó sẽ cho em một lý do để nhớ anh, hoặc nhớ về Barcelona, dù em có đi đâu.”

Nàng cười đượm buồn, tránh ánh mắt tôi. “Suýt nữa thì em đã đi xem phim để khỏi gặp anh hôm này,” nàng nói.

“Tại sao?”

Bea nhìn tôi mà không nói gì. Nàng nhún vai và ngước mắt, như đang cố chộp lấy những lời vừa thoát ra.

“Bởi vì em sợ có lẽ anh đã đúng,” cuối cùng nàng nói.

Tôi thở dài. Bóng đêm bao lấy chúng tôi, sự im lặng yếu ớt mang những kẻ xa lạ xích lại gần nhau, và tôi cảm thấy đủ can đảm để dám nói bất cứ điều gì nghĩ được trong đầu, thậm chí dù đây có thể là một lần cuối cùng.

“Em có yêu anh ta không?”

Một nụ cười hiện ra rồi biến mất. “Đấy đâu phải việc của anh.”

“Đúng vậy," tôi nói. “Là chuyện riêng của em.”

Nàng nhìn tôi lạnh lùng. "Chuyện đó thì liên hệ gì đến anh?”

“Đấy không phải việc của em.”

Nàng không cười. Đôi môi run rẩy. “Những người quen biết em đều biết em rất quý mến Pablo. Gia đình em và...”

“Nhưng anh hầu như là một người lạ,” tôi cất lời. “Và anh muốn nghe em nói.”

“Nghe gì?”

“Rằng em thực sự yêu anh ta. Rằng không phải em kết hôn với anh ta để chạy trốn khỏi gia đình, để tạo khoảng cách giữa em với Barcelona và với gia đình em, để đến một nơi nào đó không còn ai làm em tổn thương. Để em ra đi chứ không phải chạy trốn.”

Mắt nàng ánh lên những giọt lệ giận dữ. “Anh không có quyền nói như vậy với em, Daniel. Anh có hiểu gì về em đâu.”

“Hãy nói rằng anh nhầm, rồi anh sẽ đi. Em có yêu anh ta không?”

Chúng tôi lặng nhìn nhau hồi lâu.

“Em không biết,” cuối cùng nàng nói. "Em không biết.

“Ai đó từng bào rằng ngay khi ta dừng lại để nghĩ xem liệu ta có yêu một người nào đó hay không thì tức là ta đã vĩnh viễn thôi không còn yêu người đó nữa,” tôi nói.

Bea tìm kiếm sự giễu cợt trên vẻ mặt tôi. "Ai nói như vậy?”

“Một người tên Julián Carax.”

“Bạn của anh à?”

Tôi gật đầu. “Kiểu như vậy.”

“Anh định giới thiệu người đó với em.”

“Đêm này, nếu em muốn.”

Chúng tôi rời trường đại học dưới bầu trời tím ngắt và lang thang vô định, không đến một nơi nào cụ thể, chỉ để quen với việc đi bên nhau. Chúng tôi vin và chủ để chung duy nhất mà cả hai có được, anh trai Tomás của nàng. Bea nói về cậu ấy như thể đó là một người hoàn toàn xa lạ, một người nàng yêu mến nhưng hầu như chẳng hiểu gì. Nàng tránh ánh mắt tôi và mỉm cười lo âu. Dường như nàng hối tiếc điều đã nói với tôi trong sân trường, những điều ấy còn dày vò và làm nàng tổn thương.

“Những điều em vừa kể,” bỗng nàng nói, "anh đừng cho Tomás biết nhé, có được không?”

“Tất nhiên là không rồi. Anh sẽ không nói với bất kỳ ai cả.”

Nàng cười lo âu. "Em không biết mình bị sao nữa. Anh đừng phật lòng nhé, nhưng đôi khi ta cảm thấy thoải mái khi nói chuyện với người lạ hơn là với người mà ta quen biết. Tại sao thế nhỉ?”

Tôi nhún vai. “Có lẽ vì người lạ nhìn chúng ta như chúng ta vốn có, chứ không phải như theo cách họ muốn.”

“Câu ấy cũng của người bạn Carax kia à?”

“Không, anh nghĩ ra để gây ấ với em thôi.”

“Anh nghĩ em là người thế nào?”

“Như một bí ẩn.”

“Đó là lời khen kỳ lạ nhất em được nghe”

“Đó không phải khen ngợi. Mà là một lời đe dọa.”

“Ý anh là sao?”

“Bí ấn phải được khám phá, người ta phải tìm ra điều bị che giấu.”

“Hẳn anh sẽ thất vọng khi thấy điều che giấu bên trong.”

“Có lẽ anh sẽ ngạc nhiên. Và em nữa.”

“Tomás chưa bao giờ nói anh cả gan đến vậy.”

“Là bởi vì một chút xíu anh có, anh đã dành hết cho em mất rồi.”

“Tại sao?”

Vì anh sợ em, tôi nghĩ.

Chúng tôi tìm vào một quán cà phê nhỏ cạnh nhà hát Poliorama. Ngồi vào bàn cạnh cửa sổ, chúng tôi gọi bánh kẹp thịt cay và hai cà phê để lót dạ. Một lúc sau viên quản lý, một gã gầy còm có bộ mặt như một con quỷ nhỏ, bước đến với vẻ rất ân cần.

“Có phải hai vị gọi bánh kẹp thịt không?”

Chúng tôi gật đầu.

“Thay mặt quản lý ở đây, tôi xin lỗi phải thông báo bánh kẹp đã hết. Tôi xin đề xuất món xúc xích butifarra đen, trắng hoặc lẫn, thịt viên, hoặc món xúc xích chistorra. Loại hảo hạng, mới ra lò. Tôi cũng có các món làm từ cá sardine, nếu vì lý do tôn giáo mà hai vị không ăn thịt. Hôm nay thứ Sáu....”

"Tôi dùng cà phê được rồi," Bea nói.

Tôi đang đói. “Vậy phiền anh cho thêm hai suất khoai tây tẩm gia vị và một ít bánh mì được không?”

“Có ngay, thưa anh. Và xin thứ lỗi vì thiếu sót này. Thường chúng tôi phục vụ đầy đủ các món, thậm chí có cả trứng cá muối Bolsevik. Song chiều nay có trận bán kết cúp châu Âu, chúng tôi có nhiều khách quá. Một trận đấu tuyệt vời.”

Viên quản lý bước đi trịnh trọng, Bea thích thú nhìn anh ta.

“Giọng vùng nào nhỉ? Jaén chăng?”

“Gần hơn nhiều: Santa Coloma de Gramanet,” tôi đính chính. “Chắc em ít đi tàu điện ngầm. đúng không?”

“Bố em bảo tàu điện ngầm đầy những kẻ bần tiện, và nếu đi một mình có thể bị bọn Digan sờ soạng.”

Tôi định nói gì đó, nhưng quyết định giữ mồm miệng. Bea bật cười. Ngay khi cà phê và đồ ăn mang tới, tôi cắm cúi ăn chẳng hề ý tứ. Bea không ăn gì. Tay nàng ôm lấy chiếc tách bốc hơi, nàng chúm chím cười ngắm nhìn tôi, với vẻ vừa tò mò và ngạc nhiên .

“Vậy cái anh định cho em thấy hôm nay là đây à?”

“Nhiều thứ lắm. Thật ra, điều anh định cho em biết chỉ là một phần của một câu chuyện thôi. Không phải hôm trước em nói với anh là em thích đọc sách sao?”

Bea gật đầu, mày nhíu lại.

“Đây là câu chuyện về những cuốn sách.”

“Về những cuốn sách ư?”

“Về những cuốn sách bị lời nguyền, về người đã viết ra chúng, về một nhân vật đã thoát ra khỏi những trang sách của một cuốn tiểu thuyết để đốt nó, về sự phản bộiề một tình bạn bị đánh mất. Một câu chuyện về tình yêu, về thù hận, và về những giấc mơ sống trong Bóng hình của gió.”

“Anh nói giống như lời quảng cáo trên bìa một cuốn tiểu thuyết thời Victoria ấy, Daniel.”

“Có lẽ là vì anh làm việc trong một hiệu sách và anh đọc quá nhiều. Nhưng đây là một câu chuyện có thực. Thực như món bánh mì mà họ phục vụ chúng ta ở đây đã được làm từ ba hôm trước vậy. Và, giống như những câu chuyện có thực, nó bắt đầu và kết thúc ở một nghĩa trang, mặc dù không giống như kiểu nghĩa trang mà em tưởng tượng.”

Nàng cười như đứa trẻ khi chúng được người ta cho một câu đố hoặc trò ảo thuật. "Em sẵn sàng nghe rồi đây.”

Tôi hớp nốt ngụm cà phê cuối cùng trong tách và lặng nhìn nàng giây lát. Tôi nghĩ mình những muốn lạc vào trong đôi mắt lảng tránh ấy biết bao. Tôi nghĩ về nỗi cô đơn rồi sẽ chiếm lĩnh mình đêm ấy khi tôi nói lời tạm biệt nàng, một khi tôi đã hết trò hoặc không còn câu chuyện nào để giữ nàng lại bên mình nữa. Tôi nghĩ về chuyện những gì mình có để cho nàng chẳng đáng là bao mà lại muốn nhận ở nàng nhiều biết dường nào.

“Em có thể nghe thấy não anh kêu tanh tách đấy, Daniel. Anh định mưu tính gì đây?”

Bắt đầu câu chuyện, tôi kể về buổi bình minh xa xưa khi tôi tỉnh giấc và không thể nhớ nổi khuôn mặt mẹ nữa, và tôi kể mãi cho đến khi dừng lại để hồi tưởng lại thế giới bóng đen tôi đã cảm nhận vào đúng ngày hôm ấy trong ngôi nhà của Nuria Monfort. Bea yên lặng lắng nghe, không phát xét, không kết luận. Tôi kể nàng nghe lần đầu tiên tôi đến Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên và cái đêm tôi thức đọc cuốn Bóng hình của gió. Tôi kể nàng nghe về cuộc gặp của tôi với người không mặt và về bức thư của Penélope Aldaya tôi luôn mang theo mình mà không biết tại sao. Tôi kể nàng nghe tôi chưa bao giờ hôn Clara Barceló, hay bất kỳ ai, và bàn tay tôi run rẩy thế nào khi tôi cảm thấy đôi môi của Nuria Monfort chạm vào da tôi chỉ mới cách đây vài tiếng. Tôi kể nàng nghe tại sao cho đến lúc ấy tôi mới hiểu rằng đó là một câu chuyện về những người cô đơn, về sự vắng mặt và mất mát, và đây là lý do tại sao tôi luôn trú ngụ trong đó cho đến khi nó bắt đầu xen lẫn cuộc sống riêng tôi, như một người chạy trốn vào những trang của tiểu thuyết bởi vì những người anh ta yêu quý dường như không khác gì những bóng ma cư trú trong tâm hồn một người xa lạ.

“Đừng nói gì nữa,” Bea thầm thì. “Hãy dẫn em đến nơi đó.”

Trời đã tối đen khi chúng tôi dừng trước cổng Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên, dưới vẻ u ám của con phố Arco del Teatro. Tôi nhấc cái nắm đấm hình mặt quỷ lên gõ ba lần. Trong khi chúng tôi trú dưới mái vòm cổng chính mà chờ đợi, cơn gió lạnh mang theo mùi khói. Tôi bắt gặp ánh mắt Bea, quá gần với mắt tôi. Nàng đang cười. Rồi chúng tôi theo tiếng bước chân nhẹ tiến về phía cửa, rồi giọng mệt mỏi của người bảo vệ.

“Ai đấy,” Isaac hỏi.

“Cháu là Daniel Sempere đây, ông Isaac.”

Tôi nghĩ có thể nghe thấy ông ấy chửi thầm trong bụng. Rồi tiếp theo là hàng ngàn tiếng cót két cọt kẹt của hệ thống khóa phức tạp. Cuối cùng cánh cửa mở ra chừng dăm ba xăng ti mét, khuôn mặt diều hâu của Isaac Monfort lộ ra dưới ánh đèn dầu. Nhìn thấy tôi, ông bảo vệ thở dài và trợn tròn mắt.

“Tôi thật ngu ngốc. Tôi không biết sao mình lại hỏi,” ông ta nói. "Còn ai khác nữa vào giờ này?”

Isaac đang khoác trên mình thứ trang phục kỳ lạ kết hợp giữa áo ngủ, áo tắm và áo khoác quân đôi Nga. Đôi dép độn bông thật chẳng phù hợp mấy với chiếc mũ len sọc ca rô giống như mũ của một giáo sư, lại thêm những quả tua rua.

“Cháu hy vọng ông chưa đi ngủ giờ này,” tôi nói.

“Chưa đâu. Ta mới chỉ bắt đầu cầu nguyện...”

Ông nhìn Bea như thể vừa nhìn thấy một lô thuốc nổ đang châm ngòi dưới chân. "Vì lợi ích của cháu, ta hy vọng chuyện này nhìn vậy mà không phải vậy,” ông ta đe dọa.

“Ông Isaac, đây là Beatriz, bạn cháu, cháu mong ông cho phép cháu dẫn cô ấy đi xem nơi này. Ông đừng lo, cô ấy rất đáng tin

“Cậu Sempere, ta biết nhiều đứa oắt con lẫm chẫm tập đi nhưng mà khôn ngoan hơn cậu đấy.”

“Sẽ không mất nhiều thời gian đâu ạ.”

Isaac khịt mũi bỏ cuộc, đoạn thận trọng nhìn Bea, giống như một cảnh sát đa nghi.

“Cô có biết mình đang đi cùng một thằng ngốc không hả?” ông hỏi.

Bea cười lịch sự. "Cháu cũng bắt đầu nghĩ vậy đấy.”

“Ngây thơ tột bậc! Cháu biết quy tắc chứ?”

Bea gật đầu. Isaac lẩm bẩm trong họng rồi để chúng tôi vào, đoạn lướt nhìn bóng đêm trên phố, như mọi lần.

“Cháu đã đến thăm Nuria, con gái ông,” tôi nói với vẻ tự nhiên. “Chị ấy khỏe. Làm việc vất vả. nhưng vẫn khỏe. Chị ấy gửi lời hỏi thăm ông.”

“Ừ, và cả mủi tên tẩm độc nữa. Cậu bịa chuyện chẳng giỏi giang gì, Sempere ạ. Nhưng tôi đánh giá cao nỗ lực đó. Thôi vào đi.”

Khi đã vào trong, Isaac đưa tôi cây nến và khóa cửa lại.

“Khi xong việc, cậu biết phải tìm tôi ở đâu.”

Dưới màn đêm che phủ, chúng tôi chỉ nhìn thấy hình dạng ma quái của cái mê cung sách. Ngọn nến hắt bóng lập lòe dưới chân chúng tôi. Bea dừng lại, kinh ngạc trước lối vào mê cung. Tôi mỉm cười, nhận ra khuôn mặt nàng cũng biểu lộ cái vẻ y hệt mặt như cha tôi đã nhìn thấy ở tôi nhiều năm trước đây. Chúng tôi đi vào những đường dẫn và gian phòng của mê cung; chúng cọt kẹt dưới chân chúng tôi. Những dấu vết tôi đã tạo ra ở lần xâm nhập trước vẫn còn đây.

“Đi nào, anh muốn cho em xem cái này,” tôi nói.

Không dưới một lần chúng tôi mất dấu và phải quay lại một đoạn để tìm dấu gần nhất. Bea nhìn tôi với vẻ cảnh giác xen lẫnhiếc la bàn sinh học của tôi mách rằng chúng tôi đang mắc kẹt trong một điểm nút của những vòng xoáy ốc từ từ tiến vào tâm mê cung. Cuối cùng tôi cũng tìm lại được dấu vết bước chân mình trong cái mớ hỗn độn những lối đi và ngách chui cho đến khi tôi vào một lối nhỏ trông có vẻ như là một khoảng hẹp giữa hai giá sách, vươn dài vào chốn thâm u. Tôi quỳ xuống cạnh giá sách cuối cùng và tìm người bạn cũ ẩn giấu đằng sau một dãy sách bụi phủ – dưới ánh nến, lớp bụi sáng lên như sương giá. Tôi lấy cuốn sách ra đưa cho Bea.

“Cho phép anh giới thiệu em với Julián Carax.”

“Bóng hình của gió,” Bea đọc, mân mê những chữ cái nhạt nhòa trên bìa

“Em có thể lấy nó không?” nàng hỏi.

“Em có thế lấy bất cứ cuốn nào trừ cuốn này.”

“Như thế không công bằng. Sau tất cả những gì anh kể, đây chính là cuốn em muốn.”

“Có lẽ một ngày nào đấy. Nhưng không phải hôm nay.”

Tôi lấy lại cuốn sách từ tay nàng và để vào chỗ giấu.

“Em sẽ quay lại lấy một mình mà anh chẳng biết đâu.”

“Cả ngàn năm nữa em cũng không tìm được.”

“Đó là anh nghĩ thôi. Em đã thấy những dấu khắc của anh, và em cũng biết câu chuyện Minotaur.”

“Isaac sẽ không cho em vào.”

“Anh nhầm rồi. Ông ấy quý em hơn quý anh đấy.”

“Sao em biết được?”

“Em có thể đọc mắt người khác.”

Mặc dù không muốn, nhưng tôi tin lời nàng, nên tôi quay mặt đi.

“Em chọn một cuốn khác nhé. Đây này, cuốn này có vẻ hứa hẹn. Lợn thiến Castile, Loài thú lạ: Đi tìm nguồn gốc thịt lợn Iberan, của tác giả Anselmo Torquemada. Anh dám chắc nó được bán nhiều hơn bất cứ cuốn sách nào của Julián Carax. Mỗi phần của con lợn đều có thể hữu ích.”

“Em thích cuốn này hơn.”

“Nàng Tess nhà Urbervilles[1] . Đó là bản gốc đấy. Em cả gan đọc tác phẩm của Hardy bằng tiếng Anh cơ à?”

[1. Tess of the d'Urbervilles. Tác phẩm này của Thomas Hardy có hai bản dịch bằng tiếng Việt. Bản Trinh nữ, Nguyễn Quỳnh dịch và bản Người tình đầu tiên, người yêu cuối cùng, Nguyễn Đan Tâm dịch (theo sachxua.net).]

Nàng lườm tôi.

“Vậy thì tất cả là của em đấy.”

“Anh không thấy sao? Cảm giác như nó đang đợi em. Như thể nó đã ẩn nấp ở đây chờ em ngay cả trước khi em sinh ra.”

Tôi nhìn nàng kinh ngạc. Đôi môi Bea nở một nụ cười. "Em vừa nói gì nhỉ?”

Và, không hề suy nghĩ, tôi vuốt khẽ đôi môi ấy, rồi hôn nàng.

***

KHI CHÚNG TÔI về tới cửa nhà Bea thì đã qua nửa đêm. Chúng tôi đi hầu hết quãng đường mà không nói gì, không dám biến ý nghĩ của chúng tôi thành lời nói. Chúng tôi bước cách xa, lẩn tránh nhau. Bea đi trước với cuốn Tess kẹp trong tay, và tôi theo sau một bước, vẫn nhấm nháp vị đôi môi nàng. Cách Isaac nhìn tôi khi chúng tôi rời Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên vẫn còn trong tâm trí tôi. Đấy là cái nhìn tôi biết rõ và đã bắt gặp hàng ngàn lần ở cha tôi, một ánh nhìn như muốn hỏi tôi có hiểu chút xíu gì điều tôi đang làm hay không. Những giờ qua, tôi đã lạc trong một thế giới khác, một vũ trụ những đụng chạm vào ánh nhìn mà tôi không hiểu nổi, những đụng chạm và ánh nhìn đã xóa sạch cả lý trí lẫn ngượng ngùng. Bây giờ, quay trở lại chốn thực tại luôn rình rập chờ đợi trong bóng đen của khu phố Ensanche, cơn đam mê đã vơi đi, trong tôi chỉ còn lại một khao khát đau nhói và bồn chồn khó tả. Nhưng chỉ cần nhìn Bea là đủ để tôi nhận ra những ngờ vực của tôi chỉ như cơn gió thoảng so với bão tố đang vần vũ trong lòng nàng. Chúng tôi dừng trước cửa nhà nàng và nhìn nhau không cố làm điệu bộ. Một người gác đêm có giọng ngọt lừ đủng đỉnh bước về phía chúng tôi, vừa đi vừa âm ư một điệu bolero theo nhịp leng keng của chùm chìa khóa.

“Có lẽ em muốn chúng ta không tiếp tục gặp nhau nữa,” tôi ướm lời, không mấy tin tưởng.

“Em không biết, Daniel ạ. Em không biết gì cả. Anh muốn vậy sao?”

“Không. Tất nhiên là anh muốn gặp em chứ. Còn em?”

Nàng lắc đôi vai và mỉm cười yếu đuối. "Anh nghĩ sao?” nàng hỏi. "Lúc chiều ở sân trường, em đã nói dối anh.”

“Về điều gì?”

“Về việc không muốn gặp anh hôm nay.”

Người gác đêm đứng đợi, mỉm cười với chúng tôi, rõ ràng chẳng mấy quan tâm đến lời thì thầm của chúng tôi trước cửa. Với ông ta, vốn đầy kinh nghiệm trước những chuyện như vậy, hẳn mấy lời đó chỉ là một mớ sáo rỗng tầm thường.

“Đừng lo cho tôi, không có gì phải vội đâu,” ông ta nói. "Tôi sẽ lại đằng kia hút điếu thuốc, lúc nào xong thì cho tôi biết.”

Tôi chờ người bảo vệ đi khỏi.

“Bao giờ anh được gặp lại em đây?”

“Em không biết, Daniel.”

“Ngày mai nhé?”

“Thôi mà, Daniel. Em không biết.”

Tôi gật đầu. Nàng vuốt mặt tôi. "Anh nên về đi.”

“Dù sao thì em cũng biết phải tìm anh ở đâu.”

Nàng gật đầu.

“Anh sẽ đợi đấy.”

“Em cũng vậy.”

Trong khi quay bước, tôi không thể rời mắt khỏi nàng. Người gác đêm, một chuyên gia trong những tình huống như thế này, đã sẵn sàng bước tới mở cửa cho nàng.

“Đồ khôn lỏi,” ông ta rỉ tai khi bước qua, không phải là không thán phục. "Cô bé mới xinh đẹp làm sao chứ!”

Tôi đợi cho đến khi Bea vào trong tòa nhà rồi mới bước đi vội vã, mỗi bước một ngoái nhìn. Dần dần, tôi trở nên bị ám ảnh bởi niềm tin ngớ ngẩn rằng mọi thứ đều có thể, và dường như với tôi những con phố hoang vắng kia và cơn gió khắc nghiệt kia cũng dấy lên mùi hy vọng. Khi đến Quảng Trường Cataluna, tôi nhận ra một đàn bồ câu đã tụ tập ở trung tâm quảng trường. Chúng che phủ khoảng trung tâm bằng một tấm chăn lông vũ màu trắng hơi chút rung rinh. Tôi nghĩ sẽ tránh đường chúng nhưng lúc ấy tôi nhận ra đàn bồ câu rẽ đường để tôi đi qua chứ không bay lên. Tôi bước đi, trong khi những con bồ câu tẽ ra hai bên trước mặt tôi rồi khép vòng lại đằng sau. Khi vào giữa quảng trường, tôi nghe một hồi chuông nhà thờ vang lên trong đêm. Tôi dừng lại một lúc, bị mắc cạn giữa một đại dương những con chim óng ánh bạc, và nghĩ đây là ngày lạ lùng và kỳ diệu nhất trong đời mình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


ĐÈN CỬA HÀNG vẫn sáng khi tôi băng qua đường tiến về cửa kính bày hàng. Tôi nghĩ có lẽ cha tôi thức khuya để cập nhật thư từ hoặc tìm lý do nào đấy để chờ tôi và gặng hỏi về cuộc hẹn của tôi với Bea. Tôi thấy một dáng người đang xếp một chồng sách và nhận ra khuôn mặt hốc hác, lo lắng của Fermín, anh ta đang mải tập trung. Tôi gõ nắm tay lên khung cửa. Fermín nhìn ra, ngạc nhiên vui mừng, và ra hiệu cho tôi đi qua lối cửa sau.

“Anh vẫn làm việc sao Fermín? Muộn lắm rồi

“Tôi đang giết thời gian, chờ tới lượt mình đến trông Don Federico. Tôi với Eloy ở nhà bác sĩ nhãn khoa thay phiên nhau. Dù gì tôi cũng không ngủ được nhiều. Cùng lắm chỉ vài ba tiếng. Mà cậu xem lại mình đi, chẳng trách tôi được đâu. Đã quá nửa đêm rồi, tôi đoán cuộc gặp của c

ậu với cô kia hẳn phải thành công mỹ mãn.”

Tôi nhún vai. "Thật sự là tôi không biết,” tôi thú nhận.

“Cậu chưa làm ăn gì được sao?’

“Chưa.”

“Tín hiệu tốt đấy. Đừng bao giờ tin vào những cô gái chịu bị sờ mó ngay buổi đầu. Còn những cô cần sự chấp nhận của cha xứ lại càng khó tin hơn. Miếng thịt ngon – xin cậu thứ lỗi cho sự so sánh này – cần phải nấu cho chín tái. Tất nhiên, nếu có cơ hội thì đừng ngần ngại, phải chén ngay. Nhưng nếu cậu đang tìm kiếm cái gì đó nghiêm túc, như mối quan hệ của tôi với Bernarda chẳng hạn, thì hãy nhớ quy tắc vàng đó.”

“Quan hệ của anh nghiêm túc thật à?”

“Còn hơn cả nghiêm túc ấy chứ. Thiêng liêng là đằng khác. Còn cậu với cô bé yêu Beatriz này thì thế nào nhỉ? Cậu có thể thấy rõ là cô ấy đáng giá ngàn vàng, nhưng vấn đề chính là thế này: cô ấy có phải người khiến cậu yêu hay chỉ là hạng khiến cậu xốn xang khu hạ bộ?”

“Tôi không có một chút ý niệm gì hết,” tôi nói. "Có lẽ cả hai.”

“Này Daniel. Chuyện này giống như chứng khó tiêu ấy mà. Cậu có nhận thấy điều gì ở chỗ này không, trong thực quản ấy - như thể cậu vừa nuốt một cục gạch ấy? Hay cậu chỉ cảm thấy sốt sắng chung chung vậy thôi?”

“Nghe có vẻ giống cục gạch hơn,” tôi nói, mặc dù không phủ nhận hoàn toàn cơn sốt sắng.

“Nghĩa là chuyện này nghiêm túc. Cầu Chúa phù hộ! Nào, ngồi xuống đây, để tôi pha cho cậu tách trà đoan.”

Chúng tôi ngồi xuống bàn ở phòng sau, xung quanh là sách. Thành Phố đã đi ngủ, và hiệu sách giống như một con thuyền lênênh trên biển cả âm u tĩnh lặng. Fermín đưa tách trà nóng bốc hơi cho tôi và mỉm cười hơi chút ngượng nghịu. Điều gì đó khiến anh ta lo lắng.

“Tôi có thể hỏi cậu một câu riêng tư được không, Daniel?”

“Tất nhiên rồi.”

“Và tôi mong cậu trả lời thẳng thắn,” anh ta nói, đoạn hắng giọng. "Cậu có nghĩ tôi sẽ trở thành một người cha được không?”

Hẳn anh ta thấy vẻ mặt bối rối của tôi, nên bèn nhanh chóng nói thêm, "Ý tôi không phải là cha về mặt sinh học – có thể trông tôi hơi còi cọc một ít, nhưng Thượng đế run rủi ban cho tôi sức mạnh và sự cuồng nhiệt của một con bò chiến. Tôi đang nói đến kiểu cha khác. Một người cha tốt, nếu cậu hiểu ý tôi.”

“Một người cha tốt ư?”

“Đúng. Như cha cậu ấy. Một người có khối óc, có con tim và tâm hồn. Một người có thể lắng nghe, biết định hướng và tôn trọng một đứa trẻ, và không truyền nhiễm thói xấu của mình cho nó. Người mà đứa trẻ sẽ yêu thương không chỉ vì đấy là cha nó, mà còn ngưỡng mộ vì con người anh ta nữa. Người mà khi lớn lên nó muốn được giống như vậy.”

“Sao anh hỏi tôi chuyện này, Fermín? Tôi cứ nghĩ anh không tin vào hôn nhân và gia đình. Chỉ tổ thêm nặng gánh, anh nhớ chứ?"

Fermín gật đầu. "Nghe này, tất cả những thứ đó chỉ dành cho kẻ chơi bời thôi. Hôn nhân và gia đình chỉ là những gì chúng ta quan niệm. Nếu không, chúng chỉ là một ổ đạo đức giả. Những lời rác rưởi và vô nghĩa. Nhưng nếu có tình yêu thật sự, thứ tình yêu mà ta không đi khoe khoang kể lể khắp nơi, thứ tình yêu mà ta cảm nhận, mà ta sống...”

“Anh thay đổi rồi, Fermín ạ.”

“Đúng vậy đấy. Bernarda đã khiến tôi muốn trở thành một người tốt hơn.”

“Bằng cách nào vậy?”

“Để tôi có thể xứng đáng với cô ấy. Lúc này cậu không thể hiểu những chuyện như vậy đâu, vì cậu còn trẻ. Như đến thời điểm thích hợp, cậu sẽ hiểu rằng đôi khi điều quan trọng không phải là thứ chúng ta cho đi mà là thứ chúng ta từ bỏ. Bernarda và tôi đã nói chuyện. Cô ấy là một người mẹ tốt, cậu biết rồi đấy. Cô ấy không nói ra, nhưng tôi nghĩ điều duy nhất trên đời khiến cô ấy thực sự hạnh phúc chính là trở thành người mẹ. Và đối với tôi kiểu phụ nữ ấy còn ngọt hơn cả đào đóng hộp dầm xi rô. Chỉ cần phải nói rằng, với cô ấy, tôi sẵn sàng vào nhà thờ sau ba mươi hai năm kiêng đi lễ, và học thuộc bài ca Thánh Seraph hoặc làm bất cứ thứ gì cần.”

“Anh không thấy mình vội vã quá sao Fermím? Anh chỉ mới gặp chị ấy...”

“Nghe này, Daniel, đến tầm tuổi của tôi cậu sẽ bắt đầu nhìn nhận sự việc như nó vốn có không thì cậu coi như xong. Trên đời này chỉ có ba hoặc bốn thứ là đáng sống, còn lại là đồ cứt hết. Tôi đã rong chơi nhiều rồi, giờ tôi biết điều duy nhất tôi thực sự muốn là làm Bernarda hạnh phúc và một ngày nào đấy được chết trong tay cô ấy. Tôi muốn trở lại làm một người đàn ông đáng kính, hiểu không? Không phải cho bản thân tôi – với tôi, tôi chả coi ra gì cái tôn trọng của cái bầy đàn chúng ta gọi là loài người – mà là vì sự tôn trọng của cô ấy. Bởi vì Bernarda tin vào những điều như vậy – vào các vở kịch sướt mướt trên đài, vào các cha đạo, vào sự kính trọng, và đức Mẹ Đồng trinh. Cô ấy là như vậy, và tôi muốn cô ấy y như vậy. Tôi thậm chí còn thích những sợi lông mọc trên cằm cô ấy. Và đó là lý do tôi muốn trở thành một người mà cô ấy có thể tự hào. Tôi muốn cô ấy nghĩ, Fermín của mình là một người đàn ông tuyệt quá xá vời, như Cary Grant, Hemingway hay Manolete ấy.”

Tôi khoanh tay, nhận định tình huống. "Anh đã nói hết chuyện này với chị ấy chưa? Về việc có con chung ấy?”

“Chúa ơi không. Cậu coi tôi là loại gì chứ? Cậu nghĩ tôi sẽ chạy quanh mà nói với phụ nữ rằng tôi muốn làm họ trương bụng hả? Không phải vì tôi không thích như vậy, hiểu không? Cứ lấy Merceditas ngốc nghếch làm ví dụ nhé: tôi sẽ khiến cô ả sinh ba một lúc và thấy mình đang ở đỉnh cao thế giới, nhưng...”

“Anh đã nói với Bernarda rằng anh muốn có một gia đình chưa?”

“Những thứ đó không cần phải nói ra, Daniel ạ. Chúng thể hiện ra mặt rồi.”

Tôi gật đầu. “Vậy thì ý kiến của tôi có gía trị gì chứ, tôi chắc anh sẽ là người cha, người chồng tuyệt vời. Và vì anh không tiđiều đó, nên anh sẽ không bao giờ chấp nhận như vậy. “

Khuôn mặt anh ta hóa thành niềm hạnh phúc. "Cậu nói thật chứ?”

“Tất nhiên.”

“Cậu đã trút cho tôi một gánh nặng khổng lồ trong lòng. Vì cứ hễ nghĩ đến cha tôi và nghĩ rằng rốt cuộc tôi cũng sẽ thành người như ông ấy là tôi lại muốn đi triệt sản.”

“Đừng lo, Fermín. Hơn nữa, hẳn không có biện pháp khả dĩ nào làm tiệt khả năng sinh đẻ của anh đâu.”

“Đúng lắm,” anh ta đáp lại. “Thôi câu đi ngủ một chút đi, tôi không giữ cậu nữa.”

“Anh không quấy rầy tôi đâu, Fermín. Tôi có cảm tưởng mình sẽ không thể chợp mắt ngay được.”

“Tìm niềm vui trong nỗi đau... Mà này, cậu còn nhớ chuyện hòm thư chứ?”

“Anh phát hiện ra điều gì à?”

“Tôi đã bảo cậu để việc đó cho tôi. Vào giờ nghỉ trưa hôm nay, tôi đến bưu điện nói chuyện với một người quen cũ làm việc ở đó. Hòm thư PO 2321 là của một người nào đó tên José María Requejo, một luật sư có văn phòng đặt ở phố León XIII. Tôi thử kiểm tra địa chỉ của tay luật sư này và không ngạc nhiên khi phát hiên ra rằng nó không tồn tại, mặc dù tôi nghĩ cậu đã biết điều đó. Đã nhiều năm nay có một người nhận các thư từ gửi đến địa chỉ ấy. Tôi biết được là vì một số thư do một công ty bất động sản gửi đến là thư bảo đảm, bắt buộc phải có chữ ký và ghi rõ họ tên trên giấy biên nhận.”

“Người này là ai? Nhân viên của luật sư Requejo sao?” tôi hỏi.

“Chưa biết chắc, nhưng tôi không tin là vậy. Hoặc là tôi nhầm hoặc tay Requejo này tồn tại trên cùng chuyến máy bay với đức Mẹ Fátima[1]. Tôi chỉ có thể nói với cậu tên của người nhận thư: Nuria Monfort.”

[1. Tên gọi khác của đức Mẹ Đồng trinh.]

Tôi cảm thấy như máu đang chảy ra khỏi người mình.

“Nuria Monfort sao? Anh có chắc không Femín?”

“Chính mắt tôi nhìn thấy những phiếu thu đó. Tên và số chứng minh của cô ta trên tất cả các chứng từ đó. Tôi suy ra, từ vẻ mặt tái mét của cậu, rằng điều này khiến cậu nghạc nhiên.”

“Rất nhiều đấy.”

“Có thể cho tôi biết Nuria Monfort là ai không? Gã nhân viên nói chuyện với tôi kể rằng anh ta nhớ cô này rất rõ vì cách đây hai tuần cô ấy đến đó để nhận thư, và, theo ý kiến không thiên vị của anh ta, cô ấy còn hấp dẫn hơn cả thần Vệ nữ, với bộ ngực săn chắc. Tôi tin nhận định của anh ta, vì trước chiến tranh anh ta là giáo sư mỹ học – nhưng anh ta cũng là họ hàng xa của Lãnh tụ phe xã hội Largo Caballero, nên hiển nhiên giờ anh ta ngồi liếm phong bì. “

“Hôm nay tôi đã gặp người phụ nữ đó, tại nhà chị ta.” tôi lẩm nhẩm.

Fermín nhìn tôi kinh ngạc. "Gặp Nuria Monfort ư? Tôi bắt đầu nghĩ là tôi đánh giá sai về cậu rồi, Daniel. Cậu trở nên khá chơi bời đấy.”

“Không phải như anh nghĩ đâu, Fermín.”

“Vậy thì đó là thiệt thòi cho cậu. Vì ở tuổi cậu, tôi hoạt động như phòng nhạc El Molino – diễn sáng, diễn chiều, diễn đêm, diễn tuốt.”

Tôi nhìn chằm chằm người đàn ông nhỏ xíu, gầy còm, hốc hác này, với cái mũi to và nước da vàng ệch, và nhận ra anh ta đang trở thành người bạn thân nhất của mình.

“Tôi có thể kể anh nghe chuyện này được không, Fermín? Một chuyện mà tôi bận tâm từ lâu?”

“Tất nhiên rồi. Bất cứ điều gì. Đặc biệt nếu đó là chuyện gây sốc, và liên quan đến cô ả ngon nghẻ này.”

Lần thứ hai trong đêm ấy, tôi bắt đầu kể câu chuyện Julián Carax và bí ẩn cái chết của ông ta. Fermín lắng nghe chăm chú, ghi chép vào sổ, thỉnh thoảng ngắt lời tôi để hỏi vài chi tiết mà tôi quên mất là liên hệ đâu vào đâu. Càng nghe chính mình nói, tôi càng thấy rõ ràng có nhiều lỗ hổng trong câu chuyện này. Không dưới một lần đầu óc tôi đâm trống rỗng và ý nghĩ của tôi trở nên rối bời, khi tôi cố tìm hiểu xem tại sao Nuria Monfort lại nói dối tôi. Tất cả chuyện này có ý nghĩa gì? Tại sao chị ta, trong nhiều năm trời, lại đi nhận những bức thư được chuyển đến một văn phòng luật sư không hề tồn tại vốn được cho là đại diện chịu trách nhiệm quản lý căn hộ của Fortuny-Carax ở Ronda de San Antonio? Tôi không nhận ra mình đang nói lên thành lời những ngờ vực đó.

“Chúng ta chưa biết tại sao cô ấy lại lừa dối cậu,” Fermín nói. “Nhưng chúng ta có thể phỏng đoán rằng nếu cô ta lừa dối cậu trong chuyện này, cô ta có lẽ đã làm vậy trong những chuyện khác.”

Tôi thở dài, hoàn toàn lạc hướng. “Anh có ý gì không, Fermín?”

Fermín Romero de Torres thở dài rồi chưng ra vẻ mặt đậm chất Socrates nhất của anh ta. “Tôi sẽ nói cho cậu điều chúng ta có thể làm. Chủ nhật tới, nếu cậu đồng ý, chúng ta sẽ đến trường San Gabriel, chuyến thăm ngẫu nhiên thôi, và chúng ta sẽ làm một vài cuộc điều tra liên quan đến nguồn gốc mối quan hệ giữa anh bạn Carax này và anh chàng kia, cậu bé nhà giàu ấy...”

“Aldaya.”

“Tôi có cách ứng phó với các ông thầy tu, cậu sẽ thấy, thậm chí chỉ vì trông tôi giống như một ông thầy tu ranh mãnh. Tôi sẽ dụ khị họ, khiến họ phải thè lưỡi ra.”

“Anh có chắc không?”

“Tuyệt nhiên. Tôi đảm bảo cái lũ này sẽ hát như dàn đồng ca nam Montserrat.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


CẢ NGÀY THỨ BẢY TÔI CỨ MƠ MÀNG, ngồi chôn chân sau quầy hy vọng chờ một phép mầu để được thấy Bea đi qua cửa. Mỗi khi có chuông điện thoại, tôi vội vã chạy lại, giặt lấy ống nghe từ tay cha tôi hoặc Fermín. Đến giữa buổi chiều, sừng hai mươi cuộc gọi của khách hàng mà không có tin tức gì của Bea, tôi bắt đầu chấp nhận rằng thế giới và sự tồn tại đáng thương của tôi đang đến hồi kết. Cha tôi đi chào giá cho một bộ sưu tập ở San Gervasio, và Fermín tranh thủ tình hình để thuyết những bài giảng bậc thầy của anh ta về bao nhiêu là bí ẩn của tình yêu lãng mạn.

“Thôi bình tĩnh đi nào, không cậu sẽ bị sỏi thận đấy,” Fermín khuyên tôi. “Cái chuyện tán tỉnh này ấy mà, nó như là điệu tango ấy: lố bịch, thuần túy tô điểm thôi. Nhưng cậu là đàn ông, nên cậu phải chủ động.”

Mọi thứ bắt đầu trở nên khá nghiệt ngã. “Chủ động ư? Tôi sao?”

“Thế cậu mong điều gì nào? Để được đái đứng thì người ta cũng phải trả giá chứ.”

“Nhưng Bea bảo rằng cô ấy sẽ quay lại tìm tôi.”

“Cậu chả hiểu gì phụ nữ cả, Daniel ạ. Tôi dám lấy phần thưởng Giáng sinh của tôi ra cá rằng con gà nhỏ ấy giờ đang ngồi nhà ngóng nhìn ra cửa sổ giống như nàng Camellias ấy, đợi cậu đến giải thoát cô ấy khỏi ông bố ngu ngốc kia, đặng lôi cô ấy vào vòng xoáy đam mê tội lỗi.”

“Anh có chắc không?”

“Chắc như hai với hai là bốn.”

“Sẽ làm sao nếu cô ấy quyết định không muốn gặp tôi nữa?”

“Nghe này, Daniel. Phụ nữ mà, không tính những ngoại lệ đặc biệt như cái cô Merceditas hàng xóm của cậu, còn thì họ thông minh hơn chúng ta, hoặc ít nhất là trung thực với chính bản thân họ về việc điều gì họ muốn điều gì họ không. Còn họ sẽ đi nói cho cậu nghe hay là nói cho thế giới biết thì là chuyện khác. Cậu đang đối mặt với bí ẩn của tự nhiên đấy, Daniel ạ. Phụ nữ là một ma trận không thể hóa giải nổi. Nếu cậu cho cô ấy thời gian suy nghĩ thì cậu sẽ thua trắng đấy. Hãy nhớ: trái tim nóng, cái đầu lạnh. Đấy là quy tắc của kẻ đi quyến rũ.”

Fermín đã toan kể ra tỉ mỉ về những chi tiết và kỹ thuật tán tỉnh thì chuông cửa reo và bạn tôi, Tomás Aguilar, bước vào. Tim tôi như ngừng một nhịp. Chúa đã không gửi Bea đến cho tôi mà cử anh trai nàng đến. Một điềm báo định mệnh, tôi nghĩ. Tomás có vẻ ủ và chán nản.

“Thật là vẻ mặt đưa đám, Don Tomás,” Fermín nhận xét. “Tôi hy vọng ít nhất cậu cũng uống một tách cà phê chứ?”

“Tôi không từ chối đâu,” Tomás nói với vẻ lạnh nhạt thường thấy.

Fermín rót cho cậu ấy một tách cà phê pha sẵn từ ấm giữ nhiệt. Nó toát ra mùi rất giống rượu anh đào.

“Có chuyện gì vậy?” tôi hỏi.

Tomás nhún vai. “Chẳng có gì mới. Bố tớ lại có một ngày thịnh nộ, và tớ nghĩ nên ra khỏi nhà kiếm chút không khí trong lành.”

Tôi nhấp một ngụm. “Sao thế?”

“Có Chúa biết. Tối qua Bea về nhà rất muộn. Bố tớ thức đợi nó, rồi một trận đòn như mọi khi. Nó không chịu nói đã ở đâu hay với ai, làm bố tớ phát điên. Ông gào lên và chửi mắng đến tận bốn giờ sáng, chửi nó đủ các thứ, mà đĩ thõa là từ nhẹ nhất. Ông thề sẽ đưa nó vào tu viện và nếu nó quay về mà có mang thì ông sẽ tống cổ nó ra đường.”

Fermín nhìn tôi cảnh tỉnh. Những giọt mồ hôi lăn xuống lưng tôi dần lạnh hơn.

“Sáng nay,” Tomás nói tiếp, “Bea giam mình trong phòng, và cứ ở như vậy cả ngày. Bố tớ ngồi lì trong phòng ăn để đọc báo và nghe nhạc kịch trên đài, vặn to hết cỡ. Trong phút tạm nghỉ của vở Luisa Fernanda, tớ phải ra khỏi nhà vì tớ sắp phát điên mất.”

“À, có lẽ em gái cậu ra ngoài cùng vị hôn phu, cậu không nghĩ vậy sao?” Fermín chọc vào. “Chuyện đó hoàn toàn tự nhiên thôi.”

Tôi đưa chân dưới gầm đá Fermín, nhưng anh ta nhanh nhẹn tránh được.

“Hôn phu của nó đang làm nghĩa vụ quân sự,” Tomás nói. “Phải hai tuần nữa cậu ta mới được nghỉ phép. Với cả, khi đi chơi với cậu ta thì muộn nhất là tám giờ nó về nhà.”

Tôi đưa chân dưới gầm bàn đá Fermín, nhưng anh ta nhanh nhẹn tránh

"Hôn phu của nó đang làm nghĩa vụ quân sự," Tomás nói. "Phải hai tuần nữa cậu ta mới được nghỉ phép. Với cả, khi đi chơi với cậu ta thì muộn nhất là tám giờ nó về nhà."

“Thế cậu có biết cô bé đi đâu hay với ai không?”

“Cậu ấy đã nói rồi là cậu ấy không biết, Fermín,” tôi xen vào, sốt sắng muốn đổi chủ đề.

“Bố cậu cũng không biết sao?” Fermín cứ nằng nặc, anh ta đang rất thích thú.

“Không. Nhưng ông ấy thề sẽ tìm ra và sẽ bẻ gãy chân đấm vỡ mặt hắn khi ông biết hắn là ai.”

Tôi cảm thấy mình tím tái đi. Fermín đưa cho tôi tách cà phê mà không hỏi trước. Tôi nốc sạch chỉ trong một ngụm. Nó có vị dầu diesel âm ấm. Tomás nhìn tôi nhưng chẳng nói gì – một cái nhìn tối tăm, không thể xuyên thấu.

“Các cậu có nghe thấy không?” Fermín đột nhiên hỏi. “Nghe như hồi trống của một gánh nhào lộn.”

“Không.”

“Này, bụng tôi đang sôi sùng sục. Tự nhiên tôi thấy đói khủng khiếp... Hai cậu có phiền nếu tôi để hai cậu ở đây và chạy ra hàng bánh kiếm chút gì ăn không? Đấy là chưa kể nhân viên bán hàng mới từ Reus đến: cô ta trông ngon đến nỗi mình chỉ muốn nuốt trộng. Cô ta tên María Virtudes, nhưng dù tên như vậy cô ta khá là hư hỏng... Như vậy tôi sẽ để các cậu nói chuyện của mình, được chứ?”

Trong vòng mười giây, Fermín diễn màn biến mất, đi kiếm đồ ăn và gặp cô nàng tươi trẻ. Còn lại tôi và Tomás, bao bọc trong bầu không khí nặng nề như đồng franc Thụy Sĩ. Sau vài phút tôi không chịu đựng nổi nữa.

“Tomás,” tôi mở đầu, miệng khô khốc. “Tối qua, em gái cậu đi cùng tớ.”

Cậu ta nhìn tôi chằm chằm không hề chớp mắt. Tôi nuốt khó nhọc. “Nói gì đi chứ,” tôi nói.

“Đầu cậu có vấn đề rồi

Một phút trôi qua, với tiếng xọt xoẹt vẳng tới từ ngoài phố. Tomás nâng tách cà phê nãy giờ cậu chưa hề chạm tới.

“Cậu nói thật chứ?”

“Tớ chỉ gặp cô ấy một lần thôi.”

“Đó không phải câu trả lời.”

“Cậu có phiền không?”

Cậu ta nhún vai. “Cậu nên biết cậu đang làm gì. Cậu sẽ thôi gặp nó vì tớ đề nghị như vậy chứ?”

“Ừ,” tôi nói dối. “Nhưng đừng đòi hỏi tớ như vậy.”

Tomás cúi xuống. “Cậu không hiểu Bea đâu,” cậu lẩm bẩm.

Tôi không đáp. Vài phút nữa trôi qua mà chúng tôi không ai nói gì, chỉ nhìn những bóng người xám xịt ngắm cửa kính bày hàng, chúng tôi ước gì một trong số đó sẽ quyết định đi vào và giải cứu chúng tôi khỏi sự yên lặng độc hại này. Sau một lúc Tomás bỏ tách cà phê nơi bàn mà đi ra cửa.

“Cậu về sao?”

Cậu gật đầu.

“Mai chúng ta gặp nhau một lúc được chứ?” tôi nói. “Chúng ta có thể đi xem phim, cùng với Fermín, như trước đây."

Cậu ta dừng lại nơi cửa. “Tớ chỉ nói với cậu một lần duy nhất, Daniel. Đừng làm tổn thương em gái tớ.”

Lúc ra ngoài, cậu ta đi qua Fermín đang trên đường về với một túi đầy bánh cuộn còn nóng hổi. Fermín thấy cậu ta đi vào màn trời nhá nhem, đầu lắc lắc. Anh ta để túi bánh lên bàn và đưa tôi một chiếc ensaimada vừa mới ra lò. Tôi từ chối. Tôi không thể nuốt nổi dù chỉ là một viên thuốc giảm đau.

“Cậu ấy sẽ vượt qua chuyện này thôi, Daniel. Rồi cậu sẽ thấy. Bạn bè với nhau cũng thường có những huyện như này.”

“Tôi không biết,” tôi lẩm bẩm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


FERMÍN VÀ TÔI GẶP NHAU lúc bảy giờ sáng Chủ nhật tại Canaletas Café. Fermín đãi tôi một ly cà phê và bánh mì trông như đá bọt, dù có bơ phết lên. Phục vụ chúng tôi là một tay bồi bàn đeo phù hiệu phát xít trên ve áo và để ria con kiến. Gã ta không ngừng hát ư ử một mình, và khi được hỏi tại sao lại có tâm trạng vui vẻ như vậy, gã giải thích là mới được làm cha từ hôm trước. Chúng tôi chúc mừng gã, và gã khăng khăng tặng mỗi chúng tôi một điếu xì gà để hút nhân dịp có đứa con đầu lòng. Chúng tôi nói là sẽ hút. Fermín cứ liếc nhìn gã luôn, rồi chau mày, tôi ngờ anh ta đang âm mưu gì đây.

Lúc ăn sáng, Fermín khởi động cuộc điều tra hôm nay bằng cách vạch ra những điểm chính của bí ẩn này.

“Tất cả bắt đầu từ tình bạn chân thành giữa hai cậu bé, Julián Carax và Jorge Aldaya, là bạn học từ l

úc còn nhỏ, giống như Don Tomás và cậu. Trong nhiều năm mối quan hệ này tốt đẹp. Những người bạn không chia cách nhau với cả cuộc đời trước mặt, và công việc. Tuy nhiên, xung đột thỉnh thoảng vẫn nảy sinh làm hỏng mối quan hệ này. Nói ngắn gọn theo cách nhà soạn kịch phòng trà, xung đột mang tên một người con gái: Penélope. Rất đậm chất Homer. Cậu có nghe không đấy?”

Điều duy nhất tôi nghĩ đến trong đầu là câu nói cuối cùng của Tomás đêm hôm trước ở hiệu sách: “Đừng làm tổn thương em gái tớ.” Tôi thấy buồn nôn.

“Năm 1919, Julián Carax bỏ đi Paris, theo phong cách Odysseus,” Fermín tiếp tục. “Bức thư, do Penélope ký tên, mà anh ta không bao giờ nhận được, xác nhận rằng cô gái bị nhốt trong nhà, một tù nhân của chính gia đình mình vì một lý do còn chưa rõ, và tình bạn giữa Aldaya và Carax kết thúc. Hơn nữa, theo Penélope, anh trai Jorge của nàng đã thề rằng nếu anh ta gặp lại bạn cũ Julián, anh ta sẽ giết anh chàng. Lời nói tàn nhẫn đánh dấu chấm hết một tình bạn. Không cần phải là Pasteur thì ta cũng đoán được rằng mối xung đột là hệ quả trực tiếp của quan hệ giữa Penélope và Carax

Mồ hôi lạnh rịn đầy trán tôi. Tôi có thể cảm thấy cà phê và mấy miếng bánh mình vừa nuốt vào chực trào lên họng.

“Tuy nhiên, chúng ta phải giả định rằng Carax không bao giờ biết được chuyện gì xảy ra với Penélope, bởi vì lá thư không đến được tay chàng. Anh chàng biến mất vào làn sương mù Paris, nơi chàng ta sống một cuộc đời vật vờ giữa công việc nhạc công dương cầm trong một câu lạc bộ tạp kỹ và sự nghiệp thê thảm là một tiểu thuyết gia thất bại. Những năm tháng ở Paris này là một ẩn số. Thứ duy nhất còn lại đến ngày hôm nay là một tác phẩm văn chương bị lãng quên gần như đã biến mất. Chúng ta biết rằng đã có lúc chàng ta quyết định kết hôn một mệnh phụ bí ẩn và giàu có, gấp đôi tuổi chàng. Bản chất của cuộc hôn nhân đó, nếu chúng ta chấp nhận lời của nhân chứng, dường như là một hành động từ thiện hoặc tình hữu hảo nhân danh một phụ nữ ốm đau hơn là vì tình yêu. Cho dù cậu có nhìn nhận nó trên khía cạnh nào, thì nhà bảo trợ nghệ thuật này, lo sợ cho tương lai tài chính của người được bảo trợ, đã quyết định để lại tài sản của mình cho anh ta và nói lời tạm biệt thế giới này bằng một cuộc mây mưa để tăng thêm phần cao quý cho mục đích của mình. Người Paris là như vậy.”

“Có lẽ đó là một tình yêu đích thực,” tôi gợi ý, giọng lí nhí.

“Này Daniel, cậu có ổn không đấy? Trông cậu tái quá, cậu đang vã mồ hôi như tắm ấy.”

“Tôi ổn,” tôi nói dối.

“Như tôi đã nói. Tình yêu giống như miếng thịt lợn: có miếng lườn và cũng có miếng mông. Mỗi phần có vị trí và chức năng riêng. Carax đã tuyên bố anh ta không xứng đáng với bất cứ tình yêu nào nữa, mà thật, như chúng ta biêt, không câu chuyện tình yêu lãng mạn nào được ghi nhận trong những năm anh ta ở Paris. Tất nhiên, làm việc trong một nhà chứa như vậy, có lẽ cái ham muốn bản năng của anh ta được thỏa mãn bằng cách kết thân với mấy cô ả ở đấy, như thể đó là một phần thưởng của công việc, có thể nói như vậy. Nhưng điều này hoàn toàn suy đoán. Chúng ta hãy quay lại thời điểm công bố hôn lễ giữa Carax và người bảo trợ. Đó là lúc Jorge Aldaya tái xuất trên bản đồ câu chuyện u ám này. Chúng ta biết anh ta đã liên hệ với nhà xuất bản của Carax ở Barcelona để tìm ra nơi ở của tiểu thuyết gia. Không lâu sau, vào buổi sáng ngày cưới của mình, Julián Carax đấu sung với một người chưa rõ danh tính tại nghĩa trang Père Lachaise, rồi biến mất. Lễ cưới không bao giờ diễn ra. Từ lúc ấy, mọi thứ trở nên rối rắm.

Fermín tạm dừng cho thêm phần xúc động, rồi nhìn tôi đầy bí ẩn. “Cứ cho là Carax qua khỏi biên giới nước Pháp, và, thêm một chiêu nữa cho thấy sự khôn ngoan khi lựa chọn thời điểm, quay trở về Barcelona năm 1936 ngay lúc cuộc nội chiến nổ ra. Anh chàng làm gì và ở đâu tại Barcelona trong những tuần này vẫn còn là ẩn số. Chúng ta cứ giả sử anh chàng ở trong thành phố một tháng và trong thời gian đó chàng ta không liên lạc với người quen. Cả người cha lẫn cô bạn Nuria Monfort cũng không nốt. Rồi người ta thấy anh chàng chết trên phố, bị kết liễu bởi một viên đạn. Không lâu sau, một nhân vật hiểm ác xuất hiện. Hắn ta tự xưng là Laín Coubert – cái tên hắn mượn từ tiểu thuyết cuối cùng của Carax – một kẻ có thể nói tóm gọn không gì khác hơn Hoàng tử Bóng đêm. Tên Ác quỷ này tuyên bố hắn sẵn sàng tiêu hủy chút chút ít ỏi còn lại của Carax và hủy diệt các quyển sách của anh chàng mãi mãi. Để kết thúc vở kịch bi tráng này, hắn xuất hiện như một người vô diện, khuôn mặt bị lửa hủy hoại. Một kẻ xấu xa trong một vở nhạc kịch gothic, để làm câu chuyện thêm phần rắc rối, Nuria Monfort tin rằng cô ta nhận ra giọng nói Jorge Aldaya.”

“Anh nên nhớ rằng Nuria Monfort đã nói dối tôi,” tôi nói.

“Đúng vậy. Nhưng thậm chí nếu Nuria Monfort nói dối cậu, cô ta hẳn đã có thể làm vậy một cách hiệu quả hơn bằng cách lờ đi và có khi còn tách hẳn mình ra không liên quan đến câu chuyện. Có rất ít lý do để nói sự thật, nhưng để nói dối thì hàng vô tận. Này, cậu có ổn không đấy? Mặt cậu như pho mát sữa dê ấy.”

Tôi lắc đầu và chạy vào nhà vệ sinh.

Tôi nôn hết bữa ăn sáng, bữa tối, và kha khá cơn tức giận trong mình. Tôi hứng nước lạnh rửa mặt, và nhìn bóng mình trong tấm gương mờ mà trên mặt gương ai đó đã nguệch ngoạc dòng chữ BỌN PHÁT XÍT ĐẦN ĐỘN bằng bút chì sáp. Khi quay lại bàn, tôi thấy Fermín đang ở quầy bar trả tiền và tán chuyện bóng đá với tay bồi bàn đã phục vụ chúng tôi.

“Ổn hơn rồi chứ?”

Tôi gật đầu.

“Đấy là do huyết áp cậu bị tụt,” Fermín nói. “Đây, làm một viên kẹo Sugus đi, chúng chữa được mọi thứ.”

Trên đường ra khỏi Fermín cứ nằng nặc đòi bắt taxi đến trường San Gabriel còn đi tàu điện ngầm thì để hôm khác, bảo rằng sáng nay trời đẹp như tranh cổ động và đường hầm chỉ dành cho lũ chuột thôi.

“Bắt taxi đến Sarriá mất khối tiền đấy,” tôi phản đối.

“Tiền đấy do Quỹ tiết kiệm của bọn ngu trả,” Fermín nói ngay. “Tay ái quốc kiêu căng ở quán phụ thối nhầm tiền cho tôi, mà chúng ta đang đi công chuyện. Còn cậu thì lại không được khỏe để đi tàu điện ngầm.”

Với món tiền không chính đáng ấy, chúng tôi nép vào một góc cuối phố Rambla de Cataluna đợi xe taxi. Chúng tôi phải để cho vài chiếc chạy qua, vì Fermín viện cớ anh ta hiếm khi nào đi ô tô nên ít nhất anh ta phải ngồi trên một chiếc như Studebaker. Phải mất đến mười lăm phút chúng tôi mới tìm được chiếc xe anh ta ưa thích, chiếc xe mà Fermín phải đón bằng cách vẫy vẫy tay như chiếc cối xay gió. Fermín nằng nặc đòi ngồi ghế trước, để cho anh ta có cơ hội được trò chuyện với bác tài xế về Joseph Stalin, là thần tượng và đấng dẫn dắt tinh thần của bác tài.

“Thế kỷ này có ba nhân vật vĩ đại: La Pasionaria[1], võ sĩ đấu bò siêu hạng Manolete, và Joseph Stalin,” bác tài xế tuyên bố, đã sẵn sàng chất vào tai chúng tôi cuộc đời của đồng chí thánh thiện kia.

[1. Có nghĩa Hoa lạc tiên, biệt danh của Dolores Ibárruri (1895-1989), một lãnh tụ của phe Cộng hòa trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha.]

Tôi ngồi khá thoải mái ở ghế sau, chẳng mấy quan tâm đến bài diễn thuyết nhạt nhẽo ấy, để mở cửa sổ và tận hưởng không khí trong lành. Sung sướng vì được ngồi trên một chiếc Studebaker, Fermín khuyến khích bác tài xế chuyện trò, thỉnh thoảng làm ngắt quãng câu chuyện tiểu sử đầy xúc động về lãnh tụ Xô viết bằng những chi tiết lịch sử còn tồn nghi.

“Tôi nghe nói ông ta bị rối loạn tuyến tiền liệt do nuốt phải hạt sơn trà, và giờ ông ta chỉ có thể đái nếu ai đó lẩm nhẩm hát Quốc tế ca cho ông ta,” anh ta nói.

“Đúng là luận điệu tuyên truyền của quân phát xít,” tài xế giải thích, sốt sắng hơn bao giờ hết. “Đồng chí ấy đái như bò ấy. Đến dòng Volga cũng phải ghen tị ấy chứ.”

Trường San Gabriel, mặt tiền gạch đỏ điểm những ô cửa sổ hình lưỡi dao găm, nằm giữa một khu rừng, ở cuối một con đường nhỏ quanh co dẫn ra đại lộ. Cả khối kiến trúc, bên trên chi chít những mái vòm và tháp, nhô lên trên những rặng cây tiêu huyền, trông giống một nhà thờ Gothic. Chúng tôi ra khỏi taxi và bước vào một khu vườn rậm lá, đây đó có những vòi phun nước có trang trí những tượng đúc thiên thần. Đây đó những con đường lát sỏi uốn giữa những hàng cây. Trên đường tới cổng chính, Fermín kể cho tôi về lịch sử ngôi trường này.

“Mặc dù có thể cậu trông nó giống như lăng mộ Rasputin, trường San Gabriel, trong thời huy hoàng, là trường học danh tiếng và chọn lọc bậc nhất ở Barcelona. Vào thời cộng hòa, nó bắt đầu xuống dốc bởi những kẻ mới phất đương thời, những nhà công nghiệp mới và chủ ngân hàng mà con cái không được chấp nhận vào trường vì tên họ của chúng nghe quá mới, đã quyết định thành lập trường riêng cho chúng, ở đó con cái họ được đối xử sùng kính hết mực và ở đó, đến lượt mình, họ có quyền không chấp nhận con cái những kẻ khác. Tiền cũng như bất cứ loại virus nào: một khi đã hủy hoại linh hồn của kẻ sở hữu nó, nó bắt đầu đi tìm nguồn máu mới. Trong thế giới này, tên họ tồn tại không lâu hơn quả hạnh bọc đường. Vào thời hoàng kim, chừng khoảng giữa năm 1880 và 1930, trường San Gabriel bắt đầu nhận con cái của những gia đình danh tiếng thời cũ nhưng lắm tiền nhiều của. Con cái nhà Aldaya và đồng đảng đến nội trú trường này, kết thân với những người ngang hàng, đi lễ mixa, và học về lịch sử của nó để có thể lặp lại cái quá trình ấy cho đến khi buồn mửa mới thôi.”

“Nhưng Carax không phải là con trai của một nhà giàu,” tôi nhận xét.

Đôi khi những cơ sở hào nhoáng này trao học bổng cho con của những người làm vườn, kẻ đánh giày để tỏ lòng hào hiệp cà từ thiện Cơ đốc,” Fermín đỡ lời. “Cách hữu hiệu nhất để làm cho người nghèo trở nên vô hại là dạy họ làm thân với người giàu. Đó là thứ thuốc độc mà chủ nghĩa tư bản dùng để làm mù quáng...”

“Thôi đừng có lôi học thuyết xã hội ra nữa, Fermín. Nếu một trong những ông thầy tu này nghe thấy anh nói, họ sẽ đá chúng ta ra khỏi đây.” Tôi nhận thấy trên đầu dãy bậc tam cấp dẫn đến cổng chính ngôi trường có vài cha đạo đứng đang quan sát chúng tôi với vẻ tò mò lẫn nghi ngại. Tôi tự liệu họ có nghe được chút gì cuộc trao đổi của chúng tôi không.

Một người trong số họ bước đến với nụ cười nhã nhặn, ông khoanh tay trước ngực như một giám mục. Ông ta hẳn mới ngoài năm mươi tuổi, vóc dáng thanh mảnh và mái tóc lưa thưa tạo cho ông dáng vẻ một con chim săn mồi. Ông có cái nhìn xuyên thấu, và toát lên mùi mước thơm và băng phiến.

“Xin chào. Ta là Cha Fernando Ramos,” ông nói. “Ta có thể giúp gì các con?”

Fermín đưa tay ra. Vị cha đạo liếc qua trước khi bắt tay, ông cười lạnh băng.

“Fermín Romero de Torres, cố vấn thư tịch cho tiệm sách Sempere và Con trai. Thật là một vinh hạnh to lớn được diện kiến đức Cha Tột bậc Tôn kính. Đây, bên cạnh con, là đồng nghiệp cũng là một người bạn, Daniel, một chàng thanh niên nhiều hứa hẹn và có những phẩm chất Cơ đốc.”

Cha Fernando nhìn chúng tôi không mảy may chớp mắt. Tôi chỉ muốn chui xuống đất cho xong.

“Tôi mới là người phải hân hạnh, thưa ông Romero de Torres,” Cha đáp thân tình. “Liệu tôi có thể hỏi duyên cớ nào khiến cho hai con người đáng nể trọng đến vậy tới thăm ngôi trường tầm thường này được không?”

Tôi quyết định can thiệp trước khi Fermín đưa ra lời nhận xét táo bạo nào nữa và chúng tôi sẽ sớm phải cuốn gói. “Thưa Cha Fernando, chúng con đang muốn tìm hiểu hai nam sinh của trường San Gabriel: Jorge Aldaya và Julián Carax.”

Cha Fernando mím môi và chau mày: “Julián đã chết cách đây mười lăm năm, và Aldaya đã sang Argentina,” ông nói lạnh nhạt.

“Cha có quen biết họ không?” Fermín hỏi.

Ánh mắt sắc sảo của cha đạo lần lượt nhìn chúng tôi trước khi ông trả lời. “Chúng ta là bạn học. Ta có thể hỏi vì sao con quan tâm đến vấn đề này không?”

Tôi đang băn khoăn làm thế nào để trả lời câu hỏi này, nhưng Fermín đã nhanh nhảu hơn. “Cha thấy đấy, thật tình cờ là chúng con đang sở hữu một số đồ vật thuộc về hoặc đã từng thuộc hai người họ - nhưng trong trường hợp này, giải thích pháp lý dẫn đến sự nhầm lẫn

“Về bản chất của những đồ vật ấy là gì, nếu các con không phiền cho ta hỏi?”

“Con xin đức Cha Cao cả chấp nhận sự im lặng của chúng con, vì Chúa biết rằng có hàng tá lý do liên quan đến lương tâm và bí mật vốn chẳng liên quan gì đến niềm tin tuyệt đối xứng đáng với đức Cha Cao quý, cũng như đấng mà Cha là đại diện với sự cao quý và sùng kính nhiệt thành nhường ấy,” Fermín bắn như súng liên thanh.

Cha Fernando tỏ vẻ bị chấn động. Tôi quyết định tiếp lời trước khi Fermín có thì giờ lấy lại hơi.

"Những đồ vật mà ông Romero de Torres đây nói là những vật dụng cá nhân, những đồ vật và kỷ niệm thuần túy mang giá trị tình cảm. Điều chúng con muốn hỏi, thưa Cha, nếu nó không quá phiền phức, là liệu cha có thể cho chúng con biết Cha còn nhớ gì về Julián và Aldaya hồi đi học hay không."

Cha Fernando vẫn nhìn chúng tôi đầy nghi ngờ. Rõ ràng những lời giải thích chúng tôi đưa ra không đủ biện minh cho mối quan tâm của chúng tôi ngõ hầu nhận được sự hợp tác của ông. Tôi vô vọng nhìn Fermín, cầu xin anh ta tìm ra một lý lẽ khôn lanh nhằm lấy lòng vị cha đạo.

“Con có biết trông con hơi giống Julián khi cậu ta còn trẻ không?” Cha Fernando bỗng nói với tôi.

Mắt Fermín sáng lên. Đây rồi, tôi nghĩ. Tất cả may mắn của chúng tôi nằm trong lá bài này.

“Cha thật là sắc sảo, thưa đức Cha Tôn kính,” Fermín kêu lên, giả vờ kinh ngạc. “Sự sáng suốt tột bậc của Cha đã lột mặt nạ chúng con một cách không chút thương tiếc. Rồi Cha sẽ trở thành một Hồng y, hoặc thậm chí là Giáo hoàng.”

“Anh đang nói gì thế?”

“Như vậy chưa rõ sao, thưa đức Thánh Cha?”

“Thẳng thắn mà nói là không.”

“Chúng con có thể tin vào độ kín đáo của buổi xưng tội không ạ?”

“Chỉ cần Cha ban cho chúng con sự thận trọng của Cha là đủ.”

“Các con có rồi đấy.”

Fermín hít một hơi thật sâu rồi nhìn tôi với một vẻ buồn bã. “Daniel, chúng ta không thể lừa dối chiến binh ngoan đạo của Chúa này được nữa.”

“Tất nhiên là không thể rồi...” tôi phối hợp, hoàn toàn mất phương hướng.

Fermín bước đến vị cha đạo mà thì thầm với vẻ bí mật, “Thưa Cha, chúng con có những cơ sở cực kỳ vững chắc để tin rằng anh bạn Daniel của chúng ta đây không ai khác đứa con trai bí mật của Julián Carax quá cố. Cho nên mối quan tâm của chúng con là dựng lại quá khứ của ông ấy và tìm lại ký ức về một con người lừng lẫy, một con người đã bị định mệnh cướp đi khỏi một đứa trẻ tội nghiệp.”

Cha Fernando dán ánh mắt kinh ngạc lên tôi. “Có đúng như vậy không?”

Tôi gật đầu. Fermín vỗ vào lưng tôi, mặt anh ta đầy buồn thảm.

“Nhìn cậu ta xem, cậu bé tội nghiệp, đang đi tìm một người cha đã mất trong đám sương mờ ký ức. Còn chuyện gì có thể buồn hơn? Thưa đức Cha Hết mực Thánh thiện, mong Cha nói con nghe.”

“Con có bằng chúng nào cho nhận định này không?”

Fermín nắm lấy cằm tôi và nâng mặt tôi chìa ra như một câu trả lời. “Còn bằng chứng nào mà cha đạo có thể đòi hỏi hơn cái khuôn mặt nhỏ bé này, nhân chứng câm lặng, không thể chối cãi về quan hệ cha con ấy?”

Vị cha đạo dường như vẫn do dự.

“Cha sẽ giúp chúng con chứ, thưa Cha?” tôi láu cá van xin. “Làm ơn...”

Cha Fernando thở dài khó chịu. “Ta không cho là có gì nguy hại trong chuyện này,” cuối cùng ông nói. “Các con muốn

“Tất cả,” Fermín nói.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


CHÚNG TÔI VÀO PHÒNG CHA FERNANDO, ở đó vị thầy tu truy hồi lại ký ức, dùng giọng điệu một bài giảng đạo. Ông đẽo gọt câu từ gọn ghẽ, đong đếm chúng theo một ngữ điệu dường như hứa hẹn một lời răn đạo đức mà mãi không thấy tới. Nhiều năm thuyết giảng đã khiến ông có được giọng điệu khỏe khoắn và mô phạm của một người quen được người khác lắng nghe, nhưng không chắc người nghe có chú tâm không.

“Nếu ta nhớ không nhầm, Julián Carax bắt đầu vào học ở San Gabriel năm 1914. Ta kết bạn với anh ta ngay từ buổi đầu, bởi cả hai chúng ta đều thuộc nhóm thiểu số những người xuất thân từ gia đình giàu có. Người ta gọi bọn ta là ‘Lũ Khố Rách Áo Ôm’ và mỗi người bọn ta đều có một hoàn cảnh riêng. Ta được học bổng là nhờ cha ta, ông làm việc trong bếp ăn của trường đã hai lăm năm. Julián được vào học là nhờ sự can thiệp của ngài Aldaya, một khách hàng của hiệu mũ Fortuny do cha Julián làm chủ. Đấy là một thời đại khác, tất nhiên, thời ấy

quyền lực vẫn tập trung trong một số gia đình và hoàng thân quốc thích. Thế giới đó đã tan biến – tàn dư ít ỏi còn sót lại cũng đã bị quét đi cùng với sự sụp đổ của nền Cộng hòa, vì điều tốt đẹp hơn, ta nghĩ vậy. Tất cả những gì còn lại chỉ là những cái tên trên đầu thư của các công ty, ngân hàng và tập đoàn vô diện. Giống như mọi thành phố cổ, Barcelona là tập hợp của những lụi tàn. Những vinh quang mà nhiều người lấy làm tự hào – những cung điện, nhà máy, công trình tưởng niệm, những biểu tượng tạo nên bản sắc của chúng ta – giờ chẳng còn gì hơn ngoài tàn tích của một nền văn minh đã tuyệt diệt.”

Đến đây, Cha Fernando dừng lại một lát trọng thể như đang chờ đợi giáo đoàn trả lời bằng một câu tiếng La tinh rỗng tuếch hoặc một câu phụ họa trong kinh sách.

“Amen, đức Cha Tôn kính. Vậy sự thật lớn lao nào đằng sau những lời thông thái ấy,” Fermín nói để che lấp sự yên lặng khó xử.

“Cha đang kể về năm đầu tiên của cha con ở trường,” tôi nhẹ nhàng nói thê

Cha Fernando gật đầu. “Hồi đó người ta đã gọi cậu ấy là Carax, mặc dù mang họ Fortuny. Lúc đầu một vài bạn học trêu chọc cậu ấy vì cái tên đó, và tất nhiên còn vì là một người trong nhóm Khố rách áo ôm nữa. Cũng như bọn trẻ từng cười nhạo ta vì ta là con trai ông đầu bếp. Các anh biết trẻ con thì thế nào rồi đấy. Trong sâu thẳm, Chúa đã ban sẵn cho chúng thiện tính, nhưng chúng cứ nhắc lại những điều được nghe ở nhà.”

“Những thiên thần bé bỏng,” Fermín nhấn mạnh.

“Cha còn nhớ gì về cha con?”

“À, chuyện đó đã lâu lắm rồi... Bạn thân nhất của cha con lúc ấy không phải Jorge Aldaya mà là một cậu bé tên Miquel Moliner. Gia đình Miquel cũng giàu có như nhà Aldaya, và ta dám chắc cậu ấy là học sinh ngông cuồng nhất từng học ở ngôi trường này. Ngài hiệu trưởng nghĩ cậu ấy bị quỷ ám bởi cậu đã trích lời Marx bằng tiếng Đức trong lễ mixa.”

“Dấu hiệu rõ ràng bị ám,” Fermín đồng tình.

“Miquel và Julián rất hợp nhau. Đôi khi ba người bọn ta đi với nhau trong giờ nghỉ ăn trưa và nghe Julián kể chuyện. Lúc khác cậu ấy kể về gia đình và về nhà Aldaya...”

Vị linh mục dường như ngần ngại.

“Sau khi tốt nghiệp, Miquel và ta vẫn giữ liên lạc. Lúc này Julián đã sang Paris. Ta biết Miquel rất nhớ cậu ấy. Miquel thường nói về cậu ấy, nhớ những bí mật Julián đã chia sẻ. Sau này, khi ta vào trường dòng, Miquel bảo rằng ta đã bước sang phe quân thù. Đấy chỉ là một câu nói đùa, nhưng sự thực là chúng ta đã xa rời nhau.”

“Cha có nghe nói Miquel kết hôn với một người tên Nuria Monfort?”

“Miquel kết hôn ư?”

“Cha thấy lạ lắm sao?”

“Lẽ ra không nên vậy, nhưng... ta không biết nữa. Sự thực là ta không biết tin tức gì của Miquel đã nhiều năm rồi. Từ trước thời chiến tranh.

“Ông ấy có bao giờ nhắc đến cái tên Nuria Monfort?”

“Không, không bao giờ. Cậu ấy cũng không bao giờ nói đang tính việc kết hôn hay là có vị hôn thê... Ta không dám chắc có nên kể cho các con nghe chuyện này không. Đây là chuyện đời tư của Julián mà Miquel đã kể cho ta, và ta hiểu rằng điều này cần được giữ kín.”

“Lẽ nào Cha định khước từ cái cơ hội duy nhất của một đứa con trai được biết về quá khứ cha ruột mình sao?” Fermín hỏi.

Cha Fernando bị giằng xé giữa ngờ vực và cái dường như là ước muốn nhớ lại, khôi phục lại những ngày đã mất ấy. “Ta cho rằng sau nhiều năm trôi qua, điều đó chẳng quan trọng nữa. Ta vẫn nhớ cái ngày Julián kể cậu ấy đã biết gia đình Aldaya thế nào và làm thế nào cuộc sống của cậu ấy thay đổi mãi mãi...”

***

... Một buổi chiều tháng Mười năm 1914, một cỗ máy mà nhiều người cho rằng là ngôi đền có bánh xe đã dừng lại trước cửa hiệu Fortuny trên Ronda de San Antonio. Từ xe bước ra là hình dáng của Don Ricardo Aldaya kiêu hãnh, oai nghiêm và ngạo mạn, lúc ấy đã là một trong những người giàu có nhất không chỉ ở Barcelona mà còn cả Tây Ban Nha. Đế chế vải sợi của ông ta đã chiếm những thành lũy công nghiệp và địa hạt thương mại dọc các dòng sông xứ Catalan. Tay phải ông ta nắm dây cương các ngân hàng và bất động sản của một nửa tỉnh này. Và tay trái ông, còn linh lợi hơn, giật dây hội đồng cấp tỉnh, tòa thị chính, các ban ngành, giáo phận và cơ quan hải quan.

Buổi chiều hôm ấy, người đàn ông có bộ râu rậm rạp, tóc mai như nhà vua, và cái đầu không mũ, con người mà ai cũng người e sợ, cần một chiếc mũ. Ông bước vào cửa hiệu của Don Antonio Fortuny, và, sau khi liếc nhìn thoáng qua cửa hiệu, ông ngờ vực nhìn ông làm mũ và người phụ việc, cậu bé Julián, rồi nói như sau: “Người ta bảo với tôi rằng, bất chấp cái vẻ bề ngoài, cửa hiệu này là nơi làm ra những chiếc mũ tốt nhất Barcelona. Mùa thu năm nay thật khó chịu, và ta sẽ cần sáu chiếc mũ chóp cao, một tá mũ quả dưa, mũ đi săn, và cái gì đó để đội tại Nghị viện ở Madrid. Các người nhớ chưa, hay cần ta phải nhắc lại?”

Đấy là điểm khởi đầu cho một quá trình gian khổ và bộn lời trong đó hai cha con hợp lực để hoàn thành đơn hàng cho Don Ricardo Aldaya. Nhờ đọc trên báo Julián biết rõ vị thế của Aldaya, ân vào thời điểm quan trọng và quyết định nhất trong công việc của cha mình, cậu tự nhủ không thể để ông thất bại được. Từ lúc nhà tư bản đặt chân vào cửa hàng, ông làm mũ ngất ngây vui sướng. Aldaya đã hứa nếu ông ta được hài lòng, ông ta sẽ giới thiệu cho tất cả bạn bè ông. Thế có nghĩa là cửa hàng mũ Fortuny, từ một cơ sở uy tín nhưng còn khiêm nhường, có thể với đến những giới cao nhất trong xã hội, làm ra những chiếc mũ lớn nhỏ cho các Nghị viên, Thị trưởng, đức Hồng y và giáo sĩ. Tuần hôm ấy dường như trôi qua trên một đám mây hạnh phúc. Julián nghỉ lớp và làm việc trong xưởng mũ mười tám đến hai mươi tiếng mỗi ngày. Cha cậu, lả đi vì vui sướng, thỉnh thoảng lại ôm cậu, và thậm chí không hề ngần ngại mà hôn cậu. Ông còn rộng lượng đến mức tặng cho vợ ông, bà Sophie, một chiếc váy và một đôi giày mới, lần đầu tiên trong mười bốn năm. Người ta không còn nhận ra ông bán mũ nữa. Một ngày Chủ nhật, ông quên đi nhà thờ, và chiều hôm đó, lòng đầy kiêu hãnh, ông ôm Julián mà nói, nước mắt rưng rưng, “Ông nội sẽ tự hào về chúng ta.”

Một trong những quá trình phức tạp nhất của nghề làm mũ, mà nay đã biến mất, cả về kỹ thuật lẫn sự khéo léo, là do kích thước. Don Ricardo Aldaya có cái hộp sọ mà theo Julián gần giống như hình quả dưa hấu và khá gồ ghề. Ngay khi ông nhìn thấy đầu của ông lớn kia là ông bán mũ đã hiểu được những khó khăn, và tối hôm đó, khi Julián nói rằng nó làm cậu nhớ tới đỉnh núi ở Montserrat, Fortuny không thể không đồng ý. “Bố ơi, con nói bằng tất cả lòng thành kính, bố biết rằng gì chứ đo đầu làm mũ thì con làm giỏi hơn bố, vì bố dễ bị hồi hộp lo lắng. Hãy để con làm cho.” Ông làm mũ đồng ý ngay, và ngày hôm sau, khi Aldaya đến trong chiếc Mercedes-Benz, Julián đón ông ta và dẫn vào cửa hàng. Khi Aldaya nhận ra rằng ông ta được một cậu nhóc mười bốn tuổi đo số mũ, ông ta nổi cáu. “Cái gì thế này? Một đứa trẻ con sao? Các người định cù chân ta đấy à?” Julián biết địa vị xã hội của khách hàng mình nhưng cậu không hề cảm thấy e sợ dù chỉ một chút, bèn trả lời, “Thưa ngài, cháu không biết gì về chân của ngài cả, nhưng chắc chắn không thể cù trên này được. Cái đỉnh đầu này giống như một trường đấu bò vậy, và nếu nhà cháu không nhanh chóng làm cho ngài một bộ mũ thì sớm muộn gì người ta cũng nhầm đầu ngài với sơ đồ đường phố Barcelona mất.” Khi nghe những lời ấy, Fortuny như muốn chui xuống đất. Aldaya không hề nao núng, cứ nhìn chằm chặp vào Julián. Rồi, trước sự ngạc nhiên của mọi người, ông ta cười phá lên như thể nhiều năm rồi không được cười.

“Thằng nhóc nhà ông sẽ tiến xa đấy, Fortunato,” Aldaya tuyên bố, vì ông ta không biết họ của người bán mũ.

Vì câu chuyện đó mà người ta hiểu ra rằng Don Ricardo Aldaya ngán đến tận răng cái sự e sợ và khúm núm của người khác đối với ông. Ông ta khinh miệt những kẻ bợ đít, hèn nhát, và bất cứ ai tỏ ra yếu đuối, dù về thể chất hay tinh thần hay đạo đức. Khi gặp một cậu bé tầm thường, gần như là đứa học việc, dám cả gan cười nhạo mình, Aldaya quyết định rằng ông đã đến đúng hàng mũ lý tưởng và ngay lập tức tăng gấp đôi đơn hàng. Tuần sau đó, ông ta vui vẻ xuất hiện đúng hẹn hằng ngày, để Julián có thể lấy số và thử các mẫu khác nhau cho ông. Antoni Fortuny ngạc nhiên, không hiểu làm sao ông vua xứ Calatan lại cười rũ rượi trước lời bông đùa và những câu chuyện được kể từ miệng con trai ông, đứa trẻ mà với ông thật xa lạ, cậu bé ấy không bao giờ ông nói chuyện và là người đã nhiều năm không hề tỏ dấu hiệu có khiếu hài hước. Vào cuối tuần, Aldaya kéo ông hàng mũ đến một góc cửa hiệu để chuyện riêng với ông.

“Nghe này Fortunato, con trai ông là một đứa có tài đấy, còn ông lại nhốt nó ở đây, khiến nó buồn chán, quét mạng nhện trong cái cửa hàng nhỏ bé này.”

“Công việc này rất tốt, thứ Don Ricardo, và nó có chút năng khiếu, dù nó thiếu nghị lực.”

“Thật vớ vẩn. Cháu nó học trường gì?”

“À, nó học trường khu vực...”

“Chẳng khác gì một dây chuyền sản xuất nhân công. Khi còn trẻ, thì tài năng – hay thiên tài, nếu ông muốn – phải được nuôi dưỡng, nếu không nó sẽ rối loạn và tàn phá con người sở hữu nó. Cháu nó cần được định hướng. Hỗ trợ. Ông có hiểu không, Fortunato?”

“Ngài lầm về con trai tôi rồi. Nó chẳng phải thiên tài gì sất. Môn địa lý mà nó cũng còn trầy trật mới qua nổi nữa là. Ông giáo bảo nó là đứa đoảng và có thái độ hư đốn, giống như mẹ nó. Nhưng ít nhất ở đây nó luôn có một công việc lương thiện và...”

“Fortunato, tôi thật chán ông quá. Ngay hôm nay, không chần chừ gì nữa, tôi sẽ đến trường San Gabriel để gặp ban tiếp nhận, và tôi sẽ cho họ biết rằng họ phải nhận con trai ông vào học cùng với lớp của thằng cả Jorge nhà tôi. Nếu không làm được như vậy thì tôi đây là kẻ chẳng ra gì.”

Ông bán mũ trố hết cả mắt. Trường San Gabriel là vườn trẻ cho con em giới thượng lưu.

“Không ai bắt ông phải trả gì hết. Tôi sẽ lo việc học cho con ông. Còn ông, là cha đứa bé, chỉ việc đồng ý.”

“Nhưng tất nhiên, hẳn rồi, nhưng mà...”

“Quyết như vậy nhé. Miễn là Julián đồng ý, tất nhiên.”

“Nó sẽ làm điều gì được bảo, hẳn rồi.”

Khi người lớn đang bàn chuyện, Julián vẫn chúi đầu ở phòng sau với khuôn mũ trong tay.

“Don Ricardo, khi nào ngài sẵn sàng...”

“Julián này, chiều nay cháu định làm gì?” Aldaya hỏi.

Julián hết nhìn cha lại nhìn ông trùm tư bản.

“Dạ, cháu giúp việc cho bố, ở cửa hàng.”

“Ngoài việc đó ra.”

“Cháu nghĩ sẽ đến thư viện...”

“Cháu thích sách à?”

“Vâng, thưa ngài.”

“Cháu đã đọc Conrad chưa? Đọc Tâm bóng tối chưa?”

“Ba lần rồi ạ.”

Ông bán mũ chau mày, hoàn toàn rối trí. “Thế cái gã Conrad này là ai vậy, ngài không phiều nếu tôi hỏi chứ?”

Aldaya khiến ông ta im lặng bằng cử chỉ như đang ở một cuộc họp cổ đông.

“Trong nhà ta có một thư viện với mười bốn ngàn cuốn sách, Julián. Khi còn trẻ, ta đọc sách rất nhiều, nhưng giờ ta không còn thời gian nữa. Nói ta mới nhớ, ta có ba cuốn do Conrad ký tặng cơ đấy. Con trai Jorge của ta thì lôi được nó vào thư viện còn khó. Trong nhà ta, đứa duy nhất biết suy nghĩ và đọc sách là con gái Penélope, nên tất cả những cuốn sách ấy đang bị bỏ phí. Cháu có muốn đi xem không?”

Julián gật đầu, không nói nên lời. Ông bán mũ quan sát cảnh tượng với một cảm giác khó chịu mà ông không thể diễn tả nổi. Những cái tên ấy xa lạ với ông. Tiểu thuyết, như mọi người đều biết, chỉ dành cho đàn bà và những kẻ vô công rồi nghề. Tâm bóng tối, với ông ta nghe như thể là một tội đáng chết.

“Fortunato, con trai ông sẽ đi với tôi. Tôi muốn nó làm quen với con trai tôi, Jorge. Đừng lo, chúng tôi sẽ trả nó về cho ông sau. Cậu bé hãy nói xem, cháu đã bao giờ ngồi trong một chiếc Mercedes-Benz chưa?”

Julián cho rằng đó là tên của cỗ máy to cồng kềnh và uy nghi mà nhà công nghiệp dùng để đi lại. Nó lắc đầu.

“Vậy thì đến lúc rồi. Giống như là lên thiên đường vậy, nhưng không cần chết.”

Antoni Fortuny nhìn họ đi trong chiếc xe xa hoa tột bậc kia, và khi ông tìm vào trong tim mình, ông chỉ thấy một nỗi buồn. Đêm hôm ấy, khi ăn tối với Sophie (bà đang mặc bộ váy mới, đi đôi giày mới và hầu như không có vết thâm hay sẹo nào), ông tự hỏi lần này ông đã mắc sai lầm ở đâu. Khi Chúa vừa trả lại cho ông đứa con trai, thì Aldaya lại mang nó đi.

“Cởi cái váy đó ra, con đàn bà kia, trông mụ như một con điếm. Và đừng để tôi thấy thứ rượu này trên bàn lần nữa. Cái thứ pha nước này cũng đủ rồi. Thói tham lam rốt cuộc sẽ hủy hoại tất cả chúng ta.”

Julián chưa bao giờ sang bên kia Đại lộ Diagonal. Những hàng cây kia, những dải đất trống, và những cung điện đang chờ đợi thành phố mở rộng là một ranh giới cấm. Bên kia ranh giới ấy là những làng nhỏ, những ngọn đồi, những chốn bí ẩn như huyền thoại của giới nhà giàu. Trong khi họ đi qua chúng, Aldaya nói với cậu bé về trường San Gabriel, về những người bạn mới Julián chưa bao giờ gặp, về tương lai mà cậu chưa bao giờ nghĩ là có thể.

“Cháu mong muốn điều gì, Julián? Ý ta là trong cuộc đời mình ấy.”>

“Cháu không biết. Đôi khi cháu nghĩ mình sẽ trở thành nhà văn. Tiểu thuyết gia.”

“Giống Conrad ư? Cháu còn trẻ lắm, tất nhiên. Vậy cháu nói xem, ngân hàng không thu hút cháu sao?”

“Cháu không biết, thưa ngài. Sự thực là trong đầu cháu còn không nghĩ đến nó. Chưa bao giờ cháu nhìn thấy nhiều hơn ba đồng peseta cả. Tiền nhiều đối với cháu là một bí ẩn.”

Aldaya bật cười. “Không có bí ẩn nào đâu, Julián. Thủ thuật ở đây không phải là để ba đồng peseta vào một chỗ, mà là ba triệu. Không có gì khó hiểu cả, ta đảm bảo với cháu. Không có Chúa ba ngôi nào hết.”

Chiều hôm đó, khi đi qua Đại lộ Tibidabo, Julián nghĩ cậu đang đi vào cửa thiên đường. Các dinh thự trông như những nhà thờ san sát hai bên đường. Đang đi, tài xế rẽ ngang, rồi họ qua cổng một dinh thự. Bỗng nhiên một đoàn người hầu chạy ra nghênh đón ông chủ. Điều duy nhất Julián có thể thấy là một ngôi nhà uy nghiêm, to lớn có ba tầng. Chưa bao giờ cậu bé nghĩ rằng người trần lại có thể sống ở những nơi như vậy. Cậu cứ để người ta dẫn đi qua hành lang, rồi đến một sảnh vòm, ở đó có một cầu thang đá cẩm thạch mọc lên, có trải thảm nhung, và cuối cùng là vào một căn phòng lớn chất đầy những sách, từ sàn nhà lên đến trần.

“Cháu nghĩ sao?” Aldaya hỏi.

Julián hầu như không nghe thấy gì.

“Damián, bảo Jorge xuống thư viện ngay.”

Chỉ cần nghe một mệnh lệnh của ông chủ, những kẻ hầu vô diện và lặng câm bèn lẩn đi ngay, với sự hữu hiệu và phục tùng như một bầy côn trùng được huấn luyện kỹ càng.

“Cháu sẽ cần những bộ quần áo mới, Julián ạ. Ngoài kia có rất nhiểu kẻ đần độn chỉ biết mỗi cái vẻ bề ngoài... Ta sẽ bảo Jacinta lo việc đó; cháu không phải lo. Và tốt nhất là cháu đừng nói gì với cha cháu, lỡ đâu việc đó sẽ làm ông ấy khó chịu. À, Jorge đến rồi. Jorge, ta muốn con gặp một cậu bé tuyệt vời, người sẽ là bạn học của con. Julián Fortu...”>

“Julián Carax,” cậu sửa lời.

“Julián Carax,” Aldaya hài lòng nhắc lại. “Ta thích nghe như vậy. Đây là con trai ta, Jorge.”

Julián đưa tay ra, và Jorge Aldaya bắt lấy. Cái bắt tay thờ ơ, lạnh nhạt, và khuôn mặt cậu ta có vẻ tai tái, giả tạo như thể lớn lên trong thế giới búp bê. Với Julián, quần áo và đôi dép cậu ta trông như trong tiểu thuyết. Đôi mắt cậu ta có vẻ hiên ngang và ngạo mạn, khinh thị và lịch sự đầy giả tạo. Julián mỉm cười, nhận thấy sự bất ổn, lo sợ và trống rỗng dưới cái vẻ phù phiếm và thỏa mãn ấy.

“Có thật là cậu chưa đọc bất cứ cuốn sách nào ở đây không?”

“Sách thật nhàm chán.”

“Sách như tấm gương: cậu chỉ nhìn thấy trong chúng những gì cậu đã có sẵn trong bản thân mình,” Julián trả lời.

Don Ricardo Aldaya lại cười. “Thôi, ta để hai đứa ở lại làm quen với nhau. Julián, cháu sẽ thấy rằng mặc dù trông có vẻ hư hỏng và kiêu ngạo nhưng dưới cái mặt nạ đó, Jorge không ngốc nghếch như vẻ bề ngoài đâu. Nó thừa hưởng nét gì đó của cha nó đấy.”

Lời của ông Aldaya như những con dao rơi xuống cậu bé, mặc dù nụ cười trên mặt nó không nhạt đi chút nào. Julián tiếc về câu trả lời của mình và cảm thấy muốn xin lỗi cậu ta.

“Hẳn cậu là con trai ông bán mũ,” Jorge nói, không hề ác ý. “Cha tớ nói về cậu suốt dạo gần đây.”

“Thật lạ thường. Tớ hy vọng cậu không vì thế mà có ác cảm với tớ. Dưới cái mặt nạ của kẻ lăng xăng biết tuốt, tớ không phải là đứa ngốc nghếch như vẻ bề ngoài đâu.”

Jorge mỉm cười với Julián. Julián nghĩ cậu ta cười theo cách cười của người không có bạn bè, với sự hàm ơn.

“Nào, tớ sẽ chỉ cho cậu xem căn nhà.”

Chúng b lại thư viện sau lưng mà bước về phía cửa chính, ra vườn. Khi chúng đi qua hành lang nơi cầu thang, Julián ngước nhìn lên và thoáng thấy một bóng người đang lên bậc, một tay bám thành vịn. Cậu cảm giác như mình lạc vào ảo ảnh. Cô bé hẳn chừng mười hai mười ba tuổi, đi cùng là một phụ nữ lớn tuổi, một người nhỏ nhắn má ửng hồng, có vẻ như chị nuôi. Cô bé mặc váy xa tanh màu xanh dương. Mái tóc cô bé màu hạnh đào, làn da trên vai và trên chiếc cổ thon thả dường như trong mờ. Cô bé dừng trên đỉnh cầu thang và khẽ quay lại. Lúc hai cặp mắt chạm nhau, cô bé thoỏng cười. Rồi cô bảo mẫu đặt tay lên vai cô bé, dẫn vào hành lang và họ biến mất. Julián nhìn xuống và cậu lại nhìn chằm vào mắt Jorge.

“Đấy là Penélope, em gái tớ. Cậu sẽ gặp nó sau. Nó khá kỳ quặc đấy. Nó đọc sách suốt ngày. Thôi nào, tớ cho cậu xem nhà nguyện ở tầng hầm. Đầu bếp bảo nó bị ma ám đấy.”

Julián ngoan ngoãn đi theo Jorge, nhưng cậu hầu như chẳng quan tâm gì khác. Giờ cậu đã hiểu. Cậu đã mơ về cô bé hàng tỉ lần, cũng trên cầu thang ấy, cũng với chiếc váy xanh ấy và cũng một cử động của đôi mắt màu xám tro ấy, không biết cô bé là ai và tại sao cô lại cười với cậu. Khi vào trong vườn, cậu để Jorge dẫn mình ra nhà xe, và sân quần vợt. Lúc này cậu mới quay lại và thấy cô bé đứng bên cửa sổ trên tầng hai. Cậu chỉ có thể nhận ra hình dáng cô bé, nhưng cậu biết cô đang mỉm cười với mình và bằng cách nào đó cô bé cũng nhận ra cậu.

Cái nhìn thoảng qua của Penélope Aldaya ở đỉnh cầu thang vẫn đọng lại trong cậu suốt mấy tuần đầu tiên ở trường San Gabriel. Thế giới mới không hoàn toàn như cậu muốn: học sinh trường San Gabriel cư xử như những công tử kiêu căng, hống hách, còn thầy cô thì như những kẻ hầu ngoan ngoãn có học thức. Người bạn đầu tiên mà Julián làm quen, ngoài Jorge Aldaya, là một cậu bé tên Fernando Ramos, con trai của người đầu bếp trong trường, cậu bé ấy chưa bao giờ tưởng tượng mình mặc áo thầy tu và dạy trong chính những lớp học nơi cậu đã trưởng thành. Fernando, mà các học sinh khác đặt cho biệt danh “thằng dọn bếp” và xem cậu như người hầu, là người thông minh lanh lợi, nhưng gần như không bạn bè gì với những học sinh trong trường. Người bạn duy nhất của cậu là một cậu bé lập dị tên Miquel Moliner, người nhanh chóng sẽ trở thành bạn thân nhất của Julián ở trường, Miquel Moliner, một cậu bé quá thông minh nhưng thiếu lòng kiên nhẫn, thích chọc tức thầy cô bằng cách chất vấn những lời của họ, sử dụng những lập luận thông minh thể hiện được cả sự khéo léo lẫn thói châm biếm cay độc của cậu. Những học sinh khác e sợ miệng lưỡi sắc sảo của cậu bé và xem cậu như một giống loài khác. Theo cách nào đó, nhận định này không hoàn toàn sai, bởi tuy mang dòng máu Bôhêmiêng và chất giọng quê mùa, Miquel là con trai của một doanh nhân làm giàu bất chính qua việc sản xuất vũ khí.

“Carax phải không? Tớ nghe đồn bố cậu làm mũ,” cậu ta nói khi Fernando Ramos giới thiệu chúng.

“Bạn bè gọi tớ là Julián. Còn tớ nghe đồn bố cậu làm đại pháo.”

“Thực ra là bố tớ bán thôi. Thứ duy nhất ông ấy biết làm ra là tiền. Các bạn của tớ, trong số những người ấy tớ có thể tin tưởng mỗi Nietzsche và Fernando đây, đều gọi tớ là Miquel.”

Miquel Moliner là một cậu bé u buồn. Cậu bị ám ảnh một cách bệnh hoạn về cái chết và về những chuyện tang tóc, một lĩnh vực mà cậu đã dành quá nhiều thời gian và tài năng của mình để suy ngẫm. Mẹ cậu mất ba năm trước do một tai nạn kỳ lạ trong nhà, mà tay bác sĩ ngu ngốc nào đó dám kết luận là tự sát. Chính Miquel đã phát hiện ra cái xác lấp loáng trong nước dưới giếng, trong căn nhà nghỉ hè của gia đình họ ở Argentina. Khi người ta dùng dây thừng kéo bà lên, họ thấy trong túi áo bà nhét đầy những hòn đá. Có cả một bức thư viết bằng tiếng Đức, tiếng mẹ đẻ của bà, nhưng ông Moliner, người không bao giờ bận tâm đến việc học ngôn ngữ kia, đã đốt nó đi ngay buổi chiều hôm ấy mà không cho ai đọc. Miquel Moliner thấy cái chết ở khắp nơi trên những chiếc lá rụng, ở những con chim rơi khỏi tổ, ở những người già, và trong cơn mưa cuốn phăng đi mọi thứ. Cậu bé có tài năng đặc biệt về hội họa và thường mải miết hàng giờ với những bức họa than chì trong đó một phụ nữ, mà Julián nghĩ là mẹ của Miquel, luôn xuất hiện trên nền sương mờ và bãi biển hoang vắng.

“Lớn lên cậu muốn trở thành người thế nào Miquel?”

“Tớ sẽ không bao giờ lớn,” cậu bé trả lời bí ẩn.

Sở thích chính của cậu, ngoài ký họa và phủ nhận mọi linh hồn sống, là các tác phẩm của một bác sĩ bí ẩn người Áo, người trong những năm sau này sẽ trở thành nổi tiếng: Sigmund Freud. Nhờ người mẹ đã chết của mình, Miquel Moliner đọc và viết tiếng Đức thành thạo, và cậu có một số sách của vị bác sĩ thành Vienna kia. Lĩnh vực yêu thích của cậu là lý giải những giấc mơ. Cậu có thói quen hỏi mọi người xem họ đã mơ thấy gì, và sau đó cậu sẽ chẩn đoán. Cậu luôn nói cậu sẽ chết trẻ và cậu chả bận tâm. Julián tin rằng, vì suy nghĩ quá nhiều đến cái chết, cậu ta rốt cuộc sẽ thấy cái chết nhiều ý nghĩa hơn cuộc sống.

“ tớ chết, những gì của tớ sẽ thành của cậu, Julián ạ,” Moliner nói. “Trừ những giấc mơ của tớ.”

Ngoài Fernando Ramos, Moliner và Jorge Aldaya, Julián cũng làm bạn với một cậu bé nhút nhát và khó gần tên là Javier, đứa con một của ông bảo vệ trường San Gabriel sống trong một căn nhà xoàng xĩnh ngay sát cổng vào vườn trường. Javier, giống như Fernando, bị những cậu bé khác trong trường coi không gì hơn tên hầu khó chịu, hay đi thơ thẩn một mình trong vườn và sân trường. Vì quá hay lang thang quanh trường nên nó biết mọi ngóc ngách của tòa nhà, từ những đường dưới tầng hầm cho đến các lối đi lên tòa tháp, và những chỗ ẩn nấp không ai còn nhớ tới nữa. Chúng là thế giới và chỗ nương náu của Javier. Nó luôn mang theo một con dao nhíp lấy trong ngăn tủ của ông bố, và nó thích dùng dao khắc những hình gỗ, rồi đem bỏ trong chuồng chim bồ câu trong trường. Cha nó, ông Ramón, người bảo vệ, là một cựu binh trong Chiến tranh Cuba, nơi ông đã đánh mất một bàn tay và (theo tin đồn ác ý) hòn bi bên phải, do một phát súng của chính Theodore Roosevelt trong một trận càn quét tại Vịnh Cochinos. Vì sợ nhàn cư vi bất thiện, “Ramón Một Bi” (đám con trai trong trường gọi ông ta như vậy) giao cho đứa con trai nhiệm vụ đi nhặt lá khô trong rừng thông và ở khoảng sân quanh đài phun nước. Ramón là người tốt, hơi thô lỗ và không biết cách chọn bạn, mà đặc biệt là chọn vợ. Ramón Một Bi lấy phải một mụ vợ phốp pháp, đần độn mang ảo tưởng mình là người cao sang và có dáng vẻ một ả hầu bếp, mụ thường ăn mặc hớ hênh trước mặt con trai và những cậu bé khác, một thói quen gây ra sự nhạo báng và trêu chọc không ngớt. Tên thánh của mụ là María Craponcia, nhưng mụ tự gọi mình là Yvonne, vì mụ nghĩ cái tên ấy nghe tao nhã hơn. Yvonne thường hỏi han con trai mụ về khả năng thăng tiến xã hội nhờ có đám bạn của cậu bé, vì mụ tin rằng nó đang giao du với tầng lớp tinh hoa của Barcelona. Mụ hỏi về gia sản của đứa này hoặc đứa kia, mường tượng ra cảnh chính mụ được mặc những thứ lụa là tốt nhất và được mời đến tiệc trà của giới thượng lưu.

Javier cố gắng càng ít ở nhà càng tốt và thấy vui vì những công việc bố nó giao, cho dù vất vả thế nào. Bất cứ lý do gì cũng tốt miễn là được ở một mình, để trốn vào thế giới bí mật của nó và để khắc hình gỗ. Khi đám học sinh thấy nó từ xa, một số đứa cười ồ lên hoặc lấy đá ném nó. Một ngày, Julián cảm thấy tội nghiệp nó khi cậu chứng kiến nó bị ném đá làm sướt trán và ngã soài lên đống gạch vụn, cậu liền quyết định đến giúp đỡ nó và đề nghị làm bạn. Lúc đầu, Javier nghĩ Julián đến để hoàn tất cái trò ác kia, trong khi những đứa khác đang cười phá lên.

“Tớ là Julián,” cậu nói, đưa tay ra. “Bọn tớ định đi chơi cờ trong rừng thông, tớ không biết cậu có muốn đi cùng không.”>

“Tớ không biết chơi cờ.”

“Tớ cũng vậy, mãi cho đến cách đây hai tuần. Nhưng Miquel là một thầy giáo rất cừ.”

Thằng bé nhìn Julián đầy nghi ngờ, nghĩ sẽ có một trò chơi khăm, một đòn tấn công bí mật, bất cứ lúc nào.

“Tớ không biết các bạn cậu có muốn tớ đi cùng không...”

“Họ muốn thế mà. Ý cậu sao?”

Từ ngày hôm đó, Javier thỉnh thoảng lại đi cùng chúng sau khi làm xong những công việc bố nó giao. Thường nó không nói gì, chỉ lắng nghe và quan sát những đứa khác. Aldaya có vẻ hơi sợ nó. Fernando, vốn cũng chịu sự tẩy chay của những đứa khác vì xuất thân tầm thường của mình, đã phá lệ mà đối xử tốt với cậu bạn mới. Miquel Moliner, người dạy nó những quy tắc cơ bản của cờ vua và quan sát nó với ánh mắt thận trọng, là đứa nghi ngờ nhiều nhất.

“Thằng này đúng là bị điên. Nó bắt mèo và bồ câu rồi dùng dao tra tấn chúng hàng giờ liền. Rồi sau đó đem chôn chúng trong rừng thông. Thật kinh tởm.”

“Ai nói như vậy?”

“Chính nó kể cho tớ nghe hôm trước khi tớ giải thích cho nó cách đi của quân mã. Nó còn bảo thỉnh thoảng mẹ nó chui vào giường sờ soạng nó.”

“Chắc nó trêu tức cậu thôi.”

“Tớ không tin. Trong đầu nó hẳn là bất thường, Julián, có lẽ không phải do lỗi của nó.”

Julián cố lờ đi lời cảnh báo và dự đoán của Miquel, nhưng quả thật cậu thấy khó mà kết bạn được với con trai ông bảo vệ. Yvonne đặc biệt không bằng lòng về Julián và Fernando Ramos. Trong số tất cả những đứa trẻ, chỉ hai đứa này là không một cắc dính túi. Mụ ta nghe nói cha Julián là chủ cửa hàng tầm thường, còn mẹ cậu chỉ là giáo viên dạy nhạc mà thôi. “Hạng người đấy làm gì có tiền, đẳng cấp, hay sự tinh tế, con yêu,” mẹ nó chỉ bảo. “Con nên làm bạn với Aldaya. Nó xuất thân từ một g tốt.” “Vâng, thưa mẹ,” thằng bé trả lời. “Mẹ nói sao cũng được.”

Thời gian trôi đi, Javier dường như bắt đầu tin vào những đứa bạn mới của mình. Thi thoảng nó lại nói đôi lời, và nó đang khắc một bộ quân cờ cho Miquel Moliner, để cảm ơn vì đã dạy nó chơi cờ. Một ngày, khi không có ai ngờ tới hay nghĩ là có thể có chuyện này, chúng phát hiện ra Javier biết cười và nó có nụ cười ngây thơ như một đứa bé.

“Cậu thấy không? Cậu ta bình thường đấy chứ,” Julián lập luận.

Miquel Moliner vẫn không chịu tin, và cậu quan sát thằng bé kỳ quặc với sự chăm chú nghiêm ngặt như đang làm khoa học.

“Javier bị ám ảnh về cậu đấy, Julián,” một ngày cậu bé nói với Julián . “Mọi thứ nó làm đều chỉ mong được cậu chấp thuận.”

“Thật vô lý! Cậu ta có bố mẹ để làm việc đó; tớ chỉ là một người bạn thôi.”

“Cậu đúng là vô trách nhiệm. Cha nó là một kẻ khốn khổ tội nghiệp, phải vất vả tìm lỗ đít khi ông ta cần đi ị, còn cái bà Yvonne đúng là một con mụ thô lậu óc bọ chét lúc nào cũng giả vờ như tình cờ bị mọi người bắt gặp trong lúc mụ đang thay đồ lót, tin rằng mụ ta là hiện thân của thần Vệ nữ hay cái gì đó tệ hơn nhiều mà tớ không muốn nói đến. Thằng con, khá hiển nhiên, đi tìm một người cha thay thế, và cậu, thiên thần cứu vớt, từ thiên đường rơi xuống chìa tay ra cho nó. Thánh Julián nhà Fountain, thánh bảo hộ những kẻ khổ hạnh.”

“Cái ông bác sĩ Freud đang đầu độc cậu rồi, Miquel. Tất cả chúng ta đều cần có bạn. Thậm chí cả cậu.”

“Nhưng thằng này không cần bạn và sẽ không bao giờ như vậy. Nó mang trái tim của một con nhện. Và nếu cậu không tin tớ, thời gian sẽ trả lời. Tớ không biết nó mơ thấy gì...?”

Miquel Moliner không thể biết rằng giấc mơ của Francisco Javier giống với giấc mơ của Julián bạn cậu hơn cậu tưởng. Một lần, vài tháng trước khi Julián bắt đầu đi học ở ngôi trường này, con trai ông bảo vệ đang nhặt lá khô ở khu vực đài phun nước thì chiếc ô tô sang trọng của Don Ricardo Aldaya đến. Chiều hôm đó, bản có người đi cùng. Tháp tùng ông ta là một ảo ảnh, một thiên thần ánh sáng mặc vải lụa dường như sắp sửa bay lên. Thiên thần ấy, không ai khác chính là Penélope, bước ra khỏi chiếc Mercedes và chạy đến một đài phun nước, khuơ khuơ chiếc ô và dừng lại lấy tay khoát nước trong hồ. Như mọi khi, cô bảo mẫu Jacinta đi theo sát cô bé, quan sát mọi cử chỉ dù là nhỏ nhất của cô bé. Nhưng ngay cả khi nếu có một đoàn người hầu bảo vệ cho cô bé thì cũng chẳng sao: Javier chỉ nhìn vào cô thôi. Nó sợ rằng nếu chớp mắt, cái ảo ảnh kia sẽ tan biến. Nó vẫn đứng đó, bất động, nín thở dõi theo ảo ảnh ấy. Không lâu sau, như thể cảm thấy sự hiện diện của nó và cái nhìn lén lút kia, Penélope ngước mắt lên nhìn thẳng nó. Vẻ đẹp trên khuôn mặt dường như khiến nó đau nhói và không chống cự nổi. Nó nghĩ nó đã thấy nét thoáng cười trên đôi môi cô bé. Quá sợ hãi, Javier chạy trốn lên đỉnh tháp nước, cạnh chuồng chim bồ câu trên gác tòa nhà, chỗ trốn ưa thích của nó. Tay nó vẫn run khi gom nhặt đồ nghề chạm khắc và bắt đầu tạo một hình tạc mới là khuôn mặt nó vừa nhìn thấy. Hôm ấy nó về nhà muộn hơn vài tiếng so với bình thường, mẹ nó đang lõa lồ bán thân, giận dữ ngồi chờ nó. Thằng bé cúi mặt, sợ rằng nếu mẹ nhìn vào mắt, mụ ta sẽ thấy cô bé bên hồ nước và biết nó đang nghĩ gì.

“Mày đã ở đâu, thằng cứt?”

“Con xin lỗi mẹ. Con bị lạc.”

“Mày đã bị lạc ngay từ ngày mày sinh ra rồi.”

Nhiều năm sau, mỗi khi nhét khẩu súng vào miệng một tù nhân và bóp cò, Chánh thanh tra Francisco Javier Fumero sẽ nhớ lại cái ngày hắn thấy đầu mẹ hắn vỡ tung như một quả dưa chín gần một quán bar ngoài trời ở Las Planas và hắn không cảm thấy gì hết, chỉ là sự chán ngắt của những thứ chết chóc. Chủ quầy bar nghe tiếng súng liền báo tin cho cảnh sát, rồi họ tìm thấy một đứa trẻ đang ngồi trên một tảng đá, trong tay cầm khẩu súng ngắn đang bốc khói. Nó dửng dưng nhìn cái xác không đầu của Maria Craponcia, còn gọi là Yvonne, bị côn trùng bu kín. Khi thấy cảnh sát đến, nó chỉ nhún vai, mặt bê bết máu, như thể bị bệnh đậu mùa tàn phá. Lần theo tiếng khóc, cảnh sát tìm thấy Ramón Một Bi đang ngồi cạnh cây thánh giá, cách đó chừng ba mươi thước, trong một bụi cây. Ông ta đang run như một đứa trẻ không thể nói năng rõ ràng. Viên trung úy cảnh sát, sau nhiều cân nhắc, đã báo cáo rằng sự việc này là một tai nạn thương tâm, và đã ghi trong kết luận điều tra như vậy, mặc dù điều đó trái lương tâm anh ta. Khi người ta hỏi đứa bé liệu họ có thể làm gì giúp được nó, Francisco Javier hỏi nó có thể giữ khẩu súng không, vì nó muốn khi lớn lên sẽ trở thành một người lí

***

“Anh có sao không, Romero de Torres?”

Sự xuất hiện đột ngột của Fumero trong câu chuyện của Cha Fernando Ramos khiến tôi choáng váng, nhưng hệ quả đối với Fermín mới thật rùng rợn. Trông anh ta trắng như tờ giấy, hai tay run bần bật.

“Huyết áp tôi giảm đột ngột thôi,” Fermín ứng biến một giọng lí nhí. “Thời tiết xứ Catalan này đúng là địa ngục đối với dân miền Nam chúng tôi.”

“Anh có muốn một cốc nước không?” vị thầy tu giọng lo lắng.

“Nếu đức Cha Cao cả không phiền. Và có lẽ một chút sô cô la nữa, để bổ sung đường, cha biết đấy...”

Vị thầy tu rót cho anh ta một cốc nước, Fermín liền uống đầy thèm khát.

“Ta chỉ có kẹo the thôi. Liệu có ích gì không?”

“Chúa phù hộ cho Cha.”

Fermín nuốt một nắm kẹo và sau một lúc dường như da mới trở lại trạng thái tự nhiên.

“Đứa trẻ này, con trai ông bảo vệ, người đã anh dũng mất đi một hòn bi để bảo vệ xứ thuộc địa, Cha có chắc tên là Fumero, Francisco Javier Fumero không?”

“Đúng. Ta dám chắc. Con biết hắn ta ư?”

Cha Fernando nhíu mày. “Ta cũng chẳng ngạc nhiên lắm. Đáng tiếc Francisco Javier lại trở thành một nhân vật xấu.”

“Chúng con không chắc hiểu ý Cha...”

“Các con hiểu đấy. Francisco Javier Fumero là chánh thanh tra của Đội điều tra Tội phạm Barcelona và được biết đến rộng rãi. Danh tiếng của hắn ta đã vươn đến tận chúng tôi, những người chưa bao giờ rời khỏi ngôi trường này, và ta dám chắc rằng khi nghe tên hắn, các con đã rúm người lại đôi”

“Cha đã nói như vậy, thưa đức Cha Tôn kính, cái tên ấy cũng gợi chút gì đấy...”

Cha Fernando liếc nhìn chúng tôi. “Cậu bé này không phải con trai của Julián Carax. Có đúng không?”

“Là con tinh thần thôi, thưa đức Cha Thanh cao. Về mặt đạo đức, như thế đúng hơn.”

“Các con đang dính vào chuyện gì vậy? Ai cử các anh đến?”

Lúc này, tôi đoan chắc chúng tôi sắp bị đuổi ra khỏi văn phòng của vị thầy tu, tôi bèn quyết định cho Fermín im lặng, và lần này sẽ đánh bài ngửa.

“Cha nói đúng, thưa Cha. Julián Carax không phải cha đẻ của con. Nhưng không ai cử chúng con đến đây cả. Nhiều năm trước đây, con tình cờ tìm thấy cuốn sách của Carax, một cuốn sách được cho là đã biến mất, và từ lúc ấy, con đã cố tìm hiểu thêm về ông ấy và làm rõ hoàn cảnh cái chết của ông ấy. Romero de Torres đã giúp con...”

“Cuốn sách nào?”

“Bóng hình của gió. Cha đã đọc chưa?”

“Ta đã đọc tất cả tiểu thuyết của Julián.”

“Cha còn giữ chúng không?”

Vị tu sĩ lắc đầu.

“Con có thể hỏi Cha đã làm gì với chúng không?”

“Nhiều năm trước, có người đã lẻn vào phòng ta và đốt chúng rồi.”

“Cha có nghi cho ai không?”

"Tất nhiên. Ta nghi là Fumero. Đấy không phải là lý do con đến đây sao?”

Fermín và tôi nhìn nhau bối rối.

“Thanh tra Fumero ư? Tại sao ông lại muốn đốt những cuốn sách ấy?”

“Còn ai nữa? Trong những năm cuối học chung ở trường, Francisco Javier đã cố giết Julián bằng khẩu súng ngắn của cha hắn. Nếu Miquel không ngăn hắn lại...”

“Tại sao hắn muốn giết Julián? Julián là bạn thân nhất của hắn mà.”

“Francisco Javier bị ám ảnh về Penélope Aldaya. Không ai biết điều này. Ta nghĩ thậm chí Penélope còn không biết đến sự tồn tại của hắn. Hắn giữ bí mật này trong nhiều năm. Rõ ràng hắn thường bí mật dõi theo Julián. Ta nghĩ có ngày hắn thấy Julián hôn Penélope. Ta không biết. Điều ta biết là hắn cố giết Julián ngay giữa thanh thiên bạch nhật. Miquel Moliner, người không bao giờ tin Fumero, đã lao mình vào Fumero cố ngăn hắn vào phút chót. Vết sâu do viên đạn gây ra vẫn nhìn thấy được ngay ở cổng vào. Mỗi lần đi qua đó, ta vẫn nhớ cái ngày ấy.”

“Chuyện gì đã xảy ra với Fumero?”

“Hắn và gia định bị tống cổ khỏi trường. Ta nghĩ Francisco Javier bị đưa vào trường nội trú một thời gian. Chúng ta không nghe tin gì về hắn nữa mãi cho đến vài năm sau đó, khi mẹ hắn ta bị chết trong một tai nạn đi săn. Không hề có một tai nạn như vậy. Francisco Javier Fumero là kẻ giết người.”

“Nếu con nói với Cha...” Fermín lí nhí.

“Cũng không tệ nếu các con nói với ta điều gì đó, nhưng lần này để đổi gió hãy nói điều gì có thật đi.”

“Chúng con có thể nói với Cha rằng Fumero không phải là người đốt sách của Cha.”

“Vậy thì là ai?”

“Nhiều khả năng đó là một người đàn ông có khuôn mặt bị lửa làm biến dạng, người tự xưng là Laín Coubert.”

“Có phải đó là...?”

Tôi gật đầu. “Tên một nhân vật của Carax. Tên ác quỷ.”

Cha Fernando dựa người vào thành ghế, cũng bối rối như chúng tôi.

“Điều dường như ngày càng rõ ràng là Penélope Aldaya là trung tâm của câu chuyện này, và cô ấy là người chúng ta biết ít nhất,” Fermín nhận xét.

“Ta e không thể giúp gì các con được. Ta ít khi nào thấy cô ấy, nếu có chăng thì cũng chỉ từ xa, hai ba lần gì đấy. Ta biết gì về cô ấy là qua Julián kể, cũng không nhiều nhặn gì. Một người khác có vài lần nhắc đến Penélope là Jacinta Coronado.”

“Jacinta Coronado ư?”

“Bảo mẫu của Penélope. Bà ấy đã nuôi dạy Jorge và Penélope. Bà ta yêu chúng điên dại, đặc biệt là Penélope. Đôi khi bà ấy đến trường đón Jorge, vì Don Ricardo Aldaya muốn con cái của ông ta bị giám sát mọi lúc bởi một người trong nhà ông. Jacinta là một thiên thần. Bà nghe nói cả Julián lẫn ta xuất thân từ những gia đình tầm thường, nghĩ rằng chúng ta đói lắm, nên chiều chiều bà ấy luôn mang cho chúng ta chút đồ ăn. Ta bảo bà ấy rằng cha ta làm đầu bếp nên bà không phải bận tâm, ta chưa bao giờ thiếu ăn. Nhưng bà cứ khăng khăng. Đôi khi ta chờ được nói chuyện với bà. Bà ấy là người tốt nhất ta từng gặp. Như ta biết, bà không có con cái hay bạn trai. Bà cô đơn trong thế giới này và dành hết cuộc đời cho những đứa con của Aldaya. Bà tôn sùng Penélope. Bà nói chuyện về cô ấy...”

“Cha vẫn liên lạc với Jacinta chứ?”

“Thỉnh thoảng ta đến thăm bà ấy ở nhà dưỡng lão Santa Lucía. Bà ấy không còn ai thân quen. Vì những lý do chúng ta không thể hiểu được, không phải lúc nào Chúa cũng tưởng thưởng cho chúng ta khi chúng ta còn sống. Jacinta giờ rất già và đơn độc như suốt đời bà vẫn vậy.”

Fermín và tôi nhìn nhau.

“Thế còn Penélope? Cô ấy có bao giờ đi thăm Jacinta không?”

Đôi mắt Cha Fernando tối sầm lại, không thể xuyên thấu. “Không ai biết đã có chuyện gì với Penélope. Cô gái đó là cả cuộc đời Jacinta. Khi nhà Aldaya bỏ đi châu Mỹ và bà mất cô ấy, bà ấy mất tất cả.”

“Tại sao họ không mang bà ấy theo?ó đi Argentina cùng gia đình Aldaya không?” tôi hỏi.

Vị cha đạo nhún vai. “Ta không biết. Không ai gặp lại Penélope hay nghe tin gì về cô ấy sau năm 1919.”

“Năm Carax sang Paris,” Fermín nhận xét.

“Các anh phải hứa với tôi là sẽ không đến làm phiền bà cụ tội nghiệp và bắt bà ấy đào bới những ký ức đau buồn.”

“Cha xem chúng con là hạng người nào?” Fermín hỏi, giọng tức tối.

Ngờ rằng ông chẳng moi thêm được gì từ chúng tôi, Cha Fernando bắt chúng tôi hứa phải báo ông ấy biết bất cứ điều gì tìm hiểu được. Để đảm bảo cho ông, Fermín nhất quyết thề trước cuốn Tân ước đang nằm trên bàn thờ vị cha đạo.

“Để Kinh sách yên đó. Lời của các anh là đủ rồi.”

“Đúng là không có gì qua mặt được Cha, đúng không thưa Cha? Cha sắc sảo kinh người ấy.”

“Thôi thôi, để tôi tiễn các anh ra cửa.”

Ông dẫn chúng tôi qua khu vườn cho đến khi chúng tôi đến cổng rồi ông dừng lại ở một khoảng cách hợp lý, nhìn ra con đường chạy dài xuống thế giới thực, như thể ông sợ sẽ bị bốc hơi mất nếu ông liều lĩnh bước ra xa hơn. Tôi tự hỏi lần cuối cùng Cha Fernando rời khỏi khuôn viên trường là bao giờ.

“Ta đã rất buồn khi biết tin Julián chết,” ông nói dịu dàng. “Bất kể những gì xảy ra sau đó và bất kể chúng ta đã rời xa nhau theo thời gian, chúng ta đã là bạn tốt: Miquel, Aldaya, Julián và bản thân ta. Thậm chí cả Fumero. Ta luôn nghĩ chúng ta sẽ không bao giờ chia cách được, nhưng cuộc đời hẳn biết những điều mà chúng ta không biết. Ta không bao giờ có những người bạn như họ nữa, và ta không tưởng tượng sẽ còn có thể. Ta hy vọng con sẽ thấy những gì con đang tìm kiếm, Daniel.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


GẦN GIỮA BUỔI SÁNG, chúng tôi đến đường La Bonanova, mỗi người đắm chìm trong ý nghĩ của riêng mình. Tôi dám chắc ý nghĩ của Fermín đang hướng về cái vẻ độc ác của Thanh tra Fumero trong câu chuyện. Tôi liếc nhìn, và nhận thấy anh ta bị nỗi lo sợ xâm chiếm. Một dải mây đỏ sẫm vắt ngang bầu trời, đây đó ló ra những mảng sáng màu lá rơi.

“Nếu không nhanh lên, chúng ta sẽ mắc một trận mưa như trút đấy,” tôi nói.

“Chưa đâu. Những đám mây kia trông như ác mộng thôi, như vết thâm tím vậy. Phải một lúc lâu nữa.”

“Đừng bảo anh cũng là chuyên gia về mây đấy, Fermín.”

“Sống ngoài đường nhiều cũng có tác dụng phụ về mặt hiểu biết. Này, cứ nghĩ đến tay Fumero là bụng tôi lại cồn cào lên. Cậu có phản đối nếu chúng ta ghé vào một quán bar ở Plaza de Sarriá để làm hai cái bánh kẹp thật lớn nhân ốp lết

trộn rau không?”

Chúng tôi bước vào quảng trường, nơi một nhúm các ông già thẩn thơ quanh đàn chim bồ câu, cuộc sống của họ giờ chỉ còn một lễ nghi rải những mảnh vụn thức ăn rồi đợi. Chúng tôi ngồi xuống một bàn gần cửa, và Fermín ngấu nghiến hai chiếc sandwich, suất của anh ta và cả của tôi, một vại bia, hai thanh sô cô la, và ba tách cà phê đặc có pha rum và đường. Còn món tráng miệng, anh ta dùng kẹo Sugus. Một người ngồi ở bàn bên cạnh liếc nhìn Fermín qua tờ báo, có lẽ cũng nghĩ đúng cái điều tôi đang nghĩ.

“Tôi không hiểu làm sao anh tiêu hóa hết, Fermín ạ.”

“Trong gia đình tôi, mọi người đều có hệ tiêu hóa rất tốt. Chị gái Jesusa của tôi, cầu Chúa phù hộ linh hồn chị ấy, có thể ăn sáu suất trứng ốp lết với khúc dồi vào giữa buổi chiều, rồi đến tối vẫn tọng như một tay Cô dắc. Tội nghiệp bà chị. Chị ấy giống y như tôi, cậu biết không? Cả khuôn mặt lẫn ngoại hình kinh điển, hơi gầy hơn. Một tay bác sĩ người Cácares có lần bảo mẹ tôi rằng gia đình Romero de Torres là mối liên hệ đã mất giữa loài người và loài cá nhám búa, vì chín mươi phần trăm cơ thể là sụn, chủ yếu tập trung ở mũi và tai ngoài. Trong làng thỉnh thoảng người ta nhầm Jesusa với tôi, vì ngực chị ấy không bao giờ nở cả và chị bắt đầu cạo râu còn trước cả tôi. Chị ấy chết v bệnh lao phổi năm hai hai tuổi, vẫn còn trinh đến cuối đời và âm thầm yêu một ông thầy tu mộ đạo, khi ông ta gặp chị trên đường, ông ta luôn nói, ‘Xin chào Fermín, cậu đang trở thành một anh chàng khá bảnh đấy.’ Đời thật mỉa mai.”

“Anh có nhớ họ không?”

“Gia đình tôi hả?”

Fermín nhún vai, nở nụ cười tiếc nhớ.

“Tôi biết gì chứ? Ít có thứ gì dễ đánh lừa ta hơn ký ức. Hãy nhìn ông cha đạo... Còn cậu? Cậu có nhớ mẹ cậu không?”

Tôi cúi mặt. “Rất nhiều.”

“Cậu có biết điều gì tôi nhớ nhất ở mẹ tôi không?” Fermín hỏi. “Mùi của bà ấy. Bà luôn có mùi tinh tươm, như một ổ bánh mì mới ra lò. Cho dù bà có làm việc ngoài đồng cả ngày hay có mặc cả tuần chiếc áo cũ sờn rách. Bà luôn toát lên mùi của những thứ tuyệt vời nhất trên đời. Tuy nhiên, bà hơi cục cằn. Bà luôn mồm chửi rủa, nhưng bà có mùi giống như một công chúa trong chuyện cổ tích. Hay ít nhất tôi nghĩ vậy. Còn cậu thì sao? Điều gì ở mẹ cậu khiến cậu nhớ nhất, Daniel?”

Tôi dè dặt một lúc, cố bấu víu những lời nói mà môi tôi không thể tạo ra.

"Không gì hết. Nhiều năm rồi tôi không thể nhớ được mẹ tôi. Tôi không thể nhớ khuôn mặt mẹ trông như thế nào, hay giọng nói bà hay mùi của bà. Tôi đã đánh mất chúng vào cái ngày tôi phát hiện ra Julián Carax, và chúng vẫn chưa quay trở lại."

Fermín thận trọng nhìn tôi, cân nhắc trả lời. “Cậu không có tấm ảnh nào của bà ấy sao?”

“Tôi không bao giờ muốn nhìn vào chúng,” tôi nói.

“Tại sao?”

Tôi chưa bao giờ nói với ai chuyện này, kể cả với cha tôi hay Tomás. “Vì tôi sợ. Tôi sợ nhìn vào một bức ảnh của mẹ tôi và nhận ra bà là một người xa lạ. Có lẽ anh nghĩ như vậy thật vô lý.”

Fermín lắc đầu. “Và đây l lý do cậu tin rằng nếu cậu làm sáng tỏ bí ẩn về Julián Carax và giải cứu anh ta khỏi sự lãng quên, thì khuôn mặt người mẹ sẽ trở về với cậu?”

Tôi nhìn anh ta. Không có một chút mỉa mai hay phán xét gì trên nét mặt anh ta. Trong chốc lát, Fermín Romero de Torres dường như trở thành người uyên bác minh mẫn nhất trên đời này.

“Có lẽ vậy,” tôi nói không suy nghĩ.

Vào giờ chính Ngọ, chúng tôi lên một chiếc xe buýt đưa chúng tôi quay về nội thành. Chúng tôi ngồi ghế trước, ngay sau tài xế, một tình huống được Fermín tranh thủ để đàm đạo với bác tài về nhiều tiến bộ, cả kỹ thuật lẫn thẩm mỹ, mà anh ta nhận thấy ở hệ thống giao thông công cộng kể từ lần cuối cùng anh ta sử dụng, khoảng năm 1940 - đặc biệt là những tấm biển chỉ đường, minh chứng là biển báo có dòng chữ NGHIÊM CẤM KHẠC NHỔ VÀ NÓI TỤC. Fermín nhìn thoáng qua cái biển và quyết định thừa nhận nó bằng cách sốt sắng khạc ra một bãi đờm. Điều này khiến chúng tôi phải hứng lấy cái nhìn chê bai của ba bà thánh thiện giống như một đội biệt kích ở cuối xe buýt, mỗi người ôm một cuốn kinh.

“Quân man rợ!” một tín đồ ở dãy ghế phía Đông lầm bầm, người rất giống chân dung chính thức của II Duce[1], nhưng có mái tóc xoăn.

[1. Biệt danh của Benito Mussolini (1883-1945), một chính trị gia, lãnh đạo đảng Quốc xã. Thủ tướng thứ 40 của nước Ý.]

“Họ đây rồi,” Fermín nói. “Tây Ban Nha của tôi có ba vị thánh. Thánh-thiêng-hơn-thánh-của-mày, Thánh Chết tiệt, và Thánh Mẹ kiếp. Nói nhỏ với anh thôi nhé, chúng ta đã biến đất nước này thành một trò hề.”

“Quá đúng,” tài xế đồng tình. “Vào thời Cộng hòa chúng ta sống tốt hơn. Nếu mà không nói đến giao thông. Nó thối quá.”

Một người đàn ông ngồi phía cuối xe buýt cười to, thích thú nghe cuộc trao đổi. Tôi nhận ra gã chính là người đã ngồi cạnh chúng tôi trong quầy bar. Nét mặt của gã dường như gợi ý rằng gã đứng về phe Fermín và gã muốn trông thấy Fermín cho đám bảo thù một trận ra trò. Chúng tôi thoáng nhìn nhau. Gã cười thân thiện với tôi rồi quay lại với tờ báo của mình. Khi chúng tôi đến phố Ganduxer, tôi nhận thấy Fermín đã cuộn người như quả bóng dưới chiếc áo khoác và đang đánh một giấc với cái miệng hở hoác, vẻ hạnh phúc ngây thơ hiện lên trên khuôn mặt anh ta.

Xe buýt đang lướt qua khu nhà giàu trên Paseo de San Gervasio thì Fermín choàng tỉnh dậy. “Tôi vừa mơ thấy cha Fernando,” anh ta nói. “Ngoại trừ chuyện trong mơ ông ấy mặc như một trung phong đội Real Madrid và có chiếc cúp vô địch bên cạnh sáng như Chén Thánh.”

“Như vậy là sao?” tôi hỏi.

“Nếu Freud đúng, điều này có thể là ông cha đạo đã cài cho chúng ta một mục tiêu.”

“Tôi nghĩ ông ấy là người trung thực đấy chứ.”

“Khá trung thực. Có lẽ trung thực quá mức cần thiết. Mọi thầy tu với vẻ bề ngoài thánh thiện cuối cùng đều nên bị điều đến những giáo xứ xa, để xem xem loài muỗi và cá hổ có kết liễu họ không.”

“Đừng cường điệu thế.”

“Cậu thật ngây thơ, Daniel. Cậu có khi còn tin vào chuyện tiên răng nữa ấy nhỉ. Thôi được, cho cậu một ví dụ nhé: câu chuyện loằng ngoằng về Miquel Moliner mà Nuria Monfort kể cho cậu nghe. Tôi nghĩ cô ả này nói dối còn trơ trẽn hơn là trang xã luận của tờ L’Osservatore Romano. Té ra cô ả kết hôn với một người bạn thời trẻ của Aldaya và Carax – chuyện đó có phải ngẫu nhiên không? Và trên hết, chúng ta biết câu chuyện về Jacinta, một bảo mẫu tốt, chuyện này có vẻ thật nhưng nghe quá giống cảnh cuối cùng trong một vở kịch của Alexandre Dumas Con. Đấy là chưa nói đến sự xuất hiện của Fumero trong vai trò tên du côn.”

“Vậy anh nghĩ là cha Fernando đã nói dối chúng ta?”

“Không. Tôi đồng ý là ông ấy có vẻ trung thực, nhưng sắc phục cũng góp phần đáng kể, và có lẽ ông ấy cũng giấu kín vài ora pro nobis[2] trong ống áo, nếu cậu hiểu ý tôi. Tôi nghĩ là nếu ông ấy nói dối thì đó là nhằm che giấu hoặc vì lý do tế nhị, chứ không phải do thù oán hay ác ý gì. Ngoài ra, tôi không nghĩ ông ấy đủ khả năng bịa ra một câu chuyện như vậy. Nếu giỏi nói dối hơn thì ông ấy sẽ không đi dạy đại số và tiếng La tinh đâu; hẳn giờ ông ấy đã lên chức Giám mục rồi, thành một vị Hồng y béo phệ cũng nên và đang ngồi chấm bánh xốp mềm vào tách cà phê.”

[2. Nghĩa l: Xin phù hộ chúng con.]

“Anh nghĩ chúng ta nên làm gì bây giờ?”

“Sớm muộn gì chúng ta cũng phải đào cái xác ướp của bà cụ thánh thiện kia mà lắc đến tận cổ chân xem có moi được gì không. Hiện giờ, tôi sẽ giật một vài đầu mối để xem có tìm hiểu được gì về Miquel Moliner không. Và không phải là ý tồi nếu để mắt đến ả Nuria Monfort kia. Tôi nghĩ ả ta đang cố tỏ ra vẻ cái thứ mà mẹ tôi gọi là cáo già gian ác đấy.”

“Anh hiểu nhầm cô ấy rồi,” tôi nói.

“Cậu được cho xem một bộ ngực đẹp và cậu nghĩ là mình vừa thấy Mẹ Teresa - ở tuổi như cậu thì có thể tha thứ nhưng không cách nào cứu chữa được. Để cô ta cho tôi, Daniel. Hương sắc của nữ tính bất diệt không còn làm tôi say đắm như nó đang thôi miên cậu. Ở tuổi tôi dòng máu chảy lên não được ưu tiên hơn dòng máu chảy xuống hạ bộ.”

“Xem ai đang nói kìa.”

Fermín móc túi ra đếm tiền.

“Anh lắm tiền nhỉ,” tôi hỏi. “Có phải tất cả đều nhờ vụ trả thừa tiền sáng nay không?”

“Một phần thôi. Phần còn lại là hợp pháp đấy. Hôm nay tôi định đưa Bernarda đi chơi, và tôi không thể từ chối người phụ nữ ấy bất kỳ điều gì. Nếu cần thiết, tôi sẽ ăn cướp Ngân hàng Trung ương Tây Ban Nha để chiều lòng mọi ý muốn bất chợt của cô ấy. Còn cậu? Cậu định làm gì hôm nay?”

“Không có gì đặc biệt.”

“Còn cô bé kia thì sao?”

“Cô bé nào?”

“Cái cô bé xinh xắn ấy. Cậu nghĩ là ai? Em gái Aguilar ấy.”

“Tôi không biết. Tôi không có dự định gì.”

“Cái cậu không có, nói toạc ra, là hai hòn đỏ lớn để dám nắm lấy sừng con bò.

Lúc ấy, tay soát vé tiến đến chúng tôi vẻ mặt mệt mỏi, miệng anh ta cứ tung tẩy que tăm, anh ta chọc chọc ngoáy ngoáy vào răng khéo léo như làm xiếc.

“Xin lỗi các anh, mấy cô ở kia đang muốn biết các anh có thể dùng ngôn ngữ đứng đắn hơn không.”

“Bảo họ đừng xía vào chuyện người khác,” Fermín lớn tiếng trả lời.

Tay soát vé quay mặt về phía ba bà kia mà nhún vai, để tỏ rõ ràng anh ta đã làm những gì có thể và không định tham gia vào một cuộc ẩu đả vì chuyện sử dụng từ ngữ thế nào cho nho nhã.

“Những kẻ không có cuộc sống thường chõ mũi vào cuộc sống của người khác,” Fermín nói. “Chúng ta đang nói chuyện gì nhỉ?”

“Về việc tôi thiếu can đảm.”

“Đúng vậy. Một ca điển hình. Cậu tin tôi đi, chàng trai. Cứ theo đuổi cô gái của cậu. Cuộc sống trôi đi nhanh lắm, đặc biệt là những cuộc đời đang sống. Cậu nghe vị thầy tu nói rồi đấy. Như một tia chớp.”

“Cô ấy không phải là cô gái của tôi.”

“À, vậy thì hãy làm cô ấy trở thành của cậu trước khi ai đó cướp cô ấy đi, đặc biệt là tay lính chì tí hon kia.”

“Anh nói như thể Bea là món giải thưởng vậy.”

“Không, như thể cô ấy là một diễm phúc,” Fermín sửa lại. “Này Daniel. Định mệnh thường ở ngóc ngách nào đó. Như một tên trộm, một ả điếm, hay một người bán vé số: ba hiện thân phổ biến nhất của nó. Nhưng điều định mệnh không làm là đến thăm tận nhà. Cậu phải tìm đến nó."

Từ đó cho tới hết chuyến đi, tôi cứ ngẫm nghĩ về ẩn dụ long lanh đó trong khi Fermín lại đánh thêm giấc nữa, một việc mà anh ta có tài năng sánh ngang Napoléon. Chúng tôi xuống xe ở góc phố giao nhau giữa Gran Vía và Paseo de Gracia dưới bầu trời xám xịt đã đánh cắp đi ánh sáng ban ngày. Cài áo mưa lên tận cổ, Fermín tuyên bố anh ta đang vội vã về nhà trọ, để trau chuốt chuẩn bị cho với Bernarda.

“Cậu phải hiểu rằng với vẻ bề ngoài khá khiêm tốn như tôi đây, làm đẹp phải mất tối thiểu tiếng rưỡi. Cậu sẽ không tiến xa được mà không có vẻ đẹp; sự thật phũ phàng của cái thời đại giả dối này là vậy đấy. Sự phù phiếm là tội lỗi của cuộc đời.”

Tôi nhìn anh ta đi xuống Gran Vía, chỉ còn hình dáng mờ ảo người đàn ông nhỏ bé chui trong chiếc áo mưa xám bay lật phật trong gió như một lá cờ rách bươm. Tôi đi về nhà, nơi tôi sẽ tìm một cuốn sách hay và giấu mình khỏi thế giới. Khi tôi rẽ nơi góc phố Puerta del Ángel và Santa Ana, tim tôi sững lại. Như mọi lần, Fermín đã đúng. Định mệnh đang chờ tôi ở trước cửa hàng, đang mặc chiếc áo len xám ôm người, đi đôi giày mới, và tất ni lông, đang ngắm hình chiếu của nàng trong ô kính bày hàng.

“Bố em nghĩ em đã đi lễ mixa buổi mười hai giờ," Bea nói, vẫn nhìn bóng nàng trong gương.

“Em cũng có thể đã ở đó. Có một buổi lễ liên tục từ lúc chín giờ sáng ở cách đây chưa đầy hai mươi thước, tại nhà thờ Santa Ana.”

Chúng tôi trò chuyện như hai người lạ ngẫu nhiên dừng lại trước cửa hiệu, tìm ánh mắt nhau qua ô kính.

“Thôi đừng đùa nữa. Em đã phải lấy tờ rơi của nhà thờ để xem bài giảng đạo nói gì đấy. Bố em sẽ vẫn hỏi chi tiết.”

“Bố em thì cái gì mà chả nghĩ.”

"Ông ấy thề sẽ bẻ gãy chân anh đấy."

“Trước khi làm được như vậy, ông ấy phải tìm ra anh là ai đã. Và trong khi chân anh còn lành lặn, anh có thể chạy nhanh hơn ông ấy.”

Bea đang nhìn tôi đăm đăm, liếc nhìn những người đang đi qua sau chúng tôi dưới màn trời xám xịt và lộng gió.

“Em không biết anh đang cười cái gì,” nàng nói. “Bố em nói thật đấy.”

“Anh có cười đâu. Anh sợ vãi ra ấy chứ. Anh mừng vì được gặp em

Một nụ cười lo lắng, thoảng qua. “Em cũng vậy,” Bea thú nhận.

“Em nói cứ như nó là một thứ bệnh ấy.”

“Còn tệ hơn thế. Em đã nghĩ nếu gặp lại anh vào ban ngày, biết đâu em sẽ tỉnh ra.”

Tôi không biết đấy là một lời khen hay trách móc.

“Không ai được thấy chúng ta ở bên nhau cả, Daniel ạ. Không phải thế này, trước bàn dân thiên hạ thế này.”

“Nếu em muốn, chúng ta có thể vào trong cửa hàng. Có một ấm cà phê ở phòng sau và...”

“Không. Em không muốn có ai nhìn thấy em ra vào nơi này. Nếu có ai bắt gặp em chuyện trò cùng anh, em luôn có thể nói là em tình cờ gặp bạn thân nhất của anh trai em. Nếu có người nhìn thấy chúng ta hơn một lần, thì điều đó sẽ gây nghi ngờ.”

Tôi thở dài. “Thế ai để ý chúng ta nào? Ai quan tâm việc chúng ta làm gì chứ?”

“Mọi người luôn để mắt đến những chuyện không phải của họ, và bố của em quen biết một nửa Barcelona này.”

“Vậy sao em đến đây đợi anh?”

“Em không đến đợi anh. Em đi nhà thờ, anh nhớ không? Chính anh đã nói vậy. Cách đây hai mươi thước...”

“Em làm anh sợ đấy, Bea. Em nói dối còn giỏi hơn cả anh.”

“Anh không biết em đâu, Daniel.”

“Anh trai em cũng nói vậy đấy.”

Ánh mắt chúng tôi gặp nhau trong gương.

“Đêm hôm trước anh đã cho em thấy điều mà em chưa bao giờ thấy trước đây,” Bea lẩm bẩm. “Giờ đến lượt em.

Tôi nhíu mày, bối rối. Bea mở túi, lôi ra một tấm thiệp gấp, đưa cho tôi.

“Anh không phải người duy nhất ở Barcelona biết những bí mật, Daniel. Em có một bất ngờ cho anh. Em sẽ đợi anh ở địa chỉ này vào hôm nay, lúc bốn giờ. Không ai được biết chúng ta định gặp nhau ở đó.”

“Làm sao em biết được anh sẽ tìm đúng địa chỉ?”

“Anh sẽ biết.”

Tôi thoáng nhìn nàng, cầu nguyện rằng nàng không đùa tôi.

“Nếu anh không đến, em sẽ hiểu,” Bea nói. “Em sẽ hiểu rằng anh không muốn gặp em nữa.”

Không cho tôi lấy một giây để trả lời, nàng quay mặt và vội vã bước xuống Ramblas. Tôi bị bỏ lại, cùng với tấm thiệp, lời nói của tôi vẫn treo trên đầu môi, tôi nhìn cho đến khi nàng khuất trong bóng đen nặng nề dự báo một cơn dông. Tôi mở tấm thiệp ra. Bên trong, chữ viết tay màu xanh, là địa chỉ tôi biết rất rõ.

Đại lộ Tibidabo, số 32
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


CƠN BÃO KHÔNG CHỜ TỚI LÚC SẨM TỐI MỚI XUẤT HIỆN. Vừa bắt kịp chuyến xe buýt tuyến 22, tôi đã giật mình vì những tia chớp đầu tiên. Khi xe qua Quảng trường Molina và tiến vào phố Balmes, thành phố đã bắt đầu nhòa đi sau bức màn nước như nhung, nhắc tôi nhớ mình còn không nghĩ đến cả việc mang theo ô.

“Tôi gọi đó là dũng cảm đấy,” ông soát vé nói khi tôi đề nghị dừng lại.

Chiếc xe buýt bỏ tôi xuống giữa chừng – đâu đó ở cuối phố Balmes – để hứng chịu cơn bão, lúc ấy đã hơn bốn giờ mười. Phía bên kia, Đại lộ Tibidabo biến mất trong làn nước ảo ảnh. Tôi đếm đến ba và bắt đầu chạy. Vài phút sau, nước ngấm tận xương và run cầm cập, tôi dừng chân trú dưới một vòm cửa để lấy hơi. Tôi nhìn kỹ phần còn lại của đoạn đường. Luồng gió bão lạnh căm che mờ đường nét ma mị của những dinh thự và những ngôi nhà lớn, mênh mông bị che phủ dưới làn nước. Trong đám ấy nổi lên cột tháp lẻ loi tối sầm của dinh cơ Aldaya, neo giữa những rặng cây xô đẩy. Tôi vuốt mái tóc ướt đầm che lấp mắt và bắt đầu băng qua đại lộ vắng người chạy đến đó.

Cánh cửa nhỏ lồng bên trong cổng đung đưa trong gió. Phía bên kia là lối dẫn đến tòa nhà. Tôi len qua cửa và đi thẳng vào trong. Qua những đám cây nhỏ, tôi có thể nhận ra những bệ tượng bị đổ xuống. Khi đến gần tòa nhà, tôi nhận thấy một trong các bức tượng, hình một thiên thần báo oán, bị vục sâu xuống đài phun nước giữa khu vườn. Màu đen đá cẩm thạch của bức tượng ánh lên vẻ ma quái dưới làn nước chảy tràn qua mép bể. Bàn tay của thiên thần hung dữ ấy trồi lên khỏi mặt nước; một ngón tay buộc tội, sắc như lưỡi lê, chỉ về cửa trước ngôi nhà. Cánh cửa sồi chạm khắc mở hé. Tôi đẩy cửa và đánh bạo vài bước vào hành lang sâu thẳm, những bức tượng trông lập lòe dưới ánh sáng yếu ớt của ngọn nến.

“Em đã nghĩ anh không đến,” Bea nói.

Hành lang bị bóng đen vây phủ, và dáng nàng nổi bật trên nền ánh sáng vàng vọt của một gian phòng đang mở cửa đằng xa. Nàng đang ngồi trên chiếc ghế dựa sát tường, một ngọn nến ở ngay chân nàng.

“Anh đóng cửa đi,” nàng nói với tôi mà không đứng lên. “Chìa khóa ở trong ổ.”

Tôi làm theo. Ổ khóa lách cách với một tiếng vọng chết chóc. Tôi nghe bước chân Bea tiến về phía tôi từ đằng sau và cảm thấy nàng đang chạm vào bộ đồ ướt sũng của mình.

“Anh đang run đấy. Vì sợ hay vì lạnh?”

“Anh không biết. Sao chúng ta ở đây?”

Trong bóng tối, nàng mỉm cười nắm tay tôi. “Anh không biết sao? Em cứ nghĩ anh đã đoán được...”

“Đây là nhà của gia đình Aldaya, anh chỉ biết vậy. Tại sao em vào được, và sao em biết...?”

“Đến đây nào, chúng ta sẽ đốt lửa để sưởi ấm anh đã.”

Nàng dẫn tôi qua hành lang đến gian phòng kia, nó chiếm ngự bên trên khoảng sân trong của ngôi nhà. Những cột đá và những bức tường trơ trọi của phòng khách vươn lên tận trần ô lõm đang rã ra từng mảnh. Có thể nhận ra những khoảng trống nơi trước kia từng treo những bức tranh và tấm gương, và có những dấu vết trên sàn đá cẩm thạch nơi trước kia từng đặt đồ đạc. Phía đầu kia căn phòng là lò sưởi cùng vài súc củi. Một chồng báo cũ nằm cạnh thanh cời. Không khí trong lò sưởi có mùi lửa và than còn mới. Bea quỳ xuống bắt đầu cho vài tờ báo vào giữa mấy súc củi. Nàng lấy diêm châm lửa, ngọn lửa nhanh chóng bùng lên, và nàng khơi củi đầy thành thạo. Tôi tưởng tượng nàng đang nghĩ rằng tôi đang đến chết vì hiếu kỳ và nôn nóng, nên tôi quyết định làm ra vẻ thờ ơ, để cho thấy rõ rằng nếu nàng muốn chơi trò bí ẩn với tôi, nàng sẽ chỉ nhận lấy phần bua mà thôi. Nhưng nàng nở nụ cười đắc thắng. Có lẽ bàn tay run rẩy của tôi không giúp tôi tròn màn kịch.

“Em có hay đến đây không?" tôi hỏi.

“Đây là lần đầu. Anh ngạc nhiên không?”

“Hơi chút.”

Nàng lấy trong túi vải ra một tấm chăn sạch rồi trải xuống. Tấm chăn toát mùi oải hương.

“Nào, anh ngồi xuống đây, cạnh đống lửa. Anh bị viêm phổi mất, và đó sẽ là lỗi của em.”

Hơi ấm bếp lửa làm tôi sống lại. Bea lặng lẽ nhìn ngọn lửa, như bị bùa mê.

“Em có định kể bí mật cho anh không?” cuối cùng tôi hỏi.

Bea thở dài đoạn ngồi lên một chiếc ghế. Tôi vẫn ngồi bên bếp lửa, ngắm làn hơi bốc lên từ quần áo mình trông như một linh hồn đang bỏ trốn.

“Cái mà anh gọi là dinh thự Aldaya thực ra có tên riêng của nó. Ngôi nhà này gọi là “Thiên thần Mù sương” nhưng hầu như không ai biết điều này. Đã mười lăm năm nay bố em cố bán tòa nhà này nhưng chẳng được. Hôm trước, khi anh kể cho em câu chuyện Julián Carax và Penélope Aldaya, em đã không nghĩ đến nó. Mãi sau này, lúc tối về, em xâu chuỗi các sự việc lại với nhau thì mới nhớ ra thỉnh thoảng có nghe bố nói về gia đình Aldaya, cụ thể là về ngôi nhà này. Hôm qua em đến văn phòng của bố, thư ký ông ấy, Casasús, đã kể cho em nghe chuyện ngôi nhà. Anh có biết đây không phải là chỗ ở chính thức của họ mà chỉ là nhà nghỉ hè không?”

Tôi lắc đầu.

“Nhà chính của gia đình Aldaya là một dinh thự bị đánh sập năm 1925 để xây một khu chung cư, tại vị trí giao nhau giữa phố Bruch và phố Mallorca hiện nay. Ngôi nhà đó được Puig i Cadafalch thiết kế, theo đặt hàng của ông nội Penélope và Jorge, ông Simón Aldaya, vào năm 1896, lúc ấy nơi đây chỉ là một cánh đồng có mương dẫn nước. Con trai cả của ông Simón trưởng tộc, Don Ricardo Aldaya, mua ngôi nhà nghỉ hè này vào đầu thế kỷ từ một nhân vật khá kỳ dị - với một mức giá lố bịch, vì ngôi nhà này vốn mang tiếng xấu. Casasús cho em hay là nó bị lời nguyền, ngay cả người bán cũng không dám nhắc đến và sẽ lẩn tránh đề tài này với bất cứ lý do cũ rích nào...”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


CHIỀU HÔM ẤY, khi tôi ngồi sưởi ấm bên bếp lửa, Bea kể tôi nghe câu chuyện làm thế nào Thiên thần Mù sương trở thành sở hữu của gia đình Aldaya. Nó có mọi đặc tính của một vở kịch ghê rợn mà rất có thể đã xuất hiện dưới ngòi bút của Julián Carax. Ngôi nhà được công ty kiến trúc Naulí, Martorell i Bergadà xây vào năm 1899 cho một nhà tài phiệt thành đạt và ngông cuồng người xứ Catalan tên là Salvador Jausà, ông này chỉ sống ở ngôi nhà ấy một năm. Nhà tài phiệt, vốn là trẻ mồ côi từ năm lên sáu và có xuất thân nghèo hèn, đã tích lũy nên núi tài sản chủ yếu từ việc làm ăn ở Cuba và Puerto Rico. Mọi người bảo ông ta là một trong những nhân vật ám muội đằng sau âm mưu dẫn đến sự sụp đổ của Cuba và cuộc chiến với Hoa Kỳ, trong cuộc chiến ấy người Mỹ mất nốt các thuộc địa cuối cùng. Ông ta mang từ Tân Thế Giới về còn hơn cả một đống tài sản: cùng với ông là một người vợ Mỹ - một cô gái mong manh thuộc giới quý tộc ở Philadelphia không hề biết một chữ Tây Ban Nha – và một cô hầu người lai đã phục vụ ông ta từ những năm đầu ông ở Cuba, cô này mang theo một con khỉ nhốt trong lồng ăn mặc giống anh hề, cùng bảy thùng hành lý. Ban đầu họ ở tại mấy phòng khách sạn Colón trong khi chờ mua được một chỗ phù hợp với khiếu thẩm mỹ và mong muốn của Jausà.

Không ai nghi ngờ dù chỉ một chút rằng cô hầu – một mỹ nữ có làn da gỗ mun, với đôi mắt và thânà, mà theo những trang báo lá cải, có thể làm nhịp tim rối loạn – trên thực tế là tình nhân của ông ta, người dẫn dắt ông ta vào vô vàn cuộc truy hoan trái luân thường đạo lý. Chẳng những vậy, người ta còn đồ cô ta là một ả phù thủy ghê gớm. Tên cô là Marisela, hoặc đó là cái tên mà Jausà gọi cô. Sự hiện diện và vẻ bí ẩn của cô chẳng bao lâu trở thành chủ đề bàn tán ưa thích tại các cuộc tụ họp những mệnh phụ giàu có bày ra để nếm thử món bánh bích quy cũng là để giết thì giờ và giết những buổi chiều thu buồn dài dặc. Tại bữa tiệc trà ấy người ta kháo nhau những tin đồn không ai kiểm chứng rằng người đàn bà ấy, như một ảo ảnh từ địa ngục, đã gian dâm trên người đàn ông kia, nghĩa là cưỡi lên ông ta như một con ngựa cái đang cơn, phạm đến ít nhất năm trong sáu đại tội được công nhận. Bởi thế nên, không dưới một người đã viết thư gửi đến ngài giám mục đề nghị ban phước và bảo vệ đặc biệt cho những linh hồn thanh khiết, chưa bị vấy bẩn của mọi gia đình khả kính ở Barcelona. Và trên tất cả, Jausà cả gan ngồi trên cỗ xe của ông ta vào những sáng Chủ nhật, cùng bà vợ và cô hầu Marisela, phô trương khung cảnh Babylon đồi bại này trước mắt bất cứ thanh niên đức hạnh nào tình cờ đang tản bộ dọc Paseo de Gracia trên đường đến dự lễ mixa lúc mười một giờ. Báo chí còn nhận xét vẻ kiêu kỳ của ả đàn bà cao lớn kia, ả nhìn công chúng Barcelona “như nữ chúa rừng xanh nhìn bầy người lùn.”

Lúc bấy giờ, cơn sốt chủ nghĩa hiện đại Catalan đang hoành hành ở Barcelona, nhưng Jausà đã tuyên bố rõ với nhóm kiến trúc sư tham gia xây dựng ngôi nhà mới của ông ta rằng ông muốn một cái gì đó khác biệt. Trong từ điển của ông ta “khác biệt” được là từ khen tụng ở mức cao nhất. Jausà đã mất nhiều năm dạo qua những dãy biệt thự theo phong cách tân Gothic thái quá mà các trùm tư bản của thời đại công nghiệp Mỹ xây trên Đại lộ Năm ở thành phố New York. Luyến tiếc những ngày vinh quang ở Mỹ, nhà tài phiệt từ chối lắng nghe bất cứ lập luận nào ngả về việc xây dựng theo xu thế đương thời, cũng như ông ta không chịu mua một lô trong nhà hát Liceo, được xây theo phong cách thời thượng, mà ông ta gọi là tháp Babel dành cho bọn điếc, cái tổ ong cho những kẻ đáng khinh. Ông ta muốn ngôi nhà của mình phải ở cách xa thành phố, tại một vùng hãy còn khá biệt lập trên Đại lộ Tibidabo. Ông muốn đứng từ xa nhìn vào Barcelona, ông nói. Công trình phụ cận duy nhất ông muốn là một khu vườn đầy các tượng thiên thần, mà theo chỉ thị của ông ta (do Marisela truyền đạt lại) phải được đặt trên các đỉnh của một ngôi sao sáu cạnh – không hơn, không kém. Quyết tâm thực hiện kế hoạch của mình, và với sáu két sắt đựng đầy tiền có thể thỏa mãn mọi ý muốn nhất thời của mình, Salvado Jausà cử kiến trúc sư đến New York trong ba tháng để nghiên cứu những cấu trúc thú vị đã làm nên những ngôi nhà như Commodor Vanderbilt, nhà Astor, Anderew Carnegie, và năm mươi gia đình giàu có còn lại. Ông ta chỉ cho họ phải đồng hóa phong cách và kỹ thuật của công ty Stanford White & McKim và cảnh cáo họ đừng c đến gõ cửa nhà ông ta với một dự án mà theo lời ông ta sẽ chỉ làm hài lòng những hạng “đồ tể và chế súng”.

Một năm sau, ba kiến trúc sư xuất hiện tại căn phòng xa hoa của ông ta ở Khách sạn Colón để trình bày đề xuất của họ. Jausà, cùng sự có mặt của cô gái Cuba Marisela, im lặng lắng nghe họ, và cuối buổi thuyết trình, hỏi họ phải mất bao nhiêu tiền để thực hiện công việc trong sáu tháng. Frederic Martorell, trưởng nhóm kiến trúc sư, liền hắng giọng và, đúng theo khuôn phép, viết con số lên một mảnh giấy, đưa cho nhà tài phiệt. Ông này, không hề chớp mắt, viết ngay một tấm séc với tổng số tiền đó rồi giải tán đoàn kiến trúc sư bằng một cử chỉ mơ hồ. Bảy tháng sau, vào tháng Bảy năm 1900, Jausà, vợ ông ta và cô hầu Marisela chuyển vào ngôi nhà. Đến tháng Tám, hai người phụ nữ kia chết, và cảnh sát tìm thấy Salvador Jausà mê man trần truồng, tay bị còng vào ghế nơi phòng làm việc. Báo cáo điều tra của tay hạ sĩ được giao xử lý vụ này nhận xét rằng tất cả các bức tượng trong nhà đều vấy máu, và các tượng thiên thần quanh vườn bị phanh thây – khuôn mặt chúng bị vẽ như mặt nạ của thổ dân – và dấu vết những cây nến đen được tìm thấy nơi bệ tượng. Cuộc điều tra kéo dài tám tháng. Lúc ấy Jausà đã rơi vào câm lặng.

Các cuộc điều tra của cảnh sát kết luận rằng mọi dấu hiệu cho thấy Jausà và vợ ông ta bị đầu độc bởi một thứ chiết xuất thảo dược mà Marisela đã cho họ uống, trong phòng của cô người ta tìm thấy đầy các loại chai lọ đựng thứ chất gây chết người kia. Vì lý do nào đó Jausà đã thoát khỏi vụ đầu độc, mặc dù hệ quả sau đó thật ghê rợn, vì ông dần dần mất đi khả năng nghe nói, một phần cơ thể ông ta bị bại liệt, và ông ta bị những cơn đau đớn khủng khiếp đến mức chúng buộc ông phải sống phần đời còn lại trong quằn quại triền miên. Người ta phát hiện bà Jausà trong phòng ngủ, nằm trên giường không mảnh vải che thân, trên người chỉ có những đồ trang sức, một trong số đó là chiếc vòng xuyến kim cương. Cảnh sát tin rằng khi Marisela thực hiện xong tội ác, cô ta đã lấy dao chặt đứt cổ tay mình rồi đi lang thang khắp nhà để cho dây máu lên tường các hành lang và của các phòng cho đến lúc cô ta ngã sụp xuống trong phòng mình trên gác. Theo lời cảnh sát, động cơ là do ghen tuông. Dường như vợ nhà tài phiệt có mang vào thời điểm bị chết. Có lời đồn Marisela đã dùng nến cháy đỏ vẽ một bộ xương người trên bụng của người đàn bà trần truồng ấy. Vài tháng sau, vụ việc này, cũng giống như cái miệng của Salvador Jausà, bị phong kín mãi mãi. Giới thượng lưu Barcelona nhận định rằng chưa hề có chuyện gì như thế xảy ra trong lịch sử thành phố, và những kẻ thực dân giàu có như vậy cùng đám tiện dân đến từ bên kia đại dương đang hủy hoại nền tảng đạo đức của đất nước. Đằng sau những cánh cửa khép kín, nhiều người lấy làm hoan hỉ vì những trò kỳ dị của Salvador Jausà đã đến hồi kết. Như thường lệ, họ đã nhầm: chỉ mới bắt đầu mà thôi.

Cảnh sát và các luật sư của Jausà chịu trách nhiệm đóng hồ sơ vụ việc, nhưng triệu phú Jausà muốn tiếp tục. Chính vào lúc này ông ta gặp Don Ricardo Aldaya - bấy giờ là một nhà công nghiệp giàu có với danh tiếng quyến rũ phụ nữ và tính tình như sư tử - muốn mua ngôi nhà nhằm mục đích phá dỡ và bán lại đặng kiếm lợi kếch xù; giá đất trong khu vực ấy đang sốt. Jausà không đồng ý bán, nhưng ông ta mời Ricardo Aldaya đến thăm ngôi nhà và chứng kiến điều ông ta gọi là thí nghiệm khoa học và tâm linh. Chưa ai từng bước chân vào tòa nhà ấy kể từ khi cuộc điều tra kết thúc. Điều Aldaya chứng kiến trong ngôi nhà đó khiến ông ta sửng sốt không nói nên lời. Jausà đã hoàn toàn mất trí. Những vết máu đen của Marisela vẫn ám trên tường. Jausà đã triệu đến nhà phát minh, một người tiên phong về kỹ thuật mới lạ lúc bấy giờ, một nhà nhiếp ảnh. Tên ông ta là Fructuós Gelabert, và ông ta đồng ý với yêu cầu của Jausà để đổi lấy số tiền xây dựng một xưởng phim tại vùng Vallés, vì ông ta cảm thấy chắc rằng, trong thế kỷ 20, điện ảnh sẽ hất cẳng tôn giáo có tổ chức. Rõ ràng Jausà tin linh hồn của Marisela vẫn còn ở lại ngôi nhà. Ông ta khẳng định có thể cảm thấy sự hiện diện của cô, giọng nói của cô, mùi của cô, thậm chí cả sự đụng chạm với cô trong bóng đêm. Khi nghe những câu chuyện này, kẻ hầu người hạ nhà Jausà ngay lập tức bỏ trống để tìm kiếm một công việc bớt căng thẳng hơn trong vùng Sarriá kề cận, nơi có rất nhiều dinh thự và gia đình không có khả năng tự đi múc nước hay mạng tất.

Bị bỏ lại đơn độc, Jausà ngày càng chìm sâu vào ám ảnh về những bóng ma vô hình. Ông ta quả quyết câu trả lời cho những tai họa của mình nằm trong việc biến cái vô hình trở nên hiện hình. Ông ta đã có cơ hội nhìn thấy một vài kết quả phát minh nhiếp ảnh ở New York, và ông ta cùng có chung quan điểm với Marisela quá cố rằng máy ảnh đã nuốt những linh hồn. Theo mạch suy nghĩ ấy, ông thuê Fructuós Gelabert chụp hàng thước phim trong các hành lang của Thiên thần Mù sương, nhằm tìm kiếm dấu hiệu và hình ảnh từ thế giới bên kia. Bất chấp những nỗ lực xuất sắc của nhà nhiếp ảnh, công cuộc truy tầm khoa học của Jausà đối với những bóng ma không có kết quả gì.

Mọi thứ thay đổi khi Gelabert tuyên bố ông ta vừa mới nhận được một loại phim mới, nhạy do nhà máy của Thomas Edison ở Menlo Park, New Jersey gửi đến. Loại sản phảm mới này có thể giúp chụp ở điều kiện ánh sáng cực thấp - thấp hơn cả ánh nến - điều chưa từng biết đến vào lúc bấy giờ. Rồi, trong một tình huống không bao giờ được làm rõ, một trợ lý trong phòng nghiên cứu của Gelabert đã vô tình đổ thứ rượu Xarelo lóng lánh của vùng Penedés vào khay tráng phim. Do phán ứng hóa học, những hình dạng kỳ lạ bắt đầu xuất hiện trên ảnh. Đây là thước phim mà Jausào Don Ricardo Aldaya xem vào đêm ông ta mời ông đến nơi ở ma quái số 32, Đại Lộ Tibidabo.

Khi Aldaya nghe chuyện này, ông cho rằng Gelabert vì sợ mất đi nguồn tài trợ của Jausà nên đã viện đến một trò lừa tinh vì hòng duy trì niềm hứng thú của ông chủ. Dù sự thật có ra sao, Jausà chẳng hề hoài nghi sự xác tín của kết quả. Hơn nữa, trong khi người khác chỉ nhìn thấy ở đó những hình dạng và bóng đen, ông ta nhìn thấy những bóng ma. Ông ta thề có thể thấy bóng hình của Marisela hiện về dưới tấm khăn liệm, một chiếc bóng biến thành con sói và đi thẳng lưng. Than ôi, điều duy nhất Don Ricardo Aldaya có thể thấy trong suốt buổi chiếu phim là những vệt máu lớn. Ông cũng cho rằng cả thước phim và tay kỹ thuật viên điều khiển máy chiếu đều sặc mùi rượu và mùi những thứ cồn thuốc khác hoàn toàn trần tục. Tuy vậy, là một doanh nhân sắc sảo, nhà công nghiệp nhận ra ông có thể lợi dụng tính huống này. Một tỉ phú điên rồ cô đơn, bị ám ảnh vào việc chụp những hình ảnh lạ trên phim, ấy chính là nạn nhân lý tưởng. Aldaya đồng ý với ông ta và khuyến khích ông ta tiếp tục cuộc phiêu lưu. Trong nhiều tuần liền, Gelabert và người của ông ta chụp hàng ngàn thước phim rồi đem đi rửa trong các khay khác nhau, sử dụng dung dịch hóa chất tráng phim hòa lẫn rượu ngoại, vang đỏ được ban phước ở nhà thờ giáo khu Ninot, các loại cava lấy từ lò rượu nho Tarragona. Giữa những lần chiếu phim, Jausà chuyển giao, ký ủy quyền và giao quyền kiểm soát kho tài chính của ông ta cho Ricardo Aldaya.

Jausà biến mất vào một đêm tháng Mười một năm ấy trong một con bão. Không ai biết chuyện gì đã xảy ra với ông ta. Dường như ông ta đang phơi sáng một trong cuốn phim đặc biệt của Gelabert thì gặp tai nạn. Don Ricardo Aldaya đề nghị Gelabert khôi phục lại cuộn phim ấy. Sau khi xem trong phòng riêng, Aldaya quyết định tự tay châm lửa đốt nó. Rồi, với một tấm séc rất hậu hĩnh, ông đề nghị tay kỹ thuật viên quên đi mọi chuyện về biến cố ấy. Lúc này Aldaya đã là chủ sở hữu hầu hết tài sản của Jausà mất tích. Có người nói rằng Marisela quá cố đã quay về đưa Jausà theo cô ta xuống địa ngục. Người khác lại bảo sau đấy vài tháng ở trong Công viên Ciudadela đã bắt gặp một kẻ ăn mày trông rất giống nhà triệu phú quá cố kia, rồi sau đó một chiếc xe màu đen rèm phủ kín đã cán lên người ông ta ngay giữa ban ngày ban mặt mà không thèm dừng lại. Các câu chuyện cứ lan ra: truyền thuyết bị thảm về tòa dinh thự nguy nga, như sự xâm lăng của âm nhạc Cuba vào các phòng khiêu vũ của thành phố, là không thể kiểm soát được.

Vài tháng sau, Don Ricardo Aldaya cùng gia đình chuyển vào căn nhà trên Đại lộ Tibidabo, và chỉ hai tuần sau, đứa con út Penélope của vợ chồng họ chào đời. Để mừng sự kiện ấy, Aldaya đổi tên ngôi nhà thành “Biệt thự Penélope”. Tuy vậy, cái tên mới không bao giờ bám trụ được. Ngôi nhà có cá tính riêng và tỏ ra miễn dịch với sự ảnh hưởng của chủ mới. Những người mới đến than phiền về những tiếng ồn và tiếng đánh sầm sầm vào tường trong đêm, những mùi thối bất chợt và những cơn gió lạnh băng tựa hồ rong ruổi khắp ngôi nhà như những tay lính gác. Tòa dinh thự là cả một lô một lốc những bí ẩn. Nó có hai tầng hầm, tầng dưới được làm theo dạng hầm mộ nhưng không sử dụng đến. Còn tầng hầm trên là phòng xưng tội có bức tường lớn nhiều màu khắc họa đức Giê-su bị đóng đinh, mà đám người hầu nghĩ rằng trông giống đến sững người cái ông Rasputin, một nhân vật rất đại chúng trên báo chí thời ấy. Những cuốn sách trong thư viện liên tục bị sắp xếp lại hoặc quay mặt trước ra sau. Trên tầng ba có một căn phòng, phòng ngủ không bao giờ sử dụng vì những vết đen nhớp nháp khó tả trên tường dường như tạo nên những khuôn mặt mờ ảo, ở đó hoa tươi sẽ héo úa chỉ trong vài phút và người ta có thể nghe tiếng ruồi vo ve tuy không thể nào thấy chúng.

Đầu bếp thề thốt rằng một số thứ như đường biến mất khỏ tủ như nhờ phép thuật và sữa chuyến sang màu đỏ mỗi khi trăng non. Đôi khi họ thấy những con chim hoặc chuột nhắt chết nơi cửa một số phòng. Có lúc những đồ đạc bị mất, đặc biệt là trang sức và cúc áo cất trong tủ bếp và ngăn kéo. Thỉnh thoảng những đồ vật bị mất thì nhiều tháng sau lại xuất hiện một cách bí ẩn ở một góc rất xa của ngôi nhà hoặc bị chôn trong vườn. Nhưng thường thì người ta không bao giờ thấy lại chúng nữa. Don Ricardo nghĩ đấy chỉ là những trò đùa vô bổ. Ông nghĩ, một tuần chay tịnh rồi sẽ diệt trừ được mọi nỗi sợ của gia định ông. Điều ông không nhìn nhận với thái độ giàu triết lý như vậy là những vụ cắp đồ trang sức của vợ ông. Hơn năm cô hầy đã bị sa thải khi có những món trong hộp trang sức của bà Aldaya biến mất, mặc cho họ kêu gào thề thốt mình vô tội. Những người hiểu biết thì cho rằng chẳng có gì bí ẩn cả: lời giải thích nằm ở thói quen đáng tiếc của Don Ricardo là hay lẻn vào phòng các cô hầu trẻ lúc ban đêm vì mục đích chơi bời lạc thú. Danh tiếng của ông ta trong lĩnh vực này lừng lẫy chả kém gì sự giàu có của ông, và có kẻ nói rằng với tốc độ diễn ra những cuộc phiêu lưu của ông thì rồi sẽ có lúc những đứa con ngoài giá thú bị ông bỏ rơi lại lấy lẫn nhau.

Sự thật là không chỉ trang sức biến mất. Cùng thời gian này gia đình họ đã mất đi toàn bộ niềm vui sống. Gia đình Aldaya chưa bao giờ hạnh phúc trong căn nhà chiếm được nhờ xảo thuật đàm phán. Bà Aldaya liên tục nài nỉ chồng bán ngôi nhà ấy đi và chuyển đến một nơi trong thành phố hoặc trở về ngôi nhà cũ mà Puig i Cadafalch đã xây cho Ông nội Simón, người trưởng tộc. Ricardo Aldaya thẳng thừng từ chối. Do thời gian của ông hầu hết dành cho việc đi đây đi đó hoặc ở trong các nhà máy của gia đình, nên ông thấy ngôi nhà chẳng gây ra điều gì phiền toái. Một lần cậu bé Jorge biến mất trong tòa dinh thự những tám tiếng đồng hồ. Mẹ cậu và đám người hầu hoảng loạn tìm kiếm, nhưng không thấy. Khi cậu xuất hiện trở lại, tái mét và choáng váng, cậu bảo đã ở suốt trong thư viện, cùng với một phụ nữ da đen bí ẩn, người đã cho cậu xem những bức ảnh cũ và nói với cậu rằng toàn bộ cánh đàn bà trong gia đình sẽ bị chết trong căn nhà đó để chuộc tội cho những người đàn ông. Người phụ nữ bí ẩn kia còn tiết lộ cho cậu bé Jorge ngày mẹ cậu chết: 12 tháng Tư năm 1921. Dĩ nhiên chẳng ai tìm thấy cô gái da đen kia cả, nhưng nhiều năm sau, vào ngày 12 tháng Tư năm 1921, khi trời hừng sáng, người ta phát hiện bà Aldaya bất động trên giường. Mọi trang sức của bà đã biến mất. Khi bể nước trong sân khô cạn, một cậu bé giúp việc phát hiện chúng ở trong đống bùn dưới đáy bể, cạnh một con búp bê của con gái bà, Penélope .

Một tuần sau Don Ricardo Aldaya quyết định tống khứ căn nhà. Lúc ấy đế chế tài chính của ông ta đã suy tàn, và có kẻ nói bóng gió rằng tất cả đều là do ngôi nhà bị nguyền rủa kia, ngôi nhà mang tại họa đến cho bất cứ ai ở đó. Những người khác, thận trọng hơn, chỉ đơn giản khẳng định rằng Aldaya không bao giờ hiểu được xu hướng thay đổi của thị trường và điều duy nhất ông đã hoàn tất trong suốt đời mình là phá hủy cái doanh nghiệp khổng lồ do Simón trưởng tộc gây dựng nên. Ricardo Aldaya tuyên bố ông sẽ rời Barcelona và cùng gia đình chuyển đến Argentina, nơi mà ngành công nghiệp dệt may được cho là vẫn đang huy hoàng. Nhiều người tin rằng ông đang chạy trốn sự thất bại và nỗi xấu hổ.

Năm 1922, Thiên thần Mù sương được treo biển bán với giá thấp đến lố bịch. Lúc đầu rất nhiều người quan tâm mua nó, vì danh tiếng của ngôi nhà cũng như vì giá trị của khu vực này ngày càng tăng, nhưng sau khi đến xem ngôi nhà thì không một người mua tiền năng nào ra giá cả. Năm 1923, dinh thự này đóng cửa. Các giấy tờ của tòa nhà được chuyển giao cho một công ty bất động sản đứng đầu trong danh sách dài dằng dặc các chủ nợ của Aldaya, để công ty này dàn xếp việc bán hoặc phá hủy nó. Ngôi nhà được rao trên thị trường nhiều năm, nhưng công ty này không thể tìm được người mua. Công ty này là Botell i Llofré S.L., bị phá sản năm 1939 khi hai thành viên của nó vào vòng lao lý vì những tội danh không rõ ràng. Sau một tai nạn chết người khó hiểu xảy ra với cả hai người này tại nhà tù San Vicens năm 1940, công ty được một tập đoàn tài chính tiếp quản, trong số các cổ đông của tập đoàn có ba tên tướng phát xít và một ngân hàng Thụy Sĩ. Giám đốc điều hành của công ty hóa ra là ông Aguilar, bố của Tomás và Bea. Bất chấp mọi lỗ lực, không một nhân viên nào của ông Aguilar có thể bán được ngôi nhà, ngay cả khi đã đưa ra giá thấp hơn nhiều so với ban đầu. Đã mười năm qua không ai quay lại căn nhà đó.

“Cho đến hôm nay," Bea nói khẽ, co người lại một thoáng. "Em muốn cho anh xem nơi này, anh hiểu không? Em muốn mang lại cho anh một điều ngạc nhiên. Em tự nhủ phải mang anh đến đây, vì đây là một phần trong câu chuyện của anh, câu chuyện về Carax và Penélope. Em đã mượn chìa khóa ở văn phòng cha em. Không ai biết chúng ta ở đây. Đấy là bí mật của chúng ta. Em muốn chia sẻ nó với anh. Và em đang tự hỏi liệu anh có đến không.”

“Em biết anh sẽ đến mà.''

Nàng khẽ gật đầu, cười. “Em tin chẳng có gì xảy ra tình cờ cả. Từ trong sâu thẩm, mọi vật đã có dự định bí mật cho riêng chúng, cho dù chúng ta không hiểu được. Như việc anh tìm thấy cuốn tiểu thuyết của Julián Carax trong Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên hay việc bây giờ anh cùng em ở đây, trong ngôi nhà từng thuộc về gia đình Aldaya. Tất cả chúng đều là một phần của một cái gì đó chúng ta không thể hiểu nổi, cái gì đó làm chủ chúng ta.”

Trong khi Bea nói, bàn tay tôi lóng ngóng luồn xuống cổ chân nàng rồi lần lên đầu gối. Nàng nhìn như thể đang nhìn một con côn trùng đang bò lên chân mình. Tôi tự hỏi nếu là Fermín thì anh ta sẽ làm thế nào trong tình huống này. Trí khôn của anh ta ở đâu ngay lúc tôi cần nó nhất?

“Tomás bảo anh chưa bao giờ có bạn gái," Bea nói, như thể giải thích cho tôi.

Tôi rụt tay lại và cúi xuống, thảm bại. Tôi ngờ Bea đang cười, nhưng tôi không dám kiểm chứng.

“Cậu ấy khá trầm tính, nhưng cũng khá là lắm chuyện. Thế cái tay đưa tin này còn nói gì nữa về anh nào?”

“Anh ấy bảo anh nhiều năm theo đuổi một phụ nữ già hơn và chuyện đó khiến anh tan nát.”

“Anh chỉ bị sứt môi và mẻ lòng kiêu hãnh thôi.”

“Tomás bảo anh không đi chơi với những cô gái khác vì anh cứ so sánh tất cả bọn họ với người phụ nữ kia.”

Tomás tốt bụng và những cú đánh trộm của cậu ta. “Cô ấy tên Clara,” tôi thành khẩn.

“Em biết. Clara Barceló.”

"Em biết cô ấy à?

“Tất cả mọi người đều biết Clara Barceló. Cái tên chỉ là phần nhỏ nhất thôi.”

Trong một lúc chúng tôi rơi vào im lặng, ngồi nhìn lửa cháy.

“Sau khi anh về, em đẽ viết thư cho Pablo,” Bea nói.

Tôi nuốt khó nhọc. “Cho cậu bạn trai đại úy của em ư? Để làm gì?”

Bea lấy trong áo ra một chiếc phong bì đưa cho tôi xem. Nó dán kín.

“Trong thư em bảo anh ấy rằng em muốn bọn em sẽ nhanh chóng làm đám cưới, trong một tháng nữa, nếu có thể, và em muốn rời Barcelona mãi mãi.”

Tôi như run lên, nhìn vào đôi mắt không thể xuyên thấu của nàng.

“Sao em lại kể cho anh nghe chuyện này?”

“Vì em muốn hỏi anh em có nên gửi nó đi không. Vậy nên hôm nay em mới bảo anh đến đây, Daniel.”

Tôi nhìn phong thư nàng vân vê trong tay như một lá bài.

“Nhìn em này,” nàng nói.

Tôi ngước mắt lên và bắt gặp ánh mắt nàng. Tôi không biết phải trả lời thế nào. Bea cúi xuống và đi về phía cuối phòng. Một cánh cửa dẫn đến lan can đá cẩm thạch mở ra khoảng sân trong của ngôi nhà. Tôi nhìn theo bóng nàng nhòa dần trong mưa. Tôi chạy theo để ngăn nàng lại, giật lấy chiếc phong bì khỏi tay nàng. Cơn mưa táp xuống mặt nàng, cuốn đi những giọt nước mắt và nỗi hờn giận. Tôi dẫn nàng vào nhà đến bên hơi ấm của ngọn lửa. Nàng tránh ánh mắt tôi. Tôi cầm chiếc phong bì ném vào ngọn lửa. Chúng tôi nhìn bức thư cháy tàn ra giữa những hòn than ửng đỏ và những trang giấy tan biến thành những vòng khói, từng trang một. Bea quỳ xuống cạnh tôi, mắt đẫm lệ. Tôi ôm nàng và cảm thấy hơi thở nàng nơi cổ mình.

“Đừng bỏ rơi em, Daniel,” nàng thầm thì.

Người đàn ông thông thái nhất tôi từng biết, Fermín Romero de Torres, đã bảo tôi rằng chẳng trải nghiệm nào trong đời có thể so sánh với việc một người đàn ông lần đầu tiên cởi đồ cho một người phụ nữ. Trong tất cả những lời khôn ngoan ấy, tuy anh ta đã không lừa dối tôi, song anh ta cũng chẳng nói sự thật. Anh ta không hề kể gì về sự run rẩy kỳ lạ của bàn tay gỡ bỏ từng khuy cúc, từng khóa kéo, để đi vào một thử thách quá sức của con người. Anh ta cũng không nói gì về sự mê đắm nơi làn da trắng muốt run run, sự lướt chạm đầu tiên vào đôi môi, hay về sự diệu kỳ dường như làm lung linh mỗi lỗ chân long. Anh ta không nói với tôi bất kỳ điều gì như vậy, vì anh ta biết rằng cái kỳ diệu chỉ xảy ra một lần và, khi nó xảy ra, nó nói bằng thứ ngôn ngữ của những bí mật, những bí mật mà sau khi mở lộ là sẽ tan biến vĩnh viễn. Hàng ngàn lần tôi những muốn tìm lại cái buổi chiều đầu tiên ấy cùng Bea trong ngôi nhà mênh mông trên Đại lộ Tibidabo, khi tiếng mưa đã quét sạch đi cả thế giới. Hàng ngàn lần tôi ước ao được quay lại để lạc vào cái ký ức mà tôi có thể giữ lại duy chỉ một hình ảnh bị đánh cắp từ hơi nóng của ngọn lửa: Bea, trần trụi và tỏa sáng với cơn mưa, nằm bên ngọn lửa, đôi mắt mở to đã đi theo tôi từ ngày ấy. Tôi cúi xuống miết đầu ngón tay trên bụng nàng. Bea khép mắt và mỉm cười, tự tin và mạnh mẽ.

“Hãy làm những gì anh muốn với em,” nàng thì thầm.

Nàng mới mười bảy, cả cuộc đời nàng ánh lên trên bờ môi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


MÀN ĐÊM BAO PHỦ LẤY CHÚNG TÔI trong bóng xanh mờ khi chúng tôi rời dinh thự. Trận bão đang tan, giờ chỉ còn dư âm cơn mưa lạnh. Tôi muốn trả lại chìa khóa cho Bea, nhưng mắt nàng bảo nàng muốn tôi là người giữ nó. Chúng tôi rảo bước xuống Paseo de San Gervasio, hy vọng tìm được một chiếc taxi hoặc xe buýt. Chúng tôi bước đi lặng lẽ, nắm tay nhau và gần như chẳng nhìn nhau.

“Phải tới thứ Ba này em mới gặp lại anh được," Bea nói giọng run rẩy, như thể nàng đột nhiên nghi ngờ khao khát của tôi muốn gặp nàng,

“Anh sẽ đợi em" Tôi mặc nhiên cho rằng những cuộc gặp của tôi với Bea sẽ diễn ra giữa những bức tường của ngôi nhà cổ rộng lớn đó, rằng phần còn lại của thành phố không thuộc về chúng tôi. Thậm chí dường như cảm giác rắn chắc khi tiếp xúc với cơ thể nàng giảm dần khi chúng tôi bước rời xa tòa nhà, sức mạnh và hơi ấm của nàng sẽ vợi đi dần theo mỗi bước chân chúng tôi. Khi đến đại lộ, chúng tôi nhận ra đường phố gần như vắng tanh.

“Chẳng tìm được chiếc xe nào ở đây đâu,” Bea nói. “Mình nên xuống Balmes đi.”

Chúng tôi rảo bước xuống phố Balmes, men dưới những rặng cây để tránh cơn mưa nhỏ. Dường như sau mỗi bước chân Bea lại càng đi nhanh hơn, gần như kéo tôi theo. Có lúc tôi nghĩ nếu tôi buông tay ra, Bea sẽ bắt đầu chạy. Trí tưởng tưởng của tôi, vẫn say sưa với những đụng chạm và mùi vị của nàng, cháy lên nỗi khao khát muốn dồn nàng về phía một băng ghế dài, để tìm đôi môi nàng và lặp lại những câu vô nghĩa có thể đoán được mà bất cứ ai nghe thấy cũng phải phì cười, bất cứ ai trừ tôi. Nhưng Bea đang co người lại, nhạt nhòa vào một thế giới xa cách với tôi.

“Có chuyện gì vậy?” tôi hỏi nhỏ.

Nàng cười tuyệt vọng, đầy lo lắng và cô đơn. Rồi tôi nhìn thấy mình trong ánh mắt nàng: một cậu bé ngây thơ cứ nghĩ mình đã chinh phục cả thế giới trong một giờ đồng hồ nhưng lại không nhận ra rằng cậu ta có thể lại mất nó trong một tích tắc. Tôi cứ bước đi, không chờ câu trả lời. Cuối cùng cũng tỉnh ra. Chẳng mấy chốc chúng tôi nghe tiếng giao thông ồn ã, và không khí dường như cháy bừng lên do sức nóng những ngọn đèn đường và đèn giao thông. Chúng khiến tôi nghĩ đến những bức tường vô hình.

“Chúng ta nên từ biệt ở đây,” Bea nói, buông tay tôi ra.

Nơi góc phố có thể thấy những ánh đèn từ hàng xe taxi, như cuộc diễu hành của những con đom đóm.

“Tùy em”

Bea cúi mình tới hôn lên má tôi. Tóc nàng vẫn còn mùi sáp nến.

“Bea,” tôi dợm nói, hầu như không thành tiếng. “Anh yêu em...”

Nàng lắc đầu nhưng không nói gì, lấy tay che tôi như thể những lời ấy khiến nàng đau đớn.

“Thứ Ba, lúc sáu giờ nhé?” nàng hỏi.

Tôi lại gật đầu. Tôi nhìn nàng bước đi rồi biến mất vào một chiếc taxi, gần như một người xa lạ. Một tài xế, vốn đã dõi theo cuộc trò chuyện của chúng tôi như một trọng tài, nhìn tôi tò mò. “Sao nào? Chúng ta về nhà chứ?”

Tôi lẳng lặng vào xe. Tài xế đưa mắt nhìn tôi qua gương. Tôi đã mất dấu chiếc xe đã mang Bea đi, hai chấm sáng chìm vào một hố sâu bóng đêm.

***

MÃI ĐẾN KHI HỪNG ĐÔNG rải hàng trăm tấn ánh sáng ảm đạm lên cửa phòng ngủ thì tôi mới chợp mắt được. Fermín đánh thức tôi dậy. Anh ta đứng giữa quảnh trường nhà thờ mà ném mấy viên sỏi lên cửa sổ phóng tới. Tôi mặc vội bộ đồ đầu tiên vớ được rồi chạy xuống mở cửa cho anh ta. Fermín đầy niềm sốt sắng không thể nào chịu nổi của chú chim dậy sớm. Chúng tôi đẩy cửa và treo biển MỞ CỬA.

“Nhìn quầng thâm dưới mắt cậu kìa, Daniel. Lớn như cả một cái công trường ấy. Chúng tôi có nên nghĩ là con cú đã tha được mèo ra biển không nhỉ?”

Tôi quay lại phòng sau, đeo tạp dề xanh của mình rồi đưa tạp dề cho anh ta, hay đúng hơn là tức tối ném vào anh ta. Fermín bắt được khi nó đang bay giữa chừng, và mỉm cười tinh quái.

“Con cú chết đuối, chấm hết. Hài lòng chưa?” tôi quật lại.

“Ẩn dụ thật khó hiểu. Cậu đang lau bụi tập thơ của Verlaine hả, chàng trai?”

“Tôi chỉ làm văn xuôi mỗi sáng thứ Hai thôi. Anh muốn tôi kể gì nào?”

“Tùy cậu thôi. Số lần đâm kiếm hoặc số vòng đấu danh dự.”

“Tôi không có hứng đùa đâu, Fermín.”

“Ôi tuổi trẻ, hoa thơm của dại khờ! Ôi thôi, được rồi, đừng bực với tôi. Tôi có tin mới về cuộc điều tra ông bạn Julián Carax của cậu này.”

“Tôi nghe đây.”

Anh ta ban cho tôi một trong những vẻ mặt bí hiểm và sắc sảo của anh ta, một bên mày nhướng lên.

“Ờ, ngày hôm qua, sau khi để Bernarda về nhà với trinh tiết còn vẹn nguyên, tất nhiên là vẫn có vài vết bầm đúng chỗ trên mông, một cơn mất ngủ tấn công tôi - ấy là do những đợt hứng tình về đêm - nên tôi mới có cớ đi xuống một trong các tụ điểm thông tin của thế giới ngầm Barcelona - như quán rượu Eliodoro Salfumán, còn gọi là 'Gai Lạnh', nằm ở một chốn dơ dáy nhưng lòe loẹt trên phố Sant Jeroni, niềm tự hào của khu phố Raval.”

“Nói ngắn gọn thôi, Fermín, vì Chúa.”

“Thôi nào. Vấn đề là khi đã đến đó rồi, tôi lấy lòng vài người trong đám đông thường có đó, những anh bạn cũ thuở hàn vi, tôi bắt đầu dò hỏi về Miquel Moliner, chồng của cái cô Mata Hari Nuria Monfort và người được cho là tù nhân trong nhà trừng giới địa phương.”

“Được cho là?”

“Với chữ Đ viết hoa. Trong vụ này chẳng có gì là đáng tin cả, nếu cậu hiểu tôi nói gì. Từ kinh nghiệm bản thân, tôi biết rằng khi nói đến quân số trong tù, người đưa tin cho tôi trên bàn rượu trong quán Gai Lạnh còn chính xác hơn nhiều so với lục sự tòa án, và tôi có thể đảm bảo, Daniel ạ, rằng không ai nghe nói gì đến một tù nhân, khách đến thăm hay bất cứ người sống nào trong các nhà tù ở Barcelona mà lại mang tên Miquel Moliner cả, ít nhất là trong mười năm qua."

“Có lẽ ông ta ở trong một nhà tù khác.”

“Đúng. Alcatraz, Sing Sing, hay Bastille. Daniel à, cái bà kia bịp cậu rồi.”

“Tôi cho là vậy.”

“Đừng có cho là; hãy chấp nhận nó."

“Giờ thì sao? Lần theo cái tên Miquel Moliner như đi vào ngõ cụt.”

“Hoặc cái cô Nuria này rất xảo quyệt.

“Anh có đề nghị gì không?”

“Lúc này chúng ta phải khai thác điểm khác. Sẽ không phải ý tồi nếu đến thăm bà cô già tốt bụng mà vị cha đạo đã kể cho chúng ta sáng hôm qua.”

“Đừng bảo là anh nghi ngờ bà bảo mẫu ấy cũng biến mất.”

“Không, nhưng tôi nghĩ đây là lúc chúng ta thôi nghĩ đừng lăng xăng gõ cửa khắp thiên hạ cứ như đang đi xin của bố thí nữa. Trong chuyện này, ta phải đi cửa sau. Cậu đồng ý không?”

“Anh biết rằng với tôi lời anh là lời vàng lời ngọc mà, Fermín.”

“Chà, vậy thì đi mà phủi bụi áo lễ của cậu đi. Chiều này, khi đóng cửa hàng, chúng ta sẽ đến thăm từ thiện cụ bà ở Nhà tế bần Santa Lucía. Giờ thì kể tôi nghe, chuyện của cậu với cô bé kia hôm qua thế nào? Đừng bí bí mật mật. Nếu cậu giấu, cậu sẽ bị nổi mụn nhọt đấy.”

Tôi thở dài chịu thua và thú nhận đến từng chi tiết. Cuối câu chuyện, sau khi liệt kê điều mà tôi đoán chắc là mối lo lắng hiện sinh của một cậu nam sinh khờ khạo, Fermín làm tôi ngạc nhiên với một cái ôm chân thành.

“Cậu yêu rồi đấy,” anh ta lẩm bẩm, đầy xúc động, vỗ vỗ lưng tôi. “Tội nghiệp thằng bé.”

Chiều hôm đó, vừa đến giờ đóng cửa là chúng tôi rời hiệu sách ngay, một hành động khiến cha tôi ném cho một cái nhìn nghiêm khắc, ông đang bắt đầu nghi ngờ khi thấy chúng tôi thậm thụt đi đi về về, chắc đang dính vào chuyện mờ ám gì đây, Fermín lẩm bẩm gì đó không rõ rằng có vài việc lặt vặt cho làm, và chúng tôi nhanh chóng biến mất. Tôi tự nhủ rồi sớm muộn gì cũng phải tiết lộ một phần của mớ bòng bong này cho cha biết; nhưng chính xác phần nào thì lại là chuyện khác.

Trên đường đi, với xu hướng ưa kể chuyện thường thấy, Fermín phác sơ qua nơi chúng tôi sắp đến. Nhà tế bần Santa Lucía là một cơ sở có tiếng tăm đáng ngờ nằm trong mớ tàn dư sót lại của một cung điện cổ trên phố Moncada. Huyền thoại xung quanh nơi này nghe có vẻ như là điểm gặp gỡ của nơi rửa tội và nhà xác, với tình trạng vệ sinh ngày càng tồi tệ. Câu chuyện hết sức kỳ cục. Từ thế kỷ 11, cung điện này, bên cạnh nhiềuác, đã là chỗ cư ngụ cho những gia đình giàu có, là một nhà tù, một nhà thổ, một thư viện gồm những sách cấm, một trại lính, một xưởng điêu khắc, nhà điều dưỡng cho bệnh nhân bị dịch, một nhà tu. Giữa thế kỷ 19, khi nó thực sự đang vụn dần ra từng mảnh, cung điện được chuyển thành bảo tàng trưng bầy những vật kỳ dị cùng những thứ tàn khốc khác của tay giám đốc nhà hát ba hoa thấu trời tự gọi mình là Laszlo de Vicherny, Công tước xứ Parma và nhà giả kim riêng của Gia tộc Bourbon. Tên thật của ông ta hóa ra là Baltasar Deulofeu i Carallot, con hoang của một lão bán thịt muối với một cô thiếu nữ sa ngã, hắn ta nổi danh chủ yếu nhờ những trò hoang đàng như một tên đĩ đực chuyên nghiệp và một nghệ sĩ dỏm.

Gã này lấy làm tự hào vì sở hữu một bộ sưu tập bào thai dị hình ở các giai đoạn khác nhau, đựng trong lọ có dung dịch ướp xác, và kém tự hào hơn một chút với bộ sưu tập thậm chí còn lớn hơn gồm những chứng thư đảm bảo ký phát bởi một số cơ quan thực thi pháp luật uy tín nhất của châu Âu và Mỹ. Trong số những thứ đáng chú ý khác, “El Tenebrarium” (như Deulofeu đặt tên lại cho cung điện này) còn là nơi thực hiện các cuộc lên đồng, gọi hồn, các cuộc đấu (với gà trống, chuột, chó, phụ nữ phì nộn, những kẻ đần độn, hoặc kết hợp giữa các loại trên), cũng là nơi kinh doanh, một nhà thổ chuyên phục vụ những kẻ tàn phế và quái đản, một sòng bạc, một công ty tư vấn pháp lý và tài chính, một hiệu thuốc bán tình dược, một sân khấu dân gian địa phương và múa rối, một vũ đoàn những vũ công nước ngoài. Vào dịp Giáng sinh một vở kịch Lễ Thánh Đản được dàn dựng, không màng đến chi phí, và tham gia diễn xuất là nhân viên bảo tàng cùng toàn bộ các cô điếm. Danh tiếng của nó vang đến khắp mọi ngõ ngách tỉnh thành.

El Tenebrarium thành công vang dội trong mười lăm năm, cho đến khi người ta phát hiện Deulofeu đã quyến rũ vợ, con gái và mẹ vợ của vị thống lĩnh quân sự trong tỉnh chỉ trong một tuần. Điều sỉ nhục đen tối nhất đã giáng lên cung điện và chủ của nó. Trước khi Deulofeu có thể chạy trốn khỏi thành phố và dùng đến một trong nhiều căn cước khác của y, một nhóm du thủ du thực đeo mặt nạ đã bắt hắn ta tại một xóm liều trong khu phố Santa María rồi treo cổ và châm lửa thiêu hắn trong Công viên Ciudadela, rồi để mặc xác hắn cho lũ chó hoang lai vãng gần đấy cắn xé. Sau hai thế kỷ bị bỏ hoang, trong thời gian ấy không ai thèm dỡ đi những bộ sưu tập kinh hoàng của Laszlo xấu xí, El Tenebrarium được chuyển thành một cơ sở từ thiện dưới sự quản lý của một nhóm bà xơ.

“Chư bà của Thử thách Cuối cùng, hay cái gì đó bệnh hoạn đại loại vậy,” Fermín nói. “Rắc rối là bọn họ rất ám ảnh về sự bí mật của nơi này (thật xấu hổ, tôi phải nói vậy), nghĩa là ta phải tìm mách khóe để chui vào.

Thời gian gần đây, những người vào trú trong Nhà tế bần Santa Lucía toàn những người già sắp chết, bị bỏ mặc, điên, bần cùng, những người tạo nên thế giới ngầm đông đúc của Barcelona. May cho họ là hầu hết họ chỉ sống được một thời gian ngắn ngủi sau khi được đưa vào đây; tình trạng của cơ sở này cũng như những người sống trong đó không khuyến khích sự sống lâu. Theo Fermín, những người chết được đưa ra khỏi đó trước khi trời sáng và hành trình cuối cùng tới nghĩa trang chung là ở trong một chiếc xe phủ kín được tài trợ bởi một công ty ở Hospitalet với danh tiếng đáng ngờ chuyên làm thịt hộp và đồ ăn sẵn - thỉnh thoảng công ty này lại dính vào những vụ xi căng đan bẩn thỉu.

“Những chuyện này toàn anh bịa hết,” tôi phản đối, bị ám ảnh bởi những chi tiết kinh hoàng trong câu chuyện của Fermín.

“Sức sáng tạo của tôi không xa đến thế đâu, Daniel. Hãy chờ xem. Tôi đã đến tòa nhà này vào một dịp không lấy gì vui vẻ cách đây mười năm, và tôi có thể nói với cậu rằng như thể người ta đã thuê ông bạn Julián Carax của cậu làm thiết kế nội thất ấy. Thật tiếc là chúng ta không mang theo lá nguyệt quế để làm bớt mùi. Nhưng chúng ta sẽ có đủ rắc rối ngay khi được phép vào trong.”

Với những kỳ vọng của tôi được định hình như vậy, chúng tôi đi vào phố Moncada lúc bấy giờ đã biến thành một đường hầm tối hai bên là những tòa nhà cổ được chuyển thành nhà kho và cửa hàng. Tiếng chuông nguyện từ nhà thờ Santa María del Mar lẫn vào tiếng vọng bước chân chúng tôi. Ngay sau đó, một mùi đắng ngắt thấm vào cơn gió lạnh băng.

“Mùi gì thế nhỉ?”

“Chúng ta đến nơi rồi,” Fermín thông báo.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


CÁNH CỬA GỖ ĐÃ MỤC NÁT dẫn chúng tôi vào khoảng sân có ngọn đèn ga đứng gác lập lòe chiếu lên các quái vật và các thiên thần, hình dáng chúng đang mòn đi trên nền đá cũ. Cầu thang dẫn lên tầng một, nơi một vuông sáng đánh dấu cổng chínhnhà tế bần. Ánh đèn ga rọi từ đây tạo nên tông màu ảm đạm cho mùi ám khí từ bên trong phả ra. Một thân hình gầy khô, trông như loài ăn thịt trong bóng tối cổng vòm lạnh lung quan sát chúng tôi, đôi mắt có màu giống như vóc dáng của bà. Bà xách một xô bằng gỗ đang bốc hơi tỏa ra một mùi hôi khó tả.

“Xin Chào đức Mẹ Mary Đầy Thanh Cao Không Vương Tội Lỗi.” Fermín kêu lên phấn khích.

“Quan tài đâu?” giọng nói trả lời lớn tiếng, nghiêm nghị và cộc lốc.

“Quan tài hả?” Fermín và tôi đồng thanh đáp.”

“Không phải hai người làm ở nhà đòn sao?” Bà xơ chán nản hỏi.

Tôi không biết đó là lời nhận xét đối với vẻ bề ngoài của chúng tôi hay là một câu hỏi thực sự.

Mặt Fermín sáng lên trước một cơ hội trời cho như vậy.

“Quan tài để trong xe. Trước hết chúng tôi muốn xem khách hàng đã. Thuần túy kỹ thuật thôi.”

Tôi cảm giác như sắp buồn nôn.

“Vậy mà tôi nghĩ ông Collbató trực tiếp đến đây,” bà xơ nói.

“Ông Collbató gửi lời cáo lỗi, vì có một vụ ướp xác khá phức tạp phát sinh vào phút cuối. Một lực sĩ ở rạp xiếc.”

“Các anh có làm việc cùng ông Collbató ở nhà tang lễ không đấy?”

“Chúng tôi là cánh tay trái và tay phải của ông ấy, Wilfred Râu ria hân hạnh được phục vụ, và đây, bên cạnh tôi, người tập sự và học sinh của tôi, Sansón Carrasco.”

“Hân hạnh được gặp xơ,” tôi nói.

Bà xơ thoáng nhìn chúng tôi từ đầu tới chân rồi gật đầu, vẻ thờ ơ đối với hai kẻ rách rưới phản chiếu trong mắt bà.

“Chào mừng đến với Santa Lucía. Ta là Xơ Hortensia, người đã gọi điện đến nhà tang lễ. Đi theo

Chúng tôi yên lặng đi theo Xơ Hortensia qua một hành lang sâu bốc một thứ mùi khiến tôi nghĩ đến đường tàu điện ngầm. Dọc hành lang là những ô cửa sổ không cánh qua đó có thể nhận ra những phòng lớn sáng ánh nến với đầy những dãy giường kê sát vào tường, có phủ màn chống muỗi phơ phất trong không khí giống như vải liệm. Tôi có thể nghe tiếng rên rỉ và thấy những dáng người qua lớp màn.

“Lối này,” Xơ Hortensia ra hiệu, cách chúng tôi vài thước về phía trước.

Chúng tôi đi vào một căn hầm rộng, ở đấy tôi không khó khăn nhận ra cái sân khấu của El Tenebrarium mà Fermín đã mô tả. Bóng đêm che mờ đi cái mà ban đầu tôi cứ ngỡ là một đám người sáp, đang ngồi hoặc bị bỏ mặc trong các góc, với những cặp mắt chết, vô cảm sáng lên như những đồng tiền kẽm dưới ánh nến. Tôi nghĩ có lẽ đấy là những con búp bê hoặc xác ướp trong bảo tàng cổ. Rồi tôi nhận ra họ cử động, mặc dù rất chậm chạp, thậm chí còn lén lút. Thật khó mà nói được tuổi tác hay giới tính của họ. Những mảnh chăn rách rưới đắp trên người họ có màu tro.

“Ông Collbató bảo không được động vào hay lau dọn gì cả,” Xơ Hortensia nói, trông có vẻ hơi áy náy. "Chúng tôi vừa để ông cụ tội nghiệp này trong một cái hòm sẵn có ở đây, bởi vì ông ấy bắt đầu rữa rồi.”

“Xơ làm vậy là đúng. Như vậy là chu đáo lắm rồi,” Fermín đồng tình.

Tôi ném cho anh ta cái nhìn tuyệt vọng. Anh ta lắc đầu điềm tĩnh, ý bảo cứ để anh ta xử lý vụ này. Xơ Hortensia dẫn chúng tôi đến một nơi dường như là một căn phòng nhỏ không có lỗ thông hơi hay ánh sáng, ở cuối một hành lang hẹp. Xơ lấy một chiếc đèn ga trên tường đưa cho chúng tôi.

“Các anh làm có lâu không? Tôi hơi bận.”

“Xin Xơ đừng lo. Xơ cứ làm việc của mình, chúng tôi sẽ mang ông ấy đi.”

“Được rồi. Nếu các anh cần gì thì tôi ở dưới tầng hầm, trong phòng bệnh nhân liệt giường. Nếu không quá phiền, mong các anh đưa ông ấy ra lối cửa sau. Đừng để những người khác trông thấy ông ấy. Như vậy không tốt cho tinh thần các bệnh nhân.”

“Chúng tôi hiểu chứ ạ,” tôi nói ấp úng.

Xơ Hortensia nhìn chằm chằm tôi một lúc với vẻ tò mò khó hiểu. Khi nhìn bà kỹ hơn, tôi nhận ra bà đã luống tuối, gần như một bà cụ. Bà chỉ kém vài năm so với những khách nương nhờ trong nhà tế bần.

“Chẳng phải cậu tập sự này khá trẻ để làm công việc này sao?” bà hỏi.

“Sự thật của cuộc đời không biết đến tuổi tác, thưa Xơ,” Fermín nhận xét.

Bà xơ gật đầu và cười với tôi trìu mến. Không hề có chút nghi ngờ gì trong nụ cười ấy, mà chỉ có nỗi buồn.

“Thậm chí là vậy,” bà lẩm bẩm.

Bà bước vào bóng đêm, mang chiếc xô và kéo theo cái bóng của bà như váy cưới. Fermín đẩy tôi vào phòng. Đấy là một căn phòng ấm ướt tối tăm xẻ vào trong những bức vách của một cái hang nhớp nháp vì ẩm ướt. Những đoạn móc xích treo lủng lẳng trên trần, và sàn nhà bị mạng cống rãnh làm cho nứt nẻ. Ngay giữa phòng, trên chiếc bàn đá xam xám, là một cái hòm gỗ dùng để đóng gói hàng trong công nghiệp, Fermín nâng đèn lên, và chúng ôi nhìn thấy người chết nằm giữa lớp rơm lót. Nét mặt khô quắt, bí hiểm, lởm chởm và đông cứng. Da hõm xuống, màu tím tái. Cặp mắt mở lớn: trắng bệch, như vỏ trứng vỡ.

Cảnh tượng khiến tôi buồn nôn, tôi liền quay đi.

“Thôi nào, hãy vào việc đi,” Fermín ra lệnh.

“Anh điên à?”.

“Ý tôi là chúng ta phải tìm được bà Jacinta trước khi bị phát hiện.”

“Bằng cách nào?”

“Còn sao nữa? Đi hỏi.”

Chúng tôi liếc vào hành lang để chắc rằng Xơ Hortensia đã đi rồi. Chúng tôi rón rén quay lại sảnh lớn vừa mới qua. Những con người khốn khổ vẫn quan sát chúng tôi, với đủ mọi ánh mắt từ tò mò đến lo sợ, đôi khi cả thèm kh

“Nhìn xem, vài người ở đây sẽ cắm phập răng vào người cậu mà hút máu nếu họ nghĩ nhờ làm vậy họ sẽ được trẻ lại,” Fermín nói. “Tuổi tác khiến cho tất cả bọn họ trông yếu ớt như cừu, nhưng đây đó vẫn còn những kẻ khốn kiếp. Bởi đấy là những kẻ sống lâu hơn và đi chôn những người còn lại. Đừng tiếc cho họ. Đi tiếp đi, bắt đầu với những người ở trong góc phòng - trông họ không có răng đâu.”

Nếu những lời đó nhằm để khích lệ tôi thực hiện nhiệm vụ, thì chúng đã thất bại thảm hại. Tôi nhìn vào một nhóm người chỉ còn là những nắm thân tàn nơi góc phòng và mỉm cười với họ. Tôi chợt nghĩ sự hiện diện của họ là bằng chứng cho sự trống rỗng về đạo đức của vũ trụ và sự tàn nhẫn cơ học khi vũ trụ này hủy diệt những bộ phận không còn cần thiết nữa. Fermín dường như đọc được những ý nghĩ thầm kín này nên gật đầu trịnh trọng.

“Mẹ Tự nhiên đúng là ti tiện nhất trong bọn khốn, đó là sự thật đáng buồn,” anh ta nói. “Hãy can đảm mà chấp nhận điều đó.”

Loạt câu hỏi đầu tiên của tôi về nơi ở của Jacinta Coronado chỉ nhận được những cái nhìn trống rỗng, những tiếng rên rỉ, tiếng ợ, tiếng gầm gử. Mười lăm phút sau tôi đầu hàng và quay lại chỗ Fermín xem anh ta có gặp may hơn không. Sự nản lòng của anh ta thật quá rõ ràng.

“Làm sao chúng ta tìm được Jacinta Coronado trong đống cứt này?”

“Tôi không biết. Đây đúng là vạc chứa bọn đần độn. Tôi đã thử dùng kẹo Sugus để phỉnh họ, thế mà bọn họ cứ nghĩ đấy là thuốc ngậm cho tan.”

“Sao không hỏi Xơ Hortensia nhỉ? Ta sẽ nói với bà ấy sự thật, khỏi phải nghĩ ngợi tìm kiếm làm gì.”

“Nói ra sự thật nên là phương án cuối cùng, Daniel ạ, và đối với một bà xơ thì càng nên như vậy. Hãy dùng hết số kẹo này đã. Thử đám người đằng kia xem. Trông họ khá vui vẻ. Tôi chắc họ còn nói năng được. Đến hỏi họ xem.”

“Còn anh định làm gì?”

“Tôi sẽ canh ở cổng sau, lỡ con chim cánh cụt kia quay lại. Cậu cứ làm việc của mình

Với rất ít hay hầu như không chút hy vọng thành công, tôi bước đến chỗ đám bệnh nhân ở góc kia phòng.

“Chào buổi tối," tôi nói, nhận ra ngay lời chào của mình ngu xuẩn đến mức nào, vì ở đây là lúc nào mà chẳng ban đêm. "Tôi đang tìm bà Jacinta Coronado. Co-ro-na-do. Các ông có biết bà ấy không, có thể tìm bà ấy ở đâu không?"

Tôi đang đương đầu với bốn khuôn mặt bị thói tham lam làm cho đồi bại. Hình như có gì ở đây, tôi nghĩ. Có lẽ chưa phải tất cả đã hết.

"Jacinta Coronado?" tôi nhắc lại.

Bốn bệnh nhân nhìn nhau rồi gật đầu với nhau. Một người, có cái bụng tròn căng và trên mình không một sợi lông, dường như là cầm đầu cả nhóm. Vẻ bề ngoài và cách xử sự của ông ta khiến tôi nghĩ đến Nero đang ngồi vui vẻ gảy đàn trong khi thành Rome tàn lụi dưới chân. Với một cử chỉ oai nghiêm, ngài Nero cười với tôi đầy đùa cợt. Tôi cười đáp lại, đầy hy vọng.

Ông ta ra hiệu cho tôi tiến gần hơn, chừng như muốn nói thầm vào tai tôi. Tôi dè dặt, rồi cúi xuống.

Tôi ghé tai vào gần miệng ông ta - gần đến mức tôi có thể cảm thấy hơi thở hôi hổi và hôi hám của ông ta trên da mình. "Ông có thể cho tôi biết bà Jacinta Coronado ở đâu không?” tôi hỏi lần cuối. Tôi sợ ông ta sẽ cắn tôi. Nhưng không phải, ông ta đánh một quả rắm long trời. Đồng bọn của ông ta cười phá lên và vỗ tay vui sướng. Tôi lùi lại vài bước, nhưng đã quá muộn, luồng hơi dữ dội đã phả vào tôi. Chính lúc này tôi mới nhận ra, sát ngay tôi, một ông gìa lom khom, với bộ râu của nhà tiên tri, mái tóc thưa, ánh mắt sáng quắc, đang tì người lên gậy mà nhìn những người khác với vẻ khình thị.

“Cậu đang lãng phí thì giờ đấy. Juanito chỉ biết đánh rắm, và những người gần ông ta thì chỉ biết cười và ngửi rắm thôi. Như cậu thấy đấy, cấu trúc xã hội ở đây không khác mấy thế giới bên ngoài.”

Triết gia già cỗi nói với giọng nghiêm trang, phát âm từng từ chuẩn mực. Ông nhìn tôi một lượt, như để đánh giá tôi.

“Cậu tìm Jacinta hả, tôi nghe có đúng

Tôi gật đầu, giật mình vì sự hiện diện của cái sinh vật thông minh trong cái ổ kinh hoàng này.

“Để làm gì?”

“Tôi là cháu bà ấy.”

“Còn ta là Hầu tước Crèmebrulée. Cậu là đồ nói dóc không phải lối, đúng vậy đấy. Cho ta biết sao cậu muốn gặp bà ấy không thì ta sẽ đóng vai người điên. Ở đây việc này thật dễ dàng. Còn nếu cậu định hỏi từng kẻ khốn khổ ở đây thì cậu sẽ sớm hiểu ngay ta muốn nói gì.”

Juanito và băng đảng những kẻ ngửi rắm của ông ta vẫn cười rú lên. Ông già độc diễn ấy lại sổ ra một tràng nữa, lần này yên ắng và sâu hơn lần trước. Nghe như một tiếng hít gió, tiếng thủng lốp xe, và chứng tỏ khả năng Juanito kiểm soát cơ thắt của mình đạt đến độ siêu hạng. Tôi đành chấp nhận sự thật đó.

“Ông nói đúng. Tôi không phải họ hàng của bà Coronado, nhưng tôi cần nói chuyện với bà ấy. Đây là vấn đề quan trọng tột cùng.”

Ông già đến gần tôi. Ông ta có nụ cười tinh quái, giống như mèo, nụ cười của một đứa trẻ ranh mãnh, và đôi mắt ông ta đầy xảo quyệt.

“Ông có thể giúp tôi không?” tôi cầu xin.

“Còn tùy cậu giúp tôi được bao nhiêu.”

“Nếu nằm trong khả năng của tôi, tôi sẽ vui lòng giúp ông, Ông có muốn tôi gửi tin cho gia đình ông không?”.

Ông già cười cay đắng. “Chính gia đình tôi đã trói tôi vào cái lỗ này. Bọn họ đúng là một lũ đỉa; có thể ăn cắp đến cả quần lót của tôi khi quần vẫn còn ấm. Quỷ tha ma bắt chúng đi - tôi đã giữ chúng và chịu đựng chúng đủ lắm rồi. Tôi muốn là muốn một ả đàn bà.”

“Ông nói gì cơ?”

Ông già nhìn tôi sốt ruột.

“Tuổ không biện hộ cho sự trì độn được đâu nhóc. Ta nói ta muốn một người đàn bà. Một phụ nữ, một cô hầu, hoặc một con ngựa cái non ngực bự cũng được. Còn trẻ - nghĩa là dưới năm lăm tuổi - và khỏe, không bị nhọt, không què thọt."

“Tôi không chắc mình có hiểu không...”

“Cậu hiểu rõ lắm. Ta muốn xơi một con đàn bà vẫn còn răng và không đái bậy lên người ta, trước khi ta bước sang thế giới bên kia. Ta không quan tâm ả đẹp hay xấu; mắt ta kém rồi, ở tuổi này bất cứ cô gái nào còn lành lặn cũng đều là thần Vệ nữ. Rõ chưa?”

“Rõ như pha lê. Nhưng tôi không biết làm sao tìm đàn bà cho ông...”

“Cái thời ta bằng tuổi cậu, trong làng dịch vụ có một thứ gọi là 'mấy cô dễ dãi'. Ta biết thế giới thay đổi, nhưng bản chất thì không bao giờ. Tìm cho ta một người, chắc thịt và vui tính, rồi chúng ta sẽ thỏa thuận. Còn nếu cậu băn khoăn về khả năng hưởng thụ một cô ả của ta, thì ta muốn cậu biết rằng ta có thể cấu véo cặp mông và sờ soạng đôi ngực ả. Lợi thế của kinh nghiệm là ở đấy.”

“Kỹ thuật là chuyện của ông, nhưng tôi không thể mang một phụ nữ vào đây lúc này.”

“Ta có thể là một ông già bẩn tính, nhưng ta không ngu. Ta biết thế. Cậu chỉ cần hứa với ta là đủ.”

“Sao ông biết tôi sẽ không nói dối chỉ để ông cho tôi hay nơi ở của Jacinta Coronado?”

Ông già cười ranh mãnh. “Cậu cứ hứa đi đã, hãy để chuyện lương tâm cho lão này.”

Tôi nhìn quanh, Juanito đang bắt đầu phần hai màn độc diễn của ông ta. Hy vọng đang tan biến dần dần. Đáp ứng đòi hỏi của ông già mắc dịch dường như là điều duy nhất có chút ý nghĩa nào đấy trong chốn luyện ngục này. “Tôi hứa với ông. Làm được gì, tôi sẽ làm.”

Ông già cười ngoác cả miệng, Tôi đếm được ba chiếc răng.

“Tóc vàng, kể cả nhuộm cũng được. Ngực to và biết chửi bậy, nếu được. Trong các giác quan thì tai ta là cơ quan còn dùng tốt nhất

“Tôi sẽ xem có thể làm được gì. Giờ thì cho tôi biết có thể tìm Jacinta Coronado ở đâu?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


“CẬU ĐÃ HỨA GÌ VỚI ÔNG GIÀ KHÚ ĐÓ HẢ?”

“Anh nghe rồi đấy.”

“Ý cậu đấy là chuyện đùa, tôi hy vọng vậy.”

“Tôi không đi lừa một ông già sắp chết, cho dù ông ta có vẻ tươi sống thế nào.”

“Ừ thì công nhận về cái đó cậu giỏi, Daniel, nhưng cậu nghĩ làm thế nào để nhón một ả điếm vào được chốn linh thiêng này hả?”

“Trả tiền gấp ba, tôi nghĩ vậy. Còn chi tiết ra sao tôi trông cả vào anh.”

Fermín nhún vai cam chịu. “Ờ, dù thế nào thì thỏa thuận cũng là thỏa thuận. Chúng ta sẽ tìm ra cách nào đó. Nhưng nhớ lần sau có dàn xếp những việc như thế này, hãy để tôi đứng ra nói chuyện.”

“Đồng ý.”

Đúng như ông già láu cá đã chỉ, chúng tôi tìm thấy Jacinta Coronado trong một cái gác xép mà lối lên duy nhất là từ một cầu thang tầng ba. Theo ông già kia, căn gác này là nơi trú ngụ cho số bệnh nhân ít ỏi mà định mệnh hãy còn chưa rủ lòng thương lấy đi nhận thức. Rõ ràng, chốn ẩn kín này, trong thời vinh quang của nó, là phòng ở của Baltasar Deulofeu, còn gọi là Laszlo de Vicherny, từ đấy hắn ta điều hành các hoạt động của Tenebrarium và tu dưỡng món nghệ thuật ái ân mới du nhập từ phương Đông, giữa những làn hơi và hương dầu thơm ngát. Và hiện giờ ở đây cũng không hề thiếu mùi, tuy rằng mang một bản chất khác. Một người phụ nữ chỉ có thể là Jacinta Coronado héo hon trên chiếc ghế liễu gai, quấn mình trong chăn.

“Bà Coronado? tôi hỏi, cao giọng, nhỡ đâu bà cụ tội nghiệp bị điếc, dở người, hoặc cả hai.

Bà già thận trọng nhìn chúng tôi, đôi chút dè dặt. Đôi mắt bà đã lòa, trên trán lơ thơ vài nhúm tóc bạc. Tôi nhận thấy bà nhìn tôi bối rối, ngỡ như trước đây bà đã gặp tôi nhưng không thể nhớ ở đâu. Tôi e sợ Fermín sẽ xông vào giới thiệu tôi là con trai của Carax hoặc một lời nói dối nào đại loại như vậy, nhưng anh ta chỉ quỳ xuống cạnh bà cụ đoạn nắm lấy bàn tay run rẩy, nhăn nhúm của bà.

“Jacinta, tôi là Fermín, và anh chàng điển trai này là Daniel, bạn tôi. Cha Fernando Ramos phái chúng tôi đến đây. Hôm nay ông ấy không thể đến được bởi vì ông ấy có cả tá lễ mixa phải giảng – bà biết lịch các ngày thánh thế nào mà – ông ấy gửi lời thăm hỏi bà đấy. Bà cảm thấy thế nào rồi?”

Bà cụ cười dịu dàng với Fermín. Anh bạn tôi vuốt nhẹ lên mặt, lên trán bà cụ. Bà đón nhận sự đụng chạm với da người khác như một con mèo đang kêu rừ rừ thích thú. Tôi cảm thấy cổ họng mình nghẹn lại.

“Câu hỏi thật ngu ngốc, có phải vậy không?” Fermin nói tiếp. “Điều bà muốn là được ra khỏi đây, để nhảy điệu fox-trot. Trông bà như một vũ công ấy; hẳn ai cũng nói với bà như vậy.”

Tôi chưa bao giờ thấy anh ta đối xử với ai tinh tế như vậy, cho dù là với Bernarda. Lời của anh ta đơn thuần là nịnh ngọt, nhưng giọng điệu và biểu hiện trên mặt anh ta quả thật chân thành.

“Anh nói những điều thật đẹp đẽ,” bà thì thầm, giọng ngắt quãng vì lâu rồi không có ai để nói chuyện hoặc không có gì để nói.

“Không đẹp đẽ bằng một nửa bà đâu, Jacinta ạ. Chúng tôi có thể hỏi bà một vài câu không? Như những cuộc thi trên đài phát thanh ấy?”

Bà cụ chỉ chớp mắt thay cho câu trả lời.

“Tôi hiểu như vậy nghĩa là đồng ý. Bà có nhớ Penélope không, Jacinta? Penélope Aldaya ấy? Chúng tôi muốn hỏi bà về cô ấy.”

Mắt Jacinta bỗng sáng rực lên và bà gật đầu.

“Ôi cô gái của tôi,” bà lẩm nhẩm, cơ hước mắt sắp tuôn trào.

“Đúng cô ấy đấy. Bà còn nhớ, đúng không? Chúng tôi là bạn của Julián. Julián Carax, người hay kể những câu chuyện nghe rất sợ. Bà cũng nhớ đúng không?”

Đôi mắt bà cụ bừng lên, như thể những lời đó và những đụng chạm trên da đã mang sự sống quay lại với bà chỉ trong phút chốc.

“Cha Fernando ở trường San Gabriel nói bà yêu mến Penélope. Ông ấy cũng rất yêu mến bà, ngày nào cũng nghĩ đến bà. Nếu ông ấy không đến thăm được thường xuyên, đó là vì lão giám mục mới, một kẻ chỉ quan tâm đến chuyện trèo cao, đã giao cho ông ấy chủ trì lễ mixa nhiều đến mức ông ấy khản cả giọng.”

“Cháu có chắc là đã ăn no chưa?” bà cụ bỗng hỏi, mặt tỏ vẻ lo lắng.

“Cháu ăn như ngựa ấy, Jacinta ạ. Rắc rối ở chỗ cháu có một hệ tiêu hóa rất là khủng, và cháu tiêu hết rồi. Bà tin cháu đi, dưới lớp quần áo này chỉ toàn là cơ bắp thôi. Bà sờ đi, sờ đi này. Giống như Charles Atlas[1] vậy, chỉ khác là nhiều lông hơn thôi.”

[1. Người đã phát triển phương pháp luyện tập thể hình.]

Jacinta gật đầu và yên tâm. Bà không thể rời mắt khỏi Fermín. Bà đã hoàn toàn quên mất tôi.

“Bà kể gì về Penélope và Julián đi?”

“Tất cả bọn họ, họ đã cướp đi cô ấy của tôi,” bà nói. “Cô gái của tôi.”

Tôi tiến lên một bước và định nói gì đó, nhưng Fermín ném cho tôi cái nhìn ngầm bảo tôi dừng lại.

“Ai đã mang Penélope đi, Jacinta? Bà có nhớ không?”

“Ngài ấy,” bà nói, ngước mắt lên sợ hãi, như thể bà nghĩ sẽ có ai nghe thấy.

Fermín dường như đang đánh giá sự căng thẳng trong cử chỉ của bà cụ và theo ánh mắt bà ngước nhìn lên trần, dò xét những khả năng.

“Có phải bà đang nói đến Chúa Quyền năng không, là Chúa Trời, hay là bà đang nói đến ông chủ, cha của cô Penélope, Don Ricardo?”

“Fernando thế nào?” bà hỏi.

“Cha đạo ư? Thật sáng ngời. Ngày nào đó ông ấy sẽ lên chức giáo hoàng và sẽ đưa bà vào Nhà nguyện Sistine. Ông ấy gửi bà lời chúc tốt lành nhất.”

“Ông ấy là người duy nhất đến thăm ta. Ông ấy đến vì ông ấy biết ta không còn ai khác thân quen.”

Fermín liếc nhìn tôi, như thể anh ta đang nghĩ điều mà tôi đang nghĩ. Jacinta Coronado tỉnh táo hơn nhiều so với vẻ bề ngoài của bà. Cơ thể của bà đang tàn lụi đi, nhưng lý trí và tâm hồn bà vẫn còn sáng chói nỗi đau khổ ở chốn tồi tàn ấy. Tôi tự hỏi còn mắc kẹt ở đây bao nhiêu người như bà ấy, hoặc như ông già nhỏ thó và minh mẫn kia, người đã chỉ cho chúng tôi nơi ở của bà.

“Ông ấy đến bởi vì ông ấy quý mến bà, Jacinta ạ. Vì ông ấy nhớ rõ bà đã chăm sóc ông ấy, và bà đã mang đồ ăn cho ông ấy khi ông còn nhỏ. Ông ấy đã kể chúng tôi nghe tất cả. Bà còn nhớ không, Jacinta? Bà còn nhớ những ngày đó không, khi bà đến trường học để đón Jorge, bà còn nhớ Fernando và Julián không?”

“Julián ư...”

Cái tên ấy bà chỉ thì thầm, nhưng nụ cười đã làm bộc lộ điều bà cố không bộc lộ.

“Bà còn nhớ Julián Carax không, Jacinta?”

“Ta vẫn nhớ cái ngày Penélope bảo với ta cô bé sẽ lấy cậu ấy...”

Fermín và tôi nhìn nhau kinh ngạc.

“Lấy ư? Lúc nào vậy, Jacinta?”

“Ngày cô bé gặp cậu ấy lần đầu tiên. Lúc ấy cô bé mới mười ba tuổi, và không biết cậu bé là ai hay tên gì.”

“Vậy làm sao cô ấy biết sẽ lấy cậu ấy?”

“Vì cô ấy đã gặp cậu ấy. Trong giấc mơ.”

***

Lúc còn nhỏ, María Jacinta Coronado tin rằng thế giới chỉ kéo dài đến ngoại ô Toledo và xa hơn ngoài thị trấn là bóng đen và biển lửa, chẳng còn gì khác. Ý nghĩ ấy đến với Jacinta từ một giấc mơ năm bà mới bốn tuổi và bà bị một cơn sốt suýt nữa đã giết chết bà. Giấc mơ này là giấc mơ đầu tiên trong một loạt giấc mơ, tất cả đều bắt đầu bằng một trận sốt bí ẩn, mà có người đổ cho vết đốt của một con bọ cạp lớn màu đỏ xuất hiện trong nhà chỉ một ngày và không bao giờ thấy nữa, còn những người khác lại vấy cho những hình vẽ ác của một bà sơ bị điên đêm đêm lẻn vào nhà thiên hạ để đầu độc trẻ nhỏ, nhiều năm sau này bà ta bị thắt cổ lúc đang hát Bài cầu nguyện Chung, mắt lồi ra khỏi hốc, trong khi một đám mây đỏ bao phủ khắp thị trấn và phóng xuống một cơn bão toàn những con gián chết. Trong giấc mơ của mình, Jacinta nhìn thấy được quá khứ và tương lai, và đôi khi điều nhìn thấy đã hé lộ cho bà những bí mật và huyền hoặc ở những con phố cổ của Toledo. Một trong những nhân vật bà thường xuyên gặp trong giấc mơ là một người tên Zacarías, một thiên thần luôn vận đồ đen cùng con mèo đen có cặp mắt vàng và thở ra mùi lưu huỳnh. Zacarías biết mọi thứ: anh ta đoán được ngày giờ chết của bác Benancio của bà – người bán dạo thuốc mỡ và nước thánh. Anh ta tiết lộ nơi mẹ bà, một con chiên mộ đạo, giấu một tập thư của một chàng sinh viên y khoa đầy nhiệt huyết tuy nghèo song lại rất hiểu biết về giải phẫu cơ thể, trong phòng ngủ của anh ta trên ngõ nhỏ ở Santa María bà mẹ từ khi còn nhỏ đã khám phá cánh cửa lên thiên đường. Zacarías báo cho Jacinta rằng trong bụng bà có tà độc, một linh hồn chết mong muốn bà ốm yếu, và bà sẽ biết đến tình yêu của chỉ một người đàn ông duy nhất: một tình yêu suông hão và ích kỷ sẽ khiến tâm hồn bà vỡ đôi. Anh ta dự đoán cả cuộc đời bà sẽ chứng kiến cái chết của những người bà yêu thương nhất, và trước khi được lên thiên đường, bà sẽ phải xuống địa ngục. Vào ngày bà có kỳ kinh đầu tiên, Zacarías và con mèo mùi lưu huỳnh của anh ta biến mất khỏi giấc mơ của bà, nhưng nhiều năm sau Jacinta vẫn nhớ, với ánh mắt rưng rưng, về những chuyến viếng thăm của thiên thần áo đen, bởi vì tất cả những tiên đoán của anh ta đã trở thành sự thật.

Nên khi các bác sĩ chẩn đoán bà sẽ không bao giờ có thể có con, Jacinta cũng không lấy làm ngạc nhiên. Bà cũng không ngạc nhiên, dẫu bà gần như đã chết đi vì đau khổ, khi người chồng đã ba năm chung sống tuyên bố sẽ bỏ bà vì bà giống như một mảnh đất cằn cỗi không thể cho cây trái, vì bà không phải là đàn bà. Khi Zacarías (người mà bà cho là giả của thiên đường, vì dù anh có mặc đồ đen hay không thì anh vẫn là một thiên thần tỏa sáng và là người đàn ông đẹp trai nhất bà từng gặp trong mơ) không xuất hiện nữa, Jacinta đã trốn trong ngóc ngách mà tự mình cầu Chúa, không nhìn thấy Người hay trông đợi Người đáp lại, vì thế giới này có quá nhiều nỗi đọa đày cho nên những truân chuyên của bà, xét cho cùng, chỉ là vặt vãnh mà thôi. Những cuộc độc thoại của bà với Chúa chỉ về một chủ đề duy nhất: bà chỉ muốn một điều trong đời, là được làm mẹ, được làm phụ nữ.

Một ngày kia, khi đang cầu nguyện trong nhà thờ, một người đàn ông, mà bà nhận ra là Zacarías, đã đến gần bà. Anh ăn mặc như mọi khi, và ôm con mèo ác hiểm trong lòng. Anh không hề già đi dù chỉ một chút và vẫn để bộ móng tay tráng lệ, như móng tay của một nữ công tước, dài và nhọn. Thiên thần thừa nhận anh có mặt ở đó là vì Chúa không định trả lời những nguyện cầu của bà. Nhưng anh bảo bà không nên lo lắng, vì bằng cách nào đấy anh sẽ gửi đến bà một đứa trẻ. Anh cúi người xuống thì thầm “Tibidabo,” rồi hôn rất khẽ lên môi bà. Lúc chạm vào đôi môi mềm mại và ngọt ngào đó, Jacinta có một ảo ảnh: bà sẽ có một đứa con gái mà không cần biết đến đàn ông nữa (mà xét từ ba năm chung chăn gối với chồng, kẻ cứ nhất quyết đòi quan hệ trong khi lấy gối bịt mặt bà và lầm bầm chửi “Mày không được nhìn, đồ con điếm” thì điều này chẳng khác nào trút đi được gánh nặng). Đứa con gái này sẽ đến với bà từ một thành phố rất xa xôi, ở giữa những rặng núi và biển ánh sáng, một thành phố đầy những tòa nhà và chỉ có thể tồn tại trong mơ. Sau này, Jacinta không thể biết chuyến viếng thăm của Zacarías có phải là một giấc mơ khác của bà hay vị thiên thần kia thực sự đã đến với bà ở nhà thờ Toledo, cùng với con mèo và những móng tay sơn màu đỏ thắm. Điều mà không một giây phút bà nghi ngờ, ấy là sự chân thực của những tiên đoán kia. Ngay chiều hôm đó, bà đã hỏi người trợ tế giáo khu, một người đọc rộng hiểu nhiều và đã nhìn thấy thế giới (người ta nói ông đã đến tận Andorra và biết một chút tiếng Basque). Viên trợ tế tuyên bố ông không hề biết thiên thần nào là Zacarías trong số đoàn người có cánh trên thiên đường, tuy nhiên ông chăm chú lắng nghe Jacinta kể lại ảo ảnh của mình. Sau nhiều suy xét, và xem qua mô tả một số dạng nhà thờ mà, nói theo lời của nhà thấu nhãn ấy, nghe giống như một chiếc lược lớn làm từ sô cô la tan chảy, con người thông thái ấy nói, “Jacinta, thứ mà con đã thấy là Barcelona, người đàn bà quyến rũ vĩ đại, và nhà thờ Sagrada Familia...” Hai tuần sau, Jacinta khăn gói lên đường đến Barcelona, với một túi nhỏ quần áo, một cuốn kinh, và nụ cười đầu tiên trong suốt năm năm, tin rằng mọi điều mà thiên thần đã nói với bà sẽ trở thành sự thật.

Nhiều tháng gian nan trôi qua, rồi Jacinta cũng tìm được công việc ổn định trong một cửa hàng của Công ty Aldaya và Con trai, gần khu lều rạp của riển lãm Quốc tế 1888 cũ trong Công viên Ctudadelo. Barcelona trong giấc mơ của bà đã đổi thay thành một thành phố hiểm ác, thù nghịch, đầy những tòa nhà khép kín, đầy những nhà máy phả ra những đám khói dày muội than và lưu huỳnh đầu độc bầu không khí. Ngay từ đầu Jacinta biết thành phố này là một người đàn bà tàn nhẫn và phù phiếm; bà dần thấy sợ nó và không dám nhìn thẳng vào nó. Bà sống một mình trong căn nhà trọ ở khu phố Ribera, nơi mà lương của bà chỉ vừa đủ trả tiền thuê một căn phòng tồi tàn không cửa sổ, nguồn ánh sáng duy nhất là từ những ngọc nến bà lấy cắp của nhà thờ. Bà thắp sáng chúng cả ngày lẫn đêm để xua đi lũ chuột đã gặm tai và các ngón tay của một đứa bé sáu tháng tuổi, con của Ramoneta – một cô điếm thuê phòng bên cạnh và là người bạn duy nhất Jacinta làm quen được trong mười một tháng ở Barcelona. Mùa đông năm ấy trời mưa suốt, và mưa đen đục vì tro bụi. Rồi nhanh chóng Jacinta bắt đầu e sợ rằng Zacarías đã lừa dối bà, rằng mình đã đến thành phố kinh hoàng đó để chết trong lạnh lẽo, trong đau khổ và lãng quên.

Jacinta sẵn sàng để sinh tồn. Bà đến cửa hàng mỗi ngày trước lúc bình minh và không về cho đến khi màn đêm đã buông xuống. Ở đó Don Ricardo tình cờ bắt gặp bà đang chăm sóc đứa con gái của một người đốc công, người này đã ngã bệnh lao. Khi ông nhận thấy sự tận tụy và dịu dàng toát ra từ cô gái trẻ, ông quyết định mang bà về nhà để chăm sóc vợ ông, người vợ đang mang thai đứa con đầu lòng của ông. Thế là lời cầu nguyện của Jacinta đã được đền đáp. Tối hôm ấy, Jacinta lại gặp Zacarías trong giấc mơ. Thiên thần không mặc đồ đen nữa. Anh ở trần, làn da anh đóng vảy. Anh không còn mang theo con mèo, nhưng một con rắn trắng quấn quanh thân trên anh. Tóc anh mọc xuống tận hông, và nụ cười, nụ cười ngọt ngào bà đã hôn ở Nhà thờ Toledo, giờ hé ra một hàm răng sắc nhọn, như hàm răng bà nhìn thấy ở một số loài cá biển quẫy đuôi ngoài chợ cá. Nhiều năm sau, bà sẽ kể lại ảo ảnh đó cho chàng thanh niên mười tám tuổi Julián Carax khi nhớ lại cái ngày bà rời căn nhà trọ ở khu phố Ribera và chuyển đến nhà ông Aldaya, bà nghe kể rằng bạn của bà, Ramoneta, đã bị đâm đến chết ở ngay trước cửa vào đêm hôm trước và con của Ramoneta đã bị chết vì lạnh trong vòng tay người mẹ. Khi hay tin, khách trọ đã đến phỉ nhổ, chửi bới và cào nát mớ đồ đạc thảm hại của người đàn bà đã chết. Thứ duy nhất họ để lại là cái kho báu lớn nhất của Ramoneta: một cuốn sách. Jacinta nhận ra nó, vì đêm đêm Ramoneta thường đòi bà đọc cho cô ta một vài trang. Cô ta chưa bao giờ biết đọc.

Bốn tháng sau, Jorge Aldaya chào đời, và dầu Jacinta đã thể hiện hết tình yêu mà bà mẹ đẻ không bao giờ biết cách bày tỏ với cậu bé, hoặc không bao giờ muốn thể hiện – vì bà là một mệnh phụ thanh cao, Jacinta nghĩ, bà dường như luôn bị mắc kẹt vào chính hình ảnh của mình trong gương – người bảo mẫu vẫn nhận ra đây không phải là đứa con Zacarías đ với mình. Trong những năm ấy, Jacinta đã từ bỏ tuổi thanh xuân và trở thành một phụ nữ khác. Con người Jacinta kia đã bị bỏ lại ngôi nhà trọ ở khu phố Ribera, đã chết như Ramoneta. Giờ bà sống trong cái bóng xa hoa của nhà Aldaya, cách xa cái thành phố tăm tối mà bà đã trở nên rất căm thù và không bao giờ mạo hiểm bước vào, kể cả vào ngày nghỉ hằng tháng cũng không. Bà học được cách sống thông qua những người khác, qua một gia đình ngồi trên một đống tài sản lớn đến mức chắc chắn bà không thể mường tượng nổi. Bà sống trong sự mong đợi đứa con kia, nó sẽ là một đứa con gái, giống như thành phố này, và bà sẽ dành hết tình yêu mà Chúa đã dùng để đầu độc linh hồn bà. Đôi khi Jacinta tự hỏi liệu cái sự yên bình mơ hồ ấy xâm chiếm bà từng ngày ấy, liệu cái sự thiếu tỉnh thức ấy có phải là điều người ta gọi là hạnh phúc không, và bà muốn tin rằng Chúa, trong yên lặng vô hạn của Người, đã trả lời những cầu nguyện của bà theo cách của Người.

Penélope Aldaya sinh vào mùa xuân năm 1902. Lúc ấy Don Ricardo Aldaya đã mua ngôi nhà ở Đại lộ Tibidabo, dinh thự nguy nga mà những người hầu làm cùng Jacinta tin rằng đang chịu một lời nguyền ghê gớm, nhưng Jacinta không sợ, vì bà biết điều người khác cho là bí ẩn lại không gì khác hơn một linh hồn mà chỉ bà mới có thể thấy được trong giấc mơ: cái bóng của Zacarías, người không còn giống như người đàn ông bà vẫn nhớ và giờ đây chỉ hiện hình là một con sói đi bằng hai chân.

Penélope là một đứa trẻ mong manh, gầy gò và yếu đuối. Jacinta đã chứng kiến cô bé lớn lên như bông hoa trước gió đông. Trong nhiều năm, bà chăm nom cô bé hằng đêm, tự tay chuẩn bị mỗi bữa ăn, tự tay may đồ cho cô bé, ở bên cạnh mỗi khi cô ốm đau, bệnh tật, khi cô bé cất tiếng nói đầu tiên, khi cô bé trở thành phụ nữ. Bà Aldaya là một nhân vật nữa trong khung cảnh ấy, một nhân vật phụ xuất hiện và rời khỏi sân khấu theo mệnh lệnh của phép tắc. Trước khi đi ngủ, bà ta đến chúc con gái mình ngủ ngon và nói rằng bà yêu cô bé hơn hết thảy trên đời này, rằng đối với bà cô bé là điều quan trọng nhất trên thế giới này. Jacinta không bao giờ nói với Penélope rằng bà yêu cô bé. Người bảo mẫu biết rằng, những người yêu thực sự, yêu trong lặng lẽ, họ yêu bằng hành động chứ không bằng lời nói. Jacinta âm thầm khinh thường bà Aldaya, cái sinh vật rỗng tuếch, phù phiếm ấy, cái con người đang già đi trong những hành lang của tòa nhà, bị kéo khom xuống bởi những thứ trang sức mà chồng bà ta – người nhiều năm nay đã hạ neo ở một bến khác – đã dùng để khiến bà ta câm lặng. Bà căm ghét bà ta bởi vì, trong tất cả phụ nữ, Chúa đã chọn bà ta để sinh ra Penélope, trong khi tử cung của bà, tử cung của người mẹ đích thực, lại vẫn cằn cỗi. Theo thời gian, như thể những lời nói của chồng bà có tính tiên tri, Jacinta thậm chí còn mất đi hình dáng đàn bà. Dáng vẻ bà ngày càng gầy gò khắc khổ, bà mang vẻ mệt mỏi trên làn da và trong tận xương cốt. Ngựcà phẳng phiu dần cho đến khi chỉ còn là một nhúm da, hông bà giống như hông của một cậu bé, còn da thịt bà, khô cứng và xù xì, thậm chí không thu hút nổi ánh mắt của ông Ricardo Aldaya, người chỉ cần cảm nhận thấy dấu hiệu của sự sống thôi là cũng đã phát cuồng lên – như mọi cô hầu trong nhà và trong nhà đám bạn thân ông ta biết rất rõ. Như thế này tốt hơn, Jacinta nghĩ. Bà không có thì giờ cho những chuyện không đâu.

Tất cả thời gian của bà được dành cho Penélope. Bà đọc cho cô bé nghe, đi cùng cô đến mọi nơi, tắm cho cô, mặc đồ cho cô, cởi đồ cho cô, chải tóc cho cô, dẫn cô đi dạo, đưa cô đi ngủ và đánh thức cô. Nhưng trên hết, bà nói chuyện với cô. Mọi người coi bà là bảo mẫu gàn dở, một bà cô chẳng còn việc gì khác trên đời ngoài công việc ở nhà Aldaya, nhưng không biết được sự thật: Jacinta không chỉ là mẹ của Penélope, bà còn là bạn thân thiết nhất. Từ lúc cô bé bắt đầu tập nói và biết diễn đạt suy nghĩ, sớm hơn bất kỳ đứa trẻ nào khác Jacinta biết, họ đã chia sẻ với nhau những bí mật và cuộc sống của mình.

Thời gian trôi đi chỉ càng củng cố thêm mối gắn bó của họ. Khi Penélope đến tuổi dậy thì, họ đã là hai người bạn không thể tách rời. Jacinta chứng kiến Penélope nở hoa thành một phụ nữ, mà sắc đẹp và vẻ rực rỡ hiển nhiên không chỉ dưới con mắt bà. Khi cậu bé bí ẩn Julián đến căn nhà đó, Jacinta nhận ra ngay từ đầu một luồng điện giữa cậu và Penélope. Nó được nối với nhau bởi một sợi dây, tương tự như sợi dây đã nối bà với Penélope, nhưng cũng khác. Mạnh mẽ hơn. Nguy hiểm. Lúc đầu bà nghĩ bà sẽ ghét cậu bé, nhưng rồi bà sớm nhận ra mình không ghét bỏ Julián Carax, và không bao giờ có thể. Khi Penélope rơi vào vòng mê hoặc của Julián, bà cũng để mình bị cuốn vào và dần dần chỉ khao khát những gì Penélope khao khát. Không ai nhận ra, không ai thèm để ý đến, nhưng, như chuyện vẫn xảy ra, phần cơ bản nhất của vấn đề đã được sắp đặt trước khi câu chuyện bắt đầu, và lúc này đã quá muộn.

Nhiều tháng trôi qua cùng những ánh mắt đam mê và chờ đợi, cuối cùng Julián Carax và Penélope cũng được ở riêng bên nhau. Cuộc đời của họ được quyết định bởi sự tình cờ. Họ gặp nhau trong hành lang, họ nhìn nhau từ hai đầu bàn, họ lặng thầm phớt chạm qua nhau, họ cảm thấy sự vắng mặt của nhau. Họ trao nhau lời đầu tiên là khi ở trong thự viện tòa nhà trên Đại lộ Tibidabo vào một chiều bão bùng mưa gió, lúc ấy “Villa Penélope” bỗng nhiên ngập tràn ánh nến mờ ảo – chỉ vài giây đánh cắp được từ bóng đêm, Julián nghĩ chàng đã nhìn thấy trong ánh mắt cô gái niềm tin chắc mà cả hai đều cảm thấy như nhau, rằng chính cái bí mật ấy đang tàn phá họ. Dường như không ai nhận ra. Không ai, ngoại trừ Jacinta, người ngày càng lo lắng khi chứng kiến trò chơi liếc nhìn lén lút mà Penélope và Julián đang chơi ngay trước mũi. Bà lo sợ cho họ.

Lúc này, Julián bắt đầu bị những đêm mất ngủ, chàng thức từ đêm đến lúc trời hừng sáng để viết những câu chuyện dành tặng Penélope. Rồi, sau khi đến ngôi nhà ở Đại lộ Tibidabo với bất kỳ lý do cũ rích nào, chàng sẽ tìm ra dịp có thể lẻn vào phòng Jacinta và đưa cho bà những trang giấy, rồi bà sẽ đem cho cô gái. Đôi khi, Jacinta chuyển cho Julián bức thư Penélope đã viết cho chàng, và chàng sẽ đọc đi đọc lại nó suốt nhiều ngày sau. Trò chơi ấy cứ diễn ra ngày này sang tháng khác. Khi thời gian không mang lại cho họ vận may, Julián làm bất cứ điều gì cần thiết để được gần Penélope. Jacinta giúp chàng, để được nhìn Penélope hạnh phúc, để giữ cho ngọn lửa ấy cháy mãi. Về phần mình, Julián cảm nhận rằng sự ngây thơ vô tình lúc ban đầu đang phai nhạt và đã đến lúc cần phải bắt đầu mở hướng khác. Và đấy là lý do chàng bắt đầu nói dối Don Ricardo về dự định tương lai của mình, chàng vờ hứng thú với sự nghiệp trong ngành ngân hàng và tài chính, giả đò cảm mến và gắn bó với Jorge Aldaya dù thực tế không phải vậy, để biện minh cho sự hiện diện thường xuyên của mình ở ngôi nhà trên Đại lộ Tibidabo; chàng bắt đầu nói những điều chàng biết người khác muốn nghe chàng nói, để đọc được những cái nhìn của họ và những hy vọng của họ, bắt đầu gạt sang một bên lòng chân thành và trung thực, bắt đầu cảm thấy chàng đang bán đi từng mảnh linh hồn mình. Chàng bắt đầu sợ rằng nếu chàng có được Penélope thì sẽ không còn lại gì của con người Julián đã gặp nàng lúc ban đầu nữa. Đôi khi Julián tỉnh giấc lúc mờ sáng, giận dữ bùng cháy, mong mỏi được giãi bày cảm xúc thực của chàng cho thế giới này biết, để đối diện với Don Ricardo Aldaya và nói với ông rằng chàng không quan tâm gì đến gia sản của ông, đến cơ hội tương lai của chàng, hay công ty của ông ta; rằng chàng chỉ muốn con gái của ông, Penélope, và đang tính đưa nàng đi xa khỏi cái thế giới trống rỗng, bị phủ kín nơi cha nàng đã cầm tù nàng. Ánh sáng ban ngày đã xua đi can đảm của chàng.

Có nhiều lần Julián mở lòng với Jacinta, người bắt đầu yêu mến chàng trai hơn bà từng muốn. Bà thường để Penélope một mình, lấy lý do phải đi đón Jorge ở trường, để đi gặp Julián và chuyển cho chàng thông điệp của Penélope. Vậy nên bà mới gặp Fernando, người nhiều năm sau này vẫn là người bạn duy nhất còn lại trong khi bà chờ chết ở chốn Santa Lucía địa ngục – cái địa ngục đã được thiên thần Zacarías dự báo trước. Đôi khi người bảo mẫu khôn khéo mang Penélope đến trường và tìm cách cho đôi trẻ được gặp nhau dù ngắn ngủi, và ngắm nhìn một tình yêu đang lớn dần lên giữa họ, một thứ tình yêu mà bà chưa bao giờ được biết đến, một tình yêu mà bà luôn luôn bị chối bỏ. Cũng vào lúc này, Jacinta nhận ra bóng đen và sự hiện diện đầy phiền nhiễu của thằng bé ít lời mà mọi người gọi là Francisco Javier, con trai ông bảo vệ trường San Gabriel. Bà bắt gặp nó rình mò họ, nó đứng từ xa đọc những cử chỉ của họ và ngốn ngấu Penélope bằng đôi mắt.

Jacinta vẫn giữ một bức ảnh của Julián và Penélope được chụp bởi Recasens, thợ chụp chân dung chính cho gia đình Aldaya, bức ảnh bên cạnh cửa hàng mũ trên phố Ronda de San Antonio. Một tấm ảnh bình thường vô hại, chụp vào giữa trưa, trước sự có mắt của Don Ricardo và Sophie Carax. Jacinta luôn mang theo nó bên mình. Một ngày nọ, trong khi chờ Jorge ở ngoài trường, người bảo mẫu lơ đễnh bỏ quên túi xách cạnh đài phun nước, và khi quay lại để lấy túi, bà thấy Fumero đang lảng vảng gần khu vực ấy, nó nhìn bà đầy lo lắng. Đêm hôm ấy, bà tìm bức ảnh nhưng không thấy đâu, và tin chắc đứa bé kia đã đánh cắp. Một dịp khác, vài tuần sau đó, Francisco Javier Fumero đến chỗ Jacinta hỏi xem bà có thể giúp nó chuyển cho Penélope một món đồ được không. Khi Jacinta hỏi đồ vật đó là gì, nó lôi ra mảnh vải bọc một thứ trông như hình khắc gỗ thông. Jacinta nhận ra hình khắc Penélope và cảm thấy ớn lạnh. Bà chưa kịp nói gì, đứa bé đã bỏ đi. Trên đường về ngôi nhà ở Đại lộ Tibidabo, Jacinta quăng hình khắc đó qua cửa sổ ô tô, như thể đó là một mẩu xác chết bốc mùi. Không dưới một lần, Jacinta thức giấc lúc mờ sáng, người đầm mồ hôi, bị phiền não bởi cơn ác mộng trong đó đứa bé với vẻ mặt khó chịu kia lao mình vào Penélope với sự tàn bạo lạnh lùng và thờ ơ của một loài côn trùng lạ.

Có những chiều, khi Jacinta đến đón Jorge ở trường, và cậu ta ra muộn, bà bảo mẫu sẽ nói chuyện với Julián. Chàng cũng bắt đầu yêu mến người phụ nữ có ngoại hình khắc khổ kia. Rồi không lâu sau, mỗi khi có rắc rối phủ bóng lên cuộc sống của chàng, thì bà và Miquel Moliner luôn là người đầu tiên được biết. Một lần Julián kể cho Jacinta chàng đã thấy mẹ mình và Don Ricardo Aldaya nói chuyện gần khu vực đài phun nước trong khi chờ đám học sinh tan trường. Don Ricardo dường như thích thú với việc ở bên cạnh Sophie, và Julián cảm thấy đôi chút khó chịu, bởi chàng có biết về tiếng tăm Don Juan của ông trùm tư bản kia và thói hám của lạ của ông ta – không phân biệt đẳng cấp hay điều kiện – mà bà vợ thánh thiện của ông dường như miễn dịch. “Ta đã kể với mẹ cháu rằng cháu thích ngôi trường mới như thế nào,” Don Ricardo bảo chàng. Khi chào tạm biệt họ, Don Ricardo nháy mắt với họ và bước đi, cười ngặt nghẽo. Mẹ chàng yên lặng suốt trên đường về nhà, rõ ràng khó chịu vì những lời nhận xét của Don Ricardo Aldaya với bà.

Sophie nghi ngờ về mối quan hệ ngày càng gắn bó của Julián với gia đình Aldaya và cách chàng bỏ bê bạn củ và gia đình mình. Bà không phải là người duy nhất. Trong khi bà mẹ bày tỏ sự phật ý bằng cách buồn rầu và lặng lẽ, thì ông bán mũ thể hiện sự cay nghiệt và ghét bỏ. Sự hứng thú ban đầu của ông về việc mở rộng khách hàng sang giới thượng lưu Barcelona giờ đã tan biến. Giờ ông hiếm khi gặp con trai mình và phải thuê Quimet, một cậu bé trong phố và cũng là bạn của Julián, làm trợ lý và học việc trong cửa hàng. Antoni Fortuny là người chỉ cảm thấy có thể nói chuyện cởi mở về những chiếc mũ. Ông khóa chặt cảm xúc sâu kín trong ngục tù trái tim ông nhiều tháng liền, cho đến khi chúng trở nên cay đắng vô vọng. Ông nóng tính và dễ cáu bẳn hơn bao giờ hết. Nhìn vào đâu ông cũng thấy lỗi lầm – từ những nỗ lực học nghề của Quimet tội nghiệp đến những cố gắng của Sophie muốn làm nhẹ bớt cái sự thật rằng Julián hình như đang bỏ rơi họ.

“Con trai của mụ nghĩ rằng nó là ai đó vì những kẻ giàu có kia đối xử với nó như một con khỉ diễn trò,” ông nói, giọng thất vọng và đầy giận dữ.

Rồi một ngày, sau gần ba năm kể từ hôm Don Ricardo Aldaya lần đầu tiên đến cửa hàng mũ Fortuny và Con trai, ông bán mũ để Quimet trông cửa hàng và bảo đến trưa ông sẽ về. Ông đánh bạo đến tận văn phòng của tập đoàn Aldaya trên phố Gracia yêu cầu được gặp Don Ricardo.

“Tôi được hân hạnh thông báo tên ai đây?” tay thư ký hống hách hỏi.

“Thợ làm mũ của ông ấy.”

Don Ricardo đón tiếp ông, đôi chút ngạc nhiên nhưng khá thiện cảm, nghĩ rằng có lẽ Fortuny mang hóa đơn đòi nợ đến – những ông chủ cửa hàng nhỏ không bao giờ hiểu được nghi thức khi bàn chuyện tiền nong.

“Xem nào, tôi có thể làm gì cho ông, Fortunato, ông bạn già?”

Không thể trì hoãn hơn được nữa, Antoni Fortuny bắt đầu giải thích cho Don Ricardo rằng ông ta đã nhìn nhầm về con trai ông, Julián.

“Con trai tôi, thưa Don Ricardo, không phải là đứa như ngài nghĩ đâu. Ngược lại, nó là một đứa ngu dốt, lười biếng, không có tài năng gì hơn tính ngạo mạn mà mụ vợ tôi đã nhồi nhét vào đầu nó. Rồi nó chẳng làm nên trò trống gì đâu, ngài hãy tin tôi. Nó không có tham vọng và thiếu cá tính. Ngài không hiểu nó đâu. Nó có thể rất thông minh ở việc nói điều ngon ngọt với người lạ, khiến họ tin là nó hiểu biết nhiều, trong khi thực sự nó chẳng biết gì hết. Nó là một đứa tầm thường. Nhưng tôi hiểu rõ nó hơn bất kỳ ai, và tôi nghĩ mình nên cảnh báo ngài.”

Don Ricardo yên lặng lắng nghe bài diễn thuyết, mắt không hề chớp.

“Xong chưa, Fortunato?”

Khi nghe xong, nhà công nghiệp nhấn nút trên bàn. Một lát sau, tay thư ký đã đón Fortuny xuất hiện nơi cửa văn phòng.

“Ông bạn Fortunato đây muốn về, Bacells,” Don Ricardo thông báo. “Tiễn ông ấy ra cửa.”

Giọng lạnh băng của nhà công nghiệp khiến ông làm mũ không vui.

“Nếu không phiền, thưa Don Ricardo: tôi là Fortuny, không phải Fortunato.”

“Sao cũng được. Ông thật tẻ nhạt, Fortuny. Tôi rất biết ơn nếu ông không đến đây nữa.”

Khi Fortuny ra đường, ông cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết, và càng tin rằng mọi người chống lại ông. Chỉ vài ngày sau, những khách hàng khôn ngoan mà cửa hàng có được nhờ mối quan hệ với Aldaya bắt đầu gửi tin báo hủy đơn hàng và thanh toán hóa đơn. Chỉ trong vòng vài tuần, ông phải cho Quimet nghỉ, vì không đủ việc làm cho cả hai người ở cửa hàng. Dù sao cậu bé kia cũng không giúp gì nhiều, ông tự nhủ. Nó tầm thường và lười biếng, như tất cả bọn chúng.

Cũng trong thời gian này, mọi người xung quanh bắt đầu nói rằng ông Fortuny trông già đi, cô đơn hơn, cay đắng hơn rất nhiều. Ông hầu như không nói chuyện với bất kỳ ai nữa, ở lì nhiều giờ trong cửa hàng khóa chặt, không có việc gì làm, nhìn người qua lại ngoài phố, những cảm giác khinh bỉ xen lẫn hy vọng. Sau này mọi người bảo thời trang đã thay đổi, rằng những người trẻ không còn đội mũ nữa, rằng những người đội mũ lại thích đến các cửa hiệu khác, nơi người ta bán những chiếc mũ làm sẵn với nhiều kích cỡ khác nhau, mẫu mã hiện đại, và giá rẻ hơn. Cửa hàng mũ nhà Fortuny và Con trai dần chìm vào trong giấc ngủ u buồn, lặng lẽ.

Tất cả các người đang chờ ta chết, Fortuny tự nhủ. Được, ta sẽ cho các người diễm phúc đó. Thực sự, ông đã bắt đầu chết từ rất lâu rồi.

Julián ngày càng lao mình vào thế giới nhà Aldaya, vào cái tương lai duy nhất chàng có thể biết đến, cái tương lai có Penélope. Gần hai năm trôi qua, trong thời gian đó, hai người lén lút đi cùng nhau trên một sợi dâ bí mật. Bằng cách của mình, Zacarías đã cảnh báo chàng rất lâu rồi. Bóng đen bao bủa quanh Julián, và chúng nhanh chóng siết chặt chàng.

Tín hiệu đầu tiên xuất hiện vào một ngày tháng Tư năm 1928. Jorge Aldaya sắp tròn mười tám tuổi, và Don Ricardo, trong vai trò người trưởng tộc vĩ đại, đã quyết định tổ chức (hay đúng hơn, ra lệnh cho ai đó tổ chức) một bữa tiệc sinh nhật hoành tráng mà con trai ông không muốn và chính ông sẽ vắng mặt: vì lý do có công việc quan trọng, ông sẽ đi gặp một cô gái thơm ngon, vừa mới từ St. Petersburg đến, tại căn phòng lộng lẫy màu xanh của khách sạn Colón. Ngôi nhà trên Đại lộ Tibidabo trở thành chốn huyên náo nhân sự kiện này; hàng trăm đèn lồng, dây móc và lều rạp được dựng lên trong vườn để mua vui cho khách khứa.

Hầu hết các bạn học của Jorge Aldaya ở trường San Gabriel đều được mời. Theo đề nghị của Julián, Jorge cũng mời cả Francisco Javier Fumero. Miquel Moliner cảnh báo họ rằng con trai ông bảo vệ sẽ lạc lõng ở khung cảnh hoa lệ và phô trương kia. Francisco Javier nhận lời mời, nhưng cũng dự cảm y như vậy, nên quyết định từ chối. Khi Doña Yvonne, mẹ hắn, hay tin con trai mình định bỏ một lời mời đến biệt thự tráng lệ nhà Aldaya, mụ như muốn ăn tươi nuốt sống hắn. Lời mời đó có thể là gì khác ngoài cái tín hiệu mụ sẽ nhanh chóng gia nhập giới thượng lưu? Bước tiếp theo chỉ có thể là một lời mời đến uống trà chiều với bà Aldaya và những mệnh phụ danh giá khác. Doña Yvonne dốc hết số tiền tiết kiệm mụ chắt góp được từ khoản lương của ông chồng để đi mua một bộ cánh thủy thủ cho con trai.

Lúc đó Francisco Javier đã mười bảy tuổi, nhưng bộ đồ xanh dương với chiếc quần ngắn, được may để thỏa mãn cái khiếu thẩm mỹ không có lấy một chút tinh tế của Doña Yvonne trông lố bịch làm sao và khiến cậu trai bẽ mặt. Bị bà mẹ ép buộc, Francisco Javier chấp nhận lời mời và dành cả tuần khắc một cái mở thư để làm quà cho Jorge. Vào ngày tiệc, Doña Yvonne nhất quyết đòi đi theo con trai đến cửa nhà Aldaya. Mụ muốn hít ngửi mùi vương giả và tắm mình trong niềm vinh quang được thấy con trai mụ đi qua những cánh cửa mà sớm thôi cũng sẽ mở ra cho mụ. Đến lúc phải khoác bộ cánh thủy thủ lên người, Francisco Javier phát hiện ra nó quá nhỏ so với hắn. Yvonne quyết định sửa đôi chút. Họ đến trễ. Trong lúc ấy, lợi dụng sự huyên náo và sự vắng mặt của Don Ricardo – người chắc chắn đang ăn mừng theo cách của riêng mình – Julián đã lẻn khỏi bữa tiệc. Chàng và Penélope hẹn gặp nhau trong thư viện, nơi họ sẽ không bắt gặp những người dự tiệc khác. Họ quá bận rộn khám phá môi nhau nên không nhận ra có hai người đang đến trước cổng tòa nhà. Francisco Javier, trong bộ đồ thủy thủ lần đầu đi dự tiệc và mặt tím tái vì xấu hổ, cơ hồ đang bị Doña Yvonne kéo đi, nhân dịp này mụ cũng sửa sang lại chiếc mũ rộng vành cùng chiếc váy hợp tông có nếp gấp và thêu hoa; chúng khiến cho mụ trông giống như một thanh kẹo, hay nói như Miquel Moliner, người thấy mụ từ đằng xa, giống một con bò rừng ăn mặc như Madame Récamier. Hai người hầu gác cửa dường như không lấy làm ấn tượng với những vị khách. Doña Yvonne tuyên bố con trai mụ, Don Francisco Javier Fumero de Sotoceballos đang vào dự tiệc. Hai người hầu đáp lại, bằng giọng châm chọc, rằng cái tên đó chẳng gợi lên gì cả. Bực tức, nhưng vẫn giữ điệu bộ đường hoàng, Yvonne bảo con trai đưa giấy mời ra. Khốn thay, khi bộ đồ được sửa, tấm vé mời đã bị bỏ lại trên bàn khâu của Doña Yvonne.

Francisco Javier cố giải thích đầu đuôi, nhưng hắn cứ lắp ba lắp bắp, và tiếng cười của hai người hầu không giúp xóa đi sự hiểu lầm. Hai mẹ con họ bị mời ra khỏi đó. Doña Yvonne bừng bừng nổi giận và tuyên bố rằng hai tên hầu kia không biết bọn chúng đang đối mặt với ai. Hai người hầu đáp lại rằng vị trí lau sàn đã có người nhận rồi.

Từ cửa sổ phòng ngủ của mình Jacinta chứng kiến Francisco Javier toan quay về thì bỗng nhiên dừng lại. Ngay bên trên cảnh tượng mẹ hắn đang tạo ra, đang chửi mắng những kẻ hầu ngu ngốc đến khản cả giọng, hắn đã thấy họ: Julián đang hôn Penélope bên khung cửa sổ lớn của thư viện. Họ đang hôn nhau với niềm say đắm của những người thuộc về nhau, không biết gì thế giới xung quanh.

Ngày hôm sau, trong giờ nghỉ trưa, Francisco Javier bất ngờ xuất hiện. Tin tức về cảnh tượng ngày hôm trước đã lan ra trong đám học sinh: hắn bắt gặp những tiếng cười nhạo và câu hỏi rằng hắn đã làm gì với bộ áo quần thủy thủ chật ních kia. Tiếng cười chấm dứt đột ngột khi đám học sinh thấy hắn mang theo khẩu súng của ông bố. Im phăng phắc, rồi thì nhiều đứa bỏ đi. Chỉ nhóm Aldaya, Moliner, Fernando và Julián quay nhìn chằm hắn, không hiểu chuyện gì. Francisco Javier không hề báo trước: hắn giơ súng lên nhắm. Sau này, các nhân chứng kể lại rằng nét mặt hắn chẳng hề tỏ dấu hiệu giận dữ hay hùng hổ. Francisco Javier thể hiện vẻ lạnh lùng vô thức như khi hắn thực hiện công việc dọn dẹp trong vườn. Viên đạn đầu tiên sượt đầu Julián. Viên thứ hai đáng lẽ đã xuyên qua họng chàng nếu Miquel Moliner không lao vào con trai ông bảo vệ, đấm vào hắn và giật lấy khẩu súng. Julián Carax chứng kiến cảnh tượng trong kinh hoàng và bất động. Mọi người nghĩ phát đạn là nhằm vào Jorge Aldaya để trả thù cho sự bẽ mặt mà Javier đã phải chịu ngày hôm trước. Chỉ sau đó, khi Cảnh sát đưa hắn đi và ông bảo vệ bị tống ra khỏi nhà, Miquel Moliner mới đến chỗ Julián mà bảo, không chút tự hào, rằng anh ta đã cứu mạng chàng.

Đó là năm cuối của Julián và bạn bè ở trường San Gabriel. Hầu hết đều đang nói về những dự định của họ hoặc gia đình sắp xếp cho họ năm tiếp theo. Jorge Aldaya đã biết rằng ông bố sẽ đưa anh ta đi học ở Anh quốc, và Miquel Monliner chấp nhận chuyện anh sẽ vào Đại học Barcelona như lẽ đương nhiên. Fernando Ramos hơn một lần nhắc lại rằng có lẽ anh sẽ vào trường Dòng Tên, một viễn cảnh mà các thầy của anh cho là khôn ngoan nhất đối với hoàn cảnh cụ thể của anh. Còn Francisco Javier Fumero, điều duy nhất người ta biết về hắn, nhờ Don Ricardo Aldaya, người đã đứng ra can thiệp, là hắn đã được đưa vào trường giáo dưỡng ở một thung lũng xa xăm vùng Pyrénées; nơi một mùa đông dài đang đợi hắn. Nhận thấy tất cả bạn bè mình đã có định hướng cho cuộc đời, Julián tự hỏi chàng sẽ trở thành người thế nào. Giấc mộng và tham vọng văn chương dường như xa xôi và khó trở thành hiện thực hơn bao giờ hết. Tất cả những gì chàng trông đợi là được gần Penélope.

Trong khi chàng băn khoăn về tương lai của trai mình, những người khác lại đang lên kế hoạch cho chàng. Don Ricardo Aldaya đã nhắm cho chàng một vị trí trong công ty của ông ta để chàng làm quen với việc kinh doanh. Ông bán mũ, về phần mình, đã quyết định rằng nếu con trai ông không muốn tiếp tục nối nghiệp gia đình, thì ông sẽ quên ngay chuyện để lại di chúc cho chàng. Ông đã bí mật làm các thủ tục để đưa Julián vào quân đội, vài năm sống trong quân ngũ sẽ chữa cho chàng căn bệnh ảo tưởng trở thành người vĩ đại. Julián không biết gì về những kế hoạch như vậy, và đến khi phát hiện ra điều người khác sắp xếp cho mình, thì đã quá muộn. Chỉ có Penélope chiếm lĩnh hết ý nghĩ của chàng, giờ đây sự xa cách giả tạo và những hẹn hò bí mật không còn làm chàng thỏa mãn nữa. Chàng cứ muốn được gặp nàng thường xuyên hơn, mặc cho nguy cơ bại lộ ngày càng lớn. Jacinta làm những gì có thể để bao che họ: bà thường xuyên nói dối và bịa ra ngàn lẻ một mưu kế để họ được đôi ba giây phút bên nhau. Bà hiểu rằng điều này là không đủ cho Penélope va Julián. Người bảo mẫu giờ đây nhận ra trong ánh mắt họ lòng khát khao kiêu căng và thách thức: một nguyện vọng mù quáng muốn bị bại lộ, một hy vọng rằng bí mật của họ sẽ trở thành một vụ tai tiếng để họ không còn phải chui nhủi trong ngóc ngách và gác mái và yêu nhau trong bóng tối nữa. Có đôi lần, khi Jacinta an ủi Penélope lúc đêm về, nàng sẽ đổ lệ thành dòng và thú nhận nàng muốn bỏ trốn cùng Julián, để bắt chuyến tàu sớm và chạy trốn đến một nơi không ai biết họ. Jacinta, vốn vẫn còn nhớ cái loại thế giới như thế nào tồn tại bên ngoài cổng sắt nhà Aldaya, đã rùng mình và cố khuyên can nàng. Penélope vốn bản tính vâng lời, và nỗi sợ hãi nàng thấy trên nét mặt Jacinta là đủ làm nàng chùn bước. Song Julián thì khác.

Trong mùa xuân cuối cùng đó ở San Gabriel, Julián bối rối phát hiện ra Don Ricardo Aldaya và mẹ chàng đôi khi hẹn gặp bí mật. Lúc đầu, chàng sợ rằng nhà công nghiệp hẳn muốn thêm cuộc chinh phục Sophie vào bộ sưu tập của ông ta, nhưng chàng sớm nhận ra rằng những cuộc hẹn đó, tường ở quán cà phê tại trung tâm thành phố và diễn ra bội phần đúng mực, chỉ dừng lại ở chuyện trò. Sophie vẫn không nói gì về những cuộc hẹn này. Khi cuối cùng Julián quyết định đến gặp Don Ricardo mà hỏi ông ta đang có chuyện gì giữa ông ta và mẹ chàng, ông trùm tư bản cười phá lên.

“Không có gì qua được mặt cháu, đúng không Julián? Thật ra ta đã định nói với cháu chuyện này. Mẹ cháu và ta đang bàn về tương lai của cháu. Bà ấy đã đến gặp ta vài tuần trước. Bà ấy lo lắng vì cha cháu muốn đưa cháu vào quân đội năm tới. Mẹ cháu hiển nhiên là muốn điều tốt nhất cho cháu, và bà ấy đến gặp ta để nói chuyện riêng, xem ta có giúp được gì không. Cháu đừng lo; Don Ricardo Aldaya đã hứa rằng cháu sẽ không trở thành pháo thủ đâu. Mẹ cháu và ta đã có một kế hoạch tuyệt vời cho cháu. Hãy tin ta đi.”

Julián muốn tin ông ta, nhưng Don Ricardo tạo ra bất cứ điều gì, ngoại trừ lòng tin. Khi chàng hỏi ý kiến Miquel Moliner, anh đồng ý với Julián.

“Nếu điều cậu muốn làm là bỏ trốn cùng Penélope, và có lẽ Chúa sẽ giúp cậu, thì cái cậu cần đến là tiền.”

Tiền lại là thứ Julián không có.

“Cái đó có thể sắp xếp được,” Miquel nói với chàng. “Có bạn giàu sang là để cho những dịp này đây.”

Thế là Miquel và Julián bắt đầu kế hoạch chạy trốn cho đôi tình nhân. Nơi đến, theo gợi ý của Miquel, sẽ là Paris. Theo suy nghĩ của Moliner, nếu Julián định trở thành một nghệ sĩ nghèo phóng túng, thì ít nhất một môi trường như Paris là không thể tốt hơn. Penélope biết một chút tiếng Pháp, còn Julián, chàng đã học tiếng Pháp từ mẹ chàng, nó giống như ngôn ngữ thứ hai của chàng vậy.

“Ngoài ra, Paris đủ lớn để ta mất hút đi, và đủ nhỏ để tạo cơ hội,” Miquel lý lẽ.

Miquel đã tích góp được chút vốn, cộng với số tiền tiết kiệm được trong nhiều năm nhờ xin xỏ từ ông bố với những lý do kỳ dị nhất. Chỉ có anh mới biết số tiền ấy dùng để làm gì.

“Tớ sẽ chết lặng vào giây phút hai người lên tàu.”

Ngay chiều hôm ấy, sau khi chốt lại cá chi tiết với Moliner, Julián đến ngôi nhà trên Đại lộ Tibidabo để báo với Penélope kế hoạch bỏ trốn.

“Em không được kể cho ai điều anh nói với em. Không một ai. Kể cả Jacinta,” Julian bắt đầu.

Cô gái lắng nghe trong sững sờ. Kế hoạch của Moliner thật không chê vào đâu được. Miquel sẽ dùng tên giả để mua vé và thuê một bên thứ ba để nhận vé tại nhà ga. Nếu tình cờ cảnh sát có phát hiện ra, thì điều duy nhất anh ta có thể khai báo là mô tả ai đó trông không giống Julián. Julián và Penélope sẽ gặp nhau trên tàu. Sẽ không có chuyện chờ đợi trên sân ga, nơi người ta có thể thấy họ. Cuộc trốn chạy sẽ diễn ra ngày Chủ nhật, vào buổi trưa. Julián sẽ đi một mình đến nhà ga Francia. Miquel sẽ đợi chàng ở đó, cùng với vé và tiền.

Phần khó nhất của kế hoạch là về phần Penélope. Nàng phải nói dối Jacinta và bắt bà tìm ra một lý do đưa nàng đi lễ mixa lúc mười một giờ rồi quay về nhà. Trên đường, Penélope sẽ bảo Jacinta đưa nàng đi gặp Julián, hứa là nàng sẽ về trước khi cả gia đình về nhà. Đây sẽ là cơ hội cho Penélope đến nhà ga. Cả hai người đều biết nếu họ nói với bà sự thật, Jacinta sẽ không cho họ đi. Bà quá yêu họ.

“Kế hoạch thật hoàn hảo, Miquel,” Julián nói.

Miquel gật đầu buồn bã. “Ngoại trừ một chi tiết. Nỗi đau cậu gây ra cho nhiều người khi ra đi mãi mãi.”

Julián gật đầu, nghĩ đến mẹ chàng và Jacinta. Chàng không hề ngờ Miquel Moliner đang nói đến bản thân anh.

Phần khó khăn nhất là thuyết phục Penélope rằng cần phải giữ bí mật với Jacinta. Chỉ có Miquel mới biết sự thật. Chuyến tàu khởi hành lúc một giờ chiều. Lúc người ta nhận ra sự biến mất của Penélope thì họ đã qua khỏi biên giới rồi. Một khi đến Paris, họ sẽ dùng tên giả trọ trong một khách sạn như là vợ chồng. Họ sẽ gửi cho Miquel Moliner một bức thư để chuyển đến gia đình họ, thú nhận tình yêu của họ, cho mọi người biết là họ vẫn khỏe, thông báo lễ cưới ở nhà thờ, và cầu xin gia đình tha thứ và cảm thông. Miquel Moliner sẽ bỏ bức thư vào một phong bì khác để xóa đi dấu bưu điện Paris và sẽ đích thân gửi từ một thị trấn gần đấy.

“Bao giờ?” Penélope>

“Sáu ngày nữa,” Julián nói. “Chủ nhật tới.”

Miquel đề nghị tốt nhất là Julián không nên gặp Penélope trong những ngày trước khi bỏ trốn, để tránh gây nghi ngờ. Cả hai đều đồng ý không gặp nhau nữa, cho tới lúc lên chuyến tàu đi Paris. Sáu ngày không được gặp nàng, không được chạm vào nàng, dường như dài vô tận với Julián. Họ kết ước thỏa thuận, hôn lễ bí mật, bằng đôi môi.

Lúc ấy Julián đưa Penélope vào phòng ngủ của Jacinta trên tầng ba. Tầng này chỉ dành cho người hầu, và Julián dám chắc không ai phát hiện ra họ. Họ sốt sắng cởi quần áo, với đam mê sôi sục, cào cấu vào da nhau và tan chảy vào yên lặng. Họ đã thuộc làu cơ thể của nhau và chôn vùi tất cả những ý nghĩ về sáu ngày xa cách kia. Julián đi vào Penélope bằng cơn thịnh nộ, áp nàng xuống sàn nhà. Penélope đón nhận chàng với đôi mắt mở to, hai chân quắp lấy thân chàng, đôi môi hé mở khao khát. Không hề có một chút tia mong manh hay thơ trẻ trong ánh mắt hay trong cơ thể ấm áp của nàng. Sau đó, khi khuôn mặt chàng vẫn vùi vào lòng nàng và tay vẫn đặt trên bộ ngực trắng ngần rung rinh của nàng, Julián biết chàng phải nói lời từ biệt. Chàng không có thời gian ngồi dậy khi cửa phòng từ từ hé mở và một bóng dáng phụ nữ xuất hiện nơi ngưỡng cửa. Trong một lát, Julián nghĩ đó là Jacinta, nhưng rồi chàng nhận ra ấy là bà Aldaya. Bà đang nhìn họ, như bị bỏ bùa, cảm giác mê hoặc xen lẫn ghê tởm. Bà chỉ có thể lẩm bẩm thốt ra “Jacinta đâu rồi?” Rồi bà quay đi không nói một lời, trong khi Penélope bò trên sàn nhà trong đau đớn lặng câm còn Julián cảm thấy thế giới đang sụp đổ quanh chàng.

“Đi đi, Julián. Đi trước khi cha em tới.”

“Nhưng..."

“Đi.”

Julián gật đầu. “Cho dù có chuyện gì, anh sẽ đợi em vào ngày Chủ nhật trên chuyến tàu đó.”

Penélope cố nở nụ cười nhợt nhạt. “Em sẽ đến. Bây giờ hãy đi đi...”

Nàng vẫn trần truồng khi chàng rời nàng và lẻn ra cầu thang dành cho người hầu xuống phía chuồng ngựa rồi băng ra ngoài trời, trong một đêm lạnh giá nhất chàng từng gặp trong đời.>Những ngày sau đó thật đớn đau. Suốt mấy đêm Julián không ngủ, nghĩ rằng bất cứ lúc nào sát thủ do Don Ricardo thuê sẽ đến tìm chàng. Ngày hôm sau, ở trường, chàng không thấy một chút gì thay đổi trong thái độ của Jorge Aldaya. Bị giày xé vì đau khổ, chàng kể cho Miquel Moliner chuyện xảy ra. Miquel lắc đầu.

“Cậu thật điên rồ, Julián, nhưng điều đó chẳng có gì lạ. Điều lạ là đến giờ vẫn chưa thấy động tĩnh gì ở nhà Aldaya. Mà điều đó, ngẫm ra cũng chẳng ngạc nhiên lắm. Nếu, như cậu nói, bà Aldaya phát hiện ra các cậu, thì có lẽ chính bà ấy vẫn không biết phải làm gì. Trong đời mình tớ đã ba lần nói chuyện với bà ấy, và từ những cuộc nói chuyện đó, tớ có hai kết luận: thứ nhất, bà Aldaya có tâm lý của đứa trẻ mười hai tuổi; thứ hai, bà mắc bệnh ái kỷ mạn tính nên không thể nhận thấy hay hiểu được bất cứ điều gì bà không muốn thấy hoặc muốn tin, đặc biệt là nếu liên quan đến bản thân bà.”

“Dẹp cái phần chẩn đoán ấy đi, Miquel.”

“Ý tớ là, có lẽ bà ấy vẫn đang phân vân không biết phải nói gì, nói thế nào, lúc nào và với ai. Trước tiên, bà phải nghĩ đến hậu quả cho bản thân, vụ tai tiếng tiềm ẩn, và cơn thịnh nộ của ông chồng... Phần còn lại thì bà ta chẳng quan tâm, tớ dám chắc thế.”

“Nên cậu nghĩ bà ấy sẽ không nói gì ư?”

“Chắc phải mất một vài ngày. Nhưng tớ không nghĩ bà ấy có thể giấu một bí mật như vậy với chồng được. Còn kế hoạch chạy trốn thế nào? Vẫn tiến hành chứ?”

“Hơn bao giờ hết.”

“Tớ mừng khi nghe vậy. Vì tớ tin là giờ không còn đường quay lại nữa.”

Một tuần trải dài vô tận. Julián đến trường mỗi ngày với nỗi khắc khổ trên hai gót chân. Chàng trải qua quãng thời gian ấy, vờ như đang ở đó, hầu như không thể nhìn Miquel Moliner, người cũng bắt đầu lo lắng như chàng, hoặc còn hơn thế. Jorge Aldaya không nói gì. Anh ta lịch sự hơn bao giờ hết. Jacinta không đến trường đón Jorge nữa. Lái xe của Don Ricardo đến mỗi buổi chiều. Julián cảm thấy như muốn chết đến nơi, ước rằng chuyện có xảy ra thế nào thì cũng hãy xảy ra đi, để thời gian chờ đợi sẽ kết thúc. Vào chiều thứ Năm, sau giờ học, Julián bắt đầu nghĩ rằng may mắn về phía chàng. Bà Aldaya không nói gì, có lẽ vì xấu hổ, ngu ngốc, hoặc vì bất cứ lý do gì như Miquel đã ngờ. Điều đó không mấy quan trọng. Quan trọng nhất là bà vẫn giữ bí mật cho đến Chủ nhật. Đêm hôm đó, lần đầu tiên trong nhiều ngày, chàng có thể ngủ ngon.

Sáng thứ Sáu, khi đến lớp, Cha Romanoes đợi chàng trước cổng.

“Julián, ta cần nói chuyện với con.”

“Có chuyện gì, thưa Cha?”

“Ta luôn biết ngày này sẽ đến, và ta phải thú nhận rằng ta vui mừng được làm người báo tin cho con.”

“Tin gì, thưa Cha?”

Julián Carax không còn là học sinh trường San Gabriel. Sự hiện diện của chàng trong khuôn viên, trong lớp học, thậm chí trong vườn trường bị nghiêm cấm. Các đồ dùng học tập của chàng, sách vở, và tất cả những vật dụng khác giờ đây thuộc tài sản của trường.

“Nói cho chính xác ‘là ngay lập tức và đuổi thẳng’," Cha Romanoes nói ngắn gọn.

“Con có thể biết lý do không?”

“Ta có thể nghĩ ra hàng trăm lý do, nhưng ta chắc con sẽ biết chọn ra lý do phù hợp nhất. Chúc một ngày tốt lành, Carax. Và chúc may mắn trong đời. Con sẽ cần điều đó đấy.”

Cách chừng ba mươi thước, ở sân đài phun nước, một nhóm học sinh đứng nhìn chàng. Một số đang cười, vẫy tay chào tạm biệt. Những người khác nhìn chàng với vẻ thương xót và bối rối. Chỉ có một người cười buồn: anh bạn Miquel Moliner, người chỉ gật đầu và nói thầm gì đó mà Julián nghĩ là chàng có thể đọc được: “hẹn gặp ngày Chủ nhật.”

Khi quay về căn hộ trên phố San Antonio, Julián thấy chiếc Mercedes-Benz của Don Ricardo đỗ ngoài cửa hàng. Chàng dừng lại nơi góc phố, chờ đợi. Một lúc sau, Don Ricardo bước ra khỏi cửa hàng và vào xe. Julián nấp vào một cánh cửa cho đến khi chiếc xe chạy ra Quảng trường Universidad. Chỉ đến lúc đó, chàng mới tất tả chạy lên cầu thang về nhà. Mẹ chàng, bà Sophie, đang ngồi đợi, nước mắt tuôn trà>

“Con đã làm gì, Julián?” bà thì thào không hề tức giận.

“Tha thứ cho con, thưa mẹ...”

Sophie kéo con trai lại gần. Bà đã gầy và già đi, như thể tất cả những người xung quanh đã cướp đi mạng sống và tuổi thanh xuân của bà. Mình cướp đi nhiều hơn cả, Julián nghĩ.

“Nghe kỹ lời mẹ này, Julián. Cha con và Don Ricardo đã sắp đặt mọi thứ để đưa con vào quân đội vài ngày tới. Aldaya có quyền thế... Con phải trốn đi, Julián. Con phải đến nơi họ không thể tìm được con...”

Julián nghĩ chàng đã thấy trong mắt mẹ chàng một bóng đen, nó dường như đã chiếm lấy bà.

“Còn gì khác nữa không, thưa mẹ? Còn điều gì mẹ chưa nói với con.”

Bà Sophie nhìn chàng, môi bà run rẩy.“Con phải đi. Cả hai ta phải rời khỏi đây mãi mãi.”

Julián ôm bà thật chặt, và thì thầm vào tai bà, “Đừng lo cho con, mẹ ơi. Mẹ đừng lo lắng.”

Cả ngày thứ Bảy Julián giam mình trong phòng, giữa đống sách vở và những bức vẽ. Ông làm mũ đã xuống cửa hàng lúc hừng sáng và đến gần sáng mới quay về. Ông ấy không đủ can đảm để nói thẳng vào mặt mình, Julián nghĩ. Đêm hôm ấy, mắt nhòe lệ, Julián nói lời từ biệt những năm tháng chàng đã sống trong căn phòng tối tăm, lạnh lẽo ấy, lạc giữa những giấc mơ mà giờ chàng biết sẽ không bao giờ trở thành hiện thực. Chủ nhật, lúc trời mờ sáng, mang theo chỉ một túi đựng vài bộ quần áo và mấy cuốn sách, chàng hôn vào trán Sophie khi bà đang nằm cuộn tròn trong chăn nơi phòng khách, rồi ra đi. Đường phố dường như bao phủ bởi làn sương xanh mờ. Ánh sáng màu đồng lóe lên trên những mái nhà phẳng của khu phố cũ. Chàng bước chậm rãi, nói lời từ biệt với mỗi cánh cửa, mỗi góc phố, lòng tự hỏi liệu những ảo ảnh thời gian sẽ hóa thành sự thật không và trong những ngày tới đây chàng còn có thể nhớ được chỉ những điều tốt đẹp hay không, và có quên đi nỗi cô đơn thường theo đuổi chàng trên những con phố ấy không.

Nhà ga Francia vắng tanh; sân ga, phản chiếu ánh sáng bừng cháy của rạng đông, uốn cong trong sương mờ như những lưỡi gươm Ả r lấp lánh. Julián ngồi xuống một băng ghế trong sảnh vòm và lấy sách ra. Chàng để nhiều giờ trôi qua bằng cách lạc lối trong ma thuật của ngôn từ, lột bỏ hết da thịt và tên tuổi của mình, cảm giác như một người khác. Chàng để cho mình bị cuốn đi theo những giấc mơ của những nhân vật mờ ảo, nơi nương náu duy nhất còn lại cho chàng. Lúc đấy chàng biết rằng Penélope sẽ không đến. Chàng biết chàng sẽ lên tàu không có người bạn đồng hành nào khác ngoài những ký ức của chàng. Rồi, trước ban trưa, Miquel Moliner đến ga đưa vé cho chàng cùng toàn bộ số tiền anh gom góp được, hai người bạn ôm nhau không nói nên lời. Julián chưa bao giờ thấy Miquel Moliner khóc. Đồng hồ ở khắp nơi đang đếm từng phút trôi qua.

“Vẫn còn thời gian,” Miquel thì thầm khi mắt vẫn dán chặt về phía cổng nhà ga.

Lúc một giờ năm phút, người trưởng ga gọi khách đi Paris lần cuối. Chuyến tàu đã bắt đầu chuyển bánh dọc sân ga khi Julián quay lại nói lời tạm biệt bạn. Miquel Moliner đứng đó nhìn chàng, tay anh run run trong túi áo.

“Viết nhé,” anh nói.

“Tớ sẽ viết cho cậu ngay khi đến nơi,” Julián trả lời.

“Không. Không viết cho tớ. Hãy viết sách. Không phải viết thư. Hãy viết những cuốn sách cho tớ, cho Penélope.”

Julián gật đầu, chỉ lúc này chàng mới nhận ra mình sẽ nhớ người bạn này biết nhường nào.

“Và hãy giữ những ước mơ,” Miquel nói. “Cậu không bao giờ biết được khi nào sẽ cần đến chúng đâu.”

“Tớ sẽ giữ mãi,” Julián lẩm bẩm, nhưng tiếng gầm thét con tàu đã át đi lời chàng.

***

“Vào đêm mẹ cô ấy bắt gặp họ trong phòng tôi, Penélope đã kể cho tôi nghe chuyện xảy ra. Ngày hôm sau, bà Aldaya gọi tôi đến hỏi tôi biết gì về Julián. Tôi bảo tôi không biết gì hết, ngoại trừ cậu ấy là một chàng thanh niên tốt, một người bạn của Jorge... Bà ấy lệnh cho tôi giữ Penélope trong phòng cho đến khi cô ấy được phép đi ra ngoài. Don Ricardo lúc đấy đang ở Madrid đến tận thứ Sáu mới quay về. Ngay khi ông ấy về, bà Aldaya đã kể hết cho ông những gì bà chứng kiến ở đó. Don Ricardo nhảy bật lên khỏi ghế và tát vợ mạnh đến mức bà ấy ngã xuông sàn. Rồi ông ấy chửi rủa như một người điên, ông bảo bà lặp lại những gì đã kể. Bà Aldaya kinh hãi. Chưa bao giờ chúng tôi thấy ông Aldaya như vậy. Chưa hề. Trông ông ấy như thể tất cả ác quỷ dưới địa ngục đã xâm chiếm ông ấy. Sùng sục tức giận, ông lên phòng Penélope lôi cô ấy ra khỏi giường, nắm tóc kéo cô ấy. Tôi cố ngăn ông ấy lại, nhưng ông đá tôi sang bên. Ngay đêm hôm ấy ông ấy gọi bác sĩ gia đình đến khám cho Penélope. Khi bác sĩ khám xong, ông ta nói chuyện với ngài Aldaya. Họ nhốt Penélope trong phòng, và bà Aldaya bảo tôi gói ghém đồ đạc.

“Họ không cho tôi gặp Penélope. Tôi không bao giờ được nói lời từ biệt cô ấy. Don Ricardo dọa báo cảnh sát nếu tôi kể cho bất kỳ ai chuyện xảy ra. Đêm hôm đó, họ tống tôi ra khỏi nhà, tôi không biết đi đâu, sau tám năm liền phục dịch trong căn nhà đó. Hai ngày sau, trong một nhà trọ trên phố Muntaner, Miquel Moliner đến thăm tôi, cậu ấy cho tôi biết Julián đã đến Paris. Cậu ấy muốn tôi kể chuyện gì đã xảy ra, tại sao Penélope không đến nhà ga như đã hẹn. Trong nhiều tuần, tôi đã quay lại ngôi nhà đó, cầu xin được gặp mặt cô ấy, nhưng tôi thậm chí còn không được phép qua cổng. Tôi cứ đứng nơi góc đường đối diện hằng ngày, từ sáng đến đêm, hy vọng thấy họ ra khỏi nhà. Tôi không bao giờ thấy cô ấy. Cô ấy không ra khỏi nhà. Sau đó, ngài Aldaya gọi cảnh sát, và với sự giúp đỡ của những bạn bè chức sắc, buộc tôi phải vào nhà thương điên ở Horta, với lý do không ai quen biết tôi, rằng tôi là mụ đàn bà loạn trí cứ làm phiền gia đình và con cái họ. Hai năm trời tôi ở trong đó, bị nhốt như một con vật. Việc đầu tiên tôi làm khi ra viện là đến ngôi nhà trên Đại lộ Tibidabo để gặp Penélope.”

“Rồi bà có gặp được cô ấy không?” Fermín hỏi.

“Ngôi nhà bị khóa và treo biển bán. Không ai sống ở đó cả. Tôi nghe nói nhà Aldaya đã sang Argentina. Tôi viết thư theo địa chỉ mà họ cho tôi. Bức thư sau đó được gửi trả lại tôi, không mở...”

“Đã có chuyện gì xảy ra với Penélope? Bà có biết không?”

Jacinta lắc đầu, trong tình trạng gần như ngã gục. “Tôi không bao giờ gặp lại cô ấy nữa.”

Bà cụ rên rỉ và bắt đầu khóc lóc không kìm nén được. Fermín ôm bà trong lòng mà vỗ về. Jacinta Coronado đã co rúm lại như một em bé, và bên cạnh bà Fermín trông như một người khổng lồ. Tôi có những câu hỏi đang thiêu đốt trong đầu, nhưng anh bạn tôi ra dấu rằng cuộc thăm hỏi đã kết thúc. Tôi thấy anh đưa quanh căn gác mái bẩn thỉu, lạnh lẽo nơi Jacinta Coronado sống những ngày cuối đời.

“Thôi nào, Daniel. Chúng ta về thôi. Cậu đi trước.”

Tôi làm như được bảo. Trong khi quay đi, tôi ngoảnh lại một thoáng thì thấy Fermín quỳ xuống cạnh bà cụ rồi hôn vào trán bà. Bà cười móm mém với anh ta.

“Xem nào, Jacinta,” tôi nghe Fermín nói. “Bà thích kẹo Sugus, đúng không?”

***

TRÊN CON ĐƯỜNG NGOẰN NGOÈO QUAY TRỞ LẠI LỐI RA, chúng tôi đi qua ông chủ nhà đòn thực thụ và hai trợ tá xanh xao của ông ta đang khiêng một cỗ quan tài gỗ thông rẻ tiền, dây thừng, và một thứ trông có vẻ như là vải liệm tái sử dụng. Toán người đó bốc lên mùi formaldehyde đầy ám khí và mùi nước thơm rẻ tiền. Những con người hốc hác như xác chết kia ngoác ra những nụ cười ghê rợn. Fermín chỉ vào căn phòng nơi xác chết đang đợi rồi cầu phước cho ba người kia, họ gật đầu lễ phép và làm dấu thánh.

“Hãy đi thanh thản,” Fermín lẩm bẩm, kéo tôi về phía cổng, nơi một bà xơ cầm chiếc đèn dầu tiễn chúng tôi bằng vẻ hằn học, buộc tội.

Khi chúng tôi ra khỏi tòa nhà, con đường Moncada lát đá xấu xí và sẩm tối với tôi lại giống như một thung lũng đầy mời gọi và hy vọng. Fermín thở thật sâu, lòng nhẹ nhõm, và tôi biết mình không phải người duy nhất đang hân hoan được bỏ lại chốn ấy sau lưng. Câu chuyện của Jacinta đè nặng lương tâm chúng tôi nhiều hơn chúng tôi muốn thừa nhận.

“Này, Daniel. Cậu nói sao về món bánh khoai tây trộn thịt và vài ly rượu sủi tăm ngay ở Xampanet này, để tẩy đi cái mùi khó chịu trong miệng chúng ta?”

“Nói thẳng là tôi sẽ không từ chối đâu.”

“Cậu không có hẹn với cô bé kia hôm nay à?”

“Ngày mai cơ.”

“A, cậu thật xấu xa... chắc phải vất vả lắm mới đạt được nhỉ? Chúng ta học nha

Chúng tôi đi chưa được mười bước về phía quán rượu ầm ĩ chỉ cách vài căn nhà trên phố kia thì ba dáng người trong bóng đêm hiện ra ngăn chúng tôi lại. Hai người đứng sau tôi, sát đến mức tôi có thể cảm thấy hơi thở của họ trên gáy mình. Người thứ ba, nhỏ hơn nhưng trông ác hiểm hơn, chặn lối chúng tôi. Hắn ta mặc áo khoác bình thường, và nụ cười nhầy nhụa toát rả vẻ hoan hỉ không kìm nén nổi.

“A, chúng ta được gặp ai đây nhỉ? Nếu không phải tên bạn cũ của ta, kẻ biến hình!” Thanh tra Fumero kêu lên.

Cơ hồ tôi có thể nghe mọi xương cốt của Fermín run lên kinh hãi trước bóng ma đó. Anh bạn ba hoa của tôi chỉ có thể rên lên một tiếng tắc nghẹn. Hai tên côn đồ, mà tôi đoán là mật vụ của Đội Điều tra Tội phạm, nắm lấy ót chúng tôi và giữ cổ tay phải chúng tôi, sẵn sàng vặn tay nếu chúng tôi tỏ ra chống cự.

“Nhìn vẻ mặt ngạc nhiên của mày, tao biết mày tưởng đã lẩn trốn được tao từ lâu, đúng không? Chắc chắn mày không nghĩ một cục cứt như mày sẽ bò ra khỏi cống rãnh và leo lên hàng công dân tử tế. Mày có thể ngu ngốc, nhưng không ngu ngốc đến vậy. Ngoài ra, tao nghe nói mày đang nhúng mũi – cái mũi to tổ bố của mày – vào một đống thứ không phải chuyện của mày. Dấu hiệu xấu đấy... Mày đang gạ gẫm bọn họ à? Bọn họ đòi bao nhiêu?”

“Tôi tôn trọng việc của người khác, ông thanh tra, đặc biệt là những người ở tu viện. Có lẽ nếu ông có ý làm điều tương tự thì ông sẽ đỡ được một khoản kha khá tiền thuốc kháng sinh và tiêu hóa cũng dễ dàng hơn đấy”

Fumero hé răng cười tức tối.

“Đúng vậy. Bi sắt[2]. Tao nói vậy đấy. Nếu mọi tên khốn đều giống mày thì công việc của tao sẽ như một bữa tiệc. Mày nói xem, bây giờ tên mày là gì nhỉ, thằng khốn kiếp? Gary Cooper à? Thôi nào, mày đang làm chuyện gì, đang nhúng cái mũi thô lỗ của mày vào Nhà tế bần Santa Lucía làm gì, rồi tao sẽ để mày đi với một lời cảnh báo. Có khai ra không? Bọn mày đến đây làm gì?”

[2. Được lắm, can đảm lắm.]

“Chuyện riêng. Chúng tôi đến thăm người thân.

“Hẳn rồi, con mẹ nhà mày. Mày gặp tao đúng vào ngày mát trời, chứ không thì tao đưa mày về trụ sở rồi cho mày một trận đốt que hàn nữa. Mày nên tỏ ra ngoan ngoãn và thành khẩn khai báo với ông bạn Thanh tra Fumero là mày và bạn mày làm cái chó gì ở đây. Khốn kiếp nhà mày, hãy tỏ ra hợp tác, để tao khỏi đụng đến thằng lỏi con mà mày chọn làm người đỡ đầu này.”

“Ông mà động đến một sợi tóc của cậu ấy, tôi thề sẽ...”

“Mày làm tao sợ quá. Tao vừa vãi cả cứt ra quần rồi đấy.”

Fermín nuốt ực, như thể lấy hết mọi can đảm đang rò rỉ ra khỏi người anh ta. “Chắc đấy không phải là cái quần thủy thủ mà bà mẹ đáng kính của ông, Bà Hầu bếp Rạng rỡ, bắt ông mặc chứ? Thật là xấu hổ; tôi nghe bảo hợp với ông lắm.”

Mặt thanh tra Fumero tái đi, và mọi xúc cảm liền biến khỏi mắt hắn ta. “Mày vừa nói gì, thằng chó chết?”

“Tôi bảo có vẻ như ông thừa hưởng gu thẩm mỹ và vẻ quyến rũ của Doña Yvonne Sotoceballos, một bà danh giá...”

Fermín không phải người nặng ký, nên cú đấm đầu tiên đủ để khiến anh bật tung lên và rơi nhào xuống một vũng nước. Anh nằm co quắp như quả bóng khi Fumero đá túi bụi vào bụng, vào lưng, vào mặt. Tôi không đếm nổi nữa sau cú đá thứ năm. Fermín như mất đi hơi thở, và sau đó mất cả khả năng phòng vệ trước những đòn đánh. Hai gã cảnh sát ghìm tôi lại bằng những bàn tay sắt và cười rồ lên đầy mẫn cán.

“Đừng can vào,” một tên nói với tôi. “Tao không muốn bẻ tay mày.”

Tôi cố xoay sở trong vô vọng hòng thoát khỏi vòng kìm kẹp, và trong khi vùng vẫy, tôi nhìn thấy hắn. Tôi nhận ra ngay khuôn mặt hắn. Hắn là người mặc áo khoác, cùng với tờ báo, kẻ đã ở trong quán bar tại Quảng trường Sarria vài ngày trước, cũng chính là kẻ đã đi theo chúng tôi trên chuyến xe buýt và cười hùa theo trò đùa của Fermín.

“Này, điều làm tao cực ghét là có hạng người chuyên đi bới móc quá khứ!” Fumero hét lên. “Chuyện trong quá khứ phải được để yên, mày hiểu không? Điều đó cũng đúng với mày và thằng bạn đần độn của mày. Hãy nhìn mà học tập, nhóc con. Tiếp theo sẽ là mày đấy.”

Suốt thời gian chứng kiến Thanh tra Fumero tấn công Fermín với những cú đá dưới ánh sáng xiên xiên của đèn đường, tôi không sao thốt được một lời. Tôi vẫn nhớ những cú đấm đá khủng khiếp, lien hồi kỳ trận như mưa tàn nhẫn trút xuống anh bạn của tôi. Chúng vẫn còn khiến tôi đau nhói. Điều duy nhất tôi làm là nấp trong ghì tay dễ chịu của hai tên cảnh sát, run rẩy và lặng lẽ tuôn ra những giọt nước mắt của kẻ hèn nhát.

Khi Fumero đã phát mệt vì đá vào thân người bất động kia, hắn cởi áo khoác ra, rồi mở khóa quần và đái lên người Fermín. Anh bạn tôi vẫn không động đậy; trông anh như một đống vải cũ dưới vũng nước. Khi Fumero phun xối xả lên người Fermín, tôi vẫn câm lặng. Khi xong việc, tay thanh tra kéo khóa quần lại rồi bước về phía tôi, mặt nhễ nhãi mồ hôi, thở hổn hển. Một tên cảnh sát đưa cho hắn khăn tay, hắn chùi lên mặt và cổ. Hắn tiến sát hơn, cho đến khi mặt hắn chỉ cách mặt tôi vài xăng ti mét, rồi cứ chằm chằm nhìn.

“Mày không đáng để đánh, nhóc con. Đấy là chuyện của thằng bạn mày. Hắn luôn đi sai đường. Lần sau, tao sẽ dần cho hắn một trận nặng nề nhất trong đời, và lần đó tao chắc chắn là lỗi của mày.”

Tôi nghĩ hắn sắp sửa đánh tôi, rằng bây giờ đến phiên tôi. Vì lý do nào đấy mà tôi thấy vui. Tôi muốn tin rằng nhũng cú đánh của hắn sẽ cứu tôi khỏi nỗi xấu hổ vì không giơ lên dù chỉ một ngón tay để giúp Fermín, khi điều duy nhất anh ấy cố gắng làm, như mọi lần, là bảo vệ tôi.

Nhưng chẳng có cú đấm nào hết. Fumero chỉ vỗ nhẹ vào má tôi.

“Được rồi nhóc. Tao không muốn bẩn tay với kẻ hèn nhát.”

Hai tên cảnh sát tặc lưỡi, thoải mái hơn vì bọn chúng biết màn diễn đã kết thúc. Rõ ràng là chúng muốn rời khỏi hiện trường. Chúng bỏ đi, vào bóng tối, cười cợt.

Lúc tôi đến giúp, Fermín đang vô vọng cố ngồi dậy tìm chiếc răng bị rơi trong vũng nước bẩn. Miệng, mũi, tai và mi mắt anh ràn rụa máu. Thấy tôi không việc gì, anh cố mỉm cười và tôi nghĩ anh sẽ chết ngay tại chỗ. Tôi quỳ xuống bên cạnh đỡ anh đứng dậy. Suy nghĩ đầu tiên trong đầu tôi là anh còn nhẹ hơn cả Bea.

“Fermín, vì Chúa, phải đưa anh đến bệnh viện ngay.”

Anh lắc đầu nguầy nguậy. “Đưa tôi đến chỗ cô ấy.”

“Đến ai, Fermín?”

“Đến Bernarda. Nếu tôi sắp chết, tôi muốn ra đi trong vòng tay cô ấy.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


TỐI HÔM ẤY, TÔI QUAY LẠI QUẢNG TRƯỜNG REAL, ĐẾN CĂN HỘ mà nhiều năm trước tôi đã nguyện sẽ không bao giờ đặt chân vào nữa. Hai người khách ở cửa quán Xampanet chứng kiến vụ hành hung đã đề nghị giúp tôi đưa Fermín lên xe taxi trên phố Princesa, trong khi bồi bàn gọi đến số máy mà tôi đưa cho anh ta, để báo trước là chúng tôi đến. Chuyến taxi tưởng chừng như dài vô tận. Fermín bất tỉnh trước khi chúng tôi xuống xe. Tôi ôm anh trong tay, ghì chặt vào ngực để giữ ấm cho anh. Tôi có thể cảm thấy dòng máu nóng của anh thấm ướt áo tôi. Tôi thì thầm vào tai anh rằng chúng tôi sắp đến nơi và anh sẽ ổn thôi. Giọng tôi run rẩy. Tay tài xế lén lút nhìn tôi trong gương.

“Này, tôi không muốn rắc rối, cậu nghe không? Nếu anh ta chết, cậu ra khỏi xe ngay.”

“Chạy nhanh lên và im mồm đi.”

Khi chúng tôi đến phố Fernando, Gustavo Barceló và Bernarda đang đợi chúng tôi ở cổng chính tòa nhà, cùng với bác sĩ Soldevila. Nhìn chúng tôi người đầy máu và bùn, Bernarda bắt đầu gào lên kinh hoảng. Bác sĩ nhanh chóng bắt mạch cho Fermín và trấn an chúng tôi rằng bệnh nhân vẫn sống. Bốn người chúng tôi xoay xở đưa Fermín lên cầu thang vào phòng Bernarda, ở đó một y tá, đến cùng bác sĩ, đã chuẩn bị sẵn mọi thứ. Khi bệnh nhân được đặt lên giường, cô y tá bắt đầu cởi đồ cho anh. Bác sĩ Soldevila nhất quyết bắt tất cả chúng tôi rời phòng để ông làm việc của mình. Ông đóng cửa và nói ngắn gọn

Anh ấy sẽ sống.”

Trong hành lang, Bernarda nức nở không sao nguôi được. Chị rên rỉ rằng khi chị tìm được một người đàn ông tốt, lần đầu tiên trong đời chị, thì Chúa lại đến bắt anh ấy đi chẳng màng xót thương. Don Gustavo Barceló đỡai chị dìu vào bếp, ở đây ông chuốc rượu cho đến khi bà chị tội nghiệp không thể đứng lên được nữa. Khi chị hầu bắt đầu nói năng lẫn lộn, ông buôn sách mới tự rót cho mình một ly và tợp một hơi hết sạch.

“Cháu xin lỗi. Cháu không biết phải đi đâu... “ tôi dợm nói.

“Không sao. Cháu đã làm đúng. Soldevila là nhà giải phẫu chỉnh hình giỏi nhất Barcelona." Ông nói không hướng vào ai cụ thể.

“Cám ơn bác,” tôi lí nhí.

Barceló thở dài và rót cho tôi kha khá rượu vào một ly không chân. Tôi từ chối, thế là nó được chuyển cho Bernarda, qua môi chị nó biến mất tựa hồ như có một phép thuật.

“Cháu vui lòng đi tắm và mặc đồ sạch được không,” Barceló nói. “Nếu cháu quay về trong bộ dạng thế này, hẳn cha cháu sẽ đột quỵ mà chết mất.”

“Không sao... Cháu không sao,” tôi nói.

“Vậy thì đừng run rẩy nữa. Thôi nào, cháu có thể dùng phòng tắm nhà bác, có nước nóng đấy. Cháu biết đường rồi. Trong lúc ấy, bác sẽ gọi cho cha cháu và bảo... à, bác không biết phải nói gì với ông ấy. Bác sẽ nghĩ ra gì đó.”

Tôi gật đầu.

“Đây vẫn là nhà cháu, Daniel ạ,” Barceló nói khi tôi bước xuống hành lang. “Mọi người rất nhớ cháu.”

Tôi tìm được phòng tắm của Barceló, nhưng không thấy công tắc đèn đâu. Tôi cởi bộ đồ nhớp nhúa dính máu và nhảy xổ vào buồng tắm tráng lệ. Một làn sương long lanh luồn qua ô cửa sổ hướng về phía sân trong của tòa nhà, với đủ ánh sáng để làm rõ hình dạng căn phòng cùng những họa tiết của lớp đá men trên sàn và tường. Nước chảy ra nóng hổi và mạnh hơn nhiều so với buồng tắm nhà tôi trên phố Santa Ana; cảm tưởng cứ như đang ở trong một khách sạn xa hoa, mà kỳ thực tôi đã bao giờ đặt chân vào chốn nào như vậy đâu. Tôi đứng bất động dưới dòng tia nước chừng vài phút.

Tiếng vọng của những cú đánh như mưa trút xuống Fermín vẫn văng vẳng bên tai. Tôi không thể xua ra khỏi đầu mình những lời của Fumero, hay khuôn mặt g đã giữ tôi lại. Một lúc sau, tôi nhận ra nước bắt đầu lạnh dần, và tôi nghĩ bình nước nóng sắp hết nước. Khi xả hết giọt nước ấm áp cuối cùng, tôi gạt tắt nước. Một làn hơi bốc lên cơ thể tôi tựa như những dải lụa. Qua rèm nhà tắm, tôi nhận thấy một bóng người đứng bất động nơi cánh cửa, đôi mắt cẩm thạch của cô ánh lên như mắt mèo.

“Cậu có thể đi ra. Không có gì phải lo đâu, Daniel. Dù tôi có làm gì xấu xa thì tôi cũng đâu thể nhìn thấy cậu.”

“Chào Clara.”

Cô đưa khăn sạch cho tôi. Tôi với tay ra nhận lấy, quấn quanh mình với vẻ rụt rè của một cô nữ sinh. Thậm chí dù đang trong bóng đêm đầy hơi nước, tôi vẫn nhận thấy Clara đang cười vì đoán biết được từng động thái của tôi.

“Tôi không nghe chị đi vào.”

“Vì tôi có gọi đâu. Sao cậu lại tắm trong bóng tối thế?”

“Sao chị biết đèn không bật?”

“Tiếng kêu rì rì của bóng đèn,” cô nói. “Cậu chưa bao giờ quay lại để nói lời từ biệt.”

Có, tôi đã quay lại, tôi nghĩ, nhưng chị còn bận bịu quá. Lời nói chết đứng trên miệng tôi; sự thù oán của chúng dường như xa vời, lố bịch.

“Tôi biết, xin lỗi chị.”

Tôi bước ra khỏi bồn tắm và đứng trên thảm. Làn hơi ánh những đốm bạc, và ánh sáng mờ từ cửa sổ hắt xuống thành tấm mạng trắng trên khuôn mặt của Clara. Cô không hề thay đổi. Bốn năm xa cách vẫn không giúp gì tôi.

“Giọng cậu thay đổi rồi,” cô nói. “Cậu cũng thay đổi rồi chứ, Daniel?”

“Tôi vẫn ngốc nghếch như lúc trước, nếu đó là điều chị đang băn khoăn.”

Và là một kẻ hèn nhát nữa, tôi nghĩ. Cô vẫn giữ nguyên cái nụ cười làm đau nhói ấy, thậm chí là trong bóng tối. Cô với tay ra, và cũng như buổi chiều nọ trong thư viện Ateneo tám năm tôi hiểu ngay. Tôi dẫn bàn tay cô lên khuôn mặt còn ướt của mình và cảm nhận những ngón tay cô đang khám phá lại khuôn mặt tôi, đôi môi cô đang nói những lời câm lặng.

“Tôi không bao giờ muốn làm tổn thương cậu, Daniel ạ. Tha lỗi cho tôi nhé.”

Tôi nắm tay cô mà hôn trong bóng tối. “Không: chị phải tha lỗi cho tôi mới đúng.”

Khả năng cho một màn kịch sướt mướt nào đó, nếu có thì cũng vụn tan khi Bernarda thò đầu qua cửa. Mặc dù khá say, chị vẫn nhận ra tôi đang trần truồng, người ướt sũng, và đang hôn tay Clara khi đèn không bật.

“Vì tình yêu của Chúa, cậu không xấu hổ sao, cậu Daniel? Lạy Giê-su, lạy đức Mẹ Mary, lạy Thánh Giu-se. Một số người không bao giờ học được...”

Bernarda xấu hổ bỏ chạy, và tôi hy vọng rằng khi ảnh hưởng của rượu không còn, thì những gì chị nhìn thấy sẽ phai tàn khỏi tâm trí chị như một giấc mơ. Clara lùi lại vài bước rồi đưa cho tôi bộ quần áo mà cô đang kẹp dưới nách trái.

“Bác tôi bảo đưa bộ đồ này cho cậu. Đây là đồ bác ấy mặc lúc còn trẻ. Bác ấy bảo cậu lớn lắm rồi nên sẽ mặc vừa. Tôi đi đây, để cậu còn mặc đồ. Lẽ ra tôi không nên vào mà không gõ cửa.”

Tôi nhận lấy bộ đồ cô vừa đưa, rồi bắt đầu mặc quần lót, mùi sạch sẽ và ấm áp, rồi chiếc sơ mi vải bông màu hồng, đôi tất, áo gi lê, quần, áo khoác. Trong gương, tôi nhìn thấy một tay chuyên đi từng nhà chào hàng mà nụ cười đã mãi mãi không còn nữa. Khi tôi quay lại nhà bếp, bác sĩ Soldevila đã ra khỏi phòng ngủ và báo cho chúng tôi tình trạng của Fermín.

“Lúc này điều tồi tệ nhất đã qua rồi,” ông thông báo. “Không có gì phải lo lắng cả. Những chuyện này thường có vẻ nghiêm trọng hơn thực tế. Anh bạn kia bị gãy cánh tay trái và hai xương sườn, mất ba chiếc răng, có rất nhiều vết thâm, bầm giập và trầy xước. Nhưng rất may là không bị chảy máu trong và không có triệu chứng tổn thương não. Tờ báo mà bệnh nhân gấp bỏ trong áo để giữ ấm và để cho người mình nom đẫy đà hơn, như lời anh ấy nói, đã có tác dụng như áo giáp cản lại những cú đánh. Vừa mới đây, anh ấy tỉnh lại và đề nghị tôi bảo các bạn rằng anh ấy đang cảm thấy như trở về tuổi hai mươi, rằng anh ấy muốn ăn bánh kẹp dồi có tỏi tươi, một thanh sô cô la, và một ít kẹo Sugus vị chanh. Tôi nghĩ ăn như vậy cũng, nhưng sẽ tốt hơn nên dùng một chút nước trái cây, sữa chua và có lẽ một ít cơm. Hơn nữa, để chứng tỏ sức khỏe và sự tỉnh táo, anh ấy đã bảo tôi chuyển lời đến các bạn là, khi y tá Amparito khâu vài mũi nơi chân anh ấy, anh ấy đã cương cứng như một tảng băng trôi.”

“Đó là vì anh ấy là một người rất nam tính,” Bernarda lí nhí biện hộ.

“Bao giờ chúng tôi mới được vào thăm anh ấy?” tôi hỏi.

“Giờ thì chưa. Có lẽ đến sáng. Hãy để anh ấy nghỉ ngơi một chút. Chậm nhất là ngày mai tôi muốn anh ấy được đưa tới viện Hospital del Mar để chụp não, cho yên tâm thôi. Nhưng tôi nghĩ chúng ta vẫn có thể an tâm rằng vài ngày tới ngài Romero de Torres sẽ khỏe như không hề có chuyện gì. Xét qua các vết và sẹo trên người, anh ấy đã từng trải qua những lúc thập tử nhất sinh hơn thế nhiều. Anh ấy là một kẻ khó bề diệt được. Nếu các bạn cần một bản chứng nhận để báo cảnh sát...”

“Không cần đâu,” tôi xen vào.

“Này chàng trai, tôi cảnh báo cậu là chuyện này lẽ ra đã có thể rất trầm trọng. Cậu phải báo cảnh sát ngay.”

Barceló đang nhìn tôi chăm chú. Tôi nhìn lại, và ông ấy gật đầu.

“Còn nhiều thì giờ để làm vậy, bác sĩ đừng lo,” Barceló nói. “Điều quan trọng bây giờ là phải đảm bảo bệnh nhân vẫn ổn. Sáng mai, chính tôi sẽ đi trình báo việc này, làm trước tiên. Các nhà chức trách cũng có quyền được nghỉ ngơi đôi chút vào ban đêm chứ.”

Rõ ràng là ông bác sĩ không bằng lòng khi tôi đề nghị không báo cảnh sát, nhưng khi nhận ra Barceló sẽ làm việc đó, ông nhún vai rồi quay trở lại phòng ngủ để chăm sóc bệnh nhân. Ngay khi bác sĩ đi khuất, Barceló bảo tôi vào phòng làm việc của ông ấy. Bernarda ngồi trên ghế thở dài, đờ đẫn vì rượu và sốc.

“Bernarda này, tìm việc gì làm đi chứ. Hãy pha ít cà phê. Thật ngon và mạnh.”

“Vâng thưa ngài. Tôi làm ngay đây.”

Tôi theo Barceló vào phòng, một khoang hầm bao phủ trong đám khói thuốc cuộn quanh những chồng sách vở giấy tiếng đàn của Clara vẳng đến chỗ chúng tôi chẳng ra xoang điệu hay tiết tấu gì. Rõ ràng những bài giảng của tay Maestro Neri chẳng cải thiện được gì nhiều, ít nhất là về lĩnh vực nhạc. Ông bán sách chỉ ghế cho tôi ngồi, và tiếp tục nhồi thuốc vào tẩu.

“Bác đã gọi điện báo cha cháu là Fermín gặp chút tai nạn, và cháu đã đưa anh ta đến đây.”

“Cha cháu tin bác chứ?”

“E là không.”

“Không sao ạ.”

Ông buôn sách châm thuốc và ngả lưng vào chiếc ghế bành sau bàn. Ở đầu kia căn hộ, Clara đang tra tấn Debussy[1]. Barceló trợn mắt.

[1. Claude Debussy (1862-1918), nhà soạn nhạc người Pháp, một trong những nhà soạn nhạc tiêu biểu của trường phái ấn tượng.]

“Chuyện gì xảy ra với tay gia sư vậy?” tôi hỏi.

“Hắn bị đuổi việc. Dường như đàn piano không đủ phím cho hắn bận rộn ngón tay.”

“Đúng vậy.”

“Cháu chắc là cháu cũng không bị đánh chứ? Trông cháu có vẻ không muốn nói chuyện. Lúc còn bé, cháu hay chuyện hơn.”

Cửa phòng mở ra, và Bernarda đi vào mang một khay gồm hai chiếc tách bốc hơi và một lọ đường. Chị vừa đi vừa tròng trành, và tôi sợ sẽ bị tắm dưới dòng cà phê nóng bỏng.

“Tôi vào được không? Ngài có muốn pha một chút rượu vào không?”

“Tôi nghĩ chai Lepanto đáng được nghỉ ngơi đêm nay, Bernarda ạ. Còn cô nữa. Cô cũng đi ngủ đi. Daniel và tôi sẽ thức phòng có chuyện gì. Vì Fermín ở trong phòng cô nên cô có thể ngủ trong phòng tôi.”

“Ôi không thưa ngài, tôi không chịu vậy

“Đó là lệnh. Không tranh cãi gì hết. Và tôi muốn cô đi ngủ trong năm phút nữa.”

“Nhưng, thưa ngài...”

“Bernarda, coi chừng không được nhận thưởng Giáng sinh đấy.”

“Thôi được, thưa ngài Barceló. Tôi sẽ ngủ trên thảm. Tôi sẽ không nghe gì thêm.”

Barceló đợi Bernarda lui ra một cách đầy kiểu cách. Ông lấy bảy viên đường cho vào tách rồi dùng thìa khuấy cà phê, nụ cười như mèo của ông ta ẩn sau làn khói thuốc Hà Lan.

“Như cháu thấy đấy, bác phải nghiêm khắc quán xuyến cái nhà này.”

“Vâng, bác đúng là người nghiêm khắc, Don Gustavo.”

“Còn cháu là đứa ăn nói khéo léo. Nói đi Daniel, giờ không ai có thể nghe chúng ta cả. Tại sao lại không báo cảnh sát?”

“Vì họ đã biết rồi.”

“Ý cháu là...?”

Tôi gật đầu.

“Hai người đang dính vào rắc rối gì thế, không phiền nếu bác hỏi chứ?”

Tôi thở dài.

“Bác có thể giúp gì không?”

Tôi ngước mắt lên. Barceló cười với tôi không hề ác ý, lần duy nhất ông gạt bỏ thái độ mỉa mai.

“Tất cả chuyện này, do sự tình cờ nào đó, có liên quan gì đến cuốn sách của Carax mà cháu không bán cho bác trong khi đáng lẽ ra nên bán không?”

Câu hỏi khiến tôi hoàn toàn

“Bác có thể giúp,” ông ấy đề nghị. “Bác có dư thừa điều mà hai người còn thiếu: tiền và sự khôn ngoan.”

“Hãy tin cháu, Don Gustavo, cháu đã để quá nhiều người dính líu vào chuyện này rồi.”

“Thêm một người nữa cũng chẳng làm nên khác biệt gì. Thôi nào, kể bác nghe đi. Cứ tưởng tượng bác là cha đạo đang nghe cháu xưng tội.”

“Nhiều năm rồi cháu không đi xưng tội.”

“Điều đó hiện rõ trên mặt cháu kìa.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33


GUSTAVO BARCELÓ CÓ CÁCH LẮNG NGHE vừa mang vẻ trầm ngâm lại vừa uyên bác, giống như một bác sĩ hay giáo hoàng. Hai tay chắp vào nhau chống cằm, khuỷu tay tựa trên bàn, ông nhìn tôi cứ như đang cầu nguyện. Mắt ông mở lớn, thỉnh thoảng ông gật đầu, tựa hồ ông có thể tìm ra các triệu chứng trong mạch kể chuyện của tôi và đang thai nghén lời chẩn đoán. Mỗi khi tôi dừng nói, ông bán sách lại nhướng mày tỏ vẻ tò mò và tay phải ra hiệu bảo tôi cứ tiếp tục gỡ ra dần câu chuyện rối mù của mình, một câu chuyện dường như gây cho ông nhiều thích thú. Thỉnh thoảng ông lại ghi chép, hoặc nhìn lên không như muốn suy xét những ẩn ý trong điều tôi đang kể. Nhiều khi, ông lại liếm môi và mỉm cười mỉa mai, một cử chỉ mà tôi nghĩ là do sự ngây thơ của tôi hoặc sự ngờ nghệch trong nhận định của tôi.

“Này, nếu bác nghĩ chuyện này là vớ vẩn, cháu sẽ thôi đấy.”

“Ngược lại. Bọn điên nói, bọn hèn nhát im mồm, duy kẻ khôn ngoan mới biết lắng nghe.”

“Ai nói vậy? Seneca[1] chăng?”

[1. Có lẽ ám chỉ Lucious Annaeus Seneca, triết gia khắc kỷ người La Mã>

“Không. Braulio Recolons, ông hàng thịt trên phố Avignon, rất có tài làm món xúc xích và nói những câu cách ngôn

. Tiếp tục đi. Cháu đang kể về cô gái tươi trẻ...”

“Bea. Đấy là chuyện riêng của cháu, không liên quan đến những chuyện khác.”

Barceló cố nén tiếng cười. Tôi định kể tiếp cuộc phiêu lưu của mình thì bác sĩ Soldevila thò cổ qua cửa phòng, vẻ mệt mỏi đến đứt hơi.

“Xin lỗi. Tôi về đây. Bệnh nhân ổn rồi, và, không còn từ nào để diễn tả hay hơn, anh ấy đúng là khỏe như con gấu. Ông bạn này sẽ sống lâu hơn tất cả chúng ta. Anh ấy còn bảo thuốc giảm đau đã xông lên não và khiến cho anh ấy lâng lâng. Anh ấy không chịu nghỉ ngơi và nhất quyết đòi gặp bằng được cậu Daniel để nói về những chuyện anh ấy không muốn giải thích với tôi, rằng anh ấy không tin vào mấy cái lời thề Hippocrates, hay đạo đức giả[2] theo cách nói của anh ấy.”

[2. Lời thề Hippocrates là lời thề sinh viên ngành Y phải đọc trước khi ra trường hành nghề, đạo đức giả, tiếng Anh là hypocrite. Khi đọc lên, hai từ Hippocrates và hypocrite nghe gần giống nhau.]

“Chúng tôi sẽ đi xem anh ấy thế nào. Và xin hãy thứ lỗi cho Fermín. Rõ ràng anh ấy vẫn đang sốc.”

“Có lẽ vậy, nhưng tôi sẽ không bỏ qua sự trơ trẽn đâu. Không cách nào có thể ngăn anh ta sờ nắn mông cô y tá, lại còn ngâm mấy vần thơ ca ngợi cặp đùi săn chắc của cô ấy nữa.”

Chúng tôi tiễn bác sĩ và y tá của ông ra tận cửa và nhiệt thành cảm ơn sự tận tụy của họ. Vào đến phòng ngủ, chúng tôi phát hiện ra rằng Bernarda rốt cuộc đã thách thức mệnh lệnh của Barceló và đang nằm trên giường cạnh Fermín. Nỗi hoảng sợ, rượu và sự mệt mỏi đã khiến chị ngủ thiếp đi. Bị bao bọc trong bông băng, quần áo, dây đeo, Fermín ôm chị dịu dàng, vuốt tóc chị. Khuôn mặt anh có một vết thâm mà chỉ nhìn vào cũng thấy đau nhói, từ vết thâm đó nổi lên cái mũi to kềnh, lành lặn, đôi tai giống như mái chèo, và đôi mắt của một con chuột mệt mỏi. Nụ cười móm mém, qua đôi môi xây xước, đầy niềm hân hoan, anh chào chúng tôi với bàn tay phải giơ lên biểu tượng chiến thắng.

“Anh thấy thế nào

“Trẻ hơn hai mươi tuổi,” anh nói thầm, để không đánh thức Bernarda.

“Đừng vờ vịt nữa, khỉ thật. Trông anh thảm hại lắm, Fermín. Anh làm tôi sợ chết khiếp. Anh chắc là ổn chứ? Anh có thấy đầu quay cuồng không? Anh có nghe những tiếng nói gì không?”

“Cậu nhắc tôi mới nhớ, thỉnh thoảng tôi như nghe thấy tiếng gì vừa nghịch nhĩ vừa chả ra nhịp ra điệu gì, cứ như con khỉ đang nghịch đàn piano ấy.”

Barceló nhíu mày. Clara vẫn tiếp tục leng keng đánh đàn piano từ xa xa.

“Đừng lo, Daniel. Tôi đã thoát được những vụ tra tấn tệ hơn thế này. Gã Fumero kia vẫn không bỏ được tật xấu.”

“Vậy kẻ đã đẽo cho anh khuôn mặt mới không ai khác ngoài Thanh tra Fumero,” Barceló nói. “Tôi thấy là hai người dính vào tầng lớp cao nhất rồi.”

“Cháu vẫn chưa kể đến phần ấy,” tôi nói.

Fermín nhìn tôi thận trọng.

“Không sao đâu, Fermín. Daniel đang kể cho tôi vở kịch nhỏ mà hai người tham gia. Tôi phải thừa nhận nó rất thú vị. Còn anh thì sao, Fermín, anh có gì thú nhận không? Tôi báo trước cho anh biết là tôi đã học ở trường dòng hai năm đấy.”

“Tôi cho ít nhất là ba năm, Don Gustavo.”

“Một số thứ mất dần đi theo thời gian. Chẳng hạn như nết xấu hổ. Đây là lần đầu anh đến nhà tôi, thế mà anh lại nằm trên giường người hầu nhà tôi.”

“Nhìn cô ấy xem, cô bé tội nghiệp, thiên thần của tôi. Ông phải hiểu rằng ý định của tôi rất thành thực, Don Gustavo ạ.”

“Ý định của anh là chuyện của anh với Bernarda. Cô ấy khá già rồi. Và giờ, nói thẳng nhé. Anh định chơi trò đố chữ kiểu nào đây?”

“Cậu đã kể cho ông ta những gì, Daniel

“Chúng tôi mới đến cảnh hai: người đàn bà quyến rũ bí ấn xuất hiện,” Barceló giải thích.

“Nuria Monfort?” Fermín hỏi.

Barceló chép miệng hài lòng. “Nhưng có nhiều hơn một phải không? Chuyện này nghe giống như Vụ bắt cóc ở hậu cung[3].”

[3. The Abduction from the Seraglio, một tác phẩm ở thể loại khúc nhạc hát nói của Mozart.]

“Làm ơn nói nhỏ thôi. Hôn thê của tôi đang ở đây.”

“Đừng lo, hôn thê của anh có nửa chai rượu trong huyết quản. Tiếng kèn trumpet cũng không đánh thức nổi cô ấy. Thôi nào, hãy bảo Daniel kể tôi nghe nốt phần còn lại. Ba cái đầu suy nghĩ tốt hơn hai, đặc biệt khi cái đầu thứ ba lại là của tôi.”

Fermín cố gắng nhún vai dưới lớp băng và dây đeo. “Tôi không phản đối, Daniel. Tùy cậu đấy.”

Vì đã chịu để Don Gustavo tham gia vào, tôi đành tiếp tục câu chuyện cho đến đoạn Fumero và người của hắn chặn chúng tôi ở phố Mocada vài giờ trước. Khi câu chuyện kết thúc, Barceló đứng lên đi đi lại lại trong phòng, vẻ suy tư. Fermín và tôi nhìn ông ta thận trọng. Bernarda ngáy như một chú bê non.

“Ôi thiên thần bé nhỏ,” Fermín thì thầm, âu yếm.

“Có vài điều khiến tôi chú ý,” ông bán sách cuối cùng cũng nói. “Rõ ràng Thanh tra Fumero dính líu rất sâu vào vụ này, mặc dù thế nào và tại sao thì tôi không biết. Mặt khác, người phụ nữ này...”

“Nuria Monfort.”

“Rồi thì việc Julián Carax trở về Barcelona và bị chết trên phố, sau một tháng ròng không ai biết gì về anh ta. Rõ ràng người phụ nữ này nói dối rất trắng trợn.”

“Tôi đã bảo vậy ngay từ đầu mà,” Fermín nói, liếc nhìn tôi. “Vấn đề là, có người trong chúng ta có thừa nhiệt tình tuổi trẻ nhưng lại thiếu cái nhìn chiến lược trong chuyện này.”

“Xem ai đang nói kìa: Thánh Gioan Thánh giá[4]."

[4. Thánh Gioan Thánh giá (1542-1591): một nhân vật lớn trong cuộc Cải cách Công giáo, một nhà thần bí người Tây Ban Nha, tu sĩ dòng Cát Minh.]

“Đủ rồi đấy. Hãy bình tĩnh và bám vào sự kiện. Có một điều trong câu chuyện của Daniel khiến tôi thấy lạ, thậm chí kỳ lạ hơn phần còn lại của câu chuyện. Nó chẳng liên quan gì đến vòng xoáy u ám của toàn bộ câu chuyện dài kỳ này, mà là liên quan đến một chi tiết căn bản và rõ ràng là tầm thường,” Barceló nói.

“Hãy làm chúng tôi sững sờ đi, Don Gustavo.”

“À, là chuyện này: là việc cha của Carax không chịu nhận xác Carax, nói rằng ông ta không có con trai. Tôi thấy điều này kỳ lạ. Gần như phi tự nhiên. Không người cha nào trên đời này lại làm vậy. Đừng để ý đến chuyện giữa họ có điều xung khắc. Cái chết làm được điều này: nó khiến mọi người cảm thấy ủy mị. Khi chúng ta đứng trước một quan tài, tất cả chúng ta chỉ nhìn thấy những điều tốt đẹp hay những điều mà chúng ta muốn nhìn thấy.”

“Thật là câu nói vĩ đại, Don Gustavo,” Fermín nói. “Ông có phiền nếu tôi đưa vào sổ tay của tôi không?”

“Nhưng mà luôn có những ngoại lệ chứ,” tôi phản bác. “Từ những gì chúng ta được biết, ông Fortuny khá khác thường.”

“Tất cả những gì chúng ta biết về ông ta chỉ là tin đồn qua người thứ ba,” Barceló nói. “Khi người ta quyết tâm muốn chứng minh ai đó là một con quái vật, thì có hai khả năng: hoặc ông ta là thánh hoặc chính người kể chưa kể hết toàn bộ câu chuyện.”

“Vấn đề là, ông đã đánh bóng lão bán mũ chỉ vì lão ta đần độn,” Fermín nói.

“Với mọi sự kính trọng nghề của họ, khi mô tả về một tên xỏ lá lại hoàn toàn chỉ dựa trên lời khai của ông bảo vệ, bản năng mách bảo tôi là không nên tin.”

“Nhưng thế có nghĩa chúng ta không thể chắc bất cứ điều gì. Mọi điều chúng ta biết đều là qua người thứ ba, thứ tư, như bác nói. Ông bảo vệ hay những ai khác.”

“Đừng bao giờ tin người tin tất cả mọi người,” Barceló nói thêm.

“Thật là buổi tối xuất chúng, Don Gustavo ơi,” Fermín tán thưởng. “Những lời vàng ngọc cứ gọi là xối xả tuôn ra. Liệu tôi có thể có được sự thông tuệ long lanh ấy...”

“Điều long lanh duy nhất trong chuyện này là hai người cần sự giúp đỡ của tôi – về mặt hậu cần và có lẽ cả tiền bạc nữa – nếu anh hy vọng vở kịch Giáng sinh này kết thúc trước khi Thanh tra Fumero dành cho anh một phòng ở Nhà tù San Sebas. Fermín, tôi nghĩ là anh đồng ý với tôi?”

“Tôi theo lệnh của Daniel. Tôi thậm chí còn sẽ đóng vai Chúa hài đồng nếu cậu ấy lệnh như vậy.”

“Daniel, cậu nói sao đây?”

“Hai người đã nói hết phần cháu rồi còn gì. Bác đề xuất gì đây, Don Gustavo?”

“Kế hoạch của tôi như thế này: ngay khi Fermín phục hồi, cháu, Daniel, cháu đến thăm Nuria Monfort và đặt bài ngửa lên bàn. Để cô ta hiểu là cháu biết cô ta nói dối, và cô ta đang che giấu gì đó, nhiều hay ít thì còn phải xem.”

“Để làm gì?’

“Xem cô ta phản ứng thế nào. Cô ta sẽ không nói gì với cháu, tất nhiên. Hoặc cô ta sẽ nói dối tiếp. Điều quan trọng là phải đâm kiếm vào cô ta – xin thứ lỗi cho sự ví von với hình ảnh đấu bò – để xem con bò, hay nói đúng hơn là con bê cái dẫn chúng ta đến đâu. Và đó là nơi anh sẽ đến, Fermín. Trong khi Daniel chìa cổ ra thì anh nên tùy chọn nơi phù hợp để theo dõi kẻ nghi vấn và đợi cô ta cắn câu. Một khi cô ta cắn câu rồi thì đi theo cô ta.”

“Bác đang có chắc là cô ta sẽ đi đâu đó không,” tôi phản đối.

“Cậu thật thiếu lòng tin đấy! Cô ta sẽ làm như vậy. Không sớm thì muộn. Và điều gì đó mách bảo tôi rằng, trong chuyện này điều đó sẽ sớm xảy ra. Đấy là căn bản về tâm lý phụ nữ.

“Và trong lúc đó, bác định sẽ làm gì, Bác sĩ Freud?” tôi hỏi.

“Đó là việc của bác, khi nào đến lúc cháu sẽ được biết. Và cháu sẽ phải cảm ơn bác vì điều đó.”

Tôi tìm kiếm sự đảm bảo trong mắt Fermín, nhưng anh chàng tội nghiệp đang từ từ thiếp đi, tay vẫn ôm Bernarda trong khi Barceló đang vẽ ra kế hoạch đầy chắc thắng của mình. Đầu Fermín nghiêng sang một bên, và một dòng nước dãi từ bên mép nụ cười hạnh phúc rỏ ra trên ngực anh.

“Bác rất hy vọng kế hoạch này sẽ thành công,” Barceló lẩm bẩm.

“Fermín quả là một anh chàng tuyệt vời,” tôi nói.

“Hẳn là như vậy, bởi bác không nghĩ anh ta chinh phục được cô ấy nhờ ngoại hình. Thôi nào, chúng ta đi.”

Chúng tôi tắt đèn và lặng lẽ rời phòng, đóng cửa lại, để đôi tình nhân ngủ trong tay nhau. Tôi nghĩ tôi có thể nhìn thấy ánh sáng ban ngày đầu tiên qua ô cửa sổ cuối hành lang.

“Giả sử cháu từ chối,” tôi nói lí nhí. “Giả sử cháu bảo bác quên chuyện này đi...”

Barceló cười. “Quá muộn rồi, Daniel. Lẽ ra cháu nên bán cho ta cuốn sách ấy nhiều năm về trước, khi cháu còn có cơ hội.”

Trời hửng sáng khi tôi về đến nhà, lê thân mình trong bộ đồ lố bịch vay mượn ấy qua những con phố ẩm ướt đang hừng lên sắc đỏ. Tôi thấy cha tôi ngủ trên ghế trong phòng khách, chăn đắp dưới chân và cuốn sách trong tay đang mở - cuốn Chàng thơ ngây của Voltaire, cuốn sách mà mỗi năm ông đọc đi đọc lại nhiều lần, đấy là những lúc duy nhất tôi nghe ông cười sảng khoái. Tôi ngắm nhìn cha: tóc ông đã ngả màu, thưa đi, và da ông bắt đầu xệ xuống quanh gò má. Tôi nhìn con người mà mình từng nghĩ gần như là ngoan cường nhất; giờ trông cha thật mong manh, bị đánh bại mà không hề biết. Có lẽ cả hai chúng tôi đều bị đánh bại. Tôi cúi xuống đắp lên người cha tấm chăn mà nhiều năm nay ông đã hứa sẽ cho hội từ thiện, tôi hôn trán cha, như thể làm vậy sẽ bảo vệ được ông khỏi mối đe dọa vô hình khiến cha rời xa tôi, rời xa căn nhà nhỏ, xa những ký ức của tôi, như thể tôi tin rằng với nụ hôn ấy tôi có thể đánh lừa thời gian vó bỏ qua chúng tôi, để quay lại vào một ngày khác, ở một cuộc đời khác.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34


SUỐT BUỔI SÁNG TÔI CỨ MƠ MƠ MÀNG MÀNG Ở PHÒNG SAU, hồi tưởng những hình ảnh về Bea. Tôi tưởng tượng làn da trần của nàng dưới tay tôi, và dường như tôi có thể nhấm nháp hơi thở ngọt ngào của nàng. Tôi thấy mình nhớ chính xác từng chi tiết như một tấm bản đồ mỗi đường nét trên cơ thể nàng, nước dãi tôi óng lên trên đôi môi và trên cả mái tóc vàng của nàng, vàng đến mức gần như trong suốt, dài tận hông nàng, và anh bạn Fermín của tôi, trong bài thuyết giảng ngẫu hứng về nhục dục của mình, đã gọi nó là “lối nhỏ vào Jerez[1].”

[1. Tên một thành phố miền Tây Nam Tây Ban Nha.]

Tôi nhìn đồng hồ không biết đến lần thứ bao nhiêu và hốt hoảng nhận ra rằng chỉ còn vài tiếng nữa là đến giờ tôi được gặp Bea, được chạm vào nàng. Tôi cố sắp xếp các hóa đơn của tháng, nhưng tiếng sột soạt của những tờ giấy lại khiến tôi nhớ đến tiếng quần lót đang trượt xuống khỏi cặp mông và đùi trắng muốt của Doña Beatriz Aguilar, em gái người bạn thời thơ ấu của tôi.

“Daniel, đầu óc con đang ở trên mây đấy. Con có việc gì lo lắng phải không? Có phải chuyện Fermín không?” cha tôi hỏi.

Tôi gật đầu, lấy làm xấu hổ. Người bạn thân nhất của tôi đã mất vài mẩu xương sườn để bảo vệ tôi mấy giờ trước đó, thế mà tôi chỉ nghĩ được về mỗi cái khuy áo lót.

“Mà nói về mấy người xấu...”

Tôi ngước mắt, thì thấy anh ta kia. Fermín Romero de Torres, chỉ có thể là anh ta, đang diện bộ cánh đẹp nhất, và với bộ dạng rách rưới như một điếu thuốc lá rẻ tiền. Anh ta đang đi qua cửa với một nụ cười đắc thắng và một bông cẩm chướng trên ve áo.

“Anh làm quái gì ở đây thế? Không phải anh đang ngh

“Nghỉ ngơi có thể tự lo cho nó. Tôi là con người hành động. Nếu không có tôi ở đây, hai người chẳng bán được gì dù chỉ một cuốn sách giáo lý.”

Lờ đi lời dặn của bác sĩ, Fermín quyết tâm đến làm việc. Khuôn mặt anh ta vàng nhợt và đầy những vết thâm; anh đi khập khiễng và cử động như một con rối đứt dây.

“Vì Chúa, anh phải đi nghỉ ngay, Fermín,” cha tôi khiếp hãi nói.

“Tôi không chịu đâu. Các số liệu đã chứng minh rằng: người ta chết trên giường nhiều hơn trong cống rãnh.”

Mọi lời phản đối của chúng tôi chả ích gì. Sau một hồi, cha tôi đầu hàng, vì có gì đó trong mắt Fermín như nói rằng dù xương cốt anh ta đau đớn dữ dội, song cái viễn cảnh nằm một mình nơi nhà trọ còn đau đớn hơn bội phần.

“Được rồi, nhưng nếu tôi thấy anh nhấc bất cứ cái gì ngoài cây bút chì, tôi sẽ mắng cho một trận đấy.”

“Vâng, thưa ngài! Tôi thề danh dự với ngài, tôi sẽ không nhấc dù chỉ một ngón tay.”

Fermín đi mặc áo khoác rồi lấy một tấm dẻ và một lọ cồn. Anh ta ngồi nơi bàn, định lau bìa và gáy mười lăm cuốn sách cũ mới đến sáng nay. Chúng đều là những cuốn sách rất-được-săn-tìm: Mũ tam giác: Lịch sử Lực lượng Cảnh sát Dân sự bằng thơ Alexandrine, của tác giả tuổi trẻ tài cao Fulgencio Capón, được các nhà phê bình ca tụng là thần đồng đất nước. Trong khi đang mê mải công việc, Fermín vẫn nhìn tôi lén lút, nháy mắt như một con quỷ đang bày mưu tính kế.

“Tai cậu đỏ như ớt ấy, Daniel.”

“Hẳn là do phải nghe anh nói linh tinh nhiều quá.”

“Hay là vì cơn sốt choán lấy cậu. Cậu định gặp cô bé lúc mấy giờ?”

“Không phải việc của anh.”

“Trông cậu thực sự tệ lắm đấy. Cậu có kiêng ăn đồ nhiều gia vị không đấy? Các loạiị nóng là nhiều chất béo lắm; chúng làm giãn mạch máu.”

“Thôi đi.”

Thật là một ngày dài lê thê khổ sở.

KHI XE BUÝT BỎ TÔI LẠI Ở CUỐI ĐẠI LỘ TIBIDABO thì chiều đã sắp tàn. Tôi có thể nhìn ra hình dạng chiếc xe điện màu xanh dương đang dần khuất qua làn sương tím. Tôi quyết định không chờ nó quay lại, mà đi bộ trong ánh sáng nhập nhòe. Không lâu sau, tôi đã nhìn thấy Thiên thần Mù sương. Tôi lôi ra chiếc chìa khóa Bea đã đưa và mở cánh cửa nhỏ trong cổng. Tôi bước vào trong, để cho cửa gần như đóng lại, để trông có vẻ như đóng rồi nhưng Bea vẫn có thể mở ra được. Tôi cố ý đến sớm. Tôi biết ít nhất chừng nửa tiếng hoặc bốn lăm phút nữa Bea mới đến. Tôi muốn một mình lang thang trong căn nhà và khám phá nó trước khi Bea đến và biến nó thành của riêng nàng. Tôi dừng lại một lúc để nhìn đài phun nước và bàn tay màu đỏ úa của thiên thần nhô lên khỏi mặt nước. Ngón tay buộc tội trông sắc như lưỡi lê. Tôi bước đến thành bể. Khuôn mặt điêu khắc, không mắt. Không hồn, rung rinh dưới mặt nước.

Tôi bước lên bậc thềm rộng dẫn đến cửa. Cửa chính hé mở. Một mối lo lắng ập đến, vì tôi nghĩ mình đã đóng cửa khi ra về đêm hôm trước. Tôi kiểm tra ổ khóa, có vẻ như không bị phá, và đi đến kết luận tôi hẳn đã quên đóng cửa. Tôi đẩy nhẹ vào trong, và cảm thấy làn hơi thở trong ngôi nhà phả vào mặt mình, một luồng hơi ẩm ướt, có mùi của gỗ cháy, và của hoa khô. Tôi lôi ra một hộp diêm đã lấy trước khi rời hiệu sách và quỳ xuống thắp ngọn đầu tiên trong số các ngọn nến Bea bỏ lại. Một ngọn lửa màu đồng sáng lên trong tay tôi làm hé lộ ra hình dạng nhảy múa của những bức tường đang rỉ nước vì hơi ẩm, những trần nhà đang sụp dần và những cánh cửa vẹo xiêu.

Tôi tiếp tục thắp ngọn nến thứ hai. Từ từ, gần như một lễ nghi, tôi theo dấu vết của những ngọn nến và thắp sáng từng cây một, tạo nên một quầng sáng màu hổ phách tựa hồ lơ lửng trong không trung như một mạng nhện bị mắc kẹt giữa màn đêm không thể xuyên thấu. Hành trình của tôi kết thúc bên lò sưởi phòng khách, cạnh tấm chăn vẫn trải trên sàn, dính đầy bụi. Tôi ngồi đó, quay mặt về phần còn lại của căn phòng. Tôi đã trông đợi sự tĩnh lặng, nhưng căn nhà tỏa ra hàng ngàn tiếng động. Tiếng gỗ lách tách, tiếng gió rít lên mái nhà, một ngàn lẻ một tiếng tí tách bên trong những bức tường, dưới sàn, từ nơi này sang nơi khác.

Sau chừng ba mươi phút, tôi nhận ra cái lạnh và bóng đêm bắt đầu làm tôi cảm thấy buồn ngủ. Tôi đứng lên và bắt đầu đi lại trong phòng cho ấm. Chỉ có một đống than trong lò sưởi. Lúc Bea đến, nhiệt độ trong dinh thự cổ hẳn sẽ xuống tới mức đủ làm nguội lạnh những ý nghĩ sốt sắng đã chất chứa nhiều ngày trong tôi và khiến đầy trong tôi không gì khác ngoài những suy nghĩ thuần khiết trong veo. Sau khi tìm được một mục đích thiết thực hơn là ngắm nghía những điêu tàn của thời gian, tôi lấy một ngọn nến và bắt đầu khám phá ngôi nhà mong tìm thứ gì để đốt.

Hiểu biết của tôi về những tác phẩm thời Victoria đã gợi ý rằng chỗ hợp lý nhất để tìm kiếm là tầng hầm, đó hẳn phải là nơi đặt bếp và có một kho than lớn. Với ý nghĩ đó, tôi mất năm phút cố tìm một cánh cửa hoặc cầu thang dẫn xuống tầng thấp hơn. Tôi chọn một cánh cửa gỗ lớn có chạm khắc ở phía cuối hành lang. Trông nó như một tủ gỗ được chạm khắc tinh tế, với họa tiết chạm nổi gồm những thiên thần và một dấu thập lớn ở giữa. Tay nắm đặt ngay giữa cửa, dưới dấu thập. Tôi cố vặn nhưng không được. Bộ khóa có lẽ bị kẹt hoặc hỏng do gỉ sét. Cách duy nhất làm cho cửa mở là dùng thanh sắt bẩy ra hoặc lấy rìu đốn xuống, song tôi nhanh chóng loại bỏ những cách này. Tôi xem xét tấm gỗ lớn dưới ánh nến và thấy nó có vẻ giống một cỗ quan tài hơn là cánh cửa. Tôi tự hỏi có điều gì bí ẩn giấu bên trong.

Xem xét kỹ hơn những hình chạm khắc thiên thần khiến tôi nhụt chí không dám nhìn thêm nữa mà rời khỏi chỗ đó. Lúc đã sắp sửa từ bỏ việc tìm lối đi xuống tầng hầm, tình cờ tôi đụng phải một ô cửa nhỏ phía đầu kia hành lang, mà lúc đầu tôi cho là cửa vào phòng đựng chổi, giẻ, các thứ làm vệ sinh nhà. Tôi thử quả đấm cửa, nó xoay ngay lập tức. Phía bên kia, một cầu thang đổ dốc xuống một vùng tối đen. Một mùi đất ẩm rất mạnh phả vào tôi. Thật lạ đấy có vẻ là mùi quen thuộc, và khi tôi đứng đó, mắt hướng về cái giếng đen thẳm trước mặt, thì một ký ức tôi đã có từ thuở bé, chôn chặt dưới nhiều năm sợ hãi, lại ùa về.

***

Một chiều mưa bên mạn đông đồi Montjuïc, nhìn về phía biển qua một rừng những lăng tẩm lạ lùng, một khu rừng những cây thánh giá và bia mộ khắc hình sọ người và những khuôn mặt trẻ con không môi không miệng, một nơi sực mùi chết chóc; và bóng dáng chừng hai mươi người vận đồ đen ướt sũng trong mưa, và cha tôi nắm chặt tay tôi, quá chặt, như thể làm vậy ông có thể ngừng khóc, trong khi những lời của vị cha đạo rơi vào ngôi mộ đá mà ba phu đào mộ đang đẩy chiếc quan tài màu xám vào. Cơn mưa tầm tã trút xuống giống như sáp nến nóng chảy trên cỗ quan tài, và tôi nghĩ đã nghe tiếng mẹ từ trong quan tài gọi tôi, cầu xin tôi giải thoát bà khỏi ngục tù bằng đá và bóng tối ấy, nhưng tôi chỉ biết run rẩy và bảo cha với giọng thì thầm không thành tiếng rằng đừng nắm chặt tay tôi quá, ông đang làm tôi đau, và cái mùi đất mới ấy, thứ đất tro và mưa ấy, đang nuốt đi tất cả, một mùi chết chóc và trống rỗng.

***

Tôi mở mắt và mò mẫm bước xuống cầu thang, vì ánh sáng ngọn nến chỉ tỏa ra được vài ba xăng ti mét trong bóng đen. Khi đến chân cầu thang, tôi giơ cao ngọn nến nhìn quanh. Tôi không thấy nhà bếp đâu, không thấy kho chứa đầy củi khô đâu. Một lối đi hẹp mở ra trước tôi, kéo dài đến tận căn phòng hình bán nguyệt. Trong phòng có một hình người, khuôn mặt có hai làn lệ máu chảy ra từ hai hố mắt sâu hút, tay dang ra như đôi cánh và một con rắn gai từ hai bên thái dương thòi ra. Tôi cảm thấy một luồng hơi lạnh toát đâm vào gáy. Một lát sau, tôi lấy lại bình tĩnh và thấy mình đang nhìn vào hình Chúa khắc bằng gỗ đóng trên tường. Tôi bước tới thêm vài mét và trông thấy một cảnh tượng ma quái. Một chục tượng bán thân phụ nữ chất thành đống trong góc căn phòng cũ. Chúng đều mất đầu mất tay, và được dựng lên nhờ những chiếc nạng ba chân. Mỗi tượng có hình thù khác nhau, là bản sao phụ nữ ở các độ tuổi và dạng thể chất khác nhau. Trên bụng họ có những chữ viết bằng than: “Isabel, Eugenia, Penélope.” Lần này, hiểu biết từ việc đọc các tác phẩm thời Victoria cũng có ích, và tôi nhận ra điều mình đang trông thấy không gì khác hơn một tập quán lâu đời nay không còn nữa, cái thời mà các gia đình khá giả có những hình nộm bằng kích thước thật của từng thành viên trong gia đình, dùng để may đo quần áo. Bất chấp cái nhìn đe dọa và cay nghiệt của Chúa, tôi không cưỡng nổi cám dỗ vươn tay ra chạm vào hình người có đề tên Penélope Aldaya.

Đúng lúc ấy, tôi nghe như có tiếng bước chân ở tầng trên. Tôi tưởng tượng Bea đã đến và đang lang thang trong dinh thự cổ để tìm tôi. Thấy yên lòng, tôi rời căn hầm và quay lại cầu thang. Tôi định đi lên thì thấy phía bên kia lối đi có một bếp lò và hệ thống sưởi có vẻ còn dùng được. Trông nó không phù hợp với phần còn lại của tầng hầm. Tôi nhớ Bea có nói rằng công ty bất động sản, cái công ty nhiều năm nay cố bán dinh thự của nhà Aldaya, đã tiến hành cải tiến một vài điểm, hy vọng thu hút được người mua tiềm năng. Tôi đến gần để xem kỹ hơn công trình tạm bợ ấy và thấy có một lò sưởi được một cái bếp nhỏ cấp nhiệt. Dưới chân tôi là mấy thùng đựng đầy than, gỗ dán, một vài hộp thiếc mà tôi cho là hẳn phải chứa dầu lửa. Tôi mở nắp lò nhìn vào trong. Mọi thứ dường như còn tốt. Ý nghĩ mình sẽ làm cho cỗ máy cũ kỹ đó hoạt động sau nhiều năm khiến tôi thấy hơi chút chùn tay, nhưng điều đó không ngăn tôi cho than và củi vào lò rồi vẩy kha khá dầu lên đó. Trong khi đang làm, tôi nghĩ có nghe thấy tiếng củi kêu lách tách, liền quay lại nhìn phía sau. Đột nhiên tôi có ảo giác rằng mình đã thấy hình ảnh những chiếc gai dính máu đang bị lôi ra khỏi gỗ đối mặt với bóng đen, tôi sợ sẽ thấy hình ảnh Chúa hiện ra chỉ cách vài bước chân, đến gần tôi với một nụ cười hiểm ác.

Khi tôi đặt ngọn nến vào, bếp lò bùng lên ngọn lửa réo bằng thứ âm thanh kim loại. Tôi đóng nắp lò và lùi vài bước, càng lúc càng không chắc về tính đúng đắn trong kế hoạch của mình. Bếp lò như đang bén lửa song hơi chút khó khăn, nên tôi quyết định quay lại tầng trên xem những nỗ lực của mình có đạt được kết quả hữu ích nào không. Tôi đi lên cầu thang quay lại phòng lớn, hy vọng thấy Bea ở đó, nhưng không thấy bóng dáng nàng đâu. Tôi tính toán hẳn một tiếng đã trôi qua kể từ lúc tôi đến, và nỗi lo sợ rằng đối tượng của những khao khát của tôi có lẽ không bao giờ quay lại ngày càng rõ ràng hơn. Để xua đi lo lắng, tôi quyết định tiếp tục cuộc thăm dò và đi tìm những hơi ấm khả dĩ xác nhận việc đốt lại bếp lò có thành công không. Những gì tìm thấy đã chứng minh ngược lại với hy vọng của tôi; chúng lạnh băng. Nhưng rồi, trong một phòng nhỏ không đầy bốn hoặc năm thước vuông, một phòng tắm mà tôi cho là đặt ngay trên bếp lò, tôi có thể cảm thấy chút hơi ấm. Tôi quỳ xuống và thích thú nhận ra rằng gạch sàn cũng âm ấm. Đó là tư thế của tôi khi Bea thấy tôi, đang bò trên sàn nhà, sờ những viên gạch phòng tắm như một thằng điên, với một nụ cười ngớ ngẩn phết lên mặt.

***

KHI HỒI TƯỞNG VÀ CỐ GẮNG DỰNG LẠI NHỮNG SỰ KIỆN vào đêm hôm ấy ở dinh thự nhà Aldaya, lý do duy nhất tôi nghĩ ra được để biện minh cho cư xử của mình là khi ta mười tám tuổi, thiếu sự khôn khéo và kinh nghiệm, thì một phòng tắm cũ cũng có thể giống như một thiên đường. Tôi chỉ mất vài phút để thuyết phục Bea rằng chúng tôi nên lấy chăn trong phòng kia và chui vào phòng tắm bé xíu ấy, chỉ với hai ngọn nến và vài vật dụng trong nhà tắm trông như vật trưng bày trong viện bảo tàng. Lý lẽ chính của tôi – về khí hậu – nhanh chóng thuyết phục được Bea. Hơi ấm phát ra từ những tấm gạch sàn làm nàng nguôi đi nỗi sợ ban đầu rằng phát minh điên rồ của tôi có thể làm ngôi nhà cháy trụi. Sau đó, trong ánh sáng mờ đỏ của ngọn nến, khi tôi cởi áo nàng bằng những ngón tay run rẩy, nàng cười, đôi mắt nàng tìm kiếm mắt tôi và minh chứng từ ấy và mãi mãi về sau rằng bất cứ điều gì có xảy ra với tôi đều đã xảy ra với nàng rồi.

Tôi nhớ nàng ngồi dựa lưng vào cánh cửa khép kín của căn phòng đó, tay nàng duỗi hai bên mình, lòng bàn tay mở hướng về phía tôi. Tôi nhớ cách nàng ngước mắt lên, thách thức, trong khi đầu ngón tay của tôi vuốt ve trên cổ nàng. Tôi nhớ nàng đã nắm tay tôi thế nào rồi đặt lên ngực nàng ra sao, và mắt môi nàng run rẩy thế nào khi tôi mân mê mê mẩn nụ hoa nàng mà vặn siết, nàng nghiêng người nằm xuống sàn ra sao khi môi tôi tm kiếm bụng nàng và cặp đùi trắng nõn của nàng đón nhận tôi.

“Đã bao giờ anh làm thế này chưa, Daniel?”

“Trong những giấc mơ.”

“Em hỏi thật.”

“Chưa. Còn em?”

“Chưa. Thậm chí với Clara Barceló?”

Tôi bật cười. Có lẽ với chính mình. “Em biết gì về Clara Barceló?”

“Chẳng gì hết.”

“Anh còn biết ít hơn cả không gì hết,” tôi nói.

“Em không tin đâu.”

Tôi cúi xuống nhìn vào mắt nàng. “Anh chưa làm như thế này với bất kỳ ai.”

Bea mỉm cười. Bàn tay tôi tìm đường xuống giữa đùi nàng và tôi đổ mình lên nàng, tìm kiếm môi nàng, tin rằng lúc này đây tục ăn thịt người là hiện thân tối cao của sự thông thái.

“Daniel à...” Bea nói lí nhí.

“Gì cơ?” tôi hỏi.

Câu trả lời không bao giờ thoát ra khỏi môi nàng. Bỗng nhiên một luồng khí lạnh luồn qua dưới khe cửa, và trong khoảnh khắc bất tận ấy trước khi gió thổi tắt mọi ngọn nến, mắt chúng tôi gặp nhau, và chúng tôi cảm thấy niềm khát khao lúc này đã tan biến. Một tích tắc đủ để chúng tôi biết rằng có ai đó sau cửa. Tôi nhìn thấy nỗi sợ hãi hiện lên trên mặt Bea, và một giây sau chúng tôi bị bóng tối bao phủ. Rồi tiếp theo là tiếng sầm cửa. Tàn bạo, như quả đấm thép lên cánh cửa, gần như giật nó ra khỏi bản lề.

Tôi cảm thấy cơ thể Bea giật nảy trong bóng đêm, và tôi ôm người nàng. Chúng tôi đi về phía đầu kia phòng trước khi có cú phang thứ hai vào cánh cửa khiến nó đập rất mạnh vào tường. Bea hét lên và nép vào người tôi. Lúc ấy tôi chỉ thấy một lànnh mờ từ hành lang len vào và làn khói ngoằn ngoèo của những ngọn nến khi chúng tắt đi, cuốn lên theo hình vòng xoáy. Khung cửa tạo hắt những bóng đen như chiếc răng nanh, và tôi nghĩ mình đã thấy một dáng người gầy gò nơi ngưỡng cửa bóng đêm.

Tôi liếc nhìn hành lang, sợ hãi, hay có lẽ hy vọng, rằng tôi sẽ thấy một người lạ, một kẻ lang thang liều mình chui vào một dinh thự đổ nát mong tìm chỗ trú chân trong một đêm mưa gió bão bùng. Nhưng không có ai ở đấy cả, chỉ có những luồng khói xanh dường như cuốn vào qua lối cửa sổ. Co mình trong góc phòng, run rẩy, Bea thì thầm gọi tên tôi.

“Không có ai ở đây,” tôi nói. “Có lẽ chỉ là cơn gió giật thôi.”

“Gió không bao giờ đánh vào cửa đâu, Daniel. Chúng ta đi thôi.”

Tôi quay lại phòng gom quần áo.

“Này, em mặc vào đi. Chúng ta sẽ ra xem thử.”

“Chúng ta nên đi thì hơn.”

“Đúng rồi, sẽ đi ngay. Anh chỉ muốn kiểm tra một thứ thôi.”

Chúng tôi vội vã mặc đồ trong bóng đêm. Trong vài giây, chúng tôi có thể thấy hơi thở của mình phả vào không khí. Tôi nhặt một ngọn nến trên sàn lên thắp. Một luồng gió lạnh len vào nhà, như thể ai đó vừa mở các cửa chính và cửa sổ.

“Em thấy chưa? Là gió thôi.”

Bea lắc đầu, song vẫn không nói gì. Chúng tôi quay lại phòng khách, tay vẫn che ngọn lửa. Bea theo sát tôi đằng sau, nín thở.

“Chúng ta đang tìm gì vậy, Daniel?”

“Chỉ mất một lúc thôi.”

“Không, mình đi ngay đi thôi.”

“Được rồi.”

Chúng tôi quay lại theo lối ra, và đúng lúc này tôi mới nhận thấy. Cánh cửa lớn được chạm khắc nằm phía cuối hành lang, mà tôi đã cố mở nhưng không thành, giờ đã hé mở.

“Có chuyện gì vậy?” Bea hỏi.

“Đợi anh ở đây.”

“Daniel, đừng...”

Tôi đi dọc hành lang, cầm ngọn nến chập chờn trong những cơn gió lạnh. Bea thở dài và đi theo sau dè dặt. Tôi dừng lại trước cửa. Những bậc thang đá hiện ra, dẫn xuống bóng tối. Tôi bắt đầu đi xuống. Bea đứng bất động nơi cửa, tay cầm ngọn nến.

“Daniel, ta đi thôi...”

Tôi bước xuống, từng bước một, đến tận chân cầu thang. Quầng sáng ma quái do ngọn nến tạo ra sau lưng tôi dường như đang vạch ra hình dạng một căn phòng vuông tạo thành từ những bức tường đá thô treo đầy thánh giá. Cái lạnh băng trong căn phòng ấy khiến tôi nghẹn thở. Trước mắt tôi là một phiến đá mỏng, và trên phiến đá tôi nhìn thấy hai vật màu trắng với kích thước khác nhau, xếp cạnh nhau. Chúng phản chiếu ánh nến lung lay với cường độ mạnh hơn so với phần còn lại của căn phòng, và tôi đoán chúng làm từ gỗ, được quét sơn. Tôi bước đến gần hơn, và chỉ lúc ấy mới hiểu ra. Hai vật đó là hai cỗ quan tài màu trắng. Một chiếc dài chỉ chừng sáu mươi xăng ti mét. Tôi cảm thấy ớn lạnh. Đó là quan tài trẻ con. Tôi đang ở trong một hầm mộ.

Không nhận ra mình đang làm gì, tôi tiến gần phiến đá cho đến khi đủ gần để với tay ra chạm vào nó. Lúc ấy tôi mới để ý trên mỗi quan tài có một cây thánh giá và tên khắc bị bụi phủ mờ. Tôi đặt tay lên một quan tài, chiếc lớn hơn. Từ từ, gần như bị mê hoặc, không dừng lại để nghĩ xem mình đang làm gì, tôi phủi lớp bụi phủ trên nắp quan tài. Tôi chỉ có thể đọc được chữ dưới ánh nến đỏ mờ.

PENÉLOPE ALDAYA

1902-1919

Tôi cứng đơ người lại. Cái gì đó hoặc ai đó đang cử động trong bóng đêm. Tôi có thể cảm thấy khí lạnh đang lướt nhẹ trên da tôi, và chỉ lúc ấy tôi mới lui lại vài bước.

“Cút khỏi đây,” một g thì thầm trong bóng đen.

Tôi nhận ra hắn ngay lập tức. Laín Coubert. Tiếng nói của ác quỷ.

Tôi chạy vội lên thang, và ngay khi đến tầng một tôi chụp tay Bea kéo nàng về phía cổng ra nhanh hết sức bình sinh. Chúng tôi đã mất ngọn nến nhưng cứ chạy. Bea hoảng sợ, và không hiểu được nỗi hoảng hốt bất ngờ của tôi. Nàng không thấy gì. Nàng không thể thấy gì. Tôi không dừng lại để cho nàng một lời giải thích. Tôi cứ nghĩ bất cứ lúc nào cũng có gì đó từ trong bóng tối nhảy xổ ra chặn đường chúng tôi, nhưng cửa lớn đang đợi chúng tôi phía cuối hành lang, tạo thành một hình vuông sáng qua vết nứt nơi khung cửa.

“Khóa rồi,” Bea thì thầm.

Tôi lục trong túi tìm chìa khóa. Tôi quay đầu lại trong chớp nhoáng và chắc rằng hai điểm sáng đang chầm chậm tiến về phía chúng tôi từ đầu kia hành lang. Đôi mắt. Tay tôi đã tìm thấy chìa. Tôi vô vọng xỏ chìa vào khóa, mở cửa, và đẩy Bea ra ngoài. Bea hẳn cảm thấy nỗi sợ trong tôi, vì nàng vội vã chạy đến cổng trong vườn và không dừng lại cho đến khi cả hai chúng tôi đã ở trên vỉa hè Đại lộ Tibidabo, nghẹt thở và đẫm mồ hôi lạnh.

“Có chuyện gì ở dưới đấy, Daniel? Có người dưới phải không?”

“Không.”

“Trông anh tái lắm.”

“Anh luôn vậy mà. Chúng ta đi thôi.”

“Còn chìa khóa?”

Tôi đã bỏ nó trong nhà, trên ổ khóa. Tôi không muốn quay lại tìm.

“Chắc anh làm rơi trên đường chạy ra rồi. Hôm sau chúng ta sẽ tìm nó.”

Chúng tôi vội vã đi dọc theo đại lộ, sang bên kia đường, và không giảm nhịp cho đến khi cách xa tòa dinh thự kia hơn một trăm thước, khó mà còn nhận ra được hình thù trong bóng đêm. Lúc ấy tôi mới nhận ra tay mình còn lấm đầy bụi. Tôi thầm cảm ơn bóng đêm, vì nó che giấu những giọt nước mắt kinh hoàng chảy xuống má tô

***

CHÚNG TÔI XUỐNG PHỐ BALMES, đến Quảng trường Núnez de Arce, ở đó chúng tôi tìm được một chiếc taxi. Khi ngồi trên xe dọc theo phố Balmes xuống Consejo de Ciento, chúng tôi hầu như không nói một lời. Bea nắm tay tôi, và có đôi lần tôi bắt gặp nàng nhìn tôi với đôi mắt trong suốt, không thể xuyên thấu. Tôi nghiêng người hôn nàng, nhưng nàng không hé môi.

“Bao giờ anh sẽ gặp lại em?”

“Em sẽ gọi ngày mai, hoặc ngày kia,” nàng nói.

“Em hứa chứ?”

Nàng gật đầu.

“Em có thể gọi đến nhà hoặc cửa hàng. Nó cùng một số. Em có rồi, đúng không?”

Nàng lại gật đầu. Tôi bảo tài xế dừng lại một lúc ở góc phố Muntaner và Diputación. Tôi định tiễn nàng đến trước cửa nhà, nhưng nàng không chịu và bước đi không để tôi hôn tạm biệt hay thậm chí là chạm phớt tay nàng. Nàng bắt đầu chạy trong khi tôi ngồi trong taxi nhìn theo. Ánh đèn bật sáng trên căn hộ nhà Aguilar, tôi có thể thấy rõ cậu bạn Tomás đang đứng nhìn tôi từ cửa sổ phòng ngủ, nơi chúng tôi đã từng có hàng bao nhiêu buổi chiều cùng nhau trò chuyện hay đánh cờ. Tôi nhìn cậu ấy, cố nở một nụ cười mà có lẽ cậu không thấy được. Cậu không cười đáp lại. Cậu vẫn bất động, dính chặt vào khung cửa sổ, lạnh lùng nhìn tôi. Vài giây sau, cậu bỏ đi và cửa sổ tối sầm lại. Cậu ấy đợi chúng tôi, tôi nghĩ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35


VỀ ĐẾN NHÀ, tôi thấy trên bàn là phần còn lại của bữa tối cho hai người. Cha tôi đã vào giường rồi, và tôi tự hỏi liệu ông có đã dồn hết can đảm để mời cô Merceditas đến ăn tối không. Tôi rón rén đi về phòng mình và bước vào mà không bật đèn lên. Ngay khoảnh khắc ngồi lên mép nệm, tôi nhận ra có ai đó trong phòng, đang nằm trên giường, trong bóng đêm, như một thây ma khoanh tay trên ngực. Tôi giót bụng, lạnh toát người, nhưng rồi tôi chóng nhận ra tiếng ngáy ấy, và khuôn mặt có cái mũi vô đối kia. Tôi bật đèn bàn cạnh giường, và thấy Fermín Romero de Torres đang nằm trên khăn trải giường, chìm trong một cơn mơ cực lạc và nhẹ nhàng rên rỉ vì khoan khoái. Tôi thở dài, thế là người đang ngủ liền mở mắt. Trông thấy tôi, anh ta ngạc nhiên. Rõ ràng anh ta đang trông đợi một người khác đến làm bầu bạn. Anh ta dụi mắt và ra vẻ canh chừng, rồi nhìn quanh kỹ hơn.

“Hy vọng không làm cậu sợ. Bernarda bảo rằng khi ngủ tôi trong như Boris Karloff của Tây Ban Nha ấy.”

“Anh đang làm gì trên giường tôi thế, Fermín?”

Anh ta mắt nhắm hờ vẻ khát khao.

“Đang mơ về Carole Lombard. Chúng tôi ở Tangiers, trong một nhà tắm Thổ Nhĩ Kỳ nào đó, và tôi đang bôi dầu cho nàng, loại dầu người ta dùng để xoa mông em bé ấy. Cậu đã bao giờ xoa dầu cho phụ nữ chưa, từ đầu đến chân, toàn thể và từng chi tiết ấy?”

“Fermín, đã quá nửa đêm rồi, và tôi đang mệt muốn chết đi được.”

“Thứ lỗi cho tôi, Daniel. Tại cha cậu cứ khăng khăng bảo tôi đến ăn tối với ông, sau đó tôi thấy buồn ngủ khủng khiếp. Thịt bò đúng là có tác dụng như ma túy với tôi, cậu thấy đấy. Cha cậu bảo tôi cứ nằm ở đây một lúc, rằng cậu sẽ không phiền...”

“Tôi có phiền đâu, Fermín. Vì anh làm tôi ngạc nhiên đấy thôi. Anh cứ nằm trên giường mà quay lại với cô Carole Lombard đi; hẳn cô ấy đang đợi anh. Và nhớ đắp chăn đấy. Trời đêm độc lắm, nếu anh cứ nằm tơ hơ như vậy kiểu gì cũng ốm thôi. Tôi sẽ vào phòng ăn.”

Fermín gật đầu ngoan ngoãn. Những vết thâm trên mặt anh ta bắt đầu sưng vều lên, và đầu anh ta, với mái tóc mới mọc được hai ngày còn lởm chởm xác xơ, nom như quả chín rụng. Tôi lấy chăn trong tủ đưa cho Fermín một cái. Rồi tôi tắt đèn và quay lại phòng ăn, nơi cái ghế bành ưa thích của cha đang chờ tôi. Tôi quấn chăn và cuộn tròn người, hết mức có thể, tin rằng tôi sẽ không thể chợp mắt được. Hình ảnh hai cỗ quan tài trắng trong bóng tối đã khắc sâu vào tâm trí tôi. Tôi nhắm mắt và cố hết sức để xóa đi cảnh tượng ấy. Để thay vào đó, tôi gợi ra hình ảnh Bea trong phòng tắm, nằm trần truồng trên chăn, dưới ánh nến. Khi đã đắm vào những suy tưởng này, dường như tôi có thể nghe tiếng rì rào ở ngoài biển xa xôi,ự hỏi, mà không hề biết, rằng tôi đã chìm vào giấc ngủ hay chưa. Có lẽ tôi vẫn đang bơi về phía Tangiers. Rồi tôi chóng nhận ra âm thanh đó chỉ có thể là tiếng ngáy của Fermín. Một lát sau, thế giới như khép lại. Trong suốt đời mình, chưa bao giờ tôi ngủ ngon và sâu như đêm hôm ấy.

***

BÌNH MINH ĐẾN, TRỜI ĐANG MƯA TẦM TÃ. Đường phố ngập nước, cơn mưa căm giận táp lên ô cửa sổ. Điện thoại đổ chuông lúc bảy giờ ba mươi. Tôi nhảy bật ra khỏi ghế để nhấc máy, tim đập thình thịch. Fermín, trong chiếc áo choàng và đi dép lê, và cha tôi, đang cầm ấm pha cà phê, nhìn nhau với ánh mắt mà tôi đã dần quen.

“Bea?” tôi thì thầm vào ống nói, lưng quay về phía họ.

Tôi tưởng đã nghe thấy tiếng thở dài trên điện thoại.

“Bea, là em phải không?”

Không có trả lời, và vài giây trôi qua đường dây ngắt. Tôi cứ đứng đó một lúc, nhìn chăm chăm cái điện thoại, hy vọng nó sẽ lại kêu lên.

“Họ sẽ gọi lại, Daniel. Đến ăn sáng đi,” cha tôi nói.

Nàng sẽ gọi sau, tôi tự nhủ. Hẳn ai đó bắt gặp nàng đang gọi điện. Chẳng dễ gì vi phạm nổi lệnh giới nghiêm của ông Aguilar. Không việc gì phải lo sợ. Cùng lý lẽ này và nhiều lý lẽ khác, tôi lê thân đến bàn và giả vờ như sẽ ăn sáng với Fermín và cha tôi. Có lẽ do cơn mưa, nhưng thức ăn chẳng có mùi vị gì cả.

Trời mưa suốt buổi sáng. Ngay sau khi mở cửa hàng, điện trong khu dân cư bị cắt mãi gần đến trưa.

“Chúng ta chỉ cần có thế nữa thôi,” cha tôi thở dài.

Tầm ba giờ những vệt dột bắt đầu. Fermín đề nghị đến nhà cô Merceditas để mượn mấy chiếc xô, đĩa hay bất cứ vật nào hình lõm đựng được nước. Cha tôi cấm ngặt anh ta ra khỏi nhà. Mưa vẫn dai dẳng. Để giải tỏa nỗi lo của mình, tôi kể cho Fermín chuyện xảy ra hôm trước, mặc dù tôi giữ kín điều chứng kiến trong hầm mộ. Fermín lắng nghe với niềm phấn khích, nhưng bất chấp sự nài nỉ của anh ta, tôi không chịu mô tả sự săn chắc, kết cấu và hình dáng bộ ngực của Bea. Ngày cứ trôi đi chậm chạp.

Sau bữa tối, lấy cớ đi dạo cho đỡ chùn chân, bỏ mặc cha ngồi đọc sách, tôi bước đến nhà Bea. Đến nơi, tôi dừng lại ở góc đường nhìn lên những ô cửa sổ lớn của căn hộ. Tôi tự hỏi mình đang làm gì đây. Rình mò, quấy rầy, hoặc đang làm trò hề, ấy là một vài câu trả lời nảy ra trong đầu. Dầu vậy, dẫu làm thế thật thiếu tư cách cũng như tôi đang mặc đồ không phù hợp trong tiết trời lạnh căm thế này, tôi nép vào ngưỡng cửa phía bên kia đường chừng nửa tiếng để tránh gió, nhìn lên cửa sổ thấy bóng ông Aguilar và vợ ông khi họ đi qua. Nhưng không thấy Bea đâu.

Gần nửa đêm tôi mới về đến nhà, run rẩy vì trời lạnh, và mang vác cả thế giới trên vai. Ngày mai nàng sẽ gọi, tôi tự nhủ hàng ngàn lần trong khi cố gắng chợp mắt. Ngày hôm sau Bea không gọi. Rồi ngày tiếp theo nữa. Cả tuần liền nàng không gọi, tuần dài dẳng nhất và cuối cùng của đời tôi.

***

TRONG MỘT TUẦN NỮA, có lẽ tôi sẽ chết.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36


CHỈ NHỮNG AI CÒN MỘT TUẦN ĐỂ SỐNG mới có thể lãng phí thời gian của mình như tôi đã lãng phí thời gian của tôi trong những ngày ấy. Tôi chỉ làm mỗi việc canh điện thoại và gặm nhấm tâm hồn mình, như một tù nhân bị giam trong sự mù quáng của bản thân mình đến mức tôi thậm chí còn không thể đoán biết định mệnh đã an bài cái gì cho tôi. Trưa ngày thứ Hai, tôi đến Khoa văn đại học Plaze, hy vọng gặp Bea. Tôi biết nàng sẽ không vui nếu tôi xuất hiện ở đó rồi chúng tôi sẽ bị bắt gặp ở bên nhau, nhưng được thấy nàng giận dỗi còn hơn cứ kéo dài mối ngờ vực của mình.

Tôi vào văn phòng để hỏi giảng đường của Giáo sư Velázquez ở đâu và quyết định chờ sinh viên tan học. Tôi đợi chừng hai mươi phút, cho đến khi cửa mở ra và tôi thấy điệu bộ ngạo mạn, chải chuốt của Giáo sư Velázquez, được một nhóm nhỏ sinh viên nữ hâm mộ vây quanh như mọi lần. Năm phút sau vẫn không thấy bóng dáng Bea. Tôi quyết định bước đến cửa giảng đường để ngó qua. Ba cô gái đang túm tụm vào nhau như một nhóm học giáo lý, trò chuyện và trao đổi bài vở hoặcí mật. Người dường như là đứng đầu nhóm nhận ra sự hiện diện của tôi bèn chấm dứt màn độc thoại của mình để bắn vào tôi ánh mắt dò hỏi.

“Tôi xin lỗi. Tôi đang tìm Beatriz Aguilar. Hôm nay cô ấy đến lớp không?”

Các cô gái nhìn nhau với ánh mắt nham hiểm.

“Anh là hôn phu của cô ấy à?” một người hỏi. “Viên sĩ quan?”

Tôi mỉm cười ngờ nghệch, và họ coi như thế là thừa nhận. Chỉ có cô gái thứ ba cười đáp tôi, và e thẹn nhìn đi hướng khác. Hai cô kia tự tin hơn, cơ hồ thách thức.

“Tôi tưởng tượng anh khác kia,” cô gái dường như là trưởng tiểu đội đặc công nói.

“Quân phục của anh đâu?” cô gái thứ hai hỏi, nhìn tôi vẻ ngờ vực.

“Tôi đang nghỉ phép. Cô ấy đã ra khỏi lớp chưa?”

“Hôm nay Beatriz không đi học,” đội trưởng cho biết.

“Ôi, vậy sao?”

“Đúng,” viên trung úy đa nghi xác nhận. “Nếu anh là hôn phu của cô ấy, anh phải biết chứ.”

“Tôi là hôn phu của cô ấy, nhưng đâu phải cảnh sát.”

“Chúng ta đi thôi, anh chàng này đúng là đồ ngốc,” cô trưởng nhóm nói.

Hai người họ đi qua tôi, liếc nhìn tôi khinh thường. Cô thứ ba chậm theo sau. Cô dừng lại một lúc trước khi bỏ đi và, khi an tâm rằng hai cô kia không thấy, cô ta thì thầm vào tai tôi, “Hôm thứ Sáu Beatriz cũng nghỉ học.”

“Em biết vì sao không?”

“Anh không phải là hôn phu của cô ấy, đúng không?”

“Không. Anh chỉ là bạn thôi.”

“Em nghĩ cô ấy ốm.”

“Ốm ư?”

“Một bạn gọi điện cho cô ấy rồi kể lại như vậy. Em phải đi đây.”

Tôi chưa kịp cảm ơn sự giúp đỡ của cô gái thì cô đã nhập bọn cùng hai cô kia, họ đang đứng cuối hành lang đợi cô với ánh nhìn soi mói.

***

“DANIEL, HẲN CÓ CHUYỆN GÌ ĐÓ XẢY RA. Bà cô già đã chết, hay một con vẹt mắc quai bị, hay cô ấy bị cảm lạnh vì đi loanh quanh nhiều quá mà quên tấp đủ quần áo vào mông – có Chúa mới biết chuyện gì. Trái ngược với điều cậu tin chắc, trái đất này không xoay quanh những ham muốn nơi hạ bộ cậu đâu. Các yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến cuộc tiến hóa của loài người.”

“Anh nghĩ tôi không nhận thức được điều đó sao? Anh dường như không hiểu tôi, Fermín.”

“Thưa cậu thân mến, giá như Chúa muốn ban cho tôi cái hông rộng hơn thì hẳn tôi đã sinh ra cậu rồi: tôi hiểu rõ cậu như thế đó. Nghe tôi đây này. Quẳng những ý nghĩ kia đi, và ra ngoài thư giãn. Chờ đợi là cái thứ làm hoen gỉ tâm hồn.”

“Vậy là anh thấy tôi ngớ ngẩn.”

“Không. Cậu có vẻ cáu kỉnh. Tôi biết ở tuổi của cậu những chuyện như vầy giống như là tận thế, nhưng mọi thứ đều có giới hạn của nó. Đêm nay cậu và tôi sẽ đập phá một bữa ở câu lạc bộ trên phố Platería, một chốn rõ thời thượng. Tôi nghe đồn có mấy cô gái Scandinavi từ Ciudad Real đến, thực là hết sảy đấy. Tôi bao.”

“Và Bernarda sẽ nói gì?”

“Các cô gái là của cậu. Tôi sẽ đợi ở sảnh, xem tạp chí và ngắm nghía những thứ hay hớm từ xa, vì tôi cải sang chế độ một vợ một chồng rồi, nếu không về mặt pháp lý thì ít nhất cũng về mặt thực tế.”

“Rất là cảm ơn anh, Fermín, nhưng mà...”

“Một cậu trai mười tám tuổi mà từ chối một lời đề nghị như vậy thì thật trong đầu không ổn tí nào. Hẳn cần phải làm gì đó ngay. Đây.”

Anh ta lục trong túi và đưa tôi mấy xu lẻ. Tôi tự hỏi đấy có phải số tiền xông xênh mà anh ta định tài trợ cho chuyến viếng thăm chốn hậu cung xa hoa của các kiều nữ xứ Iberia không.

“Với chừng này chúng ta thậm chí chẳng nhận được một câu chào, Fermín à.”

“Cậu đúng là một trong những kẻ rơi trên cây xuống nhưng không bao giờ chạm đất. Thế cậu tưởng tôi sẽ đưa cậu vào nhà thổ và mang cậu về, dính đầy lậu, cho cha cậu, người thánh thiện nhất trên đời này mà tôi được biết hay sao? Tôi nói về những em gà mái kia là để thử xem cậu phản ứng thế nào, để lôi cuốn cái phần duy nhất dường như còn đang hoạt động trong cậu đấy thôi. Tiền này là để cậu đến buồng điện thoại nơi góc phố gọi cho tình yêu của cậu mà không sợ bại lộ.”

“Bea đã nói rõ là đừng gọi cho cô ấy.”

“Cô bé cũng bảo cậu rằng sẽ gọi vào ngày thứ Sáu. Bây giờ đã thứ Hai rồi. Tùy cậu đấy. Tin phụ nữ là một chuyện, tin vào điều họ nói là chuyện khác.”

Tin tưởng lý lẽ của anh ta, tôi lẻn khỏi hiệu sách, bước về phía buồng điện thoại công cộng ở góc phố, quay số nhà Aguilar. Chuông reo tới tiếng thứ năm, có người nhấc máy phía bên kia đầu dây và yên lặng lắng nghe, không trả lời. Năm giây trôi qua.

“Bea?” tôi lẩm bẩm. “Có phải em không?”

Giọng nói trả lời như chiếc rìu bổ vào ngực tôi.

“Thằng khốn, tao thề sẽ vặn nát óc mày.”

Đó là giọng nói đanh thép, nguyên một nỗi căm hờn chất chứa. Lạnh băng và dứt khoát. Đấy là điều khiến tôi sợ hãi nhất. Tôi có thể hình dung ông Aguilar đang cầm điện thoại trong tiền sảnh nhà ông, chính nơi mà tôi từng gọi điện cho cha để báo tôi về muộn vì buổi chiều sẽ ở chơi với Tomás. Tôi đứng đó, lắng nghe tiếng thở của cha Bea, chết lặng, tự hỏi liệu ông có nhận ra

“Tao biết mày không có gan để nói, đồ con lợn. Bất cứ kẻ rác rưởi nào cũng có thể làm điều mày đã làm, nhưng một thằng đàn ông ít nhất phải có dũng khí để lộ mặt. Tao sẽ chết vì xấu hổ nếu một con bé mười bảy tuổi còn can đảm hơn tao – vì nó không chịu khai tên mày và nó sẽ không làm như vậy. Tao biết nó. Và do mày không có đủ gan ra mặt vì Bea, nó sẽ phải trả giá cho những gì mày đã làm.”

Khi gác máy, tay tôi run bần bật. Tôi không nhận thức được điều mình đã làm cho đến khi rời buồng điện thoại và lê bước về cửa hàng. Tôi đã không dừng lại mà suy xét rằng cuộc gọi của tôi sẽ làm mọi chuyện trở nên tệ hại hơn cho Bea. Mối bận tâm duy nhất của tôi là cứ hãy ẩn danh và giấu mặt, từ chối không nhận mình có liên quan gì đến người mà tôi đã thổ lộ tình yêu và đã chỉ lợi dụng mà thôi. Tôi đã làm như vậy khi Thanh tra Fumero đánh đập Fermín. Tôi đã lặp lại hành động ấy khi bỏ mặc Bea cho số phận của nàng. Tôi vẫn sẽ lặp lại hành xử ấy ngay khi hoàn cảnh cho tôi một cơ hội khác. Tôi nán ngoài phố chừng mười phút, cố trấn tĩnh trước khi quay lại cửa hàng. Có lẽ tôi nên gọi điện mà thú nhận với ông Aguilar rằng đúng vậy, là tôi đấy. Rằng tôi phát điên lên vì con gái ông, hết chuyện. Nếu sau đó ông có muốn đến trong bộ quân phục tướng tá và đánh tôi nhừ tử, thì ông hoàn toàn có quyền làm vậy.

Tôi đang trên đường về thì nhận ra có người đang nhìn tôi ở ngưỡng cửa phía bên kia đường. Lúc đầu tôi nghĩ đấy là Don Federico, bác thợ sửa đồng hồ, nhưng nhìn thoáng qua cũng đủ cho tôi nhận ra đây là một kẻ cao hơn, đậm người hơn. Tôi dừng lại nhìn đáp trả, và thật ngạc nhiên, hắn gật đầu, như muốn chào tôi và chứng minh hắn không hề quan tâm đến việc tôi nhận ra sự hiện diện của hắn. Ánh đèn đường chiếu xuống mặt hắn. Đường nét khá quen thuộc. Hắn tiến lên một bước, cởi cúc áo mưa xuống tận cổ; hắn cười với tôi và bước ra phố Ramblas, lẫn vào đám đông người đi đường. Rồi tôi nhận ra hắn: tên cảnh sát đã giữ tôi trong khi Thanh tra Fumero hành hung Fermín.

Thấy tôi vào cửa hàng, Fermín nhìn tôi tò mò.

“Khuôn mặt kia là sao?”

“Fermín này, tôi nghĩ chúng ta gặp rắc rối.”

Ngay tối hôm ấy, chúng tôi triển khai kế hoạch đã bàn cùng Don Gustavo Barceló.

“Trước tiênm chắc là cậu đúng về chuyện chúng ta đang bị cảnh sát theo dõi. Chúng ta sẽ đến quán Quatre Gats, ra vẻ bình thường thôi, để xem gã kia vẫn còn ở đó rình mò không. Nhưng đừng hé gì chuyện này với cha cậu, không thì ông ấy bị sỏi thận mất.”

“Vậy tôi sẽ nói gì với ông đây? Cha tôi đã nghi ngờ lắm rồi.”

“Bảo ông ấy là cậu sẽ đi mua hạt hướng dương hoặc gì đó.”

“Vậy thì chính xác tại sao chúng ta cần đến Quatre Gats?”

“Vì ở đó có món bánh kẹp thịt ngon nhất trong bán kính ba dặm, và chúng ta phải nói chuyện ở một nơi nào đó. Đừng có mà phá đám – hãy làm như tôi bảo, Daniel.”

Hoan nghênh bất cứ hoạt động nào có thể giúp tôi thoát khỏi những suy nghĩ trong đầu, tôi ngoan ngoãn làm theo, và vài phút sau tôi ra phố, sau khi đã cam đoan với cha là tôi sẽ quay về đúng giờ ăn tối. Fermín đang đợi tôi ở góc phố. Khi tôi đến chỗ anh ta, anh ta nhíu mày ra hiệu tôi nên đi tiếp.

“Có con rắn chuông theo sau chúng ta chừng hai chục thước. Đừng quay đầu.”

“Có phải hắn không?”

“Tôi không nghĩ vậy, trừ phi hắn chùn bước trong thời tiết ẩm ướt này. Tên này có vẻ non nớt lắm. Hắn mang theo tờ báo thể thao ra cách đây sáu ngày. Fumero hắn đang tuyển bọn học việc trong nhà tế bần.”

Khi chúng tôi đến Quatre Gats, tay cảnh sát mặt thường phục ngồi ở một bàn cách chúng tôi dăm mét và vờ đọc lại bài tường thuật vòng đấu bóng đá tuần trước. Cứ hai mươi giây hắn lại ném cái nhìn lén lút về phía chúng tôi.

“Tội nghiệp cu cậu, trông hắn đang vã mồ hôi kìa,” Fermín nói, lắc đầu. “Trông cậu mơ màng quá đấy, Daniel. Thế cậu đã nói chuyện được với cô bé chưa?”

“Cha cô ấy trả lời điện thoại.”

“Và cậu với ông ấy đã có một cuộc nói chuyện thân thiện theo kiểu dân sự chứ?”

“Giống một cuộc độc thoại hơn.”

“Tôi hiểu rồi. Vậy tôi phải suy ra cậu chưa gọi ông ta là papá chứ?”

“Ông ấy bảo tôi đúng nguyên văn là ông sẽ vặn nát óc tôi.”

“Chắc chắn đấy là lối nói tu từ hoa mỹ.”

Lúc đấy bóng dáng người bồi bàn lù lù đến bên chúng tôi. Fermín gọi thức ăn đủ cho cả một trung đoàn, xoa xoa tay thích thú.

“Cậu không muốn ăn gì sao, Daniel?”

Tôi lắc đầu. Khi bồi bàn quay lại với hai khay đầy thức ăn mặn, bánh kẹp thịt và mấy cốc bia, Fermín đưa cho anh ta kha khá tiền và bảo giữ lấy tiền lẻ.

“Này, chủ quán,” anh ta nói. “Anh có thấy gã ngồi ở bàn gần cửa sổ không – cái gã ăn mặc như chú Dế Jiminy[1] đang cắm đầu vào tờ báo như thể đó là chiếc nón ấy?”

[1. Một nhân vật trong phim hoạt hình cùng tên của hãng Walt Disney.]

Tay bồi bàn gật đầu vẻ đồng lõa.

“Anh có thể đến bảo hắn rằng có một tin nhắn khẩn cấp của Thanh tra Fumero được không? Bảo rằng hắn phải ra ngay Chợ Boquería mua hai mươi peso đậu luộc và mang đến Trụ sở Cảnh sát không được chậm trễ (đi taxi nếu cần) – nếu không hắn chuẩn bị lấy bi của hắn mà bày lên đĩa đi. Anh có cần nhắc lại không?”

“Không cần thiết đâu, thưa ông. Hai mươi peso đậu xanh không thì lấy bi của chính mình dọn lên đĩa.”

Fermín đưa cho anh ta một đồng xu nữa. “Chúa phù hộ anh.”

Tay bồi bàn gật đầu trịnh trọng rồi đi về phía bàn kẻ săn đuổi chúng tôi để chuyển thông điệp. Khi tên trương tuần nghe chỉ thị, khuôn mặt hắn thộn ra. Hắn nán lại chừng năm giây nữa, bị giằng xé rồi hộc tốc lao ra đường. Fermín không tỏ dù chút ngạc nhiên. Phải như lúc khác, hẳn tôi sẽ hồ hởi hùa theo hồi kịch này, nhưng đêm hôm ấy tôi không thể xua Bea khỏi tâm trí.

“Daniel, đừng ở trên mây nữa, chúng ta phải bàn bạc. Ngày mai, không chậm trễ, cậu phải đến chỗ Nuria Monfort, như chúng ta đã nói.”

“Đến đó rồi thì tôi sẽ nói gì với cô ta?”

“Cậu sẽ tìm ra chuyện gì đó để nói. Kế hoạch là làm theo gợi ý rất khôn ngoan của Barceló. Cậu phải cho cô ta hiểu rằng cậu biết cô ta nói dối về Carax, rằng cái ông Miquel Moliner mà cô ta gọi là chồng ấy không ở tù, và cậu đã phát hiện ra cô ta chính là bàn tay tội lỗi nhận thư từ căn hộ của gia đình Fortuny-Carax, sử dụng một hòm thư lấy tên một công ty luật không hề tồn tại... Cậu bảo với cô ta bất cứ điều gì cần thiết làm cô ta cuống lên. Phải nói bằng một giọng kịch tính và với ánh mắt rất trang nghiêm. Rồi, để cho có tác dụng, cậu ra về bỏ mặc cô ta trong bấn loạn.”

“Và trong lúc đó...”

“Trong lúc đó, tôi sẽ đợi để theo dõi cô ta, một mục tiêu tôi dự định bám sát bằng cách sử dụng ngón nghề ngụy trang tân tiến nhất.”

“Cách này không ăn thua đâu, Fermín.”

“Cậu thật thiếu lòng tin! Thôi nào, cha cô bé đã nói gì để cậu đến nông nỗi này? Ông ta dọa cậu sợ thế à? Đừng để ý đến ông ta. Nào, lão điên rồ kia đã bảo gì?”

Tôi trả lời không nghĩ ngợi. “Sự thật.”

“Sự thật theo định nghĩ của Thánh Daniel Tuần đạo ư?”

“Anh có thể cười nhạo tùy thích. Đáng với tôi lắm.”

“Tôi không cười đâu, Daniel. Tôi chỉ cảm thấy chả hay ho gì khi cậu tự trừng phạt mình như thế. Ai nhìn cũng bảo cậu đang tự hành hạ bản thân đấy. Cậu chưa làm gì sai cả. Cuộc đời có lắm kẻ đày đọa người khác rồi, không cần cậu phải làm thêm việc của ngài Đại Pháp quan Tôn giáo đâu.”

Fermín nhún vai.

“Anh chưa bao giờ kể cho tôi anh đã đụng độ Fumero thế nào,” tôi nói.

“Cậu có thích nghe một câu chuyện đạo đức không?”

“Nếu như anh muốn kể.”

Fermín tự rót cho mình một cốc bia rồi nốc một hơi hết sạch.

“Amen,” anh ta nói. “Điều tôi có thể kể về Fumero thì ai cũng biết. Lần đầu tôi nghe nhắc đến hắn, tay thanh tra tương lai hãy còn là một tay sung làm việc cho một nhóm vô chính phủ, FAI. Hắn giành được chút danh tiếng, vì hắn không biết sợ cũng không biết cẩn trọng là gì. Hắn chỉ cần biết cái tên, rồi hắn sẽ kết liễu người đó trên phố bằng một phát súng vào mặt, ngay giữa ban ngày. Tài năng như vậy rất đáng giá vào thời loạn. Những điều khác hắn không có là lòng trung thành hay niềm tin. Hắn không quan tâm hắn đang phục vụ sự nghiệp gì, miễn sao sự nghiệp đó giúp hắn leo bậc thang danh vọng. Thế giới này có đầy những kẻ hạ lưu như Fumero, nhưng ít ai có tài năng bằng hắn. Từ nhóm vô chính phủ, hắn chuyển sang phục vụ cho phe cộng sản, và từ cộng sản chuyển sang phát xít chỉ là một bước. Hắn rình mò và bán thông tin của nhóm này cho nhóm khác, và hắn moi tiền của tất cả bọn bọn. Tôi đã để mắt đến hắn từ lâu. Lúc đó tôi đang làm việc cho Chính phủ của Chính quyền Tự trị. Đôi khi người ta cứ tưởng nhầm tôi là người em trai xấu xí của Thống sứ Companys, điều làm tôi rất đỗi tự hào.”

“Anh đã làm gì?”

“Mỗi thứ một chút. Trong các vở kịch trên đài phát thanh ngày nay, họ gọi nó là gián điệp, nhưng trong thời chiến tất cả mọi người đều là tình báo. Một phần công việc của tôi là để mắt đến những hạng người như Fumero. Đó là những kẻ nguy hiểm nhất. Chúng giống như những kẻ tráo trở, không tín ngưỡng và không lương tâm. Trong chiến tranh chúng xuất hiện khắp mọi nơi. Trong thời bình, chúng khoác mặt nạ. Nhưng chúng vẫn hiện diện đó. Chúng có cả ngàn. Sự thật là sớm hay muộn tôi cũng phát hiện ra trò chơi của hắn. Chắc là muộn chứ không phải sớm. Barcelona sụp đổ chỉ trong có mấy ngày, và thế là vật đổi sao dời. Tôi trở thành một tên tội phạm bị truy nã, và cấp trên của tôi phải trốn chui trốn lủi như lũ chuột. Hẳn nhiên, Fumero đang đảm đương chiến dịch “xóa sổ”. Cuộc thanh trừng được tiến hành công kh những vụ bắn giết trên phố hay trong Lâu đài Montjuïc. Tôi bị bắt ở cảng khi đang cố kiếm giấy thông hành cho cấp trên sang Pháp trên một chuyến tàu chở hàng của Hy Lạp. Tôi bị đưa về Montjuïc và giam hai ngày trong ngục tốt. Ánh sáng tiếp theo tôi được nhìn thấy là lửa que hàn đang tan chảy. Fumero và một gã chỉ nói được tiếng Đức đã treo ngược tôi lên. Tên người Đức tháo bỏ quần áo của tôi bằng cách dùng mối hàn mà đốt. Hắn có vẻ rất thành thạo. Khi tôi bị bỏ mặc trần như nhộng và lông tóc trên người cháy sém, Fumero bảo nếu tôi không khai cấp trên đang trốn ở đâu thì trò vui mới chỉ mới bắt đầu mà thôi. Tôi không phải là người dũng cảm, Daniel ạ. Tôi chưa bao giờ như vậy, nhưng với một chút can đảm ít ỏi có được, tôi đã chửi vào mặt hắn rằng cút mẹ nhà hắn xuống địa ngục đi. Theo lệnh của Fumero, gã người Đức tiêm gì đó và đùi tôi và đợi vài phút. Rồi trong khi Fumero hút thuốc, nhìn tôi mà cười, thì hắn bắt đầu nướng tôi toàn thây bằng que hàn nung chảy. Cậu thấy những vết sẹo rồi đấy...”

Tôi gật đầu. Fermín nói giọng trầm tĩnh, không bộc lộ cảm xúc.

“Những vết sẹo đó chẳng mấy hệ trọng. Điều trầm trọng hơn nằm ở bên trong. Tôi đã cầm cự được chừng một tiếng dưới que hàn, hoặc có lẽ chỉ là một phút. Tôi không biết nữa. Nhưng rồi tôi cũng khai tên, họ, thậm chí cỡ áo sơ mi của cấp trên tôi và cả những người không phải cấp trên của tôi. Bọn chúng thả tôi ra trong một ngõ nhỏ ở Pueblo Seco, trần truồng, da bị cháy bỏng. Một người đàn bà tốt bụng đã mang tôi về nhà chăm sóc chừng hai tháng. Quân cộng sản đã bắn chết chồng và đứa người con trai của bà ngay ngưỡng cửa nhà. Bà không biết tại sao. Khi tôi có thể đứng dậy đi ra phố, tôi hay tin tất cả cấp trên của tôi bị bắt và xử tử vài tiếng sau khi tôi chỉ điểm.”

“Fermín, nếu anh không muốn kể những chuyện này...”

“Không, không. Tôi muốn cậu nghe để biết rằng cậu đang làm bạn với hạng người nào. Khi tôi trở về nhà, tôi được biết nó đã bị chính quyền trưng thu, cùng toàn bộ tài sản của tôi. Tôi không biết mình đã trở thành một kẻ ăn mày. Tôi cố xin việc làm. Tôi bị từ chối. Thứ duy nhất tôi có thể kiếm được là một chai rượu rẻ tiền, giá vài xu. Đó là một thứ thuốc độc ngấm dần như axit đốt cháy ruột gan, nhưng tôi hy vọng sớm hay muộn nó cũng có tác dụng. Tôi tự nhủ một ngày nào đó sẽ quay lại Cuba, về với cô gái lai của tôi. Tôi bị bắt khi đang cố lên một chiếc tàu chở hàng sang Havana. Tôi đã quên mình ở tù bao lâu. Sau năm đầu tiên, người ta bắt đầu mất đi tất cả, thậm chí là ý thức. Khi ra tù, tôi bắt đầu sống một thời gian dài đằng đẵng trên đường phố, nơi cậu đã gặp tôi. Có rất nhiều người giống tôi, những bạn trong tùđã được phóng thích. Những người may mắn thì có ai đó để nương tựa khi ra tù, là ai đó hoặc cái gì đó họ có thể hướng về. Phần còn lại sẽ gia nhập đội quân ăn mày. Một khi được trao tấm thẻ gia nhập vào đội quân đó, cậu không bao giờ được thôi làm hội viên. Hầu hết chúng tôi chỉ ra ngoài vào ban đêm, khi thế giới không còn nhòm ngó. Tôi đã gặp nhiều người như tôi. Hiếm khi tôi gặp lại họ nữa. Cuộc sống lề đường rất ngắn ngủi. Người ta nhìn chúng tôi khinh miệt, thậm chí những người cho ta của bố thí, nhưng điều này chẳng là gì hết so với nỗi kinh tởm chính bản thân mình. Nó giống như bị mắc kẹt trong một cái xác di động, một cái xác đói, hôi hám và không chịu chết. Cứ thỉnh thoảng Fumero và tay chân của hắn lại bắt tôi và buộc cho tôi trộm cắp vớ vẩn gì đó hoặc quấy rối các cô nữ sinh tan trường. Lại một tháng ở tù La Modelo, lại những trận đánh đập, và lại bị quẳng ra đường. Tôi không bao giờ hiểu được những trò hề đó có nghĩa gì. Hình như cảnh sát thấy thật tiện khi có một đám những kẻ tình nghi để bọn chúng có thể dùng đến lúc cần thiết. Trong một cuộc chạm mặt với Fumero, hắn lúc này là một nhân vật khá được kính nể, tôi đã hỏi tại sao hắn không giết tôi, như hắn đã giết những người khác. Hắn cười bảo rằng có những thứ còn tồi tệ hơn cái chết. Hắn không bao giờ giết một kẻ chỉ điểm, hắn nói. Hắn để cho anh ta chết dần chết mòn.”

“Fermín, anh không phải là chỉ điểm. Bất cứ ai ở vào tình thế của anh cũng làm như vậy thôi. Anh là bạn tốt nhất của tôi.”

“Tôi không xứng đáng với tình bạn của cậu, Daniel. Cậu và cha cậu đã cứu đời tôi, và đời tôi thuộc về hai người. Bất cứ điều gì có thể làm được cho cậu, tôi sẽ làm. Ngày cậu lôi tôi ra khỏi cuộc sống lề đường, là ngày Fermín Romero de Torres được tái sinh.”

“Đấy không phải tên thật của anh, đúng không?”

Fermín lắc đầu. “Tôi thấy cái tên này trong một áp phích ở trường đấu bò Arenas. Cái tên kia bị chôn vùi rồi. Con người từng sống trong hình hài này đã chết, Daniel ạ. Đôi khi anh ta quay trở lại, trong những cơn ác mộng. Nhưng cậu đã cho tôi thấy làm thế nào để trở thành một con người khác, và cậu đã cho tôi lý do để sống một lần nữa: Bernarda của tôi.”

“Fermín...”

“Đừng nói gì hết, Daniel. Hãy tha thứ cho tôi, nếu cậu có thể.”

Tôi ôm anh, không nói một lời, và cứ để anh khóc. Mọi người nhìn chúng tôi chế giễu, và tôi nhìn lại họ bằng ánh mắt nảy lửa. Sau một hồi, họ quyết định lờ đi. Sau đó, khi tôi đang bước cùng Fermín về nhà trọ của anh, anh bạn tôi đã bình tâm lại.

“Chuyện tôi kể với cậu hôm nay... Xin cậu đừng cho Bernarda biết...”

“Tôi sẽ không kể với Bernarda hay bất kỳ ai. Không một lời, Fermín ạ.”

Chúng tôi bắt tay nhau tạm biệt.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37


CẢ ĐÊM HÔM ẤY TÔI KHÔNG NGỦ ĐƯỢC. Tôi cứ nằm trên giường và để đèn sáng, nhìn chằm chằm vào chiếc bút Montblanc sang trọng mà nhiều năm nay tôi chẳng viết gì – nó đang nhanh chóng trở thành đôi găng tay đẹp đẽ được tặng cho người cụt bàn tay. Không dưới một lần tôi cảm thấy thôi thúc muốn đến căn hộ nhà Aguilar và, vì không có kết quả tốt hơn, đành từ bỏ ý định. Nhưng sau nhiều suy tính, tôi quyết rằng lao đến nhà Bea ngay từ đầu giờ sáng sẽ chẳng cải thiện được tình hình. Đến lúc sớm mai, mệt mỏi và bất an, tôi kết luận điều tốt nhất nên làm là cứ mặc theo dòng nước trôi; theo thời gian dòng sông sẽ cuốn đi luồng máu độc.

Buổi sáng chậm rãi trôi đi với rất ít công việc trong cửa hàng nên tôi tranh thủ đứng ngủ một lát, trong tư thế mà cha tôi mô tả là duyên dáng và thăng bằng như loài hạc. Đến giờ ăn trưa, như đã hẹn với Fermín tối hôm trước, tôi giả vờ đi dạo, còn Fermín nói rằng có cuộc hẹn với bác sĩ để tháo chỉ. Theo tôi thấy, cha tôi nuốt trọn cả hai lời nói dối. Ý nghĩ lừa dối cha tôi một cách có hệ thống bắt đầu khiến tôi bứt rứt, và nửa chừng sáng hôm ấy tôi nói với Fermín như vậy, trong khi cha tôi đi giao hàng.

“Daniel ạ, mối quan hệ cha và con trai dựa trên hàng ngàn lời nói dối vô hại. Những món quà của bà nhà thông thái, chuyện tiên răng, trọng dụng nhân tài và nhiều thứ khác. Chuyện này chỉ thêm một lời nói dối vào thôi. Đừng mặc cảm tội lỗi.”

***

KHI THỜI ĐIỂM TỚI, TÔI LẠI NÓI DỐI và đế

n thẳng nhà Nuria Monfort, những đụng chạm và mùi vị của chị vẫn không thể tẩy xóa trong ký ức tôi. Những viên sỏi trên Quảng trường San Felipe Neri đã bị một đàn bồ câu phủ kín, nhưng ngoài chúng ra cả quảng trường vắng ngắt. Tôi băng qua mặt đường lát sỏi dưới ánh mắt cảnh giác của lũ bồ câu, và nháo nhác nhìn quanh tìm kiếm Fermín, có trời biết anh ta ngụy trang thành cái gì – anh ta không chịu tiết lộ mưu kế của mình. Tôi đi vào tòa nhà và thấy tên Miquel Moliner vẫn còn ở hòm thư; tôi tự nhủ đó có phải là kẽ hở mà tôi sẽ chỉ ra trong câu chuyện của Nuria Monfort. Khi đi lên cầu thang tối tăm, tôi hy vọng chị sẽ không có nhà. Không ai có thể cảm thấy lòng trắc ẩn đối với một kẻ nói dối bằng một kẻ nói dối khác. Khi đến chiếu nghỉ tầng bốn, tôi dừng lại để lấy hết can đảm và bịa ra vài lý do biện minh cho cuộc viếng thăm này. Radio nhà hàng xóm vẫn ông ổng dội từ phía bên kia chiếu nghỉ, lần này đang phát một chương trình trò chơi trong đó người chơi được thử kiến thức tôn giáo. Trò chơi có tên Chúa giúp sức, và có tiếng là làm say mê cả nước Tây Ban Nha vào các trưa thứ Ba.

***

Và bây giờ, câu hỏi năm điểm, trò chơi Chúa giúp sức, Bartolomé, bạn hãy cho biết Kẻ Xấu Xa làm thế nào để cải trang trước những người thông thái xứ Tabernade, trong câu chuyện ngụ ngôn về tổng thiên thần và quả bí, trong Sách Giôsuê? a) một con cừu non, b) một người bán chai lọ, hay c) một nghệ sĩ nhào lộn có con khỉ?

***

Lướt trên làn sóng tiếng vỗ tay của đám khán giả trong phòng thu Đài phát thanh Quốc gia, tôi chôn chân trước cửa nhà Nuria Monfort và nhấn chuông chừng vài giây. Tôi nghe thấy tiếng vọng lan suốt căn hộ và thở hắt ra một tiếng nhẹ nhõm. Tôi đã toan bỏ đi thì nghe tiếng bước chân tiến đến cửa. Lỗ nhòm ánh lên như một giọt lệ sáng. Tôi mỉm cười. Khi chìa khóa xoay trong ổ, tôi thở thật sâu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38


“DANIEL.”

Làn khói xanh dương của điếu thuốc lá quấn quanh mặt chị. Đôi môi chị ánh lên màu son tối; chúng ẩm ướt và để lại dấu như vết máu khô trên cá đầu lọc chị cầm giữa ngón trỏ và ngón giữa. Có những người mà ta nhớ đến và có những người mà ta mơ về. Với tôi, Nuria Monfort giống như một ảo vọng: ta không chất vấn tính xác thực của nó, ta chỉ đơn giản đi theo nó cho đến khi nó biến mất hay cho đến khi nó hủy hoại ta. Tôi đi theo chị vào căn phòng hẹp, tối tăm, nơi có chiếc bàn, những cuốn sách, và một bộ bút chì xếp ngay ngắn, như thể ngẫu nhiên mà đâm ra cân xứng.

“Tôi nghĩ sẽ không gặp lại cậu nữa.”

“Xin lỗi phải làm chị thất vọng.”

Chị ngồi trên ghế cạnh bàn, bắt tréo chân và hơi hướng về trước. Tôi dứt ánh mắt mình khỏi cổ họng chị và tập trung vào một vết thấm trên tường. Tôi bước đến cửa sổ liếc nhanh xuống quãng trường. Không thấy dấu hiệu của Fermín. Tôi có thể nghe tiếng Nuria Monfort thở sau lưng tôi, có thể cảm thấy đôi mắt chị đang lướt qua cổ tôi. Tôi nói, mắt không rời khỏi cửa sổ.

“Vài ngày trước, một người bạn của tôi phát hiện ra rằng người quản lý căn hộ của Fortuny-Carax quá cố đã gửi thư đến một hòm thư mang tên một công ty luật rõ ràng không tồn tại. Người bạn ấy cũng phát hiện ra rằng người đó đã nhiều năm nay nhận thư từ hòm thư này, người đó dùng tên c

ủa chị, Señora Monfort...”

“Thôi đi.”

Tôi quay lại và thấy chị lui vào bóng tối.

“Cậu phán xét tôi mà chẳng hiểu gì về tôi,” chị nói.

“Vậy hãy giúp tôi hiểu chị đi.”

“Cậu đã kể với ai về việc này chưa? Còn ai khác biết điều cậu nói với tôi không?”

"Nhiều hơn chị nghĩ đấy. Cảnh sát đã theo dõi tôi từ lâu.”

“Fumero?”

Tôi gật đầu. Dường như tay chị ấy đang run.

“Cậu không biết mình đã làm gì đâu, Daniel.

“Vậy chị nói đi,” tôi trả lời bằng sự cục cằn mà tôi không cảm thấy.

“Cậu nghĩ rằng do cậu tình cờ bắt gặp một cuốn sách mà cậu có quyền xâm nhập vào cuộc đời của những người cậu không quen biết và dính mũi vào những việc cậu không thể hiểu và không phải của cậu ư.”

“Giờ chúng thuộc về tôi rồi, dù chị có thích hay không.”

“Cậu không biết mình đang nói gì đâu.”

“Tôi đã vào ngôi nhà Aldaya. Tôi biết Jorge Aldaya trốn ở đó. Tôi biết ông ta là người đã giết Carax.” Mãi đến khi nghe chính mình nói ra, tôi mới biết mình tin những lời này.

Chị nhìn tôi thật lâu, rồi thận trọng lựa lời. “Fumero có biết điều này không?”

“Tôi không biết.”

“Cậu phải biết chứ. Fumero có theo dõi cậu đến ngôi nhà đó không?”

Nỗi căm giận trong mắt chị thiêu đốt tôi. Ban đầu tôi đã nhập vai kẻ buộc tội và quan tòa, nhưng từng phút trôi qua, tôi lại càng cảm thấy mình giống thủ phạm.

“Tôi không nghĩ vậy. Chị có biết không? Chị có biết rằng chính Aldaya đã giết Julián và ông ta đang trốn trong ngôi nhà đó không? Sao chị không kể cho tôi?”

Chị cười cay đắng. “Cậu không hiểu gì hết, đúng không?’

“Tôi hiểu là chị đã nói dối để bảo vệ cho kẻ đã giết một người chị coi là bạn, rằng chị đang che giấu tội ác này nhiều năm nay, đang bảo vệ cho một kẻ mà mục đích duy nhất là xóa bỏ mọi dấu vết tồn tại của Julián Carax, kẻ đốt sách của ông ấy. Tôi hiểu rằng chị đã nói dối về chồng chị, ông ta không ở tù và rõ ràng cũng không ở đây. Tôi hiểu như vậy đấy.”

Nuria Monfort chầm chậm lắc đầu. “Đi đi, Daniel. Rời khỏi nhà này và đừng bao giờ quay lại. Cậu quá lắm rồi.

Tôi bước về phía cửa, bỏ lại chị trong phòng ăn. Tôi dừng giữa chừng và quay lại. Nuria Monfort đang ngồi trên sàn, lưng chị dựa vào tường, mọi mối quan tâm về diện mạo đều tan biến.

***

TÔI CỨ CÚI GẰM MẶT MÀ BĂNG QUA QUẢNG TRƯỜNG. Tôi mang theo mình nỗi đau tôi nhận được từ đôi môi người phụ nữ đó, một nỗi đau tôi cảm thấy mình xứng đáng, dẫu tôi không hiểu nguyên do. “Cậu không biết mình đã làm gì đâu, Daniel.” Tôi chỉ muốn chạy trốn khỏi nơi đó. Khi bước qua nhà thờ, ban đầu tôi không để ý sự hiện diện của một thầy tu gầy hốc hác, mũi to đang đứng trước cổng nhà thờ, tay cầm cuốn Kinh Thánh và chuỗi tràng hạt. Anh ta thong thả ban phước cho tôi khi tôi đi qua.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,314
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39


TÔI BƯỚC VÀO CỬA HÀNG TRỄ GẦN BỐN LĂM PHÚT. Khi nhìn thấy tôi, cha tôi nhíu mày phật ý rồi nhìn đồng hồ.

“Con nghĩ bây giờ là mấy giờ rồi? Con biết bố phải đến thăm khách hàng ở San Cugat, thế mà con bỏ lại bố ở đây một mình.”

“Còn Fermín thì sao ạ? Anh ta chưa về sao?”

Cha tôi lắc đầu với sự hối hả dường như chiếm lấy ông mỗi khi tâm trạng không vui. “Mà có thư cho con này. Bố để cạnh ngăn kéo.”

“Bố, con xin lỗi, nhưng...”

Ông vẫy tay xua đi lời giải thích của tôi, khoác vội áo mưa và đội mũ rồi ra khỏi cửa không nói lời tạm biệt. Vì hiểu rõ ông, tôi biết cơn tức giận sẽ tan biến trước khi ông đến nhà ga. Tôi thấy lạ về sự mất tích của Fermín. Kể từ lúc tôi thấy anh ta ăn mặc như thầy tu diễn trò ở Quảng trường San Felipe Neri, đợi Nuria Monfort hối hả chạy ra khỏi nhà và dẫn anh ta đến tâm điểm điều bí ẩn, niềm tin của tôi vào kế hoạch kia đã vụn vỡ tan tành. Tôi tưởng tượng nếu Nuria Monfort xuống phố thì Fermín hẳn s phải theo chị ta đến chỗ dược sĩ hoặc hàng bánh. Kế hoạch mới tuyệt làm sao chứ! Tôi bước đến ngăn kéo để xem bức thư cha tôi vừa nhắc. Phong bì màu trắng và hình chữ nhật, giống như bia mộ, ở chỗ hình thập ác địa có ghi địa chỉ hoàn thư, nó nghiền nát chút tinh thần ít ỏi còn lại của tôi ngày hôm ấy.

Chính quyền quân sự Barcelona

Ban tuyển quân

“Kính Chúa lòng lành,” tôi lẩm bẩm.

Tôi biết nội dung trong bức thư dù không cần phải mở, nhưng thậm chí nếu như có mở ra cũng chỉ là để đắm mình trong đau khổ mà thôi. Bức thư ngắn gọn: với hai dòng chữ, lơ lửng đâu đó giữa một tuyên bố chối tai và một khúc ca trong vở nhạc kịch, đặc trưng cho mọi thư từ quân sự. Tôi được thông báo rằng, trong vòng hai tháng nữa, tôi, Daniel Sempere, sẽ vinh dự và tự hào được hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng nhất và khai sáng nhất dành cho một người đàn ông Iberia: phụng sự Tổ quốc và mang bộ quân phục của cuộc viễn chinh toàn dân tộc để bảo vệ thành lũy linh thiêng của phương Tây. Tôi hy vọng ít nhất Fermín cũng có thể nhìn thấy khía cạnh hài hước của nó và cho chúng tôi cười vui một chút với bài Sự sụp đổ của âm mưu Do Thái-Tam điểm được hát theo kiểu của anh ta. Hai tháng. Tám tuần. Sáu mươi ngày. Tôi luôn có thể chia nhỏ ra thời gian theo giây và có một dãy số dài cả dặm. Tôi có 5.184.000 giây tự do còn lại. Có lẽ Don Federico, người mà theo cha tôi thậm chí có thể làm một chiếc xe Volkswagen, có thể làm cho tôi một chiếc đồng hồ có hãm phanh. Hẳn ai đó có thể giải thích cho tôi làm cách nào để không đánh mất Bea mãi mãi. Khi nghe tiếng chuông cửa, tôi nghĩ Fermín đã quay về sau khi tự thuyết phục rằng nỗ lực làm thám tử của chúng tôi chẳng gì hơn một trò đùa tệ hại.

“Ồ, chẳng phải vị hoàng tử đang canh chừng lâu đài đấy ư - hẳn chàng ta rồi, dù khuôn mặt chàng có dài thườn thượt. Vui lên nào, Cậu Bé U Sầu,” Gustavo Barceló nói. Ông mặc một chiếc áo khoác lông lạc đà và cầm chiếc gậy ngà thường ngày, mà ông không cần đến và ông cứ khua như mũ tế của Hồng y. “Bố cháu có nhà không, Daniel?”

“Cháu rất tiếc, Don Gustavo. Bố cháu ra ngoài gặp khách hàng rồi, cháu nghĩ ông ấy sẽ về lúc...”

“Tuyệt lắm. Vì ta đến không phải để gặp bố cháu, và càng tốt khi ông ấy không phải nghe điều ta phải nói với cháu.

Ông nheo mắt với tôi, tháo đôi găng tay và nhìn quanh cửa hàng.

“Anh bạn Fermín của chúng ta đâu nhỉ? Anh ta có đây không?”

“Mất tích khi làm nhiệm vụ.”

“Trong khi đang trổ tài năng của anh ta vào vụ Carax, chắc vậy?”

“Cả thể xác lẫn linh hồn. Lần cuối khi cháu gặp, anh ta mặc áo thầy tu và đang làm lễ ban phúc urbi et orbi.”

“Ta hiểu rồi... Là lỗi của bác khi hối thúc cháu làm việc này. Ước gì ta đã không mở miệng.”

“Trông bác có vẻ lo lắng. Có chuyện gì thế ạ?”

“Không hẳn. Mà đúng theo cách nào đấy.”

“Ý bác là sao, Don Gustavo?”

Ông bán sách mỉm cười hiền hậu. Cái vẻ kiêu căng thường thấy của ông giờ bỗng biến đâu mất. Thay vào đó, trông ông thật nghiêm nghị và lo lắng.

“Sáng nay bác gặp Don Maniel Gutiérrez Fonseca. Ông ấy năm mươi chín tuổi, sống độc thân, đã làm việc trong nhà tang lễ thành phố Barcelona từ năm 1924. Ba mươi năm phục vụ nơi ngưỡng cửa bóng đêm. Lời của ông ta, không phải bác. Don Manuel là một người mang cốt cách xưa cũ – nhã nhặn, vui vẻ, hay giúp người. Trong mười lăm năm qua, ông ấy sống trên phố Ceniza, ở một căn phòng đi thuê cùng với một tá vẹt đuôi dài biết hát trong tang lễ. Ông ta có vẻ ưu tiên ở Liceo. Ông thích Verdi và Donizetti. Ông ta bảo rằng điều quan trọng trong công việc của ông là tuân thủ nguyên tắc. Những nguyên tắc điều chỉnh mọi thứ, đặc biệt trong những dịp người ta không biết phải làm gì. Cách đây mười lăm năm, Don Manuel mở một bọc vải do cảnh sát mang đến, và trong đó ông thấy người bạn thân nhất lúc còn nhỏ của mình. Phần còn lại của cái xác được mang đến trong một bọc khác. Don Manuel, kìm nén cảm xúc lại, đã làm theo nguyên tắc.”

“Bác có muốn một tách cà phê không, Don Gustavo? Trông bác hơi tái.

“Ừ.”

Tôi đi tìm ấm giữ nhiệt và rót cho ông một tách, bỏ vào tám viên đường. Ông uống sạch.

“Bác thấy đỡ hơn chưa?”

“Khá hơn rồi đấy. À, sự thể là Don Manuel trực ca đúng hôm người ta mang xác Julián Carax đến phòng mổ pháp y, tháng Chín năm 1936. Tất nhiên, Don Manuel không thể nhớ tên, nhưng chỉ cần nhìn qua hồ sơ lưu trữ và một trăm peso quyên góp vào quỹ hưu trí của ông ta là trí nhớ của ông ta linh lợi lên đáng kể. Cháu có nghe không đấy?”

Tôi gật gật đầu, gần như bị bỏ bùa.

“Don Manuel nhớ mọi chi tiết của ngày hôm đó, như ông ta kể, đấy là một trong những lần ít ỏi ông ta bỏ qua quy tắc. Cảnh sát khẳng định rằng cái xác được tìm thấy ở trong một ngõ hẻm trên khu phố Raval, ngay trước lúc trời sáng. Xác được đưa đến nhà đòn vào giữa buổi sáng. Cùng với nó chỉ có một cuốn sách và tấm hộ chiếu, khẳng định đó là Julián Fortuny Carax, sinh năm 1900 ở Barcelona. Hộ chiếu được đóng dấu ở trạm biên giới La Junquera, cho thấy Carax mới quay về nước một tháng. Nguyên nhân cái chết có lẽ là một vết thương do đạn bắn. Don Manuel không phải bác sĩ, nhưng qua nhiều năm ông học được nên nhìn cái gì. Theo ý kiến của ông ta, phát súng, ngay trên tim, được bắn từ tầm gần. Nhờ tấm hộ chiếu, người ta tìm được ông Fortuny, cha của Carax, ông này đến nhà xác ngay đêm hôm ấy để nhận dạng.”

“Cho đến điểm này thì mọi việc đều trùng khớp với lời kể của Nuria Monfort.”

Barceló gật đầu. “Đúng vậy. Điều Nuria Monfort không nói cho cháu là ông ấy – ông bạn Don Manuel của bác ấy – cảm thấy cảnh sát không quan tâm mấy đến vụ việc này, và sau khi nhận ra cuốn sách tìm thấy trong túi áo của thi thể mang tên người đã chết, ông ta đã quyết định hành động theo ý mình và gọi đến nhà xuất bản ngay chiều hôm đó, trong khi người ta đang đợi ông Fortuny, để thông báo cho họ về chuyện xảy ra.”

“Nuria Monfort bảo với cháu là nhân viên nhà xác gọi điện đến nhà xuất bản ba ngày sau, khi cái xác đã được chôn vào khu mộ chung.”

“Theo Don Manuel, ông ta đã gọi vào đúng được chuyển đến nhà đòn. Ông ta bảo đã nói chuyện với một cô gái, cô này bảo rất biết ơn vì ông ta gọi điện. Don Manuel nhớ rằng ông ta có phần sốc bởi thái độ của cô gái trẻ đó. Nói theo lời ông ta: “Như thể cô ta đã biết chuyện rồi.”

"Còn ông Fortuny? Có phải ông ta không chịu nhận con trai không?”

“Đó là điều làm bác ngạc nhiên nhất. Don Manuel nói rằng cuối buổi chiều hôm đó, có một người đàn ông bé nhỏ đến, ông ta run rẩy, được hai cảnh sát hộ tống. Đấy là ông Fortuny. Theo Don Manuel, ấy là điều mà ta không bao giờ có thể quen được, cái lúc những người thân thích nhất của người đã khuất đến nhận diện xác. Ông ta nói đó là một tình huống không mong muốn đối với bất kỳ ai. Tệ hơn hết, ông nói, là khi người chết còn trẻ, và cha mẹ họ hoặc hôn thê hay hôn phu của họ phải đến nhận dạng. Don Manuel còn nhớ rõ ông Fortuny. Ông ta bảo khi Fortuny đến nhà xác, ông ta gần như không đứng nổi, khóc lóc như đứa trẻ, hai cảnh sát phải sốc hai bên đỡ ông ta. Ông ta cứ gào thét: “Người ta đã làm gì con trai tôi? Người ta đã làm gì con trai tôi?”

“Ông ta có thấy cái xác không?”

“Don Manuel kể rằng thiếu điều ông ta đã hỏi cảnh sát xem họ có thể bỏ qua thủ tục này không. Đó là lần duy nhất ông ta hồ nghi những quy tắc. Cái xác ở trong tình trạng rất tệ. Lúc thi thể được đưa đến nhà xác thì nạn nhân đã chết hơn bốn tám tiếng rồi, và không phải từ lúc mờ sớm ngày hôm đó, như cảnh sát thông báo. Manuel sợ rằng khi ông già thấp bé ấy nhìn thấy cái xác ông ta sẽ ngã quỵ mất. Ông Fortuny liên tục nhắc lại rằng không thể như vậy được, con trai Julián của ông ta không thể chết được... Rồi Don Manuel gỡ bỏ khăn liệm ra, và hai cảnh sát hỏi ông Fortuny theo đúng thủ tục rằng đó có phải con trai ông ta, Julián hay không?’

“Rồi sao?”

“Ông Fortuny chết lặng. Ông ta nhìn chằm chằm cái xác chừng một phút. Rồi ông quay gót bỏ đi.”

“Bỏ đi?”

“Vội vã.”

“Thế còn cảnh sát? Họ không ngăn ông ta lại sao? Không phải ông ta đến nhận xác sao?”

Barceló cười tinh quái. ề lý thuyết thôi. Nhưng Don Manuel nhớ rằng còn một người khác trong căn phòng đó, một cảnh sát thứ ba, kẻ này đã lặng lẽ đi vào trong khi hai người kia dìu ông Fortuny. Hắn đứng quan sát mà không hề nói gì, chỉ dựa vào tường, điếu thuốc trên môi. Don Manuel nhớ rõ hắn vì khi ông ta bảo rằng quy định cấm ngặt hút thuốc trong nhà xác, một tên cảnh sát ra hiệu cho ông ta im mồm. Theo lời Don Manuel, ngay khi ông Fortuny bỏ đi, tay cảnh sát thứ ba bước đến chỗ cái xác, liếc nhìn rồi nhổ nước bọt lên mặt cái xác. Rồi hắn giữ tấm hộ chiếu và ra lệnh mang xác đến Montjuïc để chôn trong khu mộ chung vào sáng sớm.”

“Thật vô lý...”

“Don Manuel cũng nghĩ vậy. Đặc biệt là khi chẳng có gì ăn nhập với quy tắc cả. ‘Nhưng chúng ta không biết người này là ai,’ ông ta nói. Hai cảnh sát kia không nói gì. Don Manuel tức giận quát mắng họ. 'Hay là các anh biết quá nhiều? Vì rõ là anh ta đã chết hơn một ngày.' Don Manuel hiển nhiên đang dẫn chiếu các quy định và ông không phải kẻ khờ khạo. Theo ông ta, khi tay cảnh sát thứ ba nghe thấy lời phản đối của ông ta, hắn bước đến, nhìn thẳng vào mắt ông ta, rồi hỏi ông ta có muốn đi theo người chết luôn không. Don Manuel khiếp đảm. Người đàn ông kia có cặp mắt của một kẻ loạn trí, và Don Manuel không hề nghi ngờ dù chỉ một giây rằng hắn nói thật. Ông ta lẩm bẩm rằng mình chỉ đang cố tuân thủ quy tắc thôi, rằng không ai biết người chết là ai, vì vậy nên chưa thể chôn ngay được. ‘Tao bảo hắn là ai thì hắn phải như vậy,’ tay cảnh sát trả lời. Rồi hắn cầm tờ khai và ký vào, thế là xong vụ việc. Don Manuel nói ông ta sẽ không bao giờ quên cái chữ ký đó, vì trong những năm chiến tranh, và trong một thời gian dài sau đó, ông ta sẽ gặp cái chữ ký ấy trên hàng chục giấy chứng tử đối với những cái xác mà có Chúa mới biết ở đâu ra – những cái xác không ai đến nhận diện...”

“Thanh tra Francisco Javier Fumero...”

“Niềm tự hào và vinh quang của Sở Cảnh sát Trung tâm. Cháu có hiểu nghĩa là thế nào không, Daniel?”

“Rằng chúng ta đã ra đòn như kẻ mù ngay từ đầu.”

Barceló cầm mũ và gậy rồi bước ra cửa, vừa đi vừa lẩm bẩm: “Không, thế nghĩa là đòn chỉ mới bắt đầu thôi.”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom