Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
[Diendantruyen.Com] Bóng Hình Của Gió

Bóng Hình Của Gió
Tác giả: Carlos Ruiz Zafón
Tình trạng: Đã hoàn thành

--- oOo ---


Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên, nơi chốn mang cái tên kỳ dị này ẩn chứa những gì? Sau khi Daniel Sempre, mười tuổi, mang ra khỏi đó một cuốn sách do cậu tự chọn với sự cho phép của cha, gần như ngay sau đó cậu bị một kẻ lạ gớm ghiếc đáng sợ có khuôn mặt hoàn toàn biến dạng theo sát gót. Hắn muốn gì? Cuốn sách kia, Bóng hình của gió mà cậu giữ trong tay, nó hay tác giả của nó mang những bí mật u tối nào khiến cho dường như nhiều phận người bị liên lụy với nó đến vậy?

Trong cơn xoáy lốc chầm chậm nhưng chết chóc tỏa ra từ Bóng hình của gió và những gì ẩn đằng sau nó, Daniel phải chiến đấu ra sao để bảo vệ người mình yêu cũng như những người khác ban đầu xa lạ song dần dần trở nên thân thiết với cậu? Một câu chuyện thật đẹp nơi mà tình yêu, hận thù, tình bạn, ý thức nghĩa vụ… đều tuyệt đỉnh. Và bàng bạc khắp là thành phố Barcelona, thủ phủ xứ Catalan nước Tây Ban Nha, kỳ vĩ, diễm lệ, bí ẩn, một trong những nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết.

Nếu như Dan Brown nổi tiếng với cuốn Mật mã Da Vinci và những cuộc hành trình nghẹt thở kéo 24h đồng hồ, J.K. Rowling với bộ truyện nhiều tập Harry Potter cùng những cuộc phiêu lưu trong thế giới ma thuật đầy hấp dẫn thì Carlos Rúiz Zafon mang đến cho bạn đọc một trường phái Gothic đầy ma mị nhưng không kém phần lãng mạn. Nơi mà góc tối của tâm hồn được phơi bày một cách rất thực mà không hề giả dối. Nơi mà nỗi đau và sự tuyệt vọng chỉ như vết cứa vào trong tâm hồn, sau đó vẫn có thể lành lại, để biết đau mà vượt qua và vươn lên để đạt lấy sự hạnh phúc trong cuộc sống. Những người thấu hiểu Gothic sẽ trân trọng những gì cuộc sống đem lại: trong cơn đau khổ, một niềm vui cho dù nhỏ nhoi đến đâu cũng sẽ là một sự sung sướng đến tột cùng.

Nói về Bóng hình của gió cuốn tiểu thuyết thứ năm theo trường phái Gothic của Carlos Rúiz Zafon, người đọc khi đã bắt đầu khó mà ngừng đọc, đặt sách xuống được.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 1


GIÁ TRỊ CỦA BÍ MẬT phụ thuộc vào người mà nó được trao gửi để giữ kín. Ý nghĩ đầu tiên của tôi khi tỉnh dậy là thổ lộ với bạn thân nhất của mình về Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên. Tom ás Aguilar là cậu bạn cùng lớp, dành trọn thời gian rảnh rỗi và tài năng của mình để phát minh những máy móc hết sức tinh xảo nhưng lại vô cùng quái gở, như phi tiêu khí cầu hay con quay phát điện. Tôi hình dung cả hai đứa, trang bị đèn pin và la bàn, cùng nhau khám phá những bí mật của các hầm mộ sách ấy. Còn ai tốt hơn Tomás để có thể chia sẻ bí mật đây? Nhưng rồi, lại nhớ về lời hứa của mình, tôi quyết định rằng trong tình huống này tôi phải học theo cách các tiểu thuyết trinh thám hay dùng là chuyển sang phương thức hoạt động khác. Tới chiều, tôi đến gặp cha để hỏi ông về cuốn sách và Juliáns Carax – cả hai ắt hẳn đều rất nổi tiếng, tôi đoán chừng vậy. Kế hoạch của tôi là tìm ra cho được toàn bộ những cuốn sách khác của Carax và đọc hết chúng từ giờ cho đến cuối tuần. Ngạc nhiên thay, tôi phát hiện cha mình, một thủ-thư-bẩm-sinh, cây từ điển sống về catalô của các nhà xuất bản và những trường hợp lạ kỳ, lại chưa từng nghe đến cái tên Bóng hình của gió cũng như Julián Carax. Thấy tò mò, ông bèn lật phần ghi chú của nhà xuất bản in trên mặt sau trang nhan đề để tìm manh mối.

“Ở đây nói rằng cuốn sách này là một trong hai ngàn năm trăm bản in do nhà xuất bản Cabestany Editores ấn hành tại Barcelona, vào tháng Sáu năm 1936.”

“Cha có biết nhà xuất bản đó không?”

“Nó sập tiệm nhiều năm rồi. Nhưng, khoan đã, cuốn này chỉ là tái bản. Lần xuất bản đầu tiên là vào tháng Mười một năm 1935, nhưng là in tại Paris... do nhà Galiano & Neuval xuất bản. Chẳng gợi lên được điều gì.”

“Vậy đây là bản dịch sao?”

“Ở đây không nói vậy. Theo như cha thấy thì bản thảo này ắt phải là nguyên gốc.”

“Một cuốn sách tiếng Tây Ban Nha, xuất bản lần đầu tiên tại Pháp?”

“Cũng không phải chuyện lạ, nhất là vào thời như thế này,” cha tôi nhận định. “Có thể Barceló giúp được chúng ta.”

Gustavo Barceló là đồng nghiệp cũ với cha tôi, ông ta sở hữu một cơ sở buôn bán vững mạnh trên phố Fernando và nắm vị trí chỉ huy trong ngành buôn bán sách cũ của thành phố. Cái tẩu thuốc tắt ngóm lúc nào cũng cố định trên miệng Barceló khiến cả người ông ta như thấm đẫm hương nồng của phiên chợ Ba Tư. Barceló thích mô tả bản thân như người cuối cùng theo đuổi chủ nghĩa lãng mạn, và cho dù là dân gốc ở Caldas de Montbuy nhưng ông ta một mực quả quyết một trong những nhánh xa các cụ kỵ của mình có liên quan trực tiếp tới nhà thơ vĩ đại Lord Byron của nước Anh. Như để chứng minh mối liên hệ đó, Barceló rập khuôn tủ quần áo của mình đúng kiểu một tay ăn diện sành điệu ở thế kỷ 19. Phục sức thông thường của ông ta bao gồm cà vạt, giày da sơn trắng, và chiếc kính một mắt không số mà, theo những lời đồn thổi đầy ác ý, cả lúc riêng tư nhất trong nhà vệ sinh ông ta cũng chẳng tháo ra. Dẹp những lời huyễn hoặc sang một bên, thì người thân đình đám nhất trong dòng dõi Barceló chính là cha ông ta, một nhà tư bản công nghiệp đã phất lên giàu sụ nhờ những mánh lới đáng ngờ vào cuối thế kỷ 19. Theo lời cha tôi, thì Gustavo Barceló, đơn thuần mà nói, giàu nứt đách, và cửa hàng sách nguy nga của ông ta lập ra vì đam mê nhiều hơn là để kinh doanh. Barceló yêu sách vô điều kiện, và mặc dù ông ta luôn thẳng thừng phủ nhận, nếu ai đó bước vào cửa hàng của Barceló và phải lòng một bộ sách nào đó nhưng không chi trả nổi, Barceló sẵn lòng hạ giá, thậm chí tặng luôn nếu thấy người mua là một độc giả nghiêm túc chứ không phải tay mơ nào đó tình cờ dạo bước qua. Barceló khoe rằng mình có trí nhớ tuyệt vời cùng với một tâm hồn sính chữ tương xứng với hành vi cử chỉ và độ âm vang trong giọng nói của ông ta. Nếu có ai hiểu biết về sách hiếm, đó chính là Barceló. Chiều hôm đó, sau khi đóng cửa tiệm sách, cha tôi gợi ý bố con tôi tản bộ tới Quatre Gats, một quán cà phê trên phố Montsitó, nơi Barceló và hội hiệp sĩ bàn tròn của ông ta – rặt những người đam mê sách vở - tụ tập để cùng bàn luận những cái hay cái đẹp của thi ca cổ, những ngôn ngữ nay chẳng còn ai sử dụng, những kiệt tác bị mối mọt ăn mòn và bị lãng quên.

***

QUATRE GATS chỉ cách nhà chúng tôi chừng năm phút đi bộ và là một trong những địa điểm ưa thích của tôi. Cha và mẹ gặp gỡ lần đầu tại đó vào năm 1932, và tôi giành được chiếc vé một chiều đến thế giới này một phần cũng là nhờ sự quyến rũ của quán cà phê ấy. Bên ngoài, những con rồng đá canh gác mặt tiền lấp lánh ánh đèn. Bên trong, những giọng nói tưởng chừng vọng lại cùng bóng hình của các thời xa khác. Kế toán viên, những tay mộng mơ và những kẻ tự nhận thiên tài cùng nhau chia sẻ chỗ ngồi với linh hồn những vĩ nhân như Pablo Picasso, Isaac Albéniz, Federico Garcai Lorca và Salvador Dalí. Tại đó, bất cứ kẻ tội đồ đáng thương nào cũng có thể được coi như nhân vật lịch sử chỉ với giá một cốc cà phê nhỏ.

“Ôi, anh bạn già Sempere,” Barceló thốt lên khi thấy cha tôi bước vào quán. “Vinh quang thay hỡi đứa con hoang toàng. Chúng tôi được vinh dự chào đón điều gì đây?”

“Anh cái vinh dự đó cho con trai tôi, Daniel, ngài Gustavo ạ. Thằng bé mới có một khám phá đáng nể.”

“Ồ, vậy hãy cầu nguyện và tới đây ngồi cùng chúng tôi, ta phải ăn mừng sự kiện phù du này mới được.” Barceló tuyên bố.

“Phù du?” tôi thì thầm vào tai cha mình.

“Barceló chỉ thể hiện được bản thân bằng những từ ngữ có cánh,” cha tôi khẽ đáp lại. “Con đừng nói gì, kẻo ông ta làm tới đấy.”

Các thành viên nhẹ ký của hội yêu văn thơ dịch sang bên cho chúng tôi vào ngồi cùng, và Barceló vốn khoái khoe khoang sự hào phóng của mình trước công chúng, một mực khăng khăng đòi thiết đãi hai cha con.

“Cậu chàng này bao nhiêu tuổi rồi?” Barceló hỏi thăm, đánh giá tôi qua khoé mắt.

“Cháu sắp mười một,” tôi dõng dạc.

Khuôn mặt Barceló thoáng một nụ cười.

“Nói cách khác, mới mười tuổi thôi. Đừng cộng thêm một năm làm gì, nhóc ranh ạ. Đời sẽ biết mà chẳng cần sự giúp đỡ của cậu.”

Vài người bạn cánh hẩu của ông ta lẩm bẩm tán thành. Barceló ra hiệu cho một người phục vụ nom già nua khác thường đến mức đáng ra nên được công nhận là di sản quốc gia.

“Một cô nhắc cho Sempere bạn tôi, rót từ chai xịn đấy nhé, và một sinh tố quế cho cậu nhỏ - cậu chàng này đang tuổi lớn đấy. Với cả cho chúng tôi một ít thịt xông khói, nhưng đừng có dai như cái mớ vừa nãy ông mang lên đấy nhé. Nếu thích nhai cao su, chúng tôi sẽ gọi lốp bánh xe hiệu Pirelli.”

Người phục vụ gật đầu rồi quay đi, lê lết đôi chân.

“Tôi chả thích nhắc đến vấn đề này,” Barceló nói, “nhưng làm sao có công ăn việc làm cơ chứ cái đất nước này chả ma nào chịu về hưu cả, thậm chí đến chết vẫn không ngừng nghỉ. Nhìn ngài Cid kia là đủ thấy rồi. Nói cho mọi người biết nhé, chúng ta vô vọng rồi.”

Nói rồi ông ta lại gặm mút cái tẩu lạnh ngắt, đôi mắt đã kịp lướt qua cuốn sách trên tay tôi. Bất chấp mã ngoài tự phụ và tính dông dài, Barceló có thể đánh hơi thấy con mồi ngon như sói ngửi được mùi máu.

“Để xem,” ông ta nói, giả đò hờ hững. “Ta có gì ở đây nào?”

Tôi liếc nhìn cha. Ông gật đầu. Không chần chừ thêm nữa, tôi bèn giao Barceló cuốn sách. Tay buôn sách chào đón nó bằng đôi tay nhà nghề. Những ngón tay như của nghệ sĩ dương cầm mau chóng khám phá lớp bìa vải, kết cấu giấy và tình trạng cuốn sách. Ông ta lật tìm ra trang ghi chú của nhà xuất bản và nhà in rồi nghiên cứu nó với khả năng dò tìm thiên bẩm như của Sherlock Holmes. Cả đám còn lại chúng tôi quan sát trong nín lặng, như đang chờ đợi một phép mầu, hay để được cho phép hô hấp chở lại.

“Carax à, thú vị đây,” Barceló thầm thì với giọng bí hiểm.

Tôi đưa tay ra chờ nhận lại cuốn sách. Barceló nhướn mày nhưng vẫn trả lại cuốn sách, kèm theo một nụ cười lạnh nhạt.

“Cậu tìm thấy nó ở đâu vậy, anh bạn trẻ?”

“Bí mật,” tôi đáp, lòng mẩm chắc cha tôi đang kín đáo mỉm cười. Barceló nhíu mày quay ra phía cha tôi. “Sempere, bạn thân thiết nhất đời, vì anh và vì lòng kính mến tôi dành cho anh, vì tình cảm dài lâu và sâu đậm làm chúng ta gắn bó như anh em, tôi có thể trả bốn mươi duro, thế là hết mức.”

“Anh phải bàn chuyện đó với con trai tôi,” cha tôi nói. “Cuốn sách là của thằng bé.”

Barceló bèn cấp cho tôi một nụ cười hau háu. “Cậu thấy sao, chàng trai trẻ? Bốn mươi duro, giao dịch lần đầu mà được như vậy là không tồi chút nào đâu. Sempere, con trai anh sẽ làm >nên tên tuổi trong ngành này đấy.”

Hội văn thơ tán đồng nhận định này của ông ta. Barceló nhìn tôi vẻ đắc thắng rồi lôi ví da ra. Vô cùng kiểu cách, ông ta đếm ra đủ hai trăm peseta, mà hồi đó là một khoản kha khá, đưa cho tôi. Nhưng tôi chỉ lắc đầu. Barceló gằn giọng.

“Cậu bé à, tham lam hiển nhiên là tính xấu, thậm chí nếu nói nặng hơn thì là tội ác. Hãy biết điều. Gọi tôi là dở hơi cũng được, nhưng tôi sẽ tăng giá lên sáu mươi duro, cậu có thể lập sổ tiết kiệm hưu trí ấy chứ. Ở tuổi này cũng phải bắt đầu nghĩ về tương lai đi.”

Tôi lắc đầu lần nữa. Qua chiếc kính một mắt, Barceló ném một tia nhìn hiểm độc về phía cha tôi.

“Đừng nhìn tôi,” cha tôi nói. “Tôi chỉ đến đây với tư cách hộ tống.”

Barceló thở dài rồi săm soi nhìn tôi.

“Nào, anh chàng. Thực sự thì cậu muốn cái gì ?”

“Cháu muốn biết Julián Carax là ai và ở đâu có thể tìm được những cuốn khác của ông ấy.”

Barceló cười khùng khục, cất ví vào túi áo, đánh giá lại đối phương trước mặt.

“Trời ạ, một học giả. Sempere, anh nuôi thằng bé này bằng gì vậy?”

Tay buôn sách vươn người về phía tôi, ra vẻ có điều riêng tư muốn nói, trong một giây tôi thoáng nghĩ ông ta vừa để lộ ánh nhìn đầy nể trọng vừa mới đây không hề có.

“Chúng ta hãy trao đổi nhé,” Barceló nói. “Ngày mai, Chủ nhật, vào buổi chiều, hãy ghé qua thư viện Ateneo hỏi gặp tôi. Mang theo cả cái khám phá quý báu kia của cậu đi, để tôi có thể xem thật tỉ mỉ, rồi tôi sẽ kể cho cậu những điều tôi biết về Julián Carax. Quid pro quo.

“Quid pro gì?”

“Tiếng La linh, chàng trai trẻ ạ. Chẳng có gì gọi là tử ngữ, chỉ có những ký ức ngủ đông. Diễn giải ra, câu đó có nghĩa ta chẳng thể lấy không bất cứ thứ gì, nhưng vì tôi thích cậu, tôi sẽ ban cho cậu một đặc ân.”

Những lời hùng hồn của Barceló giết được cả ruồi đang bay trên không, nhưng tôi ngờ rằng nếu muốn tìm hiểu bất cứ điều gì về Julián Carax thì tôi nên giữ quan hệ tốt với ông ta. Tôi chìa ra nụ cười thân thiện nhất, tỏ ra đầy thích thú trước cảm xúc La tinh dâng trào của ông ta.

“Nhớ đấy, ngày mai, ở thư viện Ateneo,” tay bán sách nhắc lại. “Nhưng phải mang theo cuốn sách đấy, nếu không sẽ chẳng có trao đổi gì hết.”

“Được.”

Cuộc đối thoại của chúng tôi dần hoà vào những tiếng lầm rầm của các thành viên khác cũng ngồi trong quán. Buổi tranh luận chuyển hướng sang những tài liệu được tìm thấy trong tầng hầm El Escorial, gợi ý rằng rất có khả năng Miguel de Cervantes, tác giả Don Quixote, thực ra chỉ là bút danh của một nữ kiệt viết văn sống tại Toledo, nghe đâu bà ta cao to và có nhiều lông tóc. Barceló trông lơ đãng, chẳng mấy hứng thú với việc giữ lấy một chân trong cuộc tranh luận. Ông ta chỉ yên lặng, quan sát tôi từ sau cái kính một mắt chỉ để trang trí kèm theo một nụ cười nguỵ tạo. Hoặc cũng có thể ông ta chỉ chăm chăm vào cuốn sách tôi đang cầm trên tay.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 2


CHỦ NHẬT ĐÓ, trời đổ mây ngập ngụa nhấn chìm các con phố trong làn sương mù nóng ấm dễ khiến cả nhiệt kế trên tường cũng phải rỉ mồ hôi. Tầm giữa giờ chiều, nhiệt độ đã vượt ngưỡng 33 khi tôi lên đường tới phố Canuda cho kịp cuộc hẹn với Barceló, tay giữ rịt cuốn sách, mồ hôi đầm đìa trên trán. Thư viện Ateneo đã từng – và vẫn còn – là một trong nhiều địa điểm tại Barcelona nơi thếỷ 19 vẫn chưa phải nhận thông cáo di dời. Chiếc cầu thang đá đồ sộ dẫn đường từ khoảng sân nguy nga tới một mạng lưới ma quái những hành lang và phòng đọc. Tại đây, những phát minh như điện thoại, đồng hồ đeo tay, cùng với sự nôn nả, đều như thể là những sản phẩm của niên đại vị lai. Người gác cổng, hay cũng có thể là bức tượng vận đồng phục, hầu như không chú ý tới sự xuất hiện của tôi. Tôi se sẽ lên tầng một, thầm ước những cánh sắt của chiếc quạt trần đang quay mòng mòng trên đầu đám người đọc ngái ngủ kia có thể tan chảy như nước đá và nhỏ xuống những trang sách họ đang mở.

Hình bóng Gustavo Barceló mờ mờ hiện ra bên cửa sổ hành lang nhìn xuống khu sân trong toà nhà. Mặc cho bầu không xung quanh đặc quánh thời tiết vùng nhiệt đới, ông ta vẫn diện bộ cánh kiểu cách như thường lệ, chiếc kính một mắt sáng lóe lên trong góc tối nom y hệt đồng xu nằm dưới giếng sâu. Có một dáng người bận váy len trắng bên cạnh ông ta, trông như một thiên thần.

Nghe thấy tiếng chân tôi, Barceló khép hờ mắt và ra hiệu tôi hãy tới gần hơn. “Daniel phải không?” tay buôn sách hỏi. “Cậu có mang theo cuốn sách chứ?”

Tôi gật đầu với cả hai người trước mặt và ngồi xuống chiếc ghế mà Barceló bảo, cạnh ông ta và người bạn đồng hành bi ẩn kia. Một lúc khá lâu, tay buôn sách chỉ yên lặng cười, không mấy để tâm đến sự hiện diện của tôi. Tôi mau chóng từ bỏ mọi hy vọng được giới thiệu với cô nương váy trắng, dù cô có là ai. Barceló tỏ ra như cô không có ở đó, như thể cả hai chúng tôi đều chẳng nhìn thấy cô. Tôi liếc nhanh sang cô, e sợ gặp phải ánh mắt trống rỗng của cô đang chăm chăm hướng về phía xa. Da mặt và tay cô trắng xanh, gần như trong suốt. Khuôn mặt cô gãy gọn, tạo thành từ những đường nét sắc rõ, bao gọn trong làn tóc đen óng như đá ướt. Tôi đoán chừng cô ít nhất cũng hai mươi, nhưng phong thái của cô ẩn chứa gì đó khiến tôi cảm giác cô không có tuổi. Tưởng chừng cô đã mắc lại trong tuổi thanh xuân vĩnh viễn như những con ma nơ canh được bảo quản trong khung kính cửa hàng. Đang chú mục xem trên chiếc cổ thiên nga của cô liệu có dấu hiệu nào của mạch sống hay không, tôi chợt để ý thấy Barceló đang chằm chằm nhìn mình.

“Vậy cậu có định cho tôi biết xem cậu tìm thấy cuốn sách này ở đâu?” ông ta hỏi.

“Tôi có thể cho ông biết, nhưng tôi đã hứa với cha là sẽ giữ bí mật,” tôi giải thích.

“Hiểu rồi. Sempere và những bí mật của ông ta,” Barceló nói. “Tôi nghĩ mình có thể đoán ra. Cậu trúng số con trai ạ. Tôi gọi đó là nhặt được kim giữa đồng hoa ly ly. Tôi xem được chứ?”

Tôi đưa ông ta cuốn sách, Barceló nhận nó với sự cẩn trọng hết mực. “Cậu đọc nó rồi, tôi đồ là vậy.”

“Vâng, thưa ông.”

“Ghen tị với cậu đấy. Tôi vẫn luôn cho rằng thời khắc phù hợp nhất để đọc Carax là lúc trái tim người ta còn non trẻ và tâm hồn còn trong trẻo. Cậu có biết đây là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của tác giả không?”

Tôi lắc đầu.

“Cậu có biết còn bao nhiêu bản như thế này trên thị trường sách không, Daniel?”

“Cỡ vài nghìn, cháu đoán vậy.”

“Không,” Barceló nhấn mạnh. “Chỉ mỗi cuốn của cậu thôi. Toàn bộ đều đã bị đốt hết.”

“Đốt hết?”

Thay cho câu trả lời, Barceló chỉ cười một cách khó hiểu trong lúc lướt qua cuốn sách, vuốt ve trang giấy như thể nó làm bằng lụa hiếm. Cô nương váy trắng chầm chậm quay sang. Môi cô run run nhoẻn một nụ cười thẹn thùng. Đôi mắt cô đỏ đậm trong trống rỗng, con ngươi trắng như cẩm thạch. Tôi nuốt tuột một ngụm hơi. Cô ấy bị mù.

“Cậu không biết cháu gái tôi, Clara, phải không?” Barceló hỏi.

Tôi chỉ có thể lắc đầu, không tài nào rứt ánh mắt khỏi người phụ nữ có làn da búp bê sứ và đôi mắt trắng kia, đôi mắt buồn nhất tôi từng được thấy.

“Thực ra, chuyên gia về Julián Craxa chính là Clara, thế nên tôi mang con bé theo,” Barceló nói. “Tôi đã định mình sẽ chuyển sang phòng khác, nếu cậu không phiền, để nghiên cứu cuốn sách này trong khi cậu và con bé làm quen với nhau. Được chứ?”

Tôi thất kinh nhìn ông ta. Gã côn đồ vỗ nhẹ vào lưng tôi rồi bỏ đi với cuốn sách trên tay.

“Em gây ấn tượng với bác ấy đấy, em biết không,” giọng nói phía sau tôi cất lên.

Tôi quay lại và để ý thấy nụ cười mỉm trên khuôn mặt cháu gái tay buôn sách. Giọng cô như pha lê thuần khiết, trong suốt và mỏng manh đến mức tôi hãi rằng những lời cô nói sẽ vỡ tan nếu bị tôi ngắt ngang.

“Bác ấy nói đã ra giá đáng kể cho cuốn sách của Carax, nhưng em từ chối,” Clara nói thêm. “Em đã có được sự tôn trọng của bác ấy.”

“Ngài ấy làm gì cũng đều cho thấy điều ngược lại,” tôi thở dài.

Tôi nhận thấy rằng mỗi khi Clara cười, cô khẽ nghiêng đầu sang bên, các ngón tay cô đang mân mê một chiếc nhẫn có vẻ làm từ ngọc bích.

“Em bao nhiêu tuổi rồi?” cô hỏi.

“Gần mười một ạ,” tôi đáp. “Thế cô bao nhiêu tuổi, thưa cô Clara?”

Clara cười trước sự ngây thơ ngỗ ngược của tôi.

“Gần gấp đôi tuổi em, nhưng dù vậy cũng không cần phải thưa cô với tôi.”

“Trông cô trẻ hơn tuổi nhiều, thưa cô,” tôi nhấn mạnh cách xưng hô, hy vọng lần này sẽ giúp tôi thoát khỏi sự hớ hênh trước đó.

“Vậy tôi tin em, cũng bởi tôi chẳng biết mình trông ra làm sao,” cô đáp lời. “Nhưng nếu em thấy trông tôi trẻ như vậy thì càng có thêm lý do để bỏ cách gọi ‘cô’ đó đi.”

“Tuỳ ý cô, thưa cô Clara.”

Tôi quan sát hai tay cô dang ra trên đùi trông giống như đôi cánh, dáng chiếc eo thon mỏng mảnh ẩn hiện dưới lằn váy len, đường cong của hai vai, sắc da sáng xanh trên chiếc cổ, đường viền đôi môi cô, thứ tôi sẵn lòng đánh đổi cả linh hồn để được chạm tới dù chỉ bằng đầu ngón tay. Trước đây tôi chưa từng có dịp chiêm ngưỡng một người phụ nữ gần và tỉ mỉ đến thế, lại không phải e sợ cái nguy cơ bị ánh mắt cô bắt gặp.

“Em đang nhìn gì thế?” hỏi, giọng không chút ác tâm.

“Bác cô nói cô là chuyên gia về Julián Carax,” tôi ứng biến, mồm khô khốc.

“Bác tôi sẵn lòng nói bất cứ điều gì để mua được chút thời gian một mình với cuốn sách khiến ông ấy mê mẩn,” Clara giải thích. “Nhưng hẳn em đang băn khoăn tại sao một người mù lại có thể là chuyên gia về sách được chứ.”

“Em chưa từng nghĩ thế.”

“Với một cậu nhóc suýt soát mười một, em nói dối không tồi. Cẩn thận đấy, không về sau thành ra giống như ông bác tôi.”

Sợ vướng thêm phải vài lời nói hớ khác, tôi quyết định im lặng. Tôi chỉ ngồi lóng ngóng nhìn, hưởng thụ sự hiện diện của cô.

“Nào, tới đây, gần hơn đi,” Clara nói.

“Dạ?”

‘Tới gần hơn đi, đừng sợ, tôi không cắn em đâu.”

Tôi rời ghế mình, đi tới chỗ cô đang ngồi. Cháu gái gã buôn sách giơ tay phải lên, cố rờ được tôi. Không biết phải làm gì, tôi cũng vươn tay về phía cô. Clara đón tay tôi bằng tay trái và rồi, không nói gì, cô chìa tay phải ra. Theo bản năng, tôi hiểu cô muốn làm gì, bèn kéo hai tay cô lên mặt mình. Tay cô chạm vào tôi vừa miết xát vừa dịu nhẹ. Ngón tay cô lướt trên cằm, rồi hai gò má tôi. Tôi đứng đó bất động, gần như không dám thở, trong khi Clara nhận dạng nét mặt tôi bằng hai bàn tay. Trong khi làm vậy, cô tự cười một mình, tôi chú ý thấy có chuyển động nhỏ nơi đôi môi cô, kiểu lầm rầm không thành tiếng. Tôi cảm nhận tay cô lướt trên trán, tóc và mí mắt mình. Tay cô dừng trên môi tôi, ngón trỏ và ngón đeo nhẫn lần theo đường môi cong. Ngón tay cô thoảng mùi vỏ quế. Tôi nuốt ực một cái, mạch đập nhanh hơn, lòng thầm cảm ơn rằng chẳng có ai chứng kiến mặt tôi đang bừng bừng đỏ, dễ chừng có thể châm sáng một điếu xì gà đặt cách đó ba mươi phân.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 3


VÀO CÁI CHIỀU MÙ SƯƠNG VÀ MƯA BỤI ĐÓ, Clara

Barceló đã đánh cắp mất trái tim, hơi thở và giấc ngủ của tôi. Trong ánh nhập nhoạng ma quái của thư viện Ateneo, đôi tay cô đã viết lên da tôi một lời nguyền sẽ còn ám ảnh tôi nhiều năm nữa. Trong lúc tôi đang mê mẩn ngắm nhìn, Clara giải thích việc làm sao cô tình cờ tiếp cận được với tác phẩm của Julián Carax, tại một ngôi làng ở Provence nước Pháp. Cha cô, một luật sư tài năng có quan hệ với nội các của thống đốc xứ Catalan, sớm dự đoán được cuộc chính biến sắp tới nên đã gửi vợ và con gái sang bên kia biên giới ngay khi cuộc Nội Chiến mới bắt đầu. Vài người cho rằng ông sợ hơi quá đáng, họ khăng khăng cho rằng chả có chuyện gì có thể xảy ra với Barcelona cả. Tại Tây Ban Nha, vốn vừa là cái nôi vừa là đỉnh cao của Thiên Chúa giáo, sự man rợ là thứ chỉ có ở bọn vô chính phủ - những kẻ cưỡi xe đạp và toàn đi tất rách – bọn ấy thì cầm chắc sẽ không thể tiến xa. Nhưng cha của Clara tin rằng một quốc gia chẳng bao giờ tự nhìn thấy bản thân nó rõ ràng được như trong gương phản chiếu, nhất là khi chiến tranh đang bén rễ trong đầu óc họ. Ông có hiểu biết sâu sắc về lịch sử và biết rõ rằng, trên các con phố, nhà xưởng, trong trại lính, ta có thể đọc thấy tương lai rõ hơn nhiều so với đọc trong các tờ báo sáng. Hàng tháng trời ông viết cho vợ và con gái mỗi tuần một bức thư. Thoạt tiên là từ văn phòng của mình trên phố Diputación, nhưng về sau các bức thư của ông không còn ghi địa chỉ người gửi. Cuối cùng, ông phải lén lút viết thư tại nhà ngục trong lâu đài Montjuïc, nơi không ai thấy ông bị đưa vào, và cũng như vô số nạn nhân khác, ông không bao giờ từ đó bước ra.

KHI ĐỌC TO THƯ CHO CLARA NGHE, mẹ cô gần như không kìm nổi nước mắt và phải bỏ qua nhiều đoạn mà con gái bà cũng cảm nhận được dù không cần phải nghe hết. Sau đó, đợi đến khi mẹ đã ngủ, Clara nài nỉ người chị họ Claudette đọc lại thư của cha mình toàn bộ từ đầu đến cuối. Clara đã đọc bằng cách đó,với đôi mắt đi mượn. Không một ai từng thấy cô nhỏ lấy một giọt nước mắt, thậm chí cả khi thư của vị luật sư không còn tới nữa, cả khi tin tức về chiến tranh khiến tất thảy họ sợ rằng chuyện xấu nhất đã xảy ra.

“Ngay từ đầu cha tôi đã biết chuyện gì sẽ xảy ra,” Clara giải thích. “Ông vẫn giữ mối quan hệ thân thiết với bạn bè vì cảm thấy đó là nghĩa vụ của mình. Cái khiến ông mất mạng chính là lòng trung thành ông dành cho những kẻ mà, khi tới lúc cần, chúng sẵn sàng bán rẻ ông. Đừng tin bất kỳ ai, Daniel, nhất là những người em ngưỡng mộ. Chính họ sẽ khiến em phải hứng chịu những tai hoạ nặng nề nhất.”

Clara nói những lời ấy với một sự sắt đá như đã sinh ra và lớn lên sau bao năm âm thầm ấp ủ. Tôi sung sướng lạc mình trong ánh nhìn bằng sứ của cô, lắng nghe cô tâm sự những điểu mà khi ấy tôi chẳng thể nào hiểu nổi. Cô mô tả những con người, quang cảnh và sự vật mà bản thân chưa từng được thấy nhưng lại có thể chuyển hoá chúng hết sức chi tiết và chuẩn xác như một nghệ sĩ người Flander xuất chúng. Những từ cô nói khơi gợi rõ mồn một những chất liệu vật thể, những tiếng vọng, âm sắc các giọng nói, nhịp điệu những bước chân. Clara giải thích rằng, trong suốt những năm lưu vong tại Pháp, cô và chị họ Claudette học cùng một gia sư. Ông ta tầm năm mươi tuổi, gần như một con sâu rượu dù chưa đến mức, tự khoác trên mình vẻ văn chương nho nhã và luôn khoe mình có thể ngâm cả trường ca Aeneid của Virgil bằng tiếng La tinh không hề pha giọng. Hai chị em đặt biệt danh cho ông ta là “Ngài Pho mát” để vinh danh thứ mùi hương độc đáo từ ông ta toát ra, bất chấp cả tấn nước hoa ông ta dùng để ướp cái tấm thân ngoại cỡ của ông. Tuy có vô số thứ chẳng giống ai (đáng chú ý như niềm tin sắt đá sặc mùi quân phiệt rằng dồi tiết và thịt lợn có công hiệu kỳ diệu giúp cải thiện chứng suy nhược tuần hoàn và bênh gút), Ngài Pho mát có gu khá tinh tế. Thời còn trẻ, cứ mỗi tháng ông ta lại tới Paris một lần để tăng thêm gia vị cho vốn văn hoá và phép ứng xử của mình bằng những tác phẩm văn chương thời thượng, tham quan viện bảo tàng, và thậm chí, theo lời đồn đại, tự cho phép mình qua một đêm trong vòng tay một cô nàng nóng bỏng mà ông xưng tụng là “Bà Bovary”, dù tên thật của cô ta là Hortense và những từ cô ta có thể đọc chỉ hạn chế ở mức “hai mươi franc”. Trong những chuyến la cà nhằm mục đích giáo dục ấy, Ngài Pho mát thường xuyên tới thăm một quầy sách cũ toạ lạc trên Quảng trường Nhà thờ Đức Bà. Chính ở đó, rất vô tình, vào một buổi chiều năm 1929, ông tình cờ chú ý tới cuốn sách của một nhà văn vô danh, người nào đó tên Julián Carax. Vốn luôn cởi mở với các trào lưu mới, Ngài Pho mát đã mua cuốn sách trong lúc hứng lên. Nhan đề khá khơi gợi, vả lại ông cũng có thói quen đọc gì đó nhẹ nhàng trên chuyến tàu về nhà. Cuốn tiểu thuyết tên là Ngôi nhà màu đỏ, trên bìa sau có tấm ảnh mờ chân dung tác giả, có thể là một tấm hình chụp mà cũng có thể chỉ là bức phác than chì. Theo như giới thiệu tác giả, nhà văn Julián Carax hai mươi bảy tuổi, sinh ra tại Barcelona và hiện sống tại Paris; anh ta viết bằng tiếng Pháp và đêm đêm biểu diễn piano chuyên nghiệp tại một quán bar. Lời giới thiệu sách, viết theo kiểu văn hoa mỹ rườm rà thời đó, ca ngợi rằng đây là tác phẩm đầu tay xuất phát từ một lòng can đảm chói sáng, dấu ấn của một tài năng tiên phong và đa dạng, một mốc lịch sử cho tương lai văn chương toàn châu Âu. Song dù có những định long trọng nhường đó, phần tóm tắt theo sau lại gợi ý rằng cuốn tiểu thuyết bao hàm một số yếu tố dường như có phần hắc ám được ướp từ từ trong lối viết đầy cảm xúc đôi phần cường điệu, điểm này trong mắt Ngài Pho mát đáng được điểm cộng: sau những cuốn kinh điển, ông ta luôn khoái nhất những câu chuyện về tội ác, bí mật khuê phòng, những hành vi đáng ngờ vực.

NGÔI NHÀ MÀU ĐỎ KỂ VỀ MỘT NHN VẬT BÍ HIỂM với tâm hồn không ngừng bị giày vò, anh ta chuyên đột nhập vào các tiệm đồ chơi hay viện bảo tàng hòng đánh cắp búp bê và con rối. Một khi đã nắm giữ chúng trong tay, anh ta móc mắt chúng ra đem về giấu tại căn cứ thê lương của mình, một nhà kính ma quái và cũ nát còn bám víu bên bờ sông Seine mù sương. Vào một tối định mệnh, anh ta đột nhập vào một biệt thự xa hoa trên Đại lộ Foch, quyết tâm tước đoạt cho bằng được bộ sưu tập búp bê của một ông trùm kinh doanh, và như có thể dự đoán, ông trùm này giàu đến kệch cỡm cũng là nhờ vô số mánh khoé gian ác trong suốt thời cách mạng công nghiệp. Ngay khi định lẻn đi với chiến lợi phẩm cướp được, tên trộm của chúng ta bất ngờ bị con gái ông trùm bắt gặp, cô là một thiếu nữ Paris thượng lưu tên Giselle, đọc nhiều hiểu rộng và vô cùng tinh tế nhưng chẳng may mang bản chất yếu nhược nên lẽ tự nhiên là số trời định sẵn cô sẽ yêu điên cuồng kẻ đột nhập kia. Trong khi thiên trường ca lắt léo tiếp diễn qua một loạt sự kiện rối rắm trong bối cảnh mờ mờ ảo ảo, nhân vật nữ chính của câu chuyện bắt đầu giải mã nguyên nhân đã khiến nhân vật chính đầy bí ẩn (người mà, đương nhiên, không bao giờ được lộ tên) phải chọc mù búp bê, và cùng với quá trình đó cô phát hiện được bí mật khủng khiếp về cha mình cùng bộ sưu tập búp bê sứ của ông ta. Thế rồi, câu chuyện chìm trong một kết cục bi thảm va tăm tối đẫm màu quái dị.

Bản thân Ngài Pho mát cũng mang những kỳ vọng văn chương và là chủ nhân của một bộ sưu tập khổng lồ các thư từ chối của tất tật các nhà xuất bản đầy tự phụ ở Paris để trả lời cho những tập thơ và văn ông gửi đến họ không ngừng nghỉ. Nhờ vậy, ông nhận ra ngay được nơi đã ấn hành cuốn tiểu thuyết này, ấy chỉ là một nhà xuất bản hạng hai, vốn dĩ chuyên về các loại sách nấu ăn, may vá và đồ thủ công đơn giản khác. Chủ quầy sách kể cho ông ta rằng, khi cuốn tiểu thuyết mới ra đời, nó chỉ được tặng cho hai bài giới thiệu nhỏ giọt trên mấy tờ nhật báo tỉnh lẻ, đã vậy còn bị cố ý xếp ngay cạnh mục cáo phó. Cánh phê bình được dịp vùi dập Carax trong vỏn vẹn dăm dòng, khuyên anh ta đừng bỏ nghề biểu diễn piano làm gì, bởi rõ ràng trong nghiệp văn chương anh ta sẽ không sao chơi được cho đúng nốt đâu. Ngài Pho mát, vốn sở hữu trái tim và chiếc ví dễ mềm đi mỗi lần gặp phải những người thất cơ lỡ vận, liền quyết định đầu tư một nửa franc vào cuốn sách của nhà văn vô danh Carax, cùng lúc rinh hẳn một bản in đặc biệt của Gustave Flaubert – Ngài Pho mát thường tự coi mình là người thừa kế không được công nhận của đại văn hào ấy.

Giấc mộng trong phim của anh em nhà Lumière. Ông đọc cả đêm, không mảy may nhận thức tiếng mấy bà xơ ngáy khò khò hay tiếng những sân ga sáng đèn lướt qua trong sương mù. Trời tảng sáng, khi lật tới trang cuối cùng, Ngài Pho mát nhận ra đôi mắt mình nhuốm lệ, còn trái tim bị đầu độc bởi lòng nghen tị và sửng sốt.

***

SÁNG THỨ HAI ĐÓ, Ngài Pho mát gọi đến nhà xuất bản ở Paris yêu cầu chút thông tin về Julián Carax. Sau khi ông đã nài nỉ hồi lâu, người nhận cuộc gọi ở đầu bên kia với giọng như bị suyễn và tâm trạng cáu bẳn liền đáp rằng không có địa chỉ của Carax và dù sao thì nhà văn ấy chẳng còn làm việc với bên họ nữa. Cô ả còn thêm rằng, sau khi được ấn hành, Ngôi nhà màu đỏ chỉ bán được chính xác bảy mươi bảy bản, hầu hết có thể đoán là do các thiếu nữ lẳng lơ dễ dãi kiếm về và những người hay lưu tới câu lạc bộ nơi tác giả thường tuôn ra mấy bản polonaise và dạ khúc hòng kiếm vài đồng. Số bản in còn lại đều bị trả lại rồi nghiền ra tái chế để in kinh sách, giấy phạt và vé số.

Vận rủi của nhà văn bí ẩn đã giành được lòng thương cảm của Ngài Pho mát, và trong suốt mười năm sau đó, mỗi lần ghé qua Paris, ông đều lục tung các hiệu sách cũ hòng tìm kiếm những tác phẩm khác của Julián Carax. Ông không bao giờ tìm được dù chỉ một cuốn. Hầu như chẳng có ai từng nghe tới tên Carax, và những người thấy cái tên đó quen quen thì lại biết vô cùng ít. Vài người thề rằng họ từng mua những cuốn sách khác cũng của Carax, luôn được ấn hành bởi các nhà xuất bản nhỏ với số lượng phát hành đáng nực cười. Những cuốn sách ấy, nếu có tồn tại, đều không thể tìm nổi. Một người bán sách kể rằng mình từng sở hữu một cuốn của Julián Carax. Tên cuốn sách là Tên trộm trong nhà thờ, nhưng đã quá lâu rồi và hơn nữa ông ta cũng không dám chắc. Cuối năm 1935, một tin mới bay đến tai Ngài Pho mát: Julián Carax vừa xuất bản một cuốn tiểu thuyết mới, Bóng hình của gió, được ấn hành bởi một nhà xuất bản nhỏ tại Paris. Ông ta liền viết thư tới nhà xuất bản hỏi liệu có thể mua vài cuốn chăng, nhưng chẳng bao giờ nhận được hồi âm. Năm tiếp theo, mùa xuân 1936, người bạn cũ ở quầy sách bên bờ sông Seine hỏi liệu ông ta có còn ứng thú với Carax không. Ngài Pho mát quả quyết mình sẽ không bao giờ từ bỏ. Giờ đây nó là vấn đề tính ngoan cố: nếu thế gian này đã quyết tâm muốn chôn vùi Carax, ông ta nhất định không về phe với nó. Bạn ông ta bèn kể rằng vài tuần trước đó có một tin đồn liên quan đến Carax gây xôn xao dư luận. Có vẻ như rốt cuộc vận may của Carax cũng được cải thiện. Anh ta sắp kết hôn với một phụ nữ rất có địa vị xã hội, và sau vài năm im hơi lặng tiếng, anh ta cũng cho ra đời được một cuốn tiểu thuyết mà lần đầu tiên giúp tác giả nhận được một vài điểm tích cực, không phải ở nơi nào khác mà chính là nhật báo danh tiếng Le Monde. Nhưng ngay khi tưởng chừng gió đã đổi chiều, người bán sách kể tiếp, thì Carax lại bị vướng vào một vụ thách đấu tay đôi tại nghĩa trang Père Lachaise. Những chi tiết xung quanh sự kiện này không ai được rõ. Tất cả những gì người bán sách biết là cuộc thách đấu kia diễn ra đúng vào xế chiều này Carax đáng ra phải làm lễ cưới, và chú rể đã không xuất hiện ở nhà thờ.

Mỗi người có một giả thiết riêng hợp ý mình: một số người tin rằng Carax đã bỏ mạng trong cuộc quyết đấu và thi thể của anh ta bị bỏ mặc dưới một nấm mồ vô danh; một số người khác, có suy nghĩ tích cực hơn, thiên về hướng tin rằng Carax đã bị sa lầy trong sự vụ mờ ám nào đó, trầm trọng đến mức anh ta phải bỏ vị hôn thê lại trước bàn thờ Chúa, đào tẩu khỏi Paris và quay về Barcelona. Nấm mồ vô danh có thể vĩnh viễn chẳng bao giờ được tìm ra, và sau đó không lâu người ta lại truyền tai nhau một dị bản hoàn toàn khác: Julián Carax, người cả đời bị ám vận xui, đã lìa đời nơi thành phố quê hương tại khu ổ chuột bẩn thỉu nhất. Những cô gái làng chơi trong khu nhà chứa mà anh ta từng biểu diễn piano đã thu xếp được chút tiền quyên góp để lo liệu một tang lễ tươm tất, nhưng khi khoản tiền đến được tới Barcelona, thi hài đã được chôn cất trong một ngôi mộ bần cùng, cạnh chỗ chôn thây của dân ăn mày và những người chết vô danh xác nổi lềnh phềnh trên mặt nước bến cảng hoặc lìa đời trước cổng ga tàu điện ngầm vì không chịu nổi cái rét.

KHÔNG RÕ LIỆU CÓ PHẢI chỉ bởi vì thích đi ngược góc nhìn của số đông mà Ngài Pho mát vẫn không hề quên đi Carax. Mười một năm sau khi phát hiện ra Ngôi nhà màu đỏ, ông ta quyết định cho hai cô trò của mình mượn đọc cuốn sách, hẳn với hy vọng rằng không chừng cuốn sách kỳ lạ đó có thể khuyến khích chúng phát triển thói quen đọc sách. Hồi đó Clara và Claudette còn là những thiếu nữ dạt dào hoóc môn trong từng mạch máu và bị ám ảnh bởi thế giới bên ngoài cửa sổ phòng học đang nháy mắt với mình. Bất chấp những nỗ lực hết mình của vị gia sư, hai cô gái vẫn tỏ ta miễn nhiễm với ma lực của những tác phẩm kinh điển, truyện ngụ ngôn của Êdốp, hay những lời thơ bất diệt của Dante Alighieri. Sợ rằng hợp đồng dạy học của mình sẽ bị chấm dứt nếu mẹ của Clara phát hiện ra chuyện đã đào tạo sai hướng hai cô gái trẻ thành ra dốt nát và thiểu năng, Ngài Pho mát bèn giới thiệu cuốn tiểu thuyết của Carax cho học trò mình, bảo rằng đó là tiểu thuyết tình yêu, điều mà ít ra cũng có nửa phần sự thực.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 4


“TÔI CHƯA TỪNG CẢM THẤY bị một câu chuyện thu hút hoàn toàn,” Clara giải thích, “đến mức như cuốn tiểu thuyết đó đã thu hút tôi. Trước đó, việc đọc với tôi chỉ là nghĩa vụ, một thứ phí mà học trò phải trả cho giáo viên và gia sư mà chẳng rõ vì sao. Tôi chưa từng cảm nhận được niềm vui thích của việc đọc sách, của việc khám phá nơi thầm kín trong tâm hồn, của việc buông mình cho trí tưởng tượng và cái đẹp, cái bí ẩn của hư cấu và ngôn từ. Với tôi, tất cả những điều đó được sinh ra cùng với cuốn tiểu thuyết đó. Em đã bao giờ hôn một cô gái chưa, Daniel?”

Tâm trí tôi liền đông cứng; nước bọt như biến thành mùn cưa.

“À, em vẫn còn bé. Nhưng cảm giác đó thực giống y như vậy, tia sét lần đầu ấy em sẽ không bao giờ quên được. Thế giới này thuộc về những bóng đen, Daniel ạ, và phép mầu là tài sản hiếm có. Cuốn tiểu thuyết ấy đã dạy tôi rằng, nhờ đọc sách, tôi có thể sống mãnh liệt hơn. Nó như thể trả lại cho tôi đôi mắt mình đã mất đi. Nhờ mỗi cái lý do đó thôi, một cuốn sách vốn chẳng có ý nghĩa với bất kỳ ai đã thay đổi cuộc đời tôi.”

Cho đến lúc ấy tôi cứ chết lặng, phó mình cho lòng khoan dung của một sinh linh mà lời nói và ma lực tôi không có cách nào cưỡng lại và cũng không hề muốn cưỡng lại. Tôi ước cô đừng bao giờ ngưng nói, rằng giọng nói của cô hãy vĩnh viễn bao bọc lấy tôi, và bác cô sẽ không bao giờ quay lại phá vỡ phép mầu của khoảnh khác ấy, cái khoảnh khắc chỉ thuộc về mỗi mình tôi.

“Suốt nhiều năm tôi đã cố công kiếm tìm những cuốn sách khác của Julián Carax,” Clara kể tiếp. “Tôi hỏi khắp các thư viện, hiệu sách, cả ở trường học. Luôn luôn là vô vọng. Không một ai từng nghe nói về Carax cũng như tác phẩm của ông ấy. Tôi không tài nào hiểu nổi. Về sau, Ngài Pho mát có nghe được một tin đồn, một câu chuyện lạ kỳ về người nào đó lang thang khắp các thư viện và hiệu sách tìm kiếm những cuốn sách Carax viết. Tìm được cuốn nào ông ta liền mua, đánh cắp hay tìm cách chiếm được bằng nhiều cách khác, để rồi sau đó lập tức dùng lửa đốt thành tro. Chẳng ai biết người đó là ai và tại sao lại làm vậy. Lại một câu hỏi nữa thêm vào danh sách những bí ẩn liên quan đến bản thân Carax. Rồi cũng tới ngày mẹ tôi quyết định trở về Tây Ban Nha. Bà đang ốm, thêm nữa Barcelona vẫn luôn là quê hương của bà. Tôi đã thầm hy vọng khi về đây có thể tìm ra được điều gì đó về Carax, vì nói gì thì nói Barcelona là thành phố nơi ông ta sinh ra và cũng là nơi ông ta biến mất ngay khi chiến tranh mới bắt đầu. Nhưng thậm trí với sự giúp đỡ của bác tôi, tất cả những gì tôi tìm được chỉ là ngõ cụt. Còn với mẹ tôi, cuộc kiếm tìm của bà cũng chẳng có kết quả gì hơn. Barcelona mà bà gặp lại khi quay về không còn là cái nơi bà đã rời đi nhiều năm trước. Bà chỉ thấy một thành phố của những bóng đen, nơi không còn cha tôi trú ngụ, mặc dù mọi ngóc ngách của nói đều bị ký ức về ông ám ảnh. Như thể tất thảy những cay đắng đó còn chưa đủ, bà kiên quyết đòi thuê người tìm hiểu điều gì đã thực sự xảy đến với cha tôi. Sau nhiều tháng điều tra, thám tử chỉ có thể mò ra được một chiếc đồng hồ đeo tay đã hỏng và tên của kẻ đã giết cha tôi trong nhà tù của lâu đài Montjuïc. Tên hắn là Fumero, Javier Fumero. Mẹ con tôi được biết rằng kẻ này – và không chỉ có hắn – thoạt tiên đã xin đầu quân làm lính bắn thuê cho tổ chức vô chính phủ FAI, rồi nhảy sang ve vãn phe cộng sản lẫn bọn phát xít, đánh lừa tất cả bọn họ rồi sẽ phục vụ cho bên nào trả giá cao nhất. Sau khi Barcelona thất thủ, hắn chạy sang phe thắng cuộc và gia nhập lực lượng cảnh sát. Giờ hắn đã trở thành một thanh tra người trĩu nặng huân chương. Chẳng còn ai nhớ đến cha tôi. Chẳng mấy ngạc nhiên, mẹ tôi héo mòn đi chỉ trong vài tháng sau đó. Các bác sĩ nói đó là do tim bà quá yếu, và tôi nghĩ rằng rốt cuộc cũng có một lần họ nói đúng. Sau khi mẹ mất, tôi chuyển đến sống cùng ông bác Gustavo, người họ hàng duy nhất còn lại của mẹ tôi ở Barcelona. Tôi rất cảm phục bác ấy, bởi mỗi lần đến thăm chúng tôi bác đều tặng sách. Nhiều năm nay bác ấy vẫn luôn là gia đình duy nhất và là bạn thân nhất của tôi. Đúng là đôi khi bác ấy tỏ ra hơi ngạo mạn, nhưng ơn Chúa, trong sâu xa bác ấy có tấm lòng nhân hậu. Hằng đêm, không bao giờ sai, cho dù có gật gù ngủ quên, bác ấy luôn dành chút thời gian đọc sách cho tôi nghe.”

“Em có thể đọc cho cô, nếu cô muốn, cô Clara,” tôi lịch sự gợi ý, nhưng ngay lập tức hối hận vì sự cả gan của mình, bởi tôi đã chắc mẩm rằng, với Clara, việc tôi có mặt bên cô chỉ là phiền toái, nếu không phải chỉ là một trò để cho vui.

“Cảm ơn em, Daniel,” cô đáp. “Tôi rất vui lòng.”

“Bất cứ khi nào cô muốn

Cô chầm chậm gật đầu, kiếm tìm tôi bằng nụ cười của mình.

“Thật không may, giờ tôi không còn giữ cuốn Ngôi nhà màu đỏ nữa,” cô nói. “Ngài Pho mát không chịu rời xa nó. Tôi có thể kể lại cho em nội dung câu chuyện, nhưng làm vậy cũng chẳng khác gì mô tả toà thánh đường rằng nó là một chồng đá mà trên cùng là chóp nhọn vậy.”

“Em dám chắc cô có thể mô tả hay hơn thế nhiều,” tôi lắp bắp.

Phụ nữ có bản năng nhận biết đích xác khi nào một người đàn ông yêu họ say đắm, đặc biệt là khi gã ấy vừa trẻ lại vừa hoàn toàn khờ dại. Tôi đã đạt mọi điều kiện đủ khiến Clara Barceló tống khứ tôi ngay lập tức, nhưng tôi thà tin rằng sự mù loà của cô giúp tôi có được chút an toàn và rằng nhờ đó tội lỗi của tôi – sự quên mình hoàn toàn và thảm hại tôi dành cho một phụ nữ mà tuổi đời, trí thông minh và tầm vóc đều gấp đôi tôi – sẽ mãi nằm trong bóng tối. Tôi phân vân không hiểu ở mình có gì đặc biệt khiến Clara muốn kết thân, ngoài một hình ảnh phản xạ nhợt nhạt của chính cô, tiếng vọng của sự cô độc và mất mát. Trong những mộng tưởng niên thiếu, tôi hình dung chúng tôi là hai kẻ tị nạn ruổi ngựa dọc theo gáy một cuốn sách, háo hức muốn được náu mình trong những thế giới hư cấu và giấc mơ gián tiếp.

***

KHI BARCELÓ TRỞ LẠI với một nụ cười nham hiểm, hai tiếng đã trôi qua. Hai tiếng mà tôi tưởng chỉ như hai phút. Tay buôn sách đưa trả cuốn sách và nháy mắt với tôi.

“Xem cho kỹ nhé, nhóc lùn. Tôi không muốn cậu quay lại kêu ca rằng tôi đã tráo cuốn khác đâu.”

“Tôi tin ngài,” tôi nói.

“Lảm nhảm vô nghĩa. Người cuối cùng nói câu đó với tôi (một du khách bị thuyết phục rằng chính Hemingway sáng chế ra món hầm fabada trong dịp lễ Bò Tót San Fermín) đã mua một cuốn Hamlet có chữ ký của Shakespeare bằng bút bi, thử tưởng tượng mà xem. Cho nên cố mà tỉnh táo khi nhìn nhận. Trong ngành buôn sách, thậm chí phần chỉ mục cũng chẳng đáng tin đâu.”

Trời bắt đầu nhá nhem khi chúng tôi bước xuống phố Canuda. Một cơn gió mát lạnh trải dọc qua thành phố,èn cởi áo khoác trùm lên vai Clara. Nhận thấy không còn cơ hội nào tốt hơn, tôi ngập ngừng buột miệng hỏi rằng, nếu hai bác cháu thấy không phiền, liệu hôm sau tôi có thể tới nhà họ đọc vài chương trong cuốn Bóng hình của gió cho Clara nghe không. Barceló liếc nhìn tôi qua khoé mắt và bật ra miệng tiếng cười khô khốc.

“Nhóc, đừng cầm đèn chạy trước ô tô như thế!” ông ta nói nhỏ, nhưng ngữ điệu lại như ẩn chứa sự ưng thuận.

“Dạ, nếu không tiện, vậy có thể để hôm khác hoặc…”

“Điều đó tuỳ thuộc vào Clara,” tay buôn sách nói. “Hai bác cháu tôi đã có đến bảy con mèo và hai chú vẹt. Thêm một sinh vật nữa cũng chẳng có gì khác mấy.”

“Vậy mai ta gặp nhau nhé, chừng bảy giờ,” Clara kết luận. “Em có biết địa chỉ không?”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 5


CÓ MỘT THỜI, hồi tôi còn nhỏ, có lẽ vì được nuôi lớn giữa biết bao nhiêu cuốn tiểu thuyết và tay buôn sách, tôi đã từng ôm mộng trở thành tiểu tuyết gia. Căn nguyên những tham vọng văn chương của tôi, ngoài cái vẻ giản dị mà kỳ tuyện của thế giới trong con mắt một đứa nhỏ năm tuổi, còn nằm trong một tuyệt tác thủ công hết mực tinh xảo được trưng bày trong tiệm bút máy trên phố Anselmo Clavé, ngay sau toà nhà Bộ Quốc phòng. Vật khiến tôi sung bái, một chiếc bút máy đen sang trọng, được tô điểm bởi có Chúa mới biết được là bao nhiêu đường nét tinh tế và hoa văn bay bướm, trang trọng nằm trên cửa kính bày hàng của tiệm như một chiếc vương miện nạm đá quý. Một ảo vật kỳ thú được chế tác cầu kỳ từ bạc và vàng sáng lấp lánh như ngọn hải đăng Alexandria, thậm chí riêng ngòi bút không thôi cũng là một kiệt tác. Mỗi bận cùng cha ra đường tản bộ, tôi cứ không ngừng mè nheo cho tới khi được ông dẫn đi ngắm cây bút. Cha tôi tuyên bố rằng cây bút ấy ắt hẳn ít nhất cũng từng thuộc về một vị hoàng đế. Tôi đã âm thầm tin rằng, với một cây bút tuyệt diệu nhường ấy, ai cũng có thể viết ra tất thảy mọi điều, từ tiểu thuyết cho đến bách khoa toàn thư, cả những bức thư chứa đựng sức mạnh siêu nhiên vượt xa hết thảy hạn chế ngành bưu điện. Viết bằng cây bút ấy, chúng sẽ có thể vươn tới tận những ngóc ngách hẻo lánh nhất trên , kể cả chốn không ai biết mà cha tôi kể mẹ đã tới và không bao giờ trở lại.

Một ngày nọ cha con tôi quyết định bước vào tiệm bút để hỏi thăm về tạo tác siêu phẩm ấy. Hoá ra đó là nữ hoàng trong mọi chiếc bút máy, một chiếc Montblanc dòng Meiserstock thuộc một xê ri đánh số đặc biệt, trước kia từng thuộc về Viotor Hugo, hoặc ít ra là người bán hàng đảm bảo với chúng tôi như vậy. Từ ngòi bút bằng vàng ấy đã tuôn chảy ra những dòng của Những người khốn khổ, họ kể với cha con tôi như vậy.

“Giống như suối nước nóng danh tiếng Vichy Catalán tuôn ra từ nguồn ở Caldas vậy,” người bán hàng thề thốt.

Ông ta kể rằng đã đích thân mua chiếc bút này từ nhà sưu tập nghiêm túc nhất Paris, và chính ông ta đã kiểm chứng được nguồn gốc chính danh của tạo vật này.

“Vậy giá của cây bút kiệt tác này là bao nhiêu, xin anh cho biết?” cha tôi hỏi.

Giá tiền được nhắc đến khiến mặt cha tôi nhợt hẳn đi, nhưng tôi đã trót bị bùa phép của cây bút làm mê mẩn mất rồi. Người bán hàng, vẻ như chắc mẩm rằng chúng tôi hiểu rõ các định luật vật lý, bèn dồn dập thuyết giảng cho hai cha con toàn những mớ tầm phào không thể hiểu nổi về hợp kim của các kim loại quý hiếm, lớp tráng men xuất xứ từ Viễn Đông, cả lý thuyết mang tính cách mạng về cách thức hoạt động của pít tông và các ống mực nối nhau, tất cả đều đóng góp cho cái gọi là nền khoa học Đức làm nền tảng cho đỉnh cao vinh quang là cây bút này, nhà vô địch trong công nghệ chế tạo bút. Công bằng mà nói, tuy cha con tôi khi ấy ắt hẳn trông chẳng khác gì tên ma cà bông, người bán hàng vẫn cho chúng tôi mân mê cây bút theo đủ kiểu tuỳ thích, bơm đầy mực, lại còn cho tôi mượn mẩu giấy da để viết tên mình lên đó như bước khởi đầu cho sự nghiệp văn chương nối tiếp Victor Hugo. Thế rồi, sau khi đã dùng vải lau bóng khôi phục vẻ lộng lẫy sáng chói ban đầu cho cây bút, ông ta đặt nó trở lại ngai vàng.

“Có lẽ để hôm khác,” cha tôi lầm bầm.

Sau khi quay ra phố, cha tôi hạ giọng nói rằng với cái giá chủ tiệm đưa ra thì chúng tôi không thể nào trả nổi. Thu nhập từ tiệm sách chỉ đủ giúp cha con tôi trang trải cuộc sống và cho tôi theo học một trường tử tế. Chiếc bút Montblanc của Victor Hugo có lẽ phải đợi thêm ít lâu nữa. Tôi không nói gì, nhưng có lẽ cha cũng để ý thấy sự thất vọng của tôi.

“Cha bảo thế này nhé,” ông đề nghị. “Khi nào con đủ lớn để bắt đầu viết lách, chúng ta sẽ quay lại mua chiếc bút ấy.”

“Thế lỡ có ai đó mua mất rồi thì sao?”

“Sẽ chẳng có ai mua cây bút ấy đâu, cha dám chắc. Mà nếu lỡ như thế, chúng ta có thể nhờ Don Federico làm một cái tương tự. Ông ấy đó có đôi tay của một nghệ nhân.”

Don Federico là thợ sửa đồng hồ trong khu, là khách hàng không mấy thường xuyên của tiệm sách nhà tôi, đồng thời bác có lẽ là người đàn ông nhã nhặn lịch duyệt nhất trên khắp Bắc Bán Cầu này. Danh tiếng nghệ nhân xuất chúng của bác vang từ khu phố Ribera tới tận chợ Ninot. Một danh tiếng khác cũng “ám quẻ” Federico, lần này là do một bản chất ít lành mạnh hơn của bác, nó liên quan đến thiên hướng tình ái luôn chết mệt những chàng trẻ trung lực lưỡng thuộc tầng lớp vô sản giàu nam tính và thích trưng diện bóng bẩy kiểu siêu sao ca nhạc Estrellita Castro.

“Thế lỡ ngài Federico không có đúng dụng cụ để làm việc ấy?” tôi hỏi cha, không hay biết rằng đối với một đôi tai kém phần trong sáng, câu hỏi đó nghe dung tục.

Cha tôi nhướng một bên mày, vẻ lo âu rằng đôi ba lời đồn thổi đầy ác ý không chừng đã làm nhơ sự ngây thơ của tôi.

“Don Federico biết rất sâu rộng về những gì có liên quan đến người Đức, ông ấy thậm chí có thể chế tạo một chiếc Volkswagen nếu thực sự để tâm. Cơ mà, cha cũng muốn tìm hiểu xem thời Victor Hugo người ta đã dùng bút máy chưa. Thời nay nhiều kẻ lừa đảo lắm.”

Sự hăng hái muốn chứng thực bằng lịch sử của cha tôi làm tôi mất hứng. Tôi ngoan cố đặt niềm tin vào quá khứ lẫy lừng của cây bút, cho dẫu nhờ Don Federico làm một chiếc bút tương tự thay thế đối với tôi cũng không hẳn là một ý kiến tồi. Sẽ có đủ thời gian để vươn được tới tầm vóc của Victor Hugo. An ủi thay cho tôi, và đúng như dự đoán của cha, cây Montblanc ấy vẫn nằm lại hàng năm trời sau cửa kính của tiệm bút, nơi chúng tôi ghé qua đều đặn mỗi sáng thứ Bảy.

“Nó vẫn còn đó,” lần nào tôi cũng sửng sốt nói vậy.

“Nó đang chờ con mà,” cha tôi luôn đáp lại cùng một câu. “Nó biết rồi một ngày nào đó sẽ thuộc về con và con sẽ dùng nó để viết ra một kiệt tác.”

“Con muốn viết một bức thư. Cho mẹ. Để mẹ không phải thấy cô đơn.”

Cha khích lệ tôi. “Mẹ con không cô đơn đâu, Daniel. Mẹ ở với Chúa. Và ngay cạnh chúng ta nữa, dù ta không thể nhìn thấy mẹ.”

Cũng chính cái luận lý tương tự đã được truyền dạy cho chúng tôi ở trường từ miệng Cha Vicente, một thầy tu Dòng Tên tinh thông việc diễn giải tất thảy những bí mật của vũ trụ - từ chiếc máy hát cho đến cơn đau răng – bằng cách trích dẫn Phúc âm của Thánh Matthew. Vậy nhưng, khi tuôn ra từ miệng cha tôi, những lời ấy nghe trống rỗng làm sao.

“Vậy Chúa đem mẹ đi là vì mục đích gì?”

“Cha cũng không biết. Nếu ngày nào đó gặp được Người, chúng ta hãy hỏi thử xem.”

Rốt cuộc tôi cũng từ bỏ ý tưởng về lá thư tới thiên đường và kết luận rằng, thay vì làm vậy, có lẽ tôi nên bắt đầu với kiệt tác của mình – như vậy sẽ thực tế hơn. Thay cho sự vắng bóng của chiếc bút máy, cha cho tôi mượn một cây bút chì Staedtler 2B, để tôi nguệch ngoạc vào một cuốn sổ nhỏ. Chẳng mấy ngạc nhiên, câu chuyện của tôi kể về một chiếc bút máy phi thường, giống y trang cây bút ở cửa tiệm, chỉ khác ở chỗ nó bị ma ám. Cụ thể hơn, cây bút bị linh hồn đầy thống khổ của chủ nhân trước kia đeo bám, một tiểu thuyết gia đã lìa đời vì đói rét. Khi bút rơi vào tay một anh sinh viên tập sự, nó một mực đòi được viết lại từ đầu tác phẩm cuối còn dang dở mà nhà văn đã không thể hoàn thành khi còn sống. Tôi không nhớ từ đâu mình nảy ra ý tưởng đó, nhưng về sau không bao giờ tôi nghĩ ra được ý tưởng nào khác tương tự nữa. Mọi cố gắng muốn tái tạo cuốn tiểu thuyết ấy trên các trang cuốn sổ tay đều đem lại kết quả thảm hại. Cú pháp tôi viết ra bị nhiễm trọng bệnh thiểu năng sáng tạo, và những hình ảnh ẩn dụ tôi sử dụng gợi nhớ đến mớ quảng cáo bồn ngâm chân sủi bọt hay đọc thấy tại các trạm dừng xe điện. Tôi đổ lỗi tại chiếc bút chì và khao khát cây bút mực kia, thứ được hứa hẹn chắc chắn sẽ biến tôi thành một đại văn hào.

Cha tôi dõi theo quá trình tiến triển loằng ngoằng của con trai với một chút lo âu pha lẫn tự hào.

“Câu chuyện tiếp diễn thế nào rồi

“Con không biết nữa. Con nghĩ nếu có cây bút kia mọi thứ sẽ khác hẳn.”

Cha bèn nói rằng kiểu lý luận đó chỉ nảy ra với một tác giả mới vào nghề. “Cứ tiếp tục đi, rồi đến khi con hoàn thiện tác phẩm đầu tiên, cha sẽ mua cây bút ấy cho con,”

“Cha hứa nhé?”

Cha tôi luôn đáp lại bằng một nụ cười. May thay cho ông, mộng ước văn chương của tôi đã mau chóng tiêu tan và bị gọt nhỏ để chỉ là một lời tuyên bố hung hồn không hơn không kém. Nhân tố góp phần cho thay đổi này là việc khám phá ra đồ chơi tự động và đủ thứ lặt vặt khác vô cùng mới lạ có thể dễ dàng tìm thấy tại khắp các sạp bán đồ tạp hoá dọc chợ Encantes, với mức giá rất phù hợp với khả năng tài chính của cha tôi. Lòng đam mê thời niên thiếu thường sản sinh ra những người tình thiếu vững vàng, dễ đổi thay: chẳng bao lâu tôi chỉ còn để mắt tới đồ chơi lắp ráp và thuyền lên dây cót. Tôi không còn đòi cha dẫn đi xem cây bút của Victor Hugo, mà cha cũng chẳng hề đả động tới chuyện đó nữa. Thế giới ấy như thể đã hoàn toàn tan biến, nhưng trong một thời gian dài hình ảnh tôi lưu giữ về cha, mà tới tận bây giờ vẫn còn đó trong lòng, là bóng dáng một người đàn ông gày gò mặc bộ vét cũ rộng quá khổ cùng chiếc mũ cũng là đồ cũ kiếm được trên phố Condal với giá bảy peseta, một người đàn ông không thể mua cho con trai mình cây bút tồi tàn vô dụng nhưng lại dường như là tất cả đối với thằng bé.

Tối đó, sau khi rời Clara và thư viện Ateneo về nhà, tôi thấy cha đang đợi mình trong phòng ăn, khuôn mặt ông vẫn khoác cái vẻ âu lo và chịu trận như thường lệ.

“Cha tưởng con lạc ở đâu rồi chứ,” ông nói. “Tomás Aguilar có gọi tới. Cậu ấy nói hai đứa đã hẹn gặp nhau. Con quên rồi sao?”

“Thì tại Barceló. Hễ ông ta nói cái gì thì chẳng thể nào ngừng được,” tôi đáp, vừa nói vừa gật gù. “Con chẳng biết làm thế nào để dứt được khỏi ông ta.”

“Barceló là người tốt, nhưng không biết điểm dừng. Con hẳn là đói rồi. Merceditas mang tới chia một phần xúp mà cô ấy nấu cho mẹ mình. Con bé ấy đúng là thiên thần.”

Hai cha con ngồi xuống bàn thưởng thức đồ do Merceditas đem tặng. Chị là con gái của bà trên tầng ba, mọi người vẫn cho rằng chị sẽ thành một cô xơ, rồi nữ thánh, mặc dù hơn một lần tôi từng thấy chị với một anh thuỷ thủ lành nghề, anh này thi thoảng lại tiễn chị về tiệm sách. Lần nào Merceditas cũng nhấn chìm anh ta trong những nụ hôn.

“Tối nay trông con trầm ngâm quá,” cha tôi nói, cố gắng khơi cuộc chuyện trò.

“Có lẽ do trời nồm quá, độ ẩm làm cho não ta ‘nở ra’. Barceló nói như vậy.”

“Hẳn phải có lý do gì khác. Có gì không ổn sao, Daniel?”

“Không, con chỉ suy nghĩ thôi.”

“Về gì?”

“Cuộc nội chiến.”

Cha tôi ủ rũ gật đầu và nhấm nháp phần súp của mình trong yên lặng. Ông là một người rất riêng tư, mặc dù sống trong quá khứ, ông hầu như không mấy khi nhắc về nó. Tôi đã lớn lên trong niềm tin rằng diễn tiến chậm chạp của những năm hậu chiến, một thế giới trì trệ, nghèo đói và những oán hận âm thầm, nó cũng tự nhiên như nước chảy khỏi vòi, rằng nỗi buồn câm lặng rỉ từ những bức tường trong thành phố đầy thương tích này là khuôn mặt thật sự của tâm hồn nó. Một trong những cạm bẫy của tuổi thơ là đứa trẻ chẳng cần phải hiểu mới cảm nhận thấu điều gì đó. Tới khi trí não đủ sức lĩnh hội những gì đã xảy ra, thì những vết thương lòng đã hằn quá sâu rồi. Buổi tối cái ngày chớm hè ấy, khi bước xuyên qua ánh chạng vạng ảm đạm huyễn mị của Barcelona, tôi không thể nào ngăn trí óc mình thoát khỏi câu chuyện của Clara và sự biến mất của cha cô. Trong thế giới của tôi, cái chết như một bàn tay vô danh và không thể nào cắt nghĩa, một kẻ chào hàng tận nhà đến cướp đi các bà mẹ, người ăn xin, hay những cụ hàng xóm ngót chín chục tuổi, chẳng khác gì một trò xổ số từ địa ngục. Nhưng tôi vẫn không thể hấp thu được ý nghĩ cái chết rất có thể đang song hành cùng tôi, với khuôn mặt người và trái tim nhuốm độc lòng căm ghét, rằng cái chết có thể khoác bộ đồng phục hay chiếc áo mưa, xếp hàng trước rạp chiếu phim, cười nói tại quầy bar hay đưa con đi tản bộ trong công viên Ciudadela vào buổi sáng, để rồi chiều đến thì làm cho ai đó biến mất vĩnh viễn trong ngục tối lâu đài Montjuïc hay dưới những nấm mồ bần cùng, tên tuổi không, nghi lễ cũng không. Ngẫm lại toàn bộ điều đó, trong lòng tôi chợt nảy ra ý nghĩ rằng phải chăng cái thế giới giấy bồi mà tôi vẫn mặc nhiên chấp nhận là thực tại kia chẳng qua chỉ là một sân khấu được sắp sẵn. Cũng như giờ đến các chuyến tàu hTây Ban Nha, trong những tháng năm bị đánh cắp ấy, ta chẳng bao giờ biết khi nào thì tuổi thơ của mình chấm dứt.

Hai cha con chia nhau món xúp, vốn là nước dùng chắt ra từ món ăn thừa nấu lẫn với vài mẩu bánh mì, bao trùm không gian là giọng đọc kịnh truyền thanh không trầm bổng mà nhừa nhựa lọt ra từ những khung cưa sổ mở hướng về phía quảng trường nhà thờ.

“Kể cho cha xem. Hôm nay mọi chuyện với Gustavo thế nào?”

“Con gặp cháu của ông ấy, Clara.”

“Cô gái mù ấy hả? Cha nghe nói cô ta đẹp lắm,”

“Con không rõ. Con không để ý mấy cái đó.”

“Không thì hơn.”

“Con nói là có thể ngày mai đến thăm nhà họ, sau khi tan học, để đọc sách cho cô ấy nghe – vì Clara rất cô đơn. Đấy là nếu cha cho phép.”

Cha nhìn tôi đầy hồ nghi, dường như đang phân vân không rõ có phải ông đã sớm già trước tuổi hay tôi đang lớn quá nhanh. Tôi quyết định đổi hướng cuộc trò chuyện, và điều duy nhất tôi nghĩ tới được chính là chủ đề mình vẫn đang bị ám ảnh.

“Có phải hồi xảy ra cuộc nội chiến, rất nhiều người đã bị đem tới nhốt tại lâu đài Montjuïc và từ đó biệt tích luôn?”

Cha bình thản nuốt một thìa đầy xúp rồi chằm chằm nhìn tôi, nụ cười thoáng nhoẻn trên môi ông rồi trôi tuột mất.

“Ai kể cho con vậy, Barceló à?”

“Không, là Tomás Aguilar. Cậu ấy hay kể chuyện này nọ ở trường.”

Cha tôi gật đầu chầm chậm.

“Trong thời chiến, có những chuyện xảy ra rất khó lý giải, Daniel ạ. Thường thì ngay cả cha cũng chẳng rõ chúng có ý nghĩa gì. Đôi khi tốt hơn hết cứ để mặc mọi chuyện như vậy.

Ông thở dài rồi nhấp xúp chẳng mấy ngon lành. Tôi chỉ nhìn cha mà không nói gì.

“Trước khi qua đời, mẹ con đã bắt cha hứa rằng không bao giờ kể với con về cuộc chiến, rằng cha không được để con nhớ về bất cứ điều gì đã xảy ra khi đó.”

Tôi không biết phải trả lời ra sao. Cha tôi hơi nhíu mắt lại, như thể đang kiếm tìm gì đó trong không trung – những ánh nhìn, khoảng câm lặng, hoặc có thể là mẹ tôi – hòng chứng thực cho điều ông vừa nói.

“Đôi khi cha nghĩ mình đã sai khi nghe lời mẹ con. Cha chẳng biết nữa.”

“Không sao đâu mà, cha…”

“Không, có sao chứ, Daniel. Chẳng gì còn như cũ sau một cuộc chiến. Và đúng, đúng là có vô số người đã vào lâu đài đó mà không bao giờ trở ra được.”

Mắt chúng tôi gặp nhau trong thoáng chốc. Sau một hồi, cha tôi ngồi dậy trốn vào nương náu trong phòng ngủ của ông. Tôi dọn bát đĩa, đặt vào bồn rửa bát nhỏ bằng đá hoa rồi rửa sách. Trở về phòng khách, tôi tắt đèn và ngồi xuống chiếc ghế bành cũ của cha. Từ ngoài phố, cơn gió thoảng thổi rèm đung đưa. Tôi không thấy buồn ngủ, cũng chẳng hề cố để rơi vào giấc ngủ. Tôi ra ngoài ban công và giương mắt về nơi xa đủ để thấy quầng sáng mờ đục hắt ra từ những chiếc đèn đường bên khu Puerta del Ángel. Một bóng hình bất động đứng trong mảng tối trên con phố rải sỏi. Ánh hổ phách lập loè từ điếu thuốc lá phản chiếu trong đôi mắt hắn ta. Người đó mặc toàn quần áo màu đen, một tay giấu trong túi áo vét, tay kia giữ điếu thuốc lá đang dệt một tấm mạng khói xanh xám bao lấy khuôn mặt. Hắn lẳng lặng quan sát tôi, khuôn mặt khuất sáng bởi ánh đèn đường hắt từ phía sau. Hắn chôn chân tại đó chừng một phút, hờ hững hút thuốc, mắt không rời tôi. Rồi, khi chuông nhà thờ điểm đúng nửa đêm, bóng hình ấy khẽ gật đầu, theo sau đó là, như tôi cảm nhận được, một nụ cười mà không thể nhìn thấy. Tôi muốn đáp trả lời chào hỏi đó, nhưng người cứ đờ ra. Bóng hình đó quay người, và tôi thấy người đàn ông bước đi xa dần, một chân hơi khập khiễng. Nếu là vào bất cứ đêm nào khác, rất có thể tôi sẽ chẳng mấy chú ý đến sự hiện diện của kẻ lạ đó, nhưng ngay khi người đàn ông vừa khuất bóng trong sương mù, tôi thấy trán mình đổ mồ hôi lạnh và đâm khó thở. Tôi đã đọc một đoạn miêu tả cảnh tương tự trong cuốn Bóng hình của gió. Trong câu chuyện, mỗi tối nhân vật chính đều ra đứng tại ban công lúc nửa đêm phát hiện ra một kẻ lạ đang quan sát mình từ trong những mảng khuất sáng, hững hờ hút thuốc. Khuôn mặt kẻ lạ ấy luôn được bóng tối giấu đi, và trong đêm đen chỉ đôi mắt hắn là có thể mường tượng ra, chúng cháy sáng như than hồng. Kẻ lạ cứ đứng đó, tay phải dúi trong túi áo vét màu đen, rồi thì hắn quay đi, khập khiễng. Trong cảnh tôi vừa được chứng kiến, người lạ kia có thể là bất cứ ai trong đêm tối, một bóng hình vô diện và vô danh. Trong tiểu thuyết của Carax, bóng hình ấy là ác quỷ.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 6


MỘT GIẤC NGỦ SAU, không mộng mị và viễn cảnh được gặp lại Clara vào buổi chiều đã thuyết phục tôi rằng chuyện mình nhìn thấy hôm qua chỉ đơn thuần là trùng hợp. Có lẽ cơn bộc phát trí tưởng tượng bất chợt và háo hức ấy chỉ là phản ứng phụ của chặng phát triển nước rút tôi vẫn đang ngóng chờ, cái mốc mà theo lời cánh phụ nữ sống cùng khu nhà thì sẽ biến tôi thành một người đàn ông, nếu không được hơn người thì ít nhất cũng đạt tới chiều cao kha khá. Đúng bảy giờ, vận bộ quần áo đẹp nhất thường chỉ dành cho Chủ nhật, người đẫm mùi nước hoa Varón Dandy mượn của cha, tôi xuất hiện trước nhà Gustavo Barceló, sẵn sàng cho buổi ra mắt đầu tiên với tư cách người đọc sách riêng kiêm con sâu phòng khách. Tay buôn sách và cô cháu gái sống tại một căn hộ sang trọng trên khu Quảng trường Hoàng gia[1]. Một cô hầu gái mặc đồng phục, đội mũ trắng với ánh nhìn vô cảm của nhà binh, ra mở cửa cho tôi, phong cách phục vụ quá mức kiểu cách.

[1. Nguyên gốc: Piaza Real.]

“Cậu Daniel phải không ạ,” cô ta nói. “Tôi là Bernarda, sẵn lòng phục vụ.”

Bernarda cố làm bộ ra cái giọng trang trọng mà vẫn không giấu hết được ngữ điệu vùng Cáceres đặc sệt dễ chừng phết lên được cả bánh mì nướng. Một cách phô trương và long trọng, chị ta dẫn tôi đi dọc khắp dinh cơ của Barceló. Căn hộ, vốn nằm ở tầng trệt, lượn quanh toà nhà tạo thành một chuỗi những hành lang, phòng khách và lối đi mà với tôi, kẻ vốn quen với căn hộ khiêm nhường của gia đình mình trên phố Santa Ana, nom như thể mô hình thu nhỏ của lâu đài Escorial tráng lệ. Rõ ràng là ngoài sách, cổ tịch và đủ loại thư liệu kỳ bí, Don Gustavo còn sưu tầm tượng tranh, và cả tranh thờ, ấy là chưa kể đến một hệ động thực vật vô cùng đông đảo. Tôi theo chân Bernarda xuyên qua hành lang chật ních những tán lá và sinh vật nhiệt đới. Một dải sáng vàng đùng đục lững lờ chiếu xuyên qua vách kính hành lang, tiếng piano uể oải lơ lửng trong không khí. Bernarda xăm xăm xẻ lối qua khu rừng, vung hai cánh tay rắn rỏi như của phu khuân vác chẳng khác gì vung đôi rựa. Tôi theo sát gót chị ta, cùng lúc ngắm nghía mọi thứ xung quanh và chú ý thấy sự hiện diện của chừng năm sáu con mèo và ba chú vẹt mào (màu sắc sặc sỡ cùng hình dáng đủ loại kích cỡ), cô đầy tớ trịnh trọng giải thích rằng, đó là ngài Barcelo đã đặt tên cho là Ortega và Gasset[2]. Clara đang ngồi đợi tôi trong căn phòng khách ở phía bên kia khu rừng, hướng ra quảng trường. Quấn mình trong lớp váy có tông trong mờ màu ngọc lam, đối tượng của lòng khao khát rối bời trong tôi đang chơi piano dưới ánh nắng yếu ớt hắt xuống từ ô cửa sổ trên trần đầy hình đoá hoa hồng. Clara chơi tồi, không có lấy chút nhạy cảm về giai điệu và sai đến phân nửa số nốt nhạc, nhưng với tôi, khúc nhạc chiều cô chơi là thiên đường êm dịu. Tôi thấy Clara ngồi thẳng người bên bàn phím, miệng cười mỉm và đầu khẽ nghiêng sang bên, cô trông như thể hình hài nào đó chỉ có ở thiên đường. Tôi định hắng giọng thông báo sự hiện diện của mình, nhưng mùi nước hoa thoang thoảng đã phản lại tôi. Clara đột nhiên dừng chơi, một nụ cười bẽn lẽn sáng lên trên gương mặt cô.

[2. José Ortega y Gasset (1883-1955), triết gia nổi tiếng người Tây Ban Nha, ông từng nói một câu “Không có tự nhiên, chỉ có lịch sử”.]

“Trong giây lát tôi cứ tưởng em là ông bác tôi chứ,” cô nói. “Bác ấy cấm tôi không được chơi Mompou[3] vì những gì tôi làm với nhạc của ngài ấy chẳng khác gì báng bổ.”

[3. Federico Mompou (16/4/1893 – 30/5/1987): nhạc sĩ lớn người Tây Ban Nha.]

Ngài Mompou duy nhất mà tôi biết là ông linh mục hốc hác có thói huênh hoang dạy chúng tôi môn lý hoá ở trường. Kết quả của việc tổng hợp hai chi tiết đó đối với tôi vừa thật méo mó vừa hoàn toàn không thể nào có thật.

“Em lại nghĩ cô chơi thật tuyệt.”

“Tôi không cho là như vậy. Bác tôi là một người say mê âm nhạc thực sự, thậm chí bác ấy còn thuê hẳn một giáo viên âm nhạc để giúp tôi cải thiện trình độ - một nhà soạn nhạc trẻ tuổi đang bộc lộ nhiều triển vọng tên là Adrián Neriừng học tại Paris và Vienna. Em phải gặp anh ấy mới được. Adrián đang viết một bản giao hưởng mà sắp tới đây sẽ được dàn nhạc giao hưởng thành phố Barcelona trình diễn ra mắt – bác anh ấy giữ một chân trong ban điều hành dàn nhạc. Đó là một thiên tài.”

“Ông bác hay là gã cháu ạ?”

“Đừng xấu tính như thế, Daniel. Tôi dám chắc em sẽ mê Adrián như điếu đổ.”

Nhiều khả năng anh ta sẽ đổ xuống đầu tôi như một chiếc đại dương cầm bồ nhào từ trên tầng bảy xuống đất thì có, tôi nghĩ.

“Em ăn chút bánh chứ?” Clara mời tôi. “Bernarda làm bánh quế xốp ngon đến nghẹt thở đấy.”

Chúng tôi ăn bữa nhẹ ban chiều như ông hoàng bà hoàng, ngốn ngấu tất thảy những món người hầu gái bày ra trước mắt. Tôi chẳng biết gì về chuyện trong một dịp không mấy quen thuộc này thì nghi thức là gì nên chẳng biết phải cư xử ra sao cho đúng. Clara, vốn dường như luôn đoán biết được tôi đang nghĩ gì, bèn gợi ý rằng tôi hãy đọc Bóng hình của gió bất cứ khi nào thấy thích, và tốt nhất tôi nên đọc từ phần mở đầu. Thế là, cố bắt chước giọng nói văn vẻ khoa trương mà phát thanh viên kênh Truyền thanh Quốc gia dùng để đọc các đoản văn yêu nước trên trong chương trình phát sóng sau buổi Cầu kinh trưa, tôi quăng mình vào nhiệm vụ tái hiện ngôn từ của cuốn thiểu thuyết. Giọng tôi, tuy ban đầu có hơi cứng, dần dà cũng thoải mái hơn, chẳng mấy chốc tôi quên cả bản thân mà một lần nữa bị nhấn chìm vào dòng kể chuyện, khám phá thêm được những nhịp phách, những cụm từ diễn đạt nhịp nhàng tuôn chảy như những điệu thức âm nhạc, những bí ẩn hóc búa cấu thành bởi âm sắc và khoảng lặng mà tôi đã không chú ý tới trong lần đọc đầu tiên. Những chi tiết mới, những dòng hình ảnh và sự kiện không ngừng tiếp nối nhau xuất hiện giữa những dòng in, những hình hài tinh khôi cứ tự mình bộc lộ, giống như cấu trúc một toà nhà nhìn từ những góc khác nhau. Tôi đọc không ngừng trong khoảng một tiếng đồng hồ, kết thúc được năm chương, cho tới khi cổ họng rát khô và hơn nửa chục đồng hồ hoà âm reo vang khắp mọi ngóc ngách căn hộ, nhắc nhở tôi rằng trời đang trở muộn. Gấp sách lại, tôi nhận thấy Clara đang điềm tĩnh cười với mình.

“Nó có đôi chút gợi tôi nhớ lại Ngôi nhà màu đỏ,” cô nói. “Nhưng câu chuyện này có vẻ đỡ tăm tối hơn.”

“Cô đừng vội tin như vậy,” tôi nói. “Đây mới chỉ là khởi đầu thôi. Cà mọi thứ càng trở nên phức tạp.”

“Em phải đi rồi đúng không?” Clara hỏi.

“Em e là như vậy. Không phải em muốn đâu, nhưng…”

“Nếu không có việc gì khác, mai em lại đến nhé,” cô gợi ý. “Nhưng tôi không muốn lợi dụng em chút nào.”

“Sáu giờ nhé?” tôi đề nghị. “Như vậy chúng ta sẽ có thêm thời gian.”

Cuộc hẹn ấy tại phòng âm nhạc của căn hộ trên Quảng trường Hoàng gia đã trở thành khởi đầu cho nhiều buổi hẹn khác về sau diễn ra trong suốt mùa hè năm 1945 và nhiều năm tiếp theo đó. Chẳng mấy chốc, các cuộc viếng thăm của tôi gần như chuyển thành đều đặn hằng ngày, ngoại trừ thứ Ba và thứ Năm, những hôm Clara có buổi học nhạc với Adrián Neri. Tôi dành hàng giờ tại đó, và chẳng bao lâu tôi đã nhớ nằm lòng từng căn phòng, hành lang, từng cái cây trồng trong khu rừng của Don Gustavo. Bóng hình của gió đồng hành cùng chúng tôi được khoảng hai tuần, sau đó Clara và tôi cũng chẳng gặp mấy khó khăn khi tìm những cuốn kế tiếp để choáng trọn giờ đọc sách. Barceló sở hữu một thư viện hoành tráng, và, với khao khát thưởng thức thêm những cuốn sách tương tự của Julián Carax, chúng tôi thong thả diễu qua hàng chục tác phẩm kinh điển hạng hai, những cuốn tầm tầm hạng nhất. Có những buổi chiều chúng tôi hầu như không đọc sách, mà dành thời gian chỉ chuyện trò hay thậm chí cùng nhau ra ngoài tản bộ quanh quảng trường hoặc đến tận thánh đường. Clara rất thích lặng yên ngồi lắng nghe tiếng lầm rầm từ những người đi lại trong tu viện và đoán số người qua tiếng bước chân vọng tới trên các hành lang bằng đá. Cô yêu cầu tôi mô tả mặt tiền những ngôi nhà, con người, xe cộ, cửa tiệm, trụ đèn và quầy kính bày hàng mà chúng tôi đi qua. Thường cô hay nắm tay tôi để tôi dẫn bước qua một Barcelona riêng của cả hai, Barcelona mà chỉ cô và tôi thấy được. Chúng tôi luôn dừng lại trước một tiệm chuyên bán sản phẩm từ bơ sữa trên phố Petritxol, chia nhau bát kem đặc hay một cốc sô cô la nóng kèm những chiếc bánh quy xốp hình móng tay. Đôi khi người ngoài nhìn chúng tôi với đầy vẻ ngờ vực, và không chỉ một tay phục vụ cái-gì-cũng-biết gọi Clara là “chị gái của cậu”, nhưng tôi chẳng để tâm chút nào tới những lời giễu cợt và bóng gió của họ. Những lần khác, tôi không rõ là bởi ác tâm hay vì bệnh hoạn, Clara ra vẻ tin cẩn thổ lộ, cô kể ra những bí mật khó tin mà tôi không biết phải tiếp nhận ra sao. Một trong những chủ đề yêu thích của Clara là câu chuyện về một người lạ, rằng đôi lần người đó tiến đến gần bên khi Clara đang một mình trên phố và nói với cô bằng chất giọng đục khàn. Con người bí hiểm này, không bao giờ tự xưng tên, tra về Don Gustavo và thậm chí cả về tôi. Có một lần hắn ta còn siết cổ Clara. Những câu chuyện như vậy hành hạ tôi không thương xót. Lần khác, Clara kể rằng đã cầu xin người được cho là kẻ lạ đó cho phép cô cảm nhận khuôn mặt hắn bằng đôi tay của mình. Hắn không đáp lại, và Clara coi đó là một sự ưng thuận. Khi cô vươn cánh tay lên rờ khuôn mặt hắn, kẻ lạ đột nhiên ngăn lại, nhưng Clara vẫn kịp cảm nhận thứ gì đó mà cô nghĩ là da thuộc.

“Cứ như hắn mang một cái mặt nạ bằng da vậy,” cô nói.

“Cô tự nghĩ ra chuyện đó mà thôi, Clara.”

Clara sẽ lại thề lên thề xuống rằng đó là sự thật, và tôi đành đầu hàng, cứ mãi bị hành hạ bởi hình bóng mơ hồ của kẻ thấy khoái lạc khi được mơn trớn chiếc cổ thiên nga của Clara – và có Chúa mới biết còn mơn trớn gì khác nữa – trong khi tất cả những gì tôi có thể làm là ao ước được như thế. Giá khi ấy tôi dành chút thời gian ngẫm kỹ, không chừng tôi đã nhận ra sự tận tâm của mình với Clara chẳng đem lại gì khác cho tôi ngoài dằn vặt đau đớn. Có lẽ cũng chính vì lý do đó mà tôi càng tôn sùng cô hơn, bởi điều xuẩn ngốc vĩnh viễn của con người là không ngừng theo đuổi kẻ khiến hắn tổn thương nhất. Trong suốt mùa hè ảm đạm sau cuộc nội chiến, điều duy nhất tôi ngay ngáy sợ là lúc phải nhập trường theo học kỳ mới, khi ấy tôi sẽ không còn có thể dành cả ngày bên Clara được nữa.

***

BỞI THƯỜNG XUYÊN thấy tôi đến viếng thăm can hộ, Bernarda, người mà vẻ ngoài khắt khe cố che lấp bản năng khao khát làm mẹ, đã dần trở lên yêu thích tôi, và theo cách riêng của mình, chị ta quyết định nhận đỡ đầu cho tôi.

“Thật dễ thấy cậu bé này không có mẹ, thư ngài,” Bernarda nói vậy với Barceló. “Tôi thấy thương nó quá, thằng nhỏ tội nghiệp.”

Bernarda đến Barcelona không lâu sau khi cuộc nội chiến kết thúc, chạy trốn khỏi nghèo đói và khỏi một người cha hễ cứ bất chợt ngày đẹp trời nào đó lại đánh đập chị thậm tệ rồi rủa chị là đồ ngu đần, xấu xí và hư hỏng; còn những ngày xấu trời, khi say khướt lão ta sẽ dồn chị lại trong một góc chuồng lợn mà sờ soạng cho đến khi chị phải khóc thét lên vì khiếp hãi – khi ấy lão mới chịu buông tha, miệng không ngừng chửi Bernarda là làm cao và ngạo mạn y chang bà mẹ. Barceló tình cờ gặp Bernarda khi chị đang làm việc tại một quầy bán rau trong chợ Borne và, nghe theo trực giác, ông nhận chị vào làm việc trong căn hộ nh

“Chúng ta sẽ tạo dựng một vở Pygmalion hoàn toàn mới,” ông ta tuyên bố. “Cô sẽ là Eliza của tôi và tôi sẽ là giáo sư Higgins chủ cô[4].”

[4. Ý muốn nhại nội dung vở kịch kinh điển Pygmalion của kịch tác gia George Bernard Shaw, trong đó nhân vật chính là giáo sư Henry Higgins đã đặt ra mục tiêu rèn luyện cô gái bán hoa quê mùa Eliza trở thành một mệnh phụ sang trọng.]

Bernarda, người mà thị hiếu văn chương chỉ dừng ở mức thoả mãn với những bản tin truyền đạo của nhà thờ, liếc nhìn Barceló. “Tuy nghèo túng và dốt nát nhưng tôi cũng biết thế nào là khuôn phép thưa ông,” chị nói.

Barceló chắc chắn không được như kịch tác gia George Bernard Shaw, nhưng dù không thể ban tặng cho học trò của mình khả năng hùng biện và tâm hồn của một thiếu nữ văn chương, những nỗ lực của ông cũng rèn giũa được Bernarda và giúp chị nằm lòng điệu bộ cũng như cung cách ăn nói của một người hầu gái thành thị. Bernarda khi ấy hai mươi tám, nhưng với tôi chị cứ như phải vác gánh nặng hơn mười năm đằng đẵng trên lưng, cho dù điều đó chỉ thể hiện qua đôi mắt chị. Bernarda thường xuyên đi lễ nhà thờ và tận tâm nhiệt thành với nhà thờ Đức Mẹ Lộ Đức[5]. Mỗi sáng cứ đúng tám giờ chị đều lui tới Vương cung Thánh đường của nhà thờ Santa María del Mar và nhận việc tình nguyện ở đó, và chị xưng tội ban tuần một lần, bốn lần những khi trời ấm. Don Gustavo, kẻ vốn sùng bái thuyết bất khả tri (Bernarda ngờ rằng đó là tình trạng bất ổn gì đó liên quan đến đường hô hấp, như là bệnh suyễn, nhưng chỉ những đức ông tao nhã mới bị nhiễm), nhận định rằng, về mặt chính xác toán học, không thể có chuyện cô hầu gái nhà mình phạm phải nhiều tội đến mức phải tuân thủ cái lịch xưng tội và hối lỗi dày đặc như vậy.

[5. Lourdes (tên tiếng Việt: Lộ Đức) là một thành phố nhỏ miền Tây Nam nước Pháp. Thành phố này được nhiều người trên thế giới biết đến nhờ sự hiền lành của đức Mẹ Maria tại đây hơn 150 năm về trước.]

“Cô đáng quý như vàng vậy, Bernarda,” ông thường nói với vẻ căm phẫn. “Bọn người ngoài kia gây tội ác khắp nơi, đều bệnh hoạn trong tâm hồn và nếu cô hỏi tôi thì tôi nói thực, thậm chí trong lòng ruột chúng cũng phạm tội nữa. Căn bệnh đặc hữu của các vị thánh xứ Iberia này là táo bón mãn tính

Mỗi lần nghe những lời báng bổ như thế, Bernarda bèn làm đi làm lại dấu thánh đến năm lần. Sau đó, khi đêm xuống, chị sẽ cầu nguyện cho linh hồn bị nhuốm bẩn của Tôn ông Barceló, người vốn sở hữu một trái tim nhân hậu nhưng đầu óc đã bị mục ruỗng bởi đọc nhiều đến mức ngộ chữ, giống như cái gã Sancho Panza[6] ấy. Rất đỗi thường xuyên, Bernarda luôn vớ phải những gã bạn trai đánh đập chị tàn tệ, trắng trợn cướp đi số tiền ít ỏi chị dành dụm được trong ngân hàng, rồi chẳng chóng thì chày bọn chúng đều bỏ rơi chị. Mỗi lần như vậy, Bernarda lại giam mình nhiều ngày trong phòng, nơi chị thoả sức khóc ra cả đại dương nước mắt và thề sẽ tự tử bằng thuốc chuột hay thuốc nhuộm. Sau khi dùng đến sạch sành sanh những mánh lới thuyết phục mà chẳng đạt chút hiệu quả nào, lúc này Barceló thật sự hoảng lên bèn cho người gọi thợ khoá đến phá cửa. Sau đó sẽ tới lượt bác sĩ gia đình kê ra một đơn thuốc an thần mạnh đến mức ngay cả một cọn ngựa cũng phải im lặng. Khi cái sinh linh đáng thương tỉnh dậy hai hôm sau đó, tay buôn sách sẽ mua cả đống hoa hồng, sô cô la, một chiếc váy mới, lại còn đưa chị tới rạp chiếu bóng xem bộ phim mới nhất của Cary Grant, người mà theo quan điểm của Bernarda là đẹp trai nhất trong lịch sử loài người.

[6. Sancho Panza là người hầu của Don Quixote trong tác phẩm cùng tên của Miguel de Cervantes Saavedra. Người đọc nhiều đến mức tâm thần ở đây đáng ra phải là Don Quixote, nhưng do Bernarda không hiểu biết nên nhầm lẫn hết cả.]

“Ngài biết không? Người ta đồn rằng Cary Grant là người kẻ đồng tính,” Bernarda lẩm bẩm, miệng nhét đầy sô cô la, “điều đó có thật không?”

“Rác rưởi,” Barceló nguyền rủa. “Những kẻ trì độn và ngu dốt chỉ biết sống trong ghen ăn tức ở.”

“Ngài nói hay lắm. Quả đúng là ngài đã từng theo học cái trường đại học danh giá Sorbet gì đó.”

“Trường Sorbonne,” Barceló đáp, nhẹ nhàng sửa lại cho đúng.

Thực tình khó mà không yêu quý Bernarda. Chẳng cần phải nhờ, chị sẵn sàng nấu nướng và may vá cho tôi. Chị sửa cho tôi quần áo giày dép, chải và cắt tóc gọn gàng cho tôi, còn mua cho tôi cả vitamin và kem đánh răng nữa. Có lần nọ chị còn tặng tôi mặt dây chuyền nhỏ cùng một lọ đầy nước thánh được bà chị gái sống tại San Adrián del Besós lặn lội mang bằng xe buýt từ tận Lourdes bên nước Pháp. Đôi khi, trong lúc bới đầu tôi tìm chấy và những loài ký sinh khác, chị thường khẽ nhắc nhở tôi.

“Cô chủ Clara là người tuyệt vời nhất trên thế giới này, Chúa hẳn sẽ giáng sét xuống đầu tôi nếu tôi có dù chỉ đôi chút ý nghĩ phê phán cô chủ, nhưng sẽ rất không tốt nếu cậu, cậu Daniel, trở nên quá ám ảnh vì cô chủ, đấy là nếu cậu hiểu ý tôi.”

“Đừng lo, Bernarda, chúng tôi chỉ là bạn thôi mà.”

“Thì tôi chỉ cảnh báo như vậy thôi.”

Để minh hoạ cho luận điểm của mình, Bernarda nhắc đến vài ba câu chuyện nghe được trên đài phát thanh kể về cậu bé đem lòng yêu cô giáo dạy mình, một người đã bị yểm bùa chú báo thù. Ma thuật khiến tóc và răng cậu rụng hết, mặt và tay cậu bé phủ đầy những nốt sùi tội lỗi, cứ như những vết hủi của lòng ham muốn.

“Ham muốn không phải là điều tốt đâu,” Bernarda kết luận. “Tin tôi đi.”

Cho dù vẫn hay đùa cợt tôi, Don Gustavo có vẻ như thích sự tận tâm tôi dành cho Clara và lòng háo hức muốn được bầu bạn cùng cô. Tôi ngỡ rằng rất có thể chút độ lượng đó chẳng qua vì ông ta nhận định tôi chỉ là đứa nhóc vô hại. Thi thoảng, ông ta lại tuôn ra lời đề nghị đầy lôi cuốn là muốn mua lại cuốn tiểu thuyết của Carax từ tay tôi. Ông ta kể rằng đã nói chuyện ấy với bạn bè cùng phường buôn sách cũ, họ đều nhất trí rằng giờ đây một cuốn tiểu thuyết của Carax tương đương với cả một gia tài, đặc biệt là tại Paris. Tôi luôn từ chối những lời mời đó, mỗi lần như vậy ông ta đều cười láu lỉnh. Gustavo đưa tôi một chiếc chìa khoá căn hộ được đánh ra thêm để tôi có thể vào nhà mà không cần ái ngại không biết ông ta hay Bernarda có nhà để mở cửa hay không. Cha tôi thì lại là chuyện khác. Nhiều năm trôi qua, ông đã quên hẳn thói quen ít lời về những vấn đề thực sự khiến ông lo lắng. Một trong những hệ quả của tiến triển ấy là cha tôi bắt đầu thể hiện rõ sự phản đối mối quan hệ của tôi với Clara.

“Con nên ra ngoài chơi với bạn bè cùng lứa, như Tomás Aguilar ấy – dường như con đã quên mất Tomás dù đó là một cậu bé tuyệt vời – chứ đừng quẩn quanh một cô đã đủ tuổi đi lấy chồng.”

“Tuổi tác đâu có quan trọng gì nếu cả hai là bạn tốt của nhau

Điều khiến tôi đau lòng nhất là việc cha nhắc đến Tomás, bởi vì cha nói đúng. Tôi đã không đi chơi với Tomás hàng tháng nay, trong khi trước kia hai đứa cứ như hình với bóng. Cha nhìn tôi đầy khiển trách.

“Daniel, con chẳng biết gì về phụ nữ cả, cô gái này đang vờn con như con mèo vờn con hoàng yến nhỏ thôi.”

“Cha mới không hiểu biết gì về phụ nữ,” tôi bức xúc đối đáp. “Càng chẳng hiểu gì về Clara.”

Các cuộc trò chuyện của chúng tôi về vấn đề này hiếm khi vượt xa hơn vài ba lời khiển trách qua lại và những cái nhìn ra vẻ tổn thương. Khi không ở trường hay đến gặp Clara, tôi dành hết thời gian giúp cha tại tiệm sách. Tôi dọn dẹp phòng kho nằm sau cửa tiệm, giao sách tận nơi, chạy việc vặt, hay thậm chí tiếp khách hàng quen. Cha luôn phàn nàn rằng tôi chẳng thực sự để tâm vào công việc. Để đáp lại, tôi nói rằng mình đã dành cả đời làm việc tại tiệm sách này rồi và chẳng thể hiểu cha còn có thể phàn nàn về điều gì nữa. Nhiều đêm, khi cơn buồn ngủ không đến, tôi lại nằm thao thức và nhớ về cái hồi hai cha con thân thiết nhất, về cái thế giới nhỏ bé chúng tôi cùng chia sẻ suốt những năm sau khi mẹ ra đi, những năm tháng mà tôi chỉ nghĩ về cây bút của Victor Hugo và tàu hoả bằng thiếc. Tôi nhớ về chúng như những năm bình yên mà buồn bã, một thế giới đang biến đi dần và khởi sự bốc hơi đúng vào cái buổi rạng đông cha dẫn tôi đến Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên. Thời gian luôn chơi ở phe đối địch với ta. Một ngày nọ cha phát hiện ra tôi đã đưa cuốn tiểu thuyết của Carax cho Clara, thế là cơn giận trào dâng trong ông.

“Con khiến cha quá thất vọng, Daniel,” ông nói. “Khi cha đưa con đến nơi bí hiểm đó, cha đã nói rằng cuốn sách con chọn sẽ là một thứ vô cùng đặc biệt, rằng con sẽ phải nhận bảo trợ và chịu trách nhiệm về nó.”

“Hồi ấy con chỉ mới mười tuổi, cha ơi, đó chỉ là trò chơi của trẻ con.”

Cha nhìn tôi như thể tôi vừa dùng dao đâm ông.

“Giờ con đã mhười bốn, nhưng không những con vẫn chỉ là một thằng nhóc, con còn là một thằng nhóc tưởng rằng mình là đàn ông. Cuộc đời này rồi sẽ thụi cho con vài cú nặng nề, Daniel. Sẽ rất chóng thôi.”

Khi ấy tôi đã muốn tin rằng cha mình thấy tủi hờn bởi tôi dành quá nhiều thời gian ở bên gia đình Barceló. Gã buôn sách và cháu gái ông ta sống một cuộc đời sung túc mà cha tôi chỉ dám mơ tới. Tôi những tưởng rằng cha phẫn nộ vì cô hầu gái nhà Gustavo cư xử cứ như mẹ ruột của tôi, ông bức xúc trước việc tôi chấp thuận rằng người khác có thể thay thế vị trí ấy. Đôi khi, lúc đang gói sách ở phòng trong và chuẩn bị đơn hàng, tôi thường nghe khách hàng đùa với cha mình.

“Anh cần một người phụ nữ đảm đang, Sempere ạ. Thời nay khắp nơi đầy rẫy những cô góa xinh đẹp đang ở độ son nhất của cuộc đời, anh hiểu ý tôi không. Một cô gái trẻ chỉ khiến anh tổn thọ mà thôi, bạn tôi ơi, thậm chí có thể cướp đi của anh những hai chục năm tuổi thọ ấy. Điều mà một bộ ngực đẹp không thể làm được…”

Cha tôi chẳng bao giờ phản ứng lại những lời bóng gió ấy, nhưng càng ngày tôi càng thấy chúng hợp lý. Lần nọ, nhân giờ ăn tối vốn đã biến thành chiến trường của sự câm lặng và những cái nhìn lén lút, tôi đem vấn đề đó ra đề cập. Tôi nghĩ rằng nếu mình là người gợi ý, mọi chuyện hẳn sẽ dễ dàng hơn. Cha tôi là một người đàn ông hấp dẫn, luôn biết giữ ngoại hình sạch sẽ gọn gàng, và tôi biết một điều hiển nhiên rằng phải có đến vài ba phụ nữ láng giềng tỏ ra thích ông và sẵn sàng hưởng ứng nhiều điều khác từ cha tôi chứ không chỉ những lời giới thiệu sách hay nên đọc.

“Với con thì kiếm được một người thay thế mẹ mình rất dễ,” cha tôi cay đắng nói. “Nhưng với cha thì không thể có người như vậy, mà cha cũng chẳng hứng thú với việc kiếm tìm.”

Thời gian cứ thế trôi đi, những lời nhắc khéo của cha tôi và Bernarda, thậm chí cả những câu nói đầy ẩn ý của Barceló đã bắt đầu để lại dấu ấn trong tôi. Có gì đó trong lòng mách bảo rằng tôi đang đâm đầu vào ngõ cụt, rằng không thể hy vọng Clara nhìn thấy ở tôi thứ gì khác hơn một cậu nhóc kém cô mười tuổi. Ngày ngày trôi qua, mỗi lần ở bên Clara càng khiến tôi thấy khó nhọc hơn, khi phải chịu đựng những động chạm từ đôi bàn tay cô hay khoác tay cô mỗi lần chúng tôi đi dạo. Thậm chí đến một lúc mà sự gần gũi với Clara gần như chuyển thành đớn đau thể xác. Người xung quanh không ai không nhận thức rõ được điều ấy, đặc biệt là Clara.

“Daniel, tôi nghĩ hai ta cần nói chuyện,” cô nói. “Tôi e rằng mình đã cư xử không đúng đối với em…”

Tôi không bao giờ để cô nói nốt những lời ấy. Tôi thường viện bất cứ cái cớ cũ rích nào để rời phòng mà trốn chạy không đủ dũng khí đối mặt với khả năng rằng cái thế giới đầy ảo tưởng mình dựng lên quanh Clara có thể đang tan rã. Tôi không hề biết rằng những rắc rối của mình chỉ mới đang bắt đầu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 7


VÀO DỊP SINH NHẬT THỨ MƯỜI SÁU, tôi nảy ra ý tưởng xui rủi nhất từng nảy ra xưa nay. Không tham khảo ý kiến bất kỳ ai, tôi quyết định tổ chức một bữa tiệc sinh nhật trong đó có mời Barceló, Bernarda, Clara. Theo như đánh giá của cha tôi, toàn bộ chuyện ấy chẳng khác gì công thức cho tai hoạ.

“Đó là sinh nhật của con,” tôi đanh giọng đáp lời. “Con làm việc cho cha tất cả các ngày khác trong năm rồi. Chỉ một lần thôi, sao cha không chiếu cố chiều lòng con một chút.”

“Tuỳ con thôi.”

Những tháng trước đó là khoảng thời gian hoang mang nhất trong quan hệ kỳ lạ giữa tôi và Clara. Tôi hầu như không còn đọc sách cho cô nữa. Clara lúc nào cũng cẩn trọng tránh ở một mình với tôi. Cứ mỗi lần tôi ghé qua nhà Barceló, ông bác cô đều thình lình ló mặt và vờ như đang đọc báo, hoặc không thì Bernarda xuất hiện bất chợt lọ mọ hết việc này đến việc kia, mắt láo liên liếc nhìn trộm. Những lần khác thì bạn đồng hành của chúng tôi sẽ là một hay vài ba người bạn của Clara. Tôi gọi họ là “Lữ đoàn Chị em”. Luôn xuất hiện với bề ngoài nhu mì giản dị, họ tuần hành xung quanh Clara với cuốn kinh Misa trên tay còn đôi mắt thì dò xét như mắt cảnh sát, họ như muốn thể hiện rõ ràng rằng tôi là kẻ cản đường và sự hiện diện của tôi khiến cho Clara và toàn bộ thế giới này khó xử. Nhưng tồi tệ nhất, là Neri, tay giáo viên dạy đàn, chủ nhân bản giao hưởng đáng thương vẫn mãi nằm trong tình trạng chưa hoàn thành. Gã là một kẻ biết nói những lời mật ngọt, một cậu ấm nhà giàu xuất thân từ khu dân cư trịch thượng bên quận San Gervasio, bất chấp cái khí chất nghệ sĩ mà gã toả ra, Neri lại gợi tôi nhớ đến một ca sĩ tango đầu bóng nhẫy sáp chải tóc. T duy nhất mà tôi thừa nhận ở hắn là cá tính trơ trẽn không thèm che đậy. Gã sẵn sàng bợ đỡ Gustavo mà không màng đến thế nào là phẩm cách và lịch thiệp, gã tán tỉnh Bernarda trong bếp, khiến chị bật cười với những món quà ngu ngốc như hạnh nhân ướp đường, gã còn có sở thích vỗ mông phụ nữ. Nói tóm lại, tôi không ưa gã chút nào. Sự căm ghét đến từ cả hai phía. Neri luôn từ đâu đó nhảy ra cùng mớ tổng phổ trên tay, kèm theo là thái độ ngạo mạn chướng mắt, gã coi tôi như một thằng nhỏ bồi bàn phiền nhiễu và tỏ đủ loại thái độ khó chịu trước sự hiện diện của tôi.

“Nhóc không phải quay về làm bài tập ở nhà sao?”

“Còn anh, nhà soạn nhạc, chẳng phải anh còn một bản giao hưởng chưa hoàn thành?”

Rốt cuộc lần nào tôi cũng là bên bị nắm thóp và phải rời đi, tiu nghỉu trong chiến bại, ao ước mình có tài nói huyên thuyên như Gustavo để có thể ném cái thái độ lên mặt ta đây này nọ của gã về đúng chỗ.

***

NGÀY SINH NHẬT TÔI, cha tới tiệm bánh ngọt trong góc phố mua chiếc bánh tuyệt nhất mà ông tìm được. Cha tôi lặng lẽ bày bàn ăn, mang ra những dao dĩa bằng bạc và bộ đồ sứ đẹp nhất. Ông thắp vài cây nến và chuẩn bị món ăn mà ông biết là tôi ưa thích. Hai cha con không trao đổi lấy một lời suốt buổi chiều. Tối đến cha tôi quay về phòng mình, khoác lên mình bộ đồ đẹp nhất, khi bước ra ông cầm theo một gói nhỏ bọc giấy bóng kính lấp lánh đặt lên bàn cà phê trong phòng ăn. Quà cho tôi. Cha tôi ngồi xuống bàn, rót cho mình một ly vang trắng và chờ đợi. Trong thư mời tôi đã nói rằng bữa tối sẽ vào lúc tám giờ ba mươi. Tới tận chín giờ ba mươi chúng tôi vẫn phải ngồi đợi. Cha buồn rầu liếc sang tôi. Trong lòng tôi sôi sùng sục lửa giận.

“Hẳn cha phải vừa lòng lắm,” tôi nói. "Chẳng phải cha muốn thế này sao?”

“Không hề.”

Nửa giờ sau, Bernarda đến. Chị mang theo gương mặt như đưa đám và lời nhắn từ Cô Clara, rằng cô chúc tôi vạn điều hạnh phúc. Nhưng thật không may rằng cô không thể đến dự bữa tối sinh nhật tôi. Ông Barceló thì buộc phải rời thị trấn vài ngày vì có việc làm ăn, và Clara không thể đổi giờ học với nhạc sĩ Neri. Bernarda thì đến được vì hôm nay chị được nghỉ chiều và t

“Clara không thể đến vì có buổi học nhạc ư?” tôi sửng sốt hỏi.

Bernarda nhìn xuống. Trông chị như chực khóc khi đưa tôi bọc quà nhỏ của chị rồi hôn tôi vào cả hai bên má.

“Nếu không thích, cậu có thể đem đi đổi,” chị nói.

Tôi bị bỏ lại một mình với cha, ông đang chú mục vào bộ đồ sứ và thìa dĩa bạc, cả những ngọn nến đang lặng lẽ cháy tàn.

“Cha rất tiếc, Daniel,” cha tôi nói.

Tôi gật đầu trong im lặng, khẽ nhún vai.

“Con không định mở quà à?” cha tôi hỏi.

Phản ứng duy nhất của tôi là đóng sầm cửa trước khi rời khỏi căn hộ. Tôi hung hăng lao xuống cầu thang, bước ra ngoài, mắt ầng ậc cuồng nộ. Con phố lạnh thấu xương, hoang vắng, tràn ngập một màu xanh nhàn nhạt dị thường. Tôi cảm thấy tim mình như thể bị phanh ra. Mọi thứ xung quanh như run rẩy. Tôi đi lang thang dật dờ, tôi chẳng mấy để tâm tới kẻ lạ đang quan sát mình từ bên khu Puerta del Ángel. Hắn mặc bộ vét đen, tay phải đút trong túi áo vét, mắt quắc lên như hai lằn sáng trong ánh lập lòe điếu thuốc. Chân hơn tập tễnh, hắn bắt đầu đi theo tôi.

Tôi lang thang khắp các con phố trong khoảng một tiếng đồng hồ hoặc hơn, cho tới khi thấy mình dừng chân trước thềm đài tưởng niệm Columbus. Đi chéo qua đó và tới cảng, tôi ngồi trên dải bậc tam cấp đá dẫn xuống làn nước đen ngòm sát cạnh bãi tàu đậu, nơi nương náu cho các du thuyền. Hẳn có người đã thuê du thuyền đi đêm, bởi tôi nghe đâu đây trong phía cảng sát bờ văng vẳng tiếng cười và nhạc xuyên qua chuỗi ánh đèn trên cao và ánh đèn phản chiếu trên mặt nước. Tôi mường tượng lại những ngày khi cha đưa tôi lên chính chiếc du thuyền ấy để tới chỗ đê chắn sóng. Từ vị trí ấy có thể thấy được nghĩa trang trải ra trên sườn đồi Montjuïc, thành phố vĩnh hằng của những người quá cố. Có đôi khi tôi vẫy tay vì nghĩ rằng mẹ đang yên nghỉ tại đó để thấy hai cha con đang lướt qua trên du thuyền. Cha tôi cũng giơ tay lên vẫy. Đã nhiều năm kể từ lần cuối chúng tôi cùng bước lên du thuyền đi quanh vịnh, dù vậy tôi biết đôi khi cha vẫn tự đi một mình.

tuyệt vời để ăn năn, Daniel,” một giọng nói vang đến từ trong bóng tôi. “Thuốc lá không?”

Tôi giật nảy người. Một bàn tay đang chìa thuốc lá ra mời tôi.

“Ông là ai?”

Kẻ lạ di chuyển về trước cho tới khi đứng gần sát lằn ranh bóng tối, khuôn mặt hắn vẫn không lộ diện. Một luồng khói xanh xám cuộn lên từ điếu thuốc lá hắn cầm. Ngay lập tức tôi nhận ra bộ đồ màu đen và bàn tay đút trong túi áo vét. Đôi mắt hắn sáng loé như hạt cườm bằng thuỷ tinh.

“Một người bạn,” hắn đáp. “Hoặc ít ra đó là điều ta muốn trở thành. Làm một điếu chứ?”

“Tôi không hút thuốc.”

“Tốt thôi. Tiếc thay, ta chẳng có gì khác để mời cậu cả, Daniel.”

Giọng hắn khò khè, nghèn nghẹn. Hắn nói như thể phải nặn ra từng lời và nghe chúng cứ lùng bùng xa xăm như tiếng những đĩa 78 vòng mà Barceló sưu tập.

“Sao ông biết tên tôi?”

“Ta biết rất nhiều điều về cậu. Tên cậu là điều tối thiểu trong số đó.”

“Ông còn biết những gì khác nữa?”

“Ta có thể khiến cậu ngượng chín người đấy, nhưng giờ ta không có thời gian cũng như mong muốn làm như vậy. Ta chỉ muốn nói là cậu có một thứ khiến ta để tâm. Và ta sẵn sàng trả cậu rất rất nhiều tiền để có nó.”

“Tôi e là ông đã nhầm tôi với ai đó.”

“Không hề, ta biết rõ là không phải vậy. Ta thường hay mắc sai lầm, nhưng về con người thì chưa từng. Cậu muốn bao nhiêu?”

“Cho cái gì mới được?”

“Cho cuốn Bóng hình của gió.

“Điều gì khiến ông nghĩ là tôi có nó?”

“Chuyện đó khỏi bàn, Daniel. Vấn đề ở đây chỉ là chuyện giá cả. Ta biết cậu có cuốn sách ấy từ lâu rồi. Người ta kể. Và ta nghe được.”

“Vậy thì ông nghe nhầm rồi. Tôi không có cuốn sách ấy. Mà nếu có, tôi cũng sẽ không bán đâu.”

“Tính chính trực của cậu thật đáng ngưỡng mộ, đặc biệt trong cái thời rặt những kẻ bợ đỡ và nịnh nọt này, nhưng cậu không phải ra vẻ với ta đâu. Cứ nói bao nhiêu. Một ngàn duro? Tiền chẳng có nghĩa lý gì với ta. Cậu cứ việc định giá.”

“Tôi đã nói ông rồi còn gì, cuốn sách đó không thể bán được, bởi tôi không có nó,” tôi đáp lời. “Ông đang nhầm lẫn đấy có biết không?”

Bọc mình trong làn khói xanh xám của điếu thuốc lá cứ như chẳng bao giờ cháy hết, kẻ lạ vẫn lặng yên và bất động. Tôi nhận ra mùi trên người hắn không phải mùi thuốc lá, mà mùi giấy bị đốt cháy. Giấy chất lượng cao, loại dùng để in sách.

“Có lẽ cậu mới là người đang nhầm lẫn đấy,” hắn gợi ý.

“Ông đang đe doạ tôi đấy à?”

“Có thể?”

Tôi nuốt ực trong họng. Dù tôi cố tỏ ra hiên ngang, kẻ lạ vẫn khiến tôi thấy rờn rợn.

“Liệu tôi có thể hỏi sao ông lại hứng thú với cuốn sách đó?”

“Đó là chuyện của ta.”

“Cũng là chuyện của tôi, bởi ông đang đe doạ tôi về một cuốn sách mà tôi không sở hữu.”

“Ta thích cậu. Daniel. Cậu can đảm đấy, và xem chừng sáng dạ nữa. Một ngàn duro nhé? Với số tiền ấy cậu tha hồ mua cả núi sách khổng lồ. Sách xịn hẳn hoi ấy, không phải cái thứ rác thải mà cậu bảo vệ với ngần ấy nhiệt huyết đâu. Được một ngàn duro và chúng ta sẽ vẫn là bạn.”

“Tôi và ông không hề là bạn bè.”

“Là bạn bè đấy, cậu chỉ chưa nhận ra mà thôi. Ta không trách cậu đâu, trong đầu cậu chứa cả một mớ hỗn độn thế cơ mà. Ví dụ như cô bạn Clara của cậu ấy. Trước một phụ nữ như thế... ai cũng sẽ mất lý trí cả thôi.”

Việc tên Clara được nhắc đến như làm đông cứng máu chảy trong huyết quản tôi. “Ông biết gì về Clara?”

“Ta dám nói là ta biết nhiều hơn cậu đấy, mà tốt nhất là hãy quên ả ta đi, mặc dù ta biết cậu sẽ không chịu đâu. Ta cũng từng trải qua tuổi mười sáu rồi mà...”

Một nhận thức khủng khiếp bất chợt ào đến trong tôi. Hắn ta chính là kẻ lạ đã quấy rầy Clara trên phố. Hắn ta có thực. Clara đã không nói dối. Hắn chợt tiến một bước về phía trước. Tôi lập tức lùi lại. Trong đời chưa bao giờ tôi khiếp hãi đến vậy.

“Clara không giữ cuốn sách ấy; ông nên biết điều đó. Đừng hòng đụng đến cô ấy lần nữa.”

“Ta chẳng mảy may hứng thú với cô bạn của cậu, Daniel, và một ngày kia cậu cũng sẽ cảm thấy tương tự. Cái ta muốn là cuốn sách. Và ta mong có thể đạt được nó một cách công bằng mà không phải làm tổn thương bất kỳ ai. Cậu hiểu chứ?”

Không thể nghĩ ra điều gì khá khẩm hơn, tôi quyết định nói dối. “Một người tên là Adrián Neri đang giữ nó. Gã soạn nhạc. Ông hẳn từng nghe đến tên gã.”

“Chẳng hề nghe tới; về một nhạc sĩ mà nói thế thì còn gì tệ hại bằng. Cậu chắc là cậu không sáng chế ra cái tay Adrián Neri này đấy chứ?”

“Giá như tôi có thể.”

“Nếu như vậy, bởi cậu có vẻ thân với anh ta, có lẽ cậu nên thuyết phục anh ta trả cuốn sách cho cậu. Mấy chuyện đó thì giữa bạn bè với nhau dễ giải quyết lắm. Hay cậu thích ta thân chinh đi hỏi Clara?”

Tôi lắc đầu. “Tôi sẽ nói chuyện với Neri, nhưng tôi e là gã sẽ không trả cuốn sách đâu. Không chừng gã chẳng còn giữ nó nữa. Có điều, ông muốn có bằng được cuốn sách ấy để làm gì? Đừng bảo với tôi là để đọc không thôi đấy.”

“Không. Ta thuộc lòng nó rồi.”

“Ông là một nhà sưu tầm?”

“Từa tựa như vậy.”

“Ông có những cuốn khác cũng của Carax không?”

“Có thể nói ta đã từng sở hữu chúng. Julián Carax là chuyên môn của ta, Daniel ạ. Ta đi khắp thế giới chỉ để tìm sách của người đó.”

“Vậy ông làm gì với những cuốn sách ấy nếu không phải để đọc?”

Kẻ lạ bật ra một tiếng nghèn nghẹn thống khiết. Phải mất một lúc tôi mới nhận ra đó là hắn đang cười.

“Chỉ có một việc duy nhất có thể làm với những cuốn sách ấy, Daniel ạ,” hắn trả lời.

Kẻ lạ rút từ trong túi áo ra một hộp diêm. Hắn lấy ra một que rồi quẹt. Ngọn lửa cho tôi thấy khuôn mặt hắn lần đầu tiên. Máu trong người tôi như đóng băng. Hắn không có mũi, môi lẫn cả mắt mí. Khuôn mặt hắn chỉ như một chiếc mặt nạ đen toàn sẹo, do bị lửa thiêu. Đó cũng chính là làn da chết mà Clara đã chạm vào.

“Đó là thiêu dụi chúng,” hắn thì thào, giọng nói và ánh mắt tràn ngập căm hận.

Một đợt không khí giật mạnh thổi tắt que diêm giữa những ngón tay kẻ lạ, khuôn mặt hắn lại một lần nữa chìm trong bóng tối.

“Chúng ta sẽ còn gặp lại, Daniel. Ta chưa bao giờ quên mặt một ai, và ta cũng nghĩ mình sẽ không quên cậu đâu,” hắn điềm tĩnh nói. “Vì lợi ích của cậu, và cũng vì lợi ích của Clara bạn cậu, tôi mong cậu có thể đưa ra quyết định đúng đắn. Hãy thu xếp chuyện này với Neri – một cái tên khá kiêu căng đây. Ta không tin hắn lấy một chút nào.”

Với câu nói ấy, kẻ lạ quay mình bước hướng về phía bãi tàu đậu, hình h dần hoà lẫn vào những mảng tối đen, bọc trong tiếng cười rỗng hoác của chính hắn.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 8


MỘT VỈA MÂY DÀI cùng sấm chớp cuồn cuộn lao qua những mảng trời từ phía biển. Đáng ra tôi nên chạy tìm chỗ trú cơn mưa rào đang chực trút xuống, nhưng lời đe dọa của kẻ lạ kia bắt đầu thấm dầ

n vào tâm trí. Tay tôi run rẩy, cả trí óc tôi cũng run rẩy không kém. Tôi nhìn lên và thấy từ trên các đám mây, cơn bão ào ạt trào xuống như những dòng sông chảy toàn máu đen, xóa nhòa đi mặt trăng và che phủ những mái nhà trong thành phố trong tối tăm. Dù rất cố để tăng tốc, nhưng vì tâm trạng đã ngập tràn nỗi sợ hãi, tôi chỉ có thể bước với đôi chân nặng nề, bị cơn mưa rào rượt đuổi. Tôi tránh mưa dưới mái che một ki ốt bán báo, cố gắng tập trung suy nghĩ để xác định tiếp theo mình nên làm gì. Một đợt sấm sét gầm vang ngay gần đó, tôi tưởng như mặt đất dưới chân đang rung lắc. Vài giây sau, dòng điện yếu ớt thuộc hệ thống đèn chiếu sáng hình thù các tòa nhà và cửa sổ liền tắt ngấm dần. Trên vỉa hè ngập nước, đèn đường chập chờn nhấp nháy, rồi tắt phụt như những ngọn nến bị gió dập. Chẳng có lấy một bóng người trên các con phố, bóng tối do đợt cúp điện dần lan tỏa cùng mùi hôi thối từ cống rãnh xộc lên. Bóng tối trở nên mờ đục, đậm đặc, khi cơn mưa chăng vải liệm trùm lên thành phố.

“Trước một phụ nữ như thế...ai cũng sẽ mất lý trí cả thôi”

Tôi cắm đầu hộc tốc chạy qua khu Đại lộ Rambla với một ý nghĩ duy nhất trong đầu: Clara.

***

BERNARDA đã nói rằng Barceló đang đi xa vì công chuyện. Hôm nay là ngày nghỉ của Bernarda, vào ngày này chị thường ngủ đêm tại nhà bà cô Reme và mấy người họ hàng sống ở thị trấn San Adrián del Besós gần đây. Vậy có nghĩa chỉ còn mỗi Clara một mình trong căn hộ rộng thênh thang trên Quảng trường Hoàng gia cùng với kẻ vô diện đáng sợ đang tung hoành trong cơn bão, với ộ óc mà chỉ có Chúa mới biết bên trong chất chứa những gì. Trong khi hồng hộc lao tới Quảng trường Hoàng gia dưới cơn mưa tầm tã, tất cả những gì tôi nghĩ tới là mình đã đặt Clara vào tình thế hiểm nguy khi đưa cô cuốn sách của Carax. Khi tới được lối vào quảng trường tôi đã ướt thấu tận xương. Tôi bổ nhào đến tránh mưa dưới mái vòm trên phố Fernando. Tôi nghĩ mình thấy những bóng hình mờ mờ từ phía sau lưng trườn đến. Dân ăn mày. Cửa chính bị khóa. Tôi lần tìm trong túi áo chìa khóa mà Barceló đã cho. Một trong những người hành khất đi tới, xin được cho qua đêm trong tiền sảnh. Tôi sập cửa trước khi anh ta kịp nói nốt câu.

***

KHU VỰC CẦU THANG LÀ CẢ MỘT VÙNG TỐI OM. Ánh chớp liên hồi rỉ qua những vết nứt trên cửa chính, chiếu sáng rìa ngoài những bậc cầu thang trong khoảnh khắc. Tôi mò mẫm tìm đường tiến về trước và tìm thấy bậc thang đầu tiên nhờ vấp phải nó. Bám lấy lan can cầu thang, tôi chầm chậm tiến lên. Các bậc thang mau chóng dẫn đến một bề mặt bằng phẳng, tôi để ý thấy mình đã lên được tới chiếu nghỉ của tầng đầu tiên. Tôi sờ thấy những mảng tường cẩm thạch, lạnh lẽo và không chút thân thiện, rồi sau đó là những hình chạm nổi trên cánh cửa gỗ sồi và những tay đấm cửa bằng nhôm. Sau khi lần mò đôi chút, rốt cuộc tôi cũng tra được chìa khóa vào ổ. Khi cửa chính căn hộ bật mở, một dải sáng xanh lam ập tới khiến mắt tôi bị lóa trong chốc lát rồi một luồng gió ấm thoảng qua làn da tôi. Phòng của Bernarda nằm ở mặt sau căn hộ, ngay cạnh bếp. Tôi đi tới đó trước, mặc dù đã biết chắc là cô tớ gái không có ở nhà. Tôi gõ gõ các khớp ngón tay lên cửa phòng và, không thấy ai đáp lại, bèn tự cho phép mình bước vào. Đó là một căn phòng đơn giản, với một chiếc giường to lớn, tủ búp bê có cửa kính màu nhạt và chiếc tủ com mốt trên đó Bernarda bày đủ các tượng cũng như tranh in các thánh và đức Mẹ Đồng trinh theo trình tự Chức Thánh. Tôi đóng cửa lại, và rồi khi quay ra, tim tôi tưởng như ngừng đập: một tá những đôi mắt ánh tím đang tiến về phía tôi từ cuối hành lang. Lũ mèo nhà Barceló biết tôi rất rõ và không thấy phiền trước sự có mặt của tôi. Chúng vây quanh tôi, meo meo nhẹ nhàng. Ngay khi nhận ra quần áo ướt sũng trên người tôi không tỏa ra hơi ấm mà chúng muốn, lũ mèo thờ ơ bỏ mặc tôi.

Phòng của Clara nằm ở đầu bên kia căn hộ, cạnh thư viện và phòng nhạc. Những bước chân vô hình của lũ mèo bám gót tôi xuyên qua hành lang. Trong bóng tối lập lòe do ảnh hưởng của cơn bão, căn hộ gia đình Barceló như trở nên rộng lớn và ngập ngụa sát khí, khác hẳn với nơi mà tôi đã gần như coi là ngôi nhà thứ hai của mình. Tôi tiến đến mặt trước căn hộ, nơi hướng ra quảng trường. Nhà kín mở ra trước mắt tôi, rậm rạp và ken dày không thể vượt qua. Tôi đi xuyên qua khu rừng trong nhà kính đầy những lá cành. Trong giây lát một ý nghĩ nảy đến với tôi: nếu lỡ đâu kẻ lạ vô diện kia đã tìm cách lẻn được vào căn hộ thì đây rất có thể chính là nơi hắn chọn để chờ tôi xuất hiện. Tôi gần như tưởng chắc rằng mình đã ngửi thấy mùi giấy cháy đen mà kẻ lạ tạo ra trong bầu không khí quanh hắn, nhưng rồi tôi nhận ra mùi mình ngửi thấy chỉ là mùi thuốc lá. Một cơn khiếp đảm khiến người tôi râm ran như bị kim châm. Trong nhà này không ai hút thuốc, kể cả chiếc tẩu luôn tắt ngóm của Barceló cũng chỉ đơn thuần là để trang trí.

Khi tôi đến được phòng nhạc, đợt bừng sáng chói lòa từ sấm sét cho thấy những vòng khói xoắn ốc lập lờ trôi trong không khí như những vòng hơi nước. Cạnh hành lang, chiếc đàn piano phô bày điệu cười toe toét không ngừng. Tôi đi qua phòng nhạc và tiến thẳng đến cánh cửa thư viện. Nó đang đóng chặt. Tôi mở cửa và được chào đón bởi ánh sáng khuếch tán bắt nguồn từ ban công dát kính bao quanh thư viện cá nhân của Barceló. Các bức tường kín đặc những giá ken đầy sách, tạo thành một hình ô van mà chính giữa đặt một bàn đọc sách và hai chiếc ghế tựa lót vải lông. Tôi biết Clara giữ cuốn tiểu thuyết của Carax trong một chiếc tủ kính có ngăn đặt tại nhịp cuốn của ban công. Tôi rón rén tới đó. Kế hoạch của tôi, thực ra là chẳng có kế hoạch gì, là tiếp cận cuốn sách, đem nó ra khỏi đây, đưa sách cho kẻ điên khùng kia và vĩnh viễn không bao giờ gặp lại hắn nữa. Sẽ chẳng ai chú ý đến sự vắng mặt của cuốn sách, ngoại trừ tôi.

Cuốn sách của Julián Carax đang đợi chờ tôi, như vẫn luôn thế, gáy của nó hiển hiện rõ mồn một tại phía cuối giá sách. Tôi cầm cuốn sách lên tay và ép lên ngực, như thể đang ôm ấp một người bạn cũ mình sắp sửa phản bội. Judas, tôi nhủ thầm với chính bản thân. Tôi quyết định sẽ rời căn hộ mà không để cho Clara biết sự có mặt của mình. Tôi sẽ lấy cuốn sách và biến khỏi cuộc đời Clara Barceló vĩnh viễn. Lặng lẽ, tôi bước khỏi thư viện. Cửa phòng Clara hiện rõ ở phía cuối hành lang. Tôi hình dung cô đang trên giường, nằm ngủ. Tôi tưởng tượng những ngón tay mình mơn trớn cổ Clara, khám phá cơ thể mà tôi từng cố hình dung trong những cơn mộng tưởng. Tôi quay đi, đã định sẵn sàng vứt bỏ sáu năm mơ mộng hão huyền, nhưng cái gì đó đã níu chân tôi trước khi tới được phòng nhạc. Một giọng rên huýt sáo vang lên phía sau tôi, từ sau cánh cửa. Một giọng trầm đang thầm thì và cười khẽ. Trong phòng của Clara. Bước chầm chậm tới cánh cửa, tôi đặt tay lên nắm đấm. Mấy ngón tay tôi run bần bật. Tôi tới quá trễ. Tôi nuốt ực thật sâu rồi
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 9


CƠ THỂ TRẦN TRUỒNG CỦA CLARA nằm duỗi dài trên tấm ga trắng lóa như lụa tẩy. Những ngón tay của nhà soạn nhạc Neri mơn trớn đôi môi, chiếc cổ và bầu ngực Clara. Đôi mắt trắng dã của Clara ngước lên trần nhà, mí mắt cô mấp máy khi tay thầy dạy nhạc xông tới, xâm nhập thân thể cô qua cặp đùi nhợt nhạt đang run rẩy. Chính đôi bàn tay đã đọc khuôn mặt tôi sáu năm về trước trong bóng tối nhập nhoạng ảm đạm của thư viện Ateneo giờ đây bám lấy cặp mông nhoang nhoáng mồ hôi của nhà soạn nhạc, cắm chặt móng tay vào đó và hướng dẫn gã nhập vào cô bằng nỗi khao khát tuyệt vọng và bản năng. Tôi không thở nỗi. Hẳn là tôi đã đứng ngay ra đó, đờ người quan sát họ đến những nửa phút đồng hồ, tới khi cặp mắt của Neri, thoạt tiên tỏ vẻ ngỡ ngàng, sau đó bùng lên giận dữ, bắt đầu nhận thức được sự hiện diện của tôi. Vẫn đang thở hồng hộc, sững sờ, gã dừng lại. Clara chộp lấy gã, ra vẻ không hiểu, cọ người mình vào người gã, liếm cổ gã.

“Có chuyện gì vậy?” cô rên rỉ. “Sao anh lại dừng?”

Mắt Adrián Neri phừng phừng lửa giận. “Không có gì,” gã làu bàu. “Anh sẽ quay lại ngay.”

Neri đứng dậy ném mình về phía tôi, tay siết chặt nắm đấm. Tôi thậm chí không nhận thấy hắn đang tiến tới. Tôi không thể rời mắt khỏi Clara, mình đẫm mồ hôi, hổn hển lấy hơi, xương sườn hiện rõ dưới lớp da và bầu vú rung rinh. Gã thầy dạy nhạc túm lấy cổ tôi kéo lê tôi khỏi phòng ngủ. Chân tôi hầu như không chạm tới sàn nhà, và dù cố gắng thế nào, tôi cũng không thể thoát khỏi cánh tay siết kẹp chặt của Neri khi gã lôi tôi qua khu nhà kính như kéo một bọc đồ.

“Tao sẽ bẻ gãy cổ mày, thằng khốn,” gã càu nhàu.

Neri hùng hổ kéo tôi về phía cửa trước, mở cửa rồi dùng hết sức quăng tôi xuống chiếu nghỉ. Cuốn sách Carax tuột khỏi tay tôi. Gã nhặt nó lên và điên tiết ném vào mặt tôi.

“Tao mà còn thấy mày lảng vảng quanh đây hay nếu tao biết được mày lò dò tìm gặp Clara ở trên phố thì tao thề sẽ đập mày tới mức phải vô nhà thương – và tao đếch quan tâm mày có vị thành niên hay không,” gã nói giọng lạnh lẽo. “Hiểu không?”

Tôi nhọc nhằn gượng dậy. Trong lúc ẩu đả Neri đã xé toạt cả áo khoác lẫn lòng kiêu hãnh của tôi.

“Làm sao mày vào đây được?”

Tôi không đáp. Neri thở dài, lắc đầu. “Nói đi,” gã gầm gừ chực nổi điên. “Đưa tao chìa khóa.”

“Chìa khóa nào?”

Gã đấm mạnh đến mức tôi gục xuống. Khi đứng dậy, miệng tôi chảy máu và từ tai trái vang tiếng u u xoáy vào trong đầu nghe như tiếng còi cảnh sát. Tôi sờ lên mặt thì thấy vết sứt trên môi, chạm vào xót lên thon thót. Một chiếc nhẫn ấn triện vấy máu lóe lên trên ngón tay gã thầy dạy nhạc.

“Tao bảo đưa chìa khóa đây!”

“Cút đi,” tôi làu bàu.

Tôi chẳng kịp nhìn thấy cú đấm tiếp theo đang tiến đến. Chỉ cảm nhận như thể một chiếc búa khoan vừa xé toạt dạ dày từ trong ra ngoài. Tôi gập người lại như một con rối hỏng, đau không thở nổi, lảo đảo va vào tường. Neri chộp lấy tóc tôi và lục khắp các túi áo cho tới khi tìm được chùm chìa khóa. Tôi tuột xuống sàn nhà, ôm bụng rên rỉ trong đau đớn và giận dữ.

“Nói với Clara rằng...”

Gã sập cửa ngay lập tức, bỏ mặc tôi trong bóng tối mịt mù. Tôi mò mẫm khắp nơi tìm cuốn sách. Thấy được sách tôi lò dò đi xuống thang, tựa lưng vào tường, thở hổn hển. Ra được bên ngoài tôi nhổ ra máu và cố sức lấy hơi. Cái lạnh buốt giá và cơn gió lùa quanh quấn siết lấy bộ quần áo sũng nước của tôi. Vết xước sâu trên mặt tôi đau nhức.

“Cậu không sao chứ?” một giọng nói khuất trong tối cất tiếng hỏi.

Đó là người hành khất âm vừa bị tôi khướt từ giúp đỡ. Thấy xấu hổ, tôi gật gật, lảng tránh ánh nhìn của anh ta. Tôi dợm bước đi.

“Khoan đã nào, ít ra cũng phải đợi đến lúc mưa ngớt chứ,” người hành khất gợi ý.

Anh ta túm lấy tay tôi và dẫn tôi về một góc bên dưới những mái vòm nơi anh ta trữ một mớ đồ lặt vặt và chiếc túi đựng quần áo cũ bẩn.

“Tôi còn chút rượu vang đây. Vị cũng được lắm. Uống vài ngụm nhé. Nó sẽ giúp cậu ấm người lên. Và tẩy trùng cả vết thương kia nữa.”

Tôi nốc một ngụm từ chai rượu anh ta chìa ra. Nó có vị như dầu diesel pha lẫn giấm, nhưng cái nóng nó đem đến giúp làm dịu dạ dày và thần kinh tôi. Vài giọt rượu rỉ xuống vết thương trên miệng, thế là tôi thấy những ngôi sao hiện lên trong cái đêm đen tối nhất của đời mình.

“Được chứ?” anh chàng hành khất mỉm cười. “Tiếp đi, uống ngụm nữa đi. Cái thứ này có thể dựng người chết sống dậy đó.”

“Không cám ơn. Anh cũng uống chút đi,” tôi lầm bầm.

Anh hành khất uống một hơi dài. Tôi quan sát anh ta kĩ hơn. Anh ta trông từa tựa một kế toán viên nhà nước nghèo nàn dễ chừng mười lăm năm nay vẫn mặc mỗi một bộ đồ không thay. Anh ta chìa tay ra, tôi bèn nắm lấy.

“Fermín Romero de Torres, hiện thời thất nghiệp. Rất hân hạnh được làm quen.”

“Daniel Sempere, ngu xuẩn tột độ. Kẻ hân hạnh phải là tôi mới đúng.”

“Đừng coi khinh bản thân như thế. Trong những đêm thế này, cái gì cũng có vẻ tồi tệ hơn trên thực tế. Cậu không biết được đâu, nhưng tôi đây lạc quan bẩm sinh đấy. Tôi không hề nghi ngờ rằng thời cầm quyền của chế độ hiện giờ chẳng còn được mấy nữa đâu. Tất thảy thông tin đều chỉ ra rằng người Mỹ có thể xâm chiếm chúng ta bất kì lúc nào và họ sẽ cho Franco về vườn bán rong đậu phộng ở dưới miệt Melilla. Nếu vậy thì địa vị, danh tiếng và phẩm giá đã mất của tôi sẽ được khôi phục.”

“Anh từng làm việc ở đâu

“Nhiệm vụ bí mật. Gián điệp cấp cao,” Fermín Romero de Torres nói. “Chỉ cần nói rằng tôi từng là tay chân của tổng thống Maciá xứ Catalonia tại Havana.”

Tôi gật. Lại một gã đầu óc có vấn đề. Về đêm Barcelona tụ tập vô khối những kẻ như vậy. Và cả những đứa ngốc, như tôi.

Nghe này, cái vết đó nhìn không ổn chút nào. Ai đó đã đánh cậu rất nặng tay phải không?”

Tôi chạm ngón tay lên môi. Máu vẫn tiếp tục rỉ.

“Chuyện đàn bà phải không?” anh ta hỏi. “Đáng ra cậu không cần phí sức làm gì. Phụ nữ ở đất nước này - mà tôi thì đã thấy khá khá cái thế giới này rồi - là một mớ cao đạo, lạnh lùng. Tin tôi đi. Tôi vẫn còn nhớ cô lai mà tôi đã bỏ lại ở Cuba. Không thể so sánh, nhỉ? Không thể so sánh. Các cô gái vùng Caribê ra sức quyến rũ ta với điệu lắc lư của họ và thì thầm ‘Ôi, hỡi chàng đẹp mã, hãy cho em khoái cảm, cho em khoái cảm.’ Là một người đàn ông thực thụ với máu nóng chảy trong huyết quản... trời, tôi có thể nói gì đây?”

Dường như Fermín Romero de Torres, hoặc tên thật của anh ta có là gì đi nữa, khát khao một cuộc đối thoại vô tư lự không kém gì khát khao một bồn tắm nước nóng, một đĩa thịt hầm và một bộ quần áo mới thay. Tôi để anh ta nói một hồi, trong khi chờ cái đau của mình lắng xuống. Cũng chẳng khó khăn gì, bởi tất cả những gì người ta cần là một cái gật đầu đúng thời điểm và ai đó có vẻ đang lắng nghe. Khi anh chàng hành khất đang nhắm nhe thuật lại đống chi tiết về kế hoạch quái đản là bắt cóc vợ của Franco, tôi nhận thấy mưa đã ngớt và cơn bão dường như đang chầm chậm chuyển dần sang hướng Bắc.

“Muộn lắm rồi,” tôi lầm bầm đứng dậy.

Fermín Romero de Torres gật đầu cùng một ánh nhìn buồn bã và giúp tôi đứng dậy, vờ như phủi bụi cho quần áo tôi đang ướt nhoẹt.

“Để hôm khác vậy,” anh ta nói giọng cam chịu. “E rằng ba hoa là tật tôi không sửa được. Một khi tôi bắt đầu thì... Nghe này, cái phi vụ bắt cóc vừa rồi, nó không được lan truyền đi đâu, hiểu chứ?”

“Đừng lo. Tôi sẽ câm lặng như đang nằm dưới mồ. Và cảm ơn vì chút rượu vang.”

Tôi khởi hành tiến về khu Đại lộ Ramblas. Tôi dừng chân trước lối vào quảng trường và quay lại nhìn căn hộ Barceló. Những cánh cửa sổ vẫn im ỉm trong bóng tối, ướt đẫm nước mưa. Tôi muốn căm ghét Clara nhưng không thể. Thực sự căm ghét ai đó cũng là một nghệ thuật mà ta phải học dần theo năm tháng.

Tôi thề với chính mình rằng sẽ không bao giờ gặp cô ta lần nữa, rằng sẽ không bao giờ nhắc lại tên con người đó hay nhớ lại quãng thời gian đã phung phí bên cô ta. Vì một lý do lạ lùng nào đó, tôi cảm thấy bình yên. Cơn điên giận thôi thúc tôi bỏ chạy khỏi nhà giờ không còn nữa. Tôi đã e sợ rằng ngày hôm sau nó sẽ quay lại, với mức độ còn khủng khiếp hơn. Tôi đã e sợ rằng lòng ghen tức và nỗi tủi thẹn sẽ từ từ nhấn chìm tôi một khi tất thảy những mảnh ký ức của đêm đó rơi vào đúng chỗ của chúng. Nhưng bình minh vẫn còn vài tiếng nữa mới tới, và tôi còn một việc nữa cần làm trước khi có thể quay về nhà với một lương tâm trong sạch.

***

KHU PHỐ NHÀ HÁT CỔNG VÒM đang ở đó đợi tôi. Một dòng nước đen chảy tụ lại ở chính giữa con phố hẹp tạo thành dòng, giống như một đám tang, hướng về trung tâm là quận Raval. Tôi nhận ra cánh cửa gỗ cũ và mặt tiền kiểu baroque mà cha đã dẫn tôi đến vào buổi rạng đông hôm đó, sáu năm về trước. Tôi bước lên các bậc thềm và trú mưa dưới vòm cổng ra vào. Nó sặc mùi nước tiểu và gỗ mọt. Hơn bao giờ hết, Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên dậy mùi cái chết. Tôi không nhớ được rằng nắm treo vòng sắt gõ cửa được tạo hình mặt quỷ. Tôi cầm lấy vòng sắt là sừng con quỷ và gõ ba lần. Tiếng vọng lan truyền khắp bên trong toàn nhà. Một hồi sau tôi gõ thêm đợt nữa, sáu lần gõ cả thảy, lần gõ sau càng mạnh hơn lần gõ trước, cho đến khi nắm tay tôi đau nhừ. Vài phút nữa trôi qua, tôi bắt đầu sợ rằng có lẽ chẳng còn ai tại nơi này nữa. Tôi ngồi thụp xuống tựa lưng vào cánh cửa và lấy cuốn sách của Carax ra khỏi mặt trong áo vét. Tôi mở cuốn sách ra đọc lại câu văn đầu tiên đã mê hoặc tôi nhiều năm về trước.

***

Mùa hè năm đó mưa rả rích không ngừng ngày này qua ngày khác, và mặc dù nhiều người đã nói đó là do Chúa Trời nổi cơn thịnh nộ trừng phạt dân làng đã dám mở một sòng bạc ngay cạnh nhà thờ, song tôi biết đó là lỗi của tôi, của riêng mình tôi mà thôi, bởi tôi đã học được cách dối trá và miệng tôi đến giờ vẫn còn thuộc lòng những lời cuối mẹ tôi trối trăng trên giường lúc bà hấp hối: “Mẹ chưa bao giờ yêu người đàn ông mẹ lấy làm chồng mà chỉ yêu một người khác, mẹ nghe nói người đó đã bị giết trong chiến tranh; hãy tìm người đó mà nói rằng ý nghĩ cuối cùng của mẹ là dành cho ông ấy, bởi ông ấy mới đúng là cha ruột của con.”

***

Tôi cười, nhớ lại cái đêm đầu tiên háo hức đọc cuốn sách này hồi sáu năm trước. Tôi đóng sách lại và chuẩn bị gõ cửa thêm lần nữa, nhưng trước khi những ngón tay tôi chạm được tới vòng sắt, cánh cửa lớn đột ngột mở ra đủ rộng để lộ khuôn mặt người gác. Tay ông ta cầm một chiếc đèn dầu.

“Chào buổi tối,” tôi lí nhí. “Bác Isaac phải không ạ?”

Người gác quan sát tôi không chớp mắt. Ánh sáng tỏa ra từ chiếc đèn dầu như khắc tạc khuôn mặt góc cạnh gầy guộc của ông bằng hổ phách và những sắc đỏ, trao cho ông một nét hao hao đến rợn người với con quỷ nhỏ trên nắm gõ cửa.

“Cậu là con trai Sempere,” ông ta ngao ngán càu nhàu.

“Trí nhớ của bác thật tuyệt vời.”

“Còn ý thức về giờ giấc của cậu thật tồi tệ. Biết giờ là mấy giờ không?”

Đôi mắt sắc bén của ông ta đã kịp chú ý đến cuốn sách nằm bên dưới áo vét của tôi. Isaac nhìn tôi vẻ dò hỏi. Tôi lấy cuốn sách giương ra trước mặt ông ta.

“Carax,” ông ta nói. “Ta dám cá là có không quá mười người trong thành phố này có biết về ông ta, hoặc từng đọc cuốn sách này.”

“Dạ, một trong số họ có ý định muốn thiêu rụi nó. Cháu không nghĩ ra được nơi cất giữ nào tốt hơn ở đây.”

“Đây là một nghĩa địa, không phải chốn kí gửi an toàn.”

“Chính xác. Điều cuốn sách này cần là được đem chôn ở nơi nào đó không ai có thể tìm thấy.”

Isaac hồ nghi liếc nhìn dọc con hẻm. Ông nhích cửa ra thêm chừng mười phân rồi ra hiệu bảo tôi lẻn nhanh vào. Bóng tối, khoảng không gian kín mít khó dò trong tiền sảnh dậy mùi sáp và ẩm ướt. Duy chỉ nghe thấy tiếng nước nhỏ giọt không đều trong khung cảnh tối tăm ảm đạm này. Isaac đưa tôi giữ chiếc đèn trong lúc thọc tay vào túi áo khoác lấy ra một vòng khóa lớn dễ thường khiến bất kì tên cai ngục nào cũng phải nảy lòng ghen tị. Bằng phương pháp khoa học khôn lường nào đó, Isaac lần ra được đúng chìa cần dùng, liền tra chìa vào chốt cửa nằm dưới một hộp thủy tinh đầy những rơ le và bánh răng trông như một hộp nhạc lớn. Với một cú lắc cổ tay của ông, cơ cấu máy móc kêu cách một cái, đòn bẩy và trục bản lề trượt theo một một điệu vũ ba lê cơ học vô cùng ấn tượng, cho đến khi một vòng những thanh thép dày neo chặt trên bức tường đá nhô ra kẹp giữ lấy cánh cửa lớn.

“Thậm chí Ngân hàng Tây Ban Nha cũng không thể làm tốt hơn,” tôi nhận xét, vô cùng ấn tượng. “Trông cứ như thể cơ cấu nào đó trong sách của Jules Verne vậy.”

“Kafka chứ,” Isaac sửa lời tôi, lấy lại chiếc đèn dầu và dợm bước tiến sâu hơn vào trong tòa nhà. “Ngày nào đó cậu nhận ra rằng ngành buôn sách này chẳng xơ múi được gì sất và cậu quyết định rằng mình muốn học cách cướp nhà băng, hoặc tổ chức cướp nhà băng, đằng nào cũng như nhau cả thôi, hãy đến gặp ta rồi ta sẽ chỉ cậu vài ba mánh về chốt khóa.”

Tôi đi theo ông ta dọc các hành lang mình vẫn còn nhớ rõ, khắp hai bên choán đầy những bức bích họa phai mờ gồm những thiên thần và sinh vật nom như bóng tối. Isaac nâng cao chiếc đèn dầu, hắt ra những bóng sáng đỏ rực rung rinh. Isaac đi hơn tập tễnh, chiếc áo nỉ đã sờn cũ ông ta mặc trông như áo của người phục vụ tang lễ. Chợt tôi nảy ra ý nghĩ rằng người đàn ông này, có chút gì đó hơi như Charon người lái đò dưới địa ngục lại cũng giống thủ thư tại thư viện Alexandria, dường như cũng thuộc về một trong các tiểu thuyết của Julián Carax.

“Bác có biết gì về Carax không?” tôi hỏi.

Isaac dừng chân nơi cuối hành lang mà nhìn tôi với vẻ thờ ơ. “Không nhiều. Chỉ biết những gì được nghe kể thôi.”>“Từ ai ạ?”

“Một người biết tác giả đó khá rõ, hoặc ít nhất là họ nghĩ vậy.”

Tim tôi như lỡ một nhịp đập. “Đó là khi nào vậy?”

“Khi ta vẫn còn cần dùng lược. Lúc ấy cậu chắc vẫn đang quấn tã. Mà cậu cũng chẳng có vẻ tiến bộ nhiều lắm từ thuở ấy, nói cho thẳng thắn. Nhìn chính cậu kìa: run như cầy sấy.”

“Đấy là vì quần áo của cháu bị ướt, với cả ở đây lạnh quá.”

“Lạnh à? Vậy, lần tới mà có qua thì nhớ nhắn trước, ta sẽ bật hệ thống sưởi ấm cao cấp ở khu chính để chào đón cậu, nụ hồng nhỏ ạ. Đi nào, theo ta. Phòng làm việc của ta ở kia. Ở đó có lò sưởi và thứ gì đó để choàng quanh người trong khi chờ hong khô quần áo của cậu. Với cả chút thuốc đỏ với ôxy già chắc cũng không thừa. Trông cậu cứ như vừa được thả ra từ một chiếc xe cảnh sát vậy.”

“Không cần phải vậy đâu, thực đấy ạ”

“Ta không thấy phiền. Ta làm là vì mình, không phải vì cậu. Một khi đi qua cánh cổng này, cậu phải chơi theo luật của ta. Nghĩa trong này là để danh cho sách, không phải cho con người. Cậu có thể bị viêm phổi, mà ta thì không muốn phải gọi tới nhà xác thông báo. Chúng ta sẽ xem xét chuyện cuốn sách sau. Sau ba mươi tám năm, ta chưa từng thấy cuốn sách nào có thể chạy đi được.”

“Cháu không thể diễn tả rằng cháu cảm kích nhường nào...”

“Vậy đừng diễn tả gì. Ta cho cậu vào đây vì lòng kính trọng cha cậu. Bằng không ta đã để mặc cậu ở trên phố rồi. Giờ thì, theo ta. Nếu cậu biết cách cư xử, ta có thể cân nhắc việc kể những điều ta biết về tay bạn Julián Carax của cậu.”

Từ khóe mắt tôi, khi Isaac tưởng rằng tôi không thể nhìn ra, tôi chú ý thấy, mặc dù nói như vậy, ông ta lại đang cười ranh mãnh. Isaac cố nhiên tỏ ra ưa thích cái vai kẻ giám sát độc địa. Tôi cũng tự mỉm cười với mình. Giờ đây tôi không còn nghi ngờ gì về chuyện khuôn mặt trên nắm treo vòng gõ cửa là thuộc về ai.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 10


ISAAC NÉM VÀI TẤM CHĂN lên vai tôi và đưa tôi một cốc dung dịch nóng hổi dậy mùi sô cô la nóng và hơi thoáng mùi rượu.

“Bác đang nói dở về Carax...”

“Cũng chẳng có gì nhiều để kể. Người đầu tiên nhắc đến Carax với ta là Toni Cabestany, người xuất bản cuốn ấy. Đó là chuyện hai mươi năm về trước, khi đó công ty ông ấy vẫn còn hoạt động. Mỗi bận trở về sau những chuyến kiếm tìm tài năng từ London, Paris hoặc Vienna, Cabestany thường rẽ qua và bọn ta cùng chuyện trò đôi chút. Hồi đó ta và ông ấy đều góa vợ, ông ấy thường phàn nàn rằng giờ đây hai ta đều kết hôn với sách mất rồi, ta thì với đống sách cũ còn ông ấy thì lấy cái đống sổ sách. Bọn ta là bạn tốt. Trong một lần thăm hỏi, Cabestany kể cho ta bằng cách nào, mà với một số tiền ít ỏi, ông ấy lại giành được quyền phát hành tiếng Tây Ban Nha các cuốn tiểu thuyết của Julián Carax, một nhà văn trẻ gốc Barcelona sinh sống tại Paris. Chuyện này xảy ra hồi năm 1928 hay 1929. Hình như vào ban đêm tay Carax đó làm nhạc công piano ở một nhà chứa tầm tầm nào đó ở khu Pigalle còn ban ngày thì viết sách tại một gác xép tồi tàn trên phố Saint-Germain. Paris là thành phố duy nhất trên thế giới nơi mà chịu đói đến chết vẫn còn được coi là một nghệ thuật. Carax từng xuất bản vài cuốn tiểu thuyết tại Pháp, nhưng thảy đều thất bại thảm hại. Tại Paris không ai chịu thừa nhận anh ta, với cả Cabestany luôn thích mua đồ rẻ.”

“Vậy Carax viết bằng tiếng Tây Ban Nha hay tiếng Pháp?”

“Ai biết được? Có lẽ cả hai. Mẹ của Carax là người Pháp, giáo viên dạy nhạc, chắc vậy, và anh ta sống tại Paris từ năm mười chín hay hai mươi tuổi gì đó. Cabestany chỉ nói rằng bản thảo của Carax gửi đến bằng tiếng Tây Ban Nha. Còn đó là bản dịch hay bản nguyên gốc thì ông ấy chẳng quan tâm. Ngôn ngữ ông ấy yêu thích là tiền, còn lại thì chẳng có nghĩa lý gì. Dường như với Cabestany thì có lẽ, nhờ vào chút may mắn nào đó, ông ấy có thể bán được vài nghìn bản in trên thị trch Tây Ban Nha.”

“Thế ông ấy có bán được không?”

Isaac nhíu mày khi rót cho tôi thêm một chút dung dịch chất hồi phục của mình. “Ta nghĩ rằng cuốn bán chạy nhất, Ngôi nhà màu đỏ, bán được khoảng chín mươi bản.”

“Nhưng ông ấy vẫn tiếp tục xuất bản sách của Carax, dù bị lỗ,” tôi chỉ ra.

“Đúng thế. Ta chịu thôi. Cabestany không hẳn là một tay thích lãng mạn. Nhưng ta nghĩ hẳn ai cũng có bí mật của mình. Từ năm 1928 đến năm 1936, ông ấy xuất bản tám cuốn tiểu thuyết của Carax. Dù sao, lĩnh vực Cabestany thực sự kiếm ra tiền là nhờ bán những cuốn vấn đáp giáo lý và một loạt tiểu thuyết ủy mị rẻ tiền ngợi ca một nhân vật nữ quê mùa có tên Violeta LaFleur. Mấy thứ đó bán chạy như tôm tươi. Ta đoán rằng Cabestany xuất bản sách của Carax bởi chúng thỏa mãn cơn mộng tưởng của ông ấy, hoặc chỉ là để phủ nhận quy luật đào thải của Darwin.”

“Vậy chuyện gì đã xảy ra với Señor Cabestany?”

Isaac thở dài, ngước nhìn lên. “Tuổi già - cái giá mà tất thảy chúng ta đều phải trả. Ông ấy trở nên ốm yếu và gặp phải vài ba vấn đề về tiền nong. Năm 1936, con trai cả của ông ấy thay cha quản lý việc kinh doanh, nhưng gã là cái loại thậm chí kích cỡ quần lót của mình còn chẳng đọc nổi. Chưa đầy một năm mọi thứ đều sụp đổ. May thay, Cabestany chẳng bao giờ phải chứng kiến những gì mà đám thừa tự của mình làm với thành quả làm việc của cả đời ông ấy, hay những gì chiến tranh đã gây ra cho đất nước ông ấy. Một cơn tai biến mạch máu não đã tiễn đưa ông ấy đứng vào đêm Ngày Lễ Các Linh Hồn, với điếu xì gà Cuba trên môi và một cô ả hai lăm trên đùi. Ra đi như thế mới là ra đi chứ! Thằng con thì như hoàn toàn thuộc nòi giống khác. Ngạo mạn đúng y kiểu những thằng ngu ngạo mạn. Ý tưởng vĩ đại đầu tiên của gã là cố gắng bán toàn bộ đống sách còn trong kho của công ty, vốn là của thừa kế từ cha, và chuyển sang chuyên sản xuất tạp chí rẻ tiền hay cái gì đó tương tự. Bạn gã, một thằng nhóc có nhà ở khu Caldetas và một chiếc xe thể thao của Ý, đã thuyết phục gã rằng truyện tình bằng ảnh và sách kiểu như Cuộc chiến đấu của tôi[1] sẽ bán chạy như điên, và kết quả là sẽ nảy sinh nhu cầu khổng lồ về giấy.”

[1. Cuộc chiến đấu của tôi (Mein Kampf): cuốn sách khét tiếng của Adolf Hitler.]

“Gã có làm thế thật không?”

“Đáng lẽ là có nhưng hắn không có thời gian. Chẳng bao lâu sau khi tiếp quản việc kinh doanh, một người nào đó đã xuất hiện tại văn phòng của gã đưa ra một đề nghị rất hào phóng. Người đó muốn mua toàn bộ số sách của Julián Carax còn tồn trong kho và sẵn sàng trả gấp ba lần giá bìa trên thị trường.”

“Chẳng cần nói cũng biết. Là để đốt chúng,” tôi làu bàu.

Isaac cười. Ông ta có vẻ ngạc nhiên. “Quả đúng là như vậy. Thế mà nãy giờ ta cứ tưởng cậu hơi cù lần cơ đấy, cứ hỏi một đống câu hỏi như thế mà chẳng hiểu ra được điều gì.”

“Người đó là ai?”

“Ai đó tên như là Aubert hay Coubert, ta không nhớ rõ lắm.”

“Laín Coubert?”

“Cái tên đó cậu nghe quen sao?”

“Đó là tên một trong các nhân vật trong Bóng hình của gió, cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Carax.”

Isaac nhíu mày. “Một nhân vật hư cấu sao?”

“Trong cuốn tiểu thuyết, Laín Coubert là cái tên được dùng bởi quỷ dữ.”

“Hơi bị màu mè quá, nếu cậu hỏi thì ta nói thế. Nhưng dù có là ai, ít nhất hắn ta cũng có khiếu hài hước đấy,” Isaac suy đoán.

Với những hình ảnh về cuộc gặp gỡ đêm đó vẫn còn tươi mới trong ký ức, tôi không thể nhìn ra mặt hài hước của vấn đề, dù từ góc độ nào, nhưng tôi lưu lại ý kiến của mình để dành cho dịp nào đó thuận tiện

“Người đó, Coubert, hay tên hắn có là gì đi nữa - mặt hắn có bị bỏng nặng, thành ra biến dạng không?”

Isaac nhìn tôi với nụ cười để lộ cả sự hứng thú lẫn quan tâm. “Ta chẳng biết mô tê gì hết. Người kể ta chuyện này chưa bao giờ gặp mặt hắn trực tiếp, mà chỉ biết chuyện là nhờ hôm sau con trai Cabestany kể cho thư ký của mình nghe. Gã chẳng nhắc gì đến khuôn mặt bị bỏng cả. Cậu có chắc mình không lấy cái chi tiết đó từ chương trình truyền thanh nào đó không đấy?”

Tôi hất đầu ra sau, như thể muốn làm nhẹ vấn đề. “Vậy chuyện đó kết thúc ra sao ạ? Gã con của tay xuất bản sách ấy có bán đống sách cho Coubert không?” tôi hỏi.

“Cái thằng đần ngu ngơ ấy cứ ráng giở trò ma lanh ma giáo. Gã đòi nhiều tiền hơn mức mà Coubert đưa ra, thế là Coubert rút lại lời đề nghị. Vài ngày sau, vừa quá nửa đêm, nhà kho của Cabestany tại khu nghĩa trang Pueblo Nuevo cháy rụi đến tận móng. Và là miễn phí luôn.”

Tôi thở dài. “Chuyện gì xảy ra với đống sách của Carax? Tất cả đều bị thiêu hủy sao?”

“Gần như tất cả. May sao, khi nghe kể về lời đề nghị của Coubert, thư ký của Cabestany liền có một dự cảm. Người này, hoàn toàn do tự ý mình, đi đến nhà kho đem theo các cuốn của Carax, mỗi nhan đề một cuốn. Chính cô ấy là người giao dịch thư từ với Carax, và qua năm tháng giữa họ đã hình thành cái gì đó tựa như tình bạn. Tên cô ấy là Nuria, và ta nghĩ rằng Nuria là cái người duy nhất trong cái nhà xuất bản đó, rất có khả năng là trên toàn Barcelona này, đã từng đọc các tiểu thuyết của Carax. Nuria luôn yêu mến những người sa cơ lỡ vận. Khi còn nhỏ, con bé thường cưu mang những con thú nhỏ nhặt được trên phố. Lớn lên thì nó thành ra cưu mang đám nhà văn thất bại, có lẽ bởi cha nó từng muốn thành nhà văn mà chẳng bao giờ thực hiện được.”

“Bác có vẻ biết nhiều về cô ấy.”

Isaac lại nhoẻn nụ cười ranh ma. “Nhiều hơn là nó nghĩ. Con bé là con gái ta mà.”

Sự tĩnh lặng và ngờ vực gặm nhấm tôi. Càng nghe câu chuyện, tôi càng hoang mang lẫn lộn. “Hình như Carax trở về Barcelona vào năm 1936. Có người nói ông ấy qua đời tại thành phố này. Vậy ông ấy có còn người họ hàng nào tại đây không? Người nào đó có thể biết về ông ấy?”

Isaac thở dài. “Chúa mới biết được. Cha mẹ của Carax đã chia tay từ lâu, chắc vậy. Bà mẹ di cư sang Nam Mỹ rồi tái hôn ở đó. Ta không cho rằng Carax còn liên lạc với cha mình từ khi chuyển đến Paris.”

“Tại sao thế ạ?”

“Ta chịu. Con người ta thường có xu hướng phức tạp hóa cuộc sống của họ, cứ như thể việc sống không thôi chưa đủ phức tạp vậy.”

“Bác có biết liệu cha của Carax có còn sống?”

“Ta hi vọng thế. Ông ấy còn trẻ hơn ta, nhưng hồi này ta chẳng mấy khi ra ngoài và cũng đã nhiều năm rồi không còn đọc trang cáo phó – người thân quen rơi rụng xuống mồ cứ như ruồi ấy, với cả, nói trắng ra thì điều đó cũng khiến ta sợ chứ. À, với lại, Carax là họ của mẹ gã. Cha của gã thì được gọi là Fortuny. Ông ấy sở hữu một tiệm mũ trên đại lộ San Antonio.”

“Vậy, bác có nghĩ rằng liệu có khả năng khi quay về Barcelona Carax lại nảy sinh mong muốn đến thăm con gái bác, Nuria, vì họ là bạn, bởi ông ấy không có quan hệ tốt với cha mình?”

Isaac cười vẻ cay đắng. “Cái đó thì e ta chẳng cách nào biết được. Nói gì thì nói, ta chỉ là cha nó. Ta chỉ biết là có một lần, vào năm 1932 hay 1933, Nuria tới Paris vì công chuyện cho Cabestany, và con bé ở tại căn hộ của Julián Carax khoảng vài tuần. Là Cabestany nói với ta. Chứ còn theo con gái ta thì nó trọ tại khách sạn. Khi ấy nó còn chưa có chồng, và ta ngờ rằng tay Carax đó có hơi bị con bé hút hồn. Nuria của ta là loại chỉ cần đi vào cửa tiệm là cũng đủ làm tan vỡ trái tim một gã đàn ông.”

“Ý bác rằng họ là người tình?”

“Cậu thích các câu chuyện tình lâm ly hử? Này, ta chẳng bao giờ can thiệp vào đời tư của Nuria, bởi cuộc đời ta cũng chẳng phải bức tranh hoàn hảo gì cho cam. Nếu cậu mà có con gái - một phúc lành mà ta chẳng mong ai được hưởng, bởi lẽ đương nhiên là chẳng chóng thì chày con bé cũng làm tim cậu tan nát thôi - dù sao thì đấy là ta đang nói là nếu cậu có con gái, cậu sẽ bắt đầu, mà không ý thức được, chia đám đàn ông ra thành hai nhóm: những kẻ khiến cậu ngờ rằng đã ngủ với con bé và những kẻ không khiến cậu ngờ như vậy. Kẻ nào bảo nói thế không đúng thì cầm chắc là đang nói dối. Ta ngờ rằng Carax thuộc nhóm đầu tiên, nên ta chẳng quan tâm gã có là thiên tài hay kẻ bất hạnh khốn khổ. Với ta gã sẽ luôn là một tên vô lại.”

“Nhỡ đâu bác nhầm.”

“Đừng phản ứng thế, cậu còn rất trẻ và chẳng biết nhiều về phụ nữ bằng ta biết về nướng bánh hạnh nhân đâu.”

“Thôi không tranh cãi chuyện đó nữa,” tôi nói. “Chuyện gì đã xảy ra với những cuốn sách mà con gái bác lấy được từ nhà kho?”

“Chúng ở đây.”

“Ở đây?”

“Thế cậu nghĩ cuốn sách của cậu đến từ đâu - cái cuốn cậu tìm thấy vào ngày cha cậu dẫn cậu tới nơi này ấy?”

“Cháu không hiểu.”

“Rất đơn giản thôi. Một đêm nọ, vài ngày sau vụ cháy ở kho nhà Cabestany, con gái ta, Nuria, đã đến đây. Trông nó có vẻ lo lắng. Con bé nói có ai đó đang đi theo nó và nó sợ rằng người đó là cái gã tên Coubert, kẻ đang cố gắng chiếm đoạt mấy cuốn sách để tiêu hủy chúng. Nuria nói nó tới đây để giấu những cuốn sách của Carax. Nó tới chỗ phòng lớn và giấu chúng trong mê cung những giá sách, giống như chôn vùi vật báu vậy. Ta không hỏi nó đã giấu sách ở đâu, mà nó cũng chẳng nói cho ta. Trước khi đi, con bé bảo rằng ngay khi tìm được Carax nó sẽ quay lại lấy sách. Vẻ như con bé vẫn còn yêu tay đó, nhưng ta chẳng nói gì. Ta hỏi dạo gần đây nó có gặp Carax không, hay có nghe tin tức gì không. Con bé nói hàng tháng rồi nó chẳng ngóng được tin gì từ gã, chính xác là từ lần cuối gã gửi con bé những sửa chữa cuối cùng cho cuốn tiểu thuyết mới nhất của gã. Ta chẳng rõ nó có nói thật hay không. Điều ta biết là kể từ sau ngày hôm đó Nuria chẳng bao giờ nghe được tin gì từ Carax nữa, và những cuốn sách ấy cứ nằm đây mà phủ đầy bụi.”

“Bác có nghĩ con gái bác sẽ sẵn lòng kể cho cháu về chuyện này không?”

“Cũng có thể, nhưng ta không biết liệu con bé có thể cho cậu biết điều gì mà cậu còn chưa được nghe kể. Nhớ lấy, tất cả những chuyện này đều đã xảy ra từ rất lâu rồi. Sự thật là hai cha con ta không hòa thuận như ta mong muốn. Mỗi tháng ta và con bé gặp nhau có mỗi một lần. Khi đó bọn ta thường đi đâu đó gần gần để ăn trưa, rồi con bé bỏ đi cũng nhanh như khi đến vậy. Ta được biết là vài tháng trước con bé kết hôn với một người đàn ông tốt, một phóng viên, hơi nông nổi đôi chút, đó là ta nghĩ vậy, một trong những kẻ luôn vướng vào rắc rối với chính quyền, nhưng có trái tim thiện lương. Hai đứa tổ chức một đám cưới không theo nghi thức tôn giáo và chẳng mời vị khách nào. Một tháng sau đó ta mới biết. Con bé chẳng bao giờ giới thiệu chồng nó với ta. Miquel, đó là tên chồng nó. Hay gì đó từa tựa thế. Chắc nó chẳng tự hào gì lắm về cha mình đâu, và ta không trách nó. Giờ đây nó ra dáng phụ nữ lắm rồi. Tưởng tượng mà xem, nó thậm chí còn học cách đan lát, và ta nghe kể giờ nó không còn mặc những cái váy như Simone de Beauvoir nữa. Rồi một ngày nào đó, chắc ta sẽ được biết mình đã thành ông ngoại. Hàng năm trời nó ngồi nhà, dịch tiếng Ý và tiếng Pháp làm kế sinh nhai. Ta chẳng biết nó lấy đâu ra tài năng ấy, nói trắng ra là vậy. Không phải từ cha nó, chắc chắn rồi. Để ta ghi lại địa chỉ của con bé, dù ta không chắc rằng bảo nó ta cử cậu tới gặp nó là một ý hay.”

Isaac nguệch ngoạc vài chữ lên góc một tờ báo cũ và đưa tôi mảnh giấy.

“Cháu rất cảm kích. Biết đâu được, có khi cô ấy lại nhớ ra điều gì đó...”

Isaac mỉm cười hơi chút buồn bã. “Hồi còn bé nó nhớ mọi điều. Tất thảy mọi điều. Rồi trẻ em đều lớn lên và ta chẳng còn biết chúng nghĩ gì hay cảm thấy gì nữa. Và có lẽ mọi chuyện đều phải như thế, ta tin vậy. Đừng cho Nuria biết ta đã kể với cậu những gì, được chứ? Những chuyện được nhắc đến trong đêm nay không được tiết lộ cho ai.”

“Bác đừng lo. Bác có nghĩ, vẫn còn nghĩ về Carax?”

Isaac hắt ra một tiếng thở dài và cụp mắt xuống. “Có Chúa mới biết. Ta chẳng biết liệu nó có thực yêu gã đó hay không. Những điều ấy đều được khóa kín trong lòng, và giờ nó đã có chồng. Khi bằng tuổi cậu, ta từng có bạn gái, Teresita Boadas, đó là tên cô ấy - cô ấy may tạp dề trong nhà máy dệt Santamaria trên phố Comercio. Hồi đó cô ấy mười sáu, trẻ hơn ta hai tuổi, và là người phụ nữ đầu tiên ta yêu. Đừng nhìn ta như vậy. Ta biết giới trẻ các cậu cho rằng người già bọn ta chưa bao giờ biết yêu đương. Cha của Teresita có một cái xe làm đá và bán hàng ở chợ Borne, ông ấy bẩm sinh vốn đã hơi đần. Cậu chẳng thể hình dung nổi ta đã sợ thế nào vào cái ngày ta hỏi xin cưới con gái ông ấy, ông ấy liền nhìn chằm chằm ta suốt những năm phút đồng hồ, chẳng có phản ứng rõ ràng nào, tay lăm lăm dùi đục đá. Ta đã dành dụm hai năm ròng để mua cho Teresita một chiếc nhẫn cưới thì cô ấy lâm bệnh. Thi thoảng ở chỗ làm người ta bắt gặp cô ấy đang ho, Teresita kể với ta như vậy. Sáu tháng sau cô ấy qua đời vì bệnh lao. Ta vẫn còn nhớ người cha ngớ ngẩn của Teresita gào khóc nhường nào khi chôn cô ấy ở nghĩa trang Pueblo Nuevo.”

Isaac rơi vào im lặng sâu thẳm. Tôi chẳng dám thở mạnh. Một lúc sau ông ngước lên rồi mỉm cười.

“Ta đang kể về những năm mươi lăm năm về trước, thử nghĩ mà xem! Nhưng nếu phải nói thật thì chẳng có ngày nào ta không nghĩ về cô ấy, về những cuộc dạo bộ của hai ta tới tận khu Triển lãm Quốc tế 1888 nay đã hoang phế, hay cách cô ấy cười mỗi khi ta đọc những vần thơ ta viết tại phòng đọc của ông bác Leopoldo trong tiệm tạp phẩm. Ta thậm chí vẫn còn nhớ khuôn mặt người phụ nữ Digan trên bãi biển Bogatell đã tiên đoán rằng hai ta sẽ luôn luôn bên nhau. Theo cách riêng của mình, bà ấy đúng. Ta có thể nói gì đây? Hừm, phải, ta cho rằng Nuria vẫn còn nghĩ về gã đàn ông đó, dù con bé chẳng hề nói thế. Và sự thực là, ta sẽ chẳng bao giờ tha thứ Carax về điều đó. Cậu vẫn đang trẻ lắm, nhưng ta thì biết quá rõ những chuyện này đớn đau nhường nào. Nếu cậu muốn biết quan điểm của ta, thì Carax là một kẻ đánh cắp trái tim, và gã đã đem trái tim con gái ta theo xuống mồ, hay địa ngục. Ta chỉ yêu cầu cậu một điều: nếu cậu gặp và nói chuyện với con bé, hãy cho ta biết con bé thế nào. Hãy tìm hiểu xem nó có hạnh phúc không. Và liệu con bé có tha thứ cho cha nó hay không.”

NGAY SAU KHI BÌNH MINH LÊN, chỉ với một chiếc đèn dầu để soi đường, tôi quay vào lại Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên. Vừa đi tôi vừa mường tượng hình ảnh cô con gái của Isaac lang thang suốt những hành lang dằng dặc tối tăm với cùng một quyết tâm đang dẫn lối cho tôi lúc này: nhằm cứu lấy cuốn sách. Tôi cứ ngỡ tưởng còn nhớ được lối đi khi theo cha lần đầu tới thăm nơi này, nhưng tôi nhanh chóng nhận ra những góc lượn và rẽ ngoặt của mê cung này uốn cong các lối đi thành những đường vặn xoắn đến mức không thể nhớ nổi đâu là đâu. Ba lần tôi cố gắng lần theo lối đi những tưởng vẫn còn nhớ rõ, thì cả ba lần mê cung gửi tôi về lại cùng một vị trí. Isaac đợi sẵn tôi ở đó, một nụ cười giễu cợt trên môi.

“Cậu có định một ngày nào đó sẽ quay lại lấy cuốn sách này?” ông ta hỏi.

“Đương nhiên rồi.”

“Nếu thế cậu nên ăn gian một chút.”

“Ăn gian ư?”

“Chàng trai trẻ, cậu hơi chậm hiểu thì phải? Hãy nhớ lại truyền thuyết về Minotaur đi.”

Mất vài giây tôi mới hiểu ông ta đang gợi ý điều gì. Isaac lấy trong túi áo ra một con dao nhíp cũ đưa cho tôi.

“Hãy đánh dấu ở tất cả các góc. Một vết khía mà chỉ mình cậu có thể nhận biết. Ở đây toàn gỗ cũ toàn vạch khía lẫn vết trầy xước nên sẽ chẳng ai chú ý trừ cái người biết rõ mình đang tìm kiếm cái gì.”

Tôi làm theo lời khuyên của ông ta và một lần nữa thâm nhập vào mê cung. Mỗi lần đổi hướng, tôi dừng lại để đánh dấu các giá sách với một chữ C và X bên vách lối đi mình định chọn. Hai mươi phút sau tôi đã ở sâu trong tòa tháp và, một cách khá tình cờ, nơi tôi định chôn giấu cuốn tiểu thuyết bỗng lộ ra trước mắt. Ở bên phải tôi để ý thấy một hàng tập sách về việc giải thể tài sản của nhà thờ do tác gia lỗi lạc Jovellanos chấp bút. Với đôi mắt tuổi mới lớn của tôi, sự ngụy trang ấy hẳn có thể khiến ngay cả bộ óc xảo quyệt nhất cũng phải nản lòng. Tôi lấy ra vài tập sách và rà soát tầng thứ hai được che khuất đằng sau những bức tường chữ như khắc bằng cẩm thạch kia. Giữa những đám bụi nhỏ, vô số vở kịch của Moratín và một cuốn Cial e Güelfa mới toanh đứng liền kề với Tractatus Theologico Politicus của Spinoza. Bỗng nhiên, tôi quyết định sẽ giấu cuốn sách của Carax giữa cuốn niên giám năm 1901 gồm tường thuật các vụ kiện tại tòa án dân sự Gerona và một bộ các tiểu thuyết của Juan Valera. Để tạo khoảng trống, tôi quyết định lấy cuốn Thi ca thời hoàng kim nằm kẹp giữa hai cuốn kia ra ngoài, đoạn nhét Bóng hình của gió thay vào đó. Tôi chào tạm biệt cuốn tiểu thuyết bằng một cái nháy mắt rồi đặt bộ hợp tuyển của Jovellanos trở về chỗ cũ, và xếp sách ở hàng trước vào che kín hàng sau.

Tôi rời nơi đó mà không gặp mấy khó khăn nhờ lần tìm đường ra dựa vào những dấu hiệu mình đã khắc lên lúc đi vào. Khi bước trong bóng tối xuyên qua những hành lang và đường hầm toàn những sách, tôi không khỏi bị nhấn chìm bởi một cảm giác buồn. Tôi không khỏi ngẫm ngợi rằng nếu như mình, chỉ nhờ tình cờ, đã tìm ra cả một vụ trụ ẩn chứa trong một cuốn sách vô danh bị chôn vùi trong cái nghĩa trang vô tận đó, thì còn hàng vạn vũ trụ nữa sẽ vẫn chưa hề được khám phá, vĩnh viễn bị lãng quên. Tôi thấy mình như bị vây quanh bởi hàng triệu trang sách bị bỏ rơi, bởi những thế giới và những linh hồn vô chủ đang chìm dần vào đại dương đen tối, trong khi cái thế giới hối hả bên ngoài thư viện dường như đang ngày ngày mất đi ký ức của chính nó mà không tự biết, càng quên bao nhiêu thì lại càng thấy mình thông thái bấy nhiêu.

***

BÌNH MINH ĐANG TAN DẦN KHI TÔI TRỞ LẠI CĂN HỘ trên con phố Santa Ana. Khẽ mở cửa chính, không với tay bật đèn, tôi nhẹ nhàng lách vào trong. Từ tiền sảnh, tôi có thể thấy phòng ăn ở cuối hành lang, bàn ăn được bày biện cho bữa tiệc vẫn chưa bị dọn đi. Chiếc bánh ngọt vẫn ở đó, còn nguyên vẹn, bộ đồ sứ vẫn đang chờ đợi các món ăn được bày ra. Tôi có thể nhìn ra hình bóng bất động của cha tôi trên chiếc ghế bành, ông đang quan sát cảnh vật bên ngoài cửa sổ. Cha tôi còn thức và vẫn đang bận bộ vét đẹp nhất của ông. Những vòng khói uể oải bốc lên từ điếu thuốc lá ông kẹp giữa ngón trỏ và ngón đeo nhẫn như thể đó là một cây bút. Đã nhiều năm nay tôi không thấy cha hút thuốc.

“Chào buổi sáng,” cha tôi lầm rầm, dúi điếu thuốc lá vào tàn thuốc đầy ứ những đầu mẩu thuốc mới cháy được một n

Tôi nhìn cha mà không biết phải nói gì. Ánh sáng từ sau lưng lóa mờ đi đôi mắt ông.

“Tối qua Clara gọi đến vài lần, mấy tiếng sau khi con rời nhà,” ông nói. “Cô ấy có vẻ rất lo lắng. Cô ấy nhắn con gọi lại, bất cứ lúc nào cũng được.”

“Con không định sẽ gặp hay nói chuyện với Clara nữa đâu,” tôi nói.

Cha tôi gật đầu nhưng không đáp lại gì. Tôi buông mình xuống một trong các ghế tại bàn ăn và nhìn chăm chăm xuống sàn nhà.

“Con không định kể xem tối vừa rồi đã đi đâu ư?”

“Chỉ loanh quanh thôi ạ.”

“Con làm cha sợ kinh hồn đấy.”

Không chút giận dữ nào ẩn trong giọng ông và gần như không có chút chê trách, chỉ có sự mệt mỏi.

“Con biết. Con xin lỗi,” tôi trả lời.

“Con đã làm gì với mặt của mình thế?”

“Con trượt ngã do nước mưa.”

“Cơn mưa đó hẳn đã có cú móc phải khá được đấy. Bôi cái gì lên đó đi.”

“Chẳng sao đâu. Con còn chẳng nhận thấy mà,” tôi nói dối. “Giờ con cần ngủ một chút. Con gần như không đứng được nữa rồi.”

“Ít ra hãy mở quà trước khi đi lên giường,” cha tôi nói.

Ông chỉ về phía gói quà bọc trong giấy bóng kính mà đêm trước ông đã đặt sẵn lên bàn cà phê. Tôi do dự trong chốc lát. Cha tôi gật đầu. Tôi nhấc gói quà lên và thử sức nặng của nó. Không mở gói quà, tôi trao nó lại ta

“Cha gửi trả nó đi, con chẳng xứng đáng được nhận bất cứ món quà nào.”

“Quà tặng sinh ra là để đem lại niềm vui sướng cho người tặng chúng, không phải vì phẩm chất của người được nhận quà,” cha tôi nói. “Với cả, cái này không hoàn trả được. Cứ mở ra đi.”

Tôi cẩn trọng mở gói quà trong ánh ban mai nhập nhoạng. Bên trong chứa một chiếc hộp gỗ khảm sáng bóng, rìa mép đóng đinh tán bằng vàng. Thậm chí trước khi mở hộp, tôi đã nhoẻn miệng cười. Tiếng chiếc móc gài bật mở nghe vô cùng tinh tế, như tiếng tích tắc của đồng hồ. Bên trong, chiếc hộp được lót một lớp nhung màu lam thẫm. Cây bút Meisterstück huyền thoại hiệu Montblanc của Victor Hugo nằm ở chính giữa. Hình ảnh đó khiến tôi sững sờ. Tôi cầm chiếc bút lên hướng ra ánh sáng ngoài ban công nhìn cho rõ. Phần thân trên vàng óng của chiếc bút được khắc một dòng chữ.

DANIEL SEMPERE, 1950

Tôi chằm chằm nhìn cha, ngơ ngẩn. Tôi không nhớ từ trước đến nay mình từng thấy vẻ mặt cha hạnh phúc được như giây phút ấy. Không nói năng gì, ông đứng dậy khỏi ghế bành và ôm chặt lấy tôi. Tôi nghe cổ họng nghèn nghẹn, không thốt nổi một lời và rơi vào lặng im tuyệt đối.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 11


MÙA THU NĂM ĐÓ BAO TRÙM LÊN Barcelona một lớp lá rụng lạo xạo khắp mặt phố như những chiếc vảy bạc. Ký ức xa xôi của cái đêm sinh nhật thứ mười sáu đã đặt một dấu lặng u ám lên tâm hồn tôi, hay có lẽ đời đã quyết định ban tặng tôi một kỳ xả hơi sau một chuỗi những phiền muộn thống thiết để tôi có thể bắt đầu trưởng thành. Tôi ngỡ ngàng thấy mình dành rất ít thời gian suy nghĩ về Clara, Barceló hay Julián Carax, hay về cái kẻ tầm thường vô diện nồng mùi giấy cháy và ra vẻ như một

nhân vật bước thẳng ra từ cuốn sách. Tới tháng Mười một, tôi đã trải qua được một tháng tĩnh tại trong tâm hồn, một tháng không lượn lờ quẩn quanh Quảng trường Hoàng gia chỉ để khẩn cầu được thoáng thấy bóng dáng Clara qua cửa sổ. Phước lành ấy, tôi phải thú thực, không hoàn toàn do tôi tự nỗ lực mà có. Công việc tại tiệm sách cứ dần phất lên, khiến cha con tôi phải đảm đương nhiều việc hơn sức chúng tôi kham nổi.

“Cứ đà này chúng ta phải thuê thêm người giúp lo vụ kiếm sách cho đơn đặc hàng,” cha tôi nhận xét. “Người chúng ta thực sự cần phải rất đặc biệt, vừa thám tử vừa thi sĩ, người nào đó không đòi lương quá cao hay ngần ngại đương đầu với những điều không thể.

“Con nghĩ mình có một ứng viên chuẩn đây,” tôi nói.

Tôi tìm thấy Fermín Romero de Torres giữa một trong các nơi thường trú của ông bên dưới các mái vòm phố Fernando. Anh chàng hành khất đang khép lại trang nhất một tờ báo Thứ Hai từ những mẫu báo nhỏ anh nhặt nhạnh được trong thùng rác. Bài báo tụng ca sự vĩ đại của những thành quả quốc gia như là thêm chứng cứ về tiến bộ vinh quang của chính sách độc tài.

“Ôi Chúa ơi! Lại một con đập nữa!” tôi nghe anh ta gào lên. “Lũ phát xít này sẽ biến tất cả chúng ta thành một chủng loài tôn giáo mới trộn lộn giữa thánh thần và ếch nhái mất thôi.”

“Chào buổi sáng,” tôi khẽ khàng nói. “Anh còn nhớ tôi không?”

Chàng hành khất ngẩng đầu nhìn, và một nụ cười tuyệt vời làm gương mặt anh ta bất chợt sáng lên.

“Mắt tôi có đánh lừa tôi không vậy? Mọi chuyện thế nào rồi, bạn của tôi? Cậu sẽ sẵn lòng nhận một cốc vang đỏ từ tôi, phải không nào?”

“Hôm nay tôi đãi,. “Anh có đói không?”

“Hừm, tôi không bao giờ nói không với một đĩa hải sản, nhưng người ta ném cho tôi cái gì là tôi ăn tất tật.”

Trên đường đến tiệm sách, Fermín Romero de Torres kể cho tôi nghe về mớ phương cách trốn chạy anh ta nghĩ ra trong suốt những tuần vừa rồi hòng tránh mặt Lực lượng An ninh, đặc biệt là tay thanh tra Fumero, đối thủ của Fermín, kẻ dường như có một cuộc rượt đuổi trường kỳ với anh.

“Fumero sao?” tôi hỏi. Đó là tên của quân nhân đã giết hại cha của Clara Barceló tại lâu đài Montjuïc khi chiến tranh bùng nổ.

Người đàn ông nhỏ bé sợ hãi gật đầu, mặt tái xanh. Trông anh ta bẩn thỉu và thiếu ăn, người sặc mùi khó ngửi sau hàng tháng trời vật vờ trên phố. Anh chàng đáng thương chẳng hề hay biết đang được tôi dẫn đi đâu, và tôi để ý thấy chút e dè nhất định, một mối lo âu càng lúc càng tăng mà anh ta cố gắng che giấu bằng cách huyên thuyên liên hồi. Khi chúng tôi đến được cửa hàng, anh ta nhìn tôi đầy hoang mang.

“Cứ vào đi. Đây là tiệm sách của cha tôi. Tôi muốn giới thiệu anh với ông ấy.”

Chàng hành khất cúi mình co rúm, nhìn như một búi ghét bẩn đầy gân xanh. “Không, không, tôi không nên. Trông tôi thực khó coi, còn đây lại là một cơ sở khang trang. Tôi không muốn làm cậu xấu hổ...”

Cha tôi nhô đầu ra khỏi cửa chính, liếc nhìn anh hành khất, rồi nhìn tôi từ bên khóe mắt.

“Cha ạ, đây là Fermín Romero de Torres.”

“Xin chờ lệnh ông,” anh chàng hành khất nói, gần như run bắn lên.

Cha tôi mỉm cười hiền hòa và đưa tay cho Fermín. Anh chàng hành khất không dám đón lấy, anh ta xấu hổ bởi ngoại hình và ghét bẩn phủ kín da mình.

“Nghe này, tôi nghĩ tốt nhất là tôi đi khỏi để hai người ở đây,” anh ta lắp bắp nói.

Cha tôi nhẹ nhàng nắm tay anh ta. “Không đâu, con trai tôi đã nói anh sẽ ăn trưa cùng chúng tôi mà.”

Chàng hành khất nhìn chúng tôi, ngỡ ngàng, kinh hãi.

“Sao cậu không lên nhà tắm nước nóng cho thỏa thích?” cha tôi nói. “Sau đó, nếu thấy được, chúng ta có thể rảo bộ đến nhà hàng Can Solé để ăn trưa.”

Fermín Romero de Torres lầm bầm gì đó khó hiểu. Miệng vẫn tươi cười, cha tôi dẫn anh chàng đến cửa chính và gần như phải lôi anh ta lên căn hộ chúng tôi trên tầng trong khi tôi đóng cửa tiệm. Nhờ một đống lời mật ngọt và mẹo khôn khéo, cha con tôi đã lôi chàng hành khất ra khỏi đống giẻ rách và nhét được anh ta vào bồn tắm. Khi không một mảnh vải trên người, anh ta trông như bước ra từ những bức ảnh thời chiến và run rẩy như một chú gà trụi lông. Fermín có những vết xước sâu hằn trên cổ tay và mắt cá chân, còn trên thân và sau lưng anh ta chằng chịt những vết sẹo khủng khiếp đến mức nhìn thôi cũng đau lòng. Cha con tôi trao nhau những cái nhìn kinh hãi nhưng không bình luận gì.

Chàng hành khất để mặc mình được cọ rửa như một đưa trẻ, hoảng sợ và run rẩy. Trong khi tìm quần áo sạch, tôi có thể nghe thấy tiếng cha tôi nói chuyện không ngừng với Fermín. Tôi tìm được một bộ vét mà cha tôi không còn mặc nữa, một chiếc sơ mi cũ và quần lót. Từ cái đống quần áo mà anh chàng hành khất vừa cởi xuống, thậm chí đôi giày cũng không thể cứu vớt nổi. Tôi chọn một đôi mà cha tôi hiếm khi dùng vì chúng quá nhỏ với chân ông. Sau đó tôi bọc cái đống giẻ rách kia trong báo, kèm theo cả cái quần mà cả màu sắc lẫn chất liệu đều tựa như thịt hun khói cháy khét, rồi tống cả vào thùng rác. Khi tôi quay trở lại phòng tắm, cha tôi đang cạo râu cho Fermín bên bồn. Tái xanh và nồng nặc mùi xà phòng, trông anh chàng trẻ đi đến hai chục tuổi. Theo như tôi nhận thấy, giữa hai người đã nảy sinh tình bạn. Có lẽ là nhờ tác động của muối tắm, nhưng rõ ràng Fermín Romero de Torres đang vô cùng hồ hởi.

“Xin hãy tin tôi, thưa Señor Sempere, nếu định mệnh không dẫn tôi tới thế giới của những mưu đồ chính trị, con đường mà đáng lẽ tôi phải dấn bước, thì thứ gần gũi với trái tim tôi nhất chính là nhân văn và nghệ thuật. Hồi còn nhỏ tôi từng nhận được tiếng gọi của thơ ca và muốn được trở thành như Sophocles hay Virgil, bởi bi kịch và các tử ngữ đối với tôi luôn ấn tượng đến rợn người. Nhưng cha tơi, Chúa phù hộ linh hồn ông, lại là người cứng đầu không biết nhìn xa trông rộng. Ông luôn muốn một trong các con mình gia nhập lực lượng Bảo vệ Dân sinh, và chẳng ai trong số bảy chị em gái của tôi đủ điều kiện đáp ứng mong ước đó, bất chấp cái gien di truyền lắm lông mà tất thảy đám phụ nữ bên họ mẹ tôi phải chịu đựng. Trên giường lúc lâm chung cha tôi còn bắt tôi thề rằng nếu không cố gắng hòng được đội lên đầu chiếc mũ vành ba múi của lực lượng Bảo vệ Dân sinh, ít nhất thì tôi cũng phải trở thành một tay đầy tớ nhân dân và từ bỏ hết tham vọng văn chương của mình. Tôi theo kiểu quan điểm tư duy cổ, tôi tin rằng một người cha, dù có ngốc nghếch đến đâu chăng nữa, cũng nên được tôn trọng và nghe lời, tôi nói thế chắc ông hiểu. Dù vậy, đừng vội nhầm lẫn rằng tôi đã gạt sang bên hết thảy những mưu cầu tri thức trong suốt những năm phiêu lưu mạo hiểm. Tôi đã đọc khá nhiều, thậm chí còn có thể ngâm thuộc lòng vài ba đoạn hay nhất trong Thần khúc của Dante.”

“Nào, thủ trưởng, mời anh mặc đống quần áo này vào; sự uyên bác của anh thì có ai ngờ vực được chứ,” tôi nói, nhằm cứu thoát cha.

Khi Fermín Romero de Torres ra khỏi bồn tắm, bóng loáng sạch sẽ, hai mắt anh ta sáng rực lòng biết ơn. Cha tôi quắn khăn tắm quanh người anh ta, chàng hành khất liền bật cười thích thú vì cảm giác được lớp vải sạch cọ lên da mình. Tôi giúp Fermín thay quần áo, lúc đó tôi mới biết mớ quần áo phải lớn hơn người anh ta đến mười cỡ. Cha tôi tháo chiếc thắt lưng trên người đưa cho tôi để thắt quanh người Fermín.

“Trông cậu bảnh lắm,” cha tôi nói. “Phải vậy không, Daniel?”

“Bất cứ ai cũng có thể nhầm anh với ngôi sao điện ảnh đấy.”

“Thôi đi nào. Giờ tôi khác hồi xưa lắm rồi. Tôi mất hết các cơ bắp lực sĩ hồi phải ở tù, và từ đó đến nay...”

“Hừm, tôi nghĩ cậu hao hao tài tử người Pháp Charles Boyer, ít nhất là về vóc dáng,” cha tôi nói. “À mà nói mới nhớ: Tôi muốn đề nghị cậu một việc.”

“Vì ông, thưa or Sempere, tôi sẵn sàng giết chóc nếu phải làm thế. Chỉ cần cho biết tên, rồi tôi sẽ loại trừ kẻ đó trước khi hắn kịp nhận ra mình bị đánh.”

“Không đến mức như thế đâu. Tôi chỉ muốn mời cậu làm một chân tại tiệm sách. Việc đó bao gồm tìm kiếm sách hiếm cho khách hàng của tiệm. Kiểu như khảo cổ ấy, nhưng đối tượng ở đây là văn chương, nên cần phải biết chút ít về các cuốn kinh điển, chuyện ấy cũng quan trọng như phải biết vài mánh lới căn bản của dân chợ đen. Hiện thời tôi không thể trả nhiều cho cậu được nhưng cậu có thể ăn cùng chúng tôi, cho đến khi chúng tôi xoay sở tìm một căn hộ kha khá cho cậu, cậu có thể ở đây cùng cha con tôi, trong căn nhà này, nếu cậu thấy thế là ổn.”

Anh chàng hành khất nhìn hai cha con tôi, ngẩn cả người.

“Cậu thấy thế nào?” cha tôi hỏi. “Có định nhập hội với chúng tôi không?”

Tôi cứ tưởng chàng hành khất sẽ nói gì đó, nhưng ngay giây phút ấy Fermín Romero de Torres òa khóc.

***

VỚI KHOẢNG TIỀN LƯƠNG ĐẦU TIÊN, Fermín Romero de Torres mua cho mình một chiếc mũ hoành tráng kèm với đôi ủng cao su và khăng khăng đòi đãi cha con tôi món đuôi bò đươc phục vụ vào thứ Hai hằng tuần tại một nhà hàng nằm cách khu trường đấu bò Monumental vài dãy nhà. Cha tôi tìm được cho anh ta một phòng nhỏ trong một tòa nhà căn hộ cho thuê trên phố Joaquín Costa, nơi mà, nhờ sự thân quen giữa gia đình nhà Mercedita bên hàng xóm với bà chủ nhà, chúng tôi tránh được việc phải điền thông tin vào mẫu đơn thuê nhà theo yêu cầu của cảnh sát, thế là xóa trắng được sự hiện diện của Fermín Romero de Torres trước mũi thanh tra Fumero cùng lũ tay sai. Có đôi lần tôi không khỏi băn khoăn về những vết sẹo kinh khủng phủ trên người Fermín và bỗng thấy thôi thúc muốn được hỏi anh ta về chúng, lòng hãi rằng không chừng thanh tra Fumero chính là kẻ đã để lại hậu quả đó. Nhưng có một ánh nhìn trong đôi mắt anh chàng khốn khổ đã khiến tôi nghĩ rằng tốt hơn hết đừng đả động gì đếnh chu gọn gàng và sẵn sàng làm việc không nghỉ trong một ca liên tục mười hai tiếng đồng hồ, thậm chí lâu hơn. Fermín khám phá ra niềm đam mê mới dành cho sô cô la và bánh ga tô cuộn kem - những thứ vốn không hề làm thuyên giảm lòng hăng hái anh ta dành cho những tên tuổi lớn của bi kịch Hy Lạp - thế cũng có nghĩa anh ta tăng thêm được chút cân nặng, điều vô cùng đáng mừng. Anh ta cạo râu như một chàng trẻ tuổi bảnh bao, trau chuốt mớ tóc đen bằng sáp chải tóc, và để râu con kiến sao cho trông có vẻ thời trang. Ba mươi ngày sau khi bước ra khỏi bồn tắm nhà chúng tôi, chàng cựu hành khất giờ khác đi đến không còn nhận ra được nữa. Nhưng bất chấp sự thay đổi ngoạn mục đó, nơi Fermín Romero de Torres khiến chúng tôi phải há miệng ngỡ ngàng là trên trận địa công việc. Bản năng đánh hơi dò tìm của anh chàng, mà tôi cho là do ở những mộng tưởng cuồng nhiệt, đã chứng tỏ vô cùng chuẩn xác. Fermín có thể giải quyết những yêu cầu kỳ lạ nhất chỉ trong vòng vài ngày, thậm chí vài giờ. Liệu có tít sách nào mà anh ta không biết, có mưu mẹo nào hòng đạt được cuốn sách với giá phải chăng mà chưa từng nảy ra với anh ta? Fermín có thể thuyết phục để được thâm nhập vào thư viện tư của các nữ công tước trên khu thượng lưu Avenida Pearson hay các cuộc đua ngựa của đám tay chơi tài tử, luôn luôn khoác những nhân thân tự bịa ra, sau đó ra đi cùng với cuốn sách cần tìm, được người ta tặng không hoặc bán cho với giá rẻ bèo.

Sự biến đổi từ một anh hành khất thành một công dân mẫu mực dường như quá phi thường, cứ như trong các câu chuyện mà thầy tu ở những xứ đạo nghèo khổ thích kể nhằm minh học cho lòng khoan dung vô bờ bến của Chúa trời - những câu chuyện quá tốt đẹp khó lòng là sự thực, giống như mớ quảng cáo thuốc dưỡng phục hồi tóc dán khắp các xe chở khách công cộng.

Ba tháng rưỡi sau khi Fermín bắt đầu làm việc tại tiệm sách, một Chủ nhật nọ điện thoại trong căn hộ trên phố Santa Ana reng ầm ĩ lúc hai giờ sáng. Đó là bà chủ nhà của Fermín. Bằng giọng nói nghẹn đặc âu lo, bà ta giải thích rằng Fermín Romero de Torres đã khóa mình trong phòng riêng mà gào thét như một kẻ điên, đấm tường thình thình và thề rằng nếu có ai dám tiến vào anh ta sẵn sàng tự cắt cổ họng mình bằng một chiếc lọ v

“Đừng gọi cảnh sát, xin bà. Chúng tôi sẽ tới đó ngay.”

Bổ nhào ra ngoài, cha con tôi hướng về phố Joaquín Costa. Đó là một đêm lạnh giá, gió cóng như băng và bầu trời đen như hắc ín. Chúng tôi hối hả đi ngang qua hai khu nhà tế bần đã có từ lâu đời - Casa de la Misericordia và Casa de Piedad - tảng lờ đi những cái nhìn và câu nói vẳng lại từ các khung cửa tăm tối sặc mùi than củi. Hai cha con mau chóng tới được góc phố Ferlandina. Joaquín Costa nằm ngay tại đó, một lỗ trống nằm lẫn giữa hàng dãy những tổ ong đen kịt, nhòa lẫn vào bóng tối của quận Raval. Con trai cả của bà chủ nhà cho thuê đã đợi sẵn chúng tôi ở dưới tầng.

“Cậu đã gọi cảnh sát chưa?” cha tôi hỏi.

“Vẫn chưa,” người con trai trả lời.

Chúng tôi chạy lên gác. Căn hộ cho thuê nằm trên tầng hai, cầu thang xoắn ốc cáu bẩn nửa mờ nửa tỏ trong ánh đèn nâu vàng nhạt nhòa hắt xuống từ những chiếc bóng leo lắt không chụp treo lỏng lẻo trên dây điện. Encarna, bà chủ nhà, góa phụ của một tay hạ sĩ thuộc lực lượng Bảo vệ Dân sinh, gặp chúng tôi tại cửa trong bộ váy dài màu phớt xanh, trên đầu quấn hai lô uốn tóc cùng màu.

“Nhìn xem, Señor Sempere, đây là một khu cho thuê lịch sự tử tế. Người xin thuê nhiều quá tôi đáp ứng còn không nổi, việc gì tôi phải chịu đựng cái thứ như thế này kia chứ,” bà ta nói khi dẫn chúng tôi đi qua một hành lang tối om sặc mùi amôniắc và ẩm ướt.

“Tôi hiểu,” cha tôi lầm bầm.

Những tiếng gào thét của Fermín Romero de Torres nghe như giằng xé các bức tường nơi cuối hành lang. Vài ba khuôn mặt ủ dột và sợ hãi lấp ló sau những cánh cửa khép hờ - những kẻ vật vờ thuê trọ sống nhờ xúp loãng.

“Tất cả các người, đi ngủ, làm ơn đi, đồ chó má! Đây không phải buổi trình diễn giải trí ở Molino đâu!” Bà Encarna cáu tiết gào lên.

Chúng tôi dừng trước cửa phòng Fermín. Cha tôi gõ nhẹ khớp ngón tay lên cá

“Fermín à, cậu có ở đó không? Là tôi Sempere đây.”

Tiếng hú xuyên qua tường khiến tôi rùng mình. Thậm chí cả Doña Encarna cũng không giữ được vẻ điềm tĩnh bệ vệ mà chụp hai tay lên trái tim ẩn kín dưới tầng tầng nếp gấp bộ ngực đồ sộ của bà ta.

Cha tôi gọi thêm lần nữa. “Fermín à! Thôi nào, mở cửa đi.”

Fermín hú thêm lần nữa, ném mình vào tường, gân cổ gào thét những lời tục tĩu. Cha tôi thở dài.

“Doña Encarna, bà có chìa khóa căn phòng này không?”

“Đương nhiên là có.”

“Vậy làm ơn đưa cho tôi.”

Doña Encarna do dự. Những khách trọ khác lại thò ra lấp ló ngoài hành lang, trắng bệch vì khiếp hãi. Những tiếng gào thét ấy hẳn chỉ có thể nghe thấy ở doanh trại quân đội mà thôi.

“Còn con, Daniel, chạy đi gọi bác sĩ Baró ngay. Ông ấy sống khá gần đây, số mười hai Riera Alta.”

“Nghe này, có lẽ ta gọi giáo sĩ tới đây thì tốt hơn? Tôi nghe anh ta như bị ma nhập ấy,” Doña Encarna gợi ý.

“Không cần. Một bác sĩ là đủ rồi. Mau lên, Daniel. Chạy đi ngay. Còn bà, xin đưa tôi chìa khóa.”

Bác sĩ Baró còn độc thân, ông chuyên thức khuya nghiền ngẫm tiểu thuyết của Zola và ngắm nghía ảnh ba chiều các cô gái trẻ mặc đồ lót khêu gợi để giải tỏa nỗi buồn chán. Ông là khách quen ở tiệm sách của cha tôi, và, tuy tự mô tả mình như một gã lang băm hạng hai, ông sở hữu con mắt chẩn đoán tinh tường hơn hết thảy các tay bác sĩ khôn ranh nào có phòng khám khang trang thanh lịch trên phố Muntaner. Nhiều bệnh nhân của ông là gái làng chơi già ở các khu lân cận h người túng quẫn, họ gần như chẳng đủ khả năng trả tiền khám, nhưng ông tiếp đón tất cả như nhau. Tôi từng nghe ông nhắc đi nhắc lại nhiều lần rằng thế giới này là cái bô của Chúa và ước nguyện duy nhất còn lại của ông là sao cho đội bóng đá Barcelona đoạt chức vô địch, một lần và mãi mãi, để rồi ông có thể ra đi thanh thản. Bác sĩ Baró mở cửa trong chiếc áo ngủ, người sặc mùi rượu vang, tay huơ điếu thuốc chưa châm.

“Daniel à?”

“Cha cháu bảo cháu đến đây. Có chuyện khẩn cấp lắm.”

Khi quay trở lại khu nhà, chúng tôi thấy Doña Encarna đang nức nở trong sợ hãi còn các khách trọ khác thì chuyển sang màu sáp nến để lâu. Cha tôi đang vòng hai tay ôm Fermín Romero de Torres giữ chặt trong một góc phòng. Fermín người trần truồng, gào khóc và run rẩy. Căn phòng là một đống tan hoang, các bức tường vấy bẩn thứ gì đó như là máu hay phân người - tôi chẳng thể phân biệt nổi. Bác sĩ Baró mau chóng tiếp nhận tình hình và ra hiệu cho cha tôi đặt Fermín lên giường. Họ được con trai của Doña Encarna, anh chàng có triển vọng làm võ sĩ quyền Anh, giúp đỡ. Fermín rên rỉ và quẫy đạp như thể có vật ký sinh nào đó đang ngấu nghiến anh ta từ bên trong.

“Hỡi Chúa lòng lành, có chuyện gì với người đàn ông khốn khổ này? Anh ta bị làm sao vậy?” Doña Encarna đứng ngoài cửa rên rỉ, lắc đầu ngầy ngậy.

Bác sĩ đo mạch của Fermín, dùng đèn pin kiểm tra đồng tử và, không nói một lời, chuẩn bị một mũi tiêm dung dịch đựng trong chiếc lọ đem sẵn theo trong túi.

“Ấn cậu ta xuống. Cái này sẽ giúp cậu ta ngủ được. Daniel, giúp chúng tôi nào.”

Bốn chúng tôi hì hục giữ Fermín bất động khi anh ta quẫy mình quyết liệt lúc cảm nhận mũi tiêm đâm vào đùi. Cơ bắp khắp người Fermín cứng lên như dây cáp bằng thép, nhưng sau vài giây mắt anh ta bắt đầu mờ đi và cơ thể trở nên mềm rũ.

“Xin cẩn thận, anh ta không khỏe mạnh lắm đâu, bất cứ cái gì cũng có thể giết chết anh ta,” Doña Encarna nói.

“Đừng lo, cậu ta chỉ ng thôi,” bác sĩ nói trong khi xem xét những vết sẹo chằng chịt khắp thân thể ốm đói của Fermín.

Tôi thấy ông ta lắc đầu chầm chậm. “Lũ khốn,” ông lầm bầm.

“Những vết sẹo đó từ đâu mà có vậy?” tôi hỏi. “Vết dao cắt ư?”

Bác sĩ Baró lắc đầu lần nữa mà không ngước nhìn lên. Ông tìm được một cái chăn giữa đống tan hoang, liền phủ lên người bệnh nhân. “Sẹo bỏng. Người này đã bị tra tấn,” ông giải thích. “Những vết này là dấu tích của thép hàn bị nung.”

Fermín ngủ hai ngày liền. Khi tỉnh dậy, anh ta chẳng nhớ nổi điều gì; Fermín chỉ nhớ mình tỉnh dậy trong một xà lim tối, chỉ có vậy. Anh xấu hổ về hành động của mình đến nỗi quỳ xuống chân Doña Encarna xin tha thứ. Fermín thề rằng sẽ sơn lại khu nhà cho bà và, biết được bà là người rất mộ đạo, hứa rằng sẽ có hẳn mười buổi lễ mixa chỉ cho mình bà tại nhà thờ Belén.

“Những gì cậu phải làm là cư xử tốt hơn và đừng có làm tôi khiếp đảm như vậy lần nữa. Tôi già quá rồi, sức đâu chịu nổi mấy vụ như thế này cơ chứ.”

Cha tôi trả tiền thiệt hại và cầu xin Doña Encarna cho Fermín thêm một cơ hội. Bà ta vui vẻ nhận lời. Hầu hết khách trọ của bà đều là những người cơ cực đơn thân trên đời, cũng giống như bà. Một khi đã vượt qua nỗi khiếp sợ, Doña Encarna thậm chí còn thấy thương mến Fermín hơn trước và bắt anh chàng hứa sẽ uống đủ thuốc mà bác sĩ Baró đã kê đơn.

“Vì bà, thưa Doña Encarna, có phải nuốt gạch tôi cũng sẵn lòng.”

Theo thời gian tất thảy chúng tôi đều ra vẻ quên chuyện đã xảy ra, nhưng tôi không bao giờ còn dám coi nhẹ câu chuyện về thanh tra Fumero. Sau vụ đó, hầu hết các ngày Chủ nhật chúng tôi đều dẫn Fermín cùng đi ăn nhẹ buổi chiều ở tiệm cà phê Novedades, nhằm không để cho Fermín ở một mình. Sau đó chúng tôi đi bộ đến rạp Fémina Cinem nằm tại góc giao nhau của phố Diputación và Đại lộ Paseo de Gracia. Một người dẫn chỗ tại đó là bạn của cha tôi, ông cho chúng tôi lẻn vào rạp qua lối thoát hiểm ở tầng trệt tranh thủ lúc chiếu phim thời sự ngắn, lần nào cũng trúng cảnh Đại Thống chế đang cắt băng khánh thành hồ chứa nhân tạo nào đó, điều này khiến Fermín thực sự khó chịu.

“Thật là nhục nhã,” anh chàng căm phẫn nói.

“Anh không thích xem phim à, Fermín?”

“Nói thật với cậu, cái thứ nghệ thuật thứ bảy này chẳng gây cho tôi chút hứng thú nào. Như tôi thấy đến giờ, điện ảnh chỉ là một cách bồi dưỡng cho những kẻ thiếu tư duy và khiến bọn họ còn ngu độn hơn thôi. Tồi tệ hơn cả bóng đá hay đấu bò tót. Điện ảnh bắt đầu như một phát minh nhằm giúp tiêu khiển cho những đám đông dốt nát. Đã năm chục năm rồi mà vẫn chẳng có gì khác biệt.”

Thái độ này của Fe mín thay đổi hoàn toàn vào cái ngày anh ta biết đến minh tinh người Mỹ Carole Lombard.

“Ôi, bộ ngực đó, ôi Giê-su, đức Mẹ Đồng trinh, ôi Joseph, ôi bộ ngực!” Fermín bỗng phấn khích la lên ngay giữa bộ phim. “Đấy không phải ngực phụ nữ, đấy là hai cánh buồm.”

“Câm miệng đi đồ bệnh hoạn, tôi gọi quản lý đến bây giờ,” giọng một ai đó càu nhàu sau chúng tôi vài hàng ghế. “Chẳng biết xấu hổ là gì cả. Đúng là cảnh phải sống trong một nước toàn heo với lợn.”

“Anh nên hạ giọng đi, Fermín,” tôi khuyên anh chàng.

Fermín Romero de Torres chẳng hề nghe tôi nói gì. Anh ta đang đắm chìm trong đường cong mềm mại của bộ ngực phi thường kia, với nụ cười mê mẩn và đôi mắt không chớp lấy một lần. Sau đó, khi đang đi bộ dọc Đại lộ Paseo de Gracia, tôi để ý thấy chàng thám tử sách của chúng tôi vẫn đang đờ đẫn như bị thôi miên.

“Tôi nghĩ có lẽ chúng ta phải tìm cho anh một phụ nữ mới được,” tôi nói. “Một người phụ nữ sẽ khiến cuộc đời anh tươi sáng hơn, rồi anh sẽ thấy.

Fermín thở dài, tâm trí vẫn đang quẩn quanh với những bùa mê bất tuân theo định luật hấp dẫn.

“Cậu nói từ kinh nghiệm bản thân đấy à, Daniel?” anh ta hỏi hết mức ngây thơ.

Tôi chỉ cười, thừa biết cha đang nhìn mình.

Sau hôm đó Chủ nhật nào Fermín Romero de Torres cũng cặm cụi đến rạp chiếu phim. Cha tôi thích ngồi nhà đọc sách hơn, nhưng Fermín thì không để lỡ một buổi chiếu phim đôi nào. Anh ta mua cả đống sô cô la và ngồi tại hàng ghế thứ mười bảy, nơi có thể thoải mái đánh chén trong lúc chờ sự xuất hiện của nữ minh tinh hôm nọ. Với anh ta thì cốt truyện hời hợt nhạt phèo, và anh ta không ngừng nói chuyện cho đến khi hình ảnh cô ngực nở kia choán kín màn hình.

“Tôi có ngẫm nghĩ về chuyện hôm ấy cậu bảo nên tìm một phụ nữ cho tôi,” Fermín Romero de Torres nói. “Có lẽ cậu nói đúng. Tại khu nhà trọ giờ có thêm khách mới, một tay cựu sinh viên trường dòng từ Seville khí thế ngùn ngụt, thi thoảng anh ta lại mang theo vài cô gái trẻ gợi cảm về nhà. Tôi phải công nhận, cái chủng tộc này cứ phát triển không ngừng nghỉ. Tôi chẳng biết anh chàng đó xoay xở thế nào, bởi trông anh ta cũng chẳng lực lưỡng gì cho cam; có lẽ anh ta khiến họ ngây ngất bất tỉnh bằng lời cầu kinh chăng. Anh ta trọ ở phòng ngay cạnh phòng tôi, thế nên tôi nghe được tất thảy, và, đoán chừng từ các hiệu ứng tiếng động ấy, tay thầy dòng phải là một nghệ sĩ thực thụ. Một bộ đồng phục lắm lúc đem đến nhiều điều hay ho lắm đấy. Nói xem, cậu thích kiểu phụ nữ như thế nào, Daniel?”

“Thực tình tôi không biết nhiều về họ lắm.”

“Chẳng ai biết nhiều về phụ nữ cả, ngay cả như Freud, thậm chí cả chính bản thân phụ nữ. Nhưng nó cứ như điện ấy: chẳng cần phải biết cơ chế hoạt động của nó thì mới bị giật. Thôi nào, kể đi. Cậu thích họ như thế nào? Người ta có thể không đồng tình với tôi, nhưng tôi nghĩ phụ nữ nên có thân hình đầy đặn nữ tính, thứ gì đó ta có thể sờ nắn thỏa thích. Cậu, mặt khác, lại có vẻ chuộng típ thanh mảnh hơn, dù sao tôi cũng tôn trọng quan điểm đó, đừng hiểu nhầm nhé.”

“Th tình tôi không có nhiều kinh nghiệm với phụ nữ mà. Nói chính xác thì hoàn toàn không.”

Fermín Romero de Torres cẩn trọng nhìn tôi, ra vẻ tò mò vì khám phá này.

“Tôi nghĩ về chuyện xảy ra đêm đó, cậu biết đấy, khi cậu bị đánh tơi tả...”

“Giá mà nó chỉ đau in ít như một cú đấm vào mặt thôi...”

Fermín dường như đọc được suy nghĩ của tôi, bèn cười vẻ khích lệ. “Đừng để chuyện đó khiến cậu ủ dột mãi. Với phụ nữ, điều tuyệt nhất là khám phá. Chẳng gì giống được với lần đầu tiên, chẳng gì hết. Cậu chẳng bao giờ biết đời là gì cho đến khi lần đầu lột trần được một phụ nữ. Từ từ mở từng chiếc khuy, giống như bóc vỏ một củ khoai lang nóng trong đêm đông giá rét.”

Vài giây sau, Veronica Lake xuất hiện hoành tráng trên màn ảnh, Fermín liền bị biến sang một hành tinh khác. Tận dụng khoảng thời gian trống lúc cô Lake không xuất hiện, Fermín thông báo rằng anh ta định sẽ đến quầy bánh kẹo ngoài tiền sảnh để bổ sung đồ ăn thức uống. Sau hàng tháng trời đói khát, anh bạn tôi đã mất hết ý thức về chuyện thế nào là giữ người cho cân đối, song, do cơ chế chuyển hóa năng lượng cơ thể, Fermín không bao giờ rủ bỏ hoàn toàn được cái vẻ ốm đó, bần cùng thời hậu chiến ấy. Tôi còn lại một mình, hầu như không theo kịp những chuyển biến đang diễn ra trên màn ảnh. Sẽ là dối trá nếu bảo tôi đang nghĩ về Clara. Tôi chỉ đang nghĩ về thân thể cô ta, run rẩy dưới những đợt tấn công của tay thầy dạy nhạc, sáng nhẫy mồ hôi và khoái lạc. Cái nhìn của tôi rời khỏi màn hình, và ngay lúc ấy tôi chú ý thấy một vị khách vừa bước vào phòng chiếu. Bóng hình người đó di chuyển về phía giữa màn hình, sáu hàng ghế trước mặt tôi. Người đó ngồi xuống. Rạp chiếu phim rặt toàn những người cô đơn, tôi nghĩ. Cũng như mình.

Tôi cố tập trung để nắm bắt được cốt truyện. Nhân vật chính của phim, một tay thám tử vốn tính cách hồ nghi nhưng tốt bụng, đang giải thích với một nhân vật khác rằng tại sao phụ nữ kiểu như Veronica Lake lại khiến cho tất cả cánh đàn ông có lý trí phải thân bại danh liệt, tại sao tất cả những gì một tay đàn ông làm được chỉ là yêu cô ta đến điên cuồng để rồi bỏ mình, bị phản bội bởi sự nước đôi của cô ta. Fermín Romero de Torres, người đang trở thành một học giả điện ảnh lão luyện, gọi thể loại này là “hình mẫu bọ ngựa van vái”. Theo lời anh ta, phép hoán vị ấy chẳng là gì ngoài những ưởng tượng sặc mùi căm ghét phụ nữ dành cho cánh nhân viên công sở mắc chứng táo bón hay các bà cô sùng đạo co quắt vì buồn chán không ngừng mơ mộng về việc chuyển sang sống một cuộc đời trụy lạc và phóng đãng vô kiểm soát. Tôi cười khi tưởng tượng những lời nhận định mà anh bạn phê bình viên có thể buông ra nếu anh không bận cuộc hẹn với quầy bánh kẹo. Chợt nụ cười đóng băng trên mặt tôi. Người khách ngồi trước tôi sáu hàng ghế quay đầu lại nhìn tôi chăm chăm. Chùm sáng tù mù từ máy chiếu xuyên thẳng qua bóng tối phòng chiếu, một dải mảnh rung rinh sáng chỉ làm hiển thị các đường nét và những vệt màu. Tôi nhận ra Coubert, kẻ vô diện, ngay tức khắc. Cái nhìn đanh thép, đôi mắt sáng quắc không mí, nụ cười khi hắn liếm đôi môi vốn không tồn tại của mình trong bóng tối. Tôi tưởng như có những ngón tay buốt lạnh bóp nghẹt lấy tim mình. Hai trăm cây đàn violin kéo riết như vỡ ra trên màn hình, có những tiếng súng, tiếng gào và rồi phân cảnh kết thúc. Trong giây lát phòng chiếu như bị nhấn chìm trong bóng tối vĩnh cửu, tôi chỉ nghe được mỗi tiếng thình thịch của tim mình qua hai thái dương. Chậm rãi, một cảnh mới sáng dần trên màn ảnh, thế chỗ cho bóng tối trong căn phòng với quầng sáng màu tía và xanh dương. Kẻ vô diện đã biến mất. Tôi quay lên thoáng nhận thấy một bóng hình đang ngược bước lên bậc thang giữa các dãy ghế và đi qua Fermín, anh ta đang quay về chỗ ngồi sau cuộc săn tìm ẩm thực. Anh ta luồn vào hàng ghế, ngồi xuống chỗ mình và đưa tôi thanh sô cô la hạt dẻ.

“Daniel, trông cậu trắng bệch như mông bà xơ ấy. Cậu có làm sao không?” Anh ta hỏi, nhìn tôi đầy âu lo.

Một làn hơi bí ẩn khẽ lùa vào phòng chiếu.

“Mùi lạ quá,” Fermín nhận xét. “Giống như mùi rắm của một tay ủy viên hội đồng hay một gã luật sư.”

“Không. Nó có mùi giấy cháy.”

“Thôi nào. Ăn chiếc kẹo mềm Sugus vị chanh này đi, chữa được mọi thứ đấy.”

“Tôi không muốn ăn.”

“Vậy cứ giữ lấy, cậu chẳng bao giờ biết khi nào một chiếc kẹo dẻo lại có thể giúp mình vượt qua

Tôi nhét chiếc kẹo vào túi áo vét và thả mình theo nốt phần còn lại bộ phim mà chẳng mảy may chú ý tới Veronica Lake hay những nạn nhân của sức quyến rũ chết người của cô ta. Fermín Romero de Torres thì mê mải cả buổi trình chiếu lẫn đống sô cô la. Khi đèn bật lúc phim kết thúc, tôi cảm giác như mình vừa tỉnh dậy sau một cơn ác mộng và bị thôi thúc tin rằng người đàn ông giữa các hàng ghế kia chỉ là một ảo ảnh, một trò gian trá của trí nhớ. Nhưng ánh nhìn thoáng qua trong bóng tối của hắn cũng đủ để truyền đạt lời nhắn. Hắn vẫn chưa quên tôi, cũng như cuộc thỏa thuận của chúng tôi.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 12


HIỆU QUẢ ĐẦU TIÊN CỦA VIỆC CÓ Fermín trợ giúp mau chóng thấy rõ: tôi phát hiện ra mình có nhiều thời gian rảnh hơn trước. Khi không ra ngoài săn lùng những bộ sách hiếm lạ nào đó để thỏa mãn yêu cầu của khách hàng, Fermín dành thời gian còn lại để sắp xếp kho hàng trong tiệm sách, nghĩ ra những chiến thuật quảng cáo, đánh bóng tấm biển treo trên tiệm và cửa sổ cho đến khi chúng sáng choang lên, hay dùng một tấm giẻ thấm chút rượu để lau sạch gáy sách. Tận dụng vận may trời cho này, tôi quyết định cống hiến thời gian rảnh rỗi có được cho một số dự định mà dạo gần đây tôi đã gác sang bên: cố vén bức màn bí mật về Carax và, trên hết, dành nhiều thời gian hơn với Tomás Aguila, cậu bạn mà tôi nhớ vô cùng.

Tomás là một anh chàng chín chắn, khá dè dặt nhưng luôn bị đám trẻ xung quanh khiếp hãi bởi nét mặt phảng phất dân côn đồ khiến cậu ta có một vẻ ngoài lầm lì đầy hăm dọa. Cậu ta có dáng vóc một tay đô vật, đôi vai đấu sĩ, và một ánh nhìn đanh thép buốt thấu xương. Chúng tôi gặp gỡ nhau nhiều năm trước nhờ một vụ thượng cẳng chân hạ cẳng tay xảy ra trong tuần đâu tiên của tôi ở trường dòng Tên trên phố Caspe. Lần nọ cha cậu ta đến đón con sau giờ tan học, đi cùng là một cô bé kênh kiệu mà về sau tôi được biết là em gái của Tomás. Tôi bèn nảy sinh một ý tưởng tuyệt vời là thốt ra vài ba nhận định khiếm nhã về cô bé, và trước khi tôi kịp chớp mắt,âm bổ vào tôi, ào ào thụi như mưa khiến tôi đau nhức dễ đến vài tuần. Tomás to lớn, khỏe mạnh và hung hăng gấp hai lần tôi. Trong cuộc đấu tay đôi trên sân trường, vây quanh là một đám con trai cuồng khát những trận đấm đá đẫm máu, tôi mất một chiếc răng nhưng lại đạt được tiến bộ trong cảm nhận về tỷ lệ. Tôi từ chối không kể cho cha hay các các tu sĩ về thủ phạm đả thương tôi đến nhường đó. Tôi cũng không kể lại sự thực là ông bố của kẻ đã đánh tôi thậm chí còn quan sát cậu con mình tẩn đối phương nhừ tử với vẻ thích thú kích động tột độ, hùa vào đám cổ vũ đánh nhau như những đứa trẻ khác.

“Đó là lỗi của con,” tôi nói, kết thúc vấn đề.

Ba tuần sau Tomás đến bên tôi lúc giờ ăn trưa. Tôi đờ người ra vì sợ. Nó đến để kết liễu mình đây, tôi nghĩ. Rồi tôi bắt đầu nói lắp, nhưng sau đó tôi mau chóng nhận ra Tomás chỉ muốn xin lỗi vì trận đòn, bởi cậu ta biết vụ đánh nhau đó là không cân sức và không cân bằng.

“Tớ mới là người có lỗi vì đã nói xấu em gái cậu,” tôi nói. “Đáng ra ngay hôm đó tớ đã phải xin lỗi rồi, nhưng vì cậu nện tớ kinh quá, tớ chẳng nói được gì.”

Tomás cúi đầu, thấy xấu hổ với bản thân. Tôi thường nhìn cái bóng dáng khổng lồ rụt rè và lặng lẽ ấy dạo quanh các lớp học và hành lang của trường như một linh hồn lạc lõng. Tất cả những đứa khác - gồm cả tôi - đều sợ cứng người trước Tomás, và không một ai dám nói chuyện hay nhìn thẳng vào mắt cậu ta. Đầu vẫn cúi gằm, gần như run rẩy, Tomás hỏi liệu tôi có muốn kết bạn với cậu ta không. Tôi nói có. Tomás đưa tay ra, tôi bèn nắm lấy. Cái bắt tay của cậu ta làm tôi đau điếng, nhưng tôi không chùn lại. Chiều hôm đó Tomás mời tôi đến nhà mình cùng ăn bữa vặt sau giờ học và khoe với tôi bộ sưu tập những chiếc máy nhỏ kỳ lạ lắp ghép từ các mẩu kim loại phế liệu được cậu ta giữ trong phòng riêng.

“Tớ tự làm đấy,” cậu ta tự hào giải thích.

Tôi không nói một lời dù không thể hiểu những thứ đó hoạt động ra sao hay thậm chí chúng là cái gì. Tôi chỉ gật đầu đầy khâm phục. Dường như cậu bạn quá khổ và cô độc này đã tự chế tạo cho mình những bạn đồng hành bằng sắt thép và tôi là con người tiên được cậu ta giới thiệu với chúng. Đó là bí mật của Tomás. Tôi bèn chia sẻ bí mật của mình. Tôi kể cho cậu ta về mẹ, về chuyện tôi nhớ bà nhường nào. Khi tôi ngừng lời, Tomás lặng lẽ ôm chầm lấy tôi. Khi ấy hai đứa mười tuổi. Từ ngày đó trở đi, Tomás Aguilar trở thành người bạn thân thiết nhất của tôi - còn tôi là người bạn duy nhất của cậu ta.

Bất chấp vẻ ngoài hung hăng, Tomás là một người hiền lành và tốt bụng có ngoại hình đủ sức làm hạ nhiệt các cuộc xung đột. Cậu ta nói lắp khá nhiều, đặt biệt là khi phải nói với ai đó khác ngoài mẹ hay chị mình hoặc ít nhất là tôi, điều hiếm khi xảy ra. Tomás bị thu hút bởi những thiết bị cơ khí và sáng chế lạ thường, tôi mau chóng phát hiện ra cậu ta thường xuyên tháo lắp tất thảy các loại máy móc, từ máy hát cho đến máy tính, nhằm khám phá bí mật trong cơ cấu của chúng. Khi không ở với tôi hay làm việc cho cha mình, Tomás dành hầu hết thời gian lặng lẽ trốn trong phòng riêng, thiết kế những thiết bị quái gở đến không hiểu nổi. Trí thông minh của Tomás cũng ngang ngửa với tính thiếu thực tế của cậu ta. Hứng thú của Tomás với thế giới thực chỉ tập trung vào những chi tiết như việc đồng bộ hóa đèn giao thông tại Đại lộ Gran Vía, bí ẩn của các Đài phun nước phát sáng ở Montjuïc, hay cơ cấu cốt yếu của những thiết bị tự động sử dụng tại công viên giải trí Tibidabo.

Mỗi buổi chiều sau khi xong việc ở chỗ làm của bố, và đôi khi, những lúc ra khỏi nhà, Tomás thường ghé qua tiệm sach. Cha tôi luôn tỏ ra hứng thú trước những sáng chế của Tomás, ông thường tặng cậu ta những cuốn sổ tay về máy móc cơ khí hay các cuốn tiểu sử những nhà kỹ nghệ lớn như Eiffel và Edison, những người Tomás coi là thần tượng. Nhiều năm trôi qua, Tomás trở nên vô cùng gắn bó với cha tôi và dành nhiều tháng trời với các bộ phận của một chiếc quạt máy cũ nhằm sáng chế một hệ thống tự động có khả năng phân loại thẻ sách theo thư mục cho cha tôi. Đến nay cậu ta đã theo đuổi dự án đó những bốn năm trời, nhưng cha tôi vẫn không ngừng thể hiện lòng nhiệt tình trước những tiến triển của nó, bởi ông không muốn Tomás ngã lòng.

Lần đầu tiên giới thiệu Tomás với Fermín, tôi rất lo không biết Fermín sẽ phản ứng như thế nào với bạn tôi.

“Hẳn cậu là anh bạn sáng chế của Daniel. Thật hân hạnh được làm quen với cậu. Fermín Romero de Torres, cố vấn thư tịch cho tiệm sách Sempere, sẵn sàng phục vụ cậu.

“Tomás Aguilar,” bạn tôi lắp bắp, nhoẻn cười và bắt tay Fermín.

“Xin cẩn thận, bạn tôi, bởi thứ bạn có không phải tay đơn thuần, mà là máy ép thủy lực. Tôi cần những ngón tay của nghệ sĩ vĩ cầm cho công việc hiện thời.”

Tomás bỏ tay khỏi Fermín và nói lời xin lỗi.

“Nào hãy cho tôi biết, cậu ủng hộ định lý Fermat ở điểm nào?” Fermín hỏi, xoa xoa các ngón tay.

Sau đó hai người đâm mê mải tranh luận về toán học cao cấp, thứ mà tôi chẳng hiểu mô tê gì. Từ ngày đó trở đi, Fermín luôn gọi Tomás theo cách xưng hô trang trọng, không thì là “đốc tờ”, và vờ như chẳng hề để ý tới tật nói lắp của cậu chàng. Như một cách đền ơn Fermín vì sự kiên nhẫn vô bờ của anh ta, Tomás đem tặng Fermín cả đống hộp sô cô la Thụy Sĩ bên trên có dán ảnh chụp những cái hồ xanh thăm thẳm, đàn bò diễu hành dọc những cánh đồng rực rỡ màu xanh lá và đồng hồ chim cúc cu cầu kỳ đẹp mắt.

“Anh bạn Tomás của cậu rất có tài, nhưng cậu ta thiếu động lực và sẽ thành công nếu có một thái độ cầu tiến hơn. Đó là cách duy nhất để tiến xa tới bất kỳ đâu,” ngày nọ Fermín nói vậy với tôi. “Dù sao, đầu óc của các nhà khoa học là như thế. Thử nhìn Albert Einstein mà xem. Cả một đống phát minh phi thường, thế mà cái đầu tiên bọn họ thấy có thể ứng dụng thực tế là bom nguyên tử - mà lại chẳng cần sự cho phép của ngài ấy nữa chứ. Với cái bộ mặt võ sĩ kia thì Tomás sẽ phải trải qua nhiều khổ ải trong giới hàn lâm đây. Trên thế giới này đánh giá duy nhất thu hút được phần đông dư luận là định kiến.”

Bị thôi thúc bởi ước muốn cứu Tomás ra khỏi phận nghèo khó và không được ai thấu hiểu, Fermín quyết định rằng anh ta cần phải phát triển kỹ năng giao tiếp và xã hội tiềm tàng trong con người bạn tôi.

“Vốn là một loài vượn, con người là loài động vật xã hội, đặc trưng bởi tính kết bè kết cánh, gia đình trị, thói tham nhũng lạm quyền và bơm đặt. Đó là mẫu hình tự trong bản chất cho cái gọi là 'luân thường đạo lý của chúng ta,” anh ta kết luận. “Nó thuần túy sinh học.”

“Anh không cường điệu lên đấy chứ?”

“Đôi khi cậu thật là ngây thơ, Daniel ạ.”

Tomás thừa hưởng ngoại hình dữ dằn từ cha mình, một nhà quản lý bất động sản xuất chúng có văn phòng trên phố Pelayo, gần sát trung tâm thương mại El Siglo xa hoa. Señor Aguilar thuộc về dòng giống những người sở hữu loại trí tuệ vượt trội, những người luôn luôn đúng. Là người có niềm tin không dễ chuyển dời, ngài ấy tin chắc rằng, bên cạnh mọi điều khác, đứa con trai ngài đã nhút nhát lại còn yếu kém về mặt tâm thần. Đề bù lại những thiếu sót đáng xấu hổ đó, ngài thuê đủ thể loại các gia sư với hy vọng cải thiện cậu con trai đầu lòng. “Tôi muốn mọi người phải đối xử với con trai tôi như thể nó bị thiểu năng, có hiểu không?” tôi thường nghe ngài ấy nói vậy. Các giáo viên đã cố thử hết cách, thậm chí cả van nài, nhưng Tomás chỉ nói với họ bằng tiếng La tinh, thứ ngôn ngữ mà cậu không hề bị nói lắp và phát âm trôi chảy cứ như Giáo hoàng. Chẳng sớm thì muộn tất thảy họ đều đầu hàng trong vô vọng, khiếp hãi rằng Tomás rất có thể bị ám: có khi cậu ta đang phun vào họ những chỉ thị của quỷ dữ bằng tiếng Aram không chừng. Hy vọng duy nhất của Señor Aguilar là nghĩa vụ quân sự có thể đào tạo thằng con ông trở thành người đàn ông thực thụ.

Tomás có một em gái, Beatriz. Tôi thành bạn với Tomás là nhờ có cô nàng, bởi nếu không vì tôi nhìn thấy cô nàng vào buổi chiều hôm đó, cách đây rất lâu rồi, nắm chặt tay cha, đợi giờ học của chúng tôi kết thúc, và không quyết định tung một câu đùa rất mực vô duyên vào cô nàng, thì cậu bạn tôi hẳn đã không trút lên tôi cả một cơn mưa quả đấm và tôi đã chẳng bao giờ lấy đủ dũng khí để nói chuyện với cậu ấy. Bea Aguilar là bản sao chính xác của mẹ cô nàng và là cô con gái rượu của cha. Với mái đầu đỏ rực và làn da trắng sáng, cô nàng luôn bận lên người những chiếc váy rất đắt tiền làm từ lụa hay len nguyên chất. Bea sở hữu một vòng eo chuẩn như ma nơ canh và thường ngạo nghễ lượn lờ khắp nơi, sắm vai công chúa trong câu chuyện cổ tích của chính cô nàng. Đôi mắt của Bea có màu xanh lá phớt da trời, nhưng cô nàng cứ khăng khắng đòi mô tả chúng là “có màu lục bảo và sa phia”. Bất chấp nhiều năm theo học trường Công giáo thuộc dòng Thánh Teresa, hoặc không chừng đó chính là lý do, mỗi khi cha cô nàng không để ý, Bea nốc ừng ực rượu hồi đựng trong cốc cà phê, đi vớ lụa mua từ cửa tiệm trang nhã La Perla Gris, và tự trang điểm thành như mấy nữ thần điện ảnh đã đưa anh bạn Fermín của tôi vào trạng thái đê mê. Tôi không thể chịu nổi khi gặp cô nàng, và cô nàng đáp trả thái độ thù địch công khai của tôi bằng những cái nhìn uể oải thờ ơ khinh thị. Bea có một gã bạn trai đang thực thi nghĩa vụ quân sự ở Murcia với quân hàm thiếu úy, một gã tên Pablo Cascos Buendía với mái đầu bóng nhẫy, thành viên của đảng phát xít Falange. Gã thuộc về một gia đình quý tộc sở hữu một loạt xưởng đóng tàu trên các đảo khắp vùng Galicia và vắng mặt dễ đến nửa thời gian nghĩa vụ của mình nhờ có ông bác nằm trong Chính quyền Quân sự. Thiếu úy Cascos Buendía không bỏ phí bất cứ cơ hội nào để lên lớp dạy đời về sự ưu việt của giống nòi và tinh thần người Tây Ban Nha và ngày suy tàn đang hiển lộ rõ trước mắt của đế chế Bolsevik.

“Marx chết rồi,” gã nghiêm trang nói.

“Ông ấy chết từ năm 1883, chính xác là như vậy,” tôi bèn đáp trả.

“Câm ngay, thằng đần kia, nếu không tao đá mày văng tới tận Gibraltar bây giờ.”

Đã hơn một lần tôi bắt gặp Bea cười nhạt trước những điều ngớ ngẩn mà bạn trai cô nàng nghĩ ra. Những lúc ấy cô nàng ngước mắt hướng về phía tôi, với cái nhìn thực khó dò. Tôi bèn cười đáp lại với thái độ lịch sự tối thiểu giữa hai kẻ oan cừu bất ngờ thành ra cùng phe bởi lệnh ngừng bắn vô hạn định nhưng liền đó lại quay đi nhìn ra chỗ khác ngay. Tôi thà chết còn hơn thừa nhận rằng, tận sâu thẳm trong lòng, tôi thấy sợ cô nàng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 13


ĐẦU NĂM ĐÓ, Tomás và Fermín quyết định kết hợp trí tuệ riêng của bọn họ vào một dự án mà, họ dự đoán, sẽ giúp cả hai chúng tôi thoát khỏi bị gọi đi nghĩa vụ. Fermín, như thường lệ, không chia sẻ lòng hăng hái của ngài Aguilar đối với trải nghiệm nhà binh.

“Lợi ích duy nhất của nghĩa vụ quân sự là nó làm bộc lộ ra số lượng những kẻ thoái hóa trong dâ chúng,” anh ta nhận định. “Và điều đó có thể khám phá ra chỉ trong vài tuần đầu tiên; chẳng cần thiết tới tận hai năm

i nghĩa vụ làm gì. Quân đội, Hôn nhân, Nhà thờ và Nhà băng: Bốn tay Kỵ sĩ Khải Huyền. Phải rồi, cứ cười đi.”

Những khuynh hướng tự do-vô chính phủ của Fermín Romero de Torres đã bị lung lay vào một chiều tháng Mười khi mà, bởi sự trớ trêu của định mệnh, chúng tôi được một người bạn cũ viếng thăm. Hôm đó cha tôi đến tận Argentona, để trả giá một bộ sưu tập sách, tới tận tối khuya ông mới về. Tôi phải nhận nhiệm vụ đứng quầy còn Fermín khăng khăng đòi trèo thanh như diễn viên xiếc trên dây nhằm dọn dẹp đống sách ở tầng trên cùng, cách trần nhà có vài xăng ti mét. Ngay trước giờ đóng cửa tiệm sách, khi mặt trời vừa kịp lặn, khuôn mặt của Bernarda xuất hiện trước cửa kính trưng bày. Chị vận bộ đồ dành riêng cho ngày thứ Năm - là ngày chị được nghỉ - và vẫy tay với tôi. Thấy chị tôi mừng quá, liền ra hiệu cho chị vào trong.

“Ôi trời ơi, cậu lớn quá rồi!” chị đứng ở cửa tiệm thốt lên. “Tôi hầu như không nhận ra cậu nữa... sao thế này, giờ cậu là một người đàn ông hẳn hoi rồi!”

Bernarda ôm chầm lấy tôi, rỉ vài giọt nước mắt rồi xoa nắn đầu, vai và mặt tôi, như thể để chắc chắn rằng tôi không bị vỡ mất bộ phận nào trong thời gian chị vắng mặt.

“Thiếu cậu căn nhà trống trải quá, cậu Daniel,” chị nói, mắt cụp xuống.

“Tôi cũng nhớ chị lắm, Bernarda. Lại đây, hôn tôi một cái nào.”

Bernarda bẽn lẽn hôn lên má tôi, còn tôi chụt hai cái hôn rõ to lên hai bên má chị. Bernarda cười. Trong mắt chị tôi nhìn ra được rằng chị đang chờ lời hỏi han về Clara, nhưng tôi quyết định không làm thế.

“Hôm nay trông chị xinh quá, rất thanh lịch nữa. Sao chị lại quyết định quá bộ qua thăm chúng tôi thế này?”

“Thực sự thì tôi đã rất muốn qua thăm từ lâu rồi, nhưng cậu biết mọi chuyện thế nào đấy, chúng tôi bận bù đầu, và Señor Barceló học rộng biết nhiều là vậy nhưng cứ nhũng nhẵng khó tính như đứa trẻ ấy. Cậu phải cố mà vượt qua và làm quen với mọi điều. Nhưng điều mang tôi đến đây là, ừm, mai là sinh nhật cháu gái tôi, cái đứa từ San Adrián ấy, và tôi muốn tặng con bé một món quà. Tôi nghĩ mình có thể mua cho nó một cuốn sách hay, có nhiều chữ và một ít tranh, nhưng tôi ngốc quá mà lại chẳng hiểu gì...”

Tôi còn chưa kịp trả lời, cả một bộ bìa cứng tuyển tập đầy đủ các tác phẩm của Blasco Ibáñez đã từ trên cao bổ nhào xuống, và cả cửa tiệm rung lên với một tiếng ầm như đạn bắn. Bernarda và tôi ngơ ngác ngước nhìn lên. Fermín đang trườn mình xuống cầu thang, như một nghệ sĩ đu dây, một nụ cười bí hiểm nhoẻn lên trên mặt anh ta, hai mắt ngập tràn khát khao cuồng nhiệt.

“Bernarda, đây là...”

“Fermín Romero de Torres, cố vấn thư tịch cho tiệm sách nhà Sempere, xin sẵn sàng phục vụ, thưa bà,” Fermín tuyên bố, với lấy tay Bernarda và hôn một cách trịnh trọng.

“Anh hình như hiểu lầm, tôi chẳng phải bà nào cả...”

“Vậy thưa nữ hầu tước, ít nhất cũng như vậy,” Fermín chen lời. “Tôi phải biết chứ. Tôi đã từng sánh đôi với những kiều nữ tuyệt nhất trên khu Avenida Pearson. Hãy ban cho tôi vinh dự được hộ tống cô tới giá sách dành riêng cho trẻ em và thanh thiếu niên, nơi mà tôi chú ý rằng, thật may mắn sao, có sẵn một bộ hợp tuyển hạng nhất của văn hào Emilio Salgari và thiên anh hùng ca về chàng hải tặc Sandokan của ông ấy.”

“Ôi, thưa anh, tôi chịu không biết đâu, tôi không rõ về cuộc sống của những người thánh thiện. Bố của con bé từng là một người cực tả, anh biết đấy...”

“Xin đừng lo lắng, ở đây tôi thấy không gì khác hơn cuốn Hòn đảo bí ẩn của Jules Verne, một tuyệt phẩm đậm chất phiêu lưu và nội dung đầy tính giáo dục nữa, chứa rất nhiều thông tin khoa học.”

“Nếu anh cho là như vậy...”

Lẳng lặng theo sau hai người, tôi để ý thấy Fermín đang mê mẩn Bernarda nhường nào và Bernarda tỏ ra choáng ngợp nhường nào trước sự ân cần đổ ập xuống chị từ phía người đàn ông nhỏ thó có vẻ ngoài lếch thếch với cái lưỡi dẻo quẹo của một tay rao hàng. Anh chàng ngấu nghiến Bernarda bằng ánh mắt với vẻ thèm t như thể chị chẳng khác gì một miếng sô cô la.

“Thế cậu thì sao, cậu Daniel? Cậu thấy thế nào?”

“Fermín Romero de Torres là chàng biết tuốt ở đây. Chị cứ tin anh ấy đi.”

“Ừm, vậy tôi sẽ lấy cuốn sách về hòn đảo, cậu làm ơn bọc nó lại giúp tôi nhé. Tôi phải trả cậu bao nhiêu?”

“Ồ, chị không phải trả gì đâu,” tôi nói.

“Không, không thế được, tôi không chịu đâu.”

“Nếu cô nương cho phép, xin để tôi, Fermín Romero de Torres đây, trả hộ. Cô nương sẽ khiến tôi trở thành người đàn ông hạnh phúc nhất Barcelona này.”

Bernarda nhìn cả hai chúng tôi. Chị không thốt ra nổi lời nào.

“Nghe này, tôi sẽ trả tiền cho thứ tôi mua, và đây là quà tặng dành cho cháu gái tôi...”

“Thôi được, vậy liệu cô nương có thể cho phép tôi, thay vì trả tiền sách, mời cô đi uống trà chiều được không,” Fermín mau chóng chen lời, tay vuốt cho tóc xẹp xuống.

“Nhận lời đi, Bernarda,” tôi khuyến khích. “Chị sẽ thích cho mà xem. Coi nào, trong khi tôi bọc cuốn sách này lại, Fermín sẽ đi lấy áo khoác.”

Fermín quày quả vào phòng trong để chải tóc, vẩy chút nước hoa và khoát lên người chiếc áo vét. Tôi lén chuyền tay cho anh chàng vài đồng duro từ ngăn kéo để tiền.

“Tôi đưa nàng ấy đi đâu đây?” anh ta thì thầm, bồn chồn như một đứa trẻ.

“Nếu là tôi, tôi sẽ đưa chị ấy đến quán Quatre Gats,” tôi nói. “Tôi biết chắc rằng đó là một nơi may mắn cho những gì lãng mạn.”

Tôi đưa Bernarda bọc sách và nháy mắt với chị

“Tôi phải trả bao nhiêu đây, thưa cậu Daniel?”

“Tôi không chắc nữa. Để tôi báo chị sau. Cuốn sách không đề giá, tôi sẽ hỏi cha tôi sau,” tôi nói dối.

Tôi dõi theo bóng họ tay trong tay rời tiệm rồi biến mất xuôi chiều con phố Santa Ana, thầm hy vọng rằng có ai đó đang trực trên thiên đường, dù chỉ một lần thôi, ban cho hai người họ may mắn thành đôi. Tôi treo tấm bảng hết giờ mở cửa trên cửa kính trưng bày. Tôi chỉ vừa vào phòng trong một chút để soát lại sổ đặt hàng của cha tôi thì chợt nghe tiếng chuông cửa leng keng. Tôi đồ rằng hẳn là Fermín quên mất thứ gì đó, hoặc có thể cha tôi vừa về từ chuyến công vụ trong ngày.

“Chào?”

Vài giây trôi qua, không có tiếng đáp lại. Tôi tiếp tục xem lướt qua sổ đặt hàng.

Tôi nghe có tiếng chân chầm chậm bước trong tiệm.

“Fermín à? Hay là cha đấy?”

Không có tiếng trả lời. Tôi nghĩ mình nghe thấy một tiếng cười nghèn nghẹn, bèn đóng cuốn sổ đặt hàng lại. Có lẽ là vị khách nào đó đã lờ đi tấm bảng hết giờ mở cửa. Tôi vừa định bước ra phục vụ vị khách đó dù có là ai, thì chợt nghe tiếng vài cuốn sách rơi từ trên giá xuống. Tôi nuốt ực một cái. Chộp lấy một con dao rọc thư, tôi chầm chậm tiến về phía cửa phòng trong. Tôi chẳng dám lên tiếng tới lần thứ hai. Liền sau đó tôi nghe tiếng chân vang lên lần nữa, bước đi xa dần. Tiếng chuông cửa vang lên, và tôi cảm nhận được chút khí lạnh ngoài phố tràn vào. Tôi he hé nhìn ra đằng trước tiệm. Chẳng một ai ở đó. Tôi chạy vội về phía cửa trước và chốt đến hai lần khóa, sau đó hít một hơi thật sâu, thấy mình lố bịch và hèn nhát làm sao. Đang định quay trở lại phòng trong, chợt tôi chú ý thấy trên quầy thu tiền có một mẩu giấy. Tới gần hơn, tôi nhận ra đó là một bức hình, một tấm ảnh cũ loại được in trên bìa các tông dày. Bốn góc bức hình đều bị cháy xém, và hình ảnh mờ khói dường như dính đầy vết đầu ngón tay lấm chì than. Tôi xem kỹ bức hình dưới ánh đèn bàn. Trên tấm hình là một đôi trai gái trẻ đang cười vào máy ảnh. Người con trai không lớn hơn mười bảy mười tám là mấy, với mái tóc sáng màu và các đường nét thanh tú, quý phái trên gương mặt. Người con gái trông hơi trẻ hơn chút ít, nhiều lắm cũng chỉ một hai năm. Cô có làn da trắng xanh và khuôn mặt góc cạnh bao trọn trong mái tóc ngắn màu đen. Trông cô như đang say sưa trong hạnh phúc. Người con trai vòng cánh tay quanh eo cô gái, cô dường như đang thì thầm điều gì có ý chòng ghẹo vào tai anh chàng. Hình ảnh ấy truyền đến cảm giác ấm cúng và thắp lên một nụ cười trên gương mặt tôi, như thể tôi vừa nhận ra bạn bè cũ nơi hai người xa lạ đó. Đằng sau họ tôi nhìn ra được khung cửa kính trang hoàng lộng lẫy, bày một đống mũ thời trang kiểu cũ. Tôi tập trung nhìn vào đôi nam nữ. Từ quần áo của học tôi đoán chừng tấm ảnh phải được ít nhất hai lăm hay ba mươi năm tuổi. Hình ảnh ấy tràn đầy ánh sáng và hy vọng, ngập tràn những hứa hẹn vốn chỉ tồn tại trong ánh mắt người trẻ tuổi. Lửa đã thiêu hủy gần như toàn bộ khung cảnh xung quanh bức hình, nhưng nhìn kỹ vẫn có thể thấy một khuôn mặt nghiêm nghị đằng sau quầy tính tiền kiểu cũ, gợi lên đường nét khuôn mặt lờ mờ đằng sau dòng chữ khắc trên cửa kính.

CON TRAI NHÀ ANTONIO FORTUNY

Thành lập năm 1888

Vào cái đêm tôi trở lại Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên, Isaac đã bảo tôi rằng Carax lấy họ theo họ mẹ, chứ không phải họ bố, vốn là Fortuny. Cha của Carax có một tiệm mũ trên Đại lộ San Antonio. Tôi nhìn lại tấm hình đôi trẻ lần nữa và biết chắc chàng trai đó chính là Julián Carax, anh chàng đang tươi cười với tôi từ quá khứ, không tài nào thấy được ngọn lửa đang dần bén tới xung quanh mình.

THÀNH PHỐ CỦA NHỮNG BÓNG ĐEN

1954
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 14


NGÀY HÔM SAU FERMÍN ĐẾN LÀM VIỆC với đ thần tình yêu trên vai, cười tủm tỉm và huýt sáo theo điệu bolero. Trong trường hợp khác, hẳn tôi đã thẩm vấn về cuộc đi chơi với Bernarda, nhưng hôm đó tôi chẳng có tâm trạng nào cho cơn bộc phát thi vị của anh chàng. Cha tôi đã sắp xếp một cuộc hẹn chuyển sách đến cho giáo sư Javier Velázquez lúc mười một giờ tại văn phòng ông ấy trong trường đại học. Chỉ mỗi nghe nhắc đến cái tên của vị giáo sư cũng đủ khiến Fermín nhăn mặt, thành thử tôi đành đứng ra nhận nhiệm vụ giao sách.

“Cái hạng người vô giá trị đó chẳng là gì ngoài một gã thông thái rởm đồi bại. Một tay phát xít mài-bóng-mông-đít,” Fermín tuyên bố, giương nắm đấm và làm dáng ra cái tư thế anh ta vẫn dành riêng cho những lúc nổi máu báo thù. “Hắn ta lạm dụng cái chức giáo sư đáng khinh của mình để dụ dỗ phụ nữ. Tôi thề hắn sẵn sàng chung đụng với cả nữ văn hào Gertrude Stein[1], đấy là nếu hắn có cơ hội.”

[1. Gertrude Stein là một nhà văn nữ người Mỹ, nổi tiếng là một người đồng tính.]

“Bình tĩnh nào, Fermín. Velázquez trả giá rất khá, lại luôn đặt trước nữa, với cả, ông ấy còn giới thiệu tiệm ta tới nhiều mối khác,” cha tôi nói.

“Số tiền ấy vấy máu biết bao nhiêu trinh nữ ngây thơ,” Fermín phản kháng. “Vì Chúa lòng lành, nơi đây tôi thề sẽ không bao giờ đụng vào một cô gái vị thành niên, mà không phải vì tôi thiếu ham muốn hay cơ hội. Hãy ghi nhớ trong đầu bằng những gì mọi người thấy ở tôi hiện tại chẳng là gì ngoài bóng hình của chính tôi trước kia, đã từng có thời nom tôi bảnh đến mức nữ giới cứ bổ nhào về phía tôi. Ấy thế mà, để được an toàn, hay nếu tôi cảm nhận được rằng cô gái hơi quá lẳng lơ, tôi sẽ không tiến thêm bước nữa nếu như không được thấy bất kỳ dạng giấy tờ tùy thân nào, không thì cũng phải là một tờ giấy cho phép của phụ huynh. Ít nhất ta cũng phải duy trì những chuẩn mực đạo đức nhất định.”

Cha tôi đảo mắt. “Tranh cãi với anh thật là vô nghĩa, Fermín.”

“Hừm, tôi mà đã đúng thì chắc chắn là như thế

Cảm nhận được một cuộc tranh luận đang nhen nhóm, tôi vội cầm lấy bọc sách, vốn tôi đã chuẩn bị sẵn từ đêm trước - vài ba cuốn của Rilke và một bài tiểu luận ngụy tạo mà tác giả được cho là môn đồ của Darwin, trong đó nói như đinh đóng cột rằng người Tây Ban Nha có gốc gác từ một chủng loài vượn tiến hóa hơn nhiều so với các bạn láng giềng người Pháp. Khi cánh cửa đóng lại sau lưng tôi, Fermín và cha tôi đang đắm sâu trong tranh luận về đạo đức.

Hôm đó là một ngày tuyệt đẹp; từng mảng trời xanh rực chói sắc xanh và cơn gió trong như pha lê cuốn theo mùi hương dịu mát mùa thu và biển cả. Tôi sẽ luôn yêu thích Barcelona của tháng Mười. Đó là khi linh hồn của thành phố dường như tản bộ với vẻ hãnh diện nhất trên các con phố, và ta cảm thấy mình thông thái hơn nhiều sau khi nhấp ngụm nước từ đài phun cổ Canaleta - dòng nước mà, một lần này trong năm, không sặc mùi clo. Tôi bước từng bước mạnh mẽ, luồn lách qua những người đánh giày, các tay cạo giấy vừa quay về từ bữa cà phê giữa sáng, quầy bán dạo vé số, và cả một vũ đoàn những người quét dọn dường như đang quyết tâm đánh bóng hết các phố, tay lăm lăm chổi như cầm cọ vẽ, thong thả điểm những nét chấm màu trau chuốt. Những ngày này Barcelona đã bắt đầu kín đầy ô tô, khi tới được mốc đèn giao thông trên ngã tư ở phố Balmes, tôi để ý thấy cả một lữ đoàn nhân viên công sở xám xịt mặc áo mưa xám màu đang chăm chăm rỏ dãi nhìn một chiếc mui kín hiệu Studebaker đỏ máu giống như đang liếc mắt đưa tình với một nàng mỹ nữ mặc áo ngủ tại nhà hát. Tôi xuôi chiều phố Balmes thẳng tiến đến Đại lộ Gran Vía, lần đường qua đèn giao thông, ô tô và thậm chí cả mô tô ba bánh. Trong một cửa kính trưng bày, tôi thấy tấm poster của hãng Philips đang loan báo về sự xuất hiện của một đấng cứu thế mới, chiếc máy thu hình. Một số người tiên đoán rằng chiếc máy kỳ cục này sẽ thay đổi cuộc sống loài người vĩnh viễn và biến tất thảy chúng ta thành những sinh vật của tương lai, như người Mỹ vậy. Fermín Romero de Torres, người luôn cập nhật những công nghệ tiên tiến nhất hiện thời, thì đã kịp dự đoán một kết quả buồn thảm hơn.

“Vô tuyến truyền hình, thưa cậu Daniel thân mến, là kẻ thù của Chúa trời, và tôi cam đoan với cậu rằng chỉ sau ba hoặc bốn thế hệ nữa thôi con người thậm chí còn chẳng biết là tự mình đánh rắm nữa. Loài người sẽ trở về sống trong hang hốc, với sự tàn bạo như người Trung cổ, và với trạng thái trì độn ì chậm hơn loài sên của thế Canh Tân[2]. Thế giới của chúng ta sẽ không bị tận diệt bởi bom đạn như cánh báo chí vẫn ca thán - nó sẽ bị tận diệt bởi tiếng cười, sự tầm thường, cái kiểu đem tất thảy mọi thứ ra giễu cợt, mà lại là một trò giễu cợt tệ hại.”

[2. Thế Pleistocen hay thế Canh Tân là một thế địa chất, từng được tính từ khoảng 1.806.000 tới 11.550 năm trước ngày nay, tuy nhiên kể từ ngày 30/6/2009, thời điểm của thế này được kéo lùi về 2,588±0.005 triệu năm.]

Văn phòng của giáo sư Velázquez tọa lạc trên tầng hai của khoa Văn, tại khu Quảng trường Đại học[3], nằm cuối hành lang gạch lát kiểu bàn cờ nhìn đến hoa mắt dưới ánh nắng ngập bụi ào ạt trào xuống hàng hiên phía Nam. Tôi tìm thấy giáo sư đứng tại cửa một giảng đường, ông đang làm bộ vờ lắng nghe một nữ sinh viên tuy thực ra chỉ chăm chăm ngắm nghía thân hình quyến rũ của cô. Nữ sinh viên bận một bộ vét đỏ thẫm khiến mọi ánh nhìn tập trung vào chiếc eo thon và làm lộ rõ những đường cong cân xứng kinh điển của đôi chân bọc tất lụa loại sang. Giáo sư Velázquez có tiếng là một chàng Don Juan; có những người mang quan điểm rằng công cuộc giáo dục tình cảm cho một thiếu nữ đứng đắn không bao giờ là hoàn thiện nếu thiếu một cuối tuần thân mật tại khách sạn nhỏ nào đó trên khu dạo chơi thuộc quận Sitges, đọc những bài thơ theo thể Alexandrine[4] song song với những lý thuyết hàn lâm lỗi lạc.

[3. Nguyên gốc: Plaza Universidad.

4. Thể thơ Alexandrine, mỗi câu có mười hai âm tiết.]

Bản năn kinh doanh trong tôi lập tức khuyên rằng chớ có nên can thiệp cuộc trò chuyện của ông giáo, thế là tôi quyết định giết thời gian bằng cách lột trần cô học trò bằng trí tưởng tượng. Có thể cuộc đi bộ vội vã đã làm giúp khí thế tôi tăng cao, hoặc có lẽ là do cái tuổi mới lớn, đấy là cn chưa kể đến thực tế là tôi dành thời gian giữa các nàng thơ bị nhốt trong những trang sách cũ nhiều hơn là giữa đám bạn gái bằng xương bằng thịt - những cô mà với tôi luôn là các sinh vật thuộc một tầm kém xa so với Clara Barceló. Dù lý do có là thế nào, khi tôi liệt kê từng và mọi chi tiết trên thân thể hấp dẫn và tuyệt mỹ dưới lớp bọc quần áo - dù chỉ được nhìn từ đằng sau, nhưng trong đầu tôi đã hình dung ra toàn bộ vẻ huy hoàng của cơ thể ấy - tôi chợt thấy một cơn rùng mình thoáng chút tham tàn chạy dọc xương sống.

“Ồ, Daniel đấy à,” giáo sư Velázquez thốt lên. “Cám ơn Chúa, là cậu chứ không phải cái gã điên rồ lần trước đến, cái gã có tên nghe cứ như tay đấu sĩ bò tót ấy. Tôi thấy gã hình như say, hoặc ít ra cũng đáng vào viện tâm thần. Gã dám cả gan hỏi tôi liệu tôi có biết từ nguyên của từ “dương v*t” bằng cái giọng mỉa mai không hợp chỗ chút nào.”

“Là vì bác sĩ đã cho anh ấy uống một loại thuốc liều cao. Loại gì đó để bổ trợ gan cho anh ấy.”

“Chẳng trách sao gã cứ hấm hấp suốt ngày,” Velázquez than. “Nếu tôi là cậu, tôi sẽ gọi cảnh sát. Tôi dám chừng gã từng có tiền án. Mà Chúa ơi, chân gã bốc mùi mới kinh chứ - ngoài kia có cả đống những tay cánh tả bẩn thỉu tẩu thoát khỏi trại giam mà đến giờ vẫn chưa được thấy nhà tắm lần nào từ sau khi nền Cộng hòa sụp đổ.”

Tôi đang cố nghĩ ra lời bào chữa nào đó hợp lý để đỡ cho Fermín thì chợt cô sinh viên vừa nãy còn đang nói chuyện với giáo sư Velázquez liền quay lại, và giây phút ấy cả trái đất như thể ngừng quay. Tôi thấy cô mỉm cười với mình, tai tôi liền đỏ bừng lên như lửa.

“Chào, Daniel,” Beatriz Aguilar nói.

Tôi gật đầu với cô nàng, lưỡi tê cứng. Tôi nhận ra mình vừa thèm thuồng cô em gái người bạn thân nhất của tôi, Bea. Người con gái duy nhất khiến tôi vô cùng kinh hãi.

“Ồ, vậy hai người biết nhau sao?” Velázquez hỏi, ra điều hứng thú.

“Daniel là bạn lâu năm của gia đình em,” Bea giải thích. “Và là người duy nhất đủ can đảm nói thẳng vào mặt em là đồ kiêu căng và phù phiếm.”

Velázquez nhìn tôi với vẻ kinh ngạc.

“Đó là chuyện nhiều năm trước rồi,” tôi giải thích. “Với cả tôi cũng không có ý như vậy.”

“Hừm, tôi vẫn đang đợi một lời xin lỗi đấy.”

Velázquez cười vui vẻ và nhận lấy gói sách từ tay tôi.

“Chắc tôi phải đi rồi,” ông giáo sư nói, tay mở gói sách. “Ôi, tuyệt vời. Nghe này, Daniel, nói với cha cậu là tôi đang kiếm một cuốn tên Hung thần diệt quân Moor: Tập ký sự thời kỳ đầu của Tổng tư lệnh trong cuộc chiến Marốc, tác giả là Francisco Franco Bahamonde, với lời đề tựa và chú thích của Pemán.”

“Coi như đã xong. Vài tuần nữa chúng tôi sẽ thông báo lại cho ngài.”

“Vậy tôi tin ở lời cậu, còn giờ tôi đi đây. Ba mươi hai cái đầu trống rỗng đang đợi tôi.”

Giáo sư Velázquez nháy mắt với tôi và biến vào giảng đường. Còn tôi chẳng biết phải nhìn vào đâu.

“Nghe này, Bea, về lời xúc phạm đó, tôi xin hứa là...”

“Tôi chỉ trêu anh thôi, Daniel. Tôi biết chuyện trẻ con đó chẳng nghĩa lý gì đâu, hơn nữa, anh To má s cũng táng cho anh một trận đủ rồi.”

“Giờ vẫn còn đau.”

Nụ cười của Bea dường như muốn đề nghị một lời cầu hòa, hoặc ít nhất là một thỏa ước đình chiến.

“Với cả, anh cũng chẳng sai, tôi đúng là có hơi kiêu căng và phù phiếm đôi chút,” cô nàng nói. “Anh không ưa tôi lắm phải không, Daniel?”

Câu hỏi khiến tôi hoàn toàn bất ngờ. Hoàn toàn bất lực, tôi chợt nhận ra rằng ta có thể dễ dàng từ bỏ thú oán với người mà trước đây ta vẫn luôn cho là kẻ địch ngay khi đối phương không còn cư xử như vậy nữa

“Không, không phải thế đâu.”

“Tomás nói không phải là anh không ưa tôi, mà là vì anh không chịu nổi cha tôi nên muốn tôi phải gánh chịu, bởi anh không dám đối diện cha tôi. Tôi chẳng trách anh đâu. Trước giờ chẳng ai dám đối đầu với ông ấy.”

Hai bên má tôi như thể bị rút sạch hết máu, nhưng vài giây sau tôi thấy mình đang cười và gật gù. “Ai cũng có thể nói rằng Tomás còn hiểu tôi rõ hơn tôi hiểu chính mình.”

“Tôi cũng chẳng giấu được anh ấy điều gì. Anh trai tôi nhìn thấu hết thảy chúng ta, chẳng qua anh ấy chẳng bao giờ nói ra điều gì. Nhưng nếu như Tomás quyết định mở miệng, cả thế giới này chắc phải sụp đổ mất. Anh ấy rất quý anh, anh biết đấy.”

Tôi nhún vai rồi nhìn xuống.

“Anh ấy toàn nói chuyện về anh, và về cha của anh cùng với tiệm sách, và cả người bạn đang làm cùng chỗ anh nữa. Tomás bảo anh ta là một thiên tài cần được khai quật. Đôi lúc cứ như thể anh ấy coi các anh là gia đình thực của mình, thay vì cái gia đình anh ấy có ở nhà.”

Ánh mắt tôi gặp mắt mắt của Bea: cương quyết, ngay thật, đầy bạo dạn. Chẳng biết nên nói điều gì, nên tôi chỉ cười. Tôi có cám giác cô nàng đang đánh bẫy tôi về sự chân thành, và tôi quay ra nhìn xuống khoảng sân bên dưới.

“Tôi không biết cô học ở đây.”

“Em đang học năm đầu.”

“Văn học à?”

“Cha tôi nghĩ rằng khoa học không dành cho phái yếu.”

“Đương nhiên rồi. nhiều số má.”

“Tôi không bận lòng lắm, bởi tôi thích đọc sách mà. Với cả, ở đây ta gặp được nhiều người thú vị lắm.”

“Như vị giáo sư Velázquez ấy hả?”

Bea trưng ra một nụ cười nhăn nhở. “Dù mới đang năm nhất nhưng tôi đủ hiểu biết để thấy họ đang ào đến, Daniel ạ. Đặc biệt là loại đàn ông kiểu đó.”

Tôi phân vân không rõ mình thì thuộc loại nào.

“Mà, giáo sư Velázquez là bằng hữu tốt của cha tôi. Họ đều thuộc Hiệp hội bảo vệ và Phát triển Ca hài kịch Tây Ban Nha.”

Tôi cố gắng ra vẻ ấn tượng. “Một xu hướng quý tộc. Thế còn bạn trai của cô ra sao, thiếu úy Cascos Buendía ấy?”

Nụ cười trên khuôn mặt Bea tan biến. “Ba tuần nữa Pablo sẽ được nghỉ phép về đây.”

“Cô hẳn là vui lắm.”

“Rất vui. Anh ấy là một người tốt, dù là tôi có thể mường tượng ra anh nghĩ gì về anh ấy.”

Tôi ngờ lắm, tôi nghĩ thầm. Bea quan sát tôi, trông hơi có vẻ căng thẳng. Tôi đang định đổi chủ đề, nhưng cuống lưỡi của tôi đã nhanh hơn.

“Tomás nói cô sắp kết hôn và sẽ chuyển đến thành phố Ferrol.”

Bea gật đầu, mắt không chớp. “Ngay sau khi Pablo kết thúc đợt nghĩa vụ quân sự.”

“Hẳn là cô thấy nóng lòng ghê lắm,” tôi nói, cảm nhận rõ chút ác ý trong giọng mình, cái giọng xấc láo chỉ có Chúa mới biết từ đâu ra.

“Tôi không phiền, thật mà. Gia đình anh ấy có nhiều tài sản, vài ba xưởng đóng tàu, và Pablo sẽ phụ trách một trong số chúng. Anh ấy rất có tàinh đạo.”

“Thấy rõ mà.”

Bea cố gượng một nụ cười. “Với cả, tôi đã ngắm Barcelona này đủ lắm rồi, sau ngần ấy năm...” Nụ cười của cô nàng trông mệt mỏi và buồn buồn.

“Tôi nghe nói El Ferrol là một địa điểm quyến rũ. Đầy sức sống. Và hải sản ở đó tuyệt ngon, đặc biệt là món cua nhền nhện.”

Bea thở dài, lắc đầu. Trông cô nàng như thể muốn bật khóc trong giận dữ nhưng kiềm lại được vì quá kiêu hãnh. Thay vào đó cô nàng lạnh nhạt cười.

“Sau mười năm anh vẫn thích xúc phạm tôi, phải vậy không, Daniel? Vậy cứ việc đi, đừng nén nhịn làm gì. Đó là lỗi của tôi khi nghĩ rằng chúng ta có thể thành bạn, hoặc vờ như thế, nhưng tôi đoán chắc là tôi không được bằng anh tôi. Tôi xin lỗi vì đã phí thời gian của anh.”

Cô nàng quay đi và bắt đầu rảo bước về phía hành lang dẫn đến thư viện. Trong mắt tôi Bea dần bước ra xa dọc theo những viên đá đen và trắng lát kiểu bàn cờ, bóng cô cắt xuyên những tấm rèm ánh nắng rủ xuống từ cửa sổ trên hàng lang.

“Bea, gượm đã.”

Tôi thầm rủa chính mình va chạy theo cô nàng. Tới giữa hành lang tôi ngăn được Bea, bèn chộp lấy tay cô. Bea ném cho tôi một cái nhìn rát mặt.

“Tôi xin lỗi. Nhưng cô lầm rồi: đó chẳng hề là lỗi của cô, mà là của tôi. Tôi mới là người không được bằng như Tomás anh cô. Và nếu tôi có lăng mạ cô, đó là vì tôi ghen với gã bạn trai ngớ ngẩn của cô và cũng bởi tôi giận rằng người như cô lại sẵn lòng theo gã tới tận Ferrol. Chẳng khác gì tới tận Congo hết.”

“Daniel...”

“Cô đã nhầm về tôi, bởi chúng ta có thể là bạn nếu cô cho tôi cơ hội, giờ đây cô biết tôi vô dụng cỡ nào rồi đó. Mà cô cũng chưa đúng về Barcelona đâu, bởi có thể cô tưởng rằng mình đã thấy tất cả, nhưng tôi dám đảm bảo rằng điều đó không đúng. Nếu cô cho phép, tôi sẽ chứng minh cho cô thấy.”

Tôi thấy một nụ cười lóe sáng và rồi chầm chậm, một giọt nước mắt thầm lặng dần chảy xuống dọc má Bea.

“Tốt hơn là anh đúng đi,” cô nàng nói. “Bởi nếu không, tôi sẽ bảo với Tomás, và anh ấy sẽ vặn đầu anh ra như vặn nút chai đấy.”

Tôi chìa tay ra cho cô nàng. “Nghe công bằng đấy chứ. Bằng hữu?”

Cô nàng chìa tay ra cho tôi.

“Thứ Sáu mấy giờ thì cô hết giờ học?” tôi hỏi.

Bea ngại ngần trong giây lát. “Năm giờ.”

“Đúng năm giờ tôi sẽ đợi cô tại tu viện. Và trước khi đêm tối tràn xuống tôi sẽ chứng minh cho cô thấy có nhiều điều ở Barcelona mà cô chưa từng thấy, rằng cô không thể bỏ đi Ferrol với cái gã đần độn kia. Tôi chẳng tin cô yêu hắn đâu. Cô mà đi, những ký ức về thành phố này sẽ truy đuổi cô và cô sẽ lìa đời trong buồn đau.”

“Anh nói cứ như đinh đóng cột vậy, Daniel.”

Tôi, kẻ vốn chưa từng dám chắc hiện tại là mấy giờ, gật đầu với niềm tin chắc của kẻ ngu dốt. Tôi đứng đó quan sát Bea bước xa dần dọc theo hành lang vô tận cho đến khi hình hài cô hòa quyện trong bóng tối. Tôi tự hỏi mình đã làm cái quái gì không biết nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 15


TIỆM MŨ FORTUNY, HAY NHỮNG GÌ CÒN LẠI CỦA NÓ, suy tàn dưới chân một tòa nhà rệu rã, chật hẹp, đen kịt bồ hóng trên Đại lộ San Antonio ngay gần khách sạn Plaza de Goya. Ta vẫn những dòng chữ khắc in trên tấm cửa kính bẩn thỉu, một tấm biển hình chiếc mũ quả dưa vẫn đang treo lơ lửng phía trước tiệm, hứa hẹn những kiểu mũ làm theo số đo riêng và các mẫu thời trang nhất đến từ Paris. Cánh cửa được chốt kín bởi một bộ khóa ắt hẳn đã chiêm ngưỡng cả thập kỷ phục vụ an nhàn không bị quấy nhiễu. Tôi áp trán vào tấm kính trên cửa, cố nhướng mày nhòm vào khoảng tăm tối bên trong.

“Nếu cậu đến vì muốn thuê tiệm thì người quản lý mới đi rồi,” một giọng nói làu bàu phía sau lưng tôi.

Người phụ nữ vừa bắt chuyện với tôi trông phải tầm sáu chục tuổi, bà vận trên người bộ quốc phục của tất cả các bà góa sùng đạo. Đôi ba cái lô quấn tóc thò ra khỏi chiếc khăn trùm màu hồng bà dùng để phủ trên tóc, còn đôi dép lê lót thêm miếng đệm thì hợp tông với đôi vớ hồng hồng màu da người cao tới đầu gối. Tôi đoán chừng bà ta là người coi giữ trông nom tòa nhà.

“Vậy cửa tiệm này cho thuê ạ?”

“Cậu không đến vì muốn thuê à?”

“Không hẳn, ai mà biết được, không chừng cháu lại có hứng thú.”

Bà trông coi khu căn hộ nhíu mày, thầm cân nhắc liệu có nên cho tôi được phép ngờ vực hay không. Tôi chuyển sang nụ cười thánh thiện “độc chiêu” của mình.

“Tiệm này đóng cửa bao lâu rồi ạ?”

“Liên tục suốt mười hai năm nay rồi, kể từ khi ông chủ tiệm qua đời.”

“Señor Fortuny ạ? Bà có biết ông ấy không?”

“Ta sống ở nơi này đã bốn mươi tám năm rồi, chàng thanh niên ạ.”

“Vậy chắc bà cũng biết con trai của Señor Fortuny.”

“Julián? À, đương nhiên là biết chứ.”

Tôi lấy tấm cháy cạnh từ trong túi áo ra chìa cho bà xem. “Bà có thể cho cháu biết người con trai trong ảnh liệu có phải là Julián Carax không?”

Người phụ nữ nhìn tôi ra vẻ hơi ngờ hoặc. Bà cầm lấy tấm ảnh nhìn một hồi.

“Bà có nhận ra chú ấy không?”

“Carax là họ thời con gái của mẹ nó,” bà giải thích bằng cái giọng không có chút gì là khích lệ. “Đây là Julián, chắc rồi. Ta nhớ là tóc nó rất sáng màu, nhưng đây, trong tấm ảnh này, trông tóc nó thẫm hơn.”

“Vậy bà kể cho cháu về cô gái được không?”

“Mà cậu là ai mà hỏi thế?”

“Cháu xin lỗi, tên cháu là Daniel Sempere. Cháu đang cố tìm hiểu về Señor Carax, à, là về chú Julián.”

“Julián chuyển đến Paris, khoảng năm 1918 hay 1919 gì đó. Cha thằng bé muốn tống nó vào quân đội, cậu hiểu đấy. Ta nghĩ mẹ của Julián đem nó theo để nó được thoát khỏi cái vụ đó, tội nghiệp thằng bé. Señor Fortuny bị bỏ lại một mình, trong căn hộ áp mái.”

“Bà có biết chú Julián đã quay về Barcelona lúc nào không?”

Người trông coi khu nhà lẳng lặng nhìn tôi một hồi, chẳng nói gì.

“Cậu không biết sao? Cùng năm đó Julián chết tại Paris rồi mà.”

“Xin lỗi ạ?”

“Ta bảo Julián đã chết rồi. Tại Paris. Ngay sau khi nó chuyển đến đó. Đáng lẽ nó nên gia nhập quân đội thì hơn.”

“Liệu cháu có thể hỏi sao bà biết chuyện đó không?”

“Thế cậu nghĩ sao? của nó cho ta biết thôi.”

Tôi chầm chậm gật đầu. “Cháu hiểu rồi, ông ấy nói là chú Julián đã qua đời?”

“Thực ra thì ông già ấy chả bao giờ nói cho ta cụ thể điều gì. Một lần nọ, không lâu sau khi Julián đi, có một bức thư chuyển đến cho thằng bé, và khi ta nhắc đến chuyện đó với cha nó thì ông già bảo ta là thằng bé chết rồi, nếu có gì đi nữa gửi đến cho nó thì ta cứ việc vứt đi. Sao cậu lại nhìn ta như thế?’

“Señor Fortuny nói dối bà đấy. Chú Julián không hề chết vào năm 1919.”

“Cậu nhắc lại lần nữa?”

“Chú Julián sống ở Paris ít nhất cho đến năm 1935, rồi sau đó chú ấy chuyển về Barcelona.”

Khuông mặt bà trông coi khu nhà chợt bừng sáng. “Vậy Julián đang ở đây, tại Barcelona này? Thế là ở đâu?”

Tôi gật đầu lần nữa, hy vọng bà khuyến khích tôi kể thêm.

“Ôi đức Mẹ Mary... thật là một tin tuyệt vời. Hừm, đấy là nếu như nó còn sống. Nó là một thằng bé đáng yêu làm sao, hơi kỳ cục và hay mơ màng, quả là có vậy, nhưng có gì đó ở nó có thể chinh phục người ta. Nó sẽ chẳng ra cơm cháo gì nếu đi lính, cái đó thì quá rõ ràng. Con Isebelita của ta thật sự thích nó. Thử hình dung xem, đã có lúc ta nghĩ hai đứa nó sẽ cưới nhau. Ôi chuyện trẻ con.. Ta coi lại tấm hình đó được không?”

Tôi đưa lại bà tấm ảnh. Người phụ nữ ngắm nghía nó như thể ngắm bùa may mắn, chiếc vé giúp bà quay trờ về thuở thanh xuân. “Kỳ thật, cậu biết đấy, cứ như thể nó vừa ở đây ngay lúc này... vậy có nghĩa cái lão khốn đó đã nói dối là nó chết rồi. Ta phải thú thực, ta chẳng hiểu sao Chúa lại gửi những kẻ như vậy xuống trần thế này. Mà điều gì đã xảy ra cho Julián khi ở Paris? Ta dám cá nó đã kiếm được một khoản kếch xù. Ta luôn nghĩ rồi một ngày kia Julián sẽ trở nên giàu có.”

“Không hẳn, chú ấy trở thành nhà văn.

“Nó viết truyện ư?”

“Đại loại như thế ạ.”

“Có phải viết truyện cho đài truyền thanh không? Ôi đáng yêu làm sao. Hừm, ta chẳng ngạc nhiên đâu, cậu biết không. Hồi bé tí nó vẫn thường kể đủ các truyện cho đám trẻ con trong khu. Vào mùa hè, đôi khi tối tối con Isabelita của ta và anh chị em họ nó kéo cả hội trèo lên sân thượng nghe thằng bé kể chuyện. Mấy đứa bảo rằng Julián chẳng bao giờ lặp lại một câu chuyện tới lần thứ hai. Nhưng quả là mấy chuyện đó toàn về người chết và các linh hồn. Ta phải nói, nó là một thằng bé hơi kỳ quặc. Mặc dù, với một người cha như thế, thật lạ kỳ là nó chưa hoàn toàn bị điên. Ta chẳng ngỡ ngàng gì khi rốt cuộc vợ ông ta cũng bỏ đi, bởi ông ta đúng là một sản phẩm khủng khiếp. Nghe này: ta chưa từng xen vào chuyện riêng của người khác, ta thì sao cũng được, nhưng cái ông già đó không phải là người tốt.Trong một khu căn hộ chung cư chẳng gì giữ bí mật mãi được đâu. Ông ta đánh đập vợ, cậu biết không? Lúc nào ta cũng nghe được tiếng kêu thét từ căn hộ gia đình nhà họ, và cảnh sát đã phải đến nhiều lần. Ta có thể hiểu chuyện đôi khi một ông chồng phải đánh vợ hòng khiến cô ta tôn trọng mình, ta không có ý rằng họ không nên thế; đời đầy những ả lẳng lơ, và những cô gái trẻ chẳng còn được nuôi dạy cẩn thận như ngày xưa. Nhưng trường hợp này khác, hừm, ông ta chỉ đơn thuần muốn đánh vợ mà thôi, đấy là nếu cậu hiểu ý ta. Người bạn duy nhất mà người phụ nữ khốn khổ ấy từng có là một cô gái trẻ, tên Viçenteta, sống ở phòng 4-2. Thi thoảng bà ấy trốn nhờ trong căn hộ nhà Viçenteta, để tránh bị ông chồng đánh đập. Và bà ấy kể những chuyện...”

“Những chuyện như thế nào ạ?”

Người trông coi khu nhà bỗng ra vẻ rất bí mật, bà nhướng mày nhìn quẩn quanh hết trái phải rồi nói. “Kiểu như thằng bé chẳng phải con lão bán mũ đâu.”

“Chú Julián ấy ạ? Ý bà là chú Julián không phải con của ông Fortuny?”

“Đó là những gì bà người Pháp đó kể cho Viçenteta, ta chẳng rõ đó là do quá đau đớn mà thành căm hận hay là có trời mới biết được. hiều năm sau Viçenteta mới kể lại cho ta chuyện đó, khi mà gia đình nhà làm mũ chẳng còn sống ở đây nữa.”

“Vậy ai là cha đẻ của chú Julián?”

“Cái bà người Pháp ấy chẳng bao giờ hé răng về chuyện đó. Có thể bà ấy cũng chả biết. Cậu biết người nước ngoài họ thế nào rồi đấy.”

“Vậy bà có cho rằng đó là lý do mà ông Fortuny đánh vợ không?”

“Chúa may ra mới biết. Đã ba lần người ta phải đưa bà ấy vào bệnh viện đấy cậu biết không? Những ba lần. Đã thế kẻ bạo hành kia còn dày mặt nói với mọi người rằng vợ mình mới là kẻ có lỗi, rằng bà ấy là đồ nghiện rượu, lúc nào cũng dật dờ quanh nhà vì uống quá nhiều. Nhưng ta chẳng tin. Lão còn gây gổ với khắp làng xóm láng giềng. Lần nọ lão còn tới cảnh sát tố cáo ông chồng quá cố của ta, Chúa phù hộ linh hồn ông ấy, là ăn trộm ở tiệm của lão. Lão quan niệm rằng bất cứ ai dân miền Nam đều là đồ ăn không ngồi rồi và trộm cướp, cái đồ lợn đó...”

“Bà có nhận ra cô gái bên cạnh chú Julián trong tấm ảnh không?”

Người trông coi khu nhà chăm chú nhìn bức hình lần nữa. “Chưa thấy con bé bao giờ. Rất xinh đấy.”

“Nhìn trong bức hình, trông có vẻ như họ là một đôi,” tôi gợi ý, cố gắng lay động ký ức của bà.

Bà đưa tôi lại tấm hình, lắc đầu. “Ta chẳng biết gì về ảnh ót cả. Theo như ta được biết thì Julián chưa từng có bạn gái, nhưng ta cũng hiểu là nếu có, nó cũng chẳng nói cho ta đâu. Biết được con bé Isabelita nhà ta từng dính líu với thằng nhóc ấy cũng đã khó khăn lắm rồi... Ta biết tụi trẻ chẳng bao giờ chịu nói điều gì. Còn cánh già nua bọn ta thì không biết làm sao mà ngừng kể lể.”

“Bà có nhớ bạn bè của chú ấy, ai đó đặc biệt thường hay lui tới đây?”

Bà bác coi giữ khu nhà chỉ nhún vai. “Hừm, lâu quá rồi còn gì. Với cả, những năm cuối còn sống tại đây Julián chẳng mấy khi về nhà, cậu hiểu không. Nó đánh bạn ở trường, một cậu chàng có xuất thân từ gia đình rất khá, dòng họ nhà Aldaya - chà, nhà ấy thì oách đấy. Hiện nay chẳng ai về họ nữa, nhưng hồi đó thì nhắc đến họ chẳng khác gì nhắc về hoàng gia. Vô khối tiền. Ta biết là bởi thi thoảng họ lại cho xe đến đón Julián. Cậu mà thấy cái xe đó thì... Thậm chí Quốc trưởng Franco cũng chẳng có nổi một chiếc như thế. Có hẳn tài xế, và tất thảy đều sáng loáng. Thằng Paco nhà ta, vốn biết chút ít về xe cộ, bảo ta đó là một chiếc rollsroi hay cái gì đó từa tựa thế. Xe cho hoàng đế đấy.”

“Bà có biết danh xưng của người bạn đó không?”

“Nghe này, với một cái họ như Aldaya, cần quái gì tới tên gọi nữa. Ta cũng nhớ còn một cậu bạn khác, hơi bị loạn óc một chút, tên nó là Miquel. Ta nghĩ hẳn thằng bé đó là bạn cùng lớp với Julián. Nhưng đừng hỏi ta xem họ của nó là gì hay trông nó ra làm sao.”

Chúng tôi dường như đang tiến vào ngõ cụt, và tôi dần sợ rằng người phụ nữ già bắt đầu vơi dần hứng thú. Tôi quyết định hỏi theo cảm tính. “Vậy giờ còn ai sống trong căn hộ gia đình nhà Fortuny không ạ?”

“Không. Ông già kia chết mà chẳng để lại di chúc gì, còn bà vợ, theo như ta được biết, hiện giờ vẫn đang ở tận Buenos Aires, đám tang chồng cũng không thèm về. Cũng chẳng trách.”

“Sao lại là Buenos Aires?”

“Vì bà ấy chẳng tìm được nơi nào xa hơn nữa, ta đoán chừng vậy. Bà ấy phó thác tất cả vào tay một gã luật sư, một kẻ rất quái đản. Ta chưa từng gặp hắn, nhưng con gái ta Isabelita, nó sống trên tầng năm, ngay dưới căn hộ nhà họ, kể rằng thi thoảng, do có trong tay chìa khóa, hắn thường đến lúc về đêm và dành hàng giờ đi đi lại lại trong căn hộ rồi mới bỏ đi. Một lần nọ con bé còn kể nó thậm chí nghe được cả tiếng giày cao gót của phụ nữ. Ta phải nói gì đây...?”

“Cũng có thể là tiếng do cà kheo gậy chống gì đó.”

Bà ngây ra nhìn tôi. Hiển nhiên đó là chủ đề nghiêm trọng với người coi sóc khu nhà.

“Vậy ngoài ra không có ai khác từng thăm viếng căn hộ đó trong suốt bao năm nay?”

“Lần nọ có một cá nhân dơm nào đó đến đây, một trong số những kẻ chẳng bao giờ ngưng cười, một kẻ hay cợt nhả, nhưng y thì dễ nhận ra lắm. Y bảo mình đến từ đội Điều tra Tội phạm. Y muốn xem bên trong căn hộ.”

“Ông ta có nói lý do không?”

Bà trông coi khu nhà lắc đầu.

“Vậy bà có nhớ tên ông ta không.”

“Thanh tra viên hay gì đó. Ta chẳng tin y là cảnh sát đâu. Y bốc mùi giả tạo lắm, hiểu ý ta không? Sặc mùi gì đó rất cá nhân. Ta đuổi y đi và bảo là chẳng có chìa khóa căn hộ đâu, nếu y muốn làm gì thì hãy đi mà gọi cho tay luật sư. Y bảo sẽ còn quay lại, nhưng đến giờ cũng chẳng thấy tăm hơi. Nhẹ nợ.”

“Liệu bà có tình cờ biết được tên và địa chỉ của vị luật sư kia không?”

“Cậu nên hỏi ông quản lý tòa nhà này, Señor Molins. Văn phòng của ông ấy ở khá gần đây, số nhà hai mươi tám, Floridablanca, tầng trệt. Bảo ông ấy là ta giới thiệu cậu đến - ta là Aurora, cần gì cứ gọi.”

“Cháu rất cảm tạ. Vậy, xin cho cháu biết, thưa Doña Aurora, hiện giờ có phải là căn hộ nhà Fortuny hoàn toàn trống không?”

“Không, chẳng trống không đâu, vì trước giờ chẳng ai đến đó lấy bất cứ thứ gì đi từ khi ông già kia lìa đời. Thi thoảng nó còn bốc mùi nữa. Ta dám chừng trong căn hộ đấy đầy chuột, tin ta đi.”

“Bà có nghĩ ta nên vào đó ngó qua không? Không chừng lại tìm được thông tin gì đó gợi mở về tình trạng hiện tại của chú Julián.”

“Ôi không, ta không thể làm thế. Cậu phải xin phép Señor Molins, ông ấy mới là người phụ trách.”

Tôi láu lỉnh cười với bà. “Nhưng hẳn là bà vẫn giữ chìa khóa chính, cháu đoán chừng. Tuy bà bảo người kia là bà không muốn vào đó... nhưng đừng nói với cháu là bà không tò mò muồn biết trong đó có gì.”

Doña Aurora liếc mắt nhìn tôi.

“Cậu đúng là đồ quỷ sứ.”

***

CỬA CĂN HỘ CỌT KẸT MỞ RA NHƯ TẢNG ĐÁ BỊT HẦM MỘ với một tiếng rên rỉ bất chợt, phì ra một luồng khí hôi hám tối đen. Tôi đẩy cánh cửa trước vào trong phòng, phát hiện ra ở đó một hành lang ngập trong bóng tối. Nơi này thật ngột ngạt và nồng vị ẩm ướt. Những sợi tơ nhện nặng trĩu cáu bụi bẩn lửng lơ khắp trên trần nhà như những mảng tóc bạc. Gạch lát nền vỡ nát bao phủ bởi thứ gì đó trông giống như tro tàn. Tôi cũng để ý tới những dấu vết trông giống dấu chân người hướng vào bên trong căn hộ.

“Ôi đức Mẹ lòng lành!” bà bác coi giữ khu nhà làu bàu. “Ở đây còn nhiều phân hơn cả trong chuồng gà nữa.”

“Nếu bà ngại, thì để cháu đi một mình,” tôi nói.

“Thế thì chẳng vừa ý cậu quá rồi còn gì. Thôi nào, cậu đi trước, ta theo sau.”

Hai chúng tôi đóng cửa lại phía sau lưng và đứng đợi tại tiền sảnh một lúc cho tới khi mắt quen dần được với bóng tối. Tôi có thể nghe được sự run sợ trong hơi thở của bà coi giữ khu nhà và ngửi ra mùi chua từ mồ hôi của bà. Tôi thấy mình chẳng khác gì một tên trộm mộ, linh hồn bị đầu độc bởi lòng tham và dục vọng.

“Này, đó là tiếng gì thế?” bà trông coi khu nhà e ngại cất tiếng hỏi. Có con gì đó vỗ cánh trong bóng tối, như bị làm phiền bởi sự hiện diện của chúng tôi. Tôi nghĩ mình vừa thoáng thấy một cái bóng trắng nhờ đu đưa ở nơi cuối hành lang.

“Chim bồ câu,” tôi nói. “Có lẽ chúng vào qua chỗ bị vỡ trên kính cửa sổ và làm tổ ở đây.

“Cái thứ chim xấu xí đó khiến ta ghê người,” bà bác coi giữ thốt lên. “Mà chúng nó thải phân cứ như chẳng còn có ngày m

“Đừng lo, Doña Aurora, chúng chỉ tấn công ta khi đói thôi.”

Chúng tôi đánh bạo dấn thêm vài bước cho đến khi tới được gần hết hành lang, nơi có một phòng ăn mở ra phía ban công. Còn nhìn rõ được một chiếc bàn tồi tàn trên phủ lớp vải tả tơi trông giống vải liệm hơn là khăn trải bàn. Bốn chiếc ghế để đó như để canh xác chết, cùng với vài ba tủ kính cáu bụi đang canh giữ bộ đồ ăn: cốc chén và bộ uống trà. Trong góc phòng là một chiếc piano tủ đứng cũ kỹ trước đây từng thuộc về mẫu thân của Carax. Các phím đàn đã đen kịt vì cáu bẩn, những mấu nối hầu như chẳng thấy đâu dưới từng mảng bụi. Một chiếc đi văng có vỏ bọc dài, mòn xơ chỉ đang dần mục rỗng nằm ngay cạnh ban công. Kế đó là một chiếc bàn cà phê bên trên yên vị một đôi kính đọc sách và cuốn Kinh Thánh bọc da sáng màu, bốn góc dát vàng, loại ấn bản thường dùng để làm quà cho trẻ nhỏ vào lần đầu tiên nó được ban thánh lễ. Cuống Kinh Thánh vẫn còn đang kẹp dở dây đánh dấu sách, một mẩu dây màu đỏ thẫm.

“Nhìn kìa, cái ghế đó là nơi ông già được tìm thấy sau khi chết. Bác sĩ bảo ông ta ở đó cũng phải hai ngày rồi. Ra đi như thế thật là buồn, như một con chó ấy, chỉ có một mình. Không hẳn là ông ta chẳng đáng bị thế, nhưng mà dù sao…”

Tôi tiến đến gần chiếc ghế nơi ông Fortuny đã qua đời. Kế bên cuốn Kinh Thánh là một chiếc hộp nhỏ đựng những tấm ảnh đen trắng, ảnh chân dung studio kiểu cũ. Tôi quỳ xuống để nhìn cho rõ, hơi sợ không muốn chạm phải những tấm ảnh đó. Dù cảm thấy mình như đang báng bổ ký ức của một ông già đáng thương, nhưng sự tò mò trong tôi đã chiến thắng. Tấm ảnh đầu tiên chụp đôi vợ chồng trẻ với một đứa con trai chừng bốn tuổi là cùng. Tôi nhận ra cậu bé qua ánh mắt.

“Nhìn nay, họ đây rồi. Señor Fortuny hồi còn trẻ, và đây…”

“Chẳng phải chú Julián không có anh chị em gì hay sao?”

Bà trông coi khu nhà nhún vai, đoạn thở dài. “Ta nghe nói bà vợ bị sẩy thai một lần vì những trận đòn của ông chồng, nhưng ta chịu không biết đâu. Người ta thích đồn thổi mà, nhỉ? Nhưng ta thì không. Ta chỉ biết là có lần Julián kể với bọn trẻ trong khu nhà là nó có một đứa em gái chỉ mình nó thấy được. Rằng thằng bé thấy em mình từ trong gương đi ra cứ như được tạo bằng không khí ấy, và con bé sống cùng với quỷ Satan trong một cung điện ở tận dưới đáy hồ. Con Isabelita nhà ta vì thế mà mơ thấy ác mộng cả tháng trời. Đầu óc thằng bé đó đôi khi thực là thiếu lành mạnh.”

Tôi liếc sang phía bếp. Trên cánh cửa sổ nhỏ nhìn vào phía sân trong khu nhà, có một chỗ kính bị vỡ, tôi nghe rõ mồn một tiếng vỗ cánh run rẩy đầy thù địch của bọn bồ câu ở bên kia tấm kính.

“Tất cả các căn hộ ở đây đều có cấu trúc như nhau chứ ạ?” tôi hỏi.

“Những phòng nhìn ra phố thì giống nhau. Nhưng cái phòng này ở trên tầng áp mái, nên nó hơi khác một chút. Có bếp và phòng giặt quay ra nhìn vào phía sân trong. Xuôi hành lang này có ba phòng ngủ, và một phòng tắm ở tận trong cùng. Trang trí qua loa thêm một chút, trông sẽ vừa mắt lắm, tin ta đi. Căn hộ này trông từa tựa như chỗ con Isabelita nhà ta đang ở - nhưng đương nhiên, giờ nó y hệt một cái nhà mồ.”

“Bà có biết phòng nào là phòng của chú Julián không?”

“Phòng đầu tiên là phòng ngủ lớn. Phòng tiếp theo thì nhỏ hơn. Có lẽ căn phòng ấy, đoán chừng là vậy.”

Tôi đi dọc theo hành lang. Lớp sơn trên tường đã bong tróc từng mảng nhỏ. Ở nơi cuối hành lang, cửa phòng tắm đang hé mở. Một người mặt trông cứ như chằm chằm nhìn tôi. Đó có thể là gương mặt tôi, hoặc cũng có thể là gươ mặt người em gái đang sống trong gương của Julián. Khi tôi đến gần hơn, khuôn mặt ấy rút lui về với bóng tối. Tôi cố sức mở cánh cửa thứ hai.

“Nó khóa rồi,” tôi nói.

Người coi giữ nhìn tôi. “Những cửa này không thể nào có khóa,” bà nói.

“Cái này thì có.”

“Vậy hẳn là ông già Fortuny đã đặt thêm một cái khóa vào đây rồi, bởi vì tất cả các căn hộ khác trong tòa nhà này đều…”

Tôi nhìn xuống và chú ý thấy có dấu chân dẫn đến cánh cửa bị khóa. “Có ai đó đã tới căn phòng này,” tôi nói, “dạo gần đây thôi.”

“Đừng dọa ta,” người coi giữ khu nhà nói.

Tôi đi tới cửa phòng tiếp theo. Nó không có khóa. Cánh cửa mở ra kèm theo một tiếng cọt kẹt gỉ sét ngay lúc tôi vừa chạm vào. Giữa căn phòng là một cái giường cũ nát rộng khoảng bốn tấm poster, vẫn còn bừa bộn. Ga trải giường đã ngả vàng, y chang một tấm vải liệm, một cây thánh giá đặt ngay trên đầu giường. Căn phòng cũng có tủ gồm nhiều ngăn kéo bên trên đặt một chiếc gương nhỏ, một chậu rửa mặt, bình đựng nước, và ghế ngồi. Một cái tủ bày đồ, cửa để hé, đứng dựa sát vào tường. Tôi đi vòng qua giường, tiến tới chiếc bàn mặt thủy tinh đặt ngay cạnh đó , dưới lớp thủy tinh là ảnh chụp của ông bà, cố cụ, những tấm thiệp đám tang, và cả vé số. Trên bàn đặt một chiếc hộp nhạc bằng gỗ được khắc chạm và một đồng hồ bỏ túi, vĩnh viễn đông cứng vào lúc tám giờ năm phút. Tôi thử lên dây cót chiếc hộp nhạc, nhưng chạy được sáu nốt nhạc thì giai điệu tắt nghẽn. Mở ngăn kéo của chiếc bàn cạnh giường, tôi tìm được một bao kính trống rỗng, một cái bấm móng tay, một chai rượu bẹt, và một cái mề đay hình Đức Mẹ Lộ Đức. Chẳng còn gì khác.

“Chắc chắn đâu đó phải có chìa khóa vào phòng bên

“Chắc là ông quản lý giữ thôi. Này, ta nghĩ tốt nhất chúng ta nên đi ra.”

Đột nhiên tôi nhìn xuống cái hộp nhạc. Tôi liền mở tung nắp hộp ra, và tại đó, chèn cứng giữa cơ cấu bánh răng, tôi tìm thấy chiếc chìa khóa óng vàng. Tôi lấy chìa khóa ra, hộp nhạc lập tức khôi phục lại giai điệu leng keng của nó. Tôi nhận ra đó là một bản của Ravel.

“Đây chắc hẳn là chìa khóa phòng bên.” Tôi cười với bà coi giữ khu nhà.

“Nghe này, nếu căn phòng ấy bị khóa, hẳn phải có một lý do nào đó. Thậm chí cũng là vì tôn trong những ký ức của...”

“Nếu bà muốn thế, xin cứ đợi cháu ở dưới căn hộ của bà, Doña Aurora.”

“Cậu đúng là quỷ sứ mà. Được rồi. Muốn thì cứ mở đi.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 16


MỘT LÀN HƠI LẠNH THỔI QUA LỖ KHÓA, liếm qua những ngón tay khi tôi tra chìa khóa. Cái chìa khóa mà Sefior Fortuny đã lắp vào căn phòng trống của con trai mình to gấp ba lần cái khóa trên cửa chính. Dofía Aurora lo âu nhìn tôi, cứ như thể chúng tôi sắp mở chiếc hộp Pandora.

“Phòng này về phía trước ngôi nhà chứ ạ?” tôi hỏi

Bà bác coi giữ lắc đầu. "Có một cửa sổ nhỏ, để thông gió. Nó hướng về phía sân."

Tôi đẩy cửa vào phía trong. Một khoảng tối mịt mùng không thấu mở ra trước mắt chúng tôi, ánh sáng lay lắt từ phía sau gần như chỉ đủ gãi ngứa cho màn đêm. Cửa sổ nhỏ trông ra khoảnh sân bị những tờ giấy báo ngả vàng bịt kín. Tôi xé chúng ra, liền đó một tia sáng yếu ớt đâm xuyên qua bóng tối.

“Ôi, chúa Giê-su, đức Mẹ Mary, thánh Joseph ơi!” bà bác coi giữ khu nhà lầm bầm.

Cả căn phòng tràn lan những cây thánh giá. Thánh giá treo khắp trên trần nhà, lủng lẳng dưới những sợi dây, phủ khắp bốn bức tường, bị đinh ghim chặt. Có hàng tá thánh gái. Ta có thể cảm thấy chúng giăng khắp mọi ngóc ngách, được khắc bằng dao trên đồ gỗ, được cạo thành vệt trên gạch lát sàn, được quệt từ sơn đỏ trên các mặt gương. Những dấu chân dẫn chúng tôi tới cảnh cửa giờ thấy rõ lớp bụi sàn xung quanh chiếc giường trống huếch, chỉ là một bộ xương toàn dây thép và gỗ mọt ruỗng. Cuối căn phòng, bên dưới cửa sổ, là một chiếc bàn có nắp cuộn đang đóng kín, trên nóc bàn găm một bộ ba cây thập ác kim loại. Tôi khẽ khàng mở nắp bàn ra. Không thấy có bụi kẹt tại mối nối giữa các thanh gỗ, điều đó khiến tôi đoán chừng cái bàn này ắt hẳn đã được mở ra mới gần đây thôi. Nó có sáu ngăn kéo. Các khóa đã bị bẩy tung. Tôi soát kỹ từng ngăn một. Trống rỗng.

Tôi quỳ xuống ngang chiếc bàn và lần rờ ngón tay lên những dấu khắc phủ lên mặt bàn, tưởng tượng ra hình ảnh đôi tay của Julián Carax đang nguệch ngoạc những dòng ấy, các chữ viết tượng hình mà ý nghĩa đã hoàn toàn mờ tối theo thời gian. Trong hộc bàn, tôi để ý có một chồng vở viết và một chiếc lọ đầy chật bút chì, bút mực. Tôi rút ra một cuốn vở xem liếc qua. Vô số hình vẽ cùng các từ ngữ lẻ. Bài tập toán. Những cụm từ, lời trích dẫn không có liên hệ với nhau, rút ra từ trong sách. Các bài thơ viết dở. Tất cả các cuốn vở đều từa tựa nhau. Một vài hình vẽ lặp đi lặp lại từ trang này sang trang khác, mỗi hình chỉ khác đi đôi chút. Tôi bị ấn tượng bởi hình phác một người đàn ông trông như tạo ra từ lửa. Một hình khác trông có vẻ là thiên thần hoặc một con bò sát nào đó quấn lấy cây thánh giá. Những hình phác thô ám chỉ tới một toàn nhà hoang đường kiỳ dị, đang dệt với những ngọn tháp và vòm cung tựa như của thánh đường. Từng nét bút đầy tự tin cho thấy một năng khiếu nhất định. Chàng trai Carax tỏ ra là một họa sĩ đầy hứa hẹn, nhưng chẳng bức vẽ nào trong này tiến xa hơn ngoài phác thảo.

Tôi vừa định đặt cuốn vở cuối cùng lại vị trí cũ mà không cần xem qua thì chợt thứ gì đó tuột khỏi những trang giấy rơi xuống chân tôi. Đó là bứa hình mà trong đó tôi nhận ra chính cô gái đã xuất hiện trong bức hình kia - bức hình chụp tại chân tòa chung cư này. Cô gái đang làm dáng tại một khu vườn xa hoa, và xa xa sau các ngọn cây, chỉ vừa đủ thấy, là hình dáng tòa nhà tôi đã thấy trong các bức phác thảo của chàng thiếu niên Carax. Tôi nhận ra nó ngay tức thì. Đó là tòa biệt thự với cái tên Thầy Dòng Trắng, nằm trên đại lộ Tibidabo. Đằng sau tấm hình là câu đề tặng chỉ nói đơn giản một điều:

Penélope, người yêu anh.

Tôi cất bức hình vào trong túi áo, đóng nắp bàn lại, và cười với bà trông coi khu nhà.

“Thấy đủ chưa?” bà hỏi, vẻ bồn chồn muốn rời khỏi đây.

“Gần hết,” tôi đáp. "Trước đây, bà có nói rằng ngay sau khi chú Julián rời đi Paris, có một bức thư gửi cho chú ấy, nhưng cha chú ấy bảo bà nám nó đi.”

Bà trông coi khu nhà do dự đôi chút, rồi gật đầu: "Ta để phong thư tại ngăn kéo chiếc tủ chia ngăn tại tiền sảnh, phòng trường hợp ngày nào đó bà người Pháp kia quay lại đây. Hẳn nó vẫn còn ở đó.”

Chúng tôi quay lại chiếc tủ chia ngăn và mở ngăn kéo đầu tiên. Một phong thư màu nâu vàng nhạt nằm ngay trên bộ sưu tập những chiếc đồng hồ chết, khuy cúc và đám đồng xu đã thôi không còn là tiền pháp định từ hai chục năm về trước. Tôi cầm chiếc phong bì lên kiểm tra.

“Bà đã đọc nó chưa ạ?”

“Cậu nghĩ ta là hạng người gì?”

“Cháu không có ý xúc phạm. Mà điều đó cũng khá tự nhiên thôi, t̀y theo trường hợp, vì bà cho rằng chú Julian đã qua đời…"

Bà trông coi khu nhà bèn nhún vai, nhìn xuống đất và bắt đầu bước về phía cửa. Tôi lợi dụng khoảnh khắc ấy nhét bức thư vào trong túi áo vét của mình.

“Nghe này, ta không muốn cậu hiểu lầm đâu," bà ta nói.

“Đương nhiên không rồi, thế bức thư nói gì vậy?”

“Một lá thư tình. Kiểu như mấy truyện ngắn trên đài phát thanh, có điều buồn hơn, câu hiểu không, vì thực ra đọc nó lên nghe thật lắm. Tin ta đi, khi đọc nó ta đã rơi lệ đấy.”

“Bà dạt dào tình cảm quá, Doña Aurora.”

“Còn cậu đúng là đồ quỷ sứ.”

***

CŨNG BUỔI CHIỀU HÔM ĐÓ, sau khi nói lời từ biệt với Doña Aurora và hứa sẽ cập nhật cho bà thông tin cuộc điều tra của tôi về Julián Carax, tôi bèn đi tìm người quản lý khu nhà chung cư. Señor Molins đã từng có những ngày tháng tươi đẹp hơn nhưng giờ đây ông đang sống vất vưởng trong một văn phòng tầng trệt bẩn thỉu trên phố Floridablanca. Dù vậy, Molins vẫn là một cá nhân vui vẻ, biết tự hài lòng với chính mình. Miệng ông ta như dính liền với điếu xì gà hút dở trông cứ tưởng mọc ra từ chòm ria mép. Thưc khó mà đoán ông ta đang ngủ hay đang thức, vì ông ta thở nghe cứ như người ta đang ngáy. Mái tóc Molins bóng nhẫy và nhẵn lì ở phía trên trán, và đôi mắt híp tịt của ông ta rõ là lanh lợi. Bộ vét của ông ta chắc không bán được hơn chục đồng peseta ở chợ Encantes Flea, nhưng ông bù lại cho bộ vét đó bằng một chiếc cà vạt sặc sỡ sắc màu nhiệt đới. Xét theo vẻ ngoải của khu chung cư, hẳn không còn gì nhiều để mà quản lý nữa, ngoại trừ đám sâu bọ và mạng nhện của một Barcelona bị quên lãng.

"Chúng tôi đang trong quá trình sửa sang lại cho mới,” ông ta biện giải.

Để phá tan bầu không khí đóng băng, tôi nhắc đến tên Doña Aurora cứ như đang nói về một người bạn lâu năm của gia đình

“Hồi còn trẻ bà ấy trông được mắt lắm,” đó là lời nhận xét của Molins. “Với thời gian bà ấy dần héo tàn, nhưng tôi cũng có còn được như hồi trước đâu. Chắc cậu không tin, chứ hồi bằng tuổi cậu tôi đẹp như thần Adonis. Bọn con gái cứ gọi là quỳ gối cầu xin được tôi ngó ngàng đôi chút, hoặc là được có con với tôi. Trời ạ, thế kỉ 20 này chẳng có cái quái gì cả. Tôi có thể làm gì cho cậu đây, chàng trai?”

Tôi trình bày với ông ta một câu chuyện ít nhiều hợp lý về mối liên hệ họ hàng xa xôi với gia đình Fortuny. Sau năm phút chuyện trò, Molins lê thân về cái tủ ngăn chặt kín của mình và đưa tôi địa chỉ của tay luật sư phụ trách tất tật mọi thứ liên quan đến Sophie Carax, thân mẫu của Julián.

"Để tôi xem nào... José María Requejo. Số năm mươi chín, phố León XIII. Nhưng một năm chúng tôi chỉ gửi thư cho nhau có hai lần qua một hòm thư tại bưu điện chính nằm trên tuyến Layetana.”

“Ngài có biết Señor Requejo?”

“Thi thoảng tôi cũng nói chuyện với thư kí của ông ta qua điện thoại. Thực tế là bất kỳ sự vụ nào liên quan đến ông ta đều được giải quyết qua thư, và thư ký của tôi lo chuyện đó. Nhưng hôm nay cô ấy đang ở tiệm làm tóc. Cánh luật sư giờ chẳng còn thời gian cho những cuộc đàm phán đối mặt nữa rồi. Chẳng còn người đàn ông lịch lãm nào trong cái ngành ấy nữa.”

Mà dường như cũng chẳng có địa chỉ đáng tin cậy nào còn lại nữa. Nhìn thoáng qua vào tờ chỉ dẫn địa điểm trên bàn của ông quản lý cũng đủ chứng thực điều tôi đang ngờ vực địa chỉ của cái tay có vẻ là luật sư kia, Señor Requejo, không hề tồn tại. Tôi nói điều này cho ngài Molins, ông đón nhận cái tin ấy như thể đó là một trò đùa.

“Trời, tôi ngỡ ngàng quá!” ông ta cười. “Tôi nói gì đây? Đúng là lừa đảo.”

Người quản lý duỗi lưng dựa vào ghế và lại khịt ra những tiếng khò khì nghe như ngáy.

“Liệu ngài có biết địa chỉ của hòm thư đó không?”

“Theo như trên thẻ ghi địa chỉ thì nó là số 2837, nhưng thực tình tôi không đọc nổi các con số của cô thư ký đâu. Mà tôi chắc rằng cậu cũng hiểu đấy, phụ nữ đâu có giỏi tính toán. Điều mà họ giỏi là...”

“Liệu tôi có thể xem tấm thẻ?”

“Được thôi. Xin cứ tự nhiên.”

Ông ta đưa cho tôi tấm thẻ địa chỉ, tôi liền nhìn vào. Những con số trên đó khá ngay ngắn và rõ ràng. Số hiệu hòm thư là 2321. Tôi thấy rợn người khi nghĩ đến những con số thanh toán ắt đã bay biến vào trong hòm thư ấy.

“Ngài có thường xuyên dao du với Señor Fortuny lúc ông ấy còn sinh thời không?” tôi hỏi.

“Cũng tàm tạm. Ông ấy thuộc loại khá khổ hạnh. Tôi nhớ là khi biết được bà vợ người Pháp đã bỏ rơi ông ấy, tôi có rủ ông ấy đi kiếm mấy ả bán hoa cùng vài tay bằng hữu, gần thôi, tại một trung tâm rất oách tôi được biết nằm kế bên vũ trường La Paloma. Chỉ là muốn ông ấy vui lên thôi mà. Chỉ có thế. Và cậu biết không? Ông ấy chẳng thèm nói chuyện với tôi, thậm chí chào qua lại trên phố cũng không, như thể tôi là vô hình ấy. Cậu coi đó là như thế nào?”

“Khá ngạc nhiên. Vậy ngài còn có thể cho tôi biết thêm điều gì khác về gia đình Fortuny? Ngài có còn nhớ kha khá về họ không?”

“Thời ấy khác bây giờ,” ông ta lầm rầm vẻ lưu luyến. "Thực tế thì tôi chỉ biết ông cụ Fortuny, người sáng lập ra cái tiệm mũ ấy. Còn về cậu con trai, chẳng có nhiều để nói. À, bà vợ, bà ấy quả là rất đẹp. Phụ nữ phải thế chứ. Lại cũng đoan trang nữa. Bất chấp tất thảy mọi lời đồn thổi và chuyện ngồi lê đôi mách...”

“Kiểu như tin đồn rằng chú Julían thực ra không phải con trai của ông Fortuny?”

“Cậu nghe điều đó từ đâu?”

“Thì tôi đã nói rồi, tôi cũng là họ hàng với họ mà. Chẳng điều gì giữ kín âm được.”

“Không lời đồn nào trong đó từng được minh chứng.”

“Nhưng người ta đã rỉ tai nhau như thế,” tôi nói bằng giọng khích lệ.

"Người đời nói quá nhiều. Loài người chẳng phải có gốc gác từ lũ khỉ đâu. Mà là từ bọn vẹt.”

“Vậy người ta đã nói gì?”

“Cậu có thích uống chút rượu rum không? Nó là rượu Cuba, như tất thảy những điều tốt đẹp đủ giết được ta.”

“Không cảm ơn, nhưng tôi sẽ tiếp chuyện ngài. Trong lúc đó, ngài có thể nói cho tôi biết...”

***

Antoni Fortuny, được mọi người quen gọi là người bán mũ, gặp Sophie Carax vào năm 1889 trên bậc tam cấp nhà thờ Barcelona. Anh ta đang trên đường trở về sau khi thực hiện một lời thề với Thánh Eustace - trong tất cả các thánh, Thánh Eustace được coi là vị cần mẫn và ít kiểu cách nhất trong việc ban phát phép mầu liên quan đến chuyện tình yêu. Antoni Fortuny, đã qua tuổi ba mươi và là một chàng độc thân kinh niên, đang tìm một cô vợ, anh ta muốn lấy Sophie ngay lập tức. Sophíe là một phụ nữ người Pháp hiện sống tại khu nhà trọ dành riêng cho thiếu nữ trên phố Riera Alta, cô nhận làm gia sư nhạc và dạy đàn piano cho con cái một trong những gia đình danh giá nhất Barcelona. Cô chẳng có gia đình hay tài sản để dựa vào, chỉ có tuổi trẻ và nền tảng giáo dục âm nhạc cô được nhận từ cha - vốn là nghệ sĩ piano tại một nhà hát ở Nimes - trước khi ông qua đời vì bệnh lao năm 1886. Antoni Fortuny, mặt khác, lại là người đàn ông đang trên con đường tiến đến thịnh vượng. Anh ta vừa mới thừa kế cơ sở kinh doanh của cha mình, một tiệm mũ khá có tiếng tăm nằm trên Đại Lộ San Antonio, nơi Antoni học được nghiệp kinh doanh và mơ ước rồi một ngày kia sẽ chỉ dạy cho chính con trai mình. Antoni thấy Sophie Carax mỏng manh, xinh đẹp, trẻ trung, dễ bảo, và có vẻ dễ dàng làm mẹ. Vậy là Thánh Eustace đã gia ơn. Sau bốn tháng trời Antoni kiên trì theo đuổi, Sophie đã chấp nhận lời cầu hôn của anh. Señor Molins, người vốn luôn là bạn của ông cụ Fortuny, đã cảnh báo Antoni rằng anh ta đang kết hôn với một người xa lạ. Ông nói rằng tuy Sophie có vẻ là một cô gái ngoan hiền, nhưng cuộc h nhân này có vẻ quá thuận lợi cho cô ta, và rằng Antoni nên chờ ít nhất một năm... Antoni Fortuny đáp rằng anh ta đã biết hết mọi điều cần biết về vợ chưa cưới của mình. Những điều khác còn lại, anh ta không thấy đáng quan tâm. Hai người cử hành hôn lễ tại Thánh đường Pino và dự định dành ba ngày trăng mật tại con suối khoáng thuộc khu nghỉ dưỡng ven biển Mongat gần đó. Vào buổi sáng trước khi họ lên đường, người bán mũ đã hỏi Señor Molins, một cách lén lút, để được chỉ dẫn về những bí mật chuyện phòng the. Molins châm chọc bảo anh ta đi mà hỏi vợ ấy. Đôi uyên ương quay trở lại Barcelona chỉ sau hai ngày. Hàng xóm láng giềng kể rằng Sophie đã khóc rấm rứt lúc về tới khu chung cư. Nhiều năm sau Viçenteta thề rằng đã nghe Sophie kể lại như sau: rằng người bán mũ chẳng thèm đụng đến một ngón tay lên người cô và khi cô cố quyến rũ chồng, anh ta chửi cô là đồ điếm và nói mình thấy ghê tởm trước sự tục tĩu của cái thứ cô ta đang mời gọi. Sáu tháng sau, Sophie thông báo với chồng rằng cô đang có mang. Con của một người đàn ông khác.

Antoni Fortuny đã từng chứng kiến cha mình đánh mẹ vô số lần không đếm xuể nên cũng thực hiện cái hành động anh ta cho rằng nên làm. Anh ta chỉ dừng lại khi sợ rằng chỉ bồi thêm một cú nữa thôi là giết chết vợ. Bất chấp những trận đòn, Sophie nhất quyết không khai ra danh tính cha của đứa trẻ. Dùng lý luận của mình để xem xét vấn đề, Antoni Fortuny quyết định rằng đó hẳn là ác quỷ, bởi đứa con đó là tội lỗi, mà tội lỗi thì chỉ có một người cha ác quỷ mà thôi:quỷ Satan. Đoán chắc theo suy nghĩ rằng ác quỷ đã lẻn vào nhà và chui vào giữa hai đùi vợ mình, người bán mũ bắt đầu treo thánh giá khắp mọi nơi: trên các bức tường, trên tất thảy các cánh cửa trong mọi căn phòng, cả trên trần nhà. Khi Sophie phát hiện chồng mình rải thánh giá khắp nơi trong phòng ngủ nơi cô đang bị giam hãm, Sophie dần phát hoảng, và, nước mắt ròng ròng, hỏi chồng liệu có phải anh ta đã nổi điên. Mù quáng vì điên giận, Antoni liền quay ra đánh đập vợ. “Một con điếm cũng như bao con điếm khác," anh ta chửi rủa khi ném vợ mình ra chỗ chiếu nghỉ, sau khi quất thắt lưng chán chê lên người cô. Ngày tiếp theo, khi Antoni Fortuny mở cửa căn hộ của mình để đi xuống tiệm mũ, Sophie vẫn nằm vật ở đó, máu khô bết đầy mình và run lập cập vì lạnh. Các bác sĩ không thể hoàn toàn cải thiện được những vết nứt trên tay phải cô. Sophie Carax không bao giờ còn có thể chơi piano được nữa, nhưng cô vẫn sinh ra được một bé trai mà sau này cô đặt tên Julián theo tên người cha cô đã mất của khi còn quá nhỏ - cũng như tất thảy những gì tốt đẹp trong cuộc đời cô. Fortuny đã cân nhắc việc quẳng vợ ra khỏi nhà nhưng lại sợ tiếng xấu lan truyền sẽ không tốt cho công việc kinh doanh. Sẽ chẳng ai mua mũ từ một gã đàn ông bị vợ cắm sừng - hai thứ đó không thể đi được với nhau. Kể từ ngày đó, Sophie bị tống vào một căn phòng tăm tối, lạnh lẽo tận cuối cùng căn hộ. Chính tại đó cô đã sinh con nhờ sự trợ giúp của hai người láng giềng. Mãi ba ngày sau đó Antoni mới quay về nhà. “Đứa con trai này là do Chúa đã ban cho anh,” Sophie lên tiếng. "Nếu anh muốn trừng phạt bất cứ ai, hãy giáng xuống tôi đây, xin đừng làm hại sinh linh vô tội này. Thằng bé cần một ngôi nhà và một người cha. Tội ác của tôi không phải là của thằng bé. Tôi van cầu anh hãy thương hại lấy mẹ con tôi.”

Những tháng đầu tiên thực vô cùng vất vả cho hai người. Antoni Fortuny đã giáng cấp vợ mình xuống tới mức người hầu. Họ hầu như không bao giờ chung giường hay bàn và rất hiếm khi trao đổi ngôn từ trừ khi giải quyết một số vấn đề nội trợ. Mỗi tháng một lần, thường là trùng với ngày trăng rằm, Antoni Fortuny thường xuất hiện tại cửa phòng Sophie lúc rạng đông và, chẳng nói một lời, đâm sầm vào vợ cũ của mình với sự hung hăng nhưng chẳng chút kỹ năng. Hòng tận dụng hết mức những giây phút thân mật hiếm hoi nhưng thô bạo này, Sophie nỗ lực chiếm lấy trái tim chồng bằng cách thì thầm những lời lẽ yêu thương và cố vuốt ve anh ta. Nhưng người bán mũ vốn chẳng phải loại người ưa những gì phù phiếm, nên sự háo hức ham muốn cũng bốc hơi nhanh chóng chỉ sau vài phút, thậm chí vài giây. Những cuộc chiếm đoạt ấy không đem lại đứa trẻ nào. Sau vài năm, Antoni Fortuny thôi hẳn, không bao giờ còn đến phòng ngủ của Sophie nữa và bắt đầu có thói quen đọc kinh Phúc âm cho đến tận gần sáng, tìm trong đó chút khuây khỏa cho những dày vò trong tâm hồn.

Với sự giúp đỡ của kinh Phúc âm, người bán mũ nỗ lực nhen nhóm trong mình chút trắc ẩn với đứa trẻ có đôi mắt sâu thẳm vốn thích gây trò cười về đủ mọi thứ và sáng chế ra những bóng hình tại nơi hoàn toàn chẳng có bóng nào. Nhưng bất chấp mọi nỗ lực, Antoni Fortuny vẫn không sao cảm thấy cậu bé Julián là máu thịt của mình, cũng chẳng thể nhận ra chút dáng dấp nào của mình trong thằng bé. Julián, về phần mình, cũng chẳng hề tỏ ra hứng thú với mũ mão hay trong việc học giáo lý. Trong suốt kỳ Giáng sinh cậu thường giải khuây bằng cách thay đổi vị trí những hình hài nhỏ xinh trong khung cảnh Thánh Đàn[1] và sáng tạo lại kịch bản trong đó Cậu bé Giê-su bị ba tên đạo sĩ từ phương Đông đến bắt cóc với những ý đồ hiểm ác. Cậu mau chóng mê cuồng việc vẽ tranh thiên thần mang răng sói và sáng tác những câu chuyện về lũ linh hồn đội mũ trùm đầu bỗng đâu nhảy ra từ các bức tường và ăn sạch ý tưởng của mọi người nhân lúc họ say . Theo thời gian người bán mũ đánh mất hết hy vọng trong việc dạy dỗ uốn nắn thằng bé theo chính đạo. Thằng bé chưa bao giờ là một đứa nhà Fortuny và sẽ không bao giờ. Julián kiên định rằng cậu chán ngấy trường học và về nhà với những cuốn vở đầy chật hình vẽ các loại sinh linh quái đản, những con rắn to có cánh, những tòa kiến trúc như những sinh vật sống, có thể đi lại và nuốt chửng những người đang không chút nghi ngờ. Khi ấy đã quá rõ ràng rằng những gì huyền ảo và sáng tạo là thứ hấp dẫn cậu bé hơn nhiều so với thực tại xung quanh. Trong tất thảy những thất vọng dồn chất suốt cuộc đời mình, không gì làm thương tổn Antoni Fortuny hơn đứa con trai mà quỷ dữ đã gửi đến hòng nhạo cợt anh ta.

[1. Cảnh Chúa Giê-su ra đời tại máng cỏ.]

Ở tuổi lên mười, Julián tuyên bố cậu muốn trở thành một họa sĩ, giống như Velázquez[2]. Cậu mơ ước được dấn thân vào những bức vẽ mà bậc thầy hội họa kia không thể thực hiện lúc sinh thời bởi vì, Julián chỉ ra, ngài ấy đã phải nhận vẽ quá nhiều bức chân dung mất thời giờ cho những thành viên hoàng gia vốn chậm phát triển trí não. Càng khiến cho vấn đề trầm trọng hơn, Sophie, có lẽ vì muốn làm dịu nỗi cô đơn và nhung nhớ về cha mình, đã quyết định dạy con trai chơi piano. Julián, đứa trẻ vốn yêu âm nhạc, nghệ thuật và tất thảy những thứ gì không được coi là thực tế trong thế giới con người, mau chóng lĩnh hội được những nguyên lý cơ bản của hòa âm và kết luận rằng cậu thích tự sáng tác những bản nhạc riêng của bản thân hơn là bắt chước theo sách nhạc. Khoảng thời gian đó Antoni Fortuny vẫn nghi ngờ rằng cái phần thiếu hụt trong nhận thức của thằng bé là do tác động của chế độ ăn uống, vốn bị ảnh hưởng nặng nề bởi khiếu nấu ăn Pháp của mẹ nó. Thời đó phổ biến một kiến thức rằng năng lượng thừa mứa trong thực phẩm làm từ bơ là nguyên nhân dẫn đến băng hoại đạo đức và thiếu hụt trí thông minh. Thế là Antoni cấm Sophie không bao giờ được nấu ăn với bơ nữa. Nhưng kết quả hoàn toàn không như Antoni đã đoán chờ.

[2. Diego Rodriguez de Silva y Velázquez (6/6/1599-6/8/1660): họa sĩ người Tây Ban Nha, là họa sĩ đứng đầu tại triều đình của Vua Felipe IV.]

Năm lên mười hai Julián bắt đầu mất niềm hứng thú sôi nổi đối với hội họa và Velázquez, nhưng niềm hy vọng nhen nhóm trong tim người bán mũ chẳng tồn tại được bao lâu. Julián bỏ mặc giấc mơ cọ vẽ là vì một thói tật còn nguy hại hơn nhiều. Cậu khám phá ra thư viện trên phố Carmen, thế là bất cứ khoảng thời gian nào được phép rời tiệm mũ cậu dành hết cả cho việc thăm viếng thánh địa của sách và ngấu nghiến hàng tập hàng tập tiểu thuyết, thơ ca và lịch sử. Trước ngày bước sang tuổi mười ba , cậu tuyên bố mình muốn trở thành như ai đó tên là Robert Louis Stevenson, hiển nhiên là một gã nước ngoài. Người bán mũ nhận định rằng may ra thì thằng bé sẽ trở thành một gã thợ mỏ. Vào thời điểm ấy anh tin chắc con trai mình chỉ là một đứa ngớ ngẩn.

Hằng đêm Antoni Fortuny thường quằn quại trên giường vì tức giận và bức xúc, không ngủ được lấy một chút nào. Trong sâu thẳm trái tim, Antoni yêu đứa trẻ ấy, anh ta tự nhủ mình như thế. Và mặc dù thị kia không đáng chút nào, Antoni cũng yêu cái kẻ dâm đãng đã phản bội anh ta ngay từ ngày đầu tiên. Anh ta yêu thị với tất cả tâm hồn, nhưng theo cách của mình, vốn là cách đúng đắn. Tất cả những gì Antoni cầu xin ở Chúa là hãy cho anh ta thấy rằng ba người bọn họ có thể có hạnh phúc, tốt nhất là theo cách của anh ta. Antoni van xin Ngài hãy ban một tín hiệu, một lời thầm thì, một mẩu vụn từ hiện hữu của Ngài. Chúa, với sự hiền minh vô biên, và có lẽ bị choáng ngợp bởi dòng dòng thác lũ những lời khẩn cầu rừ khắp mọi linh hồn khổ đau, đã không hồi đáp. Trong khi Antoni Fortuny đang chìm đắm trong ăn năn và ngờ vực, thì ở phía bên kia tường, Sophie từ từ héo úa, đời cô vốn đã chìm đắm trong một biển tuyệt vọng, cô độc và mặc cảm tội lỗi. Cô không yêu người đàn ông mình đang phục vụ, nhưng cô cảm thấy mình thuộc về anh ta, và cái lựa chọn bỏ chồng, ôm đứa con của anh ta đi tới một nơi khác dường như nằm ngoài tầm ý niệm của cô. Cô cay đắng nhớ về người cha thực sự của Julián, và rốt cuộc trở nên căm ghét người đó cùng tất thảy những gì người đó đại diện. Trong cơn tuyệt vọn , cô bắt đầu cãi lại Antoni Fortuny. Những lời thóa mạ và tố cáo lạnh sắc phi khắp căn hộ như dao bén, phập thẳng vào bất kỳ ai chen vào đường bay của chúng, thường thì đó là Julián. Về sau người bán mũ chẳng bao giờ nhớ nổi chính xác lý do mình đánh vợ. Anh ta chỉ nhớ được cơn điên giận và sự nhục nhã. Sau đó Antoni thường tự thề rằng chuyện này sẽ không bao giờ lặp lại nữa, rằng nếu cần thiết, anh ta sẵn lòng tự nộp mình cho giới chức trách và nhốt mình lại trong tù.

Antoni Fortuny đã chắc lòng rằng, với sự trợ giúp của Chúa, rồi anh sẽ trở thành một người đàn ông tốt hơn cha mình. Nhưng chẳng sớm thì muộn, những nắm đấm của anh ta lại một lần nữa giáng lên làn da nhạy cảm của Sophie, và với thời gian Fortuny cảm thấy nếu anh ta không thể sở hữu vợ mình như một người chồng, t anh ta sẽ làm thế như một tên bạo ngược. Theo cung cách đó, một cách thầm lặng, gia đình Fortuny mặc cho những năm tháng trôi đi, khóa kín trái tim và linh hồn mình tới mức mà, vì giữ yên lặng quá nhiều, họ quên đi những từ ngữ giúp biểu lộ cảm xúc thật sự của bản thân và từng thành viên trong gia đình dần trở thành những kẻ xa lạ chung sống dưới cùng một mái nhà, cũng như vô vàn gia đình khác trong thành phố rộng lớn này.

***

Khi tôi trở về tiệm sách thì đã quá hai rưỡi chiều. Tôi vừa bước vào, Fermín liền tặng tôi một cái nhìn châm chọc từ trên đầu thang, nơi anh chàng đang lau bóng một bô tuyển tập bốn mươi sáu cuốn Tiểu thuyết Lịch sử của Don Benito.

“Tôi thấy ai trước mắt thế này? Chúng tôi cứ nghĩ giờ cậu phải lên đường đến Tân Thế giới rồi ấy chứ, Daniel.”

"Tôi bị vướng vài chuyện trên đường đi. Cha tôi đâu rồi?”

“Vì cậu mãi chẳng thấy về, ngài ấy đã đi giao nốt mấy đơn hàng còn lại rồi. Ngài ấy dặn tôi bảo cậu là chiều nay ngài định sẽ tới Tiana để tính gía cho bộ sưu tập tư nhân của một góa phụ. Thân phụ của cậu đúng là cáo đội lốt cừu đấy nhá. Ngài ấy bảo không cần đợi ngài ấy về mà cứ đóng cửa tiệm đi.”

“Cha tôi có khó chịu không?”

Fermín lắc đầu, đoạn leo dần xuống bậc cầu thang với sự lanh lẹ của loài mèo.

“Không hề. Cha cậu là một vị thánh. Với cả, ngài ấy rất vui vì thấy cậu đang hẹn hò với một thiếu nữ.”

“Gì cơ?”

Fermín nháy mắt với tôi rồi chép môi.

“Ôi, tay quỷ nhỏ này, ra trước giờ cậu vẫn giấu tiệt nghề gì đấy! Mà gái thế nào chứ, hả? Đủ hấp dẫn để gây tắc đường. Mà lại tầng lớp thế cơ chứ. Nhìn biết ngay nàng ấy toàn theo học trường xịn, dù vậy đúng là có lửa trong mắt... Nếu Bernarda không cướp mất trái tim này, và tôi vẫn chưa kể cho cậu tất cả về cuộc hẹn hò của chúng tôi thì phải - có đầy tia lửa tóe ra từ đôi mắt ấy, tôi bảo với cậu nhé, tia lửa ấy, giống như lửa hiên hoan trong Lễ Hội Đêm Hè ấy...”

“Fermín," tôi chen lời. "Anh đang nói cái gì vậy?”

“Thì về vị hôn thê của cậu.”

“Tôi làm gì có vị hôn thê nào, Fermín.”

“À, giới trẻ các cậu giờ đây gọi họ là bất cứ thứ gì, bánh đường, hay là...”

“Fermín, anh làm ơn lên lại dây cót trong đầu được không? Anh đang nói về gì vậy?”

Fermín Romeo de Torres nhìn tôi chưng hửng.

“Để xem nào. Chiều nay, tầm một tiếng hoặc tiếng rưỡi trước, một cô nàng lộng lẫy đã ghé qua hỏi thăm cậu đấy. Cha cậu và tôi, người phục vụ cậu đây lúc ấy đang có mặt, và tôi dám đảm bảo nhé, không có lấy mảy may ngờ vực, rằng cô nàng không phải hồn ma gì sất. Tôi thậm chí còn có thể mô tả mùi thơm từ người cô nàng. Oải hương, nhưng ngọt ngào hơn. Cứ như một chiếc bánh nhân đường nhỏ xinh vừa ra khỏi lò ấy.”

“Thế chiếc bánh nhân đường nhỏ xinh ấy có bảo cô ấy là vị hôn thê của tôi không?”

“Hừm, không nhiều lời như vậy đâu, nhưng đại khái cô nàng cười bẽn lẽn, đấy là nếu cậu hiểu ý tôi, và nói rằng chiều thứ Sáu này sẽ gặp cậu. Tất cả những gì chúng tôi làm là cộng hai với hai lại thôi.”

“Bea...” tôi lầm rầm.

“Vậy là nàng ta có thực,” Femin thở phào nói.

“Phải, nhưng cô ấy không phải bạn gái tôi.”

“Hừm, nếu vậy, tôi không biết cậu còn chần gì nữa.”

“Cô ấy là em gái của Tomás Aguilar.”

“Bạn cậu, tay sáng chế?”

Tôi gật đầu.

"Lại càng thêm động lực. Dù có là cháu gái Giáo hoàng, cô nàng quá nóng bỏng. Tôi mà là cậu, tôi đã sẵn sàng rồi.”

“Bea có vị hôn phu rồi. Một tay thiếu úy đang thực hiện nghĩa vụ quân sự.”

Fermín cáu tiết thở dài. "A, quân đội, cơn tàn hại và chốn nương náu của những bản năng linh trưởng hạ đẳng nhất. Dù sao cũng hay, vì bằng cách này cậu có thể cắm sừng cho hắn mà chẳng cần phải áy náy gì.”

"Anh mê sảng rồi, Fermín. Bea sẽ kết hôn ngay khi anh chàng kia kết thúc đợt nghĩa vụ quân sự.”

Fermín cười khẩy vào mặt tôi. "Buồn cười là cậu lại nói thế, vì như tôi cảm nhận thì cô nàng không như vậy đâu. Tôi không cho rằng quả bí ngô ấy sẵn sàng chịu chui đầu vào rọ sớm thế đâu.”

“Anh thì biết gì nào?”

“Về phụ nữ và những vấn đề trần tục khác, nhiều hơn đáng kể so với cậu đấy. Freud đã nói, phụ nữ muốn những gì hoàn toàn ngược lại với điều mà họ nghĩ hoặc nói rằng họ muốn, và nếu cân nhắc đôi chút, ta sẽ thấy cái thói đó cũng chẳng tệ lắm, bởi thậm chí còn nhiều bằng chứng hơn rằng đàn ông chuyên phản ứng trái ngược, bất tuân theo mệnh lệnh của cơ quan sinh dục và tiêu hóa.”

“Đừng lên lớp tôi nữa, Fermín, tôi thấy được kiểu nói chuyện này đi tới đâu rồi. Nếu anh có gì để nói thì cứ nói luôn đi.”

“Được, vậy, nói tóm lại: không có lấy khúc xương nào của một cô vợ-ngoan-hiền-dễ-bảo trên cơ thể tuyệt trần của nàng ấy đâu.”

“Không có ư, vậy kỹng chuyên môn của anh dò được ra cô ấy có loại xương nào trong người thế?”

Fermín sán lại gần hơn, chuyển sang tông giọng cẩn mật. "Loại nồng nhiệt," anh chàng nói, nhướng đôi lông mày đượm chút sắc thái kỳ bí. "Và cậu có thể đoán chắc tôi nói như vậy với hàm nghĩa ngợi khen.”

Như thường lệ, Fermín luôn đúng. Cảm thấy bị thất thế, tôi quyết định rằng tấn công là mẫu thức tuyệt nhất của phòng thủ. "Nói đến chuyện nồng nhiệt, kể cho tôi về Bernarda xem nào. Liệu có hay không một cái hôn rồi đây?”

“Đừng lăng mạ tôi, Daniel. Nhắc lại cho cậu nhớ rằng cậu đang nói chuyện với một tay lão luyện trong nghệ thuật quyến rũ đấy, và cái trò hôn môi ấy chỉ dành cho bọn gà mờ với mấy lão già chân đi dép lê thôi. Những người phụ nữ thực sự phải được chinh phục từng chút một. Tất thảy đều thuộc phạm trù tâm lý học, như một trận thư hùng tuyệt hảo lúc đấu bò khi đấu sĩ một mình đối mặt để tiêu diệt con bò.”

“Nói cách khác, chị ấy phủi anh đi.”

“Người phụ nữ có khả năng chối từ Fermín Romeo de Torres này vẫn còn chưa ra đời đâu. Vấn đề là, đàn ông ấy, ở đây phải quay lại với Freud - và xin lỗi về phép ẩn dụ này - đàn ông, họ nóng hực lên như bóng đèn ấy: đỏ rực chỉ trong nháy mắt và lạnh ngắt trở lại trong giây lát. Phụ nữ thì khác - và so sánh này thuần túy khoa học - họ nóng dần lên như thanh sắt vậy, từ từ, với nhiệt lượng thấp, như một món hầm ngon tuyệt. Nhưng rồi, một khi đã nóng lên, chẳng gì có thể ngăn cô nàng lại. Y chang những lò luyện thép ở đỉnh Vizcaya ấy."

Tôi đánh giá cao cái lý thuyết nhiệt động học của Fermín. “Có phải đó là những gì anh đang làm với Bernarda? Nung nóng một thanh sắt?”

Fermín nháy mắt với tôi. "Người phụ nữ đó là núi lửa gần tới lúc phun trào rồi, với dòng dục tình như nham thạch nóng chảy nhưng trái tim thì lại là của thiên thần,” anh chàng nói, liếm môi. "Nếu tôi phải thiết lập một mối liên hệ song song thực sự, nàng ấy gợi nhớ về cô gái da màu quyến rũ ở Havana, người vô cùng mộ đạo và tôn thờ những vị thánh của mình. Nhưng, vì sâu thẳm trong lòng tôi là một người theo típ truyền thống không thích lợi dụng điểm y của nữ giới, nên tôi tự thỏa lòng với một nụ hôn trong sáng lên má. Tôi không việc gì phải vội, cậu hiểu chứ? Thảy những điều tuyệt vời đều phải đợi chờ. Ngoài kia có những kẻ quê mùa tưởng rằng nếu chạm được vào mông một phụ nữ và cô ta không phàn nàn thì tức là hắn câu được cô ta rồi. Bọn gà mờ. Trái tim giới nữ là mê cung những điều tinh tế khó dò, quá thách thức đối với cái đầu thô lậu của cánh đàn ông kẻ cướp. Nếu cậu thực sự muốn sỡ hữu một người phụ nữ, cậu phải suy nghĩ như nàng, và điều đầu tiên phải làm là giành được tâm hồn nàng. Còn lại thì, cái sự ấp ôm ngọt ngào mềm mại cướp đi ý thức và đức hạnh của cậu ấy, nó là phần thưởng kèm theo.”

Tôi vỗ tay vả long trọng trước bài diễn thuyết vừa nghe. "Anh đúng là một nhà thơ, Fermín."

“Không, tôi ủng hộ triết gia Ortega và tôi là người thực dụng. Thơ ca toàn nói dối, theo cái lối xấu xa đáng yêu của riêng nó, và điều tôi nói đây còn thực hơn một lát bánh mì với cà chua. Ngài triết gia đã nói đúng điều này: hãy chỉ cho tôi một gã Don Juan rồi tôi sẽ chỉ cho bạn một kẻ thất bại trá hình. Điều tôi nhắm đến là sự lâu dài, bền vững. Hãy làm chứng rằng tôi sẽ khiến Bernarda trở thành nếu không phải một phụ nữ trung thực, bởi nàng vốn đã như vậy rồi, thì cũng là một phụ nữ hạnh phúc.”

Tôi gật đầu cười. Nhiệt tình của anh chàng quả là đầy sức lây truyền, và cách chọn từ ngữ đã tiến bộ vượt bậc. "Hãy chăm sóc chị ấy, Fermín. Hãy làm thế vì tôi. Bernarda có trái tim vàng, và chị ấy đã phải chịu quá nhiều thất vọng rồi.”

“Cậu nghĩ tôi không nhìn ra điều đó sao? Nó được viết cả lên mặt cô ấy, như một con dấu của cộng đồng góa phụ vì chiến tranh. Tin tôi đi: Trong mấy chuyện này tôi kinh nghiệm đầy mình. Tôi sẽ khiến người phụ nữ này hạnh phúc vô bờ bến dẫu cho đó là điều cuối cùng tôi từng làm trên thế gian này.”

“Tôi có lời đảm bảo của anh rồi đấy chứ?”

Anh chàng dang tay với phong thái điềm tĩnh của một hiệp sĩ dòng Đền. Tôi nắm lấy bàn tay ấy.

“Phải, lời đảm bảo của Fermín Romeo de Torres.

***

HÔM ĐÓ SÁCH BÁN ŔT CḤM, gần như chỉ có vài ba người lùng sách. Thấy tình hình như vậy, tôi gợi ý Fermín nghỉ cho hết ngày.

“Đi đi, đi kiếm Bernarda rồi đưa chị ấy tới rạp chiếu phim hay đi ngắm hàng trưng bày trên phố Puertaferrissa, tay trong tay nhé, chị ấy thích như thế lắm.”

Fermín không ngần ngại nhận lời đề nghị của tôi rồi vội vã lao vào phòng trong đặng chải chuốt vẻ ngoải, trong ấy anh chàng để sẵn đống quần áo để thay và đủ loại nước hoa cũng như kem thoa nhét trong túi nhỏ cá nhân dễ thường khiến cả Veronica Lake cũng phải ghen tị. Khi xuất hiện, trông Fermín chẳng khác gì siêu sao điện ảnh, có điều phải nhẹ dễ hơn cả ba chục kí. Anh chàng bận bộ com lê vốn là của cha tôi cùng một cái mũ phớt quá khổ dễ đến vài cỡ, vấn đề được anh chàng giải quyết bằng cách nhét mấy cuộn giấy báo trong vành mũ.

“À này, Fermín. Trước khi anh đi... tôi muốn nhờ anh một việc.”

“Đừng nói gì nữa. Cậu cứ ra lệnh. Tôi đã sẵn sàng rồi.”

“Tôi muốn anh giữ điều này là bí mật giữa hai chúng ta, OK? Không một lời với cha tôi.”

Fermín cười rạng rỡ. "A, cậu chàng tinh quái tính làm gì với cô nàng đó, phải không?”

"Không. Chỉ là vấn đề đáng tò mò thôi. Chuyên môn của anh đấy.”

“Hừm, tôi cũng biết nhiều về các cô gái. Tôi bảo cậu thế là bởi nếu có bất cứ thắc mắc về kỹ thuật thì cậu biết hỏi ai rồi đấy. Đảm bảo riêng tư. Gặp những vấn đề như thế thì tôi chẳng kém gì bác sĩ cả. Không cần phải cả thẹn”

“Tôi sẽ nhớ điều đó. Giờ điều tôi muốn biết ai là người sỡ hữu hòm thư trước bưu điện chính trên Đại lộ Via Layetana. Số hiệu 2321. Và, nếu có thể, ai ra đó thu nhập thư từ hằng ngày. Anh nghĩ xem có giúp được tôi một tay không?

Fermín dùng bút bi viết lại số hiệu lên lòng bàn chân mình, dưới lớp tất.

"Dễ ợt. Tất thảy các cơ quan chính quyền đều không cưỡng lại nổi tôi đâu. Cho tôi vài ngày rồi tôi sẽ cung cấp thông báo đầy đủ cho cậu.”

“Đồng ý là không nói gì với cha tôi chứ”

“Đừng lo. Tôi sẽ im lặng như tượng Nhân sư.”

“Tôi thực cảm tạ. Giờ thì đi đi, mau lên, hãy có những giây phút đẹp đẽ nhé.”

Tôi nói lời tạm biệt với lối chào quân đội và nhìn anh chàng ra đi hớn hở như một chú trống đang trên đường đến chuồng gà mái.

Fermín vừa mới đi được hơn năm phút thì tôi nghe tiếng chuông leng keng ở cửa ra vào bèn ngẩng đầu lên khỏi những cột số và dấu má. Một người đàn ông vừa bước vào, giấu mình đằng sau chiếc áo mưa xám và mũ phớt. Gã ta có bộ râu con kiến và đôi mắt xanh vô cảm. Gã ta cười như một tay bán hàng lưu động, một nụ cười gượng gạo. Tôi thấy tiếc vì Fermín không ở đây lúc này, bởi anh chàng là chuyên gia trong việc đuổi khéo những tay hàng rong bán long não kèm những thứ rác rưởi khác mỗi khi bọn họ luồn được vào cửa tiệm, Vị khách vừa vào nở nụ cười ngọt xớt với tôi, hờ hững cầm một cuốn sách từ chồng xếp cạnh cửa ra vào đang chờ được sắp xếp và định giá. Mọi thứ ở gã đều truyền đạt thái độ khinh khỉnh với thảy những điều gã thấy. Ông thậm chí không định bán cho tôi một "buổi chiều tốt lành”, tôi nghĩ.

“Nhiều chữ quá ha?”gã nói.

“Đó là sách mà; chúng thường có kha khá chữ bên trong. Tôi có thể làm gì cho ngài không?”

Gã đàn ông đặt cuốn sách trở lại chồng, lạnh nhạt gật đầu và làm ngơ câu hỏi của tôi. "Ta nói việc đọc là dành cho mấy kẻ dư quá nhiều thời gian và chẳng có gì làm. Như đàn bà ấy. Những người như chúng ta phải làm việc, thì giờ đâu cho mấy trò kiểu cách. Chúng ta quá bận rộn mưu sinhi. Cậu có đồng ý không?”

“Đó chỉ là một quan điếm. Ngài có phải đang tìm kiếm thứ gì đó cụ thể chăng?”

“Đó không phải một quan điểm. Đó là sự thật. Đó chính là vấn đề với cái đất nước này: người ta không muốn làm việc. Có quá nhiều kẻ lang thang vô công rồi nghề khắp nơi. Cậu có đồng ý không?”

“Tôi chịu thôi, thưa ngài. Có lẽ. Ở đây, ngài thấy đó, chúng tôi chỉ bán sách.”

Gã đàn ông tiến về phía quầy tính tiền, mắt đảo quanh khắp tiệm, đôi lúc dừng lại nhìn tôi. Vẻ ngoài và phong thái của gã dường như mơ hồ quen thuộc, dù tôi không thể nói tại sao. Điều gì đó ở gã gợi tôi nhớ đến những nhân vật vẽ trong các bộ bài kiểu xưa hay đại loại gì đó hay được cánh bói toán sử dụng, một bản in lấy thẳng ra từ những trang trong một cuốn sách cổ trước thế kỉ 15[3]: sự tồn tại của gã vừa buồn thảm vừa nhức nhối, như một lời nguyền khoác bộ cánh đẹp nhất ngày Chủ nhật.

[3. Nguyên gốc: Incunabulum (hoặc Incunable), một loại sách cổ được in - chứ không phải viết tay - trước năm 1501 tại Châu u.]

“Nếu ngài nói cho tôi biết tôi có thể làm gì cho ngài.”

“Thực ra thì ta là kẻ được cử đến để phục vụ cậu. Cậu có phải chủ sở hữu cơ ngơi này?”

“Không. Ông chủ là cha tôi.”

“Và tên ngài là?”

“Tên tôi hay tên cha tôi?”

Gã đàn ông lộ ra một nụ cười nhạo cợt. Một tiếng khúc khích, tôi nghĩ.

“Vậy ta hiểu rằng dòng chữ trên biển đề Sempere và con trai dùng cho cả hai cha con nhà cậu nhỉ?”

“Ngài thực khéo chú ý. tôi có thể hỏi lý do chuyến viếng thăm này, nếu ngài không hứng thú với sách?”

"Lý do cho sự viếng thăm của ta, coi như lễ chào xã giao đi nếu cậu thích, là để cảnh báo cậu. Ta để ý rằng việc làm ăn của nhà cậu có dính đến những nhân cách chẳng ra gì, đặc biệt là loại đồng tính và dây dưa với tội ác.”

Tôi ngỡ ngàng nhìn gã. "Xin lỗi?”

Gả đàn ông đóng cái nhìn lên tôi qua đôi mắt. “Ta đang nhắc đến bọn đồng tính và trộm cắp. Đừng có nói rằng cậu không biết ta đang nói về đề gì.”

“Tôi e mình chẳng có lấy chút ý niệm nhỏ nhất nào, cũng như tôi chẳng mảy may hứng thú nghe ngài nói lâu hơn nữa.”

Gã đàn ông gật đầu với vẻ đầy thù địch và hung hãn. "Nếu vậy cậu phải chịu đựng ta thôi. Ta đồ chừng cậu biết về những hoạt động của gã công dân Federico Faviá.”

“Don Federico là thợ đồng hồ tại khu này, một người xuất chúng. Tôi vô cùng ngờ rằng ông ấy sao có thể là tội phạm."

“Ta đang nói về bọn đồng tính. Ta có chứng cớ chỉ ra rằng lão biến thái đó thường ghé qua tiệm này, đoán chừng là để mua mấy cuốn tiểu thuyết lãng mạng vớ vẩn và văn hóa phẩm khiêu dâm.”

“Liệu tôi có thể hỏi sự vụ của ngài ở đây là gì?”

Gã đáp lời bằng cách rút ví đặt lên quầy thanh toán. Tôi nhận ra tấm thẻ cảnh sát cáu bẩn với hình gã bên trên, trông trẻ hơn đôi chút. Tôi đọc tới chỗ dòng chữ in “Thanh tra Trưởng Francisco Javier Fumero”.

“Hãy nói chuyện lễ phép với ta, nhóc ạ, không thì cả cậu và cha cậu đều gặp rắc rối vì bán mấy thứ rác rưởi đấy. Nghe rồi chứ?”

Tôi muốn đáp lại, nhưng từ ngữ cứ đông cứng lại trên môi.

“Dù sao lão đồng tính không phải kẻ ta đến đây ngày hôm nay. Sớm muộn lão ấy cũng sẽ phải vào đồn cảnh sát, như hết thảy cánh đồng loại với lão, và ta đảm bảo sẽ cho lão nhận được một bài học. Điều khiến ta lo lắng là, theo như nguồn tin của ta, nhà cậu đang thuê một thằng trộm có nhiều tiền án, loại tởm lợm nhất trong tất cả những loại tệ hại."

“Tôi không hiểu ngài đang nói gì, ngài Thanh tra.”

Fumero rúc rích cái điệu cười nhơ nhớp đê tiện cuả gã.

“Chúa mới biết giờ thằng đó dùng cái tên gì. Nhiều năm trước nó tự gọi mình là Wilfredo Camagũey, Vua Mambo, nó còn khoe mình là một tay phù phép điêu luyện, giảng viên khiêu vũ cho người thừa tự của hoàng gia Bourbon và là người tình của Mata Hari[4]. Những lần khác thì nó lấy tên các vị đại sứ, đủ loại nghệ sĩ hoặc đấu sĩ. Tới giờ bọn ta chẳng thể đếm nổi là bao nhiêu lần rồi.”

[4. Mata Hari là nghệ danh của Margaretha Geertruida (1876-1917), một vũ nữ người Hà Lan. Bà làm điệp viên nhị trùng cho các đế quốc Pháp và Đức trong Thế chiến thứ nhất. Mata Hari bị Pháp xử bắn vì tội gián điệp năm 1917.]

“Tôi e là tôi không thể giúp ngài được đâu. Tôi chẳng biết ai tên là Wilfredo Camagũey cả.”

“Ta đoán chắc là cậu không biết, nhưng cậu biết ta đang nói đến ai mà, đúng không?”

“Không.”

Fumero cười lần nữa, cái điệu cười gượng ép, giả tạo như tóm gọn hắn lại trong vài dòng quảng cáo in trên tờ bọc sách. "Cậu thích làm mọi chuyện phức tạp hơn phải không? Này, ta tới đây với tư cách bạn bè, để cảnh báo cậu rằng bất cứ ai dính dáng đến cái kẻ bại hoại nhân cách như thằng đó rốt cuộc đều trầy trụa hết cả, thế mà cậu lại cư xử như thể ta là kẻ nói dối.”

“Không hề. Tôi cảm kích trước chuyến viếng thăm và lời cảnh cáo của ngài, nhưng tôi dám đảm bảo với ngài rằng không hề có...”

“Đừng có nói tào lao với tao,ởi tao mà thấy thích, tao sẽ đập mày nhừ tử và nhốt mày trong tù, nghe rõ chưa? Nhưng hôm nay tao đang thoải mái, nên tao chỉ cảnh báo mày thế thôi. Mày cứ tùy ý mà lựa chọn bằng hữu. Nếu mày thích bọn đồng tính với phường trộm cướp, ắt trong mày cũng chứa đôi phần của cả hai cái ngữ ấy. Mọi thứ đều phải rõ ràng một khi tao đã để tâm đến. Hoặc mày theo tao hoặc đối đầu với tao. Đời là vậy. Đơn giản thế thôi. Thế mày định thế nào?”

Tôi không đáp gì, Fumero gật đầu, rúc rích thêm tiếng cười khác.

“Được lắm, Señor Sempere. Chính mày chọn đấy nhé. Không phải một khởi đầu tốt giữa hai chúng ta. Nếu mày muốn rắc rối, mày sẽ có ngay. Đời đâu phải tiểu thuyết, mày thừa biết. Ở đời mày phải chọn phe. Mà rõ ràng là mày đã quyết phe nào. Phe của bọn trì độn, phe thảm hại.”

“Tôi định bụng mời ngài ra khỏi đây, thưa ngài.”

Gã quay trở lại về phía cửa, theo sau là tiếng cười đầy ẩn ý. "Chúng ta sẽ còn gặp lại. Và bảo bạn mày là Thanh tra Fumero vẫn đang trông chừng nó đấy, gửi tới nó lời hỏi thăm tốt đẹp nhất của tao.”

Cuộc viếng thăm của gã thanh tra và âm vang những lời hắn nói làm tàn hại cả buổi chiều của tôi. Sau mười lăm phút cuống quýt tới lui sau quầy tính tiền, dạ dày tôi như quặn lại thành gút, tôi quyết định đóng cửa tiệm sách sớm hơn thường lệ và ra ngoài đi dạo. Tôi loanh quanh vô chủ đích, không tài nào rũ bỏ khỏi tâm trí những lời ám chỉ và dọa nạt từ tên vô lại hiểm ác kia. Tôi phân vân liệu mình có nên cảnh báo cha và Fermín về cuộc thăm hỏi vừa rồi, nhưng tôi đoán chắc đó hẳn chính là chủ đích của Fumero: hòng gieo ngờ vực, thống khổ, sợ hãi và bất an trong lòng chúng tôi. Tôi quyết định không chơi trò của hắn. Mặt khác, những lời hắn ám chỉ về quá khứ của Fermín khiến tôi giật mình. Tôi tự thấy xấu hổ khi phát hiện ra rằng, trong chốc lát, tôi đã tin những lời của gã cớm. Rốt cuộc, sau nhiều cân nhắc, tôi quyết định trục xuất hoàn toàn vấn đề khỏi đầu óc.

Trên đường về, tôi đi qua tiệm đồng hồ. Don Federico đang ở sau quầy tính tiền liền chào tôi, ra hiệu bảo tôi vào. Ông thợ đồng hồ là một người nhã nhặn, luôn tươi cười và chẳng bao giờ quên ngày sinh của ai, là kiểu người ta luôn có thể đến cầu cứu với một song đề nhức óc, thầ rằng bác sẽ chỉ ra được lối thoát. Tôi không khỏi rùng mình trước cái ý nghĩ tên bác nằm trong danh sách đen cuả Thanh Tra Fumero, tự phân vân liệu mình có nên cảnh báo bác về điều đó, dù tôi không sao mường tượng được sẽ cảnh báo thế nào sao cho không bị vướng vào những vấn đề vốn chẳng phải chuyện của tôi. Cảm thấy bối rối hơn lúc nào hết, tôi bước vào cửa tiệm và cười với bác.

“Cháu thế nào, Daniel? Cái mặt đó là sao?”

“Một ngày không trôi chảy," tôi nói. "Mọi việc thế nào, Don Federico?"

“Trơn như lụa. Giờ chẳng ai còn làm đồng hồ tốt như hồi xưa nữa rồi, nên bác có ối việc để làm. Nếu cứ đà này, chắc bác phải thuê một phụ tá. Bạn cháu, nhà sáng chế ấy, có hứng thú không? Chắc cậu ấy phải giỏi mấy chuyện thế này lắm.”

Chẳng khó khăn gì để tưởng tượng ra phản ứng của cha Tomás khi ông nghĩ về chuyện con trai mình nhận việc tại cơ sở của ông bạn hàng xóm đồng tính chính hiệu. "Cháu sẽ bảo cậu ấy xem.”

“Tiện đây, Daniel, bác có cái đồng hồ báo thức mà cha cháu mang tới độ hai tuần trước. Bác không biết ông ấy đã làm gì với nó, nhưng tốt hơn là nên mua hẳn một cái mới thay vì sửa.”

Tôi nhớ ra rằng thi thoảng, vào những đêm hè bức bối, cha tôi hay ra ngủ ngoài ban công.

“Có lẽ nó bị rơi xuống phố,” tôi nói.

“Thế là đủ hiểu. Nhắc cha cháu bảo bác xem nên làm gì với nó nhé. Bác có thể kiếm một chiếc hiệu Radiant cho ông ấy với giá phải chăng. Đây, cháu cầm cái đồng hồ này về nếu muốn, và bảo ông ấy thử dùng xem. Ông ấy mà thích thỉ trả tiền sau cũng được. Nếu không cứ việc đem trả lại.”

“Cảm ơn rất nhiều, Don Federico.”

Người thợ đồng hồ bắt đầu bọc lại cái sản phẩm kỳ dị vừa nhắc

“Kỹ thuật tân tiến nhất đấy,” bác nói. "Mà, bác thích cuốn sách mà hôm nọ Fermín bán cho bác. Nó là của Graham Greene. Cái cậu Fermín đó đúng là một chàng làm công xuất chúng.”

Tôi gật đầu. "Vâng, anh chàng đó đáng giá số vàng nặng gấp đôi trọng lượng của mình.”

“Bác để ý cậu ấy chẳng bao giờ đeo đồng hồ. Bảo cậu ấy đến đây rồi chúng ta sẽ chọn lấy cho cậu ấy một cái.”

“Cháu sẽ bảo. Cảm ơn nhiều, Don Federico.”

Khi đưa tôi chiếc đồng hồ báo thức, người thợ đồng hồ tỉ mỉ quan sát đoạn nhướng mày. "Cháu có chắc không có vấn đề gì không đấy, Daniel? Chỉ là một ngày không tốt thôi sao?”

Tôi gật đầu lần nữa rồi cười. "Chẳng có vấn đề gì đâu, Don Federico. Bảo trọng nhé.”

“Cháu cũng vậy, Daniel.”

Khi về nhà, tôi thấy cha đang ngủ gục trên sofa, tờ báo phủ lên ngực. Tôi đặt chiếc đồng hồ lên bàn với một tờ giấy ghi rằng: "Don Federico khuyên nên tống khứ cái cũ đi." Sau đó tôi lẳng lặng về phòng mình. Tôi nằm trên giường trong bóng tối và thiếp ngủ trong lúc nghĩ ngợi về tay thanh tra, Fermín, và ông làm đồng hồ. Khi tôi thức dậy lần nữa thì đã hai giờ sáng. Tôi dòm ra ngoài hành lang thì thấy cha tôi đã rời về phòng ngủ với chiếc đồng hồ báo thức mới. Căn hộ của chúng tôi giờ ngập những bóng đen, và thế giới dường như thành một nơi u ám cũng như hiểm ác hơn so với chỉ một đêm trước đây. Tôi nhận ra rằng, trên thực tế, tôi chưa bao giờ thực sự tin rằng Thanh tra Fumero có tồn tại. Tôi đi vào bếp, rót cho mình một cốc sữa lạnh, và tự hỏi liệu Fermín có đang an toàn vô sự trong căn hộ thuê của anh không.

Trên đường về phòng ngủ, tôi cố xua đuổi hình ảnh tay cớm kia khỏi tâm trí. Tôi cố thiếp đi trở lại nhưng nhận ra rằng việc đó không thể. Tôi bật đèn lên và quyết định kiểm tra phong bì gửi tới Julián Carax mà tôi đã thó được từ Doña Aurora sáng nọ, nó vẫn nằm yên trong túi áo vét. Tôi đặt nó lên bàn, dưới luồng sáng của đè sách. Đó là một tấm giấy da tạo hình phong bì, với bốn góc răng cưa ngả vàng xỉn, bề mặt chạm vào sờn nhám như đất sét. Dấu bưu điện, chỉ là một vệt mờ, in “ngày 18 tháng 10 năm 1919”. Phần dấu sáp phong kín đã bong mất, rất có khả năng nhờ sự can thiệp của bên thứ ba là Doña Aurora. Tại chỗ trước kia là dấu sáp chỉ còn một vệt đỏ bầm, như dấu son môi từng hôn lên nếp gấp phong bì tại nơi địa chỉ hồi đáp được điền lên.

Penélope Aldaya

số 32 Đại lộ Tibidabo, Barcelona

Tôi mở phong bì và rút lá thư ra, một tờ giấy màu đất sơn được gấp đôi gọn gàng. Nét chữ, với màu mực xanh dương run rẩy lướt trên mặt giấy, chầm chậm lọt dần đi cho đến khi phục hồi được nét mãnh liệt sau mỗi vài từ. Mọi điều trên trang thư đều toát lên thần thái một thời đại khác: những nét bút lệ thuộc vào mực viết, những chữ cào trên lớp giấy dày bởi đầu ngòi bút nhọn, cảm giác sần ráp của mặt giấy. Tôi trải lá thư lên trên bàn mà đọc, nín thở.

Julián thương yêu:

Sáng nay em được biết qua Jorge rằng chàng đã rời Barcelona nhằm đeo đuổi những mộng ước của mình. Em luôn sợ rằng những mộng ước đó sẽ không bao giờ cho phép chàng trở thành của em, hoặc của bất kỳ ai khác. Em muốn được ngắm chàng thêm lần cuối, để có thể nhìn vào đôi mắt chàng và thốt lên những điều em không tài nào biết sao có thể nói được qua thư. Không gì thành được như hai ta đã dự định. Em biết chàng quá rõ, và em biết rằng chàng sẽ chẳng viết cho em đâu, rằng chàng thậm chí cũng chẳng cho em địa chỉ của chàng, rằng chàng sẽ muốn trở thành ai đó khác. Em biết chàng sẽ hận ghét em vì không thể tới đó như em đã hứa. Rằng chàng sẽ nghĩ em đã dối lừa chàng. Rằng em không có đủ dũng cảm.

Em vẫn hình dung chàng biết bao lần, một mình trên chuyến tàu đó, đoán chắc rằng em đã phản bội chàng. Đã bao lần em cố tìm kiếm chàng qua Miquel, nhưng anh ta bảo chàng chẳng hề muốn dính dáng gì đến em nữa. Họ đã cho chàng những lời dối trá gì vậy, Julián? Họ đã nói gì về em? Sao chàng lại tin bọn họ?

Giờ em biết em đã mất chàng. Em đã mất tất thảy. Dẫu sao, em không thể mặc chàng ra đi mãi mãi và để chàng lãng quên em mà không báo chàng biết rằng em không hận chàng chút nào đâu, và em biết ngay từ đầu, em biết rằng em sẽ mất chàng và em trong mắt chàng sẽ chẳng bao giờ như chàng trong mắt em. Em muốn chàng biết rằng em yêu chàng từ ngày đầu tiên đó và vẫn yêu chàng, giờ đây càng yêu hơn bao giờ hết, dẫu chàng không hề muốn vậy.

Em đang lén viết thư cho chàng, chẳng ai hay biết. Jorge đã thề rằng nếu gặp chàng lần nữa, anh ấy sẽ giết chàng. Em chẳng còn được phép ra khỏi nhà nữa rồi, còn chẳng được phép nhìn ra ngoài cửa sổ. Em không tin rằng rồi về sau họ sẽ tha thứ cho em. Một người em tin tưởng đã hứa sẽ gửi lá thư này cho chàng. Em sẽ không nhắc đến tên người đó để không gây nguy hiểm cho người đó. Em không biết liệu những lời này của em liệu có thể đến tay chàng. Nhưng nếu có, và nếu chàng quyết định quay trở lại đón em tại nơi đây, em biết chàng sẽ tìm ra cách. Khi viết những dòng này, em hình dung chàng trên chuyến tàu đó, đầy những mơ ước cùng với một tâm hồn tan vỡ bởi sự bội phản, tránh xa khỏi tất thảy chúng em và chính bản thân chàng. Có biết bao điều em không thể nói với chàng, Julián. Những điều hai ta chẳng bao giờ biết và tốt hơn là chàng đừng bao giờ nên biết.

Tất thảy những gì em mong ước là cho chàng được hạnh phúc, Julián, rằng mọi điều chàng khát khao đạt được đều thành sự thực, và rằng, dù cho rồi sau đây chàng có thể quên em, một ngày nào đó rốt cuộc chàng sẽ hiểu em yêu chàng nhường nào.

Mãi yêu,

Penélope
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 17


NHỮNG LỜI CỦA PENÉLOPE ALDAYA, mà đêm đó tôi đã đọc đi đọc lại tới khi nằm lòng, đã phủi sang bên toàn bộ cái cảm giác đắng gắt mà cuộc viếng thăm của Thanh tra Fumero để lại. Bình minh lên, sau khi dành thâu đêm thức trắng, mải mê với lá thư và giọng nói cảm nhận được sau những ngôn từ, tôi rời khỏi nhà. Tôi lặng lẽ mặc đồ và để lại cho cha một lời nhắn đặt trên tủ đồ ở hành lang, trong đó nói tôi có vài việc vặt cần phải lo và sẽ về tiệm sách lúc chín rưỡi. Khi tôi bước ra cửa chính, đôi chỗ vũng nước do cơn mưa phùn đêm qua còn đọng lại trên phố phản chiếu những bóng thẫm xanh mờ của sớm mai. Tôi cài khuy áo vét, đọan dấn bước về phía Quảng trường Cataluna. Những bậc tam cấp từ phía ga tàu điện ngầm dẫn lên bốc ra một luồng xoáy khí ấm. Tại phòng bán vé của công ty Đường sắt xứ Catalan, tôi mua một vé hạng ba tới ga Tibidabo. Tôi lên ngồi trong toa tàu chật ních những gã nhân viên văn phòng, các chị hầu gái và cánh công nhân ban ngày tay giữ những miếng sandwich to cỡ cục gạch gói trong giấy báo. Náu mình trong bóng tối dưới những hầm ngầm, tôi tựa đầu lên cửa sổ, trong khi con tàu lướt qua những nơi sâu tận cùng dưới thành phố và hướng về phía chân núi Tibidabo, ngọn núi trùm bóng lên toàn Barcelona. Khi xuất hiện trở lại giữa những con phố, tôi cứ như thể đang thám hiểm một nơi hoàn toàn xa lạ. Bình minh dần tàn, một dải sáng máu tía sắc gọn như lưỡi kiếm chém qua những đám mây, vẩy sắc tím trùm lên mặt tiền những ngôi biệt thự và tòa nhà oai vệ viền hai bên Đại lộ Tibidabo. Một chiếc xe điện màu xanh lười nhác bò ngược lên dốc trong sương mù. Tôi vội càng chạy theo chiếc xe điện và trèo lên vừa kịp qua cái bục chòi ra ở cuối xe, người bán vé ngước lên nhìn tỏ vẻ không vừa ý. Toa xe bằng gỗ gần như hoàn toàn trống khách. Hai ông thầy dòng và một bà để tang có làn da tái mét đang gà gật, nửa tỉnh nửa mê, theo nhịp rung lắc của toa xe.

“Cháu chỉ đi tới số 32 thôi ạ,” tôi nói với người bán vé, đoạn nhe ra nụ cười thân thiện nhất của mình.

“Cậu có đi tới tận Mũi Hảo Vọng tôi cũng chả quan tâm,” ông ta hờ hững đáp. “Ngay cả các ngài chiến binh của Chúa đây cũng phải trả tiền vé. Vẩy tiền ra không thì miễn qua. Riêng việc tôi ứng khẩu thành vần thì miễn phí cho cậu.”

Mang xăng đan và áo choàng vải bố khổ hạnh của dòng thánh Francis, hai ông thầy dòng gật gật, trưng ra hai tấm vé hòng nhằm chứng minh quan điểm của người bán vé.

“Vậy cháu sẽ xuống,” tôi nói. "Vì cháu chẳng có đủ tiền.”

“Tùy ý cậu. Nhưng hãy đợi tới trạm sau. Tôi không muốn có tai nạn nào xảy ra trong phiên trực của mình đâu.”

Chiếc xe điện leo dốc với tốc độ cuốc bộ của người thường, ôm ấp những bóng hình cây ći, liếc ngang qua các bức tường cũng như vườn tược của những tòa biệt thự nguy nga như lâu đài mà tôi mường tượng rằng choán đầy nào tượng nào đài phun nước, chuồng ngựa hay nhà nguyện bí mật. Tôi nhìn ra từ một bên cửa hậu của toa xe điện và chú ý thấy tòa Nhà Nguyện Trắng hiện bóng giữa những tán cây. Khi tới gần góc giao với phố Román Macaya, xe chậm lại tới khi tiến sát ngay cạnh một trạm dừng. Bác tài xế rung chuông và người bán vé ném cho tôi một cái nhìn sắc lạnh. "Đi đi, đồ lỏi ranh. Cậu tới rồi đó, số 32 ở ngay kia kìa.”

Tôi xuống xe và nghe tiếng lenh keng vẳng lại của chiếc xe điện xanh dương khi nó mất hút vào sương mù. Dinh thự nhà Aldaya nằm tại nơi đối diện của con phố, được bảo vệ bởi một cánh cổng sắt lớn dệt kín dây thường xuân và lá khô. Cố định giữa những thanh sắt dọc, hầu như dễ bị bỏ qua, là một cánh cửa nhỏ khóa kín. Phía trên cổng là số 32, bằng thép uốn thành hình những con rắn đen tuyền. Đứng từ đây tôi cố nhòm vào trong dinh cơ nhưng chỉ loáng thoáng thấy những đường uốn và góc cạnh của một tòa tháp tối om. Một lằn gỉ sét chạy dài từ lỗ khóa trên cánh cửa nhỏ. Tôi quỳ xuống cố nhìn sao cho rõ hơn vào sân trong từ vị trí đó. Tất cả những gì tôi thấy được là một mớ cỏ dại và đường nét của thứ gì đó tựa như đài phun nước hoặc hồ nước mà từ đó xuất hiện một bàn tay duỗi ra, chỉ thằng lên trời. Tôi mất vài giây mới nhận ra đó là một bàn tay bằng đá và ngoài ra còn có cả những tay chân và hình thù khác nữa mà tôi khó lòng nhìn ra nổi cũng bị dầm trong đài phun nước. Xa hơn nữa, phủ kín dưới lớp cỏ rêu, tôi thấy một cái cầu thang đá, vỡ nát và kín đặc gạch vụn cũng như lá khô. Vinh quang và thịnh vượng của nhà Aldaya đã héo úa từ rất lâu trước đây rồi. Nơi này giờ là nghĩa địa.

Tôi bước ra sau vài bước và rẽ ở góc để nhìn về phía Nam tòa nhà. Từ đây có thể nhìn thấy rõ hơn một trong những tháp của dinh thự này. Ngay khi ấy tôi chú ý thấy bóng dáng một người ở đằng xa trong tầm nhìn của mình, một người đàn ông hốc hác trong chiếc quần yếm xanh đang khua cây chổi lớn dùng để tấn công lá khô rải rác trên vỉa hè. Ông ta nhìn tôi đôi chút ngờ hoặc, tôi đồ rằng ông ta hẳn là người coi nhà cho một trong các nhà hàng xóm quanh đây. Tôi khoe ra điệu cười mà một người đã tốn hàng giờ sau quầy tính tiền có thể khoe ra.

“Chào buổi sáng,” tôi ngân giọng ra vẻ thân mật. “Bác liệu có biết nhà Aldaya đã rời bỏ nơi đây được bao lâu không

Ông ta nhìn như thể tôi vừa thắc mắc về giới tính của các thiên thần. Người đàn ông nhỏ thó đưa tay lên cằm, những ngón tay vàng khè bộc lộ rằng ông vốn thích loại thuốc lá không đầu lọc rẻ tiền hiệu Celtas. Tôi thấy tiếc rằng mình không mang theo một bao để tranh thủ lòng tin của ông ta. Tôi lục trong túi áo vét xem có thể tìm ra thứ gì để mời chăng.

“Ít nhất là hai mươi hai lăm năm trước rồi, hãy hy vọng là nó sẽ còn tiếp tục như vậy,” người coi nhà đáp bằng giọng nói tẻ nhạt, cam chịu của những kẻ đã chịu nhiều vùi dập đến độ đành cam phận nô bộc.

“Bác đã ở đây lâu chưa ạ?”

Người đàn ông gật đầu. "Ông đây đã được gia đình nhà Miravell thuê từ năm 1920.”

“Liệu bác có biết chút gì về việc đã xảy ra với gia đình nhà Aldaya không ạ?”

“Hừm, cậu biết đấy, hồi thời Cộng hòa họ mất mọi thứ,” ông ta nói. "Cái gã gây rối đó... Tôi chỉ nghe được chút ít từ nhà Miravell thôi - họ từng là bạn với nhà Aldaya. Hình như tay con cả, Jorge, đã xuất ngoại rồi, tới Argentina. Nghe đâu họ có nhà máy ở đó. Họ giàu lắm. Họ luôn hồi phục được. Cậu liệu có thuốc lá ở đó không vậy?"

“Cháu xin lỗi, nhưng cháu chỉ có kẹo Sugus – người ta đều biết trong thành phần kẹo này chứa nhiều nicotine không kém loại xì gà hiệu Montecristo, và cả vô số vitamin nữa.”

Người coi nhà nhíu mày vẻ khó tin, nhưng vẫn chấp nhận. Tôi mời ông ta kẹo chanh Sugus mà Fermín cho tôi dễ đến cả thập kỷ trước, cái kẹo tôi tìm được trong túi áo, lẫn trong lần vải áo. Tôi hy vọng nó không dậy mùi.

“Ngon đấy,” người coi nhà thốt lên, mút mát chiếc kẹo dẻo.

“Bác đang nhai niềm tự hào của ngành công nghiệp bánh kẹo trên cả nước đấy. Ngài Tổng Tư Lệnh thường nhai cả nắm kẹo loại này, như nhai quả hạnh ướp đường ấy. Cho cháu biết đi, liệu bác đã từng nghe về con gái nhà Aldaya, tên cô ấy là Penélope?”

Người coi nhà nghiêng người tựa vào chổi, kiểu cách cứ như bức tượng Người tư duy của Rodin.

“Tôi nghĩ là cậu nhầm rồi. Nhà Aldaya không có con gái. Chỉ toàn con trai thôi.”

“Bác có chắc không ạ? Cháu được biết có một cô gái trẻ tên gọi là Penélope Aldaya từng sống trong tòa nhà này vào khoảng năm 1919. Cô ấy rất có thể là em gái của Jorge.”

“Có thể, nhưng như tôi nói rồi đấy, tôi tới đây từ năm 1920.”

“Thế còn dinh cơ này? Hiện giờ ai sở hữu nó ạ?”

“Như tôi biết thì hiện giờ nó vẫn đang được rao bán, dù người ta đang bàn là nên phá nó đi để xây trường học. Trắng ra thì đó là điều tốt nhất họ có thể làm. San bằng nó tới đến tận móng luôn.”

“Sao bác lại nói thế ạ?”

Người coi nhà nhìn tôi với vẻ thận trọng. Khi ông ta cười, tôi để ý thấy có bốn cái răng hàm trên bị mất. "Những kẻ đó, cái nhà Aldaya ấy. Bọn họ mờ ám ghê lắm, đấy là nếu cậu nghe những gì người ta đồn đại.”

“Cháu e là cháu không biết rồi. Người ta nói gì về họ ạ?”

“Cậu biết đấy. Những tiếng ồn và đủ chuyện. Cá nhân tôi thì tôi không tin mấy chuyện đó đâu, đừng hiểu lầm nhé, nhưng họ đồn là có hơn một kẻ từng vãi ra quần ở đó đấy.”

“Bác đừng kể là ngôi nhà bị ma ám chứ,” tôi hỏi, cố nén không cười.

“Cậu cứ cười đi. Nhưng không có lửa sao có khói.”

“Bác đã thấy điều gì sao?”

“Không hẳn, thực ra là không. Nhưng tôi đã nghe thấy. “

“Nghe? Thấy gì ạ?”

“Ừm, một đêm nọ, tám năm trước, khi ta đi cùng cậu chủ Joanet. Chỉ vì ông ấy cứ khăng khăng đòi vậy, cậu biết đấy. Ta chẳng muốn dính dáng gì đến cái nơi đó. Như ta đã nói, ta nghe thấy gì đó là lạ. Kiểu như tiếng nức nở ấy.”

Người coi nhà liền cất giọng thể hiện dị bản của riêng ông về cái âm thanh mà ông vừa nhắc đến. Nghe cứ như người nào đó bị lao phổi đang lúng búng ậm ừ những bài dân ca.

“Không chừng là do gió,” tôi gợi ý.

“Rất có thể, nhưng tôi cũng sợ vãi cả hồn ấy. Này, cậu có còn viên kẹo ngọt nào không?”

“Kẹo viêm họng thì sao ạ? Chúng sẽ giúp làm dịu giọng bác sau khi ăn kẹo ngọt.”

“Vậy thì đưa đây,” người giữ nhà đồng ý, đưa tay ra sẵn để nhận kẹo.

Tôi đưa ông ta nguyên cả hộp kẹo. Vị cam thảo mạnh dương như khiến ông ta linh hoạt hơn hẳn. Ông ta bắt đầu tuôn ra những câu chuyện lạ thường về tòa dinh thự Aldaya.

“Chuyện này chỉ giữa cậu và tôi thôi nhé. Lần nọ, Joanet, con trai của Señor Miravell, một tay khổng lồ, gấp đôi cậu ấy (anh chàng là tuyển thủ đội bóng ném quốc gia, nói thế chắc là cậu dễ hình dung)... Đại loại là, bằng cách nào đó, vài tay bạn của Joanet nghe được những lời đồn đại về dinh thự nhà Aldaya, thế là bọn họ bèn bắt anh chàng vào đó. Đến lượt anh chàng lại bắt tôi vào theo, yêu cầu tôi phải đi cùng – khoác lác vênh vang là vậy thế mà rốt cuộc cậu ta không dám tự đi một mình. Lũ trẻ nhà giàu mà, ta trông đợi gì cơ chứ? Anh chàng quyết tâm tới đó vào ban đêm, hòng ra vẻ trước mặt bạn gái mình, thế mà suýt thì tè cả ra quần. Ý tôi là, giờ ban ngày cậu thấy cái tòa dinh thự thế này thôi, ban đêm nó khác hẳn ấy. Dù sao, Joanet nói là anh chàng cũng đã lên tầng hai (tôi từ chối vào đó, đương nhiên rồi – như thế là phạm pháp mà, dẫu cho tòa nhà đó đã bị bỏ hoang ít nhất mười năm đi nữa), và anh ta bảo ở đó có gì đấy. Anh chàng kể là nghe thấy gì đó như thể tiếng người phát ra từ một trong các căn phòng, nhưng khi cố vào thì cánh cửa đóng sập vào mặt anh chàng. Cậu nghĩ sao về chuyện đó?”

“Cháu nghĩ đó là do gió thôi,” tôi nói.

“Hoặc gì đó khác,” người coi nhà chỉ ra, hạ thấp giọng. “Ngày nọ trên đài có bảo thế này: vũ trụ đầy những bí ẩn. Tưởng tượng xem, họ nghĩ là đã tìm ra được Tấm Vải Liệm Chúa Giê-su, thứ thiệt ấy, ngay tại khu trung tâm của Toledo. Nó đã bị vá lên tấm phông màn chiếu bóng, để tránh khỏi tai mắt bọn Hồi giáo. Dường như bọn họ muốn dùng tấm vải liệm đó để có thể nói rằng Chúa Giê-su là người da đen. Cậu nghĩ gì về chuyện đó?”

“Cháu không nói nổi gì.”

“Chính xác. Bí ẩn luôn tràn ngập. Người ta nên san bằng cái tòa nhà này đi và rải chanh khắp trên nền đất.”

Tôi cảm ơn ông ta đã cung cấp thông tin, đoạn đã dợm bước về phía đại lộ song đúng lúc đó tôi ngước lên và thấy núi Tibidabo thức dậy sau từng làn mây mờ nhẹ bẫng. Bật chợt tôi có cảm giác muốn bắt chuyến tàu có dây kéo ngược lên dốc để thăm công viên giải trí tọa lạc quanh đỉnh núi và lang thang giữa những vòng đu quay cũng như những phòng trưng bày tự động, kỳ dị, nhưng tôi đã hứa sẽ quay về tiệm sách đúng giờ.

Khi quay lại ga tàu, tôi mường tượng hình ảnh Julián Carax cuốc bộ trên con đường đó, ngước nhìn mặt tiền các ngôi nhà uy nghiêm trầm mặc vốn hầu như không mấy thay đổi từ hồi ấy, thậm chí như thể vẫn chờ được đáp chuyến xe điện xanh dương đang tiến lên thiên đường. Khi tiến tới chân đại lộ, tôi lấy ra tấm ảnh chụp Penélope Aldaya đang tươi cười nơi sân trong của tòa biệt thự gia đình cô. Đôi mắt cô ánh lên một tâm hồn thuần khiết lời hứa hẹn vào tương lai. “Penélope, người yêu anh.”

Tôi mường tượng ra Julián Carax ở tầm tuổi mình, nâng niu tấm ảnh trên tay, có thể là dưới cùng một bóng cây đang che phủ cho tôi ngay lúc này. Tôi gần như thấy được Carax đang mỉm cười đầy tự tin, trầm ngâm suy tưởng về một tương lai rộng mở và rực sáng như đại lộ này, và trong giây lát tôi nghĩ rằng tại đó chẳng có nhiều bóng ma hơn là những bóng ma của sự vắng lặng và mất mát, và nguồn sáng mỉm cười với tôi kia thực ra là vay mượn, hết thảy chỉ là thực chừng nào tôi còn lưu giữ nó trong mắt mình, từng giây từng giây.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 18


VỀ ĐẾN NHÀ, tôi nhận thấy Fermín hay cha tôi đã mở cửa hiệu rồi. Tôi lên nhà một lát để kiếm thứ gì lót dạ. Cha để phần cho tôi một ít bánh mì nướng, mứt, và một ấm cá phê đặc trên bàn phòng ăn. Tôi vét sạch và mười phút sau lại đi xuống cửa hàng, như được hồi sinh. Tôi vào cửa hàng qua lối phòng sau cạnh hành lang khu nhà rồi đi thẳng đến tủ của mình.Tôi đeo cái tạp dề xanh thường lệ để quần áo khỏi dính bụi từ các thùng hộp và giá sách. Dưới đáy tủ là nơi tôi cất một hộp bánh cũ, bằng thiếc, một kho giấu đủ thứ linh tinh. Trong hộp là một lô lốc những đồ vật vô dụng tôi không đành lòng bỏ đi: những chiếc đồng hồ và bút máy bị hỏng không cứu chữa nổi, những đồng xu cũ, những viên đá, những vỏ đạn thời chiến tranh tôi lượm được ở công viên Laberinto, và những tấm bưu thiếp phai nhòe chụp cảnh Barcelona lúc chuyển giao thế kỷ. Nằm vất vưởng giữa những món đồ lỉnh kỉnh ấy là mảng báo cũ mà Isaac Monfort đã ghi địa chỉ người con gái Nuria của ông, vào cái đêm tôi đến Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên để giấu cuốn Bóng hình của gió. Tôi xem mẩu báo dưới ánh đèn lờ mờ lọt qua những giá sách và chồng hộp chất cao, rồi đậy hộp thiếc lại và cho địa chỉ vào ví. Sau khi quyết dồn hết tâm trí và chân tay vào công việc bình thường nhất có thể nghĩ ra, tôi bước vào cửa hàng.

“Chúc buổi sáng tốt lành," tôi cất tiếng

Fermín đang sắp xếp các bưu kiện do một nhà sưu tập ở Salamanca gửi đến, còn cha tôi đang đánh vật để giải mã thư mục tiếng Đức của một cuốn kinh Luther ngụy tác.

“Và có lẽ Chúa sẽ ban cho chúng ta một buổi chiều còn tốt lành hơn," Fermín hát lên - chắc chắn đang ám chỉ cuộc hẹn của tôi với Bea.

Tôi không cho anh ta niềm hân hạnh được nhận câu trả lời. Tôi quay sang những công việc thông thường trong tháng, như câp nhật sổ chi thu, kiểm tra biên lai và đơn đặt hàng, xem lệnh thu và lệnh chi. Tiếng đài phát thanh hòa cùng công việc đều đều bình lặng của chúng tôi, thết đãi chúng tôi một hợp tuyển những ca khúc ăn khách của nghệ sĩ nhạc trữ tình Antonio Machín, người khá được ưa chuông thời ấy. Những điệu nhạc vùng Caribê dường như làm cha tôi bứt rứt khó chịu, nhưng ông cố chịu đựng những giai điệu miền nhiệt đới kia bởi chúng làm Fermín hoài niệm về Cuba thương yêu của anh ta. Cảnh tượng này cứ lặp đi lặp lại mỗi tuần: cha tôi vờ như không nghe thấy, còn Fermín thì thả mình lắc lư theo điệu danzón, đến đoạn quảng cáo anh ta lại xen vào những giai thoại về cuộc phiêu lưu của mình ở Havana. Cánh cửa hé mở, một mùi hương ngọt ngào của bánh mì mới ra lò và cà phê tỏa vào khiến tâm trạng chúng tôi phấn chấn. Một lát sau, hàng xóm Merceditas của chúng tôi, vừa đi chợ Boquería về, dừng nơi của sổ ngó vào trong.

“Chào ông Sempere,” cô cất tiếng.

Cha tôi đỏ mặt và mỉm cười chào cô. Tôi có cảm tưởng ông quý mến cô Merceditas, nhưng cung cách thầy tu của ông đã ghìm ông vào niềm câm lặng không thể chuyển xoay. Fermín liếc ngang cô, và vẫn để tâm lắc lư mông đúng nhịp đồng thời liếm mép như thể vừa có một chiếc bánh cuộn Thụy Sĩ vừa lướt qua cửa. Merceditas mở một túi giấy lấy ra cho chúng tôi ba quả táo sáng bóng. Tôi mường tượng cô vẫn hào hứng với ý nghĩ được làm việc trong hiệu sách và không chút giấu giếm thái độ thù nghịch Fermín, kẻ chiếm chỗ của cô.

“Trông chúng có tuyệt không chứ? Tôi nhìn thấy chúng rồi tự nhủ, đây đúng là thứ giành cho những người nhà Sempere,” cô nói trìu mến. “Tôi biết những bậc thức giả như các anh rất thích táo, giống như cái ông Isaac gì mà vạn vật hấp dẫn ấy, anh biết đấy.”

“Isaac Newton, bé yêu ạ,” Fermín chú thích.

Merceditas cáu kỉnh nhìn anh ta. “Xin chào ngài bẻm mép. Anh nên tỏ ra biết ơn vì tôi cũng mang cho anh một quả đây, và không phải nho chua vốn là cái thứ anh đáng được hưởng đâu nhé.”

“Này cô em, từ bàn tay mát lành của cô em, món quà này, trái thơm tươi nguyên tội này, làm cháy lên...”

“Này, Fermín,” cha tôi xen v

“Vâng, Señor Sempere,” Fermín ngoan ngoãn rút lời.

Merceditas sắp sửa tung đòn đáp trả Fermín thì chúng tôi nghe tiếng náo loạn trên phố. Tất cả chúng tôi lặng yên, nghe ngóng, chờ đợi. Chúng tôi có thể nghe thấy tiếng la hét phẫn nộ ỏ ngoài, theo sau tiếng rì rầm trào lên như sóng. Merceditas thận trọng quay mặt ra ngoài cửa. Một vài người bán hàng đi qua trông có vẻ khó chịu và như đang rủa thầm trong bụng. Không lâu sau, xuất hiện Don Anacleto Olmo – một cư dân ở khu nhà chúng tôi, phát ngôn viên không chính thức của Viện Ngôn ngữ Hoàng Gia ở khu phố. Don Anacleto là giáo viên trung học có bằng cấp về văn chương Tây Ban Nha và một vài môn học khác, ông sống trong căn hộ ở tầng một cùng với bảy chú mèo. Khi không dạy học, ông làm thêm công việc giới thiệu sách cho một nhà xuất bản danh tiếng, ngoài ra còn có tin đồn ông sáng tác dâm thư được xuất bản với bút danh khiêu khích "Humberto Peacock”. Tuy với bạn bè Don Anecto là một người khiêm nhường và tốt bụng, song trước công chúng ông cảm thấy có nghĩa vụ phải vào vai một thi sĩ khoa trương, và chất văn chương màu mè trong lời nói khiến ông được mệnh danh là "Điều điệu quý ông”.

Sáng hôm đó khuôn mặt người thầy giáo tái nhợt vì đau khổ, hai tay ông đang cầm chiếc ba toong gần như run lên. Cả bốn người chúng tôi nhìn chằm lấy ông.

“Don Anacleto, có chuyện gì vậy?” cha tôi hỏi.

“Franco chết rồi, làm ơn nói như vậy đi,” Fermín mớm lời.

“Im đi, đồ quỷ sứ,” Merceditas xen ngang. "Hãy để cho ngài đây nói.”

Don Anacleto hít một hơi thật sâu, lấy lại tư thế, và với vẻ đường hoàng thường thấy, liển kể chuyện vừa xảy ra.

“Các bạn thân mém, cuộc đời thật lắm nỗi bi ai, và đến sinh vật đáng trân trọng nhất của Chúa cũng có thể cảm thấy vị đắng cay trong cái thói đỏng đảnh và ngoan cố của định mệnh. Tối hôm qua, khi nửa đêm về sáng, khi cả thành phố đương tận hưởng giấc ngủ xứng đáng với mọi người thuộc giới cần lao, thì Don Federico Flaviái Fujades, người hàng xóm hết mực yêu quý, người đã góp công trạng lớn lao cho sự giàu có và khuây khỏa của cộng đồng trong vai tro thợ sửa đồng hồ, chỉ sống cách đây ba dãy phố, đã bị Cảnh sát Nhà Nước bắt đi.”

Tôi cảm thấy tim mình như rụng xuống.

“Lạy Chúa Giê-su, lạy đức Mẹ Đồng trinh, lạy thánh Joseph!” Merceditas thốt lên.

Femín thở dài thất vọng, vì như vậy rõ ràng kẻ độc tài vẫn hoàn toàn sống nhăn.

Giờ đã vào guồng, Don Anacleto thở một hơi thật sâu và chuẩn bị nói tiếp.

“Theo lời kể đáng tin cậy từ một nguồn thân cận với Sở Cảnh sát, tối hôm qua, không lâu sau lúc nửa đêm, hai nhân viên ngầm kỳ cựu của đội Điều tra Tội phạm đã bắt gặp Don Federico ăn mặc dâm dật như một ca nữ và hát những bài cợt nhả trên sân khấu tại một xó xỉnh nào đó của phố Escudillers, nơi anh ta bị cáo buộc đang mua vui cho một đám khán giả gồm hầu hết là những kẻ còm cõi về trí não. Những sinh vật hoang đàng này, những kẻ cũng ngay buổi chiều hôm đó đã bỏ trốn khỏi chốn nương náu là nhà tế bần thuộc một hội thánh, đã trút bỏ quần trong cơn điên cuồng của buổi diễn và nhảy múa không chút dè dặt, tay vỗ liên hồi, dương cụ phơi cả ra, mồm mép thì nhỏ dãi.”

Merceditas làm dấu thánh, hoảng sợ trước xu hướng dâm ô của sự kiện.

“Khi hay tin chuyện xảy ra, các bà mẹ ngoan đạo của những linh hồn tội nghiệp kia đã chính thức khiếu kiện căn cứ vào sự xúc phạm đến công chúng và sự lăng mạ quy tắc đạo đức cơ bản nhất. Báo chí, cái lũ kền lền chuyên sống trên sự bất hạnh và điều ô danh, đã nhanh chóng ngửi thấy mùi xác thối. Chính nhờ sự giúp đỡ xấu xa của một tên chỉ điểm chuyên nghiệp, chưa đầy bốn mươi phút sau khi hai nhân viên cảnh sát xuất hiện thì Kiko Calabuig đã có mặt ở hiện trường. Calabuig, tay phóng viên tài ba của tờ nhật báo lá cải El caso, quyết tâm khám phá bất cứ chi tiết nào cần thiết có thể khai thác được và dùng mọi thủ đoạn đặng chèn bài phóng sự ghê tởm của hắn kịp in số báo hôm nay. Chẳng cần phải nói, cảnh tượng diễn ra trong cái dinh cơ kia được mô tả thật u ám kinh hoàng, với đầu đề in cỡ chữ hai bốn.”

“Chuyện này thật tệ,” cha tôi nói. "Tôi nghĩ Don Federico đã rút ra bài học.

Don Anacleto gật đầu nghiêm nghị. "Đúng vậy, nhưng đừng có quên câu thành ngữ xưa rằng 'Con báo không thể thay đổi vết đốm' và 'Con người không thể sống chỉ với điều vô vị...' Và đấy vẫn chưa phải điều tệ nhất.”

“Vậy thì, làm ơn, thưa đức ngài, ngài có thể đi thẳng vào cái vấn đề chết giẫm kia được không? Bởi vì những thứ ẩn dụ loằng ngoằng bay bướm của ngài khiến bụng tôi nhộn nhạo sắp sửa phát nôn rồi đây,” Fermín cự nự.

“Đừng để ý đến kẻ cục súc này. Tôi yêu cái cách ông nói. Nó giống như giọng bình trong phim thời sự, tiến sĩ Anacleto ạ,” Merceditas xen vào.

“Cảm ơn cô bé, nhưng ta chỉ là một ông giáo tầm thường. Giờ hãy trở lại điều ta đang nói dở chừng, không chút trì hoãn, không mào đầu hay vòng vo gì thêm nữa. Có vẻ như lúc bị bắt bác thợ sửa đồng hồ mang bí danh 'Mệnh phụ tóc xoăn' và trước kia đã bị bắt vài lần cũng trong những hoàn cảnh tương tự - điều này vẫn lưu tại hồ sơ tội phạm của cơ quan bảo vệ pháp luật và trị an.”

“Ý ông là cái bọn tội phạm đeo phù hiệu ấy à,” Fermín thốt ra.

“Tôi không bàn chính trị ở đây. Nhưng tôi có thể nói rằng, sau khi lấy một cái chai táng cho Don Federico tội nghiệp văng khỏi sân khấu, hai tên cảnh sát đã dẫn bác ấy về đồn ở Vía Layetana. Nếu có chút may mắn và trong những hoàn cảnh khác, có lẽ mọi việc chỉ kết thúc với vài câu nói dè bỉu, đâu chừng mấy cái bạt tai và chút sỉ nhục vặt vãnh khác, nhưng thật là đại nạn, tình cờ ông thanh tra Fumero danh tiếng lại có mặt trong ca trực đêm qua.”

“Fumero,” Fermín lí nhí. Chỉ cần nghe nhắc đến thần báo oán của mình cũng đủ khiến anh ta run rẩy.

“Còn ai vào đây nữa. Như tôi đã nói, quán quân của nền an ninh thành thị, người vừa trở lại sau một cuộc truy quét thắng lợi vào một ổ cá độ và đua xe bất hợp pháp trên phố Vigatans, được thông báo về sự việc từ bà mẹ đang đau đớn của một trong các cậu bé mất tích, thằng bé được cho là kẻ chủ mưu đằng sau vụ chạy trốn này, Pepet Guardiola. Và ông thanh tra danh tiếng người dường như vừa mới nốc mười hai ly đúp rượu mạnh trong bữ đã quyết định tham dự vụ này. Sau khi kiểm tra những tình tiết tăng nặng thu được, Fumero tiếp tục thông báo cho tay hạ sĩ đang làm nhiệm vụ rằng có rất nhiều kẻ lại cái (tôi dẫn lại từ này với nghĩa trần trụi nhất, dẫu ở đây có mặt một cô gái trẻ, vì nó có mối liên quan về mặt văn liệu đến sự kiện đang nói đến) cần một bài học, và rằng bác thợ đồng hồ - tức là Don Federico Flaviái Pujades - vì lợi ích của chính bác ấy và lợi ích của linh hồn bất tử của các cậu bé Mongoloid kia, sự hiện diện của chúng ở đây chỉ là ngẫu nhiên nhưng là một yếu tố quyết định trong vụ án này - phải bị bắt giam một đêm, dưới tầng hầm của sở cảnh sát, cùng với một lũ đầu trộm đuôi cướp. Có lẽ mọi người biết rồi đấy, phòng giam này nổi tiếng trong giới tội phạm vì điều kiện vệ sinh tồi tàn và không đảm bảo, và việc cho dân thường vào danh sách ‘khách hàng’ ở đây luôn tạo lý do để ăn mừng, vì như vậy sẽ thêm gia vị và sự mới lạ vào đời sống tẻ nhạt ở nhà tù.”

Đến đây, Don Anacleto tiếp tục phác họa qua loa bức chân dung thân thương của nạn nhân, người dĩ nhiên là tất cả chúng tôi đều biết rõ.

“Tôi không cần phải nhắc các vị rằng Don Flaviái Pujades được phú cho bản tính moong manh và tinh tế, có mọi đức tính thương người và nhân hậu của người Cơ đốc. Dẫu một con ruồi có bay vào cửa hàng, thì bác ta sẽ không lấy dép đập nát nó đi, mà sẽ mở hết các cửa để cho con ruồi kia, cái sinh linh của Chúa ấy, được bay qua khung cửa mà trở về với thiên nhiên. Tôi biết Don Federico là người nhân hậu, luôn nhiệt tình và chuyên tâm vào hoạt động của giáo khu, nhưng cả đời bác ấy phải sống với một niềm khát khao thầm kín, một trong thời khắc hiếm hoi cái khát khao kia đã chiếm ngự được bác ấy, lại khiến bác ấy xuống đường và ăn mặc như một mụ điếm. Tài năng sửa chữa của bác ấy từ chiếc đồng hồ đến cái máy khâu đã trở thành truyền thuyết, và về mặt cá nhân, không chỉ chúng ta, những người quen biết và thường xuyên đến sửa đồng hồ mới quý mến bác ấy, mà còn cả những người không đồng tình với những cuộc phóng túng ban đêm hiếm hoi của bác ấy với bộ tóc giả, cái lược và chiếc vái múa flamenco.”

“Ông nói như thể anh ta chết rồi ấy,” Fermín buồn bã xen vào.

“Ơn Chúa, bác ấy chưa chết.”

Tôi thở phào nhẹ nhõ Don Federico sống cùng bà mẹ tám mươi tuổi tai điếc đặc, trong khu gọi cụ là “La Pepita," bà cụ nổi tiếng với cú đánh rắm vang trời khiến đàn chim sẻ đậu trên ban công hoảng hốt và quay mòng mòng rơi xuống đất.

“Pepita không hề tưởng tượng được rằng con trai Federico của cụ,” ông giáo viên trung học tiếp tục, "đã phải qua đêm trong một phòng giam bẩn thỉu, nơi cả băng đảng ma cô và du đãng đã đối xử với bác ấy như một kẻ đàng điếm, chỉ việc đánh đấm bác ấy nhừ tử khi bọn chúng đã chán chê cái thân xác còm cõi của bác ấy, trong khi những tên tù còn lại cứ lải nhải cái điệp khúc, 'thằng lại cái, thằng lại cái, mày ăn cứt đi, thằng già đồng bóng!' "

Yên lặng chết chóc bao trùm chúng tôi. Merceditas khóc thổn thức. Fermín định an ủi cô bằng vòng tay dịu dàng, nhưng cô nhảy phóc sang một bên.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
618,372
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19


“TƯỞNG TƯỢNG MÀ XEM," Don Anacleto kết luận trong cơn ngán ngẩm của mọi người.

Phần kết câu chuyện chẳng dấy lên chút hy vọng nào cho chúng tôi. Giữa buổi sáng, một chiếc xe cảnh sát màu xám đã quăng phịch Don Federico trước cửa nhà bác ấy. Người bác bê bết máu, quần áo nát tươm, bác đã mất hết bộ tóc giả và bộ trang sức đẹp đẽ. Bọn chúng đái vào người bác, mặt bác đầy vết rách và bầm dập. Con trai ông hàng bánh mì đã phát hiện bác nằm co quắp bên bậu cửa và đang run rẩy khóc như một đứa trẻ.

“Thật bất công, quá bất công, thưa ông," Merce

ditas kêu lên, đứng sát cửa, tránh xa đôi bàn tay đang run rẩy của Fermín. "Thật tội nghiệp, bác ấy có trái tim vàng, và bác ấy không bao giờ phiền nhiễu đến ai. Nên dù bác ấy thích ăn mặc như người Digan và hát trước mọi người thì sao? Ai quan tâm chứ? Con người thật độc ác.”

“Không phải độc ác,” Fermín phản đối. "Mà là ngu độn, hai cái đấy không giống nhau đâu. Cái ác hàm ý một quyết định luân lý, có ý định chút chủ tâm. Còn kẻ ngu muội hay đần độn là kẻ không biết dừng lại để suy tính hay lý luận. Hắn hành động theo bản năng, như con vật, tin rằng hắn đang làm điều thiện, rằng hắn luôn đúng, và vênh vang phá hoại bất cứ ai hắn cho là khác với mình, dù về màu da hay tôn giáo, dù về ngôn ngữ hay quốc tịch, hay trong trường hợp Don Federico là cái thói quen lúc nhàn rỗi. Điều thế giới này cần là có nhiều thêm những con người độc ác hết mực và ít đi những kẻ ngu si tột bậc.”

“Đừng nói năng xằng bậy nữa đi. Cái chúng ta cần là lòng khoan dung của người Cơ Đốc và bớt đi sự hằn học. Chúng ta chỉ là một lũ đáng hổ thẹn,” Merceditas cất lời. “Mọi người đều đi lễ mixa, nhưng có ai chịu nghe lời đức Chúa đâu.”

“Này Merceditas, cô em đừng có nhắc đến việc chuyên tâm đi lễ nhé. Đó chỉ là một phần của vấn đề chứ đâu phải là giải pháp.”

“Lại thêm một kẻ vô thần. Liệu tôi có thể hỏi, giới tu sĩ đã làm gì anh hả?”

“Thôi nào, đừng cãi nhau nữa,” cha tôi can thiệp. “Còn anh, Fermín, anh đến thăm Don Federico xem bác ấy có cần gì không, có cần người lo thuốc men hay chợ búa gì không.”

“Vâng, thưa ngài Sempere. Tôi đi ngay đây. Tranh luận chỉ tổ làm tôi xấu xa thêm, ngài biết đấy.”

“Cái xấu xa của anh là sự trơ trẽn và bất kính mà lúc nào anh cũng mang theo,” Merceditas nói. “Cái ngữ ăn nói báng bổ như nhà anh cần phải dùng axit clohydric để tẩy rửa linh hồn.”

“Này Merceditas, vì tôi biết cô em là người tốt (mặc dù hơi hẹp hòi và dốt nát), và vì nơi đây đang có việc cần kíp, khi ở vào hoàn cảnh như vậy người ta phải biết ưu tiên cho việc gì, nên tôi sẽ trì hoãn cái việc làm rõ cho cô vài điểm…”

“Fermín!” cha tôi kêu lên.

Fermín im miệng và vội lon ton ra khỏi cửa hàng. Merceditas phật lòng nhìn theo anh ta.

“Nghe lời tôi này, con người đó sẽ sớm gây rắc rối cho anh thôi. Anh ta đúng là kẻ vô chính phủ, một kẻ tam điểm, không thì ít nhất cũng là đồ Do Thái. Cái mũi lớn thế kia mà...”

“Đừng để ý đến anh ta. Anh ta thích lý sự thôi.”

Merceditas lắc đầu, có vẻ bực mình. “Ôi, giờ tôi phải từ biệt thôi. Ai đó trong chúng ta có nhiều việc phải làm, mà thời gian lại không nhiều. Chúc buổi sáng tốt lành.”

Chúng tôi lịch thiệp gật đầu và dõi theo cô đi về, thẳng lưng bước ra ngoài đường trên đôi giày cao gót. Cha tôi hít vào một hơi thật sâu, như muốn uống lấy sự yên bình vừa khôi phục lại. Don Anacleto chùng người xuống cạnh cha tôi, cuối cùng ông cũng hạ cánh sau chuyến bay văn vẻ vừa rồi. Khuôn mặt ông nhợt nhạt, vẻ ảm đạm ngập tràn trong mắt. “Đất nước này mạt rồi,” ông nói.

“Thôi nào, Don Anacleto, hãy vui lên. Mọi thứ luôn như thế này, ở đây và ở khắp nơi khác. Vấn đề là có lúc thăng thì cũng có lúc trầm, và khi lúc trầm đến cận kề thì mọi thứ có vẻ đen tối hơn. Rồi bác thấy Don Federico sẽ vượt qua chuyện này thôi. Bác ấy mạnh mẽ hơn chúng ta nghĩ.”

Ông giáo lẩm nhẩm trong miệng. “Nó như đợt sóng triều, anh có hiểu không,” ông nói vẻ bi thảm. “Ý tôi là, sự tàn khốc này. Nó ra đi, rồi anh cảm thấy an toàn, nhưng nó luôn quay lại, nó luôn quay lại... và nó khiến chúng ta nghẹt thở. Tôi chứng kiến hằng ngày ở trường học. Ôi lạy Chúa tôi... Cái lũ vượn, đó là thứ chúng tôi có ở trong lớp học. Darwin đúng là kẻ mộng mơ, tôi dám chắc với anh đấy. Chẳng có tiến hóa hay thứ gì như vậy cả. Bất kiỳ ai có lý trí cũng thấy tôi phải đánh vật với chín con đười ươi.”

Chúng tôi chỉ có thể gật đầu ngoan ngoãn. Don Anacleto vẫy tay chào tạm biệt và ra về, đầu ông gục xuống. Trông ông như già thêm năm tuổi so với lúc bước vào. Cha tôi thở dài. Chúng tôi thoáng nhìn nhau, không biết phải nói sao. Tôi băn khoăn không biết có nên kể cho cha nghe chuyến viếng thăm của Thanh tra Fumero tới hiệu sách không. Đây là một lời cảnh cáo, tôi nghĩ. Một sự báo trước. Fumero đã sử dụng Don Federico như một thông điệp.

“Có chuyện gì thế Daniel? Trông con xanh quá.”

Thôi thở dài, cúi mặt. Tôi bắt đầu kể cho cha nghe biến cố với Thanh tra Fumeroiều hôm trước và lời đe dọa của hắn ta. Cha tôi lắng nghe, cố kiềm chế nỗi tức giận đang bừng cháy trong mắt ông.

“Là lỗi của con,” tôi nói. “Lẽ ra con nên nói gì đó...”

Cha tôi lắc đầu. “Không. Con đâu có biết được, Daniel.”

“Nhưng…”

“Đừng nghĩ đến nó nữa. Và đừng nói gì với Fermín Chúa mới biết anh ta phản ứng ra sao nếu biết được lại bị người kia theo dõi.”

“Nhưng chúng ta phải làm gì đi chứ.”

“Phải đảm bảo rằng anh ta không gặp rắc rối.”

Tôi gật đầu, không thực sự tin lắm, và bắt đầu tiếp tục công việc Fermín đã làm, còn cha tôi quay lại với đống thư từ của ông. Thỉnh thoảng cha lại liếc nhìn tôi. Còn tôi thì giả vờ không biết.

“Hôm qua đi gặp Giáo sư Velézquez thế nào? Mọi việc có ổn không?" ông hỏi hòng muốn đổi chủ đề.

“Vâng. Ông ấy hài lòng với những cuốn sách. Ông ấy bảo đang tìm một cuốn về những bức thư cuả Franco."

“Cuốn Moorslayer. Nhưng cuốn đấy không đáng tin lắm... một trò đùa của Madariaga. Rồi con nói sao?"

“Con bảo chúng ta nhận vụ này và sẽ thông báo cho ông ấy muộn nhất trong hai tuần tới.”

“Tốt lắm. Chúng ta sẽ giao cho Fermín vụ này và tính giá cho ông Velézquez thật đậm."

Tôi gật đầu. Chúng tôi tiếp tục làm những công việc thường nhật. Cha vẫn nhìn tôi. Lại sắp sửa rồi đây, tôi nghĩ.

“Hôm qua có một cô bé rất xinh đến đây. Fermín bảo đấy là em gái của Tomás Aguilar"

“Vâng."

Cha tôi gật đầu, đang cân nhắc sự trùng lặp ấy với biểu lộ đôi chút ngạc nhiên. Ông cho tôi yên ổn trước khi tấn công tiếp, lần này mang cái vẻ của một người vừa chợt nhớ ra điều gì.

“Daniel này, hôm nay công việc không bận lắm, và, ờ, có lẽ con muốn nghỉ ngơi một chút để làm việc riêng. Vả lại, bố nghĩ gần đây con làm khá vất vả."

“Con ổn mà, cảm ơn bố.”

“Bố đang tính để Fermín ở nhà, còn bố sẽ tới Nhà hát Opera Liceo với Barceló. Chiều nay có vở Tannhäuser, ông ấy mời bố đi xem, vì ông ấy có đặt chỗ ở hàng ghế đầu. “Cha tôi vờ như đang đọc thư. Ông đúng là một diễn viên xoàng.

“Bố thích Wagner từ bao giờ thế?”

Ông nhún vai. "Đừng bao giờ phụ lòng tốt của người khác... Hơn nữa, với Barceló thì đi xem gì cũng vậy thôi, bởi suốt cả buổi diễn ông ta sẽ bình phẩm diễn xuất, chỉ trích phục trang và tiết tấu thôi mà. Ông ta cũng hỏi thăm con luôn đấy. Có lẽ hôm nào đấy con nên đến thăm ông ta.”

“Một ngày nào đấy.”

“Được rồi, vậy nếu con đồng ý, hãy để Fermín trông cửa hàng hôm nay và chúng ta sẽ đi hưởng thụ một chút. Cũng đến lúc phải như vậy. Nếu con cần tiền...”

“Thôi mà bố. Bea có phải bạn gái con đâu."

“Ai nói gì về bạn gái nào? Thỏa thuận thế nhé. Tùy con. Nếu con cần tiền thì lấy ở trong ngăn kéo, nhưng nhớ để vài chữ cho Fermín, không đến lúc khóa sổ anh ta lại tá hỏa lên.”

Nói xong, ông giả vờ lơ đễnh rồi đi vào phòng, miệng cười ngoác ra. Tôi xem đồng hồ. Mười rưỡi sáng. Tôi đã hẹn gặp Bea lúc năm giờ ở hành lang trường đại học. Và thật nản lòng khi ngày hôm nay hóa ra còn dài hon cả tiểu thuyết Anh em nhà Karamazo

Fermín mau chóng từ nhà bác sửa đồng hồ trở về cho chúng tôi biết một biệt đội nữ trong khu phố đã được lập ra để săn sóc thường trực cho Don Federico tội nghiệp, người mà bác sĩ đã chẩn đoán là bị gãy ba xương sườn, có rất nhiều vết thâm, và hậu môn bị rách bất thường.

“Anh có phải mua gì không?" cha tôi hỏi.

“Họ có đủ thuốc men và thuốc mỡ để mở cả một cửa hàng đấy, nên tôi tự ý mua cho anh ta ít hoa, với cả một lọ nước thơm, và ba chai nước đào – món ưa thích của Don Federico.”

“Anh làm đúng lắm. Tôi phải chi cho anh bao nhiêu đây," cha tôi nói. "Và trông bác ấy như thế nào?”

“Thành thật mà nói là bị đánh nhừ tử. Tôi thấy anh ta nằm co quắp trên giường như một cuộn len, cứ kêu gào đòi chết bằng được, đến mức tôi đã có ý định giết người, tôi nói thật đấy. Tôi muốn cầm súng lao đến chỗ Đội điều tra Tội phạm mà bắn sạch cái lũ kia, đầu tiên là cái cục nhọt hôi rình ấy, thằng Rumero ấy.”

“Fermín, cho chúng tôi chút bình an đi. Tôi tuyệt đối cấm anh làm điều như vậy."

“Bất cứ điều gì ngài nói, ngài Sempere.”

“Còn Pepita đón nhận chuyện này thế nào? “

“Can đảm đến mẫu mực. Hàng xóm đã cho bà cụ hớp rượu mạnh, khi tôi đến thăm thì bà đã nằm sập trên sofa như con lợn rồi thì đánh rắm hoành tráng đến độ xuyên thủng lỗ chỗ cả nệm.”

“Thật đúng nết bà cụ. Fermín này, tôi định nhờ anh trông cửa hàng chiều hôm nay; tôi sẽ đến thăm Don Federico một lát. Sau đấy tôi có hẹn với Barceló. Còn Daniel thì có việc phải làm.”

Tôi ngước mắt lên đúng lúc Fermín và cha tôi nhìn nhau đầy ẩn ý.

“Thật là một cặp bài trùng,” tôi nói. Họ vẫnười trêu chọc khi tôi đi qua cửa.

***

MỘT CƠN GIÓ LẠNH CĂM QUÉT NGANG QUA PHỐ, vung vãi những dãi sương mờ trên đường nó đi qua. Mặt trời gắt bắt nắng màu đỏ ửng trên mái và tháp chuông của khu phố Gothic. Còn vài tiếng nữa mới đến giờ hẹn với Bea ở trường, nên tôi quyết định thử vận may là đến thăm Nuria Monfort, hy vọng chị vẫn sống ở địa chỉ mà cha chị đã đưa cho.

Quảng trường San Felipe Neri giống như một khoang hẹp cho người ta thở trong cái ma trận những con đường ngang dọc khu phố Gothic, ẩn nấp sau những bức tường La Mã cổ xưa. Những bức tường nhà thờ lỗ chỗ là vết tích của súng đạn thời chiến tranh để lại. Buổi sáng hôm ấy, một toán trẻ con chơi trò quân lính, chúng không đoái hoài đến ký ức còn lưu trên tường đá. Một phụ nữ, tóc điểm bạc, đang ngồi trên ghế dài, sách để mở trong lòng, chị ngắm nhìn chúng và mỉm cười lơ đãng. Địa chỉ cho biết Nuria Monfort sống trong một tòa nhà cạnh lối vào quảng trường. Mái vòm bằng đá ố đen bao trên cửa trước cho biết năm xây dựng tòa nhà :1801. Khi đã vào hành lang, ánh sáng chỉ vừa đủ để nhìn thấy trong căn nhà tối tăm có cầu thang chạy lên theo một đường xoắn ốc bất thường. Tôi dò tìm những hòm thư màu đồng. Tên của người cư ngụ xuất hiện trên những mảnh giấy cứng ngả vàng được nhét vào khe, điều phổ biến vào thời ấy.

Miquer Moliner / Nuria Monfort

3-2

Tôi chậm chạp bước lên, gần như sợ tòa nhà sẽ đổ sập xuống nếu tôi giẫm mạnh lên những bậc thang nhỏ xíu như đồ chơi. Tại mỗi chiếu nghỉ có hai cánh cửa, không có số hay biển. Lên đến tầng ba, tôi chọn ngẫu nhiên một cánh cửa rồi gõ. Cầu thang có mùi ẩm ướt, mùi đá cũ, mùi đất. Tôi gõ vài lần nhưng không ai đáp lại. Tôi quyết thử vận may lên cánh cửa còn lại. Tôi gõ năm tay ba lần. Phía trong căn hộ, tôi có thể nghe tiếng radio đang mở buổi phát thanh giảng đạo hàng ngày Cùng suy ngẫm với Cha Martín Calzado.

Mở cửa là một phụ nữ mặc váy ngủ vải bông màu ngọc lam kẻ ca rô, đi dép lê, đội một mớ lô quấn tóc. Dưới ánh sáng lờ mờ, trông cô giống một thợ lặn biển sâu. Phía sau cô, giọng nói dịu dàng của Cha Martín Calzado đang dành mấy lời nhà tài trợ chương trình, một thương hiệu sản phẩm làm đẹp là Aurorín, rất được những người hành hương đến chốn Lourdes tôn nghiêm ưa chuộng, và những sản phẩm diệu kỳ để trị các loại mụn nhọt.

“Xin chào. Tôi tìm cô Monfort.”

“Nurieta? Cậu gõ nhầm cửa rồi, chàng trai. Ở phía bên kia kìa.”

“Tôi xin lỗi. Vì tôi đã gõ bên kia nhưng không có ai trả lời cả.”

“Cậu không phải nhân viên thuế vụ đấy chứ?” người hàng xóm đột nhiên hỏi, chợt nghi ngờ theo kinh nghiệm.

“Không đâu. Cha cô Monfort bảo tôi đến.”

“À không sao. Nurieta hẳn đang đọc sách ở dưới kia. Cậu không thấy cô ấy lúc lên đây sao?”

Khi xuống chân cầu thang, tôi thấy người phụ nữ có mái tóc ánh bạc và cuốn sách trong tay vẫn ngồi yên trên ghế ở quảng trường. Tôi thận trọng quan sát. Nuria Monfort là một phụ nữ xinh đẹp, với loại đường nét hấp dẫn làm sang cho các tạp chí thời trang danh tiếng hay phòng chụp ảnh chân dung, song là một phụ nữ mà tuổi xuân dường như đang tàn phai trong nỗi buồn nơi ánh mắt. Có nét gì đó của cha chị trong dáng người nhỏ nhắn. Tôi tưởng tượng chị hẳn đã ngoài bốn mươi, xét từ mái tóc hoa râm và những nếp nhăn làm già đi khuôn mặt. Nhưng dưới ánh sáng mờ, hẳn chị trông trẻ hơn mười tuổi.

“Señora Monfort?”

Chị nhìn tôi tựa như vừa chợt tỉnh sau cơn mê, mà không thấy tôi.

“Tôi là Daniel. Cha chị cho tôi địa chỉ này. Ông bảo chị có thể kể cho tôi về Julián Carax.”

Khi nghe những lời ấy, cái vẻ mơ màng liền rời bỏ chị. Tôi có cảm giác nhắc đến bố chị không phải là một ý hay.

“Cậu muốn gì?” chị h đầy ngờ vực.

Tôi cảm giác nếu mình không chiếm được lòng tin của chị ngay lúc ấy, tôi sẽ đánh mất cơ hội chỉ có một lần này. Lá bài duy nhất tôi có thể chơi là nói ra sự thật.

“Hãy nghe tôi giải thích. Cách đây tám năm, do tình cờ, tôi tìm thấy một cuốn tiểu thuyết của Julián Carax ở trong Nghĩa Trang Những Cuốn Sách Bị Lãng Quên. Chị đã giấu ở đó để nó khỏi bị hủy hoại bởi một người đàn ông có tên Laín Coubert,” tôi nói.

Chị nhìn chằm vào tôi, không hề nhúc nhích, như thể chị sợ thế giới xung quanh mình đang đổ vỡ.

“Tôi hứa sẽ chỉ phiền chị vài phút thôi,” tôi nói.

Chị gật đầu, với vẻ nhẫn nhịn. “Cha tôi có khỏe không?” chị hỏi, lẩn tránh ánh mắt tôi.

“Ông ấy khỏe. Ông già đi đôi chút. Và ông rất nhớ chị.”

Nuria Monfort thở dài một tiếng mà tôi không thể nào giải mã. "Tốt hơn nên lên nhà tôi. Tôi không muốn nói chuyện này ở ngoài đường.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom