Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,671
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


Nó sốt nặng. Những ngày đầu còn đổ mồ hôi nhưng sau chỉ nổi toàn những mụn như thể da nó không đủ lỗ chân lông vậy. Thân thể Grenouille đầy những mụn đỏ, nhiều cái vỡ ra, ứa nước để rồi lại phồng lên. Những cái khác thì phát thành chùm nhọt, tấy đỏ, toác ra như miệng núi lửa, chảy một thứ mủ sền sệt, máu lẫn nước vàng. Ít lâu sau Grenouille trông như một kẻ tử vì đạo chịu hình phạt ném đá – nhưng ném từ bên trong – với hàng trăm vết lở lói.

Dĩ nhiên Baldini lo lắm. Sẽ hết sức phiền nếu cái thằng học việc quý giá của ông đúng vào cái lúc ông dự tính mở rộng việc buôn bán ra khỏi phạm vi thủ đô, thậm chí ra ngoài biên giới đất nước. Vì quả thật không chỉ các tỉnh mà cả cung đình các vương quốc khác cũng đặt thường xuyên hơn những nước hoa loại mới mà Paris khao khát. Để đáp ứng nhu cầu này, Baldini nuôi ý định lập một chi nhánh ở Faubourg Saint-Antoine, một xi nghiệp nhỏ thôi để trộn khối lượng lớn những nước hoa thông dụng và đóng hàng loạt vào những chai nhỏ, xinh xắn, do những cô gái nhỏ nhắn dễ thương đóng thùng để gởi sang Hà Lan, Anh và Đức. Đối với một chủ tiệm cư ngụ tại Paris thì hành động liều lĩnh này không thật hợp pháp nhưng gần đây Baldini có được sự che chở ở những nơi chóp bu, nước hoa tuyệt diệu của ông đã tạo cho ông sự che chở không chỉ của ngài đổng lý văn phòng ngự tiền mà còn ở những nhân vật quan trọng như của quan giám thu quan thuế (zollpaechter) của Paris và của ngài Feydeau de Brou, thành viên hội đồng tài chính hoàng gia, đồng thời là người tài trợ các xí nghiệp làm ăn phát đạt. Thậm chí ngài còn tính tới khả năng ông sẽ được đặc ân của hoàng gia, một thứ giấy thông hành giúp thoát khỏi mọi quy định của nhà nước và phường hội, chấm dứt mọi lo lắng trong hành nghề và là một bảo đảm vĩnh viễn cho sự thịnh vượng vững chắc không ai dám tranh chấp, nghĩa là cái cao nhất mà người ta chỉ dám mơ.

Baldini còn ấp ủ một dự tính khác, dự tính ưa thích nhất, như một đối chọi với xí nghiệp ở Faubourg Saint-Antoine, không sản xuất hàng loạt nhưng ai cũng có thể mua được; ông muốn chế, phải nói là ông ra lệnh chế thì đúng hơn, một số loại nước hoa riêng cho một số khách hàng tuyển chọn có địa vị cao và thật cao, giống như quần áo được đo cắt riêng, chỉ thích hợp với từng cá nhân, chỉ người đó sử dụng và chỉ mang cái tên tăm tiếng của người ấy. Ông hình dung ra nào là nước hoa của Marquis de Cernay, nào là nước hoa của Maréchale de Villars, nào là nước hoa của Duc d’Aguillon, vân vân. Ông mơ đến nước hoa của Madame la Marquise de Pompadour, thậm chí một nước hoa của Sa Majesté le Roi, đựng trong lọ con mài bằng đá mã não đắt tiền với viền vàng trạm trổ, có khắc ẩn trên mặt trong của đáy lọ cái tên Giuseppe Baldini, nhà làm nước hoa, tên của ông và tên của Đức Vua ở cùng một món hàng, Baldini đã dám thả hồn cao đến những tưởng tượng tuyệt vời nhường ấy! Vậy mà Grenouille lại ốm! Dù rằng Grimal, xin Chúa đoái thương linh hồn hắn, đã thề sống thề chết rằng nó chẳng bao giờ ốm cả, nó chống chọi được tất, kể cả bệnh dịch hạch đen.

Thế mà thình lình nó đau chờ chết. Nhỡ nó chết thật thì sao? Khủng khiếp quá! Những đề án hay ho về xí nghiệp, về những cô bé dễ thương, về đặc ân và về nước hoa của Đức Vua cũng sẽ chết theo nó.

Cho nên Baldini quyết định phải cứu mạng sống quý báu của tên học việc. Không thể không thử được. Ông ra lệnh dời nó từ cái phản trong xưởng lên một cái giường sạch sẽ trên lầu. Ông cho trải giường với khăn thêu hoa. Tự tay ông giúp khiêng người bệnh lên cầu thang chật hẹp dù rằng những mụn nhọt lở lói làm ông kinh tởm khôn xiết. Ông ra lệnh cho vợ nấu canh gà với rượu vang, Ông cho tìm tay thầy thuốc nổi tiếng nhất khu phố, một tay Procope nào đấy, và phải trả trước những hai mươi quan thì hắn mới chịu đến cho.

Thầy thuốc đến, dùng đầu ngón tay hất khăn giường ra, ném một cái nhìn duy nhất lên thân thể Grenouille trông không khác bị cả trăm viên đạn bắn lỗ chỗ, rồi rời khỏi phòng ngay, không thèm mở cái cặp mà người phụ tá của ông luôn luôn mang theo. Ông ta nói với Balidni rằng trường hợp này quá rõ ràng. Đây là biến chứng giang mai của bệnh đậu mùa lẫn với bệnh sởi làm mủ in stadio ultimo[1]. Không cần điều trị gì nữa vì không thể dùng lưỡi trích để lấy máu đúng quy cách được trên một thân thể đã rữa, chết nhiều hơn sống như thế kia. Dưới góc độ khoa học nghiêm túc thì sự chưa nhận thấy được trong tíến trình căn bệnh cái mùi hôi đặc trưng của bệnh dịch là một hiếm có nho nhỏ, đáng ngạc nhiên, nhưng chắc chắn rằng bệnh nhân sẽ chết trong vòng bốn mươi tám giờ nữa, rõ như tên ông ta là bác sĩ Procope vậy. Ông ta thu thêm hai mươi quan nữa vì đã đến thăm và chẩn bệnh, rồi cáo lui, nếu để cho ông ta sử dụng cái xác với những biểu hiện kia vào mục đích thuyết minh thì sẽ được hoàn lại năm quan.

Balidni quýnh lên. Ông than vãn, khóc lóc vì tuyệt vọng. Ông cắn ngón tay vì căm giận số phận, Lại một lần nữa những dự án hứa hẹn thành công, thành công vĩ đại của ông bị hỏng ngay khi đã gần tới đích. Trước kia là Pélissier và lũ bạn bè với sự sáng tạo phong phú của chúng. Bây giờ là thằng lỏi này với cái kho nước hoa không bao giờ cạn của nó, cái thằng nhỏ khốn nạn quý hơn cả vàng này, nó lại nhè ngay cái giai đoạn xây dựng cơ sở làm ăn mà bị đậu mùa do giang mai với sởi làm mủ in stadio ultimo! Nhè ngay lúc này! Tại sao không đợi hai năm nữa? Một năm thôi cũng được? Tới lúc đó thì có thể khai thác nó hết sạch như một mỏ bạc hay một con gà đẻ trứng vàng. Một năm nữa nó được quyền chết thanh thản. Nhưng mà không! Nó phải chết bây giờ cơ, lạy Chúa tôi, và trong vòng bốn mươi tám tiếng!

Balidni cân nhắc rất nhanh, có nên hành hương sang Notre-Dame, châm một ngọn nến và cầu xin Đức Mẹ cho Grenouille được khỏi bệnh hay không. Nhưng ông bỏ ý định đó vì cấp bách quá rồi. Ông chạy tìm giấy mực rồi đuổi vợ ra khỏi phòng người bệnh. Ông muốn tự canh chừng. Rồi ông ngồi xuống cái ghế cạnh giường, giấy đặt trên đầu gối, bút mực trong tay, tìm cách moi từ Grenouille lời xưng tội – dĩ nhiên là về nước hoa. Lạy Chúa, nó đừng im lìm mang theo cái kho tàng trong người! Nó hãy để lại vào giây phút cuối cùng một di chúc nơi người đáng tin cậy để hậu thế không bị mất đi những nước hoa tuyệt diệu nhất tự cổ chí kim! Ông, Baldini này, sẽ thực hiện hết sức trung thực những công thức kinh điển của những nước hoa tuyệt vời hơn mọi nước hoa đã từng biết và sẽ làm rạng rỡ mọi nước hoa của nó.Ông xin thề trước các thánh rằng sẽ gắn chặt các vinh hoa bất tử với tên của Grenouille, phải, ông sẽ dâng lên Đức Vua loại nước hoa tuyệt nhất, đựng trong một lọ con bằng đá mã não có viền vàng trạm trổ và khắc hàng chữ kính dâng của “Jean-Baptiste Grenouille, nhà chế nước hoa của Paris”. Ông nói như thế hay đúng hơn không ngớt thì thầm vào tai của Grenouille, thề thốt, năn nỉ, mơn trớn.

Nhưng đều vô ích. Từ Grenouille chẳng thoát ra được gì khác ngoài cái nước vàng và mủ với máu. Nó nằm câm nín trên nệm hoa, tiết ra cái chất nước ghê tởm kia chứ không phải là kho báu của nó, sự hiểu biết của nó, chẳng có lấy được một công thức nước hoa nào. Baldini muốn bóp cổ nó, muốn đánh nó, muốn nện cho bật từ cái thân thể chờ chết kia sự bí mật quý báu nếu như quả có triển vọng thành công…và nếu ý thức về tình thương đồng loại của một con chiên không kịch liệt phản kháng.

Thế là ông lại tiếp tục êm ái thổi vào tai người bệnh những lời ngọt lịm, vuốt ve và dùng khăn lạnh thấm từ cái trán đẫm mồ hôi và những vết lở nóng như núi lửa, dù phải cố hết sực chịu đựng đến rợn người, rót từng muỗng vang vào miệng nó để làm cho lưỡi nó phát ra tiếng, suốt đêm như thế nhưng công toi. Sáng sớm ra ông bỏ cuộc. Ông kiệt sức buông người xuống ghế trong một góc phòng và, không còn giận dữ nữa mà chỉ còn là cam chịu thầm lặng, nhìn sững cái thân thể Grenouille nhỏ bé chờ chết trên giường phía góc bên kia mà ông không còn có thể vớt vát gì được cho mình, đành chịu bó tay nhìn nó lìa đời như một thuyền trưởng nhìn con tàu của mình chìm mang theo tất cả của cải xuống đáy biển.

Bỗng đôi môi của kẻ chờ chết hé mở, nó nói rõ ràng và chắc chắn chẳng có vẻ gì là của một kẻ sắp lìa đời: “Maitre, xin cho biết có cách nào khác để lấy được hương thơm từ một vật thể ngoài cách ép hay chưng cất không?”

Baldini nghĩ rằng tiếng nói nọ là do ông tưởng tượng hay đến từ thế giới bên kia nên trả lời như máy: “Có đấy”.

“Cách gì?” câu hỏi vọng ra từ giường và Baldini mở choàng đôi mắt mệt mỏi. Grenouille nằm không động đậy trên gối. Cái xác đã nói ư?

“Cách gì?” câu hỏi vang lên và lần này Baldini nhận ra đôi môi Grenouille mấp máy. “Hỏng thật rồi”, ông thầm nghĩ, “đã tới lúc rồi, hoặc là cuồng vì sốt, hoặc là giẫy chết”. Rồi ông đứng dậy, bước tới giường và cúi xuống người bệnh. Nó mở mắt nhìn Baldini cũng với cái nhìn rình rập lạ lùng như ở lần gặp nhau đầu tiên.

“Cách gì?” nó hỏi.

Baldini quyết định sau một lúc do dự, ông không muốn kẻ sắp chết điều mong muốn cuối cùng nên trả lời: “Có ba cách, con ạ. Cách enfleurage à chaud, cách enfleurage à froid và cách enfleurage à l’huile [2]. Chúng trội hơn phương pháp chưng cất về nhiều mặt và người ta dùng để có thể lấy được những mùi hương thanh cao nhất: hương hoa nhài, hoa hồng và hoa cam”.

“Ở đâu?” Grenouille hỏi.

“Ở phía nam”, Baldini đáp. “Nhiều nhất là ở thành phố Grasse”.

“Hay lắm”. Grenouille nói.

Rồi nó nhắm mắt lại. Baldini từ từ đứng dậy, ông quá chán nản, gom lại những tờ giấy không ghi được một dòng nào, thổi tắt nến. Bên ngoài trời đã sáng. Ông hết sức mệt mỏi. Lẽ ra phải mời một linh mục đến, ông thầm nghĩ. Rồi ông đưa tay phải làm dấu thánh giá vội vàng và ra đi.

Còn lâu Grenouille mới chết. Nó chỉ ngủ thật say, mơ thật sâu và hút trở vào những thứ tiết ra trên thân thể. Những vết phồng da bắt đầu khô lại, những vết lở ngưng chảy mủ, những vết loét khép lại dần. Trong vòng một tuần nó khỏi hẳn.

Chú thích:

[1] Ở giai đoạn cuối cùng (tiếng La Tinh).

[2] Các phương pháp lấy hương thơm trong ngành nước hoa: cách lấy nóng, cách lấy lạnh và cách lấy bằng dầu.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,671
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Nó muốn đi ngay xuống miền nam để học ở đó những kỹ thuật mới như ông già đã nói. Nhưng đâu có thể được. Nó chỉ là một đứa học nghề có nghĩa là chẳng là cái thớ gì cả. Nghiêm khắc mà nói, Baldini giải thích sau khi nỗi mừng rỡ ban đầu vì Grenouille sống lại qua đi, nghiêm khắc mà nói thì nó còn kém cả sự chẳng ra cái thớ gì, vì một đứa học việc đúng đắn phải có được gốc gác chính thức đàng hoàng, họ hàng cùng giai tầng xã hội và một giao kèo học nghề mà cả ba thứ đó nó đều không có. Tuy vậy Baldini vẫn muốn giúp nó một ngày kia có được chứng chỉ thợ lành nghề chỉ vì đã cân nhắc cái năng khiếu không dễ có của Grenouille, phẩm hạnh tốt của nó trong tương lai và vì lòng tốt không bờ bến của ông, một điều mà nó không bao giờ có thể phủ nhận, dù rằng lòng tốt ấy thường đem hại đến cho ông.

Dĩ nhiên cần khá lâu, ngót ba năm, để hoàn thành lời hứa của sự hảo tâm này. Trong thời gian ấy có Grenouille trợ giúp, Baldini đã thực hiện được giấc mộng vói cao của ông. Ông thành lập một xí nghiệp ở Faubourg Saint-Antoine, những nước hoa độc đáo của ông được ưa chuộng trong hoàng cung, và ông nhận được đặc quyền của hoàng gia. Nước hoa hảo hạng của ông bán tận sang Petersburg, tới Palermo, tới cả Kopenhagen. Thậm chí một thứ đặc biết có mùi xạ hương rất được ưa chuộng ở Konstaninopel (Istanbul ngày nay) dù họ thừa nước hoa, như Chúa biết đấy. Trong những cửa hàng sang trọng của London cũng thơm nức nước hoa của Baldini như ở trong hoàng cung Parma, trong cung điện ở Warsaw cũng không khác lâu đài của bá tước Von und zur Lippe-Detmold.

Sau khi tưởng đã cam phận sống nốt tuổi già nghèo túng ở Messina, Baldini dứt khoát trở thành nhà chế nước hoa lớn nhất Châu Âu và là một trong những công dân giàu có nhất Paris vào năm ông bảy mươi tuổi.

Đầu năm 1756, lúc này ông đã tậu thêm ngôi nhà bên cạnh trên Pont au Change, chỉ để làm chỗ ở thôi vì ngôi nhà cũ ngập tới tận nóc, không phải nói ngoa, với hương liệu và đồ gia vị, ông ngỏ ý với Grenouille rằng sẵn lòng trả tự do cho gã, tất nhiên chỉ với ba điêu kiện: thứ nhất, trong tương lai gã không chế tất cả nước hoa gã đã chế dưới mái nhà của Baldini, và cũng không đưa công thức cho ai khác; thứ hai là gã phải đi khỏi Paris và sẽ không trở lại khi Baldini còn sống và thứ ba là gã phải tuyệt đối giữ kín hai điều kiện trên. Gã phải thề trước các vị thánh, trước vong linh khốn khổ của mẹ gã và trên danh dự của chính gã.

Grenouille thề ngay dù rằng chẳng hề có danh dự, cũng như chẳng tin vào thánh hay vong linh khốn khổ của mẹ gã. Gã sẵn sàng thề mọi thứ, chấp nhận mọi điều kiện, vì gã muốn có được cái chứng chỉ thợ lành nghề khôi hài để có thể sống kín đáo, đi lại không bị trở ngại và tìm được chỗ làm. Những chuyện khác gã chẳng màng tới. Những điều kiện kia nào có nghĩa gì! Không được trở lại Paris ư? Gã cần gì Paris chứ! Gã biết Paris tới tận ngóc ngách hôi hám cuối cùng, dẫu đi đâu gã cũng đều có Paris trong người từ nhiều năm rồi. Không được chế những nước hoa độc đáo của Baldini, không được trao công thức cho người khác ư? Làm như gã không thể sáng tạo ra hàng nghìn thứ khác tốt bằng và tốt hơn nếu gã muốn! Nhưng gã đâu có muốn? Gã đâu định cạnh tranh với Baldini hay với bất kỳ một nhà chế nước hoa trưởng giả nào. Gã đâu có ý định làm giàu với nghệ thuật của gã ngay cả chỉ để sống cũng thế, khi gã có thể làm cách khác. Gã muốn bộc lộ cái gã tàng trữ trong lòng mà gã cho rằng tuyệt vời hơn tất cả những gì ngoại giới cống hiến, gã không muốn gì khác hơn thế cả. Cho nên điều kiện của Baldini đối với gã không phải là điều kiện.

Gã ra đi vào mùa xuân, một sáng sớm tháng năm. Gã nhận được của Baldini một túi đeo lưng nhỏ, một cái áo thứ nhì, hai đôi tất, một khúc dồi to, một cái chăn thô và hai mươi lăm quan. Baldini nói thế là quá nhiều so với những gì ông có bổn phận cung cấp, nhất là Grenouille không trả tí tiền học nào cho sự đào tạo chu đáo mà gã hưởng. Ông chỉ buộc phải cho gã hai quan tiền đi đường, thế thôi. Nhưng mà ông không thể chối bỏ lòng tốt của mình cũng như tình cảm sâu đậm chất chứa trong trái tim ông trong suốt bao năm dành cho thằng Jean-Baptiste Grenouille giỏi giang. Ông chúc gã nhiều may mắn trong cuộc hành trình và một lần nữa nghiêm khắc cảnh cáo gã đừng quên lời thề. Rồi ông đưa gã tới cổng dành cho người làm, nơi xưa kia ông đã gặp gã, để cho gã đi.

Ông không đưa tay cho gã bắt, cái tình cảm chưa đủ sâu đậm đến thế. Ông chưa bao giờ bắt tay gã. Ông luôn luôn tránh đụng chạm đến gã do một thứ ghê tởm mù quáng như thể có nguy cơ gã làm ông lây bệnh, làm ông ô uế. Ông chỉ nói gọn lỏn adieu[1], Grenouille gật đầu rồi khom người lại, ra đi. Đường phố không một bóng người.

Chú thích:

[1] Vĩnh biệt (tiếng Pháp)
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,671
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


Baldini nhìn theo gã lê bước qua cầu, sang bên hòn đảo, nhỏ thó, khom người, mang cái túi trên lưng như mang cái bướu, nhìn từ sau chẳng khác một ông già. Tới khúc ngoặt của con hẻm nơi toà án tối cao (Parlement) thì gã biến khỏi tầm mắt và ông nhẹ hẳn cả người.

Ông chưa bao giờ mến gã, chưa hề, và bây giờ thì ông có thể dứt khoát thú nhận được rồi. Suốt thời gian ông cho gã ở và moi móc gã, ông không thoải mái tí nào. Ông cảm thấy như một người chân thật lần đầu tiên làm một việc bị cấm đoán hay chơi gian một ván bài. Vẫn biết khả năng làm việc này bị phát giác nhỏ thôi mà triển vọng thành công thì vô cùng to lớn nhưng lòng bất an và lương tâm cắn rứt cũng lớn không kém. Quả thật suốt mấy năm ấy không ngày nào ông không bị đeo đuổi bởi một cái ý nghĩ không vui rằng rồi ông sẽ phải đền bù bằng cách nào đó cho sự giao du với gã. Ước gì được trôi chảy, ông không ngớt lo âu cầu khẩn, ước gì mình có thể gặt hái được sự thành công của việc mạo hiểm này mà không phải đền bù gì! Ước gì mình thành công! Điều tôi làm không đúng thật đấy nhưng Chúa sẽ nhắm mắt làm ngơ, chắc chắn Người sẽ làm ngơ! Trong đời tôi Người đã từng trừng phạt nặng nề nhiều lần mà chẳng vì lý do gì cả thì nếu lần này Người có thái độ làm hoà thì cũng đúng thôi. Tôi đã làm tội gì nào, nếu như quả đó là tội? Cùng lắm là tôi đã hơi vượt quá điều lệ của phường hội qua việc tôi lợi dụng cái năng khiếu tuyệt vời của một thằng thiếu kinh nghiệm và nhận năng lực của gã làm của tôi. Cùng lắm là tôi đã đi trệch một ít khỏi cái con đường mòn truyền thống đầy tư cách của ngành thủ công. Cùng lắm là hôm nay tôi đã làm cái mà tôi lên án ngày hôm qua. Thế đã là tội ác chưa? Có những kẻ bịp cả đời. Còn tôi chỉ mới gian dối vài ba năm nay thôi.

Cũng chỉ tại vì ngẫu nhiên mà cái cơ hội ngàn năm một thưở ấy đến với tôi đấy chứ? Cũng có thể không ngẫu nhiên đâu, có thể chính Chúa đã gởi cái tay phù thuỷ ấy đến nhà tôi để đền bù cho những ngày tôi bị Pélissier và lũ bạn gã hạ nhục. Có thể Chúa không hoàn toàn ưu ái tôi đâu mà chỉ trừng phạt Pélissier thôi! Có thể lắm chứ? Chúa làm cách nào trừng phạt được Pélissier nếu không nâng đỡ tôi? Như thế thì sự may mắn của tôi là phương tiện để Chúa thực hiện sự công bằng và tôi không những được phép mà còn phải nhận mà không cần phải xấu hổ hay hối hận tí nào…

Baldini vẫn thường nghĩ như thế trong những năm qua, sáng sáng khi ông xuống cửa tiệm qua cái cầu thang hẹp cũng như chiều chiều khi ông ôm cái két lên lầu đếm những đồng tiền vàng và bạc nặng trịch và đêm đêm khi ông nằm cạnh cái thân thể gầy đét ngáy vang của vợ, không thể nhắm mắt vì sự may mắn làm ông quá sợ.

Nhưng bây giờ rốt cuộc những ý nghĩ gở ấy qua rồi. Người khách lạ lùng đã đi khỏi và sẽ không bao giờ quay trở lại nữa. Còn sự giàu có ở lại và vững bền mãi mãi. Baldini đặt tay lên ngực, cảm thấy qua làn vải áo quyển sổ nơi trái tim. Sáu trăm công thức đã ghi trong ấy, phải nhiều thế hệ nhà chế nước hoa mới hòng thực hiện được. Nếu như hôm nay ông mất hết tất cả thì trong vòng một năm, chỉ với quyển sổ tuyệt vời này thôi ông sẽ lại giàu. Nói thật, ông còn đòi hỏi gì hơn.

Mặt trời buổi sáng phía trên đầu hồi các nhà đối diện chiếu ánh nắng vàng ấm lên mặt ông. Baldini vẫn nhìn về phía nam, hướng con đường dẫn đến toà án tối cao, cảm thấy thật dễ chịu khi không còn nhìn thấy Grenouille nữa và quyết định sẽ hành hương sang Notre-Dame ngày hôm ấy để cúng một đồng tiền vàng với lòng chan chứa biết ơn, sẽ thắp ba ngọn nến, quỳ xuống cám ơn Chúa đã ban cho ông thừa thãi may mắn và tránh cho ông không bị báo thù.

Nhưng trớ trêu sao lại có chuyện xảy đến giữa chừng. Ngay khi ông định đi sang nhà thờ vào lúc xế trưa thì có tin đồn ầm là Anh đã tuyên chiến với Pháp. Thật ra thì chẳng có gì đáng lo lắng cả. Nhưng đúng hôm ấy Baldini định gởi một chuyến hàng nước hoa sang London nên ông hoãn lại việc đi sang Notre-Dame để vào phố lấy thêm tin tức rồi đi tiếp đến xí nghiệp ở Faubourg Saint-Antoine, huỷ ngay việc gởi hàng sang London. Tối đến nằm trên giường ông nảy ra một sáng kiến thiên tài ngay trước khi đi vào giấc ngủ: nhân cuộc chiến tranh xảy ra để tranh giành thuộc địa ở các nước Tân thế giới, ông định sẽ tung ra một loại nước hoa có tên Prestige de Québec (Uy danh Québec), một mùi thơm quả cảm làm từ nhựa cây mà sự thành công của nó chắc chắn thừa bù đắp cho cái vụ bỏ buôn bán với Anh. Maitre Baldini ngả cái đầu già nua đần độn lên gối, nhẹ cả người với cái ý nghĩ ngọt lịm kia, thấy sức nặng của quyển sổ đè lên ngực dễ chịu hẳn, ông chìm trong giấc ngủ và không bao giờ dậy nữa.

Số là đêm hôm đó xảy ra một tai biến nhỏ mà sau đó ít lâu là lý do để có chiếu chỉ ra lệnh dần dần phá sập mọi nhà trên tất cả các cầu ở Paris: mạn tây của Pont au Change, giữa trụ cầu ba và bốn sụp mà không rõ nguyên nhân. Hai ngôi nhà đổ ụp xuống sông bất ngờ đến nỗi không thể cứu được ai cả. May mắn sao chỉ có hai người chết, Giuseppe Baldini và bà vợ ông, bà Teresa. Những người giúp việc, chẳng biết được phép hay không đều đi ra ngoài cả. Còn Chénier mãi hửng sáng mới chếnh choáng về nhà, đúng hơn phải nói là muốn về nhà vì ngôi nhà không còn ở đó nữa, liền bị suy nhược thần kinh. Ông đã tận tuỵ ba mươi năm ròng với hy vọng được Baldini chọn làm người thừa kế trong di chúc vì ông này không có con cái cũng không thân thích. Bây giờ bỗng nhiên cả gia sản biến mất; tất cả, nhà, cửa hàng, nguyên vật liệu, xưởng, ngay cả Baldini, thậm chí cả tờ di chúc biết đâu lại chẳng để cho ông cái xí nghiệp để làm của riêng!

Chẳng tìm thấy gì cả, xác không, tủ tiền không, quyển sổ với sáu trăm công thức cũng không. Cái duy nhất còn sót lại của Giuseppe Baldini, nhà chế nước hoa lớn nhất Châu Âu, là một mùi trộn lẫn xạ hương, quế, giấm, oải hương và hàng nghìn thứ khác tràn ngập sông Seine từ Paris tới tận Le Havre suốt mấy tuần liền.

Phần 2
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,671
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Vào cái lúc ngôi nhà của Giuseppe Baldini sập thì Grenouille đang trên đường đi đến Orléans. Gã để lại phía sau cái bầu trời mờ đục bao phủ thành phố lớn, cứ mỗi bước xa thêm thì không khí quanh gã trong hơn, tinh khiết hơn, sạch hơn. Cả loãng hơn nữa. Không có cảnh trăm, nghìn thứ mùi dồn dập luân phiên rượt đuổi nhau từng mét một nữa mà chỉ một mùi sẵn có như mùi đường đi cát sỏi, mùi đồng cỏ, mùi đất, mùi cây cối, mùi nước…bất tận trên đồng quê; chầm chậm nở ra, chầm chậm biến đi, không bao giờ đứt đoạn đột ngột cả.

Grenouille thấy sự mộc mạc này như là giải thoát. Những mùi hương nhẹ nhàng mơn trớn gã. Lần đầu tiên trong đời gã không phải cảnh giác rằng với mỗi hơi thở lại phát hiện ra một mùi thù địch mới không ngờ hay để mất đi một mùi dễ chịu. Lần đầu tiên gã gần như có thể thở tự do mà không phải vừa ngửi vừa rình rập. Gọi là gần như vì thật ra chẳng có gì tự do đi qua mũi Grenouille cả. Dù không có chút lý do nhỏ nào nhưng gã luôn luôn thận trọng bẩm sinh khi để cho những thứ bên ngoài lọt vào bên trong gã. Cả đời, kể cả đôi lúc hiếm hoi mà gã được sống trong những thứ tương tự như sự thoải mãn, hài lòng, thậm chí cả may mắn nữa, gã vẫn thích thở ra hơn hít vào như gã đã bắt đầu sự sống không phải bằng một sự hít vào đầy hy vọng mà bằng cái tiếng khóc rùng rợn. Trừ cái hạn chế bẩm sinh này ra thì càng xa Paris bao nhiêu Grenouille càng thấy thoải mái bấy nhiêu, gã cảm thấy dễ thở hơn, bước đi nhanh nhẹn hơn và đôi lúc thẳng người lên được, lúc ấy nhìn từ xa thì thấy gã chẳng khác mấy một gã thợ thủ công, nghĩa là như một người hoàn toàn bình thường.

Gã thấy xa cách con người là giải thoát hay nhất. Ở Paris người ta sống chen chúc hơn bất kỳ đâu trên thế giới này. Sáu, bảy trăm nghìn người sống ở Paris. Họ nhan nhản ngoài đường phố và quảng trường, trong nhà thì đầy ứ từ hầm tới nóc. Không một xó xỉnh nào ở Paris mà con người không trân trối ngó vào, không một khoảnh đất nào mà lại không có hơi người.,

Sang ngày thứ ba của chuyến đi, gã bị hút vào trọng trường mùi của Orléans.

Grenouille phát hiện trong không khí sự tích tụ của con người thật lâu trước khi có bất cứ một dấu hiệu nào cho thấy đang ở gần thành phố và quyết định tránh xa Orléans, ngược với ý định ban đầu. Gã không muốn cái hơi thở tự do vừa mới có được lại sớm bị cái môi trường ngột ngạt của con người ô nhiễm. Gã đi vòng thật xa thành phố, gặp con sông Loire ở Chateauneuf và vượt sông ở Sully. Tới đây thì cũng vừa ăn hết dồi, gã mua một cây khác rồi bỏ dòng sông đi sâu vào đất liền.

Lúc này gã không chỉ tránh thành phố mà tránh cả làng mạc. Gã như bị say bởi cái không khí không ngừng loãng và vắng con người hơn. Chỉ khi nào phải mua thêm đồ ăn gã mới đến gần một khu dân cư hay một nông trại chơ vơ, mua bánh mì rồi lại biến vào rừng. Sau vài tuần thì ngay cả những lần gặp đôi người qua lại trên những con đường khuất nẻo cũng là quá nhiều đối với gã, gã không chịu nổi mùi toát ra từ những nông phu đang cắt vụ cỏ đầu tiên trên đồng cỏ. Gã sợ hãi tránh những đàn cừu, không phải sợ lũ cừu mà để tránh mùi người chăn cừu. Gã băng đại ngang đồng cỏ, sẵn sàng đi vòng hàng dặm nếu ngửi thấy mùi đoàn kỵ binh đang phi về phía gã dù họ còn cách xa gã cả tiếng đồng hồ. vì không hề biết có chiến tranh nên không phải gã sợ bị khám xét hay hỏi giấy tờ và bị bắt lính như những tay thợ thủ công hay bọn du thủ du thực khác mà chỉ vì gã gớm ghiếc mùi người của các kỵ binh. Vì thế kế hoạch đi thật nhanh tới Grasse tự động tan biến dần, chẳng do một quyết định đặc biệt nào, có thể nói là kế hoạch đã hoà tan trong sự tự do như mọi dự tính và kế hoạch khác. Grenouille không muốn đi bất kỳ đâu nữa mà chỉ muốn xa con người.

Cuối cùng gã chỉ còn đi vào ban đêm. Ban ngày gã chui vào các lùm cây thấp, ngủ trong các bụi cây rậm rạp ở những nơi khó vào nhất, cuộn tròn như một con vật, cái chăn thô màu đất nâu trùm kín cả người lẫn đầu, mũi kê giữa khuỷu tay, quay xuống đất để không một chút mùi lạ nào quấy rầy giấc mơ của gã. Gã thức dậy khi mặt trời lặn, đánh hơi khắp mọi hướng và chỉ sau khi đã ngửi thấy chắc chắn rằng người nông phu cuối cùng đã rời khỏi đồng ruộng và ngay cả người bộ hành gan góc nhất cũng đã tìm một chỗ trọ trước màn đêm, chỉ sau khi đêm tối với những nguy hiểm tưởng tượng đã quét sạch con người khỏi vùng đất, Grenouille mới chui ra khỏi chỗ ẩn nấp, tiếp tục chuyến đi. Gã không cần ánh sáng để nhìn. Ngay trước đây, khi còn đi trong ban ngày, gã thường bịt mắt hàng giờ liền và chỉ đi theo cái mũi. Cái bức tranh đồng quê sặc sỡ, sự loá mắt, sự thay đổi bất chợt và sự phải nhìn rõ làm mắt gã đau. Gã chỉ thích ánh trăng. Ánh trăng không có màu và chỉ soi nhạt đường nét địa thế. Ánh trăng phủ mảnh đất với màu xám nhơ nhuốc và bóp nghẹt sự sống được một đêm dài. Cái thế giới trong đêm như được đúc bằng chì, không có gì lay động ngoài ngọn gió thỉnh thoảng như cái bóng đổ xuống những cánh rừng màu xám và không có gì sống trong đó ngoài mùi thơm của đất trần trụi, là cái thế giới duy nhất mà gã chấp nhận vì giống với cái thế giới của tâm hồn gã.

Gã đi về hướng nam như thế đấy. Gọi đại khái là hướng nam thôi vì gã không đi theo la bàn nam châm mà chỉ theo la bàn của mũi gã, nó bảo gã đi vòng mỗi thành phố, mỗi làng, mỗi khu dân cư. Hàng tuần liền gã không gặp một ai. Và gã có thể tự ru ngủ trong niềm tin vững vàng rằng gã là kẻ duy nhất trong cái thế giới tối tăm, được tắm trong ánh trăng lạnh lẽo nếu cái la bàn nhậy bén của gã không chỉ ra điều ngược lại.

Trong đêm cũng có người. Ở trong những vùng hẻo lánh nhất cũng có người. Họ chỉ rút về chỗ trú ẩn ngủ như chuột. Mặt đất chưa hết sạch hơi họ bởi vì ngay trong giấc ngủ họ vẫn phả ra mùi, xuyên qua cửa sổ để ngỏ hay những kẽ hở trong nhà, bay ra ngoài làm uế tạp cái thiên nhiên tưởng chừng không gì đụng đến được. Grenouille càng quen với cái không khí trong lành bao nhiêu thì gã càng nhậy cảm bấy nhiêu với cái mùi người có lần ào đến bất ngờ, hoàn toàn không chờ đợi, kinh tởm như mùi phân bón, tố giác rằng nơi trú chân của người chăn cừu hay lều của người đốt than hay hang của bọn cướp đâu đó quanh đây. Thế là gã tiếp tục chạy, càng ngày càng phản ứng nhậy hơn với cái mùi người ngày càng ít hẳn đi. Và cái mũi gã càng dẫn gã đến những vùng hẻo lánh hơn, xa con người hơn và đẩy gã mãnh liệt hơn về cái cực nam châm của sự cô độc, càng gần càng tốt.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,671
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Cái cực này, tức là điểm xa cách con người nhất trong toàn vương quốc, nằm ở Massif Central, vùng Auvergne, cách phía nam Clermont năm ngày đường, trên đỉnh một ngọn núi lửa cao hai nghìn mét, có tên là Plomb du Cantal.

Cái núi khoáng thạch màu xám chì có hình chóp nón khổng lồ được bao quanh bởi một cao nguyên mênh mông, trơ trụi, mọc toàn rêu màu xám và những bụi cây rậm rạp lè tè cũng màu xám; đây đó dựng lên những tảng đá nhọn màu nâu trông như những cái răng sâu và vài thân cây cháy thành than. Ngay giữa ban ngày vùng này cũng cằn cỗi buồn tẻ đến nỗi người chăn cừu cùng khổ nhất của cái tỉnh vốn nghèo này cũng chẳng thèm xua lũ cừu đến đây. Còn ban đêm, trong ánh trăng sáng nhờ nhờ thì cái cảnh hoang vu như thể bị Chúa bỏ rơi làm cho vùng này có vẻ như thuộc về một thế giới nào khác. Ngay đến tên cướop Lebrun ở Auvergne bị truy nã khắp nơi cũng thà chọn vùng Cévenne để thoát thân rồi bị tóm ở đó và bị tứ mã phanh thây hơn là trốn ở Plomb du Cantal, cho dù chắc chắn ở đó chẳng ai thèm tìm bắt hắn, nhưng cũng chắc chắn là hắn sẽ phải chết đau khổ hơn nữa, đó là chết mòn mỏi trong cô đơn. Chung quanh núi hàng dặm không một bóng người hay một con thú có máu nóng nào trừ vài con dơi, vài con bọ hung và rắn.

Hàng chục năm rồi không ai leo lên đỉnh núi cả.

Grenouille tới chân núi một tối tháng năm năm 1756. Tờ mờ sáng gã đã đứng trên ngọn núi. Gã chưa biết rằng chuyến đi của gã chấm dứt ở đây. Gã vẫn nghĩ rằng đây chỉ là một chỗ dừng chân trên con đường đi đến nơi có không khí trong lành hơn và gã xoay quanh, mũi lướt nhìn phong cảnh hùng vĩ của vùng núi lửa hoang vu, lướt về phía đông nơi có cao nguyên Saint-Flour bao la và những đầm lầy của con sông Riou, và lướt về phía bắc nơi gã phát xuất và đã nhiều ngày đi qua những dãy núi đá vôi, lướt về phía tây nơi ngọn gió nhẹ ban mai mang đến cho gã chỉ một mùi của đá và loại cỏ cứng, sau hết về phía nam nơi những núi con của Plomb trải dài hàng dặm tới tận những hẻm núi tối tăm của sông Truyere. Khắp nơi, phía nào cũng vậy, đều xa con người cả nhưng đồng thời mỗi bước về mỗi phía có nghĩa sẽ lại gần con người hơn, cái la bàn cứ xoay quanh. Nó không còn chỉ phương hướng nữa. Grenouille đã tới đích. Nhưng đồng thời gã đã bị giam giữ.

Khi mặt trời đã lên cao, gã vẫn đứng tại chỗ hếch mũi lên. Với một cố gắng tuyệt vọng, gã đánh hơi tìm xem đâu là hướng con người nguy hiểm có thể đến và đâu là hướng ngược lại để gã chạy trốn tiếp . Hướng nào gã cũng nghi là rồi sẽ phát hiện ra một chút hơi hướng của con người còn ẩn đâu đó. Nhưng chẳng có gì cả. Chỉ là bình yên, bình yên của mùi, nếu có thể nói như thế được. Chung quanh chỉ có tiếng xào xạc khe khẽ do mùi thơm thuần nhất của đá không sự sống, của thạch y xám và của cỏ úa, ngoài ra không còn gì khác.

Phải rất lâu Grenouille mới chịu tin những gì gã không ngửi thấy. Gã không chờ đợi sẽ gặp may. Sự nghi ngại dằng co dai dẳng với nhận thức Thậm chí, khi mặt trời lên, gã dùng đến sự trợ giúp của mắt lục lọi khắp chân trời một dấu hiệu nhỏ nhoi về sự hiện diện của con người, chẳng hạn một mái lều, một làn khói, một bờ rào, một cây cầu, một đàn gia súc. Gã khum tay quanh tai lắng nghe tiếng cắt của lưỡi hái, một tiếng chó sủa hay một tiếng trẻ khóc. Gã ở lì trên đỉnh ngọn Plomb du Cantal suốt ngày hôm ấy trong cái nóng như thiêu đốt, chờ đợi hoài công một dấu hiệu nhỏ nhất. Chỉ khi mặt trời lặn sự nghi ngại của gã mới từ từ nhường chỗ cho một cảm giác phơi phới mạnh dần lên: gã đã thoát khỏi cái mùi xú uế đáng ghét! Gã thật sự hoàn toàn một mình! Gã là con người duy nhất trên thế giới!

Tiếng hò reo ầm ĩ vỡ oà trong con người gã. Như một kẻ bị đắm tàu sau nhiều tuần trôi giạt lênh đênh say sưa chào mừng hòn đảo đầu tiên có người ở, Grenouille ăn mừng đã đến được ngọn núi cô độc. Gã gào lên vì sung sướng. Gã tung hê túi đeo, chăn, gậy và không ngớt dậm chân thình thịch, tay giơ cao, xoay người múa và hét toáng tên gã khắp bốn phương, nắm tay lại, đắc thắng dứ dứ vào cái vùng đất nằm tuốt phía dưới và vào vầng mặt trời đang lặn như thể chính gã xua đuổi nó khỏi bầu trời. Gã hành động như một kẻ điên tới tận khuya.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,671
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


Gã dành mấy ngày sau đó để sắp xếp trên ngọn núi vì gã thấy rõ sẽ không sớm rời khỏi miền đất lành này. Trước hết gã đánh hơi tìm nước và tìm thấy trong một chỗ lõm gần ngọn núi. Nước nhỉ thành một lớp mỏng dọc theo tảng đá vào đấy. Không nhiều nhưng nếu gã kiên nhẫn liếm khoảng một tiếng thì cũng đủ cho nhu cầu trong ngày. Gã tìm thấy cả thức ăn. Đó là những con kỳ nhông nhỏ và rắn khoang mà gã nuốt cả da lẫn xương sau khi đã bứt đầu. Gã ăn thêm thạch y khô, cỏ và những hạt rêu. Theo tiêu chuẩn bình thường thì ăn uống kiểu này hoàn toàn không thể chấp nhận được nhưng lại chẳng làm gã bực mình tí nào. Mấy tuần rồi, mấy tháng rồi gã đâu có sống nhờ vào thực phẩm làm sẵn của con người như bánh mì, dồi, phomát, mà khi thấy đói thì gã ăn tất những gì gã gặp và thấy là ăn được. Gã không phải là kẻ sành ăn. Gã cũng chẳng cần thưởng thức nếu như thưởng thức cốt không phải ở cái mùi thuần tuý vô thể. Gã cũng không cần đến tiện nghi và sẵn sàng hài lòng dựng chỗ ở trên đá trần trụi. Nhưng gã tìm thấy chỗ tốt hơn.

Gần chỗ lấy nước gã phát hiện ra một đường hầm thiên tạo, dẫn sau vào trong núi, qua nhiều khúc quanh hẹp, để sau chừng ba mươi mét thì không đi tiếp được nữa vì đầy đá lở. Ở đó, nơi cuối đường hầm, chật đến nỗi hai vai gã chạm vào đá và thấp đến nỗi gã chỉ có thể đứng lom khom, nhưng ngồi được và nếu gã cong người thì có thể nằm được nữa.

Thế là đáp ứng hoàn toàn cái nhu cầu về tiện nghi của gã. Vì chỗ này có nhiều thuận lợi không lường được: cuối đường hầm thì ngay cả ban ngày cũng tối như mực, tĩnh mịch như bãi tha ma, còn không khí thì ẩm, lạnh và có vị muối. Grenouille ngửi ngay ra là chưa từng có một sinh vật nào vào đấy cả. Khi chiếm chỗ này gã có cảm giác rụt rè thành kính. Gã cẩn thận trải cái khăn thô lên nền đá như thể phủ cái bàn thờ rồi nằm lên trên. Gã thoải mái vô cùng. Gã nằm trong lòng ngọn núi cô quạnh nhất nước Pháp, năm mươi mét dưới mặt đất, như trong nấm mồ của chính gã vậy. Trong đời gã chưa bao giờ cảm thấy an toàn như thế, kể cả khi nằm trong bụng mẹ. Dẫu ngoài kia thế giới có cháy rụi thì ở đây gã cũng chẳng hề biết. Gã khóc thầm. Gã không biết phải cám ơn ai với bấy nhiêu may mắn.

Về sau gã chỉ đi ra ngoài để liếm nước, để giải quyết thật nhanh cái việc tiêu tiểu, để săn thằn lằn và rắn. Dễ tóm được chúng vào ban đêm vì chúng rúc dưới các phiến đá hay chui vào hang và gã tìm dấu chúng bằng mũi.

Mấy tuần đầu gã leo lên đỉnh núi thêm vài ba lượt nữa để đánh hơi phía chân trời. Chẳng bao lâu cái việc này trở thành thói quen chán ngắt hơn là cần thiết vì không lần nào gã ngửi thấy sự đe doạ cả. Cho nên cuối cùng gã bỏ cả các chuyến khảo sát và lo trở về phần mộ cho thật nhanh sau khi đã làm những việc lặt vặt cần thiết nhất cho sự sống còn. Bởi vì ở đấy, trong phần mộ, gã mới thực sự sống. Có nghĩa là gã ngồi hơn hai mươi tiếng trong ngày nơi cuối đường hầm, trên cái chăn thô, hoàn toàn trong bóng tối, im lặng và tuyệt đối không cử động, lưng tựa vào đống đá lở, vai kẹp giữa những tảng đá và không đòi hỏi gì hơn.

Ta biết có những người tìm sự cô quạnh như những kẻ sám hối, những người thất chí, những vị thánh hay những nhà tiên tri. Họ thích rút vào sa mạc, sống bằng cào cào và mật ong. Có người chọn hang động hay am trên những hòn đảo xa xôi, hoặc khác thường hơn, ngồi chồm hổm trong cái cũi treo lơ lửng trong không khí. Họ làm như thế để được gần Thượng Đế hơn. Họ sống khổ hạnh qua cô quạnh, qua đó mà sám hối. Họ làm như thế với niềm tin rằng cuộc sống ấy hợp với ý Thượng Đế. Hay là họ chờ đợi ròng rã nhiều tháng nhiều năm, tin rằng lời rao truyền của Thượng Đế sẽ đến với họ trong cảnh cô độc, để rồi họ sẽ vội vã đem rao giảng trong cõi nhân gian.

Grenouille chẳng có gì giống như thế cả. Gã không nghĩ chút xiú nào đến Thượng Đế. Gã không sám hối cũng chẳng chờ đợi một linh cảm màu nhiệm nào. Gã rút về đây chỉ do một thích thú riêng đó là được gần với chính gã. Gã ngụp lặn trong sự tồn tại không gì làm phân tâm được của gã và thấy tuyệt vời. Gã nằm trong cái phần mộ bằng đá như một xác chết, không thở, tim ngừng đập nhưng lại sống hết sức mãnh liệt và phóng đãng mà chưa một kẻ phóng đãng nào ngoài đời từng sống.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,671
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


Nơi diễn ra sự phóng đãng là cái vương quốc bên trong người gã chứ không thể ở đâu khác, ngay từ khi mới lọt lòng gã đã chôn vào đấy tất cả những đường nét của tất cả mọi mùi mà gã đã gặp. Để phấn chấn, trước hết gã gọi hồn những mùi đầu tiên nằm xa lắc, xa lơ, cái mùi thù địch ẩm ướt trong phòng ngủ ở nhà Madame Gaillard, cái mùi da khô đét của bà, cái mùi chua như giấm của cha Terrier, mùi mồ hôi ấm tình mẫu tử của chị vú Bussie hớt ha hớt hải, mùi xác chết ở Cimetìere des Innocents, mùi chết chóc của mẹ gã. Gã lặn ngụp trong ghê tởm và thù ghét, tóc dựng đứng vì nỗi khiếp sợ đầy khoái cảm.

Thỉnh thoảng, khi mà khai vị với những thứ gớm ghiếc này chưa đủ làm cho tức giận thì gã tạt qua chỗ Grimal, nếm mùi hôi của da sống nhầy nhụa thịt, của nước thuộc da hay gã hình dung đến cái xú khí của sáu trăm nghìn người dân Paris trong cái oi bức ngột thở giữa mùa hè.

Tức thì sự thù ghét bị dồn nén trong người gã bật ra với sự khoái cảm mãnh liệt tột cùng, đó là ý nghĩa của sự tập dượt. Như thể một cơn giông, gã đè bẹp những cái mùi cả gan lăng mạ cái mùi cao quý của gã. Gã quật chúng tới tấp như mưa đá quật đồng lúa, như một cơn bão, gã nghiền nát cái lũ hèn hạ ấy và nhận chìm chúng trong trận đại hồng thuỷ của nước cất để tẩy uế. Sự thịnh nộ của gã chính đáng bao nhiêu thì sự báo thù của gã ghê gớm bấy nhiêu. Ôi chao, cái khoảnh khắc ấy mới tuyệt diệu làm sao! Grenouille, cái thằng người nhỏ bé, run lên vì nôn nao, thân thể gã quằn quại trong sự hứng thú đầy khoái cảm, oằn người lên làm đầu gã đụng tường đá trần hầm để rồi ngồi xuống từ từ, nằm dài ra, thư giãn và hết sức thoả mãn. Thật là thống khoái, cái màn tiêu diệt như vũ bão mọi thứ mùi kinh tởm kia quả là thống khoái…Gã gần như thích màn này nhất trong những tiết mục của đoàn kịch vĩ đại bên trong người gã, vì cái màn ấy đem lại một cảm giác tuyệt vời về sự mệt mỏi chính đáng chỉ có thể có được sau những hành động dũng cảm, thật sự vĩ đại.

Giờ thì gã có quyền nghỉ ngơi một thời gian với lương tâm thanh thản.

Gã duỗi người ra, càng được nhiều càng tốt, trong cái hang đá chật chội. Nhưng bên trong người gã, trên cái tấm nệm đã được quét sạch của tâm hồn, gã thoải mái duỗi hết cả người, thiu thiu ngủ và để cho những mùi thơm thanh tao chơi giỡn với những mùi của gã, chẳng hạn một làn gió nhẹ đậm đà như được đồng cỏ mùa xuân mang đến, hay một ngọn gió tháng năm dịu dàng thổi qua những lá sồi xanh non đầu tiên, hay một làn gió biển có vị đắng của hạnh nhân muối. Xế trưa khi gã nhỏm dậy – gọi là xế trưa vì không có chiều, xế trưa, chiều hay sáng, không có ánh sáng hay bóng tối, cũng không có đồng cỏ mùa xuân hay lá sồi xanh…hoàn toàn không có một vật gì cả ở cái vũ trụ bên trong của Grenouille mà chỉ có mùi thơm của vật thôi (Bởi vậy chỉ là một facon de parler – một cách nói – khi nói về cái vũ trụ ấy như thể là một cảnh vật, dĩ nhiên là tương ứng thôi, đồng thời là cách khả dĩ duy nhất vì ngôn ngữ của chúng ta không diễn tả nổi thế giới của mùi). Vậy là vào xế trưa – gọi thế để ám chỉ thời điểm và trạng thái trong tâm hồn Grenouille – như thông thường ở miền Nam sau giấc ngủ trưa, khi sự tê liệt của buổi trưa từ từ rút khỏi cảnh vật và sự sống lại bắt đầu sau khi thoát khỏi sự chế ngự. Kẻ thù của những mùi thơm tuyệt vời là cái nóng như thiêu đốt đã biến đi, bầy ma quỷ đã bị tiêu diệt. Cảnh vật bên trong phơi trần mềm mại trong cái êm ả khêu gợi của sự tỉnh giấc, nằm chờ đợi ý muốn của chủ nhân.

Như đã nói, Grenouille nhỏm dậy trong vương quốc của gã, vung tay chân cho tỉnh ngủ. Gã, thằng Grenouille bên trong to lớn, đứng lên sừng sững như một người khổng lồ, trông hết sức huy hoàng và vĩ đại, nhìn quanh đầy tự hào và oai vệ, gã thật đáng được chiêm ngưỡng nhưng tiếc thay chẳng có ai trông thấy gã cả.

Phải, đây là vương quốc của gã! Cái vương quốc Grenouille có một không hai! Do gã, Grenouille độc đáo, dựng nên và cai trị, bị tàn phá khi gã muốn, rồi được gã tái lập và mở rộng không cùng, được gã dùng thanh kiếm lửa bảo vệ chống mọi quân xâm lược. Ở đây chỉ có ý muốn của gã ngự trị, ý muốn của Grenouille vĩ đại, tuyệt vời, có một không hai. Bây giờ sau khi những mùi hôi kinh tởm của quá khứ bị quét sạch rồi, gã muốn vương quốc của gã thơm tho. Thế là với những bước chân hùng dũng, gã đi ngang những thửa đất bỏ hoang, gieo mùi thơm đủ loại, chỗ này thừa thãi, chỗ kia tiện tặn, vung từng nắm hạt giống hay bỏ từng hạt vào nơi được chọn trong những đồn điền mênh mông hay những khoảnh đất nhỏ nằm kín đáo. Grenouille Vĩ Đại rảo bước đến tận những vùng hẻo lánh nhất của vương quốc và chẳng bao lâu không còn một góc nào không được người làm vườn hối hả ấy gieo hạt của mùi thơm.

Khi thấy đã được rồi và cả vương quốc đã đầy những hạt giống Grenouille thần thánh rồi thì Grenouille Vĩ Đại cho rơi xuống một trận mưa rượu tinh cất nhẹ nhàng, liên tục, khắp nơi bắt đầu nảy mầm, đâm chồi, nảy lộc làm trái tim rộn rã niềm vui. Rồi đồn điền sum suê lượn sóng và cây ứ nhựa trong những khu vườn nằm khuất. Nụ hoa gần như bật ra khỏi đài hoa.

Thế là Grenouille Vĩ Đại ra lệnh ngừng mưa. Và mưa tạnh thật. Rồi gã phái mặt trời dịu dàng, chính là nụ cười của gã, đi khắp nước; tức thì hàng triệu đóa hoa rực rỡ nở rộ, từ đầu này đến đầu kia của vương quốc, thành một tấm thảm duy nhất đủ màu, đan bởi vô số những bình nước hoa quý giá. Và Grenouille Vĩ Đại thấy hay, rất hay. Và gã thổi gió, là hơi thở của gã, đi khắp nước. Và những bông hoa được mơn trớn toả hương thơm, vô số những hương thơm ấy trộn thành một mùi không ngớt thay đổi nhưng trong sự không ngớt thay đổi vẫn hoà vào nhau thành một mùi thơm tôn kính toàn vẹn dâng lên cho gã, Grenouille Vĩ Đại, Độc Nhất, Tuyệt Vời, đang ngự trên một đám mây thơm mùi vàng, đang phập phồng mũi hít trở lại hơi chính gã đã thở ra, mùi lễ vật làm gã dễ chịu. Và gã hạ cố ban phúc nhiều lần cho tạo vật của gã để rồi được chúng cám ơn với những tung hô và những mùi thơm tuyệt vời. Trong khi ấy thì chiều đến, những mùi thơm tiếp tục toả ra hoà vào màu xanh của đêm thành những khúc nhạc càng lúc càng tuyệt diệu. Một buổi dạ vũ của đủ mọi thứ hương thơm với một buổi bắn pháo bông khổng lồ bằng mùi thơm sắp đến ngay rồi.

Grenouille Vĩ Đại hơi mệt, ngáp và phán “Xem kìa, ta đã hoàn thành một kiệt tác và ta rất hài lòng. Nhưng như mọi thứ toàn hảo, nó bắt đầu làm ta nhàm chán. Ta muốn ra về, vui thú một chút trong những ngăn của trái tim ta để chấm dứt một ngày nhiều việc”.

Grenouille Vĩ Đại phán rồi từ trên đám mây vàng giang đôi cánh rộng, lướt trên cái đất nước đang ở trong đêm tối của tâm hồn gã, trở về ngôi nhà trong trái tim, trong khi đám thần dân mùi thơm ở phía dưới vui vẻ nhảy múa, ăn mừng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,671
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


Chao ơi, thật là thoải mái khi về đến nhà! Quả là mệt vì hai trọng trách: là kẻ báo thù và là người tạo dựng thế giới; sau đó lại để cho chính tạo vật của gã tung hô hàng giờ liền thì còn gì là nghỉ ngơi nữa. Thậm mệt bởi trách nhiệm tạo dựng thiêng liêng và chủ trì buổi lễ, Grenouille Vĩ Đại thèm có được chút vui riêng.

Trái tim của gã là một lâu đài đỏ thẫm nằm trong một sa mạc đầy sỏi đá, khuất sau những đụn cát, bao quanh bởi một ốc đảo bùn lầy và bảy lần tường đá. Chỉ có bay mới đến đó được. Nó có nghìn căn phòng, nghìn căn hầm và nghìn phòng khách sang trọng, một trong số đó có một ghế dài đỏ tía giản dị mà Grenouille đang nằm nghỉ sau một ngày mệt nhọc; lúc này không là Grenouille Vĩ Đại nữa mà chỉ là Grenouille trơn thôi hay đơn giản là anh bạn Jean-Baptiste.

Trong những phòng của lâu đài thì đầy kệ từ nền đến trần, chứa tất cả những mùi mà Grenouille đã sưu tầm trong đời, hàng triệu thứ. Còn những căn hầm chứa những thùng to nước hoa tuyệt nhất trong đời gã. Khi đến tuổi, chúng được hút sang chai, để đầy những hành lang ẩm lạnh dài hàng cây số , sắp theo năm và xuất xứ, nhiều đến nỗi một đời người không đủ để uống hết.

Và cuối cùng khi anh bạn Jean-Baptiste về được đến chez-soi [1] của gã, nằm trên cái ghế dài đơn giản quen thuộc trong phòng khách đỏ tía, giầy ống – cứ gọi như thế - đã được tháo ra, vỗ tay gọi những người hầu của gã, những người hầu ảo vì vô ảnh, không sờ mó được, không nghe thấy được và đặc biệt không ngửi thấy được, ra lệnh cho chúng vào phòng tìm trong cái thư viện mùi đồ sộ, quyển này quyển nọ hay xuống hầm lấy thức uống. Lũ hầu ảo hối hả đi còn bao tử của Grenouille bị thắt lại vì sự chờ đợi hành hạ. Gã có cảm giác như một bợm nhậu ngồi ở quầy rượu bỗng sợ rằng người ta không bán cho hắn ly rượu hắn muốn vì một lý do nào đó. Phải làm gì nếu thình lình các căn phòng và hầm trống trơn? Phải làm gì nếu rượu vang trong các thùng hư hết cả? Tại sao để gã chờ? Bọn hầu sao chưa tới? Gã cần những thứ ấy ngay, cần gấp, gã bị nghiện rồi, gã sẽ chết ngay tại chỗ nếu không có được.

Bình tĩnh nào Jean-Baptiste! Bình tĩnh nào, anh bạn! Chúng mang đến mà, chúng mang đến những gì anh thèm khát. Và lũ hầu bay đến ngay. Chúng mang trên những cái khay vô hình quyển sách mùi, chúng cầm trong bàn tay vô hình đeo gắng trắng những chai quý giá, chúng đặt chai xuống hết sức cẩn thận, rồi cúi chào và biến mất.

Còn lại một mình – có thế chứ! – Jean Baptiste vớ lấy những mùi khao khát, khui chai thứ nhất, rót một ly đầy ắp, đưa lên môi uống. Uống một hơi hết cái ly mùi ướp lạnh; ngon làm sao! Jean-Baptiste khoan khoái đến nỗi trào nước mắt vì đê mê và rót liền ly thứ hai cũng mùi thơm ấy, mùi thơm năm 1752, hớp được vào mùa xuân, trước lúc rạng đông, trên Pont Royal, mũi hướng về phía tây, một làn gió nhẹ từ hướng ấy trộn lẫn mùi biển, mùi rừng và một ít mùi hắc ín của các tàu hàng đang neo bên bờ. Đó là mùi kết thúc cái đêm đầu tiên gã lang thang ở Paris mà không được Grimal cho phép. Đó là cái mùi tươi mát của ngày đang đến, của buổi rạng đông đầu tiên gã được biết trong tự do. Lúc ấy cái mùi đó đã hứa hẹn với gã sự tự do. Nó báo trước cho gã một cuộc đời khác. Đối với Grenouille thì cái mùi của buổi sớm ấy là mùi của hy vọng. Gã cất giữ nó cẩn thận và mỗi ngày mỗi uống.

Sau khi đã cạn ly thứ hai thì mọi bồn chồn, lo ngại và bất an biến mất hết, gã thấy thanh thản lạ lùng. Gã tựa sát lưng vào những cái gối mềm của ghế dài, mở một quyển sách và bắt đầu đọc trong ký ức. Gã đọc về những mùi của thời ấu, những mùi của trường học, đường xá, và những ngóc ngách trong thành phố, của con người. Một sự rùng mình dễ chịu len lỏi qua người gã vì những mùi gã gọi về đó toàn là những mùi đáng ghét đã bị tiêu diệt rồi. Vừa thích thú lại vừa ghê,Grenouille đọc quyển sách về những mùi ghê tởm và khi sự ghê tởm lấn át sự thích thú thì gã gấp sách lại, bỏ qua bên và lấy quyển khác.

Song song, gã uống không ngừng những mùi thơm quý. Sau cái chai mùi thơm hy vọng, gã khui cái chai năm 1744 đựng mùi gỗ ấm phía trước ngôi nhà của Madame Gaillard. Sau chai này, gã uống một chai mùi thơm buổi chiều mùa hè, đậm hương và nặng mùi hoa, góp nhặt được bên lề công viên Saint-Germain-des-Prés năm 1753.

Giờ thì gã đầy mùi thơm. Tay chân đè nặng trên gối. Tâm trí gã mờ mịt tuyệt vời. Nhưng gã đâu đã hết nhậu? tuy mắt gã không còn đọc được nữa, quyển sách đã tuột khỏi tay gã từ lâu rồi, nhưng gã không muốn chấm dứt buổi chiều trước khi uống cạn chai chót, chai tuyệt vời nhất: mùi thơm của cô gái ở Rue des Marais…

Gã uống cái mùi ấy đầy thành kính; để được như thế, gã ngồi ngay ngắn trên ghế dài cho dù khó khăn vì căn phòng đỏ tía đã lắc lư và quay cuồng quanh gã theo mỗi động tác. Gã ngồi như một cậu học trò, hai đầu gối ép sát, hai chân kề nhau, tay trái đặt trên đùi trái; Grenouille uống trong tư thế ấy mùi thơm quý nhất lấy lên từ trong căn hầm của trái tim gã, ly này đến ly khác, và cứ mãi buồn hơn. Gã biết mình quá chén rồi. Gã biết mình không kham nổi bấy nhiêu thứ ngon.Nhưng gã vẫn uống cho đến khi cạn chai, gã xuyên qua cái lối đi tối om từ đường vào sân. Gã tiến lại chỗ quầng sáng. Cô gái đang ngồi cắt những trái mơ. Từ xa vọng lại tiếng nổ của pháo bông và pháo đại…

Gã đặt ly xuống, ngồi như hóa đá thêm mấy phút nữa vì buồn bã, và vì quá chén cho đến khi cái dư vị cuối cùng biến khỏi lưỡi. Gã trố mắt nhìn trân trối trước mặt. Óc gã chợt trống trơn như những cái chai. Rồi gã ngã dài trên ghế và ngủ mê man.

Cùng lúc ấy thì gã Grenouille bằng xương bằng thịt cũng ngủ trên chiếc chăn thô. Và giấc ngủ của gã cũng say như gã Grenouille ở trong hồn, vì kỳ công và sự quá chén của gã này cũng làm gã kia kiệt sức, xét cho cùng thì hai gã cũng là của một con người.

Tất nhiên khi thức giấc thì gã không thức trong căn phòng đỏ tía của cái lâu đài đỏ tía sau bảy lần tường, cũng không trong cái cảnh vật thơm phức mùa xuân của tâm hồn gã mà trên nền cứng của ngục đá tối om nơi cuối đường hầm. Gã đói và khát đến muốn ói, ớn lạnh và khốn khổ như một tay nghiện rượu sau một đêm chè chén. Gã bò ra khỏi đường hầm.

Ngoài trời là một lúc nào đó trong ngày, thường là bắt đầu hay chấm dứt của đêm, nhưng ngay cả lúc nửa đêm thì ánh sao cũng làm mắt gã nhức như bị kim đâm. Gã thấy không khí như đầy bụi, cay sè, cháy phổi, cảnh vật cứng nhắc, gã vấp phải đá. Ngay cả những mùi dịu nhất cũng thành gắt và cay đối với cái mũi gã đã xa lạ với thế giới. Grenouille, con bọ chét, đã trở thành con cua rất dễ bị thương khi nó rời khỏi cái vỏ sò ở nhờ, trần trụi rong chơi trong biển.

Gã đến chỗ lấy nước, liếm cái chất ẩm trên vách đá một, hai giờ liền, chẳng khác gì bị tra tấn vì quá lâu mà suốt thời gian ấy cái thế giới có thật như đốt cháy da gã. Gã lột vài mảng rêu trên đá, cố nuốt, ngồi xổm vừa nuốt vừa ị, nhanh, nhanh, mọi chuyện phải thật nhanh. Rồi chẳng khác một con thú nhỏ, thịt mềm bị lũ diều hâu bay lượn trên không săn đuổi, gã chạy thục mạng về lại hang, tới tận cuối đường hầm, chỗ trải cái chăn thô. Ở đấy gã mới cảm thấy thật an toàn.

Gã tựa lưng vào đống đá lở, duỗi chân chờ đợi. Bây giờ gã phải giữ cơ thể được yên, cho thật yên, như một cái thùng di chuyển quá nhiều có thể bị trào ra. Dần dà gã lấy lại được hơi thở. Trái tim loạn xạ đập chậm trở lại, những đợt sóng bên trong vỗ yếu dần. Chợt nỗi cô đơn đè lên hồn gã như một tấm gương đen. Gã nhắm nghiền mắt. Những cánh cửa bí mật bên trong người gã mở ra, gã bước vào. Buổi trình diễn của gánh kịch bên trong tâm hồn Grenouille bắt đầu.

Chú thích:

[1] Nhà riêng
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,671
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


Cứ như thế ngày nối ngày, tuần nối tuần, tháng nối tháng. Bảy năm dài như thế.

Lúc ấy ở ngoài đời có chiến tranh, thế chiến nữa cơ. Đánh nhau ở Schlesien và Sachsen, ở Hanover và ở Bỉ, ở Boehmen và ở Pommern. Lính của Đức Vua bị chết ở Hessen và ở Westfalen, chết trên quần đảo Balearen, chết ở Ấn độ, ở Mississipi và ở Canada nếu như họ chưa bị chết trên đường viễn chinh vì bị thương hàn.

Cuộc chiến làm cho một triệu người chết, vua Pháp mất thuộc địa mênh mông và các nước tham chiến chịu biết bao tổn phí đến nỗi cuối cùng họ miễn cưỡng quyết định chấm dứt chiến tranh.

Vào một mùa đông của những năm này tí nữa Grenouille bị chết cóng mà không biết. Gã nằm năm ngày liền trong căn phòng khách đỏ tía, khi thức giấc trong hang gã không cựa nổi vì lạnh. Gã định nhắm mắt ngủ tiếp cho chết luôn. Nhưng thời tiết chợt thay đổi làm rã băng và gã thoát chết.

Có lần tuyết dầy tới nỗi gã không đủ sức để bới tìm thạch y. Thế là gã phải ăn toàn dơi chết cứng vì đông lạnh.

Có lần một con quạ chết trước cửa hang, gã ăn luôn. Đó là tất cả những sự kiện mà gã ghi nhận được từ thế giới bên ngoài trong suốt bảy năm. Kỳ dư gã chỉ sống trong trái núi của gã, trong cái vương quốc tự tạo của hồn gã. Và gã sẽ ở đó cho đến chết (vì gã chẳng thấy thiếu thốn gì) nếu như không có một tai hoạ xảy ra, lùa gã khỏi ngọn núi và khạc gã trở lại với thế giới.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,671
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Cái tai họa nọ không phải là động đất, cháy rừng, núi lở hay đường hầm sụt. Nó không phải là cái tai hoạ từ ngoại cảnh mà là từ bên trong nên hết sức chua xót vì nó chặn mất cái lối thoát thân mà Grenouille ưng nhất. Nó xảy ra trong giấc ngủ. Trong giấc mơ thì đúng hơn. Trong giấc mơ, khi gã ngủ trong trái tim tưởng tượng của gã thì càng chính xác hơn nữa.

Lúc ấy gã đang nằm ngủ trên chiếc ghế dài trong phòng khách đỏ tía. Quanh gã là những chai đã cạn. Gã đã uống nhiều lắm rồi, sau cùng lại làm những hai chai mùi thơm cô gái tóc đỏ. Có lẽ như thế là quá nhiều vì lần này dẫu ngủ say như chết gã vẫn mơ thấy những giấc mơ lằng nhằng quái đản. Cái mớ lằng nhằng này rõ ràng là những mảnh của một mùi. Mới đầu chúng kéo ngang mũi Grenouille như một sợi chỉ mỏng manh, rồi phình ra như mây vậy. Lúc ấy gã như thể đứng giữa một cánh đồng hoang có sương mù bốc lên. Sương mù mỗi lúc mỗi dâng cao. Chẳng bao lâu Grenouille bị bao phủ hoàn toàn bằng sương mù, đẫm sương mù và trong làn sương mù ấy không có một chút không khí nào, để khỏi chết ngạt, gã phải hít sương mù ấy. Mà sương mù là một mùi, như đã nói. Và Grenouille biết đó là mùi gì. Sương mù chính là mùi gã. Mũi của gã, của Grenouille, là sương mù.

Mặc dù Grenouille biết đó là mùi của gã nhưng gã lại không ngửi ra nổi, thế mới kinh hoàng. Dù chết đuối trong cái mùi ấy gã cũng không thể nào ngửi ra nổi.

Khi thấy rõ điều đó, gã gào lên khủng khiếp như thể bị thiêu sống. Tiếng gào phá toang tường căn phòng khách đỏ tía, phá tan cả những lớp tường của toà lâu đài, vọt ra khỏi trái tim, băng qua những đường hào, những đầm lầy, những sa mạc, phóng ào ào như một cơn bão lửa trong cảnh vật ban đêm của tâm hồn gã; tiếng gào vang ra từ miệng gã, xuyên suốt đường hầm ngoằn ngoèo tới tận thế giới bên ngoài, vượt cả cao nguyên Saint-Flour như thể chính ngọn núi kêu gào vậy. Grenouille thức giấc bởi tiếng gào của chính gã. Gã đạp lung tung như để xua đi đám sương mù không thể ngửi ra mùi muốn làm gã chết ngộp ấy. Gã sợ gần chết, người run lập cập vì khiếp đảm. Nếu tiếng gào không xé toang màn sương thì gã đã chết đuối trong chính gã rồi, một cái chết khủng khiếp. Nghĩ đến mà toát mồ hôi. Trong lúc ngồi run, thử gom lại những ý nghĩ sợ hãi tản mạn thì gã chắc chắn một điều: gã sẽ phải thay đổi cuộc sống, chỉ vì gã không muốn sống lại một giấc mơ kinh hoàng như thế lần thứ hai. Lần thứ hai chắc chắn gã sẽ không sống sót.

Gã vắt cái chăn thô lên vai rồi bò ra ngoài.

Ngoài kia đang buổi sáng, một sáng cuối tháng hai. Có mặt trời. Đất có mùi đá ướt, rêu và nước. Gió thoảng mùi thơm của thu mẫu đơn. Gã ngồi xổm trên đá trước cửa hang, sưởi nắng. Gã hít làn không khí trong lành. Gã vẫn còn rùng mình khi nghĩ đến làn sương mù mà gã đã chạy thoát và khi thấy ấm ở lưng thì gã lại rùng mình vì sảng khoái. May mà cái thế giới bên ngoài vẫn còn, dẫu chỉ để dùng làm nơi chạy trốn. Không biết phải hình dung sự kinh hoàng như thế nào nếu gã không còn thấy thế giới ở cuối đường hầm? Không ánh sáng, không mùi, không gì cả, chỉ có cái màn sương kinh khủng ấy ở trong, ở ngoài, cùng khắp…

Gã bớt choáng dần. Sự sợ hãi cũng từ từ nới lỏng cái siết và Grenouille cảm thấy an toàn hơn. Tới gần trưa thì gã thản nhiên trở lại. Gã đưa ngón tay trỏ và giữa lên mũi rồi hít hơi qua kẽ ngón tay. Gã ngửi ra không khí của mùa xuân ẩm và đậm đà của thu mẫu đơn. Còn chẳng ngửi thấy gì từ ngón tay cả. Gã lật tay, ngửi lòng bàn tay. Gã cảm thấy bàn tay ấm nhưng không ngửi thấy gì hết. Gã xắn cái tay áo rách buơm lên, gí mũi vào khuỷu tay. Gã biết chỗ này ai cũng có mùi riêng cả. Thế mà gã vẫn không ngửi thấy gì, nách không, chân cũng không mà ở bộ phận sinh dục – gã đã phải gắng hết sức cúi người xuống – cũng không nốt. Thật lố bịch! Gã, Grenouille này, có thể đánh hơi bất kỳ ai ở cách hàng dặm lại không thể ngửi thấy mùi gì ở bộ phận sinh dục của mình chỉ cách một gang tay! Tuy vậy gã không hoảng hốt mà bình tĩnh suy nghĩ rồi tự nhủ như sau: không phải ta không có mùi vì mọi vật đều có mùi. Ta không ngửi ra được ta có mùi chẳng qua vì ta đã ngửi mùi ấy ngày này qua ngày khác từ lúc mới sinh nên mũi của ta đã quá quen đến nỗi không cảm nhận ra cái mùi ấy đấy thôi. Nếu tách được cái mùi của ta, hay chỉ một phần thôi, khỏi cơ thể thì sau một thời gian một thói quen hẳn ta sẽ ngửi ra được cái mùi ấy, nghĩa là ngửi ra chính ta.

Gã để chăn xuống rồi cởi quần áo – những mảnh, những giẻ rách – nghĩa là những gì còn sót lại của quần áo suốt bảy năm gã chưa hề cởi. Chắc chắn chúng phải đẫm mùi của gã chứ. Gã quẳng chúng thành một đống trước cửa hang rồi bỏ đi một quãng xa. Rồi gã lại leo lên đỉnh núi, lần thứ nhất sau bảy năm, gã đứng lại đúng cái chỗ đã đứng lần mới tới, hướng mũi về phía tây, để mặc cho gió rít qua cái thân thể trần truồng. Ý định của gã là để cho bay hết mùi đi rồi hứng đầy gió tây có mùi của biển và những đồng cỏ ẩm ướt để át hẳn mùi gã, như thế sẽ tạo ra sự chênh lệch về mùi giữa gã, Grenouille, với cái đống quần áo, và như thế gã hoàn toàn có khả năng nhận biết rõ rệt. Để cho mùi gã ít vào mũi nhất, gã khom người tới trước, hết sức vươn cổ về phía ngược gió, và duỗi tay ra đàng sau. Trông gã giống như một vận động viên bơi lội sắp nhảy xuống nước.

Gã đứng liền mấy tiếng trong cái tư thế hết sức dị hợm; nắng tuy yếu nhưng cũng đủ làm cho da gã vốn trắng bợt như dòi vì thiếu ánh sáng trở nên đỏ như tôm luộc. Xẩm tối gã xuống lại hang. Gã trông thấy đống quần áo ngay từ xa , còn cách mấy mét gã đã bịt chặt mũi và chỉ bỏ ra khi gã gí sát mũi vào đấy. Gã làm cách ngửi thử như đã học được của Baldini, hít nhanh vào rồi thở ra từ từ. Để bắt được mùi, gã khum hai bàn tay lại như cái chuông trên đống quần áo còn cái mũi là núm chuông. Gã làm đủ cách để ngửi cho ra mùi gã từ đống quần áo. Nhưng không có mùi ấy. Dứt khoát không có. Có cả nghìn mùi khác ở đấy: mùi đá, cát, rêu, nhựa cây, máu quạ, thậm chí mùi dồi gã mua gần Sully mấy năm về trước vẫn còn rành rành. Quần áo này mang một thứ nhật ký về mùi của bảy tám năm qua. Chỉ riêng mùi gã, kẻ đã mang chúng suốt không hề đứt quãng những năm ấy, lại không có.

Giờ thì gã hơi lo. Mặt trời đã lặn. Gã đứng tồng ngồng trước cửa hầm, nơi gã đã sống bảy năm dài ở cái đầu tối tăm kia. Gió lạnh và gã cóng người nhưng gã không nhận thấy mình cóng bởi trong người gã có một cái lạnh đối chọi, đó là sự sợ hãi. Nó không phải sự sợ hãi gã có trong mơ, cái sợ chết – ngạt – bởi – chính – mình quái đản phải tống khứ cho bằng được và gã đã thoát. Nỗi sợ mà gã cảm thấy lúc này là không rõ về chính mình. Nó ngược hẳn với nỗi sợ kia. Gã không chạy thoát nổi nó, mà phải đương đầu. Gã phải biết thật chắc chắn gã có mùi hay không cho dù sự thật kinh hoàng đến đâu đi nữa. Phải biết ngay. Tức khắc.

Gã trở vào trong hầm. Chỉ sau vài mét, bóng tối đã bao trùm gã nhưng gã vẫn đi như trong ánh sáng ban ngày. Gã đi đoạn đường này đã mấy nghìn lần, rõ từng nấc và từng chỗ quanh, ngửi ra từng cây đá lòng thòng như mũi hay từng mỏm đá nhỏ nhất nhô ra. Tìm đường không khó. Chống chọi lại với những hồi tưởng về giấc mơ khiếp sợ bóng tối mói khó, chúng cứ mãi dâng lên như đợt sóng triều theo từng bước gã đi. Nhưng gã can đảm lắm. Có nghĩa là gã lấy cái sợ chưa biết để đối chọi với cái sợ đã biết và gã thành công vì gã biết không có chọn lựa nào khác. Khi đến được cuối đường hầm rồi, nơi mà chỗ đá lở dốc lên, thì hai nỗi sợ biến mất cả. Gã thấy bình thản, đầu óc tỉnh táo còn mũi thì như cái dao mổ đã được mài sắc. Gã ngồi xổm, bịt mắt, ngửi. Nơi đây, trong cái mộ bằng đá xa hẳn thế giới này, gã đã nằm suốt bảy năm. Còn đâu nữa trên thế giới này có mùi gã nếu không phải là ở đây! Gã thở từ từ. Gã kiểm nghiệm thật kỹ. Gã không vội vàng phán đoán. Gã ngồi chồm hổm mười lăm phút. Gã có một trí nhớ không nhầm lẫn nên biết rất rõ bảy năm về trước chỗ này có mùi gì: mùi tinh khiết của đá, lạnh, ẩm và muối vì chưa có sinh vật nào, dù người hay thú, đã từng vào đấy…Nhưng mùi lúc này y hệt trước kia.

Gã còn ngồi xổm thêm một lát nữa, rất bình tĩnh, chỉ hơi gục gặc đầu. Đoạn đi ra, mới đầu còn lom khom rồi thẳng người khi đường hầm đủ cao.

Ra tới ngoài gã khoác lại mớ giẻ rách (giầy gã đã hư từ mấy năm trước), vắt chăn thô lên vai rồi ngay đêm ấy rời khỏi Plomb du Cantal đi về miền nam.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,671
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


Trông gã mới kinh khiếp làm sao! Tóc dài tận khoeo, bộ râu lưa thưa ngang rốn, móng tay như vuốt chim, còn ở những nơi mà mớ giẻ rách không đủ phủ kín tay và chân thì da bong ra từng mảng.

Những con người đầu tiên gã gặp là những nông dân trên cánh đồng gần thành phố Pierrefort, họ la hoảng bỏ chạy khi thấy gã. Nhưng trong thành phố thì gã gây chấn động. Hàng trăm người chạy xúm lại để ngó gã. Có người cho rằng gã là một tên tù đi đầy vượt ngục. Kẻ khác lại bảo gã không thật đúng là người mà lai người và gấu, nghĩa là người rừng. Một người trước đã từng đi biển chắc chắn gã giống người của một bộ lạc da đỏ mọi rợ ở Cayenne bên kia đại dương. Họ dẫn gã ra mắt thị trưởng. Ở đấy gã đưa trình chứng chỉ thợ lành nghề làm mọi người kinh ngạc, với một ít tiếng lắp bắp nhưng hiểu được, gã mở miệng lần đầu tiên sau bảy năm kể rằng trên đường đi gã bị bọn cướp bắt giam giữ suốt bảy năm trong một cái hang. Trong thời gian này gã không hề thấy ánh mặt trời hay thấy người, thức ăn đựng trong giỏ được một bàn tay vô hình thòng xuống trong bóng tối, rồi sau rốt được giải thoát nhờ một cái thang mà gã không hiểu ở đâu ra, và gã cũng như chưa từng thấy mặt bọn bắt cóc lẫn người cứu gã. Gã đã nghĩ ra câu chuyện này vì theo gã dễ tin hơn sự thật; mà đúng thế vì những vụ cướp tương tự không hiếm trong vùng núi ở Auvergne, Languedoc và Cevenne. Dẫu sao viên thị trưởng không mảy may ngần ngại lập biên bản và trình sự vụ lên ngài Marquis de la Taillade-Espinasse, lãnh chúa của thành phố đồng thời là uỷ viên toà án tối cao ở Toulouse.

Ngay từ năm bốn mươi tuổi Marquis đã từ giã lối sống cung đình ở Versailles, rút về thái ấp sống cho khoa học. Ngài đã soạn tác phẩm nổi tiếng về nền kinh tế quốc gia năng động đề nghị bỏ hết mọi thuế thổ trạch và sản phẩm nông nghiệp nhưng ngược lại đánh thuế lợi tức theo cách lũy tiến ngược, như thế bọn nghèo bị nặng nhất và họ sẽ buộc phải phát huy hơn nữa những hoạt động kinh tế. Phấn khởi vì quyển sách thành công, ngài viết một tiểu luận về sự giáo dục trai gái ở lứa tuổi từ năm đến mười, rồi thực hiện những thí nghiệm về nông nghiệp như thử thụ tinh bò trên nhiều loại cỏ để có được một thứ lai tạo động-thực vật cho sữa, một kiểu hoa- vú-sữa. Sau những thành công sơ khởi, khiến ngài mạnh dạn làm pho mát từ sữa cỏ, được viện Hàn lâm khoa học Lyon đánh giá là “có mùi vị của dê tuy hơi đắng”; nhưng rồi ngài phải bỏ thí nghiệm vì phun hàng trăm lít t*ng trùng bò trên khắp đồng cỏ quá ư tốn kém. Dẫu sao, qua làm việc với những vấn đề nông sinh học ngài không chỉ thêm quan tâm đến những thứ gọi là tảng đất cầy mà là đất nói chung và về quan hệ của đất với môi sinh.

Mới vừa ngưng những công việc thực tiễn về hoa- vú-sữa, ngài đã lao ngay vào biên soạn một cảo luận lớn về mối quan hệ giữa vùng tiếp cận đất và sinh lực với sự hăng hái không giảm sút của một nhà nghiên cứu. Luận điểm của ngài là sự sống chỉ phát triển nổi ở một khoảng cách nhất định với mặt đất vì từ đất liên tục tuôn ra một thứ hơi độc gọi là fluidum letale[1] làm cho sinh lực bị tê liệt và không sớm thì muộn sẽ bị tắt hẳn. Do đó, mọi sinh vật đều gắng sức để rời khỏi mặt đất, tăng trưởng bên trên mặt đất chứ không ngược vào trong; cũng như chúng đều hướng những phần quý nhất lên trời: hạt và nhánh lúa, hoa và cành, người và cái đầu, cho nên khi tuổi già làm cho còng xuống thì chúng bó buộc cong thân về lại đất, bị khí độc làm hư hao không cưỡng lại được, để rồi sau khi chết chúng biến thành chính cái hơi ấy trong quá trình phân hoại.

Khi Marquis de la Taillade-Espinasse nghe nói tìm thấy ở Pierrefort một gã sống chui rúc bảy năm ròng rã trong hang, nghĩa là hoàn toàn bị bao quanh bởi môi trường độc hại của đất thì ngài vô cùng thú vị và ra lệnh đưa Grenouille đến ngay phòng thí nghiệm để ngài khám gã thật kỹ. Ngài thấy lý thuyết của mình được chứng thực rành rành hết sức: fluidum letale đã huỷ hoại Grenouille đến độ cái cơ thể mới hai mươi lăm tuổi của gã phơi bày rõ rệt những biểu hiện suy nhược của người già.

Ngài Taillade-Espinasse giải thích rằng việc Grenouille được cho ăn thứ thực phẩm làm từ những loại cây cỏ xa mặt đất, có lẽ là bánh mì hay trái cây, là lý do duy nhất khiến gã thoát chết. Gã chỉ có thể hồi sức như xưa nếu dùng cái máy quạt sinh khí do chính ngài phát minh trục hết cái fluidum kia ra khỏi người gã. Ngài có một cái máy như thế để trong kho của lâu đài ở Montpellier, nếu Grenouille bằng lòng làm đối tượng cho sự thuyết minh khoa học thì không những ngài sẽ giải thoát gã khỏi sự nhiễm độc vô vọng bởi khí đất mà còn cho hắn một số tiền không nhỏ nữa…

Hai giờ sau họ đã ngồi trên xe. Mặc dù đường xá hết sức xấu họ chỉ mất chưa đầy hai ngày để đi sáu mươi bốn dặm tới Montpellier vì tuổi đã cao nhưng Marquis vẫn không tha, đích thân vung roi quật cả ngựa lẫn người đánh xe và không ngần ngại phụ một tay khi trục xe và nhíp bị gẫy nhiều lần, ngài quá phấn khởi với sự khám phá của mình, khao khát được trình diện nó thật nhanh trước một cử toạ có học thức. Còn Grenouille không được rời khỏi xe lấy một lần. Gã phải ngồi ở đấy trong mớ giẻ rách, trùm thêm cái chăn dầy những đất ẩm và bùn. Trong chuyến đi gã được cho ăn rễ cây sống. Bằng cách này ngài Marquis hy vọng sẽ giữ được sự nhiễm độc bởi fluidum của đất trong trạng thái lý tưởng thêm ít lâu nữa.

Tới Montpellier, ngài cho đưa ngay Grenouille đến hầm cung điện của ngài, gởi thư mời đến toàn thể thành viên của đại học Y khoa, của hội những nhà thực vật học, trường canh nông, hội hoá học, hội Tam điểm và những hội của các nhà học giả khác, thành phố này có cả tá hội như thế. Mấy ngày sau, đúng một tuần lễ sau khi giã từ sự cô độc trên núi, gã được đưa lên bệ đại giảng đường đại học Montpellier để giới thiệu với hàng trăm quan khách như là một sự kiện khoa học chấn động trong năm.

Trong bài thuyết trình, ngài Taillade-Espinasse mô tả gã là một bằng chứng sống về sự đúng đắn của lý thuyết Fluidum letale của đất. Ngài vừa giật từng miếng giẻ rách vừa giải thích cái hậu quả tai hại do khí độc đã gây ra trên thân thể Grenouille; ta thấy những mụn mủ và thẹo do khí ăn da, trên ngực một vệt ung thư đỏ tươi và to tướng, da bị thối nát khắp nơi, thậm chí bộ xương biến dạng rõ rệt biểu hiện rành rành qua cái chân quẹo và cái bướu mà nguyên nhân chính là do khí. Nội tạng như lá lách, gan, phổi, mật và đường tiêu hoá cũng bị khí làm thương tổn nặng, điều này được minh chứng rõ rệt qua quan sát phân đựng trong cái chậu đặt dưới chân gã để ai muốn xem thì cứ tự nhiên. Tóm lại, có thể nói được rằng sự tê liệt sinh khí do bảy năm nhiễm độc bởi fluidum letal Taillade[2] tới mức mà cái gã bề ngoài đã mang nhiều nét chú ý như thể chuột chũi kia phải được gọi là một sinh vật gần với cái chết hơn sự sống. Tuy vậy, người thuyết trình dám tin rằng qua cách điều trị bằng quạt gió kết hợp với một chế độ ăn uống kiêng cữ trong vòng tám ngày có thể làm cho cái gã sắp đi gặp tử thần kia hồi sức đến độ ai cũng sẽ nhận ra những dấu hiệu của sự hoàn toàn bình phục; ngài yêu cầu những người hiện diện sau một tuần đến kiểm chứng kết quả của sự dự đóan và điều này tất nhiên sẽ phải được coi là bằng chứng có giá trị về sự đúng đắn của lý thuyết fluidum letale.

Bài thuyết trình thành công lớn. Đám cử toạ thông thái vỗ tay nhiệt liệt tán thưởng diễn giả rồi xếp hàng đi ngang cái bục Grenouille đang ngồi9. Trong cái vẻ tiều tụy được duy trì và những vết sẹo cũ cùng với khuyết tật dị dạng trông gã quả thật hết sức đáng sợ nên ai cũng nghĩ rằng gã đã thối rữa mất một nửa rồi, không thể cứu được nữa cho dù chính gã thấy mình khoẻ và có sức. Vài ông gõ gõ trên người gã không khác chuyên gia, đo, xem miệng và mắt gã. Có người nói với gã, hỏi về cuộc sống trong hang động và tình trạng sức khoẻ hiện giờ của gã. Nhưng gã tuân theo đúng những gì ngài Marquis đã dặn trước nên chỉ đáp lại những câu hỏi nọ bằng một tiếng khò khè yếu ớt, hai tay làm những động tác bất lực chỉ vào yết hầu để tỏ rằng chỗ ấy cũng đã bị fluidum letale gặm nhấm rồi.

Cuộc buổi trình diễn, ngài Taillade-Espinasse lại trùm kín gã, cho chở về nhà kho của lâu đài. Ở đấy, ngài nhốt gã vào cái máy quạt hơi sinh khí trước sự hiện diện của một vài bác sĩ chọn lọc của khoa Y, đây là một cái cũi đóng thật khít bằng những thanh gỗ thông, để tránh khí độc, không khí được hút tuốt từ trên cao qua một ống hơi nhô ra khỏi mái nhà thổi vào cũi rồi thoát ra bằng một nắp da gắn dưới đáy cũi. Lũ gia nhân lo vận hành giàn thiết bị phải giữ cho cái quạt gắn trong ống hút chạy suốt ngày đêm không nghỉ. Rồi trong khi bằng cách ấy luồng không khí dùng để tẩy uế không ngừng bao quanh Grenouille thì cứ mỗi một giờ, qua một ô nhỏ ở vách, gã lại được đưa cho ăn kiêng khem những thứ ở xa mặt đất: canh chim bồ câu, patê chim sơn ca, ra gu vịt trời, mứt trái cây, bánh mì từ loại lúa mì mọc cực cao, rượu vang Pyrénée, sữa sơn dương và kem làm bằng trứng của đan gà nuôi tận trên gác thượng lâu đài.

Sự trị liệu tổng hợp khử độc và phục hồi sinh lực kéo dài liền năm ngày. Rồi ngài Marquis cho tắt quạt, đưa Grenouille vào phòng tắm cho gã ngâm nhiều giờ trong nước mưa ấm và sau hết tắm từ đầu đến chân với xà bông làm từ dầu trái bồ đào mua tận thành phố Potosi ở dãy núi Andes. Gã được cắt móng tay, móng chân, chà răng với vôi Dolomit tán mịn, cạo râu, cắt tóc, chải đầu, uốn tóc và rắc phấn. Thợ may và thợ giầy được gọi đến cắt cho Grenouille một cái áo lụa viền ren trắng, ống tay áo viền đăng ten trắng, tất lụa, áo choàng, quần, áo gi lê bằng nhung xanh, giầy da đen cài khóa thật bảnh và chiếc bên phải khéo che cái bàn chân què. Ngài Marquis tự tay đánh phấn họat thạch trắng lên cái mặt chằng chịt thẹo của Grenouille, bôi môi và gã với sơn đỏ rồi dùng than mềm từ gỗ bồ đề kẻ lông mày của gã cho cong một cách qúy phái. Rồi ngài xịt lên gã cái nước hoa chính ngài vẫn dùng, loại nước hoa đồng thảo kh’a tầm thường, đoạn lùi lại vài bước, mãi một lúc sau mới diễn tả nổi thành lời trầm trồ.

“Monsieur,”ngài nói, “tôi phục tôi hết sức. Thiên tài của tôi làm chính tôi rung động. Chưa bao giờ tôi nghi ngờ sự đúng đắn của cái lý thuyết về khí mà tôi nêu ra, chưa bao giờ, nhưng tôi thật sự rung động khi thấy nó được chứng minh một cách tuyệt vời qua cách trị liệu thực tiễn. Trước kia ông là một con thú, giờ tôi đã biến ông thành người. Khác gì thần thánh đâu. Xin hãy bỏ qua cho sự xúc động của tôi! Mời ông tới soi tấm gương đàng kia! Ông sẽ nhận ra lần đầu tiên trong đời rằng ông là người, tuy không khác thường hay đặc biệt gì nhưng dẫu sao cũng vẫn là một người coi được. Monsieur, hãy soi gương đi! Ông sẽ kinh ngạc về phép lạ tôi vừa hoàn thành nơi ông!”

Đó là lần đầu tiên có người gọi Grenouille bằng “Monsieur”.

Gã đi tới cái gương, soi mình trong đó. Gã chưa từng thấy một cái gương bao giờ. Gã thấy trước mắt một ông trong trang phục xanh loại sang, áo trắng, tất lụa, gã vội cúi đầu như vẫn thường làm trước những ngài sang trọng như thế. Người đàn ông sang trọng nọ cũng cúi đầu và khi Grenouille thẳng người lại thì ông ta cũng làm y hệt, rồi cả hai nhìn nhau chăm chú.

Grenouille kinh ngạc nhất về cái dáng hết sức bình thường của mình. Ngài Marquis nói đúng, trông gã không có gì đặc biệt, không đẹp trai nhưng cũng không đến nỗi quá xấu. Người gã hơi nhỏ, cử chỉ hơi vụng về, gương mặt hơi đờ đẫn, tóm lại, trông gã giống như hàng nghìn người khác. Nếu bây giờ gã đi ra đường hẳn sẽ chẳng ai ngoái cổ nhìn. Giả tỉ mà gã gặp một người như gã bây giờ thì chính gã cũng chẳng thèm chú ý, trừ khi gã chỉ ngửi thấy ở người ấy một chút hoa đồng thảo ngoài ra không còn mùi nào hết như ông nọ trong gương và như chính gã.

Thế là mười ngày trước đám nông phu la hoảng bỏ chạy khi thấy gã. Lúc ấy gã chẳng cảm thấy gì khác bây giờ, còn bây giờ khi nhắm mắt lại gã cũng chẳng thấy khác trước tí nào. Gã hít cái hoi toả ra từ cơ thể, ngửi thấy mùi nước hoa tầm thường, mùi nhung, mùi da giầy mới dán, gã ngửi thấy mùi lụa, phấn bôi mặt, son, thoang thoảng mùi xà bông từ Potosi. Và gã chợt hiểu ra rằng không phải canh chim bồ câu và cái trò quỷ thuật với cái quạt gió đã làm gã trở thành một người bình thường mà hoàn toàn chỉ do ba cái áo quần, bộ tóc và đôi chút trang điểm che đậy.

Gã mở mắt, nhấp nháy và thấy ông nọ trong gương nháy mắt với gã, một nụ cười thoáng trên môi đỏ màu son như để ra hiệu rằng ông ta thấy gã không phải không dễ mến. Còn Grenouille cũng nhận thấy ông nọ trong gương, thấy cái hình dáng không mùi, mặc quần áo, trang điểm kia không đến nỗi tệ, theo gã thì cái hình dáng ấy có thể tác động được vào thế giới bên ngoài nếu bộ mặt kia được giả trang hoàn hảo trong khi gã, Grenouille này, không dám tin rằng sẽ làm nổi. Gã gật đầu với cái hình dáng trong gương và nhận thấy cái hình dáng ấy kín đáo hỉnh mũi trong lúc gật đầu đáp lễ…

Chú thích:.

[1] Fluidum: lưu chất như khí hoặc chất lỏng,; letale: độc (tiếng La Tinh).

[2] Các nhà khoa học dùng tên của họ đặt cho phát minh của mình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,671
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


Hôm sau, torng lúc ngài Marquis đang dạy gã vài thế đứng, vài điệu bộ và bước nhảy tối thiểu cho buổi ra mắt sắp tới trước đông người thì Grenouille giả lên cơn chóng mặt, nhào xuống ghế dài và ngột thở như thể không còn tí sức nào.

Ngài Marquis quýnh lên. Ngài réo gia nhân mang quạt và cái máy thông gió loại gọn nhẹ tới, trong lúc lũ gia nhân hối hả chạy tìm thì ngài quỳ xuống một bên Grenouille, dùng khăn tẩm nước hoa đồng thảo của ngài quạt cho gã, kêu gọi, nói trắng ra là van xin gã đứng dậy, đừng có nhè lúc này mà chết, nếu được, xin đợi đến ngày mốt, bằng không thì sẽ cực kỳ phương hại cho sự sống còn của lý thuyết fluidum letale.

Grenouille vặn vẹo, uốn cong người, thở hổn hển, rên rỉ, xoa loạn xạ cái khăn tay, tuột từ ghế dài xuống nền nhà một cách hết sức bi thảm rồi bò tới cái góc phòng xa nhất. “Bỏ nước hoa này đi!” gã kêu như thể với sức tàn. “Bỏ nước hoa này đi! Nó giết tôi mất!” Sau khi ngài Taillade-Espinasse đã ném cái khăn tay qua cửa sổ và quẳng luôn cả cái áo khoác cũng có mùi hoa đồng thảo vào phòng bên, Grenouille làm ra vẻ bớt và với giọng đã bình thường hơn kể rằng gã có cá mùi nhậy cảm do làm nghề chế nước hoa và mũi gã vẫn thường phản ứng mãnh liệt như thế với một số loại nước hoa, đặc biệt trong lúc đang hồi sức này. Không ngờ mùi thơm một thứ hoa dễ thương như hoa đồng thảo lại kích thích gã mạnh đến thế, gã chỉ có thể giải thích qua lượng tinh chất rễ cây đồng thảo quá cao trong nước hoa của ngài Marquis, rễ cây này mọc dưới đất nên có tác dụng độc hại đôi với một người bị gặm nhấm bởi fluidum letale như gã. Ngày hôm qua, khi được xịt nước hoa này gã đã chóng mặt, hôm nay khi lại ngửi cái mùi rễ lần nữa thì gã như thể bị tống trở lại cái hố ngột ngạt đến kinh hoàng mà gã đã sống ngắc ngoải suốt bảy năm trời. Thể chất gã vì thế đã phản ứng chứ gã không biết phải nói sao hơn, vì sau khi nhờ nghệ thuật của ngài Marquis mà gã được sống là người trong bầu không khí không còn khí độc thì gã thà chết ngay chứ không chịu trở thành nạn nhân của cái fluidum đáng thù ghét kia lần nữa. Ngay lúc này chỉ cần nghĩ đến cái mùi rễ ấy thôi là mọi bộ phận trong người gã thắt lại. Nhưng gã tin tưởng tràn đầy rằng sẽ khỏi ngay tức khắc nếu ngài Marquis cho phép gã chế một loại nước hoa riêng để trục hết cái mùi đồng thảo. Gã nghĩ đến một thứ hết sức nhẹ, như không khí, mà những thành phần chủ yếu đều xa mặt đất như nước của hoa hạnh, nước của hoa cam, khuynh diệp, dầu các cây thông và bách. Chỉ một tia nước hoa ấy trên quần áo, vài ba giọt trên cổ, trên má là gã sẽ không bao giờ còn bị cái cơn chóng mặt làm khổ tâm như gã vừa bị áp chế lúc nãy…

Những gì chúng ta thuật lại rành mạch ở đây là để cho dễ hiểu chứ trong thực tế Grenouille vừa ho, vừa hổn hển, vừa bị tắc hơi không ngớt suốt nửa tiếng đồng hồ làm những lời gã phun ra trở thành khó hiểu, gã phải nhấn mạnh bằng vẻ run lập cập, vung tay và xoay tròn mắt. Điều ấy đã tác động mạnh đến ngài Marquis. Kẻ mà ngài bảo hộ đã trình bày những lý luận khéo léo phù hợp với lý thuyết về fluidum letale nên thuyết phục ngài hơn cả những biểu hiện đau đớn của gã.

Đúng là cái nước hoa đồng thảo rồi! Một thứ gần đất đáng kinh tởm thậm chí ở dưới mặt đất nữa! Có lẽ chính ngài cũng nhiễm độc vì đã dùng nó nhiều năm rồi. Ngài đâu ngờ rằng vì dùng nó mà ngày ngày ngài tự dẫn thân đến chỗ chết. Bệnh thống phong, gáy cứng đơ, của quý xụi lơ, bệnh trĩ, chứng ù tai, răng sâu…tất cả những bệnh ấy của ngài chắc chắn do cái mùi hôi thối của rễ đồng thảo bị nhiễm khí độc. Cái gã nhỏ bé đần độn kia, cái đống khốn khổ trong góc phòng kia đã khiến cho ngài nghĩ ra điều ấy. Ngài quá ư xúc động. Ngài muốn đi lại chỗ gã, nâng gã dậy, ôm gã sát trái tim được soi sáng của ngài. Nhưng ngài sợ vẫn còn phải hít hoa đồng thảo nên lại réo gia nhân, ra lệnh mang hết nước hoa đồng thảo ra khỏi lâu đài, thông khí hết cả lâu đài, khử độc áo quần của ngài bằng máy quạt thông sinh khí và dùng kiệu của ngài đưa ngay Grenouille đến nhà chế nước hoa nổi tiếng nhất thành phố. Grenouille lên cơn chóng mặt chỉ nhằm có thế.

Montpellier có truyền thống lâu đời về ngành nước hoa, tuy gần đây có kém thua so với Grasse, thành phố đối thủ, nhưng vẫn còn có nhiều nhà chế nước hoa và làm găng tay giỏi. Người tiếng tăm nhất là một ông Runel nào đó vẫn cung cấp dầu thơm, xà bông, nước hoa cho ngài Marquis de la Taillade-Espinasse; do quan tâm đến sự buôn bán với gia đình ngài Marquis nên ông sẵn sàng làm cái việc không bình thường là cho tay thợ làm nước hoa lạ lùng ở Paris, được khiêng đến bằng kiệu, được sử dụng xưởng của ông một tiếng đồng hồ. Tay này không để cho ông giảng giải, không để cho ông chỉ ở đâu có vật gì, gã nói biết, rồi, gã sẽ tìm ra, rồi tự giam mình trong xưởng gần một tiếng, trong khi đó thì ông Runel đi cùng với viên quản gia của ngài Marquis đến quán uống vài ly rượu vang, ông được cho biết vì sao người ta không thể ngửi nước hoa đồng thảo của ông được nữa.

Xưởng của ông Runel trang bị thua xa cửa hiệu của ông Baldini ở Paris ngày trước. Vài dăm lọ dầu hoa, ít loại nước và gia vị thì một nhà chế nước hoa trung bình không thể thành công được. Nhưng Grenouille nhận ra ngay qua lần đánh hơi đầu tiên rằng những vật liệu sẵn có đủ dùng cho mục đích của gã. Gã không muốn tạo thành một thứ nước hoa thật thơm, gã cũng không có ý định trộn thứ nước lấy tiếng, cái thứ vượt lên hẳn cái biển nước hoa loại trung bình, làm cho con người thuần phục như thời còn làm cho ông Baldini. Ngay thứ nước thơm đơn giản từ hoa cam như đã hứa với ngài Marquis cũng không phải là mục đích thật của gã. Những tinh dầu thông dụng của cam nê-rô-li, khuynh diệp, lá bách chỉ để che giấu mùi thật sự gã muốn chế: mùi con người. Dù trước mắt chỉ là một mùi thay tạm còn dở nhưng gã muốn sở hữu cái mùi con người mà gã không có. Tất nhiên không có một mùi con người cũng như không có một vẻ mặt con người. Không ai biết rõ hơn Grenouille là mỗi người có một mùi riêng vì gã biết cả hàng nghìn mùi người khác nhau và đã biết đánh hơi ngay từ lúc mớisinh để phân biệt người này người nọ. Ấy thế mà xét về mặt nước hoa vẫn còn một cái chung cơ bản khá tởm lợm cho mùi con người, đơn giản thôi, mồ hôi dầu, mùi chua của pho mát, nó bám chặt mọi người khá đồng đều, bên trên nó bồng bềnh một mảng mây nho nhỏ tinh hoa của từng con người, khác biệt nhau hết sức nhỏ.

Cái tinh hoa này cực kỳ phức tạp, nó là cái mã số không thể nhầm lẫn của mùi từng con người mà nói chung phần đông con người ta không cảm nhận được. Phần lớn con người không biết rằng họ có cái tinh hoa ấy, hơn nữa họ còn làm tất cả để che giấu nó dưới áo quần hay dưới những mùi nhân tạo theo thời. Nhưng họ chỉ quen thuộc cái mùi cơ bản nọ, cái hơi hướng người sơ đẳng nọ, họ chỉ sống và cảm thấy được an toàn trong đó, ai đấy chỉ cần tiết ra cái mùi ghê tởm nọ sẽ được họ coi ngay là đồng loại.

Cái nước hoa Grenouille chế ra hôm ấy rất lạ lùng, chưa từng có trên thế gian từ trước đến nay. Nó không toả mùi như nước hoa mà như một người đang toả mùi. Nếu ai đó ngửi nước hoa này trong phòng tối, người ấy sẽ ngỡ là có một người thứ hai trong phòng. Ai đã có sẵn mùi người rồi mà còn dùng nó thì người này sẽ xuất hiện như thể hai người đối với khứu giác của chúng ta, thậm chí như một sinh vật nhị trùng quái dị, một hình dáng mà người ta không thể xác định rõ rệt vì nó bồng bềnh mờ ảo như một cái hình nằm dưới đáy hồ gợn sóng.

Grenouille chọn trong xưởng của ông Runel những thành tố bất thường nhất để mô phỏng mùi người, gã tự biết là còn lâu mới giống nhưng cũng đủ khéo để đánh lừa người khác.

Sau ngưỡng cửa ra sân sau còn một bãi phân mèo khá mới. Gã lấy nửa muỗng nhỏ cho vào bình trộn, thêm ít giọt giấm và một ít muối đã được giã vụn. Gã tìm thấy dưới gầm bàn một mẩu pho mát to cỡ ngón tay cái, chắc là thức ăn của ông Runel, nó cũ rồi, bắt đầu hư và toả mùi cay xè. Xích phía sau có một thùng cá mòi, gã cạo ở nắp thùng một chút gì đấy có mùi cá ôi, trộn với trứng ung, hải ly hương, amoniac, đậu khấu mài thêm ít sừng và da heo thui xém cắt vụn. Gã thêm khá nhiều xạ hương, trộn những thứ ghê rợn này với rượu cồn, để cho thôi ra rồi lọc sang bình thứ hai. Cái nước hôi khủng khiếp. Nó hôi mùi nước thải, mùi xác rữa, và khi quạt để trộn không khí với mùi bốc lên từ cái chất nọ thì chẳng khác gì anh đứng ở Paris trong một ngày hè nóng nực, ngay góc Rue aux Fers với Rue de la Lingerie, nơi hội tụ những mùi của khu chợ Le Halles, từ Cimetìere des Innocents và từ những căn nhà đầy ứ người.

Phía trên cái nền kinh khủng, giống mùi xác chết hơn mùi người này, Grenouille đổ một lớp dầu tươi của bạc hà, oải hương, nhựa thông, chanh, khuynh diệp mà gã vừa làm dịu vừa khéo che đậy bằng mùi hương phảng phất của dầu những loại hoa quý như phong lữ thảo, hồng, hoa cam và hoa nhài. Sau khi được trộn thêm rượu cồn và một ít giấm thì mùi ghê tởm của cái nền tạo nên dung dịch này biến mất. Cái mùi hôi tiềm phục bị các thành tố tươi át mất cả, không còn nhận ra nữa , mùi kinh tởm đã được mùi hoa thơm tô điểm, trở nên hay ho nữa là khác, mùi xác chết cũng không còn thấy nữa, hoàn toàn không, kỳ lạ thay! Ngược lại một mùi thơm sinh động của sự sống như thể toát ra từ nước hoa ấy.

Grenouille đựng vào hai lọ con, nút lại rồi giấu trong người. Rồi gã lấy nước rửa thật kỹ bình, cối, phễu và muỗng, chùi bằng dầu hạnh đắng để xóa mọi dấu tích của mùi. Gã lấy một bình khác, lẹ làng trộn một loại nước hoa khác, một thứ phó bản, cũng gồm những thành tố tươi và hoa nhưng cái nền thì không chứa tí gì của cái thứ nước kinh khủng cũ mà hoàn toàn bình thường gồm một chút xạ hương, long diên hương, một chút xíu cầy hương và dầu gỗ thuỷ tùng. Mùi nó hoàn toàn khác với cái trước, nhạt nhẽo hơn, vô tội vạ hơn, ít độc hơn vì thiếu những thành tố mô phỏng mùi người. Nhưng khi một người bình thường dùng nó, quyện chặt nó với hơi hám của mình thì nó sẽ không khác gì nữa cái nước hoa Grenouille đã làm riêng cho gã.

Sau khi đã đứng nước hoa thứ hai vào lọ con, gã cởi hết quần áo và vẩy nước thứ nhất lên trên đó. Đoạn gã chấm thêm vào dưới nách, giữa những ngón chân, ở bộ phận sinh dục, lên ngực cổ, tai và tóc, rồi mặc lại áo quần và rời khỏi xưởng
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,671
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


Ra tới đường gã bỗng sợ vì gã biết lần đầu tiên trong đời gã toả mùi người. Gã thấy mình hôi, hôi kinh tởm. Và gã không thể tưởng tượng được rằng người khác không thấy gã hôi, nên không dám đi đến quán rượu gặp ông Runel và viên quản gia của ngài Marquis đang đợi gã ở đấy. Gã thấy nên thử cái tinh hoa mới này ở một nơi không ai biết gã là ai thì đỡ mạo hiểm hơn.

Gã len lỏi qua những ngõ hẻm chật chội và tối tăm nhất xuống bờ sông, nơi đây những người thuộc da, nhuộm vải đặt cơ xưởng và làm những công việc hôi hám của họ. Khi gặp ai đó hoặc đi ngang qua ngưỡng cửa ngôi nhà có trẻ con nô giỡn hay những bà già ngồi chơi, gã cố ý đi chậm lại, mang cái mùi thơm quanh người như một đám mây lớn khép kín và nặng trĩu.

Gã đã quen từ thời niên thiếu rằng người ta đi ngang qua gã mà chẳng hề biết đến sự có mặt của gã, không phải vì họ khinh bỉ như có lần gã tưởng mà vì họ không nhận ra sự hiện diện của gã thật. Không có một không gian nào quanh người gã, từ gã không có sóng vỗ vào bầu không khí như người khác, không có đến cả bóng, để gọi là, hắt vào mặt người khác. Chỉ khi nào gã thình lình đụng phải một ai đó trong đám đông hay ở một góc đường thì mới có một khoảnh khắc của sự nhận biết và thường thì người bị đụng dội lại, kinh hoàng nhìn gã trân trân mấy giây như thể nhìn một sinh vật lẽ ra không được phép hiện hữu, một sinh vật có đó, không thể chối cãi được, nhưng chẳng hiểu sao lại không có đó, rồi chạy xa và lại quên gã ngay…

Nhưng giờ đây, trong những ngõ ngách của Montpellier, Grenouille cảm thấy và nhìn thấy rất rõ rằng gã có tác động vào con người, mỗi lần thấy thế gã đều tràn ngập cảm giác tự hào mãnh liệt. Khi đi ngang qua một người phụ nữ đang cúi xuống giếng, gã nhận thấy bà ta ngẩng đầu lên một khoảnh khắc xem đấy là ai rồi quay lại với chậu nước, hẳn vì bà ta yên tâm. Một người đàn ông lưng quay về phía gã, xoay người lại, tò mò nhìn gã một lúc lâu. Những đứa bé gặp gã, tránh sang bên, không phải vì sợ hãi mà vì để có lối cho gã đi, ngay cả khi chúng vừa từ trong nhà chạy ra, va phải gã, chúng cũng không hốt hoảng mà lách qua như là đương nhiên chẳng khác gì chúng đã biết trước có người tới gần vậy.

Qua nhiều lần gặp gỡ như thế, gã biết đánh giá chính xác hơn sức mạnh và các tác dụng của tinh hoa gã mới có, gã trở nên tự tin hơn, táo bạo hơn.

Gã rảo bước tới gần đám người, đi sát cạnh họ, vung tay hơi xa một tí, chạm tay một bộ hành như thể ngẫu nhiên. Có lần gã làm bộ sơ ý xô vào một ông mà gã muốn vượt. Gã đứng lại, xin lỗi, người đàn ông dừng lại, nhận lời xin lỗi, lại còn cười nữa chứ và vỗ vai Grenouille như chẳng có gì xảy ra cả, trong khi hôm qua chính ông này làm như thể bị sét đánh khi Grenouille thình lình xuất hiện.

Gã rời khỏi những con hẻm, bước đến quảng trường trước nhà thờ Saint-Pierre. Chuông nhà thờ đổ. Người ta chen chúc hai bên cửa chính. Một đám cưới vừa kết thúc. Người ta muốn xem mặt cô dâu. Grenouille chạy lại, lẫn vào đám người. Gã lấn, chen vào trong, gã muốn đến chỗ đông nhất, để được đứng sát sạt giữa đám người, để gí thẳng vào mũi họ mùi của gã. Gã dang tay dang chân giữa đám đông chen chúc, kéo phăng cổ áo để mùi của gã có thể toả ra từ cơ thể mà không bị cản trở…gã vui khôn xiết khi nhận ra rằng người ta chẳng chú ý gì cả, hoàn toàn không, rằng tất cả đàn ông đàn bà, trẻ con đang chen lấn quanh gã đều bị lừa dễ dàng đến thế, hít vào cái mùi hôi của gã pha trộn bậy bạ từ phân mèo, pho mát, giấm mà cho rằng giống với mùi của họ, còn gã, Grenouille này, một thằng lộn giống lại được chấp nhận như một con người.

Gã cảm thấy có một đứa bé sát đầu gối, một bé gái kẹt trong đám người lớn. Gã nâng đứa bé lên, làm bộ săn sóc, bế trên tay để nó nhìn rõ hơn, Người mẹ không những để yên mà còn cám ơn gã nữa và đứa bé hét toáng lên vì thích thú.

Grenouille đứng khoảng mười lăm phút như thế giữa đám đông, ôm một đứa bé lạ sát lồng ngực, giả vờ chăm sóc. Và khi cô dâu chú rể cùng quan khách đi ngang trong tiếng chuông vang dội và tiếng reo hò của đám đông dưới những đồng tiền được ném như mưa thì trong lòng Grenouille cũng bật lên tiếng reo hò, một thứ reo hò quỷ quyệt, một cảm giác chiến thắng hung bạo làm gã run rẩy, mê mẩn như lên cơn dâm đãng và gã phải khó khăn mới kềm nổi để không trút cơn giận dữ lên đám người, hét vào mặt họ như một kẻ chiến thắng rằng gã không sợ họ chẳng thèm ghét họ nữa mà khinh họ tận đáy lòng vì họ đã quá sức ngu ngốc, vì họ đã để cho gã lừa bịp, vì họ chỉ là con số không còn gã là tất cả! Và như để chế nhạo, gã ôm sát đứa bé hơn, lấy hơi cùng hét với mọi người “Hoan hô cô dâu! Cô dâu muôn năm! Hoan hô đôi uyên ương!”

Sau khi đôi uyên ương cùng quan khách đã đi xa và đám đông bắt đầu giải tán, gã trao đứa bé lại cho người mẹ rồi đi vào nhà thờ nghỉ để lấy lại sức sau cơn kích động. Ở đây không khí đầy khói trầm, bốc lên như những cột khói lạnh từ hai bình trầm ở hai bên bàn thờ, thành một tấm khăn phủ lên những mùi mảnh dẻ của những người vừa mới ngồi đây như làm cho chúng chết ngộp. Grenouille ngồi thu mình trên cái ghế dài dưới ban đồng ca.

Gã chợt thấy hết sức hả hê. Không phải say như đã cảm thấy trong cái lần truy hoan đơn độc trong lòng núi đá mà lạnh lùng, điềm tĩnh hợp với sự ý thức về quyền lực mình có. Bây giờ thì gã biết mình có khả năng gì. Nhờ có thiên tài, gã đã nhái được mùi con người với vài phương tiện vặt và thành công liền đến nỗi ngay một đứa bé cũng bị lừa. Bây giờ thì gã biết mình còn có thể làm được nhiều hơn nữa. Gã biết còn có thể hoàn thiện cái mùi nọ hơn. Gã có thể sẽ chế một lọai mùi không chỉ giống mùi người mà còn hơn thế nữa, một thứ mùi của thiên thần, thơm không tả xiết và mãnh liệt để bất cứ ai ngửi cũng sẽ bị mê hoặc và hết lòng yêu gã, Grenouille này, kẻ mang mùi thơm ấy trong người.

Phải, họ sẽ phải yêu gã khi bị mùi thơm ấy thôi miên chứ không phải chỉ chấp nhận gã như cùng đồng loại, yêu tới mức điên cuồng, đến độ dâng hiến, họ phải run lên vì thích thú, gào lên, khóc vì đê mê mà không hiểu tại sao, chỉ cần họ được ngửi gã là họ sẽ quỳ xuống như được ngửi khói trầm lạnh lẽo dâng lên Chúa! Gã muốn là Chúa toàn năng của mùi thơm, không chỉ như gã đã nhiều lần tưởng tượng mà bây giờ trong cái thế giới thật có những con người thật này. Gã biết có thể làm được. Con ngườicó thể nhắm mắt trước sự vĩ đại, trước sự khủng khiếp, trước cái đẹp và có thể bịt tai trước những tiếng du dương hay ầm ĩ. Nhưng người ta không thể trốn mùi thơm. Vì mùi thơm là anh em của hơi thở. Nó theo hơi thở vào người, không cường lại được nếu họ muốn sống. Mùi thơm sẽ đi vào trung tâm của họ, ngay thẳng vào tim để quyết định ở đó một cách dứt khoát về cảm tình hay khinh thường, ghê tởm hay thích thú, yêu hay ghét. Ai mà nắm được mùi sẽ chế ngự được tim của người.

Grenouille ngồi hoàn toàn thư giãn trên ghế nhà thờ Saint-Pierre, mỉm cười. Gã không thấy say sưa khi định kế hoạch chế ngự con người. Mắt gã không ánh lên ngọn lửa cuồng điên, mặt gã cũng không có nét gì rồ dại. Gã không mất trí. Gã rất tỉnh táo và thoải mái khi tự hỏi tại sao gã muốn như thế. Gã trả lời vì gã độc ác, hoàn toàn độc ác. Gã mỉm cười và rất hài lòng. Gã trông vô tội như bất cứ một người hạnh phúc nào.

Gã ngồi khá lâu như thế trong sự im lặng thành kính, hít từng hơi dài cái không khí đẫm mùi trầm. Ngay cả cái mùi cuồn cuộn từ những bình kia cũng không phải trầm thật nữa. Vừa giả với gỗ bồ đề, bột quế, hồ tiêu vừa dở. Chúa này hôi. Vị Chúa này chỉ là một gã tầm thường hôi rình khốn khổ. Vị Chúa này bị lừa dối hay chính Người là một tay bịp bợm, chẳng khác gì Grenouille nhưng dở hơn rất nhiều!
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,671
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33


Ngài Marquis de la Taillade-Espinasse thích thứ nước hoa mới quá. Ngài nói rằng tuy là người phát hiện ra fluidum letale nhưng ngài vẫn sửng sốt khi thấy một món thứ yếu và phù du như nước hoa lại có ảnh hưởng lớn đến thế đến tình trạng sức khoẻ của con người, tuỳ theo nó được làm ra từ những thứ ở gần hay xa đất. Vài giờ trước đây thôi, Grenouille còn nằm kia, tái mét và gần ngất đi thế mà bây giờ đã tươi tỉnh như bất cứ một người khoẻ mạnh nào ở tuổi gã, phải, có thể nói là gã đã được tăng thêm nhân phẩm vậy, bất chấp những hạn chế của một người ít học và thuộc vào đẳng cấp như gã. Dẫu sao ngài, Taillade-Espinasse, sẽ đề cập đến trường hợp này trong chương viết về sự ăn uống kiêng khem để có được sinh khí trong luận văn viết về lý thuyết fluidum letale sắp công bố. Bây giờ ngài muốn được tự bôi nước hoa mới.

Grenouille trao cho ngài hai lọ con đựng thứ nước hoa bình thường và ngài Marquis rẩy lên người. Ngài tỏ ra hết sức hài lòng về nó. Ngài thú nhận rằng sau nhiều năm bị cái nước hoa đồng thảo khủng khiếp kia đè nặng như chì, giờ đây ngài hơi cảm thấy như mọc cánh có đầy hoa và ngài nếu ngài không lầm thì chứng đau đầu gối quỷ quái và bệnh ù tai cũng giảm, nói chung ngài thấy sôi nổi, đầy sức sống và trẻ hẳn. Ngài bước tới ôm chầm lấy Grenouille, gọi gã là “người anh em lưu chất của tôi”, và nói thêm rằng đó hoàn toàn không phải là sự xưng hô giao tế mà thuần tuý mang ý nghĩa tinh thần vì in conspectu universalitis fluidi letalis [1], mọi người đều bình đẳng trước nó và chỉ trước nó mà thôi! Ngài cũng dự tính thành lập ngay một hội quốc tế siêu giai tầng nhằm mục đích chế ngự hoàn toàn fluidum letale, thay thế nó bằng fluidum vital[2] tinh khiết trong một thời gian ngắn nhất và ngài tin rằng sẽ thuyết phục được Grenouille làm người nhập hội đầu tiên; ngài nói những điều trên trong lúc buông tay khỏi Grenouille, hết sức thân thiết như lúc ngài buông tay khỏi một người ngang hàng vậy, không một chút ghê tởm nào.

Rồi ngài cho chép công thức của nước hoa này trên giấy, cất vào người rồi tặng Grenouille năm mươi đồng Louis vàng.

Đúng một tuần sau buổi thuyết trình, ngài Marquis de la Taillade-Espinasse lại giới thiệu kẻ mà ngài bảo trợ trong đại giảng đường đại học. Đông quá trời. Cả Montpellier tới đó, không chỉ giới khoa học mà còn cả giới thượng lưu và chính giới này đông nhất, nhiều mệnh phụ muốn thấy tận mắt cái người ở hang kỳ lạ nọ. Mặc dù những đối thủ của ngài Marquis mà chủ yếu là đại diện của “Hội những người bạn của vườn bách thảo đại học” và hội viên của “Hội tài trợ canh nông” đã ủng hộ mọi hội viên, buổi giới thiệu vẫn thành công vang dội. Trước hết ngài Taillade-Espinasse cho truyền tay hình vẽ người ở hang xấu xí và tiều tuỵ để cử toạ nhớ lại tình trạng của Grenouille một tuần trước. Rồi ngài cho đưa Grenouille vào, trong áo khoác bằng nhung xanh, sơ mi lụa, dồi phấn và tóc uốn quăn, chỉ riêng với cái cách gã đi thẳng người với từng bước khoan thai, lắc mông rất điệu, leo lên bục không cần ai đỡ, cúi thấp người gật đầu mỉm cười chào chỗ này chỗ nọ làm cho mọi kẻ hoài nghi và đả kích câm miệng. Ngay cả “những người bạn của vườn bách thảo đại học” cũng lặng thinh xấu hổ. Sự thay đổi rõ ràng quá. Cái phép lạ ở đây diễn ra hùng hồn quá. Mới tuần trước ở đó còn co rúm một con thú rách nát giờ đứng đó một con người thật sự văn minh, đỏm dáng. Cả giảng đường có một vẻ thành kính và khi ngài Taillade –Espinasse đứng lên thuyết trình thì càng lặng như tờ. Ngài lại khai triển cái lý thuyết quen thuộc ngấy đến tận cổ fluidum letale của trái đất, giải thích đã dùng những phương tiện cơ học và cách ăn uống kiêng khem nào để trục nó ra khỏi cơ thể gã, thay fluidum vital vào đó và sau hết yêu cầu toàn thể cử toạ, dù là bạn hay đối thủ, trước bằng chứng hùng hồn như thế hãy từ bỏ sự chống đối học thuyết mới để cùng với ngài, Taillade-Espinasse, chống lại cái fluidum độc hại nọ, đón chào cái fluidum vital tốt lành. Tới đây ngài dang rộng hai tay, mắt nhắm lại, hướng lên trời, nhiều vị học giả cũng làm theo như thế còn các bà thì khóc nấc lên.

Grenouille đứng trên bục, chẳng thèm nghe. Gã hết sức thoả mãn quan sát tác dụng của một fluidum khác, thật hơn, cái của chính gã. Gã đã bôi rất nhiều nước hoa cho đủ với cái đại giảng đường, vừa bước lên bục, cái tinh hoa của gã đã toả ra mãnh liệt. Gã thấy nó chạm vào những người ngồi hàng đầu, lan tiếp, đến hàng cuối và hành lang; quả thật gã đã thấy bằng mắt nữa cơ. Tim gã rộn lên vì mừng khi thấy người nào bị nó quệt phải cũng đều biến đổi trông thấy. Họ thay đổi nét mặt, thái độ, tình cảm dưới dưới sự mê hoặc của mùi gã mà không biết. Ai trước đó trố mắt hết sức ngạc nhiên nhìn gã, giờ nhìn gã dịu dàng hơn, ai trước đó nhất định ngồi ngả lưng trên ghế, nhăn trán hồ nghi, hai bên mép xệ xuống giờ nghiêng ra trước, thoải mái hơn và mặt giãn ra như mặt trẻ con; ngay trên mặt những người nhát gan nhất, những kẻ kinh hoàng nhất, những vị dễ xúc cảm nhất, những người mà lần trước khiếp hãi nhìn hình dáng gã và lần này còn không ít hoài nghi, cũng hiện lên những dấu hiệu của sự thân mật và cả cảm tình khi mùi gã chạm vào mũi của họ.

Cuối buổi thuyết trình, cả giảng đường hoan hô nhiệt liệt. “Fluidum vital muôn năm! Taillade-Espinasse muôn năm! Hoan hô học thuyết lưu chất! Đả đảo nền y học chính thống!” Đám trí thức của Montpellier, thành phố đại học nổi tiếng nhất miền nam nước Pháp đã gào lên như thế, và ngài Marquis de la Taillade-Espinasse đã sống những giờ phút vinh quang nhất trong đời.

Grenouille từ trên bục leo xuống, đi lẫn trong đám người, gã biết những tung hô kia đúng ra là dành cho gã , cho riêng cho gã, Jean-Baptiste Grenouille, mà thôi dù không ai trong giảng đường biết tí gì.

Chú thích:.

[1] Trước các khí độc phổ quát (tiếng La tinh).

[2] Sức sống.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,671
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34


Gã ở lại Montpellier thêm vài tuần. Gã đã khá nổi tiếng, được mời đến nhiều buổi mạn đàm; ở đấy người ta hỏi gã về đời sống trong hang và về việc gã được ngài Marquis chữa khỏi. Gã cứ phải kể đi kể lại câu chuyện bọn cướp bắt gã, về cái giỏ thòng xuống và về cái thang. Mỗi lần như thế gã đều thêm thắt cho ly kỳ với nhiều tình tiết mới; thế là gã có dịp tập nói, dù rất hạn chế vì trong đời gã chưa bao giờ giỏi về ngôn ngữ, nhưng quan trọng hơn nữa là gã có dịp tập nói dối thành thạo.

Gã nghiệm ra rằng thật ra gã có thể kể bất cứ cái gì gã muốn. Khi họ đã tin thì họ tin tất cả, và họ tin gã qua hơi thở đầu tiên hít vào cái mùi giả tạo của gã. Thế là gã có thêm được một chút vững tin khi giao tiếp với giới thượng lưu mà gã chưa từng có. Sự vững tin này thể hiện cả trên cơ thể nữa. Gã như cao lớn hơn. Cái bướu như biến mất. Gã đi đứng gần hoàn toàn thẳng người. Và khi có ai hỏi chuyện thì gã không rúm người lại nữa mà vẫn đứng thẳng người, nhìn thẳng vào người hỏi chuyện. Tất nhiên, gã không thể trở thành một người lịch duyệt, một kẻ được hâm mộ trong các buổi mạn đàm hay một người phong nhã hoàn toàn trong một thời gian ngắn như thế.Nhưng sự ngượng nghịu và vụng về ở gã giảm thấy rõ, nhường chỗ cho một cung cách được xem là bản tính khiêm tốn hay cùng lắm là hơi nhút nhát bẩm sinh, gây một ấn tượng dễ mến nơi một số quý ông, quý bà; thời bấy giờ thi hiếu trong giới thượng lưu là những gì tự nhiên và một sự dễ thương chất phác.

Một sáng đầu tháng ba, gã thu vén đồ đạc và lén lút bỏ đi ngay khi cổng thành vừa mở, khoác cái áo nâu loại tồi gã mua được ở chợ quần áo cũ hôm trước, đội một cái mũ sờn che nửa mặt.

Không ai nhận ra gã, không ai thấy hay chú ý đến gã vì hôm ấy gã thận trọng không dùng nước hoa. Gần trưa khi ngài Marquis cho điều tra thì bọn lính canh thề sống thề chết rằng họ thấy đủ mọi thứ người ra khỏi thành phố nhưng không thấy cái gã người ở hang nổi tiếng nọ, vì chắc chắn họ phải nhận ra gã ngay. Rồi ngài Marquis cho loan tìn rằng Grenouille được ngài đồng ý cho rời Montpellier đi Paris vì chuyện gia đình. Nhưng trong thâm tâm ngài giận tím ruột vì ngài định chu du khắp vương quốc cùng với Grenouille để thu thêm đồ đệ cho học thuyết lưu chất của ngài.

Sau một thời gian ngài cũng nguôi đi vì danh tiếng của ngài lan rộng mà chẳng cần chu du, gần như ngài chẳng phải làm gì cả. Nhiều bài tràng giang đại hải về fluidum letale Taillade đăng trên Journal des Scavans [1] cả trên Courrier de l’Europe nữa. Rồi những người bị nhiễm độc khí từ những nơi xa xôi đổ về để được ngài chữa. Hè 1764 ngài thành lập “Hội fluidum vital” đầu tiên ở Montpellier với 120 thành viên, hội có chi nhánh ở Marseille và Lyon. Rồi ngài quyết định mạo hiểm lập chi nhánh ở Paris, để từ đây chinh phục toàn thế giới văn minh cho học thuyết của ngài. Nhưng trước đó ngài muốn hoàn thành một kỳ công về lưu chất nhằm mục đích tuyên truyền, hỗ trợ cho cuộc chinh phục, kỳ công ấy sẽ làm lu mờ việc chữa khỏi gã người ở hang và mọi thứ thí nghiệm khác. Đầu tháng chạp ngài làm một chuyến thám hiểm trên ngọn Pic du Canigou với một nhóm môn đệ dũng cảm tháp tùng. Pic du Canigou nằm trên cùng một kinh tuyến với Paris và được coi là ngọn núi cao nhất của rặng Pyrénées. Ngài Marquis, sắp bước vào tuổi lão, muốn được khiêng lên đỉnh núi cao 2800m, ở trên đó suốt ba tuần trong cái hơi sinh khí trong sạch nhất để rồi thành một chàng trai nhanh nhẹn hai mươi tuổi, xuống núi vào Giáng sinh, ngài tuyên bố như thế.

Bọn môn đệ bỏ cuộc ngay sau Vernet, khu dân cư cuộc cùng ngay dưới chân ngọn núi đáng sợ ấy. Song ngài Marquis chẳng sờn lòng. Ngài vứt cả quần áo trong cái lạnh như nước đá rồi lớn tiếng reo hò, lên núi một mình. Rồi người ta chỉ còn thấy cái bóng của ngài, hai tay giơ cao cuồng nhiệt, ca hát và mất hút trong bão tuyết.

Ngày Giáng sinh, đám môn đệ đợi hoài công sự trở về của ngài Marquis de la Taillade-Espinasse. Ngài vẫn không về, dù là ông lão hay là chàng thanh niên. Đầu hè năm sau, những kẻ gan dạ nhất đi tìm, leo tận đỉnh Pic du Canigou vẫn còn rơi tuyết, nhưng không tìm thấy chút gì còn sót lại của ngài, không quần áo, không một phần thân thể, không một mẩu xương.

Nhưng học thuyết của ngài không vì thế mà bị gián đoạn. Ngược lại. Truyền thuyết nhanh chóng lan đi rằng ngài đã thành hôn với sinh khí bất tử trên đỉnh núi, cả hai hoà vào nhau và từ đó trở nên vô hình nhưng trẻ trung mãi mãi, lượn trên đỉnh rặng Pyrénées, ai leo lên với ngài sẽ được phúc của ngài, suốt một năm sẽ không bị đau yếu hay già đi. Cho đến tận thế kỷ 19, học thuyết lưu chất của ngài Taillade được ủng hộ ở một số học viện y khoa và được dùng để trị bệnh ở nhiều hội bí mật. Ngay cả hiện nay ở hai bên rặng Pyrénées vẫn còn có những hội bí mật của những người theo học thuyết Taillade ở Perpignan và Figueras, họ gặp nhau hàng năm để leo lên Pic du Canigou.

Ở đó họ đốt một ngọn lửa thật to, nói là để làm dấu chí điểm [2] và để vinh danh thánh Jean nhưng thật ra là để tỏ lòng tôn kính giáo chủ Taillade-Espinasse của họ với học thuyết lưu chất vĩ đại và để được trường thọ.

Chú thích:.

[1] Tờ báo của những nhà thông thái. Thời xưa scavan dùng chỉ nhà thông thái, thay cho từ savant bây giờ.

[2] chí điểm: ngày bắt đầu mùa hè hoặc mùa đông.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,671
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35


Chuyến du hành đầu tiên trên nước Pháp của Grenouille kéo dài bảy năm nhưng lần này chưa đến bảy ngày. Gã không tránh những con đường tấp nập và thành phố nữa, gã không đi vòng nữa. Gã đã có mùi, có tiền, có cả tự tin và gã đang vội.

Ngay buổi chiều đầu tiên sau khi rời khỏi Montpellier, gã đến Le Grau-de-Roi, một cảng nhỏ ở tây nam của Aigues-Mortes, từ đây gã đi bằng tàu buồm chở hàng đến Marseille. Tới Marseille gã không rời cảng mà tìm ngay một cái tàu chở gã đi tiếp dọc bờ biển phía đông. Hai ngày sau gã đến Toulon, ba ngày nữa gã có mặt ở Cannes. Đoạn đường còn lại gã đi bộ. Gã theo một con đường mòn dẫn lên đồi, vào đất liền về phía bắc.

Hai giờ sau gã đã tới đỉnh đồi, trước mặt gã là một thung lũng trải dài nhiều dặm như một lòng chảo khổng lồ mà thành chảo là những ngọn đồi thoai thoải và những dãy núi lởm chởm, còn đáy chảo là những cánh đồng mói vừa được cày xới, những khu vườn và những lùm cây ô liu. Một khí hậu hoàn toàn riêng, ấm cúng lạ lùng trùm lên đây. Dù gần biển đến nỗi từ đỉnh ngọn đồi này cũng trông thấy được nhưng ở đây không thấy tí gì mùi của biển, không mùi muối, không mùi cát, không trống trải mà tách rời lặng lẽ, như thể biển cách đây những mấy ngày đường. Và mặc dù phía bắc là những rặng núi cao đầy tuyết hẳn còn lâu mới tan thì ở đây không có chút gì khắc nghiệt hay cằn cỗi và cũng không có gió lạnh. Mùa xuân đến sớm hơn ở Montpellier. Một làn hơi ẩm nhẹ nhàng phủ lên những cánh đồng như một cái chuông thuỷ tinh. Những cây hạnh, cây mơ trổ hoa, không khí ấm thơm mùi thuỷ tiên.

Thành phố ở đầu kia cái lòng chảo khổng lồ, cách đây khoảng hai dặm, cheo leo trên sườn núi dốc. Nhìn từ xa không có vẻ gì nguy nga hào nhoáng. Không một thánh đường đồ sộ cao vượt khỏi mọi ngôi nhà, chỉ có một tháp chuông cụt ngọn, không một pháo đài sừng sững, không một toà nhà tráng lệ. Tường thành cũng chẳng có vẻ gì kiên cố, đây đó có những ngôi nhà lấn khỏi đường ranh, phần lớn lấn về đồng bằng làm cho thành phố có một vẻ lôi thôi. Vùng này có vẻ như bị chiếm đi chiếm lại nhiều lần nên chẳng buồn chống trả thật sự những kẻ xâm lấn trong tương lai, nhưng không phải vì yếu mà vì chểnh mảng và vì thấy mình cũng mạnh. Cũng có vẻ như thành phố thấy không cần phải phô trương. Nó làm chủ cái chậu khổng lồ thơm tho dưới chân nó, thế là đủ rồi.

Cái vùng chẳng đẹp đẽ nhưng đồng thời lại đầy tự tin đó là thành phố Grasse mà ai cũng phải thừa nhận là trung tâm buôn bán và sản xuất nước hoa, hương liệu, xà bông, dầu từ hàng chục năm nay. Giuseppe Baldini thường nhắc tên nó với sự say mê và tán tụng. Thành phố này là Rome của mùi thơm, vùng đất hứa của người làm nước hoa, ai không có nổi chút tên tuổi ở đây thì không xứng đáng được gọi là nhà chế tạo nước hoa.

Grenouille hết sức bình thản nhìn xuống thành Grasse. Gã tìm đến vùng đất hứa của người chế nước hoa nên tim gã cũng chẳng rạo rực trước cái thành phố trên sườn núi kia. Gã đến vì được biết ở đây có vài kỹ thuật lấy hương thơm hay hơn, đáng học hơn những nơi khác.Gã muốn học cho mục đích của gã. Gã lấy từ túi lọ nước hoa mang mùi gã, chấm sơ sơ rồi đi tiếp. Một tiếng rưỡi sau, gần trưa, gã có mặt ở Grasse.

Gã ăn trong một quán trọ ở Place aux Aires, phía đầu nằm trên cao của thành phố. Trên một con suối xuyên dọc quảng trường, những người thợ thuộc da rửa da rồi phơi ở đấy. Cái mùi xóc óc làm cho một vài thực khách ăn chẳng thấy ngon lành gì nữa. Riêng Grenouille thì không. Gã quá quen thuộc với mùi ấy, nó tạo cho gã một cảm giác an toàn. Đi qua thành phố nào gã cũng tìm khu thuộc da trước tiên. Để rồi xuất phát từ cái khu hôi thối này đi thăm dò những nơi khác trong thành phố, như thế gã không cảm thấy là người lạ nữa.

Gã đi khắp thành phố suốt buổi xế trưa. Bẩn thỉu không thể tưởng tượng nổi cho dù có rất nhiều nước, có khi bẩn chính vì cả tá nguồn nước và giếng cứ phun nước lên, chảy ồng ộc trong những suối và rãnh không hề được chỉnh dòng xuống thành phố, làm những con hẻm bị xói mòn hay phủ kín bùn. Ở một số khu, nhà cửa san sát đến nỗi chỉ chừa hơn một sải tay cho lối đi và bậc thềm khiến người qua lại bì bõm trong bùn phải ép sát nhau mới có lối đi.

Ngay ở những quảng trường hay một số it đường tương đối rộng cũng không có chỗ cho xe thồ tránh nhau.

Tuy vậy, thành phố này vẫn như muốn bung ra bởi sự làm ăn tất bật mặc bụi bậm, dơ dáy và chật hẹp. Trong lúc đi quanh phố, Grenouille đã thấy ít ra có bảy nhà nấu xà bông, cả tá nhà làm nước hoa và găng tay, vô số những nhà chưng cất nhỏ, xưởng nấu pomát, đồ gia vị và khoảng sáu hay bảy nhà bán sỉ nước hoa.

Họ là những nhà buôn lớn có kho hương liệu thật sự. Thường thì nhà họ cũng chẳng có gì đáng để xem đâu. Mặt tiền những ngôi nhà trông ra đường này cũng khiêm tốn thôi. Nhưng đàng sau là cả một kho tàng mà những bậc vương công không có nổi: trong kho chứa và hầm mênh mông chất thành đống nào thùng dầu, nào xà bông làm từ hoa oải hương, nào bình đựng tinh chất của hoa, rượu vang, cồn, hàng súc da tẩm nước hoa, túi, tráp và hòm đầy ắp đồ gia vị. Grenouille ngửi thấy tất cả qua những bức tường, dù dầy tới đâu. Và khi ngửi kỹ hơn một chút nữa, ngửi qua cả những cửa tiệm và kho hàng tẻ ngắt trông ra đường, gã phát hiện ra những toà nhà thuộc loại xa hoa nhất nằm sau những ngôi nhà tỉnh lẻ bậc trung này. Những khoảnh vườn nhỏ nhưng rất đẹp với những cây trúc đào và cọ tươi tốt, có suối phun róc rách được bao quanh bởi những cây hoa giấy thật dễ thương. Dinh cơ chính thường quay về hướng nam, trải theo hình chữ U quanh những khoảnh vườn ấy, những phòng ngủ ở tầng trên có nắng chan hoà với tường dán lụa, những phòng khách tráng lệ tường ốp gỗ quý ở tầng trệt và những phòng ăn đôi kéo ra tận ngoài vườn như hàng hiên, ở đó người ta ăn bằng đĩa sứ và dao nĩa bằng vàng, đúng như Baldini nói. Những chủ nhân ông của những ngôi nhà khiêm nhường nọ bốc ra mùi của vàng, của quyền lực và của sự giàu có được canh giữ hết sức cẩn thận, về những mặt này thì mùi của họ mạnh hơn tất cả những gì Grenouille đã ngửi thấy trong chuyến đi của gã qua các tỉnh.

Gã dừng lại khá lâu trước một trong những lâu đài nguỵ trang này. Ngôi nhà nằm ngay đầu Rue Droite, một đường lớn chạy suốt từ tây sang đông thành phố. Cũng chẳng có vẻ gì khác thường, mặt tiền hơi rộng và nom khá hơn những nhà bên cạnh nhưng hoàn toàn không đồ sộ. Trước cổng có một cai xe với những thùng gỗ được khuân xuống bệ dốc. Một xe khác đứng chờ. Một người đàn ông cầm giấy tờ đi vào văn phòng rồi cùng với một người đàn ông nữa đi ra, đoạn cả hai biến sau cổng ra vào. Grenouille đứng bên đường đối diện, quan sát. Gã đâu quan tâm gì những chuyện ấy.Nhưng gã vẫn đứng đó. Có một cái gì đấy giữ chặt chân gã.

Gã nhắm mắt lại, tập trung vào những mùi bay sang từ toà nhà trước mặt. Mùi của những thùng gỗ, giấm, rượu vang rồi hàng trăm thứ mùi nặng của kho hàng, rồi mùi của sự giàu có như thể mồ hôi vàng thật mịn rỉ qua tường, rồi đến mùi một cái vườn, chắc chắn phải nằm tuốt phía kia của ngôi nhà. Không dễ chụp được những mùi rồi mảnh của cái vườn vì chúng chỉ lọt qua đầu hồi của ngôi nhà thành những vạt mỏng ra đường. Grenouille ngửi ra mùi của mộc lan, lan dạ hương, thụy hương và đỗ quyên…nhưng hình như còn gì khác nữa, thơm kinh khủng trong cái vườn này, một cái mùi quá tuyệt diệu mà trong đời gã chưa từng được ngửi bao giờ hay mới chỉ được có một lần thôi…Gã phải đến gần cái mùi ấy mới được.

Gã suy nghĩ có nên đi thẳng qua cổng vào trong cái dinh cơ không. Nhưng những người đang khuân xuống và kiểm tra những thùng gỗ đông thế kia thì thế nào họ cũng thấy gã thôi. Gã liền quyết định quay lộn lại, tìm một cái hẻm hay một lối đi dẫn tới bìa toà nhà. Sau vài mét thành phố tới cổng thành ở Rue Droite. Gã băng qua cổng thành, quẹo sát về phía trái, men theo tường thành về phía chân núi. Chẳng bao lâu gã ngửi thấy khu vườn, mới đầu còn thoang thoảng, lẫn với không khí trên đồng nhưng rồi đậm dần lên. Gã biết đang ở gần vườn lắm. Khu vườn nằm sát với tường thành. Còn gã đang ở ngay một bên. Chỉ cần lui lại mấy bước gã có thể nhìn thấy phía trên tường thành những cành cây cam cao nhất.

Gã lại nhắm mắt. Những mùi của khu vườn lao vào gã, đường nét rõ ràng như những giải sắc của cầu vòng. Cái mùi quý hơn cả ma gã theo đuổi cũng lẫn trong đó. Grenouille nóng ran vì đê mê nhưng lạnh vì kinh hoàng. Máu chạy lên đầu, như thể một thằng nhóc làm quấy bị bắt quả tang, rồi trở xuống giữa thân thể, lại chạy lên rồi trở xuống mà gã không làm gì được. Gã bị cái mùi ấy tấn công thình lình quá. Một nháy mắt, một hơi thở đôi với gã bỗng như thể vĩnh viễn, như thể thời gian dài gấp đôi hay biến mất hoàn toàn, vì gã không còn biết bây giờ là bây giờ và đây là đây, hay đúng hơn bây giờ là hồi đó còn đây là nơi đó, Rue des Marais ở Paris, tháng chín 1753, và mùi thơm từ vườn bên bay đến là mùi thơm của cô gái tóc đỏ gã giết hồi đó. Tìm được lại mùi thơm ấy trong thế giới này làm gã sung sướng đến ưá nước mắt, nhưng vì biết rằng không phải như thế nên gã sợ muốn chết.

Gã thấy chóng mặt và hơi lảo đảo, phải tựa vào tường rồi từ từ tuột xuống, ngồi xổm. Sau khi lấy lại sức và định thần, gã bắt đầu hít cái mùi tai ác ấy bằng những hơi ngắn đỡ nguy hiểm hơn. Gã nhận ra rằng cái mùi sau bức tường vô cùng giống mùi cô gái tóc đỏ nhưng không hoàn toàn là một. dĩ nhiên cũng là của một cô gái tóc đỏ, không còn có thể nghi ngờ gì được nữa. Grenouille nhìn thấy cô trong sự tưởng tượng bằng khứu giác của gã như trong một tấm hình trước mặt: cô không ngồi yên mà nhảy tới nhảy lui, người cô nóng lên rồi mát trở lại, có lẽ cô đang chơi một trò chơi khi thì phải vận động nhanh khi phải đứng yên, cô chơi với một người nữa mà mùi người này không có gì đặc biệt. Da cô trắng tuyệt vời. Mắt xanh. Có tàn nhang ở mắt, cổ và vú…nghĩa là…Grenouille nín thở một lúc rồi hít vào rất mạnh, cố gắng đẩy lui cái kỷ niệm về mùi của cô gái ở Rue des Marais…nghĩa là cô bé này chưa có vú theo đúng nghĩa của nó! Chưa bắt đầu nhú. Cái núm hết sức mịn, lấm tấm tàn nhang thơm nhè nhẹ ấy có lẽ mới chớm căng lên vài ngày nay, có khi chỉ mới một vài giờ, không, vừa mới đây thôi! Nói gọn lại: cô gái còn là đứa nhỏ. Nhưng mà đẹp làm sao!

Mồ hôi vã ra trên trán Grenouille. Gã biết con nít không có gì thơm đặc biệt, giống như cái nụ hoa khi chưa nở. Nhưng cái hoa này, cái hoa gần như khép kín sau bức tường kia vừa toả ra chút mùi thơm đầu tiên mà trừ gã ra không ai nhận thấy, vậy mà thơm đến chết người thì khi cái hoa kia đến thời kỳ rực rỡ nhất và toả mùi thơm thì hẳn mùi thơm của nó thế giới chưa từng biết. Ngay bây giờ cô bé đã thơm hơn cô gái ngày trước ở Rue des Marais, Grenouille nghĩ thế, không mạnh, không nhiều bằng nhưng dịu hơn, đa dạng đồng thời tự nhiên hơn. Trong một hai năm nữa cái mùi này sẽ chín và sẽ có một sức hấp dẫn mà không ai cưỡng lại được dù là đàn ông hay phụ nữ. Họ sẽ bị ma lực của cô bé chinh phục, bị tước vũ khí, bó tay thúc thủ mà không hiểu sao. Bởi vì họ ngu, chỉ biết dùng mũi để thở, vì họ tin vào tất cả những gì họ thấy bằng mắt nên họ sẽ nói rằng vì cô bé đẹp,duyên dáng và quyến rũ. Do thiển cận, họ sẽ ca tụng khuôn mặt đều đặn của nàng, vóc dáng thon thả và bộ ngực tuyệt vời. Họ sẽ nói mắt nàng như ngọc bích, răng như ngọc trai, chân tay mịn như ngà và trăm thứ so sánh ngu xuẩn khác. Rồi nước ta sẽ chọn nàng làm nữ hoàng hoa nhài[1], bọn hoạ sĩ truyền thần vớ vẩn sẽ họa chân dung nàng, mọi người sẽ trố mắt nhìn rồi bảo rằng nàng là người phụ nữ đẹp nhất nước Pháp. Và đêm đêm đám thanh niên sẽ ngồi dưới cửa sổ phòng nàng gào khóc trong tiếng đàn mandolin…mấy lão nhà giàu mập ú sẽ quỳ gối, lết trước mặt ông bố van xin được lấy nàng…còn phụ nữ ở mọi lứa tuổi sẽ thờ dài mỗi khi thấy nàng và trong giấc ngủ mơ có được dung nhan quyến rũ như nàng dẫu chỉ một ngày thôi. Không một ai biết rằng h. không bị quyến rũ bởi cái hình dáng mà họ cho là tuyệt sắc của nàng mà chỉ vì cái mùi thơm tuyệt vời không gì so sánh được! Chỉ có gã, một mình gã, Grenouille này, biết sự thật ấy. Biết ngay từ lúc này.

Ôi! Gã muốn có được mùi này! Không phải bằng cái cách vô ích và uổng phí như với mùi thơm của cô gái ở Rue des Marais. Lần đó gã uống ừng ực cái mùi ấy nên đã làm hỏng nó. Không, gã muốn chiếm hữu, thật sự cái mùi thơm của cô bé sau bức tường, lột như lột da để làm thành mùi thơm của gã. Phải làm thế nào thì gã chưa biết. Nhưng gã có hai năm nữa để học. Về cơ bản chắc không khó hơn lấy mùi từ một loại hoa hiếm.

Gã đứng lên. Gần như thành kính bước đi, chẳng khác rời một nơi thiêng liêng hay một cô gái ngủ say, gã khom người, bước thật nhẹ để không ai trông thấy, không ai nghe thấy, không ai chú ý đến báu vật gã đã phát hiện. Gã chuồn dọc theo tường thành đến tận đầu kia của thành phố, ở đây gã không ngửi thấy mùi cô bé nữa, gã trở vào thành phố qua Porte des Fénéants. Gã dừng lại dưới bóng những ngôi nhà. Cái hơi hôi rình của những ngõ ngách làm gã thấy an tâm và giúp gã kềm chế được nỗi đam mê vừa bùng lên. Sau mười lăm phút gã trở lại hoàn toàn bình thường. Gã thì thầm: trước mắt không lại gần khu vườn sát bức tường thành ấy nữa. Không cần thiết. Gã sẽ chỉ bị kích thích thôi. Chẳng cần tới gã bông hoa nọ sẽ khai hoa, khai hoa bằng cách nào thì gã biết cả rồi. Gã không được phép uống say mùi thơm ấy khi chưa phải lúc. Phải bắt tay vào việc trước đã. Gã phải mở rộng sự hiểu biết và hoàn thiện tay nghề, chuẩn bị cho mùa gặt hái. Gã còn những hai năm nữa.

Chú thích:.

[1] Ơ Châu âu, đặc biệt là những vùng chuyên về nông ngiêp, hàng năm thường có những ngày hội về mùa hè, ở đó người ta bầu nữ hoàng hoa, nữ hoàng rượu vang…
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,671
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36


Grenouille tìm thấy trên Rue de la Louve, không xa Porte des Fénéants, một xưởng nhỏ làm nước hoa và xin vào làm.

Được biết là ông chủ, Maitre parfumeur Honoré Arnulfi đã chết vào mùa đông vừa rồi, còn lại một mình bà vợ góa tóc đen, nhanh nhẩu, chừng ba mươi tuổi, tiếp tục việc kinh doanh với sự giúp đỡ của một người thợ phụ.

Sau khi đã than thở chán chê về thời buổi khó khăn và tình trạng kinh tế bấp bênh, Madame Arnulfi cho biết lẽ ra bà không đủ điều kiện thuê thêm một thợ phụ nữa, mặt khác lại rất cần thiết cho những việc sắp tới, nhà bà không thể chứa thêm được một người nữa, tuy vậy bà có cái chòi nhỏ nằm trong vườn ô liu đàng sau tu viện dòng Franciscain, cách đây chưa đến mười lăm phút, có thể để cho một người dễ tính ngủ tạm. Ngoài ra, là một bà chủ thành thật, bà biết rõ trách nhiệm phải lo cho thợ ăn uống đàng hoàng nhưng mặt khác bà không đủ khả năng bảo đảm ngày đủ hai bữa ăn nóng được, nói gọn lại, Madame Arnulfi là một người phụ nữ có của và có đầu óc kinh doanh. Grenouille đã ngửi thấy cả từ lâu rồi. Bởi vì tiền đối với gã không phải là điều chính yếu nên gã bằng lòng với tiền công hai quan một tuần cùng với những điều kiện ít ỏi khác mà hai bên thoả thuận nhanh chóng. Tay thợ phụ kia được gọi đến, đó là một gã đàn ông khổng lồ tên Druot và Grenouille đoán ngay ra rằng hắn thường chung chăn gối với bà chủ và bà ta không quyết định một số chuyện nào đấy nếu không thảo luận trước với hắn. Hắn đứng trước mặt Grenouille khiến gã trông lại càng nhỏ đến độ khôi hài, hắn dạng chân làm xông ra một đám mây sặc mùi tinh dịch, nhìn gã soi mói, nhìn xoáy vào mắt gã như để tìm ra bằng cách ấy những âm mưu xảo trá hay biết đâu một tình địch, rồi nhếch mép cười khinh thị, gật đầu tỏ ra đồng ý.

Mọi chuyện như thế là xong. Grenouille nhận được một cái bắt tay, một bữa ăn nguội cho buổi chiều, một cái chăn và chìa khóa của cái chòi; gã ra sức sắp xếp lại cái chòi không cửa sổ đậm mùi dễ chịu của phân cừu để lâu và cỏ khô. Hôm sau gã bắt đầu làm việc cho Madame Arnulfi.

Lúc này đang mùa thuỷ tiên. Madame Arnulfi cho trồng hoa trên những thưở đất nhỏ riêng của bà trong cái lòng chảo phía dưới thành phố hoặc mua lại từng lố[1] của nông dân mà bà cò kè từng nửa xu một. Hoa đã được đem đến xưởng bằng giỏ từ sáng sớm tinh mơ, đổ thành đống hàng chục nghìn cái hoa thơm mà nhẹ bẫng này. Trong khi đó Druot hâm lỏng mỡ heo và mỡ bò thành một thứ nước lỏng sền sệt trong một cái nồi to tướng, rồi trong lúc Grenouille không ngừng quấy đều bằng một cái khuấy dài như cái chổi thì hắn không ngừng đổ hoa vào đấy.

Hoa nổi chừng một giây trên mặt nồi, trông như những con mắt trợn trừng kinh hoàng chờ chết, rồi tái lại khi bị cây khuấy khoắng xuống dưới và bị mỡ ấm bọc lại. Gần như ngay lúc ấy chúng nhũn ra, héo đi và chắc cái chết đến với chúng khá nhanh nên chúng không có lựa chọn nào khác hơn là trút hơi thở dài thơm tho cuối cùng của chúng vào chính cái môi trường làm cho chúng chết đuối, bởi vì Grenouille càng xoáy xuống nhiều hoa bao nhiêu thì mỡcàng thơm bấy nhiêu, gã quan sát điều này với một sự thích thú không sao tả được. Không phải những hoa chết tiếp tục toả hương trong mỡ mà chính mỡ đã chiếm đoạt mùi hương của hoa.

Thỉnh thoảng nước mỡ trở nên quá đặc, họ phải đổ gấp vào một cái rây lớn, lấy ra những xác hoa không hồn, thay hoa tươi vào đấy. Rồi lại đổ hoa vào, lại khuấy, lại rây; suốt ngày như thế không nghỉ vì công việc không cho phép chậm trễ, cho đến khi xẩm tối khi tất cả đống hoa đã vào nồi. Bã hoa không bỏ đi vì không có gì bỏ phí cả. Chúng được tưới nước sôi rồi cho vào máy ép, vắt đến giọt cuối cùng, cũng được một thứ dầu thơm nhè nhẹ. Nhưng phần lớn mùi thơm, cái hồn của cả một biển hoa, nằm lại trong nồi, bị bọc kín và bảo quản trong cái khối mỡ trắng xám trông chẳng đẹp mắt tí nào đang từ từ đặc lại.

Hôm sau cái quy trình được gọi là ngâm bấy này lại tiếp tục; lại hâm nồi lên, mỡ chảy ra và lại cho hoa vào. Nhiều ngày liền như thế, từ sáng đến tối. Công việc rất mệt nhọc. Tối đến khi Grenouille lảo đảo bước về lều thì tay gã như thể đeo chì, hai bàn tay rộp lên còn lưng thì đau như dần. Druot khoẻ chắc gấp ba gã nhưng không khuấy hộ lần nào, chỉ lo đổ hoa nhẹ như bông vào nồi, canh chừng lửa và thỉnh thoảng chạy đi làm một ly gì đó giải khát. Nhưng Grenouille không hề phàn nàn, gã khuấy từ sáng đến tối, không chút than phiền và cũng không thấy cực tí nào vì cái quy trình diễn ra trước mắt và mũi không ngừng quyến rũ gã: sự tàn lụi mau chóng của hoa và sự hấp thụ mùi thơm của mỡ.

Sau một thời gian, Madame Arnulfi nói rằng mỡ bão hoà rồi, không thể tiếp tục hấp thụ mùi thơm được nữa. Họ tắt lửa, rây cái nước đặc sệt lần chót rồi rót vào những lọ sành; nước đặc lại rất nhanh thành pomát thơm tuyệt.

Bây giờ tới lúc Madame Arnulfi trổ tài; bà tới kiểm nghiệm cái sản phẩm quý giá kia, dán nhãn rồi ghi thật chính xác vào sổ sách thu hoạch theo phẩm chất và số lượng. Sau khi tự tay nút kín những lọ sành, gắn miệng lọ lại và đem cất dưới hầm lạnh, bà mói mặc đồ đen, đeo khăn tang và đi một vòng đến các nhà bán sỉ và các nhà buôn nước hoa trong thành phố. Bà trình bày hoàn cảnh đơn chiếc của mình với các nhà buôn bằng một giọng nao lòng, để rồi được họ đề nghị giá, rồi bà so sánh, rồi thở dài bằng lòng bán hoặc không. Hương thơm dưới dạng pomát để lạnh giữ được lâu. Nếu bây giờ chưa được giá thì biết đâu mùa đông, mùa xuân tới giá lại chẳng lên. Thay vì bán cho bọn cò kè này tại sao không cân nhắc có nên cùng với những nhà sản xuất nhỏ khác gửi một chuyến tàu chở pomát đi Genua hay chung nhau một đoàn xe đi dự hội chợ mùa thu ở Beaucaire, vẫn biết là mạo hiểm đấy nhưng nếu trúng thì lời lắm. Madame Arnulfi cân nhắc kỹ càng những khả năng trên, có khi phối hợp chúng với nhau, rồi bán một phần, phần còn lại bà thử thời vận. nếu qua thăm dò mà nhận thấy thị trường tràn ngập pomát và trước mắt không khan hiếm, nghĩa là bà chẳng được lợi lộc gì thì bà sẽ chạy về nhà gấp đến bay cả khăn tang và bảo Druot đem rửa hết chỗ pomát với cồn, biến chúng thành essence absolue.

Thế là pomát lại được khuân từ dưới hầm lên để rửa bằng cách hâm nóng thật cẩn thận trong nồi đậy kín, cho thêm vào rượu tinh cất loại nhất rồi trộn thật kỹ với một đồ khuấy gắn sẵn trong thùng do Grenouille sử dụng. Sau khi mang xuống hầm, dung dịch nọ nguội thật nhanh, mỡ đông lại tách khỏi rượu, rượu được chắt vào chai. Nó gần như là một loại nước hoa nhưng hết sức đậm trong khi bã còn lại của pomát còn trong nồi đã bị mất phần lớn các mùi thơm. Mũi thơm của hoa thế là được chuyển sang một môi trường khác. Chưa hết. Sau khi lọc cẩn thận với khăn the để giữ lại hết mỡ, kể cả những cục nhỏ nhất, Druot chuyển rượu sang một nồi chưng nhỏ, chưng thật chậm trên lửa liu riu. Sau khi cồn bay hết, trong bình cổ cong chỉ còn lại một chút chất lỏng màu tái mà Grenouille quá quen thuộc nhưng chưa từng được ngửi dưới dạng tuyệt hảo và nguyên chất thế này: dầu của hoa, cái mùi thơm không còn bị gì che đậy, trăm nghìn lần đậm đặc để trở thành ít giọt essence absolue. Mùi của tinh dầu này không còn dễ chịu nữa. Nó nồng, hăng xóc óc. Nhưng chỉ cần một giọt thôi, hoà trong một lít cồn, thì mùi thơm của hoa sẽ sống dậy, mùi thơm của cả một cánh đồng hoa.

Được rất ít. Chỗ chất lỏng trong bình chưng cất kia chỉ vừa ba lọ con. Mùi thơm của cả hơn trăm nghìn hoa thu lại không hơn ba lọ con. Nhưng đó là cả một gia tài, ngay cả ở Grasse này. Khi được gửi đi Paris, Lyon hay Grenoble, Genua hoặc Marseille thì còn biết mấy lần hơn! Mắt madame Arnulfi nhoà đi khi nhìn thấy những lọ con ấy, bà vuốt ve chúng bằng mắt và khi cầm lên để nút lại bằng nút thuỷ tinh mài vừa vặn thì bà nín thở để không một chút gì của cái chất quý báu kia bị thổi mất. Sau khi nút lại, bà lấy sáp lỏng gắn nút cho kín rồi chụp lên bằng một bong bóng cá, cột thật chặt chỗ cổ lọ để không thể một nguyên tử mùi thơm nào còn thoát đi được. Rồi bà đặt chúng trong hộp con lót bông, đem xuống hầm, khóa kỹ.

Chú thích:

[1] một lố khoảng 17g.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,671
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37


Tháng tư họ ngâm bấy kim tước chi và hoa cam, tháng năm ngâm cả một biển hoa hồng đến nỗi thành phố như chìm suốt một tháng trong một màn sương vô hình ngọt ngào mùi thơm. Grenouille làm việc như ngựa. Gã cam chịu làm mọi công việc tầm thường mà Druot giao cho với một sự sẵn sàng gần như nô lệ. Nhưng trong những lúc gã ra vẻ khờ khạo khuấy, quết, lau rửa bồn, quét chùi xưởng và khuân củi thì không một khâu quan trọng nào, không một chút gì trong sự biến thái của mùi thơm lọt khỏi sự chú ý của gã. Với cái mũi, Grenouille theo dõi và trông chừng sự chuyển mùi từ những cánh hoa sang mỡ, rồi cồn cho đến khi đóng vào các lọ còn chính xác hơn cả Druot nữa. Trước khi Druot kịp nhận ra thì gã đã ngửi thấy lúc nào mỡ quá nóng, lúc nào hoa đã bị rút kiệt, lúc nào chất lỏng đã bão hoà mùi thơm, gã ngửi thấy cái gì đang diễn biến bên trong bình trộn cũng như lúc nào ngưng quy trình chưng cất là đúng nhất. Thỉnh thoảng gã cũng góp ý nhưng dĩ nhiên là không khẳng định mà vẫn giữ cung cách người dưới. Chẳng hạn như nói rằng gã thấy có vẻ như mỡ hơi quá nóng chăng hoặc gã nghĩ rằng có thể rây được rồi đấy, hoặc gã có cảm tưởng là cồn đang bay hơi trong bình chưng cất…Druot tuy không thông minh gì lắm nhưng cũng không phải hoàn toàn ngu đần, dần dần nhận ra rằng hoặc tự hắn làm hoặc để làm theo cái điều mà Grenouille “nghĩ rằng” hay “có cảm tưởng” sẽ có kết quả tốt nhất. Bởi vì Grenouille không bao giờ nói ra điều gã “nghĩ rằng” hay “có cảm tưởng rằng” một cách ta đây hay tự phụ, cũng không bao giờ coi thường, dù chỉ mỉa mai, uy thế của Druot cũng như địa vị một thợ cả trội hơn của hắn, nhất là khi có mặt Madame Arnulfi nên Druot thấy không có lý do gì không nghe theo những góp ý của Grenouille, dần dà để mặc cho gã quyết định.

Thế là Grenouille không những chỉ khuấy mà còn thường xuyên hơn đổ hoa vào nồi, đốt nóng và rây; trong khi Druot biến sang quán Quatre Dauphins làm một ly vang hay lên chỗ Madame xem có cần gì không. Hắn biết có thể tin cậy Grenouille được. Còn Grenouille tuy phải làm việc gấp đôi nhưng thích thú vì được làm một mình để học hỏi nghệ thuật mới một cách hoàn hảo và đôi khi được làm dăm ba thí nghiệm nho nhỏ. Gã vui sướng ngấm ngầm khi nghiệm ra rằng pomát của gã tốt hơn hẳn pomát làm chung với Druot, Essence absolue của gã cũng tinh hơn một cấp.

Cuối tháng bảy bắt đầu mùa hoa nhài, tháng tám mùa hoa nguyệt hạ hương. Hai hương thơm hai thứ hoa này tuyệt diệu nhưng đồng thời thuộc loại khó tính, không những phải hái chúng trước khi mặt trời mọc mà cách chế biến chúng cũng phải hết sức đặc biệt và gượng nhẹ. Nóng làm giảm mùi thơm của chúng , nhúng thình lình trong mỡ nóng như ngâm bấy sẽ làm giảm mùi thơm của chúng. Hai thứ hoa quý phái trong các loại hoa này không dễ để cho rút hồn của chúng, chúng thật sự phải được mơn trớn. Phải rải chúng lên những tấm kính bôi mỡ lạnh hay ủ chúng trong những gói khăn cột lỏng tẩm dầu, đặt trong một phòng lấy hương đặc biệt, để chúng chết từ từ trong giấc ngủ. Ba bốn ngày sau thì chúng héo, chúng đã phả mùi thơm vào trong lớp mỡ hay dầu. Rồi người ta cẩn thận nhặt xác chúng, rải một đợt mới. Mười, hai mươi lần như thế cho đến khi mỡ bão hoà mùi thơm, bấy giờ mỡ trong khăn có thể đem đi ép được rồi, lúc ấy cũng vừa sang tháng chín, thu hoạch ít đi nhiều, so với cách ngâm bấy. Nhưng trong nghệ thuật làm nước hoa, phẩm chất của keo hoa nhài hay của huile antique de tubéreuse[1] qua phương pháp enfleurage lạnh vượt hẳn mọi sản phẩm khác về độ tinh chất và độ trung thực. Đặc biệt đối với hoa nhài thì có vẻ như cái mùi thơm ngọt, gợi tình của hoa đã in hình lên tấm kính bôi mỡ như trên một tấm gương để được phản chiếu lại hoàn toàn như thật, dĩ nhiên cum grano salis[2] Bởi vì tất nhiên cái mũi của Grenouille nhận ra sự khác biệt giữa mùi gốc của hoa khi nguyên vẹn, và mùi ảnh, tức là mùi thơm đã được tách ra này; mỡ dù sạch đến đâu thì mùi mỡ như một tấm khăn mỏng phủ lên cái mùi ảnh, làm cho nó dịu đi, làm cho nó yếu hẳn đi một cách nhẹ nhàng. Có thể nhờ thế mà người bình thường mới chịu nổi chăng…Dù sao phương pháp enfleurage lạnh là cách hay nhất ,hiệu quả nhất để lấy được những mùi thơm mảnh dẻ. Dù cho phương pháp này chưa đủ để làm cho cái mũi Grenouille được hoàn toàn hài lòng thì gã vẫn biết rằng nó thừa đủ để phỉnh gạt cả một thế giới những cái mũi thô lậu.

Chẳng bao lâu gã qua mặt cả sư phụ Druot về ngâm bấy lẫn enfleurage lạnh, vẫn bằng cái cách hạ mình kín đáo rất thành công gã làm cho tay kia thấy rõ điều ấy. Druot sẵn sàng để cho gã đi đến lò mổ mua loại mỡ thích hợp nhất để đem về rửa, thắng, lọc và định tỷ lệ thích hợp vì đây là một công việc khó và đáng sợ nhất đối với hắn, mỡ không được sạch, ôi hay nặng mùi lợn hay cừu hoặc bò có thể làm vứt đi cái pomát quý báu. Hắn để cho gã định khoảng cách giữa những tấm kính trong phòng lấy hương, thời điểm thay hoa mới, độ bão hoà của pomát, rồi đến cả những quyết định quan trọng mà hắn thường chỉ có thể tính toán một cách gần đúng dựa theo những quy tắc đã học, giống như Baldini lúc trước, hắn cũng giao cho gã luôn, nhưng Grenouille lại làm theo sự hiểu biết của mũi gã, tất nhiên Druot không thể nào ngờ được điều này.

“Gã có hoa tay”, Druot nói “gã nhậy với mấy chuyện này”. Đôi khi hắn cũng nghĩ “Gã có khiếu hơn mình nhiều, gã là một tay chế nước hoa giỏi hơn mình cả trăm lần”. Nhưng đồng thời lại cho gã là một thằng thậm ngu vì tin rằng Grenouille chẳng biết kiếm chác gì qua cái tài của gã trong khi hắn sắp thành nhà chế nước hoa, trong khi năng lực chỉ vừa phải. Grenouille còn làm cho hắn tin đã nghĩ đúng bằng cách chăm chỉ nhưng ngu ngốc, không có lấy một chút tham vọng nào, làm như không biết chút gì về thiên tài của gã mà chỉ toàn thực hiện những lời chỉ dẫn của một Druot nhiều kinh nghiệm hơn, rằng không có hắn thì gã chẳng làm nên trò trống gì. Nhờ thế mà họ làm việc với nhau được.

Sau mùa thu đến mùa đông, trong xưởng yên tĩnh hẳn. Chất thơm của hoa nằm trong các bình sành hay lọ con giữ kín trong hầm, nếu bà chủ không bảo rửa loại pomát này hay nọ hoặc chưng cất một bịch gia vị khô nào đấy thì chẳng có gì nhiều để làm cả. Vẫn còn nhiều ô liu, vài giỏ đầy mỗi tuần. Họ ép lấy dầu nhất, còn bã cho vào máy nghiền lấy dầu thứ cấp. Còn cả rượu vang mà Grenouille lấy một phần để chưng cất và làm tinh rượu.

Druot ngày một ít ló mặt hơn. Hắn phải làm bổn phận gối chăn với bà chủ và khi hắn chường mặt ra, hôi rình mùi mồ hôi và tinh dịch, thì cũng để chuồn lẹ qua quán Quatre Dauphins. Bà chủ cũng ít xuống xưởng. Bà bận rộn với việc quản lý tài sản và sửa quần áo để dùng sau khi mãn tang. Thường thì cả ngày Grenouille không gặp ai ngoài cô người làm, trưa đến cho gã xúp còn tối bánh mì với ô liu. Gã không hề đi ra ngoài. Những sinh hoạt phường hội, chẳng hạn như các buổi gặp gỡ thường xuyên của thợ với nhau hay các lần diễu hành vui chơi, gã chỉ tham dự vừa đủ để không bị chú ý do vắng hay có mặt. Gã không có bạn hay người quen thân, nhưng hết sức giữ ý để không bị coi là người kênh kiệu hay không chịu thích nghi. Gã mặc cho bọn thợ coi sự trò chuyện với gã là nhạt nhẽo và vô bổ. Gã là bậc thầy trong việc gây sự buồn tẻ cũng như đóng vai khờ dại vụng về, nhưng không quá trớn để người khác khoái chí cười nhạo hay trở thành đối tượng của những chuyện tiếu lâm trong phường hội. Gã đạt được mục đích là trở nên hoàn toàn không đáng chú ý. Người ta để gã yên. Gã chẳng mong gì khác hơn cả.

Chú thích:

[1] Dầu hoa nguyệt hạ hương kinh điển.

[2] Đừng hiểu theo nghĩa hẹp (tiếng La tinh).
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,671
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38


Gã ở miết trong xưởng. Gã bảo Druot rằng gã muốn tìm một công thức mới cho nước hoa Eau de Cologne. Thật ra gã thí nghiệm những loại nước hoa khác. Nước hoa gã trộn ở Montpellier sắp hết đến nơi dù gã xài rất ít. Gã trộn một thứ mới. Nhưng lần này gã không thoả mãn với một mùi người tạm bợ bằng những vật liệu góp nhặt vội vã mà gã có tham vọng làm một, có thể nhiều, thứ nước hoa riêng cho gã.

Trước hết gã trộn thứ bình thường, hôi như chuột cho ngày thường, vẫn còn mùi người chua như phó mát nhưng chỉ toả ra ngoài như xuyên qua một lớp dầy những len với dạ từ da khô khốc của người già. Với mùi này gã sẽ dễ hoà trong đám đông. Nó đủ mạnh để chứng tỏ về phương diện khứu giác sự có mặt của một người nhưng đồng thời kín đáo để không bị chú ý. Grenouille đúng ra không hiện hữu vì gã không có mùi, nhưng với cái mùi hết sức khiêm nhường này gã lại có mặt, một sự nhập nhằng rất hợp ý gã, dù là ở trong nhà bà Arnulfi hay đôi khi gã đi ra phố.

Dĩ nhiên trong một số công chuyện cái mùi này gây trở ngại. Chẳng hạn như khi gã đến nhà buôn, theo lệnh Druot hay do tự ý, mua một chút cầy hương hay dăm hột xạ hương thì vì cái mùi quá sức kín đáo nên có thể người ta không nhận ra sự có mặt của gã, do đó không tiếp hoặc có nhận ra nhưng lại bán lộn món hàng hay giữa chừng lại quên mất gã. Cho những dịp như thế, gã trộn một thứ nước hoa mạnh hơn, hơi có mùi mồ hôi, thêm chút ít nồng gắt, tạo một vẻ lỗ mãng làm người khác có cảm tưởng gã vội lắm, cần mua hàng gấp. Gã nhái y hệt aura seminalis[1] của Druot bằng cách cho hút mùi của bột mì rang nóng đánh với trứng vịt tươi vào một tấm khăn len bôi mỡ, với mùi này gã cũng gây được sự chú ý nếu cần.

Một loại nước hoa khác trong cái kho của gã có tác dụng gây sự thương hại, thành công ở các bà sồn sồn trở lên. Nó có mùi sữa loãng, mùi gỗ mềm và sạch. Với nước hoa này thì dù không cạo râu, mặt lầm lì và mang áo măng tô thì Grenouille vẫn giống như một thằng nhỏ xanh xao khốn khổ trong cái áo rách te tua cần phải được cứu giúp. Khi ngửi mùi này, các bà bán hàng ở chợ dúi cho gã hạt dẻ và lê khô vì thấy thằng nhỏ đói khổ quá. Còn bà vợ ông hàng thịt, một mụ nạ dòng khe khắt đừng có hòng mà xin xỏ, lại cho gã tha hồ chọn lấy không trong mớ thịt dư và xương ôi vì cái mùi ngây thơ của gã làm mềm trái tim bà mẹ trong người mụ. Những thứ bỏ đi này gã chiết tinh với rượu lấy thành phần chính cho một thứ mùi gã dùng đến khi nhất định không muốn bị ai quấy rầy. Nó tạo quanh gã một lớp không khí có mùi hôi kinh tởm, hơi hôi thối như hơi thở từ những cái miệng chẳng bao giờ được săn sóc khi ngủ dậy. Nó hiệu nghiệm đến nỗi ngay một tay không khó tính như Druot cũng tự động quay đi, lảng ra xa mà không thật rõ cái gì đã xua hắn đi như thế. Vài ba cái giọt đáng kinh tởm này trên ngưỡng cửa lều cũng đủ xua người lẫn vật tránh xa.

Tuỳ hoàn cảnh đòi hỏi mà gã thay những mùi khác nhau này như thay áo để khỏi lộ liễu trong thế giới con người và bản chất gã không bị phát giác, núp dưới những mùi này, Grenouille theo đuổi hết mình nỗi đam mê thật sự của gã: cuộc săn đuổi cực kỳ khéo léo mùi thơm. Vì có một mục đích lớn trước mũi, và vì còn những hơn một năm nữa nên gã bắt tay vào việc mài sắc vũ khí của gã, tức là rèn luyện kỹ thuật, từng bước làm cho những phương pháp của gã thêm hoàn hảo, không chỉ với một nỗi hăm hở cháy bỏng mà còn có kế hoạch một cách hệ thống.

Gã tiếp tục những việc dở dang hồi còn làm cho Baldini, tìm cách lấy mùi của những vật vô sinh như đá, kim loại, thuỷ tinh, gỗ, muối, nước, không khí…

Những gì thất bại thảm hại trước kia với phương pháp chưng cất thô thiển, nay thành công nhờ sự hấp thụ mạnh của mỡ. Gã thích mùi mốc lạnh của một quả đấm cửa bằng đồng thau, thế là gã bọc nó trong mỡ bò mấy ngày. Quả nhiên, khi gã lột lớp mỡ, kiểm nghiệm thì thấy rõ có mùi nắm cửa, dù rất ít. Ngay cả sau khi đã rửa trong cồn thì cái mùi ấy vẫn còn ở đó, rất mỏng như ở tận đâu đó thật xa, bị che phủ bởi hơi rượu mà trên cái thế giới này chỉ có cái mũi nhậy của Grenouille mới nhận ra, nhưng đó có nghĩa là dùng được, ít nhất trên nguyên tắc. Nếu gã bọc chục nghìn nắm đấm trong mỡ rồi để yên một nghìn ngày thì gã có thể lấy được một giọt nhỏ xíu essence absolue của nắm đấm cửa đồng thau ngay sát mũi.

Gã cũng lấy được mùi vôi xốp của một cục đá lượm trên cánh đồng ô-liu ngay trước lều. Bằng cách ngâm bấy, gã lấy được một cục pomát nhỏ xíu mùi đá, cái mùi cực mạnh làm gã vui không thể tả. Gã trộn mùi này với đủ thứ mùi của những vật quanh lều và dần dà tạo ra được mùi của cánh đồng ô-liu phía sau tu viện Franciscain dưới dạng thu nhỏ, gã đem theo trong người cái mùi đã được nút kín trong lọ này để khi nào thích gã có thể dựng lại mùi của cả một cánh rừng ô-liu.

Đó là những mùi kiệt tác gã đã hoàn thành như những trò chơi nho nhỏ mà ngoài gã ra chẳng ai thấy hay ho hay chú ý đến. Riêng gã vô cùng hứng thú với sự hoàn hảo vô nghĩa này, trước kia gã không có và sau này gã cũng không có được những sung sướng thơ ngây như lúc này, say sưa trong trò chơi tạo nên mùi của phong cảnh, của tĩnh vật và của từng vật thể. Rồi gã chuyển sang các đối tượng sống.

Gã tìm bắt ruồi trong mùa đông, rồi bọ, chuột, mèo con; bó chúng trong mỡ ấm. Đêm đêm gã mò vào các chuồng trại để trùm khăn dính mỡ lên bò, dê, heo hay quấn chúng trong cái băng vải tẩm dầu trong vài giờ. Hay gã lẻn vào bãi chăn cừu, lén xén lông một con cừu non đem về rửa trong rượu tinh cất. Lúc đầu kết quả chẳng khả quan gì. Vì không như quả đấm cửa hay cục đá, lũ vật đâu để cho gã lấy mùi của chúng dễ dàng. Bầy heo cạ cẳng vào cột để làm tuột băng vải. Đám cừu be be khi gã cầm dao lẻn vào chuồng ban đêm. Lũ bò cứng đầu lắc bầu vú để hất khăn đi. Một số côn trùng gã bắt được lại xịt ra mùi hôi trong lúc gã lấy mùi, còn lũ chuột vãi phân vào chỗ pomát rất dễ bắt mùi, chắc là vì quá sợ. Không giống như hoa, những con vật gã muốn ngâm bấy không chịu cho mùi một cách dễ dàng mà chống cự một cách kịch liệt trước cái chết, giãy giụa nhất định không chịu để khuấy trong nồi, do đó toát quá nhiều mồ hôi làm hỏng nồi mỡ nóng vì quá chua. Như thế thì không thể làm ăn gì được. Chúng không được sợ hay giãy giụa mà phải yên ngay tức thì. Phải giết chúng.

Trước hết gã thử với một con chó con. Với một miếng thịt, gã dụ con chó rời khỏi mẹ nó từ lò mổ về tới xưởng, rồi trong khi nó vẫy đuôi mừng rỡ vồ miếng thịt gã cầm trong tay trái thì tay phải gã nện nhanh gọn lên gáy nó bằng một thanh củi. Cái chết đến quá nhanh nên ngay cả khi Grenouille đặt nó lên vỉ, giữa những tấm kính bôi mỡ trong phòng lấy mùi để lấy mùi thơm không lẫn mồ hôi của nó, vẻ vui sướng vẫn còn hiện nơi mõm và mắt của con vật. Dĩ nhiên phải cẩn thận. Xác chết cũng mau hư như hoa bị hái. Cho nên Grenouille canh xác con vật suốt mười hai tiếng cho đến khi có mùi xác chết toát ra, tuy mùi vẫn dễ chịu nhưng không thật đúng nữa. Tức thì gã chấm dứt enfleurage, vứt cái xác đi, rồi mang chút xíu mỡ mang mùi thơm lấy được ấy vào trong nồi, dùng cồn rửa thật kỹ. Rồi gã chưng cất chỗ cồn ấy chỉ còn bằng đầu ngón tay, đựng trong một ống thuỷ tinh nhỏ xíu. Nó rõ ràng có mùi lông chó ẩm, nhờn và hơi nồng, giống một cách hết sức ngạc nhiên. Cho nên khi Grenouille cho con chó mẹ ở lò mổ ngửi thì nó sủa vang mừng rỡ, ve vẩy đuôi, mũi nó như không muốn rời cái ống thuỷ tinh nọ. Grenouille nút thật kín, cất trong người và giữ một thời gian dài như để kỷ niệm cái ngày vinh quang này, cái ngày mà gã thành công trong việc lấy được hồn thơm của một sinh vật.

Rồi gã thử với người, từng bước một, hết sức thận trọng. Đầu tiên gã chỉ dám lén theo ở một khoảng cách bảo đảm, với một cái lưới mặt thưa, vì đối với gã cái chính không phải là mẻ lưới mà là để thử nguyên tắc phương pháp săn của gã.

Ngụy trang với loại nước hoa bình thường, không gây sự chú ý, tối tối gã trà trộn trong số khách của quán Quatre Dauphins để gắn những mẩu vải nhỏ xíu tẩm dầu và mỡ dưới ghế, bàn và trong những hốc tường kín đáo. Vài ngày sau gã gỡ về, kiểm nghiệm. Quả nhiên chúng có chút hơi hướng người trộn đủ với thứ mùi nhà bếp, mùi khói thuốc, mùi rượu vang. Nhưng cái hơi hướng người này chỉ lờ mờ vậy thôi, giống hơi thở nói chung hơn là một mùi riêng biệt. Grenouille cũng lấy được một khối lớn mùi người như thế, nhưng thuần chất hơn và mùi mồ hôi cũng siêu phàm hơn, bằng cách gắn những mẩu vải nọ dưới ghế nhà thờ vào ngày 24 tháng mười hai, rồi gỡ về vào ngày 26 tháng mười hai, sau khi đã có ít nhất bảy lượt người ngồi lên chúng xem lễ, một tập hợp mùi khủng khiếp biểu hiện trên những mẩu vải ấy, từ mùi hôi mông, máu tháng, mùi khoeo chân nhớp mồ hôi và bàn tay nắm chặt trộn với mùi hơi thở của ngàn cái miệng đồng ca và lầm rầm Ave Maria cùng với cái hơi làm ngột thở của trầm và mật nhi lạp; một sự hội tụ u ám, mờ ảo, buồn nôn, khủng khiếp, nhưng rõ rệt là mùi người.

Một tay thợ bao bì mới chết vì bị lao phổi trong nhà thương thí, cái khăn trải giường hắn đã nằm hai tháng lẽ ra phải mang đi đốt nhưng Grenouille thuổng được, thế là gã đã kiếm được mùi riêng của một người. Tấm khăn đẫm những chất nhờn, cáu ghét của tay thợ khiến nó hút mùi hắn chẳng khác gì lớp mỡ vẫn dùng trong enfleurage nên có thể đem rửa với rượu ngay được. Kết quả thật đáng sợ: ngay dưới mũi Grenouille tay thợ làm bao bì sống dậy từ cõi chết, bồng bềnh trong rượu, tuy bị cái phương pháp tái tạo kỳ quái và đủ thứ chướng khí do bệnh của hắn làm cho méo mó nhưng vẫn nhận được qua bức tranh mùi-riêng-của-hắn, một tay cỡ ba mươi tuổi, tóc vàng, mũi tẹt, ngũ đoản, bàn chân bẹt hôi mùi phomát, của quý phồng to, hay cau có, hôi mồm, nghĩa là chẳng đẹp đẽ gì, mùi của hắn không đáng để giữ lâu như mùi con chó con. Tuy vậy Grenouille vẫn để cái hồn mùi ấy bồng bềnh trong lều, ngửi liên tục để sung sướng và thoả mãn vì cảm giác có được quyền lực trên cái tinh hoa của người khác. Hôm sau gã đổ đi.

Mùa đông này gã còn thử một lần nữa. Gã trả cho một mụ ăn mày câm một quan để mụ mang trên thân thể những tấm giẻ tẩm dầu, mỡ trộn nhiều kiểu khác nhau trong một ngày. Gã thấy rằng mỡ của thận cừu non trộn với mỡ heo và mỡ bò đã lọc nhiều lần trong tỷ lệ 2:5:3 , thêm một chút dầu mới ép sẽ hút mùi người nhiều nhất.

Grenouille thấy thử bấy nhiêu đó đủ rồi. Gã từ bỏ ý định bắt sống người để chế biến mùi. Vì vừa nguy hiểm vừa không đem lại hiểu biết gì mới. Gã biết bây giờ gã đã rành cái kỹ thuật lấy mùi người rồi, không cần phải chứng minh tiếp.

Thật ra gã đâu quý báu gì mùi người. Gã có thể mô phỏng khá giống bằng những chất khác. Gã thèm muốn mùi một số người hiếm hoi nhất định: những người khêu gợi tình yêu. Họ là nạn nhân của gã.

Chú thích:.

[1] Mùi tinh dịch (tiếng La tinh)
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
597,671
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39


Ra giêng bà quả phụ Arnulfi tái giá với tay thợ cả Dominique Druot và hắn vọt thành Maitre Gantier et Parfumeur. Có tiệc tùng linh đình đãi những ông thầy trong phường hội, đám thợ phụ được chiêu đãi kém hơn một chút, bà chủ sắm một cái nệm mới để chính thức chung sống với Druot và đem những áo quần màu tươi ra mặc. Ngoài ra mọi chuyện vẫn như cũ. Bà vẫn giữ cái tên Arnulfi quen biết, gia tài vẫn là của riêng bà, bà vẫn giữ tài chánh của tiệm và chìa khoá hầm, ngày ngày Druot phục vụ bà chủ theo đúng bổn phận rồi sau đó uống vang giải khát, còn Grenouille tuy đã thành thợ cả duy nhất, vẫn phải gánh phần lớn công việc cùng với đồng lương ít ỏi, ăn uống vẫn đạm bạc và chỗ ở vẫn tồi tàn.

Năm mới bắt đầu với một biển vàng hoa đậu, hoa dạ lan hương, hoa đồng thảo và hoa thuỷ tiên thơm mê mẩn. Vào một sáng chủ nhật của tháng ba, tức là khoảng một năm sau ngày tới Grasse, Grenouille đi đến khu vườn sát tường thành ở đầu kia thành phố xem sự thể ra sao. Gã đã chuẩn bị sẵn tinh thần đón mùi thơm năm trước vì gã biết khá rõ cái gì đang chờ đợi…thế mà khi gã đánh hơi thấy cái mùi ấy ở Porte Neuve, tức là còn nửa đường nữa mới đến chỗ tường nọ, tim gã đã đập mạnh hơn và máu nhộn nhạo trong huyết quản vì sung sướng, cái cây đẹp không gì sánh nổi vẫn còn ở nguyên đó, qua được một mùa đông mà không suy suyển, căng nhựa, cao lên, lớn ra, trổ nhiều cành hoa rực rỡ! Thơm nồng nàn hơn gã chờ đợi, nhưng không giảm sự thanh tao. Nếu năm trước còn là tản mạn, rời rạc thì nay đã kết thành một dòng thơm của nghìn màu chói lọi, không màu nào có thể tuột ra. Grenouille mừng rỡ thấy rằng nguồn của dòng thơm này sẽ ngày càng mạnh hơn. Một năm nữa, chỉ một năm nữa thôi,chỉ mười hai tháng nữa thôi, cái nguồn ấy sẽ đầy ứ và gã có thể tới lấy, hứng cái mùi thơm tuôn ra mãnh liệt ấy.

Gã chạy dọc theo tường thành tới chỗ giáp vườn. Dù cô bé không ở ngoài vườn mà ở trong nhà, cửa sổ khép kín thì mùi thơm của cô vẫn bay ra như một làn gió nhẹ. Grenouille đứng lặng. Gã không say hay choáng váng như lần đầu được ngửi. Mà gã có cảm giác sung sướng của một người tình, đứng xa lắng nghe, nhìn ngắm người yêu và biết chắc rằng sang năm sẽ đến đón cô về. Thế đấy, con bọ chét cô độc, con người ghê tởm, con quái vật Grenouille chưa từng biết yêu lại chưa từng biết rung động, lại đứng nơi tường thành ở Grasse này vào một ngày tháng ba ấy để yêu và vôc ùng sung sướng trước mối tình của gã.

Dĩ nhiên không phải gã yêu một con người, như cô bé trong nhà sau bức tường nọ. Gã yêu mùi thơm ấy. Chỉ mùi thơm ấy chứ không gì khác bởi vì trong tương lai nó sẽ là của gã.

Gã thề năm sau sẽ đón nó về. Sau lời thề, lời hứa hôn kỳ quặc này, hứa chung thuỷ với chính gã và với mùi thơm của gã trong tương lai, gã rời khỏi nơi đó mà lòng đầy tin tưởng, gã qua Porte du Cours về lại phố.

Đêm ấy nằm trong lều, gã lại lôi cái mùi thơm ấy ra từ trong trí nhớ, gã không thể cưỡng được sự cám dỗ, gã lặn ngụp trong nó, vuốt ve và để được vuốt ve, thật sát, sát như trong mơ, như thể cái mùi ấy đã là của gã, của riêng gã rồi vậy, rồi gã yêu nó, và qua nó yêu chính gã, say đắm tuyệt vời một lúc lâu. Gã muốn đem cái cảm giác tự say mê mình ấy theo vào giấc ngủ. Nhưng vào chính cái lúc gã nhắm mắt lại và chỉ cần một hơi thở nữa thôi để đi vào giấc ngủ thì cái cảm giác kia rời bỏ gã, thình lình biến mất, trong lều chỉ có mùi chuồng dê lạnh và gắt thay vì mùi của gã.

Gã hốt hoảng chồm dậy, gã thầm nghĩ “sẽ sao đây, nếu cái mùi thơm mà tôi sẽ chiếm hữu..sẽ sao đây nếu nó hết đi? Mùi thơm trong trí nhớ còn mãi mãi nhưng mùi thơm ngoài đời sẽ phai đi. Sẽ thoáng qua. Và khi nó hết thì cái nguồn mà tôi vẫn hứng nó cũng sẽ không còn nữa. Rồi tôi sẽ trần trụi như xưa và lại phải dùng đến những thứ thay tạm. Không, tệ hơn xưa chứ! Vì tôi đã được biết và đã chiếm hữu được cái mùi thơm tuyệt vời ấy và tôi sẽ không thể quên nó được vì không bao giờ tôi quên được một mùi nào cả. Và thế là cả đời tôi sẽ phải sống nhờ vào sự hồi tưởng đến nó, giống như tôi vừa mới sống một giây lát nhờ vào sự tiền-hồi-tưởng tới nó, tới cái mà tôi sẽ chiêm hữu…Vậy thì tôi cần gì đến nó mới được chứ?”

Suy nghĩ này làm Grenouille vô cùng bồn chồn. Gã hết sức kinh hãi vì một khi chiếm hữu được cái gã chưa có thì nó sẽ lại mất đi không cưỡng lại được. Gã sẽ giữ được nó trong bao lâu? Vài ngày? Vài tuần? Có thể được một tháng chăng nếu như gã dùng nó hết sức dè xẻn. Rồi sao nữa? Ngay lúc này đây gã đã thấy trước những giọt mùi cuối cùng được vẩy ra, cái lọ con lại còn được tráng với rượu tinh cất để không còn chút nào của cái mùi gã yêu sót lại, ngay lúc này đây gã đã thấy, đã ngửi thấy cái mùi gã yêu ấy sẽ tan biến đi mãi mãi, không lấy lại được nữa. Sẽ giống như một cái chết kéo dài, một cái chết gây ra bởi sự tự bốc hơi từ từ cực kỳ đau đớn ra cái thế giới ghê tởm bên ngoài, ngược với sự chết ngạt.

Gã ớn lạnh. Gã thèm được bỏ quách những toan tính, bỏ đi ngay trong đêm. Gã muốn đi ngang qua những núi non còn phủ tuyết, đi suốt hàng trăm dặm đến vùng Auvergne để chui vào cái hang xưa, ngủ cho đến khi chết. Nhưng gã không làm thế. Vẫn ngồi yên, dù khao khát rất mãnh liệt. Gã không làm theo điều khao khát vì gã đã từng thèm được bỏ đi, rúc vào một hang nào đó. Gã đã biết rồi. Điều gã chưa biết là làm chủ được cái mùi thơm tuyệt vời như của cô bé sau bức tường thành. Ngay cả khi biết rằng gã sẽ phải trả giá đắt khủng khiếp vì mất mùi ấy sau khi chiếm hữu được nó, gã vẫn tha thiết được chiếm hữu và mất hơn là từ bỏ cả hai. Gã đã quen từ bỏ cả đời rồi. Nhưng chưa từng có rồi lại mất.

Sự nghi ngại biến dần kéo theo sự ớn lạnh. Gã thấy rõ máu nóng làm gã sống lại cùng với cái ý muốn làm những gì đã toan tính. Cái ý muốn này mãnh liệt hơn trước vì nó không phải chỉ hoàn toàn do thèm muốn mà còn do một quyết định có cân nhắc. Khi phải chọn giữa sự chết khô hay để rơi xuống đất thì con bọ chét Grenouille đã chọn khả năng thứ hai dù biết rõ lần rơi này sẽ là lần rơi chót. Gã lại nằm xuống, thoải mái giữa đống rơm, chăn và tự thấy rất anh hùng.

Nhưng Grenouille sẽ không phải là Grenouille nữa nếu gã tự thấy thoả mãn lâu dài với một cảm giác anh hùng mù quáng. Cái ý chí tồn tại và chiến thắng của gã quá bền bỉ, bản chất gã quá xảo quyệt, đầu óc gã quá khôn ngoan. Đúng, gã đã quyết chí chiếm mùi thơm của cô bé sau bức tường thành. Nếu chiếm được mùi thơm ấy mà không chết hay giữ được thật lâu rồi mới mất thì tốt hơn. Phải tìm cách giữ cho lâu. Phải khử sự bay hơi của nó mà vẫn giữ được đặc tính, đấy là cả một vấn đề trong ngành nước hoa.

Có những mùi thơm giữ được cả chục năm. Một cái tủ được cà với xạ hương, một miếng da tẩm với dầu quế, một củ long diên hương, một cái tráp bằng gỗ bách hương giữ mùi hầu như mãi mãi. Những loại khác như dầu chanh, cam chanh, tinh chất thuỷ tiên hay huệ và mùi thơm của nhiều loại hoa sẽ bay mất trong vài giờ nếu để chúng dưới dạng tinh chất ngoài không khí mà không được hãm. Nhà chế nước hoa đối phó với những hoàn cảnh tai hại này bằng cách hãm những mùi dễ bay hơi như thể xích chúng lại, kiềm chế cái thói bay nhảy; nghệ thuật ở đây là xích đủ lỏng để cho cái mùi bị hãm chừng như vẫn có tự do nhưng lại đủ chặt để nó không bay mất. Grenouille đã có lần gặp trường hợp khó khăn này và đã thành công một cách tuyệt hảo khi hãm cái mùi thơm phù du của hoa huệ với một chút xíu cầy hương, vani, labdanum, dầu bách, nhờ thế mới có được mùi thơm này. Tại sao không thể làm tương tự với mùi thơm của cô gái nhỉ? Tại sao gã lại phải dùng dưới dạng nguyên chất để phí phạm đi cái hương thơm quý nhất và mỏng mảnh nhất kia? Thô lỗ quá! Chẳng khéo chút nào! Có ai để nguyên kim cương không mài chăng? Có ai đeo vàng nguyên tảng quanh cổ không? Chẳng lẽ gã cũng chỉ là một thứ cướp bóc mùi thơm tầm thường như Druot hay như những tay chỉ biết ngâm bấy, chưng cất, ép hoa khác? Hay gã đúng là nhà chế tạo nước hoa vĩ đại nhất thế giới?

Gã kinh hoàng tự đánh vào đầu vì đã không sớm nghĩ ra; tất nhiên cái mùi thơm có một không hai này không thể nào dùng dưới dạng thô được. Phải coi nó như một viên ngọc quý nhất. Phải tạc một vương miện ở nơi cao quý nhất rồi kết với những mùi thơm khác mà vẫn vượt hẳn lên; mùi thơm của gã toả ra rực rỡ. Gã sẽ chế tạo một thứ nước hoa theo đúng những quy tắc nghệ thuật và mùi thơm của cô gái sau bức tường sẽ là cái hồn của nó.

Không thể dùng xạ hương, cầy hương, dầu hoa hồng , dầu hoa cam để làm những chất phụ trợ, làm đầu, mình, chân, tay, làm chất hãm được rồi. chắc chắn thế. Một thứ nước hoa như thế, nước hoa người, cần phải có những thành phần khác…
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom