Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 19


Khi Rojas rời tu viện, cơn mưa dường như tạm ngừng rơi trên thành phố, có thể để sau đó mưa trở lại với sự mạnh mẽ gấp bội. Cuộc gặp với cha German quá căng thẳng và tập trung, làm anh giờ đây đau nhức hai bên thái dương. Do vậy, anh thầm cảm ơn việc có thể đi dạo một vòng để trở về khu trọ sinh viên mà không phải băn khoăn gì đến mưa. Sau khi vượt qua con suối Thần kỳ, gần như sắp bị vỡ bờ, anh bắt đầu leo theo đường Moros. Trước khi tới một cánh cửa nhỏ đang mở rộng của bức tường thành cổ, anh có cảm giác như ai đó đang theo dõi mình. Bị cuốn hút, anh dừng sát một góc tường để xác nhận điều vừa cảm nhận, nhưng chỉ nghe thấy tiếng nước nhỏ giọt từ trên mái ngói và do vậy anh lại đi tiếp.

Một lúc sau, Rojas lại nghe thấy tiếng bước chân từ xa. Khi đến một cửa nhỏ, anh dừng lại và, thay vì vượt qua, anh nấp vào một chỗ lồi ra của bức tường cũ, cố làm sao không để ánh sáng từ ngọn đuốc lọt ra. Cũng không thấy ai xuất hiện lúc ấy. Mệt mỏi vì chờ đợi, anh nhô đầu ra và bỗng nhiên nhìn thấy một cái bóng từ phía bên kia đường. Anh rời chỗ ẩn nấp đi về phía ấy, nhưng quan sát không thấy gì lạ. Sau đó, anh cố nhìn kỹ tất cả các ngõ ngách. Trong lúc vượt qua cánh cửa của bức tường thành cổ để kiểm chứng xem người rượt đuổi có chờ anh sau một góc tường hay không thì anh lại cảm thấy như có ai đó lướt nhanh sau lưng mình. Anh nhảy bật trở lại để tạo thế bất ngờ, nhưng vẫn không bắt gặp được ai.

Trong khi tiến lên con dốc, Rojas không ngừng khua ngọn đuốc từ phía bên này sang bên kia, như thể cầm đuốc đâm vào không khí. Đột nhiên, anh dừng lại; ở mức độ như vậy anh cảm thấy quá vô lý nên muốn vứt bỏ mọi sự cẩn trọng. Rõ ràng, cuộc nói chuyện với cha German đã gây ấn tượng đối với anh và giờ đây anh tin là có thể phát hiện sự hiện diện của kẻ nghi vấn ở bất cứ chỗ nào. Anh hít thật sâu, sau đó tiếp tục cuộc hành trình. Khi đến đường Serranos, rất vắng người vào giờ ấy, hình như anh nhìn thấy có ai đó, ở phía bên trái, chạy về hướng nhà thờ Thánh Isidro. Không thể cưỡng nổi, anh chạy đuổi theo, nhưng lúc đi qua sát lối vào đền, có một vật làm anh chú ý. Anh dừng lại rồi thận trọng tiến gần. Dưới ánh lửa bập bùng của ngọn đuốc, anh phát hiện ra một thông điệp được cắm vào cửa bằng mũi dao găm:

“Ngươi không được tiếp tục ở đây, nếu như không muốn đi theo ba kẻ kia”.

Không khó khăn lắm cũng có thể biết được lời cảnh báo này gửi cho ai và ám chỉ những ai. Một lần nữa, con dao găm tự nó nói tất cả. Đã có quá nhiều vũ khí cảnh báo mà anh gặp gần đây. Nhà thờ Thánh Isidro ở ngay đầu đường Phố Mới, là nơi khu trọ sinh viên. Vậy là anh đi tới đó. Anh chẳng còn hơi sức đâu để tiếp tục tìm kiếm ai nữa.

Buổi tối hôm đó, Rojas nằm mơ, có vẻ như một điềm báo trước lúc anh thức giấc. Anh đang đi trên một con đường trong thành phố, phía cuối đường, anh nhìn thấy một chiếc xe do hai con bò kéo, nhích từng bước rất khó khăn do bùn lầy. Khi tới nơi, anh phải tránh ra một bên để chiếc xe đó có thể đi qua. Xe bò được một người giấu mặt điều khiển và, trên xe có một xác chết được phủ bằng vải, đằng sau là một con chó bị buộc bằng một sợi dây. Sau đó, Rojas tiếp tục hành trình, nhưng đột nhiên một lúc sau, anh muốn biết người chết đó là ai. Anh rảo bước quay lại, nhưng chiếc xe đã biến mất. Đúng lúc đó, ngay ở bên cạnh, một cánh cửa mở ra và trên khoang cửa xuất hiện một người mặc áo thầy tu, mời anh vào. Thấy Rojas còn chần chừ, người lạ mặt đó nắm lấy cánh tay kéo anh vào. Sau khi đi qua dãy hành lang dài dằng dặc, họ vào một gian phòng hẹp và dài, có đặt một chiếc bàn ăn với mười người ngồi xung quanh. Ở giữa có hai chiếc ghế còn trống. Bị lôi cuốn, Rojas đưa mắt nhìn người đó như dò hỏi. “Chúng ta là người cải đạo, những người cải đạo thực sự, người đó giải thích, và chúng ta họp mặt hôm nay để tham dự bữa ăn cuối cùng của Chúa Jesus. Tốt, người đó nói thêm với giọng bí ẩn, thực ra là Chúa đã ăn tối rồi”. “Anh hãy ngồi xuống! Đã rất muộn rồi, chúng tôi đang chờ anh”, một người ngồi trên chiếc ghế bên cạnh một trong hai chiếc ghế còn trống lệnh cho anh. Khi ngồi vào ghế, Rojas bàng hoàng phát hiện ra người ta phục vụ thi thể của Jesus trên bàn ăn. Lúc đó, cả phòng tràn ngập ánh sáng mạnh mẽ và rực rỡ, khiến anh phải nhắm nghiền mắt lại. Khi mở mắt ra, anh thấy mình đang ở ngoài trời, trên một ngọn đồi với gió thổi mát rượi và mặt trời lung linh. Phía trước mặt là thành phố Salamanca, bao phủ bởi lớp mấy đen dày đặc đầy đe doạ. Bên cạnh anh là một phụ nữ đang ngắm một vài chữ thập cắm ở đỉnh cao nhất. Mặc dù lúc đầu không nhận ra, nhưng ngay sau đó anh biết là Sabela. “Những chữ thập kia là thế nào?” anh hỏi. “Những chữ thập ấy đã được đặt sẵn, cô gái trả lời với nụ cười đồng cảm. Chữ thập của chúng ta sẽ không đến muộn đâu”.

Rojas bừng tỉnh dậy, người toát mồ hôi và buồn rầu vì linh cảm đen tối. Mối lo âu làm anh lao ra khỏi giường và đi tìm gặp Sabela. Khi anh sắp mở cửa thì xuất hiện người phụ trách nhà trọ.

- Có một phụ nữ đến tìm cậu! - ông ta hét lên.

- Một phụ nữ à? Cô ta muốn gì? Tên cô ta như thế nào? - Rojas hỏi luyến thoắng.

- Cô ta không muốn nói. Nhưng ta đã nói với cậu khi cậu vào đây là không muốn thấy phụ nữ có mặt ở nhà trọ của ta, và càng không…

- Ông đừng lo, - Rojas xin lỗi từ ngoài đường, - sẽ không xảy ra lần nữa.

Rojas rất lo lắng bởi điều có thể xảy ra đối với Sabela, anh giận dữ chính mình, tâm trạng đầy lo ngại tới mức luôn miệng lẩm bẩm, nhắc đi nhắc lại cùng một từ. Anh chán nản vấn đề vẩn đục ấy, ngán ngẩm với những tội ác chẳng hề liên quan gì tới mình. Đối với anh, giờ đây dẫu ai gây ra tội ác đó thì cũng như nhau và những lý do thực hiện chúng không còn quan trọng nữa. Điều duy nhất mà anh muốn là Sabela không làm sao cả. Nếu cô gái có chuyện gì thì anh là người có lỗi và anh sẽ không bao giờ tha thứ cho bản thân mình. Đầu tiên, đáng lẽ anh không bao giờ được chấp nhận nhiệm vụ tồi tệ ấy. Và nếu như đã chấp nhận làm rồi thì anh không nên yêu cô. Và nếu như không thể tránh khỏi điều ấy thì ngay lúc đó, anh phải từ bỏ tất cả và chạy trốn cùng Sabela, đi đâu không quan trọng, chỉ cần rời xa khỏi Salamanca. Thế nhưng, thay vì phải làm những việc rõ ràng là có lý ấy, anh lại dần dần dấn sâu vào ngõ cụt mà giờ đây rất khó ra được trót lọt.

Rojas tiến lại gần khu nhà chứa trong lo âu, ân hận và bực tức lẫn lộn trào dâng trong trái tim anh. Cuối cùng, khi đến nơi, anh đi thẳng tới phòng của Sabela. Từ ngoài hành lang, dường như anh nghe thấy một tiếng thét bị kìm nén, sau đó là một cú đánh. Và khi đã đứng trước cửa, anh cảm thấy hình như có tiếng chống trả, giành giật nhau. Cảnh giác, anh đẩy mạnh cửa. Sabela gần như trần truồng, quỳ ở giường, cố thoát khỏi một gã sinh viên đang nắm lấy thắt lưng và đấm cô liên hồi từ phía đằng sau. Không để mất thời gian, Rojas rút dao lao vào, sẵn sàng giết địch thủ. Hắn ta bị bất ngờ, tạt sang một bên để tránh nên lưỡi dao đâm xuống đệm. Do lực đẩy, cả hai đều bị ngã xuống sàn nhà.

- Xin đừng làm gì hắn ta, anh Fernando! - Sabela lúc đó gào lên từ trên giường, đó là một khách hàng.

Nhưng lúc đó, Rojas bị điếc và mù do quá giận dữ, anh bắt đầu tấn công dữ dội chống lại kẻ mà anh nghĩ là tên sát nhân. Một tay giữ hắn nằm dưới sàn, tay kia anh đấm túi bụi xuống mặt y. Nạn nhân thấy không thể thoát được, cố tìm trong vô vọng cái gì đó có thể bảo vệ mình, tới khi nghe thấy tiếng kêu thất thanh của Sabela, hai gã chịu trách nhiệm bảo vệ trật tự của khu nhà chứa, kéo vào.

- Cầu xin các ông hãy kéo thằng này ra, hắn muốn giết tôi! - tên bị đánh hổn hển kêu cứu.

- Đừng có nghe, nó là một tên sát nhân, tên giết người! - Rojas kêu to, vẫn chưa dừng đấm đá.

Cuối cùng, khi họ làm dịu được cuộc ẩu đả thì mặt nạn nhân nhuộm đầy máu và hắn hầu như không cử động được. Đúng lúc ấy, ông chủ nhà chứa đến xem đã xảy ra chuyện gì. Mặc dù tầm vóc thấp bé, nhưng chỉ riêng sự có mặt của ông đã khiến người khác tôn trọng.

- Cậu quen hắn à? - Ông ta hỏi người bị đánh, đầu hướng ra phía Rojas, đang bị hai gã bảo vệ giữ chặt.

- Chưa hề nhìn thấy bao giờ. Hắn điên khùng do bị trói buộc hay nhầm tôi với người nào khác.

- Thế sự việc xảy ra như thế nào?

- Cô ta và tôi đang ủ chân nhau lặng lẽ thì gã điên này đến, không nói nửa lời rồi lao vào tôi với một con dao. Ông hãy hỏi cô ta nếu không tin tôi.

- Có đúng như thế không? - Ông ta hỏi Sabela.

- Là như vậy, cô gái bắt đầu nói, nhưng…

- Thế cô… - ông ta đột ngột hỏi cô gái, - có quen hắn không?

- Cô ta không liên quan gì đến vấn đề này, - Rojas can thiệp vì cuối cùng anh hiểu ra mình đã mắc một sai lầm nghiêm trọng nên anh muốn Sabela không dính líu gì cả. - Các vị cho tôi xin lỗi. Tất cả điều trên là kết quả của một sự nhầm lẫm vô lý. Đã vài ngày nay, tôi đang tìm một sinh viên nợ tôi vài tháng tiền thuê nhà và, lúc vừa rồi, hình như tôi nhìn thấy hắn vào nhà chứa. Do quá giận dữ khi phát hiện thấy hắn tiêu xài uổng phí số tiền còn nợ, tôi đã theo hắn và hình như tôi nhìn thấy hắn vào phòng này. Nhưng bây giờ tôi biết mình đã nhầm.

- Thế anh tưởng rằng một món nợ cá nhân là có đầy đủ lý do để gây ra tai tiếng ở nơi công cộng à? - Chủ nhà chứa hỏi anh.

- Điều duy nhất mà tôi muốn là cho hắn một bài học, nhưng tôi đã quá tay…

- Và đầu hắn cũng thế! - người bị đánh lên tiếng phản đối.

- Một lần nữa, tôi xin lỗi anh về những thiệt hại đã gây ra, - Rojas vội nói, và để bồi thường thiệt hại, - anh hãy cầm từ cái túi mà tôi mang theo một số lượng thích đáng. Đối với ông, tôi cũng muốn bồi thường, - anh hướng về phía ông chủ nhà chứa nói tiếp, - vì những thiếu sót và khó chịu đã gây ra.

- Được rồi, - chủ nhà chứa chấp thuận - Anh hãy để lại túi tiền, ta sẽ biết cách phân chia hợp lý nhất. Sabela, hãy nói với Rosa giúp cô lau các vết máu cho tay sinh viên này. Còn đối với anh, ông nói với Rojas, ta không bao giờ muốn nhìn thấy mặt anh ở đây nữa. Hãy biến đi, trước khi ta ân hận. Còn các anh, ông ta lệnh cho hai gã bảo vệ, hãy dẫn hắn ra tới cửa, canh chừng không cho hắn trở lại làm việc khác đấy.

Rojas đã nhầm lẫn và rất xấu hổ vì điều vừa xảy ra nên khi ở ngoài đường, anh cảm thấy như trút được một gánh nặng, mặc dù anh bị hai gã bảo vệ đẩy ra ngoài bằng những cú đá. Điều duy nhất anh tiếc là không thể nói chuyện với Sabela, không thể kể với cô rằng anh đã nhúng vào chuyện đó chỉ là vì cô, chỉ vì anh lo sợ có chuyện gì xảy ra đối với cô. Vì tình yêu đối với Sabela, anh đã thêu dệt câu chuyện bịa đặt vô lý ấy, chí ít với chuyện đó, cô gái được bảo đảm an toàn mà không phải giải thích dài dòng, vì anh tin rằng nếu như nói ra sự thật thì càng làm sự việc tồi tệ hơn, nhất là đối với cô gái, chắc chắn sẽ bị đuổi khỏi nhà chứa. Rất may là vở kịch lừa dối ấy lại được tạo ra bởi chính lời nói của gã sinh viên khi bị tấn công, đã giúp cứu thoát phần nào tình thế, vì rằng thực tế từ lúc ấy, anh đã không thể trở lại đặt chân vào nhà chứa. Nhưng có thể như thế lại tót hơn, bằng cách này cô gái sẽ được yên ổn hơn và anh có thể tập trung toàn bộ trí lực để thoát khỏi bế tắc đã gặp phải, mặc dù để làm việc đó, anh phải gọi cửa của chính địa ngục.

Rojas hình dung là gã sinh viên kia đã biết chuyện xảy ra ở nhà chứa và bất cứ lúc nào hắn cũng có thể đến cười chế nhạo anh, nhưng chuyện đó không còn quan trọng với anh nữa. Thực ra, đấy là điều anh muốn. “Điểm tốt là đã chạm đáy rồi, anh suy xét, và bây giờ dù làm cái gì đi nữa, ngươi cũng không thể bị ngã xuống sâu hơn”. Đột nhiên, trong lúc đang đi dưới trời mưa tầm tã, anh lại cảm thấy một linh cảm xấu ở ngay sau lưng. Không hề dừng bước, anh ngoái lại phía sau. Lúc này, không phải một cái bóng, cũng không phải một ấn tượng giả tạo, kết quả của nỗi sợ hãi, ám ảnh hay ảo tưởng. Mặc dù ở cách không xa lắm, nhưng anh không phân biệt được đó là ai vì đang đội một cái mũ trùm kín mặt. Tuy nhiên, anh nhìn thấy rất rõ là ở phía dưới một trong những vạt áo choàng của hắn ta thiếu một miếng vải. Mệt mỏi vì phải chạy và mở đường đi qua bùn và nước, anh chọn việc đợi kẻ truy đuổi ở một đầu lối rẽ. Anh nép sát vào tường và nắm chặt chuôi con dao găm được Giám mục tặng để tăng thêm lòng can đảm. Trong bất cứ trường hợp nào, anh quyết tâm đương đầu trực diện với địch thủ, có thể bắt sống hay giết chết hắn nếu cần thiết hoặc phải chết nếu như không còn phương tiện gì trong tay. Điều gì cũng có thể chấp nhận để cơn ác mộng này kết thúc tất cả cùng một lúc.

Từ nơi ẩn nấp, không phải chờ đợi lâu anh đã nghe thấy tiếng chân địch thủ. Chắc chắn, hắn đang rảo bước khi kẻ bị rượt đuổi mất hút khỏi tầm mắt nên hắn tiến lên phía trước với vận tốc lớn.

- Tại sao mày theo dõi tao? - Lúc đó, Rojas thét lên từ chỗ nấp, đe doạ hắn bằng dao găm.

Mưa rất dày hạt nên Rojas hầu như không nhìn rõ đối tượng. Bị bất ngờ, hắn đột nhiên lùi lại và cố sức tự vệ bằng kiếm, nhưng áo choàng làm lưỡi kiếm chuyển động chậm và hắn không thể cản được Rojas thọc sâu dao găm vào cánh tay phải. Lưỡi dao đâm mạnh làm hắn lao đao và buộc phải buông rơi thanh kiếm, nó biến mất trong vũng nước giữa đường. Tuy nhiên, hắn thoát được người tấn công và bắt đầu chạy trốn. Từ kẻ bị truy đuổi, Rojas trở thành người rượt đuổi.

Dĩ nhiên, khoảng cách mà kẻ bị rượt đuổi chạy trốn không lớn, nhưng đường phủ toàn nước và bùn lầy, rất khó có thể đi nhanh được. Dù sao chăng nữa, Rojas tin rằng do bị thương nên cuối cùng hắn sẽ bị kiệt sức. Tuy nhiên, chính Rojas là người suýt vấp ngã khi chân nhúng vào một vũng lớn đầy bùn, tình huống mà gã sinh viên kia lợi dụng để rẽ vào một góc phô rồi biến mất một lần nữa, ngay trước mắt anh, tuy nhiên lần này, anh sẽ không dễ dàng đầu hàng.

Rojas đi lang thang tương đối lâu dưới trời mưa đến mức anh cũng không biết rõ mình đang ở đâu. Đầu tiên, anh đi dọc từ đầu đến cuối đường, cố gắng tìm một nơi ẩn nấp, một cánh cửa nào đó mở hay khép hờ, một vết tích nào đó hắn để lại. Sau đó, anh xem xét những lối rẽ gã sinh viên kia có thể đi qua. Có một lối rẽ mà anh thấy rất quen. Anh đi vào bên trong và phát hiện ra rằng đó chính là ngõ cụt mà gã sinh viên kia đã vào rồi mất hút trong lần truy đuổi đầu tiên. Nghi ngờ, anh bắt đầu gọi cửa các nhà với mục đích lục soát, tới khi nhìn thấy một vết máu trên khung cửa nhỏ. Không suy nghĩ gì han, anh lao vào đẩy và mở tung cửa ấy ra. Cửa này dẫn ra một khoảnh sân rất hẹp, nối với một kho để củi và chứa gia súc. Trong khi đang tìm kiếm nơi ẩn nấp của địch thủ, anh phát hiện ra phía đằng sau có một cái cửa khác. Anh mở cái cửa ấy ra và ngạc nhiên nhìn thấy phía trước mặt là nhà thờ Thánh Cebrian.

- Không thể là một sự ngẫu nhiên, - Rojas rít lên trong kẽ răng, anh hướng tới nhà thờ.

Sau khi kiểm chứng cửa nhà thờ đang khoá, Rojas bắt đầu gọi cửa tới tấp. Nghe thấy tiếng ồn, một bà bên cạnh ngó qua cửa sổ.

- Anh đang làm gì thế? Anh không biết vào giờ này không có ai à?

- Tôi là phái viên của Giám mục, - Rojas giới thiệu, - và tôi cần vào nhà thờ ngay tức khắc.

- Nếu cần gấp như thế thì sao anh không đi tìm người trông coi nhà thờế Ồng ấy sống cạnh đấy, ở gần tường thành.

Nhà của người trông coi được xây trên một trong những dãy cánh gà của nhà thờ, tận dụng bức tường nối của bờ rào cũ, ở gần tháp canh. Lúc ấy là giờ ăn trưa nên người trông coi nhà thờ phải một lúc sau mới trả lời.

- Sẽ tới, sẽ tới ngay đây. Có thể cho ta biết cậu muốn gì không? - Ông ta càu nhàu.

Chỉ sau khi đưa cho xem chứng chỉ do Giám mục cấp, tuồn vào dưới cánh cửa, người trông coi nhà thờ mới mở khoá.

- Việc này rất quan trọng, thầy hãy để tôi vào nhà thờ! - Rojas giục giã ông ta. Đây là một cuộc điều tra.

- Một cuộc điều tra à? Ông muốn nói gì vậy? - Người trông coi nhà thờ bắt đầu hỏi với dấu hiệu lo lắng.

- Đấy không phải trách nhiệm của thầy, - Rojas đáp. - Hãy làm điều tôi lệnh cho thầy.

- Tôi đi với ông ngay đây! - người trông coi nhà thờ nói với điệu bộ phục tùng hơn.

Lúc sau, người trông coi nhà thờ đi ra với áo choàng và một chùm chìa khoá. Khi cửa nhà thờ vừa mở, Rojas hỏi ông ta.

- Thầy có thể cho biết tầng hầm ở đâu không?

- Ở ngay dưới bàn thờ.

- Những ai còn có chìa khoá của nhà thờ?

- Ở Nhà thờ lớn có một bộ.

- Thế thầy có tình cờ biết có người đến nhà thờ lúc ngoài giờ không?

- Phải chăng ông đang nghĩ về truyền thuyết hạnh phúc à? Ông nên biết đó là chuyện kể của các bà già. Điều tôi biết là, ông ta giải thích, không ai đến ngoài giờ hành lễ.

- Thầy hãy nghe rõ đây! - Rojas nôn nóng nói với ông ta - Nếu đến khi trời tối mà tôi không trở về, thầy hãy đến tu viện Thánh Esteban để tìm gặp cha Antonio, nhà thảo dược. Thầy hãy kể tất cả những điều xảy ra và đề nghị ông ta đến tu viện Thánh Francisco tìm cha German. Họ sẽ biết những việc phải làm. Thầy hiểu chưa?

Người trông coi nhà thờ phải một lúc mới biểu lộ thái độ chấp thuận, lại còn tỏ ra không tin tưởng lắm, Nhưng không còn thời gian để đề phòng hơn. Cuối cùng, sau khi lọt vào trong điện thờ, Rojas yêu cầu ông ta khép hờ cửa.

Điện thờ nhỏ và nghèo nàn, và sự hiện diện duy nhất trên điện là Chúa Jesus ở phía sau bàn thờ, được hai ngọn nến to chiếu sáng lung linh. Rojas cầm một ngọn nến và bắt đầu cuộc thám hiểm. Gần lối vào, còn nhìn thấy vết bùn mới và một số vũng nước nhỏ. Thỉnh thoảng cũng nhìn thấy một vài giọt đen, đậm đặc hơn. Anh lần theo dấu vết tới tận bên trong hậu đường. Ở dưới sàn, trong một góc kín, lộ ra một cái thang bằng đá thẳng đứng. Anh cho rằng đó là đường dẫn xuống tầng hầm. Anh nắm chặt ngọn nến như thể dùng nó để tự vệ và bắt đầu đi xuống. Thực ra, đó là một cái hầm nhỏ, được xây cuốn vòm cung bên dưới bàn thờ, lợi dụng độ dốc của con đường. Ở trên cái thang lẫn dưới sàn nhà đều có vết bùn và một số vết máu, chứng tỏ tên tội phạm đã đi qua đấy. Giờ đây, vấn đề là tìm ra lối vào hang. Anh tìm trong những phiến đá, những tấm bia dưới sàn để xem có một cái cửa nào hay một cái bẫy kín, nhưng vô hiệu; cũng chẳng nhìn thấy một chiếc lò xo nào cả.

Ở bia đá trung tâm, có một bản khắc bằng tiếng La tinh làm anh chú ý: “Hãy quỳ xuống và làm dấu thánh”. Phải chăng đây là một thông báo được mã hoá hay là một khoá mật mã? Bị lôi cuốn, Rojas quỳ gối xuống phiến đá có bản khắc và bắt đầu làm dấu thánh như lời răn dạy. Không có điều gì xảy ra. Đúng lúc đó, anh phát hiện ở một trong những phiến đá trước mặt có hình giống như người thợ khắc đá, một hình đối với anh rất quen thuộc vì anh đã nhìn thấy trước đó. Không rời khỏi chỗ, anh móc tờ giấy bên trong túi áo măng tô. Giống như tấm thẻ được Giám mục cấp, tờ giấy bị thấm ướt. Anh cẩn thận giở tờ giấy và kiểm chứng thấy thực sự chính là một dấu hiệu: một chữ thập Hy Lạp hay một chữ thập với một nét vẽ phụ, đi từ chân phiến đá dựng đứng tới đầu cánh tay trái và có đặc điểm riêng là cánh tay phải kết thúc ở đầu mũi tên. Nếu nhìn kỹ thì đó là một sơ đồ hình chữ thập: từ trán xuống ngực, từ ngực đến vai trái và từ vai trái đến vai phải. Nhưng cần phải làm dấu thánh ở đâu? Anh trở lại quỳ trên phiến đá trung tâm và nhìn thấy phiến đá có hình người thợ khắc đá ở độ cao ít nhiều ngang ngực anh. Phải chăng đấy là trung tâm của một cây thập tự tưởng tượng? Hai phiến đá ở phía trên là phần cao nhất còn hai phiến ở dưới là đường trục cơ sở. Sau đó, phiến đá ở phía trái và ở phía phải có thể là hai cánh của trục ngang. Bị cuốn hút, anh ấn tay phải vào phiến đá tương ứng với phần trán và ngay lập tức anh thấy phiến đá nhường bươc, chuyển dịch về phía trong. Tiếp đó, anh ấn phiến đá phía dưới, cũng cho kết quả như vậy; sau đó, ấn tiếp phiến đá phía trái và, cuối cùng, phiến đá phía phải. Khi khối đá chuyển động, người ta nghe thấy tiếng động lớn dưới tầng hầm như thể một thiết bị phức tạp hoạt động. Thực tế, phần cuối của phiến đá mà anh dùng để quỳ, đã chuyển dịch tách ra. Anh đứng dậy rồi dùng một tay cũng có thể nâng phiến đá không mấy khó khăn, nhờ có rãnh trượt đã làm sẵn. Từ lỗ hổng, hé ra một đoạn thang mới.

Tầng hầm mới rộng hơn so với hầm trước, nhưng trong đó cũng không có ai, ít ra là không có ai còn sống vì có thể nhìn thấy ở dưới nền hầm một vài ngôi mộ bị mở với những bộ xương lời ra, cũng thấy rất nhiều xương chất đống trong một góc. Ở một số nơi, hình như Rojas còn nhìn thấy cả vết máu, điều này chứng tỏ có một lối vào khác ở chỗ nào đó. Chí ít, bây giờ anh đã biết mật mã để qua phía bên kia ở trên tờ giấy. Không còn nghi ngờ gì, hình vẽ bên cạnh chữ thập là một trong những ngôi mộ. Nhưng đó là ngôi mộ nào? Anh quan sát từng ngôi mộ một và thấy tất cả đều có những dòng chữ khắc ở bên cạnh. Phần lớn đều ghi ngày và tên người mất với một văn bia ngắn gọn. Tuy nhiên, có một bia mộ khiến anh chú ý ngay: Sau khi chết, ngươi sẽ hồi sinh ở phía bên kia. Tới phía bên kia chính là nơi anh muốn đến. Nhưng điều anh không thích là để tới được phía bên kia, trước hết anh phải chết. Rõ ràng, có thể không cần hiểu chính xác từng chữ một. Có thể với một cái chết tượng trưng hay giả vờ chết, đã là đủ. Điều này cho anh một ý tưởng ẩn mình trong một ngôi mộ. Việc phải nằm cùng với một bộ xương không làm anh ghê tởm quá mức, cũng không làm anh sợ hãi, nhưng anh cảm thấy hơi vô lý nếu không muốn nói rằng hành động ấy là một sự xúc phạm đối với người đã khuất. Dù thế nào chăng nữa, anh cũng quyết định thử. Không còn cách nào khác hơn nếu như anh muốn tiếp tục đi tiếp. Anh nằm ngửa một lúc với cây nến đặt trên ngực, cố gắng không nghĩ đến cái chết. Anh đã gần như đầu hàng, đến khi nhớ ra rằng ở bên cạnh có một phiến đá hình trụ nhô ra một chút. Anh ấn mạnh phiến đá tới mức, đột nhiên, đáy của ngôi mộ mở ra từ một phía, như thể một cái bẫy, và không thể cưỡng lại được, anh ngã lăn qua đoạn dốc ngắn vào phía bên trong. Thế nhưng những mẩu xương của người đã khuất không rơi theo anh vì chắc hẳn đã được phiến đá giữ lại.

Rất may, cú ngã nhẹ nhàng và cây nến không bị tắt. Nhờ ánh sáng của cây nến, anh có thể nhìn thấy mình giờ đây đang ở trong một cái hang. Trên một tảng đá, có vài chiếc rìu và trong một hộp gỗ có sọi xích, bùi nhùi cùng hòn đá để đánh lửa. Rojas cầm một trong những thứ đó và sau khi dùng nến châm lửa, anh hào hứng đi thám hiểm dưới đáy hang. Từ chỗ ấy, có vài đường hầm đi theo những hướng khác nhau. Anh nhìn tờ giấy một lần nữa và thấy về phía trái của bản vẽ ngôi mộ, có ba nét xổ, nhưng chỉ một nét kéo dài và kết thúc ở đầu mũi tên; đấy là nét vẽ ở phía bên phải. Như vậy, tin tưởng vào sơ đồ, anh quyết định tiếp tục cuộc thám hiểm với lộ trình ấy. Trong khi đi sâu vào đường hầm, anh không ngừng suy nghĩ về điều có thể chờ đợi mình phía cuối lộ trình. Trong bất cứ trường hợp nào, anh sẵn sàng đối mặt với mọi hiểm nguy để tóm được gã sinh viên kia. Sau sự việc xảy ra vào buổi sáng ở khu nhà chứa, điều này trở thành vấn đề danh dự đối với anh.

Đột nhiên, các bức tường đều có tranh vẽ động vật. Tranh đầu tiên Rojas nhìn thấy là một cô gái Salamanca trong vòng lửa cháy. Sau đó, xuất hiện một con cóc lớn và tiếp đến, là con chằn tinh với một số con rắn xung quanh đang ngấu nghiến nuốt chửng lẫn nhau. Các bức vẽ đều rất điêu luyện và màu sắc rực rỡ, thực sự làm người xem khiếp đảm, không chỉ do dáng vẻ bề ngoài mà còn có khả năng tạo ra ảo tưởng vì nếu nhìn kỹ chúng thì dường như những con vật đó đang chuyển động lao vào tấn công anh. Và nếu chúng không làm như vậy thì còn tồi tệ hơn, bởi chính anh sẽ tưởng tượng ra với vẻ sống động thực sự về những hành động vây hãm, phong toả của chúng. Sau lối rẽ, người ta nhìn thấy một con quái vật lớn với vồ số đầu rồng lắc lư và một số con nửa thân ngựa nửa quái vật, tạo thành một dãy dài nối tiếp nhau với những quái vật mỗi lúc một đáng khiếp sợ và kinh khủng hơn. Trong số đó, có một con mãng xà giết người qua ánh mắt, anh nhận ra nó vì có đầu và đuôi của rắn, cựa và mào như của gà chọi; còn mắt nó thì anh không muốn nhìn vì sợ thật sự đúng như người ta đồn đại.

Để thoát khỏi nỗi ám ảnh to lớn của chúng, Rojas bắt đầu đọc đi đọc lại một đoạn thơ của Marques de Santilla, như làm phép bùa xua đuổi điềm xấu:

Ta nhìn thấy những con thú dị dạng và dữ tợn

Ra khỏi hang, động và sào huyệt của chúng.

Và giống như một câu thần chú, những con thú biến mất. Anh không biết có phải là những bức vẽ đã kết thúc hay thực sự chúng biến mất, nhưng anh nghĩ chẳng có gì là chắc chắn. Anh cần phải tập trung chú ý và cố gắng để không bị lạc, vì đôi lúc đường hầm lại rẽ đôi hoặc rẽ ba nên anh phải dừng lại để nhìn sơ đồ, xem đường rẽ nào là đúng. Ở mỗi lối rẽ đều được đánh dấu bằng một vòng tròn và có số La Mã bên trong. Theo sơ đồ, có chín đường như là chín số của Dante(1). Ba đường đầu tiên không có vấn đề gì, nhưng tới đường tiếp theo, anh kiểm chứng thấy có sự khác biệt so với bản vẽẻ Ở bản vẽ chỉ có hai nhánh, nhưng trên thực tế lại có ba đường. Anh nghĩ là có thể họ đã quên không vẽ đường thứ ba. Nhìn trên sơ đồ, sự lựa chọn đúng là phía bên phải, anh thắc mắc là nên đi về phía ấy hay đi qua lối giữa, vì không có cách gì để biết hai đường nào là đúng. Rõ ràng, cũng có khả năng đấy là một cái bẫy để đánh lạc hướng kẻ đột nhập. Anh cố xem xét liệu trên đường đi có đoạn nào tạm dừng để có thể giúp mình lựa chọn chính xác, nhưng không tìm thấy. Cuối cùng, anh quyết định đi theo đường giữa với ý định có thể quay trở lại chọn đường khác nếu không xuất hiện số hiệu tiếp theo. Anh đi được một đoạn khá dài thì nhìn thấy một vòng tròn và một lối rẽ mới. Rất sốt ruột để đọc số hiệu nên anh không nhìn thấy một hố đen mở ra dưới chân mình, tới khi bị ngã vào trong đó. Trong khi đang rơi vào địa ngục, dường như anh nhận ra rằng không phải số V, mà là một mũi tên ấn định việc đi xuống.

Chú thích

(1) Dante (1265-1321) là một nhà thơ, nhà Thần học người Ý.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


Rojas, hãy nói tại sao ngươi lại tìm chúng ta? Tại sao lại truy lùng chúng ta?

Một giọng nói đến với Rojas như qua nhiều lớp mạng nhện hay những màn khói sương mù dày đặc. Anh đau đầu kinh khủng, đến nỗi không thể tập trung suy nghĩ và cũng không biết mình đang ở đâu. Anh cố mở mắt, nhưng cảm thấy nặng trĩu như thể mí mắt gắn chặt lại với nhau. Anh sờ tay sang xung quanh mới biết mình đang nằm trên một chiếc cáng nhỏ.

- Chúng ta đã làm gì ngươi? Hãy nói đi, chúng ta hại ngươi điều gì? - giọng nói ấy trở lại khoan vào đầu anh tựa như cái nêm bị cây chuỳ đập vào.

Rojas cố cất tiếng nói, nhưng không thể làm được. Anh có cảm giác như mồm mình ngậm đầy cát. Sau đó, anh gắng gượng làm lại, nhưng cũng không thể. Mỗi một cử động nhỏ khiến anh như bị người ta dùng dao đâm vào các khớp xương của mình và anh không thể chịu nổi giọng nói khăng khăng đòi tính sổ.

- Các người là ai? - Rojas hỏi với giọng mơ hồ, sợ hãi.

- Chúng ta giống như ngươi, ngươi không biết chúng ta à? - một giọng nói trong hang trả lời. - Ngươi đang trong một phiên toà Do Thái.

Ngạc nhiên, Rojas hướng về phía phát ra giọng nói. Nhờ ánh sáng phát ra từ một số lưỡi rìu đặt trên những bức tường của hang, anh nhìn thấy vài cụ già đang ngồi dưới sàn, cách không xa cái cáng anh đang nằm. Anh không thể phân biệt được dáng dấp họ, nhưng nét mặt đoán chắc là cau có và nghiêm nghị.

- Các vị đùa đấy à? Tôi không phải là người Do Thái! - anh phản đối.

- Ngươi chính là Do Thái, mặc dù ngươi không muốn tin điều ấy, - một ông già đáp với giọng khô khốc - Cha ngươi, ông Hernando de Rojas, là một người Do thái, những người ấy trong ngôn ngữ chúng ta gọi là anusim, những người bị ép buộc, và trong đáy lòng mình, ngươi cũng là như vậy.

- Tôi chắc rằng các vị nói dối, - Rojas gào lên - giẫy giụa trên cáng. Cha tôi là một người cải đạo, ông bà tôi cũng thế và bây giờ chúng tôi cũng vậy.

Những người già dường như kinh hãi trước những lời nói của Rojas. Trong vài phút, họ thì thầm với nhau. Cuối cùng, một người lên tiếng:

- Thế ngươi không cảm thấy mình đã giả vờ trong cả thời gian đó sao? Ngươi đã làm điều đó để giữ mạng sống và tránh mọi rắc rối. Ngươi chắc đã biết điều mà người ta nói về những người Do Thái thực sự: chúng ta giống như kim loại nóng chảy, thích nghi với mọi khuôn mẫu, nhưng vẫn duy trì bản chất không thay đổi của chúng ta.

- Tại sao các vị muốn làm tôi hiểu lầm? - Rojas thất vọng hỏi.

- Chúng ta à? - một ông dáng vẻ có quyền hành hơn, ngạc nhiên kêu lên - Ngươi là kẻ đến đây, tới nơi ẩn náu của chúng ta, để xem chúng ta có ý đồ đen tối gì không. Chúng ta bắt gặp ngươi bị lạc và đang hấp hối ở một trong những đường hầm. Ngươi bị một cú đánh vào đầu và đã mất ý thức. Chúng ta đã đưa ngươi trở lại với cuộc sống.

- Nếu như vậy, tôi phải có nghĩa vụ rất cám ơn các vị, - Rojas nói bình tĩnh hơn. Hãy cho biết tôi có thể làm gì cho các vị?

- Chúng ta chỉ yêu cầu ngươi một việc, - ông ta giải thích, hãy cải đạo lại - Chúng ta muốn trả lại cho ngươi niềm tin chân chính, niềm tin của cha ngươi và các bậc tiền bối của ngươi.

- Điều các vị yêu cầu tôi là không thể được, - Rojas đáp, - cố giữ vẻ bình tĩnh. Không ai là chủ niềm tin của họ. Đấy là một vấn đề ý thức.

- Đối với chúng ta cũng như thế. Chúng ta không thể để cho ngươi lại một lần nữa đi theo vết của Jesus. Giờ đây, chúng ta đã bắt gặp và cứu sống ngươi.

- Nhưng tôi không yêu cầu các vị cứu sống với giá ấy.

- Ta dám chắc với ngươi là nếu chúng ta không bắt gặp thì ngươi đã chết rồi. Hoặc ngươi sẽ gặp những kẻ thiếu lòng từ bi.

- Tôi nghĩ chắc là như vậy nếu như đó là ý chí của Chúa, - Rojas nhượng bộ.

- Nhưng kết quả là Chúa muốn chúng ta cứu ngươi. Ngươi không thấy đấy là một dấu hiệu à?

- Xin các vị đừng cổ ý ép buộc tôi nữa. Tôi không có đầu óc phỏng đoán đâu. Chỉ xin các vị cho tôi biết các vị đang làm gì ở một nơi hiểm ác như chốn này.

- Chúng ta sống ở đây, ngươi không biết à? Đây là nơi duy nhất của chúng ta khi Đức vua quyết định trục xuất chúng ta cách đây năm năm. Rõ ràng, một số người trong chúng ta không muốn rời khỏi Salamanca. Tại sao chúng ta phải làm thế? Thành phố này là của chúng ta, giống như của họ, thậm chí phần của chúng ta còn nhiều hơn. Thế nên, chúng ta đã giả vờ rời khỏi giáo đường Do Thái để ẩn nấp trong cái hang này. Bây giờ, đây là nơi ở và là giáo đường của chúng ta. Trên một bức tường, chúng ta lại viết những hàng chữ: Đây là cửa của Chúa, những người liêm chính sẽ vào bằng lối này.

- Nhưng tại sao lại là nơi này?

- Cái hang này đã được tổ tiên của chúng ta sử dụng vào thế kỷ XII, từ khi rời Provenza đến đây cư trú. Ở trong hang, những bí ẩn và hiểu biết về phép thần thông được giải mã và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác cho một nhóm nhỏ những người được lựa chọn trong số những người là thành viên của toà án Do Thái này.

- Điều tôi đang nghe không thể là sự thật, - Rojas kêu lên. - Nó chỉ là cơn mê sảng của tôi, chứ đâu thật như vậy? Hoặc có thể là tôi đang mơ và bất cứ lúc nào khi mở mắt ra lại có mặt trong nhà trọ của trường Cao đẳng.

- Tại sao ngươi lại không chấp nhận sự thật? Chúng ta cũng là người, bằng xương bằng thịt như ngươi mà.

- Hãy xem, ngươi có thể sờ chúng ta đây, tất cả vừa nói vừa đứng lên.

- Không, xin đừng lại gần tôi, - Rojas kêu lên, - quay lưng lại phía họ.

- Ngươi đừng sợ, chúng ta không bôi nhọ ngươi với tội lỗi của mình, một ông giải thích.

- Chúng ta là những người anh em, ngươi nhớ không? một ông khác nói thêm.

- Tại sao ngươi không muốn dính líu với chúng ta? - một ông thứ ba hỏi. - Phải chăng người ta đã trả tiền để ngươi phát hiện và tố cáo chúng ta?

Khi Rojas quay lưng lại thì thấy cả ba đang ngồi ở gần cáng của anh.

- Tôi thậm chí không biết các vị đang tồn tại, - Rojas xin lỗi, - tôi muốn nói là không có tin tức gì về những người Do Thái vẫn ở Salamanca.

- Hình như ngươi thực sự biết rất ít về cuộc sống xảy ra xung quanh, dường như ngươi bị giam hãm với đống sách vở trong nhiều năm, nên có vẻ xa lạ với tất cả. Ngươi đã lần nào vào trong giáo đường của chúng ta chưa? ông ta tiếp tục với giọng ngày càng giận dữ. Ngươi quan tâm đến điều kiện sống đáng buồn của chúng ta phải không? Ngươi đã nghe kể về những đợt cải đạo ồ ạt đối với người Do Thái do những bài thuyết giáo của Vicente Ferrer gây ra chưa? Ngươi có tin tức gì về bài thuyết pháp mà ông ta rao giảng ở Giáo đường Mới năm 1411, với sự chấp thuận của một trong những thành viên chúng ta? Ngươi có biết rằng trước khi trục xuất, chúng đã đẩy một số người chúng ta ra khỏi nhà thuộc giáo đường cũ và chuyển ra vùng ngoại ô không? Chúng đã đối xử như vậy đối với chúng ta, những người đầu tiên đến đây định cư khi mà thành phố này chỉ là một vùng đất bỏ hoang.

- Về việc đó thì các vị có lý, tới nay tôi hầu như không biết gì về các vị, - Rojas buồn rầu thừa nhận. - Và tôi bảo đảm với các vị rằng tôi cũng không biết sự tồn tại của cái hang này, nơi chúng ta đang gặp nhau.

- Vậy ngươi làm gì ở đây?

Câu hỏi làm Rojas ngạc nhiên, như thể bằng một hình thức nào đó anh quên đi mục đích vào thăm hangẽ Anh phải suy nghĩ một lúc.

- Tôi đi theo dấu vết của một tên sát nhân, cuối cùng anh thú nhận, kẻ gây ra cái chết của Thái tử Juan và cha Tomas de Santo Domingo, một giáo sư của Học viện.

- Thế à, ra là vậy. Ngươi nghĩ là chúng ta phải không? “Dĩ nhiên, lý do thì không thiếu”, ngươi sẽ nghĩ như thế. Nhưng không, chúng ta không phải là tội phạm. Chúng ta cũng không có điều kiện để làm điều đó. Giờ đây, chúng ta có lợi ích gì với những cái chết đó?

- Tôi không nói là nghi cho các vị.

- Thật là vô lý. Sao ngươi không biết sự tồn tại kỳ lạ của chúng ta, nhưng bây giờ lại khác à?

- Bây giờ cũng không, tại sao tôi phải làm điều ấy?

- Ta hình dung ra nếu như ngươi không nhanh chóng tìm ra thủ phạm thực sự thì ngươi cần một vật tê thần. Và ai hơn được chúng ta vì rằng chúng ta đã quá quen với vai trò đó? Đúng không?

- Có thể, nhưng tôi bảo đảm với các vị là không phải trường hợp này. Tôi vào đây, đi theo dấu vết của tội phạm và tôi đã bị lạc.

- Đối với chúng ta, ngươi đã bị lạc lối từ lâu, nhưng ngươi vẫn khăng khăng không thừa nhận điều ấy.

- Các vị quen thuộc nơi này hơn tôi nên có thể giúp tôi tìm ra hắn. Tôi không biết danh tính của hắn, chỉ biết hắn là một sinh viên. Các vị có nhìn thấy một người nào đó đáng nghi trong hang này không?

- Dĩ nhiên, có nhiều người cải đạo qua cái hang này. Ngươi đừng cảm thấy bị xúc phạm nếu ta nói là không nên tin vào bất cứ ai. Rõ ràng, ta không nói về những người vờ cải đạo vì rằng không còn cách nào khác đối với những người ấy nếu như muốn giữ mạng sống của mình và trong thâm tâm họ vẫn tiếp tục hướng về chúng ta. Ta muốn đề cập đến những người cải đạo thực sự; một số người cho rằng niềm tin mới làm cho họ cực đoan hơn cả Giáo hoàng và chặt chẽ hơn cả Toà thánh giáo. Ngược lại, một số khác dự tính trở nên trong sạch và xác thực hơn cả những con chiên Thiên Chúa giáo cũ. Và ta không lấy làm lạ rằng họ có ý định thúc đẩy một cuộc cải cách bên trong nhà thờ để trả lại cho nhà thờ những nguồn gốc giả định của họ. Chúng ta biết chắc chắn rằng họ tổ chức hội họp và liên hoan từ thiện ở một nơi nào đó trong hang như những con chiên Thiên Chúa giáo nguyên thuỷ. Họ cuồng tín tới mức sẽ giết hại không do dự những ai mà họ nghĩ là kẻ thù. Ngươi xem sự điên cuồng của họ có thể dẫn tới đâu.

Rojas kinh ngạc nghe ông ta nói, càng lúc anh càng cảm thấy rằng người bị điên, chẳng chóng thì chày, sẽ là anh. Đột nhiên, anh bắt đầu cảm thấy có gì ẩm ướt ở giữa hai đùi. Cảnh giác, anh sờ vào quần thì bất ngờ nhận thấy có một vết băng.

- Nhưng các vị làm gì tôi thế này? - Anh sợ hãi hỏi, không dám vén chăn lên để kiểm chứng vết thương.

- Chúng ta chỉ cắt bao quy đầu của ngươi, ông ta giải thích một cách rất tự nhiên, nhưng ngươi không nên xem như một sự trừng phạt. Đó là brit milah, giúp ngươi nhớ lại sự liên minh giữa Yahveh và Abraham và, do vậy, là dấu hiệu để ngươi quay về với tôn giáo của tổ tiên mình.

- Từ khi nào niềm tin được đo bằng kích thước bao quy đầu? - anh hỏi với giọng mỉa mai và giận dữ. - Ở đấy có bản chất Do Thái mà các vị vừa nói không?

- Câm miệng! - ông ta thét lên, đồng thời bịt hai tai. - Chúng ta không cho phép ngươi tiếp tục báng bổ nữa.

- Thế các vị dựa vào phép tắc nào lại cắt bao quy đầu của tôi?

- Dựa vào việc chúng ta đã cứu sống ngươi.

- Nhưng các vị không hiểu rằng tất cả điều ấy là phi lý sao?

- Tuy nhiên, chúng ta chắc chắn rằng cha ngươi sẽ lấy làm tự hào nếu biết được điều đó.

- Các vị nói về cha tôi phải không? Nếu quen ông thì các vị phải biết rằng từ nhiều năm nay, tôi đã phải chịu đựng hy sinh to lớn để cứu ông thoát khỏi giàn lửa thiêu và tôi tiếp tục cam kết như là sự bảo đảm duy nhất cho tính mạng của ông trước Toà án Công giáo. Do vậy, bây giờ tôi phải làm những việc mà tôi không thích như tìm kẻ đã giết một cha cố thiếu trung thực và một Thái tử không xứng đáng với phẩm cách. Như vậy, giờ tôi ở đây như một tù nhân, bị thương và bị đối xử tàn tệ trong một cái hang, chỉ vì muốn duy trì mạng sống cho cha tôi. Các vị có thấy điều này là bi kịch không? Thế mà các vị, những người nói là anh em của tôi và muốn nhân danh họ, lại đòi trả công cho việc cứu giúp tôi. Các vị không nghĩ rằng tôi đã trả đủ rồi sao và tôi đã không thể làm theo ý chí của mình, chí ít thì trong thâm tâm, tôi có quyền tin vào điều mình muốn chứ?

Những thành viên của phiên toà, giống như các công tố viên của Toà án Công giáo năm trước, im lặng trước khả năng hùng biện của Rojas. Tuy nhiên, dường như họ không sẵn sàng để một con cừu ương ngạnh, một đứa con hoang chạy thoát dễ dàng. Sau một hồi thảo luận giữa họ với nhau bằng tiếng Do Thái, người hình như có quyền nhất tiếp tục nói:

- Đây không phải là lúc để đưa ra quyết định. Chúng ta sẽ nói chuyện lại khi ngươi bình phục. Tới lúc đó, ngươi được coi như một khách mời, không phải là một tù nhân. Chúng ta khuyên ngươi trong thời gian ở đây, không được di chuyển khỏi hang này, có thể ngươi sẽ bị lạc trở lại và gặp trở ngại trầm trọng, không phải tất cả mọi người ở đây đều tốt bụng và nhân từ như chúng ta. Bây giờ chúng ta phái một thầy thuốc đến chữa chạy cho ngươi. Về cha của ngươi, ta muốn nói rằng chúng ta biết ông là một người tốt. Ông không có bất cứ trách nhiệm gì về tình huống mà ngươi đang dính phải. Tội lỗi là ở những kẻ điên khùng cố chấp ấy đang săn lùng chúng ta. Về phần mình, chúng ta xin lỗi về những xúc phạm có thể gây ra cho ngươi. Nếu chúng ta đã có những hành động không đúng, chỉ là vì luôn được thúc đẩy bởi thiện ý.

Sau lời nói đó, tất cả những người có mặt, trừ Rojas, đều đứng dậy đi ra chỗ khác. Thầy thuốc cùng cậu thanh niên giúp việc cũng đến ngay. Sau khi làm sạch vét thương và thay băng cẩn thận cho anh, thầy thuốc yêu cầu người giúp việc đi tìm quần áo mới cho người an dưỡng.

- Anh còn đau ở chỗ nào không? - thầy thuốc lúc đó hỏi Rojas - Hãy nói chính xác đau ở đâu?

- Tôi có cảm thấy đau không à? Đúng ra là hãy hỏi ở đâu tôi không đau.

- Ta sẽ cho anh uống một thứ làm dịu đau.

Thầy thuốc đưa cho anh một chén thuốc đen, sánh đặc, toả ra một mùi rất khó chịu. Rojas nhìn ông ta một lúc, chưa quyết định uống.

- Anh hãy uống đi, đừng sợ, - ông ta thuyết phục, - tôi không đầu độc anh đâu, cũng không phải là thuốc ngủ mà. Về chuyện này, ông chỉ vào vết băng của anh, tôi muốn anh biết là tôi không liên quan gì đến vấn đề ấy. Đó là một quyết định của phiên toà, nhưng tất cả mọi người ở đây không nghĩ như nhau.

- Tuy nhiên, họ là những người ra lệnh, không phải thế à?

- Tôi không nghĩ là kéo dài được nhiều thời gian. Thực ra, một số người trong chúng tôi đang tính trốn đến Bồ Đào Nha. Tôi chưa đi vì họ còn cần tôi, nhưng phần lớn đã không thể chịu đựng nổi tình hình này và nhất là bây giờ khi những thành viên của toà án Do Thái dường như mất hết lý trí. Họ là những người nhiều tuổi và hầu như không thiết sống nữa, còn những người khác vẫn chưa từ bỏ niềm hy vọng.

- Ông có biết họ định làm gì với tôi không?

- Tôi chỉ biết họ bám víu vào bất kỳ cái gì nhằm tiếp tục ở đây. Có thể họ nghĩ rằng bằng hình thức nào đó, anh có thể giúp chúng tôi từ phía bên ngoài, do anh có nhiều mối quan hệ. Vì vậy, họ muốn biến anh trở thành đạo Do Thái để có thể bảo đảm chắc chắn rằng anh sẽ không phản bội chúng tôi, một khi đã ra bên ngoài.

- Tôi sẽ giúp nhiều cho các vị, chỉ khi nào người ta tôn trọng ý thức và không gây áp lực đối với ý chí của tôi. Ông có thể nói với họ điều ấy. Và ông hãy nói thêm rằng tôi sẵn sàng quên đi tất cả, thậm chí cả việc cắt bao quy đầu, nếu như họ từ bỏ ý định trên.

- Tôi biết họ quá rõ và họ sẽ không đứng khoanh tay nhìn. Họ sẽ không tin tưởng vào anh nếu như anh không công khai từ bỏ Thiên Chúa giáo và lập ra thoả ước mới với họ.

- Nhưng điều ấy thật phi lý. Họ không biết rằng họ muốn làm chính cái điều mà những kẻ khác đã thực hiện và bị ghét cay ghét đắng sao?

- Tôi biết rõ điều đó. Do vậy, tôi muốn giúp anh chạy trốn.

- Thế nghĩa là tôi đang trong nguy hiểm sao?

- Tất cả chúng ta đang gặp nguy hiểm trong thời khắc này và nhất là tại một địa điểm như ở đây. Tôi chắc chắn rằng vào bất cứ lúc nào, các bạn của anh sẽ đi tìm và điều ấy có thể dẫn tới một nguy cơ lớn đối với chúng tôi, vì rằng họ sẽ nhanh chóng phát hiện ra cái hang.

- Về những người bạn của tôi, nếu họ đến tìm, ông không phải lo lắng đâu.

- Trong bất cứ trường hợp nào, tôi xin anh hãy thề là sẽ không tố cáo chúng tôi. Tôi biết anh là người giữ lời hứa, anh đã nhiều lần chứng tỏ điều đó.

- Ông đã có lời hứa đó.

- Anh hãy nhìn đây! - thầy thuốc nói, chỉ cho Rojas xem một tờ giấy. - Tôi đã làm cho anh một sơ đồ để thấy được đường ra. Nó không phải là lối anh đã vào, vì lối ấy chúng tôi không sử dụng nữa. Anh cần phải đi thận trọng vì hang rất rộng và chúng tôi không phải là những cư dân duy nhất.

- Ông muốn nói rằng…

- Điều duy nhất mà tôi có thể bảo đảm với anh là đây là nơi ẩn náu của tất cả những kẻ bị loại trừ ra khỏi thành phố, với số lượng qua lại tương đối đông. Chúng tôi chỉ có quan hệ với một số người và cùng họ ăn thề sẽ không tiết lộ điều gì với ai đến từ bên ngoài. Tôi cũng không giấu anh rằng trong những cư dân của vương quốc đen tối này có thể có những kẻ thực sự nguy hiểm. Bởi vậy, anh phải rất cẩn trọng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Mặc dù sơ đồ mới có vẻ chính xác và chi tiết hơn, nhưng không lâu sau, Rojas lại bị lạc. Anh sốt ruột mong muốn để lại sau mình một thế giới đầy ác mộng mà anh vừa thoát khỏi để tiếp tục công việc điều tra. Anh không thể phát hiện ra bất cứ một vết tích hay sự tham khảo nào có thể chỉ dẫn đường đi và lúc gặp dấu vết, anh lại không biết đặt nó trong khung cảnh nào trên đường ra. Sau khi đi lang thang một lúc trong đường hầm và qua những đoạn mà anh cảm thấy giống hệt nhau, Rojas bắt đầu thấy mất kiên nhẫn nên anh đi mỗi lúc một nhanh hơn, tới mức thất vọng, không có ý định đi theo một con đường nào cả. Đột nhiên, tới chỗ đường vòng uốn khúc nhô ra, anh suýt đụng vào một người đàn ông.

- Anh cũng lạc đường phải không? - ông ta hỏi Rojas với vẻ lịch sự. - Thường xảy ra như vậy. Tôi đã học tới mức thuộc lòng đường đi, thế mà cũng bị lạc. Sơ đồ không có công dụng lắm dưới đường hầm. Ngửi và nghe lại dẫn đường tốt hơn. Ở dưới này, tất cả gần như giống nhau đối với mắt nhìn, nhưng mỗi cái hang và mỗi đường hầm đều có mùi khác nhau. Tôi có thể đi như người mù trong mê cung này mà không cần bất cứ sợi chỉ dẫn đường nào của Ariadna(1). Chỉ cần mũi ngửi và nếu có thể là sự trợ giúp của đôi tai. Dường như ở dưới này, im lặng là tuyệt đối, đúng không? Không phải như thế. Hãy nghe nào! Anh có nghe thấy từ phía đằng xa kia dội lại một tiếng động liên tiếp không? Đó là tiếng nước chảy, tiếng vang khác nhau theo dòng chảy, hình thức và độ nghiêng của con kênh. Anh có biết ở dưới độ sâu này, còn có vài con sông, suối và lạch chảy qua và vài cái hồ ngầm nữa. Và anh có thể nói gì về những con chuột? ông ta đột ngột thay đổi đề tài. Khi di chuyển theo nhóm, chúng gây ra tiếng ồn chát chúa, tồi tệ hơn cả tiếng động của một đội quân vào trận. Nói thật với anh rằng tôi đã từng tham gia nhiều trận đánh.

Rojas cảm thấy dễ bị nhầm lẫn nên không thể thốt ra lời nào. Ngoài ra, dáng vẻ của người đàn ông làm anh không yên tâm và hơn nữa, lại đang ở trong hang. Ông ta cao, khô đét và rách rưới, tất cả bề ngoài giống như một bóng ma. Ông ta có bộ râu quai nón dài không được chăm sóc và mắt rất lồi, dường như con ngươá muốn nhảy ra khỏi quỹ đạo để khám phá thế giới theo cách riêng của mình. Tuy nhiên, ông ta có một giọng nói với âm lượng tốt, trầm bổng, thu hút và lôi cuốn người nghe, mặc dù người ta không hiểu điều ông ta nói.

- Trông anh có vẻ mệt mỏi và mụ mị, bóng ma trở lại câu chuyện, nhưng anh đừng lo lắng.

Ông ta nhìn Rojas với nhiều thiện cảm và ít nhiều vị nể như thể người cha ngắm nhìn đứa con nhỏ chưa biết làm mọi việc.

- Thế giới ở bên dưới này, ông ta nói tiếp, anh sẽ thấy là nó đơn giản hơn trên mặt đất một khi anh đã quen nó. Hãy để tôi là Virgilio(2) của anh trong khu vực quanh đây. Anh đã đọc Hài kịch của Dante chưa?

- Vâng, tôi đọc rồi! - Rojas đáp với vẻ e ngại.

- Vậy thì nó sẽ giúp anh rất nhiều ở nơi đây. Với chuyện này, tôi không có ý định nhỏ nhoi nào làm anh hoảng sợ. Đây chỉ là một sự tương đồng. Trong thời điểm hiện tại, địa ngục chỉ là ở phía ngoài, trong các phiên toà và giàn lửa thiêu của Toà án Công giáo. Ở dưới này, chúng ta là những người may mắn, những người bị truy đuổi bởi sự nghiệp chính nghĩa và những người đi tìm sự thật bằng những con đường khác, trong môi trường có quá nhiều giả dối và vờ vịt. Đó là một thế giới đảo lộn. Anh không thấy buồn cười à? - ông ta dồn dập hỏi Rojas, làm anh không còn cách nào hơn là phải đồng tình - Vậy anh hãy cười đi, cười đi! Cười là liều thuốc tốt nhất cho cơ thể và tâm hồn. Anh nên biết rằng không có rủi ro nào lại không có khía cạnh may mắn của nó, cũng không có một bi kịch nào lại không giấu trong lòng nó một hài kịch. Hãy nhìn tôi đây, tôi đã mất tất cả và trở thành kẻ bất bình thường, nhưng tôi luôn vui cười và tạo ra tiếng cười từ sáng đến tối.

Tuy nhiên, câu chuyện không gây chút hài hước nào đối với Rojas. “Ở đây có một kẻ ngu ngốc bị một kẻ điên dẫn đường”, anh thầm tự nhủ. Từ khi bắt đầu cuộc điều tra, anh có cảm giác rằng tất cả mọi người, bắt đầu từ anh, đều mất dần lý trí. Điều lạ lùng nhất là hầu như tất cả dường như chỉ chăm chú phát hiện sự mất tâm trí của người bên cạnh, nhưng lại không có khả năng cảm nhận sự điên khùng ở ngay chính đầu của mình. Thậm chí, tới mức anh nghĩ rằng đấy là hình thức của một bệnh dịch mới, một căn bệnh lấy lan, không tấn công vào cơ thể, chỉ thâm nhập vào tinh thần, mà những người bị dịch bệnh tác động không hề hay biết gì. Anh còn nhớ trận dịch hạch năm 1492 đã hoành hành ở Salamanca, buộc phần lớn cư dân phải từ bỏ thành phố, nơi đã tương đối tiêu điều do việc vừa trục xuất người Do Thái. Thực tế, không thiếu kẻ luôn đổ lỗi cho những người này đã gây ra dịch bệnh, cũng giống như đã đổ tội cho họ phải gánh chịu trách nhiệm về nạn lụt và tất cả các thiên tai đã xảy ra. Nhưng hình thức bệnh dịch mới này còn gây tác hại nhiều hơn vì không một ai được bảo đảm an toàn từ tác hại vô hình của nóệ Và điều tệ hại nhất là dường như không ai biết được rằng cả thành phố này đã biến thành một cái nhà khổng lồ chứa đầy những kẻ điên khùng, đần độn và buồn rười rượi.

- Chúng ta đến nơi rồi, đột nhiên ông ta nói với người đồng hành. Anh qua trước đi, đừng quên làm dấu thánh và mật hiệu nhé!

- Dấu thánh và mật hiệu à? - Rojas ngạc nhiên hỏi lại.

- Đừng nói với tôi là do vội vàng, anh đã quên.

- Tôi e rằng đúng là vậy.

- Nhưng rất dễ mà. Đấy là lời mà Dante nhìn thấy viết trước cổng địa ngục, chỉ ngược lại thôi.

- Ông đề cập tới dòng chữ lasciate ogni speranza voi ch'entrate phải không?

- Đúng, nhưng bằng tiếng Tây Ban Nha và nói ngược lại nghĩa của chữ đầu tiên. Đừng làm mất, mà…

- Hãy lấy lại, hãy lấy lại niềm hy vọng hỡi những người vào đây? Rojas đưa ra không mấy tin tưởng.

- Đúng đấy. Tôi biết anh không làm tôi thất vọng mà.

Vượt qua thử thách, Rojas hướng tới chỗ của người đứng gác, một người có thể hình giống Hercules, với lông mày giao nhau và cánh tay khoanh trước ngực, đã yêu cầu anh cho biết mật hiệu. Khi anh nói xong, người bảo vệ tránh ra một bên và nhường lối anh vào với một cử chỉ chào đón. Sau lối vào, một hành lang nhỏ mở ra, dẫn tới một cái hang lớn. Khi đã vào bên trong, anh nhìn thấy những tảng đá từ một phía hình thành một loại bậc tự nhiên, trên đó đủ chỗ cho rất nhiều người ngồi. Ở phía dưới, trên một vòng tròn nhỏ trung tâm, có một người đang diễn thuyết. Lúc đầu, anh không nhận ra là ai do thiếu ánh sáng, nhưng chỉ cần nghe giọng nói, anh đã biết được đó là ai.

- Như những người quen tôi đều biết rằng, ông Roa lúc ấy đang nói với chất giọng khỏe và trầm ấm, tôi luôn theo trường phái quân chủ lập hiến, đối lập với nền quân chủ nối dõi truyền ngôi, nhưng trong tình hình hiện tại, tính chất thực tê buộc chúng ta phải lựa chọn một giải pháp giữa hai hình thức trên. Vì cho đến lúc này, các vị vua không thể được bầu bằng lá phiếu nên tôi xin đề xuất chúng ta sẽ yêu cầu thực hiện ít nhất ba quy tắc vàng trong việc bổ nhiệm các vị vua tương lai. Quy tắc đầu tiên là người tuyên bổ kế vị không được có tính cách yếu đuối, cũng không bị hạn chế về khả năng tư duy, cũng không có khuyết tật hình thể mà không xứng đáng vóti vương vị. Nếu không được như thế thì sẽ bị thay thế bằng người cùng dòng họ hay cùng triều đại. Quy tắc thứ hai, vua phải là người nghiêm chỉnh và tạo ra sự tôn kính ngưỡng mộ, chứ không phải sự sợ hãi, điều này chỉ khả thi với một vị vua trọng đạo đức, cũng như có chừng mực vừa phải trong chỉ tiêu, lễ nghi và tập quán. Nếu ngược lại, sẽ bị thoái vị ngay. Và quy tắc thứ ba, quy tắc quan trọng nhất, người kế vị phải luôn có xuất thân từ quốc vương trị vì, không có xuất thân từ ngoại quốc. Trong trường hợp không thực hiện yêu cầu cuối này, toàn thể dân chúng sẽ có quyền vũ trang nổi dậy, nếu thấy cần thiết, để bầu ra một vị vua khác.

- Phải là như thế! một người kêu lên.

- Chắc chắn phải là vậy! người thứ hai nói thêm.

- Chúng tôi nhất trí với ông! chỗ này, chỗ khác hùa theo.

- Không còn nghi ngờ gì nữa, mọi người đều biết rằng, ông Roa nói tiếp, sau khi Thái tử Juan chết, người kế vị ngai vàng là Isabel, chị của ông ta, hiện là Công chúa vùng Asturias, vợ của vua Bồ Đào Nha. Điều này có nghĩa rằng, nếu như Chúa không can thiệp, một người Bồ Đào Nha có thể nhanh chóng trở thành vị vua tương lai của Castilla và Aragon.

- Không, không bao giờ! Chúng tôi không chấp nhận điều ấy, một số người la lên.

- Hãy để cho ông ta nói tiếp, một người khác đề nghị.

- Chúng tôi luôn nói rằng, ông Roa tiếp tục mỗi lúc một hào hứng hơn, chính sách liên minh của các vị Vua với một số triều đại ngoại quốc thông qua việc gả cưới con cái của họ, có thể đem lại những lợi ích trước mắt, nhưng cũng tiềm ẩn một số nguy cơ. Và do vậy, những nguy cơ ấy giờ đây trở thành mối đe doạ thực sự ghê gớm. Câu hỏi đặt ra là chúng ta có thể làm gì trước sự việc sắp xảy ra? Chúng ta sẽ giữ im lặng hay đi tính sổ với các vị Vua?

- Chắc chắn, chúng ta phải hành động, một ông già ngồi hàng đầu tiên trả lời. Chúng ta không thể khoanh tay đứng nhìn. Tất cả chúng ta đều thừa biết là một vị vua người Bồ Đào Nha chỉ ủng hộ cho lợi ích riêng của ông ta và những lợi ích của Bồ Đào Nha, nơi xuất thân của ông ta, và vì vậy, ông ta sẽ huỷ bỏ ngay lập tức luật lệ và nhiều đặc quyền của chúng ta.

- Nếu các vị đồng tình, - ông Roa cắt ngang, - trong những ngày tới, tôi sẽ dự thảo một đề án để đưa ra thảo luận và nếu như thích hợp thì sẽ lấy biểu quyết trong hội nghị tới.

- Cứ làm như vậy đi, ông già khẳng định.

- Và bây giờ, nếu các vị cho phép, tôi xin giới thiệu với các vị một người bạn vừa đến từ Bồ Đào Nha để kể với chúng ta sự việc diễn ra ở đấy như thế nào. Xin mời, - ông Roa nói với người đứng sau lưng - đến lượt anh.

Trong lúc ông Roa nói những lời cuối cùng, từ trong bóng tối xuất hiện một người đàn ông trẻ mặc bộ trang phục rất lạ. Rojas không chắc chắn lắm, nhưng nhận ra đó là người nước ngoài bí ẩn mà anh nhìn thấy đi ra từ quán ăn với ông Roa.

- Mặc dù với vẻ bề ngoài khác biệt, tôi cũng là người Tây Ban Nha như các vị, nhưng đã có nhiều năm sống lưu vong ở những nơi khác nhau. Lý do thì giờ đây không phải lúc để nói. Trong những tháng gần đây, tôi ở Bồ Đào Nha, nơi mà theo tôi hiểu, không có ngọn gió tốt lành cho sự nghiệp của chúng ta. Đối với cái chết của Thái tử Juan, nhiều người nghĩ rằng Vua Manuel, Người may mắn, có gì dính líu vào chuyện đó. Nhưng tới lúc này, chưa có bằng chứng đáng tin cậy về một mưu mô có thể, chỉ là những lời đồn đại, mặc dù có cơ sở.

Từ vị trí mình đang đứng, Rojas có thể quan sát thấy sự lo ngại đang thâm nhập dần dần vào những người có mặt ở đấy như thế nào, giống như những ngọn sóng đang cuộn trào dưới đáy biển.

- Ngoài ra, chúng ta biết rằng, - diễn giả nói tiếp - số phận những người Do Thái đang xấu đi, nguyên do là tính chất mơ hồ, nước đôi của nhà Vua, với những biện pháp hay thay đổi và mâu thuẫn, nhà Vua cố gắng dung hoà giữa lòng tham cướp đoạt tài sản của họ với ý muốn thống nhất các vương quốc trên bán đảo. Nhưng các vị cố vấn của Vua đã cảnh báo rằng không thể đạt được sự liên minh chính trị nếu như không có được sự thống nhất tôn giáo trước đó. Do đó, vợ của Vua, Công chúa vùng Asturias, đã yêu cầu Vua không cho phép bất cứ người Do Thái hay người cải đạo nào xuất xứ từ Tây Ban Nha vào vương quốc của họ. Thậm chí, có thể bà ta đã đề nghị với Vua lập ra Toà án Công giáo ở Bồ Đào Nha với mục đích kiểm soát và theo dõi sự cải đạo hàng loạt của người Do Thái, mặc dù lúc này dường như không thể thực hiện được.

- Tôi nghĩ rằng tất cả điều này khẳng đinh những dự cảm tồi tệ của chúng ta, - ông Roa nói như thể kết luận - Một lần nữa, chúng tôi xin cám ơn ông về những tin tức rất có giá trị.

- Xin cám ơn lòng mến khách của các vị.

Rojas hiểu được rằng tình hình của những người Do Thái không phải là điều đáng quan tâm đối với Roa và những người bạn của ông. Đối với họ, đây chỉ thêm một tín hiệu nữa của cái mà họ cố tạo ra vào thời điểm đó ở vương quốc Bồ Đào Nha. Tuy nhiên, Rojas không thể không nghĩ tới Alonso Juanes và cô người yêu của anh.

- Xin đợi một chút, - Rojas kêu to để gây chú ý với những người có mặt, trước khi các vị đi, - tôi muốn đề cập tới một việc.

Bị lôi cuốn, ông Roa nâng cao ngọn đuốc rồi hướng về phía phát ra giọng nói, tới khi phát hiện ra nét mặt của người vừa nói.

- Thật ngạc nhiên, anh bạn Rojas lại có mặt ở đây! - ông Roa kêu lên khi nhận ra anh - Nếu cậu cho biết có quan tâm nhiều đến những luận đàm của chúng ta, ông nói thêm với giọng chế giễu, thì chính ta sẽ mời cậu.

- Sự thật là tôi không đến để nghe các vị đàm luận, cũng không hy vọng gặp ông tại cái hang này, nhưng thú thật với các vị là tất cả những điều này là mối quan tâm lớn đối với tôi.

- Đừng đoái hoài đến hắn, một người ở bên cạnh anh nói, hắn là mật thám của Giám mục.

- Đúng đấy, - một người khác khẳng định, - tôi biết được từ một người đã nhìn thấy hắn trong dinh thự Giám mục.

- Nếu là gián điệp, - ông Roa lên tiếng bênh vực, - thì sẽ không hành động theo kiểu ngực trần như thế. Còn đối với anh, - ông Roa vừa nói vừa hướng về phía người vừa nói cuối cùng, - ta phải công khai trách cứ anh là đã vô ý để lộ chúng ta có gián điệp ở bên cạnh Giám mục.

- Xin ông thứ lỗi cho sự vụng về của tôi, - anh ta ngượng nghịu xin lỗi - như các vị thấy đấy, tôi không cố ý.

- Trong bất cứ trường hợp nào, - ông giáo Roa cắt ngang, - chúng ta không phải băn khoăn vì anh bạn Rojas; bởi những hoạt động của chúng ta đã không làm cậu ta lo lắng và quan tâm. Những vấn đề khác mới làm cậu ta mất ngủ như việc tìm ra thủ phạm giết cha Tomas. Cậu ta cũng rất nhạy cảm, - ông Roa nói thêm, - không thể không chế giễu, đối với tình hình của người cải đạo và người Do Thái.

- Thực sự, xin cám ơn ông đã nói những lời bênh vực tôi, nhưng điều ấy không cho ông có quyền nhân danh tôi, - Rojas chỉ rõ - Rất không may là có nhiều vấn đề khiến tôi quan tâm vào lúc này. Và một trong những vấn đề đó đúng là tìm cho ra một tên giết người nguy hiểm, nhưng điều tôi quan tâm hơn cả, trong phương diện này, là giải phóng cho những người vô tội có thể bị Ban Thánh lễ ép buộc đổ lỗi khỏi mọi nghi ngờ. Tất cả các vị đều biết rằng từ khi người Do Thái bị trục xuất ra khỏi Castilla và Aragon, thì những người cải đạo trở thành vật tế thần chủ yếu của tất cả những rủi ro của chúng ta. Tuy vậy, ở trên đường phố hay trong các hội nghị của các vị, không một ai phản đối điều đó. Nhưng các vị đã hình dung điều gì sẽ xảy ra khi họ kết thúc đối với những người cải đạo, dù là cải đạo giả dối hay là không? Họ sẽ sờ đến các vị, những người không hài lòng với chính sách của họ. Và lúc ấy không gì có thể giúp các vị ẩn náu dưới những hang động này…

- Nhưng anh ta nói tất cả điều này là vì cái gì vậy? - một người có mặt phản đối.

- Liệu anh ta có điên không đấy? một người khác bên cạnh hỏi lại.

- Cách đây năm năm, khi họ trục xuất những người Do Thái ra khỏi Castilla, - Rojas nói tiếp không nản chí, - tôi biết không một vị nào động lấy một ngón tay hay lên tiếng phản đối. Giờ đây, các vị cũng không làm được điều ấy mỗi khi nhìn thấy ngoài đường, nơi các vị đang ở, người ta bắt giữ một người cải đạo chỉ vì bị nghi là theo đạo Do Thái. Như vậy, các vị sẽ không thấy ngạc nhiên nếu đột nhiên các vị là người bị chịu đựng tra tấn, tù đầy hay bị thiêu trên giàn lửa do bị buộc tội theo tà giáo, bỏ đảng hay phản quốc. Bởi vì, dẫu các vị có muốn hay không, giờ đây chúng ta đều cùng trên một con thuyền. Nếu như ngày hôm qua họ ném ra đường những người Do Thái và ngày hôm nay họ đẩy xuống đáy thuyền những người cải đạo, thì ngày mai sẽ là các vị, những kẻ bất mãn, sẽ phải dừng chân ở nơi đáy biển. Và lúc đó, hãy nghe tôi nói, các vị sẽ không thể nhắm mắt cũng không thể nhìn sang bên cạnh vì các vị sẽ chết và trở thành tro bụi.

- Tôi không thể chịu đựng được hơn! - ông già ngồi ở hàng đầu kêu lên.

- Đây là thái độ khiêu khích! - một người khác mạnh mồm nói.

Từ khắp các chỗ ngồi, mọi người hùa theo lên tiếng phản đối, tới mức tiếng kêu nghe chát chúa. Trong khi đó, ông Roa vẫn kiên nhẫn yêu cầu mọi người trấn tĩnh. Cuối cùng, yên lặng được lập lại một chút, ông Roa quyết định bế mạc cuộc họp:

- Đã muộn rồi, các vị nên về nghỉ đi. Đối với vị khách bốc đồng của chúng ta, xin các vị chớ ngại, tôi sẽ lo. Chúng tôi là người quen cũ của nhau mà.

Trong khi bước xuống mấy bậc đá, Rojas nhận thấy những người khác quan sát anh vẻ khinh miệt và ghê tởm, như thể nhìn một kẻ tội phạm đã lọt vào nhà và nhất là, kẻ đó lại muốn lên lớp với những bài học đạo đức.

- Cậu ngạc nhiên gì vậy? - ông Roa nói khi nhìn thấy khuôn mặt kinh ngạc của Rojas. - Không phải là cách thông minh lắm khi cậu xuất hiện giữa một cuộc họp được coi là bí mật và, sau đó, cậu lại trình bày tất cả những điều mình muốn. Như cậu đã thấy, không phải tất cả những người bạn của ta đều kiên nhẫn như ta. Một số hình như đã kêu to đòi đầu của cậu đấy.

- Tôi vào được đây là do tình cờ và do sự thiếu năng lực của người bảo vệ phía các vị. Dù sao chăng nữa, tôi không có ý đồ khiêu khích, cũng không muốn can thiệp vào công việc của các vị. Tôi vào hang chỉ đon giản là lần theo dấu vết của một kẻ tình nghi.

- Vậy ra là như thế, - ông Roa đáp với vẻ thất vọng. - Thế cậu nghĩ kẻ giết người ẩn náu trong đám người theo ta à?

- Tôi không biết vì tôi chưa rõ danh tính của hắn, nhưng tôi tin chắc rằng hắn có chỗ nấp trong cái hang quỷ quái này. Ông hãy hình dung tôi rất ngạc nhiên khi phát hiện ra, cách đây một lúc, ông là diễn giả của hội nghị.

- Vậy cậu hãy nói đi, cái gì đã khiến cậu nghĩ rằng kẻ tình nghi đi vào đây? - ông Roa giận dữ hỏi - Cậu nên biết rằng có nhiều lối vào, nhiều đường ngầm và ngách nhỏ trong cái hang này, tất cả tạo thành một mê cung và chúng ta chỉ chiếm giữ một phần.

Mặc dù cố gắng giữ điềm tĩnh, ông Roa cảm thấy đau lòng vì Rojas có thể coi ông là kẻ nghi vấn đã xúi giục giết người. Về phần mình, Rojas hoàn toàn tin tưởng ông Roa vô tội, nhưng không thể loại trừ khả năng một kẻ nào trong đám người theo ông, dính líu vào.

- Kẻ bị tình nghi, - Rojas nói - vào hang qua lối nhà thờ Thánh Cebrian. Cái đó tôi có thể bảo đảm với ông vì tôi đi theo sau hắn ta.

- Nếu là như vậy, ta dám chắc với cậu không phải là người của chúng ta. Không bao giờ chúng ta sử dụng lối ấy, - ông Roa giải thích - vì nó không phù hợp đối với một nhóm khá đông và phần lớn trong số họ không biết có lối vào ấy.

- Vậy các vị dùng lối vào nào?

- Cái đấy bây giờ không quan trọng nữa. Điều cậu cần biết là kẻ giết người không ở trong nhóm chúng ta; cậu hãy tin ta đi. Ta hiểu rằng việc chúng ta hội họp trong một cái hang có thể gây nghi ngờ, nhưng trong thời điểm hiện tại, đây là giải pháp duy nhất mà chúng ta có thể làm. Cậu biết rõ cái chết của Thái tử không làm chúng ta buồn nhiều, nhưng chúng ta không phải thủ phạm. Có thể, một ngày nào đó chúng ta sẽ ủng hộ một cuộc nổi dậy hay một cuộc khỏi nghĩa chống lại một vị vua độc ác, bất hợp pháp hay bạo chúa, nhưng chúng ta không sử dụng bạo lực hay khủng bố; thế giới của chúng ta là những từ ngữ và ý tưởng. Ngoài ra, rõ ràng là nếu ta ra lệnh giết Thái tử bởi một lý do nào đó, thì không khi nào ta cho phép làm điều ấy một cách giấu giếm, mà sẽ công bố ở khắp mọi nơi. Hôm trước, ta đã chỉ cho cậu ai là người có lợi với cái chết của Thái tử và cậu đã kiểm chứng rằng nghi ngờ của ta là có lý và dần được khẳng định. Mặt khác, chúng ta có thể kiểm chứng, nhưng dấu hiệu thì không thiếu.

- Dù thế nào chăng nữa, - Rojas nhấn mạnh, - kẻ tình nghi vẫn ẩn náu trong hang này và tôi sẽ không nghỉ cho tới khi tìm ra hắn.

- Luôn là thế, trừ phi cậu bị lạc trước trong hang, - ông Roa cảnh báo - Ta đã nói với cậu là hang này rất lớn, gần như một thành phố ngầm dưới đất, một sự đảo ngược ngoạn mục so với thành phố bên trên, một địa ngục thực sự. Cậu có biết những cư dân cổ của mảnh đất này, người vacceos(3), đã ẩn nấp trong hang, chia sẻ nơi ở với người vetones(4) khi bị quân cartagineses(5) xâm chiếm?

- Tôi gần như không biết gì, Rojas thừa nhận, về lịch sử của thành phố này.

- Người ta kể rằng, - ông Roa nói tiếp - vào năm 220 trước Công nguyên, khi Anibal phái quân đen Helmantica hay Salmantica như lúc ấy người ta gọi thế, chúng nhìn thấy tất cả các cửa trên tường thành đều để ngỏ. Cẩn trọng, chúng tiến vào bên trong để cướp bóc và nhận thấy đường phố cũng như nhà cửa đều hoàn toàn trống rỗng nên chúng nghĩ là dân chúng đã chạy khỏi thành phố. Tối đó, để ăn mừng, chúng đã tổ chức một bữa tiệc lớn với rượu lấy từ dưới hầm. Tờ mờ sáng hôm sau, khi quân cartagineses mệt quá lăn ra ngủ say thì người vacceos ra khỏi hang và họ thận trọng dùng dao găm giết chết hết, không bắt sống tù nhân cũng không chịu tổn thất gì. Khi biết được chuyện đó, Anibal rất ngưỡng mộ mưu kế ấy nên đích thân đi chinh phục để biến thành phố này thành liên minh. Từ đó, cửa sông cũng mang tên cổng chào Anibal. Nếu cậu suy nghĩ kỹ một chút thì đây là chiến thuật rất giống chiến thuật con ngựa thành Troya, nhưng chỉ ngược lại trình tự.

- Chắc chắn, chính Hercules là nguồn cảm hứng, hay đúng hơn, bức tượng nổi tiếng của ông, - Rojas không tránh khỏi bông đùa, vì anh nhớ lại điều cha German đã kể với anh.

- Ta không biết ai đã kể với cậu, - ông Roa bất ngờ bình luận, - nhưng ta khẳng định với cậu rằng bức tượng ấy tồn tại. Từ lâu, chúng ta bắt gặp nó chôn tại một trong những cái hang. Nếu cậu không tin, ta có thể chỉ cho cậu xem.

- Và ông sẽ không nói là còn có kho báu nữa, như ở trong hang Toledo.

- Ta không hiểu vì sao cậu lại có thái độ bất tín như thế. Ta không nói với cậu về truyền thuyết, mà là sự việc cụ thể, có bằng chứng và nhân chứng, như bức tượng nổi tiếng. Chí ít, dù Hercules từng hiện diện ở đây hay không thì hình tượng của ông vẫn là một biểu tượng và truyền thuyết về ông là vét tích của một thế giới đã bị lãng quên. Nhưng ta có thể bảo đảm với cậu rằng có rất nhiều người đã qua những hang động này. Những người La Mã, luôn thực tế và năng động, đã sử dụng một số ngách hầm để làm đường cống hoặc làm nơi tích trữ để phân phối nước cho cả thành phố. Họ cũng là những người, trong quá trình thăm dò, đã bắt gặp một số vết tích của quá khứ trong hang và những vỉa quặng nhỏ của một số khoáng sản mà họ đã nhanh chóng nhận ra. Ngược lại, những người visigodosch(6) dùng hang làm nơi an táng người chết. Sau đó, trong thời kỳ người Ả rập chiếm đóng, hang trở lại cuộc sống huy hoàng trong một chừng mực nhất định, vì nhiều nhà giả kim thuật, bị lôi cuốn bởi sức mạnh ảo thuật, đã tìm đường vào hang. Điều này đã biến hang thành một nơi lý tưởng để họ thực tập. Nhưng chính những cuộc xâm lược nhiều lần của đạo quân Thiên Chúa giáo vào thời điểm đó khiến thành phố cuối cùng đã bị phá huỷ, đất không có chủ và trong tình trạng hoàn toàn bỏ trống, bao gồm cả hang này, nơi như cậu thấy đấy, có nguồn gốc thực sự của Salamanca và của trường Đại học.

Phần lịch sử còn lại, Rojas đã được biết và anh nói lại như vậy với giáo sư Roa. Ông giáo ngạc nhiên, muốn xem bằng cách nào anh đã biết và anh làm thế nào vào được trong hang. Rojas lúc ấy mới nói về cha German, người mà ông Roa có mối quan hệ cũ. Ông Roa rất vui được nghe tin cha German là một nhà nghiên cứu về ma thuật và có nhiều hiểu biết về thế giới vô thần và tất cả những gì liên quan đến cái hang này.

- Thế còn giáo sư đã vào đây như thế nào? - Rojas hỏi lại.

- Chính truyền thuyết đã đưa chúng ta tới đường mòn của hang động. Chúng ta đã được đọc một vài tham khảo và bằng chứng mơ hồ về cái hang trong một số cuốn sách. Như cậu đã biết, hang này có vị trí tại hầm mộ của nhà thờ Thánh Cebrian, nhưng rất nhanh chóng chúng ta phát hiện ra đây chỉ là một trong những lối vào, là một phần mà chúng ta có thể nhìn thấy trong tổng thể một hang động rất sâu, phức tạp và quan trọng. Người ta cũng biết rằng khi một vật càng giấu kín thì càng dễ lời ra ánh sáng, mặc dù với hình thức tượng trưng hay thay đổi hoặc được nguỵ trang dưới một truyền thuyết, như trường hợp này. Như vậy, chúng ta đã đi tìm những lối vào khác. Việc này được thực hiện cách đây hai mươi lăm năm, lúc đó người ta phá bức tường cổ Alcazar, làm lộ ra trên mặt đất một lối vào mới, thoải mái và chắc chắn hơn lối kia, cho phép chúng ta vào hang thám hiểm dễ dàng hơn. Ban đầu, hang làm chúng ta xúc động, nhất là về quá khứ, đặc biệt về thời kỳ cổ của La Mã và Hy Lạp với bản năng tò mò tự nhiên về những điều chưa từng biết. Nhưng ngay lập tức, chúng ta hiểu rằng những hang động này cũng là nơi ẩn nấp tuyệt vời trong trường hẹyp cần thiết. Như vậy, từ sau phiên toà xử Pedro de Osma và khi Toà án Công giáo lập ra ở Castilla, chúng ta bắt đầu sử dụng hang cho các cuộc hội họp và nghiên cứu. Từ đó, hang này trở thành Học viện và gần như là nhà của chúng ta.

- Thế ông không sợ truyền thuyết của hang gây tác động xấu cho các vị à?

- Chẳng những không gây hại gì cho chúng ta, mà truyền thuyết còn tạo ra lá chắn tuyệt vời để che đậy những hoạt động của chúng ta. Một mặt, nỗi sợ Quỷ sứ và những mê tín dị đoan khác đã làm những kẻ tò mò lánh xa. Mặt khác, phần lớn các nhà Thần học và công tố viên đều cho rằng tất cả những điều liên quan đến hang động và truyền thuyết của hang chỉ là chuyện kể của các bà già, và như vậy, không nên gây khó dễ chống lại chúng. Dù sao chăng nữa, chúng ta cũng không phải là cư dân duy nhất của nơi này.

- Ông muốn nói điều gì vậy? - Rojas hỏi, ám chỉ điều mới lạ.

- Những kẻ tìm nơi ẩn nấp bên trong những bức tường của hang động mỗi ngày một đông. Thí dụ như chúng ta biết rằng một số người Do Thái vẫn còn ẩn nấp ở đây, họ không muốn rời khỏi đây sau sắc lệnh trục xuất.

- Thế các vị có mối quan hệ nào với họ không?

- Chúng ta đã đề xuất giúp đỡ họ trong nhiều dịp khác nhau, nhưng thủ lĩnh của họ rất giáo điều và không mấy tin tưởng, như phần lớn những người thuộc phái chúng ta, và đạo giáo của họ lại không cho phép sáp nhập với chúng ta. Tuy nhiên, cũng có người Do Thái trong Học viện chúng ta, điều ấy thì không thể tránh được. Cậu nên nhớ là đã tồn tại một tình bạn lớn giữa Pedro de Osma và Abraham Zacut.

- Thế những người cải đạo thì sao? - Rojas hỏi lại.

- Chúng ta không có quy chế dòng máu trong sạch. Chúng ta không phân biệt giữa những người Thiên Chúa giáo mới và cũ, cũng không nghi ngờ đối với những người mà trong một thời điểm nào đó, họ thay đổi niềm tin tín ngưỡng. Nếu làm vậy sẽ đi ngược lại với lý tưởng của chúng ta. Như vậy, ở đây không có ý nghĩa gì nếu nói về những người cải đạo. Mặt khác, ở mức độ hay chừng mực nào đó, chúng ta là tất cả. Chính ta đã trở thành một con chiên của Học thuỵêt Nhân cách, một học thuyết được ông Coluccio Salutati, tác giả thực sự của một diễn giải ngụ ngôn rất lạ về mười hai sứ mệnh của Hercules, đề cập cách đây một thế kỷ. Rất tiếc, học thuyết này chưa được hoàn chỉnh.

- Thế còn tư tưởng chính trị của ông thì sao? - Rojas dò hỏi. - Hình như nhiều người bất mãn với chế độ quân chủ ủng hộ ông.

- Như cậu có thể hình dung thấy những người Do Thái và cải đạo không phải là nạn nhân duy nhất của các vị Vua. Những con chiên Thiên Chúa giáo cũ cũng là nạn nhân. Một số thì nghèo đi hay bị lạm dụng; một số khác thì mất quyền lực và đặc quyền; còn số đông thì phải trả sưu thuế ngày một nặng hơn. Chỉ có nhà thờ, một phần thuộc giới quý tộc và những người phát triển nhanh chóng trong tình hình này, trong đó không thể không kể đến một số kẻ tự thú, dường như thực sự hài lòng với nền quân chủ. Điều quan trọng bây giờ là trong những người không hài lòng mà ở đây gồm phần lởn những người cải đạo, họ mong muốn thực hiện sự nghiệp chung với chúng ta. Vì vậy, cần phải quên đi những bất đồng và cố gắng tăng cường mối quan hệ thân tình. Nhưng chắc chắn rằng sớm hay muộn, chúng ta sẽ đối đầu với quyền lực hoàng gia.

- Thông qua âm mưu, thoả hiệp hay mưu đồ giết vua? - Rojas không thể cưỡng nổi, hỏi lại.

- Cho tới lúc này, anh bạn của tôi, vũ khí duy nhất của chúng ta là lời nói và tư tưởng. Bởi vậy, chúng ta đã lập ra Học viện này, một dạng trường Đại học kín, song song với trường bên trên và kế tục trực tiếp với ngôi trường mà xưa kia Hercules sáng lập ra tại chính hang này.

- Vậy học thuyết của ông sẽ như thế nào? - Rojas hỏi với sự tò mò thực sự.

- Để giảng giải học thuyết đó cho cậu, sẽ mất nhiều thời gian. Nhưng để kết luận, ta có thể nói với cậu rằng chúng tôi ủng hộ một nền quân chủ được bầu ra, nơi những đạo giáo và tín ngưỡng khác nhau có thể cùng chung sống và có sự phân chia chính đáng nhất về nghĩa vụ và quyền lợi. Cũng như vậy, chúng ta muốn cải tổ nhà thờ, rà soát lại những tín điều, phương pháp và hệ thống cấp bậc trong nhà thờ. Cuối cùng, chúng ta hoàn toàn chống lại triết lý và sự nổi trội của môn Thần học. Do vậy, chúng ta chủ trương quay trở lại nền văn hoá cổ đại của La Mã và Hy Lạp với một chương trình trong đó con người là trung tâm thực sự của việc giảng dạy. Không có gì là tà thuật, giấu giếm hay ma quỷ trong hang của chúng ta; tất cả đều rất nhân văn. Trong một thời đại mà Salamanca và trường Đại học chống lại việc thoát ra khỏi bóng tối thì thật nghịch lý, địa điểm hang ngầm này lại là đại diện cho ánh sáng duy nhất và niềm hy vọng vào tương lai.

- Những lời nói đó nghe rất tuyệt vời! - Rojas bình luận.

- Và nếu nhìn gần, còn thấy tuyệt vời han. Hãy đi theo đường hầm này, - ông Roa chỉ tay, - ta muốn cho cậu xem một vật. Ta biết rằng cậu sẽ rất thích và sẽ giữ bí mật khi ra khỏi nơi đây.

Chú thích

(1) Trong thần thoại Hy Lạp, Ariadna đã dẫn đường cho người yêu của mình ra khỏi mê cung bằng một cuộn chỉ đỏ.

(2) Publio Virgilio Maron (sinh 15-10-70 mất 21-9-19 trước Công nguyên): nhà thơ La Mã.

(3) Dân tộc gốc Cen-tíc, sống ở phía Bắc bán đảo Iberia.

(4) Dân tộc gốc tiền La Mã, sống ở miền Trung bán đảo Iberia.

(5) Người Cartago, thành phố cổ ở Bắc Phi, nay là Túnez.

(6) Thuộc dân tộc Đông Đức. Họ đã xâm lược bán đảo Iberia vào thế kỷ thứ V.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


Khi họ đến phía bên kia của đường hầm, Rojas phải chớp mắt vài lần, không phải chỉ riêng do sự thay đổi ánh sáng đột ngột. Trước sự ngạc nhiên của anh, hiện ra một kiểu quảng trường Hy lạp hay quảng trường La Mã cổ, được bao xung quanh một bậc thềm nhỏ, trên đó đặt vài hàng cột và những bức tượng cổ. Sàn được phủ bằng những bức điêu khắc với bối cảnh về lịch sử và thần thoại. Và người ta nhìn thấy, ở chỗ này chỗ kia, những nhóm thanh niên mặc áo chẽn kiểu La Mã, đang đối thoại với nhau, dưới ánh nhìn ân cần của giáo viên, hay đang chăm chú nghe lời giảng của giáo viên, hay đang đọc bài khoá và họ bình luận bằng những ngôn ngữ khác nhau.

- Đây là Viện hàn lâm của chúng ta! - ông Roa phấn khỏi kêu to. - Trong Học viện này không có giáo điều, cũng không có những bài giảng trịch thượng, cũng không có sách cấm hoặc bị kiểm duyệt. Mục đích chính của chúng ta là trở lại với nguồn văn hoá cổ và chúng ta đã thực hiện nó trong điều kiện này, ông nói với hai cánh tay dang rộng ra như thể bao lấy tất cả, chúng ta muốn tạo ra một môi trường thích hợp nhất cho điều trên. Cậu sẽ ngạc nhiên khi biết rằng những cái cột, bức tượng và bức khảm là nguyên bản gốc. Phần lớn những tác phẩm này có ở trong hang, hay được giấu dưới đất tại các địa điểm khác nhau của thành phố. Phần còn lại, chúng ta kiên nhẫn mang từ nơi khác đến. Và bức tượng ở trung tâm, đúng là tượng Hercules, tiền nhân của chúng ta.

Đó là một bức tượng rất lớn, đúc bằng đồng, thể hiện người anh hùng đang truyền đạt tri thức với cuộn giấy cói trong tay. Dưới chân ông, có vài cái rương chứa đầy sách, bản đồ và tài liệu ghi chép. Trong những đồ vật, có một số đồ bằng gốm và gỗ, một vài vũ khí cổ, những tấm bia mộ có ghi chú, một số hình và dụng cụ bằng kim loại… Tất cả là một kỷ yếu về quá khứ của hang động được trưng bày phục vụ cho giáo viên và học sinh.

Trong khi đang ngắm nhìn cảnh vật, ông Roa gọi mấy cậu thanh niên trẻ, dường như ghé sát tai họ để đưa ra chỉ dẫn nên họ đi tới một vài điểm cụ thể trên bậc thềm. Rojas cảm thấy những gì tận mắt chứng kiến mà anh gần như không thể tin được thật tuyệt vời. Anh cũng không dám phát biểu lời nào bởi sợ phá hỏng sự mê hoặc.

- Đấy là cậu còn chưa được xem cảnh đẹp nhất đấy, - ông Roa thông báo, - như thể ông đọc được ý nghĩ của Rojas.

Nói xong điều ấy, ông Roa vỗ tay mấy cái và, ngay tức khắc, các ngọn đuốc đặt trên đỉnh cột, bật sáng. Đầu tiên, trần của hang như thể được mở ra, từng cánh một, để lộ ra trời đầy sao, nhưng ngay sau đó anh bắt đầu nhận ra có một số hình nhân vật quen biết trong đó.

- Chúa ơi! - Rojas kêu lên. - Đó là bản sao của bầu trời có trong thư viện ở Học viện!

- Ta e rằng cậu nhầm, Rojas thân mến; không phải bản sao, mà là bản gốc, đúng hơn là bản kia được vẽ trước đó.

- Tôi không hiểu? - Rojas bối rối thú nhận.

- Bản của Học viện, - ông Roa giải thích, - thực chất được làm trước một thời gian, nhưng cả hai đều cùng xuất phát từ một ý tưởng, chỉ có cái khác là bản này hoàn thiện và trung thành hơn so với dự án gốc.

- Giáo sư biết ai là tác giả của bản thiết kế không?

- Cách đây hơn hai mươi năm, ngày 21 tháng Tám năm 1475, nhà Thần học Pedro de Osma, nhà thiên văn Abraham Zacut và nhà ngữ pháp Antonio de Nebrija, được đào tạo từ trường Cao đẳng Thánh Clemente de Bolonia, đã quyết định cùng nhau hợp tác để tạo ra phương pháp mới cho Học viện Salamanca, vốn bị đe doạ từ lâu do bị bỏ bê và tụt hậu. Để kỷ niệm ngày ấy, ba vị đã cùng vẽ một bầu trời thiên văn vĩ đại, tượng trưng cho dự án cải tổ của họ. Đó là biểu tượng thực sự và đồng thời tượng trưng cho bầu trời sao của ngày giờ cụ thể họp mặt giữa ba vị giáo sư. Như vậy, trong bầu trời ấy xuất hiện hình hài của bảy hành tinh và những chòm sao khác nhau của dải ngân hà thứ tám, trong đó có mười hai dấu hiệu của Zodiac tương ứng với mười hai sứ mệnh của Hercules, cũng như nhân cách hoá bốn hướng gió và các biểu tượng của bảy nghệ thuật tự do.

Thật không may, sau đó ít năm, Pedro de Osma bị kết án và bị tước đoạt chức Giáo sư môn Thần học và Abraham Zacut, người Do Thái, bị ép cải đạo sang Thiên Chúa giáo. Điều này khiến ông phải tị nạn trong một hiệp hội nhỏ của các học giả do ngài Juan de Zuniga lập ra. Do vậy, chỉ còn lại thầy dạy ngữ pháp là có thể tiếp tục với dự án cải tổ và cuộc đấu tranh riêng chống lại kẻ thù của ngôn ngữ La tinh; và như anh biết, ông đã tuyên chiến với những kẻ ấy trong tác phẩm Gzấz. thiệu về Lã tinh xuất bản năm 1481. Như Hercules vài thế kỷ trước, Nebrija cũng đến Salamanca để phục hồi văn hoá cổ và xoá bỏ tình trạng tụt hậu. Từ đấy, năm 1483, khi trường Đại học quyết định giao cho hoạ sĩ Fernando Gallego trang trí bầu trời của thư viện mới, Nebrija không ngần ngại đưa ra chương trình vẽ tranh mà ông đã thiết kế cùng hai người bạn của mình. Tuy nhiên, người hoạ sĩ đã không thực hiện đúng theo nguyên bản dự án khiến bức tranh khi được hoàn thiện vào năm 1486 thì đến Nebrija cũng không thể hiểu nổi ý tưởng của bức vẽ và quyết định rời bỏ trường Đại học. Đó cũng là lúc mà Nebrija nhận được sự bảo trợ của ngài Juan de Zuniga tại Zalamea de la Serena, nơi ông có thể an tâm chuẩn bị cho tác phẩm của mình Ngữ pháp tiếng Tây Ban Nha và một số từ vựng. Ở đấy, ông đã gặp lại Abraham Zacut, lúc đó Zacut vừa hoàn thành tác phẩm Luận về ảnh hưởng của bầu trời, mà chắc có nhiều liên quan đến bầu trời thiên văn này.

- Thế ý tưởng vẽ bầu trời ấy ở đây lúc ấy là của ai?

- Trước lúc chết, Pedro Martinez de Osma đã trao cho ta tất cả giấy tờ, trong đó có một bản sao hoàn chỉnh của chương trình vẽ tranh. Sau khi nhìn nhận những gì đã xảy ra với mái trần vòm của thư viện tại Học viện thì Viện hàn lâm chúng ta quyết định tiến hành dự án và đây là kết quả.

Trần tự nhiên của hang có hình thức ít nhiều một nửa hình ống, phải mài đi và phủ lên một lớp vữa để có thể vẽ tranh lên trên đó. Nền của tranh là màu xanh da trời và dọc theo bề mặt của nó là vô số những ngôi sao được dát bằng vàng, nổi gờ lên một chút, dường như lấp lánh dưới ánh sáng của những ngọn đuốc, cũng lung linh như vậy là hình thần linh của các hành tinh, những chòm sao và những hình tượng khác.

- Như cậu có thể thấy, ông Roa giảng giải, bầu trời có ba phần, mỗi phần tương ứng với một vị giáo sư. Ở phần đầu, phần dành cho Abraham Zacut, có thần Mặt trời và Sao Thuỷ, ngồi trên xe chiến thắng, trên đường trở về nhà, ngày cũng như đêm. Sau đó là các dấu hiệu của Zodiac tương ứng với phần thứ hai của năm mặt trời; đó là các chòm sao Sư tử, Trinh nữ, Thiên binh, Bò cạp và Xạ thủ, mà trong dự án là đường phân cách giữa các chòm sao phía Bắc và phía Nam. Ở phía trái là các hình của Người-thú, thần Hercules và Ác điểu; và ở phía phải là Quỷ bảy đầu, con Quạ, hình Cúp, cây sồi, Vương miện phương Nam, Bàn thờ và Nhân mã. Và cuối cùng, ở phía dưới là những cái đầu phồng mồm thổi, tượng trưng cho bốn hướng gió.

Vừa nói, ông Roa vừa chỉ và giảng giải cho Rojas từng hình tượng của bầu trời có một không hai ấy. Và như vậy, anh được chứng kiến phần còn lại giữa các chòm sao và các hành tinh được phân chia như thế nào cho Pedro de Osma và Antonio de Nebrija, và quan trọng hơn cả là biết được bảy môn nghệ thuật tự do: ngữ pháp, phép biện chứng, thuật hùng biện, số học, hình học, thiên văn học và nhạc.

- Nếu cậu nhìn kỹ, - ông Roa cảnh báo Rojas, - sự khác nhau cơ bản giữa bản vẽ bầu trời này và bản vẽ của Fernando Gallego là sự xuất hiện của các biểu tượng mà cậu có thể hình dung là tượng trưng cho các bài giảng của thần Hercules tại hang này. Đúng ra, còn có sự khác biệt nữa là hình tượng của một vị á thần mà ở thư viện giống như một chiến binh đang lao vào cuộc chiến, trần truồng và được vũ trang bằng cái chuỳ và với da sư tử vùng Nemea, trong khi ở đây chúng ta nhìn như một anh hùng khai hoá văn minh trong buổi lễ thành lập Học viện tại hang này, và do đó, đã đặt nền móng hay gốc rễ cho trường Đại học tương lai và cho Viện hàn lâm của chúng ta. Như vậy, cậu có thể thấy rõ, - ông Roa kết luận, - bức tranh này toàn diện hơn nhiều và vượt trội hơn hẳn so với bức vẽ kia.

- Đúng là như vậy, - Rojas thừa nhận, - bị lôi cuốn trước quá nhiều tuyệt tác.

- Tác giả là một hoạ sĩ tài ba người Florence mà tới lúc này ta chưa thể cho biết tên.

- Thời buổi lúc này lạ quá, - Rojas bình luận, - những cái vượt trội thì phải giấu kín trong hang và tác giả là vô danh trong khi ở bên trên điều tầm thường lại trổ rễ phát triển và chiến thắng.

- Vậy cậu sẽ thấy kỳ diệu hơn khi biết rằng, theo tính toán của chúng ta, bầu trời này nằm ngay bên dưới bầu trời kia, như thể một địa ngục đảo ngược, mặc dù đối với chúng ta, địa ngục này mới là bầu trời. Và điều ngạc nhiên hơn cả là, ông Roa chỉ rõ với sự hào hứng tăng lên, bầu trời này cũng có nghĩa vụ che chở và trang hoàng cho một thư viện, nhưng trong trường hợp này, những quyển sách không bằng da dê, cũng không bằng giây, mà bằng đá. Thực tế, bức vẽ tuyệt vời này, cuối cùng ông tiết lộ, không nằm ngoài ý đồ làm sáng tỏ điều mà ở đây chúng ta gọi là bản thảo bằng đá.

- Giáo sư muốn nói gì vậy? - Rojas tò mò hỏi lại.

- Hãy đi theo ta! Cậu sẽ nhìn thấy tận mắt.

Họ tiến sâu vào phía trong quảng trường rồi trèo lên ba bậc thềm đá để tới hành lang có hàng cột bao quanh. Khi đã vào đấy, có thể nhìn bao quát bức tường chính diện của hang, được cắt mài như một bức tường xây. Dưới ánh sáng của những ngọn đuốc, Rojas thấy rõ phần lớn mặt tường đã được phủ đầy chữ bằng đất son đỏ.

- Cậu hãy nhìn cái này ở đây đi! - ông Roa khuyên anh.

Không chỉ riêng có chữ, mà còn có tranh động vật: bò tót, lợn rừng, hươu nai… được vẽ với vẻ đơn sơ, nhưng đầy sức sống. Còn có cả hình ảnh của người, một số được trang bị vũ khí cung tên và số khác thì nhìn lên phía trên, hướng tới một loạt vòng tròn và những điểm có kích cỡ khác nhau: mặt trăng, mặt trời, vô số những vì sao… Không cách xa những hình ảnh ấy, người ta nhìn thấy một số dấu hiệu bí ẩn, có thể thuộc một ngôn ngữ không quen biết. Và đột nhiên, có một số văn bản bằng tiếng Hy Lạp mà Rojas đã đọc và tự dịch riêng cho mình. Một số bản ám chỉ về Orfeo, còn số khác, dĩ nhiên, đề cập tới Hercules và sứ mệnh của Người. Và ở trên cao nhất, có khắc dòng chữ nổi tiếng của đền thờ Apollo(1) ở Delfos, đề cập tới bảy vị uyên bác: Ngươi hãy tự hiểu mình. Nhưng phần lớn bức tường được viết bằng tiếng La tinh. Có những câu văn, bài thơ, văn bia, đoạn trích của những tác giả vĩ đại… tất cả bằng tiếng La Mã. Cuối cùng, có những từ bằng tiếng Ả rập và tiếng Do Thái mà Rojas giải nghĩa một cách trôi chảy.

- Tại bức tường này, - ông Roa kết luận, - có những nhân chứng của thời đại đã qua và y như là nguyên bản mà chúng ta bắt gặp. Ở những bức tường khác, chúng ta đã bắt đầu viết tiếp. Và vẫn còn rất nhiều chỗ trống cho tương lai. Ta hy vọng rằng chúng ta không phải dùng đến nó.

Rojas tiếp tục giữ yên lặng đi theo sự hướng dẫn của ông giáo Roa dọc hành lang. Anh thực sự ấn tượng trước bản thảo bằng đá. Tất cả những lời ấy, đọc qua ánh sáng của ngọn đuốc, như thể được viết bằng máu và lửa trên đá rắn.

- Ở đây, trong một nơi danh dự, - ông Roa chỉ dẫn, - cậu có thể thấy chín đề nghị của Pedro de Osma, mà với những đề nghị đó, ông đã bị kết án và mất đi tất cả. Chính đề nghị ấy đã khiến chúng ta quyết định sử dụng nơi ẩn náu này. Và cùng với những đề nghị ấy, có rất nhiều đoạn trích từ Tân ước, rất trái ngược với thực tiễn và tín điều của Nhà thờ. Tiếp đó là sự giải thích về bầu trời thiên văn theo sách của Abraham Zacut mà ta đã đề cập với cậu. Như cậu cũng thấy, còn có bài luận thập sắc lệnh của Chúa bàn về một chính phủ tốt, do chính ta biên soạn, xuất phát từ những bình luận về Chính trị của Aristotle và của thầy dạy Pedro de Osma.

Rojas đọc to một số đoạn của bài luận thập sắc lệnh:

Nhà Vua nên tìm cách thúc đẩy nguồn của cải chung, chăm lo đến lợi ích và các nguồn thu khắc phục vụ cho sự phát triển của chính nó.

Không nên mở rộng vương quốc chống lại nền tảng công lý. Chiên tranh chỉ chính nghĩa một khi sửa chữa lại điều phi nghĩa. Do vậy, nên khước từ chiến tranh chinh phạt - Ta hy vọng một ngày nào đó có thể phục vụ cho một cái gì đấy, ông Roa bình luận. Ta thường xuyên hình dung rằng một khi tất cả chúng ta đã chết thì bức tường này vẫn đứng vững, giữ cho những ký ức và tư tưởng của chúng ta sống mãi an toàn. Nhưng đừng để nỗi buồn xâm lấn chúng ta. Hãy nói với ta! Cậu cảm thấy thế nào về tất cả điều này?

- Thú thực với giáo sư là tôi rất cảm động và thấy tuyệt vời.

- Tới mức có thể gia nhập phía chúng ta?

- Tôi hy vọng sẽ làm điều đó, nếu ông cho phép, - Rojas đáp lại, rất ngạc nhiên với đề nghị của ông Roa, - nhưng trước khi thực hiện, tôi phải hoàn thành một nhiệm vụ.

- Cậu nói có lý; vào lúc này ta đã quên mất. Ta đã ở đây vài giờ và đầu óc lú lẫn rồi. Chắc là do thiếu không khí, ông bông đùa.

- Thật không may là tôi lại không thể quên được. - Rojas bình luận.

- Trước khi cậu tiếp tục đi, ta muốn nhắc một điều: trong hang này có những kẻ rất nguy hiểm. Ta không chỉ đề cập đến đám tội phạm, côn đồ và kẻ trốn chạy pháp luật, đều có ở đây, mà còn có những kẻ dị dạng, quỷ quái và cực kỳ hèn hạ. Phần lớn là những kẻ bệnh hoạn và điên khùng, bị chính gia đình họ ruồng bỏ, có một số thuộc dòng dõi cao quý. Và bọn chúng luôn đi lang thang từ chỗ này tới chỗ khác, tìm cái gì sơ suất để kiếm ăn. Bởi vậy, tốt hơn là nên đi thành từng nhóm. Ở phía đằng kia, có tín đồ Quỷ sứ…

- Giáo sư đề cập đến cái gì vậy? - Rojas quan tâm hỏi lại.

- Như ta đã kể với cậu, giả thiết về Quỷ sứ xuất hiện làm một số người tò mò và láu táu xa lánh khỏi hang, nhưng thỉnh thoảng lại thu hút kẻ nào đó thờ Ác quỷ. Thường là những kẻ sẵn sàng thờ phụng để có được năng lực siêu nhiên hay muốn đạt được ý đồ tham vọng. Nhưng những kẻ ấy ở phần ẩn khuất và sâu nhất trong hang, cũng là phần nguy hiểm nhất.

- Giáo sư đã ở trong đó chưa?

- Anh bạn ơi, có những chỗ trong hang này chúng ta chưa biết, những ngách sâu mà chưa ai hay gần như không có ai muốn vào, trừ những kẻ thờ phụng Quỷ, những ngách chứa đầy lưu huỳnh hay tường phủ đầy chất rejalgar(2)…

- Chất rejalgar à? - Rojas ngạc nhiên kêu to.

- Đó là một khoáng chất lạ, người ta còn gọi là bụi hang động, nó rất độc hại.

- Tôi biết chất rejalgar là gì? Giáo sư biết đi tới đấy như thế nào không?

- Ta đã nói với cậu là có những địa điểm, do phòng ngừa, chúng ta chưa tiến hành thăm dò. Cũng có một thoả thuận ngầm là những người sống trong hang cam kết không vào vùng đất lạ.

- Thế tại sao giáo sư biết ở đấy có chất rejalgar?

- Một buổi, - ông Roa giảng giải - chúng ta gặp một người hấp hối ở một trong những đường hầm của chúng ta. Anh ta đến tìm kiếm sự giúp đỡ. Trên da của anh ta có vết bụi hang ấy và thế là chúng ta chẳng làm gì được cho anh ta.

- Giáo sư có ý tưởng tối thiểu nào về đường đi tới đó không?

- Cách không xa nơi kết thúc một trong những đường hầm của chúng ta, có một ngách nhỏ, qua đó những kẻ đi tìm Quỷ sứ thường chui vào. Hình như lối ấy dẫn tới một đường rẽ đôi, được đánh dấu bằng một vòng tròn với số VIII.

- Một vòng tròn với số VIII, - Rojas nhắc lại, - điều ấy là tất cả những gì tôi cần biết.

- Ta có thể cho cậu phương thức nào đó để khỏi nhiễm độc tố rejalgar. Nhưng ta e rằng cậu phải đi một mình tới đó, vì nếu ta cử người đi cùng thì sẽ đặt Viện hàn lâm và tính mạng của nhiều người trong nguy hiểm.

- Với tôi, giáo sư khỏi phải lo. Khi vào đây, tôi đã biết rằng mình bắt đầu đi xuổng một loại địa ngục, một con đường khó khăn và đầy thử thách mà ai đó đã vạch định cho tôi. Tôi cũng biết trong cuộc phiêu lưu này, mình có thể chết, nhưng nếu vượt qua tất cả các trở ngại thì tôi sẽ chuyển biến và mạnh mẽ hơn. Bằng không, nếu tôi dừng bước và đầu hàng thi không còn mặt mũi nào nhìn ai nữa, và điều đó còn tồi tệ hơn cái chết.

- Không một chút nghi ngờ, cậu sẽ trở về, - ông Roa khẳng định, - với bản chất là một người tự do, công bằng và uyên bác, vì rằng cậu chỉ hành động với mục đích tìm kiếm sự thật.

Trước khi rời đường hầm, nơi có Viện hàn lâm, Rojas nhìn lại lần cuối bầu trời thiên văn và bản thảo bằng đá.

- Tôi cũng rất muốn để lại một ghi nhận nào đó trên bản thảo đá, - Rojas thú nhận với ông Roa.

- Bức tường đang đợi cậu mà.

- Tôi xin cám on tất cả, - Rojas chào từ biệt.

- Cậu hãy cẩn trọng, ông Roa vừa nói vừa ôm chặt Rojas.

- Xin ông cũng như vậy, có nhiều người đang phụ thuộc vào giáo sư.

Vào lúc ấy, một sinh viên tiến lại gần họ, một tay anh ta cầm cặp đuốc và tay kia xách một túi nhỏ.

- Giới thiệu với cậu đây là Felipe, - ông Roa nói, - một trong những học trò của ta. Anh ta sẽ đi cùng cậu tới ngã rẽ. Trong túi có nước và thức ăn, vì đường đi còn dài. Hộp dầu nhựa thơm sẽ bảo vệ cậu khi gặp phải chất rejalgar, nhưng cậu phải che kín mồm và mũi bằng khăn.

- Chúng ta đi khi nào cậu muốn, cảm nhận được sự chăm sóc chu đáo. - Rojas nói với người dẫn đường mới.

Sau khi vượt qua vài ngách hầm, họ đi vào phía trong mà Rojas cảm thấy như một mê cung giữa các đường hầm. Trần của nhiều đường hầm được phủ bằng những khối đá và thỉnh thoảng từ đấy có một ngách nhỏ đi ra và kết thúc bằng những bậc thang dốc đứng. Điều này khiến Rojas nghĩ rằng một số nhà hay biệt thự trong thành phố có đường thông trực tiếp với thế giới bên dưới. Cũng như vậy, anh để ý tới phía cuối của một số ngách hầm, người ta khoét một chỗ trống ở một bên trong hai phía, trên đó có một tảng đá hình tròn lớn, như cối xay đặt trên một thớt đá.

- Đấy là những cửa để đóng các đường hầm trong trường hợp nguy hiểm, Felipe giải thích. Với hình thức này, chúng tôi có thể tách riêng, độc lập hoàn toàn trong khu vực Hàn lâm viện.

- Thế nó chuyển động như thế nào? Rojas hỏi lại.

- Thông qua một hệ thống máy nước; những người La Mã cổ chế tạo như thế. Họ là những người đầu tiên biết chế ngự nước.

- Thật may mắn có thể cộng tác với những liên minh tốt. - Rojas bình luận.

- Chúng ta đã đến rồi, đột nhiên Felipe nói; phía cuối đoạn này là ngách hầm dẫn đến ngã rẽ.

- Cám ơn anh vì tất cả điều đã làm.

- Cầu Chúa phù hộ cho anh!

Chú thích

(1) Thần ánh sáng, chân lý và nghệ thuật trong thần thoại Hy Lạp.

(2) Rejalgar tiếng Ả rập, có nghĩa là bụi hang động (chất độc).
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Như họ đã nói với anh, Rojas không mất nhiều thời gian để đi tới đường hầm rẽ đôi số VIII. Mặc dù bị mất sơ đồ trong cú ngã đã mang anh đến phiên toà Do Thái, nhưng anh vẫn nhớ rất rõ đường nào giờ đây cần phải rẽ. Đi được một lúc, anh nhận thấy đường này mở rộng tới mức đạt kích cỡ của một quảng trường nhỏ. Trên một lề đường, người ta chất đống dồn vào phía tường, hình thành một cái dốc mà ban đầu anh thấy như là gạch vụn. Khi tiến lại gần để xem xét chúng thì anh giẫm phải một vật gì đó mà lúc vỡ ra, nghe tiếng kêu rất khó chịu. Anh cúi người xuống nhìn thì đấy là hộp sọ của một đứa bé rất nhỏ, có thể là của một trẻ sơ sinh. Nhưng đây không phải là hộp sọ duy nhất; cả đường hầm phủ đầy xương của trẻ em, từng đống, từng đống hộp sọ và xương của trẻ nhỏ mà ngọn đuốc chỉ động vào hoặc tiến lại gần là đã vỡ tan.

Giật mình, Rojas nhìn lên phía trên và phát hiện ra một lỗ hổng lớn hình phễu ngược, mà chắc chắn được thông với bên ngoài. Trong một dịp nào đó, anh đã được nghe kể rằng ở các tu viện, các bà xơ đã rũ bỏ kết quả những cuộc tình tội lỗi của mình bằng cách ném đứa trẻ mới sinh qua miệng giếng. Và họ cũng làm như vậy đối với trẻ sơ sinh mà những phụ nữ ương ngạnh đã để lại trong phạm vi tu viện hoặc ở cửa tu viện. Tuy nhiên, chưa bao giờ anh dám hình dung sự tồn tại của một địa phủ như nơi này. Trong khi rời đấy, anh cố không giẫm lên bất cứ hộp sọ nào và tự hỏi mình không biết còn những bất ngờ kinh khủng nào hơn đang chờ đón trên đường đi.

Cuối cùng, khi đến cuối đường rẽ đôi thì Rojas lại bắt đầu nghi hoặc. Thậm chí, anh muốn quay trở lại và quên đi tất cả, nhưng anh thừa biết rằng điều ấy là không thể được. Anh không còn con đường nào khác là kết thúc thử thách và đi tới đoạn cuối của con đường đã hoạch định. “Nếu Orfeo, Eneas và Dante đã trở về được thì tại sao ta lại không?” anh tự nhủ với chính mình để tăng thêm sức lực, nhưng thay vì được khích lệ, anh lại đột nhiên cảm thấy mệt mỏi. Mặt khác, không khí mỗi lúc một khó thở hơn và đã bắt đầu nhìn thấy ở tường một vài lớp bụi đỏ của một khoáng chất lạ, phát ra mùi lưu huỳnh nồng nặc, có thể đấy là chất rejalgar đáng sợ. Do vậy, anh dừng lại để bôi thuốc mỡ bảo vệ vào phần da hở. Sau đó, anh gập đôi ở hai đầu miếng vải nhỏ mà ông Roa đã đưa cho, đặt lên miệng và mũi rồi buộc lại ngang về phía sau gáy.

Một lúc sau khi anh khỏi động lại cuộc hành trình, đường hầm bắt đầu thu hẹp và độ dốc trở nên rõ rệt hơn, tới khi kết thúc bằng một cái khe hay rãnh thẳng đúng, có hình bộ phận sinh dục bên ngoài của nữ giới và từ đó phát ra ánh sáng màu hồng. Trước khi vượt qua, Rojas nhìn cẩn thận để xem có gì nguy hiểm không. Phía bên kia, là một cái hang kích cỡ vừa phải và ở cuối hang, khom người trên một cái nồi đang đặt trên lửa, là một bà già đang đảo đi đảo lại với một thìa lớn bằng gỗ vật đang nấu ở đấy. Dựa vào tường, có vài bó củi, mấy cái chậu và rất nhiều dụng cụ nấu bếp, và ở phía trên người ta phỏng đoán có vài lỗ hổng như kiểu ống khói để khói thoát ra bên ngoài. Đúng lúc ấy, bà già bắt đầu cầu nguyện bằng một giọng rất to:

- Con van xin Người! Hỡi Plutón, Diêm vương phiền muộn, chúa tể của tầng sâu địa ngục; hoàng đế của triều thần địa vương; đội trưởng kiêu hùng của những thiên thần bị kết án; chúa tể của đám cháy lưu huỳnh do những ngọn núi lửa phun ra(1); thống đốc và người kiểm soát sự khổ đau của các linh hồn tội lỗi; thống soái của ba điều giận dữ: Trả thù, Ghen tuông và Tham lam; người cai quản tất cả các sự việc đen tối của vương quốc Estige(2) và Dite(3), với các hồ sâu, bóng đêm địa ngục và sự tranh giành lộn xộn; người săn sóc của đàn ác điều với thân chim, đầu người và với sự tháp tùng của cả đàn rắn nhiều đầu khủng khiếp và đáng sợ. Con là Celestina - và đúng lúc này Rojas giật mình, suýt ngã lăn xuống đất - tôi tớ quen biết nhất của Người, con van xin Người bởi đức hạnh và sức mạnh của những chữ màu đỏ thẫm này được viết ra do máu của đàn dơi đêm đó, bởi mức độ nghiêm trọng của những tên và biểu tượng có trong tờ giấy này, bởi chất độc đậm đặc của loài rắn hổ mang đã làm ra lọ thuốc mỡ này, hãy đến ngay không được chậm trễ, phục tùng ý nguyện của con.

Khi bà ta đọc xong lời cầu nguyện, một đàn dơi đậu trên nóc hang đã bay ào ạt hướng tới lối ra, khiến Rojas phải nhanh chóng dạt sang một bên.

- A, ngươi đang ở đây đấy à, - bà già hướng giọng nói sang phía anh. - Chắc chắn ngươi là thằng cha Fernando de Rojas mà ta từng nghe nói nhiều về ngươi. Hãy qua đây! Đừng sợ, ta đã đợi ngươi lâu rồi.

- Bà gọi tôi à?

- Chứ còn ai nữa? Phải chăng ngươi quen biết một người khác cùng tên và cũng bạo gan như ngươi? Theo ta biết thì không. Chắc chắn thằng cha khốn nạn Diego de Deza đã trả giá cao nên ngươi không ngần ngại đến tận hang sâu nhất của đường vào địa ngục để tìm ta? Hay ngươi thực hiện điều này chỉ là vì ngươi cũng giống quân vô lại ấy?

- Tôi làm điều này không phải vì lòng tham, - Rojas đáp, - dĩ nhiên lý do thúc đẩy tôi làm việc này cũng không phải là những lý do giống như của ông ta.

- Vậy vì cái gì?

- Chỉ vì lòng trung thành và yêu sự thật.

- Ngươi nói vì sự trung thành với con thú ấy à? Ta thà ngủ với cá sấu, còn hơn phải ngồi ăn cùng bàn với thằng cha đạo đức giả ấy.

- Tuy nhiên, ông ta đã từng giúp đỡ tôi trong những lúc khó khăn, - Rojas bào chữa, - và dù là tốt hay xấu, tôi không phải người quên ơn.

- Ta cũng không thể, chắc chắn là vậy. Nhưng ngươi vào đi, đừng đứng ở đấy. Gió ngầm rất nguy hiểm. Lại gần đây! Ngươi sẽ không sợ một bà già tội nghiệp chứ?

Trong khi tiến lại gần, Rojas nhận thấy các cử chỉ của bà ta rất lạ, hơi chút hậu đậu và cứng nhắc, có thể là thiếu chắc chắn.

- Ta quan sát thấy ngươi nhận biết được là ta bị mù. Giờ đây ngươi không cần phải thương hại ta; giống như loài dơi, ta có thể nhìn thấy ngươi bằng đôi tai. Ta chỉ còn thiếu mọc màng cánh ở tay để trở thành một thành viên của chúng, nhưng tất cả đều sẽ ổn cả nếu ta tiếp tục sống tại hang này.

Mắt của bà ta đã phai màu và luôn chảy nước, trong những nếp nhăn ở má trái, nổi lên một vết sẹo lớn mà mặc dù đã rất lâu rồi, nhưng dường như vẫn động đậy như một trái tim thứ hai.

- Vậy ra bà là Celestina nổi tiếng? - Rojas hỏi như thể vẫn chưa tin điều ấy.

- Ta rất mừng vì biết rằng mọi người vẫn không quên ta. - bà ta trả lời. - Ở đây ngươi thấy ta rồi đấy, ta đã từng có lúc vui vẻ ở bên ngoài khi là chủ của một trong những nhà chứa phồn thịnh nhất của thành phố, với chín cô đào trẻ mà cô lớn nhất không quá mười tám tuổi và không cô nào tuổi dưới mười bốn. Vào đấy mua vui là những quý ông già, trẻ và các giáo sĩ đủ loại cấp bậc, từ giám mục đến người trông coi đồ thánh, mà mỗi khi ta vào một đền thờ thì mọi người đều ngả mũ chào, như thể ta là một bà bá tước. Tới một ngày, đột nhiên, tên Thái tử tồi tệ ấy, được Diego de Deza xúi giục, đã ra lệnh xây nhà chứa và đóng cửa tất cả các nhà thổ bên trong thành phố. Hắn làm điều này chắc chắn với mục đích đáng được tán dương là đưa gái điếm và những kẻ du côn ra khỏi khu vực Học viện và nhà thờ, và như vậy tránh cho các linh mục cùng sinh viên mắc vào vòng tội lỗi và tránh để lại một tấm gương xấu cho các thiếu nữ trung thực nếu như vẫn còn một số cô như vậy; nhưng ý đồ thực sự là kiếm tiền trả nợ cho tên hoàng tử trẻ con ấy và cho cả Hội đồng thành phố. Và ngươi xem đây, ta bị đẩy ra ngoài đường với bộ quần áo duy nhất đang mặc trên người, còn chúng chiếm được khách hàng và các cô học trò của ta, những đứa ấy ta đã dạy cho biết tất cả mọi điều, tới mức có thể hôn xuống sàn nơi ta đang đứng và chúng quý mến ta như một bà mẹ, phải rồi, mẹ Celestina.

Lúc ấy, bà ta nói tiếp, ta chuyển đến một cái nhà ở ngoại ô ồn ào, nơi ta chỉ còn có Alicia trung thành. Cô gái phải hành nghề một cách giấu giếm. Nhưng chuyện kinh doanh không suôn sẻ và để thoát khỏi tình trạng túng tiền, ta phải quay lại làm mấy nghề cũ như thêu thùa khâu vá, bán nước hoa, dạy cạo lông và khâu màng trinh, dắt mối nhà chứa và làm nghề phù thuỷ. Như vậy, rất nhanh chóng, nhiều người tìm đến nhà ta để có cơ may chữa chạy cho căn bệnh và giúp họ thực hiện điều mong muốn. Celestina chỗ này gọi, Celestina chỗ kia gọi, như thể một phiên chợ ngày hội, cái rương và cái bếp của ta ngày càng được cung cấp đầy đủ hơn. Nhưng lúc ấy, thằng cha gian giảo Tomas đến và bắt đầu đặt câu hỏi nghi ngờ ta trong những bài rao giảng của hắn, nói rằng ta là phù thuỷ và làm ma thuật, và vì vậy, là mối hiểm hoạ trầm trọng cho thành phố. Hắn ta khăng khăng khẳng định vấn đề này nên cuối cùng ta bị trói và bêu riếu là phù thuỷ ở cổng thị trấn mặc dù việc cò mồi bán các cô gái cho linh mục mới là nghề chính của ta. Chỉ trong vài ngày mà ta già đi gấp đôi tuổi. Tuy nhiên, tên gian giảo ấy vẫn chưa vừa lòng, hắn lao vào chống ta và không dừng lại tới khi Toà án Công giáo quyết định mở phiên toà thẩm vấn mới, dựa trên cái mà ta không biết là sắc lệnh gì, do Vua Juan II ban hành và vẫn còn hiệu lực ở Castilla, với sắc lệnh này người ta phạt tử hình đối với những người hành nghề phù thuỷ và ma thuật. Như vậy, một lần nữa ta phải rời bỏ nhà và lợi nhuận kinh doanh để giờ đây đến ẩn náu tại cái hang tối này, nơi ta đã mất đi thị lực và không còn thiết sống nữa, nơi mà điều duy nhất giữ ta vẫn sống và đứng vững chính là mong muốn được báo thù.

- Vậy tôi phải hiểu rằng bà là người xúi bẩy tạo ra tội ác? - Rojas hỏi, với vẻ chính thức, để sau đó có thể tin tưởng vào lời khai của bà ta.

- Rất vinh hạnh, - bà ta khẳng định. - Điều duy nhất mà ta lấy làm tiếc là không thể tự tay giết hắn. Rất may là ta có người thực hiện nhân danh ta, nhưng công việc vẫn chưa hoàn thành.

- Bà muốn nói gì vậy? - Rojas gặng hỏi.

- Ngươi sẽ nhanh chóng biết thôi, nhưng đầu tiên ngươà phải ngủ một giấc.

Những lời nói cuối cùng của bà ta đập vào tai Rojas một cách méo mó. Cùng lúc mắt anh mờ dần đi.

- Đừng làm điều ấy… - Rojas bắt đầu nói trong khi tất cả xung quanh anh dần biến mất.

Khi tỉnh lại, Rojas thấy mình bị xích vào tường hang. Toàn thân anh tê cứng và đầu óc quay cuồng. Hơn nữa, anh bị nhét giẻ vào mồm và cảm thấy nôn nao trong dạ dày như ăn phải thứ gì thiu thối.

- Chào mừng ngươi đến vương quốc của bóng tối! - Celestina chào Rojas trong tiếng cười sằng sặc - Ngươi đã sẵn sàng tìm hiểu sự thật chưa?

- Ngươi làm gì ta thế, bà già phù thuỷ?

- Đầu tiên, ngươi đã thiếp đi do hơi nước thoát ra từ cái nồi của ta, - mụ ta thông báo trong khi không thể dừng được tiếng cười khắc nghiệt và lanh lảnh như tiếng của một con chim - đối với ta, hơi ấy không còn tác dụng vì ta đã quen rồi. Sau đó, ta cho ngươi một liều thuốc để ngươi tỉnh lại. Không có gì nghiêm trọng cả, ngươi đừng có vội.

- Thế mụ định làm gì ta?

- Lúc này, ta chưa có ý định giết ngươi nếu đấy là điều ngươi quan tâm, chỉ khi nào ngươi không chịu hợp tác với kế hoạch của ta.

- Đừng hy vọng điều ấy ở ta, - anh phản đối - hơn nữa, ta tin là họ sẽ nhanh chóng đến tìm ta.

- Ta rất nghi ngờ là chúng có thể đến cứu ngươi và nếu như chúng làm thế thì ta có thể dùng ngươi như con tin để chạy thoát. Không ai thông thạo những ngóc ngách này hơn ta và ở đây mù lại là một lợi thế. Ta thừa biết là ngươi rất sốt ruột muốn biết tất cả nên ta sẽ kể cho ngươi nghe lai lịch về việc trả thù có một không hai của ta.

Sau đó, Celestina tạm dừng nghỉ một lát đầy kịch tính bằng cách tranh thủ ngồi lên một phiến đá, bên cạnh Rojas. Dù trong hoàn cảnh như vậy nhưng Rojas rất nóng ruột được nghe mụ ta nói. Nếu như cuối cùng phải chết thì anh muốn nó xảy ra sau khi biết sự thật, mặc dù điều này chẳng phục vụ gì cho anh nữa.

- Cách đây không lâu, - Celestina bắt đầu nói với giọng hơi kiêu ngạo, - ta phát hiện có một sinh viên trẻ đi loanh quanh nhà thờ Thánh Cebrian. Anh chàng tội nghiệp ấy dường như bị lạc và nhầm lẫn, làm ta thương cảm nên ta tiến lại gần để tìm hiểu về con người anh ta. Anh ta nói rằng mấy tháng trước đó anh ta đã đi bộ từ Santiago de Compostela tới, như một người lữ hành, để tiếp tục học tập ở Salamanca. Anh chàng ấy rất ngây thơ nghe kể rằng ở đây có cái hang, trong đó chính Quỷ sứ mở lớp dạy phép chiêu hồn, nhưng càng hỏi thì càng không biết đâu là thực hư, cũng không thể tìm được lối vào hang đó. Ta nói với anh ta rằng đã từ lâu Quỷ sứ không hành sự tại hang này, nhưng anh đừng lo vì ta là một trong những học trò yêu của Quỷ. Và để chứng tỏ điều đó, ta đã chỉ cho anh ta lối vào hang. Đầu tiên, anh ta nhìn ta không tin tưởng, như thể ta là một mụ điên. Người ta không thể tin rằng một bà già xấu xí và không răng lợi như ta lại có thể thay thế Quỷ sứ trên bục giảng ở Salamanca. Nhưng điều tồi tệ hơn cả là khi ta nói để vào được bên trong, phải đi qua nhà thờ.

- Thôi đi, mụ già ngốc nghếch! - anh ta nói rất xúc phạm - Từ rất xa, tôi không đi bộ đến đây để bây giờ lại vào nhà thờ; nếu muốn như vậy, tôi thà ở lại Santiago, nơi mà chí ít chúng tôi có một nhà thờ lớn và khang trang hơn. Điều mà tôi muốn là được thấy cái hang cơ.

- Anh chưa bao giờ được nghe nói rằng những con đường của Quỷ sứ thường rất ngoằn ngoèo à? Vậy thì, ta giảng giải cho anh ta, anh không nên ngạc nhiên là lối vào hang trong trường hợp này lại ở bên trong nhà thờ Thánh Cebrian hay Thánh Cipriano, mà như anh biết, ông ta làm ma thuật trước khi trở thành thánh và không phải là đạo sĩ tồi, ít ra là tới lúc trở thành con chiên Thiên Chúa giáo bởi một thiếu nữ, mà theo như người ta đồn đại, đã chống lại thành công những trò ảo thuật của ông ta.

- Đối với tôi, những chuyện của các bà già, tôi ít quan tâm, - anh ta đáp. - Bà phải biết rằng từ khi rời khỏi Santiago, tôi đã không đặt chân vào nhà thờ, trừ phi phải chạy trốn khỏi công lý hay để trú rét. Tôi rất có ác cảm và sợ những nơi ấy mà mỗi khi nghe thấy tiếng chuông kêu, tôi lại rùng mình chạy biến.

- Vậy ta e rằng trong trường hợp này, ta cảnh báo cho anh ta, anh phải rũ bỏ ác cảm mà đi qua cổng nhà thờ nếu như muốn đạt được điều đang khao khát.

Sau đó, với sự trợ giúp của Chúa, ta mới thuyết phục được anh ta đi qua tượng Jesus và xuống hang, vì anh ta sợ ta sẽ nhốt anh ta vĩnh viễn ở một nơi linh thiêng. Bất kỳ ai cũng có thể nói anh ta bị Quỷ ám khi nhìn thấy anh ta run rẩy bên trong nhà thờ. Và anh ta có thể tiết kiệm chuyến đi tới Salamanca tìm Quỷ sứ, vì rằng anh ta đã bị Quỷ ám trong người. Và nhất là khi ta phải làm dấu thánh trên bức tường của hang hay lúc anh ta phải chui vào quan tài, nằm cùng bộ xương của một linh mục.

- Ở trên kia, ta nói để kết thúc việc thuyết phục anh ta, là thành phố của Chúa và ở dưới này là thành phố của Quỷ sứ. Do đó, anh sẽ tin điều anh làm.

Khi đã ở trong hang, anh ta bắt đầu trấn tĩnh và tin tưởng ta hơn. Cuối cùng, dường như anh ta rất tin tưởng rằng bọn ta đang vào chính Âm phủ nên ta đã không gặp trở ngại gì để anh ta có thể thực hiện tất cả những dối trá mà ta muốn. Để đánh đổi một số lời hứa của anh ta và một vài phục vụ khác mà vào lúc này ta sẽ không tiết lộ, ta đã dạy cho anh ta tất cả những điều mình biết về môn khoa học tiềm ẩn cùng một vài thứ khác mà chính ta đã sáng tạo ra. Đệ tử của ta, anh chàng mà ta gọi thân mật là Asmodeo, vì chưa bao giờ anh ta muốn để lộ tên thật của mình, tỏ ra rất sẵn sàng làm việc xấu vì anh ta cho rằng tất cả những gì anh ta làm là tốt và có ích.

Tới một ngày, ta quyết định đã đến lúc biến anh ta thành một công cụ trả thù. Đó là lúc ta nói với anh chàng ấy rằng lớp học kết thúc và để tốt nghiệp khoá học và trở thành cử nhân của môn khoa học tiềm ẩn, cần phải vượt qua một số thử thách và làm mọi việc, miễn tranh cãi, theo lệnh của ta. Và từ lúc ấy, anh ta là mắt, tay và chân của ta ở cả bên trong và ngoài hang. Ta biết từ một nguồn đáng tin cậy là cha Tomas có điểm yếu rất thích các chàng trai trẻ, nhất là những chàng còn non tơ và được học hành. Do vậy, ta lệnh cho anh ta tham dự lớp Thần học vì rằng tốt hơn là, ta nói với chàng trai ấy, nên biết rõ chiến lược và học thuyết của kẻ thù. Cũng như vậy, ta khuyên anh ta thỉnh thoảng xích lại gần giáo viên mỗi khi tan lớp, ở bên cái cột trong vườn trường như thường lệ, với cái cớ để xin giải thích thắc mắc. Với cách thức này, cha Tomas rất nhanh chóng quan tâm đến chàng trai và mời anh ta đến phòng ở trong tu viện với cái cớ để cho xem một số sách và dạy anh ta một vài thứ khác. Anh hiểu ý ta chứ.

Và cuối cùng, một buổi sáng anh chàng ấy nói với ta rằng quả đã chín và lão cha cố có thể làm bất cứ điều gì anh ta muốn vì ý chí của hắn đã bị anh ta chinh phục, nhất là sau khi anh đã ban cho hắn một số ân huệ mà về bản chất chàng trai không muốn tiết lộ. Ta đã yêu cầu anh ta nếu đúng như thế thì hãy thể hiện bằng cách mang hắn tới hang, với bất cứ cớ nào, vào ngay buổi chiều hôm ấy.

- Cái đấy xong ngay, chàng trai tự hào nói với ta.

Ý đồ ban đầu của ta là không giết cha Tomas, mà chỉ doạ nạt và tra khảo tới khi đạt được một thoả thuận với hắn, theo đó ta hứa sẽ trả tự do cho hắn và không tiết lộ với bất cứ ai về bí mật của hắn nếu hắn để cho ta trở lại hành nghề với một phẩm giá nhất định và không phải lo sợ các thành viên đại gia đình Toà Công giáo có thể bắt giữ bất cứ lúc nào. Nhưng khi còn ở ngoài đường, thằng cha dê già ấy đã ngửi thấy cái gì đó và khi đã gần vào hang, hắn ta lại quay trở ra. Chàng thanh niên đã đánh cuộc nhiều trong trò chơi này nên đã cố thuyết phục hắn bằng mọi lý lẽ và hứa hẹn, nhưng cuối cùng, điều duy nhất đạt được là làm cho hắn sợ thêm.

Như vậy, không có phương cách nào hơn là phải giết hắn nếu như bọn ta không muốn chuốc lấy nguy cơ hắn sẽ kể tất cả với lão Giám mục, kẻ đồng loã chính và là bạn của hắn. Trên thực tế, hắn đã đi thực hiện điều ấy khi Asmodeo bắt gặp hắn ở cửa chính của Nhà thờ lớn, nơi mà ta ra lệnh chờ đợi hắn. Việc đặt đồng tiền vào mồm và đánh dấu ở má như thể dấu ấn của Quỷ sứ là do riêng anh chàng ấy nghĩ ra. Và việc để lại lời nhắn trong đống sách của hắn cũng là ý tưởng của anh ta để chuyển hướng sự nghi ngờ sang phía khác. Ta hình dung ra cuối cùng ngươi không có khả năng phát hiện diễn biến sự việc là do mưu mẹo của anh ta đã đạt hiệu quả mong muốn.

- Thế còn cái chết của Thái tử thì sao? ùếRojas hỏi, đôi chút khó chịu khi nghe lời bình luận.

- Như ta đã nói với ngươi rằng thằng cha chó đẻ tồi tệ đó là người chịu trách nhiệm, cùng với Diego de Deza, về việc đóng cửa nhà chứa và hất ta ra ngoài đường. Vậy là việc hắn đến Salamanca chỉ vài ngày sau cái chết của cha Tomas, ta ít nhiều cảm thấy như một cơ hội trời cho. Tại sao lại không thử nhỉ, ta nhủ thầm. Rốt cuộc, ta đã bị kết án phải ở mãi trong cái hang này. Và nếu hắn phá hỏng cuộc đời ta thì ta có quyền làm lại điều ấy đối với cuộc đời hắn. Hay là liệu việc kinh doanh của ông chủ Salamanca lại quan trọng hơn việc làm ăn của ta sao? Thật không may lần này đệ tử của ta không thể giúp gì nhiều, mặc dù rất cố gắng nhưng anh ta không dễ lại gần Thái tử và càng ít cơ hội hơn khi ngươi luôn ở bên cạnh. Vì vậy, ta không còn cách gì khác là phải nhờ đến Alicia, cô học trò cũ của ta. Chỉ có một điều mà ta có thể chắc chắn là kẻ thiểu não ấy thế nào cũng nhanh chóng nhảy bổ đi thăm nhà chứa. Do vậy, ta cử Asmodeo tới đấy với nhiệm vụ thuyết phục cô ta hợp tác với ta và để chứng tỏ sự hào phóng, ta gửi tặng cho cô ta một chuỗi vòng đeo cổ mà ta biết cô ta rất thích. Alicia là người rất tham lam nên đã nhanh chóng chấp nhận sự sắp xếp ấy, thông qua đệ tử của ta. Điều duy nhất cô ta phải làm là khiến Thái tử chọn cô ta khi tới thăm nhà chứa, điều này không khó do cô ta đẹp và được huấn luyện kỹ càng. Một khi họ đã ở riêng trong phòng, cô ta sẽ thuyết phục Thái tử dùng lọ thuốc mỡ mà ta đã chuẩn bị sẵn, với mục đích giả định là để tăng thể lực và cường dương. Và để đổi lại, ta hứa dành cho cô ta một túi tiền tương đổi lớn trong trường hợp cần thiết. Cũng như vậy, ta làm cho cô ta tin rằng nếu thuốc cường dương hiệu nghiệm, Thái tử sẽ khoan dung trọng thưởng cho bọn ta và sẽ cho ta giấy phép để mở lại nhà chứa trong thành phố. Cuối cùng, phái viên của ta nói với cô ta rằng một khi hoàn thành nhiệm vụ, phải liên hệ với anh ta để anh ta đưa cô tới chỗ ẩn náu của ta, nơi ta sẽ trả tiền như đã thoả thuận.

Và sự việc ít nhiều diễn ra như vậy. Sau đó, bọn ta kể cho cô ta nghe sự thật xảy ra và cảnh báo cô ta không được ra khỏi hang trong một thời gian dài thì cô ta phản ứng như một con thú bị thương và đe doạ tố cáo bọn ta. Như vậy, không còn cách nào khác là trói cô ta lại và lạm dụng sự phục vụ của cô ta. Ta đã già và ở trong hang không thiếu việc phải làm. Còn anh chàng sinh viên kia lại có người để xả hơi. Tới một ngày anh chàng ấy và ta say rượu ngủ quên thì Alicia trốn thoát và thật không thể tin được là cô ta đã bảo toàn được mạng sống mà ra khỏi hang. Asmodeo đuổi kịp cô ta sau vài giờ, ở gần cầu, và với lòng đầy căm tức, anh ta đã nắm tóc kéo đi và dìm cô ta dưới chân cầu, như ngươi đã biết. Ta muốn ném xác nó vào đống phân cho chó ăn, nhưng cái thằng cứng đầu lại muốn cho người ta nhìn thấy để ít nhất cho ngươi biết đó là ai và kẻ nào gây ra việc ấy. Điều này chứng tỏ, mụ ta chế giễu nói thêm, anh chàng ấy đánh giá cao ngươi.

Buổi chiều hôm trước, khi gặp ngươi ngoài đường, dưới trời mưa, anh chàng ấy không có ý định làm gì ngươi, như ngươi đã nghĩ đâu; điều duy nhất anh ta muốn là nói chuyện với ngươi. Nhưng, theo như anh ta nói, dường như ngươi sẵn sàng giết anh ta. Anh ta thừa nhận, Celestina nhấn mạnh với giọng chỉ trích, rằng mũi dao đâm vào cánh tay không tốt chút nào. Rất may, ta đã chữa được cho anh ta. Bây giờ anh chàng ấy đang ở bên ngoài tìm ngươi. Anh ta chắc sẽ rất vui khi biết rằng chính ngươi đã vào miệng sói. Dù sao chăng nữa, chúng ta sẽ không làm gì ngươi nếu ngươi giúp chúng ta khử Diego de Deza.

- Nếu mụ biết ta chút ít, - Rojas cảnh báo, - mụ thừa biết rằng ta không bao giờ chấp nhận thoả thuận với mụ, dù cho cuộc đời ta có phăng teo ở đây.

- Vấn đề không phải ở chỗ ta quen biết ngươi hay không, mà ngươi hiểu mình đến mức độ nào. Trong lúc thời điểm chưa đến, không ai biết về điều có khả năng làm được trong những tình huống nhất định. Cách đây không lâu, ta sống sung túc với đám học trò, với việc dẫn khách và thủ pháp ma thuật của ta rồi hãy nhìn xem ta đã trở thành ai đây, chỉ vì lỗi của vài kẻ vô lại. Về anh chàng sinh viên, ta không muốn ngươi giữ bất kỳ mối hận thù nào với anh ta. Trong cuộc sống, ta chưa hề nhìn thấy ai giết người với phong cách rất vô tư và đồng thời lại ái mộ đến thế, tới mức dường như anh ta sinh ra để làm việc đó. Và anh ta sao lại cẩn trọng từng chi tiết như vậy! Ta đã hơn một lần nói với anh ta: “Tại sao anh lại cố tô điểm cho tội ác nếu như không một ai biết đánh giá điều ấy?” “Ở đây bà nhầm rồi, anh ta đáp; rốt cuộc, Salamanca là cái nôi của tất cả các môn nghệ thuật”. Và ngươi cần phải sống để xem anh ta biến đổi ra sao khi trong tay anh ta có một công việc, hoặc thay đổi hình dáng như thế nào để sau khó nhận được ra nữa. Anh ta có thể trở thành, nếu muốn, một diễn viên hài kịch hay bi kịch vĩ đại mà giờ đây ta không biết anh ta nổi trội về mặt nào hơn. Nhưng ta chắc chắn với những mưu mẹo của mình, anh ta có thể đánh lừa được chính Quỷ sứ nếu Quỷ sứ đứng trước mặt anh ta. Mặt khác, anh ta rất có học thức, gần như bằng ngươi. Ta có thể nói rằng các người sinh ra là để hiểu nhau.

- Tôi e rằng bà đã quá lời, Celestina thân mến!

Đột nhiên có tiếng nói ngoài cửa hang.

Chú thích

(1) Ám chỉ núi lửa Etnia, vùng Sicilia.

(2) Thần theo dõi lời thề của các thần linh khác.

(3) Dis Pater là Diêm vương trong thần thoại La Mã.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Chúa ơi, Hilario, là anh à? - Rojas kêu lên khi nhận ra bạn mình.

- Hilario? - Celestina rít lên.

- Đúng rồi, tôi là Hilario, - anh ta đáp lời Celestina, - nhưng không phải là anh chàng Hilario mà bà nghĩ đâu, - Hilario nói thêm, cùng lúc anh đi tới chỗ Rojas.

- Anh có ý gì vậy? - Rojas hỏi.

- Đừng nói với tôi là anh vẫn chưa đoán ra đấy nhé!

- Anh biết cậu ta à? - bà Celestina ngạc nhiên xen vào câu chuyện. - À, giờ thì ta biết rồi, cậu chính là da thịt và ruột gan của Quỷ dữ.

- Im đi, bà già đáng ghét, - Hilario cắt ngang, - có thể nói mỗi người chúng ta đều chỉ biết nhau trên một khía cạnh, khía cạnh rõ ràng nhất, và do đó, ít sự thật nhất. Có đúng thế không hả anh bạn Rojas?

- Chắc là tôi đang nằm mơ, - Rojas kêu lên, đầy nghi ngờ, - không thể là sự thật.

- Thế cánh tay vô tác dụng này thì sao? - Hilario vừa hỏi vừa giơ cánh tay lên cho Rojas xem. - Anh có muốn tự tay chạm vào vết thương không? Giống như Thánh Tomas để kiểm chứng rằng đó là tôi không? Tôi thấy là anh không nói gì. Tôi cũng sẽ im lặng thôi, nếu như tôi là anh. Hilario, người bạn của anh, hiện thân của sự ngây thơ, vô tội nay trở thành một tên tội phạm lòng lang dạ thú. Và anh, một học viên đáng chú ý của trường San Bartolomé, một người được Giám mục che chở, người cận vệ của Thái tử, xin Ngài yên nghỉ yên bình, anh lại bị một tên hầu, một kẻ giúp việc đánh bại, một kẻ nhỏ hơn anh một vài tuổi.

- Điều tôi không hiểu là vì sao anh lại làm mọi việc này.

- Đến tôi còn không biết vì sao. Dù sao thì anh cũng có lý. Người ta chém giết lẫn nhau không phải vì bất đồng chính kiến. Người ta giết lẫn nhau vì đam mê. Trái tim tôi đang ngập tràn căm hận, ghen tị, trả thù… Tôi chỉ là một đống giẻ bùi nhùi đang chờ ai đó châm lửa đốt.

- Nhưng sự thù hận này là do đâu? - Rojas nghi ngờ hỏi lại.

- Vì thấy anh rất quan tâm nên tôi sẽ kể một số nét lớn về cuộc đời của tôi. Tôi nghĩ là anh có quyền được biết, vì anh đã rất cố gắng truy đuổi tôi. Tôi là con trai của một gia đình có tiếng ở Santiago de Compostela, nhưng khi mẹ sinh ra tôi, cha tôi đã chối bỏ vì ông cho rằng tôi không phải là con ông. Tất cả là do tóc tôi màu hung đỏ, không phải màu nâu giống màu tóc của ông. Để làm ông yên lòng, mẹ tôi đảm bảo với ông rằng trong gia đình bà có một vài người tóc đỏ, nhưng ông khăng khăng khẳng định tôi là kết quả của vụ ngoại tình. Thế là ông nhốt chúng tôi ở một toà tháp của dinh thự nơi chúng tôi đang sống và chỉ cho chúng tôi ra ngoài mỗi khi đến nhà thờ. Sau đó, ông nói rằng giống như mọi thằng tóc đỏ khác, tôi chính là con trai của Quỷ sứ. Ông nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho đến khi cuối cùng tôi cũng tin và với thời gian, tôi dần cảm thấy tự hào về điều này. Tuy nhiên, mẹ tôi không thể chịu đựng được sự thoá mạ như vậy và bà mất trước khi tôi tròn 13 tuổi. Sau lễ tang, cha tôi đã lại kết hôn với một cô gái chỉ hơn tôi ít tuổi. Tôi đã nhanh chóng quyến rũ cô ta, mong rằng cô ta sẽ cho ra đời một đứa trẻ tóc đỏ, nhưng đứa trẻ này lại có tóc màu nâu. Do đó, cha tôi đã quyết định từ tôi và đuổi tôi ra khỏi nhà nhằm biến đứa trẻ kia trở thành người thừa kế.

Tuy nhiên, vào phút cuối, ông chắc hẳn phải cảm thấy hơi gợn lương tâm một chút và đã giúp tôi nhập học vào Học viện Ngữ pháp, lúc đó mới được mở ở tu viện Thánh Paio de Antealtares, một trong những Học viện cổ nhất trong vùng. Thực ra, đó là trường học dành cho người nghèo được ông Lope Gomez de Marzoa thành lập với sự giúp đỡ của người anh, tu sĩ Tu viện Thánh Martin Pinario. Ở đó, tôi đã đủ lớn để hiểu rằng những gì mà các thầy tu này dạy còn quá ít. Do vậy, tôi đã trốn ngay khi có dịp. Khi còn ở Học viện, tôi đã được nghe nói nhiều về Salamanca, mặc dù họ đề cập với sự khinh miệt vì các thầy giáo của tôi cho rằng Quỷ sứ rao giảng thuật chiêu hồn ở Salamanca không phải ở lớp học, mà ở trong một cái hang. Đây là một lý do quá đầy đủ để tôi quyết định tới thành phố này. Không may mắn, tôi đã nhanh chóng kiểm chứng rằng sự nổi tiếng của trường Đại học đã vượt quá giá trị thực của nó và tôi cũng không tìm được điều mong muốn cho đến khi bà già Celestina xuất hiện. Nhưng dù tôi mới biết thì anh đã biết câu chuyện này lâu rồi. Do tôi tự đến nên tôi không còn sự lựa chọn nào khác. Nếu như muốn theo học, tôi phải trở thành người giúp việc ở trường San Bartolomé. Từ lúc đầu, tôi nhận ra rằng anh là người duy nhất không phân biệt giữa người cải đạo và con chiên Thiên Chúa cũ, cũng như học viên và người giúp việc. Điều này khiến tôi xích lại gần anh hơn. Dĩ nhiên, để làm được việc đó, tôi phải giả vờ thành người khác. Mặc dù vậy, anh đối xử với tôi rất thẳng thắn và tự nhiên. Sau này, tôi được biết anh là người cải đạo và cuộc đời anh cũng không dễ dàng gì, tôi đã nghĩ anh có thể là tòng phạm, nhưng ngay lập tức tôi thấy anh không hề căm ghét ai. Điều này khiến tôi bắt đầu ghê tởm anh. Tôi cũng không thể chịu được các phẩm chất tốt đẹp hay khả năng của anh, cũng như việc anh đã sử dụng sai những phẩm chất và khả năng đó. Do vậy, điều anh nghĩ là tình bạn và sự ngưỡng mộ không là gì khác ngoài lòng ghen tị và thù hận.

Chính vì vậy, khi anh thú nhận với tôi Diego de Deza đã chọn anh để điều tra kẻ gây ra cái chết của cha Tomas, anh đã vô ý thêm động lực mới vào các tội ác của tôi. Trong suốt thời gian đó, tôi đã sử dụng anh. Tôi đã chơi trò mèo vòn chuột với anh (xin lỗi không nói ai là mèo, ai là chuột). Tôi đã để lại những dấu hiệu giả mạo và tiếp đó, tôi đã để lộ một số thứ mà một mình anh sẽ không bao giờ phát hiện ra và thậm chí tôi còn cho phép mình cứu sống anh. Anh còn nhớ chứ? Cuối cùng, tôi đã sử dụng được điều mà kẻ khác coi là bất lợi. Tuy nhiên, anh được coi là chó săn thì lại không đánh hơi được gì cả. Anh đừng nghĩ là tôi coi thường anh. Ngược lại, tôi thừa biết anh thông minh và có linh cảm tốt, nhưng như cha Antonio đã từng nói với anh và chính bản thân tôi đã kiểm chứng được điều này, kiến thức của anh quá bài bản và theo sách vở. Thậm chí đối với anh, tình yêu cũng từ sách vở mà ra. Sự thật là anh còn thiếu kinh nghiệm trường đời và tôi nói rằng anh còn thiếu một chút khôn ngoan, xảo trá. Tuy nhiên, anh đã chứng minh rằng có thể học điều này một cách nhanh chóng, nhất là khi có được thầy giáo lý tưởng. Như trường hợp của tôi vậy thôi. Tôi thấy anh bây giờ tự trang bị vũ khí cho mình và anh cũng bắt đầu thích dao găm. Hôm nọ, anh đã làm tôi ngạc nhiên. Dù vậy, anh đã quá sợ hãi nên không nhận ra tôi. Nếu như đó không phải là tôi, ý tôi là, nếu như đó không phải là người mà anh nghĩ? Nếu như thực tế đó là một người vô tội, ví dụ như đó là anh bạn Hilario của anh, người muốn mang tin tốt lành đến cho anh thì sao?

- Xin lỗi, - Rojas hài lòng nói, - tôi đã nhìn thấy áo choàng của anh và thấy bị thiếu một mẩu áo. Đó chính là mẩu áo mà Bruto, con chó của Thái tử, đã cắn rách.

- Bruto, cả mày nữa sao, con trai ta? - Hilario nói, giọng ngạc nhiên và than phiền, như thể anh ta vừa bị dao đâm - Đó là một trò đùa thôi, yên tâm đi, - Hilario nói tiếp, cười thành tiếng. - Anh biết rồi đấy, đó là những lời cuối cùng Julio Cesar nói. Thật ra thì khi anh làm tôi bị thương một cách cố ý và không thương xót, tôi rất muốn nói chuyện với anh với tư cách là Hilario, bạn anh. Tôi có ý định kể anh nghe là tôi đã tìm được đường vào hang và sau đó sẽ dẫn anh đến đây. Tôi không hiểu vì sao tôi lại nghi ngờ rằng sau cuộc trò chuyện với cha German, có thể anh đã phát hiện ra điều gì đó quan trọng, có thể là ý nghĩa của sơ đồ hoặc sự tồn tại của cái hang. Do vậy, tôi đã muốn doạ anh hoảng sợ vào đêm trước đó. Nhưng sau những gì xảy ra ở nhà chứa ngày hôm sau, tôi e rằng anh có thể làm điều dại dột và đưa mọi việc vào nguy hiểm. Thế là tôi định đẩy sớm mọi chuyện. Điều tôi không ngờ tới là việc anh tấn công tôi. Có thể thấy rằng, lúc đấy, anh đã rất giận dữ và tuyệt vọng. Và một lúc nào đó, tôi đã cảm thấy tự hào về anh. Chỉ một chút nữa thôi, tôi tự nhủ, anh sẽ trở thành một con thú khát máu giống như tôi.

- Điều này sẽ không bao giờ xảy ra, - Rojas phản đối mạnh mẽ.

- Đó là điều mà anh nói về anh bạn Hilario của anh chỉ ít phút trước đây, nhưng anh thấy đấy mọi việc đều thay đổi. Dù sao đi nữa, tôi cũng không muốn ở lại đó để kiểm chứng.

- Anh đã làm đúng. Tôi có thể sẽ giết anh mà không chần chừ chút nào cả, rằng tôi có ý định giết cả hai. Và sau đó, tôi sẽ đổ lỗi cho tên sinh viên nổi tiếng. Tôi sẽ kể cho mọi người nghe tôi đã đối mặt với hắn, nhưng hắn làm tôi bị thương ở cánh tay và đã trốn thoát. “Nhìn này, Hilario nói như đang sắm một vai trong vở kịch, hắn đã để lại áo choàng, chiếc áo mà con chó Bruto đã cắn rách một mẩu”.

- Tại sao anh lại muốn giết một bà già tội nghiệp như ta? Giết hắn đi, nếu anh muốn, nhưng ta vẫn còn có ích nhiều cho anh đấy.

- Bà nghèo mà. Bà luôn nói với tôi như vậy.

- Ta còn có một số đồng tiền vàng giấu trong hang.

- Tôi không tin. Bà đang cố gắng lừa dối tôi để có thời gian.

- Nếu anh không tin, hãy đợi để ta tìm những đồng vàng đó cho anh.

- Nếu như không quan trọng, tôi sẽ đi cùng bà. Tôi không tin những mánh khóe của bà. Hãy nhớ rằng tôi từng là đệ tử của bà.

Trong khi đang dợm chân bước đi, anh ta nhìn thấy Celestina giấu gì đó ở trong váy.

- Hượm đã. Bà giấu gì đó? - Hilario cất giọng nghi ngờ hỏi Celestina.

Cảnh giác với tình hình đang có hướng thay đổi, Rojas gắng hết sức lực tự giải thoát cho mình khỏi chiếc cùm vì anh nhận ra rằng cái cùm cũng không còn tốt vì quá ẩm ướt.

- Đó chỉ là một đồ trang sức thôi mà, - bà già đáp lời. - Bạn anh đã giấu nó trong quần áo.

- Trang sức à? Để tôi xem nào.

- Ta cũng có quyền được giữ lại một vật gì đó chứ? - Celestina phản đối.

- Tôi nói là bà đưa tôi xem! - Hilario vừa ra lệnh vừa kéo chặt cánh tay Celestina.

- Nhìn này, đây này! - Celestina kêu lên rồi lôi ra con dao găm mà bà ta cướp được từ Rojas. Bà ta có ý định đâm con dao vào Hilario.

Mặc dù bất ngờ, Hilario đã gạt tay làm con dao găm đổi hướng, con dao trượt qua má anh ta.

- Bà đã làm ta bị thương rồi, mụ già khốn kiếp! - Anh ta kêu lên khi cảm nhận thấy vết thương.

Về phần mình, Rojas giật mạnh cái cùm và mở tung được một bên. Sau đó, bằng một tay tự do, anh bắt đầu gỡ nốt phía bên kia cùm.

- Bà không muốn giữ lại con dao găm à? - Hilario hỏi Celestina sau khi cướp được con dao. - Đây này, bà cầm lấy.

- Hãy cứu tôi! Giúp tôi với! - Bà ta gào lên, - tên khốn kiếp này định giết tôi.

Rojas cố gắng để giúp bà ta, nhưng quá muộn. Trong khi chạy tới chỗ Hilario và Celestina đang đứng, anh nhìn thấy Hilario giận dữ đâm con dao găm vào cổ bà già và bà ta ngã xuống sàn nhà như một cọng rơm.

- Cuối cùng thì đó cũng là một vật trang sức. - Hilario bình luận khi nhìn thấy ánh kim loại ở chuôi con dao găm sáng loá lên trên vũng máu.

- Mày cũng không hơn gì đồ bỏ đi! - Rojas vừa nhổ nước bọt vào Hilario vừa nắm chặt hai cánh tay của Hilario. Và cuối cùng, cũng đến lúc mày phải trả giá cho những tội ác đã gây ra.

- Đừng hòng! - Hilario đáp lại - Chỉ là khép lại một chương và lật trang sách mà thôi, - anh ta nói và cùng lúc dùng cùi chỏ thúc một cú vào bụng Rojas.

Rojas ngã quỵ xuống sàn, người gập lại vì đau. Tuy nhiên, anh cố sức để nắm lấy hai chân Hilario và đánh gục hắn.

- Không đời nào, nếu tao có thể ngăn chặn mày. - Rojas gầm gừ cảnh báo Hilario. - Anh đã vô hiệu hoá và làm Hilario bất động trên sàn nhà.

- Anh định làm gì? - Hilario hỏi trong lúc lần tìm con dao găm lẫn trong vũng máu của Celestina.

- Đặt dấu chấm hết cho câu chuyện của mày.

Rojas giạng hai chân ngồi trên người Hilario và dùng cả hai nắm đấm không ngừng thụi vào mặt hắn.

- Thế thì phải xem đã! - Hilario đáp lại với con dao găm nắm trong tay.

Được anh ta cảnh báo, Rojas có đủ thời gian để tránh con dao găm. Anh gạt con dao sang một bên. Hilario lấy lại thế rồi quay lại định tấn công anh. Trong lúc đó, có tiếng kêu và tiếng chân ở cửa hang.

- Dừng lại, nhân danh Toà án Công giáo. Hai công tố viên của Toà án tiến lại gần họ.

Sau một lúc hỗn loạn, Hilario định đâm Rojas thì một trong hai công tố viên đã đâm anh ta trước bằng lưỡi kiếm của mình.

- Khốn kiếp! - Hilario kêu lên trước khi chết.

- Có phải đây là Fernando de Rojas không? - Viên công tố khác cất tiếng hỏi một người thứ ba đang đi đến từ phía sau.

- Đúng anh ta rồi. - Cha Antonio đáp, không ngăn được vẻ mừng rỡ. - Và cảm ơn Chúa, anh ta vẫn còn sống!

- Cha Antonio! - Rojas cảm động kêu lên. - Con rất vui được gặp cha!

- Mặc dù con không tin, nhưng ngoài kia còn có rất nhiều người lo lắng cho con. Nhưng xem nào, con ổn chứ?

- Bình thường thôi ạ.

- Và cái thằng khốn kia định giết con? Có phải nó là Hilario không?

- Đúng rồi! - Rojas trầm ngâm công nhận. - Thật không may, hắn chính là kẻ sát nhân. Con vẫn còn không thể tin được. Con đã thấy hắn trong suốt thời gian ở đây, ngay trước mắt mình, vậy mà con lại không nhận ra.

- Hai đứa từng là bạn. Tinh bạn, giống như tình yêu vậy, thường làm ta mù quáng. Con hãy xem ai đến cùng ta đây?

- Là em sao, thật không thể tin nổi? - Rojas kêu lên khi phát hiện ra Sabela.

- Nếu như anh vẫn tiếp tục không tin những gì mắt anh nhìn thấy, cô gái đáp với một nụ cười, hãy để bàn tay anh nhận ra em.

- Anh ôm em được chứ? - Rojas hỏi, vẫn ngượng ngùng vì cách ứng xử của anh tại nhà chứa.

- Em rất mong được anh ôm đaáy.

- Anh nhìn thấy ở em, Sabela, sự vĩ đại của Chúa.

- Như thế nào hả Fernando?

- Vì Chúa đã ban tặng cho em một vẻ đẹp hoàn thiện và Chúa ban tặng cho anh niềm hạnh phúc được trở lại chiêm ngưỡng em. Chắc chắn rằng những vị thánh vinh quang cũng không thể hài lòng bằng anh đang ngắm nhìn em vào lúc này.

- Tuy nhiên, - cha Antonio cắt ngang - niềm vui của cuộc hội ngộ đã làm con báng bổ các vị thánh rồi.

- Cha nói đúng, - Rojas công nhận, - và vì vậy, con cầu xin cha thứ lỗi. Nhưng người gác tu viện đã cảnh báo cho cha như con đã yêu cầu, đúng không ạ?

- Đêm qua, ông ta đã ngần ngại đến gặp cha. Ông ta kể rằng con đã mất tích bên trong nhà thờ và về những gì con yêu cầu ông ta làm. Cũng trùng hợp vì chỉ vài giờ trước đó, có hai viên công tố Toà án Công giáo đến hỏi ta về con. Họ đến tìm con theo lệnh của Diego de Deza, vì người phụ trách khu trọ đã viết thư cho Giám mục để than phiền về cách hành xử của con. Do đó, ta đã đến báo với họ và tất cả mọi người đến gặp Sabela để xem cô có biết gì không. Cô gái cũng đang rất lo lắng. Cuối cùng, chúng ta đến gặp cha German và cha đã giải thích về chuyện cái hang, nhưng cha từ chối không đến giải thoát cho con khi phải đi cùng hai công tố viên, một cô gái điếm và một cha cố dòng Thánh Domingo. Đó là điều mà cha German kể lại.

- Cha đừng bận tâm, - Rojas ngỏ lời xin lỗi cha Antonio. - Cha German sống tách biệt với thế giới và cha không có thiện cảm với những người anh em của mình, với phụ nữ và càng ít thiện cảm hơn với Toà án Công giáo. Điều quan trọng là nhờ có cha German, cha và Sabela nên con đã thoát ra được khỏi mớ bòng bong này. Và dĩ nhiên rồi, con phải cảm ơn các ngài đây, - Rojas nói đến hai công tố viên Toà án Công giáo. - Họ đã cứu con trong gang tấc.

- Theo anh, đây là những kẻ đã gây ra cái chết cho cha Tomas de Santo Domingo? - Một trong hai công tố viên hỏi Rojas.

- Đúng vậy.

- Anh biết tên chúng không?

- Kẻ sát nhân là một sinh viên, tên là Hilario. Anh ta là người giúp việc cho trường San Bartolomé. Còn bà già là người chủ mưu. Bà ta tên là Celestina và rất nổi tiếng ở thành phố. Bà ta chính là chữ Cc trong sơ đồ, Rojas nói với cha Antonio.

- Anh đã điều tra sự việc như thế nào?

- Họ vừa mới kể cho tôi, trước khi tên sinh viên thú nhận ý định muốn giết cả hai người bọn tôi. Tôi bị cùm tay ở đấy nên không thể làm gì để giúp bà ta.

- Bây giờ, con cần một bác sĩ khám gấp cho con, - cha Antonio nói. - Con có đi đến nhà thờ Thánh Cebrian được không?

- Con không cần bác sĩ đâu. Điều duy nhất con cần là nghỉ ngơi một chút. Con xin cha hãy đi trước với những người bạn này. Như vậy, họ sẽ có thể báo cáo cấp trên và ngăn chặn một số người đến tìm những các xác này. Cha hãy đến trấn tĩnh cha German, chắc hẳn cha German đang sốt ruột đợi chúng ta trở về. Trong khi đó, con sẽ ở lại đây nghỉ ngơi với Sabela. Cô ấy sẽ chăm sóc con.

- Ta nghĩ thế là tốt hơn cả! - cha Antonio nheo mắt khẳng định.

- Vậy thì, ta mong anh không nên đụng vào bất kỳ vật gì! - Một trong những công tố viên nói.

- Ông không phải cẩn thận thế! - Rojas trấn tĩnh.

- Dù sao đi nữa, chúng tôi sẽ đến ngay! - viên công tố kia hứa.

- Các ông cứ làm mọi việc cẩn thận, không cần phải vội. Hai người này sẽ không trốn thoát đâu! - Rojas đùa.

- Điều này thì anh đúng.

Khi họ đi hết, Rojas kể lại cho Sabela nghe về những phát hiện của anh. Anh kể về những cư dân khác sinh sống trong hang và việc một vài người trong số họ đã giúp đỡ anh rất nhiều, đồng thời về nguy cơ mà họ gặp phải nếu như anh không kịp thời báo tin cho họ khi những công tố viên đến khám xét cả hang động.

- Chúng ta cần phải chặn những công tố viên lại ngay để mọi người có thể đóng chặt cửa vào các đường hầm và giúp những người Do Thái đang ẩn náu tại đây trốn thoát.

- Người Do Thái à? - Sabela ngạc nhiên hỏi.

- Đó là một câu chuyện dài, - Rojas giải thích, - anh sẽ kể cho em nghe. Lúc này, anh phải yêu cầu ông Roa tìm một địa điểm an toàn cho đến khi anh báo tin cho họ.

- Thế thì chúng ta đừng phí nhiều thời gian nữa, - Sabela nói. - Anh có thể đi được không? Anh bám chắc vào em nhé.

- Ở ngoài có mặt trời không em? - Rojas hỏi sau khi họ bắt đầu đi.

- Em hy vọng là có. Sau một thời gian dài, bầu trời cũng quang đãng.

- Anh cũng muốn em hứa với anh một việc. Cho tới lúc chúng ta đứng dưới ánh nắng mặt trời, em đừng để anh quay đầu lại. Giờ thì anh đã có lại em rồi, anh không muốn mất em giống như Orfeo mất Euridice(1), nhưng trong trường hợp này em là người đã đến và mang anh ra khỏi địa ngục.

Chú thích

(1) Vở Opera dựa trên một truyền thuyết: Oríeo đi tìm người vợ đã mất, Euridice, ở địa ngục. Thần Tình yêu xuất hiện, cho phép Orfeo mang vợ trở về với một điều kiện anh không được nhìn mặt Euridice cho tới khi họ trở lại mặt đất.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


Mụ già Celestina và tên sinh viên Hilario đã bị Toà án Công giáo Valladolid xử vắng mặt và bị kết án phạm tội phù thuỷ và gây ra cái chết của cha Tomas de Santo Domingo, vì lý do đó, xác của họ bị đào lên và đốt chảy đến tận xương tuỷ trên giàn hoả thiêu như một sự trừng phạt công khai đối với phạm nhân.

Trong quá trình xét xử không ai nói đến cái chết của Thái tử và của Alicia. Một lần nữa, Fernando de Rojas tuân theo lời của Diego de Deza và không hé lộ bất kỳ điều gì liên quan. Đổi lại, anh đã đạt được việc cho phép những người Do Thái đang lẩn trốn trong hang chạy trốn đến Bắc Phi. Tuy nhiên, vài người trong số họ vẫn muốn ở lại Salamanca, trong những “bến đỗ” không ai biết tới.

Nhờ Rojas và Sabela thông báo, Fernando de Roa và những người thân tín của ông đã kịp đóng cửa các đường hầm vào hang, do đó đã không xảy ra việc phá hoại tài sản hoặc các vụ bắt giữ. Dù thế nào chăng nữa, để giữ an toàn, Viện Hàn lâm đã đóng cửa một thời gian và một số đường hầm của Viện không được mở lại nữa.

Theo lệnh của Nữ hoàng Isabel, lối vào đường hầm nhà thờ Thánh Cebrian đã được đóng lại bằng đá và vữa. Một thời gian sau, Vua ra lệnh phá bỏ nhà thờ và những cột trụ của nhà thờ được tái sử dụng để xây bức tường phía Đông của nhà thờ mới. Sau nhiều cân nhắc và báo cáo tham khảo từ phía các kiến trúc sư, nhà thờ mới đã được xây dựng ở phía Bắc của nhà thờ cũ, trên quảng trường Azogue cổ, ngay trên đường hầm dẫn đến lối vào Viện Hàn lâm. Như ông Roa dự đoán, nhà thờ ở ngay bên dưới trường Trẻ lớn. Để xây dựng nhà thờ, họ buộc phải phá bỏ một số căn nhà của Hội đồng giáo hội, khiến cho Hội đồng giáo hội mất đi một nguồn thu quan trọng. Như vậy, họ đã phá một phần cánh gà phía trái của nhà thờ cũ và cây thánh giá phía Bắc cùng với ngọn tháp được trang trí rất đẹp. Cuối cùng, hai ngôi đền được hợp nhất bởi một bức tường dày cùng một tháp chuông. Toà dinh thự của Giám mục cũng như trường Đại học đều không bị ảnh hưởng.

Họ cũng bịt bằng vôi và đá lát lối vào hang ở phía Đông giữa một đống đổ nát của Alcazar. Từ đó đến nay, nơi ấy được biết đến với tên gọi tảng đá Celestina. Về bóng ma của Enrique de Aragon hay de Villena, lần cuối họ nhìn thấy ông là ở hang Hercules nổi tiếng tại Toledo, nơi mà theo nhiều người nói, ông chuyên giảng dạy về thuật chiêu hồn.

Sau cái chết của Tomas de Torquemada và sau khi ông được chôn cất tại cùng một tu viện với Thái tử Juan, vào tháng Mười hai năm 1498, Diego de Deza được bổ nhiệm làm Tổng Chánh án Toà án Công giáo, như một phần thưởng cho nhiều năm phục vụ vương triều. Trong suốt thời gian đương nhiệm, ông ta tỏ ra rất mạnh tay với những người cải đạo, đối xử với họ tàn nhẫn và hằn thù, đỉnh điểm là việc Đức vua đã phải ra lệnh triệu tập ông ta vì đã cho phép công tố viên xứ Cordoba, Diego Rodriguez Lucero, xử tàn bạo cha Hernando de Talavera. Cuối cùng, vào năm 1507, ông ta cũng bị thay thế bởi kẻ thù không đội trời chung của ông ta, Giáo chủ Cisneros. Trong những cương vị đảm nhiệm, Diego de Deza cũng từng được bổ nhiệm làm Giám mục vùng Jaén (1498) và Palencia (1500), Tổng giám mục Sevilla (1504) và Toledo (1523), tuy nhiên ông ta đã không kịp nhậm chức Tổng giám mục Toledo do mất ngày mùng 9 tháng Sáu năm 1523. Thật lạ, vào năm 1521, viên bác sĩ cải đạo Juan de la Parra được bổ nhiệm làm Giám mục vùng Almería. Ông cũng trở thành chủ tịch Hiệp hội bác sĩ và phẫu thuật gia.

Ngày mùng 8 tháng Mười hai năm 1497, Công nương Margarita của Áo, goá phụ của Thái tử Juan, đã sinh non một bé gái. Bé gái này đã chết yểu. Việc này đã khiến cho Vua Manuel đệ nhất của Bồ Đào Nha và Hoàng hậu Isabel trở thành người kế vị vương quốc Castilla vào ngày mùng 7 tháng Tư năm 1498. Thật không may, Công chúa xứ Asturias mất trong khi trở dạ vào ngày 23 tháng Tám năm 1498. Bà sinh hạ một bé trai, đặt tên là Miguel de la Paz de Avis y Trastámara. Khi vừa mới ra đời, bé trai đã trở thành Thái tử xứ Asturias và là người kế vị vương triều của Bồ Đào Nha gồm Castilla, Aragon, Napolas. Và theo lời của Pedro Mártir de Angleri, đứa trẻ sẽ kế thừa tất cả “tài sản to lớn của vương triều” mà các vị Vua Thiên Chúa giáo đã thu phục được. Nhưng đứa trẻ đã chết khi mới hai tuổi vào tháng Bảy năm 1500. Chưa đầy ba tháng sau, không từ bỏ mong muốn trở thành vua của Castilla và Aragon, Ngài Manuel của Bồ Đào Nha đã kết hôn với Công chúa Maria, con gái thứ ba của các vị Vua Thiên Chúa giáo và bà này cũng mất vào năm 1517. Cho đến thời điểm đó, hai Công chúa của các vị Vua Thiên Chúa giáo đã kết hôn rất bất hạnh, Ngài Manuel đã không còn lựa chọn nào khác mà phải kết hôn với Công chúa Leonor của Áo, con gái cả của Juana “Điên” và Felipe “Đẹp trai” và dĩ nhiên, là chị gái của Carlos, vị vua tương lai và là cháu gái của hai bà vợ trước. Buồn bã và thất vọng, Ngài Manuel đã mất năm 1521. Sau một vài lần cố gắng bất thành, con trai ông, Ngài Juan đệ tam đã cho thành lập Toà án Công giáo ở Bồ Đào Nha vào năm 1536.

Tháng Chín năm 1512, Giám mục vùng Malaga, Ngài Diego Ramirez Villaescusa, thay mặt cho các vị Vua Thiên Chúa, đã đến thăm Học viện Salamanca nhằm trực tiếp kiểm chứng tình trạng xuống cấp của bộ môn Ngữ pháp và thúc đẩy công cuộc cải cách cần thiết để phục hồi bộ môn này. Chỉ trong vòng hai tháng sau đó, trường Đại học đã công bố sắc lệnh rằng ở tất cả các học viện thuộc trường Đại học, học sinh đều phải nói tiếng La tinhệ Việc này, đối với thầy Antonio de Nebrija, là một thắng lợi giòn giã trước sự tụt hậu về văn hoá và đương nhiên là khởi đầu cho một thời đại mới. Tuy nhiên, một năm sau, ông đã bị thua trước phe đối lập trong việc tranh giành chức giáo sư môn Ngữ pháp. Đó là García del Castillo, một kẻ mới tốt nghiệp, không hề có danh tiếng gì mấy, trừ việc là ứng cử viên của Học viện. Đau đớn và tức giận, Nebrija rời bỏ và thề sẽ không bao giờ đặt chân trở lại thành phố. Khi Giáo chủ Cisneros được tin về việc ấy, ông đã mời Nebrija đảm nhiệm bộ môn Tu từ học ở trường Đại học Alcalá de Henares với mức lương sáu mươi nghìn maravedis một năm, cộng với hơn một trăm fanega(1) đất để canh tác và quyền ưu đãi “Nebrija có thể giảng những gì ông muốn, những gì không muốn ông không cần đề cập đến, và việc ban thưởng hậu cho ông không phải vì công việc, mà vì Tây Ban Nha đã mắc nợ ông quá nhiều”.

Về phần mình, cha German de Benavente đã viết một cuốn sách về hang động ở Salamanca, nhưng không dám in vì sợ Toà án Công giáo sẽ đưa ông lên giàn thiêu. Thật nực cười, ông chết trong một đám cháy ở tu viện San Francisco. Theo lời kể của một tu sĩ, cha German đã vào phòng để cố gắng cứu bản thảo khỏi bị cháy, nhưng không còn bất kỳ một vết tích nào của bản thảo cũng như của cha German.

Fernando de Roa rời bỏ môn Triết học Luân lý rất sớm và cũng không ra tái ứng cử chức Giáo sư môn Thần học để dành toàn bộ thời gian cho lớp học tại Hàn lâm viện và những mưu mô chống lại các vị Vua. Năm 1502, tại Salamanca ông cho công bố một vài lời bình luận đối với Chính sách của Aristotle và gây tranh cãi lớn. Mặc dù mất năm 1507, nhưng những đề xuất của ông về một chính quyền tốt đã là nguồn cảm hứng cho cuộc nổi dậy ở các vùng thuộc Castilla chống lại Vua Carlos đệ nhất từ những năm 1520 đến 1521. Điều tương tự xảy ra với dự thảo Luật tự chủ của các miền, trong đó người dân có thể bảo vệ quyền tự chủ địa phương và hạn chế quyền lực của Vua chúa.

Cha Antonio de Zamora đã nhanh chóng thực hiện ước mơ của mình được đặt chân đến Ấn Độ. Đó là năm 1498, trong chuyến thám hiểm thứ ba của Columbus. Chuyến đi gặp nhiều rủi ro, ít nhất là đối với Columbus, đô đốc hải quân, người mới trở thành Toàn quyền và thống đốc Ấn Độ một thời gian ngắn trước đó. Cha thảo dược may mắn hơn, ông đã ở lại và sống tại La Espanola(2), gần đất nước Santo Domingo(2) mới ra đời, ở bờ biển phía Nam của hòn đảo. Một số người nói rằng, ông đã từ bỏ các thói quen của mình - những thói quen tôn giáo, chứ không phải thói quen hút thuốc xì gà - và đã kết hôn với một cô gái bản địa, nhưng không ai có thể kiểm chứng điều đó. Nhưng điều đã được kiểm chứng chính là việc ông là người đầu tiên lên tiếng chống lại việc bóc lột và chế độ nô lệ của người thổ dân, trở thành người có ảnh hưởng lớn đối với chàng trai trẻ Bartolomé de las Casas(4), sau này cũng trở thành người theo Thánh đạo Domingo như ông.

Luật sư cải đạo Alonso Juanes và cô gái Do Thái Ruth Ben-Yashar đã kết hôn, theo nghi lễ Do Thái vào tháng Năm năm 1498 tại thành phố Amberes, nơi họ đã tới sau khi bỏ trốn với sự trợ giúp của Rojas. Tuy nhiên, một vài tháng sau, họ phải rời đi. Một số người cho rằng họ đã chạy đến Bắc Phi, nhưng thực tế họ đã quay trở lại Castilla.

Người ta biết rằng điều đầu tiên Fernando de Rojas làm khi rời khỏi hang là đến phòng của Hilario tại trường San Bartolomé. Anh đến tìm bất kỳ một dấu hiệu nào cho thấy nguồn gốc và cách xử sự của một người đã từng là bạn anh. Rõ ràng không có gì cho thấy rằng một kẻ sát nhân và một kẻ phục tùng Quỷ sứ đã từng sống ở đây. Đó cũng không phải là một con người có gì ngoại lệ. Dưới gầm giường, Rojas tìm thấy một cái rương gỗ nhỏ được khoá kín. Anh đã kín đáo mang cái rương về phòng trọ vì anh không muốn các công tố viên Toà án Công giáo tịch thu nó. Cuối cùng, cũng không khó khăn gì khi mở được chiếc rương mà anh không biết có gì bên trong, anh phát hiện ra trong đó có vài cuốn sách như cuốn tuyển chọn luận văn cho học sinh có tựa đề Aristotle và triết lý của ông(5) và một số giấy tờ của Hilario, tất cả đều được viết tay. Trong số này, có thư từ, thơ ca và bài viết về các thể loại khác nhau. Có một bài viết khiến Rojas chú ý hơn cả, đó dường như là phần mở đầu của một vở hài kịch. Bài viết khiến Rojas rất thích nên anh quyết định sẽ hoàn thiện nó. Với điều này, anh muốn khép lại một chương, mặc dù chỉ ở hình thức tượng trưng mà thôi.

Và thế là, một vài tháng sau đó, lúc ấy là năm 1498, anh tận dụng mười lăm ngày nghỉ lễ Phục sinh để chỉnh sửa và viết tiếp cho đến khi hoàn chỉnh thành bài viết gồm mười sáu chương. Có vẻ như anh đã viết tại nhà của Tomé Gonzalez và Antona Pérez, họ hàng xa của Sabela. Họ sống ở làng Tejares, nơi các cô gái từng làm việc cho nhà chứa thường lưu lại trong tuần lễ thánh(6), không xa thành phố mấy. Anh kết thúc bài viết vào đúng ngày thứ Hai trời mưa, có nghĩa là một ngày sau lễ Phục sinh, là thời điểm kết thúc tuần lễ ăn kiêng và các cô gái quay trở lại Salamanca. Họ được các sinh viên chào đón để nhảy múa và ăn uống bên bờ sông Tormes. Mặc dù Rojas đặt tên bài viết là Hài kịch của Calisto và Melibea, nhưng nhân vật quan trọng nhất của vở hài kịch lại chính là Celestina, được tạo ra bởi cảm hứng từ một nhân vật cùng tên mà anh quen biết.

Vở hài kịch được xuất bản lần đầu tiên dưới hình thức vô danh, không có cả lời mở đầu lẫn lời kết, ở thành phố Amberes vào mùa hè năm 1498. Nhờ những nỗ lực của Alonso Juanes, vở hài kịch đã khiến độc giả quan tâm, khiến họ phải in thêm các phiên bản mới vào năm sau, cũng dưới hình thức vô danh, ở Burgos. Từ đó, Rojas, với sự giúp đỡ của bạn anh, đã xuất hiện trong cuốn sách với tư cách là người hiệu đính. Anh lấy tên là Alonso de Proaza (đó là tên một thầy giáo dạy Ngữ pháp mà cả hai anh đã học ở Trường Trẻ nhỏ). Anh tiếp tục dành thời gian để sửa chữa, thêm thắt các chi tiết cho vở kịch và hé mở một phần về tác giả của vở kịch. Do vậy, trong lần tái bản ở Toledo vào năm 1500, mặc dù vẫn vô danh, nhưng vở kịch có kèm theo một lá thư của “tác giả gửi cho một người bạn”, trong đó thú nhận rằng chương đầu tiên của vở kịch không phải là của tác giả mà là của “tác giả đầu tiên”, vô danh nhưng rất can đảm, người đã mất vào thời điểm mà tác giả tìm thấy “bản thảo của vở kịch này”. Sau đó, anh hé lộ một vài điểm về con người anh như ở ngoài đời tác giả là luật sư. Và cuối cùng, anh giấu tên và nơi sinh ở khổ thơ thứ tám, khổ thơ kết thúc lá thư, nơi anh đồng thời giới thiệu về người hiệu đính trong những đoạn văn cuối cùng của vở kịch.

Không hoàn toàn hài lòng về điều này, nên vào năm 1502, nhà in Juan Porras, nhà in đã xuất bản những bình luận của Roa ở Salamanca, đã cho ra một ấn bản với tựa đề “Bi hài kịch của Calisto và Meỉibea”, mở rộng thêm năm chương mới, hoàn thiện lời nói đầu và có thêm ba khổ thơ nữa ở phần kết để xin lỗi về khía cạnh phi đạo lý của tác phẩm. Trong bức thư, đã chỉ ra rằng “tác giả trước đây” có thể là Juan de Mena hoặc Rodrigo Cota, nhưng không chắc chắn về ai cả. Những năm sau, họ còn cho xuất bản một vài ấn phẩm, trong đó có tác phẩm của Valencia vào năm 1514, với chỉnh sửa và bổ sung của Proaza (tức Alonso Juanes) cho đến cuối cùng, vào năm 1526, có một phiên bản ở Toledo, trong đó có viết thêm một chương mới với tựa đề “Chương sau chót” và được coi là của một Sanabria nào đó.

Cũng có một vài lý do giải thích cho sự thiếu tin tưởng, không rõ ràng và che giấu cảm xúc từ phía Rojas. Trước tiên, có một thực tê là chương đầu tiên của vở kịch bị đánh cắp và thuộc về, không ai khác, một người bị Toà án Công giáo kết tội hoả thiêu. Nhưng cũng không loại trừ khả năng rằng một cuốn sách với nhiều lý luận và có thể gây ra tai tiếng lại là, trên thực tế, một tác phẩm được viết ngắn gọn, chứa đựng nhiều cạm bẫy, thông điệp, cảnh báo, những cái tên được mã hoá và những biểu tượng. Dưới hình thức nào và dành cho ai? Điều này, tới bây giờ, vẫn là một bí ẩn. Dù thế nào chăng nữa, trong cuộc đời của tác giả, tác phẩm cũng gây chú ý khi không bị cấm cũng không bị Toà án Công giáo đốt.

Điều đáng nói là không một ai hay biết gì về Rojas trong suốt thời gian từ năm 1498 - thời điểm anh viết bản thảo đầu tiên của vở kịch và cuối cùng, nhận được bằng tốt nghiệp cử nhân khoa Luật, và trở về thị trấn Montalbán một mình, không đi cùng với Sabela - cho đến năm 1508, sau đó ít lâu anh đã định cư lập nghiệp tại Talavera. Một vài người nghĩ rằng trong khoảng thời gian mười năm đó, anh tiếp tục làm việc bí mật cho Diego de Deza và còn đảm nhiệm một vài sứ mệnh quan trọng cho Vương triều, không chỉ ở Castilla và Aragon, mà còn ở Bồ Đào Nha và Ấn Độ, nơi anh có thể đã gặp cha Antonio. Tuy nhiên, nếu như vậy, cũng không có một bài viết nào, ít nhất là dưới tên anh. Một vài người khác khẳng định rằng anh ẩn náu với Sabela ở nhà của ông Roa và giảng dạy môn Luật trong hang, viết và tham gia tích cực trong các âm mưu chống vương triều mà người ta nói còn nhiều bằng chứng để lại trong bản thảo bằng đá. Nhiều người khác lại tin rằng anh sống một cuộc đời với hai hoặc ba nhân cách.

Dù thế nào đi chăng nữa, vào tháng Giêng năm 1509, sau một vài tháng ở quê hương, Rojas chuyển đến sống hẳn ở Talavera để hành nghề luật sư. Trung thành với gốc gác của mình, anh nhanh chóng kết hôn với Leonor Alvarez, người thị trấn Montalbán, con gái của một gia đình cải đạo và đã sinh được bảy người con. Người con cả, Fernando, đã đỗ cử nhân Luật, vượt một điểm xuất sắc han cha của mình, ở trường Đại học Salamanca. Người ta cũng biết rằng, vào tháng Sáu năm 1525, bố vợ Rojas, ông Álvaro de Montalban, đã bị Toà án Công giáo bắt giữ. Nguyên nhân là do có một vài lời bình luận đã bị bóp méo trước mặt vài công tố viên, những người mà ông đến thăm ở Madrid. Điều tệ hơn cả là, bốn mươi năm trước, ông bị buộc tội và bị xử vì đã cải đạo Do Thái. Lẽ dĩ nhiên, ông đề nghị con rể trở thành luật sư bào chữa cho mình, nhưng yêu cầu này đã bị Toà án bác bỏ vì Rojas có họ hàng với người có tội. Tại toà, ông bị kết án tù chung thân và bị tịch thu toàn bộ tài sản, trong số đó có một nửa là của hồi môn của con gái, trị giá khoảng 400 maravedis. Vì bị ảnh hưởng, Rojas đã yêu cầu phúc thẩm lại phiên toà và anh đã lấy lại được số tiền trên. Đối với bố vợ, họ đã phạt ông bị quản thúc tại gia.

Ngoài sự kiện trên, cuộc sống của Rojas trôi đi thoải mái và bình lặng. Rojas trở thành Thị trưởng thị trấn lớn Talavera, lúc đó có khoảng sáu nghìn dân. Trong nhiều dịp khác nhau, Rojas cũng đã làm luật sư cho thành phố, cương vị này đã mang lại cho ông uy tín và sự kính nể của dân chúng, cũng như sự sung túc cho gia đình. Ngoài ngôi nhà ở đường Gaspar Duque, bên cạnh nhà thờ Thánh Miguel, ông còn sở hữu vườn nho, trang trại, cối xay gió, xưởng chế biến rượu, vườn ươm… Vở kịch Ceỉestina, như nhiều người biết đến, đã rất thành công và người được hưởng lợi từ vở kịch là những nhà xuất bản và một số tác giả đã viết tiếp vở kịch đó.

Bên cạnh thú đam mê đọc sách, Rojas còn là một tay chơi cờ vua rất giỏi. Cũng không hề có bất kỳ bút tích nào, chỉ trừ khi phải viết thư và các giấy tờ riêng của mình, chứng tỏ ông đã không quay trở lại cầm bút. Tuy nhiên, một số người vẫn cho rằng ông đã viết một vài tác phẩm nữa, được xuất bản vô danh. Ông tham gia các hoạt động tôn giáo rất tích cực và tận tuỵ và là thành viên của Hiệp hội Thánh mẫu. Ai nhìn thấy ông tham gia trong các đám rước, không thể tưởng tượng được rằng sau khuôn mặt bình thản và hiền lành kia lại ẩn chứa nhiều bí mật ghê sợ đến thế. Một số bí mật ở đây đã được bật mí, số khác vẫn còn là ẩn tích.

Rojas mất ngày mùng 8 tháng Tư năm 1541, thọ sáu mươi bảy tuổi. Trước khi chết, ông yêu cầu được mặc bộ quần áo choàng của Thánh Francisco để tưởng nhớ đến cha German và được chôn cất ở Tu viện Thánh mẫu. Theo di chúc, tài sản của ông lên tới khoảng bốn trăm nghìn maravedis, một phần ba trong số đó là tiền ông cho thuê các tài sản sở hữu của mình. Trong các cuốn sách còn lại, người ta chỉ tìm thấy một bản in của vở “Bi hài kịch của Calisto và Melibea”. Khi không một ai trong số những người thừa kế muốn sở hữu vở hài kịch, họ đã bán nó với cái giá tương đương một nửa con gà.

Chú thích
(1) 1 fanega tương đương 0,66 ha), ở đây, khoảng 66 ha.
(2) Nay là Haiti.
(3) Cộng hoà Dominica
(4) Bartolomé de las Casas (1484-1566): cha cố, nhà văn người Tây Ban Nha; ủng hộ xoá bỏ chế độ nô lệ đối với người bản địa, và sau này đối với người gốc châu Phi.
(5) Tiếng La tinh trong nguyên bản: Auctoritates Aristotelis et aliorum philosophorum.
(6) Trong tuần lễ Thánh của đạo Thiên chúa, người ta kiêng không ăn thịt.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
599,143
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26: Lời cám ơn của tác giả


Mercedes Gomez Blesa, Antonio Sanchez Zamarreno và Philippe Merlo là những độc giả đầu tiên của cuốnBảnthảobằngđá; bởi vậy, họ chiếm vị trí danh dự trên trang này. Tôi cũng muốn bày tỏ lời cảm ơn tới Juan Antonio Gonzalez Iglesias, đã giúp tôi tra cứu tiếng La tinh; tới Juan Francisco Blanco, đã cho mượn một số tác phẩm mà tôi không tìm ra; và tới jose Antonio Sanchez Paso với những chỉ dẫn thông minh. Nhưng cuốn sách này giờ đây sẽ không đến tay bạn đọc nếu không có sự cộng tác hiệu quả của người giúp việc Antonia Kerrigan; cũng không thể thiếu sự tin cậy và hợp tác tốt của Amaya Elezcano với ê kíp in ấn tuyệt vời. Cũng như vậy, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới độc giả cuốn truyện ngắn của tôi Những xác chết S.A. (2005), và đặc biệt tới Rosa Navarro Duran đã từng ủng hộ tôi, và tới lleana Scipione, người đã dịch sang tiếng Rumani. Họ là những người khích lệ tôi rất nhiều.

Mỗi cuốn sách là đứa con của mối tư duy tưởng tượng từ chính nó và từ một số sách khác. Càng có lý hơn khi một tiểu thuyết trong đó xuất hiện những nhân vật sống cách đây năm thế kỷ mà trong một số trường hợp, tiếp tục là một câu đố. Và một khung cảnh lịch sử gần như được xác định và nếu nhớ lại một lần nữa thì người ta định đề cập đến một tác phẩm hư cấu do đó, tác giả có một chút tự do thêm bớt.
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom