Cập nhật mới

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 20


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Khẩu súng săn của Pepper Scarboro mang hiệu Remington, cỡ nòng 12 được mua ở một cửa hàng cầm đồ ở Lucedale năm Pepper mười sáu tuổi, quá trẻ để có thể mua từ một đại lý chính thức. Với giá hai trăm đôla, theo mẹ Pepper, thì đó là tài sản mà đứa con trai mình yêu quý nhất. Cảnh sát trưởng Sweeney và cảnh sát trưởng Tatum, của quận Greene, đã tìm thấy khẩu súng săn đó, cùng với một cái túi ngủ đã rất cũ và một chiếc lều nhỏ, một tuần sau cái chết của Patrick, khi họ đang kiểm kê lại các vật dụng trong ngôi nhà đi săn của hắn. Trudy đã đồng ý cho phép có cuộc lục soát này, một sự cho phép mà bản thân nó đã là vấn đề bởi ả ta không có quyền sở hữu đối với ngôi nhà đó. Bất kỳ toan tính nào nhằm dùng khẩu súng, cái túi ngủ và chiếc lều như những bằng chứng trong vụ án giết người của Patrick đều sẽ vấp phải sự phản kháng quyết liệt, bởi lẽ chúng đã được tìm thấy trong một cuộc lục soát không có giấy phép. Một lập luận có thể được đưa ra, rằng không phải là các viên cảnh sát trưởng này tìm các bằng chứng vì lẽ là vào lúc đó chưa có vụ tội phạm nào cả. Họ chỉ đơn thuần thu thập các vật dụng của Patrick để trao lại cho gia đình của hắn.

Trudy không muốn nhận cái túi ngủ và chiếc lều kia, bởi tin rằng chúng không phải là của Patrick. Trước đó ả ta chưa hề bao giờ nhìn thấy chúng. Đó là đồ rẻ tiền, không phải những thứ mà Patrick thường mua. Vả lại, hắn không thích ngủ lều. Hắn đã có ngôi nhà đi săn kia để ngủ. Sweeney dán mấy mẩu giấy đánh dấu lên đó rồi quẳng chúng vào kho tang vật, bởi vì cũng chẳng còn có chỗ nào khác. Ông ta dự tính cứ để đó chừng một hoặc hai năm, rồi bán chúng trong đợt bán những thứ đồ vô chủ hàng năm của cảnh sát trưởng. Sáu tuần lễ sau, Neldene Crouch òa khóc khi chị ta đứng trước bộ đồ dã ngoại của Pepper, con trai mình.

Khẩu súng săn lại được xử lý theo một cách khác. Nó được tìm thấy dưới gầm giường, cùng với chiếc lều và cái túi ngủ kia, trong căn phòng mà Patrick thường ngủ. Theo ý kiến của Sweeney thì ai đó đã vội vã nhét chúng vào đấy. Tính tò mò ở ông ta lập tức bị khơi dậy do sự hiện diện của khẩu súng. Bản thân cũng là một người ưa săn bắn, ông ta biết không có người đi săn khôn ngoan nào lại để khẩu súng săn trong một ngôi nhà đi săn ở nơi hẻo lánh, để bọn trộm cắp có thể tiện tay vớ được. Không có một thứ gì có giá trị lại được để lại trong một ngôi nhà đi săn ở những khu vực như vậy. Ông ta đã kiểm tra nó một cách kỹ lưỡng ngay tại chỗ, và nhận ra rằng số súng đã bị đục đi. Đó là một khẩu súng bị đánh cắp. Sweeney trao đổi ý kiến với cảnh sát trưởng Tatum, và họ quyết định rằng ít nhất thì cũng phải mang nó đi kiểm tra dấu vân tay. Họ chắc rằng việc đó cũng chẳng mang lại điều gì, thế nhưng cả hai đều là những cảnh sát từng trải và kiên nhẫn.

Sau này, sau nhiều lời hứa hẹn về sự miễn tố, tay chủ tiệm cầm đồ ở Lucedale mới thú nhận rằng lão ta đã bán khẩu súng đó cho Pepper.

Sweeney và Ted Grimshaw, phụ trách điều tra của quận Harrison, lịch sự gõ cửa phòng Patrick trong bệnh viện, và bước vào sau khi có lời mời. Sweeney đã gọi điện trước để báo cho Patrick về chuyến thăm cùng mục đích của họ. Đây chỉ là những phép tắc thông thường vì các thủ tục tạm giữ đối với Patrick còn chưa được làm một cách thích hợp.

Họ chụp ảnh hắn trong lúc hắn ngồi trên ghế, mặc chiếc áo phông và quần soóc thể thao, mái tóc bù xù và mặt mũi khó đăm đăm. Tay hắn cầm cái biển trên có những con số đăng ký mà họ mang tới. Họ lấy dấu tay hắn - Grimshaw làm, còn Sweeney hỏi han này nọ. Ông hỏi hắn một vài câu về Pepper Scarboro, thế nhưng Patrick nhanh chóng nhắc ông ta rằng hắn có luật sư, và luật sư của hắn phải có mặt trong bất kỳ một cuộc thẩm vấn nào. Hơn nữa, hắn cũng không có gì để nói cho dù có hay không có mặt luật sư.

Họ cảm ơn hắn và bỏ đi. Cutter và một chuyên gia vân tay của FBI từ Jackson đến đang đợi ở Phòng Lanigan trong nhà tù. Vào lúc tìm thấy, người ta thu được từ khẩu súng săn cỡ nòng 12 của Pepper hơn một chục dấu vân tay còn nguyên vẹn, có thể sử dụng được vào việc điều tra. Những dấu vân tay này là do Grimshaw lấy, cất vào trong két, và giờ đây được bày ra trên mặt bàn. Khẩu súng săn kia được đặt ở trên giá, cạnh chiếc lều và cái túi ngủ, cùng chiếc giày, những tấm ảnh và vài tang chứng hiếm hoi khác sẽ được dùng để chống lại Patrick.

Họ uống cà phê với những cái cốc làm bằng chất dẻo và tán gẫu về chuyện câu cá trong khi tay chuyên gia vân tay so sánh những dấu vân tay cũ và mới bằng một cái kính lúp. Công việc đó đã không mất mấy thời gian.

“Một số những vân tay này hoàn toàn trùng nhau," anh ta nói, vẫn cắm cúi với cái kính. "Trên khẩu súng đó đầy dấu vân tay của Lanigan.”

Chắc chắn đó là tin mừng, họ nghĩ. Vấn đề là phải làm gì bây giờ ?

oOo

Patrick đòi có một căn phòng khác cho tất cả các cuộc gặp từ nay trở đi với luật sư của hắn, và bác sĩ Hayani đã nhanh chóng dàn xếp giúp chuyện này. Anh ta cũng đề nghị được có một xe lăn dùng cho việc đưa hắn xuống căn phòng đó ở tầng trệt. Một cô y tá đẩy xe, ngang qua hai cảnh sát ngồi hiền lành ngoài hành lang ngay trước cửa phòng hắn, ngang qua nhân viên đặc biệt Brent Myers, để vào thang máy. Một cảnh sát bám theo sau.

Đó là phòng hội chẩn của các bác sĩ. Bệnh viện nhỏ và căn phòng cũng hiếm khi được dùng tới. Sandy đã đặt mua cái thiết bị chống nghe trộm mà Patrick đề cập, thế nhưng phải mất một vài ngày nữa nó mới được gửi tới.

“Phải thúc bách mới được,” Patrick nói.

“Nào, Patrick. Chắc chắn là anh không nghĩ rằng họ đã cài rệp vào căn phòng này rồi. Cho tới cách đây một tiếng thì chẳng có ai nghĩ tới chuyện chúng ta sẽ sử dụng nó.”

“Thận trọng không bao giờ thừa.” Patrick đứng dậy khỏi xe lăn rồi đi quanh chiếc bàn họp dài và Sandy nhận ra rằng hắn không hề khập khiễng chút nào.

“Này, Patrick, tôi nghĩ rằng anh hãy cố bình tâm một chút. Tôi biết anh vừa trải qua cuộc sống lẩn lút trong một thời gian dài. Anh đã phải lo sợ, luôn cảnh giác với mọi thứ, tôi biết tất cả những điều đó. Nhưng những ngày đó đã qua rồi. Hãy bình tâm.”

“Họ vẫn còn ở bên ngoài kia, anh có hiểu không ? Họ đã có tôi, nhưng chưa có tiền. Và tiền là chuyện quan trọng hơn nhiều. Đừng quên điều đó, Sandy. Họ sẽ không thôi đâu cho đến khi có được chỗ tiền đó.”

“Vậy thì ai có khả năng sẽ nghe trộm chúng ta ở đây ? Kẻ tốt hay người xấu ? cảnh sát hay bọn bất lương ?”

“Những người mất tiền đã bỏ ra cả một đống của để cố tìm lại cho bằng được.”

“Làm sao anh biết ?”

Patrick chỉ nhún vai như thể lại đến lúc phải giở bài với nhau.

“Họ là ai ?" Sandy hỏi, và sau đó là một khoảng im lặng kéo dài, giống như những khi Leah muốn thay đổi để tài.

“Ngồi xuống đi,” Patrick nói. Họ ngồi đối diện nhau. Sandy lấy ra cặp hồ sơ dày cộm mà Leah đã trao cho anh cách đó bốn tiếng đồng hồ; cặp hồ sơ về những chuyện bẩn thỉu của Trudy.

Patrick nhận ra nó ngay tức khắc. “Anh gặp cô ấy bao giờ thế ?” Hắn vội vã hỏi.

“Sáng nay. Cô ấy không sao cả, gửi lời thăm, nói rằng chưa hề có ai bám theo, và yêu cầu tôi chuyển cái này.” Anh đẩy cái phong bì ngang mặt bàn và Patrick chộp lấy, bóc vội, rút ra một bức thư dài ba trang. Hắn đọc thư, từng chữ một, quên khuấy hẳn người bạn luật sư ngồi bên.

Sandy xem lướt qua cặp hồ sơ và dừng lại chỗ những tấm ảnh chụp Trudy lõa lồ ngả ngớn bên bể bơi cạnh gã đĩ đực của ả. Anh rất muốn được dí hình ngay vào mặt tay luật sư của ả ở Mobile. Họ đã hẹn một cuộc gặp sau ba giờ nữa.

Patrick đọc xong bức thư, gấp nó lại cẩn thận, và đặt trở lại vào phong bì. "Tôi có một lá thư khác cho cô ấy,” hắn nói, rồi liếc ngang mặt bàn và thấy những tấm ảnh. “Chụp khá đấy chứ hả ?”

“Đáng kinh ngạc. Tôi chưa bao giờ thấy nhiều bằng chứng thế này trong một vụ ly dị cả.”

“Hừm, có quá nhiều chuyện. Chúng tôi cưới nhau được gần hai năm thì lần đầu tiên tôi chạm trán với người chồng trước của cô ta, hoàn toàn tình cờ. Đó là một bữa tiệc ở New Orleans. Chúng tôi đã uống vài ly, và anh ta nói chuyện với tôi về Lance. Chính gã là con mèo đực trong những tấm hình kia.”

“Leah đã giải thích.”

“Lúc đó Trudy đã chửa to rồi, bởi vậy tôi không nói gì. Cuộc hôn nhân dần dần trở nên tồi tệ, và chúng tôi hy vọng là đứa con sẽ làm cho mọi chuyện đâu vào đấy. Cô ta có một khả năng lừa dối đáng kinh ngạc. Tôi cũng quyết định chiều theo, vào vai một người cha đầy hãnh diện và đại loại thế, nhưng một năm sau đó thì tôi bắt đầu thu thập chứng cứ. Tôi không biết là khi nào thì sẽ cần đến chúng, nhưng tôi biết là cuộc hôn nhân này đã kết thúc. Tôi rời khỏi thành phố bất kỳ khi nào có cơ hội - công việc, đi săn, đi câu, đi nghỉ cuối tuần với đám bạn bè, bất kể. Cô ta dường như chẳng bao giờ phiền lòng gì hết.”

"Tôi sẽ gặp luật sư của chị ta vào lúc năm giờ chiều nay.”

"Tốt. Anh sẽ có một trận ra trò. Niềm ao ước của bất kỳ một luật sư nào khác đấy. Dọa dẫm đủ thứ, nhưng kết thúc với một dàn xếp. Cô ta phải cam kết từ bỏ mọi quyền, Sandy. Cô ta không có phần gì trong tài sản của tôi cả.”

“Khi nào thì chúng ta nói chuyện về tài sản của anh?”

“Sắp thôi, tôi hứa đấy. Nhưng còn có việc cấp bách hơn.”

Sandy lấy tập giấy mà lúc nào cũng mang theo bên mình ra và sẵn sàng ghi chép.

“Lance là một gã đê tiện. Gã lớn lên trong các quán bar ở Point Cadet, chưa bao giờ học hết phổ thông trung học, và đã ở tù ba năm vì tội buôn ma túy. Một kẻ hư hỏng. Gã có bạn bè trong thế giới ngầm. Gã biết những kẻ sẵn sàng làm bất kỳ việc gì vì tiền. Có một tập hồ sơ dầy nữa, về gã. Tôi cho rằng Leah chưa đưa cho anh.”

“Chưa. Chỉ có tập này.”

“Lần sau hãy hỏi cô ấy. Tôi đã thu thập mọi chuyện về Lance trong một năm trời, cũng vẫn do cùng một tay thám tử tư. Lance là một kẻ tầm thường, nhưng nguy hiểm vì gã có bạn bè. Và Trudy thì có tiền. Chúng ta không biết là cô ta còn lại bao nhiêu, nhưng hẳn là chưa thể tiêu hết đâu.”

“Và anh nghĩ rằng có thể gã sẽ chơi anh chăng ?”

“Có khả năng. Hãy nghĩ về chuyện đó, Sandy. Lúc này thì Trudy là người duy nhất vẫn muốn tôi phải chết. Như vậy, cô ta sẽ giữ được số tiền còn lại, và không còn lo ngại về chuyện cái hãng bảo hiểm kia sẽ thu lại những gì mà hiện giờ cô ta đang có. Tôi biết cô ta. Tiền và cuộc sống ăn chơi là tất cả.”

“Nhưng làm sao gã có thể...”

“Có thể, Sandy. Hãy tin tôi. Đó là việc có thể làm được.”

Hắn nói điều đó với sự bảo đảm chắc nịch như của một kẻ đã từng giết người, từng bị lương tâm cắn rứt, và trong một giây, Sandy thấy lạnh cả người.

“Đó là việc có thể làm được, thậm chí dễ dàng,” hắn nói tới lần thứ ba, cặp mắt hắn bừng bừng và những vết nhăn quanh mắt nhíu lại.

“Thôi được, vậy tôi phải làm gì ? Ngồi với đám cảnh sát ngoài hành lang ư ?”

“Việc là tùy ở mình thôi, Sandy.”

“Tôi nghe đây.”

“Thứ nhất, anh nói với luật sư của cô ta rằng văn phòng của anh mới nhận được một nguồn tin nặc danh, rằng Lance đang tìm kiếm một kẻ đâm thuê chém mướn. Hãy nói vậy vào cuối cuộc gặp của anh hôm nay. Lúc đó thì ông ta đã choáng rồi, và sẽ tin vào mọi điều anh nói. Hãy nói rằng anh đang tính báo cho cảnh sát chuyện đó. Chắc chắn là ông ta sẽ phải gọi thân chủ của mình, và cô ta sẽ chối phắt. Thế nhưng uy tín của cô ta sẽ bị tổn thương. Cô ta sẽ chùn lại trước cái ý nghĩ rằng đã có người nghi ngờ là cô ta và Lance đang mưu toan giết người. Rồi sau đó, anh hãy gặp cảnh sát trưởng và FBI, cũng với cùng câu chuyện như vậy. Nói với họ vì sao anh phải lo ngại về sự an toàn của tôi. Đòi họ phải răn đe Trudy và Lance về những tin đồn đó. Tôi rất biết cô ta, Sandy. Cô ta sẽ hy sinh Lance để giữ lại được tiền. Song nếu cảnh sát đã nghi ngờ thì cô ta chắc chắn sẽ từ bỏ âm mưu đó.”

“Chắc anh cũng đã nghĩ trước về chuyện này rồi. Còn gì nữa không ?”

“Còn. Việc sau cùng anh phải làm là tiết lộ chuyện này cho báo chí. Anh cần phải tìm lấy một phóng viên...”

“Việc đó không khó.”

“Một người mà anh có thể tin cậy.”

“Cái này thì lại khó đấy.”

“Không hẳn là không có. Tôi cũng hay đọc báo, và có thể có vài cái tên cho anh. Hãy kiểm tra lại. Tìm một người mà anh thấy thích. Bảo anh ta đăng những tin đồn đó, nhưng không phải là theo yêu cầu của chúng ta, đổi lại anh sẽ cho anh ta biết trước tiên những tin thật nhất, mới nhất. Đó là cách làm của đám báo chí. Bảo anh ta là cảnh sát trưởng đang điều tra những tin tức về việc một người vợ đang toan tính thuê sát thủ để hòng giữ lại những đồng tiền bất hợp pháp. Anh ta sẽ bập vào ngay. Anh ta sẽ không phải tìm hiểu tính xác thực của tin này. Trời đất, họ đăng tin đồn suốt ấy mà.”

Sandy kết thúc các ghi chép và kinh ngạc trước sự chuẩn bị của anh bạn cũ. Anh gấp giấy tờ lại, gõ gõ cây bút, và hỏi, “Anh có bao nhiêu những thứ này ?”

“Những thứ rác rưởi này ấy hả ?”

“Phải.”

“Tôi đoán chừng hơn hai chục cân. Chúng được cất giữ trong một cái kho nhỏ ở Mobile kể từ khi tôi biệt tích.”

“Còn gì ở đó ?”

“Còn những thứ rác rưởi khác.”

“Về ai ?"

“Những bạn làm ăn cũ của tôi. Và những kẻ khác nữa. Chúng ta sẽ dùng đến sau.”

“Bao giờ vậy ?”

“Sắp thôi, Sandy.”

oOo

Luật sư của Trudy, J.Murray Riddleton, là một người đàn ông sáu mươi tuổi, to khỏe, hoạt bát, chuyên về hai lĩnh vực: những vụ ly hôn dơ dáy và những khuyên nhủ về tài chính nhằm lừa gạt chính phủ. Có thể thấy ở lão nhiều nét tương phản; thành đạt nhưng ăn mặc rất tồi tàn, thông minh nhưng có vẻ mặt chất phác, tươi cười nhưng độc ác, nói năng ôn hòa nhưng lời lẽ sắc bén. Cái văn phòng lớn của lão ở trung tâm Mobile đầy ngập những hồ sơ đã bị sao nhãng từ lâu và những sách luật đã lỗi thời. Lão lịch sự đón Sandy, chỉ một cái ghế và mời rượu. Dù sao thì cũng đã sau năm giờ một vài phút rồi. Sandy từ chối, và J.Murray cũng không uống gì cả.

“Sao, anh chàng kia của chúng ta thế nào rồi ?" J.Murray ngoác mồm ra hỏi.

“Ai cơ ?"

“Thôi nào. Patrick chứ còn ai. Cậu đã tìm thấy chỗ tiền kia chưa ?”

“Tôi không hề nghĩ đến chuyện đó.”

J.Murray cảm thấy câu trả lời cũng hay hay và cười phá lên trong vài giây. Trong đầu lão thì không hề còn nghi ngờ gì là lão hoàn toàn làm chủ cuộc gặp này. Hầu hết các quân bài đều nằm ở phía bàn của lão.

"Tôi thấy ông trên TV tối qua,” Sandy nói. “Cái chương trình nhớp nhúa đó tên gì ấy nhỉ ?”

"Đằng sau những biên bản." Cô ấy tuyệt đấy chứ hả? Và đứa nhỏ nữa, cứ như một con búp bê vậy. Những con người tội nghiệp đó.”

“Thân chủ của tôi muốn yêu cầu thân chủ của ông không đưa ra bất kỳ phát biểu công khai nào nữa về cuộc hôn nhân và vụ ly hôn của họ.”

“Thân chủ của cậu có thể đi mà giặt váy cho thân chủ của tôi. Còn cậu thì có thể đi mà xách dép cho tôi đây này.”

"Tôi sẽ khiếu nại, bởi vì thân chủ của tôi sẽ khiếu nại."

“Này, con ạ, ta là người sống chết với Điều Tu chính thứ nhất đấy. Nói bất kỳ điều gì. Làm bất kỳ điều gì. Xuất bản bất kỳ thứ gì. Tất cả đều được Hiến pháp bảo vệ ngay ở điều tu chính đó.” Lão chỉ tay lên cái giá sách phủ đầy mạng nhện cạnh cửa sổ. “Yêu cầu bị bác bỏ. Thân chủ của tôi có quyền công bố bất kỳ điều gì và vào bất kỳ lúc nào cô ta muốn. Cô ta đã bị thân chủ của cậu xúc phạm, và giờ đây đang đứng trước một hoàn cảnh đầy bất trắc.”

“Được thôi. Có điều phải làm rõ mọi chuyện.”

“Chẳng nhẽ còn chưa rõ sao ?"

“Đúng thế. Hiện giờ, chúng tôi thực sự không có vấn đề gì với nguyện vọng ly hôn của thân chủ của ông, và chị ta có thể được nuôi con.”

“Cảm ơn. Các người rộng lượng quá.”

"Trên thực tế, thân chủ của tôi không có dự tính đòi quyền thăm nom đứa trẻ.”

“Được lắm. Sau khi bỏ rơi đứa trẻ trong bốn năm trời, chắc hắn cũng chẳng muốn nhìn lại nó nữa.”

“Có một lý do khác,” Sandy vừa nói vừa mở hồ sơ và lấy ra cái kết quả xét nghiệm ADN. Anh ta đưa một bản sao cho J. Murray. Lão lập tức thôi cười và nheo mắt nhìn mấy tờ giấy.

“Cái gì thế này ?” Lão hỏi vẻ nghi hoặc.

“Sao ông không đọc đi đã ?” Sandy đáp.

J.Murray móc trong túi ngực ra cái kính và đeo lên. Lão đưa tờ giấy ra xa, tới đúng tầm thì ngừng lại và bắt đầu từ từ đọc. Lão ngây ra sau trang đầu tiên, và đôi vai lão rũ xuống ở cuối trang thứ hai.

“Tai hại quá, phải không ?” Sandy nói sau khi J.Murray đọc xong.

“Đừng vội mừng. Tôi chắc chắn là điều này có thể giải thích được ”

"Tôi thì chắc là không. Theo luật Alabama, kết quả xét nghiệm ADN là bằng chứng mang tính kết luận. Bây giờ, dù không phải là người sống chết vói Điều Tu chính thứ nhất như ông, nhưng tôi nghĩ rằng nếu điều này được công bố thì sẽ gây lúng túng cho thân chủ của ông nhiều đấy. Hãy hình dung xem, có chửa với người này trong khi giả bộ sống hạnh phúc với người kia. Tôi e rằng chuyện đó không được hoan nghênh lắm ở dọc vùng bờ biển này đâu.”

“Cứ đăng đi,” J.Murray nói, không có vẻ quả quyết. "Tôi không quan tâm.”

"Tốt hơn là nên trao đổi vói thân chủ của ông trước đã.”

“Đó là điều không có ý nghĩa, theo luật pháp của chúng ta. Ngay cả là cô ta đã ngoại tình, nhưng hắn vẫn tiếp tục chung sống với cô ta sau khi biết chuyện. Như vậy là hắn đã chấp nhận. Hắn sẽ không được phép dùng scandal đó làm lý do trong vụ ly hôn này.”

“Không cần bàn tới chuyện ly hôn nữa. Chị ta có thể được toại nguyện. Quên cả chuyện đứa trẻ đi.”

“Ra vậy, tôi hiểu rồi. Đây là trò tống tiền. Cô ta từ bỏ yêu sách về tài sản của hắn, và hắn sẽ không làm ầm lên nữa.”

“Đại loại là như thế.”

“Thân chủ của cậu điên rồi, và cậu cũng vậy.” Mặt mũi J.Murray đỏ phừng phừng, hai tay nắm chặt lại.

Sandy lạnh lùng lật lật hồ sơ và lôi ra một đòn tiếp theo. Anh đẩy một báo cáo sang phía bên kia bàn.

“Cái gì vậy ?” J. Murray hỏi.

“Đọc đi.”

"Tôi không muốn đọc nữa rồi.”

“Được thôi, đó là báo cáo của một thám tử tư, người đã bám theo thân chủ của ông và người tình của chị ta trong một năm trước khi thân chủ tôi biệt tích. Họ đã ở bên nhau, chỉ có hai người, tại nhiều nơi nhưng chủ yếu là ở ngay ngôi nhà của thân chủ tôi, ở trong nhà, và chúng tôi cho là ở trên giường, trong ít nhất là mười sáu dịp.”

“Chuyện lớn quá nhỉ.”

“Hãy xem những cái này,” Sandy nói, và quăng những tấm ảnh màu cỡ 18/24, hai trong số đó là những tấm ảnh khỏa thân, lên trên bản báo cáo kia. J. Murray liếc mắt nhìn, rồi cầm lên để xem kỹ hơn.

Sandy quyết định giúp lão ta hiểu. “Những tấm ảnh này được chụp bên bể bơi tại ngôi nhà của thân chủ tôi trong lúc anh ta đang dự một hội thảo ở Dallas. Có nhận ra ai không ?"

J. Murray gắng gượng làu bàu gì đó.

“Còn nhiều nữa,” Sandy nói, và đợi cho qua cơn choáng của J.Murray. "Tôi cũng còn ba báo cáo khác nữa của các thám tử tư. Có vẻ như thân chủ của tôi đã rất ngờ vực.”

Ngay trước mắt Sandy, J. Murray chuyển từ một con diều hâu hung hăng sang một kẻ trung gian ủy mị, một sự thay đổi giống như sự đổi màu ở loài kỳ nhông, thường thấy ở những luật sư đột nhiên thấy mình bị tước hết vũ khí. Lão thở dài sóng sượt với vẻ cam chịu và rũ người xuống trong cái ghế bành. “Đúng là họ chưa bao giờ nói với chúng ta tất cả.” Vấn đề đột ngột chuyển thành chúng ta đối lập với họ. Luật sư chống lại thân chủ của mình. Lão và Sandy giờ đây có vẻ lại chuyển sang cùng một bên, và họ sẽ phải làm gì ? Tuy nhiên, Sandy vẫn chưa sẵn sàng với cái liên minh vỏ ngoài này.

“Một lần nữa, tôi không phải người sống chết với Điều Tu chính thứ nhất như ông tự nhận về bản thân mình, nhưng tôi nghĩ rằng nếu những thứ này được đăng tải lên mặt báo thì chắc chắn sẽ làm cho Trudy rất lúng túng.”

J. Murray giơ tay ra ý bảo Sandy đừng nói nữa, và nhìn đồng hồ. “Cậu chắc là không muốn làm một ngụm ư ?"

“Đúng thế.”

"Thằng cha kia của cậu vớ được bao nhiêu hả ?"

“Tôi thật sự là chưa biết. Và đó không phải là vấn đề quan trọng lúc này. Điều quan trọng là ở chỗ anh ta sẽ còn lại được bao nhiêu khi mọi chuyện đã xong và ngay bây giờ thì không ai biết được.”

“Chắc chắn là hắn phải kiếm được hầu hết cái số chín mươi triệu đó.”

“Anh ta đang bị kiện với con số lớn hơn thế nhiều. Đó ỉà chưa nói tới khả năng về một án tù dài dằng dặc và có thể còn là một cái án tử hình nữa. Vụ ly hôn này, ông Riddleton, là vấn đề nhỏ nhất trong nhũng mối quan tâm của anh ta.”

“Vậy thì sao cậu lại đang đe dọa chúng tôi ?”

“Anh ta muốn chị ta im miệng lại, ly hôn rồi xéo đi, và từ bỏ mọi yêu sách trong tương lai đối với anh ta. Patrick muốn điều đó phải được giải quyết ngay bây giờ.”

“Nếu không thì sao ?” J. Murray nối lỏng cavát và chùng người xuống thêm nữa. Đã cuối ngày và lão cần phải về nhà. Lão nghĩ một lúc khá lâu, rồi nói tiếp, “Cô ta sẽ mất mọi thứ, hắn có biết vậy không ? Cái hãng bảo hiểm kia sẽ làm cho cô ta trắng tay.”

“Không có ai được ở đây cả, ông Riddleton.”

“Để tôi nói chuyện với cô ta đã.”

Sandy thu dọn giấy tờ của mình rồi chậm rãi đi ra cửa. J.Murray gượng một nụ cười buồn bã, và ngay lúc họ đang bắt tay tạm biệt thì Sandy như chợt nhớ ra, đề cập tới cái tin nặc danh mà văn phòng anh nhận được ở New Orleans về việc Lance đang tìm kiếm một sát thủ. Sandy nói thêm là cũng không biết có nên tin hay không nhưng cảm thấy buộc phải trao đổi với viên cảnh sát trưởng và FBI về điều đó.

Họ qua lại vài câu nữa rồi Riddleton hứa sẽ đề cập chuyện này với thân chủ của lão.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 21


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Điểm ghé thăm sau cùng của bác sĩ Hayani là phòng bệnh của Patrick. Đã gần tối, giờ làm việc trong ngày đã qua từ lâu, và anh ta thấy tay bệnh nhân tai tiếng của mình, mặc chiếc quần soóc thể thao, đang ngồi trước cái bàn tạm kê ở góc phòng. Đó là một cái bàn nhỏ, với một ngọn đèn mà Patrick kiếm được từ một người hộ lý. Một cái cốc nhựa đựng bút và bút chì. Một cái cốc khác đựng những cái kẹp giấy, dây chun, ghim, tất cả đều là do các cô y tá mang cho. Hắn thậm chí còn có ba xấp giấy để ghi chép.

Patrick đang làm việc. Một tập khá dày các tài liệu pháp lý chiếm đứt một góc bàn, và hắn đang xem lại một trong số nhiều đơn kiện chống lại hắn khi người bác sĩ bước vào, lần thứ ba trong ngày.

“Xin được hoan nghênh tại văn phòng của tôi,” Patrick nói. Một cái TV to kềnh được treo không cao trên đầu hắn bao nhiêu. Còn cái lưng ghế của hắn thì chỉ cách đầu giường chừng ba mươi phân.

“Hay,” Hayani nói. Trong bệnh viện, tin đồn còn loan nhanh hơn cả trong các văn phòng luật, và trong hai ngày qua đã có những lời thầm thì thích thú về cái văn phòng luật mới đang được lập ra trong phòng 312. “Tôi hy vọng là anh không kiện các bác sĩ.”

“Không bao giờ. Trong mười ba năm hành nghề luật, tôi chưa bao giờ kiện một bác sĩ hay một bệnh viện.” Hắn vừa nói vừa đứng dậy ngoảnh ra phía Hayani.

"Thực sự là tôi quý anh,” người bác sĩ nói trong khi nhẹ nhàng kiểm tra các vết thương trên ngực Patrick. “Anh thấy thế nào ?” Hayani hỏi, lần thứ ba trong ngày hôm đó.

“Tôi khỏe,” Patrick nhắc lại, không biết là lần thứ bao nhiêu trong ngày. Các cô y tá, tò mò và bị cám dỗ, đi vào ít nhất ỉà hai lần trong một giờ với bất kỳ một việc lặt vặt gì đó và luôn vui vẻ hỏi, “Anh cảm thấy thế nào ?"

“Tôi khỏe,” hắn luôn luôn trả lời.

“Ngày hôm nay anh có ngủ không ?" Hayani hỏi, ngồi xổm và xem xét cái đùi bên trái của hắn.

“Không. Rất khó ngủ nếu không uống thuốc, và tôi thật sự không muốn uống thuốc vào ban ngày,” Patrick đáp. Sự thực thì ngủ là chuyện không thể được trước cả một cuộc diễu binh của các y tá và hộ lý kia.

Hắn ngồi xuống bên mép giường và nhìn vào mặt người bác sĩ của mình với vẻ chân tình. “Tôi có thể nói với ông một chuyện được không ?" Hắn hỏi.

Hayani ngừng việc ghi chép trên tấm biểu theo dõi. “Tất nhiên.”

Patrick hết nhìn sang bên trái lại nhìn sang bên phải như thể ở mọi nơi đều đang có những đôi tai dỏng lên vậy. “Khi còn là luật sư,” hắn nhẹ nhàng bắt đầu, “tôi có một thân chủ là giám đốc một nhà băng bị bắt về tội biển thủ. Anh ta bốn mươi bốn tuổi, có vợ, ba con, là một người rất hay nhưng đã trót dại làm một chuyện ngu ngốc. Anh ta bị bắt tại nhà, lúc đêm khuya, và bị mang tới nhà tù quận. Trong tù rất đông phạm nhân, và anh ta bị ném vào một phòng giam chung với mấy thằng lưu manh, mấy thằng da đen, khiếp lắm. Trước tiên, chúng bịt miệng anh ta cho khỏi kêu la. Chúng đánh đập, rồi làm những chuyện mà ông không muốn nghe tới nữa. Chỉ hai tiếng đồng hồ trước đó, anh ta còn đang ngồi trong phòng riêng ở nhà, xem một cuốn phim, còn lúc này thì đã nửa sống nửa chết trong một phòng giam cách nhà ba dặm.” Đầu Patrick cúi gập xuống, cằm sát đến tận ngực, và tay hắn day day sống mũi.

Bác sĩ Hayani vỗ vỗ lên vai hắn.

“Ông đừng để chuyện đó xảy ra đối với tôi, bác sĩ,” Patrick nói, mắt ngân ngấn, giọng đầy lo âu.

“Đừng có lo, Patrick.”

“Chĩ nghĩ tới chuyện đó cũng đã đủ làm tôi sợ chết khiếp, bác sĩ ạ. Tôi luôn có những cơn ác mộng.”

“Tôi hứa với anh, Patrick.”

“Có Chúa chứng giám, tôi đã phải chịu đựng đủ rồi.”

“Tôi hứa mà, Patrick.”

oOo

Tay chuyên gia thẩm vấn tiếp theo là một người đàn ông nhỏ bé có dáng dấp của một điền chủ, tên là Warren, nghiện thuốc nặng và nhìn đời qua một cặp kính đen dày cộp. Không thể nhìn rõ mắt ông ta. Tay trái ông ta cầm thuốc lá, tay phải cầm bút, và không còn gì khác động đậy, trừ cặp môi. Ông ta ngồi lọt thỏm sau đống giấy má gọn gàng và đưa ra những câu hỏi về phía đầu bàn đằng kia, nơi Stephano ngồi nghịch một cái kẹp giấy còn luật sư của lão thì mải miết với một chiếc máy tính xách tay.

“Ông thông báo với cái tổ hợp của ông vào lúc nào ?”

“Sau khi mất dấu vết của hắn ở New York, chúng tôi rút về và chờ đợi. Đồng thời nghe ngóng ở những nơi có thể. Chúng tôi rà lại những dấu vết cũ. Không có kết quả gì. Các dấu vết này nhanh chóng trở nên vô dụng, và chúng tôi chuẩn bị cho trận đánh dài hơi. Tôi đã gặp Benny Aricia và ông ta sẵn sàng tài trợ cho cuộc tìm kiếm. Thế rồi tôi cũng gặp những người ở Monarch- Sierra và Northern Case Mutual, và họ cũng tạm thời tán thành. Northern Case Mutual đã phải bỏ ra hơn hai triệu rưỡi cho người đàn bà góa kia. Họ không thể nào kiện để đòi lại bởi vì không có chứng cứ thuyết phục nào là hắn vẫn còn sống. Họ đã đồng ý bỏ ra nửa triệu. Monarch-Sierra thì phức tạp hơn bởi vì lúc đó họ chưa phải chi tiền. Họ có nguy cơ mất bốn triệu ”

“Monarch bảo hiểm cho những hoạt động phi pháp ở hãng luật phải không ?”

“Gần đúng thế. Nó bảo hiểm cho hãng luật trước những lừa đảo và trộm cắp của các nhân viên và các cổ đông của hãng. Bởi vì Lanigan đánh cắp khoản tiền kia từ hãng cho nên Monarch bị buộc phải chi trả, tới khoảng bốn triệu đôla.”

“Nhưng khách hàng của ông, ông Aricia, đã nhận chỗ tiền này, đúng thế không?”

“Đúng. Lúc đầu ông ta kiện hãng luật đòi toàn bộ sáu mươi triệu mà ông ta mất, thế nhưng hãng luật không có mấy tài sản, bèn đồng ý sang tay số tiền bảo hiểm. Chúng tôi đã ngồi xuống thảo luận và đi tới một thỏa thuận : Monarch-Sierra đồng ý chi trả tiền mà không có kiện tụng gì nếu như ông Aricia dùng một triệu trong đó để tìm kiếm Lanigan. Ông Aricia đồng ý, nhưng chỉ với điều kiện Monarch-Sierra bỏ ra một triệu nữa để tài trợ cho cuộc tìm kiếm này.”

“Như vậy là Aricia vào cuộc với một triệu, Monarch-Sierra một triệu và Northern Case Mutual nửa triệu. Tổng cộng là hai triệu rưỡi.”

“Đúng, đó là thỏa thuận ban đầu.”

“Còn hãng luật thì sao ?"

“Họ quyết định không tham gia. Nói thẳng ra là họ không có tiền, và họ cũng còn quá choáng váng để có thể có một phản ứng. Lúc đầu, họ cũng đã giúp đỡ bằng những cách khác.”

“Và các bên tham gia đều đã đóng tiền chứ ?"

“Có. Tiền được chuyển đến tài khoản công ty của tôi.”

“Bây giờ, khi mà cuộc tìm kiếm đã kết thúc, còn lại được bao nhiêu tiền ?”

“Gần như là hết.”

“Đã chi phí bao nhiêu ?”

“Ba triệu ruỡi, hơn kém chỉ một chút. Cách đây chừng một năm, tiền hết sạch. Các công ty bảo hiểm từ chối. Ông Aricia bỏ vào thêm nửa triệu nữa, rồi lại ba trăm nghìn. Tổng cộng phần góp của ông ta đến bây giờ là một triệu chín.”

Thực sự thì con số này đã là hai triệu sau khi Benny miễn cưỡng quyết định tìm kiếm cô gái đồng bọn với Patrick. Tất nhiên là FBI không biết điều này.

“Và tiền đã được chi tiêu như thế nào ?”

Stephano liếc mắt nhìn vào những ghi chép của lão.

“Gần một triệu tiền lương, tiền đi lại, và những chi phí khác liên quan tới cuộc tìm kiếm. Một triệu rưỡi tiền thưởng. Và chẵn một triệu tiền thù lao cho công ty của tôi.”

“Ông đã được trả một triệu đôla hả ?” Warren hỏi, vẫn không hề động đậy mà chỉ có giọng nói hơi cao lên.

“Đúng. Trong khoảng thời gian bốn năm.”

“Nói về chuyện tiền thưởng xem nào.”

“Có gì đâu, nó được ném vào trung tâm của việc tìm kiếm.”

“Chúng tôi nghe đây.”

“Một trong những việc đầu tiên chúng tôi làm là treo một khoản tiền thưởng cho bất kỳ thông tin nào về sự biến mất của Patrick Lanigan. Các ông biết về khoản tiền thưởng này nhưng đã nghĩ rằng hãng luật đứng sau việc làm đó. Chúng tôi đã lặng lẽ đến hãng luật và thuyết phục được Charles Bogan thông báo về việc treo tiền thưởng cho các thông tin kia. Ông ta công bố và lúc đầu hứa hẹn năm mươi nghìn đôla. Thỏa thuận của chúng tôi với Bogan là ông ta sẽ bí mật báo cho chúng tôi nếu có bất kỳ sự trả lời nào.”

“FBI không được biết về chuyện này.”

“Đúng. FBI biết về các khoản tiền thưởng, và tán thành. Nhưng thỏa thuận của chúng tôi với Bogan được giữ kín. Chúng tôi muốn nắm được trước tiên bất kỳ thông tin nào. Không phải là chúng tôi không tin FBI, mà đơn giản là chúng tôi muốn tự mình tìm ra được Lanigan và chỗ tiền kia.”

“Hiện tại ông đã sử dụng bao nhiêu người vào vụ này?"

“Có thể là hơn một chục.”

“Còn ông làm gì.”

"Tôi ở đây. Nhưng tôi tới Biloxi ít nhất là mỗi tuần một lần.”

“FBI có biết ông đang làm gì không ?”

“Tuyệt nhiên không. Theo chỗ tôi biết, FBI không hề biết là chúng tôi có dính vào, cho tới tuần trước.”

Đống hồ sơ trước mặt Warren chắc chắn có đề cập tới điều này. “Tiếp tục đi.”

“Chúng tôi không nghe ngóng được gì trong hai tháng, ba tháng, rồi bốn tháng. Chúng tôi nâng khoản tiền thưởng lên tới bảy mươi lăm, rồi một trăm nghìn. Bogan nhận được toàn những tin vớ vẩn và ông ta chuyển chúng lại cho FBI. Thế rồi vào tháng Tám năm 1992, ông ta nhận được cú điện thoại của một luật sư ở New Orleans, người nói là có một thân chủ biết đôi điều về vụ biến mất kia. Tay đó tỏ ra rất đàng hoàng, và bởi vậy chúng tôi đi New Orleans để gặp hắn ta.”

“Tên người đó là gì ?”

“Raul Lauziere, ở phố Loyola.”

“Ông đã gặp chưa ?”

“Rồi.”

“Phía công ty ông còn ai cùng gặp nữa không ?" Stephano đưa mắt nhìn tay luật sư của lão, người lúc này đang rất trầm tư. “Đây là một bí mật nghề nghiệp. Tôi không nên nhắc tới tên của những người cộng sự của tôi.”

“ Ông ấy không bắt buộc phải làm như vậy,” tay luật sư lớn tiếng nói, và vấn đề chấm dứt tại đó.

“Được. Tiếp tục đi.”

“Lauziere tỏ ra nghiêm túc, đúng mực và có thể tin được. Anh ta cũng đã chuẩn bị rất chu đáo. Có vẻ như anh ta biết mọi chuyện về vụ biến mất của Patrick và chỗ tiền kia. Lauziere có một hồ sơ lưu tất cả các bài báo cắt ra và do chính anh ta ghi mục lục tham cứu cẩn thận. Anh ta trao cho chúng tôi một tài liệu bốn trang dày đặc về những gì mà thân chủ của anh ta biết”

“Hãy tóm tắt cái đó. Tôi sẽ đọc sau.”

“Tất nhiên,” Stephano nói, và kể lại theo trí nhớ, “Thân chủ của anh ta là một phụ nữ trẻ có tên là Erin, đang học trường y ở Tulane. Cô ta mới ly hôn, vỡ nợ,... và để kiếm đủ miếng ăn, cô ta làm thêm buổi tối ở một cửa hiệu sách lớn. Vào khoảng thời gian nào đó trong tháng Giêng năm 1992, cô ta để ý tới một người khách loanh quanh ở khu vực sách về du lịch và ngôn ngữ. Tay đó đậm người, mặc complê, râu ria gọn gàng, và có vẻ hơi lo âu. Lúc đó đã gần chín giờ tối, và cửa hàng đã vắng khách. Sau cùng, tay đó chọn một chương trình học ngoại ngữ với mười hai băng cátxét, sách giáo khoa,... tất cả đựng trong một cái hộp bóng láng, và đi ra phía bộ phận thanh toán, nơi Erin làm việc. Đúng lúc đó, một người đàn ông khác bước vào cửa hiệu. Người kia ngay lập tức lùi vào giữa những giá sách và đặt cái hộp kia trở về chỗ cũ. Thế rồi anh ta đi sang phía bên kia, và toan lướt qua người mới vào, một người mà rõ ràng là anh ta biết nhưng không muốn chạm mặt. Thế nhưng không kịp. Người kia ngước mắt nhìn lên, và nói, “Patrick, lâu quá không gặp.” Một câu chuyện ngắn ngủi diễn ra, trong đó hai người đàn ông nói với nhau về nghề luật của họ. Erin vẫn loanh quanh ở khu vực thanh toán và lắng nghe bởi vì cũng chẳng có việc gì khác để làm. Hiển nhiên là cô ta đã hơi quá tò mò một chút và đã quan sát thấy tất cả.

“Tuy vậy, cái người được gọi là Patrick kia sốt ruột muốn đi, nên sau cùng anh ta cũng lựa được đúng lúc và cáo lui một cách nhã nhặn. Ba tối sau, anh ta trở lại, cũng vào khoảng thời gian đó. Erin đang làm công việc đóng gói chứ không phải là ở khu thanh toán. Cô ta nhìn thấy anh ta đi vào, nhận ra, nhớ tới cái tên Patrick, và bèn để mắt đến. Anh ta đã lưu ý tới cô nhân viên ở khu thanh toán, và khi nhận ra đó là người khác thì anh ta đi lòng vòng quanh cửa hiệu cho tới khi dừng lại ở khu vực bày sách về du lịch và ngôn ngữ. Anh ta vẫn chọn những cuốn hôm trước đã chọn, lướt tới quầy thanh toán, trả bằng tiền mặt, và bước ra ngoài rất nhanh. Gần ba trăm đôla. Erin nhìn theo. Anh ta không hề hay biết, hoặc giả nếu có thì cũng không nhận ra.”

“Vậy đó là thứ tiếng gì ?”

"Tất nhiên, đó là câu hỏi lớn. Ba tuần sau đó, Erin nhìn thấy trên báo ảnh chụp nơi Patrick Lanigan bị chết trong một tai nạn xe thảm khốc, và nhận ra hắn. Thế rồi, sáu tuần sau, tin về chỗ tiền bị đánh cắp từ cái hãng cũ của hắn loang ra, vẫn tấm ảnh đó trên báo chí, và Erin lại trông thấy.”

“Cửa hiệu sách đó có các camêra bảo vệ không ?”

“Không. Chúng tôi đã kiểm tra.”

“Vậy đó là thứ tiếng gì ?”

“Lauziere không nói với chúng tôi. Chí ít thì cũng là lúc đầu. Chúng tôi rao giá một trăm nghìn đôla cho những tin tức tin cậy về nơi lẩn trốn của Lanigan. Lẽ đương nhiên là Lauziere và thân chủ của mình muốn đổi cái tên của thứ tiếng kia để lấy tất cả khoản tiền đó. Chúng tôi thương lượng trong ba ngày. Anh ta không lay chuyển. Anh ta chịu để cho chúng tôi thẩm vấn Erin. Chúng tôi đã bỏ ra sáu giờ đồng hồ với cô ta, và mọi khía cạnh trong câu chuyện của cô ta đều được kiểm tra, bởi vậy chúng tôi đồng ý trả một trăm nghìn.”

“Tiếng Bồ Braxin ?”

“Đúng. Phạm vi của cuộc tìm kiếm đột nhiên được thu hẹp lại.”

oOo

Giống như mọi luật sư khác, J.Murray Riddleton đã nhiều lần trải qua hoàn cảnh này, thật không may. Một vụ tưởng chắc ăn đột nhiên trở nên hỏng bét. Chiếc bàn bị xoay ngược lại chỉ trong chớp mắt. Cũng chỉ còn là để đùa giỡn, và với sự thích thú không nhỏ, lão để cho Trudy phùng mang trợn mắt và làm bộ làm tịch một chút trước khi lão hạ nhát rìu xuống.

“Ngoại tình !” Ả kêu lên, với tất cả vẻ phẫn nộ của một cô gái trong trắng bị xúc phạm. Ngay cả Lance cũng hơi giật mình. Gã cầm lấy tay ả.

"Tôi biết, tôi biết,” J. Murray nói, vẫn làm như không. “Gần như vụ ly hôn nào mà chẳng thế. Bao giờ mà chẳng có những chuyện bẩn thỉu này.”

"Tôi sẽ giết hắn,” Lance gằn giọng.

“Chúng ta sẽ nói tới chuyện đó sau,” J. Murray nói.

“Với ai ?” Ả cao giọng hỏi.

“Với anh Lance đây. Họ nói là anh chị đã chung chạ với nhau trước, trong và sau cuộc hôn nhân đó. Trên thực tế, họ nói là chuyện giữa anh chị đã có từ thời ở trung học.”

Thực sự là từ hồi lớp Chín. “Hắn là một thằng ngốc,” Lance nói, mặc dù gã không dám chắc có phải là thế không.

Trudy gật đầu đồng ý với Lance. Lố bịch. Thế rồi ả lo lắng hỏi, “Hắn nói có bằng chứng gì?”

“Cô có phủ nhận điều đó không đã ?” J.Murray hỏi để hoàn thiện cái bẫy.

“Dứt khoát rồi,” ả gắt lên.

"Tất nhiên là thế,” Lance thêm vào. “ Ở hắn toàn là những điều dối trá.”

J. Murray thò tay vào trong ngăn kéo và rút ra một trong những báo cáo mà Sandy đã đưa cho lão. “Có vẻ như Patrick đã nghi ngờ từ lâu. Anh ta đã thuê các thám tử rình mò. Đây là một trong số báo cáo của họ.”

Trudy và Lance đưa mắt nhìn nhau trong một giây, và nhận ra rằng họ đã sa bẫy. Đột nhiên, khó mà có thể phủ nhận một mối quan hệ đã có từ hơn hai mươi năm qua. Cả hai đã cùng thiển cận và tự mãn. Thì đã sao ? Có gì là quan trọng.

"Tôi sẽ chỉ tóm lược thôi,” J.Murray nói, rồi điểm lại những ngày tháng, nơi chốn, số lần. Họ không xấu hổ với những chuyện của họ, nhưng thật khó chịu khi biết rằng tất cả đều đã được đưa vào hồ sơ đầy đủ đến thế.

“Vẫn phủ nhận chứ hả ?” J.Murray hỏi sau khi lão ngừng lời.

“Bất kỳ ai cũng có thể viết ra những thứ đó,” Lance nói. Trudy im lặng.

J. Murray lôi ra một báo cáo khác, đề cập tới khoảng thời gian bảy tháng trưóc khi Patrick biến mất. Ngày tháng, số lần, nơi chốn. Patrick đi khỏi thành phố, rồi thì Lance mò tới. Lần nào cũng như lần nào.

“Các thám tử này có thể làm chứng trước tòa không?” Lance hỏi sau khi J. Murray tóm lược xong.

“Chúng ta sẽ không ra tòa,” J. Murray nói.

“Sao lại không ?” Trudy hỏi.

“Bởi vì những thứ này.” J .Murray quăng ra trên bàn những tấm ảnh màu khổ 18/24. Trudy chộp lấy một tấm và há mồm khi nhìn thấy chính mình đang nằm ườn bên bể bơi, trần truồng, với gã nhân tình ở bên cạnh. Lance cũng choáng, nhưng vẫn gượng được một nụ cười thoáng qua. Gã có phần thích những tấm ảnh.

Họ xem đi xem lại chúng, không nói một lời. J.Murray thưởng thức cái giây phút này trong chốc lát, rồi nói, “Hai người đã quá cẩu thả.”

“Không phải dậy khôn bọn này,” Lance nói.

Trudy bắt đầu khóc. Nước mắt lưng tròng, cặp môi run rẩy, mũi đỏ lên và nức nở. J.Murray đã nhìn thấy cả nghìn lần. Họ luôn luôn khóc, không phải vì những gì họ đã làm mà là vì cái giá phải trả cho những tội lỗi của họ.

“Hắn sẽ không được động đến con gái tôi,” ả giận dữ nói qua làn nước mắt. Ả không còn kiềm chế được, và họ đã phải nghe một tràng chửi rủa. Lance, vẫn luôn cảnh giác, vuốt ve ả và cố an ủi.

"Tôi xin lỗi,” sau cùng ả nói, và đưa tay lau nước mắt.

"Bình tĩnh,” J. Murray nói, không hề có chút đồng cảm nào. “Anh ta không đòi đứa trẻ đâu.”

"Sao lại không ?” Ả hỏi, mắt ráo hoảnh.

“Anh ta không phải là cha đẻ của nó.”

Họ nhíu mày nhăn trán, cố hình dung ra chuyện gì.

J. Murray lấy ra một báo cáo nữa. “Anh ta đã lấy một mẫu máu từ đứa trẻ khi nó được mười bốn tháng tuổi và đưa đi làm xét nghiệm ADN. Anh ta không thể nào là cha đẻ của nó.”

“Vậy ai...” Lance toan hỏi, nhưng không còn biết phải hỏi gì.

"Điều đó tùy thuộc vào việc còn có ai khác nữa không,” J. Murray đỡ lời.

“Không còn có ai khác nữa,” ả giận dữ nói.

"Trừ tôi,” Lance thú nhận, và từ từ nhắm mắt lại. Trách nhiệm làm cha đột nhiên đè nặng lên đôi vai gã. Lance không ưa trẻ con. Hắn chấp nhận Ashley Nicole chỉ vì con bé là con của Trudy.

“Xin chúc mừng,” J. Murray nói. Lão thò tay vào ngăn kéo, lấy ra một điếu xìgà loại rẻ tiền và quăng cho Lance. “Một đứa con gái,” lão nói và cười to.

Trudy lặng người, còn Lance thì mân mê điếu xìgà. Khi J. Murray dứt tiếng cười của lão, Trudy hỏi, “Vậy tình thế của chúng ta giờ thế nào ?”

“Đơn giản thôi. Cô từ bỏ mọi đòi hỏi đối với tài sản của anh ta, cho dù tài sản đó là thế nào, và anh ta chấp nhận để cô ly hôn, giữ đứa trẻ và mọi thứ khác mà cô muốn.”

“Tài sản của hắn là bao nhiêu ?" Ả hỏi.

“Ngay lúc này thì luật sư của anh ta cũng không biết chắc. Có thể là chúng ta sẽ không bao giờ biết. Anh ta đang chờ một bản án tử hình, và chỗ tiền đó có thể bị chôn vùi mãi mãi.”

“Nhưng tôi sẽ mất tất cả,” ả quát lên. “Hãy xem hắn đã đối xử với tôi thế nào. Tôi được hai triệu rưỡi khi hắn chết, bây giờ cái hãng bảo hiểm kia đang sẵn sàng làm cho tôi phá sản đấy.”

“Cô ấy xứng đáng được hưởng một đống tiền,” Lance chen vào.

“Tôi có thể kiện hắn về nỗi đau đớn tinh thần, hay sự lừa đảo, hay chuyện gì tương tự không ?" Ả cố níu kéo.

“Không. Nghe này, chuyện rất đơn giản. Cô được ly hôn và được đứa trẻ, và Patrick giữ khoản tiền trời ơi kia. Và tất cả sẽ được giữ im lặng. Bằng không, anh ta sẽ ném tất cả những thứ này cho báo chí.” J.Murray vừa nói vừa đập đập tay lên những tập báo cáo và những tấm ảnh. “Và cô sẽ bị làm nhục. Cô vừa mới bôi nhọ anh ta trên truyền hình; anh ta cũng đang nóng lòng đáp lại đấy.”

“Tôi phải ký vào đâu ?” Ả hỏi.

J.Murray rót vốtca cho tất cả, và rồi lại nhanh chóng thêm cho mình một ly nữa. Sau cùng, lão mới đề cập tới những tin đồn về chuyện Lance đang tìm kiếm một kẻ đâm thuê chém mướn. Rất nhanh chóng, những lời bác bỏ được đưa ra một cách giận dữ, và J.Murray thừa nhận rằng lão thực sự cũng không tin vào những trò rác rưởi đó vì đang có biết bao nhiêu tin đồn lúc này lúc khác cứ ầm lên ở cái vùng bờ biển này.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 22


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Họ bắt đầu bám theo Sandy McDermott khi anh rời khỏi New Orleans lúc tám giờ sáng và chạy theo xa lộ 10, một tuyến đường Liên bang. Anh bị bám sát cho đến khi mật độ giao thông đã giảm xuống nơi gần Hồ Pontchartrain. Họ gọi điện về phía trước và báo nhau biết Sandy đang trên đường đến Biloxi. Bám theo anh là chuyện dễ dàng, còn nghe trộm lại là chuyện khác. Guy đã có sẵn những con rệp cho văn phòng của Sandy, cho các máy điện thoại ở nhà, thậm chí là cho cả chiếc xe của anh nữa, nhưng quyết định cài đặt chúng thì lại chưa được đưa ra. Sự mạo hiểm là đáng kể. Aricia đặc biệt thận trọng. Ông ta đã lập luận với Stephano và Guy rằng Sandy hoàn toàn có thể đã tính tới việc này, và sẽ tống cho họ đủ những thông tin vô bổ, thậm chí còn có hại nữa. Thân chủ của Sandy đã tỏ ra rất sành sỏi với những trò này và đó là điều phải tính đến.

Sandy không mấy nhìn trước ngó sau. Đơn giản là khi đang lái xe trên đường và trong lúc tránh va chạm thì như thường lệ, đầu óc của anh còn đang ở mãi tận đẩu tận đâu.

Xét từ góc độ chiến lược, mọi chuyện đối với Lanigan đang đâu vào đấy. Các vụ kiện dân sự do Monarch-Sierra, hãng luật, và Aricia khởi kiện còn phải chờ hàng đống các vụ kiện tụng khác. Phải mất hàng tháng nữa Sandy mới đưa ra những phản ứng chính thức. Việc lấy cung trước tòa còn chưa thể nào bắt đầu trong vòng ba tháng tới và sẽ phải kéo dài cả năm. Chí ít thì cũng phải hai năm nữa mới có thể bắt đầu các phiên xét xử. Cũng tương tự như vậy đối với vụ kiện của Patrick chống lại FBI; một ngày nào đó nó sẽ được bổ sung để lôi vào đó cả Stephano và cái tổ hợp của lão ta. Đó sẽ là một vụ hay, nhưng Sandy sợ rằng mình sẽ không có được cơ hội để biện hộ cho Patrick trong vụ đó.

Vụ ly hôn đã được dàn xếp xong xuôi.

Cái vụ cố sát kia, trung tâm của mọi sự chú ý, lại là một vấn đề khác. Vụ này rõ ràng là nghiêm trọng nhất đối với Patrick và cũng sẽ diễn ra với tốc độ nhanh nhất. Theo luật, tòa án bang buộc phải xét xử Patrick trong vòng hai trăm bảy mươi ngày kể từ khi có cáo trạng của hội thẩm đoàn, và thời gian đã bắt đầu đang được đếm.

Trong suy nghĩ của Sandy, việc kết án dựa trên các chứng cứ sẽ là khó khăn. Trong lúc này, những yếu tố chứng cứ cơ bản đều thiếu - chẳng hạn như việc nhận dạng nạn nhân, việc người đó chết như thế nào, và tính chắc chắn của việc khẳng định rằng Patrick đã giết người đó. Đó là một vụ án với những chi tiết mỏng manh nhất. Và người ta sẽ dùng nhiều tới những giả định.

Tuy nhiên, một sự kết án dựa trên tình cảm của công chúng lại là điều có thể nhìn thấy trước. Cho tới lúc này, tại Biloxi, trong vòng bán kính một trăm dặm, ai ai cũng đã biết hầu hết các chi tiết, và không thể tìm thấy một người bình thường nào lại không nghĩ rằng Patrick đã giết chết ai đó để giả mạo cái chết của hắn nhằm dễ bề ẩn náu và đánh cắp chín mươi triệu đôla kia. Patrick cũng có vài người hâm mộ, những người cũng mơ tới một cuộc sống mới, với một cái tên mới, và cả đống tiền kia. Thế nhưng họ sẽ không có mặt trong hội thẩm đoàn của vụ án. Có vẻ như hầu hết mọi người, qua sự thăm dò dư luận không chính thức tại các quán cà phê và trong những câu chuyện gia đình, đều cảm thấy là hắn đã phạm tội và phải bị bỏ tù. Song rất ít ngưòi tán đồng án tử hình. Đó là án dành cho những kẻ cưỡng dâm và những kẻ giết cảnh sát.

Nhưng vào lúc này, việc cấp bách nhất là giữ mạng sống cho Patrick. Hồ sơ về Lance, do cô nàng Leah kiều diễm kia trao tận tay anh đêm qua tại một phòng khách sạn khác, đề cập tới một gã đàn ông đơn giản, nóng tính, và thích trò trả thù. Gã ưa súng đạn, và đã có lần bị một Hội thẩm đoàn Liên bang truy tố về tội buôn lậu súng thông qua một tiệm cầm đồ. Nhưng cáo trạng này về sau đã bị bác đi. Ngoài cái án tù ba năm về tội buôn lậu ma túy, hắn đã từng bị phạt giam sáu mươi ngày vì tham gia vào một trận ẩu đả trong một quán rượu ở Gulfport, mặc dù là được treo lại do nhà tù quá chật. Ngoài ra hắn cũng còn hai lần bị bắt giữ khác nữa.

Lance đã có thể là người mẫu. Dáng gã dong dỏng và đẹp trai, rất được các bà các cô ngưỡng mộ. Gã biết cách ăn mặc và nói những chuyện khôi hài bên ly rượu. Thế nhưng, sự lịch thiệp của hắn chỉ mang tính tạm thời. Đầu óc hắn luôn để nơi đầu đường xó chợ, nơi hắn giao du với bọn cho vay nặng lãi, bọn cá cược chuyên nghiệp, bọn tàng trữ của ăn cắp và bọn buôn lậu ma túy — những kẻ bảnh bao trong giới tội phạm ở địa phương. Đó là bạn bè của gã, cùng lớn lên trong một khu vực. Patrick cũng đã tìm ra được bọn này và hồ sơ về chúng bao gồm không dưới một chục trang tiểu sử, kèm theo hồ sơ hình sự.

Ban đầu, Sandy ngờ rằng Patrick mắc chứng hoang tưởng. Giờ đây thì anh đã tin. Mặc dù không mấy biết về thế giới ngầm nhưng công việc đôi khi cũng buộc Sandy phải tiếp xúc với đám tội phạm. Anh đã nhiều lần nghe rằng nếu bỏ ra năm nghìn đôla, người ta có thể giết bất kỳ ai. Thậm chí có lẽ là ít hơn thế ở dọc cái vùng bờ biển này.

Chắc chắn là Lance phải có hơn năm nghìn đôla. Và gã hoàn toàn có động cơ để thủ tiêu Patrick. Cái hợp đồng bảo hiểm đã làm cho Trudy trở nên giàu có kia không loại trừ một nguyên nhân chết đặc biệt nào, ngoại trừ tự sát. Một viên đạn vào đầu cũng được đối xử như một vụ đâm xe, một cơn đau tim, hay bất kỳ nguyên nhân nào khác. Chết là chết.

Vùng bờ biển này không phải là sân nhà của Sandy. Anh không biết cảnh sát trưởng và đám tay chân của ông ta, không biết các thẩm phán và những thói quen của họ, không biết các thành viên khác trong hội luật sư. Sandy ngờ rằng đó chính là lý do để Patrick chọn anh.

Sweeney đã không mấy dễ chịu trên điện thoại. Ông ta nói là rất bận và ngoài ra, việc gặp gỡ các luật sư, với ông ta, thường chỉ là lãng phí thời giờ. Ông ta có thể dành ra ít phút, bắt đầu lúc chín giờ ba mươi và không chấp nhận trường hợp khẩn cấp nào. Sandy đến sớm, và tự rót cho mình cà phê từ cái bình để bên vòi nước lạnh. Đám cảnh sát cũng đang túm năm tụm ba. Căn phòng tạm giam nằm ở phía trong cùng. Sweeney nhìn thấy Sandy bên lối vào trong phòng làm việc của ông ta, một căn phòng đơn sơ với mấy thứ đồ đạc rẻ tiền của chính phủ và vài ba tấm ảnh đã ngả màu của các nhà chính trị tươi cười treo trên tường.

“Ngồi đi,” Sweeney đáp, tay chỉ một cái ghế ọp ẹp.

“Tôi ghi lại được chứ ?” Sweeney hỏi, tay bấm nút một chiếc máy ghi âm to tướng đặt ở giữa bàn. “Tôi thường ghi lại mọi thứ,” ông ta nói.

“Được thôi,” Sandy nói như thể còn có một lựa chọn nào khác. “Cảm ơn về việc ông chịu tiếp tôi.”

“Không có gì,” Sweeney đáp. Ông ta vẫn không hề cười hay có bất cứ cử chỉ gì khác ngoài cái ấn tượng cho thấy mình đang bị quấy rầy. Ông ta đốt thuốc và làm một ngụm cà phê nóng bỏng từ một cái cốc giấy.

"Tôi sẽ vào thẳng vấn đề,” Sandy nói tỉnh khô. “Văn phòng của tôi nhận được tin báo rằng tính mạng của Patrick đang bị nguy hiểm.” Sandy không ưa gì chuyện nói dối, thế nhưng anh không có mấy lựa chọn trong hoàn cảnh này. Đây là điều mà thân chủ của anh muốn.

“Vì sao lại có ai đó báo cho văn phòng của ông biết là tính mạng của Patrick có thể bị nguy hiểm ?” Sweeney hỏi.

"Tôi có các thám tử làm việc về vụ này. Họ biết rất nhiều người. Có những lời xầm xì, và một trong số các thám tử của tôi lần theo. Chuyện thường diễn ra như vậy mà.”

Sweeney không tỏ ra tin cũng không tỏ ra không. Ông ta rít thuốc và nghĩ ngợi. Trong tuần lễ qua, ông ta đã nghe đủ những thứ tin đồn mà người ta có thể tưởng tượng được về cuộc phiêu lưu của Patrick Lanigan. Người ta không còn nói về một chuyện nào khác nữa. Tin về kẻ đâm thuê chém mướn này cũng nằm trong số đó mà thôi. Sweeney cho rằng mạng lưới của ông ta tốt hơn mạng luới của tay luật sư đang ngồi trước mặt, nhất lại là một luật sư tới từ New Orleans, bởi vậy ông ta sẽ cứ để cho anh ta nói. “Có đốỉ tượng tình nghi nào không?”

“Có. Tên hắn là Lance Maxa; tôi chắc là ông có biết hắn.”

“Chúng tôi biết.”

“Hắn đã thế vào chỗ của Patrick không bao lâu sau đám tang kia.”

“Sẽ có người nói rằng chính Patrick chiếm chỗ của tay kia đấy,” Sweeney nói, với nụ cười đầu tiên. Sandy thật sự đang ở một sân chơi lạ. Viên cảnh sát trưởng này biết nhiều hơn anh.

“Vậy thì tôi cho là ông biết tất cả về Lance và Trudy,” Sandy nói, hơi lo ngại.

“Đúng vậy. Chúng tôi nắm rõ tình hình ở đây.”

“Tôi chắc là thế. Dù sao chăng nữa, Lance, như ông biết, là một thứ rác rưởi, và người của tôi biết tin là gã đang tìm kiếm một kẻ giết thuê.”

“Gã trả giá bao nhiêu ?" Sweeney hỏi với vẻ hoài nghi.

“Không rõ. Nhưng gã có tiền, và có động cơ.”

"Tôi đã nghe chuyện này.”

"Tốt quá. Ông dự định làm gì ?”

“Về chuyện gì mới được chứ ?”

“Về việc giữ cho thân chủ tôi được an toàn.”

Sweeney hít sâu một hơi và quyết định kín tiếng. Ông ta cố kiềm chế tính nóng nảy của mình. “Hắn đang ở trong một căn cứ quân sự, trong một phòng bệnh viện, với các nhân viên của tôi gác ngoài cửa và các nhân viên FBI ở trong hành lang. Tôi không biết là ông còn muốn gì nữa.”

“Nào, thưa ông cảnh sát trưởng, tôi không định bảo ông phải làm công việc của mình thế nào đâu.”

"Thật thế ư ?”

“Thật vậy. Tôi xin cam đoan. Nhưng xin hãy cố hiểu rằng thân chủ của tôi lúc này là một con người đang rất sợ hãi. Tôi tới đây thay mặt cho anh ta. Patrick đã bị săn lùng trong hơn bốn năm trời. Nay đã bị bắt. Anh ta nghe thấy những tiếng nói mà chúng ta không nghe thấy. Anh ta nhìn thấy những bóng người mà chúng ta không nhìn thấy. Anh ta tin rằng người ta vẫn đang toan tính giết anh ta, và anh ta trông chờ sự bảo vệ của tôi”.

“Hắn đang an toàn.”

“Hiện nay thì là vậy. Nhưng nếu như ông nói chuyện với Lance, tra hỏi gã và nói với gã về những tin đồn này thì cũng có sao đâu. Nếu gã biết là ông đã để mắt đến thì có họa là tự sát mới toan tính một chuyện gì đó.”

“Lance là kẻ ngu ngốc.”

“Có thể, nhưng Trudy thì không. Nếu như ả nghĩ rằng mình có thể bị tóm, thì ả sẽ giật dây để Lance lùi về chỗ cũ.”

“Thì ả vẫn giật dây gã suốt.”

“Chính xác. Song ả sẽ không muốn mạo hiểm.”

Sweeney đốt một điếu thuốc nữa, và liếc mắt nhìn đồng hồ. “Còn gì nữa không ?” Ông ta hỏi, đột nhiên có vẻ sốt ruột muốn đi. Ông ta là một cảnh sát truởng chứ không phải người ngồi cạo giấy.

“Chỉ một điều thôi. Và một lần nữa, tôi không có ý xía vào công việc của ông. Patrick rất kính trọng ông. Thế nhưng, anh ta nghĩ là mình sẽ được an toàn hơn nhiều với nơi đang ở này.”

“Thật đáng ngạc nhiên.”

“Nhà giam có thể sẽ rất nguy hiểm cho anh ta.”

“Hắn nên nghĩ tới chuyện đó trước khi giết người.”

Sandy lờ đi, và nói, “Anh ta sẽ dễ dàng được bảo vệ hơn nếu ở tại bệnh viện."

“Ông đã tới nhà giam của tôi bao giờ chưa đây ?"

“Chưa.”

“Vậy thì đừng có dạy dỗ tôi về việc ở đó an toàn hay không nhé. Tôi đã làm công việc này lâu rồi, hiểu chứ hả ?"

"Tôi có dạy dỗ gì đâu.”

“Lại còn không cái chết tiệt. Ông có năm phút. Còn gì nữa không ?"

“Không”

“Tốt.” Sweeney đứng bật dậy và rời khỏi phòng.

oOo

Thẩm phán Karl Huskey đến căn cứ không quân Keesler vào lúc chiều muộn, từ tốn đi qua các trạm kiểm soát an ninh để tới bệnh viện. Ông đang ở giữa chừng một vụ xét xử về ma túy kéo dài một tuần, và đang mệt mỏi. Patrick đã gọi điện đề nghị ông ghé qua, nếu có thể được.

Bản thân cũng là một ngưòi hộ tang bên quan tài, ông đã ngồi cạnh Sandy McDermott trong tang lễ của Patrick. Tuy nhiên, khác với Sandy, Huskey là bạn gần đây của Patrick. Hai nguời đã gặp nhau trong một vụ kiện dân sự mà Patrick nhận không bao lâu sau khi hắn chuyển đến Biloxi. Họ đã trở thành chỗ thân tình, theo lối các luật sư và các thẩm phán thường có khi mà tuần nào cũng gặp nhau. Họ đã chuyện trò trong những bữa ăn đơn giản tại các bữa trưa hàng tháng của hội luật gia và có lần đã cùng quá chén trong một bữa tiệc Giáng sinh. Họ chơi gôn với nhau hai lần một năm.

Đó là một mối quan hệ quen biết thân tình, nhưng không phải là một mối quan hệ bạn bè gần gũi, ít ra là trong ba năm đầu của Patrick ở Biloxi. Nhưng họ đã trở nên gần gũi hơn trong những tháng trước khi hắn biến mất. Tuy vậy, khi việc đã xảy ra rồi thì cũng dễ nhìn lại để thấy một thay đổi ở Patrick.

Trong những tháng sau khi Patrick biến mất, những người trong giới tòa án biết hắn nhiều nhất, trong đó có Karl, thường tụ tập ngồi uống trong cái bar ở tầng duới của tiệm Mary Mahoney vào các chiều thứ sáu và trao đổi về vụ của hắn.

Trudy có phần đáng trách, dù rằng, theo ý Karl, thì chị ta không đáng là một mục tiêu, về bề ngoài, cuộc hôn nhân này không tỏ ra tồi tệ đến thế. Hiển nhiên là Patrick không hề nói chuyện đó với ai, ít nhất là trong số những người ngồi uống ở tiệm Mary Mahoney. Những hành động của Trudy sau đám tang, đặc biệt là chuyện chiếc Rolls màu đỏ, chuyện đưa trai về nhà và thái độ vênh váo của ả ta ngay sau khi có được khoản tiền bảo hiểm, đã làm cho mọi người khó chịu và không thể nào còn khách quan được nữa. Không ai dám chắc rằng ả đã ngủ lang trước khi Patrick biến đi. Trên thực tế, Buster Gillespie, thư ký tòa, và là nguời thường xuyên có mặt trong các cuộc trao đổi này, còn tỏ ra mến mộ Trudy. Ả đã có lần cùng với vợ Gillespie hoạt động trong một buổi quyên góp từ thiện gì đó, và anh ta luôn luôn cảm thấy muốn nói một điều tốt đẹp gì đó về ả. Nhưng có lẽ anh ta là người duy nhất muốn làm việc đó.

Sức ép công việc chắc chắn là một nhân tố trong việc đẩy Patrick tới bên bờ vực. Hãng luật của hắn ngày đó tiếng tăm như cồn, và hắn rất muốn trở thành một cổ đông. Hắn làm việc nhiều giờ, và nhận những vụ khó khăn mà các cộng sự của hắn muốn từ chối. Ngay cả việc Ashley Nicole chào đời cũng không giữ được hắn ở nhà. Ba năm sau khi vào hãng với tư cách một cộng sự, hắn đã trở thành một cổ đông, thế nhưng ít người bên ngoài biết được điều đó. Hắn đã khoe với Karl sau một phiên tòa, thế nhưng đâu phải là Patrick không biết nói khoác một chút.

Trông hắn mệt mỏi và trầm uất, nhưng mà hầu hết các luật sư đã bước vào phòng xử án của Karl thì cũng đều như vậy. Song thay đổi kỳ cục nhất ở Patrick là về mặt hình thể. Hắn cao hơn một mét tám, và hắn nói hắn chưa bao giờ gầy cả. Hắn nói hắn là một tay ưa chạy hồi ở trường luật, và có thời đã chạy tới bốn mươi dặm một tuần. Thế nhưng, với một luật sư bận rộn thì ai mà có thời giờ ? Cân nặng của hắn nhích lên, và rồi tăng vọt trong năm cuối cùng ở Biloxi. Hắn làm như không nghe thấy những lời đùa cợt và những nhận xét trong cái đám đông ở tòa án. Karl đã hơn một lần la hắn về chuyện đó, nhưng hắn vẫn cứ ăn. Một tháng trước khi biến mất, hắn nói với Karl trong một bữa trưa rằng hắn cân nặng hơn một tạ và Trudy đang làm ầm ĩ cả lên. Ả ta, trái lại, tập thể dục nhịp điệu hai giờ một ngày theo Jane Fonda và thanh tú như một người mẫu.

Hắn nói là huyết áp của hắn đang lên, và hắn hứa là sẽ thực hiện một chế độ ăn kiêng. Karl đã khuyến khích việc này. Về sau thì ông biết rằng huyết áp của Patrick hoàn toàn bình thường. Giờ đây, khi họ nghĩ lại thì cái việc lên cân kia, rồi lại giảm cân rất nhanh, hoàn toàn có ý nghĩa.

Cả bộ râu nữa. Hắn bắt đầu để râu vào khoảng tháng Mười một năm 1990, nói rằng cho hợp với những cuộc đi săn hươu. Việc để râu đó không có gì là khác thường ở những người nho nhã và giới luật sư vùng Mississippi. Khí hậu mát mẻ. Kích thích tố sinh dục nam tăng. Đó là một chuyện bình thường ở đàn ông. Hắn không cạo râu và Trudy cũng không hài lòng về điều đó. Hắn càng để dài, bộ râu càng lốm đốm bạc nhiều hơn. Bạn bè của hắn rồi cũng quen đi. Nhưng Trudy thì không. Hắn cũng để tóc dài hơn một chút, phía trên và hai bên tai rậm hơn. Karl gọi đó là kiểu Jimmy Carter hồi năm 1976. Patrick thì nói hắn không còn người chuyên chăm lo mớ tóc cho hắn và không thể nào tìm được một người khác mà hắn tin cậy.

Hắn ăn mặc đẹp và hoàn toàn chấp nhận cái trọng lượng của hắn, thế nhưng hắn còn quá trẻ để buông xuôi như vậy.

Ba tháng trước khi rời khỏi Biloxi, Patrick đã thành công trong việc thuyết phục các cổ đông trong Hãng của hắn rằng Hãng cần một cuốn quảng cáo của chính mình. Đó là một đề án nhỏ, thế nhưng hắn lại rất sốt sắng. Mặc dù Patrick không phải là người có trách nhiệm phải biết nhưng Hãng đã đang tiến tới rất gần việc dàn xếp xong vụ Aricia, và gần như đã có thể nhìn thấy tiền. Người ta đang hào hứng. Một Hãng làm ăn rất nghiêm túc sắp trở thành một Hãng rất giàu có, vậy thì tại sao lại không gây ấn tượng với một cuốn quảng cáo cho ra trò. Cũng là một cách để khôi hài với Patrick. Lần lượt năm cổ đông ngồi xuống trước một tay thợ ảnh chuyên nghiệp, rồi mới dành một giờ cho việc chụp chung. Patrick cho in năm nghìn cuốn và được các cổ đông kia đánh giá cao. Trong cuốn quảng cáo đó, hắn ở trang hai, to béo, để râu, tóc rậm, và trông không hề giống chút nào với anh chàng Patrick mà người ta tìm thấy ở Braxin.

Tấm ảnh này đã được báo chí sử dụng khi đưa tin về cái chết của hắn. Đó là tấm ảnh được chụp mới nhất, và cũng tình cờ, Patrick đã gửi một cuốn quảng cáo này tới cho tờ báo địa phương, ngừa trường hợp Hãng quyết định tiến hành một đợt quảng cáo. Họ đã cười phá lên về chuyện này trong khi ngồi uống với nhau ở Mary Mahoney. Họ vẫn nhớ cảnh Patrick sắp xếp phiên chụp ảnh trong phòng họp của Hãng hôm đó. Họ còn có thể thấy Bogan, Vitrano, Rapley và Havarac, trong những bộ complê màu nước biển sẫm với những nụ cười nghiêm nghị, và ngay chính khi đó thì Patrick đang chuẩn bị cho cuộc đào thoát của hắn.

Trong những tháng sau khi hắn biến đi, nhóm ngồi uống ở Mary Mahoney đã nhiều lần nâng cốc vì Patrick và chơi cái trò đoán xem “Hắn có thể đang ở đâu ?" Họ chúc hắn khỏe và nghĩ về chỗ tiền của hắn. Thời gian trôi đi và cơn choáng về sự biến mất của hắn cũng nhạt dần. Đã có dạo họ nói tới từng chi tiết trong cuộc sống của hắn, nhưng những buổi trò chuyện như thế thưa dần và sau cùng thì chấm dứt. Năm tháng trôi qua. Sẽ không bao giờ tìm được Patrick cả.

Karl vẫn thấy khó lòng mà tin được. Ông bước vào thang máy và một mình đi lên tầng ba.

Ông thầm nghĩ không biết đã bao giờ, từ trước tới nay, mình dứt hẳn được chuyện về Patrick chưa. Quá nhiều những điều bí ẩn. Một ngày buồn bực nào đó tại tòa, thế là ông lại hình dung tới Patrick, trên một bãi biển đầy nắng, đọc một cuốn tiểu thuyết, uống một chút gì đó và ngắm nghía các cô gái. Một năm nữa không được tăng lương, và ông lại nghĩ tới chuyện có thể tiêu chín mươi triệu đôla kia vào những việc gì. Khi có những tin đồn mới nhất về sự suy sụp của Hãng Bogan, ông lại trách cứ Patrick về nỗi khốn khổ mà hắn đã gây ra. Đúng vậy, sự thật là Karl đã nghĩ tới Patrick vì lý do này hay lý do khác ít nhất là mỗi ngày một lần, không ngày nào không, suốt từ ngày hắn ra đi.

Không có cô y tá hay bệnh nhân nào khác trong hành lang. Hai viên cảnh sát đứng dậy. Một người nói, “Xin chào ông Thẩm phán.” Ông chào lại họ và bước vào căn phòng tối kia.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 23


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Patrick đang ngồi trên giường xem bộ phim Hoàn cảnh hiểm nghèo, áo không mặc, và những tấm rèm cửa được kéo kín. Ngọn đèn bàn tỏa chút ánh sáng mờ nhạt. “Mời ngồi đây,” hắn nói với Karl, tay chỉ về phía cuối giường. Hắn đợi một lát đủ để Karl nhìn rõ những vết sẹo trên ngực, rồi nhanh chóng choàng lên người cái áo phông. Mảnh chăn mỏng che kín lên tới ngang hông hắn.

“Cảm ơn ông đã tới”. Hắn tắt TV, và căn phòng trở nên tối hơn.

“Những vết bỏng rùng rợn quá, Patrick,” Karl nói trong khi ngồi xuống mép giường, tít tận về phía cuối, chân phải buông thõng. Patrick co hai đầu gối lên sát ngực. Qua tấm chăn vẫn có thể thấy rõ là hắn rất gầy.

“Trông kinh lắm,” hắn nói, hai tay quàng chặt qua đầu gối. “Bác sĩ nói chúng đang lành lại. Nhưng tôi cần phải được ở đây một thời gian.”

“Tôi sẽ không gặp rắc rối gì về chuyện đó, Patrick. Không có ai đòi phải đưa anh tới trại tạm giam cả.”

“Giờ thì chưa. Nhưng tôi chắc sắp bắt đầu có sức ép đấy.”

“Cứ yên tâm, Patrick. Tôi là người quyết định việc đó.”

Hắn có vẻ nhẹ nhõm. “Cảm ơn Karl. Ông biết là tôi không thể nào còn sống nổi ở trong đó. Ông đã thấy rồi đấy.”

“Vậy Parchman thì sao ? Nơi đó còn tệ hơn cả trăm lần ấy chứ.”

Một phút im lặng kéo dài trong khi Karl thầm ước giá có thể rút lại những lời đó. Đó là một câu nói buột miệng, và tàn nhẫn. “Tôi xin lỗi,” ông nói. “Thật là không đâu vào đâu.”

"Tôi sẽ tự sát trước khi phải đi tới Parchman.”

“Đúng là thế thật. Chúng ta hãy nói về chuyện gì dễ chịu một chút.”

“ Ông không thể xử vụ này phải không, Karl ?”

“Không. Dĩ nhiên là không. Tôi sẽ phải chính thức khước từ."

“Khi nào ?"

“Sắp thôi.”

“Ai sẽ nhận ?"

“Hoặc là Trussel hoặc là Lanks, có khả năng là Trussel." Karl vừa nói vừa chăm chú nhìn hắn. Patrick dường như không muốn nhìn thẳng vào mắt Karl. Có vẻ do dự gì đó trong đôi mắt hắn. “Nào thôi, Patrick," ông những muốn giục. “Nói nghe xem nào. Hãy kể lại toàn bộ câu chuyện đi.”

Thế nhưng ánh mắt hắn vẫn xa xăm. Không còn là Patrick nữa.

Karl thấy buộc phải bắt chuyện. “Anh lấy đâu ra cái cằm đó ?"

“Làm ở Rio.”

“Còn cái mũi ?"

“Cũng ở đó, làm cùng lúc. Ông thấy có được không ”

“Trông đẹp đấy.”

“Tại Rio, họ có những cơ sở phẫu thuật chỉnh hình chỉ nhoáng cái là xong.”

"Tôi còn nghe về những bãi biển.”

“Những bãi biển đẹp không thể tưởng.”

“Anh có gặp cô gái nào ở đó không ?"

“Môt vài cô.”

Tình dục không phải là một đề tài mà Patrick ưa đề cập tới. Hắn thích được nhìn ngắm lâu một phụ nữ hấp dẫn, nhưng, theo chỗ Karl biết, hắn đã trung thành với Trudy trong suốt cả cuộc hôn nhân của họ. Có một lần, trong một cuộc đi săn hươu, họ đã trao đổi với nhau những nhận xét về các bà vợ. Patrick đã thú nhận rằng thật khó lòng mà thỏa mãn được Trudy.

Một thoáng im lặng, và Karl nhận ra rằng Patrick không vội nói. Phút thứ nhất trôi qua trong im lặng, rồi một phút thứ hai kéo dài. Karl vui lòng đến thăm, thậm chí vui mừng được nhìn thấy bạn, thế nhưng thời gian mà ông có thể ngồi trong căn phòng tối này và nhìn bốn bức tường thì lại có giới hạn.

“Này, Patrick, tôi sẽ không xử vụ của anh, bởi vậy tôi không đến đây với tư cách thẩm phán. Tôi cũng không phải là luật sư của anh. Tôi là bạn. Anh có thể nói chuyện với tôi.”

Patrick với tay lấy một hộp nước cam nhỏ có ống hút kèm theo. “Ông có muốn uống một chút không ?"

“Không.”

Hắn uống một ngụm nhỏ, và để cái hộp trở lại chỗ cũ. "Tôi nghĩ rằng câu chuyện có vẻ lãng mạn quá phải không ? Giấc mơ về sự dễ dàng biến mất vào trong màn đêm và khi mặt trời mọc đã là một người khác. Tất cả những rắc rối được bỏ lại đằng sau - công việc vất vả, nỗi đau bởi cuộc hôn nhân tồi tệ, sức ép của việc phải trở nên giàu có hơn. Ông cũng có giấc mơ như vậy phải không, Karl ?"

"Tôi nghĩ rằng có một lúc nào đó ai cũng nghĩ như vậy. Anh đã tính toán vụ này trong bao lâu ?"

“Từ rất lâu. Khi biết con bé không phải con mình, tôi đã quyết định ...”

“Nói lại xem nào.”

"Thật đấy, Karl. Tôi không phải là cha nó. Trudy đã ngủ lang trong suốt cuộc hôn nhân của chúng tôi. Tôi yêu quý con bé đến hết mức có thể, nhưng tôi đau khổ. Tôi đã thu thập các bằng chứng và tự hứa với mình là sẽ mang ra nói chuyện với Trudy, nhưng rồi cứ lần lữa mãi. Trớ trêu làm sao, phần nào tôi lại đã quen với cái ý nghĩ là cô ấy có một tình nhân. Tôi dự định ra đi, nhưng không biết phải làm sao. Bởi vậy tôi đọc một vài cuốn sách về việc làm thế nào để thay đổi nhân dạng và làm những giấy tờ tùy thân mới. Cũng không quá phức tạp. Chỉ cần suy nghĩ và tính toán một chút.”

“Vậy nên anh đã để râu và tăng lên hơn hai chục cân.”

“Phải, tôi đã ngạc nhiên thấy mình khác đến thế với bộ râu. Đó là thời điểm tôi trở thành một cổ đông của Hãng, và đã kiệt sức. Tôi đã cưới một người phụ nữ không chung tình, chơi đùa với một đứa trẻ không phải con mình, làm việc với một nhóm người mà tôi không thể nào chịu nổi. Và chuyện phải đến đã đến, Karl. Một hôm tôi đang lái xe trên xa lộ 90, đi đâu đó với một việc quan trọng nhưng lại bị kẹt xe, và tôi đã nhìn ra ngoài vịnh. Có một chiếc thuyền buồm nhỏ thấp thoáng nơi chân trời. Và tôi thật muốn mình được ở trên con thuyền đó, trôi dạt đi đâu đó, nơi không hề có ai biết tôi. Tôi ngồi đó, nhìn con thuyền, chỉ muốn bơi thẳng ra đó. Tôi đã khóc, Karl. Ông có tin được không ?”

“Ai trong chúng ta cũng có những lúc như thế.”

“Và rồi, tôi quyết định sẽ phải biến đi. Không thể tiếp tục cuộc sống hiện tại nữa.”

“Mất bao lâu để chuẩn bị ?”

“Tôi đã phải kiên nhẫn. Hầu hết mọi người đều vội vã khi quyết định lẩn trốn, và họ đã mắc nhiều sai lầm. Tôi có thời gian. Tôi không vỡ nợ hay phải trốn tránh các chủ nợ. Tôi đã mua một khoản bảo hiểm sinh mạng hai triệu đôla, và việc đó mất ba tháng. Tôi biết là tôi không thể bỏ lại Trudy và con bé trắng tay. Tôi bắt đầu để mình lên cân, ăn như một thằng rồ. Tôi sửa lại di chúc của mình. Tôi thuyết phục Trudy rằng chúng tôi cần phải thu xếp sẵn mọi việc về các đám tang của chúng tôi, và tôi đã làm điều đó mà không gây nên sự nghi ngờ nào.”

“Hỏa táng là một ý tưởng hay đấy.”

“Cảm ơn. Tôi rất thiên theo hướng đó.”

“Làm cho việc xác định nguyên nhân cái chết và nhận dạng trở thành không thể thực hiện được, chẳng còn mấy chuyện gì quan trọng hơn thế.”

“Xin ông đừng nói về điều đó nữa.”

“Xin lỗi.”

“Thế rồi, tôi đánh hơi thấy vụ Benny Aricia và cuộc xung đột của ông ta với Lầu Năm Góc và công ty Platt & Rockland Industries. Bogan giữ chuyện này kín bưng. Tôi tìm hiểu kỹ hơn và phát hiện ra rằng cả Vitrano, Rapley và Havarac đều có phần trong vụ này. Tất cả các cổ đông, trừ tôi. Họ đã thay đổi, Karl, tất cả bọn họ. Họ trở nên kín đáo và vòng vo. Tất nhiên, tôi là thành viên mới, nhưng dù sao thì cũng vẫn là một cổ đông. Họ đã nhất trí bỏ phiếu để chấp nhận tôi là một cổ đông chính thức, và hai tháng sau đó họ đã gạt tôi ra trong khi họ làm ăn với Aricia. Bỗng nhiên, tôi trở thành kẻ lo mọi công việc phải đi lại nhiều, và điều đó làm hài lòng tất cả mọi người. Trudy có thể dàn xếp các cuộc hẹn hò của cô ấy. Các cổ đông kia thì có thể gặp gỡ với Aricia mà không cần che giấu gì. Họ phái tôi đi khắp nơi, song nó cũng hợp ý tôi, bởi lẽ tôi đang vạch ra các kế hoạch. Một lần tôi đi Fort Lauderdale để lấy cung trong ba ngày, và khi ở đó, tôi đã gặp một người có thể lo những giấy tờ giả mạo rất hoàn thiện. Bỏ ra hai nghìn đôla, thế là tôi đã có một bằng lái xe mới, hộ chiếu, thẻ bảo hiểm xã hội và giấy chứng nhận đăng ký cử tri ngay tại quận Harrison này. Carl Hildebrand là tên của tôi, vì lòng trân trọng đối với ông.”

"Tôi rất xúc động.”

"Tại Boston, tôi kiếm được một thằng cha có thể làm cho người ta biến mất đi. Bỏ ra một nghìn đôla, tôi có một ngày ngồi nghe hắn giảng về việc làm thế nào để thực hiện nó. Tại Dayton, tôi thuê một chuyên gia môn theo dõi dạy tôi về các thiết bị nghe trộm và những trò bẩn thỉu khác. Tôi rất nhẫn nại, Karl. Rất nhẫn nại. Tôi ở lại văn phòng vào những giờ trống, và thu thập tất cả những gì có thể có được về vụ Aricia. Tôi chú ý thực hiện nó. Tôi chú ý nghe ngóng, căn vặn đám thư ký, lục lọi thùng rác. Rồi tôi bắt đầu dùng tới các thiết bị nghe trộm, lúc đầu mới chỉ là ở một hai phòng để thử. Tôi nghe trộm Vitrano, và không thể tin nổi những gì mình nghe được. Họ sắp sửa đá tôi ra khỏi Hãng, Karl. Ông có tin được không ? Họ biết phần của họ từ vụ Aricia sẽ là khoảng ba mươi triệu đôla, và họ dự tính chia làm bốn. Nhưng các phần sẽ là không đều. Bogan, tất nhiên, sẽ được phần hơn, chừng gần mười triệu. Ba người kia sẽ được năm triệu, và phần còn lại sẽ được chi tiêu cho Hãng. Tôi, theo dự tính, sẽ ra đường.”

“Chuyện này diễn ra vào khi nào ?”

“Trong năm 91. Đòi hỏi của Aricia đã được Bộ Tư pháp tạm chấp nhận vào ngày 14 tháng Mười hai năm 1991, và phải mất chín mươi ngày sau mới lấy được tiền. Ngay cả ông Thượng nghị sĩ kia cũng không đẩy tốc độ nhanh lên được.”

“Hãy nói với tôi về vụ đâm xe đi.”

Patrick hơi xoay người, tung chân ra khỏi chăn và và bước xuống giường. “Chuột rút,” hắn lẩm bẩm trong khi duỗi người và duỗi chân. Hắn đứng cạnh cửa phòng tắm, nhẹ nhàng chuyển người từ chân nọ sang chân kia, mắt nhìn Karl. “Hôm đó là một ngày Chủ nhật.”

“Ngày 9 tháng Hai.”

“Đúng. Ngày 9 tháng Hai. Tôi ở tại ngôi nhà đi săn cuối tuần đó, và trong khi lái xe trở về nhà tôi đã bị tai nạn, chết, rồi lên thiên đàng.”

Karl chăm chú nhìn hắn và không hề cười. “Nói lại xem nào,” ông bảo.

“Vì sao, Karl ?"

“Sự tưởng tượng không lành mạnh.”

“Thế ư ?”

“Tôi cam đoan đấy. Đó là một vụ lừa đảo bậc thầy, Patrick. Anh đã làm thế nào vậy ?"

“Có thể là tôi đã lướt qua một vài chi tiết.”

“Tôi dám chắc là thế.”

“Chúng ta đi dạo một chút. Tôi chán ở trong phòng rồi."

Họ đi ra ngoài hành lang, và Patrick giải thích với những người gác rằng hắn và ông Thẩm phán muốn đi dạo. Mấy viên cảnh sát bám theo ở một cự ly nhất định. Một cô y tá mỉm cười và hỏi cô có thể mang lại cho hai người chút gì không. Hai lon Diet Cokes, Patrick lịch sự yêu cầu. Hắn đi rất thận trọng, không hề nói gì cho tới khi họ tới cuối hành lang, nơi có những cửa sổ kính lớn trông xuống khu đỗ xe. Họ ngồi xuống một cái ghế dài, nhìn dọc trở lại hành lang, nơi mấy viên cảnh sát đứng chờ cách xa chừng mươi lăm mét, lưng quay lại phía họ.

Patrick khẽ hỏi, “Ông đã nhìn thấy những tấm ảnh chụp hiện trường xảy ra vụ tai nạn đó chưa?”

“Rồi.”

“Tôi phát hiện ra chỗ đó ngày hôm trước. Cái hẻm núi rất sâu, và tôi nghĩ rằng nó thật là tuyệt cho một vụ tai nạn. Tôi đợi cho đến lúc mười giờ đêm ngày Chủ nhật mới rời khỏi ngôi nhà đi săn. Tôi dừng lại một cửa hàng nhỏ bên đường.”

“Cửa hàng Verhall.”

“Đúng, Verhall. Tôi đổ đầy bình xăng.”

“Mười hai galông, mười bốn đôla và hai mươi mốt xu, trả bằng thẻ tín dụng.”

“Có vẻ đúng đấy. Tôi nói chuyện với bà Verhall, rồi lên xe. Không có mấy xe cộ trên đường. Đi được hai dặm, tôi rẽ vào một con đường đất và chạy chừng một dặm thì tới địa điểm tôi đã chọn trước. Tôi dừng lại, mở cốp xe, và bắt đầu mặc đồ vào. Tôi có một bộ đồ dùng cho những người chạy xe môtô trên các tuyến đường hiểm trở — một chiếc mũ bảo vệ, các đệm vai, đệm đầu gối và đệm tay. Tôi nhanh chóng khoác những thứ đó lên ngoài bộ quần áo đang mặc, tất cả, trừ cái mũ, rồi trở lại xa lộ, chạy về hướng nam. Lần thứ nhất, có một chiếc xe chạy sau tôi. Lần thứ hai, có một chiếc xe chạy ngược chiều. Tôi vẫn đạp phanh thật mạnh, để lại những vết trượt trên mặt đường. Lần thứ ba thì không có xe cộ nào cả. Tôi đội mũ lên, hít một hơi sâu, và lái xe rời khỏi mặt đường. Kinh hoàng lắm, Karl.”

Đến lúc này, Karl vẫn nghĩ rằng còn một người nữa đâu đó trong xe, sống hoặc chết, nhưng ông ta không hỏi. Chí ít là ngay lúc này.

“Tôi chỉ chạy khoảng ba mươi dặm một giờ lúc rời khỏi mặt đường, nhưng ba mươi thì cũng giống như chín mươi khi ở giữa không trung và cây cối lướt qua hai bên. Chiếc xe va quệt vào những đám cây cối nhỏ. Kính chắn gió bị vỡ. Tôi lái sang phải, sang trái, lắt léo hết mức có thể, nhưng rồi một cây thông lớn đã va vào phía mũi bên trái. Cái túi hơi bật tung ra, và trong một giây tôi đã ngất đi. Có một cảm giác mất trọng lượng, rồi tất cả yên ắng. Tôi mở mắt, và cảm thấy đau nhói ở vai bên trái. Không có máu nhưng người cứ như làm sao ấy, rồi tôi nhận ra là chiếc Blazer đã lật sang phía bên phải. Tôi bắt đầu bò ra ngoài. Cho đến lúc ra được tới ngoài rồi thì tôi mới biết là mình thật may mắn. Vai tôi không làm sao mà chỉ là bị kẹt. Tôi đi vòng quanh chiếc Blazer và kinh ngạc thấy mình đã phá hỏng nó đến thế nào. Nóc xe lõm sâu xuống. Chỉ khoảng mười lăm phân nữa thì tôi không chắc là mình có còn bò ra ngoài nổi không.”

"Có vẻ mạo hiểm đến mức không thể tin nổi. Anh có thể đã chết hoặc bị thương rất nặng. Tại sao không chỉ là đẩy chiếc xe xuống hẻm núi đó thôi ?”

“Trông nó đã không giống như thật, Karl. Cái hẻm núi không dốc đến mức đó. Vùng đất này tương đối bằng phẳng mà, nhớ chứ.”

“Sao không chặn một hòn gạch vào chân ga và nhảy ra ngoài ?”

“Gạch thì không cháy. Nếu tìm thấy một hòn gạch trong chiếc xe, hẳn có lẽ họ sẽ nghi ngờ. Tôi đã nghĩ tới đủ mọi chuyện, và tôi cho rằng có thể lái nó lao xuổng đám cây đó mà không sao. Tôi có dây an toàn, có túi hơi, có mũ bảo vệ.”

Cô y tá mang tới những lon Diet Cokes, và muốn nói chuyện một chút. Sau cùng thì cô ta cũng đi. "Tôi kể tới đâu rồi nhỉ ?” Patrick hỏi.

"Tôi nghĩ là anh sắp sửa đốt nó.”

“Đúng. Tôi nghe ngóng một chốc. Chiếc bánh sau bên trái vẫn đang quay, và đó là tiếng động duy nhất. Tôi không thấy được mặt đường, nhưng vẫn nhìn theo hướng đó và cũng không nghe thấy gì cả. Tuyệt nhiên không có tiếng động gì. Ngôi nhà gần nhất cũng cách đó cả dặm. Tôi tin chắc rằng không có ai thấy gì, thế nhưng tôi vẫn vội vã. Tôi bỏ cái mũ và những miếng đệm ra, ném chúng vào trong xe, thế rồi tôi chạy sâu xuống phía dưới nữa, nơi tôi trữ sẵn xăng.”

“Từ bao giờ ?"

“Trước đó trong ngày. Rất sớm. Lúc rạng sáng. Tôi có bốn can xăng, loại bằng nhựa, và nhanh chóng khuân chúng trở lại chỗ chiếc xe. Trời tối lắm mà tôi lại không dám dùng đèn pin, thế nhưng tôi đã đánh dấu một con đường mòn nhỏ. Tôi đặt ba can xăng vào trong chiếc Blazer rồi ngừng lại, nghe ngóng. Từ phía trên đường vẫn không hề có tiếng động gì. Tôi rất hồi hộp, tim đập cứ thình thịch. Can cuối cùng tôi tưới từ trong ra ngoài rồi ném nốt nó vào bên trong xe. Tôi lùi lại khoảng chục mét gì đó và châm một điếu thuốc đã để sẵn trong túi. Tôi tung điếu thuốc ra, lùi xa thêm nữa và nấp sau một gốc cây. Điếu thuốc rơi xuống chiếc Blazer, rồi những can xăng phát nổ. Giống như một tiếng bom. Trong một tích tắc, lửa phun ra từ tất cả các cửa. Tôi trèo lên vách dựng nhất của khe núi và tìm một vị trí thuận lợi cách đó chừng ba chục mét. Tôi muốn quan sát nhưng không thể để mình bị phát hiện. Đám lửa cứ hừng hực; tôi không thể tưởng tượng rằng nó lại gây nhiều tiếng động đến thế. Một số bụi cây đã bắt đầu bén lửa, và tôi nghĩ có thể mình đã gây ra một vụ cháy rừng mất. Rất may là hôm thứ sáu có mưa, một trận mưa lớn đã làm cho cây cối và đất khá ẩm ướt.” Hắn uống một ngụm Cokes. “Tôi chợt nhận ra rằng tôi đã quên không hỏi thăm về gia đình ông. Tôi xin lỗi, Karl. Iris thế nào ?"

“Iris khỏe. Chúng ta có thể nói về gia đình sau. Ngay lúc này, tôi chỉ muốn nghe câu chuyện của anh.”

“Được thôi. Tôi nói đến đâu nhỉ ? Tôi đãng trí quá rồi. Ngần ấy thuốc.”

“Đang nhìn chiếc xe bốc cháy.”

“Phải rồi. Ngọn lửa nóng rừng rực, thế rồi bình xăng của chiếc xe phát nổ, lại giống như một quả bom nữa. Trong một thoáng, tôi đã nghĩ là mình cũng sẽ bị cháy sém. Những mảnh vỡ văng ra và bay rít qua đám cây cối. Sau cùng, tôi nghe thấy có tiếng động từ phía xa lộ. Những tiếng nói. Những tiếng người quát tháo. Tôi không thể nhìn thấy ai, nhưng có vẻ có sự náo loạn nào đó. Ngọn lửa đã lan ra quanh chỗ chiếc xe. Nó đang lan dần tới chỗ tôi và bởi vậy tôi phải rời đi. Tôi nghe thấy có tiếng còi hụ đang đến gần. Tôi cố gắng tìm được cái lối hẹp mà tôi đã biết từ ngày hôm trước, khoảng ba chục mét gì đó xuyên qua đám cây cối. Tôi cố lần theo lối đó và tìm kiếm chiếc môtô cà tàng của mình.”

Karl nghe như nuốt từng lời, hình dung ra mọi hình ảnh, và bám theo từng bước chân của Patrick. Con đường chạy trốn này đã là chủ đề của bao cuộc tranh luận gay gắt trong những tháng sau đó, và không ai có một dấu vết gì. “Một chiếc môtô cà tàng à ?”

“Phải. Một chiếc xe cũ mèm. Tôi đã mua nó bằng năm trăm đôla tiền mặt từ một tay buôn xe cũ ở Hattiesburg trước đó vài tháng. Tôi đã chạy thử nó đôi lần trong rừng. Không ai biết là tôi có nó cả.”

“Không có chứng nhận sở hữu hay đăng ký sao ?”

“Tất nhiên là không. Tôi buộc phải nói với ông, Karl, rằng trong khi chạy xuyên rừng, tìm kiếm cái lối hẹp kia, tuy người thì không hề hấn gì nhưng vẫn rất sợ hãi, nghe thấy tiếng lửa, tiếng người đang xa dần ở phía sau, và tiếng còi hụ vang lên gần hơn, tôi biết là mình đang chạy đến với tự do. Patrick đã chết, và anh ta đã mang theo đi một cuộc sống tồi tệ. Anh ta sẽ được ma chay tử tế và được chôn cất thích hợp, và mọi người sẽ nói lời từ biệt. Rồi chẳng mấy chốc, mọi người sẽ bắt đầu quên anh ta đi. Nhưng không phải là tôi, tôi đang điên cuồng chạy đến với một cuộc sống mới. Điều đó đã khích lệ tôi.”

Còn cái người tội nghiệp bị thiêu ở trong xe thì sao, Patrick ? Trong khi anh sung sướng chạy qua đám rừng thì người khác đang chết thay cho anh. Thiếu chút nữa Karl đã buột miệng hỏi. Patrick dường như đã quên đi cái thực tế rằng hắn đã phạm tội giết nguời.

"Thế rồi đột nhiên tôi bị lạc. Đám rừng đó rất rậm rạp, và không hiểu thế nào tôi đã nhầm đường. Tôi có cái đèn pin nhỏ, và cho rằng dùng nó lúc này cũng không sao. Tôi lòng vòng tìm lại đường. Đã có lúc, tôi phải ngồi xuống và buộc mình phải lấy lại bình tĩnh. Tôi đang hoảng sợ. Chuyện hay quá nhỉ ? Sống sót sau vụ đâm xe kia để rồi lại chịu chết đói chết khát. Rồi tôi lại đi, và may mắn tìm lại được đường. Không lâu sau, tôi tìm thấy chiếc môtô. Tôi đẩy nó đi chừng ba chục mét, ngược lên một sườn đồi, tới một con đưòng mòn cũ của những người khai thác gỗ, và đến lúc đó thì cái thân thể hơn một tạ của tôi đã rũ ra rồi. Không có một ngôi nhà nào trong vòng hai dặm, bởi vậy tôi nổ máy và chạy theo con đường mòn đó. Tôi đã chạy thử vài lần rồi nên biết rất rõ đường xá. Tôi tìm ra được một con đường lớn hơn và nhìn thấy ngôi nhà đầu tiên. Tôi đã sửa lại ống xả của chiếc xe, bởi vậy cũng không gây ra nhiều tiếng động lắm. Chẳng bao lâu sau, tôi đã phóng trên một con đường nhựa trong địa hạt quận Stone. Tôi tránh xa lộ chính, và cứ bám theo những con đường phụ. Vài giờ sau đó, tôi đã trở lại được ngôi nhà đi săn.”

“Vì sao anh trở lại đó ?”

“Đó là điểm tập kết.”

“Anh không sợ Pepper nhìn thấy sao ?”

Patrick không hề có biểu hiện lúng túng gì trước câu hỏi đó. Karl đã chọn đúng thời điểm, và ông ta quan sát phản ứng của hắn. Không hề có gì. Patrick nhìn đôi chân hắn trong một vài giây, rồi nói, “Pepper đi rồi.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 24


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Underhill đã quay lại sau tám giờ liền xem những cuốn băng video và xem lại những ghi chép trong một căn phòng khác. Anh ta buông tiếng chào hờ hững về phía Stephano và luật sư của lão, rồi bắt tay vào việc. “Chúng ta có thể tiếp tục từ chỗ ông ngừng lại hôm qua chứ hả, ông Stephano.”

“Chỗ nào nhỉ ?”

“Cuộc sục sạo của ông trên đất Braxin.”

“Phải. Để xem nào. Đó là một đất nước rộng lớn. Một trăm sáu chục triệu dân, rộng hơn cả bốn mươi tám bang ở phía dưới này của nước Mỹ, và nổi tiếng là nơi trú ẩn tuyệt vời cho những cuộc lẩn trốn, nhất là khi người ta đang bị truy lùng. Trong nhiều năm, đám Quốc xã đã từng chọn nơi ẩn náu này. Chúng tôi tập hợp một hồ sơ về Lanigan, cho dịch nó sang tiếng Bồ

Đào Nha rồi thuê một họa sĩ của cảnh sát kết hợp với một số tay sành máy tính để làm một loạt ảnh màu mô tả nhân dạng hiện tại của Lanigan. Chúng tôi đã dành nhiều thời gian với tay chủ tàu ở Orange Beach, cũng như với các giám đốc nhà băng ở Nassau, và họ đã giúp chúng tôi có được một loạt bức ký họa chi tiết về hắn. Thậm chí chúng tôi cũng đã gặp gỡ các cổ đông của Hãng luật và thảo luận về các bức ký họa đó. Rồi họ lại cho các thư ký xem. Một trong các cổ đông, ông Bogan, còn mang bức khá nhất đến xin ý kiến của bà quả phụ Lanigan.”

“Giờ đây, khi mà các ông đã tóm được hắn rồi, có thấy những tấm hình đó giống không ?”

“Khá giống. Trừ cái cằm và cái mũi ra.”

“Xin tiếp tục cho.”

“Chúng tôi vội vã đi Braxin, và tìm được ở đó ba trong số các Hãng điều tra tư nhân giỏi nhất nước này. Một ở Rio, một ở São Paulo, và một ở Recife, vùng đông bắc. Chúng tôi trả giá cao nên đã mướn được những kẻ lão luyện. Chúng tôi ghép họ thành một nhóm và tập hợp họ ở São Paulo trong một tuần. Chúng tôi lắng nghe ý kiến của họ. Một câu chuyện được đưa ra, rằng Patrick là công dân Mỹ bị truy nã về tội bắt cóc rồi giết hại con gái của một gia đình giàu có, và gia đình này treo giải thưởng cho những thông tin dẫn đến việc phát hiện nơi ẩn náu của hắn. Việc giết hại một đứa trẻ, tất nhiên, được dựng lên nhằm kích thích sự thông cảm hơn là việc đánh cắp tiền của một nhóm luật sư.

“Chúng tôi đi thẳng tới các lớp học tiếng, chìa những tấm hình của Lanigan và hứa hẹn tiền bạc. Những trường tử tế thì đóng cửa từ chối. Những trường khác thì nhìn ngó những tấm hình nhưng không thể giúp gì được. Cho tới lúc đó, chúng tôi đã rất vì nể Lanigan, và không nghĩ rằng hắn sẽ liều học ở một nơi mà người ta sẽ hỏi này nọ rồi ghi lại tất cả vào hồ sơ. Bởi vậy, chúng tôi nhằm vào các gia sư, có điều là có cả triệu gia sư ở Braxin. Một công việc cực nhọc.”

“Các ông có chìa tiền ra trước không ?”

“Chúng tôi làm theo cách mà các thám tử Braxin của chúng tôi muốn làm, nghĩa là chìa các tấm hình ra, kể lại câu chuyện về đứa trẻ bị giết, rồi chờ đợi một phản ứng. Nếu có chút động đậy thì khi đó chúng tôi sẽ khéo léo ngỏ ý về khoản tiền thưởng.”

“Có phản ứng nào không ?”

“Một vài lần, chỗ này chỗ khác. Nhưng chúng tôi chưa bao giờ bỏ tiền ra, ít nhất thì cũng là cho các gia sư.”

“Vậy là cho những người khác à ?”

Stephano gật đầu và nhìn vào một tờ giấy. “Vào tháng Tư năm 94, chúng tôi tìm ra một bác sĩ chỉnh hình ở Rio, người có vẻ quan tâm tới những tấm hình của Lanigan. Hắn ta vờn với chúng tôi trong một tháng, và sau cùng đã khiến cho chúng tôi tin rằng chính hắn đã “sửa sang” cho Lanigan. Hắn ta có những bức ảnh chụp Lanigan trước và sau khi làm phẫu thuật. Hắn ta trói chúng tôi đến nơi đến chốn, và thực sự là chúng tôi đã phải đồng ý trả hắn tới năm trăm nghìn đôla, tiền mặt, ở nước ngoài, để đổi lấy toàn bộ chỗ hồ sơ của hắn.”

"Trong hồ sơ đó có gì ?"

“Chỉ những yếu tố cơ bản. Những bức ảnh chụp chính diện đối tượng của chúng tôi trước và sau khi phẫu thuật. Chuyện này thực sự kỳ quặc bởi lẽ Lanigan đã nhất quyết đòi không có chụp ảnh gì hết. Hắn không muốn để lại bất kỳ chút dấu tích nào, ngoài một đống tiền cho việc sửa đổi dung mạo hắn. Hắn cũng không cho biết tên thật mà chỉ nói hắn là một nhà kinh doanh từ Canada đến và bỗng nhiên muốn trông được trẻ trung hơn. Tay bác sĩ chỉnh hình kia đã nghe loại chuyện này suốt rồi, và hắn ta biết vị khách của hắn đang trên đường lẩn trốn. Hắn ta có một chiếc máy ảnh được giấu kín trong văn phòng, và do vậy mà có những tấm ảnh đó.”

“Chúng tôi có thể xem chúng được không ?”

“Tất nhiên rồi.” Tay luật sư đứng dậy và đẩy một chiếc phong bì ra cho Underhill.

“Các ông tìm thấy tay bác sĩ kia như thế nào ?”

“Cùng lúc kiểm tra ở các trường dạy tiếng và tìm các gia sư, chúng tôi cũng nhằm vào những kẻ ở các lĩnh vực khác. Những kẻ làm giấy tờ giả, các bác sĩ chỉnh hình, và các nhà nhập khẩu.”

“Các nhà nhập khẩu ?”

“Phải, có một từ trong tiếng Bồ Đào Nha để chỉ loại người này, nhưng các nhà nhập khẩu chỉ là cách dịch rất thô thiển. Họ là một nhóm những tay chuyên môn hoạt động trong bóng tối, có thể đưa người vào Braxin và rồi làm cho người ta biến mất - với những cái tên mới, giấv tờ mới, và những nơi tốt nhất để sinh sống và ẩn náu. Chúng tôi thấy là không thể nào moi được gì ở đám này. Chúng tôi cũng rất không gặp may với đám làm giấy tờ giả. Họ không dám nói về khách hàng của mình. Đó sẽ là chuyện rất tồi tệ cho việc làm ăn.”

“Nhưng các bác sĩ thì khác à ?”

“Không hẳn thế. Họ cũng không nói. Nhưng chúng tôi đã thuê một bác sĩ chỉnh hình làm cố vấn, và ông ta đã cho chúng tôi tên của một vài bác sĩ chuyên làm việc cho những khách hàng vô danh. Đó là cách mà chúng tôi đã tìm ra tay bác sĩ ở Rio.”

“Lúc đó là hai năm sau khi Lanigan biệt tích.”

“Đúng thế.”

“Đó có phải là bằng chứng đầu tiên về việc thực sự hắn đang ở đó không ?”

“Đúng là bằng chứng đầu tiên.”

“Các ông đã làm gì trong hai năm đầu ?”

“Tiêu rất nhiều tiền. Gõ rất nhiều cánh cửa. Theo đuổi rất nhiều dấu vết chẳng có giá trị gì. Như tôi đã nói, đó là một đất nước rộng lớn.”

“Có bao nhiêu ngưòi làm việc cho ông ở Braxin ?”

“Có thời điểm tôi phải trả lương cho sáu mươi người. Cũng may mà họ không đắt giá như những người Mỹ.”

oOo

Nếu ngài Thẩm phán muốn có một cái bánh pizza, vậy thì ngài Thẩm phán sẽ có một cái bánh pizza. Cái bánh được mua từ tiệm Hugo, một tiệm gia truyền trên phố Division xa hẳn những tiệm bán đồ ăn nhanh nằm san sát dọc theo bờ biển. Nó được một viên cảnh sát mang tới Phòng 312. Patrick ngửi thấy mùi ngay từ lúc nó vừa được mang ra khỏi thang máy. Hắn nhìn chằm chằm khi Karl mở hộp bánh ở cuối giường. Hắn nhắm mắt và hít vào cái hương vị đậm đà của những quả ôliu đen, của những thứ nấm, xúc xích Italia, hạt tiêu xanh và sáu loại phomát khác nhau. Hắn đã ăn cả nghìn cái pizza của tiệm Hugo, nhất là trong hai năm cuối cùng của cuộc sống trước đây của hắn, và hắn đã ao ước được ăn lại một cái từ cả tuần nay. Ở quê nhà cũng có cái sướng.

“Sao trông cứ đờ ra thế kia. Thôi ăn đi,” Karl nói.

Patrick ngoạm miếng thứ nhất, không nói một lời, rồi tiếp miếng thứ hai.

“Làm sao mà anh có thể làm giảm cân đến vậy ?" Karl vừa hỏi vừa nhai.

“Chúng ta có thể có chút bia được không ?" Patrick hỏi.

“Không. Xin lỗi. Anh đang bị giam cơ mà.”

“Giảm cân là ở lòng quyết tâm của mình. Khi người ta đã quyết thì việc đó là dễ dàng. Tôi đã đột nhiên có động cơ để bỏ đói chính mình.”

“Anh đã nặng tới bao nhiêu nhỉ ?”

“Cho tới cái ngày thứ sáu, trước khi biến đi, tôi nặng hơn một tạ. Tôi đã sụt bớt hơn hai mươi cân trong sáu tuần đầu tiên. Sáng nay thì tôi chỉ còn hơn bảy chục cân thôi.”

“Trông anh giống như một người tị nạn vậy. Thôi ăn đi.”

“Cảm ơn.”

“Anh đang nói tới đoạn trở về ngôi nhà đi săn.”

Patrick lau mồm bằng một mảnh giấy ăn và đặt phần bánh còn lại của hắn trở lại chiếc hộp. Hắn uống một ngụm Diet Cokes. “Phải, tôi đã trở lại ngôi nhà đó. Lúc đó là vào khoảng mười một giờ ba mươi. Tôi đi vào qua cửa trước, và không hề bật đèn. Có một ngôi nhà đi săn nữa cách đó chừng nửa dặm, trên một đỉnh núi và từ chỗ tôi có thể nhìn thấy. Nó là của mấy người nào đó ỏ Hattiesburg, và mặc dù không nghĩ rằng họ ở đó lúc bấy giờ, nhưng tôi vẫn phải cẩn thận. Tôi che cửa sổ gian phòng tắm nhỏ bằng một cái khăn sẫm màu, rồi mới bật đèn và nhanh chóng cạo râu. Thế rồi tôi tự cắt tóc, nhuộm nó thành một mầu nâu sẫm, gần như là đen.”

“Xin lỗi, tôi không hiểu.”

“Nó hoàn toàn phù hợp. Cũng kỳ lạ thật. Tôi thậm chí cảm thấy giống như một người hoàn toàn khác khi nhìn vào gương. Thế rồi tôi dọn dẹp, lau sạch tóc tai râu ria rơi xuống bởi vì tôi biết là họ sẽ kiểm tra chỗ đó rất kỹ lưỡng, và bỏ cả mấy ống thuốc nhuộm tóc vào chỗ đồ dùng sẽ mang theo. Tôi thay một bộ đồ ấm, pha một bình cà phê và uống một nửa. Nửa còn lại đổ vào cái phích để đi đường. Lúc một giờ sáng, tôi rời khỏi căn nhà một cách nhanh chóng. Tôi không lo là có cảnh sát xuất hiện ngay đêm đó, nhưng đó luôn luôn là một khả năng. Tôi biết là phải có thời giờ để xác định chiếc Blazer là của ai, rồi để gọi Trudy, và có thể ai đó sẽ cho rằng họ cần phải đến căn nhà đi săn vì một lý do nào đó. Tôi không cho là điều đó sẽ xảy ra, thế nhưng vào lúc một giờ sáng thì tôi muốn ra đi lắm rồi.”

“Anh có bất kỳ lo ngại gì cho Trudy không ?”

“Không có gì đặc biệt. Tôi biết là cô ta sẽ trải qua được cú sốc này, và sẽ lo thu xếp việc chôn cất tôi một cách đâu vào đấy. Cô ta sẽ là một góa phụ mẫu mực trong khoảng một tháng, và rồi sẽ lấy được số tiền bảo hiểm. Đó chính là giờ phút sung sướng nhất của cô ấy. Được để ý tới và có nhiều tiền bạc. Không, Karl, tôi không yêu người phụ nữ đó và không có bất kỳ quan tâm nào.”

“Anh có lúc nào trở lại căn nhà đi săn đó không ?"

“Không”

Karl không thể và cũng không muốn kìm câu hỏi tiếp theo. “Khẩu súng săn và bộ đồ cắm trại của Pepper được tìm thấy ở dưới một trong những chiếc giường. Tại sao chúng lại ở đó?”

Patrick ngước mắt nhìn lên trong một giây vẻ như ngạc nhiên, thế rồi hắn nhìn đi chỗ khác. Karl đã ghi nhận phản ứng này, bởi vì ông sẽ còn nghĩ tới nó nhiều lần trong những ngày tiếp theo đó. Một sự ngạc nhiên, một cái liếc mắt, và rồi không thể nào trả lời thật được, ánh mắt lảng tránh. Trong một bộ phim cũ có câu nói, “Khi anh phạm tội giết người, anh mắc hai mươi lăm sai lầm. Nếu anh nghĩ tới được mười lăm trong số đó thi củng đã là tài lắm rồi.” Có lẽ Patrick, trong tất cả những tính toán tỉ mỉ của hắn, đã quên mất mấy thứ đồ kia của Pepper. Trong lúc cấp bách, hắn đã hơi vội vã quá.

“Tôi không biết,” hắn nói, gần như gằn giọng, mắt vẫn nhìn vào tường.

Karl đã có cái mình muốn, và ép tiếp. “Anh đã đi đâu ?"

“Chuyến đi thật vất vả,” Patrick nói, vẻ hoạt bát trở lại và muốn kể tiếp câu chuyện. “Nhiệt độ lúc đó chừng một hai độ gì đó, và cưỡi chiếc môtô chạy trên xa lộ vào ban đêm thì cứ như thể âm sáu đến bảy độ vậy. Tôi bám theo các nhánh đường phụ, tránh các xe cộ khác, chạy chậm vì gió như cắt da cắt thịt. Một chiếc môtô cà tàng trên đường cao tốc vào lúc ba giờ sáng có thể sẽ làm tỉnh ngủ một tay cảnh sát đang chán chường nào đó, bởi vậy tôi tránh xa các thị trấn. Sau cùng thì tôi cũng đến được ngoại ô Mobile vào lúc bốn giờ. Một tháng trước đó, tôi đã để ý thấy một quán trọ nhỏ, nơi người ta nhận tiền mặt và không hỏi han gì. Tôi lẻn vào khu đậu xe, giấu chiếc môtô ở phía đằng sau, và đi vào bằng cửa trước như thể vừa xuống khỏi tăcxi. Ba mươi đôla cho một phòng, tiền mặt, không cần giấy tờ gì. Phải mất một tiếng sau mới hết lạnh. Tôi ngủ thiếp đi trong hai tiếng và tỉnh dậy lúc mặt trời đã lên. Chuyện đến tai ông vào lúc nào, Karl ?”

"Tôi cho là vào khoảng thời gian anh đang chạy trên chiếc môtô kia băng qua các vùng nông thôn. Doug Vitrano gọi cho tôi lúc sau ba giờ một vài phút. Tôi thức dậy và đến giờ vẫn còn giật mình. Không còn tài nào ngủ được vì đau lòng, trong khi anh đang làm một cuộc du ngoạn đến với một cuộc sống mới.”

“Đâu phải là tôi không xót xa.”

“Phải, nhưng mà chắc chắn là anh đã không nghĩ tới bạn bè.”

"Tôi lấy làm tiếc về điều đó, Karl.”

“Không, anh đừng làm bộ.”

“Đúng là thế, ông nói đúng.” Patrick đầy vẻ thoải mái, linh hoạt trong khi kể lại câu chuyện của hắn, thậm chí lúc này còn mỉm cười.

“Anh đã thức dậy lúc mặt trời lên. Một con người mới trong một thế giới mới. Tất cả những lo âu và những rắc rối của anh đã được để lại đằng sau.”

“Hầu hết những thứ đó. Thật là hứng khởi, nhưng cũng đầy sợ hãi. Khó ngủ lắm. Tôi xem TV đến tám giờ ba mươi, không thấy tin tức gì khác ngoài cái chết của tôi, rồi tắm rửa, thay quần áo mới và...”

“Gượm đã. Những ống thuốc nhuộm tóc đâu rồi ?”

“Tôi đã ném chúng vào một cái thùng rác đâu đó ở quận Oasinhtơn, bang Alabama. Tôi gọi một chiếc tăcxi, việc không phải là dễ gì cho lắm ở Mobile. Người lái đậu xe ngay bên ngoài phòng, và tôi lên xe đi. Không có việc trả phòng. Tôi đã bỏ chiếc môtô đấy và đi tới một khu thương mại mà tôi biết là sẽ mở cửa lúc chín giờ. Tôi tới một cửa hiệu và mua một chiếc áo khoác ngoài màu xanh đen, vài cái quần và một đôi giầy.”

“Anh trả bằng gì ?”

“Tiền mặt.”

“Anh không có thẻ tín dụng à ?”

“Có, tôi có một cái thẻ Visa giả mà tôi đã mua từ một nguồn ở Miami. Chỉ có thể mua được một vài lần rồi thì sẽ buộc phải bỏ. Tôi để dành nó cho việc thuê xe.”

“Anh có bao nhiêu tiền mặt ?”

“Khoảng hai mươi nghìn.”

“Từ đâu ra ?”

“Tôi đã để dành ít lâu. Tôi làm được khá tiền, mặc dù Trudy cũng đã cố gắng đến mức cao nhất của cô ấy để tiêu sao cho nhanh hơn tốc độ tôi kiếm được. Tôi nói với cô kế toán của Hãng là cần giấu vợ một số tiền. Cô ta nói là mình thường xuyên phải làm thế cho các luật sư. Tiền được chuyển vào một tài khoản khác. Cứ lâu lâu tôi lại rút tiền mặt ra và cất vào trong ngăn kéo. Được chưa nào ?”

“Được. Anh nói đã mua một đôi giày.”

“Tôi đi tới một cửa hiệu khác và mua một chiếc sơmi trắng cùng một chiếc cavát. Tôi thay đồ trong một phòng vệ sinh nhỏ, và xong, trông tôi đã giống bất kỳ ai trong số cả triệu người đi chào hàng. Tôi mua thêm một ít quần áo và vài thứ lặt vặt, xếp tất cả vào một cái túi bạt mới tinh, và gọi tắc-xi ra sân bay Mobile. Tôi ăn sáng ở đó và đợi chuyến bay của Northwest Airlink từ Atlanta tới. Tôi hòa vào với đám hành khách, tất cả đều rất vội vã và nóng lòng muốn vào Mobile. Tôi dừng lại cùng với hai người khác trước bàn giao dịch của Hãng Avis. Họ đã đặt thuê xe từ trước. Còn trường hợp của tôi thì hơi phức tạp hơn. Tôi có một bằng lái xe hoàn hảo của bang Georgia, cùng với hộ chiếu, ngừa khi phải dùng đến. Tôi dùng một chiếc thẻ Visa, và tôi rất sợ. Số thẻ là một số có thật - của một anh chàng tội nghiệp nào đó ở Decatur, Georgia, và tôi chỉ sợ nhỡ ra một chiếc máy tính nào đó chộp được và chuông báo động sẽ vang lên. Nhưng đã không có chuyện gì xảy ra. Tôi điền vào giấy tờ, và nhanh chóng bước đi.”

“Anh đã dùng tên gì ?”

“Randy Austin.”

“Một câu hỏi lớn, Randy,” Karl nói trong khi cắn một miếng pizza và nhai chậm rãi. “Anh đang ở sân bay. Tại sao anh không lên béng một chiếc máy bay và ra đi hả ?”

“ Ồ, tôi đã nghĩ về chuyện đó. Trong lúc ăn sáng, tôi đã thấy hai chiếc máy bay cất cánh và tôi thật muốn được nhảy lên đó cho rồi. Thế nhưng còn có việc chưa làm xong. Đó là một quyết định rất khó khăn.”

“Việc gì chưa xong vậy ?”

“Tôi nghĩ là ông biết. Tôi đã lái xe chạy tới vùng bờ vịnh, rồi dọc theo bờ biển tới Orange Beach và mướn một ngôi nhà nhỏ ở đó.”

“Một ngôi nhà mà anh đã kiểm tra từ trước.”

"Tất nhiên. Tôi biết là họ sẽ lấy tiền mặt. Lúc đó là tháng Hai, trời lạnh, việc làm ăn không chạy lắm. Tôi uống mấy viên thuốc ngủ và ngủ trong sáu tiếng. Tôi theo dõi bản tin tối và thấy mình đã chết một cái chết thảm khốc. Bạn bè chết điếng.”

“Anh thật tồi.”

“Tôi chạy xe ra tiệm rau quả và mua một bịch táo và ít viên vitamin. Sau khi trời tối, tôi đi bộ dọc theo bờ biển chừng ba tiếng, một việc mà tối nào tôi cũng làm khi đang ẩn náu ở quanh Mobile. Sáng hôm sau, tôi lẻn vào Pascagoula và kiếm một tờ báo, thấy gương mặt béo phì đang tươi cười của mình trên trang nhất, tin về vụ tai nạn, và bài viết nhỏ rất cảm động của ông, đồng thời cũng biết rằng tang lễ sẽ được tổ chức vào ba giờ chiều hôm đó. Tôi đi tới Orange Beach và thuê một chiếc thuyền buồm. Thế rồi tôi lái xe tới Biloxi để dự đám tang của mình.”

“Báo chí nói là anh đã chứng kiến lễ mai táng mình.”

“Đúng thế. Tôi nấp trên một ngọn cây trong cánh rừng quá bên trên nghĩa địa, và quan sát bằng một cặp ống nhòm.”

“Có vẻ đó là một điều ngu ngốc đến không thể tin được.”

“Đúng thế. Đúng là ngu ngốc. Nhưng mà tôi buộc phải đến đó. Tôi buộc phải tận mắt nhìn thấy để chắc chắn được rằng cái mưu mẹo kia của tôi đã hiệu dụng. Và lúc đó, tôi nghĩ tôi đã tin rằng mình có thể vượt qua được tất cả.”

"Tôi nghĩ là anh cũng đã chọn sẵn cái cây, một vị trí hoàn hảo."

“Không. Thực ra tôi không chắc là mình có làm việc đó không nữa. Khi tôi rời Mobile và chạy về phía tây trên xa lộ Liên bang, tôi cứ tự nhủ là đừng làm việc đó. Đừng có đến gần Biloxi.”

“Anh béo vậy mà trèo cây được ư ?”

“Tôi có động cơ, và đó là một cây sồi với nhiều cành lá rậm rạp.”

“Lạy Chúa.Tôi ước giá mà một cái cành nào đó bỗng gãy và anh rơi cắm đầu xuống đất nhỉ.”

“Không, ông đâu có ước thế.”

“Có, có đấy. Chúng tôi đứng quây xung quanh mộ, cố cầm nước mắt và an ủi người vợ góa, còn anh thì đang vắt vẻo trên một cái cành cây như một con nhái béo ị để cười vào mũi chúng tôi.”

"Tôi biết là ông chỉ giả vờ cáu kỉnh thôi mà, Karl.”

Và hắn nói đúng. Bốn năm rưỡi đã xóa đi mọi cáu giận mà Karl từng cảm thấy. Sự thật là ông đang sung sướng được ngồi ở cuối cái giường bệnh viện này, ăn pizza cùng với Patrick và nghe từng chi tiết câu chuyện kia.

Tuy vậy, họ cũng mới chỉ đến được tới chỗ đám tang. Patrick nói đã mệt, và họ trở lại phòng của hắn, một nơi mà hắn không hoàn toàn tin cậy. “Hãy cho tôi biết Bogan và Vitrano và những người kia thế nào ?" Hắn nói, và ngả xuống gối, ngay lập tức bắt đầu nhấm nháp cái cảm giác thú vị của những gì hắn sắp được nghe.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 25


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Cú điện thoại mới nhất mà Paulo Miranda nhận được từ con gái của ông đã cách đó hai ngày. Nàng gọi từ một khách sạn ở New Orleans, vẫn đang đi công chuyện gì đó cho người khách hàng mới đầy bí hiểm của nàng, vẫn nhắc ông về những người có thể tìm kiếm nàng và theo dõi ông bởi vì khách hàng của nàng có những đối thủ ở Braxin. Cũng như những lần gọi trước, nàng nói rất vắn tắt, mơ hồ và có vẻ lo sợ, mặc dù rất cố không để lộ ra. Ông đã bực mình và gạn hỏi. Nàng trở nên lo ngại hơn cho sự an toàn của ông. Ông muốn nàng trở về nhà. Ông không còn giữ được bình tĩnh và lần đầu tiên đã nói toạc ra là ông đã gặp các chủ Hãng cũ của nàng và biết là nàng đã bị cho đình việc. Nàng thản nhiên giải thích là giờ đây nàng tự chủ với công việc của mình, một luật sư độc lập với một khách hàng giàu có trong lĩnh vực thương mại quốc tế, và rằng những chuyến đi kéo dài như thế này rồi sẽ trở thành thường xuyên.

Ông không muốn tranh luận với nàng trên điện thoại, nhất là khi ông đang lo lắng đến như vậy về nàng. Paulo cũng mệt mỏi với những kẻ rình rập quanh nhà ông và bám theo trong khi ông đi ra chợ hay chạy xe đến nơi làm việc của ông ở Đại học Thiên Chúa giáo. Ông đã để mắt đến họ; họ luôn luôn ở quanh đâu đó. Ông đã đặt những biệt danh cho họ, đã đôi lần nói chuyện với người quản lý khu nhà của Eva, và những kẻ rình rập này cũng đã thấy điều đó.

Giờ giảng cuối cùng của ông, một khảo cứu về triết học Đức, kết thúc lúc một giờ. Ông tiếp một sinh viên có khó khăn trong chuyện học tập tại phòng làm việc của mình trong chừng ba mươi phút, rồi ra về. Trời mưa và ông đã quên không mang theo ô. Chiếc xe của ông đậu trong khu để xe nhỏ của khoa, đằng sau một tòa giảng đường.

Osmar đã đợi sẵn. Paulo thì vẫn đang trầm mặc khi ra khỏi tòa nhà, mắt nhìn xuống, với một tờ báo che trên đầu, tâm trí thì ở mãi tận đâu trong lúc bước đi bên dưới đám tán cây và giẫm cả vào một vũng nước cạnh chiếc xe của ông. Cạnh nó là chiếc Fiat chở hàng nhỏ, màu đỏ. Gã lái xe bước ra, nhưng Paulo không hề để ý. Gã ta mở cửa sau chiếc Eiat, và Paulo cũng vẫn không hề nghe hay nhìn thấy gì cả. Khi ông đang thọc tay vào túi để tìm chìa khóa thì Osmar xô mạnh ông ngã nhào vào bên trong chiếc Fiat. Chiếc cặp của ông rơi xuống đất và giấy tờ từ trong cặp tung ra nằm rải rác xung quanh. Cánh cửa sập lại. Trong bóng tối, một họng súng được dí vào sống mũi, chỗ giữa hai mắt của Paulo, và một tiếng nói cất lên yêu cầu ông im lặng.

Chiếc Fiat lao vút đi. Một cú điện thoại gọi cho cảnh sát báo họ biết về vụ bắt cóc này.

Trong khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ tiếp theo đó, Paulo bị đưa ra khỏi thành phố và ông không biết là mình đang tới đâu. Bên trong chiếc xe rất nóng - không có lỗ thông gió, không có đèn. Chỉ thấy bóng hai người ngồi cạnh ông, cả hai đều mang súng. Họ dừng lại đằng sau một trang trại bề thế, và Paulo được dẫn vào bên trong. Khu phòng dành cho ông ở phía sau; một phòng ngủ, một phòng tắm, và một phòng khách, bên trong có đặt một chiếc TV. Đồ ăn thức uống đầy đủ. Người ta bảo ông rằng ông sẽ không bị làm tổn hại gì cả, tất nhiên, trừ phi ông mắc vào cái sai lầm là mưu toan chạy trốn. Ông sẽ bị giữ chừng một tuần gì đó, rồi sẽ được thả ra, nếu như ông cư xử đúng mực. Ông chốt cửa ra vào và nhìn ra ngoài cửa sổ. Hai gã đàn ông đang ngồi dưới một tán cây, uổng trà và cười đùa, với những khẩu tiểu liên để bên.

Những cú điện thoại nặc danh được gọi đến người con trai của Paulo ở Rio, đến người quản lý khu nhà của Eva, đến Hãng luật cũ của nàng, và đến một trong những người bạn của nàng đang làm việc cho một đại lý du lịch. Nội dung của các cú điện thoại này đều giống nhau: Paulo Miranda đã bị bắt cóc. Cảnh sát đang điều tra.

Eva đang ở New York. Nàng ngụ lại ít ngày trong khách sạn Pierre, đi mua sắm trên Đại lộ số 5, thăm thú các bảo tàng. Đã được chỉ dẫn là phải liên tục di chuyển, nàng cứ thoắt ẩn thoắt hiện tại New Orleans. Nàng đã nhận được ba lá thư của Patrick, và đã viết cho hắn hai lần, tất cả đều được chuyển qua Sandy. Những hành hạ về thể xác mà hắn từng phải chịu đựng chắc chắn là không ảnh hưởng được tới sự chú trọng đến tận các chi tiết của hắn. Các lá thư của hắn rất cụ thể - các kế hoạch, danh mục các đầu việc và những việc cần làm trong tình huống khẩn cấp.

Nàng đã gọi điện cho cha nàng, nhưng không có ai trả lời. Nàng gọi điện cho em trai, và biết chuyện động trời kia. Em trai nàng nhất quyết đòi nàng phải trở về ngay lập tức. Cậu ta là một mẫu người đa cảm, chưa quen với những sức ép và sự thù địch. Cậu ta dễ dàng suy sụp. Những quyết định khó khăn trong gia đình luôn luôn được dành cho Eva. Nàng nói chuyện với cậu ta đến nửa giờ trên điện thoại để cố gắng làm cho cả hai chị em bình tĩnh lại. Không, không có việc đòi tiền chuộc. Không có một lời nhắn nhủ gì của những kẻ bắt cóc.

Trái với những chỉ dẫn cụ thể của hắn, nàng đã gọi điện cho hắn. Vội vã bên một cái máy điện thoại công cộng ở La Guardia, vừa ngoái nhìn phía sau qua cặp kính râm đen kịt vừa vò đầu bứt tóc, nàng quay số phòng của hắn, và nói bằng tiếng Bồ Đào Nha. Nếu như có ai đó nghe trộm thì ít ra họ cũng còn phải đi tìm một người phiên dịch.

“Patrick, Leah đây,” nàng nói, cố không bộc lộ tình cảm gì nhiều.

“Có chuyện gì vậy ?” Hắn hỏi, cũng bằng tiếng Bồ Đào Nha. Đã lâu hắn không được nghe giọng nói dịu dàng của nàng, nhưng mà giờ đây hắn không hài lòng chút nào cả.

“Chúng ta có thể nói chuyện được không ?”

“Được. Chuyện gì ?” Patrick đã kiểm tra rệp, cứ ba hoặc bốn tiếng lại một lần, đối với chiếc máy điện thoại trong phòng hắn. Hắn cũng rà soát tất cả những nơi cất giấu có thể có bằng cái thiết bị chống nghe trộm mà Sandy đã tìm mua cho hắn. Với những người gác luân phiên hai mươi tư giờ, hắn cũng đã bớt lo lắng phần nào. Thế nhưng đường dây từ ngoài vào vẫn làm hắn e ngại.

“Chuyện về cha em,” nàng đáp, rồi vắn tắt kể lại câu chuyện về sự mất tích của Paulo. “Em phải trở về mới được.”

“Không, Leah,” hắn bình tĩnh nói. “Đó là một cái bẫy đấy. Cha em không phải là một người giàu có. Họ không đòi tiền. Họ muốn bắt em.”

“Song không thể để mặc cha.”

“Và em cũng không thể tìm được ông ấy.”

“Mọi chuyện đều là do em.”

“Không phải. Anh mới là người có lỗi. Nhưng mà đừng có làm cho tình hình xấu thêm với việc lao vào bẫy của họ.”

Nàng vuốt vuốt tóc và nhìn dòng người qua lại. “Vậy em phải làm gì ?”

“Đến New Orleans. Gọi cho Sandy khi tới nơi. Hãy để anh nghĩ kỹ đã.”

Nàng mua vé, rồi đi tới chỗ cửa chờ ra máy bay và ngồi xuống một cái ghế trong góc để có thể giấu mặt vào tường, đằng sau một quyển tạp chí. Nàng nghĩ về người cha yêu quý của mình và những gì khủng khiếp mà người ta có thể làm với ông. Cũng vẫn những con người đó đã bắt cóc cả hai người đàn ông thân yêu của nàng, và Patrick thì phải đang nằm viện vì những vết thương kia. Cha nàng già hơn và không khỏe như Patrick. Người ta đang làm cho ông đau đớn chỉ vì nàng. Thế mà nàng lại không thể nào làm gì được.

oOo

Sau một ngày tìm kiếm, một cảnh sát Biloxi đã thấy chiếc xe của Lance rời khỏi sòng bạc Grand lúc gần mười rưỡi đêm. Lance bị chặn lại và bị tạm giữ mà không có một lý do cụ thể nào, cho đến khi Sweeney đến. Ông ta và Lance ngồi nói chuyện trên băng ghế sau của chiếc xe tuần tiễu, đậu trong khu để xe của một tiệm bán đồ ăn nhanh, vẫn để đèn nhấp nháy.

Viên cảnh sát trưởng hỏi han về công việc buôn bán ma túy, và Lance đáp lại rằng mọi thứ đều ổn.

“Trudy thế nào ?” Viên cảnh sát trưởng hỏi, mồm vẫn ngậm chiếc tăm. Thật khó mà nói được trong cuộc trò chuyện này, ai là kẻ bình thản hơn. Lance thậm chí lại còn lấy ra cặp kính Rayban đời mới nhất đeo lên mắt.

“Cô ấy khỏe. Còn vợ ông thế nào ?”

“Tôi không có vợ. Này, Lance, chúng tôi có vài mẩu tin tức rất nghiêm chỉnh là anh đang tìm kiếm một sát thủ đấy nhé.”

“Dối trá, hoàn toàn là dối trá.”

“Nào, chúng tôi không nghĩ vậy. Anh thấy đấy, Lance, tất cả bạn bè của anh đều cùng một giuộc. Hoặc là vừa mới ra tù hoặc là cũng đang rất cố gắng để được trở lại đấy. Đám cặn bã, anh biết đấy. Hoàn toàn là thứ cặn bã. Luôn luôn tìm kiếm những đồng tiền bẩn thỉu, luôn luôn ranh ma. Họ nghe được một tin sốt dẻo và không đợi gì mà không báo cho đám Liên bang. Điều đó có thể giúp đỡ họ trong nhữhg rắc rối khác sau này.”

“Hay đấy, hay thật đấy.”

“Và do vậy mà chúng tôi biết là anh có một ít tiền, anh lại có cái người đàn bà đang sắp mất một đống tiền, và tất cả mọi thứ sẽ trở nên tốt đẹp nếu như ông Lanigan kia vẫn là người chết.”

“Ai cơ ?”

“Được. Đây là điều mà chúng tôi sẽ làm. Chúng tôi và đám Liên bang sẽ giám sát anh, anh và ả đàn bà của anh, và chúng tôi sẽ giám sát thật sự gắt gao đấy. Anh mà giở trò gì là chúng tôi sẽ tóm cả hai. Cả anh và Trudy sẽ tự rơi vào tình trạng còn tệ hơn cả của Lanigan cho mà xem.”

“Ông cho là tôi sẽ sợ ư ?”

“Nếu anh còn tỉnh táo thì nên biết sợ.”

“Tôi có thể đi được chưa nào ?”

“Xin mời.”

Cả hai cánh cửa xe được mở ra từ phía bên ngoài và Lance trở về xe của hắn.

oOo

Cũng vào khoảng thời gian đó, nhân viên đặc biệt Cutter bấm chuông nhà Trudy, hy vọng là ả đang ngủ. Ông ta ngồi trong một tiệm cà phê ở Fairhope, chờ nghe tin Lance đã bị tạm giữ.

Trudy còn thức. Ả mở hé và nói qua khe cửa. “Ông muốn gì ?”

Cutter chìa tấm thẻ ra và gằn giọng, “FBI.” Rồi hỏi. “Tôi vào được không ?"

“Không."

“Lance đang bị cảnh sát tạm giữ. Tôi nghĩ rằng chúng ta cần nói chuyện.”

“Hả?”

“Cảnh sát Biloxi đang giữ anh ta.”

Trudy tháo sợi dây xích và mở rộng cửa. Họ đứng ở ngay lối vào, đối diện nhau, và Cutter có vẻ rất khoan khoái.

“Anh ấy đã làm gì ?” Ả hỏi.

“Tôi nghĩ là anh ta sẽ được thả ra ngay thôi.”

“Tôi sẽ gọi luật sư của tôi.”

“Được thôi, nhưng có điều tôi phải nói với bà trước. Chúng tôi có một tin đáng tin cậy là Lance đang tìm kiếm một tay đao búa để hạ sát chồng bà, Patrick Lanigan.”

“Không !” Ả giơ tay ôm miệng, vẻ ngạc nhiên thật sự.

“Đúng đấy. Và bà có thể gặp rắc rối. Lance đang tìm cách bảo vệ cho đống tiền của bà mà, và tôi chắc là bà sẽ bị coi là đồng lõa. Nếu như có chuyện gì xảy ra đối với Lanigan thì chúng tôi sẽ đến đây trước nhất.”

“Chúng tôi có làm gì đâu.”

“Giờ thì chưa. Chúng tôi sẽ giám sát bà chặt chẽ đấy, bà Lanigan.”

“Đừng có gọi tôi như vậy.”

“Xin lỗi.”

Cutter bỏ đi, để mặc ả đứng đó.

oOo

Sandy đậu xe tại một bãi đỗ bên phố Canal vào lúc khoảng nửa đêm, đi nhanh dọc theo phố Decatur để vào khu phố Pháp. Thân chủ của anh đã có những lời giáo huấn nghiêm ngặt về vấn đề an ninh, đặc biệt là với mỗi lần gặp gỡ Leah. Chỉ có Sandy mới có thể dẫn họ tới chỗ Leah được, và bởi vậy anh phải cực kỳ thận trọng. “Cô ấy đang bị đe dọa nghiêm trọng, Sandy,” Patrick vừa mới nói với anh như vậy trước đó một giờ. “Anh phải hết sức cẩn thận đấy.”

Sandy đi ba lần vòng theo bốn khúc phố bao quanh một khu nhà, và khi chắc chắn là không thể có ai đang bám theo sau mới dám lẩn vào một quán bar, gọi một ly xôđa và nhìn ra hè phố. Thế rồi anh đi sang đường để tới khách sạn Royal Sonesta. Anh hòa vào trong đám khách du lịch ở gian tiền sảnh, rồi đi thang máy lên tầng ba. Leah mở cửa cho anh rồi khóa trái ngay lại.

Không có gì phải ngạc nhiên, trông nàng mệt mỏi và ủ rũ.

“Tôi lấy làm tiếc về chuyện cha cô,” Sandy nói. “Cô có nghe được tin tức gì không ?”

“Không. Tôi vẫn phải di chuyển liên tiếp.” Có một khay cà phê đặt trên chốc cái TV. Sandy rót một tách và khuấy đường vào. “Patrick cho tôi biết chuyện,” anh nói. “Những người đó là ai vậy ?"

“Có một hồ sơ ở đằng kia,” nàng nói, hất hàm về phía chiếc bàn nhỏ. “Xin mời ngồi.” Nàng chỉ về phía cuối giường. Sandy làm theo và chờ đợi. Đã đến thời điểm cho một câu chuyện rồi.

“Chúng tôi gặp nhau hai năm về trước, vào năm 1994, sau khi anh ấy làm phẫu thuật chỉnh hình ở Rio. Patrick tự giới thiệu là nhà kinh doanh người Canada, đang cần một luật sư trong các vấn đề thương mại. Nhưng thực ra là anh đang cần một người bạn. Tôi đã là bạn của anh ấy trong hai ngày, thế rồi chúng tôi phải lòng nhau. Anh ấy kể lại với tôi mọi chuyện trong quá khứ, tất cả, nhất là cái việc bỏ trốn đi một cách hoàn hảo, và có rất nhiều tiền, thế nhưng vẫn không thể nào quên được quá khứ. Anh ấy rất muốn biết ai đang truy đuổi mình, và họ đã áp sát đến mức nào rồi. Vào tháng Tám năm 1994, tôi tới Mỹ, và đã tiếp xúc vói một Hãng thám tử tư ở Atlanta. Đó là một Hãng có cái tên kỳ cục, Nhóm Pluto, gồm các cựu nhân viên FBI mà Patrick đã biết từ trước lúc chạy trốn. Tôi dùng một cái tên giả, bảo với họ rằng tôi từ Tây Ban Nha tới, và rằng tôi cần những thông tin về vụ tìm kiếm Patrick Lanigan. Tôi trả họ năm mươi nghìn đôla. Sau đó, họ đã phái người đi Biloxi, nơi họ đã tiếp xúc với Hãng luật cũ của Lanigan. Họ giả bộ có một vài thông tin mơ hồ về nơi ẩn náu của anh ấy, và các luật sư ở đó giới thiệu họ gặp một người ở Oasinhtơn có tên là Jack Stephano. Đó là một gã mật thám cao giá, chuyên hoạt động trong lĩnh vực do thám cho các công ty và tìm người mất tích. Họ đã gặp lão ta ở Oasinhtơn. Lão rất kín miệng và không cho họ được biết gì mấy, nhưng rõ ràng là lão đang điều hành công việc truy tìm Patrick. Họ gặp lão thêm vài lần nữa, và rồi xuất hiện khả năng về một khoản tiền thưỏng. Họ đề nghị bán thông tin, và Stephano đồng ý trả năm mươi nghìn đôla nếu thông tin đó dẫn đến được với Patrick. Trong quá trình gặp gỡ đó, họ biết rằng Stephano có lý do xác đáng để tin rằng Patrick đang ở Braxin. Điều này, tất nhiên, đã làm cho Patrick và tôi lo sợ.”

“Đó là dấu vết đầu tiên để Patrick biết là họ đã biết anh ấy ở Braxin ư ?”

“Đúng thế. Patrick đã ở Braxin hơn hai năm. Khi nói thật với tôi về quá khứ của mình, anh ấy không hề biết liệu những kẻ đang truy lùng mình có đi đúng hướng hay không. Việc biết họ đã có mặt ở Braxin thật là một tin khủng khiếp.”

"Tại sao không chạy đi nơi khác ?”

“Có nhiều lý do. Patrick đã nghĩ tới chuyện đó. Chúng tôi đã bàn bạc nhiều. Tôi sẵn sàng ra đi với anh ấy. Nhưng sau cùng, Patrick cũng tin rằng mình có thể náu mình kỹ hơn nữa ở đất nước này. Anh ấy rất rành về đất nước tôi - tiếng nói, con người, và vô số nơi để ẩn náu. Bên cạnh đó, anh ấy không muốn tôi phải rời khỏi gia đình. Tôi nghĩ rằng lẽ ra chúng tôi đã nên chạy sang Trung Quốc hay một nơi nào đó.”

“Có thể Patrick nghĩ là cô không thể làm thế được.”

“Có lẽ. Tôi vẫn duy trì tiếp xúc với Nhóm Pluto. Tôi mướn họ giám sát cuộc điều tra của Stephano ở mức cao nhất có thể. Họ đã liên hệ với khách hàng của lão ta, ông Benny Aricia, với cùng câu chuyện vờ vĩnh về những thông tin có thể có. Họ cũng đã liên hệ với các công ty bảo hiểm kia. Trong tất cả các liên hệ này, họ đều được giới thiệu gặp Stephano. Cứ ba đến bốn tháng, tôi lại bay từ châu Âu đến đây, và họ lại cho tôi biết những gì họ đã phát hiện được.”

“Stephano đã tìm ra anh ấy như thế nào ?”

"Tôi không thể kể lại với ông câu chuyện đó lúc này. Tự Patrick sẽ làm điều đó.”

Lại một lỗ đen nữa, và khá có ý nghĩa. Sandy đặt tách cà phê xuống bàn và cố điểm lại tình hình. Chắc chắn là sẽ dễ dàng hơn nếu hai người họ nói với anh tất cả mọi chuyện. Từ đầu cho tới bây giờ, như vậy thì anh, luật sư của họ, có thể giúp ích nhiều hơn cho họ trong thời gian trước mắt này. Cũng có lẽ họ không cần tới bất kỳ sự giúp đỡ nào. Vậy là Patrick biết vì sao hắn bị phát hiện.

Nàng đưa cho Sandy cái cặp hồ sơ dày để trên bàn. “Đây là những người đang cầm giữ cha tôi.”

“Stephano ?"

“Phải. Tôi là người duy nhất biết chỗ tiền kia đang ở đâu, Sandy. Vụ bắt cóc này chỉ là một cái bẫy.”

“Làm sao mà Stephano biết về cô được ?"

“Patrick đã nói với họ.”

“Patrick ?"

“Đúng. Ông đã nhìn thấy những vết bỏng rồi chứ ?”

Sandy đứng dậy và cố gắng để hiểu vấn đề. “Vậy thì tại sao Patrick không cho họ biết tiền đang ở đâu ?”

“Bởi vì anh ấy không biết.”

“Anh ấy đã giao cả cho cô ?”

“Đại loại là thế. Tôi kiểm soát chỗ tiền đó. Giờ đây tôi đang bị săn lùng và ở giữa thì người cha đáng thương của tôi bị kẹt.”

"Tôi sẽ phải làm gì ?”

Nàng mở ngăn kéo lấy ra một cặp hồ sơ tương tự nhưng mỏng hơn. “Trong đây có các thông tin về cuộc điều tra của FBI nhằm vào Patrick. Vì những lý do dễ hiểu, chúng tôi đã không biết được gì nhiều. Người phụ trách vụ này là một nhân viên FBI, Cutter, ở Biloxi. Ngay khi biết Patrick bị bắt, tôi đã gọi cho Cutter. Rất có thể là cú điện đó đã cứu mạng Patrick đấy.”

“Nói chậm thôi nào. Tôi theo không kịp.”

“Tôi nói với Cutter rằng Jack Stephano đã tìm được Patrick Lanigan, và đang tra hỏi về số tiền. Sau đó, tôi cho rằng FBI đã gặp thẳng Stephano và đe dọa lão. Các nhân viên của lão ở Braxin đã tra tấn Patrick trong một vài giờ đồng hồ, suýt giết chết anh ấy, rồi họ buộc phải trao anh ấy lại cho FBI.”

Sandy nghe như nuốt lấy từng lời trong khi hai mắt nhắm nghiền. “Cứ tiếp tục đi,” anh nói.

“Hai ngày sau, Stephano bị bắt ở Oasinhtơn và văn phòng của lão bị niêm phong.”

“Làm sao mà cô biết được chuyện đó ?"

“Tôi vẫn đang trả nhiều tiền cho mấy người ở Pluto. Họ rất thạo nghề. Chúng tôi ngờ rằng Stephano đang khai báo với FBI, đồng thời vẫn lặng lẽ truy lùng tôi. Và cả cha tôi nữa.”

“Tôi sẽ phải nói gì với Cutter ?”

“Trước hết, hãy nói với ông ta về tôi. Nói rằng tôi là một luật sư rất gần gũi với Patrick, rằng tôi đang quyết định công việc thay cho anh ấy, và rằng tôi biết tất cả mọi chuyện. Rồi sau đó hãy nói tới chuyện cha tôi.”

“Và cô nghĩ là FBI sẽ kiếm chuyện với Stephano ư?”

“Có thể có, có thể không. Nhưng chúng ta không có gì để mất cả.”

Đã gần một giờ sáng, và nàng đã mỏi mệt. Sandy thu dọn tài liệu rồi bước ra cửa.

“Chúng ta sẽ còn phải nói chuyện nhiều,” nàng nói.

“Sẽ rất hay nếu tôi biết tất cả mọi chuyện.”

“Hãy cho chúng tôi thời gian.”

“Tốt nhất là cô nên nhanh chóng hơn.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 26


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Bác sĩ Hayani bắt đầu tua thăm bệnh buổi sáng vào đúng bảy giờ. Do đã biết Patrick khó ngủ nên các buổi sáng Hayani thường chỉ ngó qua căn phòng tối bưng của hắn rồi đi tiếp. Thường thì hắn vẫn đang ngủ, dù rằng sau đó hắn vẫn phàn nàn rằng đêm trước không ngủ được. Sáng nay, Patrick đã thức, và đang ngồi trên ghế đặt trước cửa sổ. Hắn mặc độc có chiếc quần cộc bằng vải bông màu trắng, mắt đăm đăm nhìn vào tấm rèm cửa khép kín trước mặt, mặc dù chẳng có gì ở đó để mà nhìn. Chỉ có chút ánh sáng từ chiếc đèn bàn cạnh giường.

“Patrick, anh khỏe đấy chứ ?” Hayani hỏi khi đến bên hắn.

Hắn không đáp. Hayani nhìn vào chiếc bàn đặt ở góc phòng, nơi Patrick lo những chuyện kiện tụng của hắn. Tất cả đều gọn gàng, không có cuốn sách nào đang mở ra hay một hồ sơ nào đang xem xét dở.

Sau cùng, hắn đáp, "Tôi khỏe, thưa bác sĩ.”

“Anh có ngủ được không ?”

“Không. Không hề chợp mắt được.”

“An toàn mà, Patrick. Mặt trời lên rồi.”

Hắn không nói gì; không hề nhúc nhích. Hayani đi ra, để mặc hắn ngồi đấy, vẫn nhìn đăm đắm vào tấm rèm cửa. Patrick nghe thấy những giọng nói vui vẻ ngoài hành lang, tiếng người bác sĩ nói với mấy tay cảnh sát đang chán chường, rồi tiếng các cô y tá đang vội vã đi qua. Bữa sáng sắp được mang đến, song hắn cũng không quan tâm lắm. Sau bốn năm rưỡi nhịn ăn, hắn đã làm chủ được cái thói thèm ăn của mình. Chỉ vài miếng này khác, với vài lát táo hay cà rốt lúc quá đói. Các cô y tá ban đầu cảm thấy muốn làm cho hắn béo tốt lên, thế nhưng bác sĩ Hayani đã can thiệp và cho một thực đơn ít chất béo, không đường, và nặng về rau cùng bánh mì. Hắn đứng dậy, đi ra mở cửa và khẽ chào Pete và Eddie, hai trong số các cảnh sát túc trực ở đây.

“Ngủ tốt chứ hả ?” Eddie hỏi, sáng nào cũng vậy.

“Cũng được, Eddie, cảm ơn,” Patrick nói, như một thứ thủ tục. Trong hành lang, trên chiếc ghế dài cạnh thang máy, hắn trông thấy Brent Myers, tay nhân viên FBI vô tích sự đã áp giải hắn từ Puéctô Ricô về. Hắn gật đầu chào, nhưng Brent đang mải nhìn vào tờ báo sáng.

Patrick lui trở vào trong phòng, và bắt đầu bài tập cho hai cái đầu gối. Cơ bắp của hắn đã lành lại, nhưng những vết bỏng thì vẫn còn cương cứng. Không thể nào nghĩ tới chuyện làm những động tác mạnh được.

Một cô y tá gõ cửa và bưóc vào. “Xin chào anh Patrick,” cô ta vui vẻ chào. “Đến giờ ăn sáng rồi.” Cô ta đặt chiếc khay lên bàn. “Đêm qua anh thế nào ?”

"Tuyệt vời. Còn cô ?"

“Cũng tuyệt vời. Anh có muốn gì nữa không nào ?”

“Không, cảm ơn.”

“Có gì thì cứ gọi nhé,” cô ta nói và đi ra. Ngày nào cũng vậy chẳng có gì thạy đổi. Nhưng tuy vậy, Patrick cũng không hề quên rằng mọi việc đã có thể tồi tệ hơn đến thế nào. Bữa sáng ở nhà tù quận Harrison được đưa đến trên những cái khay sắt, qua những khe hẹp ở cửa các phòng giam và phải ăn trước mặt các tù nhân khác trong phòng, với thành phần thay đổi liên tục hàng ngày.

Hắn uống cà phê và ngồi vào cái chỗ làm việc nhỏ bé của mình phía bên dưới cái TV. Hắn bật đèn lên và nhìn vào đám hồ sơ. Hắn đã ở Biloxi được một tuần rồi. Cuộc sống kia của hắn đã chấm dứt cách đây mười ba ngày, trên một con đường hẹp bụi bặm, lúc này đã ở cách xa hàng nghìn dặm. Hắn chỉ muốn lại được là Danilo, với cuộc sống bình lặng trong ngôi nhà đơn sơ, nơi mà người hầu gái nói chuyện với hắn bằng thứ tiếng Bồ Đào Nha đầy âm điệu pha lẫn với cái giọng Anhđiêng của cô ta. Hắn nhớ Braxin, xứ sở của Danilo, một đất nước bao la, tươi đẹp với những tương phản rõ nét, những thành phố đông đúc và những làng xóm lạc hậu, cùng những người dân hiền lành. Hắn nhớ tới khắc khoải Eva yêu dấu của hắn; sự mềm mại của những ngón tay nàng, vẻ đẹp của nụ cười của nàng, những kỳ diệu nơi thân thể nàng cùng một tấm lòng nhân hậu. Hắn sẽ không thiết sống nữa nếu như không có nàng.

Tại sao người ta lại không thể có thêm một cuộc đời nữa nhỉ ? Do đâu mà người ta lại không thể nào làm lại từ đầu được ? Patrick đã chết, và Danilo đã bị bắt. Tại sao hắn lại không thể chạy trốn một lần nữa ? Một cuộc đời thứ ba đang mời gọi, và lần này sẽ không có nỗi buồn của cuộc đời thứ nhất hay những cái bóng rình rập của cuộc đời thứ hai nữa. Lần này sẽ là một cuộc sống mỹ mãn với Eva. Họ sẽ sống ở đâu đó, bất kỳ đâu, bên nhau, và quá khứ không còn thể nào ám ảnh được họ. Họ sẽ sống trong một ngôi nhà thật lớn, và sẽ sinh thật nhiều con.

Nàng là một phụ nữ mạnh mẽ, nhưng cũng giống như mọi người, nàng có những giới hạn của mình. Nàng yêu cha, và gia đình luôn có một sức hút mạnh mẽ. Hắn đã đặt nàng vào vòng hiểm nguy, và giờ đây hắn phải bảo vệ nàng.

Hắn có thể làm một lần nữa được không ? Hay vận may của hắn đã hết rồi ?

oOo

Cutter chấp nhận một cuộc gặp vào lúc tám giờ chỉ bởi lẽ cái ông McDermott kia cứ khăng khăng cho rằng đó là chuyện khẩn cấp. Việc một nhóm quan chức đến rất sớm đã làm cái tòa nhà Liên bang như bừng tỉnh. Giờ làm việc ở đó chỉ bắt đầu lúc chín giờ. Cutter không cộc cằn, nhưng tất nhiên là cũng không nồng nhiệt gì. Chuyện trò với đám luật sư lắm chuyện không phải là việc ông ta ưa thích. Sandy nhã nhặn cảm ơn việc được gặp, và Cutter có vẻ dịu đi một chút. “Ông có còn nhớ cú điện thoại mà ông nhận được cách đây mười ba ngày không ạ ?” Sandy hỏi. “Người phụ nữ gọi từ Braxin ấy ?”

“Tất nhiên.”

"Tôi đã gặp cô ấy một vài lần. Cô ấy là luật sư của Patrick.”

“Cô ta có ở đây không ?"

“Loanh quanh.” Sandy thổi phù phù rồi dè dặt nhấp một ngụm cà phê. Anh nhanh chóng nói lại hầu hết những gì mình biết về Leah, nhưng không hề nhắc đến tên nàng. Thế rồi, anh hỏi thăm tới cuộc điều tra về Stephano. Cutter lập tức thận trọng. Ông ta ghi lại vài ba điều gì đó với cây bút rẻ tiền, và thầm tính bài.

“Làm sao anh lại biết về Stephano ?”

“Đồng sự của tôi, người phụ nữ Braxin kia, biết rất rõ về Stephano. Ông hẳn nhớ chính cô ấy đã cho ông biết tên lão ta.”

“Làm sao mà cô ta biết được về lão ấy ?"

“Đó là một câu chuyện rất dài và phức tạp, và tôi không thích thú gì với phần lớn câu chuyện đó.”

“Vậy sao anh lại khơi ra ?”

“Bỏi lẽ Stephano vẫn đang rình rập thân chủ của tôi, và tôi muốn ngăn chặn lão.”

Cutter lại ghi chép, và thêm một ngụm cà phê nữa. Một cái biểu đồ rắc rối đã hình thành trong khi ông ta cố sắp xếp lại xem ai đã nói gì với ai. Ông ta biết hầu hết những gì đang diễn ra ở Oasinhtơn với lời khai tồng tộc của Stephano, thế nhưng vẫn còn có những khoảng trống. Chắc chắn rằng việc Stephano phải ngừng cuộc săn lùng của lão ta là điều đã được xác định. “Làm sao mà ông biết được điều này ?”

“Bởi vì tay chân của lão ở Braxin đã bắt cóc người cha của người đồng sự của tôi.”

Cutter không thể mím môi được nữa, cũng không còn hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra. Ông ta đưa mắt nhìn lên trần nhà, đầu óc quay cuồng với cái thông tin mới mẻ của Sandy. Thế rồi một tia sáng lóe lên. “Phải chăng cái cô luật sư người Braxin này có thể biết chỗ tiền kia đang ở đâu ?”

“Đó là một khả năng.”

Ra là vậy!!!

Sandy nói tiếp, “Vụ bắt cóc này là một nỗ lực nhằm dụ cô ấy quay trở về Braxin, nơi mà người ta sẽ chộp lấy và buộc cô ấy phải dùng một ít thuốc mà họ đã từng sử dụng đối vói Patrick. Tất cả chỉ là vì tiền.”

Cutter thốt ra chậm chạp, nhưng không phải là do cố ý. “Chuyện bắt cóc đó xảy ra khi nào vậy?”

“Ngày hôm qua.” Một phụ tá trong văn phòng Sandy vừa tóm được tin này từ mạng Inte trước đó có hai tiếng đồng hồ. Đó là một tin ngắn trên trang sáu của tờ O Globo, một nhật báo có tiếng ở Braxin. Tin cho biết tên nạn nhân là Paulo Miranda. Sandy vẫn chưa hề biết tên thật của Leah, và cũng là đúng khi có giả thiết rằng FBI có thể xác minh được về nàng nếu như họ có được mẩu tin đó trong tay. Thực lòng thì anh không nghĩ rằng sẽ có hại gì nếu cho FBI biết. Thế nhưng, vấn đề là ở chỗ chính anh cũng không biết.

“Chúng tôi không làm được gì nhiều trong chuyện này đâu.”

“Ông đâu nói thế được. Stephano đứng sau vụ đó. Hãy gây sức ép với lão. Bảo lão rằng đồng sự của tôi sẽ không chịu rơi vào cái bẫy của lão đâu, và rằng cô ấy sẽ đi gặp các nhà chức trách Braxin với cái tên Jack Stephano đấy.”

“Tôi sẽ xem xem có thể làm được gì.” Cutter không quên việc Sandy McDermott đã đệ đơn kiện đòi FBI bồi thường nhiều triệu đôla cho những tội lỗi mà cơ quan này không hề gây ra. Cũng chẳng được gì nếu đề cập tới vụ kiện đó vào lúc này. Có lẽ là để sau.

“Stephano không quan tâm tới gì khác ngoài tiền,” Sandy nói. “Nếu ông già đó mà phải chịu đau đớn thì lão ta sẽ không bao giờ được nhìn thấy một xu nào cả.”

“Phải chăng anh muốn nói là có chỗ để thương lượng ở đây ?”

“Ông nghĩ sao ? Nếu như ông đang phải đối mặt vói một án tử hình hay tù chung thân thì liệu ông có sẵn sàng thương lượng không ?”

“Vậy chúng tôi sẽ nói gì với Stephano ?”

“Bảo lão thả ông già kia ra, và rồi chúng tôi có thể nói chuyện về tiền bạc.”

oOo

Ngày làm việc của Stephano bắt đầu khá sớm. Cuộc gặp thứ tư này, theo chương trình, sẽ kéo dài cả ngày và cũng là kết thúc việc kể lại các chi tiết trong cuộc phiêu lưu tìm kiếm Patrick. Luật sư của lão vắng mặt vì còn phải dự một phiên tòa không thể đừng được. Stephano không cần đến luật sư dắt tay cho lão, và, nói thẳng ra, lão cũng chẳng thích thú gì với cái giá 450 đôla một giờ cả. Chuyên gia thẩm vấn hôm nay là một tay mới. Tên anh ta là Oliver gì đó. Cũng chẳng có gi khác. Họ đều từ một lò mà ra cả.

“ Ông đang nói về tay bác sĩ chỉnh hình,” Oliver nói như thể là hai người chỉ vừa mới bị một cú điện thoại làm gián đoạn câu chuyện vậy. Hai người chưa bao giờ gặp nhau, và đã mười ba tiếng đồng hồ qua, Stephano chưa hề nói với bất kỳ ai về Patrick.

“Phải.”

“Và đó là vào tháng Tư năm 94.”

“Chính xác.”

“Vậy thì tiếp tục đi.”

Stephano ngồi lại cho thoải mái. “Các dấu vết đã nguội đi trong một thời gian. Thực ra là một thời gian khá dài. Chúng tôi rất nỗ lực, nhưng nhiều tháng trôi qua mà không hề tìm kiếm được gì. Không một vết tích nào nữa. Thế rồi, vào cuối năm 94, một Hãng thám tử tư ở Atlanta, Nhóm Pluto, đã liên hệ với chúng tôi.”

“Pluto à ?”

“Phải, Nhóm Pluto. Chúng tôi gọi họ là bọn Pluto. Những kẻ khá vững tay. Một số trong đó là cựu nhân viên của cơ quan các anh. Họ hỏi về việc tìm kiếm Patrick Lanigan và nói rằng họ có thể giúp được gì đó. Tôi đã gặp bọn họ một vài lần ở ngay Oasinhtơn này. Họ có một khách hàng bí ẩn, người nói rằng có biết đôi điều về Lanigan. Tất nhiên là tôi quan tâm. Họ không vội vã gì bởi lẽ khách hàng của họ có vẻ cũng không vội vã. Không có gì đáng ngạc nhiên là người khách hàng kia đòi khá nhiều tiền. Và điều trớ trêu là việc đó lại hấp dẫn mới chết chứ.”

“Sao lại thế ?”

“Nếu như khách hàng của họ đã biết trông chờ một khoản thưởng lớn thì có nghĩa là người đó biết rằng Lanigan vẫn còn rất nhiều tiền. Vào tháng Bẩy năm 95, bọn Pluto mang đến tôi một đề nghị. Họ hỏi nếu như người khách của họ có thể đưa chúng tôi tới một nơi ở Braxin mà Lanigan mới ẩn náu trước đó một thời gian thì sao ? Tôi nói tốt. Họ hỏi bao nhiêu ? Và chúng tôi đã thỏa thuận vói cái giá năm mươi nghìn đôla. Lúc đó tôi đang tuyệt vọng. Tiền được chuyển qua đường ngân hàng tới một nhà băng ở Panama. Sau đó tôi được báo là phải đến cái thành phố Itajaí nhỏ tẹo ở bang Santa Catarina, nằm tít dưới miền Nam Braxin. Theo địa chỉ họ trao, chúng tôi đến một tòa chung cư nhỏ trong một khu đẹp của thành phố. Tay quản lý rất nhiệt tình, đặc biệt là sau khi đã được chúng tôi lót tay. Chúng tôi cho ông ta xem những tấm hình của Lanigan, và ông ta ngập ngừng. Thêm chút nữa vào tay, và ông ta xác định dứt khoát đó là Jan Horst, một người Đức theo chỗ ông ta nghĩ, nói tiếng Bồ Đào Nha rất giỏi. Người khách đó đã mướn một căn hộ ba phòng trong hai tháng, trả tiền mặt và thích ngồi uống cà phê với tay quản lý cùng với vợ của ông ta. Bà vợ cũng xác nhận đó đúng là Horst. Ông ta nói mình là một nhà văn đang đi thực tế để viết một cuốn sách về dòng nhập cư của những nguời Đức và người Italia tới Braxin. Lúc ra đi, ông ta nói sẽ đến thành phố Blumenau để nghiên cứu về kiến trúc Bavaria ở đó.”

“Ông có đi Blumenau không ?"

“Tất nhiên là chúng tôi có đi. Và rất nhanh là đằng khác. Chúng tôi rà soát cái thành phố đó, nhưng sau hai tháng thì bỏ cuộc. Sau những phấn khích ban đầu, chúng tôi đành chấp nhận cái công việc tẻ ngắt là lảng vảng quanh các khách sạn và chợ búa, chìa ra những tấm hình và hứa hẹn chút tiền thưởng.”

“Còn bọn Pluto, như ông gọi, thì sao ?"

“Họ lạnh nhạt đi một cách đáng kể. Tôi sốt ruột sốt gan muốn nói chuyện với họ, thế nhưng họ như không có gì để nói tiếp. Tôi cho rằng khách hàng của họ chột dạ, hoặc giả đã mãn nguyện với việc kiếm được năm mươi nghìn. Dù sao thì cũng mất đứt sáu tháng mà không có mấy tin tức gì từ phía Pluto. Thế rồi, vào cuối tháng Giêng năm nay, họ lại vội vã trở lại. Khách hàng của họ lại cần tiền, và sau cùng đã sẵn sàng bán tháo. Chúng tôi mặc cả giằng co trong ít ngày, thế rồi họ quyết định là với một triệu đôla thì chúng tôi có thể biết chính xác nơi Patrick đang trú ngụ. Tôi khước từ. Không phải là tôi không có tiền mà chỉ là vì điều đó quá mạo hiểm. Khách hàng của họ không muốn nói trước khi tiền được trả, và tôi thì lại không muốn chi trước khi biết được thông tin. Không có cách nào để xác quyết được rằng người khách kia có thực sự biết gì không. Trên thực tế, thì chẳng còn chuyện gì để mà nói nữa. Hai bên đều nổi nóng và chuyện thương lượng tan vỡ.”

“Nhưng các ông vẫn tiếp tục đàm phán mà ?"

“Đúng, chúng tôi chẳng còn cách nào khác. Khách hàng của họ phải có tiền. Chúng tôi thì phải có được Lanigan. Một thỏa thuận khác được đưa ra theo đó chúng tôi sẽ có được tên và địa chỉ nơi mà Lanigan sống sau lúc hắn rời khỏi Itajaí, với giá năm mươi nghìn đôla. Chúng tôi đồng ý, bởi vì theo cách nhìn của chúng tôi thì cái giá năm mươi nghìn là rẻ và luôn luôn có cơ hội gặp may để kiếm được một nguồn tin khác nào đó. Từ cách nhìn của Pluto thì thỏa thuận đó là được bởi lẽ nó củng cố cho uy tín của người khách hàng của họ. Và tất nhiên, đó cũng là một bước đi nữa, hướng tới cái khoản cả triệu đôla kia. Có một cái đầu nào đó đằng sau Pluto, và tôi rất muốn được đấu trí. Tôi sẽ vui lòng trả một triệu đôla nhưng cần phải có sự bảo đảm.”

“Cái thành phố thứ hai kia ở đâu ?"

“São Mateus, thuộc bang Espírito Santo, trên bờ biển ở về phía bắc Rio. Đó là một thị trấn nhỏ với khoảng sáu mươi nghìn dân, khung cảnh tươi đẹp và dân chúng thì hiền lành, và chúng tôi đã mất một tháng ở đó. Vụ nhà cửa thì cũng giống như ở Itajaí hai tháng, trả tiền mặt, một người Anh có tên là Derrick Boone. Không cần phải lót tay gì, ngưòi chủ nhà khẳng định Boone đúng là đối tượng của chúng tôi. Có vẻ như là Boone đã ở quá một tuần mà không trả tiền, bởi vậy đã gây chút ác cảm. Tuy nhiên, không giống như ở Itajaí, Boone không giao thiệp với ai và chủ nhà không biết gì về những việc làm của hắn. Không còn gì khác nữa, và chúng tôi rời São Mateus vào đầu tháng Ba năm nay. Chúng tôi tập kết lại ở São Paulo và Rio, lập ra những kế hoạch mới.”

“Kế hoạch mới gì vậy ?”

“Chúng tôi rút khỏi miền Bắc và tập trung vào những thị trấn nhỏ hơn ở các bang gần Rio và São Paulo. Tại Oasinhtơn này, tôi làm ráo riết hơn với bọn Pluto. Khách hàng của họ muốn có một triệu đôla. Khách hàng của tôi không muốn trả tiền mà không chắc ăn. Một sự bế tắc mà cả hai bên đều làm găng nhưng vẫn tiếp tục nói chuyện.”

“Có bao giờ ông biết vì sao mà khách hàng của họ biết nhiều như vậy về từng bước đi của Lanigan không?”

“Không. Chúng tôi cũng đoán già đoán non mãi. Một giả thuyết được nêu ra là khách hàng của họ cũng đang lùng sục Lanigan, vì một lý do nào đó. Có thể là một ai đó trong FBI đang rất cần tiền. Tất nhiên, đó chỉ là ý tưỏng vu vơ, thế nhưng chúng tôi phải nghĩ tới mọi chuyện. Giả thuyết thứ hai và là giả thuyết có nhiều khả năng nhất, cho rằng khách hàng của họ là một người mà Lanigan biết và tin cậy, song kẻ này sẵn sàng bán đứng hắn. Cho dù thế nào thì khách hàng của họ và tôi cũng đã quyết định là không thể để mất cơ hội. Lúc bấy giờ, cuộc tìm kiếm đã kéo dài gần bốn năm trời và chẳng đâu vào đâu cả. Như chúng tôi đã biết, có tới cả triệu nơi ẩn nấp tuyệt vời ở Braxin, và Lanigan có vẻ rất sành sỏi.”

“Các ông có phá vỡ được sự bế tắc kia không ?”

“Họ đã làm điều đó. Vào tháng Tám năm nay, họ bất ngờ đưa ra một đề nghị khác: những tấm ảnh hiện tại của Lanigan, đổi lấy năm mươi nghìn đôla nữa. Chúng tôi đồng ý. Tiền được chuyển ra nước ngoài. Họ trao những tấm ảnh đó cho tôi tại văn phòng của tôi ở Oasinhtơn đây. Đó là ba tấm ảnh đen trắng khổ 18/24."

“Tôi có thể xem được không ?”

“Được thôi.” Stephano lấy mấy tấm ảnh từ trong cái cặp được sắp xếp rất ngăn nắp của lão ra, và đẩy chúng qua mặt bàn. Tấm đầu tiên chụp Lanigan trong một cái chợ đông đúc, có vẻ như là từ một khoảng cách xa. Hắn đeo kính râm và đang cầm cái gì đó như một quả cà chua. Tấm thứ hai được chụp trước hoặc sau đó một tẹo khi hắn đang bước đi trên hè đường, tay xách một cái túi gì đó. Hắn mặc quần jeans và trông không khác bất cứ một người Braxin nào. Tấm thứ ba nói lên được nhiều điều nhất; Patrick mặc quần soóc, áo phông và đang cọ rửa chiếc Volkswagen Beetle của hắn. Không nhìn thấy được biển kiểm soát, cũng không nhìn được gì nhiều về ngôi nhà. Không có cặp kính râm và có thể thấy được rõ ràng gương mặt của hắn.

“Không có biển tên phố, không có biển kiểm soát,” Oliver nhận xét.

“Không có gì cả. Chúng tôi đã nghiên cứu chúng hàng giờ, nhưng không thấy gì cả. Một lần nữa, như tôi đã nói, có một cái đầu nào đó đang tính toán cho tất cả những chuyện này.”

“Vậy các ông đã làm gì ?”

“Đồng ý trả một triệu đôla kia.”

“Bao giờ ?”

“Vào tháng Chín. Tiền được giao cho một bên thứ ba đáng tin cậy ở Giơnevơ, và sẽ được giữ ở đó cho đến khi cả hai bên gửi thông báo chuyển tiền. Theo thỏa thuận, khách hàng của họ có mười lăm ngày để trao cho chúng tôi địa chỉ nơi hắn đang trú ngụ. Chúng tôi ngồi gặm móng tay suốt cả thời gian chờ đợi đó, thế rồi vào ngày thứ mười sáu, sau một cuộc cãi cọ, họ đã chịu thực hiện thỏa thuận. Đó là thị trấn Ponta Porã, phố Tiradentes. Chúng tôi lao ngay tới thị trấn đó; rồi lặng lẽ chiếm lĩnh các vị trí. Cho đến lúc này thì chúng tôi đã rất kính nể Lanigan và chúng tôi cho rằng hắn cực kỳ giỏi trong việc vừa di chuyển vừa canh chừng đằng sau lưng. Chúng tôi tìm thấy hắn, rồi theo dõi hắn trong một tuần cho chắc ăn. Tên hắn là Danilo Silva.”

“Một tuần cơ à ?”

“Phải, chúng tôi cần phải kiên nhẫn. Hắn chọn Ponta Porã là có lý. Đó là một nơi ẩn náu tuyệt vời. Các quan chức địa phương sẵn lòng giúp đỡ nếu có tiền. Người Đức đã đến nơi này từ sau chiến tranh. Một bước đi sai lầm, cảnh sát được báo và họ sẽ lập tức can thiệp để bảo vệ cho hắn. Bởi vậy, chúng tôi đã chờ đợi, vạch kế hoạch và sau cùng đã tóm được hắn ở bên ngoài thị trấn, trên một con đường nhỏ và không có nhân chứng nào cả. Sau một cuộc đào thoát gọn ghẽ, chúng tôi đã đưa hắn sang Paragoay, tới một ngôi nhà an toàn ở đó.”

“Và rồi các ông đã tra tấn hắn ?”

Stephano ngừng lời, nhấp một ngụm cà phê, và nhìn thẳng vào Oliver. “Đại loại là thế,” lão đáp.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 27


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Patrick đi đi lại lại ở phía cuối căn phòng hội chẩn của các bác sĩ trong khi Sandy ngồi đó, lắng nghe và ghi chép. Đĩa bánh ngọt mà một cô y tá mang đến cho họ vẫn còn nguyên. Sandy rất khoái bánh ngọt và thầm hỏi không biết có bao nhiêu kẻ tử tù có được bánh ngọt đưa đến tận mồm thế này ? Bao nhiêu có cả một nhóm bảo vệ riêng ? Và bao nhiêu có được một vị thẩm phán ghé vào cùng ăn một chiếc pizza ?

“Tình hình đang thay đổi, Sandy,” Patrick nói mà không hề nhìn sang. “Chúng ta phải hành động nhanh mới được.”

“Hành động thế nàọ ?”

“Cô ấy sẽ không ở lại đây được, chừng nào cha cô ấy vẫn mất tích.”

“Như thường lệ, tôi hoàn toàn chẳng hiểu gì cả. Những khoảng trống ngày càng lớn, còn hai người thì cứ lấp la lấp lửng. Trong khi tôi chỉ là luật sư. Làm sao mà tôi hiểu tất cả được chứ ?”

"Cô ấy có các hồ sơ, và toàn bộ câu chuyện. Anh phải đi gặp cô ấy.”

“Thì tôi vừa mới gặp đêm qua."

“Cô ấy đang chờ anh.”

"Thật ư ? Tại đâu ?”

“Có một ngôi nhà bên bờ biển ở Perdilo. Cô ấy ở đó.”

“Để xem nào. Nghĩa là tôi phải gác lại mọi chuyện và đi tới đó ngay bây giờ.”

“Chuyện quan trọng đấy, Sandy.”

“Các thân chủ khác của tôi cũng quan trọng,” anh bực tức nói. “Sao anh không thể báo cho tôi biết trước, dù chỉ một giờ đồng hồ.”

"Tôi xin lỗi.”

“Tôi có một phiên tòa chiều nay. Con gái tôi có một trận bóng đá. Phải chăng là quá đáng khi đòi hỏi được báo trước ?”

“Tôi không thể nào ngừa trước một vụ bắt cóc, Sandy. Anh phải thừa nhận là tình hình có hơi bất thường ở chừng mực nào đó. Xin thông cảm.”

Sandy thở dài và ghi chép đôi điều gì đó. Patrick ngồi ghé vào mép bàn, sát ngay cạnh anh. “Tôi xin lỗi, Sandy.”

“Chúng tôi có thể bàn tới chuyện gì ở ngôi nhà bên bờ biển đó hả ?”

“Aricia.”

“Aricia,” Sandy nhắc lại, rồi nhìn đi chỗ khác. Anh biết những điểm cơ bản, ít ra thì cũng là những gì đã đọc được trên báo chí.

“Sẽ hơi lâu đấy, bởi vậy anh nên chuẩn bị hành lý qua đêm.”

“Tôi sẽ phải ngủ lại ngôi nhà đó ?”

“Phải.”

“Với Leah ?"

“Phải. Đó là một ngôi nhà lớn.”

“Và tôi sẽ phải nói với vợ tôi thế nào đây ? Rằng tôi sẽ qua đêm với một cô gái Braxin xinh đẹp trong một ngôi nhà bên bờ biển ư ?”

“Nếu là tôi thì không. Cứ nói với vợ là anh phải họp với nhóm bào chữa.”

“Được đấy.”

“Cảm ơn, Sandy.”

oOo

Underhill vào cuộc với Oliver sau lúc nghỉ uống cà phê. Họ ngồi cạnh nhau, với một chiếc máy quay video đặt ở đằng sau, chăm chú nhìn vào Stephano ở đầu bàn đằng kia.

“Ai đã thẩm vấn Patrick ?” Underhill hỏi Stephano.

"Tôi không buộc phải nói tên các cộng sự của mình.”

“Người đó có kinh nghiệm gì về thẩm vấn không ?”

“Hạn chế.”

“Hãy mô tả về những biện pháp đã được sử dụng.”

"Tôi không rõ lắm...”

“Chúng tôi đã nhìn ảnh chụp những vết bỏng, ông Stephano. Và FBI chúng tôi đã bị kiện vì những vết thương do người của ông gây ra. Nào, hãy nói xem các ông đã gây ra chúng như thế nào.”

“Tôi không ở đó. Tôi cũng không dự tính việc thẩm vấn bởi lẽ tôi không có mấy kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Tôi chỉ biết một cách chung chung là một loạt cú tra điện đã được thực hiện qua nhiều cực điện gắn trên các điểm khác nhau trên thân thể Lanigan. Đó là điều đã xảy ra. Tôi không hề biết là việc đó sẽ gây ra những vết bỏng nghiêm trọng.”

Một thoáng im lặng trong lúc Underhill và Oliver đưa mắt nhìn nhau. Rõ ràng là họ không tin. Còn Stephano thì khinh khỉnh khịt mũi.

“Cuộc tra tấn đó diễn ra trong bao lâu ?”

“Chừng năm đến sáu giờ.”

Họ nhìn vào hồ sơ và thầm thì gì đó. Underhill hỏi một vài câu về việc xác định nhân dạng và Stephano nói lại việc lấy dấu tay. Oliver thì trầm ngâm và dành gần cả tiếng đồng hồ để cố xác định chính xác là họ tóm được hắn khi nào, đưa hắn đi tận đâu và thẩm vấn hắn trong bao lâu. Họ quay Stephano về chuyến đi ra khỏi vùng rừng núi để tới cái sân bay ở Concepción. Họ thăm dò, tìm hiểu và đề cập đến đủ mọi chuyện khác, thế rồi họ hội ý một lát và quay trở lại với vấn đề chủ yếu.

“Trong cuộc thẩm vấn ông Lanigan, các ông đã biết những gì về chỗ tiền kia ?”

“Không nhiều. Hắn nói với chúng tôi chỗ tiền đó đã từng được để ở đâu, nhưng nó đã bị chuyển đi nơi khác rồi.”

“Chúng tôi có thể hiểu rằng Lanigan đã nói với các ông điều đó trong khi bị ép buộc một cách rất khủng khiếp không đây ?”

“Hiểu vậy cũng không có gì là quá.”

“Các ông có tin rằng Lanigan không biết chỗ tiền kia đang ở đâu vào lúc đó không ?”

“Tôi không ở đó. Nhưng người tiến hành cuộc thẩm vấn nói với tôi một cách chắc chắn, rằng anh ta tin là Lanigan không biết vị trí chính xác của chỗ tiền đó.”

“Cuộc thẩm vấn không được ghi âm hay ghi hình lại ư ?"

“Dĩ nhiên là không,” Stephano đáp, như thể là chưa bao giờ lão nghĩ tới điều đó.

“Ông Lanigan có nhắc tới một kẻ đồng lõa nào không ?”

"Theo chỗ tôi biết thì không.”

“Nghĩa là thế nào ?”

“Nghĩa là tôi không biết.”

“Thế còn người đã tiến hành cuộc thẩm vấn thì sao hả ? Anh ta có nghe thấy Lanigan nhắc tới một kẻ đồng lõa nào không?"

“Theo chỗ tôi biết thì không.”

“Vậy là, theo chỗ ông biết, ông Lanigan không hề nhắc tới một kẻ đồng lõa nào ?”

“Đúng thế.”

Họ lật lại hồ sơ, thầm thì với nhau, rồi im lặng một lúc lâu, một khoảng im lặng gây bất an cho Stephano. Lão đã hai lần nói dối liên tiếp - không có ghi hình ghi âm gì và không có đồng lõa nào - và lão vẫn cảm thấy yên tâm với những lời nói dối đó. Làm sao mà những thằng cha này biết được những điều gì đã được nói tới trong cánh rừng Paragoay kia ? Thế nhưng họ là FBI. Bởi vậy lão hơi bồn chồn, và chờ đợi.

Cửa phòng đột ngột mở ra và Hamilton Jaynes bước vào, theo sau là Warren, tay chuyên gia thẩm vấn thứ ba. “Xin chào, Jack,” Jaynes chào to trong khi ngồi xuống một cái ghế kê ở cạnh bàn. Warren ngồi xuống bên hai đồng sự của anh ta.

“Xin chào, Hamilton,” Stephano đáp, lại càng bồn chồn hơn nữa.

“Tôi đang ngồi nghe ở phòng bên cạnh,” Jaynes nói với một nụ cười. “Và đột nhiên tôi băn khoăn không biết ông có đang nói thật hay không.”

“Đương nhiên là tôi nói thật rồi.”

“Đương nhiên. Này, đã bao giờ nghe thấy cái tên Eva Miranda chưa đấy ?"

Stephano chầm chậm nhắc lại cái tên đó, như thể hoàn toàn bị bối rối. “Tôi không nghĩ vậy.”

“Cô ta là một luật sư ở Rio. Bạn của Patrick.”

“Chưa nghe.”

“Ra vậy, điều đó làm tôi phiền lòng, Jack, bởi lẽ tôi cho rằng ông biết chính xác cô ta là ai cơ đấy.”

"Tôi chưa bao giờ nghe thấy tên cô ta.”

“Vậy tại sao ông lại cố tìm kiếm cô ta hả ?”

“Tôi không hiểu ông đang nói gì nữa,” Stephano nói, giọng yếu ớt.

Underhill lên tiếng trước. Anh ta nhìn thẳng vào mặt Stephano, nhưng lại nói với Jaynes. “Ông ta đang nói dối.”

“Chắc chắn rồi,” Oliver phụ họa.

“Chuyện đó thì không còn phải nghi ngờ gì," Warren thêm vào.

Stephano hết nhìn người này lại nhìn người khác. Lão toan nói gì đó nhưng Jaynes đã giơ tay ngăn lại. Cửa phòng mở ra và một đồng sự nữa cùng lò với Underhill, Oliver và Warren bước vào mấy bước, chỉ đủ để nói, “Các phân tích giọng nói cho thấy có bằng chứng xác đáng về sự nói dối.” Anh ta nói xong và lui ra ngoài ngay lập tức.

Jaynes cầm một tờ giấy lên, và nói tóm tắt nội dung trong đó. “Đây là tin xuất hiện trên một tờ báo ở Rio sáng nay. Chuyện về vụ bắt cóc một ông Paulo Miranda nào đó. Con gái của ông ta là bạn của Patrick, Jack. Chúng tôi đã liên lạc với các nhà chức trách ở Rio. Không có việc đòi tiền chuộc. Không có đòi hỏi nào hết từ phía những kẻ bắt cóc.” Ông ta đẩy tờ giấy về phía Stephano, nhưng nó dừng lại ở ngoài tầm với của lão. “Vậy ông Miranda kia đang ở đâu ?”

"Tôi không biết. Tôi không hiểu ông đang nói gì.”

Jaynes nhìn về phía đầu bàn đằng kia.

“Vẫn nói dối,” Underhill nói. Oliver và Warren gật đầu tán thành.

“Chúng ta đã có thỏa thuận, Jack. Ông sẽ nói tất cả sự thật, và chúng tôi sẽ từ bỏ những cáo buộc nhằm vào ông. Và, theo chỗ tôi nhớ, chúng tôi đã đồng ý không bắt giữ các khách hàng của ông. Bây giờ thì tôi phải làm gì hả, Jack ?"

Stephano nhìn Underhill và Oliver, những người dường như đang sẵn sàng đánh giá câu đáp lại tiếp theo của lão. Về phần họ, họ lạnh lùng nhìn lão, không bỏ qua bất kỳ một biểu hiện gì.

“Cô ta biết tiền đang ở đâu,” Stephano đành lòng cất tiếng.

“Còn cô ta thì đang ở đâu?”

“Cô ta đã chạy khỏi Rio khi chúng tôi tìm thấy Patrick.”

“Không có dấu vết nào à ?”

“Không.”

Jaynes nhìn nhóm thẩm vấn của ông ta, và hiểu là lão đã thôi nói dối.

"Tôi đồng ý nói với các ông tất cả,” Stephano nói. "Tôi không đồng ý về bất kỳ điều gì khác nữa. Chúng tôi vẫn tìm kiếm cô ta.”

“Chúng tôi đã không được biết về cô ta.”

“Thật quá đáng. Nếu cần, chúng ta có thể xem lại thỏa thuận của hai bên. Tôi sẽ sung sướng được gọi luật sư của mình.”

“Phải, nhưng chúng tôi đã thấy là ông nói dối.”

"Tôi xin lỗi. Sẽ không còn có chuyện đó nữa.”

“Đừng động đến cô ta, Jack. Và thả người cha của cô ta ra.”

"Tôi sẽ nghĩ về điều đó.”

“Không. Ông phải làm ngay bây giờ.”

oOo

Ngôi nhà nghỉ bên bờ biển kia cao ba tầng, hiện đại nằm trong một dãy nhà có vẻ như giống hệt nhau dọc theo vùng bờ biển mới được phát triển này. Tháng Mười không còn là mùa đi biển. Hầu hết những ngôi nhà ở đây hình như đều bỏ trống. Sandy đậu xe sau một chiếc xe bốn cửa bóng nhoáng, loại khá phổ thông, mang biển Louisiana, và anh cho rằng đó là một chiếc xe đi thuê. Mặt trời đã xuống tới sát mặt nước, chỉ còn cách dăm bảy phân. Suốt vùng Vịnh này vắng lặng; không nhìn thấy một chiếc tàu hay một con thuyền nào. Anh bước lên những bậc thềm, đi theo một hành lang chạy vòng cho tới khi đến trước một cái cửa.

Leah ra mở cửa, miệng mỉm cười, với bản chất của một con người nồng hậu, bất chấp tâm trạng u buồn đang ám ảnh nàng. “Xin mời vào,” nàng nhẹ nhàng nói, và khóa trái cửa lại sau khi Sandy bước qua. Căn phòng khách rộng rãi, có mái vòm, ba mặt là kính và ở giữa là một cái lò sưởi.

“Chỗ này hay quá,” Sandy nói, mũi đã ngửi thấy một mùi thơm lừng bay từ trong bếp ra. Do Patrick giục giã, anh đã không kịp ăn bữa trưa.

“Ông có đói không ?” Nàng hỏi.

“Đến chết đi được.”

“Tôi đang nấu một chút đồ ăn.”

“Tuyệt vời.”

Cái sàn gỗ hơi kêu nhẹ khi Sandy theo nàng sang phòng ăn. Trên mặt bàn là một chiếc thùng các tông, và bên cạnh đó là những giấy tờ được sắp xếp gọn ghẽ. Trước đó hẳn là nàng đang làm việc. Nàng dừng lại bên bàn và nói, “Đây là hồ sơ về Aricia.”

“Do ai chuẩn bị vậy ?”

“Dĩ nhiên là Patrick rồi.”

“Nó nằm ở đâu trong suốt bốn năm qua thế hả ?"

“Được lưu kho. Ngay ở Mobile.”

Những câu trả lời của nàng đều ngắn gọn, và mỗi câu lại gợi ra hàng chục câu hỏi khác. Sandy chỉ muốn có thể nổi cáu được với nàng. “Chúng ta sẽ nói tới nó sau,” nàng nói, kèm theo một cái khoát tay rất đỗi bình thường.

Trong bếp, cả một con gà quay đang được đặt trên thớt, bên chiếc bồn rửa. Một chảo cơm rang với rau đang bốc hơi trên bếp. “Không có gì nhiều,” nàng nói. "Tôi thật thấy khó khi nấu nướng trong bếp của người khác.”

"Trông ngon lắm. Vậy cái bếp này là của ai thế ?”

“Thuê lại. Tôi sẽ dùng ngôi nhà này trong một tháng.”

Nàng chặt thịt gà và bảo Sandy rót rượu, một thứ vang ngon từ California. Họ ngồi vào chiếc bàn nhỏ kê trong cái góc ăn sáng, có thể nhìn ra biển và ngắm những ánh hoàng hôn cuối cùng.

“Chúc sức khoẻ,” nàng nói và nâng cốc.

“Chúc cho Patrick,” Sandy nói.

“Vâng, cho Patrick.” Nàng không hề có ý muốn ăn. Sandy đưa một miếng lườn gà to tướng vào miệng.

“Anh ấy thế nào ?”

Sandy nhai vội vì không muốn làm cho ngưòi phụ nữ xinh đẹp trẻ trung này phải ghê sợ với cái miệng nhồm nhoàm của mình. Một ngụm vang. Giấy ăn lau miệng. “Patrick ổn cả. Những vết bỏng đang lành lại. Một bác sĩ chỉnh hình vừa khám cho anh ấy ngày hôm qua và nói sẽ không cần phải cấy ghép gì. Sẽ còn sẹo trong vài năm, nhưng sau cùng thì cũng hết. Các cô y tá còn mang cả bánh ngọt cho anh ấy. Ông Thẩm phán mang đến bánh pizza. Không dưới nửa tá cảnh sát có vũ trang canh gác bên ngoài, bởi vậy tôi có thể nói là Patrick đang sung sướng hơn bất kỳ một ai đang bị buộc vào tội tử hình.”

“Đó là Thẩm phán Huskey phải không ?”

“Đúng, Karl Huskey. Cô biết ông ấy à ?"

“Không. Nhưng Patrick thường nói về ông ấy. Họ là bạn bè tốt với nhau. Có lần Patrick nói với tôi rằng nếu như bị bắt, anh ấy hy vọng là chuyện đó sẽ xảy ra trong khi Karl Huskey vẫn còn là thẩm phán.”

“Ông ấy sắp nghỉ hưu rồi,” Sandy nói. Thật cũng còn là may, anh thầm nghĩ.

“Ông ấy không thể xử vụ Patrick phải không ?" Nàng hỏi.

“Đúng đấy. Ông ấy tự phải chọn cách đó.” Sandy gắp một miếng thịt gà nhỏ, và vẫn chỉ là đang ăn một mình bởi lẽ nàng còn chưa hề động đến thìa dĩa. Nàng cầm cốc vang cao sát đầu, mắt nhìn xa xăm về phía những đám mây màu da cam và màu tím ở đằng chân trời.

“Tôi xin lỗi. Tôi đã quên không hỏi thăm về cha cô.”

“Không có tin tức gì. Tôi nói chuyện với cậu em trai cách đây ba tiếng, và vẫn không biết gì hơn cả.”

“Tôi thật xin lỗi, Leah. Giá mà tôi có thể làm được điều gì đó.”

“Tôi cũng ước như vậy. Thật tuyệt vọng. Tôi không thể trở về nhà, cũng không thể cứ ở đây mãi được.”

"Tôi xin lỗi,” Sandy nói một lần nữa, bởi vì không còn biết nói gì hơn.

Anh tiếp tục ăn trong im lặng. Nàng chọc chọc đĩa cơm, mắt vẫn nhìn ra biển.

“Ngon quá,” Sandy nói, lần thứ hai.

“Cảm ơn,” nàng đáp với một nụ cười buồn rầu.

“Cha cô làm gì ?"

“Ông là giáo sư đại học.”

“Ở đâu vậy ?"

“Rio. Đại học Thiên chúa giáo.”

“Ông ấy sống ỏ đâu ?"

“ Ở Ipanema, trong ngôi nhà mà tôi đã lớn lên.”

Cha nàng là một vấn đề nhạy cảm, nhưng ít nhất thì Sandy cũng đang có được những câu trả lời cho các câu hỏi của mình, và biết đâu, nó có thể khiến nàng nói nhiều hơn về người cha. Anh hỏi thêm nữa, toàn là những câu hỏi chung chung và chẳng liên quan gì tới vụ bắt cóc kia.

Nàng không hề động đến thức ăn.

Khi Sandy ăn xong, nàng hỏi, “Ông có muốn uống một chút cà phê không ?”

“Có lẽ là chúng ta cần đến nó, có phải vậy không ?”

“Đúng vậy.”

Họ dọn dẹp bàn ăn. Leah pha cà phê trong lúc Sandy ngó nghiêng ngôi nhà. Hai người gặp lại trong phòng ăn, nơi họ cùng uống cà phê và những lời xã giao qua lại cũng đi tới chỗ kết thúc. Họ ngồi đối diện qua mặt bàn.

“Ông biết nhiều về trường hợp Aricia không ?” Nàng hỏi.

“Ông ta là người có chín mươi triệu đôla bị Patrick lấy đi, nếu như người ta có thể tin được vào báo chí. Ông ta từng là giám đốc của Platt & Rockland, và là người đã tố cáo Hãng này gian dối trong chuyện tiền bạc. Ông ta đã đệ đơn tố cáo theo luật. Platt & Rockland bị buộc tội chiếm đoạt chừng sáu trăm triệu đôla gì đó. Phần tiền, thưởng cho ông ta, theo luật, là mười lăm phần trăm. Các luật sư của ông ta là ở Hãng của Bogan, nơi anh bạn Patrick của chúng ta từng làm việc. Tất cả là thế. Những điểm cơ bản.”

"Thế là tốt lắm rồi. Tất cả những gì tôi sắp nói với ông đều có thể được kiểm chứng bởi những tài liệu và những cuộn băng này. Chúng ta sẽ rà lại, bởi vì ông cần phải biết những tư liệu này một cách đầy đủ.”

“Cô biết đấy, tôi từng làm chán cái loại chuyện này rồi.” Sandy mỉm cười, còn nàng thì không. Không còn những cố gắng nào cho chuyện khôi hài nữa.

"Tố cáo của Aricia là lừa lọc ngay từ đầu." Nàng nói một cách thận trọng; không vội vã gì. Nàng đợi để Sandy tiếp nhận hết thông tin đó, cũng phải mất vài giây. “Benny Aricia là một kẻ rất xảo quyệt, đã bày tính một âm mưu để lừa dối cả Hãng của ông ta lẫn chính phủ. Ông ta có sự giúp đỡ của một số luật sư rất có năng lực ở Hãng luật cũ của Patrick và một số người có thế lực ở Oasinhtơn.”

“Đó là Thượng nghị sĩ Nye, anh em họ của Bogan.”

“Chủ yếu là ông ta. Nhưng, như ông biết, Thượng nghị sĩ Nye có ảnh hưởng đáng kể ở Oasinhtơn.”

“Tôi có nghe thế.”

“Aricia đã thận trọng bày tính âm mưu của ông ta rồi mang tới gặp Charles Bogan. Lúc đó Patrick chỉ là một cổ đông mới và không hề biết gì về Aricia. Các cổ đông kia được lôi kéo vào âm mưu này, tất cả, chỉ trừ có Patrick. Hãng luật đó thay đổi, và Patrick biết có điều gì đó đã khác đi. Anh ấy bắt đầu tìm hiểu và nghe trộm, rồi sau cùng phát hiện ra rằng người khách hàng mới tên là Aricia kia là nguyên nhân của tất cả. Anh ấy đã kiên nhẫn, giả bộ như không để ý tới chuyện gì, và trong suốt thời gian đó liên tục thu thập các chứng cứ. Nhiều chứng cứ đó nằm ở đây.” Nàng vừa nói câu đó vừa đặt tay lên chiếc thùng cáctông.

“Hãy trở lại từ đầu,” Sandy nói. “Hãy giải thích vì sao lời tố cáo đó lại là một sự lừa dối.”

“Aricia điều hành Xưởng đóng tàu New Coastal ở Pascagoula. Đó là một chi nhánh của Hãng Platt & Rockland.”

"Tôi biết những chuyện đó. Một nhà thầu quân sự lớn với một quá khứ không hay ho gì, tai tiếng về chuyện làm tiền chính phủ.”

“Đúng thế. Aricia lợi dụng quy mô của Hãng để thực hiện âm mưu của ông ta. Xưởng New Coastal đang đóng các tàu ngầm hạt nhân lớp Expedition, và tất cả đều đã bội chi. Aricia quyết định làm cho tình hình xấu đi hơn nữa. New Coastal đã trình những hồ sơ lao động dối trá, hàng nghìn giờ lao động ma của những nhân viên chưa bao giờ tồn tại. Nó mua sắm nguyên liệu với giá bị đẩy lên khủng khiếp - mười sáu đôla một cái bóng đèn, ba mươi đôla một cái cốc uống nước, vân vân và vân vân. Danh mục này là vô tận.’’

“Cái danh mục này có trong thùng các tông này không ?”

“Chỉ có những mặt hàng lớn. Các hệ thống rađa, tên lửa, các vũ khí khác và những thứ tôi chưa bao giờ nghe nói tới. Những cái bóng đèn kia chỉ là chuyện vớ vẩn. Aricia đã làm ở Hãng đó đủ lâu để biết chính xác làm thế nào để không bị phát hiện. Ông ta đã tạo ra cả đống giấy tờ, mà không có chữ ký của mình. Platt & Rockland có sáu chi nhánh khác nhau liên quan tới những hợp đồng quân sự, và bởi vậy bộ phận văn phòng của Hãng kềnh càng cứ như một cái sở thú. Aricia đã lợi dụng điều đó. Tất cả các phiếu đòi tiền ma mà ông ta đệ sang cho bên Hải quân đều được ký bởi ai đó trên bộ phận văn phòng. Ông ta thường ký các hợp đồng phụ để mua các nguyên vật liệu đã bị đẩy giá lên, và xin phép một quan chức nào đó ở trên Hãng. Mọi chuyện đều dễ dàng trong một bộ máy như vậy, nhất là với một kẻ xảo quyệt như Aricia, người đang tính chuyện chơi lại chính Hãng của mình... Ông ta lưu giữ các hồ sơ rất tỉ mỉ, và sau này đã trao lại cho các luật sư của mình”.

“Và Patrick đã vớ được chúng ?”

“Một số trong đó.”

Sandy nhìn cái thùng với những nắp bên trên vẫn đóng kín. “Và cái này vẫn được cất giấu kể từ lúc anh ấy biến đi à ?”

“Vâng.”

“Anh ấy có bao giò trở lại để kiểm tra không ?"

“Không.”

“Còn cô ?”

“Cách đây hai năm tôi có đến để gia hạn hợp đồng lưu giữ. Tôi có nhìn vào bên trong nhưng không có thời gian để kiểm tra cụ thể. Lúc đó, tôi rất sợ hãi và lo lắng, không hề muốn đến chút nào. Tôi đã tin rằng sẽ chẳng bao giờ cần đến những tài liệu này bởi vì anh ấy sẽ không bao giờ bị bắt. Thế nhưng Patrick đã luôn tính trước.”

Cái máu thẩm vấn trong Sandy đã suýt bùng ra với một loạt những câu hỏi không liên quan gì tới Aricia, nhưng anh đã kìm lại được. Thư thả, anh tự nhủ, đừng hấp tấp và có thể là những câu hỏi đó sau cùng cũng sẽ có câu trả lời.

“Vậy là âm mưu của Aricia cũng đâu vào đấy, và vào một thời điểm nào đó ông ta đã đến gặp Charles Bogan, nhân vật có một người anh em họ có thế lực ở Oasinhtơn và một ông thầy cũ hiện đang là thẩm phán Liên bang. Bogan có biết chính Aricia đã gây ra chuyện bội chi không ?"

Nàng đứng dậy, với tay vào trong thùng và lấy ra một cái máy ghi âm chạy bằng pin cùng một hộp băng cátxét. Nàng chọn một cuộn băng và ấn vào máy. Sandy thấy rõ là nàng đã làm việc này nhiều lần rồi.

“Nghe này,” nàng nói. “Tháng Mười một năm 1991. Giọng nói đầu tiên là của Bogan, tiếp theo là Aricia. Aricia gọi điện tới và Bogan trả lời cú điện thoại này tại phòng họp ở tầng hai khu văn phòng của Hãng.”

Sandy chống hai khuỷu tay dướn người về phía trước. Cuộn băng bắt đầu chạy.

Bogan: Hôm nay, tôi nhận được một cú điện thoại từ một trong các luật sư ở New York của Platt. Một tay tên là Krasny.

Aricia: Tôi biết thằng cha đó. Một tay New York điển hình đấy.

Bogan: Phải, hắn rất cởi mở. Hắn nói họ có thể đã có bằng chứng rằng ông biết về việc tính giá gấp đôi các màn hình Stalker mà New Coastal mua của Hãng RamTec. Tôi bảo hắn đưa ra. Hắn nói phải chừng một tuần nữa.

Aricia: Yên tâm đi, Charlie. Không có cách nào mà họ có thể chứng minh được điều đó bởi lẽ tôi không hề ký gì cả.

Bogan: Nhưng ông biết phải không ?

Aricia: Tất nhiên là tôi biết. Tôi đã tính toán và khơi mào mà. Đó là một trong những ý tưởng tuyệt vời của tôi đấy. Vấn đề của họ, Charlie, là ở chỗ họ không thể chứng minh được. Không có tài liệu nào, không có nhân chứng nào.

Cuộn băng im bặt, và Leah nói, “vẫn cuộc đối thoại đó, chừng mười phút sau.”

Aricia: Ông Thượng nghị sĩ thế nào ?

Bogan: Khỏe. Hôm qua ông ấy gặp ông Bộ trưởng Hải quân.

Aricia: Tình hình thế nào ?

Bogan: Tốt. Ông biết đấy, họ là chỗ bạn bè cũ mà. Ông Thượng nghị sĩ đã bày tỏ mong muốn trừng phạt Platt & Rockland về tội tham lam, nhưng không được gây phương hại tới đề án Expedition. Ông Bộ trưởng cũng muốn như vậy, và nói sẽ vận động để có một sự trừng phạt cứng rắn đối với Platt & Rockland.

Aricia: Ông Bộ trưởng có thể đẩy nhanh mọi chuyện lên được không hả ?

Bogan: Để làm gì ?

Aricia: Tôi muốn nhận được khoản tiền trời ơi kia, Charlie. Tôi đã có thể cảm thấy nó. Đã có thể ngửi thấy nó rồi đấy.

Leah nhấn một cái nút và cuộn băng dừng lại. Nàng lấy nó ra khỏi máy và để trở lại vào trong hộp. “Patrick đã khởi đầu việc ghi âm này vào đầu năm 91. Kế hoạch của họ là hất anh ấy ra khỏi Hãng vào cuối tháng Hai, với lý do là anh ấy không thúc đẩy được công việc làm ăn.”

“Cái thùng này đầy băng à ?”

“Có sáu mươi cuộn, tất cả đều đã được Patrick biên tập lại cẩn thận, để ông có thể nghe hết trong ba giờ.”

Sandy liếc nhìn đồng hồ.

“Chúng ta còn nhiều việc phải làm,” nàng nói.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 28


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Việc Paulo yêu cầu có chiếc radiô đã bị từ chối, nhưng khi nhận ra rằng đơn giản là ông chỉ muốn được nghe nhạc thì họ đã mang tới cho ông một cái máy ghi âm cũ kỹ và hai cuộn băng của Dàn nhạc Hội những người yêu nhạc Rio. Nhạc cổ điển là thứ ông yêu thích. Paulo mở nhỏ vừa đủ nghe và lật qua đám tạp chí cũ, trong khi yêu cầu của ông về sách vở còn đang được xem xét. Đồ ăn, cho đến lúc này, là quá đủ; có vẻ như họ muốn làm cho ông được vui lòng. Những kẻ cầm giữ ông là những người còn trẻ tuổi, làm việc cho ai đó mà Paulo biết là ông sẽ không bao giờ thấy mặt được. Thực tế là nếu như họ có thả ông ra, đám trai trẻ này sẽ trốn biệt và không bao giờ có thể tính tới chuyện truy tố ai.

Ngày thứ hai của ông trôi qua chậm chạp. Eva quá khôn ngoan để không lao vào cái bẫy của họ. Một ngày nào đó, điều này sẽ là có ý nghĩa. Và ông sẵn sàng chờ đợi chừng nào bọn họ có thể chờ đợi.

oOo

Ông Thẩm phán mang theo sẵn một chiếc bánh pizza trong lần đến thăm thứ hai. Karl Huskey thích thú với lần gặp trước đến mức đã gọi cho Patrick từ hồi chiều để xem họ có thể gặp lại hay không. Patrick thì đang rất muốn có bạn.

Huskey lấy từ trong cái cặp nhỏ của mình ra một xấp thư và quẳng lên bàn làm việc của Luật sư Lanigan. “Nhiều người, hầu hết số ở tòa án, muốn gửi lời chào. Tôi bảo họ rằng họ có thể viết cho anh.”

“Tôi đã không nhận ra là mình còn có nhiều bạn bè đến thế đấy.”

“Dĩ nhiên. Những tay cạo giấy này có quá nhiều thời giờ để viết thư. Đó gần như là những gì nhiều nhất mà họ có thể làm được.”

“Cảm ơn.”

Huskey kéo ghế lại gần giường Patrick và gác chân lên miệng ngăn kéo vẫn đang để chìa ra của cái bàn đêm. Patrick vừa xơi gần hai miếng pizza, và lúc nãy đã ngừng ăn.

“Tôi sắp phải chính thức khước từ xét xử vụ này đấy,” Huskey nói với vẻ gần như là xin lỗi.

“Tôi biết.”

“Sáng nay, tôi đã nói chuyện khá lâu với Trussel. Tôi biết là anh không thích thú gì ông ta, nhưng mà ông ta là một thẩm phán giỏi. Ông ta sẵn lòng nhận vụ này."

“Tôi muốn Thẩm phán Lanks.”

“Biết thế, nhưng rủi là không thể được. Lanks có rắc rối về huyết áp, và chúng tôi đã cố để ông ấy không phải xử các vụ lớn. Anh biết đấy, Trussel còn nhiều kinh nghiệm hơn cả Lanks và tôi cộng lại, đặc biệt là trong những án tử hình.”

Patrick hơi sững người, hai mắt đột nhiên nhíu lại và đôi vai thoáng trĩu xuống khi ông bạn già nói hết câu đó. Một án tử hình. Điều đó làm hắn chết lặng, giống như bao nhiêu lần khác, mỗi khi hắn đứng lâu lâu trước gương. Huskey không bỏ sót một chi tiết nhỏ bé nào. Như người ta thường nói, bất kỳ ai cũng có khả năng trở thành một kẻ sát nhân, và Huskey đã từng nói chuyện với nhiều kẻ đó trong mười hai năm làm thẩm phán. Tuy nhiên, Patrick lại là người bạn đầu tiên của ông phải đứng trước một cái án tử hình.

“Sao ông lại toan nghỉ hưu thế ?” Patrick hỏi.

“Những lý do thông thường thôi. Tôi đã mệt mỏi rồi, và nếu không ra đi bây giờ thì sẽ chẳng bao giờ còn có thể làm được điều đó. Bọn trẻ con sắp đến lúc vào đại học, và tôi cần phải làm ra nhiều tiền hơn.” Huskey ngừng lại một giây, rồi hỏi, “Xin tò mò một chút, làm sao mà anh biết là tôi đang toan nghỉ hưu hả ? Tôi đã có tuyên bố gì đâu.”

“Tin đồn khắp ấy mà.”

“Tới tận Braxin ư ?”

“Tôi có gián điệp, Karl.”

“Ai đó ở đây à ?”

“Không. Đương nhiên là không. Tôi đâu dám liều lĩnh tiếp xúc với bất kỳ ai ở đây.”

“Vậy là ai đó ở Braxin phải không ?”

“Phải, một luật sư mà tôi đã gặp.”

“Và anh đã nói với anh ta mọi chuyện ư ?”

“Cô ta. Phải, tôi đã nói tất cả.”

Huskey gõ gõ những ngón tay, và nói, “Chuyện có vẻ hay đấy ”

“Tôi xin có lời khuyên là lần sau thì tới lượt ông hãy trốn tới đó.”

“Tôi sẽ nhớ lời khuyên này. Cô luật sư đó hiện giờ ở đâu ?”

“Quanh đâu đây thôi, tôi nghĩ vậy.”

“Giờ thì tôi hiểu. Cô ấy phải là người giữ chỗ tiền kia.”

Patrick cười vang. Sau cùng thì tảng băng đã tan. “Ông muốn biết về chỗ tiền đó hả, Karl?”

“Tất tật. Anh đã đánh cắp nó như thế nào ? Hiện nó ở đâu ? Còn lại được bao nhiêu ?”

“Ông đã nghe được những gì ở tòa án hả ?”

“Trời, cả trăm thứ tin đồn. Nhưng tôi thích nhất là cái tin nói rằng anh đã nhân đôi được số tiền đó lên và cất giấu nó trong các nhà băng ở Thụy Sĩ, và rằng anh đang nhàn cư ở Braxin, và trong ít năm nữa anh sẽ không còn việc gì để làm ngoài việc chơi với cái đống tiền của mình.”

“Nghe cũng được đấy.”

“Có nhớ Bobby Doak, cái con chồn mặt rỗ chuyên lo các vụ ly hôn với giá chín mươi chín đôla và bực bội với bất kỳ ai đòi hơn cái giá đó không ?”

“Rồi, tay đó quảng cáo cả trong các bản tin của nhà thờ.”

“Chính hắn ta. Ngày hôm qua, hắn ngồi uống cà phê trong phòng thư ký và ba hoa về chuyện hắn được nghe một nguồn tin tay trong nói rằng anh đã phung phí số tiền đó vào ma túy và những cô gái làng chơi trẻ tuổi, và đó là lý do vì sao anh đã phải sống như một gã nông dân ở Braxin.”

"Doak thì thế thật."

Phút thoải mái qua nhanh và Patrick bắt đầu im lặng. Huskey không chịu để lỡ cơ hội. “Vậy chỗ tiền đó đang ở đâu ?”

“Tôi không thể nói được, Karl.”

“Còn lại bao nhiêu ?"

“Một tấn.”

“Nhiều hơn số mà anh đã đánh cắp chứ ?”

“Nhiều hơn số mà tôi đã lấy đi, đúng thế.”

“Anh đã làm thế nào ?"

Patriek tung chân ra khỏi giường, đi ra cửa. Cửa vẫn đóng kín. Hắn vươn vai, duỗi chân, và vớ cái chai nước lên tu một ngụm. Thế rồi hắn ngồi xuống mép giường và nhìn thẳng vào Karl.

“Tôi đã gặp may,” hắn nói, gần như thầm thì. Nhưng Karl vẫn nghe rõ từng âm một. “Tôi sẽ vẫn ra đi, Karl, dù có hay không có chỗ tiền ấy. Tôi biết là tiền đang được chuyển đến Hãng, và tôi đã lên một kế hoạch để chiếm lấy. Thế nhưng, nếu như chuyện không thành thì tôi cũng sẽ vẫn ra đi. Tôi không thể chịu thêm một ngày với Trudy. Tôi không ưa cái công việc của mình, và dù sao chăng nữa thì tôi cũng sắp bị Hãng đuổi ra đường. Bogan và những kẻ ở đó đang mưu toan một vụ lừa đảo lớn, và tôi là người bên ngoài duy nhất biết điều đó.”

“Lừa đảo nào ?”

"Tố cáo của Aricia. Chúng ta sẽ nói chuyện đó sau. Bởi vậy tôi đã từ từ tính toán việc ra đi của mình, và tôi đã gặp may. Vận may đã theo bên tôi cho tới cách đây hai tuần. May mắn đến không thể tin nổi.”

“Chúng ta đã nói tới cái lễ an táng kia.”

“Phải. Tôi đã trở lại cái căn hộ nhỏ mà tôi thuê ở Orange Beach. Tôi ở đó một vài ngày, ở tịt trong nhà, nghe băng để ôn lại vốn tiếng Bồ Đào Nha. Tôi cũng dành ra nhiều thời giờ để sắp xếp lại những câu chuyện mà tôi đã ghi lại được ở văn phòng Hãng. Có rất nhiều tư liệu cần sắp xếp lại, và tôi đã phải làm việc cật lực. Ban đêm, tôi đi dạo hàng giờ trên bờ biển, tập cho đến toát mồ hôi để cố làm giảm cân càng nhiều càng tốt. Tôi đã gần như không ăn uống gì.”

“Những tư liệu gì vậy ?”

“Hồ sơ về Aricia. Trước kia, tôi vốn biết vài điều cơ bản về tầu bè và đột nhiên thấy mình cần phải trở thành một thủy thủ cừ. Tôi bèn thuê một chiếc thuyền, và ngay lập tức tôi đã lênh đênh ẩn náu trên mặt nước.”

“Ở đây ư ?"

“Phải. Tôi thường thả neo gần đảo Ship, và ngắm bờ biển Biloxi.”

“Vì sao ?”

“Tôi đã gắn thiết bị nghe trộm ở văn phòng Hãng. Karl. Tất cả các điện thoại, các bàn làm việc, trừ của Bogan. Tôi còn đặt cả một micrô trong phòng vệ sinh nam nằm giữa phòng Bogan và phòng Vitrano ở tầng một. Các micrô này truyền tín hiệu tới một ăngten giấu trên căn áp mái. Cái máy thu ở đó sẽ lại phát tín hiệu tới môt ăngten chảo đường kính cỡ gần ba chục phân mà tôi đặt trên thuyền. Bộ thiết bị này là thứ hiện đại, kỹ thuật cao. Tôi mua nó trên thị trường đen ở Rôm, tốn khá nhiều tiền đấy. Với ống nhòm, tôi có thể thấy cái ống khói trên nóc tòa nhà của Hãng, và các tín hiệu được thu rất dễ dàng. Mọi cuộc trò chuyện trong tầm thu của một micrô nào đó đều được chuyển ra thuyền cho tôi. Tôi ghi tất cả, rồi ban đêm thì sắp xếp lại. Tôi biết họ ăn trưa ở đâu và tâm trạng các bà vợ của họ thế nào. Tôi biết tất cả.”

“Thật không thể tin nổi.”

“Ông cần phải được nghe họ đã cố tỏ ra trịnh trọng thế nào sau tang lễ của tôi. Trên điện thoại, khi nhận những những lời chia buồn, họ tỏ thái độ ủ ê thích hợp. Thế nhưng sau đó, họ đã đùa cợt về cái chết của tôi. Cái chết đó giúp họ tránh được một cuộc đối đầu bẩn thỉu với tôi. Bogan đã được chọn làm ngưòi thông báo cho tôi rằng tôi bị buộc thôi việc ở Hãng. Ngày hôm sau đám tang, ông ta và Havarac đã uống rượu Scotch với nhau trong phòng họp và cười cợt về việc tôi đã may mắn được chết vào một thời điểm thích hợp đến thế."

“Anh có giữ những cuộn băng đó không ?”

“Tất nhiên. Nghe này. Tôi còn có cuộn băng ghi lại cuộc nói chuyện giữa Trudy và Doug Vitrano, trong phòng làm việc cũ của tôi, chỉ vài giờ trước cái lễ tang kia, khi họ mở tủ của tôi và bất ngờ tìm thấy cái bản hợp đồng bảo hiểm sinh mạng trị giá hai triệu đôla. Điều đáng vui đấy chứ. Trudy đã mất tới hai mươi giây mới cất tiếng nổi, "Khi nào thì tôi lấy được số tiền này hả ?"

“Lúc nào thì tôi có thể được nghe chúng ?”

“Tôi chưa biết, sắp thôi. Có hàng trăm cuộn băng. Công việc biên tập lại mất mười hai giờ một ngày trong vài tuần lễ liền. Ông thử tưởng tượng tới tất cả những cú điện thoại mà tôi đã phải nghe xem.”

“Có lúc nào họ nghi ngờ không ?”

“Có lẽ là không. Rapley có một lần nói với Vitrano rằng thời điểm mà tôi chết thật đáng kinh ngạc, bởi lẽ tôi mới chỉ mua bảo hiểm sinh mạng với khoản bồi thường hai triệu trước đó có tám tháng trời. Và có một hay hai lời bình luận đó về những biểu hiện hơi lạ lùng của tôi, nhưng toàn là vô bổ. Họ đã quá vui mừng rằng tôi đã không làm vướng lối của họ nữa.”

“Anh có nghe trộm điện thoại của Trudy không ?”

“Tôi đã nghĩ tới chuyện đó, nhưng mà mua việc làm gì ? Lối cư xử của cô ta là có thể đoán trước. Cô ta không có ích gì cho tôi cả.”

“Nhưng Aricia thì có thể.”

“Chắc chắn rồi. Tôi biết mọi nước đi của họ trong vụ Aricia. Tôi biết là khoản tiền kia đang được chuyển ra nước ngoài. Tôi biết rõ nhà băng nào và bao giờ thì tiền sẽ được chuyển đến.”

“Vậy làm sao mà anh đã đánh cắp được nó ?”

“Cũng lại nhờ rất nhiều may mắn. Mặc dù Bogan là người quyết định, nhưng Vitrano làm hầu hết chuyện giao dịch với các chủ nhà băng. Tôi đã bay tới Miami với một bộ giấy tờ giả, theo đó tôi là Doug Vitrano. Tôi có số thẻ bảo hiểm xã hội của ông ta và những tư liệu thiết yếu khác nữa. Cái thằng cha làm giấy tờ giả cho tôi đó có một bộ sưu tập hàng trăm khuôn mặt đặt sẵn trong máy tính và ông chỉ cần cho biết ông thích khuôn mặt nào, vậy thôi, thế là khuôn mặt đó lập tức có trên cái bằng lái xe của ông. Tôi đã chọn một khuôn mặt hao hao cả tôi và Vitrano. Từ Miami, tôi bay tới Nassau, và đó là nơi khó khăn nhất. Tôi tới nhà băng Ngân hàng liên hiệp xứ Wales. Tay chủ chốt mà Vitrano đã có liên hệ tên là Graham Dunlap. Tôi chìa tất cả những thứ giấy tờ giả mạo của mình ra, kể cả một nghị quyết của hội đồng cổ đông, trên giấy có tiêu đề của Hãng hẳn hoi, theo đó tôi có bổn phận chuyển số tiền đó đi nơi khác ngay khi vừa nhận được. Dunlap không ngờ là đích thân ngài Vitrano đến và rất ngạc nhiên, thậm chí là sửng sốt với việc Hãng cử người tới tận nơi chỉ vì một việc rất thông thường như vậy. Ông ta pha cà phê mời tôi và còn bảo cô thư ký mang bánh ngọt tới nữa. Tôi đang ăn bánh ngay trong phòng làm việc của ông ta thì bức điện chuyển tiền kia được gửi tới.”

“Ông ta không hề nghĩ tới việc gọi điện cho Hãng à?”

“Không. Và nghe này, Karl, tôi đã sẵn sàng chuồn ngay. Nếu như Dunlap có mảy may ngờ vực, hẳn là tôi sẽ phải xử lý ông ta, chạy ra khỏi nhà băng, lên tăcxi và lao ra sân bay. Tôi đã có sẵn trong túi mình ba chiếc vé cho ba chuyến bay khác nhau.”

“Liệu anh sẽ đi đâu được ?”

“Trời ạ, nên nhớ rằng tôi vẫn đang là người chết cơ mà. Có thể là tới Braxin. Tôi sẽ kiếm một việc làm chẳng hạn như pha rượu ở quầy bar và dành phần cuộc đời còn lại của mình trên những bãi biển. Tóm lại, kể cả không lấy được tiền thì tôi cũng vẫn cứ đi. Thế nhưng tôi đã lấy được, và họ bắt đầu truy đuổi. Bởi vậy mà lúc này tôi lại đang ở đây. Dù thế nào chăng nữa thì Dunlap cũng đã có những câu hỏi chính đáng và tôi đã trả lời trôi chảy. Ông ta xác nhận là điện chuyển tiền đã đến, và ngay lập tức tôi cho chuyển nó di, tới một nhà băng ở Manta.”

“Tất cả à ?”

“Gần như là tất cả. Dunlap hơi lưỡng lự một chút khi nhận ra rằng tất cả chỗ tiền đó đang rời khỏi nhà băng của mình. Tôi hồi hộp kinh khủng. Ông ta nhắc gì đó về khoản phí cho dịch vụ dành cho ngân hàng mình và tôi hỏi thông thường là bao nhiêu. Ông ta lập tức trở thành một con cáo ranh mãnh, nói rằng năm mươi nghìn sẽ là thích hợp, và tôi đã đồng ý. Năm mươi nghìn đôla đã được để lại trong tài khoản và sau đó được chuyển sang cho Dunlap. Cái nhà băng đó nằm ở trung tâm Nassau ...”

“Từng ở trung tâm Nassau. Sáu tháng sau khi bị anh cướp mất khoản tiền đó, nó đã đóng cửa.”

“Phải, tôi có nghe nói. Thật đáng tiếc. Bước ra khỏi nhà băng, khi chân tôi đã chạm xuống mặt hè phố thì thật là phải cố lắm mới khỏi chạy như một người điên. Tôi những muốn hét váng lên và bay từ phố này qua phố khác, nhưng đã kiềm chế được. Tôi nhảy lên một chiếc tăcxi, nói với người tài xế rằng tôi đang rất vội. Chuyến bay đi Atlanta cất cánh sau đó một giờ. Chuyên Miami thì phải chờ một giờ rưỡi. Chuyến La Guardia thì đang đón hành khách lên, vậy là tôi bay đi New York.”

“Với chín mươi triệu đôla.”

“Trừ năm mươi nghìn cho Dunlap. Đó là chuyến bay dài nhất trong đời tôi, Karl. Tôi làm ba ly Martini và vẫn không cảm thấy gì ngoài sự hồi hộp. Cứ nhắm mắt là tôi lại thấy các nhân viên hải quan với những khẩu tiểu liên đang đợi sẵn tại cửa ra. Tôi cứ nghĩ là Dunlap đã trở nên ngờ vực và đã gọi điện cho Hãng, và bằng cách nào đó họ đã lần theo tôi được tới sân bay và biết tôi đang ở trên chuyến bay đó. Cả đời, chưa bao giờ tôi lại bám lấy khoang máy bay đến thế. Một ánh đèn máy ảnh nhoáng lên khi tôi bước ra đến khu vực cửa đón, và tôi nghĩ, thế là hết ! Họ vồ được mình rồi ! Hóa ra đó là một đứa trẻ với chiếc máy điện tử. Tôi thực sự là đã lao vội vào phòng vệ sinh, và ngồi trong toalét tới hai mươi phút. Cạnh chân tôi là cái túi bạt với tất cả tài sản của mình.”

“Đừng có quên chín mươi triệu đôla kia.”

“Phải.”

“Số tiền đó đã được chuyển đến Panama như thế nào ?"

“Làm sao mà ông biết là nó đã được chuyển đến Panama cơ chứ ?”

“Tôi là thẩm phán, Patrick. Cảnh sát đã nói với tôi. Đây là một thành phố nhỏ mà.”

“Chỉ thị chuyển tiền đã được đưa ra từ Nassau. Chỗ tiền đó được chuyển đến một tài khoản mới ở Manta, rồi nhanh chóng được chuyển tiếp tới Panama.”

“Sao anh lại thành thạo cái việc chuyển tiền đó đến thế ?"

“Cũng phải nghiên cứu chút ít. Tôi đã tìm hiểu vấn đề này trong một năm. Karl, hãy cho tôi biết ông nghe được tin về vụ mất tiền đó vào khi nào vậy ?”

Karl cười phá lên và ngả người ra. Ông ta chắp hai tay ra sau gáy. “Trời, các bạn bè của anh ở Hãng đã không giấu nổi cái vụ làm ăn kia của họ.”

“Tôi ngạc nhiên đấy.”

“Thực tế là cả thành phố biết họ sắp giàu to. Họ rất nghiêm chỉnh trong việc giữ bí mật thế nhưng lại tiêu tiền như phá. Havarac mua một chiếc Mercedes đen nhất và lớn nhất từng được sản xuất ra từ trước tới nay. Tay kiến trúc sư của Vitvano thì đang bước vào giai đoạn cuối cùng của việc thiết kế ngôi nhà mới cho họ — rộng hàng nghìn mét vuông. Rapley ký hợp đồng mua một chiếc thuyền buồm dài hai mươi lăm mét, nói rằng ông ta đang tính tới chuyện nghỉ hưu. Tôi có nghe nói đôi lần tới chuyện họ toan mua cả một chiếc máy bay phản lực riêng nữa cơ. Quanh đây thì khó mà giấu được cái khoản thù lao ba mươi triệu đôla kia lắm, mà họ cũng chẳng thực sự muốn giấu. Họ còn rất muốn người ta biết cơ mà.”

“Quả là thế thật.”

“Anh làm vụ đó vào một ngày thứ năm, đúng không nào ?"

“Đúng. Ngày 26 tháng Ba.”

“Ngày hôm sau, tôi đang chuẩn bị tiến hành xử vụ án dân sự thì một trong số các luật sư nhận được một cú điện thoại từ văn phòng Hãng. Đó là tin có trục trặc trong vụ làm ăn lớn tại Hãng Bogan, Rapley, Vitrano, Havarac và Lanigan. Chỗ tiền đó đã biến mất. Tất cả. Bị đánh cắp ở nước ngoài.”

“Người ta có nhắc đến tên tôi không ?”

“Ngày đầu thì không. Nhưng cũng chẳng bao lâu sau. Có tin nói rằng các camêra bảo vệ ở nhà băng đã ghi lại được hình ai đó hơi giống với anh. Thế rồi người ta thêm mắm thêm muối, và rồi tin này loang ra khắp thành phố.”

“Ông có tin là tôi đã gây ra vụ đó không ?”

“Lúc đầu, tôi quá kinh ngạc đến mức không tin bất cứ chuyện gì. Tất cả chúng tôi đều thế cả. Chúng tôi đã chôn cất anh, đã cầu nguyện. Không thể nào tin được. Thế nhưng, vài ngày trôi qua, cơn sốc qua đi và các lời giải hình thành. Bản di chúc mới, hợp đồng bảo hiểm sinh mạng, cái thi thể bị thiêu rụi - chúng tôi bắt đầu ngờ ngợ. Thế rồi họ phát hiện ra rằng cái văn phòng của Hãng luật đầy những thiết bị nghe trộm. FBI thẩm vấn tất cả những người ở quanh đây. Một tuần sau thì hầu hết mọi người đều tin rằng anh đã gây ra vụ đó.”

“Ông có tự hào về tôi không ?”

“Tôi sẽ không nói là tôi tự hào. Có lẽ là kinh ngạc. Hoặc là sửng sốt. Dù thế nào thì cũng còn một cái xác chết ở đó kia mà. Thế rồi, tôi đã bàng hoàng cả người.”

“Không một chút ngưỡng mộ nào ư ?”

“Tôi nhớ là không có cảm giác đó, Patrick. Không, một người vô tội đã bị giết hại để anh có thể đánh cắp số tiền kia. Bên cạnh đó, anh còn bỏ lại một người vợ và một đứa con gái.”

“Người vợ thì đã được một khoản kếch xù. Đứa trẻ thì không phải con tôi.”

“Lúc đó tôi đâu có biết vậy. Không một ai biết. Không, tôi không nghĩ là có ai ngưỡng mộ anh cả.”

“Đám cổ đông của Hãng thì sao ?”

“Không ai nhìn thấy họ trong mấy tháng ròng. Họ bị Aricia kiện. Tiếp theo đó còn những khiếu kiện khác nữa. Họ đã tiêu xài quá mức, đi đến chỗ phá sản. Những vụ ly dị, rượu chè, thật kinh khủng. Họ đã tự hủy diệt, như trong các cuốn tiểu thuyết vậy.”

Patrick leo lên giường và ngồi khoanh chân. Hắn cười một cách cay độc. Huskey đứng dậy đi đến bên cửa sổ. “Anh đã ở New York trong bao lâu ?” Ông vừa hỏi vừa nhìn qua khe tấm rèm cửa.

“Chừng một tuần. Tôi không muốn để một đồng trong số tiền đó quay lại Mỹ, bởi vậy tôi đã thu xếp chuyển nó tới một nhà băng ở Toronto. Cái nhà băng ở Panama kia là một chi nhánh của Ngân hàng Ontario, bởi vậy tôi cần bao nhiêu thì chuyển bấy nhiêu rất dễ dàng.”

“Anh bắt đầu ăn tiêu chứ ?”

“Không nhiều. Vào lúc đó, tôi đang làm một công dân Canada, với giấy tờ hoàn hảo, một người từ Vancouver chuyển tới. Tôi mua một căn hộ nhỏ và làm thẻ tín dụng. Tôi tìm một thầy dậy tiếng Bồ Đào Nha và học sáu giờ đồng hồ một ngày. Tôi đi châu Âu mấy bận để tấm hộ chiếu của tôi được sử dụng và được kiểm chứng. Mọi thứ đều ngon lành cả. Sau ba tháng, tôi rao bán cái căn hộ đó và đi Litxbon, học tiếng ở đó thêm vài tháng nữa. Rồi vào ngày 5 tháng Tám năm 1992, tôi bay đi São Paulo.”

“Bắt đầu những ngày tự do của anh.”

“Hoàn toàn tự do, Karl. Tôi xuống tới thành phố đó với hai cái túi nhỏ. Ngồi lên một chiếc tăcxi và, rất nhanh, tôi biến mất vào trong cái biển hai mươi triệu con người ở đó. Trời mưa và tối, tắc đường, và tôi ngồi trong cái xe tăcxi đó, tự nhủ rằng không ai trên thế giới này có thể biết tôi đang ở đâu. Đó là một sự tự do tuyệt đối, không hề bị câu thúc gì hết. Tôi nhìn ngắm gương mặt của những người đang vội vã đi lại hai bên đường phố, và nghĩ rằng từ lúc này trở đi mình cũng sẽ là một người trong số họ. Tôi, lúc bấy giờ, là một công dân Braxin tên là Danilo, và tôi sẽ không bao giờ là bất kỳ ai khác nữa.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 29


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Sandy ngủ được chừng ba tiếng trên một cái đệm cứng nhắc trong căn gác xép nằm đâu đó phía bên trên phòng đọc, xa chỗ của nàng, và tỉnh giấc khi những tia nắng sớm chiếu qua các tấm rèm cửa. Sáu giờ rưỡi. Họ đã nói lời chúc ngủ ngon vào lúc ba giờ, sau bảy tiếng đồng hồ rà soát kỹ càng lại các tài liệu và lắng nghe hàng chục cuộc trao đổi bí mật mà không thể ngờ là Patrick đã ghi lại được.

Anh tắm rửa và mặc quần áo, rồi tìm xuống bếp, nơi Leah đang ngồi ở bàn ăn sáng với bình cà phê mới pha cùng vẻ mặt tỉnh táo đáng ngạc nhiên. Nàng phết mứt lên bánh mì cho Sandy trong lúc anh ngó qua mấy tờ báo. Lúc này, Sandy đã sẵn sàng lên đường trở lại văn phòng để tự mình xem xét đống hồ sơ về Aricia.

“Có tin tức gì về cha cô không ?” Anh hỏi bằng giọng nói nhẹ nhàng đầu ngày.

“Không. Nhưng mà tôi cũng không thể nào gọi điện từ đây được. Tôi sẽ đi chợ và sẽ dùng một điện thoại công cộng.”

“Tôi sẽ cầu nguyện cho ông ấy.”

“Cảm ơn.”

Họ chất toàn bộ đống hồ sơ về Aricia vào trong cốp xe của Sandy, rồi nói lời tạm biệt. Nàng hứa sẽ gọi lại cho anh trong vòng hai mươi bốn giờ. Nàng sẽ chưa đi đâu ngay. Tình thế của thân chủ của họ đã từ phức tạp chuyển sang cấp bách.

Bầu không khí buổi sáng mát lạnh. Dù sao thì cũng đã là tháng Mười và ngay cả vùng bờ biển này cũng đã bắt đầu thấy hơi hướng của mùa thu. Nàng khoác lên người chiếc áo có mũ chùm đầu và đi dạo ra ngoài bờ biển, chân để trần, một tay thọc trong túi còn tay kia vẫn cầm ly cà phê. Nàng giấu mặt sau cặp kính đen, điều làm nàng hơi khó chịu. Bãi biển vắng tanh vắng ngắt. Vì sao mà nàng vẫn buộc phải giấu mặt cơ chứ?

Giống như tất cả những người dân Rio khác, nàng đã dành một phần rất nhiều cuộc sống của mình trên những bãi biển, một nét văn hóa. Ngôi nhà tuổi thơ của nàng chính là cái căn hộ của cha nàng ở Ipanema, khu cư dân đẹp nhất trong vùng Rio, nơi mà mọi đứa trẻ đều lớn lên trên bãi biển. Nàng không quen với những chặng đi dạo dài theo mép nước mà lại không bị vây quanh bởi cả triệu người đang tắm nắng và chơi đùa vui vẻ. Cha nàng là một trong những người đầu tiên tập hợp những nỗ lực chống lại sự phát triển không ngừng của Ipanema. Ông không chịu nổi sự tăng dân số ồ ạt cùng việc xây dựng bừa bãi, và đã làm việc không mệt mỏi với các nhóm hoạt động tương tự khác trong cộng đồng.

Những hoạt động như vậy đi ngược lại với thái độ điển hình của người Rio là cứ để cuộc sống như nó vốn có, thế nhưng, với thời gian, lại được vì nể và thậm chí là được hoan nghênh. Về phần mình, Eva cũng dành thời gian cho các nhóm bảo tồn trong các vùng Tpanema và Leblon.

Mặt trời đã khuất vào sau những đám mây, và gió bắt đầu mạnh lên. Nàng quay trở về ngôi nhà nghỉ trong khi những con hải âu vẫn bám theo và kêu quang quác trên đầu. Nàng đóng tất cả các cửa sổ, khóa cửa nhà, rồi lái xe tới một siêu thị cách đó chừng hai dặm để mua hoa quả và nước gội đầu, và cũng là để tìm một buồng điện thoại công cộng.

Thoạt tiên, nàng đã không để ý tới người đàn ông đó, và sau cùng, khi nàng bắt đầu chú ý thì dường như anh ta đã đứng cạnh nàng từ bao giờ rồi vậy. Lúc nàng cầm chai nước gội đầu lên thì anh ta khịt mũi, vẻ như người bị cảm lạnh. Nàng quay người, liếc mắt sau cặp kính đen, và chợt giật mình khi cảm thấy cái ánh mắt đó. Anh ta chừng ba bốn mươi gì đó, da trắng, không cạo râu, nhưng ngoài ra thì nàng không còn kịp để ý gì nữa.

Anh ta nhìn chằm chặp vào nàng với cặp mắt ngầu ngầu màu xanh xám, khuôn mặt sạm nắng. Nàng lạnh lùng bỏ đi, cầm theo chai nước gội đầu. Có lẽ đây cũng chỉ là một người dân địa phương, một kẻ bệnh hoạn vô hại hay bất chợt xuất hiện làm cho những người đi nghỉ mát phải giật mình. Có khi tất cả mọi người trong cửa hàng này đều biết tên của anh ta và đều lượng thứ, bởi lẽ anh ta chưa bao giờ làm thương tổn đến một con sâu cái kiến nào cũng nên.

Vài phút sau, nàng lại nhìn thấy anh ta, lần này nấp sau một tủ bánh, giấu mặt sau một chiếc bánh pizza, nhưng cặp mắt ngầu ngầu thì vẫn theo dõi từng bước đi của nàng. Vì sao anh ta lại nấp và giấu mặt nhỉ? Nàng để ý là anh ta mặc quần cộc và đi dép.

Đột nhiên, nàng cảm thấy hoảng sợ, trống ngực đập thình thịch và hai chân như run lên. Ý nghĩ đầu tiên của nàng là bỏ chạy, thế nhưng nàng đã cố kiềm chế để nán lại. Cho dù hắn ta là ai thì nàng cũng đã bị phát hiện, và việc cứ tiếp tục quan sát hắn chừng nào hắn còn quan sát nàng chỉ là điều có lợi mà thôi. Ai mà biết được khi nào thì nàng có thể lại gặp phải hắn ? Nàng loanh quanh trong gian hàng mỹ phẩm, rồi đi nhanh sang khu vực thực phẩm, và trong một lúc lâu không nhìn thấy hắn đâu nữa. Thế rồi, nàng lại nhìn thấy hắn đứng quay lưng lại phía nàng, tay cầm một bình sữa.

Sau đó ít phút, qua những cửa sổ kính tấm lớn ở mặt trước, nàng thấy hắn đang đi qua khu đỗ xe, đầu hơi nghẹo sang một bên để nói chuyện bằng điện thoại di động, tay không cầm gì cả. Cái bình sữa kia đâu rồi? Nàng đã có thể chạy ra bằng lối cửa sau, thế nhưng xe của nàng lại đang để ở đằng trước. Nàng cố bình thản trả tiền mua hàng, nhưng tay run lên khi nhận tiền trả lại.

Có khoảng ba chục cái xe, kể cả chiếc xe đi thuê của nàng, đang đậu trong bãi đỗ, và nàng biết là không thể nào kiểm tra hết nổi. Và nàng cũng không muốn làm vậy. Hắn đang ở trong một cái xe nào đó. Đơn giản là nàng chỉ muốn rời đi mà không bị bám theo. Nàng nhanh chóng chui vào xe, ra khỏi bãi, và chạy về hướng ngôi nhà nghỉ trên bờ biển, mặc dù biết rằng không bao giờ nàng còn có thể trở lại đó nữa. Nàng chạy chừng nửa dặm, rồi đột ngột quay đầu xe lại, vừa kịp để nhìn thấv hắn ta bám theo, cách sau ba xe khác trong một chiếc Toyota còn mới. Cặp mắt màu xanh xám của hắn ta quay đi vào tích tắc cuối cùng. Kỳ cục thật, nàng nghĩ, hắn không thèm che giấu. Mọi thứ vào lúc đó đều có vẻ kỳ cục. Thật là kỳ cục khi mà nàng phải lái xe trên một xa lộ không hề quen thuộc ở nước ngoài, với một tấm hộ chiếu giả, theo đó nàng là một người nào đó mà nàng không hề muốn đội lốt tí nào, và đi đến đâu nàng cũng còn chưa biết. Đúng vậy, tất cả đều thật kỳ cục, lẫn lộn, đầy đe dọa, và điều Eva cần và muốn đến chết lúc này là được gặp Patrick để nàng có thể rầy la hắn cả tiếng đồng hồ, và đấm cho hắn mấy đấm nữa. Đây không phải là điều đã được thỏa thuận giữa nàng và hắn. Việc Patrick bị truy lùng vì quá khứ của hắn là một chuyện, nhưng nàng thì không có làm điều gì sai trái. Đó là chưa nói tới cha nàng.

Là người Braxin, nàng thường lái xe với một chân giữ ga và chân kia hờm sẵn trên bàn phanh, và mật độ giao thông trên tuyến đường dọc bờ biển lúc này rất cần lối lái xe đó của nàng. Thế nhưng, nàng phải bình tĩnh. Đừng có hoảng hốt khi chạy trốn, Patrick đã nói vậy nhiều lần. Phải suy nghĩ, quan sát và tính toán.

Nàng quan sát những chiếc xe chạy phía sau, và tuân thủ luật giao thông.

“Luôn luôn phải biết mình đang ở đâu,” Patrick từng nói thế. Nàng đã nghiền ngẫm những tấm bản đồ đường xá trong nhiều giờ. Lúc này, nàng quay xe chạy theo hướng bắc và dừng lại tại một cây xăng để xem có ai bám theo không. Không có gì cả. Người đàn ông có cặp mắt màu xanh xám kia không có ở phía sau nàng, nhưng điều đó chưa đủ để nàng cảm thấy thoải mái được. Anh ta biết là đã bị nàng nhìn thấy. Đơn giản là anh ta có thể báo tin bằng điện thoại di động và giờ đây cả nhóm còn lại của bọn họ sẽ theo dõi nàng.

Một giờ sau, nàng đi vào nhà ga sân bay ở Pensacola và phải đợi tám mươi phút để có chuyến bay đi Miami. Với nàng thì bất kỳ chuyến bay nào cũng được cả, nhưng Miami là chuyến bay sớm nhất. Nàng ngồi đợi trong một quán cà phê, vờ xem một cuốn tạp chí và quan sát mọi biến động xung quanh. Một nhân viên bảo vệ có vẻ khoái được ngắm nghía nàng, và nàng thấy khó mà có thể không để mắt tới anh ta được. Vả lại, nhà ga sân bay lúc này chỉ có mấy bóng người.

Chuyến bay đi Miami được thực hiện bởi một chiếc máy bay phản lực cánh quạt cỡ nhỏ, và dường như nó bay rất lâu thì phải. Mười tám trong số hai mươi bốn ghế bị bỏ trống, và năm hành khách kia không có vẻ đe dọa gì. Nàng thậm chí còn có thể chợp mắt được một chút.

Tại Miami, nàng ngồi ẩn mình chừng một giờ trong phòng nghỉ lớn của sân bav, uống nước và nhìn dòng người đến và đi. Tại quầy vé của Hãng Varig, nàng mua một chiếc vé hạng nhất đi São Paulo, một chiều. Nàng cũng không biết là vì sao nữa. São Paulo không phải là nhà, nhưng chắc chắn đó là hướng đi đúng. Có lẽ nàng sẽ trú ngụ ở đó ít ngày, trong một khách sạn tử tế. Nàng sẽ được gần cha hơn, cho dù là ông đang ở đâu. Các chuyến bay đang liên tiếp bay đi hàng trăm nơi. Tại sao lại không thể về thăm đất nước của nàng được chứ ?

Như thường lệ, FBI đã báo động cho các nhân viên hải quan và xuất nhập cảnh, cũng như cho các Hãng hàng không. Thông báo này của FBI đề cập cụ thể đến một phụ nữ trẻ, ba mươi mốt tuổi, sử dụng một hộ chiếu Braxin, tên thật là Eva Miranda nhưng có khả năng dùng một tên giả. Sau khi biết về cha nàng thì việc kiếm ra cái tên thật của nàng chỉ là việc đơn giản. Vào lúc mà Leah Pires bước qua cửa kiểm soát hộ chiếu ở sân bay quốc tế Miami, nàng vẫn còn đang tìm kiếm những kẻ bám theo ở phía sau mà không ngờ rằng những rắc rối đang chờ nàng ở phía trước.

Tấm hộ chiếu mang tên Leah Pires của nàng đã tỏ ra hoàn toàn đáng tin cậy trong suốt hai tuần lễ qua. Thế nhưng, tay nhân viên hải quan này đã đọc bản thông báo kia trước đó một giờ trong khi đang nghỉ ngơi với ly cà phê. Anh ta nhấn nút báo động trên cái máy kiểm tra trong khi xét nét một cách rất từ tốn từng chữ trên tấm hộ chiếu. Sự thận trọng này lúc đầu chỉ gây khó chịu một chút, nhưng rồi Leah nhận ra rằng có chuyện gì đó không ổn. Các hành khách ở những cửa khác đang đi qua nhanh chóng, chỉ phải hơi chậm lại đủ để mở hộ chiếu ra và nhận lại những cái gật đầu chấp thuận. Một giám sát viên mặc chiếc áo khoác màu xanh đen không biết từ đâu xuất hiện và hội ý với tay nhân viên hải quan. “Bà có thể vào đây một chút được không, thưa bà Pires ?” Ông ta lịch sự mời nhưng rõ ràng là không còn để chỗ cho ai từ chối.

“Có vấn đề gì ư ?" Nàng căn vặn.

“Không hẳn thế. Chỉ một vài câu hỏi.” Ông ta ra ý chờ nàng. Một lính gác mặc quân phục tay cầm dùi cui, súng đeo bên hông cũng đang chờ đợi. Tay giám sát viên đang giữ hộ chiếu của nàng, cả chục hành khách phía sau cũng đưa mắt nhìn họ.

“Những câu hỏi về chuyện gì cơ chứ ?" Nàng vừa hỏi vừa bước theo tay giám sát viên và người lính gác tới cánh cửa thứ hai.

“Chỉ một vài câu hỏi,” ông ta nhắc lại, tay mở cửa và đưa nàng vào trong một căn phòng nhỏ không có ô cửa sổ nào. Một phòng tạm giữ. Nàng để ý cái tên Rivera trên tấm biển đeo trên ngực áo, nhưng trông ông ta không có vẻ gốc Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha.

“Trả hộ chiếu cho tôi,” nàng yêu cầu ngay sau khi cánh cửa được khép lại.

“Không nhanh như thế đâu, thưa bà Pires. Tôi cần phải hỏi bà một vài câu.”

“Và tôi không có bổn phận phải trả lời.”

“Xin hãy bình tĩnh. Mời ngồi. Tôi có thể lấy cho bà chút cà phê hay nước được không?”

“Không cần.”

“Đây có phải là một địa chỉ đúng ở Rio không ?”

“Chắc chắn là đúng.”

“Bà từ đâu tới đây ?”

“Pensacola.”

“Chuyến bay nào ?”

“Airlink 855.”

“Và nơi bà định đến ?"

“São Paulo.”

“Nơi nào ở São Paulo ?”

“Có lẽ đó là chuyện riêng tư.”

“Công việc hay du lịch ?"

“Chuyện đó thì liên quan gì ?"

“Liên quan đấy. Theo hộ chiếu thì nhà của bà ở Rio. Vậy bà định ở đâu tại São Paulo?”

“Một khách sạn.”

“Tên của khách sạn đó ?”

Nàng ngập ngừng trong lúc cố tìm ra một cái tên, và cái sự ngập ngừng chút xíu đó thật là tai hại. “À, khách..ế sạn... Inter... Continental,” sau cùng nàng đáp, không có vẻ thật một tí nào cả.

Ông ta ghi lại, rồi nói, “Và chúng tôi cho rằng căn phòng ở đó đã được đặt với cái tên Leah Pires chứ hả ?”

"Tất nhiên,” nàng đáp trơn tuột. Thế nhưng, chỉ một cú điện thoại ngắn gọn là đủ chứng tỏ việc nàng nói dối.

“Hành lý của bà đâu ?” Ông ta hỏi tiếp.

Một vẻ lúng túng nữa, và lần này thì rõ ràng hơn. Nàng ngập ngừng, nhìn đi chỗ khác, và nói, “Tôi không mang theo gì nhiều.”

Có ai đó gõ cửa. Rivera mở hé, nhận một mảnh giấy, và thì thầm gì đó với người đồng sự không thấy mặt kia. Leah ngồi xuống, cố lấy lại bình tĩnh. Cánh cửa khép lại và Rivera xem lại nội dung trên mảnh giấy kia.

"Theo hồ sơ của chúng tôi, bà đã nhập cảnh cách đây tám ngày, tại Miami này, trên một chuyến bay tới từ Luân Đôn mà nơi xuất phát ban đầu là Zurich. Tám ngày, và không mang theo hành lý. Cũng lạ, phải không nào ?”

“Đi lại không mang theo hành lý là một tội ư ?” Nàng vặn lại.

“Không, nhưng dùng hộ chiếu giả thì là một tội, ít ra là ở nước Mỹ.”

Nàng nhìn tấm hộ chiếu đang nằm trên mặt bàn và vẫn bướng bỉnh nói, “Nó không phải là giả.”

“Bà có biết một người tên là Eva Miranda không ?" Rivera hỏi, và Leah không thể nào còn tiếp tục vênh mặt lên được nữa. Tim nàng như ngừng đập, mặt cúi xuống, và nàng biết là cuộc chơi đã chấm dứt. Rivera biết là họ đã vồ được một con mồi.

“Tôi sẽ phải liên hệ với FBI,” ông ta nói. “Sẽ phải mất một chút thời gian.”

“Tôi đang bị bắt ư ?" Nàng hỏi.

“Chưa.”

"Tôi là một luật sư . Tôi...”

“Chúng tôi biết. Và chúng tôi có quyền tạm giữ bà để thẩm vấn. Văn phòng của chúng tôi ở tầng dưới. Nào, chúng ta đi.”

Nàng bị dẫn đi nhanh chóng, tay vẫn cầm chặt cái xắc, mắt vẫn mang kính.

oOo

Chiếc bàn dài chất kín giấy tờ và hồ sơ, với đầy những mảnh giấy nhàu nát bị xé ra từ các tập giấy ghi chép, giấy lau, những chiếc cốc giấy, và thậm chí cả những miếng bánh xăng-uých ăn dở. Bữa trưa đã kết thúc từ năm tiếng đồng hồ trước đó nhưng không vị luật sư nào nghĩ tới bữa chiều cả. Thời gian chỉ được tính ở bên ngoài căn phòng này. Còn bên trong, nó không có ý nghĩa gì. Cả hai đều để chân trần. Patrick mặc chiếc áo phông và quần soóc thể thao. Sandy mặc chiếc áo sơ mi vải bông rất nhàu nhĩ, quần kaki, không bít tất, giống hệt như cách mà anh ăn mặc trước đó ít giờ ở ngôi nhà nghỉ bên bờ biển.

Cái hộp đựng hồ sơ về Aricia trống rỗng và bị quăng ở một góc phòng, tất cả giấy tờ bên trong đều đã được đổ cả lên mặt bàn. Cánh cửa phòng được mở ra ngay trong lúc tiếng gõ cửa còn chưa dứt, và nhân viên đặc biệt Joshua Cutter bước vào trước khi được mời. Ông ta đứng ngay ở cửa.

“Đây là một cuộc gặp riêng,” Sandy nói, đứng sát tận mặt Cutter. Không thể để bất kỳ ai nhìn thấy những tư liệu trên mặt bàn. Patrick bước lại phía cửa để cố chắn tầm nhìn của Cutter.

"Tại sao ông không gõ cửa trước khi vào hả ?” Hắn bực tức hỏi.

“Xin lỗi,” Cutter bình tĩnh đáp. “Chỉ một phút thôi mà. Tôi nghĩ rằng anh sẽ muốn biết là chúng tôi đang tạm giữ Eva Miranda. Cô ta bị bắt tại sân bay Miami, trong khi đang trên đuờng trở về Braxin, hộ chiếu giả và nhiều những lý do khác nữa.”

Patrick chết sững và cố nghĩ ra một điều gì đó để nói.

“Eva ?” Sandy hỏi.

“Phải, cũng còn được biết với cái tên Leah Pires nữa. Đó là tên trong cái hộ chiếu giả kia của cô ta.” Cutter nhìn Patrick trong khi trả lời Sandy.

“Cô ấy đang ở đâu ?” Patrick sững sờ hỏi.

“Bị giam, ở Miami.”

Patrick quay người đi và bước dọc theo mép bàn. Nhà giam thì ở đâu cũng khủng khiếp, nhưng ở Miami thì đã đặc biệt tai tiếng.

“Ông có một số điện thoại nào đó để chúng tôi có thể gọi cho cô ấy được không ?” Sandy hỏi.

“Không.”

“Cô ấy có quyền gọi một cú điện thoại mà.”

“Chúng tôi sẽ thu xếp”

“Cho tôi một số điện thoại, được chứ ?”

“Để xem.” Cutter tiếp tục quan sát Patrick và phớt lờ Sandy. "Cô ta có vẻ vội vã lắm. Không có hành lý gì, trừ một cái túi. Đang toan chuồn về Braxin, bỏ rơi anh lại.”

“Ông im đi,” Patrick quát.

“Ông có thể đi được rồi đấy,” Sandy nói.

“Thì chỉ nghĩ là các anh muốn biết thôi mà,” Cutter nói, rồi mỉm cười bỏ đi.

Patrick ngồi xuống, đưa tay xoa nhẹ hai bên thái dương. Đầu hắn đã nặng trịch trước lúc Cutter đến, và lúc này thì như đang muốn nổ tung. Hắn đã cùng Eva bàn tính kỹ càng ba tình huống mà nàng sẽ phải đối mặt một khi họ bắt được hắn. Thứ nhất là nàng sẽ phải ẩn mình trong bóng tối, giúp đỡ cho Sandy và hoàn toàn tự do đi lại. Thứ hai là nàng có thể bị Stephano và Aricia bắt được, khả năng đáng sợ nhất. Thứ ba là FBI có thể bắt được nàng, điều không khủng khiếp như tình huống thứ hai, nhưng cũng gây ra những vấn đề lớn lao. Chí ít thì trong tình huống này, nàng cũng được an toàn. Họ đã không bàn tới cái tình huống thứ tư này, nàng trở lại Braxin mà không có hắn. Hắn không tin là nàng lại toan bỏ rơi hắn.

Sandy lặng lẽ thu xếp hồ sơ và dọn dẹp mặt bàn.

“Anh rời khỏi chỗ cô ấy lúc nào ?” Patrick hỏi.

“Lúc tám giờ. Cô ấy không sao đâu, Patrick. Tôi bảo đảm với anh đấy.”

“Cô ấy có nhắc gì tới Miami hay Braxin không ?”

“Không. Không hề. Tôi có ấn tượng sau cùng là cô ấy sẽ ở lại ngôi nhà nghỉ đó trong một thời gian. Cô ấy bảo tôi là đã thuê nó trong một tháng.”

“Vậy là cô ấy đã bị làm cho sợ hãi. Nếu không thì làm sao mà cô ấy lại chạy đi chứ ?”

“Tôi không biết.”

“Kiếm một luật sư ở Miami, Sandy. Và nhanh lên.”

“Tôi biết vài người ở đó.”

“Cô ấy hẳn đang phải khiếp sợ lắm đấy.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 30


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Lúc đó đã quá sáu giờ, là giờ Havarac thường ở trong sòng bạc, uống uýtxki không phải trả tiền và tìm kiếm đàn bà. Có quá nhiều những lời đồn đại về các khoản tiền nợ cờ bạc của ông ta. Rapley thì chắc chắn là đang tự giam mình trong căn phòng áp mái, mà ai cũng biết là nơi ông ta thường xuyên trú ngụ. Các cô thư ký và các trợ lý đều đã ra về. Doug Vitrano khóa cửa trước của tòa nhà và đi tới căn phòng làm việc ở phía đằng sau, căn phòng lớn nhất và đẹp nhất, nơi Charlie Bogan đang ngồi đợi sẵn, tay áo xắn cao.

Patrick đã cài máy nghe trộm vào được tất cả các phòng làm việc, trừ phòng của Bogan, điều mà ông ta đã rất nhấn mạnh trong những cuộc cãi vã ầm ĩ sau vụ mất tiền. Nếu Bogan không có mặt trong phòng thì nó luôn được khóa kín. Các đồng sự của ông ta thật quá cẩu thả, đó là điều Bogan đã luôn miệng nhắc lại, đặc biệt là Vitrano, người đã dùng điện thoại trong những cuộc trao đổi sau cùng với Graham Dunlap, nguyên nhân để Patrick biết được vụ chuyển tiền đó. Riêng việc này đã được nói nhiều tới mức suýt dẫn tới một cuộc ẩu đả thật sự.

Nói một cách công bằng, Bogan không thể nào dám khoe rằng ông ta đã ngờ vực có những hoạt động gián điệp ngay trong Hãng của mình. Nếu vậy thì tại sao ông ta lại không sớm nhắc nhở những đồng sự lơ đãng? Đơn giản chỉ là ông ta vốn thận trọng và gặp may mà thôi. Những cuộc trao đổi quan trọng đều diễn ra trong phòng làm việc của Bogan. Ông ta giữ chiếc chìa khóa duy nhất. Ngay cả những người dọn dẹp cũng không thể vào đó khi chủ nhân không có mặt.

Vitrano đóng cửa lại cẩn thận rồi gieo mình xuống chiếc ghế bành êm ái kê đối diện với bàn của Bogan.

“Sáng nay tôi đã gặp ông Thượng nghị sĩ,” Bogan nói. “Ông ấy mời tôi đến nhà riêng.” Mẹ của Bogan và cha của ông Thượng nghị sĩ là chị em ruột, và ông Thượng nghị sĩ lớn hơn Bogan mười tuổi.

“Ông ấy có vui vẻ không ?” Vitrano hỏi.

“Tôi không thể nói là như vậy. Ông ấy muốn những thông tin mới nhất về Lanigan, và tôi đã kể lại những gì tôi biết. Ông ấy rất lo ngại về những gì Lanigan có thể nắm được. Tôi đã bảo đảm với ông ấy, như tôi đã bảo đảm nhiều lần, rằng tất cả những liên lạc với ông ấy đều được tiến hành từ căn phòng này, và rằng căn phòng này hoàn toàn sạch sẽ. Bởi vậy, sự lo lắng này là thừa."

“Thế nhưng ông ấy vẫn lo ngại ?”

"Tất nhiên rồi. Ông ấy hỏi lại tôi là liệu có tài liệu nào trói ông ấy vào với Aricia không, và một lần nữa tôi nói là không.”

“Đúng là như vậy.”

“Phải. Không có tài liệu nào dính tới tên của ông Thượng nghị sĩ cả. Tất cả những gì liên quan đến ông ấy chỉ là những lời nói miệng. Hầu hết là được trao đổi trên sân gôn. Tôi đã nói vậy với ông ấy cả nghìn lần, nhưng ông ấy vẫn cứ muốn được nghe lại, do sự trở về của Lanigan.”

“Ông không nói với ông ấy về vụ căn phòng để đồ chứ?"

“Không.”

Cả hai đều nhìn xuống lớp bụi trên mặt bàn Bogan và nhớ lại những gì đã xảy ra trong căn phòng để đồ kia. Vào tháng Giêng năm 1992, một tháng sau khi Bộ Tư pháp chấp thuận giải quyết vụ Aricia, và chừng hai tháng trước khi họ sẽ nhận được tiền, một hôm Aricia đột ngột đến, không hề báo trước, và trong một tâm trạng cáu kỉnh. Patrick vẫn còn ở đó lúc bấy giờ, mặc dù chỉ còn ba tuần nữa là đến đám tang của hắn. Hãng đã bắt đầu việc sửa sang lớn trụ sở, và bởi vậy Bogan không thể tiếp Aricia trong phòng làm việc của mình. Những người thợ sơn đang ở trên thang. Những tấm vải phủ bao kín các đồ đạc. Họ đành đưa Aricia tới một phòng họp nhỏ đối diện qua hành lang với phòng của Bogan, một căn phòng mà mọi người gọi một cách đơn giản là phòng để đồ do kích cỡ của nó. Một cái bàn vuông kê ở chính giữa, với bốn chiếc ghế kê ở bốn cạnh bàn. Không có cửa sổ nào. Trần phòng nghiêng vát đi vì phía bên trên là cầu thang.

Vitrano đã được triệu đến bởi lẽ ông ta là nhân vật số hai trong Hãng, và một cuộc họp đã diễn ra. Cuộc họp không kéo dài. Aricia đã nổi giận về việc các luật sư sẽ được hưởng ba mươi triệu đôla. Giờ đây, khi mà vụ tố giác của ông ta đã được giải quyết, thì cái thực tế kia hiện lên mồn một, và ông ta nghĩ rằng ba mươi triệu đôla thù lao cho các luật sư là quá đáng. Chuyện đã nhanh chóng trở nên gay gắt khi Bogan và Vitrano giữ nguyên lập trường của họ. Họ đề nghị lấy ra bản hợp đồng giữa hai bên về các dịch vụ pháp lý, thế nhưng Aricia đã không thèm quan tâm đến điều đó.

Trong lúc nóng nảy, Aricia đã hỏi ông Thượng nghị sĩ sẽ được bao nhiêu trong số ba mươi triệu kia. Bogan gay gắt đáp lại rằng đó không phải là việc của ông ta. Aricia tuyên bố rằng phải, bởi vì dù sao thì tiền vẫn là của ông ta, và rồi mắng nhiếc thậm tệ ông Thượng nghị sĩ cùng tất cả các chính trị gia nói chung. Aricia nói khá nhiều tới việc ông Thượng nghị sĩ đã vận động ráo riết ở Oasinhtơn để gây sức ép với bên Hải quân, Lầu Năm Góc, và Bộ Tư pháp để giải quyết vụ tố giác này. “ Ông ta sẽ được bao nhiêu hả ?” Aricia luôn mồm hỏi.

Bogan thì cứ lẩn tránh, chỉ một mực nói rằng ông Thượng nghị sĩ sẽ được quan tâm đúng mức, và nhắc Aricia rằng ông ta đã lựa chọn Hãng luật này chính là vì những mối liên hệ chính trị của nó. Và Bogan cũng nóng nảy nói thêm rằng sáu mươi triệu mà Aricia sẽ bỏ túi không phải là một kết quả tồi, nếu xét tới chuyện lừa gạt ngay từ đầu của vụ tố giác này.

Quá nhiều điều đã được nói tới.

Aricia đề nghị một khoản thù lao chỉ có mười triệu đôla cho họ. Bogan và Vitrano bác bỏ thẳng thừng, ông ta ầm ầm bỏ ra khỏi căn phòng để đồ, mồ hôi ròng ròng theo từng bước chân.

Không có điện thoại, nhưng hai cái micrô đã được tìm thấy ở đó. Một cái giấu bên dưới mặt bàn, gắn khuất trong một góc bằng matít đen. Cái thứ hai được đặt giữa hai cuốn sách luật cổ lỗ, bụi bặm trên cái giá sách duy nhất ở trong phòng. Những cuốn sách vốn chỉ được đặt ở đó nhằm để trang trí.

Sau cơn sốc của vụ mất tiền, và vụ phát hiện tiếp theo đó của Stephano về những thiết bị nghe trộm và đám dây rợ kia, cả một thời gian lâu Bogan và Vitrano đã không nhắc tới cuộc họp ở căn phòng để đồ đó nữa. Họ chưa bao giờ nói với Aricia về chuyện đó, chủ yếu là vì ông ta đã quay sang kiện họ quá nhanh và rồi không muốn nghe nhắc tới tên họ nữa. Sự cố đó cũng mờ dần đi trong trí nhớ của họ. Sau cùng thì có khi là nó chưa bao giờ xảy ra cũng nên.

Giờ đây, khi mà Patrick đã trở về, họ đã buộc phảị e dè đối mặt với nó. Luôn luôn xảy ra khả năng là hai cái micrô đó có trục trặc, hoặc giả Patrick trong lúc vội vàng đã bỏ lỡ việc ghi lại các tín hiệu. Chắc chắn là còn quá nhiều những con rệp khác để làm cho hắn đủ bận rộn rồi. Thực sự là họ đã hy vọng rất có khả năng Patrick đã để lọt cuộc họp trong căn phòng đó.

“Chắc chắn là hắn cũng chẳng giữ những cuộn băng đó trong bốn năm trời đâu, phải không ?” Vitrano hỏi.

Nhưng Bogan không trả lời. Ông ta khoanh tay trước bụng và đăm chiêu nhìn lớp bụi trên mặt bàn. Lẽ ra chuyện đã khác hẳn. Ông ta sẽ được năm triệu, ông Thượng nghị sĩ năm triệu. Không có vụ phá sản, không có cuộc ly dị nào cả. Ông ta cũng sẽ vẫn có vợ và gia đình, có nhà cửa và vị thế của mình. Ông ta cũng đã có thể biến năm triệu đó thành mười rồi, và chẳng mấy chốc mà thành hai mươi, cả một đống tiền thật sự và tha hồ muốn làm gì thì làm. Tất cả đều đã bày ra trước mắt, bàn tiệc đã được dọn ra, thế mà Patrick đã vơ tất tần tật.

Cơn choáng cùa việc tìm ra Patrick đã kéo dài một vài ngày, rồi từ từ tan biến khi mọi việc trở nên rõ ràng là số tiền đó không theo cùng hắn về Biloxi. Với mỗi ngày trôi qua, số tiền đó thực tế là càng trở nên xa vời hơn.

“Ông có nghĩ là chúng ta sẽ lấy được tiền không, Charlie ?" Vitrano hỏi gần như không ra hơi, mắt vẫn dán xuống sàn nhà. Ông ta đã không còn gọi Bogan bằng cái tên Charlie thân tình ấy trong nhiều năm rồi. Sự thân mật như thế không còn có chỗ trong cái Hãng đầy những lòng căm hờn này.

oOo

Biết rằng sẽ phải dành cả một tiếng đồng hồ sắp tới cho những cú điện thoại, Sandy quyết định gọi trước những cú khó khăn nhất. Ngồi trong xe đậu tại bãi đỗ của bệnh viện, anh gọi cho vợ báo sẽ về rất muộn, muộn đến mức có khi phải ngủ lại ở Biloxi. Anh xin lỗi, đổ mọi chuyện lên đầu Patrick, và nói sẽ giải thích sau. Không ngờ là cô vợ cũng không đến nỗi cáu bẳn gì.

Vớ được một cô thư ký làm việc muộn tại văn phòng, Sandy nhờ cô ta kiếm cho các số điện thoại cần thiết. Anh biết hai luật sư ở Miami, song chẳng may là không ai trong số họ còn có mặt ở văn phòng vào lúc bảy giờ mười lăm tối cả. Gọi về nhà riêng một người thì không có ai trả lời máy. Người kia thì không có số đăng ký trên danh bạ. Anh gọi một loạt cú cho các luật sư quen biết ở New Orleans, và sau cùng thì kiếm được số máy ở nhà Mark Birck, một luật sư bào chữa trong lĩnh vực hình sự rất được đánh giá cao ở Miami. Birck không vui vẻ gì khi có điện thoại lúc đang dùng bữa tối, thế nhưng ông ta vẫn lắng nghe. Sandy nói vắn tắt lại vụ Patrick, kể cả diễn biến mới nhất với việc Eva đang bị giam giữ đâu đó ở Miami. Đó là lý do của cú điện thoại này. Birck tỏ vẻ quan tâm, và xác nhận ông ta rất rành về luật di trú cũng như các thủ tục của một vụ án hình sự. Ông ta hứa sẽ bắt đầu vào việc ngay sau bữa tối. Sandy hẹn gọi lại sau một tiếng.

Phải mất ba cú điện thoại để tìm được Cutter, và hai mươi phút dỗ ngon dỗ ngọt mới được ông ta nhận lời đi uống cà phê tại một tiệm bánh. Sandy lái xe tới đó, và trong khi đợi Cutter đã gọi lại cho Birck. Birck báo tin đúng là Eva Miranda đang bị tạm giữ trong một trại giam của Liên bang ở Miami. Nàng chưa chính thức bị buộc một tội gì, nhưng còn quá sớm. Không có cách nào để gặp được nàng ngay trong đêm, và ngày hôm sau cũng còn khó. Theo luật pháp, FBI và Hải quan Mỹ có thể tạm giữ người bị bắt vì dùng hộ chiếu giả trong bốn ngày trước khi có thể có quyết định cho tại ngoại. Birck giải thích điều đó là đúng, nếu tính tới thực tế là những người đó thường nhanh chóng biến mất.

Birck đã tới trại giam đó vài lần để gặp gỡ các thân chủ, và tình hình ở trong đó cũng không đến nỗi quá tệ. Nàng được giam tại một phòng riêng, và nhìn chung là an toàn. May ra thì nàng sẽ được gọi điện thoại vào sáng hôm sau.

Sandy nhấn mạnh rằng không vội vã gì lắm với việc đưa nàng ra, nhưng không cung cấp quá nhiều các chi tiết. Có nhiều kẻ đang rình rập nàng ở bên ngoài. Birck hứa sẽ có những liên hệ cần thiết vào sáng sớm hôm sau, và sẽ cố gắng để được vào gặp nàng. Thù lao của ông ta sẽ là mười nghìn đôla, và Sandy đồng ý.

Anh vừa cúp máy thì Cutter vênh váo bước vào và ngồi xuống cái bàn cạnh cửa sổ mặt trước, đúng như đã hẹn. Sandy khóa cửa xe lại và vào tiệm.

oOo

Bữa tối là những thứ đồ ăn đóng hộp, được sấy nóng và bày trên một cái khay nhựa cũ mèm. Mặc dù đang đói, nhưng nàng không hề nghĩ mình sẽ dùng nổi nó, do hai phụ nữ to béo mặc đồng phục, với những chùm chìa khóa đeo bên hông, mang tới. Một trong hai người hỏi nàng cảm thấy thế nào. Nàng lầu bầu gì đó bằng tiếng Bồ Đào Nha và họ để nàng lại một mình. Cánh cửa phòng giam bằng thép dày trịch, trên có một lỗ vuông nhỏ. Thỉnh thoảng có thể nghe thấy tiếng của những nữ tù nhân khác, còn nhìn chung thì nơi này khá yên lặng.

Nàng chưa bao giờ có mặt trong một nhà giam, ngay cả với tư cách là một luật sư. Ngoài Patrick ra, nàng không có một người bạn nào khác bị tống giam cả. Cơn choáng váng ban đầu đã nhường chỗ cho sự sợ hãi, rồi nỗi xúc phạm vì bị giam cầm như một kẻ tội phạm. Trong những giờ đầu tiên, chỉ duy có ý nghĩ về ngưòi cha là còn làm cho nàng tập trung được đầu óc. Chắc chắn là tình trạng của ông còn thê thảm hơn của nàng nhiều. Nàng cầu nguyện để họ đừng có làm ông đau đớn.

Khi bị giam cầm, dường như những lời cầu nguyện đến với con người ta dễ dàng hơn. Nàng cầu nguyện cho cha, và cho Patrick. Nàng cưỡng lại ý muốn đổ lỗi cho hắn về những rắc rối của nàng, mặc dù đổ lỗi như vậy thì thật là dễ dàng. Nàng nhận lỗi hầu hết về mình. Nàng đã hốt hoảng và đã bỏ chạy quá nhanh. Patrick đã dạy nàng phải di chuyển ra sao mà không để lại dấu tích, và phải biến mất như thế nào. Sai lầm là ở nàng, chứ không phải lỗi của hắn.

Nàng xác định rằng những buộc tội về hộ chiếu giả là chuyện nhỏ, và đối phó không khó khăn lắm. Trên cái đất nước đầy rẫy bạo lực và không đủ nhà tù này, chắc chắn là một tội đơn giản như vậy của một người không có tiền án tiền sự gì, có thể được xử lý nhanh chóng với một khoản tiền phạt và một vụ trục xuất đơn giản.

Nàng yên tâm khi nghĩ tới chuyện tiền. Ngày mai nàng sẽ đòi có một luật sư, một luật sư giỏi và có thế lực. Sẽ phải có những cú điện thoại gọi cho các quan chức ở Braxin; nàng biết tên họ. Nếu cần thiết, có thể dùng tiền để mua tất cả. Không mấy mà nàng sẽ lại được thả ra, rồi trở về nhà để cứu cha. Nàng sẽ ẩn náu đâu đó ở Rio, chuyện đơn giản thôi mà.

Căn phòng khá ấm áp và được khóa chặt, với nhiều lính gác có vũ trang. Nàng cho rằng đây là một nơi an toàn. Những người đã tra tấn Patrick và giờ đây đang giam giữ cha nàng sẽ không thể nào động dược tới nàng. Nàng tắt ngọn đèn trần và nằm duỗi người trên chiếc giường hẹp. FBI hẳn sẽ rất sốt sắng báo cho Patrick biết là nàng đã bị bắt giữ, và có khả năng đến lúc này hắn cũng đã biết tin. Nàng có thể mường tượng cảnh hắn cắm cúi với một xấp giấy, gạch chỗ này, chỗ kia, phân tích cái diễn biến mới nhất này từ rất nhiều góc độ khác nhau. Cho tới lúc này hẳn Patrick đã nghĩ ra không dưới mười cách để cứu nàng. Và hắn sẽ không ngủ cho tới khi cái danh sách đó chỉ còn lại ba phương án tốt nhất.

Cái hay là ở lúc lập phương án, hắn đã luôn nói như vậy.

oOo

Cutter gọi ly xôđa và một cái bánh sôcôla. Ông ta đang ở ngoài giờ làm việc, bởi vậy bộ complê màu sẫm và chiếc sơmi trắng chuẩn mực đã được thay thế bằng quần jeans và áo cộc tay. Vốn rất tự mãn, giờ đây, khi họ đã bắt được người phụ nữ kia, thì ông ta lại càng ngạo mạn.

Chỉ với bốn miếng, Sandy đã xơi xong cái bánh kẹp thịt hun khói. Đã gần chín giờ tối mà bữa trưa chỉ là thứ đồ ăn trong bệnh viện của Patrick, và đã từ lâu lắm rồi. “Chúng ta cần một cuộc trò chuyện nghiêm chỉnh,” anh nói. Nhà hàng đang đông khách và anh buộc phải nói nhỏ.

“Tôi nghe đây,” Cutter nói.

Sandy nuốt nốt miếng bánh, lau miệng, dướn người về đằng trước thêm chút nữa và nói, “Đừng có hiểu sai nhé, nhưng mà chúng ta cần có thêm những người khác.”

“Ai vậy ?”

"Chẳng hạn như các cấp trên của ông. Những người ở Oasinhtơn.”

Cutter ngẫm nghĩ một phút trong khi lơ đãng nhìn luồng xe cộ đang tấp nập nối đuôi nhau trên xa lộ 90. Tiệm bánh này chỉ cách bờ vịnh chừng ba chục mét.

“Được thôi,” ông ta nói. “Nhưng tôi phải có gì đó để nói chuyện với họ.”

Sandy liếc quanh. Không có ai để ý tới họ, kể cả là vô tình. “Nếu như tôi có thể chứng minh được rằng vụ tố cáo của Aricia đối với Platt & Rockland là hoàn toàn lừa đảo; rằng ông ta đã dồng lõa với Hãng Bogan để lừa dối chính phủ, và rằng người anh em họ của Bogan, một Thượng nghị sĩ, cũng nằm trong sự đồng lõa này và sẽ được dấm dúi cho dăm bảy triệu đôla thì sao hả ?"

“Một câu chuyện thú vị đấy.”

"Tôi có thể chứng minh.”

“Và nếu như chúng tôi tin, hẳn chúng tôi được gợi ý là phải để Lanigan hưởng một kiểu đền bù gi đó và bình an vô sự.”

“Có thể.”

“Đâu có nhanh thế dược, vẫn còn vấn đề về cái xác chết kia.”

Cutter ngừng lời, bình thản cắn một miếng bánh và nhai với vẻ trầm tư. Thế rồi ông ta đột ngột hỏi, “Loại bằng chứng gì vậy ?”

“Tài liệu, các cú điện thoại được ghi âm, đủ cả.”

“Có thể được chấp nhận trước tòa không ?”

“Hầu hết.”

“Đủ cho việc kết án không ?”

“Cả một thùng đầy.”

“Cái thùng đó đang ở đâu ?”

"Trong cốp xe của tôi.”

Cutter bất giác nhìn ra bãi đỗ xe. Rồi ông ta nhìn chằm chặp vào Sandy. “Đấy là những thứ mà Patrick đã thu thập trước khi biến đi phải không ?”

“Chính xác. Anh ấy loáng thoáng biết về vụ Aricia. Hãng lại đang dự tính hất anh ấy ra đường, vậy nên anh ấy đã rất nhẫn nại thu thập chứng cứ.”

“Một cuộc hôn nhân tồi tệ, vân vân và vân vân, nên anh ta bèn nẫng số tiền kia và biến.”

“Không. Anh ấy bỏ đi trước, rồi mới lấy tiền.”

“Đằng nào cũng thế cả; Vậy bây giờ anh ta muốn có một thỏa thuận, hả ?”

“Dĩ nhiên. Còn các ông lại không ư ?"

“Còn vụ giết người thì sao ?”

“Đó là vấn đề của bang, chứ không hẳn là sự quan tâm của các ông. Chúng ta sẽ giải quvết vấn đề đó sau."

“Chúng tôi có thể biến nó thành chuyện của mình đấy.”

"Tôi e là không. Các ông có trong tay cáo trạng về vụ đánh cắp chín mươi triệu đôla kia. Bang Mississippi có bản cáo trạng về vụ giết người. Đáng tiếc cho các ông là người của Liên bang bây giờ không thể nhúng tay vào và truy tố cái tội giết người đó được.”

Cutter ghét đám luật sư chính vì lẽ đó. Không dễ mà bịp họ được.

Sandy nói tiếp. “Ông nghe này, cuộc gặp này là một thủ tục. Tôi chỉ muốn thông qua các kênh và không muốn vượt mặt ai. Nhưng tôi hoàn toàn sẵn sàng bắt đầu việc gọi điện tới Oasinhtơn ngay vào sáng mai. Tôi nghĩ là chúng ta đã có cuộc nói chuyện này, và tôi hy vọng ông tin là chúng tôi sẵn sàng thỏa thuận. Bằng không thì tôi sẽ phải dùng tới điện thoại thôi.”

“Ông muốn ai ?”

“Ai đó có quyền hạn hẳn hoi, FBI và Bộ Tư pháp. Chúng ta sẽ gặp nhau trong một căn phòng nào đó lớn lớn một chút và tôi sẽ trình bày vụ này.”

“Hãy để tôi nói chuyện với Oasinhtơn. Nhưng mong rằng đây phải là chuyện đàng hoàng đấy.”

Họ bắt tay nhau, và Sandy bước ra cửa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 31


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Bà Stephano lại trở nên ngủ được. Những gã đàn ông đầy khó chịu đó, với những bộ complê màu tối sầm sầm, đã rời khỏi đường phố của họ, và láng giềng đã thôi dò hỏi này nọ. Những chuyện ngồi lê đôi mách bên ván bài đã quay về với những chủ đề cũ. Lão chồng của bà cũng đã thoải mái trở lại.

Lúc năm rưỡi sáng, khi vẫn đang yên giấc thì chợt có tiếng chuông điện thoại, bà với tay lên mặt bàn đêm cầm lấy máy. “Xin chào."

Một giọng nói cứng rắn và quả quyết vang lên, "Xin cho gặp Jack Stephano.”

“Ai gọi đây ?" Bà ta hỏi lại. Dưới tấm chăn, Jack đang cựa mình.

“Hamilton Jaynes, FBI,” câu trả lời được đưa ra.

Bà ta kêu lên. “Ôi lạy Chúa!" rồi đặt tay lên miệng ống nói và gọi, "Jack, lại FBI này.”

Jack bật đèn, nhìn đồng hồ, và cầm máy. “Ai đấy?"

“Chào buổi sáng, Jack. Hamilton Jaynes đây. Tôi không hề muốn gọi sớm thế này.”

“Vậy thì đừng gọi chứ ?"

“Có điều muốn để ông biết rằng chúng tôi đã tóm được cô bé kia, Eva Miranda. Cô ta hiện được bảo đảm an toàn, bởi vậy ông có thể thu đám tay chân của ông về đi."

Stephano tung chân ra khỏi giường và đứng cạnh chiếc bàn. Hy vọng cuối cùng của họ đã tiêu tan. Sau cùng thì cuộc tìm kiếm chỗ tiền kia đã kết thúc. “Cô ta đang ở đâu hả ?” Lão hỏi mà không chờ đợi một câu trả lời có ý nghĩa nào.

“Chúng tôi đang giữ cô ta, Jack. Cô ta đang ở chỗ chúng tôi."

“Xin chúc mừng."

“Này, Jack, tôi đã phái mấy người xuống Rio để giám sát tình hình của cha cô ấy. Ông có hai mươi bốn giờ đấy. Jack. Nếu như ông già đó không được thả ra trước năm rưỡi sáng mai thì tôi sẽ cho bắt ông và Aricia. Mẹ kiếp, ông biết là tôi cũng có thể sẽ cho bắt cả ông Atterson của Monarch-Sierra và ông Jill của Northern Case Mutual chỉ vì chuyện này. Tôi thực sự cũng muốn nói chuyện với mấy tay đó, cùng với Aricia."

“Ông khoái chuyện đe nẹt lắm phải không ?"

"Rất thích. Chúng tôi sẽ giúp phía Braxin dẫn độ các vị về dưới đó, và ông biết là chuyện đó sẽ phải mất một vài tháng. Không có chuyện được nộp tiền thế chân trong một vụ dẫn độ, vậy là ông và mấy tay khách hàng bậy bạ của ông sẽ đón Giáng sinh ở trong nhà giam. Ai mà biết được, chuyện dẫn độ này có khi lại hay, và ông sẽ được tới Rio. Tôi nghe nói những bãi biển ở đó tuyệt vời lắm. Vẫn nghe đấy chứ, Jack ?”

"Tôi đang nghe đây.”

“Hai mươi bốn giờ.” Có tiếng cúp máy và cuộc đối thoại chấm dứt. Bà Stephano đã vào trong phòng tắm, chốt chặt cửa, quá sợ hãi đến mức không dám thò mặt ra nhìn chồng nữa.

Jack đi xuống nhà, và pha cà phê. Lão ngồi ở cái bàn trong bếp, trong bóng tối lờ mờ, đợi mặt trời mọc. Lão đã quá mệt mỏi với Benny Aricia.

Lão được thuê để tìm Patrick và chỗ tiền kia, chứ không phải là để hỏi về việc làm sao có số tiền đó. Lão biết những điểm cơ bản trong quá khứ của Benny Aricia với Hãng Platt & Rockland, và lão đã luôn luôn ngờ rằng còn nhiều chuyện nữa. Đã một đôi lần lão thử tìm hiểu, nhưng Aricia không muốn nói tới những chuyện đã xảy ra trước khi Patrick biến mất.

Ngay từ đầu, Jack đã ngờ rằng văn phòng của Hãng luật đó bị nghe trộm vì hai lý do. Thứ nhất là để thu thập các thông tin về các cổ đông khác và về các khách hàng, đặc biệt là về Aricia. Thứ hai là để đưa Patrick tới được với chỗ tiền kia sau đám tang của hắn. Điều không được biết đến đối với mọi người khác, có thể là trừ Aricia và các cổ đông của Hãng, là những thông tin mà Patrick đã thu thập và tàng trữ có thể gây nguy hại đến mức nào.

Khi chỗ tiền kia biến mất và Stephano bắt đầu cuộc tìm kiếm của lão, Hãng luật đó đã từ chối tham gia vào nỗ lực chung. Nó có phần, những ba mươi triệu đôla, thế mà lại chịu ngậm đắng nuốt cay. Lý do được đưa ra là không có tiền. Các cổ đông của Hãng về cơ bản là đã phá sản, tình hình sắp sửa còn xấu thêm nữa, và đơn giản là không thể tham gia được. Lúc đó thì điều này nghe cũng có lý, nhưng Stephano cũng cảm thấy có một sự miễn cưỡng nào đó đối với việc tìm kiếm Patrick.

Có cái gì đó đã được ghi lại trên các cuộn băng. Patrick đã tóm quả tang được bọn họ. Bọn họ từng đã sống dở chết dở, nay việc bắt được Patrick có thể lại là cơn ác mộng khủng khiếp nhất của họ cũng nên.

Aricia hẳn cũng vậy. Lão đợi chừng một tiếng đồng hồ, rồi gọi cho ông ta.

oOo

Vào lúc sáu rưỡi sáng, văn phòng của Hamilton Jaynes đã đầy người. Hai nhân viên đặc biệt ngồi trên một chiếc xôpha và xem xét bản báo cáo mới nhất từ những nguồn của họ ở Rio. Một người đứng bên bàn của Jaynes để chờ báo cáo những thông tin cập nhật về các di biến động của Aricia; ông ta vẫn đang ngụ tại một ngôi nhà thuê ở Biloxi.

Một người khác nữa đứng gần đó với một báo cáo mới về Eva Miranda. Một cô thư ký vừa mang một thùng hồ sơ vào. Jaynes, trên người chỉ mặc sơmi, đang ngồi nói chuyện điện thoại với vẻ phờ phạc, phớt lờ tất cả.

Joshua Cutter bước vào, cũng phờ phạc và mệt mỏi. Ông ta đã phải ngủ hai tiếng ở sân bay Atlanta trong khi chờ chuyến bay đi Oasinhtơn D.C., nơi một nhân viên FBI đón sẵn và chở ông ta tới Tòa nhà Hoover. Jaynes lập tức cúp máy và ra lệnh cho tất cả ra ngoài.

“Lấy cà phê, nhiều vào,” ông ta quát cô thư ký. Căn phòng không còn ai và Cutter ngồi cứng người trước chiếc bàn lớn. Mặc dù rất mệt mỏi, nhưng ông ta vẫn phải cố hết sức để tỉnh táo. Trước đây, ông ta chưa bao giờ bén mảng tới văn phòng ngài Phó giám đốc.

“Nói đi xem nào,” Jaynes gằn giọng.

“Lanigan muốn có một thỏa thuận. Hắn tuyên bố có đủ bằng chứng để kết tội Aricia, mấy tay luật sư kia, và một Thượng nghị sĩ mà hắn không nói tên.”

“Bằng chứng loại gì ?”

“Một thùng tài liệu và băng ghi âm, những thứ mà Lanigan đã thu thập trước khi hắn biến đi.”

“Anh đã nhìn thấy cái thùng đó chưa ?"

“Chưa. McDermott nói nó ở trong cốp xe của anh ta.”

“Còn chỗ tiền kia thì sao ?”

“Chúng tôi chưa nói tới chuyện đó. Anh ta muốn gặp ông và ai đó ở Bộ Tư pháp để thảo luận về các khả năng dàn xếp. Tôi có ấn tượng là anh ta cho rằng họ có thể thỏa thuận để làm êm vụ này.”

“Đó luôn luôn là một khả năng khi người ta đánh cắp được những đồng tiền không sạch sẽ. Anh ta muốn gặp ở đâu ?”

“Dưới đó, một chỗ nào đấy ở ngay Biloxi.”

“Chờ gọi cho Sprawling ở Bộ Tư pháp," Jaynes gần như là tự nói với mình, vừa với tay nhấc điện thoại.

Cà phê đã được mang đến.

Mark Birck gõ gõ chiếc bút lên mặt bàn, khi đang ngồi chờ trong căn phòng dành cho khách đến thăm ở trại giam Liên bang. Chưa đến chín giờ, còn quá sớm để các luật sư gặp gỡ thân chủ của họ, thế nhưng ông ta có một người bạn trong ban quản lý trại. Birck đã giải thích rằng đây là một trường hợp khẩn cấp. Chiếc bàn có những tấm ngăn riêng ở cả hai bên và ở giữa là một tấm kính dày, trên có những lỗ tròn nhỏ để người ngồi hai bên có thể nói chuyện qua đó.

Ông ta ngồi đó bồn chồn đến ba mươi phút. San cùng thì nàng cũng được đưa đến, trên người là một bộ áo liền quần màu vàng với một dãy số màu đen đã phai màu in ngang ngực. Người gác mở chiếc còng và nàng xoa xoa hai cổ tay.

Khi chỉ còn lại hai người, nàng ngồi trên ghế và nhìn Birck. Ông ta đẩy tấm danh thiếp qua một cái khe hẹp. Nàng cầm lấy và xem kỹ từng chữ.

“Patrick phái tôi tới ” ông ta nói, và nàng nhắm mắt lại.

“Cô không sao chứ ?" Ông ta vội hỏi.

Nàng tì người trên hai khuỷu tay và đáp, "Tôi không sao. Cảm ơn là ông đã đến. Khi nào thì tôi ra được ?"

“Phải một vài ngày. Các nhà chức trách Liên bang có thể làm một trong hai điều. Một là họ có thể truy tố cô về tội sử dụng hộ chiếu giả để đi lại, và thế cũng đã là nặng. Song cũng là chuyện vớ vẩn thôi bởi lẽ cô là người nước ngoài và không có tiền án tiền sự gì. Trường hợp thứ hai, và có nhiều khả năng hơn, thì đơn giản là họ sẽ trục xuất cô với lời cam đoan của cô là sẽ không bao giờ quay lại! Cho dù cách nào thì họ cũng mất một vài ngày để quyết định. Trong khi chờ đợi, cô đành phải ở đây vì chúng tôi không thể đòi ngay được việc nộp tiền bảo lãnh.”

"Tôi hiểu."

“Patrick rất lo lắng cho cô.”

“Tôi biết. Bảo anh ấy là tôi không sao. Và tôi rất lo cho anh ấy.”

Birck chỉnh chỉnh lại tập giấy ghi chép và nói, “Bây giờ, Patrick muốn được biết tới chi tiết chính xác của việc vì sao cô bị bắt."

Nàng mỉm cười và có vẻ thấy yên tâm hơn. Tất nhiên là Patrick sẽ muốn biết hết các chi tiết. Nàng bắt đầu với gã đàn ông có cặp mắt màu xanh xám, và từ từ kể lại toàn bộ câu chuyện.

oOo

Benny luôn xem thường cái bãi biển ở Biloxi. Chỉ độc một dải cát hẹp, với một bên là con đường cao tốc mà đi bộ qua thì quá nguy hiểm còn bên kia là một thứ nước màu vàng nhạt, tẻ ngắt, và quá mặn cho việc bơi lội. Vào mùa hè, nó chỉ thu hút dược những người đi nghỉ ít tiền, và vào các kỳ nghỉ cuối tuần thì là đám sinh viên. Sự phát triển của các sòng bạc có thu hút thêm du khách tới bãi biển này, nhưng họ cũng chỉ ra đây chốc lát rồi lại quay về với canh bạc của họ.

Ông ta đậu xe ở bến tàu Biloxi, châm một điếu xìgà dài thượt, bỏ giầy và cũng đành đi dạo dọc theo bãi biển mà giờ đây đã sạch sẽ hơn nhiều, nhờ có các sòng bạc kia. Cả bãi biển vắng lặng. Xa xa, một vài chiếc thuyền đánh cá rập rình trên mặt biển.

Cú điện thoại trước đó một giờ của Stephano đã làm hỏng cả buổi sáng, và nhiều khả năng sẽ làm thay đổi cả phần đời còn lại của ông ta. Với cô gái kia đã bị giam lại, ông ta không còn cơ hội tìm lại khoản tiền đó nữa. Giờ đây, cô ta không thể còn dẫn ông ta đến với chỗ tiền, và cũng không thể còn dùng cô ta để gây sức ép được với Lanigan.

Chính quyền Liên bang đã có một bản cáo trạng dành cho Patrick. Về phần hắn, Patrick có tiền và có những chứng cớ. Cái này có thể đánh đổi với cái kia, và Aricia có thể bị kẹt giữa hai lằn đạn. Khi những kẻ đồng lõa với ông ta, Bogan và cả cái đám luật sư bệnh hoạn kia, bị gây sức ép, họ sẽ khai thốc khai tháo ngay lập tức. Benny đã quá từng trải, và ông ta biết rõ điều đó. Ông ta đã ao ước là tìm lại được số tiền đó, rồi cùng với nó biến đi ngay, giống như Patrick.

Thế nhưng giấc mơ đó giờ đây đã kết thúc. Ông ta còn lại được một triệu. Ông ta cũng có bạn bè ở những nước khác, và những mối quan hệ khắp nơi trên thế giới. Đã đến lúc phải biến đi, như Patrick.

Sandy giữ hẹn, tới gặp T.L.Parrish vào lúc mười giờ sáng tại văn phòng ủy viên công tố, mặc dù rất muốn hoãn cuộc gặp để dành buổi sáng xem xét các tài liệu. Vào lúc anh rời khỏi văn phòng của mình lúc tám rưỡi thì tất cả đám nhân viên và cả hai cổ đông của anh đều đang làm công việc sao chụp và phóng to những trang tài liệu quan trọng.

Parrish đã yêu cầu có cuộc gặp này. Sandy thì biết rõ là vì sao. Vụ án của bang chống lại Patrick có những khiếm khuyết lớn, và giờ đây khi mà tâm trạng kích động của việc buộc tội đã qua đi thì đã đến lúc phải nói chuyện công việc. Các công tố viên thường chỉ muốn những vụ án thông thường, và chẳng bao giờ thiếu những vụ đó cả. Nhưng còn một vụ thu hút sự chú ý của dư luận, với những điểm bất trắc lớn, thì lại là chuyện khác.

Pavrish muốn thăm dò, thế nhưng thoạt đầu ông ta chỉ nói những lời khoa trương, làm dáng làm vẻ, và nói về nơi xử án mà thôi. Bất kỳ ở đâu, một hội thẩm đoàn cũng sẽ không thể nào thông cảm được với một luật sư đã giết người vì tiền. Sandy, thoạt đầu, cũng chỉ lắng nghe. Parrish dẫn ra những số liệu ưa thích về tỉ lệ kết tội thành công của bản thân ông ta và thực tế là ông ta chưa bao giờ thua trong một vụ án về tội giết người. Ông ta nói một cách không hề khoác lác là đã khép được tới tám tội phạm vào án tử hình.

Thực sự là Sandy còn nhiều việc đáng làm hơn. Anh cần có một cuộc nói chuyện nghiêm túc với Parrish, nhưng không phải là hôm nay. Anh cật vấn ông ta rằng làm sao có thể chứng minh được rằng vụ giết người đã xảy ra trên địa hạt quận Harrison. Và tiếp đó, anh nêu vấn đề về nguyên nhân của cái chết - làm sao có thể chứng minh được điều đó ? Chắc chắn là Patrick sẽ không khai báo trước tòa để giúp họ trong việc này rồi. Và một câu hỏi lớn, nạn nhân là ai ? Theo nghiên cứu của Sandy, chưa hề có một án tử hình nào được ghi nhận trong bang này, với một nạn nhân không xác định được danh tính.

Parrish đã chờ đợi những câu hỏi đầy rắc rối này, và đã làm một việc thích hợp là né tránh những câu trả lời cụ thể. “Thân chủ của ông có cân nhắc tới một thương lượng nào về việc nhận tội hay không nhận tội không ?” Sau cùng, ông ta hỏi, vẻ như thông cảm lắm.

“Không.”

“Sau này thì sao ?”

“Cũng không.”

“Sao lại không ?”

“Ông đã chạy tới hội thẩm đoàn, lấy cho bằng được bản cáo trạng buộc tội tử hình, chìa ra cho báo chí, thì giờ đây ông phải chứng minh được nó. Ông đã không thèm đợi để xem lại các chứng cứ của mình. Thôi dẹp đi.”

"Tôi có thể kêu được một bản án về tội ngộ sát,” Parrish giận dữ nói. “Với khung hình phạt hai mươi năm.”

“Có thể,” Sandy hờ hững đáp. “Nhưng thân chủ của tôi lại đã không bị truy tố về tội ngộ sát cơ mà.”

“Tôi có thể làm điều đó vào ngày mai.”

“Được thôi. Cứ làm đi. Hãy bỏ những cáo buộc về tội giết người, thay thế bằng tội ngộ sát, rồi thì chúng ta sẽ nói chuyện.”
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 32


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Căn hộ đó được đặt tên Camille, và nó chiếm một phần ba tầng thượng của sòng bạc Biloxi Nugget, một sòng bạc mới nhất, lòe loẹt nhất, lớn nhất và thành công nhất trong số tất cả các sòng bạc kiểu Las Vegas đang mọc lên như nấm dọc vùng bờ biển này. Đám tay chơi ở Las Vegas cho là hay hớm lắm khi đặt tên những căn hộ và những phòng tiệc lớn của sòng bạc Nugget bằng tên của những cơn bão tồi tệ nhất đã từng tàn phá nơi đây. Với một người khách bình thường từ ngoài phố bước vào và đơn giản là muốn có một căn hộ rộng rãi, nó được cho thuê với giá 750 đôla/ngày. Sandy đã đồng ý trả cái giá đó. Còn với một tay cờ bạc từ xa bay đến, căn hộ này sẽ được mời dùng không phải trả tiền. Thế nhưng, Sandy thì đâu còn đầu óc nào mà nghĩ tới chuyện cờ bạc. Thân chủ của anh ta, đang ở cách xa đó không đến hai dặm, đã chấp thuận khoản chi phí này. Căn hộ Camille có hai phòng ngủ, bếp, phòng làm việc, và hai phòng khách - để có thể tiếp được những nhóm khách riêng biệt. Nó cũng được trang bị bốn đường điện thoại đến, một máy fax, và một đầu video. Phụ tá của Sandy đã mang từ New Orleans tới một máy tính cá nhân và các thiết bị kỹ thuật, cùng tập hồ sơ thứ nhất về Aricia.

Người khách đầu tiên đến văn phòng luật tạm thời của Sandy McDermott là J.Murray Riddleton, tay luật sư đã hoàn toàn thất bại trong vụ ly hôn của Trudy. Ông ta hiền lành đưa ra một đề nghị giải quyết về vấn đề tài sản cùng quyền thăm viếng con cái. Họ vừa thảo ]uận vừa ăn trưa. Các điều kiện đầu hàng là do Patrick ấn định. Và bởi lẽ giờ đây đang nắm quyền chủ động, Sandy bới lông tìm vết từng chi tiết nhỏ nhất. “Dự thảo ban đầu thế này là tốt đấy,” anh nhắc đi nhắc lại trong khi dùng một cây bút đỏ để đánh dấu chỗ này chỗ kia. Nhưng trước thảm bại này, Riddleton cũng vẫn là một tay nhà nghề. Ông ta tranh cãi từng điểm một, cằn nhằn về những điểm sửa đổi, thế nhưng cả hai đều hiểu rằng giải pháp mà ông ta đưa ra sẽ phải được sửa đổi để cho hợp với ý muốn của Patrick. Cái kết quả xét nghiệm ADN kia và những tấm ảnh khỏa thân có tác dụng quyết định tối thượng.

Người khách thứ hai là Talbot Mims, cố vấn pháp lý của Northern Case Mutual, một tay phô trương và cũng khá linh lợi. Ông ta đến trên chiếc xe van đầy đủ tiện nghi, với những chiếc ghế và phần nội thất bên trong xe là đồ da, cùng một chiếc bàn làm việc nhỏ, hai điện thoại, một máy fax, một máy nhắn tin, một bộ video để Mims có thể xem lại những buổi cung khai trước tòa, một cái máy tính cá nhân loại xách tay và một chiếc loại đặt bàn, và cả một chiếc xôpha để có thể chợp mắt chút đỉnh, dẫu rằng là chỉ sau những ngày vất vả nhất trước tòa, tất cả những thứ đó được hoàn thiện với một tay lái xe có tốc độ nhanh nhất. Đoàn tùy tùng của ông ta bao gồm một thư ký và một trợ lý, cả hai đều có điện thoại di động, và một tay phụ tá nữa miễn cưỡng phải cùng đi để ngừa trường hợp có những chi tiêu quá mức.

Cả bốn nhanh chóng có mặt tại căn hộ Camille, và Sandy đón tiếp họ trong khi vẫn chỉ mặc quần jeans và mời khách bằng thứ nước giải khát có ga lấy từ cái quầy bar nhỏ trong phòng. Tất cả đều từ chối. Cô thư ký và tay trợ lý ngay tức thì thấy có những vấn đề cần phải bàn luận qua những chiếc điện thoại di động của họ. Sandy đưa Mims và tay phụ tá không rõ tên còn lại vào một phòng khách.

“Tôi sẽ vào thẳng vấn đề,” Sandy nói. “Các ông có biết một người tên là Jack Stephano không nhỉ ?”

Mims nghĩ nhanh. “Không.”

“Tôi cũng nghĩ vậv. Ông ta là một thám tử siêu hạng ở D. C. Ông ta được thuê bởi Aricia, Northern Case Mutual và Monarch-Sierra để tìm kiếm Patrick.”

"Thế ư?"

"Xin hãy xem đây,” Sandy nói với một nụ cười trong khi đưa ra bộ ảnh màu rút ra từ một hồ sơ. Mims trải những tấm ảnh ra mặt bàn — những vết bỏng khủng khiếp của Patrick được phơi bày lồ lộ.

“Đây là những hình được đăng trên các báo phải không ?" Ông ta hỏi.

“Một số trong đó.”

“Phải rồi, tôi nghĩ là ông cho phổ biến những tấm ảnh này khi ông kiện FBI.”

“FBI không gây ra những vết thương này cho thân chủ của tôi, ông Mims ạ.”

“A, ra vậy." Mims buông những tấm ảnh xuống và chờ nghe Sandy.

“Không phải là FBI đã tìm ra Patrick.”

“Vậy thì tại sao ông lại kiện họ ?”

“Gây tác động tới công chúng, cốt để tranh thủ sự thông cảm dành cho thân chủ của tôi.”

“Không ăn thua đâu.”

“Có thể là với ông, nhưng mà ông không phải là thành viên trong hội thẩm đoàn, có phải không? Dù sao chăng nữa thì những vết thương này cũng là hậu quả của một cuộc tra tấn kéo dài, được tiến hành bởi những kẻ làm việc cho Stephano, người này lại làm việc cho một số khách hàng mà trong đó có Northern Case Mutual, một công ty cổ phần hữu hạn có tiếng là có trách nhiệm với các cổ đông và có phần vốn cố định do các cổ đông đóng góp là sáu tỉ đôla.”

Talbot Mims là một người có đầu óc thực tiễn. Ông ta buộc phải như vậy. Với ba trăm hồ sơ đang phải theo dõi trong văn phòng của ông ta và muời tám Hãng bảo hiểm lớn là các khách hàng, ông ta không có thời giờ để dằng dai. “Có hai câu hỏi,” ông ta nói. “Thứ nhất là ông có thể chứng minh điều đó không ?”

“Có. FBI có thể xác nhận điều đó.”

“Thứ hai. Ông muốn gì ?”

“Tôi muốn một quan chức cấp cao của Northern Case Mutual có mặt tại đây, trong căn phòng này, vào ngày mai, một ai đó với thẩm quyền tuyệt đối.”

“Họ là những nhân vật hết sức bận bịu đấy.”

“Tất cả chúng ta đều bận bịu. Tôi không đe dọa một vụ kiện, nhưng hãy nghĩ xem chuyện đó có thể gây lúng túng đến mức nào.”

“Với tôi thì có vẻ như ông đang đe dọa.”

“Tùy ý ông hiểu thế nào cũng được.”

“Mấy giờ ngày mai ?”

“Bốn giờ chiều.”

“Chúng tôi sẽ tới đây,” Mims nói, với cái bắt tay. Thế rồi, ông ta vội vàng đi ngay, đám thuộc hạ chạy gằn theo sau.

Nhóm phụ tá của chính Sandy đến vào tầm giữa buổi chiều. Một cô thư ký lo vụ trả lời điện thoại, mà vào lúc đó thì cứ mười phút lại có một cú phone. Sandy đã đặt những cú điện thoại gọi tới Cutter, T.L.Parrish, cảnh sát trưởng Sweeney, tới Mark Birck ở Miami, tới Thẩm phán Huskey, tới một số luật sư ở Biloxi, và tới Maurice Mast, công tố viên Liên bang của khu vực miền Tây Mississippi. Về việc riêng, anh cũng đã gọi hai lần cho vợ để biết tình hình gia đình.

Anh đã nói chuyện hai lần với Hal Ladd trên điện thoại, nhưng mới chỉ gặp ông ta lần đầu tiên tại căn hộ Camille. Ladd đại diện cho Monarch-Sierra. Ông ta đến có một mình, điều làm cho Sandy hơi ngạc nhiên bởi lẽ các luật sư của các Hãng bảo hiểm luôn luôn đi thành cặp. Cho dù là nhiệm vụ trước mắt là thế nào, cứ phải có hai người bọn họ trước khi có thể bắt đầu công việc. Cả hai cùng nghe, cùng nhìn, cùng ghi chép, và điều quan trọng nhất là cùng tính tiền khách hàng cho cùng một công việc đó. Cũng không có gì là ngạc nhiên lắm khi Sandy còn biết có hai Hãng lớn ở New Orleans chấp nhận phương cách bộ ba trong các vấn đề pháp lý liên quan tới bảo hiểm.

Ladd là một người có vẻ nghiêm túc ở vào cuối tuổi bốn mươi, và có tiếng là không cần đến sự trợ giúp của một luật sư nào khác, ông ta lịch sự lấy một chai côca côla và ngồi vào đúng cái ghế mà Talbot Mims đã ngồi trước đó.

Sandy hỏi ông ta cùng một câu hỏi. “Ông có biết một người tên là Jack Stephano không?”

Ông ta đáp không, và Sandy điểm lại những nét chính. Tiếp đó, anh ta trải những tấm ảnh chụp các vết thương của Patrick lên mặt bàn, và họ trao đổi về những tấm ảnh đó trong một vài phút. Những vết bỏng này không phải là do FBI gây ra, Sandy giải thích. Ladd đã hiểu vấn đề. Làm đại diện cho các Hãng bảo hiểm trong nhiều năm, đã từ lâu ông ta không còn ngạc nhiên với những độ sâu mà người ta có thể chìm xuống. Dẫu rằng vậy, điều này cũng gây choáng váng. “Giả thiết rằng ông có thể chứng minh được điều này,” Ladd nói, “Tôi tin chắc là thân chủ của tôi sẽ muốn giữ im mọi chuyện.”

“Chúng tôi sẵn sàng sửa lại vụ kiện của mình, bỏ FBI ra, và đưa vào danh sách bị cáo tên của thân chủ của ông, Northern Case Mutual, Aricia, Stephano và bất kỳ ai khác phải chịu trách nhiệm về cuộc tra tấn này. Đó là trường hợp một công dân Mỹ bị các bị cáo cũng là người Mỹ cố tình gây thương tích và thương tật. Vụ này sẽ có giá nhiều triệu. Chúng tôi sẽ ra trước tòa ngay ở Biloxi này.”

Chuyện sẽ không như vậy nếu Ladd có thể làm được điều gì đó. Ông ta đồng ý gọi ngay lập tức cho Monarch-Sierra và đòi tay luật sư chính của Hãng gác mọi việc để bay ngay tới Biloxi. Ông ta bực bội với việc khách hàng của mình đã tài trợ cho cuộc tìm kiếm đó mà không báo cho ông ta biết tí gì. “Nếu đúng như vậy," ông ta nói, “tôi sẽ không bao giờ đại diện cho họ nữa.”

‘"Hãy tin tôi. Đúng như vậy đấy.”

oOo

Vào lúc gần tối thì Paulo bị bịt mắt, khóa tay và được dẫn ra khỏi ngôi nhà. Không có mũi súng nào dí vào ông, không có lời đe dọa nào hết. Không hề có một tiếng nói nào cả. Ông ngồi trên băng sau của một chiếc xe nhỏ, có một mình, và được chở đi trong khoảng một giờ hơn. Chiếc đài trong xe phát ra những bản nhạc cổ điển.

Khi xe dừng lại, hai cánh cửa trước mở ra, và Paulo đuợc đỡ ra khỏi xe. “Hãy theo tôi,” một giọng nói vang lên bên tai ông, và một bàn tay to lớn nắm lấy khuỷu tay ông. Mặt đường dưới chân ông là đường đất. Họ đi khoảng một trăm mét thì dừng lại. Giọng nói kia lại cất lên, “Ông đang ở trên một con đường cách Rio hai mươi kilômét. Về phía bên trái ông, cách ba trăm mét, là một trang trại có điện thoại. Hãy đến đó để yêu cầu được giúp đỡ. Tôi có súng. Nếu như ông quay lại, tôi sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải giết ông.”

“Tôi sẽ không quay lại,” Paulo nói, toàn thân ông run lên.

“Tốt. Trước tiên, tôi sẽ mở khóa tay cho ông, sau đó tôi sẽ cởi băng bịt mắt.”

Chiếc khóa tay được tháo ra. “Bây giờ, tôi sẽ cởi băng bịt mắt. Đi nhanh về phía trước.”

Chiếc băng bịt mắt được gỡ ra, Paulo hơi cúi đầu và bắt đầu chạy chầm chậm. Không có tiếng động nào phía sau ông. Ông cũng không dám ngoái đầu lại. Từ cái trang trại kia, ông gọi điện cho cảnh sát, rồi sau đó, gọi cho con trai mình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 33


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Các phóng viên tòa án đến đúng vào lúc tám giờ, cả hai đều có tên là Linda — một mang chữ i và một mang chữ y. Họ chìa danh thiếp ra và theo Sandy vào trong căn phòng làm việc, nơi mà đồ đạc đều đã được đẩy vào sát tường và những cái ghế đã được đặt thêm vào. Anh ta mời Y ngồi ở một đầu phòng, lưng quay ra cửa sổ có tấm rèm khép kín, và để I ngồi ở đầu phòng kia, trong cái xó cạnh quầy bar với một góc quan sát rất rộng. Cả hai đều muốn được làm một hơi thuốc sau cùng, và anh ta chỉ cho họ đi vào căn phòng ngủ đằng xa nhất.

Jaynes đến sau đó, cùng đi có một người lái xe, một nhân viên đặc biệt đã luống tuổi làm nhiệm vụ vừa bảo vệ, vừa canh chừng, vừa lo việc vặt; ông ta còn mang theo một luật sư của FBI; cùng với Cutter và viên cấp trên trực tiếp của Cutter nữa. Đại diện cho Văn phòng Bộ trưởng Tư pháp là Sprawling, một tay kỳ cựu với cặp mắt màu tối, nói ít nhưng nghe nhiều, cả sáu người đều mặc complê màu đen hoặc xanh đen; họ đều chìa danh thiếp ra, và anh chàng phụ tá của Sandy tiếp nhận tất cả. Cô thư ký hỏi họ muốn uống cà phê như thế nào trong lúc họ từ tốn kéo nhau đi ngang qua phòng khách nhỏ để cùng vào phòng làm việc.

Tiếp đó là Maurice Mast, công tố viên Liên bang của khu vực miền Tây Mississippi, cùng đi chỉ có một trợ lý. Sau ông ta là T.L.Parrish, đến có một mình, và cuộc họp này đã sẵn sàng để bắt đầu.

Đâu cũng có những thứ tôn ti trật tự nhất định. Người lái xe của Jaynes và tay trợ lý của Mast ở lại trong gian phòng khách, nơi đã để sẵn một khay bánh ngọt và báo buổi sáng.

Sandy đóng cửa lại, nói lời “chào buổi sáng” nhã nhặn và cảm ơn tất cả về sự hiện diện của họ. Họ được mời ngồi xung quanh phòng. Không một nụ cười nào, nhưng không phải là họ không hài lòng khi có mặt ở đây. Tất cả đều cảm thấy tò mò.

Sandy giới thiệu hai phóng viên tòa án, và giải thích rằng biên bản cuộc họp sẽ do chính anh giữ và được coi là tuyệt đốỉ bí mật. Điều này có vẻ làm cho tất cả đều bằng lòng. Chưa có câu hỏi hay nhận xét nào lúc này bởi lẽ họ còn chưa biết cuộc họp sẽ diễn ra thế nào.

Sandy cầm một tập giấy tờ được sắp xếp cẩn thận, phần trình bày của anh được gói gọn trong khoảng hơn một chục trang gì đó. Anh thậm chí đã có thể đối mặt với một hội thẩm đoàn. Lời chào từ thân chủ của anh ta, Patrick, được chuyển lại cùng với lời thông báo rằng các vết bỏng đang lành lại nhanh chóng. Thế rồi, anh tóm tắt lại những cáo buộc hiện có đối với Patrick; tiểu bang buộc tội cố sát; Liên bang buộc tội trộm cắp, lừa đảo và chạy trốn. Tội cố sát có thể dẫn tới án tử hình. Những tội khác có thể dẫn tới tổng cộng ba mươi năm tù giam.

“Các cáo buộc của Liên bang là nghiêm trọng,” Sandy trịnh trọng nói. “Nhưng chúng lại không đáng gì so với những cáo buộc về tội cố sát. Nói thẳng ra, và với tất cả sự tôn trọng thích đáng, chúng tôi muốn được giải quyết dứt điểm với các giới chức Liên bang để có thể tập trung vào những cáo buộc về tội cố sát.”

“Ông tính giải quyết dứt điểm với chúng tôi như thế nào ?” Jaynes hỏi.

“Chúng tôi có một đề nghị.”

“Có liên quan tới chỗ tiền đó không ?”

“Quả thực là có.”

“Chúng tôi không có yêu cầu gì về chỗ tiền đó. Chính phủ Liên bang không bị mất cắp.”

“Đó chính là chỗ ông nhầm.”

Sprawling ngứa ngáy. “Ông có thực sự nghĩ là ông có thể dàn xếp ổn được vụ này không hả ?” Đó là một lời thách thức nhiều hơn là một câu hỏi. Giọng nói cộc cằn của ông ta thẳng băng, lời lẽ đầy ấn tượng.

Cái “hội thẩm đoàn” này đang phản công, nhưng Sandy quyết tâm theo đúng kịch bản của mình. “Gượm đã,” anh ta nói. “Xin quý vị cho phép tôi trình bày lập luận của mình, rồi thì chúng ta sẽ bàn tới các khả năng. Bây giờ, tôi giả thiết rằng tất cả chúng ta đều biết về sự tố cáo hồi năm 1991 của ông Aricia đối với Hãng của ông ta theo đạo luật quy định về những tố cáo như vậy. Tố cáo đó đã được chuẩn bị và trình tòa bởi Hãng luật Bogan ở Biloxi này, một Hãng mà vào lúc đó gồm cả một cổ đông mới có tên là Patrick Lanigan. Vụ tố cáo đó là lừa lọc. Thân chủ của tôi đã phát hiện ra điều đó, rồi lại biết rằng Hãng chuẩn bị hất anh ta ra, sau khi Bộ Tư pháp chấp thuận sự tố cáo, nhưng trước khi tiền được chuyển đến. Trong nhiều tháng trời, thân chủ của tôi đã ngầm thu thập các bằng chứng chứng tỏ, một cách rõ ràng và thuyết phục, rằng ông Aricia và các luật sư của ông ta đã đồng lõa để lừa gạt của chính phủ chín mươi triệu đôla. Các bằng chứng này là những tài liệu và những cuộc đối thoại được ghi âm lại."

“Các bằng chứng đó đâu ?” Jaynes hỏi.

“Chúng đang do thân chủ của tôi kiểm soát."

“ Ông biết là chúng tôi có thể thu giữ chúng. Chúng tôi có thể xin lệnh khám và thu lại những bằng chứng đó bất kỳ lúc nào chúng tôi muốn.”

“Thế nếu thân chủ của tôi không tôn trọng cái lệnh khám của ông thì sao ? Nếu như anh ta thủ tiêu chúng, hay đơn giản là lại giấu chúng đi thì sao ? Lúc đó thì ông sẽ làm gì ? Giam anh ta lại ư ? Truy tố anh ta thêm một tội gì đó nữa sao ? Nói thẳng ra là anh ta sẽ không sợ các ông và những lệnh khám của các ông."

“Còn ông thì sao ?” Jaynes hỏi. “Nếu ông đang giữ chúng thì chúng tôi có thể xin một lệnh khám đối với ông đấy.”

“Tôi sẽ không đưa ra đâu. Bất kỳ những gì thân chủ của tôi trao cho tôi đều được pháp luật bảo đảm và phải được giữ bí mật, ông biết mà. Cái đó được gọi là kết quả lao động của một luật sư. Chớ quên rằng ông Aricia đã kiện thân chủ của tôi. Tất cả các tài liệu trong tay tôi là có đặc quyền pháp lý. Dưới bất kỳ hoàn cảnh nào, tôi cũng sẽ không trao ra các tài liệu đó, cho tới khi thân chủ của tôi yêu cầu làm như vậy.”

“Nếu chúng tôi có lệnh của tòa án thì sao ?" Sprawling hỏi.

“Tôi sẽ không chấp nhận, rồi sẽ kháng nghị. Các ông không thể thắng được trong chuyện này đâu, thưa các quý ông.” Và với tuyên bố đó của Sandy, họ có vẻ đã chấp nhận thất bại. Không có ai phản đối gì.

“Có bao nhiêu người liên quan ?” Jaynes hỏi.

“Bốn cổ đông ở Hãng luật và ông Aricia.”

Có một khoảng im lặng nặng nề trong khi họ chờ đợi Sandy nêu tên của vị Thượng nghị sĩ kia, thế nhưng anh đã không nói gì. Thay vì đó, anh nhìn vào những giấy tờ của mình và tiếp tục. “Thỏa thuận hoàn toàn đơn giản. Chúng tôi sẽ trao những tài liệu và những cuộn băng kia. Patrick sẽ trả lại tiền, tất cả. Đổi lại, các cáo buộc của Liên bang phải được từ bỏ để chúng tôi có thể tập trung vào cáo buộc của bang. Cơ quan thuế Liên bang đồng ý không động gì đến anh ta. Cô luật sư người Braxin của anh ta, Eva Miranda, được thả ra ngay lập tức.” Sanđy nói những điều kiện này một cách rất rành mạch bởi lẽ chúng đã được tính toán kỹ càng, và cái “hội thẩm đoàn” kia nghe không lọt chữ nào. Sprawling ghi chép lại cẩn thận. Jaynes đưa mắt nhìn xuống sàn nhà, không cười, cũng không cau mày. Số còn lại đều bình thản, nhưng mỗi người đều bị ám ảnh bởi nhiều câu hỏi trong đầu.

“Và phải được thỏa thuận trong ngày hôm nay,” Sandy nói thêm. “Có lẽ là cần phải khẩn cấp.”

“Vì sao ?” Jaynes hỏi.

“Bởi vì cô ấy đang bị giam. Bởi vì tất cả các ông đều đang có mặt ở đây, và các ông có thẩm quyền để ra quyết định. Bởi vì thân chủ của tôi đã lấy năm giờ chiều nay làm thời hạn cho một thỏa thuận, nếu không thì anh ta sẽ giữ lại tiền, thủ tiêu các bằng chứng, chấp nhận ngồi tù, và hy vọng sẽ được tự do vào một ngày nào đó.”

Với Patrick thì họ không dám nghi ngờ gì. Cho tới lúc này, hắn đã làm được cái việc là ngồi tù trong một căn phòng khá riêng tư với cả một bộ máy giúp việc luôn sẵn sàng trước mỗi cái gật đầu hay mỗi cú điện thoại của hắn.

“Chúng ta hãy nói về ông Thượng nghị sĩ kia,” Sprawling nói.

“Một ý kiến hay lắm,” Sandy nói. Anh ta mở cánh cửa thông sang căn phòng khách và nói gì đó với một phụ tá. Một cái bàn trên có đặt một dàn máy ghi âm và loa được đẩy vào giữa phòng. Sandy nhìn xuống xấp giấy tờ và nói, “Đó là ngày 14 tháng Giêng năm 1992, chừng ba tuần lễ trước khi Patrick biến mất. Cuộc nói chuyện này diễn ra trong Hãng luật, ở tầng trệt, tại một căn phòng được gọi là phòng để đồ, một cái phòng có thể dùng cho mọi việc và đôi khi có thể được dùng cho những cuộc họp rất ít thành phần tham dự. Giọng nói đầu tiên mà quý vị sẽ nghe thấy là của Charlie Bogan, tiếp đó là Benny Aricia, rồi sau là Doug Vitrano. Aricia đến Hãng mà không báo trước, và như quý vị sẽ thấy, đang ở trong một tâm trạng không được vui vẻ cho lắm.”

Sandy bước đến bên bàn và nhìn các nút bấm. Cái dàn máy này mới tinh và được nối với hai chiếc loa loại đắt tiền. Họ chăm chăm nhìn anh ta, hầu hết đều hơi nhỏm người lên một chút.

Sandy nói, “Xin nhắc lại, Bogan đầu tiên, rồi Aricia, rồi Vitrano.” Anh ta nhấn một cái nút. Có khoảng mười giây hoàn toàn im ắng, rồi những tiếng nói phát ra rõ ràng từ những chiếc loa. Những giọng nói gay gắt.

Bogan: Chúng ta đã thỏa thuận về khoản thù lao một phần ba, đó là chuẩn mực của chúng tôi. Ông đã ký hợp đồng. Từ cả một năm rưỡi nay ông đã biết khoản thù lao của chúng tôi là một phần ba.

Aricia: Các ông không đáng được hưởng tới ba mươi triệu đôla.

Vitrano: Còn ông thì không đáng được hưởng sáu mươi triệu.

Aricia: Tôi muốn biết tiền sẽ được chia như thế nào.

Bogan: Hai phần ba, một phần ba. Sáu mươi, ba mươi.

Aricia: Không, không. Khoản ba mươi triệu sẽ chạy vào đây cơ. Bao nhiêu cho những ai ?

Vitrano: Đó không phải là việc của ông.

Aricia: Mẹ kiếp, sao lại không. Đó là tiền do tôi trả thù lao. Tôi có quyền biết ai được bao nhiêu.

Bogan: Không, ông không có quyền.

Aricia: Ông Thượng nghị sĩ được bao nhiêu ?

Bogan: Không phải việc của ông.

Aricia: (La hét) Đó là việc của tôi. Thằng cha đó đã vận động suốt cả năm ngoái ở Oasinhtơn, dựa vào những người ở Hải quân, Lầu Năm góc và Bộ Tư pháp. Mẹ kiếp, ông ta đã dành nhiều thời gian cho vụ của tôi còn hơn cả thời gian cho các khu vực cử tri của ông ta đấy.

Vitrano: Đừng có hét lên, được chứ, Benny.

Aricia: Tôi muốn biết thằng cha xảo quyệt nhầy nhụa đó sẽ được bao nhiêu. Tôi có quyền biết các ông ngầm chia chác thế nào, bởi vì đó là tiền của tôi.

Vitrano: Tất cả đều là ngầm cả mà, Benny.

Aricia: Bao nhiêu ?

Bogan: Ông ấy sẽ được chăm sóc tử tế, Benny. Sao ông cứ bám mãi vào chuyện này thế? Chuyện này đâu có gì là mới.

Vitrano: Tôi nghĩ rằng ông đã lựa chọn Hãng này, cụ thể là do những mối liên hệ của chúng tôi ở Oasinhtơn.

Aricia: Năm triệu hay mười triệu hả ? Giá của ông ta là bao nhiêu ?

Bogan: Không bao giờ ông biết được điều đó đâu.

Aricia: Không à, mẹ kiếp. Tôi sẽ gọi cho thằng cha chó đẻ đó và đích thân hỏi cho mà xem.

Bogan: Xin cứ việc.

Vitrano: Ông sao vậy hả, Benny ? Ông sắp kiếm được sáu mươi triệu đôla, và bây giờ ông đang trở nên tham lam đấy.

Aricia: Đừng có lên mặt dạy đời, nhất là về lòng tham. Khi tôi tới đây, các ông đang làm việc với giá hai trăm đôla một giờ. Bây giờ thử nhìn lại xem, các ông đang cố bao biện cho một khoản thù lao ba mươi triệu đôla. Đã đang sửa sang trụ sở. Đã đang đặt mua những chiếc xe mới. Rồi thì sẽ tàu thuyền, máy bay và tất cả những thứ đồ chơi khác của giới giàu có. Và tất cả đều là bằng tiền của tôi.

Bogan: Tiền của ông à ? Chúng ta đã quên mất chuyện gì ở đây chăng, Benny ? Giúp tôi chút xem nào. Sự tố cáo của ông là giả dối như một tờ ba đôla vậy.

Aricia: Phải, nhưng mà tôi đã làm nên chuyện. Tôi, chứ không phải các ông, đã làm cho Platt & Rockland sa bẫy.

Bogan: Vậy sao ông lại thuê chúng tôi ?

Aricia: Hỏi vớ hỏi vẩn.

Vitrano: Ông có một trí nhớ tồi, Benny. Ông đã tìm đến đây là vì thế mạnh của chúng tôi. Ông đã cần sự giúp đỡ. Chúng tôi sắp xếp sự tố cáo đó đâu vào đấy, phải làm việc bốn nghìn giờ với nó, và chúng tôi đã có những tác động đúng chỗ ở Oasinhtơn. Tất cả đều được ông biết rõ, tôi có thể nói thêm như vậy.

Aricia: Gạt thằng cha Thượng nghị sĩ ra. Điều đó sẽ làm cho chúng ta đỡ tốn được mười triệu. Cắt bớt đi mười triệu nữa, vậy là các ông còn lại cho bản thân mười triệu. Theo ý tôi thì đó là một khoản thù lao công bằng hơn nhiều đấy.

Vitrano: (Cười ầm lên) Tuyệt lắm, Benny. Ông được tám mươi, bọn tôi mười.

Aricia: Phải, và chúng ta cùng chơi bọn chính trị gia kia.

Bogan: Không thể được, Benny. Ông đang quên một điều rất quan trọng. Nếu không có chúng tôi và các chính trị gia kia thì ông cũng sẽ chẳng kiếm được một đồng xu nào đâu.

Sandy nhấn nút. Cuộn băng dừng lại, nhưng những tiếng nói đó còn như văng vẳng quanh phòng hồi lâu. Những người trong cuộc nguời thì nhìn xuống sàn, người thì nhìn lên trần, lên tường, mỗi người đều đang cố nhớ những gì mà họ đã nghe thấy.

Vói một nụ cười thoải mái, Sandy nói, “Thưa quý vị, đây mới chỉ là một mẩu bằng chứng.”

“Khi nào thì chúng tôi có nốt những gì còn lại ?” Jaynes hỏi.

“Có thể là chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ.”

“Thân chủ của ông sẽ cung khai trước một đoàn đại bồi thẩm Liên bang chứ ?” Sprawling hỏi.

“Anh ta sẽ đồng ý. Nhưng anh ta không hứa là sẽ cung khai trước tòa.”

“Vì sao ?”

“Anh ta không phải giải thích. Đó là lập trường của anh ta, thế thôi.” Sandy đẩy cái bàn ra cửa, gõ cửa, và trao nó lại cho người phụ tá, rồi quay lại nói tiếp, “Quý vị nên bàn bạc. Tôi sẽ ra ngoài. Xin cứ thoải mái cho.”

“Chúng tôi sẽ không bàn bạc gì ở đây cả,” Jaynes nhảy dựng lên. Có quá nhiều dây rợ lằng nhằng, và với những gì Patrick đã làm thì không có căn phòng nào an toàn cả. “Chúng tôi sẽ tới phòng của chúng tôi.”

“Xin tùy ý,” Sandy nói. Họ đứng cả dậy, tay vớ cặp. Họ kéo nhau qua cửa, qua căn phòng khách và ra khỏi căn hộ. Lynda và Linda chạy vội tới căn phòng ngủ lúc nãy để đi vệ sinh và hút thuốc.

Sandy pha một ly cà phê và ngồi chờ.

oOo

Họ tập hợp lại ở cách đó hai tầng về phía dưới, trong một căn phòng đôi mà ngay lập tức đã trở nên chật chội. Những chiếc áo khoác được cởi ra và ném lên đống chăn gối trên cả hai chiếc giường. Jaynes bảo người lái xe của ông ta chờ ngoài hành lang cùng với tay trợ lý của Mast. Những vấn đề sắp được bàn tới là quá nhạy cảm đối với những đôi tai của họ.

Bên mất lớn nhất trong thỏa thuận này sẽ là Maurice Mast. Nếu như phải từ bỏ các cáo buộc của Liên bang thì ông ta sẽ không còn gì để mà truy tố nữa. Một phiên tòa khá lớn sẽ biến mất, và ông ta cảm thấv ít nhất thì cũng phải đưa ra lời phản đối trước khi những người khác lên tiếng. “Ta sẽ trở thành ngớ ngẩn nếu để hắn chuồn êm được với vụ này,” ông ta nói, chủ yếu là hướng vào Sprawling, người đang cố xoay sở lấy một tư thế thoải mái trên một chiếc ghế gỗ mỏng manh.

Sprawling chỉ ở cương vị thấp hơn chính ông Bộ trưởng Tư pháp có một cấp, và cao hơn Mast tới mấy cấp. Ông ta sẽ lịch sự lắng nghe trong ít phút ý kiến của đám cấp dưới và rồi sẽ cùng Jaynes đưa ra một quyết định.

Hamilton Jaynes đưa mắt nhìn T.L.Parrish, và hỏi, “ Ông có lý do để tin rằng ông có thể khép được Lanigan vào tội cố sát không hả ?”

Parrish thuộc loại người thận trọng, và ông ta hoàn toàn biết rằng bất kỳ lời hứa nào trước nhóm người này đều cũng sẽ được nhớ rất lâu. “Cố sát thì có thể có một vài rắc rối. Ngộ sát thì chắc chắn.”

“Ngộ sát thì bao nhiêu năm ?”

“Hai mươi năm.”

“Hắn sẽ phải ngồi tù bao lâu ?”

“Năm năm, hơn hoặc kém một chút ”

Kỳ cục là điều này dường như làm cho Jaynes, một tay nhà nghề luôn nghĩ rằng những kẻ vi phạm cần phải bị ngồi tù, lại cảm thấy hài lòng. “Ông đồng ý chứ, Cutter?” Ông ta vừa hỏi vừa đi lại dọc theo chiếc giường.

“Không có nhiều bằng chứng,” Cutter nói. “Trong vụ giết người này, chúng ta không thể chứng minh những yếu tố như ai, bằng cách nào, khi nào hay ở đâu. Chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi biết nguyên nhân vì sao, nhưng phiên tòa đó có thể là cả một cơn ác mộng. Ngộ sát thì dễ dàng hơn nhiều.”

Jaynes hỏi Parrish, “Ông Thẩm phán thì sao ? Liệu ông ấy có tuyên khung hình phạt cao nhất không ?”

“Nếu hắn bị kết tội ngộ sát, tôi cho rằng ông Thẩm phán sẽ tuyên án hai mươi năm. Việc ân xá là do bên nhà tù quyết định.”

“Chúng ta có thể yên tâm cho rằng trong năm năm tới Lanigan sẽ ngồi tù được không?” Jaynes hỏi và nhìn quanh phòng.

“Vâng, chắc chắn,” Parrish nói vẻ thụ động. “Và chúng tôi cũng sẽ không lùi bước trước vấn đề cố sát. Chúng tôi có ý định kiên quyết lập luận rằng Lanigan đã giết một người khác để hắn có thể đánh cắp được chỗ tiền kia. Án tử hình thì không chắc, nhưng nếu hắn bị khép vào tội giết người bình thường thôi thì cũng đủ lãnh án chung thân rồi.”

“Với chúng ta thì có gì khác biệt không trong việc hắn phải ngồi tù ở Parchman hay trong một nhà tù của Liên bang ?” Jaynes hỏi. Với ông ta thì rõ ràng là chẳng có gì khác.

“Tôi tin chắc là Patrick hiểu rõ sự khác biệt này,” Parrish nói, và nhận được một vài tiếng cười khẽ.

Parrish đặc biệt thích thỏa thuận này bởi lẽ ông ta sẽ trở thành công tố viên còn lại duy nhất. Mast và FBI sẽ nhanh chóng rút ra khỏi vụ này. Còn một khoảng trống, và ông ta quyết định đẩy Mast gần lại bờ vực thêm chút nữa. “Tôi không nghi ngờ gì là Patrick sẽ phải ngồi tù, ở Parchman,” ông ta nói.

Mast không chịu im. Ông ta lắc đầu và cau mày. “Tôi không chắc chuyện đó,” ông ta nói. “Tôi cho rằng chúng ta sẽ mất uy tín nếu chấp nhận thỏa thuận này. Người ta không thể đi cướp nhà băng, rồi khi bị bắt thì đề nghị đem trả lại tiền nếu không bị buộc tội nữa. Công lý không thể rao bán được.”

“Chuyện hơi phức tạp hơn thế một chút,” Sprawling nói. “Đột nhiên chúng ta có khả năng tóm được con cá lớn hơn, và Patrick là chiếc chìa khóa. Tiền mà hắn đánh cắp là thứ tiền bẩn thỉu. Đơn giản là chúng ta thu hồi và trả lại cho những người đóng thuế."

Mast không dám tranh cãi với Sprawling.

Jaynes nhìn T.L.Parrish và nói. “Mặc dù rất tôn trọng ông, ông Parrish, tôi xin ông ra ngoài một lát. Bên Liên bang chúng tôi cần thảo luận chút xíu.”

“Được thôi,” Parrish đáp.

Bàn cãi thế là đủ. Đã đến lúc để Sprawling kết luận vấn đề. “Thưa quý vị, chuyện rất đơn giản. Có những người rất quan trọng ở Nhà Trắng đang theo dõi vụ này sát sao. Thượng nghị sĩ Nye chưa bao giờ là một người bạn của Tổng thống, và nói thẳng ra thì một vụ bê bối lớn ở đây sẽ làm cho chính quyền vui mừng. Cái ghế của Nye sẽ được bầu lại trong hai năm nữa. Nhũng tố cáo này sẽ làm cho ông ta phải bận bịu. Và nếu đúng thì ông ta coi như chết rồi.”

“Chúng tôi sẽ tiến hành điều tra,” Jaynes nói với Mast. “Và ông sẽ tiến hành việc truy tố.”

Đột nhiên, mọi thứ trở nên rõ ràng với Mast là cuộc họp này chỉ vì ông ta. Quyết định đi tới chỗ thỏa thuận với Patrick đã được sắp xếp từ trước cuộc họp này bởi những người có thế lực hơn Sprawling và Jaynes nhiều. Họ chỉ cố làm cho ông ta được hài lòng mà thôi, bởi lẽ rốt cuộc thì ông ta cũng là công tố viên Liên bang của khu vực này.

Cái ý nghĩ về việc được buộc tội và truy tố một Thượng nghị sĩ Mỹ có tác động rất lớn và Mast ngay lập tức đã mơ màng với nó. Ông ta đã có thể hình dung thấy mình giữa một phiên tòa chật ních, phát lại cuộn băng của Patrick và hội thẩm đoàn cùng những người dự phiên tòa nghe chăm chú từng chữ. “Vậy chúng ta sẽ chấp nhận thỏa thuận này hả ?” Ông ta vừa nói vừa nhún vai như thể không còn biết nói gì hơn.

“Phải.” Sprawling nói. “Một vụ tuyệt lắm. Uy tín của chúng ta sẽ tăng lên với việc lấy lại được chỗ tiền. Patrick vẫn phải ngồi tù một thời gian dài. Chúng ta lại còn găm đuợc những con mồi lớn hơn.”

“Cộng với việc Tổng thống cũng muốn thế nữa chứ,” Mast vừa nói vừa cười, mặc dù chẳng có ai khác cười theo.

"Tôi không có nói như vậy,” Sprawling lên tiếng, “ Tôi chưa hề nói chuyện với Tổng thống về vụ nàv. Các sếp của tôi nói chuyện với người của Tổng thống. Đó là tất cả những gì tôi biết.”

Jaynes lôi T.L Parrish từ ngoài hành lang vào, và họ mất gần một giờ để rà lại đề nghị của Patrick, xem xét lại từng phần trong đề nghị đó. Cô gái kia có thể được thả ra trong vòng một tiếng đồng hồ. Patrick cũng sẽ phải trả lãi cho chỗ tiền đó, họ quyết định. Còn vụ kiện mà hắn đã đệ ra tòa đối với FBI thì sao ? Jaynes lập một danh mục các vấn đề để nêu lại với Sandy.

Tại Miami, Mark Birck đích thân chuyển đến Eva cái tin tuyệt vời là cha nàng đã được trả lại tự do. Ông không bị làm hại gì cả; mà trên thực tế là còn được đối xử khá tốt nữa.

Ông ta nói với nàng rằng với một chút may mắn thì bản thân nàng cũng sẽ được trả lại tự do trong một hoặc hai ngày nữa.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 34


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Mặt mũi trịnh trọng và không hề bộc lộ gì, họ trở lại căn hộ Camille và lại ngồi vào chỗ cũ. Hầu hết đều bỏ áo khoác lại trong căn phòng kia, và đều đã xắn tay áo lên, nới lỏng cavát, vẻ như đang đầu tắt mặt tối với công việc vậy. Theo đồng hồ của Sandy, họ đã vắng mặt tới gần một tiếng rưỡi. Lúc này, Sprawling là người phát ngôn của họ.

“Về chỗ tiền,” ông ta bắt đầu, và Sandy lập tức biết rằng họ đã có một thỏa thuận. Bây giờ chỉ còn là vấn đề chi tiết. "Thân chủ của ông muốn trả lại bao nhiêu ?"

“Tất cả.”

“Tất cả số hiện có chứ ?"

“Tất cả chín mươi triệu.”

“Còn lãi suất thì sao ?”

“Ai lại quan tâm tới chuyện lãi suất cơ chứ ?"

“Chúng tôi.”

“Vì sao ?"

“Cũng chỉ là công bằng thôi.”

“Công bằng với ai ?”

“Hả, với những người đóng thuế.”

Sandy thực sự đã cười phá lên. "Thôi đi nào. Các ông làm việc cho chính phủ Liên bang. Các ông lo lắng tới việc bảo vệ cho những người đóng thuế từ khi nào vậy ?"

“ Đó là chuẩn mực trong những vụ liên quan tới trộm cắp và biển thủ,” Maurice Mast nói chêm vào.

“Bao nhiêu hả ?” Sandy hỏi. “Với tỉ lệ nào ?”

“Cơ bản là chín phần trăm,” Sprawling nói. “Thế sẽ là công bằng, tôi nghĩ như vậy.”

“Thật là ông nghĩ vậy ư ? Cơ quan thuế Liên bang trả lại bao nhiêu khi họ xác định là tôi đã phải nộp quá nhiều và hoàn thuế cho tôi hả ?”

Không ai có thể trả lời. “Sáu phần trăm,” Sandy nói. “Sáu phần trăm tồi tệ đó là tỉ lệ mà chính phủ trả.”

Sandy, dĩ nhiên, đã tính toán trước điều này. Anh đã ngừa sẵn các câu hỏi và đã chuẩn bị những câu trả lời, và thật tức cười khi trông họ lúng ta lúng túng để cố mà theo kịp vấn đề.

“Vậy là ông đề nghị sáu phần trăm phải không ?" Sprawling hỏi. Ông ta nói chậm và thận trọng.

"Đương nhiên là không rồi. Chúng tôi nắm tiền; chúng tôi sẽ quyết định trả bao nhiêu. Đó cũng là nguyên tắc mà chính phủ đã áp dụng. Chúng ta hãy hình dung đơn giản là cứ để chỗ tiền đó quay trở lại với cái túi thủng ở Lầu Năm góc.”

“Chúng tôi không thể chấp nhận thế được,” Jaynes nói. Ông ta đã mệt mỏi và không muốn nghe dài dòng gì nữa.

“Chúng ta phải nhìn chỗ tiền đó theo cách thế này,” Sandy nói. “Lẽ ra thì nó đã mất hoàn toàn, rơi vào túi những kẻ lừa đảo đê tiện và không bao giờ còn thấy đâu nữa. Thân chủ của tôi đã ngăn chặn được việc đó, giữ lại chỗ tiền, và giờ đây sẵn sàng trả lại.”

“Vậv chúng tôi phải có thưởng cho anh ta hả ?” Jaynes hỏi.

“Không. Có điều đừng tính lãi thôi.’’

“Chúng tôi phải trình bày lại vụ này với một số người ở Oasinhtơn,” Sprawling nói, không hẳn là nài nỉ, nhưng rõ ràng cũng mềm xuống. “Hãy để cho trong tay chúng tôi có cái gì chứ.”

“Chúng tôi sẽ trả một nửa tỉ lệ của Cơ quan thuế Liên bang, và không thêm một xu nào nữa.”

Với vẻ mặt của một tay cờ bạc chuyên nghiệp, Sprawling nói, "Tôi sẽ trình bày lại với ông Bộ trưởng Tư pháp. Hy vọng là ông ấy đang ở trong tâm trạng vui vẻ.”

“Cho tôi gửi lời chào đến ông ấy nhé,” Sandy nói.

Jaynes ngừng ghi chép ngước mắt nhìn lên và hỏi, “Ba phần trăm phải không ?”

“Đúng thế. Từ ngày 26 tháng Ba năm 1992 đến ngày 1 tháng Mười một năm 1996. Tổng cộng sẽ là một trăm mười ba triệu, cùng với một chút lẻ mà chúng tôi sẽ bỏ qua. Một trăm mười ba triệu chẵn.”

Con số đó nghe thật sướng tai, và đương nhiên là lọt tai mấy tay quan chức này của chính phủ. Mỗi người họ đều ghi nó vào sổ tay. Nghe được lắm. Ai còn có thể bàn tán gì về một thỏa thuận mang lại ngần ấy tiền trở về tay những người đóng thuế ?

Đề nghị này được đưa ra chỉ có thể có một nghĩa duy nhất là Patrick đã đầu tư số tiền đó một cách rất sinh lợi. Đám người của Sprawling trước đó đã bỏ qua mất một vài con số. Cứ cho rằng Patrick đã bỏ tất cả số tiền đó vào những khoản đầu tư mang lại tám phần trăm lãi một năm, thì tổng số tiền đó giờ đây đã lên tới một trăm ba mươi mốt triệu. Mười phần trăm, con số đó sẽ là một trăm bốn mươi bốn triệu. Không phải đóng thuế là lẽ dĩ nhiên. Và có vẻ như là Patrick không chi tiêu gì nhiều lắm, bởi vậy hắn cũng sẽ vẫn còn là một người rất giàu.

"Tất cả chúng tôi đều quan tâm tới vụ kiện mà ông đã thay mặt Lanigan đệ ra tòa,” Sprawling nói.

“Chúng tôi sẽ đưa FBI ra khỏi hồ sơ khởi kiện, thế nhưng tôi cần ông Jaynes làm ơn cho một chút. Chúng ta có thể thảo luận chuyện đó sau. Đó là một chuyện nhỏ.”

“Được. Trở lại chuyện hiện nay nhé. Khi nào thì thân chủ của ông sẵn sàng ra cung khai trước đoàn đại bồi thẩm ?”

“Bất kỳ khi nào các ông cần. Về mặt sức khỏe, anh ta có thể làm chuyện đó bất cứ lúc nào.”

“Chứng tôi muốn tiến hành nhanh vụ này.”

“Càng nhanh thì càng tốt cho thân chủ tôi.”

Sprawling khoanh các vòng tròn trên bản danh mục các vấn đề của ông ta. “Chúng tôi kiên quyết yêu cầu giữ kín. Không báo chí gì hết. Thỏa thuận này sẽ là đối tượng của nhiều sự chỉ trích lắm.”

“Chúng tôi sẽ không nói một lời,” Sandy hứa.

“ Ông muốn cô Miranda được thả ra vào lúc nào ?"

“Ngày mai. Và cô ấy cần phải được hộ tống từ nhà giam ở Miami ra phòng chờ riêng ở sân hay. Chúng tôi muốn có sự bảo vệ của FBI cho đến khi cô ấy đã ở trên máy bay.”

Jaynes nhún vai ra vẻ không hiểu. “Không có vấn đề gì," ông ta nói.

“Còn gì nữa không ?" Sandy hỏi, và xoa tay như thể một cuộc vui sắp bắt đầu.

“Phía chính phủ không còn gì nữa,” Sprawling đáp.

“Tốt. Bây giờ tôi đề nghị thế này,” Sandy nói, không để cho họ còn lựa chọn nào khác. “Tôi có hai thư ký với máy tính cá nhân sẵn sàng đây rồi. Chúng tôi cũng đã chuẩn bị một bản dự thảo thỏa thuận và lệnh hủy bỏ các cáo buộc của Liên bang. Sẽ không mất bao nhiêu thời gian để chỉnh trang câu chữ, rồi các ông ký vào. Tiếp đó, tôi sẽ mang nó tới cho thân chủ của tôi, và hy vọng là chúng tôi sẽ xong trong một hai tiếng. Ông Mast, tôi đề nghị ông liên hệ với ông Thẩm phán Liên bang và dàn xếp một hội nghị qua điện thoại càng nhanh càng tốt. Chúng ta sẽ fax đến cho ông ấy văn bản lệnh hủy bỏ các cáo buộc.”

“Khi nào thì chúng tôi có được các tài liệu và những cuộn băng kia ?” Jaynes hỏi.

“Nếu như mọi thứ được ký và được chấp thuận trong vòng vài tiếng đồng hồ tới đây, các ông có thể có chúng vào lúc năm giờ chiều.”

“Tôi cần phải gọi điện thoại,” Sprawling nói. Mast và Jaynes cũng vậy. Họ tản ra các nơi trong căn hộ.

oOo

Những tù nhân thông thường được phép ra ngoài trời mỗi ngày một tiếng đồng hồ. Trời cuối tháng Mười, lạnh và nhiều mây, và Patrick quyết định đòi được hưởng cái quyền theo luật định đó. Đám cảnh sát ở hành lang từ chối; việc đó chưa được cho phép. Patrick gọi điện cho Karl Huskey và tất cả lập tức được chấp thuận. Hắn cũng hỏi xem Karl có thể ghé vào tiệm Rosetti trên phố Division mua một vài suất bánh phomát cùng thịt cua mang đến ăn trưa với hắn ở ngoài trời được không. Karl nói là rất vui lòng.

Họ cùng ngồi ăn trên một cái ghế dài làm bằng gỗ, gần một vòi phun nước nhỏ và một cái cây maple nhỏ nhắn, dễ thương. Xung quanh họ là các dãy nhà của bệnh viện. Karl cũng mang một ít bánh phomát cho đám cảnh sát, và họ ngồi ở gần đó, ngoài tầm tai.

Karl không biết gì về cuộc gặp đang diễn ra ở khách sạn và Patrick cũng không nói gì. Parrish có mặt ở đó, và ông ta sẽ nói lại ngay với ông Thẩm phán thôi mà.

“Mọi người đang nói gì về tôi vậy ?” Patrick hỏi sau khi đã ăn được một phần ba chiếc bánh kẹp và đặt nó sang một bên.

“Những xầm xì cũng lắng xuống rồi. Mọi chuyện đã trở lại bình thường. Bạn bè của anh vẫn là bạn bè của anh.”

“Tôi đang viết thư cho mấy người trong số họ. Ông chuyển giúp được chứ ?”

“Tất nhiên rồi.”

“Cảm ơn.”

“Tôi nghe nói là họ bắt được cô bạn gái của anh ở Miami.”

“Phải. Nhưng cô ấy sẽ được ra ngay ấy mà. Chỉ có chút rắc rối nhỏ với hộ chiếu thôi.”

Huskey làm một miếng bánh lớn và yên lặng nhai. Ông đã trở nên quen với những khoảng im lặng kéo dài trong những cuộc trò chuyện của họ. Ông cân nhắc chuyện gì phải nói tiếp theo. Còn Patrick thì không.

“Không khí trong lành thật là tuyệt vời,” sau cùng hắn nói. “Cảm ơn.”

“Theo luật thì anh có quyền hưởng không khí trong lành mà.”

“Ông đã tới Braxin bao giờ chưa ?”

“Chưa.”

“ Ông nên đi.”

“Giống như kiểu của anh, hay là cùng với gia đình tôi hả ?”

“Không, không. Thăm thú một chút ấy mà.”

“Những bãi biển ư ?”

“Không. Quên các bãi biển đi, và cả các thành phố. Nên đến vùng trung tâm của đất nước đó, tới những vùng đất bao la, nơi có bầu trời trong xanh, không khí dễ chịu, quang cảnh tuyệt đẹp, con người thì hiền lành và không phức tạp. Bây giờ tôi đã coi mảnh đất đó như là quê hương của mình vậy, Karl. Tôi chỉ muốn dược trở lại nơi đó.”

“Có thể là phải lâu lâu đấy.”

“Có lẽ thế, nhưng tôi có thể chờ đợi. Tôi không còn là Patrick nữa, Karl. Patrick đã chết rồi. Anh ta đã sa bẫy, đã bất hạnh. Anh ta béo mập và khốn khổ, và may mắn làm sao, anh ta đã ra đi. Bây giờ, tôi là Danilo, Danilo Silva, một người hạnh phúc hơn nhiều với một cuộc sống bình lặng ở một đất nước khác. Danilo có thể chờ đợi.”

Và với một người phụ nữ xinh đẹp cùng cả một tài sản lớn, Karl muốn nói, nhưng rồi lại thôi.

“Danilo sẽ trở lại Braxin như thế nào ?” Karl hỏi.

“Tôi vẫn còn đang tính.”

“Này, Patrick — tôi cho rằng vẫn gọi anh là Patrick mà không phải là Danilo, được chứ?”

“Tất nhiên.”

“Tôi nghĩ đã đến lúc tôi phải lui xuống và chuyển vụ này lại cho Thẩm phán Trussel. Một kiến nghị sẽ phải được đưa ra, và rồi là một quyết định nữa. Tôi đã làm tất cả những gì có thể để giúp cho anh.”

“ Ông đang bị phê phán gì ư ?”

“Chút đỉnh, nhưng không có gì làm cho tôi phải lo ngại. Tôi không muốn gây tổn thương đến anh, nhưng tôi sợ rằng nếu tôi giữ vụ của anh lâu hơn chút nữa thì người ta có thể bất bình. Ai cũng biết chúng ta là chỗ bè bạn. Trời đất, anh thậm chí còn chọn tôi làm một trong những người hộ tang bên quan tài.”

"Tôi đã cảm ơn ông về chuyện đó chưa nhỉ ?”

“Chưa. Lúc đó anh là người chết, vậy nên đừng nhắc đến nữa. Kể cũng vui.”

“Đúng thế, tôi biết mà.”

“Dù sao chăng nữa, tôi đã nói chuyện với Trussel, và ông ấy sẵn sàng nhận vụ này. Tôi cũng đã nói với ông ấy về những vết thương khủng khiếp của anh, và việc anh ở lại đây được càng lâu càng tốt là quan trọng như thế nào. Ông ấy hiểu chuyện.”

“Cảm ơn.”

“Nhưng anh cũng phải thực tế một chút. Một lúc nào đó, anh sẽ bị đưa vào nhà tù. Và có thể là anh sẽ phải ở trong đó một thời gian dài đấy.”

“ Ông có nghĩ là tôi đã giết thằng bé đó không, Karl?”

Karl bỏ miếng bánh còn lại vào trong một cái túi và uống ngụm trà đá. Ông không định nói dối về chuyện này. “Đó là điều đáng ngờ. Thứ nhất, còn có hài cốt ở trong chiếc xe, bởi vậy phải có ai đó đã bị giết. Thứ hai FBI đã kiểm tra bằng máy tính tất cả những người bị mất tích vào ngày 9 tháng Hai năm 1992 hoặc trước đó một thời gian. Pepper là người duy nhất trong vòng bán kính ba trăm dặm mà người ta không hề có tin tức gì.”

“Nhưng như thế không đủ để kết tội tôi.”

“Câu hỏi của anh không phải là về việc kết tội ”

“Phải. Ông có nghĩ là tôi đã giết thằng bé không ?"

“Tôi không biết phải nghĩ gì nữa, Patrick. Tôi đã là một thẩm phán trong mười hai năm trời, tôi đã thấy những người đứng trước mặt tôi và thú nhận về những tội ác mà họ vẫn còn không thể nào tin được là họ đã phạm phải. Trong những hoàn cảnh nhất định, đúng là con người ta có thể làm bất cứ chuyện gì.”

“Nghĩa là ông tin vào chuyện đó ?”

“Tôi không muốn vậy. Tôi không biết thế nào nữa.”

“Ông nghĩ là tôi có thể giết người ư ?”

“Không. Nhưng tôi cũng đã không nghĩ rằng anh có thể vờ chết và cuỗm đi chín mươi triệu đôla. Những chuyện anh làm thời gian qua đầy dẫy những điều bất ngờ.”

Một khoảng im lặng kéo dài nữa. Karl đưa mắt nhìn đồng hồ. Patrick để ông ta ngồi lại một mình trên ghế và chầm chậm đi dạo quanh sân.

oOo

Bữa trưa tại căn hộ Camille là những chiếc bánh xăng uých được mang tới trên những cái khay nhựa, và nó đã bị gián đoạn bởi cú điện thoại trả lời của ông Thẩm phán Liên bang, người đã nhận vụ Patrick bốn năm về trước. Ông Thẩm phán đang mắc một phiên tòa ở Jackson và chỉ có thời gian một phút. Mast nói về thành phần đang có mặt tại căn hộ, và ông Thẩm phán đã đồng ý nói chuyện chung với tất cả qua điện thoại. Tiếp đó, Mast vắn tắt lại thỏa thuận đã được đề nghị. Ông Thẩm phán muốn được nghe phần trình bày của Sandy. Sprawling được hỏi một vài câu, và cuộc hội nghị ngắn ngủi qua điện thoại đã trở thành một cuộc họp dài. Có một lúc, Sprawling đã ra khỏi phòng để nói chuyện riêng với ông Thẩm phán. Ông ta đã chuyển lại những mong muổn khẩn thiết từ các cấp trên ở Oasinhtơn về việc đi tới môt thỏa thuận với Lanigan để có thể tóm được những con cá lớn hơn. Ông Thẩm phán cũng đã nói chuyện riêng với T.L.Parrish, người đã đưa ra những bảo đảm rằng Lanigan sẽ không phủi tay được với vụ này, rằng hắn sẽ phải đối mặt với những cáo buộc nghiêm trọng hơn, và rất nhiều khả năng, mặc dù không có gì bảo đảm được chắc chắn, là hắn sẽ phải ngồi tù nhiều năm.

Ông Thẩm phán không muốn hành động một cách vội vã, thế nhưng dưới sức ép của những người có liên quan chặt chẽ đến thế với vụ này, cộng với tầm cỡ của những người đang có mặt tại Biloxi, ông ta đành xuống nước và đồng ý ký lệnh hủy bỏ mọi cáo buộc của Liên bang đối với Patrick. Văn bản lệnh này nhanh chóng được fax đến cho ông ta, và ông ta ký ngay rồi fax trả lại.

Trong khi họ ăn nốt bữa trưa, Sandy tạm ra ngoài để chạy đến bệnh viện. Patrick đang ở trong phòng, viết thư cho mẹ hắn, lúc Sandy ào vào. “Thành công rồi!" Anh ném bản thỏa thuận lên trên mặt bàn làm việc của Patrick.

“Chúng ta đạt được mọi điều, mà chúng ta muốn," Sandy nói.

“Chấm dứt mọi cáo buộc chứ hả ?”

“Đúng thế. Ông Thẩm phán vừa ký xong.”

“Tiền thì bao nhiêu ?”

“Chín mươi triệu, cộng ba phần trăm ”

Patrick nhắm mắt và nắm chặt hai tay. Đống của đó vừa bị sạt đi quá lớn, thế nhưng phần còn lại cũng khá nhiều; đủ cho hắn và Eva có ngày ổn định được cuộc sống ở một nơi nào đó an toàn và có một ngôi nhà đầy nhóc trẻ con. Một ngôi nhà lớn. Và nhiều con.

Họ rà lại bản thỏa thuận. Patrick ký vào đó, rồi Sandy chạy như bay trở lại khách sạn.

oOo

Đám đông đã bớt đi vào lúc hai giờ chiều, thì cuộc gặp thứ hai bắt đầu. Sandy tiếp Talbot Mims và thân chủ của ông ta, một nhân vật cao cấp của Northern Case Mutual có tên là Shenault, người mang theo hai luật sư của công ty mà Sandy không nghe rõ tên. Để thận trọng, Mims cũng mang theo một trong các cộng sự của ông ta và một phụ tá nữa, cũng không rõ tên của cả hai. Sandy nhận các danh thiếp và đưa họ vào cùng cái căn phòng khách kế bên, nơi đã diễn ra cuộc gặp đầu tiên. Các phóng viên tòa án ngồi vào chỗ dành cho họ.

Jaynes và Sprawling ở trong căn phòng làm việc bên cạnh, đang nói chuyện điện thoại với Oasinhtơn. Họ đã cho đám tùy tùng xuống dưới sòng bạc giải trí trong một tiếng, với lệnh không được uống rượu.

Nhóm người của Monarch ít hơn, chỉ có Hal Ladd, một phụ tá của ông ta, và viên luật sư chính của Hãng, một tay có vóc người nhỏ bé, sang trọng, tên là Cohen. Những lời giới thiệu được trao đổi, và rồi tất cả đã sẵn sàng chờ nghe Sandy nói. Anh phân phát cho họ những cặp hồ sơ mỏng và yêu cầu họ xem qua. Trong mỗi chiếc cặp đó là bản sao hồ sơ vụ kiện của Patrick đối với FBI về những vết thương của hắn, cùng với một bộ ảnh màu chụp những vết thương kia. Đám người của các Hãng bảo hiểm đã được các luật sư của họ chuẩn bị trước cho rồi nên không thấy có gì bất ngờ với những thứ đó.

Sandy nói vắn tắt lại những gì đã nói hôm trước - rằng các vết thương trên người thân chủ của mình không phải là do FBI gây ra bởi lẽ FBI đã không tìm thấy Patrick. Mà là Stephano. Và Stephano làm việc cho ba khách hàng: Benny Aricia, Northern Case Mutual và Monarch-Sierra. Cả ba đều ở tình thế nghiêm trọng trong một vụ án dân sự mà Patrick sẽ khởi kiện.

“Làm sao ông chứng minh được rằng đó là việc làm của Stephano ?” Talbot Mims hỏi.

“Xin chờ một giây,” Sandy nói. Anh mở cánh cửa dẫn sang căn phòng làm việc và xin Jaynes dành cho một phút. Jaynes bước vào phòng, và tự giới thiệu mình với nhóm người trong đó. Với vẻ thoải mái, ông ta mô tả lại chi tiết những gì mà Stephano đã kể lại về cuộc truy lùng Patrick; việc tài trợ của cái tổ hợp đó, những khoản tiền thưởng, những nguồn tin, cuộc săn đuổi ở Braxin, tay bác sĩ chỉnh hình, Nhóm Pluto, việc bắt giữ và cuộc tra tấn. Mọi chuyện. Và tất cả đều đã được tiến hành bằng tiền do Aricia, Monarch-Sierra và Northern Case Mutual cung cấp. Và tất cả đều được tiến hành thuần vì lợi ích của họ.

Đó là một màn trình diễn ngoạn mục mà bản thân Jaynes rất thích thú.

''Có câu hỏi nào dành cho ông Jaynes không ?”

Sandy vui vẻ hỏi sau khi câu chuyện của Jaynes đi tới chỗ kết thúc.

Không có câu hỏi nào. Trong mười tám giờ qua, cả Shenault của Northern Case Mutual lẫn Cohen của Monarch-Sierra đều không thể nào xác định được ai trong Hãng của họ đã cho phép việc thuê mướn Jack Stephano. Họ khó mà biết được khi mà giờ đây mọi dấu tích đã được xóa đi.

Cả hai Hãng đều lớn và lắm tiền lắm của, với rất nhiều cổ đông và một ngân sách khổng lồ cho việc quảng cáo để bảo vệ tên tuổi của mình. Không Hãng nào lại muốn có vụ đau đầu này cả.

“Cảm ơn ông, Jaynes,” Sandy nói.

“Tôi ở phòng bên, nếu như các vị cần tới,” Jaynes nói vẻ như là ông ta không còn thích gì hơn là được quay trở lại và đóng thêm vài cái đinh nữa vào cỗ quan tài. Bản thân sự hiện diện của ông ta đã báo một điềm xấu. Vì sao vị Phó giám đốc FBI lại tới Biloxi, và vì sao ông ta lại sốt sắng muốn quy trách nhiệm cho họ như vậy ?

“Đây là thỏa thuận,” Sandy nói sau khi cánh cửa khép lại. “Rất đơn giản, nhanh chóng, và không phải bàn cãi gì. Thứ nhất, thưa ông Shenault, đối với Northern Case Mutual, cuộc tấn công cuối cùng của khách hàng của ông trong cuộc chiến tranh nhỏ này là một nỗ lực nhằm thu lại hai triệu rưỡi đôla đã được chi trả cho bà Trudy Lanigan. Chúng tôi chỉ muốn ông hãy trở về. Bãi nại và quên Trudy đi, để cho cô ta được yên ổn. Cô ta còn phải nuôi con, và bên cạnh đó, có thế nào chăng nữa thì hầu hết số tiền đó cũng đã bị tiêu hết rồi. Bãi nại, và thân chủ của tôi sẽ không kiện cáo gì về những vết thương đó đối với Hãng của ông nữa.”

“Thế thôi ư ?” Talbot Mims hỏi vẻ không tin nổi.

“Đúng. Có thế thôi.”

“Xong.”

“Chúng tôi muốn hội ý một chút,” Shenault nói, mặt vẫn căng thẳng.

“Không, không gì nữa,” Mims nói với thân chủ của ông ta. “Đó là một thỏa thuận tốt. Tất cả đã trên mặt bàn. Chúng ta chấp nhận. Cứ như vậy.”

Shenault nói, “Tôi muốn xem xét...”

"Thôi,” Mims nói, vẻ cáu kỉnh với Shenault. “Chúng ta chấp nhận thỏa thuận đó. Còn nếu ông muốn ai đó khác đại diện cho các ông thì cũng được thôi. Nhưng chừng nào mà tôi còn giữ cương vị đó thì tôi quyết định là luật sư đại diện chấp nhận thỏa thuận này, ngay bây giờ.”

Shenault không còn biết nói gì.

“Chúng tôi sẽ chấp nhận,” Mims nói.

“Ông Shenault ?” Sandy hỏi.

“Thôi, được. Tôi cho rằng chúng tôi đồng ý.”

“Tốt lắm. Tôi có một dự thảo thỏa thuận để sẵn ở phòng bên cho các ông. Bây giờ, mời quý vị sang bên đó vài phút, tôi cần nói chuyện riêng với ông Ladd và thân chủ của ông ấy.”

Mims đưa nhóm của ông ta ra ngoài. Sandy chốt cửa và quay lại nói với Cohen, Hal Ladd và phụ tá của ông ta. “Tôi e rằng thỏa thuận với các ông có khác một chút so với họ. Phần họ thì nhẹ nhàng do còn vụ ly hôn kia. Nó rất phức tạp và rắc rối, và thân chủ của tôi có thể sử dụng yêu sách của anh ta đối với Northern Case Mutual theo hướng có lợi trong quá trình giải quyết vụ ly hôn. Họ đã dành ra nửa triệu đôla cho Stephano, các ông dành gấp đôi như thế. Các ông có trách nhiệm nhiều hơn, ở tình trạng nghiêm trọng hơn, và, theo chỗ chúng tôi biết, các ông có nhiều tiền hơn Northern Case Mutual nhiều.”

“Ông nghĩ tới bao nhiêu ?” Cohen hỏi.

“Về phần Patrick thì không gì cả. Tuy nhiên, anh ta rất quan tâm tới đứa trẻ. Con bé mới sáu tuổi, và mẹ nó tiêu tiền như rác. Đó là một lý do để Northern Case Mutual chấp nhận nhanh như vậy - sẽ rất khó mà lấy lại được tiền từ Trudy Lanigan. Patrick muốn có một khoản tiền khiêm tốn gửi vào một quỹ ủy thác cho đứa trẻ, ngoài tầm tay với của mẹ nó.”

“Bao nhiêu ?”

“Một phần tư triệu. Cùng với ngần ấy nữa để trang trải cho những khoản tiền lo luật sư của anh ta. Tổng cộng là nửa triệu, trả một cách lặng lẽ để thân chủ của ông sẽ không còn bị những tấm ảnh kia làm phiền nữa.”

Vùng bờ biển này vốn có truyền thống với những phán quyết rất hào phóng trong những ca gây thương tật và những cái chết oan khốc. Hal Ladd đã khuyên Cohen rằng ông ta có thể sẽ phải thấy một phán quyết nhiều triệu đôla đối với Aricia và các Hãng bảo hiểm về những gì đã gây ra cho Patrick. Cohen, một người từ CaHíornia đến, chắc chắn cũng hiểu rõ điều này. Hãng cũng muốn giải quyết mọi chuyện cho xong và rút êm.

“Dẹp bỏ mọi kiện tụng,” Cohen nói. “Và chúng tôi phải trả nửa triệu ?”

“Đúng thế.”

“Chúng tôi chấp nhận.”

Sandy lấy trong cặp hồ sơ ra mấy tờ giấy. “Tôi đã có một dự thảo thỏa thuận sẵn đây cho các ông.” Anh trao cho họ, và để họ ngồi lại một mình.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 35


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Tay bác sĩ tâm thần là bạn của bác sĩ Hayani. Cuộc gặp thứ hai của Patrick với ông ta kéo dài trong hai tiếng và cũng không có kết quả gì giống như lần trước. Đó sẽ là cuộc gặp cuối cùng.

Patrick xin phép ra ngoài, và trở về phòng vào giờ ăn tối. Hắn không ăn bao nhiêu trong khi mải theo dõi bản tin tối. Tên hắn không được nhắc tới. Hắn đi đi lại lại và thỉnh thoảng lại nói chuyện với những người gác. Sandy đã gọi suốt buổi chiều với những thông tin mới nhất, thế nhưng hắn muốn được thấy các văn bản. Hắn đã cố đọc một cuốn tiểu thuyết dày cộp. Vào lúc suýt soát tám giờ thì hắn nghe thấy tiếng Sandy nói với người gác và hỏi thăm về tình hình người tù ra sao. Sandy khoái được nhắc tới hắn với cái từ “người tù."

Patrick đón bạn ở cửa. Người luật sư của hắn đã mệt rũ, nhưng vẫn cười tươi. “Tất cả đều xong,” anh nói và trao cho Patrick một xấp giấy tờ.

“Còn những tài liệu và những cuộn băng kia thì sao?”

“Chúng ta đã trao cho họ cách đây một giờ. Phải có đến hơn một chục nhân viên FBI vây xung quanh. Jaynes nói với tôi là họ sẽ làm việc suốt đêm đấy.”

Patrick cầm các văn bản thỏa thuận và ngồi vào chiếc bàn làm việc hắn kê bên dưới cái TV. Hắn đọc từng chữ một cách thận trọng. Bữa chiều của Sandy là thứ đồ ăn nhanh được để sẵn trong một cái túi, và anh đứng bên cạnh chiếc giường, vừa ăn vừa xem một trận bóng bầu dục được ESPN truyền trực tiếp từ Australia, nhưng không để tiếng.

“Họ có kêu ca gì về khoản nửa triệu này không ?" Patrick hỏi, mà không nhìn lên.

“Không hề. Không có ai kêu ca gì cả.”

“Có khi chúng ta đã có thể đòi thêm.”

“Tôi nghĩ anh đã có đủ rồi.”

Patrick lật một trang, rồi ký tên vào đó. “Làm tốt lắm, Sandy. Một việc hoàn hảo.”

“Chúng ta có một ngày vui. Các cáo buộc của Liên bang đã được từ bỏ, các vụ kiện tụng dân sự đã được giải quyết. Khoản tiền trả cho luật sư đã được lo liệu. Tương lai của đứa trẻ đã được bảo đảm. Ngày mai chúng ta sẽ dứt điểm với Trudy. Mọi chuyện đang đâu vào đấy, Patrick. Có điều quá tệ là còn cái xác chết kia nữa.”

Patrick để đám giấy tờ lại trên bàn và bước ra phía cửa sổ, lưng quay vào trong phòng. Tấm rèm đang được để mở và cánh cửa cũng được hé ra chừng chục phân.

Sandy vẫn tiếp tục ăn và nhìn hắn. “Lúc nào đó anh phải cho tôi biết thêm nữa, Patrick.”

“Cho anh biết chuyện gì ?”

“Rồi, để xem nào. Tại sao chúng ta lại không bắt đầu với Pepper nhỉ ?"

“Được thôi. Tôi không giết Pepper.”

“Vậy ai đó đã giết Pepper chăng ?”

“Cái đó thì tôi không biết.”

“Pepper tự sát chăng ?”

“Cái đó tôi cũng không biết.”

“Pepper có còn sống khi anh biến mất không ?”

"Tôi nghĩ vậy.”

“Mẹ kiếp, Patrick! Mệt cả ngày rồi! Tôi không muốn cái trò mèo đuổi chuột nữa đâu.”

Patrick quay lại và nhẹ nhàng nói. “Xin đừng có quát tướng lên. Ngoài kia còn có đám cảnh sát đang căng tai ra để nghe mọi chuyện đấy. Cứ ngồi xuống xem nào.”

“Tôi không muốn ngồi."

“Nào.”

“Tốt hơn là tôi cứ đứng thế này. Tôi nghe đây.”

Patrick đóng cánh cửa sổ lại, kéo rèm, kiểm tra lại chốt cửa ra vào và tắt TV. Hắn trở lại vị trí quen thuộc của hắn ở trên giường, ngồi, với tấm chăn kéo tới ngang hông. Sau khi đã yên vị, hắn ôn tồn nói, “Tôi biết Pepper. Một hôm, cậu ta tới ngôi nhà đi săn để xin đồ ăn. Lúc đó là vào hôm trước lễ Giáng sinh năm 91. Pepper kể với tôi là đã sống ở trong rừng hầu hết thời gian. Tôi nướng thịt hun khói và làm trứng cho cậu ta và cậu ta ăn như một kẻ chết đói vậy. Cậu ta nói lắp, rất nhút nhát và không thoải mái khi ở bên tôi. Tất nhiên là tôi cũng tò mò. Một đứa trẻ như vậy, nói là mười bảy tuổi nhưng trông trẻ hơn thế, khá sạch sẽ, ăn mặc tử tế và có một gia đình ở cách đó hai mươi dặm, nhưng lại sống trong rừng. Tôi đã làm cho cậu ta phải nói chuyện. Tôi hỏi về gia đình cậu ta, và được nghe một câu chuyện buồn. Khi ăn xong, cậu ta muốn đi. Tôi mời ngủ lại, nhưng cậu ta dứt khoát đòi trở về chỗ cậu ta dựng lều.

“Ngày hôm sau, tôi đi săn hươu, một mình, và Pepper lần tìm được tôi. Cậu ta cho tôi xem cái lều nhỏ xíu của mình, cùng cái túi ngủ. Cậu ta có dụng cụ nấu ăn, một phích đá, một cái đèn bão, và một khẩu súng săn. Cậu ta nói là đã hai tuần không về nhà. Nói rằng mẹ cậu ta có một người bạn trai mới, một người tồi tệ nhất trong nhiều năm qua. Tôi đi theo cậu ta vào sâu trong rừng để tới chỗ một đàn hươu mà cậu ta đã phát hiện. Một giờ sau, tôi bắn được một con hươu đực lớn nhất mà tôi hạ được từ trước tới nay. Cậu ta khoe là thuộc cánh rừng đó như lòng bàn tay, và ngỏ ý sẽ cho tôi biết những bãi săn tốt nhất.

“Một vài tuần lễ sau, tôi trở lại ngôi nhà đi săn. Cuộc sống với Trudy là không thể chịu nổi. Cả cô ta và tôi đều cần những ngày nghỉ cuối tuần. Pepper xuất hiện không bao lâu sau khi tôi tới. Tôi làm món thịt hầm và chúng tôi ăn ngon lành - thời gian đó tôi vẫn ăn dữ lắm. Cậu ta nói là vừa về nhà trong ba ngày, và lại bỏ đi sau một trận cãi cọ với người mẹ. Cậu ta càng nói thì càng bớt cà lăm. Tôi bảo mình là một luật sư và không mấy chốc Pepper đã kể cho tôi nghe về những rắc rối pháp luật của cậu ta. Công việc gần đó nhất của Pepper là bơm xăng tại một cây xăng ở Lucedale. Một khoản tiền bị mất so với sổ sách. Do mọi người đều nghĩ là Pepper chậm phát triển về đầu óc nên cứ đổ riệt cho cậu ta. Dĩ nhiên, cậu ta không có liên quan gì tới chuyện tiền nong cả. Đó lại là một lý do nữa để cậu ta vào sống ở trong rừng. Tôi hứa là sẽ tìm hiểu về vấn đề đó.”

“Và bởi vậy ván bài bắt đầu.” Sandy nói.

“Đại loại là thế. Chúng tôi còn gặp nhau ít lần nữa ở trong rừng.”

“Lúc đó là gần tới ngày 9 tháng Hai.”

“Đúng vậy. Tôi nói với Pepper rằng cảnh sát sắp sửa bắt cậu ta. Đó là chuyện dối trá. Tôi đã không gọi một cú điện thoại nào. Không thể. Nhưng càng chuyện trò tôi càng tin rằng cậu ta có biết điều gì đó về vụ mất tiền. Cậu ta sợ hãi và chỉ còn biết trông vào tôi. Chúng tôi bàn tính các khả năng cho cậu ta, và một trong số đó là biến đi.”

“Nghe có vẻ quen thuộc lắm.”

“Cậu ta không ưa người mẹ. Cảnh sát thì đang lùng bắt. Cậu ta sợ hãi và cũng không thể sống suốt đời trong rừng. Cậu ta nghĩ tới chuyện đi sang miền Tây và làm một chân hướng dẫn săn bắn trong các vùng núi. Chúng tôi lập một kế hoạch. Tôi theo dõi báo chí cho tới khi thấy cái tin kinh khủng về một học sinh trung học bị chết trong một tai nạn xe lửa bên ngoài New Orleans. Tên cậu bé đó là Joey Palmer, nghe rất hay. Tôi bèn gọi cho một tay chuyên làm giấy tờ giả ở Miami, người đã kiếm ra số thẻ bảo hiểm xã hội của Joey, và xong ! Trong vòng bốn ngày tôi đã có một bộ giấy tờ ngon lành cho Pepper. Bằng lái xe Louisiana, cùng với một tấm ảnh rất giống, số thẻ bảo hiểm xã hội, giấy khai sinh, và cả một tấm hộ chiếu.”

“Anh nói nghe có vẻ thật dễ dàng.”

“Đúng, còn dễ hơn cả những gì tôi nói. Chỉ tốn có chút tiền mặt và một chút trí tưởng tượng. Pepper thích bộ giấy tờ mới của cậu ta lắm, và khoái cái cảnh được ngồi xe buýt, đi tới vùng núi kia. Thật đấy, Sandy, thằng bé đó không ngần ngại gì với chuyện bỏ mẹ nó lại đằng sau. Không hề có một mảy may quan tâm nào.”

“Cũng giống kiểu của anh.”

“ Thôi được rồi. Dù sao thì vào hôm Chủ nhật, ngày 9 tháng Hai...”

“Ngày anh chết.”

“Phải, để tôi nhớ lại nào. Tôi đã lái xe đưa Pepper tới bến xe buýt Greyhound ở Jackson. Tôi đã cho cậu ta mọi cơ hội quay trở lại, nhưng cậu ta hoàn toàn quyẽt tâm. Không những thế, mà còn phấn chấn nữa ấy chứ. Thằng bé tội nghiêp đó chưa bao giờ ra khỏi bang Mississippi. Chỉ chuyến đi tới Jackson cũng đủ làm cho nó sung sướng. Tôi đã nói rõ rằng cậu ta không còn bao giờ có thể quay trở lại, cho dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Cậu ta không hề nhắc gì đến mẹ cả. Suốt ba tiếng ngồi trong xe, không một lần.”

“Cậu ta đã đi về đâu vậy ?”

“Tôi đã phát hiện được một khu trại lâm trường ở phía bắc Eugene, bang Oregon, và tôi đã kiểm tra các tuyến xe buýt và lịch trình. Tôi đã viết lại tất cả cho cậu ta, và chúng tôi đã dượt lại cả chục lần trên đường ra bến xe buýt. Tôi cho cậu ta hai nghìn đôla tiền mặt và thả cậu ta xuống cách bến xe buýt hai khúc phố. Lúc đó là gần một giờ chiều, và tôi có thể quay trở lại mà không có nguy cơ bị ai nhìn thấy. Lần chót tôi nhìn Pepper thì cậu ta đang nhảy chân sáo, một nụ cười rạng rỡ trên mặt, với một cái túi ba lô lủng lẳng trên vai.”

“Khẩu súng săn và bộ đồ cắm trại của thằng bé được tìm thấy trong ngôi nhà đi săn?”

“Thì nó còn để đâu được nữa hả ?”

“Lại là một câu đố khác.”

“Tất nhiên. Tôi muốn họ nghĩ rằng Pepper bị chết cháy trong chiếc xe.”

“Giờ đây cậu ta ở đâu ?”

“Tôi không biết, và điều đó chẳng có gì quan trọng.”

“Đó không phải là điều tôi muốn hỏi, Patrick.”

"Thật sự là không quan trọng mà.”

“Mẹ kiếp, đừng diễn trò với tôi nữa. Nếu tôi đưa ra một câu hỏi thì tôi phải được nhận một câu trả lời.”

“Tôi sẽ trả lời khi nào tôi cảm thấy muốn.”

“Sao anh cứ lảng tránh với tôi vậy ?"

Giọng Sandy to lên, và gay gắt hơn, nhưng Patrick ngừng lại một chút để anh bạn dịu xuống, cả hai đều thở chậm và cùng cố bình tĩnh.

"Tôi không lảng tránh, Sandy,” Patrick bình thản nói.

“Mẹ kiếp, lại còn không. Tôi phải rất cố để hiểu được một điều bí ẩn, và trước mặt lại còn cả chục điều khác. Tại sao anh không thể nói với tôi mọi chuyện hả ?"

“Bởi vì anh không cần phải biết tất cả.”

“Hay lắm.”

“Thật ư ? Lần cuối cùng mà một bị cáo hình sự nói với anh tất cả mọi chuyện là khi nào vậy ?”

"Thật tức cười. Tôi không nghĩ anh là một tên tội phạm hình sự.”

“Vậy thì tôi là cái gì hả ?”

“Một người bạn, có lẽ thế.”

“Công việc của anh sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu anh nghĩ tôi là một tên tội phạm đấy.”

Sandy cầm những văn bản thỏa thuận từ mặt bàn lên và dợm bước ra cửa. “Tôi mệt và muốn đi nghỉ. Tôi sẽ trở lại vào ngày mai, và anh sẽ nói với tôi tất cả.”

Anh đi ra.

oOo

Cái đuôi bám theo bị Guy phát hiện lần đầu hai ngày trước đó, khi họ đang rời khỏi một sòng bạc. Một gương mặt quen quen quay vội đi hơi nhanh một chút. Thế rồi, một chiếc xe đi sau họ hơi quá lâu. Guy đã có kinh nghiệm trong những chuyện này, và anh ta đã báo lại với Benny, người cũng thường xuyên lái xe. “Chắc phải là tụi Liên bang,” Guy nói. “Còn ai vào đấy được chứ ?”

Họ lập kế hoạch rút khỏi Biloxi. Các đường điện thoại đến ngôi nhà thuê kia được cắt bỏ. Những người khác được cho rút đi. Họ chờ đến lúc trời tối. Guy lên đường trong một chiếc xe, chạy theo hướng đông để tới Mobile, nơi anh ta sẽ ngủ lại đêm đó để quan sát các động tĩnh phía sau và rồi sẽ lên một chuyến bay vào sáng hôm sau. Benny đi về phía tây, dọc theo xa lộ 90 trên bờ biển, rồi băng ngang qua vùng Hồ Ponchartrain để vào New Orleans, một thành phố mà ông ta rất rành. Ông ta quan sát thận trọng nhưng không phát hiện gì ở phía sau. Ung dung, Benny xơi món sò tươi ở khu phố Pháp, sau đó lên một chiếc tăcxi ra sân bay. Ông ta bay đi Memphis, rồi tới O’Hare và ở suốt đêm tại sân bay. Rồi lên tiếp một chuyến bay đi New York vào lúc tảng sáng.

FBI vẫn có mặt ở Boca Raton, giám sát ngôi nhà của ông ta. Cô gái Thụy Điển vẫn còn ở đó. Họ đồ rằng cô ả sắp bỏ trốn đến nơi, và việc bám theo là quá dễ dàng.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 36


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Chưa có vụ thả người nào lại diễn ra êm ả đến thế. Eva bước ra khỏi trung tâm giam giữ của Liên bang, và trở thành người tự do, vào lúc tám rưỡi sáng, cũng vẫn trong bộ quần áo mà nàng đã mặc khi bị đưa vào đó. Những người gác có thái độ nhã nhặn; các nhân viên văn phòng làm việc chóng vánh đến ngạc nhiên; và tay giám thị thậm chí còn chúc nàng khỏe. Mark Birck đưa nàng ra xe của ông ta, một chiếc Jaguar cũ song còn khá đẹp mà ông ta đã cho cọ rửa tử tế nhân dịp này, và gật đầu chào hai người hộ tống của họ. “Đó là các nhân viên FBI,” ông ta nói với nàng, hất hàm về phía hai người đàn ông đang chờ trong chiếc xe đậu gần đó.

“Tôi nghĩ là chúng ta đã xong việc với họ rồi đấy,” nàng nói.

“Không hẳn thế.”

“Tôi phải vẫy chào hay làm gì chăng ?”

“Không. Cứ vào xe thôi.” Ông ta mở cửa xe cho nàng, nhẹ nhàng đóng lại, và trong một giây ngẩn người trước cái mui xe bóng loáng, rồi bước nhanh vòng sang bên ghế lái.

“Đây có một bức thư của Sandy McDermott gửi bằng fax đến cho tôi,” ông ta nói trong khi cho xe nổ máy và chuyển bánh. “Hãy xem đi.”

“Chúng ta đi đâu thế này ?” Nàng hỏi.

“Ra sân bay, nhà ga chính. Có một chiếc phản lực nhỏ đang chờ cô ở đó.”

“Để đưa tôi đi đâu ?”

“New York.”

“Và rồi đi đâu ?”

“Luân Đôn, trên một chuyến Concorde.”

Họ đang trên một đường phố đông đúc, với các nhân viên FBI bám theo đằng sau. “Sao họ lại đi theo chúng ta hả ?" Nàng hỏi.

“Để bảo vệ.”

Nàng nhắm mắt lại và đưa tay lên trán, nghĩ tới Patrick đang ở trong căn phòng nhỏ bé của hắn ở bệnh viện, chán chường, chẳng còn biết làm gì ngoài việc nghĩ tới những nơi phải đưa nàng đến. Thế rồi, nàng chợt nhìn thấy chiếc điện thoại gắn trong xe. “Tôi có thể dùng được không ?” Nàng hỏi và đưa tay nhấc máy.

“Tất nhiên.” Birck chạy rất thận trọng, quan sát các gương tử tế như thể đang lái xe cho Tổng thống.

Eva gọi về Braxin, dùng tiếng mẹ đẻ, và có một cuộc tái đoàn tụ cảm động với cha nàng, qua vệ tinh. Ông hoàn toàn khỏe mạnh, và nàng cũng vậy. Cả hai đều được tự do, tuy rằng nàng không nói với ông về việc nàng ở đâu trong mấy ngày qua. Ông thậm chí còn nói đùa rằng sau cùng thì trò bắt cóc cũng không đến nỗi khủng khiếp lắm. Ông đã được đối xử tử tế; mình mẩy không có một vết thâm tím nào. Nàng hứa là sẽ sớm trở về. Công việc của nàng ở Mỹ đã gần xong, và nàng rất nhớ nhà.

Birck nghe thấy hết, mặc dù không muốn, nhưng lại chẳng hiểu nổi một từ nào. Khi nàng gác máy và lau nước mắt, ông ta nói, “Trong bức thư đó có mấy số máy điện thoại, ngừa trường hợp cô lại bị nhân viên hải quan giữ lại. FBI đã rút lệnh tìm kiếm của họ, và họ cũng đã đồng ý để cô đi lại với tấm hộ chiếu đó trong bảy ngày tới.”

Nàng nghe nhưng không nói gì.

'“Cũng còn có một số máy ở Luân Đôn, nếu như có chuyện gì đó xảy ra ở sân bay Heathrow.”

Sau cùng thì nàng mở bức thư ra. Đó là thư của Sandy, trên giấy có tiêu đề của anh. Mọi việc đang diễn ra tốt đẹp, và nhanh chóng, ở Biloxi. Gọi cho anh ta ở căn hộ tại khách sạn khi nàng tới sân bay JFK. Anh sẽ có những chỉ dẫn thêm. Nói cách khác, anh sẽ nói với nàng những điều mà ông Birck đây không nên biết.

Họ đã đến cái nhà ga chính rất bận rộn ở mặt bắc của sân bay quốc tế Miami. Hai nhân viên FBI ở lại xe của họ trong khi Birck đưa nàng vào bên trong. Các phi công đã chờ sẵn. Họ chỉ tay về phía một chiếc máy bay phản lực nhỏ, rất đẹp, đậu ngay bên ngoài, sẵn sàng đưa nàng tới bất kỳ đâu mà nàng muốn. “Đưa tôi tới Rio,” nàng đã suýt buột miệng.

Nàng bắt tay Birck, cảm ơn ông ta về tất cả, và lên máy bay. Không có hành lý gì. Không cả một cái áo để thay. Patrick sẽ phải trả giá đắt về việc này. Cứ để tới Luân Đôn đã; để nàng có một ngày ở Bond và Oxford. Nàng sẽ có một số lượng quần áo mà cái máy bay này cũng không chở nổi cho mà xem.

oOo

Vào lúc còn sớm như thế này mà trông J.Murray đã rất mệt mỏi và nhếch nhác. Ông ta cố gượng chào cô thư ký ra mở cửa và nhận lời dùng một ]y cà phê đen, đặc. Sandy chào hỏi, giúp ông ta cởi cái áo khoác nhầu nhĩ và mời ông ta vào trong phòng khách, nơi họ cùng ngồi xem lại văn bản thỏa thuận về tài sản.

“Như thế này tốt hơn nhiều,” Sandy nói sau khi đọc xong. Trudy đã ký thỏa thuận. J.Murray không thể chịu nổi một chuyến viếng thăm nữa của ả và cái gã đĩ đực kia. Ngày hôm trước, ả và Lance đã cãi lộn tại văn phòng của ông ta. J.Murray đã lo những vụ ly hôn bẩn thỉu trong nhiều năm, và ông ta dám đánh cá rằng Lance không còn lại được mấy ngày nữa bên Trudy. Sự căng thẳng về tài chính đang giày vò ả.

“Chúng tôi sẽ ký,” Sandy nói.

“Lại còn không sao ? Các ông đã được mọi điều các ông muốn.”

"Đó là một giải pháp công bằng, với hoàn cảnh cụ thể.”

"Phải, phải.”

“Này, Murray, có một diễn biến quan trọng liên quan đến thân chủ của ông và vụ kiện của cô ta với Northern Case Mutual.”

“Nói đi."

“Đuợc rồi, có nhiều chuyện xung quanh nhưng không thật sự liên quan tới thân chủ của ông, nhưng điểm mấu chốt là thế này: Northern Case Mutual đã đồng ý bãi nại đối với Trudy.”

J.Murray ngồi lặng mất mấy giây, rồi mới mấp máy môi. “Chuyện đùa chăng ?”

Sandy với lấy một bản sao văn bản thỏa thuận với Northern Case Mutual. Anh đã bôi đen những đoạn nhạy cảm, nhưng quá đủ cho J.Murray.

“ Ông đùa đây ư,” ông ta lẩm bẩm trong khi đưa tay cầm lấy tờ giấy, nhìn lướt qua những hàng chữ đã bị bôi đen mà không mảy may tò mò gì, và dừng lại ở trọng tâm của vấn đề, hai đoạn được kẻ kiểm duyệt kia giữ nguyên lại. Ông ta đọc rõ ràng và chính xác phần nội dung tuyên bố từ bỏ ngay lập tức vụ kiện chống lại thân chủ của mình. Ông ta không thèm biết vì sao lại có chuyện đó. Một bức màn bí ẩn dường như không thể chọc thủng được đã bao bọc lấy Patrick, và ông ta không có ý định hỏi gì nữa.

“Một sự bất ngờ thú vị,” ông ta nói.

"Tôi nghĩ là ông thích nó.”

“Cô ta được giữ lại tất cả ư ?"

“Tất cả những gì mà cô ta còn lại.”

J.Murray từ từ đọc lại một lần nữa. “Tôi có thể giữ tờ này được không ?" Ông ta hỏi.

“Không. Đó là chuyện bí mật. Nhưng đơn xin bãi nại sẽ được trình tòa ngày hôm nay, và tôi sẽ fax cho ông một bản sao.”

“Xin cảm ơn.”

“Còn một mục nữa,” Sandy nói. Anh đưa cho J.Murray bản sao văn bản thỏa thuận với Monarch-Sierra, cũng đã được kiểm duyệt tương tự. “Hãy nhìn vào trang bốn, đoạn thứ ba.”

J.Murray đọc đoạn về việc lập một quỹ ủy thác hai trăm năm mươi nghìn đôla cho cô bé Ashley Nicole Lanigan. Sandy McDermott sẽ là người quản lý quỹ này. Tiền trong đó sẽ chỉ được dùng cho việc chăm sóc con bé về sức khỏe và học hành, và phần không dùng hết sẽ được trả thẳng cho con bé vào ngày sinh nhật lần thứ ba mươi của nó.

“Tôi không còn biết nói gì.” Miệng nói vậy, thế nhưng, đầu ông ta đã nghĩ tới việc thông báo lại chuyện này như thế nào tại văn phòng của mình.

Sandy phẩy tay, ra vẻ chuyện không có gì.

“Còn gì nữa không ?” J.Murray hỏi với một nụ cười rạng rỡ.

"Có thế thôi. Vụ ly hôn đã được giải quyết. Thật là dễ chịu.”

Họ bắt tay và J.Murray ra về, với những bước chân nhanh nhẹn hẳn. Một mình trong thang máy, đầu ông ta cứ rộn lên về việc sẽ nói với Trudy, rằng ông ta đã phải quyết liệt với bọn bất lương đó như thế nào, tức đến tận cổ với những đòi hỏi vô lối của họ, xông vào giữa cuộc họp của họ và đe dọa một phiên tòa gay gắt ra làm sao, trừ phi họ chịu có những nhượng bộ. Ông ta đã lo nhiều vụ như vậy - và có tiếng là một kẻ to mồm trong tòa án. Mặc những lời tố cáo về chuyện ngoại tình! Mặc những tấm ảnh khỏa thân! Thân chủ của ông ta có sai trái nhưng vẫn có quyền được hưởng công bằng. Còn có một đứa trẻ tội nghiệp cần được bảo vệ ở đây!

Ông ta sẽ nói họ đã phải chịu thua và chạy dài như thế nào. Ông ta đã đòi lập một quỹ ủy thác cho con bé, và Patrick đã suy sụp trước những tội lỗi của chính hắn. Rồi họ đã phải nài nỉ để được nộp ra hai trăm năm mươi nghìn đôla.

Và ông ta đã chiến đấu quyết liệt để bảo vệ tài sản cho thân chủ của mình, người đã không làm gì sai trái khi nhận hai triệu rưỡi đôla kia. Do lo sợ, họ đã phải co lại và tìm cách nào đó để khỏi động đến tiền của Trudy. Vào lúc này thì những chi tiết cụ thể còn chưa rõ ràng, nhưng mà ông ta sẽ bỏ ra một tiếng để lo về chuyện này. Đến lúc ông ta trở lại văn phòng, thì đó sẽ là một thắng lợi tuyệt vời.

oOo

Những cặp lông mày nhướng lên tại quầy vé Concorde ở sân bay JFK chỉ bởi vì nàng không có hành lý gì. Một giám sát viên được gọi đến và tiếp theo đó là một cuộc hội ý trong lúc Eva phải cố gắng lắm để giữ bình tĩnh. Nàng sẽ không thể nào chịu được vụ bắt giữ nữa. Nàng yêu Patrick, nhưng yêu đương gì thì thế này cũng là quá đáng lắm rồi. Mới chẳng bao xa, nàng đã có một nghề nghiệp đầy triển vọng với tư cách là một luật sư ngay trong cái thành phố mà nàng yêu quý. Thế rồi, Patrick xuất hiện.

Bỗng nhiên, ở đâu cũng thấy những nụ cười nồng nhiệt của những người Anh. Nàng được đưa vào phòng đợi của chuyến bay Concorde, nơi nàng dùng một ly cà phê, và gọi cho Sandy ở Biloxi.

“Cô khỏe không?” Anh hỏi khi nhận ra giọng nàng.

“Tôi khỏe, Sandy. Đang ở JFK, trên đường di Luân Đôn. Patrick thế nào ?”

“Tuyệt vời. Chúng tôi đã thỏa thuận xong với bên Liên bang.”

“Bao nhiêu ?”

“Một trăm mười ba triệu,” anh đáp, và chờ phản ứng của nàng. Patrick đã hoàn toàn hờ hững khi được biết về số tiền phải trả lại này. Và nàng cũng vậy.

“Bao giờ ?” Nàng chỉ hỏi có vậy.

“Tôi sẽ có những chỉ dẫn sau khi cô đã tới Luân Đôn. Có một phòng được đặt sẵn ở khách sạn Four Seasons với tên Leah Pires.”

“Vậy là tôi lại được mang cái tên đó."

“Gọi cho tôi khi đến nơi nhé.”

“Nói với Patrick rằng tôi vẫn yêu anh ấy, ngay cả sau khi đã bị tống vào tù.”

“Tôi sẽ gặp anh ta tối nay. Cẩn thận đấy.”

“Chào.”

oOo

Với những nhân vật quan trọng như vậy có mặt trong thành phố, Mast không thể nào cưỡng lại được cơ hội gây ấn tượng với họ. Tối hôm trước, sau khi đã nhận được những tài liệu và những cuộn băng kia, ông ta đã cho các nhân viên của mình gọi tới tất cả các thành viên của đoàn đại bồi thẩm và báo với họ về một cuộc họp khẩn cấp. Với năm phụ tá, ông ta đã cùng với FBI phân loại và sắp xếp các tài liệu, rời văn phòng vào lúc ba giờ sáng, và trở lại đó sau năm tiếng đồng hồ.

Cuộc họp của đoàn đại bồi thẩm diễn ra vào buổi trưa, với một bữa ăn được phục vụ. Hamilton Jaynes đã quyết định quanh quẩn ở lại đủ lâu để dự cuộc họp đó, Sprawling của Bộ Tư pháp cũng vậy. Patrick sẽ là nhân chứng duy nhất.

Theo thỏa thuận giữa họ, hắn sẽ được đưa đến, vẫn bị khóa tay, trong một chiếc xe không có phù hiệu của FBI và vào theo lối cổng phụ của tòa nhà Tòa án Liên bang tại Biloxi. Sandy ngồi cùng trên xe. Patrick mặc một chiếc quần kaki rộng thùng, áo ngắn tay, chân mang giầy thể thao; tất cả là do Sandy mua cho hắn. Trông hắn xanh và gầy, nhưng không thấy tập tễnh gì lúc bước đi. Thực sự là Patrick cảm thấy rất khỏe khoắn.

Mười sáu vị bồi thẩm ngồi quanh một chiếc bàn dài, bởi vậy có tới một nửa quay lưng ra cửa khi Patrick bước vào với một nụ cười trên miệng. Những người không nhìn trực diện được vào hắn lập tức quay cả lại. Jaynes và Sprawling ngồi trong một góc phòng, cũng tò mò khi lần đầu tiên nhìn thấy Patrick Lanigan.

Patrick ngồi ở cuối bàn, trên chiếc ghế dành cho nhân chứng, và tất cả đều đổ dồn mắt về phía hắn. Hắn không cần chờ Mast thúc giục nhiều để bắt đầu kể lại câu chuyện của mình, hay ít nhất cũng là một phần của câu chuyện đó. Hắn cảm thấy thoải mái và thư thái, phần nào là vì cái đoàn đại bồi thẩm này không còn thể nào động được tới hắn. Hắn đã tự giải phóng mình ra khỏi bàn tay của luật pháp Liên bang.

Hắn bắt đầu với Hãng luật, các cổ đông của Hãng, nhân thân của họ, các thân chủ, lề thói công việc, và dần dần dẫn dắt câu chuyện tới với Aricia.

Mast ngắt lời Patrick, và trao một tài liệu mà hắn xác nhận là bản hợp đồng giữa Hãng luật và Aricia. Bản hợp đồng đó dài bốn trang, nhưng có thể tóm tắt lại là một thỏa thuận cơ bản về việc Hãng luật sẽ được một phần ba của bất kỳ khoản tiền nào mà Aricia sẽ có được nhờ việc nộp đơn tố giác Hãng Platt & Rockland Industries.

“Và làm sao mà ông có được văn bản này ?” Mast hỏi.

“Thư ký của ông Bogan đánh máy nó. Các máy tính của chúng tôi nối với nhau, và tôi chỉ việc lấy nó ra.”

“Có phải vì vậy mà bản này không có chữ ký không ?"

“Đúng vậy. Bản gốc hiện có thể nằm trong hồ sơ của ông Bogan.”

“ Ông có ra vào phòng làm việc của ông Bogan không ?”

“Hãn hữu,” Patrick đáp, và giải thích về thói giữ bí mật của ông ta. Rồi tới chuyện ra vào các phòng làm việc khác, rồi câu chuyện đầy hấp dẫn về những phiêu lưu của Patrick vào trong thế giới của những hoạt động gián điệp hiện đại. Bởi lẽ hắn rất nghi ngờ Aricia, hắn đã bắt đầu việc thu thập thông tin càng nhiều càng tốt. Hắn đã tự học về hoạt động gián điệp điện tử. Hắn đã giám sát các máy tính cá nhân trong Hãng. Hắn lắng nghe những lời bàn tán xầm xì. Hắn căn vặn các cô thư ký và các trợ lý. Hắn sục sạo cả cái sọt rác trong phòng đặt máy photocopy. Hắn làm việc trong cả những giờ nghỉ với hy vọng bắt gặp những cánh cửa phòng để ngỏ.

Sau hai giờ, Patrick xin một chai nước ngọt. Mast tuyên bố nghỉ giải lao mười lăm phút. Thời gian đã trôi quá nhanh bởi lẽ tất cả những người nghe đều bị cuốn hút.

Khi nhân chứng từ phòng vệ sinh trở ra, họ nhanh chóng ngồi vào trở lại, nôn nóng muốn được nghe tiếp Mast hỏi một số câu về sự tố giác chống lại Platt & Rockland, và Patrick đã mô tả lại một cách khái quát. “Ông Aricia đã rất khéo léo. Ông ta đã làm trò tính tiền hai lần, thế nhưng vẫn đẩy trách nhiệm sang được cho những người ở trên văn phòng Hãng. Ông ta chính là cái động lực ngầm đằng sau những chi phí quá mức.”

Mast đặt một xấp tài liệu bên cạnh Patrick. Hắn nhấc một trong số đó lên và chỉ liếc mắt đã biết rõ mọi nội dung trong đó. “Đây là một ví dụ về việc trả tiền cho những lao động ma ở Xưởng đóng tàu New Coastal. Nó là một báo cáo được làm trên máy tính về lao động trong một tuần của tháng sáu năm 1988. Nó liệt kê danh sách bốn mươi tám nhân viên, tất cả đều là những cái tên ma, và chi trả lương tuần cho số này. Tổng cộng là bảy mươi mốt nghìn đôla.”

“Những cái tên đó được lựa chọn như thế nào ?" Mast hỏi.

“Vào thời điểm đó, có tám nghìn lao động ở New Coastal. Họ chọn những cái tên họ thật, loại phổ thông - Jones, Johnson, Miller, Green, Young - và đổi tên đầu.”

“Bao nhiêu tiền công lao động đã được báo cáo giả mạo ?"

“Theo hồ sơ của Aricia, con số đó là mười chín triệu trong thời gian bốn năm.”

“ Ông Aricia có biết việc giả mạo này không ?”

“Có, chính ông ta thực hiện trò này.”

“Và làm sao mà ông biết được vậy ?"

“Những cuộn băng kia đâu ?”

Mast đưa cho hắn một tờ giấy trên đó có danh mục những cuộn băng ghi lại hơn sáu mươi cuộc nói chuyện. Patrick xem chừng một phút. “Tôi nghĩ rằng đó là cuộn băng số mười bảy,” hắn nói. Một phụ tá của Mast lấy ra cuộn băng đó, nhét nó vào máy ghi âm để giữa bàn.

Patrick nói, “Đây là Doug Vitrano đang nói chuyện với Jimmy Havarac, hai trong số các cổ đông ở Hãng luật, trong phòng làm việc của Vitrano, vào ngày 3 tháng Năm năm 1991.”

Cái máy ghi âm được bật lên, và họ chờ nghe những tiếng nói.

Tiếng nói đầu tiên: Làm sao mà người ta có thể tống thêm vào đó tới mười chín triệu đôla tiền lương ma hả ?

“Đó là Jimmy Havarac,” Patrick nói.

Tiếng nói thứ hai: Điều đó không khó.

“Và đó là Doug Vitrano,” Patrick nói.

Vitrano: Tiền lao động đang phải chi trả ở mức năm mươi triệu đôla một năm. Trong bốn năm, con số đó là hơn hai trăm triệu. Vậy thì họ cũng chỉ cộng thêm vào đó có mười phần trăm. Con số đó sẽ lẫn vào trong hàng đống giấy tờ thôi mà.

Havarac: Và Aricia biết điều đó chứ ?

Vitrano: Biết ư ? Mẹ kiếp, chính ông ta làm trò đó mà.

Havarac: Nói tiếp xem nào, Doug.

Vitrano: Tất cả đều là trò ma. Jimmy. Sự tố giác này của lão ta, xét từ mọi khía cạnh, đều là trò ma hết. Tiền lao động, những hóa đơn được khai khống lén, những trò tính tiền gấp đôi, gấp ba đối với các thiết bị đắt giá. Tất cả. Aricia đã tính toán chuyện này ngay từ đầu, và chẳng qua là tình cờ lão ta lại làm việc cho một cái Hãng đã có tiền sử lâu dài trong việc đánh cắp của chính phủ. Lão ta biết Hãng đó hoạt động như thế nào. Lão ta biết Lầu Năm Góc hoạt động như thế nào. Và lão ta đủ xảo quyệt để bày đặt âm mưu này.

Havarac: Ai nói với ông chuyện này ?

Vilrano: Bogan. Aricia nói với Bogan tất tần tật. Bogan lại nói lại với ông Thượng nghị sĩ tất tần tật. Chúng ta cứ ngậm miệng làm theo, và tất cả chúng ta sẽ trở thành triệu phú.

Những tiếng nói im hẳn và cuộn băng, được Patrick biên tập lại đâu vào đấy từ mấy năm trước, kết thúc.

Các vị bồi thẩm chỉ còn biết nhìn chòng chọc vào chiếc máy. “Chúng tôi có thể nghe thêm nữa không ?” Một trong số họ hỏi.

Mast nhún vai và nhìn vào Patrick. Hắn nói, “Tôi nghĩ đó là một ý kiến rất tuyệt.”

Với những bình luận của Patrick và thỉnh thoảng lại còn những phân tích rất phong phú, họ mất gần ba giờ để nghe lại những cuộn băng. Cuộn băng ghi lại cuộc nói chuyện trong phòng để đồ được để dành lại cuối cùng, và được nghe đi nghe lại tới bốn lần trước khi các vị bồi thẩm chịu dừng lại. Vào lúc sáu giờ, họ gọi một tiệm ăn gần đó mang bữa chiều tới.

Vào lúc bảy giờ thì Patrick được phép ra về.

Trong lúc ăn uống, Mast đã bàn thêm tới một vài cuộn băng đáng chú ý nhất, ông ta nói về sự dính dáng tới nhiều đạo luật Liên bang. Và rằng với những tiếng nói của những kẻ bất lương kia bị ghi lại thật sống dộng trên băng, vụ đồng lõa lừa đảo này đã bị vạch trần.

Vào lúc tám giờ rưỡi, đoàn đại bồi thẩm bỏ phiếu nhất trí truy tố Benny Aricia, Charles Bogan, Doug Vitrano, Jimmy Havarac, và Ethan Rapley về tội lợi dụng luật pháp để mưu toan lừa đảo. Nếu bị kết tội, mỗi người có thể phải chịu án mười năm tù, và bị phạt tiền tới năm trăm nghìn đôla.

Thượng nghị sĩ Harris Nye được đề cập đến như một kẻ đồng lõa không bị truy tố, một sự mệnh danh tạm thời hoàn toàn có khả năng sẽ được thay đổi theo hướng nghiêm khắc hơn. Sprawling, Jaynes, và Maurice Mast đề ra chiến lược trước tiên sẽ truy tố những con cá nhỏ, rồi sẽ gây sức ép để dàn xếp các thỏa thuận nhằm chộp con cá lớn. Họ quyết săn đuổi Vitrano, Rapley và Havarac bởi vì họ căm ghét Charles Bogan.

Cuộc họp của đoàn đại bồi thẩm ngừng lại vào lúc chín giờ tối. Mast làm việc với cảnh sát Liên bang và dự kiến các vụ bắt giữ vào sáng sớm ngày hôm sau. Jaynes và Sprawling bay một chuyến muộn từ New Orleans trở về D.C..
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 37


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

"Tôi đã có lần xử lý một vụ tai nạn xe, ngay sau khi tôi vào làm cho Hãng. Vụ tai nạn xảy ra ở đường 40, trên quận Stone, gần Wiggins. Các thân chủ của chúng tôi đang đi về hướng bắc khi một chiếc xe tải từ đường nhánh chạy ra, ngay phía trước mặt họ. Một vụ khủng khiếp. Có ba người trong chiếc xe của phía chúng tôi, người lái xe bị chết, vợ anh ta bị thương nặng, một đứa trẻ ngồi ở ghế sau gẫy một chân. Chiếc xe tải kia là của một công ty giấy, được bảo hiểm khá nhiều tiền, và bởi vậy vụ đó có khả năng được đền bù lớn. Họ giao cho tôi, và tôi rất hăng hái vào cuộc bởi mình là người mới. Chiếc xe tải kia có lỗi là điều không có gì phải nghi ngờ, nhưng người lái nó, không hề bị thương, cho rằng chiếc xe của thân chủ chúng tôi chạy quá tốc độ. Điều đó trở thành vấn đề lớn - chiếc xe của thân chủ chúng tôi đã chạy với tốc độ bao nhiêu ? Tay chuyên gia dựng lại hiện trường của tôi ước tính khoảng sáu mươi dặm một giờ, không đến nỗi quá đáng lắm. Tốc độ cho đường cao tốc là năm mươi lăm; và mọi người đều chạy ít nhất là sáu mươi. Các thân chủ của tôi đang trên đường đến Jackson để thăm gia đình, và không có gì phải vội vàng.

“Tay chuyên gia dựng lại hiện trường do Hãng bảo hiểm của chiếc xe tải kia thuê thì lại ước tính là bảy mươi lăm, và tất nhiên, điều này sẽ gây khó khăn lớn cho vụ kiện của chúng tôi. Bất kỳ một hội thẩm đoàn nào cũng sẽ cau mày với việc vượt quá tốc độ cho phép tới hai mươi dặm. Chúng tôi tìm được một nhân chứng, một ông già trong số hai hay ba người gì đó có mặt tại hiện trường lúc đó. Tên ông ta là Clovis Goodman, tám mươi mốt tuổi, mù một mắt và chỉ nhìn được bằng mắt kia.”

"Thế cơ à ?” Sandy hỏi.

“Phải, nhưng thị lực của ông ta chỉ giảm ở một mức nào đó. Ông ta vẫn lái được xe, và vào hôm đó, khi đang chạy trên xa lộ với chiếc xe thùng Chevolet đời 1968 thì chiếc xe của thân chủ chúng tôi vượt qua. Thế rồi, mới chỉ qua mỏm đồi tiếp theo đó thì ông thấy vụ tai nạn. Clovis là một ông già rất đôn hậu, sống có một mình, không có người thân, bị lãng quên, và rất xúc động trước vụ tai nạn khủng khiếp này. Ông ta đã cố gắng giúp đỡ cho các nạn nhân, và quanh quẩn ở đó một lúc rồi mới đi. Ông ta không hề nói chuyện gì với bất kỳ ai. Ông ta quá buồn. Sau này, ông ta nói với tôi là đã mất ngủ một tuần.

“Đại khái là chúng tôi được tin là một trong những nhân chứng đến sau đó đã quay video lại hiện trường vụ tai nạn trong khi xe cứu thương, xe cảnh sát và xe cứu hỏa còn đang ở đó. Giao thông bị chặn lại, người ta chán nản và có trời mà biết, họ đã quay video những thứ gì. Vậy là chúng tôi đã mượn cuộn băng. Một trợ lý đã xem kỹ và ghi lại tất cả các biển số xe. Rồi anh ta tìm các chủ xe, cố kiếm các nhân chứng. Vì thế mà chúng tôi đã tìm được Clovis. Ông ta nói rằng thực sự là đã nhìn thấy vụ tai nạn, nhưng quá buồn nên không muốn nói gì với ai. Tôi xin được đến thăm, và ông ta đồng ý.

“Clovis sống trong vùng nông thôn, bên ngoài Wiggins, trong một ngôi nhà gỗ mà ông ta và vợ đã làm từ thời trước chiến tranh. Bà vợ đã chết từ nhiều năm. Người con duy nhất, lại hư hỏng, của ông ta cũng vậy. Ông ta có hai cháu nội: một sống ở Califorrnia và một sống ở gần Hattiesburg, và đã không gặp mặt trong nhiều năm. Tôi được nghe tất cả những điều đó trong vòng một tiếng đồng hồ đầu tiên. Clovis là một ông già cô độc, thoạt đầu thì cộc cằn bởi lẽ dường như không tin vào các luật sư và không muốn mất thời gian, nhưng chẳng bao lâu sau lại đã đi đun nước sôi để pha cà phê và ngồi kể lể những chuyện kín trong gia đình. Chúng tôi ngồi ngoài hiên, trên những cái ghế đu với hơn một chục con mèo quây dưới chân, và nói về mọi chuyện, chỉ trừ cái vụ tai nạn kia. Cũng may hôm ấy là thứ bẩy nên tôi có thời gian rảnh và không phải lo về chuyện ở Hãng. Ông ta là người có tài kể chuyện. Cuộc “Suy thoái kinh tế" là một đề tài ưa thích, cùng với cuộc chiến tranh. Sau một vài tiếng đồng hồ, cuối cùng thì tôi cũng nhắc tới vụ tai nạn kia, và ông ta trở nên trầm lặng, trông đầy đau đớn và khẽ khàng nói với tôi rằng mình chưa thể nào nói tới chuyện đó. Ông ta bảo có biết vài điều quan trọng, nhưng chưa phải lúc nói ra được.

Tôi hỏi ông ta đang chạy với tốc độ bao nhiêu khi chiếc xe của thân chủ chúng tôi vượt qua. Ông ta nói là chưa bao giờ chạy quá năm mươi. Song khi tôi liệu ông ta có thể áng chừng được tốc độ chiếc xe của thân chủ chúng tôi không thì ông ta chỉ lắc đầu.

“Hai ngày sau, tôi ghé lại vào lúc chiều muộn, và chúng tôi lại ngồi ngoài hiên trò chuyện về đề tài chiến tranh. Vào lúc sáu giờ, Clovis kêu đói bụng, nói rằng thích món cá trê, và hỏi tôi có muốn cùng đi ăn tối không. Lúc đó tôi chưa lấy vợ, và bởi vậy sẵn sàng ngay. Tất nhiên là tôi lái xe còn ông ta thì nói chuyện. Chúng tôi được ăn món cá trê béo ngậy với giá sáu đôla một suất no nê. Clovis ăn rất chậm, cằm chỉ cách đĩa thức ăn có dăm bảy phân. Cô bồi bàn để hóa đơn thanh toán lên bàn và Clovis không hề để mắt tới. Nó nằm đấy có tới mười phút. Ông ta vẫn vừa ăn vừa nói nhồm nhoàm. Tôi tính rằng chi tiền cho bữa ăn tối đó cũng đáng nếu như Clovis nói lại những gì ông ta biết. Sau cùng, chúng tôi rời khỏi đó và trên đường trở về ngôi nhà của mình, ông ta nói là muốn uống một lon bia, chỉ một thôi là đủ, và đó là lúc mà chúng tôi đang tới gần một cửa hàng. Tôi dừng xe. Ông ta không nhúc nhích, và bởi vậy lại tôi là người mua bia. Chúng tôi vừa đi trên đường vừa uống, và ông ta nói muốn giới thiệu với tôi nơi ông ta đã lớn lên. Không xa lắm, ông ta nói vậy. Hết con đường này tới con đường kia, và sau hai mươi phút thì tôi không còn biết là mình đang ở đâu nữa. Clovis không nhìn được rõ lắm. Ông ta muốn một lon bia nữa. Tôi hỏi người bán hàng phương hướng rồi Clovis và tôi lại lên đường. Ông ta chỉ lối này lối kia, và sau cùng chúng tôi tới thị trấn Necaise Crossing ở quận Hancock. Vừa đến đó, ông ta lập tức bảo là có thể quay về được rồi. Ông ta đã quên chuyện về ngôi nhà tuổi thơ của mình. Lại bia nữa. Lại phải hỏi đường từ những người bán hàng.

“Khi về gần tới ngôi nhà của ông ta, tôi nhận ra chúng tôi đang ở đâu, và tôi bắt đầu hỏi về vụ tai nạn. Ông ta nói vẫn còn quá đau thương để có thể nhắc lại. Tôi đưa ông ta vào nhà và ông ta nằm vật xuống chiếc xôpha, ngáy khò khò. Lúc đó đã gần nửa đêm. Chuyện cứ như vậy gần một tháng trời. Ngồi ngoài hiên. Đi ăn món cá trê vào các ngày thứ ba. Đi uống bia. Khoản tiền bảo hiểm có giới hạn là hai triệu đôla. Trường hợp của thân chủ chúng tôi đáng được hưởng tất cả, và lời chứng của Clovis ngày càng trở nên quan trọng mặc dù ông ta không hề biết điều đó. Clovis bảo đảm với tôi rằng chưa hề có ai khác liên hệ với ông ta về vụ tai nạn, bởi thế điều cốt lõi là tôi phải tóm được những lời xác nhận của ông ta trước khi người của Hãng bảo hiểm mò tới.”

“Đã bao nhiêu thời gian trôi qua kể từ khi vụ tai nạn xảy ra ?” Sandy hỏi.

“Bốn hay năm tháng gì đó. Sau cùng, một hôm tôi đã bức bách Clovis. Tôi bảo ông ta rằng chúng tôi đã đi tới một thời điểm quan trọng trong vụ kiện đó, và đã đến lúc ông ta phải trả lời một vài câu hỏi. Ông ta nói là sẵn sàng. Tôi hỏi chiếc xe của thân chủ chúng tôi chạy với tốc độ bao nhiêu khi vượt qua ông ta. Ông ta nói chắc chắn là phải nhanh lắm, với những người bị thương đến mức độ như vậy, gẫy xương và chảy máu, đặc biệt là thằng bé ngồi đằng sau. Ông già tội nghiệp đó ngân ngấn nước mắt. Vài phút sau đó, tôi lại hỏi, Clovis, ông có thể ước chừng chiếc xe của thân chủ chúng tôi chạy với tốc độ bao nhiêu khi vượt qua ông không ? Ông ta nói tất nhiên là rất muốn giúp cho gia đình đó. Tôi nói chắc chắn là họ sẽ đánh giá cao điều này. Và rồi, ông ta nhìn thẳng vào mắt tôi, và hỏi, Anh muốn nó chạy với tốc độ bao nhiêu ?

“Tôi nói rằng theo ý kiến tôi thì nó chạy vào chừng khoảng năm mươi lăm dặm một giờ. Clovis nói, Vậy thì đúng là thế. Năm mươi lăm dặm một giờ. Tôi đang chạy năm mươi, và họ chỉ nhanh hơn tôi một chút thôi.

“Chúng tôi ra tòa, và Clovis Goodman là nhân chứng tuyệt vời nhất mà tôi từng thấy. Ông ta già, nhún nhường, nhưng khôn ngoan và tuyệt đối đáng tin cậy. Đoàn hội thẩm đã phớt lờ tất cả những thêu dệt của đám tái dựng hiện trường và chỉ dựa vào Clovis để đưa ra phán quyết của họ. Họ đã cho thân chủ chúng tôi hưởng hai triệu ba trăm nghìn đôla.

“Chúng tôi đã giữ liên hệ. Tôi làm di chúc cho Clovis. Ông ta chẳng có gì nhiều; chỉ độc ngôi nhà và sáu mẫu đất, bảy nghìn đôla trong nhà băng. Khi chết, ông ta muốn bán tất cả đi và trao tiền cho hội Những người con gái của Liên bang miền Nam. Không một thân nhân nào được nhắc tới trong di chúc. Cậu cháu trai ở California đã biệt tăm biệt tích từ hai mươi năm qua. Cô cháu gái ở Hattiesburg thì không liên lạc gì kể từ lần ông ta nhận được lời mời dự lễ tốt nghiệp trung học phổ thông vào năm 1968. Ông ta đã không dự và cũng không gửi quà. Hiếm khi ông ta nhắc đến họ, nhưng tôi biết Clovis thèm được có chút liên hệ với gia đình lắm.

“ Ông ta trở nên ốm đau và không thể nào sống một mình được nữa, bởi vậy tôi đã đưa ông ta đến một nhà dưỡng lão ở Wiggins. Tôi bán ngôi nhà và trang trại của ông ta đi, và lo hộ mọi chuyện về tài chính. Lúc bấy giờ, tôi là người bạn duy nhất của ông ta. Tôi đã gửi thiệp, gửi quà, và mỗi khi đi Hattiesburg hay Jackson tôi đều ghé thăm ông ta với thời gian lâu nhất có thể được. Chí ít cũng mỗi tháng một lần, tôi đến kiếm và đưa ông ta đi ăn món cá trê. Rồi lại đi lòng vòng trên đường. Sau một hay hai lon bia gì đó thì ông ta lại bắt đầu kể chuyện. Có một hôm, tôi đưa ông ta đi câu cá, chĩ có tôi và Clovis trên một cái thuyền trong tám tiếng đồng hồ, và chưa bao giờ trong đời tôi lại được một bữa cười vỡ bụng đến thế.

“ Ông ta bị viêm phổi vào tháng Mười một năm 91, suýt chết. Trận ốm đó làm ông ta sợ. Chúng tôi sửa lại bản di chúc. Ông ta muốn để lại một chút tiền cho nhà thờ xứ của mình, phần còn lại mới là cho những người còn sống sót của Liên bang miền Nam. Ông ta đã chọn đất đặt mộ, dàn xếp chuyện lễ tang. Tôi còn nêu vấn đề di chúc sống, để ông ta khỏi phải sống nhờ vào những cái máy. Ông ấy rất thích và khăng khăng đòi tôi phải được lập làm người sẽ ngắt công tắc, tất nhiên là có sự tham khảo với các bác sĩ. Clovis chán nhà dưỡng lão, chán sự cô độc, chán sống. Ông ta nói là trái tim ông ta đã về với Chúa, và rằng ông ta sắp ra đi rồi.

“Căn bệnh viêm phổi đã tái phát dữ dội vào đầu tháng Giêng năm 92. Tôi đã cho đưa ông ta tới bệnh viện Biloxi để có thể trông chừng được. Ngày nào tôi cũng ghé, và tôi là người duy nhất đến thăm Clovis. Không còn bạn bè nào khác. Không người thân thích. Không mục sư. Không ai cả ngoài tôi. Tình trạng của ông ta từ từ xấu đi, và thấy rõ là ông ta sẽ không bao giờ ra viện được. Ông ta rơi vào tinh trạng hôn mê, không hề tỉnh lại. Họ đưa ông ta lên máy cứu sinh, và sau chừng một tuần thì các bác sĩ nói là não của ông ta đã chết. Chúng tôi, tôi và các bác sĩ, cùng đọc bản di chúc sống của ông ta, rồi ngắt máy.”

“Vào ngày nào ?” Sandy hỏi.

“Ngày 6 tháng Hai năm 1992.”

Sandy thở dài, mắt nhắm chặt lại, và chậm rãi lắc đầu.

“Ông ta không muốn được làm lễ ở nhà thờ bởi biết sẽ chẳng có ai đến. Chúng tôi chôn cất ông ta trong một nghĩa địa bên ngoài Wiggins. Tôi có mặt ở đó, làm một người hộ tang. Thêm ba bà góa già trong giáo xứ cũng có mặt, than khóc, nhưng người ta có ấn tượng rằng họ đã khóc như vậy với bất cứ đám chôn cất nào ở Wiggins trong cả năm chục năm qua. Ông mục sư có mặt, cùng với năm người trợ tế già nua để hộ tang. Ngoài ra còn có hai người khác, tổng cộng là mười hai người. Sau một buổi lễ chóng vánh, Clovis được an táng.”

“Hẳn là cái quan tài rất nhẹ phải không?’ Sandy hỏi.

“Đúng vậy.”

“Clovis đâu ?”

“Linh hồn ông ta đã đang hân hoan bên các vị thánh rồi.”

“Thi hài của ông ta ở đâu ?

“Ngoài hiên ngôi nhà đi săn của tôi, trong một cái thùng lạnh.”

“Anh là một kẻ bệnh hoạn.”

"Tôi đã không hề giết ai, Sandy. Ông già Clovis ấy đã đang ca hát với các thiên thần khi thi hài của ông ta được hỏa thiêu. Tôi nghĩ rằng ông ta cũng chẳng bận lòng.”

“Anh luôn có lý do cho mọi chuyện, phải không. Patrick ?”

Patrick để chân thõng ra ngoài giường. Hắn không trả lời.

Sandy đi đi lại lại một chút, rồi đứng dựa người vào tường. Anh nhẹ nhõm bao nhiêu khi biết người bạn của mình đã không hề giết ai thì dường như lại ghê tởm bấy nhiêu khi nghĩ tới cái việc đốt một cái xác người kia.

“Hãy cho tôi nghe nốt đi nào,” Sandy nói. “Tôi chắc là anh đã sắp xếp trước mọi thứ.”

“Phải, tôi đã có thời giờ để nghĩ tới chuyện đó.”

“Tôi nghe đây.”

“Mississippi có một điều luật hình sự về tội đào mộ, nhưng không áp dụng đối với tôi được. Tôi không đánh cắp thi hài Clovis từ mộ. Tôi chỉ lấy ông ta ra từ quan tài. Có một điều luật khác liên quan tới việc làm tổn thương tới một thi hài, đó là điều luật duy nhất mà Parrish có thể dùng đối với tôi. Đó là một tội có khung hình phạt cao nhất là một năm tù. Tôi cho rằng đó là tất cả những gì mà họ có thể làm được, bởi vậy Parrish sẽ rất cố gắng để có được cái án một năm đó.”

“ Ông ta không thể nào cho anh phủi tay được.”

“Đúng là ông ta không thể. Thế nhưng, vấn đề là ở chỗ này. Ông ta sẽ không biết gì về Clovis trừ phi tôi nói cho ông ta biết, nhưng tôi sẽ phải nói với ông ta trước khi ông ta chịu từ bỏ những cáo buộc về tội giết người. Lúc này, nói với ông ta về Clovis là một chuyện, còn cung khai trước tòa thì lại là chuyện khác. Ông ta không thể buộc tôi phải cung khai trước tòa nếu như ông ta truy tố tôi về tội làm tổn thương thi hài. Ông ta sẽ chịu sức ép buộc phải truy tố tôi về một tội gì đó, bởi lẽ, như anh nói, ông ta không thể nào chịu để cho tôi phủi tay một cách dễ dàng, ông ta có thể truy tố tôi, nhưng không thể kết tội tôi được bởi lẽ tôi là nhân chứng duy nhất và không có cách nào có thể chứng minh được rằng cái thi hài bị hỏa thiêu đó là của Clovis.”

“Parrish là một người rất xảo quyệt đấy.”

“Đúng thế. Không còn các cáo buộc của Liên bang nữa, và khi chúng ta ném quả bom này thì Parrish sẽ điên cuồng muốn buộc được tôi vào một tội gì đó. Nếu không thì tôi sẽ được tự do.”

“Vậy kế hoạch là thế nào ?”

“Đơn giản thôi. Chúng ta sẽ giải tỏa sức ép cho Parrish và để ông ta giữ được một chút thể diện. Anh đi gặp các cháu của Clovis, nói với họ sự thật, hứa cho họ một số tiền. Chắc chắn là họ sẽ có quyền kiện tôi một khi sự thật được biết rõ, và anh có thể giả thiết rằng họ sẽ làm điều đó. Vụ kiện của họ không đáng bao nhiêu bởi vì họ đã bỏ rơi ông già kia trong phần lớn cuộc đời họ, nhưng cầm chắc là dù sao thì họ cũng vẫn sẽ kiện. Chúng ta can thiệp giữa chừng. Chúng ta lặng lẽ giải quyết với họ, và đổi lại việc nhận được tiền họ sẽ phải đồng ý đòi Parrish thôi không truy tố gì nữa.”

“Anh quỷ quyệt quá lắm.”

“Cảm ơn. Như vậy thì phải được chứ ?”

“Parrish có thể truy tố anh bất chấp mong muốn của gia đình kia.”

“Nhưng ông ta sẽ không làm thế bởi vì ông ta không thể nào kết tội được tôi. Kịch bản xấu nhất cho Parrish sẽ là việc mang tôi ra xử, và thất bại. Với ông ta sẽ là an toàn hơn nhiều nếu đi lối cửa sau lúc này, lấy gia đình kia làm cớ, và tránh phải mất mặt bởi thua cuộc trong một vụ án được dư luận để ý.”

“Có phải đây là điều anh đã nghiền ngẫm trong suốt bốn năm qua không đấy ?”

“Có thế thật.”

Sandy bắt đầu đi lại dọc nơi chân giường, trầm ngâm, đầu óc cố bám theo dòng suy nghĩ của Patrick. “Chúng ta phải trao cho Parrish thứ gì đó,” anh gần như lẩm bẩm với chính mình, chân vẫn bước.

“Tôi thì quan tâm tới bản thân mình nhiều hơn là tới Parrish,” Patrick nói.

“Không chỉ là Parrish. Đó là vấn đề về hệ thống, Patrick. Nếu như anh phủi tay dễ dàng, vậy cũng có nghĩa là đồng tiền đã giúp anh tránh được cảnh tù tội. Điều đó tạo ra hình ảnh xấu cho tất cả mọi người, trừ anh ra mà thôi.”

“Có lẽ là tôi mới chỉ quan tâm đến chính mình."

“Tôi cũng vậy. Nhưng anh không thể xúc phạm cả một hệ thống và rồi nghĩ tới chuyện quay lưng đi như không có chuyện gì xảy ra.”

“Không có ai buộc Parrish phải vội vã lo một bản cáo trạng về tội cố sát. Ông ta đã có thể chờ đợi một hoặc hai tuần lễ. Không ai buộc ông ta phải loan báo bản cáo trạng đó với báo chí. Tôi không thể thông cảm với ông ta.”

“Tôi cũng không. Nhưng chuyện này khó đấy, Patrick.”

“Vậy thì tôi sẽ làm cho nó trở nên dễ dàng hơn một chút vậy. Tôi sẽ nhận tội gây tổn thương thi hài, nhưng không chấp nhận vào tù. Một ngày cũng không. Tôi sẽ ra trước tòa, nhận tội, nộp phạt, để Parrish được tiếng nhưng tôi sẽ được ra khỏi đây.”

“Anh sẽ là một người có tiền án.”

“Không, tôi sẽ là người tự do. Ma nào ở Braxin quan tâm tới chuyện tôi có từng bị xích tay hay không hả ?”

Sandy thôi đi lại và ngồi xuống giường cạnh hắn. “Vậy là anh sẽ trở lại Braxin ư ?”

“Nơi đó sẽ là nhà tôi, Sandy ạ.”

“Và cô gái kia ?”

“Chúng tôi sẽ có mười hoặc mười một đứa con. Chúng tôi còn chưa quyết định chắc chắn về con số đó.”

“Anh sẽ còn có bao nhiêu tiền ?”

“Hàng triệu. Anh phải đưa tôi ra khỏi đây, Sandy. Tôi còn phải sống một cuộc đời khác.”

Một cô y tá ngó vào, bật công tắc đèn và nói, “Mười một giờ rồi. Patty (1). Hết giờ thăm.” Cô ta đặt tay lên vai hắn. “Anh không sao chứ, anh yêu ?”

“Tôi không sao.”

“Anh có cần gì không ?”

“Không. Cảm ơn.”

Cũng như khi đi vào, cô ta đi ra rất nhanh. Sandy cầm cái cặp lên. “Patty cơ à ?” Anh nói.

Patrick nhún vai.

“Lại còn anh yêu nữa ?”

Thêm môt cái nhún vai.

Đầu óc Sandy đã nghĩ tới một điều khác trong khi bước ra cửa. “Một câu hỏi nhanh. Khi anh lái xe lao ra khỏi mặt đường, lúc đó thì Clovis ở đâu hả ?”

“Vẫn ở đó thôi. Được buộc trên ghế sau. Tôi còn để một lon bia vào giữa hai đầu gối ông ta và chúc ông ta thượng lộ bình an. Trên mặt ông ta lúc đó như có một nụ cười.”

____________

(1) Patty = Cách gọi Patrick âu yếm.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 38


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Vào lúc mười giờ sáng ở Luân Đôn, những chỉ dẫn về việc trả lại chỗ tiền đánh cắp vẫn chưa được gửi tới. Eva ra khỏi khách sạn và đi dạo dọc theo phố Piccadilly. Không định đi đâu và cũng không có một lịch trình cụ thể nào, nàng cứ thả bộ theo đám đông, ngó nghiêng các cửa sổ bày hàng, thưởng thức cái bầu không khí trên hè phố. Ba ngày bị giam riêng đã làm cho nàng thấy thích thú hơn những hình ảnh nàng thấy và những tiếng nói vang lên xung quanh. Bữa trưa là một món xalát trộn phomát sữa dê trong góc của một tiệm ăn cổ kính đông nghịt thực khách. Nàng sung sướng với ánh đèn, với những tiếng nói vui vẻ của những người không hề biết nàng là ai. Và họ cũng chẳng cần biết điều đó.

Patrick kể với nàng rằng cái năm đầu tiên của hắn ở São Paulo thật là thích bởi lẽ không hề có một người nào biết đến hắn. Và kỳ thực là ngồi trong tiệm ăn, nàng cảm thấy mình là Leah Pires nhiều hơn là Eva Miranda.

Nàng đi mua sắm ở phố Bond, trước tiên là những thứ cần thiết - đồ lót và nước hoa - nhưng rồi ngay sau đó là những thứ đồ mang hiệu Armani, Versace và Chanel, mà không cần biết lắm tới giá cả. Hiện thời, nàng đang là một phụ nữ rất giàu.

oOo

Sẽ đơn giản hơn nhiều, và chắc chắn cũng bớt gây ầm ĩ, nếu như đợi đến chín giờ để bắt họ tại nơi làm việc. Thế nhưng, vào giờ đó thì công việc của họ cũng còn nhiều chuyện thất thường, và một trong số họ là Rapley thì hiếm khi ra khỏi nhà. Một cuộc bắt giữ vào trước lúc rạng sáng đã được lựa chọn. Nếu như điều đó có làm cho họ hoảng sợ hay làm mất mặt họ trước gia đình thì cũng đâu có sao. Và nếu hàng xóm của họ có bị khuấy động bởi sự huyên náo đó thì cũng vậy. Tóm cổ họ trong lúc họ còn đang ngủ hoặc đang trong phòng tắm, cách đó sẽ là hay nhất.

Charles Bogan ra mở cửa trong bộ đồ ngủ, và khẽ kêu lên khi một quan chức cảnh sát mà ông ta biết mặt chìa ra chiếc còng tay. Bogan đã không còn gia đình, bởi vậy ít ra thì ông ta cũng không phải xấu hổ với ai.

Vợ của Doug Vitrano ra mở cửa và ngay lập tức có thái độ chống đối. Bà ta đóng sầm cửa vào mặt hai nhân viên FBI trẻ tuổi, và hai người nàv đã phải nhẫn nại chờ đợi trong khi bà ta chạy lên gác để lôi chồng ra khỏi phòng tắm. May mắn làm sao, bọn trẻ vẫn còn đang ngủ khi họ tống Doug vào xe, còng tay như một tên tội phạm bình thường, và để mặc bà vợ đứng trên bậc thềm trong chiếc váy ngủ, vừa khóc lóc vừa nguyền rủa họ.

Như thường lệ, Jimmy Havarac ngủ thiếp đi trong khi say bí tỉ và tiếng chuông cửa đã tỏ ra là không ăn thua gì. Họ dùng điện thoại di động gọi cho ông ta, và sau cùng thì ông ta cũng bị đánh thức và bị bắt giữ.

Ethan Rapley thì ở trên căn phòng áp mái lúc mặt trời mọc, đang làm việc tóm tắt hồ sơ nào đó, không hề để ý tới ngày giờ gì hết. Ông ta không nghe thấy tiếng động nào từ dưới nhà. Vợ ông ta đã thức giấc bởi tiếng gõ cửa, và đã trèo lên gặp ông ta để báo tin dữ. Dẫu vậy, trước tiên bà ta cũng giấu đi khẩu súng của Rapley. Ông ta giữ nó trong ngăn kéo tủ áo của mình; đã hai lần tìm nó trong khi tìm đôi bít tất, nhưng không hỏi gì vì biết rằng bà vợ sẽ không cho ông ta biết nó đang ở đâu.

Vị luật sư sáng lập ra Hãng Bogan đã được bổ nhiệm vào Tòa án Liên bang từ mười ba năm trước. Ông ta được Thượng nghị sĩ Nye đề cử, và khi ông ta rời Hãng thì Charles Bogan tiếp quản. Hãng Bogan có những mối liên hệ chặt chẽ với cả năm vị thẩm phán Liên bang đương nhiệm, và không có gì ngạc nhiên khi điện thoại đã réo khắp nơi ngay từ trước khi bốn cổ đông của Hãng được gặp lại nhau trong trại giam. Vào lúc tám giờ ba mươi, họ được đưa đi trên những chiếc xe riêng biệt tới Tòa án Liên bang ở Biloxi để có một cuộc điều trần vừa được dàn xếp vội vã trước hội đồng xét xử khu vực của Liên bang.

Cutter bực tức trước sự nhanh chóng và dễ dàng trong việc gây ảnh hưởng của Bogan. Tuy không dám tính tới việc bốn người này phải bị giam trong khi chờ đợi những phiên tòa của họ, ông ta cũng không thể nào chấp nhận nổi một cuộc điều trần đột ngột đến như vậy trước một hội đồng xét xử vừa mới ra khỏi giường. Và bởi vậy, Cutter đã tung tin cho báo chí địa phương, và rồi cho cả đài truyền hình sở tại.

Các thứ giấy tờ được thảo và ký rất chóng vánh, rồi bốn người kia rời khỏi tòa án, đàng hoàng, và thong dong đi trên hè phố để tới văn phòng của họ. Bám theo họ là một anh chàng to lớn nhưng vụng về, đang lúng túng với một cái máy quay video nhỏ và một tay phóng viên mới vào nghề chỉ được nghe nói là có chuyện to nhưng lại không biết là chuyện gì. Không có bình luận gì từ những bộ mặt lạnh tanh kia. Họ về tới trụ sở Hãng, và khóa trái cửa lại.

Charles Bogan bước thẳng tới chỗ đặt điện thoại để gọi cho ông Thượng nghị sĩ.

oOo

Tay thám tử tư, do Patrick giới thiệu, tìm thấy người phụ nữ đó trong vòng chưa đầy hai tiếng đồng hồ, mà không phải dùng tới bất kỳ phương tiện nào khác ngoài điện thoại. Chị ta sống ở Meridian, cách Biloxi hai giờ chạy xe về phía đông bắc. Tên chị ta là Deena Postell, chạy bàn và kiêm luôn chân thu ngân thứ hai của một tiệm ăn nhanh mới mở ở ngoại ô thị trấn.

Sandy tìm tới nơi và đi vào. Anh ta làm bộ ngắm nghía một khay lườn gà rán còn đang bốc hơi và những bịch khoai tây chiên giòn, trong khi để mắt tới những người làm công đang bận rộn phía sau quầy hàng. Một người phụ nữ mập mạp có mái tóc muối tiêu và tiếng nói rất to đã làm anh ta chú ý. Giống như những người làm công khác, chị ta cũng mặc chiếc áo có sọc đỏ và trắng, và khi chị ta đến gần hơn thì Sandy có thể thấy rõ tấm biển đeo nơi ngực. Trên đó là cái tên Deena.

Để tăng lòng tin, anh ta chỉ mặc quần jeans và cái áo khoác màu xanh đen, không cavát gì cả.

“Tôi có thể giúp gì cho anh không ?” Chị ta hỏi với một nụ cười.

Mới gần mười giờ sáng, quá sớm để ăn một bịch khoai tây. “Xin cho ly cà phê lớn lớn một chút,” Sandy đáp, cũng với một nụ cười, và lập tức có một cái gì đó long lanh trong ánh mắt của chị ta. Deena thích được tán tỉnh. Tại quầy thu ngân, thay vì đưa tiền ra, Sandy trao cho chị ta một tấm danh thiếp. Chị ta liếc nhìn, và buông nó xuống. Với một người đàn bà có ba đứa con hư hỏng thì một sự bất ngờ đến thế này chỉ có nghĩa là lại gặp rắc rối. “Một đôla hai mươi xu,” chị ta nói, tay bấm máy tính tiền và liếc mắt nhìn xem có ai để ý gì không.

“Tôi không có gì ngoài tin vui cho chị,” Sandy vừa lấy tiền ra vừa nói.

“Anh muốn gì ?” Chị ta hỏi, gần như nín thở.

“Chỉ mười phút thôi. Tôi sẽ đợi ở bàn.”

“Nhưng mà anh muốn gì ?” Chị ta nhận tiền, và tìm tiền lẻ.

"Thôi nào. Chị sẽ vui nếu dành thời gian cho tôi ”

Chị ta ưa đàn ông, và Sandy trông khá đẹp trai ăn mặc cũng bảnh bao hơn hầu hết những người đàn ông mà chị ta từng phải chịu đựng. Ngó nghiêng vớ vẩn món gà quay, pha thêm một chút cà phê, thế rồi chị ta nói với người phụ trách rằng mình nghỉ giải lao một lát.

Sandy nhẫn nại chờ đợi bên chiếc bàn nhỏ, cạnh tủ để bia và chiếc máy làm đá. “Cảm ơn,” anh ta nói khi Deena ngồi xuống. Chị ta đang ở tuổi giữa bốn mươi, với một gương mặt tròn được trang điểm bằng thứ mỹ phẩm rẻ tiền.

“Một luật sư từ New Orleans hả ?” Chị ta hỏi.

“Phải. Tôi không nghĩ là chị có đọc hay có nghe về cái vụ người ta bắt được một luật sư đánh cắp cả một khoản tiền lớn ở dưới đó ?”

Chị ta lắc đầu quầy quậy trước khi Sandy nói hết câu. “Tôi không đọc gì cả. Tôi làm việc sáu mươi giờ một tuần ở đây, và còn phải nuôi hai đứa cháu. Ông chồng tôi trông nom chúng. Ông ấy tàn tật. Lưng đau. Tôi không đọc gì, không xem gì, không làm gì ngoài công việc ở đây và thay tã thay lót những khi ở nhà.”

Sandy gần như hối tiếc vì đã lỡ mồm hỏi. Thật quá đáng! Cố gắng vắn tắt nhất, anh ta kể lại câu chuyện của Patrick. Lúc đầu thì chị ta cũng thấy hay hay, nhưng về cuối thì không mấy quan tâm nữa.

“Hãy cho anh ta một bản án tử hình,” chị ta cướp lời.

“Anh ta không có giết ai.”

“Tôi tưởng anh nói là có một cái xác chết trong xe của anh ta.”

“Có. Nhưng người đó đã chết từ trước rồi.”

“Không phải do anh ta giết ư ?”

“Không. Có điều là anh ta đánh cắp cái xác đó.”

“Ra vậy. Nhưng thôi, tôi phải trở lại làm việc đây. Anh có thể cho tôi hỏi chuyện đó thì có liên quan gì tới tôi không hả ?”

“Cái xác mà anh ta đánh cắp là của Clovis Goodman, người ông thân yêu đã quá cố của chị.”

Chị ta nghiêng đầu sang một bên. “Anh ta đã thiêu xác Clovis !”

Sandy gật đầu.

Chị ta nheo mắt lại trong khi cố thể hiện những tình cảm thích hợp. “Để làm gì hả ?” Chị ta hỏi.

“Anh ta phải giả chết, chị hiểu không ?”

“Nhưng sao lại là Clovis ?”

“Patrick là luật sư và cũng là bạn của ông ấy.”

“Bạn mới chả bè.”

“Nào, nghe này, tôi không muốn giải thích tất cả chuyện này. Nó đã xảy ra bốn năm về trước, rất lâu rồi, trước cuộc nói chuyện đầu tiên này giữa tôi và chị.”

Chị ta gõ gõ một tay lên mặt bàn, miệng cắn những cái móng của tay kia. Người ngồi trước mặt chị ta có vẻ là một tay luật sư cứng cựa, bởi vậy trò mở màn sướt mướt về người ông yêu quý chắc sẽ không có tác dụng gì. Thật không biết thế nào nữa. Thôi thì cứ để anh ta nói.

“Tôi xin nghe đây,” chị ta nói.

“Việc gây tổn thương tới một thi hài là một hành vi tội phạm.”

“Đúng là như thế.”

“Nó cũng có thể khởi kiện đuợc theo luật tố tụng dân sự. Có nghĩa là gia đình Clovis Goodman có thể kiện thân chủ của tôi về tội đã hủy hoại cái thi hài đó.”

Có vậy chứ. Chị ta ngồi thẳng lưng lên trong khi hít một hơi sâu, rồi mỉm cười và nói, “Giờ thì tôi hiểu."

Sandy cũng mỉm cười. “Phải. Chính vì thế mà tôi đã tới đây. Thân chủ của tôi muốn đề nghị một cách giải quyết êm ả với gia đình Clovis.”

“Gia đình là thế nào ?”

“Người vợ hay chồng còn sống, con cái, và các cháu ”

“Tôi nghĩ chính tôi là gia đình đây.”

“Còn người anh ruột của chị thì sao ?”

“Không còn nữa. Luther đã chết cách đây hai năm. Rượu và ma túy.”

“Vậy thì chị là người duy nhất có quyền khởi kiện thôi.”

“Bao nhiêu ?” Chị ta thốt ra vì không thể dằn được, rồi cũng thấy hơi sượng mặt.

Sandy nhích lại gần một chút. “Chúng tôi sẵn sàng chi hai mươi lăm nghìn đôla. Ngay bây giờ. Tấm séc đang nằm trong túi tôi đây này.”

Chị ta cũng nhích lại gần, cúi thấp xuống hơn và mặt kề sát vào mặt Sandy hơn, bởi số tiền kia đã làm tan biến thái độ lạnh lùng từ nãy đến giờ. Cặp mắt chị ta rưng rưng và đôi môi run rẩy. “ Ôi, lạy Chúa," chị ta kêu khẽ.

Sandy nhìn quanh. “Đúng thế đấy, hai mươi lăm nghìn đôla."

Chị ta với một miếng giấy ăn, gạt đổ cả lọ muối. Chị ta chấm nước mắt, rồi xịt xịt mũi. Sandy vẫn đưa mắt nhìn quanh, hy vọng là không có ai để ý.

“Tất cả là của tôi ư ?” Chị ta gượng hỏi. Giọng khàn đi trong hơi thở gấp gáp.

“Phải, tất cả là của chị.”

Chị ta lại lau nước mắt, rồi nói, “Tôi muốn uống một ly Coke."

Chị ta uống cả một ly to mà không nói một lời. Sandy nhấm nháp ly cà phê và nhìn thực khách vào ra. Anh chẳng vội vã gì.

“Tôi đoán rằng,” sau cùng chị ta mới lên tiếng, lúc này mắt đã ráo hoảnh, “Nếu như anh tới đây và nói toẹt ngay hai mươi lăm nghìn thì có lẽ anh cũng có thể sẵn sàng trả thêm.”

“Tôi không có quyền thương lượng gì.”

“Nếu tôi kiện, thân chủ của anh có thể bị khó dễ đấy, anh hiểu ý tôi chứ ? Hội thẩm đoàn sẽ nhìn vào tôi, và nghĩ tới ông già Clovis tội nghiệp đã bị đốt xác để thân chủ của anh có thể đánh cắp được chín mươi triệu đôla.”

Sandy nhấp một ngụm cà phê và gật đầu. Anh ta cũng phải kính nể người phụ nữ kia.

“Nếu tôi kiếm một luật sư, có thể là tôi sẽ được nhiều hơn nhiều.”

“Có thể, nhưng có khi phải mất tới năm năm. Ngoài ra, chị cũng còn có những rắc rối khác.”

“Chẳng hạn ?” chị ta hỏi.

“Chị đã không gần gũi với Clovis.”

“Có lẽ là có đấy.”

“Vậy thì tại sao chị không tới đám tang của ông ấy ? Có thể khó mà giải thích được điều đó trước hội thẩm đoàn. Thôi nào, Deena, tôi tới đây để sẵn sàng giải quyết. Nếu như chị không muốn, vậy thì tôi sẽ ra xe và trở về New Orleans.”

“Anh có thể trả tối đa là bao nhiêu hả ?"

“Năm mươi nghìn.”

“Vậy thì thỏa thuận.” Chị ta chìa bàn tay phải, vẫn còn ướt do ly Coke, và bắt chặt tay Sandy.

Anh lập tức lôi từ trong túi ra một tấm séc trắng và điền vào, rồi chìa ra hai văn bản; một là bản thỏa thuận ngắn ngủi, và hai là một bức thư của Deena gửi cho vị công tố viên.

Công việc giấy tờ này không mất đến mười phút.

oOo

Sau cùng thì cũng có động trên bờ con kênh ở gần Boca. Cô nàng người Thụy Điển kia đã bị phát hiện đang vội vã chất hành lý vào trong cốp chiếc xe BMW của Benny Aricia. Cô ta lái xe vụt đi. Họ đã bám theo cô ta tới sân bay quốc tế Miami, nơi cô ta đã chờ đợi hai tiếng trước khi lên một chuyến bay tới Frankfurt.

Họ sẽ đợi sẵn cô ta ở Frankfurt. Họ sẽ kiên nhẫn theo dõi cho tới khi cô ta phạm một sai lầm nào đó. Và rồi họ sẽ tìm ra Aricia.
 

admin

Thiên Ngoại Phi Tiên
Đại Thần
Cấp
0
 
Tham gia
11/6/23
Bài viết
598,848
Điểm cảm xúc
34
Điểm thành tích
48
Giải Thưởng
10
VNĐ
1,000,499
Chương 39


Người dịch: Nguyễn Bá Long

Nhà xuất bản: NXB Văn học

Shared by: CCG -

Hành động chính thức cuối cùng của ông Thẩm phán chủ trì vụ này là một cuộc lấy cung trực tiếp chẳng ra kiểu gì, ngay trong phòng làm việc của ông, và không có sự hiện diện của luật sư phía bị cáo. Không có sự hiện diện của công tố viên. Và hồ sơ cũng sẽ không lưu lại biên bản của cuộc lấy cung này. Patrick được ba người hộ tống lặng lẽ đưa vào qua lối cửa sau của tòa án, lên phòng Huskey, nơi ông đang đợi sẵn, không mặc áo choàng. Không có phiên tòa nào đang diễn ra, và trong một ngày bình thường như thế này thì lẽ ra là ở tòa án mọi chuyện phải yên ả. Thế nhưng, bốn luật sư có tên tuổi đã bị bắt giữ vào buổi sáng, và khắp các hành lang những lời bàn tán cứ xôn xao cả lên.

Những vết thương của hắn vẫn còn mang băng và hắn được khuyên không nên mặc quần áo bó quá. Bộ đồ bệnh viện trông đẹp và rộng rãi, và nó cũng nhắc nhở mọi người rằng hắn đang nằm viện chứ không phải là bị giam như một tên tội phạm.

Khi chỉ còn họ lại với nhau và cánh cửa đã được khép lại, Karl đưa cho hắn một tờ giấy. “Đọc cái này xem.”

Đó là một lệnh ngắn, do Thẩm phán Karl Huskey ký, trong đó ông ta, thể theo khuyến nghị của chính bản thân mình, quyết định tự rút khỏi vụ án Bang khởi tố Patrick S. Lanigan. Nó có hiệu lực vào mười hai giờ trưa, nghĩa là chỉ còn một tiếng nữa.

“Sáng nay, tôi đã có hai giờ trao đổi với Thẩm phán Trussel. Ông ấy cũng chỉ mới vừa ra khỏi đây.”

“Liệu ông ấy có tử tế với tôi không hả ?”

“Công bằng đến mức cao nhất có thể được. Tôi đã bảo với ông ấy rằng, theo ý kiến tôi, đây không phải là một vụ cố sát. Ông ấy có vẻ nhẹ nhõm lắm.”

“Sẽ không có phiên tòa nào đâu, Karl.”

Patrick nhìn vào tấm lịch treo tường, tấm lịch mà Karl thường xuyên ngó tới. Mỗi ngày trong cái tháng Mười này đều chật kín những buổi lấy cung và những phiên xét xử mà chẳng ai trong số cả mấy vị thẩm phán có thể kham nổi. “Ông chưa mua một cái máy tính à ?” Hắn hỏi.

“Thư ký của tôi có dùng một cái.”

Trong chính căn phòng này, nhiều năm về trước, họ đã gặp nhau lần đầu tiên khi Patrick mới tới với tư cách là một luật sư, trẻ và không có tên tuổi gì, đại diện cho một gia đình nạn nhân của một vụ đâm xe. Karl làm chánh án trong vụ đó. Phiên tòa đã kéo dài trong ba ngày, và hai người trở thành bạn bè. Hội thẩm đoàn đã cho thân chủ của Patrick được hưởng hai triệu ba trăm nghìn đôla, và vào lúc đó là một trong những khoản tiền lớn nhất được hưởng theo phán quyết của tòa án ở vùng bờ biển này. Trái lại với mong muốn của Patrick, Hãng Bogan đã đồng ý giải quyết vụ án đó với hai triệu chẵn trong phiên phúc thẩm. Phần các luật sư là một phần ba, và sau khi Hãng trả một vài khoản nợ và mua sắm chút đỉnh, phần tiền thù lao còn lại được chia làm bốn. Patrick lúc đó không phải là một cổ đông. Họ miễn cưỡng cho hắn một khoản tiền thưởng hai mươi lăm nghìn đôla. Đó chính là vụ án mà trong đó Clovis Goodman là nhân vật quyết định.

Patrick để ý tới một vết ố trên trần. “Sao ông không yêu cầu quận cho quét vôi lại căn phòng này đi. Nó chẳng hề thay đổi gì suốt bốn năm qua.”

"Tôi chỉ còn hai tháng ở đây. Quan tâm làm gì cơ chứ?”

“Còn nhớ vụ Goodman không ? Lần đầu tiên tôi có mặt trong phòng xử án của ông, và là những giờ phút đẹp đẽ nhất của tôi trên cương vị luật sư của bên nguyên.”

“Tất nhiên rồi.” Karl gác chân lên bàn, choàng hai tay ra sau gáy.

Patrick kể lại với ông ta câu chuyện về Clovis. Môt tiếng gõ cửa đã làm gián đoạn phần cuối câu chuyện. Bữa trưa được mang tới, thật chẳng đúng lúc. Một cảnh sát mang vào cái hộp giấy, mùi thơm lừng. Patrick đứng ngay đó khi đồ ăn được đặt xuống bàn của Karl: xúp mướp tây và món càng cua.

“Đồ của tiệm Mahoney đấy,” Karl nói. “Bob gửi tới. Ông ấy có gửi lời chào.”

Mary Mahoney không chỉ đơn thuần là một nơi ngồi uống cho các luật sư và các thẩm phán vào mỗi chiều thứ sáu. Nó còn là một tiệm ăn lâu đời nhất trên vùng bờ biển này, với những món ăn ngon lành và món xúp mướp tây huyền thoại.

“Bảo với ông ta là tôi cũng gửi lời chào,” Patrick nói rồi cầm một cái càng cua. "Tôi muốn được sớm đến ăn ở đó.”

Vào đúng lúc mười hai giờ, Karl bật cái TV nhỏ để giữa một cái giá sách, và họ xem, mà không bình luận gì những hình ảnh điên rồ về các vụ bắt giữ đó. Đó là một đám người im lìm. Không hề có ai nói gì; các luật sư kia thì đã hẳn, kỳ thực là các cánh cửa văn phòng của họ đều đóng kín; điều ngạc nhiên là Maurice Mast lại không có gì để nói; không có gì từ phía FBI. Không có gì hết, bởi vậy cô phóng viên kia đã làm những gì mà cô ta đã được dạy dỗ. Cô ta cho chen vào đó những lời bàn tán và những đồn đại, và chính trong bối cảnh đó mà Patrick bị lôi vào. Những nguồn tin chưa được thẩm định nói với cô ta rằng những vụ bắt giữ đó là một phần của một cuộc điều tra đang liên tiếp được mở rộng trong vụ Lanigan, và để chứng minh cho điều đó, cô ta cho chiếu những hình ảnh không thể bắt bẻ vào đâu được cảnh Patrick đi vào tòa án Biloxi để ra trước tòa lần đầu tiên. Một đồng nghiệp sốt sắng khác xuất hiện trên màn ảnh, nói bằng một giọng khá êm ái rằng anh ta

đang đứng bên ngoài văn phòng tại Biloxi của Thượng nghị sĩ Harris Nye, anh họ của Charles Bogan, chừng như để ngừa trường hợp có ai đó quên mất mối quan hệ này. Ông Thượng nghị sĩ đang ở Singapo trong một chuyến công du vì mục đích thương mại nhằm mang thêm những công việc có đồng lương tối thiểu trở lại cho Mississippi, và do vậy không có mặt để có thể có phát biểu gì. Không ai trong số tám nhân viên của văn phòng này biết mảy may chuyện gì; bởi vậy họ cũng không có gì để nói.

Bản tin đó được phát liên tục trong mười phút.

“Sao anh lại cười hả ?” Karl hỏi.

“Một ngày tuyệt vời. Tôi hy vọng họ có đủ can đảm để chơi lão Thượng nghị sĩ kia.”

“Tôi nghe nói Liên bang đã từ bỏ mọi cáo buộc đối với anh.”

“Chính xác. Tôi đã làm chứng trước đoàn đại bồi thẩm vào ngày hôm qua. Thật là dễ chịu, Karl, sau cùng thì đã trút bỏ được những gì mà tôi đã phải giữ kín suốt mấy năm qua.”

Patrick đã ngừng ăn trong lúc theo dõi bản tin, và đột nhiên không còn muốn ăn nữa. Karl đã để ý thấy rằng hắn mới chỉ ăn có hai cái càng cua và chưa hề động đến món mướp. “Nào, ăn đi chứ. Trông anh gầy như que củi vậy.”

Patrick nhấm một hạt muối và đi ra cửa sổ.

“Để tôi nói xem nhé,” Karl nói. “Vụ ly hôn đã được giải quyết. Người của Liên bang đã từ bỏ mọi cáo buộc và anh đã đồng ý trả lại chín mươi triệu đôla, cộng với một chút tiền lãi.”

“Tổng cộng là một trăm mười ba triệu.”

“Vụ án giết người kia sẽ không còn bởi vì không có ai bị giết cả. Bang cũng không thể truy tố anh về tội trộm cắp vì Liên bang đã thôi việc đó. Các vụ kiện tụng của các Hãng bảo hiểm cũng đã được bãi nại. Pepper vẫn còn sống, ở đâu đó. Clovis đã chiếm chỗ của cậu ta. Tất cả chỉ còn lại một sự cáo buộc nhỏ nhoi về tội xâm phạm mồ mả.”

“Gần đúng. Cái đó gọi là hành vi làm tổn thương tới một thi hài, nếu như ông có quan tâm tới việc xem lại bộ luật hình sự. Giờ thì chắc hẳn ông phải biết điều này.”

“Phải rồi. Tôi tin rằng đó là một tội.”

“Một tội nhẹ.”

Karl khuấy bát xúp và thán phục anh bạn gầy gò, vẫn đang ngó ra ngoài cửa sổ, nhấm nhấm một miếng bánh, và không nghi ngờ gì là đang tính toán bước đi tiếp theo của mình.

“Tôi có thể đi với anh được không ?” Ông hỏi.

“Đi đâu ?”

“Đâu cũng được. Anh sẽ rời khỏi đây, gặp cô gái kia, thu xếp tiền, đi biển, sống trên một du thuyền. Tôi chỉ muốn được đi theo.”

“Chưa đến lúc đó mà.”

“Nhưng đang mỗi lúc một gần.”

Karl tắt TV và gạt đám đồ ăn sang bên. “Có một khoảng trống mà tôi muốn lấp đầy nốt,” ông nói. “Clovis chết, rồi thì ông ấy được mang chôn, hoặc giả là không. Nhưng còn trong khoảng giữa hai thời điểm đó thì sao ?”

Patrick chặc lưỡi và hỏi, “Ông muốn biết chi tiết phải không ?”

“Tôi là một thẩm phán. Chi tiết là quan trọng.”

Patrick ngồi xuống ghế và ghếch chân lên bàn. “Tôi đã suýt bị tóm. Đánh cắp một thi hài không phải là chuyện dễ, ông biết chứ hả ?”

“Tôi tin lời anh.”

“Tôi đã nhất quyết bảo Clovis dàn xếp trước về tang lễ của ông ta. Thậm chí tôi còn thêm một điều bổ sung vào di chúc, với những yêu cầu cụ thể — không phải là loại quan tài để ngỏ mà là một quan tài đơn giản bằng gỗ, không phúng viếng, không âm nhạc, có thức đêm canh quan tài, và một lễ mai táng đơn giản.”

“Một quan tài gỗ ?”

“Phải. Clovis rất coi trọng vấn đề từ cát bụi lại trở về với cát bụi. Hòm gỗ rẻ tiền chứ không phải là quan tài kẽm. Đó là cách mà ông nội của ông ta đã được chôn cất. Dù sao chăng nữa thì tôi cũng có mặt ở bệnh viện khi ông ta chết, và đợi người lo việc lễ tang từ Wiggins đến với một chiếc xe tang. Rolland là tên ông ta, khá có tiếng. Sở hữu ngôi nhà tang lễ duy nhất trong thị trấn. Trịnh trọng, tận tâm với công việc. Tôi trao cho ông ta bản sao những yêu cầu của Clovis. Bản di chúc cho tôi quyền hạn làm những gì cần thiết, và Rolland không quan tâm tới điều đó. Vào lúc ba giờ chiều, Rolland nói là trong vòng một hai tiếng nữa ông ta sẽ ướp hương liệu cho thi hài, và hỏi tôi Clovis có bộ complê nào để mặc không. Chúng tôi đã không nghĩ tới chuyện đó. Tôi nói là không, tôi chưa bao giờ thấy Clovis mặc complê cả. Rolland nói ông ta có vài bộ cũ và sẽ lo chuyện đó.

“Clovis muốn được chôn cất trên trang trại của mình, nhưng tôi đã giải thích nhiều lần với ông ta là không thể làm được điều đó ở Mississippi, mà phải là trong một nghĩa địa có đăng ký hẳn hoi. Theo Clovis, ông nội của ông ta đã chiến đấu trong cuộc Nội chiến và thực sự là một người anh hùng. Khi ông ta mười bảy tuổi thì ông nội chết và người ta đã thức ba đêm để canh quan tài. Cỗ quan tài được đặt trên một cái bàn trong căn phòng khách chính và họ hàng nối nhau đi qua để nhìn người đã khuất. Clovis thích thế. Ông ta muốn làm một cái gì đó tương tự. Ông ta bắt tôi phải thề là sẽ thức đêm trông ông ta. Tôi giải thích điều đó với Rolland. Ông ta nói đại thể là ông ta đã thấy nhiều chuyện. Điều này cũng chẳng có gì là ngạc nhiên.

“Ngay sau khi trời tối, tôi đang ngồi trước hiên nhà Clovis thì xe tang đến. Tôi giúp Rolland đưa cỗ quan tài xuống, khiêng vào trong nhà và đặt trước cái TV. Tôi vẫn còn nhớ là nó rất nhẹ. Clovis đã teo tóp lại chỉ còn chừng bốn chục cân.

“ Chỉ có anh ở đây thôi à ?" Rolland nhìn quanh và hỏi.

“ Chà. Thức gọi là ấy mà”, tôi đáp.

“Tôi yêu cầu ông ta mở nắp quan tài. Ông ta ngần ngại, và tôi bảo ông ta là tôi đã quên không để một vài kỷ vật thời Nội chiến vào theo yêu cầu của Clovis. Tôi đứng nhìn ông ta mở quan tài bằng cái kìm chuyên dụng, một cái kìm có lẽ mở được bất kỳ cái quan tài nào trên đời này. Trông Clovis vẫn vậy. Tôi để vào một cái mũ bộ binh của người ông nội và lá cờ tả tơi của trung đoàn Mississippi số 17. Rolland đóng quan tài lại rồi đi ra.

“Không còn ai khác đến canh quan tài. Không ma nào cả. Vào khoảng nửa đêm, tôi tắt hết cả đèn và chốt các cửa lại. Kìm chuyên dụng đâu có phải là cái gì khác ngoài bộ cờlê Allen, và tôi đã mua sẵn nguyên một bộ. Không mất đến một phút để mở quan tài. Tôi bê Clovis ra; ông ta rất nhẹ, cứng đờ, chân để trần. Tôi nghĩ là với cái giá ba nghìn đôla thì không có giầy tất gì cả. Tôi đặt nhẹ ông ta lên chiếc xôpha và đặt bốn cục bêtông vỡ vào trong đó, đóng quan tài lại.

“Clovis và tôi lên đường, tới chỗ ngôi nhà đi săn của tôi. Ông ta nằm trên ghế sau, và tôi lái xe rất cẩn thận. Hẳn sẽ khó trả lời những câu hỏi của một cảnh sát tuần tra trên xa lộ.

“Một tháng trước đó, tôi đã mua một cái máy làm đá cũ và để nó ngay ngoài hiên ngôi nhà đi săn. Tôi vừa mới kịp để Clovis vào trong đó thì nghe có tiếng động trong rừng. Đó là Pepper, đang lần tới. Hai giờ sáng, và Pepper bắt gặp tôi ở đó. Tôi bảo cậu ta là vợ tôi và tôi vừa có một cuộc cãi lộn, tôi đang bực mình, và xin cậu ta đi cho. Tôi không nghĩ cậu ta đã trông thấy tôi bê cái xác lên bậc thềm ngôi nhà. Tôi khóa cái máy làm đá lại bằng những sợi xích và phủ lên đó một miếng vải dầu, cùng vài cái thùng cũ. Tôi chờ đến rạng sáng bởi vì Pepper vẫn quanh quẩn đâu đó. Thế rồi tôi lẻn đi, lái xe trở về nhà, thay quần áo và trở lại nhà Clovis lúc mười giờ. Rolland đến trong tâm trạng vui vẻ và hỏi xem đêm trước thế nào. Hoàn toàn bình thường, tôi đáp. Việc phúng lễ được tổ chức ở mức tối thiểu. Chúng tôi đưa cỗ quan tài trở lại chiếc xe tang, rồi đi ra nghĩa địa.”

Karl ngồi nghe, mắt nhắm, một nụ cười thoáng trên môi, đầu hơi lắc lắc vẻ không tin nổi. “Anh thật xảo quyệt,” ông gần như lẩm bẩm với chính mình.

“Cảm ơn. Vào chiều ngày thứ sáu, tôi đến ngôi nhà đi săn nghỉ cuối tuần. Tôi có vài lời thăm dò với Pepper, kiểm tra lại thi hài Clovis — yên ổn cả. Sáng chủ nhật, tôi lên đường từ trước lúc mặt trời mọc và bố trí sẵn chiếc môtô cùng xăng dầu. Sau đó, tôi chở Pepper ra bến xe buýt ở Jackson. Sau lúc trời tối, tôi bê Clovis ra khỏi cái máy làm đá, đặt ông ta ngồi bên cạnh lò sưởi để người ông ta mềm bớt đi, và vào lúc chừng mười giờ thì bỏ ông ta vào trong cốp xe. Một giờ sau đó là cái chết của tôi.”

“Không hối tiếc gì hết ư?”

“Có chứ. Đó là một việc làm khủng khiếp. Nhưng mà, Karl này, tôi đã quyết định biến đi và phải tìm ra một cách nào đó. Tôi không thể giết ai, nhưng lại cần một cái xác. Điều đó thực sự quan trọng.

“Rất hợp lý.”

“Và khi Clovis chết, cũng là lúc tôi phải ra đi. Rất nhiều may mắn. Bao nhiêu thứ đã có thể trục trặc ấy chứ."

“Vận may của anh còn đang tiếp tục.”

“Cho đến lúc này.”

Karl nhìn đồng hồ, và ăn một cái càng cua nữa. “Tôi sẽ nói với Thẩm phán Trussel bao nhiêu phần của câu chuyện này ?”

“Tất cả, chỉ trừ có tên của Clovis. Chúng ta sẽ để cái đó sau.”
 
CHÚ Ý !!!
Các đạo hữu nhớ thêm TÊN CHƯƠNG và THỨ TỰ CHƯƠNG ở ô phía trên phần trả lời nhanh. Như vậy hệ thống mới tạo được DANH SÁCH CHƯƠNG.
Cập nhật chức năng ĐĂNG TRUYỆN và THÊM CHƯƠNG MỚI trên web Diễn Đàn Truyện tại https://truyen.diendantruyen.com
Top Bottom